<經 id="n1723">HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1723 HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA Sa-môn Khuy Cơ soạn tại chùa Đại Từ Ân <卷>QUYỂN 1 PHẦN ĐẦU Nghe rằng: bậc Đại giác tùy theo căn cơ của muôn vật mà quyền biến ra đời giảng nói pháp chân thừa. Nắm điều then chốt mà diệu ứng để chúng sanh được khai ngộ. Chấn tích lên núi Dung mà soi sáng cả Đại thiên. Bay qua biển cả mà đến bờ tám muôn, giăng mây từ khắp chúng sanh, gội mưa pháp thấm gần xa. Từ đó làm cho muôn hoa tươi tốt nhuần khắp cả cỏ cây. Nhưng vì ấu nhi mệt mỏi nơi đường xa hiểm nạn nên Đức Thế tôn mới dẫn dụ lập ra hóa thành. Vì con trẻ ham chơi nên đấng cha lành lập ra ba xe để dẫn dụ ra khỏi nhà lửa. Do đó, Thánh Hậu Thập Quân, tháo hạt ngọc trên búi tóc, kiến y Vương Bát Đế mà trao tay thuốc mầu. Muốn lấy loài rong biển thì phải đặt lờ, sâu xa ngoài cả trăm tông. Đem rồng Thất địa (Long nữ) mà vinh chín phần, dùng mũ năm thừa mà độc chiếm thiên cổ, thật là to lớn. Nêu ra nhất thật bao gồm cả thái hư, rung lưỡng quyền mà di lưu cả muôn tượng. Há dùng sức nhỏ mà leo được lên chốn diệu chỉ cao sâu hay sao? Trườc hết gọi là kinh Diệu Pháp Liên Hoa, là nắm chỗ diệu cực để mở mang. Đầu tiên là phẩm tựa đó là nêu ra cảnh lớn lao, hiển biệt mục mà lập dị, giải thích pháp bao gồm việc nắm giữ quy tắc. Nêu điềm lành mà gọi là Diệu. Hoa gồm thì tú phát. Tổng kết các nét đẹp mà nêu gương sen. Thể nghiệp cùng trình bày ra, pháp và dụ đều nêu. Nơi chốn đã rõ ràng đầy đủ, noi theo mà xa lìa chấp trước. Kinh nghóa là thường là pháp, là nhiếp là quán. Thường là đạo quý của trăm vua. Pháp là đức phạm của thiên diệp. Nhiếp là nhóm họp diệu lý về đây. Quán là chế ngự dung thông khiến cho xa lìa bến khổ sanh tử , cuối cùng được lên bờ giác. Bài tựa là nêu lý do đầu tiên. Trình bày nguyên nhân khởi giáo, tạo tiền đề giảng nói pháp về sau. Phẩm nghóa là loại, cũng có nghóa là biệt. Phân biệt huyền chỉ mà khác loại. Chấn u thuyên để phân biệt. Đệ nghóa là thứ là cư. Nhất nghóa là tột cùng cực, đứng đầu . Kinh có hai mươi tám phẩm, điều quán chân tông. Phẩm này nêu ra đầu tiên, nên gọi là thứ nhất. Kinh chép: “Tôi nghe như vậy” Khen rằng: Đầu tiên giải thích văn kinh. Lược có chia ra sáu môn. Nêu ý khởi kinh Nêu tôn chỉ bộ kinh. Giải thích được tên kinh phẩm như vậy. Hiển bày sự phế lập của kinh phẩm. Nêu thứ lớp phẩm kinh. Giải thích bổn văn kinh. PHẦN I: Nêu ý kinh khởi là: Lược có năm nghóa: Đáp nhân thỉnh. Phá nghi chấp Nêu thọ ký hành trì. Lợi ích từ nay về sau. Hiển bày thời cơ. Trong phần đáp lại nhân thỉnh cầu có hai: Đáp nhân Đáp thỉnh. Đáp về nhân có sáu: Hành nhân, Nguyện nhân, Cầu nhân, Trì nhân, Tướng nhân và Thuyết nhân. quả Phật chẳng phải thành tựu từ sự luống dối mà phải là do ng- hiệp hành mới được. Hành không một mình tự khởi phải có nguyện giúp sanh. Hạnh nguyện tuy là tự khởi mà vô duyên không thể riêng mình hiểu được. Dù gặp duyên mà vì cầu trân trọng chẳng phải chợt vậy mà quả thành, cần phải do sự thọ trì tu học mới có thể đắc quả. Quả đã viên thành thì sẽ bày ứng vật, biểu hiện sự sâu mầu của tông kinh. Trước là hiện nhân tướng Đại thừa. Tướng đại thừa đã rõ ràng thì lý bày nói. Cho nên nêu sự ra đời xuất hiện của Phật là một đại sự. Do đây mà trả lời về nhân có đủ sáu nghóa này: Đáp về hành nhân là: Trong phẩm Phương Tiện y theo mà luận giải thích có tám nghóa sâu xa: Phật từng gần gũi trăm ngàn muôn ức vô số Chư Phật. Hành trì tất cả vô lượng đạo pháp của Chư Phật, mạnh mẽ tinh tấn tiếng tâm đồn khắp, thành tựu pháp sâu xa không hề có. Pháp khó hiểu đó Như lai có thể biết, tùy theo chỗ nói mà ý đường khó hiểu. Đây là điều mà Thanh văn, Bích-chi-Phật không thể biết được. Tám điều sâu xa đó là: Thọ trì đọc tụng. Tu hành. Quả hành. Tâm Tăng trưởng công đức . Tâm khóai diệu sự. Vô thượng. Nhập Không cùng chỗ làm của Thanh văn, Bích-chi-Phật trụ giữ. Trong kinh chỉ nêu ra có sáu mà không có điều thứ sáu và thứ tám… đến phần dưới sẽ biết: Đạo pháp của Chư Phật đã hành trì rốt ráo. Hành trì đầy đủ nhân Nhất thừa chủng trí, mới thành quả Phật. Cho nên nay đáp về nhân pháp mầu này là để khuyên tu nhân hành. - Đáp về nguyện nhân là: Trong phẩm Phương Tiện chép: “Xá-lợi- phất lắng nghe: - Ta vốn lập thệ nguyện, muốn khiến cho tất cả chúng sanh giống như ta không khác. Như sở nguyện của ta trước kia nay đã đầy đủ . Hóa độ tất cả chúng sanh khiến cho nhập vào Phật đạo.” Phẩm Thọ Lượng chép: “Mỗi khi làm điều gì thì phải nghó làm cho chúng sanh nhập vào Phật đạo, mau thành tựu thân Phật . Hoặc từ nơi nhân xưa kia, hoặc quả vị bây giờ thảy đều phát nguyện muốn chúng sanh cũng được như thân ta được nhập vào Phật đạo, cho nên đáp lại bổn nguyện mà nói kinh này. Cũng khiến cho chúng sanh phát hạnh nguyện này, hạnh nguyện hợp nhau nên Phật ra đời. Đáp về cầu nhân: Trong phẩm Thiên Thọ chép: Ta ở trong đời quá khứ cầu kinh Pháp Hoa không hề biếng nhác, trong nhiều kiếp thường làm vua, cầu đại Bồ-đề, không hề lui sụt. Ta đánh trống tuyên bố khắp bốn phương. Bấy giờ có vị Tiên đến bạch với vua rằng: Ta có kinh Đại Thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, nếu không trái ý ta thì ta sẽ nói cho nghe. Vua nghe vị Tiên nói thì vui mừng vô cùng, liền theo vị Tiên hầu hạ các thứ cần dùng. Cho đến đem thân làm giường tòa, thân tâm không hề mỏi mệt, kính thờ vị Tiên như thế suốt cả ngàn năm, vì muốn cầu pháp mà không để cho thiếu sót. Nhà vua khi ấy chính là thân ta bây giờ, vị Tiên ấy này là Đề-bà-đạt-đa. Vì nguyện hạnh quá khứ của Phật tuy thành mà do duyên hội thường chú trọng ở kinh này, với bạn lành thường chuyên việc cầu thỉnh. Cho nên nay Phật giảng nói để cho chúng sanh chú trọng tìm cầu. Đáp về trì nhân: Trong tám pháp sâu xa ở trước, thì pháp thứ nhất là Phật thường gần gũi ngàn muôn ức vô số Chư Phật để thọ trì đọc tụng nghóa sâu xa. Đầu tiên là y theo Bồ-tát hầu hạ năm Hằng sa Phật. Thứ hai là y theo Bồ-tát hầu hạ sáu hằng sa Phật. Thứ ba là y theo Bồ-tát hầu hạ bảy hằng sa Phật. Thứ tư là y theo Bồ tát hầu hạ tám Hằng sa Phật, gặp nhiều bạn lành thọ trì lâu dài. Lại vào thời quá khứ Phật Thích-ca Như lai từng làm Bồ-tát Thường Bất Khinh . Sau khi Phật Oai Âm Vương diệt độ hành hạnh bất khinh. Lúc sắp qua đời chợt nghe trên hư không nói kinh Pháp Hoa gồm hai mươi ngàn muôn ức bài kệ và đều có thể thọ trì, liền chứng được sáu căn thanh tịnh như trên, và sau đó tăng tuổi thọ lên hai trăm muôn ức na-do-tha tuổi. Bồ-tát nói rộng kinh này, sau khi qua đời gặp hai ngàn ức Đức Phật đồng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, thường thọ trì kinh này. Do nhân duyên ấy, lại gặp hai ngàn ức Phật đồng hiệu Vân Tự Tại Đăng Vương cũng trong giáo pháp của các Đức Phật này, thọ trì kinh này. Thường giữ gìn sáu căn thanh tịnh như trên. Thường Bất Khinh đó nay chính là thân ta. Vì trước kia thường trì kinh này, nay nói ra để khuyên chúng sanh thường thọ trì. Đáp về tướng nhân là: Đã thành Phật rồi thì sẽ nói kinh này. Trước vì Bồ-tát mà nói kinh Vô Lượng Nghóa, kế là nhập vào Tam-muội Vô Lượng Nghóa Xứ . Trời rải bốn thứ hoa như mưa, đất rung chuyển sáu cách, bốn chúng chiêm ngưỡng, tám bộ vui mừng. Phật phát ra ánh sáng để cho những người ở xa trông thấy rồi sanh nghi. Ngài Di-lặc hỏi và Văn-thù đáp rằng: Như tôi, nghó thì nay Đức Thế tôn muốn nói pháp lớn, mưa pháp lớn, thổi loa pháp lớn, đánh trống pháp lớn, diễn nghóa pháp lớn. Tôi ở đời quá khứ đã từng thấy điềm lành này, phát ra ánh sáng rồi, Phật sẽ nói Đại pháp. Cho đến thuyết rộng ra. Hôm nay Đức Như lai sẽ nói kinh Đại Thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa. Chư Phật ba đời khi sắp nói kinh này, trước cũng hiện ra các tướng lớn ấy, không giống như các kinh khác. Các bộ kinh khác đầu tiên không hiện ra điềm lành này. Vì tướng phi thường nên phải nói ra, vì sắp nói kinh này, nên trước hiện điềm lành lớn này. Đáp về thuyết nhân: Văn dưới nói: Chư Phật chỉ vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện ra nơi đời. Chỉ giáo hóa Bồ-tát, không có đệ tử Thanh Văn, cuối cùng tất cả đều chứng đắc Nhất thiết chủng trí. Cho nên Chư Phật ba đời thành đạo cuối cùng chỉ nói pháp Nhất thừa, đều mong cầu phương tiện ở trong nhân. Sự tu học tuy đầy đủ mà không hề giảng nói. Nay thời cơ đã đến không thể để trôi qua như vậy. Cho nên hướng về nhân đời trước mà giảng nói kinh Diệu Pháp này. Ý nghóa như trên, trong kinh nói cũng rất nhiều, vì sợ rộng, nghe nhiều sanh chán nên chỉ tóm tắt. Sau là đáp thỉnh: Như trong kinh nói: Khi Bồ-tát mới sanh ra liền đi bảy bước phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu khắp mười phương, nhìn khắp bốn phía mà nói kệ như tiếng rống sư tử: Ta thai sanh đã hết Đây là thân cuối cùng Nay được đạo giải thoát Rộng độ các chúng sanh. Vừa phát nguyện như thế rồi thì thân dần dần lớn lên, khi trưởng thành đi khắp bốn cửa thành thấy các việc già bịnh chết và hình tướng Sa-môn. Bồ-tát hỏi biết rồi muốn rời bỏ quyến thuộc cầu quả Vô thượng. Trong đêm đó quán thấy trong hậu cung các hậu phi thể nữ nằm ngủ chẳng khác gì thây chết thật là nhàm chán liền bảo Sa-nặc thắng ngựa Kiền-trắc, chư thiên nâng chân ngựa vượt thành vào lúc nửa đêm. Đi khoảng mười bốn do-tuần, đến chỗ vị Tiên Bạt-già-bà ở trong rừng. Thái tử cầm dao cắt tóc, đổi y phục diệu báu lấy tấm áo cỏ. Rồi bảo Sa- nặc về thưa lại với các vị ấy. Bồ-tát tu tập ở chỗ sáu vị giáo chủ ngoại đạo bên bờ sông Ni-liên. Vì muốn hàng phục các vị ấy nên trải qua sáu năm tu khổ hạnh cuyên cần hơn tất cả. Mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, sau đó biết đây chẳng phải chánh pháp nên lại uống sữa, thọ nhận cỏ cát tường rồi đến dưới cây Bồ-đề, ngồi tòa Kim cương, dùng năng lực trí tuệ hàng phục ma quân, chứng Đại Bồ-đề, ra khỏi hẳn ba cõi. Bấy giờ vị đứng đầu Tam thiên đại thiên thế giới và các trời khác đều đến chỗ Phật cầu thỉnh xoay bánh xe pháp. Hóa Phật khen ngợi khuyên nên quyền nói pháp. Bấy giờ vì căn cơ chưa thuần thục nên tạm nói phương tiện mà chưa thuyết pháp thật . Nay vừa hợp với lời thỉnh của ngài Thu tử v.v… mà nói nương cảnh quyền thật. Ngài Văn-thù thỉnh nói nương hành an vui. Ngài Di-lặc v.v… thỉnh nói quả thân chân thân ứng. Cho nên văn kinh ở dưới nói: “Ta mới ngồi đạo tràng, quán cây và kinh hành, trong hai mươi mốt ngày thường suy nghó việc ấy, cho đến nghó về Chư Phật quá khứ thực hành năng lực phương tiện. Ta nay đắc đạo cũng nên nói ba thừa. Lúc đang suy nghó, thì Chư Phật mười phương đều hiện tiếng Phạm âm để an ủi ta: Lành thay! Phật Thích-ca, tùy theo tất cả Chư Phật mà dùng năng lực phương tiện. Do phương tiện này mà lại giảng nói ba thừa. Nay căn cơ của chúng sanh đã thích nghi thuần thục. Các ngài Xá-lợi-phất… cầu thỉnh Phật nói lý chân tông, hiển bày đạo nhất thật này. Cho nên trong kinh nói rằng: Ông đã ân cần ba lần thỉnh, nay ta đâu thể không nói! Trong phẩm An vui Hạnh, ngài Văn-thù phát lời thỉnh, Đức Thế- tôn nói rộng bốn hạnh an vui. Trong phẩm Thọ Lượng cũng giống như thế. Ngài Di-lặc ba lần thỉnh. Phật bảo: Các ông nên tin hiểu lời nói thành thật của Như lai. Vì đã trải qua ba lần khuyên tin, nên nay mới nói thân chân, thân ứng. Cho nên đáp lại lời thỉnh cầu mà nói pháp Hoa. Trong phá chấp nghi có hai: 1) Phá nghi; 2) Phá chấp. Phá nghi: Từ khi Phật thành đạo chỉ thọ ký cho các Bồ-tát đắc đạo Bồ-đề, không nói Thanh văn sẽ đắc quả Phật . Các Thanh văn nghi ngờ mình không bao giờ thành Phật. Do đó mà ngài Xá-lợi-phất thương cảm mình và các Thanh Văn không có vô lượng tri kiến của Như lai, cho đến nói rộng… Mà nay nghe Phật nói pháp không hề nghe, không hề có, dứt hết các điều nghi hối. Các vị tiểu Bồ-tát xưa kia nghe pháp Đại thừa, cũng nghi là Bồ-tát mới có đạo Bồ-đề, còn Thanh văn không có. Hoặc các vị Tiểu Bồ-tát tánh Bất định nghi mình cũng không có đạo quả Bồ-đề Phật. Do đó mà ba thừa đều có lưới nghi, thế nên trong kinh nói rằng: Thanh văn và Bồ-tát Nghe ta nói pháp rồi Dù chỉ một bài kệ Đều thành Phật không nghi. Lại nói: Các người cầu ba thừa Nếu có sự nghi hối. Phật sẽ dứt trừ cho. Hết sạch không còn sót. Lại nói: Bồ-tát nghe pháp này Lưới nghi đều đã trừ. Ngàn hai trăm La-hán Cũng đều sẽ thành Phật. Trong đây nói phá nghi cũng gồm cả phá trừ niệm hối hận. Hối hận trước đây tu Tiểu thừa không được thành Phật nay nghe nói được thành Phật nên hối hận được dứt bỏ. Biết tiểu chính là nhân của Đại, nghi thì chung cả ba thừa mà hối chỉ có Tiểu thừa, tức nêu rộng mà thu nhiếp hẹp. Chỉ nói phá nghi mà không nói trừ hối, ở quyển sau sẽ giải thích sự khác nhau. Vì để phá trừ nghi hoặc của đại chúng, nên Phật nói kinh này. Phá chấp: Thanh văn có hai hạng: Chủng tánh quyết định. Khi chứng quả Thanh văn, chắc chắn nhập Vô dư, thân khôi trí diệt. Cho nên trong kinh nói: Người khác có gốc lành đến Niết-bàn thì tận. Gốc lành của Bồ-tát thì không như thế. Đã lui sụt tâm rồi lại phát tâm Bồ-đề: Loại trước là định tánh, sau là tánh bất định . Nhưng trong luận Du-già và luận Pháp Hoa nói Thanh văn có bốn: Quyết định chủng tánh, cũng gọi là hướng đến vắng lặng (Niết bàn). Tăng thượng mạn: Đây là hàng phàm phu đắc Bốn thiền, gọi là A-la-hán. lui sụt rồi lại phát tâm Bồ-đề: Cũng gọi là chủng tánh Bất định. Vả lại trong hội Pháp Hoa được thọ ký, gọi các người Thanh văn là thoái tâm Bồ-đề, Ngài Xá-lợi-phất cũng thuộc loại này. Nên trong kinh Phật nói: “Xá-lợi-phất! Ta xưa dạy ông chí nguyện Phật đạo, nay ông đều quên hết, mà còn tự cho mình đã diệt độ.” Trong kinh Ưu-bà-tắc nói: “Xá-lợi-phất tu đạo Đại thừa, trải qua sáu mươi kiếp do nhân thí mắt nên đạo hạnh khó thành mà thoái tâm cầu tiểu quả. Ngài Thu Tử cũng nói: Ta nhiều đời đã từng thọ hóa với Phật . Phẩm Hóa Thành Dụ chép: Mười sáu vị Vương tử trong quá khứ mới kết duyên giáo hóa chúng sanh. Do đó mà gọi là thoái Tâm Bồ-đề. Chẳng phải những vị Bất định tánh đều thuộc loại thoái tâm. Cũng có vị trước kia chưa cầu Đại thừa, nay từ Tiểu quả hướng cầu Đại thừa gọi là bất định tánh. Ứng hóa: Ứng hóa chẳng phải thật. Luận Nhiếp Đại Thừa chép: Chư Phật và các đại Bồ-tát hóa thị hiện làm Thanh văn để dẫn dắt Thanh văn hướng về Đại thừa các vị như Phú-lâu-na v.v… đều thuộc loại này. Luận Pháp Hoa chép: Trong hội Pháp Hoa này chỉ có hai hạng Thanh văn được thọ ký. Đó là thoái tâm và Ứng hóa, còn hạng hướng đến vắng lặng và tăng thượng mạn, thì Phật không thọ ký, vì người căn tánh chưa thuần thục; Bồ-tát thì thọ ký cho. Tuy cũng nói chung là: Các ông thực hành đạo Bồ-tát sẽ thành Phật mà luận giải thích: thọ ký là để cho phát tâm. Thoái tâm Bồ-đề chính là căn cơ thuần thục, nên Phật nói Nhất thừa chính là để phá trừ chấp của họ. Ứng hóa Thanh văn chẳng phải thật không có chấp để phá thị hiện tướng có thể như thế. Người tăng thượng mạn đã là phàm phu căn hiện tại chưa thuần thục, nên Phật không thọ ký. Bồ-tát thọ ký cho: Như Ngài Thường Bất Khinh vì có đủ nhân thọ ký, khiến tin là có Phật tánh. Lại dần dần phát tâm tu đại hạnh. Người hướng đến vắng lặng tức đã không có căn tánh Đại thừa, làm sao nói căn cơ thuần thục hay không thuần thục, cho được, nên nói họ không có đại tánh, căn lành chưa thuần thục nên Phật không thọ ký. Bồ-tát thọ ký cho là đầy đủ nhân lý tánh, dần dần tin pháp Đại thừa không còn ngu đối với pháp, chẳng phải căn tánh chưa thuần thục, sau có thể sẽ thuần thục. Cho nên không phải thọ ký cho Bồ tát là khiến họ phát tâm hướng về quả Bồ-đề Đại thừa. Nói sẽ thành Phật, là vì tâm nguyện của Bồ-tát nên Phật dùng phương hiện hóa độ họ khiến cho sanh ý tin. Như kinh Bát-nhã chép: Ta đều khiến cho chúng sanh nhập Niết-bàn Vô dư nhưng chẳng phải đều nhập hết. Bồ-tát được thọ ký hướng đến vắng lặng cũng vậy. Nếu chấp “hướng đến vắng lặng” này đồng với tăng thượng mạn thì chẳng những không được gọi là hướng đến vắng lặng, mà lại rất trái với giáo nghóa. Không nên lầm lẫn. Vì Thanh văn hướng đến vắng lặng và tăng thượng mạn hợp chung lại mà nói: Chủ ý phiên dịch nghóa căn tánh chưa thuần thục khiến cho họ phát tâm. Nghóa chánh thì nên nói “người hướng vắng lặng” thì căn tánh chưa thuần thục, nên Phật không thọ ký. Bồ-tát thọ ký cho khiến họ phát tâm tin hiểu Đại thừa. Người tăng thượng mạn vì căn tánh chưa thuần thục nên Phật không thọ ký cho. Bồ tát được thọ ký để hướng về tâm đại thừa nên hướng vắng lặng thì sau này cũng đắc quả thành Phật. Ý này trái với kinh Niết-bàn đã nói. Bồ-tát cũng có hai: Một là đốn ngộ, hai là tiệm ngộ. Tiệm ngộ có hai nghóa: Là từ quả Nhị thừa, phát tâm hướng cầu Đại thừa thì gọi là tiệm ngộ. Do số chúng sanh ít hoặc hoàn toàn không có. Nếu từ người nhị phàm mà quy về Đại thừa tức là thuộc về đốn ngộ, vì không hề chứng quả Nhị thừa, số sanh còn nhiều nên không gọi là Tiệm ngộ. Cho nên trong kinh Niết-bàn chép: Chỉ nói tám muôn kiếp của bậc Thánh mà không nói: “Kiếp số hồi tâm của phàm phu. Từ trong hội mà phát tâm nhị thừa, từng tu hạnh nhị thừa , lại quy về Đại thừa nên gọi là tiệm ngộ. Vì tánh Nhị thừa đầy đủ nên tu hạnh ấy. Nghe suy tư rồi ngộ giải cũng gọi là ngộ, cần gì phải chứng ngộ. Huống chi người cũng có số sanh ít. Nghóa là đã định sanh tức khi sự sanh này cho đến một lần tu thuận phần quyết trạch. Trong kinh chỉ y theo kiếp định nên chỉ nói bậc Thánh, đâu có ảnh hưởng phàm phu hay có số sanh ít tức là Kinh này nói lý Nhất thừa. Trong luận tuy nói vì người Nhị thừa Thanh văn mà nói là thoái tâm, ứng hóa, trong khi một hội Pháp Hoa chính chỉ vì người thoái tâm Bồ-đề, cũng nói cả ứng hóa. Ngài Mãn Từ Tử cũng ở trong hội. Nếu theo Nhiếp luận hợp lấy mười nghóa mà nói Nhất thừa, thì nghóa gồm cả ba lý cũng không sai, tức quyết định chủng tánh không còn ngu pháp, chủng tánh bất định hồi tâm hướng cầu pháp Đại thừa, người ứng hóa thì thị hiện được thọ ký. Tuy cũng có thể nói về hai hạng Bồ-tát đốn tiệm nhưng chánh tông chỉ vì người. Cho nên, kinh nói: “Bồ-tát nghe pháp này lưới nghi đều xé toang đối với nghóa thì gồm đốn ngộ mà lý thì chưa rõ ràng. Trong mười nghóa của Nhiếp Luận giải thích về Nhất thừa rằng: Vì dẫn nhiếp một loại căn cơ và gìn giữ các căn cơ chúng sanh khác. Do chủng tánh bất định mà Chư Phật nói Nhất thừa. Nói dẫn nhiếp một loại tức Thanh văn lui sụt tâm Bồ-đề. Gìn giữ các căn cơ khác tức là Bồ tát tiệm ngộ lui sụt tâm Bồ-đề trụ quả Thanh văn, chấp quả Tiểu thừa tự cho là rốt ráo. Ngài Xá-lợi-phất nói: Ta đã trừ hết tà kiến, chứng được pháp không. Bấy giờ tâm tự cho là được đến chỗ diệt độ.” Ca-diếp cũng nói: “Phật vì muốn chúng ta vượt ra khỏi ba cõi, đắc chứng được Niết-bàn. Đối với pháp Bồ-tát tâm không sanh một niệm ưa thích”. Đây đều ý nói do xưa chấp trước cảnh Tiểu thừa. Như Nhiếp luận chép: Rèn luyện ba thứ tâm, Dứt trừ bốn chỗ chướng. Duyên pháp nghóa làm cảnh. Bốn chỗ là: Nhị thừa tác ý. Chư nghi lìa nghi. Đối với pháp được nghe và suy nghó cho rằng: Ta có thể như thế, ngoài ra không thể như thế. Đối với bộ xương cho đến Bồ-đề chấp trước phân biệt. Nhị thừa tác ý là: Chấp vào quả nhị thừa là tột cùng. Vì muốn dứt chấp trên mà nói kinh nầy. Bồ-tát tiệm ngộ chấp Bồ-đề chỉ có Phật chứng bản thân mình không có phần, muốn sanh tâm lui sụt trở lại Nhị thừa. Vì vậy mà Phật muốn các vị nhậm trì pháp này để không lui sụt. Lại các hàng Đốn ngộ tiểu Bồ-tát, chấp người đã theo Đại thừa tu hành là có thể thành Phật, đã trụ Thanh văn thì không thể thành Phật. Nay phá chấp này để nói lên Nhị thừa chẳng phải tột cùng, người trụ Nhị thừa cũng được thành Phật, cho nên nói kinh này. Do đây mà trong Nhiếp luận đoạn bốn chỗ nói: Thứ nhất là Nhị thừa tác ý, thứ hai là nói: “Ta có khả năng như vậy, ngoài ra không thể được vậy. Tức hai loại này là nghi các nghi được lìa ở trước Nói về thọ ký hành trì có hai nghóa: Nói ký là Phật từ khi thành đạo chưa thọ ký đạo Bồ-đề cho Thanh văn. Nay thọ ký cho họ cho nên nói kinh này. Trong kinh có nói: Ta lập phương tiện để cho chúng sanh thể nhập tuệ Phật, không hề nói các ông sẽ được Phật đạo. Sở dó không hề nói vì lúc nói chưa đến. Nay chính đã phải lúc, nên Phật quyết định nói Đại thừa.” Lại ngài Ca-diếp nói: Nay chúng ta tuổi tác đã cao. Phật giáo hóa các Bồ-tát đắc pháp A-nậu-đa-la-Tam-miệu-Tam-bồ-đề, không hề sanh một niệm ưu thích. Chúng ta nay đối trước Phật nghe thọ ký cho Thanh văn đắc quả Chánh đẳng Chánh giác. Tâm liền vui mừng được điều không hề có. Lại nói: Hoặc nói Tu-đa-la, Già-đà, và Bổn sự, Bổn sanh, Vị Tằng Hữu. Cũng nói nhân duyên, thí dụ, cũng kỳ dạ Ưu-ba-đề-xá-ly. Chỉ vì Thanh văn mà nói chín bộ này. Không nói Thọ Ký, Phương Quảng, Tự Thuyết. Vì trước đây không hề thọ ký, nay lại thọ ký nên gọi là kinh. Nêu rõ hành là: Nay nói hành Nhất thừa của Bồ tát . Nhất thừa chính là hạnh của Bồ-tát cho nên trong kinh nói: “Có Phật tự tâm thanh tịnh mềm mỏng cũng rất lợi căn. Ở trong vô lượng Chư Phật hành đạo sâu mầu. Phật vì họ mà nói kinh Đại thừa này. Lại nói Thanh văn cũng như Bồ-tát, nghe ta nói pháp cho đến thọ trì một bài kệ đều thành Phật không còn nghi ngờ.” Lại nói: “Xá-lợi-phất! Chư Phật Như lai, chỉ giáo hóa Bồ-tát, các vị có làm điều gì thường vì một việc, phải do tu phước tuệ mà soi chiếu có, không. Tìm trong giáo giải thích lý nhiệm mầu rốt ráo mà hiểu chân thật khởi ngộ Nhất thừa. Lại tạm nói Nhất thừa có nhân có quả. Nhân tức là Thất địa bốn hạnh Bồ-tát, dưới tùy theo sở ứng mà thích nghi đủ. Quả là quả vị Phật Bồ-đề Niết-bàn trong ba thân này đều nhiếp cả. Lại ba lần chuyển Phật chỉ nói về Nhất thừa, nói cảnh Nhất thừa. Phẩm An vui Hạnh nói hành Nhất thừa. Phẩm Thọ Lượng nói quả Nhất thừa, nói cảnh muốn phát tâm Thanh văn nói hành khiến cho tu Bồ-tát hạnh, nhờ đó mới có công đức quả Phật . Như vậy vì muốn nói Bồ-tát hạnh nên Phật nói kinh Pháp Hoa. Trong lợi ích nay và sau có hai phần: Lợi nay: Trong hội Pháp Hoa có cả chúng phàm Thánh nên nghe kinh Pháp Hoa mà được lợi ích. Đây có hai: Lợi ích được thọ ký quả, và lợi ích hiện tại chứng. Lợi ích được thọ ký qua, tức là vì ba căn cơ Đức Thế tôn ba lần chuyển nói nghóa Nhất thừa. Hội ở hai thừa phá chấp hai thừa, vì người lợi căn lợi ích hiện tại. Từ phẩm Phương tiện cho đến phẩm Thí Dụ. Ngài Thu Tử được thọ ký, khiến cho tám bộ đều vui mừng. Đó là lần chuyển thứ nhất. Chánh kinh: Chư Phật vì một việc nhân duyên lớn nên xuất hiện ở đời. Hoặc nói Chư Phật dùng năng lực phương tiện đối với pháp Nhất thừa phân biệt nói thành ba. Thế nên trong phẩm Thí Dụ, ngài Xá-lợi- phất nghe nói pháp rồi càng sanh lòng tín hiểu lãnh hội, thuật lại việc thành tựu với Phật rồi liền được thọ ký. Trong phẩm Thí Dụ, Xá-lợi- phất thỉnh Phật nói pháp Thí dụ, với các phẩm Tín Giải, Dược Thảo Dụ, phẩm Thọ Ký là lần chuyển thứ hai. Phẩm Thí Dụ chép: “Như lai cũng giống như thế, là cha lành của tất cả chúng sanh” hoặc nói: Tôn giả Xá-lợi-phất vì nhân duyên này nên biết Chư Phật dùng các lực phương tiện đối với Nhất thừa phân biệt nói thành ba. Ngài Đại Ca-diếp nghe nói như vậy rồi, ở trong phẩm Tín Giải mới sanh lãnh ngộ. Trong phẩm Dược Thảo Dụ Phật thuật lại thành tựu. Trong phẩm Thọ Ký, Phật liền thọ ký do bốn đại đệ tử là đại Ca-diếp, Tu-bồ-đề, Ma-ha Ca-chiên- diên, và Đại Mục-kiền-liên. Từ phẩm Hóa Thành Dụ năm trăm đệ tử được thọ ký, đến phẩm Thọ Học Vô Học nhân ký, là lần chuyển thứ ba. Trong phẩm Hóa Thành Dụ, đầu tiên nói về việc Đức Phật Đại Thông Trí Thắng , để cho đại chúng nhớ lại. Lại nói: “Này các Tỳ-kheo! Nếu Như lai tự biết khi Niết-bàn đến.” Hoặc nói: Chỉ là Như lai dùng năng lực phương tiện đối với một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Ngài Phú-lâu-na nghe nói như thế rồi nên trong phẩm Thọ Ký Phật thọ ký cho năm trăm vị đệ tử càng sanh lãnh giải. Phật thuật lại việc thành tựu rồi nên năm trăm vị đệ tử và chúng Học, Vô học đều được thọ ký. Tức là làm lợi ích cho chúng Thanh văn bấy giờ. Kinh có sáu nơi để thị hiện thọ ký. Biệt ký: Ngài Xá-lợi-phất và bốn vị đại Thanh văn tri thức, danh hiệu khác nhau nên nói là Biệt ký. Đồng ký: Ngài Phú-lâu-na và năm trăm vị, một ngàn hai trăm vị, đồng một tên và đồng thời thọ ký. Hậu Ký: Chúng Hữu học, Vô học, không phải chúng tri thức, cùng đồng một hiệu, trong các vị hạ căn thời sau được thọ ký. Vô Oán ký: Nói lên Như lai không có oán ghét nên, thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa. Thông hành ký: Thị hiện thân nữ, dù ở tại gia xuất gia tu Bồ- tát hạnh cũng đều chứng quả Phật . Nên Phật thọ ký cho Tỳ-kheo ni và Thiên nữ. Năm pháp thọ ký trên là lợi ích thời ấy đều do Như lai thọ ký. Cụ nhân ký: Bồ-tát Thường Bất Khinh lễ bái khen ngợi rằng: Tôi không dám khinh quý Ngài, quý ngài đều sẽ thành Phật, nói lên chúng sanh đều có Phật tánh. Đây là một loại Bồ-tát thọ ký cho, nói lợi ích vãng thời. Ba phần đầu và thứ năm là lợi từ nghe Pháp Hoa được thọ ký, hai loại còn lại được thọ ký không phải do nghe kinh. Năm thứ thọ ký trước đều gọi là lợi ích ngày nay, tức là lợi ích được thọ ký quả. Nhưng các Thanh văn được thọ ký về sau, còn thọ biến dịch sanh tử, còn về nghóa thể, tướng trạng… phần sau sẽ nói. Lợi ích hiện tại chứng: Lại có nhiều loại, như trong phẩm Đề-bà- đạt-đa, tuy Long nữ từ cung rồng xuất hiện thành đạo đều do Pháp Hoa, nhưng không phải lợi ích từ hội Linh Sơn, nên lược qua không nói. Chỉ có khi Long nữ thành đạo nói pháp. Bấy giờ chúng Bồ-tát, Thanh văn, tám bộ trời rồng người và chẳng phải người ở thế giới Ta-bà, từ xa đều thấy Long nữ kia thành Phật. Khắp vì chúng trời người trong pháp hội nói pháp. Tâm các vị rất vui mừng đều cùng kính lễ từ xa. Có vô lượng chúng sanh nghe pháp ngộ giải rồi đắc đạo không còn lui sụt. Có vô lượng chúng sanh được thọ ký thành đạo. Thế giới Vô cấu sáu lần rung chuyển. Ba ngàn chúng sanh ở thế giới Ta-bà trụ địa lui sụt. Ba ngàn chúng sanh phát tâm Bồ-đề mà được thọ ký. Hợp với lợi ích bốn quả vị này. Phẩm Phân Biệt Công Đức có mười một vị đắc chứng. Vị phát tâm: Phật nói: Lúc Như lai thọ lượng lâu dài, có sáu trăm tám mươi muôn ức na-do-tha hằng hà sa chúng sanh đắc vô sanh pháp nhẫn. Có ngàn muôn vị Đại Bồ-tát đắc môn văn trì Đà-la-ni. Lại Đại Bồ-tát số nhiều như bụi nhỏ của một thế giới đắc Nhạo thuyết biện tài, Đại Bồ-tát số nhiều như bụi nhỏ của một thế giới đắc trăm ngàn muôn ức vô lượng Triền Đà-la-ni. Tam thiên đại thiên thế giới vi trần số Đại Bồ-tát có thể xoay bánh xe pháp không còn lui sụt. Hai ngàn cõi nước vi trần số Đại Bồ-tát có thể xoay bánh xa pháp thanh tịnh. Có Tiểu thiên cõi nước vi trần số Đại Bồ-tát đắc được tám sanh. Bốn tứ thiên hạ đương đắc bốn sanh, ba tứ thiên hạ đương đắc ba sanh, hai tứ thiên hạ đương đắc hai sanh, và một tứ thiên hạ vi trần số Đại Bồ-tát nhất sanh sẽ đắc quả A-nậu-đa-la-Tam-miệu-Tam-bồ-đề. Lại có tám thế giới vi trần số chúng sanh đều tâm phát A-nậu-đa-la- tam-miệu-tam Bồ-đề như nói tám muôn bốn ngàn Bồ-tát ở trong phẩm Dược Vương, đắc Đà-la-ni hiểu được ngôn ngữ của tất cả chúng sanh. Trong phẩm Diệu Âm nói có tám muôn bốn ngàn vị đắc Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân. Bốn muôn hai ngàn thiên tử đắc vô sanh pháp nhẫn. Hoa Đức Bồ-tát đắc Tam-muội Pháp Hoa. Nói phẩm Quan Âm có tám muôn bốn ngàn chúng sanh đều phát tâm vô đẳng đẳng A-nậu-đa- la-Tam-miệu-Tam-bồ-đề. Nói phẩm Đà-la-ni có sáu muôn tám ngàn người đắc vô sanh pháp nhẫn. Nói phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương bổn sự có tám muôn bốn ngàn người xa lìa hết bụi nhỏ đắc pháp nhẫn thanh tịnh. Nói phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát, có Hằng hà sa đẳng vô lượng vô biên Bồ-tát đắc trăm muôn Triền Đà-la-ni. Có Tam thiên đại thiên thế giới vi trần đẳng Bồ-tát hành đạo Phổ Hiền. Trong năm thọ ký trước, thọ ký sẽ thành Phật. Hai mươi lăm loại này là nhân vị hiện chứng đều là lợi ích hiện nay mà nói kinh Pháp Hoa. Lợi ích về sau: Rời khỏi hội về sau đều do kinh Pháp Hoa mà được công đức đều là lợi ích về sau. Phẩm Tùy Hỷ Công Đức nói: Năm mươi người khi nghe kinh Pháp Hoa đều tùy hỷ thì công đức, hơn cả bố thí bốn trăm muôn ức na-do-tha, tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh các loại vàng bạc bảy báu, lại hơn nữa, khiến cho đắc quả A-la-hán. Nếu đi đến phòng tăng trong khoảnh khắc nghe kinh Pháp Hoa, thì đời đời được cưỡi các xe bảy báu xe voi ngựa cho đến nghe pháp ở cõi trời. Nếu laị chia chỗ ngồi để cho người khác nghe, thì đời đời được ngồi ở chỗ Phạm vương và Đế-thích. Nếu khuyên người đến nghe Pháp Hoa, thì đời đời thường sinh một chỗ với Bồ-tát Đà-la-ni, không hề bị câm ngọng, cho đến tương lai gặp Phật nghe pháp tin nhận lời Phật dạy. Phẩm Pháp Sư Công Đức chép: “Như người Thiện nam! Người Thiện nữ thọ trì kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc hoặc tụng, hoặc giảng nói hoặc ghi chép, thì mắt người này sẽ được tám trăm công đức tai được. Một ngàn hai trăm công đức mãi được, tám trăm công đức lưỡi được. Một ngàn hai trăm công đức thân được, tám trăm công đức ý được, một ngàn hai trăm công đức . Các công đức ở sáu căn như thế đều được thanh tịnh.” Cho đến phẩm Phổ Hiền chép: “Nếu đời sau có người thọ trì đọc tụng kinh này thì người này không còn tham đắm y phục, giường ghế, thức uống ăn và các vật dụng nuôi sống khác, mọi sở nguyện đạt được đều không luống dối, ở trong hiện đời lại được phước báu.” Thế nên trong kinh Di Giáo nói: Người đáng được độ đều đã độ hết, người chưa được độ đều đã làm nhân duyên để được độ.” Do đây mà nói kinh này, cho đời sau làm được lợi ích lớn. Đó gọi là vì lợi ích mai sau mà Phật nói kinh này. Nói về hiển thời cơ có hai: Một là hiển thời, hai là hiển cơ. Hiển thời: Chư Phật nói giáo, đều lược có hai loại. Một là đốn, hai là tiệm. Đốn là chỉ cho các bậc đại cơ. Đốn là từ phàm phu để cầu Phật đạo. Như trong kinh Thắng man nói về Nhất thừa, Nhất thừa là quyền, bốn thừa là thật. Tiệm tức là căn cơ của kia từ nhỏ cho đến lớn. Trong kinh này nói về Nhất thừa, Nhất thừa là thật Nhị thừa là quyền, nên phần nhiều từ Nhị thừa để cầu Phật đạo, phần nhiều thuộc về Đại thừa tiệm giáo. Các sư xưa giải thích rằng: Giáo có năm thời: Thời thứ nhất là từ lúc Phật mới thành đạo vì năm trăm người đi buôn, chỉ nói ba quy năm giới cấm, mười điều thiện nhân quả ở thế gian, tức là kinh năm giới bổn hạnh, vì chưa có pháp khí gốc lành xuất thế. Thời thứ hai: Phật thành đạo sau hai mươi mốt ngày, trong mười hai năm chỉ nói giáo ba thừa hành “Hữu”, chưa vì thuyết “không”. Tức là các kinh Tiểu thừa như A-hàm. Thời thứ ba: Sau khi Phật thành đạo trong ba mươi năm, nói ba thừa đồng hành không giáo, tức là các kinh: Duy-ma, Tư Ích, Đại Phẩm. Thời thứ tư: Phật thành đạo trong vòng bốn mươi năm, có nói Nhất thừa, nhưng vẫn chưa giảng nói về Phật tánh thật tướng thường trụ một cách rõ ràng, còn nói về quả Phật vô thường, cho là chân thật. Tức là các kinh Pháp Hoa, vô Lượng Nghóa. Vì từ trước chưa nói nghóa Nhất thừa, nên trong đây còn chưa giảng nói Phật tánh thường trụ một cách rõ ràng . Thời thứ năm: Trong rừng Song lâm, Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh thường trụ. Tức nói các kinh: Niết-bàn, Đại Bi v.v… Xem qua thì có thể như vậy mà lý thì không như vậy. Nghóa là kinh nói năm trăm người đi buôn trước khi thọ năm giới phải sám hối các tội ngũ nghịch thập ác báng pháp, đắc bốn đại bổn tịnh, năm ấm bổn tịnh, lục trần bổn tịnh, ngã của ta bổn tịnh. Tức là đắc bất khởi pháp nhẫn. Ba trăm người đi buôn đắc nhu thuận nhẫn. Hai trăm người đi buôn đắc quả Tu-đà-hoàn. Bốn thiên vương đắc nhu thuận nhẫn. Ba trăm Long vương đắc Tín nhẫn, còn lại các vị Trời người đều phát vô thượng đạo ý. Mười ức Trời người đều thực hành mười điều thiện của Bồ-tát. Tức là: Trưởng giả diệt khổ đắc ba cõi bất khởi pháp nhẫn. Tức từ Sơ địa đến Bát địa. Lại trong kinh Phổ Diệu chép: Tuần lễ thứ hai năm trăm người đi buôn dâng cháo mật cúng dường Phật. Phật liền thọ ký. Các ông ở đời sau được thành Phật hiệu là Tề Thành. Vì sao chỉ nó đệ nhất chỉ là giáo Thế gian. Nhưng vì ngày nay còn chưa rõ ràng nói hàng ba thừa đồng chỗ quán đế. Cho nên chưa gọi là xoay bánh xe. Đến khi có năm Tỳ-kheo thì mới gọi là xoay bánh xe. Kế đến nói thời thứ hai trong mười hai năm chỉ nói “hữu giáo”. Giác ái hỏi rằng: Sau khi thành đạo năm năm Phật nói Đại Bát-nhã chính là nói thật tướng. Lại năm thứ bảy vì tám vị Bồ-tát nói kinh Ban Chu Tam-muội, chính là nói năm ấm chúng sanh vốn không. Lại đến năm thứ chín nói kinh Ương-quật-ma-la Tam-muội. Trong năm thứ mười nói kinh Như lai Tạng, đều nói rõ lý Phật tánh Niết-bàn sâu xa. Lại kể rằng: Kinh Phổ Diệu cũng nói Bồ-tát hạnh, cũng thọ ký người đi buôn thành Phật. Lúc Phật mới thành đạo đã nói Đại thừa. Lại lúc thành đạo khoảng mười bốn ngày nói kinh Thập Địa. Lại kinh Đại Bát-nhã chép: Phật tại vườn Lộc giả, xoay bánh xe tứ đế, có vô lượng chúng sanh phát tâm Thanh văn, vô lượng chúng sanh phát tâm Độc giác. Vô lượng chúng sanh phát tâm A-nậu-đa-la-Tam-miệu-Tam-bồ-đề, hành lục Ba- la-mật. Vô lượng Bồ-tát đắc vô sanh pháp nhẫn, trụ ở Sơ địa Nhị địa, Tam địa… cho đến Thập địa. Có vô lượng Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ đều đồng thành Phật. Vì sao lại nói vào thời thứ hai chỉ nói ba thừa hữu giáo. Như thế đủ biết một trận mưa cây cỏ thấm nhuần không đồng. Không thể nói Phật giáo là có trước sau. Nay nương vào nghóa xưa tạm phá hai thời, ba thời, còn lại cũng phá như vậy. Chỉ sợ văn rườm rà nên lược bớt không nói. Nếu theo Kinh mới, thì Đại thừa Đốn giáo chỉ có một thời, cùng với một đại cơ mà không khởi theo tiểu cơ. Giáo bao trùm chỉ có một, cho nên dần dần đại giáo mới có ba thời. Trong kinh Giải Sâu kín Phật vì Bồ-tát Thắng Nghóa Sanh , y theo ba tánh mà nói ba vô tánh, đều là Biến kế sở chấp. Bồ-tát Thắng Nghóa sanh lãnh giải sâu xa, liền nói rộng các kinh: Thế Gian Tỳ Thấp Phược Dược Tạp Thái Thơ, Địa Thục Tô Hư Không, và các Thí Dụ rồi. Đức Thế tôn ngợi khen là khéo giảng nói. Thắng Nghóa Sanh bạch rằng: Phật ở vào thời thứ nhất, ở cõi vị Tiên Ba-la-tư-đà, rơi đọa vào trong rừng Thi lộc, chỉ vì phát tâm tu Thanh văn thừa, tức là dùng tướng Bốn đế xoay bánh xe chánh pháp. Tuy là pháp rất đặc biệt ít có ở thế gian không ai có thể xoay được, nhưng lúc ấy sự xoay bánh xe này còn có pháp vượt hơn, còn có chỗ chấp thọ là chưa rõ nghóa là các tranh luận về chỗ đặt chân. Đức Thế tôn khi xưa vào thời thứ hai, vì những người phát tâm tu Đại thừa, nương vào tất cả pháp đều không có tự tánh, vô sanh, vô diệt, tự tánh xưa nay vắng lặng Niết-bàn, dùng tướng ẩn mật mà xoay bánh xe chánh pháp. Tùy càng đặc biệt càng ít có, mà lúc ấy sự xoay bánh xe này cũng là có chỗ chấp thọ. Còn chưa rõ nghóa, cũng có các tranh luận về chỗ đặt chân. Trong thời thứ ba, Đức Thế tôn vì tất cả chúng sanh phát tâm hướng Đại thừa, y theo tất cả pháp đều không có tự tánh, vô sanh, vô diệt, xưa nay tự tánh Niết-bàn vắng lặng, không có tánh tự tánh, dùng hiển liễu tướng xoay bánh xe chánh pháp. Là pháp đặc biệt ít có bậc nhất là đức Thế tôn xoay bánh xe vô thượng, không có chỗ chấp thọ, là liễu nghóa chân thật , chẳng phải là các tranh luận về chỗ đặt chân. Theo văn kinh này thì kinh A-hàm là thời thứ nhất, thầm nói chung về hữu mà không nói hữu ấy có tính gì? Kinh Đại Bát-nhã v.v… là thời thứ hai, thầm nói chung về không, chẳng nói không cũng không có tánh gì? Kinh Hoa Nghiêm v.v… là thời thứ ba. Nói về hữu, hữu y tha, viên thành. Cũng nói rõ thuyết không, không chỗ chấp tánh. Vậy nên trong kinh Thiện Giới chép: Hữu vi, vô vi đều gọi là hữu. Ngã và ngã sở đều là không. Kinh Kim Quang Minh cũng nói ba pháp luân, đó là chuyển, chiếu, trì. Chuyển pháp Tứ đế, dùng không chiếu hữu, phi hữu phi không đều có thể gìn giữ. Kinh Niết-bàn cũng nói: Đầu tiên có y sư (thầy thuốc) bảo người uống sữa. Do chỉ uống sữa nên trong nước nhiều người chết. Sau có một thầy thuốc khác nói sữa là độc tố khuyên mọi người không nên uống. Sau đó vua có bịnh hỏi thầy thuốc nên uống gì. Thầy thuốc bảo hòa thuốc với sữa. Vua nổi giận hỏi: Trước kia ngươi nói sữa là độc dược, sao nay lại bảo đem hòa thuốc với sữa uống. Thầy thuốc đáp: Trước vì chỉ uống sữa nên nhiều người chết. Vì chỉ thường uống một chất như thế nên nói là chất độc, vì sợ người không bỏ được mới nói vậy để cho bỏ. Xét theo lý thật thì có bịnh nên uống, bị bịnh lại không nên uống. Vua bịnh này thì nên pha thuốc với sữa uống mới thích hợp. Phật nói: Pháp của ta cũng giống như vậy. Kinh Pháp Hoa cũng chép: Khi chúng con diệt được bên trong tự cho là đủ, chỉ hiểu việc này mà không hiểu việc khác, đây là thời giáo ban đầu. Nếu chúng con nghe cõi Phật thanh tịnh giáo hóa chúng sanh đều không ưa thích. Đây là thời giáo thứ hai. Phật cũng như thế hiện ra các việc ít có, biết chúng ưa pháp nhỏ, nên dùng năng lực phương tiện điều phục tâm rồi mới dạy cho trí lớn. Hôm nay chúng ta được điều không hề có, chẳng phải là điều mong cầu trước kia mà nay tự được. Đây là thời giáo thứ ba. Cũng đồng với ba thời giáo như Kim Quang Minh, Giải Sâu kín, v.v… Nếu dùng căn cơ thiên viên thích nghi tiệm thứ thì giáo chỉ có ba thời chẳng phải là một hay năm thời… thì không đáng khó vì một trận mưa khắp thấm nhuần cả ba loại cỏ khác nhau. Giáo chỉ có một thì căn cơ đốn ngộ chứng chỉ một quả. Nghóa là nương vào lý này thì không có giáo ba thời. Nếu căn cơ theo thứ lớp thành tựu tức từ Đại cơ theo Tiểu cơ sanh giáo thì nhất định có ba, là do ứng cơ mà nói. Dùng lý hội giáo thì gọi là một trận mưa. Đem giáo ứng căn cơ thì nói pháp ba thừa. Hoặc ba hoặc một lý vẫn không trái nhau. Kinh này ba lần nói Nhất thừa, phần nhiều bao gồm Thanh văn. Trước nói Bát-nhã đã dạy về “Không”, phá trừ bịnh “Hữu”, chúng Thanh văn đã tín hiểu rồi không còn ngu pháp. Nay nói thời thứ ba là để cho họ trở về một hướng cũng hóa độ người đốn ngộ nhờ đây được phát tâm đến trong phần lưu thông chứng đạt vô sanh vậy. Như trước nói đây cũng chung cho đốn giáo, thế nên biết một trận mưa, sự lợi ích đều khác nhau. Vì để hiển bày giáo lý chân thật của thời thứ ba, cho nên nói kinh này. Hiển cơ: Theo kinh Niết-bàn chép: Chỉ có một căn cơ. Tiếng rống Sư tử là nói sự quyết định. Tất cả đều có Phật tánh. Lại nói chúng sanh cũng giống như vậy, thảy đều có tâm. Hễ người nào có tâm đều đắc quả Chánh đẳng chánh giác. Kinh này cũng nói: Trong cõi Phật mười phương chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba, trừ khi Phật dùng phương tiện nói. Chỉ giáo hóa Bồ-tát, không có đệ tử Thanh văn… Nếu Thanh văn hoặc Bồ-tát nghe ta nói pháp thì đều thành Phật.” Theo đây nói thì chỉ có một tánh Đại thừa. Kinh này đã nói Nhất thừa tức bao gồm căn tánh Đại thừa kia. Nhưng tánh có hai: Lý tánh như kinh Thắng man nói Như lai tạng. Hành tánh như kinh Lăng-già nói Như lai tạng. Tánh trước đều có mà tánh sau hoặc là không, nói có Như lai tạng mà không nói thành Phật. Theo kinh Thiện Giới, và luận Địa Trì chỉ nói có hai trường hợp: Có chủng tánh Không có chủng tánh. Kinh luận nói tánh chủng tánh là pháp vô thỉ như vậy, sáu chỗ thù thắng xoay vần nối nhau. Đây là dựa theo hành tánh mà có chủng tánh. Không có chủng tánh là người không có chủng tánh. Tuy có phát tâm siêng năng tinh tấn, nhưng không bao giờ đắc Vô thượng Bồ-đề, mà chỉ thành tựu gốc lành trời người tức là không có chủng tánh. Kinh luận này y theo người có chủng. Không phải người không có chủng tánh tức dựa vào hành tánh mà nói có, không. Phần nhiều văn dưới đều nương vào hành tánh mà nói lý tánh đều có khắp, nhưng dựa vào có chủng tánh chẳng phải không có hơn, kém khác nhau. Nhiếp luận của ngài Thiên Thân cũng chép: - Thượng thừa hạ thừa có khác nhau, Thanh văn, Bồ-tát đều có chia ra ba tạng. Lại những nơi khác đều nói trong mười lực Như lai có trí lực thượng, hạ căn. Đây tức là Bồ-tát tạng Thượng thừa thu nhiếp Thượng căn. Cho nên dựa vào có thì chẳng phải không, dựa vào khác thì chẳng phải đồng, vì thế dùng chung mà y cứ riêng. Kinh này lại nói: Vì người cầu Thanh văn mà Phật nói pháp Tứ đế. Vì người cầu Duyên giác mà nói pháp mười hai nhân duyên. Vì người cầu Bồ-tát mà nói sáu pháp Ba-la-mật, kinh này nói Nhất thừa, tức là vì người cầu Bồ-tát mà nói sáu pháp Ba-la-mật. Trong phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương có tám muôn bốn ngàn người xa lìa bụi nhỏ, cũng có thể nói bên cạnh đó người Thanh văn cũng có lợi ích. Có, không đều là phân biệt của Đại Tiểu thừa. Dựa vào đồng chẳng phải khác dùng riêng mà nhiếp chung. Kinh Niết-bàn chép: Ví như người bịnh có ba loại: Gặp thầy thuốc hay không gặp thầy thuốc, quyết định có thể hết bịnh, tức Bồ-tát. Gặp thì sửa, không gặp không hết bịnh, tức là Nhị thừa. Gặp hay không gặp quyết định cũng không hết bịnh là Nhất xiển đề. Kinh này cũng nói: Luân vương, Thích, Phạm là cỏ thuốc nhỏ. Thanh văn, Duyên giác là cỏ thuốc vừa. Bồ-tát Đại tiểu là cỏ thuốc lớn. Thứ lớp tùy nghịch cũng đồng với kinh Niết-bàn. Nay kinh này chỉ bao gồm người có tánh Bồ-tát. Trước tuy làm Thanh văn, nhưng sau là Bồ- tát. Lại cũng có thể nói có cả Thanh văn như trước đã nói dựa vào có chẳng phải không mà chung riêng khác loại. Lại trong Đại Bát-nhã, Bồ-tát Thiện Dũng mãnh nói: cúi mong Đức Thế tôn! Thương xót chúng con mà giảng nói cảnh trí đầy đủ của Như lai. Nếu có hữu tình giống như Thanh văn thừa có tánh quyết định, nghe pháp này rồi có thể chứng đắc địa vô lậu của thừa mình. Đối với Độc giác thừa tánh quyết định, nghe pháp này rồi mau nương vào chính thừa mình mà được xa lìa. Người có tánh quyết định Vô thượng thừa nghe pháp rồi mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu có hữu tình tuy chưa và đã nhập vào chánh tánh ly sanh, mà đối với ba thừa tánh bất định đó, nghe pháp này rồi đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các luận tuy nói Thánh vị mà cũng có hồi tâm. Nay nói không thọ được biến dịch sanh tử vì hồi tâm. Nói chưa nhập vào chánh tánh ly sanh, kinh này bao gồm người Đại thừa định tánh, Thanh văn định tánh và bất định tánh, như trước đã có dẫn ra. Lại trong kinh Thắng man chép: Ví như mặt đất có bốn gánh nặng: Một là Đại hải, hai các ngọn núi, ba là cây cỏ, bốn là chúng sanh. Người Thiện nam nhiếp thọ chánh pháp cũng như thế. Có thể gánh vác bốn nhiệm vụ nặng nề, đó là đối với chúng sanh lìa Thiện tri thức không nghe phi pháp thì dùng gốc lành trời người mà thành tựu họ. Người cầu Thanh văn thì trao cho Thanh văn thừa. Cầu Duyên giác thì trao cho Duyên giác thừa. Cầu Đại thừa thì trao cho Đại thừa. Đây có thể là hạng tánh Đại thừa và Thanh văn không phải hai loại tánh còn lại. Y theo có chủng tánh chẳng phải không có, mà chung riêng khác loại hiện tại, tương lai không có. Kinh Lăng-già chép: Phật bảo Đại Tuệ: Có năm loại tánh chứng pháp: Tánh của Thanh văn thừa. Tánh của Bích-chi-phật thừa. Tánh của lai thừa. Tánh của Bất định thừa. Là Vô tánh, đó là nhất xiển đề. Đây có hai loại: Là thiêu đốt tất cả gốc lành. Tức chê bai Bồ-tát tạng. Là thương xót tất cả chúng sanh thành Phật nguyện độ hết tất cả chúng sanh. Đó là Bồ-tát. Nếu chúng sanh không nhập Niết-bàn, ta cũng không nhập. Đại Tuệ bạch rằng: Vì sao cả hai thường không nhập Niết-bàn. - Phật bảo: Bồ-tát thường không nhập Niết-bàn. Chẳng phải vì thiêu đốt tất cả căn lành. Vì biết các pháp xưa nay vốn là Niết-bàn, nên không lìa bỏ chúng sanh. Kinh này bao gồm chúng Thanh văn và tánh của thừa Như lai, tánh của thừa bất định, và hàng Bồ-tát Đại bi trong nhất xiển đề. Chẳng phải vì tánh Độc giác và người dứt gốc lành, nên có, không chủng tánh đều nói chung, riêng đều khác loại. Hiện dứt mà cuối cùng không dứt. Lại nữa, luận Đại Trang Nghiêm nói: Có năm loại tánh: Bốn loại đầu giống như kinh Lăng-già nói. Loại thứ năm có hai: Một là thời biên, hai là tất cánh. Thời biên tức là tạm thời. Tất cánh là không có nhân kinh này bao gồm bốn loại trước, ngoại trừ Độc giác và tánh thứ năm. Nương vào có và không, cho nên thành, không thành. Thông biệt khác loại. Kinh Du-già lại nói có năm thứ tánh: Bốn loại trước đồng như trước, loại thứ năm chỉ gọi là vô chủng tánh, kinh này bao gồm kinh đồng với luận trang nghiêm nói. Nếu lấy Nhất thừa làm tông, thì chỉ lấy tánh Bồ-tát mà không vì căn tánh Thanh văn. Một trận mưa gội nhuần cả ba thứ cỏ khác nhau. Có thể vì chúng Thanh văn như trong kinh Du- già nói. Đạo Vô gián có thể xa lìa trần, đạo giải thoát có thể xa lìa hết cấu, chứng được thắng trí này thì gọi là pháp nhãn tịnh. Tức đắc quả Dự lưu kiến đế. Cho nên biết không phải nói Nhất thừa cũng bao gồm căn cơ Thanh văn. Kinh hội đã có nên thông suốt như thế. Vì thích nghi căn cơ nên Phật nói kinh này. PHẦN II: Là nói tông chỉ bộ kinh: Ở đây các vị Tiên đức, phán chung kinh luận có bốn tông: Lập tánh tông: Là luận Tạp tâm. Lập ra ngũ tụ pháp có thể tánh. Phá tánh tông: Là luận Thành Thật , phá pháp hữu, thể, chỉ có tướng hữu. Phá tướng tông: Là Bát-nhã… phá tướng trạng của pháp cũng thành không. Hiển thật tông: Là Niết-bàn, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa… hiển bày đạo nghóa trung đạo chân thật. Kinh này chính là nằm trong tông thứ tư. Lại trong kinh luận xưa về tôn chỉ có rất nhiều. Bốn bộ A-hàm cũ và luật Tăng-kỳ, là nghóa của Đại chúng bộ. Tam Di Đế luận là nghóa của Thượng tọa bộ, Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm. Phạm võng, Lục thập nhị kiến là nghóa của chánh lượng bộ. Luật Tứ Phần là của tạng bộ. Các bộ kinh luận này thuộc về Tông nào. Nhưng văn kinh-thù Vấn và luận Tông Luân nói Tiểu thừa có hai mươi bộ là: Đại chúng bộ, Nhất Thuyết bộ, Thuyết Xuất Thế bộ, Kê Dẫn bộ. Đa Văn bộ, Thuyết Giả bộ, Chế Đa Sơn bộ. Tây Sơn Trụ bộ, Bắc Sơn Trụ bộ. Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ, Tuyết Chuyển bộ. Độc Tử bộ, Pháp Thượng bộ, Hiền Vi bộ, Chánh Lượng bộ, Mật Lâm Sơn bộ, Hóa Địa bộ, Pháp Tạng bộ, Ẩm Quang bộ, Kinh Lượng bộ, hợp với hai pháp Đại thừa thành hai mươi hai tông. Nay y theo văn phán giáo thì giáo chỉ có ba: Nếu lấy loại y theo tông, thì tông có tám. Ba giáo là: Đa thuyết hữu tông. Các bộ A-hàm v.v… là nghóa Tiểu thừa. Tuy nói nhiều về hữu mà chẳng trái với không. Đa thuyết không tông: Trung luận Bách luận, luận Thập nhị môn, Bát-nhã v.v… Tuy nói nhiều về không mà cũng chẳng trái với hữu. Phi không phi hữu tông: Kinh Hoa Nghiêm, Sâu kín, Pháp Hoa v.v… nói hữu vi vô vi đều gọi là hữu. Ngã và ngã sở đều gọi là không. Ba giáo này như văn trước. Tông có tám là: Ngã pháp câu hữu, như Độc tử bộ v.v… Hữu pháp vô ngã: như Tát-bà-đa v.v… Pháp vô khứ lai: như Đại chúng bộ… Hiện thông giả thật: như Thuyết giả bộ. Tục vọng chân thật: như Thuyết Xuất thế bộ v.v… Chư pháp đản danh: như Thuyết Nhất bộ v.v… Thắng nghóa đều không: như Kinh Bát-nhã v.v… Trung, bách luận của ngài Long Thọ. Ứng lý viên thật: Đây là các bộ Pháp Hoa, các thuyết trung đạo giáo của ngài Vô Trước nghóa của luận Thành thật nghóa kinh bộ sư y cứ. Tức là Hiện Thông giả thật thứ tư. Tuy nghóa có khác nhau mà hợp lại có hai mươi hai. Theo lý thì hoàn toàn sai, chẳng có gì ngoài tám điều trên. Nhưng kinh Pháp Hoa chép: Như lai dùng một lời mà giảng nói vô biên biều khế kinh. Kinh Vô Cấu Xứng chép: Phật dùng một âm thanh mà giảng nói pháp. Chúng sanh tùy loại đều được liễu ngộ. Kinh Vô Lượng Nghóa chép: Ta thành đạo đến nay hơn bốn mươi năm, thường nói các pháp bất sanh, bất diệt, bất khứ, bất lai, không đây, không kia, không đắc, không mất. Tất cả đều vô tướng, nhưng do sự ngộ liễu của chúng sanh không đồng nêu đắc quả có khác. Kinh Pháp Hoa cũng chép: Một trận mưa gội nhuần cỏ cây sanh trưởng không đồng. Kinh Ưu-bà-tắc giới chép: Ba con đường qua sông, cạn sâu đều khác nhau. Nhiếp luận cũng nói: Như trống trời, Mạt-ni, không suy nghó mà thành ra tự sự. Cho nên biết các giáo nghóa vốn không khác nhau. Do căn cơ không đồng, nên chia ra giáo nghóa Đại Tiểu đốn tiệm. Kinh này tạm đương là giáo tiệm đại thừa. Đây là nương vào việc hóa dụ Thanh văn mà quy về Đại thừa nên gọi là Tiệm. Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự nói tám muôn bốn ngàn người được xa lìa bụi nhơ, đắc pháp nhãn thanh tịnh, tức là sơ quả. Trong phẩm Thọ Lượng chép: số chúng sanh phát tâm như cát bụi của tám thế giới Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong phẩm Phổ Môn, có tám muôn bốn ngàn chúng sanh đều phát tâm Chánh vô đẳng Chánh Giác Vô thượng, tức có thể thành đốn giáo. Cho nên biết đốn tiệm không có giáo môn riêng, mà chỉ tùy cơ chia ra, nên ở đây chung cả hai. Hai giáo bán mãn. Mãn tông thâu nhiếp. Sanh không pháp không thông nhiếp cả hai giáo. Hữu tác, vô tác xuyên suốt cả hai môn. Thế tục, Thắng Nghóa tùy theo cảm ứng mà chia làm hai. Tuy biết là chung nghóa chỉ tông như thế mà tùy riêng nêu ra Nhất thừa chính là Tông. Vì thế văn dưới nói: Nay kinh này chỉ nói Nhất thừa, mà xưa ở trước Bồ tát chê trách Thanh văn chỉ ưa thích pháp tiểu thừa nhưng thật ra Phật nói pháp Đại thừa để giáo hóa các đệ tử. Cho nên ở đây lấy Nhất thừa làm tông. Nghóa Nhất thừa đến phần vì một đại sự nhân duyên ở trong phẩm Phương tiện, sẽ phân biệt rõ. PHẦN III: là giải thích được tên kinh phẩm : Đề mục của kinh là: kinh Diệu Pháp Liên Hoa . Tiếng Phạm: Tát-đạt-ma Bôn-trà-lợi-ca Tố-đát-lãm. Chữ Tát nghóa là chánh Diệu nên Ngài Pháp Hộ dịch là chánh Pháp Hoa; ngài La-thập dịch là Diệu Pháp Liên Hoa. Đạt-ma là pháp. Bôn-trà-lợi-ca là Bạch Liên Hoa. Bên Tây Vực gọi Hoa sen trắng là Bôn-trà-lợi-ca. Cho nên trong kinh này mới nói: Bốn sắc hoa sen là xanh, vàng, đỏ, trắng. Gọi là Uất-bát-la hoa, Câu-mưu-đà hoa, Bát-đặc- ma hoa, Bôn-trà-lợi hoa. Như thứ lớp kết hợp Chữ Liên là phù-cừ. Hoa là hoa mỹ. Tố-đát-lãm là kinh. Theo nghóa nên gọi là: kinh Diệu Pháp Bạch Liên Hoa, cho nên trong văn dưới nói: Phật phát ra ánh sáng từ sợi lông trắng, xe thì dùng trâu trắng. Màu trắng là màu căn bản trong các màu. Nhất thừa là thừa căn bản của các thừa. Trong bản tiếng Phạm không phân biệt chữ bạch, nên gọi chung là Liên Hoa. Nhưng trong kinh này, Xá-lợi-phất ba lần thỉnh người xấu ác rời khỏi chỗ ngồi. Sau đó Phật mới nói, ý chỉ Nhất thừa sâu xa, phần nhiều nương vào lý trí nhân quả để gọi là Pháp Hoa, khai tri kiến Phật. Cả hai đều khen ngợi hiển lý, trí hai thân pháp, báo hai loại Vô thượng khiến sanh ưa thích hướng đến chỉ cho biết tri kiến Phật là lý pháp thân. Chỉ cho biết là đồng với Phật để chứng. Ngộ tri kiến Phật là trí báo thân, khuyên người tu ngộ. Ba loại trên đây, khen ngợi nói rõ quả của Phật hai thân pháp báo. Hai lý trí Niết-bàn Bồ-đề đã xong. Nhập tri kiến Phật là hai nhân này. Hành nhân Nhất thừa, hướng về cực quả. Cho nên đồng ban cho xe trâu là nhân Nhất thừa được như thừa ấy cùng với các con, kiếp số ngày đêm tự tại du hý chính là nhân thừa. Trừ bỏ hóa thành dắt đến đảo châu báu đó là quả Nhất thừa. Kinh Đại Niết-bàn gọi là đảo châu báu. Đây cùng ba loại trung biên Vô thượng, cũng không trái nhau. Giáo năng thuyên gọi là quyền phương tiện trí tuệ sở thuyên gọi là thừa chân thật. Trong thừa chân thật muốn Nhị thừa hành nhân đến quả nên nói nhân quả gọi là Pháp Hoa. Vì thế luận này giải thích phẩm Phương tiện rằng: Từ đây trở xuống là nói về tướng nhân quả. Do đó mà nói hành quả Nhất thừa gọi là Pháp Hoa. Nếu theo luận giải kinh Vô Lượng Nghóa có mười bảy tên gọi, thì tên gọi thứ mười sáu gọi là Diệu Pháp Liên Hoa. Liên Hoa có hai nghóa: Nghóa lên khỏi mặt nước: Theo lý sở thuyên là ra khỏi dòng nước vẩn đục của Nhị thừa. Nghóa mở bày: Dùng ngôn giáo cao quý mà mở bày chân lý. Nghóa trước là lý diệu, nghóa sau là giáo diệu… Lại trong các tên gọi thì tên gọi thứ mười bốn, cũng gọi là Nhất thừa, cho nên biết Pháp Hoa cũng có cả giáo và lý, Phật muốn các Bồ-tát quán xét căn cơ trao đạo, nên nói và giáo lý, chính gọi là Vô Lượng Nghóa. Ngoài ra cũng gọi là Pháp Hoa, như phẩm Phương Tiện chép: “Trí tuệ Chư Phật sâu xa vô lượng, môn trí tuệ này khó hiểu khó vào,” Luận tự giải thích rằng: Có hai nghóa sâu xa: Là chứng sâu xa: Nghóa là chỗ chứng trí tuệ của Phật. A-hàm sâu xa: Nghóa là môn trí tuệ, tức giải thích giáo kia. Muốn rũ bỏ Nhị thừa khiến sanh tâm kinh nghi. Từ định vô Lượng Nghóa xứ mà khởi, ban đầu dùng giáo lý gọi là Pháp Hoa. Xét chung các văn kinh, y theo vào thật pháp mà nói thì giáo lý hạnh quả cũng là Nhất thừa, đều gọi là Diệu Pháp Liên Hoa. Diệu pháp giáo, lý như trước đã nói. Hành diệu pháp đó: Trong luận giải thích nhập Phật tri kiến nói rằng: Khiến chứng địa không lui sụt, thị hiện cùng vô lượng trí nghiệp. Đây chính là nhân thừa của quả Phật. Trong phẩm Thí Dụ chép: Thân tay ta có sức, nên dùng tay áo bàn ghế mà ra khỏi nhà. Lại nói: Chỉ có một cửa mà lại nhỏ hẹp. Lại nói: Ta tuy ở trong cửa của ngôi nhà lửa thiêu đốt này mà an ổn được ra khỏi. Nhân hành của Đại thừa gọi là cửa, chính là nơi sở hành. Nhân bi trí của Nhị thừa, dẫn dụ gọi là tay áo bàn ghế, tùy nghi mà ra. Trên nói ba thừa còn ở nhà phần đoạn ba cõi, nên chưa có từ ngữ cho xe. Lại nói: Được xe như thế, để cho các con, ngày đêm kiếp số thường được dạo chơi. Cho các Thanh văn và Bồ-tát cưỡi xe báu này, thẳng đến đạo tràng. Vậy đủ biết nhân hạnh vô lậu ra khỏi nhà lửa thế gian là Nhất thừa, tự tại không ràng buộc không có chỗ nương cầu. Nên trong phẩm Phương tiện chép: Hành trì hết vô lượng Đạo pháp của Chư Phật. Luận chép: Tu hành sâu xa, cho nên biết tu hành quả Phật năng thành cũng gọi là Pháp Hoa. Quả Diệu pháp là: Luận giải thích khai thị ngộ nói là nghóa vô thượng, nghóa nhân đồng, nghóa bất tri. Tức là Niết-bàn, Bồ-đề quả Phật. Văn kinh dưới nói: Tướng các pháp vắng lặng không thể dùng lời mà giảng nói. Cho nên biết quả Phật chân lý cũng gọi là Nhất thừa. Lại chép: Vì nói trí tuệ Phật, nên Chư Phật xuất hiện ở đời. Cho nên biết quả Phật chánh trí cũng gọi là Nhất thừa. Do đây mà gọi chung là Đại thừa giáo lý hạnh quả đều có đức của hoa sen là khỏi dòng nước đục Nhị thừa. Giáo có thể phơi bày ra công năng của diệu lý. Lý có năng lực đưa lên khỏi nước. Hành có nhân mở bày hướng đến tướng quả. Quả có kết trái là năng của nhân. Cho nên pháp nhờ dụ mà rõ, sự mầu nhiệm do chấp trước hiển lộ. Cho nên mượn hoa hạt Bôn-trà-lợi ví cho nhân quả Tát-đạt-ma. Pháp đã bao gồm bốn nghóa. Hoa cũng bao gồm bốn đức. Pháp có bốn nghóa là khế hợp chỗ vi mật của bí tạng (là Giáo); Hòa huyền chỉ u cơ (là Lý), thành tựu nghóa sâu xa thượng thừa (là Hành), viên mãn chân tông chí giác (là Quả). Đẹp mà không cạn kiệt thì gọi là diệu. Bốn nghóa của hoa là: Cánh nở ra thì thấy sen, so sánh giáo để vượt lên giác ngộ. Hoa sen vươn lên từ ao linh là dụ cho lý vượt lên các loài sen nhỏ. Nếu hoa nở mà đắc quả là thí dụ cho nhân nghiêm mà quả mãn. Nêu hạt kết là căn bản hoa hiển bày trí Phật là nguồn gốc thừa. Thế nên mượn hoa sen dẫn dụ là có nguyên nhân. Y theo lý này mà nói bốn pháp như hoa cũng là ứng là thắng. Nhưng xét ý kinh tuy có đủ bốn mà ý phẩm Phương Tiện nêu giáo quyền ngày trước nói là ba, nay trong hội này lý thật chỉ có một. Phật đắc pháp sâu xa khó hiểu. Có chỗ nói ý đường khó biết. Cho nên dùng trí Phật dẫn dụ Nhị thừa. Hai pháp: Giáo, lý để dụ cho hoa sen. Dứt bỏ Nhị thừa kia đạt đến chân thánh là đồng giữ Nhất thừa, khiến cho những kẻ giả Thánh phải rời chỗ ngồi bỏ đi. Ba lần thỉnh sau đó mới cho là chánh nói một việc nhân duyên lớn làm chánh thể Pháp Hoa. Tức lấy hành quả để làm Pháp Hoa, khai thị ngộ làm quả, nhập để làm nhân hạnh, nên Vô Lượng Nghóa là giải thích hoa sen vươn lên khỏi nước có hai nghóa: Không thể hiểu rõ đốn ngộ tánh Bồ-tát ra khỏi Nhị thừa. Dụ cho Thanh văn nhập vào chúng, nương vào giáo kia để quán lý Nhất thừa mà thành ra tiệm ngộ. Cũng như Bồ-tát thường ngồi trên tòa sen, bên vì Nhị thừa mà nói cả giáo lý, hoặc kinh Vô Lượng Nghóa vì Bồ-tát mà giảng nói. Đối với tánh chúng sanh, muốn nói vô lượng, là để khiến cho Bồ-tát đem hai pháp giáo và lý để hóa độ căn cơ chúng sanh. Cho nên trong luận giải có mười bảy tên gọi chỉ dùng hai pháp giáo lý để giải nghóa Liên Hoa. Kinh này là để hóa độ Nhị thừa phát tâm cầu học Đại thừa. Chỉ lấy hai pháp: Hạnh, quả để gọi hoa sen. Lại kinh này vì hóa độ Nhị thừa trở về Đại thừa, để họ biết giáo quyền, lập ra ba mà lý thể chỉ là một, phát tâm tu hành cuối cùng thành quả Phật. Vậy nên giáo lý hành quả đều gọi là hoa sen. Giáo hành đều khai mở, lý quả cùng lên khỏi nước. Trong mười bảy tên gọi ở dưới sẽ phân biệt rõ ràng. Nếu chỉ lấy chân như làm thể diệu pháp Nhất thừa thì hai nghóa lên khỏi nước, mở bày của hoa sen thành ra thí dụ rộng mà pháp lại hẹp, lý hẳn là không đúng, huống chi trong luận giải thích tên gọi chẳng phải giải thích theo đây, pháp tức là diệu, là hoa của sen. Hai Giải thích là trì nghiệp thích, y chủ thích như thứ lớp cũng có thể được. Diệu của đại pháp là y chủ thích. Diệu pháp này như hoa sen cũng là trì nghiệp thích. Nay ở đây không muốn giải thích riêng hoa sen, nên không giải thích trái nhau. Nếu lý là Diệu, thì kinh chỉ là giáo. Nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa tức là y chủ thích. Diệu pháp là giáo, kinh cũng là giáo. Nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa là Trì nghiệp thích. Nếu Diệu pháp là lý, kinh cũng là lý. Nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là Trì nghiệp thích. Diệu pháp là giáo, kinh là lý, cũng là y chủ thích. Nương vào nghóa thuận thể, nhân trong xứ, báo xuất thế. Y nhân y pháp. Y pháp y dụ, lấy đó làm tên như trong Tông luận nói. Nghóa trong phẩm Tựa v.v… như âm huấn. PHẦN IV: Nêu tên các phẩm kinh. Kinh có hai mươi tám phẩm là: Phẩm Tựa, phẩm Phương tiện, phẩm Thí Dụ, Tín Giải, Dược Thảo Dụ, Thọ Ký, Hóa Thành Dụ, Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký, Thọ Học Vô Học Nhân Ký, Pháp Sư, hiện Bảo Tháp, Đề-bà-đạt-đa, Khuyến Trì, An vui Hạnh, Tùng Địa Dũng Xuất, Như lai Thọ Lượng, Phân Biệt Công Đức, Tùy Hỷ Công Đức, Pháp Sư Công Đức, Thường Bất Khinh Bồ-tát, Như lai Thần Lực, Chúc Lụy, Dược Vương Bồ-tát Bổn Sự, Diệu Âm Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ môn, Đà-la-ni, Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự, Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát. Các phẩm này gồm có bốn nhóm: Một nghóa làm tên thì có mười lăm phẩm. Hai nghóa làm tên có mười phẩm. Ba nghóa làm tên có một phẩm. Bất định làm tên có hai phẩm: Một nghóa làm tên có mười lăm phẩm lại chia làm bốn: Từ pháp làm tên có bốn: Phẩm Phương tiện, Tín Giải, phẩm Trì, và Đà-la-ni. Lấy dụ làm tên có ba: Phẩm Thí Dụ, Dược Thảo Dụ, Hóa Thành Dụ. Từ người làm tên có bốn: Phẩm Pháp Sư, Đề-bà-đạt-đa, Thường Bất Khinh Bồ-tát, và Diệu Âm Bồ-tát. Còn phẩm Pháp sư là có Thầy của pháp tức từ người mà đặt tên. Pháp tức là thầy, lấy pháp làm thầy từ pháp mà đặt tên tùy theo đều được. Từ Sự đặt tên có bốn: Phẩm Tựa, Thọ Ký, Tùng Địa Dũng Xuất, và Chúc Lụy. Hai nghóa làm tên có mười. Trong đó lại chia làm ba: Từ người và pháp đặt tên có tám: Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký, Như lai Thọ Lượng, Pháp Sư Công Đức, Như lai Thần Lực, Dược Vương Bồ-tát Bổn Sự, Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự và Phổ Hiền Bồ-tát khuyến phát. Lấy năng sở làm tên có một là phẩm Phân Biệt Công Đức. Lấy nhân quả làm tên có một: là Phẩm Tùy Hỷ Công Đức. Ba nghóa làm tên có một: là phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký. Ngũ Bách là Số. Đệ tử là người. Thọ ký là sự (việc) nên thành ba nghóa. Bất định làm tên có hai: Phẩm An vui hạnh, và hiện Bảo Tháp; nghóa an vui có cả nhân và quả. Nghóa của kiến là có cả thấy và hiện. An vui ở nhân, thấy là hiện, tức là một nghóa đặt tên, hoặc ở quả thấy là thấy tức hai nghóa đặt tên, suy nghó theo đây có thể hiểu nghóa bất định. Vả lại, theo loại chung mà nói về sự đặt tên, còn cụ thể tên gọi đến từng phẩm sẽ giải thích. Phần V: Là nêu sự phế lập của phẩm kinh: Xét căn bản kinh này là từ thời Tần Diêu Hưng. Ngài Cưu-ma-la-thập dịch hai mươi bảy phẩm, không có phẩm Đề-bà-đạt-đa. Sa-môn Đạo Tuệ ghi trong Tông Tề lục rằng: Trước có ngài Thích Pháp Hiến ở chùa Định Lâm đến nước Vu Diền được bản kinh Phạn có một phẩm này. Sa-môn Pháp Ý ở chùa Ngõa Quan vào tháng mười hai niên hiệu Vónh Minh năm thứ tám đời Tề, dịch ra phẩm này, nhưng chưa xếp vào bộ kinh Pháp Hoa. Đến cuối đời Lương có Sa-môn Câu-na-la-đà ở nước Ưu-thiền-ni ở Tây Thiên-trúc. Câu-na-la-đà dịch là Gia Y, cũng âm là Bà-la-mạt-đà, dịch là Chân-đế. Ngài dịch ra phẩm này, bèn xếp vào sau phẩm “Hiện Bảo Tháp”. Lại có Sa-môn Trúc Pháp Hộ ở Đôn hoàng vào đời Tấn Vũ dịch chánh Pháp Hoa, cũng xếp phẩm Đề-bà-đạt-đa sau phẩm Hiện Bảo Tháp. Bản của ngài La-thập thì không có. Xưa giải thích rằng: Ở Tây Vức phần nhiều không có phẩm này. Ở phương Đông lại có. La-thập ở tại nước Quy Tư dịch nên không có phẩm này. Nếu vậy thì ngài Pháp Hiến ở nước Vu-điền sao lại có được phẩm này. Nước Vu-điền cũng ở tại phương Đông. Lại có lời giải: Phẩm Hiện Bảo Tháp ra mệnh lệnh trì mà phẩm Trì vâng mệnh gọi là thế văn nói nhau, mà xen giữa phẩm Đề-bà-đạt-đa thì thế văn thưa, cách. Ngài La-thập sợ người sau mê hoặc nhiều nên lược bớt. Như vậy thì bỏ phần chân văn đều do ngài La-thập lược bỏ bớt. Ngài Thích Đạo An vì thấy người dịch kinh phần nhiều lược bớt nên ngài soạn bài “Ngũ Thất Tam Bất Dị” nói rằng: Các vị La-hán cùng đua nhau kiết tập như thế, phàm phu đời mạt pháp bình bình nên như thế, ý sửa ngàn đời mà bày nói, đồng hạ mạt tục của trăm vua, há không thương xót sao! Cho nên, phẩm Thiên Thọ bản Phạn văn đều có. Lại nữa, phẩm Thiên Thọ hiển bày nghóa xem trọng pháp làm căn bản, thế lực của kinh lớn từ cung rồng hiện lên. Trải qua uy lực của Long nữ mau thành Đạo nghiệp khen ngợi khuyên người. Sau phẩm này sao không có phẩm Trì! Nhưng biết các bản kinh Phạn đều có, mà bản của ngài La-thập lại thiếu là tùy theo bản dịch mà không có phẩm này. Đã chẳng thể lấy việc Đông Tây mà phán định thì cũng không thể đem nghóa vượt qua bỏ bớt. Chỉ là bổn của ngài La-thập bị thất thoát vì các nước biên địa thường hay thất lạc. Lại phẩm Chúc Lụy trong kinh này đặt sau phẩm Thần Lực. Người xưa có giải thích rằng: Ngài La-thập khéo được ý kinh, cho nên không đặt ở cuối kinh mà đặt ở trước. Vì trong phẩm Chúc Lụy khiến các phân thân của Phật đều trở về nước mình. Nếu đặt phẩm này ở cuối kinh thì đến khi nói kinh xong mới khiến các phân thân đều trở về nước mình, tức cõi này vẫn còn thanh tịnh thì khi Diệu Âm đến việc này vì sao được khuyên là chớ thấy cõi này mà sanh tư tưởng cho là thấp kém! Lại từ phương dưới vọt lên cùng cúi đầu đảnh lễ phân thân thì Ngài Diệu Âm ở phương Đông không nên một mình đảnh lễ Tháp Đa Bảo. Ngài Quán Âm vâng mệnh dâng châu, không nên dâng làm hai phần. Phân thân Chư Phật vì sao bỏ qua mà không thể nương nhờ. Lại trong phẩm Chúc Lụy đã nói việc phó chúc. Phẩm Dược Vương lãnh nhận mở mang truyền bá chánh pháp, theo đây mà suy ra thì không nên đặt ở sau. Cho nên ngài La-thập mới đặt ở trước, ở trên tuy nói như vậy mà xét về chỉ đường thì lý có tám điều trái: Các bản kinh trái nhau. Đời Tấn ngài Trúc Pháp hộ dịch là chánh Pháp Hoa. Đời tùy có hai ngài Khuất-đa và Cúc-đa dịch là Thiêm Pháp Hoa. Phẩm Chúc Lụy đều đặt cuối kinh. Luận Kinh, và trái nhau. Trong Luận Pháp Hoa nói về năng lực tu hành lược có bảy loại: Trì lực: Phẩm Pháp Sư, phẩm An vui Hạnh, phẩm Khuyến Trì đều thị hiện. Thuyết lực: Thị hiện trong phẩm Thần Lực. Hành khổ hạnh lực: Thị hiện phẩm Dược Vương. Giáo hóa chúng sanh hành khổ hạnh lực. Thị hiện ở phẩm Diệu Âm. Hộ trì các nạn của chúng sanh. Thị hiện phẩm Quán Âm, phẩm Đà-la-ni. Công đức thù thắng lực: Thị hiện phẩm, Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự. Hộ pháp lực: Thị hiện phẩm Phổ Hiền Bồ-tát và phẩm cuối. Đã nói thị hiện Hộ pháp lực ở phẩm Phổ Hiền và phẩm cuối tức là biết phẩm Chúc Lụy đặt ở cuối kinh. Nếu không như vậy thì sau phẩm Phổ Hiền còn có phẩm gì nữa? Lại sau phẩm Thần Lực tức là nói Dược Vương. Các phẩm khác đều y theo thứ lớp. Vậy nên biết phẩm Chúc Lụy phải để cuối kinh. Các giáo khác nhau: Các kinh khác phần Chúc lụy đều đặt ở sau kinh. Vì sao kinh này lại đặt trước? Hai việc trái ngược: Nếu khiến cho phân thân Phật trở về nước mình cõi này liền trở về uế, thì khi Diệu Âm đến nên có lời khuyên và trong phẩm Chúc Lụy cũng khiến cho Tháp đa Bảo trở về, mà vì sao ngài Quan Âm còn dâng chuỗi ngọc chia ra làm hai? Hai mệnh lệnh không đồng nhau: Nếu phân thân và tháp Đa Bảo đều khiến trở về nước mình. Vì sao phân thân liền trở về, mà tháp Phật Đa Bảo còn ở đó? Nếu nói do mệnh lệnh tháp Đa Bảo hoàn như cũ chỉ là đóng cửa tháp lại thì như vậy vì sao chánh Pháp Hoa nói có thể về nước mình? Tháp không hoàn xứ: Lại phân thân Chư Phật. Đức Thích-ca nói đi tức nói trở về , còn tháp Phật Đa Bảo đến cuối kinh lại không trở về. Tịnh uế khác nhau: Lại vì Diệu Âm được khuyên khi đến Ta- bà, chẳng phải cõi Tịnh, do đó biết các phân thân đều đã trở về nước mình. Ngày phân thân Phật nhóm hợp lại vì sao lại bảo thị giả, tay cầm hoa sen cùng đi đến Linh Sơn. Lúc cầm hoa rải trên Phật liền biến thành Tịnh độ. Các núi đều ẩn mất chỉ còn thông suốt là cõi Phật, năm đường cũng mất. Vì sao có việc đến Linh Sơn cầm hoa rải Phật. Lại ngài Văn- thù, từ hải hội sẽ đến trong đây, dự tại Linh Sơn, chợt có hoa hiện ra. Sự vui mừng trái với thường tình . Lại trong phẩm Chúc Lụy khiến cho phân thân Phật trở về, lúc tháp không đi. Nếu chẳng phải cuối kinh mới có phẩm Chúc Lụy thì các chúng A-tu-la đều rất vui mừng là quá sớm, không vì nghe pháp bảo mà sanh vui mừng, mà bởi thấy Phật khách vì vui mừng an ủi sâu xa mà thành ra quái lạ! Nhưng vì trước phóng ra thần lực hiện ra cõi Tịnh, Do cõi này tạp uế, sợ ngài Diệu Âm chê bai nước mình này, cho nên khuyên răn, chẳng phải khi Diệu Âm đến, phân thân đã trở về. Mà cõi này chỉ uế như tuy từ cõi tịnh thấy lại núi Linh sơn, biến đổi không chỉ thấy tịnh mà gồm thấy cõi uế. Trên thấy dưới vì sao lại không được, hai vị Phật cùng ngồi, Bồ-tát liền đến đảnh lễ. Quán Thế Âm dâng chuỗi châu báu cho hai vị hóa chủ. Yù này riêng không chung với các vị Phật khác. Chỉ như trong phẩm Thiên Thọ, ngài Văn-thù từ cung rồng trở về, chỉ nên làm lễ hai vị Phật trong tháp là đủ, vì lúc này phân thân Phật chưa trở về nước mình mà Ngài Văn-thù lúc ấy không lễ phân thân, đủ thấy sự trở về, dâng châu có ý riêng sao được xét là ý chung trở về. Cho nên phẩm Chúc Lụy phải ở cuối kinh, vui mừng vâng hành cùng các vị ở các cõi khác. Lại trong phẩm Phổ Môn, bổn này vốn không có phần tụng, hoặc có là do người sau bổ sung. Người thế gian thường nghi: Nếu là Phật nói vì sao dùng kệ nói: “Thế tôn diệu tướng đủ kệ đáp. Vô tận ý. Đây chính là các nhà kết tập kinh về sau mới làm kệ. Như trong kinh Thắng man chép: Phát sanh ý niệm này khi đó Phật hiện ở trên hư không . Từ kệ đó nương theo bèn làm kệ đặt ở sau. Vì văn xuôi ngắn không tiện, lý này cũng nên thông. Lại có người nghi: Như Phật nói vì sao lại dùng kệ nói: Chú trớ các thuốc độc, trở về người ám hại. Lẽ nào Phật nói lại đi hại người! Ngày trước cũng có người mê hoặc từng hỏi Tiên sư nghóa này: Từ âm Diệu đại vân.” Đại sư tra cứu bảo văn Phạm thấy đầy đủ kệ này chánh gọi là “Mai-đát-lặc-da Mạt-na”, nên dịch là tứ ý chứ không phải từ âm, vì thế nhất định có kệ tụng. Lại có kệ tụng cũng không sai chính vì thích nghi, điều phục. Như thợ săn khéo bắt được gấu, như thầy thuốc khéo dùng lại thuốc. Đầu tiên tuy có tổn hại mà sau thì được lợi ích, chẳng phải ban đầu làm lợi mà sau lại tổn. Có kệ tụng đã không trái với Tông chỉ, nếu không có cũng không trái lý. Lại tùy thời mà thêm vào trong kinh. Bồ-tát Trang Nghiêm Tràng hỏi Vô Tận Ý: Quán Âm vì sao có tên gọi như thế? Bồ-tát Vô Tận Ý quán xét nguyện ý trong quá khứ của Quan Âm, mới dùng kệ đáp Bồ-tát Trang Nghiêm Tràng. Như vậy vì sao dùng kệ nói: Thế tôn diệu tướng đủ Nay tôi lại hỏi kia… Đấng đầy đủ diệu tướng Kệ đáp Vô Tận Ý. Văn đã trái ngược, nên biết là sai sót. Lại trong phẩm Dược Thảo Dụ thêm nữa phần sau. Luận giải thích hai thí dụ phá chấp thừa nhất. Kia nói thừa đồng, lấy mặt trời làm dụ, hai kinh chánh pháp, diệu pháp đều không có. Luận lại không giải bốn điều theo và ba nghịch. Có sai lầm cách chung không thuận để thành lý. Kinh kia lại đặt phẩm Đà-la- ni ở sau phẩm Thần Lực, như vậy là trái thứ lớp với hai bản kinh và lu- ận. Lại nói hai phẩm Phú-lâu-na và Pháp Sư đầu tiên đều có thoát chút ít. Đã không thành văn lý khó y theo đó để làm tin. Lại nói: Văn gồm có hai mươi bảy phẩm, tức nhập phẩm Thiên Thọ vào phẩm Bảo Tháp thành một. Bốn bản trái ba thật là không thể. PHẦN VI: Nêu thứ lớp các phẩm kinh: Hễ muốn nói pháp trước là để cảnh tỉnh chúng sanh. Cơ duyên thuận hòa thì mới có thể ứng vật mà tuyên dương. Từng bước dần nói nên đầu tiên là phẩm Tựa. Phẩm tựa lần lượt nêu ra chánh tông. Đại chúng đã nhó họp mà chưa rảnh trình bày Tông giáo để huấn dụ. Pháp nói Nhất thừa là thật. Lược khai hai vận làm quyền. Nói một thật mà dẫn lối trở về. Hiển bày hai quyền mà khiến tích kia trở lại dấu vết. Trí thông thiện xảo, diệu ứng với bậc thượng căn. Giảng nói thần lực, đạt đến chỗ lý suy xét, nên kế có phẩm Phương tiện. Bậc Thượng căn lãnh hội, Phật lại việc thành tựu mới có thọ ký ứng với lãnh thuật và phẩm Thọ ký. Vì, Thu Tử riêng lãnh hội không thể một mình tỏ ngộ, nên văn lãnh thuật thọ ký ít lược nên phẩm Thí dụ bắt đầu nêu sự lãnh thuật và thọ ký. Hạng trung căn tuy là nghe pháp mà vẫn chưa hiểu, phải dùng thí dụ để dẫn giải, nên có phẩm Thí Dụ. Bậc trí giả nhân thí dụ này mà lãnh ngộ trí tuệ tùy sanh, nên có phẩm Tín Giải. Tuy ít tín hiểu mà còn chưa biết sâu xa, vì để phá nghi tình thành tựu lại ý trên, mà có phẩm Dược Thảo Dụ. Bốn đại Thanh văn đã lãnh ngộ hiểu sâu và thọ ký đắc quả nên có phẩm Thọ Ký. Căn tánh thượng, trung tuy có phát sanh tín giải, mà chúng hạ căn còn không ngộ tướng, phải mượn lời nói chắc chắn ưa thích trợ giúp, huấn dụ trịnh trọng, nói mới kết duyên trong quá khứ biết thấu suốt tâm người, thuật lại sự đắc nhập Niết-bàn của chúng xưa kia vốn chẳng phải chân thật, khiến cho trở về đảo châu báu, hướng tới Đại Niết-bàn. Do đây mà kế có phẩm Hóa Thành Dụ. Người đức cao trọng vọng nghe nói liền hiểu nên có tin hiểu và tâm thêm thanh tịnh, bởi ba lần lãnh hội; văn nói lược cũng không rộng nên không phát sanh phẩm riêng. Trước nêu tướng cao danh tương quả, nên có phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký. Kẻ hạ căn tạm thời cũng thông đạt, vì có Phật thọ ký nên có phẩm: Thọ Học Vô Học Nhân Ký. Ba căn cùng tỏ ngộ, thuyết lợi đã chu toàn, để chuẩn bị cho đời sâu xa cùng chung khuôn phép nên khen người và khen pháp khiến cho truyền rộng đại nghóa, nên có phẩm Pháp Sư. Nương vào pháp tu học hoặc pháp, hoặc người có thể làm khuôn phép, nên phá tiểu chấp để thành Đại đạo, lãnh hội ý chỉ quyền để thể nhập chân tông. Người tin học đã ít có, người quy sùng cũng ít, nên tháp Đa Bảo hiện ra phân thân Đức Phật nhóm họp ân cần khuyên thời thường tin rõ, chứng minh cho lời Phật nói chẳng sai, nên có phẩm Hiện Bảo tháp. Tuy Phật khác nói chứng tin kinh này, mà chưa hiển bày tự đức Thế tôn khuyên người quy ngưỡng nên nêu thân làm vua vì quý trọng kinh này, hầu hạ kẻ oán thù kia vì để cầu pháp, cũng để làm rõ uy lực kinh rộng lớn độ chúng cung rồng rất nhiều, pháp lực mau thành, hóa độ Long nữ thành đạo. Vì thế có phẩm Đề-bà-đạt-đa. Đã hiện tự tha đều là bảo trọng, uy lực lớn, công dụng mau chóng, ân cần khuyên người nghe kinh, Bồ-tát đều thọ giáo và nguyện hành trì cho nên có phẩm Trì. Nếu y theo luận Bổn gọi là phẩm Khuyến Trì, Kinh này không có chữ Khuyến. Do khuyên trước rồi hành trì sau nên gọi là Khuyến trì, lý cũng không sai. Việc hành pháp đời sau thường vượt qua phép tắc, nay chỉ bày đầy đủ phương thức khiến dễ dàng cho sự giảng nói truyền bá tuyên dương. Pháp đã dễ hành thì tự xa lìa mọi điều thương tổn, nên có phẩm An vui Hạnh. Tám Hằng sa Bồ-tát nghe Diệu đạo nguyện muốn thọ trì, lúc ấy Phật không cho phép, nói rằng cõi này đã có người mở rộng hành trì, bèn có sáu muôn hằng hà sa Bồ-tát từ lâu đã xa lìa sự thương tổn trước nguyện mở rộng giảng nói. Lúc khuyên phát hội thì nhóm chúng nhiều nên có phẩm Tùng Địa Dũng Xuất, đại chúng thấy dưới đất vọt lên cho là biến hóa chứ chẳng phải thật, vì cha trẻ mà con già nghi ngờ chẳng phải Phật Thích-ca hóa độ, nên nay nói rằng: Ta thành đạo đã lâu chúng hóa độ phải nên chẳng ít; vì giải mối nghi này nên có phẩm “Như lai Thọ Lượng”. Báo thân Phật hiện tuổi thọ dài lâu, thể Pháp thân cũng là phương tiện giảng nói, nên biết Đức Như lai từ xưa nay chất thể chỉ là ứng hóa . Đức của Phật sâu xa, mầu nhiệm. Người nghe tin đã nhiều, lợi ích càng rộng, công đức vô lượng, nay muốn chúng biết việc lợi ích ấy không đồng, nên có phẩm “Phân Biệt Công Đức”. Lợi ích từ chỗ tùy thời, nghi tuy đã nói đầy đủ, mà người có khả năng tùy hỷ theo phước cũng không nhỏ, nên có phẩm “Tùy Hỷ Công Đức”. Người bên cạnh tùy hỷ được phước nhiều, chính bản thân mở rộng công đức ấy càng tăng gấp bội nên có phẩm “Pháp Sư Công Đức”. Người Pháp sư trì kinh chắc chắn sẽ thành Phật, thì người chê Pháp sư tội ấy vô biên, dẫn chứng bản thân, nên có phẩm “Thường Bất Khinh Bồ tát”. Đức Như lai khuyên nói việc phước đều nhiều, lại e rằng chúng sanh nghi cho là Phật nói suông, nên muốn hiển bày lời nói của Phật là không dối gạt, đâu thể nào lừa dối chúng sanh; từ thần lực chỉ bày nên có phẩm “Như lai Thần Lực”. Bồ tát Dược Vương khi xưa bỏ mạng để trì kinh, nói duyên trước mà khuyên chúng hội này cần nên cố gắng, vì thế có phẩm “Dược Vương Bổn Sự”. Lưu hành chánh pháp cõi đây kia đều là chung. Dược Vương vì ở cõi này ra sức giảng nói, nên có Bồ tát Diệu Âm từ phương khác đến cũng phát tâm truyền trao, vì thế có phẩm “Diệu Âm Bồ-tát”. Chúng sanh trì kinh hay gặp nhiều chướng nạn, phải nhờ chỉ khắp các pháp môn, nên với tâm đại bi cứu hộ mà có phẩm “Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn”. Tuy có niệm Quán Âm nhờ người cứu nạn mà chưa trì chú đón nhận thêm oai lực pháp, sự uy linh mới rộng lớn, trì kinh mới dễ được cứu giúp, nên có phẩm Đà-la-ni. Năng lực trì kinh không phân biệt oán thân, phước đức trải qua thường giúp sanh nơi tốt đẹp; vì muốn nói xưa nay không khác để khuyên mở mang truyền bá ý chỉ diệu pháp, nên có phẩm “Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự”. Tuy cõi này, cõi khác đều có mở rộng kinh này, mà chưa có khuyến khích ở hai cõi này , nên có phẩm “Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát”. Khen ngợi, khuyến khích đã khắp, sự hóa duyên đã xong, lại ân cần trao cho, lưu thông ở đời lâu xa, nên có phẩm “Chúc Lụy”. Đây là y theo Chánh Pháp Hoa và luận, tức phẩm Chúc Lụy ở cuối kinh, mà thứ lớp giải thích. Nếu xếp ở sau phẩm Như lai Thần Lực, e nhân tình hiểu lệch lạc, chưa khế hợp con đường chung.  HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 1 PHẦN CUỐI Thứ sáu là giải thích Bổn văn kinh: Xưa pháp sư Tuân có nói: Hai mươi tám phẩm chia ra làm hai: Một phẩm đầu nói lý do khởi hóa của Như lai, do đó mà có phẩm Tựa. Hai mươi bảy phẩm còn lại là nói về chánh hóa. Phẩm Tựa trình bày lý do đầu tiên của bộ kinh. Phần chánh hóa nói từ đầu đến cuối bộ kinh đều đem lại lợi ích. Sư Cát Tạng nói: Một phẩm đầu gọi là phần Tựa. Mười lăm phẩm rưỡi kế là Chánh tông, tức là đến cuối phần kệ bắt đầu so sánh lượng của phẩm Phân biệt Công Đức nói về thừa quyền, thừa thật, thân quyền, thân thật là chánh tông. Ngài Thu Tử ba lần thỉnh là nêu thừa quyền thừa, thật. Ngài Di-lặc ba lần thỉnh là nói Thân quyền, thật. Bài tụng văn xuôi thứ hai là nghe thọ lượng, mà tín hiểu thì công đức không có hạn lượng trở xuống mười một phẩm rưỡi gọi là phần Lưu thông. Pháp sư Tịnh nói: Phẩm đầu gọi là phần Tựa, mười chín phẩm kế là chánh tông. Từ phẩm Thần lực xuống có tám phẩm gọi là phần lưu thông. Tuy có phân chia ở đây mà không giải thích lý do. Nay có hai phần giải thích. Phẩm đầu là phẩm Tựa. Tám phẩm kế là chánh tông, chánh nói Nhất thừa thọ ký cho ba căn. Phần căn bản đều được lợi ích, giáo hóa người Nhị thừa kia ra khỏi dòng nước đục. Kinh nói: Nay kinh này chỉ nói Nhất thừa, mà Bồ-tát trước chê trách Thanh văn là ưa thích pháp Tiểu thừa, nhưng Phật thật sự dùng Đại thừa để giáo hóa họ. Lại trong phẩm Đề-bà-đạt-đa, Bồ-tát Trí Tích bạch với Phật Đa Bảo hãy trở về nước mình, nên biết việc xong rồi mới thỉnh trở về, là nêu rõ biết Phật nói Nhất thừa, chính là tông chỉ bộ kinh. Nếu chánh tông không là thuyết Nhất thừa, chỉ đạt chỗ lợi ích đều là chánh tông thì Trong phẩm Phổ Hiền có vô lượng Bồ-tát đắc Đà-la-ni, số Bồ-tát nhiều như cát bụi của ba ngàn thế giới thực hành đạo Phổ Hiền cũng không nói Nhất thừa mà được lợi ích, đều ứng với chánh tông. Nếu vậy thì Tuân Sư xưa chính là chỉ nam. Lại sự chưa rõ, vì sao Trí Tích giữa dừng lại thỉnh trở về! Hoặc giải thích thứ hai là tám phẩm rưỡi tức gồm nửa phẩm Pháp sư là chánh tông. Vì đầu phẩm Pháp sư, thọ hiện tòa khác, phàm Thánh thấy nghe đều tùy hỷ, nên được thọ ký Bồ-đề, phẩm Trì tuy thọ hiện tòa thọ ký cho Tỳ-kheo ni, mà nhờ thỉnh trì kinh nên Phật thuận tiện thọ ký vẫn nói các việc trước rồi thọ ký chung lại không nói về Nhất thừa, nên chẳng phải chánh tông. Mười chín phẩm còn lại đều gọi là lưu thông. Khen ngợi, chứng minh, thọ nhận, truyền trao khiến hành trì. Hoặc phần tựa đầu như trước đã nói không có khác nhau. Từ phẩm Phương tiện trở xuống phẩm Trì gồm có mười hai phẩm, nói về cảnh Nhất thừa. Phẩm An vui Hạnh, và phẩm Tùng địa Dũng Xuất hai phẩm này, nói về hạnh Nhất thừa, phẩm Như lai thọ lượng cho đến phẩm Thường Bất Khinh, gồm năm phẩm này nói về quả Nhất thừa. Nói cảnh là để biết quyền thật của thừa, khuyên nên bỏ quyền mà giữ thật. Thanh văn ngộ lý này nên được thọ ký nói hạnh để biết nhân đúng, sai khuyên nên học đúng bỏ sai. Người Học do đây, từ đất vọt lên nói quả khiến cho biết thân chân hóa. Chứng được quả nhân, khuyên biết rõ hóa thân mà cầu chứng chân thân, dần dần được hai vị thắng đức nhân quả. Bồ-tát biết điều này mà tu hành chứng đạo, hiển bày đủ thắng đức do nhân quả mà thành. Từ phẩm Thần lực trở xuống đều gọi là phần Lưu thông. Đây chỉ rõ tướng phó chúc, lãnh thọ hành trì, do đó mà đến phần dưới sẽ giải thích. Luận chép: Phẩm Tựa có bảy thứ thành tựu. Thành tựu nghóa là đầy đủ viên mãn. Ý muốn nói là trong phẩm Tựa có đầy đủ bảy nghóa, bảy nghóa viên mãn này các kinh khác đều không có. Phần Tựa thành tựu: Ban đầu nói lý do chung đầy đủ, như nói núi thành viên mãn nói lên hơn những vật khác nên gọi riêng là phần Tựa. Thật ra cả bảy phần đều là phần tựa. Chúng thành tựu: Tức câu “cùng chúng đại Tỳ-kheo” trở xuống: Một là số, hai là hạnh, ba là nhiếp công đức, bốn là uy nghi, như pháp mà trụ trong sự thù thắng viên mãn hơn các kinh khác. Như lai khi muốn nói pháp tức gọi là đến thành tựu”, tức câu: Vì các Bồ-tát mà nói kinh Đại thừa… Trước là nói kinh Vô Lượng Nghóa, có đủ mười bảy tên thắng diệu hơn các kinh khác. Sở y nói pháp; tức thuận theo uy nghi trụ thành tựu. Tức câu: “Phật nói kinh này rồi, liền ngồi kiết già…, là nương vào định, khí, chúng sanh thế gian, loại pháp này các kinh khác không có. Nương vào nói nhân thành tựu: “Bấy giờ Phật phát ra ánh sáng từ giữa hai đầu chân mày…, thấy các việc năng chiêu, chiếu cảnh, sở chiếu đều sanh tâm ít có, các kinh khác đều không có việc này. Chúng sanh hiện tiền muốn nghe pháp thành tựu: “Bấy giờ Bồ- tát Di-lặc khởi niệm nghó rằng:”… Tuy hỏi một người mà nhiều người muốn nghe đều sanh tâm ít có, các kinh khác đều không có. Văn-thù-sư-lợi đáp thành tựu. Dùng trí túc mạng hiện thấy được tướng nhân quả ở quá khứ, thành tựu mười việc như hiện ra trước mặt, nên năng đáp, các kinh khác không có. Hai phần đầu là phần tựa chung. Năm phần sau là tựa riêng, phần tựa chung có năm: Hiển bày chung nghóa đã nghe. Thời nói giáo. Chủ nói giáo. Nơi hóa độ. Các căn cơ. Đây xếp vào chúng thành tựu, tức phần tựa chung chỉ có bốn. “Tôi nghe như vầy là phần đầu”. Vì khiến cho sanh tin nên nói việc này “đã nghe”. Luận vốn chỉ nói về hai thành tựu của tựa. Một là thành, hai là núi. Đây là hai nơi thù thắng, riêng biệt so với kinh khác. Cho nên riêng nói, còn thời nghe và Phật không khác các kinh, tuy kinh đây có nói đủ mà không nêu riêng giải thích nghóa “thù thắng” “Tôi nghe như vầy…” dùng ba môn để phân biệt. Một là lý do nói, hai là nguyên nhân lập, ba là chánh giải thích văn. Nói lý do là. Như phần lớn các kinh đều nói về bổn duyên. Lúc Phật sắc nhập Niết-bàn, bảo ai còn nghi ngờ thì hỏi. Các ngài Ưu-ba-ly, A-nậu-lâu-đà nói A-nan thỉnh Phật bốn việc. Sau khi Phật diệt độ rồi, các Tỳ-kheo nương ai làm thầy. Nương vào đâu mà trụ. Tỳ-kheo có tánh xấu trị phạt thế nào. Tất cả các bộ kinh ở đầu nên đặt lời gì. Phật dạy: Sau khi ta diệt độ các thầy nên lấy Ba-la-đề-mộc-xoa (giới) làm bậc Đại sư, nương vào giới mà hành trì, nương vào bốn niệm xứ mà trụ để an tâm. Tỳ-kheo tánh ác thì dùng phạm đàn mà trị. Phạm đàn là im lặng không dùng đánh mắng, chỉ im lặng mà trục xuất. Tất cả kinh ở đầu nên đặt “Tôi nghe như vầy”. Về sau ngài A-nan kiết tập đều y theo lời Phật dạy. Rộng trình bày các lý do đều như kinh nói. Lý do lập: Là khiến cho chúng sanh sanh tâm tín thuận. Luận Trí Độ chép: Tôi nghe như vầy là để sanh tín . Tín nhận vâng làm là sanh trí. Tín là năng nhập, trí là năng độ. Tín là nền tảng đầu tiên để nhập pháp. Trí là huyền thuật rốt ráo. Tín là thuận lý của lời nói. Thuận thì đạo thầy trò thành tựu. Do tín nên nghe pháp mà thuận theo. Do thuận nên việc nói nghe cả thầy trò cùng kiến lập. Tín này giải thích lược có mười nghóa: Nhân đầu tiên hướng đến cực quả. Theo kinh Nhân vương…, thì Tín là nhân đầu tiên đến Thánh vị, nên trong bốn mươi tâm lấy Tín làm đầu. Đầu tiên phát khởi tâm đại Bồ-đề, phải đầy đủ mười đức mà sanh khởi ba diệu quán. Tâm đại Bồ-đề lấy gốc lành làm tự thể, lấy bạn lành làm duyên, lấy sự không lui sụt để sách tấn. Gốc lành là tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ. Cho nên luận Nhiếp Đại Thừa chép: Thanh tịnh sắc tăng thượng tâm vững chắc thắng tiến. Đó chính là giai đoạn sơ tu trong vô số ba đại kiếp của Bồ-tát. Nền tảng bước dần vào đế lý: Các kinh luận đều nói, sắp nhập vào Thánh vị cần có tín căn, tín lực. Có tín căn thì muôn điều thiện do đó mà sanh ra. Có tín lực nên bốn ma không thể làm cho khuất phục. Nhờ đó, kinh mới nói đã có thể sanh tín. Thông chứng tịnh diệu chân: Có thể vượt qua đường ác, lìa nhân thấp kém, nên nhập Thánh vị rồi thì chứng bốn niềm tin bất hoại tín. Tin Tam bảo nên có thể vượt qua đường ác. Do tin giới nên lìa nhân thấp kém. Nên luận cũng nói có tín hiện quán. Nương vào Hỷ để đạt đức: Luận Tỳ-bà-sa nói: Tín là đưa tay ăn pháp vị. Người học pháp Phật như rồng voi lớn. Dùng tín làm tay, dùng xả làm răng. Dùng niệm làm cổ, dùng tuệ làm đầu, ở hai vai gom góp pháp thiện . Loài voi ăn uống đều dùng mũi làm tay. Cho nên người học Phật pháp đầu tiên phải sanh lòng tin. Là sự gá thai của bảy Thánh tài: Pháp tài là đầu tiên nên người học là người đi buôn lớn vốn y cứ pháp bảo, giáo để lời được Thánh tài. Cho nên đầu tiên phải sanh tín. Trong LuậnHiển Dương chép: Bảy thánh tài là: Tín, giới, văn, xả, tuệ, tàm quý. Tín là pháp đầu tiên vậy. Thuần làm nhân gốc thiện, là gốc pháp lành. Luận Du-già chép: Dục là căn bản, do tác ý sanh, xúc nhóm họp khởi, chỗ thọ dẫn nhiếp, làm định tăng thượng, tuệ trên hết, giải thoát bền chắc và là biên cuối, cần phải ra khỏi. Dục là cội gốc, khởi lên hy vọng, do tác ý sanh nên thường cảnh giác, xúc nhóm họp khởi nên điều hòa tâm, tâm sở đối với thắng duyên, do thọ dẫn nhiếp, nên chú tâm lãnh thọ, định là tăng trưởng nên tâm nhỏ nhiệm tónh lặng, là tuệ trên hết nên chọn thiện ác, làm giải thoát vững chắc nên dứt mọi trói buộc, vá là biên cuối phải ra khỏi, giác đạo viên mãn. Tín là chỗ nương của dục, nên đầu tiên phải khởi tín. Như tay khỏe mở cửa căn cơ; như tay tiếp giáo. Luận Câu-xá chép: “Cứu chúng sanh ra khỏi… liền sanh tử.” Lại ở sau trình bày chánh tông là tay của Phật giáo. Lời tựa khiến cho sanh tín làm tay của chúng sanh. Hai tay tiếp nhau cứu vớt chúng sanh lên khỏi bùn nhơ. Lại trong luận Trí Độ chép: Như người có tay đến núi báu tùy ý mà lấy. Nếu người không có tay thì không lấy được. Người có tín tâm vào núi báu Phật đắc cđường ác quả. Nếu không có tín tâm, tuy hiểu văn nghóa, mà chẳng được gì. Là hạt châu trong sáng ở dưới nước tâm khiến cho tâm thanh tịnh. Luận Thành Duy Thức chép: Tin như viên ngọc dưới nước có thể khiến làm trong nước đục. Có thể trị tâm tánh vẫn đục bất tín. Tư lương để kiến lập tên đạo: Tuyên Ni có nói ba điều: Binh, thực, tín thì tín không thể bỏ. Từ xưa đến nay đều có người chết không tin không được. Như xe lớn không có thanh ngang, xe nhỏ không có thắng. Người mà vô tín bất tri thì cũng vậy. Giữ sự trung thành thông minh. Kinh Xuân Thu nói: “Nếu có đức tin rõ ràng cỏ mọc chỗ ao rừng rậm rạp, rau ở nơi sum suê ẩn tảo, thì có thể dâng cúng quỷ thần, cảm thấy xấu hổ với công vương. Huống chi là quân tử kết lòng tín hiếu giữa hai nước!” Mười nghóa này, tám nghóa đầu nương vào chân hai nghóa sau nương vào tục. Cho nên trong kinh phải để chữ như thị ở đầu. Nghóa là kinh này tự thân mình nghe Phật nói không hề thêm bớt. Là để chúng sanh khởi tâm tin ưa thuận theo tu học. Chánh giải thích câu này, theo luận Phật Địa chép: Nói như thị là nương vào bốn nghóa mà chuyển. Nương vào thí dụ, như có thuyết nói giàu sang như thế, như Tỳ Sa-môn, pháp đã truyền, nghe như thế, như lời Phật nói, nhất định không khác. Nhất định là nhân lợi lạc phương tiện. Hoặc nói như ta xưa từng nghe câu văn như thế. Nương vào giáo hối: Nương vào giáo mà dạy bảo. Như có thuyết nói: Các thầy nên đọc tụng kinh luận như thế. Chữ như thị trong đây là nói: Xà là lời giáo hối của Phật. Gần là giáo hối của người truyền pháp. Hoặc bảo với chúng bấy giờ: Như thế hãy lắng nghe… điều tôi trước đã nghe. Nương vào hỏi đáp: Nghóa là nếu có người hỏi ông: Xưa nhất định ông nghe như thế sao? Đáp rằng: Đúng vậy tôi nghe như thế. Nương vào lời hứa khả: Như có thuyết nói rằng: Ta sẽ vì ông mà suy nghó như thế, mà làm như thế, mà nói như thế. Nghóa là lúc kiết tập, các Bồ-tát đều thỉnh rằng: Như những gì ông nghe thì nên nói như thế , truyền pháp Bồ tát nên hứa khả rằng: Nên nói như thế, như tôi đã nghe. Hoặc tin có thể nói việc đúng như thế. Nghóa là pháp này xưa tôi nghe Phật nói như thế, giống điều tôi sẽ nói nhất định là không khác. Do bốn nghóa này nên các bộ kinh đều đặt bốn chữ “Tôi nghe như vầy” ở đầu. Ba Tạng Chân -đế nói: Luật có nói rõ . Ngài A-nan khi thăng tòa kiết tập pháp tạng, thân có đầy đủ tướng tốt như Chư Phật khi bước xuống tòa thì thân hình trở lại như cũ. Tìm trong “Tập tạng truyện” cũng nói như thế. Chúng sanh có ba điều nghi: Nghi Phật có lòng đại bi từ cõi Niết-bàn trở lại đây giảng nói diệu pháp. Nghi có Phật từ phương khác đến cõi này nói pháp. Nghi ngài A-nan chuyển thân thành Phật, vì đại chúng nói pháp. Nay hiển nói pháp như thế, là xưa kia tôi hầu Phật chính tôi đã từng nghe, chẳng phải Phật lại khởi từ phương khác đến, chuyển thân thành Phật. Vì để trừ các nghi này nên ở đầu mỗi bộ kinh đều nói bốn chữ: “Tôi nghe như vầy”, để làm duyên kiết tập như trong “Tạng chương thuyết chú Pháp Hoa nói”: Như thị là điềm lành cảm ứng . Vì thuận theo căn cơ mà đặt tên. Thị là không đâu mà không đặt tên gọi. Chúng sanh đều lấy làm cảm. Như lai lấy thuận cơ làm ứng. Người truyền kinh là muốn hiển bày tên của giáo pháp xuất từ cảm ứng. Lập ngôn như thế, Chú Vô Lượng Nghóa chép: Đến cõi người nói pháp chỉ là nêu rõ cái Như, chỉ Như làm thị nên nói là như thế. Ngài Dao công nói: Vì lìa năm sự chê bai nên gọi là như thị. “Như thế” Kinh này lìa chê bai chấp “hữu” tăng ích. “Như thế” Kinh này lìa chê bai chấp không tổn giảm. nhau. luận. “Như thế” Kinh này lìa chê bai chấp cũng có cũng không trái “Như thế” Kinh này lìa chê bai chấp phi hữu phi vô, ngu si. “Như thế” Kinh này lìa chê bai chấp phi phi hữu phi phi vô, hý Ngài Quang Trạch nói: Như thị: Là sắp truyền điều được nghe nên ở đầu một bộ kinh. Một bộ kinh như thế, chính tôi được nghe từ Phật. Tức ý nói. Tôi nghe, đó là nghóa thông suốt . Lương Vũ Đế nói: Như thị nghóa là như thế, như thế, đúng lời Phật nói nên nói như thế. Ba Tạng Trường Nhó nói: Như thị đó có ba nghóa: Y theo Phật: Ba đời Chư Phật cùng nói không khác gọi là Như. Vì đồng nói nên gọi là Thị. Y theo Pháp: Thật tướng các pháp xưa nay không khác, nên gọi là Như. Vì như mà nói nên gọi là Thị. Y theo Tăng: Vì ngài A-nan so với bổn giáo của Phật, sự truyền đạt không khác nên gọi là Như, xa lìa mãi mãi lầm lỗi nên gọi là Thị. Do đây mà đồng nói, xứng lý không sai lầm, sự truyền không khác, nên bộ kinh này đáng tin. Trên hợp lại thành mười lăm cách giải thích: Nói Tôi nghe truyền pháp Bồ tát, tự nêu ra bản thân này nói pháp như thế là chính được nghe từ Phật. Cho nên nói là Tôi nghe. Chẳng phải Tôi là nhất định thuộc về một người. Ngã nghóa là vay mượn các uẩn của thế tục, nhưng ngã có ba: Vọng chấp ngã. Nghóa là các ngoại đạo càn chấp vào ngã. Giả lập ngã: Là lạc, tịnh ngã, thường của Đại Niết-bàn. Trừ người Nhị thừa điên đảo miễn cưỡng lập ra. Ngã lưu hành ở thế gian: Nghóa là thế gian cùng truyền ngã từ trời trao, Tế tự trao v. v… Nay người truyền pháp thuận theo thế gian mà chỉ tự xưng ngã, không đồng như hai ngã trước. Tức là không có đại ngã của ngã. Hỏi: Chư Phật nói pháp vốn trừ ngã chấp. Vì sao không gọi là vô ngã mà nói là ngã văn (Tôi nghe). Đáp: Có bốn nghóa: Để nói dễ dàng: Nếu nói vô ngã thì chung cả giới uẩn xứ, biết nói ai đây. Thuận theo thế gian. Trừ sợ hãi vô ngã: Nói vô ngã thì lấy ai tu học. Có tự tha nhiễm tịnh, nhân quả, sự nghiệp. Cho nên gọi là ngã. Hỏi: nếu thế Tại sao không xưng là A-nan mà xưng là ngã? Đáp: Có ba nghóa: Nói lên không trái thế tục, tông dù hiển chân mà lời không trái thế tục. Lý tuy hiển diệu mà lời không trái với thô. Đây ý muốn hiển bày Chân-đế không lìa thế tục. Ngã: Là nghóa chủ tể tự tại. Trong Tập Pháp Truyện chép: Có ba A-nan A-nan-đà Hán dịch là Khánh Hỷ, trì tạng Thanh văn. A-nan-bạt-đà Hán dịch là Hỷ Hiền, trì tạng Độc giác. A-nan-già-la Hán dịch là Hỷ Hải, trì tạng Bồ-tát . Chỉ là một người, tùy theo đức mà tên cókhác. Do đó mà A-nan còn gọi là Đa Văn, Đa Trì, tức nghe tích tập. Tam tuệ đầy đủ, văn nghóa cùng trì. Đối với giáo lý ba Tạng tổng trì tự tại. Nếu xưng tên gọi tuy thuận với chánh lý mà không được tự tại đối với các pháp. Cho nên, nói ngã không gọi tên A-nan. Ngã là nghóa đích thân. Như thế gian cùng nói tôi thấy, tôi nghe. Đây sẽ là đích thân chứng minh. Nếu nói A-nan nghe, hoặc chẳng phải tự thân nghe Phật mà do người khác truyền thọ lại. Nay nói lên tự thân nghe Đức Thế tôn giảng nói, không phải truyền nghe. Vì muốn phá lưới nghi cho người nên không xưng tên, mà chỉ gọi tôi nghe. Nghe là từ nhó căn phát ra thức nghe rồi thọ lời nói. Nay phế bỏ tai nghe riêng mà theo cái tôi chung, nên gọi là Tôi nghe. Tuy nương vào Đại thừa, căn, thức tâm sở đối cảnh hòa hợp nên gọi là nghe, nhưng trong năm nghóa của căn thù thắng ở thức, nên căn gọi là nghe. Nghóa của năm căn đó là: Ý, phát, thuộc, trợ, như căn. Như căn là: Căn có sáng tối, thức cũng có sáng tối. Nếu chỉ nghe âm thanh thì chỉ ở tai. Đã duyên vào danh nghóa thì liền ở ý. Cho nên luận Du-già chép: Nghe là tỷ lượng, nhó căn gọi là nghe. Đích thân nghe âm thanh, cùng ý làm cửa thì ý mới nghe. Lấy cả hai làm cửa huân tập lại với nhau. Do nghe mà thành nên gọi chung là nghe. Bỏ tai nghe riêng, ý gọi chung là tôi nghe. Hỏi: Khánh Hỷ lúc ấy cũng thấy, hay biết lời Phật nói. Vì sao chỉ nói tôi nghe mà không nói là tôi thấy. Đáp: Có ba nghóa: Muốn chứng lý sâu, trước phải nghe pháp. Danh… là giải thích nghóa, chẳng phải sắc… Thế giới này dùng âm thanh để làm Phật sự. Âm thanh làm sở y nên gọi là hữu. Ít chứng Bồ-đề nên phải nghe để huân tập. Do nghe rồi huân tập mà thành tựu xuất thế. Do đây, kinh này đầu tiên không nói: Tôi thấy, hay, biết mà chỉ nói là tôi nghe. Theo sự thật thì lúc ấy cũng thấy Phật nói. Các cõi nước khác dùng ánh sáng làm Phật sự, nên có thể nói thấy… Trong nghóa này nên phát sanh phân biệt. Hỏi: Vì Phật nói pháp mà nói: Tôi có thể nghe hay vì Phật không nói cũng nói tôi nghe? Đáp: Có hai giải thích. Như chúng cung rồng nói: Phật chỉ có ba pháp: Nghóa là Đại định, Trí và Bi. Xa lìa các hý luận không hề nói pháp, mà do bổn nguyện duyên lực từ bi của Phật. Nên giải thích: Văn nghóa tướng sanh trong thức phân biệt của chúng sanh, tướng văn nghóa này tuy chính nó dựa vào căn lành của bản thân khởi, mà duyên mạnh gọi là Phật nói. Do năng lực nhó căn và tự ý chuyển biến nên gọi là tôi nghe để làm thể tánh. Cho nên trong Vô Tánh nói: Tùy trong thức của người nghe trong tám thời, nói thẳng hay không thẳng đều nhóm họp hiển hiện, vì là thể tánh. Kia tự bắt bẻ rằng: Nếu như vậy làm sao Bồ-tát nói được? Luận kia ban đầu nói trước Bạt-già-phạm, đã có thể khéo nhập vào Bồ-tát Đại thừa . Vì hiển bày thể đại của Đại thừa nên nói phẩm Nhiếp Đại thừa. Vì vấn nạn này mà luận lại tự đáp: Vì Đại thừa kia tăng thượng sanh nên nói như vậy. Ví như cõi trời thì tăng thượng lực, khiến cho ở trong mộng có được luận chú. Kinh cũng nói: Từ đầu tiên thành đạo cho đến lúc Niết-bàn, trong khoảng thời gian đó không nói một chữ, như mẹ cắn ngón tay, con biết là gọi. Thân phát ra ánh sáng nói pháp. Thân Phật đầy đủ cả uẩn xứ giới v. v… Do lìa phân biệt mà không có hý luận đâu thể không nói pháp gọi là không hý luận. Nghóa là người nghe có đầy đủ gốc lành bổn nguyện duyên lực. Văn nghóa cùng sanh ở trong thức của Như lai. Văn nghóa này được gốc lành lợi tha của Phật khởi ra, nên gọi là Phật nói. Người nghe dựa vào thức, tuy không thân đắc. Nhưng tợ như tướng phần kia mà hiển hiện, nên nói là Tôi nghe. Theo ngài Thế Thân nói: Các thức nối tiếp mà có khác nhau, để cho các nối tiếp khác thì thức khác nhau sanh ra. Kia đây làm tăng thượng duyên lẫn nhau. Do đây kinh nói: Pháp ta nói như nắm lá trong tay pháp chưa nói thì nhiều như lá trong rừng. Như ngọc Mạt-ni, trống trời vô tư mà tạo tác. Trong đây hai giải thích này tùy theo hai văn kia mà giải thích lẫn nhau. Nêu biết nói: “Tôi nghe như vầy” là ý tránh việc tăng giảm lỗi lầm khác phần . Nghóa là pháp như thế. Tôi nghe từ Phật chẳng phải từ người khác lần lượt nói bày. Là khả năng có thể của người nghe, là có những điều nghe đều lìa các lỗi lầm thêm, bớt khác nhau. Chẳng phải như kẻ phu không có khả năng nghe, những điều nghe không thể thoát khỏi nghóa có thêm, bớt, khác nhau. Lúc kiết tập pháp truyền giáo của Phật tức là nương theo giáo pháp của Như lai, nên phần nhiều nói: Như thế vì muốn cho chúng sanh cung kính tin nhận nên nói pháp như vậy, tôi nghe từ Phật nói. Văn nghóa quyết định không có sự tăng bớt. Cho nên người nghe ứng với người chính thức đã nghe như lý mà suy nghó, siêng năng tu học. Chánh kinh: Một thời. Huyền tán: Là thời phần nói giáo thứ hai. Ở đây có hai nghóa: Đấng Pháp Vương từ khi bắt đầu khởi hóa các căn cơ đều nhóm họp, việc nghe nói xong gọi chung là nhất thời. Người nói, người nghe cùng hội ngộ thời phần không riêng biệt, nên nói nhất thời. Vì thời của cơ cảm, ứng hóa không có phân biệt. Đầu tiên y theo theo sát-na nối tiếp không có giai đoạn nói và nghe cho đến rốt ráo tạm gọi là nhất thời. Đây có hai giải thích: Thời đạo lý. Hai bên nói nghe chỉ lúc hiện tại. Năm uẩn các hành sanh diệt trong từng sát-na . Tức hiện pháp này có nghóa đáp lại trước dẫn đến sau, tức sở đáp tạm gọi là quá khứ, vì được dẫn nên tạm gọi là vị lai, đối với hai loại này nói là hiện tại. Nghóa là ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại này đều giả lập trong pháp hiện tại. Tức các pháp năm ấm của người nói, nghe, sát-na sanh diệt trước sau đều nối tiếp, kế đến rốt ráo giả lập trong ba đời, Gọi chung là nhất thời, chẳng phải là nhất thời sanh diệt. Thời Duy thức: Hai bên nói nghe dựa trên thức tâm thành tướng trạng ba thời mà khởi. Thật là hiện tại tùy tâm phần hạng mà biến thành các việc dài ngắn, nối tiếp đến cuối hoàn tất, gọi chung là nhất thời. Như trong mộng thấy cho là có nhiều đời, thức dậy biết chỉ tâm biến hiện không phải cảnh thật. Người nghe tâm biến chuyển ba đời cũng vậy, chỉ có ý duyên là bất tương ưng hành uẩn, thuộc pháp giới, pháp xứ. Đây nói nhất thời tức là: Một là không định y cứ sát-na. Hai là không định y cứ nối tiếp. Ba thì không định y cứ là bốn thời, sáu thời, tám thời, mười hai thời. Bốn thì không y cứ năm tháng thời gian sau khi Đức Phật thành đạo. Đó gọi là nhất thời. Chỉ là người nghe căn cơ thuần thục chiêu cảm mà Phật nói cho nghe. Người nói vì lòng từ bi ứng với căn cơ mà nói. Việc nói nghe xong thì gọi là nhất thời. Không y cứ sát-na: Người nghe pháp căn khí hoặc chậm lụt; thời gian nói tuy ngắn, mà thế gian nghe để hiểu lại dài. Hoặc người nói lâu mà người nghe cũng lâu. Trong một sát-na cũng chưa thể hiểu nên chẳng dựa theo sát-na. Không có y cứ nối tiếp là do người năng thuyết được Đà-la-ni, nói một chữ thì tất cả nghóa đều rõ ràng. Hoặc người hay nghe đắc ý, nhó thanh tịnh khi nghe một chữ đều hiểu tất cả. Cho nên chẳng phải nối tiếp. Do ở trong một hội, người nghe căn cơ có lợi có độn, thần lực của Như lai hoặc kéo dài niệm ngắn thành kiếp dài lâu. Hoặc rút nhiều kiếp thành thời gian ngắn, cũng không nhất định, chỉ là căn cứ chung nói và nghe đến rốt ráo gọi là nhất thời. Không y cứ thuộc bốn thời, sáu thời, tám thời, mười hai thời: Một ngày một tháng chiếu khắp cả thiên hạ. Dài ngắn, nóng lạnh, gần xa, ngày đêm, các phương đều không nhất định. Thường thì hai thiên hạ cùng khởi dụng. Lại trừ cõi này trở xuống, thì trên các cõi trời, không có bốn thời và tám thời. Nếu Kinh căn cứ theo cõi trên, các phương lưu thông, như nói bốn thời v.v… thì sự lưu hành không khắp. Không y cứ thời gian năm tháng sau khi Phật thành đạo. Phàm Thánh trong ba thừa đều thấy báo thân hóa thân của Phật. Năm tháng dài ngắn sự thành đạo đến nay sự thành đạo đến nay gần xa đều không đồng. Kinh định ra ba thừa phàm Thánh cùng nghe, nên không phân biệt ngày tháng bao nhiêu sau khi Phật thành đạo. Nhưng trong kinh có nói thời gian nối tiếp. Kinh này nói: Phật nói Kinh Pháp Hoa suốt sáu mươi tiểu kiếp, tức sự nối tiếp thế gian. Có thuyết nói bốn thời: Tức Kinh Niết-bàn Phật nói ngày mười lăm tháng hai. Có thuyết nói sáu thời, tám thời, mười hai thời, tức trong kinh Niết-bàn nói vào sáng sớm lúc Phật xỉa răng. Kinh Kim Cương Bát-nhã nói: Ăn cơm xong thâu y bát, rửa chân, trải tòa ngồi, là lúc đúng ngọ. Kinh Thượng Sanh chép: Đầu hôm thì toàn thân phát ra ánh sáng. Kinh Di Giáo nói: Giữa đêm thì tịch nhiên không tiếng động. Có thuyết nói về năm tháng thời gian sau khi Phật thành đạo. Kinh Thập Địa chép: Trong tuần thứ hai Phật ở tại cung Thiên Vương Hóa Tự Tại, trong điện Ma-ni Bảo Tạng nói kinh Hoa Nghiêm. Lại kinh Pháp Hoa chép: Tuần thứ ba, sau khi suy nghó rồi, Phật đến thành Ba la nại xoay bánh xe Tứ đế. Kinh Vô Lượng Nghóa chép: Ta thành đạo đã hơn bốn mươi năm, tuy là có nói mà tùy theo địa phương khu vực hóa độ, chúng sanh thấy nghe kiết tập. Nói như thế, vẫn chưa phải thời nói pháp nêu chung ban đầu, nên gọi chung là một thời. Hỏi: Trong xứ có tịnh uế, tùy theo căn cơ quyết định xứ nói, trong thế gian có phàm Thánh khác nhau. Vì sao không nói riêng? Đáp: Nói xứ nêu tịnh uế. Tịnh uế có thể nhất định biết. Thuyết thời có dài ngắn, Thánh phàm không thể y cứ. Trong một hội căn cơ thích nghi có lợi, độn. Thời ngắn thời dài làm sao mà đánh giá, cho nên xứ có thể nói nhất định mà thời chỉ gọi chung là nhất thời. Kinh Phật khen rằng: Nói về giáo chủ. Tiếng Phạm là Phật-đà, Hán dịch lược là Phật, là người đứng đầu trong những người có tuệ, Đời Đường dịch là Giác. Giác có ba nghóa: Tự Giác, Vượt hơn phàm phu, phàm phu không thể tự Giác. Giác tha: Vượt Hơn Nhị thừa, vì kia không thể giác ngộ cho người. Giác hạnh viên mãn: Vượt hơn Bồ-tát, Bồ-tát tuy tu tự giác, giác tha mà thực hành chưa viên mãn. Luận Phật Địa chép: Đầy đủ Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí. Có thể giác ngộ và khai ngộ cho chúng hữu tình. Như tỉnh giấc mộng, như hoa sen nở, nên gọi là Phật. Nhất thiết trí: Trí có thể khai ngộ, như trí biết đang mộng. Quán ở nơi không trí, lý trí, chân trí, vô phân biệt trí, như là sở hữu. Nói theo tướng chung là trí đắc do dứt phiền não chướng Nhất thiết chủng trí: Giác hữu tình trí trừ hết, như hoa sen nở. Quán ở nơi hữu trí, sự trí, tục trí, hậu sở đắc trí, tận sở hữu. Nói theo tướng chung là trí đắc do dứt sở tri chướng. Xét theo các bản kinh tiếng Phạm đều gọi Bổn Sư là Bạc-già- phạm, Phật giáo an trí dùng lời này bao gồm các đức, chủ ý người phiên dịch còn muốn rút gọn lại, để Lược tùy theo các phương sanh thiện nên gọi là Phật. Hỏi: Trong ba thân này thì thuộc về thân nào? Đáp: Tùy theo nơi chốn, căn cơ, ứng theo Thanh văn mà làm hóa thân Phật. Theo văn, theo khí chất (khả năng), giáo hóa Bồ-tát mà hiện báo thân, vì chúng sanh cảm ở Phật có căn, loại khác nhau nên ứng hiện cả báo thân hóa thân. Vương Thành, Linh Thứu, kiếp hết, lửa đốt. Ngài Thu Tử nghe kinh, tức là hóa Phật. Cõi Phật an ổn, tuổi thọ lâu dài, ngài Văn-thù trong đó, tức là báo thân, Ứng hóa chẳng phải thân Phật chân thật, cũng chẳng phải nói pháp thân, thúc đẩy công trở về bổn tức là pháp thân vậy. Thế nên kinh xưng tán công đức Đại thừa, Phật trụ ở pháp giới tạng là thuyết pháp thân kinh Phật Địa trụ vào Bảo Hoa Vương thập bát viên mãn, là nói Báo thân thuyết Vương Thành trong kinh này, tức là nói Hóa thân Phật nói. Nói theo lý thật thì ra chung cả ba thân Phật, ứng vật hiện thân thì không nhất định là một. Trong kinh Lăng-già chép: Ba thân Phật nói pháp đều khác nhau, mà đều là nói pháp. Do đây Cù-sư-la trưởng giả nhìn ba thước mà phát tâm, năm trăm vị Bà-la-môn thấy thân tro mà khởi lòng tín. Bồ-tát có vô biên thân khắp cùng pháp giới mà có dư. Trụ vào phàm phu tiểu Thánh quán thân Phật trượng sáu mà không tận. Nay hiển bày chủ tôn giáo tùy theo quyết định sự thù thắng. Đầu tiên nêu giáo chủ là để cho sanh tâm vui mừng. Kinh: Phật trụ tại thành Vương xá trong núi Kỳ-xà-quật. Khen rằng: Nơi Phật hóa độ. Du hành giáo hóa, dừng ở gọi là trụ. Trụ là nơi an ổn, là du hóa dừng lại một nơi. Dừng ở núi, du hóa ở thành. Phật nương nơi đây để làm chỗ an ổn du hóa. Người xưa do đây mà giải thích nghóa trụ ở Thánh, Thiên, Phạm, Phật… Trụ tên tuy đồng mà ý nghóa hoàn toàn khác. Nói nghóa sâu kín, chốn ở u tịch, không hề có chút nghóa thuộc về tâm. Đây chỉ là phô trương suy diễn đối với chữ trụ kinh này tuy tên đồng mà lý khác, đây là điều không thể. Tiếng Phạm là: Củ-xa-yết-la Bổ-la thành, đời Đường dịch là Thượng Mao Thành , trung tâm nước Ma-kiệt-đà các vị vua xưa đều đóng đô ở đây. Nơi đây mọc nhiều cỏ mao cát tường rất đẹp, do đó mà đặt tên. Núi cao bao bọc bốn phía làm vách bên ngoài. Phía Tây thông với một con đường nhỏ, phía Bắc dựa vào cửa núi, phía Đông tây dài, phía Nam bắc lại hẹp. Chu vi hơn một trăm năm mươi dặm. Chu vi nội cung là bốn mươi dặm. Trên các con đường đến kinh thành có trồng cây Yết-ni-ca, nở đầy hoa lạ, thơm ngát, rực rỡ màu vàng, những tháng cuối xuân cả khu rừng đều ánh một màu vàng. Ngoài cửa Bắc cung thành có ngọn tháp là nơi mà Đề-bà-đạt-đa kết bạn thân với vua Vị Sanh Oán (A-xà-thế). Vua thả voi say hộ tài ra muốn hại Như lai. Như lai đưa tay chỉ năm ngón thẳng xuất hiện năm con sư tử. Voi say liền sợ hãi khuất phục. Phía Đông bắc có một ngọn tháp, là nơi ngài Xá-lợi-phất gặp Tỳ- kheo Mã Thắng, chứng được sơ quả. Cách đó không xa về hướng Bắc có cái bụng sâu rộng là nhà của Lợi-cúc-đa, Hán dịch là Thắng Mật. Người này đào hố để lửa, dâng thức ăn có thuốc độc để hại Phật. Nơi cung thành hướng Đông bắc đi khoảng mười bốn, mười lăm dặm đến núi Cô-tất-đà-la-củ-sất. Đời Đường dịch là Thứu phong cũng dịch là Thứu đài. Tiếp giáp phía Bắc núi, nhô lên đặc biệt, là nơi trú ngụ của chim Thứu lại giống như cái đài cao. Không gian tuyệt đẹp màu sắc rực rỡ khí hậu ấm áp. Sau khi Phật thành đạo trong năm mươi năm, thường trụ ở núi này để nói pháp mầu. Xưa dịch là núi Kỳ-xà-quật, cũng gọi là núi Linh thứu. Chim Thứu ở đây thường ăn xác chết, gọi núi Linh thứu là tạm lược. Vua Tần-bà-sa-la vì muốn nghe pháp nên sai người lát đá làm thềm từ chân núi, bề ngang đến đỉnh núi, rộng hơn mười thước, dài năm mươi dặm. Trên đường lên có hai ngọn tháp: Gọi là hạ thừa. Tức khi vua đến đây thẳng đường mà tiến. Gọi là thoái phàm: Là nơi người phàm không đồng đến. Trên đỉnh núi này hướng Đông tây thì dài, hướng Nam bắc thì hẹp. Đi về hướng Tây có ngôi Tinh xá bằng đất. Cao rộng lạ kỳ, cửa nằm hướng Đông. Khi Như lai tại thế thường nói pháp ở đây. Ngày nay khắc tượng nói pháp, hình lượng cũng bằng thân Như lai. Phía Đông Tinh xá có tảng đá dài, Phật đi kinh hành ở đây. Bên có tảng đá to cao một trượng bốn mươi lăm. Chu vi hơn ba mươi thước, đây là nơi Thiên Thọ xô đá từ xa làm chân Phật chảy máu. Dưới sườn núi phía Nam có ngôi tháp. Phật nói kinh Pháp Hoa ở đây. Đi hơn một dặm từ cửa Bắc sơn thành thì đến vườn Trúc Ca-lan-đà, phía Đông vườn có ngôi tháp. Vua A-xà-thế xây tháp xá-lợi cúng dường ở đây. Từ vườn Trúc lâm đi về hướng Tây nam khoảng năm, sáu dặm, ngay hướng Nam của núi trong cách vườn Trúc lâm có ngôi nhà lớn bằng đá là nơi ngài Đại Ca- diếp kiết tập pháp tạng. Phía Bắc vườn Trúc lâm khoảng hơn hai trăm bước thì đến ao Ca-lan-đà. Cách ao hai ba dặm theo hướng Tây bắc thì đến thành Cát-la-xà Kết-lợi-sất, Hán dịch là Vương xá. Bên ngoài thành đã đổ nát không còn dấu vết, bên trong thành nền đất vẫn còn. Mặt chu vi hai mươi dặm có cửa. Đầu tiên vua Tần-bà-ta-la đóng đô tại thành Thượng mao. Nhà cửa bằng phiên nứa nên nhiều lần bị hỏa hoạn. Một nhà bị thì xung quanh cũng lây nạn. Vì ở không yên nên dân chúng oán than. Vua nói: Vì ta không có đức nên dân tình gặp nạn, phải tu nhân gì để dân được an ổn? Các quan thưa: Đại vương dùng đức giáo hhóa dân chúng không nghiêm. Xin chế ra nghiêm pháp để trị kẻ phạm tội. Nếu có người phạm thì đem bỏ vào rừng lạnh rừng lạnh là nơi bỏ thây người chết. Tục gọi là nơi bất tường, tuyệt chẳng ai lui tới cũng như thây chết bị bỏ. Nếu đem họ tới đó họ sẽ xấu hổ mà trở nên nhiếp cẩn. Vua y theo lời tâu liền ban hành nghiêm lịnh. Khi đó trong cung vua có hỏa hoạn. Vua nói: Ta phải đi. Bèn dạy Thái tử giám xét việc nước, còn vua đến ở rừng lạnh. Vua Phệ-xá-ly nghe tin liền dấy binh sang chinh phạt. Vua bèn cho xây thành ở đây. Vì nhà của Tiên vương ở đây nên gọi là Thành Vương xá. Có thuyết nói vua A-xà-thế lên ngôi sau đó mới xây dựng thành này. Đến thời vua Vô-ưu dời đô về Ba-sất-ly, thành Vương xá thí cho Bà-la- môn nên trong thành không có phàm dân, chỉ có Bà-la-môn, cùng với cả ngàn nhà vậy. Người xưa có nói Sơn thành là thành Vương xá, có chín ức nhà. Hoặc nói đặt ngàn vị vua ở đây, đều là sai lầm. Kinh đô đã ở tại Vương xá. Phật trụ trên Thứu phong. Thành, núi hai bên đều rõ ràng; hai hóa tự tha lợi lạc cả tăng tục. Luận nói phẩm Tựa thành tựu thì pháp môn này nói lên hai nghóa Thành tựu: Là trên hết trong tất cả pháp môn. Như thành Vương xá cao lớn tốt đẹp hơn các thành xá khác. Thành là trung tâm của nước Ma- kiệt-đà. Là chỗ đóng đô của vua cõi người, tiêu biểu Nhất thừa là trung đạo của ba thừa. Là cảnh của Pháp vương, an trụ thành tốt đẹp hơn các thành khác, cho nên kinh này cũng hơn các kinh khác. Là nói lên công đức thành tựu tự tại. Như núi Kỳ-xà-quật hơn tất cả núi. Đây là nói lên giáo pháp cao quý. Thành Câu-tô-ma đã là Sơn thành, gần với Vương xá chính là có nhiều núi. Núi này rất cao lớn mà lộ rõ, nói lên cho pháp cao xa vượt hơn Nhị thừa. Tự tại uy nghi công đức đều đầy đủ. Hoặc như nói thành cao đẹp hơn các thành khác không có vật tốt đẹp nào mà không vượt hơn, pháp thù thắng hơn các pháp thì không có đức cao nào mà không. Núi thù thắng hơn các núi khác vì là nơi dừng ở của một loại chim lành, pháp thù thắng hơn các pháp vì là chỗ dừng chân du hóa của bậc Thượng nhân. Lại nói: Diệu là dụ chung cả giáo và lý. Hoặc giáo diệu như ngôi thành bao gồm cả diệu lý. Lý cao như núi, vượt khỏi Nhị thừa. Cho nên kinh này ở thành Vương xá, trên núi Linh thứu là có chỗ tiêu biểu. Bát- nhã thông cả năm cửa. Xá-vệ phì nhiêu bốn đức. Cho nên Phật thường ở đây mà không đến nơi khác. Vàng sanh ra nước đẹp, Đông tục lưu truyền. Sông Đề có vàng, đất Tây Vực đều như thế! Sanh tử như dòng sông không bao giờ cạn. Niết-bàn như vàng nên đáng quí trọng. Trong dòng sông mà có vàng, là tiêu biểu cho trong dòng sanh tử có đức viên tịch. Cho nên Phật ở bên dòng sông A-lợi-la-bạt-đề nói kinh Niết-bàn. Mỗi pháp đều có tiêu biểu cho nguyên nhân xa gần. Xưa nói kinh này gồm ở bốn chỗ. Đầu tiên ở tại núi Linh thứu, hai là pháp vọt lên không, ba là Phật nhóm họp Tịnh độ, bốn là trong phẩm Chúc lụy, phân thân Phật trở về nước mình ở cõi uế trược. Nay giải thích xứ có ba mà nói kinh chỉ ở hai nơi. Xứ có ba: Không trở lại cõi uế. Tức phẩm Chúc Lụy ở sau phân thân Phật mới trở về. Cho đến cuối kinh đều chỉ cõi Tịnh, lại trở về cõi uế nói kinh xong. Tịnh uế chỉ có hai: Đầu tiên ở núi Linh sơn thuộc cõi uế trược. Phân thân Phật nhóm họp, Phật biến ra cõi Tịnh, cùng tháp Phật vọt lên hư không tức là xứ có ba. Nói kinh chỉ có hai: Đầu tiên mở hội Linh sơn trên mặt đất, vì chúng Nhị thừa giảng nói Nhất thừa. Sau đó tháp Phật bay lên hư không, phân thân Phật nhóm họp lại, Thích-ca cùng Phật Đa Bảo ngồi chung một tòa, khuyên tin kinh này. Đến cuối kinh Phật khiến phân thân đều trở về. Nói kinh xong Phật mới trở xuống mặt đất. Về sau không nói kinh Pháp Hoa nữa. Cho nên biết nơi thuyết chỉ có hai. Nay nêu ra nơi sáng lập hội nên nói núi và thành. Nói trụ là nơi giáo hóa, Phật nói là hóa thân, muốn cho cả ba thừa cùng ưa thích. Đây là nói lên lòng từ bi sâu xa của Phật thừa và thân đều mầu nhiệm, có thể giáo hóa cõi uế này. Nếu nêu ra báo thân Phật và hiển bày cõi Tịnh, e chúng Nhị thừa nghi ngờ cho là không phải phần mình thì không tu hành. Do đây mà Phật chỉ hiển bày hóa thân và cõi uế. Kinh: Cùng chúng Đại Tỳ-kheo một muôn hai ngàn vị. Khen rằng: Trong bảy thành tựu. Từ phần thứ hai trở xuống là chúng thành tựu vậy. Chúng thành tựu thì lấy năm môn để giải thích: Làm rõ ý của chúng Làm rõ quyền thật. Định số nhiều, ít Nói về thứ lớp. Y theo luận mà giải thích. Làm rõ ý chúng có ba nghóa: Chứng tín: Nêu có chúng nghe giúp A-nan thành tựu, nghe pháp có thể tin. Chúng nghi ngờ ba điều: Nghi A-nan tự bàn luận. Nghi từ người khác nói lại cho nghe. Nghi người khác nói. Nay hiển bày đồng nghe, chứng minh kinh đáng tin cậy. Luận Trí độ chép: Có ba thời là thời thuyết, xứ thuyết và người khiến cho sanh tin. Hiển đức: Như các vị trời vây quanh Đế-thích, Phạm chúng vây quanh Phạm thiên vương. Nay nói các Thánh vây quanh Đấng pháp vương. Khởi lập thỉnh: Là phương thức lợi lạc chúng sanh hẳn là thích ứng sự mong muốn; thứ lớp nói ra, nhân trước quả sau. Thân là thể của quả. Hành là tánh của nhân. Thừa là sở học. Dưới phẩm Phương tiện Ngài Thu tử ba lần thỉnh Phật, vì nói bỏ quyền lấy thật; nên hiển bày khiến bỏ quyền, theo cảnh thật. Phẩm An vui hạnh ngài Văn-thù cố thỉnh, chính là nói hạnh bỏ quyền theo thật. Trong phẩm Thọ lượng ngài Di-lặc ba lần thỉnh. Đức Phật vì nói thân quyền, thật thật, nên hiển bày bỏ quyền lấy quả thật, trải qua nhân duyên khiến dứt trừ pháp kiêu mạn. Nếu không nhờ thỉnh, ý chính khó sanh nên các Thanh văn thỉnh cảnh Nhất thừa chính là hợp với căn ngộ của họ. Bồ-tát thỉnh hành và quả, khen ngợi chứng nhân cũng là lợi ích cho mình. Vì đương cơ: thoái Tâm Bồ-đề là ba căn lãnh hội: Ba lần nói Nhất thừa, Bồ-tát lãnh ngộ Phật nói thọ lượng v.v… Tùy theo loài mà được lợi ích. Phàm phu Thanh văn xa lìa hết bụi nhơ phát tâm Bồ-đề. Chư Thánh hồi tâm hướng đến Đại thừa, phàm phu Bồ-tát lưới nghi đều được xé toang chứng chân đạt Thánh. Bậc Thánh Bồ-tát đắc vô sanh pháp nhẫn, sẽ chứng quả Bồ-đề. Cho nên vì ba căn cơ mà nói pháp mầu này. Dẫn nhiếp: Chúng Đương thời nhóm họp là để dẫn chứng thời khác sanh phát tâm. Kinh đã trình bày đầy đủ, để dẫn dắt chúng sanh phát ý thời nay. Nếu không có bạn lành thì tịnh tín không sanh. Luận Phật Địa chép: Nêu Bồ-tát là giúp cho viên mãn; chúng trời rồng là quyến thuộc viên mãn. Cõi Tịnh còn vậy huống chi là cõi uế! Năm nghóa trên đều là ý nghóa của việc có chúng nghe. Nói về quyền thật: Như luận Phật Địa nói về một xứ hóa thân Phật. Chúng Thanh văn trong cõi tịnh uế là thật, Bồ-tát là quyền. Trong cõi báo thân, Bồ-tát là thật, Thanh văn là quyền. Nay đây hóa thân, báo thân đều có, tùy ứng hai thật hai quyền. Đầu tiên nói hóa thân Phật ở Linh thứu. Bồ-tát trong đó là quyền. Chúng sanh thấy ở nơi kiếp tận cõi Tịnh thường an ổn, tuổi thọ vẫn vô biên. Báo thân báo độ chúng Thanh văn trong đó đều không thật, huống chi là Phật Đa Bảo, phân thân Phật đều là hóa hiện. Y theo đây mà biết báo, hóa, quyền, thật, lý đều rõ ràng. Trong luận đã nói có hóa Thanh văn, là Mãn Từ Tử, ngoài ra là các hóa chúng, Phật Đa Bảo, phân thân v.v… Định số nhiều ít: Đầu tiên có mười lăm chúng: Chúng đại đức cao danh. Chúng đại đức vô danh. Chúng chư ni tôn trọng. Chúng chư ni nội quyến . Chúng Thánh đức khó nghó bàn. Chúng Đế-thích chư thiên. Chúng Ba quang Bốn vương. Hai Chúng Tự tại . Chúng chư thiên cõi Sắc. Chúng rồng. Chúng Khẩn-na-la. Chúng Càn-thát-bà vương Chúng A-tu-la. Chúng Ca-lâu-la. Chúng vua cõi người. Lại có sáu chúng: Đa Bảo. Phân thân. Cung rồng. Dưới đất vọt lên. Diệu Âm. Phổ Hiền. Hai loại Chúng này. Nghe pháp, chứng pháp, hành pháp và trì pháp. Nói pháp, hộ pháp đều có khác nhau. Trong đây có sáu môn khác: Ba thừa không có Độc giác. Độc giác ra đời phần nhiều vào thời không có Phật. Giáo pháp tuy bao gồm cả họ mà lúc ấy không thành quả, nên trong hội này không có. Trong kinh Nhân vương có nêu đầy đủ điều này. Văn dưới cũng trình bày có cầu quả vị này. Trong ba cõi không nêu chúng ở cõi Vô sắc. Aùnh sáng soi chiếu người có duyên đến đây nghe pháp, cõi ấy ánh sáng không chiếu đến, căn cơ chúng sanh cũng không thuần thục nên không đến hội. Kinh Nhân Vương cũng có nêu điều này. Chúng năm đường không có Địa ngục: Ánh sáng tuy chiếu đến cõi này nhưng chúng vô duyên không thể đến. Đến có hai nghóa: Ánh sáng chiếu đến. Có duyên đến. Cõi Địa ngục ánh sáng chiếu đến mà người vô duyên không đến, không có sắc sáng đều là tướng che. Nhất thừa tiến tu phải mượn thân dễ yên ổn. Địa ngục vì khổ sở ép ngặt không yên để tu tập. Kinh Đà-la- ni vốn dứt các khổ, uy lực đến cùng, địa ngục cũng có thể đến. Kinh này tiến thiện, chúng địa ngục không dễ yên ổn nên không thể đến. Vậy nên ánh sáng chiếu là khiến chúng sanh thấy sanh nhàm chán phát tâm Bồ-đề mà dứt hết khổ nạn. Bốn chúng. Không có chúng Ưu-bà-tắc Ưu-bà-di. Trong phần oai nghi thành tựu ở dưới có nêu đầy đủ. tám bộ. Không có Da-xoa và Ma-hầu-la-già. Ở dưới cũng nêu đầy đủ. Nói hai vua không có Vua Chuyển luân, chỉ có tiểu vương. Ở dưới cũng nêu đủ. IV Nói về thứ lớp Chúng đầu tiên có bốn: Chúng Thanh văn Chúng Bồ-tát Chúng tám bộ Chúng các vua. Hoặc nội hộ, ngoại hộ là thứ lớp. Trong nội hộ thì nêu thứ lớp Thanh văn, Bồ-tát. Trong Thanh văn thì nêu thứ lớp Tăng ni. Trong Tăng thứ lớp có danh, vô danh. Trong Ni có thứ lớp tôn trọng quyến thuộc. Trong ngoại hộ có thứ lớp tám bộ, nhân vương. Trong tám bộ có thứ lớp phi thiên, thiên. Trong cõi thiên có thứ lớp địa cư, không, cư. Trong Địa cư có Đế-thích, quan thần thứ lớp. Trong Không cư có thứ lớp thiền chủ, phi thiền chủ. Thứ lớp chúng sau: Chúng chứng pháp, chúng khai tháp, chúng đi qua làm lợi ích rộng lớn, chúng trì pháp vô biên, chúng phương khác hành pháp, chúng phương khác khuyên trì. Trong chúng đầu tiên Thanh văn nói trước Bồ-tát nói sau. Tức là theo Phật Địa luận tuy có giải thích mà nay có bốn giải thích sau: Hình tướng không đồng, người Thanh văn xuất gia hình tướng đồng với Chư Phật. Bồ-tát thì không như vậy. Nơi có gần xa: Thanh văn gần Phật, Bồ-tát lại xa. Giới đức có khác: Thanh văn xuất gia trì giới xuất gia. Bồ-tát tùy theo loại hóa độ chúng sanh nên không như vậy. Làm cho Bồ-tát xả tâm kiêu mạn đối với Thanh văn. Nhưng kinh Hoa Nghiêm, kinh Ma-già-la, kinh Cự-lâu Vương, kinh Hòa Hưu, kinh Đại Ngũ Trược đều nêu Bồ-tát trước, Thanh văn sau là y cứ đức Đại, Tiểu thừa mà nói trước sau. Theo luận giải thích: Trong chúng thành tựu có bốn ý: Một là số, hai là hạnh, ba là nhiếp công đức, bốn là uy nghi như pháp trụ. Số thành tựu nghóa là đại chúng vô số. Nói chung là vô số mà các luận đều có nêu nghóa riêng , là một muôn hai ngàn vị v.v… Trong hạnh thành tựu có bốn ý: Các Thanh văn tu hạnh Tiểu thừa nương hành khất thực tự sống gọi là Tỳ-kheo. Bồ-tát tu hạnh Đại thừa, cầu giác ngộ lợi lạc hữu tình. Lấy Bồ- đề Tát-đỏa làm mức đến. Bồ-tát dùng năng lực thần thông tùy thời mà thị hiện, có khả năng tu hành Đại thừa, như mười sáu vị Bạt-đà-bà-la v.v… đầy đủ việc bất tư nghì của Bồ-tát. Do bất định mà có thể thị hiện ra hình thù bốn chúng như Ưu-bà-tắc v.v… nói cho Bồ-tát nghe. Người xuất gia uy nghi nhất định không đồng với Bồ-tát. Do sự nhất định này mà gọi là Tỳ-kheo. Trong nhiếp công đức thành tựu là kinh nói mười sáu câu khen ngợi chúng đức; mười ba câu khen đức hạnh Bồ-tát. Nhưng trong luận này không nêu riêng vì nghóa văn kinh đã rõ. Thành tựu uy nghi như pháp trụ là: Chánh kinh: “Bấy giờ bốn chúng vây quanh Đức Thế tôn.” Đây là nói uy nghi cung kính của bốn chúng đi nhiễu Phật nghe pháp mà trụ tướng. Các vị tuy lễ Phật cũng là uy nghi chẳng phải tướng nghe pháp, cho nên ở đây không nói. Trong mười lăm chúng đó hợp lại thành ba loại. Chúng Bồ-tát Thanh văn có đủ bốn thành tựu. Hữu học, Vô học và Tỳ-kheo ni có đủ ba thành tựu không khen ngợi đức. Các trời đủ hai thành tựu không có hạnh và đức. Luận nói trong chúng thành tựu, gồm có bốn thành tựu, không nói mỗi việc đều có đủ bốn loại. Nhưng kinh nói trong chúng thành tựu có hai đoạn. Đoạn đầu nói riêng mười lăm chúng. Đoạn sau nói về uy nghi. Trong đoạn đầu lại có hai ý: Nêu riêng chúng Nói chúng lễ Phật rồi lui về ngồi một phía. Trong mười lăm chúng lại chia làm hai: Nói chúng nội hộ. Nói chúng ngoại hộ. Chúng nội hộ có hai: Thanh văn và Bồ-tát. Chúng Thanh văn có hai: Tỳ-kheo và chúng ni. Trong Tỳ-kheo có hai: Bậc cao đức nói tiếng và Đại đức không nổi tiếng. Trong phần nói bậc cao đức nổi tiếng lại có ba ý: 1. Nêu lên số loại. 2., Khen ngợi công đức. 3. Nêu tên. Nêu số loại có hai thành tựu là số và hạnh. Chữ “Dữ” là cùng, gồm, và… Ngài Long Thọ giải thích: Nhất xứ nhất thời, nhất tâm, nhất giới, nhất kiến, nhất đạo, đồng giải thoát đạo gọi là cộng (cùng). Đại Tỳ-kheo: Trong Luận Trí độ chép: “Đại giải thích có ba nghóa. Tối đại trong các chúng, phá dứt đại chướng, bậc đại nhân cung kính.” Ngài Chân-đế giải thích có ba: Thắng đại là bậc trên hết ở trong chúng hữu Học, Vô học. Thể đại. Công đức trí tuệ lớn rộng. Số đại, là một muôn hai ngàn người. Nay hợp lại làm sáu: Một là, số đại. Hai là, ly đại tức dứt đại chướng. Ba là, vị đại tức đại A-la-hán. Bốn là, đức đại như trong kinh nói. Năm là, danh đại tức tiếng tăm vang xa. Sáu là, thức đại, đại nhân là tri thức của đại chúng. Âm Phạm là Bí sô âm lầm là Tỳ-kheo do đủ năm nghóa nên không dịch ra: Một là Bố ma lúc mới xuất gia cung ma bị rung chuyển. Hai là Khất só: Đã xuất gia rồi, khất thực nuôi sống. Ba là Tịnh trì giới, dần dần nhập vào số Tăng tương ưng với trì giới. Bốn là Tịnh mạng đã thọ, đắc giới khởi lên ba nghiệp, vì không còn tham phát, không nương vào tham tà mà nuôi sống. Năm là Phá ác: Nương vào Thánh đạo dần dần dứt hết phiền não. Chúng có nghóa là tăng, lý sự cùng hòa hợp thì gọi là chúng. Ba vị trở lên được gọi là Tăng. Kinh: “Đều là A-la-hán… Tâm được tự tại.” - Khen ngợi: đây là khen ngợi công đức. Kinh có sáu câu: Bản dịch mới và luận cũ có mười sáu câu: Đều gọi là A-la-hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, được chân tự tại. Luận chép: Tâm được tự tại, tâm (thiện) khéo giải thoát, tuệ giải thoát. Luận chép: Khéo đắc tâm tuệ giải thoát, như điều phục ngựa thông minh. Luận chép: Tâm khéo điều phục cũng như rồng lớn, các việc đã làm đều xong, nói xong là trút bỏ các gánh nặng, mau được lợi ích cho mình. Trừ hết hữu kiết giải thoát chánh tri. Luận chép: Khéo đắc chánh trí, tâm được giải thoát cho đến tâm tự tại, rốt ráo bậc nhất. Luận có ba cách giải thích: Thượng thượng khởi. Tướng chung riêng. Nhiếp lấy sự. Thượng thượng khởi: Do câu trên mà có được câu dưới. Hoặc do câu dưới mà câu trên mới khởi. Khởi chẳng phải là duy nhất gọi là thượng thượng khởi. Luận dùng câu thứ hai để giải thích câu đầu là: “Các lậu đã hết” nên gọi là A-la-hán.” Tức luận nói đã dứt hẳn hết giặc phiền não nên gọi là A-la-hán. Lậu có năm cách phân biệt. Giải thích tên chung. Các luận gọi là phiền não hiện hành khiến tâm liên tục phân tán không dứt nên gọi là lậu. Như vật dơ nhà quá bẩn thật đáng chán ghét, là nơi ô nhiễm, thương tổn, rộng chê trách lỗi lầm đó nên lấy tên lậu. Đây chỉ hiện hành không lấy phiền não làm hạt giống. Y theo vào sự thật thì thông loại. Nêu danh, lậu có ba loại: Một là dục lậu, hai là hữu lậu, ba là vô minh lậu. Nêu thể: Kiến đạo ở dục giới có bốn mươi phiền não. Tứ đế mỗi đế đều có mười. Cùng tu đạo có sáu là: Tham, sân, mạn, vô minh, thân kiến, và biên kiến. Trong đây trừ năm vô minh, còn lại bốn mươi mốt căn bản phiền não và gồm hai mươi tùy hoặc phẫn, hận… đều gọi là dục lậu. Cõi Sắc, Vô sắc vì không còn sân, mỗi cõi có bốn mươi mốt, trong đó trừ năm si, hợp lại thành bảy mươi hai căn bản phiền não, cùng với siễm, cuống của cõi Sắc và kiêu của hai cõi. Hợp bốn tiểu tùy hoặc, mười sáu đại tùy phiền não gọi là hữu lậu. ba cõi hợp lại có mười lăm vô minh gọi là vô minh lậu. Ly hợp phế lập: Dục chỉ có ở tán địa, hữu lậu địa, có ở cả năm đường, đầy đủ bốnsanh địa. Bất bạn lành phú vô ký là hai tánh hoặc địa, nên lập riêng một dục lậu. Cõi trên đều định, ở cả vô lậu địa, một cõi, một sanh, một tánh phiền não. Do đây mà hợp thành một hữu lậu. Sức vô minh tăng thì chung cả tương ưng, bất cộng là sở y của hai lậu trước. Vì đầy đủ mười một việc thù thắng. Cho nên lìa các hoặc lập. Từ chỗ có được tên: Tuy biết tất cả phiền não trong ba cõi mà tương ứng cõi đó gọi là hữu lậu. Lậu là lậu trong ba hữu. Phiền não cõi dưới thường duyên với dục khởi lên, nên tùy theo nghóa trội mà đặt tên. Gọi là dục lậu. Các hoặc ở cõi trên không có nghóa nổi trội riêng nên dùng căn bản đặt tên gọi là vô minh lậu. Vô minh không lấy pháp khác để làm tên, mà nói tướng tự hành gọi là vô minh lậu. Lậu này chẳng phải một nên gọi là các. Nhưng theo Du-già thì có giải thích khác sợ văn rườm rà nên thôi. Dùng câu thứ tư để giải thích câu thứ hai: Vì được thật tự tại nên các lậu đã hết, do chứng thật vô vi mà các lậu tự tại, nên nói các lậu đã hết. Dùng câu thứ hai, thứ ba để giải thích câu thứ tư: Vì dứt hết phiền não nên gọi là được thật tự tại. Hết nghóa là các lậu đã hết, vô phiền não là không còn phiền não. Do không còn hiện chủng hoặc nên đắc thật được tự tại hoàn toàn. Cũng có bổn nói: Vì không còn phiền não nên nói được tự tại hoàn toàn, mà không phải câu: Các lậu đã hết, chỉ có câu thứ ba giải thích câu thứ tư. Lại dùng câu thứ năm thứ sáu giải thích câu thứ tư: “Vì khéo được tâm giải thoát, đắc tuệ giải thoát,” gọi là được thật tự tại. Vì lìa chướng định nên nói tâm giải thoát. Lìa chướng tánh nên gọi là tuệ giải thoát. Lại lìa thể vô minh, tham ái… nên gọi là tuệ giải thoát… Tâm tương ưng kia được lìa sự trói buộc gọi là tâm giải thoát. Do lìa hai điều này mà chứng được pháp vô vi, được tự tại hoàn toàn. Dùng câu hai giải thích câu ba tức xa lìa năng kiến, sở kiến nên gọi là không còn phiền não. Thể phiền não chỉ giữ hạt giống. Xa năng kiến là lìa sự ràng buộc tương ưng. Lìa sở kiến là xa lìa trói buộc sở duyên. Vì lìa hai phược của các lậu hiện hành nên gọi là không còn phiền não. Hoặc giải thích riêng: Năng kiến là tâm chấp ngã. Sở kiến là ngã sở chấp. Do không có tâm năng chấp ngã kiến, tướng sở chấp ngã nên tình không hiện, gọi là lìa hai kiến. Trước các lậu đã hết là nói chung không còn phiền não. Đây không còn phiền não là nêu riêng không còn ngã kiến. Ngã kiến là căn bản để các lậu sanh trưởng. Cho nên giải thích không trái. Dùng câu năm câu sáu giải thích câu thứ bảy rằng: Vì khéo đắc tâm tuệ giải thoát, nên gọi là tâm khéo điều phục, Cũng như ngựa tốt thì tánh điều thuận, dùng câu thứ chín, thứ mười để giải thích câu tám: Cũng như rồng lớn, đi trên đường xấu, như trên đường bằng phẳng không còn chướng ngại ràng buộc, việc nên làm đã làm, nơi đáng đến đã đến. Cho nên Tân kinh chép: “Các việc phải làm đã làm xong”, nên như rồng lớn. Do đã thực hành Đạo đế đã sống với Diệt đế cho nên như rồng. Như uy đức của rồng, tuy đi trên con đường sanh tử hiểm trở mà như đi trên đất bằng, không hề bị chướng ngại ràng buộc. Không bị nạn sanh tử, vì nhân quả sanh tử đều đã hết, diệt đế đạo đế đã mãn. Luận giải thích riêng câu thứ chín là: Việc nên làm thì làm rồng lớn trong cõi người đã đối trị hàng phục kẻ thù phiền não. Vì đạo đế đã viên mãn, nên năng hàng phục tập đế kẻ thù phiền não. Luận lại giải thích câu thứ chín là: Việc làm đã xong, không còn làm nữa, như việc tương ưng đã hoàn thành. Khổ đế đã hết, diệt đế đã viên mãn, dùng câu thứ chín thứ mười giải thích câu thứ mười một rằng: Lìa bỏ các gánh nặng. Việc làm đã làm, đã xong, gánh nặng đời sau đã trút bỏ, do diệt Đạo đế đã viên mãn liền xả các pháp sanh tử, của thân sau, gọi là trút bỏ gánh nặng. Dùng câu mười một giải thích câu mười hai rằng: Mau đắc lợi mình đó. Bỏ hết gánh nặng chứng quả Niết-bàn, liền lấy Niết-bàn để làm cho mình. Dùng câu mười hai giải thích câu mười ba rằng: Diệt hết các hữu kết: Đã được lợi mình lại đoạn hết nhân phiền não. Vì phiền não là nhân của sanh tử nên gọi là hữu kiết, là kiết của tam hữu vậy. Đã đắc Niết-bàn lợi mình, nên có thể dứt hết kết sử trong ba cõi. Nhân của sanh tử có thể hòa hợp với khổ, có thể ràng buộc nên gọi là kết. Ở đây có chín loại là ái kiết, nhuế kiết, mạn kiết, vô minh kiết, nghi kiết, kiến kiết, thủ kiết, tật kiết, xan kiết. Do chín kiết này thường hiện khởi, làm tổn não mình và người với lấy khổ đương lai, nên càng lập riêng tên kết, tăng thêm sự thiên lập làm kiết. Dùng câu thứ hai để giải thích câu mười bốn rằng: Chánh trí giải thoát là các lậu đã hết. Vì các lậu tậnnên chánh trí năng chứng đạo giải thoát vô vi, gọi là Trí giải thoát. Riêng giải thích câu mười lăm rằng: Dốc lòng tự tại là trí khéo vượt qua kiến đạo, tu đạo; tâm trụ ở kiến, tu đạo chưa được tự tại vẫn còn hoặc. Do thành tựu các câu ở trên cho đến đạt đạo vô học, dứt tất cả hoặc, tâm đắc quả vị tự tại. Dùng câu mười bốn giải thích câu mười sáu: Rốt ráo thứ nhất là khéo đắc chánh trí, tâm được giải thoát, khéo đắc thần thông, Tam- muội vô tránh và các công đức, thành tựu quả vị Thanh văn đến bờ giải thoát. Y theo văn trên chỉ có ba câu, dùng dưới giải thích trên gọi là thượng khởi. Nghóa là dùng câu thứ hai giải thích câu đầu. Dùng câu thứ tư giải thích câu thứ hai. Dùng câu thứ mười, thứ chín giải thích câu thứ tám, câu dưới vì sở khởi gọi là khởi, trên liền khởi gọi là thượng khởi, hoặc năng khởi gọi là khởi, khởi lên trên gọi là thượng khởi. Loại này chẳng phải một nên gọi là thượng thượng khởi. Y theo luận thì chỉ có bảy câu dùng bên trên giải thích câu dưới gọi là thượng khởi. Nghóa là dùng câu thứ hai giải thích câu ba. Dùng câu năm câu sáu để giải thích câu thứ bảy. Dùng câu chín câu mười để giải thích câu mười một. Dùng câu mười một giải thích câu mười hai. Dùng câu mười hai giải thích câu mười ba, dùng câu mười ba giải thích câu mười bốn. Câu mười bốn giải thích câu mười sáu. Đây là vì năng khởi gọi là khởi, ở trên khởi gọi là thượng khởi. Loại này chẳng phải là một nên gọi là thượng thượng khởi. Y theo luận chỉ có câu ba là giải thích riêng. Nghóa là câu chín câu mười câu mười lăm hoặc câu thứ ba cũng là giải thích riêng. Có hai câu không giải thích là câu năm và câu sáu. Có một câu dùng câu trên giải thích câu dưới, cũng dùng câu dưới giải thích câu trên. Đó là câu thứ tư. Tóm lại có bài tụng: Dưới giải trên có ba. Trên giải dưới có bảy. Ba đơn, hai không giải Một thông trên dưới. Hoặc trên giải thích dưới có sáu, bốn đơn giải thích, hai không giải thích. Nay theo văn kinh , trong mười sáu câu, chỉ chung sáu. Dưới giải thích trên có một câu, là dùng câu: “Các lậu đã hết” giải thích câu đầu “Đều là A-la-hán.” Dùng trên giải thích dưới có hai câu: Nghóa là câu: “Các lậu đã hết giải thích câu “Không còn phiền não”, và “Mau được lợi mình” giải thích câu “Dứt hết hữu kiết.” Các câu khác nên tự giải thích. “Lậu” như trước giải thích, chỉ dùng tất cả phiền não hiện hành. Các lậu này đã hết nên gọi là A-la-hán. Nghóa là các việc đã làm xong, dứt trừ hẳn giặc phiền não, khéo giải A-la-hán nên vào Thập địa gọi là A-la-hán. Không còn phiền não: Luận gọi là xa lìa năng kiến, sở kiến, nên gọi là không còn phiền não. Hạt giống phiền não gọi là phiền não. Đây có thể do đều lìa hai phược hiện hành tương ưng sở duyên. Các lậu đều tận, không còn hạt giống phiền não để đoạn lại, nên gọi là xa lìa năng kiến sở kiến, hoặc tổng các lậu đã hết, các biệt chấp cũng mất nên xa lìa năng và sở kiến. Hạt giống đoạn thì không còn sanh lại. Do đoạn các pháp lưu chuyển sanh tử nên gọi là bỏ gánh nặng, nên có thể chứng quả Niết-bàn, lợi mình. Nghóa là đắc quả Niết-bàn Hữu dư lợi ích, dứt hẳn chín kiết phiền não làm nhân trong ba hữu. Do trên nói lậu tận trở xuống bốn câu dưới mà vị A-la-hán kia, khéo vượt qua kiến đạo, tu đạo trí nên đắc tâm tự tại. Lìa chướng sự, tánh, tám giải thoát viên mãn cũng được gọi là tâm đắc tự tại. Văn đã thiếu một ít không thể giải thích thứ lớp theo luận, chỉ có thể luận chung nghóa lớn giải thích văn kinh; các trí giả nên tự hiểu rõ. Thứ hai nói về tướng chung riêng Câu “đều là bậc A-la-hán” là tướng chung, mười lăm câu còn lại là tướng riêng, A-la-hán gọi chung là nghóa ứng. Ứng có mười lăm nghóa từ câu “các lậu đã hết” trở xuống. Ứng thọ sự cúng dường ẩm thực và người cung kính. Tức các lậu đã hết có thể làm phước điền cho chúng sanh. Ứng dẫn đại chúng mà giáo hóa tất cả. Vì dứt hết phiền não không màng danh lợi. Ứng vào trong xóm làng thành ấp, được tự tại hoàn toàn không bị cảnh dục mê hoặc. Ứng hàng phục ngoại đạo, tâm khéo giải thoát, đầy đủ trí tuệ, biện tài. Ứng dùng trí tuệ bén nhạy quán sát các pháp. Tuệ khéo giải thoát hiểu rõ các pháp. Ứng nói pháp không mau, chậm . Như pháp tương ưng thì không sanh mỏi mệt. Như điều phục ngực hay, khéo xưng với tâm. Ứng chỗ vắng vẻ tónh tọa, các thứ vật dụng trợ sanh như ẩm thực y phục, không chứa để, thường thiểu dục tri túc. Cũng như rồng lớn lìa xa chỗ ồn náo. Ứng với hoàn toàn thực hành hạnh lành, không mê đắm các thiền, các việc phải làm đã làm, thường tinh tấn tu niệm. Ứng thực hành hạnh Thánh, không, việc phải làm đã làm, ngã và ngã sở đều phi hữu. Ứng thực hành hạnh Thánh vô tướng, bỏ mọi gánh năïng, quán sát lý Diệt. Ứng thực hành hạnh Thánh vô nguyện, mau được lợi mình không mong sanh tử. Ứng hàng phục Thiền định thế gian, tịnh tâm không sanh đắm vị của hai cõi : Dứt hết các kiết hữu cho đến không sanh vị ái với thiền của hai cõi. Ứng khởi các công đức thần thông cao siêu, chánh trí giải thoát. Giải thoát nghóa là thần thông. Ứng đạt đến công đức Đệ nhất nghóa, dốc lòng tự tại, chứng pháp vô vi. Ứng biết như thật, chúng đồng sanh được các công đức. Vì lợi ích tất cả chúng sanh làm Đệ nhất rốt ráo. Đem pháp Ba-la-mật-đa Thanh văn, rộng độ chúng sanh khiến cùng được công đức lợi ích như mình. Ứng thứ tám là tu hành không dứt, thứ mười hai là không chấp trước thiền, đây là hai ý riêng. Lại sợ văn rườm rà sanh chán, nên lược phần tướng hệ thuộc, mà ý nghóa trong đó theo sự giải thích trên có thể biết, nói về ứng có bài kệ rằng: “Thọ, dẫn, vào, hàng phục Trung, tónh, hành, thiện hạnh. Không, vô tướng, vô nguyện Phục, khởi, đến, thật biết.” Sáu câu trong kinh chỉ có câu thứ nhất trong mười lăm câu là xứng đáng nhận diệu cúng. Câu hai ứng dẫn đại chúng giáo hóa. Câu mười một ứng thực hành hành Thánh vô nguyện. Câu mười hai ứng hàng phục thiền tịnh tâm của thế gian. Câu mười bốn ứng đạt đến Đệ nhất nghóa, thứ lớp năm câu này là phối hợp với năm câu dưới trong kinh mà câu đầu là nêu chung quả A-la-hán. Thứ ba là nhiếp lấy sự: Dùng mười lăm câu nhiếp lấy mười công đức, vì chỉ rõ hiện có thể nói quả và không thể nói quả. Ý ở đây nói mười lăm câu này thâu nhiếp mười công đức sự là nói A-la-hán chứng đắc hữu vi nên có thể nói quả, đắc vô vi không thể nói quả vì Hữu tướng, vô tướng thô tế đều khác, dưới đây tùy theo ứng mà phối hợp. Nhiếp lấy đắc công đức có hai câu nghóa là: “Các lậu đã hết và không còn phiền não, “hai hoặc Phược và tùy miên , này nếu hiện hữu thì không thể nhiếp lấy công đức. Nhiếp lấy các công đức có ba câu: Nghóa là: “Được tự tại, tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát.” Trong ba câu này, câu “được tự tại hoàn toàn” là công đức hàng phục thế gian. Tâm thế gian không được tự tại, thường bị các hoặc nhiễu loạn, do được tự tại nên xa lìa hẳn hoặc nhiễu loạn. Hai câu: “Tâm khéo giải thoát tuệ khéo giải thoát”, là công đức hàng phục bậc học xuất thế gian, vì bậc Hữu học chưa được lìa hai phược. Nhiếp lấy công đức không trái nghịch có một câu: Nghóa là tâm khéo điều phục, thuận theo giáo hạnh của Như lai. Giống như ngựa giỏi khéo thuận theo tâm người. Nhiếp lấy công đức cao quý có một câu: “Cũng như rồng lớn có đại uy linh thần lực viên mãn nên ví như rồng. Nhiếp lấy công đức cao quý của các việc nên làm, có một câu: “Việc nên làm đã làm.” Việc ấy nên làm là y theo pháp cung kính cúng dường, tôn trọng Đức Như lai, chẳng phải cúng dường tài vật gọi là việc nên làm, mà chính là thực hành pháp cúng dường là việc nên làm. Những vị kia đều đã thực hành pháp Đạo đế này thực hành cúng dường Phật . Nhiếp lấy công đức đầy đủ, có một câu: Việc phải làm đã làm xong ” đầy đủ học địa, các sở học ở Địa đều đầy đủ nên đắc Diệt đế đầy đủ. Nhiếp lấy công đức vượt qua có ba câu: “Buông bỏ các gánh nặng, mau được lợi mình, dứt hết các kiết Hữu. Câu đầu vượt qua ái, gánh nặng sanh tử chẳng qua là do tham ái nay đã vượt qua. Câu kế là vượt qua sự mong cầu nuôi sống, cung kính cúng dường. Các mong cầu cung kính cúng dường đều vì giúp cho sanh mạng, nay được lợi mình đã chứng Niết-bàn vượt qua tà mạng cầu lợi dưỡng. Câu sau là vượt qua cõi trên, dưới. Đã vượt qua học địa mà kiết hữu là chín kiết nay đã qua địa hữu học, tức vượt qua cõi trên dưới, nên dứt hết các kiết hữu. Nhiếp lấy công đức thượng thượng, có một câu: “Chánh trí giải thoát.” Giải thoát là quả vô vi, là quả vị trên hết trong các công đức. Nhiếp lấy công đức thích ứng làm lợi ích chúng sanh, có một câu: “Dốc lòng tự tại và từ nội tâm lìa các ràng buộc”; cho nên nhiếp lấy làm lợi ích chúng sanh. Nhiếp lấy công đức thượng thủ có một câu: “Rốt ráo bậc nhất” nghóa là Ba-la-mật-đa Thanh văn kham đạt đến bờ kia hơn hẳn. Các thứ độn căn khác, nên có bài tụng rằng: Hai câu đầu nhiếp lấy Kế ba nhiếp các đức Thuận, thắng, đều đầy đủ. Như kế phối bốn câu Ba câu gọi nhiếp qua Qua ái mạng hai cõi Thượng thượng, lợi, thượng thủ. Đều một gọi nhiếp đức. Sáu câu trong kinh này chỉ nhiếp lấy ba trong mười đức: Một là nhiếp lấy công đức có hai câu: “Các lậu đã hết, không còn phiền não.” Hai là nhiếp lấy công đức vượt qua có hai câu nghóa là: “Mau được lợi mình hết các hữu kết vượt qua mong cầu tà mạng và tà ở hai cõi. Ba là nhiếp lấy công đức thích ứng làm lợi ích chúng sanh có một câu. Nghóa là dốc lòng tự tại, A-la-hán, là chung, sở dó không lấy, chỉ mười lăm câu dưới là nhiếp công đức. Trong Thành Duy Thức, nói A-la-hán có ba : Ứng đã trừ giặc phiền não ứng thọ sự cúng dường thế gian, và ứng không còn chịu sanh tử phần đoạn . Nếu giải thích theo cách thượng thượng khởi thì không còn sanh tử phần đoạn nên diệt trừ hẳn phiền não. Nếu theo tướng chung riêng thì nhiếp ứng nhận sự cúng dường tốt đẹp, nếu nhiếp lấy sự chẳng phải ba nhiếp kia, ba nhiếp kia chỉ y cứ theo nghóa quyết định mà nói. Tất cả bậc A-la-hán không qua ba loại này. Môn nhiếp sự: Chỉ do có câu giải thoát đến bờ kia mà được thành. Lại môn thượng thượng khởi dứt hẳn phiền não Môn tướng chung riêng: Xứng đáng nhận cúng dường. Môn nhiếp sự: Không có sanh tử phần đoạn, phối hợp với tông nghóa, phi lý nhất định như thế. Kinh bản tân dịch chép: trừ A-nan-đà ở địa vị Hữu học, trong đây văn lược. Kinh: “Tên là ……… Na-đề Ca-diếp.” Khen rằng: Đây là phần nêu tên các bậc cao đức nổi tiếng: Nêu tên riêng. Kết danh cao. Trong hai mươi mốt vị này. Hoặc nêu theo xuất gia trước sau làm thự tự, Kinh Báo Ân chép: Đầu tiên Phật độ cho năm vị. Kế là độ cho môn đồ của Da-xá gồm năm mươi vị. Kế là độ thầy trò Ưu-lâu-tần-loa năm trăm vị. Sau đó độ thầy trò Già-da ba trăm vị. Kế độ cho thầy trò Na-đề hai trăm vị kế là thầy trò Thu Tử một trăm vị, rồi thầy trò Mục- liên một trăm vị. Hợp lại thành một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hoặc có khi nêu hạnh đức lớn nhỏ làm thứ lớp. Như ngài Ca-diếp thì nêu thứ hai. Ngài Xá-lợi-phất ở trước ngài, Ca-chiên-diên. Tùy ứng chứ không nhất định. Phẩm Đệ tử trong kinh Vô Cấu Xứng thì lấy đức nêu thứ lớp. Sai đi thâm bịnh thì phải nhờ trí tuệ biện tài mới có thể đối đáp. Trong kinh Thập Nhị Do chép: Hai năm sau khi thành đạo Phật độ năm vị Tỳ-kheo. Năm thứ ba hóa độ cho ba anh em Ca-diếp, năm thứ năm độ cho Mục-kiền-liên. Vì cơ nghi không đồng nên các bộ kiết tập kinh tụng có khác. Kinh Vô Lượng Thọ chép: Hiểu rõ được bổn tế, tức A Nhã Kiều Trần Như. Tiếng Phạm là A-nhãø-đa Kiều-trần-na. Kiều- trần là một họ của Bà-la-môn, Na là tiếng nam. A-nhã-đa là nghóa là giải, người ngộ giải đầu tiên. Trong kinh Nhân quả nói đầy đủ lý do độ bốn vị Kiều-trần-na, Ưu-lâu-tần-loa, Già-da, và Na-đề. Vì sau khi Thái tử vượt thành xuất gia, vua bèn ra lịnh cho năm người thân tộc nội ngoại theo bảo vệ Thái tử. Năm người tranh luận nhau về sự tu khổ hạnh lầm lạc cho đó là Đạo chân thực. Thái tử thúc liễm thân tâm theo các ngoại đạo tu hạnh khổ làm lạc, trải qua các hạnh đó đều chẳng phải phương pháp tu đúng, liền bỏ pháp tu này, uống sữa, ngồi cỏ cát tường, thành đạo dưới cội Bồ-đề. Sau đó Phật đến vườn Nai độ cho năm vị này. Khi vừa xoay bánh xe, Phật hỏi hiểu chưa? Trong năm vị có Trần-na thưa trước: Con nay đã hiểu. Trời Tịnh Cư cũng nói hiểu. Do đó mà được gọi là Giải. Họ Kiều-trần vẫn là số nhiều, dùng chữ giải để nêu danh. Na là nam, nói nam để phân biệt với nữ, nên lại gọi là Na. Kinh Bát-nhã gọi là Giải Kiều-trần-như. Tiếng Phạm là Ma-ha-Ca-diếp-ba. Ma-ha nghóa là lớn. Ca-diếp- ba là họ. Hán dịch là Ẩm Quang là họ Bà-la-môn. Thời Thượng cổ có vị vị Tiên thân có ánh sáng lấn át cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Thân Ca-diếp cũng có ánh sáng che cả ánh sáng vầng nhật nguyệt, nên gọi là Ẩm Quang. Ngài là con của vị Trưởng giả giàu có, bỏ hết tài vật của cải xuất gia tu đại hạnh, thiểu dục tri túc, thực hành hạnh Đầu đà là bậc đại nhân tri thức nên gọi là Đại Ca-diếp để phân biệt với các vị họ Ca-diếp khác. Như kinh Nhân Quả quyển ba và Di-lặc Sớ có nêu đầy đủ nguyên nhân của hai họ trên. Ba anh em Ca-diếp đều tên là Ẩm Quang. Tiếng Phạm là Ô-lư-tần-loa dịch Ưu-lâu là sai. Hán dịch là Mộc Qua. Vì trên ngực vị này có một vết sẹo nổi lên giống như trái mộc qua. Lại trong ao có con rồng tên là Mộc qua. Do đó lấy tên này. Già-da là tên núi, tức núi Tượng Đầu, cũng dịch là Thành, thành này gần ngọn núi này, nên gọi là Thành Già-da. Tiếng Phạm là Nại- địa-ca, hán âm Na-đề là sai. Đây là tên một dòng sông. Kinh chánh Pháp Hoa nói Thượng thời, Tượng, Giang là ba vị Ca-diếp. Nhưng kinh Nhân Quả nói: Ba vị này tu đạo gần bên bờ sông. Phật dùng thần thông hóa độ họ vào Phật pháp. Nói Đại Ca-diếp là vì trên ngực có vết sẹo mộc qua, hoặc từ ao rồng. Ca-diếp thứ hai là từ núi đặt tên, thứ ba là từ sông đặt tên. Chánh Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến Kiếp Tân Na”. Huyền Tán: Tiếng Phạm là Xá-lợi-phất-đát-la. Hán dịch âm Xá- lợi-phất là sai. Xá-lợi dịch là Thu, tức như chim Bá thiệt cũng là Xuân Anh. Phất-đát-la dịch là Tử. Vì mẹ có tài hùng biện như chim Thu, Xá- lợi-phất là con của bà, dùng mẹ nêu rõ nên gọi là Thu Tử. Lại nói: Quá khứ là người thợ gốm, gặp Phật Thích-ca phát nguyện làm đệ tử. Chẳng phải nay mới vậy, mà cũng hợp với nguyện xưa. Lại gọi là Ưu-ba-đề-xá, vì giỏi luận nghị nên gọi như thế. Tiếng Phạm là Ma-ha Một-đặc-già-la, hán âm Đại Mục-kiền- liên là sai. Hán dịch là Đại Thái Thúc Thị. Thời thượng cổ có vị Tiên ở trên núi vắng vẻ, thường hái rau đậu để ăn, do đó mà lấy làm họ. Đây là họ mẹ của Tôn giả, Ngài đắc đại thần thông, để phân biệt với người họ này nên gọi là họ Đại Thái Thúc. Theo tên cha vốn là Câu-lợi-ca, hán âm là Câu-cúc-đa, trước kia âm Câu-luật-đà là sai. Kinh Đại Bát-nhã chép: Ngài Xá-lợi-tử và họ Đại Thái Thúc, đây là hai nhân duyên như trong Di-lặc sớ chép. Tiếng Phạm là Ma-ha-ca-đa-diễn-na Hán âm Ca-chiên-diên là sai. Kinh Đại Bát-nhã chép: Đại Ca-na-diễn-na, Hán dịch là Đại Tiển Thế Chủng nam. Tiển Thế Chủng là họ Bà-la-môn. Thời thượng cổ có nhiều vị Tiên tu trong núi lâu năm, rấu tóc rất dài, không có cắt. Theo pháp Bà-la-môn là ô thế phát (tóc tai dơ bẩn). vị Tiên có hai người con, đều đến thăm cha. Người con nhỏ liền cắt tóc cho các vị Tiên. Các tiên chú nguyện cho sau sẽ trở thành bậc tiên quý. Bấy giờ mọi người đều gọi người này là Tiễn Phát. Thân Tôn giả có uy đức đặc tôn của nam tử. Để phân biệt với họ khác nên gọi là Đại Tiển dịch chủng nam. Lại bên Tây Vức cũng có người lấy họ mẹ, nay nêu vị này lấy họ cha nên đặt tên Nam. Xưa dịch là Thằng Phiến. Người mẹ vì thương con nên không chịu cải giá, như dây buộc quạt, nên gọi là Thằng Phiến. Ngài Chân-đế dịch là Tư Thắng, đều là không đúng. Tiếng Phạm là A-nê-luật-đà, Hán dịch là Vô Diệt, là em họ của Phật, dịch A-nậu-lầu-đà là sai. Kiếp-tân-na hán dịch là Phòng Túc. Vì Phật ngủ chung một phòng với ông, hóa thành vị Tỳ-kheo nói pháp cho nghe. Do đó mà đắc đạo, nên dịch là Phòng Túc, hoặc dịch là Phòng Tinh. Vì khi sao phòng hiện thì sanh ra nên gọi là Phòng Tinh. Chánh Kinh: “Kiều-phạm-ba-đề…….. Ma-ha-câu-hy-la.” Huyền Tán: Tiếng Phạm là Cấp phòng Bát-để. Hán dịch là Ngưu Tướng. Hán dịch âm Kiều-phạm-ba-đề là sai. Vào thời quá khứ do nhặt một ít lúa bị rơi xuống đất mà phải trải qua năm trăm đời làm trâu để đền trả cho người. Nay tuy được thân người vẫn còn mang tướng trâu , nhai cỏ, nên còn gọi là Ngưu Tướng Tỳ-kheo. Tiếng Phạm là Hiệt-ly-phạt-đa, Hán dịch là Thất Tinh, là một ngôi sao ở phương Bắc. Vì cha mẹ cầu tự mà sanh được ngài nên lấy đó đặt tên. Hán Dịch âm Ly-bà-đa là sai. Có bản dịch là Giả Hòa Hợp. Tức trong Luận Trí độ nói việc hai con quỷ ăn thịt người. Tiếng Phạm là Tất-lan-đà-phiệt-tha. Hán dịch là Dư Tập, Hán dịch âm Tất-lăng-già-bà-tha là sai, vị này trong năm trăm đời làm Bà- la-môn tánh xấu lời nói thô tháo. Nay tuy đắc quả mà tập khí vẫn còn, như mắng vị thần sông Hằng, nên gọi là Dư Tập. Tiếng Phạm là Bạt-củ-la. Hán dịch là Thiện Dung, hán dịch âm Bạt-câu-la là sai. Sau khi Phật Tỳ-bà-thi nhập diệt, có một Tỳ-kheo bị bịnh đau đầu. Bấy giờ Thiện Dung là một người nghèo cúng dường trái Ha-lê-lặc cho Tỳ-kheo bịnh, Tỳ-kheo ăn xong bịnh liền khỏi. Do cúng thuốc mà trong chín mươi mốt kiếp sanh vào cõi trời người thọ phước đức vui sướng. Nay sanh trong nhà Bà-la-môn, mẹ mất sớm. Người mẹ sau đã tìm cách giết ông năm lần mà không chết. Về sau xuất gia đắc quả A-la-hán, cho tới khi tám mươi tuổi không hề bị nhức đầu. Mắt không nhìn người nữ, cũng không vào chùa Ni. Không từng nói pháp cho người nữ một câu nào. Sau vua Vô Ưu xây tháp cúng dường, biết vị này thiểu dục nên cúng cho một đồng tiền. Nhưng tháp hất đồng tiền ra đất không nhận. Mới biết hạnh thiểu dục của người. Trong Phó Pháp Tạng Truyện cũng có nói việc này. Tiếng Phạm: Ma-ha-câu-sắt-só-la. Hán dịch là Đại Tất, Tất Cái, Hán dịch âm Câu-hy-la là sai. Vị này là cậu của ngài Xá-lợi-phất. Nhờ luận nghị với Phật, giác ngộ đắc quả, như trong luật có nói. Chánh kinh: “Nan-đà cho đếnLa-hầu-la.” Huyền Tán: Tiếng Phạm Nan-đà dịch là Hỷ. Vốn là người chăn trâu. Nhờ hỏi, Phật mà biết: Người chăn trâu có mười một việc, biết Phật có Nhất thiết trí. Được đắc quả A-la-hán là người thông minh âm thanh thật tuyệt diệu. Tiếng Phạm là Tôn-đạt-la Nan-đà. Hán dịch là Diễm Hỷ, dịch âm Tôn-đà-la là sai. Diễm là tên người vợ, có nhan sắc rất xinh đẹp khó ai sánh bằng. Hỷ là tên Ngài để phân biệt với Ngài Nan-đà chăn trâu ở trước nên gọi là Diễm Hỷ là sự vui mừng tốt đẹp. Đây là em bà con với Phật, thân cao một trượng năm thước hai tấc. Khi Phật đến Thành cũ ở hai ngày độ cho là chỗ sanh của Đại Thắng sanh chủ. Tiếng Phạm: là Bổ-thứ-nô-mai-đát-lợi-duệ-ni-phất Đát-la. Hán dịch là Mãn Từ Tử, dịch Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử là sai. Mãn là tên. Từ là họ mẹ. Mãn Tôn giả này là con của Từ Nữ. Hoặc Mãn và Từ đều là tên mẹ, gọi là Mãn Từ Tử. Tiếng Phạm: là Tô-bổ-để hán dịch là Thiện Hiện, xưa âm là Tu- bồ-đề, dịch Thiện-kiết là sai. Tiếng Phạm là A-nan-đà, hán dịch là Khánh Hỷ. Nếu gọi A-nan, dịch là Vui mừng, là sai. Khi Thế tôn thành đạo thì họ hàng nội ngoại đều mừng vui, lúc đó Ngài mới sanh ra nên đặt tên Hỷ. Tiếng Phạm là La-hộ-la Hán dịch là Chấp Nhật (che mặt trời). Xưa âm là La-hầu-la dịch Chướng tế là sai. Trong chín vị này: Ma-ha- ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nậu- lâu-đà, Phú-lâu-na, Di-đa-la-ni-tử, Tu-bồ-đề, A-nan, và La-hầu-la… như trong kinh Vô Cấu Xứng, sớ phẩm Thanh văn, quyển ba, quyển tư. Có nói đầy đủ nguyên nhân sợ văn rườm rà nên không kể hết ra đây. Chánh Kinh: “Như Thị cho đến Đại A-la-hán v.v…” Huyền Tán: Kết luận bậc cao đức nổi tiếng. Luận chép: Chư Vương, Vương Tử, Đại Thần, nhân dân, Đế-thích, Phạm thiên vương v.v… đều là tri thức. Lại Thanh văn, Bồ-tát, Phật… đều là bậc Thắng trí vì đều khéo biết. Gọi mọi người đều biết đầu tiên là giải thích sự sang, hèn mà đại chúng được biết, sau là giải thích bậc Thánh đại tiểu mà chúng biết. Trong kinh Vô Cấu Xứng nói đều là tất cả chúng đối với họ đều biết gồm, đủ hai nghóa này. Nêu ra hai mươi mốt vị để so sánh với nhiều người khác, nên gọi là vân vân. Đều gọi là đại, Luận tự giải thích: Tâm được tự tại đến bờ kia nói “đẳng” là gọi chung các vị A-la-hán, và đẳng không phải A-la-hán, vì A-nan-đà chỉ là sơ quả. Chánh Kinh: “Lại có hai ngàn vị hữu học vô học”. Huyền Tán: Phần hai nói về các đại đức vô danh. Ba thứ Giới, định, tuệ chính là thể của hữu học. Người đang tiến hướng tu tập thì gọi là Hữu học. Tiến đến viên mãn dừng nghỉ tu tập thì gọi Vô học, chỉ lấy pháp vô lậu làm thể. Chánh Kinh: “Ma-ha Ba-xà-bà-đề ……. sáu ngàn vị.” Huyền Tán: Phần ba: là Tôn trọng các chúng ni. Tiếng Phạm là Ma-ha Bát-thích-xà-phệ-để, dịch là Đại Thắng sanh chủ. Phật có ba người mẹ đây là tiểu mẫu. Đại mẫu sanh ra Phật, bảy ngày thì mất. Vì ni sư này nuôi dưỡng Phật, và là chị em của mẹ Phật nên gọi là Di mẫu. Đại Thắng sanh chủ vốn là tên của Phạm vương. Vì tất cả chúng sanh đều là con của Phạm vương, do đó mà đặt tên đó. Lại tất cả đệ tử Phật đều gọi là Đại sanh. Thánh chúng ba thừa gọi là Thắng sanh. Do bà nuôi dưỡng Phật nên gọi là Đại Thắng sanh. Chủ của Đại Thắng sanh thì gọi là Đại Thắng sanh chủ. Tuy từ việc kia mà gọi tên, nhưng cũng từ nghóa mà được. Xưa dịch là Ba-xà-ba-đề, dịch Đại Ái Đạo là sai. Nhân duyên độ bà như trong Luật có nói. Chánh Kinh: “Mẹ của La-hầu-la cho đến cũng cùng quyến thuộc.” Huyền Tán: Phần tự là nói về các Ni chúng nội quyến thuộc. Tiếng Phạm: là Da-đường-đạt-la. Hán dịch là Trì-dự, Da-thâu- đà-la là sai. Vì bà hình dung xinh đẹp xa gần đều biết. Sanh và nuôi dưỡng La-hầu-la, hàng trời người đều ca ngợi nên gọi là Trì Dự. Dự là tiếng khen ngợi. Tương truyền: Là Càn-thát-bà nữ. Sanh con là lạc thần, sanh con gái là ngọc nữ. Nếu gọi là ngọc nữ vì sao lại có con lại sau khi Phật xuất gia, cha mẹ bà muốn con trở về rõ ràng chẳng phải ngọc nữ. Các kinh Vị Tằng Hữu, Tu-đạt-noa, Thụy Ứng đều cho rằng La-hầu là con của Cù-di. Phật có ba vị phu nhân: Một là Cù-di, hai là Da-thâu, ba là Lộc-dã. Mỗi bà đều có hai muôn thể nữ. Cù-di không con là ngọc nữ. Kinh ấy lấy trưởng mẫu đặt tên, cũng không quá đáng. Lại trong kinh nói Phật có ba người con: Thiện tinh. Ưu-bà-ma-da. La-hầu. Cho nên, kinh Niết-bàn chép: “Tỳ-kheo Thiện Tinh là con một vị Bồ-tát tại gia.” Hai đoàn Ni chúng trên đều được xuất gia. Đạo hạnh lâu thành, ít nghe pháp mầu. Người có duyên đều đến quyến thuộc cùng hội. Tăng Giác Ấn - chùa Pháp Long Bắt đầu viết từ ngày mùng 8 tháng 2 niên hiệu Bảo An thứ ba (Đinh Dậu) <篇> HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 2 PHẦN ĐẦU Chánh Kinh: “Bậc đại Bồ-tát tám muôn vị. Huyền Là phần năm nêu chúng Thánh đức khó nghó bàn, Văn có ba phần: Nêu các loại học số. Khen đức. Nêu tên. Phần đầu: Tiếng Phạm là Bồ-đề Tát-đỏa-ma-ha-tát-đỏa, nói lược là Đại Bồ-tát. Bồ-tát tu hành lược có hai môn: Một là tự lợi lấy đại trí làm đầu. Hai là lợi tha, lấy đại bi làm trước. Bồ-đề nghóa là giác, là quả mong cầu của trí. Tát-đỏa nghóa là hữu tình, là chỗ độ sanh của tâm từ bi. Nương theo lời hoằng nguyện nên gọi là Bồ-tát, lấy hai việc này làm cảnh gọi là Bồ tát, đây là hữu tài thích. Lại , Giác là quả mong cầu. Hữu tình là tự thân; hữu tình cầu Tam- bồ-đề, nên gọi là Bồ-tát. Hoặc Bồ-đề là quả mong cầu. Tát-đỏa nghóa là mạnh mẽ, không sợ xứ, thời cầu đại Bồ-đề mà có chí có khả năng gọi là Bồ-tát. Cả hai đều là y chủ giải thích. Lại Bồ-đề tức là Bát-nhã. Tát-đỏa nghóa là phương tiện. Hai pháp như thế có thể làm lợi lạc cho tất cả hữu tình, nên gọi là Bồ-tát. Cũng gọi là Bồ-đề cũng gọi là Tát-đỏa, hoặc giải thích đầu tiên đều là theo trì nghiệp thích. Ma-ha nghóa là Đại (lớn). Tát-đỏa nghóa như trước. Bồ-tát ở đây chỉ cho hàng Bát địa trở lên. Vì để phân biệt với Tiểu thừa ở trên và Nhị thừa nên gọi là Ma-ha-tát. Luận Bát-nhã của Vô trước chép: Các Bồ-tát có bảy thứ “Đại”. Ở đây “Đại chúng sanh” gọi là Ma-ha-tát-đỏa. Như trong Bồ-tát Địa nói, đến chương Đại thừa ở sau sẽ nêu riêng đầy đủ. Chánh Kinh: “Đều không còn lui sụt đối với quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề không lui sụt. Huyền tán: Từ đây xuống là phần thứ hai khen đức. Có mười ba câu: Luận theo hai môn giải thích. Chi trên, chi dưới. Nhiếp lấy sự. Chi có nghóa là phần. Phần chi trên là Tướng chung. Phần chi dưới là Tướng riêng cho nên Luận chép: “Nên biết A-nậu-đa-la Tam- miệu Tam-bồ-đề không lui sụt” đó là Tướng chung, các phần còn lại là Tướng riêng. Đây nói Tướng chung: Thể của Vô thượng Chánh giác tức là quả vị Phật, gồm có năm pháp. Nghóa là Tịnh pháp giới và bốn phẩm trí tâm. Luận Kim Cương Bát-nhã của Vô Trước chép: A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề là nói về Bồ-đề và đạo Bồ-đề. A-nậu-đa-la là nói về tự Tướng Bồ-đề, là Tướng giải thoát. Tam-miệu Tam-bồ-đề: Chỉ rõ Bồ-đề là tướng bình đẳng của người, vì pháp Bồ-đề nên đắc trí “Phật này”. Đại Luận Trí độ chép: Trí và trí xứ đều gọi là Bát-nhã. Bồ-tát địa chép: Bồ-đề, Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề. Vậy nên chữ A nghóa là Vô. Nậu-đa-la nghóa là Thượng. Tam là chánh. Chữ Miệu dịch là Đẳng. Lại Tam nghóa là chánh. Bồ-đề là giác, tức nghóa là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ở đây có bốn thứ giác: Vô thượng giác là gọi chung: Tức nói Bồ-đề là pháp giới thanh tịnh. Chánh giác để phân biệt với tà giác của ngoại đạo. Đẳng giác: Để phân biệt với Nhị thừa chỉ hiểu được sanh không, giác thiên lệch. Cũng gọi là Chánh giác: Để phân biệt với Bồ-tát. Vì sự giác ngộ của Bồ-tát chưa đầy đủ nên quả vị chưa phải là Chánh giác. Đây là nói về Bồ-tát đạo, tức bốn phẩm trí. Một chữ Giác ở dưới quán thông cả bốn giác trên. Một chữ Giác này đầy đủ cả ba giác kia, tất cả đều chẳng ngoài đây, dụ cho nghóa vượt khắp. Chân lý đã giác ngộ gọi là Vô thượng giác. Nhưng trong kinh luận thường nói chân lý là thể của Vô thượng Bồ-đề, là nói theo căn bổn. Nay lấy cả hai Lý và Trí của quả vị Phật đều gọi là Vô thượng Bồ-đề. Đối với hai quả này đều không lui sụt. Sao gọi là không lui sụt? Do đầy đủ mười nhân không lui sụt như nói phần dưới, nên đối với quả Phật có khả năng không lui sụt quyết định sẽ chứng quả Phật, niệm niệm tiến tu gọi là không lui sụt. Thoái nghóa là mất. Chuyển là động. Từ Bát địa trở lên, tùy ý vận dụng tiến tu ở quả Đại Bồ-đề, tu tập không lui sụt, không có phiền não, lại không bị các tướng hữu công dụng khuấy động, nên gọi là không lui sụt. Do đây Bát địa còn gọi là Bất động địa, các tướng dụng phiền não không thể khuấy động. Nghóa lui sụt có bốn: Tín lui sụt: Thứ sáu trong Thập tín gọi là tâm lui sụt. Từ đây về sau không còn lui sụt sanh tà kiến. Vị lui sụt: Thứ bảy trong thập trụ là vị lui sụt. Từ đây về sau không còn lui sụt nhập vào người Nhị thừa. Chứng lui sụt: Từ hàng Sơ địa trở lên mới gọi là lui sụt, pháp được chứng đắc không bị thoái mất. Hành lui sụt: Từ Bát địa trở địa trở lên là bất động địa. Đều có thể tu các pháp hữu vi, vô vi. Nay, các Bồ-tát này đều đã chứng bát địa trở lên. Nói: “Ở nơi quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không lui sụt,” tức quyết định sẽ chứng đắc, nên lui sụt không phải là nghóa không chuyển. Lại nghóa lui sụt có hai: Một là: lui sụt pháp đã đắc: Sơ địa tức pháp đắc. Hai là: lui sụt pháp chưa đắc: Tức bát địa mới đắc. Vô thượng Chánh giác là pháp chưa đắc. Từ Bát địa trở lên mới có thể không lui sụt. Tâm mong cầu Chánh giác, tiến tới không bị lay chuyển, tùy vận dụng trong dòng pháp chuyển, gọi là không lui sụt. lui sụt ở đây tức là không chuyển. Chánh Kinh: “Đều đắc Đà-la-ni… chuyển nói pháp luân, không lui sụt. Huyền Tán: Phần chi khác ở dưới có mười hai câu. Chia mười loại thị hiện ra làm hai: Chín câu đầu nói tự lợi, một câu sau nói lợi tha. Chín câu đầu chia làm hai: Tám câu nói về đức hữu vi. Một câu nói về đức vô vị. Tám câu đầu lại chia làm hai: Năm câu nói về phước tuệ, ba câu nói bi trí. Năm câu phước tuệ lại chia làm hai: Ba câu trước là nội hành, hai câu sau là thiện duyên. Nội hành lại có ba: Huân tu tự lợi. Lợi tha. Lợi pháp. Trong phần thiện duyên cũng có hai: Gặp duyên tu hành. Khen ngợi sự tốt đẹp và trừ nghi. Ba câu nói bi trí: Một câu đầu là từ bi, hai câu sau là trí tuệ. Trong đây có ba câu: Một là: Trụ nghe pháp không lui sụt nghóa là câu “đều đắc Đà-la-ni”. Đà-la-ni Hán dịch là tổng trì. Nghóa Tổng trì có hai: 1) Nhiếp; 2) Tán. Nhiếp là trì. Ở đây chính là văn trì. Nghe ở văn nghóa, nhậm trì không quên nghóa là năng trì điều được nghe, đó gọi là nhiếp. Nghe tức là tổng trì, là thể của niệm tuệ . Kinh Thập địa nói: Bồ-tát từ Bát địa trở lên, đối với tất cả pháp đều có thể kham nhận, suy nghó, thọ trì. Luận ấy giải thích rằng: Kham nhận là văn tuệ, suy nghó là tư tuệ, trì là tu tuệ, trong một Tu tuệ mà chia làm ba dụng. Tán có nghóa là thí ở đây có bốn loại: Pháp. Nghóa. Năng đắc của nhẫn Bồ-tát . Minh chú. Thí cho chúng sanh. Trong đây có hai loại: Năng trì: Tức là văn trì. Sở trì: Gồm bốn loại còn lại. Lại chia ra làm hai: Tự lợi văn trì v.v… Bốn loại pháp nghóa… là nhân quả khác nhau. Hai là Nhạo thuyết không lui sụt: Nghóa là nhạo thuyết biện tài. Biện tài tức là bốn biện, bảy biện mà ưa nói. Tứ biện là bốn vô ngại giải. Pháp vô ngại giải. Nghóa vô ngại giải. Hai pháp nghóa là lần lượt hiểu giải giáo lý trí tuệ không bị đuối lý. Từ vô ngại giải: Tức là giải thích ngôn âm các phương trí không đuối lý. Biện thuyết vô ngại giải: Tức là dùng thất biện tài nói pháp, trí không vướng đọng. Bảy biện là: lắp. chảy. Tiệp biện: Biện luận nhanh, khi cần nói thì nói, nói không trùng Tấn biện: Nói lưu loát không đuối lý, như nước sông cuồn cuộn Ứng biện: Nói hợp thời cơ không thêm không bớt. Không sơ ý biện luận sai. Phàm khi nói các khế kinh không lầm theo tà thuyết. Biện luận không dứt: Nói liên tục cho đến cuối không hết ý. Những lời giảng nói đều có ý nghóa dồi dào, mỗi câu mỗi lời đều có nhiều sự lý. Biện luận nghóa mầu nhiệm vượt hơn tất cả nghóa thế gian sâu xa đầy đủ như sấm sét nổ lúc trời trong sáng, từ xa nghe rõ năm thứ tiếng. Bốn vô ngại giải có giải thích trong phẩm Phương Tiện, thường dùng trí hậu đắc và trí chánh thể làm thể. Vì ngại duyên khởi lên. Ba là: Nói không lui sụt: Nghóa là chuyển nói pháp luân không lui sụt. Pháp luân là pháp sở thuyết, thường nói pháp không lui sụt này. Nghóa là chuyển như bốn vị trước, hai loại pháp không lui sụt nên gọi là chuyển bất pháp bất chuyển. Lại nữa, kinh Di-lặc Sở Vấn có nói: Thuyết tự phần công đức gọi là Xoay bánh xe lui sụt. Thuyết ngoại phần công đức thì gọi là xoay bánh xe bất chuyển. Lại nói trí gọi là lui sụt. Nói phúc gọi là bất chuyển; lại nói Bát- nhã là bất chuyển, phương tiện gọi là bất chuyển; lại sự hữu vi là bất chuyển, gọi lý Vô vi gọi là bất chuyển. pháp này như bánh xe lăn nên gọi là pháp luân. Luân có ba nghóa: Một là viên mãn, nghóa là tám chánh đạo v.v… Trục xe, vành xe, căm xe đều viên mãn. Hai là nghóa bất định: Phật từ lúc kiến đạo, chuyển sanh Tu đạo, từ tu đạo sau sanh vô học đạo. Tự đắc đạo rồi lại người nói pháp, cho an trí Thánh đạo ở trong thân chúng sanh. Như vậy lần lượt khiến cho người đắc quả Thánh rồi, lại nói pháp cho người nghe. Vì bánh xe thí dụ bất định nên gọi là luân. Ba là nghóa phá hoại, bọ ngựa có thể bị bánh xe nghiền nát. Thánh đạo ở trong tâm có công năng phá hoại phiền não, phá phiền não chưa phục, trấn áp phiền não đã phục như xe báu của vua. Cho nên dụ như bánh xe. Bánh xe Pháp có năm: Luân tự tánh: Là trạch pháp giác chi, chánh kiến … Pháp luân nhân: Có thể sanh ra các Thánh đạo như Giáo, văn, tư v.v… Luân quyến thuộc: Thánh đạo giúp đỡ các pháp như năm uẩn. Cảnh pháp luân: Lý tứ đế… là sở duyên của Thánh đạo. Quả pháp luân: Nhờ đạo mà chứng Niết-bàn, Bồ-đề, chuyển là nói. Pháp đã gọi là luân, thuyết cũng gọi là chuyển. Nay tùy theo sở ứng nói Bát địa trở về hành năm pháp luân của vị lui sụt này, nên gọi là chuyển. Lại năm thể này tức là bốn pháp: Giáo, lý, hạnh, quả đều gọi là pháp luân. Chuyển nghóa là động, là hiển, là vận, là khởi. Động tuyên ngôn giáo, hiển dương diệu lý. Vận Thánh đạo ở tiếng trước mà khởi chân trí ở nói sau, phá trừ hết chướng não nên gọi là Xoay bánh xe. Trong phẩm Phương tiện có nói đầy đủ. Chánh Kinh: “Cúng dường vô lượng… ngợi khen… Huyền Tán: Có ba câu: Hai câu đầu hợp thành “Y chỉ thiện tri thức không lui sụt của câu thứ tư. Cúng dường vô lượng Chư Phật, đối với các Đức Phật trồng các cội công đức”. Luận gọi là “Trồng các gốc lành”. Vì nghiệp thân tâm của mình nương vào sắc thân thu nhiếp. Bồ- tát tu hành chẳng qua từ thân tâm. Nay nêu ra nghiệp thù thắng của sắc thân cúng dường Chư Phật, để trồng sâu các gốc đức nhiếp lấy, tất cả các nghiệp thiện của tâm mình. Cúng dường có mười loại như Bồ-tát địa nói: Hiện tiền cúng dường: là cúng dường trước tất cả Tam bảo, Xá lợi, Phật, và Tháp… Không hiện tiền cúng dường: Đối với các tháp Phật khác đều tưởng niệm Phật bình đẳng, tu sửa lễ nghi cúng dường không hiện tiền. Hiện tiền không hiện tiền cúng dường: Khi đối trước tháp Phật… lại nghó: Pháp tánh bình đẳng của một tháp Phật là pháp tánh bình đẳng của tất cả tháp Chư Phật ba đời mười phương. Cúng dường một tháp Phật, tức là cúng dường tháp Chư Phật ba đời mười phương, đó là tu cúng dường hiện tiền không hiện tiền. Đối với các đối tượng như thế chỉ tự cúng dường. Hoặc khởi tâm từ bi, tùy sức, của cải bố thí cho người nghèo khổ, nguyện cho họ được an vui, cũng khiến người khác cúng dường. Đều cúng dường: Tự mình đã làm lại khuyên người khác thực hành pháp cúng dường này. Tài, kính cúng dường: Dâng các loại hương hoa cung kính. Cho đến đem các thứ như báu quý sửa soạn của cải cung kính cúng dường. Cúng dường rộng lớn: Tức là đem của cải, sữ cung kính lâu ngày, nhiều điều tốt đẹp cho đến tịnh niệm hồi hướng quả Bồ-đề. Tự mình quyên góp xin được tài vật của người, phát nguyện tưởng hóa thành trăm ngàn thân, cung kính lễ bái. Mỗi hóa thân xuất ra trăm ngàn cánh tay rải các hương hoa, phát ra trăm ngàn âm thanh ca hát, xưng tán công đức. Lại xuất ra vật cụ trang nghiêm để cúng dường. Trong châu Thiệm bộ cho đến cõi nước mười phương đều tùy hỷ cúng dường. Tuy ít có dụng công mà phát tâm cúng dường rộng lớn vô biên. Cúng dường vô nhiễm: Không đem các vật khinh mạn dối trá bất tịnh buông lung, mà tu vô nhiễm cúng dường. Chánh hạnh cúng dường: Nếu tu bốn Vô lượng trong khoảnh khắc. Cho đến tu ít thời tín nhẫn là nói pháp tánh chân như, khởi tâm vô tướng vô phân biệt trụ, tức là Bồ-tát giữ gìn tịnh giới. Cho đến tu hành bốn nhiếp sự, tu chánh hạnh cúng dường, nên nghó đây là trên hết tối diệu, tức cúng dường gấp trăm ngàn muôn lần cúng dường hơn trước không thể ví dụ. Lúc tu cúng dường nên nghó: Như lai là ruộng phước lớn có đầy đủ đại ân đức, là bậc tối tôn khó gặp trong chúng hữu tình, là bậc xuất chúng duy nhất làm y chỉ. Phật đã như vậy, đối với Pháp, Tăng cũng như vậy. Như trong u Tám quyển thượng có nói. Chữ chúng có cả hai âm bình và khứ. Dứt tất cả nghi không lui sụt: Là câu thứ năm “Thường được Chư Phật khen ngợi. Do chư Bồ-tát từ hàng Bát địa trở lên, cho đến dứt hết các nghi lý sự. Hai nghi phiền não, sở tri đều dứt. Cho nên ở quả vị Bát địa gọi là địa Quyết định. Cho đến thường được Chư Phật khen ngợi, hoặc do Phật khen ngợi có thể đoạn các nghi. Nghi Bồ tát trụ ở ngôi vị nào? Chứng đắc gì? Nay nói rõ quả thượng vị và chỗ đắc chứng, nên dứt hết các nghi. Chánh Kinh : “Đem lòng từ tu thân cho đến bờ kia”. Huyền Tán: Trong đây có bốn câu. Câu thứ sáu: Là vì việc gì mà nói pháp kia, đây nhập vào các việc kia không lui sụt. Nghóa là đem lòng từ tu thân. Luận chép: Đem tâm đại từ bi mà tu thân tâm. Ở đây giải thích lý do các Bồ tát vì việc gì; ngoài vì người nói pháp, bên trong chứng đắc các pháp, dùng pháp đại từ bi huân tu vào thân tâm, cứu khổ ban vui. Nói về hai lợi hành trì chỉ vì lòng từ bi đều có ba như phần dưới có nói. Câu thứ bảy: Vào cảnh giới nhất thiết trí như thật không lui sụt: Nghóa là “khéo nhập vào Phật tuệ”. Ở đây nói diên đảo thì nên nói: Nhập vào cảnh giới như thật Nhất thiết trí không lui sụt, tức là nhập vào trí quán chiếu, cùng câu thứ chín ở dưới có khác nhau. Nếu nương vào luận văn thì không khác. Câu thứ tám: Y ngã không, pháp không không lui sụt. Thông đạt được đại trí, đạt được hai ngã vô trí. Câu thứ chín: Nhập vào cảnh giới như thật không lui sụt. Đạt đến chỗ Phật tánh tận cùng ở bờ kia. Chánh Kinh: “Danh tiếng vang khắp cho đến trăm ngàn chúng sanh”. Huyền Tán: Ở đây có hai câu, họp lại thành một. Câu thứ mười: Chỗ làm nên làm gìn giữ không lui sụt. Danh tiếng vang khắp vô lượng thế giới. Có thể gìn giữ Phật pháp không để mất. Chúng sanh nghe tiếng đều tín hướng tu học. Hóa độ vô số trăm ngàn chúng sanh, nên gọi là nên làm việc phải làm. Việc Bồ-tát nên làm là làm lợi lạc cho chúng sanh. Phần trên là nói chi trên chi dưới. Phần dưới là nói nhiếp lấy sự. Luận có hai giải thích. Luận về nhiếp sự: Là nhiếp lấy các việc công đức. Đầu tiên giải thích chỉ cho biết hiện các Bồ tát trụ ở địa thanh tịnh nào? Nhân vào các phương tiện nào? Ở trong các cảnh giới nào mà làm điều nên làm? Đây là nêu chung, luận dưới nhắc lại giải thích trong mười ba câu, chia ra làm ba. Ở trong câu một nói Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không lui sụt, là trụ vào cảnh giới thanh tịnh nào? Kế là có mười câu là nhân thuộc phương tiện nào? Hai câu sau là trong cảnh giới nào để làm việc nên làm. Luận nhắc lại trong giải thích chỉ giải thích hai câu đầu nêu, không giải thích câu thứ ba. Địa thanh tịnh là ba địa từ Bát địa trở lên. Vì hành vô tướng vắng lặng thanh tịnh, trong đây dùng lý vô tướng tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ba địa sau đều ở nơi hành vô tướng, nhậm vận vắng lặng lìa chướng được thanh tịnh, gọi là không lui sụt. chẳng phải là lui sụt với các cấu nhiễm hữu tướng. Câu thứ hai là nhân vào phương tiện nào? Có bốn loại: Nhiếp lấy pháp mầu phương tiện. Nhậm trì pháp mầu dùng lực nhạo thuyết vì người mà nói pháp. Đây nhiếp cả ba câu. Nhậm trì diệu pháp là đều đắc Đà-la-ni. Do đắc diệu pháp văn trì nhậm trì khiến không để xa lìa, trụ vào tự tâm không quên, nên gọi là nhậm trì. Dùng lực nhạo thuyết là nhạo thuyết biện tài. Nói người nghe là xoay bánh xe không lui sụt đây là vì người nói pháp không lui sụt. Nhiếp lấy thịên tri thức phương tiện: Vì nương vào thiện tri thức làm những việc nên làm. Đây nhiếp ba câu. Vì nương vào thiện tri thức là cúng dường vô lượng trăm ngàn Chư Phật. Làm những việc nên làm: Đối với Chư Phật gieo trồng các gốc công đức. Gốc đức tức là gốc lành, là điều nên làm. Do đây thường được Chư Phật khen ngợi. Nhiếp lấy phương tiện chúng sanh. Vì không xả bỏ chúng sanh. Đây là nhiếp một câu, dùng lòng từ tu thân. Do lòng từ bi huân tập thân tâm, không xa lìa chúng sanh, thường hay cứu độ. Nhiếp lấy trí phương tiện: Giáo hóa chúng sanh để cho họ thâm nhập vào trí kia. Đây là nhiếp ba câu. “Khéo thâm nhập vào tuệ Phật, thông đạt đại trí, đến nơi bờ kia.” Do tự có ba trí mà có thể khiến cho chúng sanh nhiếp giữ lấy ba trí. Tự thành tựu ba trí: là các chúng sanh nhiếp giữ lấy nhân của ba trí. Trí đầu tiên là trí biết như thật, là trí tự lợi. Trí kế tiếp là trí tri sự, trí lợi tha. Trí sau là trí chân lý , trí thật tánh . Trong luận chỉ giải thích hai câu đầu này, không giải thích ở cảnh giới nào mà làm việc nên làm. Đây là nhiếp hai câu. “Tiếng tăm vang xa khắp vô lượng thế giới” là các cảnh giới nào? “Năng độ vô số trăm ngàn chúng sanh” là việc nên làm. Do Bồ-tát có đủ ba trí này nên tiếng tăm vang xa khắp các thế giới mười phương. Có thể ở trong vô lượng thế giới này, độ trăm ngàn chúng sanh làm những việc cần làm. Độ chúng sanh là việc nên làm của Bồ- tát. Câu đầu nói xong, kế là câu thứ hai. Lại có nhiếp lấy sự, là nói hiện trong các địa, nhiếp lấy các công đức thù thắng, không đồng công đức Nhị thừa. Thế nên hai câu này là nêu chung, ở dưới có giải thích riêng. Hai câu là: Nói hiện trong các địa. Nhiếp lấy công đức cao quý không đồng với công đức của Nhị thừa. Vậy nên trong mười ba câu, bốn câu đầu là nói hiện ở các địa. Chín câu sau là nhiếp lấy công đức cao quý. Bốn câu đầu là nói hiện trong các địa là: Câu một là nói Bồ-đề Vô thượng không lui sụt, là Bát địa, kế hai câu là Cửu địa. Câu ba là Thập địa. Thế nên trong luận giải thích nói hiện trong các địa: Bát địa trí vô công dụng không đồng địa trên, dưới. Không đồng địa dưới là: Công dụng địa dưới hành không thể động. Không đồng địa trên là: Địa trên vô tướng hành không thể động, là tự nhiên mà hành. Địa trên là hành hạnh vô tướng thù thắng. Địa dưới là hành hạnh công dụng yếu kém. Trong Duy thức giải thích Bất động địa là: Tướng dụng phiền não không thể động; Luận này giải thích là không lui sụt. Nghóa là công dụng bất động, hành Vô tướng bất động, nhậm vận tiến tu cùng chứng Không, Hữu, không bị hai làm động gọi là không lui sụt. Ở trong Cửu địa đắc Thắng tấn môn Đà-la-ni, đầy đủ bốn vô ngại giải thoát, tự tại. Cửu địa đắc Văn trì đầy đủ thì gọi là thắng tiến. Đầy đủ thất biện vì người mà nói pháp. Trước ở tam địa tuy đắc được Văn trì vẫn còn chưa viên mãn. Nay nói vị viên mãn ở thập địa, xoay bánh xe không lui sụt, được thọ vị thật như Chuyển luân vương. Vì địa thứ tám, thứ chín, thứ mười đồng chỉ rõ hiện trong các địa, nên luận tự kết rằng: Chín câu dưới nhiếp lấy công đức. Ba địa trên cũng đều đắc được. Giải thích nhiếp lấy công đức thù thắng: Chỉ rõ hiện nương vào pháp nào? Nương vào tâm nào, nương vào trí gì? Nương vào cảnh giới gì mà hành trì? Nương vào đâu mà có thể làm xong? Đây có năm câu: Luận câu đầu là nêu ra, trở xuống tự giải thích riêng: Nương vào pháp nào là nhiếp lấy ba câu. “Cúng dường vô lượng trăm ngàn Chư Phật. Ở chỗ Chư Phật trồng các gốc công đức. Thường được Chư Phật khen ngợi công đức. Luận nói nương theo vào thiện tri thức. Nương vào tâm nào là nhiếp một câu: “Đem đức từ tu thân.” Luận chép: Ta nương vào tâm độ chúng sanh mà giáo hóa làm lợi ích rốt ráo cho tất cả chúng sanh. Các Bồ-tát thực hành đều nói tâm ta vì độ chúng sanh, hay nói ta dựa vào tâm chúng sanh, bởi rốt ráo có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Nương vào trí nào nhiếp lấy ba câu. “Khéo nhập vào Phật tuệ, thông đạt đại trí, đến nơi bờ kia.” Luận chép: Nương vào ba loại trí: Một là thọ ký mật trí: Là trí vì chúng sanh mà nói nghóa sâu kín. Ký là giải thích cho nghóa ký biệt, tức là câu khéo nhập Phật tuệ. Hai là thông trí: Là trí dùng đại thần thông làm lợi ích chúng sanh, tức là câu thông đạt đại trí.” Ba là chân thật trí: Là trí chứng đắc chân như, tức câu “đến nơi bờ kia.” Bờ kia chính là chân lý. Có thể đến là nghóa trí chứng đắc. Nương vào cảnh giới nào mà hành trì: Là một câu: “Danh tiếng vang khắp cả vô lượng thế giới. Các thế giới có hai: Khí thế gian. Hữu tình thế gian. Đều là cảnh giới tu hành của Bồ-tát. Nương vào đâu mà có thể làm xong là câu: “Có thể độ vô số trăm ngàn chúng sanh,” Bồ-tát đem ba trí ở trong cõi kia mà có thể làm các việc gì? Nghóa là có thể độ chúng sanh. Tùy theo sự phối hợp riêng biệt ở hai câu sau. Mà Luận chính giải thích: Nương vào cảnh giới nào mà hành trì. Nương vào đâu mà có thể làm, tức là nhiếp cả ba trí. Ý văn nói là: Dùng ba trí ở trong các cảnh giới có thể làm các việc lợi ích cho chúng sanh. Nói nhiếp ba loại trí, ở Hán dịch ý nói lược không đầy đủ. Ý cũng ắt như vậy. Chánh kinh: “Tên của các vị đó là… Bồ-tát Đắc Đại Thế.” Huyền tán: Trở xuống nêu tên có hai phần: Trước kể ra, sau kết. Hợp lại có mười tám vị Bồ-tát, đều lấy nguyện hạnh để làm tên, chia ra làm bảy ý đối. Ba vị đầu ở đây là đối với ý nghóa: “Cứu khổ cho vui”. Mạn-thù-thất-lợi dịch là Diệu-kiết-tường: Ban vui cho chúng sanh là ở thế giới Thường hỷ ở Bắc phương của Đức Phật Vui mừng Tạng Ma Ni Bảo Tích, chúng sanh nghe tên vị Phật này có thể diệt các bốn tội trọng. Lại nói: Thời quá khứ là Phật Long Chủng Thượng Trí Tôn Vương, cũng nói tương lai sẽ thành Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói: Ở núi Ngũ đài Thanh lương, cùng có một muôn vị Bồ-tát. Bồ-tát A-phược-lô-chỉ-đế-thấp-phiệt-la-da dịch là Quán Tự Tại: Quán ba nghiệp quy y mà cứu khổ chúng sanh, Hán dịch âm lược là Quán Âm. Kinh Quán Thế Âm thọ ký nói: Sau khi Phật Di-đà diệt độ, tiếp đến Ngài sẽ thành Phật, tên là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương. Phật này diệt độ rồi, đến Bồ-tát Đại Thế Chí sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Bồ tát Đắc Đại Thế: Những nơi Ngài đến thế giới rung chuyển có uy lực lớn, chúng sanh gặp Ngài tự nhiên dứt hết khổ, được vui thù thắng, có hai công năng như trước. Chánh kinh: “Thường tinh tấn Bồ-tát… đến Bồ-tát.” Huyền tán: Đây là đối với ý nghóa tự lợi, lợi tha, của hai Bồ tát thường tinh tấn tu hành làm cho chúng sanh được lợi ích, không biết chán mệt. Chánh kinh: “Bảo Chưởng… đến Bồ-tát.” Huyền tán: Ba vị Bồ tát này đối với đối với ý nghóa cứu giúp người nghèo khổ. Bồ tát Bảo Chưởng cứu chúng sanh nghèo khổ, trong tay xuất ra của báu. Bồ tát Dược Vương làm cây thuốc lớn, làm vua cứu trị các bệnh tật. Một Bồ tát Dõng Thí có thể thông hai việc trên. Mạnh mẽ bố thí tiền của và thuốc men, tức đều thu nhiếp hai thứ trên. Chánh kinh: “Bảo Nguyệt… đến Bồ-tát.” Huyền tán: Ba vị này là đối với ý nghóa dẫn dắt, ánh sáng phá trừ tối tăm. Bảo Nguyệt dẫn dắt trí sáng như mặt trăng lại soi sáng. Ánh sáng mặt trăng phá hết si ám, giống như Nguyệt quang, Mãn nguyệt có thể làm hai việc trên. Chánh kinh: “Đại lực… đến Bồ-tát.” Huyền tán: Hai vị này là đối với ý nghóa hai thần thông lớn, nhỏ. Do thể hiện thần thông là để cảnh tỉnh người có duyên khiến họ cùng phát tâm. Có thể làm rung chuyển trăm ngàn thế giới nên gọi là Đại lực. Có thể làm rung chuyển vô số thế giới nên gọi là Vô lượng lực. Chánh kinh: “Việt ba cõi… Bồ-tát.” Huyền tán: Đây là hai vị Bồ tát đối với ý nghóa lìa nhiễm, tiến thiện vượt qua ba cõi, hai cõi lìa nhiễm. Việt là nghóa lìa vượt qua. Bồ- tát Bạt-đà-bà-la dịch là Hiền Hộ, là bảo hộ giữ gìn thiện pháp không để cho mất. Chánh kinh: “Di-lặc… Bồ-tát.” Tán rằng: Đây là ba vị Bồ tát đối với ý nghóa thế gian, xuất thế gian. Di-lặc họ là Từ là cứu khổ sanh tử thế gian. Bồ tát Đạo sư, Bảo Tích là dẫn dắt đến bờ xuất thế. Bảo Tích dẫn dắt đến đạo quả Bồ-đề, tức Bồ-đề pháp bảo tích góp để cho chúng sanh. Đạo sư là đại Đạo sư dẫn dắt đến quả Niết-bàn viên tịch. Cho nên ba vị này hợp thành riêng để bảy ý nghóa đối. - Kinh: “Các vị Bồ tát như thế… cho đến tám muôn người đều hội.” Huyền tán: Đây là phần kết. Triệu Công nói: Các Bồ-tát này đều là vô sanh thân. Vô sanh thân nghóa không có chỗ nào không sanh nên gọi là vô sanh. Vì vô sanh cho nên đóng cửa ba cõi, không có chỗ nào không sanh nên thị hiện hình trong lục đạo. Kinh: “Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân… cho đến hai muôn thiên tử đều hội.” Huyền tán: Phần trên là năm chúng nội bộ. Phần dưới là mười chúng ngoại hộ. Trong đây nhân, phi nhân là hai. Trong phi nhân, có thiên phi, thiên là hai. Trong cõi Trời: Dục giới, Cõi Sắc là hai. Dục giới có ba: Đế-thích. Tứ Vương. Tự Tại. Hoặc nói Địa cư, Không cư là hai. Trong Địa cư có Đế-thích, Tứ Vương là hai. Đây là phần đầu (Đế-thích). Tiếng Phạm là: Thích-ca Đề-bà-nhân-đạt-la. Thích-ca là họ, Hán dịch là Năng, là Đề-bà thiên, là Nhân Đạt-la-đế vậy. Chánh nói: Năng Thiên Đế, Thích Đề Hoàn nhơn, dịch là Thiên Đế-thích đều là nói ngược sai. Vị trời này trụ ở đỉnh núi Diệu cao là Đế chủ của ba mươi ba cõi trời. Quá khứ gọi là Kiều-thi-ca dịch là Kiển Nhi, hoặc A-ma-bạt-đà dịch là Vô độc hại tức là nước Ma-kiệt-đà. Đây là nơi Đế-thích tu nhân trong quá khứ nên dụng làm tên nước. Nước kia xưa là xứ Chí cam lồ, tức từ kiếp sơ Đế-thích cùng đấu chiến với A-tu-la. Từ núi này xuất ra dòng sữa, đắc cam lồ dẫn đến nơi đây, nhân đó mà lấy tên. Thuở xưa Đế-thích có ba mươi hai người đồng làm bạn, có phu nhân Thiện Pháp, phu nhân Viên Sanh, phu nhân Vui mừng, phu nhân Thiết Chi, cùng tu thắng nghiệp. Cho nên sanh lên cõi trời, có Thiện pháp đường, cây Viên sanh, vườn Vui mừng, người nữ A-tu-la, phu nhân Thiết Chí. Các nhân duyên này như trong sớ Tông luận có nói. Chánh kinh: “Lại có Nguyệt thiên tử… cho đến cùng với một muôn thiên tử .” Huyền tán: Đây là Tứ vương chúng (chúng của bốn thiên vương). Tam quang là thuộc về Bốn thiên vương, không có ở cõi trời khác. Có kinh nói Quan Âm tên là Bảo Ý làm Nhật thiên tử, tức là Bảo Quang này. Đại Thế Chí tên là Bảo cát Tường làm Nguyệt thiên tử, tức Minh Nguyệt Thiên tử. Hư không tạng tên Bảo quang làm Tinh thiên tử. Đây là Phổ Hương. Nhật cung do Hỏa tinh, làm đường kính dài năm mươi mốt du-thiện-na. Nguyệt cung do Thủy tinh làm đường kính dài năm mươi du-thiện-na. Tinh cũng do Thủy tinh làm lớn nhấtlà mười tám, cho đến nhỏ bằng bốn câu-lô-xá; một câu-lô-xá dài hơn ba dặm. Các ngôi sao này ở trên hư không vây quanh bốn châu. Bốn đại thiên vương gồm: phương Đông trì quốc, phương Nam tăng trưởng, phương Tây Xú mục, phương Bắc đa văn, đều ở lưng chừng tầng thứ tư của núi Diệu cao. Cũng trụ ở đỉnh núi Thất kim. Tam Quang Tử Thiên cách mặt đất khoảng bốn muôn du-thiện-na. Về hình tướng thọ lượng, như các nơi khác đã nói. hội.” Chánh kinh: “Trời tự tại tử… cho đến ba muôn thiên tử đều Huyền tán: Không cư như trời, Dạ-ma thiên, Đổ-sử-đa thiên gọi là Trời tự tại tử. Cõi trời này đắc được dị thục quả tùy ý khởi niệm hơn hai cõi trời dưới. Hai cõi trời dưới, như quả dựa vào cây mà được, nay tùy ý muốn mà được, nên gọi là Tự tại. Lạc biến hóa thiên, Tha hóa trời tự tại gọi là Thiên trời tự tại tử, không lạc ở dị thục quả, mà lạc tự mình, lạc người khác biến làm công cụ lạc mà thọ dụng nên gọi là Đại tự tại. Lại giải thích Tha hóa thiên chủ gọi là Trời tự tại, chủ tứ thiền gọi là Trời Đại tự tại. Lại Trời tự tại là thần của Đế-thích. Đại Trời tự tại là thầy của Đế-thích. Như hai giải thích sau không có bốn, Không cư thiên, Trời Dục Dục. Chánh kinh: “Chủ thế giới Ta-bà… đến hai muôn thiên tử đều hội. Huyền tán: Trời Cõi Sắc này, Tiếng Phạm là Sách-ha, dịch là Kham nhẫn, chư Bồ-tát lúc thực hành lợi lạc, phần nhiều đều bị các khổ nạn kẻ thù ép ngặt, phải chịu đựng lao nhọc chịu do đó đặt tên, Hán dịch âm Ta-bà là sai. Các cõi Sơ thiền lớn nhỏ bằng ở Dục giới một Tứ thiên hạ, một ngàn Sơ thiền mới bằng Nhị thiền. Nhị thiền ở đảnh hỏa tai. Một ngàn Nhị thiền mới bằng Tam thiền. Tam thiền là đảnh hỏa tai. Một ngàn tam thiền mới bằng Tứ thiền. Tứ thiền là đảnh phong tai, cho đến tam thiên đại thiên thế giới, gọi là thế giới Ta-bà. Chủ thế giới Ta- bà là Đại phạm vương tức chủ Tứ thiền. Tiếng Phạm gọi Phạm ma, Hán dịch là Vắng lặng, Thanh tịnh, Thanh khiết, cũng gọi là Phạm khiết. Nay chỉ nói Phạm là lược vậy. Thi khí là ở đảnh hỏa tai tức chủ Sơ thiền ở đỉnh nhọn hỏa tai. Quang minh là chủ Nhị thiền, gồm Tiểu Quang, Vô lượng quang, Cực quang, chủ của Tịnh thiên là chủ Tam thiền. Nhưng kinh Đại Bát-nhã quyển năm trăm bảy mươi nói: Chủ cõi Kham nhẫn là Trì Kế phạm vương. Thi khí là Đảnh Kế. Tức là nói Trì Kế Phạm vương là chủ cõi Kham nhẫn, biệt danh của Phạm vương, Quang minh là thiền chủ khác. Kinh: “Có tám vị long vương… quyến thuộc đều hội.” Huyền tán: Trở xuống nói rõ chúng phi thiên có năm: Đầu tiên là loài rồng: Tên là Hỷ; Tên là Hiền Hỷ. Đây là hai huynh đệ. Loài rồng này thiên thích ứng với nhân tâm, làm cho mưa gió điều hòa không phá hoại đất đai. Rồng Hỷ là làm cho người vui, rồng sau tánh hiền khiến mọi người vui, nên do đó mà gọi tên. Sa-dà-la là loài rồng ở biển mặn. Hòa tu cát, Hán dịch là Cửu đầu, ở quanh núi Diệu cao, ăn các loài rồng nhỏ. Đức-xoa-ca, dịch là Đa thiệt, là có nhiều lưỡi. Hoặc vì ưa nói nên gọi là Đa thiệt. A-na-bà-đạt-đa, Hán dịch là Vô Nhiệt Não. Rồng ở trong ao Vô nhiệt não, lìa xa ba thứ nóng bức: Không bị cát nóng thiêu đốt. Không bị gió thổi y làm lộ hình. Không bị loài chim cánh vàng ăn thịt. Không có ba điều sanh nhiệt não này gọi là Vô nhiệt não. Kinh Hoa Nghiêm nói: Đại Địa Bồ-tát làm loài rồng trong ao này, giăng mây đại bi che hết tất cả chúng sanh. Tu pháp môn lìa khổ mà được tự tại. Từ vảy của rồng chảy ra các dòng nước ngày đêm không cạn cứu độ các loài hữu tình trong châu Thiệm bộ . Ma-na-tư, Hán dịch là Từ tâm. Kinh Hoa Nghiêm chép: Trước khi làm mưa thì giăng mây che kín bảy ngày, đợi các việc ở nhân gian xong rồi mới mua, nên gọi là từ tâm. Ưu-bát-la, Hán dịch là hoa sen hồng, Rồng ở trong ao sen này nên lấy đó đặt tên. Chánh kinh: “Có bốn Khẩn-na-la… cho đến cùng quyến thuộc đều hội.” Huyền tán: Tiếng Phạm là Khẩn-nại-lạc, Hán dịch là Ca thần, Hán dịch âm Khẩn-na-la là sai vậy. Đầu tiên ca pháp Tứ đế, Kế Ca Duyên khởi, sau ca Lục độ, rồi đến Nhất thừa. Hoặc ba loại đầu tiên ca về giáo hạnh của ba thừa. Sau đó ca lý quả của Nhất thừa, nên gọi là Trì pháp. Hoặc ca giáo lý Nhất thừa , hạnh quả lần lượt như thế. Hoặc tùy theo Phật nói pháp trong một hội mà tuyên ca. như âm nhạc thế gian ca ngợi công đức của vua. Chánh kinh: “Có bốn vua Càn-thát-bà… cho đến cùng với quyến thuộc.” Huyền tán: Nhạc âm trái với năm hiếu. Tiếng Phạm là Mạt-nô-thị-nhược táp-phược-La, Hán dịch là Khả ý âm (âm nhạc vừa ý). Cũng gọi là như ý âm. Nhạc là để làm cho người yêu thích. Trong Chánh pháp hoa chép: Gọi là Nhu nhuyến thiên tử. Gọi là Hòa âm thiên tử. Tiếng Phạm là Kiền-thát-phược, Hán dịch là Tầm Hương Hành, tức vị thần tấu nhạc, Hán dịch âm Kiền-thát-phược là sai. Bên Tây Vực do đây gọi tán nhạc là Kiền-thát-phược, chuyên tìm khí hương làm nhạc cầu xin. Trong âm nhạc có hai loại: Loại không ti, trúc tức loại khánh trống. Loại bằng ti, trúc, tức là tiêu địch. Không phải loại ty trúc loại dưới gọi là nhạc, loại trên là nhạc âm. Loại dưới ty trúc là mỹ, loại trên là mỹ âm. Hoặc đồng với âm khúc ca thần ở trước. Chánh kinh: “Có bốn A-tu-la vương cho đến cùng với quyến thuộc”. Huyền tán: Tiếng Phạm là A-tố-lạc, Hán dịch là Phi thiên. Tố lạc là tên khác của trời. Nói A nghóa là chẳng phải. Vì nhiều dối trá khác việc làm của trời nên gọi là phi thiên. Như người bất nhân cũng gọi là phi nhân. Luận Du-già Phật Địa chép: Là thuộc về đường trời. Tạp tâm nói thuộc đường quỷ. Pháp Niệm kinh Chánh là nói là đường quỷ súc. Kinh Du-già nói ba đường quỷ, súc sanh và thiên. Có thuyết nói La-hầu-a-tu- la là con của Sư tử, thuộc loài súc sanh. Nay nương vào Đại thừa Du-già làm chánh. Ở đây có năm loại: Cực nhược: Ở trong núi non đất đai cõi người. Tức nay trong núi Tây phương có hang rất lớn và sâu, phần nhiều là cung của phi thiên. Bốn loại bên dưới theo kinh Thập địa nói. Là ở dưới phía Bắc núi Diệu cao có cung La-hầu dưới biển lớn hai muôn một ngàn do-tuần. Dưới hai muôn một ngàn do-tuần có cung Dũng kiện. Dưới hai muôn một ngàn do-tuần có cung Hoa man. Dưới hai muôn một ngàn do-tuần có cung Tỳ-ma-chất-đa-la. Theo đây thì sâu xuống tám muôn bốn ngàn do-tuần là ở núi Tu- di. Như vậy là trái với kinh Khởi thế. Kinh này nói Đông, Tây núi Tu-di cách ngoài một ngàn do-tuần có cung Tỳ-ma-chất-đa, ngang rộng tám muôn do-tuần, có thành bảy lớp là xóm làng riêng, cũng lại không. La-hầu, Hán dịch là Chấp nhật. Lúc trời và A-tu-la đánh nhau, đem bốn thiên vương ra cùng chiến đấu. Nhật nguyệt thiên tử phóng ra ánh sáng cực mạnh bắn vào mắt Tu-la. Đây là tên nhọn của loài phi thiên nên dùng tay che khuất ánh sáng của mặt trời. Cho nên nói là chấp nhật. Đây là A-tu-la thứ tư nên biết . Đầu tiên nêu A-tu-la Bà-tró, xưa dịch là Bi phược (bị ràng buộc). Trước quân của phi thiên bị trời bắt. Nói đúng là Bạt-tró-ca, Hán dịch là Đoàn viên, nghóa trong chánh pháp hoa là trên hết, tức tương đương Dũng kiện. Kế đến là Chấp nhật sau cùng chư Thiên giao đấu. Lúc này có lực rất mạnh mẽ, Bạt-đà-phược đây không phải bị trói buộc. Khư-la-khiên-đà: Khư khiên đều thuộc khứ thanh, chữ Đà là bình thanh. Xưa dịch là Quảng kiên phược, có hình mạo rất to lớn. Kế là giải thích về Dũng kiện, sau cùng là Hoa man. Tiếng Phạm là Phệ-ma-chất-đát-lợi, Hán dịch là Ỷ họa, vẽ các hoa văn trên thân. Hoặc gọi là Bảo cẩm (gấm báu) dùng làm mũ đội. Ở Hán dịch Tỳ-ma-chất-đa-la là sai. Đây là cha mẹ lớn nhất của trời Đế- thích, cha là Xá-chi. Nhân duyên này có nói trong sớ Tông luận. Kinh: “Bốn Ca-lâu-la vương… cho đến cùng với quyến thuộc ”. Huyền tán: Tiếng Phạm là Yết-lộ-trà, Hán dịch là Diệu sí điểu. Chim này màu sắc cánh rất đêp không chỉ màu vàng. Xưa dịch là Ca- lâu-ca, dịch. Kim sí điểu là sai. Kinh Tăng nhất A-hàm chép: Phật bảo các Tỳ-kheo có bốn loài chim Diệu Xí tức sanh từ trứng, thai, ẩm ướt và hóa. Có bốn loài rồng cũng sanh trong bốn loại: noãn, thai, thấp, hóa. Tỳ-kheo nên biết! Như loài chim noãn sanh lúc muốn ăn loài rồng, từ trên cây Thiết xoa nhảy xuống biển, chim này dùng cánh rẽ nước làm hai rồi bắt lấy rồng nở ra từ trứng mà ăn. Nếu muốn ăn các loài rồng từ sanh khác thì chim sẽ mất mạng. Như thế chim thuộc loài thai sanh chỉ ăn hai loại rồng thai và trứng. Loài chim thấp sanh chỉ ăn ba loại rồng trước, nếu ăn loài hóa sanh sẽ bị mất mạng. Loài chim từ thấp sanh có thể ăn rồng từ bốn loại sanh, nếu loài rồng quy y Phật thì chim không thể ăn. Vì sao? Vì Như lai thường hành trì bốn tâm vô lượng, Từ, Bi, Hỷ Xả bốn tâm này có đại thế lực, đại mạnh mẽ, không thể làm cản trở phá hoại, nên chim cánh vàng không thể ăn. Vậy nên các Tỳ-kheo nên hành trì bốn tâm: Từ, bi, hỷ, xả. Nay nói theo thứ lớp thì là loài chim bốn sanh cũng nói người có uy đức lớn, các rồng rất sợ nên uy đức rất rộng lớn. Thân chim lớn hai cánh dang ra cách ba trăm ba mươi sáu muôn dặm, bụng no đầy, dưới cổ có hạt châu như ý. Chánh kinh: “Con bà Vi-đề-hy cho đến cùng với quyến thuộc. Huyền tán: Đây là chúng nhân vương. Vì Phật nói pháp tại thành Vương-xá này nên nêu riêng . Tiếng Phạm là Phệ-đề-sất-phất-đát-đa, xưa dịch là Suy nghó tử, nay dịch chữ Phệ có nghóa là Thắng. Đề-sát là thân, tức gọi là Đông Tỳ-đề-ha. Tỳ-đề-ha là gọi người nam, Tỳ-đề-sất gọi người nữ. Đây là tên núi, cũng là tên vị thần trong núi kia. Do từ vị thần xin con nên lấy đó đặt tên, dịch âm Vi-đề-hy là sai. Tiếng Phạm là A-đổ-đa-thiết-chuyết-lộ, dịch là Vị sanh oán, dịch A-xà-thế là sai. Vì kết oán trước khi sanh ra cũng gọi là Chiết chỉ (gẫy ngón tay). Do tạo gây ra nghịch, sau đó nghe kinh Tiểu thừa sám hối rồi còn bị đọa vào địa ngục Vô gián. Về sau đắc quả Độc giác. Kinh Niết-bàn chép: Vua A-xà-thế không gặp Kỳ-bà trong bảy ngày tới sẽ đọa địa ngục. Nghe kinh Đại thừa sám hối rồi thì không đọa địa ngục. Lại có kinh nói: Sau khi sám hối đắc Nhu thuận nhẫn. Lấy theo tên mẹ nên gọi là vua A-xà-thế con bà Vi-đề-hy. Trong kinh Niết-bàn cũng nói rõ việc này. Chánh kinh: “Các chúng lễ chân Phật rồi lui ra ngồi một nơi.” Huyền tán: Trong phần nêu tên chúng, tiếp nói về nghi thức. Thể hiện sự tôn kính tình thâm nên ai cũng lễ xuống chân Phật, mới ngồi sang một bên cầu thọ chánh pháp. Chánh kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn… cho đến tôn trọng khen ngợi.” Huyền tán: Trong phần chúng thành tựu văn chia làm hai đoạn: Phần một là nêu chúng. Phần này nói rõ uy nghi ở chỗ Phật. Luận giải về chúng thành tựu có bốn: Phần trên đã giải thích ba, đây là phần thứ tư. Nói bốn chúng. Xưa nói: Ma, Phạm, Sa môn Bà-la-môn. Đây nói trội hơn hai cõi trời Sắc và Dục giới, trong nhân gian là đứng đầu. Cho nên Sư trí Khải nói: Chúng ảnh hưởng thì ngồi im lặng tại chỗ. Chúng phát giáo như ngài Xá-lợi-phất, Di-lặc thì ba lần thỉnh. Là chúng đương cơ thọ giáo được ngộ giải. Chúng kết duyên lúc ấy chưa ngộ giải mà kết nhân duyên về sau. Lại có bốn chúng: Thanh văn, Bồ-tát cùng hai chúng khách, cựu. Sớ của người xưa có nhiều nghóa. Nhưng sau đây văn dưới xét thấy có chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di là bốn chúng. Đi giáp vòng gọi là vây. Ngồi giáp vòng gọi là nhiễu quanh. Dâng tài hạnh gọi là cúng, nhiếp cả vật dụng gọi là dưỡng, nghiêm cẩn gọi là cung, kính ngưỡng gọi là kính. Rất kính là tôn. Tôn kính sâu là trọng, đúng lý luận tốt gọi là Tán, gặp việc nêu đức gọi là khen ngợi. Luận giải có bốn : Chúng vây quanh. Trước sau. Cúng dường cung kính. Tôn trọng khen ngợi. Trong luận nói cũng đồng như trong kinh này, mà thiếu nghóa “trước sau.” Nay y theo nên nói. “Bấy giờ Đức Thế tôn bốn chúng trước sau vây quanh, cúng dường cung kính tôn trọng”. Trong văn khen ngợi mới có đầy đủ. Nói trước sau đó là các chúng đều nhìn thấy Phật nói pháp. Tức mặt hướng ra trước mà không xoay ra sau, tức so với mỗi mỗi người đều có trước sau, mà không phải nói phương vị trước sau. Chánh kinh: “Vì các Bồ-tát… cho đến Phật sở hộ niệm.” Huyền tán: Đây là phần thứ ba… nói Như lai nói pháp… tức thời chí thành tựu. Lược có ba nghóa: Nương vào người, trước vì Bồ-tát nói kinh Đại thừa, tên là Vô Lượng Nghóa. Sau mới nói cho chúng Thanh văn nghe pháp Nhất thừa. Nương vào lợi, trước đem giáo lý Nhất thừa lợi tha giáo hóa Bồ-tát căn trí đã thuần thục. Sau đem quả Nhất thừa tự lợi mới hóa độ người Thanh văn sơ căn hồi tâm. Nương vào pháp, trước nói về thể của pháp, sau nói về công năng. Cho nên lúc chưa nói kinh Pháp Hoa, Phật nói kinh Vô Lượng Nghóa trước, gọi là “Thời chí”. “Kinh Đại thừa:” Đây là câu nói chung, còn lại là riêng. Thập nhị môn luận định nghóa Đại thừa có sáu. Ra khỏi Nhị thừa. Thừa này có thể dẫn dến Phật Đại thừa. Sở thừa của Phật. Có thể diệt đại khổ, đem lại lợi lạc lớn. Sở thừa của các vị Đại só Quán Âm… Có thể thấu rõ hết tận cùng các pháp. Nhiếp Đại thừa nói: Cũng thừa cũng đại nên gọi là Đại thừa, tức là muôn hạnh vậy. Hoặc nương theo tánh Đại nên gọi là Đại thừa, tức chân như là nghóa nương theo vận chuyển. Luận Bát-nhã Kim Cương Vô Trước nói: Bảy loại đại tên tuy có ít sai khác, mà nghóa đồng với thứ mười một của đối pháp. Đối pháp nói tức tánh thừa này do cùng tương ưng với bảy loại đại tánh, nên gọi là Đại thừa. Tánh cảnh đại: Đem Bồ-tát đạo duyên với trăm ngàn giáo lý làm sở duyên, cho nên gọi kia là pháp đại. Tánh hành đại: Đầy đủ cả hai lợi nên gọi là tâm đại. Tánh trí đại: Rõ được hai vô ngã nên kia gọi là Tín giải đại. Tánh tinh tấn đại: Tu tập các hạnh khó hành trải qua ba đại a- tăng-kỳ kiếp. Cho nên kia gọi là Tịnh tâm đại. Tánh phương tiện thiện xảo đại: Do đầy đủ trí bi, không trụ vào sanh tử, Niết-bàn, kia gọi là tư lương đại. Tánh chứng đắc đại: Thành tựu các pháp: Thập lực, Tứ vô úy cùng các công đức. Kia gọi là quả báo đại. Tánh nghiệp đại: Tận cùng sanh tử, biên kiến lập Phật sự. Cho nên gọi là Đại thừa. Kia gọi là thời đại. Thể căn bản của thừa tức là lý chân như. Là vô tướng. Đây đồng với kinh Thắng-man. Kinh Thắng-man nói: “Thừa tức là Đại thừa. Đại thừa là Phật tánh. Phật tánh chính là cảnh giới Niết-bàn. “Cuối cùng thì thông cả muôn hạnh lý, cũng thừa cũng đại. Thể của bảy tánh đại thì thông nơi pháp hữu vi. Đến chương Nhất thừa, sẽ biện minh đủ, đầy đủ là câu nói chung. Ba câu: “Vô Lượng Nghóa…” Là nói pháp Đại thừa là tên riêng của kinh. Chánh Pháp hoa nói chỉ có hai câu. Luận viết lại thì có mười bảy tên. Đúng hợp với luận văn nên nói: Vì chư Bồ-tát mà nói kinh Đại thừa gọi là: Vô Lượng Nghóa, Trên hết kinh điển, Đại thừa Phương Quảng, Giáo Bồ-tát pháp, Phật sở hộ niệm, Chư Phật Bí pháp, Chư Phật đức tạng, Chư Phật mật xứ, Năng sanh Chư Phật, Chư Phật Đạo tràng, Chư Phật pháp luân, Bền chắc xá-lợi, Thiện phương tiện, Tuyên thuyết xảo Nhất thừa, Đệ nhất nghóa xứ, Diệu Pháp Liên Hoa, Trên hết pháp môn. Luận mười bảy tên như sau: Vô Lượng Nghóa: Là thành tựu danh tự, nghóa. Đem pháp môn này để nói cảnh giới. Pháp rất sâu xa, màu nhiệm. Cảnh giới ấy tức là cảnh giới trên hết của Phật. Năng thuyên giáo pháp, thuyết nghóa kia, giáo cũng vô lượng. Do đấy, giáo danh tự và nghóa sở thuyên đều gọi là vô lượng. Kinh Vô Lượng Nghóa nói: Vì tánh dục của chúng sanh vô lượng, nên pháp Phật nói cũng vô lượng. Vì pháp vô lượng nên nghóa cũng vô lượng. Nghóa vô lượng là từ một pháp mà sanh ra. Một pháp đó tức là vô tướng. Như thế không tướng, không tướng và bất tướng, không có tướng bất tướng gọi là thật tướng. Đại Bồ-tát an trụ vào chân thật tướng như thế rồi, phát tâm từ bi, rõ thật không vọng, ở nơi chúng sanh thật có cứu khổ; khổ dứt rồi lại vì chúng nói pháp khiến cho thọ nhận khóai lạc. Thiện nam tử! Bồ-tát nếu tu một pháp môn Vô Lượng Nghóa như thế thì chắc chắn mau thành quả Vô thượng Bồ-đề. Thiện nam tử! Ví như một hạt giống có thể sanh ra trăm ngàn muôn hạt giống. Trong trăm ngàn hạt giống đó mỗi mỗi lại sanh ra trăm ngàn muôn số. Lần lượt như thế cho đến vô số, vô lượng. Kinh điển này cũng lại như thế. Từ một pháp sanh ra trăm ngàn nghóa. Trong trăm ngàn nghóa mỗi nghóa lại sanh ra trăm ngàn muôn số! Như thế lần lượt nghóa đến vô lượng vô biên. Thế nên kinh này gọi là Vô Lượng Nghóa. Luận không chỉ lấy giáo lý sở sanh đó gọi là vô lượng mà thể của vô lượng tức cảnh chân trí. Thể là năng thành tựu, là thành tựu danh tự, nghóa kia. Kinh điển trên hết: Đây là diệu tạng trên hết trong Ba Tạng. Phương quảng Đại thừa: Pháp môn Đại thừa vô lượng, tùy theo pháp của căn cơ của chúng sanh Đại thừa. Vì thế kinh này có đầy đủ trụ trì thành tựu. Giáo Bồ-tát pháp: Vì hóa độ căn cơ thuần thục của Bồ-tát, tùy theo pháp khí của họ mà có thể thành tựu, không hóa độ người Nhị thừa. Phật sở hộ niệm: Nương vào Phật thì có, nương vào pháp khác thì không. Chư Phật Bí pháp: Pháp rất sâu xa này chỉ có Phật mới biết. bí nghóa là tạng. Chư Phật Đức tạng: Là kho tàng thiền định công đức của Phật, ở trong kinh này. Chư Phật Mật xứ: Như căn cơ chưa thuần thục, chẳng phải là pháp khí, thì không cho. Năng sanh Chư Phật: Nghe pháp môn này có thể thành tựu báo thân hóa thân Bồ-đề. Chư Phật đạo tràng: Pháp môn này có thể thành Vô thượng Bồ-đề. Chẳng phải ở các bộ kinh khác, có thể hiển bày pháp thân trí của Chư Phật. Chư Phật pháp luân: Diệt trừ hết si ám. Xá-lợi bền chắc: Pháp thân công đức ba đời của Chư Phật. Bộ kinh này nêu đầy đủ không bị hoại. Phương tiện khéo léo: Nương vào pháp môn này được thành Phật rồi, lại vì chúng sanh nói pháp năm thừa trời người.. thành tựu trí tuệ Phật khéo dùng các phương tiện. Giảng nói Nhất thừa: Chỉ rõ thể rốt ráo Vô thượng Bồ-đề của Như lai. Nhị thừa chẳng phải là rốt ráo. Đệ nhất nghóa xứ: Pháp môn này tức là trụ xứ Pháp thân rốt ráo của Như lai. Pháp thân của Phật gọi là Đệ nhất nghóa. Trụ xứ của pháp thân này gọi là Đệ nhất nghóa xứ. Diệu Pháp Liên Hoa: Luận giải thích có hai nghóa: Nghóa ra khỏi mặt nước. Dùng nghóa Sở thuyên đặt tên Hoa. Nghóa hoa nở: Dùng giáo Năng thuyên đặt tên Hoa, tức là chứng trí rất sâu, A-hàm rất sâu. Nghóa ra khỏi mặt nước có hai ý: Nghóa ra khỏi nước không thể cùng tận: Ra khỏi xa lìa nước nhơ đục Tiểu thừa. Đây là nói về thể của hoa. Bồ-tát đốn ngộ tánh xa lìa nước đục mà tánh thể của pháp là thường nên không thể tận. Đây nói về lý tánh Nhất thừa, ra khỏi Nhị thừa, nên gọi là ra khỏi nước. Lại có nghóa Hoa sen ra khỏi nước bùn nhơ. Dụ cho các Thanh văn vào ngồi ở trong đại chúng của Như lai. Như các Bồ-tát, ngồi trên hoa sen nghe thuyết Vô thượng trí tuệ, cảnh giới thanh tịnh, chứng Như lai mật tạng. Ý đây nói là: Bồ-tát ngồi trên hoa sen nghe thuyết cảnh giới Vô thượng trí tuệ, có thể chứng đắc mật tạng sâu xa của Như lai. Các Thanh văn hồi tâm rồi, được vào ngồi ở trong đại chúng, cũng như Bồ-tát ngồi trên trong hoa sen nghe thuyết cảnh tuệ, cũng chứng đắc mật tạng. Trước đã giải thích về thể ra của Bồ-tát đốn ngộ, đây giải thích về dụng ra của hàng tiệm ngộ về sau. Kinh này chính dùng giáo lý để hóa độ các Bồ-tát, mà bên cạnh đó cũng hóa độ Nhị thừa, nên có nghóa này. Nghóa hoa nở là chúng sanh trong pháp Đại thừa khởi tưởng như người chơi vơi trên triền núi, tâm yếu hèn nên không thể sanh lòng tin, nay khai thị pháp thân tịnh diệu của Như lai khiến cho sanh tâm tịnh tín. Pháp môn trên hết: Vì để nhiếp thành tựu. Nhiếp thành tựu đó là nhiếp giữ vô lượng danh cú tự thân, các kệ: Tần-bà-la, A-siểm-bà v.v…. Đây là căn bản để nhiếp tất cả danh cú tự nghóa. Cho nên gọi là trên hết. Đây chính là sở thuyên, là pháp môn trên hết của năng sở thuyên khác. Năng thuyên cũng là pháp môn của năng thuyên sở thuyên khác. Do nhiếp tất cả danh cú tự nghóa. Cho nên Tần-bà-sa-la là số mười tám trong năm mươi hai số của Tiểu thừa. A-siểm-bà là số thứ hai mươi, đây là số bài kệ tụng trong các kinh Đại thừa. Kinh này đều năng nhiếp nên gọi là pháp môn, tức là hai mươi ngàn muôn ức bài kệ. Luận nói trong mười bảy câu, đây là câu chung còn lại là câu riêng. Kinh này chỉ có ba là: Thể dụng của Vô Lượng Nghóa là cao siêu. Giáo pháp Bồ-tát hóa độ căn cơ thuần thục. Được Phật che chở, nương vào Phật mà có. Ba nghóa này trội hôn nên nêu ra. Hỏi: Kinh Vô Lượng Nghóa và tên thứ mười sáu gọi là Diệu Pháp Liên Hoa. Nay nói kinh Vô Lượng Nghóa xong, Phật nhập vào Vô Tam muội Lượng Nghóa xứ, từ Tam muội khởi ra mới nói kinh này, cũng gọi là Diệu Pháp Liên Hoa. Hai tên đâu có khác? Đáp: Có năm cách giải thích: Gọi Liên hoa là có hai thời mà được tên: Như thời hoa sen chưa ra khỏi nước mà tánh đã ra khỏi nước cũng gọi là Liên hoa. Kinh kia cũng vậy. Nói tánh trí tuệ kia có thể xuất ra từ nước, tánh có thể khai mở mà khi ấy vẫn chưa hóa độ Nhị thừa hướng đến Nhất thừa. Nay kinh này chính là hóa độ Nhị thừa nhập vào giai vị Đại thừa, vượt ra khỏi Nhị thừa, như hoa sen ra khỏi nước rồi cũng gọi là hoa sen còn. Kinh đó chính gọi là Vô Lượng Nghóa. Bên cạnh đó cũng mượn gọi là Diệu Pháp Liên Hoa chính là hợp với Bồ-tát, song song đó cũng khiến cho Thanh văn nghe tin hiểu không ngu ở pháp, sau đó mới hóa độ nhập. Kinh này chính gọi là Diệu Pháp Liên Hoa, song song đó cũng gọi là Vô Lượng Nghóa. Chính là để giáo hóa Thanh văn nhập vào Nhất thừa, tuy thời vị có khác nhưng thể tánh không hai. Cho nên sắp nói kinh này Phật trước nhập vào Tam muội Vô Lượng Nghóa xứ . Gọi kinh Vô Lượng Nghóa là Pháp hoa, cùng với danh thể của kinh này không hai. Lúc đó chỉ giáo hóa Bồ-tát, chưa có hướng Nhị thừa quy về Nhất thừa. Nói giáo lý nương vào chân như diệu lý chính gọi là Vô Lượng Nghóa, cũng gọi là Diệu Pháp Liên Hoa, là lúc này hóa độ Nhị thừa hướng về Nhất thừa. Nói có thể nương vào hạnh quả, chính gọi là Diệu Pháp Liên Hoa, như lúc ra khỏi nước mà song song đó, cũng gọi là Vô Lượng Nghóa. Kinh kia y theo vào thể trí tuệ cũng gọi là Pháp hoa, kinh này ước về công năng trí tuệ mà gọi là Pháp hoa. Hội hai để quy về một. Vì kinh kia dung giáo lý gọi là Liên hoa. Bồ-tát đã tu nhân Nhất thừa, hướng đến quả Nhất thừa, không vì nói hạnh, quả Nhất thừa gọi là Pháp hoa. Do chỉ là giáo lý, không biết ứng theo bệnh cho thuốc, chỉ nói giáo lý gọi là Pháp hoa. Nay trong hội này người Nhị thừa chưa có thể được ứng bệnh cho thuốc, nên không vì nói giáo lý Liên hoa, chỉ vì kia nói hai loại hạnh quả gọi là Liên hoa, khiến cho chúng Thanh văn hướng đến vào Nhất thừa hạnh quả. Thế nên kinh dưới nói: Ngồi xe báu này, thẳng đến Đạo tràng, làm nhân hạnh, chỉ đem tri kiến của Phật khai ngộ cho chúng sanh đồng quả với Liên hoa. Lại trong khai thị ngộ nhập, luận tự giải thích: Khai nghóa Vô thượng. Thị nghóa đồng. Ngộ nghóa bất tri. Nhập nghóa là khiến cho nhập vào không lui sụt địa. Ba nghóa trước là quả. Một nghóa sau là nhân. Kinh Thắng-man cũng vậy, chỉ nói nhân quả Nhất thừa gọi là Nhất thừa. Kinh ấy dùng hai thứ giáo lý là Liên hoa. Kinh này đối với giáo lý hạnh quả của Nhị thừa đều gọi là Liên hoa, có nghóa khắp đủ như trước đã nói. Ba nghóa trước giải thích kinh kia đây đồng thể. Hai nghóa sau giải thích kinh này rộng, kinh kia hẹp. Do nghóa này nên kinh Vô Lượng Nghóa, dùng hai nghóa gọi là vô lượng: một là pháp, hai là nghóa. Luận nói thành tựu danh, tự, nghóa. Danh tự có nghóa là giáo pháp. Ng- hóa là sở thuyên. Kinh Vô Lượng Nghóa nói: Vì tánh dục chúng sanh vô lượng nên pháp cũng vô lượng. Pháp vô lượng nên nghóa cũng vô lượng. Nghóa vô lượng đó từ một pháp mà sanh ra một pháp đó tức là vô tướng. Nhưng nay bộ kinh này tuy đầu tiên là khen ngợi giáo lý mà văn sau phần nhiều dùng hạnh quả gọi là Liên hoa. Thật thể trên dưới các nơi trong văn kinh, cũng thông cả giáo lý hạnh quả. Phần sau giải là thiện. Pháp hoa đã như vậy, Nhất thừa cũng như vậy. Y theo đây nên biết. Chánh kinh: “Phật nói kinh này rồi… thâm tâm bất động.” Huyền tán: Văn dưới là phần sở y nói pháp uy nghi thuận theo trụ thành tựu. Trụ là y chỉ chỗ an ổn. Nay nương vào an xứ nói pháp, nương vào oai nghi, thuận theo vào quy tắc để nói pháp. Đây chính là nói nương vào chỗ nói pháp, thuận theo oai nghi mà thành tựu. Phật nói kinh Vô Lượng Nghóa xong thì ngồi kiết già. Đây là nói lên chỗ trí thâm lý mới có thể nói pháp. Như trước nói kinh Bát nhã trụ niệm trước mặt rồi sau khởi nói. Ngồi có hai tướng: Ngồi hàng phục, để chân trái lên chân mặt. Cát tường tọa, để chân mặt lên chân trái. Nay sẽ nói pháp thì ngồi cát tường. Gia là chồng lên, tức ngồi giao chân chồng lên nhau có thuyết nói chữ già. Không biết xuất xứ từ đâu, ở đây nói nương vào để dừng yên ở những gì là uy nghi phép tắc mà nói pháp. Nay nương vào ba loại uy nghi phép tắc: Nương vào Tam muội mà thành tựu, nên nhập vào Tam muội thân tâm bất động. Nương vào khí thế gian, trời tuôn rải bốn loại hoa như mưa, đất sáu phen rung chuyển. Nương vào chúng sanh thế gian, tám bộ bốn chúng đều vui mừng. Nhập định chứng chân, để khởi thông suốt, nhắc nhở vật, chúng sanh hoan nghinh, nên đây chia ra làm ba. Không chỉ có an tọa mới gọi là uy nghi. Tiếng Phạm là Tam-ma-địa, dịch là Đẳng trì, là bình đẳng trì tâm mà đạt đến cảnh, tức là định vậy. Nói Tam muội là sai. Quán lý vô tướng Định gọi là Tam muội Vô Lượng Nghóa xứ . Xứ là xứ sở. Vô Lượng Nghóa là các nghóa Vô Lượng Nghóa mà giáo lý đã nêu bày. Nhờ chân lý sanh ra nên nói chân lý gọi là xứ. Luận giải: Nương vào Tam muội mà thành tựu thì có hai nghóa: Thành tựu năng lực tự tại thân tâm bất động. Nghóa là nếu không nhập Tam muội thì có phân biệt dao động. Ở đây không thể chứng nói tự tại. Nay nhập vào Tam muội, thân tâm trở nên bất động, lìa hết mọi sự phân biệt dao động. Đối với pháp thuận tiện có được khả năng chứng nói tự tại. Cho nên nói là: Thành tựu tự tại lực thân tâm bất động. Lìa tất cả chướng, tùy theo lực mà tự tại: Nhập Tam muội lìa các chướng định, thuận theo nơi pháp mà chứng, nói tự tại. Nếu có chướng định thì đối với chứng và thuyết không tự tại. Luận tiếp giải thích riêng về năng lực tự tại trước có hai: Thuận theo chúng sanh không thấy đối trị mà nhiếp lấy giác Bồ-đề phần pháp. Nghóa là: Chúng sanh không thể nhậm vận thấy đạo vô lậu đối trị, mà suy nghó giác mới được. Nay Phật cũng vậy, thuận theo chúng sanh không thể nhậm vận thấy đạo đối trị. Nay cũng nhập định để suy nghó nhiếp lấy, giác quán sát đạo Bồ-đề phần vô lậu để đối trị. Là đối trị phiền não chấp chặt từ thời vô thỉ đến nay. Giải thích tùy theo năng lực tự tại, thì phiền não chấp chặt nghóa là có phân biệt dao động. Phân biệt dao động nên tâm khởi ra thị phi. Tâm thị phi khởi nên hoặc ái, giận phát sanh. Hoặc Ái, nhuế sanh thì khởi ra các nghiệp. Nghiệp khởi thì bị các khổ buộc ràng. Nay để đối trị tâm phân biệt chấp chặt dao động này, cho nên nhập Tam muội, lìa hoặc chấp chặt. Luận lại giải thích: Do nhập định nên có khả năng chấn động cả thế giới, và biết việc quá khứ từ vô lượng vô biên kiếp. Nếu không nhập định thì thần biến không khởi, không thể biết việc quá khứ mà thị hiện tướng vậy. Hỏi: Phật chẳng lúc nào không định tâm, đi đứng thường ở trong định. Không khởi diệt định mà hiện ra uy nghi, đâu cần nay phải nhập định. Đáp: Có mười nghóa: Nhập, xuất tùy theo duyên mà động, tónh lợi ích chúng sanh. Nếu không nhập định thì không thể phát ra ánh sáng hiện ra điềm lành. Nếu không nhập định thì e rằng chẳng phải tướng tốt của Phật. Lúc muốn nói pháp thị hiện xét rõ căn cơ. Vì muốn hiển bày pháp thù diệu nên nhập định, quán khiến chúng tôn trọng. Nêu rõ tuệ tức là do chứng lý nhập định, mới có thể khởi. Thầy làm mẫu mực cho hậu học khiến cho tu định tuệ. Thị hiện định tuệ đầy đủ, nói pháp thị hiện tuệ viên mãn. Nhập định hiển rõ định viên mãn. Làm khuôn phép cho đời mạt pháp, khi nói pháp cần trước tâm phải tự tónh. Thị hiện ra tướng thông minh khéo suy nghó, cũng khiến cho người khác phải xét rõ sự việc chân thật. Nhập định hiện điềm lành để phát khởi ba lời hỏi đáp. Nếu không vậy thì không có những lời hỏi của ngài Di-lặc. Hiển thị ra tam mật, nhập định là ý mật, phát ra ánh sáng là thân mật, nói pháp là ngữ mật. Kệ Tụng: Tóm tắc mười nghóa này như sau: Tùy, thụy, thẩm, diệu, sư Mãn, vị, tư, vấn, mật. Hỏi: Lúc sắp nói pháp hoa, sao cần phải nhập định Vô Lượng Nghóa, nguyên nhân gì không nhập vào Pháp hoa Tam muội? Đáp: Như khi sắp thuyết Bát-nhã trước cũng phải nhập định để có thể quyết đoán. Kinh nói: Ngay thân chánh nguyện trụ niệm đối diện, sau mới nói kinh. Ở đây trước cũng nhập vào Vô Lượng Nghóa Tam muội như thế, sau mới nói pháp hoa. Vì thể Pháp hoa tức là Vô Lượng Nghóa. Pháp hoa Tam muội tức là Vô Lượng Nghóa Tam muội. Kinh Vô Lượng Nghóa là Bồ-tát thuyết. Diệu Pháp Liên Hoa vì Thanh văn thuyết. Kinh Vô Lượng Nghóa bàn về thể xuất sanh ra Vô Lượng Nghóa. Kinh Pháp hoa luận về công năng có thể xuất ra Nhị thừa. Thể năng tuy khác mà thật sự không hai. cho nên trước khi nói pháp hoa phải nhập vào Vô Lượng Nghóa Tam muội. Văn dưới cũng nói có ngộ Pháp hoa Tam muội, mà không nói ngộ Vô Lượng Nghóa Tam muội. Chỉ là tùy theo căn cơ mà cần thiết độ vật. Thích nghi theo phương tiện xảo dụng khéo sanh. Tên tuy có hai mà thể thật không khác. Lại vì giáo lý hạnh quả khác, như trước đã nói. Lại trước quán sát thể chân như của pháp, sau nói công năng nhân quả tức Pháp hoa. Chánh kinh: “Bấy giờ trời mưa… và các đại chúng”. Huyền tán: Dưới nói khí thế gian có hai: Một là hoa tuôn rải như mưa; Hai là quả đất rung chuyển. Nay nói rải hoa như mưa: Mạn-đà-la dịch là Thích ý (vừa ý), vì người nhìn thấy tâm rất vui thích Mạn-thù-sa, Hán dịch là Nhu nhuyễn. Thể của hoa là rất mềm mại cũng khiến cho người thấy lìa hết ba nghiệp cương chiếu khóang. Ma-ha dịch là đại. Theo kinh bản tâm dịch gọi là: Hoa Thích ý. Hoa đại thích ý hoa nhu nhuyến hoa, đại nhu nhuyến. Bốn loại hoa lần lượt như thế là ý muốn nói pháp làm vui tâm người, điều hòa được ba nghiệp. Cũng có thuyết nói: Trời mưa làm âm vu, hoa có năm đức. Che lấp sự xấu ác. Nói lên khi nghe pháp rồi thì bao nhiêu cấu chướng tiêu tan. Nghiêm tịnh cõi nước: Ý nói nghe pháp rồi như các pháp lành trang sức thân. Cho nên kinh ở dưới nói: Mà thế giới này thảy đều trang nghiêm thanh tịnh. Nở ra tưởi đẹp, thấy đài sen: Nói lên Phật muốn khai xiển Nhất thừa. đề. Sau hoa kết trái: Biểu hiện sau khi nghe kinh rồi thì đắc Bồ- Hương thơm bay xa người ngửi thấy đều vui mừng. Nói lên nội đức đầy đủ, danh vang khắp mười phương. Chúng sanh nghe thấy đều kính mến. Chỉ có mưa hoa này mà không phải hoa khác là nói lên nghe kinh này rồi phát tâm vui mừng xa lìa tâm chấp Nhị thừa bền chắc. Lại chuẩn bị khai giáo lý hạnh quả Nhất thừa là chân thật, cũng khai bốn pháp Nhị thừa để làm quyền tích. Nói mưa bốn hoa cũng ý nói độ tứ sanh, hưng khởi tứ niệm trụ, tu tứ chánh cần, đắc tứ thần túc, hành tứ pháp tích, chứng lý tứ đế, cắt đứt bốn lưu, đoạn bốn ràng buộc, bỏ đi bốn ách, đắc tứ diệu trí, ngộ tứ Niết-bàn, chứng được bốn đức. Mưa bốn hoa này không thêm không bớt, đem rải lên Phật để bày tỏ cúng dường, nói lên cho bốn việc của Phật đã xong cho đến khắp dùng che chở chúng sanh, chỉ rõ cho chúng biết cũng sẽ thành tựu bốn việc này. Chánh kinh: “Sáu loại rung chuyển khắp thế giới Phật”. Huyền tán: Phật Thích-ca vua cả Tam thiên đại thiên gọi đó là thế giới Phật. Các thế giới này đều rung chuyển, nên nói khắp thế giới Phật, đều rung động, đây gọi là xứ động. Tụng ở dưới nói: Mà ở thế giới này có sáu thứ rung chuyển”. Cho nên biết chỉ là động thế giới của Phật. Thích-ca không phải là mười phương thế giới, hoặc nói rung chuyển bằng phạm vi Phật phát ra ánh sáng. Không như thế thì làm sao phóng ánh sáng thì rộng khắp, rung chuyển thì nhỏ hẹp! Văn tụng dưới là y theo vào gần chỉ rõ hóa độ ở thế giới này tức bỏ quyền dựa vào thật. Nếu nương vào lời giải đầu tiên thì chỉ có thế giới này động, tức bỏ quyền lấy thật vậy. Chấn có nghóa là động là khởi dậy vậy. Sáu rung chuyển có ba ý: Trường A-hàm nói: Sáu thời động: Là Bồ tát nhập thai, xuất thai, xuất gia, thành đạo, xoay bánh xe, nhập Niết-bàn. Ở đây nói thời động là thời xoay bánh xe. Sáu phương động: Kinh Đại Bát-nhã quyển thứ tám nói: Nghóa là Đông hiện thì Tây chìm, Tây hiện thì Đông ẩn. Nam nổi Bắc chìm, Bắc hiện thì Nam ẩn. Giữa hiện thì bên chìm, bên nổi thì giữa chim. Nay động hoặc chính là nghóa này. Sáu tướng động: Kinh Đại Bát-nhã nói: Đó là: Động, dõng, chấn, kích, hống, bộc lắc lư không yên là động, đất như vẩy cá lồi lõm là dõng. Hoặc sáu phương hiện ra biến mất là dõng. Ẩn khuất mà có âm thanh là chấn. Xưa dịch nói là từ dưới bay lên cao là khởi, nay nói ra, đập và kích. Gây ra tiếng vang là hống. Xưa gọi sanh ra giác ngộ thì gọi là Giác. Nay nói phát ra tiếng kêu kinh dị là bộc. Sáu rung chuyển này mỗi đều tướng có ba gọi chung là mười tám tướng động. Kinh Bát-nhã nói: Gọi là động, đẳng động, đẳng cực động. Cho đến bộc, đẳng bộc, đẳng cực bộc. Như vậy rung chuyển ít gọi là động. Các nơi chung động gọi là đẳng động, khắp nơi nghiêng động lớn gọi là đẳng cực động. Các tướng khác đều y theo đó. Nay gọi chung là sáu động, chỉ là một rung chuyển trong mười tám biến. Kinh Thắng Tư Duy Phạm thiên nói có bảy nhân: Làm cho các ma sợ hãi. Giúp cho chúng lúc ấy không khởi tán tâm. Người buông lung tự giác ngộ. Khiến cho nhớ nghó pháp tướng. Khiến quán sát nơi nói pháp. Khiến người thành tựu giải thoát. Khiến thuận theo để hỏi nghóa chân chính. Nay cũng có thể như vậy nên thị hiện tướng động. Chánh kinh: “Bấy giờ trong hội…nhất tâm quán Phật”. Huyền tán: Chúng sanh thế gian ở hội này có bốn. Bốn chúng. Tám bộ. Hai vương. Chúng kết vui mừng. Tiếng Phạm gọi Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca. Ô-ba dịch là Cận. Ca là sự. Sách là nam. Tư là nữ. Đây chỉ cho nam nữ tại gia thành tựu giới, có thể gần gũi hầu hạ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, nên gọi là cận sự nam, cận sự nữ. Xưa dịch là Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, dịch thanh tín nam, thanh tín nữ là sai. Dạ xoa Hán dịch là Dũng kiện. Bay lên hư không, đi trên mặt đất giống như La-sát. La-sát gọi là Bạo ác, cũng dịch là Khả úy, đó đều là dịch âm sai. Chánh văn Tiếng Phạm là Dược-xoa, La-sát-bà. Tiếng Phạm là Mạc-hô-lạc-già, dịch là Đại phúc (bụng lớn). Các loài trăn rắn đi bằng bụng, dịch Ma-hầu-la-già là sai. Phần khác như trước đã nói. Vua Chuyển luân có bốn: Tụng nơi kinh Nhân vương nói: Bồ-tát phát đại tâm tu thập thiện, dài lâu ở biển khổ luân trong ba cõi, phẩm trung hạ thiện là Túc tán vương, Thập thiện thượng phẩm là Thiết luân vương. Tập chủng Đồng luân cai quản nhị thiên hạ, chủng tánh Ngân luân cai quản tam thiên hạ. Đạo chủng Kiên Đức chuyển luân vương cai quản. Thất bảo Kim quang tứ thiên hạ. Đây cùng ba loại tánh của kinh khác có khác nhau, cũng khác với Kim luân vị của kinh Thập địa. Tương ưng hợp để giải thích kinh Vương pháp niệm quyển hai nói: Kinh Du-già quyển bốn nói rộng các tướng nghiệp quả. Tùy theo chỗ ứng mà cảnh được các vật tứ luân thất bảo như kim, ngân, đồng, thiết mà lấy đó hóa độ. Thấy được sự ly kỳ của thần biến không hề có. Phát tâm thù thắng vì đạo sâu xa nên, chắp tay vui mừng, lắng tình lóng nghe nên nói là nhất tâm, quán Phật mong được nghe lời vàng. Chánh kinh chép: “Bấy giờ Phật phát ra ánh sáng từ sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày”. Huyền tán: Phần thứ năm, y chỉ nhân nói thành tựu. Luận giải thích có hai: Hiện cho đại chúng thấy các việc dị tướng bất khả tư nghì. Như lai nói cho chúng con nói, lòng khát ngưỡng muốn nghe mà sanh tâm ít có, gọi là y chỉ nhân thuyết thành tựu, cho nên Phật phát ra ánh sáng thị hiện các việc trong thế giới. Hễ Phật nói pháp là vì muốn cứu độ chúng sanh; sanh phát tâm mong cầu, khát ngưỡng đó gọi là nhân để thuyết. Đây Phật sắp nói pháp, tức làm nhân y chỉ do đó chúng sanh tâm mong cầu, khát ngưỡng Phật vì nói pháp. Phật phát ra ánh sáng xa chiếu hiện các dị tướng khó biết. Đại chúng xem thấy bèn khởi chánh niệm nghó Phật sẽ nói pháp, lòng mong cầu được nghe. Đã sanh tâm mong cầu ít có, kế đến thì Phật vì đó mà nói pháp. Cho nên khi phát ra ánh sáng có thể khiến cho chúng sanh sanh tâm khát ngưỡng, nên gọi đó là nhân nói pháp. Trước thị hiện các việc bên ngoài như đất rung chuyển sáu cách. Sau đó thị hiện pháp nội chứng sâu kín của pháp môn này. Cho nên trước hiện ra các việc thần thông bên ngoài nói lên Phật nói pháp môn này là do có nội chứng pháp sâu kín. Lại do có nội chứng sâu kín nên ngoài hiện ra thần biến. Thần biến đã đến chỗ rực rỡ rõ ràng là biểu hiện Phật sẽ nói pháp sở chứng, nên gọi là nhân nói pháp. Tuy trước đã mưa hoa, rung chuyển mặt đất mà chưa đạt đến chỗ thù tuyệt, nay phóng ánh sáng lại càng thêm hiếm có, do nội chứng sâu kín, nên ngoài hiện cũng khó nghó bàn. Do là nhân nói pháp mà nêu riêng ra điềm lành này. Ở trong đây có ba điều: Phát ra ánh sáng. Chiếu soiCảnh . Chổ thấy. Đây nói về phần thứ nhất. Mi là vẻ đẹp của đầu mặt, nói lên pháp Phật nói là Đại thừa cao siêu tốt đẹp, gian là nghóa là ở chính giữa, biểu hiện cho pháp trung đạo. Bạch là màu căn bản của các màu sắc, nói rõ pháp này là nguồn gốc của ba thừa. Cho nên Phật dùng hoa sen trắng, trâu trắng để cưỡi. Hào là chỉ cho sự lông dài, cũng có khi gọi là lông rất nhỏ. Trong kinh Quán Phật Tam muội Hải quyển một chép: Khi còn là Thái tử sợi lông này duỗi dài ra năm thước. Khi kinh hành dưới cây lông dài một trượng bốn thước năm tấc, khi thành Phật thì dài một trượng năm thước. Cóhiện ra mười cạnh, trong ngoài đều thấy trong suốt, thả dài ra thì xoắn tròn, thu vào như trăng mùa thu đầy đặn, màu sắc rõ ràng rực rỡ như ngọc tuyết kha, quanh tròn cở bằng ba tấc. Phát ra ánh sáng có bảy nghóa: Khiến cho chúng sanh tịnh tâm biết đây là bậc cao quý. Phá hết si ám ngu muội và buông lung. Có thể dẫn đạo xuất thế. Nói lên bên trong phát ra trí sáng. Cứu các khổ do phát ra ánh sáng chiếu sáng mà các khổ được dứt trừ. Cảnh tỉnh chúng sanh. Do thấy ánh sáng mà người có duyên tìm đến. Khiến nhàm chán cảnh sắc. Chúng sanh đắm chìm trong cảnh sanh tử lâu ngày, nay thấy Phật phát ra ánh sáng, bèn nhàm chán mọi sắc màu sanh tử, cho nên Phật phát ra ánh sáng. Khi Phật Niết-bàn phóng bốn ánh quang minh trước mặt. Chúng sanh cõi trời nâng thân Phật lên mà tung đầy ánh sắc vàng. Nay từ giữa hai đầy chân mày Phật phát ra ánh sáng trắng, mỗi thứ đều có biểu thị . Nói về thần cảnh trí thông thì có mười tám biến: Rung chuyển. Chói sáng. Đầy khắp. Thị hiện. Chuyển biến. Qua lại. Cuốn lại. Duỗi ra. Các loài voi nhập vào thân. Đồng loại thì đi vào một đường. Ẩn. Hiện. Việc làm tự tại. Chế ngự thần thông người khác. Thi thố biện tài. Có khả năng lập bày sự nhớ nghó. Lập bày sự an vui. Phóng ánh sáng rộng lớn. Tuôn rải bốn thứ hoa như Mưa đó là nghóa thần biến tự tại, đất rung chuyển sáu cách là nghóa thần biến rung chuyển. Ở đây phát ra ánh sáng minh là nghóa thần biến đầy khắp, thấy sáu loài chúng sanh là nghóa thần biến thị hiện. Phẩm Thần lực ở dưới sẽ nói đầy đủ. Chánh kinh: “Chiếu sáng ở phương Đông… đến cõi trời A-ca-ni- sất”. Huyền tán: Là nói về chiếu cảnh thứ hai. Một thế giới đó là một cõi tam thiên. Chiếu khắp một muôn tám ngàn thế giới Phật. Đây nói chỉ chiếu sang ở phương Đông là vì ở Tây Vức cho phương Đông là trên hết. Nói lên kinh Pháp hoa chỉ đến với căn cơ Đại thừa Phật tánh mà không các căn tánh khác. Cho nên không chiếu nơi khác. Ví như khi mặt trời xuất hiện, trước là chiếu từ trên cao. Mặt trời Phật cũng vậy, trước chiếu soi căn cơ thuần thục, nên nêu ra cõi Đông phương, là có biểu hiện vậy. Trong Chánh Pháp hoa cũng nói chiếu sáng ở Đông phương, mà không chiếu các cõi khác. Một muôn là nêu số tròn đủ, tám ngàn là số không đủ, tiêu biểu sự đầy đủ của pháp Nhất thừa chân thật, nói rõ pháp Nhị thừa là quyền tích không đủ. Lại muôn là nói lên muôn đức của đảo châu báu Niết-bàn. Tám chỉ cho bát chánh Bồ-đề biểu tượng là xe trâu. Do hai thể này đều là Nhất thừa, mà Kinh này sẽ giảng nói, kinh này có thể đến, người nghe đều viên thành. Cho nên chỉ chiếu như vậy mà không thêm không bớt. Ở dưới chiếu sáng cõi địa ngục, nói lên cho những nơi có khổ đau đều được cứu. Trên đến cõi trời là khuyên người vui sướng cũng phải cầu đạo Nhất thừa. Lòng từ bi của Phật rộng khắp những người có duyên đều được chiếu đến. Chúng sanh ở địa ngục tuy không đến hội không có tâm dung dự cũng được chiếu soi mà dứt trừ khổ hoạn. Tiếng Phạm là A-tỳ, Hán dịch là Vô gián. Địa ngục Vô gián lànơi thấp nhất trong tám địa ngục. Chúng sanh thọ khổ không dứt nên gọi là Vô gián. Tiếng Phạm là Nại-lạc-ca, Hán dịch là Khổ khí. Cũng gọi là bất khả lạc, cũng gọi là phi pháp hành xứ, tạo hành xử phi pháp, ở khắp mọi nơi; nay nói địa ngục là từ nơi chỗ lớn, gốc vậy. Tiếng Phạm là A-ca-nê-sất-đề, Hán dịch là Chất ngại rốt ráo. A-ca nghóa là chất ngại, Nê-sất-đề có nghóa là rốt ráo, Hán dịch âm A-ca-ni là sai. Trời Sắc rốt ráo là tột đỉnh của cõi chúng sanh hữu tình, nơi ánh sáng có thể đến mà không chiếu sáng ở cõi Vô sắc, vì đây không có xứ. Chữ Phỉ có nghóa là không vậy. Phương bên thì chiếu một muôn tám ngàn cõi, phương trên dưới bao quát năm đường đều đủ khắp. Sự rung chuyển chỉ ở thế giới này, riêng cảnh tỉnh người có duyên. Phát ra ánh sáng tới một muôn tám ngàn cõi là hiển minh sự quyền thực. Cũng như ánh sáng chiếu soi cả năm đường đều thấm nhuần duyên, mà tập hợp nghe kinh, chỉ có bốn đường (bốn loài chúng sanh). Kinh: “Ở thế giới này… cho đến sáu loài chúng sanh”. Huyền tán: Đây nói chỗ ánh sáng chiếu đến có bảy: Sáu đường. Phật. Pháp. Bốn chúng. Bồ-tát. Phật nhập Niết-bàn. Xây tháp thờ. Bảy nơi này lại chia làm ba: Thấy sanh tư đắm chìm. Thấy Tam bảo xuất hiện. Thấy sau khi Phật diệt độ lại hành hóa . Muốn cho chúng sanh ưa thích và nhàm chán để phát tâm. Chúng sanh đắm chìm sáu đường sanh tử được chia làm sáu môn. Giải thích tên gọi. Nêu thể. Khai hợp. Xứ sở. Tuổi Thọ. Tướng nhân quả. Giải thích tên gọi: Sáu là tên số. Đường là nơi hướng về, nơi hướng về của năm ấm giả hợp đãø khởi lên nghiệp phiền não. Lập dùng tên đường theo số để giải thích vậy. Kinh Địa trì chép: Thọ dụng tự nhiên gọi là trời. Luận Câu-xá nói: Thần dụng tự tại sáng sạch gọi là trời. Kinh Niết-bàn chép: Vì nhiều suy nghó nên gọi là người. Trong Tạp tâm nói: Ý vắng lặng nên gọi là người. Lại nói: Vì theo người khác xin, lại thường đói lo sợ thường suy nghó nên gọi là ngạ quỷ. Luận Câu-xá nói: Vì đi ngang nên gọi là bàng sanh. Hoặc gọi súc sanh. Súc có nghóa là nuôi dưỡng, là công cụ giúp đỡ con người, là loài được người nuôi dưỡng. Tiếng Phạm là Nại-lạc-ca, Hán dịch là Khổ khí, như trước đã giải thích. Na-lạc-ca dịch là Ác. Người gây tội ác sanh làm khổ khí nên gọi là khổ khí. Không có tên địa ngục vàø xứ sở bất định chẳng phải chỉ có ở đất. Kinh Địa trì chép: Khổ ở địa ngục tăng dần lên thật đáng chán. thích. Tạp tâm cũng nói: Vì không thể vui sướng nên gọi là địa ngục. Tiếng Phạm là A-tố-lạc, Hán dịch là phi thiên trước đã giải Nêu thể: Sáu đường đều lấy Dị thục thức thứ tám mà làm tự thể, thuộc tánh vô phú vô ký. Cho nên trong Duy thức nói: Thức thứ tám này là Giới. Thú là nơi căn bản để lập ra sự sanh. Lại nói thức này có đủ: Thể của Giới, đường, sanh, không cần chấp riêng thật có mạng căn. Lại hữu tình lưu chuyển trong năm đường, bốn sanh, vậy thể của đường sanh này tức là Dị thục thức. Khai hợp là Sáu đường tổng lại làm một, nghóa là một kỳ hạn sanh tử. Kế dến khai làm hai là Thiện đường, ác đường, phân đoạn sanh tử, biến dị sanh tử. Hoặc khai ra làm ba là ba cõi. Hoặc khai làm bốn là tứ sanh, bốn hữu. Bốn hữu là: một là sanh hữu, hai là bổn hữu, ba là tử hữu, bốn là trung hữu. Và bốn loại sanh tử nghóa là phương tiện sanh tử, nhân duyên sanh tử, hữu hữu sanh tử, và vô hữu sanh tử. Hoặc chai làm năm là năm đường trừ A-tố-lạc. Hoặc khai làm sáu. Như văn kinh này nói sáu đường. Tạp tâm nói phi thiên thuộc quỷ đường. Luận Du-già nói Phật địa thuộc thiên đường. Kinh chánh pháp niệm thì nói A-tố-lạc thuộc đường quỷ và súc sanh . Kinh Già-đà nói thuộc, đường quỷ, súc sanh và trời. Nay nương vào Đại thừa chỉ thuộc về đường trời. Theo Du-già lấy Phật địa làm chánh, thì việc làm của phi thiên phần nhiều dối trá không thật, không đồng như các chư Thiên hành sự ngay thẳng nên gọi là phi thiên. Như người bất nhân gọi là phi nhân, không nói là phi quỷ phi súc sanh. Nay kinh này tách ra nên làm Sáu đường. Hoặc khai là bảy, nghóa là thất hữu, năm đường và nghiệp hữu, trung hữu. Hoặc khai ra làm chín là cửu hữu hoặc cửu hữu tình cư. Hoặc khai làm hai mươi lăm hữu, như phần dưới sẽ nói. Các phần khác như trong bài tụng “Nhà lửa” quyển thứ hai kinh này có giải thích. Trong kinh Du-già, Chánh pháp niệm cũng nêu ra đầy đủ. Đây nói chúng sanh trong sáu đường một muôn tám ngàn cõi ở đây đều có thể thấy. Chánh kinh: “Lại thấy cõi kia cho đến tu hành đắc đạo”. Huyền tán: Ở đây nói Tam bảo xuất hiện có ba: Phật, Pháp và Tăng. Tăng có hai: Một là Thanh văn. Hai là Bồ-tát. Thanh văn có bốn chúng. Luận nói người tu hành chưa đắc Thánh quả. Người đắc đạo đã đắc Thánh quả. Trong bốn chúng có hai loại này. Do mắt thấy thân Phật, tai nghe pháp, đồng thời thấy rõ chúng kia theo Phật tu hành. Chánh kinh: “Lại thấy các Bồ-tát cho đến tu hành Bồ-tát đạo”. Huyền tán: Đây là nói về Bồ-tát vậy. Nhân duyên có nghóa là nguyên nhân. Nghóa là Bồ tát vì cầu ra khỏi sanh tử, mau chứng quả Phật mà thành tựu chúng sanh. Vì nhân duyên này mà tu Bồ-tát đạo. Hoặc vì muốn nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu chúng sanh, tu Bồ-đề phần, hành Bồ-tát đạo. Hoặc vì Tu bốn nhiếp, Lục độ hành Bồ-tát đạo, các thứ nhân duyên, như thế. Tín giải: Tin và hiểu. Trụ vị Địa tiền chưa đắc Thánh quả. Tướng mạo là tướng oai nghi của ba nghiệp. Hành Bồ-tát phải có oai nghi tướng mạo. Trụ vào Thập địa rồi thì đắc đạo quả. Do các nhân duyên hành đạo Bồ-tát nên nhập vào hai ngôi vị. Lại nhân duyên đó là bên ngoài gặp được duyên lành bạn tốt. Thiện tri thức là nhân duyên lớn. Tín giải, tướng mạo là nội tu hành. Trong nội tu hành thì hành trì nội tâm gọi là tín giải. Hành về thân ngữ gọi là tướng mạo, tâm quán diệu lý gọi là tín giải. Xả đầu mắt tay chân… gọi là tướng mạo. Hành Bồ-tát đạo: Luận nói là nương vào bốn nhiếp pháp làm phương tiện nhiếp hóa chúng sanh. Tín giải tướng mạo đều là hành Bồ- tát đạo. Bốn nhiếp pháp: Bố thí (sau sẽ giải thích) Ái ngữ: Thường nói lời vui vẻ, chân thật, đúng pháp, không cau có, luôn mỉm cười trước khi nói, hoặc nói lời an ủi người khi gặp việc buồn phiền ôn hòa nhã nhặn mà không tự cao. Nói chuyện Phật pháp lợi ích. Đối với kẻ thù thì khởi ý thanh tịnh. Với người quá si mê thì dứt trừ nghi ngờ, đối với ruộng phước chân thật thì không có ác hạnh lừa dối không có hiềm giận mà tu hạnh ái ngữ khó hành, muốn trừ chướng cái cho họ mà vì nói… người có tâm điều hòa thịên pháp thì nói pháp Chân-đế, người nhiều buông lung thì dạy cho xa lìa. Người nghi hoặc thì đàm nói quyết trạch rõ ràng. Nương vào tứ tịnh ngữ mà khởi ra tám Thánh ngữ. Lợi hành: Do ái ngữ mà trước nêu ra chánh lý, tùy theo sở học mà khởi lòng thương xót vô nhiễm khuyến dẫn, điều phục, an xứ, kiến lập, có thể khiến được tài lợi ích trong hiện tại. Sau đó làm lợi cho người xuất gia, đều được lợi ích xa lìa ái dục, được khinh an giải thoát. Đối với người thân gần bạn ác chưa trồng gốc lành, chấp vào của cải ngôi vị, rất đỗi buông lung rất sâu, hoặc ngoại đạo tà kiến phỉ báng chánh đạo, thường sanh ra các nghiệp thập ác bát triền, đối với tất cả người này đều khai giải khởi tâm đại bi. Tuy thọ đại khổ mà tâm không lao nhọc, càng sanh vui mừng. Tuy ở nơi ngôi vị tài của tối nhất mà luôn hạ mình như kẻ nô bộc. Như Chiên-đà-la, như hiếu tử v.v… không nhiễm không dối trá, mà khởi tâm chân thật thương xót, vónh viễn không lui sụt. Đồng sự: Vì đây là nghóa lợi. Hoặc khuyên người khác học cũng tự mình tu học. Dạy cho người biết rồi thì cùng tu đồng sự, giữ gốc lành bền chắc không sanh lui sụt. Dạy người làm như vậy nghó như vậy thì ta nhất định có lợi lạc. Vì người theo đó mà hành trì. Nếu không như vậy sẽ bị người nói: Ông đã không tốt, sao lại dạy tôi. Như vậy cần phải hành trì trước. Bồ-tát hành lợi tha tuy có vô lượng, nhưng nêu ra tứnhiếp này để nhiếp tất cả hạnh, nên không nêu pháp khác. Chương nghóa như trong Vô cấu xưng số quyển hai có nói. Kinh: “Lại thấy Chư Phật… khởi tháp bảy báu.” Huyền tán: Đây thấy sự hành hóa sau khi Phật diệt độ. Có hai: Nhập diệt. Khởi tháp. Tiếng Phạm là Ba-lợi-nê-phược-nam, Hán dịch là Viên tịch. Tức là nghóa viên tịch, thể là viên mãn, Hán dịch âm Niết-bàn là sai. Niết- bàn lấy lục môn để phân biệt: Thể. Danh. Đắc thời. Đắc nhân. Năng chướng. Nhập ý. Thể của Niết-bàn có bốn: Tự tánh thanh tịnh Niết-bàn. Hữu dư y Niết-bàn. Vô dư y Niết-bàn. Vô trụ xứ Niết-bàn. Bốn thể này tức là Đại bát Niết-bàn. Có ba: Tổng thể của cả bốn thứ Niết-bàn này đều là một chân như. Chân như có đủ cả ba mới thành Niết-bàn. Có thể sanh ra viên giác thì gọi là Ma-ha Bát-nhã, là thể giác tánh. Ở thân Nhị thừa, không sanh viên giác, chẳng phải là giác tánh thì không gọi là Bát-nhã, Đại Luận Trí độ chép: Thuyết trí và trí xứ đều gọi là Bát-nhã. Hoa nghiêm nói: Tâm tự tánh thanh tịnh cũng gọi là Vô sư trí. Xuất ra sở tri chướng gọi là pháp thân. Kinh Thắng-man nói: Tại triền gọi là Như lai Tạng. Xuất triền (ra khỏi ràng buộc) gọi là pháp thân. Các hành Nhị thừa không gọi là pháp thân nên chẳng phải là nơi y chỉ của pháp công đức. Xa lìa hết các sự khổ của nhị tử nên gọi là giải thoát. Trong người Nhị thừa tuy đã dứt sanh tử phần đoạn , nhị phược mà không được giải thoát viên mãn. Nhưng người Nhị thừa cũng đắc chút ít giải thoát này, ba thừa cùng ngồi tòa giải thoát. Do đây Nhị thừa cũng gọi là đắc giải thoát Niết-bàn, nhưng chẳng phải là Đại Niết-bàn, và nghóa giải thoát không đầy đủ. Lại theo kinh Niết-bàn quyển hai nói phải có ba việc đầy đủ thì mới gọi là nhập vào Đại Niết-bàn; Bát nhã có thể chứng trí hai không. Pháp thân tức là hai lý sở chứng . Giải thoát tức là từ trí chứng lý. Khi hết chướng thì sở đắc được nhờ trạch diệt. Thể như ba điểm của chữ y, Niết-bàn cũng vậy, do trí chứng pháp thân mà đắc trạch diệt. Pháp thân là gốc nương vào đó có hai, như chữ y hai điểm ở trên và một điểm ở dưới. Riêng không thành ba việc rõ ràng là có biệt thể, lúc khác thời lý cũng không thành. Ba việc Niết-bàn là không phải một không khác, đều phải đồng thời đắc mới gọi là nhập Niết-bàn hàng dọc không thành thì Bát nhã là phẩm cuối, giải thoát phẩm giữa và Pháp thân ở phẩm trước. Ba pháp cùng thời thì đắc ba phẩm. Đây cũng không thành. Đứng từ trên xuống gọi là tung (dọc). Trước, sau ở bên thì gọi là hoành (ngang). Nếu ba thể riêng trước sau cùng chứng lý thì cũng không thành. Do khởi đại trí mà chứng lý pháp thân, lìa trói buộc mà được giải thoát. Ba việc không phải một không khácgọi là nhập Đại Niết-bàn, chẳng phải như người Nhị thừa chấp ba thể riêng mà có ba phẩm đó. Đắc riêng trước sau, hoặc cùng thời đắc mà thành nhập Niết- bàn. Các thể biệt xuất khác và giải thích danh nghóa như trong Duy thức sao quyển mười có nói. Nay nói Đức Phật kia thị hiện nhập vào vô dư, chẳng phải nhập vào Đại Niết-bàn. Trước tiên thành Phật rồi sau mới đắc. Người đáng độ nay đã độ rồi nên nhập vào Niết-bàn. Người hưa được độ cũng tạo nhân duyên được độ. Cho nên xây bảo tháp để cúng dường xá-lợi. Tiếng Phạm là Thiết-lợi-la thể, dịch âm xá-lợi là sai. Tốt- đổ-ba dịch là Cao hiển, dịch tháp là sai. Lại luận về bản khoa chiếu cảnh như văn dưới nói: Nương vào khí thế gian, ở bên chiếu sáng một muôn tám ngàn, dọc chiếu hai cõi dưới. Nói thế gian là thấy sáu loại chúng sanh. Số chủng chủng là dưới nói …, hiện đủ loại có thể thấy được, tức ngoài chỗ thấy năm thứ. Xét các loại thấy trong đây, Luận chia ra làm bốn nghóa: Là ăn: Nghóa là thấy Phật giúp cho thêm lớn nghóa, nhậm trì là ăn. Nhưng dù trợ giúp tăng trưởng thịên pháp thù thắng của chúng sanh. Nhậm, trì gốc lành mà không hoại nên Phật gọi là ăn. Lại nói thị hiện y chỉ vào đó mà trụ là ăn. nếu vậy Bồ tát Bát địa trở lên đối với cũng nói thị hiện trụ thực, cũng giống như nghóa trên. Lại nghóa thọ dụng có nghóa là thực. Thọ dụng pháp lạc gọi là thực. Là nghe pháp: Như tên gọi là có thể biết. Là tu hành: Nghóa là bốn chúng tu hành đắc đạo và Bồ-tát thực hành đạo Bồ-tát. Lạc: Nghóa là thấy Phật nhập diệt. Sanh diệt diệt rồi, kia lấy vắng lặng làm an vui. Lại vui có năm: Vui Tự tánh. Vui Nhân. Vui Khổ đối trị. Vui Thọ đoạn. Vui Vô não hại. Ở đây lại có bốn: Ra khỏi. Xa lìa. Vắng lặng. Giác pháp. Đây là bốn pháp vắng lặng lạc sau khi nhập Niết-bàn. Thị hiện đủ các loại thấy là: Ở đây hiển bày các tháp báu vô số Hằng hà sa để thấy. Lại thấy các việc này nên gọi là số lượng các việc thấy. Các việc này trong tụng dưới có nói. Nhập Niết-bàn rồi xây tháp bảy báu. Tháp báu cao đẹp năm ngàn do-tuần. Lại để thuật lại bảy chỗ thấy rằng: Chúng sanh ở trong sáu đường có đầy đủ phiền não khác nhau. Từ Phật trở xuống có đủ sáu sự đầy đủ, là đầy đủ có Phật, pháp, đệ tử khác nhau và thị hiện Tam bảo khác nhau; đệ tử lại có các thừa khác nhau; Thanh văn, Bồ-tát Nhị thừa khác nhau. Tức trong cõi thanh tịnh có thế giới có Phật, thấy Tam bảo gọi là có Phật. Có thế giới mà không thấy có Phật nhập Niết-bàn, rồi xây tháp thờ thì gọi là không có Phật. Viết xong vào ngày 19 tháng 10 niên hiệu Bảo an thứ ba, tại chùa Hưng Phước. Bản của Viên như phòng, tại Chùa Pháp long, vị tăng Pháp Ấn vì muốn chánh pháp cửu trụ nêu biên soạn. HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 2 PHẦN CUỐI Chánh kinh: “Bấy giờ ngài Di-lặc… mà có điềm lành này.” Huyền tán: Đoạn văn thứ sáu nói đại chúng hiện tiền muốn nghe pháp thành tựu, đoạn văn này có ba: Di-lặc thị hiện sự hoài nghi. Mọi người thật sanh tâm nghi ngờ. Nêu hai ý của ngài Từ Thị, phát hỏi: Nhân trước đạo hạnh của ngài Từ Thị đầy đủ nên làm chủ. Do đó thành tựu ở hiện đời, gặp được nhân duyên tốt đẹp. Chẳng là thấy ánh sáng mà không biết, quán Đẳng trì mà không rõ hay sao? Nhưng Bồ-tát lại thị hiện tướng không biết để thưa hỏi mà cảnh tỉnh chúng sanh. Cho nên nói: Di-lặc thị hiện tướng hoài nghi. Vì căn địa của mọi người cạn thấp, không lường biết được các điềm lành của bậc Đại thánh, nhìn thấy tướng ngoài vì sanh nghi nên nói mọi người thật sanh tâm nghi hoặc. Ngài Di-lặc hiệp hai ý tự, tha mà hỏi ngài Văn-thù. Nêu dẫn nguyên nhân trước nên làm đoạn thứ ba, trong phần đầu có bốn: Nói điềm lành nêu dẫn nhân gì? Nêu sự kỳ lạ hỏi đáp. Nêu công thượng đức. Hạ mình mới trình bày. Đây là đoạn văn đầu. Diệu dụng vô phương gọi là thần. Thần thông chuyển khác gọi là biến. Bên ngoài ứng với các sự vật, đặt tên là điềm lành. Điềm lành tức là niềm tin, là phù hợp với ứng. Đây hỏi phát ra ánh sáng có phù hợp với ứng gì, do đó mà nói nhân này để hỏi. Kinh: “Nay Đức Thế tôn cho đến ai có thể đáp”. Huyền tán: Đây nêu sự kỳ lạ này hỏi ai, ai đáp. Nói thuận theo vào uy nghi trụ để làm nguyên nhân hỏi. Nhập Tam muội, lý sâu của Tam muội, gọi là Bất khả tư nghì, làm mưa hoa rung chuyển mặt đất nên nói hiện ra việc ít có. Hiện ra các việc mưa hoa, động địa, phát ra ánh sáng, chiếu soi từ xa, ngoài ứng với căn cơ sự vật đều gọi là thần biến, tức thuộc về thuật lại điềm lành nêu dẫn nguyên nhân. Chỉ nhập vào Tam muội nên gọi là việc ít có. Ai có thể đáp: Là hói thăm xem ai là người đáp. Kinh: “Lại nghó cho đến ta nay nên hỏi.” Huyền tán: Nêu các vị có công đức trên hết như Văn-thù-sư- lợi… Nay ta nên hỏi đó là tự khiêm nhưng rồi mới trình bày. Đạo quả của ngài Văn-thù-sư-lợi thành tựu đã lâu rồi. Ở đây thị hiện ra nhân cuối nối tiếp ngôi vị Pháp vương của Phật, chỉ cò Ngài được gọi là Pháp vương tử. Vì Ngài đã từng gần gũi gặp được nhiều duyên tốt, cúng dường Chư Phật, trồng sâu gốc đức. Tiến tài tiến hạnh gọi là cúng dường. Văn-thù-sư-lợi trụ vào y thứ tư, cúng dường tám Hằng sa Phật. Cùng ba y trước hợp thành hai mươi sáu Hằng hà sa Phật, chắc chắn thấy tướng ít có này. Ngài Di-lặc tự khiêm tốn nói nay ta nên hỏi. Luận chép: Hỏi ở một người mà nhiều người muốn nghe, sanh tâm ít có. Cho nên chỉ hỏi Văn-thù-sư-lợi. Tâm chúng sanh phần nhiều chưa hiểu nên xuất phát nhiều người nghi, người hiểu chẳng nhiều nên đáp chỉ có một người. Luận chép: Thị hiện Phật và đệ tử cùng nhau thuận theo, pháp chứng thuyết… đều không trái nhau vì hiện ra nhân tướng lớn. Tướng lớn là nói diệu pháp. Nhân nghóa là thần biến. Nay hiện ra điềm lành làm nhân của thuyết. Lại tướng lớn đó tức là hiện ra điềm lành. Điềm lành tức là nhân pháp sở thuyết làm nhân. Lại nhân là nguyên nhân. Hỏi: Hiện ra các nguyên nhân tướng lớn thần biến, vì sao chỉ hỏi ngài Văn-thù mà không hỏi người khác? Đáp: Có hai pháp nên nêu ngài Văn-thù: Hiện thấy các pháp, Văn-thù chứng biết được các pháp. Lìa các nhân duyên mà tự tâm thành tựu pháp kia. Nghóa là Văn-thù-sư-lợi lìa hết các mô phỏng và xa hết sự so sánh và các nhân duyên nghe từ người, cho nên nêu ngài. Chỉ cho biết hiện các điềm lành là chỉ cho chúng biết hiện ra các việc kia kia. Vì việc không phải một nên nói kia. Như việc ấy hiện ra chìm đắm trụ diệt, thấy chúng sanh trong sáu đường hiện tại chìm đắm trong sanh tử kia gọi là hiện tại chìm đắm, thấy Phật pháp, bốn chúng, cùng chư Bồ-tát. Hiện tại trụ ở kia nên gọi là hiện trụ. Thấy Phật nhập Niết-bàn, và xây tháp thờ. Hiện tại nhập Niết-bàn, nên gọi là hiện diệt, thấy bảy việc mà đều thu nhiếp hết. Trụ chính là hiện tại, diệt không chìm đắm. Nhập Niết-bàn và việc xây tháp thờ gọi là diệt sự chìm đắm. Năm việc còn lại gọi là hiện trụ. Luận cho rằng ngài Văn-thù có thể ghi nhận việc kia, nên mới hỏi Ngài. Văn-thù-sư-lợi đã tạo tác thành tựu, mà các nhân quả thành tựu, đó được tạo tác các pháp sở tu, có hai thứ: Phước đức. Trí tuệ: Tức nội đức đều đầy đủ, nhân thành tựu là Nhất thiết trí thành tựu, duyên các việc phát ra ánh sáng, mưa hoa, động đất, tức ngoại đức đầy đủ, giải thích lại nhân là tướng. Nghóa là hiện ra các điềm lành này là nhân. Quả đó gọi là Đại pháp. Ngoài nhân Văn-thù đã đầy đủ, nội đức lại viên tròn. Cho nên biết Phật cũng nói quả pháp diệu , do đó suy ra mà hỏi. Kinh: “Bấy giờ Tỳ-kheo… đến…. Nay nên hỏi ai.” Huyền tán: Mọi người thật sự sanh tâm nghi ngờ, là vì Phật phóng ánh sáng, nói lại nhân duyên phát ra ánh sáng. Tướng thần thông, trong oai nghi lại có mưa hoa động đất. Tướng ngoài mọi người đều thấy, cho nên nói lại việc đó sanh ra nghi. Phật nhập định mọi người chẳng biết cho nên không hỏi. Vì những căn cơ, người, địa vị ở bậc hạ không thể lường thể biết được sự nhập định của Phật. Đã không biết Phật nhập định nào, cũng như dựa vào đâu để sanh nghi, cho nên không hỏi việc này. Kinh: “Bấy giờ ngài Di-lặc… Văn-thù-sư-lợi nói.” Tán là: Đoạn thứ ba dưới cùng nêu hai ý, là nguyên nhân trước hỏi. Đây có hai phần: Văn xuôi. Trùng tụng. Văn xuôi có hai: Phần đầu này cùng trình bày hai ý. Chánh kinh: “Vì nhân duyên gì… cõi nước trang nghiêm.” Huyền tán: Phần sau nêu nguyên nhân, trước khi hỏi, mà có phần nói chung về điềm lành này. Tướng thần thông là nói trong oai nghi của Phật có mưa hoa, động địa phát ra ánh sáng v.v… là nói nguyên nhân. Ngài Di-lặc vì mình và người nên hỏi. Thấy ngoại tướng mà cùng đồng như thế. Chỉ nói lại điềm lành để sanh chứng mà không hỏi nhập định. Ngoại nhân không nghi ngờ việc nhập định, nên Tụng dưới cũng không nói nhập định. Đều thấy cõi Phật kia trang nghiêm: Trong luận thì giải thích tổng quát ý kinh nói: Cõi nước của các Phật đó, là chỉ cho biết hiện có các pháp khác nhau trong cõi kia. Thị hiện để hóa độ bốn chúng, chúng sanh sáu đường. Hiện ra cõi uế và cõi nước tịnh diệu, không có trụ xứ chúng sanh phiền não. Vì hóa độ các Bồ-tát Thập địa mà hiện ra cõi Tịnh độ. Ở cõi Tịnh kia là bậc thượng thủ, tức là các Bồ-tát dựa vào Phật mà trụ. Phật tự tại ở trong hai cõi Tịnh và uế. Nói lại văn trước, nên trong phần chỗ thấy trước nói Phật là bậc thượng thủ. Phàm có trùng tụng thuật lại vì có mười lý do: Hai căn lợi độn. Hai chúng trước sau. Hai thứ vui thẳng, và không thẳng. Hai giải thích khó dễ. Hai tùy chân tục. Hai phần giữ, bỏ. (Văn xuôi giữ thiện, tụng văn xả ác). Hai quy tắc nêu ra và giải thích. (Văn xuôi nêu ra, văn tụng giải thích.) Trí, biện sai khác. (Văn xuôi nói trí vô tận, văn tụng biện minh vô tận). Giải trì sai khác (Văn xuôi là pháp giải, văn tụng là pháp trì). Thuyết hành lưỡng biệt (Văn xuôi vui cho người nói, văn Tụng vui cho người hành trì). Tụng mười điều này như sau: Lợi độn và trước sau Thẳng cong khó chân tục Lấy bỏ và nêu thích Trí biện giải thuyết hành. Văn xuôi và Trùng tụng có sáu nghóa không đồng: Rộng lược hoặc có không Hợp ly và trước sau Văn chất và ẩn hiện Cong thẳng khác nhau. Cho đến văn dưới mỗi việc sẽ nói rõ. Chánh kinh: “Bấy giờ, ngài Di-lặc cho đến ánh sáng rực rỡ cùng chiếu”. Huyền tán: Tiếng Phạm là Già-đà, Hán dịch là Tụng. Tụng là Mỹ là Ca, ở trong văn tụng câu văn dùng mỹ từ, trau chuốt nên nói Ca Tụng. Lược dịch kệ là không đúng. Kệ này là tụng cầu lửa, nếu hướng đến giải thích thể nghóa, thì kém hơn danh cú, hoặc làm nương tựa thì không bằng văn cú âm thanh, nên trong trăm pháp không lập riêng. Nhưng ở trên âm thanh lấy nghóa xoay vần làm thể, tức danh cú văn lại không có tánh riêng không giống bài tụng Tiểu thừa thì nương vào văn và văn só. Đây chính là tụng trong ba mươi hai chữ Thất-lư-ca. Gồm có sáu mươi hai bài tụng chia làm hai: Năm mươi bốn bài tụng các điềm lành, ở trước; tám bài tụng sau, phần chánh hỏi. Trong phần đầu lại có ba: Một hàng đầu nói nhân phát ra ánh sáng chiếu soi trước khi tụng. Ba bài tụng kế tụng trong uy nghi như mưa hoa, mặt đất rung chuyển. Năm mươi bài tụng sau nói các cảnh chiếu sáng hịên ra ở trong nhân. Đây nói về phần đầu. Tụng trước phát ra ánh sáng, tụng sau mưa hoa. Trong sáu sự bất đồng thì có trước sau bất đồng, do thuận tiện ở văn. Chánh kinh: Mưa hoa Mạn-đà-la cho đến cõi đất đều trang nghiêm thanh tịnh.” Huyền tán: Ba hàng tụng dưới, tụng ba việc trong oai nghi. Một hàng tụng rưỡi nói về rải hoa như mưa. Nửa hàng kế là tụng về động địa. Một hàng tụng bốn chúng vui mừng. Đây tụng rải hoa như mưa, không tụng nhập định vì tự biết không hỏi, chúng cũng không nghi. Phần Văn xuôi nói về bốn loại hoa, tụng này có hai vì hợp lý không đồng, hoa này là hương chiên-đàn, khi gió thổi thì tựa như hương xích bạch đàn bay rất xa người nghe vui sanh lòng vui mừng, “mặt đất thảy đều trang nghiêm thanh tịnh,” cũng như phần Văn xuôi nói không khác nhau. Kinh: “Mà thế giới này cho đến được điều không hề có.” Huyền tán: Hai câu tụng đầu tụng về động đất. Một hàng tụng sau tụng bốn chúng vui mừng. Kinh: “Từ giữa hai đầu chân mày phóng ra ánh ánh sáng cho trên đến trời Hữu đảnh. Huyền tán: Năm mươi bài tụng dưới là nói về chiếu cảnh, giới hạn chỗ thấy, ở đây chia làm hai: Một hàng rưỡi tụng về chiếu cảnh. Bốn mươi tám hàng rưỡi sau là tụng về chỗ thấy. Đây là tụng khí thế giới, tức là chiếu cảnh . “Đều như màu vàng ròng,” hiển bày nghóa đáng tôn trọng. Aùnh sáng chỉ sắc trắng tiêu biểu Nhất thừa là căn bản. Chỗ chiếu sắc vàng tiêu biểu Nhất thừa đáng tôn trọng. Hoặc thị hiện tướng cõi tịnh của các cõi Phật, khiến làm nhân ngoại quả của Nhất thừa, cho nên nói như sắc vàng. Trong phần tụng dưới, nên biết trong tụng ngài Văn-thù ở dưới cũng hiện ra cõi Tịnh, hoặc sợi lông giữa hai đầu chân mày tuy trắng mà ánh sáng thì màu vàng. Kinh: “Trong các thế giới… ở đây đều thấy.” Huyền tán: Bốn mươi tám hàng rưỡi tụng thấy sáu việc. Không tụng việc nhập diệt. Đây văn chia ra làm sáu: Một hàng rưỡi tụng chúng sanh sáu đường. Nửa hàng kế là tụng về thấy Phật. Sáu hàng rưỡi tiếp tụng về việc nghe pháp. Một hàng rưỡi tụng về bốn chúng. Ba mươi mốt hàng kế tụng về hành đạo Bồ-tát. Bảy hàng tụng sau tụng sau khi Phật diệt độ thì khởi xây tháp. Phần một: Nói chúng sanh ở trong thế gian đầy đủ các phiền não sai khác sanh tử là tổng nêu chung hoặc, nghiệp, khổ. Nơi hướng đến là khác nhau tức là quả sáu đường, hoặc quả của nơi hướng đến thể là sanh tử. Vì nghiệp, phiền não, giả hợp là hữu tình tức chủ thể (năng) hướng đến. Cho nên kinh tự giải thích: “Nghiệp duyên lành và dữ, chịu báo có tốt xấu. Chịu báu tốt xấu là quả nơi hướng đến. Nghiệp duyên thiện ác làm nhân năng hướng đến. Do thiện nghiệp làm nhân dị thục, các nghiệp tham, sân, si làm nhuận duyên mà thọ báo tốt ở trời người. Trời người là quả báo tốt, nơi chúng sanh làm thiện hướng về. Do ác nghiệp làm dị thục nhân, các nghiệp tham làm nhuận duyên nên thọ tổng báo trong ba đường ác. Ba đường ác là báo chung xấu nơi chúng sanh làm ác hướng về, gọi là nơi hướng đến, ở đây đều thấy. Trung hữu, nghiệp phiền não gọi là chủ thể hướng đến. Ngoại khí thế gian là công cụ giúp để hướng đến, trong dị thục quả gọi là nơi hướng đến. Như có bài tụng rằng: Thú về rừng rậm Chim về hư không Thánh về Niết-bàn Pháp về phân biệt. Tức lấy nơi trở về làm nơi hướng đến. Giả hợp thành hữu tình vì đường thiện ác là nơi sanh tử hướng đến. Trong luận nói đầy đủ sự thanh tịnh khác nhau, tức là số đủ loại. Phần hai: Kinh: “Lại thấy Chư Phật, Thánh chủ, sư tử.” Huyền tán: Nửa hàng tụng này nói thấy Phật. Sư tử chỉ cho Thánh chúa. Thánh chúa chính là Chư Phật, là câu dưới để giải thích câu trên. Tự tại vô úy nên gọi là sư tử. Thấu suốt chân tục gọi là Thánh chúa. Chúa của Thánh chúng tức là Chư Phật. Phần ba: Chánh kinh: “Giảng nói kinh điển… đến Phật đạo thanh tịnh.” Huyền tán: Sáu hàng tụng rưỡi này tụng về nghe pháp. Đoạn này chia làm hai: Ba hàng rưỡi tụng về nghe bốn biện. Ba hàng tụng sau nghe pháp ba thừa. Ba hàng rưỡi đầu gồm: Nửa hàng đầu nghe nghóa vô ngại. Một hàng kế nghe pháp vô ngại. Một hàng tụng nghe từ vô ngại. Một hàng tụng nghe biện tài vô ngại. Nghóa sâu nên gọi là mầu nhiệm. Thượng thừa gọi là đệ nhất nghóa vô ngại giải. Dạy lìa cấu nhiễm gọi là thanh tịnh. Khéo thuận tâm người gọi là nhu nhuyễn, là pháp vô ngại giải . Khế lý gọi là sâu mầu ứng cơ gọi là thích nghe. Diệu thuận theo các phương gọi là “đều ở thế giới mình”, là từ vô ngại giải vậy. Dùng các loại nhân duyên “là đạo lý của pháp. Dùng vô lượng dụ để thí dụ. Về pháp dụ đều khai lược có hai nghóa: Để soi rõ Phật pháp. Khai ngộ chúng sanh là biện tài vô ngại giải. Ba hàng sau, Chánh Kinh: “Như người gặp khổ cho đến… nói cho nghe tịnh đạo”. Huyền tán: Đây là tụng nghe ba thừa: Thanh văn, Độc giác, Bồ- tát, như thứ lớp nêu ra ba hàng tụng: Phần bốn: Chánh Kinh: “Văn-thù-sư-lợi cho đến nay sẽ nói lược ra.” Huyền tán: Một hàng tụng nói về thấy bốn chúng, nhân kết phần trước nói thấy bốn chúng kia tu hành đắc đạo các tướng trạng rất nhiều. “Thấy nghe dường thế đó” là kết phần trước thấy. “Và nghìn ức việc khác” là thấy bốn chúng. Nay kinh này chánh tông nói về nhất thừa. Không thể nêu ra đầy đủ sự hành trì của bốn chúng khác, là nói chúng số nhiều. “Nay tôi nói lược ra” trên nói Thanh văn, phần dưới nói Bồ- tát. Tức sự khác nhau giữa của các thừa. Phần năm: Chánh kinh: “Tôi thấy cõi kia… cho đến cầu Phật đạo.” Huyền tán: Ba mươi mốt hàng rưỡi tụng hành Bồ-tát đạo, chia làm ba đoạn. Một hàng tụng đầu tụng về các pháp nhân duyên. Kế mười bảy hàng tụng về tướng mạo. Mười ba hàng rưỡi sau tụng về tín giải. Trong phần Văn xuôi trước đem nội hành ngoại duyên mà nói thứ bậc từ phàm đến Thánh. Nay trước tiên tụng ngoại duyên, sau nói về tự hành. Tự hành thì lấy sự hơn kém làm trước sau. Tướng mạo đó là tạp tu hữu lậu, Thập địa vô lậu, Thứ lớp tu sáu Ba-la-mật. Tín hiểu chỉ tu hữu lậu. Nếu loạn tu thì không phải thứ lớp. Hơn kém đã khác nên phân biệt có trước sau. Nhưng tu lục độ lược có ba vị. Kiến đạo từ sơ kiếp về trước, ở trong nhất hành chỉ tu một hạnh, loạn tu hữu lậu tức là tín hiểu này. Từ sơ địa đến mãn thất địa tu tất cả hạnh trong nhất hạnh trong kiếp thứ hai. Cả hai pháp hữu lậu vô lậu đều là tạp tu. Từ Bát địa đến mãn Thập địa tu tất cả hạnh trong tất cả hạnh ở kiếp thứ ba thuần tu vô lậu. Tu hai kiếp sau tức là tướng mạo này. Kinh Thập địa nói: Sơ địa hành bố thí… cho đến Thập địa tu Trí độ, với các độ khác tùy lực tùy phần mà chẳng có độ nào không tu tập. Thế nên tướng mạo ở đây tức là Thập địa tu. Có thứ lớp cho nên hành trì rộng lớn. Tín hiểu tức là từ kiến đạo về trước, sự hành trì không hơn cho nên nói loạn tu là nghóa nhân duyên ở tụng này. Hằng sa Bồ-tát: Tiếng Phạm là Căng-già, dịch lược là Hằng, là không đúng, là tên một vị thần sông. Trong kinh thường dùng Hằng hà sa làm thí dụ. Từ ao Vô Nhiệt não chảy ra bốn con sông lớn. Đây là một trong bốn con sông lớn đó. Là do ở đây cát nhiều. Là người đời cùng cho nước này là phước, xuống đó tắm gội tội lỗi diệt hết, bất tử sanh lên trời. Là dù trải qua kiếp hoại mà tên gọi vẫn thường định. Phật nhiều lần đến bên bờ sông này giảng nói pháp mầu. Mọi người cùng tin theo nên thường lấy đây làm thí dụ. Nhưng chỉ lấy nơi bắt nguồn từ cửa khẩu vuông vức bốn mươi dặm cát, lấy đó làm dụ. Đoạn hai: Chánh kinh: “Hoặc có người hành thí… cho đến cầu trí tuệ Phật.” Huyền tán: Mười bảy hàng tụng về tướng mạo, trong đây chia làm hai: Mười lăm hàng đầu tụng về pháp lục độ. Hai hàng tụng tu tập viên thành hai lợi ích. Hai hàng tụng sau là nói tám thứ gió bất động, ba tâm bi cứu chúng sanh. Trong tụng lục độ chia ra làm sáu: Sáu hàng tụng về thí. Kế đến là hai hàng tụng về giới. Kế là một hàng tụng nhẫn. Kế là một hàng tụng về cần. Kế là hai hàng tụng về định. Phần sau là ba hàng về tuệ. Phần thí có ba: Bốn hàng đầu nói ngoại tài, một hàng kế nói nội tài, ngoại tài, một ngoại tài sau nói nội tài. Trong bốn nội tài,ngoại tài: Thí bảy báu, bát trân, thí thành tựu độ, thí tạp vật. Trong bảy báu thì: Là vàng, trong văn nói vàng có năm mầu, màu vàng là chính. Bạc. San hô là đá có màu hồng nhẹ, vân giống hình cây. Chân châu tức xích chân châu. Luận Phật Địa chép: Màu đỏ từ trùng xuất ra. Hoặc thể châu màu đỏ nên gọi là xích trân châu. Ma-ni: Như ý thần châu. Không phải lưu ly nên chai châu này có hai. Xa cừ: Tiếng Phạm là Mâu-sa-lạc-yết-bà, chính giữa màu trắng xanh. Mã não: Tiếng Phạm là Át-thấp-ma-yết-bà, Hán dịch là chữ Tạng. Hoặc dịch Thai tạng, có nghóa là bền chắc. Màu như mã não, do đây mà đặt tên. Vì là loại báu nên đặt tên từ chữ ngọc. Hoặc như loại đá nên dùng thạch đặt tên. Bảy báu này không đồng tùy theo địa phương xem trọng. Kế tụng nói về tám trân: Kim Cương. Chư trân, thuộc loại đế thanh đại thanh. Nô: thời xưa các tội nhân làm nô dịch cho quan, vào hàng thấp kém cũng là nô. Tỳ: nữ nô gọi là tỳ. Xe: là gọi chung các loại xe. Do Hạ-hầu-thì hề trọng làm ra. xưa âm là cư. Nói hành cho nên ở người. Nay là nhà xe. Nói hành là nơi ở như nhà. Thừa: Theo lễ nhà Chu, thì Thừa, nghóa là có thể chuyên chở, là các loại xe ngựa, voi. Xe kéo trang hoàng vật báu , có người phu kéo ở trước. Thời xưa bậc khanh đại phu đều đi xe này. Từ đời Hán về sau, thiên tử mới đi xe. Cho nên xe của vua, hoàng hậu gọi là liễn (xe kéo). Dùng tám báu trang sức, thuyết văn gọi là xe hưng. Lại xe không bánh thì gọi là Hưng. Thừa là chuyên chở. Dùng các thứ báu trang sức nên gọi là bảo sức. Kế một hàng tụng nói bố thí thành tựu độ. Trong Thành Duy thức chép: Đầy đủ bảy nhiếp thọ mới thành ra tướng độ, thiếu một thì không thành, ứng với bài tụng chép: An trụ và y chỉ Ý lạc và sự nghiệp Công xảo hướng thanh tịnh Độ thành do bảy này. Trong đây chỉ nêu một để hướng về đạo Bồ-đề. Sáu pháp khác theo đây có thể biết. “Nguyện đắc Nhất Phật thừa, bậc nhất trong ba cõi tức là ý hồi hướng. Một hàng tụng về tạp vật: Gọi Tứ âm Tức người xưa dùng bốn ngựa kéo một xe có thể chạy theo? Phòng dùng bốn ngựa kéo gọi là thiên tứ, nên nay người bắt chước. Xưa Hoàng đế cùng vua Xí-vưu chiến đấu ở đồng Trác lộc, thường có mây kim chi ngọc diệp năm mầu che phía trên vua có hình bông hoa, do đây mà làm ra lọng bằng hoa. Y theo vào thật lý mà giải thích: Ở bên Tây vực khí hậu nóng, người ta phần nhiều cầm dù để trang sức gọi là sức. Màn che trên xe gọi là hiển. Xe bốn ngựa ở bên có lan can, trên có lọng hoa, che màn trang sức, dùng để bố thí. Trên bốn hàng nói về ngoại tài, kế một hàng nói về nội ngoại tài. Tự thân gọi là nội tài. Vợ con là ngoại tài. Kế một hàng chỉ có nội tài đem bố thí mà lòng vui mừng. Bố thí có năm tướng: Là dốc lòng và tín tâm, tùy thời, tự tay bố thí, như pháp hành trì, xả vật. Đó gọi là năm loại bố thí, tức là thứ tư trong bảy nhiếp thọ, sự nghiệp không nên thí cũng có năm: Bất tịnh và não hại chúng sanh không nên thí cũng như các vật làm hoại tịnh tâm của người. Như vậy thì trong năm tướng đều như pháp mà thí. Thí có năm lợi: Là thân gần, thường thích thấy , tôn kính, được tiếng tốt. Lại làm nhân về sau nên gọi là lợi của sự thí thiện. Những việc trên đây đều như kinh phát tâm Bồ-đề có nói. Trong pháp thí này nên khởi ra bốn trí. Nếu có của cải mà tâm không thích thí thì khởi lên trí giác ngộ. thí. trí. Không của cải mà tâm không thích thí thì khởi lên nhẫn khởi Có của cải tâm ý vui vẻ mà không thích thí thì khởi lên tri đảo Ưa quả thế gian mà hành thí thì khởi lên bất kiên trí. Thí để không còn tham và để người kia khởi lên ba nghiệp làm tánh, như trong Bồ-tát địa có nói. Kinh: “Văn-thù-sư-lợi cho đến mà mặc pháp phục”. Huyền tán: Đây là hai hàng tụng về giới. Giới có ba loại: Giới luật nghi tức giới bảy chúng đều thọ trì. Nhiếp thiện pháp giới. Là tu tất cả thiện pháp của ba thừa. Nhiêu ích hữu tình giới: Tức lợi ích chúng hữu tình muôn hạnh tam nghiệp. Kinh Thắng-man nói: Pháp Tỳ-ni-ba-la-đề-mộc-xoa, người xuất gia thọ cụ túc giới vì đó mà nói Đại thừa. Trong Bồ-tát địa chép: Giới luật nghi đó là xả bỏ ngôi vị Luân vương như bỏ lá cỏ để xuất gia thọ giới cụ túc, đều gọi là giới luật nghi. Cho nên điều ở đây nói chính là luật nghi vậy. Cần phải có giới luật nghi làm căn bản thì mới có hai giới sau. Nếu phá luật nghi thì ba giới đều xả. Thế nên trong bốn pháp Ba-la-di đều là giới luật nghi. Đây nói đầu tiên xuất gia rồi mới thọ giới cụ túc. Do đây mà đầu tiên nói về giới luật nghi. Có bổn nói phi pháp phục là mặc pháp phục. Âm phi nghóa trái lại bày ra giữ gìn. Địa phương nói phi là tán. Nay thì gọi là bị pháp phục. Bị có nghóa là da bên ngoài! Pháp phục nghóa là mang, đeo nên là âm (vị) Sự xuất gia rộng lớn dụ như hư không. Ở tại gia chật hẹp như địa ngục. Cho nên nói người xuất gia trì giới có năm điều lợi: Phật Mười phương che chở. Khi chết tâm vui vẻ. Được người trì giới làm bạn thân. Công đức tròm đầy. Đời đời thường đắc giới thành tựu tánh giới. Luận Trí độ chép: Giới là cái bình đức, đây là lợi thứ tư. Tụng: Che chở khi chết vui. Bạn giới công đức đầy Sanh thường giới thành tánh Đó là năm loại giới. Chánh kinh: “Hoặc thấy Bồ-tát… thích tụng kinh điển”. Huyền tán: Đây là một hàng tụng về nhẫn: Đại Tụng kinh điển suy nghó pháp nghóa quán đế pháp nhẫn, nêu điều khó nói riêng là nhiếp cả hai nhẫn là nhẫn chịu đựng oán hại, an thọ khổ nhẫn. Kinh: “Lại thấy Bồ-tát… cho đến… suy nghó Phật đạo”. Huyền tán: Đây là một hàng tụng về chuyên cần. Ở đây có cả hai pháp nhiếp thiện và mặc pháp phục. Lược không có chúng sanh tinh tấn lợi lạc. Tinh tấn có năm: Là mặc giáp, gia hạnh, không dưới, không thoái, không đủ tức có thế lực, có chuyên cần, có dõng lực, bền chắc, không bỏ pháp thiện mà trong kinh nói. Đầu tiên phát khởi tâm dõng mạnh lợi lạc gọi là mặc giáp. Kế là khởi tâm bền chắc mạnh mẽ thì mới gọi là gia hành. Kế đến là chứng đắc chẳng tự khinh mình, cũng không yếu hèn thì gọi là không dưới. Kế là có thể chịu đựng các khổ nóng lạnh, với việc thiện kém… không sanh tâm vui đủ gọi là không thoái. Kế đến là có thể chứng nhập vào các đế hiện quán…, thích cầu công đức trội hơn về sau, gọi là không đủ. Người Nhị thừa rốt ráo vui nơi đại đạo Bồ-đề. Chư Phật rốt ráo vui nơi lợi lạc chúng sanh. Cho nên tên gọi đầu tiên là mặc giáp. Bốn nghóa sau gọi là nhiếp thiện. Trong đây hợp lại gọi là mạnh mẽ tinh tấn. Chánh kinh: “Thấy ly dục… cho đến… khen ngợi các bậc Pháp vương”. Huyền tán: Đây là hai hàng tụng định, lìa chỗ ồn náo thường ở nơi trống vắng. Do an trú nơi tónh lặng, suy nghó nên tu thiền định sâu, dẫn phát tónh lự, cho nên đắc ngũ thần thông. Do sự tónh lự, đã làm xong nên khen ngợi các bậc Pháp vương. Cả ba pháp này do lìa dục mà có. Kinh: “Lại thấy Bồ-tát cho đến nghe rồi đều thọ trì.” Huyền tán: Một hàng tụng về tuệ, tức gia hạnh trí. Vì diệu đạt thật tướng cho nên trí tuệ sâu xa. Âm nhạc không hoại nên chí bền chắc. Lại suy nghó xa xôi cho nên trí sâu, không thôi nghỉ nên chí bền chắc. Lại thêm công thưa hỏi, nghe đều có thể trì. Chánh kinh: “Lại thấy Phật tử cho đến mà đánh lên trống pháp”. Huyền tán: “Đây là hai hàng tụng về hai trí. Định tuệ đầy đủ là đắc hai trí viên mãn (căn bản trí, hậu đắc trí). Trong hậu đắc trí dùng thí dụ để giảng pháp. Giảng pháp có bốn ý: Vui thích nói pháp. Hóa độ các Bồ-tát mà không hóa độ người Nhị thừa. Phá trừ mười ma. Đánh trống pháp. Đánh trống pháp là bỏ quyền bày thật. Ma-la dịch là phá hoại, gọi tắt là Ma. Ba-tỳ-dạ hán dịch là ác, Hán dịch âm Ba tuần là sai. Trong Tạp tạng, Phật nói ma quân có mười, nay làm Tụng rằng: Dục ưu sầu, đói khát. Ái, ngủ nghỉ, lo sợ Nghi, độc và danh lợi Tự cao khinh mạn kia. Ma quân là như thế Tất cả không thể phá Trí ta tên dao định Phá bình ném xuống nước. Hoặc dùng chánh trí để kích chân như, dùng hậu trí để kích tục lý. Nói pháp phát ra âm hưởng, khiến cho chúng được nghe. Nhưng bố thí chỉ nói lợi tha, tuệ có cả hai lợi. Trong đây sáu độ này đều có đủ hai lợi. Trong bốn pháp chỉ nói tự lợi, lược không nói lợi tha. Thật ra chẳng phải không có. Chánh kinh: “Lại thấy Bồ-tát cho đến… không cho là vui”. Huyền tán: Hai hàng tụng dưới nói về tám thứ gió thổi bất động ba tâm bi tiếp vật. Tám thứ gió bất động này, chữ yên âm là yên, nghóa là an là nghỉ. Có thuyết nói là Yến. Yến nhàn, cũng có nghóa là yên lặng. Tám thứ gió: Lợi. Xuy. Hủy. Dự (tiếng khen). Xưng. Cơ (chê). Khổ. Là lạc. Nay ở đây chỉ nêu có bốn. Sanh hỷ, được tiền tài, danh vị lợi lộc. Được khen ngợi trước mặt gọi là dự (vui) khen sau lưng thì gọi là xưng. Thích vui gọi là lạc. Trong bốn pháp này Bồ-tát không lấy đó làm vui. Nói cung kính là nghóa thông suốt. Dịch bốn điều: Xuy, dự, cơ, khổ cũng là không sanh ưu, thân tâm tịch nhiên, ngôn ngữ tịch lặng lìa xa tám thứ gió, như trong kinh Du-già phẩm thứ hai có giải. Kinh: “Lại thấy Bồ-tát cho đến khiến nhập vào Phật đạo”. Huyền tán: Đây là tụng ba tâm bi tiếp vật. Bi nghóa là cứu khổ, hữu tình duyên thì bi duyên hữu tình khởi. Hành thì có nhiều loại. Sanh thì cũng vô cùng, chỉ nêu một hạng cứu chúng sanh khổ nặng. Cho nên nói: Phát ra ánh sáng cứu khổ ở cõi địa ngục. Hai tâm bi còn lại là pháp và vô duyên bi y theo đây cũng thành tựu. Phần dưới sẽ nói đầy đủ rõ ràng. Kinh: “Lại thấy Phật tử cho đến cần cầu Phật đạo”. Huyền tán: Mười ba hàng rưỡi tụng về sự hành đạo của tín hiểu hàng địa tiền phàm phu. Lục độ loạn tu tức là sáu. Một hàng tụng về cần. Một hàng tụng về giới. Một hàng rưỡi tụng về nhẫn. Hai hàng tụng về định. Năm hàng tụng về thí. Ba hàng tụng về tuệ. Ăn uống, đúng lượng, ít ngủ nghỉ. Đầu hôm gần sáng giác ngộ pháp Du-già là cần tức siêng năng. Kinh Di giáo cũng nói: Đầu hôm gần sáng cũng chớ phế bỏ, nửa đêm tụng kinh để tự tiêu dứt phiền não. Không vì nhân duyên ngủ nghỉ, để một đời trôi qua mà không được gì. Từng thử nghóa là tạm lấy. Nay không tạm lấy nên nói là không hề. Kinh hành trong rừng, ở bên Tây vực đất ẩm thấp, phải chồng gạch lên làm đường đi, nghỉ ngơi, ăn uống, tụng kinh, như dệt lụa con thoi qua lại, nên gọi là kinh hành. Đây là để sách tấn khuyên tu bốn chánh đoạn là: Đối với pháp ác bất thiện đã sanh tu luật nghi dứt, pháp bất thiện ác chưa sanh, tu đoạn dứt. Pháp thiện đã sanh, tu phòng hộ dứt. Đối với pháp thiện chưa sanh thì tu tập dứt, để cầu Phật đạo. Cho nên, trong kinh Hoa nghiêm nói: Phật tử khéo lắng nghe Ta nói nghóa như thật Hoặc là mau ra khỏi Hoặc là khó giải thoát. Nếu muốn cầu trừ diệt Vô lượng các tội ác Nên trong bất cứ lúc nào Mạnh mẽ đại tinh tấn. Cũng như chút ít lửa Củi ướt thì làm tắt Ở trong giáo Phật pháp Biếng nhác cũng như vậy. Cũng như người dùi lửa Chưa đỏ đã vội nghỉ Thế lửa liền theo mất Biếng nhác cũng như vậy. Cũng như ngọc tắt lửa Lìa duyên mà tìm lửa Thì không bao giờ được Biếng nhác cũng như vậy. Cũng như mặt trời sáng Nhắm mắt cầu thấy sắc Đối với giáo pháp Phật Biếng nhác cũng như vậy. Do tâm phát tinh tấn ban đầu là hơn hết. Tin là chỗ nương của dục. Dục là chỗ nương của tinh tấn. Cho nên ở đây chỉ lấy tinh tấn làm đầu. Tín là dục y. Dục là tinh tấn y. Ở đây lấy tinh tấn làm đầu. Trong Thập tín tâm thì sau Tín là tinh tấn. Kinh: “Thấy người đủ giới cho đến để vì cầu Phật đạo”. Huyền tán: Đây là một hàng tụng về giới. Ba nghiệp oai nghi thường không thiếu bớt. Chớ khinh điều lỗi nhỏ cho là không hại, giọt nước tuy nhỏ mà dần đầy chậu lớn, nên thấy sợ sâu xa và hổ thẹn. Tịnh như hạt ngọc báu: Trong ngoài không có dấu vết. Giới đức đầy đủ viên mãn. Uy quang chiếu sáng . Mọi người đều yêu mến. Do đây mà hột nga châu bị buộc vào cỏ, xả bỏ thân, nhạn rơi biết trước việc, rồng sanh dưới cây y lan. Bình tùy theo ý muốn, cho nên phải lấy luật nghi làm gốc. Kinh: “Lại thấy Phật tử cho đến vì cầu Phật đạo”. Huyền tán: Một hàng rưỡi tụng về chịu đựng sự oán hại. Được ít cho là nhiều gọi là Tăng thượng mạn. Cậy vào dòng họ, sắc lực, thông minh, giàu có, đạo đức, tiếng tăm hơn người tỏ ra khinh mạn đánh mắng. Bồ-tát dùng năm thứ quán có thể nhẫn cả. Tưởng thân thuộc. Tưởng chỉ có pháp. Tưởng có khổ. Tưởng vô thường. Tưởng nhiếp thọ. Bài tụng: Nên quán kẻ hại kia Thân thuộc, chỉ có pháp Có khổ và vô thường Nhiếp thọ cho nên nhẫn. Trên đây là nêu sơ lược, đồng thời rộng như trong U tán, sợ dài dòng nên không thuật lại. Kinh: “Lại thấy Bồ-tát cho đến vì cầu Phật đạo”. Huyền tán: Đây là hai hàng tụng về định. Có bốn điều xa lìa: Hý: Các hí luận phân biệt. Sất: Là lời đùa giỡn. Lìa sự ngu si. Lìa quyến thuộc xấu ác. Không lìa thì có hai: Trái với điều xa lìa thứ tư tức gần gũi duyên lành. Nhất tâm trừ loạn, trái với ba điều trước. Cho nên trong kinh Di giáo chép: “Các Tỳ-kheo! Nên xa lìa nơi ồn ào, ở riêng chỗ vắng lặng suy nghó dứt trừ căn bản khổ, nếu thích ở chốn đông người, thì bị các khổ não. Chánh kinh: “Hoặc thấy Bồ-tát cho đến cầu Vô thượng đạo”. Huyền tán: Đây là năm hàng tụng về thí. Chia làm ba: Ba hàng đầu tụng nói về thí tứ sự. Một hàng tụng kế là thí thượng diệu. Một hàng cuối là ý lạc thí. Tứ sự: Ẩm thực, thuốc thang, y phục, ngọa cụ. Chữ Hào không phải ngũ cốc mà ăn, các loại rau quả ngon làm thức ăn. Thiện có nghóa là ăn đầy đủ. Nay các thứ vật ngon cũng gọi là trân thiện. Thế tục giải thích hào thiện là ăn thịt. Nay cho là không đúng. Bồ-tát thiết lễ cúng dường Phật thì gọi là thiện. Chiên-đàn cũng gọi là Ngưu đầu chiên-đàn. Hắc là loại chiên-đàn màu tía. Bạch là chiên-đàn màu trắng. Trong thượng diệu thí thì cúng dường cha mẹ bệnh, Pháp sư, Bồ-tát thân cuối cùng. Nếu cúng dường cho người chưa chứng quả Thánh thì thí quả cũng vô lượng. Lại nói: Nếu giữ giới đầy đủ tuy có già yếu mà có thể giảng nói lợi lạc cho nhiều người, như cúng dường Phật, bậc Đại sư, thọ lời nói thiện thì cũng tương tợ như vậy. Vườn rừng đẹp thanh tịnh thì: Trong lạc thí có sáu ý: Rộng lớn. Không nhàm chán. Vui mừng. Ân đức. Vô nhiễm. Tốt lành. Trong Tụng có ba: Vui mừng. Không nhàm chán. Tốt lành. Tức là cầu Vô thượng đạo. Trước nói cúng dường tứ sự tức là nghóa rộng lớn. Mang ân nghóa trước kia nên gọi là ân đức thí. Ba thời không hối hận, không bị nhiễm tạp nên gọi là vô nhiễm thí. Thực ẩm thí đủ cả pháp thực, không rơi vào kiếp nạn đói khát; đem y dược thí đầy đủ pháp dược không bị các bệnh; thí y phục được y bảy báu, đầy đủ tức nhu hòa thiện thuận. Đầy đủ hổ thẹn, đem thí ngọa cụ nên đầy đủ trợ duyên, sanh vào nhà từ bi vắng lặng. Đem vườn rừng thí nên trụ vào vườn giác Tổng trì, và được rừng pháp vô lậu, thí hoa được bảy giác, thí quả mà đắc bốn Thánh quả, ao tắm thí nên được ao bát giải xả cấu. Kinh: “Hoặc có Bồ-tát cho đến cầu đạo Vô thượng.” Huyền tán: Đây là ba hàng tụng tuệ. Một hàng đầu là hậu đắc trí, vì pháp thí vô tận. Kinh Ca-diếp nói: “Như hằng sa thế giới ở trong đó đầy đủ châu báu, thí cho các Như lai, không bằng đem pháp thí. Thí vật báu tuy phước nhiều nhưng không bằng một pháp thí. Một bài kệ phước còn thù thắng huống chi là nhiều. Thật khó nghó bàn. Kế nói một hàng về trí chứng vô tướng, hai tướng là phân biệt , không có hai tướng tức là pháp môn không hai ở các kinh khác. Như ba hàng kia giống như nói nghóa không hai. Ở Địa tiền học tạo hữu tướng vô tướng, lợi tha tự lợi, tức hành Nhị trí. Một gia hạnh sau là cầu chánh đạo. Giáo Âm là chỉ dạy chỉ bảo. Chiếu Âm tức chỉ bảo dẫn dắt. Vì tối tăm mà thành tựu việc, tức phạm sai lầm, dùng giáo chỉ rõ khiến cho rõ có thể hiểu. Lại có bản ghi là Giáo chiêu. Chữ giáo không có âm bình. Chữ chiêu nghóa là dụ tiến (khuyên dụ tiến lên). Chánh Kinh: “Văn-thù-sư-lợi cho đến bông kia đang xòe nở”. Huyền tán: Đoạn thứ sáu có bảy hàng tụng, về sự xây tháp. Đoạn này có hai: Một hàng đầu tụng cúng dường xá-lợi. Sáu hàng tụng sau nói về xây tháp cúng dường. Sáu hàng sau phân ba: Ba hàng tụng đầu trang nghiêm việc xây tháp. Một hàng tiếp tụng về tám bộ cúng dường. Hai hàng tụng sau nói sự thù thắng xây tháp. Lại bảy hàng tụng này cũng chia làm hai: Năm hàng đầu tụng phần Văn xuôi trên. Hai hàng sau tụng kết sự xây tháp cao quý. Phần một lại chia làm hai: Bốn hàng tụng đầu là Bồ tát cúng dường. Một hàng sau là tám bộ cúng dường. Bồ tát cúng dường cũng có hai: Một hàng tụng cúng dường xá-lợi. Ba hàng tụng sau là xây tháp. Y theo văn tụng này thì Văn xuôi nói về cúng dường xá-lợi, xây tháp bảy báu. Kinh: “Lại thấy Phật tử cho đến linh báu hòa vang.” Huyền tán: Đây ba hàng tụng về xây tháp. Một tụng về số, một tụng về lượng, một tụng về nghiêm sức. Trong Bồ-tát địa chép: Như sau khi Phật diệt, xây một hay nhiều tháp cúng dường, sẽ được quả phước đức vô lượng. Được đại phước Phạm trong vô số đại kiếp không đọa vào đường ác, cũng đạt được tư lương của Vô thượng Bồ-đề. Tiếng Phạm là Du-thiện-na có nghóa là hạn lượng, Hán dịch âm do-tuần là sai. Trong Câu-xá luận chép: Cực nhỏ, nhỏ, vàng, nước Thỏ, dê, trâu, khích trần Chấy, rận, lúa, lóng tay Mỗi sau tăng bảy lần. Hai (mươi) bốn khủyu tay Bốn khủyu một cung lượng Năm trăm câu-lư-xá Tám du-thiện-na này. Đây là hơn mười sáu dặm, nếu theo kinh khác là bốn mươi dặm. Chữ túng âm là chiều dọc, chiều rộng. Xưa viết là Tùng. Trong thiết vận chỉ có ba chữ: Túng, Tung, Tũng, có bổn ghi chữ Tùng không biết xuất xứ từ đâu . Tục giải thích Nam Bắc gọi là tung. Đông Tây là hoành. Lộ có nghóa là không che. Mạn nghóa là che. Nói chỗ trang nghiêm hoặc lộ hoặc che. Trong phẩm Bảo tháp có giải thích đầy đủ. Đây nói lượng bảo tháp ở báo độ. Tức nhìn từ vị trí trên cao. Nếu không vậy, châu này há là đặt nhiêu tháp! Có chỗ nói Mạn mạc. Che ở bên gọi là Duy, trên gọi là mạc- Mạc là nghóa che. Lộ đồng với úp lại mà bày ra. Linh báu hòa vang là âm thanh điều hòa. Chánh kinh: “Chư Thiên, long thần cho đến thường vì cúng dường”. Huyền tán: Đây nói cúng dường tám bộ. Kinh: Văn-thù-sư-lợi cho đến hoa khai nở. Huyền tán: Đây là hai hàng tụng kết xây tháp thù thắng. Do xây tháp mà cõi nước lạ đẹp. Tháp cao nghiêm có trang sức các thứ báu. Như cây thọ vương nở hoa ở vườn trời Đế-thích, uy nghiêm, tốt đẹp chẳng thể sánh ví chói sáng các rừng cây nên lấy đó làm thí dụ. Kinh: “Phật phóng một ánh sáng… chiếu vô lượng cõi nước”. Huyền tán: Phần tụng lớn thứ hai có tám hàng. Chia hai: Bốn hàng tụng đầu nhắc lại điềm lạ để hỏi. Bốn hàng sau tụng nêu các sự thỉnh đápï. Phần một lại có hai: Hai hàng tụng đầu tụng lại hai việc xa gần. Hai hàng tụng sau nêu thấy hai sự mà hỏi. Hai tụng đầu tụng lại sự thấy gần, hàng tụng sau tụngsự thấy xa. Chánh kinh: “Chúng con thấy điều này… phóng ánh sáng”. Huyền tán: Hai hàng tụng này nêu thấy hai việc. Hàng tụng đầu hỏi hai việc thấy của mình và chúng. Hàng tụng sau nêu các việc thấy kia. Ý nghi ngờ việc phát ra ánh sáng là gì? Người thấy vui vẻ hỏi, vì việc không hề có thấy, xin nhân giả đáp cho. Kinh: “Phật tử… giảng nói ánh sáng này”. Huyền tán: Nêu việc thỉnh đáp, chia ra làm bốn: Một hàng đầu tụng ứng thời nêu thỉnh đáp. Hàng tụng kế nêu việc thỉnh đáp. Một hàng kế nêu việc rất lớn. Hàng tụng cuối chính là thỉnh ngài Văn-thù đáp. Bốn chúng vui mừng mong được nghe thắng đạo, xin quyết nghi khiến hoan hỉ. Nay chính là đúng thời hễ người nói pháp thì phải hợp căn cơ. Kinh: “Phật ngồi tại Đạo tràng cho đến Đây chẳng phải duyên nhỏ”. Huyền tán: Hàng tụng đầu nêu hai việc thỉnh đáp. Một là diệu pháp, hai là thọ ký. Hàng tụng tiếp nêu việc rất lớn. Thấy Phật và cõi Tịnh chẳng phải là duyên nhỏ. Kinh: “Văn-thù nên biết… cho đến vì nói các pháp nào?” Huyền tán: Chính là thỉnh ngài Văn- thù đáp: Chỉ nhìn thấy nhân giả, mong ngài sẽ trả lời. Trước hỏi đáp cùng nhìn nhau, đây chỉ nhìn một ngài Văn-thù mong giải quyết các điều nghi của chúng. Kinh: “Bấy giờ ngài Văn-thù… và các đại só”. Huyền tán: Phần thứ bảy ở dưới nêu lời đáp thành tựu của ngài Văn-thù-sư-lợi. Luận chép: “Ngài Văn- thù dùng Túc mạng trí thấy mười thứ tướng nhân quả của quá khứ, như hiện ra trước mặt cho nên có thể đáp, chẳng phải là hư cấu, suy đoán trả lời.”. Luận chép: Tướng Nhân là ngài Văn-thù tự thấy thân mình tu hành các hạnh ở các cõi Phật kia. Nhân lúc ấy, thời nay là nhân hạnh Bồ-đề. Tướng quả là tự thể sở y của quá khứ. Luận: Văn-thù tự thấy thân mình là Pháp sư Diệu Quang ở đời quá khứ. Đã nghe Đức Phật kia giảng nói pháp này. Nay nói lại cho chúng sanh nghe. Đó là quả quá khứ đời trước. Quả là tự thể sở y, chẳng phải quả của nhân sở kiến. Nhân kia là quả vô lượng sanh nhân trong đời quá khứ. Phần lớn chia ra làm ba: Nêu tên nói chung. Chánh đáp lời đã nêu. Có hai bài tụng nêu lời Phật nói. Đây là phần đầu: Kinh: “Nầy người Thiện nam như ta suy nghó cho đến giảng nói nghóa đại pháp ”. Huyền tán: Chánh đáp lời đã hỏi. Nhưng nương vào luận bổn. Trong phần đáp này thành tựu mười việc: Thứ nhất: Nhân hiện thấy nghóa đại, tức là đoạn văn này. Thứ hai: “Các người thiện nam, ta ở trong đời quá khứ… “là nhân hiện thấy văn tự chương cú ý nghóa rất sâu. Thứ ba: “Chư thiện nam tử… như quá khứ vô lượng vô biên” nhân hiện thấy ít có. Thứ tư: “Lại có Phật cũng tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh…” nhân hiện thấy thắng diệu. Thứ năm: “ Sau cùng lúc Phật chưa xuất gia… “là nhân hiện thấy việc thọ dụng đại. Thứ sáu: “Sau khi Phật diệt độ, Bồ-tát Diệu Quang trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. Nhân hiện thấy hiện ra nhân nhiếp lấy Chư Phật xoay bánh xe. Thứ bảy: Tám Vương tử của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều là pháp Sư. Từ Diệu Quang trở xuống là nhân hiện thấy pháp luân của Như lai là khéo chắc thật. Thứ tám: “Các vương tử cúng dường vô lượng…” là nhân hiện thấy khả năng tiến nhập. Thứ chín: Cuối cùng thành Phật, hiệu là Nhiên Đăng, là nhân hiện thấy sự nhớ nghó. Thứ mười: “Di-lặc nên biết! Bấy giờ Bồ-tát Diệu Quang v.v…“ là nhân hiện thấy tự thân các sự tuần hoàn. Nhân là nguyên nhân tức ngài Văn-thù dùng. Hiện lượng trí thấy các sự chứng minh đó là nhân, rồi đáp lời ngài Di-lặc cho nên nói là nhân. Hoặc mười việc này phần nhiều là đời trước làm, là nhân của bây giờ, cho nên gọi là nhân. Trong mười nhân này chia chung làm năm cặp : Một là cặp nghóa giáo. Hai là cặp hy thắng . Ba là cặp chuyển từ . Bốn là cặp kiên tiến . Năm là cặp tha tự . Mười tướng này trong kinh thứ lớp nên biết. Trong đây chia chung thành bốn. Chỉ rõ tướng thọ lượng để đáp. Nêu việc xưa mà thành nay để đáp. Chỉ bày các việc khác mà đáp. Xưa nay tức nhau. Hai tướng đầu, một tướng cuối như thứ lớp trong văn. Một tướng giữa là gồm bảy nhân nêu bày các việc khác nhau. Nói chỉ rõ tướng thọ lượng để đáp: Duy là suy nghó, là nghỉ, là mưu tính. Thốn là xét kỹ. Luận gọi là nhân hiện thấy nghóa đại thành tựu. Nghóa là nghóa lý, là đối với nguyên nhân thành tựu tám thứ nghóa lý đại. Tám nghóa đại, trong kinh có nói năm câu. Trong luận thì có tám câu. Nên nói muốn nói pháp lớn, tuôn mưa pháp vũ lớn, đánh trống pháp lớn, không đoạn trống pháp lớn, dựng cờ pháp lớn, đốt đuốc pháp lớn, thổi loa pháp lớn, giảng nghóa pháp lớn. Trong luận phần thứ bảy mới nói bất đoạn đại pháp cổ. Nay lấy nghóa suy ra cho nên nói phần thứ tư cũng không trái ngược luận nói nghi đó là dứt nghi. Tức muốn nói pháp lớn, muốn phá nghi trước trụ ở vị ngoại phàm khiến cho tiến tu. Đã đoạn nghi rồi thì làm cho trí thân thêm lớn thuần thục, tức rước mưa đại pháp. Trước trụ vào nội phàm mà không còn nghi ngờ. Thấm nhuần thiện nảy mầm khiến nhập Thánh vị mà muốn tăng thêm điều thiện. Ý của luận này trên dưới nối liền, nối tiếp khởi lên vì giải thích văn kinh, dưới đều y theo đây. Luận nói: Căn thục: Là nói hai cảnh giới bí mật. Nghóa là hai cảnh giới bí mật của Thanh văn, và Bồ-tát. Có hai câu chỉ rõ tức đánh trống pháp lớn, không đoạn trống pháp lớn. Vì từ xa nghe nên lần lượt kết hợp lại. Tức là nay chia Thanh văn thừa xưa là cảnh giới quyền mật, chỉ rõ nay nói Bồ-tát thừa là cảnh giới thật mật gọi là hai cảnh giới mật. Khiến cho căn thuần thục đó là bỏ quyền giữ thật. Nên trong Luận chép: Nhập cảnh giới mật, là khiến cho tiến lên giữ lấy nghóa thanh tịnh thượng thượng. Dựng cờ pháp lớn là lập ra diệu trí Bồ-đề rất cao xa. Cũng như đối với cờ lọng do biết quyền thật mà có bỏ có lấy. Hành hạnh Đại thừa, đắc trí Bồ-đề lìa hết chướng tịnh. Luận nói về nghóa thượng thượng thanh tịnh tiến thủ, là tiến lấy tất cả trí hiện có. Đốt đèn pháp lớn là đã đắc chân trí kiến lập Bồ-đề. Vì chiếu soi chân cảnh nên chứng được Niết-bàn. Như đuốc chiếu sáng mọi vật. Luận chép: Dùng tất cả trí hiện thấy là vì tất cả kiến lập danh tự, chương, cú, nghóa. Thổi loa pháp lớn là đắc chân cảnh tức cần phải nói giáo nghóa. Giáo giảng thích tất cả pháp, nên gọi là tất cả pháp kiến lập danh tự. Như thế gian lấy đây làm vui, từ quả vị ban đầu khó khăn, đến cuối cùng hoàn tất nên thổi loa lên. Nay quả vị đã viên mãn, vì người nói pháp thì cũng như vậy. Cho nên trong kinh Niết-bàn nói thổi lên là biết đến thời. Luận nói kiến lập nghóa danh tự, chương cú là khiến cho nhập và bất khả thuyết, chứng trí xoay bánh xe. Giảng nói nghóa pháp lớn, thuyết ở giáo đó là khiến cho, thích ứng độ nhập vào chứng trí, thành tựu xoay bánh xe, trừ hết phiền não. Trong tám câu này chia ra làm bốn cặp. Cặp phá tiến thiện . Cặp Khai quyền hiển thật . Cặp Đắc trí chứng chân . Cặp nói pháp lợi sanh . Xoay vần như thế gọi là pháp luân, tự mình chứng quả, lại giúp cho chúng hữu tình chứng được chân trí của bậc Thánh, phá diệt phiền não. Luận đã đan xen tiếp nối giải thích rõ ý kinh, cho nên tướng này nương theo tướng kia đối để giải thích ý. Tìm hiểu lý do thì kinh có năm câu tức chỉ có hai cặp rưỡi. Có phá ác tiến thiện, nói pháp lợi sanh, khai quyền nhất môn, ngoài ra là hiển thật, đắc trí chứng chân. Văn đối đều thiếu, lại không theo thứ lớp, độc giả nên biết. Kinh: “Các người thiện nam cho đến liền nói pháp lớn”. Huyền tán: Nhân hiện thấy thế gian nghe văn tự, chương cú ý rất sâu xa. Ở đây nói đại giáo nên giáo là danh tự, chương cú, hí luận của thế gian. Ý có nghóa là ý so sánh, là lý do nói giáo. Tức là nêu việc xưa thành đáp việc ngày nay. Văn này có ba: Nêu quá khứ. Kết thành việc ngày nay. Giải thích ý, ở đây là phần một Kinh: “Vì thế nên biết cho đến cũng giống như thế.” Huyền tán: Đây là phần kết thành tựu việc ngày nay. Kinh: “Muốn khiến chúng sanh cho đến nên hiện ra điềm lành này”. Huyền tán: Đây giải thích ý đó. Phát ra ánh sáng là ý gì? Là muốn cho người nghe biết pháp khó tin. Xưa nói hai thừa chân thật, nay nói nhất thừa là thật để người xả bỏ những điều quá cũ và giữ cái mới bây giờ. Do đó mà nói khó tín. Không chỉ có lòng tin mới khó mà nghóa lý cũng khó. Kinh: “Các người thiện nam cho đến a-tăng-kỳ kiếp”. Huyền tán: Phần dưới này có tám nhân, chung lại thành hai văn: Văn xuôi. Kệ tụng. Văn Văn xuôi chia làm hai: Bảy nhân nêu ra bảy việc riêng mà trả lời. Một nhân đáp việc xưa nay tức nhau. Phần một lại chia làm ba: Đáp khen ngợi việc ít có. Một đáp sự thắng diệu về sau. Năm phần dựa theo nêu việc đồng. Đầu tiên khen ngợi việc ít có để đáp. Luận gọi là nhân hiện thấy ít có. Trong vô lượng thời không thể đắc, đây có bốn ý: Khen ngợi việc lâu xa ít có. Khen ngợi danh hiệu Phật ít có. Khen ngợi việc thắng diệu ít có. Khen ngợi đáp lợi ích chúng sanh ít có. Ở đây nói ý thứ nhất. Luận chép: Bất khả tư nghì bất khả xưng, bất khả lượng. Thị hiện trải qua a-tăng-kỳ kiếp cũng không thể đắc. Tiếng Phạm là a-tăng-xí- da, Hán dịch âm a-tăng-kỳ là sai, Hán dịch âm nghóa là vô số. Trong Câu-xá luận chép: Trong số năm mươi hai từ một đến mười cho đến cực số thì gọi là a-tăng-kỳ. Vốn là số sáu mươi, tám số kia bị thất truyền. Trong kinh Hoa nghiêm nói một trăm hai mươi số. Đây là một trăm mười hai số. Kiếp-lạp-ba gọi tắt là kiếp, Hán dịch là phân biệt. Nghóa là phân biệt thời phần. Bất khả tư nghì là cảnh vượt quá tình chấp. Bất khả xưng là vượt qua cảnh ngôn ngữ. Bất khả lượng là cảnh vượt qua tính lường thí dụ. Nay kinh gọi vô lượng đó là vượt qua sự tính toán thí dụ. Vô biên là quá thời phần. Bất tư nghì là quá phần tình chấp cũng đồng như Bát-nhã vượt qua bốn phần. Trong Bồ-tát Địa nói kiếp có hai loại: Số ngày đêm năm tháng. A-tăng-kỳ kiếp. Trong Du-già lại nói: Hoặc một lần tăng giảm là một kiếp. Nghóa là trải qua các nạn đói khát bệnh dịch đao binh. Hoặc có hai mươi kiếp là một kiếp. Nghóa là trời chúng có chỗ nói bốn mươi kiếp là một kiếp, là trời Phạm phụ . Hoặc sáu mươi này là một kiếp là trời đại Phạm. Hoặc tám mươi kiếp đây là một là kiếp hỏa tai. Số ở trời Thiểu quang bằng tuổi thọ ở đây hai kiếp, hoặc là bảy kiếp hỏa mới là một kiếp thủy tai. Gọi là Cực quang tịnh thiên, hoặc tám kiếp hỏa. Một bảy kiếp thủy tai mới là một kiếp phong tai , gọi là Biến tịnh thiên. Số này cho đến bất khả số là một a-tăng-kỳ. Phàm kinh này nói ba đại a-tăng-kỳ kiếp tu nhân mới đắc quả Phật. Cùng ở kiếp Hiền gồm có mười loại kiếp sai khác. Trong Cổ nhiếp luận hoặc Địa tiền chia ra làm ba. Trong Thập địa, mỗi địa lại chia làm ba. Hợp thành ba mươi ba a-tăng-kỳ kiếp. Từ Thất địa về trước là tiểu. Địa tám, chín, mười là trung. Địa tiền là đại. Tuy có các kiếp này mà lượng khác nhau. Nay nương vào một hội Pháp Hoa của luận, này Phật nói các kiếp phần nhiều nương vào năm loại: Một là ngày, hai là đêm, ba là tháng, bốn là giờ, năm là năm. Nay nương vào vô lượng vô biên bất khả tư nghì a-tăng-kỳ, chẳng phải là các đại kiếp khác. Vì muốn hiển bày vô số đại kiếp của Chư Phật lúc lưu xuất ra ngài Văn-thù thấy rất lớn. Kinh: “Bấy giờ có Phật cho đến Phật Thế tôn”. Huyền tán: Đây khen ngợi danh hiệu Phật ít có. Nhật Nguyệt Đăng Minh là tên riêng. Như lai là tên chung. Nhật là mặt trời có hai công năng: Một là dẫn đường, hai là thành tựu. Nguyệt là mặt trăng có hai công năng: Một là trừ nóng bức, hai là mát mẻ. Đăng là đèn có hai công năng: Một là xua tan bóng tối, hai là truyền ánh sáng. Đây là ý nói Phật dẫn đại chúng từ bờ mê đến bến giác, thành thục căn khí, trừ hết các phiền não nóng bức , được cảnh mát mẻ Niết-bàn. Phá trừ hẳn ngu si, giáo hóa chúng sanh truyền thừa pháp tạng. Đây là tiêu biểu cho tên riêng ít có. Luận Du-già quyển tám mươi ba giải thích mười hiệu là: Như lai. Ứng. Chánh đẳng giác. Minh hạnh viên mãn. Thiện thệ. Thế gian giải. Vô thượng trượng phu Điều ngự só. Trời người sư. Phật. Bạc-già-phạm. Như lai là danh hiệu đầu tổng giới thiệu chín danh hiệu sau. Kinh Niết-bàn chép: Như giảng nói kinh pháp mà quá khứ Chư Phật, sáu Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mười một pháp không, cho đến quả Bồ-đề. Cho nên nói là Như lai. Nay Phật Thích-ca, như Chư Phật quá khứ cũng theo các pháp tu sáu Ba-la-mật, quán lý mười một không cho đến quả Bồ-đề, nên nói Như lai. Ở đây tức Báo thân Phật. Kinh Bát-nhã chép: Như lai là không từ đâu đến cũng không đi về đâu, gọi là Như lai, tức là pháp thân Phật. Luận Thành Thật chép: Thừa đạo như thật mà lai thành Chánh giác (nương vào đạo như thật mà thành Chánh giác, nên gọi là Như lai: Nghóa tuy lược mà chẳng phải là tông nghóa này. Luận nói Ứng chánh đẳng giác, nghóa là giải thoát hẳn tất cả các chướng hoặc phiền não và chướng sở tri, nên A-la-hán Hán dịch là Ứng. Thành Duy thức nói: Ứng đã phá trừ hẳn giặc phiền não, ứng không còn phần đoạn sanh tử, ứng thọ diệu cúng dường. Như trước bổn luận đã giải thích kinh có mười lăm nghóa tức theo Du-già và kinh này. Chỉ lấy nghóa phá hoại giặc phiền não nên gọi là A-la-hán. Dứt trừ hẳn sở tri chướng thì gọi là Chánh đẳng Chánh giác. Thế nên trong kinh Du-già nói: A-la-hán là Cộng đức. Chánh đẳng Chánh giác là Bất cộng đức. Xưa dịch là Chánh biến tri, tức là Chánh giác Đẳng giác, Chánh đẳng giác. Như thứ lớp để phân biệt với ba loại: Ngoại đạo, Tiểu thừa, và Bồ-tát. Minh hạnh viên mãn tức là minh hạnh túc. Minh nghóa là ba minh. Túc trụ tùy niệm trí minh. Sanh tử trí minh. Lậu tận trí minh. Hạnh là hạnh Giá, hạnh Hành. Hạnh hành nghóa là thanh tịnh ba nghiệp hiện hành chánh mạng. Lại bốn thứ: Tăng thượng, tâm pháp, hiện pháp, lạc trụ là trụ hành. Hai loại này cũng thuộc hạnh Hành. Thầm giữ căn môn là hạnh Già. Hai hạnh này và tam minh đều viên mãn. Do đây mà Như lai hiển bày ra ba bất hộ, không quên mất pháp. Do không tạo lỗi, đắc Tịnh lự thế gian ngăn tu khổ hạnh. Do đây mà không tạo lỗi thì ba nghiệp thanh tịnh. Tức là Tam bất hộ thầm giữ gìn căn môn. Không quên mất pháp mà đắc Tịnh lự thế gian, hiện pháp lạc trụ ngăn tu khổ hạnh. Cho nên nói “Minh hạnh viên mãn”. Thiện Thệ tức là trong đêm dài sanh tử tu đầy đủ tất cả công đức tự lợi, lợi tha. Thệ có nghóa là đến. Nghóa là sau khi thành tựu quả Bồ- đề rồi ở trong đêm dài sanh tử có đầy đủ tất cả hai công đức mà khéo đến, đó hành sự giáo hóa nên gọi là Thiện thệ. Thế gian giải là khéo thông suốt tất cả hữu tình và khí thế gian. Do có túc trụ trí và sanh tử trí mà ngộ nhập tất cả hữu tình thế gian, các bờ mé dựa vào trước có sau, dựa vào tất cả thời, mà có tám muôn bốn ngàn hạnh khác nhau. Tức biết ba cõi chúng sanh tâm hành đều khác nhau, và khéo rõ biết các cõi thế gian vô lượng vô biên mười phương trải qua các kiếp thành hoại. Lại đối với các pháp tự tánh của thế gian, nhân duyên, ái vị, lỗi lầm ra khỏi những nơi đến hành hóa đều khéo rõ biết. Nghóa là biết được qủa tự tánh và nhân nhân duyên. Đây là câu tổng còn lại bốn câu dùng pháp Tứ đế phối theo mà hiểu. Vô thượng trượng phu Điều ngự só. Xưa dịch là Vô thượng só Điều ngự Trượng phu. Trí không có gì bằng, nên không có gì vượt qua nên gọi gọi là Vô thượng. Ở trong hiện pháp thân Phật đầy đủ các tướng hảo gọi là đại trượng phu. Lại phần nhiều điều phục chế ngự vô lượng trượng phu là bậc trên hết, tôn quý đệ nhất. Do đây mà để phía sau. Xưa dịch là Vô thượng só điều ngự trượng phu. Trời người sư: Vì trời người có thể giải nghóa pháp sâu xa, siêng tu chánh hạnh nên có năng lực. Các loài khác không có khả năng như thế cho nên không nêu lên làm Sư (Thầy). Nói Phật tức Phật-đà: Là bậc đã hoàn tất đoạn hết thảy phiền não sở tri, cùng tập khí hiện Đẳng Chánh giác, chứng đắc Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác tức đầy đủ nhị trí, tự giác và giác tha. Bạc-già-phạm xưa dịch là Thế tôn, thản nhiên an tọa trên tòa Bồ- đề nhiệm mầu, nhậm vận diệt trừ hết tất cả ma quân, có thế lực lớn để phá bốn ma, như bài tụng trong Phật địa luận có nói: Tự tại, xí thạnh và đoan nghiêm Danh xưng, cát tường và tôn quý Đầy đủ cả sáu nghóa như thế Nên biết tên chung là Bạc-già. Bạc-già là tiếng Phạm. Phạn là đầy đủ đức. Hoặc có người dùng tiếng Bạc-già là tự có nghóa có thể phá trừ bốn ma, và phải đầy đủ sáu đức: tình. Là nghóa tự tại, không lệ thuộc các phiền não. Nghóa lừng lẫy dùng lửa trí tôi luyện. Nghóa trang nghiêm ba mươi hai tướng. Nghóa danh xưng: Thắng danh của Phật chẳng ai không biết. Nghóa cát tường: Thường khởi phương tiện làm lợi lạc hữu Nghóa tôn quý: Thế gian, xuất thế gian đều tôn trọng. Nay nói Thế tôn là thiếu năm nghóa trước vậy. Kinh: “Giảng nói chánh pháp… tướng phạm hạnh”. Huyền tán: Khen ngợi pháp thắng diệu ít có. Phẩm tám mươi ba nói đầy đủ mười đức. Sơ thiện: Nghóa là lắng nghe rồi sanh tâm vui mừng. Trung thiện: Lúc tu hành không có ngại khổ, xa lìa hai bên, nương theo trung đạo. Hậu thiện: Rốt ráo tột cùng là xa lìa cấu nhiễm và tất cả sự rốt ráo đều lấy ly dục làm bờ mé sau cùng. Pháp tánh lìa cấu nên người học cũng lìa cấu. Do đó màtu hành rốt ráo, đắc quả lìa cấu cho nên Luận Trí độ chép: Khen ngợi việc bố thí là sơ thiện. Khen ngợi trì giới là Trung thiện. Khen ngợi hai quả báo sanh về cõi trời, cõi Tịnh, gọi là hậu thiện. Lại nói: Thanh văn, Độc giác, Đại thừa là ba thiện. Kinh Bảo tích nói: Biết khổ dứt tập thì gọi là sơ thiện, tu chánh đạo thì gọi trung thiện. chứng diệu gọi là hậu thiện. Đây cũng gọi là sơ, trung, hậu thiện của Thanh văn. Nếu không xả Tâm Bồ-đề, không niệm hạ thừa, hồi hướng Nhất thiết trí thì gọi là Bồ-tát sơ trung hậu thiện. Nay nương theo Du-già làm chánh. Văn khéo. Kinh nói: Lời lẽ khéo mầu. Nghóa là khéo ràng buộc danh thân v.v… và dùng tám ngữ đều đầy đủ viên mãn. Nghóa mầu: Kinh nói là nghóa ấy sâu xa, nghóa là có thể dẫn phát làm lợi ích an vui. Thuần nhất: Kinh nói: Thuần túy duy nhất không xen lẫn. Ng- hóa là không chung với ngoại đạo. Chỉ có Phật pháp. Viên mãn: Kinh nói: Đầy đủ. Vì vô hạn lượng nên thuộc về tối thắng tôn thắng. Nghóa này dồi dào mà lại thắng diệu. Nên gọi là tròn đầy. Thanh tịnh: Nghóa là tự tánh giải thoát, cho nên nương vào một sát-na mà giải thoát tự thể. Hoặc là pháp tự tánh giải thoát. Trong sáng: Là giải thoát nối tiếp, nhiều sát-na cũng gọi là giải thoát. Hoặc người học cũng gọi là giải thoát. Phạm hạnh: Là tám chi Thánh đạo , diệt đế gọi là Phạm. Đạo đế gọi là hạnh, làm nhân cho diệt . Đầy đủ bát đạo này gọi là tướng phạm hạnh. Nên biết đạo này do bốn loại diệu tướng. Thuần nhất đó là: Nghóa thứ sáu, bảy, tám, chín tức là thuần nhất. Không tạp, đầy đủ thanh bạch trong tướng phạm hạnh. Còn lại như văn có thể hiểu. Theo nghóa như thế phối hợp như thế cũng giống như Tân văn nói vậy. Kinh: “Vì cầu Thanh văn… thành Nhất thiết chủng trí.” Huyền tán: Khen ngợi sanh lợi ích ít có. Có Phật ra đời chỉ thuyết một pháp hoặc không nói pháp. Nay nói ba thừa, nên nói là ít có. Ứng là nghóa hưng khởi, ở chứng, ứng đương cơ, ứng khế lí. Tùy theo căn khí mà nói pháp. Khế ứng với căn pháp tướng nên nói như vậy. Căn tánh chúng sanh có thượng trung hạ. Tổng biết nhân quả tứ đế nhiễm tịnh. Do thấp kém nên gọi là đắc Thanh văn. Tổng biết nhân quả mười hai nhân duyên sanh tử là hơi trội hơn gọi đắc Duyên giác. Có thể hành nhị lợi, tướng chung riêng đều biết, tu lục độ, rốt ráo thành Phật thì gọi là Bồ-tát, sẽ thành tựu chủng trí. Bích-chi-ca Phật-đà, Hán dịch là Độc giác, gọi tắt là Bích-chi-phật. Kinh: “Lại có Phật… họ là Phả-la-đọa”. Huyền tán: Phần thứ hai nói rõ về hậu thắng diệu để đáp. Luận gọi là hiện thấy nhân thắng diệu. Vì Chư Phật, Bồ-tát tự thị hiện ra danh tánh thọ dụng thù thắng nên gọi là thắng diệu. Trong văn có tứ diệu, trong đây thì có hai: Là đồng diệu. Là tánh đồng diệu. Phả-la-đọa: là một họ trong mười tám họ của Bà-la-môn. Kinh: “Di-lặc nên biết… sơ trung hậu thiện”. Huyền tán: Phần này có hai diệu: Một là đồng hiệu diệu. Hai là pháp đồng diệu. Lược nói có ba thiện mà gồm thâu cả bảy đức. Kinh: “Thân tối hậu của Phật… có tám vương tử”. Huyền tán: Đoạn thứ ba này dựa theo trình bày việc đồng để đáp. Có năm nhân: Nhân thọ dụng đại. Nhân nhiếp lấy Chư Phật, xoay bánh xe. Nhân Như lai pháp luân thiện bền chắc, chân thật. Nhân năng tiến nhập. Nhân nhớ nghó. Ở trong đây có hai: Một phần đầu Phật ở đại đạo tràng nói pháp. Bốn phần sau là nhân hành hóa sau khi Phật diệt độ. Nhân thọ dụng: Luận chép: Lúc ấy, vương tử thọ lạc thắng diệu, mỗi vị đều xả bỏ mà đi xuất gia. Lại đại chúng kia lúc ấy chấp nhận không sanh tâm nhàm mỏi. Đây giải thích là nhân thọ dụng. Do đại ý trong văn có hai thọ dụng: Tại gia thọ dục lạc. Xuất gia thọ pháp lạc. Văn này có bốn: Nói tướng đồng với nay. Tuyên bố diệt khác tức. Thành Phật thọ ký. Thị hiện nhập Niết-bàn. Thị hiện tướng đồng với nay có sáu. Không có phần tựu đầu thành tựu. Sáu pháp còn lại đồng với việc ở phẩm tựa này. Phần thứ nhất giống với phần chúng thành tựu ngày nay. Phần thứ hai nói Nhật Nguyệt Đăng Minh trở xuống đồng với thời thành tựu ngày nay. Đoạn thứ ba thì giống với uy nghi thành tựu ngày nay. Đoạn thứ tư: Bấy giờ Đức Như lai phóng ánh sáng từ giữa hai đầu chân mày đồng với phần thuyết nhân thành tựu ngày nay. Đoạn thứ năm: Di-lặc nên biết… Bây giờ trong hội có hai mươi ức Bồ-tát cũng như nay muốn nghe thành tựu. Đoạn thứ sáu: Có Bồ-tát tên là Diệu Quang, nay là phần đáp thành tựu. Trong phần đồng với chúng thành tựu có hai: Thế tục. Xuất gia. Ở thế tục có ba: 1. Nêu việc có con. 2- Nêu tám tên gọi. 3. Nói Vua hóa độ. Đây nói phần đầu: Pháp nhó như thế trước phải có con, sau mới xuất gia. Vì hàng phục sự thọ lạc ở thế gian nên thị hiện cho thấy sự dục lạc không đáng quý, nói lên Đức Phật có đầy đủ các đức của trượng phu. hạ”. Kinh: “Một tên Hữu ý cho đến tám tên là Pháp ý”. Huyền tán: Đây là lược nêu tám tên chia làm bốn cặp: Cặp Đại trí đại bi . Cặp Liễu hữu liễu không. Cặp Tiến thiện phá ác. Cặp Đạt ngụy biết chân. Kinh: “Tám vị vương tử cho đến mỗi vị thống lãnh bốn thiên Huyền tán: Đây là nói vua hóa độ. Không một thế giới nào có hai vị luân vương. Vì sao nay lại nói lược mỗi vị lãnh xuất bốn thiên hạ. Nay giải thích tám người con nối nhau thống lãnh , chẳng phải là cùng lúc. Nhưng theo nghóa chung thì vào thời kiếp giảm Phật ra đời, kiếp tăng thì Vua Chuyển luân ra đời. Làm sao vì Phật kia có con mà làm Chuyển luân vương”. Đây là ứng với nối tiếp vua chuyển luân làm vua ở bốn châu thiên hạ. Như Phật Thích-ca làm Vua Kim luân , không phải chánh đã thọ ký, kiếp giảm dần. Do đây mà dần tăng lên tám muôn tuổi thì Nhương Khư mới xuất hiện. Đến kiếp thứ mười giảm thì Phật Di-lặc ra đời. Bậc luân vương tuổi thọ lâu dài cho nên gặp Phật Di-lặc. Hoặc Báo thân Phật và Hóa thân Phật khác nhau. Báo Phật chưa hẳn ở kiếp giảm xuất hiện. Có thể làm chuyển luân và có con. Diệu Quang hóa độ tám người con tu hành bền chắc đạo Bồ-đề đắc quả Bát địa. Cho nên biết rằng Báo thân Phật cũng là Bồ-tát. Trước nói kinh Vô Lượng Nghóa vì Bồ-tát đã xong, kế vì Thanh văn sau nói pháp hoa. Như Phật Cổ Âm Vương, A-di-đà Phật đều có vợ con. Chánh kinh: “Các vương tử… đến… cũng theo vua cha xuất gia”. Huyền tán: Phần này nói về xuất gia có ba: Hình tướng tùy theo bạn chân thật. Hành xuất trong trần gian. Gặp được duyên lành, tu phước tuệ bền chắc. Đây nói về phần đầu: Bỏ ngôi vị luân vương như người giàu cởi bỏ giày dép, hướng đến xuất gia như người nghèo gặp của báu, khóang đạt không nương tựa, từ bỏ ràng buộc. Kinh: “Phát ý Đại thừa cho đến đều làm Pháp sư”. Huyền tán: Hành xuất trong cõi trần. Đã phát đại tâm, thường siêng năng giữ giới. Có thể giảng nói diệu lý đều làm Pháp sư. Phát tâm là trụ định. Phạm hạnh là giữ giới. Pháp sư là bậc đầy đủ trí tuệ Ba Tạng. Kinh: “Đã trồng nhiều gốc lành đối với ngàn muôn vị Phật”. Huyền tán: Được gặp duyên lành, tu phước tuệ bền chắc. Kinh: “Lúc ấy Nhật nguyệt cho đến Phật sở hộ niệm”. Huyền tán: Thứ hai là nói giống thời thành tựu nay. Hễ nói Pháp hoa thì trước nói kinh Vô Lượng Nghóa, nên gọi là thời đến, thị hiện vì Bồ-tát mà nói pháp. Kinh: “Nói kinh này rồi cho đến thân tâm bất động”. Huyền tán: Phần thứ ba là đồng với uy nghi thành tựu ngày nay. Có ba: Phật nhập định. Khí thế gian. Hữu tình thế gian. Đây nói phần đầu. Kinh: “Bấy giờ trời mưa cho đến sáu thứ rung chuyển”. Huyền tán: Đây là nói về khí thế gian. Kinh: Bấy giờ ở trong hội cho đến nhất tâm quán Phật. Huyền tán: Là nói về hữu tình thế gian. Kinh: “Bấy giờ Như lai cho đến là cõi nước của Chư Phật”. Huyền tán: Phần thứ tư đồng với nhân nói thành tựu. Có ba: Phát ra ánh sáng. Chiếu cảnh. Chỗ thấy. Như chỗ thấy ở đây chính là cõi Phật. Kinh: “Di-lặc nên biết cho đến thích muốn nghe pháp”. Tán Thứ năm là thành tựu muốn nghe pháp. Có hai: Thích muốn nghe pháp Muốn biết nhân duyên phát ra ánh sáng. Đây nói phần đầu: Hỏi: Vì sao Đức Phật Thích-ca phát ra ánh sáng hiện điềm lành. Bốn chúng sanh nghi, thích nghe pháp, biết nhân duyên Phật phóng ánh sáng. Phật Đăng Minh nói pháp là nói Bồ-tát không giống như ngày nay. Đáp: Đây là nương vào bổn vị nói chung bốn chúng. Phật kia nói phát tâm đều gọi là Bồ-tát. Lại đây nêu ra hạng thấp kém nên chỉ nói bốn chúng. Kia nêu thắng chúng, cho nên nói là Bồ-tát. Như bài tụng ở dưới nói: “Lúc này bốn bộ chúng… cho đến… vì nhân duyên gì”. Do đây mà biết rõ ràng. Lại trong kinh nói tám người con là chúng thành tựu tức nói người trên hết. Lại kia thật là Bồ-tát. Hóa độ thì nói bốn chúng là báo thân hóa độ. Đây thật là bốn chúng tức hóa thân hóa độ. Kinh: “Các Bồ-tát cho đến vì nhân duyên gì”. Huyền tán: Muốn biết nhân duyên phát ra ánh sáng, suy tìm người đáp. Kinh: Bấy giờ có Bồ-tát… tám trăm chúng đệ tử. Huyền tán: Thứ sáu đồng với đáp thành tựu ngày nay. Có bốn: Quyến thuộc truyền đăng. Do đó nói ra kinh này. Thời gian dài ngắn. Đại chúng an vui Kinh: “Bấy giờ Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cho đến được Phật che chở”. Huyền tán: Phần hai do đó nói kinh này. Phật Thích-ca nói kinh Pháp hoa là do ngài Di-lặc hỏi, ngài Văn- thù đáp, Phật Đăng Minh nói pháp hoa là do đại chúng muốn nghe. Diệu Quang đáp lời, cho nên trong bài tụng nói: Phật xuất Tam muội khen Diệu Quang khiến vui mừng tức là. Phật nhân ngài Diệu Quang mà nói kinh Pháp hoa. Lại Phật Thích-ca nay hóa độ bốn chúng thích nghe Phật. Do ngài Xá-lợi mới nói. Phật Đăng Minh xưa hóa độ Bồ-tát muốn nghe do ngài Diệu Quang mới nói. Nay Phật xuất định ra chính là bảo với Xá-lợi- phất. Trong chúng Thanh văn, tùy theo trí tuệ sâu xa, tương ứng với Phật. Phật kia xuất định liền bảo với ngài Diệu Quang. Trong chúng Bồ-tát tùy theo trí tuệ sâu xa mà với tương ứng Phật. Đây là Thanh văn, kia là Bồ-tát, mà kinh Diệu Pháp Liên Hoa đó cũng gọi là: “Giáo Bồ-tát pháp được Phật che chở”, Danh tự này không khác với kinh Vô Lượng Nghóa. Nhưng lấy nghóa thể, lợi ích cho căn cơ đốn và tiệm. Chỗ mong cầu có khác việc hóa thân báo thân cũng khác. Không gọi là Vô Lượng Nghóa như trước đã có giải thích. Nhưng Phật kia thị hiện hóa độ các Thanh văn cũng không sai. Hoặc nói hóa thân thật sự hóa độ Thanh văn, nói các sự khác cao siêu tức là nói báo thân Phật, cũng không sai vậy. Kinh: “Sáu mươi Tiểu kiếp… khoảng thế gian một bữa ăn. Huyền tán: Thứ ba là nói thời gian dài ngắn. Luận giải: Đã dùng ngày tháng làm năm làm kiếp, cho nên gọi là Tiểu. Không thể riêng sanh phân biệt, chỉ là Phật quán căn cơ thuần thục, thích ứng chúng sanh thời gian dài, chúng ưa thích tình sâu cũng có thể thích nghe lâu, tâm rất ưa thích pháp, nên gọi là như khoảng bữa ăn. Như thế tục xem đánh cờ, hoặc nhấc búa bửa củi liền nát. Kinh: “Bấy giờ trong chúng cho đến mà sanh lười biếng”. Huyền tán: Thứ tư nói về đại chúng an vui. Thọ trì thiền duyệt pháp thực mà sanh an vui. Tận trừ nghiệp buộc thô năng sao có thể sanh ra lười biếng. Lười biếng cũng có nghóa mỏi mệt. Kinh: “Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh… Vô dư Niết-bàn”. Huyền tán: Trên đến nay hợp thì hiện đồng với nay. Đây là phần thứ hai, xướng diệt liền khác Chư Phật nhập diệt không giống như người Nhị thừa. Thị hiện đồng như vậy là nói nhập vào cõi Vô dư. Chỗ ứng hóa đã xong, cho nên ttìm cách xướng diệt độ. Sa-môn có nghóa là Tức (dừng). Vì đã đắc pháp nên tạm dứng yên, cũng gọi là dứt ác. Chánh gọi là Thật-la-ma-noa, hoặc Thật-ma-na-noa, dịch là công lao, nghóa là việc tu đạo có nhiều công lao. Bà-la-môn có nghóa là Tịnh hạnh. Kinh: “Bấy giờ có Bồ-tát… liền thọ ký.” Huyền tán: Thứ ba, thành Phật thọ ký. Có hai: Nêu tên là Thọ kí Cùng làm các điều thiện nên gọi là Đức tạng. Kinh: “Bảo chư Tỳ-kheo… Tam Phật-đà.” Tán Đây là phần thọ ký vậy. Đa-đà có nghóa là Như. A-già độ là nghóa Lai. A-la-ha có nghóa là ứng. Tam có nghóa là chánh. Mạo có nghóa là đẳng. Lại tam có nghóa là chánh. Phật-đà có nghóa là Giác. Tức là Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Trong mười hiệu là ba hiệu đầu. Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: Phật bảo Tỳ-kheo. Chư Phật ra đời ắt có năm việc: Xoay bánh xe. Độ cha mẹ. Người vô tín lập ra tín địa. Chưa phát ý Bồ-tát. Khiến phát Được thọ kí làm Phật tương lai. Trong đây cũng vậy. Ba hiệu của Phật phần nhiều nương vào ba đức: Đoạn đức, ân đức, trí đức. Kinh: Phật thọ ký rồi… nhập vào Vô dư Niết-bàn. Huyền tán: Phần thứ tư là thị hiện nhập Niết-bàn. Vì sao nhập diệt phải giữa đêm. Là ở trong đêm sanh tử chứng đắc vắng lặng, như kinh Niết-bàn nói. Kinh: “Sau khi Phật diệt độ… vì người giảng nói.” Huyền tán: Trên hợp là nhân thọ dụng đại khi Phật tại thế giảng nói, nay trở xuống nói bốn nhân hành hóa sau khi Phật diệt độ, có bốn, đây chính là nhân nhiếp lấy xoay bánh xe của Chư Phật. Luận chép: Sau khi Phật diệt độ trong vô lượng thời mà thuyết. Giáo hóa khiến cho tâm chúng sanh bền chắc, liền nhập vào Bát địa. Bền chắc nghóa là lui sụt. Nếu không như thế thì sao ngày nay thành Phật hoặc nhập vào Sơ địa, đắc tín bất hoại nên gọi là bền chắc. Kinh: “Chư vương tử… đều thành Phật đạo”. Huyền tán: Phần thứ tư là nhân năng tiến nhập. Luận: Các vị vương tử kia đắc quả Đại Bồ-đề. Cúng dường là tu tài pháp, Chư Phật là duyên lành được gặp, cần có duyên lành mới tu sâu diệu hạnh thành quả vị Phật. Kinh: “Vị thành Phật cuối cùng tên là Nhiên Đăng.” Huyền tán: Nhân nhớ nghó thứ tư. Luận chép: vì người nói pháp để cho họ đạt được lợi ích. Văn chia làm hai: Tám vị vương tử thành Phật. Tám trăm đệ tử thành Phật. Đây nói phần đầu. Theo lý lẽ ra văn này thuộc phần nhân tiến nhập trước. Nhưng vì riêng nói việc thành Phật, nên là hợp nhập ở đây. Kinh: “Tám trăm đệ tử… tên là Cầu Danh.” Huyền tán: Nói tám trăm đệ tử thành Phật. Có hai: Nhân nhiễm. Nhân Tịnh. Trong diệu nghiệp không thuần, ngoài tham nhiều tiếng khen, nên gọi là Cầu danh. Luận: Bồ tát ấy tên Cầu Danh là thị hiện biết rõ quá khứ. Nếu không như thế thành ra khiển trách lỗi người. Kinh: “Người này cũng vì… tôn trọng khen ngợi.” Huyền tán: Đây nói về nhân, tịnh gieo trồng cả phước và tuệ được gặp duyên tốt, tu tập ba nghiệp, cúng dường tài pháp. Thân cung kính ý thì tôn trọng, ngữ thì khen ngợi. Luận chép: Gieo trồng căn lành lại thị hiện đắc đầy đủ pháp vị. Kinh: “Di-lặc nên biết… là thân Ngài đó. Huyền tán: Trên đáp về việc đồng. Dưới đáp về việc tức xưa là nay. Tự thân đã đật đến sự nhân. Luận chép: Vì tự thân ngài Văn-thù thọ lạc thắng diệu. Trong đây có hai: Một là người, hai là pháp. Kinh: “Nay thấy điềm lành này… Phật sở hộ niệm.” Huyền tán: Đây là phần đáp tổng kết. Kinh: “Bấy giờ ngài Văn-thù-sư-lợi… khiến thể nhập vào trí tuệ Phật.” Huyền tán: Dưới có bốn mươi ba bài tụng. Tụng phần nêu bày sự riêng xưa tức nay, không tụng hai nhân đầu. Phần tiếp có hai hàng tụng không nhập vào trong lời đáp, phần thứ ba là khuyên chúng cần nên biết, chẳng phải tụng nghóa trước. Do đây mà lại chia ra làm hai: Bốn mươi bài tụng đầu nêu rõ các sự riêng. Ba bài tụng sau tụng việc xưa tức nay. Phần Văn xuôi nêu sự riêng có bảy nhân, chia làm ba. Nay không tụng. Tiếp lại nêu nhân thắng diệu của Chư Phật. Cho nên tụng sáu nhân, nhưng chia ra làm hai: Hai hàng tụng đầu tụng về tán dương điều ít có. Ba mươi tám hàng tụng sau tụng về trình bày sự đồng. Trong phần tán dương điều có cũng có bốn: Hai câu đầu tụng thời, hai câu kế tụng danh, một câu tụng pháp, ba câu sau tụng sanh sự lợi ích. Kinh: “Lúc Phật chưa xuất gia… Phật muốn nói Pháp Hoa”. Huyền tán: Ba mươi bài tụng trình bày việc đồng sự, trong đây có năm nhân chia ra làm hai: Hai mươi chín hàng tụng đầu tụng nhân thọ dụng đại khi Phật tại thế tuyên dương. Chín hàng sau tụng bốn nhân còn lại, hành hóa sau khi Phật nhập diệt. Trong phần đầu hai mươi chín hàng lại chia làm bốn đoạn: Hai mươi hàng rưỡi nêu tướng đồng như bây giờ. Bốn hàng kế là tụng xướng diệt liền khác. Hai hàng rưỡi tiếp tụng đương lai, được thọ thành Phật. Hai hàng tụng cuối tụng hiện nhập Niết-bàn. Trong hai mươi hàng rưỡi tụng đầu lại chia làm sáu: Một hàng chúng thành. Một hàng thời thành. Hai hàng rưỡi tụng uy nghi thành. Mười hàng rưỡi tụng nhân thuyết thành. Một hàng rưỡi tụng muốn nghe thành. Bốn hàng cuối tụng đáp thành. Đây nói về phần đầu. Hai câu trên là tụng về thế tục. Hai câu sau là tụng xuất gia. Kinh: “Phật nói kinh Đại thừa… mà rộng phân biệt.” Huyền tán: Tụng thời thành tựu. Kinh: “Phật nói kinh này rồi… tên kinh là Vô Lượng Nghóa.” Huyền tán: Hai hàng rưỡi tụng. Trong phần oai nghi thành có hai: Một hàng tụng nhập định. Một hàng rưỡi tụng khí thế gian và hữu tình thế gian. Kinh: “Trời mưa hoa Mạn-đà… tức thời đại rung chuyển.” Huyền tán: Tụng khí thế gian và hữu tình thế gian. Trong đây lại có năm: nhập định, mưa hoa, tạo âm nhạc, cúng dường, động địa. Đây cùng với văn Trường hành trước sau có không rộng lược không đồng. “Tất cả cõi Phật tức thời có sự rung chuyển lớn!” Cũng chỉ có cõi Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh bị rung chuyển, không phải cả mười phương. Trước đây nói: Mà cõi này sáu phen rung chuyển.” Nay ở nước của Phật Đăng Minh tất cả đều rung chuyển. Báo thân hóa thân chẳng phải một nên nói Chư Phật. Kinh: “Phật phát ra ánh sáng giữa chặn mày… một muôn tám ngàn cõi Phật.” Huyền tán: Mười hàng tụng rưỡi nói về nhân thuyết thành tựu. Có ba: Hai câu phát ra ánh sáng. Hai câu chiếu cảnh. Chín hàng tụng rưỡi tụng như chỗ thấy nay là Chư Phật cõi nước. Đây nói hai tụng đầu. Kinh: “Từ câu: Bày nghiệp báo sanh tử của tất cả chúng sanh,” trở xuống. Huyền tán: Chín hàng tụng rưỡi: Như chỗ nay thấy có năm: Nửa hàng tụng đầu tụng chúng sanh sáu đường. Ba hàng tụng thấy Phật. Một hàng tụng nghe pháp. Một hàng tụng thấy bốn chúng. Bốn hàng tụng thấy Bồ-tát, không tụng lúc Phật nhập diệt xây tháp. Chữ xứ là qủa báo nơi đến, là nơi nghiệp nhân trở về. Hoặc xứ còn gọi là đạo lý. Do nhân thiện mà cảm quả báo thiện. Nhân ác cảm quả, ác là có đạo lý đúng. Hoặc xứ còn gọi là xứ sở là nơi thọ báo thiện ác. Kinh: “Có thấy cõi nước Chư Phật… do đây mà Phật phát ra ánh sáng.” Huyền tán: Ba hàng tụng thấy Phật, chia làm ba: Thấy cõi Tịnh. Thấy cúng dường. Chánh thấy Phật. Phật Thích-ca phóng ánh sáng đều như sắc vàng. Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thì màu sắc như lưu ly, pha lê. Vì muốn hiển bày giáo pháp Đại thừa thuần nhất nên chỉ có sắc vàng. Các công đức đều đầy đủ nên đủ loại màu sắc, cùng chiếu sáng. Tiếng Phạm là Phệ lưu ly, dịch lược là lưu ly, có nhiều màu sắc. Phả-chi-ca, dịch là Thủy tinh. Cũng gọi là thủy ngọc, hoặc gọi là bạch châu, dịch pha lê là sai. Luận Trí độ chép: Lấy ra từ trong hang động núi, qua một ngàn năm tuyết phủ hóa thành pha lê”. Ở Tây vực đất khô nóng không có tuyết, sao lại có vật hóa thành pha lê. Đây là chỉ cho một loại đá, nơi nơi đều có. Kinh: “Và thấy các trời người… đoan nghiêm thật mầu nhiệm”. Huyền tán: Trong hai hàng tụng này hàng đầu thấy cúng dường, hàng sau thấy Phật. Kinh: “Như trong tịnh lưu ly… giảng nói nghóa sâu mầu”. Huyền tán: Đây nói nghe pháp. Phật phát ra ánh sáng chiếu sáng, hoặc các sắc ánh sáng chiếu Phật. Ở phương này từ xa trông thấy trong suốt như lưu ly hiện ra thân tượng vàng nói pháp. Kinh: Mỗi mỗi cõi Phật cõi nước… đều thấy đại chúng kia”. Huyền tán: Đây nói nhìn thấy bốn chúng. Kinh: “Hoặc nhìn thấy chư Tỳ-kheo… nói pháp cầu Phật đạo”. Huyền tán: Bốn hàng tụng này là thấy Bồ-tát. Các loại nhân duyên, tín giải, tướng mạo, hành Bồ-tát đạo chỉ tụng tín giải và loạn tu hành. Một hàng tụng về cần, giới dục là để nói về tại gia xuất gia đều hành Bồ-tát hạnh. Cho nên nói Tỳ-kheo hoặc xưng là Bồ-tát, tinh tấn sách tấn. Giới là căn bổn của học, nên phải học đầu tiên. Một hàng tụng thí, nhẫn. Nói thí, nhẫn chẳng phải một mà có nhiều loại. Một hàng tụng về thiền định, một hàng tụng về trí tuệ. Kinh: “Bấy giờ bốn bộ chúng…. Là vì nhân duyên gì? Huyền tán: Một hàng rưỡi tụng phần thứ năm muốn nghe thành tựu. Trong văn văn xuôi nói có hai mươi ức Bồ-tát thích nghe pháp. Đây nói bốn bộ chúng, tức cùng hiện rõ. Trước y theo phát tâm. Đây nói chưa phát tâm. Kinh: “ Đấng, Trời, Người tôn phụng… chỉ ông chứng biết”. Huyền tán: Là đáp thành tựu. Văn văn xuôi nói bốn nhân; văn này có hai: Hai hàng tụng này là nói nguyên nhân nói kinh này. Hai hàng tụng sau là nói thời gian dài ngắn. Lược không có truyền đăng quyến thuộc, đại chúng an vui. Chữ thích là nghóa gần, mới đầu. Vừa từ định khởi dậy có thể dẫn dắt chúng sanh đến quả vị Bồ-đề. Dùng trí tuệ xuất thế chiếu đạt cả chân tục thì gọi là thế gian nhãn (mắt thế gian). Kinh: “Thế tôn đã ngợi khen… đều có thể thọ trì. Huyền tán: Nói thời gian dài ngắn. Kinh: “Phật nói kinh Pháp Hoa… sẽ vào cõi Niết-bàn. Huyền tán: Tụng trên chỉ các sự tương đồng bây giờ, bốn bài tụng dưới là tụng phần hai: Xướng diệt liền khác (dị). Chia làm ba: Hai hàng tụng về xướng diệt. Một hàng tụng khuyên sở hóa. Một hàng tụng về đại chúng bi não. Hóa duyên đã xong, nay liền nói nhập diệt. Kinh: “Ông nhất tâm tinh tấn… ức kiếp một lần gặp”. Huyền tán: Đây khuyên chúng sanh được hóa. Tinh tấn là căn bản của pháp xuất thế. Buông lung là nguồn gốc của sanh tử. Lý cần phải tu đoạn. Huống chi đến ức kiếp mới gặp Chư Phật. Nay đã được gặp, lại không tu đoạn sao? Cho nên trong kinh nói: Vui thay! Phật ra đời. Vui thay! Diễn chánh pháp. Vui thay! Tăng hòa hợp. Vui thay! Đồng tiến tu. Kinh: “Các con của Phật thảy… Phật sao diệt độ mau”. Huyền tán: Nói sự bi não của đại chúng. Thế gian trở thành trống vắng, chúng sanh hết phước nên sanh bi não. Kinh: “Thánh Chủ Pháp Vương… Các ông chớ lo sợ.” Huyền tán: Hai hàng rưởi tụng thọ ký đời vị lai sẽ thành Phật. Có hai: Một hàng tụng khuyên chớ lo buồn, vì có Phật đương lai có thể nương vào tu tập. Nói việc đồng nhập diệt là thật thường lạc. Một hàng rưỡi cuối tụng về sự thọ ký. Kinh: “Đêm ấy, Phật diệt độ… để cầu đạo vô thượng”. Huyền tán: Hai hàng tụng thị hiện nhập Niết-bàn hàng đầu hiện nhập Niết bàn. Một hàng sau thấy mất vị thầy thuốc, tinh tấn mộ đạo. Kinh: “Trải qua Diệu Quang ấy… nói rộng kinh Pháp Hoa.” Huyền tán: Hai mươi chín hàng tụng trên là tụng nhân được thọ dụng đại Phật ở tại thế, dưới đây có chín hàng tụng, tụng bốn nhân còn lại nói sự hành hóa sau khi diệt độ. Đây chia làm bốn: Một hàng đầu tụng nhiếp lấy nhân xoay bánh xe của Chư Phật. Một hàng tụng nhân thiện, bền vững xoay bánh xe của Như lai. Một hàng tụng nhân có thể tiến nhập. Sáu hàng tụng sau là nhân nhớ nghó (ghi nhớ). Kinh: “Tám vị Vương tử… rõ thấy vô số Phật.” Huyền tán: Đây là phần thứ hai nói về nhân khéo léo bền vững, chân thật xoay bánh xe của Như lai. Nếu nương vào Tiểu thừa thì ở trong tam vô số kiếp trở về trước gặp các vị Phật: Thắng Quan, Nhiên Đăng, Bảo Kế. Thuở sơ kiếp Thích-ca Mâu-ni gặp Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, sau đó gặp bảy muôn năm ngàn vị Phật. Đầu kiếp thứ hai gặp Phật Bảo Kế, lại gặp bảy muôn sáu ngàn vị Phật. Đầu kiếp thứ ba gặp Phật Nhiên Đăng, lại gặp bảy muôn bảy ngàn vị Phật. Kiếp thứ ba tu đủ một trăm kiếp tu hạnh nghiệp tướng hảo. Đầu tiên gặp Phật Thắng Quan, tức là Phật Tỳ-bà-thi. Do quỳ xuống chân Phật khen ngợi mà vượt qua chín kiếp. Cho nên trong kinh thường nói chín mươi mốt kiếp thuở quá khứ có Phật Tỳ-bà-thi. Nếu nương vào Đại thừa, thì phần thứ tư nương vào sự cúng dường Bồ-tát, tám hằng hà sa Chư Phật, nay mới hiểu nghóa mười sáu phần của Niết-bàn, xưa nay đều nói ở trong Thập Địa. Nay cũng chưa nhất định chỉ nói tám hằng hà sa, hà tất phải là địa thứ mười. Ngài Chân-đế giải thích: Kiếp đầu gặp năm hằng sa Phật. Kiếp thứ hai gặp sáu hằng. Kiếp thứ ba gặp bảy hằng hà sa Chư Phật. Cho nên nay nói là đắc nhập vào Bát địa, vẫn nói thấy vô số Chư Phật. Kinh: “Cúng dường Chư Phật rồi…. việc thứ lớp thọ ký.” Huyền tán: Đây là phần thứ ba nói nhân năng tiến nhập, sau đó thành tựu quả Phật. Kinh: “Đức Phật cuối sau hết… độ thoát vô lượng chúng.” Huyền tán: Đây có sáu hàng tụng về nhân nhớ nghó. Đây chia làm hai: Một hàng tụng nhớ về tám vị Vương tử, năm hàng tụng sau là nhớ về tám trăm đệ tử. Kinh: “Là Diệu Quang Pháp Sư …. gọi tên là Cầu danh.” Huyền tán: Hai hàng rưỡi đầu là tụng về nhân ức nhiễm. Hai hàng rưỡi sau là tụng nhân ức tịnh. Đây nói phần đầu, trong năm hàng nhớ tám trăm đệ tử. Quí trọng tánh tộc, cho là tôn quý, yêu thích sự lợi dưỡng cho đó là điều trước tiên. Sự tu tập phần nhiều phế bỏ nên gọi là Cầu Danh. Đầy đủ sáu lỗi như trong văn có thể biết. Giải là mỏi mệt, lạn là lười biếng, mạn là đọa. Thứ hai tham đắm đã được. Thứ ba là cầu lợi danh chưa được. Tộc nghóa là loại. Thời Chu Lễ thì bốn lữ là tộc. Trịnh thì gọi trăm nhà là tộc. Kinh: “Cũng làm các nghiệp thiện cho đến số không có hạn lượng.” Huyền tán: Tụng nhân tịnh có hai: Năm câu đầu là nhớ năm nhân tịnh, năm câu sau là nhớ hai quả tịnh. Kinh: “Đức Phật kia diệt độ cho đến nay thời chính là Ta.” Huyền tán: Bốn mươi bài tụng trên là tụng nêu bày việc riêng. Ba hàng tụng dưới là tụng xưa tức nay có ba: Một hàng đầu tụng về người. Hàng kế tụng về pháp. Hàng sau tụng về kết thành. Kinh: “Ta thấy Phật Đăng Minh cho đến muốn nói kinh Pháp Hoa.” Huyền tán: Đây tức là pháp. Kinh: Tướng nay như điềm xưa cho đến giúp bày nghóa Thật tướng.” Huyền tán: Đây là phần kết thành. Phật phát ra ánh sáng để cảnh tỉnh người có duyên tu tập. Đại chúng thấy điềm lành này càng sanh lòng khát ngưỡng, Phật khởi lên thần thông ở đây là nói lên pháp này không dối. Hiển bày sự tu chứng sâu kín nên gọi là phát ra ánh sáng trợ giúp nghóa thật tướng. Kinh: “Các người nay nên biết cho đến đầy đủ người cầu đạo.” Huyền tán: Bốn mươi ba bài tụng trên là tụng lại phần văn xuôi. Hai bài tụng dưới là phần thứ ba trong đại văn khuyên chúng nên biết, Phật nói pháp hôm nay là có hai: Một hàng tụng nêu Phật nói mưa pháp phát sanh mầm đạo khiến tinh tấn tu thiện. Hàng tụng sau nêu Phật nói pháp khiến cho người cầu đạo nghi hoặc đều trừ diệt, đoạn hết điều ác. Kinh: “Các người cầu ba thừa cho đến khiến hết không còn sót”. Huyền tán: Đây là dứt nghi. Hai hàng tụng này kết thúc Phật tuôn mưa pháp lớn, nói pháp lớn. ngày Viết xong, vào Mùng 4 Tháng 4 Niên hiệu Bảo An năm thứ ba Tăng Giác Ấn tại chùa Pháp Long. - Di điểm xong (sửa) vào Ngày 2 Tháng 10 đồng năm tại Chùa Hưng Phước. - Tăng Giác Ấn ở chùa Pháp Long vì muốn chánh pháp trụ lâu mà làm tả điểm, có thể lấy đây làm kim chỉ nam v.v….  KINH PHÁP MẦU LIÊN HOA <卷>QUYỂN 3 PHẦN ĐẦU PHẨM PHƯƠNG TIỆN Lược chia ra ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Nêu ra thể của phẩm. Về ý nghóa vì sao có phẩm này có ba: Y vào tám phẩm làm Chánh tông. Hoa sen có hai đức là lên khỏi mặt nước và nở bày tức Pháp mầu có đầy đủ hai công năng của quả tốt đẹp là hạnh trang trong cung kính. Lại trong kinh nói: Nay kinh này chỉ nói pháp Nhất thừa. Cho nên dùng để phá hai, hội hai trở về Nhất thừa làm chánh chủ ý của kinh Pháp Hoa. Cho nên, ba lần nói pháp hợp với ba căn cơ. Phẩm này là lần đầu tiên nói pháp Nhất thừa để lợi ích cho Thu Tử (Xá-lợi-phất). Ngài Thu Tử là bậc thượng căn đầu tiên lãnh ngộ nói trong phẩm Thí dụ. Phật vì ông mà thuật lại việc thành tựu để thọ ký. Cho đến vì Thu tử nói kệ xong đó là lần chuyển thứ nhất. Trong phẩm Thí dụ ngài Xá-lợi- phất thỉnh rằng: “Nay con không còn nghi hối”: Từ đây trở xuống Phật nói thí dụ để làm lợi ích cho hàng trung căn. Bốn người trung căn ấy tín hiểu. Phật nói phẩm Dược Thảo Dụ thuật lại sự thành tựu, thọ ký cho họ. Đây là lần chuyển thứ hai. Trong phẩm Hóa Thành Dụ nói đến kết duyên từ xưa và Hóa thành là không thật, đây vì lợi ích người hạ căn. Mãn Từ Tử lãnh giải rồi. Phật ấn chứng thuật lại xong, liền thọ ký cho năm trăm vị Hữu học, Vô học. Đây là lần chuyển thứ ba, trở xuống phần dưới lại không nói Nhất thừa nhưng chỉ nói Nhất thừa là tự thể của Pháp Hoa. Nay đại chúng nhóm họp hòa kính và đủ duyên rồi, căn khí đã phù hợp chính là lúc có thể trình bày tông pháp. Vả lại nói pháp Nhất thừa làm lợi lạc cho người thượng căn. Do đây mà phẩm Phương Tiện xếp sau phẩm Tựa. Trong phần căn cứ mười chín phẩm làm chánh tông, từ phẩm Phương Tiện trở xuống có mười hai phẩm nói về cảnh Nhất thừa. Phẩm An lạc, Dũng Xuất nói về hạnh Nhất thừa. Phẩm Như lai Thọ Lượng đến phẩm Thường Bất khinh, cả năm phẩm này lại nói về quả Nhất thừa. Nói cảnh để biết rõ cảnh quyền thật khuyên nên bỏ quyền mà giữ lấy thật. Người thanh văn ngộ cảnh này mà được thọ ký. Trong đây chia làm ba: Tám phẩm đầu chính là nói về quyền thật, ba căn cơ đều được thọ ký, ba phẩm kế là khen ngợi người và pháp, khuyên nên kính mến hành trì. Một Phẩm Trì ở sau vâng mệnh bỏ quyền trì thật hành thật pháp. Tám phẩm đầu này không khác với ý trước. Cho nên sau phẩm Tựa là phẩm Phương Tiện. Luận chép: Từ đây trở xuống chỉ rõ hiện nói tướng nhân quả. Ý này ở liền sau phẩm Tựa. Nói rõ tông chỉ kinh nói là tướng trạng, thể tướng, nhân quả. Trong đây có ba ý giải thích: Nói trí tuệ của Chư Phật là quả. Năng thuyên trí tuệ là giáo môn gọi là nhân. Như cửa là nơi để bước vào nhà. Vậy thì giáo là nơi hiển lý. Hoa sen chỉ nói hai nghóa nhân quả, cho nên tức là trí thuyên. Ba lần thỉnh rồi sau nói một đại sự: Khai, thị, ngộ, nhập, ba điều trước là quả, một điều sau là nhân, chính là tông chỉ Nhất thừa. Đầu tiên là nêu môn ý trí . Ngài Thu Tử phát nghi nên cố thỉnh Phật nói pháp Nhất thừa. Hai nghóa Hoa sen tuy giải là kinh Vô Lượng Nghóa. Quả đẹp nhân khai, đây cũng chưa bao gồm lý chung. Do đây nên nói mở bày ngộ nhập là quả và nhân. Đầu tiên nói trí và môn. Môn là nhân trí là quả. Mở bày ngộ là ba quả, nhập là nhân, giáo lý hạnh quả đều là Pháp Hoa, khiến biết xưa kia giáo hành phương tiện nói thành ba. Nay nói thể thừa lý quả chỉ là một. Nghe giáo Ba thừa mà hiểu lý Nhất thừa. Thật hành nhân Ba thừa mà chứng quả Nhất thừa. Đó là ý Pháp Hoa. Như trước đã giải thích, phẩm này nói đủ tông nêu kinh tông nhân cho quả nên phẩm Phương tiện kế sau phẩm Tựa Giải thích danh từ: Phương tiện là phương liên, khứ thanh là Tiện. Phật trí có hai: Trí chân thật và trí phương tiện. - Trí chân thật có hai: Thật pháp và Thật trí. Thật pháp có hai: Một là thể thật nghóa là hữu vi vô vi. Hai là chân thật, nghóa là chân như diệu lý. Thật trí cũng có hai:. Một là như thể thật trí, tức là quán thể thật vô lậu chân trí. Đối với trí phàm vọng không biết gọi là thật trí tức hai trí căn bản và hậu đắc đều có. Hai là chứng trí chân thật chỉ có trí chánh thể. Đây có năm cặp: Đối với biết vọng gọi là thật trí. Đối với biết việc gọi thật trí. Đối tỏ tướng gọi là thật trí. Đối trí thuyên gọi là thật trí. Bốn thứ thật trí này đều chỉ quán về chân trí thứ tư còn bốn sở đối theo thứ lớp đều là bốn trí thế tục. Đối trị quyền trí gọi là thật trí. Nghóa là lý trí Nhất thừa, đối với biết hai quyền trí. Đây y vào chứng trí, lấy chân trí thứ tư để đối với ba tục trí sau. Nếu y vào hướng nhập trí thì lấy chân trí thứ ba đối với tục trí thứ ba. Về trí phương tiện có ba hoặc bốn. Tiến tớiù phương tiện. Nghóa là trí bảy phương tiện trước kiến đạo tiến đến hướng quả gọi là phương tiện. Sở học có phép tắc nên gọi là phương, tùy theo vị tu thuận thích nghi gọi là tiện. Lập ra phương tiện. Nghóa là phương tiện khéo léo Ba-la-mật. Diệu dụng hậu trí, năng hành hai lợi nên gọi là phương tiện. Đoạn này có ba: Giáo hạnh phương tiện: Ngôn âm có phép tắc gọi là Phương, bẩm giáo được an ổn gọi là tiện. Chứng hành phương tiện: Lý Không ngay thẳng gọi là phương. Trí thuận chánh lý gọi là tiện. Bất trụ phương tiện: Từ chân nhập tục gọi là phương: Tự tha đều lợi là tiện. Cả ba pháp này đều là lập ra phương tiện thứ hai. Tập thành phương tiện: Các pháp đồng thể, xảo tướng tập thành, nên gọi là phương tiện. Vả lại chân như có đầy đủ Hằng sa Phật pháp. Lấy trí làm môn, lấy thức làm môn đều nhiếp tất cả. Trong Bồ-tát Địa chép: Pháp này khéo léo thành, gọi là phương tiện. Mười Địa nói: Chung, đồng, thành, biệt dị, hoại. Lấy chung đối với biệt mà làm phương tiện vậy. Bao gồm có phép tắc gọi là phương, dùng ít dung nạp nhiều gọi là tiện. Quyền xảo phương tiện: Thật không có việc này, vì ứng vật quyền biến hiện ra nên gọi là phương tiện. Nghóa là dùng ba nghiệp làm phương tiện mà giáo hóa. Đây đối với thật trí gọi là phương tiện. Lợi vật phép tắc là Phương, tùy thối cứu độ gọi là tiện. Thể này xuất xứ từ trong phần lập ra phương tiện lại không có nghóa riêng, nên thể chỉ có ba: Nay đây giải thích có ba: Hiển hạ phương tiện chỉ dẫn dắt chúng sanh. Hiển thượng phương tiện, chỉ hiện hiển bày lý sâu mầu. Hiển chung khắp phương tiện ở thượng hạ. Hiển hạ phương tiện, kinh này phần dưới có nói. Cõi Phật Mười phương chỉ có một pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba. Trừ Phật phương tiện nói. Lại nói: Chánh ngay bỏ phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng , tức là quyền xảo phương tiện trong bốn phương tiện. Đây có ba: Thân phương tiện cầm đồ hốt phân mặc áo thô rách ở Già-da thành đạo. Ngữ phương tiện: Văn dưới nói chín bộ pháp này của ta nhập vào Đại thừa làm căn bản. Lại hướng về Ba-la-nại xoay bánh xe pháp bốn đế v.v… Ý phương tiện: Văn kinh dưới nói: Xét nghó các Phật quá khư thật hành năng lực phương tiện. Nay ta đắc đạo cũng nên nói pháp Ba thừa. Trên đồng với Chư Phật, dưới thuận với hữu tình. Kinh Phật Địa chép: Phật dùng trí thành sở tác khởi ba nghiệp giáo hóa chúng sanh, cũng đồng với ý này. Theo như ở đây giải thích rằng. Lập ra đáng làm phép tắc gọi là phương, khéo thuận cơ nghi gọi là tiện. Luận Vãng sanh chép: Ngay thẳng gọi là phương. Ngoài đã xong làm tiện thì phương là phương thuật. Tiện là ẩn chứa sự thuận tiện, phương của tiện là phương tiện. Hiển trên gọi là phương tiện: Vô Cấu Xưng gọi là có phương tiện cho nên mở ra. Không có phương tiện nên trói buộc. Kinh này giải thích: Ta lập ra phương tiện ấy, khiến cho chúng sanh nhập vào trí tuệ Phật. Chư Phật đều dùng vô lượng phương tiện đôï thoát chúng sanh, nhập vào trí vô lậu của Phật. Đầu tiên lập ra phương tiện, sau hiển rõ Phật trí. Tức lập ra phương tiện trong bốn phương tiện. Lý diệu đáng làm phép tắc gọi là phương, xảo dụng năng hiển gọi là tiện. Ý nghóa thì sâu xa mà lời thì xảo diệu, tiện thông giáo lý, tiện của phương thì gọi là phương tiện. Thông suốt phương tiện trên dưới. Kinh dưới Đại chúng nghi nói: Vì sao Đức Thế Tôn hết lời khen ngợi phương tiện mà nói là: Chỗ đắc pháp của Phật sâu xa khó hiểu, ngôn ngữ ý thú khó biết. Phương tiện là chung, hai câu dưới là riêng, chỗ đắc pháp của Phật là nói rõ trên. Nay nói nhất thật, ngôn ngữ ý thú là hiển hạ phương tiện, nêu rõ ba quyền xưa. Lại nói Phật đều biết lý ấy, đã dùng các phương tiện thí dụ ngôn từ phương tiện khiến tất cả chúng sanh đều vui mừng, tiếp dưới mà hiển bày trên, cả hai đều dụng thông, tức mười hai thứ phương tiện khéo léo Ba-la-mật-đa, tùy ứng mà phối nhiếp. Phương là pháp tắc thống nhiếp nhân tình. Tiện là lý thích nghi cần cứu giúp muôn vật. Phương là phương pháp, phép tắc. Tiện là cần thuận tiện thích nghi. Tình là hữu tình. Cơ là cơ yếu. Phương pháp thống nhiếp cơ tình, cơ nghi gọi là phương, thông suốt người và pháp, vật là nhân vật. Lý là đạo lý. Đem đạo lý cần thích nghi làm lợi ích cho nhân vật gọi là tiện. Lợi người ích pháp. Ý này nói là quy tắc lợi người ích pháp, nên gọi là phương tiện. Vừa phương vừa tiện nên gọi là Phương tiện. Do nghóa này suy ra mà chung cả ba giải thích. Ba thứ đó hợp lại là mười hai thứ phương tiện khéo léo Ba-la-mật-đa tùy ứng mà phối nhiếp. Luận Du-già quyển bốn mươi lăm nói có mười hai thứ. Sáu thứ đầu y vào nội tu chứng. Sáu thứ sau y vào ngoại thành thục. Sáu nội tu chứng là: Bi tâm thương xót, biết rõ các hành, ưa thích diệu trí Phật, không bỏ sanh tử, luân hồi không nhiễm, mạnh mẽ tinh tấn. Sáu thứ ngoài là: Khiến thật hành ít thiện như bố thí mà cảm quả vô lượng. Khiến thật hành ít lực như giới, v.v… mà dẫn đại gốc lành. Người ghét Thánh giáo, thì trừ sự nhuế não kia, người trụ trung đạo giúp họ hướng nhập. Người đã hướng nhập thì khiến cho thành thục. Người đã thành thục thì khiến cho giải thoát. Trong đây phương tiện tiếp dưới là thành thật sáu thứ ngoài, hiển trên là sáu thứ thành thục nội chứng, thông hợp cả trong ngoài là mười hai thứ. Trong mười hai thứ vì thành bốn thứ sau lại tu sáu thứ phương tiện khéo léo: Một là thuận theo hội thông: Sắp vì chúng sanh nói pháp, trước hiện thân, ngữ tốt đẹp, mềm mỏng khả ái, khiến cho sanh ái kính, khởi ưa thích pháp, rồi dần vì nói. Chúng sanh không hiểu pháp không mật ý ngôn giáo. Tất cả các pháp vô tánh vô sự vô sanh và diệt như huyễn như mộng v.v… như lý hòa hội. Các kinh kia không nói thể của tất cả pháp đều là vô sở hữu, chỉ vô sở chấp thì mới có thể nói tự tánh. Căn cứ vào Bậc nhất nghóa chẳng phải tự tánh đó. Tánh sự đã vô sở hữu thì hữu đâu có sanh diệt! Lại như huyễn mộng thì chẳng như hiển hiện ra. Lại chẳng phải việc kia là vô sở hữu, nên nói như huyễn để cho người biết rõ. Hai là cùng lập khế ước: Thấy có người đến cầu, trước cùng lập ra khế ước, khiến cho người biết được ân đức, trì tịnh giới cung kính cúng dường, sau đó mới cho họ. Ba là khác phần ý thích: Cùng lập khế ước rồi mà người kia không mau hành trì, vì ý lợi ích. Trước hứa mà không cho, vì trước kết làm bạn thân, thuận theo mà giáo hóa họ. Người kia không theo tu học thì hiện tướng nổi giận. Họ làm trái ngược, thì giả như không tùy theo làm ích. Những tướng này là lúc quyền biến, ngoài hiện tướng xả bỏ, chẳng phải bên trong ý ưa thích, hoặc không vì cứu giúp. Bốn là ép buộc làm: Có năng lực tự tại. Đối với thân thuộc có thể dạy bảo. Với người hủy giới không biết ân đức. Hoặc người bị khiển trích đuổi đi, dứt hết các sở cầu, cũng làm cho họ biết tu tập. Năm là thi ân báo ân. Với người mình từng chịu ân đức trước kia, mong giúp họ tu thiện để báo đáp. Đó gọi là Đại báo ân. Sáu là rốt ráo thanh tịnh: Đạo quả tròn đầy rồi thì trụ vào cõi trời Tri túc… cho đến hạ sanh thành Chánh giác, khiến cho người sanh tâm ưa thích mà vãng sanh tùy dưới đây, thỉnh xoay bánh xe pháp rộng vì lợi ích khắp. Đây cũng tức là thuận theo hội thông trong sáu phương tiện. Hội Ba thừa xưa là quyền, thông Nhất thật nay để quyết trạch. Trong Duy thức lại nói có hai thứ: a, Cứu giúp phương tiện khéo léo cứu đo, tức sáu thứ ngoài. b, Hồi hướng phương tiện. Khéo léo tức là sáu thứ nội chủng. Tùy sự thích ứng đều thuộc phương tiện này. Nêu ra thể tánh: Phương tiện là lấy trí tuệ làm tánh Vô phân biệt trí nội chứng cảnh chân. Trong hậu đắc trí vì lợi tha nói pháp, năng khởi diệu dụng phương tiện, lấy hậu đắc trí làm tánh. Trong Duy thức nói năm pháp Ba-la-mật-đa sau đều lấy hậu đắc trí làm tánh, tánh năng, sở thuyên mỗi đều khác nhau, do nơi trí mà hiển bày, nên nay từ căn bản lấy trí làm tánh. Phần dưới giải thích bổn văn: Trong chu thứ nhất có bốn phần: Đức Thế Tôn hiểu dụ. Ngài Thu Tử lãnh hội. Như lai nói pháp thành tựu. Phật thọ ký cho. Giống như văn nói trung căn, hạ căn cũng có bốn: Trong bốn phần này thì đầu tiên là phẩm Phương tiện. Ba phần sau đều ở trong phẩm Thí dụ. Trong lời hiểu dụ của Phật, luận phán làm năm: Khen ngợi pháp thắng diệu, “Ta từ khi thành Phật” v.v… trở xuống. Khen ngợi công đức Pháp sư tức từ câu: “Bấy giờ trong chúng bậc A-la-hán các lậu đã hết.” Đại chúng định nghi, từ câu: “Phật bảo Xá-lợi-phất: Thôi thôi không nên nói nữa. Nếu nói việc ấy thì tất cả thế gian đều sẽ kinh nghi…” Định ký: “Xá-lợi-phất Chư Phật xuất hiện ở cõi đời có năm thứ vẩn đục này”… Phần dứt nghi; pháp là thầy Chư Phật. Người do pháp mà thành tựu công đức. Người là năng hiển, pháp nhờ người mà được mở mang truyền bá. Đầu tiên khen ngợi pháp mầu, sau khen ngợi sự thù thắng của người. Các Thanh văn lấy việc tự sở chứng để làm chắc chắn, nghe khen ngợi pháp nói nên có nghi sanh. Cho nên có phần định nghi. Tâm Phật vì trước đã chắc chắn rồi, nên nói “thôi đừng cố thỉnh” khiến cho người xấu phải rời chỗ ngồi bỏ đi. Đã vậy, lại giải thích rõ ràng nghóa đó nên có phần định ký. Mọi người trong chúng nghe nghóa nói trước kia lại có người nghi. Phật liền giải thích lại. Cho nên có phần dứt nghi, bèn thành năm phần: Hoặc chia ra làm hai. Phần đầu khen ngợi pháp và sư mầu nhiệm, chúng bèn nghi sanh; phần sau Phật lại chắc chắn thọ ký giải thích, chúng vẫn còn nghi, nên Phật giải thích lại nghi này, nên chia làm hai. Nay trong phẩm này chia làm bốn: Phần đầu là trước sâu xa, xướng báo để cảnh tỉnh, quán sát tâm chúng sanh, kế bốn chúng kinh nghi, phát khởi lời thỉnh của Thân tử. Thứ ba là khai ra thật tướng này mà khởi lên quyền môn. Bốn là khuyên phát hỷ tâm khiến ưa thích thành Phật, như ba hàng tụng ở cuối phẩm này nói. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế Tôn cho đến đều không thể biết ”. Tán: Hai nghóa sâu xa là trước xướng cảnh báo, và tâm quán sát tâm chúng sanh. Trong văn có hai: Văn xuôi và Trùng tụng. Văn xuôi có hai: Khen ngợi pháp mầu đã chứng đã nói: “Ta từ khi thành đạo…” khen ngợi thân Như lai năng chứng năng nói pháp sư thắng diệu. Trong phần đầu có hai: Nêu chung phần thắng diệu. Tức câu: “Vì sao” trở xuống là giải thích sự thắng diệu này. Trong phần một lại có hai: Nói về sự tự tại, theo định mà khởi, Bảo với Thu Tử. Chính là trình bày những điều sẽ nói. An là nghóa thong thảø. Tường là xét kỹ. Luận chép: Dùng trí như thật quán từ Tam-muội an tường mà khởi. Xuất định rồi bảo Xá-lợi-phất: Như lai thị hiện đắc lực tự tại. Như lai nhập vào định không ai có thể đánh thức. Quán vô lượng nghóa xứ định gọi là như thật trí quán. Định của Phật rất cao siêu, nhập rồi người khác không thể đánh thức Phật khiến cho từ định mà khởi. Nếu không phải Phật xuất định, thì người khác không thể khiến xuất định, cho nên tự mình từ định khởi ra. Lại hiển bày Phật ở trong định ra vào tùy ý tự tại. Tức là do hai nghóa mà xuất định. Tuy là Tam-muội vô lượng nghóa xứ mà phần nhiều là Tứ thiền có công đức thù thắng. Phật không nói với người khác mà chỉ nói với Xá-lợi-phất đó là tùy theo trí tuệ sâu xa mà tương ưng với Như lai. Nghóa là ngài Xá-lợi-phất ở trong các thanh văn là bậc thượng , là người có trí tuệ lợi căn, một lần nghe qua thì sâu giải ngộ nhập trước tiên. Khi Phật nói pháp thì ứng hợp căn cơ. Do trí tuệ Phật rất là bậc nhất căn và pháp phù hợpnên gọi là tương ứng. Tương ưng nghóa là thuận theo, chẳng phải trí tuệ tương tợ gọi là tương ưng. Căn hợp Phật pháp gọi là tương ưng, cho nên không nói với Bồ-tát. Luận có năm nghóa: Những việc làm của chúng Thanh văn, kinh Pháp mầu Liên Hoa là Phật nói cho thanh văn nghe. Việc làm của Thanh văn là xả bỏ pháp thứcền thừa mà chẳng phải việc Bồ-tát. Vì các Thanh văn hồi hướng quả Đại Bồ-đề. Khiến họ phát tâm hướng đến quả Đại thừa. Đây là hộ trì tâm e sợ yếu đối của Thanh văn. Nếu Phật nói cho hàng Bồ-tát, thì Thanh văn cho pháp Nhất thừa này mình không dự phần, tâm sanh khiếp sợ không thể tiến tu. Nay bảo Thanh văn để họ dứt trừ ý này: “Các ông phải dứt trừ tâm yếu đối”. Khiến cho người khác khéo tư duy là khiến cho Thanh văn khác khéo suy nghó. Ngài Xá-lợi-phất đã được thấm nhuần lời Phật bảo, chúng ta là đồng hạng với Xá-lợi-phất cũng nên được phật bảo, mà sanh lòng kính tin sâu khởi tâm tu học. Vì các Thanh văn không khởi tâm các việc làm đã xong. Xưa Thanh văn cho rằng quả diệt đã đắc được là đã tròn đủ. Nay Phật khen ngợi pháp mầu nói những việc mà họ không biết, khiến cho bỏ tiểu tâm. Bồ-tát đối với năm việc hoàn toàn không tương ưng, cho nên tuy là lợi căn, mà Phật không chánh thức bảo, bảo riêng thì không hợp chung. Bảo người Ba thừa vì có nghi hối tức là khiến đều dứt trừ nghi. Chánh thức bảo là hàng tánh bất định và những người khác tùy ý hành trì. Pháp được khen ngợi lược có hai thứ: Trí tuệ. Trí tuệ môn. Cho nên luận chép là có hai nghóa rất sâu: Chứng sâu xa là trí tuệ. A-hàm sâu xa là môn trí tuệ. Trí tuệ môn là giáo năng thuyên. Trí tuệ sâu xa là lý sở thuyên. Tiếng Phạm là: A-cấp-ma Hán dịch là Giáo, hoặc dịch là Truyền. Từ thời thượng cổ Chư Phật truyền đến bây giờ. Nghóa sâu xa này có cả giáo và lý. Nhưng lý là chính được gọi sâu xa, môn sâu gọi là “khó thấy, khó biết v.v… Nhị thừa không biết cũng có cả hai pháp này, ngoài ra thuộc riêng hai pháp giáo và lý ý luận như thế. Luận chép: Trí tuệ là nghóa. Nhất thiết chủng , Nhất thiết chủng trí. Trí của người Nhất thiết trí gọi là trí Nhất thiết trí thể chung cả tánh tướng gọi là Nhất thiết chủng, tức quả vị Phật Niết-bàn, Bồ-đề. Hoặc Nhất thiết trí đó là Vô phân biệt trí. Lại nói trí đó là Hậu đắc trí. Nghóa đó là cảnh. Tức là cảnh trí của Nhất thiết trí, nên gọi là trí Nhất thiết trí. Thế nào gọi là Nhất thiết trí, nghóa là Nhất thiết chủng, tức như không như hữu, hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu, như giáo như lý thì gọi là Nhất thiết chủng. Chủng nghóa là chủng loại. Pháp thể chủng loại rất nhiều chẳng phải một, nhiếp hết tất cả gọi là Nhất thiết chủng, nghóa là Nhất thiết chủng này là cảnh của Nhất thiết trí. Tức cảnh nhất thiết chủng này gọi là trí tuệ sở thuyên. Nay dùng lý bao trùm cả thì trí tuệ có năm, nhiếp hết tất cả pháp mới gọi là Nhất thiết chủng. Tánh trí tuệ: Nghóa là chân như. Cho nên kinh ở dưới nói: Chỉ có Phật rốt ráo biết hết thật tướng các pháp”. Luận tự giải thích: Tánh Như lai Tạng làm thể, khuấy động pháp thành tựu người. Chỗ thành tựu của người là trí tuệ, cho nên dẫn văn dưới để chứng minh. Tướng trí tuệ: Tức là năng quán vô lậu chánh thể. Hai trí Hậu đắc làm thể. Dưới nói các trí phương tiện kiến đều đã đầy đủ. Tư duy cùng tận cùng với ước lượng cũng không thể suy lường được Phật trí. Bạn trí tuệ: Là trần sa muôn đức công đức hữu vi. Dưới nói: “Tri kiến Như lai rộng lớn sâu xa, có lực vô lượng vô ngại, vô sở úy đều đầy đủ tất cả”. Nhân trí tuệ: Là nghóa giáo năng thuyên và muôn hạnh. Ở dưới nói: “Trí tuệ môn khó hiểu khó vào”. Luận chép là A-hàm sâu xa. Lại luận dẫn trong văn kinh chép: Như lai có thể nói tất cả pháp, bằng đủ loại ngôn từ. Lại nói: Trọn hành trì vô lượng đạo pháp của Chư Phật”. Cảnh trí tuệ: Nghóa là cảnh như không như hữu, chân đế, tục đế hữu vi, vô vi. Kinh nói: Như thị Tướng, như thị Tánh”. Nay nói trí tuệ môn đã là phương tiện, thì giáo năng thuyên sâu nên lý sở thuyên cũng sâu. Tức bốn tuệ còn lại nghóa tuy có thể vậy, nhưng đều nương theo các giáo, trong năm pháp sâu xa này, phần nhiều chỉ lấy tuệ tánh chân như làm thể, dùng A-hàm sâu xa tức là ba giáo xưa. Chứng sâu xa tức là thể Nhất thừa. Vô thượng sâu xa là đại Bồ-đề. Thế nên trong kinh Thắng- man nói: “Thể Nhất thừa chỉ là chân như”. Tức là Đảo châu báu trong phẩm Hóa thành. Nay trong kinh này y vào thắng tuệ chân thật chỉ lấy tánh trí, tướng trí làm thể. Bồ-đề, Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề. Trí và trí xứ đều gọi là Bát-nhã, vì nhiếp tất cả. Nhà lửa xe trâu tức là tướng trí. Nói xe trâu riêng mà cùng là một. Đảo châu báu xưa đã có tức là trí tánh. Chúng cùng giữ lấy, thị hiện ngộ nhập tri kiến tức là hai vậy. Do đây mà có ba tự thành khác. Dưới nói: Một đại sự nhân duyên, tức là hai trí tuệ này nhân như quả. Nghóa là trí tuệ này là chân lý Nhất thừa. Trí tuệ môn đó là ba thừa quyền giáo. Nêu chung hai giáo lý quyền thật riêng biệt lý giáo, là muốn cho người Nhị thừa hành nhân chứng quả mà bỏ quyền giữ thật. Cho nên trong kinh Thắng-man nói: Do kinh này bốn trí rốt ráo đắc Niết-bàn Nhị thừa… là phương tiện của Phật. Muốn họ xả bỏ Nhị thừa quyền mà giữ Nhất thừa thật. Chứng pháp sâu xa, luận chép có hai nghóa: Một là thể diệu, hai là ít có hiểu. Thể diệu là: Luận chép chứng sâu xa có năm thứ. Khó hiểu: Luận chép lại sự sâu xa đó tất cả người thanh văn, Bích-chi-phật không thể biết được. Năm pháp sâu xa này xưa nay chỉ y vào chân như mà giải: Nghóa sâu, nghóa sai khác. Thể sâu tự thể tánh. Nội chứng sâu chánh trí, nội chứng trí khác không được. Y chỉ sâu pháp giới, pháp đánh căn bản của Chư Phật. Vô thượng sâu thể tối thắng. Nghóa là Đại Bồ-đề tức là quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác sở chứng . Nếu kiêm quán chiếu tánh trí, tướng trí hợp lại gọi là năm chứng nghóa. Sâu xa là ý nghóa rất sâu xa, là dụng của chánh trí như. Thể sâu xa nghóa là chân như, là bổn tánh của pháp. Nội chứng sâu xa là hiển rõ lại chánh trí. Bên trong sâu xa thì gọi là sâu. Y chỉ sâu đó là hiển rõ lại chân như, là căn bản của tất cả đức nên gọi là sâu. Vô thượng sâu là Đại Bồ-đề. Đại Bồ-đề là quả chứng A-nậu-đa- la-tam-miệu-tam-bồ-đề của Như lai. Trong luận Kim cương Bát-nhã của ngài Vô Trước có nói: Vô thượng Bồ-đề là lý pháp thân. Tam- miệm-tam-bồ-đề là báo thân trí. Đây tức là hai thứ chung hiển này. Thể vượt qua tất cả cho nên gọi là sâu. Đây chính là bổn ý. Nếu chung nghóa mà giải thích, hoặc tùy theo sở ứng, sở thuyên bốn tuệ đều có bốn sâu: Nghóa, thể, chứng, y. Hoặc bốn pháp trí tuệ là: Tướng, tánh, bạn, cảnh. Như thế lần lượt nêu ra bốn thứ sâu xa. Chỉ Vô thượng sâu xa tại nơi quả Bồ-đề là chủ của các đức. Lại không phải thí dụ để thí dụ, suy nghó để suy nghó được gọi là sâu xa. Phần trên giải thích nghóa sâu xa chỉ ở trí tuệ mà không thông tuệ môn. Y theo luận mà giải tuệ môn cũng có năm: Luận gọi là câu chung A-hàm sâu xa, tức là năm việc ít có. Vô lượng là trí tánh, trí tướng, trí bạn, trí cảnh. Thể biến dụng khắp, đức đầy đủ, pháp rộng lớn, như hư không không có hạn lượng, đức số vô cùng, chung cuộc ắt cũng vô tận, nên gọi là vô lượng. Nay chỉ nói tánh trí, tương trí, hai thứ có nghóa vô lượng mà thể, đức, tác dụng đều là đầy đủ vô hạn vô cùng tận. Môn trí tuệ đó rất sâu cũng có hai nghóa: Một là thể diệu, hai là ít có hiểu. Thể diệu đó, luận dẫn trong kinh nói: Trí tuệ môn đó là ít có thấy, khó biết, khó giác, khó hiểu, khó nhập, đầy đủ năm nghóa khó này. - Khó hiểu là: Người Nhị thừa không biết: Một là do nghóa trí sâu xa, cho nên môn đó là ít có thấy. Hai là do thể trí sâu xa, nên môn đó khó biết. Ba là do trí nội chứng sâu xa, nên môn đó khó biết. Bốn là do trí y chỉ sâu xa, nên môn đó khó hiểu. Năm là do trí Vô thượng sâu xa, cho nên môn đó khó nhập. Dùng giáo năm nghóa khó mà phối hợp riêng năm thứ trí tuệ sâu xa. Lại tuệ có hai: Một là phàm, hai là Thánh. Phàm có hai trí: Một là Hiện trí, hai là Tỷ trí. Hiện trí của phàm không biết gọi là ít có thấy. Tỷ trí không biết gọi là ít có giác. Thánh trí có hai: Một là hữu lậu, hai là vô lậu. Trí hữu lậu thế tục bất liễu gọi là ít có biết. Vô lậu trí có hai: Một là Căn bản, hai là Hậu đắc. Đầu tiên vì vô lậu trí không biết nên gọi là ít có hiểu. Hậu vô lậu trí không biết gọi là ít có nhập. Nhập đó nghóa là chứng giải. Nay trong kinh này chỉ có hai: Vô lậu trí không biết cho nên khó hiểu khó nhập. Chung hiển bày khó liễu hai thứ chứng, giáo nên nói: “Tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật đều không thể biết, chỉ Phật mới biết. Nay Phật sở dó khen ngợi hai nghóa rất sâu, luận tự giải thích: Vì các đại chúng sanh tâm tôn trọng rốt ráo muốn nghe Như lai nói pháp, vì làm nguyên nhân gần cho sắp đến đây Phật sẽ nói pháp chân thật Nhất thừa mà Phật sở đắc, thật là sâu xa khó hiểu. Khen ngợi trí rất sâu, để làm rõ sự khen ngợi vá nói ý thú khó hiểu. Ở văn dưới và làm nguyên nhân gần nói Nhị thừa là quyền phương tiện. Trước khen ngợi pháp môn sâu mầu khiến người phát tâm hi vọng được nghe. Nếu không như thế, chỉ nên khen ngợi trí tuệ sâu xa, gồm muôn đức để thành tựu quả Phật . Kinh: “Vì Sao?… ý thú khó hiểu. Tán: Phần này giải thích nghóa A-hàm sâu xa ở trước. Trong đây có hai: Một là chứng, hai là hiển. Vì sao? Vì Pháp Phật sở đắc gọi là giải thoát. Ba thừa đều giải thoát, Nhị thừa cũng được nói giáo phương tiện tức cũng đã y vào đó mà học. Như thế vì sao nay nói hai thứ Nhị thừa này là không biết không thấy? Đây dẫn ra ý này là trí tuệ của Phật, Nhị thừa chưa đắc được để gọi là sâu xa. Trí tuệ môn mà Nhị thừa đã được, đâu gọi là sâu xa! Nói Nhị thừa không biết, hoặc dựa vào giải thích đầu tiên. Vì sao? Vì sở đắc giải thoát của hàng Ba thừa tuy đồng mà Bát-nhã, pháp thân tướng, tánh trí tuệ, họ đều chưa đắc, ông nhất định không biết; lại trí tuệ môn kia họ cũng chưa rõ. Ở dưới đây chỉ giải thích tám loại sâu xa A-hàm. Muốn hiển bày Nhị thừa còn không thể biết sự sâu xa của giáo, huống chi trí tuệ của Phật là y vào phần thứ hai mà giải thích. Vì sao? Trước đã nêu giáo môn sâu xa đó, nay sẽ nói đầy đủ rõ ràng. Do đó mà từ phần này trở xuống chỉ hiển bày giáo lý sâu xa. Luận nhắc lại trong kinh có tám câu, nay văn này chỉ nói sáu câu. Y theo luận thì nên nói: “Phật từng gần gũi trăm ngàn muôn ức vô số Chư Phật, trọn tu vô lượng đạo, pháp của Chư Phật, mạnh mẽ tinh tấn danh tiếng vang khắp thành tựu pháp sâu xa chưa từng có, pháp khó hiểu đó Như lai có thể biết, tùy nghi mà nói, ý thú khó hiểu. Tất cả người thanh văn Bích-chi-phật không thể biết được”. Tức thêm vào câu thứ sáu trong kinh này câu: “Pháp khó hiểu đó Như lai đều có thể biết. “Và cho vào trong câu thứ tám nói: “ Tất cả người thanh văn, Bích-chi-phật đều không thể biết”, thành ra tám nghóa sâu xa. Câu thứ nhất nói: “Phật từng gần gũi trăm ngàn muôn đức vô lượng Chư Phật” tức là thọ trì đọc tụng nghóa sâu xa. Đây là nói về Đức Thế Tôn trải qua ba đại kiếp cúng dường hai mươi sáu hằng hà sa Chư Phật. Ở chỗ các cõi Phật kia thọ trì đọc tụng pháp môn này. Gọi là sâu xa, chẳng phải như người Nhị thừa đơn giản liền hiểu được cho nên gọi là sâu xa. Câu thứ hai nói: “Hành trì đạo pháp vô lượng của Chư Phật” tức là tu hành sâu xa. Phước trí hai lợi đạo hành của Chư Phật đều hành trì. Chẳng phải như người Nhị thừa lược gọi tu nhân, gọi là sâu xa, mà các thừa dưới y theo đây đều biết. Câu thứ ba: “Mạnh mẽ tinh tấn”ù: Quả hành sâu xa, quả là quả chắc chắn. Tinh thuần mạnh mẽ kham chịu sự mệt nhọc, việc làm đều thành tựu nên gọi là quả chắc chắn. Hoặc do tinh tấn mà việc làm khéo thành, nay đạt được quả thắng diệu gọi là quả sâu xa. Như nghe một câu kệ, nữa bài kệ mạnh mẽ gieo mình vào lửa, xả thân sáu năm khổ hạnh bước chân bảy ngày kiêng chân lên, chẳng phải là không có sự chuyên tinh siêng nhọc mà được. Câu thứ tư: “Danh tiếng vang khắp: Tâm thêm lớn công đức sâu xa. Do danh tiếng vang xa, phàm Thánh đều nghe biết, còn cố gắng bản thân siêng năng lại thêm tu đoạn. Công đức tự tâm lại càng thêm lớn. Hoặc danh tiếng vang xa mọi người đều nghe, đều là tâm thêm lớn công đức. Tất cả mọi người đều nghe biết nên gọi là sâu xa. Câu thứ năm: “Thành tựu pháp sâu xa chưa từng có:” Tâm vui sự mầu nhiệm sâu xa. Do thành tựu pháp là sự vui thắng diệu chưa từng có. Tâm năng thành cũng làm cho vui mầu nhiệm. Tâm vui mầu nhiệm nói nên giáo khó biết. Câu thứ sáu: Pháp khó hiểu đó: Như lai có thể biết tức là pháp Vô thượng sâu xa. Do pháp thật khó hiểu mà Như lai có thể biết, nên pháp môn này trở thành vô thượng. Hoặc thể của pháp khó hiểu tức là vô thượng, chỉ Phật mới có thể biết nên gọi là sâu xa. Câu thứ bảy: “Tùy nghi mà nói ý thú khó hiểu”. Nhập sâu xa tức ý thú văn chương văn tự khó đắc. Phật tự trụ, trì, nhập giải ý này, không giống như ngoại đạo, tự thân không hiểu làm sao giải thích cho người khác hiểu. Nói pháp nhân duyên nghóa rất sâu xa. Nhập có hai nghóa: Một là ít có nhập giải chỉ Phật tự giải; hai là tùy nghi mà nói khiến cho người nhập vào pháp ấy. Ý thú khó hiểu đó gọi là sâu xa. Câu thứ tám: “Tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật không thể biết: Là sở tác sâu xa của Phật không đồng với Thanh văn, Bích-chi-phật, đã hành trì, giữ gìn; không đồng sở tác nội lợi, ngoại lợi của họ, nên gọi là sâu xa. Trên đây là chung nói do gần gũi Chư Phật mà thọ trì, đọc tụng, tu hành, mà quả quyết thêm lớn công đức tâm chứng sự vui nhiệm màu, thành tựu pháp Vô thượng, nên tùy nghi nói, khó thể được hiểu, người Nhị thừa không hiểu trí tuệ môn ấy nên gọi là pháp sâu xa khó hiểu khó nhập. Huống chi trí tuệ Phật chẳng phải là sâu xa sao? Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến… các thứ Thí dụ”. Tán: Trên khen ngợi pháp Phật nói và chứng đắc đều thắng diệu. Phần dưới khen ngợi Như lai bậc Pháp sư năng chứng, năng nói đều thắng diệu, theo luận chép lại kinh, thứ lớp phần dưới nên nói: “Vì sao? Xá-lợi-phất! Chư Phật Như lai tự tại nói nhân thành tựu. Xá-lợi-phất! Như lai thành tựu các thứ phương tiện, các thứ tri kiến, các thứ niệm quán, các thứ ngôn từ. “Câu trên đây là chung, câu dưới giải thích câu trên nói: “Xá-lợi-phất! Ta từ khi thành Phật đến nay, ở trong các nơi, đều giảng rộng nói ngôn giáo dùng vô số phương tiện dẫn dắt chúng sanh, khiến cho họ xa lìa mọi sự chấp trước”. Ý này lần lượt nói: Do thân Như lai đối với lý tự chứng được thành tựu tự tại mà nói nhân tròn đầy. Do đó mà nay nói trí tuệ sở chứng và môn trí tuệ. Cả hai đều sâu xa. Vì sao gọi là nói nhân thành tựu? Nghóa là các thứ phương tiện, các thứ tri kiến, các thứ niệm quán, các thứ ngôn từ, ba pháp đầu ở đây hợp lại gọi là nhân duyên, là đạo lý nhân duyên. Ngôn từ gọi là thí dụ, vì ngôn từ nói nhiều đến thí dụ. Y theo luận giải thích kinh thì từ câu “Các thứ thí dụ” trở lên gọi là câu chung. Rộng nêu ở dưới gọi là câu riêng. Lần lượt thích luận có ba cách giải thích: Đầu tiên luận tự giải thích riêng bốn câu đầu; kế Luận lấy các câu dưới của kinh hai lần phối hợp bốn câu này, cuối cùng là hai phen phối hợp. Giải thích đầu tiên có ba nghóa: Một là nói về xứ nêu nghóa câu thứ tư, nói rõ Nhất xứ. Lần đầu giải thích riêng: Như lai thành tựu bốn thứ công đức, có thể hóa độ chúng sanh: Xưa thành tựu: Nghóa là Phật dùng các thứ phương tiện từ cung trời Đâu-suất hạ sanh… cho đến thị hiện nhập Niết-bàn. Thường qua lại mười phương mà hóa độ khó nghó bàn. Bát tướng thành đạo làm lợi ích chúng sanh, dụng trí khéo léo nên gọi là phương tiện. Bát tướng là: Trong kinh Đại Bát-nhã quyển năm trăm sáu mươi tám chép: Bồ-tát cung trời Đâu-suất hạ sanh vào thai mẹ. Tuổi nhỏ. Trưởng thành. Khổ hạnh. Thành đạo. Hàng ma. Xoay bánh xe pháp. Nhập Niết-bàn. Vì sao thị hiện tám tướng? Kinh nói: Bấy giờ Thiên Vương Tối Thắng lại bạch Phật rằng: Vì sao Bồ-tát hành sâu Bát-nhã? Vì sao độ chúng hữu tình thị hiện các tướng? Phật bảo Tối Thắng: Tướng sâu xa Bát-nhã là không thể đắc. Tướng các Bồ-tát cũng không thể đắc, chỉ nhờ vào uy lực phương tiện khéo léo, vì chúng hữu tình thị hiện từ tướng nhập thai cho đến hóa ra các tướng Niết-bàn. Các vị trời chấp thường cho là không có sự đọa lạc, nên Bồ-tát phá chấp này mà thị hiện nhập thai, để cho các vị trời kia khởi lên ý niệm vô thường. Bậc tối thắng ở trong thế gian đối với dục vô nhiễm, còn có sự đọa lạc, huống chi chúng chư thiên mà lại được chấp thường sao! Thế nên chớ có buông lung mà càng thêm tinh tấn siêng năng, buộc niệm tu đạo. Như thấy mặt trời còn có lúc lặn , tức biết ánh sáng đom đóm há được dài lâu! Lại có chư thiên buông lung chấp vào lạc thú không tu chánh pháp, buông tình vui chơi. Tuy ở cung trời chung với Bồ-tát mà không đến lễ bái, không thưa hỏi thọ pháp. Có vị nghó rằng: Hôm nay thọ vui, ngày mai đến Bồ-tát sẽ học pháp yếu, lại còn bảo nhau: “Ta và Bồ-tát thường ở đây tu hành, làm gì mà vội!” Cho nên, Bồ-tát như cứu lửa cháy đầu, phá tâm buông lung kia mà thị hiện sự đọa lạc, thị hiện như thế có hai nhân duyên: Để chư thiên lìa tâm buông lung. Để cho các hữu tình đều được thấy Phật… như thế thị hiện cho đến tướng thứ tám. Lại , có các trời người thích nghe pháp viên tịch. Bồ-tát vì họ thị hiện vào Niết-bàn. Trong Nhiếp luận Đại Thừa quyển chín nói có khác chút ít . Trong kinh Hoa Nghiêm thị hiện mười tướng đều nói rộng như thế. Giáo hóa thành tựu: Nghóa là thị hiện các nhân nhiễm tịnh, các thứ tri kiến. Do đầy đủ tri kiến ở trong hóa thân, nên thị hiện ra tất cả nhân tập nhiễm có thể vời lấy quả khổ. Tất cả nhân đạo tịnh có thể chứng diệt. Hoặc thị hiện các pháp đạo lý nhiễm tịnh. Nhân là nguyên nhân là nghóa đạo lý. Trước có thể hiện thân, ở trong thân này thị hiện các pháp đạo lý nhiễm tịnh. Luận ở dưới giải thích điều này có khác với câu thứ tư , đây y chứng vào pháp, kia y vào nói pháp. Công đức rốt ráo thành tựu: Nghóa là các thứ niệm quán. Lấy việc nói pháp kia mà thành tựu nhân duyên tương ưng đúng pháp. Ý này nói là vì nói các pháp niệm quán. Niệm quán kia Phật đều đã thành tựu như pháp nhân duyên nói, xưa nay đều tương ưng. Nói tương ưng đó là khế ước chứng nghóa. Nói thành tựu: Nghóa là các thứ ngôn từ. Lấy bốn vô ngại y vào chỗ nào? Danh tự chương cú là gì? Tùy theo những gì? Chúng sanh năng thọ pháp gì mà vì họ nói? Dựa vào chỗ nào tức những gì là nghóa? Là nghóa vô ngại giải. Những gì là danh tự chương cú, là Pháp vô ngại giải. Tùy theo những gì là tùy theo ngôn ngữ chúng sanh các địa phương, mà nói pháp. Tức Từ vô ngại giải chúng sanh. Thọ pháp gì là nói căn khí chúng sanh có thể thọ, Phật liền nói pháp, là Biện tài vô ngại giải. Trong bốn thành tựu này thì thứ nhất là hóa thân Phật có khả năng khởi tám tướng thành đạo. Thứ hai: Thị hiện các pháp đạo lý nhiễm tịnh. Thứ ba: Như pháp đã nói Phật đều rốt ráo chứng đắc. Thứ tư đầy đủ bốn vô ngại. Do Phật là vị Pháp sư có đầy đủ bốn thứ nên nói nhân thành tựu thành thắng diệu, pháp nói đó cũng thắng diệu. Luận giải thích bốn câu rồi, kế lại giải sự sai khác về câu thứ hai, câu thứ tư: Giáo hóa thành tựu là y theo chứng pháp. Nói thành tựu là y vào sự nói pháp. Y vào sở chứng đạo lý nhiễm tịnh của khổ tập diệt đạo thứ lớp vì người mà nói, gọi là Giáo hóa thành tựu thứ hai. Y vào pháp nói mà nói. Ng- hóa pháp từ biện theo thứ lớp vì người nói gọi là nói thành tựu thứ tư thì không loạn vậy. Hoặc bốn thứ trước, câu thứ nhất là đức của hóa thân. Câu thứ hai là báo thân đức. Câu thứ ba là pháp thân đức. Câu thứ tư là Bốn biện đầy đủ. Do ba thân bốn biện đầy đủ này nên có thể khởi nói. Ba thân đầy đủ nên trí tuệ sâu xa. Bốn biện đầy đủ nên tuệ môn sâu xa, nhân duyên này tức là ba thứ tri kiến phương tiện, niệm quán. Thí dụ là các thứ ngôn từ. Kinh: “Rộng nói ngôn giáo cho đến xa lìa chấp trước”. Tán: Trên y vào luận văn một lần giải thích chung bốn câu xong. Luận lại câu thứ hai dùng các câu dưới phối hợp với bốn câu này: Đây là phối hợp với câu thứ nhất nói: Dùng các thứ phương tiện. Câu kế nói: “vì sao? Phương tiện tri kiến Ba-la-mật” của Như lai đều đã đầy đủ là phối với câu thứ hai “các thứ tri kiến”. Kế đến: “Ngài Xá-lợi-phất cho đến tri kiến của Như lai cho đến giải thoát Tam-muội” là phối với câu thứ ba c các thứ niệm quán. Kế câu “Sâu nhập vô cùng cho đến xưa nay rốt ráo”… là phối với câu thứ tư “các thứ ngôn từ.” Luận tuy lấy văn kinh dưới riêng phối hợp bốn câu chung ở phần trên nhưng đầu tiên hai lần giải thích ba câu trên rồi. Lại hai lần này giải thích một câu sau. Văn luận kia rất dài vừa lại khó hiểu thích, lẽ ra dựa vào kinh mà đọc, lần đầu trong đây nên giải thích: Lại có nghóa các thứ phương tiện, tức là chỉ cho thấy các lỗi của tà pháp ngoại đạo và các công đức chánh pháp của Chư Phật. Như trong kinh Phật bảo Xá-lợi-phất: Ta từ thành đạo đến nay, nói rộng ngôn giáo dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh, chấp trước khiến cho được hiểu thoát. Văn tuy có chịu ít khác mà đại ý cũng đồng. Giải thích câu vô số phương tiện, lại có bốn lần: Phương tiện: Dùng phương tiện để khiến nhập các thiện pháp. Dứt các nghi. Khiến nhập vào thắng trí tăng thượng . Y theo bốn nhiếp pháp, nhiếp lấy chúng sanh giúp cho được hiểu thoát. Trong sáu điều giải thích này là để bỏ tà về chánh tiến thiện phá ác, tự nhập vào Thánh trí và khiến cho người giải thoát. Thứ lớp phối hợp là: “Dùng phương tiện này dẫn dắt tất cả chúng sanh để họ lìa hết chấp trước. Trước là chấp bổn, ái nhiễm sanh tử căn bản. Luận chép các chấp trước đó là chấp vào những chỗ kia. Hoặc chấp cõi, chấp địa, chấp phần, chấp thừa. Chấp cõi là chấp ba cõi. Chấp địa là chấp: Giới, thủ, Tam muội từ Sơ thiền định địa cho đến Phi tưởng, Phi phi tưởng, định Diệt tận . Tức là thứ lớp lấy chín định làm địa. Giới thủ, kiến thủ, chấp Tam muội này gọi là chấp trước địa. Chấp phần là chấp vào phần tại gia đã đồng loại mà gây ra các nghiệp tà kiến. Chấp xuất gia phần: Là chấp danh tiếng lợi dưỡng có thể khởi ra các thứ giác sát phiền não. Chấp thừa là chấp vào Thanh văn thừa, thích tu theo tiểu giới để cầu bốn quả. Chấp ở nơi Đại thừa là chấp sự cung kính cúng dường lợi dưỡng. Do chấp mà phân biệt quán sát các pháp tướng, cho đến phân biệt Phật địa. Kinh: “Vì sao? Cho đến đều đã đầy đủ.” Tán: Đây là câu thứ hai: Luận lần đầu nói: Lại các thứ tri kiến đó là tự thân thành tựu cảnh giới không thể nghó bàn cho thanh văn Bồ- tát. Như trong kinh nói: Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như lai, làm phương tiện đạt đến bờ kia, người đến bờ kia rồi thì vượt hơn tất cả các chúng Bồ-tát. Văn có ít không đồng nghóa mà ý không khác. Tri kiến đó là thể của hai trí chân, tục. Căn bản trí gọi là Tri. Hậu đắc trí là kiến, phương tiện là diệu dụng phương tiện khéo léo của trí này. Do tự thành tựu cảnh giới bất tư nghì mà đầy đủ tri kiến, cùng chúng Thanh văn gọi là phương tiện. Ba-la-mật nghóa là đến bờ kia. Nói Phật thành tựu thể của hai thắng trí, có công năng thành tựu cảnh giới không thể nghó bàn. Đã đến bờ kia là vượt hơn tất cả. Do đầy đủ phương tiện diệu dụng của hai trí, lại có thể làm cho người khác đến được bờ kia. Cũng đem cảnh giới tri kiến không thể nghó bàn này cho các thanh văn Bồ-tát. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến Tam muội giải thoát”. Tán: Đây là câu thứ ba: Luận lần đầu nói: Lại nói các thứ niệm quán. Như kinh nói: “Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như lai, rộng lớn sâu xa vô chướng vô ngại, lực vô sở úy, bất cộng pháp, căn, lực, Bồ-đề phần, thiền định giải thoát Tam-muội, Tam-ma- bạt-đề, đều đã đầy đủ.” Văn ý phần lớn đồng, ít có khác nhau. Nay nói tri kiến. Rộng có nghóa là vô biên, lớn là Vô thượng, sau là ít có lường, xa là dài lâu vô cùng đến tận vị lai. Trên đây chính là câu nêu chung các đức. Dùng hai trí làm tánh nên gọi là tri kiến. Lại các đức này cũng thuộc về quyến thuộc của hai trí nên gọi là tri kiến. Từ “Vô lượng trở xuống…” là các câu nói riêng về đức. Y theo văn kinh thì vô lượng là bốn vô lượng, tức luận chép lại kinh là “không có chướng ngại.” Vô ngại là bốn vô ngại giải. Lực là mười lực. Vô sở úy là bốn vô sở úy, luận bổn nhắc lại trong kinh là: Bất cộng pháp, mười tám pháp bất cộng. Căn nghóa là ngũ căn, lực là ngũ lực. Bồ-đề phần gồm ba mươi bảy pháp. Bốn thứ trên đây, trong kinh vốn không có mà nói Thiền tức là tứ tónh lự trong cõi Sắc. Định là Bốn định cõi vô sắc. Giải thoát là tám giải thoát. Tam muội là tam Tam muội. Tam-ma-bạt- đề nghóa là cửu Đẳng chí, loại này trong bổn kinh vốn cũng không có. Luận nhắc lại trong kinh có mười ba môn. Nay trong kinh này gồm có tám môn công đức gọi là niệm quán. Thể tức là tuệ giải đã nói, cho nên không thể giải thêm. Nghóa môn mỗi loại nên tóm tắt phân biệt như sau. Bốn vô lượng dùng năm môn để phân biệt: Một là nêu danh, hai là giải thích danh, ba là nói về về hành tướng, bốn là nêu thể tánh, năm là nói về sự khác nhau. Nêu danh là từ vô lượng, bi vô lượng, hỷ vô lượng, xả vô lượng. Giải thích danh là: Một là duyên vô lượng cảnh, duyên tất cả hữu tình khởi ra bốn pháp này; hai là khởi vô lượng hạnh, hành giải cũng thật rộng lớn; ba là cảm vô lượng quả, được phước phạm lớn mà thành tựu Như lai. Danh là vô lượng. Bốn là nêu ra số để giải thích. Nói về hành tướng đó là pháp giới hữu tình, chung có ba thứ: Một là không khổ không lạc, không điên đảo cho lạc thì gọi là Từ lấy vô sân làm thể; hai là có khổ thì cứu khổ gọi là Bi lấy không hại làm thể; ba là có lạc thì giúp thêm hỷ gọi là hỷ lấy gốc lành không ghét làm thể. Lại đối với không khổ không vui mà khởi lìa tưởng si với có khổ khởi lìa tưởng sân, với có lạc thì khởi lìa tưởng tham. Bình đẳng muốn chúng sanh lìa các ác gọi là xả, khiến cho xả ác lấy khéo xả làm thể. Nêu ra thể tánh gần lại có ba pháp: Đó là vô sân, bất hại và xả. Thể của không ganh ghét là không sân, không phân biệt pháp. Nói về về sai khác, mỗi pháp này có ba: Hữu tình duyên mà tạo ra hữu tình tưởng. Pháp duyên không thấy hữu tình chỉ tác pháp tưởng. Là vô duyên. Lại đối với các pháp lìa tâm phân biệt, tưởng là chân như . Cho nên gọi là vô duyên. Hoặc pháp vô lượng, duyên với các giáo pháp. Trong ba pháp này, đầu tiên là với ngoại đạo, kế là cùng Nhị thừa, sau cùng chỉ có Bồ-tát. Ba pháp đầu là an vui, một pháp sau là lợi ích, cảm quả có thể biết. Sai khác với đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả có , nghóa là đây chỉ do thật quán, chỉ Phật khởi. Duyên vào ba cõi mà sanh ra, đều có với vô si . Đây có cả giả thật, có cả phàm Thánh mà khởi lên. Duyên vào giới bất định, chẳng phải là vô si đều có. Bốn vô ngại giải phân biệt giải thích theo ba cách: Một là nêu danh, hai là nói về tướng, ba là nêu ra thể. Nêu danh là: Một là Pháp vô ngại giải, hai là Nghóa vô ngại giải, ba là Từ vô ngại giải, bốn là Biện tài vô ngại giải. Nói về tướng Pháp là văn giáo danh cú năng thuyên. Nghóa là các pháp đế lý chân tục sở thuyên. Từ là tiếng nói của các nơi. Biện tài gồm có bảy thứ. Duyên bốn vô ngại này trí không bị vướng mắc, gọi là vô ngại giải. Có nhiều định nghóa khác nhau như trong Bồ-tát Quyết Trạch Địa và Mười Địa luận có nói. Nêu ra thể: Bốn thứ này lấy hậu đắc trí vô lậu làm thể, chẳng phải chứng chân. Nghóa vô ngại giải cũng có cả chánh trí. Sơ địa đắc từng phần. Cửu địa nhậm vận lìa chướng viên thành thì quả Phật đầy đủ. Mười lực tóm tắt phân biệt theo năm cách: Một là nói về danh; hai là nêu thể; ba là hành tướng; bốn là thứ lớp; năm là các môn. Nói về danh có hai: Một là nêu danh, hai là giải thích danh. Một là phi xứ trí lực. Hai là Tự nghiệp trí lực. Kinh Đại Bát-nhã quyển năm mươi ba gọi là Nghiệp dị thục trí lực. Ba là Tónh lự giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí trí lực. Lại gọi là Tónh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí tạp nhiễm thanh tịnh trí lực. Bốn là Căn thắng liệt trí lực. Năm là Chủng chủng thắng giải trí lực. Sáu là Chủng chủng giới trí lực. Bảy là Biến thú hành trí lực, Kinh Đại Bát nhã gọi là Biến hành trí lực. Tám là Túc trụ tùy niệm trí lực. Chín là Sanh tử trí lực. Mười là Lậu tận trí lực. Giải thích danh: Trước giải thích chung, sau là giải thích chi tiết. Gọi chung là lực thì có khả năng phá trừ kẻ thù, không thể bị khuất phục. Du-già Bồ-tát Địa quyển bốn mươi chín và năm mươi và Quyết Trạch năm mươi bảy. kinh Bồ-tát Tạng quyển năm, Luận Hiển Dương quyển tư. Đối pháp thứ mười bốn, kinh Đại Bát-nhã đều giải thích tướng này, cùng tương ưng với tất cả công năng lợi lạc chúng hữu tình. Cuối cùng khuất phục tất cả ma oán, có đại uy lực nên nói tên là lực. Vì thế dùng uy thế có thể khuất phục những việc ít có khuất phục gọi là lực. Đối pháp gọi là khéo hàng phục chúng ma, khéo hỏi luận ghi nhớ. Cho nên gọi là Mười lực. Mười có nghóa là số, lực dụng khác nhau, nên có mười thứ gọi là Mười lực. Y theo sáu cách giải thích, đây là giải thích theo số. Giải thích tên riêng là: Nhân quả tương đương gọi là xứ! Nếu không tương đương thì gọi là phi xứ. Cho nên trong Du-già chép: Quả tịnh bất tịnh chẳng phải không bình đẳng, như nhân như thật chuyển đó gọi là xứ. Xứ nghóa là kiến lập. Nương vào nghóa mà khởi nghóa, có thể kiến lập quả, là vì nhập năng khởi ở quả pháp. Nhân đặt tên xứ nhân bất bình đẳng đều trái ngược với trên nên gọi là phi xứ. Đối với hai thứ này, Nhất thiết trí không vướng trí thanh tịnh, trí lìa tăng thượng mạn gọi là trí. Lực nghóa như trước. Mỗi pháp đều tự tạo ra ba đời ba nghiệp. Hoặc thuận theo hiện thọ, hoặc thuận theo sanh thọ, thuận theo hậu thọ, bất định thọ gọi là tự nghiệp. Ở đây chánh tri gọi là tự nghiệp trí lực. Đây ở trong nghiệp dị thục thiện ác mà sanh ra trí giải. Cũng gọi nghiệp dị thục trí lực. Tónh lự là bốn tónh lự. Giải thoát là tám giải thoát. Đẳng trì là Nhất thiết hữu tâm định. Đẳng chí là định Nhất thiết hữu tâm vô tâm. Ở đây chánh tri gọi là Tónh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực. Các định này có cả hữu lậu vô lậu thêm gọi là. Căn tạp nhiễm thanh tịnh tức là năm căn: Tín, tấn, niệm, định, tuệ. Đây nhuần nhuyễn từ hạng trung đến thượng, gọi là hơn, kém. Chánh tri này gọi là căn thắng liệt trí lực. Hoặc từ tha tín làm trước. Hoặc quán các pháp làm trước, thành tựu nhuần nhuyễn từ hạng trung đến thượng. Ái lạc thắng giải gọi là các thứ thắng giải. Ở đây chánh tri gọi là các thứ thắng giải trí lực. Hoặc rộng kiến lập các thứ tánh. Hoặc Nhất thừa, hoặc Ba thừa, hoặc Bốn thừa hoặc Năm thừa. Hoặc tham sân si đẳng phần hành, đẳng, cho đến hữu tình tám mươi ngàn hành gọi là các thứ giới. Giới là tánh, ở đây chánh tri gọi là các thứ giới trí lực. Hoặc là ở trong các đường môn như thế thuận theo theo chánh hạnh. Như người tham hành tu quán bất tịnh gọi là Biến thú hành (hành hướng khắp). Hoặc hướng đến hành của tất cả năm đường, hoặc các hành phẩm loại, dị kiến của các ngoại đạo Sa-môn Bà-la-môn. Hoặc thế giới này thế giới khác vô tội hướng đến hành gọi là Biến thú hành. Ở đây Chánh biến tri gọi là Biến thú hành trí lực. Có thể hành biến hành ở các đường. Cũng gọi là Biến hành hành. Hoặc ở trong các thứ hữu tình, thì bốn phương danh tự giả thiết an lập các phẩm loại khác nhau. Tùy theo tự thể sở hữu trước kia mà có nói cú bát ngôn: Một là như thị danh (tên như thế) Hai là sanh loại. Ba là chủng tánh. Bốn là uống ăn. Năm là thọ khổ vui. Sáu là sống lâu. Bảy là tồn tại lâu ở đời. Tám bờ mé tuổi thọ. Trong tám loại này tùy niệm lược là sáu hành, mỗi mỗi hành có vô lượng loại của đời sống trước, nay tùy niệm lại. Lược làm sáu hành là: Một là giả danh kêu gọi; hai là các sắc loại Sát-đế-lợi sai khác; ba là cha mẹ; bốn là khuôn phép uống ăn; năm là hưng suy; sáu là tuổi thọ . Các thứ túc trú này là cảnh quá khứ ở đời trước, đối với các cảnh này mà khởi ra tùy niệm, niệm đều có trí hành. Gọi là túc trụ tùy niệm trí lực. Các thứ hữu tình lúc sắp qua đời gọi là thời chết, trụ trung hữu gọi là thời sanh. Ở trong cõi thiện ác lúc sống lúc chết đều có thể chánh tri gọi là trí lực sanh tử. Tất cả các pháp lậu và tùy miên vô dư đều dứt hẳn gọi là lậu tận. Ở đây chánh tri gọi là lậu tận trí lực. Trí là thể lực là tác dụng. Nhưng trí tức là lực càng không có tánh riêng. Túc trụ trong tùy niệm này mà tương ưng với trí lực. Đây là giải thích gần. Từ xứ phi xứ tối sơ khác, cho đến lậu tận là cảnh sở quán. Trí lực là trí năng quán, xứ phi xứ cho đến trí lực lậu tận, đều là y chủ thích, túc trụ là cảnh. Trí lực tùy niệm tương ưng là năng quán, đây cũng là y chủ mà giải thích. Nêu thể: Phần Quyết trạch năm mươi bảy chép: Phật có đủ tri căn tuệ căn làm thể. Luận Đối pháp chép: Hoặc định hoặc tuệ và các tâm tâm sở tương ưng kia. Bồ-tát Địa nói: Cả năm căn là tự tánh của lực. Tuy văn ba kinh nói không đồng nhưng thể có năm: Thể tối thắng: Trong phần quyết trạch, Phật có đủ tri căn tuệ căn làm tánh. Thể dẫn sanh: Đối pháp nói hoặc định hoặc tuệ. Thể khắc thật: Trong Bồ-tát Địa nói năm căn làm tánh. Do tuệ cao siêu lại nói tuệ mười lực là tự tánh cho nên chỉ nói các trí lực Xứ phi xứ… Không nói tín lực, tinh tấn lực v.v… Y vào đây tức đã hợp với văn quyết trạch. Thể tương ưng: Đối pháp lại nói và các tâm tâm sở tương ưng kia lấy bốn uẩn làm tánh. Thể quyến thuộc: năm uẩn làm tánh Định cộng đạo cộng vô lậu sắc v.v… giúp đỡ làm thể. Đây tuy không có văn mà lý hẳn đúng như vậy. Vì ngăn các cấu uế phạm giới giúp cho dứt trừ oán tặc, ba phân biệt như trong sớ Vô Cấu Xưng quyển hai có nói. Bốn vô sở úy thì dùng năm môn phân biệt: Một là nói về danh; hai là nêu thể; ba là hành tướng; bốn là thứ lớp; năm là các môn. Cũng như kinh Bồ-tát quyển năm, Đại Bát-nhã quyển năm mươi ba, kinh Hiển Dương quyển bốn, Du-già quyển năm mươi, Đối pháp thứcển mười bốn, có nói: Nói về danh có hai: Một là nêu danh; hai là giải thích danh. Nêu danh là: Chánh đẳng giác vô úy. Lậu tận vô úy. Chướng pháp vô úy. Xuất khổ đạo vô úy Giải thích danh có hai: Chung và riêng. Chung gồm có bốn tức Số danh. Vô sở úy là ở bốn xứ này, có thể biết rõ thản nhiên không sợ. Tâm không yếu đối, không nghi lo, không kinh sợ nên gọi là vô úy. Riêng là: Các pháp Chánh giác, các pháp Đẳng giác, gọi là Chánh đẳng giác. Các chứng lậu phiền não hiện hành đều dứt trừ nên gọi là Lậu tận. Nói pháp chướng ngại, nhiễm ắt bị chướng, cho nên nói là chướng pháp. Nói đạo xuất ly: Các bậc Thánh tu tập, chắc chắn ra khỏi khổ, nên gọi là đạo xuất khổ. Trong bốn nghóa này đều đắc vô sở úy tức đều là y chủ thích. - Nêu thể tánh: Trong phẩm Quyết trạch năm mươi bảy chép: Tín, tấn, niệm, định, tuệ và đầy đủ trí căn làm tánh. Đối Pháp chép: Hoặc định hoặc tuệ và các tâm tâm sở tương ưng kia. Lại chép: Hoặc khởi tác dụng hậu đắc trí làm tánh. Hoặc trụ vào tự tánh chánh trí làm thể. Thể này có năm mà căn cứ vào hai trí thù thắng làm thể, phát khởi xuất định tuệ làm thể, nói về năm căn thật làm thể, bốn uẩn tương ưng làm tánh. Năm uẩn quyến thuộc làm thể. Hành tướng là như trong kinh nói: Đức Thế Tôn tự xưng là ngã là Chánh đẳng giác. Hoặc có Sa-môn, hoặc chẳng phải Sa-môn từ phương khác đến. Phật đều hết lòng an ủi nói: Có an lạc không? Đi khất thật được không? Đây có người hỏi: Nói Chánh Đẳng Giác tức không có điều gì chưa biết, nay hỏi người khác sao lại trái ngược? Với câu hỏi này, ta nên hiểu đúng, vì không có lí do hỏi Phật đắc an ổn trụ, không sợ, không hãi, xưng là ta ở địa vị Đại tiên. Vì sao Đức Phật nói như thế? Vì để nhiếp thọ người đến để cho họ phát tâm, nghe Phật thăm hỏi an ủi mà phát đạo tâm. Muốn cho người xét rõ sự việc là: Phật biết rõ mà vẫn hỏi huống chi là không biết. Cũng là để cho người sau lấy đó làm khuôn phép, thấy người đến phát tâm nên Phật mới dẫn dắt như vậy, chẳng phải Phật không biết mà vẫn gọi là Đẳng giác. Lại như trong kinh nói: Sau khi Ta các lậu đã hết, Thiên thọ hành động các việc ác, Phật thường quở trách, Chấp Nhật điều thuận mà Phật thường nói lời mềm mỏng. Có người vặn hỏi: Nói Đức Phật đã lậu tận, các phiền não đã hết, sao còn quở trách Thiên thọ và nói mềm mỏng với Chấp Nhật. Tham sân chưa dứt, sao lậu có thể hết? Sao lại trái ngược vậy? - Trong vấn nạn này, hiểu rõ ràng là không nguyên nhân nói Phật đắc an ổn trụ, không sợ hãi, tự xưng là ta ở nơi tôn vị Đại Tiên. Thiên thọ như ngựa chứng độc mạnh mới được thuần phục, nếu không trách mắng thì ngược lại nói Ta sợ. Chấp Nhật như voi tuệ tùy theo tâm người, nên Phật dùng lời mềm mỏng để điều phục. Chẳng phải là Phật có tham sân và lậu không tận. Lại như trong kinh nói: Phật vì chúng đệ tử mà nói pháp chướng ngại, nhiễm ắt là chướng, lại không nói ngăn quả vị Dự lưu, Nhất lai có vợ con v.v… Bèn có hỏi: Nhiễm tất là việc có vợ con làm chướng Thánh đạo? Với câu hỏi này Ta nên chánh kiến không có lý do nói Phật ở nơi quả vị đại tiên an ổn không lo sợ. Vì tà hạnh làm chướng các Thánh đạo. Có vợ con làm chướng con đường lìa dục. Hai quả đầu chưa lìa dục, tánh giới lâu xa mới thành, cho nên trừ được tà hạnh, không đoạn vợ con, ở đây có gì sai! Cho nên các nhiễm pháp chẳng phải là không chướng. Lại như trong kinh nói: Ta vì chúng đệ tử nói đạo xuất ly, các Thánh tu tập chắc chắn xuất li, chắc chắn thông đạt. Lại có Ca-lưu-đà- di Vô học bị vùi trong hầm phân loại, Ương-quật-ma-la vào Ngục lửa thiêu thân, bèn có người hỏi: Thánh đạo tu hành lâu ngày mong lìa sự khổ. Bậc Vô học đã trở lại chịu khổ thì đâu dùng Tu đạo làm gì. Vì sao lại trái ngược. Với vấn nạn này, ta nên chánh kiến, không có lý do gì nói Phật an ổn ở ngôi vị đại tiên không sợ hãi. Thật sự đắc Vô học thì quả khổ nhất định hết. Vì hiện ra nhân, tất là có khổ báo. Do bậc Thánh này thị hiện tướngï khổ, để khởi giáo hóa về sau. Hoặc là khổ dị thục, bậc Vô học không thọ tận ác nghiệp, có thọ khổ ắt là chướng quả không thành tựu Vô học. Kia nói bậc Vô học thọ khổ đó, là hiện ở nơi Hữu học còn chưa lìa dục, vì chắc chắn thành Vô học, nên được đồng tên. Hoặc như đắc thần thông chẳng phải là không trở lại. Vì thế gian cũng đắc năm thông. Hoặc bậc Vô học ấy, khổ chẳng phải là do nghiệp chiêu lấy. Các khổ dị thục ắt đã xuất ly. Như kinh Niết-bàn quyển hai mươi chín giải thích nghiệp ở ba thời, đến quả vị Vô học, không còn thọ ác nghiệp. Nói chưa nhập Thánh vị gọi là định nghiệp, khi nhập vào Thánh rồi thì không gọi là Định nghiệp. Như vậy thì đắc quả A-la-hán, nhất định là không còn quả khổ . Hai đức còn lại, thiền định và giải thoát như trong sớ Vô Cấu Xưng, quyển hai chép: Thiền là bốn Tónh lự cõi sắc. Nghóa là sơ thiền Tónh lự có tầm, tứ. Nhị thiền lìa tầm tư có hỷ. Tam thiền lìa hỷ có lạc. Tứ thiến lìa hỷ lạc, xả niệm thanh tịnh. Định là bốn định cõi vô sắc. Đó là Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Giải thoát là tám giải thoát, dùng ba cách phân biệt: Một là nêu tên gọi, hai là hiển bày hành tướng, ba là nêu thể tánh. Nêu danh tự là: Theo Du-già quyển mười hai, mười lăm và bảy mươi ba, Nhiếp sự phần thứ tư: Đối pháp thứcển mười ba, Hiển Dương thứ bốn, thứ hai và hai mươi. Kinh Bồ-tát Tạng quyển thứ tư nói: Một là quán hữu sắc các sắc giải thoát. Hai là nội vô sắc tưởng, quán các sắc bên ngoài giải thoát. Ba là Tịnh giải thoát thân tác chứng trụ đầy đủ. Bốn là không vô biên xứ giải thoát. Năm là Thức vô biên xứ giải thoát. Sáu là Vô sở hữu xứ giải thoát. Bảy là Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát. Tám là định Diệt thọ tưởng giải thoát thân tác chứng trụ đầy đủ. Nói về hành tướng, trong Câu-xá quyển hai mươi chín chép: Bên trong có tưởng sắc, ngoại quán các sắc là sơ giải thoát. Bên trong chưa hàng phục thấy sắc tưởng, ngoài quán các sắc bất tịnh gọi là quán sắc ngoài. Nay thì không như vậy. Y theo văn Đối pháp thì đầu tiên tu nghiệp là thân tuy ở cõi dục mà đã lìa dục của cõi Dục, chưa y vào vô sắc định để hàng phục trừ thấy sắc tưởng chưa lìa dục cõi sắc. Nếu tập nghiệp đã lâu lìa Cõi sắc, dục thấy sắc tưởng, an lập hiện tiền, mà quán tất cả các sắc trong ngoài đều có ở cõi dục làm ánh sáng tưởng. Do ba pháp giải thoát trước mà dẫn phát các Thắng xứ, Biến xứ. Tức là quán ít nhiều các sắc thuộc về thắng xứ mà làm ánh sáng tưởng. Bởi trừ biến hóa chướng nên làm ánh sáng tưởng. Không trừ tham dục thì không thật hành tưởng bất tịnh. Luận Du-già chỉ nói: Chưa đắc Vô sắc định, chưa lìa nhiễm cõi sắc, quán sắc bên ngoài là sơ giải thoát, tức chỉ y vào sơ nghiệp mà nói. Cho nên trong Câu-xá luận, phần giải thoát thứ hai nói: Bên trong đã trừ kiến (thấy) là sắc tưởng, chỉ quán cảnh ngoài mà làm bất tịnh gọi là: Trong không có sắc tưởng, quán các sắc ngoài. Kinh Đại thừa thì không vậy. Y theo đối pháp thì nói: Tập nghiệp lâu ngày, đã y vào Vô sắc định mà hàng phục thấy là sắc tưởng. Đầu tiên tập nghiệp thì thấy là tưởng vô sắc an lập hiện tiền, mà quán sắc ngoài tác động vào tưởng ít nhiều. Không đồng như ở trong sơ quán trong ngoài sắc đều làm ánh sáng tưởng, chưa tự tại. Nay ở đây chỉ quán ít nhiều mà đã lìa dục sắc thì gọi là quán sắc ngoài. Đã lìa nhiễm nên gọi là bên ngoài. Quán tâm từ từ vượt lên, nên dần dần lược quán. Du-già chép: Lại không tư duy tưởng minh tướng của sắc kia. Chỉ ở nơi sắc ngoài mà tạo ra thắng giải, tức là quán ít nhiều mà không làm tưởng ánh sáng, hoặc ở nơi xứ này đã được lìa dục, nói sắc kia là ngoại. Cho nên chỉ quán sắc đã lìa nhiễm thì gọi đó là ngoại. Lại do giải thoát đầu quán sắc không nói là ngoại, bên trong có sắc cũng không nói là nội, mà duyên chung các sắc căn trần trong ngoài làm tưởng ánh sáng. Cho nên giải thoát thứ hai này bên trong có sắc có căn. Người kia quán sắc ngoài chỉ là quán ít nhiều ngoại trần không duyên căn mà vẫn tạo tưởng ít nhiều. Trong Du-già lại nói: Định trong cõi vô sắc không hiện ra trước. Đây là nói về quán sắc ngoài, không y vào định vô sắc. Định vô sắc không thể duyên vào sắc ngoài. Hoặc đã lìa dục cõi sắc không y vào định vô sắc mà phục trừ sắc tưởng, chỉ y vào định cõi sắc, thấy đó là tưởng vô sắc mà hiện tiền cho nên nói thế. Hai giải thoát trên, đầu tiên là thật hành tưởng ánh sáng, sau là thật hành tưởng ít nhiều, trước rộng sau hẹp, cả hai quán đều có khác. Hiển dương phần thứ hai mươi nói: Hai giải thoát này, trừ biến hóa chướng, ở trong sự biến hóa mà được tự tại. Cho nên biến hóa đã thông hữu của bốn tónh lự. Hai giải thoát đầu tiên, đều nương vào bốn tónh lự, giải thoát đầu thật hành tưởng nhiều vì dựa vào Sơ, Nhị định, có chỉ ở căn bản địa, không phải, cận phần địa. Kia ưa thích hướng tu mà không có quả chung. Đây chấp nhận mới dự tu có chung quả. Không đồng như hai tónh lự đầu trong Câu-xá luận chép: Có thể trừ bỏ Dục giới mà trong sơ tónh lự có tham hiển sắc, nên quán bất tịnh. Giải thoát Thứ ba theo Câu-xá luận chép: Thanh tịnh cùng chuyển, làm chuyển hành tướng ánh sáng thanh tịnh theo. Chỉ có tónh lự thứ tư là lìa tám tai hoạn, tâm lắng tịnh. Các địa khác tuy có giải thoát tương tợ, mà không kiến lập, chẳng phải tăng thượng. Nay trong Đại thừa cho: Như có một đã đắc xả niệm, tròn đầy trong sạch. Lấy đây mà nương vào tu tập thì tròn đầy Thánh hạnh thanh tịnh. Các sắc tịnh bất tịnh bên trong đã được lần lượt đối nhau tưởng, lần lượt tướng theo tưởng chuyển nhập vào một vị tưởng. Đó là hành tướng giải thoát thứ ba. Nghóa là đối các tịnh sắc ở trong sắc khác, gọi là bất tịnh, chẳng phải không có tướng đối đãi. Nếu chỉ thấy một thứ tịnh và bất tịnh cả hai giác không, có tức gọi là sơ tưởng. Lại đối với tánh tịnh, bất tịnh mà tùy nhập vào, đối với bất tịnh thì tánh tịnh tùy nhập, bởi trong lớp da mỏng che đậy mà chung nói. Ở trong tịnh hiện có ba mươi sáu vật bất tịnh. Tưởng thứ hai lần lượt như thế. Chung tất cả sắc hợp lại thành tưởng một vị giải thanh tịnh. Đó là tưởng thứ ba, mới là thành tựu, chỉ có Tónh lự thứ tư là có xả, niệm thanh tịnh. Luận chép: Vượt qua các khổ vui tất cả mọi sự động loạn đã vắng lặng, như người thợ khéo mài ngọc. Các địa khác không như thế mà chỉ có địa thứ tư. Đây cũng là bên trong không có sắc tưởng mà quán sắc ngoài. Do trước đã nói nên nay lược không luận. Kế là bốn giải thoát vô sắc. Trong Câu-xá luận chép: Lấy định thiện bốn vô sắc làm tánh, chẳng phải nhiễm vô ký. Đã giải thoát rồi, cũng chẳng phải tánh tán thiện kém yếu cận phần giải thoát đạo cũng được gọi là giải thoát, Vô gián thì không như vậy. Vì sở duyên địa dưới. Người kia cần phải trái với địa dưới mới là giải thoát. Cho nên thường nói Căn bản còn cận phần thì chẳng phải hoàn toàn. Nay nói Đại thừa đều đã lìa dục tự địa, muốn y vào tự căn bản địa mà quán lại cảnh tự địa, tư duy thắng giải khiến cho hoặc chướng càng xa hơn, dẫn sanh ra thắng đức. Nghóa là như có một pháp ở Không xứ kia đã được lìa dục, tức ở Không xứ mà tư duy thắng giải. Đó gọi là hành tướng giải thoát Không xứ. Ở cõi Thức xứ kia đã được xa lìa dục, tức là ở nơi thức tư duy thắng giải. Đó gọi là hành tướng giải thoát Thức xứ. Đối với chỗ Vô hữu xứ đã được lìa dục, tức đối với thức vô biên xứ, tư duy thắng giải. Đó gọi là hành tướng giải thoát vô sở hữu xứ. Hai tên Không, Thức dùng hành tướng sở duyên tự địa đặt tên. Vô sở hữu xứ lấy thức vô hữu làm tên tự địa. Cho nên thức đều tư duy thắng giải. Ở trong địa hữu đảnh đã được lìa nhiễm càng không ở chỗ khác mà tạo thắng giải. Cho đến khắp ở xứ có thể sanh tưởng, tức đối với xứ ấy mà tạo thắng giải. Vô sở hữu xứ gọi là xứ có thể sanh tưởng. Nay duyên vào tâm, tâm sở vô sở hữu này mà gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cho nên khắp các xứ này mà tư duy thắng giải đến dưới sẽ biết. Trên đây nói việc lìa nhiễm, là nói theo Vô học, cho nên luận Du-già chép: Bảy giải thoát trước là đối với đã giải thoát mà sanh thắng giải. Thân chứng là đắc. Nếu y vào Duy thức thì có hai sư nói: Phục sơ định trở lên thì nhiễm được Diệt định. Phục định thứ tư trở lên thì nhiễm được Diệt định. Từ vô sở hữu trở xuống thì nhiễm có thể hàng phục, để dẫn sanh ra thắng đức mà chướng hoặc xa lìa. Định địa Hữu đảnh chưa thể hàng phục. Cho nên trong Du-già quyển mười hai chép: Hai giải thoát Không và Thức, có nói nói lìa nhiễm tự địa. Hai địa trên không nói lìa nhiễm tự địa. Bậc Hữu học Vô học rõ ràng là lược nói. Chỉ ở nơi căn bản cũng chẳng phải cận phần. Giải thoát Diệt tận Đại Tiểu đều nói: Tức là diệt tận định mà không có hành tướng xả tưởng thọ. Nhưng lúc sắp nhập có hai hành tướng. Nghóa là y vào phi tưởng phi phi tưởng xứ vô tưởng giới tưởng. Đầu tiên tu, lâu ngày thuần thục thì cả hai đều nhập minh. Về thể tánh: Trong luận Câu-xá chép: Ba giải thoát trước là ba tánh vô tham, tánh năm ấm quyến thuộc. Bốn giải thoát kế lấy, bốn định thiện Vô Sắc làm tánh. Thứ tám là diệt định tánh. Trong kinh Đại thừa quyển bảy mươi ba giải thích năm pháp là: Thế gian xuất thế gian lấy chánh trí làm thể. Hữu lậu vì phân biệt nên chánh trí thế gian làm thể, vô lậu vì vô phân biệt trí và hậu đắc trí nên chỉ lấy tuệ làm tánh. Duyên vào cảnh sắc phi sắc và chân như mà lìa hết các định chướng dẫn sanh ra thắng đức, pháp khác chẳng có. Nếu thể tương ưng bảy giải thoát đầu thì dùng tứ uẩn làm tánh, năm uẩn quyến thuộc làm tánh. Nên Đối Pháp nói: Hoặc định hoặc tuệ và các tâm tâm sở tương ưng kia; trong cõi vô sắc chấp có định đạo vô biểu sắc. Giải thoát thứ tám lấy công năng tâm nhàm chán trên hạt giống hai mươi tám pháp làm thể, tức thuộc bất tương ứng hành uẩn. Tam-muội là Tiếng Phạn Hán dịch là Đẳng trì, tức ba Đẳng trì: Không, Vô tướng, Vô nguyện. Nghóa này đến dưới sẽ giải thích. Bát- nhã quyển năm mươi ba chép: Ba cảnh đều cùng đều duyên Không. Nhưng y vào luận dẫn từ kinh ra thì lại có năm đức, sơ văn rườm rà nên không nêu ra đây. Luận giải thoát lập lại ba câu trên, tức lần thứ hai giải thích rằng: Lại câu thứ nhất nói thành tựu có thể giáo hóa chúng sanh nương vào thiện tri thức. Nghóa là dẫn dắt chúng sanh có tánh Bồ-đề, có thể hóa độ người chưa phát tâm, khiến cho họ nương vào bạn lành lìa hết chấp trước gọi là phương tiện dẫn dắt chúng sanh. Câu thứ hai là thành tựu chúng sanh căn tánh đã thuần thục, khiến họ được hiểu thoát. Nghóa là khiến cho người đã phát tâm tu hành lâu dài được hiểu thoát, gọi đó là phương tiện tri kiến Ba-la-mật. Câu thứ ba là thành tựu: Lực, gia, tự tại thanh tịnh hàng phục. Nghóa là Phật bên trong đã thành tựu các công đức, bên ngoài đã dứt trừ các phiền não: uẩn, tử, thiên ma, gọi là năng lực, các thiền định… đều là nơi đức Thế Tôn tạm trú gọi là nhà. Do lực tự tại nên có thể hàng phục. Do nhà tự tại nên có thể làm thanh tịnh các chướng hoặc, lại do an trụ trong thiền định làm nhà, mà được nghiệp thần thông tự tại. Do đây mà thành tựu lực vô lượng vô ngại. Có thể thanh tịnh các hoặc chướng hàng phục chúng ngoại đạo, nên nói “Tri kiến của Như lai rộng lớn sâu xa. Y vào luận bổn giải thích lập lại ba câu trên trong kinh đã xong, kế là dùng bảy câu dưới giải thích thứ tư ở trên rằng: “Các thứ ngôn từ…” Cũng có hai lần giải thích đầu tiên phối hợp trong văn kinh, sau đó giải thích lại. Kinh: “Vào sâu không hạn mức cho đến pháp chưa từng có”. Tán: Dùng bảy câu giải thích nói ngôn từ ở câu thứ tư bên trên. Kinh này chỉ có năm câu đầu, thiếu câu sáu, câu bảy, xem văn sẽ rõ. Luận chép câu thứ tư là nói thành tựu có bảy loại. Đây là các thứ thành tựu ở câu đầu: Các pháp vị tằng hữu, lý, sự, không, hữu, thế, xuất thế gian đều sâu nhập, mênh mông không bờ bến nên có thể khởi” các thứ ngôn từ…”. Kinh: Xá-lợi-phất cho đến Tâm chúng đều vui mừng. Tán: Đây là câu thứ hai: Luận chép: Ngôn ngữ thành tựu: Phật đắc năm thứ âm thanh hay cho nói pháp. Trong luận Đại Trí Độ chép: Năm thứ âm thanh từ miệng Phật phát ra: Rất sâu như sấm. Âm thanh trong trẻo, người từ xa nghe được đều vui mừng hoan lạc. Nhập tâm yêu kính. Rõ ràng dể hiểu. Người nghe không nhàm chán, có thể biện luận các nghóa hữu lậu vô lậu. Rất sâu như sấm tức câu: “Các thứ phân biệt các pháp.” Rõ ràng dễ hiểu tức câu: “Khéo nói các pháp”; nói các pháp là chung cả câu, phân biệt các pháp ở trên. Khởi lòng từ bi hết lòng giảng nói khiến cho người nghe không hề nhàm chán, tức câu “dùng lời lẽ êm dịu”, tiếng trong suốt vang xa người nghe được đều vui mừng, nhập tâm yêu kính là câu: “Có thể làm vui lòng chúng”, ba câu đầu mỗi câu đều có một loại âm thanh, một câu sau có hai. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến không cần nói lại.” Tán: Đây là câu thứ ba. Luận gọi là tướng thành tựu. Nhưng luận nêu lại văn kinh, không có câu: “Tóm lại trở xuống là nói Phật sẽ thành tựu” ở văn trên, mà chỉ bắt đầu từ “Thôi! Đừng nói nữa” trở xuống. Luận chép: Chúng sanh có pháp khí, tâm chúng sanh đã tròn đầy nên gọi là tướng thành tựu. Pháp khí có hai: Một là thật, hai là giả. Thật là ngài Xá-lợi-phất… Giả là những người tăng thượng mạn. Đối với chúng sanh thật là pháp khí, tức tâm Thánh đã đầy đủ, tâm ưa thích Pháp mầu, Phật nói: “Thôi!” Là để cho họ mời thỉnh. Nay Phật nói: “Thôi!” là không cần nói pháp vì sao? Đối với chúng sanh giả có pháp khí, tự cho rằng tâm Thánh đã tròn đầy, tâm chẳng ưa pháp mầu, mà ở tòa còn chưa đi, nên Phật hiện tướng nói “Thôi!” khiến họ bỏ đi. Các pháp giải thoát ta đã đắc xong, còn có pháp nào nữa, nên Phật thôi không nói ư? Cho nên gọi là tướng. Như người ở thế gian cùng nhóm họp một chỗ. Khi nói cũng có người thích nghe, người không thích nghe, thì dù có nói, nay thôi không cần nói đâu có ích gì! Nói thôi chẳng qua để cho người thích nghe mời thỉnh, còn người không thích thì động bỏ đi. Nay vì người thật có pháp khí trước, khiến họ hỏi pháp Nhất thừa, nên gọi là Tướng. Kinh: “Vì sao? Cho đến pháp khó hiểu”. Tán: Đây là câu thứ tư. Luận gọi là kham thành tựu, vì vốn không có lời diễn đạt cho tất cả chúng sanh đáng hóa độ biết Như lai thành tựu công đức ít có, có khả năng nói pháp. Nghóa là Xá-lợi-phất… là người gốc lành thành thục: Gọi là chúng sanh đáng hóa đo, biết rõ Phật thành tựu công đức khó hiểu ít có bậc nhất, có thể nói pháp đó. Kinh: “Chỉ Phật cùng Phật cho đến thật tướng các pháp. Tán: Đây là câu thứ năm. Luận gọi: là Thành tựu vô lượng nói không thể hết. Thật tướng nghóa là thể Pháp thân Như lai tạng, tánh bất biến. Trí Phật biết đủ, biết thể của thật tướng này tận đến nguồn đáy nên gọi là cứu tận, không chỉ thành tựu muôn đức hữu vi mà Phật muôn đức vô vi, cũng cùng tận. Cho nên nói là vô lượng chủng thành tựu, nói không thể hết. Kinh này bỏ qua câu thứ sáu là giác thể thành tựu. Như lai có thể biết tất cả pháp Phật, tự chứng đắc. Thiếu câu thứ bảy: Cũng thuận theo ý chúng sanh mà nói tức tu hành pháp thành tựu, Như lai có thể nói tất cả pháp tức kinh này nói các pháp tướng như thế. Câu thứ bảy này nói các pháp, các tướng hiện thấy, không gì Phật không thấy. Trên là lần đầu Luận giải bảy câu đối với câu thứ tư: “Các thứ ngôn từ” ở kinh. Luận giải lần thứ hai, hợp lại dùng bảy câu giải thích lại câu “Các thứ ngôn từ” Được phối hợp như sau. Thứ nhất nói các thứ pháp môn, nhiếp lấy tất cả chúng sanh nhập vào Phật pháp, phối hợp với câu sâu nhập không cùng tận. Thứ hai khiến không trụ tán loạn, là để giáo hóa chúng sanh khiến không tán loạn, chuyên tâm trụ vào cảnh ít có muốn nghe. Phối với câu “khởi các thứ phân biệt các pháp”. Thứ ba là khiến giữ lấy: Khiến cho người căn tánh thuần thục hỏi pháp Nhất thừa, phối hợp với câu : “ Thôi không cần nói nữa!” Thứ tư là khiến được hiểu thoát, người căn tánh thuần thục đều được hiểu thoát. Phối hợp với câu: “Phật thành tựu pháp khó hiểu. Thứ năm là khiến người tu hành thành tựu pháp đối trị, khiến người tu hành đắc pháp đối trị, đến tận bờ mé chân thật là phối hợp với câu: “Thấu tột tướng chân thật của các pháp”. Thứ sáu khiến người tu hành tiến đến thành tựu: Người tu hành tiến đến thành tựu đắc trí diệu tịnh, do đây Như lai biết rõ tất cả pháp. Thứ bảy, đắc pháp tu hành không còn lui mất, là khiến cho kia tu hành tròn đầy. Lại vì người mà nói không mất lợi ích. Cho nên Phật có thể nói tất cả pháp yếu. Do Phật thành tựu bảy pháp yếu này rồi giáo hóa chúng sanh dần dần tùy nhập mà tu tập. Dùng luận để phối hợp bảy câu văn kinh trên. Kết nối cùng khởi như lý nên biết. Bốn câu đầu là trụ quyền, hai câu kế là trụ thật, một câu sau là ngoại hóa. Vì sao phối hợp câu ba ở kinh rằng: Phương tiện tri kiến niệm quán làm giải thích lần thứ ba. Vì luận chép: Lại cùng giáo hóa thành tựu nghóa là vào chứng pháp cho nên thứ lớp nói như thế. Tức dùng phương tiện để cho chúng sanh có thể hóa độ mà căn cơ chưa thuần thục khiến nương vào bạn lành, nói tri kiến để là đối với chúng sanh đã thuần thục khiến cho được hiểu thoát. Niệm quán đó là giải thoát chúng sanh khiến cho tất cả được thành tựu lực gia và các công đức. Ở đây y theo thứ lớp chứng pháp mà nói giáo hóa độ chúng sanh. Vì sao phối văn kinh nói: Các thứ ngôn từ” với bảy câu là lần thứ ba giải thích. Vì Luận chép y vào nói pháp mà nói. Thứ lớp như thế mà nói như trước, sợ văn nhiều, nên không thuật lại. Vì thế luận chép: Lại cùng thành tựu giáo hóa là y vào chứng pháp. Lại nói thành tựu tức là y vào pháp. Hai thứ pháp này như đã nói ở trước. Luận chép y vào hai pháp này là có thứ lớp gì? Vì dựa vào đó mà được tu hành. Hỏi: Chứng và nói theo thứ lớp nương vào tu hành ư? Tức là câu văn trước của luận, lập lại nói là nêu biết. Nghóa là trước luận chép, nay lập lại nói ba loai phương tiện, tri kiến, niệm quán, dựa vào bảy câu nói: “Các thứ ngôn từ theo thứ lớp. Dựa vào nói thứ lớp nên có thứ lớp như thế. Nói đã như thế, y vào đó tu học thì chứng thứ lớp, kết nghóa phần trước. Khuyên người học nên biết. Hoặc đây là chọn lọc lần đầu giản định thích riêng bốn câu. Trong đó câu hai là giáo hóa thành tựu, câu thứ tư là nói thành tựu, tức hai thứ sai khác. Kinh: “Gọi là các pháp cho đến rốt ráo” v.v… Tán: Là nói câu thứ bảy. Pháp của Phật nói dựa là vào chứng mà nói. Cho nên luận dẫn trong kinh ra có năm câu: Là các pháp nào? Thế nào là pháp? Pháp là tương tợ gì? Tướng pháp thế nào? Thể pháp thế nào? Luận có bốn giải thích: Thứ nhất y theo việc bỏ quyền lấy thật thừa mà giải thích. Đầu tiên nói Ba thừa là pháp gì? Kế đến mỗi một thừa đều khởi ra mỗi mỗi sự nói. Tức thế nào là pháp. Kế là y vào Ba thừa môn mà tu hành thanh tịnh gọi là tương tợ pháp gì? Kế đến là nói Ba thừa chỉ có một tướng, cho nên gọi là tướng pháp thế nào? Sau rốt ráo chỉ là một Phật thừa mà không có tự thể Nhị thừa. Cho nên nói thể pháp là thế nào? Thứ hai y vào lần lượt huấn thị giải thích pháp, các pháp nào nghóa là hữu vi và vô vi. Thế nào là pháp tức là nhân duyên và phi nhân duyên. Dùng nhân duyên sanh mà giải thích pháp hữu vi, phi nhân duyên sanh mà giải thích pháp vô vi. Pháp tương tợ gì nghóa là pháp thường, vô thường, dùng thường giải thích phi nhân duyên sanh. Vô thường giải thích nhân duyên sanh. Tướng pháp thế nào tức là ba pháp tướng sanh… ba pháp tướng bất sanh cho đến Lấy pháp hữu sanh giải thích nghóa vô thường trước. Dùng bất sanh … giải thích thường. Thể pháp thế nào? Pháp năm ấm, phi năm ấm. Năm ấm tức là sanh …, phi ấm là phi sanh cho đến. Thứ ba giải thích chỉ ba câu cuối: chỉ y vào hữu vi mà giải thích. Hai câu đầu trong đây không khác ở trước, nên không giải thích. Luận chép pháp tương tợ gì? Nghóa là pháp vô thường, hữu vi, nhân duyên. Tướng pháp thế nào? Nghóa là các pháp tướng có thể thấy. Thể pháp thế nào? Nghóa là năng thủ sở thủ của năm ấm. Năm ấm là thể khổ tập, cũng là đạo đế. Như luận đã giải thích. Thứ tư là dựa vào pháp dụng nói pháp mà nói. Những pháp gì, nghóa là dùng danh cú tự thân mà nói. Thế nào là pháp, tức dựa vào pháp Như lai đã nói mà nói. Pháp tương tợ gì là năng giáo hóa những chúng sanh đáng được giáo hóa, tướng pháp thế nào, là dựa vào âm thanh nhận lấy, tức là khiến cho người nghe, dựa vào âm thanh mà nhận lấy pháp sở thuyên. Thể pháp thế nào, là tạm gọi thể pháp tướng. Tuy khiến nương vào âm thanh nhận lấy pháp sở thuyên mà pháp tánh lìa lời nói, Sở thuyên là tạm gọi thể pháp chứ chẳng phải gọi pháp thật. Nếu không khiến nương vào văn thì liền sanh chấp trước. Nhưng ở văn kinh vì sợ người không hiểu, các nhà phiên dịch lại y vào thứ hai là lần lượt chỉ bày mà giải thích pháp, nhưng ít, không thứ lớp, lấy nghóa đối chiếu thì không trái với Thánh giáo. Nếu làm giải thích nghóa riêng tức vì nhân tình chẳng phải Thánh giáo. “Tướng như vậy, tánh như vậy,” hợp lại thành câu thứ nhất hỏi những pháp gì? Tướng là hữu vi, tánh là vô vi. “Thể như vậy” là câu thứ năm. Hỏi thể pháp thế nào? Nghóa là năm uẩn, phi năm uẩn, hợp lại mà thành văn. Lực như vậy, tác như vậy, hợp lại thành câu thứ ba hỏi pháp tương tợ gì? Lực là pháp thường. Pháp thường có lực năng. Tác là pháp vô thường là có tạo tác. Nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, hợp lại thành câu thứ hai hỏi pháp thế nào? Là pháp nhân duyên. Trong quả báo hữu vi là pháp do nhân duyên sanh. Vô vi là pháp do phi nhân duyên sanh. Vì nghóa kiến lập quả nên gọi là nhân, vì nghóa thành tựu báo nên gọi là duyên. gần với nghóa được quả nên gọi là nhân, xa với nghóa được quả nên gọi là duyên. Bốn quả gọi là quả. Dị thục là báo. “ Trước sau như vậy “ là câu thứ tư hỏi pháp tướng thế nào? Ba tướng pháp sanh… là sau là thể là sự. Ba tướng như bất sanh… là trước, thể là lý. “Rốt ráo… là giải thích lại lý là trước là pháp tánh rốt ráo . Luận bổn nêu lại văn kinh lại có năm câu hỏi như trên, Phật lại dùng những câu hỏi này để làm rõ năm nghóa trước, không có lý khác.  HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 3 PHẦN CUỐI hai: thật. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế Tôn cho đến không thể suy lường”. Tán: Từ câu này xuống hai mươi mốt hàng tụng chia ra làm Mười bảy hàng rưỡi đầu là tụng hai pháp mầu trước. Ba hàng rưỡi tụng sau khuyên phát tín tâm nêu rõ nay nói Trong phần một lại có hai: Hai hàng tụng chung hai diệu. Mười lăm hàng rưỡi là tụng riêng hai diệu. Hàng tụng đầu tiên khen ngợi chung Pháp sư diệu. Một hàng tụng sau khen ngợi chung về pháp mầu, khen ngợi chung thân Phật, công đức thành tựu và pháp thể mầu nhiệm. Kinh: “Vốn từ vô số Phật cho đến khó thấy khó hiểu được”. Tán: Từ đây trở xuống gồm mười lăm hàng rưỡi tụng chi tiết về hai diệu. Ở đây chia làm hai: Mười bốn hàng đầu tụng về pháp mầu. Một hàng rưỡi tụng Pháp sư diệu. Mười bốn hàng lại chia ra năm: Một hàng tụng về hai sự sâu xa đọc tụng, và tu hành. Một hàng tụng về ba sự sâu xa của quả hành, tâm thêm lớn công đức, tâm ưa thích mầu nhiệm. Một hàng tụng về vô thượng sâu xa. Một hàng rưỡi tụng về sâu nhập sâu xa. Chín hàng rưỡi tụng trụ trì sâu xa không chung với Nhị thừa . một hàng đầu, văn tụng không nêu, chỉ tụng chung tám nghóa sâu xa. “Vốn từ vô số Phật” mà thọ trì, đọc tụng sâu xa. Tu hành pháp sâu xa đầy đủ. Do hai hành trì này nên trí tuệ môn “khó thấy khó hiểu”. Kinh: “Trong vô lượng ức kiếp cho đến Ta đều đã thấy biết”. Tán: Một hàng tụng nói ba sự sâu xa: Quả hành, thêm lớn công đức, và tâm ưa thích sự mầu nhiệm. Do tinh tấn mạnh mẽ trong vô lượng kiếp hành trì cđường ác này, mà quả hạnh sâu xa, tiếng tốt đồn xa, tức tâm công đức thêm lớn, tại đạo tràng đắc quả tức ta đều thấy biết. Cho nên, gọi là Tâm ưa thích nhiệm mầu rất sâu, pháp rất sâu xa ít có đều thành tựu. Kinh: “Quả báo lớn như thế cho đến có thể biết việc này”. Tán: Một hàng tụng vô thượng sâu xa. Tánh là đạo lý. Tướng là sự nghóa. Trước bỏ qua văn này, nay văn Tụng có nói pháp khó hiểu Như lai đều biết. Kinh: “Pháp không thể mở bày cho đến Tín lực vững chắc”. Tán: Một hàng rưỡi tụng nói, nhập sâu xa. Sâu xa là pháp danh tự chương cú mà Phật đã nói. Ý khó đắc cho nên khó hiểu, nên rất khó vào hiểu, tức vì người, lại Phật tự trụ trì trong pháp sâu xa đó gọi là nhập. Không đồng với ngoại đạo tuy nói các pháp, nhưng không thể tự thể nhập. Do Như lai nói về lý nhân duyên, chỉ Phật tự nhập, mà không ai biết được, ý thú khó hiểu nên gọi là nhập sâu xa. Luận chép: Phật tự trụ trì không đồng với ngoại đạo. Nói pháp nhân duyên rất sâu xa. Kinh này nói: “Pháp không thể mở bày”. Tướng ngôn từ vắng lặng, đạo lý nhân duyên vắng lặng sự nói năng các thứ chúng sanh không thể hiểu được, ngoại trừ các chư Bồ-tát có tín lực vững chắc. Từ Sơ địa trở lên chứng bốn thứ chứng tịnh. Tín Phật, Pháp, Tăng, Giới có thể tin pháp mầu mà chưa viên chứng hai diệu như thế. Cho nên phần dưới đây nói: Bồ-tát không lui sụt cũng không thể biết. Không thể biết là không thể viên chứng, chẳng phải là không tin biết. Tuy trước kiến đạo so với cũng biết mà chẳng phải chứng tín, cũng không vững chắc cho nên không nói. Kinh: “Chúng đệ tử Chư Phật cho đến cũng lại chẳng hiểu được”. Tán: Chín hàng rưỡi tụng sự trụ trì sâu xa không chung với việc làm của Nhị thừa. Trong đây chia làm ba: Bốn hàng đầu tụng về Thanh văn không biết. Hai hàng tụng về Bích-chi- Phật không biết. Ba hàng rưỡi tụng Bồ-tát không biết. Trong văn xuôi chỉ nói Nhị thừa không biết để hiển rõ điều này nên cũng nói Bồ-tát không biết. Thanh văn không biết cũng chia làm ba: Một hàng rưỡi tụng chung tất cả Thanh văn không biết. Một hàng riêng tụng đều là hàng Thu Tử lợi căn cũng không biết. Một hàng rưỡi là nói riêng đều như lợi căn Thu Tử cùng đệ tử khác cùng suy lường cũng không biết. Một hàng rưỡi đầu tụng chung: Từng gần gũi bạn lành, các lậu đều dứt, trụ vào A-la-hán, ởø thân cuối cùng có đủ ba đức mà trí tuệ năng lực cũng không thể biết được. Kinh: “Giả sử đầy thế gian cho đến không lường được Phật trí. Tán: Một hàng nói dù cho thế gian người nào cũng đều như ngài Thu Tử, là người lợi căn bậc nhất, hết lòng tư duy cùng suy lường cũng không thể hiểu, không biết Phật trí. Cho nên trí tuệ môn khó hiểu khó nhập. Kinh: “Chánh khiến đủ mười phương cho đến lại không thể biết”. Tán: Một hàng rưỡi tụng nói: Người lợi căn trong mười phương đều như Thu Tử cùng chúng đệ tử khác của Phật, cũng đầy mười phương cùng suy lường cũng không thể biết. Kinh: “Bích-chi-Phật Lợi trí chẳng thể biết chút phần”. Tán: Hai hàng tụng Bích-chi-phật không biết. Bích-chi là lợi căn so với Thanh văn . Lân giác cũng là lợi căn so với Bộ hành cũng đều không biết. Nếu chưa nhập vào Thiện quyết trạch phần Thanh văn mà làm Độc giác liền thành Lân giác Nhập vào quyết trạch phần rồi sau thật hành, đều thành bộ hành. Trong phần giải thoát, lúc chưa chắc chắn sanh có thể thành Lân giác, nên sanh số nhiều. Đã nhất định sanh thì cũng thành Bộ hành mà sanh số ít. Kinh: “Bồ-tát mới phát tâm cho đến không thể biết Phật trí.” Tán: Ba hàng rưỡi tụng Bồ-tát không biết. Đây là hai hàng rưỡi đầu tụng phàm Thánh không biết. Hàng Bồ tát mới phát tâm có sáu đức: Gần gũi. Đạt nghóa. Khéo nói. Số chúng. Nhất tâm. Thời gian lâu. Bồ tát mới phát tâm có sáu đức cũng không thể biết trí tuệ Phật. Sát là Tiếng Phạn gọi đủ là Sát-đa-la. Hán dịch là điền, điển thổ. Có khi dịch là quốc, có khi dịch là độ. Kinh: “Bồ-tát Không lui sụt cho đến cũng không thể biết”. Tán: Một hàng sau tụng về Thượng thánh không biết, tức bậc Thánh địa thượng. Hai hàng rưỡi trước tụng nói từ Thất địa trở xuống không biết. Sơ địa trở lên cũng gọi là mới phát tâm, vì chứng phát mười thứ tâm. Một hàng sau này tụng từ Bát địa trở lên không biết, cũng gọi là Bất thối. Phần môn sâu xa trước có tám loại. Nay trong phần thứ tám lại khen ngợi Phật trí, nêu rõ trí sâu cho nên môn này cũng sâu. Hoặc trong mười bốn hàng tụng rưỡi pháp mầu, thì sáu hàng đầu tụng khen ngợi trí môn diệu, y theo lựa chọn trước đã phối. Trong đó một hàng rưỡi cuối tụng sâu xa không chung. Tám hàng tiếp là tụng khen ngợi trí sâu. Người Ba thừa không biết trí tuệ Phật. Y theo nghóa của bài tụng thì có thể biết. Kinh: “Lại bảo Xá-lợi-phất cho đến mười phương Phật cũng vậy”. Tán: Đây là một hàng rưỡi tụng: Khen ngợi chung pháp sư khéo léo , không có tụng riêng. Kinh: “Xá-lợi-phất nên biết cho đến cần nên nói chân thật”. Tán: Ba hàng rưỡi dưới tụng khuyên phát tín tâm. Nêu rõ nay nói thật. Trong đây chia làm hai: Một hàng rưỡi đầu tụng: Chỉ bảo Xá-lợi- phất! Hiển bày nói sự thật. Hai hàng tụng sau: Bảo khắp Nhị thừa, nói rõ trước là phương tiện. Một hàng rưỡi đầu, ông đã chưa chứng pháp của ta nói, đối với pháp ta nói phải sanh tín tâm. Kinh: “Bảo các chúng Thanh văn cho đến dẫn chúng khiến được ra.” Tán: Hai hàng tụng nói về bảo khắp Nhị thừa, chia làm hai: Hàng đầu bảo khắp được đến Niết-bàn. Hàng sau hiển bày ý Phật hóa dùng Ba thừa. Do nơi nơi chấp trước vào giới địa, cho nên dẫn dắt để họ ra khỏi. Lại nói Ba thừa lý chỉ có một: Hội này chỉ có cực quả Thanh văn, Duyên giác không có, cho nên nói và cầu Duyên giác thừa. Thanh văn thì không như vậy. Kinh:”Lúc này trong đại chúng cho đến Đều nghó”. Tán: Đoạn thứ hai nói bốn chúng kinh nghi, nên phát động ngài Xá-lợi thỉnh. Đây có ba lần thỉnh, Phật bảo “thôi” cũng ba lần. Thôi đều ở trước thỉnh đều ở sau. Luận giải thích ba lần thôi. Lần đầu tiên thôi là tướng, khiến người hỏi pháp Nhất thừa, lần thứ hai thôi là khiến cho đại chúng truy tìm cảnh sâu xa mà khát ngưỡng muốn nghe pháp, lần thứ ba thôi là để cho người xấu lui khỏi chỗ ngồi (đến phần sau sẽ nói). Lại trong ba lần thỉnh, đầu tiên hợp nghi của mình và người nên thỉnh. Kế là trình bày vì đại chúng, ở cõi Phật khác đã gieo trồng nhân duyên nên thỉnh. Lần thỉnh thứ ba là nói mình và người đã theo Phật từ khi giáo hóa đến nay có thể nghe pháp nên thỉnh. Luận chia theo năm đoạn thì từ đây trở xuống là phần thứ ba đại chúng định nghi. Từ chỉ tự chứng tâm sanh chắc chắn. Đối với lời Phật nói bèn sanh nghi, hoặc dựa sự kinh nghi phát động đến ngài Thu tử thỉnh phật, thỉnh có ba lần, văn theo đó nói ba đoạn. Lần đầu tiên thôi thuộc về xướng pháp Nhất thừa ở trước lần thứ hai thôi, thuộc trong văn thỉnh này. Lần thỉnh đầu chia làm hai: Đại chúng nghi Ngài Xá-lợi-thỉnh. Luận chép phần thứ ba định nghi có ba: Từ đây trở xuống chỉ rõ ba thứ nghóa. Một là nghi chắc chắn. Hai là nghi nghóa. Ba là y vào sự gì nghi. Hai nghóa đầu nghi ở trong đại chúng. Y vào sự gì nghi là ngài Thu Tử nghi. Đại chúng nghi có hai: Đầu tiên nêu chúng nghi. Sau giải bày ý nghi. Kinh: “Nay Thế Tôn… không thể hiểu kịp…” Tán: Dưới trình bày ý nghi có hai: 1) Nhắc lại lý do nghi. Đây là nói lại lý do nghi lời Phật nói ở trước. “Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu và thuật lại. Phật trước nói trí tuệ của Chư Phật rất sâu vô lượng, có ngôn nói ý thú của Phật khó biết thuật lại Phật trước nói, trí tuệ môn khó hiểu, khó vào. Hai chỗ sâu xa này nên người Nhị thừa không thể biết. Câu đầu làm rõ phần trên, câu sau kế ở dưới, hợp lại gọi là phương tiện. Ý nghóa vì sao Phật lại khen ngợi pháp này? Kinh: “Phật nói một nghóa giải thoát cho đến là nơi nghóa hướng đến” Tán: Phần này trình bày quyết định nghi: Nghóa là đến Niết-bàn trở lên gọi là nghóa chắc chắn. Đối với tự sở chứng quả pháp hữu vi vô vi, chắc chắn từ lâu đã không còn nghi, mà nay không biết nơi nghóa ấy hướng về đâu? Đó gọi là nghi nghóa. Nghóa là trước nói pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, có ngôn nói ý thú khó biết. Đối với pháp này nay không biết nghóa Phật nói ấy và ý nghóa ấy hướng về đâu? Thì sao sao nói tông chỉ hướng đến thế nào? Nên gọi là nghi nghóa. Ý nghi: Như nói giải thoát ta đã đắc, giải thoát đó, lại nói là ít có biết ý nói pháp gì? Vì thế luận chép nghi nghóa chắc chắn, tức là có Thanh văn phương tiện chứng, đắc pháp sâu xa, khởi tâm chắc chắn, đối với đạo Thanh văn đắc phương tiện và chứng Niết-bàn. Cho nên thị hiện hai pháp hữu vi vô vi như vậy. Như trong kinh nói: “Bấy giờ trong đại chúng… cho đến cho đến cũng đắc pháp này mà đến bờ Niết-bàn”. Nói hai pháp là phương tiện và chứng Niết-bàn. Phương tiện là hữu vi có thể chứng sanh không trí đạo. Niết-bàn là vô vi chứng không lý. Với hai pháp này, năng đắc, năng tu và đắc được chắc chắn. Vì thế, luận chép nghi nghóa đó thì người thanh văn Bích-chi-phật không thể biết, cho nên sanh nghi. Như kinh nói: Mà nay không biết nghóa ấy hướng về đâu?. Kinh: “Bấy giờ Xá-lợi-phất cho đến pháp khó hiểu”. Tán: Đây là ngài Thu Tử thỉnh. Trong đây có hai: Phần văn xuôi và kệ tụng, văn xuôi có hai: Trước nghi, sau thỉnh Trước nghi: Theo luận đây là nghóa y vào sự gì nghi? Như lai nói Thanh văn giải thoát cũng không khác ta. Ba thừa đều ngồi cùng tòa giải thoát, do đó sanh nghi. Sanh nghi ở nhân. Nhân là nguyên nhân. Như lai vì sao giảng nói cảnh giới sâu xa, trước nói sâu xa, sau nói sâu xa, không đồng Thanh văn, Thanh văn và Phật chỗ giải thoát đã đồng đẳng, vì sao lại không đồng. Trừ đây ra thì pháp khác nhau là gì? Nguyên nhân gì mà sanh nghi hoặc điều này? Kinh Niết-bàn nói nghi có ba việc: Ma-ha Bát-nhã, giải thoát, pháp thân. Giải thoát tuy đồng mà Bát-nhã, Pháp thân tức là thể quả Nhất thừa tánh tướng trí tuệ của Phật, những thứ này Thanh văn chưa đắc, bốn chúng không hiểu, cho nên sanh nghi. Như kinh nói: “Lúc này, Xá-lợi-phất cho đến cho đến mà nói kệ” Nhân gì là nguyên nhân đạo lý gì? Duyên gì là lý do duyên sự gì? Phương tiện thứ nhất của Phật”. Đây là câu chung trở xuống hiển riêng “sâu xa mầu nhiệm” là trí tuệ Phật. Pháp khó hiểu là trí tuệ môn; nghi lại hai diệu trước mà nghi đây là loại pháp chấp, nhiếp dị thục sanh. Kinh: “Con từ xưa đến nay cho đến pháp khó hiểu”. Tán: Nhắc lại lời thỉnh quyết nghi. Từ chưa từng nghe, bốn chúng sanh nghi: Cúi Xin Phật nói rộng . Kinh: “Bấy giờ Xá-lợi-phất cho đến pháp bất khả tư nghì”… Tán: Trong mười một hàng tụng chia làm bốn: Ba hàng rưỡi đầu tụng trong lời trước khen ngợi Chư Phật dùng phương tiện thứ nhất, pháp sâu xa mầu nhiệm khó hiểu. Ba hàng tụng kế tụng về bốn chúng đều có nghi. Một hàng tụng rưỡi kế tụng: Con từ xưa đến nay chưa nghe là tự nghi. Ba hàng cuối thỉnh: “Cúi xin nguyện Thế Tôn giảng nói việc này.” Ba hàng rưỡi đầu chia làm ba: Một hàng rưỡi tụng lời Phật tự bảo. Tri kiến của Như lai rộng lớn sâu xa, vô lượng vô ngại… là đấng Pháp sư mầu nhiệm cho đến Một hàng tụng pháp mầu Phật chứng đắc khó biết khó hiểu. Một hàng hợp tụng khen ngợi pháp và Pháp sư diệu. Không hỏi mà Phật tự nói. Bậc Đại Thánh tuệ nhật: Trí tuệ của Phật dụ như mặt trời. Kinh Niết-bàn chép: Ví như mặt trời khi mới mọc, ánh sáng rất rực rỡ, đã có thể tự chiếu mà còn dứt trừ hết tăm tối. Hai lợi của Phật cũng như thế. Trong kinh Tăng Nhất A-hàm chép: Mặt trời xuất hiện có bốn việc: Khi mặt trời ló dạng thì tất cả tăm tối đều tan biến. Nông dân làm việc. Trăm loại chim hót vang. Trẻ con kêu khóc. Phật bảo các Tỳ-kheo: Lúc mặt trời mọc bóng tối đều xua tan là: Dụ cho Phật ra đời dứt hết sự si ám, chiếu soi tất cả. Nông dân đi làm: Là Nhân dân cùng ra đồng làm. Đây là dụ cho sự tùy thời của đàn việt thí chủ, cung cấp y phục thức uống ăn, giường ghế, thuốc thang . Muôn chim hót vang là dụ cho các Pháp sư có đức độ cao có thể nói pháp mầu nhiệm cho bốn chúng nghe. Trẻ con kêu khóc: Dụ cho ma chướng, thấy Phật ra đời tâm thật lo sợ áo não. Như trong kinh có bài kệ khen Phật: Như lai sắc vàng như núi chúa Như mặt trời hiện chiếu thế gian Cứu giúp chúng sanh đêm khổ dài Nay con đảnh lễ Vua ba cõi. Do đó mà khen ngợi Phật là Tuệ nhật. “Lâu mới nói pháp này”, là nói Phật thành đạo nhiều năm mà không hề bày nói. Nay mới nói ra, nên gọi là lâu. Trên đây là nêu hai câu: Một hàng dưới tụng trước Phật nói các thứ niệm quán. Kinh: “Pháp chứng ở đạo tràng cho đến cũng không ai hỏi được”. Tán: Nửa hàng trên tụng Phật trước nói pháp chứng đắc quả Bồ- đề Niết-bàn, trí tuệ sâu xa khó hiểu. Nửa hàng dưới tụng trước Phật nói pháp ấy khó hiểu, trí tuệ môn rất sâu. Người Nhị thừa không biết nên không thể hỏi. Kinh: “Không hỏi mà tự nói cho đến các Đức Phật chứng được”. Tán: Nửa hàng trên hợp tụng khen ngợi hai diệu. Không hỏi mà tự nói là: Phật xuất định liền nói pháp. Thứ ba là nói pháp mầu. Câu thứ tư nói pháp sư khéo léo. Kinh: “Các La-hán vô lậu cho đến xin Phật nói cho nghe.” Tán: Ba hàng tụng nói nghi của bốn chúng có hai: Một hàng đầu tụng Thanh văn Hữu học Vô học nghi. Hai hàng tụng nói Duyên giác và các chúng xin Phật nói. Nghi dụ cho lưới vây khó thoát ra được. Do dự: Do dự theo nói văn Lũng tây nói: Giống như chó sói, tánh chó sói hay nghi ngờ con người nên người không chắc chắn thì gọi là do dự. Bộ Nhó Nhã nói: Như con Hoẵn giỏi leo cây. Kinh: “Đối với chúng Thanh văn cho đến vì là đạo Phật làm”. Tán: Tụng này là phần tự nghi. Đắc trí từ trước là quả pháp, hay là nhân đạo . Nếu là quả thì sở đắc đã đầy đủ. Nay vì sao lại khen ngợi. Nếu là nhân đó lại càng muốn hướng đến cầu nhân mà thành tựu. Trước nói các người tự sở đắc của mình sanh tâm chắc chắn đối với lời Phật nói lại nghi ngờ. Nay Thu Tử không có nghóa chắc chắn, mà ngay sở đắc của mình cũng sanh nghi ngờ. Lại trước chưa nghe, đối với mình còn có chắc chắn, nay suy nghó lại sở đắc của mình, cũng có sanh nghi, cho nên không trái ngược. Kinh: “Từ miệng Phật sanh ra cho đến muốn nghe pháp đầy đủ.” Tán: Tụng lời thỉnh Phật nói, chia làm hai: Một hàng tụng lời thỉnh cầu của chúng đệ tử Thanh văn. Hai hàng tụng về các chúng khác thỉnh cầu, đây là phần đầu. Bẩm thọ lời dạy của Phật, Thánh đạo mới khởi giáo pháp từ miệng Phật nói ra, nên nói từ miệng Phật sanh, để phân biệt với bào Thai là do tinh huyết tạo ra. Kinh: “Chư thiên rồng quỷ thần cho đến muốn nghe pháp đầy đủ”. Tán: Hai hàng cuối tụng về các chúng khác thỉnh. Cõi này Phật xuất hiện nên không có Vua chuyển luân, vì thế nói: Vua chuyển luân các nước đến, đạo đầy đủ là lý Đại thừa. thỉnh. Kinh: “Bấy giờ Phật bảo cho đến đều sẽ kinh nghi.” Tán: Đoạn thứ hai có hai ý: Phật nói thôi và Xá-lợi-phất lại Luận này trở xuống giải thích phần định ký. Ghi nhận khác nhau, ghi rõ ràng nghóa riêng biệt sâu kín, gọi là Ký biệt, tức là trong mười hai bộ kinh gọi là kinh Ký biệt. Kinh Ký biệt có ba thứ: Ghi nhận sự khác nhau về lỗi lầm công đức của các đệ tử đã trải qua trong quá khứ. Thọ ký riêng cho các Đại nhân thành Phật. Là ghi nhận rõ ràng, nghóa riêng biệt sâu kín. Trong chương nói mười hai phần giáo bên dưới có nói đủ. Đây tức là kinh Ký biệt. Luận chép: Dưới đây dựa vào bốn việc mà nói: Tâm chắc chắn. Nhân thọ ký. Thủ thọ ký. Cho thọ ký. Tâm chắc chắn là tâm Phật xưa nay đã có sự chắc chắn vì người. Do đây mà có lời nói sau khi Phật bảo thôi. Vì thế, lấy tâm chắc chắn mà luận không phối thuộc kinh, chung cho ý văn dưới. Luận chép: Tâm chắc chắn là gì? Đã sanh tâm kinh sợ thì khiến cho dứt kinh sợ. Vì lợi ích có hai thứ người, cho nên Như lai có tâm chắc chắn. Kinh sợ có năm nghóa: Sợ tổn hoại: Từ chỗ nghe nói cho đó là thật, chê bai cho là không có Đại thừa mà nói: Như lai nói quả rốt ráo Niết-bàn của A-la- hán, cuối cùng thì ta đã đạt Niết-bàn như thế. cho nên A-la-hán không nhập Niết-bàn. Đây tức là chủng tánh Thanh văn. Thanh văn là do nghe âm thanh giáo hóa của Phật tu rồi chứng thật quả rốt ráo. Ta cuối cùng đã đạt đến Niết-bàn như thế. Quả đã rốt ráo nên chê bai cho là không có Đại thừa, không thể nghe nay vì nói Đại thừa. Nếu nghe thì pháp đã tu đó không phải là rốt ráo, liền sanh kinh sợ, hoài nghi A-la-hán cuối cùng không nhập Niết-bàn, tức trái với đạo, nghi ngờ sanh nên sợ bị tổn hại. Kinh sợ nhiều việc: Vì chúng sanh sanh tâm Đại thừa như là. Trong vô lượng vô biên kiếp ta thật hành hạnh Bồ-tát, chịu khổ lâu xa. Rồi khởi tâm kinh sợ chỉ giữ thừa khác. Nghóa là Bồ tát Địa tiền tánh bất định, trụ trong Đại thừa, trải qua nhiều kiếp hành Bồ-tát đạo gọi là nhiều việc, sợ kia khởi tâm lui sụt qua thừa khác. Nay Phật nói cho họ nghe để tâm không lui sụt. Kinh sợ điên đảo: Phân biệt các pháp ngã ngã sở thân kiến bất thiện. Nghóa là căn chưa thuần thục định tánh phàm phu. Vì phiền não rất nặng nên không thể nói cho họ nghe. Nếu nói thì họ cùng sanh phiền não, điên đảo kinh sợ. Kinh sợ hối hận: Nghóa là nếu vì nói: “Đại đức Xá-lợi-phất! Ta không nên chứng Tiểu thừa như thế, và tự dừng Tiểu thừa mà hướng về Đại thừa.” Tức là tâm kinh sợ hối hận. Kinh sợ lừa dối: Nghóa là nếu nói cho người tăng thượng mạn nghe thì họ sẽ bảo rằng: Vì sao Như lai lừa dối chúng ta tự cho là đạo đã đạt đến quả vị vô dư tròn đầy. Thanh văn có hai: Định tánh và Tánh bất định. Phàm phu có hai: Chưa đắc cho là đắc và còn đủ phiền não. Bồ-tát có hai: Thoái vị và Không lui sụt vị. Thanh văn Định tánh tức là lo sợ tổn hại. Thanh văn Tánh bất định là lo sợ hối hận, chưa đắc cho là đắc tức phàm phu lo sợ lừa dối. Phàm phu đầy dãy phiền não tức là điên đảo lo sợ. Bồ-tát Thoái vị tức là lo sợ nhiều việc. Không lui sụt vị Bồ-tát thì không nằm trong năm thứ trên. Bỏ quyền lấy thật, ưa hướng về quả vị Phật, mới nói cho họ nghe Nhất thừa. Đây nói Nhất thừa thì không hợp căn khí vậy. Luận chép: Chính là làm lợi ích cho hai hạng người. Như lai có tâm chắc chắn: Nghóa là nhiều việc và hối. Lợi ích cho người hối hận là dẫn xếp họ vào một loại. Lợi người nhiều việc là tùy giữ các thừa khác, cho nên nay nói thôi và sau lại chính nói. Tâm Phật trước đã định vì hai người còn người khác không khác phải chính. Tức trong mười nghóa nói hai nghóa đầu của Nhất thừa. Quán ý văn này có nhiều việc. Một loại không nói là có kinh sợ. Nói tức là không kinh sợ, bốn thứ khác thì nói tức là có kinh sợ, không nói thì không sợ. Cho nên luận chép chung đã sanh kinh sợ thì phải dứt trừ kinh sợ, do đó mà thọ ký. Như kinh nói: Thôi, thôi! Không, cần nói nữa cho đến trời người đều sẽ kinh sợ: Tức trở xuống là văn hai lần thôi. Là nguyên nhân ứng với hai nghóa vì người nghe người không kham làm người nghe rời chỗ ngồi, cho nên gọi là nhân. Nhân thọ ký đều sanh kinh sợ. Có ba nghóa: Khiến cho đại chúng suy tìm cảnh giới sâu xa. Khiến cho đại chúng sanh tâm tôn trọng cuối cùng muốn nghe. Trên đây là ứng với hai nghóa vì người nghe. Khiến cho người tăng thượng mạn rời khỏi chỗ ngồi mà đi. Tức là không thể làm người nghethì rời chỗ ngồi. Đây là Phật bảo thôi lần thứ hai. Nhưng ứng với hai nghóa vì người nghe, lần thôi thứ ba mới vì người không thể nghe pháp rời chỗ ngồi. Lấy việc thọ ký như trong kinh. “Bấy giờ Đức Thế Tôn…” là lời hứa của Phật có thể nhiếp thọ, hứa sẽ nói cho đại chúng nghe. Cho thọ ký là như trong kinh Phật bảo: “Xá-lợi-phất! cho đến” chính vì giải thích kinh Nhất thừa. Trong bốn Định ký thì tâm chắc chắn ban đầu là nguyên nhân dừng và nói. Kế đến, nhân thọ ký chỉ là nguyên nhân thôi sự thỉnh. Thủ ký là hứa giải thích, cho ký là chánh thức trình bày. Nay nói kinh nghi là ứng với người nghe. Kinh sợ nghi ngờ, suy tìm pháp sâu , tôn trọng người muốn nghe. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến cúi xin Phật nói.” Tán: Lần thỉnh thứ hai. Luận chép: Chỉ chúng sanh nay đã được vô lượng Phật quá khứ giáo hóa, đầu là văn xuôi, sau là kệ tụng. Phần văn xuôi có hai: Một là thỉnh chung; hai là có khả năng nghe. Đây là phần thỉnh. Kinh: “Vì sao cho đến tức hay kính tin được.” Tán: đây là phần có khả năng nghe Phật nói, có ba nhân: Gặp duyên lành từng thấy Chư Phật. Tánh thông minh các căn lanh lợi Hiểu biết chân nghóa. Trí tuệ thông suốt cho nên tin nghe. Kinh: “Bấy giờ Xá-lợi-phất cho đến có thể kính tin.” Tán: Bài tụng này có thể biết. Kinh: “Phật lại bảo Xá-lợi-phất thôi đi cho đến sẽ rơi vào hầm lớn.” Tán: Đoạn thứ ba. Đầu tiên thôi. Sau lại thỉnh. Trong phần thôi có hai: Văn xuôi và kệ tụng, đây là nói phần đầu. Vì người không có khả năng nghe nên rời chỗ ngồi, lại sợ người tăng thượng mạn đắc Thế bậc nhất, bốn tónh lự, liền cho là đắc quả A- la-hán, rồi họ sanh phỉ báng mà đọa địa ngục nên gọi là hầm lớn. Đây đều là phàm phu rơi vào hầm lớn chẳng phải bậc Thánh Hữu học. Luận Du-già chép: Tất cả bậc Thánh biết quả mình đắc, không tự cho rằng sẽ đắc quả vị Thánh sau mà tăng thượng mạn cho nên không có tà kiến, lại không gây nghiệp đọa vào địa ngục. Cho nên trong các luận có nói các Tỳ-kheo tăng thượng mạn, đắc Thế bậc nhất và bốn Tónh lự sau khi mạng chung do chê bai sự giải thoát sanh khởi tà kiến nên đọa vào địa ngục, chính là loại này. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế Tôn cho đến nghe sẽ không kính tin.” Tán: Pháp mầu khó hiểu. Người ngu nghe khởi sanh chê bai. Vì không kính tin nên sợ bị đọa hầm lớn. Kinh: “Bấy giờ Xá-lợi-phất cho đến. nhiều sự lợi ích.” Tán: Lần thỉnh thứ ba. Phần đầu văn xuôi, phần sau kệ tụng. Văn xuôi có hai: Thỉnh chung và có khả năng nghe. Ngài Thu Tử lợi căn tự biết túc mạng. Cũng có thể biết người khác ở quá khứ đã theo Phật Thích-ca và từng được giáo hóa. Căn cơ thành tựu đạo đầy đủ, thì sẽ nghe có thể tin. Tin sanh tử đêm dài đã an ổn lợi ích, cho nên nay thỉnh Phật nói. - Kinh: “Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất cho đến.. rũ lòng phân biệt nói.” nghi. thỉnh. Tán: Từ đây trở xuống gồm bốn hàng tụng, chia làm ba: Một hàng tụng đầu tự xưng là trưởng tử để thỉnh. Phật quyết Một hàng rưỡi tụng… trình bày chúng đã từ lâu theo Phật nên Một hàng tụng rưỡi: Trình bày mình và người nghe pháp được ngộ giải liền sanh vui mừng để thỉnh nói. Phật là bậc tôn kính trong tất cả chúng sanh hai chân, nhiều chân, không chân. Nay nói loại tôn quý hai chân. Trong ba thứ, loài hai chân là tôn quý có thể nhập đạo, nghóa là loại trời, người. Phật cũng hai chân nên nói là Đấng Lưỡng Túc. Ngài Xá-lợi-phất là bậc nhất trong chúng Thanh văn nên nói là Trưởng tử. Kinh: “Vô lượng chúng cho đến muốn thọ lời Phật nói”. Tán: Một hàng rưỡi tụng v.v… là trình bày chúng từ lâu được Phật giáo hóa, nhân duyên xưa nay đã thuần thục, nên thỉnh Phật nói pháp. Kinh: “Chúng con nghi… thì sanh tâm rất vui mừng” Tán: Một hàng rưỡi tụng mình và người nghe pháp đều vui mừng, để thỉnh Phật nói. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế Tôn cho đến phân biệt giải thích”. Tán: Luận trong phần định ký của đoạn thứ tứ. Từ đây trở xuống là phần thủ thọ ký thứ ba. Phật hứa nhiếp thọ mà vì họ nói pháp. Cho nên trong luận chép Thủ thọ ký là vì ngài Xá-lợi-phất muốn được thọ ký. Như kinh Phật bảo Xá-lợi-phất: Ông đã ba lần thỉnh chẳng lẽ không nói, tức Phật hứa nhiếp thọ. Nếu y vào tự khoa, thì đoạn thứ ba chia ra thật tướng này, khởi lên quyền môn kia. Trong đây có hai: Nói về nhị ký. Năm trược. Phần dưới mới phá bốn nghi. Nhị ký có hai: Trong thủ ký có hai: Phật hứa nhiếp thọ. Người ác rời khỏi chỗ ngồi. Ở đây nói phần đầu: Trong Bồ-tát Địa chép: Hễ người nghe pháp, lãnh tiếng tiếp xúc tai, gột rửa nhiếp trì (lắng nghe). Trong Trí luận cũng nói: Người nghe nhìn thẳng như đang đói khát, nhất tâm sâu nhập ngữ nghóa. Tâm bi hỷ hớn hở nghe pháp. Người như thế thì hãy nói cho họ nghe. Ngau thẳng suy xét là vì nếu không căn dặn chúng sanh để họ lắng nghe xem xét thì sợ tâm không định, tuệ giải không sanh, cho nên Phật căn dặn lắng nghe. Kinh: “Lúc nói lời này… lễ Phật thoái lui”. Tán: Chúng người xấu thối lui: Có bốn phần: Một là nói việc bỏ đi. Hai là Phật không ngăn cản. Ba là Phật vui vẻ dạy bảo. Bốn là ngài Xá-lợi-phất kính vâng. Phần một lại có hai: Nêu và giải thích. Đây là nói nêu: Kinh: “vì sao? cho đến nên không ở lại”. Tán: Giải thích nguyên nhân bỏ đi. Đây là tự dẫn chứng rằng: Có năm điều khó được: Được thân người là ít có. Sanh ở giữa nước là ít có. Đầy đủ các căn là ít có. Gặp Phật ra đời là ít có. Nghe chánh pháp là ít có. Năm ngàn chúng đệ tử đã có đủ bốn điều khó trên. Vì sao khi Phật sắp nói pháp mầu lại bỏ đi? Việc bỏ đi này là có lý do gì? Nay giải thích có hai ý: Gốc tội sâu nặng Có tâm tăng thượng mạn. Bối nghóa là bọn. Tội nghóa là đáng chê, đáng trách, đáng sợ, đáng chán. Hoặc nhân hoặc quả đều chê bai, chán ghét gọi là tội. Nếu theo Tiểu thừa thì tội này rất nhiều, nặng thì có ba: Phiền não chướng Nghiệp chướng. Dị thục chướng. Tất cả phiền não gồm có hai thứ: Thường khởi gọi là cần. Khởi mạnh mẽ gọi là lợi, chia làm bốn câu: Cần mà không lợi. Lợi mà không cần. vừa cần vừa lợi. Không cần không lợi. Nay lấy câu đầu và câu thứ ba gọi là phiền não chướng. Ngũ vô gián nghiệp gọi là nghiệp chướng. Ba đường tám nạn là dị thục chướng. Ba chướng này chướng nhập Thánh đạo nên gọi là tội nặng. Nay theo Đại thừa thì chướng có hai thứ: Phiền não chướng. Sở tri chướng. Sở tri chướng là thích ứng theo nó mà chướng nhập vào Thánh vị Đại thừa. Phiền não chướng thích ứng theo nó mà chương nhập Ba thừa Thánh vị. Theo luận Phật Địa thì phiền não chướng có ba: Một trăm hai mươi tám phiền não và tùy phiền não. Là chỗ phát nghiệp. Chỗ đắc quả. Ý này là nói chung phẩm loại kia gọi là chướng, chẳng phải y cứ vào trọng . Theo Đại Bát-nhã, thì trọng chướng có bốn: Phiền não chướng. Nghiệp chướng. Dị thục chướng. Pháp chướng. Phiền não chướng là: Một trăm hai mươi tám căn bản phiền não. Và các đẳng lưu tùy phiền não. Thích ứng theo nó mà làm chướng Thánh đạo đều là chướng này. Nghiệp chướng là: Theo kinh Tát-già-ni Càn Tử thì có năm thứ nghịch: Phá tháp hoại chùa. Đốt kinh tượng trộm cắp và dùng vật Tam bảo. Chê bai pháp Ba thừa cho là không phải pháp Thánh. Chướng ngại lưu nạn che giấu điều ác. Đối với tất cả người xuất gia, hoặc người có giới, không giới, giữ giới, phá giới đều đánh mắng quở trách. Nói lỗi của họ, giam cầm vào lao ngục. Hoặc ép buộc họ cởi cà sa hoàn tục, bắt phục dịch sai khiến, làm cho họ mạng căn bị cắt đứt. Kinh Đại Tập chép: Lỗi hại một Tỳ-kheo phá giới còn hơn tội làm muôn ức thân Phật chảy máu. Giết hại cha mẹ, làm thân Phật, A-la-hán chảy máu, phá hòa hiệp tăng. Sanh đại tà kiến, chê bai nói không có nhân quả, thường hành trì các nghiệp bất thiện. Năm thứ này chỉ có trong Đại thừa gọi là nghiệp chướng năm tội nghịch. Cũng có nói nói bảy tội, chẳng qua cũng từ năm tội này. Sở dó không nói là dị thục chướng: Nghóa là quả dị thục hay làm chướng ngại Thánh đạo. Tức ba đường ác, tám vô hạ (gián) v.v… Vì nạn sanh ra trước Phật sau Phật nên nói là trước pháp, sau pháp, là trước sau Phật pháp không người đắc quả Thánh. Pháp chướng là: Ở đời trước làm chướng ngại việc thiện của người, tạo ra các pháp nghiệp, sanh vào trong đời này không được nghe pháp, chánh pháp thiếu xót nghóa là thuộc hai quả Tăng thượng, Đẳng lưu trong năm quả . Gốc tội sâu nặng là cảm pháp nghiệp thiếu kém. Vì gốc tội nên hiện đời không nghe pháp, vì là thể của tội nên là chướng thứ tư. Mạn Ngọc Thiên nói là khi thường, không sợ, ngạo mạn. Lấy sự lừa dối làm gốc, chậm rãi, cậy mình ép bức người khác, tự cao. Trong luận Du-già nói Mạn có bảy thứ: Một là mạn; hai là quá mạn; ba là mạn quá mạn; bốn là ngã mạn; năm là tăng thượng mạn; sáu là ty mạn; bảy là tà mạn. Mạn đối với người thấp hèn mà cho là mình hơn hoặc cho là bằng người. Quá mạn: Đối với người bằng mình cho là mình hơn, hoặc với người hơn cho là mình bằng . Mạn quá mạn: Với người hơn cho là mình hơn. Ngã mạn: Cậy thế chấp ngã đề cao mình. Tăng thượng mạn: Mình ít đức mà cho là nhiều. Ty mạn: Người hơn mình nhiều, chấp mình kém người khác ít. Tà mạn: Hoàn toàn không có đức mà cho là có đức. Nay nói tăng thượng mạn, tức phần thứ năm đã thật là ít đức, cho là mình nhiều đức độ, đắc thiền định Niết-bàn thế gian. Cho nên chưa đắc nhiều cho là nhiều đức. Chưa chứng cho là đã chứng. Đắc cho là đạo hữu vi. Chứng cho là diệt vô vi, đây là tướng tăng thượng mạn. Chẳng phải hoàn toàn chưa đắc mà nay cho là đắc. Nếu không như vậy, thì chẳng phải tướng tăng thượng mạn, chính là tà mạn thứ bảy. Nếu có hai lực phiền não chướng và chướng pháp trước, nên không thể có khả năng nghe pháp. Hỏi: Bọn năm ngàn người đã không thể nghe pháp, vì sao mắt nhìn thấy hào quang Phật tỏa chiếu, tai nghe lời diệu xướng, thấy hoa trời và an nhiên nhìn đất rung chuyển mà không kinh sợ? Đáp: Phật phóng quang động địa chưa đủ làm thay đổi tâm hèn kén. Diễn pháp mầu nói việc ít có thật trái với thiển ý. Nghe lời hỏi đáp trong bài tựa làm bước đầu dẫn đến Đại thừa và nhân nghe trình bày sâu xa của nội tông Đại thừa, lại càng thêm mê hoặc thêm chê bai cho nên ở đây Phật bảo bẻ hết cành lá, quét sạch tấm cám. Kinh: “Thế Tôn mặc nhiên im lặng mà không ngăn cản”. Tán: Phần hai không ngăn cản. Mặc có nghóa là im lặng. Các bộ luận đều nói có hai chắc chắn mà Phật lực không trái: Một là thọ dị thục chắc chắn Hai là tác nghiệp chắc chắn. Với người vì tội căn sâu nặng Phật dùng chắc chắn chịu quả, người tăng thượng mạn. Phật chắc chắn tác nghiệp. Do đó mà năm ngàn vị này rời chỗ ngồi đi ra. Phật tuy có thần lực cũng không ngăn họ được, lại vì để họ đi mà không rơi vào địa ngục, không thể ngăn, khiến họ phải khởi nghiệp nặng. Những vị kia nếu phát tâm thì định nghiệp có thể chuyển. Tâm họ không đổi nên Phật lực không ngăn được. Kinh: “Bấy giờ Phật bảo cho đến nên vì ông mà nói”. Tán: Phần ba Phật vui vẻ dạy bảo. Gió kinh động rơi hạt lép, sương rụng hạt chắc vẫn còn. Phật hứa nói đã làm kinh tâm người. Chấn uy thần khiến họ phải bỏ đi. Cho nên bỏ ra cành lá là tốt. Xướng người trinh thật trụ lại mà hứa nói. Cành lá dụ cho người khinh bạc hư sơ. Sự thuần trong vững chắc nên dụ là hạt chắc . Kinh: “Xá-lợi-phất nói cho đến nguyện ưa muốn nghe”. Tán: Phần bốn là kính vâng. Nguyện vui là ý ít giải. Muốn nghe cũng là tâm mong muốn nghe. Kinh: “Phật bảo Xá-lợi-phất cho đến thời một lần hiện”. Tán: Phần này cho thọ ký vì họ giải thích. Luận có sáu: Người chưa nghe khiến cho nghe. Là nói. “Xá-lợi-phất! Chư Phật tùy nghi nói…” Nương vào nghóa gì? cho đến “Vì sao? Vì Chư Phật Thế Tôn chỉ một đại sự nhân duyên cho đến” Là khiến cho trụ: “Xá-lợi-phất! Như lai dùng một Phật thừa nên vì chúng sanh nói pháp”. Là y vào pháp. “Xá-lợi-phất! Tất cả Chư Phật mười phương cũng như vậy…” Ngăn: “Xá-lợi-phất! Trong các thế giới ở mười phương còn không có hai thừa.” Chưa nghe khiến cho nghe, là khen ngợi pháp ít có, hiển bày khiến được nghe. Nói là nói pháp sở nói, ý nói việc ít có biết. Y vào nghóa gì? Là người chưa nghe khiến cho nghe và dùng phương tiện nói. Nương vào nghóa gì là nương vào pháp rất sâu khó hiểu do Phật chứng đắc. Trụ là khiến yên trụ pháp Nhất thừa là pháp mà Chư Phật ba đời mười phương đã cùng làm tức là phép tắc, khuông mẫu. Đầu tiên là tùy theo thời nghi mà nói: Ý muốn về lâu sau, chúng sanh vẫn giữ hạt giống trí tuệ Phật. Ngăn là ngăn phá hai chấp, ngăn cho hai thừa là chân thật, để khen ngợi pháp ít có. Người chưa nghe khiến cho nghe có ba ý: Khen ngợi sự ít có. Nêu thí dụ. Khuyến tín. Đây là nói hai phần đầu. Điều này nếu thường nói, không có người trí nào không thích. Thời nghi là cảngười trí ngu cùng ưa. Tiếng Phạn gọi là Ô-đàm-bát-la, Hán dịch là Thụy ứng. Khi Kim luân ra đời thì biển lớn giảm ít. Khi Kim Luân xuất hiện thì hoa Bát-la mới trổ hoa, ứng vào việc ngụ thế của Kim luân, nên gọi là hoa Thụy ứng. Đây là nói pháp luân vương của kinh Pháp Hoa ra đời thì biển sanh tử giảm bớt. Đạo Nhất thừa hiển bày mới giảng nói. Cho nên lấy đây làm thí dụ mà khen ngợi Phật pháp ít có. Ngài Thu Tử từ thời vãng kiếp từng có pháp chưa nghe, nay muốn nghe nên hết lòng khát ngưỡng. Kinh: “Xá-lợi-phất! cho đến nói không luống dối”. Tán: Đây là phẩn khuyên tin. Vì trí hiểu còn giới hạn, nên chưa thể chứng đạt. Cho nên đây nêu pháp không luống dối để khuyên người tin. Kinh: “Xá-lợi-phất!.. ý thú khó hiểu.” Tán: Đoạn thứ hai nói Phật nói có hai: Nêu ra và giải thích. Kinh: “Vì sao? Là có thể biết”. Tán: Đây là phần giải thích trên đã nêu. Luận giải thích các thứ nhân duyên: Nghóa là pháp ba thừa. Pháp ba thừa kia chỉ là danh tự chương cú nói không có thật nghóa. Vì ý thật nghóa kia không thể nói, Ý trong đây nói: Ta dùng phương tiện mà nói pháp Ba thừa. Pháp đây chỉ có danh tự chương cú không phân biệt ba thể mà tùy nghi nói ba. Người Nhị thừa không thể suy lường có thể hiểu, chỉ Phật mới có thể biết. Đây là nêu phần trí môn khó hiểu ở trước. Thật nghóa Ba thừa tức là chân như, là không thể nói. Nói nương vào đâu tức là chỉ cho trí tuệ Phật. Kinh: “Vì sao? cho đến xuất hiện ở đời”. Tán: Văn thứ ba là y theo nghóa gì? Có hai: Nêu và giải thích rộng. Đây là nói phần đầu. Do văn trước mà mượn dẫn chứng rõ. Vì sao nói ngôn từ khó hiểu chỉ có Phật mới hiểu? Y theo nghóa gì mà nói như thế? Các Phật Thế Tôn là bao gồm các Phật mười phương ba đời “Chỉ vì một đại sự nhân duyên…” Sự vật nghóa là sự, thể sự. Đạo lý tùy ứng cũng đều đắc. Vì đại sự nhân duyên này mà xuất hiện ở đời, tự xưng đức hiệu, rộng làm lợi ích chúng sanh. Nếu như không như vậy thì nhập diệt như Nhị thừa. Do đại sự này, cho nên tùy nghi nói, ý thú khó biết. Kinh: “Xá-lợi-phất… xuất hiện ở đời”. Tán: Giải thích rộng có hai: Hiển bày riêng Giải thích ý Hiển bày riêng có ba: Trình bày Giải thích Kết Kinh: “Chư Phật Thế Tôn cho đến xuất hiện ở đời.” Tán: Đây là phần giải thích. - Thể của việc lớn tức là tri kiến. Chư Phật xuất hiện ở đời vì đại sự này. Có bốn nghóa là: Khai, thị, ngộ, nhập. Luận chép: Một đại sự đó là nương vào bốn thứ nghóa nên biết. Phật tri kiến: Như lai có thể chứng biết như thật nghóa kia. Đây có ba giải thích Giải thích thứ nhất: Pháp tánh chân như gọi là như thật, tánh chân thật của pháp tức là sở chứng. Nghóa lý cảnh giới đều gọi là nghóa. Thể chánh trí gọi là năng chứng, biết được nghóa lý, chứng cảnh chân thật, tức năng chứng chánh trí và sở chứng chân như cả hai năng, sở tri kiến đều gọi là tri kiến. Như làm tánh của tri kiến. Trí là dụng của tri kiến, tánh tướng tri kiến đều gọi là tri kiến. Luận Bát-nhã của ngài Vô Trước nói: Vô thượng Bồ-đề là pháp thân, Chánh Đẳng Bồ-đề là báo thân, như kinh Giải Sâu Mật nói: Bồ- đề. Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề. Luận Trí Độ chép: Trí và Trí xứ đều gọi là Bát-nhã. Hoặc trí là trí chánh thể. Kiến là hậu đắc trí, là hai, là dụng. Năng chiếu hai cảnh chân tục. Hai bổn tánh này tức là chân như hợp lại gọi là tri kiến. Đem tánh hợp tướng thì gọi là tri kiến. Vì muốn người Nhị thừa cầu chủng trí. Kinh Thắng-man nói: Nhất thừa tức là Phật thừa. Phật thừa là Đại thừa Nhiếp Đại thừa nói: Vừa đại vừa thừa nên gọi là Đại thừa là muôn hạnh. Hoặc nương vào đại tánh nên gọi Đại thừa, là chân như. Cho nên biết Quả Phật Nhất thừa, thể có cả lý và trí. Khế ước với tông nghóa này thì nhà lửa xe trâu ý ở trí dụng. Nói xe trâu là sở tác của ngã. Đường hiểm, đảo châu báu ý ở trí tánh. Xưng hóa tạo thành thì chẳng phải đảo châu báu. Hợp cả hai này lại gọi là tri kiến. Luận này chép: Gồm có bốn pháp: Khai: Là nghóa Vô thượng, trừ Nhất thiết trí, không còn có việc khác. Nhất thiết trí đó là Phật vậy. Lại nói trí đó là căn bản trí và hậu đắc trí. Hai trí này là dụng, tánh của hai trí này tức là chân như. Hoặc dụng hoặc tánh gọi chung là trí. Trí của bậc Nhất thiết trí thì gọi là trí Nhất thiết trí lại Nhất thiết trí là căn bản trí. Lại nói trí là hậu đắc trí. Nêu hai trí này là nhiếp ở diệu lý trí tánh chân như. Lại Nhất thiết trí là Bồ-đề trí dụng. - Lại nói trí là trí tánh Niết-bàn, hai thứ Như lai tạng. Nay nói lên hai trí này đều là Vô thượng. Khen ngợi thù thắng cho người vui mừng. Nhưng thể Bồ-đề này là hạt giống bổn hữu hữu vi. Huân tập học rộng là do tu mà sanh trưởng, thể tức là bốn trí. Kinh Lăng-già chép: Thức A-lê-da gọi là Không Như lai tạng. Huân tập đầy đủ pháp vô lậu nên gọi là Bất Không Như lai Tạng. Tạng thức hữu lậu là luống dối không thật, cho nên gọi là không, năng chứa tất cả hạt giống vô lậu gọi là Như lai tạng. Thể của hạt giống bốn trí là vô lậu chẳng phải là pháp luống dối. Do gần gũi bạn lành huân tập học rộng dần dần sanh trưởng, sẽ thành bốn trí. Nhân của trí gọi là Bất Không Như lai Tạng. Tạng là hàm tàng, nghóa là nhân tánh. Dụ như trồng cây sanh trưởng tròn đầy thể tánh của Niết-bàn này là vô vi. Xưa nay sẳn có tự tánh thanh tịnh. Về sau gặp Bạn lành thì dứt chướng hiển bày tuy là một chân như mà gặp duyên thì chứng riêng nên gọi là bốn thứ Niết-bàn. Kinh Thắng-man nói: Có hai thứ Như lai Tạng không trí: Nghóa là hoặc lìa hoặc thoát, hoặc đoạn hoặc dị. Tất cả phiền não tạng cũng không lìa không thoát. Không đoạn không dị. Bất tư nghì Như lai tạng phiền não hữu lậu luống dối không thật, có thểche lấp Như lai, gọi là không Như lai tạng. Thể của Niết-bàn vô lậu là vô vi, chẳng phải là pháp luống dối. Do gần thiện duyên mà dứt các phiền não. dần dần trí khởi thì phương tiện sẽ hiển chứng gọi là Niết-bàn. Thể tánh chẳng phải là không, do không mà hiển bày ra vì là tánh không ở vị trí phiền não che lấp nên gọi là Bất Không Như lai tạng. Tạng có nghóa là che giấu tánh nhân, cho nên ở vị trí phiền não bị trói buộc gọi là Như lai tạng. Lúc ra khỏi phiền não thì gọi là pháp thân. Tức pháp thân này do không mà hiển bày. Vì bổn tánh vốn là không nên gọi là không Như lai tạng. Như ngọn đao Đề-da đào được vật báu mà được biết đến. Thức A-lại-da và các phiền não gọi là Như lai tạng kinh Niết-bàn nói chưa đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Pháp thiện bất thiện đều gọi là pháp tánh. - Kinh Vô Cấu xưng chép: Chủng tánh của thân giả: Bảy thức trụ, tham dục, sân nhuế, ngu si, mười một nghiệp bất thiện đạo làm Như lai chủng, văn chẳng phải nói một, tức trước Bồ-đề gọi là báo thân. Báo thân thì tu sanh, pháp thân thì tu hiển. Pháp thân chứng thì nhân chứng. Báo thân sanh thì nhân sanh. Tạng trước có bốn: Năng hàm tàng: Tạng nghóa là thức A-lại-da như kho tạng. Năng sanh đức tạng: Nghóa là hạt giống báo thân, như hạt giống, lúa… Năng phú tạng: Tạng nghóa là phiền não như đất che vật Năng hiển đức tạng: Tạng nghóa pháp thân Phật tánh như kim tánh (tánh vàng), tức nói theo vị trí đại. Đoạn sở tri chướng thì chứng được báo thân Phật Bồ-đề tròn đầy. Dứt phiền não chướng chứng được pháp thân Phật, Niết-bàn tròn đầy. Chư Phật ra đời là muốn chúng sanh dứt sở tri chướng và chỗ phát ng- hiệp cùng quả sở đắc. Tất cả đều hết viên chứng Bồ-đề mở ra tướng tri kiến khiến được thanh tịnh. Chướng hết, trí viên thì gọi là thanh tịnh. Vì muốn chúng sanh dứt trừ phiền não chướng và chỗ phát nghiệp quả sở đắc. Tất cả đều tận viên chứng Niết-bàn, khai tánh tri kiến, khiến được thanh tịnh. Chướng tận, lý hiển thì gọi là thanh tịnh. Duyên vào tri kiến này nên ra khỏi thế gian. Khai: Nghóa là hiển chứng xuất sanh sanh ra Bồ đề hiển chứng Niết-bàn. Trừ hai việc này thì không có gì cao quý hơn, hai pháp đó gọi là Vô thượng. Thị nghóa là đồng. Vì pháp thân Ba thừa của Chư Phật, Bích- chi-phật, Thanh văn đều bình đẳng. Pháp thân bình đẳng đó là pháp thân, Phật tánh không có sai khác. Cho nên kinh Niết-bàn chép: Thí như sữa trâu có các màu sắc và đem sữa đó đặt vào một chỗ, màu sắc sữa vẫn không khác. Phật tánh không vậy. Chúng sanh chủng loại tuy không đồng, mà Phật tánh không khác nhau. Ý này nói là pháp thân Ba thừa vốn là bình đẳng. Chúng sanh không biết nên không chịu tu hành để chứng pháp thân tròn đầy. Chư Phật ra đời là muốn chỉ cho chúng sanh tánh của tri kiến này. Ba thừa đều bình đẳng không hai, đồng chứng tròn đầy để thành tựu pháp thân. Ngộ có nghóa là không biết. Vì tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật không biết chỗ chân thật. Không biết chỗ chân thật là không biết rốt ráo chỉ có một Phật thừa. Như có người đến nhà bạn thân uống rượu say rồi nằm, lấy hạt ngọc vô giá buộc vào áo trong. Người kia lúc đầu không biết, sau giác ngộ rồi mới biết. Ý này nói là: Nhị thừa không biết thể rốt ráo duy nhất chỉ một Phật thừa, thể tức là Bồ-đề bốn trí, cho nên không tu báo thân tròn đầy. Phật ra đời là muốn cho chúng sanh giác ngộ pháp rốt ráo chỉ có một Phật thừa Bồ-đề trí, khiến cho tu mà sanh trưởng. Ba thứ trên là khai để cùng hiển bày pháp thân, báo thân, khen ngợi sự thù thắng của quả Niết-bàn, Bồ-đề Vô thượng để cho người ưa thích. Thị là phân biệt rõ pháp thân Ba thừa Niết-bàn vốn không hai mà có tu chứng. Ngộ là riêng chỉ rõ báo thân Bồ-đề rốt ráo bậc nhất hạt giống vốn có khiến tu hành sanh quả. Cùng nêu trí đức đoạn đức ở trong quả. Đã chứng hai pháp này làm lợi lạc chúng sanh, ứng với vật hiện hình. Ứng cơ mà nói pháp. Tức là hóa thân và thân tha thọ dụng là ân đức. Nhập: Là địa vị khiến cho chứng đắc không lui sụt. Thị hiện cùng vô lượng nghiệp trí. Ba pháp trên là chung, riêng tuy rõ quả Phật Vô thượng, đồng thù thắng mà chưa biết làm thế nào để chứng đắc. Nay nói nhân năng chứng năng đắc, cho nên gọi là nhập. Y vào luận này này thì từ Sơ địa trở lên gọi là địa Bất thối. Thể dụng của trí Nhất thiết trí, trong quả vị Phật thật lớn thể dụng đại gọi là Vô lượng trí. Nghiệp là nhân. Phật vì đó mà nói từ Sơ địa trở lên có thể đắc nhân Nhất thiết trí của quả Phật gọi là nhập. Đức Phật nói nhân này là muốn cho người Nhị thừa Hữu học, Vô học và trước sơ địa chứng sơ địa trở lên đến Không lui sụt. Nhập vào biến dị sanh tu chủng trí nhân, quán sát trí tánh nhập hai quả vị Phật. Bốn ý này nói: Phật xuất hiện ở đời là muốn chúng sanh dứt hết hai chướng, khai tri kiến Niết-bàn Bồ-đề Phật khiến chứng thanh tịnh. Khen ngợi hai pháp vô thượng để chúng sanh ưa thích. Mở bày pháp thân đồng có là khiến cho tu chứng. Ngộ chỗ bất trí chỉ có một trí Phật thừa khiến cho chúng sanh tu hành. Đã hiển bày thể tánh cao quý của Bồ-đề Niết-bàn Quả Phật và nói nhân đó cho người hướng nhập, là nói Phật xuất hiện ở đời để nói pháp Nhất thừa, hoặc quả hoặc nhân. Khiến chúng sanh tu nhân chứng quả, đều thành quả Phật, không vì việc gì khác. Trước khen ngợi trí tuệ và môn trí tuệ tức là lý giáo của Nhất thừa. Nay nói hạnh quả, nên biết đó là nói chung về bốn pháp Nhất thừa gọi là Pháp Hoa. Hoặc bất thối là từ Bát địa trở lên thì hành bất thối. Các luận đều nói là thọ sanh tử biến dịch. Tuy Nhị thừa hồi tâm nhưng chưa liền đến bờ giác kia. Ba thừa đều đồng là hậu chắc chắn, ra khỏi sanh tử phần đoạn nhập vào sanh tử biến dịch. Lại Nhị thừa đó là phiền não bất thối. Trải qua ba đại kiếp đều gọi là bất thối địa. Lại Nhất thừa là tu hành Nhất thừa, hoặc là tín, vị, chứng, hạnh. Nay ở trong đây đều khiến cho thể nhập, cùng gọi là bất thối. Hoặc thật thể của nhân quả Nhất thừa là trước nói trí tuệ và trí tuệ môn của Phật tức trước nói Ba thừa là quyền giáo khiến cho Nhị thừa xả quyền giữ thật hành nhân Nhất thừa, hướng đến quả Nhất thừa, đây chính là bổn ý. Trên nói về nhân quả chung riêng để giải thích bốn thứ: Y theo đây trở xuống văn dưới nói thì trong pháp Phật ba đời không nói phần đầu là khai, chỉ nói: Thị, ngộ, nhập, vì thế biết chỉ nên nói như thế là tốt. Thị ngộ nêu riêng hai quả đã xong. Không cần nêu ra. Nêu ra nhân quả này là nhiếp tất cả pháp muôn đức hữu vi vô vi của Phật. Phần pháp nói ở phẩm Phương tiện này nói Nhất thừa chỉ vì người thượng căn. Do đây mà biện chung hoặc nhân hoặc quả Bồ-đề Niết-bàn để làm Nhất thừa. Phẩm Thí dụ thì vì người trung căn nên chỉ nói ngộ. Xe trâu là trí đức Nhất thừa Bồ-đề. Do mê nhân trí mà không mê lý nhân, lý quả trí. Phẩm Hóa Thành Dụ là vì người hạ căn nên chỉ nói về thị. Đảo châu báu là Đoạn đức Niết-bàn Nhất thừa. Do mê lý quả mà không mê trí quả, trí của lý nhân. Mỗi pháp đều tùy theo sở nghi mà dứt chướng kia, khiến cho tiến nhập mà nói riêng Nhất thừa. Hoặc vì trung, hạ căn mà nói hai pháp lý trí nhân quả, rõ ràng khiến cho hiểu, chỉ có phẩm này là nói chung về nhân quả giác, tịch Nhất thừa, lý nghóa đầy đủ, cho nên lu- ận này giải thích đầy đủ phẩm này, các phẩm khác chỉ giải thích chung, đại ý thì không khác đây. Nếu hiểu rõ phẩm này là hiểu toàn bộ kinh. Nhưng xét văn dưới thì xe trâu ở quả, tức Bồ-đề, văn dưới chỉ nói trí ở trong nhân. Ba thừa cưỡi nhân này thẳng đến đạo tràng. Lại lý tuy vậy mà trong các kinh luận thường nói trí tuệ lý tánh Niết-bàn cho là Nhất thừa, Nhất thừa là căn bản nên như Vô Lượng Nghóa. Giải thích thứ hai: Nay bốn nghóa này đều dựa vào thể của pháp thân trí tuệ Phật tánh để làm Nhất thừa. Kinh Niết-bàn chép: Đại sự đó chính là Phật tánh. Lại rốt ráo có hai: Trang nghiêm rốt ráo. Rốt ráo rốt ráo. Trang nghiêm rốt ráo nghóa là sáu Ba-la-mật. Rốt ráo rốt ráo: Là tất cả chúng sanh sở đắc Nhất thừa. Nhất thừa tức là Phật tánh. Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh đều có Nhất thừa. Vì vô minh che lấp nên không thể nhận biết được. Cho nên biết Phật tánh tức là tri kiến, tức là Nhất thừa. Nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh đó tức là khai. Chỉ bày phân biệt gọi là Thị. Đây là pháp Phật tánh, là tánh của báo thân Phật, là tánh nhân, tánh duyên, tánh lý, tánh hành, tánh của người gốc lành, người bất gốc lành… các tánh này gọi là Thị, cho nên kinh Niết-bàn chép: “Như trong nhà cô gái nghèo có nhiều kho vàng ròng. Trong nhà mọi người đều không biết. Lúc này có một người khéo biết phương tiện vừa đến, mới bảo nhà ấy đào lấy vàng lên, người nữ trông thấy lòng rất vui mừng, sanh tâm kính mến tôn trọng người này. Người Thiện nam! Phật tánh của chúng sanh cũng lại như vậy. Tất cả chúng sanh không thể biết được. Như kho vàng kia cô gái nghèo kia không thể biết. Người Thiện nam! Nay ta chỉ khắp cho tất cả chúng sanh biết mình có Phật tánh. Người khéo dùng phương tiện đó tức là Như lai. Cô gái nghèo là vô lượng chúng sanh, kho vàng rồng ấy là Phật tánh. Phật dùng đủ loại phương tiện phân biệt để chúng sanh hiểu, gọi đó là ngộ. Khuyên vật khởi tu để chứng nhập nên gọi là nhập. Nếu nương vào giải thích này, thì trong phẩm Thí dụ nói: “Xe trâu đều cho, Ta vì các con mà tạo” bèn trở thành trái với nghóa này. Giải thích thứ ba: Ba thứ trước là y theo ba việc Quả Phật Đại bát Niết-bàn mà giải thích. Kinh Niết-bàn quyển hai chép: Ta nay nên khiến cho tất cả chúng sanh, vì Phật tử bốn bộ chúng, thảy đều an trú trong bí mật tạng. Ta cũng an trú trong đó mà nhập Niết-bàn. Sao gọi là tạng bí mật. Như ba điểm của chữ y, để ngang không thành chữ y, dọc cũng không thành, như ba mắt trên mặt Ma-hê-thủ-la, mới thành chữ y, ba điểm nếu riêng biệt cũng không thành. Ta cũng thế, pháp giải thoát chẳng phải Niết-bàn. Thân Như lai cũng chẳng phải Niết-bàn. Ma-ha Bát-nhã cũng chẳng phải Niết-bàn. Ba pháp đều khác cũng chẳng phải Niết-bàn. Nay ta an trú vào ba pháp như thế là vì chúng sanh cho nên gọi là nhập Niết-bàn, như chữ y ở đời. Trong đây ý nói là: Tiếng Phạn chữ y trên có hai điểm, dưới một điểm, tợ như chữ phẩm để ngược. Để ngang như có chứng trước sau, để dọc như có ba cấp bậc, tức chữ y có ngang dọc, đều không phải, để riêng cũng chẳng phải chữ y. Nếu cả ba hòa hợp không dọc không ngang cũng không cách biệt. Hòa hợp ba điểm không phải một, không phải khác. Như ba mắt trên mặt trời Đại Tự Tại. Trên trán một, dưới mỗi bên chân mày có một. Phật nhập Niết-bàn cũng giống như thế. Ma-ha Bát-nhã là trí năng chứng, thân Như lai là pháp thân sở chứng. Giải thoát là do trí năng chứng mà chứng lý pháp thân sở chứng. Hai chướng đã diệt hết thì hai sanh tử (phần đoạn, biến dịch) thân hữu đời vị lai không còn tiếp tục, cũng không còn bị trói buộc, mà tam gọi là trạch diệt, tức là giải thoát. Trong kinh Tạp Tập chép: Diệt đế có ba: Hoặc năng diệt, hoặc sở diệt, hoặc diệt tánh, tức là ba đại Niết-bàn này, Niết-bàn ở trên là năng chứng đạo, như con mắt ở trên trán, pháp thân, giải thoát đều ở dưới là sở chứng nên dụ cho hai mắt ở dưới chân mày. Dùng trí chứng lý để sau đó hoặc khổ thân sau đều dứt trừ không sanh nên gọi là nhập Niết-bàn, là Phật an trụ vào tạng bí mật, không đồng trí liễu sanh không của Nhị thừa, chẳng phải là lý đại tuệ. Chỉ vì lý sanh không vô ngã không gọi là pháp thân. Tuy được phần ít hoặc chủng sanh tử phần đoạn không sanh, tạm trạch diệt mà không được diệt tận tập khí và tri chướng, sanh tử phần đoạn biến dịch chứng quả giải thoát cao quý. Như dọc như ngang chẳng phải là đại Niết-bàn. Thân tan trí diệt kia gọi là nhập. Không hiện thân trí sao có thể gọi là đại. Phật không như thế nên gọi là đại, xưng là tạng bí mật. Người xưa giải thích, chỉ y vào chân như để làm ba việc gọi là Đại Niết-bàn, thì không có nghóa nhập. Thường trú bất hoại vì lợi ích chúng sanh mà dùng trí chứng chơn, giải thoát hết hoặc khổ thì mới gọi là nhập. Đây chính là ý Phật, không giống như Nhị thừa nói không có thân trí mới gọi là nhập, nên Phật tự nói: Cũng như các loài quạ, chim, diều hâu vào hẳn Niết-bàn. Nay giải thích sau đây khéo thuận theo kinh đọc tụng sẽ tự biết . Ma-ha Bát-nhã là khai tri kiến Phật cho nên trong luận chép: Trừ trí Nhất thiết trí thì không có việc gì khác, Nhất thiết trí đó là chứng vào trí hai không. Lại nói người trí chứng các hữu trí trí, Tối thắng diệu này gọi là vô thượng thì không có gì hơn. Pháp thân chính là thị tri kiến Phật. Luận chép: Ba thừa đều bình đẳng, pháp thân Phật tánh đều không khác nhau. Giải thoát là ngộ tri kiến Phật, hai chướng đều dứt, hai sanh tử cũng diệt đó là chân giải thoát. Người Nhị thừa chỉ dứt được một chướng và một sanh tử vô dư, mà không biết như thế. Cho nên luận chép: Nhị thừa không biết được chỗ chân thật , do đó phải khiến cho kia tỏ ngộ. Ba việc trên tức là chứng nhập đại Niết-bàn. Đây là có nhân mà nói nghóa nhập, nên luận chép: Nhập là chỉ rõ hiện không lui sụt địa, cùng vô lượng trí nghiệp, Phật ra đời là muốn cho chúng hữu tình trong Ba thừa tu nghiệp không lui sụt địa, an trú vào kho Bí mật, nhập đại Niết-bàn không vì việc khác. Đây cùng danh tự Niết-bàn thể khác mà tánh không khác. Tất cả đều muốn hành nhân chứng nhập quả vị Phật. Nếu giải thích theo đây đã khế ước với nghóa Hóa thành hướng đến đảo châu báu, còn hợp với trong nhà lửa cưỡi xe trâu đi. Thể đức của Nhất thừa đã gọi là Đại bát Niết-bàn. Hai thân pháp, thân báo thân chánh giác cùng Viên tịch, mỗi thân nhiếp chung đều đầy đủ, cũng gì mà không chỉ trích? Nay ba giải thích trên chỉ nói trí tuệ sở thuyên là Nhất thừa, giáo môn năng thuyên tức thứ lớp như trước nói. Tùy nghi mà nói, ý thú khó hiểu. Lại dùng hoa sen để dụ cho Pháp mầu. Đây là nói việc khai mở nhân. Quả tốt đẹp cũng không sai trái. Nhưng kinh Thắng-man và văn kinh phần nhiều nói chân lý cho là Nhất thừa, căn bản của thừa, thật ra có cả hai thứ. Đối với nghóa thì bao gồm hết mở bày ngộ: Cả ba đều nói về quả Nhất thừa . còn “nhập” thì nói nhân thừa của Phật Nhân thừa tuy có cả ba vô số kiếp, nay chỉ nêu sau kiếp thứ hai. Luận chép: Khiến chứng không lui sụt vị. Cho nên trong kinh Lăng-già, Mười Địa chia làm ba thứ ý sanh thân, như trong chương khác nói. Lại phẩm sau nói: Người thanh văn, Duyên giác, Không lui sụt, Bồ-tát cưỡi xe báu này thẳng đến đạo tràng. Kinh Thắng-man nói: Vô minh vì duyên với nghiệp nhân vô lậu. Có ba thứ ý sanh thân là Bồ-tát Đại Lực , Bích-chi-phật quả A-la-hán. Từ Sơ địa trở xuống thì vẫn còn ở trong phần đoạn sanh tử mà chưa ra khỏi nhà lửa. Còn ở trong cửa nên vẫn bị thiêu đốt, không thể gọi là nhất thừa. Hoặc sau Bát địa gọi là Không lui sụt địa. Luận Du-già chép: Sau Bát địa là ý sanh thân, đắc chắc chắn. Hỏi: Người Nhị thừa quả vị Vô học xe hươu, dê còn ở phần đoạn, nên vẫn còn trong cửa, như tiểu Bồ-tát lẽ ra không ra nhà lửa? Đáp: Nói phần đoạn chính là chưa ra khỏi nhà lửa, nương vào nơi khác, đắc hẳn quả Niết-bàn thì gọi là ra khỏi cửa, không đồng như ở kia. Hỏi: Vì sao nói hai người con đi xe trâu, xe hươu, dê thì gọi là ra khỏi nhà lửa. Còn con lớn đi xe trâu tức Bồ-tát đi xe ngưu thì chưa ra khỏi nhà lửa? Đáp: Người Nhị thừa hoặc nghiệp đã dứt nên nói là ra khỏi nhà lửa. Bồ tát ở kiếp sơ thì hoặc vẫn còn thì sao gọi là ra khỏi. Lại quả thất địa phần đoạn đã hết một đời sanh trở lại đây cũng gọi là ra khỏi. Nhị thừa cũng đồng như vậy. Trở xuống, không phải vì còn sanh nhiều nên như hạng Hữu học. Vậy khi ra khỏi nhà lửa mới lên xe trâu. Nhưng trong văn kinh này, trong phần sơ khai nêu chung về pháp cao siêu đắc quả thanh tịnh. Ba phần sau thì biệt hiển nên lược không nói. Kinh: “Xá-lợi-phất! cho đến xuất hiện ở đời” là phần kết. Kinh: “Phật bảo Xá-lợi-phất cho đến thị ngộ chúng sanh”. - Tán: Đây là giải thích phần trước, nói vì sao có ý này. Thân chúng sanh sẽ là có Phật tánh, cho nên việc giáo hóa chỉ là giáo hóa Bồ-tát. Những gì đã làm đều vì việc này, chỉ dùng tri kiến Phật để khai ngộ chúng sanh. Luận lần thứ hai giải thích ba phần: Thị, ngộ, nhập nói: Thị là vì hàng Bồ-tát có nghi nên khiến cho biết tu hành như thật… Nghóa là có Bồ-tát nghi ngờ không có Phật tánh, nên không chịu tu hành. Nay Phật thị hiện để giáo hóa chúng Bồ-tát đó để các vị biết là trong Ba thừa đều có Phật tánh. Để dứt trừ nghi kia mà tu hành như thật. Lại ngộ nhập đó là người chưa phát tâm Bồ-đề khiến cho họ phát tâm, đâu giải thích nghóa ngộ. Người đã phát tâm khiến nhập vào pháp đạo. Đây là giải thích nghóa nhập, nói nhân quả hết. Lại giải thích ngộ nhập: Ngộ là khiến cho chúng sanh ngoại đạo giác ngộ, nhập là đắc quả Thanh văn nhập đại Bồ-đề, bỏ tà về chánh, bỏ quyền lấy thật. <篇> KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 4 PHẦN ĐẦU Nghóa Nhất thừa chính là tông của bộ kinh, nay tóm lược chia ra năm môn: Nêu thể tánh. Giải thích danh tự. Nói về ý nói. Nói về sự khác nhau. Nói về hỏi đáp. Thể tánh lược có ba thứ: Thể bao gồm. Thể tùy theo thù thắng. Thể chân thật thể. Thể bao gồm là: Tất cả vô lậu hoặc là chủng hoặc là hiện. Hữu vi, vô vi, hoặc nhân hoặc quả, căn bản, phương tiện có thể thành tựu, đức của Phật đều gọi là Nhất thừa. Nhất thừa tức là Đại thừa. Đại thừa tức là Vô thượng thừa. Cho nên kinh Thắng-man chép: Nhất thừa tức là Đại thừa. Trong luận này nói khai là nghóa Vô thượng. Nói theo luận Trung Biên thì phẩm Vô thượng thừa có ba Vô thượng: Chánh hạnh vô thượng: Trong Mười độ tùy tu khác nhau có sáu chánh hạnh. Sở duyên vô thượng có mười hai thứ sở duyên. Tu chứng vô thượng: Nghóa là trong chủng tánh tu chứng có mười thứ tu chứng, nhiếp chung tất cả các cảnh hạnh quả vốn có của Bồ tát. Cho nên trong kinh Thắng-man nói: A-la-hán và Bích-chi-phật vẫn còn lo sợ, còn quy y. Từ trí không rốt ráo thì gọi là hướng cõi Niết- bàn. Lại nói chánh pháp trụ, chánh pháp diệt, Ba-la-đề-mộc-xoa, Tỳ- ni, xuất gia, thọ Cụ túc. Sáu pháp này là nói vì Đại thừa . Cho nên biết là tất cả phương tiện căn bản, tất cả vô lậu hoặc chủng hoặc hiện. Hữu vi vô vi hoặc nhân hoặc quả, đều thành đức của Phật nên gọi là Nhất thừa. Ba thứ ý sanh thân đều xếp vào sơ địa. Thể tùy theo thù thắng: Đây có sáu thứ: Nhiếp sự về lý. Trong kinh Niết-bàn Thắng-man thường gọi Phật tánh pháp thân chân lý là Nhất thừa. Cho nên trong kinh Thắng- man chép: Nhất thừa tức là Đại thừa. Đại thừa tức là Phật thừa. Phật thừa đó là cảnh giới Niết-bàn. Lại nói trong Hằng sa kiếp hành sáu Ba- la-mật, không bằng người nghe rồi thọ trì đọc tụng cho đến chấp trì kinh quyển. Huống chi có người vì người khác nói rộng kinh này, dùng hạnh hữu vi so với thừa vô vi. Kinh Niết bàn chép: Nhất thừa là Phật tánh. Đây là diệt Hóa thành mà đến Đảo châu báu, chỉ gọi pháp thân chân như bình đẳng là Nhất thừa. Lôi kéo trí khác trở về trí: Cũng lấy chân trí mà gọi là Nhất thừa. Văn trên nói là: Phương tiện tri kiến đều đầy đủ. Các Bồ-tát bất thối số như Hằng sa cùng nhất tâm tư duy cần cầu cũng không thể đo lường trí Phật thể của trí phần nhiều là thể chánh, hậu đắc. Nếu ở nhân vị thì trí kém thức mạnh. Ở quả vị thí trí mạnh thức kém. Ẩn yếu kém theo cao siêu: Kinh nói: Vì trí tuệ Phật nên Chư Phật xuất hiện ở đời, chỉ một sự thật này, hai thứ còn lại không phải thật. Đó là pháp trụ, pháp vị, tướng thế gian thường trụ. Ở đạo tràng biết rồi, Đạo sư phương tiện nói. Trong phẩm Phân biệt công đức chép: Có người vì đạo Vô thượng chánh đẳng Bồ đề thật hành năm pháp Ba-la- mật, không bằng có người một niệm sanh tín, công đức sở đắc không thể thí dụ được. Do vì hai thứ lý trí của quả vị Phật gọi là Nhất thừa. Bổn hữu của lý là ngưng đọng. Lìa hết trói buộc thì gọi là Niết-bàn. Trí chiếu mới sanh ra quả viên mãn gọi là Chánh giác. Đó là cội nguồn của trí đức, diệu bổn của Tam minh. Cho nên nói Phật vì tri kiến mà xuất hiện ở đời. Dùng hai lý trí làm thể Nhất thừa, trí tánh trí tướng hợp lại gọi là trí. Hai vận dụng rộng: Chỉ lấy nhân trí mà gọi là Nhất thừa, như trong thí dụ nhà lửa, cùng các chúng Thanh văn Bồ-tát cưỡi xe báu này mà thẳng đến đạo tràng, chỉ có nhân lành. Thù thắng vượt ra thể phân đoạn: Chung ở nhân quả mà ra khỏi sanh tử phần đoạn , tất cả lý trí để làm Nhất thừa. Trong bốn nghóa khai, thị, ngộ, nhập thì ba nghóa trước là hai quả, một nghóa sau là hai nhân, như trước đã nói, nên lượt qua không nói. Kinh Thắng-man cũng chép: Như thủ làm duyên nghiệp Hữu lậu làm tiếp nối hữu sau mà sanh ra tam hữu. Như thế vô minh tập địa làm duyên, nghiệp vô lậu làm nhân thì có A-la-hán, Độc giác Bồ tát đã được tự tại ba thứ ý sanh thân. Cho nên mà sanh ra. Vậy ý sanh thân là thừa của sở thừa gọi là trong nhân có hai. Trong nhiếp Đại thừa thì muôn hạnh chân như đều gọi là Đại thừa. Dẫn nhiếp cao siêu: Vì nói bày hai ý yếu chỉ gọi là Nhất thừa. Giáo là tùy theo vật mà lập ra ý thú nhiệm màu khó biết. Lý thì mượn trí thể sâu xa chẳng thể lường. Thế nên đầu phẩm Phương tiện gọi trí tuệ sở thuyên và giáo môn năng thuyên là Nhất thừa. Trong kinh Vô Lượng Nghóa có mười bảy tên gọi thì tên gọi thứ mười bốn gọi là Nhất thừa. Do đây mà hoa sen, luận chép có hai nghóa: Một là thể lên khỏi mặt nước. Hai là khai nở. Trí tuệ dụ đầu và tuệ môn dụ sau, nếu chỉ lấy chân như làm Nhất thừa vươn ra khỏi mặt nước thì mất đi công năng thứ hai là khai nở. Nhưng hoa sen ở đây có đủ bốn nghóa, vì sao pháp chỉ có hai thứ. Thể chân thật: Căn bản Đại thừa giáo lý hành, quả và năng nhập phương tiện Đại thừa, bốn pháp đều gọi là Nhất thừa. Vì đều có công năng vận tải. Giáo Căn bản là: Đầu phẩm này nói: “Môn Trí tuệ đó khó hiểu khó nhập”. Luận này giải thích: A-hàm sâu xa, lấy nghóa hoa nở để dụ cho pháp mầu. Kinh dưới cũng nói kinh Pháp Hoa chứa nghóa sâu xa, bền chắc. Trong Nhiếp Đại Thừa nói: Là kinh A-tỳ-đạt-ma Đại Thừa v.v… Phương tiện giáo là: Cuối phẩm này nói: Hoặc gọi là Tu-đa-la, Già-đà, Bổn sự bổn sanh, vị tằng hữu. Cũng gọi là nhân duyên thí dụ và Kỳ-dạ, Ưu-bà-đề-xá kinh, chín bộ pháp này của ta đều thể nhập vào Đại thừa làm gốc. Thuận theo chúng sanh nói vì thế nói kinh này. Kinh Thắng-man cũng nói: “Chánh pháp trụ là Đại thừa, nên nói sáu xứ này: Tam Tạng Tiểu thừa đều là đại phương tiện”. Căn bản lý: Là pháp tánh chân như, các hạnh như sáu độ… nương theo chân lý này mà có chỗ đến, nên gọi là Đại thừa. Trong kinh này chép: “Trí tuệ của Chư Phật sâu xa vô lượng”. Văn dưới cũng nói là “pháp trụ, pháp vị, tướng thế gian thường trụ; nơi đạo tràng biết rồi Đạo sư phương tiện nói.” luận này chép: Niệm quán là người Đại thừa quán, pháp vô ngã pháp giới chân như bình đẳng cho nên vô tánh, cũng nói là hoặc nương vào đại tánh nên gọi là Đại thừa. Luận Biện Trung Biên chép: Pháp giới chân như gọi là Vô thượng sở duyên. Phương tiện lý: Là lý bốn đế. Nhị thừa sở quán đều là lý phương tiện. Kinh Thắng-man chép: Thanh văn biết hữu tác bốn đế. Phật biết vô tác Bốn đế. Kinh Niết-bàn cũng nói Thanh văn hữu khổ hữu đế mà không có thật. Bồ-tát thì có đầy đủ. Luận này cũng nói: Niệm quán là Thanh văn quán người vô ngã. Do hai lý này đều là lý. Căn bản hành Nhất thừa là: Sáu độ… Bồ-tát muôn hạnh. Bồ-tát Địa chép: Thất địa tu bốn hạnh Bồ-tát. Phẩm An lạc hạnh đều là Bồ- tát hạnh. Lại nói thừa là xe báu thẳng đến đạo tràng, tức là hành Đại thừa. Nhiếp Đại thừa chép: Vừa thừa vừa đại nên gọi là Đại thừa. Biện Trung Biên chep: Mười Ba-la-mật là chánh hạnh Vô thượng. Phương tiện hành: Kinh Thắng-man cũng nói chánh pháp trụ vì Đại thừa mà nói. Theo Tam Tạng giáo thì tiến thiện diệt ác tu hạnh vô lậu đều gọi là hành Đại thừa. Luận Pháp Hoa chép: Phương tiện là Thanh văn quán ấm, giới, nhập, nhàm khổ và xa lìa khổ. Bồ-tát tu sáu độ bốn nhiếp, hai lợi hành. Do hai hạnh này đều gọi là Nhất thừa. Căn bản quả: Thân Phật sẵn có Bồ-tát Niết-bàn. Tức là hai thân pháp báo đã nói ở trước và hai kiến lý trí. Kinh chép: “Nói trí tuệ Phật, cho nên Phật xuất hiện ở đời, chỉ một sự thật này, hai khác đều chẳng phải chân thật.” Lại nói: “Pháp trụ, pháp vị, tướng thế gian thường trụ. Ở đạo tràng biết rồi Đạo sư phương tiện chép.” Lại trong phẩm Thọ lượng chép: “Pháp, báo, hóa thân đều là quả Nhất thừa.” Biện Trung Biên nói trong mười pháp tu chứng, thứ bảy là Tịnh độ, thứ chín là cõi Phật, thứ mười là thị hiện Bồ-đề. Quả Phương tiện đó là Niết-bàn, Bồ-đề của Nhị thừa. Kinh này nói: Sở hành của các ông là Bồ-tát đạo. Xe dê, xe hươu là vì người cầu xe trâu để ra khỏi nhà lửa, nên phương tiện đưa cho. Hóa thành ở giữa đường là nơi nghỉ ngơi để đến Đảo châu báu, do đó mà nói. Chỉ có một mà không có thừa nào khác. Kinh Thắng-man cũng nói: Bốn trí Thanh văn, Duyên giác không rốt ráo thì gọi là hướng đến cõi Niết bàn. Nói được nơi nghỉ ngơi là dùng bốn trí rốt ráo mà đắc Niết-bàn. Đó là phương tiện của Phật. Quả Nhị thừa cũng là Nhất thừa. Do người đốn ngộ chánh là học căn bản giáo, lý, hạnh, quả. Gồm vì hàng phục giáo hóa người Nhị thừa: Nên cũng học các phương tiện giáo lý, hạnh quả. Đây là hàng tiệm ngộ mới học cho phương tiện rồi sau đó hồi tâm mới học căn bản, pháp sở học đồng vào trước sau hoàn toàn khác nhau. Cho nên biết chỉ có hai thứ Phật tánh, hai nhân lý trí, vô lậu hiện, chủng, hữu vi, vô vi, căn bản, phương tiện, tất cả giáo lý hạnh quả có thể thành Quả Phật đều là thể Nhất thừa. Hơn nữa, còn lấy các công đức hữu lậu Địa tiền và Mười địa, mà làm Nhất thừa vì không trái với Chánh lý. Luận Kinh Pháp Hoa và các bộ giáo lý khác, tùy nương vào một môn trong ba thứ thể này, mà nêu ra thể, chưa hẳn phải nhiếp hết. Nếu y vào giải thích trên bao gồm chung các văn kinh không đâu mà không cùng tận. Nhưng thể tánh này gồm có năm môn: Thuyên chỉ phân biệt chung cả giáo và lý. Nhân quả phân biệt chung cả hạnh và quả. Trí phước phân biệt chung phước và trí. Giác tịch phân biệt chung Diệt, Đạo đế Bồ-đề Niết-bàn. Nhị lợi phân biệt chung cả tự lợi lợi tha. Đây nói Nhất thừa nên có nghóa thông suốt. Nếu nói Phật thừa thì đề cao quả mà thủ nhiếp nhân. Nếu nói Bồ-tát thừa thì nêu nhân nhiếp quả; xưa danh không thông mà nghóa bao gồm có. Lại do hành giả tu tập hai trí chánh thể, hậu đắc, quán hai lý sanh không, pháp không, dứt hai chướng phiền não, sở tri, dứt hai sanh tử phần đoạn, biến dịch, chứng được hai quả Bồ- đề, Niết-bàn, tròn đầy đắc hai diệt: Vô dư, vô trụ, hành hai lợi: Tự lợi, lợi tha, đó gọi là quả mãn. Dứt hai chướng thuộc về tập đế, dứt hai sanh tử thuộc về khổ đế, tu hai trí, chứng Bồ-đề thuộc về Đạo đế, quán hai lý đắc hai diệt, chứng Niết-bàn là sở nhiếp của diệt đe. Sở hành nhị lợi nhiếp cả diệt đạo đế. Hợp diệt đạo này gọi là Nhất thừa. Cho nên Luận này giải thích ở trong giá là: Không Nhị thừa đó là không có Niết-bàn của Nhị thừa. chỉ có Phật mới chứng đại Bồ-đề. Rốt ráo đầy đủ tất cả trí tuệ gọi là Đại Niết-bàn, chỉ một Phật thừa. Kinh Bát-nhã thì lấy ba việc vô minh là Ma-ha Bát-nhã pháp thân, giải thoát gọi là Đại Niết-bàn. Cho nên Nhất thừa lấy nhị đế làm thể. Giải thích danh tự: Thừa có nghóa vận chuyển. Cho nên trong Quảng Nhã gọi là Thừa giá (cưỡi). Chu Lễ nói: Thừa là chuyển chở, chuyên chở hành giả đến bờ kia. Cho nên kinh này nói: Cưỡi xe báu này thẳng đến đạo tràng. Nhiếp luận cũng nói: Sáu độ muôn hạnh vừa là thừa vừa là đại. Pháp tánh chân như là sở thừa đại tánh. Sự, lý đều có thể vận chuyển hành giả, tự vận chuyển mình và người khác đến bờ kia là thừa. Hỏi: Nhân hành có thể vận chuyển đến quả vị thì gọi là thừa. Quả Phật tự vận chuyển nghỉ ngơi, lẽ ra chẳng phải thể của thừa ấy. Đáp: Có năm nghóa: Vận chuyển nên gọi là thừa. Trong nhân có hai nghóa vận chuyển đến quả, và rộng vận chuyển người khác. Do đây cũng gọi là thừa. Là thể, năng, có cả hai nghóa vận. Năng thể đều gọi là thừa. Trong quả thể có năng chẳng phải không có năng cũng thuộc về thừa. Như cắt thì gọi là dao có công năng cắt tức thuộc về dao, không cần phải thấy việc cắt có công năng không phải là dao. Thể năng quả đức của Phật đều có hai nghóa vận chuyển. Chẳng cần phải rộng dùng mới gọi là thừa. Nhị thừa tự mình vận chuyển ít còn gọi là thừa. Huống chi quả Phật vận chuyển nhiều người đâu lý nào chẳng thuộc về thừa. Trong nhân thì trí và lý đều vận chuyển cả hai dụng đều cao quý nên gọi là thừa. Trong quả thì trí và lý do tu mà thành do chủng loại của thừa mà cũng thuộc về. Trong nhân hai nghóa vận chuyển thường tăng tiến, tác dụng hiện hành cao siêu được gọi là thừa. Trong quả tự vận chuyển đến tận đời vị lai khiến người khác cùng tăng tiến được gọi là thừa. Bốn nghóa đầu tùy theo người mà không chánh đáp. Một nghóa sau tùy theo mình mà chánh đáp. Cho nên Đối pháp luận chép: Tự tha cùng có lợi, mà làm sở y. Nhất thừa có ba nghóa: Chọn riêng nên gọi là nhất. Phá sự phân biệt nên gọi là nhất. Hội biệt nên gọi là nhất. Chọn riêng gọi là nhất, trước kia nói ba bây giờ nói một. Cho nên biết lý sở thuyên là nhất mà là Thật. Giáo năng thuyên là hai tức gọi là quyền. Không phân biệt hai lý vì là rốt ráo. Vô ngã, giải thoát tuy đều bình đẳng, nhưng đạt đến Quả Phật mới gọi là rất rốt ráo lý sở thuyên của Phật trí gọi là nhất, chẳng phân biệt, ba chỉ không có hai cùng cực. Luận giải thích là: Không có hai thừa đó là không có hai thể Niết- bàn. Nhưng trong kinh Phật nói: Ta lập ra phương tiện khiến được nhập vào trí Phật . Lại nói: Ở trong nhà lửa trưởng giả hứa cho ba xe. Sau khi ra khỏi cửa đưa xe trâu. Lại nói: Làm người hốt phân trải qua hai mươi năm, giả danh làm con. Cho nên người Nhị thừa chính là nhân đứa con thuộc về đích thật sau được giao gia sản. Lại dùng quả nhất, phân biệt với nhân ba. Tức có hai phân biệt: Vì lý chọn giáo. Vì quả chọn nhân tức nói: “Sở hành của các ông là đạo Bồ- tát”. Vì Phá phân biệt nên gọi là nhất. Người Nhị thừa không biết Nhị thừa đó là phương tiện, nên chấp quả Nhị thừa cho là thật rốt ráo. Nay nói Niết-bàn Nhị thừa chỉ là Hóa thành, nói Bồ-đề của Nhị thừa chỉ là xe hươu, xe dê phương tiện quyền giáo lập ra, chẳng phải là quả sở đắc sở chứng, Bồ-đề Niết-bàn rốt ráo chân thật cao quý. Phá tình chấp kia có hai quả rốt ráo, cho nên nói là nhất. Tức trong kinh nói: “Người cầu Ba thừa có lưới hoài nghi ”. Phật dạy họ trừ diệt khiến không còn nghi ngờ. Ngài Thu Tử cũng nói: “Vì chúng con không hiểu Phật tùy nghi dùng phương tiện nói pháp. Đầu tiên nghe pháp Phật liền tin nhận, cho đến nay đã dứt hết nghi hối!” Ngài Ca-diếp cũng nói: “Chúng con hôm nay đã đắc Niết-bàn, chứng pháp Bồ-tát, không còn tâm thích nghe pháp khác”. Nhiếp Luận cũng nói: Người Nhị thừa tác ý dứt trừ bốn chướng, tức là chấp vào đây. Luận này này quyển cuối cũng chép: Phẩm Phương tiện thị hiện có năm phần, phá hai nêu một, không nói phá cả ba. Hoặc có thuyết nói: Phá cả ba chấp chứ chẳng phải chỉ phá hai. Như Tát-bà- đa chấp vào hóa thân Phật cho là Phật thật. Nay nói vì hóa thân, cho nên phá cả ba chấp. Giải thích này cũng không đúng. Kinh Pháp Hoa chỉ lấy phần sở tu sở đắc Nhất thừa làm tông. Cùng phá thừa kia để quy về Nhất thừa. Chẳng phải lấy một thân sở tri làm tông, cùng phá thân kia để nhập vào một thân, lại không chấp vào hóa thân kia là cùng tột mà cầu, càng không hướng cầu thân khác. Nay phá chấp đó để hướng cầu về một thân nên chỉ phá chấp Nhị thừa mà không phá chấp hai thân khác. Cũng có nói giải thích: Xưa nghe nói ba, chấp ba đều là tột cùng. Nay nói một tột cùng là để phá chấp ba. Đây là từ Bồ-tát Địa tiền khởi lên. Nếu phá chấp Đại thừa lại nói là Nhất thừa, càng tăng thêm bịnh chấp sao gọi là phá. Lại khi chưa ra khỏi nhà lửa thì hứa cho xe trâu, cũng là phá Đại thừa, sau khi ra khỏi nhà, thì cho xe gì? Nếu nói cho xe trâu trắng mà bỏ xe trâu vàng cũ thì nên bỏ đốn học tiệm, tướng nhân hành của trâu trắng trâu vàng đâu có khác, vì đã trở về loại trâu cũ, là nói không thể phá Đại. Nếu chấp một là rốt ráo không trái với hướng đại, thì đâu cần phá. Vì chấp Nhị thừa là cùng cực không hướng về Đại thừa, cho nên phải phá. Nếu tùy theo vị đắc liền chấp làm rốt ráo, chưa thấy hướng về Đại thừa, tức trong nhân có chấp này. Dù cho Trưởng giả hứa cho mà cũng phá, tức nên phá vô cùng. Do đây chỉ phá chấp Nhị thừa là rốt ráo. Lại chẳng phải phá chấp bốn thừa làm rốt ráo. Vì không có chủng tánh nói thừa trời, người , giải thích có bốn thừa mà không chấp là cùng cực, chấp hai thừa là cùng cực thì không khác với phá hai thừa trên, tức là người không chấp thừa trời, người là cùng cực. Người chấp thừa trời, người không hiểu thừa, hiểu thừa thì không chấp. Nếu một đối với bốn, mà một là năng lực phương tiện nên phá chấp một thừa mà quy về bốn thừa. Cũng chẳng phải phá năm. Chấp thừa bất định là đồng chấp cả ba vậy. Do đây mà kinh Thắng-man chỉ nói A-la-hán, Bích-chi-phật có lo sợ, có quy y. Nói đắc bốn trí và Niết-bàn đó là Phật phương tiện mà nói. Kinh này cũng nói chỉ một sự thật này, hai thứ còn lại chẳng phải thật. Thầm sai hai người và nơi nghỉ nói là hai. Dê hươu chẳng phải thật nên không nói; nói ba là từ hơn đến kém. Phật thừa là thứ nhất, Độc giác là thứ hai. Thanh văn thứ ba. Không có thứ hai Độc giác và thứ ba Thanh văn, chẳng phải không có thể rốt ráo Đại thừa trong Ba thừa. Xét trong bổn văn Phạn nói không có thứ hai thứ ba. Nay dịch lược không hai cũng không ba. Có người hỏi: Kinh nói Biệt thể Tam bảo, không phá biệt thể mà quy về nhất thể. Vì sao phá Nhị thừa mà quy về Nhất thừa? Đây cũng không đúng. Nếu chấp biệt thể Tam bảo làm rốt ráo, cũng đồng là phá, hoặc thể biệt tướng Tam bảo cũng không có ba rốt ráo. Tuy như vậy mà cũng không cầu trụ vào biệt thể. Nhưng có thể hội biết thể nhập vào đồng thể, rộng như trong kinh nói chẳng phải Tông quyền thật. Vì hội biệt cho nên gọi là nhất, giáo lý hạnh quả đều có căn bản và dùng phương tiện. Hội tiệm ngộ là trước người Nhị thừa tu thành đắc giáo lý, hành quả làm Đại phương tiện thừa vào luận này thì từ sơ địa trở lên đã lìa hết phần đoạn sanh tử. Từ kiến đạo trở xuống thì giáo lý hạnh quả là nhân căn bản của không lui sụt địa. Chung hợp hết các văn thì hội về một có bốn: Hội giáo: Kinh Vô Cấu Xứng chép: Phật dùng một âm thanh giảng nói pháp, chúng sanh nơi nơi đều tùy theo đó mà hiểu, phần dưới kinh này nói: Một cơn mưa gội nhuần, ba cỏ hai cây sanh trưởng không đồng. Đây hội giáo đồng mà căn cơ có khác. Ba thừa chấp giáo có riêng có khắp. Hội lý: Luận Bảo Tánh chép: Như ba loài thú là ngựa, voi và thỏ bơi qua sông. Tánh sông vốn không khác mà có sâu cạn. Lại kinh dưới có nói: Ví như ở vùng cao nguyên phải đục đá để lấy nước. Nếu thấy đất khô thì biết nước còn xa. Nếu thấy đất ẩm thì biết cách nước không xa. Nếu thấy bùn thì biết có nước đã rất gần. Tánh nước không khác mà được nước có khác. Đây hội lý đồng mà chứng có khác. Ba thừa chứng lý có viên có khuyết. Hội hành. Ngài Thu Tử tự nói pháp rốt ráo là đạo sở hành. Phật cũng nói: Ta lập bày phương tiện, khiến được nhập vào trí tuệ Phật. Kinh Thắng-man chép: Sáu xứ này là Đại thừa. Thế nên biết tuy hành đồng mà tu có khác. Ba thừa tu hành có hoàn toàn, có từng phần. Hội quả: Kinh này nói nơi nghỉ có hai: Giữa đường lập ra hóa thành, rồi từ đó đưa đến đảo châu báu mới là chỗ rốt ráo. Vì cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa. Quyền biến mà lập ra xe dê xe hươu, sau cùng thì cho xe trâu. Kinh Thắng-man cũng chép: Bốn trí của Thanh văn, Duyên giác là không rốt ráo gọi là hương cõi Niết-bàn. Tức hội cả Bồ-đề Niết-bàn của Nhị thừa, hoặc trí hoặc lý mà quy về Nhất thừa, cho nên biết quả đồng mà chứng có khác. Ba thừa lấy quả thì có trước có sau. Tuy y vào các giáo hội chung bốn nghóa này, nhưng trong kinh Pháp Hoa hiển hội giáo lý, mà thầm hội hành quả. Hội giáo ly, tức trước đã nêu trí tuệ Chư Phật và trí tuệ môn. Một trận mưa thấm nhuần tức hội giáo. Xe trâu, Đảo châu báu là hội lý. Đây dùng tên sở thuyên, gọi đây làm lý mà chẳng cần chân như. Muốn hiển bày pháp sở đắc sâu xa khó hiểu. Có chỗ nói ý thú khó biết chỗ đắc pháp đạo tràng không thể thưa hỏi. Ý của ta khó thể suy lường cũng không ai có thể hỏi được. Đây là nêu kinh Pháp Hoa mở cửa phương tiện, hiển bày tướng chân thật. Tức là Pháp là Hoa khai mở đẹp hiện ra. Mật cũng đồng thông hội hai thứ hành quả. “Ta lập ra phương tiện là để chúng sanh đắc nhập Phật tuệ, gỡi xe báu này, thẳng đến đạo tràng tức là hội hành. Trong đây lập ra hóa thành để đến đảo châu báu là hội quả. Do đó mà trong kinh Thắng-man hiển hội hành quả, Lục xứ chính là vì Đại thừa mà nói, chính là hội hành. Nhị thừa bốn trí chẳng phải là rốt ráo nên gọi là hướng đến cõi, Niết bàn tức là hội quả. Kinh Thắng-man thì chánh nói nhân quả Nhất thừa. Hội rõ về hành quả mà hội thầm về giáo lý. Kinh Pháp Hoa chánh là hiển bày: Xưa quyền mà nay thật, nên hiển hội giáo lý, khiến cho tu chứng mật hội hành quả. Do đây Nhất thừa căn cứ ở thật, mà thông hội cả giáo lý hành quả để giải thích chung các văn đối với lý. Cho nên nói hội biệt là nhất. Kinh này chính là nêu nhân quả Nhất thừa làm thể chân thừa, giáo là phương tiện, cho nên không trái ngược. Nay tuy nghóa ít chưa động đến biển trí, như người ngu hơi biết cũng là tuyệt ở xưa nay. Vậy người trí thức sâu rộng nên tự hiểu rõ. Trong ba nghóa thì hai nghóa đầu giải thích chung về định tánh, tánh bất định. Một nghóa sau thường y vào tánh bất định . Đại thừa Vô thượng tuy cũng là Nhất thừa, nhưng không phải điều kinh cần muốn nói nên lược không nói. Nói ý nói theo: Nhiếp Đại thừa nói Vì dẫn nhiếp một loại Và nhậm trì còn lại Do chủng tánh bất định Chư Phật nói Nhất thừa Pháp, vô ngã, giải thoát … Nên chủng tánh khác nhau Đắc hai ý lạc hóa Rốt ráo nói Nhất thừa. Mười nhân trong đây: Dẫn nhiếp một loại chủng tánh bất định của Thanh văn Độc giác, khiến cho nương về Đại thừa nhập Niết-bàn. Cho nên hội Pháp Hoa phần nhiều nói pháp Nhất thừa cho những vị này. Trong luận Pháp Hoa thì nói: Tâm lui sụt rồi lại phát Bồ-đề tâm do vì các ngài như Thu Tử trước kia đều cầu Đại thừa rồi lui sụt tâm tu tiểu quả, nên gọi là: Thoái rồi lại phát tâm chẳng phải là hạng chủng tánh bất định đều thoái rồi lại phát tâm, nên đây gọi là chủng tánh bất định. Là nhậm trì pháp còn lại. Bất định chủng tánh, tức Bồ-tát Địa tiền Lục trụ trở xuống còn là thoái vị, sợ ở sự tinh tấn của Đại thừa lại hoại, lui sụt dựa vào Nhị thừa mà tám Niết-bàn. Cho nên kinh này nói: Bồ-tát nghe pháp thì lưới nghi đều trừ. Luận này cũng nói: Như lai vì hai thứ người mà giải thích. Hai thứ này đều là chủng tánh bất định. Vì hai thứ này nên Phật nói Nhất thừa. Pháp đẳng: Hành thừa tuy khác mà hướng đến chân như không khác nhau. Cho nên trong luận Pháp Hoa nói cũng đồng với kinh này. Vô ngã: Nếu có Bổ-đặc-già-la chân thật , có thể có thừa khác nhau. Ta đã không khác, nên nói Nhất thừa. Giải thoát: Ba thừa cùng ở trong chướng phiền não mà được hiểu thoát, giải thoát không có sai khác. Tánh khác nhau: Chủng tánh bất định trong Nhị thừa có khác nhau. Thân Thanh văn này có đầy đủ chủng tánh Thanh văn và Phật. Do có tánh này cho nên nói Nhất thừa. Phật cũng đồng tự thể ý lạc với chúng hữu tình. Nói ta tức là kia. Kia tức là ta. Ta đã thành Phật, kia cũng thành Phật. Nhị thừa cũng đồng tự thể ý lạc với Chư Phật. Cùng tên Bồ- tát mà thọ ký riêng. Nghóa là Phật ở trong hội này cho Nhị thừa thọ ký riêng. Vì giúp cho họ nhiếp được ý lạc như thế. Chúng ta và Phật bình đẳng không hai. Lại trong hội này có các Bồ-tát cùng đồng gọi như họ. Một khi Phật nói thì bao gồm cả hai lợi ích. Nghóa là Nhị thừa đắc được tự thể ý lạc đồng như Phật. Và các Bồ-tát được thọ ký . Hóa: Như Thế Tôn nói “Tỳ-kheo các thầy, ta nhớ xưa kia, vô lượng trăm ngàn kiếp, y vào thừa Thanh văn mà nhập Niết-bàn. Nói vì sao đã thành Phật, sau lại nương vào Nhị thừa mà đắc nhập Niết-bàn. Tức vì điều phục giáo hóa Thanh văn. Chư Phật Bồ-tát tự hóa thân mình đồng Thanh văn kia. Ở trong cõi Vô dư y hiện ra nhập Niết-bàn, trải qua trăm ngàn kiếp đam mê rượu vắng lặng nằm say sưa . Sau từ hội kia khởi hiện mà được Phật thọ ký, khiến cho Nhị thừa chủng tánh bất định rõ được bổn tâm và nghó rằng: Khi xưa các bậc Trưởng lão nhập Niết bàn, nay đều trở lại khởi hiện nhận vật trao ký, huống chi nay chúng ta không mong cầu quả Phật mà muốn nhập Niết bàn ư! Nay trong hội, các ngái Phú-lâu-na… tức là loại Thanh văn bất định này. lại Pháp Hoa luận chép: Vì giáo hóa Thanh văn mà Phật thọ ký, tức hạng này. Thế nên, cũng vì hàng phục Nhị thừa ngạo mạn. Ta cũng đắc Niết bàn của các thầy, như Kinh Lăng Già nói rộng : A-la-hán nhập Vô dư Niết-bàn, trải qua trăm ngàn kiếp, mê say vị thiền định. Sau đó tỉnh dậy mới phát đại tâm. Đều là chỗ hóa tác của Phật và Bồ-tát. Nếu không như vậy, thật là đã nhập vào vô dư Niết-bàn, thân trí đều tận diệt. Sau từ Vô dư mà khởi sanh pháp nào? Cho nên biết là hóa. Rốt ráo: Do vượt qua Nhị thừa này, ngoài ra không có thừa khác hơn. Nương vào lý rốt ráo thì là thù thắng nhất, cho nên nói là nhất. Nay nương trong hội này, mà luận chỉ có hai hạng người, được thọ ký riêng: Một là tánh bất định; hai là ứng hóa. Tánh bất định tức là phần ít của nhân thứ nhất, hai và tám nói trên, Ứng hóa tức là nghóa thứ chín và phần ít khác nói về Nhất thừa, chẳng phải hoàn toàn bác bỏ họ là không có định tánh. Cho nên đối với người này là mật ý nói Nhất thừa. Kinh Giải Sâu Mật chép: Tướng, sanh, thắng nghóa vô tự tánh: Ta đều đã hiển bày như thế . Nếu không biết mật ý này của Phật bèn hoại mất chánh đạo, không thể đến đạo Nhất thừa. Ở trong đây lập ra Nhất thừa chẳng phải là tánh hữu tình không có sai khác, mà đối với định, bất định hữu tánh, vô tánh hợp lại nói là một. Cho nên, kinh Niết-bàn cũng chép: Nhất thừa, nhất đạo, người bốn quả Thánh đều được thành Phật. Nếu không hiểu ý của ta chỉ nên như thế nói là tốt rồi! Nay mười nghóa nhân này nói: Luận Hiển dương nói sáu nghóa, luận Trang Nghiêm nói tám nghóa, đều không ngoài mười nghóa này, nên không trình bày ở đây. Nói rõ sự khác nhau Kinh này nói Nhất thừa có tướng sai khác với trong kinh Thắng- man, Niết-bàn đã nói. Kinh này có cả lý, trí, Kinh kia thì chỉ Phật tánh. Đây chỉ nhiếp nhập, kia có cả súc sanh. Đây chỉ hữu tánh, kia có vô tánh. Đây chỉ tánh bất định, kia có định tánh. Đây nói nhiều về giáo lý. Kia nói nhiều về hành quả. Đây nói Nhất thừa là thật, Nhị thừa là quyền. Kia nói Nhất thừa là quyền, Bốn thừa là thật. Cho nên trong kinh Thắng-man nói: Nếu Như lai tùy ý muốn kia mà phương tiện nói, chỉ có Nhất thừa không có thừa nào khác v.v… thì có khác với kinh Vô Lượng nghóa luận chép về Nhất thừa như trong phần giải thích danh tự đã giải thích rộng tướng sai khác ấy, và phần hỏi đáp thứ năm có luận đầy đủ một chương riêng, nay không cần nói đây. Kinh: Xá-lợi-phất cho đến Hoặc hai hoặc ba. Tán: Đây là phần cho ký, khiến cho trụ vào Nhất thừa, lấy Nhất thừa này vì đại chúng nói pháp, đều không phải Thanh văn thứ ba, Độc giác thứ hai. Từ hơn đến kém đều theo thứ lớp, không lấy việc tu tập cạn sâu khó dễ mà làm thứ lớp, cho nên trong kinh này ở phần thứ nhất có nói: Có hai pháp khác chẳng phải là thật; chu thứ hai nói: Thầm sai hai người; châu thứ ba nói: Vì nơi tạm nghỉ cho nên nói hai không nói là ba, cho nên biết không phải đều không Ba thừa. Chỉ ứng với nghóa đã nói như ở đây. Hội giáo lý hạnh quả sở tu kia làm nhân đại thừa hiện tại, khuyên trú vào Đại thừa. Kinh: “Xá-lợ-phất cho đến pháp cũng như thế.” Tán: Từ đây trở xuống là nương pháp nói Phật Thích-ca nương theo quy tắc nói pháp của tất cả Chư Phật. Ban đầu nói pháp phương tiện sau nói pháp chân thật, khuyên kia sanh tín, dẫn việc đã thành tựu của Phật khác. Trong đại văn có ba: Đầu tiên nói pháp thức của mười phương Chư Phật như thế. Kế là nói pháp thức của Chư Phật ba đời như thế. Sau nói Ta do quy tắc này, nên nói pháp cũng như thế. Tuy lìa ba đời, càng không có mười phương, lìa mười phương, thì không có ba đời. Vì ngang dọc có khác nên chia ra có khác nhau. Trong Nhiếp Đại Thừa nói: chúng hữu tình trong cõi người là vô số lượng. Niệm niệm đều cho chúng sanh chứng Chánh đẳng Chánh giác, thế không nên chịu thoái chí. Do đây mà Chư Phật hiện tại ở mười phương cũng đồng một, pháp thức Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến một Phật thừa cho đến” Tán: Nói pháp thức của ba đời Chư Phật, có hai: Nói riêng về pháp thức ba đời. Kết: Nhữøng việc làm đều đồng. Phần một có ba: Quá khứ; Vị lai; Hiện tại. Trong ba đời, mỗi đời đều có nói hai phần: Pháp thức nói pháp của Phật đều đồng. Chúng sanh được độ đắc đạo đều đồng. Phần này nói về pháp thức quá Chư Phật của khứ là đồng. Đầu tiên lấy các thứ nhân duyên làm phương tiện nói pháp, vì là sau để được một Phật thừa. Cho nên trong Luận này chép: Phương tiện là quán: Ấm, giới, nhập, chán khổ lìa khổ trong Tiểu thừa mà được hiểu thoát. Trong Đại thừa các pháp Ba-la-mật, bốn nhiếp pháp, các pháp đối trị giữ lợi ích cho tự thân tha thân. Nhân duyên đó là ở trong luận này có sáu nghóa. Trong nghóa thứ hai giải thích như đã nói ở phần trước. Các thứ nhân duyên: Là pháp Ba thừa. Pháp Ba thừa này, chỉ theo văn tự danh cú mà nói chứ không có thật nghóa. Vì thật nghóa kia không thể nói. Ví như lấy từ bò, lấy sửa làm thành tô lạc bỏ sống, bỏ chín, cho đến đề hồ là loại tốt nhất. Tiểu thừa như sữa. Đại thừa là đề hồ. Đây là dụ cho Đại thừa vô thượng. Chư Thanh văn cũng đồng như Đại thừa vô thượng Thanh văn đồng đó là thị hiện tánh đồng của pháp thân Chư Phật. Phàm phu, Thanh văn, Bích-chi-phật, pháp thân cùng bình đẳng không sai khác. Cho nên ở đây thí dụ thị hiện. Ý đây nói là: Phàm phu như trâu. Thanh văn như sữa, Bích-chi-phật như lạc, Tiểu Bồ- tát như bỏ sống. Đại Bồ-tát như bỏ chín, Phật là đề hồ là vị bậc nhất. Phật thừa cũng vậy. Ví như cùng lấy ra từ bò là tánh sữa mà thay đổi lần lần tăng lên cho đến thành đề hồ. Vậy nên từ phàm phu cho đến thành Phật, tướng mạo đều có sai khác, nhưng thể tánh vốn bình đẳng không hai. Nay trong văn kinh này chỉ nêu ra ba câu đây. Luận này giải thích văn kinh lại có niệm quán. Niệm quán đó ở trong Tiểu thừa là nhân vô ngã v.v… Trong Đại thừa là chân như, pháp giới, thật tế, nhân vô ngã, pháp vô ngã v.v… Trong kinh này lấy phương tiện: Nhân duyên, thí dụ, ngôn từ làm thứ lớp. Luận này giải thích kinh thì lấy: Thí dụ, nhân duyên, niệm quán, phương tiện làm thứ lớp. Nay dẫn ra giải thích, với luận không đồng người học nên hiểu hết. Kinh: “ Các chúng sanh ấy cho đến Nhất thiết chủng trí”. Tán: Đây là nói về thời quá khứ đã độ chúng sanh đắc đạo đều giống nay. Ban đầu tuy nói vì Nhị thừa mà sau cùng thì nói tất cả đều thành Phật, đắc Nhất thiết chủng trí. Nhất thiết chủng trí tức là Phật chánh trí. Chủng trí riêng biết tất cả pháp, chánh trí tức là xe trâu. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến một Phật thừa”. Tán: Đây nói pháp thức của Phật vị lai cũng giống như xưa nay. Kinh: “Các chúng sanh này cho đến Nhất thiết chủng trí”. Tán: Đây nói vị lai độ chúng sanh đắc đạo, đều giống xưa nay. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến. một Phật thừa”. Tán: Nói pháp thức Chư Phật hiện tại giống như xưa và mai sau. Nhiêu ích đó là lợi ích. An vui thì cho vui, cứu khổ thì cho vui, cho trí, cho phước, cho quả thế gian xuất thế gian, cho tiểu quả, đại quả, thứ lớp như thế mà phối hợp. Kinh: “Các chúng sanh cho đến. Nhất thiết chủng trí”. Tán: Đây nói chúng sanh hiện tại đắc đạo đều giống như xưa và sau. Kinh: “Xá-lợi-phất… nhập đạo tri kiến Phật”. Tán: Đây là kết thúc các việc làm cho chúng sanh đã rốt ráo. Chỉ vì Bồ-tát sẽ thành Phật, trụ vào nhân phát tâm mà khởi tu các hạnh, đều đồng hướng về đại thừa nên đều gọi các pháp mà Bồ-tát, làm đều vì Nhất thừa. Dùng tri kiến Phật chỉ cho chúng sanh giác ngộ chúng sanh kia, là muốn chúng sanh nhập tri kiến Phật. Văn kinh không khai vì lấy nghóa chung nghóa chỉ bày như trước luận nay không giải thích. Lại giải thích ngộ là khiến cho chúng sanh ngoại đạo sanh giác ngộ bỏ tà về chánh. Lại giải thích nhập là khiến đắc quả Thanh văn nhập quả đại Bồ-đề mà hồi tiểu hướng đại. Theo luận này thì: Lần một giải thích khai nghóa vô thượng. Lần hai giải thích thị chỉ cho thấy đồng cho người có nghi tu hành. Lần ba giải thích ngộ nghóa không biết để người chưa phát tâm khiến cho phát tâm, người ngoại đạo được giác ngộ. Lần tư giải thích nhập là vào quả vị bất thối. Người đã phát tâm khiến cho nhập vào pháp, người đắc Thanh văn thì thể nhập vào đại Bồ-đề. Lại theo văn mà giải thích: Lần một hợp với chánh giải thích một đại sự nhân duyên. Lần hai hợp với văn kết nghóa đại sự. Lần ba hợp với văn nói Phật nương theo các pháp thức của Chư Phật. Luận văn phần nhiều dựa vào văn nói đại sự mà giải thích về lý cũng không sai. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến Nhất thiết chủng trí.” Tán: Ở đây nói: Ta do pháp thức này nên cũng như thế. Chỉ có Phật có các thứ trí lực thắng giải nên biết rõ các ưa muốn của chúng sanh. Phật có Biến thú hành trí lực nên biết sâu tâm chúng sanh mê Đắm nghóa là ưa chấp trước pháp tu hành, hoặc do hữu tình ưa muốn khởi lên vui đắm. Tức nêu ra sự chấp trước của chúng sanh ở khắp nơi. Cho nên đều là trí lực thắng giải mà Phật biết. Phật Có chủng chủng giới trí lực nên biết rõ bổn tánh đó, tức đã biết các pháp giới thích tu của chủng tánh bất định nên ban đầu nói Ba thừa là phương tiện, nay nói Nhất thừa là rốt ráo, đều vì vì chúng sanh đắc một Phật thừa Nhất thiết chủng trí. Văn trên đều nói đắc một Phật thừa Nhất thiết chủng trí, cho nên biết chủng trí tức là Phật thừa. Kinh: “Xá-lợi-phất… Huống chi có ba.” Tán: Đây là phần ngăn thứ sáu: Còn không có Độc giác thừa thứ hai, huống chi là Thanh văn thừa thứ ba. Do kinh này nói hạng xe dê, xe hươu vì cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa, cho nên chỉ nói phá hai mà không nói phá xe trâu. Đây không có Niết-bàn Nhị thừa rốt ráo. Luận chép không có Nhị thừa đó là không có Nhị thừa Niết-bàn. chỉ có Phật là chứng đại Niết-bàn. Rốt ráo đầy đủ tất cả trí tuệ nên gọi là Đại Niết-bàn. Nghóa thể của ba việc đều đã đầy đủ. Nhị thừa thì không như thế, chỉ mượn trạch diệt mà không có pháp thân đại trí. Chẳng có Đại Niết-bàn của Thanh văn Duyên giác mà chỉ có một Phật thừa. Một Phật thừa đó là nương vào bốn thứ nghóa, như trước đã nói. Luận thì dùng sáu nghóa trong phần thọ ký phối hợp như trước đã nói. Pháp gì cho đến thể pháp là gì? Gồm năm nghóa. Những pháp gì là nghóa thứ nhất trước nói: Người chưa nghe khiến cho nghe, đem pháp chưa từng có khiến cho người nghe. Pháp đó thế nào là nghóa thứ hai. Trước nói: Đầu tiên dùng các phương tiện thí dụ ngôn từ để nói pháp. Tương tợ pháp nào đó là trước phần thứ ba y vào nghóa gì; chỉ vì một đại sự. Tướng pháp nào là pháp thứ tư khiến cho trụ vào Nhất thừa. Tùy theo căn khí chúng sanh mà có Phật tánh, khiến trụ vào Phật pháp. Thể pháp là gì? Tức nghóa ngăn thứ sáu, ngăn không có hai thể, chỉ một thể Nhất thừa. Tức là pháp thân bình đẳng của Chư Phật Như lai. Nhân quả Ba thừa, quán hạnh không đồng, có thể có sai khác. Nay nói ngăn đó là ngăn không có thể của hai thứ pháp thân. Pháp thân chân như của Ba thừa đều đồng không phải không có thể Nhị thừa, hay tất cả đều không có lấy nghóa lý này suy ra thì có thể hiểu. Nêu không vậy thì luận văn hơi ẩn ý khó hiểu. Chỉ không có nghóa thứ năm là pháp thức của Chư Phật. Dùng năm nghóa lần lượt nêu ra thì có thể hiểu. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến. Mạng trược”: Tán: Y cứ đoạn thứ ba khai ra thật tướng này và mở ra quyền môn kia. Trong đó có hai: Phần trên giải thích hai phần thọ ký là cho và lấy. Hai đoạn dưới là phá bốn thứ nghi luận nêu ra năm phần, thì phần thứ năm là dứt nghi. Luận chép bốn thứ nghi: Một là nói lúc nào; hai là làm sao biết tăng thượng mạn; ba là vì sao kham nói; bốn là vì sao không thành nói dối. Đây là phá nghi đầu tiên. Luận chép: Chư Phật vào thời nào mà khởi ra phương tiện nói pháp. Nghóa là Phật ở trong thời nào. Đầu tiên là nói Nhị thừa quyền, sau là nói Nhất thừa thật. Trong đây có hai lời đáp: Đầu là nêu năm vẩn đục. Sau nói rõ lý do. Đây nói phần đầu. Nghóa năm vẩn đục là lấy năm môn để phân biệt: Giải thích danh. Nêu thể. Đối trị. Phế lập. Nhiếp nhau. Giải thích danh là: Trược nghóa là tạp uế. Như ăn đồ dơ uế thấp hèn đáng bẩn gọi là trược. Đây ý nói là: Vào thời kiếp tăng, tam tai dần dần nhẹ bớt phiền não cũng nhẹ. Chúng sanh ác kiến cũng ít, mạng căn tăng tuổi thọ, dần dần hướng đến tốt hơn, vì đều là tốt đẹp đáng vui thì gọi là thanh. Chúng sanh không có khổ nên hóa Phật không ra đời. Khi hóa Phật ra đời là đến thời kiếp giảm tiểu tai dần hưng khởi, phiền não thêm dày. Chúng sanh làm điều ác nhiễm tà kiến dần mạnh lên, mạng căn dần dần giảm làm các việc ác xấu mà không chán nên gọi là trược. Năm là giải thích theo số, còn giải thích tên khác là trì nghiệp thích. Hoặc dùng riêng để phân biệt với chung, cũng là y chủ thích. Nêu thể là: Luận Địa Trì chép: Người đời nay phần nhiều đều đoản mệnh, cao lắm là một trăm tuổi. Đó gọi là mạng trược. Đây dùng bổn thức mà nói tức là hạt giống, do nghiệp khởi dẫn ra công năng khác nhau mà làm thể của mạng căn. Lực của thiện nghiệp yếu nên mạng căn đoản số. Đó là do nghiệp sát sanh chiêu cảm nên. Nếu chúng sanh không nghó đến cha mẹ, không nghó đến Sa-môn, Bà-la-môn và tông tộc tôn trưởng, không tu nghóa lý. Không lo không sợ quả báo nghiệp ác đời nay đời sau. Không tu tuệ trí, không làm công đức không tu trai pháp, không trì cấm giới. Đó gọi là hữu tình trược. Tuy thức thứ tám gọi là hữu tình, Mà nay nói do gần với duyên ác bên ngoài, cho nên năm uẩn giả đó là làm ác không thiện thì gọi là hữu tình trược. Hợp lấy thức thứ tám và năm uẩn làm tánh. Nếu chúng sanh này thêm tham phi pháp, hoặc đem đao kiếm, gậy gộc cho người, tranh tụng đấu loạn dua nịnh nói dối, nhiếp thọ tà pháp và các nghiệp bất thiện. Khác thì gọi là phiền não trược. Ngoài năm kiến ra thì tất cả các phiền não tùy phiền não khác đều là thể của phiền não trược. Các việc tham phi pháp, đưa dao cho người… Dẫn đến hành động giết hại, hoặc tiếc rẻ tài vật mà chỉ bỏ đao gậy, nhân đó mà gây ra nhiễu loạn tranh đấu, cho đến các việc bất thiện khác, chung nhiếp tất cả phiền não tùy phiền não. Do tánh thường huân tập mà gặp cảnh ác, gây nên phiền não sâu trọng. Nếu ở đời pháp hoại diệt, dần bước sang thời tượng pháp thì tà pháp chuyển sanh. Đó gọi là kiến trược. Đây dùng năm kiến làm thể tánh, phần nhiều gần ngoại đạo ác kiến thường sanh ra. Nếu gặp thời đói khát tật bịnh, đao binh nổi lên thì gọi là kiếp trược. Đây dùng sắc uẩn tứ trần làm thể. Hoặc thông năm uẩn, vẫn lấy bất tương ưng làm thể. Y vào bốn năm uẩn mà kiến lập, phiền não thêm lớn, ác nghiệp sâu nặng, liền chiêu quả lấy ác, tam tai liền phát sanh. Đối trị là tùy theo tướng mà nói pháp đối trị. Trong Trí Độ luận có lập ra bốn tất đàn, là tông Tất đàn . Thế giới tất đàn. Mỗi mỗi vị nhân tất đàn. Đối trị tất đàn. Bậc nhất nghóa đế tất đàn. - Chúng sanh ở kiếp trược dùng thế giới Tất đàn để trị. Phân biệt rõ thế gian, chúng sanh ở thế gian đều là hư huyễn. Nhàm chán tu đạo xa lìa hẳn. Mạng trược thì dùng mỗi mỗi vị nhân tất đàn để trị. Phân biệt biết rõ con người do tu thiện nghiệp mà được, tu trì tịnh giới, hành bất sát mà mạng sống thêm lớn. Hoặc vì người Ba thừa đều nói pháp tự thừa, khiến đắc quả tự thừa Niết-bàn, trừ hết sanh tử trong đời mạng trược. Phiền não trược, kiến trược thì dùng đối trị tất đàn để trị. Tu tập tùy ứng với đạo đối trị, làm cho không còn khởi lên. Do Tam tất đàn phá trừ được năm vẩn đục, nhập vào Bậc nhất nghóa, chứng hội chân tông. - Nói về phế lập: Vì sao chỉ lập năm vẩn đục mà không có thêm bớt. Đáp: Chúng sanh có hai: Ác hạnh: Nghóa là hạng bạch y tại gia. Tà hạnh: Là người xuất gia ngoại đạo. Người tại gia không có trí tuệ khi phiền não thêm lớn thì gọi là phiền não trược. Ngoại đạo hiểu tà, lãng phí tìm cầu nên xếp vào kiến trược. Lại độn hoặc là phiền não trược, các lợi hoặc gọi là kiến trược . Do hai nhân này nên ly hợp không đồng, lại chia ra hai trược. Hợp hai nội quả gọi là chúng sanh trược, chúng sanh ác. Hợp hai quả bên ngoài gọi là kiếp trược, đầy đủ các ác khí. Kiếp có nghóa là thời phần. Thời không có thời riêng mà dựa vào pháp làm rõ nên kiếp trược dùng ác khí làm thể. Chúng sanh ác này quả bên ngoài , tuy được nói là chung của hai quả trược, mà chưa nêu ra thể chành của quả ác là gì. Nay hiển bày căn bản cho nên lập ra mạng căn. Hoặc quả của điều ác bên trong gọi là mạng trược, quả của điều ác nên ngoài gọi là kiếp trược. Nhân quả ác này do ai mà có, nghóa là do chúng sanh ác nên gọi là chúng sanh trược. Do y cứ vào năm trược này mà tăng thêm hành tướng. Vì khiến cho người sanh nhàm chán cho nên nói riêng có năm. Hỏi: Vì sao hoặc khổ gọi là chướng, nay tách ra làm trược, nghiệp cũng thuộc về chướng vì sao không xếp vào trược? Đáp: Chướng là nghóa phá cả ba đều làm trở ngại, vì trở ngại Thánh đạo. Trược nghóa là dơ uế, nghiệp có nghóa trược rất yếu nên không xếp vào trược. Lại trong kiếp đao binh cũng chính là nghiệp trược. Kiếp trược rất rộng, nên từ nghóa rộng mà đặt tên, chỗ lập cũng không hẹp. - Về nhiếp nhau: thì trong kinh Tát-già-ni-càn-tử lập có mười hai trược: Thị hiện kiếp trược. Thị hiện thời vẩn đục. Thị hiện chúng sanh trược. Thị hiện phiền não trược. Thị hiện mạng trược. Thị hiện ba thừa sai khác trược. Thị hiện cõi nước bất tịnh trược. Thị hiện chúng sanh khó giáo hóa trược. Thị hiện nói các thứ phiền não trược. Thị hiện ngoại đạo loạn trược. Thị hiện ma trược. Thị hiện ma nghiệp trược. Người Thiện nam! Cõi nước của Chư Phật, đều là công đức xuất thế trang nghiêm, thanh tịnh đầy đủ, không có các trược, như các lỗi lầm ấy, đều là phương tiện thị hiện của Chư Phật. Vì lợi ích chúng sanh mà chỉ nói thị hiện biết nghiệp v.v… cũng có thể xếp vào trược. Mười hai trược này chỉ có trong Đại thừa. Tùy Phật hóa độ hai pháp hơn kém, thị hiện mà lập ra có khai hợp khác nhau. Năm trược đầy đủ căn cứ vào tướng uế độ mà tăng thêm nghóa tức thông cả đại Tiểu thừa đều có. Kiếp và thời tức là kiếp trược. Chúng sanh và chúng sanh khó hóa độ tức là chúng sanh trược, phiền não và nói các thứ phiền não tức là phiền não trược. Mạng tức là mạng trược. Ngoại đạo loạn tức là kiến trược. Tám trược này là năm trược. Bốn thứ còn lại là ba thừa sai khác, cõi nước bất tịnh, ma và ma nghiệp chẳng thuộc trong năm vẩn đục. Năm vẩn đục căn cứ ở nghóa mạnh, chỉ thật sự là tạp nhiễm. Mười hai trược là thông ở năng hóa năng chướng là Phật thị hiện. Nếu y theo kinh Tỳ- ni Mẫu thì trong năm trược không có kiến trược mà lập ra nghiệp trược. Nếu theo kinh kia thì phiền não và nghiệp mỗi thứ đều có riêng một. trong đó quả chia làm ba: Thể chánh báo gọi là mạng trược. Thể nội báo là chúng sanh trược. Thể của quả bên ngoài là kiếp trược. Chương y cứ vào loại thì đồng hợp lập thành ba chướng,hoặc cùng với pháp chướng. Trược y cứ vào nghóa nhơ uế, hoặc hợp hoặc là khai, tùy theo căn cơ mà khác nhau. Khiến chúng sanh nhàm chán sợ hãi, không thể làm khó để hỏi. Luận thập địa quyển một nói: Thanh tịnh nghóa là không trược. Trược có sáu thứ, lìa các trược này thì được thanh tịnh. Trược Bất dục Trược Uy nghi . Trược năm cái. Dị tưởng trược - khởi tâm ganh ghét, tâm phá hoại. Trược không đủ công đức: Vì gốc lành kém thiếu, nên trong kinh kia (Pháp Hoa) chép : Tâm không thích trụ. Trược Si : Nghóa là ngu si. Đây chỉ căn cứ vào hành trược, không chung y vào các pháp. Có sáu pháp để đối trị là lìa biếng nhác, nghiêm, tịnh, vững chắc, đầy đủ công đức, đầy đủ trí. Sáu pháp này đối trị nên lập ra sáu trước, không cần hòa hợp. Ngoài ra ở chương khác nói rõ, không nói tiếp đây. Pháp nhó như vậy, Phật ra đời sẽ vào thời năm vẩn đục, cho nên nói Chư Phật ra đời vào cõi đời có năm thứ vẩn đục. Hỏi: Vì sao Phật Di-lặc đến khi con người thọ tám muôn tuổi mới sanh ra? Phật Thích-ca ra đời vào kiếp thọ một trăm tuổi? Đáp: Vì nguyện lực khác nhau mà đều ở trong đời trược đều hóa chúng Ba thừa. Trước quyền sau thật, cũng đều là hóa thân. Nếu báo thân và hóa thân Phật không hóa độ chúng Nhị thừa, trước quyền sau thật, thì chưa hẳn thời vẩn đục Phật mới ra đời. Nếu hóa độ Nhị thừa trước quyền sau thật ắt phải ra trong thời vẩn đục để chúng sanh ác khó giáo hóa dần dần nhập vào chánh đạo. Đây nói trước nghóa là vào trong kiếp giảm, dần dần phát sanh năm điều này tức gọi là thời vẩn đục. Cho nên Phật Di-lặc. Bắt đầu giảm tám muôn dần dần hướng về năm vẩn đục thì Phật mới ra đời. Thế nên không cần phải đợi khi tuổi thọ giảm còn ba mươi, hai mươi hay còn mười tuổi, kiếp nạn tiểu tai nổi lên thì mới gọi là kiếp trược. Cho nên trong các luận chép: Vào đời kiếp giảm thì Phật ra đời. Kiếp tăng thì vua thánh Chuyển luân ra đời. Hỏi: Nếu kiếp giảm thì Phật ra đời, kiếp tăng thì Vua chuyển luân ra đời, thì sao Nhượng Khư và Phật Di-lặc cùng ra đời. Lại khi Phật không xuất gia nên làm luân vương, tám vương tử của Nhật Nguyệt Đăng Minh thống lãnh cả bốn thiên hạ. Đáp: Kiếp tăng thì Nhượng Khư ra đời, vì tuổi thọ lâu dài nên được gặp Phật Di-lặc chẳng phải Phật Di-lặc ra đời vào kiếp không giảm. Lại Phật không xuất gia nên ở ngôi vị Kim luân, chẳng phải nhất định làm. Tám vương tử của Phật Đăng Minh nghóa cũng đồng như vậy, kia là báo thân nên nghóa này không sai. Đây là nói kim luân tức khi kiếp tăng mới ra đời, Ngân, Đồng, Thiết Luân Vương ra đời cũng không nhất định. Vì thế mà vua Vô Ưu ra đời một trăm năm sau khi Phật nhập diệt làm Thiết Luân . Kinh: “Như Thế Xá-lợi-phất cho đến phân biệt nói là ba”. Tán: Giải thích vì sao Phật ra đời trong kiếp có năm vẩn đục. Nhắc lại năm vẩn đục đã nói ở trước, nên nói là “như thế”. “Lúc kiếp trược loạn” là nêu lại kiếp trược có các nạn đói khát, binh đao, tật bịnh xảy ra, “chúng sanh nhơ nặng” là nhắc lại chúng sanh trược. Cấu là sáu nhơ. Thân tâm ô nhiễm bất tịnh thì gọi là cấu. Tăng cường nan phá gọi là nặng. Sáu cấu là: Hại, hận, não, siểm, cuống và kiêu. Ở hữu tình ưa thích làm tổn não thì gọi là hại. Do giận rồi kết oán không bỏ thì gọi là hận. Đã nhớ lại việc ác xưa, gặp hiện tại trái duyên tâm lại hung hãn, nói lời hung dữ nguyền rủa gọi là não. Ba điều này lấy sân làm thể. Vì dáng mạo lừa người, hoặc che giấu lỗi mình, hoặc để lấy ý nghóa khác, giả tạo oai nghi khác thường dua vậy gọi là siểm. Vì muốn được lợi danh giả vờ, hiện tướng mạo như có đức ngụy trá dối gạt người thì gọi là Cuống. Nghóa là tâm toan tính điều khác, phần nhiều hiện điều không thật tự mình tà mạng. Đây dùng hai pháp tham si làm thể. Đối với những việc thành tựu, sanh sâu tâm đắm nhiễm , ngạo mạn thì gọi là kiêu. Đây dùng tham làm thể. Do chúng sanh nhiễm lục cấu sâu nặng, nên không biết Sa-môn, không tu pháp thiện , gọi là chúng sanh trược, tham lam ganh ghét tức phiền não trược, tham đắm vào tài pháp đã có mà không thí xả gọi là xan (keo lận). Đối với điều chưa đắc được và có đầy đủ lại ham muốn thì gọi là tham, san tuy là do tham điều được hay chưa được mà nhiễm phân biệt, nên chia thành ra hai: quay cuồng danh lợi mình, không chịu người khác vinh dự, ôm lòng ganh ghét phiền hoặc gọi là ganh ghét. Trong nói văn ngọc thiên chép: Hại người hiền gọi là tật, hại sắc gọi là đố. Thành tựu các căn bất thiện là: Căn bất thiện có ba: Là tham, sân si. Do đầy đủ hai nghóa mà lập ra bất gốc lành. Là căn bản phiền não năng sanh ra pháp khác, phân biệt các tùy, hoặc không được lập. Các lỗi sâu rộng của khắp sáu thức, mạn nghi kiến thì không gọi là bất gốc lành, chỉ ý là thì có. Do đầy đủ hai nghóa này mà có ba tên gọi bất gốc lành. Căn có nghóa là sanh ra, sanh ra duyên ác, cũng tức là phiền não trược. Chỉ nói ba trược mà không nói kiến, mạng trược, là vì kiếp trược nhiếp cả mạng trược do thời đao binh tật bịnh nên mạng sống phần nhiều ngắn ngủi, phiền não trược nhiếp, kiến trược và nêu ra căn bản phiền não bất gốc lành nhiếp tất cả phiền não. Do vào thời này trời, người giảm ít mà đường ác tăng nhiều. Chúng sanh khó đem pháp Đại thừa mà giáo hóa họ được. Nên phải dùng trí phương tiện đem một Phật thừa phân biệt nói thành ba để họ dần dần thể nhập. Thế nên trong kinh nói chỉ khen ngợi Phật thừa, chúng sanh dứt khổ không thể tín thọ, cho nên phương tiện nói. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến chẳng phải là Bích-chi-phật. Tán: Phần này giải thích nghi thứ hai: Như lai đã không vì người tăng thượng mạn mà nói. Sao biết kia là tăng thượng mạn. Trong văn nói có ba: Chẳng phải là tướng Thánh Nhị thừa chân thật. Nêu tướng tăng thượng mạn. Kết thành tựu tướng hai Thánh chân thật. Đây nói phần đầu: Người thanh văn, Bích-chi là bậc chân Thánh hướng tịch. Nếu gặp Phật thì đều không còn mê pháp. Vì tánh bất định nên có thể hồi tâm. Bất luận gần xa đều có thể nghe biết việc Phật giáo hóa Bồ-tát . Tự cho là nhị Thánh thật mà được gặp Phật, đều không nghe biết việc giáo hóa Bồ-tát, thì chẳng phải là đệ tử Phật, cũng chẳng phải là nhị Thánh chân thật. Kinh: “Lại Xá-lợi-phất cho đến đều là người tăng thượng mạn”. Tán: Đây nói về tướng tăng thượng mạn, phàm phu đắc tứ thiền, chưa ra khỏi nhiễm trong tam giới, tự cho là nhị Thánh chân thật là thân A-la-hán cuối cùng được Niết-bàn rốt ráo, tâm không cầu chánh giác, không tín hướng. Đó là tăng thượng mạn. Kinh: “Vì sao cho đến không có việc ấy”. Tán: Đây là phần kết thành tựu tướïng hai Thánh. Chỉ là bậc chân Thánh mà gặp được ta là hướng tịch. Phần nhiều là người không ngu pháp. Tuy không thể thật hành mà nghe cũng tin. Chủng tánh bất định, lý tín tu học gọi là nhị Thánh chân thật . Nếu người này không tin thì không có việc ấy, chẳng phải đạo lý. Người hướng đến vắng lặng không thể chứng nhập. Đầu tiên còn chưa tin nên gọi là tổn hại sợ sệt, trở lại đạo sanh nghi sau sẽ sanh tin nhận không còn ngu pháp. Cho nên đây kết luận rằng người kia không tin Nhất thừa thì không có việc ấy. Kinh: “Sau khi Phật diệt độ hiện tiền không có Phật.” Tán: Giải thích nghi thứ ba: Làm sao có thể nói, nghóa là có nghi là: Nghe Phật nói pháp mà khởi tâm phỉ báng. Vì sao Như lai không thành tựu cho không thể nói pháp cho người? Ý này nói là: Cũng có hai Thánh chân thật và hướng vắng lặng, mà người ngu nghe pháp khởi tâm chê bai, cũng không nghe biết việc giáo hóa Bồ-tát. Tức Thế Tôn không thể hóa độ. Vì sao Phật không thành tựu không thể nói pháp cho người? Đã thành không kham nói pháp cho người, trái lại kết rằng: Vì sao Đức Thế Tôn có thể vì chúng sanh mà nói pháp, mà xưng là chủng trí? Cho nên Phật đáp: Trừ sau khi Phật diệt độ hiện tiền không có Phật. Tuy sự thật hướng tịch mà gặp Phật, phần nhiều không còn ngu pháp, đều nghe biết việc giáo hóa Bồ-tát. Nếu không gặp ta mà thú hướng vắng lặng, có ngu đối với pháp nên không thể biết được chỉ giáo hóa Bồ-tát. Văn này có ba: Nêu Giải thích Kết thành. Đây là nói phần đầu. Kinh: “Vì sao? cho đến người ấy khó được” Tán: Đây là giải thích phần nêu trước. Sau khi ta diệt độ, vì người không có duyên lành, khéo dùng phương tiện dẫn dụ, các người thú hướng tịch diệt thì phần nhiều ngu đối với pháp, đối với các kinh này thọ trì giải nghóa là ít có đạt được, không hiểu ý, cho nên sau khi ta diệt độ có nhị Thánh chân thật không nghe không biết chỉ giáo hóa Bồ-tát. Kinh: “Nếu gặp Phật khác cho đến liền tỏ ngộ”. Tán: Đây là phần kết thành tựu ở nghóa trước. Người ngu pháp này sau khi Ta diệt độ, lại gặp Phật khác dùng phương tiện nói pháp hóa độ, đối với pháp này liền được liễu ngộ cũng có thể biết việc chỉ giáo hóa Bồ-tát. Nếu không gặp Phật thì không biết. Cho nên nay chẳng phải Phật không kham nổi nói pháp cho họ. Luận Du-già chép: Nếu đã kiến lập thức A-lợi-da, nương vào cõi vô sắc, thì cũng nhập diệt định. Tin có Tàng thức không dứt bặt. Hoặc nghi này chẳng phải nghi thú hướng tịch diệt, mà chính là nghi tăng thượng mạn. Đã không hóa độ được thì vì sao nói Đức Thế Tôn không thành tựu không thể nói pháp cho người. Đây giải thích: Ta còn tại thế thì hóa độ được, trừ khi ta diệt độ thì không. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến chỉ một Phật thừa”. Tán: Phần dưới đây giải thích nghi thứ tư. Trước nói Ba thừa, nay nói là một. Nay nói pháp khác vì sao lại nói lời Đức Thế Tôn không có luống dối cho nên Phật nói: Ta đã chứng giải, ông hoàn toàn không biết. Hành vị chưa đến thì chỉ nên nhất tâm tin lời ta nói. Ông phát tâm thì trước phải có niềm tin. A-la-hán hồi tâm phải trải qua hai muôn kiếp. Đầu tiên cho đến ba đại A-tăng-kỳ kiếp chứng địa vị sơ tín tâm. Chỉ nên tin chớ sanh nghi ngờ. Lời Phật không dối, lý chỉ có Nhất thừa. Chủng tánh Bất định cuối cùng thành tựu quả trí, cũng chỉ có một thừa mà không có hai thừa. Luận Bát-nhã nói: Phật nói bốn việc không có luống dối là: Bồ-đề, thọ ký, Tiểu thừa, Đại thừa. Ở đây chính là Đại thừa và thọ ký thành ra không có luống dối. Phẩm này phần đầu khen ngợi pháp mầu nhiệm và Pháp sư mầu nhiệm. Đã có phần định nghi, ở phần định ký có bốn nghi này. Nghi đầu tiên sanh ở phần thọ ký. Ở thời nào nói phương tiện trước, sau nói lý chân thật. Nghi thứ hai sanh ở phần nhận lời thọ ký. Có người tăng thượng từ chỗ ngồi bỏ đi. Vì sao biết như vậy? Nếu dựa vào giải thích đầu thì nghi thứ ba sanh ở nhân thọ ký, tâm Phật vốn đã định vì hai hạng người mà nói không vì kẻ ngu pháp, nên sanh từ nghi này. Vì sao có khả năng nói? Nếu y theo giải thích sau thì cũng được thọ ký thượng sanh. Nghi thứ tư đối với tất cả thượng sanh. Sơ nói, hậu nói đều là trái ngược, nói vì sao lại không thành nói dối. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế Tôn cho đến Ưu-bà-di chẳng tín.” Tán: Dưới có một trăm hai mươi mốt hàng tụng. Ba hàng tụng sau xếp vào đoạn thứ tư khuyến phát hỷ tâm khiến cho biết việc thành Phật. Tức một trăm mười tám bài tụng, tụng phần thứ ba của văn xuôi trước khai ra thật tướng này mà mở ra quyền môn kia. Ở đây chia làm hai: Một trăm mười lăm hàng đầu tụng hai việc thọ ký trước, ba hàng tụng sau tụng phá bốn nghi. Trong phần đầu lại chia làm hai, bốn hàng đầu nhận lấy ký khiến người ác bỏ đi. Một trăm mười một hàng sau tụng thọ ký cho. Trong bốn hàng đầu: Một hàng trước tụng tăng thượng mạn. Ba hàng sau tụng tội căn sâu nặng, bốn hàng thứ lớp tụng: Mạn, phạm, phú, chướng. Đây là hàng tụng về mạn: Người xuất gia lấy việc chứng đạo làm đầu. Chứng ít cho là nhiều. Thường khởi tăng thượng mạn, nam tử ở thế gian phần nhiều hay chấp trước ngã, cao tâm tự thị nên sanh ra ngã mạn. Người Nữ thế tục phần nhiều lại tự ty không nương vào thắng đạo. Số ít thì chấp việc thuận theo bè bạn, nên cũng ôm lòng chẳng tín. Kinh: “Bốn chúng như thế cho đến đối với giới có thiếu sót”. Tán: Hàng tụng về phạm giới trong ba hàng tụng gốc tội sâu nặng: Là phạm giới, phú tội, pháp chướng riêng biệt. Đây nói về phạm giới, phạm ít thì khuyết, phạm nhiều thì lậu là đáng chê trách; phá hoại giới là khuyết, hoại kiến là lậu. Hoặc khi phiền não lậu khởi lên mà vẫn không kiến giác, tự thị cống cao. Trong giới đã nói: Trừ kẻ tăng thượng mạn tựï cho là đã chứng Thánh, mới phạm trọng tội, nên tội này càng thêm tội. Không là Thi la thì không thanh tịnh, nên Tam-muội không thể nhiếp hiện tiền. Nay nói phạm giới tức là nói tướng chung, không phạm biết tướng phạm. Kinh: “Yêu tiếc giữ lợi mình cho đến uy đức Phật phải đi.” Tán: Phú tội: Trong ngọc có vết là hà. Ngoài ngọc có vết là tỳ. Người phạm giới cũng vậy. Thế gian chê bai như tỳ, bên trong tạo tội như hà lỗi thân ngữ như Tỳ, tức là khuyết vậy. Phạm giá tội gọi là Tỳ, Như ngoài ngọc có vết nên gọi là Tỳ. Người đối với pháp có bệnh phiền não như ngọc có tỳ vết, dụ như pháp họp lại mà nói. Tỳ đó là bị bịnh cho nên hộ tiếc mà không bày tỏ, che lỗi mình gọi là tào là rất nặng nề. Võ ngoài của gạo gọi là khang nhẹ, nên vô dụng. Không những trí nhỏ mà còn trái pháp tự hành vì uy lực của Phật nên mới bỏ đi, sợ họ nghe pháp mầu sẽ chê bai mà thêm tội. Đối với họ việc nghe pháp này không lợi ích nên Phật dùng uy lực để họ bỏ đi. Kinh: “Người này ít phước đức cho đến. chỉ có các chân thật”. Tán: Là pháp chướng. Xưa tạo hết pháp nghiệp, pháp chướng ở thân, không kham nổi nghe pháp, nên nói là ít. Kinh: “Xá-lợi-phất khéo lắng nghe cho đến vì chúng sanh mà nói…” Tán: Đoạn thứ hai một trăm mười một hàng tụng thọ ký cho . Ởû văn xuôi có sáu nay cũng chia làm sáu: Sáu hàng tụng về nói. Bảy hàng rưỡi tụng khiến trụ. Một hàng rưỡi là tụng về ngăn. Mười tám hàng rưỡi tụng y vào những nghóa gì? Bảy mươi hàng rưỡi tụng về y pháp. Bảy hàng cuối tụng về người chưa nghe khiến cho nghe. Trong sáu pháp khác nhau trước sau khác nhau. Cho nên tụng rằng: Sáu nói, bảy rưỡi trụ, tiếp một rưỡi tụng ngăn, mười tám rưỡi những gì, bảy mươi và bảy rưỡi. Trong sáu hàng đầu chia làm hai: Bốn hàng rưỡi đầu tụng giải thích lý do trong kinh. Một hàng rưỡi sau tụng phần tùy nghi nói, ý thú khó hiểu ở phần nêu trước. Bốn hàng đầu lại chia làm ba: Một hàng tụng vô số phương tiện. Hai hàng tụng các thứ nhân duyên thí dụ, ngôn từ tức là thí dụ, nhân duyên, niệm quán, phương tiện. Một hàng rưỡi tụng giảng nói các pháp. Trong phần văn xuôi trước nêu Chư Phật tùy nghi mà nói. Trong giải thích rằng: Ta dùng vô số phương tiện. Nay tụng giải thích: Pháp sở đắc của Chư Phật có vô lượng phương tiện lực, tức trước và sau đều rõ ràng, tự tha cùng nói đủ cũng không trái ngược. Kinh: “Tâm của chúng sanh nghỉ cho đến khiến tất cả vui mừng.” Tán: Tụng các pháp nhân duyên. Trong đây có hai: Hàng đầu tụng biết căn cơ, hàng sau tụng nhân duyên thí dụ. Biết tâm nhớ nghỉ và đạo hành của chúng sanh là biến hành trí lực. Các dục là các thứ thắng giải trí lực. Các tánh là các thứ giới trí lực. Nghiệp thiện ác đời trước là xứ phi xứ và tự nghiệp trí lực. Nói Phật có năm trí lực các thứ niệm quán là có thể biết năm thứ chúng sanh này. Dùng các phương tiện ngôn từ thí dụ nhân duyên để nói pháp đều khiến vui mừng. Giải thích nguyên nhân các ngôn từ nói ở trước. Kinh: “Hoặc nói Tu-đa-la… cho đến Kinh Ưu-ba-đề-xá.” Tán: Một hàng rưỡi tụng: Giảng nói các pháp. Y vào các nơi mà nói thứ lớp mười hai bộ kinh. Một là Khế kinh, kinh gọi là Tu-đa-la. Hai là Ứng tụng, kinh gọi là Kỳ-dạ. Ba là Ký biệt, trong kinh này không có. Bốn là Phúng tụng, kinh gọi là Già-đà. Năm là Tự nói, kinh này không có. Sáu là Duyên khởi, kinh gọi là Nhân duyên. Bảy là Thí dụ. Tám là Bổn sự. Chín là Bổn sanh, ba tên đều đồng như kinh đây. Mười là Phương quảng, kinh này không có. Mười một là Hy pháp, kinh gọi là Vị tằng hữu. Mười hai là Luận nghị, kinh gọi là Ưu-ba-đề-xá kinh. Trong nghóa này lấy ba môn để phân biệt: Một là biện về tướng; hai là giải thích danh; ba là phân biệt. Nói về tướng là: Trong Khế kinh có hai tướng: Một là tướng chung, hai là tướng riêng. Kinh Niết bàn chép: Từ “Tôi nghe như vầy đến vui mừng vâng làm”. Tất cả đó gọi là Tu-đa-la. Nhiếp cả mười hai bộ gọi là tướng chung. Dùng giáo xuyên suốt lý và nhiếp chúng sanh, cho nên trong luận Đối pháp nói: Nghóa là dùng văn xuôi kết nối lược nói những nghóa đáng nói thì gọi là Khế kinh, đây chỉ có văn xuôi gọi là tướng riêng. Kệ tụng bèn chẳng thuộc về Khế kinh riêng. Ứng tụng có hai tướng: Một là lợi ích cho phần sau, hai là hiển rõ trước chưa liễu nghóa. Luận đối pháp… chép: Trong các kinh hoặc ở giữa hoặc ở sau dùng tụng tụng lại nghóa văn xuôi trước nên gọi là lợi ích về sau. Lại nói kinh không rõ nghóa, lại dùng bài tụng để giải thích. Văn xuôi tuy nói nghóa mà chưa rõ nên gọi là hiển rõ chưa liễu ở nghóa trước. Kinh Niết-bàn chỉ nói một trong các nghóa đầu. Ký biệt có ba tướng: Thọ ký nhân quả sanh tử của đệ tử. Thọ ký rõ ràng về nghóa sâu mật. Thọ ký Bồ-tát đương lai thành Phật. Đối pháp Luận chép: Nơi ấy các Thánh đệ tử đã chấm dứt ở thời quá khứ, thọ ký vì công đức, lỗi lầm riêng biệt, và nơi sanh sai khác. Đây là thọ ký nhân quả sanh tử của chúng đệ tử. Lại nói: Trong kinh Liễu Nghóa nói tên ký biệt. Ghi nhận riêng khai mở chỉ cho thấy nghóa sâu kín. Tức đây rõ ràng thọ ký nghóa sâu kín này. Vì vậy trong Luận này chép thọ ký có bốn: Tâm chắc chắn, nhân, lấy và cho thọ ký v.v… Kinh Niết-bàn chép: Như lai thọ ký cho các Đại nhân : “A-dật-đa ở đời vị lai có vua tên là Nhương Khư, ông ở trong thời này thành Phật, tên là Di-lặc”. Đó là kinh Ký Biệt. Đây là thọ ký thành Phật đương lai. - Tướng Phúng tụng: Trong Luận Hiển Dương nói trong các kinh chẳng phải chỉ văn xuôi là nói thẳng. Nhưng dùng một câu mà kết thành. Hoặc lấy hai câu, ba câu, bốn năm sau câu mà nói, đều là phúng tụng. Tướng Tự nói: Du-già chép: Kinh đó không nói việc thỉnh, mà Phật vì muốn chánh pháp trụ đời lâu dài. Vì chánh giáo trụ lâu nên không ai thỉnh mà Phật vẫn nói, đều gọi là tự nói. Duyên khởi có ba tướng. Do thỉnh mà nói. Do phạm mà chế giới Do sự mà nói pháp. Luận Đối Pháp nói: Nhân duyên là do thỉnh mà nói. Lại có nhân duyên mà chế lập ra học xứ, tức hai nghóa đầu gọi là duyên khởi. Kinh Niết-bàn chép: Như nguyên nhân căn bản trong các kinh kệ, như nước Xá-vệ có một người giăng lưới bắt chim, được rồi liền thả ra. Đức Thế Tôn biết nhân duyên trước sau nên nói kệ rằng: Chớ khinh lỗi nhỏ Cho là không tội Giọt nước tuy nhỏ Dần đầy chậu lớn. Đó gọi là duyên khởi. Tức là phần nhân sự nói pháp thứ ba. Tướng thí dụ: Luận Du-già chép: Trong kinh luật có nêu thí dụ để nói các pháp. Tướng Bổn sự là: Luận Du-già chép: Trừ nói các việc bổn sanh của Phật thì nói các việc hoặc của người hoặc của pháp ở đời trước. Kinh Niết-bàn chép: Chỉ nói các pháp đã qua như Phật ra đời nói pháp thì gọi là Giới kinh. Câu-lâu-tần Phật thì gọi là Cam-lồ-cổ. Câu- na-hàm Mâu-ni Phật thì gọi là pháp kính. Thời Phật Ca-diếp thì gọi là phân biệt không không nói về người xưa mà căn cứ sự thật chung. Tướng Bổn sanh là: Luận Hiển dương nói nghóa là ở trong đó giảng nói đời quá khứ của Đức Thế Tôn, mỗi mỗi phương sở kia hoặc sanh hoặc tử, hành Bồ-tát hạnh làm những hạnh khó làm, gọi là Bổn sanh. Trong kinh Niết-bàn chỉ nói thân đời trước của Bồ-tát mà không nói các hạnh làm xưa của Bồ-tát. Như làm nai làm gấu làm chồn làm thỏ… cho đến làm kim sí điểu. Phương Quảng có hai tướng: Nói Bồ-tát đạo. Pháp rộng nhiều. Thật là cao lớn nên thời dài xa. Trong Thanh văn cũng nói Phương Quảng. Nay nói hai nghóa đầy đủ trong Niết-bàn làm chánh: Tướng Hy pháp: Trong các kinh giảng nói các công đức cộng, bất cộng chủ Phật, Thánh đệ tử, bát bộ chúng vốn có các pháp khác thường đặc biệt tối thắng khác, đó là Hy pháp. Trong kinh Niết-bàn chỉ nói các sự về Phật, như Phật khi mới sanh ra liền đi bảy bước, phát ra ánh sáng chiếu soi khắp mười phương. Khỉ vượn dâng mật, chó trắng đến nghe pháp. Ma biến thành trâu xanh đi qua bát gạch, khiến xúc chạm nhau mà không làm thương tổn. Chỉ nói các việc ít có của đệ tử và không phải đệ tử, nên gọi là Hy pháp. Luận nghị có hai tướng: Phật tự nói. Đệ tử nói. Luận Du-già nói các kinh điển là Ma-đát-lý-ca. Tất cả kinh liễu nghóa đều gọi là Ma-đát-lý-ca. Nghóa là Đức Thế Tôn rộng phân biệt các pháp tướng. Lại như Thánh đệ tử đã thấy dấu tích chân thật, y vào tự sở chứng không đảo điên phân biệt thể tánh các pháp. Đây cũng gọi là Ma-đát-lý-ca. Cũng gọi là A-tỳ-đạt-ma. Nay đây tạm dẫn văn bao gồm nghóa mười hai bộ kinh trên. Ngoài ra còn các giáo chuyên nói… sợ văn nhiều nên không nói tiếp đây. Giải thích tên gọi: Trước giải thích tên chung . Các vị tiên đức dịch ra làm mười hai bộ kinh. Bộ bao gồm hai nghóa: Bộ trật và bộ loại. Đây là bộ loại vì nghóa loại mười hai bộ có sai khác. Người xưa nghi nói mười hai bộ trật kinh (pho kinh). Do đây mà Đạo só nói ba mươi sáu bộ. Học trò Lão Trang mỗi bộ làm riêng một bộ. Nay nói mười hai phần giáo, phần là phần đoạn. Văn nghóa sai khác có mười hai phần đoạn. Lại nói kinh đó là lạm nói Khế kinh. Nay dịch là: Giáo có mười hai gọi chung lại không còn lạm dụng nhau. Đây là đời số thích . Giải thích tên. Gồm có ba thứ: Ứng tụng, Phúng tụng, Tự nói, Duyên khởi, Hy pháp, Phương quảng. Sáu tên này chỉ y vào chủ mà giải thích. Nên trùng thuật lại cho đến nói rộng về lý. Một loại luận nghị chỉ là trì nghiệp giải thích. Thể của luận tức là nghị. Hoặc phúng tụng cũng là trì nghiệp thích. Có khi phúng, có khi tụng, không đồng ứng tụng. Bài tụng kia là giáo. Tụng này là đọc, nói: Năm tên gọi gồm Khế kinh, Ký biệt, Thí dụ, Bổn sự, Bổn sanh thông cả hai giải thích là Trì nghiệp và Y chủ. Năng khế tức là kinh, khế lý của kinh, cho đến bổn thể tức là sanh, sanh của đời trước. Sai khác có hai: Thể khác nhau,và Giáo khác nhau. Thể khác nhau đó là trong ứng, tụng nhất định không có phúng tụng. Trong phúng tụng nhất định không có ứng tụng. Trước sau khác nhau nên đơn, kép cũng khác nhau. Trong Bổn sự nhất định không có bổn sanh. Trong bổn sanh nhất định không có bổn sự. Thầy trò đều khác nhau, bốn bộ này chỉ đầy đủ mười một, tám bộ khác thì đầy đủ cả mười hai, tùy nó thích ứng mà có các tướng sai khác trước nói. Kinh Niết-bàn chép: “Từ như thị cho đến. cuối cùng là phụng hành” đều là Tu-đa-la, nên thông cả mười hai, tướng riêng thành không có, chỉ lấy văn xuôi làm Khế kinh, hai thứ kệ bèn chẳng phải, còn lại bảy giáo đều đủ cả mười hai. Y theo đây có thể biết. Trong ứng tụng có đầy đủ cả mười một là phẩm Thí dụ nói: “Xá-lợi-phất đời sau thành Phật Phổ Trí, tôn hiệu là Hoa Quang, độ vô lượng chúng sanh,” tức là có Ứng tụng ký biệt vậy. Trong Ứng tụng cũng có tự nói, phẩm Phương tiện nói: “Bậc Thế hùng không lường. Chư thiên và thế nhân cùng tất cả chúng sanh đều không thể biết được Phật.” Tức là Ứng tụng của tự nói vậy. Trong Ứng tụng cũng có duyên khởi, phẩm Phương tiện nói: “Xá-lợi- phất lắng nghe! Pháp sở đắc của Chư Phật thì vô lượng, dùng phương tiện lực mà vì chúng sanh nói” pháp, là Ứng tụng của nhân duyên, tức vì ngài Thu Tử thỉnh mà Phật nói pháp. Trong Ứng tụng cũng có thí dụ: “Ví như trưởng giả có ngôi nhà lớn. Nhà này đã lâu đời, mà lại hư nát v.v…”. Đây là Ứng tụng có phần Thí dụ. Trong Ứng tụng cũng có Bổn sự, phẩm Tựa nói: “Sau khi Phật kia diệt độ, người biếng nhác đó là ông, Diệu Quang pháp sư nay chính là thân ta”. Đây tức là Ứng tụng của Bổn sự vậy. Trong Ứng tụng cũng có Bổn sanh, phẩm Thường Bất Khinh nói: “Thường Bất Khinh kia nay là thân ta.” Đây tức là Ứng tụng của Bổn sanh. “Trong Ứng tụng cũng có Phương quảng, phẩm Phương tiện nói: Trong mười phương Cõi nước, chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba, trừ Phật Phương Tiện nói,” tức là Ứng tụng của Phương quảng. Trong Ứng tụng cũng có Hy pháp. Phẩm Hóa thành nói: “Đức Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua mười kiếp ngồi tại đạo tràng. Phật pháp không hiện tiền, không thể thành Phật đạo,” tức là Ứng tụng của Hy pháp. Trong Ứng tụng cũng có luận nghị. Phẩm Thọ lượng nói: “Chúng sanh đã tin phục, ý mềm mỏng ngay thẳng, nhất tâm muốn thấy Phật không tiếc cả thân mạng. Bấy giờ ta và chúng tăng đều ra khỏi núi Linh thứu. Ta bây giờ nói với chúng sanh là ta thường ở lại đời mà không diệt, dùng lực phương tiện, nên hiện ra diệt hay không diệt.” Đây tức là Ứng tụng của luận nghị. Còn ba giáo khác đều có đủ cả mười một, y theo đây nên biết. Nhưng trong kinh này có đủ mười hai phần, một bộ đều là tướng chung của Khế kinh. Trùng tuyên lại nghóa này đều là Ứng tụng. Thỉnh Phật vì thọ ký, giải thích chỗ nghóa sâu. Trong phẩm Hóa thành, thì Phạm thiên ở phương Đông dùng kệ tụng: “Thế Tôn thật ít có. Khó có thể gặp được. Đủ vô lượng công đức Đều cứu hộ tất cả v.v…” Đều là phúng tụng. Đầu phẩm Phương tiện, tức là phần tự nói. Bài kệ trước nói: Không ai hỏi mà Phật tự nói, khen ngợi đạo sở hành. Ngài Thu Tử ba lần thỉnh, Di-lặc ba lần thỉnh… chỗ nói về quyền thật đều là duyên khởi. Trong phẩm Thí dụ đều dùng Thí dụ nói việc quá khứ của chúng đệ tử, đây là bổn sự. Tự nói việc quá khứ của Phật là bổn sanh. Nói Nhất thừa xứ là Phương quảng. Nói hiện thần thông xứ là Hy pháp. Trong phẩm Thọ lượng, Phật nói tướng của ba thân có thể gọi là luận nghị. - Giáo khác nhau là: Đại có đủ mà tiểu thì có chín. Tức là văn kinh này. Tiểu thừa chỉ không có ba phần: Thọ ký, tự nói, và Phương quảng, mà không chướng ngại Đại thừa có mười hai phần. Tiểu có đủ mà đại có chín. Kinh Niết-bàn quyển ba nói: Hộ trì Đại thừa là thọ trì chín bộ. Đại thừa trừ ra nhân duyên, thí dụ, luận nghị mà không chướng ngại Tiểu thừa có mười hai phần. Đại có đủ mà tiểu có mười một: Du-già quyển ba mươi tám nói: Một phần Phương quảng chỉ ở tạng Bồ-tát, các phần khác có tạng Thanh văn. Đại một mà tiểu mười một: Du-già quyển tám mươi lăm nói, trừ một phần Phương quảng, các phần khác gọi là Thanh văn thừa, tương ưng với Khế kinh. Vì sao văn này nói Đại có đủ mà tiểu có chín. Y vào phần thọ ký đệ tử thành Phật gọi là thọ ký, nói Thanh văn không có vì trước chưa cầu đại Bồ-đề. Cũng như đưa của báu cho người ngu thì người ngu liền cười. Thanh văn nghe Phật thọ ký cũng vậy, cho nên nói là không, chẳng phải thọ ký, các việc sanh tử đã qua của các đệ tử cũng không. Lại Thanh văn thừa phần nhiều nghe pháp nông cạn, nếu không đợi thỉnh mà nói thì tâm kiêu mạn của họ liền phát sanh. Nói không có tự nói mà thật ra cũng có. Lại thanh văn chỉ chứng tiểu quả mà không đắc Chánh giác, lý không đến chỗ tột cùng hành không rộng lớn. Nói không có Phương quảng, thật ra cũng có, chánh pháp Phương quảng mà trình bày rộng . Thế nên trong bài tụng này chỉ vì Thanh văn mà nói chín bộ, lý thông cả mười hai. Trong kinh Niết-bàn nói Tiểu có đủ mà Đại có chín: Do phạm mà chế giới gọi là nhân duyên, Bồ-tát không phạm nên lược nói không có. Chẳng phải là không có nhân thỉnh, nhân sự duyên khởi mà Phật nói pháp. Phàm nói thí dụ so sánh để khai mở cho người rung căn, hạ căn. Còn ngài Thu Tử là người lợi căn thượng phẩm, phần nhiều còn không đợi thí dụ, huống chi là Bồ-tát. Phần nhiều không đợi nên nói là không. Theo lý cũng có. Lại Đại Bồ-tát tánh đều là lợi căn, nêu tông liền hiểu, không đợi hỏi thỉnh, mới sanh tuệ tâm. Nói không có luận nghị, lý thật chẳng phải không có. Lại người hộ pháp phần nhiều tụng tạng Tố-đát-lãm. Duyên khởi, thí dụ phần nhiều là tạng điều phục. Luận nghị phần nhiều thuộc tạng Đối pháp. Cho nên nói đại chỉ có chín. Theo lý là chẳng phải không đủ mười hai. Du-già quyển ba mươi tám chép: Đại có đủ Tiểu chỉ có mười một. Tiểu thừa cũng thọ ký cho đệ tử và không đợi thỉnh mà Phật vì lòng từ bi nói pháp. Đây có đủ phần ký biệt và tự nói, cho nên có mười một phần. Không có Phương quảng đó là không cầu Chánh giác, vì nói lý thô thiển nên không có, mà thật cũng có. Du-già quyển tám mươi lăm, văn không khác với trước. Nhưng lấy mười một mà nói là Thanh văn. Đối với Phương quảng mà nói là Bồ-tát, chẳng phải trong tạng Bồ-tát không có mười một nghóa kia. Đều là tùy theo một nghóa riêng biệt mà nói số không đồng. Lý thật thì hai tạng Thanh văn Bồ-tát đều có đầy đủ mười hai phần. Nay tùy theo cần thiết, lại lược ra phân biệt. Ngoài ra, nghóa giải thích rộng như trong chương nên biết. Kinh: “Căn độn ưa pháp nhỏ cho đến vì đó nói Niết-bàn.” Tán: Một hàng rưỡi tụng lại phần: Tùy cơ nghi nói, ý thú khó hiểu ở văn xuôi trước. Lược nói thì có năm nghóa: 1, Độn căn khó ngộ. 2, Thích tiểu sợ đại. 3, Đam mê sanh tử, không mong ra khỏi. 4, Gặp duyên không tu. 5, Hiện tự tại nhiều khổ ép ngặt. Do năm nghóa này mà Phật nói Niết-bàn. Vì độn căn nên đắm trong sanh tử. Tuy có gặp Phật đã từng được hóa độ, mà không hành đạo Đại thừa sâu mầu. Do làm ác nên lại chịu khổ. Vì khuyên học xa lìa khổ nên đầu tiên Phật nói Niết-bàn của Nhị thừa. Cho nên phẩm Tín giải chép: Đầu tiên gặp Phật, thoái dòng sanh tử, sau hóa độ Nhị thừa, cũng đồng như thế. Kinh: “Ta lập ra phương tiện cho đến sẽ được thành Phật đạo.” Tán: Phần thứ hai có bảy hàng rưỡi tụng, thứ tư của văn xuôi là khiến cho trụ. Trong đây chia làm bốn: Một hàng tụng là nêu Một hàng giải thích. Bốn hàng rưỡi tụng ở hội này. Một hàng khuyên trụ. Đây nói phần đầu: Trước lập hai quyền để khiến cho rốt ráo, nhập vào tuệ Phật , trụ pháp Nhất thừa. Kinh: “Sở dó chưa từng nói cho đến chắc chắn nói Đại thừa.” Tán: Đây một hàng giải thích hội nêu ra ở trước “Ông căn tánh chưa thuần thục, chưa ngộ Đại thừa, nên không thể nói . Nay ông căn tánh thật đã thuần thục chính là phải lúc nên nói ra”. Cũng như phẩm Hóa thành chép “Các Tỳ-kheo! Nếu Như lai tự biết khi Niết-bàn đến. Chúng lại thanh tịnh, lòng tín hiển vững chắc, hiểu rõ pháp không, nhập sâu thiền định. Liền nhóm họp chúng Bồ-tát và Thanh văn lại để nói kinh này. Thế gian không có hai thừa mà được diệt độ, chỉ một Phật thừa mà được diệt độ thôi.” gốc. nói. Kinh: “Chín bộ pháp này của ta cho đến vì thế nói này”. Tán: Đây là bốn hàng tụng rưỡi về hội. Trong chia làm ba: Một hàng tụng tiểu pháp chẳng phải là chân, nói đại thừa làm Một hàng rưỡi tụng đại pháp thắng diệu vì người thù thắng mà Hai hàng tụng kết thành tựu người, pháp thắng diệu, khuyên bỏ người pháp không diệu. Đây nói về phần đầu. Vì thuận theo sơ cơ mà nói chín bộ này, vì nhập vào đại thừa làm gốc, chẳng phải là rốt ráo, nên nói là trụ Đại thừa. Kinh: “Có Phật tử tâm tịnh… vì nói kinh Đại thừa.” Tán: Nói kinh Đại thừa thắng diệu là vì người thù thắng mà nói. Khuyên bỏ pháp yếu, chớ thành người ác, tất cả hàng Bồ-tát đốn ngộ tiệm ngộ đều là Phật tử. Đều có năm đức: Một là tâm tịnh. Chuyên cầu trí tuệ Đại thừa của Phật. Chẳng phải ưa thích thấp kém chỉ trừ hai chướng. Hai là mềm mỏng: Tâm nhẫn nại chịu khó, có thể làm đại nghiệp, tinh cần không dứt. Ba là lợi căn: Tánh phần nhiều thích cứu khổ ban vui cho người. Tất cả đều bình đẳng nghe pháp mau ngộ nhập. Bốn là vô lượng: Từng gặp duyên lành, ở chỗ Chư Phật mà rèn luyện bản thân. Năm là hành đạo sâu mầu, đều tu phước tuệ, khuôn báu giác chân. đề. Kinh phát Bồ-đề tâm nói đầy đủ mười pháp có thể phát tâm Bồ- Gần gũi bạn lành. Cúng dường Chư Phật. Tu tập gốc lành. Chí cầu thắng pháp. Tâm thường mềm mỏng. Gặp khổ chịu đựng được. Từ bi thuần hậu. Sâu tâm bình đẳng. Yêu thích Đại thừa. Cầu trí tuệ Phật. Mười pháp này đều nhiếp năm đức trên: Tâm tịnh nhiếp hai câu: yêu thích Đại thừa, cầu trí tuệ Phật. Mềm mỏng nhiếp hai câu: Tâm thường mềm mỏng, gặp khổ chịu đựng được. Lợi căn nhiếp hai câu: Từ bi thuần hậu, sâu tâm bình đẳng. Chỗ vô lượng Phật nhiếp hai câu: gần gũi bạn lành, cúng dường Chư Phật. Hành sâu mầu thông nhiếp hai câu: Tu tập gốc lành, chí cầu thắng pháp. Có đầy đủ năm đức này mới thành tựu mười pháp, mới vì họ mà nói Đại thừa khiến cho phát hướng tiến đạo. Kinh: “Ta thọ ký người như thế cho đến vì nói Đại thừa”. Tán: Kết thành hai pháp thắng diệu khuyên bỏ hai không phải diệu. Thọ ký người năm đức đời sau thành Phật. Dùng thâm tâm niệm Phật mà tu trì tịnh giới. Niệm Phật có hai: Ngữ niệm. Tâm niệm. Hoặc tâm duyên vào việc Phật mà nguyện cầu mong thành. Trí niệm lý thân, cầu chứng diệt chướng. Định tuệ đã vậy lại trì tịnh giới, thành tựu ba học, nên Phật thọ ký. Các pháp này do nghe mà thuận tâm Phật, cho nên vui mừng, Phật biết rõ tâm chúng nên nói cho nghe pháp Đại thừa. Kinh: “Thanh văn hoặc Bồ-tát cho đến đều thành Phật không còn nghi”. Tán: Đây khuyên nên trụ. Khen ngợi lợi ích nghe pháp, khuyên trụ vào Đại thừa. Kinh: “Trong cõi Phật mười phương cho đến dẫn dắt chúng sanh. Tán: Đây là phần thứ ba một hàng rưỡi tụng về nghóa thứ sáu nói ngăn văn xuôi không hai đó là không có Độc giác thừa thứ hai, không ba là không có Thanh văn thừa thứ ba. Từ hơn đến kém Phật thừa là đầu. Đây căn cứ vào chân lý mà không có hai cực thừa, trừ phương tiện mà nói. Trong phương tiện nói có ba. Mượn ba tên để dẫn dắt chúng sanh. Mượn dụ xe dê xe hươu để đưa chúng sanh ra khỏi nhà lửa, chẳng phải thật có hai. Vì muốn độ chúng sanh nên đây nói hai thừa. Niết-bàn Bồ-đề đều không có thật thể, cùng gọi là giả danh. Nhưng Niết-bàn có thể chứng mà phược được dứt trừ. Chủng trí không thành vì không giác nên hóa thành nên vào để tạm dứt khổ. Có tên xe hươu xe dê mà không bước lên. Hỏi: Ba việc gọi là Đại Bát, chỉ đắc giải thoát mà nói nhập vào thành. Nhị không trí là xe trâu, chỉ đắc sanh trí mà lên xe dê xe hươu? Đáp: Giải thoát dứt các khổ mới gọi là vào Hóa thành. Hai thừa không có chủng trí nên không lên xe dê xe hươu. Lại Nhị thừa giải thoát đồng nghóa dứt khổ, kia cũng phần đắc nên cùng được gọi vào thành chủng loại chân trí, chỉ có Phật là viên thành. Tuy cũng phân đắc mà không gọi là lên xe; về lý thật, sự không có khác nhau. Lại nhân quả hoặc chướng kia đều trừ. Giải thoát hóa thành mà gọi là tạm vào. Nhân quả trí chướng kia không diệt, thì hai xe chủng trí không nói là lên. Kinh: “Nói trí tuệ Phật cho đến cứu giúp chúng sanh”. Tán: Phần thứ tư có mười tám hàng rưỡi tụng nghóa thứ ba của văn xuôi, y vào nghóa gì? Trong chia làm hai: Một hàng rưỡi nêu một đại sự. Mười bảy hàng tụng mở bày ngộ nhập. Trí tuệ Phật như trước nói họp lại có năm thứ: Ở đây thường nói hai pháp Quả Phật. Bồ-đề, Niết-bàn, trí tánh, tuệ dụng hợp lại gọi là trí tuệ. Hoặc chỉ có chân trí mà không lấy chân như. Phật ra đời vì nhất Phật tuệ khiến chúng sanh ưa thích chỉ đây là một thật, là cực quả rốt ráo, vô thượng thắng diệu. Thể của Nhị thừa chẳng phải là chân cực, rốt ráo thắng diệu. Cho nên trong văn dưới dùng năm độ trước để so sánh với kinh này, không nói Bát-nhã. Cuối cùng không dùng Tiểu thừa để độ sanh. Hoặc một việc này phần nhiều nói trí tánh. Trong kinh Niết- bàn nói, Sư tử rống nói. Phật tánh tức là không, không tức là trí tuệ. Do đây mà trí tánh cũng gọi là trí tuệ. Nay phần nhiều dùng giải thích đầu làm chánh. Nhị thừa không có nên đã nói hai pháp còn lại chẳng phải chân. Thế nên biết không phải là phá tam mà là gom ba về một. Kinh: “Phật tự trụ vào Đại thừa cho đến dùng đó để độ sanh…”. Tán: Mười bảy hàng dưới tụng mở bày ngộ nhập. Trong đây chia làm bốn: Một hàng đầu tụng về khai, năm hàng tụng về ngộ, một hàng tụng nhập, mười hàng tụng thị. Đại thừa hợp với chân lý chánh trí. Giả là nơi thân Phật hằng ở yên trong Niết-bàn Bồ-đề này nên gọi là trụ. Trụ có nghóa là nơi nương tựa an vui, sở đắc chỉ là chân lý pháp thân. Hoặc Đại thừa đó chỉ lấy chân lý, chánh trí chứng hội chân lý gọi là trụ. Vì pháp thân muôn đức này đầy đủ đức tánh chân thật. Cho nên báo thân Phật như chân lý pháp thân Phật chứng, lại dùng vô lượng định tuệ để trang nghiêm. Định tức là phước. Tuệ tức là trí, nhiếp trì hết tất cả công đức hữu vi. Trong sâu tận đến chân lý, Niết-bàn đã tròn đầy, chân trí bèn sanh, phước tuệ trang nghiêm đầy đủ. Bồ-đề công đức cũng đầy đủ tròn đầy. Cho nên dùng hai pháp khai ở chúng sanh nên gọi là độ. Hiển bày hai thể tánh là Vô thượng khiến người sanh lòng ưa thích. Kinh: “Tự chứng đạo vô thượng cho đến. Việc này là không thể…” Tán: Có năm hàng tụng về ngộ chia làm ba phần: Một hàng rưỡi tụng bình về đẳng. Hai hàng rưỡi tụng về đức cao quý. Một hàng về ngộ. Vô thượng đạo là chánh trí là thắng, tức nói thông suốt cả hai nơi. Vô thượng Đại thừa là chân lý cao siêu. Đều bình đẳng không có năng nhận, sở nhận không có tự tha ta và vật khác nhau. Lại Đại thừa tức vô thượng đạo là vận dụng tốt đẹp. Phật đã chứng lý trí đều bình đẳng thì đâu còn phân biệt có hai là tự, tha, vật và ta? Nội trí nếu không bình đẳng, tự giữ Đại thừa. Ngoại trí không bình đẳng để người giữ Tiểu thừa, thì rơi vào pháp bỏn sẻn . Hoặc tham cầu danh lợi chưa dứt. Đâu gọi là chứng đắc Chánh giác, Đại thừa vận dụng tất cả, đây là không thể được! Kinh: “Nếu người tin quy Phật… mà riêng không kinh sợ.” Tán: Hai hàng rưỡi tụng nói lên thắng đức. Có hai: Một hàng tụng rưỡi nói về bên trong lìa nhiễm, không có đức sợ hãi. Một hàng sau tụng: Ngoài hiện trang nghiêm, nói về công đức của thật pháp. Như người mới tin Phật là sơ phát tâm, quy y Phật rồi sau tu chánh hạnh, Như lai không vì sự khinh bạc chê bai mà không trao Đại thừa thuần hóa Tiểu thừa, cũng không vì lừa dối họ đầu tiên nói cho đại sau không cho. Vì sao? Vì Phật không tham tiếc Đại thừa lừa dối mà không cho. Cũng không có tâm ganh ghét sợ người chứng Đại thừa mà dối gạt. Do dứt hết ác trong tất cả pháp. Ác là phiền não nghiệp khổ, pháp ác sanh tử đã dứt trừ hẳn. Đã không có các việc như trên mà chánh trí tròn đầy. Cho nên trong mười phương đều không còn sợ mà làm tiếng sư tử rống. Ta là bậc Nhất thiết trí, Nhất thiết kiến, bình đẳng hóa. Nếu có các việc ác trên thì trí chưa cùng, quả chưa viên. Làm sao trong mười phương có thể làm tiếng rống vô úy. Thế nên người thế tục có nói: Cha nghe con khỏe mạnh, hận là không giết thân. Bên ngoài vì sao lẫn tiếc, nên không tham ganh. Kinh: “Ta dùng tướng trang nghiêm thân cho đến vì nói ấn thật tướng.” Tán: Hiện ngoài trang nghiêm, nói đức của pháp thật. Hình hài tướng tốt, thân tướng trang nghiêm. Thân sáng trí sáng lại cùng chiếu sáng, chiếu sáng khí thế gian và chúng sanh. Do đây mà mọi người đều tôn kính, gọi ta là Thế gian giải. Nếu bên trong có nhiễm thì ngoài không có tướng này. Ngoài hiện tướng này, rõ ràng trong không nhiễm, nên nay ta nói thật tướng ấn. Thật tướng ấn là lý Đại thừa hai không. Dùng lý ấn này mà ấn Đại giáo. Đại giáo chắc chắn cao siêu, thật chẳng phải quyền, như trong Tiểu thừa nói ba pháp ấn, ấn định giáo pháp. Kinh: “Xá-lợi-phất nên biết cho đến như ta đây không khác.” Tán: Đây là hàng tụng về ngộ. Ông nên như ta ngộ rõ những điều không biết về Đại thừa chân trí. Ta xưa lập thệ nguyện, khiến cho tất cả chúng sanh không khác với ta . Nguyện khiến cho giác ngộ, nguyện dùng tín, dục, thắng giải làm tánh. đạo.” Kinh: “Như Ta xưa đã nguyện cho đến đều khiến nhập Phật Tán: Đây là một hàng tụng về nhập. Nay quả đã mãn theo như tâm nguyện xưa kia, nên hóa độ chúng sanh nhập vào Phật đạo. Đạo là nghóa nhân, khiến nhập vào Bát địa hoặc nhân của Sơ địa trở lên địa vị không lui sụt . Kinh: “Như ta gặp chúng sanh cho đến mê hoặc không thọ giáo…” Tán: Đây trở xuống mười hàng tụng, nói về thị. Chia làm hai: Tám hàng đầu tụng về thị khác nhau ban đầu. Hai hàng tụng về Thị sau trở lại đồng. Tám hàng đầu lại có ba: Một hàng tụng về ý khác nhau. Sáu hàng tụng về tướng khác nhau. Một bài tụng về kết khác nhau. Như dạy chúng sanh đều dùng Đại thừa. Người trí có thể như vậy. Người ngu vô trí thì lầm học, loạn hành, tâm mê không tin, sanh nghi hoặc phỉ báng, trở lại cùng tăng ác hạnh không thể lãnh thọ, ví như thuyền lật ở cao trở thành mắc cạn. Do đây trở lại làm tăng thêm lỗi người ngu. Cho nên, không thể chỉ dùng pháp Đại thừa dẫn hóa cho họ được. Kinh: “Ta biết chúng sanh này cho đến Si ái nên sanh não…” Tán: Trở xuống sáu hàng tụng về Thị tướng khác nhau. Trong đây chia làm hai: - Một hàng tụng đầu là nói vì không có thiện, mà có ác nên khác nhau. Năm hàng sau giải thích nghóa trên cho nên khác nhau. “Chưa từng tu gốc lành”, tức là gốc lành phương tiện xuất thế. Từ vô thỉ tuy có khởi mà phần nhiều tối kém, chỉ sanh đắc thiện mà không có nhân vô lậu. Do chấp vào năm cảnh, chấp chặt không bỏ. Lấy đây làm duyên si liền phát nghiệp, ái liền nhuận sanh. Do đó mà tất cả khổ não của sanh già bịnh chết càng thêm lớn. Do không có phương tiện thiện bổn xuất thế, lấy hai nghiệp si ái làm nhân cho mình, chấp vào cảnh ngũ dục không chịu buông bỏû. Phát nghiệp vô minh phần nhiều do mê trong mà ra, nhuận sanh tham ái, phần nhiều duyên năm dục mà sanh. Nay căn cứ vào dục giới phát nghiệp vô minh mà nói chung, trùng ở một chỗ. Kinh: “Bởi các dục nhân duyên cho đến. Đời đời thường thêm lớn. Tán: Năm hàng tụng giải thích vì có ác không thiện nên không đồng. Trong đây có hai: Bốn hàng tụng đầu vì có ác nên khác nhau. Một hàng tụng sau vì không thiện nên khác nhau. Bốn hàng đầu lại có hai: Một hàng rưỡi: Do đắm vào ngũ dục tục trần nên khác nhau. Hai hàng rưỡi tụng cầu tà xuất ly, học hạnh lầm loạn nên khác nhau. Do tham dục cho nên thuần khởi ra nghiệp bất thiện, đọa vào đường ác. Do tạp nghiệp nên luân hồi trong lục thú thọ đủ các khổ não. Tứ sanh sanh trưởng thảy đều có nghiệp. Ba khổ, tám khổ, năm khổ ép buộc. Đây là chỉ nói một đời hiện khổ. Cho nên nói thọ thai hình nhỏ, đời đời thường thêm lớn. Nhỏ nghóa là yếu, thai là thai tạng. Bất tịnh ràng buộc bên trong thật đáng chán ghét sự sanh nhỏ yếu kém. Luận Du-già chép: Lúc mới thọ sanh vốn ở thân trung hữu. Thân trung hữu dài nhất thì bảy ngày mạng chung. Nhiều nhất là không qua bốn mươi chín ngày trụ. Người gây ra nghiệp ác thì thân trung hữu như ánh lửa chớp trong đêm tối. Người làm nghiệp lành như chiếc áo trắng sáng hoặc đêm trong sáng. Tùy theo nơi sẽ sanh trụ mà sẽ thấy đồng loại và nơi sẽ sanh ra không bị ngăn ngại . Gây ra nghiệp ác thì mắt thấy điều bất tịnh cúi xuống mà đi. Người được sanh cõi trời thì ngườc mắt lên trên. Sanh xuống cõi người thì hướng bên mà đi. Nếu tạo bất luật nghi thì đọa vào địa ngục thấy đồng loại xưa, ưa thích vượt chạy bên bị níu kéo lại. Cảnh ngạ quỉ bàng sanh cũng vậy. Còn các tạp nghiệp khác thì tùy theo nghiệp thiện ác sanh trưởng về nơi nào, ở đó cha mẹ tùy người nam hay người nữ mà sanh ra buồn vui. Tùy chỗ sẽ sanh mà bám lấy di thể của cha mẹ lúc mê mờ thì bị câu ngại, trong bảy ngày đó gọi là Yết thích lam. Đây gọi là tạp uế, cha mẹ bất tịnh cùng hòa hợp lẫn lộn. Thật là nhàm chán xấu xa gọi là uế. Nếu đã đọng thành chất lỏng bên trong thì trong mười bốn ngày gọi là Át-bộ-đàm, đây gọi là bào, hình dáng như hạt đậu bao bọc, bên trong như lạc chưa thành thịt. Trong hai mươi mốt ngày gọi là bế hộ, đây gọi là ngưng kết, cũng như cục huyết đặc. Người Tây Tạng gọi huyết là bế hộ. Nếu đã thành cục thịt nhưng vẫn mềm thì trong hai mươi tám ngày gọi là kiện nam, Hán dịch là ngưng hậu, vì dần kết dày thêm. Nếu đã cứng dày thì ít chịu xúc chạm trong ba mươi lăm ngày gọi là Bát-la-xa-khư, đây gọi là hình vị, cũng như Nê đoàn (cục bùn). Năm phần tướng nối liền thân và tứ chi. Ở trong gió hướng ngoại tạo lấy hình tướng sai khác của sanh căn. Tức cục thịt trước kia thêm lớn các chi phần mà hiện ra tướng. Trong tuần thứ sáu gọi là phát mao trảo vị, sanh ra tóc lông. Tuần thứ bảy gọi là cụ căn vị, năm căn đầy đủ hiện ra rõ ràng. Đến đây cho tới khi thai tròn ba tháng, mọi thứ đều thành tựu. Nếu không thêm bớt, như thế trải qua ba mươi tám tuần thai bắt đầu tròn đầy. Sau đó bốn ngày đầu thai nhi hướng xuống dưới, hai chân hướng lên, bao thai xé ra, cửa sanh ép buộc, các sự đau lúc này càng dữ dội. Hoặc do nghiệp trước người mẹ ăn tro muối làm cho tóc tai con thưa thớt. Hoặc người mẹ ăn đồ nóng, khiến con có sắc đen hoặc đỏ khi sanh ra. Mẹ ăn đồ lạnh hoặc gần nhà lạnh con phần nhiều trắng bệch. Mẹ dâm dục thì con bị ghẻ lỡ. Mẹ ưa nhảy nhót uy nghi không ngay thẳng thì con tứ chi khuyết giảm. Nam thì ở hông phải dựa vào xương sống hướng ra xương sống, nữ ở hông trái dựa từ bụng hướng ra bụng. Tùy theo cha mẹ sanh ái nhiễm, đầu tiên bám theo chất bất tịnh của cha mẹ cho là thân mình, sau dùngï bất tịnh của mẹ để nuôi lớn. Hiện duyên đã như vậy cho nên nghiệp bất thiện, trăm điều ác cảm lấy ba mươi sáu vật bất tịnh làm thể, thân ác như thế không đáng ưa thích, trôi lăn không cùng, gọi là đời đời thêm lớn. Kinh: “Người đức mỏng ít phước cho đến Tâm siểm khúc không thật. Tán: Đây là hai hàng tụng về cầu tà xuất ly, học hạnh lầm loạn cho nên không đồng, một hàng rưỡi tụng về khởi ra tà kiến thân biên thành sáu mươi hai kiến, một hàng tụng sau do khởi kiến giới thủ mà hoặc nghiệp sanh ra. Hoặc hàng tụng đầu chung khởi ra cả năm kiến, một hàng rưỡi sau tụng khởi riêng về năm kiến. Chúng sanh kia từ đời vô thủy đến nay vì đức mỏng phước ít nên chịu thống khổ ép buộc. Tuy muốn thoát ra mà không hiểu rõ tà chánh, lầm rơi vào chỗ ngoại đạo không có chánh kiến. Học hành sai lầm nên gọi là tà kiến. Năm kiến đều là tà kiến. Đây dựa và khoa sau, không phải cần bác bỏ không có mới là tà kiến. Phiền não tà kiến làm câu ngại chúng sanh, khó thoát ra khỏi không thể giải thoát nên gọi là như rừng dày đặc. Đây là kiến chung sau là nói hiển riêng. Hoặc có hoặc không v.v… ở đây có hai giải thích. Ý vào khoa sau thì tứ kiến trong năm kiến là hữu nên đều chấp vào hữu. Tà kiến chấp là không, nên phần thường bác bỏ không. Đây là hiển bày các thứ phiền não. Nếu dựa vào khoa đầu thì rừng tà kiến dày đặc là tà kiến bác bỏ không. Nếu có thì chấp vào thân sau của ta là có tức thường kiến. Nếu không thì chấp hậu thân là không tức đoạn kiến. Hai chấp này gọi là biên kiến là thủ thân kiến, kiến thủ, giới thủ. Do sáu mươi hai kiến dùng tà kiến biên kiến làm tự thể nên nêu riêng. Lấy hai kiến khác làm quyến thuộc. Nương vào thân kiến lấy làm căn bản. Thế nào là sáu mươi hai kiến, tụng rằng: Hai bốn tám mươi kiếp Kiến sanh tử nghiêng thường Phạm đại chủng tâm khác Hý phẫn nhuế một phần Có sắc có biên thảy Các sanh tử tưởng địa Một thứ tiểu vô lượng Thuần vui đều có tưởng Tức hữu sắc biên thày Sanh vô tưởng đều không Người trời dục, cõi sắc Bốn vô sắc đoạn diệt Chết ở trời vô tưởng Tầm từ chấp không nhân. Nhớ trên dưới bàng đều. Kiếp hoại có biên thảy. Sợ vô tri hành siểm Ôm ưu não kiểu loạn Người dục thiên dục lạc. Niết-bàn bốn tónh lự. Các kiến hoặc này, trải qua từ nhiều đời quá khứ nhiếp đến tận cùng vị lai và trải qua đời hiện tại nay chung cả ở hai cõi mà xếp vào biến một phần. Còn bốn mươi bốn phần khác đều xếp vào kiến hậu tế. Sáu mươi hai kiến này các kinh luận đều nói thuộc về hai biên là biên kiến, tà kiến. Bao nhiêu kiến thuộc về biên kiến trong bốn hữu đều có một phần mà thành ra mười sáu. Vô tưởng thì đều chẳng phải tám, bảy đoạn đều là biên kiến. Tức hai thứ vô nhân kia thì tà kiến biên kiến loạn đều có bốn, năm kiến Niết-bàn luận đều thuộc về tà kiến. Do chấp thần ngã mà khởi ra ngã kiến, khởi ra như thế mà thành sáu mươi hai kiến. Sau đó khởi ra các pháp kiến thủ chấp kiến là thắng là nhân, lại khởi ra các giới chấp thủ chấp giới v.v… là nhân là thắng. Chấp vào các pháp dối này không chịu buông bỏ. Ngã man tự thị, khoe khoang cống cao mà xem thường người khác. Với thầy thì dua nịnh khen ngợi lấy lòng để cầu danh lợi như vậy tâm làm sao hội nhập thật. Tham dục chấp tà như vậy làm sao có thể kham việc giáo hóa người, giữ gìn Đại pháp. - Kinh: “Trong ngàn muôn ức kiếp cho đến người như thế khó độ. Tán: Một hàng tụng không thiện nên khác nhau. Người thiện đều tu bốn hạnh gần gũi. Gần gũi bạn lành. Lắng nghe chánh pháp. Như lý tư duy. Đúng như lời dạy tu hành. Những người ác này trải qua trăm muôn ức kiếp không nghe tên Phật, thì làm sao gần gũi được tất cả bạn lành, đã không thấy Phật cũng không nghe pháp. Đã không có văn tuệ là nhân đầu tiên nhập pháp thì tư duy tu tập lý cũng không đắc được. Người như thế thật là ít có độ, làm sao đầu tiên tức giáo Đại thừa! Kinh: “Vì thế Xá-lợi-phất cho đến chỉ cho đó Niết-bàn…” Tán: Đây là phần kết khác nhau. Do như thế mà Phật lập ra phương tiện. Đầu tiên mở bày Niết-bàn, khiến cho dứt khổ. Kinh: “Ta tuy nói Niết-bàn… Mở bày pháp ba thừa .” Tán: Ở trên nói đầu tiên khác nhau hai bài tụng này mở bày sau khiến cho đồng, khuyên bỏ thân giải thoát mà giữ lấy pháp thân Phật. Chỗ nói về Niết-bàn Nhị thừa cũng như Hóa thành không phải diệt thật. Pháp từ vô thỉ tánh thể vốn thường tịch, tức tự tánh thanh tịnh Niết-bàn. Tánh ly ngôn từ, pháp chẳng phải ngày nay mới có. Như Đảo châu báu mới chình là diệt thật. Diệt thật đã vậy, cho nên hành đạo rồi đến đời vị lai chứng pháp bổn tánh diệt này mà thành tựu Phật đạo. Trí tuệ của ta khéo dùng phương tiện. Đầu tiên chia ra hai quyền sau chỉ một thật. Gọi chung là mở bày pháp ba thừa.  KINH PHÁP MẦU LIÊN HOA <卷>QUYỂN 4 PHẦN CUỐI Kinh: “Tất cả chư Thế Tôn cho đến chỉ một không hai thừa…”. Tán: Phần thứ năm, bảy mươi hàng rưỡi tụng nghóa thứ năm y pháp của văn xuôi trên. Đây chia ra ba phần nhỏ: Một hàng rưỡi tụng về pháp của Chư Phật mười phương. Ba mươi tám hàng rưỡi tụng pháp của Chư Phật ba đời. Ba mươi hàng rưỡi tụng “chúng ta cũng như thế”. Đã nói chỉ một thừa không có hai thừa, vì sao nói phá ba để về một. Kinh: “Quá khứ vô số kiếp cho đến Số nhiều không thể lường” Tán: Trở xuống ba mươi tám hàng rưỡi là tụng pháp của Chư Phật ba đời. Trong đây chia làm ba: Hai mươi bảy hàng rưỡi đầu tụng về quá khứ, sáu hàng rưỡi kế tụng về vị lai, bốn hàng rưỡi cuối tụng về hiện tại. Hai mươi bảy hàng rưỡi lại chia hai: Bốn hàng rưỡi tụng về Phật nói pháp đầu quyền sau thật. Hai mươi ba hàng sau tụng chúng sanh nghe pháp đều rốt ráo đắc Nhất thiết chủng trí. Bốn hàng rưỡi đầu nói có bốn ý: Phật nhiều. Khai quyền. Hiển thật. Giải thích ý khai quyền hiển thật ở đây là ý đầu. Kinh: “Như thế các Thế Tôn cho đến giảng nói các pháp tướng”. Tán: Đầu tiên là khai quyền. đạo”. Kinh: “Các Đức Thế Tôn ấy cho đến Khiến nhập vào Phật Tán: Hiển bày về thật. Kinh: “Lại các đại Thánh chủ cho đến giúp hiển đệ nhất nghóa.” Tán: Giải thích nghóa bỏ quyền bày thật. Biết chúng sanh chưa thể tu học ngay Nhất thừa giáo biết căn, dục nên đầu tiên dùng quyền phương tiện để giúp hiển bày Nhất thừa, sau khiến cho nhập vào thật. Lại căn tánh Bồ-tát có hai: Một là tánh bất định; hai là định tánh. Tánh bất định thì trước quyền sau thật, mở rộng pháp Nhất thừa. Hai hàng tụng trước và định tánh nói về đốn giáo Nhất thừa. Hàng tụng này nghóa là biết tâm chúng sanh tâm tánh đốn ngộ dùng phương tiện khác mà không từ quyền đến thật để giúp hiển Nhất thừa. Nhất thừa đó là Bậc nhất nghóa chân như, ban đầu Ba thừa sau nói một Phật thừa là phương tiện quyền thật, đốn nói Nhất thừa nên gọi là phương tiện khác. Kinh: “Nếu có các chúng sanh cho đến đều đã thành Phật đạo”. Tán: Trở xuống hai mươi ba hàng tụng về chúng sanh nghe pháp rốt ráo đều đắc Nhất thiết chủng trí: có ba: Hai hàng tụng đầu là Phật ở đời; hai mươi hàng kế là tụng sau khi Phật diệt độ; một hàng cuối là kết. Phàm gặp Phật nghe pháp, tu sáu độ bốn nhiếp, vô lượng v.v… gọi là các thứ phước đức. Tu nhân Phật hành Bồ-tát hạnh, nên đều đã thành đạo. Kinh: “Các Phật diệt độ rồi… đều đã thành Phật đạo.” Tán: Hai mươi hàng tụng, sau khi Phật diệt độ. Đây chia làm năm: Một hàng tụng từ tâm; bốn hàng rưỡi tụng xây tháp; sáu hàng rưỡi tụng về xây tượng; bảy hàng tụng cúng dường; một hàng tụng khen Phật. Có thiện mà cương cường chẳng phải Bồ-tát. Tâm mềm mỏng chẳng phải thiện cũng chẳng phải là Bồ-tát, cần thiện mà nhu nhuyễn mới là tâm Bồ-tát. Thuận với lý, làm lợi ích chúng sanh rất mềm mỏng nên đã thành Phật đạo, gieo trồng nhân Phật. Văn sau lại y cứ vào Phật diệt độ, sau hành các hạnh khó nên là biệt hạnh, chẳng phải Phật tại thế làm các hành này, cũng chẳng phải nhân Phật ở đời mà dễ tu. Y theo sáu độ trên thì hành sau khi Phật diệt độ là hành chung, nên cũng thành Phật đạo. Kinh: “Các Phật diệt độ rồi cho đến Trang nghiêm các tháp.” Tán: Bốn hàng rưỡi tụng xây tháp mà thành Phật. Đây chia làm hai: Bốn hàng đầu tụng xây tháp, nửa hàng sau tụng kết. Bài đầu chia làm ba: Hai hàng đầu tụng xây tháp, số nhiều là chỉ tám trân nghiêm chỉnh: Một hàng tụng lấy chín vật làm tháp. Một hàng tụng sau cho đến chơi giỡn là lấy vật kém làm tháp. Trong luận Phật Địa nói bảy báu không có mai khôi, nhưng lưu ly khác với các thứ châu báu. Châu là xích chân châu. Nay nếu dùng lưu ly làm chân châu tức là bảy báu. Nếu không thì thành ra tám báu. Lưu ly và chân châu có khác, pha lê phần nhiều là mầu trắng hồng, xa cừ thì xanh trắng. Mã não có nhiều màu, hoặc thuần trắng hoặc thuần xanh vàng, hoặc nhiều màu ở giữa. Mai khôi thì màu đỏ. Trong nói văn nói lửa cũng đồng với châu. Đá đẹp gọi là mai, tròn thì gọi là khôi. Các thứ khác cũng có thể biết. Trong kinh Tăng Nhất A-hàm Phật bảo Tỳ-kheo. Nay ta sẽ nói bốn thứ phước được sanh lên cõi trời phạm: Nếu có người thiện nam tín tâm chưa từng xây tháp mà có thể xây tháp. Tu sửa chùa. Hòa hợp Thánh chúng. Khi Phật mới thành đạo, các trời, người thỉnh xoay bánh xe pháp. Đó gọi là bốn thứ phước được sanh lên cõi trời phạm. Tỳ-kheo bạch Phật: Phước Phạm lượng bao nhiêu? Phật bảo: Gom hết phước đức vốn có của bốn thiên hạ và sáu tầng trời Lục dục, cũng không bằng phước của một Phạm Vương. Cho nên khuyên xây tháp để đắc được Bồ-đề. Kinh: “Hoặc có xây miếu đá cho đến gạch ngói đến bùn đất.” Tán: Đây là hàng tụng dùng chín vật làm tháp. Miếu đá là nhà thờ Phật làm bằng đá. Xưa gọi là Chi-đề. Nay gọi là Chế-đa, Hán dịch là Linh miếu, lẽ ra gọi là Miếu tức Miếu mạo. Trong Bạch Hổ Thông Ngọc Thiên chép: Tôn mạo của các vị Tiên Tổ ở tại đó nên gọi là Miếu. Gỗ cây mật là loại cây rừng có hương. Trong Thiết Vận gọi là ốt. Ngọc Thiên gọi là Mật giống như cây hòe, hương thơm rất mạnh, chặt để năm năm mới dùng. Nếu nghiền thành hương thì thật lâu mùi thơm mới bay ra. đạo.” luận. Kinh: “Nếu ở chỗ hoang vắng cho đến Đều đã thành Phật Tán: Bốn câu đầu tụng lấy vật xấu làm tháp, hai câu sau kết Luận chép: Gom cát làm tháp Phật cũng thành Phật đạo. Nghóa là người phát tâm Bồ-đề thực hành Bồ-tát hạnh, làm những vật bằng gốc lành thì có thể chứng Bồ-đề. Chẳng phải như phàm phu và Thanh văn chủng tánh chắc chắn là sở đắc của người chưa phát tâm Bồ-đề. Như thế từ văn trên cho đến cuối nói vẫy tay, cúi đầu… cũng đều như vậy. Kinh: “Nếu như người vì Phật cho đến Đều đã thành Phật đạo.” Tán: Sáu hàng rưỡi tụng về tạo tượng Phật. Trong đây chia hai: Năm hàng tụng nói tạo tượng một hàng rưỡi tụng là kết. Năm hàng đầu chia làm bốn: Một hàng tụng về điêu khắc tượng, hai hàng tụng về dùng mười vật trang sức, một hàng tụng về vẽ tượng Phật, một hàng tụng về vui vẻ làm. Nói làm tượng Phật chẳng phải làm tượng khác, nên nói vì Phật. Vì cầu thành Phật, vì tâm kính Phật, nên gọi là vì Phật. Lại nói vì Phật mà tạo ra các bức tượng, vì muốn trang nghiêm Phật nên gọi là vì Phật. Như kinh Công Đức Tạo Tượng nói có mười một thứ quả: Đời đời sanh ra mắt trong sáng , gương mặt khôi ngô, xinh đẹp. Sanh ở chỗ không có điều ác. Thường sanh vào nhà giàu sang. Thân sáng đẹp như kim sắc. Thường được đồ châu báu quý giá. Sanh vào nhà hiền thiện. Đời sau làm vua hoặc trong dòng tôn quý nhất của vua. Làm Kim luân hóa vương. Làm Phạm thiên tuổi thọ một kiếp. Không theo đường ác. Trong đời sau, lại tôn trọng Tam bảo. Thích cầm đồ vật mầu nhiệm, lại tạo ra công đức. Kinh: Hoặc do bảy báu thành cho đến Đều đã thành Phật đạo. Tán: Đây là hai hàng tụng về dùng mười vật trạng sức để tạo tượng. Kinh: “Họa vẽ tạo Phật tướng… Đều đã thành Phật đạo.” Tán: Đây là hàng tụng về họa Phật. Kinh: “Những hạng người như thế cho đến Độ thoát vô lượng chúng.” Tán: Đây là phần kết. Người có đầy đủ tâm đại bi, hễ khi làm việc thiện thì có tâm từ bi mới thành tựu đến bờ kia, nên nói thành Phật. Kinh: “Như người nơi tháp miếu cho đến Kính tâm mà cúng dường.” Tán: Có bảy hàng tụng nói pháp cúng dường, phần này có hai: đầu. Năm hàng rưỡi tụng về cúng dường. Một hàng rưỡi tụng về kết. Trong phần một có năm: Một hàng tụng về bốn vật cúng dường. Một hàng rưỡi tụng về âm nhạc cúng dường. Một hàng tụng về ca nhạc cúng dường. Một hàng tụng về hoa cúng dường. Một hàng tụng thân nghiệp hành kính cúng dường, đây là phần Kinh Phát Tâm Bồ-đề chép: Nếu dâng hoa cúng dường thì được hoa bảy giác. Đem hương cúng dường thì được hương năm phần pháp thân. Dùng phướn cúng dường thì đắc Đà-la-ni, chuyển được điều ác. Dùng long báu cúng dường thì được bốn vô lượng che chở chúng sanh. Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt nói mỗi thứ được mười đức. Kinh: “Hoặc sai người trổi nhạc cho đến đều mang ra cúng dường.” Tán: Đây là dùng âm nhạc để cúng dường. Trong Thuyết văn chung là năm thanh tám âm. Trong lễ ký nói Vi Thích Vũ Mao gọi là nhạc. Trịnh Huyền nói Bát âm khắc giai gọi là nhạc, là cổ động, là tiếng kêu, hễ xuất âm thì gọi là cổ, nay dùng cây bọc da vang tiếng tức là tiếng kêu. Giác là khúc hình giống như sừng. Cụ là loa. Trong kinh Niết bàn chép: Thổi loa biết thời là loại ống sáo. Ngọc thiên thì dùng ống sáo thổi, lại gọi là tiêu. Địch gồm có bảy lỗ, quen gọi là trực. Kính như cái linh mà lớn hơn. Trong ngọc thiên gọi là Tiểu chính. Trong quân pháp mười trường thì cầm nạo năm người là một ngũ. Năm ngũ là hai mươi lăm người là lưỡng (hai), Lưỡng Tư Mã thì cầm đạt. Trong kinh Phát Bồ-đề Tâm nói: Âm nhạc, nữ sắc không đem cúng dường vì làm loạn chúng sanh, nay đem cúng dường Phật thì không trái. Như trong Kim tạng có âm nhạc cúng dường. Kinh: “Hoặc dùng tâm vui mừng cho đến Đều đã thành Phật đạo.” Tán: Đây dùng ca xướng để cúng dường nên đắc phạm âm thanh Đại só. Tiếng Phạn gọi là Bà trắc, Hán dịch là khen ngợi. Trần tư lên núi Ngư nghe Nham Tụ tụng kinh, âm thanh vang xa ra ngoài hang động. Ông bèn nghó: Âm thanh này nên chế ra phạm bối. Cho nên nay quen gọi là Ngư phạm, ngầm hợp với ba khế bảy thanh ở Tây Vực, âm thanh lại vang rất xa. Kinh: Nếu người tâm tán loạn cho đến dần thấy vô số Phật. Tán: Đây dùng hoa để cúng dường. Vì sao lại khác với cúng hoa ở bốn việc trước? Vì chuyên thiện tâm, đây dùng tán tâm, cho nên không trái, lược nói là cúng dường vẽ tượng, cúng dường tượng khác cũng được. Kinh: “Hoặc có người lễ bái cho đến Hoặc chỉ hơi cúi đầu…” Tán: Đây là nói thực hành thân nghiệp cúng dường. Trên dùng ca xướng là ngữ nghiệp có thể phát tâm tức là ý nghiệp. Ngoài ra đều là cúng dường ngoại tài thực, hành ba nghiệp cúng dường. Kinh: “Lấy đây cúng dường tượng cho đến như củi hết lửa tắt.” Tán: Kết thực thành tựu việc cúng dường. Kinh: “Nếu người tâm tán loạn cho đến. Đều đã thành Phật đạo.” Tán: Ở đây khen Phật thành Phật tạm nêu ra một lần khen ngợi, còn được thành Phật huống chi là nhiều lần xưng, như kinh Dược Vương Dược Thượng chép: Ta thường khen ngợi năm mươi ba danh hiệu Phật, nay được thành Phật tức là việc này. Kinh: “Đối các Phật quá khứ cho đến Đều đã thành Phật đạo.” Tán: Tụng nói: Chúng sanh nghe pháp đắc chủng trí, đây phần kết thành Phật đạo thứ ba. Kinh: “Các Thế Tôn vị lai cho đến cũng phương tiện nói pháp.” Tán: Sáu hàng tụng rưỡi tụng về pháp vị lai, chia ra làm hai: Ba hàng rưỡi đầu nêu ra đồng với nay nói. Ba hàng tụng sau giải thích lại nghóa trước. Trong phần đầu có ba ý: Một hàng tụng đồng là phương tiện trước. Một hàng rưỡi nêu sau thành tựu nói pháp thật. Một hàng giải thích lý do trước. Kinh: “Tất cả chư Như lai… chẳng ai không thành Phật.” Tán: Đây tụng, nêu sau thành nói pháp thật. Nay người nghe pháp đều được thành Phật. Phật và chúng sanh hợp lại nói. Kinh: “Các Phật vốn thệ nguyện cho đến Cũng đồng đắc đạo này.” Tán: Giải thích lý do trước là do bổn nguyện. Kinh: “Các Thế Tôn vị lai cho đến thật vì Nhất thừa. Tán: Ba hàng tụng sau giải thích lại nghóa trước. Có hai: Một hàng tụng nói phương tiện đều là Nhất thừa; hai hàng tụng sau nói: Ngộ ba tánh các pháp hướng về cho nên như thế. Kinh: Các Phật lưỡng túc tôn cho đến Đạo sư phương tiện nói.” Tán: Ngộ được ba tánh, các pháp đều quy hướng về. Cho nên đầu tiên nói quyền, sau mới nói Nhất thừa. Diệu lý chân như thể tánh vốn thường trụ. Phật có thể chứng biết. Biến kế sở chấp sanh ra ngã pháp, thể tánh vốn là không. Phật chứng lý vô ngã, cho nên cũng biết đây chẳng phải là phàm chấp luống dối, hạt giống Phật do duyên mà khởi lên, hạt giống báo Phật y tha vô lậu do duyên mà sanh ra. Từ duyên mà khởi ra nhân tu tập. Do chứng chân lý mà dứt tâm năng chấp nhiễm phần y tha, biết sở chấp là không. Từ nhân duyên y tha của phần tịnh mà tu hạt giống Phật đó là Nhất thừa. Vì sao Nhất thừa lại hiển rõ thường pháp tức là viên thành thật? Vì pháp trụ vị pháp đó là chân như trụ trong các pháp. Thể tánh thường có gọi là pháp trụ, pháp thì có nhiễm tịnh, lìa nhiễm được tịnh, phân vị rõ ràng gọi là vị pháp. Tướng là bổn thể thể tánh thế gian. Tức là thật tánh thường trụ chân như, là thể của Nhất thừa. Ngồi trong tòa đạo tràng Kim cương, biết tánh bản thể của các pháp rồi, ở trong pháp không có danh tướng đó, đấng Đạo sư phương tiện dùng danh tướng nói trong tất cả pháp lược có hai thứ: Một là không hai là hữu. Không thì chẳng có khác nhau lập chung một tánh gọi là Biến kế sở chấp. Hữu pháp có sai khác chia ra hai: Thường và vô thường. Thường gọi là tánh viên thành thật. Vô thường là tánh y tha khởi. Tánh y tha khởi lại chia ra làm hai: Hữu lậu và Vô lậu. Hữu lậu làm tánh y tha khởi. Vô lậu làm tánh viên thành thật. Nay dựa vào trước nói vô thường là y tha. Y tha hữu lậu cần phải trừ đoạn. Trong đó chỉ giữ tịnh phần y tha vô lậu vô thường, rốt ráo mãn vị mà thành tựu Bồ-đề. Cho nên nói Hạt giống Phật từ duyên mà khởi lên. Ý hiển bày năng chứng lý vô ngã thường trụ pháp tánh chân như, bèn có rõ biết hai ngã là không. Nương theo bạn lành mà tu tập trí tuệ. Từ pháp duyên khởi mà Bồ-đề giác tròn đầy, vì chứng diệu lý chân như Nhất thừa. Diệu lý tức là pháp trụ vị pháp, tướng thế gian thường trụ. Kinh Đại Bát Niết-bàn chép: “Phật ở trong đạo tràng đã chứng biết rồi, nay vì chúng sanh dùng phương tiện nói khiến cho ưa thích tu chứng. Nay y tha này tức là Bồ-đề. Viên thành tức là Niết-bàn, họp thành nhất thừa. Viên thành cao quý nên gọi là Nhất thừa. Do dứt hữu lậu tánh y tha khởi dứt trừ Biến kế sở chấp mà chứng hai quả này. Bởi rõ được y tha tánh sở chấp cho nên đầu tiên Phật nói A-hàm, kế đến nói Bát-nhã. Thuần là giáo hữu, không gọi là phương tiện. Nay cả ba đều nói nên gọi là chân thật. Nghóa của ba tánh như trong chương khác có nói: Kinh: “Trời, người người cúng dường cho đến Cũng nói pháp như thế.” Tán: Trở xuống bốn hàng tụng rưỡi, là tụng về hiện tại, lại chia làm ba: Một hàng rưỡi là nêu; một hàng bỏ quyền bày thật; hai hàng nói về ý, đây là phần đầu. Kinh: “Biết vắng lặng bậc nhất cho đến Thật sự vì Nhất thừa”. Tán: Đầu tiên này bỏ quyền, sau lại nói thật. Kinh: “Biết các hạnh chúng sanh cho đến Tùy ứng nói phương tiện”. Tán: Đây ý nêu đầu tiên dùng quyền sau nói thật. Các hạnh chúng sanh là câu hành tướng chung của tâm. Phần dưới là câu nói chi tiết hoặc là thắng giải, tâm sở niệm đó là Biến thú hành. Nghiệp lực là tự nghiệp. Dục lực nghóa là thắng giải. Tánh lực là các thứ giới. Tinh tấn lực là xứ phi xứ v.v… Hoặc tinh tấn cho đến. thể tức là tánh lực. Vì thể chủng tánh tức là ngũ căn, chữ lực ở dưới quán thông ở trên. Căn lợi độn đó là căn hơn, kém đó. Phật có trí lực này nên có thể biết, cho nên đầu tiên nói quyền, sau trở lại nói thật. Phật trong đời vị lai do ngộ ba tánh. Hiện tại nay Phật biết được tâm chúng sanh. Cả hai bày rõ lẫn nhau nên đầu tiên lập bày phương tiện, sau mới nói chân thật. Kinh: “Nay ta cũng như thế cho đến Đều khiến được vui mừng.” Tán: Ba mươi hàng rưỡi tụng nói ta cũng như thế là đồng với trước đức Thích-ca. Chia làm hai: Hai hàng tụng đầu là nêu ra, hai mươi tám hàng rưỡi tụng rộng giải thích. Đầu tiên là tụng nay thật, sau là tụng quyền trước kia, đều khiến vui mừng dần nhập vào đạo. Kinh: “Xá-lợi-phất nên biết cho đến nghèo cùng không phước đức…” Tán: Đây là phần rộng giải thích, chia làm hai: Hai mươi mốthàng rưỡi tụng đầu tiên dùng ba thừa phương tiện dẫn dụ, tức trong văn xuôi nói: Biết tất cả chúng sanh có các thứ tâm ưa muốn chấp trước sâu xa, tùy theo bổn tánh chúng sanh mà dùng các thứ năng lực phương tiện nhân duyên thí dụ ngôn từ mà vì nói pháp. Phần sau có bảy hàng tụng nói nay chân thật. Tức trong văn xuôi nói: Như thế nói đều vì đắc Nhất thiết chủng trí Nhất Phật thừa. Tức là tụng nghóa đầu quyền sau thật. Hai mươi mốt hàng rưỡi đầu làm bốn phần: Ba hàng rưỡi đầu thấy các nguy nan ở nơi chúng sanh. Ba hàng kế tụng về suy nghó cứu không thể được, mười một hàng rưỡi tụng thỉnh cầu Phật lập bày phương tiện, ba hàng rưỡi tụng chánh nói Ba thừa giáo hóa. Trong phần đầu có hai: Một hàng tụng không có thiện. Hai hàng rưỡi tụng có ác. Kinh Bát nhã nói Phật có năm: Mắt thịt: Chẳng phải do tu định sanh ra mà do bốn đại tạo. Hoặc trưởng, dưỡng hoặc là dị thục, tịnh sắc làm tánh. Mắt trời: Đoạn ở chướng định do tu tập khởi lên, chỉ là trưởng dưỡng. Do tứ đại tạo ra, lấy tịnh sắc làm tánh. Mắt pháp: Quán sự có tuệ. Mắt tuệ: Quán lý tuệ không. Mắt Phật: do chứa nhóm mà quả viên thành. Lấy bốn cái trước làm thể, ngài Long Thọ giải thích: Như bốn dòng sông lớn lưu chảy đến thiên trì gọi chung là Đại hải. Như thế bốn thứ mắt lưu đến Quả Phật thông gọi là Mắt Phật, hai nhãn đầu thể sắc, hai nhãn tiếp thể trí. Một nhãn sau cùng thông cả hai. Lại nói người có mắt thịt, trời có mắt trời, Nhị thừa có mắt tuệ, Bồ-tát có mắt pháp Phật có Mắt Phật. Do đây mà nói là năm. Du-già quyển mười bốn nói có ba nhãn: Mắt thịt: Năng chiếu sắc hiển bày không chướng ngại. Mắt trời: Năng chiếu sắc ẩn hiện có chướng và không chướng. Mắt tuệ: Năng chiếu tất cả loại hoặc sắc phi sắc. Mắt pháp thuộc thể tuệ hợp với tuệ là một, không đồng với cảnh sắc nhãn có ẩn hiện. Cho nên lược qua không nói. Mắt Phật tức là bốn thứ mắt trước. Hoặc nói về nhân chẳng phải quả nên cũng không nói. Kinh Hoa Nghiêm nói có mười thứ nhãn: Mắt thịt: Thấy tất cả sắc. Mắt trời: Thấy chư chúng sanh các căn khác nhau. Mắt tuệ: Thấy chư chúng sanh các căn khác nhau. Mắt pháp: Thấy Bậc nhất nghóa của tất cả pháp. Mắt Phật: Thấy mười lực của Phật. Mắt trí: Phân biệt, biết rõ tất cả pháp. Ánh sáng nhãn: Thấy ánh ánh sáng của tất cả Phật. Xuất sanh tử nhãn: Mắt ra khỏi sanh tử thấy pháp Niết-bàn. Vô ngại nhãn: Thấy tất cả pháp không có chướng ngại. Mắt trùm khắp: Thấy pháp môn bình đẳng trong pháp giới. Trong mười nghóa này nghóa thứ nhất đây là nghóa thứ nhất thấy các sắc của năm nhãn trước, thứ hai ở đây là nghóa thứ hai ở trước, nghóa thứ ba, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ chín ở đây là mắt pháp ở trước, thứ tư thứ tám ở đây là mắt tuệ trước, thấy được chân đế. Hoặc thứ tư, thứ tám, thứ chín ở đây là mắt tuệ trước đều thấy lý. Thứ mười mắt trùm khắp là Mắt Phật trước, khắp thấy tánh bình đẳng trong pháp giới. Dùng Mắt Phật quán đó là trong năm thứ mắt dùng Mắt Phật quán Mắt Phật trong nghóa mười thứ thì không thấy chúng sanh mà thấy mười lực. Sáu đường chúng sanh từ vô thỉ không tu hai nhân phước tuệ, chưa đạt được bảy Thánh tài và bảy pháp tài trời, người. Nghóa là thí giới, nhẫn, cần, định, tuệ, phương tiện nên nói không phước tuệ. Kinh: “Vào sanh tử hiểm nạn cho đến Vô minh không thể thấy”. Tán: Hai hàng rưỡi tụng về có ác. Đây có hai phần: Một hàng tụng rưỡi: Hiện khổ đắm chìm, phiền não thêm lớn. Một hàng tụng sau cầu xuất yếu mà hành tà hành. Thế gian loài trâu mao do tự yêu thích đuôi mình, giữ gìn đuôi. Người tham đuôi bèn giết nó. Chúng sanh cũng vậy, tham đắm năm dục giấu để thân mình, bèn do tham ái mà tự làm hủy hoại, rồi đọa vào đường ác. Có bổn nói: Tự che không phải nghóa tự hoại. Như trâu mao mến đuôi, che lấp tâm chúng dẫn đến bỏ mạng. Chúng sanh cũng vậy. Tham ái che đậy tâm. Có bổn nói là miêu (mèo) nhưng không biết xuất xứ từ đâu. Kinh: Không cầu đại thế Phật cho đến lấy khổ muốn bỏ khổ. Tán: Vì cầu xuất ly mà hành tà hạnh. Phật có uy thế thần thông và dùng trí tuệ dứt trừ hết khổ mà không cầu hướng trái lại rơi vào lưới kiến chấp của ngoại đạo kiến, thân hành khổ hạnh để xả khổ sanh tử. Đây là chưa thể. Cho nên trải qua sáu năm khổ hạnh ngày ăn hạt mè còn không chứng được Bồ-đề. Ngồi nằm trên cỏ gai làm sao đắc đạo quả. Như chó đuổi theo cục đất, bị đất ném lại càng nhiều, đâu đồng như sư tử đuổi theo người. Kinh: “Vì tất cả chúng sanh cho đến Mà khởi tâm đại bi”. Tán: Ba hàng tụng suy nghó cứu không được. Lại chia làm ba: Nửa hàng suy nghó khởi nhân hành. Một hàng tụng đắc quả rồi suy nghó. Một hàng rưỡi suy nghó cứu không được. Thấy chúng sanh có hai duyên này bèn khởi tâm từ bi, phát tâm tu hành suy nghó sẽ cứu. Kinh: “Ta xưa ngồi đạo tràng… suy nghó việc như thế. Tán: Đắc quả rồi Phật lại nghó. Phật thành đạo rồi kinh hành dưới gốc cây. Quán cây vui mừng đạo của mình viên thành. Kinh hành tư duy vì lợi ích chúng sanh. Lại quán cây mà tâm ngưng nơi diệu lý. Kinh hành suy tưởng hóa độ chúng sanh. Lại quán cây tưởng che chở tứ sanh. Kinh hành tư duy thí phước tuệ. Các kinh nói sau khi Phật thành đạo rồi nói pháp về thời gian mỗi mỗi không đồng. Đây nói hai mươi mốt ngày, luật Di-sa-tắt Tam-muội nói bảy ngày, cũng đồng với kinh Mười Địa, bảy ngày không nói pháp là biểu hiện tự thọ pháp lạc, vì muốn chúng sanh tăng sự ái kính. Luật và Tát-bà đa truyện nói bốn mươi hai ngày Phật mới nói pháp. Các Phạm thiên đến thỉnh. Các vị Kiều-trần-như căn cơ mới thuần thục. Lại có nói nói: Sau hạ an cư Phật mới độ năm người. Kinh Mười nhị. Do nói sau thành đạo hai năm Phật mới độ năm người. Luận Trí Độ chép: Nói năm hoặc mười tuần Phật không nói pháp đây đều là do các bộ nghi kiến không đồng, chưa thể hòa hợp. Nhưng nay giải thích: Đại thừa lấy Pháp Hoa làm chánh. Đây nói thông hành pháp luân bốn đế cho nên nói là hai mươi mốt ngày. Nếu chỉ nói pháp luân Đại thừa thì luận Mười địa nói là đúng, vì ngày thứ mười bốn Phật nói Mười Địa. Kinh: Trí lực ta đã được… Làm sao mà độ được. Tán: Suy nghó cứu không được. Đây có bốn nguyên nhân: Pháp sâu xa khó hiểu. Căn độn khó cứu. Đắm trước lạc thú khó bỏ. Làm sao có thể độ. Si ám khó ngộ. Kinh: “Bây giờ các Phạm vương cho đến Thỉnh ta xoay bánh xe pháp” Tán: Mười một hàng tụng rưỡi: Thỉnh Phật suy nghó lại mà lập phương tiện. Đây có bốn: Hai hàng đầu tụng các vị trời thỉnh nói pháp. Ba hàng tụng: Thị hiện tướng tư duy. Bốn hàng rưỡi giáo hóa gặp duyên tốt: Hai hàng tụng sau suy nghó nên tùy theo mà quyền dẫn dụ. Phần đầu nói Trời Đại tự tại, cõi sắc thiên thỉnh. Nay đối với pháp Ba thừa vốn như thế, nên nói pháp đều đợi thỉnh. Trí Độ luận chép: Bấy giờ trời Tịnh Cư Thiên khuyên Thái tử xuất gia. Tứ thiên vương dâng bát. Đế Thích dâng bảo tọa, Phạm vương thỉnh xoay bánh xe pháp. Đầu tiên Phật không hứa, Phạm vương nói có ba căn nên lại càng cầu thỉnh ân cần. Phật mới ưng thuận, trước nói pháp Ba thừa. Thắng thiên vương trong Bát-nhã nói: Tứ thiên vương dâng Bát. Thiên Đế Thích cúng tòa. Phật liền thọ lấy. Các vị Thiên vương thấy Phật thọ thì đều phát thắng tâm. Nhưng văn kinh dưới nói: Đức Phật Đại Thông Trí Thắng chỉ có nói Phạm vương thỉnh. Đây nói thông cả chư thiên, nên tiêu biểu một vị trời tối thắng, không phải không có các vị trời khác vậy. Kinh: “Ta liền tự tư duy… Mau nhập vào Niết-bàn”. Tán: Ba hàng tụng chỉ về tướng tư duy: Hai hàng đầu tụng nói pháp Đại thừa thì chúng sanh có tổn hại. Một hàng sau nói cả Ba thừa, chúng sanh có lợi ích. Vì các chúng sanh ở thế tục hiện đều trong cảnh khổ, người xuất tục lại càng tu khổ hạnh, không rảnh tin liền pháp Đại thừa. Nếu vì họ nói, trái lại sanh lòng chê bai, nghi hoặc phá hoại, thoát sanh bất tín mà đọa vào đường ác. Người thế tục lại đắm chìm trong cảnh khổ không tin sự xuất gia nên phá pháp không tin. Đã có sự tổn hại đó nên Phật thà không nói pháp mà mau nhập Niết-bàn! Đâu thể lại gây tổn hại cho chúng sanh! Đây đồng với Đại Trí độ luận chép suy nghó đầu của Phật Kinh: “Tìm nhớ quá khứ Phật cho đến Cũng nên nói Ba thừa.” Tán: Nên nói pháp Ba thừa, chúng sanh sẽ có ích lợi cũng đồng với Chư Phật ở quá khứ. Đây cũng giống như trong Trí Độ luận, nói thỉnh lần thứ hai rồi Phật mới hứa. Kinh: Lúc Phật nghó như thế… Mà dùng phương tiện lực…” Tán: Có bốn hàng tụng rưỡi. Hóa độ gặp duyên lành có ba phần: Một hàng rưỡi Phật hiện tại tán dương. Nửa hàng kế khuyên đồng như Chư Phật. Hai hàng sau dẫn bản thân làm chứng đầu tiên nói quyền, sau nêu pháp thật. Mười phương Phật hiện ra khen ngợi Phật Thích Ca, xưng là Thiện (tốt). Khen là bậc nhất sư đắc pháp vô thượng. Khuyên nên tùy theo Chư Phật mà nói pháp thứcền trước rồi sau mới nói pháp thật. Thích-ca tánh là năng. Mâu-ni hiệu là Tịch. Nay văn này lược nói như lời dạy bảo. Pháp “như vậy” tùy hỷ đều gọi là Thiện tai! Kinh: “Chúng ta cũng đều đắc… Phân biệt nói ba thừa…” Tán: Hai hàng tụng rưỡi dẫn bản thân làm chứng. Sau nói pháp thật, trước nói pháp thứcền. Chia ba phần: Một hàng tụng bản thân làm chứng; một hàng tụng giải thích lý do; nửa hàng tụng kết trở về pháp chân thật. Đây dẫn việc đã qua, ngay thời đầu các Đức Phật đều nói pháp Ba thừa. Kinh: “Thiểu trí ưa pháp nhỏ… chỉ vì giáo Bồ-tát.” Tán: Đây giải thích lý do và kết trở pháp chân thật. Vì người bất định nên mới bắt đầu ở chúng phàm phu trí nhỏ vui pháp Tiểu thừa mà không cầu ý Đại thừa, không tin tự mình có thể làm Phật. Đầu tiên nói Ba thừa, tuy ban đầu nói quyền mà sau tất là chân thật. Đây chỉ giáo hóa chúng Bồ-tát. Kinh: “Xá-lợi-phất nên biết cho đến. Ta cũng thuận làm theo”. Tán: Hai hàng tụng: Nghó nên theo quyền mà dẫn dụ. Gồm có: Một hàng tụng nghe các Phật, khen ngợi kính trọng. Một hàng tụng suy nghó nên thuận theo hạnh của Chư Phật. Có bổn gọi là “Xưng Nam mô Chư Phật” ứng vui mừng xưng làm chánh. Chánh gọi là Nạp-mộ. Cũng gọi là Nạp-mạc, Hán dịch là kính lễ. Hoặc nói là Bạn Đàm, hoặc gọi là Bạn Đề. Đây gọi là lễ bái. Cựu dịch Hòa Nam là sai. Kinh: “Lại nghó như thế này cho đến. Ta cũng thuận làm theo”. Tán: Đây là thuận theo hạnh của Chư Phật. Đã gặp duyên lành khuyên ta nên quyền hóa. Phật tư duy chúng sanh nơi kiếp trược, cũng nên thuận theo hạnh kia. Kinh: “Tư duy việc này rồi cho đến. Vì năm Tỳ-kheo nói…” Tán: Ba hàng tụng rưỡi chánh nói pháp Ba thừa. Nói về giáo hóa chia làm ba phần: Một hàng tụng rưỡi nói việc quyền hóa. Một hàng tụng Tam bảo hưng khởi Một hàng tụng hội thành tựa xưa và nay. Tiếng Phạn là Ba-la- ni-tư, Hán dịch Ba-la-nại là sai. Nước này nằm ở Trung Ấn Độ. Xưa nơi này có hai bày nai, mỗi bầy hơn năm trăm con. Phật làm Nai đầu đàn của một bầy. Đề-bà-đạt-đa làm vua một bầy. Bấy giờ vua nước này đi ngao du sơn trạch Bồ-tát Nai đầu đàn trước đã xin với vua: Đại vương săn bắn ở cánh rừng này, dùng tên độc giết hết bầy nai này, đem thịt về để lâu hư thúi sẽ không ăn được. Vậy để chúng tôi mỗi ngày đến nạp thịt cho vua một con. Vua có thịt mới dùng mà mạng bày nai này khéo dài và sanh trưởng thêm ra. Vua nghe nói phải, liền lui trở về cung. Hai bầy vui theo thứ lớp đi nạp thịt. Trong bầy của Đề-bà có con nai mẹ đang mang thai đến lúc phải chịu chết, nên đến thưa với Nai đầu đàn: Thân tôi chịu chết, nhưng đứa con trong bụng chưa đến lúc. Xin Đại vương cho thay thế để tôi sanh nở xong sẽ đi. Nai đầu đàn nổi giận: Ai không biết bảo trọng mạng sống mà chịu thay ngươi? Lộc mẹ than: Vua ta bất nhân sẽ chết bất đắc kỳ tử? - Rồi chạy nhanh đến thưa với Bồ-tát. Bồ-tát Nai đầu đàn nói: Thương thay từ mẫu, ta sẽ thay thế ngươi. Nai đầu đàn bèn đi đến cung vua. Người trên đường truyền nhau nói: Nai đầu đàn hôm nay đi vào thành. Nhân dân só thứ cùng kéo ra xem. Vua nghe cũng nghó là không thật. Khi người giữ cửa vào thưa lại vua mới tin. Vua hỏi: Nai đầu đàn sau lại đến đây? Nai đầu đàn thưa: Có nai mẹ đến lúc phải đi nạp thịt, nhưng thương đứa con còn mang trong bụng nên không nỡ đi. Nên tôi thế mạng đến đây. Vua nghe than: Như ta là người mà không có lòng từ dưỡng như loài nai. Rồi vua truyền lệnh tha cho bầy nai không đến nạp thịt nữa. Nhân đây mà gọi khu này là Lộc uyển (Lộc dã). Thái tử Tát-pha-kiệt-tha-tát-đà sau khi vượt thành trở về liền vào rừng ẩn tu, quên thân cầu đạo. Vua Tịnh Phạn nói với ba vị tộc gia và hai người bên họ cậu: Con ta đã thành đạt tất cả mà bỏ nhà đi tu học, một mình ở chốn rừng sâu, núi hiểm. Nay các người nên đi theo hầu hạ Thái tử tiến thoái thế nào. Trong dòng họ là anh em cô cậu chú bác ngoài cũng là đạo quân thần đó thôi. Năm người bèn tuân lịnh vua theo Thái tử. Nhân đó mà cần cầu đạo xuất ly. Mỗi bên tự nói: Phàm người tu đạo thì khổ chứng hay lạc chứng? Hai người kia nói: An lạc là đạo. Ba người nói: Cần khổ là đạo. Hai bên tranh luận vẫn không rõ ràng, lúc này Thái tử tư duy đến lý vì hàng phục khổ hạnh của ngoại đạo nên ngày ăn mè để duy trì thân. Hai người kia trông thấy nói với nhau: - Sở hành của Thái tử chẳng phải là pháp chân thật để đạt đạo, phải cần có sự an lạc mới tu chứng được. Còn sự lao khổ này chẳng phải là pháp của ta. Nói rồi hai vị bỏ đi chỗ khác mà tư duy quả chứng quả. Thái tử trải qua sáu năm tu khổ hạnh mà chưa chứng quả Bồ-đề. Sau đó Ngài xả bỏ tu khổ hạnh, uống sữa thiền định quán xét và chứng quả. Ba người còn lại nghe nói than: Công tu gần thành nay đã thoái tâm, sáu năm khổ hạnh trong một ngày liền mất. Thế rồi họ cũng bỏ đi. Bấy giờ Thái tử đến tắm rửa bên dòng sông Ni liên, rồi tọa thiền dưới cội Bồ-đề, thành Chánh đẳng giác hiệu là Trời, người Sư. Ngài ngồi tịch mạc an nhiên chỉ quán xét việc độ sanh. Như lai nghó đến ông Uất- đầu-lam-phất trước kia đã chứng phi tưởng định có thể thọ pháp ta. Chư thiên trong không trung cất tiếng bảo: Uất-đầu-lam-tử đã mạng chung cách nay bảy ngày rồi. Như lai than thở vì sao lại không gặp, để nghe pháp mầu. Lại quán xét có A-lam-ca-lam đã đắc định vô sở hữu xứ có thể thọ lý pháp. Chư Thiên lại nói: Vị này đã mạng chung trải qua năm ngày. Như lai lại than thở. Sau đó quán xem ai nên thọ giáo, chỉ thấy năm người ở vườn Lộc giả là có thể dẫn đạo. Thề là Phật rời khỏi cội Bồ-đề đi đến vườn Lộc dã, uy nghi của Như lai thật là vắng lặng thần quang chiếu sáng rực rỡ, an nhiên tự tại đi đến trước năm vị kia, năm vị từ xa trông thấy Như lai, cùng nói với nhau: Thái tử kia Thánh quả đã không tu chứng, tâm lại trái ngược. Nay tìm đến đây vậy chúng ta nên im lặng chớ nên nghinh tiếp lễ lạy khi Phật đi đến gần thì thần lực uy nghi của Ngài làm kinh động muôn vật năm vị kia liền đứng dậy lễ bái chào hỏi hầu hạ như nghi thức. Như lai dần dần dẫn dụ mở bày diệu lý, tương truyền như kinh điển. Năm người: Kiều-trần-như. Mười lực Ca-diếp. Át-ty còn gọi là Mã Thắng Tỳ-kheo. Bạt-đề. Ma-ha Nam-câu-lợi (nên xem trong luận Bà-sa). Vì sao chỉ có năm người? Có nói nói thời Phật Ca-diếp bạn đồng học chín người, bốn người lợi căn đã đắc đạo trước, năm người độn căn đến nay mới ngộ, nguyện gặp Phật Thích-ca ra đời tu hành đắc đạo. Lại có kinh nói Phật Thích-ca trong thời quá khứ từng làm thân con cá lớn, nguyện cho người ăn thịt ta trước sẽ độ trước. Năm người ăn trước nên phải độ trước. Lại kinh nói: Sáu người từng cúng dường Phật. Năm người lấy hoa lúa cúng dường. Một người đợi chín. Năm người ngộ trước còn một người ở sau. Tức là Tu-bạt-đà-la. Cũng tức là năm dạ xoa ăn thịt Từ Lực Vương vậy. Trong năm vị thì Trần Như đắc sơ quả, bốn vị kia tại nơi bốn gốc lành đến đầu mùa hạ mới đắc đạo. Trong Tây Vức ký ghi: Hạ an cư xong mới đắc đạo. Pháp tướng vắng lặng tức là chân như. Không thể dùng lời tuyên vì tánh ly ngôn. Pháp vốn không có danh tướng lấy danh tướng nói gọi là phương tiện lực. Phật đến Ba-la-nại vì năm người mà nói pháp. Kinh: “Là tên xoay bánh xe pháp cho đến.. Pháp tăng tên sai khác” Tán: Tam bảo liền hưng khởi. Nghóa pháp luân này lược dùng năm môn để phân biệt: Nêu thể. Giải thích danh. Chuyển tướng. Sai khác. Ba thừa. - Nêu thể là: Câu-xá luận quyển hai mươi bốn nói: Nói họ Sa- môn, cũng gọi là Bà-la-môn, cũng gọi là Phạm luân, vì là chân phạm chuyển. Ở trong đó chỉ kiến đạo nên gọi là pháp luân. Do vận hành nhanh giống như luân, hoặc có đầy đủ trục vành. Tức ở trong đây là y vào kiến đạo. Đức Thế Tôn có chỗ nói gọi là pháp luân. Như xe ở thế gian có tướng đi mau, bậc kiến đạo cũng giống như thế nên gọi là pháp luân. Nghóa là đạo kiến đế đi nhanh. Có thủ xả, hàng phục những chưa phục, trấn những đã phục, chuyển cả trên dưới. Đầy đủ năm tướng này, tợ như bánh xe thế gian chuyển. Thế nên trong Hiển Tông nói: Như Thánh vương luân trước thủ sau xả. Bậc kiến đạo cũng vậy. Xả thì gồm cảnh khổ… thủ thì gồm tập v.v… Đây là ý hiển bày: Thấy lý bốn đế, tất không cùng thời. Như Thánh luân vương hàng phục những chưa phục. Tôn giả Diệu Âm nói: Như xe thế gian có bánh xe vành xe v.v… Bát Thánh đạo tợ như căm nên gọi là luân. Nghóa là chánh kiến, chánh tư duy, chánh cần, chánh niệm tợ như căm bánh xe. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng tợ như trục xe. Chánh định như là vành xe, nên gọi là pháp luân. Đâu hẳn biết pháp luân chỉ bậc kiến đạo? Kiều-trần-như v.v… khi kiến đạo sanh gọi là xoay bánh xe pháp. Luận chủ Thiên Thân, y vào Kinh bộ tông để phá Tát-bà-đa: “Hành tướng của tam chuyển chẳng phải chỉ có bậc kiến đạo”. Như vậy tại sao có thể nói chỉ có kiến đạo mới đặt tên là pháp luân? Vì thế, chỉ nên là ba lần chuyển mười hai hành tướng. Có pháp môn gọi là pháp luân, có thể ứng với Chánh lý. Sao gọi là chuyển? Do pháp môn này từ người khác tiếp nối khiến giải nghóa ra. Hoặc các Thánh đạo đều gọi là pháp luân. Ở trong sanh thân của người được giáo hóa mà chuyển. Tiếp nối từ người khác mà khi kiến đạo sanh đã bắt đầu. Chuyển thì gọi là đã chuyển. Đây có giải thích: Đầu tiên nói kiến đạo gọi là pháp luân, chẳng phải là nghóa chánh nghóa Tát-bà-đa. Trong Tạp Tâm cũng trình bày không là nghóa chánh, nói: Thích-ca Mâu-ni nói kiến đạo nhanh chóng thì gọi là pháp luân. Luận Câu-xá nói: Hoặc các Thánh đạo đều là pháp luân. Đây là bổn ý của Tát-bà-đa, cho nên trong Hiển Tông nói bổn ý của Tỳ-bà-sa, chung gọi tất cả Thánh đạo đều gọi là pháp luân. Vì nói tam chuyển nhiếp tam đạo. Ở sự tương tục khác khi kiến đạo sanh đã đi đến sơ chuyển, nên gọi là đã chuyển. Chẳng phải chỉ có kiến đạo lấy bát Thánh đạo mà riêng gọi là pháp luân. Ngài Diệu-âm nói chẳng phải là nghóa chánh. Trong Thành Thật luận chép: Sơ chuyển sanh ra văn tuệ. Đệ nhị chuyển sanh ra tư tuệ. Đệ tam chuyển sanh ra tu tuệ. Cũng không có mười hai hành tướng, chỉ có một Không hành. Nay theo Đại thừa chung xét trong các văn kinh có năm: Tự tánh của luân là trạch pháp giác chi: Chánh kiến, chánh trí v.v… Du-già quyển chín mươi lăm nói: Cho các pháp chánh kiến cho đến mà thành tựu tánh, cho nên gọi là pháp luân. Tam chuyển tựï tha thông cả Kiến, Tu, Vô học đạo. Mắt tuệ của các Thánh có thể diệt trừ phiền não nên gọi là luân. Câu-xá cũng nói: Tất cả Thánh đạo gọi là pháp luân. Hoặc thể chỉ lấy Bát thánh đạo đầy đủ cả trục, bánh, vành xe, chánh kiến, chánh tư duy thì gọi là trục xe, là căn bản vậy. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng là vành xe, do trục mà có. Chánh niệm, chánh cần, chánh định gọi là bánh. Nhiếp cả các ghi chép luận khác, không đồng như Tiểu thừa. Bát Thánh đạo này là biệt tướng tu hành. Tuy ở tại tu đạo, mà Thể thật là thông với kiến đạo Vô học khác. Nếu không vậy, Thế Tôn nên không có “Bát thánh đạo”. Nhân của Pháp luân: Là năng sanh các giáo Văn, Tư, Tu của Thánh đạo về sau v.v… Kinh Vô Lượng Nghóa quyển mười bảy cũng gọi là pháp luân. Trong các kinh luận chép giáo pháp của Phật gọi là pháp luân. Luận Câu-xá cũng nói: Đây tức là tam chuyển mười hai hành tướng sở hữu pháp môn gọi là pháp luân. Du-già cũng nói: Ba lần mười hai hành tướng, gọi là đắc phương tiện sở đắc, trước nhân cho sau, hợp làm quả nhân, cho nên gọi là phương tiện. Lại nói: Ba lần chính là chuyển kiến, tu, Vô học tùy theo thứ lớp. Trí, kiến, hiện quán gọi là phương tiện. Quyến thuộc Luân: Nghóa là chư Thánh đạo trợ bạn với năm ấm. Luận Du-già chép: Ái, giới của Thánh và tín v.v… là pháp trợ quán thêm rõ. Trợ đạo trừ hoặc chẳng phải là chánh đoạn. Cảnh Pháp luân: Nghóa là bốn thánh đế, tam tánh, mười hai nhân duyên. Du-già lại nói là đắc sở đắc. Cảnh sở duyên nghóa là bốn thánh đế. Kinh này cũng nói Đức Đại Thông Trí Thắng chuyển mười hai nhân duyên. Kinh Giải Sâu Mật nói: Y vào liễu tướng nói tam vô tánh đều y vào Biến kế sở chấp gọi là pháp luân. Quả pháp luân: Du-già lại nói là đắc sở đắc đó nghóa là đại Bồ-đề. Văn sau lại nói chỗ nhiếp thọ của bốn quả Sa-môn. Thanh văn Bồ-đề, Độc giác Bồ-đề, như Vô thượng Bồ-đề của chư Như lai là quả pháp luân. Du-già lại nói: Ba lần mười hai hành tướng là phương tiện đắc sở đắc. Lại nói: Tam chu chánh chuyển là kiến, tu, Vô học tùy theo thứ lớp đó mà nói. Trí, kiến hiện quán gọi là đắc phương tiện. Cho nên Bồ- đề Niết-bàn gọi là quả sở đắc. Nhưng năm thể này chẳng qua bốn thứ: Giáo, lý, hạnh và quả. Giải thích danh: Gọi là phạm luân: Như lai Ứng Cúng là tiếng Phạn tăng. Từ Phạm chuyển nên cũng gọi là Phạm luân. Gọi là pháp luân: Pháp nghóa là quỹ trì, tánh từ các pháp chánh kiến cho đến mà thành. Luân có bốn nghóa: Một là nghóa tròn đầy, đầy đủ cả trục, vành, bánh, hoặc thể dụng của trạch pháp giác v.v… đầy đủ gọi là luân. Hai là nghóa nghiền nát. Bốn chủng pháp này hoặc phục, hoặc đoạn, hoặc trợ, hoặc phiền não chánh chưa đoạn, đều có thể nghiền nát. Ba là trấn át: Đã hàng phục phiền não lại có thế lực đẩy xa chúng. bốn là bất định: Từ tự kiến đến tự tu. Từ tự tu đến tự Vô học. Từ Vô học trí phát ra ngôn giáo. Người khác từ ngôn giáo hiểu nơi đế lý. Người khác từ đế lý khởi lên chánh hạnh. Người khác từ chánh hạnh mà khởi lên quả trí. Lần lượt như thế lại vì người khác nói như Vua chuyển luân sở hữu, luân báu, có thể hàng phục ác phiền não chưa phục. Có thể trấn các phiền não đã hàng phục. Luận Du-già chép: Nên biết Đức Thế Tôn chuyển pháp mình hiểu thắng đến A-nhã Kiều-trần-như. Đây lại tùy chuyển đến các thân khác. Chia lại lần lượt tùy chuyển thẳng đến thân khác, vì nghóa lần lượt này nên gọi là chuyển, pháp tức là luân, tức trì nghiệp giải thích, chuyển là động là hiển, là vận, là khởi: Động giảng nói ngôn giáo, hiển dương giáo lý. Vận Thánh đạo ở âm thanh trước, khởi chân trí ở ngôn sau, xoay tròn nghiền nát chướng não thì gọi là xoay bánh xe pháp. Sở chuyển tức là pháp luân là chuyển của pháp luân, hai cách giải thích này đều được. Chuyển tướng là: Chín mươi lăm nói do năm thứ tướng xoay bánh xe pháp: “Nên biết” gọi là thiện xoay bánh xe pháp: Thế Tôn khi làm Bồ-tát, đây được làm cảnh giới sở duyên để chứng đắc. Làm phương tiện chứng đắc. Chứng đắc từ những pháp nên đắc. Đã chứng đắc dưới cội Bồ-đề rồi, người khác lại tiếp nối khiến cho tự chứng phát sanh càng sâu xa, tin hiểu. Đối với người khác chứng, càng sanh tâm tin hiểu sâu. Ý này chung gọi là tướng giáo hóa của hóa thân lúc tự chứng quả, khiến cho các chúng Thanh văn cũng có sở chứng, không y vào báo thân Bồ-tát mà thành nghóa. Hoặc cũng y vào nghóa chuyển của Bồ-tát thật. Tóm lại y vào rốt ráo trước sau mà tạo luận, không y vào một hội đủ thành được tam chuyển. Cảnh sở duyên đó là bốn thánh đế. Nương vào an lập đế, không phải an lập đế, là nương vào tam tánh mà điều thuộc về Bốn đế vậy. Đắc phương tiện là với bốn thánh đế này, ba lần chánh chuyển mười hai tướng trí. Trí này từ ba lần chuyển tướng pháp luân, làm nhân đắc vô thượng Bồ-đề. Lần đầu tiên chuyển nghóa là Bồ- tát xưa kia lúc nhập hiện quán, như thật biết rõ đó, là khổ Thánh đế cho đến rộng nói là đạo Thánh đế, đối với các đế này, có hiện lượng Thánh trí có thể đoạn kiến đạo phiền não sở đoạn. Lúc này gọi là chân Thánh mắt tuệ. Tức đây do nương đời quá khứ, vị lai, hiện tại mà có sai khác. Như thế lần lượt gọi là Trí, minh, giác. Đây nói một trí là chung gọi mắt pháp, có ba hành tướng là trí, minh, giác. Chẳng phải ở trong một đế mà biệt khởi ra bốn trí. Do chân kiến đạo chỉ trong một sát-na. Không đồng biệt quán thượng hạ của Tiểu thừa. Dựa vào sự tuyên giải chứng diệt mà nói thông ba đời, chẳng phải nói diệt đế thông các cõi hữu của ba đời. Lần thứ hai chuyển là bậc Hữu học dùng diệu tuệ ấy mà như thật thông đạt. Về sau còn có việc phải làm. Tức là: Nên biết những pháp khổ đế chưa biết, nên dứt trừ vónh viễn các tập đế chưa đoạn, nên chứng diệt đế chưa chứng nên tu tập đạo đế chưa tu. Như thế cũng có bốn thứ hành tướng, như trước đã nói. Lần thứ ba chuyển: Bậc Vô học đã đắc tận trí vô sanh trí. Nói: “Chỗ nên làm ta đã làm”. Nghóa là: Ta đã biết khổ đế chưa biết cho đến rộng nói. Ta đã tu tập đạo đế chưa tu… cũng có bốn hành như trước đã nói. Sự sai khác này là: Bốn thứ hành tướng của hai lần chuyển đầu là chân Thánh mắt tuệ của bậc Hữu học. Lần chuyển cuối cùng là chân Thánh mắt tuệ của Vô học. Xem văn này ý nói lần thứ nhất là kiến đạo trở về trước tức ngôi vị gia hạnh trí. Tuy biết bốn đế mà chỉ là chuyển nhân cũng không phải chẳng phải chánh chuyển vì chưa diệt hết phiền não. Do đây vị trí chỉ thuộc về năng chuyển tăng lực làm tổn hại phiền não. Nhập vào trong kiến đạo, thật sự đạo Vô gián mới chánh là chuyển, là chánh đoạn hoặc. Đạo giải thoát đó và tướng kiến đạo cũng gọi là sơ chuyển. Tuy không đoạn hoặc, đoạn thô trọng, trấn giữ những phiền não đã hàng phục, mà cũng chẳng phải là biệt tri tướng Bốn đế. Ở tu đạo sau này, đối trước các hoặc chưa đoạn, bèn khởi hành tương ưng biến tri, đó chính là tướng chuyển, chánh khởi chân trí, cho đến Kim cương tâm, đoạn các phiền não, cũng thuộc chuyển này mà khởi lên biệt hành tướng. Chỉ là muốn hướng đến đạo của Thánh đoạn hoặc nên chiết phục chánh đoạn đều gọi là chuyển. Đến như đạo giải thoát, Vô học về sau khởi trí biết. Ta đã làm những việc nên làm sau không còn đoạn nữa, chỉ trấn giữ phiền não đã phục, không hàng phục những phiền não chưa phục. Nhưng trước khi kiến đạo tuy có đạo hàng phục mà không gọi là chuyển vì chẳng phải vô lậu. Trước không có vô lậu cho nên không đồng tu, Bồ-tát như thế tự làm ba chuyển. Sơ chuyển tại kiến đạo gọi là ấn tướng chuyển. Kế đến chuyển tại tu đạo gọi là ứng tu chuyển. Sau đó chuyển tại đạo Vô học gọi là đã tác chuyển. Khi mỗi mỗi chuyển nơi mỗi mỗi đế sanh bốn hành tướng, ba lần chuyển luận theo chiều dọc thành ra mười hai tướng. Bốn đế như thế hợp thành bốn mươi tám, mà chẳng qua mười hai tướng này. Vì luận theo số nên gọi chung là ba lần chuyển mười hai hành tướng. Luận Câu-xá cũng nói: Nhãn, trí, minh, giác biệt quán đế. Luận dùng pháp nhẫn, pháp trí, loại nhẫn, loại trí… lần lượt bốn pháp như thế. Nếu theo giải thích này mà đối với tám đế quán ở mỗi mỗi đế bèn không có bốn hành tướng. Hoặc là nhẫn, trí mỗi mỗi đều đầy đủ bốn hành tướng. Chiếu cảnh rõ ràng gọi là nhẫn. Đối trị vô tri gọi là trí. Đối trị vô minh gọi là minh. Đối trị tà giác gọi là giác, không đồng nơi đây. Đắc từ những pháp nên đắc: Nghóa là đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, là cùng đắc quả Bồ-đề Niết-bàn. Trước làm nhân cho sau, đạo vô gián trước làm nhân của đạo giải thoát. Đây nói Bồ tát tự ba lần chuyển quả pháp luân. Hoặc nói pháp thân Niết-bàn chân lý gọi là Bồ- đề vô thượng. Bồ tát khởi lên trí của Bồ-đề quả vị Vô học, báo thân đã làm mà chứng pháp thân. Luận Câu-xá nói: “Đều không có Phật xoay bánh xe pháp và người khác tiếp nối, chỉ là khiến cho tự chứng sanh tín giải.” Nghóa là: Như Trưởng lão A-nhã Kiều-trần-như, nghe chánh pháp từ Đức Như lai rồi, đầu tiên ngộ bốn pháp Thánh đế rồi đáp lời Phật hỏi: Con đã hiểu pháp; từ đây về sau các hành tướng rốt ráo như trước đã nói. Cả năm vị đều đắc quả A-la-hán sanh xứ giải thoát. Đây là nói tự thân Đức Thế Tôn đắc đạo. Lại vì người khác ba lần xoay bánh xe pháp cũng đồng như Câu-xá luận chép ba lần tuần tự chuyển bốn thánh đế. Nghóa là: “Đây là khổ cho đến đây là đạo”. Đó gọi là sơ chuyển. Nghóa là: Đây là khổ nên biến tri cho đến đây nên tu tập, là lần hai chuyển. Đây là khổ đã biến tri cho đến đây đã tu tập là lần thứ ba chuyển. Như thế nêu rõ cả ba là kiến đạo, tu đạo, Vô học đạo. Đây là Phật vì chúng sanh khác mà ba lần xoay bánh xe pháp. Đầu tiên gọi là thị tướng, là mở bày tướng bốn đế. Kế đến là khuyến tu, khuyên tu đế hạnh. Sau là tác chứng, là tác chứng minh tri tròn đầy bốn đế. Do Tôn giả Kiều-trần-như đầu tiên giác ngộ nhập vào kiến đạo rồi, Phật hỏi ông: Ông đã hiểu chưa? Ông đáp đã hiểu. Sau lần xoay bánh xe pháp thứ hai thứ ba bèn đắc quả A-la-hán, phát sanh trí xứ giải thoát chứng đắc quả vô vi. Đó gọi là chuyển ở tại thân khác, mà đối với sở chứng của Phật càng sanh sâu tín giải. Khiến cho người khác ở sở chứng của họ khởi sanh lòng tín giải. Như Trưởng lão A-nhã Kiều-trần-như khởi ra tâm thế gian nên nói: Con đã hiểu pháp. Như lai biết ông đã khởi tâm thế gian nên bảo: A-nhã Kiều-trần-như đã chứng pháp của ta. Địa thần biết nên đã cất tiếng truyền đi. Trong giây lát những lời kia lần lượt chuyển đến Phạm thế. Tâm thế gian là tâm duyên sự. Chẳng cần phải tán tâm. Trong phần thứ tư, Phật chuyển Thánh đạo ở trong thân năm người kia, đối với sự chứng đắc của Phật càng sanh lòng tín giải. Thứ năm là khiến các địa thần biết A-nhã Kiều-trần-như đã chứng mà càng sanh sâu lòng tin hiểu. Sai khác là: Tuy chuyển bốn đế, mà pháp tướng không khác. Người Ba thừa, mỗi mỗi đều chứng quả, người tánh Thanh văn đã ở trong ba đời hoặc sáu mươi kiếp. Trước đã tu tập rồi, nghe Phật nói pháp, y vào uẩn, giới, xứ chứng lý bốn đế, gọi đó là pháp luân Thanh văn. Người tánh Độc giác đã, ở trong bốn đời hoặc trăm kiếp, trước đã tu tập nay nghe Phật nói pháp, y vào mười hai duyên khởi, tu chứng bốn đế gọi là pháp luân Độc giác. Người tánh Bồ-tát đã ở trong một đại A-tăng-kỳ kiếp, trước tu tập rồi nghe Phật nói pháp. Y vào tam tánh, bình đẳng chứng lý Bốn đế gọi Bồ-tát pháp luân. Nếu không như vậy thì Ba thừa đều quán bốn đế, đồng thời chứng Thánh. Đâu có khác nhau? Đại Bát-nhã nói: Thế Tôn đầu tiên ở nơi nước Ba-la-nại khi xoay bánh xe pháp Bốn đế, có vô lượng chúng sanh phát tâm Thanh văn, tu chứng quả Thanh văn. Có vô lượng chúng sanh phát tâm Độc giác, có vô lượng chúng sanh phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chứng quả sơ địa, nhị địa, tam địa cho đến một đời đắc quả Bồ-đề. Cho nên biết trong vườn Lộc giả Phật chuyển Ba thừa đều chung hành pháp luân. Nếu không như vậy thì tuần lễ thứ hai đã nói Mười Địa. Vì sao không gọi là xoay bánh xe pháp. Kia chẳng phải là đồng sở tu của Ba thừa, nên không cùng gọi là xoay bánh xe pháp. Nhưng thật thì, thân khác ba thời trí đều khởi. Cũng có kinh giải chúng sanh mà chứng quả thì gọi là tam chuyển, như các ông Kiều-trần-như v.v… Một thời Phật ở tại vườn Lộc giả… các vị theo thứ lớp đắc được tam quả này, gọi là Tam chuyển. Kinh Vô Cấu Xứng nói: Tam xoay bánh xe pháp ở trong đại thiên. Sự luân chuyển đó có thể tịch, bổn tánh tịch. Pháp trí ít có chúng trời, người đã chứng. Tam bảo thời ấy hiện thế gian, tức như kinh này nói bèn có tiếng Niết-bàn, cùng với A-la-hán, tên pháp Tăng sai khác, tức Tam bảo xuất hiện. Phật là Phật bảo, Niết-bàn và ngôn ngữ, quả pháp giáo pháp gọi là pháp bảo. A-nhã… là tên của Tăng bảo. A-la-hán là các ngài Kiều-trần-như. Lại nói Tăng là bốn vị Hữu học cùng trụ. Trí năng chứng, sở chứng lí tức là hành lý pháp bảo. Bốn pháp đã đầy đủ, cùng Phật và Tăng là năng hóa, sở hóa đã có thể xuất hiện, hợp lại gọi là Tam bảo xuất hiện ở thế gian. - Ba thừa là: Phật, Bồ-tát, đều vì Thanh văn nói pháp, khiến cho người đắc trí đoạn hoặc, thì có thể gọi là xoay bánh xe pháp. Độc giác thì không như vậy, kinh Niết-bàn chép: Duyên giác nói pháp không thể khiến người đắc Noãn pháp… Do vì Thanh văn… không biết thuốc, bịnh, không cùng Thanh văn xoay bánh xe pháp theo lý cũng không sai. Kinh: “Xá-lợi-phất nên biết cho đến Phương tiện chỗ nói pháp…” Tán: Có bảy hàng tụng. Nay nói về chân thật, tụng như thế đều vì đắc Nhất thiết chủng trí. Trong đây chia làm bốn: Hai hàng tụng đầu nói gốc lành thuần thục điđến gặp Phật. Một hàng tụng nghó đến chúng sanh nên độ. -Ba hàng tụng chánh nói về pháp chân thật. Một bài kết thành tựu pháp nghi. “Ta thấy trước tiên là dùng quyền pháp để độ”. Đây ý nói từng ở chỗ Phật đã nghe quyền giáo. Vì gốc lành đã đến nên nay lại gặp Phật, cho nên, văn trên nói chúng sanh ở trong hội gặp được Phật. Cũng từng gặp được Phật Thích-ca. Nay gọi chung là Chư Phật. Kinh: “Ta liền nghó như thế cho đến Nay chánh là phải thời…” Tán: Nghó chúng sanh nên độ, là vì nói Phật tuệ khiến chúng sanh tu tập. Nay căn đã thuần thục đâu được không giáo hóa. Kinh: “Xá-lợi-phất nên biết… Không thể tin là pháp.” Tán: Đây là ba hàng tụng chánh nói về pháp chân thật. Đây chia làm hai: Một hàng đầu tụng độn căn không kham thọ. Hai hàng tụng sau nói lợi căn có thể thọ. Có năm lỗi không thể thọ Đại thừa: Độn căn nghe pháp không hiểu. Hoặc như A-điên-để-ca. Người tiểu trí tuy thông minh, mà tình kiến không rộng, hoặc người hướng cầu tịch. Chấp tướng nghóa là khởi chấp hai tướng không, Hữu học lầm hành loạn, hoặc hạt giống bất định. Chấp có chẳng phải là không, vì gốc lành chưa thuần thục. Kiêu căn… cậy mình nhiều việc. Các vị phú quý đắm trong buông lung. Hoặc căn chưa thuần thục phàm phu bẩm tánh buông lung… Kẻ kiêu mạn cậy mình hiếp người như năm ngàn vị hoặc người đầy đủ bảy loại mạn phiền não…, không thể tin Đại thừa, nên không trao cho. Kinh: “Nay ta vui không sợ cho đến Tất cũng sẽ làm Phật.” Tán: Đây nói việc có thể trao pháp Đại thừa. Hàng đầu tụng bỏ quyền lấy thật. Hàng tụng sau trừ nghị. Thọ ký đắc vui mừng đó là hỷ vô lượng, không ganh ghét chúng sanh làm việc Phật sự. Vô úy là nghóa chắc chắn làm tiếng rống sư tử là lý chắc chắn. Ở trong Bồ-tát là trước đối với người hơn. Người Nhị thừa phát tâm đều là Bồ-tát. Y vào lý chân thật mà nói đạo Nhất thừa thì gọi là ngay thẳng. Không tùy căn cơ quyền giáo nói có ba thừa gọi là xả phương tiện. Chỉ nói đạo vô thượng Nhất thừa. Tức nay nói chẳng thể một đạo mà không có pháp khác. Hàng Địa tiền đốn ngộ Bồ-tát nghi riêng mình đắc Bồ-đề, Thanh văn không có phần; Bồ-tát chủng tánh bất định nghi ở Quả Phật mình cũng không có phần, muốn thoái hướng quả Tiểu thừa. Nay nghe pháp này các nghi đều trừ. Hiện tiền các vị danh cao có một ngàn hai trăm Tỳ-kheo Thanh văn, nghi không thể làm Phật. Nay Phật vì họ nói thảy đều sẽ làm Phật. Kinh Niết-bàn do đây nói: “Tu-đà-hoàn tám muôn kiếp cho đến Bích-chi mười ngàn kiếp mới đến sơ phát tâm Mười tín. Quả vị này tu hành rất là độn chậm, không bằng những vị mới tu Bồ-tát hạnh. Đây căn cứ vào bất định, chẳng phải như Nhị thừa nhất định sẽ làm Phật. Kinh Niết-bàn quyển ba mươi bốn nói: “Ta ở trong một thời có thể nói một nói, một thừa, một đạo, một hành, một duyên, có thể vì chúng sanh mà tác đại vắng lặng, vónh viễn dứt trừ tất cả kiết phược, khổ khổ và khổ nhân, khiến cho tất cả chúng sanh đạt đến nhất hữu. Hàng đệ tử không hiểu ý ta, ở trong đại chúng xướng nói: Như lai nói Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán đều thành Phật đạo.” Kinh: “Như Chư Phật ba đời cho đến. Nói pháp không phân biệt”. Tán: Kết phần thành tựu pháp nghi. Thể diệu lý của Đại thừa là không phân biệt. Ba thừa cũng thành Phật không khác, cho nên nói như vậy. Kinh: “Chư Phật ra đời cho đến. Người này cũng là ít có.” Tán: Đoạn thứ sáu có bảy hàng tụng. Nghóa thứ nhất ở văn xuôi người chưa nghe khiến cho nghe. Chia làm bốn: Hai hàng tụng pháp nói bốn việc ít có. Hai hàng rưỡi tụng thí dụ rõ hai việc ít có. Một hàng rưỡi khuyên tin. Một hàng tán kết. Đây nói phần I: Bốn việc khó là: Phật xuất hiện thật là ít có (hiếm có). Nói pháp này là ít có. Nghe pháp này là ít có. Người năng nghe pháp này là ít có. Phật xuất hiện ít có như một ngàn vị Phật thời kiếp hiền. Nay kiếp trụ thứ chín đã nói bốn vị Phật ra đời. Đến kiếp thứ mười Phật Di- lặc sẽ ra đời. Đến kiếp mười lăm có chín trăm chín mươi bốn Phật ra đời. Từ đây đến thời kiếp hoại Phật Cốt-lô-chi độc vương một kiếp. Trải qua mười hai kiếp sau mới có kiếp Tinh Tú. Trong một ngàn vị Phật thì vị Phật đầu tiên là: Phật Tịnh Quang Xưng Vương. Ba trăm kiếp sau không có Phật. Cho nên nói Phật ít có, như thời Phật Ca-diếp trụ mạng bảy ngày không nói pháp này. Và nay Thích-ca thành Phật đã hơn bốn mươi năm mới nói kinh này, nên nói là ít có. Thường ở chỗ tám nạn, không thể cùng Phật tương phùng, nên nói khó nghe pháp ít có. Tuy gặp Phật ra đời mà chỉ nghe Tiểu thừa không nghe Đại thừa nên nói nghe được là ít có. Kinh: “Thí như hoa Ưu-đàm cho đến. Hơn cả hoa Ưu-đàm. Tán: Thí dụ rõ hai pháp ít có. Một hàng tụng pháp xuất ít có. Một hàng rưỡi tụng nghe khen ngợih là ít có. Nghe pháp và khen ngợi hơn hoa Ưu-đàm. Hành chân pháp hạnh là cúng dường Chư Phật ba đời. Tự nghe và bảo người khác nghe hợp lại gọi là nghe pháp. Vui mừng nghe gọi là vui mừng. Khen ngợi gọi là tán (chúc mừng khen ngợi). Hành trì bốn thứ này đều gọi là chơn hành. Kinh: “Các ông chớ có nghi… không đệ tử Thanh văn.” Tán: Khuyên tin chớ nghi ngờ. Kinh: “Các ông Xá-lợi-phất… Bí yếu của Chư Phật.” Tán: Kết luận khen ngợi sự sâu mầu. Kinh: “Vì ác thế năm vẩn đục cho đến Trọn không cầu Phật đạo…” Tán: Đoạn lớn thứ hai này có ba hàng tụng, tụng phá bốn nghi chia ra làm ba. Một hàng đầu: Phật thời nào xuất hiện hóa độ chúng Ba thừa? Phật xuất hiện ở cõi đời năm vẩn đục. Một hàng tụng: Vì sao biết tăng thượng mạn? “Như đệ tử ta tự nói A-la-hán không tin pháp này, không có việc như thế”. Một hàng tụng vì sao có khả năng nói? Trừ sau khi Phật diệt độ hiện tiền không có Phật. Kinh: “Người ác đời vị lai… Phá pháp đọa đường ác”. Tán: Một hàng tụng giải thích vì sao biết tăng thượng mạn. Người Ác đời sau không tin pháp này phần nhiều là tăng thượng mạn. Không chỉ tăng thượng mạn mà các ác nhân khác cũng không thể tín. Phật đối với người ngã mạn ở trên đã nói về tướng, sau khi Phật diệt độ rồi khó mà biết được, cho nên nêu riêng ở đây. Kinh: “Người tàm quý thanh tịnh cho đến Rộng khen đạo Nhất thừa.” Tán: Tụng giải thích vì sao có khả năng nói là. Có đủ bốn đức: Tôn trọng bậc hiền thiện xét lại tự thân, hổ thẹn tội lỗi. Khinh thường việc bạo ác. Lại nhìn lại thế gian xấu hổ tội lỗi. Thanh tịnh trong ngoài không thiếu. Xa lìa danh lợi trần thế. Chí cầu Phật đạo, không mong cầu pháp Nhị thừa Thanh văn. Có thể tin kinh này không còn ngu pháp, bèn có thể nói pháp cho người nghe. Nếu người ngu gặp Phật khác ra đời, nhất định sẽ đắc pháp Nhất thừa. Kinh: “Xá-lợi-phất nên biết… Tự biết sẽ thành Phật”. Tán: Ba hàng tụng này là đoạn tụng hạng người thứ tư, khuyến phát tâm Bồ-đề ưa thích thành Phật. Một hàng rưỡi tụng về Phật pháp đều không học, không hiểu một hàng rưỡi sau là tụng về khuyên biết sanh vui mừng cầu thành Phật. Như văn có thể hiểu.  HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 5 PHẦN ĐẦU PHẨM THÍ DỤ Có chia ra ba môn : Trình bày vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải thích về phương nạn Trình bày vì sao có phần này: Có hai Ngài Thu Tử là bậc thượng căn nghe pháp nói đã giác ngộ. Bốn vị tánh trung căn phải nhờ vào thí dụ so sánh mới ngộ. Trên đã hóa độ thượng căn, dưới muốn giác ngộ hạng trung căn nên có phẩm này. Luận chép: Từ đây trở xuống chúng sanh có đủ bảy thứ phiền não, nên nói bảy thí dụ để đối trị bảy thứ tăng thượng mạn và ba thứ người nhiễm mạn không có phiền não, tức nhiễm mạn kiến, giải thoát Tam-muội. Vì đối trị đây nói ba bình đẳng. Lại nói ngoài là phần kinh còn lại nói rõ mười nghóa Vô thượng, ý này còn nêu chung hết hai mươi sáu phẩm, hiểu cả ba nghóa này. Nêu bảy thí dụ trong bảy phẩm: Mộït là ví dụ nhà lửa trong phẩm này. Hai là dụ gã cùng tử trong phẩm Tín hiểu. Ba là dụ mây mưa trong phẩm Dược thảo dụ. Bốn là dụ hóa thành trong phẩm Hóa thành dụ. Năm là dụ cột hạt ngọc trong phẩm Ngũ bá đệ tử thọ ký. Sáu là dụ cởi hạt ngọc trong búi tóc của phẩm An Lạc Hạnh. Bảy là dụ thầy thuốc trong phẩm Thọ lượng. Tùy theo thứ lớp của mỗi phẩm. Ba bình đẳng có chín phẩm: Phẩm Thí dụ. Phẩm Thọ ký. Phẩm Ngũ bá đệ tử thọ ký. Phẩm Thọ học vô học nhân ký. Phẩm Pháp sư. Phẩm trì. Phẩm Đề-bà-đạt-đa. Phẩm Thường bất khinh. Phẩm Hiện bảo tháp. Tám phẩm đầu đều có thọ ký, nói thừa đầu tiên bình đẳng. Một phẩm Hiện bảo tháp sau hợp nói pháp Niết-bàn, sanh tử và hai thứ thân bình đẳng. Trong mười nghóa Vô thượng có hai mươi mốt phẩm, chín Vô thượng đầu có bảy phẩm: Dược thảo dụ Hóa thành. Đây có Vô thượng thứ hai, thứ ba. Ngũ bá đệ tử thọ ký. Hiện bảo tháp. An lạc hạnh. Dũng xuất. Thọ lượng ở đây có hai vô thượng thứ tám và thứ chín. Trong bảy phẩm trên thì trừ phẩm thứ hai, thứ bảy, còn năm phẩm mỗi, phẩm là một Vô thượng. Phần kinh còn lại là Vô thượng thứ mười. Nghóa là mười bốn phẩm đều là Vô thượng thứ mười, trong đó có hai lực: Pháp lực. Tu hành. Lực pháp lực có ba phẩm: Phân biệt công đức. Tùy hỷ công đức. Pháp sư công đức. Trong năng lực tu hành lại có bảy năng lực, hợp trong mười một phẩm. Trì lực có ba phẩm là Pháp sư, An lạc hạnh, và Khuyến trì. Nói lực có một phẩm là Như Lai thần lực. Hành khổ hạnh lực có một phẩm Dược vương. Giáo hóa chúng sanh hành khổ hành lực cũng một phẩm là Diệu âm. Hộ chúng sanh các nạn lực có hai phẩm là Quán Âm phổ môn và Đà-la-ni. Công đức thắng lực có một phẩm là Diệu trang nghiêm vương bổn sự. Hộ pháp lực có hai phẩm là Phổ Hiền và Chúc Lụy. Mười Vô thượng sau là bảy dụ đầu. Ba bình đẳng còn lại gọi là còn lại ở trên. Cho nên trong luận này giải về bảy dụ ba bình đẳng đã nói: Tu-đa-la còn lại là nói nghóa Vô thượng. Vô thượng thứ mười là còn lại của chín thứ Vô thượng ở trên gọi là còn lại bên dưới. Cho nên luận này giải thích nghóa Vô thượng thứ mười rằng: Mười là thắng diệu lực Vô thượng phần kinh còn lại nói hai nghóa còn lại. Là văn còn lại điều chưa hề nói. Nghóa còn lại này trước tuy đã nói mà chưa hết, đối chiếu nghóa trên lại có khác, nên nói là nghóa còn sót lại. Nay sợ văn rườm ra nên lược qua không nói. Trở xuống trong phẩm sau mỗi đều giải thích sơ lược. Bảy phẩm là: Dược thảo, Hóa thành, Ngũ bá đệ tử, Hiện bảo tháp, Phẩm trì, An lạc hạnh, Thọ lượng. Hoặc văn hoặc nghóa đều trùng nói lại. Bảy dụ đó nghóa là phàm phu hữu học là có phiền não, có bảy thứ tăng thượng nhiễm mạn, để đối trị đây mà nói bảy thí dụ này. Như chấp vào hóa thành cho là thành, thật sự tức là mong cầu Tam-ma-bạt-đề thế gian là diệt chân thật, chấp vô học đã đủ không mong cầu nữa. Người Nhị thừa vô học gọi là người không có phiền não. Có ba thứ pháp chấp nhiễm mạn, tức các pháp kiến, Tam- muội, giải thoát mà vọng chấp cho là Nhị thừa, tuy không gọi là nhiễm mà hồi tâm rồi thì gọi là Bồ-tát. Vì pháp chấp nhiễm nên Bồ tát này gọi là nhiễm, không có phiền não mạn. Luận nghóa ngược lại, ý cũng như thế. Nghóa Vô thượng ở trong Đại thừa có thể nói là có, các thừa khác thì không. Do đây mà Ba thừa nói có khác nhau, giáo lý hạnh quả đều có khác. Luận dẫn lời Phật nói: “Không lìa thân ta là nghóa Vô thượng.” Trong Nhị thừa không nói nghóa này nên không thể hiểu. Do đây, Vô thượng tức là giáo, lý, hạnh qủa nhất Nhất thừa. Tùy theo thích ứng mà phối hợp các phẩm. Bảy thứ chúng sanh có đầy đủ phiền não. Thứ nhất là người cầu thế lực khởi lên điên đảo bậc nhất, cầu công đức tăng thượng mạn. Vì phiền não lừng lẫy ở thế gian mà cầu cảnh đẹp quả báo trời người. Vì hạng này nói thí dụ nhà lửa. Được giàu sang tự tại thì gọi là thế lực. Nghóa là phàm phu cầu diệu cảnh trời người này. Ngoại quả cùng nội quả báo. Không biết là phiền não như lửa cháy dữ dội. Vì đây mà nói dụ nhà lửa. Thế lực phiền não của trời người thiêu đốt như nhà lửa. Thế tôn này nói có hai xe: Tức đối người có hàng gốc lành Tam muội Bồ-đề thế gian mượn tạm giải cứu để cho ra khỏi nhà lửa. Sau đó dần dần dắt dẫn vào Niết-bàn Đại thừa. Cho nên luận nói người thứ nhất là hạng gốc lành Tam muội công đức ở thế gian, dùng phương tiện khiến họ ưa thích, sau đó dẫn nhập Niết-bàn. Trong đây không nói trong đạo giải thoát. Chánh chứng sanh không trạch diệt, chân trí gọi là Tam muội thế gian. Tạm giải cứu đây là xe nai xe hươu chẳng phải là thể của xe. Từ quán kia về sau nhập định thế gian quán các sở chứng trước đã dùng. Tâm thô cho nên không thấy chánh trí và sanh không như, bèn thấy hoặc nghiệp, khổ sau không sanh, tâm liền biến chuyển, thành tưởng giải thoát Niết-bàn. Chánh trí sở chứng căn bản trong quán mà đắc trạch diệt. Ở dưới gọi là hóa thành mà không nói mượn quán sở biến ra thành, nên không dứt khổ. Nay nói thời sau ở giai vị hậu đắc trí mà năng biến tưởng giải, gọi là gốc lành Tam muội của thế gian, khinh an, ưa thích các thứ công đức tạm gọi là xe dê xe hươu, tạm gọi là chủng trí, cho chúng “dạo chơi” sau đó, hóa độ Nhất thừa mới khiến nhập Phật Đại Niết-bàn, đến địa vị Phật. Có thể nhập vào xe trâu, tức là nhị trí, tức là Bồ-đề. Chỗ nhập của Niết-bàn tức là Đảo châu báu. Hóa thành là dụ cho người Nhị thừa chấp vào hoặc khổ kia không sanh nên cho là Niết-bàn. Lý thật Niết-bàn trung đạo giải thoát là chánh trí chứng. Cho nên nói nhập hóa thành, các người đi buôn đều mỏi mệt. Các trí trước sau đều không rõ được tất cả pháp. Thật chẳng phải là chủng trí. Nói xe dê, xe hươu có tên mà không thấy bước lên. Nói gốc lành Tam muội thế gian này là cho để dạo chơi. Nhị thừa chấp vào đây cho là hai xe, thật chẳng phải là thể của xe. Như Nhị thừa là nơi sẽ khởi lên bốn điên đảo. Chánh quán thì không như vậy. Sau mới tưởng giải thoát duyên này mà khỏi chấp. Hóa thành cũng vậy. Nay vì đối trị mà cầu người thế lực, điên đảo cầu công đức tăng thượng mạn. Nói thí dụ xe này cho nên có phẩm này. Các nghóa khác đều giải thích trong phẩm. Giải thích tên phẩm: Thí là so sánh là giống loại như. Trong Ngọc Thiên chép: So sánh giống như lấy tướng làm rõ, dụ là mở bày cho rõ. Lại nói làm rõ để can ngăn. Nay nêu cận tích thế gian so sánh với chỗ thâm sâu của xuất thế, để mở bày những điều chưa nói dùng làm rõ những điều còn mê trước. Làm rõ thí của dụ gọi là phẩm Thí dụ. Hoặc thí tức là dụ nên gọi là phẩm Thí dụ. Giải thích sự chướng ngại: Hỏi: Ở đây dùng thí dụ để hiểu lý gọi là phẩm Thí dụ, trước dùng thẳng pháp làm rõ lẽ ra gọi là phẩm Pháp? Đáp: Lí trước sau nêu, thật ra cũng nên như thế. Đặt tên phẩm khác nhau đâu nói hết được lý do. Chỉ vì phương tiện trong phần pháp nói là nghóa riêng, còn thí dụ trong nghóa so sánh là tên chungï. Chung, riêng đã khác thì được gọi là theo riêng, chưa thể cùng nêu. Hỏi: Vì sao bảy dụ chỉ ở đây là có tên phẩm thí dụ những dụ khác thì có tên khác. Đáp: Dụ tuy có bảy mà đây là đầu tiên. Tuy nêu tên chung mà cũng là tên khác, các phẩm khác không thể chỉ gọi là thí dụ. Hỏi: Hạng trung căn lãnh, ký, nêu riêng Tín hiểu. Hàng thượng căn được thọ ký theo lý lẽ ra có phẩm riêng. Vì sao đầu phẩm này nói về sự thọ, ký của ngài Thu Tử? Đáp: Hàng trung căn, được thọ ký văn rộng nghóa dài, cho nên khai riêng. Thu Tử không như vậy nên dựa vào phẩm này nói. Lại nữa, nhân ngài Thu Tử được thọ ký mà khải thỉnh, Phật mới trình bày thí dụ so sánh. Cho nên dựa vào đầu phẩm này mà nói về được thọ ký. Kinh: “Bấy giờ Xá-lợi-phất cho đến được điều chưa hề có cho đến” Tán: Phẩm này đại văn chi làm hai: Ngài Thu Tử nghe pháp lãnh hội vui mừng thuật lại mình thành tựu được thọ ký. Sau Phật rộng dùng thí dụ hóa độ hạng trung căn. Văn đầu thuộc châu thứ nhất pháp nói trước nói về Nhất thừa. Châu đầu có bốn, trong phần pháp nói ở trên đã nói rồi, từ đây trở xuống là châu thứ hai ngài Thu Tử nghe pháp lãnh giải tự trách rồi sanh tâm vui mừng, trong đây có hai phần: Văn xuôi và kệ tụng. Văn xuôi chia làm hai: Nghe pháp vui mừng. Giải thích lý do vui mừng. Theo thế tục giải thích thì gọi là dũng khiêu (kiểng chân lên mà nhảy), chỉ sự vui mừng cực độ. Nghe được chân đạo khởi lên quyền pháp cho nên hớn hở vui mừng tức vừa ý mong cầu vui mừng. Đây biểu thị phát đại tâm nên liền đứng dậy. Tâm khế hợp với lời Phật nói nên chấp tay nhất tâm vì thỉnh lợi ích, chiêm ngưỡng tôn nhan bày tỏ bổn hoài của mình cho nên nói bạch Phật. Tiếng pháp tức là ngôn giáo Đại thừa, từng chưa nghe được điều chưa hề có. Lại do ba nghóa mà vui mừng: Nghe Phật nói pháp tâm an như biển. Biết Phật không phải ma cho nên vui mừng. Nghe pháp nhất thật ngày nay mà hiểu pháp ba quyền ngày trước. Ba là do một mà có cho nên vui mừng. Nghe Phật nói pháp nói một ngàn hai trăm vị La-hán cũng sẽ thành Phật, cho nên vui mừng. Kinh: “Vì sao cho đến vô lượng tri kiến.” Tán: Giải thích lý do vui mừng. Có bốn: Vì mất đại pháp nên than thở. Ở bậc Tiểu thừa mà khởi vui mừng. Vui mừng vì nay nghe pháp mà não buồn hết. Biết Phật tử mà đạo thành. Đây nói phần đầu. Dự là nhập là then chốt. Ngọc Thiên nói: trước dự làm, bị là dự là sớm, thiết vận nói nếu dệt làm dự (bộ tượng), lễ ra viết dự (bộ hiệt), nhó nhã viết Dự bộ Hiệt, đãi và dữ. Cổ văn là dữ. Tả truyện chép: Công phải là dữ. Cảm thương là kích động, than thở. Xưa nghe Bồ-tát được các việc thọ ký như thế mà ta không được dự vào. Xưa nghe Phật thọ ký mà không được thọ ký, cho nên cảm thương than thở mình mất đi năm thứ tri kiến của Như Lai. Hoặc mất trí tánh, tri kiến trí tướng của Như Lai. Kinh: “Thế tôn! Con thường ở chỗ một mình cho đến mà tế độ.” Tán: Ở bậc Tiểu thừa mà khởi lời than. Có hai: Đầu tiên than trụ ở tiểu. Sau tự trách thân. Thường tức là hằng. Mỗi có nghóa là sác, là thường, chẳng phải từ nhất định, nhập nghóa là chứng, pháp tánh là vô ngã chân như. Những người kia cùng chứng, ta cùng Bồ tát đều có thể chứng nhập Vô ngã chân như. Vì sao Như Lai chỉ dùng Tiểu thừa mà được độ thoát. Hoặc tánh gọi thể. Đồng nhập vào thể Phật pháp. Kinh: “Lỗi của chúng con chẳng phải là của Thế tôn “ Tán: Đây là lời tự trách mình. Có ba: Đầu tiên nêu ra, kế là giải thích, sau là thành tựu ở đây nói phần đầu. Cửu là lỗi là tội. Người làm việc trái ngược thì gọi là lỗi. Kinh:”Vì sao cho đến mà được độ thoát.” Tán: Đây giải thích lý do. Sở nhân là nhân hạnh thành tựu Đại Bồ-đề. Nghóa là bốn hạnh Bồ tát ở Thất địa. Bồ-đề phần; Ba-la-mật; Các thần thông; Thành tựu hữu tình. Cho nên ngài Ca-diếp nói: Đối với pháp Bồ-tát, du hý thần thông, tịnh cõi nước Phật thành tựu chúng sanh mà tâm không ưa thích, thế nên nhân Chánh giác tức là bốn hạnh này. Đãi nghóa là trông mong theo, khao khát, hi vọng, ngài Thu tử nói: Nếu chúng con mong đợi, khao khát, hi vọng nhân Chánh giác Vô thượng thì Phật chắc chắn dùng pháp Đại thừa mà thấy chúng con để độ thoát, chỉ cho chúng con ở trong nhân Đại thừa mà không sanh lòng mong cầu cho nên Phật không dùng pháp Đại thừa để cứu thoát. Hoặc nhân nghóa là tâm Bồ-đề lược có ba: 1- Nhàm chán xa lìa pháp hữu vi. 2- Cầu Bồ-đề. 3- Rất nghó nhớ chúng sanh. Tức là trụ như thế, tu hành như thế, là hàng phục tâm như thế. Kinh: “Nhưng chúng con cho đến suy nghó chứng lấy lấy .” Tán: Đây là thành tựu lời tự trách. Nhưng do chúng con không hiểu phương tiện của Phật, tùy nghi mà nói các pháp. Đầu tiên nghe liền tin liền thọ trì suy nghó chứng lấy, cho nên Phật không dùng pháp Đại thừa để độ. Đây là do lỗi của chúng con. Kinh: “Thế tôn cho đến rất được an ổn. Tán: Hôm nay nghe pháp vui mừng dứt hết phiền não. Khắc nghóa là chuyên. Từ xưa đến nay tu Tiểu thừa chuyên tự hối hận trách mình không cầu Đại thừa. Lại nghi mình không có phần đắc Bồ đề nên không sanh ưa thích tiến tới. Hoặc tự thân đã được giải thoát không khác với Phật, nghe Phật nay nói pháp tự đắc rất sâu khó hiểu. Người Nhị thừa không tỏ ngộ nghi Phật là ma. Nay nghe nói về nhất thật Ba thừa biết xưa tu Tiểu là nhân của Đại cho nên hối hận đoạn dứt, biết mình cũng có phần Bồ-đề thành Phật, đắc giải thoát trước là phương tiện của Phật, vì thế nghi cũng đoạn dứt, tâm khai ý giải thân ý thư thái, an nhiên. Đã không nghi hối nên rất an ổn, có nghi hối thì thân tâm thường không an ổn làm sao được thư thái, an nhiên ? Hỏi: Nghi sanh ra phân biệt. Nhập Kiến liền dứt trừ. Hối phần nhiều có ưu. Lìa dục liền xả, sao ngài Xá-lợi-phất đến châu thứ hai mới trừ. Đáp: Phiền não Nghi thì Dự lưu đã hết phiền não là bạn với hối, lìa dục đã dứt. Nay loại pháp chấp dị thục sanh nghi như A-la-hán nghi bôn Mặc diệm, nghi ở sự ác tác dị thục sanh nghi gọi là hối chưa rõ ràng ở lý. Thể của ác tác này tức là gốc lành quý (tàm quý), khinh chống lại sự bạo ác. Hoặc là nhàm chán. Tức một phần của tuệ gồm có vô tham. Cũng tức là tâm tâm sở tỉnh sát, chỉ vì hối thì tánh tướng sẽ thô động. Lìa dục xả, lìa dục có hối chắc chắn là ác tác, nói tên hối là từ quả đặt tên, đâu có lìa dục rồi mà không nhàm chán ác! Kinh: “Ngày nay mới biết cho đến được pháp phần của Phật”. Tán: Biết là Phật tử mà đạo thành. Du-già quyển tám mươi bốn có sáu câu: “Nghóa là Đại sự tử từ bụng Phật sanh ra, từ miệng Phật sanh ra từ pháp Phật hóa, từ Phật được hóa sanh, đắc pháp phần bình đẳng”. Kinh Thắng-man chép: Được của còn lại của Phật, đây có bốn câu. Luận Du-già giải thích: Đầu tiên là câu chung. Năm nghóa sau là câu riêng. Từ bụng sanh ra là để phân biệt con dị sanh thấp kém. Đắc trí tuệ Thánh đạo từ bụng Phật đích thân sanh ra. Chẳng phải như phàm phu là con nuôi của Phật. Tất cả chúng sanh đều là Phật tử. Nếu không đích thân sanh thì không phải từ bụng Phật sanh ra. Từ Phật pháp sanh ra, mới thật là chân sanh. Lại Nhị thừa chẳng phải từ mẹ sanh con mà như người hèn hạ sanh con. Nên kinh dưới nói: Nếu như con ta, Bồ-tát Sơ địa sanh vào nhà Như Lai mà chứng pháp giới, đó là con từ mẹ sanh ra. trước chẳng phải từ mẹ sanh ra thì gọi là không phải từ bụng sanh. Nay phát đại tâm, sẽ thành Bồ tát trong pháp giới nói chung là từ bụng sanh. Từ miệng Phật sanh ra đó là từ pháp âm của Phật nói mà sanh ra. thể tức là văn tuệ, duyên với giáo mà sanh ra. Từ pháp Phật sanh: Như lý tác ý từ chỗ tùy pháp hành pháp mà sanh. Thể thuộc về hai Tư và Tu tuệ lý, duyên với giáo tùy thích ứng sanh. Phật pháp sở hóa đó là từ pháp thân hiển bày mà lập pháp tương tợ. Pháp thân lộ là hai nhân phước tuệ của Bồ-tát. Ta cũng như thế. Từhai nhân đó mà thành lập ra, pháp thân có hai: Hai nghóa Tiểu thừa Đại thừa đều khác nhau. Đắc các pháp phần cho đến đó là thọ dụng pháp tương tợ tài bảo pháp vô lậu. Pháp là pháp bảo. Hoặc là bảy Thánh tài là tín, giới, văn, xả tuệ, tàm quý v.v… phần là dự phần là phần loại. Chư Phật Bồ-tát có thể dùng pháp tài, nay con cũng vậy, cùng tương tợ kia cũng đắc thọ dụng các phần khác của pháp bảo vô lậu. Tùy theo thích ứng như vị nhị thừa so với phàm phu đã dạy là một lớp, thật là Phật tử. Nay làm Bồ-tát so với vị Nhị thừa lại dạy là một lớp, bình đẳng thật là Phật tử có thể như lý mà giải thích. Kia lại giải thích: Các câu nói như thế là nói lên tăng thượng sanh tròn đầy và pháp tương tợ như cha, sanh tròn đầy. Trong năm câu sau thì ba câu trước là tăng thượng tròn đầy. Hai câu sau pháp tương tợ như cha sanh ra tròn đầy. Tăng thượng sanh ra tự thể thắng sanh. Pháp tương tợ như cha sanh ra là mặc di thể của cha, dùng gia tài của cha đều là tương tợ. Trong tăng thượng sanh thì câu đầu là ngăn ngừa lỗi. Chánh trí từ bụng Phật sanh ra, ngăn ở trong thế gian sanh vào bào thai xấu ác. Câu thứ hai là ngăn sanh ra từ tinh huyết bất tịnh. Từ miệng Phật sanh ra chẳng phải lấy tinh huyết làm tự thể. Câu thứ ba là ngăn dục tham chẳng phải từ chánh pháp sanh ra. phàm phu do từ giúp nhuận của dục tham mà sanh ra, chẳng phải sanh ra từ chánh pháp. Câu thứ tư là hiển pháp tương tợ tự thể. Từ pháp thân lộ mà được thành lập nối dõi tự thể. Pháp thân thù thắng, như nối tiếp chủng tánh Bà-la-môn thành lập sự tôn quý. Câu thứ năm: Thọ dụng pháp tương tợ. Thọ dụng pháp tài của Phật vô lậu như thọ dụng tài sản cha mẹ ở đời. Trong đây có bốn điều liên quan đến câu thứ hai. Hợp hóa và sanh chung thành một câu. Xưa trụ vào quyền chẳng phải chân Phật từ. Nay cầu vị thật mới là từ bụng Phật sanh. Đây là đại ý của văn kinh này. Nhiếp Luận chép: Chẳng phải Nhị thừa là con của gái vô trí thấp kém. Lại có nghóa rằng: Riêng phối hợp bốn đoạn trên lãnh hội bốn nghóa: Khai, thị, ngộ, nhập ở trước. Như tiếp tìm hiểu kỹ thì thấy về lý chưa hẳn như thế! Kinh: “Bấy giờ Xá-lợi-phất cho đến lưới nghi đều đã trừ.” Tán: Hai mươi lăm hàng tụng rưỡi, chia làm hai: Hai hàng rưỡi tụng nêu ra. Hai mươi ba hàng tụng giải thích. Phần một lại chia hai: Một hàng nêu ra được điều chưa hề có tâm vui mừng dứt nghi. Một hàng rưỡi giải thích được điều chưa hề có, nói ưu hối hết. Xưa nghi tự thân mình không thể thành Phật. Nay nghe được thành Phật nên nghi trừ. Nghi làm tổn hại chúng sanh khó thể xa lìa nên thí dụ là lưới nghi. Kinh: Xưa nay nhờ Phật dạy cho đến nghe cũng trừ ưu não” Tán: Giải thích: Đắc điều chưa hề có, rõ ưu hối hết, có từ xưa đến nay nhờ Phật giáo hóa. Nghóa là trụ Tiểu thừa mà không được Đại thừa. Cho nên, ưu hối. Nghe Phật nói kinh này ngày nay mới biết là mình không mất pháp Đại thừa. Do đây mà hối hết, pháp âm Phật ít có, diệu dụng có thể trừ hết phiền chướng ưu não của chúng sanh. Con tuy lậu tận mà nay nghe pháp cũng hàng phục pháp chấp ưu não. Ưu ở đây là lo không thành Phật. Tức là lo (ưu) pháp chấp, lìa dục không bỏû. Như Tất-lan-đà- phiệt-mắng lời thô ác huân tập pháp chấp không bỏ. Đồng như nghi hối trước tùy ứng cũng vậy. Thật là ưu đó: Tức ác tác đều có nhàm chán xả thọ. Vì tên ưu nói hoặc là thiện căn ưu , vô ký thuộc loại pháp chấp, lìa dục không bỏ. Ưu tương ưng với não. Não tức là ưu hối chẳng phải phiền não. Kinh: “Con ở trong hang núi, cho đến sao lại tự khi mình” cho đến Tán: Các tụng này giải thích phần trước, chia ra làm bốn: Hai hàng tụng rưỡi đối với Tiểu thừa mà than thân. Năm bài rưỡi tụng mất Đại pháp mà khởi trách. Mười bốn hàng kế là tụng vui mừng nghe pháp mà hết não. Một hàng sau tụng biết là Phật tử mà đạo thành. Cùng với Văn xuôi trước thì trước sau khác nhau. Trong phần đầu có hai: Một hàng tụng rưỡi tụng về than ở vị Tiểu thừa. Một hàng sau tụng việc đã than. Đây là phần đầu. Ô hô là lời than thở. “Sao lại tự khi mình”; là khinh thường. Than mình tiểu trí trụ chứng tiểu quả, không cầu vị Đại. Cho là mình không có phần nên gọi là tự khinh. Kinh: “Chúng ta cũng Phật tử cho đến giảng nói Vô thượng đạo.” Tán: Một hàng tụng việc đã than. Pháp vô lậu là pháp tánh chân như. Nhập nghóa là chứng, lý tuy đồng chứng đều gọi là Phật tử. Vô trí có thể tương lai thành Phật vì chúng sanh mà giảng nói chánh đạo Đại thừa. Kinh: “Sắc vàng ba mươi hai tướng sắc vàng cho đến mà không được việc này cho đến” Tán: Năm hàng rưỡi tụng than thở vì mất Đại pháp, chia làm hai: Ba hàng rưỡi tụng chỗ mất Đại pháp. Hai hàng tụng sau tự than thở. Trong phần đầu lại có hai: Hai hàng tụng đức trang nghiêm trong ngoài. Một hàng rưỡi sau tụng về đức danh lợi cao rộng. Trong hai hàng tụng về đức lại chia làm hai: Một hàng tụng đầy đủ tướng đức hàng phục ma. Một hàng sau tụng đầy đủ đức bất cộng . Ba mươi hai tướng sắc vàng là: Thân Phật màu vàng tía sắc vàng. Ba mươi hai tướng đó là theo kinh Đại Niết-bàn quyển ba trăm tám mươi mốt. Phật bảo Thiện Hiện: Thế nào là ba mươi hai tướng của Như Lai. Dưới chân có tướng bằng phẳng, khéo léo an trụ giống như đáy hộp. Đất tuy cao thấp mà chân vẫn tùy theo đó mà bước lên thản nhiên an lành. Dưới chân Thế tôn có hình bánh xe ngàn căm, các tướng vành trục đều đầy đủ. Tay chân Phật đều mềm mại, như Đô-la-miên hơn hẳn tất cả. Tay chân Thế tôn ở giữa các ngón, đều có mạn lưới như chim nhạn. Các đường sắc vàng giao nhau xớ văn như là hình lụa. Tay chân Thế tôn có các ngón thon dài đầy đủ rất đáng ưa thích. Gót chân Như Lai rộng dài tròn đầy. Cùng mu bàn chân đầy đặn hơn hữu tình khác. Mu bàn chân cao lên đầy đặn, mềm mỏng tốt đẹp gót tương xứng. Hai bắp vế tròn đầy, như của nai đầu đàn tiên Ế-ni-da. Hai tay dài quá gối. Âm tướng ẩn kín, như long mã, như voi đầu đàn. Các lỗ chân lông thường ánh ra sắc sanh, trên mỗi lỗ đều có một sợi lông mềm mại xoay về bên phải. Tóc lông thẳng đứng uốn về bên phải, mềm mỏng màu sanh biếc, toàn thân sắc vàng người thấy đều yêu thích. Da mỏng mịn, các nước dơ không bám vào. Da thân đều màu sắc vàng ròng, ánh sáng tỏa chiếu sáng diệu như đài vàng, đầy đủ các thứ báu trang nghiêm, rất thích nhìn. Hai chân hai tay cổ và hai vai đều đầy đặn. Vai cổ tròn đầy đặc biệt. Hai nách đầy đặn. Dung nghi đẹp đẽ trang nghiêm. Thân tướng trang nghiêm cao lớn. Thể tướng rộng dài cân đối, vùng quanh thân tròn đầy như Nặc-cù-đà. Oai nghiêm như sư tử đầu đàn. Ánh sáng thường phát ra từ khuôn mặt chiếu xa một tầm. Răng đủ bốn mươi cái bằng đều sạch, khít khao, chắc chắn và trắng như tuyết kha. Bốn răng cửa sạch trắng đều nhọn. Nước bọt có mùi thượng vị, dẫn thẳng tới cổ họng làm cho gân cốt trong cơ thể đều có mùi thượng vị. Các bệnh gió nhiệt không thể xâm nhập. Lưỡi rộng mỏng, sạch, dài có thể che trùm khuôn mặt đến tận mí tóc. Lời nói hòa nhã, tùy chúng nhiều ít đều được nghe như nhau. Giọng nói trong trẽo vang xa như trống trời, lời lẽ nhỏ nhẹ như giọng Tần-già. Mí mắt như trâu đầu đàn, màu sanh biếc ngay thẳng không lẫn lộn. Tròng mắt sanh trong sáng, phân minh rõ ràng Mặt tròn như trăng đầy, tứong lông rõ sạch như cung tên của Thiên đế. Giữa hai đầu chân mày có sợi lông trắng, mềm mại xoay về bên phải, phát ra ánh sáng trong sạch hơn cả tuyết kha. Trên đỉnh đầu có cục thịt nổi cao lên như lọng trời. Thiện Hiện! Đó là ba mươi hai tướng của Thế tôn. Y theo văn kinh nói kệ chung rằng: Vòng lưới hoa văn nhuyễn Mu bàn chân đầy đặn Chân lông đẹp nhuận trơn Da bảy báu vai đầy. Bàn chân rộng bằng phẳng Răng đủ như sư tử Răng, vị, lưỡi, âm, mi Mắt có hào tướng che. Nếu theo Du già thì khác với ở đây, trong Du-già là nói nghiệp của nhân, sợ văn rườm rà nên thôi, như văn ấy nêu nói: Gót chân tròn bằng đầy Màng lưới, vế không lớn Thế thân trên ánh sáng Sanh xương vàng bảy chỗ Vai sư tử bằng thẳng Răng đủ không hở trống Hàm rộng, vị trong trẻo Tướng đảnh như trâu chúa. Đây đều là lấy chỗ nương của mắt, tai, bốn căn của thân nam và thệit căn làm thể. Mười lực giải thoát như trước đã giải thích. Ngài Thu tử tự than đồng chung một pháp Phật mà không được việc này. Kinh: “Tám mươi loại diệu tốt cho đến mà ta đều đã mất.” Tán: Tốt đẹp đầy đủ bất cộng đức. Tám mươi tướng đẹp. Kinh Bát-nhã chép: Phật bảo Thiện Hiện: Thế nào là tám mươi vẻ đẹp ứng Chánh Đẳng giác của Như Lai? Này Thiện Hiện! Đó là: Móng tay thon dài, mỏng bóng như hoa đồng đỏ. Ngón tay ngón chân thon thẳng, dài mềm mại, xương không nổi lên. Tay chân xứng nhau, các ngón khi khép lại đầy kín. Tay chân sáng bóng tươi hồng như hoa sen. Xương cốt chắc chắn ẩn sâu không hiện. Hai mắt cá ẩn. Bước đi thẳng tới trước, khoan thai oai nghi như rồng, voi đầu đàn. đàn. Bước đi uy nghiêm ngay thẳng như sư tử vương. Bước vững vàng như trâu đầu đàn. Đi đứng nằm ngồi uyển chuyển thanh nhã như ngỗng đầu Quay nhìn đều bên phải như rồng voi nhấc mình khi di chuyển. Các khớp tay chân đều đặn tròn đẹp. Đốt xương liền lạc như rồng cuộn. Đầu gối tròn đầy, khéo an bố chắc chắn tròn đầy. Chỗ kín có hoa văn uy thế diệu hảo tròn đầy thanh tịnh. Các chi thân tròn mềm sạch tịnh, không bám bụi trần. Thân hình mạnh khoẻ không yếu đuối. Các chi cứng rắn đầy đặn, khéo phụ thuộc nhau. Các chi an định, không thô động, tròn đầy không hư hoại. Thân như vị tiên vương, toàn thân đoan trang sáng sạch. Ánh sáng bao quanh thân thường chiếu sáng, khi đi thường tự chiếu sáng. Bụng vuông vắn, không thiếu sót, các tướng trang nghiêm, mềm mại. Rún xoay bên phải, sâu xuống lại tròn đẹp thanh tịnh. Rún đầy không lõm không lồi, vòng quanh rất đẹp. Da thịt không ghẻ lở. Bàn tay mềm mại, lòng bàn chân bằng phẳng. Chỉ tay sâu dài, rõ ràng. Môi đỏ thắm bóng mềm. Như trái tần-bà, trên dưới xứng nhau. Mặt không dài không ngắn, không lớn không nhỏ, trang nghiêm vừa vặn. Lưỡi rộng dài mềm mỏng. Như mầu đồng đỏ Âm thanh oai dũng, trong suốt vang xa, như voi đầu đàn rống. Âm vận tốt đẹp như tiếng vang từ hang sâu. Sống mũi cao thẳng, lỗ kín. Răng ngay thẳng đều đặn trắng bóng. Răng trắng sáng, tròn bén. Mắt tròng đen trắng rõ ràng. Tướng mắt dài rộng, giống như cánh hoa sen sanh. Lông mi trên dưới ngay thẳng, khít khao không bạc. Hai chân mày dài nhuyễn mịn, không bạc. Hai mi sanh biếc như màu lưu ly. Hai chân mày xa mắt và cong như trăng lưỡi liềm. Vành tai rộng lớn, trái tai dày thòng xuống. Hai vành tai bằng nhau, không khuyết tật. Dung nghi khiến người nhìn thấy đều sanh lòng kính mến. Trán rộng bằng phẳng, hình dáng đẹp đẽ. Nửa trên thân ròn đầy như sư tử đầu đàn, oai nghiêm không gì so sánh. Tóc dài đen sanh, dày không bạc. Tóc thơm thanh khiết, nhuyễn bóng xoay về bên phải. Tóc suôn không rối, cũng không đan nhau. Tóc cứng, không bị dứt rụng. Tóc trơn bóng bụi bặm không dính. Thân hình đầy đặn vững chắc, hơn Na-la-diên Thân cao lớn ngay thẳng. Các khiếu thanh tịnh tròn đẹp. Có sức mạnh hơn người. Thân tướng ai cũng thích nhìn. Mắt như trăng tròn mùa thu. Dung mạo thư thái, khi nói không ngoái nhìn ra sau. Da mặt trơn láng không vết nhăn. Nước da sạch sẽ không mùi hôi bẩn. Các lỗ chân lông thoảng ra hương thơm. Miệng tỏa mùi hương thanh khiết. Thân tướng đầy đặn đẹp đẽ. Lông trên mình sạch sẽ sanh biếc như khổng tước. Pháp âm tùy chúng ẩn hiện không sai. Tướng trên đỉnh không ai nhìn thấy. Đường khu ốc trên ngón tay chân đều rõ ràng . Lúc đi chân cách đất, bốn ngón tay mà hiện dấu chân. Tự giữ gìn không nhờ người che chở. Uy đức bao trùm tất cả. Người ác nhìn thấy đều vui mừng. Người bị làm sợ hãi được an ổn. Âm thanh tùy theo chúng hữu tình. Không cao không thấp, ý hòa nhã vui vẻ nói. Chỉ dùng một âm ngữ nói pháp mà tất cả chúng hữu tình đều lãnh hội. Âm thanh vừa với sự tiếp nhận của mỗi người. Nói pháp đều tùy theo thứ lớp, không nói lời bất thiện. Quán xét các loài hữu tình mà khen việc thiện, chê việc xấu mà không có yêu ghét. Làm việc gì Phật cũng trước quán sát rồi mới làm khuôn phép đầy đủ để người biết sự thiện tịnh. Tướng tốt của Phật, tất cả hữu tình không thể thấy hết. Xương đỉnh cứng chắc tròn đầy. Dung nhan thường trẻ trung không già. Tay chân và trước ngực đều có tướng tốt xoay vần, có đường hoa văn, sắc loại màu son. Thiện Hiện! Đó là tám mươi tướng tốt. Như Lai đắc quả Chánh đẳng Chánh giác thành tựu tám mươi vẻ đẹp này. Thân tướng Như Lai tỏa sáng chiếu khắp thế giới tam thiên chẳng nơi nào không sáng. Nếu khi tác ý thì chiếu khắp vô lượng vô biên vô số thế giới. Nhưng vì lòng từ bi thương xót chúng hữu tình, nên Phật thu nhiếp ánh sáng ở trên mặt, chiếu xa một tầm. Nếu tỏa sáng ra cả thân thì ánh sáng mặt trời, mặt trăng không còn tác dụng, chúng sanh sẽ không còn biết ngày đêm năm tháng giờ giấc, không thể thành tựu các công việc. Âm thanh của Phật vận dụng có thể vang xa khắp Tam thiên Đại thiên thế giới. Nếu tác ý thì sẽ biến khắp cả vô lượng vô biên vô số thế giới. Nhưng vì muốn lợi lạc chúng hữu tình. Nên tùy theo lượng mà không thêm không bớt. Thiện Hiện! Công đức như thế lợi ích rất cao quý, khi Ta còn hành đạo Bồ-tát, tu Bát-nhã ba-la-mật đã thành tựu được việc này. Nay tướng tốt đã trang nghiêm tròn đầy. Tất cả chúng hữu tình đều khen ngợi vui mừng được an lạc lợi ích thù thắng. Này Thiện Hiện! Như thế Đại Bồ- tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa. Có thể dùng hai thứ tài pháp bố thí cho tất cả chúng hữu tình. Thật là pháp rất ít có. Ba mươi hai tướng do hành trì năm thứ tu: Phát tâm. Thời gian dài. Không gián cách. Ân trọng. Cảm đắc quả Vô dư. Như luận Du-già quyển ba mươi bảy chép: Mười tám pháp Bất cộng dùng năm môn để phân biệt: Danh; Thể; Hành tướng; Khác nhau; Các môn. Danh là: Thân không lầm lỗi. Không nói lời hung bạo. Không có các tưởng. Không có tâm bất định. Không quên mất niệm. Không bất trạch xả. Dục vô giảm. Niệm vô giảm. Tinh tấn vô giảm. Định vô giảm. Tuệ vô giảm. Giải thoát vô giảm. Thân nghiệp thực hành theo trí tuệ . Ngữ nghiệp thực hành theo trí tuệ . Ý nghiệp thực hành theo trí tuệ . Biết đời quá khứ, không trước không trở ngại. Biết đời vị lai không mê đắm, không trở ngại. Biết đời hiện tại không mê đắm, không trở ngại. Đây là dùng tám pháp: Tư, tưởng, dục, thắng giải, niệm, định, tuệ, cần làm thể. Trong sớ Vô cấu xưng quyển thứ hai giải thích rõ ràng. Người Nhị thừa không có pháp bất cộng . Luận chép: Hai bài kệ trên nói về nghóa gì? Xá-lợi-phất tự trách mình không gặp chư Phật. Không đến chỗ Phật nghe pháp. Không cung kính cúng dường chư Phật, không làm việc lợi ích chúng sanh, chưa đắc được pháp đã lui sụt, thế nên Xá-lợi-phất tự trách thân mình. Trên là giải thích ý tự quở trách. Ở dưới là nói tự nhắc lại giải thích ý tự trách và văn kinh tụng. Hợp cả hai lại giải thích thì có tám câu. Trong đó năm câu giải thích lời tự trách. Ba câu còn lại giải thích nghóa kinh tụng. Không thấy: Là không thấy tướng bậc Đại nhân Chư Phật Như Lai mà sanh tâm cung kính cúng dường. Tự quở trách không tu nhân Đại thừa, nên không thể thấy tướng của chư Phật, để cung kính cúng dường. Không đến: Là chỉ rõ năng lực giáo hóa chúng sanh ở hiện tại của Phật, có khả năng hóa độ chúng sanh, mà con không đến chỗ Phật. Hai câu trên là giải thích lời tự trách. Ánh sáng sắc vàng là thấy tự thân dị thân của Phật đắc vô lượng công đức. Đây là giải thích trong kinh nói sắc vàng: Do thấy Phật, nên thân con đối với thân khác được vô lượng công đức quả. Nghe là có khả năng làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Đây là giải thích lời tự trách không nghe nói . Nếu nghe thì có thể làm các việc lợi sanh. Lực: Là có chúng sanh nghi y theo mười lực dứt nghi. Đây giải thích trong văn kinh nói Thập lực cúng dường là nói về lực giáo hóa chúng sanh. Đây giải thích lời tự trách không cúng dường chư Phật. Phật có thể hóa độ chúng sanh, chúng con nên cúng dường, mà xưa vì sao không cúng dường. Mười tám pháp bất cộng: Xa lìa các chướng ngại. Đây giải thích nghóa mười tám pháp bất cộng trong hàng tụng. Cung kính: Sanh vô lượng phước đức. Y theo lời Như Lai dạy mà được giải thoát, chứng đắc các pháp người, pháp vô ngã bình đẳng. Đây giải thích phần tự trách nói không cung kính. Nếu cung kính thì sanh ra vô lượng phước đức, chứng pháp bình đẳng. Cho nên tự trách từ xưa đến nay chưa đắc pháp này, nên đối với pháp này sanh tâm lui sụt. Đó gọi là mất đại pháp mà khởi lời than trách. Kinh: “Con ở nơi kinh hành cho đến chính con tự khinh dối” Tán: Danh lợi đức cao rộng, tự xem thường mình nên thường suy nghó đã mất đi công đức này của Phật mà không dám cầu Đại thừa. Tự lừa dối mình nên cho đắc Tiểu thừa là đủ. Kinh: “Con thường trong ngày đêm cho đến suy xét việc như thế.” Tán: Nói tự khởi trách than. Hàng tụng đầu: “Muốn hỏi Phật, là mất Đại thừa hay không ?” Hàng tụng sau giải thích nghi: “Con thường thấy Phật, chỉ khen ngợi Bồ tát” mà không khen con, vì thế nghi phát sanh nên suy xét việc này. Kinh: “Nay nghe tiếng Đức Phật nói cho đến khiến chúng đến đạo tràng cho đến” Tán: Đây trở xuống mười bốn hàng, tụng về vui mừng, nay nghe pháp liền dứt hết lo buồn. Trong đây chia làm hai: Mười hai hàng rưỡi đầu tụng về dứt nghi hối. Một hàng rưỡi tụng rất được an ổn. Phần đầu lại có hai: Năm hàng tụng hối hận xưa đã hết. Bảy hàng rưỡi sau là tụng về nghi bây giờ chẳng còn. Năm hàng đầu lại có hai: Một hàng nêu lý do dứt hối. Bốn hàng sau chính là nói việc dứt trừ. Do nghe âm thanh Phật tùy nghi nói pháp, ý thú khó biết, vô lậu khó nghó bàn, sở đắc khó giải. Khiến cho chúng Nhị thừa bỏ giáo tùy nghi, đạt đến pháp sâu mầu mà Phật đã chứng đắc ở đạo tràng, nên hối đã dứt gọi là vô lậu. Kinh: “Con xưa chấp tà kiến cho đến được chứng pháp không cho đến” Tán: Trở xuống bốn hàng tụng là dứt hối. Chia làm hai: Một hàng rưỡi là nói việc bỏ tà về chánh. Hai hàng rưỡi là nói nay biết Tiểu để hướng Đại. Trong Bổn sự nói: Ngoại đạo San-xà-da thống lãnh một trăm môn đồ, sau quy y Phật xuất gia tu chứng lý nhân không đắc quả A-la-hán, xưng là thầy Phạm chí. Gọi đó là bỏ tà đắc chứng được pháp không. Kinh: Bấy giờ tâm tự như cho đến chẳng phải thật diệt độ cho đến” Tán: Trở xuống hai hàng rưỡi tụng là nói nay biết Tiểu để hướng Đại. Chia làm hai: Một hàng tụng biết Tiểu. Một hàng rưỡi biết Đại thật. Xưa không biết cho là thật diệt độ. Kinh: “Nếu lúc được thành Phật cho đến hết hẳn không còn”. Tán: Biết đại là thật diệt độ. Khi đắc quả thành Phật, trong đầy đủ các tướng tốt, ngoài được chúng sanh quy kính, mới xa lìa hai thứ sanh tử, lại không còn hữu lậu. Cho nên biết Đại thừa là chân thật diệt. Kinh: “Phật ở trong đại chúng cho đến nghi hối đều đã trừ.” Tán: Trở xuống bảy hàng rưỡi tụng “Nghi nay đã hết”. Chia làm hai: Một hàng tụng tổng kết hối ở trước đã hết, là lý do để dứt nghi sau. Sáu hàng rưỡi chính giải thích về dứt nghi. Kinh: “Trước nghe Phật nói pháp… cho là ma làm ra!” Tán: Sáu hàng tụng rưỡi chính giải thích về dứt nghi. Lại chia làm hai: Một hàng đầu tụng nêu lý do sanh nghi. Năm hàng tụng rưỡi chính giải thích dứt nghi. Xưa Phật nói Ba thừa cho đến chúng con đã được rồi”. Nay nói là một thừa cùng xưa nói trái ngược. Nói pháp con sở đắc chẳng phải là thật quả diệt. Cho nên trong tâm kinh nghi, cho Phật là ma làm não loạn lòng ta. Nghi này đối với sự thì gọi là dị thục sanh, không nghi ở lý nên không phải là phiền não. Hoặc ưu trước cùng với, nghi khởi, chẳng phải ngài Thu Tử còn ưu tư nghi ngờ. Kinh: “Phật dùng các thứ duyên cho đến cho là ma làm ra” Tán: Năm hàng tụng rưỡi, giải thích nghi hết. Có bốn phần: Một hàng tụng Phật khéo nói, an tâm, nên dứt đoạn. Hai hàng tụng nói Phật ba đời cùng nói phương tiện, nên dứt đoạn. Một hàng tụng giải thích Phật nói đồng, nên dứt đoạn. Một hàng tụng rưỡi biết Phật khác nhau với ma, nên dứt đoạn. Phật nói có hai: Một là pháp nói. Hai là dụ nói. Các thứ duyên là đạo lý pháp nói. Các thứ thí dụ là nói so sánh. Ngoài hiện ra hai lời khéo léo này để nói pháp. Bên trong an ổn vững chắc bất động như biển, cho nên dứt nghi. Dùng ngôn từ không khéo lý là dụ trái với tông. Tâm có dao động, trí mê chân cảnh, trong ngoài có trở ngại nghi ngờ khó dứt trừ. Nay thì không đúng, cho nên dứt đoạn. Kinh: “Phật nói thời quá khứ cho đến Giảng nói pháp như thế.” Tán: Ở Đây nói chư Phật ba đời đồng nói phương tiện, cho nên dứt đoạn. Hàng đầu tụng về Phật quá khứ, hàng sau tụng về Phật vị lai và hiện tại. Đầu tiên nói phương tiện, sau mới nói chân thật. Tức là lãnh hội Chư Phật ba đời đồng nói như trước. Chúng nghe nói đạo trái xưa nên khởi nghi. Các bậc Thánh cùng có phương pháp ấy nên nay dứt nghi . nói.” Kinh: “Như nay Đức Thế tôn cho đến Cũng dùng phương tiện Tán: Đây giải thích các Phật nói, đồng nhau cho nên dứt đoạn. Từ khi sanh và xuất gia là thân phương tiện. Đắc đạo là ý phương tiện. Xoay bánh xe là ngữ phương tiện. Đầu tiên nói Ba thừa đồng với Chư Phật ba đời đã dạy, cho nên nói cũng dùng phương tiện mà nói pháp. Ba nghiệp trái ngược khiến cho khởi nghi. Sắc tâm cùng thuận nên nghi dứt. Lại đầu cuối trái ngược thì nghi liền khởi. Trước sau nói thuận, cho nên dứt nghi. Kinh: Thế tôn nói thật đạo cho đến Cho là ma làm ra.” Tán: Biết đạo tích của Phật và ma khác nhau, cho nên nghi dứt, ma thì nói trái với chân lý, cho nên nghi khởi. Phật nói thuận diệu lý nên dứt nghi. Kinh: “Nghe tiếng Phật mềm mỏng cho đến An trụ trong thật trí.” Tán: Một hàng rưỡi này hợp thành mười bốn hàng tụng nói nay ưa nghe pháp mà diệt ưu não: Mười hai hàng rưỡi tụng trên là đã dứt nghi hối. Một hàng rưỡi tụng này nói rất được an ổn. Đem lòng từ bi tiếp dẫn nên nói lời mềm mỏng, như chớp ẩn giấu sấm để nói lý diệu huyền nên gọi là thâm viễn (xa xôi), như tiếng Ca-lăng đáng yêu thích nên nói là rất mầu nhiệm, lìa danh lợi cùng các việc tạp uế, nói nghóa Nhất thừa nên gọi là diễn xướng pháp thanh tịnh. Sướng có là tùy thích nghóa xa, nghóa rõ. Tâm đã vui mừng, nghi hối dứt hẳn tâm xưa ở quyền, nay trí trụ ở thật. Thật nghóa là Nhất thừa. Nay là chỗ cầu chứng, quyền là xưa vì Nhị thừa mà dùng phương tiện. Kinh: “Ta chắc chắn thành Phật cho đến giáo hóa các Bồ-tát.” Tán: Đây là hàng tụng thứ tư: Biết là Phật tử nên đạo thành. Nay ta là Phật tử sẽ thành Bồ-tát, từ ngôn giáo Đại thừa của Phật sanh ra. Đã tu nhân đại thì chắc chắn sẽ thành Phật. Ngoài được trời người cung kính có thể xoay bánh xe Vô thượng. Rốt ráo chỉ nói Nhất thừa nên có thể giáo hóa Bồ-tát. Kinh: “Bấy giờ Phật bảo Xá-lợi-phất cho đến theo ta thọ học.” Tan: Từ châu thứ nhất trở xuống đến châu thứ ba là lời Như Lai thuật lại thành tựu. Cũng như trong phẩm Dược Thảo Dụ Trùng thuật lại thành tựu. Ở đây chia làm ba: Đầu tiên trình bày việc gặp Phật trước kia. Kế là thuật lại việc gặp gỡ bây giờ. Sau là y theo trước mà nói thật. Đây là phần đầu. “Từng ở chỗ hai muôn ức Đức Phật thường dùng đạo Vô thượng giáo hóa cho các thầy”. Trong giới kinh Ưu-ba-tắc chép: Xá-lợi-phất từng có sáu mươi kiếp thực hành Bồ-tát đạo. Có Bà-la-môn đến xin mắt, Thu Tử bèn cho. Người kia vứt đôi mắt xuống đất rồi đạp lên, mắng chửi rồi bỏ đi. Ngài Thu Tử hối hận liền tâm lui sụt Đại thừa. Đây là nói hai muôn Phật sở dó làm bạn lành thường giáo hóa Đại thừa. Thu Tử lúc ấy cũng được Phật giáo hóa. Kinh: “Ta dùng phương tiện… sanh trong pháp ta.” Tán: Đây thuật lại việc gặp Phật bây giờ. Sau khi lui sụt đại tâm. Phật biết ông sợ pháp đại, tình chấp vào tiểu quả, nên giáo hóa Thanh văn khiến cho chứng pháp vô học, tạm dẫn dụ gọi đó là phương tiện, để chứng lý sanh không khởi trí vô lậu, trụ vào Phật pháp nên gọi là trong pháp ta. Từ trong pháp Phật sanh ra như thế mới gọi là sanh chân thật. Vả lại như Thu Tử tánh lui sụt là tánh Đại thừa gần sanh ra mà thuần thục còn xa, cho nên người sơ phát tâm Đại thừa giữa đường lui sụt. Hàng Tiểu tánh thừa gần thuần thục mà còn xa lại sanh tánh Đại, nên giữa đường phát tâm Tiểu thừa mà chứng tiểu quả. Đầu tiên dạy ý Đại thừa để chứng nhân thật người giữa đường cầu chứng tiểu quả thì vì khiến bỏ dần phương tiện. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến đã đắc diệt độ.” Tán: Lại khiến y theo trước kia mà giữ thật. Đây chia hai: Phát khởi ý thật. Vì tu quyền mà quên thật. Làm cho nhớ lại bổn tâm. Nói Pháp Hoa nhắc lại căn bổn. “Ta xưa dạy ông chí nguyện Phật đạo”, là nêu ra ý thật. “Nay ông đều quên mà cho là đã được diệt độ.” Vì tu quyền mà quên thật chưa chứng quả Thanh văn trước, chưa đắc trí vô lậu túc mạng. Tuy trải qua sáu mươi kiếp luyện căn đắc trí vô lậu túc mạng của Thanh văn, biết đã gần đạo. Xưa từng tu Đại thừa nhưng nay ông đều quên, nên cho sở đắc là thật diệt độ, mà không chịu tiến tu”. Trong phần chỉnh ở quyển trước có nói: Đời đời đã từng thọ hóa với Phật. Nay nói quên, trong đây có bốn lời giải: Là tự nhớ theo Phật tu Tiểu thừa, còn Phật nói Đại thừa thì đều quên mất. Phật đầu tiên dạy Đại thừa, nay đều quên mất. Tự nhớ giữa đường được giáo hóa học theo Tiểu thừa. Ngài Thu Tử nhớ mà người khác không nhớ. Nay nhờ Thu tử nhớ để nói với người khác, nên nói đều quên. Trước nói Phật che chở cho nên nhớ. Nay bàn về tự tâm mình nên quên, cũng không trái nhau. Kinh “Ta nay lại muốn cho đến Phật hộ niệm.” Tán: Khiến nhớ lại bổn tâm mà Phật nói kinh Pháp Hoa đễ phục hồi bổn nguyện của chúng. Đầu tiên hóa độ tiểu căn hướng đại gọi là vì Thanh văn mà nói kinh Đại thừa Diệu pháp liên hoa. Sau khi đã hồi tâm thì gọi là giáo pháp Bồ-tát Phật sở hộ niệm. Cho nên biết Diệu pháp liên hoa ngoài ra cũng gọi là tên khác Vô lượng nghóa, nhưng công năng thể tánh có khác, đối cơ hiển lý có khác, nên chia làm hai kinh đó thôi, như trong quyển đầu có nói. Kinh: “Xá-lợi-phất… đạo sở hành.” Tán: Là đoạn thứ tư trong châu thứ nhất Phật vì thọ ký Thu tư. Đây có hai: Thọ ký. Trời người cúng dường khen ngợi hồi hướng. Thọ ký có hai phần: Nói việc thọ ký. Một hàng tụng kết lại khiến cho đại chúng vui mừng. Văn đầu lại có hai: Thọ ký nhân . Thọ ký quả . Trong phần đầu lại có bốn: Thời gian trải qua vô biên kiếp. Ngoài gặp duyên lành, gặp được biết bao vị Phật. Phụng trì chánh pháp. Hành đầy đủ lợi sanh. Phải nhân hành mãn quả mới viên thành. Chưa nhập vào thập tín còn cách hai muôn kiếp. Huống chi khi mới khởi tâm thì thời gian rất xa. Thế nên ở phần một này trước nói về nhiều kiếp mới được gặp Phật, mới thể nhập vào đại kiếp tu trì chánh pháp. Kinh: “Sẽ được thành Phật cho đến Phật Thế tôn”. Tán: Nói về quả ký. Có hai: Văn xuôi. Kệ Tụng. Văn xuôi có sáu: Đức bên trong tròn đầy thành tựu. Cõi nước bên ngoài trang nghiêm. Nói pháp đồng như ngày nay. Kiếp tên Dị tức. Phụ giúp hơn kém. Pháp trụ lâu mau. Mắt thấy trời mưa hoa, Phật phát ra ánh sáng. Tai nghe kinh Pháp Hoa ánh sáng trí. Lại bên ngoài thì lãnh hội bí pháp, bên trong phát ra trí quang, do hai nghóa này mà gọi là Hoa Quang. Hễ ghi nhận Phật danh lý không y cứ một. Lại như Phật Thích-ca, Di-lặc do thấy Phật kia mà cho là tên. Thu Tử đầu tiên mượn sự thấy nghe mà đặt tên. Trong Luận Trí độ chép: Ba trăm Tỳ-kheo cởi y dâng lên Phật, đưa tay ra làm tướng, nên được ghi là Đại tướng Như Lai. Lại có ngàn vị Thiên tử thấy cõi nước Phật trang nghiêm vương. Lại trong phẩm Thiệt tướng kia có mười muôn ức người thấy mười phương Bồ-tát đến dâng hoa cúng dường, phát tâm mà được Phật thọ ký là Phật Giác Hoa. Kiếp tên là Hoa Tích. Các thứ như vậy không thể y cứ một. Hoặc đây do lúc đầu gặp Phật, sau khi gặp duyên này phù hợp với bổn nguyện. Thọ ký lược chia làm sáu môn : Lý do thọ ký. Ai có thể thọ ký(năng thọ kí). Ai được thọ ký. (sở thọ kí) Thọ ký khác nhau. Giải thích chướng ngại. Thanh văn dị loại. Lý do thọ ký lược có năm nghóa: Luận chép: Vì sanh tâm Thanh văn chắc chắn, nên chẳng thành tựu pháp tánh, chẳng phải đã chứng đắc nhị không pháp tánh, mà vì thọ ký, khiến sanh tâm chắc chắn hướng về Đại thừa nên Phật vì thọ kí. Luận chép: Hiển bày tánh pháp thân bình đẳng của Phật; hữu vi có khác nên nói Ba thừa. Chân lý đã đồng thì pháp thân không khác. Trừ tâm Bồ-tát lâu nay đã nghi Thanh văn không được thọ kí thành Phật, nay nghe thọ ký nên nghi lâu kia cũng hết. Ưa thích thành Phật, vì thấy việc thọ ký này, vui vì từ nay sẽ hành trì nhân thành Phật. Là lí do nói Nhất thừa, mười nghóa tức là lý do thọ ký ở đây. Nói về năng thọ ký, trong đây có ba ý: Là nói sở y. Là thể thọ ký. Là dụng thọ kí. Sở y là nói người có thể thọ ký, tức là Phật. trong kinh có sáu chỗ thọ kí, thì năm là Phật thọ kí và một là Bồ tát thọ ký (Phẩm Thường bất khinh) Như Lai năm chỗ thọ ký là: Biệt ký. Đồng ký. Hậu ký. Vô oán ký và Thông hành ký. Bồ-tát ký gọi là thọ ký nhân đầy đủ. Như trong phẩm Thường bất khinh nói về lễ bái khen ngợi bạch: Ta không khinh các thầy, các thầy đều sẽ thành Phật, tức chỉ rõ tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Thọ ký danh hiệu Phật vị lai chỉ có Phật, chư Thánh không thể biết được tên danh hiệu cõi nước của chư Phật vị lai. Người dưới không thể biết việc người trên. Nếu biết hết thì Bồ-tát cũng thọ ký được, vì cũng đầy đủ nhân Phật tánh. Kinh này đã như vậy, việc thọ ký trong các bộ kinh khác cũng không qua hai bậc này. Thể thọ ký là hậu đắc trí, thế tục trí. Dụng thọ kí là ngôn giáo, chỉ có tha thọ dụng biến hóa thân. Trong năm uẩn thì tùy theo thích ứng mà làm thể, Thập địa Bồ-tát, Ba thừa đều khác nhau. Nói về sở thọ ký có hai: Sở y. Thể tánh. Sở y tức là người được thọ ký. Luận nói có sáu nơi nói lên. Là biệt ký cho bốn vị đại Thanh văn các ngài Xá-lợi-phất, Ca- diếp mọi người đều biết, danh hiệu khác nhau nên thọ ký cho riêng. Đồng thọ ký cho các ngài Phú-lâu-na cùng năm trăm vị, một ngàn hai trăm vị v.v… cùng một danh hiệu, cùng thời thọ ký. Hậu ký: Học vô học v.v… cùng đồng một hiệu. Tuy cũng hạ căn nhưng chúng không biết, nên thọ ký cho. Vô oán ký: Thọ ký cho Bồ-đề Đạt-đa, nói về là Như Lai không có kẻ thù. Thông hành ký: Cùng Tỳ-kheo ni và thiên nữ đều được thọ ký. Nói về ra thân người nữ, tại gia, xuất gia tu Bồ-tát hạnh, đều chứng quả Phật. Đầy đủ nhân ký: Nói lên chúng sanh đều có Phật tánh. Sáu pháp thọ ký này, thì Biệt ký ở trong phẩm Thí dụ và phẩm Thọ ký. Đồng ký ở trong phẩm Ngũ bá đệ tử thọ ký. Hậu ký thì ở trong phẩm Thọ học vô học nhân ký. Vô oán ký trong phẩm Đề-bà-đạt-đa. Thông hành ký trong phẩm Pháp sư và phẩm Trì. Đầy đủ nhân ký thì trong phẩm Thường bất khinh. Theo lý mà suy ra thì dị sanh chưa có phát tâm và sau khi phát tâm, Nhị thừa bất định tánh, cùng các Bồ-tát bốn thứ người này đều gọi là sở thọ ký. Một hội Pháp Hoa là hóa độ xả quyền mà thành tựu thực, không vì Thập địa Bồ-tát mà thọ ký. Luận về việc xưa, có người chưa phát tâm trước được thọ ký đầy đủ nhân riêng chỉ có phàm phu phát tâm rồi tâm, sau đó chỉ nghe Pháp Hoa thì không có một ai mà không thành Phật, và thọ ký cho Nhị thừa bất định tánh cũng không khác. Nhân thể tức là gốc lành vô lậu có cả hiện và chủng. Từ nhân được quả thể có cả năm uẩn, phần nhiều là hóa thân và tha thọ dụng thân, tức là hiển bày từ bi cho nên tạo ra đức tánh cao, có khác nhau nên có hóa chúng, các sự ký biệt bên dưới sẽ nói lên đầy đủ. Thọ ký khác nhau là: Kinh Thủ lăng nghiêm Phật bảo Kiên Ý Bồ-tát. Thọ ký gồm có bốn thứ: Có người chưa phát tâm mà thọ ký cho. Có người vừa phát tâm liền thọ ký. Có mật thọ ký. Có đắc vô sanh pháp nhẫn mà hiện tiền thọ ký. Bôn loại này, chỉ có Như Lai có thể biết. Trong kinh Bảo vân cũng nói như thế. Kinh Du-già quyển bốn mươi sáu nói lược do sáu tướng mong cầu các Như Lai đối với quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thọ ký riêng. Sáu tướng là: An trụ chủng tánh cho người chưa phát tâm. Ngôi vị đã phát tâm. Vị hiện tiền. Vị không hiện tiền. Bốn tướng này đồng như trong kinh Lăng nghiêm. Mật ký kia tức đây là ở mật xứ không hiện tiền. Hoặc đắc vô sanh pháp nhẫn kia là hiện tiền đây. Người chưa đắc là không hiện tiền. Hoặc thân chỗ ngồi gọi là hiện tiền, thân không ở chỗ ngồi là không hiện tiền. Trong phần đồng ký ở quyển thứ tư dưới có người không có trong hội này. Phật sai truyền ký: Có định thời hạn nghóa là những người trong hội lúc này sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề. Không định thời hạn là không giảng nói thời hạn chắc chắn mà thọ ký. Nay ngài Xá-lợi-phất ở trong các tướng hai, ba, và sáu. Đã phát đại tâm, hiện trụ trước Phật không nhất định thời hạn. Kinh Niết-bàn chép: Tu-đà-hoàn thì tám muôn kiếp mới đến thành Phật. Cho đến A-la-hán hai muôn kiếp. Bích-chi-phật một muôn. Nói đến (đáo) là đến quả vị Chánh đẳng Chánh giác. Nên biết kinh này nói kiếp là đến sơ tâm thập tín, mới vào sơ kiếp. Bồ-tát Địa chép: Lần hồi tu hành không bằng sơ tâm tu hạnh Bồ-tát, đắm trong vị vắng lặng thật là sâu nặng. Do đây nên nói quá vô lượng kiếp mới cúng dường biết bao ngàn muôn ức Phật hành Bồ-tát đạo. Có ba chắc chắn: Chủng tánh định: Gặp duyên liền có thể chứng Chánh giác. Phát tâm định: Phát đại tâm rồi thì không lui sụt. Bất hư hành định: Đắc tự tại rồi, làm lợi ích chúng hữu tình, quyết không luống qua. Đầu tiên ở Địa tiền, phát tâm Bồ-đề trong năm thứ Bồ-đề. Kế đến là sơ địa chứng phát tâm. Cuối cùng là ở Bát địa. Nay y theo chủng tánh đầu nên thọ ký cho . Giải thích các chướng nạn là: Luận nói Thanh văn kia là thật thành Phật, cho nên thọ ký riêng. Vì không thành Phật mà cùng thọ ký. Nếu thật thành Phật thì vì sao Bồ-tát ở trong vô lượng kiếp tu tập vô lượng công đức. Nếu không thành Phật thì sao lại thọ ký luống dối. Ý này muốn hỏi. Nếu Thanh văn chỉ trụ vào trăm kiếp luyện căn tu hạnh Thanh văn, thì thật được thành Phật và được thọ ký. Bồ-tát vì sao ở trong vô lượng kiếp, tu tập vô lượng công đức mới thành Bồ-đề Phật. Tu một ít nhân đã có thể thành Phật đó, nếu Thanh văn tu ít nhân mà không thành Phật, thì sao nay phải thọ ký luống dối? Luận tự đáp: Người Thanh văn được thọ ký đó là đắc tâm chắc chắn chẳng phải thành tựu pháp tánh. Ý này nói là: Nay Thanh văn đắc tâm chắc chắn thành Phật, tiến tu diệu hạnh, chẳng phải đã chứng hội nhập, thành tựu chân lý pháp tánh nhị không mà thọ ký cho. Luận lại giải thích: Như Lai y theo Ba thừa bình đẳng mà nói pháp Nhất thừa. Vì pháp thân Như Lai và pháp thân Thanh văn kia không khác. Cho thọ ký chẳng phải là có đầy đủ công đức tu hành, cho nên thọ ký cho. Thập địa Bồ-tát thành tựu pháp cho nên công đức đầy đủ, các Thanh văn thì công đức chưa đầy đủ. Vì thế, Bồ-tát tu vô lượng kiếp mới đắc Bồ-đề. Thanh văn chưa tu vô lượng công đức, chỉ khiến được tâm chắc chắn thành Phật, nên thọ ký cho. Hỏi: Thanh văn vô học thì vónh viễn đoạn hậu hữu. Vì sao lại thọ ký trải qua ba đại kiếp sẽ được Bồ-đề? Đáp: Trong luận Hiển dương chép: Y theo thân biến hóa chẳng phải là thân nghiệp qủa, nên không trái lý. Thành Duy thức chép: là tên khác của sanh tử biến dịch . Ý này nói: Trước chưa phát tâm thì thân hiện có hạn. Do sau khi thọ ký phát đại thệ nguyện cầu đại Bồ-đề sau đó độ chúng hữu tình, bèn nhập vào bờ mé vô lậu thắng định, nhờ việc làm xưa mà cảm thân nghiệp nay, khiến cho nhiều đời cho quả không dứt. Từ quả này trợ giúp nghiệp, lại do vô lậu trợ giúp, lần lần chuyển từ dị thục thô cũ thành mầu nhiệm. Về sau, sự nhỏ nhiệm càng rộng lớn, thù diệu khác với xưa cũng như là biến hóa. Do biến dịch này khác với lúc trước nên gọi là sanh tử biến dịch , thường giúp sức thêm lớn cho đến thành Phật. Bởi vì, phần đoạn sanh tử kia tuy đã đoạn vónh viễn, như nói đã qua ba trăm do-tuần rồi hóa làm một thành mà biến dịch chưa hết, nên lại nói còn hai trăm do- tuần nữa mới đến Đảo châu báu. Phần đoạn sanh tử tuy đã đoạn tận, nhưng thọ biến dịch sanh tử cho đến thành Phật. Thanh văn hướng về tịch diệt thì không có việc này. Cho nên trong kinh Thắng-man chép: Vô minh trụ địa là duyên, nghiệp vô lậu là nhân. Có A-la-hán, Bích-chi- phật, Bồ-tát Đại lực ba thứ ý sanh thân. Điều này có nói đầy đủ trong các chương của Du-già Phật địa và Duy thức. Thanh văn loại khác: Luận nói Thanh văn có bốn: Chắc chắn. Tăng thượng mạn. Lui sụt tâm Bồ-đề. Ứng hóa. Như Lai thọ ký cho hai hạng người là ứng hóa và người lui sụt tâm Bồ-đề. Trừ người chắc chắn và tăng thượng mạn vì căn chưa thuần thục nên Như Lai không thọ ký. Bồ-tát thọ ký cho đó là phương tiện khiến cho phát tâm, như Thường bất khinh thọ ký. Đây nói chưa thuần thục đó là hạng tăng thượng mạn có thể được. Hạng người hướng về tịch diệt cuối cùng không thuần thục sao nói là chưa? Vì chưa có nghóa là không. Theo lý chính xác nên nói người hướng về vắng lặng không mê mờ pháp, mà tín căn chưa thuần thục nên Phật không thọ ký, không thọ ký rõ ràng đời sau thành Phật. Bồ-tát thọ ký cho là bao gồm biệt ký có lý Phật tánh, phương tiện để họ phát tâm tin Đại thừa. Người tăng thượng mạn tin hướng đến màcăn chưa thuần thục. Phật cũng không thọ kí rõ ràng riêng việc thành Phật ở đương lai. Bồ-tát cũng vì bao gồm biệt ký, phương tiện để họ phát tâm tin hướng. Nay hợp lại thành văn nói: Căn chưa thuần thục, không phải người hướng cầu vắng lặng tương lai cũng được thành Phật. Luận Trang Nghiêm chép: Gốc lành của người khác, khi Niết-bàn hết, còn gốc lành của Bồ-tát không như vậy. Trong kinh Niết-bàn chép: người Tu-đà-hoàn cho đến đều được thành Phật gọi là không giải được ý ta. Cho nên biết người hướng tịch thì nhất định không thành Phật. Hạng ứng hóa Thanh văn có người nói như ngài Xá-lợi-phất. Bốn đại Thanh văn là hạng thượng căn, năm trăm đệ tử là trung căn, người học vô học là hạ căn. Nay giải thích không như. Đầu kinh Hoa nghiêm nói ngài Xá-lợi-phất là ứng hóa. Sau ở phẩm Nhập pháp giới, Ngài Xá-lợi-phất dẫn sáu ngàn đệ tử từ trong phòng đi ra, Văn-thù-sư-lợi nói cho họ nghe mười pháp, bèn phát tâm Bồ-đề. Tức trong đây được thọ ký thì chẳng phải là ứng hóa. Một mình Ngài Xá-lợi-phất là Thanh văn thượng căn . Bốn đại Thanh văn là trung căn, năm trăm đệ tử là hạ căn. Xét theo kinh dưới nói Phú-lâu-na là người ứng hóa trong hội Pháp Hoa này, Như trong mười nghóa Nhất thừa của nghiệp luận giải thích ứng hóa, cũng đồng như kinh Lăng-già. Thanh văn nhiều kiếp nhập Niết- bàn uống rượu Tam muội say sưa nằm ngủ, sau từ định tỉnh dậy phát tâm hướng về đại. Đó chính là chư Phật Bồ-tát hóa thành để dẫn dắt chúng sanh khác. Kinh: Nước tên Ly-cấu cho đến trời người rất đông.” Tán: Phần hai nói bên ngoài cõi nước trang nghiêm, hóa thành cõi tịnh. Văn có mười nghóa. Trong đây có năm: Nước tên Ly-cấu là cõi thuần thiện, không chiêu cảm sáu cấu. Người ở cõi nước đó tâm bình đẳng, lìa hết cao mạn. Đối với hai thứ hơn kém không sợ hãi không khinh thường, lìa tâm siểm mạn. Tịnh uế: Cõi này vì tâm chúng sanh tô điểm thanh tịnh nên cõi Phật tịnh. Là nơi an lành yên ổn, đầy vui sướng không có nạn sát đạo, các việc binh đao, bệnh tật, đánh mắng, đói khát… Trời người thiện ác lừng lẫy: Do bên ngoài không có bạn ác tri thức, phiền não phân biệt tất cả , không hiện hành nên không có đường ác, nên trời người rất đông. Kinh: “Đất bằng Lưu lý cho đến thường có hoa quả.” Tán: Văn này có năm: Là lưu ly tô điểm làm đất, tâm không lầm lỗi. Mặt đất có tám giao lộ: Tu bát trai giới và bát Thánh đạo. Đông Tây có bốn, Nam Bắc có bốn nên gọi là tám đường giao thông. Hoặc Đông Tây có tám, Nam Bắc cũng tám. Từ một phương mà đặt tên, hoặc con đường của tám phương nên nói tám đường giao thông . Đường trang nghiêm bằng dây vàng là đạo hạnh sở cảm của bốn tổng trì. Rừng cây bảy báu thành hàng, là tu bảy thánh tài trì bảy chi giới. Thường có hoa quả, thường tu bảy giác, tám giải thoát, Nhân đó mà thêm lớn. Kinh: “Hoa Quang Như Lai cho đến giáo hóa chúng sanh.” Tán: Phần ba nói pháp đồng, nay có hai: Là nói đồng với nay. Giải thích vì sao? Ở đây nói phần một. Vì đồng với nay cho nên gọi là “cũng dùng, tuy chẳng phải đời ác, cũng chẳng phải cõi uế đã nói thanh tịnh tức rõ là hóa cõi tịnh. Nói thanh tịnh là nói hóa Tịnh độ. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến nói pháp Ba thừa” Tán: Đây giải thích lý do. Y cứ vào thật pháp thì Phật Thích-ca cũng do bổn nguyện. Nay ẩn nguyện lực, chỉ xuất hiện ra đời ác. Muốn nói chư Phật hành lợi bất đồng. Ta ra đời ác vì muốn giáo hóa chúng sanh, đầu tiên thì dùng phương tiện, sau dùng chân thật, cho nên lấy Ba thừa. Hoa Quang Như Lai nguyện ý đều giúp khắp. Cho nên chỉ xưng bổn nguyện như thế. Muốn chúng sanh biết ở thời Đức Phật kia, không có chúng sanh tội ác phát nguyện sanh về đó. Thuận theo bổn nguyện tập điều phục Nhị thừa nên nói pháp Ba thừa chẳng phải hóa độ chúng sanh ác, đầu tiên quyền biến sau nói thật. Kinh: “Kiếp ấy gọi là cho đến là Đại bảo”. Tán: Phần thứ tư nói, tên kiếp có khác nhau. đầu tiên là nêu, sau giải thích. Kinh “Các Bồ-tát kia cho đến không thể biết.” Tán: Thứ năm là phụ giúp hơn kém. Có hai: Giải thích riêng về đức. Tổng kết. Trong văn đầu có mười. Đây có một đức là cácThánh khó lường như gỗ chiên-đàn, vườn chiên-đàn. Kinh: “Nếu lúc muốn đi cho đến đều đã trồng cội đức từ lâu “. Tán: Đây có hai đức: Một là điềm lành thích ứng đầy đủ, có chín hoa thanh tịnh thường nâng đỡ tâm. Luận Hiển dương quyển ba chép: Chín thứ thanh tịnh: Giới tịnh. Tâm tịnh. Kiến tịnh. Độ nghi tịnh. Đạo phi đạo trí kiến tịnh. Hành tri kiến tịnh. Hành đoạn tri kiến tịnh. Vô duyên vắng lặng tịnh. Cõi nước tịnh. Bảy tịnh trước tức là bảy tịnh hoa, như đã nói. Ba là Diệu nhân gieo trồng rất lâu chẳng phải mới phát tâm, mà gốc lành thuần thục. Kinh: “Trong vô lượng trăm ngàn cho đến chỗ xưng tán.” Tán: Đây có hai đức. Bốn là xưa gặp thiện duyên mà phát đại nguyện. Năm là danh tiếng bay xa mọi người đều biết. Kinh: “Thường tu Phật tuệ cho đến các pháp môn.” Tán: Ở đây có ba đức. Sáu là thường cầu Phật trí, mong cầu đại giác. Bảy là ngoại hóa lâu xa thành tựu, đầy đủ đức từ bi. Tám là bên trong quán xét đầy đủ việc này không có mê lầm, là môn giáo của pháp nghóa , hoặc môn nghóa pháp giáo, hai cách giải thích này đều được. Kinh: “Ngay thẳng không tà ngụy, chí niệm vững chắc.” Tán: Ở đây có hai đức. Một là tánh thuần thục không kiêu ngạo, không lừa dối. Hai là tâm siêng năng không thối hạnh vị cao. Tâm ngay thẳng là đạo tràng, chỗ chất trực phiền não không làm xao động nên chí niệm vững chắc. Kinh: “Bồ-tát như thế đầy đủ trong nước đó”. Tán: Ở đây là tổng kết giải thích . Kinh: “Xá-lợi-phất… thọ tám tiểu kiếp”. Tán: Thứ sáu là pháp trụ lâu mau. Có bốn: Tuổi thọ của Phật. Tuổi thọ chúng sanh. Trao cho Phật đương lai thọ ký. Thọ ký tượng pháp chánh pháp. Ở đây nói hai phần đầu . Chúng sanh của Phật Thích-ca bạc phước ít tuệ, tuổi thọ Phật ngắn chúng sanh tuổi thọ dài. lưu lại phần thứ năm cho đệ tử vị lai chúng sanh được Đức Hoa Quang Như Lai hóa độ, chúng sanh phước tuệ tự tu không nhờ Phật cho, nên Phật tuổi thọ dài, chúng sanh lại ngắn. Lại chúng sanh của đức Thích Ca phước mỏng không cảm được Phật nên tuổi thọ Phật ngắn, chúng sanh của Hoa Quang nhiều phước có cảm ứng nên Phật tuổi thọ dài cảm với Phật hóa. Kinh: “Hoa Quang Như Lai cho đến thọ ký Tam Bồ-đề.” Tán: Phần thứ ba trao cho Phật đương lai thọ ký: Ký thời. Chánh ký. Cõi nước. Đây nói phần một. Quá mười hai kiếp đó là tuổi thọ Phật đầy đủ kiếp mới được thọ ký, tinh tấn thành tựu gọi là Kiên mãn. Kinh: “Bảo các Tỳ-kheo cho đến Tam-miệu Tam Phật-đà. Tán: Đây chánh nói về thọ ký. Hoa túc là hoa báu nâng chân. Do nghe Pháp Hoa làm nhân thành tựu quả Phật tròn đầy, nên gọi là Hoa túc. Do nghe Pháp Hoa thực hành hạnh an lạc nên gọi là An hạnh. Có nói nói an nhiên từ từ mà đi gọi là an hạnh. Đây không khéo giải thích, có Phật nào mà sợ hãi, lúng túng bước đi. Đây là Đa-đà A-già-độ Như Lai, La-a-la-ha là ưng, là Tam-miệu Tam Phật-đà là Chánh đẳng giác. Kinh tên dịch gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Xưa dịch là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Kinh: “Cõi nước Phật đó cũng giống như vậy.” Tán: Đây nói về cõi nước. Cũng như cõi nước của Hoa Quang, do thành hành Pháp Hoa mà chiêu cảm được. Kinh:”Xá-lợi-phất… ba mươi hai tiểu kiếp.” Tán: Phần thứ tư thọ ký thời chánh pháp tượng pháp, như thời chánh pháp của Phật gồm có ba: Giáo, hạnh, chứng cả ba đều có đầy đủ. Thời tượng pháp chỉ có giáo, hạnh mà không chứng quả. Còn đời mạt pháp, chỉ có giáo mà hạnh, chứng đều không, việc thọ giáo, hành, hạnh, chứng quả đều khác nhau, cho nên chánh pháp của Phật Thích-ca ngắn mà tượng pháp thì dài. Nếu không độ cho người nữ, chánh pháp tượng pháp đều một ngàn năm. Do độ cho người nữ mà chánh pháp giảm phân nửa. Nay cõi Hoa quang chánh pháp tượng pháp đều bằng. Tuy có Ba thừa phần nhiều là Bồ-tát mà gọi là Đại Bảo. Tuy có bốn chúng, người nữ trì giới nên chánh pháp không bớt. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến sẽ độ vô lượng chúng”. Tán: Trở xuống mười một hàng rưỡi tụng, chia làm hai: Mười hàng rưỡi tụng phần thọ ký trước. Một hàng sau là phần thứ hai trong thọ ký, nên tổng kết khiến vui mừng. Nhân thọ ký trước có bốn, quả ký có sáu. Nay chia chung làm ba: Một hàng đầu tụng phần quả ký nên nội đức trang nghiêm. Một hàng kế tụng về nhân ký. Tám hàng rưỡi tụng bốn nghóa quả ký. đạo.” Phổ trí là Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí, đầy đủ cả hai. Kinh: “Cúng dường vô lượng Phật cho đến Chứng quả Vô thượng Tán: Đây tụng nhân ký. Có hai: Gặp duyên lành. Đầy đủ đạo Bồ-tát. Chấp cũng có thời. Quá vô lượng kiếp, nhập vào trong hàng tụng sau đây chỉ có hai. Kinh: “Quá vô lượng kiếp rồi cho đến Thường có hoa quả hạt.” Tán: Tụng về quả ký. Bốn nghóa chia làm bốn. Nửa hàng tụng tên kiếp là Tức Dị. Một hàng rưỡi tụng cõi ngoài Trang Nghiêm. Hai hàng tụng đầu phụ giúp hơn kém. Bốn hàng rưỡi tụng tuổi thọ Phật dài ngắn. Không tụng nói pháp đồng như nay. Đây nói hai phần đầu. Cõi ngoại trang nghiêm có sáu: Danh; Tịnh; Địa; Giới; Cây; Hoa quả. Không tụng bốn thứ còn lại. Kinh: Các Bồ-tát nước kia cho đến Phật Hoa Quang hóa độ”. Tán: Đây là phần phụ giúp hơn kém. Có bốn: Bất thoái. Ngoại hóa. Gặp bạn lành. Gieo trồng nhân mầu. Không tụng sáu phần còn lại. Kinh: “Phật lúc làm vương tử cho đến Tuổi thọ tám tiểu kiếp.” Tán: Bốn hàng rưỡi tụng Phật tuổi thọ dài ngắn có bốn: Một hàng rưỡi tụng tuổi thọ của Phật. Nửa hàng tụng tuổi thọ của người. Một hàng rưỡi tụng thời gian chánh pháp tượng pháp, giống nhau. Tụng Xá- lợi lưu hành, không tụng thọ ký, mà thêm cúng dường xá-lợi. Đây là hai phần đầu. Trong đây nên nói: Thân cuối cùng của Phật làm vương tử, bỏ nước bỏ vinh hoa đi xuất gia tu hành thành đạo. Văn nói ngược là: Trước nói vương tử bỏ nước bỏ vinh hoa, sau mới nói hậu thân tu hành thành Phật đạo. Hoặc ý văn đều nói ở trong vô lượng sanh thân làm vương tử, bỏ nước bỏ vinh hoa, thân cuối cùng mới thành Phật đạo. Kinh: “Sau khi Phật diệt độ cho đến Tượng pháp ba mươi hai.” Tán: Tụng thời gian của chánh pháp tượng pháp. Ngày đêm năm tháng là kiếp. Kinh: “Xá-lợi rộng lưu bố cho đến việc này đều như thế.” Tán: Tụng Xá-lợi lưu hành khắp và tụng kết lại. Kinh: “Lưỡng túc Thế tôn này cho đến Tuyên ưng tự vui mừng.” Tán: Đây là đoạn thứ hai kết hội khiến cho vui mừng. Hóa độ tâm kia chắc chắn khiến cầu quả Phật . Luận loại. Cũng gọi là đủ, phối hợp loại. Nói lưỡng túc là tôn quý, không loại nào không phối hợp. Kinh: “Bấy giờ bốn bộ chúng… đem cúng dường Phật.” Tán: Trong phần thọ ký. Đoạn thứ hai chư thiên cúng dường khen ngợi hồi hướng. Trong đây có hai: Bốn chúng tám bộ cúng dường. Chư thiên cúng dường, khen ngợi. Đoạn đầu tiên biểu nhờ ơn Phật như được y của Phật che chở. Cũng trên là tiêu biểu cho khi thành quả Phật được người nói pháp che chở chúng sanh. Cho nên dùng y cúng dường. Văn dưới nói: Người trì kinh này được Phật dùng y che chở. Kinh: “Thích Đề Hoàn Nhân cho đến cúng dường Phật.” Tán: Chư thiên khen ngợi cúng dường có hai: Trước cúng dường sau khen ngợi. Phần cúng lại có hai: Y cúng dường hoa . Cúng dường Kỹ nhạc . Y hoa cúng có hai: Cúng dường. Linh tướng hiện ra. Đây nói phần cúng dường. Dâng hoa cúng dường là tiêu biểu cho việc nghe Pháp Hoa sẽ thành Phật đạo. Kinh: “Y trời tung lên cho đến mà tự xoay chuyển.” Tán: Đây là linh tướng, trụ trong hư không đó là hiển bày việc nghe Pháp Hoa vượt ngoài bốn loài sanh, tâm diệu lý lắng đọng. Hồi chuyển là trở lại ba cõi vì lòng từ bi thương xót chúng sanh. Kinh: “Các kỷ nhạc trời cho đến các hoa trời tuôn rải như mưa.” Tán: Đây là chư thiên dùng kỹ nhạc cúng dường. Nghe tiếng pháp mà ngộ đạo nên trỗi âm nhạc. Đây tiêu biểu cho việc tu nhân đắc quả mãn, cho nên hoa tuôn rải như mưa. Kinh: “Mà nói rằng cho đến bánh xe pháp lớn nhất.” Tán: Khen ngợi có hai: Văn xuôi. Kệ tụng. Trong đây chỉ nêu lại hai thời pháp luân. Để so sánh đại tiểu, đối với tánh bất định , quyền thật cùng có. Căn cứ vào thật cũng là so sánh với không giáo của Bát-nhã. Đây vì trung đạo gọi là bánh xe pháp lớn nhất. thừa. Kinh: “Bấy giờ các Thiên tử cho đến.. ít có người năng tín.” Tán: Sáu hàng tụng rưỡi chia làm bốn: Hai hàng tụng đầu nêu việc xưa nói Tiểu thừa, nay nói Đại Một hàng rưỡi khen ngợi pháp thắng diệu mà tùy hỷ. Hai hàng tụng là nói người khác rõ tự thành Phật sanh lòng vui mừng. Một hàng hồi hướng. Năm nhóm: Tiếng Phạm là Bát-già-tắc-kiến-đà, dịch là năm ấm. Đầy đủ nghóa mười một loại chứa nhóm gọi là uẩn. Nay gọi là nhóm, nhóm nghóa là tụ. Hoặc gọi là năm ấm, đều sai với chánh văn theo tam khoa thì pháp năm uẩn là để nói về tứ đế. Cho nên biết đầu tiên nêu quyền nay đây hội đủ bỏ quyền thành tựu pháp thật khó giải. Nói: “Ít người tin được.” Vì pháp ấy sâu mầu quyền thật trái nhau theo Đại Bát-nhã nói thì khi Phật nơi xoay bánh xe cả ba thừa đều nhập đạo. Nay căn cứ vào hiển tướng chỉ để độ Thanh Văn. Cho nên, nói năm chúng để nói pháp quyền. Sâu xa là bí tạng Đại thừa sâu mầu. Kinh: “Chúng ta từ xưa nay cho đến đều tùy hỷ.” Tán: Khen ngợi pháp thắng diệu, sanh sau tùy hỷ. Tùy là thuận theo, giáo pháp Phật mà thực hành. Kinh: “Đại trí Xá-lợi-phất cho đến phương tiện tùy nghi nói.” Tán: Nêu người khác, nói tự thành Phật sanh vui Phật thọ ký cho người khác thành Phật, rõ ràng chúng ta cũng được, cho nên biết Phật pháp thật không thể nghó bàn, Phật dùng phương tiện tùy nghi để cho ta hiểu rõ. Kinh: “Ta có được phước đức cho đến đều hồi hướng Phật đạo”. Tán: Hồi hướng Phật đạo, thành tựu pháp cúng dường Ba-la-mật. Tức là phương tiện trí khéo léo. <篇> KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 5 PHẦN CUỐI Kinh: “Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất cho đến Thọ ký Tam Bồ-đề.” Tán: Phần trên là châu thứ nhất pháp nói quyền thật hóa độ người thượng căn xong. Từ đây trở xuống là châu thứ hai dụ nói về quyền thật hóa độ người trung căn. Đại văn chia làm bốn: Phật dùng thí dụ để hóa độ. Trong phẩm Tín hiểu, người trung căn lãnh ngộ. Phẩm Dược thảo dụ, Phật nói lại việc thành tựu. Phẩm Thọ ký là thọ ký cho người. Người thượng căn thông minh không cần trình bày nhiều. Hạ căn ba lần nghe pháp không cần nói rộng, cho nên việc hóa độ người trung văn nghóa đều nhiều. Văn đầu có hai: Ngài Thu Tử thỉnh. Phật nói lợi ích. Ngài Thu Tử tuy hiểu mà nay lại thỉnh cầu nữa, lược có ba lý do: Vì lợi ích đồng loại. Hạnh lợi tha. Thuận theo sự giáo hóa của Phật. Trước: Là pháp nói rồi lại ba lần hết lòng thỉnh. Nay hiểu rồi thì giải thích. Văn Thu Tử thỉnh chia làm ba: Đầu tiên trình bày tự quyết, kế là thuật lại nghi của người, sau đó chánh cầu thỉnh. Kinh: “Là một ngàn hai trăm vị cho đến đều rơi vào nghi hoặc.” Tán: Ở đây thuật lại việc nghi của người khác, vì là dụng vậy. Kiến chấp có, không là biên kiến. Y theo ngã kiến sanh nên chấp lấy tà kiến. Biên kiến tà kiến này nhiếp cả sáu mươi hai, kiến ngoại đạo khởi lên. Nay hiển bày y theo lời nói bỏ tà về chánh. Cho nên nay nói riêng . Lại v.v… là ngoài ba kiến chấp còn các phiền não đều là chỗ phát nghiệp. Phật xưa từng nói: Pháp của ta có thể lìa hiện tiền sở kiến của sanh già bịnh chết mà được rốt ráo Niết-bàn. Do muốn dứt quả thì trước phải dứt nhân. Các ngưới ấy dựa vào lời Phật dạy này mà lìa nhân khổ ngã kiến đã xong, chắc chắn biết khổ đương lai không còn sanh lại, chứng quả Niết-bàn cho là đã được quyết định. Nay lại nghe Phật nói khiến bỏ quyền giữ thật, đều rơi vào nghi hoặc mà khởi lên nghóa nghi. Những vị kia đều không thể biết mình sẽ thành Phật. Không biết sở chứng trước đắc pháp gì? Là pháp rốt ráo hay đạo sở hành; lại vì đã đồng dùng lời Phật nói, đã dứt nhân khổ, thì quả không sanh. Kinh: “Lành thay! Đức Thế tôn cho đến khiến lìa nghi hối.” Tán: Đây chính là phần thỉnh. Nghóa nhân duyên có hai: Lý do. Đạo lý. Nay thỉnh Đức Thế tôn thuật lại lý do này. Kinh: “Bấy giờ Phật bảo cho đến giáo hóa Bồ-tát.” Tán: Phật nói lợi ích, đại văn chia ra làm ba: Tổng lược yếu chỉ. Đáp là lý do hứa nói. Xá-lợi-phất như Quốc thành thôn ấp, trở xuống chánh là nói pháp dụ khiến người khai ngộ. Trong bài kệ sau nói: Phật bảo Xá-lợi- phất: “Các thầy đều là con ta. Ta là cha của các thầy.” Đây là khuyên tin kinh này, vui sẽ đắc trí Phật. Phần đầu lại chia làm hai: Nói Phật đã nói, tóm lược yếu chỉ đáp. Sau lại trình bày lý do hứa nói . Đây là nói phần đầu. Đầu tiên nói phương tiện là tạm quả chân thật. Trước hóa độ Thanh văn là nhân của Bồ-tát. Tức trong phẩm Phương tiện chép: Biết chúng sanh có các thứ ham muốn. Tùy theo bổn tánh của chúng dùng các phương tiện mà vì nói pháp. Như thế đều là đã được Nhất thiết chủng trí của Phật thừa. Tức xưa nói quyền nay nói thật. Lý do là để hóa độ Bồ-tát, do đây mà nói là giải thích lý do, cho nên gọi là tóm lược yếu chỉ mà đáp”. Kinh: “Nhưng Xá-lợi-phất cho đến dùng thí dụ để hiểu.” Tán: Đây là nói lý do hứa nói. Nhiên (nhưng) có nghóa là như thị (như thế). Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến tuổi đã già yếu.” Tán: Đoạn thứ hai chính là nói về pháp dụ khiến cho khai ngộ. Đầu tiên là văn xuôi. Văn xuôi, sau là kệ tụng. Văn xuôi có ba: Trình bày thí dụ. Hợp nói. Kết luận đáp. Vì nhân duyên ấy cho nên biết chư Phật dùng năng lực phương tiện hóa độ . Trong thí dụ có hai: Thí dụ xưa là quyền. Thí dụ pháp thật ngày nay, tức từ câu: Lúc này các người con thưa với cha: “Cha trước có hứa cho cho đến.”. Thí dụ nói pháp quyền có bốn phần: Dục Phật có trong ba cõi. Từ câu “Người trong đó rất đông” trở xuống là thí dụ năm đường nguy ách. Từ câu “Trưởng giả thấy lửa lớn” trở xuống là thí dụ lập quyền phương tiện. Từ câu “Lúc ấy các người con nghe cha nói” trở xuống là thí dụ dựa vào nói lập phương tiện. Phần đầu lại có sáu: Xứ sở Chủ nhà Già yếu Sản nghiệp Tướng nhà Cửa đường. Trong đây lại có ba: Xóm ấp, xóm làng, tức là xứ sở. Đã nói ba thừa, nên biết là hóa Phật. Hóa Phật chỉ là vua của cõi nước tam thiên. Nước lớn mà rộng là dụ cho cõi Đại thiên. Ấp rộng vừa là kế dụ cho thế giới trung thiên. Xóm làng rất nhỏ là dụ tiểu thiên thế giới. Từ đại trung tiểu thứ lớp mà dụ như thế. Trong Quảng Nhã nói: Xóm làng là nơi ở, là đông người nhóm hợp lại ở. Lại cũng có nghóa là đình là viện. Có đại trưởng giả đó là chủ nhà. Trong dụ dưới nói trừ các sự hỏi đáp thì có tám trưởng giả. Năm dụ đầu là hóa thân ra các con ở trong nhà, ba dụ sau là hóa thân và thân tha thọ dụng . Các con trong Ba thừa cùng ra khỏi nhà lửa. Dụ hỏi đáp ở dưới có năm trưởng giả đều hợp dụ hóa thân và thân tha thọ dụng . Như Trưởng giả ở thế gian có ba thứ: Có thể bẩm thừa trưởng giả các việc bình quân. Biết rõ các pháp khéo dứt thị phi dụ cho. Phật từ bi, và trí tuệ đều tròn đẹp mà giải quyết lưới nghi. Là bậc trưởng giả lớn tuổi đáng kính. Ở trong thành ấp tôn uy chẳng ai sánh bằng; dụ cho Phật đạo cao hơn các Thánh thần thông không ai bì kịp. Là bậc Trưởng giả có thể gần gũi, nhờ giúp, tức giúp cho mình đầy đủ tùy sức cần dùng. Đây dụ cho phước trí của Phật đều đầy đủ lợi lạc bình đẳng. Trí đức, đoạn đức, ân đức thí dụ đều như thứ lớp. Nói tuổi già suy đây là già yếu. Suy còn là già suy. Chữ Mại là từ lâu xa trở về dụ cho Phật từ lâu tu trí kiến quả Thánh tròn đầy thuần thục. Thành đạo từ lâu xa mới trở về nhập Niết-bàn. Chẳng phải nói nay sanh tức nói chung các vị trước. Kinh: “Của giàu vô lượng cho đến chỉ có một cửa.” Tán: Đây nói ba phần: Sản nghiệp, tướng nhà, và cửa đường. Nêu sản nghiệp có bốn ý: Dụ giàu có của cải: Bảy tài đầy đủ. Dụ ruộng là hai thứ trí và đoạn là nơi sanh ra công đức. Nhà dụ cho bổn thức dị thục của các chúng sanh. Cho nên bổn thức cũng là trạch thức. Như vua có bốn biển là nhà, quang trạch khắp thiên hạ. Phật cũng như thế. Lấy tất cả chúng sanh làm nhà của mình. Thể tức là bổn thức, cho nên trong kinh Vô Cấu Xứng chép: Các cõi nước hữu tình là cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm của Bồ-tát. Chúng sanh vô lượng nên nói có nhiều. Trong phần tụng nói: Chỉ có một người. Cho nên nói là có một nhà lớn. Hoặc như một với sáu hợp lại mà quang trạch. Do đó đây gọi là nhiều. Dưới nói có một, cũng như nói thấy bình đẳng chúng sanh như là một người con. Hoặc đây y cứ sự khác nhau của chúng sanh, nên nói là có nhiều. Dưới nương theo Phật làm chủ, cho nên nói có một, sự thật thì nhà này một nhiều không khác. Do lấy dị thục thức làm nhà, nên nhà này xà cột đều gãy mục tai họa sẽ xảy ra. Nếu nói thiền định là nhà, thì sao có tai họa, nói mục, cũ, nát cho đến nên nghóa nhà này có khác nhau. “Tôi tớ v.v…” Trong phần hợp nói ở dưới dụ cho thần thông của Phật, tùy ý tự tại. Lại dụ Phật nói về khởi ra phiền não, phẩm Bồ-đề phần kinh Vô Cấu Xứng, chép: Phiền não là kẻ tôi tớ, thấp hèn tùy ý mà chuyển. Như Lai có thể lấy phiền não làm tôi tớ, rất khinh nhà cửa, dứt hết vinh hoa, cũng dùng làm tôi tớ nên tùy ý chuyển. Ái ngữ với La-hầu-la mắng Điều-đạt, vì lợi lạc chúng sanh. Văn dưới lấy trí tuệ thần thông làm lực tay và chân của Phật, cho nên nay nói tôi tớ chẳng phải nhất định là thần thông. Trong nói văn nói người nam có tội làm tôi tớ thì gọi là đồng. Nữ só theo người xuất giá thì gọi là bộc. Lại nói cấp sử là người phục dịch. Tướng nhà đó rộng lớn: Bổn thức là nhà. Y theo phần hợp nói dưới nói thì chu vi là cả ba cõi, hoặc vô thỉ hữu, hoặc bap gồm tất cả hạt giống chuyển biến làm ba cõi. Thể chung cả hai sanh tử, nên nói là rộng lớn, tên khác thể đồng. Chỉ có một cửa: Cửa là nhân để ra khỏi nhà. Trong phần văn xuôi này đối với dụ và hợp gồm có năm cửa: Một là đây nói chỉ có một cửa; hai là cửa bị đốt cháy; ba là cửa nhỏ hẹp; bốn là nay đang ở ngoài cửa; năm là dùng cửa Phật giáo để ra khỏi nhà ba cõi khổ. Bốn cửa đầu ở trong dụ. Một cửa sau ở trong hợp. Cửa có hai thứ Cửa chánh lớn chính giữa chỉ có Nhất thừa giáo hạnh. Cửa bên cạnh nhỏ hẹp là chỉ có Nhị thừa giáo hạnh. Ba cửa đầu là nói cửa chánh lớn chính giữa, thể tức là giáo hạnh của Nhất thừa, hai cửa sau lớn, nhỏ ở bên, gọi là cửa. Thể tức là giáo hạnh của Ba thừa. Có thể đưa người ra khỏi nhà biến dịch ba cõi. Cho nên ở cửa đầu gọi là một, không gọi là ba. Hai là Phật từ cửa thiêu đốt an ổn bước ra, mà không ra từ cửa Nhị thừa giáo hạnh. Ba là cửa nhỏ hẹp không dung chứa Nhị thừa. Cho nên biết ba cửa đầu chỉ là Nhất thừa giáo hạnh. Bốn là cả ba xe đều ở ngoài cửa, há Nhị thừa cũng ra bên ngoài của giáo hạnh Nhất thừa. Năm là thấy chúng sanh từ cửa Phật giáo ra khỏi Ba cõi khổ, đắc quả an vui Niết-bàn, cuối cùng đem cho xe lớn. Tức Nhị thừa cũng đã ra khỏi cửa. Từ đây mà biết thì hai cửa sau cũng có cả trung biên, đại tiểu, chánh bên. Tất cả đều gọi là cửa, khác với các nghóa trước khác nhau mà không mâu thuẫn nghóa. Các nghóa cửa đến trong văn, mỗi mỗi sẽ giải thích. Nay nói hai lợi hạnh tròn đầy rộng lớn có thể ra chỗ hai sanh tử. Cho nên cửa gọi là một mà không gọi là hai. Ở đây nói cửa ra khỏi ba cõi chẳng phải là cửa đi vào Tịnh độ. Kia thì dùng đại không, vô tướng vô nguyện, giải thoát làm cửa để vào, chỗ hướng đến có khác. Đây dùng giáo đối với lý, lấy nhân mà đối với quả nên gọi là cửa. Kia dùng trí đối cảnh gọi là cửa. Lại đây, so với ba cõi mà gọi là ra. Nếu so với Tịnh độ thì cũng gọi là nhập, thể là một vậy. Đây nói ra khỏi cửa Ba cõi mà không nói nhập vào cửa Ba cõi. Nhập vào cửa nghiệp và phiền não trong Ba cõi. Tùy đối chiếu nghóa có khác mà không trái nhau. Kinh: “Có nhiều người cho đến.. dừng trú trong đó.” Tán: Dụ năm đường nguy vong, có bốn ý: Rất đông người. Nhà hư nát sắp sập. Tai nạn các nơi nổi lên. Các con chơi đùa trong đó, đây là nói phần đầu. Hạt giống năm đường gọi là chỗ huân tập. Vì nghiệp chiêu trong các đường khác nhau nên có năm. Tùy theo chúng thích ứng mà có riêng chi hữu. Có mười thứ nghiệp thiện ác, tùy theo chỗ chiêu cảm của mười nghiệp này mà gọi là “năm trăm người”. Nghóa là trong mười nghiệp đạo, mỗi nghiệp đều có tự tác giáo tha, khen ngợi khuyến khích, vui mừng, an ủi, thiểu phần, phần nhiều, toàn phần, thời ít, thời nhiều và trọn đời cho đến. Mỗi nghiệp khác nhau có mười, mười nghiệp tu chiêu cảm quả nên đặt tên thành năm trăm. Hoặc trong mười nghiệp đạo, mỗi nghiệp do mười hoặc phát nhuận lên nên gọi là năm trăm. Các thứ này ở trong bổn thức đều gọi là “Ở trong nhà lửa.” Do các hạt giống này làm nhân, nên luân hồi trong năm đường khổ đau không dứt. Kinh: “Lầu gác đã hư mục cho đến cột xà nghiêng đổ nguy hiểm.” Tán: Nhà cửa hư mục nguy ách này có bốn: Lầu gác dụ cho sắc. Tường vách dụ cho tưởng. Chân cột dụ cho hành. Kèo cột dụ cho thọ. Nhà đó là thức, gìn giữ bốn uẩn này. Văn dưới nói: Nhà đã lâu cũ mà lại hư mục. Lấy đây suy ra thì biết còn ngoài bốn thứ năm uẩn và bốn thức trụ: Lầu gác hư mục là: Lầu dụ cho thân căn lớn và làm chủ. Các: Dụ cho các căn dựa vào thân mà có. Nhận lấy các thứ bất tịnh để duy trì lâu ngày tự sanh diệt nên gọi là cũ mục. Mục là hư nát, cũ kỉ rất xấu. Bên ngoài ngăn che là tường, trong ngăn giữ là vách. Tưởng uần bên ngoài biến các hình tượng như tường, bên trong biến thành vách, đều giả dối không thật. Vách tường sụp đổ, chân cột hư nát làpháp trong hành uẩn rất nhiều, hơn hết là mạng căn, làm chủ thân nên như cột. nhà, cùng với các thứ khác gọi là căn. Tánh của căn này mục nát nên gọi là hủ bại. Cột kèo xiêu vẹo là: Rường là cột dọc, và là cột ngang. Bên trong quả dị thục thọ làm gốc như đống. Quả tăng thượng bên ngoài thọ làm ngọn như lương. Rường xà nương theo cột mà có, như quả thọ y theo nghiệp, mạng căn. Các xà ngang cột kèo nay sắp sụp đỗ rơi xuống nên gọi xiêu ngã. Trong nhà đó, dụ cho các pháp thọ giữ. Cho nên trong Du- già quyển mười sáu dẫn trong kinh tụng là: Các sắc như khối bọt. Các thọ như bọt nổi. Các tưởng như lửa cháy. Các hành dụ choc ây chuối. Các thức là huyễn sự. Cái gọi là các hành của nhật thân một thời sanh ra cũng là một thời trụ diệt. Kinh Vô Cấu Xứng cũng chép: Sắc như chùm bọt không thể nắm bắt, thọ như bọt nổi, không thể trụ lâu. Tưởng như lửa cháy từ khát ái sanh ra. Hành như cây chuối đều không có thật. Thức như là viễn huyễn, điên đảo nổi lên. Như trong Du-già nhiếp các môn khác phân biệt giải thích. Như nói da thịt xương cốt các việc biến khác thư giản, phối hợp với bốn câu này thì làm sao trong Ba cõi đều có đầy đủ hai cõi trên thì không có việc này, thì làm sao có lửa phiền não năng thiêu, và nhà nương tựa. Ba cõi dụ đầy đủ, và nói quả dị thục bị thiêu đốt chỉ dụ cho cõi người ở trong cõi Dục mà trong sáu tầng trời Dục còn nói đã không có sự hoại nát của da, thịt cho đến vì thế, chỉ nên như giải thích ở trên. Lại giải thích phần hợp dụ ở dưới, vì muốn cứu giúp sanh già bịnh chết cho chúng sanh tức cũng như chi phối ở đây y cứ là thật. Bốn tướng biến khắp trong năm uẩn mà có ở dưới nói: Lửa lớn từ bốn phía nổi lên. Bốn phía theo kinh nói là bốn tướng, như trong đây là chỉ cho bốn uẩn. Lấy các pháp ở cõi Dục để dụ cho dị tướng khổ quả là để cho sanh nhàm chán, nhân khổ phiền não trong ba cõi thí dụ chung cũng không trái lý. Kinh: “Bốn phía đồng một lúc cho đến thiêu đốt nhà cửa.” Tán: Các nơi lửa bốc lên. Biến khắp cả năm uẩn gọi là bốn phía bao quanh. Niệm niệm cùng khởi thì gọi là cùng lúc; chẳng lý do mà có gọi là bỗng nhiên. Phiền não tùy theo đó sanh ra thì gọi là lửa nổi lên, khiến cho năm uẩn này thành tạp nhiễm tánh, bất tịnh khổ tánh, vô thường ngã tánh. Năm uẩn biến hoại nên gọi là thiêu đốt nhà cửa. Ý ở đây nói là biến duyên khắp năm uẩn. Niệm niệm bất chánh nên sanh ra phiền não, phiền não thêm lớn trói buộc. Thế nên thân năm uẩn thành ra bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã. Cho nên gọi là thiêu đốt nhà cửa. Nói nhà tức gồm cả lầu gác cho đến Do nhà mà nạn lửa phát sanh. Do lửa mà nhà bị thiêu đốt. Tức nhân nơi năm uẩn mà sanh ra phiền não lại nhân phiền não mà thêm lớn năm uẩn. Hai tướng nhân hữu cũng vậy. Hoặc khắp sanh già bịnh chết cũng có phiền não, nên lấy đây thí dụ. Kinh: Các con của trưởng giả…ở trong nhà đó” Tán: Các con ở trong nhà lửa vui chơi. Tuy là chúng sanh trong năm đường mà đều là Phật tử, Phật đều thương yêu không nghiêng lệch. Nhưng chúng sanh chỉ là con nuôi. Nếu có hạt giống vộ lậu trong Ba thừa thì có thể nối ngôi vị của cha. Sanh giữa, sanh bên mới gọi là con thật. Cho nên chỉ nói ba mà không nói bốn năm. Y theo phẩm Hiển Thủ kinh Hoa nghiêm nói: Mười dụ cho Bồ tát, hai mươi dụ cho Độc giác, ba mươi dụ cho Thanh văn, mỗi chúng ta theo mười thứ pháp hành của thừa mình thuộc về ba tuệ. Và tu mười nghiệp đạo trợ giúp hạt giống vô lậu mới đắc quả tròn đầy. Nói mười, hai mươi, ba mươi đó là do có đầy đủ một tánh, hai tánh, ba tánh mà có khác nhau. Nên nói mười, hai mươi hoặc ba mươi. Vì trong kinh này mang các căn tánh, đều y theo tự thừa mà tu các pháp hành, trợ giúp các chủng tánh này mà lập ra mười tên gọi. Năm đường trước là thuận theo bổn thức mà gọi là dừng ở trong. Tam vô lậu chủng dựa vào bổn thức mà gọi là ở tại nhà này. Kinh: “Trưởng giả thấy là cho đến liền rất sợ sệt” Tán: Phần thứ ba lớn dụ về quyền phương tiện. Có bốn: Dụ thấy khổ sanh từ bi. “Xá-lợi-phất!… Trưởng giả đó v.v…” chỉ rõ dùng Đại không mong cứu được. “Bấy giờ Trưởng giả liền nghó v.v… “là suy nghó cách cứu giúp. “Cha biết rõ tâm trước của các con v.v… ” Đây là dụ chánh nói về Ba thừa. Sanh tâm bi nghóa là khi Phật xưa còn ở địa vị Bồ-tát, hoặc lúc mười sáu vương tử v.v… cho nên trước nói: Từng ở chỗ hai muôn ức Phật giáo hóa các thầy. Phẩm trước cũng nói Phật vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi. Không mong cầu chỉ bày Đại: Như mười sáu vị vương tử kia từng được giáo hóa pháp Đại thừa nhưng giữa đường tâm lui sụt. Ở trong phẩm trước cũng nói: “Trí tuệ sở đắc của Ta cho đến các pháp như thế làm sao mà có thể độ? Trước đây cũng nói: Ta xưa giáo hóa ông chí nguyện Phật đạo, nay ông đều quên hết. Nghó cách cứu giúp: Thấy người lui sụt rồi, sau suy nghó cách cứu giúp. Phẩm trước cũng nói: Nghó trong thời Phật quá khứ, cho đến nay Ta cũng nên nói pháp Ba thừa. Chánh nói Ba thừa là: Gần gũi giáo hóa, khiến trụ vào Nhị thừa. Phẩm trước nói: “Liền đến Ba-la-nại v.v… cho đến tên Pháp, Tăng khác nhau”. Hoặc trước cũng nói: “Ta dùng phương tiện dẫn dắt ông sanh vào trong pháp ta”. Chẳng những đồng với phẩm này mà cũng đồng với phẩm gã cùng tử, đến dưới sẽ nói. Văn đầu cũng có hai: Nói sanh tâm từ bi. Trình bày việc bi. Lửa bốc cháy lớn là phiền não và tùy phiền não. Bốn phía là: Trong năm uẩn đều có sanh trụ dị diệt, bốn vị trước sau. Kinh A-hàm chép: Sanh là Đông phương, trụ là Nam phương, dị là Tây phương, diệt là Bắc phương. Dụ mặt trời mọc lặn là phối hợp cả bốn phương. Do bốn vị này mà sanh ra phiền não. Hoặc thân, thọ, tâm, pháp duyên khởi lên bốn điên đảo. Do bốn duyên này mà sanh ra điên đảo căn bản, tự tánh, tất cả phiền não đẳng lưu, và tùy phiền não. Rất kinh sợ: Cha thấy lửa cháy sợ thiêu đốt con nên hoảng hồn kinh sợ. Phật thấy hoặc nghiệp nổi lên sợ tổn chúng sanh mà khởi bi ý. Kinh: “Mà nghóa … ý cầu ra khỏi” Tán: Đây trình bày sự bị thương. Ta tuy đã thoát ra, còn các con thật đáng thương. Cửa bị cháy này là giáo hạnh Nhất thừa. Vì nhiều oán ghét, chê bai, bất tín, bị chướng nạn phá hoại phiền não làm ngăn trở nên gọi là cửa ở nhà bị cháy. Vì thếb kinh dưới nói: Kinh Pháp Hoa này có rất nhiều oán ghét. Nhân vị của ta trước kia nương vào giáo pháp Nhất thừa, quán lý hai không, tu hành hai lợi. Chứng hai chân trí, ra khỏi phần đoạn sanh tử, nhập Bất thoái địa. Đó gọi là ở nơi cửa bị cháy này an ổn vượt ra, nương vào xe báu mà đến Đạo tràng. Nhưng chúng sanh đủ các tham chấp, tham chấp giới, địa, phần, và thừa. Do tham chấp này mà buông lung chơi giỡn trong nhà lửa không nghó lường, lấy trí tỷ lượng giác biết trí hiện lượng mà hay, không lo sợ sanh nghi quái lạ. Cũng không nhàm chán hoạn nạn sanh tử, do đó mà lửa phiền não thiêu đốt thân. Khổ quả sanh tử hiện tiền thật là đau khổ, mà không có ý nhàm chán lìa bỏ. Không cầu xuất thế, không chứng diệt tâm. Cho nên trong phẩm trước nói: Không cầu uy thế của Phật và chỉ cho pháp diệt khổ, chúng sanh như thế thật là đáng thương xót! Trong kinh Hoa nghiêm nói: Cũng như người có con một rất yêu thương. Bỗng có kẻ khác đến làm hại cắt bỏ thân thể tay chân của đứa con đó. Người cha trông thấy đau đớn xót thương. Kinh này cũng giống như thế. Chư Phật, Bồ-tát thấy chúng sanh gây ra các nghiệp duyên ác, bị phiền não trói buộc sa vào ba đường ác chịu vô lượng khổ, Phật thấy những việc như thế khởi tâm bi nguyện xót thương cũng như vậy. Trong kinh Vô Cấu Xưng chép: Cũng như Trưởng giả chỉ có một đứa em. Khi con bị bệnh thì cha mẹ cũng bệnh. Hỏi: Trong đây kinh nói: Ta ở cửa này an ổn ra khỏi trước các con. Vì sao văn dưới nói: Ta và các con nếu không ra ngay v.v… tức cùng các con ra đồng thời phải không ? Đáp: Văn dưới kinh tự nói: Trưởng giả nghe rồi kinh sợ bèn vào nhà lửa, trong phần hợp dụ tự nói vì lợi ích chúng sanh mà Phật hạ sanh vào nhà lửa ba cõi cũ nát. Kinh Niết-bàn chép: Ví như nhà của trưởng giả bị cháy. Trưởng giả thấy mình đã từ nhà đó bước ra. Các con ở sau chưa thoát ra được nạn lửa. Ông biết lửa sẽ làm nguy hại nên vì thương con ông trở lại cứu mà không màng đến thân mình. Chư Phật, Bồ-tát cũng vậy, tuy biết sanh tử nhiều hoạn loạn. Vì chúng sanh mà Phật trở vào đó không nhàm chán. Cho nên gọi là bất khả tư nghì. Lại nói về cùng đưa các con ra, chứ thật thì Phật đã ra trước. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến từ nhà đó mà ra ngoài”. Tán: Phần thứ hai khai dụ chỉ Đại thừa khôngmong cứu được. Có bốn: Suy nghó dùng quả Đại thừa hóa độ. Lại suy nghó nghó về nhân hóa Đại thừa. Khởi niệm rồi thì tùy hiện ra các sự hành hóa Đại thừa. Cha tuy thương xót mà không mong dùng pháp Đại thừa hóa độ. Trí tuệ của chư Phật gọi là quả Đại thừa. Ngôn giáo được giảng nói là quả đức của Phật. Thân có năng lực thì gọi là hai chân trí, Phật dùng trí làm thể. Tay có năng lực là sáu thần thông, tác dụng bên ngoài. Phật suy nghó: Ta có đủ hai đức thù thắng này. Chúng sanh chủng tánh Nhị thừa tuy không tu hành Đại thừa có ý cầu ra khỏi nhà lửa. Nên ta lấy trí tuệ, dùng bàn ghế, trao cho hành trung căn chứng quả viên giác, dùng dụng thần thông tay áo mà cứu khổ chúng sanh hạ căn bắt buộc chúng sanh ra khỏi nhà lửa Ba cõi mà cứu độ họ. Vì hàng Bồ-tát thượng căn đã hành trì pháp Nhất thừa nhờ đó mà ra khỏi ba cõi. Như đứa con lớn có thể từ cửa này mà ra. Trong đây không nói như thế, mà chỉ nói hóa Nhị thừa bất định tánh. Trung căn Độc giác không thể tu nhân Nhất thừa không nương thần lực Phật, mà chỉ dựa vào dụng trí tuệ của Phật. Như những người con kia không thể bước ra không thể nhờ người khác dắt tay. Chỉ trao cho bàn ghế, để cho con nương theo đó tự ra khỏi nhà. Người hạ căn Thanh văn không thể thực hành nhân Đại thừa, cũng không thể dụng lực trí tuệ của Phật nên trao cho thần thông. Như đứa con nhỏ không thể từ cửa ra không thể nhảy lên bàn ghế mà chỉ nắm lấy tay áo mà thoát ra. Vì thế, phần hợp dưới nói: Như Lai cũng như thế nhẫn đến có Đại thừa lực và trí tuệ lực, các phương tiện Trí tuệ ba-la-mật Đại thừa . Cho nên biết thần thông đó là lực của tay, là dụng ngoại biệt. Trí tuệ là thần lực, là tổng dụng bên trong. Y theo thân thì có tay, nương vào trí mà khởi thần thông. Trong đây nói phương tiện là hai lực tác dụng của tay áo và bàn ghế. Kia đã không thể tu hành đại hạnh, ta dùng hai năng lực phương tiện này mà trao cho Đại thừa, để họ thoát khổ thành tựu đại giác. Kia đã không thể tu hành đại hạnh, nên ta muốn dùng hai phương tiện này mà cứu độ họ. Trước đã sanh ra những việc này, cũng chính là việc sau đó Phật thành đạo dưới gốc cây đi kinh hành. Trong hai mươi mốt ngày suy nghó việc này. Kinh: “Ông ta suy nghó lại cho đến mà lại nhỏ hẹp.” Tán: Thứ hai: Suy nghó nhân Đại thừa hóa độ. Trên suy nghó quả hóa rồi mà không được, nên phải dùng nhân để hóa. Nhân hóa có ba: Đầu tiên nghó không thể nương vào hạnh Đại thừa. Hoặc khởi chê bai, đam trước vào đường ác. Nghó nên chỉ các khổ, thầm nói Đại thừa. Nhà của hai thứ sanh tử trong Ba cõi chỉ có một cửa chánh Đại thừa là nơi thoát ra. Đại tánh Bồ-tát có thể hành trì đầy đủ. Tánh của Nhị thừa hiện ra không thể nương vào Đại giáo mà ra. Nếu Phật nói cho họ nghe, họ cũng không thể hành trì, không thể chứa hạnh này nên gọi là nhỏ hẹp. Không chấp nhận Độc giác hành trì nên gọi là hẹp. Không chấp nhận Thanh văn hành trì gọi là nhỏ. Cũng như biển lớn không dung nạp thây chết cũng gọi là hẹp, nhân hạnh Nhất thừa tuy rộng vô biên mà không dung chứa hạnh nhị thừa nên gọi là nhỏ hẹp. Kinh: “Các con nhỏ dại cho đến bị lửa thiêu đốt.” Tán: Nếu khởi tâm chê bai, đắm chìm, vào đường ác. Chúng sanh tuy có hạt giống xuất thế mà chưa khởi hiện hành thì gọi là nhỏ dại. Tró nghóa là nhỏ, chưa có sự hiểu biết. Chưa khởi lên hiện trí thấu đạt Phật pháp Đại thừa sâu mầu mà luyến trước vào Ba cõi. Nếu liền nói cho họ nghe pháp Đại thừa, bởi họ đã mê đắm vào Ba cõi nên lại chê bai pháp khởi lên hoặc nghiệp, hoặc sẽ bị đọa lạc mãi mãi chìm trong khổ nạn. Thuận hành thì được ra, chê bai thì mãi mãi chìm đắm. Vì tánh bất định nên nói “hoặc sẽ”. Bị phiền não tổn hoại thì gọi là lửa thiêu. Ý này muốn nói nếu liền nói pháp Nhất thừa, mà mà họ đang đắm chìm trong sanh tử, sẽ sinh phá pháp, không tin đọa vào đường ác. Kinh: “Ta nên vì chúng nói cho đến bị thiêu đốt.” Tán: Suy nghó nói các khổ, thầm nói Đại thừa. Thầm nói Đại thừa là nghó cách để chúng mau ra khỏi nhà lửa. Tuy biết những người kia không tin học thực hành lý Đại thừa mà vì làm nhân chứng bây giờ, suy nghó thầm nói. Kinh: “Nghó như thế rồi cho đến các con nên mau ra.” Tán: Thứ ba là tùy nói về hành Đại thừa hóa độ. Tức như trước nói đời đời đã từng theo Phật thọ hóa, cũng như nói: “Ta xưa dạy ông chí nguyện nơi Phật đạo. Ông nay đã quên hết.” Hoặc như văn dưới nói mười sáu vị vương tử bắt đầu kết duyên. Nay nói việc sanh tử đáng sợ và pháp Đại thừa đáng ưa. Cho nên nói đầy đủ. Kinh: “Cha tuy thương xót cho đến không chịu tin nhận”. Tán: Thứ tư là không mong cầu sự giáo hóa Đại thừa, đây có hai: Đầu tiên không tin cầu, sau không kinh sợ nhàm chán. Do mê đắm sanh tử, không tin học lý, hạnh Đại thừa ý đây nói bắt đầu nghe ngôn giáo Đại thừa mà không thể nương theo lý, hạnh tu học trở lại trong vòng sanh tử nên nói là không tin nhận. Thọ có nghóa là lãnh nạp, tín là chứng nhập. Không thể y theo hạnh mà chứng nhập lý Đại thừa gọi là không tin nhận phải hoàn toàn ngu pháp bắt đầu thuận tu tập theo. Kinh: “Chẳng kinh sợ cho đến nhìn cha mà thôi.” Tán: Ở đây không ghê chán, ghê lạ tức không kinh sợï. Không sợ hãi ngôi nhà năm uẩn hư hoại nguy khổ. không sợ lửa phiền não đốt cháy rõ ràng không mong cầu tâm thành Phật thoát khổ. Không phân biệt biết lửa phiền não đốt thân, năm uẩn là sanh tử, không biết các khổ đang ép ngặt, làm mất thân mình không tiến tu Thánh đạo. Thầm bị các khổ phiền não ép ngặt, thiếu là không có tác dụng của Thánh đạo. Như lửa cháy nhà cửa đều bị thiêu hủy mất hết tài sản tổn não thân mạng nên gọi là thất. Nói ruỗi chạy Đông Tây: Đông là dụ cho đường thiện. Tây là dụ cho đường ác, hơn kém khác nhau cho nên gọi là Đông Tây. Luân hồi trong năm đường, đắm chìm trong bốn sanh. Tuy thấy Phật nghe pháp mà ý không cầu thành Phật. Cho nên nói chạy giỡn nhìn cha mà thôi. Kinh: “Bấy giờ trưởng giả cho đến tránh được hại này.” Tán: Suy nghó tìm cách cứu giúp. “Ta và các con nếu không ra khỏi đây”. Có chỗ giải thích: Vì chúng sanh bệnh nên Bồ-tát cũng bệnh. Chúng sanh ra khỏi thì Bồ-tát cũng ra khỏi. Thật thì Bồ-tát ra đã từ lâu, chẳng phải đến bây giờ mới cùng con thoát ra. Đây là ý nói: Phật Thích-ca hóa thân xuất gia thành đạo nhập vào Niết-bàn, nay mới hiện thân ra khỏi nhà lửa. Người Thanh văn nay gặp Phật cũng ở thời nay, hiện đời Đức Phật Thích-ca mới ra khỏi sanh tử cho nên nói kịp thời ra. Thật sự trước đó Phật đã ở ngoài sanh tử. Vì thế trước nói: “Ta tuy ở cửa này được ra khỏi an ổn v.v… ” Kinh: Cha biết các con cho đến ý sẽ mê đắm . Tán: Đây là văn thứ tư chánh nói về dụ Ba thừa. Có hai: Biết căn cơ. Chánh nói. Biết các con tâm trước kia đều có ưa thích tức là chủng tánh Ba thừa tùy theo căn cơ mà có khác nhau, pháp mỗi mỗi thích nghe tức là tất-đàn vị nhân v.v… Biết tâm trước đó là do căn cơ hơn kém trí lực và thắng giải trí lực của Phật mà biết. Biết các thứ đồ chơi tốt đẹp quý báu là tùy theo tự quả các pháp công đức, tức do là chỗ Biến thú hành trí lựccủa Phật mà biết. Trân bảo: Là đồ chơi tốt đẹp, là tốt đẹp, là chơi giỡn. Siêu xuất hữu lậu gọi là vật lạ lùng. Tùy được sẽ là của báu nên là thích. Hỏi: Vì sao khi cho ngôi thành không nói trước ưa thích, nay cho xe lại nói là trước ưa thích? Đáp: Xe là tùy căn cơ tu học sẽ đi đến nên trước có ưa. Thành là nơi nghỉ ngơi cho bớt mệt chẳng phải là nơi sanh về nên không là trước ưa. Xe là do tu mà sanh ra. thành là do tu hiển bày, cho nên xe nói ưa thích thành không có ưa thích. Lại nói lên điều ưa thích trước cũng không sai, vì biết chúng muốn lui về, tức thành cũng có nghóa trước chúng ưa thích. Hỏi: Vì sao xe cho là đồ chơi lạ lùng quý báu, mà thành thì không nói vậy? Đáp: Tướng đức hữu vi có thể phân biệt biết, nên xe nói tướng đồ chơi lạ lùng, vì tướng chung một đức vô vi chỉ nói ở hóa thành. Lại cả hai đều không khác. Trong thành thì có lầu gác nhà cửa tức là đồ châu báu lạ lùng. Kinh: “Mà bảo rằng cho đến đều sẽ cho ông.” Tán: Đây là chánh nói. Có ba: Nói chung khiến cho lấy. Nói riêng ba xe. Khuyên ra ngoài rồi cho. Nếu không nghe lời ra ngoài để lấy ba quả thì sau đó sẽ bị đắm chìm đọa vào biển khổ sanh tử, cho nên gọi là ưu hối. Đây là phần văn đầu. Ba xe ở bên ngoài cửa có thể lấy để vui chơi. Đây là ý văn thứ hai. Do hình mạo có lớn nhỏ mà nhận thọ có ít nhiều. Lội qua sông có cạn sâu nên dùng sức có mạnh yếu. Như dụ về căn tánh, bẩm giáo, chứng lý. Khả năng hành có ba thứ. Khả năng ấy là dùng công năng trí lực để dứt hoặc. Lại xe dê phần nhiều nhờ vào người. Xe hươu phần nhiều ở nơi chỗ tịnh. Xe trâu thì có đủ hai công năng mang vác vận chuyển, mỗi thứ tùy theo khả năng hơn để làm ví dụ. Đây là phần thứ ba y theo xứ có ồn ào, yên tónh. Hai thứ xe dê, xe hươu có tên nêu ra để đem cho mà không thấy không cỡi lên. Đây là lấy chủng trí của nhị thừa tiểu trung làm thể. Nếu lấy Niết-bàn làm thể tức là hóa thành. Dưới nói vào thành rồi nghỉ mệt trừ hết khổ, thì vì sao lại không thấy xe, sau đó lại theo xin cha. Nếu lấy sở đắc sanh không vô lậu trí của Nhị thừa làm thể của xe, thì kia cũng đã bước lên. Vì sao nói là không được. Vậy nên biết hư chỉ sở đắc hữu lậu hậu đắc trí Tam muội của thế gian gọi đó là chủng trí xưng là thể của hai xe. Có tên không thấy, cũng không lên xe đi chơi, không thể phân biệt mà chứng các pháp. Lại hiển bày mượn Niết-bàn, nói là đã vào Niết bàn yên ổn, các người ấy có trí sanh không Bồ-đề mà không thể phân biệt pháp, nên không gọi là xe và không cho bước lên. Hoặc khổ đã diệt mà trí chướng chưa dứt thì sở chứng kia đã được là thiền định thế gian, dối gọi là xe để ra khỏi cửa. Vì tạm nhập Đại thừa, do đó mà chứng quả vị Đại Niết-bàn. Nên luận này chép: Người thứ nhất là lấy các thứ công đức gốc lành Tam muội của thế gian, làm phương tiện khiến cho vui chơi sau đó nhập vào Niết-bàn. Cho nên giáo pháp Ba thừa hợp lại gọi là cửa. Lý nằm ở ngoài giáo nên gọi là ngoài cửa. Lại cửa này là nhân hạnh của Ba thừa. Quả vượt ngoài nhân nên gọi là ngoài cửa. Trong đây nhất định dùng phân biệt chủng trí, để làm thể của xe. Cho nên trong kinh nhiều lần nói: Rốt ráo đắc Nhất thiết chủng trí. Vừa thừa vừa đại nên gọi là nghóa Đại thừa. Hỏi: Vì sao trong phẩm Phương Tiện, quyền thật, lý trí, nhân quả, đều nói; hai châu dưới chỉ nói lý trí, nhân quả? Đáp: Trong thừa có quyền thật. Thật có nhân quả. Quả có lý trí. Ba thứ đều khác nhau. Không biết quyền thật thì các việc lấy bỏ không thành. Không biết quả nhân thì các pháp năng sởhướng đến không lập. Không rõ lý trí thì đâu có tâm Bồ-đề, Niết-bàn. Trí đoạn không viên đâu thành đạo mãn. Cho nên châu đầu tiên giáo hóa người lợi căn đều cùng tận huyền tông. Hạng trung căn một lần nghe dần dần biết pháp quyển thật, lấy bỏ, tuy là chưa biết thủ nhân. Cho nên nói ba xe khiến biết một hạnh Nhất thừa. Ẩn giác tịch trong quả, nói xe trí trong nhân. Lý kín trong nhân vị, nương theo đó tu tập mà sanh ra chủng trí. Lý dần dần tỏ ngộ mà trí chưa thông. Hạ căn tuy nghe lại quyền thật và cho nhân trí mà quả lý còn mê. Càng thấy rõ lý có giả, thật nói ra căn bổn khiến cho kia lấy mà xả bỏ sự an ổn phẩm Trí trong qua, cất giữ trong nhân cùng trang nghiêm, vì ứng cơ khác nhau mà ba châu có chút ít khác. Nói nhân quả Nhất thừa có riêng, có đủ, nên ở trong quả giác tịch, khai thị có tròn có khuyết. Pháp thân đại tuệ nói có đủ thiếu, nên trong luận Địa trì nói có bốn xe: Ba thứ xe trên và thêm dụ xe voi làm bốn Niết-bàn. Nương vào tánh Đại thừa thì gọi là Đại thừa, chẳng phải dụ cho tam trí. Kinh Niết-bàn nói có hai xe. Cũng như nhà vua, có đi xe bốn ngựa. Muốn đem xe lừa cho thì không có việc ấy. Đây dùng hình tướng nửa và đủ chẳng phải dùng ba căn cơ vận chuyển phân biệt, cũng không trái nhau. Kinh Ưu-bà-tắc nói ba con thú lội qua sông, là dụ lý đồng mà chứng khác. Luận Trí độ nói: Ba đường bị bao vây, dụ cho chúng Ba thừa bị bao vây trong vòng sanh tử. Dụng năng lực để thoát ra khỏi vòng vây thì có lớn nhỏ. Lại nói ba người đắc đạo là dụ cho sự chứng quả Ba thừa có rộng hẹp. Mỗi bên y cứ theo một nghóa cũng không sai trái. Các con mau ra khỏi đây, ta sẽ tùy nghi mà cho các con xe. Đây là đoạn văn thứ ba. Nay lược lại nói có năm việc hỏi đáp: Hỏi: Trong trí có ba thứ hư thật đều gọi là xe. Trong lý có giả chân, thành gọi là biến khắp ba thứ. Vì sao trong kinh Đại Niết-bàn không gọi thành mà gọi Đảo châu báu. Đáp: Là nơi nghỉ tạm, phải có đầy đủ công đức cao quý, chân diệt mới gọi là Đảo châu báu. Xe vốn là vận chuyển đến quả, năng vận chuyển đến đều gọi là xe. Lại nữa, đã nghỉ ở thành, nên tìm cầu cái khác, tìm chỗ không gọi là thành, còn vận tải gọi chung là xe, gần xa thì cũng gọi là xe. Hỏi: Trí quả của Nhị thừa chia ra có xe dê, xe hươu. Diệt quả của Nhị thừa sao không hóa hai thành? Đáp: Nơi nghỉ tạm đó nói hai thật có hai thành. Đối với thật mà nói giả nên gọi chung là một. Kinh Niết-bàn chép: Thanh Văn dùng tiểu Niết-bàn mà nhập Niết-bàn, Duyên giác lấy trung Niết-bàn mà nhập Niết-bàn. Cho nên chỗ tạm nghỉ đó cũng gọi là hai thành. Nay lấy chỗ dứt chướng thì đồng, lý sanh không cũng đồng, giả trạch diệt cũng đồng. Do ba nghóa đồng này, nên hóa thành gọi là một. Như xe Bồ-đề có căn tánh lợi đốn khác nhau, nương theo Phật và tự ra, nhờ giáo quán lí, quán đế duyên khởi khác nhau. Tứ quả nhất quả khác nhau. Luyện căn thời gian khác nhau. Sự nói pháp, thần thông khác nhau. Do bảy nghóa khác nhau này mà nói riêng có xe dê, xe hươu. Lại vô vi là không phân biệt, cho nên nói một thành. Hữu vi có phân biệt nên nói xe dê xe hươu. Nhưng nói vô vi chỉ nói nhất thành. Dùng trí nói rõ diệt nên nói hai thành, đều không mưu thuẫn. Hỏi: Vì sao hóa thành lập ra ở con đường hiểm. Cho đến dẫn nêu các thứ xe đó lại ở ngoài cửa. Đáp: Dứt khổ thì gọi là thành giữa đường, dứt khổ trong thành. Vô lậu lìa trói buộc, thể của xe gọi là ngoài cửa. Lại không còn phần đoạn sanh tử, biến dịch sanh tử ở hóa thành. Đầu tiên dứt ở trung đạo, lý xuất nơi giáo, quả xuất nơi nhân, hai xe đều ở ngoài cửa. Lại lấy hai đường sanh tử để đối chiếu thì hóa thành ở chặng giữa đường. Một là lấy chết để đối biện. Hai là xe ở ngoài cửa nên dường như lý thật. Hỏi: Vì sao cho xe mà nói là đi chơi cho thành thì nói an tọa. Đáp: Niết-bàn có thể chứng nên thành nói là an tọa. Bồ-đề có thể sanh nên nói là dạo chơi. Hai quả vô vi, hữu vi khác nhau. Lại, tướng thành an vị nên nói an tọa, tướng xe vận động nên nói dạo chơi. Hỏi: Vì sao hóa ra thành rồi khuyên người vào đó trước. Nay nói xe là dụ cho mau ra khỏi. Đây ở đoạn văn thứ ba khuyên cho là khó phải không? Đáp: Hóa Phật trụ tại sanh tử để khuyên người vào trước. Nói về Phật thật ở quả cho nên nói là mau ra lấy. Lại khuyên người tu hành chứng quả nên khuyên vào trước. Trước trụ vào quả để gọi mời nên khuyên ra khỏi. Lại khuyên con ở thành nên nói vào trước, khiến nhận lấy quả của cha nên nói mau ra. Lại nên chứng Niết-bàn cho nên khuyên là nhập vào khiến cho sanh giác trí nên nói là ra. Cũng như nói Như Lai là Thiện thệ trụ nhân trụ quả điều mong mỏi đều khác nhau. Kinh: “Bấy giờ các người con cho đến tranh nhau ra khỏi nhà lửa.” Tán: Đây là phần dụ thứ tư, y theo lời nói mà tránh được nạn. Có hai: Con tránh được tai nạn. Tâm cha mới an. Chữ Thích nghóa là, vừa lòng, làm vừa lòng, người Ba thừa nên gọi là thích nguyện. Lõng mỗi chúng đều mạnh mẽ tức là tâm tính tấn. Dũng là tiến, nhuế là lợi là sắc bén là gốc lành là tinh tấn. “Xô đẩy lẫn nhau” là thân tinh tấn, cũng nói là ngữ tinh tấn vậy. Thân nghiệp ngữ nghiệp sách tấn cố gắng tinh tấn lẫn nhau gọi là cùng xô đẩy, tranh tu hành nghiệp thì gọi là đua nhau ruỗi chạy, cùng mong thoát khổ gọi là tranh ra khỏi nhà. Kinh: “Lúc ấy trưởng giả cho đến vui mừng hớn hở.” Tán: Tâm cha liền an ổn. Rời khỏi nơi nạn tai gọi là an ổn ra. Ở ngã tư đường là lí tứ đế. Ba thừa cùng quán lí tứ đế. Trong Đại Bát-nhã nói ngã tư đường là tứ đế, lìa phiền não chướng, ra khỏi phần đoạn sanh tử. Không mái che gọi là trống. Mỗi pháp đều có ngôi vị sở y quả mãn gọi là đất. Lấy trí để an xứ chứng thì gọi là ngồi. Năm uẩn khổ hoặc nghiệp của phần đoạn sanh tử đều dứt. Hoặc đoạn hoặc bị hàng phục, lìa tam chướng gọi là không còn chướng ngại. Vừa với bổn ý của cha nên cha lòng thư thái,thấy các con đã thoát tai ách nên cha rất vui mừng. Người Nhị thừa đắc A-la-hán đoạn hết phiền não trụ vào hữu dư y Niết-bàn. Hàng Đại thừa đã nhập vào Sơ địa đắc vô trụ Niết-bàn, hàng phục phiền não, lìa phần đoạn sanh tử thì gọi là ngồi giữa đất trống không còn chướng ngại. Kinh: “Bấy giờ các cho đến nguyện thời ban cho…” Tán: Trên là dụ cho quyền biến trước kia. Dưới là dụ cho thật pháp bây giờ. Có hai: Trước dụ trao cho thật. Sau dụ cho giải thích nghi là phần hỏi đáp dưới. Trong phần đầu có bốn ý: Các con xin ba xe. Cha chỉ cho một. Giải thích chí của cha thành tựu. Vượt xa bổn tâm của con. Ngoạn nghóa là chơi giỡn. Hảo nghóa là yêu thích, tốt đẹp. Tùy theo căn cơ Ba thừa đều có ở chỗ Phật chuyên ý mong cầu diệu trí ở thừa của mình. Nghóa này đồng với việc xin cha xe. Người Nhị thừa lìa phần đoạn sanh tử mà đắc giải thoát. Chứng pháp tứ đế nhập vào hóa thành thì gọi là ra khỏi nhà. Thường ở nơi Phật tu tập các chủng trí văn tư tu. Rõ hết các pháp cầu chứng thì gọi là cầu xin xe dê xe hươu. Các Bồ-tát: Y theo luận này từ Sơ địa trở lên tuy lìa phần đoạn sanh tử mà chưa chứng giải thoát thì không gọi là nhập thành. Không mỏi mệt cho nên không nhập vào hữu dư, không nói Bồ-tát nhập vào hóa thành. Nhập vô trụ Niết-bàn cũng dứt phần đoạn sanh tử, ví như gọi là nhập thành cũng chưa trái với lý chung. Nếu như vậy thì cũng nên cho xe dê, hươu nói trên. Như thế chỉ theo cách giải thích đầu tiên là tốt. Đã hàng phục phiền não, ra khỏi phần đoạn sanh tử, cũng chứng tứ đế, cũng gọi là ra khỏi nhà lửa ngồi nơi ngã tư đường. Cầu diệu trí của Phật cũng như cầu xin cha xe trâu. Hỏi: Ba con cùng ra khỏi phần đoạn, chỉ người Nhị thừa tự xưng là vào thành. Các con lớn cũng ra khỏi nhà khổ. Như vậy thì cũng phải được gọi là nhập thành phải không? Đáp: Không mỏi mệt nhàm chán nên các con lớn không nhập thành. Hàng phục hoặc, lìa phần đoạn sanh tử cũng được gọi là ra khỏi nhà. Nếu nói nhập thành thì cũng không khó. Hỏi: Như các con lớn không vào thành thì vì sao được lên xe, mà không vào thành,các con vừa và nhỏ vào thành mà không lên xe? Đáp: Vì nhàm chán cầu dứt khổ nên hàng trung tiểu vào thành. Đại thừa không nhàm chán khổ thì không gọi là vào. Chỗ dứt khổ nên nói Nhị thừa, còn Đại thừa thì không vào thành. Hỏi: Ngoài cửa có xe, hứa cho ba thứ xe . Giữa đường lập Hóa thành, vì sao chỉ nói hai? Đáp: Hai xe đối với đại là nhân nên ngoài cửa có để ba xe. Thành là phương tiện đối với quả thật, nên giữa đường hóa ra thành. Lý thì tương tợ mà sở đối thì khác nhau, nên sự lập bày cũng khác nhau, thật thì không khác. Lại kia không có chủng trí, muốn khuyên học Đại thừa nên ngoài cửa lập ra ba xe. Niết-bàn hữu dư người Đại thừa không cầu xin nên giữa đường lập ra hai ngôi thành. Nếu nhập mà không trụ thì không gọi là giả, chẳng phải hóa thành. Hỏi: Ba xe đều cầu xin, thấy rõ sự cầu học đối với trí viên. Hai diệt không mong cầu lẽ ra không cầu dứt khổ. Đáp: Đắc quả thì tự nhiên chứng diệt, nhập vào thành nên không nói mong cầu. Diệu trí tất cần dựa vào tu mà ra khỏi nhà lửa. Cho nên phải xin xe. Lại vì ở quả tiểu được thành cho nên không cần cầu xin. Vì chủng trí chưa đắc được nên không cầu xin xe. Hoặc giải thích thế này: Người Nhị thừa nhập vào hóa thành nhưng chưa được xe nên hết lòng xin. Bồ-tát không vào thành mà cũng siêng cầu đến Bảo sơ, nghóa này có thể vậy. Đại thừa đến Đảo châu báu, theo lí cũng cần phải xin. Đối với hóa thành mà không xin cho nên không luận vì hể chuyên cầu là xin vậy. Xưa tương tuyền: Thành là nơi thật hóa ra để dứt khổ, cho nên không cầu xin, xe là việc hư tạo để xin. Nếu hiểu theo đây thì xe rời thành mà có khác nhau. Cầu không cầu nghóa khác nhau. Cầu và không cầu nghóa khác với thể của xe. Xưa giải thích là Thành hóa thành là loại xe phải xin. Lại có nói giải thích: Xe phát ra từ quyền ban đầu, cho nên là hư tạo. Thành là để phòng giữa đường tâm lui sụt cho nên thật hóa. Đây cũng không đúng. Vì sao? Vì căn cở bắt đầu xin xe đã ra khỏi nhà. Lại thể không khác thì hư thật làm sao lại khác. Nên nói thể của xe thành là pháp gì? Cũng có giải thích thành kia cũng nên xin. Sự giáo hóa chẳng phải một đường cho nên không nói. Như trong kinh ở dưới chép: Bấy giờ bậc Đạo sư biết mọi người đã được nghỉ ngơi, không còn mệt mỏi và có thể đi tiếp. Tức là xin thành. Đây là xin Đảo châu báu chứ không phải xin thành. Tuy là dẫn ra văn nghóa này nhưng cuối cùng cũng khó hiểu, nên tìm hiểu kó! Lẽ ra giải thích. Văn dưới nói bậc Đại sư, biết chúng mỏi mệt nên hóa ra ngôi thành tức là nghóa xin. hoặc có người giải thích xe là dụ cho vô dư Niết-bàn, quả trụ chưa đắc nên cần phải xin. Thành là dụ cho hữu dư Niết-bàn, quả trụ đã đắc nên không cầu xin. Nếu vậy thì Bồ-tát nay đã cầu xin xe cũng nên đã đắc hữu dư mà chưa đắc vô dư. Cầu vô dư nên gọi là xin. Nhị thừa không có nhậm vận chắc chắn được thì cần gì phải xin. Vậy thì chỉ nên theo nghóa ở trước, cái gọi là Nhị thừa Niết-bàn không khác nhau, nên xe dê xe hươu là không có. Kinh: “Xá-lợi-phất! cho đến. đồng một xe lớn.” Tán: Đoạn văn này nói chỉ cho một xe. Chia ra làm bốn: Cho xe Tô điểm. Hiển bày tướng trâu. Chỉ rõ người theo xe. Xe trâu quả Phật là lấy Nhất thiết chủng trí trong bốn trí làm tánh, tức là hậu đắc trí. Nhân của xe thì lấy chủng trí trong hai trí là Bình đẳng tánh trí và Diệu quan sát trí làm thể. Tuy năm trí tuệ đều là Nhất thừa, ở đây chỉ lấy chủng trí trong tướng Bồ-đề làm thể. Nhất thiết trí thì rộng hẹp có khác mà ba thừa đều có, chứng trí đó phân biệt ra thành tứ đế thì mỗi đế đều có vô lượng tướng, Nhị thừa chẳng thể biết nên gọi là bất cộng đức. Cho nên, trong kinh thường nói rốt ráo đắc Nhất thiết chủng trí. Vô phân biệt trí dẫn xe chủng trì này, nghóa như xe trâu trước không phải là thể chánh của xe. Như biểu vô biểu tuy đều là giới, mà từ khi Tăng thọ giới cho đến trì giới sau đó chỉ nói là vô biểu. Một niệm biểu giới lại không có nối tiếp, khi tác bạch tứ yết-ma hòa hợp mà được. Khi theo Tăng xin đã được biểu giới. Biểu tuy là căn bổn mà chỉ lấy vô biểu gọi là trì phạm giới. Xe này cũng vậy. Một đại sự trước dùng lý trí làm gốc Căn bản trí, Hậu đắc trí gọi dùng là Nhất thừa, mà nay lấy hậu trí gọi là xe, bổn trí là trâu, không nói ở lý vì là thể của xe. Sau trong Hóa thành, lấy chân đối với hóa bèn nói giả trạch diệt cho là hóa thành. Nói diệu lý chân như của đại Niết-bàn làm Đảo châu báu. Mỗi mỗi đều căn cứ vào một nghóa gọi là Nhất thừa, sự thừa, lý thừa, hữu vi thừa, vô vi thừa đều khác nhau, như thể của xe dê, hươu đã nói. Thể của xe đã vậy thì muôn đức khác cũng thuộc các tô điểm của xe. Nếu đồng như trong kinh Niết-bàn và Thắng-man nói, chỉ lấy chân như làm thể của xe, thì sao đều ban cho các con một xe. Lại vì sao nói sự khác nhau của tướng đức trang nghiêm, vì sao nói xe trâu đi mau như gió và sao có thể nói ta có xe lớn bảy báu như thế, lại nhiều vô lượng, tùy tâm ưa thích của các con mà cho? Nhưng các con nhỏ, vừa cũng đã ra khỏi nhà rồi, tuy chưa được xe trâu mà cũng vì con nói đại giáo, hoặc nhất định sẽ được, chẳng phải lúc ấy đã được giảng nói trí thể. Như cho hạt ngọc mà chưa đắc thể. Cho nên trong kinh Thắng-man chép: Bình đẳng ba thứ ý sanh thân tức ba đứa con vậy. Đây nói sơ địa tức là bất thối địa. Lại đốn ngộ, lại là nhân hạnh của Đại thừa, từ sơ phát tâm thì cũng gọi là xe. Nay Bát địa trở xuống là nhân hạnh. Bất thối Thất địa trở xuống trước vẫn còn phần đoạn. Vì thế bên dưới Kinh nói: Thanh văn, Duyên giác, Bất thối Bồ-tát cởi xe báu vàng thẳng đến đạo tràng. Phẩm Phương tiện giải thích nhập tức là Bất lui sụt địa. Nay lấy theo ý trước mà giải thích, thì từ sơ địa trở lên lìa phần đoạn sanh tử gọi là Bất thối địa, gọi là nương Nhất thừa, kinh Lăng-già cũng do đây mà nói từ sơ địa trở lên gọi là ba thứ ý sanh thân. Kinh: “Xe đó cao rộng cho đến bốn phía đều treo linh.” Tán: Nói tô điểm xe, có mười thứ, trong đây có bốn: Hình lượng. Tô điểm. Nhiếp ngự. Treo linh. Cao rộng là chỉ về hình lượng, chỉ cho thể chủng trí của Phật thể cao cả ba cõi, dụng rộng cả mười phương, giáo hóa chiếu soi khắp cả pháp giới. Các báu trang nghiêm đó là chỉ cho tô điểm, các công đức đều do trí làm căn bổn. Lan can bao quanh là ý nói nhiếp ngự. Ngoài chế ngự không nhập vào trong thu nhiếp không xuất ra, tức là bốn tổng trì. Ngự các điều ác không cho phát sanh, nhiếp các chúng thiện không cho tản mất, bốn mặt treo linh là chuông lắc, biến khắp tứ sanh nói bảy biện tài mà rộng giúp. Kinh: “Lại ở trên đó cho đến. mà tô điểm cho đến”. Tán: Đây có hai thứ trang nghiêm là loại thứ năm và sáu: Giăng màn trên cao và các vật báu. Dùng tứ vô lượng rộng che hết chúng sanh như màng, lọng. Tô điểm lẫn lộn: Là các thứ ngọc báu. Từ bi hỷ xả đều có: Hữu tình, pháp, và vô duyên, chành ác đức v.v… giúp thêm tô điểm. Kinh: “Các dây báu nối kết cho đến. đặt yên gối đỏ”. Tán: Đây có bốn: Loại tô điểm tức thứ bảy, tám rũ chân anh lạc, chín là bày biện và người là, sắp đặt gối đỏ. Dây báu kết thắt là bốn hoằng thệ nguyện, hễ có tu hành đều phát bốn đại nguyện: Nguyện cùng chúng sanh tu các gốc lành này. Người chưa lìa khổ thì nguyện cho lìa khổ. Chưa được vui thì nguyện cho được vui. Người chưa phát tâm Bồ-đề, dứt ác tu thiện, thì nguyện cho phát tâm bồ đề dứt ác tu thiện. Người chưa thành Phật thì nguyện sớm thành Phật. Nguyện như các thứ báu nối kết lại chành ác khiến sẽ đắc quả. Chắc chắn thù thắng cho nên tà kiến không thể làm khuynh tổn. Trong kinh Thắng-man nói: Nhiếp thọ chánh pháp là nhiếp tất cả nguyện. Du-già thì nói chung có hai nguyện. Nguyện cầu Bồ-đề và lợi lạc hữu tình. Treo các thứ hoa báu đó là hoa báu rủ xuống, tức là bốn nhiếp. Rũ xuống nhiếp bốn sanh: Bố thí Ái ngữ Lợi hành Đồng sự. Xưa có giải thích rằng tónh lự là mềm mỏng, mềm mại, tâm thường yên ở. Vì trên dưới Tứ thiền khác nhau nên nói: “trái chống”. Lí này không đúng. Kinh Vô Cấu Xưng nói: Bốn tónh lự làm giường, tịnh mạng làm nệm, thân ngữ, ý, nghiệp đều không có tâm tham phát, thường du hành, thừơng hành tịnh mạng, lìa năm tà mạng. ba nghiệp đều vậy gọi là trái chống, mà để yên gối đỏ lên Xưa giải Niết-bàn có thể dứt sanh tử. Nay giải thích diệt định có thể dứt phan duyên. Để mệt mỏi tựa gọi là đặt gối. Đã an trên xe rõ rảng chẳng phải Niết-bàn, chỉ lấy diệt định. Gối có gối tiên đan tăng thêm tuổi tuổi thọ thì gọi là gối đỏ. Vô lậu diệt định cũng như thế, làm cho thêm lớn Thánh đạo. Lý này không đúng. Bên Tây Vức không có gối tiên đan, có có gối màu đỏ. Bên trong chứa các lụa chỉ, ngoài bọc da đỏ nên gọi là gối đỏ. Lại có nói giải thích: Thể tức là ngũ căn vô lậu: Tín, tấn v.v… giúp đỡ Thánh đạo nên gọi là chẩm. Kinh: “Dùng trâu trắng kéo cho đến đi nhanh như gío.” Tán: Nói tướng trâu có bảy: Trâu trắng: Thể tức là căn bản vô phân biệt trí dẫn dắt xe chủng trí, như trâu kéo xe vậy. Màu trắng là căn bản của các màu, như hoa sen trắng, tiêu biểu cho căn bản của các bộ kinh, là đứng đầu muôn đức. Trâu đầu đàn có ba đức: Hàng oán: Có thể dứt hai chướng. Đoan nghiêm: Các đức trang nghiêm. Vận tải: Cứu độ tự tha cho nên dụ ở trâu mà không nói voi, ngựa. Đại thừa như ngựa tài giỏi tú không thể so với xe lừa chậm chạp của Tiểu thừa. Cho nên kinh Niết-bàn chép: Lấy ngựa kéo xe, lấy voi để chỉ hình tượng đức lớn, so với đức nhỏ của các thứ xe trâu xe dê, xe hươu. Niết-bàn vô trụ là trên hết. Do đây mà trong kinh Thiện giới dùng voi để kéo xe. Nay vì trâu có ba đức để kéo xe Đại thừa nên gọi là trâu trắng. Da thịt đầy đặn: Trong chánh trí nội đức đều tròn đầy. Sắc sạch ba chướng dứt trừ hẳn giới đức đầy đủ. Hình thể tốt đẹp: Tướng tốt tròn sáng, trời người đều yêu kính. Có sức rất mạnh: Có ba ý: Rảo bước khắp phương. Trí lực đầy khắp, chẳng lý nào mà không đạt đến. Đi những nơi hiểm trở mà không mỏi mệt. Có thể hóa độ khắp mười phương vào đường hiểm sanh tử mà không biết mỏi mệt. Gặp kẻ thù thì là vượt qua, phá tất cả chướng, hàng phục sanh tử. Đủ ba nghóa này gọi là có sức mạnh. Bước đi ngay bằng: Hai lý đều cùng chúng, dẫn sanh hậu trí, oán thân không hai. Đi nhanh như gió: Thể tánh chánh trí trong một sát-na, duyên khắp pháp giới. Khởi tâm đại bi, bên trong đầy đủ các đức, ngoài giáo hóa chúng sanh, không có trì trệ. Từ sơ địa trở lên mau tiến tu quán quán không quán hữu chẳng còn vướng động. Tánh tuy lanh lợi, nhưng sự thì ung dung, bảy đức trên đây có dụng mà không phải căn bản chánh trí. Do đó mà có cho nên được tên kia. Kính: “Lại có nhiều tôi tớ để hầu hạ.” Tán: “Nói về người tùy tùng, dùng nhị trí làm trước. Lục độ, tứ nhiếp, giác phần, giải thoát, phiền não các pháp lợi sanh, đều tùy theo đó mà khởi, nên gọi là nhiều tôi tớ theo hầu. Kinh Phật Địa nói: Phật có vô lượng trời, rồng, Dạ xoa, nhân phi nhân v.v… cho đến thường theo giúp cũng nên gọi là theo hầu. Có chỗ giải thích thể của xe chỉ có Đại Nhập Niết-bàn, các thứ tô điểm khác hoặc chỉ là tánh công đức, hoặc tướng công đức. Thể của trâu là nhị trí kéo xe. Giải thích là trước là đúng như trước là không đúng. Kinh: “Vì sao? cho đến Thảy đều đầy ắp.” Tán: Thứ ba giải thích chí thành tựu của cha có ba ý: Nêu sự giàu có. Nghó sự quân bình. Giải thích lý do, ở đây là ý đầu. Sung mãn là đầy tràn, là đủ các thứ thể, các tàng hữu vi, vô vi là thể nghóa năng hàm chứa, hoặc hai tạng ba tạng giáo năng hàm chứa lý. Nay cho con kho chứa . Kinh: “Mà nghó rằng cho đến không nên khác nhau.” Tán: Đây là suy nghó chia đều có hai ý: Không nên cho Tiểu Đều nên cho Đại. “Nay những trẻ thơ này v.v… ”: Là Mượn tưởng niệm. Vô cực là nghóa không cùng cực. Nói hai thứ trí là nói xe xấu kém. Do có chủng tánh trước phát đại tâm gọi là trẻ thời có khả năng sẽ thàng Phật nên gọi là “con ta”. Lòng từ bi không hai nên gọi là “yêu thương không nghiêng lệch”. Dùng thất Thánh tài tô điểm nên gọi là xe “bằng bảy báu”, đều tự tu trí viên, trí hữu vi chẳng phải một nên gọi là “số nhiều vô lượng” ứng với tâm bình đẳng tùy căn cơ mà trao cho nên nói “mỗi con đều cho”. Cùng trao pháp Đại thừa không nên có khác nhau. Chữ Đồng nghóa là đồng tử. Xưa gọi đó là bộc, là đồng bộc,nay là bộc lệ. Nghóa là trẻ con còn mê muội chưa khôn lớn. Kinh: “Vì sao? cho đến huống chi các con.” Tán: Đây giải thích lý do hết thiếu thối. Đem Nhất thừa này cho hết chúng sanh năm đường hữu tánh vô tánh của một cõi Phật, định tánh, bất định tánh, còn không thiếu thốn, huống chi chỉ là con thật của Phật căn tánh Đại thừa và bất định, mà sợ không đủ hay sao? Kinh: “Bấy giờ các con cho đến chẳng phải điều trước mình mong”. Tán: Thứ tư: Vượt ngoài tâm mong muốn của con. Đã nói là đều cưỡi xe lớn, là biết rõ mỗi con tự đắc chủng trí. Không giống như hóa thành mọi người đều vào. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến. là không dối gạt.” Tán: dụ trên là nói thật, dụ dưới là giải thích nghi. Tức như quyển trước nói. Các thầy nên tin hiểu lời Phật nói là không luống dối. Nghóa là chúng nghi là: Đầu tiên Phật nói ba, sau chỉ nêu một. Trước sau khác nhau, vậy không nói dối sao? Cho nên ở đây giải thích ra. Văn có ba phần: Hỏi; Đáp; và Ấn chứng. Kinh: “Xá-lợi-phất thưa cho đến chẳng phải là luống dối.” Tán: Phần đáp có hai: Một là nêu ; hai giải thích. Đây là phần nêu. Hàng phàm phu lìa dục, hàng phục phiền não thì gọi là tránh được hỏa nạn. Lìa ba đường ác ép ngặt cực khổ thì gọi là bảo toàn thân mạng. Chưa ra khỏi trời người, như ở trong nhà lửa mà vẫn toàn thân mạng. Kinh: “Vì sao? cho đến cứu độ họ.” Tán: Phần dưới giải thích có hai: Tránh được nạn rồi thì chẳng phải dối gạt. Huống chi đem cho Đại thừa. Chỉ được toàn thân mạng ra khỏi ba đường ác, sanh về trời người, gặp được châu báu, huống chi tránh được tai nạn ra khỏi nhà lửa của trời người trong ba cõi. Kinh: “Thế tôn cho đến không dối gạt.” Tán: Huống chi đem cho Đại thừa. Có hai: Không đắc tiểu chẳng phải là dối, vì không trái ý trước. Huống chi đem cho Đại thừa mà thành lỗi dối gạt. Tâm trước là giả thiết. Hứa cho ba xe nay tuy không được tiểu mà không trái với ý giả thiết trước. Tâm cảnh chẳng trái nhau, nên chẳng thành luống dối. Kinh: “Huống chi Trưởng giả cho đến. cùng cho xe lớn.” Tán: Huống chi đạt Đại thừa, mà thành dối gạt. Kinh: “Phật bảo Xá-lợi-phất cho đến. như lời ông nói.” Tán: Đây là lời ấn khả. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến. cha của thế gian.” Tán: Đoạn lớn thứ hai là hợp nói: Có hai: Hợp quyền giáo trước Hợp thật pháp bây giờ. “Xá-lợi-phất! Như trưởng giả kia thấy các con được an ổn ra khỏi nhà cho đến.”. Đoạn văn này có bốn ý: Ba cõi, Phật có họp. “Vì độ chúng sanh sanh già cho đến.” Là hợp năm đường nguy nan. “Thấy các chúng sanh vì sanh già bịnh chết cho đến” là hợp thấy lập phương tiện quyền biến. “Xá-lợi-phất! Như có chúng sanh bên trong có trí tánh cho đến” là hợp theo lời Phật dạy mà tránh nạn. Dụ đầu tiên có sáu ý: Xứ sở; chủ nhà; già suy yếu; tài sản; tướng nhà và cửa. Nay hợïp có năm không có phần cửa. Trong văn này có hai: Của tất cả thế gian là hợp nghóa xứ sở. Là cha hợp nghóa chủ nhà. Thế gian tức là hữu tình thế gian và khí thế gian. Kinh Vô Cấu Xứng nói: Chư hữu tình, cõi là cõi phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ tát, cho nên dùng hai thứ thế gian này gọi là cõi nước Phật. Con người là căn bản, cha (phụ) có nghóa là người sanh dưỡng, khiến cho chúng sanh sanh trưởng gốc lành, kế tục ngôi vị Phật. Cho nên gọi là cha. Kinh: “Đối với các sự sợ hãi cho đến. vô lượng tri kiến.” Tán: Phần ba hợp nghóa tài sản bên trên. Đây hợp nghóa(nhiều ruộng. Hết các sợ hãi v.v… là hợp về ruộng đoạn. Vô lượng tri kiến hợp nghóa ruộng trí. Sợ hãi có năm thứ: Lo sợ không đủ sống nên phân biệt tài sản của ta mà khởi ái chấp. Sợ ác danh, hành không lợi ích nên vọng khởi lo sợ. Sợ chết, do đó có ngã kiến, khởi lên tưởng mất hoại. Sợ trong đường ác không gặp Chư Phật, khởi lên nghiệp ác . Sợ khiếp chúng, thấy đã chứng thấp kém, người hơn mình mà khởi suy não lo nghóa là các khổ phá nhà diệt vong. Trên đã hợp nói về quả khổ sanh tử. Vì vô minh che lấp, si ám thêm lớn làm căn bổn cho hoặc nghiệp. Đây là nhân của khổ không rõ việc từ trước đến nay. Vô minh che lấp như thế, mê hoặc Tam bảo như thế. Do chứng lý dứt hoặc, vónh viễn hết sạch. Cho nên các pháp vô vi đoạn đức tròn đầy. Thành tựu được tri kiến trí đức tròn đầy. Kinh: “Lực vô sở úy cho đến Ba-la-mật.” Tán: Đây trở xuống hợp nói của giàu vô lượng. Nội đức trí tuệ, và phương tiện khéo léo, đều đã đầy đủ đến bờ kia. Phần trên là tổng hợp về tài sản. Theo kinh Vô Cấu Xứng nói thì phiền não là tôi tớ. Nếu theo kinh này thì ngoài hóa thần thông cho là tôi tớ, dùng trí tuệ sách tấn, nhân đó mà nói. Kinh: “Đại từ đại bi cho đến thường cầu việc thiện.” Tán: Thứ tư là hợp: Nói tuổi cao suy yếu. Tướng của người già rất là thương xót, nên gọi là đại từ đại bi. Việc làm không phế bỏ, nên thường không có lười mỏi. Hễ làm việc gì đều quán xét suy lường rõ ràng, có trước có sau mà không bỏ phế giữa đường. Thế nên các việc đều có khuôn phép thắng pháp, thường cầu việc thiện. Trong đây tức là nói ân đức đoạn đức, trí đức, như thứ lớp đã nêu ra ba thứ Trưởng lão trước. Tự tha đều lợi ích. Đây là tiêu biểu cho việc tu nhân đã lâu nên bi trí đầy đủ. Kinh: “Lợi ích tất cả cho đến nhà lửa cũ mục.” Tán: Thứ năm là hợp nói tướng nhà, cũng hợp nói nhiều nhà. Cùng khắp ba cõi, vì lợi ích chúng sanh trong năm đường, nói về trong đó cho nên trong dụ trước có nói: Ta và các con nếu không cùng ra”. Tức nói về làm chúng sanh ở trong sanh tử. Nói về ở thân ngày nay mới ra khỏi nhà lửa. Đây là nói lý do vào nhà. Cũng có giải thích lợi ích tức là nhà cửa. Phật vì muốn lợi ích chúng sanh cho nên cùng vào nhà lửa. Chúng sanh vì nương vào lợi ích mà ra khỏi nhà. Tức là giáo hạnh nhất thừa. Kinh: “Vì độ chúng sanh cho đến Tam Bồ-đề.” Tán: Đoạn lớn thứ hai hợp dụ sự nguy vong trong năm đường, dụ này có bốn: ách. Vì độ chúng sanh hợp nói rất nhiều người. Vì sự sanh già bịnh chết ưu bi khổ não hợp nói nhà hư mục nguy Ngu si ám chướng trong nhà lửa ba độc hợp nói tai nạn xảy ra khắp phía. Vì muốn giáo hóa khiến đắc quả Tam Bồ-đề hợp nói cùng chúng sanh rảo chơi ở trong đó, sanh già bịnh chết ưu bi khổ não là dụ cho khổ và vô thường trong tứ uẩn. Trong ngôi nhà mục nát nguy hiểm, mỗi mỗi đều có sanh già bịnh chết. Nếu thứ lớp hợp nói nhà cửa thì nghóa nguy cũ hơi khó biết. Hoặc trong nhà nguy hại mà có mất mát. Theo thật pháp thì nhà mục này lý chung cả ba cõi. Nghóa tứ uẩn như trước đã giải. Nay lấy bốn tướng lầm lỗi biến lưu trong cõi Dục mà hiển bày ba cõi khổ, là để cho chúng sanh nhàm chán sâu xa việc sanh già bịnh chết. Do đó mà nói sanh già bịnh chết là ngôi nhà hư hoại tội lỗi. Nếu không như vậy thì vì sao tai nạn nguy ách lại nổi lên các phía. Có cả phiền não trong ba cõi cùng trong nhà mục nát này, chỉ nói khổ quả trong cõi Dục. Các con vui chơi trong đó đều có đại tánh: Đó gọi là trưởng giả mẹ sanh con thật. Trước chưa phát tâm thì gọi là con của ba cõi. Sau khi phát tâm thì dần dần đắc quả Bồ-đề. Kinh: “Thấy chúng sanh cho đến. thọ các điều khổ.” Tán: Đoạn văn thứ ba: Thấy rồi thì lập tìm phương tiện. Đây hợp với dụ trên có bốn: Thấy khổ, tâm từ bi sanh. Khai thị Đại thừa mà không mong nhận . Nghó cách cứu giúp. Chính nói về Ba thừa. Đây hợp cũng có bốn: Hợp sanh từ bi. “Xá-lợi-phất! Phật đã thấy việc này rồi liền nghó: Ta là cha của chúng sanh,” hợp nói Đại thừa không được. “Xá-lợi-phất” Như Trưởng giả kia tuy thân tay có sức mạnh mà không dùng được. Là Hợp nói suy nghó tìm cách cứu khổ ở trên. Nói: Các ngươi không nên ưa ở trong ba cõi, hợp ở trên nói chánh nói pháp Ba thừa. Trong thí dụ đầu có hai: Bi sanh. Sự bi thương. Trong đây “thấy các chúng sanh là hợp với bi sanh “bị sanh già bịnh chết” hợp nói các sự bi. Trong sự bi đầu tiên hợp nói tướng khổ, sau nói tham đắm ưa thích. Đầu tiên nêu bảy tướng khổ trong cõi Dục. Sau nêu các tướng khổ như thế trong cõi Sắc và Vô sắc. Sắc và Vô sắc đều có đầy đủ khổ thứ tám là lược nhiếp tất cả năm thủ uẩn khổ. Nói khổ cõi Dục có bốn: Bốn tướng cùng xâm phạm. Ngũ dục trái nhau. Lửa san tham thiêu đốt Luân hồi các đường. Ba khổ trước là khổ hiện đời. Một khổ sau là khổ đời sau. Lại bốn tướng xâm phạm tức bốn khổ? Ngũ dục trái khuấy nhau, lửa san tham thiêu đốt tức là khổ mong cầu không được. Trong năm đường luân hồi mới biết là ái biệt ly khổ oán tắng hội khổ, cùng các thứ khổ, tức là lược nhiếp tất cả năm thủ uẩn khổ như là nhiếp chung hết tất cả bát khổ. Văn này ý nói là bốn tướng xâm phạm nhau, ngũ dục trái khuấy. Trong dụ trước thấy nhân lửa cháy mà kinh tâm. Trong hợp này do thấy quả khổ mà ý bi khởi cả trước và sau đều là sự đáng thương. Nhân trước quả sau đều là ép ngặt, đều là khởi từ bi vậy, đều nên nhàm chán vậy. Đối pháp nói: Sanh khổ là sở y của các khổ, bị các khổ ép ngặt: Ở trong thai chín tháng mười tháng đó là thai tạng, như ở trong hầm phẩn uế chịu sự nóng lạnh lâu ngày khổ sở. Vào lúc sanh thục tạng như hai ngọn núi ép ngặt. Chính lúc hướng về cửa sanh thật là khổ nạn, lúc gió nổi lên như ngọn đao cắt vào thân thể, bất giác thất thanh, quên hết những sự việc trước kia của mình. Đây gọi là sanh khổ. Già khổ là lúc các phần biến dịch, thân nặng nề các căn mê yếu. Da dẻ nhăn nhúm đi đứng gượng gạo ăn ngủ bất an. Ngồi đứng rên rỉ ho hen khí nghịch việc làm thì chậm chạp bị người xem thường. Thế tình còn nặng mà thế sự đã dứt. Đó là lúc lão khổ. Bịnh khổ là lúc bốn đại thay đổi trái ngược. Trăm đốt đau nhức tứ chi khổ sở, làm hoại tất cả các việc an lạc vui vẻ. Như mưa đá làm hư hoại các mầm non. Do đây mà trong kinh nói: Như người thanh niên trai trẻ được vương phi trộm yêu mới làm chuyện tư thông. Vua bắt được sai người móc mắt, cắt hết tay chân tai mũ, hình dung bỗng chốc trở nên xấu xí ghê tởm. Bịnh khổ ép ngặt như thế thật là khó kham. Đây gọi là bịnh khổ. - Tử khổ là lúc tuổi thọ biến hoại gió đao cắt lìa thân thể, chẳng có chỗ nào mà không đau khổ. Miệng há hốc, thở vội tay chân bấn loạn tròng mắt láo liên, tay quờ quạng hư không, mồ hôi, tiện uế lưu xuất đầm đìa. Kinh Niết-bàn chép: Tử là nơi hiểm nạn không có tư lương, như đi trên đường xa mà không có bạn lữ. Ngày đêm đi mãi không biết ranh giới, thăm thẳm tối đen không có ánh đèn. Không có cửa vào không có chỗ ở, tuy không đau đớn cũng không thể trị lành, đi không có chỗ dừng, đến mà không được thoát. Không chỗ phá hoại biết đó là sầu độc, chẳng phải là ác sắc xấu mà khiến cho người lo sợ, kêu ở bên tai mà không hay biết. Đó là tử khổ. Xưa tuy là nhờ việc tắm gội cuối cùng cũng trở về bất tịnh. Xưa mượn cái thứ hương nay cũng trở thành nhờm gớm. Xưa lúc còn vương vị tài sản của báu dẫy đầy, thân tộc thê thiếp muôn ức. Bây giờ buông bỏ hết chỉ một mình ra đi sau không còn ai theo. Đặt vào áo quan thân hình bị chèn ép. Cha mẹ vợ con sầu não kêu khóc, bốn phía đầy người thương tiếc. Xưa vì vợ con mà đấu tranh giành giựt tài sản. Vì thân tộc mà kết oán thù, tranh vinh hoa mà hại mạng người. Nay lạc trong đêm dài tăm tối chỉ một mình chịu tai ương làm ác, còn vợ con an nhiên buông lung. Xưa làm ác cũng vì vợ con. Nay sa vào ba đường vì sao chỉ riêng mình chịu khổ. Thật là đáng thương xót! Không đáng sợ sao? Đó gọi là chết khổ. Ưu bi khổ não: Kinh Đạo vu nói: Kêu thương bi cảm những việc đã qua gọi là ưu. Suy tư nối tiếp gọi là bi. Việc khổ ép ngặt gọi là khổ phiền não trói buộc gọi là não. Kinh Thập Địa nói: Lúc chết biệt ly. Người ngu tâm nóng nảy tham đắm gọi là ưu, kêu thương khóc lóc gọi là Bi. Năm căn đối nhau là khổ, ý căn đối nhau gọi là ưu. Ưu khổ càng nhiều thì gọi là não. Cũng vì tài lợi ngũ dục mà chịu khổ não. Loài chim do tìm thức ăn mà mất mạng. Con người vì tài vật mà bỏ mình. Kinh Vô Lượng Thọ chép: Người thế gian không ruộng đất nhà cửa mà sanh ham muốn, cũng là ưu. Có ruộng nhà mà san tham giữ lấy cũng là ưu. Ngũ dục tài lợi cũng như vậy. Sợ sự xâm nhập của năm nhà. Lo bị bốn điều gần cướp đoạt cho nên mới sanh khổ. Kinh: “Lại vì tham đắm cho đến. oán tắng hội khổ.” Tán: Vì lửa san tham ép ngặt mà luân hồi qua các đường. Tài của đạt được thì tham đắm, vật chưa được thì lo tìm cầu, cho nên sanh các khổ. Ngũ dục nói ở trước cũng tức là mong cầu không được khổ này. Trong luận Kim cương Bát-nhã giải thích rằng; bố bảy báu thí khắp hằng hà sa giới không bằng trì kinh này dù chỉ một hoặc bốn câu kệ. Do nơi tài của mà sanh ra ưu não, như vi trần khắp thế giới cho đến. cho đến trì kinh mà diệt trừ phiền não. Như vậy thí tài vật thì phước ít, trì kinh thì phước nhiều, sự khổ của năm đường luân hồi sẽ giải thích trong phần tụng. Sự nghèo cùng khốn khổ chỉ có ở nhân gian. Ái nạn, oán tắng hội khổ có cả trời người. Thiên tử có cường lực vào cung trời, đoạt lấy vợ và đuổi người ra khỏi cung. Trong Du-già quyển thứ bốn nói đầy đủ các việc khổ của chư thiên năm đường các tướng khổ địa ngục trong tụng sẽ nói. Vì trong cảnh giới trời người rất thù diệu thường có ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cho nên nói riêng. Kinh: “Các thứ khổ như thế cho đến” Tán: Trên đã nói đầy đủ bảy thứ khổ ở cõi Dục như thế. Các khổ năm đường ở hậu thế hiện tại cũng có ba khổ. Cõi Sắc chỉ có loại khổ, hành khổ, có lạc, xả. Đối pháp dẫn kinh nói cõi Sắc có hoại khổ gọi là nhập biến hoại tâm. Vô sắc chỉ có hành khổ, không có lạc thọ. Cõi Dục đầy đủ cả tám khổ. Cảnh thượng giới không có bảy khổ trước. Kinh: “Chúng sanh chìm đắm trong đó cho đến không lấy làm lo.” Tán: Đây là hợp nói ưa thích mê đắm, không dùng Tỉ trí giác, không dùng Hiện trí để biết, không lo quả, không sợ nhân, không nhàm chán khổ, không cầu giải thoát. Do đây mà rong ruỗi theo dòng thiện ác chưa hề lấy đó làm lo. Cũng như người ngu vui chơi cùng phân hoại, như kẻ si chạy chơi vào hầm lửa. Chẳng vì tro bụi mà cho là xấu hổ, há là vì lửa thiêu mà lấy làm khổ sao? Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến cho đến khiến cho kia vui vẻ dạo chơi.” Tán: Đây hợp nói khai thị Đại thừa mà không cầu. Dụ trước có bốn: Suy nghó quả Đại thừa để hóa độ. Niệm nhân Đại thừa để hóa độ. Tùy chỉ hành Đại thừa để hóa độ. Không mong cầu hóa độ Đại thừa. Đây hợp có ba, không có phần tùy chỉ hành Đại thừa để hóa độ. Trước tiên hợp với du đầu, kế đến “Xá-lợi-phất, đức Như Lai lại nghó.” là hợp với dụ thứ hai. “Vì sao” hợp với dụ thứ tư. Trí tuệ lạc của Phật, hợp với thân có lực, hoặc dùng bàn ghế để cứu liền các khổ của Độc giác, khiến cho được vui chơi. Đó là hợp với tay có lực, dùng tay áo bỏ liền các khổ của Thanh văn. Nghóa này ý nói: Lại dùng trí tuệ quả Phật và diệu dụng đại thần thông, cứu nạn nhị thừa ra khỏi khổ não vậy? Kinh: “Xá-lợi-phất! cho đến vì thế được độ.” Tán: Hợp suy nghó dùng nhân Đại thừa hóa độ. Nhà chỉ có một cửa, Bồ-tát thì có thể ra được. Nếu ta trao liền cho trí tuệ, thần thông, vì nói nhân Đại thừa để hóa độ hai con, bỏ phương tiện nói ba thừa thì Nhị thừa căn khí nhỏ không thể y theo hành trì mà được qua các khổ? Cửa đã nhỏ hẹp, hoặc sẽ bị đọa lạc. Ý này cũng hợp với việc thầm nói sự sợ hãi, không để cho lửa bị thiêu đốt. Kinh: Sở dó vì sao cho đến. Trí tuệ của Phật. Tán: Hợp với việc không mong cầu hóa độ Đại thừa. Phật tuệ đã sâu làm sao có thể hiểu. Nhị thừa trí cạn nên không mong cầu. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến xe lớn trân báu.” Tán: Đây là đoạn lớn thứ ba. Hợp với việc suy nghó tìm cách cứu khổ. Có hai: Đầu tiên dụ sau hợp. Không dùng trí tuệ lực thân, cũng không dùng thần thông lực tay, chỉ dùng lời nói làm phương tiện để khuyên giải cứu độ các con. Sau khi ra khỏi nhà mới cho xe lớn. Đây nói Phật vì duyên tự tu diệu hạnh mới ra khỏi sanh tử. Cho nên tự thân nỗ lực, chẳng phải do Phật lực hoặc bản thân không tu thân mà có thể được thành Phật. Kinh: “Như Lai cũng lại như thế cho đến Phật thừa” Tán: Đây là hợp nói nhiếp cả trí và thông. Chỉ hành trì phương tiện khuyên thoát ra ba cõi. Như thầy thuốc ứng theo bịnh mà cho thuốc. Chỉ dùng phương tiện dạy biết như thế nào. Thầy thuốc đâu thể dùng dao tay cắt mổ bịnh nhân mà không dùng thuốc sao? Kinh: “Mà nói: cho đến. Sẽ bị thiêu đốt.” Tán: Đây là đoạn lớn thứ tư. Hợp chánh nói Ba thừa có bốn: Khuyên nhàm chán ba cõi. Khuyên giữ Ba thừa. Dẫn việc mình đã chứng. Khen ngợi thắng đức Nhất thừa. Nhà lửa ba cõi là nội thể vậy xấu cũ, là ngũ trần ngoại cảnh Phật khuyên lìa thể của quả khổ trong ngoài, chớ sanh tham đắm. Do tham đắm mà bị phiền não thiêu đốt khổ sở chuyển sanh, Phật khuyên bỏ nhân ác. Tuy có nội thể diệu quả của thân Kim cương. Ngoài hiện ngũ trần Tịnh độ nhỏ nhiệm khởi tâm ưa thích mong cầu, mà chưa nói rõ. Kinh: “Các ngươi mau ra khỏi ba cõi cho đến. Phật thừa.” Tán: Khuyên giữ pháp Ba thừa. Kinh: Ta nay vì ông cho đến. dụ tiến chúng sanh. Tán: Dẫn mình làm chứng. Bảo là sẽ, là tín, là chứng vậy. Nhậm là bảo, là an là có thể là trì. “Cho ông để làm bảo tín chứng minh, an ổn có thể nhậm trì, nói có thể bảo chứng, cuối cùng không luống dối”. Các thầy chỉ giữ chớ sanh nghi hoặc, pháp Ba thừa thật là hảo pháp. Ta vì các thầy mà bảo chứng. Ông chỉ giữ gìn siêng năng tinh tấn. Như người thế gian mua vật mà không có bảo tín thì biết vật đó không thật. Có bảo đảm mua thì biết đó là vật tốt. Pháp Ba thừa cũng vậy ta có thể bảo chứng. Sanh tử chẳng phải thật ta không thể bảo chứng. Kinh: “Lại nói rằng cho đến. không chỗ y cầu.” Tán viết: Khen ngợi thắng đức của thừa. Đầu tiên nói khác nhau sanh tử, sau nói thắng đức của thừa. Đây nêu phần một. Việc sanh tử chư Thánh đều quở trách. Pháp Ba thừa chư Thánh đều khen ngợi, sanh tử ràng buộc làm tăng thêm phiền não không thể tự tại. Ba thừa vô lậu, cho nên không bị ràng buộc, đó mới là tự tại. Pháp hữu lậu gọi là hữu y. Dị thục quả y theo nhân mà có, dị thục nhân y theo quả mà thành. Sanh tử hữu lậu thù thắng là hàng trời người. Có sở cầu gọi là ba thứ cầu. Pháp ba thừa thì không như vậy, chẳng phải cầu giữ không vì mất mà cầu. Chẳng vì không mất mà không cầu. Ba thứ cầu là: Dục cầu. Hữu cầu. Tà phạm hạnh cầu. Luận Du-già nói: Rơi vào dục cầu đó: Tất cả đều là ba thứ dục sanh ra, lại không có tăng giảm. Ba thứ dục sanh là: Hiện trụ dục trần sanh. Nghóa là người và các vị trời ở cõi trời tri túc trở xuống. Tự biến dục trần sanh – tầng trời thứ năm cõi Dục. Tha biến dục trần sanh – tầng trời thứ sáu cõi Dục. Đọa vào hữu cầu thì đều vì ba thứ lạc sanh: Ly sanh hỷ lạc thấm nhuần thân. Định sanh hỷ lạc thấm nhuần thân. Dó ly hỷ lạc thấm nhuần thân. Ba định đầu đối với không khổ không vui, nơi vắng lặng sanh mà khởi thoái cầu đó thật là ít. Cho nên định thứ tư không lập là sanh. Tà phạm hạnh cầu là các chúng ngoại đạo cầu bốn vô sắc cho là nơi Niết-bàn giải thoát. Nay chẳng phải vì ba cầu này nên gọi là vô cầu. Tuy có cầu phạm hạnh mà cầu vô lậu. Tức là cầu chánh phạm hạnh vô thượng, chẳng phải là cầu tà phạm hạnh. Kinh: “Nương ba thừa này cho đến an ổn vui sướng.” Tán: Nói rõ về thắng đức của thừa. Chánh thừa nương rồi vẫn dùng ngũ căn, ngũ lực, thất giáo chi, bát Thánh đạo, tứ thiền cửu định, bát giải thoát, tam Tam-muội v.v cho đến mà tự vui vui sướng, liền đắc vô lượng an ổn vui sướng. Há như là sanh tử nhiều khổ hoạn sao? Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến. ra khỏi nhà lửa.” Tán: Đây là đoạn lớn thứ tư. Hợp với: Nương vào lời dạy mà tránh khổ nạn, Ba thừa chia ra làm ba, mỗi pháp đều có hai: Đầu là pháp, sau là hợp. Đây là đoạn văn đầu. Mỗi pháp đều có bốn lực. Nội trí tánh là nội lực vậy. Tánh là chủng tánh, Phật, Thế tôn là lực bạn lành. Phật làm duyên cho nên gặp được Phật, không gặp Phật thì phải nương vào Phật pháp mới được phát tâm nên gọi là lực bạn lành. Nghe pháp tin thọ là tác ý lực, vì tập chủng tánh; hết lòng tinh tấn là tư lương lực. Lậy tinh cần làm đầu để nhiếp tất cả hạnh. Nương vào tứ thắng lực là nhân, bạn lành, tác ý, tư lương. Chuyên tự tu học cầu nơi Niết-bàn thì gọi là Thanh văn thừa. Nghe pháp tự hành trì mà không thể hóa tha thì gọi là tự cầu, chẳng phải là không cầu Phật mà làm đệ tử. Trong Du-già giải thích: Âm thanh Thánh giáo của chư Phật đứng đầu. Từ thầy bạn nghe được giáo thanh này mà chứng Thánh quả, nên gọi là Thanh văn, đây là y chủ thích. Trong phẩm Tín hiểu nói: Dùng âm thanh Phật giáo để tất cả đều nghe, nên gọi là Thanh văn. Đây là y Chủ thích hoặc hữu tài thích. Trước có cả định tánh sau là bất định tánh. Đây vì cầu Niết-bàn lấy chủng trí sở học mà gọi là thể của xe. Chẳng phải lấy Niết-bàn làm thể xe. Ở đây chỉ nói lược : Kinh: “Nếu có chúng sanh cho đến ra khỏi nhà lửa.” Tán: Đây chỉ có ba lực, lược qua không có lực nhân. Cầu tuệ tự nhiên đó là không cầu đồng ra đời một thời với Phật. Chẳng phải thấy Phật rồi mới đắc quả, như có kinh nói là: Khi Phật Thích-ca ra đời có năm trăm vị Độc giác từ trên núi xuống đi đến chỗ Phật. Thế nên trong kinh Nhân Vương nói có chúng Độc giác, các vị này trước thành đạo rồi sau mới thành Phật, chẳng phải như chúng Thanh văn nương theo Phật mới đắc đạo. Cho nên nói tinh tấn cầu tự nhiên tuệ, có thể chứng đạo . Chỉ thích nơi yên tịnh một mình là Độc giác. Ra đời không có Phật mà có thể chứng đạo, tự mình khéo chứng lý vắng lặng. Lại từ tuệ này mà biết rõ nhân duyên của các pháp. Đó là nghóa Duyên giác. Cho nên trong luận Du-già chép: Quán duyên đối đãi mà chứng Thánh quả nên gọi là Duyên giác, do quán mười hai duyên khởi mà chứng quả. Bích-chi-phật Hán dịch là Độc giác, có hai thứ: Một bộ hành; hai lân giác. Loại đầu tiên thấy Phật, loại sau không thấy. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát tại cung trời Đâu-suất, lúc sắp hạ sanh có hiện ra mười tướng. Tướng thứ ba là bày tay mặt phát ra đại ánh sáng. Thế giới tên là Nghiêm tịnh, trong tam thiên giới, nếu có Độc giác, gặp ánh ánh sáng này thì phải mau nhập vào Niết-bàn. Nếu không thì Phật lực ánh sáng sẽ dời đi đến các Cõi nước khác của chư Phật, nên không được thấy Phật. Nói Độc giác đầy đủ trăm kiếp thì thành Lân giác, không vậy thì là Bộ hành. Nếu từ Thanh văn tu hành phần vị giải thoát mà đắc quả Độc giác thì thành ra dụ Lân giác. Đợi đến trăm kiếp thì còn dài, cho nên vào bốn gốc lành mà thành Độc giác chính là Bộ hành, thì thời gian ít hơn. Độc giác là đợi duyên mà giác ngộ. Đều là y chủ thích. Kinh: “Nếu có chúng sanh cho đến gọi là Đại thừa.” Tán: Trong phần pháp nói đầu nói có hai ý: Giải thích Đại thừa. Giải thích Bồ-tát thừa. Nhất thiết trí là quán Không trí . Trí này ba thừa đều có. Phật trí là quán trí hữu sự, chỉ có Phật là thành tựu. Do tự giác mà sanh ra hai trí này, thì gọi là Tự nhiên trí, không đợi duyên ở người khác gọi là Vô sư trí. Hoặc trí tánh gọi là tự nhiên trí. Trí tướng gọi là vô sư trí. Cầu các quyến thuộc tri kiến như lực, vô úy cho đến là nội đức. Ngoài có thể làm lợi sanh khởi niệm thương xót ban vui, làm lợi ích cứu khổ. Trước từ sau bi, hạnh giải rộng lớn nên gọi là Đại thừa. Kinh: “Bồ-tát cầu thừa này cho đến. ra khỏi nhà lửa.” Tán: Giải thích Bồ-tát thừa và dụ. Bồ-tát là tên gọi chung của Ba thừa. Nếu cầu thừa này thì thêm Ma-ha-tát, là đại hữu tình. Các thứ khác không gọi như vậy. Luận Niết-bàn của ngài Vô Trước chép: Do tương ứng với bảy thứ tánh mà thêm chữ Ma-ha-tát. Cầu trí là Bồ. Mẫn niệm là Tát. Trong ba thừa này mỗi thừa đều có một loại một tánh, ba thứ hai tánh, một loại ba tánh. Chủng loại tánh định, bất định tánh đều khác nhau. Sơ, hậu phát tâm đắc quả bất định như ngài Đại Ca-diếp nếu không gặp Phật thì chỉ là Độc giác. Do gặp Phật tu hành Thanh văn. Ngài Xá-lợi-phất dựa theo đây mà biết. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến mà ban cho các con.” Tán: Đây là đoạn lớn thứ hai hợp nói thật pháp ngày nay. Có hai: Hợp nói thật. Hợp giải thích nghi. Dụ trước có bốn, nay chỉ hợp có hai: Hợp giải thích thành tựu chí của cha, là các chúng sanh. Hợp cha chỉ cho một xe, không hợp các con xin ba xe, vượt ngoài điều con mong muốn. Phần đầu lại có hai: Nêu dụ trước. Dùng pháp hợp. Trong phần dụ có hai: Thấy con được ra, tâm thư thái, ông tự nghó cho đến. Hợïp với thành tựu chí nguyện của cha. Kinh: “Như Lai cũng giống như thế cho đến đắc Niết-bàn lạc.” Tán: Hợp với chí cha. Cũng có hai: Hợp thấy con được ra, tâm thư thái. Hợp giải thích thành tựu chí cha. Dùng giáo làm cửa mà ra khỏi nhà lửa ba cõi. Vì hành trì làm cửa mà nhập vào quả Niết-bàn. Trong đây chỉ có giáo môn ra khỏi nhà lửa, không nói hành môn. Giáo cũng có thể nhập vào lý. Đây chỉ nói ra mà không nói nhập. Cũng có thể nói được vui Niết-bàn tức gọi là nhập. Kinh: “Bấy giờ Đức Như Lai cho đến Mà diệt độ họ.” Tán: Đây hợp với giải thích thành tựu chí nguyện của cha. Con đã không sai khác thì nên đều cho Đại thừa. Vì sao chỉ có Bồ tát đắc diệt độ của Phật, mà không cho Nhị thừa, lẽ ra dùng đại nhập Niết-bàn của Phật mà bình đẳng diệt độ cho chúng, không để cho một Bồ tát đắc, còn hai thừa kia thì không đắc. Kinh: “Các chúng sanh cho đến Đầy đủ sự vui.” Tán: Hợp nói cha chỉ cho một: Có hai ý: Thể và đức của xe. Đều cùng với chư Phật: Nhị thừa bất định và Bồ-tát tánh. Cũng đồng với giải thoát thiền định của Phật thừa. Nhất thừa trang nghiêm muôn thiện đầy đủ. Kinh: “Đều là một tướng cho đến là vui bậc nhất.” Tán: Đây nói về Đức của xe. Xe Nhất thừa này có đầy đủ các thứ tô điểm xinh đẹp. Một tướng lìa tạp nhiễm, một chủng loại vô lậu. Hoặc nhân hoặc quả mà các bậc Thánh khen ngợi, có thể khến cho chúng sanh được vui vô lậu tịnh diệu bậc nhất, là căn bản của đức. Trong năm lạc là lạc không có não hại. Trong bốn vô não thì giác pháp, thứ ba vắng lặng thứ tư thuộc về hai lạc. Khác nhau với công đức sở hữu xe dê xe hươu của Nhị thừa, chẳng phải đều lìa hết tạp nhiễm, cũng chẳng thuần là vô lậu. Các Thánh tuy có mà không khen ngợi sanh lạc, chẳng phải bậc nhất. Đây gọi là Đại thừa. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến lỗi không luống dối ”. Tán: Đây là hợp giải thích nghi. Có hai: Nêu dụ và giải thích nghi. Dụ trước có ba: Là hỏi, đáp, và ấn. Nay chỉ nói chung về ấn khả. Vật báu trang nghiêm muôn đức đầy đủ. An ổn đệ nhất lìa hết tai nạn. Kinh: Như Lai cũng giống như thế cho đến mà độ thoát. Tán: Đây hợp có hai: Nêu và giải thích Kinh: “Vì sao cho đến không thể thọ hết.” Tán: Đây là phần giải thích. “Nhất thừa của ta công đức vô lượng, chúng sanh có thể thọ dụng vô tận. Chúng sanh hoặc hữu tánh hoặc vô tánh. Hoặc có định tánh, hoặc có bất định tánh. Hoặc đầu tiên thích tiểu sau lại thích Đại. Do bất tận này đều có thể lãnh thọ. Cho nên trước ta nói Ba thừa nay chỉ nói nhất thật chẳng phải dối gạt, chỉ là pháp dẫn dụ dần. Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến phân biệt có ba.” Tán: Đây là đoạn văn thứ ba, kết luận đáp. Do trên đã nói nhân duyên đạo lý. Đối với thể Nhất thừa, phân biệt nói có ba giáo. Đối với một cực quả nói có ba nhân mà thật không có ba thể, ba quả tột cùng. Tăng Giác Ấn ghi tại chùa Pháp Long Ngày 12 Tháng 5, Niên hiệu Bảo An thứ ba.