<經 id="n1721">PHÁP HOA NGHÓA SỚ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1721 PHÁP HOA NGHÓA SỚ Tác giả: Cát Tạng <卷>QUYỂN 1 PHẨM TỰA THỨ NHẤT (Phần 1) Muốn đi vào văn kinh thì trước nói ba nghóa, một là bộ loại khác nhau, hai là thứ lớp các phẩm khác nhau, ba là chi chia khoa toàn kinh. Bổ loại khác nhau lược: chia làm bảy phần: Một là Kinh thuộc một hội được xếp vào một bộ, như kinh Thập Địa v.v… Hai là kinh thuộc nhiều hội xếp vào một bộ, như kinh Hoa Nghiêm. Ba là phần đầu kinh được xếp vào một bộ, như kinh Nê-hoàn (loại sáu quyển). Bốn là đầy đủ hai phần được xếp vào một bộ, như kinh Đại Bát Niết-bàn. Năm là bản lược được xếp vào một bộ, như kinh Tiểu Phẩm, v.v,v.v… Sáu là bản rộng được xếp vào một bộ, như kinh Đại Phẩm. Bảy là một phẩm được xếp vào một bộ, như phẩm Quán Thế Âm. Nay kinh Pháp Hoa này đối với bảy loại trên là bản đầy đủ, như y theo văn tiếng Phạn thì nói lược có sáu ngàn bài kệ. Nói về thứ lớp phẩm khác nhau, lại chia ra năm nghóa. Một là sanh khởi thứ lớp, hai là nói về ý nghóa đầy đủ nhiều ít. Ba là nói về thứ lớp phẩm trước sau. Bốn là nói về phẩm có hoặc không. Năm là giải thích riêng phẩm tựa. Sanh khởi thứ lớp tức phần lớn nói về thứ lớp, gồm có hai môn: Một là căn duyên thứ lớp, nghóa là thích ứng căn cơ mà nói pháp. Hai là nghóa lý thứ lớp, tức dựa theo nghóa lần lượt sanh nhau. Song, Phật nói kinh tuy có đủ hai môn này nhưng thường là y theo loại căn duyên thứ lớp. Các đệ tử soạn luận cũng đầy đủ hai môn này nhưng thường y theo nghóa lý thứ lớp. Nay hai mươi tám phẩm thứ lớp sanh nhau nghóa là. Hễ đến người nói pháp ắt có lý do ghi chép nên ban đầu nói phẩm Tựa, Tựa xong mới thích hợp khai mở phần chánh tông. Vì muốn nói lên Nhất thừa là chân thật, nên trước khai Ba thừa làm phương tiện, nên kế đến nói phẩm Phương tiện. Hàng thượng căn nghe nói pháp trước 1iền lãnh ngộ, người trung căn chưa thể lìa lời nói mà hiểu được pháp, cho nên đợi dùng thí dụ, nên kế là nói phẩm Thí Dụ dựa theo pháp đã nói trước mà nêu ra thí dụ sau. Lại đồng lãnh giải nên có phẩm Tín Giải, ấn chứng sự tin hiểu ấy là thật, khởi lại thí dụ thuật nghóa thành tựu nên có phẩm Dược Thảo dụ. Lãnh thọ sự hiểu biết ở trước, thuật thành ở sau đương quả có thể mong, nhận lãnh sự thọ ký nên có phẩm Thọ ký. Từ đầu đến phẩm này người thượng căn, trung căn đều đã lãnh ngộ, người hạ căn còn chưa hiểu rõ nên nói bắt đầu kết duyên ở quá khứ, ví dụ hóa thành hiện tại mà có phẩm Hóa Thành Dụ. Người hạ căn nghe nói hai châu trên và nghe nhân duyên đời sau liền được hiểu rõ, có khả năng được thọ ký nên có phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký. Chúng hiển danh đã lãnh giải, người mật hạnh, lại được ngộ nên có phẩm Thọ Hữu học, Vô Học Nhân Ký. Ba lần nói pháp đã rồi, ba căn đều được lãnh ngộ, lại muốn truyền pháp này cho thế gian khác đều nghe, nên khen ngợi pháp mầu nhiệm, khiến người mở rộng đạo lớn, nên có phẩm Pháp sư. Muốn chứng minh ba lần nói pháp trước đây là không luống dối, lại muốn chỉ bày pháp thân quả đức, nên có phẩm Hiện Tháp báu. Pháp sư, tháp báu, tuy là khen ngợi người chứng pháp nhưng chưa bằng lý do gần Đạt-đa mà tự đến thành Phật, đề cao vực nầy để chứng nghiệm khuyên muôn vật mở rộng kinh, nên có phẩm Đề-bà-đạt-đa. Ba phẩm trên là khen người, khen pháp để khuyến khích mở rộng kinh, Bồ-tát Thanh văn vâng lời giảng nói giữ gìn nên có phẩm Trì. Đã ở trong đời ác muốn mở rộng đạo thiện thì có nhiều khổ nạn, nên nói về phương pháp mở rộng kinh khiến cho an trụ vào bốn hạnh, thân tâm vui sướng, nên có phẩm Hạnh an lạc. Nhân bốn hạnh thành tựu, quả mầu nhiệm thích hợp nói lên. Nhưng có Bồ-tát Dũng xuất mở ra duyên thọ từ lâu xa nên có phẩm Dũng xuất. Duyên khai phát rõ, tuổi thọ, chánh tông thích hợp nói lên nên kế là phẩm Thọ Lượng. Nghe nói tuổi thọ được mười hao lợl ích, nay phân biệt rộng nên có phẩm Phân Biệt Công Đức. Từ đầu cho đến phẩm Phân Biệt Công Đức là nói về hai quyền hai thật, thường là nghịch tai trái tâm. Nếu có thể tùy hỷ thì phước ấy vô lượng, nên có phẩm Tùy Hỷ Công Đức. Đệ tử tùy hỷ phước đã vô biên, Pháp sư giảng nói hành trì thì sáu căn được thanh tịnh, nên có phẩm Pháp Sư Công Đức. Tuy đã nêu năm loại pháp sư được sáu ngàn công đức, nhưng nay lại dẫn việc tự thân chứng đắc không luống dối ở đời quá khứ, bao gồm nói về các công đức ở phẩm trên, nên có phẩm Thường Bất Khinh Bồ- tát. Các phẩm trước đây là khen pháp, khen người, nghóa đã rõ, Chư Phật mười phương thấy chúng sanh trong hai đời tin hiểu và thọ trì kinh này nên tâm sanh vui mừng, hiện ra bảy thứ thần lực nêu có phẩm Như lai Thần Lực. Nói về phần truyền bá thì gồm có hai phần, một là khen ngợi, hai là phó chúc. Trước đây đã khen ngợi rồi, nay kế phần phó chúc nên có phẩm Chúc Lụy. Ngài Dược Vương theo lời dạy của kinh, tự thân được lợi ích, xả bỏ thân mạng, tài vật để cúng dường báo ân, để làm gương cho người thọ mệnh mở rộng thông kinh, nay nói duyên xưa lợi ích cho hội bấy giờ, nên có phẩm Dược Vương Bồ-tát bổn sự. Dược Vương tuy báo ân cúng dường mà vẫn chưa nói về nghóa giảng nói truyền bá pháp này, nên mời ngài Diệu Âm nói về phân thân trong sáu đường vì chúng sanh để mở rộng kinh, nên có phẩm Diệu Âm Bồ-tát. Chúng sanh tuy muốn trì kinh nhưng có nhiều tai nạn, phải khắp, chỉ bày các pháp môn đại bi cứu giúp, nên kế là nói phẩm Quán Thế Âm. Đã nói người tức Quán Thế âm cứu nạn, kế nói pháp Thần chú để hộ trì nên có phẩm Đà-la-ni. Vì chúng sinh mở rộng kinh, bởi chúng sanh này đúng là thiện tri thức, nên nói phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự. Tu hành Nhất thừa tức là thực hành hạnh của ngài Phổ Hiền, vì thế ngài Phổ Hiền từ phương xa đến khen ngợi khuyến khích phát khởi, nên có phẩm Phổ Hiền Bồ-tát khuyến phát. Kế phần thứ hai là nói đầy đủ ý nghóa nhiều ít. Tuy có hai mươi tám phẩm mà tên gọi thì có ba loại: Một là dùng một nghóa mà được tên gọi. Hai là dùng hai nghóa mà được tên gọi. Ba là do ba nghóa mà được tên gọi. Dùng một nghóa mà được tên gọi: lược có bốn loại: Một là từ pháp mà được tên gọi, như phẩm Phương tiện v.v… Hai là từ thí dụ làm tên gọi như phẩm Thí dụ. Ba là từ người mà được tên gọi như phẩm Đề- bà-đạt-đa. Bốn là từ việc mà làm tên gọi, như phẩm Tùng Địa Dũng Xuất. Do hai nghóa mà được tên gọi: Hoặc nêu cả người và pháp như phẩm Phổ môn Quán Thế Âm, hoặc Năng sở hợp làm tên gọi như phẩm Hiện Tháp báu. Do ba nghóa mà được tên gọi: Như phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký, Ngũ Bá là số, đệ tử là tên gọi của người, thọ ký là pháp. Hỏi: Tên phẩm là do Phật nói, là do người kiết tập kinh đặt, hay do người đời sau chế ra? Đáp: Nói đủ có ba nghóa: Nếu trong văn kinh có nêu tên phẩm như chép: “Nghe phẩm Dược Vương Bổn Sự này thì công đức vô lượng”, đây chính là do Phật nói. Nếu nêu tên phẩm đặt ở phần đầu văn kinh, đây là do người kiết tập kinh lấy ý của Phật mà đặt tên phẩm. Như chín mươi chương của kinh Đại Phẩm, không có tên phẩm, đều là do người đời sau chế ra. Trong bài tựa kinh Đại Phẩm do Duệ Pháp Sư thuật lại lời ngài Cưu ma la-thập rằng: “Kinh Đại Phẩm chỉ có ba phẩm là phẩm Tựa, phẩm Ma-sự và phẩm A-bệ-bạt-trí. Do phẩm chẳng phải do Phật nói nên lược bỏ hai phẩm, chỉ giữ lại phẩm Tựa”, vì vậy biết chẳng phải Phật nói mà do người đời sau chế ra. Phần thứ ba nói về thứ lớp trước sau của các phẩm. Các kinh có phẩm Chúc Lụy thường là đặt ở cuối kinh, còn như kinh Pháp Hoa thì đặt sau phẩm Như lai Thần Lực, là do y theo bản Phạm và luận Pháp Hoa. Lại nữa, ở đất Tần lúc mới dịch kinh Pháp Hoa thì đặt phẩm Chúc Lụy ở cuối kinh, sau đó ngài La-thập giỏi về ngôn ngữ đời Tần hiểu được ý chỉ kinh, liền đặt phẩm Chúc Lụy ở sau phẩm Như lai Thần Lực, hẳn là có ý sâu xa. Vì sao như vậy? Vì nếu phẩm Chúc Lụy đặt ở cuối kinh thì khi nói kinh xong mới khiến phân thân trở về bổn quốc, như vậy khi nói kinh xong còn là Tịnh độ, sao khi Bồ-tát Diệu Âm đến Phật còn căn dặn là “ở cõi này chớ sanh ý tưởng thấp kém”? Lại nữa, Bồ-tát phương dưới đã đảnh lễ khắp phân thân, bậc thượng nhân ở Đông độ không nên chỉ lễ Phật Đa Bảo, ngài Quan Âm dâng chuỗi hạt châu lẽ ra không nên chỉ chia làm hai phần theo đây mà sét, thì biết phẩm Chúc Lụy không đặt ở cuối kinh, mà đặt sau phẩm Như lai Thần Lực. Nói về Nhất thừa gồm có hai hạng, một là Phật thừa, hai là Bồ-tát thừa, cho nên trong luận Thập Nhị Môn chép: “Sở thừa của Chư Phật đại nhân lẽ ra gọi là Đại, sở thừa vững chắc của các Đại só như Quán Âm, Di-lặc v.v… nên gọi là Đại. Từ đầu kinh cho đến phẩm Như lai Thần Lực là nói pháp sở thừa của Chư Phật, Phân thân Chư Phật vì muốn nói lên tuổi thọ nên đến, nói lên tuổi thọ dài lâu xong mỗi vị đều trở về bổn quốc thì cõi trở lại uế, ý nghóa chương này nói xong rồi cho nên phó chúc. Từ phẩm Dược Vương Bồ-tát đến phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát là nói về sở thừa của Bồ-tát, hai thừa nhân quả đã tròn đầy nên đại chúng đều phân tán, vì nhân duyên này nên đặt phẩm Chúc Lụy trước phẩm Dược Vương Bổn Sự. Lại nữa, Một phẩm Chúc Lụy đã nói về việc phó chúc, mà các phẩm Dược Vương về sau là thọ nhận mở rộng kinh, do đây suy ra thì không nên để phẩm Chúc Lụy ở cuối kinh. Phần thứ tư nói về phẩm có và không. Ngài La-thập dịch kinh chỉ có hai mươi bảy phẩm, về sau lại có thêm phẩm Đề-bà-đạt-đa. Theo sách của ngài Thích Đạo Tuệ đời Tống đời Tề chép: “Ngài Thích Pháp Hiến ở chùa Định Lâm Thượng thuộc nước Vu-điền tìm được phẩm này, Sa môn Thích Pháp Ý ở chùa Ngõa Quan dịch thành phẩm Đề-bà-đạt-đa vào tháng mười hai năm, niên hiệu Vónh Minh thứ tám đời Tề, nhưng chưa nhập vào kinh Pháp Hoa. Cuối đời Lương có người ở Ưu Thiền Ni thuộc nước Tây Thiên-trúc tên là Bà-la Mạt-đà (Hán dịch là Chân-đế) lại dịch phẩm này, mới xếp vào sau phẩm Hiện Tháp báu. Hỏi: Ngài Trúc Pháp Hộ dịch kinh Chánh Pháp Hoa, sau phẩm Hiện Tháp báu có việc Đề-bà-đạt-đa, vì sao ngài La-thập không dịch? Đáp: Việc này lại khó nói về, nay tạm dùng ba nghóa để giải thích. Là do nước ngoài truyền vào, phía Tây vùng Lưu-sa thường có phẩm này, nhưng phía Đông vùng Lưu-sa thì không có phẩm này. Vì sao? Vì phái Tiểu thừa đều cho rằng kinh các nơi là do Điều-đạt sáng tác, cho nên các nước hoặc có, hoặc không có phẩm này, ngài La-thập lại ở nước Quy-tư nên không thấy phẩm này, vì vậy không dịch. Ngài La-thập dịch kinh quán xét thấy căn cơ, tình lý mỗi việc quá nhiều nên lược bớt, nếu dịch đầy đủ như luận Trí Độ thì gấp mười lần ở đây, sợ rằng tìm tòi khó nên lược thành một trăm quyển. Nếu dịch thành một trăm bộ luận thì vô ích ở Trung hoa còn năm mươi bài kệ, vì thế kinh Chánh Pháp Hoa gồm có mười quyển nên mà bỏ bớt văn rườm rà nên lược bảy quyển. Phẩm Hiện Tháp báu làmệnh lệnh thọ trì, phẩm Trì ứng với mệnh lệnh nên nói về thế kế nối, nếu ở giữa chen vào phẩm Đề-bà-đạt- đa thì lời văn dường như sai, lại sợ người đời sau nghi ngờ nên lược bỏ. Phần thứ năm giải thích riêng phẩm Tựa: Tựa nghóa là dần dần, mượn thời gian, mượn nơi chốn mà làm mưa hoa, mặt đất rung chuyển để đến phần Chính là nói, do chuyển dần ấy nên gọi là tựa. Lại, Tựa cũng có nghóa là thứ lớp, là kế đầu tiên nói về duyên khởi, kế là nói phần chánh kinh, nên là nghóa lý thứ lớp. Lại nói tựa cũng là thứ lớp tốt lành, ở đầu kinh đã nêu việc thứ lớp tốt lành có thể xét thấy. Tựa cũng có nghóa là mở ra, vì muốn nói lên sự và nghóa mở rộng ra nên gọi là Tựa. Chữ phẩm, tiếng Phạm gọi là Bạt Cừ, Hán dịch là Phẩm, phẩm gọi là phẩm riêng, bởi hai mươi tám chương ý nghóa mỗi chương khác nhau nên gọi là biệt, cũng gọi là phẩm loại, do ý nghóa mỗi phần có bộ loại. Phần thứ ba nói về chương đoạn khác nhau. Hỏi: Nước Thiên-trúc và Trung hoa khi chép kinh hoặc truyền miệng để giảng nói kinh luận thì không ngoài hai thứ, một là khoa chương, hai là thắng giải thích. Như ngài Thiên Thân giải thích kinh Niết-bàn có bảy phần, ngài Long Thọ giải thích kinh Bát-nhã không có chương môn, bởi các luận sư Thiên-trúc chia ra hai loại khai và không khai. Ngài Hà Tây chú sớ kinh Niết-bàn chia làm năm môn, Ngài Đạo Dung giảng bộ kinh Pháp Hoa bản tân dịch chia làm chín phần (Triệt) còn tập giải lời ngài Tịnh Danh soạn chú thích văn Pháp Hoa chỉ chia chẻ nhỏ nhặt mà không nói hết phần khoa, bởi các sư Trung quốc lấy hai nghóa khai và không khai. Nay giải thích ý nghóa ấy như thế nào? Đáp: Luận rằng thích ứng việc giáo hóa thì không cần phương cách, rèn luyện dẫn dụ thì chẳng phải một, xét thấy tâm Thánh lấy dứt lo sanh tử đứng đầu đích, ý chủ thống giáo lấy việc khai đạo làm tông. Nếu do khai mà ngộ thì Thánh giáo sẽ vì khai, nếu do hợp mà thọ lãnh đạo thì Thánh giáo sẽ vì hợp, nếu cả hai cùng sáng tỏ là cam lộ còn cả hai đều mê thì thành thuốc độc. Như vậy, đâu thể giữ riêng một lối để ngăn chận chín đường? Hỏi: Có người chép: Kinh thì không có đại, tiểu, chia ra ba đoạn là phần tựa, chánh kinh và truyền bá, việc này thế nào? Đáp: Lãnh giải hướng Viên mà luận thông suốt, vì khai đạo nói dứt mối lo sanh tử biết đủ các đường đúng sai, sao lại hỏi về sự được mất của ba đoạn ư? Nếu tùy tiện chấp ba chương thì có nhiều lỗi, nếu do phần đầu mà ngộ thì phần đầu là chánh kinh, nhờ chương sau mà vào đạo thì chương sau chẳng phải phụ, sao lại nói là phần đầu phần sau chẳng phải chánh kinh, phần giữa mới là chánh tông? Đem điều trái chấp giữ khuôn phép, lấy hạn cuộc mà giải thích Đại ư! Hỏi: Đoạn đầu nói việc nhập định, phát ra ánh sáng, hoa tuôn rãi như mưa, mặt đất rung chuyển là lý do dần dẫn đến chính là nói, sao gọi là chánh kinh? Đáp luận rằng: Nê-hoàn, Pháp bảo vào có nhiều cửa, kinh khen ngợi kinh được ngộ khác nhau, Phật sự chẳng phải một hoặc dựa vào âm thanh để chuyển phàm, hoặc do im lặng mà thành Thánh, hoặc nhờ ánh sáng để ra đời tục, hoặc nhờ hương Phạn mà vào đạo, cho nên ba nghiệp đều là duyên thuận lợi, sáu trần đều là Phật sự. Đây chính là bậc Thánh trước đối với Viên hóa mà giống như ở cuối, bó buộc ở văn chật hẹp, chưa thể gọi là đúng! Ngài Đạo Lãng ở Hà Tây chia kinh này thành năm đoạn. Từ sau câu “Tôi nghe như vầy” đến hết phẩm Tựa là nói tướng chuyển của kinh Pháp Hoa. Từ phẩm Phương Tiện đến hết phẩm Pháp Sư là nói về pháp không có hai thể của kinh Pháp Hoa. Từ phẩm Hiện Tháp báu đến hết phẩm Như lai Thọ Lượng là nói về quả thường trú pháp thân của kinh Pháp Hoa. Từ phẩm Phân Biệt Công Đức đến hết phẩm Chúc Lụy là nói về việc tu hành Pháp Hoa phát sanh công đức. Từ phẩm Dược Vương Bồ-tát bổn sự cho đến hết kinh là nói về quy cách truyền bá của kinh Pháp Hoa. Hai Pháp sư Long và Quang lại chia kinh này thành hai đoạn: Từ phẩm Tựa đầu đến phẩm Hạnh an lạc, mười ba phẩm này là khai Ba thừa bày Nhất thừa. Từ phẩm Tùng Địa Dũng Xuất đến hết kinh, mười bốn phẩm này là bỏ gần mà bày xa. Trong hai đoạn này, mỗi đoạn lại chia làm ba phần là tựa, chánh kinh và truyền bá, hợp lại thành sáu đoạn. Pháp sư Ấn lại chia kinh này thành bốn đoạn. Phẩm Tựa là phần lời tựa. Từ phẩm Phương Tiện đến hết phẩm Hạnh an lạc, mười hai phẩm này là bỏ ba thừa bày Nhất thừa, nói về thừa phương tiện, thừa chân thật. Từ phẩm tùng Địa Dũng Xuất đến hết phẩm Phân Biệt Công Đức, Di-lặc nói kệ về trước gồm hai phẩm rưỡi là bỏ gần mà bày xa, nói về thân phương tiện, thân chân thật. Từ phẩm Phân Biệt Công Đức đến hết kinh là phần truyền bá. Tuy nói rằng trước phẩm Hạnh an lạc là phần nhân, nhưng từ phẩm Hiện Tháp báu trở xuống ba phẩm lại lý do thứ lớp của tông quả, phải hai hướng đều xem. Vì sao? Vì phẩm Hiện Tháp báu là Phật Đa Bảo giúp bảo tìm người truyền bá kinh, cho nên mới có phẩm Trì và phẩm Hạnh an lạc truyền bá ở nhân, vì thế thuộc về phần nhân. Kế đến có Bồ-tát từ đất vọt lên chánh là thứ lớp tuổi thọ, do trước có mang lệnh nên mới vọt lên, thì ba phẩm trước lại có ý nghóa nói về tuổi thọ, cho nên phải luận cả hai hướng. Hỏi: Lời các sư nói lấy gì hướng về tông? Đáp: Nếu tất cả đều có thể khai đạo để thích ứng với cơ duyên, thì đối với lời nói đều là chánh tông. Nhưng suy văn xét nghóa thì ba đoạn rất dài, cho nên phải sử dụng. Hỏi: Ban đầu nói về ba đoạn có chỗ mất, sao nay lại sử dụng? Đáp: Ý nghóa có hai, là chung và riêng. Nói theo chung thì ngộ cả ba tức ba phần đều là chính là nói. Nói theo riêng thì nên chia làm ba đoạn, nếu lãnh ngộ đầy đủ ý nghóa chung và riêng, theo lý thì không có thiếu sót. Hỏi: Lập ba đoạn là có ý nghóa gì? Đáp: Nói lược có mười nghóa: Bậc thánh nói pháp thì có giải thích phần tựa, dùng lý sâu mà giáo hóa phàm phu phải làm cho tai mắt kinh sợ, tự nhiên nói thì không khởi tâm cung kính, cho nên phần đầu kinh phải đặt phần tựa. Đã tónh tâm tín ngưỡng thì mới khai tông trao pháp, vì vậy kế là có phần chính là nói kinh. Chúng sanh vô cùng nên tạm đại bi vô hạn, vì muốn truyền dạy nên kế là phần lưu thông. Vì đối với ngoại đạo nên nói ba phần. Ngoại đạo nói rằng: Chỉ ban đầu là tốt lành, phần giữa phần sau không có tốt lành. Hoặc nói do phần đầu tốt nên phần giữa phần sau lại tốt. Phật Pháp thì không đúng, chia làm ba phần mà ba phần đều tốt. Cho nên trong kinh chép: Lời đầu thiện, lời giữa thiện, lời sau cũng thiện. Luận Đại Trí Độ chép: Chư Phật có ba thời làm ích lợi: Lúc làm Bồ-tát ở thời quá khứ làm lợi ích chúng sinh, lúc thành Phật ở đời hiện tại làm lợi ích chúng sinh, sau khi diệt độ ở đời vị lai làm lợi ích chúng sinh. Phần tựa, phần chính là nói tức là đời hiện tại làm lợi ích chúng sinh, phần truyền bá tức là đời vị lai làm lợi ích chúng sinh. Phần tựa nói phát khởi tín tâm, phần chánh kinh nói phát sanh trí tuệ. Cho nên trong Đại luận chép: Biển lớn Phật Pháp, tin là vào được, có trí là có thể vượt qua, hai thứ này là tự thực hành. Kế phần truyền bá là để giáo hóa mọi người, tức gọi là hóa tha. Đây có hai hạng người, người có phước tuệ sâu dày gặp Phật nghe pháp nên hiểu phần tựa, nhập vào chánh kinh. Người phước tuệ yếu kém chỉ gặp kinh quyển thì phải dùng phần truyền bá. Cho nên phẩm Thường Đề trong luận Đại Trí Độ chép: Người có phước tuệ dày thì hướng về Bồ-tát Đàm Vô-kiệt nghe nói Bát-nhã, người phước tuệ mỏng thì chỉ gặp Bát-nhã trên giấy, tức là việc này. Mở rộng chánh pháp của Như lai gồm có hai loại, một là thắp đèn sáng, hai là nối kế đèn. Thắp đèn sáng tức là phần tựa và phần chánh kinh, nối kế đèn là phần truyền bá. Chư Phật ba đời gồm có hai việc: Một là nhận lời phó chúc của Phật đời trước, hai là phó chúc cho Phật đời sau. Phần tựa và chánh kinh tức là nhận lời phó chúc của. Phật trước, phần truyền bá là phó chúc cho Phật đời sau. Đây chỉ có ba phần, một là tiền phương tiện tức phần tựa, hai là thể của kinh tức phần chính là nói, ba là dụng của kinh tức là phần truyền bá. Đây cũng có ba phần: một là lý do dẫn nói, hai là chính là nói, ba là khen ngợi, khen ngợi tức là truyền bá. 10 Căn tánh có ba bậc thượng, trung, hạ, đức Như lai nói pháp có đủ ba thời. Một phẩm đầu gọi là phần tựa, từ phẩm phương tiện đến phẩm Phân Biệt Công Đức trừ bài kệ còn mười lăm phẩm rưỡi gọi là phần chánh kinh, từ bài kệ cho đến hết kinh gồm mười một phẩm rưới gọi là phần truyền bá. Hỏi: Phần tựa đã gọi là phẩm Tựa, còn phần chánh kinh và phần truyền bá sao không gọi là phẩm Chính là nói và phẩm truyền bá? Đáp: Phẩm tựa văn ít mà nghóa sáng, không có lẫn lộn nên chỉ gọi là phẩm Tựa. Phần chính là nói thì văn dài mà nghóa rộng, cho nên bỏ tên gọi chung, tùy theo nghóa riêng mà gọi tên, phần truyền bá cũng vậy. Ba đoạn này mỗi đoạn lại chia làm hai chương, phần tựa có tựa chứng tín và tựa phát khởi. Chứng tín khiến cho chúng sanh đời sau sanh tâm tin đối với kinh, phát khởi là dựa vào sự linh thiêng khác thường mà phát khởi chánh kinh, lợi ích ở hiện tại để giáo hóa thấm nhuần đời này đời sau, cho nên nói cả hai lời tựa. Phần chính là nói có hai chương, từ phẩm Phương tiện đến phẩm Pháp Sư là nói về thừa phương tiện, thừa chân thật, từ phẩm Hiện Tháp báu đến phẩm Phân Biệt Công Đức trừ bài kệ là nói về thân phương tiện, thân chân thật. Sở dó chia làm hai, vì thừa gọi là pháp sở thừa, thân gọi là người năng thừa, có hai thừa này thì nghóa mới đầy đủ. Hỏi: Thân phương tiện, thân chân thật sao lại là người? Đáp:1uận Pháp Hoa giải thích tuổi thọ nói ba Phật mà kinh Kim Quang Minh nói ba Phật là phẩm Ba Thân, cho nên biết ba thân tức là ba Phật, Phật tức là người. Hỏi: Thừa phương tiện, thừa chân thật, tức Nhất thừa là thật, hai thừa là phương tiện, còn ý nghóa thân thì thế nào? Đáp: Trong ba thân thì pháp thân là thật, ứng thân và hóa thân là thân phương tiện. Hỏi: Pháp thân là thật, đến cảm là ứng, chỉ lập một chân một ứng, còn thừa có được như vậy hay không? Đáp: Dùng Đại thừa làm thật, Tiểu thừa làm phương tiện, lại được một phương tiện, một chân thật. Nhưng y cứ việc xưa nay khác nhau gồm có ba nghóa: Song nói, song phú và song khai. Song nói tức lúc đầu thành Chánh giác, nơi đạo tràng vắng lặng, Phật vì các Bồ-tát nói cả hai nghóa. Như phẩm Tín Giải nói ông Trưởng giả là dụ cho thân chân thật, vật báu la liệt là dụ cho thừa chân thật. Song phú là cùng che, như cởi y phục quý giá để mặt y phục dơ xấu, đây là dùng thân phương tiện che thân chân thật, ẩn nấp bên người hầu lại sai khiến người khác, đây là dùng thừa phương tiện che thừa chân thật. Nhưng khai là cùng khai mở, nói ba thừa ngày trước là phương tiện, Nhất thừa ngày nay là thừa chân thật, nói thân ngày trước là phương tiện, thân nay là chân thật. Nhưng thừa và thân chẳng phải hai thể, tức chỉ một chánh quán nhưng tùy nghi mà nói, vận dụng tự tại nên gọi là Thừa, thể có khuôn phép nên gọi là pháp, lấy pháp làm thân nên gọi là pháp thân. Truyền bá cũng có hai phần, từ bài kệ trong phẩm Phân Biệt Công Đức cho đến phẩm Như lai Thần Lực gọi là khen ngợi truyền bá. Từ phẩm Chúc Lụy cho đến hết kinh là nói về phó chúc truyền bá. Sở dó nói hai nghóa này, là vì muốn phó chúc khiến mở rộng kinh thìphải khen ngợi công năng kinh sâu xa, khen người có đức dày để chúng sanh ưa thích lợi ích này rồi mới thọ mệnh mở rộng kinh. Cho nên, trước nói hen ngợi, sau mới nói về phó chúc. Nay giải thích phần tựa chứng tín gồm có hai ý: Một là giải thích chung, hai là giải thích riêng, trong phần giải thích chung lại chia làm sáu phần: Lý do lời tựa, Chư Phật ba đời giảng nói mười hai bộ kinh đều có sáu việc, nhưng phải đợi thị giả thưa hỏi rồi mới nói khiến được an ổn. Như kinh Tập Pháp Tạng chép: Thị giả A-nan hỏi bốn việc: một là lấy ai làm thầy, hai là nương vào đâu để hành đạo, ba là làm sao để ở chung với người xấu ác, bốn là trong kinh Phật trước tiên nên đặt lời gì? Như lai đáp rằng: Giới luật có công năng dạy bảo nên lấy giới làm thầy, nương vào bốn niệm xứ mà hành đạo, dùng pháp im lặng phạm hạnh để hàng phục người xấu ác, và tất cả kinh trước đều phải nêu sáu việc thành tựu. Hỏi: Vì sao ngài A-nan chỉ hỏi bốn việc mà không nhiều hơn hay ít hơn? Đáp: Ban đầu nói về chánh hành, thứ hai nói về chánh giải, thứ ba nói về duyên trừ chướng ngại để tu hành, mà cả ba pháp này phải y vào Thánh giáo, hỏi bốn việc là đã gồm nhiếp tất cả, vì thế không nhiều hơn hoặc ít hơn. Xét định về Pháp nhiều ít, các kinh sư xưa chỉ nói năm việc, giải thích này thiếu nghóa, không có văn nên không dùng. Nay giải thích gồm có sáu việc. Một là như vầy: là pháp được nghe, hai là tôi nghe: tức là người nghe, ba là một thuở nọ: tức là nghe pháp có thời gian, bốn là Phật là vị giáo chủ, năm là xứ tức là chỗ nghe pháp, sáu là đại chúng cùng nghe pháp, đủ sáu nghóa này thì ý nghóa mới tròn đầy. Như bài kệ trong Đăng luận của ngài Thiên Thân chép: Ba việc trước nói về đệ tử, ba việc sau là làm chứng lời Phật nói, tất cả pháp môn Tu-đa-la đều là như vậy, cho nên biết sáu việc phát xuất từ lời văn chân thật. Ba việc trước nói về đệ tử: “Như thị” nghóa là lòng tin của đệ tử, câu kế là đệ tử tự gọi là “ngã”, câu thứ ba là nói về nghe pháp có thời gian. Từ chữ “Phật trừ’ trở đi là nói về Phật, cho nên biết ba câu sau là làm chứng lời Phật nói. Ý nghóa của lời tựa, lập sáu việc này gồm có ba ý: Một là sanh tâm tin, chữ như vầy là tin, năm câu kế theo cũng là sanh tâm tin. Luận Trí Độ chép: Nói “Thời, phương, người”, khiến cho sanh tâm tin. Thời là một thuở nọ, Phương là trú xứ, người là ngài A-nan, Phật, và đại chúng đồng nghe, cho nên ba việc này gồm nhiếp cả năm việc trước, do có thời gian, nơi chốn và người cho nên chỗ truyền bá là đáng tin cậy. Hai là: lập sáu việc này là để phân biệt ngoại đạo, kinh của ngoại đạo ban đầu đều nêu hai chữ “A Ủ”, đức Như lai dạy ban đầu nêu sáu việc là xuyên suốt tất cả. Ba là để khác với luận, đệ tử soạn luận thì quy kính Ba bảo, kinh của Như lai thì để sáu việc này ở đầu kinh. Nói về việc có và không: Ngay khi Phật nói kinh thì có đủ sáu thể, nhưng chưa viết thành văn, đến lúc sắp nhập Niết-bàn mới dạy khiến đệ tử sắp xếp lúc kết tập kinh tạng mới nêu ở đầu kinh. Nói về đủ và không đủ: Các kinh khác đủ sáu việc, nhưng kinh kim Quang Minh thì không có việc thứ sáu là đại chúng đồng nghe, về sau mới có. Nói về việc trước và sau, các kinh thường chép rằng: Tôi nghe như vầy: vì bởi tín là bước đầu tiên để vào Phật pháp cho nên trước nêu chữ “như vầy”, muốn chứng minh thành tựu nghóa tin cho nên kế là nói “tôi nghe”. Như kinh Ôn Thất chép: “như vầy tôi nghe”, Đây là trước nêu người có khả năng tin, sau mới sanh tâm tin đối với kinh. Hỏi: Lúc Phật nói kinh vì sao có sáu việc? Đáp: Do có tín tâm mới có thể nói pháp, nên biết có lời “như vầy lúc Phật nói kinh, tức là có thị giả nghe pháp, thời gian giáo chủ, trú xứ, và đại chúng đồng nghe, cho nên biết thật có sáu việc. Kế theo giải thích riêng sáu việc tức là sáu Pháp thành tựu: tín, văn, thời, chủ, xứ, chúng. Tín: Chữ “như vầy” Chú giải kinh Pháp Hoa chép: Như vầy là đầu mối của cảm ứng, chữ như là do thuận căn cơ mà có tên, chữ vầy là do không có điều gì trái mà gọi là vầy. Chúng sanh lấy việc không có điều trái làm cảm, Đức Phật đùng thuận căn cơ làm ứng, người truyền kinh lấy tên gọi, giáo pháp từ chỗ cảm ứng cho nên nói là: như vầy. Lại chú giải Kinh Vô Lượng Thọ rằng: Đến người nói pháp chỉ là nói lên chữ Như, chỉ có “Như” là đúng nên nói rằng “như vầy”. Dao Công chép: Chữ như vầy, là sắp truyền đạt lời nói đã nghe cho người chưa nghe, bởi là lý do đáng tin. Nay nói về lời nói có truyền đạt, tức nói là rốt ráo vậy, khéo hiểu lý ấy không mất cơ hội nên gọi là như vầy. ngợi. Đàm Sằn chép: Chữ như vầy, là lời nói không chê bai, không khen Ba tạng Chân-đế chép: Chữ như vầy là xa lìa năm thứ chê bai nên nói như vầy, năm loại ấy là: Như nói kinh này quyết định nhân quả là có, gọi là tăng ích báng. Như nói kinh này quyết định nhân quả là không, gọi là tổn giảm báng. báng. Như nói kinh này nhân quả vừa có vừa không, gọi là Tương vi Như nói kinh này là nhân quả chẳng phải có chẳng phải không, gọi là ngu si báng. Như nói kinh này nhân quả chẳng phải không có, chẳng phải không không, gọi là hý luận báng. Xa lìa năm thứ báng này gọi là như vầy. Quang Trạch chép: Chữ như vầy, là sắp truyền điều trước kia đã nghe mà nêu lên một bộ, như vậy một bộ kinh tôi đích thân nghe từ Phật, cho nên chữ “tôi nghe” nối liền sau đó. Lương Vũ chép: Chữ như vầy, là lời nói như thế, là do Phật nói nên nói là như vầy. Có người chép: Chữ như vầy, gồm có ba loại, một là Phật, hai là lý, ba là A-nan. Nói là Phật: nghóa là Chư Phật ba đời nói pháp không khác nhau nên gọi là như, do đồng nói nên gọi là thị, Chư Phật đồng nói cho nên đáng tin. Nói là lý; nghóa là thật tướng các pháp xưa nay chẳng khác nên gọi là như, đáng tin nên gọi là như vầy. Nói là A-nan; bởi A-nan mong Phật giáo được truyền thừa không khác nhau nguồn gốc nên gọi là như, mong về lý tức là có pháp nói vô sai biệt nên gọi là thị. Có người chép: Chữ như vầy, là văn như, lý thị, hai vật tương tợ nên gọi là như, một vật không trái nên gọi là thị. Do văn năng thuyên ở lý tương tợ nên gọi là như, lý là xác đáng không trái nên gọi là thị. Nay nói chữ như vầy, luận Trí Độ hỏi rằng: Tất cả kinh điển, ban đầu vì sao gọi là như vầy. Đáp: Biển lớn Phật pháp tin thì vào được, có trí là vượt qua được. Chữ như vầy tức là tin, do lòng tin nên nói như vầy, nếu không tin tức là nói “bất như vầy”, vì thế kinh Phật ban đầu nêu chữ “như vầy”. Hỏi: Như và thị có gì khác nhau? Đáp: Như gọi là như thật không luống dối, thị có nghóa là chính xác không trái, do tin Phật pháp như thật không luống dối, chẳng phải tà mà chánh, vì vậy tin gọi là như vầy. Hỏi: Chữ như vầy là y cứ vào thể của tín hay do tướng của tín? Đáp: Như thị là tướng của tín, chẳng phải thể của tín. Do lời nói phát ra bên ngoài nên gọi việc này là như vầy, tức tiêu biểu trong tâm có thành tín, vì thế luận nói như vầy là tướng của tin. Hỏi: Như thị là căn cứ năng tín hay sở tín? Đáp: Biển lớn Phật pháp tin là vào được, tức biết Phật pháp là sở nhập, do vậy biết chữ như vầy là năng tín. Nếu nói việc này là như vầy, thì việc này thuộc về sở tín, tức nói như vầy là gồm cả năng và sở. Hỏi: Như thị là tin chung hay tin riêng? Đáp: Tin sự chân chánh của Phật pháp tức là không tin tà của ngoại đạo, bởi chữ thị là bắt đầu phân tà chánh, gieo trồng nền tảng các đức, nên thuộc về tin chung. Nhưng kinh thì có đại, tiểu, giáo pháp thì có quyền, thật, tin là tin đại chẳng phải tin tiểu, đây tức là tin riêng. Hỏi: Nói ngài A-nan tin hay người khác tin? Đáp: Người có tín tâm thì là vào Phật pháp, do vậy khuyến khích chung tất cả tin nhận, chẳng phải riêng ngài A-nan. Hỏi: Hạng người nào có khả năng tin Nhất thừa? Đáp: Có sáu hạng người không thể sanh tâm tin: Chúng sanh khởi tâm ái, tham đắm sự vui ở đời không thể tin nhận. Hạng người khởi tà kiến cho mình là đúng người khác là sai, không thể sanh tín. Người cầu Nhị thừa chấp mắt cá là châu báu, ném dạ quang mà cầm dao cho nên người Đại thừa, Tiểu thừa ở nước ngoài chia sông mà uống nước, vì thế nói Nhất thừa thì không sanh tâm tin nhận. Cho rằng giáo Pháp Hoa vẫn là vô thường, nghe nói thường trụ thì không sanh tâm tin nhận. Cho rằng kinh này che lấp tướng nói về thường, khi nghe nói rõ về thường thì không sanh tâm tin nhận. Cho rằng kinh này nói lên thường, chấp thành thường kiến, nghe nói đạo vắng lặng chẳng thường chẳng vô thường nên không sanh tâm tin nhận. Cho nên phẩm Hiện Tháp báu chép: Dùng tay nắm hư không cũng chưa gọi là khó, tin nhận thọ trì kinh này mới gọi là khó. Lời nói này có thế chiêm nghiệm. Nay nếu lìa các lỗi trên, tâm còn nương tựa, chính là có thể tin nhận. “Tôi nghe”: đối với câu “như vầy” là quả của tín sở sanh, năm việc sau là nhân của tín năng sanh. Bởi ngài A-nan thấy ba việc chê bai có tám công đức, nên tự thân làm thị giả đức Như lai hơn hai mươi năm, truyền bá lời Phật nói thì chúng sinh sẽ tin, cho nên chữ tôi nghe là nhân sanh tín. Hỏi: Nửa đêm hôm Phật đắc đạo thì ngài A-nan ra đời, đến năm hai mươi lăm tuổi mới làm thị giả Phật, như vậy Phật nói kinh trong hai mươi lăm năm ấy ngài A-nan không nghe, những lời Phật nói trong hai mươi lăm năm sau ngài đều được nghe. Những kinh nghe trong hai mươi lăm năm gồm có ba thứ: Được nghe, như nghe kinh Pháp Hoa,v.v… Không nghe, như kinh Niết-bàn,v.v… Vừa nghe vừa không, như kinh Tịnh Danh. Lại gồm có bốn hội, hai hội Am-la thì A-nan được nghe, hai kiết tập ở Tỳ-da thì A-nan không nghe, vậy lấy nghóa gì mà kinh điển trong một đời đều gọi là tôi nghe. Đáp: Nay dẫn hai kinh căn cứ vào bản, tích để giải thích. Một là căn cứ kinh Niết-bàn, ngài A-nan là bậc học rộng, tự nhiên có thể hiểu rõ thường và vô thường, đã tự nhiên hiểu rõ thì cũng tự nhiên được nghe. Hai là theo kinh Báo Ân căn cứ tích mà giải thích, do Đức Phật nói lại nên nói là được nghe. Hỏi: Ngài A-nan dựa vào đức gì, Tam-muội gì mà có thể thọ trì kinh Phật? Đáp: Ngài Thích Đạo An chép: Trong kinh Thập Nhị Du có chép: Ngài A-nan được truyền Tam-muội ý Phật. Kinh Kim cương Hoa chép: Ngài A-nan được truyền pháp tánh, giác ngộ Tam-muội. Hỏi: Sự thật là tai nghe, sao lại xưng tôi nghe? Đáp: Gồm có bảy ý nghóa nên gọi là tôi nghe. Phật có dạy gọi là tôi nghe, nay thuận lời Phật nên nói là tôi nghe. Lúc kiết tập pháp, ngài Ca-diếp hỏi A-nan lần đầu tiên Phật nói pháp ở chỗ nào? A-nan liền đáp tăng chúng gọi là “tôi nghe như vầy”. Do người truyền pháp chứng minh để tin nên gọi là tôi nghe. Cho nên, nói ba thứ thời gian, nơi chốn, và người lại khiến sanh tâm tin. A-nan nghe Phật nói pháp mà phát sanh ba tuệ, tự tại xưng tôi, nên nói là tôi nghe. A-nan nghe Phật nói pháp tâm không tán loạn, như đồ vật không bị che đậy, tâm không quên sót như đồ vật không bị chảy, tâm không điên đảo như đồ vật không bị hôi. Ban đầu là định lực, kế đến là trì lực, sau hết là trí tuệ lực. Đủ ba lực tự tại, được gọi là tôi nên nói là tôi nghe. nghe. Tai là riêng, tôi là chung, lập chung bỏ riêng nên nói là tôi Tôi là gốc, tai là ngọn, lập gốc bỏ ngọn nên nói là tôi nghe. Hỏi: Nghe cái gì, là người nghe, căn nghe, thức nghe hay trần nghe? Đáp: Do nhân duyên nên nghe, nhân duyên nghe tức là không có chỗ nghe. Vì thế Trung luận chép: Pháp do nhân duyên sanh tức là tánh vắng lặng, cho nên nghe rõ ràng mà không nghe, cũng không nghe rõ ràng mà nghe. Do nghe rõ ràng mà không nghe nên không hoại, giả danh mà nói thật tướng; do không nghe rõ ràng mà như nghe nên không động đến Chân-đế mà kiến lập các pháp. Lại, nghe rõ ràng mà không nghe, nên là nghe không nghe, không nghe rõ ràng mà nghe, nên là không nghe cái nghe. Không nghe cái nghe đâu phải là nghe, nghe cái không nghe đâu phải là không nghe, cho nên chẳng phải nghe, chẳng phải không nghe gọi là Trung đạo. Nghe mà không nghe gọi là giả danh, cho nên luận rằng: cũng là giả danh, cũng là nghóa Trung đạo. Nhưng Trung đạo, giả danh tức là nhân duyên, cho nên trung gọi là giả trung, giả gọi là trung giả trung giả chẳng phải giả, giả trung chẳng phải trung, cho nên chẳng phải trung chẳng phải giả. Nói tướng vắng lặng, chẳng phải biến chuyển pháp trước mới gọi là vắng lặng, tức là nhân duyên nghe xưa nay vốn vắng lặng, cho nên kinh này chép: các pháp từ xưa đến nay tướng thường tự vắng lặng. Hỏi: Nói chữ nghe này được lợi ích gì? Đáp: Kinh chính là nói về đại sự nhân duyên, nghóa là khai tri kiến Phật. Tri kiến Phật gọi là bốn trí gồm: Như lai trí, trí Phật, Tự nhiên trí và Vô sự trí. Do biết rõ nghe không có chỗ nghe nên sanh trí Như lai, không có chỗ nghe mà nghe nên sanh trí Phật. Hai trí này liên tục hiện tiền nên gọi là trí tự nhiên, ba trí này không do thầy mà có nên gọi là trí vô sư. Nghe đã phát sanh bốn trí, nếu làm việc gì đều phải biết rõ nhân duyên và sanh bốn trí, vào tri kiến Phật. Thời: Chữ “nhất thời”: nghóa là Phật nói kinh có thời gian nên đáng tin, nay nói lược bốn nghóa: Đức Phật nói pháp trong năm mươi năm gồm có nhiều thời, nay đối với nhiều thời kia mà nói kinh này nói trong một thời nên nói một thời. Chữ nhất là một bộ kinh, bởi đây là thời gian nói một bộ kinh nên gọi là nhất thời. Khi tâm chúng sanh hành có thể nhất, tức là khi căn cơ Nhất thừa phát, nói giáo pháp Nhất thừa, nên nói là nhất thời. Hỏi: Tất cả kinh đều gọi là nhất thời, có thể nói đều nói Nhất thừa chăng? Đáp: Kinh này chép: Những điều đã làm đều vì một việc, cho nên biết nói tất cả giáo pháp là vì khai mở một đạo, đều gọi là nhất thời. Căn cơ và giáo pháp phù hợp không khác thời nên gọi là nhất thời. Hỏi: Là giả thời hay thật thời? Đáp: Luận Chánh Quán chép: Chư Phật hoặc nói ngã, hoặc nói vô ngã, trong thật tướng các pháp không có ngã, không có vô ngã. Nên nói rằng: Chư Phật hoặc nói giả, hoặc nói phi giả, trong thật tướng các pháp chẳng phải giả, chẳng phải phi giả. Hỏi: Vì sao nói giả và phi giả? Đáp: Giáo hóa đệ tử mà kiết giới, nên nói là thời phi giả; giáo hóa chung cả tại gia và xuất gia nên nói là thời giả danh, như trong luận đã nói rộng. Phật: Thứ tư là nêu giáo chủ, sở dó nêu chữ Phật gồm có năm nghóa: A-nan trả lời ngài Ca-diếp. Ca-diếp hỏi rằng: Lần đầu tiên Phật nói pháp ở chỗ nào. Vì thế nêu chữ Phật. Nếu không nêu Đức Phật mà chỉ nói năm món thành tựu kia, thì không biết kinh này là ma nói hay Phật nói, là nội đạo nói hay ngoại đạo nói. Nay muốn phân biệt tà, chánh, nội, ngoại, cho nên nêu chữ Phật. Trong Phật pháp có năm hạng người nói pháp đó là: Phật nói, đệ tử nói, chư nói nghiêng lệch, tiên nhân nói và hóa nhân nói. Nay muốn nói kinh này là Phật nói, chẳng phải người khác nói, cho nên nêu tên Phật. Vì chúng sanh đời sau nghe Phật nói thì khởi lòng kính tin sâu xa cho nên nêu tên Phật. Vì muốn thành tựu kinh cho nên nêu tên Phật. Hễ là Phật nói cũng phải nêu tên Phật, đệ tử nói càng phải nêu tên Phật, như kinh Duy Ma Cật, Thắng-man.v.v. đều nêu tên Phật. Nếu không nêu tên Phật thì không thành kinh. Phật có ba nghóa: Tự giác, khác với kẻ phàm phu. Giác tha, khác với người Nhị thừa. Giác hạnh tròn đầy, khác với Bồ-tát. Nếu y theo sự phán xét từ trước nói có ba hạng Phật thì chẳng phải nghóa giác. Nếu kinh này nói về Phật còn là vô thường thì chỉ là giác ở vô thường mà chưa ngộ về các pháp thật, cho nên không gọi là giác. Nếu nói kinh này là che tướng nói về thường, đã là che giấu thì vẫn chưa giác, nên không gọi là Phật. Nếu nói kinh này nói về Phật định là thường trụ, tức là thường kiến còn là vô minh, nên không gọi là giác. Nay nói chữ giác, là giác ngộ các pháp chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, cũng chẳng phải là bốn câu nội ngoại, tột cùng liễu gipháp ác thật nên gọi là giác. Hỏi: Trong kinh này thì chỗ nào có văn nói về nghóa ấy? Đáp: Phẩm Như lai Thọ Lượng chép: Như lai biết đúng như thật tướng của ba cõi, không có sanh tử, hoặc thoái đọa, hoặc ra ngoài, không có tại thế và diệt độ, chẳng thật, chẳng dối, chẳng như, chẳng khác, sáu đường chẳng có, bốn loài cũng không, chính là ý này. Tiếng nước ngoài gọi Phật là trống trời, lúc giặc muốn đến trống trời tự kêu, lúc giặc muốn đi trống trời cũng kêu, khi trống trời kêu thì tâm chư ma trờiïnh mẽ, lúc trống trời kêu thì Tu-la kinh sợ. Chúng sanh có phiền não đến thì Đức Phật liền nói pháp, chúng sanh hết phiền não thì Đức Phật cũng nói pháp. Lúc Phật nói pháp tâm đệ tử mạnh mẽ, lúc Phật nói pháp thì các ma kinh sợ. Trống trời vô tâm nên có thể làm bốn việc, đức Như lai tuy nói pháp nhưng cũng vô tâm, cho nên nói Phật ví như trống trời. Lại nữa, Đức Như lai tuy giác mà thật không có chỗ ngộ, dụ cho trống trời tuy kêu mà vô tâm. Xứ: Chữ trụ, nay lấy nghóa là năng trụ, cho nên ý nghóa chữ trụ thuộc về Phật. Trụ có hai thứ, là thân trụ và tâm trụ, thân trụ có bốn nghóa: Hóa xứ trụ: Chư Phật mười phương mỗi Phật đều có cõi nước riêng. Dị tục trụ, Chư Phật trong ba đời thường là trú ở ià lam. Chưa xả tuổi thọ trụ: Phật chưa nhận lời xin của ma vương nên có tuổi thọ vô lượng, do nhận lời xin mà chỉ ở lại đời hơn tám mươi năm và xả tuổi thọ. Luận Tạp Tâm chép: Xả phần thứ năm của tuổi thọ, Bởi tuổi thọ trong một trăm năm thì hai mươi năm làm một phần, Phật nhận lời xin của ma vương mà xả tuổi thọ hai mươi năm, chỉ còn lại tám mươi năm, cho nên nói xả tuổi thọ phần thứ năm. Pháp Hoa cách Niết-bàn gần, nên là xả thọ phần Trụ. Oai nghi trụ, nghóa là đi đứng nằm ngồi đều gọi là Trụ. Tâm trụ cũng có bốn nghóa: Thiên trụ: là trụ nơi bố thí, giữ giới, tinh tấn, nhẫn. nhục, thiền định, trí tuệ. Phạm trụ: là trụ ở bốn tâm vô lượng. Thánh trụ: là trụ ở Tam-muội, Không, Vô tướng, Vô nguyện. Phật trụ: là trụ ở mười lực. v.v. Đức Như lai đầy đủ tám thứ trụ này, tức là không trụ mà trụ, trụ mà không có chỗ trụ, cũng như ngài Văn-thù không đến mà đến, đến mà không có chỗ đến, cũng như phẩm Sư Tử Hống trong kinh Niết-bàn biện luận trụ ở rừng Sa-la. Thành Vương Xá là phần thứ năm nói về trụ xứ: nói phải có nơi chốn cho nên đáng tin. Đây khác với ngoại đạo hoặc nói kinh là từ trong hư không trao cho, hoặc nói từ loài chim đỏ ngậm đem đến, đều không có căn cứ. Trụ xứ lại có hai nghóa: đó là xứ chung và xứ riêng. Ngay cả hình người còn không có nơi nhất định, huống chi nơi chốn mà thường sao? Chỉ vì ý nghóa thành tín nên phải nương theo quanh co để nói. Lại nữa, giáo hóa gồm cả nơi ồn náo và thanh tịnh nên nói cả tên núi, tên thành. Nước tên là Ma-già-đà, Hán dịch là Bất Hại, người tuy phạm tội mà không bị hình phạt giết nên gọi là Bất Hại. Thành tên ương Xá, nước nhỏ thì gọi là thành, như nước Tỳ-da-ly cũng gọi là thành Tỳ-da-ly, nay là nước lớn cho nên nước và thành có khác. Tiếng nước ngoài nói đủ là La Duyệt-kỳ Ma-ha Già-la. La-duyệt-kỳ Hán dịch là Vương Xá, Ma-ha tức là lớn, Già-la dịch là thành, trong mười sáu nước lớn và sáu thành lớn thì thành này là lớn nhất, cho nên gọi là đại thành Vương Xá. Luận Trí Độ chép: Sau khi Phật diệt độ, vì nhân dân ngày càng ít cho nên vua A-xà-thế mới bỏ thành lớn này xy6 một thành nhỏ, nhưng đối với các thành khác thì vẫn còn lớn, huống là thành Vương Xá cũ? Thiện Kiến Tỳ-bà-sa chép: Thành ấy rộng mỗi bề ba trăm do tuần, có tám ức muôn hộ dân, có tám muôn thôn xóm, ấy là thành Vương Xá. Hỏi: Sáu thành lớn đều có nhà của các vua, sao chỉ có thành này gọi là Vương Xá? Đáp: Luận Trí Độ có ba cách giải thích: Thuở xưa vua Ma-ha-đà sanh con có một đầu, hai mặt và bốn tay, người bấy giờ cho là điềm xấu nên chặt đầu và thân rồi đem quăng ở chỗ vắng, có quỷ La-sát nữ tên là Lợi-lam bèn ghép thân ấy lại và dùng sữa nuôi, sau thành người to lớn có sức lực có thể thâu tóm các nước, bắt lấy một muôn tám ngàn vua đặt ở năm ngọn núi này, rồi dùng sức lực trị vì cõi Diêm-phù-đề. Ý này nói về có nhiều vua ở thành này nên gọi là thành Vương Xá. Hai cách giải thích sau đều như văn luận. Lại có người chép: có vị vua không có chánh đạo, ngàn nước cùng phế vua và đặt ở Ngũ Sơn, sau đó vua suy nghó và sửa đổi lỗi lầm rồi cùng trị nước, cho nên gọi thành này là Vương Xá. Ba Tạng Chân-đế dẫn lời trong luật Tỳ-bà-sa: Hễ khi có vua Chuyển Luân ra đời thì đều lần lược đến ở Ngũ Sơn, cho nên chỉ có thành này tên là Vương Xá. Lại nữa, luật Tỳ-bà-sa giải thích rằng: Xưa có bốn vị Thiên Vương cùng đi nhặt sửa biển, tìm được cam lộ nhưng chưa chia, bèn cất nhà ở Ngũ Sơn để giữ, bảy ngày sau mới chia, cho nên gọi đây là Vương Xá. Trước thì nói vua loài người xây nhà sau thì vua cõi trời xây nhà. Kinh Nhân Vương chép: vua Ban-túc bắt được ngàn vị vua và đem đến Ngũ Sơn, đây cũng từ ý nghóa nhiều vua mà đặt tên. Các thành khác không có các việc này, cho nên chỉ riêng thành này là Vương Xá. Chung quanh Ngũ Sơn như ngôi thành, mà xây nhà ở trong đó, hai việc này hợp thành gọi là thành Vương Xá. Hỏi: Nếu hai việc hợp lại gọi là thành Vương Xá, thì không nên có hai chỗ là núi và thành? Đáp: Có tên là thành Vương Xá là do hai việc hợp lại mà nói, nhưng vua ở trong Ngũ Sơn lại xây thành riêng, cho nên có hai chỗ là núi và thành. Núi Kỳ Xà Quật, Hán dịch là Thứu-đầu Sơn, bởi năm ngọn núi cao này mỗi ngọn đều có hình tượng, nay hòn núi này giống như đầu chim Thứu nên gọi là Thứu đầu. Sau khi Phật diệt độ, vua A-dục thấy đãnh núi này giống như chim Thứu, bèn sai thợ đẽo làm hai cánh, hai chân và đuôi, cho nên toàn bộ như hình chim Thứu. Trong Lục Đăng Địa Lý chép: Thành và núi cách nhau đến mười lăm dặm. Hỏi: Tâm đại từ của Phật rộng cùng khắp, vì sao thường lại nói pháp ở thành Vương Xá? Đáp: trong luận Pháp Hoa có hai nghóa: Muốn do nơi chốn mà biểu thị giáo pháp, tất cả các thành thì thành này lớn nhất, tất cả núi thì núi.này là cao đẹp nhất, đây biểu thị kinh Pháp Hoa là trên hết trong các kinh. Muốn thị hiện sự thành tựu công đức tự tại, ở đây chỉ nêu thành Vương Xá làm ví dụ, như vua tự tại ở thế gian, nói lên kinh này đứng đầu các kinh. Dùng Nhất thừa gồm nhiếp tất cả thừa, tất cả thừa quy về Nhất thừa. Thích luận nói gồm có sáu nghóa: Vì muốn báo ân pháp thân, đức Như lai vốn thành đạo tại nước Ma-già-đà, vì muốn báo ân này cho nên Phật thường ngự ở đây. Xứ này đất rộng dân nhiều, thọ nhận sự giáo hóa rộng rãi nên thường ngự ở đây. Xứ này có nhiều vị, thông minh trí tuệ như ngài Ca-diếp, Xá- lợi-phất Lục sư, Trường trảo v.v,v.v… muốn hàng phục họ nên Phật thường ngự ở đây. Nước này có hai anh em Long vương, thời gian luôn mưa nên trong nước không bị mất mùa, người xuất gia có thể giúp thân thì tu niệm cũng dễ nên Phật thường ngự ở đây. Xứ này có nhiều Tinh xá, đất bằng phẳng lại có rừng trúc già lam, năm ngọn núi có năm Tinh xá, các nước khác có ít cho nên Phật thường ngự ở đây. Là xứ này có hoa thơm cỏ lạ, yên tónh thanh khiết thật là nơi dừng chân của các Thánh, là chốn nương náu của thần tiên cho nên Phật thường ngự ở đây. Chúng: Ở đây nói phần thứ sáu là đại chúng cùng nghe tức câu “dữ đại Ty-kheo chúng”. Chương này lược chia thành sáu phần là: lai ý, định số chúng, quyền và thật, có và không, thứ lớp, đủ và không đủ. Phần một: Nói lai ý, lược có mười nghóa: Là thành tựu sự nghe của A-nan, do A-nan cùng nghe với những người tối thắng, cho nên kinh truyền bá là đáng tin. Vì nói lên đức hạnh của Phật, Phật là bậc tối thắng, đại chúng thường vây quanh nên đức hạnh của Phật càng tôn quý, đã tôn quý người thì phải thọ nhận pháp ấy. Vì muốn phát khởi chánh kinh, như do ngài Xá-lợi-phất ba lần xin cầu mới khai thừa phương tiện, bày thừa chân thật, do Ngài Di-lặc ba lần xin mới bày thân phương tiện, thân chân thật. Giúp Phật giảng nói giáo hóa, như Phật ba châu nói Pháp Hoa, các Thánh đệ tử nghe phần Tựa mà được lãnh ngộ cũng ba châu mà nói, ngài Di-lặc lãnh ngộ khen ngợi việc ấy cũng vậy. Là muốn cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi Đức Phật, như phần sau kinh có nói. Là muốn phát thệ nguyện mở rộng kinh, như phẩm Trì và phẩm Như lai Thần Lực có nói. Là muốn dẫn dắt chúng sanh đến với Phật. Là muốn nghe Phật nói pháp để mong cầu sự giác ngộ sâu xa. Vì muốn chứng minh kinh nên đến, như phân thân Phật nhóm họp. Ví thực hiện giáo môn nên đến, như phẩm Diệu Âm, Quán Âm, tức dùng Bồ-tát để thành Phật sự cho nên đến. Phần hai: Là môn ấn định số chúng, kinh này từ đầu đến cuối gồm có hai hội chúng, hội đầu nhóm hợp có hai mươi ba chúng, hội sau nhóm hợp có sáu chúng, hợp lại là hai mươi chín chúng. Trong hai mươi ba chúng gồm có: Tăng chúng có hai chúng Ni chúng có hai chúng Bồ-tát chúng có năm chúng Thánh chúng có năm chúng Phàm chúng có mười tám chúng Các tầng trời cõi Dục có mười chúng Chúng cõi trời Thiền quang Chúng cõi trời Quang âm Chúng cõi trời Vô lượng quang Chúng cõi trời Tứ thiên vương Chúng cõi trời Đế-thích Chúng cõi trời Tự Tại Chúng cõi trời Đại Tự Tại Cõi sắc có hai chúng Chúng cõi trời Thi-khí Chúng cõi trời Quang Minh. Chúng cõi trời Đại Phạm có mười hai chúng Trên đây là mười bảy chúng, cộng với sáu chúng đủ loại, thành ra hai mươi ba chúng, đọc trong văn dễ biết. Hội sau gồm sáu chúng Trong phẩm Hiện Tháp báu có chúng của Phật Đa Bảo Chúng phân thân tập hội Chúng ở cung rồng trong phẩm Đề-bà-đạt-đa Chúng ở phương dưới tập hội trong phẩm tùng Địa Dũng Xuất Chúng tập hội trong phẩm Diệu Âm Bồ-tát Chúng tập hội trong phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát Phần ba: môn quyền thật. Có người chép: Đại chúng cùng nghe đều là chúng thực hành nghe kinh. Có người chép: Đều là những vị quyền hành ảnh hưởng chứng minh kinh. Nay nói việc này thật khó biết! Nếu cho là chúng thật hành thì mất chúng ảnh hưởng, nếu đều là chúng ảnh hưởng thì không có chúng thọ nhận giáo pháp, cho nên hai nghóa đều lấy. Nếu là vua, là chủ, thường là quyền hành, nếu là quyến thuộc thường là thật hành. Chẳng Đại, chẳng tiểu, làm phương tiện Tiểu để dẫn dắt Tiểu quyến thuộc đồng quy về Nhất thừa cho đến chẳng phải Thánh, chẳng phải phàm, làm phương tiện phàm để dẫn dắt quyến thuộc phàm cùng nhập pháp môn không hai. Kinh Hoa Nghiêm chép: Các Bồ-tát đều là bạn lành đời trước của Phật Lô-xá-na. Luận Niết-bàn chép: Nói đại chúng nhóm họp nhiều là nói lên thần thông bất khả tư nghị. Luận Pháp Hoa giải thích chúng có bốn hạnh: Hạnh Thanh văn, như phẩm Tựa nói các chúng Thanh văn. Hạnh Bồ-tát, như phẩm Tựa nói các chúng Bồ-tát. Hạnh Bất định, như Bồ-tát Thiện Thủ thị hiện làm bốn chúng, tám bộ v.v… Định hạnh: người xuất gia hình nghi hoàn toàn nhất định. Do đây mà biết đại chúng gồm đủ cả quyền và thật. Phần bốn: Là có và không. Ngài Long Thọ chép: Kinh Tiểu thừa ban đầu không có chúng Bồ-tát. Kinh Đại thừa ban đầu có đủ hai chúng Đại thừa và Tiểu thừa. Nhưng lời nói nầy là chưa tận cùng ý nghóa. Các kinh Đại thừa gồm có bốn câu. Chỉ có chúng Bồ-tát, không có chúng Thanh văn, như bảy hội Hoa Nghiêm. Chỉ có chúng Thanh văn, không có chúng Bồ-tát, như kinh Kim cương, Bát-nhã. Có đủ cả hai chúng, như kinh Pháp Hoa. Không có cả hai chúng như kinh Kim Quang Minh. Hỏi: Vì sao kinh Kim Quang Minh lại không có hai chúng? Đáp: Lúc Phật Thích-ca ở núi Linh Thứu riêng nhập vào chánh định Tam-muội, chưa có chúng nhóm hội nên không có chúng đồng nghe, những người có lòng tin đều mộng thấy, đến sáng hôm sau đại chúng mới cùng đến chỗ Phật. Phần năm: Là nói về thứ lớp. Đại chúng chia thành ba phần riêng, trước là chúng Thanh văn, kế là chúng Bồ-tát và sau cùng là chúng Phàm phu. Hỏi: Nếu theo thứ lớp số lớn thì chúng Bồ-tát trước, rồi đến chúng Thanh văn, sau cùng là chúng Phàm phu. Nếu theo số nhỏ thì chúng Phàm phu trước, rồi đến chúng Thanh văn, sau cùng là Bồ-tát. Nay vì sao nói chúng Thanh văn trước, rồi đến Bồ-tát, sau cùng là Phàm phu? Đáp: Như phẩm Pháp Giới trong kinh Hoa Nghiêm và kinh Ngũ Trược, thì trước nêu Bồ-tát sau nêu Thanh văn, đây là ý nói đức hạnh mà làm thứ lớp từ cao quý đến yếu kém. Kinh này trước nêu Thanh văn sau nêu Bồ-tát là theo thứ lớp lấy hình tướng bên ngoài, tâm Thanh văn có đủ trí đoạn hình tướng đầy đủ pháp nghi, tâm và hình đều cao quý nên nêu trước. Tâm Bồ-tát tuy ngộ đạo nhưng hình tướng thì bất định, hoặc là đạo hoặc là tục, tâm cao quý nhưng hình tướng thì yếu kém nên nêu thứ hai; tâm và hình tướng phàm phu đều kém cho nên nêu sau cùng. Đây là xét theo hình nghi bên ngoài theo thứ lớp từ cao quý đến yếu kém. Phần sáu: Là nói đủ và không đủ. Theo kinh Nhân Vương thì có chúng biến hóa, chúng Duyên giác, chúng cõi trời Vô sắc. Theo kinh Đà-la-ni thì có chúng địa ngục, nhưng hội này không có. Theo văn sau của kinh này thì có đủ bốn chúng tám bộ và chúng vua Chuyển Luân. Nay phần Tựa không có vua Chuyển Luân, trong tám bộ lại không có hai bộ chúng là Dạ-xoa và Ma-hầu-la-già, trong bốn chúng thì không có chúng Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di. Lại chia chúng Thanh văn làm hai loại, trước là tăng, sau là ni. Vì sao nêu tăng trước ni sau, đây có bảy nghóa: Vì nam tôn quý, nữ thấp hèn, nên nêu tăng trước ni sau. Vì tăng vào đạo trước, ni vào đạo sau. Vì tăng làm thầy, ni làm đệ tử. Vì tăng truyền bá và nắm giữ chánh pháp, cho nên trong hai mươi lăm người đều là tăng. Ni thì không thể. Vì tăng có thể kết tập kinh tạng Đại thừa Tiểu thừa; Ni không thể làm. Văng tăng được ở chung với Phật, Ni thì ở riêng. Vì chúng tăng đông, chúng ni ít. Nêu Tăng chúng có hai phần, một là chúng hiển danh, hai là chúng mật hạnh. Trước đã chép: “Chúng sở tri thức”, nên biết đây là chúng hiển danh, phần sau không nói chúng sở tri thức mà nói đồng được thọ ký thành Phật, đây là chúng mật hạnh. Do thích ứng nhiều cách giáo hóa, cho nên bậc Thánh hoặc hiển bày, hoặc bí mật. Lại nữa, ban đầu chỉ thuần là chúng Vô học, cho nên nêu trước, kế đến là bao gồm cả chúng Hữu Học và chúng Vô học cho nên nêu sau, và cũng do số chúng trước nhiều hơn số chúng sau cho nên như. Chúng Vô học theo văn chia làm sáu phần: danh hiệu chung, nêu số lượng, phân địa vị, khen đức hạnh, nêu tên và tổng kết. 1.Danh hiệu chung, như câu: “cùng chúng đại Tỳ-kheo”. Xuất gia mà chưa thọ giới cụ túc bất luận Thánh, phàm đều gọi chung là Sa-di, thọ giới cụ túc rồi thì Phàm hay Thánh đều gọi chung là Tỳ-kheo. Nay nói chữ đại Tỳ-kheo, bởi trong Tỳ-kheo có hai phần là Đại và Tiểu; ba quả của phàm phu gọi là tiểu Tỳ-kheo, người chứng quả A la hán thì gọi là đại Tỳ-kheo. Lại nữa, La-hán cũng có hai bậc, La-hán độn căn thì gọi là tiểu, La-hán lợi căn thì gọi là đại. Nói về Đại, trong luận Trí Độ có chép: Đại là lớn nhất trong tất cả chúng, là đã dứt hết các chướng ngại lớn, được hàng đại nhân, vua, trời cung kính. Ba Tạng Chân-đế chép: Đại gồm có ba nghóa: Thắng đại, như bậc đại vương cao quý hơn mọi người nên gọi là đại. Các bậc La-hán là tối thắng trong hạng Học và Vô học nên gọi là Đại. Hình lượng đại, thí như núi, biển, vì hình lượng lớn nên gọi là đại sơn, đại hải, các bậc La-hán có công đức và trí tuệ hết sức cao rộng nên gọi là Đại. Vì số nhiều nên gọi là Đại, ví như đại quân do số binh lính nhiều mà gọi là đại, các vị La-hán với số lượng một muôn hai ngàn nên gọi là Đại. Nếu y theo kinh này thì có hai nghóa: Đại Tỳ-kheo là nêu chương môn, năm đoạn dưới đây là giải thích chương môn. Nói một muôn hai nghìn người là số đại Đều là A la hán tức vị đại Các lậu đã dứt là đức đại Tên của vị ấy là danh đại. Mọi người đều biết là tri thức đại Tỳ-kheo gọi là khất só, trên khất cầu giáo pháp của Như lai để tu tinh thần, dưới xin cơm của người thế tục để nuôi thân, cho nên gọi là khất só. Người xin ở thế gian thì chỉ xin cơm áo mà không xin pháp, cho nên không phải là Tỳ-kheo. Lại nữa, Tỳ-kheo xin cơm nhưng khác với sự xin ăn của người thế gian, lùi thì không có sự phiền lụy về cất chứa, tiến thì có công ban phước cho mọi loài. Đây là lợi mình lợi tha, khác với người xin ăn ở thế gian. Còn ý nghóa Bố ma, Phá ác, Tịnh mạng thì trong luận Trí Độ có giải thích rộng. Hai là nêu số, tức câu: “cùng một muôn hai nghìn người”. Đây là giải thích nghóa chữ chúng ở trên, từ bốn người trở lên cho đến số một muôn hai nghìn người thì gọi là chúng. Sở dó nêu số nhiều vì có hai nghóa: Nếu A-nan cùng nghe với ít người thì không đáng tin, do cùng nghe với số đông nên đáng tin Nếu số ít vây quanh Phật thì đức hạnh chưa đủ để tôn quý, đông người cung kính mới nói lên đức hạnh tôn quý. “Đều là A la hán” là nói về vị thứ ba, tuy nói là đại Tỳ-kheo mà chưa biết được là người ở địa vị nào, cho nên phải nói về địa vị. Lại nữa, dùng địa vị để giải thích chữ đại, do địa vị là Vô học cho nên gọi là đại Tỳ-kheo. Chữ A-la-hán là tiếng Phạm, gồm có ba nghóa: Sát tặc, tức là đùng dao trí tuệ để giết giặc phiền não, đây là dứt nhân tai họa, là nói ở hiện tại. Bất sanh, tức vất bỏ hạt giống phiền não nên không sanh trong ruộng đời sau nữa, đây là luận dứt quả tai họa ở vị lai. Ứng cúng: tức là đầy đủ trí đoạn đáng thọ nhận cúng dường. Trong Luận Pháp Hoa gồm có mười lăm nghóa để giải thích chữ cúng dường, nay nói lược đại ý, nghóa là bên trong hợp với chân lý nên bên ngoài đáng cúng dường. Trong Tập Tâm dịch chữ La-hán là Vô trước, cho nên kinh dịch chữ A La Ha cũng là Vô trước, nghóa là Như lai không mê đắm điều gì, là bậc chí chân đẳng chánh giác. Là khen ngợi đức hạnh, tức câu: “các lậu đã hết” trở xuống: Trên là nói về địa vị La-hán, nay nói về đức hạnh, tức là địa vị đức hạnh thành một căn. Phần trên tuy nói có nhiều người nhưng không có đức hạnh cao quý, không đủ để làm chứng lòng tin và nói lên đức tôn quý của Phật, các bậc này có đức hạnh cao quý nên thành hai nghóa. Câu đều là A-la-hán là nêu tên La-hán, câu các lậu đã hết trở xuống là giải thích tên La-hán tức nêu lên một cặp. Trong phần khen ngợi đức hạnh, lại có sáu nghóa giải thích: trên và dưới, chung và riêng, đắc và lìa, ba hạng người, ba đức, bốn trí. Trên và dưới, tức trên dưới giải thích cho nhau, gọi là A la hán vì các lậu đã hết, nói các lậu đã hết vì không còn phiền não. Đây là dùng dưới giải thích trên, sau là dùng trên giải thích dưới, nếu không còn phiền não thì được lợi mình, đã hết các kết lậu nên tâm tự tại. Chung và riêng: La-hán là nói chung bốn câu dưới: các lậu đã hết, v.v… là nói riêng. Được và lìa: Khen ngợi Bồ-tát dùng lợi mình lợi tha làm chính, khen ngợi Thanh văn dùng được và lìa làm tông. Trong bốn câu này thì cả hai cặp đều nói về được và lìa, cặp đầu y cứ lìa nhân tai họa hiện tại mà luận về được và lìa, cặp kế căn cứ lìa quả tai họa vị lai mà nói về được và lìa. Nói các lậu đã hết là khen ngợi lìa. Hỏi: Trong được và lìa, vì sao trước khen ngợi lìa, sau khen ngợi phần được? Đáp: Đây có hai nghóa: ý căn bản và nghóa trước sau. Ý căn bản là người Thanh văn sở dó xuất gia tu đạo là do sợ già, bệnh, chết cho nên dứt trừ tham sân si. Do tâm tham dục đưa đến bệnh, do sân nhuế đưa đến già, do ngu si đưa đến chết. Như kinh Pháp Hoa chép: Thuê gã cùng tử hốt phân, bởi đây là đại tông của Tiểu thừa. Nghóa trước sau tức là người Tiểu thừa ham thích Niết-bàn vô vi an vui, nhưng trước phải dứt phiền não sau mới được Niết-bàn, cho nên trước lìa sau được. Trong phẩm Tín Giải chép: Trước hỏi giá cả rồi mới hốt phân. Nói các lậu đã hết, gồm có ba lậu: Tất cả phiền não trong cõi Dục trừ vô minh, gọi là dục lậu Tất cả phiền não trong cõi Sắc, Vô sắc trừ vô minh, gọi là hữu lậu Vô minh trong cả ba cõi thì gọi là vô minh lậu. Hỏi: Các kinh sao không nói các lậu như bốn lưu, bốn thủ, cho đến mười sử v.v… mà chỉ nói về lậu tận? Đáp: Ba lậu là tóm lược ý nghóa tất cả, lại dùng vô minh làm gốc, nên bao gồm hết các tên lỗi lầm, người bộ khác nói có bốn lậu, thêm phần kiến lậu. Hoặc nói có bảy lậu: kiến lậu, tư duy lậu, hai phần này là thể của lậu, thọ lậu và niệm lậu, hai phần này là nhân lậu mà nói lậu, còn ba lậu căn bản trên là duyên theo lậu mà nói lậu. Luận A-tỳ-đàm cho rằng phiền não là thể của lậu, khổ và tập đều có ở lậu nên gọi là lậu. Luận Thành Thật cho rằng bỏ lý lấy tướng tâm thì gọi là lậu, vì tâm có ở lậu nên gọi là hữu lậu. Kế là nói câu: không còn các phiền não. Hỏi: Ba lậu gồm hết một trăm lẻ tám phiền não, vì sao nói không còn phiền não? thứ: Đáp: theo luận Trí Độ, trong phần khen ngợi “lìa” gồm có hai Các lậu đã hết là riêng khen ngợi lìa Không còn phiền não là tổng khen ngợi lìa. Ba lậu là một trong các khoa nên gọi là riêng. Các Ách, Lưu, Kiết, Phược, Triền, Cấu gọi chung là phiền não, tức gọi là chung lìa, đây là chung riêng một cặp. Ý theo luận Pháp Hoa thì các câu lậu đã hết là nói về chương, không còn phiền não là giải thích chương. Vì không còn phiền não cho nên các lậu đã hết, đây là một cặp nêu tên và giải thích. Theo ý Luận Thành Thật thì do tâm lấy tướng bỏ lý nên gọi là lậu, tức là căn bản, thập sử phiền não gọi là ngọn. Các lậu đã hết là dứt trừ căn bản, không còn phiền não thì ngọn cũng mất nghóa là nói một cặp gốc ngọn. Theo luận Tỳ-đàm chép: Đắc Tận trí nên gọi là lậu tận, đắc Vô sanh trí nên gọi là không còn phiền não. Lại thẳng theo văn giải thích thì do các lậu đã hết nên không thể khiến tâm phiền, không thể khiến tâm não nên nói không còn phiền não. Nói được lợi mình tức khen ngợi sở đắc, phiền não đã hết tức được Niết-bàn, nhưng quả Niết-bàn chỉ thuộc về La-hán, không thuộc về ba quả dưới, nên gọi là lợi mình. Luận Tỳ-bà-sa chép: Giải thoát là tên gọi chung Hữu học và Vô học, tên gọi Niết-bàn là chỉ riêng bậc Vô học, ý luận Pháp Hoa cũng như vây, chứng Niết-bàn nên gọi là lợi mình. Lại nữa, tài sản thế gian thuộc năm nhà thì không gọi là lợi mình, vật báu xuất thế gian chỉ thuộc về người tu hành nên gọi là lợi mình. Lại nữa, Bồ-tát tu hành chỉ vì lợi tha, người Nhị thừa tu tập chỉ vì mình nên gọi là lợi mình. Diệt hết các hữu kiết, đây là nói về được và lìa. Hữu là ba cõi, kiết là kiết chiêu cảm ba cõi ở vị lai, do dứt hết kiết chiêu cảm ba cõi, cho nên kiết ba cõi cũng diệt, vì thế nói diệt hết các hữu kiết. Luận Trí Độ chép: Kiết gọi là chín kiết. Tham, sân, si, mạn, vô minh, năm độn sử này lấy làm năm kiết. Thân kiến, tà kiến, biên kiến, ba kiến này xếp vào kiến kiết. Giới thủ, kiến thủ, xếp vào thủ kiết, năm lợi sử này làm hai kiết. Lấy hai triền san tham và ganh ghét trong mười Triền hợp làm chín Kiết. Hỏi: Vì sao chỉ nêu san tham và ganh ghét? Đáp: Trong luận Tạp Tâm chép: Hai loại này chỉ là bất thiện, lại nó chỉ tự sanh riêng cho nên nói riêng. Luận Tỳ-bà-sa chép: Do Đế- thích và Tu-la, cho nên chỉ lấy san tham và ganh ghét đưa vào phần cửu kiết. Đế-thích thì bỏn sẻn thức ăn cam lộ mà ganh ghét gái đẹp của A tu-la, Tu-la bỏn sẻn gái đẹp mà ganh ghét thức ăn cam lộ của Đế-thích. Vì vậy nên xếp san tham và ganh ghét vào phần chín kiết. Câu: tâm được tự tại là nói về phần được, do không bị phiền não ở hiện tại sai khiến, lại không bị chiêu cảm kiết ràng buộc trong ba cõi ở vị lai, cho nên tâm được tự tại. Lại nữa, đắc lợi mình là nói công đức vô vi, tâm được tự tại là công đức hữu vi. Cho nên hai phần lìa mà có, trước sau khác nhau, hai phần được thì giữa hữu vi, vô vi khác nhau. Trên đây đã giải thích xong phần được và lìa. Giải thích ba hạng người: Ba câu đầu: Cùng chúng đại Tỳ-kheo, một muôn hai nghìn người, đều là A la hán, tức giải thích đức hạnh của bậc La-hán. Câu: diệt trừ các hữu kiết là phân biệt khác với bậc Hữu học. Câu: tâm được tự tại là phân biệt khác với phàm phu. Ba hạng người này theo thứ lớp. Giải thích về ba đức: Hai câu đầu là giải thích ý Sát tặc, đắc lợi mình là giải thích nghóa Ứng cúng, hai câu sau là giải thích nghóa Bất sanh. Giải thích về bốn trí. Hai câu đầu là giải thích sự sanh tử của ta đã hết, đắc lợi mình là giải thích trí phạm hạnh đã lập, dứt trừ kiết các hữu là giải thích không còn thọ thân sau, tâm được tự tại là giải thích trí tạo tác đã xong. Hỏi: Bốn câu này thuộc về trí nào? Đáp: Luận Tỳ-bà-sa chép: Sự sanh tử của ta đã hết là thuộc về Tận trí; ba câu sau là thuộc về Vô sanh trí. Lại nữa, hiểu được sự sanh tử của ta đã hết là khổ trí, phạm hạnh đã lập là đạo trí, việc làm đã xong là diệt trí, không thọ thân sau là tập trí. Là nên tên, tức câu: “Tên các vị ấy là”. Trước tuy là khen ngợi đức hạnh mà chưa biết tên các vị ấy, cho nên phải nêu tên. Các kinh nêu tên gồm có hai phần: Y theo đức hạnh cao quý hay yếu kém để làm thứ lớp, như phẩm Đệ Tử trong kinh Tịnh Danh chép: Vì khiến đến thăm bệnh thì phải có trí tuệ biện tài. Trong hai mươi mốt người này đều là theo thứ lớp xuất gia đắc đạo, cho nên lấy trước sau làm thứ lớp. Kinh Thập Nhị Du chép: Lúc Phật mới thành đạo vào năm thứ hai nói pháp cho năm vị, năm thứ ba giáo hóa cho ba anh em Ca-diếp, năm thứ năm độ ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, do ngài Kiều-trần-như đắc đạo trước nhất cho nên nêu tên trước. Trong luận Phân Biệt Công Đức chép rằng: Người lớn nhất trong Phật pháp là Kiều-trần-như, người nhỏ nhất là Tu-bạt-đà-la. Hỏi: Vì sao kinh này lấy việc đắc trước sau làm thứ lớp? Đáp: Thuở xưa chia một làm ba thì bắt đầu từ người này, nay gom ba về một cũng đối với đây, do ngài Trần-như ban đầu lãnh thọ sự giáo hóa nghiêng lệch nên làm gốc chê bỏ cho giáo nay. Tên “A-nhã-kiều-trần-như”, tên này có đầu có đuôi. Kiều-trần- như, Hán dịch là Hỏa khí, tên này vốn là từ họ mà gọi, A-nhã là tên sau khi đắc đạo mới thêm vào. Chữ A là nghóa không, chữ Nhã là trí do ngộ “không” mà sanh trí nên gọi là A-nhã, đây là đạo tục đều nêu hợp cả tên và họ. Hỏi: Những người khác cũng ngộ “không” mà sanh trí, vì sao không gọi là A-nhã? Đáp: Bởi Trần-như là người đắc đạo đầu tiên, ngộ “không” ngay trước Phật cho nên được tên này, mọi người đắc đạo sau lại được tên khác. Kinh Vô Lượng Thọ chép: “ Tôn giả đã liễu ngộ cùng tận căn bản”, Tôn giả tức là Trần Như. Các kinh khác lại dịch A-nhã là Sơ Trí, A là Sơ, Nhã là trí. Hỏi: Ai đặt tên này? Đáp: Kinh chép: Cõi trời Tịnh cư thấy Trần Như đắc đạo đầu tiên nên gọi là A-nhã. Tên “Ma-ha Ca-diếp”, kinh Văn-thù vấn dịch là Đại Quy, là dòng họ lớn của nước Ma-già-đà, đây là từ họ mà đặt tên. Tên khác là Tất Bát-la, do ngài hạ sanh dưới cây Tất-bát-la nên gọi là Tất-bát-la đồng tử. Lúc còn ở thế tục cha mẹ ngài cầu nguyện thiên thần, có vị Phạm thiên giáng trần và gá sanh như các kinh khác có nói rộng. Thập Bát Bộ luận Sớ chép: Tên gọi đầy đủ là Ca-diếp-ba, Hán dịch Ca-diếp là Quang, Ba là Ẩm, hợp lại là Ẩm Quang. Ẩm là họ của ngài. Đời thượng cổ có vị tiên tên là Âm Quang, do vị tiên này thân có ánh sáng làm cấp át các ánh sáng khác. Nay ngài Ca-diếp là dòng họ của vị tiên Ẩm Quang, tức lấy việc lấn át ách sáng làm họ, từ họ mà đặt tên là Ẩm Quang. Lại nữa, vị La-hán này cũng có việc lấn át ánh sáng. Thân Ngài có ánh sáng sắc vàng, do vàng Diêm phù đàn ở dưới đáy nước phát ánh sáng lên khỏi mặt nước, lúc vua Chuyển Luân ra đời có các Dạ-xoa đến lấy vàng này đem vào nhân gian đổi chác, vì thế trong nhân gian có vàng này, khi có vàng này thì các thứ vàng trong nhân gian không hiện ra, nhưng vàng này cũng không sánh bằng sắc vàng của ngài Ca-diếp cho nên ngài, cũng có tên là Ẩm Quang. “Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp”, ba ngài Ca-diếp dưới đây là ba anh em, chẳng phải cùng hạng với ngài Đại Ca-diếp Ưu-lâu-tần-loa, Hán dịch là Mộc Qua Lâm, hoặc là Ưu-lâu-tần-loa Tụ Lạc. Chỗ rừng này có năm trăm nhà, cho nên người dịch kinh nêu cả hai việc là rừng và nhà. Ngài ở trong rừng này tu đạo cho nên đặt tên như vậy, trước kia kinh dịch là Thượng thời Ca-diếp. “Dà-da Ca-diếp”, Dà-gia là tên thành, Hán dịch là thành Thiết Trượng, ngài ở nơi thành này tu đạo cho nên đặt tên như vậy, trước kia kinh dịch là Tượng đầu Ca-diếp, chỗ này có núi Tượng đầu, nên từ núi mà đặt tên, do chỗ này cũng có thành, cho nên nêu cả hai nghóa. “Na Đề”, Na Đề là tên sông, trước kia kinh dịch là Giang Ca- diếp. “Xá-lợi-phất”, nói đầy đủ là Xá-lợi-phất-la, Xá-lợi dịch là Thân, Phất-la dịch là Tử, lược bớt chữ La nên chỉ nói là Xá-lợi-phất. Gọi Xá- lợi-phất có hai nhân duyên. Một là từ quá khứ do phát thệ nguyện đặt tên, thuở quá khứ Thích-ca là người thợ gốm, khi gặp Phật Thích-ca, Phật liền phát thệ nguyện, nguyện đời sau thành Phật hiệu là Thích-ca, đệ tử tên là Xá-lợi-phất, cho nên từ nguyện xưa nay mà đặt tên. Hai là từ mẹ mà có tên, do mắt mẹ Ngài như mắt chim Xá-lợi cho nên tên mẹ Ngài là Xá-lợi, mẹ Ngài là người thông minh bậc nhất trong các người nữ, do người đời tôn trọng mẹ ngài nên gọi ngài là Xá-lợi Tử, đây là người đời đặt tên. Các kinh xưa thì gọi là Thu Lộ Tử, Thu Lộ Tử là lấy tên loài chim, có người nói chim Xá-lợi giống như chim Thu Lộ. Cha ngài tên là Đề-xá theo cha mà đặt tên nên gọi là Ưu-bà-đề- xá. Ưu Bà là theo, Đề-xá là tên một vì sao. Kinh chép: Ban đầu Phật thấy có hai người đi đến, bèn khiến đổi tên Đề-xá, trở lại chữ gốc là Xá-lợi-phất, do thệ nguyện ở quá khứ nên tên là Xá-lợi-phất, nên đổi tên như ngày nay. Mục-kiền-liên”, Mục-liên họ là Đại Mục-liên, là họ mẹ. Hán dịch là Tán Tụng, cũng dịch là Lai Phục Căn, tự là Câu-luật-đà. Cha mẹ ngài không có con nên cầu nguyện ở thần cây Câu-luật-đà, do đó mà sanh Ngài, và lấy tên cây để đặt tên. Ba Tạng Chân-đế chép: Nên gọi là Vật-già-la. Vật-già, Hán dịch là Hồ Đậu, chữ La dịch là Thọ, hợp lại gọi là Thọ Hồ Đậu, đây là họ Ngài. Thuở xưa có một vị tiên tên là Vật-già-la, không ăn vật gì, chỉ ăn thứ đậu này nên gọi tên là Thọ Hồ Đậu, ngài thuộc dòng họ vị tiên này nên lấy đó đặt tên. “Ca-chiên-diên”, xưa dịch là Kiên Thừa, hai chữ này là lầm, nên đọc là Phiến Thằng. Cha Ngài mất sớm, mẹ ở vậy nuôi con như dây đạn quạt nên gọi Phiến Thằng. Ngài Ba Tạng chép: Thuở xưa có một vi tiên tên là Hà-la, Hán dịch là Tư Thắng, vị này có đủ sự nghe và hiểu biết hơn mọi người nên gọi là Tư Thắng, thuộc dòng họ vị tiên này nên cũng gọi là Tư Thắng. Chú Pháp Hoa kinh chép: Dòng họ ngài Ca-chiên-diên là lớn nhất trong môn đồ nên gọi là Đại, nay y như chú thích. Luận Trí Độ chép: Có vị đạo só dòng Bà-la-môn họ là Ca-chiên- diên, cũng lấy tên là Phiến Thằng, cho nên Ca-chiên-diên là họ, Phiến Thằng là tên của ngài. “A-nậu-lâu-đà”, Hán dịch là Như Ý, cũng dịch là Vô Bần. Thời quá khứ ngài cúng dường cho vị Bích-chi-phật một bữa ăn, do đó trong mười lăm kiếp được sanh về cõi trời thọ hưởng vui sướng sau cùng đắc quả La-hán, thường được như ý không có nghèo khốn, là con của vua Cam Lộ Phạn. “Kiếp-tân-na”, Hán dịch là Phòng Túc, là trú ngụ trong phòng Tăng. Do Phật thấy duyên đạo của ngài sắp khởi, liền hóa thành Tỳ- kheo cùng Ngài chung phòng tá túc qua đêm, do đây Ngài đắc đạo, nên lấy việc đó đặt tên. Lại nói rằng do cha mẹ ngài cầu đảo sao Phòng mà sanh ngài nên lấy đó đặt tên. Lại nói Kiếp-tân-na cũng là tên nước, từ nước mà đặt tên. “Kiều-Phạm-Ba-Đề”, Hán dịch là Ngưu Ty. Kinh Vô Lượng Thọ chép: Thời quá khứ tôn giả Ngưu Vương có làm Tỳ-kheo, có bứt một cọng lúa dưới ruồng người, bỏ vào miệng nhai xem đã chín chưa, có vài hột rơi xuống đất mà năm trăm đời làm trâu để đền trả. Nay gặp Phật Thích-ca và đắc đạo, chân xoặc ra giống như chân trâu, sau khi ăn còn nhai lại, do đó mà gọi tên. Đức Phật sợ kẻ phàm phu chê cười đắc tội, nên đã dẫn ngài đặt dưới cây Thi-lợi-sa trên cung trời Đao-lợi. Ngài là đệ tử của Xá-lợi-phất, cùng tụng luật với ngài Ưu-ba-ly, sau khi Phật diệt độ, ngài ở trên cõi trời mà nhập Niết-bàn. “Ly Bà Đa”, Hán dịch là Giả Hòa Hợp, như trong luận giải thích việc hai con quỷ ăn thịt người, cũng dịch là Ly Việt. Kinh Vô Lượng Thọ chép: Tôn giả là Đại hiệu. “Tất-lăng-già-bà-la”, Hán dịch là Dư Tập, cũng dịch là ác miệng. Thuở Phật còn tại thế, tất cả Tỳ-kheo trở xuống trừ Phật đều gọi là Hương Nhữ, cho đến mắng nhiếc thần sông Hằng do đây Phật chế giới, từ nay về sau không được nói Hương Nhữ. Nhớ lời Phật dạy cho nên theo đó mà đổi tên, ngài đã làm vị Bà-la-môn trong năm trăm đời cho nên có tập khí kiêu mạn này. Lại giải thích rằng Tất-lăng-già là họ, Bà-sa là tên. “Bạc-câu-la”, Hán dịch là Thiện Dung. Do ngài giữ giới không sát sanh nên được quả báo năm điều không chết. Bỏ vào nồi nấu không chết Bỏ vào chậu luộc không chết Xuống nước bị chìm không chết Vào bụng cá không bị nát vữa Dao chém không thương tổn Kinh chép: Ngài xuất gia trong tám mươi năm mà mắt không nhìn mặt người nữ, không bước vào chùa ni, cũng không vì người nữ nói một câu kệ. Vua A-dục cúng dường và bố thí trải qua rất nhiều tháp, đến tháp Bạc-câu-la nghe kể lúc ở đời ngài sống rất thiểu dục tri túc, không nói pháp cho người nữ dù là một câu kệ, vua cúng dường tháp một tiền nhưng tháp ấy không nhận. Vua A-dục chép: đây thật là chân thiểu dục tri túc cho đến một tiền cũng không nhận. “Ma-ha Câu-hi-la”, Hán dịch là Đại Tất, đây là vị Phạm Chí có móng tay dài, là cậu ngài Xá-lợi-phất. “Nan-đà”, Hán dịch là Vui mừng, hoặc nói là Mục Ngưu, Nan- đà đợi người ở thô A Do mới được đắc đạo. Hoặc nói ngài thuộc dòng họ Thích, dòng họ Thích có mười muôn người xuất gia, Nan-đà là một trong số ấy, tánh rất mềm mỏng mà thông minh, có âm thanh bặt diệu. “Tôn-đà-la-nan-đà”, đây là Nan-đà em của Phật, do bà Đại ái Đạo sanh ra, thân cao một trượng năm thước hai tấc, lúc Phật đến thành Ca-tỳ-la hai ngày và độ cho ngài xuất gia. Chữ Tôn-đà-la Hán dịch là Đoan chánh, cũng dịch là mềm mại, vì muốn phân biệt với ngài Nan-đà trước nên dùng tên vợ để gọi. “Phú-lâu-na”, Hán dịch là Mãn, là con của vị Bà-la-môn ở thành Vương Xá xưa kia ông Ngài dẫn cha mẹ Ngài ra bờ sông cúng tế trời để xin con sắp bày hương hoa cúng dường Phạm Thiên và tụng các bài chú. Đến đêm mẹ ngài mộng thấy có người cầm đồ vật đựng đầy đồ báu đến trao cho, người này đặt trước bụng mẹ ngài và đồ báu ấy bỗng nhiên đi vào bụng. Khi tỉnh dậy bà nói cho chồng nghe, người chồng bảo: Đây là vị Phạm Thiên đem con đến cho, đứa con này ngày sau sẽ là của báu, có thể hiểu biết tất cả. Do đây sanh ra ngài rất thông minh, học được tất cả kỹ thuật của thế gian, sau xuất gia thì đắc quả La-hán, lúc Phật nói pháp có thể tụng trì, khéo hiểu ý nghóa, hàng phục ngoại đạo. Do điềm mộng là vật đựng thứ báu và hiểu biết nhiều nên gọi là Mãn. “Di-đa-la”, Hán dịch là Từ Hạnh, trong Tứ Viđà có tên phẩm này, mẹ ngài trì tụng và lấy đó đặt tên là Từ Hạnh. Chữ Ni dịch là nữ, nước Thiên-trúc gọi nữ là Ni, gọi nam là Na, nhưng tên Phú-lâu-na thì có nhiều nên lấy tên mẹ để nêu. Đại ý chữ Mãn là con của bà Từ Hạnh. Xưa nói Phú-lâu-na cũng không khác trên. Di-đa-la cũng dịch là thiện tri thức, có chỗ gọi là Mãn Nguyện Tử. “Tu Bồ-đề”, Hán dịch là Không sanh, bởi lúc sanh Ngài thì các vật đều trống không. Thầy tướng nói: đứa con này chắc chắn là người hiểu về Không bậc nhất nên gọi là Không Sanh, cũng gọi là Thiện Cát. Nước Xá-vệ có Trưởng giả tên là Câu-lưu, vì không có con nên cầu xin thiên thần mà được, về sau lớn lên xin Phật xuất gia theo Phật ở tinh xá Kỳ Hoàn và làm Tỳ-kheo, ấy chính là ngài. “A-nan”, Hán dịch là Vui mừng, một là do hình dáng khôi ngôđẹp đẽ người thấy vui mừng, hai là sanh ra trong đêm Phật đắc đạo, nghóa là sanh trong ngày vui mừng nên gọi là Hoan Hỷ, ba là đời quá khứ có phát nguyện tên là Hoan Hỷ. Chi Đạo Lâm dịch là Bác Môn, hoặc là Vô Nhiễm Trước, do lúc mới chứng Sơ quả còn phiền não, nhưng thấy Long nữ cõi trời mà không khởi tâm nhiễm ô, vì vậy tên là Vô Nhiễm, là con của vua Hộc Phạn. “La-hầu-la”, Hán dịch là Phú Chướng, do sáu năm ở trong thai, bị thai che lấp nên gọi là Phú Chướng. am tạng chép: Phú Chướng vốn là tên của A-tu-la, A-tu-la này có thể lấy tay che mặt trăng, nếu dịch đầy đủ là Chướng Nguyệt Phật Tử, cho nên đặt tên này là mượn thí dụ để gọi. Phật tự chép: “Chánh pháp của ta như mặt trăng, người con này che lấp mặt trăng, muốn xuất gia học đạo mà có người con này sẽ chướng ngại, tuy là chướng ngại nhưng Như lai có thể xả bỏ. Phật tự chép: Trong đời quá khứ, La-hầu-la đã nhiều lần làm chướng ngại đạo, ta cũng nhiều lần có thể xả bỏ. Lại có tên là Cung Sanh. Phật xuất gia rồi Da-du mới có mang, dòng họ Thích tra vấn, Da-du đáp: Xin đợi sau khi sinh con sẽ chứng nghiệm. Sau khi sinh con, Da-du đốt đống lửa lớn rồi ôm con mà lập lời thề rằng: “Nếu chẳng phải con Phật thì mẹ con đều bị cháy”. Nói xong bèn nhảy vào đống lửa, lửa liền tắt, mẹ con Da- du không hề gì, Dòng họ Thích nói rằng: Thật đúng là con Phật. Về sau Phật đến thành Ca-tỳ-la bảy ngày và độ cho La-hầu-la xuất gia. Tổng kết: tức câu: “các vị mà mọi người đều biết như thế”. Đại A-la-hán, luận Pháp Hoa chép: Đến bờ bên kia nên gọi là Đại A-la- hán. Luận Tạp Tâm gọi là: Thanh văn Ba-la-mật, cũng là một nghóa mà thôi. Câu chúng sở tri thức, luận Pháp Hoa nói có hai hạng chúng: Vua trời, vua người là đại chúng tri thức. Thanh văn, Bồ-tát, Phật là Thánh chúng tri thức Biết đức hạnh bên trong, thức hình tướng bên ngoài. Lại nữa, chúng xa thì biết, chúng gần thì thức. Có biết mà không thức v.v… có bốn câu. Lại có bậc Hữu Hữu học, Vô học gồm hai nghìn người: Câu này nêu mật hạnh của chúng. Trong sáu đoạn trên thì có phần nêu địa vị và số lượng nói về hạnh này, ba quả dưới thuộc về bậc Hữu học, quả La-hán là bậc Vô học, đều là tâm hội lý, có sự tấn cầu đầy đủ nên gọi là Hữu Hữu học, Vô học, đây đã là người có mật hạnh thường là Đại thừa phương tiện, nên y cứ Bồ-tát để nói về Hữu Hữu học, Vô học. Từ hàng Sơ địa trở lên cho đến Thất địa có công dụng đạo gọi là Học, từ Bát địa trở lên, vô công dụng đạo gọi là Vô học. Trong Đại phẩm có nói về Bồ-tát Hữu Hữu học, Vô học, tức nghóa này. Lại nữa, trước nói là đại La-hán, hai nghìn người nầy đức hạnh chưa tròn đầy, chẳng phải chỗ kính ngường của đại chúng, cho nên nói riêng. Câu “Ma-ha Ba-xà-ba-đề”, trở xuống,v.v… là nêu Ni chúng, cũng chia làm hai hạng: Đại danh văn chúng và Tiểu danh văn chúng. Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Hán dịch là Đại ái Đạo. Da-du-đà-la, Hán dịch là Danh Thinh. Kinh Biệt Hữu chép: Đà La là con gái của Kiền-kiền-bà, Kiền- kiền-bà có con trai tên là Lạc Thần, sanh con gái là Ngọc nữ, trong các người con gái có Danh Thinh. Bà Đại ái Đạo và Đà-la có thứ lớp trước sau, theo thế gian thì mẹ chồng cao, con dâu thấp theo luật thì Ba-xà- bà-đề vào đạo trước, Da-du vào sau. Hỏi: Kinh Vị Tằng Hữu, kinh Tu Thái Noa và kinh Thụy Ứng đều chép: La-hầu-la là con của Cù-di, như kinh Pháp Hoa thì nói con của Da-du, Kinh chép: Da-du là vợ thứ hai, Cù-di là vợ thứ nhất. Vì thế kinh Thập Nhị Du chép: Thái tử có ba người vợ, thứ nhất tên là Cù-di, thứ hai tên là Da-du tức là Da-du-đà-la, thứ ba tên là Lộc-dã, ba người này mỗi người thống lãnh hai muôn thể nữ cho nên thái tử có sáu muôn thể nữ. Vì sao có hai nói khác nhau? Đáp: La-hầu-la đúng là con của người vợ thứ hai, Cù-di là mẹ lớn, do các kinh khác nêu tên người mẹ lớn, kinh Pháp Hoa nêu tên người mẹ sanh ra La-hầu-la cho nên không trái nhau. Cù-di Hán dịch là Minh Nữ, Luận Đại Trí Độ chép: Cù-tỳ-đà là Bảo Ngọc Nữ cho nên không mang thai, Cù-tỳ-đà tức là Cù-di, tức là đã làm chứng cho việc này. Lại nữa, kinh chép: Phật có ba người con, đó là Thiện Tinh, Ưu- ba-ma-na và La-hầu-la, do ba phu nhân sanh ra, nhưng Cù-di không sanh con được đây là người mẹ lớn có nuôi nấng nên nói. Kinh chú thích rằng: trong ni chúng chỉ nêu hai người này, không phải chỉ nêu người thân thuộc, mà do hai tên này để giao cho tông chỉ. Kinh Tịnh Danh chép: Trí độ Bồ-tát là mẹ, lấy phương tiện là cha, pháp hỷ là vợ, do muốn nói lên sự tu độ của mình từ nghóa này mà sanh khởi, theo lời nói mà hiểu nghóa, có thể không thấy tướng mà an tâm sao. “Bồ-tát Ma-ha-tát”, thứ hai là nói chúng Bồ-tát, sở dó nói chúng Bồ-tát gồm có ba ý: Muốn chứng minh A-nan nghe kinh là có thể tin, nếu A-nan cùng với người Tiểu thừa nghe Đại pháp thì chưa đáng tin, nay cùng người Đại thừa nghe Đại pháp thì có thể tin. Nếu người Tiểu thừa vây quanh Phật thì đức hạnh của Phật chưa tôn quý, nay cùng bậc Đại thừa vây quanh thì đức hạnh của Phật mới tôn quý. Muốn nói lên kinh Đại thừa, do kinh Thanh Văn ban đầu không có chúng Bồ-tát. Lời văn này gồm sáu phần: Nêu danh hiệu chung, nêu số lượng, nói về địa vị, khen ngợi đức, nêu tên và tổng kết. Là nêu danh hiệu chung, Bồ-tát nói đủ là Bồ-đề-tát-đỏa, Bồ-đề dịch là Đạo, là quả đạo vô thượng chánh biến tri. Tát đỏa dịch là chúng sanh, vì cầu đạo quả nên gọi Đạo chúng sanh. Xưa dịch là Đạo só, tiếng ấy là tối thắng, mà sự học ở thế gian như đạo của Trương, Lý vốn gọi là Trị Đầu và Quỷ Tốt, sau trộm lấy tên Đạo só của Phật pháp. Hỏi: Người Ba thừa đều có Bồ-đề, vì sao hai hạng đầu không gọi là Đạo chúng sanh? Đáp: Vì muốn nói lên ý nghóa cao thấp của ba thừa. Đạo Tiểu thừa thấp, từ Thanh giáo mà đặt tên nên gọi là Thanh Văn. Trung thừa ít cao quý, từ nghóa mà đặt tên nên gọi là Duyên giác, mười hai nhân duyên là pháp nghóa. Đại thừa là tối thắng, từ quả đức mà đặt tên. Lại nữa, hai hạng đầu chẳng phải Trung đạo, cho nên không gọi là Đạo, hạng sau là Trung đạo, cho nên xưa là chữ Đạo. Chữ Ma-ha-tát đỏa, Ma ha dịch là đại. Luận Thập Địa chép: Đại có ba hạng: Nguyện đại, Hạnh đại, và độ chúng đại. Tát đỏa dịch là Chúng sanh, tức là đại chúng sanh. Hỏi: Vì sao Thanh Văn, Duyên giác chỉ có một tên, Bồ-tát lại có cả hai tên gọi? Đáp: Hai thừa trên chỉ có thể siêu phàm cho nên chỉ đặt một tên, Bồ-tát có đức hạnh vượt cả phàm Thánh cho nên có hai tên gọi. Bồ-tát khác với phàm phu, do phàm phu không cầu ở đạo nên chẳng phải là Đạo chúng sanh. Ma-ha-tát cũng khác với hai thừa trên chỉ cầu đạo nhỏ, nay nói cầu ở đạo lớn nên gọi là Đại chúng sanh. Luận Nhiếp Đại Thừa Sớ có ba nghóa giải thích: Đầy đủ Bát-nhã nên gọi là Bồ-tát, đầy đủ đại bi nên gọi là Ma-ha-tát. Đầy đủ tuệ chân thật nên gọi là Bồ-tát, đầy đủ tuệ phương tiện nên gọi là Ma-ha-tát. Đầy đủ trí tuệ nên gọi là Bồ-tát, đầy đủ phước đức nên gọi là Ma-ha-tát. Đây là nội tâm đắc Trung đạo chánh quán, dựa theo đức mà đặt tên Trung đạo. Nêu số lượng, tức câu: “tám muôn người” ở trên tuy nêu danh hiệu chung mà chưa biết có bao nhiêu người, cho nên ở đây nói về số lượng. Nói về địa vị, tức câu: “đều Bất thoái chuyển đối với đạo Bồ- đề”. Ở trên tuy nói số lượng mà Bồ-tát gồm hai hạng, nói lược thì có mười bốn địa vị Hiền Thánh, nói rộng thì có năm mươi mốt địa vị. mười bốn địa vị Hiền Thánh gồm có: ngoại phàm và ba Hiền, Thập địa của nội phàm. Năm mươi mốt địa vị gồm có: Thập tín, Thập trụ; Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa và Đẳng giác địa. Diệu giác địa thuộc Phật địa, không thuộc Bồ-tát địa. Nay chưa biết người ở địa vị nào, cho nên nói về là người ở Vị Bất thoái chuyển. Nhưng trong văn kinh chỉ nói Bất thoái chuyển nơi đạo Bồ-đề, chỉ vì xưa nói có ba hạng bất thoái: Vị Bất thoái, Hành Bất thoái và Niệm Bất thoái. Giải thích ba hạng Bất thoái gồm có bốn nói khác nhau: Trong Thập trụ thì sáu tâm trước chưa hiểu về Giả nên lui sụt tâm Bồ-đề là người Nhị thừa. Từ tâm thứ bảy trở lên đã hiểu về Giả nên gọi là Bồ-tát, chỉ thành tựu riêng tánh Địa mới thoát khỏi vị thoái chuyển. Từ Sơ địa, cho đến Lục địa, mọi người tu tập có lúc không tiến lên, gọi là Hành thoái, Thất địa không có hành thoái, Địa thứ bảy có khi khởi ái tập còn có công dụng nên gọi là Niệm thoái. Từ Bát địa trở lên đã nhập đạo vô công dụng, không bao giờ có ba loại thoái trên nên gọi là Bất thoái chuyển. Sáu tâm của ngoạị phàm gọi là Vị thoái, từ tâm thứ bảy trở lên gọi là Vị Bất thoái, hai Bất thoái còn lại giải thích không khác trước. Tập chủng tánh gọi là Vị Bất thoái, đạo chủng tánh giải hành thuần thục nên gọi là Hành Bất thoái. Từ Sơ địa trở lên đắc Vô sanh nhẫn không còn Sanh tâm động niệm, nên gọi là Niệm Bất thoái. Có người nói có bốn loại Bất thoái: Thập tín. Thập trụ là Tín Bất thoái; Thập hạnh là Vị Bất thoái, Thập hồi hướng là Hành Bất tho- ái, Thập địa là Niệm Bất thoái. Nay cho rằng kinh, luận khác nhau, khó có thể hiểu rõ ràng. Kinh Bổn Nghiệp Anh Lạc chép: Trong Thập trụ thì trụ thứ sáu vẫn còn thoái tạo năm tộinghịch, huống chi là người Nhị thừa? Trong Thập Tín thì tín thứ sáu gọi là Bất thoái tâm, tức biết tử tín thứ sáu trở lên gọi là Bất thoái. Luận Địa Trì chép: Chủng tánh Bồ-tát hoặc tiến hoặc lùi, tức ý này hơi có chỗ đồng với kinh Bổn Nghiệp. Nhưng thường là tâm thứ sáu của ngoại phàm đã thoát khỏi địa vị thoái, làm sao biết như vậy? Trong Thập Tín thứ sáu gọi là Bất thoái tâm, do năm căn đã lập nên về sau được Bất thoái, tức biết từ tâm thứ sáu trở lên không có thoái chuyển. Lại kinh chép: Bồ-tát Thập tín hành đạo trong mười ngàn kiếp. Luận Nhiếp Đại thừa nói là tu hành trong một a tăng kỳ kiếp, mà Ngài Xá-lợi-phất hành đạo trong sáu mươi kiếp trụ và thoái ở tâm thứ sáu, đây là kính ngưỡng tín thứ sáu mà chưa đến tín thứ sáu. Nhưng kinh Anh Lạc chép: Lục trụ thoái. Ngài Long Thọ giải thích lời nầy rằng: Vì muốn làm cho, Bồ-tát Địa liền sợ hãi mau vào Sơ địa nên nói là thoái, thật ra là Bất thoái. Nay kinh nói Bất thối chuyển: Luận Pháp Hoa chép: Đó là hàng Bồ-tát Bát-địa trở lên thuộc Vị Bất thoái. Hỏi: Kinh Tích La-hán chép: Thất địa bất thoái, cho nên A Bệ Bạt Trí nói việc Thất địa, Bát Chu Tam-muội nói việc Bát đia, Tam- muội Thủ-lăng-nghiêm làm rõ việc Thập địa. Nay vì sao nói Bát địa bất thoái? Đáp: Thất địa đắc vô sanh nhẫn gọi là Bất thoái, Bát địa đắc vô công dụng nên gọi là Bất thoái, vì thế cũng gọi là Bất động địa. Hỏi: Bất thoái và Bất chuyển có gì khác nhau? Đáp: Kinh luận giải thích lời Di-lặc hỏi rằng: Được công đức bên trong gói là Bất thoái, được công đức bên ngoài gọi là Bất chuyển. Lại nói rằng: Đắc trí tuệ là Bất thoái, được công đức là Bất chuyển. Lại chép: Được Bát-nhã là Bất thoái, được phương tiện là Bất chuyển. Ý của luận Pháp Hoa là: Bát địa đắc vô công dụng, không bị công dụng làm động, lại không bị địa trên làm động, tự nhiên mà hành nên gọi là Bất thoái. Bốn là phần khen ngợi đức, tức câu: “đều được Đà-la-ni” trở xuống. Sở dó nói khen ngợi đức, bởi ở trên nói địa vị, nay nói về đức hạnh, tức là địa vị và đức hạnh cùng nêu. Theo luận Pháp Hoa thì trên nói chung về Bất thoái, nay giải thích riêng về Bất thoái. Luận Trí Độ chép: Trên nêu Bồ-tát Ma-ha-tát, nay nói đủ về đức này nên gọi là Bồ-tát, tức dùng đức để giải thích tên. Lại, muốn phân biệt bí mật để nói lên hai giáo. Nói lên giáo là giáo Tiểu thừa, nói Bồ-tát vẫn còn là phàm phu. Nay khen ngợi Bồ-tát được Vô sanh nhẫn đầy đủ sáu thông, phiền não thanh tịnh, gọi là bí mật giáo Đại thừa. Lại khen ngợi Bồ-tát, khiến mọi người tìm kinh mà bỏ Tiểu thừa tin Đại thừa. Văn khen ngợi đức chia làm bốn phần: khen ngợi đức hiện tại, khen ngợi nhân quá khứ, khen ngợi thật thể và khen ngợi danh hiệu. Ban đầu cả nhân và quả đều tốt, sau thì cả thể và danh đều khen ngợi, là lược nhiếp đức hạnh của Bồ-tát. Khen ngợi đức hiện tại, trước khen ngợi tự hành, sau khen ngợi hóa tha. Hỏi: Vì sao khen ngợi Đà-la-ni trước? Đáp: Có hai nghóa, một là Đà-la-ni là năng trì, các đức ở dưới là sở trì, cho nên trước khen ngợi gốc, sau khen ngợi ngọn. Ngài Tịnh Danh chép: Tổng trì là bao quanh, tức làm chứng việc này. Hai là trong pháp Tiểu thừa không nói Đà-la-ni, nay khen ngợi Bồ-tát Đại thừa, cho nên trước khen ngợi Tổng trì Đà-la-ni. Hỏi: Trong pháp Tiểu thừa sao không nói về pháp Tổng Trì? Đáp: Người Tiểu thừa vì sợ khổ sanh tử nên muốn mau chứng Niết-bàn, không muốn rộng tu các hạnh, vì thế không nói. Bồ-tát đã độ khắp chúng sanh, lại tu đủ các hạnh, muốn khi qua đời không mất sự tu hành trong nhiều kiếp, cho nên Phật vì nói pháp này. Tổng trì có hai nghóa là giữ thiện không để mất và ngăn ác không để sanh. Hỏi: Lấy gì làm thể của trì? Đáp: Luận Trí Độ chép: Hoặc nói niệm, hoặc nói định hoặc nói tuệ, nay nói một chánh quán, tùy theo nghóa mà khác tên, nhớ nghó không mất, có thể chiếu rõ thật pháp nên gọi là Bát-nhã. Luận chép: Ở tâm Thanh văn gọi là đạo phẩm ở tâm của Bồ-tát gọi là Đà-la-ni. Hỏi: Trong đây nói về Đẳng trì nào? Đáp: Luận Pháp Hoa chép: Là Văn trì Đà-la-ni, nhưng Bồ-tát pháp thân đầy đủ văn nghóa Đẳng trì, nay chỉ nói lược một loại đầu mà thôi. “Nhạo nói biện tài”: là khen ngợi hóa tha, trên là năng trì, nay nói về sở trì, do bên trong có đức tổng trì, bên ngoài có ngộ vật. Bồ-tát có bốn pháp vô ngại. Nay nói về đức hóa tha nên chỉ nêu pháp sau cùng là nhạo nói biện tài. Nói nhạo nói biện tài gồm có hai nghóa: Một là Bồ-tát tự đắc pháp cao quý nên ưa nói pháp cho chúng sinh nghe, thí như cha mẹ được việc lợi nên vui mừng muốn trao cho con. Hai là biết chúng sanh ưa thích nên nói pháp cho họ nghe, vì có đủ hai pháp này. Nói biện có chung và riêng. Nếu đối cảnh mà phân biệt được thì bốn thứ đều gọi là biện, đó là ở mắt thì thấy, ở tai thì nghe, ở tâm thì trí, ở miệng thì nói, đây là nghóa riêng. Mau chóng thích ứng căn cơ gọi là biện, lời nói bao gồm cả văn lẫn nghóa thì gọi là tài, đây là nghóa chung. “Xoay bánh xe pháp bất thối chuyển”, ban đầu nói nghe pháp không quên, thứ kế nói bên trong biết căn cơ ham muốn, bên ngoài có lời nói vô phương, đủ hai món này mới có thể nói pháp cho người nghe. Nay chính là nói về pháp được nói, tức ba câu thứ lớp. Thể của chánh quán vô sánh có thể làm gương mẫu thì gọi là Pháp, truyền bá viên thông ràng không buộc người nào thì gọi là luân, chánh quán Vô sanh không lụy không hoại cũng gọi là luân, sở đắc không mất gọi là bất thoái, từ mình đến người nên gọi là chuyển. Hỏi: Ở đây khen ngợi người ở địa vị nào? Đáp: Theo luận Pháp Hoa, ban đầu nói bất thoái chuyển là khen ngợi người Bát địa, đều được tổng trì nhạo nói biện tài là khen ngợi người Cửu địa, do Bồ-tát người Cửu địa đắc thắng tấn Đà-la-ni và mười loại, bốn vô ngại trí, ở địa vị Đại pháp sư. Xoay bánh xe bất thoái là khen ngợi người Thập địa, chỉ mình Phật mới có khả năng xoay bánh xe pháp, Bồ-tát Thập địa đã họ địa vị Phật, nên biết như Phật cũng có thể chuyển. Khen ngợi nhân quá khứ, tức câu “cúng dường vô lượng trăm ngàn Chư Phật”. Do nhân quá khứ mà có đức hiện tại, khen ngợi nhân quá khứ là giải thích đức hiện tại. Do quả rõ nhân vi tế, cho nên trước khen ngợi quả hiện tại sau khen ngợi nhân quá khứ, cũng có hai câu: Câu đầu nói cúng dường Phật, Phật là chân thiện tri thức của chúng sanh, các công đức trước do Phật mà có cho nên nói cúng dường Phật, cúng dường thì dùng hai thứ tài và pháp, hoặc thân miệng cung kính khen ngợi, gọi chung là cúng dường. Câu kế là: “Gieo trồng gốc các đức đối với Chư Phật”. Tám muôn bốn ngàn Ba-la-mật gọi là các đức, dùng các đức này làm gốc Bồ-đề nên gọi là gốc, Bồ-tát y theo giáo pháp tu hành tức là gieo trồng. Lại nữa, các đức là quả đức của Phật, tu hành là gốc của các đức; cũng như kinh Tịnh Danh chép: Đại trí là gốc, thực hành đều được thành tựu. “Thường được Chư Phật khen ngợi”, trên nói sự tu hành do Phật mà thành tựu, nay nói về đạo hợp với Phật. Nếu tu hành có thiện sở đắc thì sự tu hành trái với Phật, không phải là gốc Bồ- đề, cho nên bị Phật quở trách. Nay tu hành thiện vô sở đắc, tức đạo hợp với Phật, cho nên được Phật khen ngợi. Mà nói thường khen ngợi, là do Bồ-tát thường thực hành quán sát không mê đắm, không để tâm niệm gián đoạn, cho nên thường được Phật khen ngợi. Luận Pháp Hoa chép: Do dứt nghi nên được Phật khen ngợi. Khen ngợi thật thể: tức câu “dùng đức từ để tu thân”. Cũng có hai câu: ban đầu khen ngợi thân, sau khen ngợi tâm. Bồ-tát đã gieo trồng gốc đức, nay muốn dạy chúng sanh cùng gieo trồng gốc lành, nên vì chúng sinh mà thọ thân, cho nên khen ngợi thân. Người phàm phu, Nhị thừa do kết nghiệp huân tập nên thọ thân trong ba cõi. Bồ-tát dùng tâm vô duyên đại từ nên có thể hiện thân trong sáu đường. Ngài Tăng Triệu nói: Pháp thân vô sanh mà chẳng chỗ nào không sanh, vì vô sanh nên cửa các đường đều đóng, chẳng chỗ nào không sanh mà sanh năm đường. “Khéo hội nhập trí tuệ Phật” là phần khen ngợi tâm. Lại trước là khen ngợi công đức, nay là khen ngợi trí tuệ. Luận Trí Độ chép: Bồ-tát ở bậc Thất trụ định tuệ đều bình đẳng, đắc Vô sanh nhẫn nên gọi là nhập mắt Phật địa, nhưng vẫn là công dụng nên chưa gọi là khéo nhập. Nay khen ngợi Bồ-tát Bát địa là vô công dụng tâm gọi là khéo nhập. “Thông đạt đại trí”, trong kinh luận thường nói tuệ môn thì chiếu không, trí môn thì chiếu hữu. Trên nhập tuệ chiếu không, của Phật, là dùng tâm Bát-nhã mà nhập Tát-bà nhã, nay thông đạt đại trí dùng phương tiện của Bồ-tát mà chứng nhập Nhất thiết chủng trí của Phật. Vì thế Bồ-tát dùng hai tuệ làm năng nhập, Như lai có hai trí là sở nhập, nhưng hai tuệ hai trí không có hai thể, do mê và ngộ khác nhau nên chia ra nhân và quả khác nhau. Cho nên nói rằng: ở tâm Bồ-tát gọi là Bà-nhã, ở tâm Phật gọi là Tát-bà-nhã. Hỏi: Luận Pháp Hoa chép: Thông đạt đại trí là trí chiếu không, vì sao còn chiếu hữu? Đáp: Như trước đã giải thích, trong kinh thường nói chiếu không là tuệ, chiếm hữu là trí. Nay luận nói chiếu không là trí, chiếu hữu là tuệ, tức lại có một nghóa nầy. Đắc trí môn thì rõ cả không và hữu, cho nên phẩm Ba tuệ Bát-nhã chép: Biết tất cả pháp là một tướng, đó là Nhất thiết trí. Lại chép: Biết đủ các thứ tướng nên gọi là nhất thiết chủng trí, ở trí rõ cả không và hữu, nghóa chữ tuệ cũng vậy. “Đến bờ giải thoát”, trước khen ngợi hai tuệ năng chiếu, nay khen ngợi hai cảnh sở chiếu. Do hiểu cùng tận nguồn chân và tục nên gọi là đến bờ kia. Nên kinh Đại Phẩm chép: Đến bờ kia của hữu vi, vô vi, tức là việc này. Lại nữa, trước khen ngợi năng liễu tuệ của Phật, tuệ ấy gọi là liễu ngộ quả Bồ-đề. Nay khen ngợi đến bờ giải thoát, tức liễu ngộ đức đại niết bàn của Phật. Lại, trước khen ngợi “quán” chẳng có gì là không rõ, nay khen ngợi “lụy” chẳng có gì là không vắng lặng, tức là bờ vắng lặng vậy, như nói xưa nay vắng lặng, tức là Niết-bàn. Khen ngợi danh dự, tức câu “tiếng tăm truyền khắp” cũng có hai câu: Do đức bên trong đầy nên danh tràn ra ngoài. “Có thể độ vô số trăm ngàn chúng sanh”, đức vững danh truyền cho nên có công độ khắp. Trong bốn lần khen ngợi trên mỗi lần đều có hai câu cũng là sự kế nối chặt chẽ, có thể tìm hiểu ý chỉ văn này. Luận Pháp Hoa dùng bốn phương tiện để gồm nhiếp các câu này: Một là: Nhiếp thủ diệu pháp phương tiện, nghóa là ban đầu đắc Văn trì Đà-la-ni, kế đến đắc Nhạo nói biện tài, sau là vì người xoay bánh xe pháp, tổng hợp ba câu này gọi là thâu lấy phương tiện diệu pháp. Hai là: Nhiếp thủ thiện tri thức phương tiện: nghóa là cúng dường Chư Phật, gieo trồng các gốc lành, thường được Chư Phật hộ niệm, gọi là gồm nhiếp phương tiện thiện tri thức. Ba là: Nhiếp thủ chúng sanh phương tiện, nghóa là không bỏ chúng sanh, do dùng đức từ tu thân nên không bỏ chúng sanh. Bốn là: Nhiếp thủ trí phương tiện, là giáo hóa chúng sanh khiến chứng nhập trí Bát-nhã của Phật, tức là khéo nhập tuệ Phật, gọi là gồm nhiếp phương tiện trí. Bốn phương tiện này là thứ lớp, có thể xét kỹ. Nêu tên: tức câu “tên các vị ấy là”: Ở trên tuy khen ngợi chung đức hạnh nhưng chưa nêu tên từng vị, nay nói về nêu tên. Hỏi: Trong đây nêu tên mười tám vị, vì sao nêu ngài Văn-thù trước? Đáp: Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh do Bồ-tát Diệu Quang xin mà nói kinh Pháp Hoa, Phật Thích-ca Mâu-ni cũng do ngài Văn-thù-sư-lợi xin mà nói kinh Pháp Hoa, đã có công khai mở giáo pháp cho nên nêu đầu tiên. Hỏi: Vì sao do ngài Văn-thù mà nói kinh này? Đáp: Do ngài Văn-thù giải thích sự nghi ngờ của đại chúng mà nói về Phật xưa nói kinh, rồi nói về Phật Thích-ca mở bày giáo pháp. Biết trước sự nhen nhúm nghi ngờ và chê bai trong chúng mà ngăn dứt, khai mở tin hiểu dần cho người, sau đó Phật Thích-ca mới xuất định nói pháp, vì thế nói do ngài Văn-thù mà nói kinh Pháp Hoa. Hỏi: Vì sao không do Bồ-tát khác mà lại do ngài Văn-thù? Đáp: Do ngài Văn-thù nên được khai thừa phương tiện, thừa chân thật, vì vậy nhờ ngài Văn-thù mà nói phần đầu kinh Do ngài Văn-thù là thầy Phật Nhiên Đăng, mà Phật Nhiên Đăng là thầy của Phật Thích- ca, do đây che xa mà nói, được nói thân phương tiện, thân chân thật, tức là phần sau kinh, văn dưới sẽ nói đủ. Lại nữa, ngài Đạo Lãng ở Hà Tây chép: Văn-thù là Bồ-tát có mặt khắp nơi, các pháp hội trong mười phương phần nhiều do ngài khai phát, cho nên nói nghiêng về ngài Văn-thù. Lại nữa, ngài Văn-thù là Phật Vui mừng Tạng Ma Ni Bảo Tích ở thế giới Vui mừng phương Bắc, trong hiện tại nếu ai nghe được danh hiệu Phật này còn diệt được bốn tội nặng, nay ngài thị hiện làm Bồ-tát để giúp đỡ Phật Thích-ca, do có công đức này nên nêu ở đầu. Lại nữa, Văn-thù có đủ Phật ba đời, đời quá khứ là Phật Long Chủng Tôn, đời hiện tại là Phật Ma-ni Bảo Tích, đời tương lai cũng thành Phật, cho nên nêu tên ngài trước. Hỏi: Kinh Đại Phẩm cũng nói tại thành Vương Xá, vì sao nêu tên Bồ-tát Bạt Đà trước? Đáp: Bạt-đà là người cũ ở thành Vương Xá, kinh Đại Phẩm thì Phật tự khai nói, cho nên người cũ là khách làm thứ lớp. Kinh Pháp Hoa là do người khác mà khai nói, vì thế nên nêu ngài Văn-thù ở đầu. Hỏi: Kinh Đại Phẩm vì sao Phật tự khai nói, còn kinh này lại do người khác mà khai nói? Đáp: Kinh Đại Phẩm là nói lên giáo pháp Bồ-tát thành Phật, ng- hóa ấy rất dễ hiểu, do Bồ-tát không tự chấp thủ, lại có căn tánh lanh lợi. Kinh này nói lên để dạy người Thanh Văn, Thanh Văn còn tự chấp thủ, lại là căn tánh chậm lụt cho nên phải do ngài Văn-thù khai kinh. Văn-thù, Hán dịch là Diệu Đức, do thấy rõ Phật tánh, về đức thì chẳng gì không tròn đầy, sự hệ lụy chẳng gì không trừ sạch, nên gọi là Diệu Đức. Bồ-tát Quán Thế Âm ở phẩm sau sẽ giải thích rộng. Bồ-tát Đại Thế Chí: Những chỗ đi qua thế giới đều rung chuyển, không có đường ác. Thường Tinh Tấn: do chúng sanh thường có các khổ cho nên Bồ-tát thường phải cứu vớt, vì vậy nói Thường Tinh Tấn. Bất Hưu Tức: ở trên lấy sự tinh tấn làm tên, nay lấy việc lìa lỗi làm tên, như cứu lửa cháy đầu, không thể dừng nghỉ. “Bảo Chưởng”: Tay lấy ra các của báu ban phát không có cạn kiệt. “Dược Vương”: Do đời quá khứ dùng thuốc để chữa bệnh, do đây mà gọi tên. Nhưng Bồ-tát nầy có hai thứ thân. Một là Như Ý Châu Vương thân, có thể tùy ý ban cho tất cả thuốc, y theo đây đặt tên nên gọi là Bảo Chưởng. Hai là Dược Thọ Vương Thân, nếu ai thấy nghe thì chẳng khổ nào không diệt, y theo đây đặt tên nên gọi là Dược Vương. “Dũng Thí”: Bồ-tát hiểu rốt ráo về không, xả bỏ thân mạng tài vật mà không sanh khiếp sợ, nên gọi là Dũng Thí. “Bảo Nguyệt”, do trí tuệ sáng suốt mát mẻ không có ba độc nóng bức, quí giá như mặt trăng. “Nguyệt Quang”: do trí tuệ xua tan bóng tối, như ánh sáng mặt trăng. “Mãn Nguyệt”: các đức đều tròn đầy, chiếu sáng cùng khắp. “Đại lực”: Nói theo sự thì có thể rung chuyển cả Đại thiên, theo lý thì nếu có phiền não đầy ba cõi, người Nhị thừa mê muội, Bồ-tát có sức mạnh có thể phá trừ đại ác này, nên gọi là Đại lực. “Vô lượng lực”, theo sự thì có thể nhấc cả mười phương làm vô lượng lực, theo lý là lực Vô tướng, không dùng hữu lượng làm tên. Vượt ba cỏi: Vì trí tuệ vượt khỏi đạo sanh diệt, vượt qua ba cõi. “Bạt-đà-bà-la”, Hán dịch là Hiền Thủ, gần sát bậc Thánh nên gọi là Hiền, mở rộng đạo vững chắc nên gọi là Thủ. “Bảo Tích”: Vì tài báu và pháp báu đều chứa nhóm đầy đủ. “Di-lặc”, Hán dịch là Từ Thị, do đời quá khứ gặp Phật Di-lặc mà phát nguyện lấy tên Di-lặc. Kinh Nhất Thiết Trí Quang Tiên Nhân chép: Thuở xưa, Di-lặc là vị tiên Nhất Thiết Trí Quang, gặp Phật Từ Thị nói kinh Từ Tâm Tam-muội, nên gọi là Từ. Kinh Hoa Nghiêm chép: Ban đầu chứng đắc Tam-muội từ tâm gọi là Từ. “Đạo Sư”, dùng pháp dẫn chúng sanh khéo đạt chánh tà, như người thầy đi biển khéo chỉ bày chỗ bằng phẳng, hiểm nguy. Hỏi: Trang, Chu còn nói rằng: Đến như người vô tâm, thần nhân vô công, Bậc Thánh vô danh. Còn Bồ-tát pháp thân không thể dùng tượng để biết hình, không thể dùng trí để biết tâm, vì sao còn đặt tên? Đáp: Kinh Niết-bàn chép: Đê-la-bà-di thật không ăn dầu mà gượng gọi là ăn dầu, Niết-bàn cũng như vậy, trong không có tên tướng mà gượng nói danh tướng. Niết-bàn là pháp sở thể nay đã không tên mà ép đặt tên, người thể theo đạo không tên mà gượng đặt tên. Đây là lời nói một chiều mà thôi, còn chưa đủ để hiểu trong ngoài. Còn như người chẳng danh chẳng vô danh, có thể danh, có thể vô danh; tuy có thể danh có thể vô danh mà bất động danh tướng của chẳng danh chẳng vô danh. Cho nên Thiên nữ vặn hỏi Xá-lợi-phất: Ngài tuy biết giải thoát là vô danh, mà chưa ngộ danh là giải thoát. Nay cũng vậy. Phần tổng kết, tức câu: “như vầy đẳng” trở xuống. Hỏi: Số lượng Bồ-tát đông nhiều, vì sao chỉ nêu mười tám vị? Đáp: Tuy nói mười tám vị, mà bao gồm tất cả, như ngài Hiền Thủ,v.v… là Bồ-tát tại gia, ngài Văn-thù,v.v… là Bồ-tát xuất gia. Lại nữa, Di-lặc,v.v… là Bồ-tát sẽ thành Phật, Quán Âm,v.v… là Bồ-tát đã thành Phật. Văn-thù, Di-lặc ở cõi này, Quán Âm ở cõi khác, Hiền Thủ là người cũ ở thành Vương Xá, Bảo Tích là khách ở nước Tỳ Da ly, do bốn cặp này mà tóm thâu cả tám muôn người. “Lúc bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân”: đây là nói chúng phàm. Trên nói về Thanh văn, Bồ-tát chắc chắn là Thánh chúng. Nay chẳng phải Đại thánh, Tiểu thánh nên chỉ bày phàm phu, vì vậy nói phàm chúng. Nhưng hễ Chư Phật giáng sanh thì có đồng hành, thân ở khắp trong sáu đường, lúc Phật nói pháp thì đều dẫn quyến thuộc của họ đồng vào Nhất thừa, vì thế theo chủ mà nói, thì phần nhiều là phương tiện. Văn này chia hai phần là chúng ẩn và chúng hiển, chúng ẩn có đạo hạnh cao quý, có thế lực lớn nên nêu trước, chúng hiển đạo kém, không có thế lực nên nêu sau, tức là từ cao đến thấp. Như trước nói Thanh văn hơn Bồ-tát, tăng chúng hơn ni chúng, trước nói chúng khách, sau nói chúng cũ. Trong phần chúng ẩn gồm có sáu chúng như trong văn đã nói trong sáu đường thì không có chúng địa ngục, do chịu khổ nặng nên không đến được. Kinh Đà-la-ni có nói chúng địa ngục, là có nhân duyên riêng, như văn ấy đã giải thích. Trong ba cõi thì không có cõi Vô sắc gồm có hai nghóa: một là do các kinh Đại thừa, Tiểu thừa phần nhiều nói về cõi Vô sắc vì không có hình tướng nên không đến nghe pháp. Hai là nếu có hình thể nhỏ bé mà vì không có nhân duyên nên không thể đến. Hỏi: Chỉ kinh Đại thừa nói cõi Vô sắc có hình sắc nhỏ, kinh Tiểu thừa có nói như vậy không? Đáp: Kinh A-hàm chép: Cõi trời Vô sắc thấy Xá-lợi-phất Niết- bàn mà khóc như mưa. Tức biết Tiểu thừa cũng nói có sắc, nhưng theo phần nhiều mà nói Vô sắc mà thôi. Trong tám bộ thì không có Dạ-Xoa và Ma-hầu-la-già, do lược cho nên nói. Ban đầu nói chúng cõi trời gồm chúng cõi trời cõi Dục và chúng cõi trời cõi Sắc. Trước đây nói chúng thường là từ cao đến thấp, nay thì từ thấp đến cao, gồm có hai nghóa. Nói lên ý Tiểu thừa: Trời cõi Dục có sơ nhập Thánh đạo, trời cõi Sắc thì không thể, tức là từ cao đến thấp. Trời cõi Dục là đàn việt của Phật, là côi gần gũi Phật cho nên nêu trước. “Thích-đề-hoàn-nhân”, Tiếng nước ngoài nói đủ là Thích-ca-đề- hoàn-nhân-đà-la. Thích-ca là Năng, Đề-hoàn là Thiên, nhân-đà-la là Chủ, do trời ấy ở Pháp thiện đường giáo hóa khiến chư thiên hài lòng, nên gọi là Năng Thiên Chủ. Trong cõi trời ba mươi ba thì có ba mươi hai hần, bốn phương mỗi phương có tám vị thần thành ba mươi hai, một trời giữa là chủ, thành ra ba mươi ba Trời. Luận Đại Trí Độ chép: Trong Ba tạng thì nói Thích-đề-hoàn-nhân đắc quả Tu-đà-hoàn, trong Ma-ha-giảng nói ngài là Bồ-tát pháp thân. Lại nữa, Thích-đề-hoàn-nhân là họ, tên là Kiều-thi-ca, vốn là người cũ ở nước Ma-kiệt-đà, vì thế nêu tên trước. Lại có “Minh Nguyệt Thiên Tử”, Chú giải rằng: là thần phụ tá của Đế-thích. Có người chép: Nguyệt Thiên Tử là vua mặt trăng. “Phổ Hương Thiên Tử” là vua các vì sao. “Bảo Quang Thiên Tử” là vua mặt trời, là ba thứ ánh sáng cho nên nêu sau, ý này lấy từ kinh Chánh Pháp Hoa. Lại có kinh chép: Quán Thế Âm tên là Bảo Ý. Làm thiên tử mặt trời, Đại Thế Chí tên là Bảo Cát Tường, làm thiên tử mặt trăng, Hư Không Tạng tên là Bảo Quang, làm thiên tử các vì sao. “Bốn vị đại thiên vương cùng với quyến thuộc,v.v…” Phẩm Thế Ký trong Kinh Trường A-hàm nói về Bốn Thiên Vương rằng: cách núi Tu-di về phía Đông khoảng ngàn do tuần có thành của Thiên Vương Đề- đầu-lại-tra tên là Hiền Thượng, rộng mỗi bề sáu ngàn do tuần, thành này tô điểm bằng bảy thứ báu. Cách núi Tu-di về phía Nam khoảng ngàn do tuần có thành của Thiên Vương Tỳ-lưu-lặc-xoa tên là Thiện Kiến. Cách núi Tu-di về phía Tây khoảng ngàn do tuần có thành của Thiên Vương Tỳ-lâu-bác-xoa tên là Châu-la Thiện Kiến. Cách núi Tu-di về phía Bắc khoảng ngàn do tuần có thành của Thiên Vương Tỳ-sa-môn, thành này có ba tên là Khả Úy, Thiên Kính và Chúng Quy, rộng mỗi bề sáu ngàn do tuần. Luận Trí Độ chép: Thiên Vương ở phương Đông tên là Đề-đầu-lại-tra, Hán dịch là Trị Quốc Chủ, thống lónh hai bộ quỷ thần là Kiền-thát-bà và Tỳ-xá-xà, ủng hộ người ở cõi Phất-bà-đề không bị quỷ thần xâm phạm. Thiên Vương ở phương Nam tên là Tỳ-lưu-ly, Hán dịch là Thêm lớn Chủ, thống lónh Cưu-bàn-trà và Tiết-lệ-đa, che chở người Diêm-phù-đề không để cho xâm hại Thiên vương ở phương Tây tên là Tỳ-lưu-bác-xoa, Hán dịch là Tạp Ngữ Chủ, cai quản tất cả các rồng và Phú-đơn-na, che chở người Cù-da-ni không để cho xâm hại. Thiên Vương ở phương Bắc tên là Tỳ-sa-môn, Hán dịch là Đa Văn Chủ, cai quản Dạ-xoa và các La-sát, che chở người Uất-Đan-Việt không để cho xâm hại, cho nên gọi là Bốn Thiên Vương hộ thế. “Tự Tại Thiên Tử trở xuống, Chú giải rằng: Tự Tại thiên tử tức là đại thần binh chủ của Đế-thích. “Đại Tự Tại Thiên Tử”, là Ma-hê-thủ- la, tức là Thầy của Đế-thích. Trên đã nêu hai vị trời đầu tiên của cõi Dục, Đế-thích đứng đầu cõi mặt trời, mặt trăng, tinh tú, còn bốn góc chung quanh làm thần. Nay nêu hai cõi trời sau ở cõi Dục là trời Hóa Lạc và trời Tha Hóa Tự Tại. Vì sao không nói cõi trời Dạ Ma và Trời Đâu-suất, do nêu bốn cõi trước và sau, thì hai cõi giữa có thể biết, vì vậy không nêu. “ Chủ cõi Sa bà: đây là nêu chung các trời cõi Sắc. Thế giới Sa bà, Hán dịch là Tạp Ác, cũng dịch là Tạp Hội. Đại Phạm Thiên Vương tên là Thi-khí. Có người chép: Đại Phạm Thiên Vương là Phạm Vương ở cõi Sơ thiền, Thi-khí là Phạm Vương ở cõi Nhị thiền, Quang Minh Đại Phạm là Phạm Vương ở cõi Tam thiền. Chữ vân vân là những vị ở cõi Tứ thiền, như Ngài Quang Trạch đã giải thích. Có người chép: Chủ thế giới Ta-bà là Ma-hê-thủ-la, là Phạm Vương ở cõi Tứ thiền, Thi-khí là Phạm Vương cõi Tam thiền, Quang Minh là Phạm vương ở cõi Nhị thiền, chữ vân vân là những vị ở cõi Sơ thiền. Theo luận Trí Độ chép quyển thứ 1: Chủ cõi Sa bà là Phạm thiên vương tên là Thi-khí. Nói chủ cõi Sa bà, là nêu nơi chốn để nói lên người đứng đầu, Đại Phạm thiên vương ở địa vị này, Thi-khí là tên của vị chủ này. Trong kinh Kim Quang Minh cũng giải thích như. Thi-khí, Hán dịch là Hỏa. Có người chép: vị Phạm thiên vương này nhập định Hỏa Quang, trên đảnh có ánh lửa nên gọi là Hỏa. Có người chép: Các vị Phạm thiên khác đều bị hỏa tai đốt cháy, riêng vị này không bị đốt cháy nên gọi là Hỏa. Lại dịch là Đảnh Kế, có chỗ nói vị Phạm thiên này trên đảnh đầu có ngọn lửa như búi tóc, nên gọi là Đảnh Kế. Kinh Trường A-hàm chép: Thi-khí là Phạm Vương ở cõi sơ thiền, cũng tên là Cưu-ma-la-già, Hán dịch là Đồng Tử thiên, do nhan sắc như đồng tử nên gọi như vậy, tay cầm linh, nắm phướn đỏ, cưỡi chim công. Hỏi: Kinh Thập Địa nói Ma-hê đứng đầu ngàn thế giới, nay vì sao nói Phạm Vương ở cõi Sơ thiền đứng đầu ba ngàn thế giới? Đáp: Có bốn loại Phạm Vương: Kinh chép: Trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức Phạm vương, trăm ức Phi tưởng, đây là hạ phẩm Phạm vương. Luận Trí Độ chép: Phạm vương đứng đầu ngàn thể giới, Trường A-hàm cũng nói như vậy, đây là thứ phẩm Phạm vương. Bồ-tát Cửu Địa làm Phạm Thiên Vương, cai quản hai ngàn thế giới, đây là thượng phẩm Phạm vương. Cai quản ba ngàn đại thiên thế giới, đây là thượng thượng phẩm Phạm vương. Ma Vương, vua Chuyển luân cũng có hai loại: Kinh Đại Tập chép: Có Ma Vương cai quản ba ngàn thế giới. Kinh Đại Phẩm chép: Hóa thành vua Chuyển luân, cũng cai quản ba ngàn thế giới. Vì thế không thể phán xét theo một chiều. Hỏi: Thi-khí là vua cõi Đại thiên, vậy trụ ở trung gian thiền nào? Đáp: Có trăm ức trung gian thiền, nay trụ ở trung tâm, như Phật trụ ở trung ương thế giới đại thiên. Quang Minh Đại Phạm, là vị Phạm thiên ở cõi Nhị thiền, cho nên cõi Nhị thiền gọi là Quang Âm, Thiểu Quang, Vô Lượng Quang. “Có tám vị Long vương”: phần này nêu long chúng, rồng là loài súc sanh kém trong các cõi. Nói chúng rồng sau trời là có bốn nghóa: Sức lực lớn nhất, trong năm thứ bất tư nghị thì rồng là bậc nhất. Kinh Chánh Pháp Niệm chép: Rồng ác trợ giúp Tu-la, rồng thiện trợ giúp trời, nay là rồng thiện cho nên xếp ở sau chúng trời. Luận Bà-sa chép: Lúc trời sắp đánh nhau với A-tu-la, trước sai rồng đi đánh, cho nên biết rồng giúp Trời. Có ân đức điều hòa âm dương ởnhân gian, cho nên xếp ở sau cõi trời. Giữ gìn ngàn tạng kinh Phật, nên xếp ở kế sau cõi trời. Có sách chép rằng: Rồng là loài lớn nhất trong loài có vảy, có thể lớn hoặc nhỏ, có thể ẩn hoặc hiện, mùa xuân thì bay lên trời, mùa đông thì ẩn trong khe sâu. Sách Quãng Nhã chép: Rồng có vảy gọi là giao long, có cánh gọi là phi long, có sừng gọi là cầu long, không có sừng gọi là ly long. Trong Phật Pháp nói rồng có bốn thứ sanh: Noãn sanh: Chim cành vàng có thể ăn trứng sanh ra rồng. Thai sanh: Chim cành vàng có thể ăn thai rồng và trứng rồng. Thấp sanh: Chim cành vàng có thể ăn ba loài rồng sanh bằng trứng, bằng thai, và loài rồng sanh nơi ẩm ướt. Hóa sanh: Chim cành vàng có thể ăn hết bốn loài rồng nầy. Nan-đà, Hán dịch là Vui mừng. Bạt Nan-đà, Hán dịch là Hiền Vui mừng, hai vị Long vương này là anh em, thường sai khiến gió không thành bão, mưa không làm lụt, người thấy đều vui mừng nên gọi là Vui mừng, xưa kia cũng ở thành Vương Xá cho nên nêu trước. Ta-dà-la, có chỗ nói đây là theo tên nước mà gọi, do ở tại nước Ta-dà-a. Nước này có vị tiên ở gần, do nhà vua xúc phạm đến vị tiên, vị tiên liền đọc chú khiến nước này thành biển, rồng Tà-dà-la ở trong này, cho nên nói theo nước cũ mà đặt tên. Có chỗ cho rằng Tà-dà-la là tên biển này. Hòa-thuyết-cát, Hán dịch là Đa đầu, rồng này có chín đầu gọi là Thủy sanh long, vì sống dưới nước. Đức Xoa Ca, Hán dịch là Đa thiệt (nhiều lưỡi), rồng này ở trên mặt đất. A-Na-Bà-Đạt-Đa, Hán dịch là Vô Nhiệt, đây là theo ao mà gọi tên, ao này ở trên đảnh Hương Sơn, phía Bắc Diêm-phù-đề và dưới vì sao Thiên Tề, nước ao mát mẻ nên gọi là Vô Nhiệt, trong ao có năm cây cột nhà, rồng ở trong ấy. Luận Trí Độ chép: Rồng này là Bồ-tát Thất trụ. Kinh Hoa Nghiêm chép: Đối với pháp môn mây lớn trùm khắp lìa được khổ nên được tự tại. Lại, giải thích Vô Nhiệt là: Tất cả loài rồng có ba thứ khổ, một là gió thổi, cát nóng dính vào thân, thân thể tan nát. Hai là: Gió thổi khiến mũ báu và y phục bay mất, thân rồng lộ ra, nên tâm sanh buồn khổ. Ba là lúc quyến thuộc rồng vui chơi, chim chim cành vàng vào cung bắt quyến thuộc của rồng mang đi, vì thế tâm sanh nóng bức. Lại nữa, kinh chép: Các loài rồng ăn cơm thơm ngon biến thành cóc nhái, hoặc thân có vảy ngược nên đất đá bám vào thân, lại khi giao cấu thân rồng lộ ra như hai con rắn quấn nhau. Nhưng loài rồng Vô Nhiệt không có các thứ khổ trên. Ma-Na-tư Long Vương: Hán dịch là Từ Tâm. Kinh Hoa Nghiêm chép: Lúc muốn làm mưa thì trước đó bảy ngày kéo mây, đợi khi làm xong việc mới cho mưa xuống, tức có tâm từ. Cũng dịch là Duyệt Ý. Ưu Bát La Long Vương, là lấy tên của ao sen. Có bốn vị Khẩn-na-la Vương. Hỏi: Khẩn-na-la thuộc loài nào? Đáp: Luận Tạp Tâm chép: Thuộc loài súc sanh. Hỏi: Trong tám bộ chúng thì thường nêu tên sau Càn-thát-bà, nay vì sao nêu trước? Đáp: Càn-thát-bà là loài quỷ thần, Khẩn-na-la là loài súc sanh cho nên nêu ở sau. Nay vì loài này tấu pháp nhạc nên nêu trước. Khẩn-na-la, Hán dịch là Nghi Thần, cũng dịch là Phi nhân. Do thân hình giống như người mà trên đầu có một sừng, vì nghi ngờ chẳng biết có phải là người hay không, bèn dùng đó đặt tên. Khẩn-na-la Vương tên là Đồn luân Ma, gẫy đàn cầm khen ngợi Phật cho đến ngài Ca-diếp không thể tự an. Pháp: là Khẩn-na-la Vương, tấu pháp Tứ Đế. Diệu Pháp: Khẩn- na-la Vương tấu pháp mười hai nhân duyên. Đại Pháp: Khẩn-na-la Vương, tấu pháp sáu độ. Trì Pháp: Khẩn-na-la Vương tổng trì ba pháp trên, tức là Đà-la-ni. Càn-thát-bà, Hán dịch là Hương Ấm, do vị này ăn hương ở hư không, lại nữa, thân thường toát ra mùi thơm nên gọi là Hương Ấm. Luận Trí Độ chép: Càn-thát-bà vương tên là Đồng Lũng Ma, Hán dịch là Thọ, ở trên mặt đất trong núi mười báu. Lúc chư thiên trổi nhạc, thân vị này có tướng khác lạ và bay lên trời, cùng với Khẩn- na-la nghỉ trên đó. Nói Nhạc là gồm nhạc không tiếng, nhạc có tiếng, nhạc hay nhất trong nhạc không tiếng, nhạc hay nhất trong nhạc có tiếng. Hỏi: Càn-thát-bà thuộc loại nào? Đáp: thuộc loài quỷ, thuộc A-tu-la. A-tu-la, Hán dịch là Vô Tửu, do đời quá khứ giữ giới không uống rượu mà được quả báo thân này. Có chỗ nói do lấy các thứ hoa ủ ở biển để làm rượu nhưng không thành nên gọi là Vô Tửu. Luận Tỳ-bà-sa cchép: Chữ A là không, Tu-la là đẹp đẽ, nghóa là không đẹp đẽ, vì nam xấu nữ đẹp. Trong kinh Đạo Hạnh do ngài Thích Đạo An dịch chép: Tu-la gọi là Chất Lượng, do thường siểm nịnh nên đặt tên này khiến Tu-la ngay thẳng, thành tín. Chữ Lượng là tín. Bà-tẩu Truyện chép: Là phi thiên, cũng chẳng phải khéo vui chơi, chư thiên dùng pháp thiện để vui chơi, Tu-la thường dùng pháp bất thiện để vui chơi. “Bà-tró”, Hán dịch là Phược, người này là vị tiên phong trong loài Tu-la. Lúc đánh nhau với Đế-thích bị trói, do đó thệ nguyện được thoát ra nên xếp vào tên, cũng dịch là Tối thắng. Hỏi: Vì sao Tu-la thường đánh nhau với Đế-thích? Đáp: Luận Tỳ-bà-sa chép: Tu-la có gái đẹp mà không có thức ăn ngon, chư thiên có thức ăn ngon mà không có gái đẹp, hai bên ganh ghét nhau nên đánh nhau. “Khư-la-khiên-thái”, Hán dịch là Quảng Kiên Giáp, hoặc dịch là Bảo Cẩm, hoặc gọi là Dục Cẩm. “Tỳ-Ma-Chất-Đa-la”, Hán dịch là Hưởng Cao, do vị này ở trong nước lớn phát ra âm thanh lớn, tự xướng rằng: Ta là Tỳ-ma-chất-đa-la, nên gọi là Hưởng Cao, cũng gọi là Các thứ Nghi, cũng gọi là Huyệt Cư, vì ở chỗ thấp nhất trong biển. Tu-la có hai chỗ ở, một là trên các núi ở trong mặt đất, sức lực rất kém, hai là vùng biển phía Bắc núi Tu-di cách một van hai ngàn do tuần có La-hầu A-tu-la Vương, cai quản vô lượng chúng A-tu-la. Cách chỗ La-hầu phía dưới một muôn hai ngàn do tuần có Tu-la tên là Dũng- kiện, dưới chỗ Dũng-kiệm một muôn hai ngàn do tuần có Tu-la tên là Mỹ Kế. Dưới chỗ Mỹ Kế một muôn hai ngàn do tuần có Tu-la tên là Tỳ-ma-chất-đa, vì thế gọi là Huyệt Cư. Kinh A-hàm chép: Chư thiên cõi trời Quang Âm xuống biển, chất bất tịnh chảy trong nước thành một cái trứng, trải qua tám ngàn năm sanh ra nữ Tu-la, thân như núi Tu-di có chín trăm chín mươi chín cái đầu, do nước đụng vào thân người nữ này mà sanh ra Tỳ Ma Chất Đa, thân hình gấp bốn mẹ mình, có chín đầu tám chân và chín trăm chín mươi chín tay, lấy Càn-thát-bà nữ ở Hương Sơn mà sanh ra Xá Chỉ. “La-hầu A-tu-la Vương”, Hán dịch Là Phú Chướng, cũng gọi là Hấp Khí. Kinh Chánh Pháp Niệm chép: Tu-la Vừa là quỷ vừa là súc sanh, mà La-hầu-là dòng dõi sư tử. Luận Bà-sa và kinh Già-đà chép: Tu-la có quỷ, có súc sanh, có chư thiên. Hỏi: Vì sao Tu-la lấy tay che mặt trăng? Đáp: Luận Bà-sa chép: Mặt trăng là quân tiên phong của Đế- thích, vì thế dùng tay che mặt trăng và muốn ăn mặt trăng. Kinh Chánh Pháp Niệm chép: Mặt trời mặt trăng phát ra ánh sáng che mắt Tu- la, khiến Tu-la không thấy chúng trời, vì thế dùng tay che. Ca-lầu-la Vương, Hán dịch là Chim cành vàng, do cánh và đầu của nó có mầu vàng nên do đó gọi tên. Kinh Hải Long vương dịch là Phượng Hoàng. Đại Oai Đức Ca-lầu-la Vương: do lúc ăn thịt rồng có oai đức lớn nên do đó gọi tên. Đại Thân Ca-lầu-la Vương: kinh nói hai cánh của loài này cách nhau ba trăm ba mươi sáu muôn dặm cõi Diêm-phù-đề chứa đủ một chân của nó. Đại Mãn Ca-lầu-la Vương: các chim khác ăn thịt rồng thường không đủ no, chim này thường no đủ nên gọi là Đại Mãn. Như Ý Ca-lầu-la Vương: chim này dưới cổ có hạt châu Như Ý, có chỗ nói không thể động. Có chỗ nói: Do ăn thịt ba loài rồng nên gọi là Đại Mãn, do ăn thịt đủ bốn loài rồng, có thế lực tự tại nên gọi là Như Ý. “Con Bà Vi-đề-hy,v.v…”, đây là phần nói về chúng cũ. Vi-đề- hy dịch là Tư Duy, cũng gọi là Tứ Duy. A-xà-thế, Hán dịch là Vị Sanh Oán, dùng việc của mẹ để nêu tên, lúc ấy đã hại cha rồi nên không nêu cha. Lại nói do quăng dưới đất bị gãy ngón tay, nên tên là Chiết Chỉ. Kinh A-hàm chép: Vua A-xà-thế sám hối rồi còn đọa vào địa ngục Phách Cúc, từ địa ngục ra thành Bích-chi-phật. Kinh Niết-bàn chép: Nếu vua A-xà-thế không gặp đại thần Kỳ-bà, thì ngày mồng bảy tháng tới sẽ đọa địa ngục, nhưng đã sám hối rồi nên không đọa. Lại nữa, kinh chép: Sám hối rồi đắc Nhu thuận Nhẫn. Sở dó có sự khác nhau giữa kinh Đại thừa và Tiểu thừa, do kinh Tiểu thừa lực kém, nên tội nặng được nhẹ, vẫn dọa vào địa ngục nhẹ. Kinh Đại thừa có sức lực mạnh nên tội nặng đều diệt, vì thế không đọa lạc. Lại nữa, vua A-xà-thế hại cha mà thân chưa phát mụt ghẻ nên đến nghe kinh Pháp Hoa, đến thời Niết-bàn thân mới phát mụt ghẻ. Kinh Niết-bàn nói là sẽ diệt năm tội nghịch, vua A-xà-thế thực hành phương tiện, muốn nói lên chánh giáo là có thể diệt tội, còn tà giáo thì không thể, vì chúng sanh mà làm bạn lành diệt tội, nên đến cuối mới phát bịnh. Kinh này không nói về dụng của diệt tội, nên thân không phát mụt ghẻ, mà nói về dụng cao quý của công đức, có chút việc lành đều được thành Phật. Vua A-xà-thế tuy gây ra năm tội nghịch mà không mất gốc lành nên cũng sẽ thành Phật, đây là vì chúng sanh mà làm bạn lành thành Phật, vì nghóa này cho nên đến nghe pháp. Hỏi: Kinh Niết-bàn nói vua A-xà-thế sám hối rồi đắc vô căn tín, các kinh khác nói đắc Nhu thuận Nhẫn. Như thuận nhẫn có hai chỗ là tâm Thập hồi hướng và Sáu địa, vì sao không giống nhau? Đáp: Kinh Niết-bàn là căn cứ dấu vất nói là người tội, nên chỉ đắc tín tâm. Nếu nói đắc nhu thuận nhẫn thì mọi người liền cho rằng người phạm tội thật sự không thể diệt. Các kinh khác căn cứ nơi bản nên nói nhu thuận nhẫn, lại tùy duyên mà diệt tội nặng. “Mọi người lễ Phật rồi ngồi qua một bên,v.v…”. Luận Trí Độ chép: Người thế tục là khách đến chỗ Phật, cho nên ngồi nghe pháp. Hàng Thanh Văn Bồ-tát là đệ tử, vì thế đứng hầu, cũng có thể đại chúng nhóm họp rồi, nay tổng kết nghi thức chúng nhóm họp nên nói rằng: Lễ Phật mà ngồi. Pháp Hoa nghóa sớ quyển thứ nhất hết. Thượng tuần năm Quý Tî, Niên Hiệu Vónh Nhân, đại chúng chùa Quang Long đồng góp tịnh tài in bản Pháp Hoa nghóa sớ quyển I. Trộm nghó thuở xưa vua nhà Hán mộng thấy người vàng, mà hơn ngàn năm Tây Vực mới truyền pháp thượng thừa, đến bảy trăm năm mà chưa trọn nghe chân tông của ba luận, huống gì là nhất thừa Pháp Hoa nghóa sớ! Tố Khánh tôi tuy sanh nơi miền biên địa xứ Phù Tang, nhưng may mắn gặp được tập sớ Pháp Hoa mầu nhiệm này, nếu không truyền bá kinh rộng rãi, e rằng sẽ bị mai một. Do đây cố gắng góp sức trọn một bộ để khuyến hóa khai mở tông chỉ Pháp Hoa, ngõ hầu thấm nhuần đạo mầu nhiệm ởhời tượng pháp mạt pháp muôn năm, thắp đèn chánh pháp ở ba hội Long Hoa, soi sáng bốn loài vọng chấp tám không chánh quán.  PHÁP HOA NGHÓA SỚ <卷>QUYỂN 2 PHẨM TỰA (Phần 2) “Lúc bấy giờ, đức Thế tôn được bốn chúng vây quanh”, đây là nói phần khai phát tựa, gồm có sáu chương: Chúng nhóm họp, nói kinh, nhập định, hiện điềm lành, nghi vấn và trả lời câu hỏi. Sáu chương này tựa chứng tín ở trước hợp thành mười hai phần tựa. Do chúng nhóm họp nên nói kinh, do nói kinh nên nhập định, do nhập định nên hiện điềm lành, do không hiểu điềm lành nên sanh nghi ngờ, do có nghi nên phải giải đáp. Do sáu phần này khai phát chánh kinh, nên gọi là khai phát tựa. Vì thế đọan sau có chép: Nay Phật phát ra ánh sáng là giúp khai phát nghóa thật tướng. Hỏi: Vì sao do sáu việc này mà khai kinh Pháp Hoa? Đáp: Do đại chúng nhóm họp tức là làm duyên cho giáo pháp, nên được nói kinh, vì thế chúng nhóm họp là phần tựa. Sắp nói gom ba thừa về một, nên trước nói từ Nhất thừa sanh ra ba, vì thế nói Vô Lượng Nghóa làm phần tựa. Do Phật nhập Tam-muội một đạo thanh tịnh, tiêu biểu sẽ nói một đạo thanh tịnh, cho nên nhập định là phần tựa. Sắp nói thừa rốt ráo, nên trước hiện tướng rốt ráo,vì thế hiện điềm lành là phần tựa. Do hiện điềm lành mà phát sanh nghi vấn, nên xin ngài Văn-thù giải đáp, vì thế nghi vấn là phần tựa. Do ngài Văn-thù giải đáp mà Phật mới xuất định nói pháp, nên giải đáp là phần tựa. Sáu việc này chia làm ba phần: Phần đầu nói nhân duyên giáo pháp, ba việc kế theo là giáo pháp năng hóa, hai việc sau là Bồ-tát phát khởi giáo pháp. Ba phần giữa dùng ba việc làm tướng của Pháp Hoa: Miệng nghiệp, nói nhiều pháp từ một sanh ra, tiêu biểu cho việc Pháp Hoa thâu nhiều quy về một. Ý nghiệp, tiêu biểu cho việc Phật nhập Tam-muội nhất đạo, sau dó xuất định nói đạo Nhất thừa. Thân nghiệp, tiêu biểu cho việc Phật nói tướng Nhất thừa, lại tiêu biểu cho chúng sanh nghe kinh được thành Phật. CHƯƠNG I: “Lúc bấy giờ, Đức Thế tôn”, đây là nêu vị Hóa chủ. “Bốn chúng vây quanh”, luận Pháp Hoa chép: Từ đây cho đến hết câu “tôn trọng khen ngợi” vẫn là phần chúng nhóm họp, gọi là oai nghi như pháp trụ thành tựu, nói về đại chúng và trời, rồng nhóm họp. Oai nghi tức là vây quanh trước sau, cho đến tôn trọng khen ngợi, nếu dối chiếu phần tựa chứng tín thì thuộc phần thứ sáu là đại chúng đồng nghe, nếu đối chiếu phần sau tức thuộc phần khai phát chánh kinh tựa. Vì sao như vậy? Vì bốn chúng nhóm họp sanh khởi ba nghiệp cúng dường, có lòng khát ngưỡng muốn nghe nên đức Như lai nói pháp. Bốn chúng, có người nói hai chúng trời là Ma chúng, Phạm chúng, là lớn nhất trong cõi Dục, cõi Sắc. Và hai chúng cõi người là Sa môn, Bà-la-môn. Luận Trí Độ chép: Người trí tuệ chia làm hai hạng, tại gia gọi là Bà-la-môn, xuất gia gọi là Sa môn. Đức Phật là thầy trời người, nên nêu bốn chúng này. Thiền sư Khải chép: Bốn chúng gồm có: Chúng ảnh hưởng, là chúng ngồi im lặng trong pháp hội. Chúng phát giáo, là chúng khiến Phật khởi giáo pháp, như Xá- lợi-phất và Di-lặc. Chúng đương cơ, là chúng lãnh ngộ chánh giáo. Chúng kết duyên, là chúng nghe pháp mà chưa hiểu, chỉ kết nhân duyên xa mà thôi. Nay theo văn kinh này thì bốn chúng chia làm hai nhóm, Thánh chúng có hai là Thanh Văn và Bồ-tát, phàm chúng có hai là chúng cũ và khách mới, đó là bốn chúng. Phần văn sau nêu bốn chúng là hai chúng xuất gia, hai chúng tại gia. Chữ vây quanh, Thích Luận chép: Đại chúng vây quanh tức khiến cho đức hạnh của Phật càng tôn quý, đã tôn trọng, thì người sẽ lãnh thọ giáo pháp ấy nên nói vây quanh. Ngoài ra còn có các Phạm thiên, Phạm Vương ở cõi trời Đao-lợi và Đế-thích vây quanh, tập Đàn Lâm Sư Tử cũng nói ý nghóa như. Trời rảicác thứ hoa thơm gọi là cúng, dâng lên trước Phật gọi là dường. Khiêm tốn nể sợ gọi là cung, suy tôn trí đức gọi là kính, trong tất cả chúng sanh không ai bằng Phật gọi là tôn, tâm che chở còn hơn trời đất che chở gọi là trọng. Khen ngợi đức thật gọi là tán, tán chưa đủ lại còn xưng dương nên gọi là thán. Tuy có bốn câu nhưng không ngoài ba nghiệp, hai câu đầu là thân nghiệp, câu thứ ba là ý nghiệp, câu sau là miệng nghiệp, tức khen ngợi, đây đều là việc trong kinh Vô Lượng Nghóa. Kinh ấy chép: Do trời rải hoa thơm cúng dường, mà Bồ-tát Đại Trang Nghiêm Vương chắp tay cung kính tôn trọng, như dùng kệ thất ngôn khen ngợi gọi đó là khen ngợi. Người kết tập kinh đã lược bỏ ý kinh này, để khai phát phần chánh giáo. CHƯƠNG II: Là phần tựa nói kinh, tức câu “vì các Bồ-tát mà nói kinh Đại thừa”, chương này gồm có hai nghóa. Một là đối chiếu văn trước thì có đủ ba việc, “Lúc bấy giờ Thế tôn” tức nêu vị Hóa chủ, từ câu “Bốn chúng” trở xuống là nói người lãnh thọ giáo pháp, “nói kinh Vô Lượng Nghóa” là giáo môn. Vị giáo chủ như thầy thuốc giỏi, người lãnh thọ dụ cho người bịnh, giáo môn dụ cho thuốc hay. Đủ ba việc này thì sanh tử có lúc dứt, không đủ ba việc này thì trôi lăn vô tận. Như luận Tứ Bách Quán chép: Chân pháp, người nói, và người nghe là nan đắc, như vậy thì sanh tử chẳng có hữu biên vô biên. Lại nữa, ở trên nói ba nghiệp cúng dường là phước của chúng sanh, nay nói kinh Đại thừa là phát sinh trí tuệ, đầy đủ phước và tuệ thì Phật đạo có thể thành. Hai là đối chiếu theo văn sau, tức là sáu chương khai phát tựa thì ở đây thuộc chương thứ hai là tựa nói kinh. Do nói kinh Vô Lượng Nghóa mà kinh Pháp Hoa được nói, cho nên nói kinh gọi là tựa. “Vì các Bồ- tát”, ở đây nói giáo pháp được nói là vì người. Hỏi: Trên đã nói bốn chúng vây quanh, nay vì sao nói riêng vì Bồ-tát? Đáp: Nay nói vì các Bồ-tát, là thầm nói lên chỉ có Bồ-tát, không có người Nhị thừa, nói kinh Đại thừa là nói giáo pháp có thể trùm khắp. Trong luận Thập Nhị môn, ngài Long Thọ giải thích Đại thừa có sáu nghóa: Vượt trên Nhị thừa nên gọi là Đại. Chư Phật lớn nhất là thừa năng đến, nên gọi là Đại. Do thừa này là của Chư Phật bậc đại nhân nên gọi là Đại. Dứt khổ lớn cho chúng sanh, ban cho lợi ích an vui lớn nên gọi là Đại. Do thừa này của ngài Quán Âm, Di-lặc, nên gọi là Đại. Có thể dứt hết các pháp nên gọi là Đại. Theo luận Địa Trì, giải thích chữ đại có bảy nghóa: Pháp Đại: là kinh Đại thừa. Phát tâm đại: do kinh Đại thừa mà phát tâm Bồ-đề. Giải hành đại: tức là đạo chủng tánh, giải hành của Bồ-tát đã thành tựu. Tịnh tâm đại: tức Bồ-tát hàng Sơ địa. Chúng cụ đại: tức có hai thứ trí tuệ và phước đức đầy đủ. Thời đại: tức là thực hành trong ba a tăng kỳ kiếp. Quả đại: là quả đại Bồ-đề. Vì thế nói “kinh Đại thừa” “Tên là Vô Lượng Nghóa”, Đại thừa là tên chung của kinh, Vô Lượng Nghóa là tên riêng. Sở dó nêu Đại thừa, là thầm nói lên chỉ có Đại thừa, không có Tiểu thừa làm phần tựa Pháp Hoa. Chữ Vô Lượng Nghóa, có sự giải thích khác nhau. Pháp sư Ấn chép: Kinh này nói về vô lượng muôn thiện, do hiện tại thực hành vô lượng muôn thiện nên vị lai thành Phật. Hỏi: Nếu nói muôn điều thiện thành Phật, thì có gì khác với Pháp Hoa? Sư đáp : Trong đây chỉ che tướng nói muôn điều thiện thành Phật, không nói ngoài muôn điều thiện, không có riêng Ba thừa nghóa, đây chỉ nói lên thật, chưa khai phần phương tiện, cho nên có khác với kinh Pháp Hoa, gọi dó là phần tựa. Pháp Sư Cơ giải thích rằng: Vô Lượng Nghóa là “không”, nếu là pháp hữu tức có phần hạn, gọi là hữu lượng, do nghóa chữ “không” sâu rộng nên gọi là vô lượng. Hỏi: Nếu vậy có gì khác so với thời thứ hai trong kinh Đại Phẩm? Sư đáp: Giáo pháp trước nói về không, là căn bản thực hành Ba thừa, không phải là tựa của Pháp Hoa, đây nói “Không” là căn bản thực hành Đại thừa, nên được là lời tựa của Pháp Hoa, cho nên khác nhau. Danh Tăng truyện chép: Pháp sư Cơ nghe ngài Trúc Đạo Sanh giảng về thiện trong kinh Pháp Hoa, tuy có hai lần phán xét mà không biết lấy gì để quyết định, kế đến chú thích kinh Vô Lượng Nghóa rằng: Kinh Vô Lượng Nghóa tuy là chép ở đầu kinh Pháp Hoa, mà Trung hoa chưa thấy thuyết ấy, mỗi khi nghe giảng không hề không bỏ phế bàn luận mà kính trọng văn ấy. Bỗng nhiên có Tỳ-kheo Tuệ Biểu ở núi Võ Đang, sanh ở Thương Tào, là con của vua Diêu Lược Tùng nhà Ngụy, ngày nước bị mất có quân nhà Tấn tên là Hà Đạm nhặt được đem về làm con nuôi, chữ Đạm gọi là Minh Linh, mới mấy tuổi mà rất thông minh, sau dó Hà Đạm cho đi xuất gia. Ngài siêng tu khổ hạnh để cầu đạo, đi khắp Nam Bắc không kể yên bình hay hiểm nguy, cho đến niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ ba đời Tề lại tham vấn ở Kỳ Phục Bí, đến Lónh Nam ở chùa Triều Đình tỉnh Quảng Châu và gặp Sa-môn Đàm-Ma Già-Đa Da-Xá người nước Thiên-trúc, tay có thể mở sách xem mà hiểu được ngôn ngữ nước Tề, muốn truyền bá kinh này mà chưa biết trao cho ai. Tuệ Biểu liền hết lòng cầu xin, thân tâm đều cung kính, trải qua thời gian lâu mà chỉ được một bộ, bèn đem về núi Võ Đang. Đến nay ngày mười tám tháng chín niên hiệu Vónh Minh năm thứ ba mới đem ra khỏi núi, trao cho Mở rộng Thông Phụng xem chân văn, vui mừng khen ngợi không ngớt, bèn chú giải rằng: Chánh là lấy “không: làm Vô Lượng Nghóa. Pháp sư Cơ xem kinh bổn liền cho rằng lời chú giải phù hợp với kinh, nhưng Pháp sư Ấn cố chấp không thay đổi, bảo rằng: Nói về “không” ở kinh Vô Lượng Nghóa là thuyết riêng ở các khác thời mà thôi, chẳng phải trước kinh Pháp Hoa mà nói kinh Vô Lượng Nghóa. Kinh Vô Lượng Nghóa trước Pháp Hoa là nói về muôn thiện thành Phật, không đem đến cõi này, Pháp sư Quang Trạch còn giữ lời giải thích của Ấn sư. Nay có năm nghóa để làm chứng kinh Vô Lượng Nghóa này là kinh Vô Lượng Nghóa đặt trước kinh Pháp Hoa. Xứ đồng, tức đồng nói tại thành Vương Xá, núi Linh Thứu. Số chúng đồng, đều có một muôn hai ngàn Thanh văn, tám muôn Bồ-tát. Thời gian đồng, kinh Pháp Hoa chép: Ta thành đạo đến nay hơn bốn mươi năm mới nói kinh này. Kinh Vô Lượng Nghóa cũng chép: Ta thành đạo đến nay hơn bốn mươi năm mà chưa hề nói pháp thật tướng. Ý nghóa đồng, tuy chưa nói bỏ ba thừa bày Nhất thừa, mà ý thú mật khai nhất thừa. Người dịch kinh Trung quốc và Sa-môn nước Thiên-trúc tự nói rằng: Đây là kinh trước kinh Pháp Hoa, nên sử dụng như. Nay nói Vô Lượng Nghóa gồm có hai ý: Thể của thật tướng không có hạn lượng, tức là thể vô lượng. Từ một pháp thật tướng xuất ra cả giáo pháp, tức là dụng vô lượng. Thể và dụng này đều sâu xa cho nên gọi là nghóa. Hỏi: Vì sao biết một pháp vô tướng rộng sanh tất cả giáo pháp? Đáp: Như kinh đã nói, bắt đầu từ hội Hoa Nghiêm, cho đến cuối cùng nhóm hợp trước kinh Pháp Hoa, hoặc Đại, hoặc Tiểu, thế gian, xuất thế gian tất cả các giáo đều từ một pháp vô tướng sanh ra. Chẳng những một giáo pháp vô tướng sanh ra tất cả giáo, mà cũng từ một pháp vô tướng sanh ra tất cả thân, cho nên có phàm, Thánh, hữu tình, vô tình, tất cả thân đều từ một pháp vô tướng sanh ra. Hỏi: Thế nào là một pháp vô tướng sanh ra tất cả giáo, tất cả thân? Đáp: Một pháp vô tướng tức là pháp thân, do pháp thân thị hiện tất cả thân, nói tất cả giáo. Câu “pháp giáo Bồ-tát”, tức là nói một pháp vô tướng sanh ra tất cả pháp, để dạy bảo các Bồ-tát căn tánh thuần thục. Bồ-tát tu pháp này thì hạnh tương ưng với Phật. “Cho nên được Chư Phật hộ niệm”. Ngăn phàm phu, Nhị thừa, ngoại đạo, ác kiến, gọi là hộ, khiến sanh Trung đạo chánh quán là niệm. Hỏi: Nay nói Pháp Hoa, vì sao nói kinh Vô Lượng Nghóa trước? Đáp: Pháp Hoa là hội tất cả thừa đồng vào Nhất thừa, nay sắp nói nghóa thâu nhập nên trước phải nói về sanh ra. Do từ một pháp sanh ra tất cả pháp, nên tất cả pháp quay về một pháp. Vì sắp nói thâu nhập nên trước nói sanh ra, cho nên nói sanh là phần tựa của thâu nhập. Hỏi: Vì sao sắp nói thâu nhập mà trước phải nói sanh ra? Đáp: Do thừa hơn bốn mươi năm chấp chặt Ba thừa, bỗng nhiên nghe nói quay về nhất, tâm ắt là kinh sợ nghi ngờ, vì thế trước nói tất cả giáo vốn từ một sanh ra, chẳng lẽ không phải là quay về một hay sao. Hỏi: Chỉ tất cả giáo từ một sanh nên trở về một, hay cũng là tất cả chúng sanh từ một hạnh để trờ về một ư? Đáp: Kinh Vô Lượng Nghóa nói tất cả chúng sanh do mất một đạo thanh tịnh mà có các đường, Chư Phật dùng lòng đại bi vô duyên muốn giúp chúng sanh quay về một đạo, cho nên từ một đạo mà sanh ra vô lượng giáo. Hỏi: Nếu vậy thì có gì khác với kinh Pháp Hoa? Đáp: Kinh Vô Lượng Nghóa nói thẳng chúng sanh do mất một đạo mà thành ra các đường, cũng nói thẳng Chư Phật vì chúng sanh mất một đạo nên nói từ một đạo sanh ra tất cả giáo, chính là nói duyên và giáo đều từ một đạo sanh ra, mà chưa nói duyên và giáo đều quy về một. Hỏi: Duyên và giáo quy về một đạo, cái gì là ý chính? Đáp: Duyên là chính, do một đạo bản tánh thanh tịnh, mà chúng sanh luống dối mất một đạo này nên thành sáu đường, nay muốn cho chúng sanh ngộ một đạo nên nói từ một pháp sanh ra tất cả giáo mà thôi. Nếu không nói chúng sanh vốn mất một đạo, thì dù nói tất cả giáo đều từ một pháp sanh ra, mà không thể nào khiến chúng sanh quy về một đạo. Nghóa này là ý chính của Pháp Hoa gom ba về một, cũng là ý chính khiến tất cả chúng sanh thành Phật. Nếu trước không nói ý nay, thì kinh Pháp Hoa không thể nói tất cả chúng sanh đều thành Phật. Pháp Hoa nói về Nhất thừa, nay sẽ nói về Nhất thừa, nên trước nói căn bản của thừa. Căn bản của thừa tức là thật tướng, phải do ngộ thật tướng mà phát sanh Bát-nhã, do Bát-nhã nên tu hành chẳng gì không thành tựu, hệ lụy, chẳng có gì không trừ hết, cho nên có thể nói ra khỏi ba cõi, đến trí Tát-bà nhã thì ý nghóa của thừa mới thành tựu. Cho nên, môn Luận Thập Nhị chép: Phần lớn nghóa sâu xa thì gọi là Không, nếu thông đạt nghóa này tức là thông đạt Đại thừa, đầy đủ sáu Ba-la-mật không có chướng ngại. Nếu không ngộ thật tướng, tuy rộng tu muôn điều thiện, đều là có sở đắc, điên đảo không động không xuất, tức là ý nghóa của thừa không thành tựu. Kinh Vô Lượng Nghóa thầm hiển ở một, hiển phá ở ba, Kinh Pháp Hoa thầm minh ở một, hiển phá ở ba, do chấp Ba thừa khó lay đổ mà Nhất thừa lại khó tin. Nay chỉ bày lý do dẫn đến nói Pháp Hoa, nên trước mật sau hiển. Hỏi: Thế nào là ý nghóa của mật và hiển? Đáp: Đã từ một sanh ra nhiều, đã mật hiển một là gốc của nhiều, nên nhiều sẽ quy về một, vì thế tức là hiển chỉ có Nhất thừa, không có ba thừa. Kinh Vô Lượng Nghóa chép: Như nước là một mà giếng ao không giống nhau, nước pháp là một mà chúng sanh đắc đạo có khác nhau. Nhưng pháp đã là một, đắc đạo không nên có khác, nay khiến chúng sanh nghi ngờ, nên sau khi nghe một nói ba, rồi nói ba quy về một tức cho họ tin hiểu. Nói Phật giáo hóa gồm có bốn môn: Một hội, một nói, môn này có rất nhiều. Nhiều hội, nhiều nói, như kinh Hoa Nghiêm có bảy chỗ, tám hội. Nhiều hội, một nói Thích. Luận giải: Bát-nhã chẳng phải nói trong một thời, một hội, bởi người đến trước được ngộ đã đi, người đến sau lại vì họ mà nói, do hội có trước sau nên gọi là nhiều hội, nhưng Bà-nhã thì không khác nên nói một nói. Là một hội, nhiều nói, như nói kinh Tịnh Danh, trước nói kinh Phổ Tập, cũng như ở đây sắp nói kinh Pháp Hoa, trước nói kinh Vô Lượng Nghóa. Bốn việc này đều thích hợp cơ duyên, không nên trách lý do. Pháp Hoa đã nói gom ba về một, dường như nói tướng sợ người nghe khởi chấp nên trước nói kinh Vô Lượng Nghóa thuộc về vô tướng. Đại Trang Nghiêm Vương hỏi Phật thực hành các pháp gì để mau thành Bồ-đề? Phật dạy: thực hành một pháp vô tướng thì mau thành Bồ-đề. Như kinh Niết-bàn nói có sở đắc tức là Nhị thừa, không có sở đắc là Bồ-tát, cũng như nay. Trong mỗi câu không có tướng chữ, không có tướng nghe, do vô tướng nên đắc Bồ-đề vô thượng. Vì thế sắp nói kinh Pháp Hoa thì trước nói kinh Vô Lượng Nghóa. Hỏi: Như kinh Đại Phẩm v.v… là trước Pháp Hoa đã nói vô tướng, vì sao còn nói kinh. Vô Lượng Nghóa nói vô tướng nữa? Đáp: Kinh Vô Lượng Nghóa nói về tướng, lại nói một pháp, có phần tương tợ Pháp Hoa nên nói trước Pháp Hoa. CHƯƠNG III: Là phần tựa nhập định, tức câu “Phật nói kinh này xong”. Ở đây gồm có bốn phần: Một là: Câu Phật nói kinh xong là kết thúc phần trước để nêu phần sau, là nghóa thời gian nhập định. Hai là: “Ngồi kết già” là nói duyên nhập định. Hỏi: Cách ngồi không giống nhau, vì sao lại ngồi kết già? Đáp: Ngồi như vậy là để khác với người thế tục, cũng là khác với ngoại đạo, ngoại đạo thường đứng hoặc co một chân, do thân không ngay nên tâm không thẳng. Ngồi kiết già là pháp của Chư Phật thường ngồi, ngồi như vậy là thân ngay mà tâm thẳng. Vì muốn tónh tâm nên thân phải ngay, ngồi như vậy là dễ vào đạo, cũng khiến ma vương kinh sợ nên ngồi kết già. Ba là: Câu “nhập Tam-muội Vô Lượng Nghóa xứ”, tức nói về nhập định. Hỏi: Chư Phật không hề xuất nhập, nay vì sao nhập Tam-muội? Đáp: Phải biết trong đây có ba loại nói Pháp Hoa. Nói Vô Lượng Nghóa là nói thẳng một đạo thanh tịnh, gọi là nói Pháp Hoa. Phật nhập Tam-muội một đạo thanh tịnh mà nói Pháp Hoa. Hiện điềm lành tức sắp nói Pháp Hoa. Nay nhập định có hai ý chính: Nhập Tam-muội, hiện điềm lành: là khiến cho đại chúng lúc ấy nghi ngờ, đợi ngài Văn-thù giải quyết nghi ngờ Phật mới xuất định. Nhập định Vô Lượng Nghóa, là biểu hiện Phật nói nín thường trụ một đạo thanh tịnh. Nếu theo các kinh thì nhập định nói lược có mười nghóa: Là căn duyên thích hợp, nghóa là xuất nhập thích ứng theo duyên, động tónh thích ứng theo chúng sanh. Là muốn hiển hiện điềm lành, vì thế nhập định là gốc của điềm lành. Nếu không nhập định thì điềm lành không do đâu mà hiện, lại không nhập định mà hiện điềm lành, sợ mọi người cho rằng chẳng phải Phật hiện điềm lành, vì vậy nên phải nhập định. Muốn hợp duyên nói pháp, thì phải xem xét pháp, xem xét căn cơ, nay sắp giảng nói Phật thừa cho nên nhập định. Muốn cho chúng sanh trọng pháp quý người, do Phật muốn nói pháp tướng mầu nhiệm nên phải nhập định, cho nên biết pháp này là không thể nghó bàn. Sáu vị giáo chủ ngoại đạo cho rằng tất cả thời thường có trí tuệ, Phật vì phá chấp này nên nói các pháp do nhân duyên mà thành, do định phát tuệ, cho nên thật vắng lặng thì soi thấy rõ ràng. Chỉ bày Phật có định và tuệ tròn đầy, nhập định là nói lên định của Phật đầy đủ, xuất định nói pháp là nói tuệ của Phật tròn đầy. Nếu không nhập định thì định môn không hiển, nếu không nói pháp thì nghóa tuệ không sáng. Vì đời Mạt pháp mà làm khuôn pháp, Phật muốn nói pháp còn phải nhập định tónh tâm, huống là người khác có tâm tán loạn mà muốn nói pháp sao? Cho nên cần học theo trí tuệ Phật. Muốn thị hiện tướng của người thông minh, có thể khéo suy nghó, có thể khéo nói pháp. Nhập định hiện điềm lành là phát sanh lý do cho ba việc hỏi đáp ở sau, liền được lược khai việc Phật xưa đã nói Pháp Hoa, khiến đại chúng lúc ấy nghe mà không sanh nghi ngờ kinh sợ. Có ba mật lợi ích chúng sanh, đó là ý mật nhập định, thân mật phát ra ánh sáng, miệng mật nói pháp. Lại nữa, ngay nơi vắng lặng mà dụng gọi là xuất, ngay nơi dụng mà vắng lặng gọi là nhập, đây là vắng lặng và dụng vô ngại, nên gọi là xuất nhập định. Luận chép: Nhập Tam-muội, là nói lìa tất cả chướng ngại, tùy theo năng lực mà được tự tại. Lực này có hai ý: Thuận theo chúng sanh đối trị nhiếp giữ giác Bồ-đề phần, đây là Bồ-đề vô thượng, gọi là thuốc hay. Vì đối trị vô lượng đời sau chấp chặt phiền não, tức bịnh chấp của Ba thừa, cũng là ý nghóa khiến biết bịnh, biết thuốc. Tam-muội, Hán dịch là chánh tâm hành xứ, cũng gọi là Điều trực định. Hỏi: Vì sao không nhập Tam-muội Pháp Hoa mà nhập định Vô Lượng Nghóa? Đáp: Có người chép: Đã là phần tựa của Pháp Hoa, chưa phải chánh kinh nên không nhập. Có người chép: Nếu nhập Tam-muội Pháp Hoa, thì ngài Di-lặc có thể suy biết, nay muốn không thể so lường, cho nên không nhập Tam-muội Pháp Hoa. Nay nói tông chỉ của kinh này gồm có hai môn: Đối với một Phật thừa mà phân nói riêng ba, nghóa là từ gốc khởi ngọn. Gom ba thừa về một, tức nhiếp ngọn về gốc. Kinh Vô Lượng Nghóa là nói ý nghóa sanh ra, tức nói lên Pháp Hoa từ gốc khởi ngọn, nay lại nhập định Vô Lượng Nghóa xứ, là nói lên kinh này nhiếp ngọn về gốc. Hai phần này là đầu và cuối của kinh, cho nên gọi là khai phát tựa. Lại nữa, kinh Vô Lượng Nghóa là từ một sanh ra nhiều, tức là nói một pháp, nay nhập định Vô Lượng Nghóa xứ là lại nhập vào một pháp, tức xuất nhập đều là một đạo thanh tịnh. Vì nói lên Pháp Hoa cũng như vậy, cho nên là phần tựa Pháp Hoa. Hỏi: Vì sao nói nín đều trụ nơi một? Đáp: Vì nói lên chỉ có một đạo không có hai, vì thế nói nín đều trụ nơi một. Lại nữa, Phật dạy đệ tử thường thực hành hai việc: Bậc Thánh nói pháp, tức là từ quán thật tướng mà nói pháp thật tướng. Bậc Thánh im lặng, tức là nói thật tướng xong lại nhập quán thật tướng. Cho nên động tónh, nói nín đều thích ứng thật tướng, thật tướng tức là một đạo thanh tịnh. Trên nói kinh Vô Lượng Nghóa là bậc Thánh nói pháp, nay nhập định Vô Lượng Nghóa tức là bậc Thánh im lặng. Hỏi: Trước nói là kinh Vô Lượng Nghóa, nay vì sao gọi là Tam- muội? Đáp: Chiếu mà thường vắng lặng gọi là Định, vắng lặng mà thường chiếu gọi là Tuệ, tuệ phát ra bên ngoài gọi là Kinh, thật vắng lặng bên trong gọi là Định. Bốn là: Câu “thân tâm không lay động”, tức kết thúc hai nghóa trên. Thân không động là kết quả của thân ngay ngắn, tâm không động là kết quả của tâm vắng lặng. Thể thật tướng của người có thân và tâm, tuy thân mà chẳng phải thân, thân không động, tuy tâm mà chẳng phải tâm, tâm không động, cho nên thân như cây khô tâm như tro nguội. Lại nữa, thân tâm không động là nói lên chưa đến thời Phật xuất định, lại sanh nghi hỏi ở sau. CHƯƠNG IV: Là hiện điềm lành tựa, tức câu: “Khi ấy trời rải hoa Mạn-đà-la” như mưa. Hỏi: Thích ứng mà nói pháp vì sao phải hiện điềm lành? Đáp: Đây là lúc sắp nói Pháp Hoa, có mưa hoa, đất rung chuyển, là nêu tướng sở hóa thành Phật, phát ra ánh sáng là nêu tướng năng hóa nói Pháp Hoa. Lại nữa, đã nói giáo pháp đặc biệt là phải cảm điềm lành phi thường, theo lý như. Nếu chợt nói pháp thì người nghe không sanh tâm tôn trọng, phải làm cho tai mắt kinh ngạc mới có lòng khát ngưỡng. Lại nữa, hiện điềm lành để chúng sanh phát khởi tín tâm, khi nói pháp mới sanh khởi sự liễu ngộ, hiện điềm lành là khiến chúng gieo phước, nói pháp là khiến trồng cội trí tuệ. Lại tức là thí dụ Trưởng giả bên dưới dùng hai thứ tay áo và bàn ghế để dụ con ra. Dùng tay áo ví như thần thông, bàn ghế ví như nói pháp. Ban đầu Phật thành đạo đã không dùng được, nay sắp vắng lặng mới dùng được. Hỏi: Có mấy thứ điềm lành? Đáp: Pháp sư Quang Trạch chép: trước hiện sáu điềm lành ở cõi này, sau hiện sáu điềm lành ở cõi khác, hợp lại là mười hai điềm lành. Sáu điềm lành ở cõi này là: Nói pháp, nhập định, mưa hoa, đất rung chuyển, chúng vui mừng, và phát ra ánh sáng. Tóm lược sáu điềm lành này thành ba cặp: Nói kinh là hợp căn cơ mà khai giáo, nhập định là vắng lặng soi rõ lý trước, đây là một cặp động và tónh. Trên thì trời tuôn rải bốn thứ hoa như mưa, dưới thì đất sáu lần rung chuyển, đây là một cặp trên và dưới. Bấy giờ đại chúng trong tâm sanh vui mừng, bên ngoài thì Như lai phát ra ánh sáng, đây là một cặp trong và ngoài. Trong sáu câu nầy thì có ba câu chẳng phải điềm lành, vì sao biết? Vì Thích Luận chép: Phật nhập Tam-muội vương hiện bảy điềm lành mà không thường nhập định, cho nên biết nhập định chẳng phải điềm lành. Bấy giờ đại chúng thấy điềm lành liền sanh vui mừng, như kinh Đại Phẩm đại chúng thấy đất rung chuyển mà tâm sanh vui mừng, nên biết chúng vui mừng cũng chẳng phải điềm lành. Nói kinh chính là giáo pháp hợp cơ duyên, cũng không gọi là điềm lành. Nếu nói kinh là điềm lành, vì sao Di-lặc hỏi các điềm lành khác mà không hỏi ý nói kinh? Nhập định cũng vậy, ngài Di-lặc không hỏi vì sao. Vậy trong sáu câu chỉ có ba điềm lành là mưa hoa, đất rung chuyển và phát ra ánh sáng. Luận Trí Độ chép: Phật nhập Tam-muội vương hiện bảy điềm lành, nay nhập Tam-muội Vô Lượng Nghóa hiện ba điềm lành. Hỏi: Vì sao chỉ hiện ba điềm lành? Đáp: Nay nói về pháp cùng tận, nên có điềm lành lớn nhất. Nói lớn không ngoài ba thứ: Trời là điềm lành, đất là điềm lành, Phật là chủ của trời đất còn thị hiện lên điềm tốt; lớn thuộc về xấu ác thì có: Trời là tai, đất là họa, thần hiện là quái. Lại tiêu biểu Chư Phật ba đời đồng nói Nhất thừa, ba hạng căn cơ chúng sanh đồng quy về một, cho nên hiện ba điềm lành. Hỏi: Thư chép: Bậc minh chủ dùng việc hiếu thuận từ bi để dạy đời, tức chim đỏ bay mà người già hiện, dùng nhân đức che chở vật thì suối ngọt chảy lúa tốt sanh. Kỳ lân xuất hiện thì thiên hạ thái bình, đắc trị nhân tâm thì sen, lý nảy sanh. Vì thế đức bên trong đủ thì bên ngoài tự phát điềm lành, nay ba điềm tốt này do đâu mà biểu hiện? Đáp: Vì muốn biểu hiện Thanh văn bốn chúng đồng quy về Nhất thừa, nên trời tuôn rải bốn thứ hoa như mưa, biểu hiện trời người sáu đường đều thành Phật nên đất sáu lần rung chuyển. Hai thứ thành Phật nầy phải nhờ vào nói Pháp Hoa, nên phát ra ánh sáng để biểu hiện. Lại nữa, trời rải bốn thứ hoa như mưa là biểu hiện bốn thừa chúng sanh đều thành Phật, đất sáu lần rung chuyển là biểu hiện chúng sanh sáu đường đồng ngộ không hai. Hai thứ thành Phật này đều do nói Pháp Hoa, cho nên phát ra ánh sáng để biểu hiện: Lại, trời rải bốn thứ hoa như mưa là biểu hiện chúng sanh trên cõi trời nên ngộ Nhất thừa, đất sáu lần rung chuyển là biểu hiện hàm thức dưới đất, đồng đến Nhất thừa. Trên trời dưới đất đều ngộ, do đây mà Phật nói Pháp Hoa, nên hiện điềm lành để biểu hiện. Lại nữa, trời mưa hoa là biểu hiện nói Nhất thừa khiến thiên linh vui mừng, đất rung chuyển là biểu hiện nói Nhất thừa khiến địa kỳ hớn hở. Vui mừng hớn hở đều nhờ Phật, cho nên phát ra ánh sáng để biểu hiện. Văn này có bốn đoạn: Điềm lành mưa hoa, đất rung chuyển. Đại chúng lúc ấy thấy điềm lành sanh vui mừng. Điềm lành Phật phát ra ánh sáng. Đại chúng lúc ấy thấy điềm lành phát ra ánh sáng. Đây có hai cặp về cảm ứng, trước nói mưa hoa, sau nói đất rung chuyển. Nói thời gian ấy tức là lúc mưa hoa, chính là lúc bốn chúng nghe kinh ngộ Nhất thừa. Trời mưa tức là chỗ mưa hoa. Nói theo sự, thì khi nói pháp phi thường, có cảm ứng chư thiên cúng dường, nên ngài Văn-thù nói kệ rằng: Trời mưa hoa Mạn-Đà Trống trời tự nhiên kêu Trời, rồng, chúng quỷ thần Cúng dường Nhân Trung Tôn Nói theo lý, thì trời là tịnh, do tâm cố chấp của bốn chúng đã tịnh nên được nghe kinh thành Phật. “Hoa Mạn-đà-la”, chính là tên bốn thứ hoa mà trời rải xuống, trời mưa bốn thứ hoa chính là biểu hiện bốn chúng thành Phật. Hai thứ hoa trước là biểu hiện hai chúng xuất gia thành Phật, hai thứ hoa sau là biểu hiện hai chúng tại gia thành Phật. Lại nữa, xưa không nói bốn thừa thành Phật, nay đều quy về Phật thừa, cho nên chỉ mưa bốn thứ hoa. Hai loại trước là hoa trắng, biểu thị cho Thanh văn, Duyên giác có thiện vô lậu mà thành Phật, hai loại sau là hoa đỏ, biểu thị trời người có bạn lành lậu cũng thành Phật. Bốn thứ hoa này trước hoa nhỏ, sau hoa lớn, biểu thị tu hành từ nhỏ tới lớn, từ cạn đến sâu. Hoa Mạn-đà-la, ngài Đạo Lãng ở Hà Tây chép: Đây là tên hoa trời, ở Trung quốc cũng có, sắc như đỏ mà vàng, dường như xanh mà tía, dường như lục mà hồng. “Hoa Mạn-thù-sa”, cũng là tên hoa trời, sắc trắng tươi không có màu trắng nào có thể dụ được. Chú giải kinh nói là hoa Như ý, tùy theo ý của chư ma trờiø hoa xuất hiện nên lấy đó làm tên. “Hoa Ma-ha Mạn-đà-la”, gọi là hoa Đại Như Ý, đây là tên từ kinh Chánh Pháp Hoa. Ngài Đạo Hạnh dịch là hoa Thành Ý. Hoa Mạn-thù-sa là hoa tròn đầy, Hoa Ma-ha Mạn-thù-sa là hoa Đại Tròn đầy. Ngài Quang Trạch chép: Hai hoa đầu là hoa Xích Viên, Đại Xích Viên, hai hoa sau là Bạch Viên, Đại Bạch Viên. “Rải trên Phật và đại chúng”. Nói theo sự, tức cúng dường Phật và đại chúng, về lý tiêu biểu đại chúng thực hành nhân sẽ được thành Phật. “Khắp thế giới Phật sáu điệu rung chuyển”, đây là nói về điềm lành mặt đất rung chuyển, trước nói trời rải hoa, nay nói đất là theo thứ lớp. Tóm lược ý nghóa, thì kinh này tuy hội bốn thừa đồng quy về một đạo, nhưng giáo tông chính là vì Thanh văn, Duyên giác, phụ là hai thừa Trời và Người. Vì thế trước rưới bốn thứ hoa là biểu hiện bốn chúng Thanh văn vào Phật thừa, sau thì sáu đường trời người đồng quy về Nhất thừa. Nên phẩm Thí Dụ chép: “Vì các Thanh văn mà nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa”, chính là không nói vì trời, người, tức đủ làm chứng. Khắp cả cõi Phật, do đức Thích-ca đứng đầu, cả cõi đều động nên gọi là khắp. Đoạn văn sau chép: Thế giới này sáu lần rung chuyển, cũng có thể cõi Phật mười phương đều động nên gọi là khắp. Vì thế ngài Văn- thù nói kệ rằng: Tất cả cõi Chư Phật Tức thời rung chuyển mạnh. Lại, kinh Đại Phẩm chép: “Cõi ấy ở sát gần biên hạn, tức biên hạn nhân duyên hóa độ của đức Thích-ca.” Nay nói nghóa chữ khắp cũng là nhân duyên độ khắp. Sáu điệu rung chuyển gồm có hai loại: Thời động, tức là nhập thai, đản sanh, xuất gia, thành đạo, nói pháp và Niết-bàn. Nay nói pháp là một trong sáu thời động này, do xoay bánh xe đại pháp gọi là đại động. Sáu thứ động gồm: động, khởi, dũng, chấn, giác, hống. Dao động không yên gọi là động, nhấp nhô lồi lõm gọi là dũng, từ thấp lên cao gọi là khởi, ẩn kín mà có tiếng gọi là chấn, phát ra tiếng vang gọi là hống, khiến chúng sanh giác ngộ gọi là giác. Trong mỗi tướng này có lại có ba thứ thành ra mười tám tướng động. Trong Đại Phẩm nói mỗi món động chia làm sáu, thành ra ba mươi sáu tướng động. Này văn này nói lược hai tướng là chấn và động. “Lúc bấy giờ trong hội chúng”: đây là đoạn hai thấy điềm lành sanh vui mừng. Văn nầy chia làm hai phần, trước nói về người thấy điềm lành, đó là bốn chúng và trời rồng. Bốn thứ hoa tuôn rải như mưa là biểu hiện bốn chúng ngộ nhập Nhất thừa, nên nói bốn chúng thấy điềm lành sanh vui mừng. Đất có sáu điệu rung chuyển là biểu hiện trời người sáu đường đều thành Phật, nay nói chúng vui mừng là một trong sáu đường. Không nói Bồ-tát thấy điềm lành sanh vui mừng, do từ xưa đến nay đã nói Bồ-tát thành Phật nên không biểu hiện điềm lành. Không nói Bồ-tát vui mừng, bởi từ trước chưa gom bốn thừa thành Phật nên có biểu hiện điềm lành, vì thế nói người bốn thừa thấy điềm lành sanh vui mừng. Người, chẳng phải người: tức là tám bộ quỷ thần vốn chẳng phải người, nhưng biến hóa thành hình người để đến nghe nói pháp, nên nói người, chẳng phải người. Sau là nói về vui mừng, tức là đại chúng. Chắp tay là biểu hiện hình không có dụng riêng, nhất tâm là biểu hiện ý không có duyên nào khác; vui mừng và cung kính hợp với lòng khát ngưỡng, điềm lạ và nghi ngờ tức có nói pháp phi thường. “Lúc bấy giờ, Phật phát ra ánh sáng giữa hai đầu châng mày”, đây là đoạn ba nói điềm lành phát ra ánh sáng. Hỏi: Mưa hoa, động đất, phát ra ánh sáng, sao không hợp thành một loại; mà trước nói hai điềm lành sau nói thấy điềm lành, nay lại phát ra ánh sáng, sau nói thấy điềm lành ư? Đáp: Điềm lành tuy có ba nghóa mà môn chỉ có hai, hai điềm lành trước tiêu biểu cho sở hóa, nên nói sở hóa thấy hai điềm lành, nay nói phát ra ánh sáng tức là điềm lành năng hóa, cho nên trước nói điềm lành ánh sáng, sau nói thấy điềm lành. Lại, hai điềm lành trước là điềm lành y quả, điềm lành sau là điềm lành chánh quả. Lại hai điềm lành trước là ý nghiệp hiện điềm lành, sau là thân nghiệp hiện điềm lành, nay muốn phân chia hai điềm lành khác nhau nên hai lần thấy cũng khác nhau. Theo Luận Pháp Hoa: thì sanh khởi là ban đầu nhập định hiện điềm lành, đại chúng thấy điềm lành sanh tâm khát ngưỡng muốn nghe pháp nên Phật phát ra ánh sáng, vì thế có chương này. Nói lúc ấy, tức là lúc Phật phát ra ánh sáng, Phật là người phát ra ánh sáng. Giữa hai đầu chân mày là chỗ phát ra ánh sáng. Dưới không tới chân, trên không tới đảnh, mà phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày tức biểu hiện pháp Nhất thừa là Trung đạo. Lông trắng là biểu hiện lý sáng rỡ nên gọi là Bạch, giáo pháp không chút ẩn dấu nên gọi là lông. Luận Trí Độ theo ý người Tiểu thừa giải thích về sợi lông trắng rằng: Duỗi ra thì dài năm thước, co lại thì như xoắn ốc. Kinh Quán Phật Tam-muội chép: Lúc làm Thái tử tướng ấy dài năm thước, lúc ngồi dưới gốc cây thì dài một trượng bốn thước năm tấc, lúc thành đạo thì dài một trượng năm thước. Duỗi ra thì trong ngoài có ánh sáng trắng tinh trong suốt, để yên thì không có ánh sáng và cuộn lại ở giữa hai đầu chân mày. Có kinh chép: Sợi lông trắng ấy xoay quanh về bên phải như mặt trời giữa trưa, hoặc nói như báu trắng cõi trời. Ánh sáng, tức là phát ra ánh sáng, biểu thị trí tuệ bình đẳng như đuốc sắp chiếu nên thân phát ra ánh sáng trước. ánh sáng có hai nghóa: Khả năng soi sáng vật, dụ cho kinh này nói lên lý Nhất thừa. Khả năng dứt tối tăm, biểu thị kinh này dứt trừ sự mê hoặc của Nhị thừa. “Chiếu ở Phương Đông”, đây là chỗ ánh sáng chiếu đến, chỉ chiếu một phương này mà không chiếu chín phương khác, là biểu hiện chỉ có Nhất thừa, không có các thừa khác. Trong mười phương mà chỉ chiếu phương Đông, bởi phương Đông là gốc của các phương, biểu hiện Nhất thừa là gốc của Ba thừa, xưa từ một nói ba, nay thâu ba về một. Nói “một muôn tám nghìn thế giới”: là biểu hiện nói quả Nhất thừa tròn đầy như một muôn, nhân của Nhất thừa chưa đủ như tám ngàn. Lại biểu hiện Nhất thừa chân thật nghóa đầy đủ như muôn, ba thừa phương tiện chưa đủ như tám ngàn. Lại nữa, giải thích thế giới có số lượng nhất định, đây là cảm ứng tương đồng, cảm của chúng sanh đã không đầy thì ứng của Chư Phật cũng không khắp. Chẳng ở đâu không cùng khắp, thừa có mười nghóa, mười tướng để biểu hiện: Có nghóa trên hết, dùng đầu để biểu hiện. Có nghóa Trung đạo, dùng tướng giữa hai đầu chân mày để biểu hiện. Có nghóa sáng rỡ, dùng màu trắng để biểu hiện. Có nghóa không che giấu, dùng sợi lông giữa hai đầu chân mày để biểu hiện. Có nghóa trừ tối tăm, dùng ánh sáng để biểu hiện. Có nghóa không hai, dùng một phương Đông để biểu hiện. Có nghóa căn bản, dùng phương Đông là căn bản để biểu hiện. Có nghóa quả thừa đầy đủ, dùng số muôn để biểu hiện. Có nghóa nhân thừa chưa đầu đủ, dùng số tám ngàn để biểu hiện. hiện. Có nghóa nói về lý nhân quả cùng tận, dùng biến khắp để biểu “Dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Sắc Rốt ráo”. Trên nói theo chiều ngang chiếu khắp việc Chư Phật, nay nói theo chiều dọc chiếu khắp chúng sanh, chiếu địa ngục nói về khổ đáng thương xót, chiếu Hữu Đỉnh nói vui cũng vô thường. Đã là khổ, là vô thường, nên khiến chúng sanh chán ghét mà ngộ nhập Phật thừa. “Ở cõi này mà đều thấy cõi kia”, đây là đoạn bốn nói đại chúng lúc ấy thấy điềm lành phát ra ánh sáng, gồm có bảy phần: Thấy sáu đường. Thấy hóa chủ. Nghe giáo môn. Thấy bốn chúng. Thấy Bồ-tát. Thấy Niết-bàn. Thấy xây tháp thờ. Hỏi: Vì sao Phật khiến đại chúng thấy bảy việc này? Đáp: Bảy việc này là pháp môn rốt ráo từ đầu đến cuối một đời giáo hóa của Chư Phật ở phương khác. Nay muốn dùng kia để nói đây, nói lên Đức Thích-ca nói Pháp Hoa cũng là pháp môn rốt ráo giáo hóa trọn vẹn, do Đức Phật phát ra ánh sáng mà thấy được việc giáo hóa trọn vẹn ở các cõi, biểu hiện do Đức Thích-ca nói kinh Pháp Hoa mà nói lên môn rốt ráo giáo hóa trọn vẹn. Hỏi: Vì sao bảy việc lại gồm nhiếp cả sự giáo hóa trọn vẹn? Đáp: Kinh Đại Phẩm chép: Các pháp không thật có, như thế có các pháp. Không thật có: bởi bản tánh tất cả các pháp là vắng lặng mà có như thế: các pháp tuy không thành có, nhưng do chúng sanh điên đảo mà thành có, từ đây có sáu đường sanh tử. Đã không thật có nhưng đối với chúng sanh thành có, nay muốn cho chúng sanh ngộ hữu là không thật có, nên kế là nói có Đức Phật xuất hiện ở đời, tức là bậc hóa chủ. Đã có bậc hóa chủ thì có nói giáo môn, đã có giáo pháp được bẩm thọ trì có người bẩm thọ giáo pháp. Sau khi bẩm thọ giáo pháp Ba thừa, đều thành Bồ-tát, thành Bồ- tát rồi tất cả việc giáo hóa đã xong và liền nhập Niết-bàn. Vì lợi ích chúng sanh nên xây tháp cúng dường. Cho nên nói bảy việc mà tóm thâu hết việc giáo hóa rốt ráo trọn vẹn. Phật ở một phương đã đầy đủ bảy việc như vậy, Chư Phật mười phương ba đời cũng đồng như vậy, nên hiện việc ở cõi kia để làm tướng nói kinh ở cõi này. Nghóa tuy có bảy mà không ngoài hai thứ: Là việc của chúng sanh Là việc của Chư Phật, tức sáu việc sau. Việc của Chư Phật có sáu, việc của chúng sanh cũng có sáu, tức là sáu đường, cho nên chia thành mười hai việc. Luận Pháp Hoa chép: Phiền não khác nhau, thanh tịnh khác nhau. Phiền não khác nhau nên có sáu đường, thanh tịnh khác nhau nên có sáu việc của Chư Phật. Nay trước thấy chúng sanh sáu đường, bởi nói chúng sanh là gốc của bảy việc, nên thấy chúng sanh trước, cũng là theo sự tiếp nối của lời văn. Trên thì ánh sáng chiếu khắp cõi Chư Phật, kế đến là chiếu rõ việc chúng sanh, vì kế nối lời văn nầy nên nói thấy chúng sanh trước. “Lại thấy các Đức Phật hiện tại ở các cõi ấy”: câu này là việc thứ hai thấy vị Hóa chủ. “Và nghe kinh pháp của các Đức Phật ấy nói”, câu này là việc thứ ba nghe giáo pháp. “Cùng thấy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, nam Cư só, nữ Cư só”, câu này là việc thứ tư thấy người lãnh thọ giáo pháp. “Tu hành đắc đạo”, tuy có bốn chúng mà không ngoài nhân quả, tu ba môn học giới định tuệ là nhân, đắc bốn đạo quả là quả. “Lại thấy các Bồ-tát ở cõi kia”: câu này là việc thứ năm thấy người tu pháp Nhất thừa thành Bồ-tát. Bồ-tát có vô biên nhưng lược dùng ba môn để nhiếp chung tất cả. Các thứ nhân duyên, là đời quá khứ chứa nhóm nhân làm nhân, bên ngoài gặp bạn lành làm duyên, mà nhân bên trong khác nhau, duyên bên ngoài chẳng phải một, nên nói là các thứ, đây là môn nhân duyên nhiếp Bồ-tát. Các thứ tin hiểu: ban đầu gọi là tín, sau gọi là hiểu, độn căn gọi là tín, lợi căn gọi là giải. Trên đã nói nhập đạo mỗi loại đều có nhân duyên, nay nói nhập đạo có trước, sau, lợi, độn, vì thế dùng môn tin hiểu để nhiếp Bồ-tát. Các thứ tướng mạo: Bồ-tát tu hành thì có tướng mạo, biểu hiện sự thực hành ở thân, miệng bên ngoài gọi là tướng, biểu hiện sự thực hành trong ý nghiệp gọi là mạo, vì thế dùng môn tướng mạo, để nhiếp Bồ-tát. “Thực hành đạo Bồ-tát”, tổng hợp ba việc trên thì gọi là thực hành đạo Bồ-tát. Luận Pháp Hoa: Dùng bốn nhiếp pháp mà nhiếp lấy chúng sanh gọi là hành đạo Bồ-tát. “Lại thấy các Đức Phật nhập Niết-bàn”, câu này là việc thứ sáu thấy nhập Niết-bàn. “Lại thấy Chư Phật sau khi nhập Niết-bàn”, câu này là việc thứ bảy thấy xây tháp thờ. CHƯƠNG V: Là phần Nghi vấn tựa, tức câu “Lúc bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc”. Sở dó có sự nghi hỏi là vì đã thấy điềm lành kỳ lạ nên biết có nói pháp phi thường, nhưng chưa lường hết lý do nên sanh nghi hỏi. Hỏi: Kinh Niết-bàn, kinh Đại Phẩm cũng đều hiện điềm lành, vì sao không nói về nhân duyên điềm lành? Đáp: Thích ứng sự giáo hóa là khác nhau nhau, chẳng phải chỉ một cách. Lại nữa, kinh Đại Phẩm đều là xuất định hiện điềm lành, là Phật sắp nói pháp chẳng phải đợi lâu nên đại chúng không nghi ngờ. Còn như kinh Nhân Vương và kinh này đều là ở trong định mà hiện điềm lành, Phật đã nhập định Tam-muội, e rằng khi xuất định chưa rõ lý do, cho nên để chúng suy đoán điềm lành. Hỏi: Vì sao đối với kinh này Phật nhập định hiện điềm lành mà không phải xuất định? Đáp: Ba thừa chấp khó bỏ mà Nhất thừa khó tin, vì thế nhập định hiện điềm lành để phát khởi sự nghi ngờ, sau đó khiến ngài Di-lặc hỏi và ngài Văn-thù giải đáp. Nói Phật xưa nói pháp, sau nói Phật Thích-ca tức khai mở dần sự tin hiểu bị tình thức che lấp, nghi ngờ, chê bai, rồi đức Thích-ca mới xuất định nói pháp. Văn chia làm hai phần, ý nghi ngờ và phát lời hỏi. Trước nói ngài Di-lặc nghi, sau nói đại chúng nghi. Ngài Di-lặc nghi có ba phần: Nghi vì sao Phật hiện điềm lành, tức câu “Hôm nay đức Thế tôn hiện thần biến tướng”. Âm dương không thể so lường gọi là thần, sửa dổi việc thường gọi là biến, có sự biểu hiện gọi là Tướng. Câu “vì sao” chính là sanh nghi ngờ Tìm người giải thích nghi ngờ, tức câu “Nay Đức Thế tôn đang nhập chánh định”, sự nghi này là do Đức Phật nhập định mà có. Đức Thế tôn đã nhập chánh định, sợ rằng xuất định chưa có lý do, cho nên không thể hỏi Phật. “Là không thể nghó bàn”, hiện điềm lành này là sâu xa, tâm có thể suy nghó, miệng chẳng thể chẳng phải bàn luận, vì thế tự ngài Di-lặc không thể giải thích. “Việc biến hiện ít có”, từ xưa không hề có nên gọi là ít có, do có ít có nên phải muốn biết, ba câu này là ly do muốn hỏi người khác. “Nay nên hỏi ai”, chính là tìm người để hỏi điều nghi ngờ, ai là người có khả năng, tức chuẩn bị bám víu cửa trí tuệ. Tìm được người giải thích, tức câu “lại suy nghó rằng”, do có người giải thích nên nghi thứ hai trước liền hết, ở đây có hai phần: Khen ngợi đức của ngài Văn-thù có thể giải quyết nghi ngờ. Câu “ta sẽ hỏi” trở xuống là hỏi. Hỏi: Vì sao lại hỏi ngài Văn-thù? Đáp: Đã nói quả Phật nhất thừa chỉ có Phật mới hiểu, nay Phật Thế Tôn đã nhập định nên không thể hỏi Phật. Ngài Văn-thù là Phật quá khứ, có thể thấu đạt việc Phật, cho nên hỏi ngài Văn-thù. Như ngài Quán Âm cũng là cổ Phật nhưng chỉ hỏi ngài Văn- thù, bởi ngài Di-lặc và Văn-thù đời trước cùng ở chỗ Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, nên được hỏi. Hỏi ngài Văn-thù được khai phát hai phần kinh, ngài Văn-thù dẫn việc Phật Đăng Minh hiện điềm lành thì được khai phát thừa phương tiện, thừa chân thật. Ngài Văn-thù là thầy của Phật Nhiên Đăng tức được khai phát thân phương tiện, thân chân thật. Do sắp bỏ gần bày xa, nên trước đem việc gần mà che việc xa. Lại, trước nói việc Phật Đăng Minh lược bỏ ba bày một, sau nói ngài Văn-thù là lược bỏ gần bày xa. Văn-thù thuở xưa là thầy, nay phương tiện làm đệ tử, tức nói lên Phật Thích-ca là đệ tử Phật Nhiên Đăng cũng là phương tiện làm thầy. “Lúc bấy giờ bốn bộ chúng”, đây là phần chúng sanh nghi ngờ. Ngài Di-lặc có đạo cao nên biết có người giải thích sự nghi, còn đại chúng đức kém nên chỉ nghi tướng lành của Phật mà không biết ai là người giải thích. “Lúc bấy giờ ngài Di-lặc”, đây chính là phần phát câu hỏi, gồm có hai phần, trước là hỏi, sau xin giải đáp. Chính hỏi có hai phần, trước là văn xuôi chỉ lược hỏi, sau là kệ tụng hỏi rộng. Trong phần văn xuôi lại chia làm hai, trước hỏi hai điềm lành đầu, sau hỏi điềm lành phát ra ánh sáng. Hai điềm lành trước là điềm lành bên ngoài, là y báo, cũng là ý nghiệp hiện ra nên nói là tướng thần thông, vì thế hợp chung thành một câu hỏi. Phát ra ánh sáng là điềm lành bên trong, là chánh báo, lại là thân nghiệp nên thành một câu hỏi. Trong phần phát ra ánh sáng thì trước nói hiện điềm lành, sau nói thấy điềm lành, tức câu “đều thấy”. “Bồ-tát Di-lặc,v.v…” đây là phần. Hỏi rộng bằng kệ tụng. Hỏi: Vì sao các kinh đều có văn xuôi và kệ tụng? Đáp: Văn xuôi và kệ tụng nói lược có mười thể và năm phần. Nói về mười thể, luận Thập Địa Tỳ-bà-sa do ngài Long Thọ soạn có chép: Pháp tùy theo mỗi nước khác nhau, như Trung quốc có văn về tựa và minh, Thiên-trúc có nói rải hoa xâu hoa. (văn và kệ) Sự ưa thích khác nhau. Luận ấy chép: Hoặc có người ưa văn xuôi hoặc có người thích kệ tụng, hoặc Thích-cả văn lẫn kệ, tùy theo sở thích khác nhau nên cũng theo mà không bỏ. Sự ngộ khác nhau, hoặc có người nghe văn xuôi không ngộ mà nghe kệ lại ngộ, hoặc nghe riêng mỗi thứ thì mê mà nghe chung thì ngộ, cho nên nói cả hai. Chỉ bày căn tánh có lợi, độn, người lợi căn vừa nghe liền ngộ, kẻ độn căn không hiểu nên phải nói lại mới ngộ. Muốn biểu hiện Chư Phật tôn trọng chánh Pháp, ân cần cho đến một lời mà nói hai lần. Khiến người đời sau sanh tâm tin đối với kinh, theo văn xuôi mà không hiểu hoặc sợ kinh có sai lầm, khi đọc bài kệ thấy giống như văn trước mới biết mình mê hoặc. Muốn lời văn dễ hiểu mà chuyển cách nói pháp, giốngnhư người sắp hết bịnh lại muốn ăn vị ngon. Chỉ bày nghóa vị có vô lượng, văn xuôi đã nói một mà kệ tụng thì nói hai. Biểu thị con người bên trong có trí vô ngại, bên ngoài có lời nói vô phương, có thể tự tại co duỗi, rộng hẹp tùy duyên. Nói về chúng nhóm họp trước sau, nên có văn xuôi và kệ tụng, như kinh Niết-bàn nói. Hỏi: Các kinh khác không cần đầy đủ cả văn xuôi và kệ tụng, vì sao kinh này bao gồm cả hai? Đáp: Là do thích ứng sự giáo hóa, như trên đã nói. Chỉ vì kinh này bắt đầu trái với Nhị thừa mà nói về Nhất thừa, vì khó tin khó hiểu nên phải ân cần lặp lại. Lại nữa, các kinh Đại thừa khác là giáo hóa cho Bồ-tát, Bồ-tát có căn tánh lanh lợi nên chỉ nói một lần kinh này riêng vì người Nhị thừa, nhị thừa căn tánh chậm lụt nên phải nói hai lần. Năm phần gồm có: Bốn câu rộng và lược, văn xuôi rộng mà kệ tụng lược, vì để dễ trì tụng. Văn xuôi lược mà kệ tụng rộng, vì để giải nghóa; văn xuôi và kệ tụng đều rộng, đều lược tức vì người độn căn nên nói hai lần, cũng là vì người đến sau. Bốn câu có và không, văn xuôi không mà kệ tụng có, văn xuôi có mà kệ tụng không, văn xuôi và kệ đều có, văn xuôi và kệ đều không. Hỏi: Có và không tức là rộng và lược, vì sao lại giải thích riêng? Đáp: Có và không khác với rộng và lược, như văn xuôi lược mà kệ rộng, văn xuôi hoàn toàn không nói mà kệ lại nói. Bốn câu lìa và hợp, văn xuôi hợp mà kệ tụng ly, văn xuôi ly mà kệ tụng hợp, văn xuôi và kệ đều hợp, văn xuôi và kệ đều lìa. Bốn câu trước sau, văn xuôi nói nghóa ở trước, kệ tụng nói ở sau, nói nghóa ở sau, kệ tụng nói ở trước, văn xuôi và kệ tụng đều ở trước, văn xuôi và kệ tụng đều ở sau. Bốn câu “hỏi và dùng văn”, văn xuôi hỏi mà kệ tụng dùng văn, văn xuôi dùng văn mà kệ tụng hỏi, cả hai cùng dùng văn, cả hai cùng chất vấn, muốn dùng lời văn, xen hỏi nhau khiến người nghe vui mừng. Năm phần nầy là để dễ hiểu mà chuyển cách nói pháp, dùng mười thể trước và năm phần sau quán thông cả các bộ, chẳng phải riêng kinh Pháp Hoa. Kệ có hai loại: Thủ-lô kệ, (tên gọi để tính số văn tự kinh luận) gồm có ba mươi hai chữ, đây là phép đếm số kinh của nước ngoài. Dù văn xuôi hay kệ tụng nếu đủ ba mươi hai chữ thì gọi là một Thủ-lô. Kết cú kệ, dùng bốn câu để làm bài kệ, dù bốn chữ hay bảy chữ cũng phải đủ bốn câu. Kinh Niết-bàn chép: Bốn câu thành bài kệ thì gọi là Cú thế, Cú thế tức văn lưu hành trong thế gian đều dùng bốn câu làm một bài kệ. Cú thế có hai loại: Già-đà, nghóa là kệ cô khởi, cũng gọi là Bất Đẳng tụng. Lộ-già, nghóa là kệ tụng văn xuôi. Có người chép: Nước ngoài gọi là Kỳ-dạ hoặc Kệ-dạ, nay lược bỏ chữ Dạ mà gọi thẳng là kệ, Hán dịch là Cú, Tụng. Có người chép: Kệ là tiếng của Trung hoa, dùng để nói cho hết nghóa thì gọi là kệ. Trong văn nầy gồm có năm mươi bốn bài kệ, chia làm hai phần: Có bốn bài kệ nói về ba điềm lành và thấy điềm lành. Có năm mươi bài kệ nói về điềm lành phát ra ánh sáng và thấy điềm lành. Sở dó chia làm hai phần, bởi ban đầu hiện ra ba điềm lành ở cõi này, sau hiện điềm lành ở cõi khác, nên chia làm hai bài kệ tụng. Hỏi: Vì sao hiện điềm lành ở cõi này và hiện ở cõi khác? Đáp: Muốn biểu hiện đức Thích-ca vì chúng sanh ở cõi này mà nói pháp Nhất thừa, nên hiện điềm lành ở cõi này. Nhưng ba chấp khó bỏ, Nhất thừa khó tin, sợ chúng sanh cõi này không chịu tin, nên dùng kia để hiển đây, vì thế hiện điềm lành ở cõi khác. Ban đầu là điềm lành chính là nói, sau là điềm lành làm chứng. Phần hiện điềm lành ở cõi này chia làm hai: Kệ tụng hiện điềm lành. Kệ tụng thấy điềm lành. Phần hiện điềm lành chia làm ba: Kệ tụng điềm lành phát ra ánh sáng. Kệ tụng điềm lành rải hoa như mưa. Kệ tụng điềm lành đất rung chuyển. Hỏi: Trong phần văn xuôi trước nói mưa hoa, đất rung chuyển, sau nói phát ra ánh sáng. Vì sao phần kệ tụng trước nói phát ra ánh sáng, sau nói mưa hoa, đất rung chuyển? Đáp: Kệ và văn xuôi mỗi thứ chỉ bày một nghóa, văn xuôi từ sở hóa đến năng hóa, mưa hoa và đất rung chuyển là biểu thị chúng sanh sở hóa thành Phật, vì thế trước nói mưa hoa, đất rung chuyển. Sở hóa thành Phật là do năng hóa nói kinh, vì thế kế là ói phát ra ánh sáng. Kệ tụng thì từ năng hóa đến sở hóa, do năng hóa nói kinh mà sở hóa mới được thành Phật, vì thế là bài trước tụng phát ra ánh sáng, sau tụng mưa hoa, đất rung chuyển. Lại nữa, là do thế văn nối tiếp, ngài Di-lặc hỏi lời sau cùng là hỏi sự phát ra ánh sáng, vì thế sự gần bài tụng phát ra ánh sáng trước. Gió thơm mùi Chiên-đàn, mưa hoa nói lên sự hiểu biết thất thừa, gió thơm biểu thị diệt hết mê hoặc của Nhị thừa, hoa trời che dơ uế, gió thơm diệt mùi hôi, cho nên đất ngoài được nghiêm trang thanh tịnh, biểu thị hiểu rõ Nhất thừa, diệt mê hoặc Nhị thừa mà trong tâm trang nghiêm thanh tịnh. “Ánh sáng giữa hai đầu chân mày Phật”, đây là phần kệ tụng nói về hiện điềm lành ở cõi khác. Hỏi: Trước đã hỏi về ánh sáng, sao nay lại hỏi nữa? Đáp: Văn xuôi nói thẳng một lằn ánh sáng chiếu khắp cõi kia, cõi này, nay ngài Di-lặc muốn chia ra nên nói hai lằn ánh sáng. Ánh sáng trước là chiếu cõi này, nay kệ tụng là ánh sáng chiếu cõi khác, y cứ chiếu cõi này cõi kia nên chia thành hai lằn ánh sáng. Vì thế phần kệ sau chép: Phật phát một luồng sáng Tôi cùng cả chúng hội Thấy ở cõi nước nầy Các thứ thật tốt đẹp Đây là ánh sáng cõi này. Lại chép: Phóng một luồng ánh sáng trong suốt, chiếu vô lượng cõi nước. Đây là ánh sáng cõi khác. Hỏi: Vì sao cõi này có ba điềm lành mà cõi khác chỉ có một điềm lành phát ra ánh sáng? Đáp: Một thời kỳ đức Thích-ca ra đời thì đạo duyên chúng sanh thích ứng thuần thục, Phật vì đó nói pháp Nhất thừa, nên có điềm lành năng hóa, sở hóa. Chúng sanh ở cõi khác chẳng phải do đức Thích-ca giáo hóa nên không có ba điềm lành, nhưng Phật muốn đem cõi kia để nói lên cõi này, phát ra ánh sáng chiếu đến, vì thế chỉ có điềm lành phát ra ánh sáng. Văn này cũng có hai phần, trước tụng điềm lành phát ra ánh sáng, sau là tụng thấy điềm lành. “Đều ánh như sắc vàng”: cõi khác tuy có bảy việc mà đồng là nói đạo không hai, đem một sắc ở cõi kia để nói lên cõi này nói Nhất thừa. Lại, cõi kia cõi này đồng một đạo nên ánh sáng cõi này chiếu cõi kia, đem kia để làm chứng đây. “Từ địa ngục A Tỳ, lên đến trời Hữu Đảnh”. Trước là tụng chiếu soi Chư Phật theo chiều hòa ngang, phần tụng nay là chiếu dọc suốt tất cả chúng sanh. Trong văn xuôi nói là trời Sắc Cứu Cách, nay gọi là trời Hữu Đảnh. Kinh Lâu Thán chép: Sắc Rốt ráo ở trên đảnh của cõi Sắc. “Trong các thế giới đó v.v…” đây là phần kệ tụng thấy điềm lành. Văn xuôi có bảy việc, nay kệ tụng có năm, là tụng giáo môn kiêm tụng bốn chúng; bài tụng xây tháp kiêm tụng Niết-bàn, tụng còn lại có năm việc. Ngài Di-lặc chia làm ba môn. Kệ tụng về chúng sanh, vị hóa chủ và giáo môn. Kết việc trước, khởi việc sau. Kệ tụng việc Bồ-tát và xây tháp. Sở dó môn đầu tụng ba việc, bởi chúng sanh sáu đường là sở hóa, Chư Phật là bậc hóa chủ, kế theo kệ tụng về giáo môn. Dối tượng giáo hóa là người bịnh, hóa chủ là thầy thuốc, giáo môn là thuốc hay, ba việc này liên quan nhau nên là một loại tụng. Lại, chúng sanh sáu đường là năng cảm, chủ và giáo môn là hai loại ứng hình, thanh năng cảm không ngoài chúng sanh sáu đường, năng ứng chẳng gì lìa hình thanh. Lại nữa, sáu đường là người nghe, Chư Phật là người nói, giáo môn là pháp chân thật, được ba việc này thì sanh tử có hạn, cho nên chỉ tụng ba việc. Trong các thế giới, tức là khí thế giới, chúng sanh sáu đường tức là chúng sanh thế gian, đây là một cặp y báo và chánh báo. Nghiệp duyên thiện ác trong đường sanh tử là nhân, thọ báo tốt xấu là quả, đây là một cặp nhân và quả. “Nơi đây đều thấy rõ”, trên nói về ánh sáng năng chiếu và việc sở chiếu, chữ “đều” là sở kiến, đại chúng là năng kiến, đây là một cặp năng và sở. Do thấy việc chúng sanh nên dùng câu “đều thấy” làm lời kết. “Lại thấy các Đức Phật, bậc Thánh chúa sư tử”, đây là phần kệ tụng về bậc hóa chủ. Trung Luận chép: Bậc Thánh có ba loại: Ngoại đạo năm thần thông. Bích Chi, La-hán. Bồ-tát Pháp thân. Trong ba bậc Thánh nầy thì Phật là cao nhất, nên gọi là Thánh chúa. Đã là chủ của ba Thánh, lại là thầy của chúng sanh sáu đường, đối với phàm thánh được tự tại không sợ sệt nên gọi là Sư Tử. “Đang giảng nói kinh điển”, đây là phần kệ tụng về giáo môn, văn có hai phần: Kệ tụng về pháp luân căn bản Nhất thừa. Kệ tụng về pháp luân ngọn ngành Ba thừa. Chư Phật ở phương Đông đã có hai giáo môn này, nay dùng việc ấy để bày việc cõi này, nói Đức Thích-ca trước khi nói Pháp Hoa cũng có hai giáo môn này. Hoa Nghiêm là pháp luân căn bản, sau dó nói Ba thừa là giáo pháp ngọn ngành. Kệ tụng pháp luân căn bản có ba phần: Nói Phật nói Nhất thừa một phương. Nói về tất cả Phật nói pháp thì đồng, xứ sở thì khác. Nói về ý nghóa của giáo pháp, tức nói chung tất cả Phật. Giảng nói kinh điển, là giáo pháp Nhất thừa năng thuyên. “Mầu nhiệm bậc nhất”, đây là lý Nhất thừa sở thuyên”. “Tiếng Chư Phật thanh tịnh, âm thanh thật êm dịu”: Đây là khen ngợi âm thanh có thể giảng nói giáo pháp. Quét sạch bụi trần gọi là thanh tịnh, thuận theo căn duyên gọi là êm dịu, đây là dụng của thanh. Lại nữa, âm thanh của Phật không đục gọi là trong, tiếng của Phật không ồn gọi là tịnh. Tiếng Phật nhu hòa gọi là êm, không thô xẳng gọi là dịu. “Chỉ dạy các Bồ-tát”, là chỉ dạy cho đối tượng hợp duyên, bởi pháp luân căn bản không lẩn lộn ba thừa nên chỉ gọi là Bồ-tát. Nói pháp Nhất thừa phải đủ bốn việc. Đó là văn năng thuyên, lý sở thuyên, âm thanh năng tuyên và Bồ-tát sở hóa. “Tiếng Phạm âm sâu mầu”, đây là phần nói về nói pháp thì đồng, xứ sở lại khác. Trước khen ngợi âm thanh Phật thanh tịnh êm dịu nghóa là giáo pháp xứng hợp duyên, nay nói “Khiến mọi người thích nghe” là căn cơ xứng hợp giáo Pháp. “Chư Phật riêng mỗi cõi: tức nói Chư Phật ở chỗ khác nhau. “Đang giảng nói chánh pháp”, tức nói đạo ấy đồng nhau. “Dùng các thứ nhân duyên v.v…” đây là phần nói về ý nghóa giáo pháp. phần: Nửa bài tựa trên là Phật nói giáo, nói giáo có hai: Pháp Thí dụ. Nữa phần dưới là nói ý Phật nói giáo, ý Phật nói giáo cũng có hai Trên thì mở rộng pháp Phật. Dưới thì lợi ích chúng sanh. Nói theo Phật thì giáo có thể hiển lý như đèn chiếu sáng, lý là sở thuyên gọi là Phật pháp. “Để khai ngộ chúng sanh”: đây là dưới làm lợi ích chúng sanh. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, do vô minh che lấp, tà kiến nghi ngờ nên Không ngộ Phật tánh. Chư Phật phá ải tà nghi, mở cửa vô minh khiến thấy Phật tánh, nên gọi là ngộ. “Nếu có ai gặp khổ” v.v… đây nói về giáo pháp Ba thừa, tức pháp luân ngọn ngành. Chư Phật ở phương Đông vì chúng sanh căn tánh thấp kém không thể lãnh thọ Nhất thừa, nên Nhất thừa mà nói thành ba, ý nói đức Thích-ca trước khi nói Pháp Hoa cũng vậy. Pháp luân Nhất thừa có ba câu, nay pháp luân Ba thừa cũng có ba câu. Các kinh sư xưa nói: Ba câu trước là nói chung về giáo, ba câu sau là nói riêng về giáo, do không hiểu pháp luân căn bản và pháp luân ngọn ngành nên mất ý chỉ của giáo. Tuy là một chương trong kinh mà thật là đại sự. Nếu trong Pháp Hoa có Hoa Nghiêm thì thành kinh sâu xa, nếu y theo bốn thời để giải thích thì thành giáo pháp nông cạn. “Ngài Văn-thù-sư-lợi”, đây là kết việc trước khởi việc sau, ba câu kết việc trước, ba câu khởi việc sau. Hỏi: Vì sao không thứ lớp hỏi bảy việc như văn xuôi mà lại kết việc trước khởi việc sau? Đáp: Do ngài Di-lặc muốn nói lên Phật ở phương khác trước khi nói Pháp Hoa có ba việc: Có chúng sanh sáu đường. Có Chư Phật ra đời. Nói pháp luân căn bản và ngọn ngành. Đem kia để hiển đây, nói Đức Thích-ca trước khi nói Pháp Hoa cũng có ba việc: Có sở hóa là chúng sanh. Có Đức Thích-ca ra đời. Nói pháp căn bản là Hoa Nghiêm, nói pháp luân ngọn ngành là ba thừa. Ba câu kết việc trước, tức là nói vềviệc trước khi nói Pháp Hoa. Ba câu khởi việc sau, tức là nói lên Phật ở phương khác sau khi nói Pháp Hoa. Trước khi nói Pháp Hoa gồm có pháp luân căn bản và ngọn ngành, sau khi nói Pháp Hoa cho đến Niết-bàn là gam ngọn về gốc, tức là pháp luân Nhất thửa. Nếu không kết việc trước khởi việc sau, thì không thể nói lên giáo môn Pháp Hoa có hai thời trước và sau. “Nay sẽ nó lược: trên là việc rộng mà nói lược, việc rộng là chúng sanh sáu đường, vị hóa chủ và giáo môn. Nói lược là phần kệ tụng có ít. Nay thì việc lược mà nói rộng, việc lược là nói hai việc Bồ-tát và xây tháp. Nói rộng tức phần kệ tụng nhiều, bởi đối chiếu ở trước mà nói rộng, lược, căn cứ ở sau nói rộng lược tức là do thấy các Bồ-tát và việc xây tháp nhưng lại chép: “nay chỉ lược nói”, tức là thấy thì rộng mà nói thì lược. Như văn trước chép: “Cho đến trăm ngàn việc, tức là chúng nhiều, việc nhiều, mà nay nói lược nên gọi là lược. “Tôi thấy cõi kia” v.v… đây là phần kệ tụng về Bồ-tát và việc xây tháp, việc Bồ-tát chia làm hai: Tụng chung Tụng riêng. Tụng chung như trong văn, phần biệt tụng lược dùng ba môn để gồm nhiếp, Bồ-tát ở phương Đông tuy vô tận mà không ngoài ba hạng: Bồ-tát thứ lớp hành sáu độ. Bồ-tát ba nghiệp làm lợi ích. Bồ-tát vô phương hành sáu độ. Phần tụng đầu là các thứ nhân duyên; phần tụng giữa là các thứ tướng mạo, phần tụng sau là các thứ tin hiểu. Hỏi: Vì sao chỉ có phần kệ tụng Bồ-tát? Đáp: Muốn nói Chư Phật ở phương đông ban đầu nói ba thừa, sau chỉ nói Nhất thừa, dùng kia để hiển đây, đức Thích-ca ban đầu nói Ba thừa, sau chỉ nói Nhất thừa. Đã nói Nhất thừa tức là chỉ dạy các Bồ-tát, cho nên kinh Pháp Hoa gọi là: “Giáo Bồ-tát pháp Phật sở hộ niệm”. Từ đây trở xuống bao gồm phần kệ tụng ba hạng Bồ-tát. Trên nói rằng: “Chỉ dạy các Bồ-tát, muôn ức vô số vị”, nghóa là Bồ-tát pháp luân căn bản. Kế là nói: “Nếu có các Phật tử, tu tập các công hạnh”, đây là Bồ- tát pháp luân ngọn ngành trong ba thừa. Nay đang nói là Bồ-tát Nhất thừa, tức gom gọn về gốc. Hỏi: Vì sao Ba hạng Bồ-tát có rộng hẹp? Đáp: Trong hai pháp luân trước chỉ có Bồ-tát trực vãng, pháp luân sau gom ngọn về gốc thì có đủ hai hạng Bồ-tát. Hỏi: Đã biết chỉ tụng Bồ-tát sao còn nói về sáu độ? Đáp: Những thực hành của Bồ-tát thì không ngoài sáu độ, sáu độ là thể của nhân thừa. Luận Trí Độ chép: Sáu pháp Ba-la-mật là thể của thừa. Nay muốn cho Bồ-tát nương xe báu ấy thẳng đến đạo tràng, nên nói về hạnh sáu độ. Bó thí độ chia làm hai phần: Ngoại thí. Nội thí. Ngoại dễ, nội khó nên nói từ dễ đến khó. Ngoại thí chia làm hai phần: Nói về thí tất cả. Nói về thí đồ vật tốt đẹp. Ba câu trước nói về hạnh bố thí, vui mừng bố thí là nói về địa vị bố thí, nên Thập hạnh trước Địa thì hạnh đầu gọi là hạnh Hoan hỷ, Sơ địa hành bố thí gọi là Vui mừng địa, nên biết đây là địa vị bố thí. Hỏi: Thế nào là vui mừng thí? Đáp: Như cha hiền cho con dồ vật tâm sanh vui mừng, Bồ-tát cũng vậy. Lại như người thế gian biết lửa sẽ đốt cháy nhà, nên lấy được của cải ra, nhà tuy bị cháy mà vật không mất nên chủ nhà vui mừng, biết thân sẽ hoại diệt nên dùng của cải bố thí và sanh vui mừng cũng thế. “Hồi hướng cầu Phật đạo”, trên nói về hạnh bố thí, nay nói về hạnh chuyển, nghóa là dùng điều thiện bố thí này hướng về Phật đạo, nên gọi là hạnh chuyển. Hỏi: Vì sao phải hồi hướng? Đáp: Kinh Tịnh Danh chép: Hồi hướng vì lợi ích lớn, nếu hồi hướng cho ba cõi hoặc Nhị thừa thì được lợi ích nhỏ, nếu đem điều thiện hướng về Phật đạo thì có lợi ích lớn, cho nên phải hồi hướng. Lại nữa, hướng điều thiện này đến tất cả chúng sanh cũng gọi là lợi ích lớn, nếu hướng điều thiện về mình thì phước rất ít, nếu hướng cho những người khác thì do họ có nhiều người nên điều lợi ích cũng lớn. Lại nữa, hướng điều thiện này về thật tướng thì cũng gọi là lợi lớn, vì sao như vậy? Nếu không hướng thật tướng thì thành mê đắm không động không xuất, không gọi là thừa, lợi ích sẽ nhỏ. Nếu biết bố thí tức là thật tướng, thật tướng vô biên, bố thí phù hợp với lý thật tướng thì phước đức cũng vô biên. Hồi hướng thì có nhiều mà chỉ có ba điều quan trọng như trên. “Nguyện chứng đắc Phật thừa”, ở trên nói về hạnh bố thí, nay nói về sự phát nguyện, hạnh bố thí như xe, phát nguyện như người lái xe. Hỏi: Vì sao nói nguyện chứng đắc Phật thửa là bậc nhất trong ba cõi? Đáp:Kệ tụng về nguyện đắc Nhất thừa ở cõi khác để làm tướng hành Nhất thừa của Bồ-tát ở cõi này, tức là dùng kia hiển đây, thầm thuyết Nhất thừa. “Hoặc có vị Bồ-tát”, ở đây nói về bố thí tốt đẹp. Hỏi: Trên đã nói bố thí xe, nay vì sao lại nói bố thí xe? Đáp: Là dùng kia để hiển đây, nói về tướng Nhất thừa, cũng gọi là thí sau rốt, như Thái tử Tu Đại Noa, bố thí dồ vật đã hết sạch chỉ còn chiếc xe mình cỡi, có người đến xin và Bồ-tát cũng xả. Chữ “hiên sức”, xe của đại thần gọi là hiên, che trên xe cũng gọi là hiên, nay nói hiên sức, thì biết đồ vật che xung quanh xe. “Lại thấy có Bồ-tát”,v.v… đây là phần nói về nội thí, cũng chia ra hai phần là khinh thí và trọng thí. Sở dó nói nội thí, do trước đã nói về hai thứ ngoại thí, chỉ còn tự thân và vợ con, nên nay nói bố thí thịt thân mình và vợ con. Nói bố thí thịt thân mình là chỉ dùng thịt bố thí như vua Thi-tỳ, chỉ dùng thân bố thí như vua Trường Thọ. Thuở xưa có vị vua, vì nước mất mà trốn vào rừng sâu, có người đến xin thân mạng, vua bố thí thân, khiến họ đem về nước kẻ thù. Câu “Lại thấy có Bồ-tát” trở xuống là nói về trọng thí, như vua Quang Minh bố thí ngàn đầu, Bồ-tát-đề-bà bố thí mắt, Ma-ha-tát-đỏa bố thí thân. “Đều vui mừng thí cho”, như người đem dồ bằng gạch đổi được bình báu tâm sanh vui mừng, bố thí thân thịt mà được pháp thân, ý nghóa cũng vậy. Hỏi: Vì sao không có nội ngoại thí? Đáp: Trong kinh nói nội ngoại thí bao gồm tất cả thí, hoặc nói về ba thứ bố thí: nội thí, ngoại thí, nội ngoại thí. Nội ngoại thí, như Bồ-tát nhổ thức ăn của mình thí cho ngạ quỷ. Hỏi: Trong kinh Kim cương Bát-nhã nói về ba thứ bố thí, đây là loại bố thí nào? Đáp: Kinh ấy dùng hạnh bố thí gồm nhiếp cả sáu độ, hạnh đầu là bố thí của cải, hai hạnh kế theo là bố thí vô úy, ba hạnh sau là bố thí pháp, nay đã có sáu độ riêng, chỉ là bố thí của cải mà thôi. Hỏi: Lấy gì làm thể của bố thí? Đáp: Luận Tỳ-đàm dùng vô tham tương ưng tư, khởi ở thân ng- hiệp, miệng nghợp xếp vào thể bố thí. Có người chép: Trong các tâm sở có tâm sở xả riêng gọi là thể của thí. Có người chép: Tâm bố thí, tài vật, cho đến người nhận, nhân duyên ấy hòa hợp gọi là thể của thí. “Ngài Văn-thù Sư Lợi”, phần này nói về giới, trước là Bồ-tát tại gia, đây là Bồ-tát xuất gia, trước nói về hành thiện, nay nói về dứt ác. Xưa có năm vị vua hỏi nhau về nhưng điều mà họ ưa thích. Một người nói thích vườn rừng hoa quả, một người nói thích sắc đẹp phụ nữ, một người nói thích quân đội binh mã, một người nói thích săn bắn vui chơi. Chỉ có một vị đại vương lần nói lược về tai họa, hoa quả sẽ có khô héo rơi rụng, phụ nữ sẽ có ân ái xa lìa, quân đội thì có tranh đấu giết hại lẫn nhau, săn bắn thì trái với lòng tử bi, không bằng nhàm chán già bịnh chết mà cầu Niết-bàn thường an vui. Bốn vị vua nghe xong đều đến chỗ Phật xuất gia tu đạo. Bồ-tát có ba loại giới. Dứt tất cả ác tức giới nhiếp luật nghi. Làm tất cả thiện tức giới nhiếp pháp thiện. Độ tất cả chúng sanh tức giới độ chúng sanh. Văn này nói Bồ-tát xuất gia, phải thọ đủ ba thứgiới trên, nhưng chưa thực hành hai giới kia, chỉ nói về giới nhiếp luật nghi. Hỏi: Ba giới lấy gì làm thể? Đáp: Có người chép: Giới đầu lấy dứt ác làm thể, hai giới sau dùng hành thiện làm thể. Điều nầy không đúng, nếu hai giới sau dùng hành thiện làm thể, thì lúc đầu thọ giới chưa tu hạnh độ người, lẽ ra chỉ thọ được một giới, vậy giới của Bồ-tát sẽ không đầy đủ. Nay nói ba giới đều lấy dứt ác làm thể, giới đầu là dứt ác của oai nghi, giới thứ hai là dứt ác về không làm thiện, giới sau là dứt ác về không độ người. Vì thế lúc đầu là thọ đủ ba giới mà lúc sau mới thực hành pháp thiện và độ chúng sanh. Hỏi: Vì sao chỉ nói ba thứ giới? Đáp: Giới dứt tất cả ác thì về sau đắc quả không có lệ lụy nào không dứt hết. Giới làm tất cả việc lành sau được đức pháp thân chẳng có gì không tròn đầy, giới độ chúng sanh cũng giúp cho người khác được hai quả báo này, cho nên giữ gìn ba giới thì mình và người đều chứng pháp thân. Hỏi: Giới lấy gì làm thể? Đáp: Luận Tỳ-đàm lấy sắc thể, luận Thành Thật lấy phi sắc phi tâm làm thể, thí dụ tăng kỳ là nói lìa suy nghó không có nhân báo, lìa thọ nhận không có quả báo, cho nên lấy tâm làm thể. Nay nói Đại thừa thích ứng cơ duyên không có chấp nhất định, nếu có chấp nhất định thì thành tranh luận, rơi vào xiển-đề. “Hoặc lại thấy Bồ-tát” v.v… đây là nói về nhẫn nhục độ, giữ giới tức tự mình không làm ác, hành nhẫn nhục là chịu đựng người khác đánh mắng, nhẫn nhục có ba thứ: Người khác không lợi ích nhẫn. An nhiên chịu khổ nhẫn. Pháp tư duy nhẫn. Nay nói rằng “ở một mình nơi vắng vẻ”, xa lìa năm dục kiềm chế sáu căn, đó là an nhiên chịu khổ nhẫn và pháp tư duy nhẫn. “Cũng thấy có Bồ-tát”, đây là nói về hạnh tinh tấn, tinh tấn có ba loại: Mở rộng thệ tinh tấn, do phát nguyện lớn. Tập thiện tinh tấn, là tự tu các điều thiện. Lợi ích chúng sanh tinh tấn: do độ chúng sanh. Nay trong văn là nói hai phần tinh tấn trước. “Lại thấy người lìa dục, thường ở chỗ trống vắng, sâu tu môn thiền định, đắc năm pháp thần thông”, đây là phần kệ tụng về thiền định, thiền có ba loại: Hiện pháp lạc thiền, là trong tâm vắng lặng. Sanh ra công đức thiền, là phát sanh bốn thiền định, năm thứ thần thông. Lợi ích chúng sanh thiền, là độ chúng sanh. Nay trong văn chưa nói phần độ chúng sanh, nên chỉ là hai phần thiền trước mà thôi. Phần kệ đầu là nói về tu thiền đắc quả, phần kệ sau là nói động tónh như nhau, Tiểu thừa chỉ nói tu Bốn thiền mới có công năng phát sanh thần thông, Đại thừa nói tất cả thiền định đều có công năng phát sanh thần thông. Kinh chép: Bồ-tát hoặc đắc năm thông, hoặc đắc sáu thông, gồm có hai nghóa: Khi mới thực hành Bồ-tát chỉ đắc năm thông. Bồ-tát pháp thân đắc sáu thông. Lại, Bồ-tát đã hết phiền não nhưng vẫn còn thân phàm phu nên nói đắc sáu thông. Nhưng so với Phật vẫn còn chút tập khí nên nói đắc năm thông. Câu kệ kế: “Chắp tay trụ thiền định”: là nói về động tónh như nhau, tức là tónh mà có thể động, tâm an trong thiền định thì động thân chắp tay, miệng khen ngợi đấng Pháp Vương. Nên, Kinh Tịnh Danh chép: Không khởi diệt định mà thể hiện các oai nghi. Nước Tần có người biết sách tiếng Phạn chép: Nước ngoài gọi là an thiền, Hán dịch là chắp tay, vì vậy nêu cả hai nghóa. Chính là thuộc về Tuệ hạnh, chẳng phải thiền môn. Nay cho rằng không đúng, nếu nêu cả hai thì trong văn thành phiền phức, giả sử muốn thành lời kệ thì phải nói rằng: “Cung kính chắp tay”, không thể một việc mà trình bày cả hai. “Lại thấy có Bồ-tát, trí sâu chí bền chắc, thưa hỏi pháp với Phật, nghe hiểu mới thọ trì”: đây là phần kệ tụng nói về tuệ hạnh. Tuệ có ba loại: Bậc nhất nghóa Tuệ Tuệ biết năm minh thế gian Tuệ độ chúng sanh. Nay trong ý văn thì đủ cả ba nhưng chưa nói về độ chúng sanh. “Lại thấy có Phật tử, định tuệ đều đầy đủ, dùng vô lượng thí dụ, vì chúng mà giảng pháp”: đây là nói về ba nghiệp làm lợi ích. Có người chép: Vẫn thuộc về Bà-nhã độ, trước nói trên cầu Chư Phật, nay nói dưới lợi chúng sanh, trong sáu độ thì phần đầu, phần sau nói rộng, phần giữa nói lược. Có người chép: Trước nói Bà-nhã rồi, nay nói về phương tiện Ba- la-mật, làm sao biết? Phẩm Phát Thú trong kinh Đại Phẩm chép: Địa thứ bảy gọi là Đẳng định tuệ địa, địa thứ bảy thuộc về phương tiện, nay văn có định tuệ đầy đủ, tức là định tuệ bình đẳng, nên biết thuộc về phương tiện. Nay nói về ba nghiệp làm lợi ích, tức là các thứ tướng mạo, thân miệng hiện bên ngoài gọi là tướng, ý nghiệp bên trong cũng nói lên gọi là mạo. Hai câu kệ đầu là nói về bậc Thánh nói pháp, tức miệng nghiệp làm lợi ích chúng sanh, kế có một bài kệ nói bậc Thánh vắng lặng:, tức là ý nghiệp lợi ích chúng sanh. Kế có một bài kệ nói: “Ở rừng phát ánh sáng: là thân nghiệp cứu giúp. Lại nữa, ba nghiệp này làm lợi ích ba hạng người, ban đầu lợi ích Bồ-tát là thượng phẩm, kế đến là lợi ích trời, rồng là trung phẩm, sau cùng cứu vớt địa ngục là hạ phẩm. Lại nữa, hai lợi đầu là đại từ ban vui, lợi sau là đại bi cứu khổ, hai phần đầu là lợi ích trời người, phần sau là cứu vớt đường ác. “Định tuệ đều đầy đủ”, là tịch chiếu tròn đầy, tức bên trong có đủ đức để nói pháp. “Dùng vô lượng thí dụ”, bên trong đã tịch chiếu tròn đầy, bên ngoài có biện tài vô ngại. “Ưa thích nói giáo pháp, chỉ dẫn các Bồ-tát”, thích sở đắc của mình, vui vì ban lợi ích cho bạn đồng hành. “Phá dẹp các binh ma, mà đánh rền trống pháp”, trên là nói lợi ích cho người, nay nói phá các tà kiến. Ma là bốn ma, binh chúng là mười quân. Bồ-tát nói pháp giúp người đắc đạo, phá ma phiền não mà được pháp thân, nên phá trừ ma năm ấm. Do hai việc đắc đạo và pháp thân nên phá ma chết. Do đắc Tam-muội Bất động nên phá trừ ma trời. Nói mười quân, tâm dục là quân thứ nhất, cho đến tự cao khinh người là mười quân. Dùng giáo pháp làm dùi, dùng lý làm trống, dùng lời khuyên nói là đánh rền. “Lại thấy các Phật tử, không hề có ngũ nghỉ,v.v…”, đây nói về hạnh sáu độ vô phương, tức la các thứ tin hiểu. Nói chữ vô phương gồm có hai nghóa: Thích ứng cơ duyên trước sau không nhất định. Căn tánh chẳng phải một nên việc làm không như nhau. Nói sáu độ là gồm sáu hạnh, đây nói về hạnh tinh tấn, tinh tấn là gốc của các đức, Bồ-tát nghe việc này cho nên phát khởi thì gọi là hành. Luận Thành Thật chép: Thân tâm mờ tối nặng nề gọi là thùy, nhiếp tâm lìa giác gọi là miên. Luận Tỳ-đàm chép: có số Thùy miên riêng Mê đắm cảnh ở trước nên gọi là thùy, thân tâm mê muội duyên theo cảnh giới gọi là miên. Đại thừa cho rằng tất cả mê đắm hôn mê đều gọi là thùy miên, tâm Bồ-tát không đắm nhiễm thì gọi là không hề thùy miên, không động mà du hành gọi là kinh hành, niệm niệm thường tu tập vô sanh chánh quán gọi là Tinh tấn. Hỏi: Trên có nói về tinh tấn, so với ở đây có gì khác? Đáp: Trên là nói về siêng năng, nay là nói về dứt lỗi, trên nói về tónh tọa, nay nói về kinh hành. “Cũng tu đủ giới đức”, đây nói về giới hạnh, tinh tấn là siêng năng các hạnh, giới là nền tảng của muôn đức, trong đây ngăn ngừa phàm phu, Nhị thừa có sở đắc xấu ác nên gọi là giới, giữ giới trọng gọi là đầy đủ giới. Không phạm điều ganh ghét xứng hợp oai nghi không thiếu sót, đối với giới có ba loại: Thanh tịnh như châu báu. Tròn đầy không thiếu nên gọi châu báu. Giới đáng quý trọng nên như châu báu Hỏi:Trên đã nói về giới, so với đây có gì khác? Đáp: Trên đã nói về việc khó xả mà xả được nên xả bỏ nhà cửa, nay nói về việc khó giữ mà giữ được, oai nghi không thiếu sót. Lại nữa, xuất gia là bắt đầu, giữ giới là kết thúc. Lại nữa, trên nói riêng về vị vua chúa, nay nói chung tất cả. “Lại thấy các Phật tử, an trụ sức nhẫn nhục”: đây là nói về độ nhẫn nhục. Trong đây nói Bồ-tát nhẫn nhục, vì thấy có chúng sanh nên có thể chịu đựng được, vì biết chúng sanh rốt ráo không sanh gọi là vô sanh nhẫn, pháp nhẫn cũng vậy. Kinh A-hàm chép: Có sáu thứ lực: Trẻ con lấy khóc làm sức mạnh, khi muốn đòi hỏi việc gì trước là khóc. Người nữ dùng giận dỗi làm sức mạnh, khi muốn đòi hỏi việc gì trước là giận dỗi. Quốc vương lấy kiêu ngạo, giàu sang làm sức mạnh. La-hán lấy tinh tấn làm sức mạnh. Chư Phật lấy đại bi làm sức mạnh. Tỳ-kheo lấy nhẫn nhục làm sức mạnh. “Bị kẻ tăng thượng mạn, mắng chửi và đánh đập”, đây là thmầ phá Tiểu thừa, người Tiểu thửa chấp chặt tự cho mình đã rốt ráo, gọi là tăng thượng mạn, cây roi đánh ngựa gọi là quất, đánh. Hỏi: Trên đã nói về nhẫn, so với đây có gì khác? Đáp: Trên nói về ức chế tình thức bên trong gọi là an khổ nhẫn, nay nói không động bởi duyên bên ngoài gọi là tha không lợi ích nhẫn, trên chỉ nói Tỳ-kheo, nay nói chung cả đời và đạo, trên nói ở trong rừng suối, nay nói ở cả thành ấp. “Lại thấy “Bồ-tát, xa rời sự vui chơi,v. v…”, đây nói về hạnh thiền định. Xa rời sự vui chơi là tránh xa duyên tạp loạn. “Tránh quyến thuộc si mê”, bởi chúng sanh chưa thể độ được. Hai câu xa rời nầy là nói về thân xa rời, “nhất tâm trừ náo động” là nói về tâm xa rời. “Trải ngàn muôn ức năm, để cầu chứng Phật đạo”, đây là nói về ý tu tập thiền định. Kinh Tịnh Danh chép: Không ở nơi ba cõi mà hiện thân, ý, đó là Bồ-tát thiền, do thấu đạt thân tâm xưa nay là bốn bặt, không thấy thân ý, không bị thân ý làm loạn động. Khác với Thiền độ trên: Ở phần kệ trên nói tu thiền đắc quả, nay chỉ nói nhân hạnh tu tập vắng lặng, ở trên nói người lợi căn thấy rõ lý, nay nói hạng độn căn dựa vào thầy hướng dẫn. Hoặc thấy vị Bồ-tát, dâng thức ăn ngon quý, cùng trăm thứ thuốc men, lên cúng Phật và Tăng,v.v…”, đây là nói về độ bố thí. Kinh Niết-bàn chép: Nếu khởi tâm Nhị thừa không bố thí, đó là phá giới tà kiến. Nếu dùng tâm phàm phu thấy có người cho, vật cho và người nhận, cũng là phá giới, tà kiến. Nay hiểu rõ ba việc là tự nhiên mà thường vắng lặng, chính là siêu phàm nhập Thánh, là giữ giới, chánh kiến bố thí. Có năm phần riêng: Bố thí thức ăn và thuốc men. Bố thí y phục Bố thí giường ghế, mền nệm. Bố thí vườn rừng. Một bài kệ tổng kết ý bố thí Nói thức ăn ngon, dó là thịt xắt nhuyễn, kinh này chưa chế không được ăn thịt, nên nói Bồ-tát bố thí thịt. Từ phẩm Tứ Tướng trong kinh Niết-bàn trở đi là đã dứt ăn thịt, đến phẩm Đại Chúng Vấn có việc Thuần-đà đem các thức ăn ngon đến, vì Thuần-đà trở về nhà từ phẩm Ai Thán, nên đến phẩm Tứ Tướng không nghe chế giới. Phẩm Đại Chúng Vấn chép: Thức ăn không khác, đồng biến thành thức chay. “Y phục quý giá ngàn muôn”: ca sa của ngài Ca-diếp trị giá mười muôn lượng vàng, được dâng lên Phật. Kỳ Vức dâng Phật y nhuộm màu ngọc báu cũng giá trị mười muôn lượng vàng, Phật dạy ngài A-nan cắt rọc may thành ca sa khác với bố thí độ ở trên là: Trước nói bố thí cho bốn loài, nay nói cúng dường Ba Bảo nên có khác nhau, trên nói về nội thí ngoại thí, nay chỉ nói tài thí. “Lại thấy vị Bồ-tát, giảng nói pháp vắng lặng”, đây nói về Bát-nhã độ, gồm có ba hạng người: Ban đầu nói về pháp vắng lặng tức là diệu pháp nhất thừa trong kinh này, vì thế phẩm Phương Tiện chép: “Các pháp từ xưa nay, tướng thường tự vắng lặng”. Dùng đủ lời hướng dẫn, dạy vô số chúng sanh”, như Bồ-tát Đàm-vô- kiệt dùng sáu trăm muôn ức pháp môn để nói cho Thường Đề. Lại như ngài Tịnh Danh dùng ba cấp để nói về không hai: Các Bồ-tát dứt hết các hai mà nói không hai, chưa nói về không hai vô ngôn Ngài Văn-thù tuy nói không hai vô ngôn, mà còn nói ở không hai. Ngài Tịnh Danh nói không hai vô ngôn, mà có thể vô ngôn ở không hai. Cho nên chép: “dùng đủ lời hướng dẫn”. “Hoặc có vị Bồ-tát, quán sát các pháp tánh”, đây nói về hạnh quán pháp, do tánh của tất cả các pháp vốn chẳng có hai tướng, tức nói lên chỉ có Nhất thừa. “Lại thấy cácPhật tử, tâm chẳng hề chấp đắm”, đây là nói về hạnh không mê đắm. Trước nói hiển bày Nhất thừa, nay phá chấp Ba thừa, trước nói không hai, nay cũng chẳng chấp không hai. Kinh Hoa Nghiêm chép: Chẳng đắm chấp pháp không hai, do không có một và hai. Lại nữa, hợp ba hạng người thành hai, ban đầu nói người tu Bà-nhã, kế là nói người thực hành Bát-nhã. Nói Trung đạo không ngoài ba cấp, như nhập pháp môn không hai, thực hành Trung đạo không ngoài hai quán pháp: Quán không hai. Quán không mê đắm. Trên nói về bậc Thánh nói pháp, nay nói về bậc Thánh im lặng. Hỏi: Kinh nói về mười độ, so với sáu độ có khác nhau? Đáp: Trong kinh chia ra hai đoạn: Ba độ trước lấy phương tiện làm bạn. Ba độ trước làm bạn với ba độ sau, nguyện làm bạn với tinh tấn, lực làm bạn với thiền, trí làm bạn Tuệ. Gọi chung là Độ gồm có: Thời độ, nghóa là đủ ba A tăng kỳ kiếp. Quả độ, là đắc quả Bồ-đề. Thanh tịnh độ, là suy xét cùng tận thật tướng. Trong mỗi độ gồm có bốn trường hợp: Là thí chẳng phải trong hai tăng kỳ kiếp đầu thực hành bố thí. Là độ chẳng phải thí, tu tậ p các hạnh khác trong tăng kỳ kiếp thứ ba. Vừa độ vừa thí, trong tăng kỳ kiếp thứ ba thực hành bố thí. Chẳng phải thí chẳng phải độ, tu tập các hạnh khác trong hai tăng-kỳ kiếp đầu. “Thưa Bồ-tát Văn-thù, lại thấy vị Bồ-tát, sau khi Phật diệt độ, cúng dường Xá-lợi Phật”. Đây là phần kệ tụng nói về Bồ-tát xây tháp. Hỏi: Vì sao hai đoạn trước đều nói về Bồ-tát? Đáp: Muốn nói lên từ lúc nói kinh Pháp Hoa trở đi, đến Niết-bàn đều là nhiếp ngọn về gốc, không có khác nhau giữa năm thừa, nên đều là Bồ-tát. Hỏi: Vì sao trước nói Bồ-tát, nay nói Niết-bàn? Đáp: Gồm có ba nghóa: Muốn nói Bồ-tát thực hạnh nhân mà được quả niết bàn. Muốn nói lên Pháp Hoa là giáo pháp rốt ráo, nói pháp rốt ráo rồi liền nhập Niết-bàn. Nói Pháp Hoa rồi nhập Niết-bàn, khiến chúng sanh lúc ấy luyến tiếc, sau nghe pháp nhất thừa thì liền tin nhận. Hỏi: Vì sao có hai chương nói về Bồ-tát? Đáp: Ban đầu nói lúc Thế tôn còn tại thế tu hạnh Bồ-tát, nay nói sau khi Phật diệt độ tu hạnh Bồ-tát. Lược nên hai môn này để gồm nhiếp tất cả hạnh. Trong văn có bảy hàng kệ chia làm hai phần: 1.Một hàng nói về cúng dường Xá-lợi, như sau khi Đức Thích-ca nhập Niết- bàn. Từ rừng Sa-la đem Phật về chùa Thiên Quan an trí bảy ngày mà cúng dường toàn thân Phật, đợi sau bảy ngày ngài Ca-diếp về mới hỏa táng, cúng dường thân đã nát vụn chính là xây tháp cúng dường. Lại nữa, cúng dường Xá-lợi gồm có hai cách: Cúng dường trực kế không xây tháp, dùng hợp bằng bảy thứ báu đựng Xá-lợi như cúng dường thân Phật. Dựng tháp cúng dường. 1. Có sáu hàng kệ nói về xây tháp miếu. Hỏi: Người phàm phu ở thế gian cũng có xây tháp, có gì khác so với xây tháp ở đây? Đáp: Bồ-tát biết tháp là do nhân duyên tạo thành, tức là tánh vắng lặng, tuy có vận dụng mà thật không có làm, tức đầy đủ bốn trí, trong sáu hàng kệ lại chia làm hai phần: Bốn hàng kệ đầu là nói về xây tháp. Hai hàng kệ sau là giải thích nghi ngờ. Bốn hàng kệ đầu chia ra như sau: Hàng kệ đầu nói về xây tháp, hàng kệ thứ hai nói về chiều cao chiều rộng, hàng kệ thứ ba nói về trang hoàng tháp. Hàng kệ thứ tư nói về cúng dường tháp. Bồ-tát xây tháp gồm có hai nghóa: Cúng dường Xá-lợi. Lợi ích chúng sanh. Ba hàng kệ trên nói về cúng dường Xá-lợi, một hàng kệ sau nói về trời rồng cúng dường, tức lợi ích cho chúng sanh. Kế là giải thích nghi ngờ, trên nói tô điểm cõi nước, như vậy xây tháp chính là làm trang nghiêm cõi nước chẳng phải cúng dường pháp thân.? Vì thế nay nói vì tôn trọng pháp thân mà cúng dường Xá-lợi, cõi nước tự nhiên tốt đẹp trang nghiêm. Nói “Như cây Thiên thọ vương, bông hoa đang bừng nở”, đó là dùng thí dụ để giải thích sự tốt đẹp. Hoa nở vốn vì kết trái, mà cây tự nhiên trang nghiêm, xây tháp vốn là cúng dường thân Phật, mà cõi nước tự nhiên tốt đẹp. Lại nữa, giải Thích-cây nở hoa, là vô tâm khiến người ưa thích, nên người tự nhiên ưa thích; xây tháp là vô tâm trang nghiêm cõi nước, mà cõi nước tự nhiên trang nghiêm, cũng là dùng thí dụ đây để giải thích sự tốt đẹp trang nghiêm đã nói trên mà thôi. Cây thọ vương nở hoa là tốt đẹp đáng ưa thích, cõi nước có tháp cũng là tốt đẹp mầu nhiệm. “Phật phát ra ánh sáng sáng”, từ câu kệ này trở xuống là nói cầu xin giải đáp, văn gồm có hai phần: Thấy điềm lành sanh nghi nên xin giải đáp. Suy lường về điềm lành chưa rõ nên xin giải đáp. Sở dó có hai phần này là do trước nay thấy nghe mà không rõ nên xin giải đáp, trong tâm suy lường cũng chưa hiểu được nên lại xin nữa, vì thế chia làm hai phần thưa thỉnh. Ban đầu nói thấy nghe mà không rõ là bao gồm cả đại chúng, kế nói suy lường mà chưa hiểu là nói riêng ngài Di-lặc, do đại chúng chưa thể suy lường, còn ngài Di-lặc thấy tướng mà không rõ, chưa thể quyết định được nên xin giải đáp, vì có hai người nên chia thành hai lần thỉnh. Lại nữa, sở dó chia ra làm hai nghóa này, bởi lúc đầu từ phàm phu cho đến bậc Bổ xứ đều thấy điềm lành mà sanh nghi, lại suy lường mà chưa hiểu, nên biết điềm lành là phi thường biểu hiện pháp được nói phải là lớn, tất cả đều kinh hãi mà sanh ý tưởng khó gặp, khiến sau khi nghe pháp liền tin nhận. Trong văn lại chia làm ba ý: Ba bài kệ đầu nói việc nghi ngờ dẫn đến xin cầu. Một bài kệ kế nói ý đại chúng xin đáp. Một bài kệ sau là xin thúc dục đáp. Hai bài rưỡi kệ là nêu việc nghi ngờ, nửa bài kệ sau là xin đáp. Trên nói hiện ba điềm lành, nay chỉ nêu việc phát ra ánh sáng, là do trong ánh sáng hiện ra nhiều việc, ánh sáng cũng là gốc của các điềm lành. Hỏi: Vì sao nói ánh sáng hai lần? Đáp: Muốn nói lên ba điềm lành có chung và riêng, mưa hoa, đất rung chuyển chỉ hiện ở cõi này, điềm lành phát ra ánh sáng là bao gồm cõi này và cõi khác. Hỏi: Mưa hoa, đất rung chuyển hiện vang cõi này có ý nghóa khác nhau không? Đáp: Nói theo văn, mưa hoa chỉ có ở hội nầy, nên nói rằng: “Rải trên Phật và đại chúng” Đất rung chuyển thì nói rằng: “Thế giới này sáu lần rung chuyển”, ánh sáng chiếu cả cõi này cõi kia, như vậy thì điềm lành mưa hoa là giới hạn nhỏ nhất, kế đến là đất rung chuyển, sau là ánh sáng chiếu khắp. Hỏi: Vì sao có ba cấp bậc này? Đáp: Nay nói Pháp Hoa chính là khiến bốn chúng trong hội nầy ngộ đạo, nên mưa hoa chỉ rơi một chỗ, cũng khiến cho trời, người trong sáu đường ở cõi Ta-bà do đức Thích-ca đứng đầu đều ngộ đạo, nên một thế giới mà sáu lần đất rung chuyển, đem kia hiển đây nên có ánh sáng chiếu cõi khác. Hỏi: Vì sao đoạn văn này chỉ khen ngợi ánh sáng? Đáp: Gồm có hai nghóa: Muốn khen ngợi thần thông ít có của Phật, tức khen ngợi Phật thừa khiến người bốn thừa vui thích kính mến. Muốn biểu hiện nói Nhất thừa nên khen ngợi một điềm lành ánh sáng. “Bốn chúng đều mong đợi”: đây là nói ý đại chúng muốn cầu giải đáp. “Nhìn ngài và nhìn tôi, tôi hỏi xin Ngài đáp, giải nghi cho chúng mừng, Phật phát ra ánh sáng như thế, được những lợi ích gì”: đây là nghi vì sao phát ra ánh sáng này, hỏi ánh sáng mở rộng những gì? “Bồ-tát kịp thời đáp”, đây là xin làm lợi ích, do nghi là giải thích liền được lợi ích nên xin cầu Bồ-tát kịp thời đáp. “Khi Phật ngồi đạo tràng, chứng pháp được sâu mầu”, đây là ngài Di-lặc suy nghó về điềm lành. Nếu ngài Di-lặc không biết, thì cũng như người Nhị thừa phàm phu và các Bồ-tát ỡ địa vị thấp đâu có gì khác. Nhưng ngài đã là địa vị Bổ xứ, suy nghó biết Phật nói pháp lớn, nhưng chưa biết nói pháp gì nên cầu giải đáp mà thôi, văn nầy có ba ý: Suy lường điềm lành biểu hiện sắp nói pháp lớn. Suy lường biểu hiện điềm lành chẳng phải uyên nhỏ. Chưa dám quả quyết nên lại xin giải đáp nữa. Phật ngồi đạo tràng chứng pháp sâu mầu là quả Nhất thừa, sắp thọ ký là nói nhân của Nhất thừa. Lại nữa, Phật ngồi đạo tràng là nói lên Nhất thừa, sắp thọ ký là phá ba thừa. Hỏi: Ngài Di-lặc suy lường có đúng với tướng hiện điềm lành hay không? Đáp: Đúng là phù hợp, phát ra ánh sáng là biểu hiện nói quả đại tuệ bình đẳng, vì thế nói Phật ngồi đạo tràng chứng pháp sâu mầu. Mưa hoa, đất rung chuyển là biểu hiện chúng nghe pháp được thành Phật, vì thế nói thọ ký. Thọ ký ba hạng căn cơ, trong ba châu phẩm Pháp Sư nói thọ ký chung cho tất cả phàm phu, nhưng phát ra ánh sáng là biểu hiện chứng quả pháp ở đạo tràng, vậy ngài Quang Trạch không nên nói phần đầu kinh là nói về nhân, sẽ mất đi ý điềm lành phát ra ánh sáng. Trong phần biểu hiện điềm lành, ban đầu hiện y báo của Phật, sau hiện chánh báo, tức là thấy Chư Phật. Điềm lành biểu hiện là nói cả y báo chánh báo của Phật, tức biểu hiện chính là nói quả Phật, chẳng phải nói về nhân, cho nên chỗ biểu hiện bao gồm cả nhân quả, có thể biểu hiện y báo chánh báo. Trong ba câu kết thúc lời xin có lặp lại ý đại chúng, một câu nói về tông chỉ của điềm lành. Ngài Quang Trạch chép: Ngài Văn-thù có bốn thứ điều phục khó để ngăn lời xin, ngài Di-lặc giải thích bốn điều khó để trình bày sự nghi ngờ. Nay cho rằng bốn điều phục khó này là ý cạn mà văn quanh co, phải nên bỏ đi. Ngài Di-lặc đạo thấp mà còn thấy rõ đại chúng nghi ngờ, huống chi là ngài Văn-thù đức cao đâu thể nói không thấu đạt! Ngài Di-lặc tự nghi ngờ và thêm đại chúng nghi chính là hợp lý, đâu có gì khó thông. Nếu văn này là giải thích điều khó, thì phần sau ngài Xá-lợi-phất xin rằng: “Thời là như thật nói”, cũng phải là giải thích điều khó. Đoạn sau không đúng, thì nay đâu phải giải thích điều khó. “Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù Sư Lợi nói với ngài Di-lặc cùng các vị đại só rằng,v.v…”, đây là ngài Văn-thù giải đáp, tức phần thứ sáu “giải đáp tựa”. Trước nói dùng cõi kia nói lên cõi này, nay ngài Văn-thù đem việc xưa để làm chứng việc ngày nay. Đem cõi kia hiển bày việc cõi này, tức là đức Thích-ca phát ra ánh sáng, ngài Di-lặc nói kệ, đem bảy việc ở phương khác mà nói lên cõi này nên nói pháp Nhất thừa. Ngài Văn-thù đem việc xưa để làm chứng việc ngày nay, tức là nói Phật xưa nói trước, đức Thích-ca thuận theo nói sau. Hỏi: Vì sao đem cõi kia hiển bày cõi này, đem việc xưa làm chứng việc nay? Đáp: Đem kia hiển địa, là muốn nói lên Chư Phật mười phương có đạo giống nhau: dẫn việc xưa làm chứng việc nay, là nói Phật pháp ba đời chẳng khác nhau. Sở dó nói như vậy, là do tâm Tiểu thừa khó bỏ mà Đại pháp khó tin. Hỏi: Vì sao đức Thích-ca phát ra ánh sáng mà ngài Di-lặc nghi ngờ, ngài Văn-thù giải đáp? Đáp: Đức Thích-ca hiện điềm lành nghóa là Phật hiện tại, ngài Di- lặc nghi ngờ tức là Phật vị lai, ngài Văn-thù giải đáp là Phật quá khứ, ba vị Thánh đồng hội Linh Sơn, cùng khai phát đạo Nhất thừa. Ba vị Phật nói có thứ lớp, Phật hiện tại hiện điềm lành là nói lên nói quả thừa rốt ráo, Di-lặc là người ở địa vị nhân tương lai còn chưa thấu đạt quả thừa, cho nên Phật đương lai phải nghi ngờ, cầu Phật xưa thông đạt việc xưa, tức Phật quá khứ giải thích điều nghi. Tuy có ba vị Phật nhưng chỉ có hai việc, Phật hiện tại hiện điềm lành là thần thông luân, ngài Di-lặc hỏi, ngài Văn-thù đáp là nói pháp luận, tức là dùng tay áo, bàn ghế cứu con ra khỏi nhà lửa. Lại nữa, ban đầu là Phật phương tiện, chính là muốn nói giáo, hai Phật sau là Bồ-tát phương tiện, phát khởi giáo pháp. Lại nữa, đức Thích-ca là Hòa thượng, Văn-thù là A-xà-lê, Di-lặc là Giáo thọ sư, ba vị này là Bồ-tát Giới sư của chúng sanh trong hai đời, cùng mở rộng đạo Nhất thừa để lợi ích chúng sanh. Lại nữa, ba vị này thời quá khứ đã cùng học kinh Pháp Hoa với Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, nay muốn báo ân Đức Phật nên cùng khai pháp Nhất thừa. Văn chia làm hai phần, ban đầu là chánh đáp, sau có hai phần kệ là khai phát tâm sanh và sau Phật tự nói tức từ câu: Các người nay sẽ biết” trở xuống phần đầu chánh đáp cũng có hai phần là văn xuôi và kệ tụng, văn xuôi gồm có bốn phần: Đáp môn khiêm nhường. Dẫn việc để lược đáp. Rộng dẫn việc xưa làm chứng việc nay. Kết thúc lời đáp rõ ràng. Bốn lời đáp này là từ ẩn đến rõ, lần lượt giải thích. Ngài Di-lặc đạo đã cao mà còn suy tôn ngài Văn-thù, nên ngài Văn-thù phải khiêm nhường. Tuy ngài Văn-thù nói tự mình suy lường mà biết nhưng chưa có việc để làm chứng, vì thế dẫn việc quá khứ để trả lời. Nhưng dẫn chung việc quá khứ chưa biết là vị Phật nào, nên dẫn riêng Phật Đăng Minh. Dẫn việc xưa để làm chứng việc nay, nay cần gì phải giống xưa, vì thế phần thứ tư có kết thúc lời đáp rõ ràng. Nói đáp môn khiêm nhường, bởi ngài Văn-thù tích ở địa vị tu nhân, trí vẫn chưa mãn,, mà nay muốn dùng thấp để suy lường cao, nên phải khiêm nhường. Lại nữa, ngài Di tặc hoài nghi, ngài Văn-thù suy lường, tức biết việc sắp biểu hiện là lớn, tăng thêm tâm cung kính của đại chúng. Lại nữa, pháp của bậc đại nhân chỉ bày không có tự cao, kiêu căng ngạo mạn nên tuy hiểu mà khiêm nhường. “Ngài Văn-thù Sư Lợi”: là nêu người chủ năng đáp “nói với ngài Di-lặc”: là người đối chất nghi vấn. “Cùng các vị đại só”, là tám muôn Bồ-tát từ ngài Di-lặc trở xuống. “Các người thiện nam”, là bốn chúng Thanh văn, Trời rồng tám bộ chúng. “Như nay ta xét nghó”: là nói lời khiêm nhường, chữ tư là suy nghó, chữ thốn là tìm cầu. “Nay đức Thế tôn,v.v…”, là việc suy lường phát xuất ra, sách xưa chép: Trong năm câu dưới đây thì hai câu trước và sau đều là nói một pháp, ba câu giữa là ví dụ, năm câu gồm có: “Muốn nói pháp lớn”, đây là đoạn đầu kinh bỏ Ba thừa bày Nhất thừa. “Nói nghóa pháp lớn”, là đoạn sau kinh bỏ gần bày xa. Lại nữa, đoạn đầu lược bỏ ba bày một, đoạn sau lược bỏ gần bày xa. Nói nghóa pháp lớn, là ban đầu rộng bỏ ba bày một, về sau rộng bỏ gần bày xa. “Tuôn mưa pháp lớn”: đây là nằm trong ba câu thí dụ, bao gồm hai nghóa sau: Thổi loa pháp lớn, thổi loa là để dổi đanh hiệu, tức dụ cho dổi danh hiệu ba thừa. Đánh trống pháp lớn, đánh trống là dạy binh lính ngay ngắn, ví dụ cho lý thật tướng để bỏ danh hiệu ba thừa, tức mở bày pháp môn phương tiện. Nói lý thật tướng tức nói lên nghóa chân thật, đoạn sau là bỏ danh hiệu gần để bày lý xa. Nói tuôn mưa pháp lớn là thấm ướt cây khô Nhị thừa, để sanh trưởng hiểu biết về Nhất thừa, chung cho cả hai đoạn trên. Nay y theo văn kinh hợp năm câu này chia ba loại: Nói về thể của Đại pháp tức câu đầu. Nói về dụng của Đại pháp tức là ba câu giữa Câu sau nói về nghóa của Đại pháp. Chỉ nói ba nghóa này, bởi muốn nói thì phải đủ ba thứ: Giáo thể Giáo dung Giáo tiểu biểu lý Vì thế chỉ nói ba việc. Thể của Đại pháp, nghóa là Phật muốn nói thừa phương tiện, thừa chân thật, thân phương tiện và thân chân thật. Mưa tuôn pháp lớn là nói về dụng của Đại pháp. Trong ba thí dụ trên gồm có bốn dụng, thí dụ mưa là có hai dụng năng sanh và năng diệt. Thí dụ thổi loa và đánh trống là có hai dụng xa đều nghe và vui mừng. Nói mưa lớn, giáo pháp Tiểu thừa chưa viên, chẳng phải lý rốt ráo, do gieo trồng chờ đợi thấm nhuần thường khổ, chẳng đủ. Giáo pháp Đại thừa chẳng gì không viên, lý chẳng gì không cùng cực, do mưa thường giáng xuống không đâu chẳng thấm nhuần, đều được như nguyện, đây đối việc nhỏ để nói việc lớn, vì thế nói tuôn mưa pháp lớn. Mưa có hai nghóa là năng diệt và năng sanh. Năng sanh nghóa là lúc mưa chưa rưới xuống đất, tuy có hạt giống mà không nẩy mầm được, mầm đã nẩy rồi không thêm lớn, chẳng những không lớn mà còn khô héo. Mưa pháp đã ướt khiến người chưa phát tâm lớn liền phát tâm, tức bỏ Tiểu thừa vào Đại thừa; người đã phát tâm liền được thêm lớn, tức người thẳng đi. Người đã thêm lớn liền được thành tựu, tám đời, một đời sẽ đắc quả. Phật. Người đáng lui sụt mà không đọa lạc tức là Bồ-tát đã dứt hết lưới nghi Năng diệt là mưa lớn diệt trừ được bốn thứ: Lấp bụi đất Diệt các dốc Xua tan khí nóng Ngăn gió xấu Mưa pháp cũng vậy: Diệt được bụi đất là ác giác quán của Nhị thừa, phàm phu. Diệt được các độc là ái kiến của Nhị thừa, phàm phu Xua tan khí nóng là thầy tà của Nhị thừa, phàm phu Ngăn gió xấu là tà giáo của Nhị thừa, phàm phu. Thổi loa pháp lớn, đánh trống pháp lớn, trên khen ngợi pháp lớn có dụng năng sanh năng diệt, nay khen ngợi pháp lớn có công năng vang xa, thích ứng căn cơ. Nước ngoài dùng loa và trống làm niềm vui cho thế gian có hai nghóa: Vui thích, có hai nghóa. Thỏa thích tâm Phật trong mười phương, như nay ta vui vẻ không sợ sệt. Hợp ý căn tánh, như ba hạng Thanh văn và Di-lặc cùng mười hai hạng người được lợi ích vui vẻ. Loa và trống vang xa, nói lên pháp lớn có công năng trùm khắp, như có ba hội. Ban đầu khiến hội Linh Sơn nghe pháp, kế đến là hội Tịnh độ, sau cùng thông đạt mười phương vô ngại nên mười phương được nghe, cho đến đời vị lai cũng được nghe. “Diễn ý nghóa pháp lớn”, đây là nói về diễn ý nghóa pháp lớn. Hỏi: Trước đã nói về pháp lớn, so với nay có gì khác nhau? Đáp: Trước nói về giáo pháp, nay nói về lý pháp, giáo pháp chỉ gọi là pháp, giáo biểu hiện lý gọi là nghóa. Hỏi: Làm sao biết như vậy? Đáp: Nếu pháp vô ngại thì nghóa vô ngại, tức là nói về giáo lý. Lại như kinh Niết-bàn giải thích bảy điều thiện, người biết pháp tức biết mười hai bộ kinh, người biết nghóa thì biết nghóa của mười hai bộ kinh biểu hiện. Hỏi: Thế nào gọi là Pháp, thế nào gọi là Nghóa? Đáp: Giáo pháp Đại thừa có thể giải thích hai phương tiện, hai chân thật thì gọi là Giáo. Lý để giải thích lý sâu nói hai phương tiện, hai chân thật gọi là Nghóa. Lại, hai phương tiện hai chân thật đều là giáo, chẳng phương tiện, chẳng chân thật, chẳng phải một, chẳng phải hai, đạo mầu nhiệm sâu xa vắng lặng, gọi là Nghóa. Bởi đây là tông chỉ lớn của kinh, nên đoạn văn sau chép: Rốt ráo Niết-bàn tướng thường vắng lặng, hoàn toàn quy về không, không khác với kinh Đại Niết-bàn, nên biết Pháp Hoa là giáo pháp rốt ráo. “Các người Thiện nam”, đây là nêu việc lược đáp. Lúc ấy đại chúng nghi rằng: Vì sao ngài Văn-thù biết Phật muốn nói pháp lớn? Vì thế nay giải thích rằng: Vào thuở quá khứ tôi từng thấy việc này, nên biết Phật muốn nói pháp lớn. Bởi sợ đại chúng không tin nên chỉ ra việc quá khứ để trả lời, cũng còn là lời giải thích khiêm nhường, ngài Văn-thù tuy thông đạt, nhưng không nói sở hiểu biết của mình, mà chỉ suy lường việc xưa để trả lời, tức là giải thích khiêm nhường. Lại nữa, trước dùng trí hiện tại biết Phật sẽ nói pháp, nay dùng túc mạng trí mà biết Phật sẽ nói pháp, văn chia hai phần: Dẫn việc xưa làm chứng việc nay Nói việc nay so sánh với việc xưa. Cho nên đoạn văn sau là dẫn việc nay so sánh với việc xưa. “Ai cũng đều nghe biết”, nghe là nghe giáo pháp, biết là biết lý. Nói về pháp khó tin, nếu nói chỉ cúi đầu, giơ tay đều thành Phật, thì có gì mà khó tin? Dù cho bậc La-hán thành Phật và chẳng phải khó tin, nay nói tất cả thế gian tâm hạnh có sở đắc, khi nghe không có sở đắc thì trái với tâm mình , vì thế sợ rằng khó tin. Nói không có sở đắc là không hề có một, vì sao lại chấp ba, do tâm không nhiễm ba, một, nên gọi là khó tin. Lại, giảng Pháp Hoa, người nghe không hề có ba thừa, Nhất thừa, liền cho là chân-đế chẳng phải Nhất thừa, nói Nhất thừa liền cho là muôn điều thiện, cho nên khởi hai kiếp chấp có, không, gọi là có sở đắc, nếu có thể xa lìa kiến chấp này thì gọi là không có sở đắc, tức tin hiểu Nhất thừa. Từ câu: “Các người thiện nam” trở xuống là rộng dẫn việc quá khứ để giải thích đáp. Giải thích đáp: Ở trên tụng đã dẫn quá khứ mà chưa biết là vị Phật nào, nên nay riêng dẫn việc ấy. Trên là nêu chung làm chương môn, nay rộng dẫn việc xưa là giải thích chương, văn có hai phần: Nói những việc quá khứ trước khi Phật nói Pháp Hoa. Nói những việc ngay sau khi nói Pháp Hoa xong. Sở dó chia làm hai việc này, do ở trên nói về Chư Phật ở phương Đông thì ngài Di-lặc chia làm hai việc, nay ngài Văn-thù dẫn việc Phật quá khứ thì cũng chia ra hai việc, muốn nói lên đức Thích-ca cũng có hai việc ấy. Trong hai chương này mỗi chương lại chia làm hai. Nói vị Phật đầu tiên Nói về tất cả Phật. Phần đầu lại có ba ý: Thời gian. Bậc hóa chủ Giáo môn Luận Trì Địa nói về kiếp có hai loại: Năm tháng không thể kể gọi là Tiểu A tăng kỳ kiếp, Bồ-tát có thể vượt qua. Đại kiếp không thể đếm kể gọi là Đại A tăng kỳ kiếp, Bồ-tát không thể vượt qua. Hỏi: Vì sao không dẫn việc gần mà nói việc ở kiếp lâu xa? Đáp: Muốn nói lên Nhất thừa là pháp xưa, khiến chúng sanh tin hiểu. Lại nữa, thuở lâu xa ấy ba vị Thích-ca, Văn-thù và Di-lặc cùng ở trong hội dó, các thời gian khác không hẳn ở chung. “Đức Phật ấy hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, đây là nói về bậc hóa chủ, văn chia ra hai phần: Nói danh hiệu riêng. Nói danh hiệu chung - Danh hiệu riêng: là nói sự tu hành khác nhau của Chư Phật ứng tích có hơn kém danh hiệu chung là nói lên pháp thân Chư Phật vốn ngang với đức hạnh của Chư Phật. Hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, Chú thích kinh rằng: Bậc Thánh không có danh hiệu mượn nghóa để xưng gọi, người nhân thì gọi là nhân, người trí thì gọi là trí. Bậc hượng căn do sở đắc sáng như mặt trời, người trung căn do sở đắc sáng như mặt trăng, người hạ căn do sở đắc sáng như ánh đèn, cả ba căn giúp nhau sở đắc được sáng nên gọi là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Có người chép: Mặt trời dương mà động dụ cho tuệ phương tiện, mặt trăng âm mà lặng dụ cho tuệ chân thật, cả hai tuệ làm lợi ích chúng sanh như đèn sáng ở thế gian. sáng. Lại nữa, mặt trời mặt trăng dụ cho định tuệ, lấy định tuệ làm đèn Có người chép: Đức Phật này ra đời thân sáng như mặt trời mặt trăng, thường chiếu ở thế gian, làm đèn sáng cho thế gian. - Nói về mười hiệu của Phật: các kinh nói không giống nhau. Chung thì gọi là hiệu, hiệu là hiệu lệnh, nói lên sự lợi tha, riêng thì gọi là danh, danh là có tự thể nhất định, tức là lợi mình. Lại nữa, chung và riêng đều gọi là hiệu, đều gọi là danh, nên nói hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, tên là Như lai Ứng Cúng. Hỏi: Hiệu thì lấy gì làm thể? Đáp: Hiệu là danh tự, theo luận Thành Thật thì danh hiệu là âm thanh nhiếp nhập pháp tánh. Theo luận Tỳ-đàm thì có riêng phi sắc phi tâm danh tự cú, hòa hợp với thanh nên có danh hiệu. Hoặc mười loại này là vì người mà lập hiệu, tức lấy người làm thể, nếu y theođức cùng tột để lập mười hiệu, thì phước tuệ làm thể. Hỏi: Vì sao nói mười? Đáp: Kinh luận nói không đồng nhau, kinh Anh Lạc chép: Từ hiệu thứ nhất là Như lai, đến hiệu thứ mười là Phật Thế tôn. Phật Thế tôn hợp chung thành một hiệu. Luận Trí Độ chép: Hiệu thứ mười là Phật. Thế tôn là hiệu chung nằm ngoài mười hiệu. Luận Thành Thật chép: Đầy đủ chín hiệu trên thì gọi là Thế tôn. “Giảng nói chánh pháp”, đây là nói về giáo môn, văn chia làm hai phần, gồm giáo Nhất thừa và giáo Ba thừa. Như trên dùng cõi kia bày cõi này, trước khi nói Pháp Hoa có hai giáo môn; nay dẫn việc xưa làm chứng việc nay, trước khi nói Pháp Hoa có hai giáo. Hỏi: Vì sao Chư Phật ba đời khi sắp nói Pháp Hoa lại nói về hai giáo môn? Đáp: Pháp Hoa đã gom ba thừa về một, thì trước phải nói do một nói thành ba. Như Chư Phật ba đời muốn nói Pháp Hoa thì trước phải nói kinh Vô Lượng Nghóa, nhập định Vô Lượng Nghóa là muốn nói lên nghóa xuất, nhập lập ra giáo pháp thỉ chung. Giảng nói chánh pháp, diễn pháp Nhất thừa gọi là chánh pháp, ngài Di-lặc kể về Phật pháp ở phương Đông đã nói rộng, nay chỉ lược nói pháp. Kế là nói về bảy điều thiện, do đủ bảy điều thiện nên gọi là chánh pháp, vì thế nêu bảy điều thiện để giải thích chánh pháp. Bảy điều thiện là bao gồm cả Đại thừa, Tiểu thừa để khen ngợi pháp luân căn bản. Thứ lớp bảy điều thiện khác nhau, có chỗ chép: Hợp sơ thiện khai hậu thiện nên gọi là bảy: Ban đầu Chặng giữa Rốt sau Hợp cả ba gọi chung là thời thiện, hai là nghóa thiện, ba là lời thiện, bốn là thuần một không xen lẫn, năm là đầy đủ, sáu là thanh tịnh mềm mại, bảy là tướng phạm hạnh, đây là ý của luận Thành Thật. Có người chép: Khai sơ thiện hợp hậu thiện, ba chặng là ba đời thiện, bốn là nghóa thiện, năm là lời thiện, sáu là thuần một không xen lẫn, bảy là đầy đủ, tướng phạm hạnh thanh bạch thuộc vào thuần một không xen lẫn, đây là ý của luận Trí Độ và Chú giải kinh. Phẩm Ba Thiện trong luận Thành Thật nói về ba thời thiện rằng: Lúc tuổi trẻ nói pháp là sơ thiện, tuổi trung niên nói pháp là trung thiện, lúc tuổi già nói pháp là hậu thiện. Lại nữa, ban đầu xả tội, chặng giữa xả phước, chặng sau xả tất cả. Luận Trí Độ chép: Khen ngợi bố thí độ là sơ thiện, khen ngợi Giới là trung thiện, hai Ba-la-mật này có được quả báo hoặc sanh vào thời Chư Phật và làm trời, người gọi là hậu thiện. Lại nói Thanh văn là sơ thiện, Duyên giác là trung thiện, Bồ-tát là hậu thiện. Theo Kinh nói Thanh Văn và Bồ-tát đều có ba điều thiện. Ba điều thiện của Thanh văn là: Sơ thiện tức nghe pháp từ người khác, trung thiện như nói tu hành, hậu thiện là đắc chánh kiến của bậc Thánh. Lại nữa, sơ thiện là Kiến khổ mà dứt tập, trung thiện là tu đạo, hậu thiện là chứng diệt đế. Ba điều thiện của Bồ-tát là: Sơ thiện tức phát tâm Bồ-đề, trung thiện là không nhớ nghó Nhị thừa, hậu thiện là hồi hướng nhất thiết trí. Lại nữa, sơ thiện là thực hành sáu độ, trung thiện là phá trừ sáu tế vững chắc, hậu thiện là hồi hướng Nhất thiết trí. Theo văn giải thích, thì trong một bộ pháp luân căn bản có ba phần tựa, chánh kinh truyền bá, làm ba điều thiện, bởi một bộ Đại thừa đều đủ ba phần này. Nếu so với giáo thỉ chung thì sơ thiện là căn bản pháp luận, trung thiện là pháp luân ngọn ngành, hậu thiện là thu nhiếp ngọn ngành trở về pháp luân căn bản. “Ý nghóa sâu xa, lời lẽ khéo mầu”: tự có lời lẽ tuy khéo mầu mà ý nghóa cạn cợt, tự có ý nghóa tuy sâu xa mà lời lẽ thô thiển, tự có cả hai, tự không có cả hai. Phật pháp cao mà không thấy đáy nghóa là bặt bốn câu gọi là sâu, ngang thì không thấy bờ mé, nghóa là vượt trăm phi gọi là xa. Lại nữa, tâm hành diệt nên gọi là sâu, ngôn ngữ dứt gọi là xa, chính là ý nghóa pháp luân căn bản như thế. Chú thích rằng: Thăm dò không thể hết gọi là sâu, xa vời không thể kịp gọi là xa. Lời lẽ khéo mầu, nói mà thích hợp căn cơ gọi là khéo, lời có thể nói lên lý gọi là diệu. Chú thích chép: Vuông tròn không sai gọi là khéo, tìm cầu không thể thấy gọi là diệu. Thuần một không xen lẫn tức pháp luân căn bản, là thuần một đạo thanh tịnh, không xen lẫn nói pháp của năm thừa. Luận Trí Độ chép: Lìa ba độc nhơ uế gọi là thuần nhất, chỉ nói chánh pháp không lẫn lộn phi pháp gọi là không xen lẫn, cũng là thanh tịnh. Luận Thành Thật chép: Pháp này gọi là Độc pháp, Phật có pháp này. Lại nữa, độc hành là sự đắc đạo trong Phật giáo mà thôi. Đầy đủ thiện là giáo lý tròn đầy của pháp luân căn bản, nói chung là Phật pháp không có ngắn ngủi thiếu hụt. Luận Trí Độ chép: Bát Thánh đạo và sáu Ba-la-mật đủ thì gọi là đầy đủ thiện. Thanh bạch tức là: trên nói về thuần một chánh pháp không lẫn phi pháp, tức là nói về thể của giáo. Nay nói giáo pháp pháp luân căn bản có thể khiến xa lìa phiền não cấu uế của Nhị thừa phàm phu nên gọi là thanh tịnh, tức là dụng của giáo. Tướng phạm hạnh thanh bạch, phạm là Niết-bàn, tức pháp luân căn bản đại Niết-bàn, hạnh là muôn hạnh tức đến đại Niết-bàn. Nếu theo Tiểu thừa thì gọi là Tiểu niết bàn, hạnh là tám chánh đạo, tu tám chánh đạo sẽ đến Niết-bàn, mà tám chánh đạo đây là tướng của nhà Niết-bàn, nên nói rằng: tướng phạm hạnh. Lại nữa, phạm gọi là Niết- bàn thực hành hạnh Niết-bàn là phạm hạnh, nghóa của hạnh rõ ràng thì gọi là tướng, giáo pháp là duyên của các hạnh, trong duyên nói quả nên nói là tướng phạm hạnh. Lại nữa, giáo pháp họ Thích có công năng giải thích phạm hạnh là tướng của nhà phạm hạnh. “Phật vì Thanh văn mà nói pháp Tứ Đế”, đây là nói về giáo pháp ba thừa, Phật xưa cũng có người không thể lãnh thọ pháp Nhất thừa, nên đối với Nhất thừa mà nói ba thừa. Theo tông chỉ của luận Tỳ-đàm thì thực hành hạnh Ba thừa, có khác nhau, mà cùng thấy Tứ đế để thành quả Ba thừa. Theo tông chỉ của luận Thành Thật thì hạng Ba thừa đồng thấy Diệt đế mà thành quả Ba thừa. Nói Duyên giác quát sát nhân duyên, đây là do thời gian tu quán mà ngộ đạo, làm duyên xa mà thôi. Y theo Đại thừa thì cả ba thừa đồng quán thật tướng. Vì thế luận Chánh Quán có chép: Người đắc pháp thật tướng có ba hạng, vì căn tánh có lợi độn, thấy Không có sâu cạn nên chia làm ba hạng. Nay văn kinh chép: Thích ứng mà nói pháp Tứ Đế, căn cơ tương xứng với giáo pháp nên mới gọi là thích ứng. Từ câu: “Kế lại có Đức Phật” trở đi là nói về tất cả Phật. Hỏi: Vì sao nói có hai muôn Đức Phật? Đáp: Muốn dẫn nhiều vị Phật đời quá khứ để làm dẫn chứng, khiến đại chúng nghe pháp Nhất thừa liền tin nhận. Trong văn có bốn câu hợp thành hai cặp, ban đầu gọi là đạo và họ tục giống nhau, Nhật Nguyệt Đăng Minh là tên đạo, họ Phả-la-đọa là họ của thế gian. Ba Tạng Chân-đế chép: Phả La đọa dịch là tiên nhân lợi căn, là một dòng họ trong sáu dòng Bà-la-môn. Lại dịch là Biện Tài, lại dịch là Mãn, Mãn chánh. Tôi đích thân nghe vị tăng người Thiên-trúc gọi là Nhó Mãn. Từ câu: “Ngài Di-lặc nên biết v.v…” trở đi là nói Phật có mười tôn hiệu và bảy pháp thiện. Các Đức Phật đều có mười hiệu và bảy pháp như nhau, tên đạo, họ thế gian và mười hiệu, ba câu này là nói người giống nhau, bảy pháp thiện là pháp giống nhau. Sở dó nói các việc giống nhau, là đạo đồng một thể, dẫn việc xưa so sánh việc nay là muốn nói nay Phật muốn nói pháp Nhất thừa. Từ câu: “Đức Phật rốt sau” trở đi là nói từ việc nói kinh Pháp Hoa trở đi, văn chia hai phần: Việc nói Pháp Hoa Việc Phật Niết-bàn Việc nói Pháp Hoa có hai phần là phần tựa và chánh kinh. Phần tựa lại chia làm sáu, đó là chúng nhóm họp, nói phần tựa kinh, nhập định, hiện điềm lành, nghi vấn và giải đáp. Hỏi: Các đức quá khứ đều nói Pháp Hoa, vì sao lại dẫn riêng Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh sau cùng? Đáp: Ở đây có hai nghóa: Đức Thích-ca, Văn-thù và Di-lặc, ba vị Thánh này thuở ấy đều ngồi dưới đạo tràng Phật Đăng Minh, ba vị Thánh cùng nghe kinh, nay muốn ngài Di-lặc tự chứng nghiệm nên dẫn Phật Đăng Minh, các đức Phật quá khứ khác không có ba vị cùng ngồi nên không dẫn. Trong tám vương tử của Phật Đăng Minh thì người thứ tám là Phật Nhiên Đăng cũng ngồi trong đạo tràng của Phật Đăng Minh, mà đức Thích-ca được Phật Nhiên Đăng thọ ký, đây là lấy gần mà che xa. Nay muốn bỏ gần bày xa nên phải dẫn việc Phật Nhiên Đăng. Nếu dẫn các vị Phật khác thì không có người con thứ tám là Phật Nhiên Đăng ngồi trong đạo tràng, vì thế không dẫn. Hỏi: Vì sao ban đầu lại dẫn việc tám người con? Đáp: Tám người con ấy là nhân duyên của kinh Pháp Hoa, như mười sáu vị vương tử của Phật Đại Thông Trí Thắng xin nói kinh Pháp Hoa. Văn có hai phần: Nêu tên tám vị vương tử Khen ngợi đức hạnh của họ Trước khen ngợi đức hạnh việc trị hóa thế tục, sau khen ngợi đức hạnh xuất gia của họ. Theo cha xuất gia là nói thân lìa, phát tâm Đại thừa là nói tâm lìa. Ban đầu là nói tâm Bồ-đề tức theo cha xuất gia, thường tu phạm hạnh tức thực hành đạo Bồ-tát. “Đã từng ở chỗ nghìn muôn Đức Phật”, đây là khen ngợi nhân đời trước của họ. “Lúc bấy giờ Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh” đây là phần nói tựa kinh. “Phật nói kinh này rồi” là phần tựa nhập định. “Bấy giờ, trời rải các thứ hoa như mưa”, là phần tựa hiện điềm lành, phần này chia ra bốn phần: Trời mưa hoa, đất rung chuyển Thấy điềm lành Điềm lành phát ra ánh sáng như nay đang thấy. Là cõi Chư Phật,v.v… đây là nói thấy điềm lành phát ra ánh sáng, lẽ ra cũng nêu. Cũng có đủ bảy việc như trước đã nói. “Ngài Di- lặc nên biết”, đây thuộc phần tựa nghi vấn. “Bấy giờ có Bồ-tát tên là Diệu Quang”, đây là tựa giải đáp lời hỏi. Có người chép: Phật Đăng Minh là nhân ngài Diệu Quang mà nói Pháp Hoa, Phật Thích-ca là nhân ngài Dược vương mà nói Pháp Hoa. Nay cho rằng không đúng. Phật Đăng Minh là do ngài Diệu Quang nói nhưng Phật Thích-ca thì do ngài Văn-thù mà nói, do ngài Văn-thù dẫn việc xưa làm chứng việc nay để giải thích nghi ngờ cho đại chúng lúc ấy. Đức Như Lại mới xuất định mà nói pháp, vì thế biết do ngài Văn thù. Hỏi: Nay chỉ chép: “Bấy giờ, có Bồ-tát tên là Diệu Quang”, vì sao biết đây là phần tựa giải đáp? Đáp: Như hiện nay thấy các cõi Chư Phật, xưa thấy cũng như nay thấy, thì sự giải đáp xưa và nay không khác nhau, vì thế chỉ nêu ngài Diệu Quang để lược lời giải đáp. Lại nữa, người xưa và người nay không khác nhau, tức nay và xưa cùng một lời giải đáp, vì vậy chỉ nêu người thì có thể biết lời đáp. Nay người hỏi là ngài Di-lặc, so sánh việc nay với việc xưa tức người hỏi là Bồ-tát Đức Tạng. Hỏi: Vì sao nói có tám trăm người đệ tử? Đáp: Muốn thuật lại bổn duyên của ngài Di-lặc, do đời trước ngài Di-lặc là đệ tử ngài Văn-thù, ngài Văn-thù đã giúp Di-lặc nên ngày nay phải trả lời. “Bấy giờ, Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh xả định”, đây nói phần chính là nói Pháp Hoa. Từ đoạn văn trước đến đây có ba thứ đồng nhau: Từ đầu đến pháp có thể nói là sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghóa là chỗ đã từng thấy và đã từng nghe thấy đồng nhau. Từ Đức Phật rốt sau cho đến tám trăm vị đệ tử, nói về từng thấy và hiện thấy là đồng. Từ đoạn văn này đến hết là nói từng thấy và sẽ thấy là đồng. “Ngồi nghe pháp trải qua sáu mươi tiểu kiếp mà không rời chỗ ngồi”. Luận Trí Độ chép: Trong pháp Tiểu thừa không có việc không thể nghó bàn, chỉ pháp Đại thừa mới có, như nói kinh Pháp Hoa trong sáu mươi Tiểu kiếp mà cho là như khoảng bữa ăn. Hỏi: Vì sao ngài Văn-thù lại dẫn lời này? Đáp: Ở đây có hai ý: Việc này không thể nghó bàn. Tiểu thừa không có mà Dại thừa có, muốn cho chúng nghe Phật nói Pháp Hoa liền khởi ý tưởng kỳ lạ đặc biệt. Muốn nói lên kinh Pháp Hoa nghóa giàu, văn rộng, cho nên nói trong thời gian lâu dài, cũng là khen ngợi Pháp Hoa để chúng sanh phát tâm cung kính tin nhận. Hỏi: Đúng là sáu mươi tiểu kiếp, sao nói bằng khoảng bữa ăn? Đáp: Dài nếu nhất định dài thì không thể co dài khiến cho ngắn, ngắn nếu nhất định ngắn thì không thể kéo ngắn ra thành dài. Do dài ngắn không có tính nhất định, do ngắn nên dài, thì dài là dài của ngắn, do dài mà ngắn thì ngắn là ngắn của dài. Do ngắn là ngắn của dài nên ngắn có thể làm dài. Vì sao như vậy? Bởi đạo đã như nhau, thì dài ngắn không hai, không hai tức dài ngắn vô ngại, có thể rút dài làm ngắn. Hỏi: Tuy nói vậy nhưng tướng khó thấy rõ ràng? Đáp: Như trong một đêm nằm mộng thấy việc cả một trăm năm, như vậy thời gian dài trăm năm bỗng nhiên rút ngắn trong một đêm, tức là việc này. Chú thích kinh rằng: Ngài Duy-ma có thể kéo dài bảy ngày thành một kiếp, rút ngắn một kiếp thành bảy ngày, huống nữa khai mở một pháp môn chân thật sao không thể rút kiếp dài thành thời gian ngắn ư! Đây hoặc là mượn nghóa mà nêu danh, chưa hẳn là thần thông thật sự. Thế gian có câu: Một lời nói trị giá ngàn vàng, một tấc thời gian còn hơn thước đất. Tuy là chỉ nói một khoảng nhỏ, mà thực ra nhiều kiếp đã qua. Theo luận Duy Thức thì dài, ngắn, lấy tâm làm thể, vì thế dài ngắn không nhất định, như ở thế gian nói chuyện với người hợp ý thì không cảm thấy đêm dài. Nên biết thân tâm không động thì một ngày đã ngàn năm rồi. Từ câu: “Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh” trở đi, là nói việc sau khi nói Pháp Hoa, văn chia làm sáu phần là: tuyên bố diệt độ, thọ ký, chánh diệt độ, Bồ-tát Diệu Quang mở mang truyền bá giáo pháp, tám người con học đạo, nói việc đời trước của ngài Di-lặc. Sở dó tuyên bố diệt độ là muốn nói kinh này biện luận lý của hai phương tiện, hai chân thật đã rốt ráo, người đáng độ, đã độ xong, nên tuyên bố diệt độ. Hỏi: Phật Đăng Minh nói kinh này xong liền diệt độ, vì sao đức Thích-ca còn nói kinh Niết-bàn? Đáp: Có chỗ chép: Phật Đăng Minh nói Pháp Hoa xong cũng nói Niết-bàn, nhưng văn ẩn một bên nên nói không nói. Nay cho rằng không đúng, Chú thích kinh rằng: Sáng nói kinh xong tối liền diệt độ, nên biết Phật Đăng Minh không nói Niết-bàn. Lại, thời Phật Ca-diếp tuy có Niết-bàn nhưng do con người căn tánh lanh lợi nên không cần nói, Phật Đăng Minh cũng vậy, đức Thích-ca xuất hiện ở đời ác, người căn tánh lanh lợi nghe Pháp Hoa xong đã ngộ, nên nói Niết-bàn tức chỉ cho Pháp Hoa nói rằng: Tám ngàn vị Thanh văn được thọ ký riêng thành quả lớn, như mùa Thu thu hoạch mùa Đông cất giữ, không còn làm nữa, vì thế biết ý nghóa Pháp Hoa đã tròn đầy thì hàng lợi căn sớm ngộ. Nhưng người căn tánh chậm lụt chưa hiểu rõ nên phải nói Niết-bàn. Nói về thọ ký, tức câu: “Bấy giờ, có Bồ-tát tên là Đức Tạng”. Đại chúng nghe Phật sắp Niết-bàn đều sanh tâm luyến mến, nay muốn dứt tình thương xót của chúng sanh mà nói về thọ ký, Phật trước tuy diệt độ thì có Phật sau xuất hiện, không nên đau buồn. Hỏi: Kinh Pháp Hoa chép: Muốn cho chúng sanh sanh vui mừng thiện nên thị hiện sanh ở cung vua, muốn cho chúng sanh sanh tâm luyến mến thiện nên thị hiện diệt độ ở Song Lâm. Nay Phật Đăng Minh sao chỉ nói dứt tâm luyến mến? Đáp: Tuyên bố diệt độ khiến chúng sanh phát sanh luyến mến thiện, ngăn dứt sự đau buồn là đoạn diệt điều ác trong các đường của chúng sanh, nghóa trước và sau có khác nhưng không trái nhau. “Danh hiệu là Tịnh thân”, hệ lụy chẳng có gì không trừ hết nên gọi là Tịnh, đức hạnh chẳng có gì không tròn đầy nên gọi là Thân. Nói rộng mười hiệu là nêu tên cõi này, lược nói ba hiệu tức giữ lời xưng của cõi kia. Như lai là người, Ứng Cúng là đoạn, Chánh Biến Tri là trí, người có đầy đủ trí, đoạn, nghóa hơi tròn đầy, nên chỉ xưng ba hiệu. Là phần chánh diệt độ, tức câu: “Phật thọ ký rồi”, Nói Niết-bàn vô dư gồm có ba nghóa: Tiểu thừa nói có hữu dư và vô dư, người tu học đã dứt hết phiền não nhưng vẫn còn thân thể có trí hiểu biết gọi là Niết-bàn hữu dư, khi quả báo thân thể đã hết, không còn thọ thân sau nữa gọi là Niết-bàn vô dư. Theo nói Đại thừa, nhân năm trụ sạch hết là Niết-bàn hữu dư, quả sanh tử sạch hết là Niết-bàn vô dư. Tiểu thừa thì trước đắc hữu dư sau đắc vô dư, Đại thừa cùng lúc đắc cả hai, nhưng nêu quả Phật thì đối với hai tai họa, không còn nhân tai họa gọi là hữu dư, không còn quả tai họa gọi là vô dư. Lại nữa, theo ý Nhiếp Đại thừa quyển bảy và Kim Quang Minh thì đắc pháp thân rốt ráo gọi là vô dư, ứng thân và hóa thân chẳng phải rốt ráo gọi là hữu dư. Phẩm Ba Thân lại chép: Ba thân hợp lại gọi là Niết-bàn vô trụ xứ, ứng thân và hóa thân không trụ Niết-bàn, bởi pháp thân xưa nay thường vắng lặng nên không nhập Niết-bàn, tức là pháp thân không trụ sanh tử nên gọi là Niết-bàn vô trụ xứ. Theo ý hợp cả Đại thừa và Tiểu thừa thì Tiểu thừa còn có tàn dư của nghiệp khổ nên gọi là hữu dư, Đại thừa hết sạch tàn dư nên gọi là vô dư. Như Kinh Thắng-man chép: Sanh tử có hữu vi và vô vi, nên Niết-bàn cũng có hữu dư và vô dư. Phàm phu sanh tử gọi là hữu vi, bậc Thánh sanh tử gọi là vô vi. Trừ được phần đoạn sanh tử gọi là hữu dư, do thấy còn có sanh tử, còn có Niết-bàn nên gọi là hữu dư. Không có chỗ của sanh tử, đắc Niết- bàn thì gọi là vô dư, do đối với thân sau không còn sanh tử, không còn Niết-bàn nên gọi là vô dư. Nói chứng nhập gồm có ba loại: Y cứ Thật luận mà nhập, nhập là do chứng, do chứng ba đức Niết-bàn nên gọi là nhập. Y cứ Ứng thân mà nói nhập, tích thân còn là hữu dư, diệt tích thân rồi quy về vô dư, tức xả hữu nhập vô gọi là Nhập. Chân thân, ứng thân hợp lại gọi là nhập, nghóa là dứt ứng quy về chân. Trong ba thứ nhập thì chữ nhập trong văn kinh thuộc loại thứ ba. Là phần Bồ-tát Diệu Quang mở rộng kinh, tức là câu: “Sau khi Phật diệt độ”, v.v… Thuở xưa, Bồ-tát Diệu Quang có khả năng mở rộng kinh, để nói lên nay có đức giải thích nghi. Trước nói về thọ ký nghóa là đời sau có Phật, nay nói ngài Diệu Quang hiện nay có thầy, cả hai đời đều có người đáng nương tựa có pháp để giác ngộ, vì tình thương xót vừa dứt nên nói việc ngài Diệu Quang mở rộng kinh: Lại nữa, trên nói người có duyên với Phật nên nghe Phật Đăng Minh nói Pháp Hoa, nay nói người có duyên với Bồ-tát nên nghe Diệu Quang nói pháp. Lại muốn nói Phật Nhiên Đăng là duyên xa để mở bày ý nghóa tuổi thọ ở sau, cho nên phải nói ngài Văn-thù mở rộng pháp. “Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh có tám người người con“, đây là phần nói tám người con học đạo, đầu tiên nêu tám người con, vì nhân duyên đức Thích-ca nói Pháp Hoa mà nêu ở đầu kinh. Nay nói tám người con mà ý là ở người thứ tám tức Phật Nhiên Đăng, để khai mở ý nghóa đức Thích-ca có tuổi thọ dài lâu ở phần kinh sau. Vì sao? Vì Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Phật Thích-ca, mà Phật Nhiên Đăng là người thứ tám do ngài Diệu Quang giáo hóa, ngài Diệu Quang tức là ngài Văn-thù, vậy ngài Văn-thù là tổ sư thứ chín của Phật Thích-ca, đây là dùng việc gần che việc xa. Nay ngài Văn-thù là đệ tử Phật Thích-ca, tức muốn nói lên Phật Thích-ca là thầy của ngài Văn-thù, nên biết ngài đã thành Phật từ lâu, đây là bỏ gần bày xa. Phần sau bỏ gần bày xa, nay trước lấy việc gần che việc xa. “Trong tám trăm vị đệ tử có một người tên là Cầu Danh”: đây là nói về việc trước của ngài Di-lặc. Từ trước tới nay đã trả lời ngài Di- lặc và việc nói đức Thích-ca nói Pháp Hoa đã rồi, nay đoạn này giải thích đều nghi ngờ. Nghi rằng: Ngài Di-lặc đã ở địa vị Bổ xứ, vì sao còn hỏi ngài Văn-thù, vì thế nay nói đời quá khứ ngài Văn-thù vốn là thầy nên nay có việc hỏi và đáp, ngài Văn thù là thầy đời thứ mười của ngài Di-lặc. “Nay thấy điềm lành không khác với xưa”, đây là lời kết thúc rõ ràng, tuy có bốn môn mà không ngoài ba việc là nói lên, giải thích và kết thúc. Ban đầu nêu là Phật muốn nói pháp lớn, thứ đến dẫn việc xưa làm chứng việc nay, tức giải thích muốn nói pháp lớn, nay kết thúc muốn nói pháp lớn. “Bấy giờ, ngài Văn-thù muốn tuyên lại nghóa trên mà nói kệ rằng”, đây nói phần kệ tụng. Ngài Di-lặc nói kệ hỏi mà không hỏi đại chúng, bởi muốn nói lên ngài Văn-thù thấy việc xưa khéo giải Thích-các điều nghi có ích cho đại chúng nên nói đại chúng, còn ngài Di-lặc không đúng nên không nói đại chúng, lại nói lên sự việc rõ ràng lời nói về ràng nên xưng là đại chúng. Ngài Di-lặc là khách, đã có văn xuôi và kệ tụng, Văn-thù là chủ thì cũng có như. Có bốn mươi ba bài kệ tụng lại phần văn xuôi. Văn xuôi có bốn môn: Một là lời khiêm nhường, hai là dẫn việc xưa để trả lời, hai phần này còn chưa rõ ràng, nay lượt không nói trong kệ tụng, chỉ tụng phần thứ ba là rộng dẫn việc quá khứ trả lời và phần thứ tư là trả lời rõ ràng. Trong phần một của văn xuôi chia làm hai phần nói việc trước khi nói Pháp Hoa và việc từ khi nói Pháp Hoa trở đi, nay kệ tụng cũng. Việc trước khi nói Pháp Hoa lại chia làm hai, ban đầu nói về Phật, sau biện luận tất cả Phật, nay hợp chung kệ tụng gồm có bốn trường hợp: Nửa bài kệ đầu nói về thời gian, nửa bài kệ kế nói về bậc hóa chủ, một câu nói về giáo pháp và ba câu nói về đồ chúng. Bậc hóa chủ là thầy thuốc, giáo pháp là thuốc hay, đồ chúng uống thuốc thì bệnh sẽ lành, chỉ nói ba việc này thì tóm thâu tất cả việc. “Khi Phật chưa xuất gia, vua sanh tám vương tử,v.v…” đây là phần kệ tụng nói về việc nói Pháp Hoa trở đi. Phần văn xuôi có hai phần, một là nói việc Pháp Hoa, hai là nói Niết-bàn, nay kệ tụng hai phần này. Phần tựa trong văn xuôi có sáu việc, nay kệ tụng chỉ có năm việc: Một bà tụng đầu nói chúng nhóm họp, một bài kế nói phần tựa nói kinh, một hàng kế nói nhập định, “Trời mưa hoa Mạn đà và trống trời tự nhiên vang”, hai việc này là nói điềm lành tựa. Văn xuôi chia làm bốn phần: Mưa hoa, đất rung chuyển Đại chúng thấy điềm lành Hiện điềm lành phát ra ánh sáng Thấy điềm lành ánh sáng. Hai điều cảm, hai điều ứng này làm rõ ràng cho nhau. Nay phần kệ tụng là chuyển thế lời tụng, ba điềm lành đều là việc năng hóa nên xếp vào một loại, hai lần thấy điềm lành là việc sở hóa, lại xếp vào một loại, lại xếp năng và sở vào một loại. Một hàng kệ nói là rải hoa như mưa, Nửa bài kệ nói về đất rung chuyển, một hàng rưỡi nói về điềm lành phát ra ánh sáng. “Các trời rồng quỷ thần, cúng dường đấng Thế tôn”, trong văn xuôi chỉ nói là mưa hoa, nay giải thích lý do có mưa hoa tức là trời rồng cúng dường Phật. Hỏi: Đã là chư thiên cúng dường, vì sao nói Phật hiện điềm lành? Đáp: Do thần lực của Phật và thần lực nói Pháp Hoa, có công năng cảm đến chư thiên cúng dường. “Lại thấy các cõi Phật, đồng các báu trang nghiêm”, đây là phần kệ tụng thấy điềm lành ánh sáng. Trong văn xuôi nói trước thấy điềm lành mưa hoa, đất rung chuyển, sau mới thấy điềm lành ánh sáng. Nay phần kệ tụng lại chuyển ý, trước theo việc gần mà nói thấy điềm lành ánh sáng, kế đến thấy mưa hoa và đất rung chuyển. Trong kệ tụng thấy điềm lành ánh sáng có sáu phần: Một hàng kệ tụng thấy rõ các Đức Phật. Mộ hàng kệ tụng thấy chúng sanh Một hàng rưỡi kệ thấy hóa chủ Nửa bài kệ nói nghe giáo pháp Hai hàng kệ tụng thấy các Thanh văn Ba hàng kệ tụng thấy các Bồ-tát Sáu phần này tụng theo thứ lớp, trước phải có cõi nước nên ban đầu nói thấy cõi nước, có cõi nước nên có chúng sanh, có chúng sanh nên có bậc hóa chủ, có bậc hóa chủ nên có nói giáo pháp, trước chỉ lãnh thọ pháp Tiểu thừa nên có Thanh văn, sau lãnh thọ pháp Đại thừa nên có Bồ-tát. Trong phần kệ tụng bậc hóa chủ có nửa hàng khen ngợi công đức Phật, một hàng là khen ngợi hình tướng Phật. “Bấy giờ, bốn chúng” v.v… trở xuống là một hàng tụng nói bốn chúng thấy điềm lành mưa hoa và đất rung chuyển. “Mỗi người tự hỏi nhau, việc này nhân duyên gì”, đây là kệ tụng thuộc phần nghi vấn tựa, dùng việc xưa để trả lời việc hiện tại, do trả lời lại không có người khác nên lược không nói phần giải đáp tựa. “Được trời người tôn kính” v.v… trở xuống bốn hàng, đây là phần kệ tụng chính là nói Pháp Hoa. “Khen Diệu Quang Bồ-tát”, do ngài Diệu Quang khéo giải đáp điều nghi ngờ, ngăn ngừa chúng sanh chê bai, khai mở sự tin hiểu tức là mắt sáng cho thế gian. “Ông là mắt của đời, tất cả đều tin về”, trước khen ngợi ngài có công năng giải quyết nghi ngờ tức khai phát nói Pháp Hoa, nay khen ngợi đức hạnh trì pháp, chứng pháp mở rộng kinh sau khi Phật diệt độ, Trì, nghóa là giải ngữ, chứng nghóa là giải nghóa, đủ hai đức này thì có thể mở rộng kinh. Do ngài Diệu Quang mở rộng kinh sau khi Phật diệt độ, khiến chúng sanh tin nhận nên khen ngợi hai đức hạnh này. “Phật nói Pháp Hoa này, khiến chúng vui mừng rồi”, đây là phần kệ tụng về phần Niết-bàn. Văn xuôi có sáu việc là: tuyên bố diệt độ, thọ Ký, chánh diệt độ, mở rộng hóa giáo pháp, tám người con học đạo, nói việc đời trước của ngài Di-lặc. Trong văn xuôi tóm nói lược phần tuyên bố diệt độ, ở kệ tụng thì giải thích rộng, tức văn xuôi làm chương môn, kệ tụng là giải thích. Trong kệ này có bốn phần: Hai hàng đầu là tuyên bố diệt độ Một hàng kế là Phật khuyên răn, đệ tử Một hàng kế nói đại chúng sầu não Một hàng kế là Phật an ủi đại chúng. Hai hàng kệ đầu chia làm hai: Một hàng rưỡi là tuyên bố diệt độ Nữa hàng kế là chánh diệt độ Phần đầu nói có hai ý, khiến đại chúng vui mừng là việc lợi ích đã rồi, thật tướng các pháp đã nói xong tức nói giáo pháp đã tròn đầy, do hai việc này nên Phật diệt độ. “nay Ta đúng nữa đêm, sẽ vào cõi Niết- bàn đây là lời tuyên bố diệt độ. “Bồ-tát Đức Tạng đây v.v…”, một hàng rưỡi kệ nầy là nói việc thọ ký, ba câu đầu nói về đức hạnh có thể nhận thọ ký, ba câu sau chánh là nói về thọ ký cũng là phần kệ tụng giải thích văn xuôi. “Đêm đó Phật diệ độ, như củi hết lửa tắt”, trở xuống hai hàng kệ tụng là nói về phần chánh diệt độ, gồm có ba phần: Nửa bài kệ nói về chánh diệt độ Nửa bài kệ nói người tại gia dựng tháp cầu phước. Một hàng kệ nói về người xuất gia tu đạo phát sanh trí tuệ. Đây là nói về lợi ích của sự diệt độ. Trước tuyên bố diệt độ để sanh luyến mến điều thiện, nay nói chánh diệt độ là sanh lợi ích phước tuệ. “Như củi hết lửa tắt”: y theo nghóa Tiểu thừa dùng thân làm củi, trí tuệ làm lửa, trí tuệ nương vào thân, thân hết thì trí diệt. Lại dùng phiền não làm củi, dùng thân làm lửa, phiền não của Phật đã hết nên thân mãi mãi bất sanh, cho nên khác với diệt độ của phàm phu. Theo Đại thừa giải thích củi dụ cho cảm, lửa dụ cho ứng, chúng sanh hết cảm thì Chư Phật hết ứng. “Riêng Pháp sư Diệu Quang, vâng giữ Phật pháp tạng”,v.v… trở xuống một hàng kệ là nói việc mở rộng kinh. “Còn tám vị vương tử, được Diệu Quang khai mở,v.v…” trở xuống ba hàng kệ là nói tám người con học đạo. “Pháp sư Diệu Quang đây, có một người đệ tử,v.v…” sáu hàng kệ kế đây là nói về việc đời trước của ngài Di-lặc, chia làm ba phần: Hai hàng rưỡi kệ đầu nói lỗi lầm xưa kia của ngài Di-lặc Hai hàng kệ rưỡi kế nóisở đắc của ngài Di-lặc Một hàng kệ sau kết thúc hội xưa và nay. “Ta thấy Phật Đăng Minh, điềm lành trước như thế”; hai hàng kệ tụng nầy là kết thúc lời giải đáp. Nửa bài là đem việc xưa so sánh việc nay, nửa hàng là so sánh việc nay với việc xưa, Nửa bài kệ kế theo là giải thích ý Phật xưa hiện điềm lành, Nửa bài kệ cuối là giải thích ý Phật nay phát ra ánh sáng. “Các người nay nên biết, chắp tay một lòng chờ,v.v…” hai hàng kệ này là khai phát tâm chúng sanh. Hàng kệ đầu nói về việc tốt sẽ đến, tức là sanh ra kiến giải đối với pháp Nhất thừa, hàng kệ sau nói về việc ác nên diệt tức kiến hoặc cửa ba thừa diệt, Phật nói Nhất thừa mà có hai lợi ích là sanh hiểu biết và diệt ác. Lại nữa, hiểu biết Nhất thừa sẽ đưa đến thành Phật; nghóa là đức hạnh chẳng có gì không tròn đầy, dứt hết hoặc ba thừa, không hệ lụy nào chẳng trừ sạch, hai việc này rất lớn cho nên phải vui mừng. “Chắp tay một lòng chờ”, là khiến trụ ở hai oai nghi đợi Phật nói pháp. Chắp tay là thân trụ chánh oai nghi nghóa là thân không làm việc gì khác, nhất tâm là tâm trụ chánh oai nghi, nghóa là ý không theo các duyên khác. “Đầy khắp người cầu đạo”, thuở trước nói pháp Tiểu thừa nên giáo lý chưa tròn đầy, vì thế hiểu biết không đủ, nay nói pháp Đại thừa là trái với trước nên nói là đầy đủ, đầy đủ tức là chứng đắc quả pháp thân: Bài kệ kế thì nửa bài trên nói về người cầu ba thừa nếu có nghi ngờ, nửa bài kệ sau là nói Phật sẽ dứt trừ khiến cho không còn nghi.  PHÁP HOA NGHÓA SỚ <卷>QUYỂN 3 PHẨM PHƯƠNG TIỆN THỨ HAI (Phần 1) Phẩm này gồm có bốn môn quan trọng: Ý nghóa, giải thích tên, đồng khác và, chung riêng. Hỏi: Kinh này ban đầu chủ trương khen ngợi trí tuệ sâu rộng của Phật, ngài Đa Bảo khen ngợi, gọi là đại tuệ bình đẳng, nên văn tuy có bảy trục mà tông quy về Nhất thừa, nay sao đầu tiên lại nói về phương tiện. Đáp: Muốn nói lên Nhất thừa là chân thật thì trước phải nói Ba thừa là phương tiện. Nếu trước không nói Ba thừa là phương tiện, thì Nhất thừa là chân thật không được nói lên. Vì thế Kinh này chép: Khai pháp môn phương tiện để chỉ bày tướng chân thật. Chú thích kinh chép: đã đề xướng dự định quy về một mối, trước phải nói về ý nghóa phân ra ba để làm chứng. Hai là phần giải thích, tiếng Phạm gọi là Ủ-hòa Câu-xá-la, Ủ-hòa gọi là phương tiện. Câu-xá-la là thắng trí, nghóa là phương tiện thắng trí. Nhưng tên của phương tiện thì có ly và hợp, ly gồm có ba nghóa: Theo lý giáo mà giải thích, lý chân chánh gọi là phương, lời nói khéo gọi là tiện, tức là ý nghóa sâu xa lời lẽ khéo léo, văn và ý nghóa cùng nêu nên gọi là phương tiện, ở đây giải thích chung cả Đại thừa Tiểu thừa, không phải chỉ riêng Ba thừa. Nơi chúng sanh duyên vào gọi là phương, pháp của Như lai thích ứng giáo hóa gọi là tiện, bởi muốn do bịnh mà cho thuốc, nương vào phương mà ban tiện, căn cơ giáo pháp đều nêu nên gọi là phương tiện, đây cũng có cả Đại thừa Tiểu thừa, chẳng phải riêng Ba thừa. Đạp trên nguy hiểm mà được an ổn gọi là phương, lãnh thọ giáo pháp được lợi ích gọi là tiện. Nguy hiểm trong cõi đời năm trược ác nếu không có ba thừa thì không an, nên nói đạp trên nguy hiểm được an. Lãnh thọ giáo pháp ba thừa thì liền được lợi, vì thế lấy giáo làm phương, lấy lợi làm tiện, giáo pháp và lợi ích cùng nêu nêu gọi là phương tiện, ở đây có cả Đại thừa Tiểu thừa, chẳng phải riêng Ba thừa. Hợp giải thích cũng gồm có ba nghóa: Phương tiện là tên của khéo léo, khéo léo là dụng của trí. Lý thật không có ba, dùng năng lực phương tiện cho nên nói ba, vì thế gọi là khéo léo (khéo léo). Hỏi: Không có ba thừa mà nói ba, sao gọi là khéo léo? Đáp: Do không có ba mà nói ba khiến chúng sanh được lợi ích chân thật, vì thế gọi là khéo léo. Hỏi: Đã được lợi ích chân thật thì nên gọi là thật, sao còn gọi là phương tiện? Đáp: Theo lợi ích mà nói cũng được gọi là thật, nhưng theo lý thì thật không có ba mà giả danh nói ba, y theo giáo, nên gọi là Phương tiện. Nói Ba thừa là để giúp cho chúng sanh ngộ nhập Nhất thừa nên Ba thừa này là lý do dần hướng đến Nhất thửa, nên gọi là phương tiện. Như văn sau chép: Ta lập ra phương tiện này là khiến chúng sanh được nhập trí tuệ Phật. Lại chép: Chín bộ pháp của ta lấy nhập Đại thừa làm gốc. Vì thế nói ba thừa là phương tiện của Nhất thừa. Hợp hai nghóa trên viên thành một ý chỉ, sở dó không có ba mà nói ba, là khiến do ba mà ngộ không ba, vì thế hai lời nói trên hợp thành một ý. Hỏi: Ba thừa phương tiện có mấy loại? Đáp: gồm có ba loại: Thân phương tiện, như Phật Thọ Vương hiện làm người Nhị thừa và Trưởng giả mặc áo dơ xấu. Miệng phương tiện, tức không có ba mà nói ba, như chỉ khống ngoài cửa có ba thứ xe. Ý phương tiện, tức hai lần suy nghó. Một là suy nghó về Phật quá khứ. Hai là suy nghó. Ta xuất hiện trong đời ác, đây là trên đồng với Phật xưa, dưới thuận theo chúng sanh, hai thứ nhân duyên này phát khởi trí phương tiện, nghóa là ý phương tiện. Nói đồng và khác: Hỏi: Xưa cũng nói ba thừa là phương tiện, Nhất thừa là chân thật, so với nay có gì khác? Đáp: Nay phần tựa trước sau có bốn ý: Dùng ba thừa làm phương tiện, dùng Nhất thừa làm chân thật. Sở dó nói nghóa này, bởi xưa người lãnh thọ giáo pháp chấp ba làm thật, không biết ba thừa là phương tiện. Vì muốn thực hành pháp ấy nên nói ba thừa là phương tiện, Nhất thừa là chân thật, khiến họ bỏ ba thừa vào Nhất thừa. Người lãnh thọ giáo pháp tuy bỏ ba thừa nhưng phong kín một thật, tuy trừ bỏ thô hoặc mà nhiễm ô vi tế lại sanh. Để dối trị hạnh này nên nói ba thừa và Nhất thừa đều là phương tiện, chẳng phải ba chẳng phải một mới gọi là thật. Người bẩm thọ giáo pháp bèn hiểu ba thừa và Nhất thừa đều là phương tiện, lại phong kín chẳng phải hai là lý rốt ráo, nên nói ba, một, là hai, chẳng phải ba, chẳng phải một, gọi là không hai, hai và không hai là phương tiện. Chẳng phải hai, chẳng phải không hai chính là chân thật. Hai và không hai, cho đến chẳng phải hai, chẳng phải không hai vẫn còn là bốn câu, chưa thoát khỏi danh ngôn, đều gọi là phương tiện. Tướng các pháp là vắng lặng, không thể dùng lời nói năng, đó chính là chân thật. Thừa phương tiện, thừa chân thật đã có bốn cấp bậc như thế, thân phương tiện, thân chân thật cũng có bốn trường hợp: Dùng ngắn làm phương tiện, dài làm chân thật. Dài ngắn đều là phương tiện, chẳng dài chẳng ngắn là chân thật (Ngắn dài là tuổi thọ). Dài ngắn là hai, chẳng dài chẳng ngắn là không hai, hai và không hai đều là phương tiện. Chẳng phải hai, chẳng phải không hai chính là chân thật. Hai cùng với không hai, chẳng hai chẳng không hai vẫn là bốn trường hợp, chưa thoát khỏi danh ngôn, đều gọi là phương tiện. Pháp thân Như lai không có bốn trường hợp, dứt bặt trăm phi, chính là chân thật. Cho nên, phẩm Như Lai Thọ Lượng giải thích pháp thân rằng: Chẳng thật, chẳng hư, chẳng giống, chẳng khác, chẳng sạch, chẳng dơ, chẳng đi, chẳng đến, chẳng có, chẳng không, tổng cộng gồm mười không. Là nói phần chung và riêng: Theo phần riêng thì dùng ba thửa làm phương tiện. Theo phần chung thì phương tiện lấy khéo léo làm nghóa, khéo léo có ở cả xưa và nay. Nay muốn dung thông lý do gom ba về một, nên khen ngợi khéo léo của Chư Phật. Vì sao như vậy? Vì xưa nói ba thừa nay nói Nhất thừa, trước sau trái nhau nên nghóa thành mâu thuẫn, chúng sanh không sanh tín nên hợp giải thích rằng: Sở dó xưa nói ba nay nói một, bởi thấy rõ căn cơ chúng sanh mà khéo léo nói giáo, nên không trái nhau, cho nên chữ phương tiện là tên chung cả ba thừa và Nhất thừa, xưa nay dùng chung, nên ở đầu nêu tên là phẩm Phương Tiện. Nghóa này khó rõ, nay dùng bốn trường hợp để nói lên: Xưa khai nay che, nghóa là xưa khai ba nay che ba. Xưa che nay khai, nghóa là xưa che một nay khai một. Xưa nay đều che, xưa che một nay che ba Xưa nay đều khai, xưa khai ba nay khai một Sở dó có bốn trường hợp này, là do Như lai biết căn cơ, rõ pháp, dùng khéo léo làm duyên nên không trái nhau, vì thế đều gọi là phương tiện, và phương tiện có ở xưa và nay. Kế là nêu bốn trường hợp vô phương tiện để nói lên: Xưa duyên chấp ba che Phật một, không biết nói ba thừa là bỏ một thừa. Nay duyên chấp một che Phật ba, không biết tuy một mà không mất ba. Chấp tự tánh ba, che Phật nhân duyên một, ba Chấp tự tánh một, che Phật nhân duyên ba, một Xưa chấp như ở đây là đều là vô phương tiện, vì thế vô phương tiện cũng có ở cả xưa và nay. Hỏi: Đoạn văn nào nói phương tiện có ở cả xưa và nay. Đáp: Đoạn văn ba lần xin: Pháp phương tiện bậc nhất của Chư Phật. Luận rằng ba thừa là phương tiện không gọi là bậc nhất, Nhất thừa là bậc nhất không gọi là phương tiện, nay nói bậc nhất phương tiện, tức biết trí khéo léo của Chư Phật gọi là bậc nhất phương tiện, có trí khéo léo này nên có thể nói Nhất thừa, ba thừa. Hỏi: Nhất thừa cũng gọi là phương tiện nên gọi là phẩm Phương Tiện phải không? Đáp: Cũng có thể như thế, cho nên kinh Thắng-man chép: Nhất thừa đại phương tiện, tức là đại khéo léo của Chư Phật. Kinh Thắng- man nói về Nhất thừa mà đề gọi là Nhất thừa đại phương tiện, kinh Pháp Hoa khai mở tông đầu lẽ ra cũng dùng Nhất thừa làm phương tiện. Hỏi: Vì sao dùng Nhất thừa làm phương tiện? Đáp: như Bách luận y theo “không” xả phước, mà văn luận chép: dùng vô tướng xả phước. Giải thích nói dùng phương tiện này thì có thể xả phước. Nếu xả “có” mà chấp đắm “không”, thì chẳng gọi là phương tiện, xả “có”mà chẳng đắm “không” nên gọi là Phương tiện. Luận Trí Độ chép: Phá thường mà đắm vô thường gọi là vô phương tiện vô thường. Phá thường mà không đắm đối với vô thường gọi là hữu phương tiện vô thường. Lại chép: Phá hai không đắm một gọi là pháp nhẫn. Nay cũng như vậy, vì phá hai thừa nên nói Nhất thừa, cũng không khiến đắm một, vì thế Nhất thừa nầy gọi là phương tiện. Vì sao như vậy? Vì sanh tử lấy chấp tướng làm nguồn, nhập đạo lấy không đắm làm gốc, vì thế đoạn văn sau chép: “Ta dùng vô số phương tiện dẫn dắt chúng sanh khiến xa lìa mê đắm”. Hỏi: Kinh Thắng-man, kinh Đại Phẩm và kinh này đều nói phương tiện, có gì khác nhau? Đáp: gồm có bốn trường hợp: Hợp thừa hợp tuệ, như kinh Thắng-man hợp năm thừa thành Nhất thừa, gọi là hợp thừa. Hoặc phương tiện, hoặc thật, đều gọi chung là đại phương tiện, gọi là hợp tuệ. Khai thừa khai tuệ, như kinh Pháp Hoa chép: Chiếu ba là phương tiện, chiếu một là chân thật. Khai thừa hợp tuệ , cũng như phần tựa kinh này, xưa hai nay một là khai thừa. Nhất thừa, ba thừa này đều là do Như lai biết căn cơ, rõ giáo pháp mà dùng phương tiện khéo léo nên gọi là hợp tuệ. Hợp thừa khai tuệ, như kinh Đại phẩm nói chung tất cả thừa đều nhập Đại thừa. Như Phẩm Hội Tông chép: Hoặc pháp Phật, pháp Bồ-tát, pháp Nhị thừa đều nhập Ma-ha-diễn, nên gọi là hợp thừa. Trong Đại thừa tự khai hai tuệ Không, Hữu nên gọi là khai tuệ. Hỏi: Kinh Đại Phẩm nói tất cả pháp đều nhập Đại thừa, có gì khác so với kinh Pháp Hoa? Đáp: Kinh Đại Phẩm đã hội ở pháp nhưng chưa hội ở người. Hội ở pháp tức là muốn nói Đại thừa chẳng có pháp nào không gồm nhiếp, vì thế Đại Phẩm chép: Nếu có thật ngừ nhiếp tất cả các thiện, ấy là Bà- nhã. Chưa hội ở người tức lúc nói kinh Đại Phẩm người Nhị thừa căn cơ Đại thừa chưa thuần thục nên chưa hội ở người. Nay kinh Pháp Hoa hội cả người cả pháp, do hội ở người nên đồng gọi là Bồ-tát, hội ở pháp nên gọi là Nhất thừa. Luận Nhiếp Đại thừa nói có hai thứ hội: Mật hội, như kinh Đại Phẩm nói tất cả các pháp đều nhập và Đại thừa. Hiển hội, như kinh Pháp Hoa hội ở người Lại có hai thứ hội: Lý hội, như kinh Đại Phẩm nói tất cả các pháp đều nhập thật tướng, thật tướng đã không hai, há lại có ba thừa khác nhau sao? Giáo hội: Quyển thứ bảy trong kinh Kim Quang Minh chép: Pháp giới không có hai nên thừa không có ba, chỉ vì chưa hội nhập ba giáo nên không gọi là giáo hội. Kinh Pháp Hoa thì lý và giáo đều hội. Hỏi: Ba thừa là phương tiện, có được gọi là thật hay không? Đáp: Gồm có bốn trường hợp: Xưa là thật nay là phương tiện, nghóa là nay đối với một thì xưa là ba. Xưa nay đều thật, xưa dùng ba thừa làm thật, nay dùng Nhất thừa làm thật. Ba thừa, Nhất thừa đều là phương tiện, nói theo chánh đạo thì không hề có ba, một; ba, một đều là khai đạo, gọi là đạo môn, cho nên đều à phương tiện. Nay thật, xưa là phương tiện, nay dùng Nhất thừa làm thật, xưa vì chẳng phải thật nghóa nên gọi là phương tiện. Hỏi: Nhân thừa, thiên thừa, có là phương tiện hay không? Đáp: Nếu ba mươi ba cõi trời là thường lạc ngã tịnh, thì chỉ lá vàng nói là vàng thật cũng là phương tiện. Nếu nói năm giới mười thiện đều được thân trời người thì không gọi là phương tiện. Kế đây là khai câu văn. Từ Phẩm Phương Tiện cho đến phẩm Phân Biệt Công Đức trừ phần kệ, tức gồm mười lăm phẩm rưỡi, gọi là phần chính là nói kinh, chia thành hai phần lớn gồm có mười thứ: Từ phẩm Phương Tiện đến phẩm Pháp Sư gồm có chín phẩm, nói về thừa phương tiện, thừa chân thật. Từ phẩm Hiện Tháp báu về sau gồm có sáu phẩm rưỡi là nói thân phương tiện, thân chân thật. Thuở trước ba thừa gọi là thừa phương tiện, nay nói Nhất thừa là thừa chân thật, thuở trước thân sanh diệt gọi là thân phương tiện, nay thân không sanh diệt là thân chân thật. Sở dó khai hai điều này, vì sự giáo hóa của Đức Thích-ca gồm có ba thời: cùng nói, cùng che, cùng khai. Cùng nói: ban đầu Phật thành đạo, ở trong hội Hoa Nghiêm vì các Bồ-tát mà nói pháp rốt ráo, nói thân tròn đầy. Như ông Trưởng giả ngồi trên ghế sư tử có vật báu xung quanh, tức là việc này, nên nói là cùng nói. Cùng che, là người căn tánh nhỏ chưa kham nổi pháp Đại thừa, nên ở vườn Nai che Nhất thừa nói ba thừa, tức che bổn khai tích, như ông Trưởng giả ngăn người bên cạnh đừng bắt gã cùng tử nhưng lại sai người khác, ông lại cởi y phục quý giá mà mặc áo dơ xấu, tức là việc này, nên nói là cùng che. Cùng khai: trong hội Pháp Hoa cùng khai hai phương tiện, cùng chỉ bày hai chân thật, tức gọi là cùng khai. Cùng nói là pháp luân căn bản, cùng che là giáo pháp ngọn ngành, cùng khai là gom ngọn về gốc. Ba môn này không chỉ mình đức Thích-ca giáo hóa, mà gồm nhiếp tất cả giáo môn của Chư Phật, hội Pháp Hoa trước đủ đều ba môn này, nhưng đối với xưa là cùng che, cho nên nói cùng khai mà thôi. Nói về Phật giáo hóa gồm có ba môn, trước khi nói Pháp Hoa nhiếp tất cả tà quy về chánh của năm thừa, gọi là môn nhiếp tà quy chánh. Phần đầu kinh này hội năm thừa khác nhau, đồng quy về một đạo, gọi là môn nhiếp dị quy đồng. Phần sau kinh này nói về quả của pháp thân, gọi là môn dẫn nhân hướng đến quả. Ba môn này chẳng giáo pháp nào không gồm nhiếp, chẳng có hạng người nào không giáo hóa. Kinh này đối với xưa chỉ có hai môn, mà kết thúc hội trước sau lại đầy đủ ba môn, như bài tựa trong Pháp Hoa Huyền Nghóa nói. Nói về việc của Phật gồm có ba luân, dó là biết tâm người khác hiện thần lực và nói giáo môn. Ba luân này chẳng có Phật sự nào không gồm nhiếp, không có chúng sanh nào không giáo hóa. Phần đầu kinh gom giáo pháp năm thừa về Nhất thừa, nghóa là nói pháp luân; phần sau kinh nói kéo dài thâu ngắn tự tại thích ứng sự giáo hóa, nghóa là thần thông luân. Vì thế đoạn văn trước chép: “Vì nói trí tuệ Phật nên Chư Phật xuất hiện ở đời, chương sau chép: Lực thần thông bí mật của Như lai, tức làm chứng việc này. Nói về đức của Phật gồm có ba thứ: Pháp thân, Bà-nhã và giải thoát. Dùng chánh pháp làm thân nên gọi là Pháp thân, chẳng có cảnh nào không chiếu nên gọi là Bà-nhã, không hệ lụy nào không sạch hết nên gọi là Giải thoát. Sở dó đức của Phật chỉ nói ba thứ này, vì Pháp thân, Bà-nhã chẳng đức nào không tròn đầy, một môn giải thoát chẳng hệ lụy nào không dứt sạch. Đức không gì không tròn đầy lại chia làm hai là pháp thân và trí tuệ, như người thế gian có thân có trí hiểu biết. Lại nữa, pháp thân là thể, trí tuệ là dụng, nội trí chẳng có gì không chiếu gọi là Bà-nhã, ngoại cảm chẳng có gì không ứng bởi pháp thân. Lại nữa, vì đối sanh tử chỉ nói ba, vì đối sanh tử báo chướng nên nói pháp thân, vì đối với sanh tử nghiệp chướng nên nói giải thoát, vì đối phiền não chướng nên nói Bà-nhã. Lại, tất cả mười hai nhân duyên không ngoài ba đạo là khổ đạo, nghiệp đạo, và phiền não đạo. Đức Như Lại ở trên đảnh của Trung đạo bậc nhất nghóa riêng biệt với cha mẹ vô minh có đủ ba đức. Lại đối với Nhị thừa chưa tròn đầy ba đức mà nói Như lai có ba đức tròn đầy. Lại, pháp thân nói là thân nghiệp của Như lai, Bà-nhã là nói về miệng nghiệp của Như lai, nói giải thoát là nói lên ý nghiệp của Như lai, như Phẩm Tứ tướng đã nói. Nay kinh này có đủ ba đức nên gọi là diệu, người phàm phu Nhị thừa không đủ ba đức nên gọi là thô. Phần đầu kinh nói về Bà-nhã, phần sau kinh nói về Pháp thân, hai thứ này không còn hệ lụy là Giải thoát. Hỏi: Phần sau kinh nói về Pháp thân có thể thấy trong văn, phần đầu kinh nói thế nào là Bà-nhã? Đáp: Như trước chép: Kinh này ban đầu chủ trương khen ngợi trí tuệ sâu xa của Phật, đức Đa Bảo khen ngợi trí tuệ bình đẳng, tức là việc này. Hỏi: Đoạn nào nói về đức giải thoát? Đáp: Phẩm Thí Dụ chép: người Nhị thừa chỉ lìa luống dối gọi là giải thoát, thật ra chưa được giải thoát tất cả. chỉ lìa hư vọn gọi là giải thoát, đó chỉ thoát khỏi phần đoạn sanh tử trong ba cõi và kiến hoặc tư hoặc, nếu dứt hết năm trụ dứt hai sanh tử, gọi là giải thoát tất cả. Dùng pháp này chính là để phân biệt khác với Nhị thừa, khiến họ bỏ chấp ba mà về một. Nói chung tất cả pháp Đại thừa Tiểu thừa đều không ngoài pháp môn nhân quả, nhân quả Đại thừa gồm có hai môn: Nhân chung quả chung, nói tất cả Chư Phật ba đời mười phương có nhân thực hành không khác và đồng đắc quả nhất thừa, phần đầu văn kinh chính là nói về pháp này, tức nhân chung quả chung. Nhân riêng quả riêng, nói về đức Thích-ca thành Phật đã lâu, có nhân thực hành lâu xa từ đời quá khứ, đời vị lai chứng quả thường trú bất diệt, đoạn sau kinh ý chính là nói pháp này, tức nhân riêng quả riêng. Nói chung Chư Phật không ngoài hai trí quyền và thật, không ngoài chân thân và ứng thân. Trí thấy rõ ba thừa là quyền, trí thấy rõ nhất thừa là thật, phần đầu kinh chính là nói hai trí này. Hiện sanh ở cung vua, thành đạo ở Già-da là ứng thân, không đầu, không cuối, chẳng sanh, chẳng diệt là chân thân, đoạn sau kinh có nói về nghóa này, vì thế luận ở hai thân. Kinh này gọi là diệu pháp, tức là nhất thừa, nên phẩm Thí Dụ Thừa này là mầu nhiệm, thanh tịnh bậc nhất, dối với thế gian không còn pháp nào hơn. Thừa có hai thứ là pháp sở thừa và người năng thừa. Năng thừa, sở thừa tức nghóa thừa mới viên. Phần đầu nói về pháp sở thừa tức pháp mầu nhiệm, kế là từ phẩm Hiện Tháp báu trở đi là nói về người năng thừa, tức là người mầu nhiệm. Vì sao biết? Như phẩm Phương Tiện chép: Phật tự trụ trong pháp Đại thừa, như pháp sở đắc, sức định tuệ trang nghiêm, dùng đây độ chúng sanh, đây là pháp sở thừa. Từ phẩm Hiện Tháp báu trở đi là giải thích Như lai nói nghóa thường, vô thường, tức là người năng thừa. Người và pháp lại không có hai thể tức nói một mà chính là quán hai nghóa để nói, nghóa thống ngự là người, nghóa vâng theo khuôn phép là pháp, nhưng chánh quán xét không hề có người, pháp, vì chúng sanh nên gượng gọi là người, pháp. Luận chung về chúng sanh mê muội có hai hạng, đó là mê nhân và mê quả. Phần đầu kinh phá chấp mê nhân, phần sau kinh bác bỏ mê quả. Xưa đối với một Phật thừa mà chia ra nói ba, tức chỉ nhân lớn là quả nhỏ, người nghe bèn chấp quả nhỏ này là rốt ráo, không biết quả nhỏ tức là nhân lớn, đó gọi là mê nhân. Nay chép: “Việc làm của các ông là đạo Bồ-tát”, tức lại chỉ quả nhỏ là nhân lớn, phá sự cố chấp rốt ráo của những người ấy, đó là phá chấp mê nhân. Phần sau nói thân chân thật của Như lai là không sanh diệt, người Nhị thừa phàm phu cho là sanh diệt vô thường, vì phá sự mê này nên nói pháp thân thường trú, đó gọi là bác bỏ mê quả. Hỏi: Xưa nói nhân lớn là quả nhỏ, nay lại chỉ quả nhỏ là nhân lớn, cũng có thể: Xưa nói pháp thân là sanh diệt, nay lại chỉ sanh diệt là pháp thân được không? Đáp: Nghóa này không đúng. Vì xưa che tướng mà nói thân Như lai có sanh diệt, nay mở cửa phương tiện, nói lên nghóa chân thật, cho nên nói sanh diệt là ứng tích thân, không sanh diệt là pháp thân. Nhưng đối với những người chấp tích mê bổn, nên chia làm hai thân là ứng và chân, thật ra quả nhỏ nhân lớn không có hai pháp, so với thân chẳng so sánh được. Nhiếp thâu chung về sự mê hoặc trái ngược gồm có hai thứ, đó là trái ngược, chính mình và trái ngược với người. Phần đầu kinh phá ở mình trái ngược, phần sau kinh phá trái ngược ở người khác. Người Nhị thừa thật chẳng phải rốt ráo, do điên đảo nên tự cho là rốt ráo, ngài Xá-lợi-phất nói: “Nay con nơi trí mình, nghi ngờ không thể hiểu, đó là pháp rốt ráo, hay là đạo thực hành”, tức là việc này, đó là tự mình điên đảo Phần sau kinh là phá trừ điên đảo ở người. Quả đức Như lai đối với người Nhị thừa gọi là người khác, tự mê hoặc thân mình đã nhập vô dư, cho rằng thân Như lai cũng như tro đã tắt, đó là điên đảo ở người. Nay hai đoạn kinh cùng phá hai sự điên đảo, đoạn đầu nói lên người Nhị thừa chẳng phải rốt ráo, đó là phá trừ điên đảo của bản thân, đọan sau kinh nói pháp thân thường trú, đó là phá trừ điên đảo ở người, trừ hai sự điên đảo rồi thì tất cả hoặc đều hết, bỏ chí nhỏ phát tâm lớn. Lại nữa, phần đầu kinh phá trừ điên đảo bản thân, tức khiến người Nhị thừa biết Niết-bàn kia chẳng phải thường trụ, đó là phá chấp thường điên đảo. Đoạn sau kinh phá trừ điên đảo với người tức nói lên thân thường trú của Như lai, phá trừ điên đảo vô thường. Hai điên đảo đã trừ hết thì mong được ngộ đạo. Hỏi: Phần đầu kinh nói phá trừ thường đảo, vậy có phá đủ cả bốn đảo hay không? Đáp: Phá đủ cả bốn đảo. Hàng Nhị thừa tự cho rằng Niết-bàn kia là thường tức có lạc, tịnh, tuy không có nhân ngã mà có pháp ngã, tức cũng có ngã đảo. Nên biết phần đầu kinh phá trừ đủ cả bốn thứ điên đảo thường, lạc, ngã, tịnh. Phần sau kinh người Nhị thừa cho rằng Phật là vô thường, khổ, không vô ngã, bất tịnh, nên phá trừ sai lầm này tức cũng phá đủ bốn thứ điên đảo. Kinh này trước sau đã phá đủ tám thứ điên đảo, tức là nói Niết-bàn đã rồi, người đáng ngộ đều đắc đạo, Phật Đăng Minh không cần nói kinh Niết-bàn, ý là ở đây. Chỉ vì đức Thích- ca vì người căn tánh chậm chạp chưa được ngộ, nên nói rộng Pháp Hoa, sau lại nói Niết-bàn. Hỏi: Đoạn văn trước chỗ nào nói phá thường đảo? Đáp: Phẩm Thí Dụ chép: Chỉ hết sanh tử mà thật ra là chưa diệt, chưa diệt há là thường sao? Đoạn sau phá vô thường đảo, văn ấy hiển rõ dễ thấy. Hỏi: Người Nhị thừa nhân quả đều mê, tự tha đều điên đảo, đó là hoặc nào? Đáp: Người này dối với Bốn trụ đã phá đổ, chỉ có vô minh nên sanh ra sai lầm. Nói về nói pháp gồm có hai môn, một là nói thẳng, hai là nói thành nhau. Phần đầu kinh gọi là nói thẳng, nghóa là nói thẳng lý không hai chỉ một đạo thanh tịnh, gọi là diệu. Trong văn kinh “Chỉ có một cửa mà lại nhỏ hẹp”. Nói một là không có chín mươi sáu thứ khác, cũng không sự khác nhau của năm thừa, chỉ có một đạo thanh tịnh nên gọi là một. Chí diệu, rỗng rang gọi là cửa, không chứa tâm ái kiến của phàm phu nên gọi là hẹp, cũng không chứa kiến chấp đoạn thường của Nhị thừa nên gọi là nhỏ. Phần đầu kinh chính là nói về một đạo thanh tịnh, bác bỏ ái kiến của phàm phu, kiến chấp đoạn thường của Nhị thừa nên gọi là nói thẳng. Phần sau kinh gọi là nói thành nhau, trước tuy nói một đạo thanh tịnh, mà chưa biết một đạo nầy là vô thường hay thường trụ. Nếu là vô thường thì cũng đồng như chín mươi sáu thứ, nếu là thường thì cũng không khác bốn thừa, chính là pháp thô, không phải pháp diệu. Một đạo thanh tịnh là thường hằng bất biến, vượt khỏi thường, vô thường nên gọi là diệu. Nhưng thể của pháp đã là thường, thì người chứng pháp cũng là thường trụ, cho nên kinh Niết-bàn chép: “Chỗ quy thú của Chư Phật là pháp. Do pháp là thường nên Chư Phật cũng thường”. Do ở sau thường nên ở trước là độc nhất, diệu nghóa bắt đầu sáng gọi là nói thành nhau. Mười nghóa trên đây đều là phân chia đại khái, chương trước chẳng phải không có ý sau, chương sau chẳng phải không có ý trước, nhưng một bề chỉ bày là từ số nhiều mà luận, cho nên có sự phân chia này. Hỏi: Chia làm hai đoạn như mười môn trên, nếu không khai thì làm sao biết giáo pháp? Đáp: Kinh tên là Diệu Pháp Liên Hoa, trước sau đều nói về Trung đạo, chánh quán không hai nên gọi là diệu, không đắc, không nương dựa, không đắm nhiễm nên gọi là Liên Hoa. Phàm phu đắm “có”, Nhị thừa mê “không”, Bồ-tát đắm Trung đạo, như vậy một và ba, thường, vô thường, cho đến một mảy may mê đắm đều là pháp thô, không gọi là diệu, đều là nhiễm ô, không phải Liên Hoa. Nay chỉ khiến đắc nhất chánh quán tức đầy đủ tất cả Phật pháp, chánh quán mầu nhiệm nên gọi là pháp diệu, đến như người dùng pháp này làm thân nên gọi là pháp thân. Chư Phật dùng pháp này làm tánh nên gọi là Phật tánh, chỉ một tự tại nên gọi là Nhất thừa, chẳng cảnh nào không chiếu nên gọi là Bà- nhã, chẳng hệ lụy nào không vắng lặng nên gọi là Niết-bàn, nên nói rằng: Bà-nhã là một pháp. Phật nói các món gọi là tùy các chúng sanh, vì đó mà đặt ra các danh tự khác nhau, cho nên người học chỉ cần quán xét tâm thanh tịnh. Trong văn kinh chép: Phật vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện ra đời, dó là khai tri kiến Phật, tri kiến Phật tức là chánh quán. Tuy có mười nghóa nhưng nay tạm y theo thừa phương tiện thừa chân thật và thân phương tiện, thân chân thật, để chia thành hai đoạn. Hỏi: Đoạn đầu nói về thừa chân thật, là nói nhân hay nói quả? Đáp: Đoạn đầu nói lược rộng và đoạn sau làm chứng lời nói đều là khen ngợi trí tuệ của Phật, tức là nói về nghóa của của quả thừa. Sở dó như vậy vì gồm có hai nghóa: Quả thừa đức: chẳng có gì không tròn đầy, hệ lụy chẳng có gì không trừ hết nên gọi là diệu, có thể ví dụ như hoa sen. Hoa sen có đài, lá đầy đủ như đức chẳng có gì không tròn đầy, thanh tịnh không nhiễm ô, như hệ lụy chẳng có gì không trừ hết, cho nên nói thừa này là mầu nhiệm thanh tịnh bậc nhất, vì thế dùng quả thừa làm chính. Nhân thừa do đức chưa tròn đầy, hệ lụy chưa trừ hết nên gọi là diệu, thiếu hai ng- hóa này nên không được dụ như hoa sen. Phần đầu kinh chính là nói quả Nhị thừa là phương tiện, nên nói một Phật thừa là chân thật, tức khiến xả bỏ quả Tiểu thừa mà cầu quả Đại thừa, vì thế nói quả thừa là chính. Đã nói có một quả Phật thừa, tức là quả Nhị thừa thuộc về nhân thừa, khiến kia tu nhân Phật mà cầu quả Phật. Hai đoạn trước sau mỗi đoạn chia làm bốn phần: Bốn đoạn trước gồm: Lược bỏ ba bày một động chấp sanh nghi ngờ. Động chấp sanh nghi bày tỏ nghi dẫn đến thưa thỉnh. Rộng bỏ ba bày một tức dứt nghi sanh tín. Nói về truyền bá. Sở dó có bốn đoạn này là do đại chúng lúc này căn cơ Đại thừa đã phát động, ứng khai nói Nhất thừa, chỉ vì chấp Ba thừa đến nay đã lâu nên chưa được giảng rộng, tạm lược bỏ ba bày một để động chấp sanh nghi ngờ. Người lãnh thọ giáo pháp bỗng nghe thuyết phi thường, nên sanh tâm nghi, dẫn đến thưa hỏi. Động sự cố chấp nghóa là đáng trừ bỏ, nghi ngờ sanh có lý đáng được hiểu, đã có lời xin nên có nhận lời thỉnh mà nói rộng, phá sự chấp ba thừa, dứt sự nghi ngờ mà sanh tin hiểu. Một châu nầy nói đã tròn đầy, còn muốn che chở xa đến đời vị lai, cho nên lần lượt truyền bá. Phần văn thể hiện bốn đoạn này là: Từ phẩm Phương tiện cho đến hết phần văn xuôi và kệ tụng đầu là đoạn thứ nhất. Từ câu: Bấy giờ trong đại chúng, cho đến hết ba lần xin của ngài Xá-lợi-phất là đoạn thứ hai. Từ câu: Bấy giờ, đức Thế tôn bảo ngài Xá-lợi-phất cho đến hết phẩm Thọ Học Vô Nhân Ký gồm bảy phẩm rưới là đoạn thứ ba. Một phẩm Pháp Sư là đoạn thứ tư. Đoạn thứ nhất chia làm hai phần: Nhân khen ngợi hai trí, dường như khai tông Nói rõ, nói lược. Sở dó trước dường như khai tông, phần sau lại nói lược, bởi lý Nhất thừa chân thật không thể nói thẳng, ba chấp không thể bác bỏ ngay. Nay muốn khai ngộ chúng sanh để dứt nghi, cho nên khen ngợi hai trí của Phật, chẳng phải chỗ hiểu biết của người Nhị thừa. Khen ngợi hai trí của Phật tức là dường như nói lên chân thật, nói người Nhị thừa không biết tức dường như khai phương tiện. Chương trước đã có nghóa dường như cho nên phần sau phải dần dần rõ ra; vì chưa thể nói rộng nên gọi là nói lược. Phần đầu chia làm hai, là văn xuôi và kệ tụng, văn xuôi lại có hai phần: Nói lời kỳ diệu khen ngợi hai trí. Im lặng mà khen ngợi hai trí. Phần đầu lại có hai ý: Khen ngợi hai trí của Chư Phật Khen ngợi hai trí của đức Thích-ca Phần khen ngợi hai trí của Chư Phật lại có hai ý: Lời tựa của nhà dịch kinh nói Phật xuất định và xuất hiện người đối đáp. Chính là khen ngợi hai trí. “Lúc bấy giờ đức Thế: Phật nhập Tam-muội việc làm đã rồi, nay là lúc nói pháp đến nên xuất định. Nói theo ba nghiệp, thì nhập định là ý nghiệp làm lợi ích, phát ra ánh sáng là thân nghiệp làm lợi ích, nay muốn nói miệng nghiệp làm lợi ích nên xuất định. An lành: là bày tướng của bậc đại nhân, muốn nói pháp lớn nên trước phải bày tướng của đại nhân. Lại nữa, an lành là động tịch vô ngại, cho nên luận chép: Nói lên định lực tự tại của Như lai mà không ai kinh động nên gọi là an lành. “Bảo với Xá-lợi-phất”: đó là nói với người đối diện. Hỏi: Vì sao không bảo các Bồ-tát? Đáp: Thanh Văn tự chấp mình là rốt ráo, vì muốn chê trách nên nói với họ, Bồ-tát không có chấp này nên không nói với Bồ-tát. Hỏi: Vì sao không nói với Duyên giác? Đáp: Trong hội Pháp Hoa không có người chứng quả Duyên giác, tuy có người tu nhân Duyên giác mà lợi căn không bằng Thanh Văn nên không nói. Hỏi: Kinh này phần khai tông liền bảo với ngài Xá-lợi-phất, so với kinh Đại Phẩm có gì khác nhau? Đáp: Kinh Đại Phẩm là thầm bảo, dùng thầm khai khiến người Tiểu thừa học Đại thừa. Kinh này là hiển bảo, nói lên khiến Thanh Văn tu đạo Bồ-tát. Hỏi: Nếu vậy vì sao luận Trí Độ chép: Kinh Đại Phẩm chẳng phải bí mật, kinh Pháp Hoa là bí mật? Đáp: Kinh Đại Phẩm không nói người Nhị thừa thành Phật, chỉ nói Bồ-tát thành Phật, nghóa ấy dễ hiểu, như dùng cỏ thuốc làm thuốc, nên không gọi là bí mật Kinh Pháp Hoa nói Nhị thừa thành Phật so với xưa là khó hiểu, như lấy chất độc làm thuốc, nên gọi là bí mật. Hỏi: Kinh này đối với ai là khó, dễ? Đáp: Kinh Đại Phẩm xưa dạy A-nan là dễ hiểu, do Bồ-tát là bậc đại nhân lại nói bậc đại nhân thành Phật, cho nên A-nan liền hiểu, vì thế kinh Đại Phẩm phó chúc cho Ngài A-nan. Kinh Pháp Hoa nói người Nhị thừa thành Phật khác với xưa dạy, đối với Thanh Văn là khó hiểu, cho nên kinh Pháp Hoa không phó chúc cho Ngài A-nan. Sở dó Phật bảo với Thanh văn, theo ý của luận Pháp Hoa gồm có năm nghóa: Giúp Thanh Văn tu hành nhân Đại thừa Giúp chứng được quả Đại thừa Giúp Thanh Văn tu nhân Đại và quả Đại tâm không khiếp sợ. Muốn giúp người khác khéo suy nghó nên nói, dối với người tâm Tiểu thừa còn nói họ thành Phật, huống là người khác há không cầu thành Phật sao? Khiến hàng Thanh Văn không khởi tâm cho rằng việc phải làm đã làm xong, vì thế trước khiến họ chứng quả lớn, nay khiến họ bỏ quả nhỏ. Hỏi: Vì sao không bảo các Thanh Văn khác mà lại bảo riêng Ngài Xá-lợi-phất? Đáp: Ngài Xá-lợi-phất căn duyên thành thục, lãnh ngộ trước nhất, lại là đại tướng theo Phật xoay bánh xe pháp. Nay nói về bình đẳng trí tuệ bậc nhất, nên phải đối với người trí tuệ mà nói, cũng là thích hợp căn duyên. “Trí tuệ của Chư Phật là sâu xa vô lượng”, đây là phần chánh khen ngợi hai trí của Chư Phật. Không có người xin mà Phật tự nói gồm có hai nghóa: Nói lên Như lai có tâm đại bi thuần nhất biết căn cơ động thì nói không đợi người xin. Ngài Tăng Triệu chép: Bạn chân thật không đợi mời, như mẹ hiền đến với con thơ. Muốn nói lên lý sâu xa huyền diệu không ai có thể hỏi, cho nên tự nói. Như kệ sau chép: “Pháp đắc nơi đạo tràng, không ai có thể hỏi”. Nói về trí tuệ, thì kinh nói khác nhau nhau, hoặc chỉ một quả trí gọi là Như thật trí. Nếu trong nhân mà chưa dứt hết hoặc thì sở chiếu chưa chân thật, quả địa hết hoặc nên trí tuệ chẳng có gì là không chân thật. Hoặc chia ra hai trí; chiếu “không” là Nhất thiết trí, thấy ở “có” là nhất thiết chủng trí, đây là từ chỗ chiếu hai đế mà gọi tên; do pháp không lìa chân, tục, nên trí chỉ khai ở hai. Hoặc khai ba trí, như phẩm Chúc Lụy ở kinh này nói trí Phật, Như lai trí, tự nhiên trí, trí Phật là Nhất thiết chủng trí, Như lai trí tức Nhất thiết trí, tự nhiên trí tức vô công dụng trí. Hai trí trên tùy ý mà biết, không phải tác ý nên gọi là tự nhiên trí. Lại nói là Bốn trí, như phẩm Thí dụ nói, ba trí trước đồng như trên, thứ tư là Vô sư trí. Vô sư trí là ba trí trên không từ thầy mà có. Bốn trí này là chánh tông của kinh nên gọi là trí tuệ của Chư Phật. Văn nầy chia làm ba phần: nêu cả hai, giải thích cả hai kết luận cả hai. Trí tuệ của Chư Phật, là nêu thật trí của Phật, rất sâu vô lượng là khen ngợi thật trí của Phật. Phàm phu, Nhị thừa và Bồ-tát đều không thể so lường nguồn trí của Phật nên gọi là rất sâu, cũng không thể so lường bờ mé trí Phật nên gọi là vô lượng. Kinh Vô lượng thọ chép: Biển trí tuệ của Như lai là sâu rộng không có bờ, đáy, Nhị thừa chẳng thể so lường, chỉ có Phật mới biết. Luận Pháp hoa nói về nghóa rất sâu gồm có năm thứ: Nghóa rất sâu: tức là quả đức của Phật có Vô Lượng Nghóa. Thể rất sâu: tức là pháp thân bình đẳng không có khác nhau. Nội chứng rất sâu: tức là Phật chứng pháp thân tương ưng với pháp thân, gọi là nội chứng. Y chỉ rất sâu: tức Chư Phật mười phương đồng y chỉ pháp thân. Vô thượng rất sâu, Bồ-đề vô thượng là sở chứng của Chư Phật. Quả đức thì phải có đủ năm thứ này. Lại sự sâu xa thì bốn trường hợp cũng không thấy được bờ đáy của trí ấy nên gọi là rất sâu, trăm phi không so lường được bờ mé ấy nên nói là vô lượng. Hỏi: Lẽ ra chỉ nói là sâu, sao gọi là rất sâu? Đáp: Rất trong sâu nên gọi là rất sâu. Nhưng diệu quán của Như lai không hề có ngu hay trí, vì đối sự ngu của Nhị thừa nên gượng gọi là trí, cũng chẳng có sâu, cạn, lượng hay vô lượng, vì đối với Nhị thừa không thể so lường nên nói là vô lượng. Kinh Hoa Nghiêm chép: Pháp giới chẳng có lượng cũng chẳng có vô lượng, đức Mâu-ni đều vượt ngoài lượng và vô lượng. Lại khen ngợi nghiêng về hai trí của Phật, ý muốn nói chỉ có trí Phật là rốt ráo, các trí khác chưa rốt ráo, đây là nói lên rốt ráo để ngầm bác bỏ Nhị thừa chưa rốt ráo. Luận lại chép: Vì các đại chúng mà sanh tâm tôn trọng cuối cùng muốn nghe Như lai nói pháp, cho nên khen ngợi trí Phật. Lại nói pháp gồm có hai môn là khen ngợi thuốc và cho thuốc. Nay lược nói là khen ngợi thuốc, sau nói rộng là trao thuốc. Hỏi: Đức của Phật là vô cùng, vì sao khen ngợi nghiêng về trí tuệ? Đáp: Nhất thừa lấy muôn đức làm thể, ở trong muôn đức thì tuệ là chính, cho nên khen ngợi nghiêng về trí tuệ. “Môn trí tuệ đó khó hiểu khó vào”: phần này nêu trí phương tiện, khen trí phương tiện. Trí tuệ ấy là trí tuệ đã nói trên, chữ môn là trí tuệ phương tiện, nói tất cả giáo là có cả trí Phật, cho nên dùng tất cả giáo làm môn trí tuệ Phật, chánh lấy tất cả giáo làm môn. Như phẩm Dược Thảo Dụ chép: Đối với tất cả pháp, trí phương tiện mà giảng nói, pháp được nói đó đều đến nhất thiết trí, đây đủ làm chứng. Lại nữa, giáo năng thông sanh quán giải, là giải là môn, nhưng giáo năng sanh thật giải, thì cùng thật giải làm môn, cũng khiến biết quyền và quyền giải làm môn. “Khó hiểu khó vào”, ban đầu không thể biết là khó hiểu, sau không thể ngộ gọi là khó vào. “Tất cả Thanh văn và Bích-chi-phật không thể biết được”: nói người không thể hiểu. Trên khen ngợi trí Phật sâu xa, là muốn nói lên Nhất thừa, môn trí tuệ ấy khó hiểu khó vào, cho đến Nhị thừa đều không thể biết, là muốn bác bỏ Nhị thừa. Sở dó Nhị thừa không thể biết, là vì Như lai đối với một mà nói ba, muốn cho do ba mà hiểu một, cho nên lấy ba làm một môn, người Nhị thừa bèn chấp ba, không thể do ba mà ngộ một, vì thế không thể biết ba thừa. Người Nhị thừa không hiểu ba, lại không nhập Nhất thừa, tức ở bên ngoài môn. Vì thế kệ sau có chép: “Còn đứng ở ngoài cửa”. Hỏi: Trên đã nói khó hiểu khó vào, sao nay chỉ nói không thể biết? Đáp: Nhị thừa còn không thể biết nói ba thừa là để biểu hiện Nhất thừa, huống gì có thể do ba để nhập Nhất thừa? “Vì sao như vậy”: đoạn văn dưới đây là phần giải thích cả hai trí của Chư Phật. Sở dó thật trí rất sâu vô lượng, quyền trí khó hiểu khó vào, do nhân thực hành đã chứa nhóm, cho nên quả sâu mầu khó hiểu khó vào, lẽ ra cũng đối với Nhị thừa. Sở dó không hiểu, là do gieo nhân đã gần mà quả trí lại chậm lụt nên không thể hiểu. Văn nầy có hai phần: câu đầu nói gặp Phật đã nhiều, câu kế nói tu hành đã lâu. Phần sau lại có hai câu, câu đầu chính là nói tu hành tất cả hạnh, câu kế nói tuy tu hành mà siêng năng mạnh mẽ, câu đầu nói hạnh là chỗ để cố gắng, câu sau nói siêng năng là tự cố gắng. “Tiếng tốt đồn khắp”: do đức vững ở bên trong nên tiếng tốt truyền ra bên ngoài. Sở dó biết Phật tu đủ các hạnh và tinh tấn mạnh mẽ, do lúc tu các hạnh thì tiếng tốt dồn khắp nên tự chứng biết. Theo luận Nhiếp Đại thừa nói có bốn thứ tu: Cúng dường vô lượng trăm ngàn Chư Phật, tức gần gũi rất nhiều Đức Phật, thời gian lâu dài, đây gọi là trường thời tu. Thực hành tất cả vô lượng đạo pháp của các Đức Phật, chẳng có hạnh nào không tu, gọi là vô dư tu. Mạnh mẽ tức lúc tu hành không có tâm biếng nhác, đây gọi là tôn trọng tu. Tinh tấn tức là liên tục nghó đến pháp lành không để các niệm khác xen vào, gọi là vô gián tu. Trước là đốn phương tiện, nay là thường phương tiện tu bốn thứ này tức có đức bên trong, do đức bên trong đã đủ nên tiếng tốt đồn khắp. “Thành tựu pháp rất sâu không hề có”, đây là câu nói kết thúc hai trí, trước là lời kết về thật trí, tùy theo sự thích ứng mà nói, kế nói lời kết về phương tiện trí. Sở dó nói lời kết là do có ba môn mà nêu ra, giải thích và kết thúc thì nghóa mới đầy đủ. “Xá-lợi-phất! từ khi ta thành Phật đến nay”: theo luận Pháp Hoa thì trước đã nói về môn diệu pháp công đức, nghóa là diệu pháp Như lai chứng đắc rất sâu khó hiểu khó vào. Nay khen ngợi công đức Pháp sư của Như lai, do Phật thành tựu, các công đức nên có thể giáo hóa chúng sanh. Trước đã khen ngợi hai trí của Chư Phật, nay khen ngợi hai trí của đức Thích-ca. Sở dó trước nói về Chư Phật sau nói về đức Thích-ca, do chỉ bày sự ngộ dần cho chúng sanh. Trước nói Chư Phật là khai tông, sau nói đức Thích-ca là thuận theo, tức khiến người chấp ba thừa không sanh nghi ngờ chê bai. Văn nầy cũng có ba phần: Khen ngợi quyền trí. Khen ngợi thật trí. Lại khen ngợi quyền trí Hỏi: Nay khen ngợi hai trí của đức Thích-ca, có gì khác với trước? Đáp: Gồm có ba nghóa: Trên là tóm lược khen ngợi hai trí, nay là khen ngợi rộng các đức, ban đầu lược sau rộng là vì giải nghóa, hai trí là chủ của Nhất thừa, cho nên ban đầu lược khen ngợi hai trí, quả thừa chẳng có đức nào không đầy đủ, cho nên sau rộng khen ngợi các đức. Khen ngợi Chư Phật từ thật mà khởi quyền, khen ngợi đức Thích-ca dùng quyền giải thích thật. Khen ngợi Chư Phật nêu nhân giải thích quả, khen ngợi Đức Thích-ca là nêu quả giải thích quả. Câu “từ khi ta thành Phật đến nay” là khen ngợi quyền trí gồm có hai nghóa: Như trên giải thích Chư Phật từ thật khởi phương tiện, nay từ phương tiện khởi thật. Theo thế văn liên tục, trên nói lược trí phương tiện, nói về khó hiểu khó vào, nay giải thích rộng trí phương tiện nói ý khó hiểu khó vào. “từ khi ta thành Phật đến nay”: là nói thành đạo có hai nghóa: Hiện sanh cung vua, thành đạo ở Già-da, từ đây trở đi là thí pháp phương tiện. Y theo đoạn văn sau nói thành Phật đã lâu, từ nay trở đi là ban pháp phương tiện, đây là nói về thời gian dùng quyền. Các thứ nhân duyên”, đây là nói về sử dụng quyền trí. Nhân duyên tức là nhân duyên để độ người ba thừa, nói nhập đạo khác nhau, do sự nương duyên mỗi người khác nhau nên nói là các thứ. “Các thứ thí dụ”: gồm có hai nghóa: Vì người ba thừa mà nói các thí dụ, như luận Trí Độ chép: trong ba tạng, Phật vì các Thanh Văn mà nói các thí dụ, nhưng không nói về thí dụ thành Kiền-thát-bà, cho đến vì các Bồ-tát mà nói rộng mười loại thí dụ. Sở dó trong ba tạng không nói thí dụ thành Kiền-thát-bà, là vì ba tạng không nói bản tánh tất cả pháp vốn không, mà thí dụ thành Kiền- thát-bà nói về nhân năng thành và quả sở thành vốn không, cho nên trong ba tạng không nói Trong luận Thành Thật cũng có thí dụ này, dẫn thí dụ trong Bồ-tát tạng và trong pháp Tiểu thừa mà giải thích. Hợp hạng người Ba thừa mà ví dụ, như ba chim thoát lưới, ba thú qua sông. “Rộng nói ngôn giáo”: trên là thí dụ, nay là pháp. “Dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh”, trên nói thí dụ và pháp, đều khéo léo nên gọi là phương tiện. Lại nữa, thí dụ và pháp trên đều thuộc về miệng nghiệp, nay nói thân nghiệp hiện thần thông, ý nghiệp thầm giáo hóa, dó là dùng vô số phương tiện. Luận Pháp Hoa chép: Phương tiện tức là từ cung trời Đâu-suất hiện sanh cho đến thị hiện nhập Niết-bàn. Lại chép: Vô số phương tiện là thị hiện tà pháp ngoại đạo, nói lên lỗi lầm trong ấy, thị hiện chánh pháp công đức. Lại có bốn thứ phương tiện: Khiến nhập các pháp lành Khiến dứt trừ nghi ngờ Khiến nhập trí tăng thượng cao quý Y theo bốn nhiếp pháp mà nhiếp lấy chúng sanh. Nói tám tướng là chánh phương tiện, nay là chỉ bày tà phương tiện. “Dẫn dắt chúng sanh khiến xa lìa các chấp”, đây nói sử dụng ý phương tiện. Sở dó dùng vô số phương tiện là vì khiến chúng sanh xa lìa chấp trước. Do chúng sanh đắm nhiễm ba cõi, muốn giúp họ xa lìa nên nói pháp ba thừa, nhưng không nói thật có ba thừa rốt ráo, mà chúng sanh lại chấp ba thừa là rốt ráo, vì thế không hiểu ý Phật, nên đoạn văn trên nói khó hiểu khó vào. Lại, Đức Phật lập ra phương tiện vốn là giúp cho chúng sanh lìa chấp trước, mà chúng sanh lại chấp ba thừa, đây là đắm ở chỗ vô chấp, vì thế không hiểu ý Phật. Luận Pháp Hoa chép: có bốn thứ chấp: Chấp giới, tức chấp ba cõi. Chấp địa, nghóa là chấp từ Sơ thiền cho đến Phi phi tưởng và định Diệt tận. Chấp phần, nghóa là phần tại gia và phần xuất gia. Phần tại gia là chấp mình đồng loại làm các thứ nghiệp và tà kiến. Phần xuất gia là chấp tiếng tăm lợi dưỡng, các thứ phiền não và hiểu biết. Chấp thừa, là chấp Tiểu thừa và Đại thừa. “Vì sao như vậy? Đức Như lai đầy đủ phương tiện v.v…”: đây là giải thích trí phương tiện. Do đức bên trong tròn đầy nên bên ngoài dùng sự khéo léo để lợi ích chúng sanh. “Xá-lợi-phất! Tri kiến Như lai rộng lớn sâu xa”: đây là phần khen ngợi trí chân thật. Trên dùng phương tiện để nêu tri kiến, đó là trí phương tiện, nay nói thẳng tri kiến là rộng lớn sâu xa gọi là thật trí. Có bốn nghóa để khen ngợi tri kiến: Chiếu không chỗ nào không đến nên gọi là rộng. Vượt khỏi Nhị thừa nên gọi là lớn. Chiều dọc không thể thấy đáy nên gọi là sâu. Chiều ngang không thấy bờ mé nên gọi là xa. “Đức vô lượng vô ngại lực”, xưa chép: Bốn tâm vô lượng gọi là vô lượng, bốn biện tài vô ngại gọi là vô ngại, nay y theo Luận Pháp Hoa mà nói vô chướng vô ngại. Trên đã nêu tri kiến, nay dùng hai môn để khen ngợi. Rộng lớn sâu xa là khen ngợi trí tròn đầy. Vô chướng vô ngại là khen ngợi sự hệ lụy không gì không trừ hết. “Lực vô sở úy”, từ đầu phẩm cho đến đoạn này tuy có nói Chư Phật và đức Thích-ca nhưng chỉ là khen ngợi trí tuệ. Từ đoạn văn này về sau là khen ngợi đủ tất cả đức, không chỉ trí tuệ sâu rộng mà tất cả các đức cũng rất sâu rộng vô lượng. Sở dó khen ngợi đủ tất cả các đức, gồm có hai nghóa: Dùng các đức làm thừa, nay muốn khen ngợi Nhất thừa cho nên khen ngợi đủ tất cả đức. Người mê hoặc nghe khen ngợi trí tuệ Phật sâu xa cho rằng còn lại các đức không được, cho nên khen ngợi các đức là sâu xa, chẳng phải chỗ hiểu biết của người Nhị thừa. Mười lực là đức bên trong của Phật nên khen ngợi trước, do biết căn cơ, hiểu rõ thuốc nên nói mười lực, bên trong nói mười cảnh nên bên ngoài nói không sợ sệt, vì thế kế là nói lên sự vô úy. Nói lực vô úy là khen ngợi trí tuệ Phật; thiền định, giải thoát, Tam-muội là khen ngợi công Đức Phật. Thiền là Tứ thiền, định là bốn định Vô sắc, giải thoát là tám giải thoát, Tam-muội là không, vô tướng, vô nguyện, bốn môn nay là theo thứ lớp. Ban đầu đắc Bốn thiền, kế là đắc Bốn không định, đủ tám thứ thiền này thì đắc tám giải thoát, do đắc tám giải thoát nên có thể chứng ba không môn. Nhưng đây đều là một thể, tùy theo nghóa mà phân chia ra. Công đức chứa nhóm thì gọi là thiền, gồm nhiếp không tán loạn thì gọi là định, muôn lụy đều dứt gọi là giải thoát, tâm ấy ngay thẳng nên gọi là Tam-muội. “Sâu vào chốn không ngằn mé”, trên nói các tức chia ra tám khoa, nay khen ngợi chung, đối với mỗi đức, Phật đều biết rõ cùng tột, người khác không thể biết đến ngằn mé nên nói là không ngằn mé. “Thành tựu tất cả các pháp không hề có”: trên chánh là khen ngợi các đức gồm tám khoa còn chưa hết, nên nay tông kết lời khen ngợi. “Xá-lợi-phất! Như lai hay dùng các thứ phân biệt”: đây là phần khen ngợi lại quyền trí. Trên nói thành tựu tất cả pháp không hề có, do đức bên trong đã tròn đầy nên bên ngoài khéo nói pháp, khéo nói pháp gồm có hai nghóa: Khéo nói pháp. Khéo thích hợp căn cơ. “Lời lẽ êm dịu”: trên là khen ngợi bốn trí vô ngại, nay khen ngợi năm thứ âm thanh, ở đây khác với khen ngợi quyền trí ở trên. Trên là nói ý phương tiện, tức là khiến chúng sanh lìa các chấp trước, không mê đắm Tiểu thừa, tức là bỏ Tiểu thừa. Nay khen ngợi đức khéo nói pháp của Phật, khiến chúng sanh ưa thích Đại thừa. “Xá-lợi-phất! Tóm lại, vô lượng, vô biên pháp không hề có, Phật đều thành tựu”. Như lai chẳng những có lời lẽ khéo léo nói pháp Nhất thừa, mà còn đầy đủ công dụng cao quý của tất cả pháp ít có. “Thôi Xá-lợi-phất! Chẳng cần nói nữa”: đây là ngừng nói mà lại khen ngợi hai trí. Trên tuy khen ngợi trí tuệ sâu xa vô lượng, mà còn dính mắc danh ngôn, chưa cùng tận cái đẹp của khen ngợi. Còn như trí của người mà tâm thực hành đã dứt, ngôn ngữ cùng diệt, khen ngợi chỗ không thể khen ngợi, đó chính là sự cùng tận sự tốt đẹp về khen ngợi, cho nên tuy ngừng nói mà lại khen ngợi hai trí. Lại nói “Thôi” là tóm lại văn trên qụy về chỗ không danh tướng. Trên là khai hai trí của Chư Phật và quyền trí, thật trí của đức Thích-ca, khen ngợi thật trí là sâu xa, khen ngợi quyền trí là khó hiểu khó vào, đây đều là ở chỗ không danh tướng mà mượn danh tướng để nói. Nhưng thật tướng các pháp là không hề có Chư Phật và Đức Thích-ca, sâu và không sâu, phương tiện và thật, vì thế Bát-nhã chép: Các pháp chẳng sâu, chẳng diệu, cho đến chẳng trí, chẳng ngu, chẳng quyền, chẳng thật. Lại nữa, ngừng nói là muốn cho đại chúng khởi tâm tôn trọng dối với pháp, mà sau có ba lần xin cầu:lại muốn cho năm ngàn người tăng thượng mạn rời khỏi chỗ ngồi. Luận Pháp Hoa chép: Chỉ bày pháp khí, tâm chúng sanh đã đầy đủ. Ý này nói Bồ-tát có căn tánh lanh lợi, khi nghe lời nói trên thì đã liễu ngộ, không cần nói lại, cho nên ngừng nói. Theo ý nầy thì khi nói lược một châu chính vì Bồ-tát, do Bồ-tát có căn tánh lanh lợi, nghe lược nói thì liền lãnh ngộ, hàng Thanh văn căn tánh chậm lụt chưa thể tỏ ngô, vì thế ba lần cầu xin, khi nghe nói rộng mới được hiểu. Cho nên nói lược chung cho cả Đại thừa, Tiểu thừa, mà Bồ-tát hiểu trước, nên nói rộng là riêng cho Thanh Văn. Xưa cùng có sự giải thích như thế. Theo văn có hai phần: Tuyên bố ngừng nói. Giải thích vì sao ngừng nói. Phần tuyên bố như văn trên, giải thích ngừng nói tức là câu “vì sao”, ở đây có hai ý: Nói về pháp diệu: vì chúng sanh không hiểu nên không thể nói. Chỉ có Phật mới hiểu được nên không cần nói; ý nghóa vì sao không nói chỉ có hai điều này. Hỏi: Xưa nay nói kinh này chiếu ba thừa là phương tiện, chiếu Nhất thừa là trí chân thật, thể ấy là có pháp, sao lai gọi là bặt lời? Đáp: Có người chép: Trí Nhất thừa là dứt bặt ngôn ngữ của ba thừa. Lại có người vấn nạn: Tuy dứt bặt ngôn ngữ ba thừa mà còn có ngôn ngữ của Nhất thừa, sao gọi là bặt ngôn ngữ? Lại hoặc nhất thừa dứt bặt ngôn ngữ của ba thừa mà gọi là bặt lời, thì ba thừa cũng dứt bặt ngôn ngữ của nhất thừa, cũng là bặt lời. Nếu ba thừa, Nhất thừa không dứt bặt lẫn nhau, thì trâu, ngựa cũng chẳng thể không có. Nay nói đây chính là khen ngợi trí Phật, nên đoạn văn sau chép: “Trí tuệ mà Ta chứng đắc là mầu nhiệm bậc nhất”. Lại nói, “Pháp này không thể chỉ bày, tướng lời lẽ vắng lặng”. Vì thế trí tuệ của Như lai là chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải ba, không một, lìa người, lìa pháp, bặt quán, bặt duyên, tất cả danh ngôn đều không sánh bằng, nên nói là bặt lời. Kinh Đại Phẩm chép: Ban đầu Phật thành đạo thường ưa im lặng, không ưa nói pháp. Sở dó không nói, theo Khải sư thì nói sẽ mất đi sự chân thật của nó, người biết lại thành ngu, người chấp có thành trái với tánh, người chấp không thì thương tổn thân, vì nghóa này cho nên không nói. “Chỉ có Phật và Phật mới thấu tột”: ý lời này nói chỉ có Phật mới hiểu nên không cần nói. Thích luận chép: Nếu có hai Đức Phật đối nhau thì không có ngôn ngữ, tức là việc này. “Thật tướng các pháp”: Luận Pháp Hoa chép: Thể của Như lai tạng pháp thân bất biến, cho nên ở đây vừa gọi là thật tướng, vừa gọi là Phật tánh chánh pháp, là tên khác của chánh quán. “Các pháp tướng như vậy”, trước nêu thật tướng nghóa là nhất tướng môn, sau nói mười việc là: tướng, tánh, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả, báo, trước sau rốt ráo, là nêu sai khác tướng môn. Sở dó nói hai môn này, là nói các pháp không ngoài hai cảnh sai khác, vô sai biệt, trí của Chư Phật cũng không ngoài hai trí sai khác, vô sai biệt. Biết vô sai biệt gọi là nhất thiết trí, tức Như lai trí, chiếu rõ ở sai khác gọi là Nhất thiết chủng trí, tức là trí Phật. Nay đã khen ngợi trí Phật, cho nên nêu cảnh để nói lên. Hỏi: Lấy gì để biết hai nghóa là sai khác và vô sai biệt? Đáp: Phần kệ sau có nói đủ hai nghóa này: “Như vậy quả báo lớn, các thứ nghóa tánh tướng”. Đây là môn sai khác. “Pháp này không thể nói, tướng lời lẽ vắng lặng”. Đây là môn vô sai biệt. Nay nói sai khác, vô sai biệt; sai khác tự nhiên mà vô sai biệt, nên nói rằng: Không hư giả danh mà nói thật tướng. Tuy vô sai biệt mà tự nhiên sai khác, nên nói rằng: không động chân tế mà lập các pháp. Liễu ngộ như thế thì chỉ có Phật nên khen ngợi trí Phật. Hỏi: Câu trước nói chỉ có Phật và Phật mới biết cùng tận thật tướng các pháp, nay thì nói các pháp có tướng như vậy, tánh như vậy, tức là giải thích thật tướng. Vì sao nói trước là vô sai biệt, sau là sai khác? Đáp: Trước nêu thật tướng, sau nói tánh tướng, là muốn nói sai khác, vô sai biệt, nên nêu sai khác để giải thích vô sai biệt. Hỏi: Mười câu trong văn này là nói pháp gì? Đáp: Nói chung tất cả các pháp đều đủ mười môn, nên trong luận Trí Độ nói tất cả pháp đều có chín thứ, cùng với đây là như nhau. Luận Pháp Hoa nói lược năm pháp, là chung tất cả pháp. Nay theo phần kệ sau, tạm nói nhân quả của Phật gồm cồ 10 pháp, vì thế kệ chép: “quả báo lớn như vậy, các thứ nghóa tánh tướng”. Cho nên, biết là căn cứ nhân quả của Phật là nói nghóa tánh tướng. Nhân quả của Phật là gồm đủ muôn hạnh muôn đức, nay lại đối với nhân quả Bà-nhã để nói lên. “Tánh như vậy, tướng như vậy”. Tức là Bà-nhã không chấp Là tướng, tướng không chấp trước thì thể không thay dổi nên gọi là tánh, Bà-nhã dùng chánh quán làm thể. Bà-nhã có công năng dứt hoặc nên gọi là lực, Bà-nhã có dụng chiếu cảnh nên gọi là Tác, từ chỗ tu tập không có sở đắc mà sanh quán nên gọi là Nhân, tức là nhân duyên trong bốn duyên. Do cảnh thật tướng phát trí thật tướng nên gọi là duyên, tức là duyên trong bốn duyên. “Quả như vậy, báo như vậy”. Có chỗ nói: thể là một mà nghóa là khác theo nhân lực làm quả, nghóa đáp nhân làm báo. Thảo luận Tỳ-đàm thì quả chung báo riêng. Hữu vi vô vi đều gọi là quả, báo chỉ là quả hữu vi. Chung thì có hữu lậu vô lậu, báo thì chỉ có hữu lậu, quả thì có cả ba tánh, báo thì chỉ có tánh vô ký. Kinh Niết-bàn chép: Pháp vô lậu từ nhân sanh ra, lại không tạo nhân nên gọi là quả. Pháp hữu lậu lại năng sanh quả nên gọi là báo. Luận Nhiếp Đại thừa chép: Nghóa sanh ra gọi là quả nghóa thuần thục gọi là báo, cộng dụng gọi là quả, dụng riêng gọi là báo. Nay tạm y theo nghóa nhân quả của Phật để giải thích: Bà-nhã là nhân, Tát-bà nhã là quả, năm độ là nhân, phước đức trang nghiêm là báo, đức của Phật đáp nhân là quả, khởi ứng dụng là báo, pháp thân là quả, báo thân là báo. Cho nên, Kinh Niết-bàn chép: Niết-bàn vô nhân mà thể là quả, tức là pháp thân vốn có tu nhân, sở đắc nên gọi là báo. “Các thứ trước sau rốt ráo như vậy”, Bà-nhã làm nhân gọi là trước, Tát-bà nhã làm quả gọi là sau, cũng nói rằng: do Tát-bà nhã nên nói Bà-nhã, nên Tát-bà nhã là trước, Bà-nhã là sau. Luận Trí Độ chép: Bà-nhã là sanh nhân của Phật, Phật vì Bà-nhã mà nói nhân. Kinh Thập Địa chép: Thập địa như vậy là căn bản của Chư Phật, tức Thập địa là gốc, Phật là ngọn. Lại chép: Thập địa như vậy từ trí tuệ Phật sanh ra, tức Phật là gốc, Thập địa là ngọn. “Tất cả rốt ráo” tức thâu nhân quả trên quy về lý phi nhân phi quả không hai. Cho nên phẩm Dược Thảo Dụ chép: Rốt ráo Niết-bàn tướng thường vắng lặng cuối cùng trở về không. Kế là phần kệ tụng chia làm hai: Kệ tụng nói nhờ ngôn từ khen ngợi hai trí. Hai kệ tụng dứt ngôn từ, thêm khen ngợi hai trí. Trong văn xuôi thì phần nói khen ngợi hai trí chia làm hai, trước khen Chư Phật sau khen đức Thích-ca. Nay phần kệ tụng lại chia làm hai ý khác: Hai bài tụng đầu khen ngợi hai trí tuệ của Phật. Hai bài kế là giải thích sự khen ngợi hai trí. Hai bài kệ đầu lại chia thành bốn cặp để giải thích: Bài kệ đầu khen ngợi chung hai trí của Chư Phật, bài kế khen ngợi hai trí của đức Thích-ca. Bài kệ đầu khen ngợi chung đức của Phật, bài kệ kế là khen ngợi riêng đức của Phật. Cho nên kệ chép: “Phật lực chẳng sợ gì”: ở đây nói về thật trí của Phật. “Và phá khác của Phật”, đây là trí phương tiện của Phật. Do trí phương tiện chỉ vì hóa tha nên gọi là pháp khác. Bài kệ đầu là khen ngợi người, cho nên chép: “Đấng Thế Hùng khó lường”: Bài kệ kế là khen ngợi đức cùng tột, nên chép: “Phật lực chẳng sợ gì”. Kệ đầu là khen ngợi trí vô sai biệt, nghóa là trong ngoài đều sâu xa duyên quán đều vắng lặng, bài kệ kế khen ngợi trí sai khác, sáng ở cảnh trí, như mười lực chiếu mười cảnh. “Vốn từ vô số Phật, tu đầy đủ các đạo”: đây là hai bài kệ sau nêu nhân để giải thích quả, cũng chia ra hai phần: Bài kệ đầu là nêu nhân để giải thích quả của Chư Phật. Bài kệ sau là nêu nhân của đức Thích-ca để giải thích quả của đức Thích-ca. Lại bài kệ đầu nêu nhân để giải thích quả là nói quả sâu xa mầu nhiệm chúng sanh không hiểu được. Bài kệ sau nêu nhân giải thích quả là nói chỉ có Phật mới hiểu được. Lại bài kệ đầu là nói về nhân tu hành của Phật cho nên có quả sâu xa, bài kệ kế là nói thực hành nhân đắc quả mầu nhiệm. “Quả báo lớn như vậy”, đây là phần kệ tụng về ngừng nói lại khen ngợi hai trí. Trong văn xuôi thì trước nói nghóa ngừng nói, sau giải thích ngừng nói, nay phần kệ tụng chỉ giải thích ngừng nói. Trong văn xuôi giải thích ngừng nói có hai ý, một là do chúng sanh không hiểu, hai là chỉ có Chư Phật mới biết cho nên ngừng nói. Nay tụng lại hai phần này gồm có mười ba hàng kệ rưỡi, chia làm bốn chương: Một bài kệ nói chỉ có Phật mới hiểu được. Một bài kệ rưỡi là nói chúng sanh không hiểu. Chín bài kệ rưỡi là giải thích vì sao chúng sanh không hiểu. Một bài kệ rưỡi là giải thích vì sao chỉ có Phật mới hiểu. Trong văn xuôi thì trước nói chúng sanh không hiểu, sau nói chỉ có Phật hiểu, nay phần kệ muốn kế văn kệ trước nên trước nói chỉ có Phật mới hiểu. Nửa bài kệ trên là nêu pháp sở giải, nữa bài kệ dưới là nêu người năng giải. “Quả báo lớn như vậy”, đây là nói hai câu quả và báo trong mười việc trên. “Các thứ nghóa tánh tướng”, tánh và tướng là tụng hai câu trong phần nhân, trong quả thì có pháp thân và báo thân, trong nhân thì có tướng bên ngoài và tánh bên trong. “Pháp dó không thể chỉ”: đây là nói chúng sanh không hiểu, nửa bài kệ trên là nói pháp khó hiểu, nửa bài kệ dưới là nói người không hiểu. Nói pháp ấy không thể chỉ là do pháp của quả báo lớn, tướng lời lẽ vắng lặng, cho nên không thể chỉ. Trên nói trong chỗ không danh tướng mà mượn danh tướng để nói, nên chia nhân quả làm hai. Nhưng chia nhân quả làm hai vì muốn chúng sanh ngộ phi nhân phi quả, không hai cho nên nói là vắng lặng. “Trừ các chúng Bồ-tát, người sức tin bền vững”, nửa bài kệ này là muốn giải Thích-câu nghi ngờ và bác bỏ Nhị thừa. Nói giải thích nghi ngờ, do kệ trước nói chỉ có Phật mới hiểu. Bài kệ kế là nói trừ Phật ra còn tất cả chúng sanh đều không hiểu, vậy thì chúng sanh nhờ đâu mà ngộ trí Phật? Vì thế giải thích rằng: Trừ các chúng Bồ-tát, người sức tin bền vững thì có thể tin hiểu, đến lúc thành Phật mới gọi là chứng hiểu. Kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát Thập địa gọi là văn kiến Phật tánh, chỉ có Phật mới được gọi là Nhãn kiến Phật tánh. Phật tánh tức là trí tuệ của Chư Phật. Kinh Niết-bàn chép: Phật tánh gọi là bậc nhất nghóa Không, bậc nhất nghóa Không gọi là trí tuệ. Nói bác bỏ Nhị thừa, vì chỉ có Bồ-tát mới tin hiểu được, tức nói lên Nhị thừa không thể tin, muốn cho Nhị thừa bỏ không tin mà được tin. “Các hàng đệ tử Phật”: phần này giải thích vì sao chúng sanh không hiểu, văn chia ba phần: Nói Thanh Văn không hiểu. Nói Duyên Giác không hiểu Nói Bồ-tát không hiểu. Ba bậc Thánh còn không hiểu, huống là chúng sanh sáu đường, cho nên không nói. Lại kệ đầu đã nói chúng sanh sáu đường không hiểu, nay chỉ nói ba thừa không hiểu. Tóm lại, thì chú Trí của Như lai là phi Thánh phi phàm, bặt duyên, bặt quán, cho nên phàm Thánh, chúng sanh đều không thể hiểu. Phần nói Thanh Văn không hiểu chia làm ba chương: Nói Thanh Văn độn căn không hiểu. Nói Thanh Văn lợi căn không hiểu. Người lợi căn và độn căn cùng suy lường cũng không hiểu được. Chương đầu nói “Sức lực không kham nổi”, gồm hai nghóa: Trước nói Bồ-tát có khả năng tin hiểu, nay nói chung lợi căn, độn căn, tất cả Thanh Văn không thể tin hiểu, nên nói rằng sức không kham nổi. Muốn nói Thanh Văn độn căn không thể hiểu ở trí Phật, nên nói rằng không kham nổi. Hai chương kế như văn đã nói dễ biết. “Duyên Giác trí lanh lợi”: đây nói người Duyên Giác không hiểu. Thanh Văn thì nêu đủ cả lợi căn và độn căn, Duyên giác thì chỉ nêu người lợi căn. Luận Trí Độ chép: Người Duyên Giác độn căn còn không bằng Ngài Xá-lợi-phất, cho nên không nêu. “Bồ-tát mới phát tâm”, đây là nói Bồ-tát không hiểu, văn chia hai phần: Nói Bồ-tát mới thực hành không hiểu. Bồ-tát Bất thoái trở lên không hiểu, ở đây chia làm hai hạng người: Nói người Tiểu thừa không hiểu, trong Tiểu thừa thì có Thanh Văn, Duyên giác. Nói người Đại thừa không hiểu, trong Đại thừa thì có mới phát tâm và thực hành, cộng với sáu đường hợp thành mười người. Hỏi: Vì sao người Nhị thừa và Bồ-tát không hiểu? Đáp: Trước đã giải thích rồi, nay lại nói vì sao Nhị thừa không hiểu. Do có tâm chấp thường, chấp đoạn, có sở đắc, làm sao hiểu được chánh quán không thường, không đoạn, không có sở đắc của Chư Phật! Hỏi: Hàng Nhị thừa cũng có không thường không đoạn vì sao nói đều là chấp đoạn chấp thường? Đáp: Nhị thừa chính là không chấp thường chấp đoạn của phàm phu ngoại đạo, nhưng nếu theo Chư Phật Bồ-tát thì tâm có ngăn, có khởi vào thường, đoạn. Trung luận chép: Nếu có chỗ thọ pháp thìrơi vào thường, đoạn. Nói Bồ-tát không hiểu, như người không biết quả thì nói dễ tin, như kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát Thập trụ có chỗ trụ nên thấy không liễu mà liễu, Chư Phật Như lai không có chỗ trụ nên thấy liễu là liễu. “Lại bảo Xá-lợi-phất, pháp nhiệm mầu rất sâu, vô lậu khó nghó bàn”: đây là phần giải thích chỉ có Phật mới hiểu. Vô lậu khó nghó bàn, trên nói Nhị thừa vô lậu, dó là vô lậu nói theo luận Thành Thật và Tỳ- đàm, nay nói chung người Nhị thừa và Bồ-tát đều là hữu lậu, do có tâm sở đắc chưa thanh tịnh. Pháp nầy không có các lậu trên nên gọi là vô lậu. Khó nghó bàn, do tâm thực hành đã dứt nên không thể suy nghó, lời lẽ cũng dứt nên không thể nghó bàn. Do trí tuệ Phật là khó nghó bàn nên phàm, Thánh, Đại thừa, Tiểu thừa đều không thể hiểu, tức đã giải thích nghóa trên. “Chỉ ta biết tướng đó, mười phương Phật cũng vậy”, nửa bài kệ nầy là nói chỉ có Phật và Chư Phật mới hiểu. “Xá-lợi-phất phải biết, lời Phật nói không khác”: phần này là nói lược, chương trước đã dùng hai chữ dường như, nên phần này nói là rõ ràng, vì văn rộng mà nói ít nên gọi là nói lược. Văn nầy kế phần trên xuống là: Trên đã nói chúng sanh chín đường không hiểu trí Phật, chỉ có Phật mười phương mới hiểu, lại sợ Nhị thừa tự cho là bặt không sanh tâm tin nhận, nên nay nói lược hai trí quyền và thật khiến sanh tâm tin nhận, nên có văn này kế theo. Văn chia làm hai phần: Nói Chư Phật để bày nhất thừa. Nói đức Thích-ca để chia ra ba thừa. Mỗi phần lại chia làm ba, phần đầu có ba ý: Nửa bài kệ nêu nói của Chư Phật là như nhau. Nửa bài kệ kế là khuyên nên tin nhận. Nửa bài kệ sau là chính là nói lên chân thật. “Lời Phật nói không khác”: vì lý đã không hai, giáo pháp biểu hiện ở lý nên giáo pháp cũng không khác. Phật lại sợ chúng lúc ấy nghi rằng xưa nói ba nay nói một là có khác nhau, nên nay nói lời Phật là không khác. Lại nữa, xưa nói ba thừa chẳng’ phải chân thật thì lời nói có thể khác, nay Nhất thừa đã là chân thật nên nói không thể khác. “Nên sanh sức tin lớn”: xưa tin Ba thừa gọi là tin nhỏ, nay tin Nhất thừa gọi là tin lớn. “Cần phải nói chân thật”, Chư Phật nói pháp do thích ứng cơ duyên nên khác nhau nhau, hoặc trước sau đều nhỏ, hoặc trước sau đều lớn, hoặc trước nhỏ sau lớn, hoặc trước lớn sau nhỏ. Tóm lại, thời gian sau nhất định là nói lớn, do không trụ trong bốn thừa thì sẽ thành Phật, vì thế thời gian sau nhất định là nói nhất thừa việc này là quyết định nên chép: “Pháp của Phật về sau, cần phải nói chân thật”. Kế là nói phần đức Thích-ca khai ra ba thừa: Một hàng kệ nói với người đối diện. Nửa bài kệ nói khai mở phương tiện. Nửa bài kệ giải thích ý khai mở phương tiện. “Chỗ nào cũng tham đắm”: tức là nói tham đắm ba cõi, do chứng sanh chấp ba cõi nên giả nói ba thừa để dẫn dắt khiến ra khỏi, vì muốn ra khỏi ba cõi nên nói ba thừa, mà không nói đạo lý có ba thừa nói ở ba. Lại nữa, do đại chúng nghi rằng: Đạo lý đã không có ba, vì sao nói ba? Vì thế giải thích rằng: Do chúng sanh chấp ba cõi, vì muốn dẫn dắt ra khỏi nên nói ba thừa: “Khi ấy, trong đại chúng có Thanh Văn v.v…” đây là đoạn lớn thứ hai nói đại chúng sanh nghi và bày tỏ sự nghi để cầu đáp, văn chia hai phần: Nói về sanh nghi. Nói về cầu đáp. Phần sanh nghi lại chia làm hai phần: Nói chúng có nghi như trong văn. Nói sự nghi ngờ của chúng tức câu: “mỗi người tự suy nghó”. Phần hai này lại chia làm ba: Nhắc lại hiện tại nghi. Nói thuở xưa nghi Xưa và nay đều nghi. “Vì sao hôm nay Đức Phật lại ân cần khen ngợi pháp phương tiện”. Trên Đức Phật đã khen ngợi hai pháp quyền và thật, nay nghiêng về nghi phương tiện, chính là dùng phương tiện để phá người Nhị thừa chấp Ba thừa là thật. Lại muốn trước mở cửa phương tiện để sau chỉ bày tướng chân thật. Lại nữa, phần sanh nghi cũng là kế lời văn gần, phần cuối văn kệ trên chép: “Phật dùng năng lực phương tiện, chỉ bày ba thừa giáo”, nay văn liền kế nối nên nói trước nghi phương tiện. “Mà nói thế này”, đây là nhắc lại phần trên là Thật trí nội chứng, tức la môn trí tuệ khó hiểu. Hai câu này là nói pháp khó hiểu, câu sau là nói người khó hiểu, tức là: “Tất cả Thanh Văn, Bích-chi-phật đều không thể hiểu”. “Đức Phật chỉ nói một nghóa giải thoát”, đây là nói nghi về thuở xưa. Xưa nói ba thừa đồng nơi dứt phiền não đắc Niết-bàn hữu dư, một giải thoát; đồng ở diệt thân trí đắc vô dư một giải thoát. “Mà nay chẳng biết nghóa ấy về đâu?”: tức là nói phần nay sanh nghi, gồm có ba ý: Nghi giáo pháp. Nghi người. Tự nghi. Nghi giáo pháp là xưa nay nghi lẫn nhau, xưa nói ba thừa sở đắc đồng nhau, nay nói Đại thừa, Tiểu thừa hơn kém có khác nhau. Xưa nói ba thừa sở đắc đồng nhau thì Đại thừa Tiểu thừa đều chân thật, nay nói Đại thừa Tiểu thừa có hơn kém nên Đại thừa là thật, Tiểu thừa là phương tiện, chưa biết xưa sai nay đúng hay xưa đúng nay sai, hoặc xưa nay đều sai, hoặc xưa nay đều đúng? Vì thế nói nay chẳng rõ nghóa ấy về đâu? Nghi người là do giáo pháp giảng nói đã trái nhau, nên không biết người nói hay ma nói. Tự nghi ngờ tức nghi pháp sở đắc, như Ngài Xá-lợi-phất chép: “Nay con đối trí mình, nghi ngờ không rõ được, đó là pháp rốt ráo, hay là đạo thực hành. Hỏi: Trên nói do chấp ba thừa nên sanh nghi đối với ba thừa nên Phật dùng năng lực phương tiện, chỉ bày ba thừa giáo. Đoạn văn dưới lại chép: “Bồ-tát nghe pháp này, lưới nghi đều đã trừ”, vì sao nay chỉ nói người Nhị thừa nghi mà không nói Bồ-tát nghi? Đáp: Dùng đoạn văn này để trách ngài Quang Trạch, nói chỉ có Bồ-tát nghiêng về thực hành sáu độ, thêm Nhị thừa nữa là ba, sao không nói Bồ-tát nghi? Nếu nói rằng vì lược nên không nói, thì Bồ-tát là lớn, sao lại lược lớn mà giữ nhỏ? Lại trong ba châu sau đều nói ba căn Thanh Văn được ngộ mà không nói Bồ-tát lãnh giải, theo đây suy ra, thì biết không nói người nghiêng về thực hành sáu độ. Nay điều muốn nói là Nhị thừa xưa có tự chấp là rốt ráo, nay bỗng nghe ba thừa chẳng phải rốt ráo nên sanh nghi ngờ, vì thế ở đây nói người Nhị thừa, do Bồ-tát không có chấp này, nên đoạn văn này không nêu Bồ-tát nghi. Hỏi: Nếu vậy vì sao chép: “Bồ-tát nghe pháp này, lưới nghi đều đã trừ”? Đáp: Đoạn văn sau có nói Bồ-tát nghi ngờ, trong pháp Hoa Huyền Nghóa đã giải thích điều này. Không phải tự chấp rốt ráo rồi khi nghe chẳng phải rốt ráo mà sanh nghi, nhưng đây là nghi ngờ Như lai thuở trước sao nói ba thừa nay nói Nhất thừa. Do điều Bồ-tát nghi khác với Nhị thừa, khi nghe nói lược thì tâm nghi đã dứt vì thế trong đây không nói Bồ-tát. Lại nữa, trong phần kệ trên chỉ nêu hai hạng người là Thanh Văn và chúng cầu Duyên giác, vì thế chỉ có hai hạng này sanh nghi. “Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất biết tâm nghi của bốn chúng,v.v…”, đây nói ngài Xá-lợi-phất khởi sự nghi và cầu Phật đáp. Hỏi: Lúc hiện điềm lành thì ngài Di-lặc sanh nghi sao trong phần chính là nói thì ngài Xá-lợi-phất cầu đáp? Đáp: Hiện điềm lành là tiêu biểu nói chung nghóa nhân quả của một kinh chỉ có Phật mới hiểu, người Học chưa biết nên nghi ngờ, Trong phần chính là nói là riêng đối với ngài Xá-lợi-phất, là đại diện cho người chấp sanh nghi mà cầu đáp. Hỏi: Vì sao phải xin cầu? Đáp: Luận Pháp Hoa nói có ba nghóa: Muốn đại chúng suy xét cảnh giới sâu xa của Phật. Muốn đại chúng sanh tâm tôn trọng rốt ráo muốn nghe. Muốn cho người tăng thượng mạn rời chỗ ngồi mà đi. Nhưng nói theo đầu cuối thì có ba lần Đức Phật ngăn lại không nói và ba lần Xá-lợi-phất xin; Ba lần Đức Phật ngăn là: Khen ngợi pháp sâu xa mà chúng sanh chín đường không hiểu, chỉ có Phật mới hiểu cho nên ngăn lại, chúng sanh sáu đường và ba thửa thành ra chín đường. Nếu nói việc dó thì các phàm phu và trời, người, sẽ kinh sợ nghi ngờ. Vì sợ Nhị thừa tăng thượng mạn chê bai cho nên ngăn lại. Đây là trời, người, Thanh Văn, Duyên giác, bốn loại chúng sanh nghe nói Nhất thừa không thể tin nhận. Vì sao như vậy? Vì trời, người khởi ái, Nhị thừa khởi kiến, do ái và kiến ngăn ngại chánh quán nên không tin Nhất thừa. Lại nữa, trời, người đắm vui sanh tử, Nhị thừa đắm vui Niết-bàn, đều là chấp chặt vui Tiểu thừa không kham nhận sự vui của Phật, cho nên ngăn không nói. Lại nữa, trời người đắm có, Nhị thừa đắm không, có hai chấp này trung tâm thì không thể kham nhận pháp Trung đạo, vì thế ngăn không nói. Hỏi: Vì sao ở trên nói chúng sanh chín đường không hiểu nên ngăn lại, là nay chỉ nói bốn thừa không hiểu nên phải ngăn lại? Đáp: Trên là khen ngợi trí tuệ rất sâu của Phật, ngoài Phật ra còn chín đường chúng sanh đều không thể so lường trí Phật, vì thế ngăn lại không nói. Nay là sắp nói pháp Nhất thừa, mà chúng sanh bốn thừa không thể tin nhận, cho nên ngăn nói. Ba lần xin gồm có: Có nghi nên thưa hỏi. Nói đại chúng ở đời quá khứ có gieo trồng gốc lành, khi nghe pháp không sanh nghi nên thưa hỏi. Nói đại chúng hiện tại có đức có thể nghe pháp sẽ tin nhận nên thưa hỏi. Nhưng đã có ba lần xin, ba lần ngăn thì lẽ ra không nói, chỉ vì lần đầu là ngăn trước khi xin, cho nên tính theo lần xin thì chỉ có hai lần ngăn, lần thứ ba thỉnh, Phật đã đồng ý. Ba lần xin và hai lần ngăn thành năm đoạn. Trong phần xin đầu có hai ý: Nói về sanh nghi. Nói về xin cầu. Trong phần sanh nghi thì trước nói đại chúng nghi, sau nói tự nghi như trong văn. “Mà bạch Phật rằng”: đây là bày tỏ sự nghi và xin đáp, lại có hai phần là văn xuôi và kệ tụng. Trong phần văn xuôi thì trước bày tỏ sự nghi, sau cầu đáp. Trong phần bày tỏ sự nghi thì trước bày tỏ tự mình nghi, sau nói đại chúng nghi. Trong phần tự nghi thì trước là nghi hiện tại, sau là nghi thuở xưa. Hỏi: Vì sao gọi là pháp phương tiện bậc nhất? Đáp: Chỉ Phật có sự khéo léo, từ giai vị Thập địa trở xuống tuy có khả năng giáo hóa mà sự khéo léo chưa tột cùng, vì những người khác không có nên gọi là bậc nhất. Lại nữa, Phật thừa là bậc nhất, xưa nói ba thừa là khiến cho ngộ Nhất thừa, tức cùng với bậc nhất làm phương tiện nên gọi là bậc nhất. Hỏi: Trong phần nghi trên thì trước nói chúng nghi, sau là tự nghi, nay bày tỏ sự nghi sao trước lại nói tự nghi sau là đại chúng nghi? Đáp: Trên muốn nói lên trước người, sau mình, nay luận về cần cởi trói mình trước, sau mới cởi cho người. “Hôm nay bốn chúng đều có lòng nghi”: đây là đại chúng nghi ngờ. “Cúi xin Đức Thế tôn bày nói việc đó”: đây là lời xin giải quyết sự nghi, gồm có hai phần, ban đầu là chánh xin, sau là giải thích lý do xin. “Vì sao đức Thế tôn lại khen ngợi pháp sâu xa”: đây là việc để xin, vì sâu xa nên mới xin, nếu là cạn thì đã biết không cần thỉnh. Trong phần kệ tụng lại chia làm hai: Tám hàng kệ đầu nói về sanh nghi. Phần kệ sau cầu giải quyết nghi. Trong tám bài kệ đầu lại chia làm hai: Bài Bốn bài rưỡi nói về sanh nghi. “Đấng Tuệ Nhật Đại Thánh”: trong phần xin nói đều có ba lần khen, ba lần xin, vì vậy ban đầu nói đấng Tuệ Nhật Đại Thánh là khen ngợi Phật có đức kham nổi giải quyết nghi. Chữ Nhật là mặt trời có hai nghóa: Xua tan được tối tăm của vô minh. Hiển bày được lý nhất thừa chân thật. Trong chúng hội nầy gồm có ba bậc Thánh: Hạ Thánh, là những vị tiên có năm thông. Trung Thánh, là những vị A-la-hán. Đại Thánh, là Bồ-tát pháp thân. Đối với ba bậc thánh thì Phật là cao nhất, nên gọi là đấng đại Thánh, nếu chẳng phải bậc đại Thánh thì không thể giải quyết nghi cho ba bậc Thánh được, như voi lún xuống bùn cần có voi khác kéo lên. “Lâu mới nói pháp này”: trên là khen ngợi người giải quyết nghi, nay khen ngợi pháp là hi hữu. “Tự nói ra các thứ, lực, vô úy, Tam- muội”, gồm là việc để nghi ngờ, đây có hai phần: Hai chương tự nói tự khen. Giải thích hai chương này. “Tự nói ra các thứ, lực, vô úy, Tam-muội, thiền định và giải thoát”: đây là tự nói. “Là pháp chẳng nghó bàn”: đây là phần tự khen. “Pháp chứng tại đạo tràng, không ai hỏi đến được”, đây là giải thích tự nói và tự khen. Ban đầu có năm câu để giải thích tự nói, kế là có ba câu để giải thích tự khen, nửa bài kệ đầu là nói Phật tự nói thật trí. “Ý con khó lường được”: đây là nói Phật tự nói trí phương tiện. “Không hỏi mà tự nói”: câu này là kết thành nghóa trên. Do lúc mới xuất định không ai có thể hỏi về hai trí của Phật cho nên Phật tự nói. Trong ba câu tự khen ngợi, câu đầu nói về nhân tự khen ngợi, hai câu sau nói về quả tự khen ngợi. Ban đầu Phật mới xuất định đã tự nói về hai trí quyền và thật mà Ngài chứng đắc, tự khen ngợi nhân và quả mà ngài thực hành. Ngài Xá-lợi-phất muốn giải thích ý của Phật tự nói và tự khen cho đại chúng biết, nên nói từ lúc Phật mới xuất định không ai có thể hỏi, cũng không ai có thể khen, cho nên Phật tự nói tự khen. “Các La-hán vô lậu”: đây là phần biện nói về sanh nghi, chia làm hai phần: Kệ nói đại chúng nghi. Kệ nói tự nghi. Trong phần đại chúng nghi lại chia làm ba phần: Một bài kệ nói chúng Thanh văn nghi. Nửa bài kệ nói chúng Duyên giác nghi. Nửa bài kệ nói chúng phàm phu nghi, tức câu “chúng Trời rồng quỷ thần, cùng với Càn-thát-bà”. Ba chúng nầy là theo thứ lớp, trong chúng Thanh Văn có người La-hán cho nên nêu trước. Chúng Duyên giác chỉ có người xuất gia nên nêu thứ hai, chúng Trời rồng kém hơn hai chúng trên nên nói sau cùng. “Trong các chúng Thanh Văn, Phật nói con hạng nhất, nay con đối trí mình, nghi ngờ không rõ được”: Phần này nói tự nghi. Nếu theo giáo pháp thuở xưa là rốt ráo, mà nay là đạo thực hành. “Con từ miệng Phật sanh, chắp tay cúi trông chờ”: phần kệ này là xin giải quyết nghi, chia làm hai phần: Một bàikệ nói về hai chúng Thanh văn, Duyên giác thỉnh riêng. Từ câu: “Các Trời rồng thần thảy” v.v… là hợp ba chúng ưa nghe xin Phật nói. “Xin ban tiếng nhiệm mầu, nói cho lời như thật”, xưa nói đã không thật nên nay xin cầu nói như thật. “Các trời, rồng, quỷ thần”, đây nói cả ba chúng ưa nghe lời xin nói pháp. “Muốn nghe đạo đầy đủ’, xưa nói cho Nhị thừa chỉ là bán tự nên gọi là không đầy đủ, nay xin nói Nhất thừa là giáo môn mãn tự nên gọi là đầy đủ. “Bấy giờ, Phật bảo Xá-lợi-phất”, đây là lần thứ nhất Phật ngăn lại sau khi xin. Hỏi: Chỉ nói một chữ thôi là được, vì sao phải chép: Thôi! Thôi! Đáp: Luận Trí Độ chép: Thiện cùng tột gọi là Thiện tai! Nay dừng cùng cực nên gọi: Thôi! Thôi. Lại nữa, do Nhị thừa không hiểu nên nói một lần “thôi”, các trời người không hiểu nên lại nói thêm chữ thôi. Lại nữa, người ngộ lý thì vì lý mà mê hoặc giáo nên nói một chữ thôi, người chưa ngộ lý thì vì giáo mà mê hoặc lý nên nói một chữ thôi. Theo văn mà phán xét, thì Phật tự giải thích rằng: “vì trời và người đều sẽ kinh sợ nghi ngờ” nên nói Thôi! Thôi! Hỏi: Có mấy thứ kinh sợ nghi ngờ? Đáp: Luận Pháp Hoa chép: Tổng quát đầu cuối của một kinh gồm có năm thứ: Sợ hãi tổn thất, nghóa là người Tiểu thừa chấp Niết-bàn Tiểu thừa là rốt ráo, chê bai Niết-bàn Đại thừa, do tổn thất Đại nên gọi là sợ hãi tổn thất. Sợ hãi sự nhiều, người Đại thừa nghe Phật đạo dài lâu, thực hành nhiều, nên khởi tâm chấp lấy quả Tiểu thừa. Sợ hãi điên đảo: tức là ngoại đạo chấp có ngã và ngã sở, nghe kinh này nói người vô ngã, pháp vô ngã, liền sanh tâm kinh sợ. Sợ hãi ăn năn: Như ngài Xá-lợi-phất hối hận đã chứng quả Tiểu thừa, tâm hối hận này gọi là sợ hãi. Sợ hãi lừa dối: kẻ tăng thượng mạn tự nghó rằng: Sao Phật mê hoặc chúng ta? Đây gọi là sợ hãi lừa dối. Năm việc này là gồm thâu cả việc Đại thừa, Tiểu thừa, phàm, Thánh, nội đạo và ngoại đạo. “Ngài Xá-lợi-phất lại Bạch Phật rằng”, đây là lời xin cầu thứ hai, gồm có văn xuôi và kệ tụng. Trong văn xuôi trước nói lời chánh xin, tức câu “Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó”. “Vì sao: đây là ngài Xá-lợi-phất nói lý do vì sao mà xin. Sở dó lặp lại lời cầu xin Phật nói, là để đáp lại lời ở trên nói thôi! Thôi. Người Nhị thừa có thể tin nên gọi là cúi xin, trời, người có khả năng lãnh thọ nên nói lần thứ hai. Lại nữa, người đã ngộ thì do lý mà biết giáo nên nói xin giảng nói, người chưa ngộ thì nhờ giáo mà ngộ lý nên xin giảng nói lần thứ hai. Trời và người theo đây có thể biết. “Vì sao vậy” vì Ngài Xá-lợi-phất đã nói chúng sanh trong hội này có gieo trồng gốc lành từ thuở lâu xa nên xin Phật nói giáo. Phần kệ chia làm hai phần: Câu đầu là khen ngợi Phật. Ba câu sau là chánh xin. Xưng là Pháp Vương: bởi đối với xưa, nay, phương tiện, chân thật, đều tự tại vô ngại nên gọi là Vương. Câu “Cúi xin nói chớ lo”: đây là phần chánh xin, câu đầu là xin, hai câu sau giải thích vì sao mà xin. “Đức Phật lại ngăn Xá-lợi-phất”, Đây là lần thứ hai Phật ngăn lại sau khi xin, trước là văn xuôi sau là kệ tụng. Trong văn xuôi chỉ ngăn một lần, chủ ý là nói các Tỳ-kheo tăng thượng mạn không thể tin nhận nên chỉ ngăn một lần. “Nếu nói việc này thì tất cả trời người sẽ kinh nghi”, đây là lời Phật giải thích vì sao không nói. Trước nói ba đường thiện trong phàm phu kinh nghi nên không nói, nay nói bốn chúng tăng thượng mạn sẽ xa vào hầm lớn, cho nên không nói, tuy nêu hai hạng người mà ý muốn nói kẻ tăng thượng mạn. Hầm lớn có ba loại: Tà kiến chê bai pháp. Nghiệp chê bai pháp hai loại này là nhân. Hầm lớn địa ngục Vô gián, một loại này là quả. Như lai sẽ nói, cho nên kẻ tăng thượng mạn sẽ đọa, nếu chính là nói sẽ là chánh đọa cho nên không nói. Phần kệ tụng nên chia làm hai phần: Một câu đầu tuyên bố ngừng nói Ba câu sau là giải thích vì sao không nói. Trong phần kệ lại chép: Thôi! Thôi, một chữ là ngăn trời, người, một chữ là ngăn kẻ thượng mạn. Lại, một lần ngăn là vì pháp mầu nhiệm, một lần ngăn là vì kẻ căn tánh chậm lụt. Ba câu giải thích lại chia làm hai: Câu đầu nói về pháp mầu nhiệm Hai câu sau nói về kẻ tăng thượng mạn. “Lúc ấy, ngài Xá-lợi-phất lại bạch Phật rằng”, đây là lần xin thứ ba, trước là văn xuôi sau là kệ tụng. Trong văn xuôi trước nêu lời xin sau là giải thích lời xin, đây cũng nói câu “cúi mong giảng nói” đến hai lần, bởi Phật sợ trời người kinh nghi và kẻ tăng thượng mạn chê bai nên nói hai chữ thôi thôi, mà ngài Xá-lợi-phất cũng vì hai hạng người này nên xin Phật nói, một là tự ngài có thể hiểu nên xin Phật nói, hai là các đại chúng cũng có người tin hiểu nên xin Phật nói. “Nay trong hội nầy”: là lời ngài Xá-lợi-phất giải thích để xin Phật nói, trước nói con có thể hiểu tức ngài Xá-lợi-phất là bậc thượng căn nên được ngộ, sau nói “những hạng người sánh bằng con”, là ngoài Xá- lợi-phất ra còn có bậc trung căn, hạ căn, phàm phu có thể tin nhận. “Đời đời đã từng theo Phật học hỏi”: đây là giải thích những người sánh bằng ngài Xá-lợi-phất có thể tin hiểu, người có nhân nông cạn ở đời quá khứ còn được Phật giáo hóa, huống là những người có nhân sâu dày ở đời hiện tại có thể tin hiểu. Người không tin thì ít, mà người thuận theo giáo pháp thì nhiều, do có nhiều người tin nên nói. Lại nữa, Như lai có cả lời nói bí mật và thần thông. Dùng lời nói bí mật và thần thông, dùng lời nói bí mật thì có những người tuy đồng ngồi mà không nghe, dùng thần thông thì khiến những kẻ tăng thượng mạn rời chỗ ngồi, tiến lùi mà nói thì không thể không nói. Phần kệ tụng chia làm hai ý: Câu đầu là khen ngợi Phật. Chánh xin nói pháp. “Đấng Vô Thượng Lưỡng Túc”, đã là bậc tôn quý lưỡng túc, thì sẽ vì trời người mà nói pháp, nếu không nói thì đâu gọi là Lưỡng Túc Tôn. “Xin nói pháp bậc nhất”, đây là phần chánh thỉnh, văn chia làm hai phần: Nói lời xin. Giải thích lời xin. “Xin nói pháp bậc nhất”, đây là nói lời xin, trong ba thừa thì Phật thừa là bậc nhất. “Con là trưởng tử Phật”, đây là bài tụng giải thích lời xin, gồm có hai phần: Ý hai hàng tụng trên: ngài Xá-lợi-phất và đại chúng có thể kham nhận và tin hiểu. Một bài rưỡi nói ngài Xá-lợi-phất và đại chúng khát ngưỡng muốn nghe pháp. Phần đầu lại chia làm ba ý. Nửa bài kệ nói tự thân ngài Xá-lợi-phất có thể tin hiểu. Nửa bài kệ nói đại chúng cũng có thể tin hiểu. Một hàng kệ nêu việc so sánh nay giải thích ngài Xá-lợi-phất và đại chúng có thể tin hiểu. Trong văn xuôi thì nói chúng sanh đời đời đã được sự giáo hóa của Phật cho nên xin, phần kệ tụng thì nói Phật đời đời giáo hóa chúng sanh cho nên xin. “Chúng con nghìn hai trăm”, đây là nói ngài Xá-lợi-phất cùng đại chúng khát ngưỡng muốn nghe pháp, cũng chia ra ba phần: Nửa bài kệ đầu nêu cả hai chúng. Nửa bài kệ kế lặp lại lời xin. Nửa bài kệ cuối nói đại chúng ưa nghe pháp nên sanh vui mừng lớn. Nghe nói pháp Nhất thừa thì đều thành Phật, vì thế ba loại Thanh văn và các Bồ-tát trong phẩm Phân Biệt Công Đức đều vui mừng lớn. “Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo ngài Xá-lợi-phất”, trở xuống: đây là đoạn lớn thứ ba chép: Đức Phật nhận lời chuyển pháp lớn, chia thành sáu cặp: Trên nói lược là vì Bồ-tát lợi căn, nay nói rộng là chung cho cả ba thừa, đây là một cặp lợi căn độn căn. Trên lược bỏ ba bày một, là khiến người chấp sanh nghi, nay rộng bỏ ba bày một là dứt nghi sanh tín, tức là một cặp rộng lược. Trên nói chung về người chấp sanh nghi, nay nói riêng dứt nghi sanh tín, tức là một cặp chung riêng. Nói chung người chấp sanh nghi, là khiến ba căn sanh nghi ngờ, riêng dứt nghi sanh tín là riêng vì ba hạng người mà nói pháp ba châu, khiến dứt ba sự nghi ngờ, sanh ba sự tin hiểu. Người chấp sanh nghi thì dễ cho nên chỉ nói một lần, dứt nghi sanh tín thì khó cho nên nói ba châu. Trên là khen ngợi, nay là trao pháp, thuốc hay và trị bịnh phải có đủ, trước là khen thuốc hay, sau là cho thuốc. Chư Phật nói pháp cũng có đủ hai môn, ban đầu là khen ngợi Nhất thừa, sau là chính là nói Nhất thừa, tức là một cặp khen ngợi và trao cho. Trên là thầm bày nhất thừa, thmầ bỏ ba thừa, tức là môn thầm nói. Nay bỏ ba thừa, bày nói nhất thừa, tức là môn hiển thuyết, đây là một cặp hiển mật. Xét chung nghi thức nói pháp của Chư Phật gồm có ba môn: Chỉ tự nói, như kinh Đại phẩm, sau khi hiện điềm lành, chúng nhóm họp rồi, không có ai hỏi mà Phật tự nói. Nhân người khác mà nói, như kinh Niết-bàn, sau khi hiện điềm lành, chúng đã nhóm họp, đợi người khác hỏi, sau đó Phật mới nói. Vừa tự nói, vừa nhân người khác mà nói, như kinh Thập Địa, trước Phật tự nói danh Thập địa, sau do người khác xin mà nói rộng nghóa Thập địa. Kinh này cũng như vậy, ban đầu Phật tự nói, nay do người khác xin mà nói, tức là một cặp mình người. Hỏi: Ban đầu sao lại tự nói, sau lại nhân người khác mà nói? Đáp: luận Thập địa chép: Nếu ban đầu Phật không tự nói thì đại chúng không biết Phật nói hay không nói, cho nên phải tự nói. Sau là muốn cho đại chúng ân cần xin ba lần, cho nên nhân người khác mà nói. Lại muốn chỉ bày pháp sâu xa mầu nhiệm không ai hỏi được nên Phật tự nói, như ngài Xá-lợi-phất chép: “Pháp chứng nơi đạo tràng không ai hỏi đến được, ý con khó lường được, cũng không thể hỏi được”. Cho nên trong mười hai bộ kinh có khi dùng loại vô vấn tự nói để khai tông. Do người khác mà nói là muốn cho đại chúng tôn trọng người và pháp cho nên đợi xin mới nói. Chương này chia làm ba đoạn: Nói về pháp. Nói về thí dụ. Nói cả pháp và thí dụ. Sở dó có ba đoạn này, bởi pháp là gốc của thí dụ cho nên trước nói pháp, chưa hiểu pháp nói nên nói thí dụ để nói lên, vì thế kế là nói về thí dụ, những người nghe pháp, nghe thí dụ còn chưa hiểu, phải nói đủ cả hai môn mới được chứng ngộ, cho nên trước phẩm Hóa Thành Dụ gọi là nói về pháp, sau phẩm Hóa Thành Dụ gọi là nói về thí dụ. Lại nữa, đây là chỉ bày Chư Phật bên trong có trí vô ngại, bên ngoài có biện tài vô phương, có thể đối với một nghóa mà nói ra các nói, điều được nói tuy nhiều mà không ngoài pháp và thí dụ, cho đến vừa pháp vừa thí dụ. Lại do chúng sanh ngộ nhập khác nhau cho nên thích ứng giáo hóa phải có nhiều thứ. Hoặc có người phải nghe cả thí dụ và pháp mới chứng nhập. Lại nữa, ban đầu nói Đại thừa sanh ra Văn tuệ, kế nói là sanh Tư tuệ và sau nói là sanh Tù Tuệ. Ban đầu nói thì bậc thượng căn được ngộ, lần thứ hai nói thì bậc trung căn được ngộ, lần sau nói thì bậc hạ căn được ngộ. Vì sao như vậy? Bởi bậc thượng căn vừa nghe liền hiểu, bậc trung căn phải nói lại mới hiểu, bậc hạ căn thì phải nói ba lần mới hiểu. Hỏi: Do hoặc chướng gì mà ba căn không hiểu? Đáp: Đây chẳng phải chín mươi tám kiết sử, vì sao biết? Vì bậc La-hán đã phá đổ bốn trụ có khi còn chưa hiểu Nhất thừa chân thật, cho nên biết chẳng phải chín mươi tám kiết sử. Đối với năm trụ thì chính là vô minh trụ địa, trong hai chướng thì thuộc về trí chướng hoặc, trong hoặc này thì chia ba bậc, hoặc chướng nhẹ ở bậc thượng căn, hoặc chướng vừa ở bậc trung căn, hoặc chướng nặng ở bậc hạ căn. Hỏi: Hoặc chướng này vì sao chướng ngại ba căn? Đáp: Do có hoặc này nên mê muội ở phương tiện và thật, không hiểu ba thừa là phương tiện, Nhất thừa là chân thật, cũng mê muội Nhất thừa vốn có, Nhị thừa vốn không có, nên gọi là chướng ngại ba căn. Trong nghóa ba lần nói này thì có riêng từng phẩm, như trong kinh nói rộng, nay trong phần nói pháp chia làm bốn đoạn: Từ đoạn văn này trở đi cho hết phẩm Phương Tiện là chánh về nói pháp. Đầu phẩm Thí Dụ gồm một phần văn xuôi, một bài kệ là nói bậc thượng căn lãnh ngộ. Từ câu: Bấy giờ, Phật bảo Xá-lợi-phất cho đến câu: vì các Thanh văn mà nói kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Giáo Bồ-tát Pháp Thật Sở Hộ Niệm là nói đức Như lai thuật lại việc đã thành tựu. Từ câu “Xá-lợi-phất, ông ở đời vị lai v.v…” cho đến hồi hướng Phật đạo là nói Phật thọ ký cho bậc thượng căn. Phần đầu lại chia làm hai đoạn: Vì bậc thượng căn mà nói pháp. Từ câu: Các ông Xá-lợi-phất, Thanh văn và Bồ-tát” là khuyến khích mở rộng kinh. Dứt một chính là nói là khiến phát tâm Bồ-đề, khuyến khích mở rộng kinh là khiến tu hạnh Bồ-tát. Như trong kinh Hoa Nghiêm đồng tử Thiện Tài đến chỗ thiện tri thức đều nói hai việc: Phát tâm Bồ-đề. Tu hạnh Bồ-tát. Kinh này gọi là pháp dạy Bồ-tát cũng có đủ hai việc: Ban đầu nói pháp là khiến bỏ Tiểu thừa, tin Đại thừa, nghóa là phát tâm Bồ-đề, sau đã ngộ lý như thật, lại khiến nói như thật, khiến tu hạnh Bồ-tát. Lại nữa, ban đầu nói để diệt trừ chấp Tiểu thừa, sanh ra sự hiểu biết Đại thừa, nghóa là môn trí tuệ, sau khiến mở rộng kinh tức là tu từ bi, là môn phước đức. Kinh này khiến người Tiểu thừa tu đầy đủ phước tuệ của Đại thừa, cho nên gọi là pháp giáo hóa Bồ-tát. Văn nầy cũng có hai phần là văn xuôi và kệ tụng. Văn xuôi lại có hai phần: Duyên khởi. Chính là nói. Phần duyên khởi có ba ý: Phật nhận lời nói và răn dạy chúng lắng nghe. Phân biệt với chúng không thanh tịnh. Khen ngợi chúng thanh tịnh. Phần đầu lại có ba câu: Nói là chẳng thể không nói pháp, do lời xin đã hợp lý xứng căn cơ, nếu Phật không nói là trái lý lỡ mất căn cơ, cho nên nói rằng: “chẳng lẽ ta không nói!” Răn dạy lắng nghe, tức câu: “nay ông phải lắng nghe”, lắng nghe là khiến sanh Văn tuệ, khéo suy nghó là khiến sanh Tư tuệ, nhớ lấy là khiến sanh Tư tuệ. Lại lắng nghe là khiến lìa tâm tán loạn, như đồ đựng vật không bị che, khéo suy nghó là khiến được hiểu như đồ đựng vật không bị dơ, nhớ lấy là khiến nắm giữ như đồ đựng vật không bị chảy. Phật nhận lời nói, tức câu: “Ta sẽ nói cho ông nghe”. Phần thứ hai là phân biệt với chúng không thanh tịnh, tức câu: “Khi nói lời này, trong hội có năm nghìn người đứng dậy lễ Phật mà lui”, phần này chia làm ba câu: Chính là nói người có tội rời chỗ ngồi. Giải thích lý do bỏ về, tức câu: “vì sao”, ở đây có hai nghóa: Gốc tội sâu nặng. Có tăng thượng mạn. Lại có hai nghóa là đối với Đại thừa có chỗ mất, và đối với Tiểu thừa có chỗ mất. Cái gọi là tội là do chấp Tiểu thừa là rốt ráo, trái với lý của Đại thừa nên gọi là tội. Vì thế kinh Niết-bàn chép: “Người cầu Nhị thừa gọi là bất thiện”. Nói gốc tội có hai nghóa: Đời quá khứ tu tập Tiểu thừa nên gọi là gốc. Do chấp Tiểu mà sanh chê bai Đại nên gọi là gốc. Nói sâu nặng, là vì giải thích sự nghi ngờ. Lời nghi rằng: Nếu chấp Tiểu thừa là chướng ngại Đại thừa, vì sao chỉ riêng năm ngàn người bỏ đi mà ba căn Thanh văn còn trụ lại. Vì thế giải thích rằng: năm ngàn người ấy là gốc tội sâu nặng, Chư Phật mười phương không thể cứu vớt cho nên bỏ đi. Hạng người ba căn tuy có tu tập Tiểu thừa mà gốc tội cạn, yếu cho nên ở lại nghe. “Lại tăng thượng mạn”, phần trên nói do chấp Tiểu thừa mà chướng ngại Đại thừa, đây là nói chính Tiểu thừa cũng có chỗ mất, thật sự chưa đắc đạo quả Tiểu thừa nên gọi là có chỗ mất. Lại gốc tội sâu nặng là do đời quá khứ ngăn người khác nghe pháp Đại thừa, cho nên đời nay không nghe chánh pháp, đây là chỗ mất ở đời quá khứ. Trong đời hiện tại gặp Phật Thích-ca tu tập Tiểu thừa, chưa đắc quả nhỏ mà cho là đã đắc, lại cho rằng quả này là rốt ráo, không thọ nhận pháp Đại thừa, đây là chỗ mất ở đời hiện tại, đó chính là tăng thượng mạn. Do họ có chỗ mất này mà phân biệt với các Thanh văn khác các Thanh văn khác chỉ chấp Tiểu thừa, không có chưa đắc mà nói là đắc, vì thế họ ở lại mà năm ngàn người kia bỏ đi. Chưa đắc đạo đế mà nói đã đắc, chưa chứng diệt đế mà nói đã chứng, cho nên chép: “Chưa đắc mà nói đã đắc, chưa chứng mà nói đã chứng”, đây là giải thích tăng thượng mạn. “Có lỗi dường ấy” câu này tổng kết kết hai nghóa mất ở trên. “Đức Thế tôn im lặng không ngăn cản”: Nếu họ ở lại thì có hai điều tổn thất cho nên Phật không ngăn lại. Một là khi nghe sẽ chê bai và sẽ đọa vào đường ác, hai là đời vị lai sẽ là nhân duyên chướng ngại Đại thừa. “Bấy giờ, Phật bảo Xá-lợi-phất”: đây là phần khen ngợi chúng thanh tịnh, gồm có bốn trường hợp: Khen ngợi chúng thanh tịnh. Chê bai chúng không thanh tịnh. Răn bảo lắng nghe. Xá-lợi-phất vâng theo. Luận Trí Độ chép: Nhành lá không thể sử dụng, như năm ngàn người không có công dụng pháp khí, tuy có thể nghe pháp Nhất thừa mà không thể phát tâm Bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát, nối kế nghiệp Phật, vì thế vô dụng. Hạt chắc thì có dụng làm rường cột, như chúng thanh tịnh là pháp khí, nghe kinh kham nhận là có dụng nối kế nghiệp Phật. “Xá-lợi-phất! Những kẻ tăng thượng mạn như vậy lui về cũng là tốt”, đây là chê bai chúng không thanh tịnh, trên nói nếu họ ở lại thì có hai điều tổn thất, nay nói họ bỏ đi thì có hai điều lợi ích. Hiện tại không khởi tội chê bai pháp, đời vị lai không có quả khổ. Khi nghe lời lược nói trên sẽ làm nhân tin hiểu cho đời vị lai. Lại răn bảo lắng nghe có hai nghóa: Khi năm ngàn người bỏ đi khiến đại chúng xao động, cho nên Phật nói khiến lắng nghe lần nữa. Đã là chúng thanh tịnh có thể nghe pháp cho nên khiến lắng nghe. Kế là nói phần Xá-lợi-phất vâng theo, tức câu: “Vâng! Bạch Đức Thế tôn, con rất muốn nghe”. Hỏi: Năm ngàn người đã không thể nghe Pháp Hoa, vì sao Phật không xuất định dùng thần lực, khiến họ bỏ đi? Đáp: Nếu lúc mới xuất định Phật dùng thần lực khiến năm ngàn người ấy bỏ đi, thì họ sẽ không được nghe phần nói lược làm nhân duyên được độ ở đời vị lai, nhưng nếu nghe nói rộng thì sẽ khởi việc chê bai, không có lợi ích ở hiện tại, do Phật thấy rõ việc ba đời nên có lúc khiến họ bỏ đi có lúc không khiến. Lại nữa, ban đầu khen ngợi hai trí của Phật thì ngài Xá-lợi-phất chưa xin, vì không có nhân duyên nên Phật không khiến họ bỏ đi, nay đợi xin rồi, sau hứa nói pháp, cần phải gạt bớt chúng không thanh tịnh nên mới khiến họ bỏ đi. Hỏi: Nếu Phật biết họ ở lại sẽ chê bai nên không vì họ mà nói, cho nên Thích luận có nói hai hạng người hỷ căn và thắng ý, thắng ý thì chấp Tiểu thừa, hỷ căn thì ngộ Đại thừa, Phật vì hạng thắng ý mà nói Đại thừa, mà thắng ý liền chê bai và đọa địa ngục lớn, đời vị lai do quả khổ này mà được giải thoát, nay vì sao Phật không vì hạng người ấy mà nói? Đáp: Người đi hay ở đều khởi chê bai thì nên vì họ mà nói, như hạng hỷ căn biết thắng ý dù nghe nói hay không đều khởi chê bai, cho nên vì họ mà nói pháp để làm nhân duyên được độ ở đời vị lai. Nay bỏ đi thì có ích, ở lại thì tổn hại, cho nên khiến họ đi. Nói theo lý thì có ba nghóa: Nghe mà chê bai thì không nên nói pháp cho họ, như năm ngàn kẻ tăng thượng mạn. Nghe rồi chê bai vẫn vì họ nói, như Bồ-tát Thường Bất Khinh. Biết họ khởi chê bai mà vừa nói vừa không nói, như năm ngàn người. Ban đầu vì muốn sanh điều thiện ở đời vị lai nên khiến họ nghe nói lược bỏ ba bày một, nhưng sợ họ chê bai ở hiện tại nên không nói rộng. Hỏi: Khi nghe nói lược vì sao không chê bai? Đáp: Có ba hạng người: Bồ-tát Bậc thượng căn nghe nói lược liền hiểu. Thanh văn Bậc trung căn nghe nói lược liền sanh nghi, nghi là gần hiểu có thể nghe nói rộng. Người hạ căn như năm ngàn người nghe nói lược thì mơ hồ không hiểu, nghe nói rộng thì khởi nghi ngờ chê bai. Lại có ba hạng người: Bậc hạ không nghe nói lược và nói rộng. Bậc trung nghe nói lược không nghe nói rộng. Bậc thượng nghe đủ cả nói lược và nói rộng. Hỏi: Như trong hội Hoa Nghiêm có năm trăm Thanh Văn, tuy ở tại chỗ ngồi mà không thấy không nghe, nay vì sao không đúng? Đáp: Do duyên thích ứng khác nhau nhau, nay nói chúng bỏ đi là muốn chứng minh lời Phật nói không luống dối. Trên Phật đã chép: Nếu nói pháp thì mọi người sẽ kinh sợ, nghi ngờ, kẻ tăng thượng mạn phải sa vào hầm lớn. Nên nay nói năm ngàn người bỏ đi chính là hạng ấy. Cũng là muốn đại chúng tăng thêm lòng tôn kính, người dự nghe pháp là đã gieo nhân lành từ lâu xa cho nên vui mừng. Nói người mắc tội nặng không thể nghe pháp, là khen ngợi pháp sâu xa mầu nhiệm, nhưng chúng đây có đủ hai nghóa, một là người thực hành, hai là chúng hóa hiện, như kinh Niết-bàn hiện đồng tử và thần Kim cương. Hỏi: Do nhân duyên gì mà mọi người đều lãnh thọ pháp Tiểu thừa, nhưng có người được nghe kinh Pháp Hoa và tin hiểu, có người không nghe? Đáp: Đây có bốn nghóa: Mới tập học Đại thừa, cuối cùng cũng được nghe Đại thừa, hạng người này có lòng tin xa vời. Mới tập học Đại thừa nhưng giữa chừng quên ý chí, vì thế ban đầu vì họ mà nói Tiểu thừa, khi tâm Tiểu thừa dần thay đổi, cuối cùng vì họ mà nói Đại thừa, người này nghe Pháp Hoa cũng tin hiểu. Vốn học Đại thừa nhưng sau nghe nói Đại thừa lại lui chấp Tiểu thừa, như sáu mươi vị Bồ-tát thành La-hán nói trong kinh Đại phẩm, cũng như kinh Niết-bàn tuy nghe có Phật tánh mà còn thành La-hán. Dùng đây để so sánh, thì nghe kinh Pháp Hoa cũng có người thành A- la-hán, hạng người này nghe pháp Đại thừa cũng tin hiểu. Ban đầu học Tiểu thừa mà sau nghe nói Đại thừa, người này thường không sanh tâm tin, do tu tập Tiểu thừa đã lâu ngày, khi nghe đại thửa thì trái với bổn tâm, cho nên không sanh tín. “Phật bảo Xá-lợi- phất! Pháp mầu như thế, các Đức Phật khi đúng thời mới nói”. Phần trước nói về duyên khởi, tức là tịnh khí, Nay là phần chính là nói, tức trao pháp mầu. Nếu không có tịnh khí thì không biết lấy gì để nhận pháp mầu, nếu không có pháp mầu thì không do đâu để trao tịnh khí, cho nên hai thứ này phải tương xứng, trong phần chính là nói gồm có bốn môn: Nói về môn Nhất thừa chân thật. Nói về môn Nhị thừa phương tiện. Chỉ bày chỗ được mất. Khuyên tin nhận vâng giữ. Sở dó nói bốn môn này, là trong hội Linh Sơn căn cơ lớn đã thuần thục đáng nghe pháp lớn, cho nên nói về môn Nhất thừa chân thật. Nay đã chỉ bày nhất thừa là chân thật, thì nên bỏ ba thừa xưa là phương tiện, cho nên nói về ba thừa xưa là phương tiện. Môn đầu nói nay Nhất thừa chân thật, môn sau nói xưa ba là phương tiện, vì là một cách giáo hóa trước sau mà lý cùng tận. Nếu có thể tin nhất thừa là thật, ba thừa là phương tiện thì gọi là được chẳng mất. Nếu không tin thì gọi là mất chẳng được, vì thế môn thứ ba là chỉ bày chỗ được mất. Lý được mất đã rõ, cho nên sau cùng khuyên bỏ mất lấy được và tin nhận vâng giữ, vì thế có môn thứ tư. Lại nữa, nhất thừa chân thật gọi là pháp luân căn bản, Chư Phật xuất hiện ở đời chỉ vì nói một việc lớn nhân duyên, đó là một đạo thanh tịnh tức pháp luân căn bản. Nhưng chúng sanh phước mỏng căn tánh ám độn không thể thọ lãnh một đạo, cho nên đối với một Phật thừa mà phương tiện nói ba, gọi là pháp luân chi mạt. Đã từ một khởi ba trở lại muốn chúng sanh do ba mà hiểu một, nếu có thể biết ba là quy về một tức là được chẳng phải mất, nếu cố chấp ba không thọ nhận một, đó là mất chẳng phải được, vì thế môn được mất là pháp luân thâu ngọn quy về gốc. Việc trước sau giáo hóa ba luân đã tròn đầy, sau dó mới khuyên chúng sanh tin nhận, vì thế có môn thứ tư là khuyến tín. Môn nhất thừa chân thật lại chia làm ba chương: Đức Thích-ca tự nói Nhất thừa chân thật, cũng gọi là tự khai tông. Dẫn Chư Phật để làm chứng và giải thích. Đức Thích-ca thuận đồng theo. Sở dó có ba môn này, bởi đức Thích-ca là bậc giáo chủ hiện tại cho nên trước tự khai tông, vì sợ chúng sanh không tin nên dẫn Chư Phật để làm chứng, làm chứng rồi mới thuận theo. Phần đầu lại chia làm ba môn: Môn khen ngợi. Môn không luống dối. Môn hiển bày ý giáo. Sở dó có ba môn này, là trước khen ngợi khiến chúng sanh tin hiểu, không luống dối là ngăn sự chê bai, khai mở tin hiểu, phá trừ mê hoặc, nhân duyên đã xong nên nói lên ý giáo pháp. Phần đầu lại chia làm hai là pháp và thí dụ “Pháp mầu như thế”, đây là nói lên ý chỉ quy của một bộ kinh, nghóa là trước nói Nhất thừa chân thật, lấy hai chữ Diệu pháp làm đầu đề. Diệu có hai nghóa: Thể diệu, tức là chẳng phải một chẳng phải ba, quên ngôn ngữ, dứt suy nghó. Dụng diệu, tức là chẳng phải ba chẳng phải một, không biết lấy gì để khen ngợi, vì đối với xưa có ba nên gượng khen ngợi một, cho nên chú thích kinh Pháp Hoa rằng: Chẳng phải ba chẳng phải một tận cùng tướng là diệu, chẳng lớn chẳng nhỏ, chung cho cả chúng sanh là pháp, bởi theo tông cũ của Ngài La-thập và Tăng Triệu, không phải nay mới dịch. “Khi đúng thời mới nói”: đây là khen ngợi pháp ít có, tăng thêm lòng kính tin cho chúng sanh. Nói xa thì như đọan văn sau chép: Ức ức muôn kiếp cho đến bất khả tư nghì Chư Phật Thế tôn mới nói kinh này, nói gần thì đức Thích-ca giáo hóa hơn bốn mươi năm mà chưa nói nay mới nói kinh này, cho nên biết là ít có. “Như hoa Ưu-bát-la đúng thời mới hiện ra”, thí dụ này là nói đúng thời Phật mới nói kinh. Ngài Đạo Lãng ở Hà Tây chép: Hán dịch là Linh thoại hoa, lại gọi là Không khởi hoa. Ở nước Thiên-trúc có cây này mà không có hoa, nếu vua Chuyển Luân ra đời thì cây này mới nở hoa, ý nói chúng sanh ưa nghe pháp Nhất thừa thành vua Chuyển Luân, thì Chư Phật Thế tôn mới nói kinh này. Hoa Linh Thoại là tướng của vua Chuyển Luân, kinh Pháp Hoa là chứng minh thành Phật. “Xá-lợi-phất! Các vị nên tin lời Phật nói không hề luống dối là nói môn bất hư. Xưa nói ba mà nay một thì lởi nói dường như trái nhau, sợ rằng chúng sanh không tin cho nên nay nói lời Phật là không luống dối, tức khuyên chúng sanh tin nhận. “Xá-lợi-phất! Chư Phật tùy thời nghi nói pháp”, đây là phần nói lên ý giáo pháp, hai câu trên là nói lý do, chương này là chính là nói căn cứ ý Hiển giáo chia làm hai phần: Môn chúng sanh không hiểu giáo ý. Môn chỉ có Phật mới có thể hiểu giáo ý. “Tùy thời nghi nói ý thú khó hiểu, đây là nêu hai chương môn. Môn tùy nghi nói pháp Môn nêu ý thú khó hiểu Chư Phật nói pháp tùy theo hai loại chép: Tùy hiện thật mà nói. Tùy căn cơ thích hợp mà nói Nói Nhất thừa tức là tùy theo lý thật mà nói, nói Ba thừa là tùy căn cơ thích hợp mà nói, bởi lý thật không ba mà nói ba tức là tùy cơ thích nghi mà nói. “Ý thú khó hiểu”, trên nói thuyết giáo tùy nghi, nay nói giáo là chỗ biểu hiện lý. Nếu nói ba thừa mà ý cũng ba thì không gọi là khó hiểu, nhưng đây nói ba mà ý chẳng phải ba, lời nói thì gần mà ý xa, nên gọi là ý thú khó hiểu. Lại nữa, ý chẳng phải ba cũng không gọi là khó hiểu, nay nói chẳng phải ba rõ ràng đó không phải ba, cũng chẳng cho là không phải ba, tức tâm không có chỗ ký gởi là hợp với huyền tông, nên gọi là khó hiểu. Chữ “vì sao” là giải thích phần nói đầu của hai môn trên giải thích môn tùy nghi, kế là giải thích môn ý thú khó hiểu. “Ta dùng vô số phương tiện”, hoặc tà hoặc chánh, hoặc thuận hoặc nghịch, đều là khéo léo nên gọi là phương tiện. Lại khiến tất cả ngộ nhập một đạo thanh tịnh, chỉ bày các thứ giáo hóa vì làm nhân duyên của một đạo, do từng bước nên gọi là phương tiện. “Các thứ nhân duyên”: sở dó chỉ bày các thứ giáo hóa tà, chánh, thuận, nghịch khác nhau nhau, là bởi chúng sanh căn tánh khác nhau, mỗi người đều có nhân duyên nhập đạo khác nhau, cho nên nói các thứ nhân duyên. “Lời lẽ thí dụ giảng nói các pháp”, trên nói vô số phương tiện là nói chung tám tướng thành đạo là chân chánh, chỉ bày chín mươi sáu pháp thuật là tà, hoặc ngỗ nghịch là Điều-đạt Thiện Tinh, hoặc thuận như A-nan, La Vân cho nên nói chung tất cả là khéo léo. Nay nói riêng một việc nói pháp, nói pháp có hai thứ là thí dụ và lời lẽ. Từ vô số phương tiện cho đến các thứ nói pháp, là nhiếp chung tất cả giáo pháp của đức Thích-ca. “Pháp đó không phải suy lường phân biệt mà có thể hiểu”: đây là giải Thích-câu ý thú khó hiểu. Như lai nói tất cả giáo là khiến chúng sanh ngộ nhập Nhất đạo, cho nên đoạn văn sau chép: Đối với tất cả pháp mà dùng trí phương tiện để giảng nói, những sự nói pháp ấy đều dẫn đến Nhất thiết trí địa. Người lãnh thọ giáo pháp ba thừa thì suy lường phân biệt ba, cuối cùng không hiểu được ý của ba thừa giáo. Năm thừa thì dùng năm tâm khác nhau mà phân biệt, cuối cùng không hiểu tuy nói năm mà ý không phải năm. Cho nên nói chẳng phải suy lường phân biệt mà có thể hiểu. Lại nữa, tâm có sở đắc gọi là suy lường phân biệt, nên luận Nhiếp Đại thừa chép: “Phân biệt là phiền não của Bồ-tát” “Chỉ có các Đức Phật mới có thể biết”, ở trên nói chúng sanh không hiểu, ở đây nói chỉ có Đức Phật mới hiểu. “Vì sao”, đây là giải thích vì sao chỉ có Phật hiểu, tức câu “Chư Phật chỉ do một nhân duyên lớn mà hiện ra đời”, cho nên Phật nói tất cả giáo pháp đều vì nói lên Nhất thừa. “Xá-lợi-phất thế nào gọi là Chư Phật chỉ do một nhân duyên mà hiện ra ở đời”, trên là nêu một đại sự nhân duyên để giải thích ý giáo pháp, ở đây giải thích việc lởn nhân duyên ấy. Vì muốn giải thích nên nêu việc ấy làm chương môn, kế đến là nói bốn câu khai, thị, ngộ, nhập tri kiến để giải thích chương môn, phần giải thích bốn môn này thì khác nhau nhau, nay nói lược ba nghóa. Theo sách xưa giải thích thì ban đầu khai mở tri kiến Phật là nói về lý của đạo, ba câu sau là ngộ lý đạo này mà phát sanh ba tuệ, cho nên nói thị, ngộ, nhập. Theo Luận Pháp Hoa giải thích, khai là nói về nghóa vô thượng, ngoài nhất thiết trí của Như lai thì không có việc gì khác, vì thế nói khai tri kiến Phật, khiến chúng sanh biết để được thanh tịnh. Tri kiến của Như lai là Như lai có thể chứng nghóa như thật, như phẩm Thọ Lượng chép: Như lai biết tướng như thật của ba cõi, không có sanh tử, hoặc thoái, hoặc xuất, cũng không ở đời và diệt độ. Chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng phải giống, chẳng phải khác, đây là pháp giới của Như lai. Nói chữ thị là có ý nghóa như nhau, đó là pháp thân của Thanh văn, Duyên giác và Phật đồng nhau, pháp thân bình đẳng là Phật tánh pháp thân của Ba thừa không có khác nhau. Nói chữ ngộ là bởi trước dó không biết nghóa lý, người Nhị thừa không biết chỉ một Phật thừa là rốt ráo, nay muốn cho họ biết nên gọi là ngộ. Nói chữ nhập là chứng đại bất thối chuyển, thị hiện vô lượng trí nghiệp. Luận nói bốn môn này là có thứ lớp, ban đầu nói khai tri kiến Phật tức khen ngợi tri kiến Phật là vô thượng, tuy khen tri kiến Phật là vô thượng. Nhưng có người cho rằng chỉ Phật mới có tri kiến này, còn người Nhị thừa không có, vì thế kế là thị tri kiến Phật chỉ bày ba thừa đều có Phật tánh pháp thân chỉ có Phật chứng ngộ Phật tánh thì gọi là pháp thân. Hàng Nhị thừa chưa hiển rõ nên gọi là Phật tánh. Tuy ba thừa đều có Phật tánh pháp thân, mà người Nhị thừa không biết chỉ có Nhất thừa không có hai thừa, nay muốn cho họ biết nên kế là nói ngộ tri kiến Phật. Đã biết chỉ có một Phật tánh, không có hai thừa tức chứng bất thoái chuyển, vì thế kế là nói nhập Tri kiến Phật. Luận lại giải thích ba câu sau, nói chữ Thị là vì các Bồ-tát có tâm nghi nên khiến họ biết như thật mà tu hành. Nói chữ Nhập là người chưa phát tâm Bồ-đề khiến họ phát tâm, người đã phát tâm thì khiến chứng nhập pháp Đại thừa. Chữ nhập cũng là khiến bỏ quả Thanh văn mà nhập đại Bồ-đề. Chữ ngộ là làm cho chúng sanh ngoại đạo phát sanh giác ngộ, ý này giải thích có khác với trước. Bốn câu giải thích trước đều là giáo hóa Thanh Văn, ý ở đây là nói giáo hóa Bồ-tát và ngoại đạo, kinh này chính là giáo hóa Thanh Văn, sau mới giáo hóa Bồ-tát và ngoại đạo, giáo hóa ba hạng này là nhiếp chung tất cả khiến đồng quy về Phật thừa. Theo luận Trí Độ và kinh Niết-bàn thì tuy có bốn câu mà không ngoài hai môn, hai câu đầu là nói về năng hóa, hai câu sau là nói về sở hóa, trong phần năng hóa có đại khai và chỉ bày khúc chiết, trong phần sở hóa có bắt đầu ngộ và cuối cùng nhập, cho nên bốn môn này bao gồm tất cả nghóa. Nói chữ khai, Phật tánh của chúng sanh gọi là Tri kiến Phật, Phật tánh cũng gọi là Nhất thừa. Kinh Niết-bàn chép: “Tất cánh” có hai món: Trang nghiêm tất cánh Rốt ráo tất cánh Trang nghiêm tất cánh là sáu Ba-la-mật, Rốt ráo tất cánh là tất cả chúng sanh chứng đắc Nhất thừa, nhất thửa gọi là Phật tánh, do nghóa này nên Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả chúng sanh đều có Nhất thừa, vì vô minh che lấp nên không thể thấy; vì chúng sanh nên Phật nói Phật tánh, gọi dó là khai. Đã vì chúng sanh mà nói tức là vì chúng sanh mà khai, sở dó khai Phật tánh là khiến chúng sanh dứt bỏ vô minh phiền não, để được thanh tịnh, khai mở Phật tánh, tức là không đức nào không tròn đầy, để được thanh tịnh là không hệ lụy sao không dứt sạch. Nói chữ thị, đó là chỉ bày nghóa khác nhau của năm tánh, nên gọi là thị, như kinh Niết-bàn chép: “Đào ra kho vàng chỉ bày khắp chúng sanh hiểu là kho báu nên gọi là thị”. Nói chữ ngộ, là khi nói xong hai môn khai và thị, nay kế đến biết đều có Phật tánh gọi là ngộ, do tu hành chứng nên gọi là nhập. Biết có Phật tánh là bậc Thập tín trở lên, chứng nhập Phật tánh là từ vị Diệu giác địa trở xuống. Nêu địa vị trước và sau thì chẳng có gì không bao gồm, kế nói lời kết, tức câu: “Đức Phật do một nhân duyên lớn mà hiện ra đời”. Hỏi: Đã biết khai, thị, ngộ, nhập, vì sao gọi là tri kiến Chư Phật? Đáp: Trên đã nói lược, nay là nói rộng, bởi là tên khác của Bà- nhã, hạng mục riêng của chánh quán. Nay y theo kinh này tức là bốn trí: Nhất thiết trí, là biết chúng sanh sáu đường xưa nay vốn vắng lặng, tất cả chúng sanh vốn là Phật. Nhất thiết chủng trí: tuy biết xưa nay vốn vắng lặng mà đối với chúng sanh thì thường không vắng lặng, cho nên đối với đạo chưa bắt đầu ở hai, đối với duyên chưa bắt đầu ở một. Đối với đạo chưa bắt đầu ở hai nên pháp thân thường ở trong sáu đường, đối với duyên chưa bắt đầu ở một cho nên pháp thân thường ở trong sáu đường, pháp thân thường gọi ở trong sáu đường là nhất thiết trí, pháp thân thường ở trong sáu đường gọi là nhất thiết chủng trí. Tự nhiên trí: tức là nhậm vận mà trí biết hai pháp trên Vô sư trí, ba trí này không do thầy mà được nên gọi là vô sư. Bốn trí này là tâm của Chư Phật ba đời, tất cả chúng sanh nên thường dùng bốn trí này làm quán hạnh tức là sơ tâm Phật. “Các Đức Phật Như lai chỉ giáo hóa Bồ-tát, những điều làm ra thường vì một việc”, ở trên nói chỉ vì Nhất đạo nên xuất hiện ở đời, nay nói chỉ giáo hóa một người. Hỏi: Chư Phật giáo hóa năm thừa chúng sanh, sao ở đây nói chỉ giáo hóa một người là Bồ-tát? Đáp: Tuy nói năm giáo nhưng nói lên một lý, tuy dạy năm hạng người cũng thành một người, đó là nói gởi năm, ý ở một. Lại nữa, đạo cần cầu đã là một thì người cầu đạo cũng là một. Cho nên nói chỉ dạy Bồ-tát. “Những điều làm ra thường vì một việc”: trên nói một lý, chỉ dạy một người, đó là theo miệng nghiệp. Nay nói những việc làm, đó là sự động tịnh bốn oai nghi, cho đến dùng ba nghiệp làm tất cả việc đều là nói lên một lý, tất cả đều vì dạy một người. “Đức Như lai chỉ dùng một Phật thừa mà nói pháp cho chúng sanh nghe, không có các thừa nào khác, hoặc hai hoặc ba thừa”. Sở dó có đoạn văn này, là để giải thích thành tựu nghóa các câu trên, bởi đạo lý đã là một không có ba, cho nên Chư Phật chỉ vì một việc mà xuất hiện ở đời, chỉ vì giáo hóa một người, cho đến những điều làm ra đều vì nói lên một việc, văn nầy có hai ý: Nói đạo lý chỉ có một, nên Chư Phật y theo một lý, chỉ nói Nhất thừa, cho nên chép: chỉ dùng một Phật thừa mà vì chúng sanh nói pháp. Không có các thừa nào khác, chẳng hai hoặc ba thừa, ở trên nói lý chỉ có một Phật thừa, ở đây nói đạo lý không có các thừa khác. Thừa khác tức là thừa Thanh văn và thừa Duyên giác, thừa Duyên giác là thừa thứ hai, thừa Thanh văn là thừa thứ ba, cho nên chép: không có các thừa khác, chẳng hai hoặc ba thừa. Hỏi: Vì sao biết như vậy? Đáp: Theo thứ lớp của số thì đọc một, hai, ba, trên đã nói dùng một Phật thừa, cho nên nay nói không có thừa, thứ hai thứ ba đây là theo thứ lớp từ cao đến thấp. Sở dó trước nói có Phật thừa, là muốn giải thích ở trên chỉ có một việc, nên chỉ có Nhất thừa, văn đã rõ ràng không cần giải thích khác nữa. Có chỗ nói “hoặc hai” là Thanh văn và Duyên giác, “hoặc ba” là Đại thừa trong ba thừa. Có chỗ nói “hoặc” hai là Đại thừa và Tiểu thừa, có chỗ nói hoặc hai là nhân thừa và thiên thừa, hoặc ba là Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn. Đây chẳng giải thích cũng không cần bác bỏ. “Tất cả pháp của Chư Phật trong mười phương cũng là như vậy”, cho nên nói đoạn văn này, bởi ở trên nói có Nhất thừa, không có các thừa khác, hoặc hai hoặc ba thừa. Lúc ấy đại chúng cho rằng chỉ có đức Thích-ca nói lời này nên không tin nhận, vì thế nay dẫn Chư Phật mười phương để làm chứng chẳng phải chỉ Phật nói có Nhất thừa mà Chư Phật mười phương cũng nói như. “Các Đức Phật thuở quá khứ” v.v…. Đây là lời dẫn chứng, văn chia hai phần: Dẫn riêng Chư Phật ba đời để làm chứng. Dẫn chung Chư Phật ba đời để làm chứng. Trong mỗi phần đều có ba câu dó là bậc hóa chủ, giáo pháp và người lãnh thọ, ba câu này là thầy giỏi, thuốc hay và người bệnh. Lại nữa, hóa chủ là Phật bảo, giáo pháp là Pháp bảo, người lãnh thọ là Tăng bảo. Trong phần giáo pháp lại có hai câu: Trình bày chung tất cả giáo, luận Pháp Hoa chép: Nhân duyên gọi là pháp Ba thừa, pháp Ba thừa chỉ có danh tự mà không có nghóa thật. Thí dụ nghóa là từ bò sanh ra sữa, sữa dụ cho Tiểu thừa, từ sữa sanh ra đề hồ, đề hồ dụ cho Đại thừa, pháp này đều là một Phật thừa. Nói về lý biểu hiện ở giáo: Người lãnh thọ giáo pháp cũng có hai câu, ban đầu là khai hiáo năm thừa, sau là đắc nhất thiết chủng trí “Xá-lợi-phất! Các Đức Phật chỉ giáo hóa Bồ-tát”, trên là nói riêng về sự giáo hóa của Chư Phật ba đời, nay là nói chung sự giáo hóa của Chư Phật ba đời. Sở dó có đoạn văn này, bởi trước đó đức Thích-ca khai tông chỉ vì giáo hóa một một người, chỉ vì hiển một lý chưa nói về giáo pháp của Chư Phật ba đời, nên nay nói ở văn nầy. “Xá-lợi-phất! Nay ta cũng giốngnhư thế”: là chương thứ ba nói ý ttuện theo. Vì Chư Phật ba đời đã nói như thế, đức Thích-ca thuận theo nên cũng nói như thế, vì lý đã không hai nên đạo của Chư Phật là như nhau, nếu không tin lời nói của đức Thích-ca thì trái với giáo pháp của chư Phật ba đời, tội ấy rất lớn. Nếu tin lời nói của đức Thích-ca tức là tin giáo pháp của Chư Phật nói, phước có được rất nhiều, đây là khuyên chúng sanh tin nhận cho nên nói chỗ thuận theo như nhau, văn chia hai phần: Hiển bày Nhất thừa Phá bỏ hai thừa Trong phần hiển Nhất thừa thì trước nói về giáo môn, sau nói giáo biểu hiện lý. “Biết rõ chúng sanh có những điều ưa muốn”, đây là nói dục lạc của chúng sanh ở năm thừa có khác nhau. “Thâm tâm chấp trước”, Huân tập dục lạc ở năm thừa rất sâu, vì thế chúng sanh chấp đắm ở năm thừa. “Ta tùy theo bản tánh kia”, Huân tập dục lạc đã sâu thì thành bản tánh, tánh không thể đổi nên Đức Phật tùy theo dó mà nói pháp. “Dùng các thứ nhân duyên”, trên là nói biết căn cơ, nay là thuận theo căn cơ để nói giáo. “Như thế đều vì để chứng đắc một Phật thừa Nhất thiết chủng trí”, ở trên là nói giáo môn, nay là nói giáo biểu hiện lý. “Trong cõi nước ở mười phương, hai thừa còn không có, huống là có ba”, ở trên nói chỉ có Nhất thừa, nay nói chẳng có hai, vì người Nhị thừa không biết chỉ có Nhất thừa, vì thế nói chỉ có Nhất thừa; không biết chẳng có hai, vì thế nay phá hai. Lại muốn phát khởi phần sau, phương tiện nói thành ba, cho nên trước nói đạo lý không có ba thừa. Kinh này phá hai thừa, gồm có ba môn: Dùng Nhất thừa phá hai thừa, như trước có chép: “Chỉ có một Phật thừa, không có các thừa khác, chẳng hai hoặc ba thừa”. Phần kệ sau cũng chép: “Chỉ một việc là thật, nếu hai chẳng phải chân”, đây là dùng Nhất thừa phá hai thừa. Dùng hai thừa phá ba thừa, tức như đoạn văn nầy: “Hai thừa còn không có, huống chi là có ba?”, hai thừa là Duyên giác, ba thừa là Thanh văn, Duyên giác là cao quý đối với lý mà còn không có, huống là Thanh văn yếu kém hơn mà có hay sao? Ý này nói về lý không thể có hai huống chi là có ba? Lại nữa nói phá ba thừa này là vì trong hội pháp Hoa chung là ba thừa nhưng chính là phá Thanh văn, cho nên phẩm Thí Dụ nói: “Vì các Thanh văn mà nói kinh Đại thừa”. Nay nêu không có Duyên giác để phá bỏ Thanh văn tức là dùng hai thừa phá ba thừa. Dùng ba thừa phá hai thừa, nghóa là từ một Phật thừa mà phương tiện nói ba, ba thừa đã là phương tiện, há hai thừa là thật hay sao? Hai môn trước là dùng không để phá có, môn sau là dùng quyền phá thật. “Xá-lợi-phất! Chư Phật ra đời”, ở đây là nói về ba thừa phương tiện, sở dó có đoạn văn này là có hai nghóa gần và xa. Nói về xa, ba môn trên đã nói Nhất thừa là chân thật tức phải nói rõ xưa nói ba là phương tiện, bởi nói nay, xưa, trước, sau, quyền, thật, là ý của hai giáo. Nói nghóa gần là từ trước dùng một phá hai và mượn hai phá ba, lúc ấy đại chúng nghi rằng: đạo lý chỉ có một, còn không có hai, huống chi là có ba? Đức Như lai là người thấu đạt lý, lúc mới ra đời thì nên giảng nói chỉ có một lý, không có ba thừa. Vì sao đạo lý có một lại không nói một; không có ba thừa mà lại nói ba? Há chẳng phải không mà nói có, có mà nói không, lừa dối chúng ta sao? Cho nên giải thích rằng: Tuy lý chỉ có một không có ba, nhưng vì chúng sanh có chướng ngại năm trước sâu nặng không thể thọ lãnh Nhất thừa, vì thế Chư Phật dùng phương tiện mà nói ba, lỗi là ở chúng sanh, chẳng phải do Chư Phật, đây là khiến người Nhị thừa tự hối hận trách mình mà quy ngưỡng Như lai. Kế là vì giải thích thành lý chỉ một. Do năm trược mà phương tiện nói ba, vì thế biết đạo chỉ có một, văn nầy chia ba phần: Nêu chung Chư Phật xuất hiện ở cõi đời có năm điều vẫn đục. Nói riêng tên của năm điều vẫn đục. Giải thích kiếp trược là thời ác xấu. Hỏi: Vì sao nói kiếp trược đầu tiên? Đáp: Luận Pháp Hoa chép: Chính là để giải thích nghi ngờ. Nghi rằng: Chư Phật ở trong thời nào mà nói ba thừa là phương tiện? Vì dứt sự nghi ngờ nên nói Chư Phật xuất hiện trong đời có năm thứ vẫn đục, đó là: Kiếp trược, phiền não trược, chúng sanh trược, kiến trược, mạng trược, nên nói kiếp trược đầu tiên. Lại, kiếp trược là chung trong kiếp trược phân ra năm trược mà thôi. Nếu dùng pháp để biện luận thời gian thì nên nói là trược kiếp, nay dùng thời gian để gọi pháp nên nói là kiếp trược. Kế là nói phiền não trược, có kiếp trược rồi thì có chúng sanh trược, rồi đến Kiến trược, bởi chúng sanh khởi phiền não mà không hẳn khởi kiến, muốn nói trước là tại gia thì khởi ái chúng sanh, nay là xuất gia khởi kiến ngoại đạo vì thế nói kiến trược. Nên phần kệ sau đều trước nói ái, sau nói kiến, khởi đủ cả ái và kiến thì giảm gần ba tiểu kiếp, tuổi thọ chúng sanh ngắn ngủi, cho nên nói mạng trược. Trong kinh nêu năm trược này là theo thứ lớp, phiền não trược và kiến trược là thể của trược, hai trược này cấu thành chúng sanh nên gọi là chúng sanh trược, cho nên kinh chép: “Tâm nhơ uế nên chúng sanh nhơ uế. Hỏi: Năm trược và ba chướng có gì khác nhau? Đáp: Ba chướng ngăn ngại Thánh đạo và phương tiện Thánh đạo, nghóa này là quan trọng, cho nên có ba chướng thì không thể nhập Thánh đạo. Năm trược là nói chung, vì thế Chư Phật vì chúng sanh năm trược mà nói ba thừa giáo. Hỏi: Đã có nói nghiệp chướng, sao không nói nghiệp trược? Đáp: Như kinh Tỳ-ni-Mẫu cũng nói nghiệp trược, không nói kiến trược thuộc phiền não trược. Nay nói chúng sanh trược là nghiệp trược, vì sao? Đã có ái, kiến, phiền não, tức khởi ba nghiệp ác của thân miệng ý, vì thế gọi là nghiệp trược; lấy gì để biết? Nếu nói chỉ ý địa các phiền não mà không khởi nghiệp thân miệng, thì chẳng phải chúng sanh xấu ác, không gọi là chúng sanh trược, vì thế biết chúng sanh trược tức là nghiệp trược. Hỏi: Năm trược đều ngăn ngại Nhất thừa ba thừa, vì sao nói ba mà không nói một? Đáp: Nhất thừa thì sâu mà ba thừa thì cạn, tuy có năm trược nhưng có thể nói ba thừa, gồm có bốn ý: Có năm trược thì chướng ngại Nhất thừa, thuở xưa người Thanh văn không thể nghe Nhất thừa. Năm trược không chướng ngại Nhất thừa, nghóa là phàm phu có năm trược nhưng được nghe giáo Nhất thừa. Hỏi: Đồng có năm trược, vì sao có hạng được nghe Nhất thừa, có hạng không nghe? Đáp: Tuy đồng có năm trược, nhưng người có căn cơ với Nhất thửa thì được nghe, nếu không có thì không nghe. Hạng người không có năm trược được nghe Nhất thừa, tức là Thanh văn trong hội Pháp Hoa. Hạng không có năm trược mà không nghe Nhất thừa, tức là Thanh văn không nghe Pháp Hoa. Hỏi: Cùng đồng không có năm trược, sao có hạng được nghe, hạng không được nghe? Đáp: Tuy đồng không có năm trược, nhưng người có căn cơ với pháp Nhất thừa thì được nghe, nếu không thì chẳng được nghe. Hỏi: Người có căn cơ với pháp Nhất thừa thì được nghe còn không thì chẳng nghe, thế nào là năm trược chướng ngại Nhất thừa và không chướng ngại? Đáp: Năm trược chướng ngại Nhất thừa, nhưng nếu có căn cơ mạnh với Nhất thừa mà năm trược chướng ngại yếu nên được nghe pháp Nhất thừa. Hỏi: Ba căn Thanh văn trong hội Đức Phật Đại Thông Trí Thắng đã nghe pháp Nhất thừa, thì có căn cơ với Nhất thừa, sau khi đắc A-la- hán vì sao không nghe Pháp Hoa? Đáp: Tuy có căn cơ với Nhất thừa, nhưng sự chấp ba thừa mạnh mà căn cơ Nhất thừa yếu, phải đợi nghe các kinh Phương Đẳng, rèn luyện tâm ấy rồi mới nghe kinh Pháp Hoa được. Hỏi:Thế nào gọi là trược? Đáp: Trược nghóa là không sạch, thí như nước đục không thể thấy vật, tâm chúng sanh trược nên không thể thấy rõ lý Nhất thừa, vì vậy gọi là Trược. Kinh Tát-già-ni-kiền có nói mười hai thứ trược Kiếp trược 7. Cõi nước bất tịnh trước Thời trược 8. Chúng sanh khó dạy trược Chúng sanh trược 9. Nói các phiền não trược Phiền não trược 10. Ngoại đạo loạn trược Mạng trược 11. Ma trược. Ba thừa sai khác trược 12. Ma nghiệp trược “Vào lúc kiếp loạn trược”, đây giải thích nghóa năm trược mà khởi giáo pháp ba thừa, trong năm trược mà nói riêng về kiếp loạn trược, bởi trong ba tiểu kiếp có ba tai, phiền não chúng sanh đều tăng nhiều, cho nên nói lúc kiếp loạn trược. “Chúng sanh nhơ nặng, bỏn sẻn, tham lam, ganh ghét” , đây là các việc dơ nặng. Tham lam là một trong ba độc, bỏn sẻn, ganh ghét là hai triền trong mười triền, sở dó nói riêng ba thứ này là có hai ý: Ba món này chỉ nặng ở cõi Dục cho nên nói Bỏn sẻn là nghiệp nghèo khó, ganh ghét là nhân của thấp hèn. Trong nghiệp nghèo cùng thì tiếc vật của mình gọi là bỏn sẻn, lấy vật của người khác gọi là tham. Trong nghiệp thấp hèn thì ganh tài vật bên ngoài của người khác gọi là tật, ganh chánh báo bên trong của người khác gọi là đố. Gây nhân bần cùng tạ tiện thì không được dự vào nhân thừa, thiên thừa, huống chi là Phật thừa là thừa giàu sang, vì trên hết trong năm thừa nên là giàu, đầy đủ muôn đức gọi là sang, cho nên đoạn văn sau chép: “Sang trọng như vậy, có thế lực lớn”. Trưởng giả giàu sang ấy tức là Như lai. “Thành tựu các căn chẳng lành”, trên là nói riêng về một kiết sử và hai triền, tức là nói chúng sanh tại gia, gọi là phiền não trược, trong phẩm Thí Dụ gọi là trùng độc. Nay nói chung về hai căn bất thiện là sân và si, cùng các triền cấu, tức là ngoại đạo xuất gia, gọi là kiến trược, trong phẩm Thí Dụ gọi là ác quỷ. “Cho nên các Đức Phật dùng năng lực phương tiện, đối với một Phật thừa mà phân nói riêng ba”, trên là nói chúng sanh có năm trược tăng mạnh không thể thọ lãnh pháp Nhất thừa, cho nên nay nói dùng năng lực phương tiện mà nói ba thừa. “Nếu đệ tử Ta tự cho rằng mình là A-la-hán, Duyên giác,v.v…”, đây là chỉ bày chỗ được mất. Trên nói lý chỉ có một, kế nói vì năm trược mà phương tiện nói ba, quyền, thật, có, không, đã rõ ràng đáng tin, nếu không tin tức là người ác, nên nay nói về chỗ được mất. Nhưng giáo pháp có công năng trùm khắp thì không ngoài hai môn quyền và thật, người lãnh thọ giáo pháp cũng chỉ có hai môn là được và mất, việc này bao gồm tất cả việc giáo hóa.Văn chia hai phần; trước nói về mất sau nói về được, trong mỗi phần lại có hai hạng người thành ra bốn hạng người. Trong hai hạng người mất gồm: Chưa đắc Tiểu thừa mà cho rằng đã đắc, không tin kinh Pháp Hoa. Đã đắc quả Tiểu thừa chẳng phải rốt ráo mà cho là rốt ráo, không cầu quả Đại thừa, đây cũng gọi là mất. Ban đầu là Phàm mất, sau là Thánh mất, hai điều này là bao gồm tất cả việc mất. “Nếu đệ tử Ta tự cho rằng mình là A-la-hán”, ở trên nói Nhất thừa là chân thật, ba thừa là phương tiện, nay là mất hai ý này, bởi nói chấp Tiểu thừa là thật, mê ba thừa là phương tiện, đây là nói chưa đắc quả Tiểu thừa rốt ráo mà cho là đắc quả Tiểu thừa rốt ráo, tức là chỗ mất trong Tiểu thừa, chính là năm ngàn người bỏ hội ra đi. “Không nghe không biết việc của các Đức Phật Như lai chỉ giáo hóa Bồ-tát”, đây là nói do không biết đồng quy về Nhất thửa tức mê Nhất thừa chân thật, là nói chỗ mất trong Đại thừa. Không nghe là không nghe giáo pháp, không biết là không hiểu về lý, năm ngàn người ấy không nghe nói rộng Nhất thừa chân thật, nên nói rằng không nghe không biết. “Người ấy chẳng phải đệ tử Phật”, hai câu trên nói về vọng tình, đoạn văn này lại nói về được mất. Năm ngàn người chưa đắc quả Tiểu thừa rốt ráo mà cho rằng đã đắc quả rốt ráo, cố chấp Tiểu thừa thì Tiểu thừa thuộc về Không mà không nghe không biết chỉ giáo hóa Bồ-tát, người này mê Đại thừa thì thuộc về không Đại thừa, vì thế chẳng phải là đệ tử Phật. Do chẳng phải đệ tử Phật thì chẳng phải nội phàm phu chẳng phải thất Thánh. “Lại nữa! Xá-lợi-phất”: đây nói về chỗ mất của bậc Thánh, văn có ba câu: Đã đắc A la hán tự chấp rốt ráo, chấp ba thừa giáo mà không biết đó là phương tiện. Không biết nhất thừa chân thật, tức câu: “chẳng biết tiến cầu v.v…” Nói về được mất tức câu: “Nên biết bọn đó v.v…” La-hán so với Đại thừa thật chẳng phải rốt ráo mà cho là rốt ráo, vì thế không tiến cầu Phật đạo, phải biết đây là kẻ tăng thượng mạn. Hỏi: Nay kẻ tăng thượng mạn có gì khác với tăng thượng mạn đã nói ở trước? Đáp: Ở trên đã giải thích rồi, nay nói về chỗ khác, phàm phu có hai thứ tăng thượng mạn: Chưa đắc Tiểu thừa rốt ráo mà cho là đã đắc rốt ráo, đây là Tiểu thừa tăng thượng mạn. Chấp vọng tình này mà không tiến cầu Đại thừa, đây là Đại thừa tăng thượng mạn. Bậc Thánh đã đắc quả Tiểu thừa, nhưng tiểu quả so với Đại thừa chẳng phải rốt ráo mà cho là rốt ráo, đây là bậc Thánh tăng thượng mạn, nhưng chỉ có tăng thượng mạn trong Đại thừa mà Tiểu thừa không có. Hỏi: Vì sao biết có hai hạng người này? Đáp: Đoạn văn sau nói về người khác với ở trước, cho nên biết hai hạng người này là khác. Lại nữa, văn trước phán xét phàm phu, chẳng phải đệ tử Phật, chẳng phải A-la-hán, Bích-chi-phật, cho nên biết là sự mất của phàm phu. Đoạn văn sau phán xét mất nói thẳng tăng thượng mạn, bởi đã là La-hán mà không chứng đắc, tức chẳng phải đệ tử Phật, chẳng phải A-la-hán, tự cho rằng rốt ráo mà không tiến cầu Phật đạo, vì thế gọi là Tăng thượng mạn. Hỏi: Đây nói chính xác là hạng người nào? Đáp: Nói chung tất cả tự cho mình là A-la-hán rốt ráo, mà ý chính là ba căn Thanh văn. Cho nên, phẩm Thí Dụ chép: “Xá-lợi-phất lúc ấy trong tâm tự cho rằng đã được diệt độ“ , cho đến bậc trung căn Ca-diếp cũng có chấp này thể hiện trong phẩm Tín Giải và Hóa Thành Dụ. Hỏi: Người phàm phu chưa đắc La-hán mà tự cho là rốt ráo, bậc Thánh thật đắc La-hán cũng tự cho là rốt ráo, hai hạng này có khác nhau không? Đáp: Hai hạng này chưa nghe kinh Pháp Hoa tự cho là rốt ráo thì có như nhau, nếu khi nghe Pháp Hoa thì năm ngàn người phàm phu không sanh tin nhận, bậc Thánh thì có tin nhận, cho nên trong văn chép: “Nếu thật chứng quả A-la-hán mà không tin Pháp này thì không có việc ấy.” “Vì vì sao”, ở đây nói phần được để giải thích phần mất, cũng có hai hạng người: Khi Phật còn tại thế đắc quả La-hán Sau khi Phật diệt độ đắc quả La-hán Phần đầu lại chia làm hai nghóa: Bác bỏ phàm phu, nếu thật đắc La-hán thì khi nghe pháp Nhất thừa phải tin nhận, tức biết hạng người thứ nhất không tin Pháp Hoa chẳng phải La-hán, vì thế nêu phần được để bác bỏ phần mất. Kích động bậc Thánh, nói thật đắc La-hán phải tin pháp này, nếu không tin thì chẳng phải La-hán, tức dùng văn này để kích động hạng người thứ hai thật đắc La-hán, khiến họ bỏ quả nhỏ để cầu đạo lớn. “Trừ khi sau khi Phật diệt độ và hiện tiền không Phật”, ở đây nói sau khi Phật diệt độ mà đắc La-hán, trước là nghe Pháp Hoa đắc La- hán, nay không nghe Pháp Hoa đắc La-hán. Văn này là để giải thích sự nghi ngờ, nghi rằng: có trường hợp La-hán mà không nghe không biết việc Phật chỉ giáo hóa Bồ-tát hay không? Lại có La-hán mà không tin hai pháp quyền và thật hay không? Do hai đoạn văn trước mà sanh nghi này, cho nên giải thích rằng: Lúc Phật tại thế người chứng La-hán mà nghe Pháp Hoa thì phải tin nhận, chỉ trừ sau khi Phật diệt độ và hiện tiền không có Phật. Đây là La-hán không tin Nhất thừa. Cho nên Luận Pháp Hoa chép: Cũng là để giải thích nghi ngờ, nghi rằng: Nghe pháp ở Phật mà khởi tâm huỷ báng, vì sao Phật không nói pháp để dứt trừ nghi này, chỉ trừ sau khi Phật diệt độ và hiện tiền không có Phật cho nên khởi chê bai mà thôi. “Vì sao như vậy”, đây là giải thích hạng La-hán mà không tin Nhất thừa, do sau khi Phật diệt độ thì kinh Pháp hoa khó nghe khó hiểu, bậc La-hán khó được thành Phật. Luận Trí Độ chép: Kinh pháp Hoa nói La-hán thành Phật nghóa rất sâu xa, La-hán thành Phật thì chỉ có Phật mới hiểu. Luận chính có thể bàn luận những việc khác ngài Long Thọ cũng nói là không hiểu, cho nên biết chỉ có Phật mới hiểu. Sở dó hạng người này khó đắc, là do không gieo hai duyên người và pháp, La-hán này không tin nhất thừa. Phẩm Hiện Bịnh trong kinh Niết-bàn chép: Như lời Phật dạy thì tất cả A la hán đều sẽ đến Niết-bàn, như thế rất sâu xa, là hành xứ của Phật kẻ phàm phu ngu không thể biết được, vì thế nói La-hán thành Phật rất là khó hiểu, chỉ có Phật mới biết cho nên gọi là khó đắc. “Nếu gặp Đức Phật khác đối với pháp này bèn được hiểu”: Văn này cũng giải thích nghi ngờ. Nghi rằng: Bậc La-hán này đã không gặp Pháp Hoa và người giải nghóa, lúc nào mới tin Nhất thừa? Vì thế giải thích rằng: La-hán này sanh trong tịnh độ ở ngoài ba cõi, lại gặp Phật khác được nghe kinh Pháp Hoa mà hiểu rõ. Hiểu rõ là biết ba, một, có, không, quyền thật. Hỏi: Sau khi Phật diệt độ, La-hán không gặp người giải nghóa, mà trực kế nghe kinh Pháp Hoa, có tin hiểu hay không? Đáp: Việc này khó nói, giả sử gặp kinh mà không gặp người giải nghóa cũng không được hiểu rõ, vì thế văn chép: Nếu gặp Phật khác bèn được hiểu. “Xá-lợi-phất! Các ông nên tin hiểu lời Phật dạy”, đây là phần khuyên tin nhận vâng giữ. Sở dó có văn này gồm có ba nghóa: Giải thích nghi ngờ, nghi rằng ban đầu nói ba thừa sau nói Nhất thừa tức thành nói dối làm sao để tin vì giải thích nghi này nên khuyên tin nhận. Trên là chỉ bày Nhất thừa chân thật, ba thừa phương tiện và nói lên việc được mất, nay khuyên tin nhận là khiến bỏ mất theo được, tin nhận vâng giữ. Kế lời văn trên, nếu gặp Phật khác liền được hiểu rõ, không hề có rốt ráo mãi mãi trụ La-hán, phải nghe kinh Pháp Hoa sau sẽ thành Phật. Đại chúng các ông nay đã gặp Phật lại được nghe kinh, sớm phải tin nhận. Hỏi: Trên đã khuyên tin, so với nay có gì khác? Đáp: Trên là nói thẳng khuyên tin, nay nói pháp quyền thật chân, ngụy, đã rồi, thì khuyên chúng sanh tin hiểu thọ trì, vì thế khác lời ở trên. Pháp Hoa Nghóa Sớ quyển thứ ba hết. Năm Giáp Ngọ niên hiệu Vónh Nhân, do có sư thuộc tông Trung Quán khuyến hóa khắc bản kinh Pháp Hoa Nghóa Sớ cuốn ba, hồi hướng ngõ hầu Tỳ-kheo ni. Chánh Thiền và mẹ là Đặng Thị cùng ngồi xe báu này thẳng đến cõi tịnh, cho đến bốn ân ba cõi thấm nhuần lợi ích vô cùng. <篇> PHÁP HOA NGHÓA SỚù <卷>QUYỂN 4 PHẨM PHƯƠNG TIỆN THỨ HAI (Phần 2) “Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, có tâm” v.v… trở xuống là thứ hai kệ tụng có một trăm mười bốn hàng chia làm hai: Bốn hàng tụng duyên khởi. Một trăm mười hàng tụng chính là nói. 1.Duyên khởi có ba: Nay lược bỏ không tụng phần Phật hứa nói, khuyên răn lắng nghe, bài tụng thứ hai chê bai chúng bất tịnh, bài tụng thứ ba khen ngợi chúng thanh tịnh, chỉ tụng hai đoạn này gồm có hai nghóa: l) Muốn chứng minh Đức Phật ngăn Thân Tử và Thân Tử lại xin Phật nói. Dùng bài tụng chúng bất tịnh nói lên Đức Phật ngăn xin nói là không luống uổng. Kế tụng chúng thanh tịnh nói về Thân Tử xin là không lầm. 2) Bài tụng chúng bất tịnh, khuyên răn chúng sanh đời vị lai chớ chấp trước Tiểu thừa làm chướng ngăn Đại thừa. Kế là tụng chúng thanh tịnh, vì khuyên tất cả chúng sanh tu tập Đại thừa. Ban đầu một bài tụng nhiếp bốn chúng làm ba lỗi: hai chúng xuất gia đồng có lỗi tăng thượng mạn, vì sao? Vì hai chúng xuất gia chuyên tâm đạo quả thường đạt được thiền định cho nên khi đắc Bốn thiền mà cho là đắc bốn quả nên gọi là tăng thượng mạn. Có người nói tăng trong mạn, hơn cả mạn gọi là tăng thượng mạn. Nay nói tăng thượng là pháp tăng hơn, chưa đắc pháp tăng hơn mà cho là đắc pháp tăng hơn ỷ lạị đây tự cao gọi là tăng thượng mạn. Hỏi: Tăng thượng mạn và tà mạn có gì khác nhau? Đáp: ba tạng Chân-đế chép: Đều chưa đắc Thánh pháp mà ỷ lại tà pháp để khởi mạn gọi là tà mạn; Nếu đắc chút ít pháp như đắc Bốn thiền,v.v… mà cho là rốt ráo nên gọi Tăng thượng mạn. Hỏi: Vì sao gọi là ôm lòng tăng thượng mạn? Đáp: Chú giải Kinh rằng: Nếu vô tâm mà tiến đức thì sau đó hội ý! Có lòng đối với đạo tăng thượng, do đó gọi là mạn. Có trong lòng nghóa là trong tâm có cưu mang, tức là có sở đắc. “Ưu-bà-tắc ngã mạn”: Nghóa là người kia chưa đắc mà tự cho là đắc, nhưng đã là trượng phu thì giữ chí không thay dổi cho nên nói ngã mạn. Chú giải Kinh rằng: Tuy biết vô ngã mà dùng vô ngã làm ngã cũng là mạn, ý nầy nghóa là ngã năng hiểu là vô ngã nên gọi là ngã mạn. “Ưu bà di chẳng tin”: Nhưng bốn chúng đều không tin Đại thừa, y theo không tin lại chia làm ba: hai chúng xuất gia thì có tăng thượng mạn nên không tin. Ưu bà tắc đã là trượng phu tự cho là có đủ tài năng mạnh mẽ quyết đoán giữ vững ý chí ta từ trước đến nay đã tin đạo lý La-hán rốt ráo, nay vì sao chấp nhận thay đổi chí, nên gọi là ngã mạn. Kế đã là người nữ lại không có nghóa gì khác nên nói thẳng là chẳng tin. Chú giải Kinh rằng: Tuy nói tin chẳng có mà lấy chẳng có làm tin, đó gọi là chẳng tin. Tăng Triệu rằng: Nói kia chẳng có, là nói kia chẳng phải có, chẳng phải nghóa là chẳng có, chỉ vì người nữ chấp chẳng có nên gọi là chẳng tin. “Hàng bốn chúng như thế v.v…” là nói số chúng. “Không tự thấy lỗi mình”: Hễ có lỗi mà có thể biết lỗi nầy gọi là người trí, nay nói có lỗi mà không tự biết gọi là người ngu. “Đối với giới có thiếu sót”: ở trên nói không có Tiểu thừa rốt ráo giải mà cho là có giải, nay một câu nói về không có Tiểu thừa rốt ráo hành mà cho là có rốt ráo hành. Lại trên chưa đắc quả Tiểu thừa rốt ráo mà cho là đắc quả rốt ráo, lại không thọ Đại thừa vì không thể ngăn ngừa hai việc ác nầy cho nên nói giới có thiếu sót. Do phá giới nầy nên gọi là thiếu mà tín tâm rò rỉ nên gọi là lậu. Lại giới là bờ đê ngăn giữ nước phiền não, giới đã thiếu sót phiền não liền chảy ra. Tiếc giữ tội xấu mình: Đây là giải thích nghi cho nên nói, nghi rằng đã không có hạnh giải lại không tự thấy lỗi mình, tâm đại bi của Phật sao không chỉ dạy mà khiến cho rời chỗ ngồi bỏ đi, vì vậy nên giải thích rằng không tự thấy lỗi, tiếc giữ tội xấu không thể hóa giải. Vết trong ngọc gọi là hà, dụ cho ý địa không hiểu, cho là có hiểu bệnh ngoài hòn ngọc gọi là tỳ dụ cho thân miệng không hành mà cho là có hành. Lại quá khứ tội căn sâu nặng là hà, hiện lại có tăng thượng mạn là tỳ. Lại trong tâm chấp Tiểu thừa không bỏ là hà, ngoài nghe nói Đại thừa không thọ là tỳ. Che đậy lỗi lầm là giữ, keo kiết sai trái là tiếc. “Bọn cám thóc trong chúng”: Văn nầy giải thích nghi cho nên nói. Đây là năm ngàn vị vào trong pháp Phật đâu có sở đắc (được) ư? Vì vậy nên giải thích rằng: năm ngàn người mất chân thật Trung đạo, v.v… chỉ đắc đoạn thường là cám, danh hiệu Ba thừa, như vỏ ngoài hạt gạo gọi là thóc, lý Nhất thừa như gạo trong vỏ thóc, chỉ biết danh hiệu Ba thừa mà không biết nghóa Ba thừa cho nên gọi là thóc. Lại, chúng thanh tịnh có thể dụng thí dụ đồng rượu gạo, người tội không thể dụng thí dụ như thóc cám. “Do oai Phật nên đi”: Chú giải Kinh rằng: Gió sanh khởi thì cát bụi tự bay, mặt trời xuất hiện thì tối sáng tự phân biệt, đây là chẳng chuyển dời mà là chuyển dời. “Người này kém phước đức”: Văn xuôi ở trên nói người có tội căn nay tụng nói lên kia vô phước. Kệ trước nói về kia chấp Tiểu thừa nên đứng dậy đi, nay nói họ không có khả năng thọ Đại thừa. “Chúng đây không cành lá”: Là tụng chúng thanh tịnh. “Xá-lợi-phất lắng nghe v.v…” trở xuống là phần chính là nói thứ hai. Trên có bốn môn: môn Nhất thừa chân thật. môn Ba thừa phương tiện. môn Đắc thất. môn Khuyến tín. Nay kệ tụng chuyển thế nói pháp cũng có bốn môn: Nhất thừa chân thật môn. Ba thừa phương tiện môn. Khen ngợi môn. Khuyến tín môn. Sở dó có bốn môn này là vì đầu tiên nêu Nhất thừa chân thật, kế Ba thừa phương tiện, hai môn này nói một phen giáo hóa từ đầu đến cuối nên thứ ba là khen ngợi, dùng khen ngợi xong khuyên chúng sanh tin nhận. Nhất thừa chân thật có ba: môn Đức Thích-ca tự nói. môn Dẫn chứng. môn Thuận đồng. Nay tụng ba môn này chia làm ba đoạn. Trong văn xuôi Thích-ca tự nói có ba: môn Xưng tán. môn Bất hư. môn Hiển giáo ý. Nay kệ chuyển thế tụng cũng chia ra ba môn. môn Hiển giáo ý. môn Thích nghi. môn Khuyến tín. Ban đầu chính là nói về nói giáo, đại ý là qui nhất thừa, kế là nói thời chúng nghi: Nếu chỉ là qui nhất thừa vì sao trước không nói một mà lại nói ba ư? Vì giải thích nghi này nên nói về vì sao trước ba sau một cho nên kế là nói môn giải thích nghi. Giáo ý đã rõ ràng trước sau lại nói lên cho nên thứ ba là khuyến tín. Môn đầu lại có hai: Nói về ý giáo thuyết pháp xưa tức văn xuôi trong bài tụng tùy nghi nói ý thú khó hiểu. Nói về ý giáo nay, văn xuôi trong bài tụng nói vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện ở đời. Y cứ môn đầu lại có hai: Trước nói giáo ý Tiểu thừa xưa. Nói trước nói giáo ý Đại thừa. Môn đầu có hai: Nói trước nói giáo Tiểu thừa tức văn xuôi trong bài tụng tùy nghi nói ý thú khó hiểu. Tụng trước nói giáo tiêu biểu ý, tức tụng trên chỉ có Chư Phật mới biết. Môn đầu lại có hai: Trình bày trước nói gío trời người. Trình bày trước nói giáo Nhị thừa. Trong phần đầu lại có ba môn: Kệ tụng khen ngợi quyền trí Phật có công khéo nói. Kệ tụng khen ngợi trí Phật trong chiếu căn tánh. “Đức Phật đều biết rồi” v.v… trở xuống: có bốn bài kệ chính là nói Phật nói giáo. Sở dó trước giáo chỉ có ba môn nầy vì đầu tiên khen ngợi quyền trí Chư Phật gọi là thầy thuốc, kế biết căn tánh gọi là biết bệnh sau nói giáo gọi là trao cho thuốc. Ban đầu kệ chép: pháp mà Chư Phật sở đắc nghóa là thật trí, vô lượng năng lực phương tiện gọi là quyền trí, do bên trong có đủ hai thứ này bên ngoài năng vì vật nói pháp. Bài kệ thứ hai, ba câu trên nói biết tánh dục hiện tại, một câu dưới nói về chiếu nghiệp nhân quá khứ, vì dục hiện tại là do nghiệp đời trước cho nên kế là tụng. Kế bốn bài kệ chia làm hai: Kệ nêu chung về phó duyên nói giáo, giáo xứng với duyên. Ba bài nói riêng riêng giáo môn, trước chung sau riêng để giải nghóa. Trong phân biệt nầy, một hàng rưỡi đầu nói về chín bộ kinh gọi là giáo pháp, kế một hàng rưỡi nói về Niết-bàn quả pháp. Trong pháp Tiểu thừa nói chín bộ giáo khiến đắc quả Niết-bàn tức theo thứ lớp. Lại chín bộ nói chung bốn thừa quả pháp chỉ nói về quả Nhị thừa, xưa nói tuy nhiều không ngoài hai thứ này. Lại chín bộ gọi là giáo trời người. Kế nói Niết-bàn gọi là giáo Nhị thừa, nhưng Kinh luận khác nhau gồm có bốn câu: Đại Tiểu đều rộng, Đại thừa đầy đủ mười hai bộ, Tiểu thừa tùy phần mười hai, do đó chỉ nói về mười hai, vì mười hai là số trọn đủ, lại trị mười hai duyên bệnh cho chúng sanh. Đại tiểu đều được đồng nói về chín bộ sở dó chỉ nói về chín vì cũng là một số trọn đủ. Lại vì chúng sanh trong chín đường nên nói chín bộ. Tiểu thừa y cứ pháp nông cạn cho nên trừ ba, do pháp Tiểu thừa cạn hẹp nên không có Phương Quảng, Phật thọ ký chẳng phải tông Tiểu thừa, lại người Tiểu thừa không có nghóa Bổ Phật xứ cho nên trừ Thọ ký lại pháp Tiểu thừa cạn có người năng vấn cho nên trừ Vô vấn tự nói. Lại Đại Só làm bạn với chúng sanh không cần xin cho nên có vô vấn tự nói, Tiểu thừa không thể cứu giúp chúng sinh phải đợi xin mới nói cho nên không có vô vấn tự nói, Đại thừa y cứ người lợi căn trừ ba, người Đại thừa lợi căn, nói thẳng liền hiểu, không cần Nhân duyên và dùng Thí dụ cũng không cần Luận nghóa, cho nên lược bỏ ba bộ nầy. Tiểu rộng mà đại lược như luận Địa Trì chép: Bồ-tát tạng gọi là kinh Phương Quảng, Tạng Thanh văn có mười một bộ Kinh. Ý nầy nói về mười hai bộ Đại thừa là nói về lý Phương Quảng. Từ lý sở thuyên đặt tên cho nên mười hai bộ đều gọi là Phương Quảng, mười hai bộ Tiểu thừa không nói về lý Phương Quảng cho nên còn lại mười một bộ. Đại rộng Tiểu lược, nói lên Đại thừa là mãn tự cho nên đầy đủ mười hai bộ, Tiểu thừa là bán tự nên chỉ có chín bộ, thì như văn nầy nói, chính là tông Pháp Hoa. Mười hai bộ đều lấy ngôn giáo làm thể cho nên Kinh Niết-bàn nói về biết pháp, biết nghóa: biết pháp của mười hai bộ kinh là biết pháp nên cũng là biết giáo. Kế chia làm hai: Tuy có mười hai bộ mà không ngoài văn xuôi và kệ, cũng được chia làm ba: Tu-đa-la, Kỳ-dạ, Già-đà, ba thứ này căn cứ giáo mà đặt tên thì dùng giáo làm thể của ba bộ này, chín bộ còn lại theo việc riêng mà thọ tên cũng không lìa ba thứ này. Tu-đa-la theo Luận Thành Thật và Trí độ thì ngôn ngữ nói thẳng là Tu-đa-la, cái gọi là Tu-đa-la tướng riêng. Kinh Niết-bàn từ “như vầy” đến vâng giữ gọi là Tu-đa-la tướng chung. Trong ba tạng Tu-đa-la ngang hẹp dọc rộng, vì dọc dài cho nên thu nhiếp mười hai, vì ngang hẹp cho nên chỉ có một tạng. Trong mười hai bộ thì Tu-đa-la ngang rộng, dọc hẹp không nhiếp mười một bộ cho nên dọc ngắn, nhiếp ba tạng cho nên ngang rộng. Già- đà là: bộ thứ hai gọi là bất đẳng kệ. Hỏi: Các Kinh luận chia mười hai bộ, bộ thứ hai gọi là Kỳ-dạ, nay vì sao gọi là Già-đà ư? Đáp: Nay muốn nói về Phật nói pháp không định cho nên thay đổi phép tắc thường, vì trước nói chín bộ là nói về Tiểu, nay nói về chín bộ chính là thông Đại, muốn hiển nghóa bất định cho nên nói lẫn lộn. Lại nay hiệp chín bộ này làm năm cặp: Ban đầu văn xuôi và kệ một cặp, Chư Phật hoặc vì chúng sanh nói thẳng gọi là Tu-đa-la, hoặc khiến ban đầu làm kệ nói gọi là Già-đà, do Kinh đều nêu hoặc chữ thì biết Tu-đa-la chưa hẳn ở trước Già-đà chưa hẳn ở sau. Hai bộ này Bổn sự, Bổn sanh là tự tha một cặp, Bổn sự nói việc đời quá khứ của người như Phẩm Dược Vương Bổn Sự v.v… nói việc đời quá khứ của mình là Bổn sanh; Vị tằng Hữu, Nhân Duyên ở đây nói việc thiện ác một cặp. Vị tằng Hữu gọi là Thiện Sự, như Trâu xanh hành bát, chó trắng nghe Kinh, mặt đất rung chuyển cả thân lượng chư thiên. Nhân Duyên nghóa là khởi tội tùy việc gốc ngọn mà nói gọi là Nhân duyên. Thí Dụ Kỳ-dạ là pháp dụ một cặp, nên gọi đủ là Lộ già Kỳ-dạ Già-đà Kỳ-dạ. Trên giữ riêng bỏ chung, nay giữ chung bỏ riêng. Ưu Bà Đề-xá gọi luận nghóa đó là năng luận, tám bộ bốn cặp trên gọi là sở luận, nghóa là năng luận sở luận là một cặp. Hỏi: Đại thừa Tiểu thừa đều gọi là Phương Quảng có gì khác nhau? Đáp: Đại là đầy đủ Phương Quảng, Tiểu là tùy phần Phương Quảng. Lại Đại thừa lý chánh gọi là phương, nghóa dồi dào gọi là quảng. Văn giải giảng lý phương quảng gọi là Kinh Phương Quảng. Tiểu thừa nói chính gọi là Phương, văn nhiều gọi là Quảng. “Độn căn ưa pháp nhỏ” trở xuống,v.v… một bài kệ rưỡi nói về quả Tiểu thừa. Lại trước nói chín bộ gọi là giáo trời người, nay nói về giáo Nhị thừa. Trời người tuy khác mà không ngoài chín bộ, Nhị thừa tuy khác mà đồng cầu Niết-bàn, cho nên trong giáo trời người trước trình bày căn cơ trời người, kế nói về chín bộ giáo, ở đây cũng trước trình bày căn cơ Nhị thừa kế là nêu giáo Nhị thừa. Hỏi: Đã nói ưa pháp nhỏ (Tiểu thừa) vì sao lại nói tham đắm sanh tử? Đáp: Hiện tại cơ duyên ưa pháp nhỏ quá khứ lâu xa tham đắm sanh tử, lại căn cứ về cơ thì ưa pháp nhỏ, căn cứ ở tình thì tham đắm sanh tử. Lại ưa pháp nhỏ tức là tham sanh tử vì Tiểu Niết-bàn là sanh tử của Đại thừa vì vậy nói Niết-bàn thứ hai nói về giáo Tiểu thừa. “Ta bày phương tiện đó” v.v… trở xuống: Trên nói về hai thứ giáo trước, nay nói về ý của hai thứ giáo: Trước theo gần nói về ý giáo Tiểu thừa, nói về trước nói pháp Niết-bàn ý là khiến cho được nhập tuệ Phật. “Quyết định nói Đại thừa”: Ngày trước nói Tiểu thừa ý ở Đại thừa, giáo không xứng ý không gọi là quyết định, nay nói ý đều hiển gọi là quyết định. Lại Đại Phẩm các Kinh hiển giáo Bồ-tát thmầ hóa độ Nhị thừa đối Bồ-tát là quyết định, đối Nhị thừa là chưa được quyết định Nay Bồ-tát hiển giáo Nhị thừa hiển giáo nên gọi là quyết định. Lại Đại thừa là pháp quyết định, như kinh Niết-bàn Sư Tử hống là thuyết quyết định, nghóa là các chúng sanh đều có Phật tánh, kinh này cũng quyết định nói chúng sanh đều có Nhất thừa, vì đạo lý không có tánh khác chỉ có Phật tánh, nói Phật tánh tức là quyết định nói, Nhất thừa cũng vậy. “Chín bộ pháp của ta” trở xuống,v. v… là nói về chín bộ giáo pháp, nửa trên là nói tùy nghi nói giáo pháp, nửa dưới nói ý nói giáo nói chín bộ này vì khiến cho ngộ nhập Đại thừa và giải Đại thừa làm bổn ý, cho nên nói nhập Đại thừa làm gốc. “Có Phật tử tâm tịnh” v.v… trở xuống: ở trên nói xưa nói giáo Tiểu thừa, kế là nói xưa nói giáo Đại thừa. Nếu nói về năm thừa thì trên nói bốn thừa nay nói giáo Đại thừa thứ năm. Nếu làm ba giáo theo thứ lớp: Trời người là hạ giáo, kế Nhị thừa làm trung giáo, nay Đại thừa làm thượng giáo, văn chính là ý nầy. Trong mỗi đoạn văn đều trước nói về căn cơ, kế là nói về giáo, xem văn thì thấy. Có người chép: Trên nói về xưa nói Tiểu thừa là phương tiện, nay nói về ngày trước nói Đại thừa trong Ba thừa cũng là phương tiện, sắp muốn hội Ba thừa qui Nhất thừa, trước nói về Tiểu thừa nay nói về Đại thừa, nay nói là không đúng. Trước nói về Tiểu thừa mà văn luận Tiểu thừa là phương tiện, nếu xưa Đại thừa là phương tiện thì lẽ ra cũng xưa nêu Đại thừa, kế nêu Đại thừa là phương tiện, nhưng văn không đúng mà nêu thẳng ngày trước Đại thừa không nói phương tiện. Cho nên biết xưa Tiểu thừa là phương tiện, xưa Đại thừa chẳng phải phương tiện. Lại vì Bồ-tát thiên về hành sáu độ nói Đại thừa có thể gọi là phương tiện. Nhưng văn chép: “Đối với vô lượng Chư Phật tu hành đạo sâu mầu”, tức chẳng phải là người giả danh thiên hành mà chính là Đại thừa chân thật. Lại Trung luận chép: Trước vì Thanh văn nói mười hai nhân duyên sanh diệt, kế là hạng người đã từng tu tập thực hành có tâm Đại thừa có khả năng thọ pháp sâu xa mầu nhiệm nói mười hai nhân duyên bất sanh bất diệt, Như vậy thì Đại, Tiểu thừa nầy đều là phương tiện, mà Trung luận nói về trước nói Tiểu thừa là phương tiện sau nói Đại thừa là chân thật, nay văn cũng vậy. Hỏi: Chỉ nên nói về Tiểu thừa xưa là phương tiện, vì sao văn nay nói về Đại thừa xưa? Đáp: Văn nầy song song nói hai tạng Đại tiểu của Như lai từ Hoa Nghiêm trở lên đến Linh Sơn về trước gồm hai thừa Đại tiểu tất cả các giáo. Sở dó nói cả hai giáo vì thứ nhất nói Tiểu thừa để hồi Tiểu nhập Đại, Bồ-tát độn căn trước không đắc ngộ nay mới lãnh giải; thứ hai là nói Đại thừa lẽ ra khen ngợi Bồ-tát đi thẳng từ Hoa Nghiêm đến nay trước hội Linh Sơn là Đại căn cơ sớm phát, lợi căn sớm ngộ. Đây chính là thường khen ngợi Bồ-tát thông đạt trước mà quở trách Thanh văn ngộ sau, chẳng liên quan với Đại làm phương tiện. Hỏi: Sao biết như vậy? Đáp: Dùng hai văn làm chứng: 1) Phẩm Dũng Xuất chép: Các chúng sanh ấy mới thấy thân ta nghe ta nói liền đắc nhập tuệ Như lai, ở đây nói về Bồ-tát thẳng đến trước sớm ngộ tuệ Phật kế là nói trừ trước đã từng tu học Tiểu thừa những người như vậy ta cũng khiến cho họ được nghe kinh này nhập vào tuệ Phật, đây là nói hồi Tiểu nhập Đại Bồ-tát muộn mới ngộ. 2) Văn kinh này nói về Thanh văn muộn tu tập Đại thừa, muốn nghe Đại thừa, muộn được thọ ký, muộn sanh vui mừng. Đã là giáo chân thật tức Bồ-tát sớm tu tập Đại thừa, sớm nghe Đại thừa, sớm được thọ ký, sớm sanh vui mừng cũng là giáo chân thật. Nếu văn nầy nói Bồ-tát sớm nghe Đại thừa, sớm được thọ ký là phương tiện, thì các Kinh Hoa Nghiêm v.v… đều là phương tiện tức là chê bai pháp rất nặng! Hỏi: Nếu xưa Đại thừa nói về Bồ-tát thọ ký thành Phật, đã là giáo chân thật, Thanh văn nhờ các Kinh Bát-nhã điều hòa tâm rồi sau mới được ngộ nhập Pháp Hoa, thì biết Bát-nhã là phương tiện Pháp Hoa đâu phải giáo chân thật ư? Đáp: Bát-nhã hiển giáo Bồ-tát mật hóa Nhị thừa, người Nhị thừa nhờ giáo chân thật của Bồ-tát điều hoà tâm nên được nhập Pháp Hoa, đây chính là nhờ nơi khác trước thông đạt, sau mới được tiến lên, đâu thể nói giáo thông đạt trước gọi là phương tiện ư! Hỏi: Đại thừa nầy có được gọi là phương tiện hay không? Đáp: Đạo Kỳ vọng không hề có Đại, Tiểu chỉ vì duyên đến Đại, Tiểu nên trong vô danh tướng mượn danh tướng mà nói, vì thế Đại, Tiểu đều là phương tiện. Chẳng những Đại Tiểu đều là phương tiện mà ba thừa, Nhất thừa cũng đều là phương tiện. Nhưng nay vì Đại Tiểu đối nhau, Tiểu thừa chưa thông rõ gọi là phương tiện, Đại thừa đã thông suốt nên gọi là chân thật. Văn nầy chia làm hai: Khen ngợi Bồ-tát phước đức lợi căn có bảy thứ sớm, tức nói lên Thanh văn bạc phước, độn căn có bảy thứ muộn. Tổng kết trước nói ý Đại thừa. 1.1 Có Phật tử tâm tịnh: Là khen ngợi đức Bồ-tát hiện tại sớm có khả năng nghe hiểu, thì nói lên Thanh văn muộn có khả năng nghe. Lìa phàm phu Nhị thừa và tâm có sở đắc cho nên gọi là tịnh. Nhu nhuyễn: Có tín tâm vô sở đắc thuận theo Chư Phật không trái với Đại thừa như da trâu ướt mềm dễ uốn cong. Lợi căn tin vì kia có trí tuệ từ đầu đến cuối nói lược năm căn từ đầu đến sau. Lại, pháp Đại thừa như biển cả, Tín thì vào được, trí tuệ năng độ chúng sanh, nên nêu hai thứ này. “Vô lượng Chư Phật v.v…” là khen ngợi Bồ-tát sớm tu tập nhân Đại thừa, do gặp Phật đã nhiều tu hành cũng chứa nhóm, thì nói lên Thanh văn tu nhân Đại thừa muộn. “Vì các Phật tử này,v.v…” là khen ngợi sớm vì Bồ-tát nói Đại thừa tức nói lên muộn vì Thanh văn nói Đại thừa, “Mà nói Kinh Đại thừa” tức là Pháp Hoa, xưa vì Bồ-tát thẳng đến nói Pháp Hoa rồi, cho nên phẩm Dũng Xuất chép: Các chúng sanh ấy mới thấy thân ta nghe ta nói liền nhập tuệ Phật, tuệ ấy là Pháp Hoa bình đẳng đại tuệ, chỉ xưa gọi Hoa Nghiêm, Bát-nhã! Nay vì người hồi tiểu nhập Đại nên nói Pháp Hoa cho nên biết Đại thừa hiển đạo nghóa đồng, vì thế nói Bát-nhã là một pháp, Phật nói các thứ tên, tùy năng lực chúng sanh vì đặt các danh tự khác. Luận Trí Độ lại chép: Kinh Pháp Hoa là tên khác của Bát-nhã tức làm chứng rõ ràng. “Ta thọ ký cho người dó đời sau thành Phật đạo”: Là khen ngợi sớm thọ ký cho Bồ-tát, tức nói lên Thanh văn muộn được thọ ký. “Bởi thâm tâm niệm Phật”: Là khen ngợi Bồ-tát sớm tu chánh giải nên sớm được Phật thọ ký, thì hiển bày Nhị thừa muộn tu chánh giải cho nên muộn được Phật thọ ký. Bởi thâm tâm niệm Phật là liễu ngộ được thân Như lai vô sanh diệt. Như Kinh Hoa Nghiêm chép: Tất cả pháp bất sanh tất cả pháp bất diệt, nếu hiểu được như thế thì Chư Phật thường hiện tiền. Lại Đại Phẩm chép: Vì sao gọi là niệm Phật? Nghóa là không nhớ cho nên gọi là niệm Phật, đây là trong ngoài đều sâu duyên quán đều vắng lặng, là niệm Phật chân thật. Tu trì tịnh giới: Là khen ngợi Bồ-tát sớm tu chánh hạnh nên sớm được Phật thọ ký. Giữ giới không phạm, lìa phàm phu nhị thừa có sở đắc nên gọi là tịnh giới. Nhưng hạnh giải lại không có hai thể, chỉ một chánh quán nghóa phân ra, lìa hoặc là giải, lìa lỗi là hạnh. “Hạng nầy nghe thành Phật” v.v… trở xuống là khen ngợi Bồ-tát sớm sanh tâm han hỷ, chê trách Thanh văn sau được thọ ký mới vui mừng, lạc của Tam thiền thế gian là lạc khắp thân, cũng là lạc Tiểu thừa, nay nhờ Phật thọ ký liền được sự an vui của Phật, nên gọi là đại hỷ (lạc Đại thừa), ngộ được thân tâm bổn tánh vắng lặng này gọi là thân. “Phật biết tâm của kia,v.v…” là tổng kết trước nói ý đại giáo: Đức Phật khi mới thành đạo biết Bồ-tát phước đức lợi căn cho nên sớm nói Đại thừa cho nghe. “Thanh văn hoặc Bồ-tát v.v…” là nói lên ý giáo nay, tụng trên nói chỉ vì một đại sự nhân duyên cho nên xuất hiện ở đời, văn xuôi có ba ý: Nói về vì đại sự nên ra đời. Chỉ vì giáo Bồ-tát. Nói cõi Phật mười phương chỉ có một không hai, giải thích thành hai việc trước. Nay văn chuyển thế tụng cũng chia ba: Nói về chỉ vì giáo một người. Nói lý có một không hai. Biện rõ đại ý Phật ra đời. Sở dó trước nói về chỉ giáo một người, vì đối trước hai giáo đều phó hai duyên, nay hai duyên đồng thọ một giáo, trước vì Thanh văn đại căn cơ chưa thuần thục nên nói Tiểu thừa cho họ nghe, Bồ-tát đại căn cơ sớm thuần thục nên nói Đại thừa cho họ nghe, do đó hai giáo đều ứng phó hai duyên. Nay đến hội Linh Sơn Thanh văn Bồ-tát đại căn cơ đều đã thuần thục cho nên hai duyên đồng nghe một giáo và đều thành Phật, vì nhân duyên này cho nên trước nói về chỉ giáo một người. Không nghi: Trước nói Ba thừa tức Thanh văn không tiến đạo Bồ-tát có đường lui sụt, nay nói về có một không ba tức Thanh văn có tiến đạo đường Bồ-tát không lui sụt nên nói không nghi. “Trong cõi Phật lọ phương:” Là nói về đạo lý có một không hai: bởi do đạo lý chỉ có Nhất thừa không có hai thừa cho nên Thanh văn Bồ-tát nghe Pháp Hoa một bài kệ đều thành Phật, tức dùng văn nay giải thích thành ý trên. “Trừ Phật phương tiện nói”: Nghi rằng: đã có một không hai trước vì sao nói có nhị thừa, cho nên giải thích rằng: Trên y cứ lý cho nên không có hai, chỉ trừ phương tiện nói có hai! “Chỉ dùng danh tự giả”: Nghi rằng: Đã nghe trừ phương tiện nói có hai, hoặc cho rằng có pháp Nhị thừa thể của nhỏ nhặt vi tế, cho nên giải thích: Rốt ráo không có thể của pháp nhị thừa chỉ dùng danh tự giả thôi! “Dẫn dắt các chúng sanh”: Nghi rằng: Đã không có pháp thể sao dụng nói đây là hư danh cho nên giải thích: Vì muốn dẫn dắt chúng sanh ra khỏi nhà lửa, nhân không danh nầy mà đạt được lợi ích thật sư, nên gọi là khéo léo. Như kinh chép: Khi ta mới thành Phật, dùng Không độ tất cả chúng sanh. “Vì nói trí tuệ Phật”: Là nói về đại ý Phật ra đời, do đạo lý có đại không có tiểu, Chư Phật là người thấu đạt lý đó, đạo lý có đại nên chỉ vì đại sự mà ra đời, đạo lý không có Tiểu nên không vì Tiểu mà ra đời vì vậy nên kế đạo lý trước mà sau nói về đại ý ra đời. Văn nầy chia làm hai: Nói về Chư Phật chỉ vì một đại sự mà ra đời, không vì tiểu sự. Dẫn chứng giải thích thành. Văn đầu chia làm hai: Khai hai chương môn. Giải thích hai chương môn: Một bài kệ nói chỉ vì một đại sự mà ra đời. Kế nửa bài không vì tiểu sự mà ra đời. Nửa trên bài kệ đầu nói về vì đại sự nên Phật ra đời, nửa bài dưới nêu chân ngụy giải thích thành. “Chỉ một việc này thật, hai thứ chẳng phải chân”. Vì thế Chư Phật chỉ vì một việc nên ra đời. Hỏi: Trên nói không hai không ba, nay vì sao lại nói hai chẳng chân thật ư? Đáp: Trước nói về không hai nghóa là không Duyên giác, không ba là không Thanh văn, tức là văn nay nói hai chẳng chân thật, chỉ trên nói về kia đều không, nay nói về phương tiện nói có, nhưng chẳng chân thật có. “Chẳng hề đem Tiểu thừa” v.v… nửa bài kệ dưới này nói không vì tiểu sự mà ra đời cũng là chỉ một sự thật nầy. Trên giải thích vì đại sự cho nên ra đời còn, hai thứ khác chẳng chân thật, nên “Không hề đem Tiểu thừa, mà cứu giúp chúng sanh. “Phật tự trú Đại thừa v.v…” Giải thích hai chương môn: một hàng đầu giải thích Phật vì đại sự mà ra đời, vì Phật tự trụ Đại thừa, lại dùng pháp mà Phật đắc để độ chúng sanh. Hỏi: Định tuệ là Đại thừa, vì sao nói trang nghiêm Đại thừa ư? Đáp: một lặng một chiếu, dùng riêng trang nghiêm chung, cũng dùng pháp trang nghiêm người, mà nói lực ấy do năng độ vật nên gọi là lực. Lại chỉ nói về định tuệ tức hệ lụy chẳng có gì không vắng lặng là định, đức chẳng có gì không tròn đầy là tuệ, lại chẳng có hệ lụy nào không vắng lặng làm tuệ là quả Niết-bàn, quả cảnh chẳng nơi nào không chiếu là quả Bồ-đề, hai thứ này nhiếp chung quả thừa cho nên nói. “Tự chứng đạo vô thượng v.v…” là giải thích trên không vì tiểu sự nên ra đời: Nếu tự trú pháp Đại thừa bình đẳng dùng Tiểu thừa độ chúng sinh thì có hai lỗi: Trái với Đại thừa bình đẳng. Rơi vào lỗi san tham. Tự tham Đại không cho vật nên gọi là san tham. Lý không thể bình đẳng. Tâm không sánh Chư Phật cho nên nói là việc ấy không được. Kế “Nếu người tin về Phật v.v…” là chứng thành trên vì Đại không vì tiểu, cho nên ra đời gồm có ba dẫn chứng: l) Dẫn tha làm chứng. Dẫn tự làm chứng. Dẫn xưa làm chứng. Dẫn tha chứng: Nghóa là người tín tâm quy y Phật biết lời Phật dạy không dối. Nếu tự trú nơi pháp chân thật mà dùng ngụy thừa dối ban cho chúng sinh thì gọi là dối, dùng lời này dẫn dắt người khác gọi là gạt, Đức Phật tự trụ thừa chân thật lại ban cho chúng sanh nên không dối gạt. “Cũng không lòng tham ganh: “Sở dó bên ngoài nói dối gạt bởi do trong tâm tham ganh, tự tham chân thừa ganh ghét chúng sanh nên cho rằng pháp ngụy vì thế là dối gạt. Đức Phật không tham ganh nên không dối gạt. “Dứt ác trong các pháp”: chẳng những không có tham ganh mà còn dứt tất cả ác trong các pháp, do trong tâm có ác nên xúc xứ sanh sợ, Đức Phật không có các ác nên xúc xứ khắp mười phương mà không sợ hãi. “Ta dùng tướng trang nghiêm v.v…” trở xuống là dẫn tự làm chứng, gồm có bốn câu: l) Do ta có thân tướng tốt đây, thì biết trong không tham ganh ngoài không dối gạt. Ta còn dùng thân chiếu sáng thế gian thì biết thân lợi ích đối với vật cho nên trong không tham ganh ngoài không dối gạt. Nói vì vô lượng chúng tôn trọng kính ngưỡng cho nên chẳng phải người tham ganh dối gạt. Nói vì người nói thật tướng ấn định các pháp thì biết tự trú Đại thừa cũng muốn người khác trú Đại thừa. Lại trước kệ nói Chư Phật không có tâm ác, kệ đây nói Phật có thiện tâm, đều là giải thích thành Phật tự trú Đại thừa cùng ban Đại thừa cho chúng sanh. Xá-lợi-phất nên biết,v.v… là thứ ba dẫn thệ nguyện thuở xưa của Phật. Đầu kệ dẫn nguyện trước của Đức Phật kệ thứ hai nguyện thuở xưa đã mãn. Nói về sơ phát tâm còn nguyện khiến tất cả mọi người đều thành Phật huống chi nay thành Phật mà tự trụ Đại thừa ban Tiểu thừa cho chúng sanh ư! Hỏi: Như lai mới phát tâm còn nguyện cho tất cả chúng sanh thành Phật, nay vẫn chưa thành Phật vì sao gọi là nguyện đã mãn? Đáp: trong hội Linh Sơn Bồ-tát bỏ Tiểu về Đại đồng nhập Nhất thừa, từ đó về trước khiến Bồ-tát thọ ký thành Phật, một kỳ ra đời chỉ hai người này đều khiến thành Phật, thì đó là một kỳ nguyện mãn. Như trên dẫn Phẩm Dũng Xuất làm chứng. Chánh ý: Trước Pháp Hoa chỉ được vì một người nói Phật thừa là nguyện Phật chưa mãn, nay đều vì năm thừa sáu đường chúng sanh đều khiến thành Phật, cho nên nguyện Phật mãn. Lại vì người nói Nhất thừa tức là hợp ý Phật cũng gọi là mãn. “Nếu ta gặp chúng sanh v.v…” là phần giải thích nghi. Văn nầy có hai ý nói gần và xa. Nói xa: Trên một chương đều nói về sở nói các giáo là tiêu biểu Nhất thừa khiến chúng sanh đều thành Phật, nếu vậy vì sao đức Như lai không vì tất cả mọi người đều nói Nhất thừa ư? Nói gần: Từ trên bổn thê nguyện sanh, trước đã phát nguyện khiến tất cả chúng sanh đều thành Phật, nay mãn bổn nguyện, khi mới ra đời vì sao nói ba mà không nói ngay một, nay mới nói một? Vì giải thích ý nầy cho nên có chương này. Văn có bốn: Nói không được đều vì tất cả nói Nhất thừa. Giải thích lý do không thể nói Nhất thừa. Nói đã không được nói Nhất thừa nên phương tiện nói Ba thừa. Nói tuy là nói Ba thừa mà cuối cùng chỉ hiển bày Nhất thừa. “Nếu ta gặp chúng sanh, dùng Phật đạo dạy cả”. Nửa bài kệ trên là tự vấn giả sử gặp chúng sanh liền nói Nhất thừa, nửa bài dưới nói có tổn hại, không lợi ích, gồm có ba lỗi: Căn cơ Tiểu, giáo hóa Đại có lỗi làm rối loạn. Độn căn mê giáo hoặc lý. Không tin, có lỗi chê bai. “Ta biết chúng sanh này v.v…” là giải thích lý do không được nói một (nhất thừa), không được nói một gồm có hai nghóa: Biết chúng sanh không có gốc thiện. Biết chúng sanh có các căn ác, dùng hai nghóa giải thích ba lỗi trên như: “Kẻ vô trí rối sai v.v…” không có gốc thiện: Là không hề tu hành không có thiện sở đắc là gốc của Bồ-đề, cho nên chúng sanh nầy không tin hiểu Nhất thừa. “Chấp chặt năm dục”: Là nói chúng sanh có căn ác y cứ văn có hai: Nói có ái ác. Nói có kiến ác, sở dó chỉ nêu có ái kiến ấy vì hai thứ nầy nhiếp hất tất cả phiền não. Lại người tại gia thường khởi ái, người xuất gia ngoại đạo thường khởi các kiến. Lại các ma ưa sanh tử nên khởi ái, ngoại đạo chấp các kiến nên khởi kiến. Lại ái là hành phiền não xưa, kiến là hoặc mới khởi, tất cả chúng sanh tuy đều thành tựu ái kiến trong ba cõi, mà ái thường hiện hành, nếu gặp thầy tà thì mới khởi kiến. Lại ái phiền não gọi là một lỗi, các ngoại đạo,v.v… do có ái hoặc mà ởû trong đó lại khởi kiến đó gọi là trong lỗi lại sanh lỗi, vì nhân duyên nầy nên nói ái kiến. Căn cứ vào ái chia làm hai chương: Nhân ái và quả ái. Chấp chặt năm dục là nơi khởi ái nơi sanh ra các sự ái. Si ái nên sanh não, sở dó ái năm dục, do si nên khởi ái. Như Kinh Niết-bàn chép: Vì lừa dối nên sanh tham. Tịnh Danh chép: Từ si có ái thì bệnh ta sanh. Não: Là từ nhân ái sanh nên hiện khổ não, như nói do nhân duyên ái nên thân tâm khổ não hoặc tự phiền não làm người phiền não, cho nên si là nhân của ái, não là quả của ái. “Do nhân duyên các dục”. Ở trên nói sanh não gọi là hiện báo, từ đây trở xuống là nói sanh báo, hậu báo. Văn chia làm hai: Báo chung. Báo riêng. Nửa bài kệ đầu nêu đắc sanh báo, nửa bài kệ sau nói về hậu báo. Đã nói luân hồi thì báo ở ba đường liên tục. Thân mọn thọ bào thai: Là báo riêng: thọ báo gọi là nhân báo. Sở dó chỉ nêu nhân báo ấy là Đức Phật hiện sanh trong loài người thường giáo hóa người. Nhân báo có đủ tám khổ: Nửa bài kệ trên lược nói khổ sanh đứng đầu tám khổ, nửa bài kệ dưới nói chung các khổ. “Đời đời thường thêm lớn”: Là luận kỹ về thời phần trong thai khác nhau gọi là đời đời thêm lớn. Lại đại hạn là một đời, đời đời thường như thế, tức từ đời nay đến đời sau là nghóa thêm lớn. Hỏi: Chúng sanh gá thai vì sao có nam nữ khác nhau ư? Đáp: Tinh Cha nhiều tinh mẹ ít thì thành nam, tinh mẹ nhiều tinh cha ít thì thành nữ, tinh cha mẹ bằng nhau thì thành huỳnh môn hai căn. “Vào rừng rậm tà kiến v.v…” là nói về khởi kiến. Văn có hai: Nói về nhân kiến. Nói về quả kiến. Vào rừng rậm tà kiến, trong đây có một kiến, hai kiến cho đến sáu mươi hai kiến. Nói một kiến: Là tổng gọi các kiến ngoại đạo là một tà kiến, tà kiến rất nhiều dụ cho rừng rậm. Hoặc chấp có chấp không,v.v… đây nói về hai kiến. Luận Trí Độ chép: Người ái nhiều chấp có cho nên hữu kiến. Người kiến nhiều chấp không nên khởi vô kiến. Lại nói bốn kiến thường chấp có, tà kiến thường chấp không. Y chỉ các kiến nầy nên có sáu mươi hai kiến: Đại Phẩm dụ như ngã kiến thu nhiếp sáu mươi hai kiến thì ngã kiến là gốc của sáu mươi hai kiến. Đại Phẩm lại chép: một và khác làm gốc, kinh này lấy hữu vô làm gốc, ba thứ này không trái nhau, do chấp hữu ngã nên sanh các kiến thì ngã là gốc rễ, do hữu ngã cho nên chấp ngã và ấm là một, ngã và ấm là khác, cho nên dùng một và khác là gốc. Ngã và ấm là một thì ấm diệt ngã diệt, liền khởi đoạn kiến, ngã khác ấm thì ấm diệt ngã còn cho nên khởi thường kiến; Đoạn, thường tức là có, không. Cho nên dùng có không làm gốc, có không gọi là biên kiến, là gốc của sáu mươi hai kiến, ngã là gốc của biên kiến. sáu mươi hai kiến: Phẩm Phật Mẫu Trong kinh Đại Phẩm khai mười bốn nạn làm sáu mươi hai kiến. Mười bốn nạn là: Thần và thế gian thường vô thường v.v… có bốn, thần và thế gian biên vô biên, tử hậu như khứ bất như khứ v.v… có bốn, hiệp làm mười hai và thân cùng thần một, thân và thần khác, hiệp là mười bốn. Thường vô thường căn cứ trong năm ấm, một ấm đầy đủ bốn câu thường vô thường cho nên thành hai mươi, như khứ bất như khứ cũng thành hai mươi, hiệp làm sáu mươi, một, khác là gốc cọng thành sáu mươi hai. Lại nữa giải thích tức sắc là ngã, lìa sắc hữu ngã, ngã trụ trong sắc, sắc trụ trong ngã, một ấm có bốn, năm ấm có hai mươi, ước đến ba đời tành sáu mươi, đoạn thường làm gốc, cộng thành sáu mươi hai, mười sáu là ấm, bốn mươi sáu là lìa ấm. Lại giải thích trên một ấm chấp có không hai thứ, năm ấm liền thành mười kiến, ba đời liền thành ba mươi, năm ấm phàm phu có ba mươi kiến, hiệp thành sáu mươi. Niết- bàn chẳng nhiếp ba đời, chỉ chấp Niết-bàn có không là hai hiệp thành sáu mươi hai. Hỏi: năm kiến có nhiếp sáu mươi hai kiến không? Đáp: Ngã kiến là gốc của sáu mươi hai kiến, tà kiến bác bỏ không mà sáu mươi hai kiến chấp có cho nên không thu nhiếp tà kiến, kiến thủ dùng sáu mươi hai kiến làm bậc nhất, giới thủ gọi sáu mươi hai kiến là đạo thì bốn kiến chẳng thuộc về sáu mươi hai kiến, mà sáu mươi hai kiến thuộc biên kiến. “Chấp chặt pháp luống dối”: Trước nói từ ái khởi kiến, nay từ kiến lại sanh ái, pháp luống dối nghóa là các kiến, chấp chặt kiến nầy nên gọi là ái. Lại khi Đức Phật mới ra đời không thể đoạn ngay kiến nầy để nói Nhất thừa nên gọi là chấp chặt. Lại đã do kiến nầy cho là tốt vì thế trên kiến lại sanh kiến gọi là kiến thủ kiến. “Ngã mạn tự khoe mình”: Là ỷ lại các kiến nầy đề cao bản ngã tự cao, tức các ngoại đạo khi Đức Phật mới ra đời không thọ đạo Nhất thừa. “Dua nịnh lòng không thật”: Trên từ chánh sử sanh chánh sử, nay từ chánh sử sanh triền cấu. Xiểm tức là một trong sáu cấu, tâm tạp loạn gọi là từ kiến sanh xiểm cấu, vì khởi kiến phải là người lợi căn mới có thể xiểm khúc. Người độn căn thì không thể. Trên là nói ngã mạn không thọ sự giáo hóa của Phật, nay nêu môn đồ khác xiểm khúc giáo hóa. “Trong ngàn muôn ức kiếp”: Là nói kiến chấp quả sở đắc, lấy ái làm gốc của sự thọ sanh cho nên dưới chiêu cảm sáu đường, kiến trái với chánh lý nên trên cách với ba tôn (ba bảo), do đó hai văn nói về quả ái, kiến khác nhau. Người như thế khó độ: Đây là tổng kết ái kiến của chúng sanh khó có thể dùng pháp Nhất thừa độ. Hỏi: Ở đây là trình bày ái kiến chúng sanh ái kiến nầy từ đâu có? Đáp: Khi Phật mới ra đời thì chúng sanh đã có ái kiến cho nên không thể nói Nhất thừa. “Cho nên Xá-lợi-phất v.v…” là nói không được nói Nhất thừa nên phương tiện Ba thừa. “Nói các đạo dứt khổ” gọi là đạo đế, “chỉ cho đó Niết-bàn” tức diệt đế, nói lược nhân quả ra đời. Hỏi: Trên nói chúng sanh khởi tà kiến ngàn muôn kiếp không nghe danh tự Phật cũng không nghe chánh pháp, nay vì sao lại được nói Niết-bàn ư? Đáp: Trụ trong tà kiến nầy thì không được nghe, nhưng tà kiến nầy chúng sanh quá khứ đã từng tu tập Tiểu thừa có căn tánh nhỏ mà giữa đường khởi tà kiến, vì tiểu căn cơ sắp phát sanh tà kiến, chánh đã đổ nên vì họ nói Tiểu giáo. “Ta tuy nói niết bàn v.v…” là nói tuy là nói ba cuối cùng chỉ hiển một. Nửa bài kệ đầu là mở cửa phương tiện cho nên nói chẳng chân thật diệt. “Các pháp từ xưa nay”: có nói: Niết-bàn có ba thứ: Sơ giáo dùng khôi đoạn vô vi làm vắng lặng, Bát-nhã giáo lấy tứ đế bình đẳng làm vắng lặng, Kinh nay nói về đảo châu báu ngoài thế tục Niết-bàn làm vắng lặng. Nay là lúc nói nhân chưa được nói đảo châu báu diệt, hơn nữa dùng Kinh Đại Phẩm diệt để bác bỏ việc đoạn vô vi kia. Có người chép: Pháp muôn thiện xưa nay vắng lặng không có tướng Ba thừa cho nên nói vắng lặng. Nay nói hai thứ nầy đều chẳng giải thích. Nay văn chính là phân biệt hai thứ Niết-bàn Đại tiểu, Tiểu thừa diệt, chẳng phải chân diệt, đại Niết-bàn diệt mới là chân diệt, vì sao? Vì Tiểu thừa trước có hai lỗi nhân quả, cho nên diệt để đắc vô vi thì đó là hai kiến thường đoạn. Đại Phẩm chép: Nếu pháp trước có nay không thì Chư Phật Bồ- tát có tội lỗi, nay đối Tiểu thừa chẳng phải chân diệt cho nên nói về nhân quả hai lỗi xưa nay vắng lặng thì đó là Đại Niết-bàn diệt. Hỏi: Nay nói Nhất thừa vì sao lại nói hai thứ Niết-bàn Đại tiểu khác nhau ư? Đáp: Bởi quả nay khác với quả xưa cho nên được nhân nay khác với nhân xưa. Lại trước nói Tiểu thừa diệt chẳng phải chân diệt, nay Đại thừa chân diệt mới được khuyên xả tiểu diệt để cầu Đại diệt, vì chính là đại tông của Nhất thừa. Hỏi: hai thứ Niết-bàn Đại Tiểu có mấy thứ khác nhau? Đáp: Kinh này từ đầu đến cuối có ba thứ khác nhau. Tiểu thừa diệt hẹp chỉ diệt Bốn trụ và phần đoạn sanh tử, Đại thừa đều diệt năm trụ và hai loại tử, Kinh này hiện diệt ở cuối phẩm Thí Dụ cho nên chép: Chỉ lìa luống dối gọi là giải thoát, kia thật chưa đắc tất cả giải thoát. Tiểu thừa trước có phiền não và dùng thân trí nhưng sau diệt cho nên chẳng phải xưa nay vắng lặng, Đại thừa nói về phiền não và do thân trí bản tánh vắng lặng không còn diệt nữa. Cho nên kinh Đại Phẩm chép: Như pháp trước có, sau không thì Chư Phật, Bồ-tát có tội lỗi, Nhị thừa trước có nay không, thì Chư Phật, Bồ-tát là người tội lỗi, Kinh Niết-bàn chép: Nếu vì Thanh văn nói không bố thí thì gọi là phá giới tà kiến tức đây là bằng chứng. Nhị thừa chỉ thấy không chẳng thấy bất không, tức chỉ thấy diệt chẳng thấy bất diệt, Đại thừa nói không và bất không thì đó là đầy đủ kiến đối với diệt và bất diệt. Vì thế phẩm Thí Dụ chép: Đều đem pháp diệt độ của Như lai mà cho chúng sanh diệt độ thì đó là nghóa diệt. Lại nói cùng với thiền định trí tuệ của Chư Phật là nghóa bất diệt. Cho nên luận Pháp Hoa chép: Chánh dùng Đại Niết-bàn làm Nhất thừa. Hỏi: Các Kinh Đại Phẩm đã nói xưa nay vắng lặng, vì sao Thanh văn không được ngộ ư? Đáp: Đại Phẩm tuy nói về xưa nay vắng lặng nhưng chưa nghe Tiểu thừa diệt chẳng chân diệt vì vậy Thanh văn không đắc ngộ. Nay nói về Tiểu thừa diệt chẳng phải chân diệt thì mở cửa phương tiện tướng xưa nay vắng lặng gọi là nghóa hiển chân thật, cho nên Thanh văn mới đắc ngộ. “Ta có năng lực phương tiện” v.v… là khuyên tin. Đầu kệ lặp lại pháp để tin, bài kệ thứ hai chính là nói khuyên tín. Nửa bài trên nương đức Thích-ca để nói về quyền, nửa bài kệ dưới căn cứ Chư Phật để nói lên Nhất thừa. “Nay trong đại chúng đây v.v…” là khuyên dứt trừ nghi. “Lời Phật nói không khác v.v…” là khuyên tin lời Phật dạy. “Quá khứ vô số kiếp”: Là dẫn chứng: tụng Chư Phật ba đời chia làm ba đoạn: Trong văn xuôi nói mỗi Đức Phật đều có ba môn: Hóa chủ. Giáo môn. Đồ chúng. Nay lại tụng ba môn này. Nửa bài trên nêu nhiều kiếp nhiều Đức Phật, bởi do một kiếp một Đức Phật chưa đủ làm chứng, cho nên nêu nhiều kiếp nhiều Đức Phật để chúng sanh sanh tín tâm. Nửa bài kệ dưới nói về nghi thức giáo hóa của Chư Phật khác nhau mà đồng nói đạo Nhất thừa. “Các Thế tôn như thế v.v…” là tụng về giáo môn, trong văn xuôi lược chỉ có một châu nói về giáo môn, nay kệ tụng chia rộng làm hai châu: Căn cứ môn thuyết pháp nói về ý giáo. Căn cứ môn thần thông nói về ý giáo, hai môn mỗi mỗi đều có ba: ba môn đầu: một bài kệ nói về nói giáo. Nửa bài kệ nói về giáo ý. Nửa bài kệ nói về duyên lợi ích. Ba môn kế: Lại các đại Thánh chúa,v. v… nửa bài căn cứ môn thần thông nói về ý giáo, cũng có ba nghóa: một bài nói biết căn cơ, một câu hiện thần thông, một câu nói về ý hiện thần thông. “Lại dùng phương tiện khác”, Có người nói trên nói về Ba thừa phương tiện nay nói về thừa trời người khác Ba thừa trên nên gọi là phương tiện khác. Có người chép: ở trên nói về Tiểu thừa phương tiện, nay nói về Đại thừa khác Tiểu thừa trên cho nên nói phương tiện khác. Nay nói không đúng. Văn trước nói về nói pháp là phương tiện, nay văn không nói pháp chính là nói thần thông, thần thông khác trên nói pháp gọi là phương tiện khác. Vì nói pháp và hiện thần thông là lược thu nhiếp hết quá khứ giáo môn của Chư Phật, nói thẳng hoặc nói pháp hoặc hiện thần thông đều là hiển Nhất thừa. Hỏi: Vì sao hiện thần thông ư? Đáp: Như trước diệt lửa hàng phục rồng khiến trừ tâm say của ngoại đạo, nay phát ra ánh sáng hiện tướng lành khiến bên trong đặc biệt phát tâm xin. Cho nên Phẩm Tựa chép: Tướng nay như điềm xưa là phương tiện của Phật, nay Phật phát ra ánh sáng giúp phát nghóa thật tướng tức ý văn nầy. Hỏi: Trước nói về nói pháp hương tiện cùng thần thông phương tiện có gì khác nhau? Đáp: Nay văn hiện thần thông do khai phát chính là nói dần dần nên gọi là phương tiện, trước khai môn thuyết pháp dùng không ba nói ba cho nên gọi là phương tiện Bậc nhất nghóa là đạo nhất thật, lý tột cùng chẳng gì hơn gọi là bậc nhất, sâu xa nên gọi là nghóa. “Nếu có loại chúng sanh v.v…” là tụng văn xuôi đồ chúng lãnh thọ giáo. Văn lại có ba: Nói gặp Chư Phật quá khứ hiện tại tu hành được lợi ích. Nói Chư Phật quá khứ diệt độ rồi tu hành được lợi ích. Nói hai đời tu hành lợi ích. Giáo môn không goài hai thứ nói pháp hiện thần thông, tu hành không vượt quá ba thời khác nhau, ý đây muốn thu nhiếp hết các việc năng hóa sở hóa đời quá khứ. Trong văn xuôi ban đầu nói nghe pháp cuối cùng đắc chủng trí, nay đây kệ tụng trước nói tu hành đến cuối cùng đều thành Phật, ban đầu thì gọi là hành sáu độ, vì sáu độ là gốc thành Phật cho nên ban đầu nói. “Các thứ tu phước tuệ” là hạnh bốn thừa. “Chư Phật diệt độ rồi v.v…” là nói về sau Phật diệt độ tu hành thành Phật. Văn chia làm năm: Thấy Phật Niết-bàn khởi tâm luyến mến nên được thành Phật. Cúng dường Xá-lợi. Xây tháp. Tạo dựng tượng. Nói ba nghiệp cúng dường nên được thành Phật. Năm thứ này thì thành thứ lớp ban đầu thấy Phật Niết-bàn tâm sanh kính tiếc, Niết- bàn rồi sau là cúng dường Xá-lợi, cúng dường rồi lại muốn xây tháp, muốn làm cho đời sau tôn quí cho nên tạo tượng, tạo tượng rồi kế là nói ba nghiệp cúng dường. “Nếu người tâm lành diệu”: Nghóa là tâm kính tiếc đó lại là tín tâm, thuận theo Chư Phật không trái giáo môn nên gọi là lành diệu. “Chư Phật diệt độ rồi” là nói cúng dường Xá-lợi. “xây muôn ức thứ tháp”: Là nói việc xây tháp. Tiếng Phạm là Tháp bà hoặc là Thâu-bà hoặc gọi Đẩu-bà, Hán dịch là Phương phần cũng gọi là Mả. Tăng Nhất A-hàm chép: Có bốn việc được phước phạm: Không có tháp xây tháp. Hoà hiệp Thánh chúng. Tu bổ sửa chùa hư hỏng. Phật khi mới thành đạo xin xoay bánh xe pháp. Phước Phạm: Chúng sanh trong bốn thiên hạ cho đến sáu tầng trời cõi Dục không một phước nào bằng Phạm thiên. Miếu là mạo, cung dường chùa tháp đối như thần hiện hữu có hình dáng tướng mạo. Mộc mật (gỗ mật): Hình dáng tợ bạch đàn mà có mùi thơm chỉ thấy ở Trường An. “Nếu như người vì Phật v.v…” là nói về tạo tượng. Kinh Ưu Bà Tắc rằng: Không cho dùng keo làm bằng da súc vật, được dùng keo gỗ. Có giải thích rằng: Không có giải thích chép: Khai giá có ý khác. “Nếu người nơi tháp miếu v.v…” là nêu ba nghiệp cúng dường. “Nơi Chư Phật quá khứ,v.v…” là hiệp nói về hai đời tu hành thành Phật. “Có người nghe pháp này” là nghe trên nói pháp đều được thành Phật. Hỏi: Cúi đầu đưa tay việc thiện này làm sao thành Phật? Đáp: Thuở xưa, ngài Trúc Đạo Sanh soạn Luận Thiện Bất Thọ Báo, nói một mảy may điều thiện đều được thành Phật không thọ báo sanh tử, nay thấy Kinh Anh Lạc cũng có ý đây. Sư luận Thành Thật: Nhất niệm thiện có hai nhân tập và báo, báo nhân thì chiêu cảm trời người, tập nhân thì dẫn dắt tánh tướng chúng sanh thành Phật. Nay nói nghóa nầy đều thành khó hiểu. Kinh nói thiện có sở đắc bất động bất xuất, phàm phu tập nhân thiện đã có sở đắc làm sao được thành Phật ư! Dùng lời nói đây trở lại vặn hỏi Sanh Pháp Sư. Nay nói về nhân thiện có thọ báo và không thọ báo, thiện có sở đắc thọ báo có sở đắc, thiện không có sở đắc thọ báo không có sở đắc, gọi là nghóa thọ báo. Thiện có sở đắc không thọ báo có sở đắc, thiện không sở đắc không thọ báo có sở đắc, gọi 1à nghóa không thọ báo. Cho nên kinh Đại Phẩm chép: Thiện có sở đắc bất động bất xuất, thiện không sở đắc năng động năng xuất tức là chứng. Hỏi: Gốc lành trời người đã là có sở đắc, vì sao kinh này nói đều thành Phật ư? Đáp: Gốc lành trời người bởi là duyên xa thành Phật, cho lên nói thành Phật. Kinh Đại Phẩm nói về duyên gần không chọn duyên xa, cho nên nói thiện không sở đắc năng động năng xuất, thiện có sở đắc bất động bất xuất, Kinh này gần xa đều nói chung nên đều nói thành Phật. Hỏi: Gốc lành trời người vì sao là duyên xa thành Phật? Đáp: Gốc lành trời người có hai thứ: Tập nhân. Báo nhân. Báo nhân thì cảm thân trời người, do có tập nhân gặp Phật, Bồ-tát nghe nói Đại thừa sanh một niệm tin vô sở đắc, tin này là hạt giống Phật đạo, nhờ trước có sở đắc sanh sau không có sở đắc vì thế luận Trí Độ chép: Có sở đắc là môn đầu của vô sở đắc nên gọi là duyên xa. Hỏi: Tập nhân, Báo do nầy giải thích có gì khác với Thành luận? Đáp: Luận nói về một niệm thiện đầy đủ hai nhân, nay nói về thiện có sở đắc thiện trước sau nương nhau sanh, tự chính nó là nghóa tập nhân, cảm báo là nghóa báo nhân, tập, báo nầy đều không thành Phật. Cho nên luận Pháp Hoa giải thích: Đồng tử nhóm đất thành tháp Phật đều đã thành Phật đạo, tức phải phát tâm Bồ-đề mới được thành Phật, chẳng nói gốc lành của phàm phu và quyết định gốc lành của Thanh văn được thành Phật. Trung luận chép: Tuy là ân cần tinh tấn tu hành đạo Bồ-đề nếu trước chẳng có Phật tánh thì không bao giờ thành Phật. Hỏi: Đã là gốc lành có sở đắc làm sao năng sanh vô sở đắc ư? Đáp: Có sở đắc nếu tánh quyết định thì không thể năng sanh vô sở đắc, bởi các pháp không có tánh quyết định, gặp Phật Bồ-tát ngộ có sở đắc này vốn vô sở hữu liền sanh vô sở đắc. Hỏi: Vô sở đắc có hai nhân tập, báo hay không? Đáp: Cũng có hai nhân, tập vô sở đắc sanh vô sở đắc tức là tập nhân hành nhân vô sở đắc cảm báo vô sở đắc gọi là báo nhân. Vì thế kinh Đại Phẩm chép: Báo đắc Vô sanh pháp nhẫn, báo đắc sáu Ba-la- mật. Hỏi: Vì sao nói đều đã thành Phật đạo ư? Đáp: Đức Phật quán chiếu thấy chúng sanh quá khứ tu hành gốc lành đã được thành Phật. Hỏi: Nay nói về ý giáo hóa của Phật, quá khứ, cùng kệ trước nói Đức Thích-ca tự khai tông biện luận giáo ý có gì khác nhau? Đáp: Trên chính là nói về chúng sanh Nhị thừa đều được thành Phật, nay nói chung chúng sanh năm thừa đều thành Phật. Để phá trước nói hành nhân năm thừa mà đắc quả Năm thừa, cho nên nay nói về nhân không khác cảm quả không khác, cho nên đều thành Phật. Sở dó trước nói về Nhị thừa thành Phật sau nói về Năm thừa thành Phật là gồm có hai nghóa: Giáo đây chính sanh khởi vì người Nhị thừa và trời người cho nên nêu trước. Nêu thừa trời người phá Nhị thừa chấp chặt. Đức Phật chép: Ta dùng mắt Phật thấy quá khứ trời người nhất niệm gốc lành còn đều đã thành Phật, vì thế biết không có khôi thân diệt trí đồng với thái hư rốt ráo mãi mãi trụ trong Nhị thừa mà không thành Phật. Chư Phật đời vị lai: Tụng trên Chư Phật đời vị lai, căn cứ văn có hai châu: Lược tụng ba việc trên. Giải thích rộng giáo ý của Chư Phật đời vị lai. Hai môn mỗi môn lược có ba. Ba môn đầu: Nửa bài tụng hóa chủ. Một bài rưỡi tụng giáo ý. Nửa bài tụng bẩm thọ giáo được lợi ích. “Chư Phật vốn thệ nguyện”: Là rộng tụng giáo ý của Chư Phật đời vị lai cũng khai ba môn: Một bài nói bổn nguyện, nguyên nói về Nhất thừa. một bài biện nói pháp, nói về Nhất thừa. Hai bài căn cứ Phật sở chứng, nói về Nhất thừa. Hai bài kệ đầu như văn. “Chư Phật lưỡng túc tôn”: Nêu để chứng minh Nhất thừa. Trên nói Phật quá khứ đều nói chung tất cả thiện có sở đắc, và không có sở đắc đều sẽ thành Phật. Nay văn chỉ nêu vô sở đắc thiện căn bản mới được thành Phật thì giải thích thành nghóa trên. Lưỡng túc tôn: Hoặc dùng giới định làm nhị túc, quyền thật làm nhị túc, hoặc dùng phước tuệ làm nhị túc, hoặc dùng giải hành làm nhị túc, đây đều là nhị túc đức bên trong, ngoại hình dùng trời người làm nhị túc, Phật là bậc tôn quí nhị túc của hàng trời người. “Biết pháp thường không tánh”: Là biết tất cả pháp không có tự tánh, mà nói thường chẳng phải là phá tánh cho nên nói không tánh, tánh vốn thường không có cho nên nói thường không tánh. “Giống Phật theo duyên khởi”: Hạt giống có ba: Dùng giáo Nhất thừa làm hạt giống, phẩm Thí Dụ chép: Đoạn hạt giống Phật thì đó là phá giáo. Dùng tâm Bồ-đề làm hạt giống. Kinh Hoa Nghiêm chép: Hạt giống Phật ở ruộng chúng sanh phát sanh, mầm chánh giác. Lấy Như lai tạng Phật tánh làm hạt giống. Nay kệ đầu chính dùng tâm Bồ-đề làm hạt giống, ở trên nói về không tánh, nay nói nhân duyên, giống Phật: Tức là tâm Bồ-đề vô sở đắc làm hạt giống Phật, tâm Bồ-đề đây nhờ duyên mà sanh khởi thì phát, cho nên nói Nhất thừa là do tâm Bồ-đề mượn duyên mà khởi. Cho nên Phật nói cho họ nghe Nhất thừa khiến phát tâm Bồ-đề, Nhất thừa giáo tức là duyên phát tâm Bồ-đề. Lại nói chỉ có Nhất thừa không có Nhị thừa thì tâm Bồ-đề chỉ có tiến không có lùi. “Pháp đó trụ ngôi pháp”: Trên nêu tâm Bồ-đề làm hạt giống, nay nêu bổn có Phật tánh lấy làm hạt giống Phật, nếu không có Phật tánh thì tuy nói Nhất thừa giáo và phát tâm Bồ-đề mà cuối cùng cũng không được thành Phật vì vậy nên phải nói Phật tánh. Gồm có ba ý: Nửa bài kệ đầu chính trình bày Phật tánh tức pháp ấy trụ ngôi pháp là tên khác của Phật tánh cũng là tên riêng của Nhất thừa. Tướng thế gian thường trụ: Chúng sanh thế gian vốn có Phật tánh cho nên Phật tánh thường trú Phẩm Tuổi thọ chép: Như lai thấy biết như thật tướng ba cõi, không có sanh tử cho đến chẳng phải thật chẳng phải hư tức 1à Như lai tạng pháp thân thường trú. “Kế đạo tràng biết rồi”: Là ý thứ hai: Nói biết Phật tánh, nghóa là khi ngồi đạo tràng mới thấy Phật tánh. Kế “Đạo Sư phương tiện nói”: Là ý thứ ba nói về Phật tánh. Nhưng Phật tánh dứt bốn câu siêu trăm phi thật không thể nói, chỉ trong vô danh tướng vì chúng sanh có nên mượn danh tướng nói vì thế gọi là phương tiện. Đây khác với Ba thừa phương tiện trên, cũng khác với thần thông phương tiện cho nên Kinh này nói có nhiều thứ phương tiện. “Của Trời người cúng dường”: Là tụng Phật hiện tại, gồm có hai châu: một bài rưỡi lược tụng ba việc trên, một bài tụng nói về hóa chủ, một câu tụng nói về sở hóa, một câu tụng nói về giáo môn. “Biết vắng lặng bậc nhất”: trở xuống ba bài kệ rộng tụng ba việc trên: một bài nói về ba thứ pháp luân, biết vắng lặng bậc nhất gọi là pháp luân căn bản, “dùng phương tiện lực” gọi là pháp luân chi mạt, là từ gốc khởi ngọn. “Thật ra là Phật thừa” gọi là nhiếp ngọn về gốc. “Biết các hành chúng sanh v.v…” trở xuống hai bài kệ nói rộng về pháp luân chi mạt. “Nay ta cũng như vậy”:,v.v… trở xuống hai bài kệ nói về đức Thích-ca thuận đồng theo Chư Phật. Lại có hai phần: Kệ thuận đồng Chư Phật nói về pháp luân nhiếp ngọn về gốc. Kệ thuận đồng Chư Phật từ pháp luân gốc khởi ngọn. Nhiếp ngọn về gốc gọi là nhiếp dụng về thể, từ gốc khởi ngọn gọi là từ thể khởi dụng. Hai thứ này tuy lược mà nhiếp giáo cùng khắp. “Vì an ổn chúng sanh”: Do phàm phu chấp có nên ở trong nhà lửa ba cõi, Nhị thừa chấp không nên chưa vượt đường ác năm trăm do tuần, tất cả đều chẳng an ổn. Cho nên Trung luận chép: “Trí cạn thấy các pháp hoặc có hoặc không v.v… do dó không thể thấy diệt, thấy pháp an ổn”. Nay nói Trung đạo Nhất thừa khiến lìa hai kiến có không của phàm phu Nhị thừa cho nên gọi an ổn. “Dùng các loại pháp môn” dưa ra phương pháp an ổn khiến nhập Phật đạo an bày nơi an ổn. Trong kệ nầy, nửa bài tụng trên nói về biết căn cơ tức câu: “Ta dùng sức trí tuệ, rõ tánh dục chúng sanh”. Tiếp một câu nói giáo. Kế một câu nói được lợi ích. “Xá-lợi-phất nên biết v.v…” Trên đây đã tụng Nhất thừa chân thật rồi, nay là tụng Ba thừa phương tiện. Trong văn xuôi văn lược chỉ nói chung Chư Phật ra đời ở đời năm trược phương tiện nói Ba thừa, nay văn giải thích rộng nói về đức Thích-ca ra đời ở đời năm trược. Một thời giáo hóa gồm có bốn ý: Ở địa vị pháp thân thấy chúng sanh năm trược có khổ không vui nên khởi tâm đại bi. Bi tâm đầy đủ bên trong vì bổn thùy tích, khi Phật mới thành đạo muốn nói Nhất thừa cứu chúng sanh rất khổ ban cho họ sự rất vui, nhưng tuy bậc Thánh có khả năng trao cho mà chúng sanh không có khả năng thọ nhận cho nên dứt hóa Nhất thừa. Đã không có khả năng thọ giáo Nhất thừa nên đối với một Phật thừa phương tiện nóiBa thừa điều hòa tâm kia. Nói về gom ba về một. Bốn môn nầy đều khởi ở đời năm trược cho nên giải thích chương năm trược ở trên. Ban đầu thấy năm trược nên khởi tâm đại bi, vì có năm trược nên không có khả năng thọ Nhất hóa, do có năm trược nên phương tiện nói ba, năm trược chướng tiêu nên sau vì nói một, vì thế bốn ý đây đều khởi ở đời năm trược. Hỏi: Vì sao chỉ nói về bốn chương? Đáp: Đức Thích-ca xuất hiện ở đời năm trược, một kỳ hạn từ đầu đến cuối chỉ có bốn môn nầy: Ví như cha mẹ thấy con bệnh khổ đầu tiên rất sanh tâm thương xót, kế muốn cho con uống thuốc hay để bệnh mau lành, nhưng bệnh con nặng không thể uống thuốc, Kế vì con không thể dùng thuốc hay nên phương tiện dùng thô dược trị bệnh nặng cho con, cuối cùng bệnh nặng đã trừ trở lại cho uống thuốc hay bệnh liền dứt hẳn. Cha trừ thân bệnh cho con chỉ bốn môn này không được thêm bớt, Phật trị tâm bệnh cho chúng sanh cũng chỉ bốn môn này không được thêm bớt, cho nên một kỳ hạn ra đời chỉ nói về bốn môn. Chẳng những đức Thích-ca một kỳ ra đời đầy đủ bốn môn này, mà tất cả Chư Phật cũng không ngoài bốn môn này; tức cũng làm căn bản cho bốn thí dụ trong nhà lửa ở phần sau. Môn đầu là Trưởng giả thấy lửa, môn thứ hai là cứu con không được, môn thứ ba là dụ ba xe cứu được con và môn thứ tư là đồng ban xe lớn cho các con. Nhưng trước sau pháp và dụ do văn kia làm chính, chỉ có bốn dụ này không còn phát sanh cái khác để giải thích. Nếu nói có mười thí dụ căn bản sáu dụ căn bản đều không tương ưng với văn. Đời Mạt pháp đã không còn thấy Phật chỉ nương lời Phật dạy làm thầy không nên sanh tâm xuyên tạc. Hỏi: Sau thí dụ đã có sáu nay vì sao chỉ có bốn? Đáp: Trước văn xuôi nói về năm trược chỉ một chương, nay kệ chuyển thế nói pháp liền có bốn môn. Phẩm nầy pháp thuật cóù bốn; phẩm sau thí nói nêu sáu, cũng là chuyển thế nói pháp, hoặc nói sau hoặc trở lại đồng với trước, Kinh có ba châu là ý một châu, bởi thế các giảng sư phần nhiều sai lầm, đến phẩm Thí Dụ sẽ nói rộng. Hỏi: bốn môn nầy có mấy loại thân? Đáp: Đủ ba thân. Nói về pháp thân thấy chúng sanh có khổ không vui liền khởi tâm đại bi. Khi mới thành đạo vì chúng Bồ-tát nói Kinh Hoa Nghiêm, là thân Lô-xá-na. Vì Thanh văn nói Ba thừa nghóa là thân Phật Thích-ca, ban đầu là thân từ chỗ Phật thấy, kế đến là thân từ chỗ Bồ-tát thấy, sau là thân từ Nhị thừa thấy. Lại đầu là pháp thân, kế là ứng thân, sau là hóa thân, thứ tư là nghe Nhất thừa liễu ngộ giáo ý từ đầu đến cuối, đầy đủ ba thân, cho nên luận Pháp Hoa giải thích phẩm Thọ Lượng đầy đủ nói về ba thân. Hỏi: bốn môn đủ mấy thứ giáo? Đáp: bốn môn nầy đầy đủ ba giáo, Như lai ở địa vị pháp thân soi thấy chúng sanh năm trược. Một kỳ từ đầu đến cuối căn tánh ứng đủ có khả năng nghe ba thứ giáo môn. Kế dùng bổn thùy tích vì chúng sanh nên nói ba thứ giáo. Khi mới thành đạo vì các Bồ-tát nói pháp luân căn bản. Không có khả năng thọ pháp luân căn bản nên từ gốc khởi ngọn nói về pháp luân chi mạt. Gom ba về một cho nên nói pháp luân nhiếp ngọn về gốc. Hỏi: Đã có ba thứ pháp luân, có được nói ba thân hay không? Đáp: Cũng được như. Ban đầu vì các Bồ-tát hiện thân Lô-xá-na là thân căn bản. Nói Nhị thừa không thể thấy thân này cho nên ẩn bổn thùy tích khởi thân chi mạt, Phẩm Tín Giải chép: Cởi áo châu báu mặc áo thô xấu. Đã lập một phế ba, cũng dứt tích về gốc thì nên nói cởi áo xấu lại mặc áo châu báu, cho nên giáo có ba thân cũng vậy. Căn cứ bốn môn nầy mỗi môn có ba đoạn hiệp thành mười hai chương kinh. Ba môn đầu: Nêu năng kiến. Sở kiến. Khởi tâm bi. Ta dùng mắt Phật thấy là năng kiến. Năm nhãn có hai môn: Căn cứ ứng thân nói về năm nhãn, Phật thác thai cha mẹ nên có nhục nhãn. Ở dưới cội cây chứng đắc bốn nhãn, do có xa thấy cho nên có thiên nhãn, chiếu căn tánh Ba thừa cho nên có pháp nhãn, chiếu soi thật tướng cho nên có tuệ nhãn, chiếu soi cảnh giới Phật nên có mắt Phật. Căn cứ Pháp thân nói về năm nhãn: chiếu năm thứ cảnh giới cho nên có năm nhãn, chiếu cảnh chướng bên trong gọi là nhục nhãn, chiếu cảnh chướng bên ngoài gọi là thiên nhãn, ba thứ còn lại như trên. Hỏi: Nếu căn cứ năm cảnh nói về năm nhãn, nay chiếu sáu đường nên gọi là thiên nhãn vì sao gọi là mắt Phật? Đáp: năm nhãn có hai môn: Trong nhân gọi là bốn nhãn, quả địa gọi là mắt Phật, nghóa là người có nhục nhãn, trời có thiên nhãn, Thanh văn có tuệ nhãn, Bồ-tát có pháp nhãn, Phật có mắt Phật, cho nên bốn nhãn nhập vào mắt Phật đều gọi là mắt Phật. Nay nhân quả đối nhau cho nên nói mắt Phật thấy chúng sanh không gọi là thiên nhãn. Căn cứ vào mắt Phật, y theo cảnh nói về năm dụng kia, người có năm nhãn, thấy chúng sanh trong sáu đường thì thuộc thiên nhãn, lại mắt Phật không chỗ nào không biết, chẳng có chỗ nào không thấy mà cũng thấy chúng sanh trong sáu đường. Hỏi: Năm nhãn được gọi gồm có mấy thứ? Đáp: Nhục nhãn tuệ nhãn căn cứ thể mà đặt tên, lấy nhục làm nhãn nên gọi là nhục nhãn, lấy tuệ làm nhãn nên gọi là tuệ nhãn, Pháp nhãn thì từ cảnh đặt tên. Do kia thấy pháp gọi là pháp nhãn, Thiên nhãn mắt Phật được tên gọi không nhất định, vì sao? Vì thiên nhãn được gọi gồm có ba thứ: Từ người mà đặt tên gọi, người theo nghóa được gọi, Chư Phật Bồ-tát gọi là Tịnh thiên, sanh trong ngoài người báo được thiên nhãn thấy suốt đại thiên thế giới, từ Tịnh thiên kia dùng đặt tên ấy nên gọi là thiên nhãn. Căn cứ thú mà đặt tên. Ban đầu từ Bốn Thiên vương lên đến Phi tưởng gọi chung là Thiên thú, sanh lên cõi trời kia báo được nhãn căn, thấy suốt và xa nên gọi là thiên nhãn. Từ nhãn được tên, như Luận Địa trì chép. Tất cả thiền định ở trong ba trụ gọi là Thiên trụ, y Thiên trụ nầy tu đắc tịnh nhãn, từ nhãn đặt tên nên gọi là thiên nhãn. mắt Phật được tên gồm có hai thứ: Từ người đặt tên, Phật là người gọi, người có mắt nầy nên gọi là mắt Phật. Phật gọi là giác, giác nầy năng khiếu soi nên gọi là mắt Phật. Hỏi: Năm nhãn lấy gì làm thể? Đáp: Nếu căn cứ pháp thân thì lấy trí làm thể trí có năm dụng cho nên gọi là năm nhãn, nếu căn cứ thiên nhãn, nhục nhãn của ứng thân đã là căn thì lấy sắc làm thể, ba thứ còn lại dùng trí làm thể. Nếu nói thiên nhãn thông tức theo nghóa Tỳ-đàm cũng lấy trí làm thể. Hỏi: Năm nhãn và mười nhãn trong Hoa Nghiêm làm sao nhiếp nhau? Đáp: Nói mười nhãn: Nhục nhãn thấy tất cả sắc. Thiên nhãn thấy các chúng sanh chết đây sanh kia. Tuệ nhãn thấy các chúng sanh căn tánh sai khác. Pháp nhãn thấy các pháp tướng chân thật, nghóa là thấy các pháp tướng bậc nhất nghóa. mắt Phật thấy mười lực của Phật. Trí nhãn phân biệt biết rõ tất cả các pháp. Minh nhãn thấy tất cả ánh sáng của Chư Phật. Xuất sanh tử nhãn thấy pháp Niết-bàn. Vô ngại nhãn thấy tất cả pháp không có chướng ngại. Phổ nhãn là thấy pháp giới bình đẳng pháp môn. Nhục nhãn nầy là nhục nhãn trước bao gôm thiên nhãn, thấy thô tế xa gần là thiên nhãn. Thiên nhãn là thiên nhãn trước. Tuệ nhãn, mắt Phật, Trí nhãn, Minh nhãn, xuất sanh tử nhãn, vô ngại nhãn, sáu thứ nhãn này là pháp nhãn trước. Pháp nhãn nầy là tuệ nhãn trước vì thấy Chân-đế. Phổ nhãn nầy là mắt Phật trước thấy khắp pháp giới chân thật bình đẳng. Nói về sở kiến: “Thấy chúng sanh sáu đường”: Căn cứ trong sở kiến chia làm hai: Nêu chung thấy sáu đường. Nói riêng thấy có không. Kinh Đại Phẩm nói năm nhãn không thấy chúng sanh, nay sao lại nói thấy? Đáp: Kinh Tịnh Danh chép: Có đức Thế tôn đắc thiên nhãn chân thật đều thấy quốc độ Chư Phật không do hai tướng, không do hai tướng ấy nghóa là thấy rõ ràng mà không hề thấy, tuy không hề thấy mà chẳng có chỗ nào không thấy, cho nên thấy và chẳng thấy không hai. Kinh Đại Phẩm nói thấy không chỗ thấy, kinh này nói không thấy mà thấy, cho nên không trái nhau. Hỏi: Đã thấy sáu đường và sáu đường thấy có gì khác nhau ư? Đáp: Đức Phật thấy không có sáu mà là sáu, biết sáu mà không có chỗ sáu, sáu đường làm sáu, sáu mà thấy, cho nên phẩm Thọ Lượng chép: Không như ba cõi thấy ba cõi. Kinh Hoa Nghiêm chép: Thuận theo chúng sanh cho nên đều nhập các thế gian, trí tuệ thường vắng lặng khác nhau cái thấy thế gian. Lại nữa chúng sanh có hai: Chúng sanh tánh điên đảo. Chúng sanh nhân duyên giả danh. Kinh Đại Phẩm nói không thấy, trong đạo lý rốt ráo không có tánh thật chúng sanh nên không thấy. Kinh này nói nhân duyên chúng sanh cho nên mắt Phật thấy, cho nên văn trước đầy đủ hai nghóa: “Nhân thiên lưỡng túc tôn biết pháp thường vô tánh” tức là nghóa không thấy tánh. “Giống Phật theo duyên khởi” nghóa là thấy nhân duyên. Lại Trung luận chép: Các pháp không có tánh quyết định, Đức Phật có vô lượng phương tiện hoặc nói bốn câu tất cả thật không thật v.v…, cũng nên nói pháp không có tánh quyết định tùy chúng sanh nên có bốn câu hoặc thấy không thấy. Vì thế luận chép: Chư Phật hoặc nói ngã hoặc nói vô ngã, trong các pháp thật tướng phi ngã phi vô ngã; cũng nên nói Chư Phật hoặc nói thấy hoặc nói không thấy, trong các pháp thật tướng chẳng phải thấy, chẳng phải không thấy. Nghèo cùng không phước tuệ: Nói riêng thấy có không: Ban đầu nói thấy không nghóa là không phước không tuệ, nhưng tu hành có sở đắc phước tuệ nói là trông mong đạo cuối cùng là không có phước tuệ. Cho nên kinh Đại Phẩm chép: Có sở đắc thì không có đạo, không có quả. “Vào đường hiểm sanh tử”: ìà nói về thấy có, trên thấy không phước không tức có hai thứ không, nay thấy quả khổ, khổ nhân là hai thứ có. Ban đầu nói thấy quả khổ cũng nương văn trên lấy không phước tuệ làm tư lương cho nên vào đường hiểm sanh tử đến nổi khiến chúng sanh có quả khổ liên tục. “Vào sâu trong năm dục”: Đây là nói thấy quả khổ. Lại trước vào đường hiểm sanh tử thực hành nhân khổ, đắc quả khổ, nay nơi quả khổ lại tạo nhân khổ. Khổ nhân có hai: Trước ái sau kiến. Vào sâu trong năm dục chính là khởi ái, phiền não ba cõi gọi chung là dục, do tánh đắm nhiễm nên luận Thành Thật chép: La-hán dứt dục ba cõi. Nói chấp sâu: Là do có sở đắc thấy năm dục quyết định thật có rồi sau chấp; do đó gọi là sâu. “Như trâu mao mến đuôi”: Trâu do si mến đuôi, chúng sanh do si nên khởi ái. Lại do mến đuôi cho nên bị người bắt được làm hại, nên mến đuôi là hại thân, chúng sanh ưa đắm năm dục nên bị các khổ. Truyện Long Thọ chép: Dục là gốc của họa là nguồn các ác, bại đức nguy thân đều do dục đây khởi, nếu ta được thoát thì thệ nguyện xuất gia. “Do tham ái tự che”: Trên là nói do si khởi ái, nay là nói công dụng của ái, Ái có hai lực: Cảm khổ sanh tử. Mê cảnh chướng trí, trước nói nhập sanh tử đường hiểm gọi là cảm khổ sanh tử, nay nói mê cảnh chướng trí do ái che tâm làm chướng tuệ. “Đui mù không thấy biết” là mê cảnh. “Không cầu Phật thế mạnh” là đắm sâu năm dục gọi là người bệnh. Phật thế mạnh là Phật có thế lực mạnh mẽ dứt được bệnh ái cho chúng sanh gọi là thầy thuốc. Pháp đọan khổ nghóa là bình đẳng đại tuệ là lương dược chúng sanh bị ái ngăn che tâm đui mù không thấy được, không biết tham ái là bệnh, lại không biết Phật là thầy thuốc giỏi pháp là thuốc hay. “Sâu vào các tà kiến”: Là nói về kiến nhân. “Lấy khổ muốn bỏ khổ”: Như các ngoại đạo chấp khổ ba cõi là Niết-bàn, Bà-la-môn Đàn- Đề chỉ bụng là Niết-bàn là chấp khổ cõi dục là Niết-bàn, ngoại đạo A-la-la chấp vô tưởng là Niết-bàn, tức chấp khổ cõi Sắc làm xả khổ, Uất-Đầu-Lam-Phất chấp phi tưởng làm Niết-bàn là lấy khổ Vô sắc mà muốn xả khổ sanh tử tức là giải thích nghóa tà kiến trên. Đây là tà kiến chung, đối với năm kiến chẳng lạc tịnh mà chấp lạc tịnh đó là độc đầu kiến thủ. Hỏi: Chấp sanh tử là Niết-bàn, là mê sanh tử hay mê Niết-bàn ư? Đáp: Chính mê sanh tử là Niết-bàn, như mê thú dữ là người. “Phật vì chúng sanh nầy”: Là nói khởi tâm bi: Xa thương xót: Là thương cho chúng sanh kia không có hai thiện phước, tuệ, có khổ hai ác nhân quả. Gần thương: Là thương xót các ngoại đạo chấp phi đạo là đạo, đạo là phi đạo. “Xưa ta ngồi đạo tràng”: Là vì chúng sanh có năm trược nên khi mới thành đạo Phật nói Nhất thừa giáo hóa không được. Trên đã đầy đủ đại bi bên trong nay nêu phương tiện cứu giúp bên ngoài, nhưng bậc Thánh tuy năng cứu mà vật không có khả năng thọ. Văn cũng có ba: Nêu nói Nhất thừa không được. Chư thiên khuyến xin. Trái thỉnh. Văn đầu có ba: Nửa bài đầu nói về chỗ tư duy, nửa bài kế là nêu thời gian tư duy, sau một bài rưỡi là nêu việc tư duy. Xưa ta ngồi đạo tràng: Ở đạo tràng vắng lặng tại Ma-kiệt-đà mới thành Chánh giác, “Quán cây và kinh hành”. Có người chép: do danh để nêu ý, Thọ: Muốn cây đứng thẳng như chúng sanh nương gốc lành Đại thừa. Hành: Là muốn nêu Như lai sẽ hành các việc như cây đứng thẳng. Có người chép: Đức Như lai ngồi dưới gốc cây thành Phật, nhớ ơn cây cho nên quán cây. Hành: Đi đến chỗ thành đạo mà ngồi, nay đắc đạo rồi nên kinh hành, tức muốn hành thiện lợi vật báo ân cây. Giải thích nầy xuất xứ trong kinh. Có người chép: Đây là theo pháp thế gian tức là tất đàn thế giới. Người đời tư duy gồm có hai thứ: Quán vật tư duy. Kinh hành tư duy. Nay tùy pháp thế gian cũng chia làm hai: Chú giải kinh rằng: Cây lấy tónh làm thể, Hành lấy động làm tướng muốn phát sanh tư duy tốt quyết im lặng nói năng phù hợp căn cơ. Trong hai mươi mốt ngày: Là nói thời gian tư duy. Luật Di Sa tắc chép: Tam-muội bảy ngày, đây cùng luận Thập Địa. Luận kia cũng hỏi: Vốn vì lợi ích chúng sinh mà thành đạo, vì sao bảy ngày tư duy không nói ư? Đáp: Vì nói lên tự thọ lạc của đại pháp, đã nói lên pháp lạc khiến cho chúng sanh đối với Như lai thêm lớn tâm ái kính, lại xả bỏ diệu lạc ấy thương xót chúng sanh nói pháp cho họ nghe. Đây là bảy ngày đầu không nói, tuần thứ hai mới nói pháp. Kinh này nói trải qua ba tuần mới nói. Trong Luật và Tát-Bà-Đa bộ nói trải qua sáu tuần mới nói. Kinh Thập Nhị Du nói Đức Phật thành đạo xong qua năm thứ hai mới độ năm người, tức là một năm không nói. Luận Trí Độ nói năm đến mười tuần không nói pháp, hoặc có thể là năm mươi bảy ngày hoặc có thể năm mươi lần bảy ngày, gần một năm tương ưng với Kinh Thập Nhị Du. Thích ứng duyên thấy nghe không cần hiểu. Luận Tát-bà-đa chép: Vì sao bốn mươi hai ngày không chép: Là do Phạm thiên chưa đến xin, lại chúng Kiều-trần-như gốc lành chưa thuần thục, lại trước tự an thân rồi sau mới nói, lại khiến chúng sanh tôn trọng. Nay nói về Như lai đã biết từ lâu nên nói hay không nên nói, chỉ là chỉ bày pháp mầu nhiệm, chúng sanh độn căn tùy theo pháp thế tục nên thị hiện tư duy kỹ rồi sau nói, bảy ngày là cùng tận của một số, ba tư là pháp thường của thế tục cho nên nói ba lần bảy. Hỏi: bảy ngày sao lại cùng tận của một số ư? Đáp: Pháp trong ngoài bảy ngày có đổi khác, trong thai bảy ngày thì biến chuyển, so sánh thân ăn uống bảy ngày không ăn thì chết. “Tư duy việc như vậy “: Là nêu việc tư duy. Có người chép: bảy ngày đầu tư duy trí Phật mầu nhiệm. Bảy ngày tuần thứ hai tư duy chúng sanh độn căn. Bảy ngày tuần thứ ba tư duy không thể đem diệu tuệ trao cho người độn căn. Có người chép: bảy ngày đầu muốn nói pháp Nhất thừa mà chúng sanh không có căn cơ liền dừng, bảy ngày thứ hai tư duy muốn nói Nhất thừa mà chúng sanh không có căn cơ liền dừng. bảy ngày tuần thứ ba muốn nói nhân duyên đời trước mà chúng không có căn cơ liền dừng. Do suy tìm ba hạng căn cơ hạ, trung, thượng ngộ Nhất thừa mà không được nên có ba tuần. Lại nói bảy ngày đầu dùng khuyên để nói Đại thừa không được, bảy ngày thứ hai dùng răn dạy để nói Đại thừa không được, bảy ngày thứ ba dùng khuyên và răn hợp nói cũng không được. Nay nói về như trên biện luận tùy pháp thế tục cho nên nói ba lần bảy. “Trí tuệ của ta được”: Nay văn nói thẳng ra ba việc tư duy: tuệ Phật mầu nhiệm. Chúng sanh độn căn. Không thể dùng trí tuệ mầu nhiệm trao cho độn căn. Tuệ Phật mầu nhiệm: Chẳng phải ngu chẳng phải trí, bặt quán bặt duyên nên gọi là mầu nhiệm. Chúng sanh các căn độn: Là nói về tuệ căn độn. “Tham si vui làm mù”: Là căn ám độn không ngay thẳng, lại có hai lỗi: l) Tham đắm sự vui gọi là ái. 2) Ngu si gọi là vô minh. Luận Tỳ-bà-sa chép: Dụ như có người bị trói cả tay chân bịt mắt lại đem thả trong rừng sâu không thể ra được, chúng sanh bị ái trói buộc, vô minh ngăn che không thể ra khỏi rừng sanh tử cũng như người mù kia. “Các hạng người như thế” là kết ý không thể trao diệu tuệ cho hạng độn căn ấy được. “Bấy giờ, các Phạm vương v.v…” là chư thiên xin nói. Văn cũng có ba: Một bài rưỡi nói về người năng xin. Một câu nêu nghi thức xin. Một câu chính nói về xin. Luận Trí Độ chép: Chư thiên nghi pháp khác nhau, trời Tịnh cư khuyên Phật độ cho xuất gia, Tứ thiên vương bưng bát, Phạm vương xin xoay bánh xe pháp. Hỏi: Đức Phật vì chúng sanh nên ra đời tự ứng nói pháp đâu có đợi xin ư? Đáp: Luận nói Đức Phật tuy không đợi xin mà khiến người xin được lợi ích. Kinh Kim Quang Minh loại bảy quyển chép: Xin Phật xoay bánh xe pháp năng diệt tội chê bai mười hai bộ kinh: Lại trước xin sau nói pháp Chư Phật như. Lại không xin mà nói là ngoại đạo chê trách. Lại ngoại đạo thường thờ Phạm Thiên, Phạm Thiên đã xin thì ngoại đạo tâm phục. Lại nếu không xin mà nói thì ứng đáp mười bốn nạn, do đợi xin mới nói cho nên không đáp. Hỏi: Vì sao chư thiên xin mà không nói người xin ư? Chư thiên hơn người cho nên nói chư thiên xin, lại người không thể xin, chư thiên có trí tuệ biết Phật thành đạo nên nói chư thiên xin. Lại Đức Phật ởû một mình trong rừng thành Phật, trong đóù không có người cho nên người không xin. Hỏi: Thời Đức Phật Đại Thông Trí Thắng vì sao mười sáu vương tử thỉnh trước sau Phạm Vương mới thỉnh, nay vì sao chỉ nói chư thiên thỉnh không nói vương tử thỉnh ư? Đáp: Chú giải Pháp Hoa chép: Trước Đức Phật xuất hiện đời tốt có con nối nghiệp cha nay Đức Phật ra đời đời ác nên con con không nối dõi. “Ta liền tự suy nghó”: Là nói không thuận thỉnh mà dứt hóa. Theo văn cũng có ba: Giả thiết muốn nói Nhất thừa. Nói không lợi ích có tổn hại. Nói về dứt hóa. Hỏi: Trên tư duy có gì khác với nay tư duy? Đáp: Trên là nói không thể trao diệu tuệ cho người độn căn, nay tư duy giả thiết nhận lời xin của Phạm vương nói Nhất thừa thì tổn hại không có lợi ích. Chúng sanh chìm nơi khổ: Là nói về không lợi ích có tổn hại. “Ta thà không nói pháp” trở xuống: Là nói trái thỉnh mà dứt hóa. Ban đầu dùng bổn thùy tích nói Nhất thừa vì muốn lợi ích chúng sinh, nay nói Nhất thừa thì không lợi ích mà có tổn hại cho nên xả ứng qui chân gọi là nhập Niết-bàn thì không có tổn hại. “Liền nhớ Phật quá khứ”: Là đoạn nói khi Đức Phật mới thành đạo chúng sanh không có khả năng thọ Nhất thừa vì thế đối một Phật thừa phân nói riêng ba thừa. Hỏi: Đức Phật vì tự nói Ba thừa hay đợi xin mới nói? Đáp: Theo luận Trí độ chép: Phạm vương ban đầu xin nói pháp đức Như lai nói Phật pháp sâu xa chúng sanh độn căn không thuận lời xin, không nói. Kế Phạm Vương trình bày chúng sanh có thượng, trung, hạ căn lại xin nói pháp, Đức Phật nhận lời xin lại nên nói Ba thừa. Văn cũng có ba: Thấy rõ căn tánh chúng sanh. Chính là nói giáo Ba thừa. Lãnh thọ giáo có lợi ích, tức là phần Thí dụ sau: ba xe cứu được con. Văn đầu cũng có ba: Nói về thuận theo Chư Phật quá khứ nên nói Ba thừa. Nhận lời khuyên hiện tại của Chư Phật khắp mười phương nói Ba thừa. Thuận theo chúng sanh năm trược nên nói Ba thừa. Hai ý đồng Chư Phật, một ý sau tùy thuộc chúng sanh tức là ba nhân duyên, cho nên nói Ba thừa. Nếu chấp thuận Phạm vương xin thì có bốn duyên riêng. Bài kệ đầu có hai: Nửa bài kệ là tư duy cổ Phật. Nửa bài là nói Đức Thích-ca thuận đồng cổ Phật. Đạo pháp nhất thừa hóa độ chúng sanh không được nên đối Nhất thừa nói Ba thừa, Đức Thích-ca tin mà khéo thích hợp thuận đồng với Phật xưa. “Lúc ta nghó thế đó”: Tức Chư Phật mười phương khuyên nói Ba thừa. Văn chia làm hai: Xưng tán. Khuyến khích. Xưng tán có ba phần: Nửa bài nói về Chư Phật mười phương hiện thân, sở dó hiện thân: Là đức Thích-ca đối một nói ba hợp lý xứng căn cơ, lý số cảm Chư Phật ứng hiện thân. Kế nửa bài là an ủi khen ngợi. An ủi: Ẩn dấu thật đức, bớt đi chỗ vui mà pháp độ chúng sanh, đây là sự nhẫn khổ, nay thuận theo pháp thế gian cho nên an ủi. Kế là khen ngợi: Lập ra Ba thừa phương tiện hợp lý xứng căn cơ đây là đáng khen ngợi. Một bài kệ kế chính là nói lời khen ngợi, việc như văn. Chúng ta cũng đều được v.v… là nói Chư Phật tự trình bày thì gọi là khuyến khích. Văn chia làm ba: Nói Chư Phật hiện tại trên Phật quá khứ phương tiện nói Ba thừa. Kệ nói về hiện tại Chư Phật dưới thuận căn tánh chúng sanh nên nói Ba thừa. Nửa bài nói về Ba thừa. “Xá-lợi-phất phải biết v.v…” trở xuống là nói Đức Thích-ca vui mừng nhận lời xin. Văn chia làm hai: Một bài kệ nói về vui mừng đáp lại Chư Phật khen ngợi ở trên. Kệ nói về thọ xin đáp lại trên Chư Phật đã khuyến khích Nam mô Quy mạng, là cứu ngã. Quy mạng: Là qui mạng nương tựa Chư Phật mười phương, Chư Phật khuyến khích nói Ba thừa kéo dài tuệ mạng của chúng sanh tức là kéo dài tuệ mạng của đức Thích-ca cho nên đức Thích-ca qui mạng nương tựa Chư Phật. Chư Phật khuyên nói Ba thừa, đã là cứu giúp chúng sanh tức là cứu giúp đức Thích-ca cho nên gọi là cứu ngã. “Ta lại nghó thế này, ta ra vẫn đục v.v… trở xuống là thuận theo chúng sanh năm trược cho nên nói Ba thừa. Ta tức là tự tư duy: hai chương kinh từ đầu đến cuối có bốn tư duy. Không nói Nhất thừa có hai tư duy, như trước giải thích, nói Ba thừa cũng có hai tư duy. Sở dó có hai tư duy ấy: Là thuận theo pháp thế gian suy nghó và quyết định. Ban đầu tư duy trên đồng Chư Phật, sau tư duy dưới thuận căn tánh. Nói đời vẫn đục là tuy có Phật mười phương khuyên nhưng nếu xuất hiện ở đời tốt cũng không nói Ba thừa, Nay đức Thích-ca tự xét thấy xuất hiện đời ác cho nên thích ứng nhận lời khuyên nói Ba thừa. “Suy nghó việc đó rồi v.v…” là chánh huyết Tiểu thừa. Văn có bảy câu: Trước nói thời gian muốn nói Ba thừa nghóa là suy nghó lại rồi quyết định thích ứng nói Ba thừa. “Liền đến thành Ba-nại”: Là nói về nơi nói Ba thừa. Ba-la-nại nầy, Hán dịch là Lộc lâm. Xưa có Vua dùng rừng này để nuôi hươu nên gọi là Lộc lâm. Luận Tỳ-bà-sa gọi là Tiên nhân Viên (vườn Tiên nhân). Xưa có vị tiên ở đây, do đó đặt tên. Lại gọi là thành Giang Nhiễu, thành này có nước bao quanh. Nay gọi là Ba- la-nại tức xứ chung, Lộc lâm là xứ riêng trong đó. Nước Ca-tỳ-la chính là trung ương của đất Thiên-trúc, các nước đều ở bốn phương, Ba-la-nại ở phía tây nước Ca Tỳ-la cách chín trăm sáu mươi dặm, Đức Phật xoay bánh xe pháp ở phía Bắc thành Ba la Nại cách hai mươi dặm. Hỏi: Vì sao ban đầu Đức Phật nói pháp trú ở thành này? Đáp: Chúng sanh ở xứ này đã đợi thời gian lâu để được ngộ cho nên bậc Thánh giáo hóa; nơi chốn không nhất định. Nay nói hai nhân duyên nên đến thành này: Luận Bà-sa chép: Có năm chỗ nhất định: là nơi sanh, nơi xuất gia, nơi thành đạo, nơi nói pháp và nơi diệt độ. Chư Phật ba đời đều ở các nơi này nói pháp nên gọi là xứ định. Hỏi: Làm sao biết xứ định? Đáp: Khi Phật chưa ra đời có vua chuyển luân đem binh chúng muốn vượt qua đường này, mà binh chúng dừng lại không chịu đi, giữa hư không có tiếng nói đây là nơi cổ Phật nói pháp vua phải nên tránh, cho nên biết dó là xứ định. Năm người thối lui không trở về nước, sợ vua Tịnh Phạn trách phạt nên tiến vào rừng sâu không chịu theo giúp đỡ Thái tử, cho rằng Thái tử không đắc đạo vì thế họ dừng lại ở rừng Lộc lâm. Luận Tỳ-bà- sa chép: ba người chấp khổ hạnh đắc đạo, hai người chấp thọ lạc đắc đạo, hai người thấy Phật khổ hạnh liền cho là Phật không đắc đạo cho nên đến vườn vườn Nai, ba người hai năm cúng dường Phật, sau thấy Phật uống sữa nai lại cho rằng Phật thọ lạc nên không đắc đạo cũng bỏ Phật đến vườn Nai. Đức Phật thọ thỉnh xong liền nghó rằng: cửa Cam lộ mở ai nên được nghe trước, tự nghó A-la-la, Uất-Đầu-lam-Phất thông minh lợi căn nên trước độ cho đắc đạo. Chư thiên báo rằng: một vị tiên qua đời đã bảy ngày, một vị tiên ngày hôm qua qua đời. Đức Phật lại nghó rằng ai nên được nghe thì biết năm người nên kế tục thọ đạo cho nên Đức Phật đến chỗ ấy giáo hóa. “Tướng các pháp vắng lặng”: Câu thứ ba là nói Ba thừa là phương tiện. Trước nói về gốc phương tiện, gốc phương tiện tức là pháp mà Phật chứng đắc chẳng quán chẳng duyên không ba không một, gọi là không thể dùng ngôn ngữ giảng nói. “Bèn dùng năng lực phương tiện”: Câu thứ tư là nói về từ thật khởi quyền chẳng ba chẳng một mà quyền nói ba. “Vì năm Tỳ-kheo nói”: Câu thứ năm nói về vì người. Nói năm người là: Kiều-trần-như. Thập-lực Ca-diếp. Á-bệ. Bạt Đề. Ma-nam Câu-lợi. Nói Tỳ-kheo: Đức Phật nói pháp rồi mới có Tỳ-kheo. Năm người ấy y cứ ban đầu gọi cho nên sau gọi. Hỏi: Vì sao trước vì năm người nói pháp? Đáp: Kinh nói không đồng, một nói thời Phật Ca-diếp có chín người đồng học, bốn người lợi căn đắc đạo trước năm người độn căn tự thệ Đức Thích-ca ra đời phải đắc đạo trước. Lại Kinh nói đức Thích-ca ở thời kiếp đói kém thân con cá lớn tự thệ rằng ai trước ăn thịt ta sẽ được độ trước hết, năm người ấy đến ăn thịt trước nên trước được độ. Lại kinh nói thời quá khứ có sáu người, năm người hái hoa lúa cúng dường Phật, một người nói đợi lúa chín cúng dường Phật, cho nên năm người ngộ trước, Tu-bạt sau mới ngộ. “Đó là xoay bánh xe pháp”: Câu thứ sáu tổng kết nói giáo danh tự. Nếu căn cứ tự tha mà nói, Đức Phật khi mới thành đạo tự xoay bánh xe pháp gọi là bắt đầu tự chuyển nay vì người nói pháp thì gọi là bắt đầu của tha chuyển. “Liền có tiếng Niết-bàn”: Câu thứ bảy tổng kết giáo chỉ qui. Tuy chuyển tứ đế mà tông qui về nhất diệt, cho nên Đại thừa có bốn đế và một đế, Tiểu thừa cũng nói bốn đế một đế. Nói pháp Ba thừa chủ yếu đầy đủ bảy câu trên. “Cùng với A la hán”: Là nói lãnh thọ giáo được lợi ích. Văn chia làm hai: Được lợi ích Giải thích nghi. Trước nói xoay bánh xe pháp Tứ đế, nay nói Ba bảo hiện đời. A la hán là Phật bảo. Luật nói Đức Phật vì năm người nói pháp, năm người gọi Phật là La-hán. Hỏi: Kiều-trần-như đầu tiên đắc đạo, bốn người còn lại trú ở địa vi nào? Đáp: Luận Bà-sa chép: bốn người trụ ở bốn thiện căn như Noãn v.v… đến mùa hạ đầu mới đắc đạo. Hỏi: Tám muôn chư thiên đắc đạo là chư thiên nào? Đáp: Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói là Diệm-ma Thiên tử. Hỏi: Luận Trí Độ chép: tám muôn thiên tử đắc Vô sanh pháp nhẫn, các kinh khác nói đắc pháp nhãn tịnh việc nầy thế nào? Đáp: Pháp nhãn tịnh của Tiểu thừa tức là Vô sanh pháp nhẫn của Tiểu thừa. Từ trước ngồi đạo tràng đến văn nầy đều là dẫn các sự trong kinh Chuyển Pháp Luân. “Từ kiếp lâu xa đến nay”: Là giải thích nghi thầm khai tuổi thọ nói Đức Thích-ca từ lâu đã hiểu vì Nhất thừa nói Ba thừa, chẳng phải thọ Chư Phật khuyên mới nói Niết-bàn. Lại nói về từ lâu xa đến nay có phương tiện nầy lợi vật, chẳng phải nay mới chế tạo, ông chớ nghi ngờ. Muốn khuyên tín cho nên nói như. Từ trước là nói về việc phương tiện xong, cho nên đề phòng ngăn cản chúng sanh chớ nghi. “Xá-lợi-phất nên biết”: Là nói về giáo Nhất thừa. Văn chia làm ba phần: Thấy căn cơ Đại thừa phát. Chính vì nói Nhất thừa, Ba thừa. Nghe Nhất thừa được ngộ giải. Trước nói Ba thừa cũng chỉ ba ý nầy, tức thí dụ đồng ban cho con xe lớn ở phần sau. Căn cơ phát là Thí dụ xin xe ở sau. Vì nói nhất thừa là thí dụ đồng ban cho xe lớn. Nghe giáo ngộ giải là thí dụ được xe vui mừng ở phần sau sẽ nói. Phần đầu lại có bốn: Hai bài kệ nói về thấy đại căn cơ phát. Một bài kệ niệm muốn sanh khởi giáo. một bài kệ nêu không có căn cơ thì mất có căn cơ thì được. một câu nói thấy có căn cơ phát cho nên vui mừng. “Ta thấy các Phật tử”: Đại căn cơ đã phát có khả năng nối kế thành Phật tử. Cơ phát chẳng phải một cho nên nói vô lượng ngàn muôn ức. “Đều đem tâm cung kính”: Luận theo sự đã đến chỗ Phật nghe pháp thì tôn kính người mà trọng pháp. Theo duyên nói thì có lý bỏ Tiểu sùng Đại nên nói tâm cung kính. “Đồng đến chỗ Phật”: Nói theosự là đến hội Linh Sơn. Trong lý thì cơ phát hợp Thánh gọi là đến; “Từng theo Chư Phật, nghe nói pháp phương tiện”, là nói quá khứ từng thọ giáo phương tiện, trước không biết là phương tiện, nay giáo khởi mới gọi là phương tiện. Cho nên nói về phương tiện xưa, vì xưa nghe Ba thừa thật nhuần nhuyễn tâm mình là phương tiện nhập đạo Đại thừa. “Ta liền nghó thế này”: Là đã thấy rõ Đại thừa căn cơ đang phát, ý muốn phát khởi giáo. “Xá-lợi-phất nên biết” là nói về sự mất của người không có căn cơ gồm có bốn điều mất: Do không biết nhân Ba thừa ngộ Nhất thừa nên gọi là độn căn, như chấp ngón tay quên mặt trăng. Ưa pháp Nhị thừa gọi là tiểu trí, đó chỉ là đắc nhân vô ngã. Chấp chặt Tiểu giáo gọi là chấp tướng. Bảo thủ Tiểu thừa rốt ráo không tin Nhất thừa gọi là người kiêu mạn, như người này đã lìa pháp hội, các ông ở hội naỳ tức bên trong có thật đức khác nhau hạng người kia. “Nay ta vui vô úy”: là thấy có căn cơ cho nên vui mừng vô úy. Nói pháp Nhất thừa là rất thuận theo tâm Phật nên gọi là vui, như Kinh Niết-bàn chép: Tâm ưa thích nói Chân-đế, cho nên biết chúng sanh năng tin nhận không chê bai pháp ấy. “Ở trong hàng Bồ-tát”: Chính nói về nói Nhất thừa, chỉ hàng Ba thừa gọi là Bồ-tát. “Chính bỏ ngay phương tiện”: Là phế bỏ quyền giáo, hiển lộ phế bỏ quyền gọi là chính bỏ ngay. Trước hội ở vườn Nai chính lập quyền chưa được nói phế bỏ, cũng là ý bỏ mà nói không bỏ, đến lúc giao phó tài sản chỉ là thầm bỏ chưa được gọi là chính bỏ ngay. Lại xưa chấp ba là thật gọi là tà, nay liền xả bỏ gọi là chánh, Ba thừa trông mong Phật đạo quanh co, nên gọi là khúc khuỷu nay phế bỏ Ba thừa thẳng đến Phật đạo nên gọi là thẳng. “Chỉ nói đạo vô thượng”: là nói về lập thật. Trước phế thật lập quyền, nay phế quyền lập thật. “Bồ-tát nghe pháp đó”: là nghe Nhất thừa ngộ giải, Bồ-tát gọi là nghi đều đã trừ, La-hán nói đều sẽ thành Phật, ở văn nói về. Lại trước không nói La-hán thành Phật nên nay nói về La-hán thành Phật. Trước đã nói Bồ- tát thành Phật cho nên nay không nói về thành Phật, chỉ Bồ-tát trước nói có ba nay nghe không ba do đó sanh nghi. Nay biết trước nói ba là phương tiện nay nói một là chân thật hai lần nói không trái nhau, nên nghi được trừ. Lại Bồ-tát trước nghi xưa chưa biết là tiến Thành Phật hay thoái làm Nhị thừa, nay biết có một không hai vì thế chỉ tiến không thoái nên nghi xưa không còn. “Như Chư Phật ba đời”: Là đoạn lớn kế theo khen ngợi pháp. Phần đầu tụng Nhất thừa chân thật, kế tụng Ba thừa phương tiện, Trong Ba thừa phương tiện nói rộng việc đức Thích-ca một kỳ ra đời từ đầu đến cuối đã rõ ràng. Bày thật bỏ quyền đều là trong kinh Pháp Hoa nói. Khen ngợi pháp khiến vật tin nhận nên phải khen ngợi; có sáu việc khen ngợi: một bài đầu hợp nghi thức Chư Phật, khen ngợi Chư Phật đều trước ba sau một, đức Thích-ca cũng. Lại Chư Phật đều có pháp luân căn bản, chi mạt, thâu ngọn về gốc, đức Thích-ca cũng như vậy cho nên nói “như nghi thức Chư Phật”. Kế nửa hàng khen ngợi Phật khó gặp, bậc Thánh thế gian dễ gặp cho nên nói ngàn năm một bậc Thánh, Chư Phật khó gặp cho nên nói kiếp số dài xa, vì sao? Vì chúng sanh phước ít, tội nhiều nên không gặp Phật, dù có nhiều công đức mà không có gốc lành thấy Phật nên nói Phật đối với người đó là khó gặp. Nửa bài kệ dưới nói Phật dễ gặp, khen ngợi nói Kinh Pháp Hoa là khó hơn, vì sao? Vì có người gặp Phật hơn bốn mươi năm mà không nghe nói Nhất thừa thì biết Nhất thừa khó nghe còn Phật dễ gặp. Vì sao? Vì chúng sanh thường có thiên căn Nhị thừa phàm phu, hạt giống tu Trung đạo chánh quán ít nên không cảm được Phật nói Nhất thừa. Nửa bài kế là nói về các ông từ vô lượng kiếp đến nay nghe là khó, như từ Đức Phật Đại Thông Trí Thắng đến nay mới được nghe. Kế nửa bài kệ là nói về nghe thì dễ chuyên tâm lắng thọ sanh tin thì khó. “Ví như hoa Ưu đàm”: Là dưới nói nghe thì dễ, mà nghe hiểu vui mừng đâ mới là khó. Nghe hiểu vui mừng: Do nghe pháp ngộ giải trong tâm vui mừng ngoài phát lời khen ngợi, Chư Phật ba đời đồng hành đạo này, nay vui mừng khen ngợi xứng hợp tâm Thánh tức là pháp cúng dường Chư Phật ba đời, người như thế còn hơn hoa Ưu đàm. Luân vương ra đời có hoa Ưu đàm mà khai Pháp Hoa là Pháp Luân Vương nên gọi là “còn hơn”. Văn xuôi nêu hoa nầy khen ngợi pháp, nay nêu hoa nầy khen ngợi người. “Các ông chớ có nghi v.v…” là đoạn lớn nói về khuyên tin. Xưng tán rồi, khuyên trừ nghi tin nhận. “Xá-lợi-phất! Các ông! Là chỉ phương pháp mở rộng kinh của bậc thượng căn, một châu ở trên đã nói rồi, nay khuyên truyền chỉ bày cho ai chưa nghe, Thân Tử đắc ngộ thành Bồ-tát nên phải mở rộng đạo lợi người. Lại ở trên nói về thuyết pháp là Đức Phật Nhiên Đăng, nay nói về mở rộng kinh khiến truyền đăng. Lại một châu pháp nói cũng được chia làm ba đoạn: Ban đầu chọn chúng gọi là duyên khởi, kế là nói về chính là nói, nay là truyền bá Văn có hai: Bốn bài kệ chỉ chung phương pháp mở rộng Kinh. Ba bài kệ chỉ cho nghóa được mất. Văn đầu lại có hai: Một bài khen ngợi kinh sở mở rộng. Ba bài kệ chính nói về phương pháp mở rộng kinh. Trước không nói cho nên là bí, nói bí ấy bởi là lời khen ngợi, như thế gian nói pháp bí mật ngàn vàng cũng không truyền, nay cũng vậy. Nói bí yếu ấy là tông qui nhất, lại chính là nói về thành Phật. Kế ba bài nói phương pháp mở rộng kinh chia làm ba: Hai bài khuyên người không có pháp khí chớ truyền, kế một bài khuyên người ấy là pháp khí nên trao. Trong hai bài kệ đầu, trước kệ khuyên khiến chớ vì người khởi ái mà nói, bài kệ kế là khuyên chớ vì người khởi kiến mà nói. Ban đầu là phàm phu kiến chấp tiểu lạc mà quên đại lạc, kế là chấp chặt Tiểu thừa thì trái nghịch Đại thừa. “Người tàm quí, trong sạch v.v…” là khuyên vì người ấy nên trao, cũng có hai người: Tàm quú là người mới tu hành, khởi ái kiến và tâm phàm phu Nhị thừa liền sửa đổi hổ thẹn sám hối Trong sạch: Là người tu hành lâu, từ lâu huân tập Đại thừa, không sở đắc chánh quán không còn ái kiến và cấu tâm phàm phu Nhị thừa nên gọi là trong sạch như trên chép: “có Phật tử tâm tịnh”. “Xá-lợi-phất nên biết”: Là nói về được mất. Một bài rưỡi đầu nói không học tập là mất, kế một bài rưỡi khen ngợi Thân Tử học tập là được. “Pháp Chư Phật như vậy ,v.v…” Là phải trước quyền sau thật. Đây là chỉ phép tắc sở học. Kế nửa hàng nêu không học Kinh này thì không biết. “Phật là thầy trong đời”: Thân Tử ban đầu nghe nói lược cho rằng Phật là ma, sau nghe nói rộng mới biết là bậc thầy lớn của thế gian. Nửa bài nầy nói về người biết phân biệt chánh tà. Kế một câu khen ngợi quyền thật lãnh pháp. Câu dưới nói không còn nghi tổng kết quyết hiểu rõ người pháp. Kế nửa hàng nói về hai nghi đã trừ, vui mừng thành tựu một đạo Phật thừa. ---------------------- Niên hiệu Vónh Nhân giữa năm Nhâm Ngọ, Sa-di Đạo Tôn vì báo hiếu công chưa tròn nên in bản Pháp Hoa quyển bốn này để báo hiếu kỹ niệm ngày giỗ mẹ, thương tiếc sầu muộn do ai. Than ôi! Trải qua nhiều kiếp cũng khó đền ân, may mắn gặp được bộ Pháp Hoa nầy như bộng cây trôi mà chưa mục, nên khắc in bản Nghóa Sớ quyển thứ tư được lưu hành rất thịnh cho đến cõi trời Hữu Đảnh đến cõi A tỳ cứu độ chúng sanh vô biên. Sa-môn Đô Can Duyên Tố Khánh kính ghi. <篇>