<經 id="n1719">PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1719 PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ Đời Đường Tông Thiên Thai Sa môn Trạm Nhiên thuật QUYỂN l (Quyển Thượng) GIẢI THÍCH PHẨM TỰA THỨ NHẤT “Văn cú”: “Văn” là văn tự, một bộ từ đầu đến cuối, cho nên nói: “Văn” tức là tự, là hai sở y. “Cú”: là cú đậu (là dấu ngắt giọng, tức là dấu chấm phết trong sách), để biết nghóa thông dài ngắn, cho nên nói: danh thuyên tự tánh, cú thuyên sai biệt. Đây cũng không luận về hình thức cấu trúc và thể loại sáng tác văn thơ. Nay chỉ dùng câu mà phân biệt văn kia, cho nên nói “Văn cú”. Chương sớ xưa thì hoặc riêng đề Sớ hoặc riêng đề Chương. Chương: là văn chương hoa mỹ. Kinh Thi nói: “Văn chương ấy đều do nhân só (người có học vấn) phát ra lời nói thành chương, cũng gọi là chương đoạn. Phân đoạn giải thích thành bao nhiêu chương. Sớ: là lời ý thông suốt, cũng là biên chép. Lại, sớ âm sơ, tức sơ thông sơ điều sơ lũ, nay đều không nói ý như trước nói. Đề dưới giải thích ý trong sáu nạn, đây dùng văn dưới trong phần Pháp thuyết tán thán pháp hy hữu. Chư Phật xuất thế xa xôi khó gặp, dù cho xuất thế nói pháp ấy lại khó, vô lượng vô số kiếp nghe pháp ấy cũng khó, năng nghe pháp ấy người này cũng lại khó. Chương an trí nơi kinh đối với pháp nghe và người năng nghe trong hai việc khó, nghóa chia làm bốn nghóa là truyền dịch… hợp thành sáu nạn. Nhưng trong nghe pháp thì tại thời Chánh pháp A-nan nghe trong pháp hội, nghóa thông đời Tượng pháp Mạt pháp, cho nên nhờ truyền dịch thời có thể được nghe. Đức Phật xuất thế rồi mà người vô duyên vẫn không gặp, cho nên trải qua nhiều kiếp người nghe còn khó huống chi tu hạnh khai ngộ, nói biên chép lưu thông. Khó thứ nhất và hai căn cứ ở chủ và vị, ba, bốn tán thán giáo, hạnh, năm, sáu tự may mắn tỉnh ngộ. Cho nên thứ nhất và hai tại Phật, ba, bốn thuộc Sư, năm, sáu bài xích mình. Trong ba cặp, mỗi một cặp đều là trước chung sau riêng. Vả lại, khó thứ nhất và hai: xuất thế cũng như chung vì chung một đời. Tiếp đến nói riêng, riêng ở kinh này. Tiếp, trong khó thứ ba, bốn, thì đầu tiên là Sư truyền dịch chung tất cả giáo, tiếp Sư dạy bảo riêng cho ta noi theo. Tiếp, trong khó thứ năm, sáu, thì nghe giảng vẫn thông vì chung với người khác. Một lần ghi nhận riêng chỉ thuộc mình cho nên trong ba cặp từ rộng đến hẹp, càng về sau càng hẹp so với trước. Cho nên từ khi đức Phật xuất thế đến nay, cho đến nghe tự ngộ, vì nói một lần ghi nhận, thế nên ghi nhận Phật thừa thật là rất khó! Nói chủ vị: Chủ hưng khởi không dễ, lại trải qua bốn vị mới diễn nói kinh này, cho nên nói cái thứ nhất và thứ hai thật là không dễ. Nói tán thán Giáo: Truyền dịch không dễ, trải qua núi biển tuy đến cõi này dân chủ đạo hợp, nước không có các nạn mới có thể truyền. Nói tán thán Hạnh: Là vâng lãnh lời dạy của Nam Nhạc: “chứng không (nhờ) do người khác, mà do từ lâu gieo trồng thiện căn diệu ngộ đến nay phát sinh”. Nói tự tỉnh: Là tự vui mừng được nghe thỏa thuê rồi liền nhớ. Cho nên Huyền Tự nói: “Ở Giang Lăng bẩm thọ tôn chỉ mầu nhiệm, ở Kiến Nghiệp mới nghe kinh văn bổ tiếp mới thành một biến mà thôi! Huống chi hai mươi bảy phen nghe, sáu mươi chín phen chữa trị, từ đầu đến cuối hơn bốn mươi năm, chính là tu bổ phục nạn thứ bảy. Lại đối với sự truyền dịch trước cộng thêm nạn kết tập, trở thành tám nạn. Vì khi kết tập cũng nhờ vương thần đại chúng hòa hợp, khiến cho hoặc ma hoặc ngoại đạo không xâm phạm được. Thiêm: là thêm phá bỏ cổ sư và dẫn kinh luận. Nghóa là bác bỏ nghóa sai, hiển bày nghóa đúng. Tước là gọt bỏ sự rườm rà dài dòng cho đến thành văn thể, khiến văn tóm lược mà nghóa phong phú. Phá Cổ sư không hoàn toàn thuộc về riêng mình, mà còn thêm các ý kiến khác, cho nên chỉ gọi là thêm. Tước là chỉ ở riêng mình, ban đầu ghi chép rườm rà cho nên nói là tước. Huyền Tự nói: “Hoặc dùng kinh luận nói phù hợp với nghóa sâu xa vi diệu đây, hoặc nêu các kiến giải khác nhau của các sư, nghiệm chứng nghóa kia sai hay viên mãn”. Lưu tặng hậu hiền nghóa là: Bài Tựa Huyền Văn nói: “Văn đây nếu rơi mất thì tương lai thật đáng thương!”. Kinh Niết-Bàn nói: “Hoặc cây hoặc đá”. Kinh này nói: “Hoặc ruộng hoặc làng”. Đời sau hạnh giả biết cam lộ môn chính ở nơi đây. “Cùng hy vọng Phật tuệ” là tự mình chẳng phải ở núi Linh Thứu, thân gần đạo tràng khế ngộ, mà tìm tòi một lời giáo chỉ hiển bày tông chỉ tột cùng của năm vị, vả lại làm sao để làm nền móng Phật tuệ cho bậc hiền só đời sau ư! Cho nên nói Phật tuệ cần phải khai mở tam giáo quả đầu Quyền Thật, phát bốn vị bao gồm Đại Tiểu thì Nhân, Lý, Giáo, Hạnh có chỗ quay về, Khai Thị Ngộ Nhập không khác, chính là Phật tuệ của Kinh này. Hỏi: “Viên giáo trong các kinh có khác gì kinh này, mà cần phải nói “Khai” mới là Phật tuệ”? Đáp: “Viên thật không khác, chỉ khác ở chổ chưa khai hiển”. Người sơ tâm cho là Viên cách Thiên, nên cần nghe khai hiển thật tướng các pháp. Nếu đã nhập Thật chỉ luận tăng tiến, thì Quyền nhân ( người) đến kinh này, hoàn toàn cần phải khai (mở). “Ủy Thích”… là, biệt giải tên đề khắp cả bảy, tám quyển. Vì trong phần đầu tên tổng đã có ba pháp, ba pháp từ đầu đến cuối chỉ nêu bày một bộ. Vì sao? Vì trong một bộ chẳng gì qua được bản tích. Tổng, biệt của Bản tích lại vượt qua các thuyết. Ba, một trong Tích công cao hơn một kỳ nói pháp, bởi vì ba trong một vónh viễn khác với giáo trước, tức ba là một không đồng các kinh khác. Tức là Tích mà Bản đến phẩm Thọ Lượng mới bàn đến, tức Tích của Bản đầy đủ nói ở đây. Vả lại, như thể trong Tích, chẳng phải nhân quả, mà dựa vào thể đó để biện minh nhân quả, nhân quả nhận lấy thể mới có thắng dụng. Như vậy, ba pháp đều do khai hiển. Nếu không trước hiểu rõ diệu lý năng khai, thì làm sao hiểu rõ sự thô của sở khai, cho nên đối Tích biện rõ lý Bản cần phân định, phán xét, do đó giải thích đề không thể không cẩn thận như vậy. Đề kinh trở xuống, biệt giải thích lý chẳng dễ dàng, vì bởi giải thích đề phần lớn nghóa thuận theo, nên đến kinh văn chỉ thô phân chương đoạn, đề tên “Văn Cú”, chính lý do này. Cho nên, chỉ phân văn cú thì phần lớn lý không được hiện rõ. Chỉ đàm luận yếu chỉ huyền diệu thì mê nên khởi hết, nếu đeo nhau để nói thì kia đây không có điểm quy tụ, cho nên khiến hiểu rõ mà giải thích (tiêu thích), phàm đến nghóa Đại đều chỉ huyền văn gọi là Thể, Tông, Dụng ba thứ. Tổng biệt gửi theo hành, căn cứ giáo cho nên biết hoàn toàn mê nơi đại tôn chỉ của huyền văn, mà muốn dùng “Văn cú” để hiểu kinh, cố nhiên che lấp lý quán sâu vi tế mà chỉ dùng sự tướng giải thích nghóa, nói rộng kinh này thì lại xa. Nay hỏi người hoằng kinh vì danh lợi che tâm hay vì đại bi lợi ích người? Tự hành mờ tối nơi Diệu tông thì đâu khác người mù dẫn lối! Kia, đây đều mê, lợi mình, người đều mất. Lại nữa xướng Diệu Pháp chẳng phải chỉ có chánh tông, mà cả hai mươi tám phẩm đều gọi là Diệu, trong mỗi phẩm đều hàm đầy đủ thể v.v… Trong mỗi một câu thông kết Diệu danh, Giáo, Hạnh, Nhân, Lý kia đây nhiếp giữ với nhau, khiến cho diệu chỉ không mất mà dần tựa như mở ra thông suốt. Áo, tòa, nhà, răn bảo tư duy tự khắc ghi, song liệt kê khắp việc khó không thể thường như vậy. Nay tùy nghóa tiện rộng lược Thích hợp thời, cho nên các phẩm Phương Tiện, An Lạc, Thọ Lượng, Phổ Môn đều là nguồn gốc của bản tích là điểm trọng yếu của kinh này cần phải xác thật phân biệt, ngoài ra thì tùy nghi. Tự trở xuống một bộ phần lớn tên đã chỉ ở giải thích trước, gọi riêng một phẩm trở xuống là lược trình bày. Ngài Duệ Công cũng nói có hai mươi tám phẩm sinh khởi thứ lớp, nay tùy các vị giải thích căn cứ ý có thể biết. Nhưng mỗi một phẩm ban đầu đều có bốn ý: Thích danh, Lai ý, Thích phương, Thích văn. Thích danh cần phải có bốn nhân duyên v.v… Lai ý, Thích phương hoặc có hoặc không. Có khi trong Thích danh gồm cả Lai ý, có ngăn ngại nên phải giải thích (Thích phương), đâu có lệ như vậy ư? Lại Thích danh cùng nghóa xen lẫn có không, cho nên Thích danh một thứ hoặc ở trước nghóa giải thích riêng, hoặc kèm theo danh để giải thích nghóa. Dù ở trước nghóa giải thích riêng, mà tức trở lại đem ý riêng để quán xuyến nghóa, danh nghóa nếu hiển thì một phẩm có thể theo. Cho nên, khiến mỗi một phẩm hoàn toàn đồng tôn chỉ của bộ. Giải thích như vậy mới sáng tỏ đường mê tùy mình, kia đây hỗn loạn, nếu hiểu được ý nầy thì đến dưới dễ biết. Nay ban đầu giải thích danh gọi là Huấn, Tường, Tự. Trước giải thích chữ Huấn, tiếp giải thích chữ Nghóa, nhưng giải thích trong Huấn lại giống như theo nghóa. Tường là an tường, Học xá, Dưỡng cung (nhà học, cung nuôi dưỡng) đều chẳng phải ý nay. Bộ Nhó Nhã nói: “Vách Đông Tây gọi là tựa, phân biệt trong ngoài”. Đây có thể mượn dùng để giải thích biệt tựa, như do biệt tựa mới khác các kinh. Thông tựa khác ngoài cũng có thể bao gồm dùng, do đó ban đầu dùng chữ Huấn, chính là từ biệt tựa. Cho nên nói: Có cấp bậc… Kiêm dùng an tường tức không phải bỗng nhiên nhảy vượt ý thứ tự, cũng là hai tựa cùng có. Nếu đối biện ắt trước chứng tín sau mới phát khởi, hay trước phát khởi sau mới chứng tín, hay trước hai tựa sau mới chánh tựa, nên hai tựa đều có, trước sau cũng vậy. Cho nên ngài Quang Trạch nói sinh khởi chẳng hoàn toàn sai ý, chỉ thiếu chỉ rõ báo cho nên bác bỏ. Cho nên nói cấp bậc… nghóa bao gồm Thông, Biệt. Lời hỏi đáp không thiếu nghóa thông, trước thụy sau vấn, thứ lớp như vậy. Di-lặc, Văn-thù tứ vị khách chủ, hoặc hỏi hoặc đáp đều là Tường tựa, phục nghi, phục nạn khách chủ vẫn còn như vậy. Kinh gia đoạn dưới theo chữ Nghóa giải thích. Ba nghóa phân hai, tiếp thông hai biệt, thông trong hai bài tựa thông lại biệt đứng đầu. Hai tựa đều đứng đầu thông thì được tên vị đứng đầu ở dưới. Vậy thì hai mươi bảy phẩm mới gọi là kinh. Do Tựa theo Chánh, Thông gọi là kinh, cho nên nói “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Phẩm Tựa”. Nói nguyên do thuật: Lý do nghi điềm lành, thuật lời hỏi đáp, trong văn không dùng nghi niệm đối với nguyên do thuật, cũng có thể bao gồm cả hai, nghóa là phát lời nói bày tỏ nghi cũng gọi là thuật. Tập chúng cũng có thể lấy làm nguyên do xa. Vì ít cho nên lại sắp xếp. Nói “lộng dẫn”: là dùng dụ hiển bày, giảng giải dẫn lộng gia nên gọi là “lộng dẫn”. Cũng có thể chánh lộng cũng được gọi là dẫn, như ca dẫn múa, tựa nghóa có thể biết. Cho nên Chánh thuyết như lộng, hai tựa như dẫn, cho nên dẫn cũng là ca, nghóa là đàm thuật, cũng là dẫn phát nghóa. Chương sớ người xưa lấy âm “Dận” cho thuận tiện để làm “Dận Thích” (giải thích tiếp nối). Lại mê ở “Chương thảo” lấy lộng làm Hô (kêu gọi), lấy Dận làm Triệt. Sự lầm lẫn này từ xưa đã có như thế, chữ Triệt thành chất chồng hai lỗi. Đầy đủ ba nghóa đây, tức là mỗi phẩm bao gồm thông biệt cho nên phải đầy đủ ba. Phẩm: Tựa danh ở biệt, nghóa phẩm thì thông xuống dưới các phẩm để thông theo biệt, không giải thích lại, cho nên chỉ giải thích biệt để sắp xếp nơi thông. Trong đây, trước là dịch tên, tiếp là giải thích nghóa, sau là nêu nguyên do lập phẩm. Nói nghóa ấy: Là giải thích nghóa của chữ Phẩm, chẳng phải nghóa đề của phẩm, cho nên chữ nghóa thì thông tên đề theo biệt. Nói nghóa loại đồng, tức các phẩm đều như vậy. “Tụ” là vì cái gì nên xuất ra người đó, ban đầu phiếm chỉ các kinh khác, như Phẩm Tâm Địa Phật tự xướng. Như Đại Luận tức luận thuật một bộ Đại Phẩm các nhà kết tập xưa chỉ ba phẩm: 1. Tựa. 2. Ma sự. 3. Chúc lụy. Nói người dịch: Cũng chỉ Đại Phẩm vốn chỉ ba phẩm. Ngài Cưu- ma-la-thập đời Ngụy Tần năm Hoằng Thủy thứ năm ngày 23 tháng 4 dịch xong. Lại nương bốn ý đại khái thêm thành chín mươi phẩm gọi là Nhân, Nghóa, Pháp, Sự: Nhân như Lâu-na, Nghóa như quán không, Pháp như tam giả, Sự như ma sự. Cũng như trong Đại kinh nói Thuần- đà thương tiếc than thở… lại chẳng phải người dịch chỉ hỗ trợ cho người dịch tức phải cảm ơn thêm ngài Cưu-ma-la-thâïp; căn cứ đây nên biết các kinh không phải đức Phật tự xướng mà cho đến kẻ kết tập, và người dịch thêm vào. Tiếp chánh nêu kinh này, như phẩm Dược Vương nói: Phật bảo Tú Vương Hoa: “Nếu có người nghe phẩm Dược Vương Bồ-tát Bản Sự này năng tùy hỷ tán thiện”… Lại nói: “Tú Vương Hoa! Vì thế ta đem phẩm Dược Vương Bồ-tát Bản Sự giao phó cho ông”. Cho nên nói: “Nếu có người trì phẩm này, sau khi hết thân nữ không thọ trở lại”. Cuối Phẩm Diệu Âm các nhà kết tập kinh nói: “Lúc nói phẩm Diệu Âm lai vãng này có bốn vạn hai ngàn thiên tử đắc Vô sinh Pháp nhẫn. Cuối phẩm Phổ Môn, kinh gia cũng nói: “Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này có tám vạn bốn ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác”. Cho đến cuối phẩm Đà-la-ni, Diệu Trang Nghiêm Vương khuyến phát đều như vậy cho nên nói “đẳng”. Người dịch chưa nghe thì kinh này không nói, nếu không có các tập gia nói và không có Phật tự xướng nói, thì giống như thuộc về người dịch, do trong văn các phẩm trước đầy đủ, nên biết đều là kết tập sắp đặt, tin rằng không có người dịch là rõ. Cho nên kinh này từ các phẩm khác trở đi, phần nhiều là người kết tập đặt để, do không có nói lợi ích nghe phẩm nên ở sau phẩm không có kết đó thôi. Dùng thông theo biệt nên đầy đủ bốn giải thích, do trong thông tựa mỗi một câu đều có bốn thứ nhân duyên v.v… khi biệt tựa hoặc thiếu một, hai thứ, cho nên giải thích chữ Tựa thiếu bốn nghóa. Nếu hai bài tựa tương đối thì nghóa lập cũng có thể, hai tựa không đồng, là nghóa Thế giới. Biệt tựa phát khởi hâm mộ tức là Vị nhân, thông tựa chứng tín trừ nghi là Đối trị, hai tựa giới thiệu chánh là đệ Nhất nghóa Tất-đàn. Căn cứ giáo… ba thứ đầy đủ, như giải thích trong ba đoạn. Nếu riêng căn cứ ở thông tựa thì năm nghóa không đồng là Thế giới, thông đều trừ nghi là Đối trị, thông đều sinh tín là Vị nhân, thông đều Tựa Chánh là đệ Nhất nghóa. Ba thứ còn lại và biệt tựa, căn cứ đây có thể biết. Từ “Đức Phật phó duyên” trở xuống, là muốn phân tiết kinh văn, trước biện rõ phân văn có không được mất, trong đó có bốn: Một, rộng dẫn các kinh luận. Hai, xưa giải thích sai lầm. Ba, nêu phẩm chẳng có chương đoạn. Bốn, rộng nêu phân tiết. Đầu văn hoàn toàn chẳng phải phân văn. Tiếp đến lỗi xưa tức là các vị giảng xưa phần nhiều không có phân chia tiết, đến An Công kinh không có Đại tiểu mới bắt đầu phân ba đoạn: Tựa, Chánh, Lưu thông. “Đãi” là nguy vậy, chẳng phải ý chính nay cũng gần như vậy. Tây Kinh Vũ nói: “Đời người bao nhiêu lần mất”. Nói khởi tận: Từ đầu đến cuối chương vậy. Nếu phân tiết rồi thì đại tiểu đều có tổng biệt khởi tận. Phần ba, từ “Lại đức Phật nói” trở xuống, ý nêu rõ lập phẩm, chỉ theo nghóa loại không theo văn tướng, cho nên xét theo hai tướng “quán, tán” không thể lập phẩm, cũng chẳng phân tiết. Phần bốn, từ “Kinh Tăng Nhất A-hàm” trở xuống, kinh luận cũng có phân tiết, huống chi đời mạt pháp hoằng kinh cần phải hiểu biết khách chủ, cho nên Tiểu thừa tam tạng đều có sở khai. Bài tựa Kinh Tăng Nhất nói: “A-nan nói kinh vô lượng, số nay lại tổng lược làm nhất tụ, ta nay chia làm ba phần: Khế kinh một phần, luật hai phần, A-tỳ- đàm kinh làm ba phần”. Khế kinh nay sẽ chia làm bốn đoạn: 1.Tăng Nhất A-hàm. 2.Trung. 3.Trường A-hàm, nhiều Anh lạc. 4.Tạp A-hàm. Chính dùng bốn kinh A-hàm, gọi là bốn đoạn, cho nên nay nương theo ý đó chia làm bốn tiết. “Luật khai năm bộ”: Sau khi Phật diệt độ một trăm năm, có ngài Cúc-đa trì pháp giáo hóa chúng sinh, không có tướng thị phi chỉ làm một bộâ không có Tỳ-ni tạng, tức Bát Thập tụng luật. Một trăm năm sau, năm đệ tử của Cúc-đa mỗi người có mỗi kiến chấp riêng không thể dung hòa làm một, liền phân một tạng ra làm năm tạng khác, như chẻ gậy vàng mà không mất dụng của vàng. Nay phân chia văn cũng như vậy, tuy phân chia làm nhiều đoạn mà biết đại ý chỉ vốn có một. Vì sự phân ra là đối với bản cũ nên nói là “kịp”. A-tỳ-đàm chia ra Lục túc, trong văn tự dẫn A-hàm lục độ không phải Lục Túc luận. Như kinh Tăng Nhất nói “Bồ-tát phát khởi Đại thừa pháp, Như Lai nói chủng chủng pháp này, người tôn kính nói lục độ vô cực: Bố thí, Trì giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ lực, như trăng bắt đầu rồi đến độ vô cực soi thấy các pháp, Đức Phật nói các pháp không ra ngoài sáu thứ này”. Cũng giống như ý phân chương, nên Lục Túc luận hoàn toàn chẳng phải ý đây, như nói: l. Tập Dị môn túc, một vạn tám ngàn bài kệ do Xá-lợi-phất trước tác. 2.Pháp uẩn túc, có sáu ngàn bài kệ do Đại Mục-kiền-liên tạo. Hai luận này đời Đường ngài Tam Tạng dịch. 3. Thi-thiết túc, một vạn tám ngàn bài kệ do Ca-đa-diễn-ny Tử tạo, Đường Tam Tạng tương lai chưa dịch. Ba luận đây được tạo khi Đức Phật còn tại thế. 4.Thức Thân túc có bảy ngàn bài kệ do Bà-thiết-ma tạo, tức sau khi Phật diệt độ một trăm năm. 5.Phẩm loại túc, sau khi Phật diệt độ ba trăm năm do Thế Hữu tạo. 6.Giới thân túc, có sáu ngàn bài kệ, cũng do Thế Hữu tạo. Ca-đa-diên-ny tử tạo Phát Trí luận, dùng sáu nghóa trước ít như chân; Phát Trí nghóa nhiều như thân, tức chân có trước mà thân có sau, phân nghóa không tiện, huống chi sáu luận đây đều là đời Đường Tam Tạng tương lai, đời Tùy chưa có nên không hợp chỉ (ngón tay), huống chi không có tướng phân tiết (lóng). Trong đó phá rằng: ba luận trước đã tạo ở thời Phật tại thế, vì sao tiếp cùng luận được tạo sau khi Phật diệt độ làm Túc? Chưa hẳn hoàn toàn như vậy, vì thân nhiếp chân (Túc) đó thôi. Lại Thành Thật luận nói: “Như Lục túc A-tỳ-đàm nói là chỉ Lục túc A-tỳ-đàm luận, cho nên không đối với Phát Trí luận làm thân, nghóa là căn tánh lược nêu làm Kiền-độ. “Kiền-độ” là âm Tây vực, đây gọi là “Pháp tụ”, vì phân một bộ làm tám tụ: Nghóa là Nghiệïp, Sử, Trí, Định, Căn, Đại, Kiến, Tạp. Văn nói: “Căn tánh đạo định”, căn tánh là Căn, đạo tức là Trí. Chỉ lược nêu ba, ngoài ra như trước nêu. Đại luận hỏi: “Tám Kiền-độ ai tạo? Lục phần A-tỳ-đàm xuất xứ từ đâu? Đáp: Đức Phật tại thế không mất, sau khi Phật diệt độ một trăm năm vua A-thâu-kha hội các luận sư vì sinh các bộ riêng, có người lợi căn, đọc hết Tam tạng muốn giải kinh Phật làm tám Kiền-độ, sau các đệ tử vì người đời sau không thể giải hoàn toàn mà chỉ lược làm A-tỳ- đàm. Người làm đầu tiên là Ca-chiên-diên. Ngài Thiên Thân trở đi tiếp dẫn luận nay có bảy công đức năm thị hiện… để liệt phân chương. Bảy công đức: Luận nói pháp môn đây, đầu tiên phẩm thứ nhất nêu bảy thứ công đức thành tựu: l. Tựa thành tựu. 2. Chúng thành tựu. Từ câu: “Vì các Bồ-tát nói kinh Đại thừa” trở xuống là muốn nói, tức Thời chí thành tựu. Nếu nói kinh Vô Lượng Nghóa thì muốn nói đến Pháp Hoa, là Thời chí. 4. Từ “Nói kinh này” trở xuống, là pháp sở thuyết, tức Tùy thuận oai nghi trụ thành tựu. Do nhập định nên gọi là oai nghi trụ. 5.Từ “Phóng quang” trở xuống, là y chỉ thuyết Nhân thành tựu, do phóng quang nên thấy thuyết ở các cõi khác. 6.Từ “Di-lặc niệm nghi” trở xuống, nêu đại chúng muốn nghe pháp, tức Hiện tiền thành tựu. Do hỏi nên đáp, cho nên nói “muốn nghe”. 7.Từ “Văn-thù đáp câu hỏi” trở xuống, gọi là Vấn đáp thành tựu. Luận nói: “Tựa thành tựu lại có hai thứ: Thứ nhất, thù thắng trong tất cả các pháp môn, là các thứ Như thị nghiệm biết luận chủ hoàn toàn chấp nhận một bộ, vì thù thắng trong pháp môn, mới chỉ các thứ Như thị là thù thắng trong tất cả pháp môn, mà tất cả pháp môn tức một đời giáo, nếu không như vậy thì đâu có giải thích nói là tất cả pháp môn. Đã là tối thượng trong một đời giáo hóa, đầy đủ như trong phẩm Dược Vương. Thứ hai, văn tán thán giáo. Còn lại sáu thành tựu dưới đều có phân tiết. Năm thị hiện: Luận cũng nói có năm phần: l. Tán thán pháp thắng diệu. 2. Từ “Ta thành Phật đến nay” trở xuống, là Tán thán công đức Pháp Sư. 3.Từ “Bấy giờ trong chúng” trở xuống,là Trí chúng định nghi. Từ “Đức Phật bảo Xá-lợi-phất” trở xuống, là Định ký. 5.Từ “Xá-lợi- phất! Chư Phật xuất hiện đời ngũ trược” trở xuống, là Đoạn nghi. Từ “Hà Tây” trở xuống, là chánh nêu phân tiết. Hà Tây như bản truyện, Giang… Diêu tức Ngô hưng Tiểu sơn tự (đầy đủ như biệt truyện). Quang Trạch chuyển tế: Như Đông An pháp sư (đời Đường Đông Dương Vónh An Tự Khoáng Pháp Sư) giảng tam luận và các kinh Pháp Hoa… đều biên tập chương sớ, đến ngày mười lăm tháng giêng năm Trinh Quán thứ mười ba thì nhập diệt. Trở lại chịu khuất tam chỉ tức là quả nhân (người) thứ ba, biên chép Pháp Hoa sớ bốn quyển: Đầu nói: từ đời Lương Trần đến nay giải thích Pháp Hoa chỉ lấy theo ngài Quang Trạch riêng chọn nghóa hay, các học giả sau chỉ đại khái giống như sấm. Sư Vân tuy có xem qua mà văn còn luộm thuộm. Ta suy xét lâu năm chỉ thấy văn cú nhiều lộn xộn chương đoạn trùng lắp, tìm văn nghóa kia chưa rõ ý chỉ. Nay đối với nghóa của sư Vân để nghiên cứu pháp thật, đại sư chuyên phá bởi có nguyên do. Cho nên biết sư Vân so với trước càng phức tạp. Nay đây không có hai lỗi kia, chỉ còn đại, chỉ không có sự phiền toái. Từ “Trùng phân” trở xuống, là chương an bài bác xưa. “Phân”: là tuyết đọng nhiều lớp sương nặng che lấp khí trong xanh của thái hư khiến tam quang ẩn mất sự chiếu sáng, cho nên phân văn lộn xộn làm mất đại đạo của kinh, ba phép tắc ẩn mất mà chẳng dụng. “Tân”: Là bến bờ, nơi cứu vớt. Nếu phân nhỏ đoạn ngắn, thì không thích nghi cho người cầu ý chỉ của kinh, ví như giữa ngã ba đường có người hỏi đường, không đáp câu hỏi mà chỉ rộng luận rộng bàn con đường lớn rộng thông bốn phương tám ngã, đó không phải là điều cần thiết cho người hỏi. Ngài Đàm Loan người Bắc Tề chê rằng: Kinh văn khoa điều phân nhỏ như khói mây… bị gió thổi bay đi. Dương: Là gió bay. Che khuất thái hư rộng lớn lẫn lộn… căn cứ nghóa trên kia nên dùng chữ “điều lệ”, nghóa là khoa điều như vi trần, hoặc là chuyển lời nói ấy mượn thế dùng lời chẳng hoàn toàn đồng với kia. Cát đá tinh chất gọi là đá mài, thô gọi là khoáng, tạp vi trần tùy theo gió thổi bay đồng với khói kia che lấp. Nói “nếu quá…” là đem đây so với xưa, tiến thoái đều sai lầm. Vậy thì ngài Đàm Loan cũng chưa hoàn toàn chưa chịu phân tích rõ kinh văn. Lô Sơn Long có hai giải thích: Trước nói thân phương tiện… ý nói từ phẩm Bảo Tháp về trước nói quyền nói thật, cũng do trước Pháp Hoa là pháp Quyền vì nói phương tiện, đến Pháp Hoa là nói chân thật. Từ phẩm Bảo Tháp về sau, cổ Phật hiện toàn thân, nay Phật nhóm tập phân thân. Thân xưa ra lệnh bảo thân nay, thân nay đến thân xưa, hai thân đều ở trong tháp là tiêu biểu pháp xưa nay đồng thân phương tiện. Phẩm Thọ Lượng nói từ lâu đã thành đạo, số kiếp như trần đếm còn gấp bội, trung gian rũ áo ở Già-da chẳng phải chân thật, thân chân thật. Đạo lý ắt như vậy, thiên lập thành sai lầm. Trước có thể không có thân, sau đâu thể không nói! Chỉ dựa vào Quyền Thực Bản Tích tự nhiên đều thu về nói thân. Nếu chỉ nói thân thì Bản Tích sự hôn mê, chỉ luận Bản Tích thì thân nói tự hiển bày. Cho nên trong phẩm Thọ Lượng nói: “Hoặc nói thân mình hoặc nói thân người”, nên thân nói đầy đủ. Từ Phẩm Phương Tiện trở xuống nói ắt có thân, đâu cần phải dẫn đến mê hoặc. Trong giải Thích thứ hai, Huyền văn rộng phá, do hai môn này mỗi mỗi đều có nhân quả. “Tề Trung Hưng ấn” là: “Chùa Trung Hưng (đầy đủ trong Biệt truyện) Ngài Huyền Sướng lấy phẩm Đề-bà-đạt-đa và Trì làm Tích môn lưu thông, và đem các phẩm Thần Lực v.v… trong phần Lưu thông ở sau phẩm Thọ Lượng của Bản môn, cùng làm phần quả, quả tại Bản môn. Lại phân hộ trì, hộ trì là tên khác của lưu thông cho nên không thể. “Lại có Sư” trở xuống, ý Sư này lấy chánh tông làm thể, chỉ dùng chánh của Tích không biết lấy chánh của Bản môn trở lại làm lưu thông, mà nói thọ trì công đức. Tích cùng giáo xưa dung hợp có thể giống, Bản cùng kinh trước hoàn toàn vónh viễn sai khác, trở lại vónh viễn sai khác hỗn loạn lưu thông cho nên không thể dùng. Có sư nói bốn đoạn chỉ hợp hai, ba làm chánh, rất phù hợp kinh văn, chỉ thiếu lập hai môn Bản Tích, ý nói đều có ba đoạn đó thôi! Kia danh đã thiếu, thì nghóa sợ không đủ. “Ngài Quang Trạch nói có hai mươi bốn đoạn, đầy đủ trong lời sớ kia nói v.v…”, là tượng khí phân tán như mây trên trời không thể mất lượng. “Ý nói” trở xuống, là chưa nói còn nhiều như mây. Dưới có liệt nêu ngài Quang Trạch phân văn phần nhiều cùng nay giống nhiều khác ít. “Lan cúc”: Chương an phá chấp. Đức Phật phó cơ nói đương thời xứng hội, đời sau phân tiết nương đây hiển bày lý, cố chấp thành tranh cãi tiến thoái đều trái, dù có khác đồng lan cúc kia “nhưng vẫn tùy thuận được ý” là nói, dù không hoàn toàn trái với tâm thánh mà cuối cùng chỉ là kiến giải tùy tình của người. Hoặc được thông dụng thô thiển, không nên khổ đấu tranh sợ mất bốn lợi ích. Kinh Dịch nói: “Mùi kia như hoa Lan”. Người xưa đều lấy hơi làm mùi. Thiên Thai: Chương an đối xưa cho nên phân biệt nói. Tên gọi Thiên Thai, nói đủ như Chỉ quán ký. “Nay ký…” tuy lại hiện có hai ý, mà dụng ý ban đầu, cho nên nói “theo trước”. Hỏi: một kinh có nói những gì? Hỏi: Ý hiện có hai giải thích? Hỏi giải thích sau có ngăn ngại gì? Cho nên trong hai giải thích không chuyên giải thích sau tức là dùng Bản chánh trước lập lưu thông, lại nhất vãng (một phen) đó thôi. Trong phần trả lời nói: “Hoa Nghiêm mỗi mỗi nơi tập chúng”, là xứ hội đầy đủ như dẫn ở Thích Thiêm, mỗi một hội xứ đều trước là Tựa, tiếp theo là Chánh. Do trú xứ trang nghiêm nghóa sẽ nơi Tựa. Nói tập chúng: Như Phẩm Diệu Nghiêm phẩm Danh Hiệu, phẩm Quang Minh Giác và mỗi một hội, đều trước tiên phải tập chúng. Ý nêu rõ một kinh đầy đủ nhiều biệt tựa. “A-hàm mỗi mỗi thiên như vậy”, đây là nêu rõ một kinh nhiều thông tựa. Bốn kinh A-hàm kia đều hợp với nhiều ít kinh lấy làm một bộ. Mỗi một kinh nhỏ không ra ngoài một tờ giấy nửa tờ giấy, chỉ Trường A-hàm Du Hành kinh văn riêng có hai quyển, lại có Đại bản kinh tự làm một quyển. Mỗi một đầu kinh đều có năm nghóa, đã dùng A-hàm mà làm thông hiệu, cho nên dùng kinh nhỏ trong một bộ làm thiên. “Đại Phẩm trước sau phó chúc”, là nêu trong một kinh có nhiều lưu thông, cho nên trong quyển hai có phẩm Lũy giáo làm phó chúc trước. Thứ hai mươi bảy có phẩm Chúc Lụy làm phó chúc sau, căn cứ ba kinh hai tựa kia đâu có gì ngăn ngại. “Nói năm nghóa của không an” là giải thích phục nạn, nạn rằng: “Nếu vậy thì sao không đồng với A-hàm kia, nay bản tích cũng an như vậy… ư!” Giải thích ý: Tuy trình bày kinh này Bản môn chẳng phải ở đầu, nhưng cần phải giải thích A-hàm phòng ngại. A-hàm nhiều thông tựa, Bản môn cũng như vậy; nhưng A-hàm bao gồm nhiều kinh khác cho nên không phải tiếp phần đầu cũng được an năm việc. Kinh này đồng một kinh cho nên chỉ biệt mà không thông, vì vậy chỉ lấy Hoa Nghiêm để so sánh. Bởi vì A-hàm duyên khởi đều riêng, duyên khởi của kinh này không khác, nên Bản môn không an năm nghóa. “Tích môn chỉ riêng lưu thông”, là dùng Tích vọng Bản, dùng Bản để ước lệ Tích. Bản môn chẳng phải ở đầu, nên chỉ an biệt tựa. Tích môn chẳng phải sau, nên chỉ riêng lưu thông, nên chỉ có khuyến trì, mà không có chúc lụy. Cho nên từ phẩm Pháp Sư đến phẩm An Lạc Hạnh gồm có năm phẩm nêu rõ hoằng kinh phước sâu để khuyên lưu thông. Nếu trong Bản môn trước dùng năm phẩm sau khi Phật diệt độ xuống ba phẩm rưỡi làm khuyến trì lưu thông thì từ phẩm Thần Lực… xuống gồm có tám phẩm nêu rõ chúc lụy lưu thông, vì sau Tích môn kinh đã chưa xong, chẳng phải lưu thông, tiếp chưa cần phó chúc. “Nói như vậy” , là như sau hiểu rõ văn. “Nói giải thích”: là chỉ nay với cách phổ thông hiểu kinh còn khác các kiến giải, huống chi bộ Pháp Hoa lại khác các kinh, cho nên mỗi mỗi câu bốn ý giải thích cho rõ. Vẫn sợ người đời sau không hiểu thấu bốn ý, nên dự định làm bốn điều quan trọng để giải thích cho rõ bốn ý. “Nói đắc ý”, là đến khi giải thích văn, hoặc bốn ý không đủ, chỉ còn một, hai ngoài ra so sánh biết. Tiếp giải thích nguyên do bốn ý: Ý hỏi thứ nhất: Nếu lược chỉ là một, rộng thì vô lượng, đã chẳng phải rộng lược thì hai đường không thành. “Phỉ” là không phải. Vì sao chỉ làm bốn giải thích này ư? Đáp: Trong một văn đầy đủ có hai ý: l. Tổng nêu nguyên do bốn nghóa. 2. Nêu trong bốn nghóa mỗi một đều có nguyên do. Hai nghóa đều được lấy làm chỗ giữa. l. Chỉ bốn không nhiều không ít. 2.Nhân duyên… nêu rõ mỗi mỗi không sai không lầm. Một tuy ở giữa vẫn cần đến bốn. Bốn nhiếp nghóa đầy đủ, nên không cần quá. Cho dù hơn đây mà đều nhiếp nơi bốn nghóa, cho nên bốn và một đều gọi là ở giữa. Như thập diệu… thì trong mỗi một diệu cũng đầy đủ bốn ý. Mười cũng nhập bốn, cũng gọi là ở giữa. Nay chỉ cần bốn thứ này, cho nên được gọi là giữa, cho nên ý đầu nói: “Rộng thì…” Nếu không có ý thứ nhất thì vẫn không khác ngoại chấp, huống chi nhân duyên nói thông, thông nơi “một hóa”. Bắt đầu từ địa ngục, cuối cùng đến Phật giới, trung gian đốn tiệm hoặc giáo hoặc vị, cho nên phải biết việc lớn tứ Tất-đàn chẳng ngoài cảm ứng, khai hiển tứ Tất-đàn Nhất đạo không ngoài. Từ lâu xa các kinh không có tứ Tất-đàn, quán tâm, tứ Tất-đàn, nhất quán biến thâu bốn thứ: nhân lý… chuẩn theo lời nói có thể thấy. Dùng tứ Tất-đàn đây thông từ đầu đến cuối. Căn cứ ba thứ: Giáo… cũng cần thuật khắp. Ý thì có thể biết, nếu không có ý tiếp thì không biện rõ Thiên Tiểu giáo, cho nên dùng tứ giáo hay bát giáo phân chọn khai bỏ… đối với bộ giáo xưa, nay mới chân thật, tất cả giáo lý năng thuyên lại không có khác danh xưng. Cho nên phải nêu rõ điều đó để làm sáng tỏ Diệu Kinh. Không có ý thứ ba thì ai biết tìm ra? Trong một kỳ giáo đã luận đàm thân cõi, trung gian ngày nay không gì không là Tích thiết lập. Chỉ đức Đại Thông kia cũng như tin từ trước, trước đã mật dạy lại mê thân Tích, đến phương này sự cố chấp vẫn còn mê muội. Nếu không có ý thứ tư, thì làm sao để biện rõ công giáo năng thuyên, làm sao cho là từ lâu thành hạnh bản? Cho nên mỗi một câu nhập tâm thành quán. Cho nên nói: “Quán cùng kinh hợp, thì không phải đếm của báu của người khác”. Mới biết một bộ Chỉ Quán là chuyên đề của Pháp Hoa Tam- muội. Nếu hiểu được ý này thì mới hội nhập yếu chỉ của kinh. Tổng bốn nghóa đây thì mới có thể lược hiển bày yếu chỉ quy tụ của một bộ, cho nên nói lược thì ý không cùng khắp. Nên biết hai ba còn lược, thì một đâu có thể bằng, ở giữa đến bốn khiến nghóa dễ hiểu, cho nên mỗi một câu được bốn nghóa này thì khiến mỗi một câu đều khác các giáo, thì nghóa Pháp Hoa thật là không khó cho nên nói dễ hiểu. “Tiếp nhân duyên…”, nêu mỗi mỗi biệt giải thích, trong đó ban đầu là nhân duyên. Tiếp, “Nếu mười phương…”, là ước về giáo. Tiếp, “Nếu ứng cơ…” là bản tích. Tiếp “Nếu suy tìm…” là quán tâm. Ban đầu nhân duyên: Đầu văn chánh giải thích, ban đầu từ “Như thị…” cuối đến “mà lui”, thì không gì không là chân thật cảm ứng đạo giao, cho nên biết kinh này cảm ứng vi diệu. Pháp Hoa về trước Tiểu thừa và độn căn nhất hướng không có cơ duyên. Lý đúng mà mê, nên nói “tuy gần”. Căn cơ sinh mà chưa khế hợp, nên nói “không thấy”. Từ phô bày từ đầu đến cuối gọi là “thiện căn lực”. Sự lý không đồng, gọi là “xa”. Không mưu mà hội, gọi là “tự thông”. Cho nên trước lúc ấy cảm ứng diệu đạo chưa giao kết, các bộ có khác có đồng, giáo chủ có hơn có kém, lợi vật tiệm đốn thi thiết không đồng, nhất nhất thảy đều là ý cảm ứng. Tuy chung gọi là “cảm ứng”, mà hiển lợi ích chưa cùng khắp, tuy chung gọi là Tứ Tất-đàn mà sâu cạn có sai biệt, hoặc bao gồm hoặc riêng dư thiếu không quen, đến Pháp Hoa mới thành một vị. Nói “không có căn cơ”: Xét lại vì xưa không có mà giải thích nay có. Từ “Từ thiện căn” trở xuống, là chánh nêu nay cảm cho nên có, nay ứng nêu xa mà thông suốt thời không sai khác, lòng từ vô duyên biến khắp đâu lựa chọn xa gần. Chỉ không có cơ duyên thì gọi là “xa”, có cảm ắt thông. Chư Phật không có đến, chúng sinh không có qua, chỉ cơ ứng tương xứng, gọi là “đạo giao”. “Từ thiện căn lực”: là tương thông sự biệt, sự kia lược như Chỉ Quán quyển thứ sáu ký dẫn, Đại kinh quyển mười bốn phẩm Phạm Hạnh nói: chư Phật thần biến đều lấy Từ làm gốc, cho nên tất cả pháp lập đều do từ. Cho nên kinh nói: Nếu có người hỏi cái gì là căn bản của tất cả pháp, thì nên nói là Từ”. Vì thế, dùng cảm ứng nhiếp tất cả pháp. Tiếp: “Phàm chúng sinh…” trở xuống, là nghi vấn ý: Đã nói bốn nghóa rồi nói ở giữa, chỉ một nghóa nhân duyên mà cơ duyên rất nhiều (chúng), ứng với chúng nghóa kia lại rộng sao gọi là ở giữa? Nghóa tợ như vượt quá bốn, nên gọi là lại (cánh). Nói chúng: tức năm thừa chín giới… Tiếp: “Đại Kinh…” trở xuống, là đáp ý, bốn còn ở giữa thì một rộng đâu có sai, cho nên trong nghóa rộng của Sự cũng gọi là ở giữa. Cho nên dẫn Đại Kinh nói môn tuy vô lượng thần thông nhiếp hết, mà thần thông là tên khác của ứng, đối cảm tức gọi là cảm ứng. Nhưng danh nghóa thần thông bao gồm Đại Tiểu, nói cảm ứng chỉ hạn cuộc nơi Đại. Trong Đại thông ở Địa, Trụ trở lên. Nay đây chính đang là dụng của cực quả, cho nên một danh xưng thần thông thâu nhiếp tất cả, mà còn được gọi là lược, nghóa chẳng rộng lược đâu không ở giữa ư! Năng ứng đã vậy, sở ứng chuẩn theo đây, cho nên dù ứng tuy chúng mà không quá nơi Từ, cầu thoát tuy nhiều đâu ngoài nơi cảm, cho nên hai chữ “cảm ứng” ở giữa là rõ ràng vậy. Tiếp: “Nếu mười phương…” là căn cứ trong giáo trước nêu rộng thoát ngăn ngại, Tiếp: “Nay luận…” giải thích ra ngoài “ở giữa”. Đầu tiên thoát khỏi ngăn ngại, tức hai tên “Cảm, Ứng” mặc dù là việc ở giữa mà luận chung là Hóa sự, mười phương, sáu trần giáo pháp càng rộng, vậy thì căn cứ giáo “ở giữa” không thành. Tiếp giải thích: Nay luận về cõi Sa-bà chỉ thọ lãnh Thanh giáo (dùng âm thanh để giáo hóa), tuy có hiển mật hoặc khai hoặc phế mà đối với các cõi kia cũng gọi là “ở giữa”, vậy thì khiến Thanh giáo trước cảm ứng “ở giữa” lại rõ ràng thì cam lộ môn khai tức chính nêu lợi ích của tiếng. Cho nên, thật tướng là cam lồ, các giáo gọi đó là môn, môn không khai mở lý chẳng thông tắc. Cõi đây thích hợp chẳng mượn các trần, do thông lý nên gọi là môn khai. Nói “y giáo”: lẽ ra gọi là thanh giáo, chỉ là nói lược. Tuy có diệt hậu sắc kinh cho đến danh cú hành uẩn sở nhiếp. Trong kinh Tịnh Danh dùng cơm thơm và pháp hành tư duy mà ngộ… đều dùng tiếng từ kim khẩu dạy bảo làm gốc, không ít không nhiều, nên gọi là minh (rõ). Căn cứ Bản tích: trước nêu rộng biện minh sự ngăn ngại, tiếp từ “thuận phải an trí chỉ” trở xuống, là giải thích thoát khỏi “ở giữa”. Tiếp, “Cho nên Triệu” trở xuống, là dẫn Triệu chứng thành. Đầu văn: Ứng cơ nêu nhân duyên trước, thiết lập giáo nêu trước ước về giáo. Cơ nhiều giáo khác, Tích kia ắt rộng, nên biết Bản tích không gọi là ở giữa. Nếu căn cứ môn khai mà nói, thì chỉ viên ở giữa đã như trước nói, nay đem Bản hướng về Tích là trung gian ngày nay. Thanh giáo cảm ứng khai rồi lại thí, phế xong lại thiết lập, cho nên nói Quyền thật. Một đời còn rộng, huống chi thật thành về sau, ở chặng giữa thi hành giáo hóa đối cơ sai biệt. Nói “cạn sâu”: Quyền thật về lý thì nhất định là nghóa thông sâu cạn, cho nên nói lập lại. Tiếp nêu “ở giữa”: trước dùng thanh giáo hướng đến cảm ứng, cho nên đem Sa-bà mà đối mười phương thì thanh giáo Sa-bà, nghóa ở giữa đủ. Nay muốn luận một là Bản cho nên lại đối nhiều là Tích, tích nhiều tuy rộng, như ngón tay chỉ cho thấy một mặt trăng thì các bóng tự trở về, đâu có thể dùng năng chỉ (là bốn ngón tay) là có bốn, để khiến sở chỉ (một mặt trăng) chẳng phải một, cho nên an trí Tích xét tìm Bản thì ở giữa thật rõ ràng. Tiếp, “dẫn lời Triệu sư”: chỉ mượn lời kia không dùng sự kia. Ngài Triệu dùng chín Triệt dung thông. Chín Triệt chưa thích hợp dẫn thì như thế nào? Cho nên “Bản tích vô sinh Triệt” nói: Đa Bảo chẳng diệt, Thích-ca chẳng sinh, Đa Bảo là Bản Thích-ca là Tích, Bản không diệt, Tích cũng chẳng sinh, bất sinh bất diệt, bản Tích tuy sai khác mà là bất tư nghì Nhất, đâu được dùng Đa Bảo làm bản, thùy tích ở Thích-ca? Nếu mượn kia hiển nay, lấy lâu làm Bản, hướng về nay là Tích, thì Bản Tích tuy sai khác mà bất tư nghì đều là một. Tiếp nêu “Quán tâm”: Cũng trước nêu rộng phân biệt lỗi. Tiếp, từ “Chỉ quán…” trở xuống, là chánh nêu ở giữa. Đầu tiên nói tìm Tích v.v… là nói ba ý trước. Có hiểu mà không hành thì đâu có lợi ích tự tha. Tích biến khắp mười phương, cho nên gọi là “rộng”. Bản chỉ cái đầu tiên, cho nên gọi là “cao”. Luống xét tìm quả của người khác là cao rộng, thì có ích gì cho sự sâu rộng của nhân tu của mình. Nếu dùng Tín hành làm thừa và biết thường trú thọ mạng lâu dài, thì xét tìm cao rộng của người khác có gì mà không thể ư! Chỉ thiết lập giáo là để hiển Bản, bản khiến khế hợp với Ly, cho nên không khế hợp lý thì gọi là “đếm báu của người khác”. Kệ trong kinh Hoa Nghiêm đầy đủ như Chỉ Quán Ký và Thích Tiêm. Chỉ quán tâm cho nên thấu đạt tâm mình cao sâu, thấy được Bản của mình. Dùng Lý thâu nhiếp cho nên thấu đạt tâm mình bao quát rộng lớn, thấy được Tích của mình. Nhất niệm tâm khởi thì thấu triệt nguồn gốc thật tướng, cho nên gọi là “cao”, đầy đủ các pháp nên gọi là “rộng”. Lại, tức quyền mà thật cho nên gọi là “cao”, tức thật mà quyền cho nên gọi là “rộng”. Nếu không phải là quán này thì chỉ cảm ba ứng trước. Từ “thì giáo…” trở xuống, là cần khai quả, Quyền thì nên bỏ, cho nên giáo bị hội gọi là “hữu cùng”, quyền quán nên cải đổi, căn cơ chẳng diệu cảm, cho nên cơ thành thân cận, mới có thể cảm, quán thành nhập vị thì lợi mình chẳng phải người. Vì vậy cho nên quán tâm đầy đủ ba ý trên, huống chi nhập vị có Bản thùy Tích thiết lập giáo? Ba nghóa đầy đủ, đâu được không dùng? Cho nên, quán tâm ở giữa. Tuy là bốn ý mà lần lượt tương sinh, lấy trước trước làm “rộng”, sau sau làm “giữa”, chỉ còn đương phần đều gọi là “giữa”. Cho nên bốn ý này theo sự mà có tên khác, ứng với sau sau chuyển nhập trước trước, luận chung quán ấy không vượt qua cảm ứng. “Chỉ ban đầu gọi là cảm ứng”, nghóa là: bỏ thông theo biệt, do không có ba thứ dưới, thô diệu chẳng phân biệt, cho nên tứ Tất-đàn sâu cạn chưa phân rõ, nên được Thanh giáo mới biện rõ cảm ứng quyền thật không đồng, là công hội qui viên cực giáo. Tuy biết viên cực đều ở kinh này, mà còn che lấp lâu thành mê bản kia. Nếu rũ Tích ứng đều do Bản hiện, trong khai Tích cảm ứng, tức Bản địa cảm ứng, bản tích chỉ là nhất diệu cao rộng. Tuy biết cao rộng mà cơ thành do quán, quán thành có cảm chân thật cảm ứng. Cho nên biết cảm ứng thông suốt ba thứ dưới, huống lại nhất nhất lần lượt thu nhiếp nhau, về lý tuy tương nhiếp mà sự ắt phân biệt. Ba dẫn chứng: “Thứ nhất” là dẫn chứng cảm ứng. Từ “Lại nói” trở xuống là dẫn chứng giáo tướng. Từ “Thọ lượng” trở xuống, là chứng Bản tích. Từ “Thí dụ…” trở xuống, là chứng quán tâm. Văn thứ nhất dẫn chứng cái thứ nhất. Từ “Nếu nhân thiên…” trở xuống, là giải thích. Thứ nhất nói nhân duyên tức tên khác của cảm ứng, tên khác mà nghóa đồng, cho nên gọi là chứng. Chỉ nhân duyên danh thông, không hạn cuộc năng sở, cho nên sách Chỉ Quán quyển thứ nhất nói: “Hoặc là nhân ở thánh, duyên ở phàm, hoặc là nhân ở phàm, duyên ở Thánh”. Dù không có mạnh yếu cũng có thể đắp đổi. Vì sao? Vì theo cơ thì cơ thân mà ứng sơ, theo ứng thì ứng thân mà cơ sơ, cho nên khiến đắp đổi qua lại, thọ danh không đồng, chỉ gọi là cảm ứng thì không thể đắp đổi lập. Đại sư nhân duyên tuy ở Tích môn, nhưng căn cứ lý thì nên chỉ cả hai Bản tích. Chỉ vì Phật xuất thế chiùnh là để hiển thật, cho nên lại theo Tích. “Lại nữa, nhường” trở xuống, là vì là Bản tích. Trong giải thích thì trước là nêu “phi” (không phải), tiếp từ “thật tướng” trở xuống, là hiển “thị” (phải). Trong phần đầu nêu “phi”, cho nên không phân biệt Bồ tát tam giáo mà chỉ bài bác nhân thiên Tiểu thừa, đầy đủ thì như Huyền văn. “Tùy theo nạn vấn tùy cốt yếu” trở xuống, là theo lệ như vậy. Nói “không thành cơ cảm”: là bởi chẳng phải kinh này rộng nêu thật tướng nhân duyên. Tiếp, trong phần nêu “thị”: Vì dùng thật tướng nhất Đại đối phân biệt Tiểu lý, nghóa kia tức đủ cho nên không rỗi để khai và kiêm, mà ược bớt đi. Đã được nói Đại thì cũng nên nói thâm sâu. Nói “Phật chỉ đây là sự”, lý thì không gọi là sự, nhưng Phật muốn dùng lý này để giáo hóa người, cho nên gọi là “sự”. Năng hóa sở hóa nên gọi là nhân duyên. Tiếp, dẫn chứng trong giáo: thứ nhất là chánh dẫn; thứ hai, từ “Nên biết…” trở xuống, là kết ý giáo, thứ ba, “đại kinh” trở xuống, là lập lại dẫn. Thứ nhất, chánh dẫn: Nói “chủng chủng”, nghóa là bao gồm một đời, nếu ở bộ khác thì ý chưa hẳn vậy. “Phật đạo”: là riêng chỉ giáo hiện nay, cho nên từ đây về trước ý qui về nơi đây. Tiếp, kết ý: “Vi” là các giáo sơ tâm nhân thiên tiểu thiện. “Trước” là các giáo quả đức. Quyền Thật Vi Trước đều là độc hiển, cho nên nói thuyên đề (cái nơm, bẫy để bắt cá bắt thỏ). Nói “chủng chủng” và dùng “Vi trước” ắt phải dùng tám giáo mới hiển bốn vị làm đề hồ thuyên đề, cho nên thuyên đề đều thí dụ cho năng thông. Quyền giáo quyền bộ đều vì một thật (ví như cá, thỏ) mà thiết lập, hoặc tác đề (bẫy). Thiên Trương Hiệt nói: “Được thỏ là đã đủ”. Trang Tử nói: “Được thỏ quên bẫy”. Dùng chữ “Đề” (bộ túc, nghóa là chân loài vật, cũng có nghóa là bẫy để bắt thỏ) như ở đây, là hiện thời theo thế tục mà nói. Sách Thuyết Văn nói chữ “Đề” (bộ võng, là lưới để bắt thỏ). Nếu nói đề là túc (chân), thì năng thuyên không thành. Nếu nói đề là tích, thì nghóa kia cũng lạ; tìm tích được thỏ, nghóa há như vậy ư? Nay phải theo nghóa dùng Đề (bộ võng) là chính. Tiếp, “dẫn Đại kinh”: dẫn Đại kinh kia để mà lần nữa làm chứng cho bộ này, tức là dùng Nhất thật làm Đệ nhất nghóa. “Thô, nhuyễn” lại chỉ bốn vị quyền thật. Dẫn chứng Bản tích, trong đó chia làm ba: Thứ nhất căn cứ Sư, thứ hai căn cứ đệ tử, thứ ba, kết. Phần thứ nhất văn lại có hai: Một, là chánh dẫn văn Bản. Hai, từ “Phương tiện…” trở xuống, dẫn văn Tích. Trong văn Tích đây mật bày bản ý. Nếu hiển lộ mà nói thì tức Bản tích trong Tích. Văn dưới hiển rồi thông thì được dụng dẫn. “Đệ tử” cũng là nêu tư cách mật hiển nơi thầy, đệ tử còn chẳng thật, nghiệm một chút thì biết Sư không phải cận thành. Hàng lợi căn dù đã biết, cũng phải đợi Di-lặc mở miệng nói, thấy bản quyến thuộc, nghe thuyết mới không nghi. Nói “v.v…”, là rộng nêu ở văn dưới gồm bài xích các sư xưa nay, còn không biết bản tích nhân quả của Thầy, đặc biệt xuất ra các giáo, huống chi đệ tử ư? Lại bản của đệ tử các kinh đều có, như Văn-thù, Quan Âm… Bản lâu xa của sư thì xuất tự kinh này. Chứng trong phần “Quán tâm”, trước là dẫn. Tiếp từ “Nên biết…” trở xuống là kết ý. Phần đầu, dẫn: Sự luận, chỉ là tin Thân- tử nói, nghóa sẽ thấy Phật. “Điều ông nói” ắt nghe từ Phật, người năng nghe ắt là Thanh văn Bồ-tát, cho nên “nghe ông nói tức là thấy Phật”. Tiếp, kết ý: Sở văn là pháp, nơi tâm năng quán tức gọi là Phật, nghóa sẽ thấy Phật, tâm sở tức là đệ tử…. Tức nơi tâm mình biết Tam bảo nhất thể, lý kia rõ ràng đầy đủ. “Đầy đủ như nghe nói…” trở xuống, như văn. “Chú v.v…” là sắp hướng đến nghóa quán. Đối với văn “đã nghe nói” trở xuống, chỉ tại nhất niệm. Lại, nếu đầy đủ nên căn cứ nhân duyên, căn cứ giáo Bản tích. Để nêu rõ quán tâm, thì có tam quán đối cảnh nhân duyên. Các giáo lý quán Bản cảnh Tam bảo, quán Tích, và thí khai… tư duy có thể thấy. “Chỉ bày tướng”: Chỉ căn cứ kinh này chỉ bày bốn thứ tướng, tuy đầu tự như vậy cuối cùng mà thoái lui, đều dùng bốn ý, chỉ thế văn khởi tận dụng và không đồng. Như giải thích thông tựa thì mỗi một câu cần có bốn, thông suốt chánh tông đến lưu thông. Nếu giải thích chánh tông thì Bản tích đều có ba, nghóa thông suốt bốn thứ. Nếu giải thích lưu thông thì lại phải đầy đủ bốn, chung thu nhiếp chánh tông. Lại, trong chánh tông tích môn đã thiếu Bản tích lâu xa, do đó nhờ dùng thể dụng bản tích thì bốn tên không thiếu. Lại, trong tựa căn cứ giáo phải quán thế văn, hoặc phải dùng “Năm thời phân biệt” thì giáo ở trong đó, hoặc nếu phải dùng các giáo để phân biệt thì đem Thời để phán xét. Trong chánh căn cứ giáo thì nhất hướng nêu rõ khai, trong Bản căn cứ giáo thì không theo giáo để phê phán mà chỉ chỉ điểm Bản xa, diệu xa tự bày rõ. Nếu hiểu được văn này thì một bộ kinh tâm như xem chỉ trong lòng bàn tay. Bốn ý giải thích đã hiểu, không nhọc tư duy lại. Cho nên nay nương vào ba đoạn văn lớn chung chỉ bày tướng kia. Đã hiểu chung rồi lại đem ý đây uyển chuyển thì đều riêng hiểu rõ. Đầu trong nhân duyên chưa nêu rõ phẩm, lại chỉ ba đoạn tức “chủng-thục-thoát”. Nhưng ba thứ chủng v.v… cũng phải căn cứ nơi ba pháp tựa v.v… để biện rõ nhân duyên. Nếu chỉ có các tựa, thì chưa có thềm bực nhân quả quá khứ vị lai. Nếu chỉ có các chủng, thì nghe không biết từ đâu. Dùng ba thứ chủng ở nơi ba thứ tựa thì từ đó được lợi ích không đồng. Lại như Thông tựa trong tựa sau khi Phật diệt độ, Biệt tựa thông quá khứ hiện tại. Nếu Phật tại thế thì biệt tựa trong năm thời mỗi một tiết lợi ích có sai khác, như nói kinh Vô Lượng Nghóa thì mật đắc ba thứ lợi ích chủng v.v… không đồng. Cho nên, thấy định thấy ánh sáng, giác động, được hoa, cho đến vấn đáp cũng có ba lợi ích chủng v.v… có thể biết. Trong Chánh tông các phẩm Bản Tích không đồng, cho nên Thông tựa Biệt tựa đến sau Phật diệt độ được người lưu thông kinh khuyên trì tụng nói, cũng có các chủng… huống chi là Chánh tông ư? Cho nên nương ba cặp nầy mới hiểu nhân duyên. Thứ nhất, căn cứ các chủng… phải nương giáo tướng mới phân rõ có không, cho nên các giáo nhân duyên ngắn dài không đồng. Như người tu theo Tam tạng giáo trải qua ba A-tăng-kỳ, trăm kiếp, chỉ nói tự tu lục độ nuôi công đức thân, tướng hảo trang nghiêm cùng Phật kết duyên làm “chủng thục thoát”. Thông giáo sơ tâm tự hành, gần thì từ thất địa lưu hoặc nhuận sinh, cùng vật kết duyên nói “sơ hạ chủng”. Hai giáo nhập diệt không có vị lai hóa, chỉ khi thành Phật mà thục thoát. Giáo quyền lý quyền, thì không phải là ý kinh này. Biệt giáo sơ địa còn có thể đầy đủ, huống chi quả mãn. Biệt giáo tuy đủ giáo mà cuối cùng là quyền, huống lại năng có bản nhân viễn chủng. Kinh này hai môn bản tích thi hóa đều khác với các kinh khác. Văn đây bốn tiết vốn có nguyên do, cho nên trong bốn tiết chỉ hai tiết đầu gọi là bản quyến thuộc. Tiết thứ nhất tuy thoát hiện tại mà đầy đủ vượt lên bản chủng cho nên gọi là bản quyến thuộc. “Nay không gọi là bản” bởi vì đồng tại nay mới thoát. “Bản chủng, cận thoát”, là do Di-lặc không hiểu phát sinh nghi, cho nên mới được gọi một cách thiên lệch là bản. Nhưng người hiện thoát, nếu chưa đắc Phật trí thì vẫn chưa biết chủng. Nay nêu ra ý kia đó thôi! Trong đó chia làm hai phần: Đầu, nêu ba thứ chủng, tiếp, nêu ba thứ tựa. Phần đầu văn có bốn: 1.Chánh nêu nhân duyên. 2. Tiếp, từ “Tuy chưa” trở xuống, là giải thích nghi. 3.Từ “Trong đó…” là căn cứ ba đời chín đời để giải thích nhân duyên. 4. Từ “Vì sao vậy” trở xuống, là dẫn chứng nhân duyên ba đời, chín đời. Phần đầu: tức bốn tiết chỉ bày tướng. Tiết đầu, là bản nhân, quả chủng, quả về sau mới chín (thục) Vương Thành mới thoát được. Tiết hai, từ “Lại nữa…” trở xuống, là bản nhân quả chủng, quả về sau cận thuần thục thích hợp đời quá khứ thoát. Chỉ đất vọt hiện lên nói bổn quyến thuộc chính là bản chủng cận đời mới thoát. Di-lặc đã không biết chẳng phải rất gần (cận). Tiết thứ ba, trung gian chủng, xưa giáo thục, ngày nay thoát. Tiết thứ tư, từ “Lại nữa” trở xuống, là ngày nay chủng, vị lai thục, vị lai thoát. Bốn tiết này lại chọn đại khái. Bản nhân bản quả đều đến trung gian cận thế ngày nay. Dọc sâu ngang rộng đâu chỉ có bốn tiết, cho đến vị lai vónh viễn không dứt. Nếu không như vậy, thì hiện quả không nhân, hiện nhân không quả, mà còn đồng với đốt nhục thân thành tro, dứt bặt tâm trí (khôi đoạn), biến thành không có bắt đầu không có kết thúc. Cho nên biết tiết tiết trùng trùng không cùng cực. Như thế cuối cùng dùng Phật thừa tam đoạn làm căn bản, dùng nhân thiên tam giáo trợ giúp hiển bày. Phần hai: từ “Tuy chưa…” trở xuống, là giải thích nghi. Nay nêu nhân duyên căn cứ văn thứ lớp, lại hợp tại Tích. Xét căn cứ bản địa trung gian chính là bao gồm Bản tích chỉ bày tướng một bộ, lấy ý văn sau, lấy ý nghi thức hóa độ. Phần ba: căn cứ ba đời chín đời, đầy đủ thì như trong Chỉ Quán quyển một ghi dẫn các kinh Hoa Nghiêm, Anh Lạc. Cho nên biết tận đời vị lai ba đời chín đời “chủng thục thoát” ba thứ: Vậy thì niệm niệm tam mật, niệm niệm ba đời chín đời, niệm niệm ba đoạn, niệm niệm thuận nghịch, niệm niệm thân độ, mỗi mỗi không đồng, mỗi mỗi nhập thật. Phần bốn: dẫn văn Bản làm chứng, chứng ba đời. Nếu có ba đời thì có chín đời. Chín chỉ là ba, cho nên thông chứng đại thể ba đời. Niệm niệm ba đời, căn cứ theo lệ có thể biết. Thần thông thuộc quá khứ, thông nghóa kỳ thật thông ba đời, đối hai thứ còn lại biệt. “Sư tử” là hiện tại, “oai mãnh” là vị lai. Vì khiến cho biết đức Phật hóa duyên xa cho nên lại dẫn văn Bản. Nêu xa nhiếp gần để chứng minh bốn tiết. Phần nêu ba thứ chủng xong. Bây giờ là phần nêu ba thứ tựa. Từ “Do như vậy…” trở xuống, là căn cứ ba thứ tựa. Đầu văn trước là Thông tựa chỉ hai tựa cho nên nói tựa phần, thông không thể nêu. Từ “Chúng thấy…” trở xuống là biệt, chỉ biệt tựa làm nguyên do sinh phần Chánh tông, cho nên nói: “chúng thấy hy hữu”. “Ngung ngung” là có vẽ ngưỡng mộ. Từ “Căn cơ Phật thừa…” trở xuống, là Chánh tông. Từ “Chẳng những…” trở xuống, chính là nêu Chánh tông làm căn bản cho lưu thông. Ba đoạn kia đã đều sinh các chủng…, thì biết câu câu chữ chữ hội hội vị vị, thế thế niệm niệm thường vì chúng sinh mà tác nhất Phật thừa chủng thục thoát. Văn đây lại từ bộ này phân biệt sâu rộng. Như nay khi đức Thích-ca nói kinh này thông năm, biệt năm đều là nhân duyên, tức nhân duyên chứng tín, nhân duyên phát khởi. Lại, thông năm nhân duyên hòa hợp, biệt năm nhân duyên theo thứ lớp, cho nên từ Tựa đến Chánh đều được thoát, cho nên nói “khai thị ngộ nhập”. Ngoại trừ các thứ đây ra, thì đều là chủng thục. Người chưa thoát thì lợi ích ở lưu thông, cho nên nói “xa thấm diệu đạo”, đều là cảm ứng của kinh này. Nói “Năm trăm năm về sau”: Nếu căn cứ luận Tỳ-ni Mẫu, đặc biệt nêu năm trăm năm nói rằng: trăm năm thứ nhất là Giải thoát kiên cố, trăm năm thứ hai là Thiền định kiên cố, trăm năm thứ ba là Trì giới kiên cố, trăm năm thứ tư là Đa văn kiên cố, trăm năm thứ năm là Bố thí kiên cố. Nói năm trăm năm về sau là trăm sau cùng vậy. Có người nói: “Căn cứ trong kinh Đại Tập có năm thứ Năm trăm: Thứ nhất cho đến thứ tư, thì đồng như trước, chỉ có thứ năm gọi là Năm trăm năm đấu tranh kiên cố”. Nói “Năm trăm năm về sau”: là năm trăm năm sau cùng. Hoặc riêng luận Năm trăm còn tại chánh pháp. Tuy rút trong văn luận, lý kia dần dần che lấp, nhưng năm trăm năm thứ năm lại từ nhất vãng (một phen): Đầu thời mạt pháp, chúng sinh lợi độn không thể không có, lại căn cứ thời gian mà Đại giáo có thể lưu hành, cho nên nói Năm trăm năm. Cho nên ba thứ tựa v.v… không đâu không cảm ứng. Chỉ bày giáo tướng: Tướng giáo gia, nên gọi là giáo tướng. Năm vị phân biệt là hiển đề-hồ, luận chung thì lời thánh vì chúng sinh… đều gọi là giáo. Nay giáo đặc biệt có công hiển thật, cho nên gọi là tướng. Lại riêng căn cứ ba đoạn chỉ bày tướng đề-hồ, cho nên gọi là tướng, cho nên ba đoạn đều lựa chọn thiên về tiểu, đây lại thông làm một thứ ba đoạn, khiêm nhượng bản tích nên nói chưa phân hai thứ ba đoạn. Hỏi: Nếu vậy thì cùng hướng nhân duyên ba đoạn có gì sai biệt? Đáp: Trước trực tiếp nương ba thời đối người cảm ứng để nêu các chủng… Nay thuận theo biện minh các dụng pháp sâu cạn đã thuyết, cho nên lược căn cứ bốn giáo để phân biệt ba đoạn. Nói tóm lại, vẫn là nhân duyên diệu ba đoạn đó thôi! Huống chi Quán tâm Bản tích đều thuộc nhân duyên, thuận theo phân chọn giáo tướng đầy đủ như Huyền văn. Trước, căn cứ tướng đối đãi để phân biệt thô; tiếp, căn cứ dứt đối đãi để biện rõ diệu. Hỏi: Thông tựa năm nghóa, biệt tựa hoa địa, những thứ này là Sự, đâu được ba đoạn đều gọi là chỉ bày giáo? Đáp: Luận chung thì đều là chánh thuyết tướng trước, luận riêng thì chỉ vấn đáp là giáo. Lại từ thuyết chung, không gì không tiêu biểu giáo. Cho nên văn phân biệt nói: chẳng phải vì nhân thiên làm tựa… Nhị thừa tam tạng, tức Không, là Thông, riêng Bồ-tát là Biệt. Chánh trực… là khai quyền giáo. Chánh và lưu thông căn cứ đây có thể biết thấy. “Huỳnh quang” (ánh sáng đom đóm): kinh Đại Phẩm nói: “Bồ-tát hành Bát-nhã một ngày, như mặt trời chiếu thế gian hơn ánh sáng lửa đom đóm”. Đây là chê Tam tạng, cho nên dùng đèn đuốc để thí dụ Thông giáo. Đèn như Nhị thừa, đuốc như Bồ-tát, tuy đồng Bát- nhã mà có sáng tối. Đạo chủng trí là Biệt. “Như trăng sao”: Địa tiền như “sao”, đăng Địa như “trăng”, bởi vì “sao” tuy có ánh sáng mà không chiếu xa được bằng “trăng” khiến xa thấy. Phàm trí tuy chiếu mà không sáng tỏ bằng Thánh trí, tâm Thánh sâu xa hơn. Mặt trăng không bằng mặt trời, bởi vì có vẻ giáo đạo. Cũng nên làm rõ lại ba trí, ba đế, theo thứ tự, không theo thứ tự v.v… để hiển giáo tướng, nơi đây chẳng gấp. “Dương diệp (lá cây dương)”: là ý của Đại Kinh phẩm Anh Nhi Hạnh nói: Văn nay lược xuất nhân thiên: nói “Anh nhi” (đứa trẻ con) là nghóa Tiểu thừa thông các giáo, lại từ cực tiểu cho nên chỉ nhân thiên, chỉ vì kinh kia dụ từ đốn đến tiệm. Đầu tiên nói: không thể đứng dậy đến đi nói năng, là Viên Anh nhi. Chữ “Đại” là Tạng vậy. Không biết khổ lạc, là Thông. Hạ mình xuống làm các việc đại tiểu… là Biệt. Kêu khóc… là nhân thiên. Kinh đã thông dùng Tiểu thiện làm “Anh nhi”, cho nên Viên nhân vị cũng gọi là Anh nhi. Kinh nói: “Bán tự, nghóa là chín bộ. Mãn tự, nghóa là luận Tỳ-già-la”. Trung Hoa dịch là Tự Bản. Hà Tây nói: “Căn bản của văn tự thế gian, tuy là ngoại luận mà không phải tà pháp, chẳng phải do Bồ-tát làm, cho nên Thí dụ Diễn môn mười hai bộ kinh. Người xưa chỉ biết Diễn môn Nhất đại. Nay thì không như vậy, lựa chọn cùng Biệt sau chỉ dùng Viên môn mà làm Mãn. Y nghóa, không y ngữ, chính là đây.  PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ <卷>QUYỂN 1 (Phần Trung) Tiếp, chỉ Bản tích chia làm hai phần: Trước pháp, sau dụ. Phần pháp chia làm năm: Chỉ Bản nhân nhận được. Từ “Chỉ có đức Phật…” trở xuống, là chỉ bản quả sở thuyết. Trung gian hành hóa. Ngày nay sở thuyết. Vị lai sở thuyết. Từ bản nhân thọ lãnh chẳng gì không chân thật, ba đoạn tuy đều chân thật mà Bản không thể nhiều. Cho nên, ba văn dưới đều đồng một bản nhân quả chân thật ba đoạn giáo tướng. Trong đây chiùnh là sơ lược cái chân thật vốn có từ lâu, cho nên nói vậy. Nhưng vì bản nhân nhận được cũng là cái mà Đức Phật kia tích nói, sợ lý không cùng, cho nên chỉ tại nhân quả đức Phật nay làm bản, căn cứ lý thì chẳng phải không thọ lãnh các đức Phật khác hóa. Nhân duyên căn cứ giáo đã chỉ đức Phật nay, cho nên nêu Bản tích. Lại phế bỏ nơi khác, cho nên nêu Thọ lượng ở kinh này là Bản của Phật Thích-ca, không được lại chỉ sở thuyết của Đức Phật trước. Phật trước lại có Phật trước nữa, cho nên nói không cùng, chỉ một đức Phật thì không có lỗi này. Chiếu cố ở đây một Bản, còn lại đều là Tích. Hỏi: Sợ rơi vào lỗi không cùng, chỉ luận đức Thích-ca, nay muốn luận về giáo lần lượt nhận được từ Chư Phật. Rốt cuộc có một đức Phật vào thời đầu tiên (tại sơ) không có giáo, không có giáo làm Bản thì có gì không cùng. Nếu chấp nhận có cùng thì rơi vào lỗi không nhân? Đáp: Rũ tích cầu bản, bản cầu sở thuyết để thâu hoạch lợi “Thật”. Dù có đầu tiên hết (tối sơ) không đồng với đầu tiên hiện tại (kim sơ), thì Hành và giải có ích lợi gì? Hỏi: Nếu chấp nhận có tối sơ không có giáo, thì đâu cần bẩm thọ giáo Phật nay? Đáp: Thời không có giáo thì bên trong huân tu tự ngộ, ngày có giáo thì đâu được chấp mê? Như trăm người mê mù đều không biết đường. Một người mê thông suốt trước dùng dạy các người mê khác, các người mê khác chấp ngu, không nhận lời dạy trước, thì ai có lỗi ư? Lại nữa nghiệm đức Thích-ca một phen hóa được lợi ích khó nghó bàn, huống chi lại như trước lúc ấy lợi ích khó xứng biên chép? Đâu thể không bẩm thọ giáo, nhưng cuối cùng thành bàn luận vô ích! Không thể lấy đây làm cùng; đo không có ích đối với sự bẩm thọ giáo, cho nên lại ở mười phương thế giới cũng có ngửi mùi hương, giác biết xúc, thấy sáng mà được ngộ, đâu dùng thanh giáo cầu sơ kia ư?! “Sư tử phấn tấn vị lai vónh vónh”: Phấn tấn đầy đủ hai nghóa: Tả hữu như hiện tiền trở lại, như vị lai. Sớ văn dưới nói: “Giải thích câu đây, nên đủ hai cách: tức hiện tại và vị lai”. Nay theo cách sau, cho nên nói vị lai; trước theo cách trước, cho nên nói hiện tại. “Ví như đại thọ”, tổng thí dụ ba tiết trước là Bản tích trong dạo chơi. Nói “v.v…”, là dễ hiểu nên không hợp dụ nữa. Tiếp, chỉ bày tướng Quán tâm: Đầu tổng, sau biệt. Trong tổng có hai lớp: 1. Căn cứ tu hành. 2. Căn cứ pháp môn. Hành là pháp sở hành, tức sở dụng. Hành thì đầu giới, tiếp định, sau tuệ. Dụng thì đầu dùng tuệ để chọn lựa, sau mới định giới. Định là gốc của giới, cho nên giới lại ở sau. Lại, Quán tâm như trong Huyền Văn nói: hoặc căn cứ hành tướng hoặc căn cứ pháp môn, hoặc theo quán cảnh, cho nên hiểu văn liệt bày ra, cũng đối ba phần nghóa sẽ quán tâm. Tiếp, biệt ý: ba phần đều có ba: Đầu tiên, giới có ba tức là phương tiện như Tựa, “bạch tứ Yết-ma” như Chánh, kết xong như Lưu thông. Nói “tiền phương tiện”: Đơn bạch về trước, đều là phương tiện. Định ba phần: Hai mươi lăm phương tiện làm Tựa, nhập quán oai nghi ngồi làm Chánh, đi đứng trải qua duyên làm Lưu thông. Cũng có thể coi tập học là Tựa, tự hành là Chánh, dạy cho người là Lưu thông. Hai thứ còn lại đều như vậy. Tiếp, lại căn cứ “khéo nhập, xuất, trụ…”: đây là y kinh nêu bày. Nếu theo ba phần thì nhập là Tựa, trụ là Chánh, xuất là Lưu thông. Ba phần Tuệ cũng như vậy. Theo văn theo nghóa thứ lớp đều không đồng. Ba phần nên nói: Không là Tựa, Trung là Chánh, Giả là Lưu thông. Nói “mà thoái lui”: Cuối kinh chỉ nói “mà lui”, lui chỉ là thoái. “Chỉ chuẩn theo hướng về bình đẳng”, là khiến dùng hết bốn ý, tức lời nói kia là khó, mà chỉ muốn cho không lầm tông chỉ. Như cùng dấu vết “hàm”(mặn) hiểu chữ “hàm”, sợ lầm, chỉ nên làm nghóa riêng. Hoặc sợ hiểu nghóa như dòng chảy vào biển đồng một vị mặn, văn thể nói ngược, cho nên biết không hẳn đều dùng bốn ý. Lại một chữ “quán tâm”, trừ trong An lạc hạnh tu nhiếp tâm kia…, ngoài ra đều là nghóa lập. Lại Bản môn, tuy Bản chỉ một chữ Thọ lượng, Chánh nêu Bản tích, ngoài ra cũng nghóa lập. Lại trước, Tích môn chuẩn theo bộ là có, cho nên nghóa lập. Về sau trong Bản môn trừ Thọ lượng xong, thì lý hợp có, cho nên nghóa lập. Lại quán tâm, văn Tựa và Lưu thông là căn cứ theo Chánh tông, lý cần nghóa lập. Ở trong Chánh tông chỉ có An lạc hạnh lý nhất định cần, cho nên còn lại đều là nghóa lập. Tích môn thì phần Chánh thuyết đã nói “khai hội”. Nếu mê, thì quán cảnh khai quyền hiển thật, trong Bản môn thì tăng niệm Phật quán, tăng đạo tổn sinh, trong lưu thông thì Tùy Hỷ Bất Khinh, chỗ y cứ của Tam-muội, chỗ nương nhờ của các hạnh, tất cả không thành. Dùng tên gọi “Quán tâm” chung cho các pháp quán. Trung gian quán “tam tức” (tức Không, tức Giả, tức Trung), là pháp quán thông dụng của chúng đương cơ và chúng kết duyên, là công hóa độ của chúng ảnh hưởng và chúng phát khởi. Nếu thành, thì thành phần chứng quán, do đó một chữ “Quán tâm” người ta sẽ cho là rất rộng, đối với lý rất trọng yếu. Huống chi nay Đại sư lại làm thành đối với học giả sơ tâm! Bắt đầu từ “Như thị” cho đến “mà lui”. Thấy văn khác biết một quán, cũng biết kinh văn xưa đồng mà quán khác và văn quán đều khác, cũng biết đương giáo văn quán đều đồng. “Kiêm” v.v… “Khai” v.v… theo lệ có thể biết. Vì vậy nên, cần phải quán tâm để giải thích. Giải thích theo nhân duyên, thì tùy thế của nghóa kia cần phân ra xưa, nay. Trước, giải thích trong phần Tựa trên biện minh thông biệt, tiếp, chánh giải thích Thông tựa. Phần đầu, văn lại có hai: Trước chia làm hai văn, tiếp chánh biện sai khác. Trong đó nói: Thông tựa thông các giáo, cũng có thể nói Thông tựa chung các bộ. Biệt tựa riêng một bộ. Cũng có thể nói Thông tựa chung các kinh, Biệt tựa riêng một giáo. Bộ giáo kinh này chỉ tại một giáo cho nên lại dùng giáo đối kinh mà nói. Lại, Thông tựa thì danh thông mà thể biệt; Biệt tựa thì sự biệt mà nghóa thông. Nghóa thông cho nên thông có biệt tựa. Thể biệt cho nên biệt tại kinh này. Cho nên biết kinh này thông biệt đều biệt, biệt tại Phật thừa. Do các “Như thị” không liên quan đến các kinh, mới có thể được gọi là Tựa của các Chánh văn. Chánh văn được gọi là Chánh văn của các Tựa. Thế nên, một và nhiều nương nhau, ba đoạn có thể biết. Cho nên, giải thích như vậy xong một bộ rõ ràng. Nếu không như vậy, thì đâu có Tựa tiễn khách mà trình bày du sơn, văn bia thiền tổ mà luận bàn luật tụng. Cho nên, phải nghiền ngẩm từ đầu đến chân đều là một thân, đâu dùng cách thông thường nói mà có thể hiểu rõ hai Tựa thông biệt. Nếu không khác, thì chúng phát khởi chẳng dùng. Ở trong đó, trước nêu ly hợp nói: hoặc năm hoặc sáu hoặc bảy. Năm thì như văn hợp Phật và xứ. Sáu thì tách lìa Phật và xứ. Bảy thì tách lìa “Ngã” và “văn”. Phần đầu Thông tựa vốn khởi nguyên do là A-nê-lâu-đậu khiến A-nan hỏi Phật, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển sáu chép. Tiếp lược giải năm nghóa: “Nghóa là thể của pháp…”, lược ý giải thích hiển bày, cho nên trước nêu như thế. Dưới trong phần giải thích rộng dù có giải thích bao gồm cũng chỉ bên cạnh nghóa chung thôi! Phần đầu, nói “Thể của pháp được nghe”, bốn giải thích ở văn dưới chỉ thông một bộ, Biệt ở chánh tông, lưu thông cũng có thể bao gồm Biệt tựa, thì hoài nghi đáp hỏi và vô lượng nghóa, chung gọi là “nghe”. “Mưa hoa, động đất”, là tiêu biểu lời nói, chung đều là tiêu biểu “nghe”, cho nên từ đầu đến cuối một kinh là thể của pháp được nghe. Nói “Văn trì hòa hợp v.v…”, là nhân duyên hợp. Luận chung năm nghóa đều là nhân duyên, như trước đã nói trong phần Thông biện bốn ý. Bên dưới tổng kết năm nghóa, nói: “đều là nhân duyên”. Nay lại từ Biệt căn cứ nghóa “Thời” mạnh, riêng nêu hòa hợp. Nói “văn, trì” chỉ ở A-nan, nói “hòa hợp” nghóa thông hai hướng, do cơ hội nên “văn trì hòa hợp”. “Thứ đệ tương sinh”: lại căn cứ nhất vãng. Nếu nghe “Như thị v.v…” và hóa chủ ở phần đầu cũng có thể thông dụng. Tiếp, “Lại, như vậy…” là rộng giải thích. Trước giải thích như thị. Đầu trong nhân duyên, thế giới tức là hoan hỷ cho nên nói “không tránh”, chư Phật đều như vậy chưa đủ biệt hiển. Nếu căn cứ kinh này, thì trước thi thiết, tiếp khai, mới gọi là “không tránh”. Sự thì căn cứ giáo cho nên ở đây chưa luận. Nay dẫn chư Phật dùng khác để hiển đồng, cũng là nghóa thế giới. Nêu thời phương: “Như vậy” là có thể tin, bởi có thời phương, tức nói “như vậy” được lợi ích thời xứ. Phương: là núi Kỳ-xà-quật cũng như chung với xưa. Thời: hiển biệt vị khiến xứ không phải chung, tức là sinh thật tín. Phương là kinh này Vị nhân Tất-đàn. “A Âu”: A là không, Âu là có. Tất cả các kinh ngoại của ngoại đạo đều đặt hai chữ này lên đầu, vì chấp hai chữ này là gốc; trong bộ nêu rõ không ngoài sở chấp. Cho nên lập hai chữ “Như thị”, để đối phá ngoại đạo là bất như, bất thị. Chuẩn theo bên dưới ước về giáo, thì ngoại điển hoàn toàn không, cho nên nói phá ác. Bách luận nói: Ngoại đạo hỏi: Ông chỉ cho biết thiện pháp là gì? Nội đạo nói: Dừng ác, làm thiện. Ngoại đạo nói: Kinh ông có lỗi, ban đầu không tốt lành; kinh tôi không như vậy, từ đầu đến cuối đều tốt lành. Nội đạo nói: Phàm tất cả pháp có ba thứ là: tự, tha, cộng. Bởi vì pháp tốt lành của ông không có tự…, cho nên tôi trước phá hữu, vô, tự sinh và tha cộng… Bởi vì chấp hữu vô làm tự tha…, gọi đó là ác, cho nên kinh tôi trước nói Chỉ (dừng). Nếu vậy Trung luận phá đủ bốn câu, kia vì sao không phá tự nhiên ư ? Đáp: Chấp tự nhiên là thuộc về hữu vô. Cũng có tự nhiên chẳng thuộc về hữu vô. Lại, theo một con đường, cho nên Trung luận nói: Từ nhân duyên sinh còn không thể, huống lại không nhân duyên, tự nhiên dễ phá cho nên chỉ so sánh thì biết, chỉ bốn chấp nghóa thông. Nếu chỉ phá ngoại, thì vẫn chưa lìa Tiểu, đâu hợp với kinh này. Vả lại, dẫn luận văn thành nghóa “phá ác”. Nếu y kinh này, còn phá cả các cái ác của “Kiêm, Đãn, Đối, Đới” (tức là bốn thời giáo trước trong năm thời phán giáo của Tông Thiên Thai), đâu riêng gì ngoại điển ư? Trong đệ nhất nghóa lại thông chỉ đạo biên, chưa phân sâu cạn cho nên biết văn gồm tứ Tất-đàn, chẳng phải không riêng phá các giáo cạn sâu, mà ý ở chỗ nêu hoan hỷ… bốn thứ, cho nên lại cần căn cứ giáo để phán xét đồng và khác. Lại trong phần giải thích Tựa thì ba Tất-đàn trước phần nhiều căn cứ sự, trong đệ nhất nghóa thì hoặc đã nhập thật hoặc lại thông phương. Lại ba Tất-đàn trước thì hướng về biên hạn của Viên thật, gọi đó là sự, đối với ba giáo trước có lúc cũng tại lý. Nếu trong chánh tông đều tùy bản văn, thì văn tứ Tất-đàn đây tại Đại luận. Đầu tiên nói trong duyên khởi kinh tổng có hai mươi ba. Lại nữa, trong đó trước hỏi: “Có nhân duyên gì mà nói kinh này?”. Đáp: “Trong đó nói Đệ nhất nghóa”, là biệt chỉ Diễn môn làm đệ nhất nghóa, nhân liền giải thích ngoài ba Tất-đàn trước. Lại chỉ Tam Tạng luận nói: Tứ Tất-đàn nhiếp tám vạn bốn ngàn pháp tạng, cho nên nay thông dụng, đầy đủ như Huyền văn dùng khai mười môn. Lại, “Tịnh Danh Tiền Huyền” tổng có mười quyển, nhân vì Tấn vương biên soạn Tịnh Danh sớ, riêng chế lược huyền, mới tách “Tiền huyền” chia làm ba bộ, riêng lập đề mục gọi là Tứ giáo sáu quyển, Tứ tất hai quyển, Tam quán hai quyển. Trong hai quyển kia văn rất bề bộn. Nói “rất rộng”: 1. Lời Đại sư nói. 2. Thu nhiếp nhiều ý, huống gì kinh này như vậy. Phải trải qua tám giáo để nêu rõ tứ Tất-đàn mới hiển bày kinh này duy nhất Như thị Đệ nhất nghóa Tất-đàn, cho nên nói “rất rộng”. Lại, các nhà khác giải thích động tức ba, bốn như bản, phần nhiều ở nghóa nhân duyên mà Đệ nhất nghóa còn ít, huống lại căn cứ giáo Bản tích… ư? Căn cứ trong giáo đầu kinh nói: Ở trong Phó Pháp Tạng, đây cũng gọi là Kinh Phó Pháp Tạng, trong đó chia làm ba: Đầu thông giải, tiếp biệt trách, sau từ “Lại y…” trở xuống là chánh giải thích. Văn phần đầu lại có bốn: 1. Nêu chung kinh Phật ba đời làm gốc, 2. Dẫn tám giáo của Phật xưa. 3. Dẫn giáo của Phật nay đồng. 4.Nêu kinh nay tiêu biểu khác. Ba đời: Trước nêu quá khứ hiện tại so sánh đương lai, chánh dùng quá khứ vị lai so sánh hiện tại, hoặc chánh dẫn quá khứ, để làm chuẩn cho nay. Cho nên, chỉ tám giáo của Phật xưa. Nói tám giáo: Đem bốn thứ: Tạng, Thông, Biệt, Viên nhập vào bốn thứ: Đốn, Tiệm, Bí mật, Bất định, thì “Như thị” trong bốn vị đều sai khác, huống chi trong “Đốn, tiệm, bí mật, bất định”, bốn giáo thông, tắt mỗi mỗi không đồng. Trước hiểu rõ bất đồng Như thị bất nhất, mới biết Pháp Hoa Như thị bất dị, thi thiết và khai phế thì căn cứ theo lệ có thể biết. Hết thảy chư Phật thị hiện ở đời ngũ trược thảy đều như vậy, cho nên nói “cũng như vậy”, còn lại như Huyền văn. Tiếp “Các kinh…” trở xuống, nêu kinh này tiêu biểu cái sai khác, lại có hai: Trước pháp, sau dụ. Pháp Hoa vượt hơn tiêu biểu một thời kỳ giáo. Nếu đem giáo đây để so sánh giáo xưa, thì giáo đã sai biệt, bộ lại không đồng. “Kiêm, Đãn, Đối, Đới” Quyền Thật, Viễn Cận, đủ biết tiến hay không, mới hiểu được kinh này. “Như thị” đã vậy, các nghóa khác đều chuẩn theo đây. Đâu được như các Sư chỉ dùng một chìa mà đòi mở tám cửa giáo, hợp với các giải thích của Sư xưa không ra ngoài một ý nhân duyên, cho nên nói một chìa. Huống chi một, hai Sư đâu thể mở tám giáo, huống chi căn cứ ba giáo v.v… tin xưa nay sâu rộng. “Lại nữa Phật A-nan…”: lập pháp biệt trách, lại có bốn: 1.Lập pháp thông: Nếu hai văn không khác thì gọi là “Như”, 2.“Như hạ sở thuyên” gọi là “thị”. Tám giáo đều như vậy. “Tiếp, nay A-nan…”: nêu kinh này A-nan để trách. Kinh này thuộc giáo nào trong tám giáo ư? Nếu chẳng vượt tám thứ như vậy, thì cái gì là sở văn của kinh này? 3. “Không thể dùng…” là kết trách, cho nên nói “không thể dùng Tiệm…”, lược nêu Tiệm, Thiên. Đáng lý phải nêu đầy đủ rõ Bí mật, Bất định và chọn Đốn bộ. Các sư đã không biết tám giáo khác nay, cho nên hai văn truyền thuyên bất như, bất thị. 4. “Truyền thuyên…” là kết lỗi. “Nghóa đây…” là khuyên gắng sức. Nếu hiểu được ý đây thì không nhọc công nêu lại, lý kia tự xét kỹ. Thứ ba, từ “Lại y…” trở xuống, là chánh giải thích, lại có ba phần: Căn cứ Tiệm giáo, tránh nhiều văn rườm rà nên nhờ Tiệm để nêu rõ bốn. 2.“Như đốn…” giải thích ba thứ Đốn v.v… 3.“Khai diễn tám giáo…” là kết trách Sư xưa. Phần một văn lại có hai: Đầu, căn cứ truyền thuyên tương đối để giải thích, tiếp “Nếu động…” là trực tiếp căn cứ sở thuyên quán đế để giải thích. Ở thời sở văn đều đầy đủ năng sở, cũng là dùng lý để kết giải thích lược trước. Cho nên, bốn giải thích đều lấy “Như” đặt tên. Lại, trước dùng văn khế hợp lý, gọi đó là Như, chỉ sở thuyên xứng văn là “thị”. Đây dùng trí như cảnh làm “Như”. Như thông hai Chân như, cho nên hai giáo trước Tục đối Thiên Chân, hai giáo sau Tục đối Trung đạo. Hai văn đều có hai tùy nghóa mà hiểu. Cho nên, trước căn cứ truyền thuyên trong mỗi một văn đều dựa theo đế và văn tự. Năng thuyên đã đồng, nghiệm thì biết lý sở thuyên tương đương. Sở thuyên sở truyền đều là thể của sở văn. Cho nên, hai giáo đầu đều dùng văn tự làm Tục, sở thuyên làm Chân, chỉ có tức và bất tức dị, chính là biện rõ hai giáo truyền thuyên không đồng. Hai giáo sau đều dùng năng thuyên đối tam đế sở thuyên mà nói, cũng tức bất tức dị. Dùng bốn lệ bốn cũng có thể thấy. Nếu không như vậy, thì đâu dùng A-nan truyền giáo vô thuyên của Phật. Cho nên văn kia pháp lý tương xứng, đó là Ngã sở truyền. Cho nên dưới mới nói “nghe v.v…”. Nói “v.v… (vân vân)”, tức lẽ ra dùng đây đối hướng bốn văn và dùng giáo đầy đủ ở trong Tiệm có nhiều ít, mà vì chuẩn theo trước có thể biết cho nên không liệt kê. “Tiếp, ba giáo: Đốn v.v…”: Nói “Đốn là đồng với Viên”. Lại từ phần ít vì giáo kia có kèm cả Biệt, nay lại theo nghóa thù thắng cho nên nói “đồng với Viên”. Đáng lẽ lại nói: Biệt giáo trong Đốn đồng với Biệt giáo trong Tiệm. “Không nói Tiệm giáo có đồng, khác”: Tiệm đã lìa bốn, nêu Viên tức thu nhiếp Viên trong các bộ. Ba giáo tức là sự khác nhau trong các bộ, cho nên chỉ đối ba giáo còn lại. Trong Bất định giáo nói: lại xen kẻ, tức đều căn cứ bốn giáo tiệm, đốn mà nói. Sâu cạn đối nhau, cho nên nói trước sau. “Bí mật bất truyền”: Bồ-tát giáng sinh làm Phật về sau, chẳng thuật lại, nếu không phải A-nan năng thọ lãnh, thì người hoằng giáo há lường được! Lại A-nan không phải không truyền bí mật, mà vì phó cơ là bí mật, không phải sở truyền, cho nên sở dụng của bí mật toàn là hiển giáo, truyền bí mật chỉ là truyền hiển. Phần ba: “Khai diễn tám giáo…” là kết trách. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giăng lưới Phật giáo chạy dài biển pháp giới như lọc hết cá nhân thiên đặt lên bờ Niết-bàn”, cho nên biết Phật giáo không ra ngoài tám thứ này. Sở thuyên không ngoài cho nên nói “pháp giới”. Lưới giáo đã chạy dài nơi pháp giới, thì Niết-bàn ắt biến khắp Thiên Viên. Bờ chỉ cho quả địa Nhất như, giáo ắt có Quyền thật Bản tích. Thiên nhân cơ đầy đủ các giáo, lọc đến Niết-bàn cứu cánh. Cho nên, các sư giải thích thiên lệch thì không thể một mình giăng lưới nổi. Ví như người đọc trộm, mà còn nói: Thiên Thai chỉ có bốn giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên. Thật quá mê muội thay! Thật quá mê muội thay! vậy nên phải biết phương pháp hiểu rõ kinh. Đốn… là đại cương phán giáo của tông này, Tạng… là cương mục một nhà giải thích nghóa. Nếu hiểu các giáo chỉ dùng Tạng…, thì văn đó ít thông. Nếu giải thích Pháp Hoa không có tám thứ: Đốn v.v… thì nêu ra chỉ sai lầm. Lại nêu dụ trách, nói: “tiếp bốn mũi tên…”. Vì trong Đại kinh, Bồ-tát Ca-diếp hỏi: “Vì sao người trí quán niệm niệm diệt?” Phật dạy: Ví như bốn người đều giỏi thuật bắn cung tụ họp chung một chỗ, mỗi người bắn một phương, nghó rằng: Chúng ta bốn mũi tên đều bắn, đều rớt. Lại có người nghó: cho đến khi mũi tên chưa rớt, ta có thể đồng một lúc dùng tay tiếp nhận. Phật dạy: Loài quỷ Tiệp-tật thì nhanh hơn người ấy; như là quỷ bay đi, Tứ thiên vương, thần Nhật Nguyệt, Kiên-thật thiên lần lượt nhanh hơn trước, vô thường còn nhanh hơn nữa. Nay mượn ý “tiếp bốn mũi tên” để dụ tám giáo, mà chưa dám xưng là đảm đương, huống chi xưa chỉ có một, hai như lừa què ư ! Nếu hiểu sâu ý này thì vào văn tự mình thông suốt. Nói “v.v… (vân vân)”: là lẽ ra nêu tám giáo để dùng ý hợp thí du,ï huống chi nếu không hiểu khai quyền thị hiện cận, thì không biết tám giáo và ý chỉ kinh chưa phân rõ. Sở dó văn nay phần nhiều không nói mở ra, vì đầy đủ trong Huyền văn. Lại Khai Hiển Viên và Kiêm Đới Viên, hai lý không khác cho nên nói Đốn và Viên đồng đẳng, cho nên nghóa Bí mật, Bất định đều hàm chứa bốn, Hiển và Mật, Định và Bất định, chỉ là luận đối nhau. Tiếp “Căn cứ Bản, Tích”: Văn tuy chưa đến chứng tín mà nghóa đã thông, như trước nói, lại chia làm năm: 1.Nêu chung ba đời mười phương. 2.Nêu chung ba đời. 3.Riêng nêu đức Thích Tôn. 4.Chánh căn cứ truyền thuyên. 5.Lại nêu bày Tích. Hai phần đầu, đã chung ý một Bản khó định, cho nên lại căn cứ dưới duy nhất chỉ đức Thích-ca. Tiếp, “Lại A-nan…”, là căn cứ truyền thuyên, nghóa Thầy trò đối nhau để lập Bản Tích. Từ “Sư đệ…”, là hiển A-nan bản. Cho nên, trong năm phần văn chiùnh là dùng phần thứ ba thứ bốn, hiển Như thị nay. Văn đầu nói ngang dọc: “mười phương” là ngang, “ba đời” là dọc. Mười phương chư Phật đều tự có dọc chẳng phải ý văn nay, cho nên lại căn cứ bên dưới nêu đức Phật nay. Quá khứ một Bản, còn lại đều thuộc về Tích. Trong “Sư đệ” cũng chỉ Bản lâu xa, ngoài ra thuộc về Bản Tích trong Tích mà thôi! Lại lần nữa nêu rõ: Muốn thuật Bản địa cũng là Sư đệ, cho nên nói “chẳng phải mới ngày nay”. Nên biết thời Đức Phật Không Vương cũng chẳng phải A-nan Bản. Tiếp, “Căn cứ Quán tâm”: ba giải thích trước đều là sở quán, cho nên nói “quán trước”. Tất-đàn là nhân duyên trước. Giáo là ước giáo trước. Tích là Bản tích trước. Bình đẳng lấy ba thứ giải thích đều đầy đủ các nghóa. Bản tuy lâu xa, Viên đốn tuy thật, Đệ nhất nghóa tuy lý, mà đối với quán thuộc sự cho nên đều thành cảnh. Cho nên, đối ba là quán (liền) thành bốn giải thích. Trong đó lại có ba: 1.Chung lập tướng quán 2. Dẫn văn chứng thành. 3. Ước văn hiển bốn. Phần đầu, nói “tức thông”: Đầy đủ nên nói “duyên sinh tức Không”, tức chỉ ba thứ trước đều duyên sinh, huống cảnh duyên sinh trước thông Tam đế. Từ “tức Không biên”, lại phán thuộc Thông. Nên biết, Không quán thông tất cả, “Không Giả thành biệt”, Địa tiền theo biệt chứng, đạo ắt đồng. “Cũng thông cũng biệt”: là phàm thông, Thánh biệt. Phàm thì thông giáo trước, Thánh thì hạn cuộc trong chứng. Không, Giả vẫn thông, Trung mới biệt. Địa tiền, thì Không Giả thông nơi sở phi và sở chiếu. Đăng địa, thì biệt tại năng phi năng chiếu, chân thật. Đây là Biệt gia đối Thông Biệt khác, hoặc chỉ Biệt giáo cùng trước vónh viễn sai khác. “Chẳng Thông chẳng Biệt” đều là pháp giới. Cả hai phi, biện minh rõ thì Biệt cùng trước lại khác. Trong đây đã dùng nhân duyên, giáo, tích, mà làm cảnh quán, không thể lại dùng Tạng Thông quán để quán, vì vậy cho nên chỉ nương bốn câu thông biệt, nhờ căn cứ giáo, nghóa mà tạm phân biệt. Lại làm thành bốn câu, cho nên nhờ Biệt giáo tách làm hai câu, câu thứ tư tức là diệu quán của kinh này. Tiếp, văn dưới nói “lui”: Dẫn phẩm Thí Dụ chứng thành tướng quán, ba tín thì dưới lại căn cứ Quán tâm thành nhân duyên… mà giải thích kinh văn. Nhất tâm tức đủ bốn thứ: cảm ứng v.v… “Tín cơ kiến ứng”: Trong nhất tâm thì năng tín như “cơ”, giác tâm như “ứng”. Nói “cạn sâu”: nghóa đương phán giáo. Tin thật tướng tâm chẳng đồng với quyền, thật tướng sâu chẳng đồng các thứ cạn khác. “Lại, tin…” là căn cứ quán mà luận Bản, thì diệu giáo là Tích, sở thuyên là Bản. Thấy bản thật tướng tức thấy thầy trò trong kinh là Bản, vì chủ và bạn đều đắc thật, vì Long Đà đã thành từ lâu, từ nơi sở chứng làm bản. Nói “Long Đà Phật”: Chân đế nói: Tu-bồ-đề là Đông phương Thanh Long Đà Phật. Có người dẫn Kinh Đại Bảo Tích nói: Xá-lợi-phất thành Phật, hiệu là Kim Long Đà. Chưa xem xét kỹ. Chỉ đây thì biết tất cả Thanh văn đều như vậy, bởi vì thấy Tích của Không sinh (Tu-bồ-đề) và Thân-tử thì biết Bản của tất cả Thanh văn. “Lại, nghe kinh…”, là chính dùng quán tâm giải thích thành quán tâm, tâm năng giác gọi là “Phật”, tức tâm giác đây gọi là “tuệ”, cũng tức giác tâm thông số đầy đủ, tức giác tâm đây cùng đều có hoằng thệ, gọi là “từ tâm tịnh”. “Căn cứ tâm…” là kết. “Tiếp, nếu giải thích…” là phân biệt đồng khác. Trước nêu bỏ lấy. “Tiếp, nên biết…” là chính phân biệt. “Cái gọi là tha”: Tức bộ khác. Ở bốn vị trước chỉ trừ Lộc Uyển hiển lộ không có Viên. “Cái gọi là đồng”: Chỉ nói Viên nay đồng với Viên kia. Lẽ ra nói “Kiêm, Đãn, Đối, Đới”, lại thành khác. Lại, nói “khác”: Kia không phải Bản từ lâu. Các kinh cũng có thể dụng… bản tích, danh đồng mà thể khác. Từ thể khác biên nên nói là “khác”. Nên biết cũng có thể dùng chung bốn giải thích, chỉ biết các kinh không có nghóa Bản lâu xa thì có thể. “Vân vân”: bốn giải thích đây đối với bộ giáo liên quan nhiều, cho nên bốn thứ: nhân duyên v.v… đối với kinh trước, đều có thiết lập ra “Kiêm, Đãn, Đối, Đới” đều biệt cho nên sở truyền cũng biệt. Tiếp, trong phần giải thích “Ngã văn” có ba phần: 1. Biện rõ xen lẫn sai khác. 2.“Nay theo lệ…”: chuẩn theo lệ như vậy. 3.“Đại luận…”: Chánh giải thích. Phẩm đầu, trong nhân duyên trước nói rõ thế giới. Đầu, dẫn luận giải thích nói: “nhó căn bất hoại…” là trước nêu căn trần, căn tức tứ đại thanh tịnh. Xứ là trần, chẳng phải các thứ khác thiếu duyên cho nên nói “có thể nghe”. Tuy lại có thể nghe mà phải phát ý thức, cho nên nói: “muốn nghe”, lại nhờ vào các duyên, cho nên dưới tổng nói: “các duyên hòa hợp”, chỉ trừ duyên “Không”. Tiếp, trong phần vấn đáp, có người không chấp nhận loại kinh sau khi Phật diệt độ, chỉ nói danh cú thuộc nơi hạnh uẩn. Nếu kia hoàn toàn không chịu “thấy” kinh từ đầu đến cuối hợp, thì đổi thành “nghe”, nên biết đều là trước do nhãn nhó sở đắc. Tiếp mới lưu nhập tưởng hành, hoặc khiến một chữ, một âm thanh, nhãn nhó hai thức đều không có thì danh cú văn đều không thành tựu, nói “hòa hợp” không thể dối. “Cái gọi là chủ”: Là tổng nêu thức tâm, tức lưu bố ở đời vẫn nhờ nguyện lực của A-nan và do thệ nguyên xưa của Như Lai. Sau khi Phật diệt độ chúng sinh có căn cơ mới có thể khiến hòa hợp thành “nghe”. Cho nên, lại do “ngã”(ta) là chủ các duyên, các duyên hòa hợp “ta” mới có thể nghe, cho nên nói “Ta nghe”. Văn nêu duyên đầy đủ, cho nên chỉ nói “nghe”. Nhân duyên hòa hợp, tức Thế giới. “Hàng Vô học bay bỗng nói kệ”: Khi đức Phật mới diệt độ các A-la-hán đều nói kệ rằng: “Đã vượt qua biển ân ái phàm phu, nhà lão bệnh tử đã được phá dẹp kiến trong hòm thân có bốn con rắn, nay nhập Vô dư Bát Niết-bàn”. Ở trong rừng sâu lại nói kệ rằng: “Phật đã tịch diệt nhâp Niết-bàn, các diệt kết chúng đều theo đi, thế giới như vậy Không vô trí, đường si tối tăng, đèn trí mất”. Lúc ấy bay lên hư không thuyết kệ rằng: “Chao ôi! Các hữu khổ, luân chuyển như trăng nước, không chắc như ba tiêu, cũng như bóng, vang huyễn. Như Lai đại hùng mãnh, công đức vượt tam giới, còn bị gió vô thường, phiêu lưu mà không trụ”. “Phật thoại… Văn-thù kết tập”: Đại luận nói: Văn-thù kết tập các kinh Đại thừa cũng đều trước nêu năm thứ: Như thị… Kinh luận hai văn đều khéo sinh luyến mộ, các A-la-hán rất luyến mộ cho nên đều theo đi. Ngón tay Phật rộng hai tấc. Ba nghi: “Trước chúng nghi…” văn: Nếu ba đức Phật đây đều ứng với tự nói thì đều không thích hợp để nói là “nghe”, vì vậy nên “nói ta nghe thì ba nghi đều trừ”, trừ nghi tức phá ác. “Trong đệ nhất nghóa thì không có ta, không có nghe”, như Kiều-trần-như nói “đệ nhất nghóa đế không có chữ thanh”. “Xưa nay…” là chung bài bác xưa. Trong nhân duyên ba nghóa trước còn tự không cùng khắp, huống là đệ nhất nghóa, huống là căn cứ ba giáo v.v… “Phàm phu có ba thứ ngã”: “Kiến ngã” tức Ngã trong lợi sử, “Mạn ngã”: tuy chung tất cả lợi độn phàm phu, nhưng các phàm phu đều ở nơi thân mình để lập tể chủ, tuy không phải ngoại chấp mà đều thuộc Kiến, Tư. Nếu cái mà người học điều phục chỉ thuộc độn sử, thì tuy không có Kiến ngã mà vì tư duy chưa hết cho nên nói hai thứ “Thế gian gọi là ngã”: lưu bố ở đời một thứ mà phàm Thánh đều có, chỉ vì Thánh không có hai Ngã trước. Nay cũng không rảnh để biện minh tướng Kiến hoặc và Tư hoặc, đến văn khác sẽ nói. “Luận Thập Trụ Tỳ-Bà-Sa nói bốn câu gọi là ngã”, tức là bốn câu: Hữu v.v… Bởi vì luận kia quyển một phẩm Địa Tướng, hỏi rằng: Sao gọi là Vô ngã? và nói kệ tổng có tám hàng rưỡi, sau cùng nói: “Vậy nên ngã phi ngã, cũng ngã cũng vô ngã, phi ngã phi vô ngã, ngã sở phi ngã sở, cũng ngã cũng ngã sở, phi ngã phi ngã sở”, đó đều là tà luận. Cho nên lìa bốn câu thì mới gọi là vô ngã. Đây chỉ nói: Vô ngã chính là “tức ngã vô ngã”, không nói chiết phá, cho nên ở Thông giáo. Hỏi: Luận giải thích Biệt địa, sao phán xét thuộc Thông? Đáp: Đăng địa về trước thì các quán đầy đủ, chỉ nói “tức Không” nghóa thuộc về Thông, huống lại Địa tiền thì nghóa đương nhiên Thông giáo. Dẫn “Đại kinh”, kinh nói:”A-nan là bậc đa văn tự nhiên năng hiểu rõ thường và vô thường, nghóa “thường, vô thường” giống như “ngã, vô ngã”. “Bất nhị”, là đăng địa song chiếu địa tiền. Chiếu và phân biệt, danh khác mà nghóa đồng. Viên giáo tột cùng, nên nghóa bao gồm quyền thật, vì thù thắng thu nhiếp yếu kém cho nên hướng về một đời. Năm vị đã riêng khác, thì sở văn cũng không đồng. “Trong Chánh Pháp Niệm có ba A-nan”: cùng Tập Pháp Truyện, ba người rất giống. Hỏi: Kinh Chánh Pháp Niệm và A-hàm, hai kinh đều là Tiểu thừa làm sao dẫn chứng bốn để truyền bốn giáo ư? Đáp: trong Tiểu thừa một người đã phân bốn hạng, nay diễn Tiểu khiến Đại, dùng Đại làm theo Tiểu, thì sao không thể truyền bốn ư? Huống lại là danh thông nghóa viên, đối lý không sai. Tiểu ở Tam tạng chung với Thông thừa, cho nên cũng gọi là tạp, huống chi Thông Bồ-tát độn lại lẫn lộn. “Vân vân” là một người bốn đức để dùng đối giáo và khai hiển… nghóa như thường nói. “Không Vương…”: Đối với Phật cũng là Bản tích trong Tích, nếu đối A-nan, hoặc chưa phải thật bản, chủ còn mờ tích, đệ tử chưa hiển rõ, cho nên cũng không nói Không Vương kiếp số. Nói “vân vân” là lẽ ra nói đầy đủ bốn nhân duyên v. v… bên trên để hiển rõ ngã quán, cũng cần phải nương vào bốn thứ: nhân duyên v.v… để biện minh thứ tự và không thứ tự. Văn đây đã đang căn cứ Giáo, Quán tâm, tâm cảnh đối nhau là nhân duyên quán, chân diệu hướng về cái còn lại là Bản Tích quán, dùng tâm quán tâm là Quán tâm quán. Giải thích nhân duyên nghe, thì không phân ra Tứ Tất-đàn mà chỉ kết chung nói “nhân duyên”. Nếu muốn phân ra thì phần đầu là thế giới, “Xưa giải…” là Vị nhân, “Kinh Báo Ân…” là đối trị, “Văn đây…” là Đệ nhất nghóa. Đầu, là hỏi, tiếp “Đại luận…” là đáp, trong đó nói kết tập pháp. Nói kết tập thông thường có ba chỗ: Nghóa là Một ngàn, Bảy trăm, Năm trăm, Một ngàn là chánh đương kết tập lần đầu tiên. Bảy trăm là sau khi Phật diệt độ một trăm năm, nhân Bạt-xà chuyên hành mười việc, Xá-na-ca-na bạch bảy trăm. Bảy trăm vị mới đến nước Tỳ-xá-ly, trùng kết Tỳ-ni nêu lỗi Bạt-xà. Nói Năm trăm năm là sau bốn trăm năm nhân Ca-nị-tra vương thỉnh tăng cúng dường luận đạo không đồng, nhân đây năm trăm vị đến thành Vương Xá kết tập Tam tạng lại. Nay đây từ đầu rộng như các văn, lần lượt từ tha tự tha biệt, cho nên nghe không nghe sai khác. Chưa nghe thì ưa muốn nghe, đã được nghe thì sinh vui, đều là thế giới Tất-đàn. Tam- muội là do thiện và sức năng nghe. Theo hai cách giải thích xưa và nay, thì nhập ở nghe mà Thiện sinh. Nói “Phật giác”: Chỉ là Phật gia (thêm), giác lực như Phật nên gọi là Phật giác Tam-muội. Đã chứng không phải từ Phật nghe, cho nên gọi là khả năng tự có, dùng bản nguyện lực vì trì Phật pháp sinh thiện đời sau, cho nên xưa giải lý đương phán thuộc Vị nhân Tất-đàn. Kinh Báo Ân nói: Đệ lục, Phật tìm người làm thị giả, hứa rồi, A-nan vẫn cầu xin bốn điều: 1. Không thọ y cũ. 2. Không thọ biệt thỉnh. 3. Không giống các Tỳ-kheo, cần gặp Phật liền gặp. 4.Trong hai mươi năm Phật thuyết pháp, nay nên vì con nói lại, Phật mới chỉ nói sơ (thô) A-nan đều hiểu, trí nhanh căn lợi lực trì mạnh. Lại, “mật thuyết”: Biện minh khác giác lực và Phật thuyết lại thì chỉ mình biết người khác không biết, gọi là “mật”. Lại, trong Đại kinh, Phật bảo Văn-thù: “A-nan hầu Phật hai mươi năm, đầy đủ tám thứ bất khả tư nghì: 1. Không thọ biệt thỉnh. 2.Không nhận y cũ. 3. Không phi thời diện kiến Phật. 4. Thấy hết thảy nữ nhân không sinh dục tâm. 5. Trì tất cả các pháp chưa từng hỏi lại, chỉ trừ hỏi dòng họ Thích bị sát hại. 6.Biết Phật nhập định. 7.Biết chúng sinh đến chỗ Phật lợi ích không đồng. 8. Những pháp bí mật của Phật ông đều biết rõ.” Kinh Thai Tạng thì nêu lúc sơ sinh để so sánh về sau. Ở tướng thai còn nghe huống các kinh sau. “Mặt như trăng sáng đầy”: Rút ra từ kinh Dục Vương, trong đây cũng dùng bốn tên trước và bốn câu ở Đại kinh, nhưng Đại kinh hiển Viên. Nay chính là nghóa khai dọc căn cứ bốn giáo, tùy danh cho tiện, nên không có thứ lớp, cũng nên hiểu bốn nghóa “nghe” đầy đủ do đó khiến thuận với ý Giáo. Cuối phần giải thích theo Bản tích, nói “vân vân” là: 1.Bản sự cao khó lường, 2.Bản lý sâu khó nghó. 3. Bản tích hóa khó sánh. Đầy đủ như trong giải thích “Như thị”. Trong phần giải thích theo Quán tâm, thì chữ “vân vân” sau cụm từ “bất văn bất văn” có nghóa là: lẽ ra dùng đủ bốn thứ trên, lại đối thứ lớp phân thuộc bốn người, đầy đủ như “kinh xưa Tôi nghe”. Nếu y văn nay thì dùng diệu quán. Trong câu “Nhất niệm quán là Diệu quán vân vân”, thì chữ “vân vân” nghóa là khai thô hiển diệu để nêu rõ ý “dứt đối đãi”. Tiếp giải thích “Nhất thời”. Đầu tiên dẫn ý Triệu Sư: “Khải” là mở đầu, “vận” là hợp nghi, phước là thiện. Phật hóa Đại, vận dụng ắt xứng cơ duyên chúng sinh, cho nên nói “thiện hội” (khéo hợp). Xứng căn cơ chỉ là nhân duyên hòa hợp, xứng cơ hoan hỷ nên gọi “Thế giới Tất-đàn”. Trong đây “thế giới” thuộc kinh này, không đồng các văn khác, khác với các thời khác. Dẫn văn Đại luận nói: “Sinh thiện thế gian trị ác thế gian”. Nêu rõ hai Tất-đàn, là dựa vào đó chỉ bày tướng. Lại trong luận đó giải thích chữ “Nhất thời” cho nên lại dẫn, nhưng đây thẳng nói “thời và phương kia” có hai cách giải thích: hoặc nói “Ca-la là thời thật”, hoặc nói “Tam-ma-da là thời giả”. Luận hỏi: Thiên Trúc giải thích thời có bao nhiêu thứ? Đáp: Có hai danh xưng. Hai chữ “Ca-la” phát âm cạn, dễ. Ba chữ “Tam-ma-da” phát âm nhiều, khó nói. Nếu trừ tà kiến thì không nói hai chữ, tức là dùng thời giả. Nếu trong đệ tử y thời ăn, hộ trì minh tướng thì dùng thời thật. Nên biết chỉ là một thời mà hai tên riêng, cho nên tiếng có khó dễ. Vì vậy cho nên ngoại nhân chấp thời là thật mà nói kệ rằng: “Thời đến chúng sinh thục, thời đi thì thúc giục, thời năng giác ngộ người”, vì vậy thời là nguyên nhân, nên phải phá tà thuyết Tam-ma-da. Nay trong văn dùng “thời thật” chỉ bày nội sinh thiện, dùng “thời giả” phá ngoại đoạn ác. Trong câu “Nếu thời cùng đạo hợp, thì là Đệ nhất nghóa Tất-đàn vân vân” thì chữ “vân vân” nghóa là: Nói đạo hợp, chiùnh là đang thiện hội (khéo gặp), sở phát thiện căn là nói Thông ý Biệt, phải căn cứ giáo vị để phán định Thiên Viên, tức là bốn vị ba giáo, Quyền Nhân (người) lý v.v… Tuy có đạo hợp vẫn phải khai hiển, cho nên bên dưới căn cứ giáo vẫn còn bốn biệt. Trong phần dưới đây các thứ cũng như Đại kinh, bốn nhân duyên trí. Kinh này nói cũng lược Khai v.v… Bản thời tự hạnh chỉ cùng Viên hợp, hóa tha bất định cũng có tám giáo. Trong câu “Bản tích giả, tiền chư nhất thời tích dã” thì hai chữ “tiền chư” là chỉ từ trước đến nay bốn giáo đều ở trong Tích. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm” trở xuống lẽ ra phải nêu “vân vân” (v.v…). Văn không nêu, là thiếu. Đó là thô diệu quán đều có quán cùng cảnh hợp, gọi là “nhất thời”. Tương tức quán, là quán của kinh này. Nếu đem quán đây căn cứ ba văn trước, thì theo lệ nói có thể biết. Tiếp giải thích chữ “Phật”: Trong nhân duyên chỉ ứng giải thích giác, mà chỉ nói thời xứ…, là nêu rõ giác cảm ứng thời và xứ đó thôi! Chẳng phải thời xứ đó không cảm Phật hưng khởi, thời xứ khác, nên là giải thích theo Thế giới Tất-đàn. “Kiếp sơ, kiếp tận” là thời rất dài, rất ngắn, rất khổ, rất vui tột cùng. Ba thiên hạ còn lại thì giàu, thọ, vô ngã, không phải duyên cảm Phật, nhiều bệnh là giảm cực. Tiểu tam tai khởi: là đao binh, tật dịch, đói khát, tật ở trong đó nên lược nói bệnh. Luận Câu-xá nói: Đao, tật, cơ như thứ lớp bảy ngày, tháng, năm. Chỉ thời gian trường thọ, vui nhiều đều là “kiếp sơ”, thời gian thọ ngắn, khổ nặng đều là “kiếp tận”. “Đông thiên hạ” trở đi, là nêu nơi “Phật không hưng khởi”, đều do thọ lượng định, lạc định bảo đảm an lạc bảo đảm thường, không thành cơ duyên nên không cảm Phật. Đây vẫn là căn cứ xứ trong cõi Người đó thôi! Nếu luận trên cõi Trời thì Tiểu thừa cũng có người đắc tiểu quả, như Phạm vương đắc Tam quả… Nếu căn cứ kinh Hoa Nghiêm thì Tứ thiên vương, Hóa lạc thiên và Vô sắc xứ đều không cảm Phật. Các kinh khác đều chỉ trừ nạn xứ. Nói “Giàu và thọ”: Đông gọi là Thắng thân, tức thù thắng hơn Nam châu, bởi vì giàu và thọ vậy. Tây tên là Ngưu-hóa, dùng Trâu làm ra của cải, nên nói châu này nhiều trâu dê. Bắc gọi Câu-lô, đây gọi Thắng-xứ, cũng gọi Thắng-sinh. Trong bốn châu, thì châu này chỗ hữu tình ở, của cải đều tối thắng. Nam tên là Thiệm-bộ từ cây đặt tên. Trong Nam châu chỉ nêu đầu và cuối, trung gian cũng có sáu, bốn, hai vạn. Lại nói tám vạn là bắt đầu giảm, một trăm năm là phương cực giảm. Sau bắt đầu giảm thì Di-lặc, nay phương cực giảm thì Thích-ca. “Chưa thấy quả…” là nói rõ duyên cảm Phật, tuy lược nói địa cũng nên nói thời. “Ly-xa…” Đại kinh quyển hai mươi sáu nói: “Phật vì Ly-xa nói không phóng dật. Ly-xa nói: Chúng con tự biết mình là người phóng dật, vì sao vậy? Nếu không phóng dật thì đức Như Lai nên sinh trong nước chúng con, cớ gì bỏ chúng con đến Na-kiệt-đề. Lúc bấy giờ con của Bà-la-môn tên là Vô Thắng, nói với Ly-xa rằng: Đại vương Tần-bà đã được lợi lớn, Đức Phật xuất thế ở nước ấy, cũng như ao lớn sinh ra hoa sen lớn, tuy hoa ở trong nước bùn mà hoa không bị nhiễm bùn. Đức Phật cũng như vậy, tuy sinh trong nước kia mà không bị pháp thế gian nhiễm. Ông mê ngũ dục, không biết thân cận, gọi là người phóng dật. Chẳng phải Phật xuất thế nơi nước kia, thì gọi ông là phóng dật (Vô Thắng: A- dật-đa). Ông đam mê ngũ dục, dù Phật sinh ở nước ông, ông cũng không thấy được”. Cho nên thời xứ đây cũng căn cứ nhiều phần. Xá-vệ ba ức chẳng liên quan đến khổ lạc. Ma-kiệt-đề: Trung Hoa dịch là Bất Hại, từ sơ kiếp đến nay không có hình phạt xử tử, đến vua A-xà- thế mới có hình phạt chặt ngón tay, sau tự ông bị sứt ngón tay đau đớn cho nên ra lệnh bỏ hình phạt này. Phật sẽ sinh nước kia nên điềm lành dự báo rõ, do đó trước đặt tên Bất Hại. “Mặt trời nếu không xuất hiện…” dẫn lời của Đại luận. “Mặt trời” dụ cho Phật xuất hiện, “ao” dụ cho Ma-kiệt, “hoa” dụ cho căn cơ chúng sinh. Đức Phật nếu không xuất hiện, thì hai Thiện đã sinh và chưa sinh thảy đều không thành. Thiện chưa sinh là hạ chủng, Thiện đã sinh là thục thoát. Nhưng trong hợp dụ lại căn cứ thiện pháp hữu lậu của thế gian, nên nêu Sát-lợi… huống là thiện xuất thế. Cho nên khinh suất thì bị buộc ở địa ngục, nhưng vẫn còn nhân để Phật xuất thế. Chỉ có cái nhân là một niệm nhàm chán ác thì về sau mới được thoát ly, huống lại là nhân thiên. Cho nên luận nói: “Nếu người trì giữ năm giới, thì Thích- ca Văn Phật ở trong nhà ông”. Bốn tánh (họ) nêu hai, lại theo nghóa hơn mà nói. Trong phần giải thích theo Đối trị Tất-đàn thì “đoạn chủng Hữu đảnh” tức là đoạn ác trong tam giới, cho nên gọi là phá ác. Hỏi: Vị nhân Tất-đàn chỉ đến Hữu đảnh, Đối trị làm sao phá ác tam giới ư ? Đáp: Vì Chân đế sự lý. Ở lý trung đạo thì đều gọi là sự. Nêu hai giáo trước không được dùng lý này để làm phá ác, thì do nhường lý. Nay đây là Viên giáo nên được dùng. Nói “Tam thừa”: tức thu nhiếp tam giáo, dùng Bồ-tát thu nhiếp Biệt giáo. Nói: “ngoài ra không thể cảm” là căn cứ Tám tướng hóa, ắt căn cơ xuất thế mới có thể cảm Phật, là chỉ rõ thân trong chín đường tuy là cảm Phật mà không gọi là Phật hóa, nên “không cảm Phật”. Nói “khéo đoạn”, là tại trí vô lậu, “chủng” là nghóa năng sinh, rũ hết phi tưởng lại đọa vào ba đường ác, gọi là sinh trở lại. Một phen đi không đến lại gọi là “vónh viễn”. Trong Đệ nhất nghóa đã nói “pháp tánh”, phiền não tức Bồ đề cho nên nói “không động”, sinh tử tức Niết-bàn cho nên nói “không xuất”. Phật không khổ tập, đã trụ nơi pháp tánh, tuy không động xuất. Không động mà động, động núi pháp tánh, thị hiện đoạn nhân sinh cho nên gọi là “động”. Không xuất mà xuất, xuất ra khỏi biển sinh tử, hóa chúng sinh trong chín đường cho nên gọi là “xuất”. Lý này thì trước đều gọi là “thật động thật xuất”, đến đây mới biết là “chẳng sinh mà sinh, không động mà động”, thì hai giáo trước và biệt địa tiền chỉ thuộc tam Tất-đàn, dẫn nhập kinh này thuộc Đệ nhất nghóa Tất-đàn, căn cứ trong Giáo giải thích trước. Tiếp, “Cho nên, kinh nói…” là dẫn chứng: Trước, căn cứ nhân duyên nói tướng cảm ứng; nay vì căn cứ giáo, căn cứ bốn cực quả, tướng ban đầu thành cho nên đều nói “giác”. Lại, nói tự giác giác mãn thì căn cứ ban đầu, giác tha thì thông cả đầu lẫn sau. Tây Trúc nói Phật-đà, Trung Hoa gọi là “Giác giả, Tri giả”. Đối mê gọi là “tri”, đối ngu gọi là “giác”, danh đồng đối biệt đều thuộc tự giác. Cho nên căn cứ Tứ đế, tức dùng tự giác mà “năng giác tha”, cho nên nói “cũng”. “Tổng tướng, biệt tướng”: “Tổng”, đều là Vô thường, “Biệt” tức quán Tứ niệm xứ, nghóa là tam giới ràng buộc và Tứ thánh đế, “Biệt” đây là thảy đều quán vô thường. “Lão Tỳ-kheo” tức theo sau có sai khác, do Thông giáo Phật cũng có thể gọi là “lão”. Mà nói “Đới” (Tỳ-kheo): là biện rõ khác giáo trước, như A-hàm nói: “Đức Phật sắp Niết-bàn như lão Tỳ-kheo đến nhà Thuần-đà”. “Ba mươi bốn tâm”: tám nhẫn, tám trí đoạn kiến, chín vô ngại, chín giải thoát, đoạn Tư, đoạn phục không đồng, đầy đủ như Chỉ Quán quyển ba, quyển sáu, có ghi, hoặc ở luận Bà-Sa, Câu-Xá và các A-hàm nói. Các giáo này cầu sự giải thích còn lại không được “nhất niệm tương ưng, đoạn trừ các tập khí còn sót lại”. Theo ba mươi bốn tâm mà giải thích thì cuối cùng không có lý đó; đầy đủ như trong kinh Đại Phẩm, Đệ thập địa. Biệt Phật nói đầy đủ như trong kinh Anh Lạc và Đại thừa năm mươi hai vị, Sơ địa đoạn vô minh. Viên Phật đầy đủ như Hoa Nghiêm, Sơ trụ đoạn vô minh. Nhưng trong Tiểu thừa lập hai thứ Vô tri: Nhiễm ô vô tri, thì vô minh làm thể, Bất nhiễm vô tri, thì liệt tuệ làm thể, nghóa là vị thế thuần thục, đức số thời lượng như vậy. Nhưng bốn Phật (theo Tạng, Thông, Biệt, Viên) đều nói “Tự giác, Giác tha”, chỉ là đương giáo tự hạnh mãn vị, giác trí không đồng, hóa cảnh rộng hẹp, vậy thì tìm khắp Đại, Tiểu thừa giáo chỉ có bốn tướng thành đạo này; đầy đủ như trong “Huyền văn” nói nhân quả lưỡng diệu. Nơi khác giải thích chỉ có ba thứ: Tự giác v.v… Đã không có bốn giáo mỗi giáo đều đầy đủ ba nghóa, thì làm sao phân biệt Đại Tiểu giáo chủ? Tóm lại mà nói không ra ngoài hai giáo. Hoặc nói “ngồi Liên hoa tạng”, hoặc nói “ba đời chư Phật đều sắc cứu cánh thành Vô thượng đạo”, đều là tướng Biệt Phật. Nếu ẩn ba tướng trước, nói theo nghóa thù thắng thì chẳng phải vì thái hư gọi là Viên Phật. Biệt Phật đã nói đơn luận tức là ẩn hai tướng trước, như Mục-liên không cùng tận âm thanh kia… Nếu Pháp Hoa trở về trước, ba Phật lìa minh (sáng) cách Thiên Tiểu, thì đến kinh này từ liệt (kém) biện rõ thắng (hơn), tức ba mà một. Nơi khác mê nhất gia mà nêu bốn Phật, là do bỏ kinh luận cựu dịch. Như bốn thềm thang thành Phật, Tam thừa cùng địa vị, Anh Lạc Hiền Thánh, Hoa Nghiêm dung môn. Đây bốn tướng thành đạo không thể không đều như nhau, bởi do thiết lập tích không đồng, ẩn thật che bản, cho nên khai quyền hiển bản mới biết không sai khác. Lại trong các giáo đều có năm người nói kinh. Như Đại luận nói: Phật, Thanh văn, Thiên, Tiên, và hóa nhân, trong Hoa Nghiêm thêm các Bồ-tát, lại có chúng sinh khí thế gian mà đều coi Phật là giáo chủ. Nhưng căn cứ trong Đại luận thì tứ ấn định tức gọi Phật nói. Lại trong Hoa Nghiêm, thì Sát thuyết, Trần thuyết, Bồ-tát được gia bị cũng không ấn thuật, còn lại ba Phật lực thông được tên Kinh (“Sát thuyết, Trần thuyết”, là hai thuật ngữ, xem Từ điển Phật học). Cho nên trong Đại luận, sở phá đều năng thông đủ bốn giáo, nếu được ý thật thì mới biết bốn Phật thể đồng dụng khác. Các người giảng kinh Hoa Nghiêm đều nói “ngã Phật”. Người đọc Duy thức không chịu theo các kinh khác, cho nên đến kinh này mới biết chỉ xưa, chỉ có đức Phật mới biết rõ hết lời nói đây là có. Tiếp, dẫn kinh: Trong kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói: Thông Phật là Đại thân tiểu thân, cho nên nói “Đới lão Tỳ-kheo”. Trong phần “Giải thích theo Bản tích”, ban đầu dựa vào thể dụng trong Bản, cho nên nói “Bản một Tích ba”. “Trung gian…” là tiếp nêu ứng hóa thắng liệt trong Tích, Tha thọ dụng báo đều tại Tích, chỉ nói sinh diệt phần nhiều tại ứng hóa. “Duy bản địa bốn đức Phật đều Bản”, là căn cứ theo lệ mà nói thì thể dụng trong Tích đều là Tích, thể dụng của Bản địa đều là Bản. Nói đầy đủ thì như Huyền văn bản nhân quả diệu… trong phần giải thích. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, giác chỉ là trí, lục tức phán xét. Có bản không có “vân vân”, hoặc là chép sót, đáng lẽ trước biện rõ Tạng Thông rồi khi đến trong phần Biệt Viên mới được nói đến Thiên Viên hai giác, nhưng trong thứ lớp cũng có thể nhiếp được Tạng Thông hai Phật, hoặc là lược bớt đó thôi! Nếu đối với ba thứ trước thì giải thích “Phật” theo cảnh, trí, nhân duyên. Nếu căn cứ Tạng v.v.. thì giải thích “Phật” theo quán tứ giáo. Trung đối với Không Giả là giải thích “Phật” theo Bản tích, tâm mình tức là quán tâm Phật. Tiếp, trong phần “Giải thích nghóa Trụ”, trong đó hoàn toàn dùng Đại luận, sợ người khác không hiểu nên ban đầu nêu “năng trụ sở trụ”, hoặc chỉ thân, cõi (độ) chỉ thành thế giới, tâm pháp dựa nhau mới thành ba Tất-đàn, người khác chỉ chấp nhận thân y nơi cõi, mới thành Phật tâm vô sở y pháp. “Nhẫn độ (cõi)”: Kinh Bi Hoa quyển năm nói: “Do nhân duyên gì gọi là Sa-bà? Do các chúng sinh nhẫn chịu ba độc và các phiền não”, Năng, sở sai khác, nên gọi là thế giới. Cho nên Đại luận nói: “Trụ: là bốn oai nghi trụ thế (Nay gọi là Thế giới). Lại có ba thứ: 1. Thiên trụ, là Dục thiên. Nay nói thập thiện. 2. Phạm trụ, tức Sắc thiên, nay nói Tứ thiền, chỉ là tên khác. 3. Tịnh trụ, tức ba quả trở lui, nay nói Tam Tam-muội. Luận nói: “Nhập Tam Tam-muội, tức đắc sơ quả”. Tam Tam-muội là đối trị, lấy làm tam minh cận đối trị môn, đủ như Chỉ Quán quyển bảy nói. Luận lại nói: “Bố thí trì giới thiện tâm là Thiện trụ, tứ Vô lượng tâm là Phạm trụ, Tam Tam-muội là Thánh trụ, Thánh trụ chỉ là Tịnh trụ. Luận lại nói có bốn trụ: Thiên, Phạm, Thánh, Phật. Lại thêm Phật trụ, tức là Thủ Lăng-nghiêm trong văn này. Cho nên, bốn trụ này thâu nhiếp hết các luận văn. Nếu lấy giáo thâu bốn giáo thì đều có nghóa bốn Tất-đàn bên trên. Bốn Phật đều là Đệ nhất nghóa thiên, chỉ hai Phật trước không được nói dùng Thủ Lăng-nghiêm. Hỏi: Nếu như vậy, thì nay giải thích Phật trụ, vì sao dùng ba Tất- đàn chỉ căn cứ Dục Sắc thiên và dùng ba quả, năng trú sở trú đều chẳng phải Phật ư ? Đáp: 1.Từ Thông hướng đến Biệt. 2.Đem thắng để nhiếp liệt. Nói “Từ Thông”: là từ rộng nói hẹp. Nói “Đem thắng”: là Phật ở Vương Xá thành ắt nhiếp Dục Sắc thiên và dùng ba quả. Có người bài xích nói: “Nay giải thích trụ thành Vương Xá, vì sao dẫn Thiên trụ Phạm trụ v.v…?”. Người này chưa từng đọc tụng Đại Trí luận. Đây là luận kia giải thích trụ chánh văn. Luận đủ hai ý như trước đã trình bày. Nếu chỉ dùng sắc thân trụ cõi để giải thích chữ “trụ”, thì đại Bồ-tát thần không có phương sở liền không có chỗ trụ, huống là Phật ư? Cho nên kinh Phổ Hiền Quán nói: “Cõi Thường-tịch-quang là trú xứ của Phật”. Cho nên, bên dưới căn cứ giáo đều dùng Niết-bàn làm nơi trụ. Tiếp, trong phần “Căn cứ Giáo”, Niết-bàn đều là pháp sở trụ, đều căn cứ Đệ nhất nghóa. Giải thích hai Phật trước đều nói “Hữu dư, Vô dư”, khéo léo vụng về tuy sai khác mà sở diệt không khác. Hai “bí mật tạng” sau chứng đạo cũng là một. “Ba đức Phật trước” trở xuống, là phán xét Diệu thô, tức là Biệt giáo chứng đạo tuy diệu mà theo giáo đạo nên phán định là thô. Nói “năng sở”: Nếu căn cứ lý mà phán xét thì như trước nói, nếu căn cứ sự mà phán xét thì chỉ là Y Chánh Tha thọ dụng độ, cho nên nói là “thô”. Nếu căn cứ lý Trung đạo, thì tuy đều đủ bí tạng cũng là theo giáo. Nay kinh là Viên giáo, lại phải khai hiển cho nên gọi là “Diệu trụ”. Trong phần “Giải thích theo Bản Tích”, nói “Tam tạng Phật ưng Niết-bàn”, chữ “ưng” bình thanh. Nếu căn cứ “khôi đoạn” (nghóa là thiêu thân đoạn tâm) tức ưng nhập diệt, thì nhập diệt là Bản. “Do từ bi” nên trụ thế, chỉ gọi là “trụ thế để làm thùy tích”, đây Phật báo sinh không phân biệt lý bản. “Thông Phật, phò tập”, đây là theo nhân mà nói dùng Lục, Thất địa nhập Không làm Bản, dùng thệ nguyện phù trợ tập khí còn sót lại để sinh trong tam giới mà lợi tha làm Tích. Quả đồng Tam tạng, nên cũng là nói theo Nhân. “Biệt Viên Phật”, đồng nói “huân pháp tánh”: giáo chứng có chút sai khác, nhưng đều nhân thời khởi bốn hoằng thệ nguyện sâu huân pháp tánh, chỉ nêu pháp tánh, tức ly không đồng. Trí, Đoạn tuy khác, pháp tánh không riêng biệt. “Nên biết…”, là tổng phán xét văn trước để nêu rõ Bản Tích. Bản tích chẳng phải không do từ bi. Bốn Phật trước đều là Tích cho nên lại phải nói Bản Phật trụ. “Do từ bi…”, là phán xét, đã khai Tích rồi, đây riêng có Bổn? Tiếp, trong phần “Giải thích theo Quán tâm” thì coi trí là Phật, trí trụ vô thường và Không, Giả, Trung. Trước trực tiếp đối nhau nên bốn quán không đồng. Tiếp, căn cứ ý trụ cho nên nói “dùng pháp vô trụ mà trụ trong cảnh”, cho nên nói “vô trụ thông bốn giáo”. Thô trí, nghóa là trụ nơi lý thật vô, nếu ở trong Viên thì liền thành dứt hẳn đối đãi. “Vương thành”: Chuẩn theo Tây Vức Ký: Thành này có bốn ngọn núi cao bao quanh dùng làm ngoài thành. Đông Tây dài, Nam Bắc hẹp. Chu vi một trăm năm mươi dặm, tử thành ba mươi dặm. Cửa Bắc cung thành là nơi Điều-đạt thả voi say hại Phật. Phía Đông Bắc là nơi Thân- tử gặp Mã Thắng, đắc sơ quả. Phía Đông Bắc cách chừng mười bốn, mười lăm dặm thì đến núi Thứu Phong, là nơi đức Phật thuyết kinh Pháp Hoa v.v…, là nơi Ban-túc duyên dược nói trong kinh Nhân Vương. Trong luận có giải thích sai khác. Luận hỏi: Như thành Vương-xá thì Ca-tỳ-la, Ba-la-nại đều có Vương-xá, vì sao Vương thành này được nêu tên ư ? Đáp: Có người nói: “Vương tử nước Ma-già-đà này có một đầu hai mặt bốn tay. Người thời ấy cho là điềm không lành, bèn cắt thân đầu vương tử ấy bỏ ngoài đồng trống. Có La-sát nữ tên là Xà-la lượm nhặt chắp lại nuôi dưỡng, về sau lớn thành người có khả năng thu gồm các nước liền chọn các vua cùng tám vạn người làm một nước.” Lăng-già lại nói: “Xưa có vị vua đi săn, ngựa kinh hãi chạy vào đường hiểm nơi không có người ở, vua cùng với sư tử cái hạnh hạnh xấu, sinh được một người con lớn đặt tên là Ban-túc, sau nối tiếp vương vị thống lãnh bảy ức chúng. Do còn tập khí ăn thịt nên không có thịt thì không ăn, sau liền ăn thịt người nên gọi là La- sát. Ngoài ra cùng văn nay đồng. “Tứ phi thường kệ”: chỉ là Tứ vô thường kệ, đầy đủ trong như Chỉ Quán quyển bảy. Nói “đắc Không bình đẳng địa tức là Sơ địa”, kia đã cùng giáo Tiểu tức Sơ quả, Đại tức Can-tuệ địa, hoặc ở Kiến địa, Biệt tức Hoan hỷ địa, cùng Đại kinh Phạm hạnh ý đồng. Nếu vậy thì vì sao nghe vô thường mà ngộ Đại ư ? Đáp: Đã nghe Bát-nhã lại nghe vô thường, sợ còn tiếc nước kia, chánh trợ hợp hành nhân được lợi ích lớn. Đây căn cứ Ban-túc duyên sai khác, nên thuộc nghóa Thế giới Tất-đàn. “Ngàn vua lấy máu…” tuy mất nước nhỏ lần lượt biết nước lớn, tức sinh thiện thuộc Vị nhân Tất-đàn. Trăm họ bỏ Xá (nhà) khỏi bị thiêu ác, tức Đối trị Tất-đàn. Ban-túc đắc đạo là Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Trong câu “Nhân duyên này trích từ Đại luận và các kinh vân vân” thì “vân vân” là: Đại luận cùng các kinh nêu ra đã nhiều nhưng không thể đủ hết, tuy nhiều nhưng không ra ngoài Tứ Tất-đàn. Trong phần “Căn cứ Giáo mà giải thích”,là nêu tứ kiến. Biện rõ cõi ngang dọc, thì đầy đủ trong Sớ Tịnh Danh, tức như văn dưới “Thuần các Bồ-tát…”. “Theo lệ thì biết….”: là dùng “Sa-la” để dụ cho Vương thành. “Giải thích theo Bản Tích Quán tâm ở sau”: là sau cùng văn “Núi” hợp nêu Quán tâm, văn sau vẫn lược đều không ra ngoài Bản tích. Nếu theo lẽ trên dưới thì nên nói Bản trụ ở thành Vương Tam-muội Tam đức Tích, ở Vương thành Nhẫn độ. “Lương Võ…”: chữ nên đổi thành “Tuy”, chim kia tợ như chim ưng, nói tợ chim si, hoặc sợ lầm vui thú mà không dâm, ai mà không thương loại cái đực đều ở chung muốn kết hợp đều hót lên, kết hợp rồi đều bỏ đi cho nên ví như là hoàng phi. Thi nói: “Quan quan thư cưu tại hà chi châu, yểu điệu thục nữ quân tử hảo cầu”. Nay người Giang-đông gọi là ngạc (chim thư) ưa ở Giang châu. “Lương Võ” ý nói hình chim Tuy gần như chim Thứu, cho nên dẫn đó thôi! Đây thuộc nghóa Thế giới. “Lại, giải thích “sơn phong…” là Vị nhân, bởi vì thấy sinh vui lòng. “Lại nói Núi…..” trở xuống, là Đối trị, vì năng diệt ác cũng là phải trị ác. “Lại giải thích….” trở xuống, là Đệ nhất nghóa. Tam thừa thánh ở Đệ nhất nghóa. Tiếp biện rõ “năm ngọn núi” và phần “vấn đáp” sau đó, chỉ là trong Đệ nhất nghóa giải thích nghi và phân biệt tướng núi, chẳng phải tứ Tất-đàn. Lại kinh Tăng Nhất quyển ba mươi mốt nói “Đức Phật ở núi Linh Thứu, bảo các Tỳ-kheo: Lâu xa đồng gọi là Linh Thứu, lại có biệt danh các ông biết không? Cũng gọi là Quảng-phổ sơn, Phụ-trọng sơn, Tiên- nhân-quật sơn. Núi này thường có La-hán, Bồ-tát đắc đạo có thần thông và các tiên ở, có năm trăm Bích-chi-phật ở. Như Lai muốn trước là khiến Tịnh-cư thiên tử đến đây, bảo khiến ở cõi tịnh này. Hai năm sau Phật hiện ở trong đó, Bích-chi-phật nghe rồi thì thiêu thân nhập diệt. Vì sao vậy? Vì đời không có hai đức Phật, nước không có hai vua, một cảnh giới Phật không có hai tôn hiệu. Núi này cao thấp cũng lại không đồng. Quyển bốn mươi bảy nói: “Đức Phật Câu-Lưu-Tôn bốn ngày bốn đêm đi đến đỉnh núi, Đức Phật Na-Xá ba ngày ba đêm, đức Phật Ca- diếp hai ngày hai đêm, đức Phật Thích-ca chỉ trong giây lát đến đỉnh núi, đều vì người La-duyệt-kỳ mà đi (hạnh). Thời dần dần mạt núi dần dần thấp xuống. Văn thiếu giải thích theo Bản tích. Lẽ ra nói Bản trụ tam đức đại Niết-bàn sơn, Tích ở Linh-thứu. Lại, Bản tích đều có Linh- thứu. Phẩm Thọ Lượng nói: “Thường tại Bản núi Linh-thứu”. “Căn cứ Quán tâm” , thì trước là giải thích “Vương-xá thành”, đầu tiên là lập quán cảnh. Nói “Tâm vương tạo xá”, nghóa là thức ấm là “vương”, tạo nghiêïp các tâm ắt có tâm sở. Nay muốn tiêu vương, lại dùng tâm vương thiện ác để đối xá (nhà) vô ký, cho nên nói “vương tạo”. “Nếu phân tích…”: là tứ quán, đây cho thấy quán giải khác với các kinh khác, nên như Thập thừa, Thập cảnh trong Chỉ Quán. Dưới đều như vậy nên nói “vân vân”. Hai lần sau nói “Hoặc là quán”, tức quán theo hai giáo sau. Cũng phải phân biệt tướng, riêng khác không đồng, đầy đủ như trong Chỉ Quán không thể tức đủ. “Giải thích “Núi” (sơn) theo Quán tâm”, cũng trước lập quán cảnh, chiùnh là phải quán ấm, đầy đủ như Chỉ Quán quyển năm. Trong phần “quán theo hai giáo Biệt, Viên” thì đã nói “núi tức chánh nhân pháp tánh”, hai đức còn lại ngoài pháp thân thì căn cứ các văn nói. Cho nên, biết quán đây không đồng ý kiến với người khác. Sở dó lại căn cứ núi để quán, là vì núi và thành tuy khác nhau, nhưng đồng là Y báo. Thế nên căn cứ Y báo để quán Chánh báo. Lại, các quán cảnh không ra ngoài năm ấm, nay ở đây núi… thì căn cứ ấm là tiện, bởi vì trong các văn thẳng nói: “cảnh trí”. “Tự trú trong đó…”: là dùng Đại kinh và ý kinh này cộng làm tự tha. Định tuệ lực trang nghiêm, tức “tự trú trong đó”. “Dùng đây để độ chúng sinh”: tức an trí các con. “Vân vân”: là cũng nên đối với đây để biện rõ tướng đồng khác của hai quán, phương tiện chánh tu phân biệt cảnh và tâm, và đối hai thứ trước, để biện quyền thật… cho đến bốn quán cũng phải khai hiển… Tiếp, giải thích chữ “Trung” (trong câu “Phật trụ Vương-xá thành Kỳ-xà-quật sơn trung”) vì ở trong núi thành, giải thích theo Nhân duyên… bốn thứ đầy đủ như kia đã giải thích, nay chỉ giải thích nghóa chữ “Trung” thôi! Muốn nói lại, trước hết căn cứ sở biểu. Do đầy đủ Tứ Tất-đàn; thường ưa Trung đạo, là Phó dục. Bay lên giữa trời, giữa ngày giáng xuống, là Vị nhân. Giữa đêm diệt, là Đối trị. Nói Trung đạo, là Đệ nhất nghóa. Các giáo đều có Trung đạo, chỉ có cái khác nhau là hữu thể, vô thể. Giải thích theo Bản tích: Quán lý Viên, là “trung” Bản. Chỉ bày lìa đoạn thường, là “trung” Tích. Kinh này là khai hiển Trung đạo. Nếu giải thích theo Quán tâm, thì tức Không tức Trung đầy đủ cả hai “trung”.  <卷>QUYỂN 1 (Phần Hạ) Giải thích phần “liệt kê chúng”. Đầu tiên, biện rõ thứ lớp, nói “nhiều như vậy”, nghóa là trong kinh cũng có Bồ-tát sau sẽ liệt kê, đều có chỗ tiêu biểu. Như Kinh Hoa Nghiêm không liệt kê hàng Thanh văn, thuần là Bồ-tát không lẫn lộn. “Xưa giải”: Phần nhiều là ngài Quang Trạch cùng đồng ý với Đại luận cho nên không biệt phá, chỉ tổng kết nói “tợ như hai giải thích”. Trong câu “Nghóa giải tự ước giáo v.v…” thì chữ “v.v…” là: Sự như nhân duyên, phải đầy đủ Tứ Tất-đàn, Nghóa tợ ước về giáo lại phải luận tám. Sự tức thân, cho nên thân sơ, Nghóa tức đế lý, cho nên nói Niết-bàn v.v… Hình phục sai khác nên là nghóa Thế giới Tất-đàn, “Thân” sinh thiện, “sơ” phá ác, không thân không sơ tức Đệ nhất nghóa. Trong “nghóa có” đã dùng ba đế, do đế đối giáo thì bốn có thể biết. Đối với bốn: Tạng v.v… mà biện rõ bốn: Tiệm v.v…, nghóa kia có thể biết. Lại hai cặp nghóa đều ưa Niết-bàn và bốn Bồ-tát đều không ưa không đắm, cho nên đều ở Trung, chỉ đến thật lý mới gồm năng lợi người, cho nên ở Trung cầu tông chỉ siêu phàm thánh kia. Nếu coi “nhập Trung” là Bồ-tát, thì chỉ Biệt giáo địa thượng Viên giáo trước sau. Chú gia nói: Thanh văn học “sơ”, thúc giục bên trong, Bồ-tát đạo “thân”, quên bên ngoài. Đây chỉ được Sự mà mất Nghóa, tợ Tích mà mê Bản, huống lại quán tâm nhân duyên ư? “Giải thích theo Bản tích” kinh này liệt kê chúng vượt ra ngoài các kinh, bởi vì Nhân, Thiên, Nhị thừa người năng dẫn vốn chẳng phải hạ địa, chúng sở dẫn kham thông biệt ký. Nói “thông”, là ý bao gồm. Nên nói: “Nội bí “đều là Đại tát-đỏa”, vì có khả năng “tích dẫn Nhị biên”, phán định chẳng phải phàm phu, Tiểu thừa. Cho nên, nói Tát- đoả. Bồ-tát lạm Bản nên lại không luận; nên biết cũng lại căn cứ thể dụng luận. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, thì “hậu vân vân” là: Cũng nên căn cứ nhân duyên nêu rõ quán các giáo khai hiển và Bản Tích quán. Giải thích “liệt kê Thanh-văn”, căn cứ Pháp Hoa luận dùng tám nghóa: Trước nêu Thanh văn. Hiển rõ tự thân nghe, sau không hủy báng. Nhiếp bất định tánh, hồi tâm nhập Đại thừa. Trừ tôn quí mạn chẳng cứu cánh. Thường theo bên Phật. Hình nghi đồng. Khiến nội quyến bỏ sự ham muốn. Khiến Bồ-tát cung kính. Khiến chúng sinh tin. Nhưng tám nghóa trong luận chỉ có một nửa nghóa thứ hai riêng thuộc kinh này. Do tánh bất định ở cõi này đắc, vẫn thiếu một nửa. Nếu tánh định thì cõi kia đắc, vị lai đắc. Bảy nghóa còn lại luận chúng trước sau, thông các kinh. Dùng nghóa thứ hai vào trong bảy nghóa còn lại, khiến bảy nghóa ấy mỗi một nghóa đều có nghóa thứ hai, mới khiến tám nghóa hoàn toàn tại kinh này. Nếu nương ý này thì lại có ba nghóa: muốn biệt ký, biệt khai quyền cho nên trước hiển Bản, bởi vì khiến các nghóa còn lại vónh viễn khác với giáo xưa, cho nên luận về văn ý các kinh nhiều như vậy, do đó thông thích. Nay khiến các giáo tuy cùng lại khác. Phương Đẳng trước liệt vào hạng dùng bốn nghóa: Vì muốn bài xích đoạt, muốn mật dẫn, khiến thể tin, khiến vị biến đổi. Bát-nhã cũng có bốn ý: muốn đào thải, muốn giáo phó nghiêïp, mật dẫn tiến, thành Thục-tô. Cho nên, biết văn Luận thông hai vị trước, như đều có bốn loại khác trước sau. Luận lại nói: Trước Tăng sau Ni cũng có tám nghóa: Nam tôn quí, nữ thấp kém. Nhập đạo trước sau. Thầy trò không đồng. Truyền pháp có và không có khả năng. Kết tập tiến thoái. Đồng trụ được, không. Nhiều ít nhường lại. Đắc tán thán có không. Tám thứ này hoàn toàn thông Tam-muội trước, phần nhiều tại giáo có vị Lạc. Nếu chuẩn đồng là Thanh-văn, thì vẫn thiếu ý thứ hai. Nay trong biệt chỉ trừ giao phó nghiêïp, chuẩn theo nghóa vẫn có, bởi vì đồng là Tỳ-kheo nghe chuyển giáo, nên khi giao phó nghiêïp chẳng phải hoàn toàn không có phần, các nghóa còn lại đều đồng nghóa Tỳ-kheo. Trong năm vị, chúng đương thời Tiệm giáo thì nghóa đó không khác. Tiếp, nêu xưa giải thích nói: “Đại Tiểu danh văn”: ý nói: Danh tức là tên mình, văn tức người khác nghe, do đó danh lớn nghe lớn, danh nhỏ nghe nhỏ. Nay chỉ “y văn” nên phá bỏ giải thích không căn cứ kia. Nói “y văn”: Chỉ căn cứ liệt kê nhiều ít để nêu rõ sự hiểu biết nhiều ít. Trước liệt kê “một vạn hai ngàn”, lại nói là “chúng sở tri thức”, sau nói “hai ngàn” lại không nêu “tri thức”. Nếu dùng “danh văn” để giải thích tri thức, thì văn sau hoàn toàn không có “tri thức”, làm sao có danh Tiểu, huống chi lại Đại Tiểu thừa hoàn toàn không nhờ vào đây? Đầu “giải thích loại”, trước giải thích chung năm chữ, tiếp “Thích luận…” giải thích riêng bốn nghóa, Tỳ-kheo hợp. Đầu giải thích chung năm chữ thâu nhiếp “các người có đức” cùng những người được nêu là “đại”, đâu chỉ khác với chúng dưới mà thôi, trong chúng Tỳ-kheo tiêu chuẩn đó lại nhiều. Ví như: bốn môn, ba giải thoát, chiết thể, thông trí biện Không, chỉ được nói là danh dự cao, còn đức hạnh đâu có thể luận đủ. Nay nói như hạng người cao quí. Tiếp, riêng giải thích bốn nghóa: Đầu, “Thích luận…” là giải thích riêng chữ “cùng với”(dữ). Đầu văn tức Nhân duyên giải thích. Nếu chia bảy nghóa theo Tứ Tất-đàn, thì: Thời, Xứ là Thế giới; Giới là Vị nhân; Tâm, Kiến là Đối trị; Đạo, Giải thoát là Đệ nhất nghóa. Nếu chuẩn theo ba thứ trước tại giáo xưa, thì bảy nghóa chỉ có ba Tất-đàn “Đạo, thoát…” đều thuộc ý Đối trị. Viên giáo thì bảy nghóa Nhất đều thuộc bốn Viên. Căn cứ giáo tuy Biệt cứu cánh mà chỉ có Viên, tuy bảy mà đồng cho nên bảy gọi là Nhất. Nhất tức là cùng chung. Tứ giáo chẳng đồng thông tại năm vị, đầy đủ thì như các kinh, không thể thuật hết. Lại nữa, căn cứ tán thán đức ở Tam tạng giáo: Đồng cảm Phật “thời”, đồng “xứ” Lộc uyển, đồng “giới” biệt giải thoát, đồng nhất thiết trí “tâm”, đồng vô lậu chánh “kiến”, đồng ba mươi bảy trợ “đạo”, đồng hữu dư “thoát”, đồng là người nghe. Khi nhập Thông tựa đã được thọ ký, toàn thành người Viên giáo bảy Nhất, đồng diệu cảm ứng“thời”, đồng thấy diệu y “xứ”, đồng đắc cứu cánh “giới”, đồng chứng chủng trí “tâm”, đồng vô tác chánh “kiến”, đồng viên thật “đạo” phẩm, đồng bất tư nghì “thoát”. Được thọ ký rồi, tức đồng Bồ-tát, đâu được lại dùng Thanh văn tán thán đức? Lẽ nào người kết tập lầm hạ thấp đức? Cho nên biết tại bốn vị, thời tùy vị mà biến. Kinh gia tùy theo Bản liệt kê ở Thanh văn, cho nên y Bản tán thán. Nếu không vẫn là Bản, thì sao biết Thanh văn có Quyền có Thật. Thật: thì được thọ ký, biết có chỗ theo. Khi nghe Pháp Hoa thì Đại tiểu có khác nhau. Cho nên, căn cứ giáo phán xét phải thông suốt trước sau. Bảy nghóa theo ba giáo, thì hoặc bản là ba, hoặc là chuyển nhập. Đầu, căn cứ Tam tạng giáo thì một thứ bảy Nhất vì sinh diệt đồng. Thông giáo thì có hai thứ bảy Nhất, vì phân lợi độn, lợi gồm Viên và Biệt, lẽ ra nói ba thứ bảy Nhất. Lại, Thông thì nói chung là đồng vì một tiêu chuẩn, Biệt thì nói vô lượng. Tự hành hóa tha ngang dọc đều bốn môn, mỗi một môn Tứ Tất-đàn nhập không đồng, Viên giáo nhất là Phát tâm và Tất cánh hai thứ không sai biệt. Nói nên đối bốn giáo vi tế nêu rõ cho đến giáo vị, trước phán sau khai. “Nếu chưa…”: một câu ước về Bản tích giải thích, cũng là căn cứ thể dụng mà luận Bản tích. Biệt giáo thì không có Thanh văn, chỉ nói Tạng Thông, nếu Thông bao hàm Biệt cũng có thể luận, vậy thì lược. Lại, Thời và Xứ hai sự lại căn cứ giáo mà luận, cho nên nói Thời Xứ trong Tang tạng giáo lại là một. Nếu theo thời xứ nguyên sơ đắc đạo, hoặc nhiều người cùng xứ, thì lược nêu như văn này, hoặc một người nhiều xứ thì như trong A-hàm nhiều thời xứ. Hỏi: Đến đây đâu được hai hạng Thanh văn ư ? Đáp: Cũng là từ đầu nói, đầy đủ như Huyền văn. Rộng trải qua các vị, khó chuyển dễ chuyển. Lại, có khi không trải qua chiết pháp vì vốn người Thông giáo v.v… “Trực tiếp nêu hai ý…” là muốn nêu rõ khai hiển. Trước lại biện khác. Nói khác ấy là an trí bảy thứ đồng. Lại bảy thứ trong Tạng Thông mà biện khác, thì có ba khác bốn đồng. Vì sao? Vì Thời, Xứ… bốn thứ không thể không đồng, như sở hội sở y sở bẩm sở chứng. Hoặc ba thứ: Tâm v.v…, sao có thể không riêng khác? Vì riêng tu, riêng kiến, riêng hành, đây vẫn là nhất vãng, cũng có thể giới pháp theo riêng mỗi mỗi đều đắc, giải thoát từ người mỗi mỗi đều chứng; vậy thì năm cái khác hai cái đồng. Lại, nếu từ người thì cũng có thể đều riêng biệt. Nay giải thích nghóa chung, không hợp để luận. Nghóa phân ra ba, bốn mới thành rộng rãi, Cho nên, lại từ bảy đồng để nói. Đồng và khác theo Biệt giáo, thì nói theo chuẩn có thể biết. Tiếp “Nếu đến…” chiùnh là nêu rõ khai hiển. “Pháp Hoa luận” nói rõ: Được khai thì có quyền có thật, Chưa khai thì đầy đủ bốn, Khai rồi thì chỉ một. Nay “thêm hạng Phật đạo Thanh văn”, vì căn cứ người mới nhập. Trong luận nêu “bốn hạng Thanh-văn” là quyết định, tăng thượng, thoái đại, ứng hóa. Luận tự giải thích: hai hạng sau được tbọ ký, hai hạng trước không thọ ký, vì căn độn chưa thuần thục. Lại căn cứ hội này tức trong kinh nói “Sinh diệt độ tưởng”, là tánh quyết định. Nếu người kia được nghe mà trong luận chưa nói, thì ngài Thiên Thân há có thể mê kinh ư ? Kinh nói: “Mà ở cõi kia được nghe Kinh này.” Luận lại một phen căn cứ hiện tại nói, vì vậy Sư nay chỉ loại trừ hạng thượng mạn, tức năm ngàn người đứng dậy bỏ đi. Tuy từ tòa bỏ đi vẫn phán trong Niết-bàn. Nếu bốn hạng Thanh văn y biên được nghe, thì hạng thượng mạn ấy cũng chẳng phải không nghe. Đã nghe lược khai và ở sau, chỉ vì không thể nói hội đây được thọ ký. Ba thứ chủng, thục, thoát từ đầu đến cuối không thể phế, cho nên chuẩn theo văn nay, viễn cận tương vọng, bốn hạng đều đắc. Nay nói “Trụ quả” bao gồm cả Quyết định và thoái Bồ đề. Vì “Trụ quả” biến đổi sai khác cho nên phân hai giáo, cho nên hai hạng tổng lập “Trụ quả”. Lại, “Phật đạo Thanh văn” căn cứ nghóa kinh mà lập, nếu vậy thì hai hạng Phật đạo và Ứng hóa Thanh văn đều có Biệt Viên. Hỏi: Ứng hóa và Phật đạo có gì khác biệt? Đáp: Ứng hóa Thanh văn, la øcăn cứ thùy tích, toàn là các vị Thánh xưa. Phật đạo Thanh văn, là căn cứ lợi tha, là người mới được thọ ký. Lại, “Ứng hóa” từ thân, “Phật đạo” từ thuyết. “Phật đạo” có nói lệnh khiến người khác, lại nói lợi tha. “Ứng hóa” có nghóa phát khởi, lại nói thùy tích, đã dùng Thanh văn làm tên. Ở xưa không gọi là Ứng hóa và Phật đạo, tại nay không gọi là Trụ quả và Quyết định. Trong hạng tăng thượng mạn há không có Ứng hóa? Tứ nhiếp đồng sự sao có thể ngăn cách hạng này ư ? Huống chi trong luận thì hạng Quyết định và Thượng mạn đã đồng nói là chưa thuần thục. Không thể Thượng mạn căn cũng mục nát. Nơi khác nói: “Chưa” là “không” vậy, nên người chưa chết gọi là không chết. Hạ chủng chưa sinh gọi là không sinh, cho nên cả hai hạng Thượng mạn và Quyết định đều có thể phát, là nghóa quyết định. Lại, trong đây dẫn luận giống như “Giải thích theo Bản tích”, Ứng hóa là Bản, ba hạng Thanh văn còn lại là Tích. Hóa vì ba hạng Thanh văn còn lại không có nghóa khác! Chỉ thiếu quán tâm, tức bảy nghóa Nhất của hai giáo trước là cảnh, bảy nghóa Nhất của hai giáo sau là quán. Lại Thời, Xứ, Giới, là cảnh. Tâm, Kiến, Đạo, Thoát là quán. Nghóa Thanh văn thì mênh mông, quí nhân chẳng luận, nhưng dùng giáo để nói Đại thừa Thanh văn thì chưa được thông hiểu. Nay nói Ứng hóa, là theo Bản mà nói, căn cứ chúng hoàn toàn ở trong Tiểu thừa. Nói “mênh mông” nghóa là: Tạng Thông… tám môn, mỗi môn bốn thứ, mỗi môn đều có “Phật đạo Ứng hóa”. Tích tại giáo trước, lại đồng số trước. Căn cứ Bản, lại ứng với Địa, Trụ. Địa, Trụ và hành hướng Địa, Thượng mạn sở lạm lại đồng số trước. Nơi khác thì không căn cứ giáo, xưa nay, Bản tích, quyền thật, khai hợp v.v… để giải thích, mà chỉ nói trụ quả và phương tiện v.v… Vì vậy, nên quí nói do chứng Niết-bàn. Nói “vân vân”, là đủ như trước nói. Giải thích chữ “đại”: Trước đã giải thích chung với chữ “dữ” (cùng với). A-nan cùng hai vạn người kia: Không phải trực tiếp cùng với người mà nên cùng với người có bảy thứ. Trong bảy thứ ấy đều là “đại” cho nên nói “cùng với đại”. Chữ “cùng với” đã có bốn giải thích không đồng, nghóa chữ “đại” theo lý phải căn cứ theo kia. Lại, trước nghóa chữ “cùng với” bao gồm Thời v.v…, nay giải thích chữ “đại”, chỉ ở người đầy đủ bảy, lại gồm nghóa Đa thắng. Lại, giải thích chữ “cùng với” nghóa gồm năng, sở. Nay giải thích chữ đại chỉ có sở. Đây theo A-nan chỉ người khác là đại. Trong đây đầu tiên dẫn luận văn vì Đại phẩm tại tiểu tâm chưa chuyển. Tiếp, nay ý Sư cũng đầy đủ ba văn, do mỗi một văn cũng bao gồm ba nghóa trong luận. Lấy ba nghóa này thông gồm Tứ Tất-đàn. “Đại” tức Thế giới, “đa” tức Vị nhân và Đối trị, “thắng” tức Đệ nhất nghóa. Lẽ ra nói rõ đầy đủ ba niệm cùng ngoại nhân có khác, và dùng ba niệm đối với nguyên do “đại, đa, thắng”, trở lại đem ba niệm để đối Tứ Tất-đàn, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển mười ghi. “Tứ Vi-đà”: Như dưới Kinh sớ quyển năm và Chỉ Quán quyển mười nói. Tiếp, trong phần “Căn cứ giáo để giải thích”, ghi lại phần đầu giải thích phán xét thuộc Tam tạng. Căn cứ văn trước, nên chỉ nói là “sở kính…” Trước từ: “Nay nêu rõ…” là ứng nghóa thông thiên viên, do trong văn trước lại đối ngoại giải thích, cho nên nói “giải thích theo Tam tạng”. Tiếp “Đại, là…” là căn cứ ba giáo sau. Đầu tiên nêu nghóa “đa”, chỉ là căn cứ sự, ba thứ sau không thể lại thêm số kia, chỉ căn cứ sở tri để giải thích “đa” kia (nhiều). Trước là giải thích theo Thông giáo “đại đa thắng” ba chữ, mỗi chữ đều đủ ba nghóa. Phần sau này về sau dần dần ưu việt hơn trước. Căn cứ Biệt Viên: Xưa tức từ ban đầu, nay từ khi được thọ ký, biệt còn giáo đạo. Nói “đại lực La-hán”: là “đại” trong hàng La-hán, tức là Vô nghi giải thoát. Tiếp, trong phần “Giải thích theo Bản tích”, đầu tiên thuật ba thứ “đại, đa, thắng” trong Bản, tiếp từ “Trong Tích…” là thuật ba thứ “đại, đa, thắng” trong Tích. Đầu tiên nêu bản đại, tiếp “Bản đắc…” là nêu bản thắng; tiếp “trước đã…” là nêu bản đa. “Than thở”, mưu sự, mưu tính nên mới than chẳng phải thường như vậy. Nói “Thắng tràng” là mượn văn Đại phẩm. Nói “vượt qua (siêu) các ngoại đạo”: Chuẩn theo lý nên nói vượt qua các thiên, Tiểu, chỉ vì sở siêu tuy gần mà năng siêu thì xa, đối lý cũng thành. Tiếp, “trong Tích”, đầu tiên chỉ ái kiến tức tại Nhũ vị, cho nên ở đây năm vị thông một vạn hai ngàn, hoặc Quyền hoặc Thật đều phải kinh qua. Nay theo Quyền, cho nên nói Tích. “Lâu rồi vậy vân vân”: đều có Bản từ lâu, tùy Bản dài ngắn, trung gian thiết hóa ngày nay cũng tại Thích Tôn trải qua các vị. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, trước trực đối ba, tiếp tuy căn cứ Trung nêu đầy đủ “đại, đa, thắng” mà cũng là ứng với căn cứ Không, Giả đều cả ba. Nói “nhất tâm, nhất thiết tâm”: Tâm cảnh đều có tâm đều thâu nhiếp tất cả. Tất cả không ngoài Tam thiên; đầy đủ như văn Chỉ Quán quyển 5 nói. Nếu chẳng phải Tam thiên thu nhiếp thì không khắp. Nếu chẳng phải Viên tâm, thì không thu nhiếp Tam thiên. Cho nên, Tam thiên tổng biệt bao hàm Không Giả Trung. Một văn đã như vậy, văn khác căn cứ theo đây, cho nên hướng đến nghóa năm vị thông cả trên dưới, văn nương trong đó. “Giải thích nghóa Tỳ-kheo”, dẫn lời ngài Triệu Công trong Sớ Tịnh Danh nói ngài La-thập và bốn đệ tử thuộc đời Ngụy Tần, cho nên gọi là “Tần nói”. Triệu Công nói có bốn nghóa: Tịnh mạng khất só. Phá phiền não. Năng trì giới. Bố ma. Ngài Cưu-ma-la-thập nói nghóa một là “đầu”, ba nghóa sau là “cuối”, đầy đủ hai thứ này thì ma bố (sợ), Phá phiền não và Năng trì giới là nhân Bố ma. Dẫn luận thiếu nghóa Năng trì giới, phá ác chỉ là Phá phiền não. Cho nên, chỉ ba nghóa mà thứ lớp không đồng và chung cả sơ tâm khiến ma sợ… cho nên nói phá ác. Vả lại tại thân khẩu, chẳng phải không đoạn hoặc. Đã đều ở ban đầu khiến nghóa của ngài La-thập hoại, sao lại để Trì giới Phá hoặc ắt tại “cuối cùng”? Lại ngài Triệu Công chỉ dịch tên kia mà nói danh bao hàm, không nói đầu cuối, nay học giả sao khiến ma sợ ư ? “Ngũ hệ”: Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói. “Thứ nhất Điền…”, Điền tức nông. Nên nói “tại gia bốn thứ như pháp” lại thêm Công. “Niết-bàn bảo lương…” nêu kinh nghóa lược, tuy lại không đủ ba nghóa bốn nghóa, mà phá ác là căn bản. “Nay nêu rõ ba nghóa này nên thông đầu cuối”, là nghóa thì nếu căn cứ giáo gồm bài xích hai ngài Triệu, Thập. Nay chẳng phải chỉ dùng luận văn thông sau, lại thông các giáo, huống chi luận chỉ thành một giải thích theo Nhân duyên. Nếu ở trong đó lập tứ Tất-đàn, thì Bố ma tức Thế giới Tất-đàn, Khất só tức Vị nhân, Phá ác tức Đối trị, xuất giới tức Đệ nhất nghóa. “Y Kinh gia…” nghóa ắt thông ban đầu, chứng tín ắt về sau, hướng đến trong giải thích Khất só dùng “cầu” để giải thích “khất”, mới dùng lìa tà trải cảnh cầu định v.v… là Tam tạng giáo. Chưa thể đối cảnh tức lý, cho nên đến Thông giáo mới nói lý cầu chân phá chướng… Biệt giáo nói tám ma mười ma: Phá ác đã giải thích nghóa ma rất sâu, cần phải xa, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển tám nói. Trong Viên giáo, chẳng phải không phá tám phá mười, chỉ coi Thật tướng là chánh, Phá ác là phụ. Bố ma cũng vậy. Trong phần “Giải thích theo Bản Tích”, các Tỳ-kheo ở đây sâu cạn chẳng lường cho nên chưa thể định phán địa vị kia. “Tích chỉ bày năm vị”, nếu không căn cứ năm vị thì chẳng phải Tỳ- kheo của kinh này. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm” thì “Gông cùm”: Là chân tay bị trói buộc. Hai đế như gông cùm, “đại tuệ” như cởi trói. Vận niệm là “vô trụ”, vọng cảnh là “vô trước”, cho nên không đắm trước cảnh trí thì ra khỏi hai nhà sinh tử. “Khất só, Bố ma” căn cứ giải thích có thể thấy… Trong câu “tức là Bố-ma vân vân”, thì chữ “vân vân” là: Trung quán đã vậy; Không, Giả và dùng thứ lớp không thứ lớp… đối giáo có thể thấy. “Chúng”: Dùng một vạn hai ngàn, sự pháp hòa. Nếu làm Tứ Tất-đàn, thì: phần đầu là Thế giới Tất-đàn, vì chúng hòa hợp. “Phật thường…” là Vị nhân, vì sinh vật thiện. “Thích luận…” là đối trị, vì phân biệt người ác. “Trong đó…” là Đệ nhất nghóa, vì tại chân thật. Nói “Sự hòa….” là Tăng, giới, pháp… đều thuộc sự. “Pháp hòa”: như bảy thứ cộng trước, đồng chân lý. “Chín mươi người đắc tam minh”: Trong đó gồm hai mươi chín văn đồng. Xá-lợi-tử hỏi Phật: Trong năm trăm Tỳ-kheo có bao nhiêu người đắc Tam minh, bao nhiêu người Câu giải thoát, bao nhiêu người Tuệ giải thoát? Phật đáp, như văn. “Tam minh”: tức vô nghi giải thoát, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy nói. “Tịnh mạng”, nói đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói. “Năm phương tiện”: Tứ niệm xứ và Tứ thiện căn. Ngũ đình tâm thì không phải pháp chánh quán. “Khổ pháp nhẫn trở đi”: sau Thế đệ nhất có mười sáu sát na. Đệ nhất tâm trở đi, thì gọi là chân thật. “Thiên Viên năm vị”: năm vị không ra ngoài Thiên Viên, Thiên Viên không ngoài bốn giáo. Nói “Nay chánh là…”: Đương chứng tín thời, đã thâu hoạch thọ ký. Trong phần “Giải thích theo Bản tích”, thì trong câu “Dẫn các chúng sinh vân vân”, chữ “vân vân” nghóa là: Đầy đủ như Huyền văn quyển bảy nói, trong nhị đế thì quả thật là căn cứ năm vị để nêu ý giáo vượt ngoài tướng trạng kia. Tiếp, trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, nói “Nếu khác…” là dựa vào kinh này thành pháp quán. Nếu không y trung đạo tuệ mạng quán hành thì nên gọi là “Tăng phá mười giới”. Không giải tướng cứu cánh Ba-la-mật, nhất tâm thập giới thuyên lượng luật, gọi là “Tăng ngu si”. Ngũ phẩm lục căn, gọi là “Tăng tàm quí”. Sơ trụ trở đi gọi là “Tăng chân thật”. Cũng hợp với chú thích… Trải qua nhị đế thập giới trước… và ước bốn giáo khắp làm tướng quán. Trong “phần thứ hai nêu Số” nêu thẳng số tức Nhân duyên. Cũng có thể trong nghóa đó lập tứ Tất-đàn: Số sai khác là Thế giới Tất-đàn, nghe số sinh thiện là Vị nhân, phá ác nhập chân, theo lệ có thể biết. Không giải thích theo giáo, vì giáo biệt số đồng nên giải thích không sai khác. Nếu tùy số sinh giải tức là giáo sai khác. Hỏi: Phàm liệt nêu chúng và người đắc đạo vì sao số kia chắc chắn hoàn toàn không thiếu? Đáp: Đại luận trong phần giải thích câu kinh “Một phần năm ngàn trong số lớn”, nói rằng: “hoặc tăng ít hoặc giảm ít vẫn còn là số lớn. Trong phần “Giải thích theo Bản Tích” nói “Bản là…” thì có người thắc mắc: Hỏi: Phàm nói Tích thì đều trước là có Bản, lẽ nào một vạn hai ngàn nguyên đều là đại quyền? Nếu vậy, thì chỉ có năng dẫn mà không có sở dẫn ư ? Đáp: Lý thật như vậy, chỉ muốn chia đều dùng bốn nghóa cho nên nói “đều có”, nhưng Bản không đồng, sự cần phân biệt. Nếu đã nhập Viên vị, thì người năng dẫn thành hai chúng Phát khởi và Ảnh hưởng, rõ ràng Bản là Bồ-tát, giáng xuống đây rồi, ngoài từng phát đại tâm cũng gọi là Bồ-tát. Người vốn trú Tiểu thừa thì đối với kinh Đại thừa chưa từng phát tâm, còn gọi là Bồ-tát. Trong đây đầy đủ có Thoái đại, Ứng hóa và vốn trụ Tiểu thừa. Hạng Thoái đại, Trú tiểu thì sau được thọ ký đều có thể làm chúng Đồng nghe. Hỏi: Tam chu thọ ký số người không nhiều, số đó không ở hội khiến vì chuyển nói , những người này lại chẳng phải, trong giới hạn của chúng Đồng nghe, vì sao trong đây một vạn hai ngàn ư? Đáp: Trong tam chu số chánh tuy ít, như khi Xá-lợi-phất được thọ ký, bốn chúng tám bộ được chuyển theo, cho nên trong tam chu cũng có hạng Ứng hóa cùng thực hành, đồng thời được thọ ký, cho nên trong Luận nói: “Thoái đại Ứng hóa hai hạng cùng được thọ ký”, tức ý kia vậy. Như chúng Bồ-tát chỉ nêu tám vạn, phẩm Phân Biệt Công Đức thì số được thọ ký có lẽ nhiều, nên biết hai chúng Đại tiểu liệt kê thành chúng Đồng nghe, không thể mong được thọ ký. Trong phần “Giải thích Số theo Quán tâm”, thì Giới, Nhập mỗi mỗi đều đủ mười giới, chính là đương diệu cảnh, các văn chỉ nương năng quán quán thôi! Núi và thành tuy căn cứ ấm làm sở quán, cũng chưa kết thành cảnh bất tư nghì. Lại đem số nhập vào Lý, số đó tức thành cảnh, cảnh quán tương đối đều gọi là “pháp môn”. Lại, cảnh căn cứ Giả biên mà lại còn số kia. Không, Trung còn không có, thì số kia làm sao có? Nhưng phải căn cứ Giả để lập Không, Trung, quán cũng như vậy. Trong “phần thứ ba: Giải thích Vị”, ban đầu nói “đều là La-hán”, căn cứ sau thì đều thành đại Bồ-tát, tức căn cứ giáo thì là người Viên vị. Trong đó trước dịch tên thì nghóa đương nhân duyên, tiếp xen lẫn nhân duyên để thành sơ giáo. Trong nhân duyên đầu tiên nói rõ nghóa “hữu phiên”. Kinh A-Bạt nói nêu cả hai năng và sở. Ứng là trí năng ứng, chân là lý sở ứng. Người dùng trí ứng lý, cho nên nói “ứng chân”. Kinh Thụy Ứng nói: “Tuy giống như nêu cả hai mà ý chỉ năng chứng, chân là sở chứng. Người chứng chân nên gọi là chân nhân. Ba nghóa như sau giải thích. Tiếp. Trong “vô phiên” có ba”: 1.Từ quả giải thích; “Hoặc nói…” là từ nhân; 3. “Nếu luận…” là phân biệt danh sở tùng. Trong nghóa đầu tiên nói “ruộng đời sau…”: “Đời (thế)” chỉ là hữu, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển sáu nói. “Chín mươi tám sử”, là trên tám mươi tám sử gia thêm mười tư duy. Nếu làm nghóa Tứ Tất-đàn thì ban đầu nêu “hữu phiên” tức Thế giới, trong “vô phiên” chung nhân là Vị nhân, sở tùng là Đối trị, tùng quả là Đệ nhất nghóa. Căn cứ trong giáo, nói “Bất tặc” cũng là theo Nhị thừa mà đặt tên. Nếu đối Viên Biệt thì vẫn còn gọi là “tặc”, vì vậy nên phải “sát”. “Bất sinh sinh”: Thủ vô vi chứng, sinh nơi giới ngoại, bất sinh đó là sinh cho nên không khiến sinh. Cùng cho sở ứng kia, gọi là “Cung ứng”. Như trong Kinh A-hàm nói: “đức Phật đến A-lan-nhã, nói với các Tỳ-kheo rằng…”, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói. Lại, nên phân ra hai giáo trước pháp năng sát sai khác, hai giáo sau “Bất tặc” cũng sai khác. “Đều tán thán đức Sơ địa Sơ trụ”: Trước các nhà hữu phiên (có dịch) thì dùng ba nghóa để đặt tên, tiếp các nhà vô phiên (không dịch) thì dùng ba nghóa làm nghóa, nghóa tức là “đức”. Cho nên, căn cứ trong giáo thì dùng ba nghóa làm đức. Nếu căn cứ nhập vị bất định thì đầy đủ nên nói Địa, Trụ trở lên, giáng làm Phật rồi trở lại, tức căn cứ Biệt Viên tán thán bản căn cứ trở lại. Trong phần “Giải thích theo Bản tích”, giải thích hai lần, đầu tiên căn cứ ba nghóa tiểu, tiếp căn cứ ba đức đại. Trước nương vào danh tích để trình bày Bản tích, sau là căn cứ danh Bản để thông đến Tích, muốn nêu rõ danh thông nghóa biệt. Nếu căn cứ thể dụng giải thích, thì trước giải thích theo dụng để nêu rõ thể, sau giải thích theo thể để lập dụng. Lại trước giải thích ba nghóa để thông xưa, sau giải thích ba đức mà chỉ nay. Nếu lâu xa bản tích thì bốn thứ đều là tích. Nay gồm hai lần cho nên đại tiểu đều lập tên Bản. Vì sức nghóa vô tận, cho nên chú thích “vân vân”. Sở dó Bản là bình đẳng đại tuệ, vô phá bất phá, mới năng chỉ bày tích các giáo Bất sinh. Bản chứng giải thoát vô tặc bất tặc, mới năng chỉ bày tích các vị Sát tặc. Bản đắc Pháp thân phi ứng bất ứng mới năng chỉ bày Tích làm “Ứng cúng”. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, trước trực tiếp dùng ba đức đối ba quán giải thích, do ba đức là cảnh nghóa có thể thông quán. Tiếp trải qua quán để đối giải thích ba nghóa trong danh, cho nên mỗi mỗi quán đều đầy đủ “Sát tặc”… ba thứ. Bên trên trong Bản tích, thì trước là đối giải thích danh, tiếp đối ba đức. Đây thì trước là đối đức, tiếp đối ba danh. Trong đó trước Không tiếp Trung. Trung lại có hai: Trước giải thích ba nghóa, tiếp, dẫn kinh chứng minh để chỉ cúng dường, tán thán danh tự, quán hạnh, vị, nhân, công đức sâu. Dẫn kinh văn Phương Đẳng, đầy đủ như Chỉ quán quyển hai nói. “Văn dưới nói…” là Phẩm Pháp Sư nói: “Phật bảo Dược Vương! Nếu có người ác, do tâm bất thiện chê mắng người tại gia, xuất gia đọc tụng kinh Pháp Hoa, thì tội ấy rất nặng”. Đầy đủ như văn dưới. “Bát phong”: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. bốn nghịch bốn thuận. Phật còn phải lâu mới lìa vô minh nghịch thuận, huống chi nhân gian ư ? “Mất thời cơ tốt”: nếu sinh ưu khổ thì lỡ dịp đạo hợp. “Đại tổn vân vân” Sở dó dẫn Phương Đẳng và kinh này vì hai kinh đây tức là danh tự quán hạnh bất sinh…, cho đến tất cả văn quán hạnh đều nên dẫn, chỉ vì trong đó quán hạnh vị thuận tiện. Trong đây “dẫn Pháp Hoa luận…” luận kia chính căn cứ tất cả mười sáu câu, đều có ba môn: Thượng thượng khởi môn, dùng sau giải thích trước. Tổng biệt môn, dùng một câu “đều là A-la-hán” gọi là tổng, các câu dưới giải thích trên cho nên dưới gọi là biệt. Nay trước căn cứ luận dùng Tổng biệt môn, không dùng các câu ở luận văn, chỉ dựa vào năm câu của diệu kinh để giải thích, vẫn hợp năm câu để làm ba đức. Nhiếp thủ sự môn: Trong luận liệt kê đủ tất cả mười sáu câu để giải thích đối sự, luận văn chỉ đem mười sáu câu để giải thích năm câu, không nói kinh thiếu. Cho nên, mười sáu câu nay văn không dùng. Từ đầu biệt cho nên tổng căn cứ giáo xưa tán thán. “Tam lậu”: 1.Dục lậu, là tất cả phiền não ở Dục giới, trừ vô minh. Hữu lậu, là tất cả phiền não hai cõi trên, trừ vô minh. 3.Vô minh lậu, là vô minh ở ba cõi. Dẫn hai luận một luật: “Thành luận” căn cứ nghóa mất, lợi thông nhân quả, “Luật” chuyên tại nhân, “Tỳ-đàm luận” chỉ quả. Do mất lợi nên nhân quả đều mất. “Bởi do…” là lại giải thích ba cái mất và nguyên do mất. Đầu tiên, giải thích mất lợi do nơi nghợp nhân, tức ý của “Thành luận”. Tiếp “Tạo các…” là giải thích nhân chiêu cảm quả, tức khổ sinh tử, nhân tức “Luật văn”, quả tức “Tỳ-đàm”. Tiếp “Bỏ Pháp thân….” lại giải thích ba câu, do ba lỗi trên nên mất ba đức, đoạ sinh tử nên “bỏ Pháp thân”, tạo nghiệïp nên “mất tuệ mạng”, lỗi đạo cho nên “mất báu quí trọng”. Ý nói: trong kinh một câu “các lậu” tức là phiền não, ba tướng mất đạo v.v… do đó mà có, đồng gọi là “lậu”, thế nên dẫn chứng. Tướng của “lậu” như thế nào? Cho nên ở đây biện minh rộng Kiến, Tư. Các câu dưới đều phá cổ nhân (người xưa) giải thích ba đức không đúng, cũng có thể thấy. “Phiền não…” giải thích câu tiếp, câu đầu căn cứ nhân quả tương đối, câu đây hoàn toàn nói nhân. “Sử… “là “chín mươi tám sử”, thông làm năng sử, đoạ lạc sinh tử lấy đó làm sở sử. “Lưu” tức Tứ lưu nghóa là Dục, Kiến, Hữu, Vô minh. “Ách” tên đồng với Lưu. “Triền” tức thập triền. Câu-xá nói: “Triền” có tám: Vô tàm, vô quí, tật, xan, hối, miên, trạo cử, hôn trầm, có khi là vì mười thêm phẫn, phú. “Cái” nghóa là ngũ cái. “Đãi đắc” là đến kịp, chánh vì trừ hoặc nên công đức nói kịp (cập). Nói “Công đức Trí, Đoạn”: là do trước “sát tặc” thành công đức Đoạn. Đoạn ắt đầy đủ Trí công, thành “lợi mình”. Do “lợi mình” cho nên kham “ứng cúng”. Tiếp, “Tận các hữu kết…” nêu nhân quả đều trừ nên rõ “tâm được tự tại”. “La-hán chỉ nên kết tận…”, “Hữu tận”, Chẳng phải nay tán thán cho nên nói “chỉ là trong nhân nói quả”. “Hữu”: Nghóa là báo tại hai mươi lăm hữu sinh xứ. “Tận tại không lâu”: Ví như Ca-diếp đợi cho đến khi Đức Phật xuất thế, cũng không gọi “lâu”. Nếu La-hán đều dùng biên tế định lực đem báo thân này nhập biến dịch, thì thân Phật sao nhập Niết-bàn ư? Nếu nói thân Phật quyền thị hiện, thì giáo kia văn nào nói quyền thị hiện ư? Hết thảy La-hán nếu đến thời Pháp Hoa đều hồi tâm, thì vì sao ngoại trừ bốn đại La-hán, mười sáu La-hán, còn lại đều nhập diệt. Nhục thân Bồ-tát đắc vô sinh lẽ ra đều không diệt. Câu “tâm tự tại” giải thích câu trên, hai giải thoát ắt lậu tận, nhân tận ắt quả vong, tuệ giải thoát tuy thoái mà đời nay ắt đắc. “Người câu giải thoát” ắt có tuệ, cho nên nói “cụ túc”, cho nên coi phiền não là giặc, sinh tử là sinh. Sở dó người xưa không hiểu ý chỉ đây, cho nên lầm lỗi. Thế nên, biết câu ngũ đức tam pháp chỉ là một. Y luận tổng biệt giải thích đã xong. Tiếp, nếu y luận dùng “Thượng thượng khởi môn” thì ý luận dùng câu đầu giải thích câu La-hán xong, cho đến dùng câu năm giải thích câu bốn, còn lại không giải thích. Căn cứ đây chính là các câu dưới lần lượt giải thích-câu trên, cho nên được gọi là “Thượng thượng khởi môn”. Vậy thì năm câu đối với câu La-hán cũng thành Tổng biệt và Thượng thượng khởi. Trong phần “Giải thích theo Bản tích”, đầu tiên nêu năm câu là bản ba đức, tiếp “Tích chỉ bày…”, là chỉ nhị thừa, năm câu ba đức là Tích. Đầu tiên, trở lại y vào xưa là đức Bất sinh, cho nên Bản trụ bí tạng chỉ rõ ba đức La-hán. Niết-bàn là tổng dùng đối Bất sinh, tức hai câu đầu. Chữ “phiền não” là câu “phiền não tận”. Chữ “lậu lưu” là câu “Các lậu tận”. “Không còn…” là giải thích hai câu trên, nêu rõ lìa nhị biên tức “Bản bất sinh”. “Pháp thân…” là giải thích “Bản lợi mình”. Hai câu trên tuy tổng nêu Niết-bàn, mà nay nêu Niết-bàn là lợi mình, cho nên phải thuật riêng. Trong hai câu này, thì câu trên nêu tu, câu dưới nêu tánh, tu tánh tương đối. Trí Đoạn đối Pháp thân tu ba đức. Hai chữ “thật tướng” là tánh pháp thân, hai chữ “công đức” là tánh hai đức. Bản lợi tu tánh, cụ túc chỉ đủ nhị thừa ba đức. “Được Vương Tam-muội….” là nêu rõ Bản tích hai câu bốn và năm, cũng y Sư xưa làm đức “sát tặc, phá hữu” tức câu thứ tư, ngã tánh tức câu thứ năm do phá phiền não tặc. “Vương Tam-muội”: Huyền văn giải thích hai mươi lăm thứ Tam-muội đều đầy đủ bốn nghóa: Các hữu tội lỗi. Bản pháp công đức. Kết hạnh thành. Từ bi phá hữu. Bản địa công đức, từ lâu đã thành tựu bản ba đức. Tội lỗi tức là ba thứ tặc…, bản ba đầy đủ tức kết hạnh thành. Bản, thời ứng cúng là phá hữu. Nay lại dùng nghóa xưa, do không mất Đại cho nên biết “đã tận”, cũng là “bất sinh”, tận kết nghóa thông sát tặc. “Tám tự tại ngã” cũng gọi là tám thần biến đầy đủ như trong Chỉ Quán và Thích Tiêm nói. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm” cũng đầy đủ năm câu: Đầu là hai câu nói đức đầu tiên. “Năng quán…” là một câu nói đức kế tiếp. “Chánh quán…” là hai câu nói đức thứ ba. “Tuy có phiền não…” là lập lại giải thích hai câu trong đức thứ ba. Đầu giải thích câu đầu. “Không đoạn…” là giải thích câu tiếp, “như không phiền não” là kết tận, “mà nhập Niết-bàn” là tự tại. Căn cứ danh tự quán hạnh, đều được gọi là “như không có phiền não, nhập Niết-bàn”. Trong “Phần thứ năm: Liệt danh”, đầu tiên tổng chia làm năm: 1. Hiện số. 2. Lập danh ý. 3. Chứng lập ý. 4. Tiêu Thích ý. 5. Dụng nghóa ý. Trong dẫn chứng phần nhiều dẫn kinh A-hàm, như trong kinh Tăng Nhất liệt danh bốn chúng, đều có thiên về tốt để dẫn đồng loại. “Mỗi mỗi có bốn giải thích vân vân”: tức nhân duyên… bốn thứ không liệt kê nữa. Nhưng các thánh nhân duyên phần nhiều dựa vào sơ giáo vì là bắt đầu cảm ứng. Cho nên các Thánh ban đầu nhân đều ở ngoại đạo, vì phá ngoại đạo, ở trong Thích chủng được điều phục, được dẫn dắt làm chủ và sẽ dẫn dắt tiếp chúng. Vì vậy nói đầy đủ sự nhập thai, lập hạnh, quyến thuộc, Thầy bạn, hoặc nghịch, hoặc thuận, năng hóa sở hóa. Dù có thủy chung cố chấp không chuyển, cũng là nguyên do đời sau được phá. Hiển bày các Thánh thì Tích không chỉ lập ra, mỗi mỗi ở đều có cảm ứng, cho nên nghóa Tứ Tất-đàn mỗi mỗi nên biết. Kinh Tăng Nhất kia nói chúng Tỳ-kheo liệt kê một trăm người, có người kiến lập phước, có người kiến lập doanh trại phòng xá, có người năng điều phục ngoại đạo, có người hay cung cấp vật dụng cho người bệnh, có người du hạnh giáo hóa, có người thôi làm việc, chấp tay ngay thẳng, có người ưa mặc y tốt, có người xấu bên ngoài không thẹn, có người ăn không chán đủ, có người nói năng thô vụng. Trong Ni chúng liệt kê năm mươi người: Như Câu-đàm-di Ni đầu đà khổ hạnh, Gia-thâu-đà-la hàng phục ngoại đạo. Trong hai chúng thế tục đều có điều tốt đẹp riêng. Chỉ nhân duyên các Thánh, thì văn nay lược, trong Đại luận nêu đủ rõ. Sự tích tuy biệt, đều là đại quyền. Trong phần “Giải thích A-nhã Kiều-trần-như” thì phần đầu là Thế giới. “Nguyện…” là Vị nhân. “Hạnh…” là Đối trị. “Thái tử…” là Đệ nhất nghóa. Đệ nhất nghóa đây vẫn tại giáo xưa chỉ do giáo lựa chọn tiến hay không hay không tồn tại, tùy sự chuyển mà giải thích khiến thuận tứ Tất-đàn. Đoạn dưới đều như vậy. Trước kia thờ hỏa: tuy thờ hỏa nhiều chẳng phải ban đầu đắc đạo hỏa không thành đức, cho nên bắt đầu đắc đạo được tên Chiếu Thiêu tức phá tối tăm, nhân diệt vật diệt thì quả mất, ban đầu quả tuy chưa mất sau ắt mất. Như người rơi xuống hang núi, không biết chính là biết không, Phạm âm là đảo, biết được không tức là chân đế, cho nên dẫn Chân đế trong Nhị đế. Tiếp dẫn hai kinh một luận: Bản tế chỉ là biết chân đế. “Nguyện”, là rút trong kinh Nhân Quả, tức Phật khi làm Bồ-tát bản nguyện độ trước. Tiếp, “Lại, Ca-diếp…” tức là nguyện mình. “Xét rằng đêm dài…” là Trần-như hưng khởi so sánh, sinh tử như đêm dài của thế gian, mặt trời xuất hiện khiến thức tỉnh. “Nhật quang”: là các đại La-hán và các Bồ-tát, cho nên ánh sáng của sao, mặt trời đều phá sự tối tăm lớn của tự thân mình. “Vào núi học đạo….”: Kinh Trung A-hàm quyển năm mươi sáu và kinh La-ma nói: Đức Phật tại giảng đường Lộc Mẫu bảo các Tỳ-kheo: “Có hai thứ cầu: 1. Thánh cầu. 2. Phi thánh cầu. Thánh cầu: an ổn Niết-bàn. Lúc ta làm đồng tử mới mười chín tuổi, đi đến chỗ ông A-la- la-ca-ma-la hỏi rằng: Nương pháp ông hành Phạm hạnh có được không? Đáp: Có thể được. Hỏi: Vì sao pháp này tự biết chứng? Tiên đáp: Ta đã vượt qua Thức xứ, đắc Vô sở hữu xứ; tức liền đến viễn ly xứ tu chứng đắc rồi, thì trở lại đến chỗ tiên thuật lại việc mình đã chứng đắc. Tiên hỏi: Ông đã chứng Vô sở hữu xứ chưa! Ta đã đắc ông cũng đắc ư ! hãy cùng nhau lãnh nhận chúng. Ngài lại nghó pháp này không đi đến trí tuệ, không đi đến Niết-bàn, đâu có thể lại cầu chỗ an ổn ư! Vì vậy nên lại đến chỗ Uất-đà-la-la-ma tử, nói: Tôi muốn học theo pháp của ông! Vị kia đáp: Được! Ngài hỏi: Ông tự biết chứng ư? Đáp: Ta vượt quá Vô sở hữu xứ, đắc Phi tưởng định, ta từ lâu đã chứng đắc. Ngài liền tu theo và đắc định, v.v… cho đến lãnh nhận chúng. Ngài lại nghó rằng pháp này không hướng đến Niết-bàn, liền bỏ đi đến núi Tượng đầu thôn Bề-la-phạm-chí bên dòng sông Ni-liên-thiền, trải tòa ngồi thiền, thề không đứng dậy, sau Ngài đắc vô thượng an ổn Niết-bàn, đạo phẩm thành tựu bốn trí đầy đủ. Tiếp đó, Ngài suy nghó ai đáng được độ trước, nghó rồi biết đâu có thể độ trước hai vị Tiên, trên hư không có tiếng nói: Hai vị ấy đã mạng chung, trải qua bảy ngày, ta cũng tự biết. Nghó rằng: Nên độ Uất-đà-la- la-ma tử. Chư thiên lại bảo vị ấy chết đã hai tuần, ta cũng tự biết. Nhân lại nghó rằng: Xưa năm người theo giúp ta rất khổ nhọc, nghó rồi quán biết năm người đó đang ở thành Ba-la-nại, rồi liền đi đến. Năm người kia xa thấy đức Phật tiến đến, liền bảo nhau rằng: “Sa môn ấy ham cầu nhiều ăn uống gạo lứt tô mật dầu mè xoa thân, nay lại đến đây chúng ta chỉ ngồi yên tại tòa mình, chớ có mời ông ấy ngồi”. Khi đức Phật đi đến rồi, với dung nghi đoan trang đónh đạc khiến mọi người cung kính đồng nói thỉnh mời ngồi và chia nhau đi lấy nước, trải tòa. Đức Phật ngồi xong trước hết dạy hai người, ba người đem thức ăn đến và sáu người cùng ăn. Tiếp sau dạy ba người, hai người đem thức ăn đến và sáu người cùng ăn. Phật lại dạy : Có hai thứ hành: 1. Đắm ngũ dục. 2. Đắm chấp khổ hạnh. Nên lìa hai thứ đó, gọi là Trung đạo. Tiếp vì năm người, Phật nói ví dụ, tiếp nói Tứ đế, năm người đắc quả vô lậu. Nhiều luận nói : Phật vì ba người hai người nói pháp. Đi đứng không đồng: do ba người là bên phụ thân, hai người là bên mẫu thân. Muốn biết rõ việc khất thực và việc thuyết pháp Bất không, thì căn cứ trong luận Bà-sa: Ngày đầu chia làm hai người thì sáu người cùng ăn, ngày sau chia làm ba người thì năm người cùng ăn. Do Phật tánh thì lìa phi thời thực, lúc bấy giờ đức Phật chưa vì đệ tử mà chế ra phi thời thực, trải qua ba tháng giáo hóa, hoặc nói bốn tháng, ngoài ra như luận văn. Nói ba người bên phụ thân: Nghóa là Mã-tinh, Ma-nam, Câu-lợi. Ngoài ra là bên mẫu thân. Đầu tiên thấy Phật đạo tướng bình đẳng: Thấy đầu tiên là Kiều- trần-như, vì người sau tướng trước, nên nói: Phật như cái trống, cơ duyên như dùi trống, pháp luân như âm thanh. Nghe đầu tiên: năm người đều là ban đầu, nhưng Kiều-trần-như ngộ đầu tiên nên gọi là “người đầu tiên nghe, hương đạo phẩm”. Cơ duyên xưa như thân, pháp luân như hương, đầu tiên ngộ gọi là uống cam lộ diệt lý. Pháp lưu tức Sơ quả, đăng chân tức Kiến đế. Phân biệt công đức luận nói: Vị trưởng tử đầu tiên của Phật tức Kiều-trần-như, vị đệ tử cuối cùng tức Tu-bạt, nay chưa thọ hóa nên không luận. Căn cứ trong giáo ứng biện rõ giáo sai khác chỉ nêu quán sai khác vì theo quán phán giáo, lý dễ phân chia nên uyển chuyển theo, dùng quán mà phân biệt. Huống chi một vạn hai ngàn người, thì Kiều-trần-như đứng đầu, Vô sinh chính là tông của các pháp quán, khiến nghe danh biết hạnh, theo người biết tâm, cho nên Đại sư tán thán Chương Sớ xưa nói: “Hận không thấy mặt kia chỉ hận không thấy người kia, nay thấy văn kia thì thấy tâm kia. “Nay như vậy…” tuy không thấy người mà chính thấy trí kia. Trong phần “Giải thích theo Giáo”: Ban đầu, người Tam tạng giáo không hiểu “bóng giả” cho nên dùng nghóa mù trong A-hàm làm thí dụ. Tổng lập thí dụ cảnh trí. Tiếp, “Đầu v.v…” là thí dụ cảnh nhân quả, như sáu phần hòa hợp thành thân, như hòa hợp thành nghiêïp, nghiêïp nương gá cha mẹ như hình đối bóng sinh, bóng ắt không thật, do cho là thật khiến ấm sau sinh khởi. “Mù ví như vô sinh trí”, không thấy ví như không chấp thủ. “Nếu mở mắt…” là nói rõ nghóa: “sinh bất sinh”, trong đó đầu tiên do chấp nhân nên quả sinh. Tiếp, “nếu nhắm mắt…” là dụ cho không chấp nhân nên quả không sinh. “Kính” (gương), là giúp nhân đắc quả, lại do chấp tâm duyên theo đó, mới trợ giúp nhân mà sinh quả. Văn dưới căn cứ theo đây. Trong đó có hai: Đầu tổng sau biệt. 1.Tổng nêu Bất sinh; 2. “Không thấy…” là tổng liệt kê nhân quả bất sinh. Tiếp, “Cho nên kinh A-hàm…” là ba khoa trong biệt chia làm hai: Đầu quán ấm, sau nhập giới. Trong quán ấm, có hai: Trước nói rõ ấm sinh làm cảnh. Tiếp “Nếu có thể…” là Vô sinh quán trí. Phần đầu lại có ba: Pháp, Dụ, Hợp. Trong Pháp nghóa gồm tổng biệt hai cảnh, nghóa là nhân chấp sắc tịnh nên bốn thứ còn lại đều tịnh. Lạc… cũng vậy. Vậy năm ấm đều tịnh, thường…, tức tổng cảnh. Trong đây, tưởng hành lẽ ra nói cho đến thọ, thức nên nói cho đến tưởng hành. Văn lại nhất vãng. Tiếp, trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, chia làm ba: 1. Chánh nêu dụng quán. 2. “Đã biết… ” là nêu quán thành phá hoặc. 3. “Như vậy…” là căn cứ nhân phá quả. Đầu văn lại có ba: Pháp, Dụ Hợp. Nên biết trong thí dụ Gương nếu không đối, mù thì Bản ở diễn môn, cũng có thể thông dụng, đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói. Trong Pháp có hai: Giải thích và kết. Giải thích có hai: Đầu, là biệt. Sau, “ Lại có thể…” là tổng. “Thảy đều vô thường…” biết trong sắc thiếu chữ “vô ngã”. “Đó gọi là…” là kết. “Như mù…” là dụ. “Đó là…” là hợp. Tiếp, “Đã biết…” nêu quán thành phá kiến, trong đây tức phá hai mươi thân kiến. Tiếp, “Như vậy… ” là căn cứ nhân phá quả, trong đó có pháp, dụ, hợp. Tiếp, trong phần “Quán nhập giới”, trước nêu cả hai nhập giới; tiếp theo là Chánh giải thích. Trong giải thích, trước lại nương đây tiện nêu nhân duyên, cho nên biết tiền ấm tức là niệm xứ quán, thuộc Tứ đế. Trong đó, cũng trước đại hải dùng dụ cảnh sinh. Tiếp, “Vì sao…” là lấy khổ chủng dụ quán bất sinh. Trong cảnh đầu tiên thì trước là căn cứ nhập, tiếp là dùng giới theo lệ. Phần đầu, trước là căn cứ hai nhập sắc và nhãn, rộng nêu rõ. Tiếp, “Nhó, tỷ…” là nêu mười nhập theo lệ. Đầu căn cứ trong nhãn sắc nêu đủ mười hai nhân duyên. Đầu tiên, trong Vô minh, dụ văn tại trong kinh A-hàm. “Ngũ bào”: hai tay hai chân và đầu. Trong Thí dụ thiếu năm trần. Tiếp trong quán chia làm hai: Đầu nhập, tiếp dùng giới theo lệ. Trong phần nhập có hai: Trước nói rõ nhãn sắc, sau dùng mười nhập theo lệ. Trong phần nhãn sắc có ba: Lược nêu bất sinh. Tiếp, từ “Vì sao khổ ?” Trở xuống: Ngược lại giải thích sinh. Từ “Nếu biết…” chánh nêu dụng quán. Đầu, trong lược quán chính lấy mùi hôi dùng dụ nhân duyên, đã do sân nhuế niệm dục là mầm giống khổ tức vô minh. Lại do chấp pháp trần thiện ác làm nước trùng giòi hôi thối là hành, hai thứ này không sinh nên mười nhập không sinh. “A-nhã tối sơ…” là kết, như văn. Trong Thông giáo quán dùng “cảnh tức” cho nên không cảnh lập trước, cũng chia làm hai: trước là ấm, sau là nhập giới. Trong ấm, cũng có hai : trước là tổng, sau từ “Lại, quán…” là biệt. Tổng là tổng dùng gương tượng dụ năm thứ, biệt là năm dụ đều biệt thí. Cả năm, đều là đầu dụ sau hợp. Trong tổng thì trước là căn cứ sắc ấm, tiếp là dùng bốn thứ theo lệ. Cũng như dùng khăn bịt mặt mà cầu thấy trăng thì không thể được, người cùng gương soi đều gọi là huyễn, nhân duyên đều từ nhân duyên sinh. Nhân thật duyên thật hòa hợp sinh, mà còn tự như huyễn huống chi cái do huyễn nhân duyên sinh mà không phải huyễn? Như khăn như dược đối với thỏ, gọi là thật, thỏ đối với khăn dược, gọi là huyễn. Gương tượng cũng vậy, huống chi nay trước thấy nhân duyên như huyễn, tượng không phải huyễn ư! Chi tiết đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói. Nay lại lược biện minh khiến biết quán biệt, cho nên không luận rộng. Nay cũng có đủ hai Không. Tiếp, “Quán căn trần…” là quán Giới Nhập, cũng lại nương Giới Nhập để nêu rõ nhân duyên nên nói “vô minh v.v…”. Trong đó có hai, trước là nói căn trần vô minh, tiếp “phiền não…” là nói ba đời tức mười một chi, đều có dụ và hợp. Trong dụ nói căn trần tụ lạc, là văn trong Đại Kinh quyển hai mươi mốt nói. Lại dùng cơ quan để giải thích thành nghóa căn trần hòa hợp. Kinh nói: Ví như có vua đem bốn con rắn độc bỏ vào một hộp. Sai người nuôi dưỡng cho ăn và nhìn xem chúng nó nằm hay dậy, nếu để cho một con rắn nổi sân, thì ta sẽ theo pháp giết bêu ngoài chợ, người ấy nghe vua nói xong liền bỏ hộp rắn chạy trốn. Lúc bấy giờ vua lại sai năm người Chiên-đà-la cầm dao rượt theo, mật sai một người trá làm thân hữu mà nói rằng: Ông có thể trở về. Người kia không tin, nương tựa vào tụ lạc, đều không thấy người, cầu vật không được, liền ngồi xuống đất, nghe trên không trung có tiếng nói rằng: Đêm nay sẽ có sáu đại tặc đến. Người kia sợ hãi lại bỏ đi, cho đến giữa đường gặp một con sông chặn ngang dòng mà đi v.v… Hợp lại nói: Rắn nếu hại thì người không đọa vào đường ác, người không có sức tam học ắt bị ngũ ấm ví như năm người Chiên-đà-la hại, như không biết ái giả làm người thân dối trá. Phải quán, xem sáu người ấy như ở tụ lạc không người mà gặp đám giặc trụ ở sáu trần sáu nhập, muốn bỏ thì lại gặp dòng phiền não chảy nhanh, nên dùng thuyền đạo phẩm, vận tay động chân vượt qua sông Phân đoạn sinh tử, hàng Thập trụ chưa tránh thoát chỉ có Phật mới cứu cánh. Kinh văn bản dụ tam thừa thủy chung, nay dụ Thông giáo Thanh văn quán pháp. Nói “cơ quan”: “Cơ” là cơ nhỏ nhiệm nghóa có thể phát khởi, “quan” là chi tiết liên quan nhờ người mà động. Phàm kết thân khẩu đều do ý động mà thành tác nghiêïp. Đã nói “tụ không” tức vốn không. Nói “vân vân” là bỏ bớt đi văn nói về Giới, đầy đủ như trên trong Tam tạng giáo đã nêu, nhất vãng lại như vậy. Nếu theo tu quán chẳng thể hiểu được như vậy. Tiếp, trong phần “Biệt quán”, cũng trước dụ cảnh trí. “Nếu muốn…” là khởi hành. Trong phần đầu thì trước là lập cảnh trí, tiếp “Màu xanh…” là nêu cảnh thể lượng, sau “Đều đối…” là kết ý. Trong phần đầu lập thì trước là cảnh, tiếp là quán. Trong phần cảnh, đầu nói “gương dụ cho pháp giới”. Thông giáo coi “mê ngộ, sự lý, trước sau, tự tha” đồng y một pháp giới. Chân như tại mê năng sinh cửu giới, tức chỉ quả Phật làm Phật pháp giới, cho nên, tổng nói mười. Vì vậy người Biệt giáo thì vô minh che lấp lý làm nhân của cửu giới. Cho nên, trong văn tự hành hóa tha đều phải đoạn cửu, cửu tận mới gọi là duyên liễu đầy đủ, vì đủ nên chánh nhân mới rốt ráo hiển. Tiếp, “thể lượng”: Trong đây chỉ dùng tám pháp “xanh v.v…” dụ cho mười giới, hoặc ly hoặc hợp tùy tiện mà nói, cho nên hợp nhị thừa và dùng nhân thiên, lại lược bớt Tu-la nhưng khai Bồ-tát cũng có thể Sơ địa làm Phật pháp giới. Các văn khai hợp tùy nghóa căn cứ có thể biết. Lại “xanh, vàng v.v…” sơ tâm Biệt giáo cùng Tạng không khác biệt, cho nên được. Nếu dùng dụ trong kinh Chánh Pháp Niệm, thì chỉ thêm “ngắn, dài…” mà thôi! Nói “đều ở trong gương”: là không ra ngoài pháp giới, pháp giới không ngoài mê ngộ, mê ngộ không ngoài tâm. Tiếp, “khởi hạnh” lại có năm phần: Chỉ phần hạn tự hạnh hóa tha, do trong Biệt giáo không có tánh đức cửu, nên tự tha đoạn, biệt tu duyên liễu, mà nghiêm bản hữu thường trụ pháp thân. Tiếp “Y nơi pháp giới…” là y cảnh khai hạnh cũng chỉ lý bị chín giới che lấp mà làm sở y. Pháp giới chỉ là pháp tánh, lại là sở y của mê ngộ, trong đó cũng nên nói: Từ vô trụ bản, lập tất cả pháp, vô minh lấp che (phúc) lý, năng phúc sở phúc đều gọi là vô trụ. Chỉ vì “tức và bất tức” khác nhau, mà phân giáo sai khác, nay ngược mê thành ngộ, chuyên duyên lý tánh mà phá chín giới. “Thứ đệ….”, là nêu nhân diệt. “Nếu không có…” là nêu quả diệt. “Sinh cũng…” là tổng kết nhân quả. Song nêu bất sinh, tức Giới nội ngoại hai sinh, bất sinh. Hóa vật biện theo chiều ngang thì văn thiếu, không luận. Tiếp, trong phần “Căn cứ Viên giáo quán Vô sinh trí ”, thì trước dụ, sau là hợp. Trong dụ, nói “Quán gương” là nhất pháp giới. “Đoàn viên”: là lý cảnh trí, “quán” tức là trí, “đoàn viên” là cảnh. Tiếp “Chẳng quán…” là nêu quán tướng, “sau lưng” tức vô minh, “trước mặt” tức trí minh. “Gương” là nhân mười giới. “Hình” là duyên mười giới. “Tượng” là quả mười giới. Lại “Gương” chiếu sáng tánh mười giới. “Tượng” sinh tu mười giới. Cho nên “hình, tượng, tu, tánh” đều đủ mười giới, đều không ra ngoài gương lý pháp tánh. Thấy rõ “hình, tượng, tu, tánh” bản như, trong ngoài gương một lần lìa tình tưởng phân biệt theo ba giáo, tổng dùng Bất nhị vô phân biệt trí, y lý thông suốt thì tiêu mất cái sáng tối của tâm cảnh, cho nên nói “chẳng quán”. Quán cảnh không khác, lý không sáng tối nên nói “Chẳng phải sau lưng…”. Căn cứ tu đắc mà thuyết, nên nói “Chẳng chấp….”. Tiếp, “Chỉ cần quán…” kết ý trung, “chỉ cần” là tổng lược xuất tướng quán kia, không mưu toan mà chiếu, “chỉ cần quán đoàn viên” vì “vô thủy chung” nên “không bờ bến”. Vì bản hữu nên vô thủy, vì thường trú nên vô chung, sáng tối như trước. “Không một khác”: là song phi tượng vô tượng. “Chẳng chấp….” là hợp. Đầu tiên, “Chẳng chấp….” là tiêu mất mười giới trước, thiện ác sáu giới, dùng sáu đối tiểu nên nói “tà chánh”, do Bồ-tát Phật dùng đối nơi tiểu cho nên nói “Đại Tiểu”. “Hết thảy đều tiêu mất”, cho nên đều nói “không”, không còn phân biệt hoặc “tánh” hoặc “tu”. “Chỉ cần duyên…” là tiêu mất tâm cảnh trước, do “pháp tánh thật tướng” tức là tam đế tam quán, hết thảy Phật pháp đều đại. Hoặc “tiêu mất” hoặc “chiếu” đều là pháp tánh. Thể của pháp tánh thì lìa mất lìa chiếu, cho nên toàn là mất chiếu. “Quán phiền não…”: Nêu quán thể, chỉ quán ba đường, sinh tức khổ đạo, ba đạo tức ba đức. Trong đó đầu tiên tổng nêu lập quán, từ “Ấm nhập giới tức Pháp thân” trở xuống, là dạy dùng quán pháp. Bản quán lý là bất quán nhiễm trừ ; thể của nhiễm tự hư, bản hư gọi là diệt, cho nên diệu thể diệt, không lập tên “trừ” Thể của chướng tức đức, không đợi chuyển trừ, cho nên nói “sinh tức vô sinh”. Tiếp “Giải thoát tức nghiêïp….” là kết thành vô sinh. Tiếp, “Chính tam Bất sinh…” là phức sơ tổng kết. Tiếp “Huống chi biến dịch…”: lấy trọng so sánh khinh, giới nội chướng nặng mà còn là diệu đức, huống chi ngoại giới nhẹ ư ! Nay vẫn căn cứ tột cùng là ba đường, nếu luận đủ thì nên căn cứ ba pháp, trong đây căn cứ Viên quán, không đồng với Tạng Biệt trước cảnh sau quán, bởi vì hoặc pháp hoặc dụ đều không hai, nói “tuy tợ Thông quán cảnh Biệt”. Sở dó trong phần “Giải thích Kiều-trần-như”, giáo tướng căn cứ quán, vì nghóa kia rộng dùng đó làm đầu tiên. “Nếu nghe chữ A hiểu tất cả nghóa” trở xuống, là nói các Thánh tuy tùy sự riêng biệt, mà luận quán hạnh của họ không ra ngoài Vô sinh, như Đầu-đà Đẩu-tẩu cho đến Mật hạnh, cũng đâu có ngoài Trí Đoạn Vô sinh, cho nên văn dưới căn cứ đây có thể biết. Nói: “vân vân” là đáng lẽ phải nêu đủ mười thừa mười cảnh và phương tiện v.v…, hoàn toàn chỉ một bộ văn Chỉ Quán. Cho nên Chỉ Quán phá khắp, trong đó cũng lấy Vô sinh làm đầu, nên nay lược chỉ đại cương. Nếu đối A-nhã mà quyền thật thủy chung không mê, muốn dùng Viên quán để hiểu năm Phật trong kinh này thì tam chu, bản tích, lưu thông đều là đại thể của Vô sinh, tức năng gồm biết một đời quán cảnh. Cho nên, phần nêu tên thì lược chỉ khái quát, như người đời vì con lập hiệu còn có tiêu biểu huống chi các Thánh giả lẽ nào lại không? Nếu không như vậy, thì uổng phí thiết lập tên gọi Vô sinh, vónh viễn không có ý chỉ Vô sinh, Đại Tiểu lẫn lộn, quyền thật mờ mịt. Đây một đã rõ, ngoài ra theo lệ như đây. Trong phần “Giải thích theo Bản tích”, thì đầu tiên căn cứ năm vị, chiùnh là chỉ bày Bản tích, trong đó chữ A hiển khắp tám giáo. Tiếp, “Chúng sinh…” là khuyên chúng sinh tư duy đủ thì công năm thời hoàn tất. Tiếp, “Chẳng phải bổn…” là nêu rõ công thể dụng bất tư nghì xong. “Cho nên văn dưới nói….” là dẫn khai tích chứng, nói các thứ cũng không ra ngoài năm thời tám giáo. Lại, tùy bản ngắn dài, tất cả kinh dù hạn độ bao nhiêu đều thuộc năm thời tám giáo, chỉ bày không sinh. Dẫn “A-hàm”, là dẫn Tích chứng Bản, nhờ Bản Tích trong Tích chỉ bày sự cao thấp kia, bản địa cao thấp chẳng phải đây có thể kể lại hết. Tạp A-hàm quyển ba mươi mốt nói: Phật ở Xá-vệ, vào một đêm tối trời mưa nhỏ, bảo với A-nan rằng: ông lấy lọng che đèn đi theo Phật, A-nan nhận lời dạy đi đến một nơi, đức Thế Tôn mỉm cười. A-nan bạch Phật, Phật dạy: “Không phải không có nhân duyên, ông nay cầm lọng đi theo ta, ta thấy Phạm Vương cầm lọng che đèn đi sau Kiều-trần-như, Đế Thích-cầm lọng che đèn đi sau Ca-diếp, cho đến Tỳ-sa-môn thiên vương sau Kiếp-tân-na… Do đó thiên thông tựa: “Như thị” cho đến các Thánh đệ tử đều đầy đủ bốn giải thích. Do “Như thị” thông chỉ một bộ, Ngã văn năng văn một bộ. “Thời, Xứ, Giáo chủ” ắt không cách khác, đều là đại lược kinh này. Huống chi các đệ tử tại Đại tại Tiểu, hoặc hiển hoặc tối, là chủ là bạn, thị hiện ấp úng hay lưu loát, có cong có thẳng, chán ngoài, ưa trong trái Đại hướng Tiểu, dẫn Tiểu nhập Đại, hội Thiên qui Viên, từ nhân quả đều vì chúng sinh làm “chủng, thục, thoát” quá khứ, vị lai hiện tại đều lợi ích, chỗ trải qua đã nhiều thời xứ chẳng phải một. Bởi do cơ duyên chúng sinh thuần thục chưa đồng, nay đã đều hội, dùng xưa hướng về nay khiến Giáo, Nhân, Pháp nay tốt đẹp. Cho nên, dùng bốn cách giải thích khiến liễu cơ, ứng từ ngoài đến trong, sau nhập Pháp Hoa Bản Tích hai môn, trước sau ngộ nhập, đều nhờ chúng ảnh hưởng và chúng phát khởi dẫn dắt. Tùy nghe một câu hoặc nhân hoặc pháp, đều thành oai nghi hóa độ, đều có thể làm quán. Vì thế đối với một người đều giải thích theo các cách, huống khiến đời sau nghe danh khởi hạnh, thọ giáo biết thể, tư duy Tích thấy Bản, dùng nhân duyên kia rộng chiếu từ đầu đến cuối. Nếu hiểu được ý này, thì dù là nơi một người, một câu kinh đều có thể dùng làm cảnh thượng cầu, có thể để biết cơ duyên hạ hóa, có thể để hiểu Thánh giả hóa nghi, có thể để hiểu biết phàm phu bẩm thọ lợi ích, có thể để thông đạt danh nghóa đồng khác, có thể để biết Lý, Hạnh v.v… sai khác, có thể để biết tùy nghe thành quán, có thể để hiểu nhân pháp tích bản, có thể để tin hóa sự lâu dài, có thể để ngưỡng mộ ân Thánh khó báo, có thể để biết chúng sinh khó hóa, có thể để biết hội lý rất khó. Người khác không thấy thì cho là phiền phức. Huống chi hiểu được ý này, hể nghe các kinh một pháp một sự một nhân một hạnh thì hiểu việc Phật trong mười phương ba đời, chỉ trừ Tịnh độ còn lại các trần thi hóa, huống lại cũng để Tỳ-kheo tư duy việc đó. Cho nên, biết chư Phật dụng giáo hiện thân tuy lại không đồng, nhưng môn Tư Tu thì lý không sai biệt.  PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ <卷>QUYỂN 2 (Phần Thượng) “Ca-diếp” trong Duyên Khởi truyện nói rất rộng, đâu có thể viết đủ ra đây. Ca-diếp là họ cho nên gọi là “Thị”. “Phụ đồ”: như bản đồ con sông ở phương này. Kinh Thập Nhị Du nói : “Đức Phật thành đạo rồi đến năm thứ ba mới độ năm người, năm thứ tư hóa độ đại Ca-diếp và ba anh em, năm thứ năm hóa độ Mục-kiền-liên và Thân-tử”. “Tụ lạc”: là chỗ nhiều người ở. Chỉ hơn người đương danh, “sợ hơn vua”: dân chúng không thể hơn vua. Tam xả: Xả đây về sau. “Thời sau Phật nói…” là kinh Tăng Nhất nói: Đức Phật tại Ca-lan-đà cùng năm trăm Tỳ-kheo, lúc ấy Ca-diếp đi khất thực đến trước chỗ Phật trải tòa ngồi bên Phật. Phật dạy: “Ông nay tuổi đã già yếu, có thể bỏ việc khất thực và mười hai hạnh Đầu-đà, cũng có thể thọ Đàn-việt thỉnh và thọ trưởng y”. Ca-diếp bạch Phật: “Con không theo Phật dạy. Nếu Như Lai không thành Phật, thì con làm Bích-chi-phật, pháp Bích-chi-phật suốt đời hành hạnh Lan-nhã”. Phật dạy: “Lành thay! Lành thay! Lợi ích rất nhiều. Nếu Ca-diếp hạnh hạnh Đầu-đà ở đời, thì pháp của ta trụ thế lâu dài, tăng trưởng lợi ích nhân thiên, ba ác đạo diệt, thành đạo tam thừa”. Luận Thập Trụ Bà-sa nói: Mười hai hạnh Đầu-đà, mỗi hạnh đều đầy đủ mười thứ công đức, rộng nói trong phẩm Thập Nhị Đầu-đà, quyển thứ mười bốn. Kinh Tăng Nhất quyển bốn mươi sáu ở trong Tăng Thập Nhất, văn nói : “Dưới gốc cây lộ tọa hợp đó làm một, cho nên biết pháp tướng không thể nhất chuẩn. Đại luận quyển bốn mươi chín nói : “Vô sinh nhẫn là mười hai hạnh Đầu-đà thuộc Thông chẳng phải Tạng”. Cho nên nay “căn cứ Giáo” thì cùng tột ở Niết-bàn, có không đồng khác, như Chỉ Quán quyển bốn nói. “Tứ thần Tam-muội”: là Tứ thần túc định. Do tứ thần túc mà có bốn dụng này. “Vô hình”: là năng ẩn mất. “Vô lượng ý”: là biết tâm người khác. “Thanh tịnh tích”: là năng biến uế. “Bất thoái”: là có khả năng nhập ác. Nói “tứ định”: đây là quyết định định đắc các thiền, và do vô lậu mà năng khéo giảng trạch giới pháp đầy đủ; do các việc đó mà đắc bất thoái chuyển. “Văn-đà-kiệt Vương”: là Đảnh Sinh Vương. “Thiên nhân đều…” là kinh Tăng Nhất nói: Ca-diếp nghe Thiên nhân đều xưng là Phật Sư, nên khởi gọi Phật đầy đủ: Phật là thầy ta, ta là đệ tử. “Lại, Ca-diếp…” như biệt dịch A-hàm quyển hai mươi nói: Đức Phật ở tại Ca-lan-đà, Ca-diếp cùng với A-nan vào thành khất thực. A- nan nói: Chưa đến giờ khất thực, hãy đến Tịnh xá Tỳ-kheo ni. Ca-diếp đồng ý và nói: Các Ni xa thấy chúng ta đến rất vui mừng. Trải tòa ngồi xong, Ca-diếp liền vì Ni chúng thuyết pháp. Lúc bấy giờ Du-la-nan- đà tâm không vui, liền riêng nói : “Trưởng lão Ca-diếp ở trước A-nan thuyết pháp, như trẻ con mua kim châm đến Thầy châm muốn cầu bán kim, cuối cùng không thể bán. Ca-diếp cũng vậy ở trước A-nan mà nói pháp”. Ca-diếp có thiên nhó, từ xa nghe, bảo A-nan: “Đâu đủ đáng lạ!” Ca-diếp ở trước Tỳ-kheo ni làm sư tử hống. Từ tòa đứng dậy liền trở về chỗ ở, nay văn theo lời Ca-diếp nói với Ni, tức là “Ca-diếp Sư tử hống”. Lại nữa biệt dịch pháp khất thực trong kinh A-hàm: Từ nhà đến nhà, không đủ liền thôi. Có chỗ nói: Đến bảy ngày không đủ liền thôi. Bốn đại đệ tử: Ca-diếp, Tân-đầu-lô, La-vân, Quân-đồ-bát-hán. Văn nêu bảy đại. Nếu bao gồm bản tộc đại và chư thiên luyến mộ là từ bi đại, thì hợp làm chín đại. Nếu lấy đây làm tứ Tất-đàn thì: tánh (họ) và xả thọ tức là Thế giới, ba hành đại tức là Vị nhân, nghe danh thấy hạnh đều sinh thiện, cho nên thứ tư ấn khả, tức là Đối trị, do Phật ấn khả dứt nghi quái lạ, nên địa vị cùng với từ bi tức Đệ nhất nghóa. Bởi vì Kiến lý thì nhập vị, cho nên Tập pháp Trì pháp đều là công nhập vị. Trong Tập pháp, dẫn lời ngài Triệu Công nói “Tập pháp nhiều công”. Lại, văn nói “vị đại”: là không riêng luận địa vị vô học, mà do đức cao vọng trọng thì giữ chức vị đại. Nói “vân vân”, là nhân duyên dù nhiều đều thuộc về tứ Tất-đàn. Tiếp, “Căn cứ Giáo giải thích Đẩu-tẩu”, trước là căn cứ sự cảnh, tiếp “Lại căn cứ khất thực…” chính là căn cứ đế quả để phân giáo biệt. Trong sự cảnh, nói lìa năm sự sợ hãi: Vương, tặc, nước, lửa, ác tử. “Hai, là áo…”: từ ban đầu theo thứ tự dùng số đối, chỉ trong văn thiếu “thứ tự Khất”. Ba giáo bên dưới đều lấy việc đầu làm cảnh. “Thuyết”: là phải theo giải thích. Mười hai hạnh Đầu-đà đều tác “tám mươi tám sử” ba mươi bảy phẩm… Đầu-đà đã vậy, huống chi các hạnh yếu kém khác, được tham dự vào dòng đạo, nghe thắng pháp này mà không tự tỉnh tâm hạnh ư? “Tương tợ tương tục”: Niệm niệm sinh diệt mê gọi là tương tục, phàm phu không hiểu vọng cho là thường. Ba thọ đều khổ, thọ thích ý, đó thật là khổ. Động chẳng tự tại, động nên vô ngã. “Thông giáo”: Sự cảnh chỉ trước, chỉ căn cứ hành tướng để biện rõ đế quán, cũng ứng khả kiến. “Biệt giáo”: Pháp thân làm chỗ nương, kỳ vọng tâm pháp thân tu hai đức. Văn sau nói “vân vân” là không dựa theo nêu ngang dọc vị vị Đẩu-tẩu. Biệt vị, ngang dọc tự tha môn hộ không thể chợt đủ. Viên giáo đã nói trụ xứ tức hai, nghiệm biết tức là vốn có ba đức, tu đắc cũng như vậy. “Một tức tất cả…” không ra ngoài ba đức. “Một tức tất cả” là hạnh y (áo), “tất cả tức một” là tuệ thực. “Chẳng phải một chẳng phải tất cả” là thân xứ. Nói “vân vân (v.v…)” là chưa nêu hạnh tướng đối với Đầu-đà . “Giải thích Đẩu-tẩu theo Bản tích”: nói “xả pháp ái”, đã nói “cùng với Như Lai đồng đắc” tức xả hai ái chân tợ, cho đến bất cứ tại địa nào, địa địa đều ly ái, cho nên luận bản từ lâu, tức bản địa ba đức. Tích, chỉ năm vị Đầu-đà trong sự như: áo… Phàm giải thích đại ý theo Bản tích như trước đã nêu trong phần nêu Số. Trong phần “Giải thích Đẩu-tẩu theo Quán tâm”, thì trong câu cuối : “Nhất tâm trung Đẩu-tẩu ngũ trụ vân vân”, nói “vân vân” là cũng không rảnh thuật đủ thứ lớp các quán. Viên Đầu-đà: Chánh đương ba đức của bất sinh bất sinh, cho nên bên dưới ba người lại đối ba đức. Lý kia rõ ràng đồng. Trong phần “Giải thích tam Ca-diếp”: “Sát”: nên gọi là Sát-ma, Trung Hoa gọi là “điền”, tức cõi nước thuộc quyền giáo hóa của một đức Phật. Nay gọi “sát trụ”, là tiêu biểu điền vực. Cho nên trong các kinh phần nhiều nói “biểu sát”. Nếu muốn nói Tứ Tất-đàn, thì: Đầu tiên là Thế giới vì tộc, tánh trú xứ không đồng. “Tỳ-bà-thi…” là Vị nhân. Cùng lập “sát trụ” để làm thiện nhân. “Phật làm…” là Đối trị, vì thấy Phật liền có thể trừ ác. “Phật liền nói…” là Đệ nhất nghóa, bởi vì có thể ở nơi tiểu thừa thấy chân lý. “Phật làm mười loại thần biến”: Trong văn đều hướng về liệt kê mười việc. Nhưng Luật, Luận văn không chuyên mười việc này. Lại trong văn tuy có liệt kê các sự nhưng chưa giải thích theo Tất-đàn. Trong kinh Tăng Nhất, “Thụy ứng” rộng nêu rõ việc ấy. Nay lược nêu khiến văn có thể thấy. Kinh Tăng Nhất nói: Đức Phật vào hang Ca-diếp thì độc long phóng lửa… Phật thâu độc long bỏ vào trong bát, đến chỗ Ca-diếp, Ca-diếp thỉnh trụ, cúng dường ba tháng, thời đến thỉnh thực. Phật dạy: Đi trước!. Liền đến cây Diêm-phù chọn quả Diêm- phù… cho đến, nói: Sa-môn tuy thần vẫn không bằng đạo chân thật của ta. Tiếp, đến Đồng-phất-bà-đề chọn quả Tỳ-lê-lặc, tiếp đến Cù-gia Ni chọn quả Ha-lê-lặc, tiếp đến Uất-đơn-việt chọn thức ăn tự nhiên. Lại ở cõi Diêm-phù-đề chọn quả Ha-ma-lặc muốn cúng tế lớn. Năm trăm đệ tử muốn bửa củi thì nhấc búa lên, không giáng xuống được. Ca-diếp hỏi Phật! Phật dạy: Muốn hạ được búa xuống ư ? thì búa liền hạ xuống. Hạ xuống rồi không đưa lên được, như trước muốn đốt lửa lửa không cháy, muốn diệt lửa lửa chẳng tắt. Ca-diếp nghó: Ta muốn cúng tế lớn, tất nhiên có quí nhân và các vua đến. Cù-đàm đoan chánh, nếu mọi người thấy thì khiến ta mất lợi, nếu (minh nhật) sáng sớm Cù-đàm không đến thì ta rất may mắn. Phật biết thế, nên đến phương bắc xin lương thực, đến Cù-da-ni xin sữa, đến ao A-nậu uống, rồi chiều trở về trong hang đá. Ca-diếp hỏi: Hôm qua vì sao không đến? Phật đáp: Ta biết tâm ông, nên ta không đến, đầy đủ như nói việc trước. Lại, nhân Tứ thiên vương đến nghe pháp ban đêm có hào quang, sáng ngày Ca-diếp hỏi Phật, đức Phật nói đủ việc trước. Tiếp, Đế Thích Phạm Vương đến cũng vậy. Ca- diếp hỏi có thể thấy tổ phụ của con đến nghe pháp không? Đức Phật liền khiến đến… Nước sông Hằng chảy mạnh, Ca-diếp sợ đức Phật bị chìm liền sai đệ tử đến xem, thì thấy nước không quá chân ngài đi trên nước. Phật dạy: Ông là người mù mắt không thấy, thần biến như thế mà ông cứ ngoan cố nói không bằng đạo chân thật của ông. Phật hỏi: Ông có thể đi trên nước không? Nay cùng đi trên nước?… Ông nếu không bỏ tà kiến thì ông sẽ chịu khổ nhiều kiếp! Ca-diếp nghe rồi đầu mặt lạy chân Phật cầu sám hối, rồi bảo đệ tử hợp tùy thích nghi! Thế Tôn thầy ta, và nói các đệ tử: “Khi ta thấy hàng phục long, là đã có tâm qui Phật”… cho đến năm trăm đệ tử đều nghe “Thiện lai!” được thành quả Sa-môn, đều đem thuật cụ ném xuống nước theo dòng mà trôi… Hai em của ngài Ca-diếp lại có năm trăm đệ tử cũng thờ lửa… cũng đều “thiện lai” mà thành Sa-môn. Khi đức Phật muốn đến thành Ca-tỳ-la-vệ, có người hỏi Phật : Vì sao đến chỗ kia? Phật dạy: Tất cả chư Phật đều có năm việc: 1. Chuyển pháp luân. 2. Vì cha thuyết pháp. 3. Vì mẹ thuyết pháp. 4. Phải dẫn dắt phàm phu lập Bồ-tát hạnh. 5. Thọ ký cho Bồ-tát. Thế nên đến đó vì cha thuyết pháp, vua cha nhân đó khiến một ngàn người dòng họ Thích xuất gia tự vây quanh Phật. “Xét theo giáo”: Cũng nên liệt kê đủ bốn giáo giải thích hạnh đức của ba người, và bày ra năm vị bởi vì vị nhiếp giáo. Trong phần “Giải thích theo Bản tích” đem ba người đối ba đức. Viên đức ắt một người đầy đủ ba, chỉ vì mỗi người thiên theo một đức tiêu biểu mà đặt tên, vì là cùng biểu thể đồng tánh nhất. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm” cũng vậy. Đầu tiên đắc trung đạo, tiếp ngăn biên đảo, sau chiếu biên đế, cho nên biết ba đức tất bất tư nghì Viên vô Sinh. “Giải thích Xá-lợi-tử”, dẫn kinh Bản Sinh… cũng đầy đủ Tứ Tất- đàn. Đầu là Thế giới Tất-đàn, do nêu việc đời trước và trong thai. “Nan- đà…” là Vị nhân, vì khiến người trong nước sinh tín, và thấy Át-bệ có thể sinh thiện. “Điều-đạt…” là Đối trị: năng trị Điều-đạt và độ vượt sai lầm. “Trong đó bao hàm…” là Đệ nhất nghóa, vì tán thán cùng Phật bình đẳng nên xưa bình đẳng. Kinh ấy có năm quyển, rút ra từ quyển một, nay lại lược nêu ra khiến văn có thể thấy. Kia giải thích chấp ngã sở trong đó nói: Xưa vô số kiếp hai cậu cháu ngài làm quan may mặc trong cung. Thấy vật tốt trong kho liền sinh tâm tham mới bàn cùng nhau rằng: Chúng ta làm việc cực nhọc biết vật trong kho tốt xấu nhiều có thể lén lấy dùng, để khỏi bị thiếu thốn. Người sau biết bị trộm nhưng không biết đâu mà bắt. Quan giữ kho thưa với vua rằng: (Dưới như sớ văn nói)… Sau lại đến, cháu nói với cậu rằng cậu già yếu sợ người bắt được, khiến đào đất theo đó mà vào, nếu người khác thấy, thì con có sức mạnh liền có thể cứu cậu. Quả như lời cháu nói, cháu biết… Không thể cứu, sợ đến sáng người biết, liền chặt đầu cậu để lại thân mà trốn. Vua lệnh bêu thây… (như sớ) và rình… Vì người rình không giữ kín, nhân đó cháu sai lũ trẻ nhỏ cầm lửa đùa giỡn huyên náo, quăng lửa vào đốt. Người kia không biết… (như sớ). Vua lại sai gái đẹp trang sức châu ngọc lại dựng phòng xa bên bờ nước lớn… (như sớ). Vua trước dặn cô gái kia… (như sớ). Cô ấy nắm lấy áo người cháu. Cháu nói: “Lấy áo dùng làm gì, lấy cánh tay của ta đi.” Người cháu khôn ngoan đã chuẩn bị trước cánh tay người chết… (như sớ) vua nói: “Người này phương tiện vô song, biết làm sao!”. Cô gái ấy mang thai mười tháng, sinh đứa con trai đoan chính. Vua sai nhũ mẫu bồng đi khắp nước, thấy có ai kêu bắt lấy. Suốt ngày chẳng gặp. Người cháu lúc ấy là Thầy làm bánh, nhân lúc ấy đứa bé bò đến dưới lò la khóc. Người cháu cho bánh mà kêu lên. Nhũ mẫu thưa lại với vua, vua la: “Tại sao không bắt lấy?”. Nhũ mẫu nói: “Vì đứa bé đói đòi ăn. Người ấy cho bánh, chứ không phải tên trộm giặc”. Vua lại lệnh cho nếu ai đến gần đứa bé thì bắt. Người cháu lại bán rượu chuốc say nhũ mẫu và lính canh rồi trộm đứa bé bỏ trốn… (như sớ). Trước sau tổng cộng hai trăm năm mươi người cởi ngựa đuổi theo, người cháu đứng ở giữa không xuống, vua nhân đến vào trong đó bắt và nói: “Ngươi là tên trộm trước phải không? Trước sau bắt ngươi vì sao không được ?”. Người cháu cúi đầu xin tha mạng. Vua nói: “Khanh thông minh hơn người, thiên hạ vô song ta sẽ cho tùy ý muốn của khanh…”. Bắt chước tướng mà không hiểu, tại đạo dùng tướng bắt chước. Tướng bắt chước phàm thuộc mình, thảy đều không biết. Hầu thầy Sa-nhiên Phạm chí… Kinh Tăng Nhất nói: Xá-lợi-tử và Mục-kiền-liên hai người cầu đạo không thành liền tìm thầy hỏi. Thầy nói: tự ta trải qua nhiều năm cầu đạo không thành công, hay là đạo không có ư? Ngày khác, thầy bệnh Xá-lợi-phất đứng ở đầu, Mục-kiền- liên đứng dưới chân, lúc thầy sắp mạng chung liền cười, hai người đều hỏi: Vì sao Thầy cười?… (như sớ). Hai người ghi nhận lời thầy… Do đó phát nguyện nếu đắc cam lồ pháp vị thì quyết cùng nhau thưởng thức. Kinh Trung A-hàm quyển hai nói, há có thể hết. Kinh Dụ Bảy Xe nói: Xá-lợi-tử thấy Mãn-từ-tử… Trong phẩm Pháp thứ hai mươi bảy, rộng trình bày duyên khởi. Nói “Sinh xứ an cư”, kinh nói: Sinh địa tức nguồn gốc nơi chốn sinh, sinh xứ. Các Tỳ-kheo bạch Phật, xưng nói Mãn-từ-tử… bạch thệ Quang duyệt. Hoặc phân tích âm thanh mỹ sắc, cả hai nghóa đều thông. “Giới tịnh…” là chuẩn theo sớ Tịnh Danh nói: “Giới tịnh”: là chánh ngữ, chánh nghiêïp, chánh mạng. “Tâm tịnh”: là chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. “Kiến tịnh”: là chánh kiến, chánh tư duy. “Đoạn nghi tịnh”: là Kiến đạo. “Tri đạo phi đạo tịnh”: cũng gọi là Phân biệt tịnh. “Đạo tích tri kiến tịnh”: cũng gọi là Hạnh tịnh. Hai thứ này là tu đạo. “Đạo tích trí đoạn tịnh” cũng gọi là Niết-bàn tịnh, tức Vô học đạo, đến phần “Căn cứ giáo” mới phân chia giáo sai biệt. Hai thứ sau phải dùng đồng thể kiến tư. Đây dùng Hữu dư xưng Vô dư. Bảy tịnh, bắt đầu từ sự giới, cuối đến Trí Đoạn đều là Hữu dư, báo cuối cùng nhập diệt mới chứng Vô dư. Bảy tịnh chính là cửa vào vô dư. Nếu tức dùng bảy tịnh làm Vô dư, thì nên biết chính là dùng Hữu dư xưng Vô dư. Vô dư ắt nhờ bảy tịnh mới đến, cho nên nói ly bảy cũng không. “Câu-tát-la”: là Xá-vệ. “Bà-kê-đế”: là địa danh, chưa biết số làng Tác Sư tử hống: Trong Tạp A-hàm, kinh Xá-Lợi-Tử Sư Tử Hống nói: Đức Phật nói nghóa một câu ba phen hỏi, Thân-tử ba lần không thể đáp. Đức Phật khai thị rồi vào tịnh thất. Xá-lợi-tử nhóm tập các Tỳ-kheo nói: “Phật chưa chỉ dạy cho tôi nguyên nhân của sự việc, nên không thể đáp ngay, Tôi trong bảy ngày bảy đêm sẽ diễn pháp kia không cùng tận. Đức Phật sai Mục-kiền-liên đến Kỳ Hoàn gọi Thân-tử… Đức Phật ở nơi ao A-nậu-đạt cùng năm trăm Tỳ-kheo, đức Phật ngồi tòa sen vàng bảy báu làm cọng sen, A-nan đứng hầu, năm trăm Tỳ-kheo đều nhóm họp. Lúc bấy giờ Long vương nói: Chúng đây không thiếu, nhưng không thấy Xá-lợi-phất, xin Phật sai một Tỳ-kheo mời đến. Lúc ấy Xá-lợi-phất đang ở tinh xá Kỳ Hoàn vá y cũ… Xá-lợi-phất nói: Ông đến đó trước thì tôi liền đến! Mục-liên nói: Thần lực của ông có thể hơn tôi thì mới khiến đi trước, nếu không hơn thì hãy cùng đi tôi nắm tay ông cùng đến ao kia! Xá-lợi-phất nói: Mục-liên khinh thường ta! Xá-lợi-phất liền cởi y trải trên đất nói với Mục-liên rằng: Ông có thể nâng y này nổi không? Rồi sau cầm tay tôi sẽ đi. Lúc ấy Mục-liên nghó: Xá-lợi-phất khinh thường ta! Mục-liên nói: đây chắc có ý sự không phí công, nên duỗi tay nắm lấy, mà không động một chút, gắng hết sức lực mà không thể động. Xá-lợi-phất lại đem buộc cành cây Diêm-phù khiến nâng lên, lúc bấy giờ hết thảy đất cõi Diêm phù đều chấn động. Xá-lợi-phất nói: Mục- liên còn có thể động đất cõi Diêm-phù-đề, huống chi mang theo y này, nay sẽ buộc các thiên hạ khác, cho đến ba thiên hạ đều năng động như động nhẹ y. Tiếp, buộc núi Tu-di tiểu thiên trung thiên đại thiên đều có thể động. Vì vậy trời đất động chuyển, chỉ có tòa Phật và ao A-nậu là không động. Long vương hỏi Phật: Vì sao động đất? Phật đáp… Long vương hỏi: Thần lực ai hơn? Phật dạy: Xá-lợi-phất hơn. Long vương hỏi: Trước kia vì sao nói Mục-liên thần thông đệ nhất? Phật dạy: Mục-liên năng trú một kiếp, Xá-lợi-phất trú nhiều kiếp. Người khác nói: “Biên tế định”: là chỉ định đây. Xá-lợi-phất nhập Tam-muội, Mục-liên không biết tên. Xá-lợi-phất lại suy nghó rằng: Mục-liên động đại địa, loài trùng nhỏ chết vô số, ta cúi mình nghe Phật thuyết, tòa Như Lai không thể dời động, nay lấy dây mang buộc. Mục- liên lại nhấc lên, cho nên không động. Nay nói đức Phật phương khác dưới tòa có chút sai khác. Mục-liên tự nghó: Không thể thần lực có thoái ư ! Muốn đến chỗ Phật mà hỏi việc kia. Mục-liên liền đến chỗ Thế Tôn, từ xa đã thấy Xá-lợi-phất ở trước tòa Phật, liền nghó: trong hàng đệ tử Phật ta là thần lực Đệ nhất nhưng nay lại không bằng Xá-lợi-phất ư ! Liền đến hỏi Phật: Con sắp mất thần lực ư! Tại sao con xuất phát trước, mà nay lại đến sau? Phật dạy: Thần lực của ông không thoái mất, chỉ vì Xá-lợi-phất nhập định mà ông không biết đó thôi! Long vương nghe việc này rất vui mừng. Các Tỳ-kheo riêng bàn luận : trong hàng đệ tử Phật thì Mục-kiền-liên là thần thông đệ nhất mà nay lại không bằng Xá-lợi-phất, liền đối với Mục-liên khởi tâm khinh thường. Đức Phật bảo Mục-liên: Ông hiện thần lực đi! Mục-liên lễ Phật rồi liền ở trước Phật hiện qua đến phương Đông bảy hằng sa cõi, là cõi của Đức Phật Kỳ Quang, đi trên bát. Chúng cõi kia thấy vậy, cho là trùng đậu nơi chỗ bát của đức Phật, đức Phật cõi ấy nói: Ở phương Tây cách đây bảy hằng sa cõi… đức Phật kia sai hiện thần lực chớ để cho các Tỳ-kheo khởi tưởng khinh; cho đến khiến trong bát đầy năm trăm Phạm thiên. Một chân đạp núi Tu-di một chân đạp đụng cõi Phạm thiên, rồi nói kệ âm thanh vang đến tinh xá Kỳ viên. Các Tỳ-kheo nghe, không biết nơi nào liền hỏi Phật? Phật dạy: Ở thế giới kia… Các Tỳ-kheo bạch Phật khiến Mục-liên trở về… Các Tỳ-kheo kia muốn đến, Phật bảo Mục-liên dẫn. Phật vì chúng nói pháp lục giới rồi lại khiến Mục-liên đưa về. Như trong kinh Bát-nhã nói: Phú-lâu-na nói phá Bồ-đề kiến, cho nên gọi là thông ý. Các hiền thánh tự nói pháp mình đồng: trong đây khi “giải thích theo Thông giáo”, nhân dẫn Bát-nhã cùng Bồ-tát hạnh ắt phá kiến Bồ-đề pháp luân…, mới gọi là Bồ-tát. Cho nên, dẫn trong các Kinh Đại thừa rằng: phàm các Bồ-tát tự nói mình chứng, đều vì lợi sinh hoặc đối Phật thuật giải, chẳng như phàm phu tự cho là mình thấy mà xưng mình có khả năng, cho nên nói “vọng có sở thuyết”. Trong phần “Giải thích Mục-liên”, nói: “Cát-chiêm…”, cha tên Cát-chiêm. Cha ngài khi mới sinh, được thầy xem tướng nói là tốt, nhân đó mà đặt tên. “Mục-già-lược-hề-độ”: năm chữ đều là âm Tây vực. Cho nên luận quyển mười giải thích trong Như Lai mật ngữ, dẫn Mục- kiền-liên tầm thanh. Đức Phật kia bảo: Mục-già-lộ-tử-độ vì sao đến? Mục-liên liền đáp…, chính là đức Phật kia xưng năm chữ này mà sai khiến Mục-kiền-liên, tức là âm của hai cõi có nặng nhẹ đó thôi! Trong văn chữ “lộ” là lầm nói chữ “lược”. Chữ “tử” là lầm nói chữ “hề”. Đồng danh rất nhiều. Như trong A-hàm quyển ba mươi lăm nói: Có toán số Mục-liên, khéo biết pháp tính. Kinh kia nói : Đức Phật ở nước Xá-vệ giảng đường Lộc Mẫu, toán số Mục-liên sau bắt chước đến chỗ Phật hỏi han, lui về chỗ ngồi, bạch Phật : xin cho con có việc hỏi? Phật dạy: Tùy ý ông hỏi,… cho đến, nói: ta dùng pháp tính khiến ông theo Phật xuất gia vẫn còn nghiêïp thế tục cũ cho nên nói vậy. Cù-mặc khéo biết pháp tướng, Mục-liên chẳng phải một, cho nên biệt nêu “Đại”. Thấy quí cùng chấp trọng văn lời, tuy sai khác kia nghóa chỉ có một, đều coi trọng đức hạnh. Xá-lợi-phất tài cao mà trí sáng. Mục-kiền-liên dòng dõi cao quí trí tuệ sáng suốt mà thần lanh lợi, lanh lợi cũng là sáng suốt. “Nghệ” : là sáu nghề (tài năng) lược như Thích Tiêm. Nhưng “Trí Nghệ” ở Ấn-độ có khác Trung Hoa. Do có đắc thiền cho nên Tứ Vi-đà thu nhiếp rất rộng. Trong giải thích theo Nhân duyên đây cũng đầy đủ tứ Tất-đàn: Đầu tiên là Thế giới. “Thích luận” trở đi là Vị nhân. “ngoại đạo…” là Đối trị. “Niết-bàn…” là Đệ nhất nghóa. “Đệ tử phía bên tả”: Sở dó dùng Thân-tử và Mục-liên làm “Đệ tử tả hữu” chuyển pháp luân, là vì thông nhân ở định sinh, tức định tuệ một cặp, lấy hai pháp này làm căn bản của tất cả pháp, cũng là một cặp phước tuệ. Bi phần nhiều hiện thông, cũng một cặp Bi trí, thành phá pháp luân căn cứ đây có thể biết. “Bá nga”: Khuynh trắc mạo (dáng mạo nghiêng đổ), hữu tác phả nga hữu tác phả nga, đều không thấy nêu, căn cứ văn soạn Giang Hải Võ nói… nay nói “bá” là ý phiến động. “Nan-đà v.v…”: Kinh Tăng Nhất quyển hai mươi tám nói: Đức Phật tại vườn Cấp Cô Độc, Đế-thích bạch Phật: Như Lai tại thế ứng hành năm việc, mẹ ở cõi trời thứ ba mươi ba, cần hành thuyết pháp, đức Phật im lặng nhận lời… khi ấy liền đến v.v… Rồng sân hận phóng hỏa gió lớn cháy cõi Diêm- phù-đề. A-nan bạch Phật: Vì sao có khói lửa lớn ấy? Đức Phật đáp đầy đủ. Ca-diếp, Na-luật… đều đứng dậy bạch Phật, muốn hàng phục rồng này. Đức Phật dạy : Rồng này bạo ác khó điều phục, ông nên ngồi yên. Mục-liên bạch Phật. Đức Phật cũng bảo “Thôi”! rồi lại hỏi: Ông làm sao hàng phục? Mục-liên đáp: Trước hết dùng thân rồng rất lớn khiến cho rồng khiếp sợ, tiếp lại dùng thân rất nhỏ đục xoi trong răng miệng rồng, rồi sau mới dùng thân thường để hàng phục… Phật dạy: Lành thay! Ông có khả năng kham nổi. Đức Phật lại răn dạy: Tâm phải kiên cố chớ có loạn tưởng sợ hãi mà bị quấy nhiễu. Mục-liên lễ Phật rồi đến trên núi, hiện thân có mười bốn đầu, nhiễu quanh núi mười bốn vòng. Rồng thấy sợ hãi, tự cho rằng: Ta nay thử xem người kia có hơn ta không? Hai con rồng liền dùng đuôi vẩy nước trong biển lớn, nước không đến cung trời Đao lợi. Mục-liên dùng đuôi vẩy nước, nước đến cõi Phạm cung và rưới ướt cả hai con rồng. Hai con rồng biết sức yếu rất giận hiện mây sấm hung dữ phóng lửa lớn để đốt. Mục-liên tự nghó: Nếu cùng rồng đấu tranh, đều dùng lửa khói sấm sét, ta cũng làm vậy thì từ cõi Diêm-phù đến cung trời Đao-lợi sẽ bị hại. Nghó vậy rồi liền hóa thân hình nhỏ… cuối cùng hai rồng chịu thoái lui. Ngài nghó : Rồng trong tứ sinh không xuất gia, rồng này uy lực như vậy thân lông đều dài. Tôn giả biết rồng tâm đã phục, liền lại hiện thân thường ở trước mặt rồng. Hai rồng lúc ấy mới biết đối phương chẳng phải là rồng, liền khen rằng: “Thật kỳ lạ đặc biệt!”, rồi bạch với Mục-liên: “Làm sao Ngài hiện tướng ấy, có điều gì răn bảo?”. Mục-liên nói: ”Ông hôm qua có suy nghó ta là Sa-môn đầu trọc thường bay trên ta ư?”. Rồng nói: “Đúng vậy!” Mục-liên nói: “Núi Tu-di là đường đi của chư thiên, chẳng phải chỗ ở của ông”. Rồng nói: “Xin ngài tha lỗi cho con, từ nay về sau xin được làm đệ tử ngài”. Mục-liên nói: “Ông chớ qui y ta, mà hãy qui y nơi ta đã qui y”. Rồng nói: “Con xin qui y Như Lai”. Mục-liên đem hai rồng đến nước Xá-vệ. Mục-liên nói: “Thế Tôn nay vì vô lượng Đại chúng nói pháp, chớ có hiện hình rồng”. Rồng nói: “Như vậy thì con sẽ hiện hình người đoan chánh”. Đức Phật vì chúng nói pháp, độ làm Ưu-bà-tắc. Lúc bấy giờ vua Ba-tư-nặc đến hỏi việc khói lửa kia… Đức Phật trả lời đầy đủ. Vua thấy hai rồng không đứng dậy. Hai rồng sân hận lại nghó : Nhân dân trong nước đối với ta không xấu ác… Hai rồng liền ở trên vương cung hiện sấm chớp lớn… Tôn giả biến làm hoa Ưu-đàm. Rồng giận dữ lại phun mưa lớn trên núi, Tôn giả lại biến thành bánh ăn. Rồng giận gấp bội, hiện mưa đao kiếm. Tôn giả lại biến làm y tốt. Rồng lại giận, biến làm bảy báu. Nặc vương không biết, liền hỏi: Diêm-phù có đức không hơn (quá) ta, trong cung thường có các báu vật, sẽ làm Luân vương ư! Rồng lại tự suy nghó: Sao không đủ sức lực lớn một phen đến như đây. Nghó rồi mới biết đây là sức lực của Mục-liên, thấy rồi liền đi. Vua được bảy báu và thức ăn mà không dám thọ nhận, đem đến chỗ Phật, bạch Phật mọi việc. Đức Phật dạy: Hãy đem cúng dường Mục-liên. Vua được thần lực của Mục-liên, vua hỏi: Vì sao như vậy? Đức Phật đáp đầy đủ, vua mới biết… “Điều-đạt dẫn năm trăm Tỳ-kheo….”, kinh Tăng Nhất quyển bốn mươi bảy nói: “Lúc Đức Phật ở vườn Câu lưu, khi ấy Đề-bà-đạt-đâu ba phen bạch Phật xin xuất gia. Đức Phật không nhận lời, ông liền nghó rằng: Sa-môn nay ôm lòng tật đố, ta nay phải tự cạo tóc tu phạm hạnh, đâu cần đến Sa-môn ấy. Có một Tỳ-kheo tên Tu-đà, hạnh đầu đà khất thực, Đạt-đâu bèn đến chỗ Tỳ-kheo ấy, đầu mặt lễ dưới chân, xin dạy oai nghi. Tỳ-kheo ấy liền dạy, tiếp theo học thần thông, dạy rằng: “Phải biết tâm ý thức khinh trọng, biết rồi lại biết bốn đại khinh trọng, biết rồi phải tu Tự tại Tam-muội, tiếp tu Dũng mãnh Tam-muội, tiếp tu Tam ý Tam-muội, tiếp tu Tự thức Tam-muội”, như vậy không bao lâu liền đắc thần túc. Y lời nói tu tập danh vang xa đến tầng trời thứ ba mươi ba, hái hoa Ưu-Bát-la để lên trên đầu gối Thái tử… rộng thọ nhận sự cúng dường muốn phá tăng hạnh Xá-la…, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển 1 nói. Lúc bấy giờ Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên cùng nghó rằng: Thử cùng đến chỗ kia nghe nói gì! Điều-đạt thấy hai ngài thì rất vui mừng, nghó là đến theo, hết thảy mọi người đều có ý nghó này, nên nói với Xá- lợi-phất: Ngài có thể vì các Tỳ-kheo nói pháp không? Tôi nay đau lưng. Nói rồi liền chồng chân mà nằm… Xá-lợi-phất vì chúng nói pháp rồi, Mục-kiền-liên đem các Tỳ-kheo đi… Sau nhân tạo nghịch… bị lửa thiêu đốt đọa vào địa ngục A-tỳ. A-nan hỏi Phật : Điều-đạt sẽ sinh vào đâu? Phật đáp:… Tạp A-hàm quyển hai mươi chín nói… văn kia rất rộng. Lại, kinh Tăng Nhất quyển bốn mươi bốn cũng nói: Đức Phật ở vườn Cấp Cô độc. A-nan hỏi Phật : Như đệ tử đức Phật Tỳ-bà-Thi sống nơi cõi uế thời gian được bao lâu? Phật dạy: Ban đầu thì tám vạn bốn ngàn ( 8 4. 000) năm, sau thì tám mươi, bảy mươi, sáu mươi, ba mươi, hai mươi, đến mười hai năm, lần lượt đối bảy đức Phật. “Đế-thích cùng Tu-la đánh nhau”, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói. “Phạm âm Phật rất xa”, như Chỉ Quán quyển một nói. Đức Phật tìm thị giả, như trong Chỉ Quán quyển sáu nói. Trong phần “Căn cứ giáo mà luận thần thông”, nói “Mười bốn biến hóa”: đầy đủ như Thích-tiêm, dùng mười bốn tâm có công năng biến hóa để giải thích tứ thiền, đây chính là hết thảy La-hán đều đắc. Tiếp, “Quán v.v…”, người bốn câu giải thoát mới đầy đủ, do quán thiền đầy đủ ắt đắc Diệt thọ tưởng định. Tiếp, “Thập (1 0) nhất thiết” muốn khiến cho thần thông rộng khắp. “Luyện huân tu”, như Chỉ Quán quyển 9 và trong Pháp Giới Thứ Đêï. “Thập nhất thiết”, đầy đủ như trong Pháp Giáo Thứ Đệ. Sự thiền, đầy đủ như Huyền Văn và Thứ Đệ Thiền Môn. “Thập bát biến”, như Chỉ Quán quyển mười nói. Lại, có người nói “Thập bát biến là nghóa chấn động v.v…”. Nay làm tụng rằng: “Chấn động và xí nhiên, lưu bố cùng thị hiện, chuyển biến và lai vãng, co duỗi các thân tượng, vãng đồng hướng ẩn hiển, tự tại và chế tha, thí biện cùng ức niệm, thí an cùng phóng quang”. Lại có người nói: trên thân ra lửa… “Y không khởi tuệ”: Không tức đế cảnh, y cảnh sinh trí thông thuộc trí tánh cho nên nói “dùng Không tuệ tâm”. “Thứ lớp…”: Công dụng ba đế thông, gọi là “thần thông”, Sơ địa trở đi, biệt gọi là “cảm ứng”. Ba đế thứ lớp, nên gọi là “thâm nhập”, riêng Bồ-tát pháp nên lại nói “vượt quá Nhị thừa”, kỳ thật siêu vượt hai giáo tam thừa. Nói “chẳng dùng nhị tướng”, Bất nhị tức “thật tướng”, “kiến độ (thấy cõi)” tức “thần thông”, y lý mà thấy nên nói “dùng tướng Bất nhị mà thấy”. Trong câu“… tức là Viên giáo thần thông, vân vân”, thì “vân vân” là khiến phân biệt điều này: Trước là hai tu đắc, sau là hai phát đắc. Tạng, y sự thiền. Thông, y chân lý. Biệt địa tiền trợ. Viên tự tại phát. Hai danh trước thông, gọi là hóa. Hai danh sau mật, gọi là ứng. Hai loại trước điều phục chúng sinh. Hai loại sau thấy căn cứ chúng sinh. Hai loại trước có thể phá hoại, hai loại sau không thể phá hoại. Hai loại trước ở giáo đạo, hai loại sau ở chứng đạo. Hai loại trước thân thông chỉ hiện tại, hai loại sau thông ba đời. Hai loại trước Thánh vị mới tu thông, hai loại sau phàm vị đều tu thông. Hai loại trước tùy nương tựa đều có thể tu, hai loại sau ắt phải có nương tựa thù thắng. Nguyện được thông, lẽ ra ở văn trước, trong phần giải thích theo Nhân duyên, nhưng cũng có thể dùng bốn nguyện tiêu biểu giáo. Nay trong văn, Sơ giáo theo sự, Thông giáo theo chân, hai giáo sau thì tại lý, cho nên chấp nhận từ đây. Trong câu “Phát nguyện đắc thần thông vân vân” thì “vân vân” là: lại có nhiều duyên đều tại nguyện đắc, cũng có thể không nguyện tùy duyên đắc, tức như Na-luật duyên mũi tên, khêu đèn, dẫn đến nhập địa vị cùng cực v.v… phân biệt năm vị như trước. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, thì “Chợt có…” là ý tam quán, thật tướng là cảnh Trung đạo, không có tâm hữu, vô, khế hợp cảnh Trung, nên nói “thông đến”. Tiếp, “giải thích Chiên-diên”: Đầu tiên, giải thích theo Nhân duyên, gồm đủ Tứ Tất-đàn: Đầu tiên là Thế giới, từ “Kinh Tăng Nhất” trở đi, là Vị nhân. “Cùng ngoại đạo luận…” là Đối trị và Đệ nhất nghóa, vì đoạn kiến và thế điển đều có phá tà và đắc đạo. Nói “Văn sức”: là khéo tán vịnh. Nói “phiến thằng” : là nếu nói hai chữ “kiên thừa” đều sai lầm, bởi vì khi vị ấy sinh thì cha đã lìa đời, người con này ngăn cản mẹ không được tái giá như dây buộc vào quạt, cũng có thể gọi là “Hảo kiên” bởi vì hảo kiên giáp. Nói “Tư thắng”: “tư” là tuệ số, luận nghóa công mạnh, nên đặt tên là Tư thắng. “Dẫn kinh Trường A-hàm quyển mười, nhiều lần vấn đáp”: nhờ Ca-diếp đồng nữ Tỳ-kheo kia phá văn cũ xưa kia, lấy đó để so sánh. “Chấp đoạn”: chấp sau khi chết thần diệt cho nên dùng bất diệt làm vấn nạn. Nếu chấp thường thì trái lại làm tăng thêm sự chấp kia, cho nên biệt dùng “niệm niệm bất trụ” để phá. Trong phen thứ nhất, nói “Nhật Nguyệt nay là…” là phản biện trả lời, như Nhật, Nguyệt nay là vì mình mà lập hay là vì người khác ư? Nếu vì người khác, thì là vì trời hay là vì người. Chỉ duyên nhân thiên là người khác, cho nên có ngày mai. Nếu không có đời khác, thì nên chỉ có ngày nay. Nếu không có ngày mai thì cũng không có ngày hôm qua, vì ngày hôm nay là ngày mai của hôm qua. Nói “chẻ củi”: là đủ duyên thì có lửa như có thần, duyên tàn thì không lửa như không có thần, đâu phải chẻ thân không thần mà có thể thấy thần, như chẻ gốc thiếu duyên mà muốn thấy lửa thì rất xa. Nói “bối thanh”: Thân người là sắc, vì mắt thấy, thần thì phi sắc làm sao có thể thấy ? Như “bối” có thể thấy thanh không thể thấy. Nếu muốn ở nơi có thể thấy mà cầu cái không thể thấy, thì cần phải đủ duyên. Duyên đã thiếu rồi lại cầu trái ngược, thì quyết không đạt lý, thần cũng như vậy. Duyên đủ thì thần tại thân, duyên thiếu thì thần bỏ đi, đến phen thứ tám không lý lẽ để vấn nạn, chỉ nói chấp lâu chống cự mà cố trái. Trong lần đáp thứ chín, nói “hai thương nhân”: là Chánh kiến và Tà kiến. Quỷ như thầy của ông, thầy của ông tuy kỳ quặc cũng giả xứng trí, cho nên dối trá làm giống người nói tà liên quan chánh, dùng tà Niết-bàn mà nói an lạc, cho nên nói “đường trước nhiều gạo cỏ”. “Gạo cỏ cũ” là chánh kiến thế gian. “Gạo cỏ mới” là chánh kiến xuất thế gian. “Người” là năng thừa hành giả, “trâu” là trí sở thừa. Tin lời của tà sư quỷ nói, ví như ông bỏ gạo cỏ cũ thì vẫn chưa được làm nhân thiên, huống lại là Niết-bàn? Cho nên, nói “người trâu đều chết vì bị tà ăn nuốt”, hoại thế xuất thế cho nên nói “đều bị ăn nuốt”. “Thương nhân kế tiếp”: là người chánh kiến thế gian, đắc chánh kiến xuất thế gian rồi mới bỏ các pháp nhân thiên hữu lậu. Ta nói chánh kiến, sao ông không bỏ? Vì lý lẽ đã cùng, cố chấp phản đối cũng dứt. “Thế-điển”: kinh Tăng Nhất quyển tám nói: “Đức Phật ở thành Thích-sí vườn Ny-câu- lưu, cùng năm trăm người vân tập tại Phổ nghóa đường. Lúc ấy, Thế- điển Bà-la-môn đến chỗ Thích chủng, nói rằng: Các người có ai cùng ta luận nghị không? Các Thích tử nói: Trong đây có hai người chánh giác trong chúng, không thông tuệ không học rộng, nói năng kỳ lạ vụng về, không riêng đi theo đến. Nếu cùng luận thì sẽ được ngàn lạng vàng ròng. Thế-điển tâm niệm : “Người trong nước này phần nhiều là hư ngụy, dù có thắng cũng đâu đủ làm lạ. Nếu họ thắng ta, thì ta là kẻ bị người ngu khuất phục”. Suy nghó như thế rồi liền nói: “Ta không luận nghị”. Nói rồi ra đi, giữa đường gặp Bàn-đặc. Thế-điển nghó: “Ta nay sẽ đến chỗ người kia hỏi nghóa”, liền đến kia hỏi: Ông tên là gì? Ca- chiên-diên thiên nhó nghe từ xa, liền biến thành hình Bàn-đặc mà nói: Ông nếu nói ta có thần túc không kham luận nghị, ta sẽ đáp ông bằng toàn nghóa, lại dẫn dụ ông, ông tên là gì?… Thế-điển nói: Phạm thiên. Lại hỏi : Trượng phu ư? Đáp: Trượng phu. Lại hỏi: Người ư? Đáp: Là người. Lại hỏi: Người cũng là trượng phu, đâu chẳng phiền lập lại, mù cùng không mắt nghóa ấy không đồng. Thế-điển hỏi: Vì sao gọi là mù? Đáp: Cũng như không thấy, đời nay, đời sau sinh diệt, thiện nghiêïp, ác nghiêïp, không như thật biết, vónh viễn không thấy, gọi đó là mù. Thế nào là không có mắt? Đáp: Tức là không có trí nhãn như trên. Thế-điển nói… Lại hỏi: Năm ấm là có duyên sinh hay không duyên sinh? Đáp: Có, không phải là không có duyên. Lại hỏi: Năm ấm lấy gì làm duyên? Đáp: Ái làm duyên. Lại hỏi: Sao gọi là ái? Đáp: Sinh là ái. Lại hỏi: Thế nào là sinh? Đáp: Ái là sinh… Thế-điển nghe rồi đắc quả, khi mạng chung, Bàn-đặc báo cho các Thích chủng khiến chất củi thiêu… lại lập linh tháp. Trong Trường A-hàm nói các chấp của ngoại đạo rất rộng. Như nói không được tay ngăn che hình, không được ăn giữa hai tay, ăn giữa hai người, ăn giữa hai đạo, ăn giữa hai chày, ăn giữa hai nhà. Lại nói: Trước nói nghóa là nói nghóa không được ăn, không được ăn với hai đồ đựng, một miếng đến cổ, bảy miếng ăn thôi, lại càng không quá ba lần, hoặc một ngày ăn một bữa, hai ngày hoặc đến bảy ngày một bữa ăn, ăn gạo ăn rau, phân trâu, phân hươu, rễ cây, hoa trái… tự rơi rụng được ăn; hoặc mặc áo bằng cỏ, cây, lông, da, cỏ gấu, để râu tóc dài… phải đứng một chân, thường ngồi tòa… thường ngồi chồm hổm , nằm trên gai, trên phân, trên quả dưa, ba ngày tắm một lần, một đêm ba lần tắm. Những pháp như vậy ở trong pháp của ta, gọi là pháp bất tịnh. Những pháp như vậy lược nên biết. Ví như có chấp “ chuyên ngồi “, thì chưa khế hợp đại đạo. Nói chuyên ngồi: Là lấy việc không nằm làm công, không thể lấy việc không đi làm đức, đâu thể ở trong nhà tối thì bốn oai nghi lại đồng phàm, thấy chúng đến thì chắp tay ngay ngắn như Thánh, hạnh quân tử còn thiếu, đạo Bồ-tát vónh viễn kém, tự lòng dạ không chút giáo nào đáng theo, khiến người đời sau không có chỗ nương. Nhẹ như hạt cải, Phật còn bốn oai nghi động tác, đâu thể người chưa học bỏ qua? Xét rằng đạo tại tâm, không tại pháp sự, do mình chẳng do người, vì không thể tự xét mình đức thiếu, nên lộ bày lỗi xấu, Vả lại hiển lộ, ẩn giấu đều bình đẳng. Trong phần “Căn cứ giáo giải thích”, đều nói “phá đoạn thường”: Phàm nói luận lấy phá tà làm đầu, cho nên đều ở đương tông để lập năng phá. “Y tổng trì tứ biện”: lại dùng tục đế Tam-muội mà làm tổng trì. “Tứ biện”: Đầy đủ như trong luận Pháp Giới Thứ Đệ. “Dùng thuốc phù hợp bệnh để phá đoạn thường”, là nhập ái kiến Giả, trước phá đoạn thường. Lại, phá đoạn thường có hai thứ nghóa: 1. Dùng các quán cùng phá kiến hoặc giới nội đoạn thường, thì bốn giáo đều lấy kiến hoặc làm cảnh, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển mười nói… 2.Xoay chuyển ngắn dài không đồng, thì ba giáo đều phá kiến hoặc giới nội. Chỉ có Biệt giáo thì: trước, phá đoạn thường giới nội, tiếp, phá Không hữu đoạn thường, sau, phá Không giả đoạn thường. Viên giáo thì nhất niệm phá ba đoạn thường. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, luận nghóa nói “vãng phục” (qua lại), “trí nghiên cứu cảnh” là vãng, “cảnh phát trí” là phục, thường quán thường phát thường qua thường lại. “Giải thích A-nậu-lâu-đà”: “chủng tánh…” rộng nêu tại các kinh Hiền Kiếp v.v… Đại luận cũng rộng giải thích. Dòng họ Sát lợi. Hoặc nói “Cù-đàm”, đầy đủ như dưới thuật. Nếu theo nghóa Tứ Tất-đàn: Đầu tiên là Thế giới, “Nhân hiền kiếp….” là Vị nhân, “Na luật…” là Đối trị, “Phật quảng…” là Đệ nhất nghóa. Nói “ Vô-lạp “: Thỏ chẳng săn được nên nói vậy, đầy đủ như văn sau. “ Cơm cỏ kê (bại phạm) “ tuy nhiên, nhưng dùng hết cái mình có và ruộng phước thắng, cho nên được gọi là “Thắng báo”, cũng có thể ở đây rộng nêu tướng thí. Chỉ ở trong đó chẳng gấp. Bắt đầu từ “Dân-chủ” đến “Thiện-tư”, Thiện-tư sinh “Ý ma” và cùng “Tứ-thiết-luân”, hợp có “tám vạn bốn ngàn hai trăm mười vua”, đủ như trong luật. Nói “Thảo sán”: “Thảo” cũng là bắt đầu, như bố thí áo lúc mới gặp “Ông phải cởi áo vua”: khiến cởi y phục vua, mặc y phục Cù-đàm, khiến theo họ của thầy. Đây là cổ tục phương này, đều theo họ của thầy. Như Trúc Đạo Sinh vốn không phải họ Trúc, chỉ hầu Trúc Pháp Thái, làm đệ tử đó thôi! Từ An Công đến nay, khiến đồng một họ Thích. Dịch trong luật Thập Tụng mới thấy văn kia. Luật nói : Bốn con sông chảy vào biển, không còn có tên sông. Bốn họ xuất gia đồng một họ Thích. “Bốn con bị nghi” là bốn người con của mẹ kế bị mẹ lớn nghi. Kinh Hiền Ngu nêu đủ chuyện xưa, các duyên thí thực gặp thỏ v.v… lược như văn nay. “Ngủ là thức ăn của mắt”, như Chỉ Quán quyển bốn nói. “Đức Phật cùng tám trăm Tỳ-kheo vì… ba y”. Đức Phật ở nước Xá-vệ, Na-luật nói với A-nan rằng thỉnh các Tỳ-kheo may ba y, y của ta đã rách. A-nan đến từng phòng nói với các Tỳ-kheo. Lại, xưa gọi núi Bà-la-la là “Câu-tát-la” vì âm Phạn không đồng. Các Tỳ-kheo chiếu theo lời của A-nan. Đức Phật thấy A-nan, hỏi: Ông làm việc gì vậy? A-nan đáp đầy đủ. Phật dạy : Sao ông không thỉnh Phật? Bèn cùng các Tỳ-kheo trương vải cắt rọc, các Tỳ-kheo may một ngày xong. Nhân đây Đức Phật thuyết về nói Ca-hi-na (áo công đức)… Trong phần “Giải thích theo Giáo”, nêu hai tầng: tầng đầu: luận phát, tầng hai: luận tu. Bốn giáo chung luận phát, ý nêu rõ tu thành, tuy có chút ít không đồng mà đại thể không sai khác. Nhục nhãn tuy mất mà thiên nhãn lại thành. Vọng sau, cho nên luận “tu thứ lớp, tu không thứ lớp”, đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói, cũng nên nêu rõ khai hiển…. Trong đây, chiùnh là nêu “Thiên nhãn” mà kiêm cả bốn nhãn. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, không nói Tuệ nhãn, vì thiếu đó thôi! Lẽ ra nói quán Nhân duyên định tâm, tức Thiên nhãn, không tâm tức Tuệ nhãn. “Giải thích Kiếp-tân-na”: Đầu tiên là Thế giới Tất-đàn, “Tỳ- kheo ấy…” là Vị nhân, “Giữa đêm….” là Đối trị, “Bỗng nhiên…” là Đệ nhất nghóa. “Cầu đảo ngôi sao Phòng…..”: Sách Nhó Nhã nói: Thiên tứ Phòng. Chú thích rằng: Rồng làm ngựa trời, cho nên gọi là “Phòng”. Bốn ngôi sao nghóa là Thiên tứ tinh, tức ngôi sao thứ tư trong bảy ngôi sao ở phương Đông, nếu căn cứ phương Tây, thì ngôi sao lại không nhất định. Đầy đủ như Chỉ Quán quyển mười nói. Trong phần “Giải thích theo Giáo”, đều nói “thê”: y nơi gặp Như Lai mà được chứng, để giải thích “Túc”, thì dương giáo nêu rõ Phật phân tề (phần hạn) không đồng. “Giải thích Kiều-phạm”: Đầu văn bao hàm tứ Tất cho nên không phân, đến sau tự kết. “Dịch là Ngưu Tứ”: đời quá khứ từng làm Tỳ- kheo, do đi qua ruộng lúa người khác, ngắt bông lúa ăn thử xem lúa chín chưa, nên về sau trong năm trăm năm phải làm trâu để bồi thường, nay đắc Vô học còn có tập khí thừa. Kết tứ Tất-đàn gọi là tại trung gian, tổng giải thích văn trước sau, cho nên lại nói “khứ”. Lần nữa lại giải thích ý tứ Tất-đàn trước. Tiếp “Sau khi Phật diệt độ…” là lập lai biệt giải thích Đệ nhất nghóa. “Thủy thuyết kệ”: Luận nói: “Kiều-phạm-ba-đề cuối đầu lễ, Diệu chúng Đệ nhất Đại đức tăng, nghe Phật diệt độ con tùy khứ, như voi lớn đi voi con đi theo”. Trong phần “Giải thích theo Giáo”, đều rõ là chỉ bày: nếu thị hiện chỉ bày thì nghóa bao gồm Bản tích, nếu tác giáo chỉ bày thì chính là căn cứ giáo. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, chính là dùng trượng phu ngưu vương, và chung nhận xe Trâu trắng dẫn kéo. “Giải thích Ly-bà-đa” : trong phần giải thích theo Nhân duyên, thì: Đầu tiên là Thế giới Tất-đàn, “Giả hòa hợp…” là Vị nhân Đối trị, “Tăng Nhất…” là Đệ nhất nghóa. Cho nên lại căn cứ tranh chấp tử thi một duyên chỉ đầy đủ hai Tất-đàn. Nếu căn cứ duyên tranh tử thi mà tự đầy đủ tứ Tất, thì “Giả hòa hợp….” là nghóa Thế giới; “dễ độ” tức Vị nhân, “hỏi người” tức Đối trị, “nghe nói” tức Đệ nhất nghóa. Hai quỷ tranh nhau tử thi, trong Chỉ Quán quyển bảy nói. Dẫn Tăng Nhất lập lại để chứng minh Đệ nhất nghóa. Có lỗi do miệng thì duyên tai kinh tạng vàng ngọc. Trong phần “Giải thích theo Giáo”, lại nương quỉ tranh chấp tử thi lấy làm nghóa căn bản. Biệt giáo, nói “chẳng phải mình có…”: phàm trong Biệt giáo lập Phật giới, có ba ý kia: 1.Lấy lý tánh làm Phật giới. 2.Lấy quả đầu làm Phật giới. 3.Lấy sơ địa để phân danh Phật giới. Nay nói mười pháp giới đều chẳng phải mình, chỉ sơ địa để phân Phật giới thôi! Nếu chỉ quả đầu thì nên nói chín giới, “chẳng phải mình có”. Trong Viên giáo, “phi ngã phi tha”, là phi chân phi duyên, lại phi cộng ly. Lại, “chẳng phải mình có” không đồng hai thứ trước, “không phải người khác có” không đồng Biệt giáo. Trước, căn cứ giáo thì dựa vào giả hợp, nay Bản tích Quán tâm đều căn cứ tinh tú thì đều tùy tiện. “Thấy Phật như thấy tinh tú” ý trong kinh Bát Chu. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, nói “như ban đêm thấy tinh tú vân vân”, thì vân vân là nên rộng dẫn trong kinh Bát Chu Tam-Muội. “Giải thích Tất-lăng-già” rộng nêu mạn duyên, trong Chỉ Quán quyển hai nói. Nếu căn cứ đây làm tứ Tất-đàn thì : “Năm trăm đời….” là Thế giới, “Sám hối…..” là đủ hai Tất-đàn, “Kinh Tăng Nhất….” tức Đệ nhất nghóa. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, nói “…đều quy về Đệ nhất nghóa vân vân” thì “vân vân” là : Tam quán tổng biệt đều là Đệ nhất nghóa. Các hoặc sở phá đều đắc là thô thuyết… “Bạc-câu-la”, Giải thích theo Nhân duyên: Đầu văn là Thế giới Tất-đàn, “Năm một trăm sáu mươi tuổi…” là sinh thiện (Vị nhân), “Thân lạc…” là Đối trị, “Cho nên kinh Tăng Nhất nói thọ mạng…” là Đệ nhất nghóa. “Xưa cúng thí trái Ha-lê-lặc”: Thời quá khứ Phật Tỳ-bà-thi, ông dùng trái Ha-lê-lặc cúng cho một Tỳ-kheo bị bệnh đau đầu, từ đó về sau ông thường được phước không bệnh. Nói “trì một giới thì bốn giới trang nghiêm”, là khi thọ chút phần Ưu-bà-tắc giới thì năm giới tâm đều kỳ vọng nhiều ít. Kinh Tăng Nhất nói: Phật dạy Ưu-ca-ni nếu ăn mà tăng thiện diệt ác thì nên ăn, nếu tăng ác diệt thiện thì không nên ăn, trì giới phá giới cũng lại như vậy. Trong câu “Phần nhiều hủy phạm vân vân” thì “vân vân” là nên phân biệt, như nói: Nếu phá một giới thì sẽ đọa vào địa ngục, nếu trì một giới thì được sinh trong loài người. Lại ba phen hỏi : “Có thể trì được không?” là khiến ba lần tự quy, cho nên trì một giới thì được gọi là “thiểu phần” cho đến “mãn phần”. Kinh Báo Ân quyển thứ sáu nói: Người trì năm giới thì không cho mua bán năm loại: 1. Súc sinh, thẳng bán thì được. 2. Cung tên. 3. Bán rượu. 4. Ép dầu. 5. Năm màu nhuộm chính. Nước Kết Tân từ xưa đến nay trong cây gai không có trùng, được làm thuốc nhuộm, các nước Lưu sa nhuộm phần nhiều sát sinh, Nước Tần nhuộm màu xanh cũng phần nhiều sát trùng. Bốn điều trước nói không buôn bán thì được, trong tạng có một quyển Ngũ Giới kinh phân làm năm phẩm, rất quan trọng đối với người trì năm giới. “Tháp ấy cũng có lực như thế”, có hai nghóa: 1.Lực xá-lợi. Thần lực hộ tháp. Trong phần “Giải thích theo Bản tích”, “đại tịch diệt định” chỉ là Đại bát-Niết-bàn. “Trường thọ…”: nhờ tích sự để lập bản đức, bản trụ chân thường, tích hiện trường thọ, bản ở cực lạc, tích thị hiện vô bệnh, bản tám tự tại, tích không yểu mạng, bản trụ viên tịch, tích thị hiện nhàn tónh. “Câu-hi-la: Giải thích theo Nhân duyên”: Tuy đối Thân-tử là thành đức cậu, lại theo cậu nói. Thọ tộc tức Thế giới, “Thấy chị” tức Vị nhân, “Bỏ nhà đến….” tức Đối trị, “Liền đê đầu…” đều thuộc Đệ nhất nghóa. Trung A-hàm quyển năm mươi tám nói: Xá-lợi-phất cùng Câu- hi-la luận có nhiều phen: Đầu tiên Xá-lợi-tử hỏi: Thế nào là bất thiện, thế nào là bất thiện căn? Câu-hi-la đáp: Thân là bất thiện, tham… là bất thiện căn. Hỏi: Thế nào là trí tuệ? Đáp: Tứ đế là trí tuệ. Hỏi: thế nào là thức? Đáp: Biết sắc thanh hương vị xúc pháp là thức. Hỏi: Thức nương chỗ nào? Đáp: Thức y thọ. Hỏi: Thọ nương chỗ nào? Đáp: Không riêng có chỗ nương, y thọ có hơi ấm, như nhân dầu có đèn. Lại có nhiều phen. “Nan-đà, Giải thích theo Nhân duyên”: văn rất lược. “Cũng gọi là Phóng Ngưu” (chăn trâu): Đại luận nói vua Tần-bà-sa-la thỉnh Phật và Tỳ-kheo tăng ba tháng an cư, nói người thả trâu khiến đến gần chỗ Phật ở hằng ngày cúng dường cho chúng tăng sữa lạc tô… Ba tháng xong, vua rất hổ thẹn, sai người kia gặp Phật. Người ấy cùng đồng bạn luận bàn rằng: Đã từng nghe bậc nhất thiết trí tức con của Tịnh Phạn Vương, vị ấy sinh ở cung vua có biết việc chăn trâu không? Bèn vào vườn trúc ngồi ngay ngắn hỏi Phật. Đức Phật vì ông mà nói về mười một việc chăn trâu, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển hai nói. Nhân đó ông phát tâm xuất gia, đắc quả Vô học, từ việc xưa mà đặt tên nên gọi là “Phóng Ngưu”. Nói “Thiện Hoan Hỷ”: là do từ đầu mộ đạo mà đặt tên, hoan hỷ thù thắng nên gọi Thiện, vui thích là tên khác của Thiện Hỷ. Nếu lấy nghóa đây lập tứ Tất-đàn thì : “dịch…” gọi là Thế giới, “Mười vạn Thích…” tức là Vị nhân, “Phật nói việc phóng ngưu” tức Đối trị, “đắc quả” tức Đệ nhất nghóa. Trong phần “Giải thích theo Giáo”, nói “Hoan Hỷ trụ”, là trụ danh không hoan hỷ, chỉ căn cứ Biệt địa, chứng đạo đã đồng cho nên mượn địa đặt tên “trụ”. “Tôn-đà-la-nan-đà, Giải thích theo Nhân duyên “: Đầu là Thế giới Tất-đàn, “Bốn tháng…” là Vị nhân, “Phụ tức…” là Đối trị. “Vân vân” là văn lược. Nghóa sẽ thời gian sau đắc đạo, là Đệ nhất nghóa. “Luật Di-sa-tắc” nói chính là Bạt-nan-đà, lại do danh đồng giải thích hãy đều đoan chánh. “Địa ngục thiên đường” trở về sau, văn rộng như trong Chỉ Quán quyển hai nói. “Giải thích theo Bản tích và Quán tâm, như trước”, tức trong “giải thích Nan-đà” trước. “Phú-lâu-na, Giải thích theo Nhân duyên”: Đầu tiên là Thế giới Tất-đàn, “Người ấy…” là Vị nhân, “Kinh Tăng Nhất…” là Đệ nhất nghóa, “Muốn trở lại bản…” là Đối trị. “Tán thán mãn”: là lập lại lần nữa nêu Đệ nhất nghóa. “Giải thích Tu-bồ-đề”: Đầu văn là Thế giới, “Thường tu…” là Vị nhân, Không là hạnh tối thắng tức nghiêïp, hiện báo lại thắng, nên gọi là “Thiện Cát”. “Trụ vô tránh…” là Đối trị, “Phật ở Đao-lợi…” tức Đệ nhất nghóa. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm” nêu bốn câu, tuy thông các quán mà đối với tu hạnh Không, nghóa ấy lại tiện. Nói “Pháp thân”: lại thuận trong ý Đệ nhất nghóa bên trên, chẳng riêng trong đây cần phải nói Pháp thân. “A-nan, Giải thích theo Nhân duyên”: Đầu tiên là Thế giới Tất- đàn, “Trong hàm chứa…” là Vị nhân, “Tự thệ…” là Đối trị, “A-dục vương…” là Đệ nhất nghóa. “Tông xã”: đầy đủ trong Chỉ Quán quyển bốn nói. Trong phần “Giải thích theo Bản tích”, căn cứ Hoan hỷ địa để giải thích bản trụ. Địa tức Trụ. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, nói “Tương tự tức Không tức Giả tức Trung tương ưng” là cũng có thể thông lấy danh tự. Trong câu “Cho đến chân quán tương ưng vân vân”, thì “vân vân” là thuật đủ tướng quán. “La-hầu-la, Giải thích theo Nhân duyên”: Căn cứ đời xưa đời nay và tổ vương hoan hỷ, đều là Thế giới Tất-đàn. Các khả năng phá chướng biên nhiều, là Vị nhân. Các chướng biên sở phá nhiều, là Đối trị. Sau đắc đạo là Đệ nhất nghóa. Căn cứ theo kinh Tạp Bảo Tạng thì La-vân vào đêm Phật đắc đạo mới sinh, do La-vân sáu năm trong thai mẹ. Nếu Phật mười chín tuổi xuất gia thì đến hai mươi bốn tuổi đắc đạo, nếu ba mươi tuổi thành đạo thì thành hai mươi lăm tuổi xuất gia, không đồng ý kiến riêng, không cần hòa hợp. Cho đến các giải thích khởi hủy báng và dứt hủy báng…, đầy đủ việc tại kinh kia không nêu đủ. Kinh Vị Tằng Hữu lại nêu quá đủ tất cả. “Bảo nữ…”, Cù-tỳ-la nói: ta thường cùng Da-du tiến chỉ cùng đồng chưa từng có lỗi. Nói “Bảo nữ”, là thiên chủng không mang thai. Phật nếu không xuất gia thì sẽ làm Chuyển luân vương. Trời đưa Bảo nữ để làm thị giả, hoặc nói La-sát nữ, như Thiên Đế-thích cũng có vợ là Tu-la nữ. Đại luận quyển mười chín nói: Da-du-đà-la, khi Bồ-tát xuất gia lúc ấy tự (giác) biết có thai, Bồ-tát sáu năm khổ hạnh, cho nên mang thai cũng sáu năm, liền khiến dòng họ Thích nghi ngờ. Nhân dịp đức Phật trở về nước, La-vân lấy một bình bát đựng một trăm vị thức ăn và thuốc hoan hỷ đem dâng cúng Phật. Đức Phật biến năm trăm vị La-hán cùng giống Phật không sai khác, La-vân bưng thức ăn đi thẳng đến chỗ Phật, các Tỳ-kheo bưng bình không mà ngồi. Chương An nói: “Bảo nữ có thể sinh một ngàn người con. Truyện Pháp Hiển nói: Vương Phi sinh cục thịt tròn như trái dưa, dưa có một ngàn hột, mỗi hột sinh ra một con thành một ngàn con. Đây cùng Đại luận văn có chút sai khác. “Mà Đức Phật muốn khiến xuất gia”: kinh Vị Tằng Hữu nói: “Đức Phật sai Mục-liên theo Cù-di khuyên, Cù-di không chịu. Trên hư không có tiếng bảo rằng: Ngươi khi xưa vào thời đức Phật Định Quang làm người bán hoa, nguyện làm vợ người, xấu đẹp không lìa, sở hữu đều xả hết, chỉ lưu lại cha mẹ”. Vì sao nay lại tiếc con ư? Hỏi: Trong văn không nói Cù-di, chỉ nói Da-du? Đáp: Thời xưa Cù-di là nay Da-du, ngày nay Cù-di chính là Thiên nữ. Cho nên La-vân xuất gia làm Sa-di. Trung A-hàm quyển ba nói: đức Phật khất thực xong đến suối nước nóng (ôn tuyền) chỗ La-vân ở, La-vân trải tọa cụ và múc nước rửa chân, rửa chân xong đức Phật đổ còn lại một ít trong chậu và hỏi La-vân: Có thấy không? La-vân đáp: Thấy. Phật dạy: Ta nói Đạo kia thiếu cũng lại như vậy. Tiếp, sai đem đổ hết nước rồi lại úp chậu… Phật dạy: Đạo kia hết. Đạo kia úp. Rồi bảo La-vân: Phải tác ý đây không được đùa giỡn vọng ngữ, và nói kệ rằng: Người cuồng một phen nói vọng ngữ, không sợ đời sau, không ác gì không làm. Phật nói kệ ấy xong, bảo La-vân rằng: Như người soi gương muốn thấy mặt mình, thấy sạch không sạch. Như thế, La vân! Đem thân nghiêïp mình quán nơi tịnh bất tịnh, thiện, bất thiện, đã làm, phải làm, đều phải thọ nhận quả báo thiện ác, cho đến khẩu ý cũng lại như vậy. Phải nhất nhất quan sát. Tên “bốn đại La-hán”, như trước. “Đức Phật dạy: Sau khi Pháp ta diệt tận rồi thì bốn vị ấy mới Niết-bàn” là căn cứ kinh Bảo Vân quyển bảy nói: “Phật thọ ký cho mười sáu La-hán khiến trì Phật pháp, đến khi Đức Phật sau xuất hiện thì mới được nhập diệt”. Kinh kia nhất nhất đều nêu trú xứ, tên người, chúng số… và “Các Thánh giả đều ở trước Phật phát thệ nguyện: Chúng con dùng thần lực, rộng hộ trì kinh này, không nhập Niết-bàn”. Tân-đầu-lô La-vân ở thứ mười sáu, không nêu Ca-diếp. Trong phần “Giải thích theo Bản tích”, nói “Tám thứ chướng…” ý nói: Bản trú vô chướng, Tích thị hiện mười chướng. “Chướng Niết- bàn”: Nghóa là sinh tử chướng khiến không được nhập Niết-bàn, tức trong văn trước tám phen đầu. “Một thứ chướng sinh tử”: Chướng khiến không được đến nơi sinh tử, tức là thứ chín. Tiếp, nhận lời Phật dạy không được Niết-bàn, cho nên “chướng Vô dư”, tức là thứ mười, lại văn nói về tám chướng trước, nghóa có chút sai khác. Các chướng thứ nhất, thứ hai, thứ ba bao gồm sáu năm ở trong thai, bị thai… chướng ngại cho nên gọi “Phú chướng”. Thứ tư, là đời trước thường chướng, nên gọi là “Phú chướng”. Thứ năm, bị nghi chướng, cho nên nói chướng. Thứ sáu, căn cứ theo cha không chịu bị cha làm chướng, nên gọi là chướng. Ngoài ra, căn cứ đây có thể biết. “Quán tâm theo lệ trước”, là đầy đủ như trong các văn. Nay nên nói : “Tức Giả, nên chướng Niết-bàn, tức Không, nên chướng sinh tử, tức Trung, nên chướng phi sinh tử phi Niết-bàn” cho đến tam hoặc, năng chướng tam quán, Hoặc sở chướng, có tư nghì, bất tư nghì. <篇> <卷>QUYỂN 2 (Phần Trung) Trong phần “Tiếp, giải thích chúng thiểu tri thức”, chẳng những không tán thán lại không liệt danh, do ít người biết. Nói “Thánh cùng phàm…”, giải thích nguyên do thiểu tri thức. Phàm phu không sánh được với Thánh, cho nên nói “tuyệt giao”. Chẳng phải Thánh hoàn toàn không giao tiếp phàm mà gọi là “tuyệt”. Như dùng phàm đối với phàm giao tiếp thì mới biết, huống chi dùng phàm hướng về thánh lý hợp tuyệt giao… Giao hảo đã tuyệt dứt thì đâu đùng thức mà nói nhiều ít ư! “Đặc biệt vì….”, nghóa là nay Thánh vì dẫn phàm mà thị hiện giống như họ, cơ duyên không đồng thì tùy loại dẫn dắt, cho nên hiện tích “làm thiểu tri thức” để tiếp dẫn “người ẩn đức”. Không dùng năng tri năng thức của phàm phu để phán xét sở tri sở thức địa vị cao thấp, cho nên nói “không thể vì Tích là đa thiểu mà mất Bản kia”. Vì thế không thể coi hạng đa tri thức là Bản cao, coi hạng thiểu tri thức là Bản thấp. Lại, không thể coi đa tri thức là có thật bản, thiểu tri thức là không thật bản. Thế nên phải biết: đa thức tiểu thức đều là Tích, mà riêng có lý Bản. Nếu từ lâu bản thì có thật thành. Nếu muốn trong đây biện tứ Tất- đàn, thì nhiều ít sai khác, là Thế giới, tùy thuận căn cơ chúng sinh là Vị nhân, giấu danh ẩn đức là Đối trị, cao thấp chẳng so sánh là Đệ nhất nghóa. “Theo Tam tạng giáo, mười tám hữu Học…”, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển sáu nói. Theo Thông giáo mà phân biệt hai địa vị Học và Vô học, thì trước là căn cứ Nhị thừa, sau là căn cứ Bồ-tát. Lại, trước là căn cứ Tam thừa chung vị, sau là căn cứ (độc) riêng vị Bồ-tát. Căn cứ Biệt Viên cũng phân biệt hai địa vị: một là nói công dụng vô công dụng, tức là căn cứ Địa, Trụ trước sau, hai là Bất cụ, tức Đẳng giác, Diệu giác. Đầu tiên nhập Vô công dụng cũng được gọi là Vô học, chỉ là phần đắc, cho nên lại căn cứ cụ túc. “Dẫn ý kinh A-hàm”, là khai nghóa câu thứ ba làm đầu, ngoại nhân do đó đặt câu hỏi này: Ông nói La-hán đã là vô học vì sao lại phải tùy theo Thế Tôn? “Nếu vậy…” là mượn câu hỏi dẫn khởi, trong lời đáp tức thành câu thứ tư. Phàm nói Học, là tiến Đoạn, như Thất lai, Nhất lai, Bất hoàn đều là không còn học. Nếu trải qua quả tiến thì nghóa thuộc câu trước, huống chi đã đoạn để xong không còn đoạn lại, cũng phải là câu thứ tư, lại thêm song phi tức năm câu. Hai giáo Thanh văn thảy đều như đây. Bốn giáo theo lệ. Thông giáo lại căn cứ Bồ-tát: hai câu trước như trước, hai câu sau Học, Vô học là đương Địa, Trụ. Vô học học: Vô học ở Phật không thể lại học, trở lại ứng thoái chọn lục địa làm vô học, xuất Giả gọi là học. Nếu căn cứ La- hán, thì Phật cũng trụ nơi thiện pháp làm vô học học. Biệt Viên hậu vị (địa vị sau) chỉ không đắc khiến Phật lại có sở học, thì thiếu câu thứ ba, chuẩn theo thông có thể biết, đều lấy phàm vị làm câu thứ năm, thì ba giáo sau đều có hai tiết đều thành năm câu. Trong phần “Giải thích theo Bản tích” nói “ở mãn tự học vô học” Biệt Viên hai giáo đều chọn vị túc vị (vị chưa đủ), trong đó không ngại cũng có cổ Phật, tức là tiết thứ hai: người Vô học. Lại mãn tự: Mãn thông ba giáo lược hai theo Viên. “Chúng sinh nên dùng bán tự học vô học trang nghiêm song thọ”: Đầu tiên từ bán tự dẫn nhập viên mãn, tức Lộc-uyển là thời thị hiện khô, thời Phương Đẳng thị hiện tươi tốt, bấy giờ đã là trang nghiêm Bất nhị. Bắt đầu hạnh chấp Tích mà mờ tối nơi Bản, sau đến Pháp Hoa Niết-bàn mới bắt đầu hiển thuyết, tức trong Đại kinh nêu nhân sáu người đã thấy Phật tánh đồng với Như Lai. Nhị mà bất nhị, cho nên nói “trang nghiêm”. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm” đã lập Học, Vô học hai câu, nên lại lập hai câu: Không duyên mà duyên, gọi là Vô học học, thường quán như vậy, gọi là Học Vô học. Đối người chưa tu, thành câu thứ năm, cũng có thể căn cứ lý làm câu thứ năm, cũng là đắc tam quán đều làm năm câu, tư duy thì có thể thấy. Trong phần pháp số theo Quán tâm, nói “giới như xen lẫn mà luận thì đủ hai ngàn” tức là trăm giới, ngàn như chỉ thành một ngàn, tức mười giới trăm giới, mỗi giới có mười Như. Lại, nên dùng trăm Như ngàn giới, lại gọi là một ngàn. Lại, như tướng mười Như đầu cuối tồn tại, thì mười Như làm trăm, dụng đối mười giới há chẳng phải ngàn giới? Đây lại một phen luận số đơn kia. Nếu ngàn giới trong trăm Như, mỗi giới có mười giới, ngàn Như trong trăm giới mỗi Như có mười Như, thì sao giới, Như đều chỉ có một ngàn ? Vậy thì lớp lớp vô tận không thể đếm biết, lấy gì để làm định số hai ngàn? Cho nên nói bất khả tư nghì. Các cảnh đều như vậy, lại tùy tiện nói cho nên nói “hai ngàn”. Nhân duyên “trong Căn cứ giáo” đều chỉ liệt kê số, đối nghóa tức đủ không cần biệt cầu. Cho nên, hai văn trước nêu thẳng mà thôi. Như thế muốn nghóa lập, nghe số để hoan hỷ, sinh thiện, phá ác, nhập chân. Các giáo dùng quán đối số giải sai khác, tức ý kia vậy. “Nêu tích…” là bản tích, “nêu tích…” là tức tích pháp này là bản pháp. Bản tự có Tích, cho nên nói Bản tích. Không có Tích thì không có gì để hiển Bản. Tích đây tức là tích của bản gia. Không có bản thì không do đâu mà thùy tích. Cho nên, Tích trong hai ngàn tích, là Tích trong hai ngàn bản, trên dưới đều như vậy thích phương, như trong phần “Đa tri thức” ở trên. Trong phần “Liệt kê Ni chúng”, phá bỏ “cách giải thích xưa”. Nói “Lại nữa, không có văn…”: Cuối phần “Liệt kê chúng Tỳ-kheo”, có câu kết rằng: “đó là hàng tri thức của chúng” (chúng sở tri thức), cho nên nói “đa”: Trong phần nêu “chúng Học vô học” thì văn cuối không có câu kết ấây, cho nên đối với “đa” trước, thì đây được coi là “thiểu”. Ni chúng hai văn bởi vì trước không có nói “chúng sở tri thức”, cho nên sau không thể vọng gọi là “thiểu”, cho nên nói “không có văn”. “Nghóa cũng không thể”: là chúng Tỳ-kheo thì căn cứ tán đức và không tán đức, liệt danh không liệt danh, và số đa thiểu (nhiều ít), gồm có kết không kết, để phân biệt đa thức thiểu thức. Nay trong Ni chúng chỉ nêu tên chủ hai chúng, sau hai người chỉ nói “sáu ngàn” và “cùng quyến thuộc” và đều không có câu kết của phần liệt kê. Đâu thể nói “sáu ngàn” là được người khác biết và thẳng nói “quyến thuộc” là không được người khác biết ư! Còn không liệt kê hàng giấu danh ẩn đức thì đâu được gọi là “thiểu”?! “Đại tiểu”: Xưa gọi “đại tiểu danh văn…” đã như trước phá. “Da- du”, đây dịch là “Danh văn”, đâu được từ chối, coi là không có danh văn. Hai Ni đều thiếu giải thích theo giáo, chuẩn theo lệ hợp thì có, cũng nên căn cứ Tăng có đủ bốn giáo năm vị. Hỏi: Tên Đại Ái Đạo vì sao dùng “trí độ” để giải thích Bản ư? Lại, chẳng phải Phật mẫu, vì sao dẫn Phật mẫu để giải thích? Đáp: Do có trí nên mới năng “ái đạo”, đã ái đại đạo thì trí độ cũng đại, huống chi phàm là người nữ thường năng sinh con, cho nên nhờ Tịnh danh pháp môn, coi như mẹ, khiến sinh thầy dẫn dắt tâm mình, coi như “con”. “Giải thích số”: không căn cứ giáo, đại ý như trước. Giải thích số “theo Quán tâm” thì lấy sáu căn làm sáu ngàn, chỉ nhờ văn trong phẩm Pháp Sư Công Đức, nay đây đều là nghóa thông trước sau. Hoặc là các vị thuộc Ni chúng đều là hạng Thánh vị lục căn, đã đối ba chu được thọ ký, tức chánh dùng Hoa Nghiêm mười loại lục căn. “Tiêu biểu Bản pháp môn” là bao gồm nghóa Bản Tích. Trong phần giải thích “Da-du”: lấy con nêu mẹ, phàm lấy con nêu cha mẹ hoặc lấy cha mẹ nêu con, đều có đức nghiêïp được người khác biết, tức có thể dùng tướng hiển bày, Tỳ-kheo đều như vậy. Hoặc nói “không phiên dịch”, chẳng phải riêng Da-du, hết thảy từ ngữ chưa phiên dịch phần nhiều đầy đủ có dịch và không dịch, ví như Tu-đa-la v.v… “Phật thê”: là trong quả nói nhân, bởi vì khi xuất gia đã bỏ Da-du cho nên khi có hiệu là “Phật”, thì không còn có thê (vợ). Quán giải tiêu biểu ba phu nhân: Lộc-dã bất sinh, nên tiêu biểu Không. Da-du có sinh, nên tiêu biểu Giả. Lại ở trong tam quán, Cù-di địa vị Đại là tiêu biểu Trung. “Thượng đương phần” trở xuống là hợp “nêu Bản tích Quán tâm”, trong đó phần đầu nêu rõ “Lại ý” tiếp theo là “Chánh giải thích” Phần đầu lại có hai: Đầu tổng, sau biệt. Hai câu đầu tổng nêu, hai chữ “đương phần” đều bỏ tiếng gọi. Sở dó cùng nêu “Bản tích Quán tâm” là vì nhân duyên không thể hợp giải thích. Căn cứ giáo lý thì nên xen lẫn thông, nay muốn chủ bạn cùng luận, cho nên Bản tích Quán tâm thì tiện. Nhưng Bồ-tát tạp chúng đều có Bản tích Quán tâm không cùng nêu vì hình phục sơ, vì vô thủy chung, vì chẳng phải chúng sinh trọng, vì chẳng phải Kinh muốn riêng làm. Lại nhân duyên, giáo tướng không phân biệt rõ, tức là từ Bản thùy tích chỉ là cảm ứng. Cảm ứng không vượt qua giáo tướng, cho nên chỉ Bản tích tự nhiếp hai thứ còn lại. Nếu như vậy, thì văn trên đã có thứ này đâu cần nêu lần nữa? Đáp : Do hóa duyên không đồng, chớ chẳng phải không lợi ích chúng sinh, nhân duyên tương quan phải cùng thiết lập tích. Hoặc một người liên quan đến nhiều người, nhiều người liên quan đến một người. Hoặc một người liên quan đến một người, nhiều người liên quan đến nhiều người. Hoặc khiến thủy chung, thân sơ, chủ bạn, hiển mật, cùng thành nhất hóa. Lại, các thánh quán hạnh năng quán sở quán, một sát-na chứa cả một kỳ hạn, sự lý, quyền thật, nhân pháp, chủ bạn, ẩn hiển, thiện ác, đều do tâm này quán nhiếp. Vì vậy cho nên phải căn cứ tâm vương tâm sở để nêu rõ. Tiếp “hiển thiện Quyền” trở xuống, là biệt thuật “Lai ý”: Câu đầu nêu Bản tích Lai ý, câu tiếp nêu Quán tâm Lai ý. Nhất trong Quyền nên gọi là “thiện” (khéo léo). Không có một bậc Thánh giả nào mà không thuận theo cơ duyên, cho nên gọi là “khúc xảo”. Không có một tâm sở nào mà không thành diệu quán cho nên nói “tinh vi”. Tùy căn cơ nên dẫn dắt quanh mà tiến nên “xảo”, không lẫn lộn nên chuyên “tinh”, lý cùng tột gọi là “vi”. Từ “Luận về Thủ Lăng-nghiêm” trở xuống: trước tổng giải thích Bản tích chia làm ba phần: Đầu, trình bày thùy tích tổng luận đạo lợi vật, tiếp “Nay lại…” là nêu chủ bạn đồng lòng hóa phương, sau, “Do đây…” là tổng kết công Tam-muội. Đầu văn nêu Bản tích sở y, Bản địa sở y, Thủ Lăng-nghiêm bản, thị hiện tích. “Xứng thích”: Nêu rõ ý thùy tích, “chẳng cái gì không làm”: là nêu tướng thùy tích. Các đại tiểu giáo nêu các La-hán chỉ đắc Tứ trí, thẳng chịu chê trách đào thải mà thôi, không nêu rõ ý hóa. Bấy giờ ai nói : “Sinh ấm chưa tận, Phạm hạnh chưa lập, việc làm chưa xong, vẫn có biến dịch?”. Cho nên biết chỉ căn cứ giới nội để rõ tận. Nếu khai hiển rồi, thì Bản là đại quyền. Sở dó trước ngoài, tiếp tiểu truyền dẫn nhập Viên, cho nên chẳng phải bản Thủ Lăng-nghiêm. Không có gì để thùy nơi hóa tích, cho nên nói “chẳng cái gì không làm”. Tiếp nêu Chủ bạn hóa phương, có sáu: Chủ bạn giáng thần. “Nếu ba mươi hai…”: nêu tư chất mới sinh của thầy trò. Sau “Nếu hoàng hoàng…”: nêu cùng lãnh thọ đạo thế gian. “Nếu pháp…”: nêu năng sở sinh thục, tức chỉ Lộc uyển Tiểu thừa. “Cùng phụ…”: lại thuần thục chưa thuần thục, tức chỉ Phương Đẳng Bát-nhã. “Tiếp nghe Pháp Hoa…” nêu chủ bạn công xong. Phần đầu lại có hai: Đầu tiên là chủ, sau “Pháp thân…” là bạn. Phần thứ hai lại có hai: Đầu là thầy, sau “Các đại…” là trò. Phần thứ ba cũng có hai: Đầu, Sư dạy lãnh thọ đạo thế gian, sau “Các đại só…” tiếp chỉ bày thọ giáo hóa tà. Phần thứ tư văn cũng có hai: Đầu biết sở hóa còn sinh, tiếp “Nếu sở…” là xem xét sở hóa cơ duyên thuần thục. Phần thứ năm cũng có hai: Đầu là Phương Đẳng, sau là Bát-nhã. Phần thứ sáu lại có hai: Đầu chánh nêu công xong, sau “Pháp vương…” là lập lại thuật bán mãn để hiển bày công hóa độ. Phân văn xong. Tiếp, lược giải thích. Nói “Luận gần (cận)”: là lại xả trung gian để thuật Gia-da. “Thánh hậu”: là Thánh hoàng hậu. “Hậu” cũng là đức chánh bởi vì pháp thân bình đẳng. Cũng có cổ Phật, lại nói Bồ-tát. Chủ đã giáng thần, thì bạn cũng ở Tích. “Kim tư”: Sắc mạo vàng đẹp. “Đại só”: Đại luận gọi Bồ- tát là Đại só, cũng gọi là Khai só. “Só” nghóa là gọi chung só phu phàm nhân. Do Đại khai chọn lọc, nên gọi là “đại”… Như thế gian nói “Nhân só, Chí só…”, cũng do Nhân… chọn lọc. Nay trong loài người phát đại tâm gọi là “đại”. “Khai” là tên khác của phát, vì dẫn chúng sinh không đồng nên các tướng có khác. “Nhà Không”: Tu-bồ-đề khi sinh trong nhà đều trống không, tiêu biểu giải Không. “Mưa báu”: là trường hợp của ngài Phú-lâu-na, “Nhờ biện tài thông mộng”: Xá-lợi-phất. “Thái tử…”: Đầu tiên đồng sau khác. Muốn đoạt thì trước cho, nên gọi là hoàng… Cư xử rất tôn kính mà vì trước dẫn dắt. Như Kinh Nhân Quả nói: “Lúc Phật sắp giáng xuống cõi Diêm-phù này, thì có chín mươi chín ức chúng”; bỏ đại chúng đây và quên tứ thiên hạ cho nên nói “bỏ nước”, bỏ địa vị Kim luân cho nên gọi là “bỏ ngôi vua”, dạy tập định thế gian cho nên nói “học đạo”. “Các Đại só… cũng dạy thọ giáo hóa tà” cho nên nói “thỉnh nghiêïp”. Quá sự tu tập kia nên nói “ kiêm thông”, thâu nhiếp chúng kia nên nói “tông tượng”. Như Thân-tử mười sáu âm thanh chấn động ngũ thiên, cùng Mục-liên cùng theo thầy Sa-nhiên Phạm chí, chưa trải qua tuần tháng Sa-nhiên đem hết đồ chúng giao phó. Đại pháp muốn khai mở thì trước phải khai thông thấu triệt như Kiều-trần-như… Biết sở hóa đã sinh, năng hóa cũng dự vào, “phân đình kháng lễ” (địa vị ngang nhau) như Ca-diếp… “Kháng”: Kinh Dịch nói: “Biết tiến mà không biết thoái, biết được mà không biết mất, cũng là đối”. Chưa chịu làm quan cho nên phân đình không thoái. “Tôn sùng đạo chân thật của”: đầy đủ như trong “Ca-diếp duyên”. Cơ thuần thục có thể giáo hóa, cho nên nói “dễ nhiễm…” Các Đại só mỗi vị đều có một năng lực chủ yếu nổi trội như : trí tuệ Thân-tử, thần thông Mục-liên, biện tài Ca-chiên-diên, Tam-muội Phú-lâu-na. “Lại độ người chưa độ”: tuy thầy trò nhận hóa mà hóa đạo chưa dứt. “Độ” gồm hai nghóa: Nếu hoàn toàn chưa thọ hóa, thì trong Phương Đẳng lại khiến nhập Tiểu thừa. Nếu các Bồ-tát thì chỉ khiến tận vô minh. Nói “lại thuần thục người đã thuần thục”, tức là cả hai địa vị Đại Tiểu thuần thục đã chưa trọn, đúng lý nên tiến nhập. Trong giải thích “hâm mộ Đại” nói “không biết”, chỉ lời nói “không biết” này tức căn cơ Đại thừa ngầm phát. Dưới nói “cơ, tình hai thứ đòi hỏi” tức ý đây vậy. “Đều hiêïp…” nghóa là trong Bát-nhã, Thông giáo nhị thừa, cho nên trong bộ kia Thông giáo chân thật trong đầy đủ Đại tiểu gọi là “hàm” (đều), Đại đới (mang) Tiểu nên gọi là “hiêïp”, vì từ đầu đến cuối thông Đại Tiểu. “Xuất nạp…” là nêu rõ lãnh nghiêïp, pháp tự tha đều khiến biết, “xuất nạp” đầy đủ như trong sớ dưới nói. Hai chữ “xuất nạp” ở Giang-nam phần nhiều đọc khứ thanh, đều có nguyên do. Nếu người xuất nhập thì chữ “xuất” có thể từ thanh “nhập”. Người là sở vận, có thể từ thanh khứ. Chữ “nạp” Nam, Bắc hai âm nghóa đồng, chỉ sợ lạm dụng là “nội” (nội ngoại) cho nên theo Nam âm. “Côïng” nghóa là Thông giáo. Nếu vậy thì sao không phó tạng? Đáp: Trước đã đắc, Biệt tức biệt Viên, Thiên Viên đầy đủ như Huyền văn phân biệt. Được thêm vì “phụng mêïnh” sở thuyết gọi là “lãnh biết”. Gọi là “thuyết” vì lãnh cái không biệt lãnh, cũng như trụ trong Tiểu quả gọi là “không hy vọng lấy”. Chuyển thành Thục-tô, gọi là “chưa đốn xả”, mong cực giáo ở sau nên gọi là “mặc dù”, được lãnh thêm pháp, tâm kia không sợ gọi là “thông thái”, cho nên nói “đã dần dần” (tiệm dó), thông xưa, thông thái chỉ tại Thục-tô. “Tiếp, nghe Pháp Hoa…” là nêu đến thời thứ năm, đầy đủ như trong phẩm Tín Giải rộng nói. Hiển chân di thể cho nên “hội thiên tánh”, vì thiên tánh định cho nên nghóa cha con thành. Xưa kết đại duyên gọi là “chân thể”, đắc thọ ký biệt thì nghóa cha con thành. Định xưa ở chỗ hai vạn Phật mới có thể ký biệt. Một mình điều phục đạt Niết-bàn cho nên nói “độc diệt”, còn không có một người riêng diệt, há lưu lại nhiều người? “Pháp vương…” lại thuật ý một đời giáo hóa. “Đầu tiên dùng…” là nhờ” bán, mãn, vinh, khô “để thành hóa sự, giải thích phương tiện nói quyền xảo bên trên, đại hóa công xong nên nói “Thân-tử…” không đợi Niết-bàn cho nên nói “dứt hóa”, thục (chuộc) mạng như Thích Tiêm. Như đây giải thích, mới giải thích chúng của kinh Pháp Hoa tổng biệt hai lớp tiêu thích Bản tích mà còn sợ mất ý chỉ, trực tiếp như thế một câu dịch danh mà thôi! Đâu khác chúng Thanh văn của các giáo?! “Xướng diệt…” chiùnh là do công xong, nên khởi nói xướng diệt. Thế nên, duyên xướng diệt chiùnh là ở kinh điển này. “Hai vạn Đăng Minh…” là căn cứ Văn-thù đáp vấn dẫn sở kiến xưa, đều không có hậu giáo, phải biết tức ở Pháp Hoa là xong hóa độ. Nếu thấy ở phương Đông thì đủ thấy Pháp Hoa Niết-bàn, chính là dẫn đồng Phật nay. Nếu Ca-diếp xuất thế cõi kia thì như lý tịnh đồng với kiến xưa, tuy Niết-bàn có không không đồng, đều ở kinh này hiển thật. “Vì học…” : “Nam” như Bảo Tích, Thiện Đức…, “nữ” như Nguyệt Thượng, Vô Cấu Thí… “Đạo” là hai chúng xuất gia, “tục” tức hai chúng tại gia. Cả bốn chúng “ Phát khởi… thảy đều có, cho đến người hiền lương, nghèo giàu, thân sơ, cung mạn, sân hỷ, phàm Thánh, tướng kia chẳng phải một, cho nên nói “v.v…”. Tiếp, “Tổng nêu quán”: Là tổng biệt ý chỉ đại theo như trước nói, dùng hai mươi tâm sở cùng phụ giúp tâm vương mà duyên cảnh thiện, như đầu khởi quán không lìa Tâm vương tâm sở. Thông số cũng thông, thông đến tâm sở thiện, do đại thiện này trải qua duyên đối cảnh, thiện kia chuyển sâu như đến kinh này, cho nên tâm sở thiện đây không phân biệt tâm thể. Trở lại chỉ chuyển tâm sở ác kia mà sinh, cho nên từ ngoại nhập tiểu, từ tiểu nhập đại, từ thủy quy về chung, mới gọi là thiện cực. Thiện hạnh tuy nhiều nhưng không ngoài mười thứ này, cho nên nói “mười tâm làm gốc”. Chuyển đã tột cùng rồi, lại giống như tâm vương không thiện không ác. Như các đệ tử được thọ ký rồi, phần đồng pháp vương, cho nên nói “lập”. Lại, tiệm chuyển: như các Thanh văn. Nếu đốn chuyển: thì như đốn Bồ-tát, đều là thật tướng, khiến vua trở thành “cứu cánh Pháp vương”, con trở thành “Pháp vương chân tử”, đều có khả năng Bổ xứ chuyển hóa dư sinh. Vì vậy cho nên ở trong đó, trước chọn thiện tâm, nhưng nay liệt ra đều căn cứ cựu dịch. Tân dịch nói: Tín và không phóng dật, khinh an, xả, tàm quí, hai căn và bất hại, cần chỉ khắp các thiện tâm. Ba câu đầu và một chữ, là nêu, bốn chữ sau là kết. Nếu muốn đối cựu danh mà lược biện đồng và khác, thì tân nói” tín “nghóa là đối Tam bảo nhẫn chịu, cho nên cùng cựu danh nghóa đều đồng. Tân dịch “Không phóng dật”: nghóa là tu các thiện chuyên chú làm tánh, thì cựu gọi là “niệm”, niệm nghóa là ức trì, danh khác nghóa đồng. Tân dịch “Khinh an”: nghóa là khinh lợi, an thích, kham nhậm làm tánh, thì cựu gọi là “hỷ”, hỷ duyệt an khóai, cũng danh khác nghóa đồng. Tân gọi là “xả”, nghóa là lìa trầm, trạo, cùng cựu danh nghóa đều đồng. Tân nói “tàm quí”, cựu nói “ỷ giác”, danh nghóa đều khác. Tân nói “hai căn” là không tham không sân, cựu nói “định tuệ” danh nghóa cũng khác mà đạo lý đại đồng, bởi vì không có hai tham sân này, thì định tuệ mới thành. Định tuệ cũng có sâu cạn không đồng, “hai căn” chẳng phải không có hơn kém. Tân nói “bất hại” nghóa là không tổn não làm tánh, thì cựu nói là “giới”, danh khác nghóa đồng. Tân gọi là “cần”, cựu gọi là “tiến”, danh nghóa đại đồng. Danh nghóa kia hoàn toàn không đồng, là do người dịch ý riêng biệt không hòa hợp. Nay đây quý ở chỗ từ danh nhập quán, cho nên tâm vương thiện, tâm sở thiện cùng chỉ đạo các ác, để thành diệu thiện. Thế nên, thông tâm sở giúp tâm vương cũng như vậy. Dùng tâm sở đối người, thì tùy hạnh tướng kia cũng có thể hiểu. Mười người đã vậy, lấy “mười” để hướng về số nhiều, cho đến vô số không ra ngoài tâm sở, đâu chỉ một vạn hai ngàn, cho đến “chưa thọ hóa” đến, thuộc về tâm sở ác cũng thu hết, đâu chỉ thiện và thông ư! “Mười người đều đầy đủ…”: là nương Bản tích để nêu Quán tâm. Bản, chính là Pháp vương. Tích là chỉ bày thiện thông tâm sở, do thị hiện nhập đạo không đồng. Nói “ Trong mỗi một tâm đều có tâm vương tâm sở “: Vì cho rằng hai tâm đó không đồng. Nay nói “tương phù”, tức là đồng thời, cũng lại nên nói “thứ đệ tương sinh”. Chẳng những đồng thời khác thời, mà còn là các tâm sở xen nhau có. “Tín” đủ các tâm sở từ “tín” đặt tên, chín thứ còn lại cũng vậy. Theo mạnh mà nói, cho nên thọ biệt danh. Mười thông tâm sở, căn cứ đây có thể biết, vì vậy lần lượt tương phù đánh phá ác. Nếu nhất tâm cải đổi, thì các tâm sở còn lại đều tùy theo. Nếu tương phù chuyển hết, thì đồng nhập cảnh thật, không gì không phải chân thật, vương mà chẳng phải vương chẳng phải sở. Cho nên, biết tùy người mà thiên về mạnh thế nào, mạnh là quán cảnh, yếu là theo đi. Khéo đạt ý này thì bốn oai nghi, ba nghiêïp tu quán có nơi nương gá, huống lại năng quán phải biện rõ khác, đồng. Nói “cùng công phá”: là thông tâm thiện tâm tức năng công phá. Nói “bất hành…”: là chỉ các ác còn lại… Năng công phá thuộc trí, cho nên nói “hành Bát-nhã”. “Dẫn kinh Phổ Hiền Quán”: Năng sở đều tận, cho nên tâm vô tâm, pháp không trụ pháp. Chấp có năng quán, gọi là ngã tâm. Có ngã tâm thì năng sở không mất. Ngã sở nếu không, thì tội phước vô chủ. “ Vô tâm vô sở, gọi là chánh quán “cho nên nói” nếu bất tận thì quán không xong”. Thế nên đến Diệu giác mới gọi là “xong”. Cái gọi là “tận”: Nhân là tâm sở tận, thì quả là tâm vô tận. Cũng như năm ấm nhân quả, danh đồng mà thể kia vónh viễn sai khác. Thông dẫn ý kinh nói: “Chúng sinh chưa độ…”: là mượn sự chứng lý: nếu sở quán, tức chúng sinh tâm, mà chưa chuyển, thì năng quán, tức tâm vương tâm sở Sư đệ chưa dứt… Trong câu “tức là ý này vậy, vân vân”, thì “vân vân” là rộng nêu tướng năng quán sở quán của tâm vương tâm sở, xong và không xong, thành và không thành, tên “Chánh giác” lại thông các địa… “Tiếp, Liệt kê chúng Bồ-tát”: Đại luận quyển thứ tư trước hỏi: Vì sao gọi là Bồ-đề tát-đỏa? Đáp: Hết thảy Phật pháp, giới, định và trí tuệ, năng làm lợi ích tất cả, gọi là “Bồ-đề”. Tâm kia không thể động, năng nhẫn thành việc đạo; không đoạn cũng không phá, đó gọi là “Tát-đoả”. Lẽ ra căn cứ ba giáo để giải thích văn đáp này, đối với tiểu thành bốn. “Bồ-tát là thuộc bốn chúng xuất gia…”: Luận có hai câu hỏi: 1. Hỏi : trong Kinh (của) Thanh-văn nói có bốn chúng, không có chúng Bồ-tát, là vì sao? Đáp: Có hai thứ đạo: là Thanh văn và Bồ-tát. Bốn chúng là Thanh văn đạo, cho nên kinh Thanh văn không có chúng Bồ-tát. 2.Hỏi: đầy đủ như văn nay. Đáp: Thông tuy như thế, biệt thì không như vậy, đầy đủ như văn nay. Luận hỏi: Nếu vậy thì kinh Đại thừa vì sao không chỉ liệt kê riêng Bồ-tát? Ý đây hỏi là: trong Tiểu thừa giáo thì Bồ-tát chẳng phải chánh, cho nên chỉ liệt kê Thanh văn và bốn chúng, vì Bồ-tát thuộc về trong bốn chúng, trong Đại thừa giáo thì Thanh văn chẳng phải chánh, lẽ ra chỉ liệt kê Bồ-tát, bốn chúng nhiếp ở trong Bồ-tát ư? Luận đáp: Thừa ấy rộng lớn, các thừa đều nhập. Như sông Hằng thì không thể tiếp nhận biển lớn, biển lớn thì có thể tiếp nhận sông Hằng. Ý luận đáp đúng như việc hỏi: Chỉ vì nhiếp lấy dần, khiến trở về đại, như sông Hằng vào biển lớn kia còn có phương tiện. Nếu y văn này, trước tiên biết các bộ côïng biệt có không, thì mới biết ý kinh này liệt bày chúng, chẳng quan hệ liệt kê chúng ly hợp, mà năng biện đại tiểu thiên viên. Như kinh Kim Cang thì chỉ liệt kê tiểu số, kinh Kim Quang Minh thì đại tiểu đều không có, há có thể năng phân biệt đại tiểu sai biệt ư? Cho nên biết : trước tiên dùng giáo để phán định, dùng giáo để biện người, thì cả trăm mà không sót một. “Cho nên nay…”, là nói thông ý biệt. “Nếu tồn tại đủ…”, là trước biện rõ tóm lược. “Bồ-đề…” là chánh giải thích danh, trước căn cứ thượng cầu. “Lại thành…” là căn cứ hóa tha. “Ma-ha” so trước cũng có ba nghóa đại v.v… đầy đủ có bốn giáo, đạo biết dùng ba, cho nên nói “nhiều loại”, đầy đủ như Huyền Văn… và trong Chỉ Quán. Mỗi mỗi tứ hoằng tức kia bắt đầu, nhất nhất lợi sinh tức dụng kia, nhất nhất đạo phẩm tức hạnh kia, nhất nhất pháp môn tức sở tri. Tứ hoằng nếu phân biệt bốn, ba ắt là theo kinh khác và phân biệt năm vị mới là Viên diệu Bồ-tát của kinh này. Từ “Như Thích luận…” cho đến “đề- hồ”: là căn cứ danh năm vị để biện rõ bốn giáo Bồ-tát. Luận lại nói: Phàm xưng thiện pháp đều gọi là “Tát”, thiện pháp thể tướng gọi là “Đỏa”. Cho nên biết Bồ-tát tự lợi lợi tha đều là thiện pháp và thể tướng thiện tức là tứ chủng đạo A-nậu Bồ-đề. Hết thảy Hiền thánh được xưng tán, đó là tứ chủng Bồ-đề Tát-đỏa. Lại luận nói thông luận ba thứ đều xưng Bồ-đề. Cái gọi là Tam thừa: Người Nhị thừa trước tuy xưng Bồ-đề mà chẳng phải công đức Phật, cho nên không gọi là Tát-đỏa. Phàm vì tạp huyết điều hòa thành tam kỳ bách kiếp sữa tịnh. “Dẫn Đại Phẩm” ba văn chứng bốn vị lại dùng nghóa Tam giáo nhiếp bốn vị, huống chi nay năm vị đều phán xét Bồ-tát, cho nên dùng vị Lạc đối Thông, hai vị Tô đối Biệt, vị Đề-hồ đối Viên. Do các Bồ-tát trải qua bốn vị này nhập bất định, nên nghóa đương tam quán, tức tam Tạng Bồ-tát. Khi chuyển nhập Thông giáo, nghóa đương nơi Lạc, căn cứ thời thì đều tại Phương Đẳng về trước. Khi chuyển nhập Biệt thời tại hai vị, tức do trong hai vị đều có Bồ-tát sự bất tư nghì. “Dẫn kinh Tịnh Danh” đã nhập thật ở trong hai vị tâm xứng thoát lý, tám ngàn thọ chịu khuất phục, thị hiện làm độn căn và người Nhị thừa bị chê bai đào thải rồi mới đều nhập Biệt. Căn cứ ý Huyền Văn tức lìa hai vị để đối Thông Biệt. Tiến thoái, thừa thiếu đều có hai ý, cho nên nhập thật thì đều tự lập thân như tòa tượng kia, tòa cao bốn vạn hai ngàn do tuần thì thân cũng xứng hợp. Mượn ý Bản tích để trợ giúp phần giải thích theo giáo. “Bồ-tát nghi trừ v.v…”: đều chứng bốn Bồ-tát, trong Quyền cần phải khai, cho nên đến Kinh này mới trừ ba lưới nghi của Bồ-tát mới là khéo hạnh Bồ-tát đạo. “Lại, kinh Niết-bàn…”: như thế hai kinh đồng vị, “ đều dứt mong cầu” vì vậy nên dẫn đồng, nói “lược có” là nay xưa hợp chỉ. Trong phần “Giải thích theo Bản tích”, chia làm ba phần: Trước nêu Bản tích chẳng gì so sánh, tiếp “Sở dó…” là nêu ý thiết lập Tích, sau “Như thế Bản địa kia…” chính chỉ bày Bản phủi xóa tích. Trong phần đầu, nói “Hoặc đều là pháp vương”: như Văn-thù bản là Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật, ngoài ra căn cứ đây có thể biết. “Tán ảnh thùy dung…” là đồng Thanh văn trước, tổng nêu Bản tích. Tiếp, trong phần ý thiết lập Tích, có pháp thí hợp. Trong thí dụ có nói “chày cối”: Hóa chủ là “ chày “, phụ là “ cối đá “, cho đến hỗ tương làm đều thành “khí cụ”. Xưa coi cổ chất là “thuần phác”, nay coi chưa trị là thuần phác khiến kia thành khí cụ, cho nên gọi là “khí”. “Thuần phác” không phải một, cho nên gọi là “các”. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm “nói” Phá ngũ trụ trần lao, gọi là thành tựu chúng sinh, vân vân”, thì “vân vân” là : Ngũ trụ đối ba quán theo thứ lớp và không thứ lớp. Quán cũng như vậy, suy nghó có thể biết. Trong phần “ Giải thích Tám vạn người” nói “đồng mưu vân vân” thì “vân vân” là ứng hợp dụ nói: Nay khai bí tạng không liên quan đến quyền… cho nên người chứng tín đều chẳng theo như vậy. Cho nên, nay văn liệt kê không hẳn ở số nhiều, liệt kê chúng tuy như vậy mà Bản môn đắc đạo số gấp bội các kinh, tức trước đắc vô sinh tăng trưởng đạo vậy. Cho nên biết: lại là tùy theo điểm trọng yếu mà liệt bày đó thôi! Đây trong nêu số đã là nhân duyên, tuy tức không giải thích theo Giáo và theo Bản tích, mà nhân duyên người đã dự trong mưu tín bí mật, ắt là người Viên giáo và có viễn Bản. “Bát chánh tức là bát vạn”: đã là vô tác đạo phẩm bát chánh, thì đều là quán trăm giới ngàn Như kia. Thập thiện đã là sở quán, bát chánh tức là năng quán, năng sở theo nhau thì đều có tám vạn . Tiếp, trong phần nêu “địa vị” : đầu là nhân duyên, tiếp “Ứng bốn thứ…” là căn cứ giáo. Trong phần đầu, nói “Vô thượng đạo như trong diệu cảnh”, tức lục cảnh sơ tứ Bồ-đề, cảnh bao hàm chỗ hướng đến của diệu đạo. Dùng sở để hiển bày năng, cho nên phải chỉ cảnh. Nếu biện rõ Tứ Tất-đàn: Tam bất thoái sai khác là Thế giới Tất-đàn, nhập vị công đức là Vị nhân, quyết trị vô minh là Đối trị, chứng nhất phần chân là Đệ nhất nghóa. Dưới căn cứ đây có thể biết, không thể viết đủ. Nói đủ gọi là “A-bệ-bạt-trí”: A” là vô, “Bạt-trí” là thoái. Thời tăng kỳ kiếp thứ ba, rộng đắc tam Bất thoái, khi lìa năm chướng thì ba nghóa đều đắc tức là Tăng kỳ kiếp thứ ba thông đến một trăm kiếp, thông tam Bất thoái ấy, đến đây gọi là Thượng nhẫn. Tiếp, địa vị thông giáo dẫn “lục tâm”: Thông giáo địa tiền không có vị có thể luận, mượn danh biệt vị để thông vị kia, tức chỉ Biệt giáo Thất tín trở lên, nhập Can tuệ địa. Cho nên nói Sơ địa đến Lục địa, mới gọi là Vị Bất thoái; hoặc chỉ địa tiền giả lập Thất hiền, tức lấy Nhẫn vị làm đệ lục tâm. Y tiểu thừa vị tuy nói Nhẫn vị gọi là Vị Bất thoái, mà đối với Bồ-tát thừa còn gọi là thoái. Tiếp, trong Biệt giáo “theo Địa luận sư” cho nên không phá. Viên vị: Các giáo viên vị không vượt quá Hoa Nghiêm, các văn khác tuy có nhưng nghóa Vị không rõ ràng, mà hoặc lược nêu Sơ trụ mà thiếu các vị sau. Sơ trụ đã vậy, thì Hạnh Hướng đâu thể khác, đâu được cùng địa tiền kia mà phục hoặc. Nhưng lại Hoa Nghiêm, sau Trụ thì gồm Biệt, hoặc tiện nhất hướng làm thứ đệ giải, hoặc dùng nhất hướng làm Viên đốn giải, đâu chỉ một phen sai lầm ư? Đủ ba bất thoái: Nếu trước dùng không thứ đệ nương vào thứ đệ nói, thì Thất tín gọi là Vị Bất thoái, Bát tín trở đi gọi là Hạnh bất thoái, Sơ trụ trở đi gọi là Niệm Bất thoái. Nay từ Sơ trụ đã đủ ba đức, gọi là tam Bất thoái cho nên nói là “đủ”. Bát-nhã là vị lìa hai cách chết, Giải thoát là hành các hạnh đầy đủ, Pháp thân gọi là niệm chứng thật cảnh. Kinh kia phẩm thứ bảy Hiền Thủ rộng nêu tướng ấy. Quyển đầu, Đế-thích hỏi Pháp Tuệ rằng: Sơ trụ thành tựu bao nhiêu pháp, bao nhiêu công đức tạng? Pháp Tuệ đáp: Việc này rất sâu khó tin khó biết khó nói khó giải khó thông khó phân biệt, nhưng thừa Phật lực thì có thể diễn thuyết đầy đủ. Vẫn trước so sánh lượng nói: Cúng dường đầy đủ các thứ cho chúng sinh mười phương A-tăng-kỳ trải qua ngàn kiếp lại khiến chứng Bích- chi-phật, trăm ngàn ức phần không bằng một phần kia. Lại nói muốn biết mười phương thế giới một tức nhiều, nhiều tức một, một niệm tức vô lượng niệm… Đối với trong kinh Pháp Hoa, bố thí bốn trăm vạn ức A-tăng-kỳ thế giới lục thú tứ sinh, cho đến khiến họ đắc Vô học, cũng không bằng người sơ tùy hỷ. Kinh kia vẫn dễ, vì đó là Thánh vị cho nên nói “mười phương…”. Đối với Kinh này, thì người thứ năm mươi nhất niệm công đức mới hiển Viên vị bất khả tư nghì, kinh đây là khó. Vì đều là Viên từ đầu đến cuối không hai, cũng đâu có kia đây. “Còn chẳng phải Sơ trụ”, tức là các Bồ-tát đây đều là Nhất sinh Bổ xứ, còn là cổ Phật huống chi Sơ trụ. Từ tân dịch đến nay, chỉ dùng vị Du-già Duy Thức, che lấp thuyết Viên thường của Hoa Nghiêm, ai biết Duy thức…? Văn chỉ nêu Biệt vị, đời sau ai khẳng định thấy đây đồng khác. Lại nữa, có người hoàn toàn hủy tông Quyền Duy Thức luận, đây thì hoàn toàn mê nơi đường phương tiện. Không biết Tích, tích thì ở đầu các kinh, cho đến đầu kinh Pháp Hoa. Kiểm nghiẹâm thì biết có thể là người ở địa vị nông cạn ư? Đã mất Bản lý, mê mờ ở tích, huống chi từ bộ phận phê phán sự vi diệu của bậc đứng đầu được người tôn quí. Các Sư đã không hiểu năm thời, đâu biết Bồ-tát bản tích. Cho nên, nói “sở thán đã lầm…”, dùng Tạng tán thán Thông cũng đã thành lỗi, dùng Thiên tán Viên thì lỗi chẳng gì lớn bằng, lại thành tăng giảm hai biên cùng hủy báng, chỉ đây một phen lầm nghóa dẫn đến hai lỗi. Kinh không có tam giáo thì khổ muốn tăng, dìm Viên xuống thành Thiên thì là giảm, sao lại lầm như thế? “Tam quán tức tam bất thoái”: quán Không tức Vị bất thoái, quán Giả tức Hạnh bất thoái, quán Trung tức Niệm bất thoái. “Nhất tâm”: lại căn cứ diệu tam, nhất quán đều đầy đủ. Trong câu “tức nhất tâm tam bất thoái, vân vân”, thì “vân vân” là thuận theo giải thích tướng theo thứ lớp và không thứ lớp, và do nhất niệm phải căn cứ Lục tức. “Cực hữu mi nhãn”: vội vã mà đoạt tuy có mi nhãn nhưng đại thể hoàn toàn không có. Từ “Xem xét luận” trở xuống, là đoạt. “Không có thú hướng”: Những hiện đức này giáo nào không có, tuy nói pháp báo nhưng không chọn lựa Viên Biệt, hoặc như phân Viên Biệt là đầu hay cuối, cho đến các câu là dọc hay ngang, cho nên tổng phá nói “không có tông thể”. Nếu có tông thể thì vì người chứng vị y kinh lập vị. Sở y của vị, gọi là vị bản, bản tức là thể, vị tức là tông, huống chi kinh này đặc biệt xuất sinh trên các giáo các vị. “Căn cứ giáo tán thán đức”, ý thì có thể biết. Cho nên bắt đầu từ Bất thoái đến cuối Độ sinh, thì trước định thể tông rồi mới có thể tán thán đức. Hỏi: Kinh này vì sao theo chiều dọc tán thán vị Thập địa của Biệt giáo ư? Đáp: 1. Ký gửi bản. 2. Chứng đồng. 3. Thuận luận. “Thế nào là Thất địa…” Người xưa phê phán nói: Thất địa e rằngï khởi tâm Nhị thừa, đây tợ Thông vị, vì vậy cho nên vấn nạn kia không thành nghóa theo Biệt giáo. Vấn nạn Viên cũng vậy. Nếu nói Thất địa mới nhập vô công dụng đạo, thì đây là Biệt giáo giáo đạo để rõ nghóa, cho nên không thành Viên. Nói “Tiến thoái…” là bài xích tiến không thành Viên, thoái chẳng phải Thông Biệt. Nay văn tán thán ngang dọc. Trong phần dọc tán thán: “tùy tình ý”, bản tại Viên. Trước chánh giải thích, tiếp đến chọn lọc. Song trong phần dọc trước, thì văn đầu tiên mượn danh ly nhị, phải khác với nhị ở kinh Anh Lạc vì là phương tiện. Trở lại y nhất niệm đầy đủ tam bất thoái, để làm Sơ địa. Viên lìa tam cấu viên phát tam trí, viên minh viên chuyển nhất niệm cúng dường, viên gieo trồng đức bản vì Phật viên tán thán. Đầy đủ viên tam từ bất nhị Phật tuệ… căn cứ đây có thể biết. Nếu không khai Đẳng giác thì bốn câu đồng tán thán Thập địa. Nay theo khai thuyết, cho nên ba câu sau tán thán Đẳng giác. Văn nói hai câu: là câu thứ mười một và câu thứ mười hai là nội ngoại đức của Thập địa đó thôi. Chỉ không từ Sơ địa tức đủ, cho nên tợ Biệt. Tiếp, trong phần ngang tán thán : câu đầu cũng nói vượt qua nhị biên, dọc còn đều Viên, huống chi đây ngang tán thán lìa nhị biên ư! Chỉ căn cứ phi dọc mà dọc như trước nói. Vượt qua nhị biên: Thô hoặc trước bỏ, lại từ thù thắng mà nói, từ Trung mà đặt tên. Các câu dưới căn cứ đây có thể biết. “Chữ A…”: đây Sư dùng theo…, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói. Đến phần Vấn đáp: trong câu hỏi đầu tiên, câu đầu lập tông, “Tam tạng…” ví dù cho, “Thanh văn…” lập ước lệ, “Tích là…” lập nạn vấn. Lập tông ý: là đoạn hoặc. Địa Trụ trở lên đều căn cứ vị đoạn theo Viên giáo mà tán thán đức, Tam tạng Bồ-tát từ đầu đến cuối không đoạn, sao không tán thán kia? Ở trong đoạn hoặc còn tán thán Nhị thừa, tích làm Thông Biệt đoạn hoặc Bồ-tát thì đâu được không tán thán? Mà ngang dọc hai phần tán thán đều chỉ tán thán Viên? Đáp ý: Nghóa thông Bản tích, ý chỉ ở Viên. Văn dọc tợ như tán thán Biệt, mà dựa vào bộ thì chỉ tán thán Viên, mượn tích hiểu văn kinh, ý theo Bản. Cho nên chuẩn tán thán Thanh văn từ tích, cũng nên Bồ-tát bốn giáo đều tán thán, chỉ muốn biết ý chỉ của Viên cho nên quên Tích để còn Bản và bỏ đầu để chọn cuối. Tiếp, hỏi có thể thấy? Trong phần đáp, chia làm ba: Một: chánh đáp. Hai: “Xưa nói…” là dẫn Biệt vị làm ước lệ, địa vị Bát địa đã chưa cùng cực. Xưa giải thích còn đủ đức không nghi, đâu ngăn ngại các vị của người Viên giáo, mỗi vị đều đủ các đức. Ba : “Pháp Hoa luận…” là dẫn chứng. Luận nói: đức của Bồ-tát kia có mười ba câu, hai văn nhiếp lấy, nên biết: 1.Thượng chi hạ chi môn. 2.Nhiếp thủ sự môn. Thượng chi hạ chi, nghóa là tổng tướng biệt tướng, nên biết từ đầu tiên đến Bất thoái chuyển là tổng, còn lại là biệt. Luận kia nói: Bất thoái có mười loại thị hiện, đầy đủ như nay dẫn, chỉ trừ câu đầu tổng còn có mười hai câu, chính là dùng hai câu: cúng dường và gieo trồng đức hợp làm loại thị hiện thứ tư. Danh xưng và độ sinh, hai câu hợp làm loại thị hiện thứ mười, cho nên chỉ thành mười loại thị hiện, đều dùng Bất thoái đặt tên. Cho nên biết Viên giải thích câu câu thông suốt lẫn nhau, mỗi một loại thị hiện đều có đủ mười loại thị hiện, đầy đủ tất cả các câu, đâu chỉ mười loại thị hiện, mười hai câu ư! Đây đồng với ý của bốn mươi hai tự môn. Lại nữa Kinh nói: “Dùng Từ tu thân” trong câu đó luận nói đầy đủ tu hai nghiệp thân tâm. Kinh văn sở dó lược tu tâm bởi vì Từ tức là tâm, tâm huân nơi thân cho nên không nói riêng. Cho đến nương vào “ngã không, pháp không” bất thoái, cho nên biết Địa, Trụ đều chứng Nhị không. Sở dó trong giải thích theo chiều dọc, văn tuy đối biệt mà ý chẳng biệt là vì : 1. Do có thứ tự văn dọc giải thích là căn cứ dọc mà luận ngang. 2. Y luận nghóa của mỗi một câu, ý dùng đối các Địa. Như Sơ địa nói không rơi vào nhị biên, tam quán đầy đủ tự lợi lợi tha, có không, song chiếu, hoặc phước hoặc trí không lìa nhất tâm; nội nhân ngoại duyên đâu từng không đủ? Sơ địa đã vậy, các địa sau hẳn đều như vậy. Tức trong Địa này ngang dọc đầy đủ, vì đối Quyền thứ lớp nên mượn tên “Địa”, vì hiển bày Viên kia nên phải ngang giải thích. Cho nên trong luận, “Nhiếp thủ sự môn” tức đương dọc giải thích. Vì vậy văn đây dùng đủ cả hai môn trong luận để giải thích, chỉ trong văn đây căn cứ luận. Trong câu “hà đẳng cảnh giới hà đẳng ưng tác sở tác cố” thì dư thừa hai chữ “hà đẳng” đứng trước ưng tác. Luận chỉ nói: “hà đẳng cảnh giới trung ưng tác sở tác cố” dịch tiếng Việt nghóa là: “Trong những cảnh giới như thế, những điều nên làm thì đã làm”. Luận tự giải thích rằng: “Địa thanh tịnh”: là Bát địa đến Thập địa, ba địa này vô tướng hành tịch tónh thanh tịnh. Nay ý văn dùng ba lần “Hà đẳng” (dịch tiếng Việt nghóa là “Như thế”) mỗi mỗi đều thuộc “các địa”. “Thanh tịnh” tức đoạn được lậu hoặc thuộc các địa. “Phương tiện” tức tiến thú thuộc các địa. “Cảnh giới” tức sở y thuộc các địa. “Nên làm v.v…” tức công dụng các địa. Luận nói: “Phương tiện” có bốn loại: 1.Phương tiện nhiếp thủ Diệu pháp, nhậm trì diệu pháp dùng sức nhạo thuyết vì người mà nói, tức bốn câu đầu, tùy nghóa mà tư duy. 2. Phương tiện nhiếp thủ thiện tri thức: Do nương vào thiện tri thức mà làm việc nên làm, tức câu thứ năm, sáu, bảy, tám tùy câu mà tư duy. 3.Phương tiện nhiếp thủ chúng sinh: Do không bỏ chúng sinh tức một câu thứ chín. 4.Phương tiện nhiếp thủ trí: Do giáo hóa chúng sinh khiến nhập trí kia, tức bốn câu sau, vì các câu đều đối. Lại nói về “Hà đẳng”: “Hà đẳng” (Như thế) là từ ngữ dùng để biện biệt, nay cũng thông lẫn nhau, mỗi mỗi phương tiện thông căn cứ Thập địa, thuận các kinh luận và trong kinh Anh Lạc. Sơ địa trở lên nhập dòng pháp chảy, niệm niệm hướng đến nên nhập chứng đạo. Trong luận lại có nhiếp thủ sự, thị hiện các cảnh địa… đối kinh chẳng quan trọng, nên không thuật lại. Nói “Bát địa”: Tuy không đồng với kinh Anh Lạc, nhưng các kinh chẳng phải không có, lại là trong Biệt thì giáo đạo khác nghóa, bỏ hay chọn đều được. Nay lại y kinh Anh Lạc, đối luận đã chẳng trái với Đại, lại y cứ vào nhất gia mà nhận dùng. Nói “Cảnh giới như thế?”: là nơi lợi vật. Tiếp, trong phần “Giải thích Thán đức theo Quán tâm”: Trong đây văn trước trình bày cổ phá cựu, nghóa đương là Nhân duyên, nay văn hai cách giải thích nghóa đương là theo Giáo, theo Quán tâm, tuy thiếu theo Bản tích, nhưng đức tùy nơi người, cho nên không nêu lại. Tam quán không khác, tùy sự gọi là khác. Nếu vậy thì cũng là các câu triển chuyển xen lẫn đầy đủ. Do đắc Bất thoái nhất tâm tam quán, mới đắc cho đến Độ sinh nhất tâm tam quán, cho đến do Đắc độ sinh nhất tâm tam quán, cho nên mới đắc cho đến Bất thoái chuyển nhất tâm tam quán, các câu trung gian thì chuẩn theo đây có thể biết. Nên biết trăm câu chỉ là một câu, cho nên Sơ trụ trở đi thì vị vị viên dung, câu biệt nghóa đồng không cần giải thích quanh co. Trong Tiểu thừa, Phật vì Thân-tử khai đầu mối một câu nghóa, mà Thân-tử còn nói vô cùng tận, huống chi đây là đức của Viên giáo Bồ-tát mà muốn phân chia rộng khiến làm khuôn định ư! Huống lại quán môn tức là đức kia, quán thông đức diệu đâu đáng nghi ư! Cho nên, cần phải căn cứ các câu để nói một cách tự tại. Có người hỏi: Vì sao trong đây nói Văn-thù ở đầu? Đáp: Trong phẩm Tựa, Văn-thù đã có thể giải quyết chỗ nghi của Di-lặc, chính là người phát khởi của một kinh nên nêu ở đầu, huống chi hai vạn Phật đều làm cho chúng bắt đầu nghi. Vì vậy liệt kê Văn-thù ở đầu tám vạn đại Bồ-tát. “Pháp môn…”: Y cứ vào danh nghóa này, theo lệ lẽ ra làm bốn giải thích, mà nay thiếu, tức là một. Theo lệ thường có thể biết. Lại, Bồ-tát sự tích thì hoặc ẩn hoặc hiển, hoặc chân hoặc tục, hoặc chủ hoặc bạn, không đồng Thanh văn sự tích hiển rõ. Tuy chẳng hiển rõ mà ắt đầy đủ các giáo, nhưng nay khai hiển nghóa ắt ở Viên. Huống lại như trước căn cứ các Thanh văn tổng biệt rộng giải thích. Nhân đã đủ biết Bản tích của Bồ-tát, bản tích đã vậy nhân duyên giáo quán chuẩn theo loại có thể biết, cho nên không dựa theo thuật nói Bồ-tát tổng biệt. Nay đầu tiên, “Giải thích Văn-thù “dẫn năm văn: Ba văn đầu biện rõ danh, kinh Tư Ích nêu thuyết làm rõ hạnh: Bi Hoa luận nguyện lợi vật. Đầu tiên Đại kinh là từ đức lập danh, tức dùng Kiến tánh lập danh “Diệu đức”. Đây căn cứ quyển mười bảy, phát nguyện văn sau khi A-xà vương hối lỗi. Tiếp hai kinh chỉ nêu Phạn âm không đồng. Kinh Tư Ích nêu rõ như thuyết mà quán, quán nghóa là không khởi tưởng pháp phi pháp, quán tức hạnh, tức ngôn hạnh tương xứng mà được gọi là “Diệu”. Bi Hoa nhân dùng cõi diệu, ích vật sự rộng, sở hóa địa vị cao. Nguyện hạnh cao rộng, hết thảy đều diệu, gọi là “Diệu đức”. Bồ-tát lợi sinh thì tích do đâu mà quyết định? Đối trong văn này, theo nghóa cũng có thể lập tứ Tất-đàn để giải thích, tức dùng “Diệu đức”, hoặc danh hoặc thể đều là tứ Tất. Chấp cõi tức Thế giới, thuyết pháp tức Vị nhân, lập hạnh tức Đối trị, Phật thọ ký… tức Đệ nhất nghóa. Đây là người Viên giáo lại phải căn cứ giáo. Từ “Phương Bắc…” trở xuống tức giải thích theo Bản tích. Lại, như Kinh Lăng-nghiêm nói: Quá khứ vô lượng A-tăng-tỳ kiếp có Đức Phật hiệu là Long Chủng Thượng Tôn Vương, cũng là Văn-thù. Trong phần “Giải thích Bồ-tát Quán Thế Âm”, tác tứ Tất-đàn: Danh tức Thế giới, Tư Ích tức Vị nhân, xưng danh tức Đối trị, Bảo Tạng Phật… tức Đệ nhất nghóa. Lại, “kinh Tư ích nói: Kiến… thì đắc Bồ-đề”, cũng là Đệ nhất nghóa. Văn dưới chỉ phẩm Phổ Môn. Trong câu “Văn dưới đây là tự thích danh vân vân”, thì “vân vân” là: thiếu căn cứ giáo và dùng Bản tích giáo tức là người Viên giáo vốn là Cổ Phật. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, giải thích hai chữ đầu, cùng dưới không sai khác chỉ chữ thứ ba cùng dưới có chút sai khác. Dưới căn cứ sự mà giải thích, dùng “sở bị” (nghe) làm “âm”. Đây căn cứ năng quán, dùng “sở tuyên” làm “âm”. Do quán nên thiết lập giáo, cho nên nói : quán là Bản của ngữ. Tiếp, “Giải thích Đại Thế Chí” : kinh Tư Ích căn cứ hạnh, kinh Bi Hoa căn cứ nguyện, Tư Ích căn cứ oai thế giải thích “Thế”,chánh đương nghóa chữ. “Thủ đại thiên”: Dùng “thế giới” để giải thích “Thế”, thế lực chiếm lấy thế giới không trái với “Chí” kia. Do có chí lớn, nên được Phật thọ ký. Chí chiếm lấy thế giới, nên cũng gọi là “Thế Chí”. Nếu tác tứ Tất-đàn: Tư Ích là Thế giới, Bi Hoa là Vị nhân Đối trị, Bảo Tạng Phật… là Đệ nhất nghóa. Cũng thiếu phần giải thích theo Giáo theo Bản, theo lệ trước mà nghó sau thì có thể biết. Văn thiếu Thường Tinh Tấn, như trong Kinh Đại Bảo Tích nói: “Bồ-tát vì một chúng sinh trải qua vô lượng kiếp đi theo không bỏ cũng không thọ hóa không có một niệm xả bỏ, vì thân tâm đều tinh tấn”. Nghóa thông tứ Tất-đàn, giải thích theo Giáo, Bản tích, Quán tâm, đều căn cứ theo lệ trước thì có thể biết. “Bất Hưu Tức”: Cùng Thường Tinh Tấn nghóa ý lược đồng. Muốn biện biệt, thì vô gián thú nhập gọi là “Tinh Tấn”, thời gian dài không phế bỏ gọi là “Bất Hưu Tức”, vì vậy nên giải thích theo Quán tâm thì gọi là “Bất trụ”, cho nên giải thích Bất Hưu Tức cũng căn cứ thời gian dài, chỉ có Thọ ký và Lợi sinh thì không đồng. Giáo tích căn cứ theo lệ có thể biết. “Giải thích Bảo Chưởng”: Trước giải thích “Chưởng”, tiếp “khiến giải thích…” là giải thích “Bảo”. Chưởng là phần của thân, đã mặc áo giáp lên phần thân kiên cố, do tay kia nắm chắc phần pháp thân còn xuất ra vô thượng báu xuất thế, huống chi báu thế gian, cho nên hai báu này ắt đầy đủ tứ Tất-đàn. Trong đó nói “không chí hướng nhị thừa” là chọn nhiều pháp bảo. “Thông tuệ tâm”: Từ thật khởi thông, thông một tuệ tánh cho nên nói “thông tuệ”. Căn cứ giáo Bản tích… “Giải thích Dược Vương”: Duyên thứ ba từ nghóa của Y vương ở sau, hẳn phải là “Dược” (thuốc). Hai duyên trước mặc dù riêng biệt mà tức là sau khi Phật diệt độ đều lập hạnh sinh thiện. “Hỏa Tịnh”: Từ thiêu thân mà đặt tên. Trong văn lại dùng thế trị để tiêu biểu xuất thế trị… Thiếu bảy Bồ-tát chưa giải thích qua. “Giải thích Bạt-đà-bà-la”: Câu đầu là Thế giới Tất-đàn, tiếp “Tư Ích…” là Đệ nhất nghóa, tên Bồ-tát này ở trong kinh Bát Chu, cũng gọi là Hiền Hộ, Thiện tức Hiền. Thiện xảo muốn hộ khiến kia không thoái lui. “ Giải thích Di-lặc”: Câu đầu là Thế giới, “Tư Ích…” là Vị nhân, “Hiền Ngu…” là Đối trị, “Bi Hoa….” là Đệ nhất nghóa. “Lại nói” trở đi là nên hợp ở trong nhân duyên. “Hiền Ngu…”: Kinh kia quyển chín đức Phật ở Ca-lan-đà, A-nan bỗng nhiên tư duy: “Di-lặc Thế Tôn thuở trước tại sao phát tâm từ bi này?”, được gọi là diệu ích, từ thiền định khởi mà bạch Phật! Phật dạy: Quá khứ lâu xa ở cõi Diêm-phù này có một đại vương tên Ma-ha Ba-la-bà, làm chủ năm trăm nước nhỏ, một hôm cùng quần thần đi săn, voi nhà vua cởi, dục tâm xí thành, nhân thấy người quản tượng điều khiển voi, mà liền phát tâm nay làm Bổ xứ. Lại kinh cũng có nói duyên cứu giúp thỏ què qua sông, mà lập danh xưng “Từ”, vì bản nguyện lực huân tập thấy khổ thì sinh “Từ”. Trước trong kinh Bi Hoa chính dùng nghóa “cứu khổ” mà giải thích “ban vui”, cho nên Viên cứu khổ ban vui, cho mà không có cái thể Biệt vân vân. “Vân vân” là căn cứ Giáo, Bản tích Quán tâm, cho đến Tích môn phát khởi chúng đẳng… “Giải thích Bồ-tát Đạo Sư”: văn xả tứ Tất-đàn: Đạo Sư là xả, người nước Bà-đề, là bạch y cư só. “Khiến nhập chánh đạo” là giải thích chữ “Đạo”, “không cầu ân báo” là giải thích đức “Sư”. Do không để lòng vào việc gì nên mới ứng địa vị Sư. Đầy đủ danh bên ngoài, chỉ liệt kê số tức là nhân duyên, quán… đầy đủ như ý trước. Chỉ vì tên các vị Bồ-tát không thể nêu hết cho nên chỉ nêu số lớn. Tóm lại, chỉ do nước người phần nhiều là tri thức nên trước liệt nêu, chứng tín vì dễ. Trong một đời giáo hóa, các đại Bồ-tát thâu hoạch ghi nhớ duyên đời trước, phần nhiều được nêu trong kinh Bi Hoa quyển hai. Kinh nói: Có Bồ-tát tên là Tịch Ý bạch Phật rằng: Chư Phật đều có tịnh độ, Như Lai vì sao chọn cõi uế này? Phật dạy: Vì bản nguyện nên chọn, Ta trong quá khứ hằng hà sa A-tăng-kỳ kiếp ở thế giới tên San Đề Phong, kiếp tên Thiện, Luân vương tên Vô Tránh Niệm làm chủ bốn thiên hạ, vua có ngàn người con. Trong nước có một vị đại thần tên là Bảo Hải Phạm chí, chỉ có một người con, có đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thường có chư thiên đến cúng dường, cả nước nhân đó đặt tên là Bảo Tạng, cho nên xuất gia thành đạo cũng tên là Bảo Tạng, thuyết pháp độ người số kia vô lượng. Ngàn người con của vua mỗi vị đều cúng dường trải qua ba tháng. Quá ba tháng rồi, muốn thọ ký cho thí chủ, trước nhập Tam- muội hiện mười phương cõi Phật nhóm tập các Bồ-tát, trước hết thọ ký cho Bảo Hải, chúng sinh trong mười phương thế giới được Bảo Hải giáo hóa đồng thời đều thành Phật, tiếp thọ ký cho ngàn người con của Luân vương, thọ ký cho người con thứ nhất nói: Ông xem xét chúng sinh trong lục đạo khởi tâm đại bi đoạn các phiền não khiến trụ an lạc, nay sẽ đặt cho ông hiệu là Quan Thế Âm, sau khi đức Phật A-di-đà nhập diệt trải qua hai A-tăng-kỳ kiếp, ở phần đầu đêm à thời chánh pháp diệt, ở phần sau đêm thì cõi kia chuyển gọi là Nhất Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu, cõi ấy có sự trang nghiêm thù thắng an lạc, chỉ trong một niệm ông liền thành chánh giác hiệu Nhất Thiết Công Đức Sơn Vương thọ chín mươi sáu ức na-do-tha trăm ngàn vạn ức kiếp. Thái tử thứ hai tên Đại Thế Chí (như sớ…). Vị thứ ba tên Văn-thù…, thứ tưu tên Phổ Hiền ở Đông phương mười hằng sa thế giới vi trần thế giới tên là Bất Thuấn, cho đến vị thứ chín tên là A-súc. Như vậy thứ lớp thọ ký cho một ngàn thái tử. Trong đó có nguyện chọn vào đời ngũ trược thì thành Phật, do đại bi nên cõi kia tên Ta-bà. Vì sao vậy? Vì các chúng sinh cõi ấy kham nhẫn chịu ba độc và các phiền não, năng nhẫn nơi cõi ác này nên gọi là Nhẫn độ, trong ngàn người đó chỉ trừ một người, số còn lại đều ở hiền kiếp mà được thành Phật.  PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ <卷>QUYỂN 2 (Phần Hạ) Tiếp, liệt kê “Tạp chúng”: Xưa nói: Phàm các chúng như Bát, Long phần nhiều là Bát địa Bồ-tát cho đến trong Hoa Nghiêm đều đắc bất tư nghì giải thoát. “Trong đó có đạo”: như vua A-xà-thế dẫn theo đâu riêng chỉ thế tục. Ngũ đạo: Không có địa ngục, tức thừa giới đều (chậm) hoãn. Nhị giới: Không có Vô sắc, tức giới gấp thừa chậm. Tám phen: Dục thiên, Sắc thiên, Long, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, A-tu-la, Ca-lâu-la, nhân, đầy đủ như dưới nêu. Kinh Phương Đẳng liệt kê cả địa ngục: Đầy đủ như trong Thích Tiêm quyển thứ tư nói, tức giới chậm thừa gấp. “Trung ấm hoa vô sắc”: trong kinh Trung Ấm quyển thượng phẩm Phân Thân, Định Hóa Vương Bồ-tát bạch Phật rằng: Xin chóng nói nghóa đây chúng sinh hiểu rõ nghe pháp dễ ngộ. Lại có người khó ngộ, hoặc có đối hoặc không đối, hoặc có thể thấy, không thể thấy, trước có đối có thể thấy, không thể thấy. Có thể thấy có đối, như trước. Không thể thấy có đối, như xú mao quỉ đến ngửi mùi hôi. Không thể thấy không đối, tức các quỉ thần. Hoặc ở hữu sắc hoặc ở vô sắc, hoặc ở phi hữu tưởng phi vô tưởng. Hữu sắc tức hai cõi Dục và Sắc. “Vô sắc” tức ba cõi Không xứ dưới. Tuy lại khó hóa nhưng Phật hoặc đến kia, hoặc nhiếp đến đây. Kinh này không có hoặc lược… cho nên nói không thể theo một ước lệ. Lại căn cứ theo thừa giới, luận đầy đủ nhỏ nhiệm như trong sớ Tịnh Danh nói. Xưa nói: “Người là chủ ở đất”, là chỉ chúng A-xà vương trong tám chúng, nay cũng không dùng, cho nên dẫn kinh Vô Lượng Nghóa để phá. Lẽ nào có quỉ thần… ắt phải khách bên ngoài ư? Nói “Chưa tường tận” là tuy theo kinh Vô Lượng Nghóa nhưng người không hẳn ở sau, hoặc sợ có ý. “Quỉ thần lại xuất hiện” tức Khẩn-na-la, Càn-thát-bà, A-tu-la. “Căn cơ lẫn lộn”: cũng nên nói các căn cơ không đồng, Tích cùng Thể lẫn lộn, Thiên và Viên lẫn lộn v.v… Đây là căn cứ Giáo mà giải Thích: Nhị thừa tức hai giáo Nhị thừa, Bồ-tát tức tam giáo Bồ tát, tam giáo đều có xuất giả trí. Phật đạo đã nói: Nhất nhiếp hết thảy, chỉ đắc Viên ấy. Nhị thừa, Bồ-tát đều là từ đầu. Phật đạo tức là từ ban đầu Viên, không từ tiệm mà đến. “Tam thập tam thiên và tam Quang tứ thiên vương”, luận Câu-xá nói: “Chúng của Đại vương theo thứ lớp ở bốn cấp cho nên trú nơi bảy ngọn núi còn lại, trên đỉnh núi Diệu cao cao tám vạn do tuần có Tam thập tam thiên, ở bốn góc có bốn ngọn núi, Kim cang trú ở đầu, cung ở giữa gọi là Thiện Hiện, chu vi vạn do tuần bên ngoài bốn cung điện trang nghiêm các xe thô tạp thích ý. Nếu tác tứ Tất-đàn: thì trú xứ được gọi là Thế giới, năng thí là Vị nhân, tư duy nghóa là Đối trị, thiên chủ là Đệ nhất nghóa. “Căn cứ giáo”: A-hàm chứng Tam tạng, Bát-nhã chứng Thông. Kinh Hoa Nghiêm nói Đế-thích ở địa thứ hai, cho nên biết hai giáo đều nói “đắc Thủ-lăng-nghiêm định”. “Quá hiền kiếp…”, đầy đủ như trong kinh Bát-nhã. Trong câu “thành Phật, hiệu là Vô Trước Thế Tôn vân vân” thì “vân vân” tức là được thọ ký nghóa đương tam giáo Bồ tát. Trong phần Giải thích theo Bản tích, nói “cùng uống cam lồ” là Đại Kinh quyển sáu, phẩm Tứ Y nói: “Như tam thập tam thiên có thuốc (dược) cam lộ bất tử, ví như Sơ trụ trở lên”, lý đồng. “Danh Nguyệt v.v…”: Bản tích đều rút ra từ Chánh Pháp Hoa, Bản ắt có giáo. “Quán giải” ý: tam đế tức đệ nhất nghóa thiên, đế tức là cảnh, cảnh sinh trí, “trí như con vân vân” thì “vân vân” là: Cảnh biệt, trí biệt sinh con không đồng. Ở bốn núi báu: chỉ núi Tu-di. Chánh Pháp Niệm nói: bốn cấp đều có thập trụ xứ, đầy đủ như Huyền Văn. “Rộng hai mươi bốn vạn dặm”: chưa biết chỗ xuất xứ. Nếu Câu-xá y giữa lưng chừng núi Diệu-cao mà trụ thì có bốn cấp. Tụng nói: Mười sáu triệu tám trăm bốn mươi hai ngàn lượng, hướng lên mỗi mỗi đều giảm phân nửa. “Đông Đề-đầu….”: Tên ở kinh Kim Quang Minh quyển hai, phẩm Tứ Thiên Vương: Bấy giờ Đề-đầu-lại-tra thiên vương, Tỳ-lưu-lặc-xoa thiên vương, Tì-lưu-bác-xoa thiên vương, Tì-sa-môn thiên vương bắt đầu từ phương Đông đến cuối là phương Bắc; Phẩm Quỉ Thần thứ ba liệt kê có hai mươi tám bộ. “Không khiến…” là Tích phòng tứ thọ, tứ thọ đã tiêu biểu tứ đức, dùng Tích tiêu biểu Bản, bản giữ gìn tứ đức song thọ. Tuy lại tứ khô tứ vinh, nhưng lý chẳng phải khô vinh, cũng không bỏ thường, lạc, ngã, tịnh. Cho nên giữ gìn bát thọ là giữ gìn tứ đức. Giữ gìn tứ đức có hai nghóa: 1) Không cho phép thiên thủ, thiên thủ thì thành tà. 2) Không cho phép toàn thủ, toàn thủ thì thành chấp. Phải biết lý kia chẳng khô vinh. Nay nói “cành lá”: lấy trong một đức đều đầy đủ bốn đức, nếu thiên chấp một danh, thì không biết đầy đủ đức, gọi là “chấp cành lá…” cho nên trong giáo của ngoại đạo đều có danh kia. Vì vậy nên văn nói “cành gốc” dụ cho “thường…”, chính là hiển bày một đức đều đủ bốn đức. “Hộ tám ái kiến”: Mỗi một đế đều có một ái kiến, bốn loại Tứ đế đều tùy giáo kia trừ ái kiến, cho nên bốn vua đều thống lãnh, không khiến não người như đều hộ kiến ái, không khiến chấp cảnh. Nếu theo sau nói “vương”, tức Vương Tam-muội. Giáo chủ của đương giáo, cũng có thể đều là vương, đều phá ái kiến. Trong câu “Tha hóa ngũ dục vân vân” thì “vân vân” là: nên nêu đủ thân lượng thọ mạng của Dục thiên. Luận Câu-xá nói: chiều cao của người ở Nam Thiểm-bộ châu là ba khủyu rưởi đến bốn khuỷu tay, người ở Đông Tây Bắc châu gấp bội tăng theo thứ lớp, ở Dục thiên là Câu-lô-xá bốn phần nhất nhất đều tăng, ở Sắc thiên là do tuần sơ tứ tăng mỗi phân nửa, trên đây nói tăng gấp bội, chỉ có ở cõi Vô-vân thiên giảm ba. Năm mươi năm của Nhân gian thì bằng một đêm ngày của các cỏi Trời dưới, nương đây thọ lượng năm trăm trở lên tăng gấp năm lần. Sắc giới không có ngày đêm sai khác, kiếp số… thân lượng. Vô sắc, ban đầu hai vạn, sau sau tăng gấp hai. Trời trên dưới Thiểu Quang đại toàn bán làm kiếp. Nếu luận cao thấp thì nơi mỗi một cõi trời như lượng trở xuống thì trở lên cũng vậy. Biệt dịch A-hàm quyển sáu, rộng nêu các Phạm đến… quyển tám và mười một rộng nêu chư thiên tán thán Phật, chư thiên nếu đến thì đều đồng hình người. Quyển bốn nói: Phạm vương đến lễ Phật. Đức Phật nhập hỏa quang Tam-muội, ông không thể thấy được, cho nên ông đi đến cửa Cù-gia-ly mà kêu. Cù-gia-ly hỏi: Ai gọi ? Đáp: Phạm vương. Lại hỏi: Đức Phật thọ ký ông đắc A-na-hàm ư! Đáp: Đúng vậy. Lại hỏi: A-na- hàm gọi là Bất Lai, ông vì sao lại đến? Phạm vương nói: Người như vậy không nên cùng nói chuyện. Cho nên biết đều đồng nhân pháp, lại có việc trái lòng mà răn dạy Già-ly. Theo lệ có giáo môn… Đã vì một đời thỉnh chủ chuyển pháp luân, thỉnh đại thì đại, thỉnh tiểu thì tiểu. “Bản Tích”: Bản trụ thanh tịnh diệu cảnh nhất thật, quán trừ hoặc uế đều được gọi là “tịnh”. Lại, trong văn giải thích chư thiên thì chỉ có Đế-thích là đầy đủ bốn giải thích. Tam Quang tứ vương Tự-tại v.v… Sắc thiên, dù có “theo nhân duyên” nhưng đều thiếu “căn cứ giáo”. Chư thiên thường theo Thế Tôn mọi nơi nghe pháp, cũng nên tùy các giáo vị để phân biệt sâu cạn và khai hiển… Như dẫn Thân-tử được thọ ký là để lưu truyền, chỉ việc hoằng giáo nêu một ít theo lệ mà thôi. Trong phần giải thích “Bát long” phần nhiều như vậy, chỉ “Khẩn-na-la” có giáo bởi vì nghóa tiện thôi! Trong phần giải thích “Hòa-tu-kiết long vương” có câu “phân biệt vô lượng pháp môn vân vân”, thì “vân vân” là: từ “Nhiều đầu” nên lại dùng Giả quán làm đầu, tức là Nhất giả nhất thiết giả. Nếu thông thuyết thì: Nhất không nhất thiết không, Nhất trung nhất thiết trung, cũng là “Nhiều đầu”. “Kinh Trường A-hàm…” kinh kia nêu đầy đủ: ao xuất ra bốn sông như Sớ. “A” là không, “Nậu-đạt” là hoạn, “không có ba hoạn” kia. Bản trụ Pháp Hoa Tam-muội, thật đạo sở chứng hết thảy đều gọi là Pháp Hoa Tam-muội. Nay lại dùng hoa để giải thích hoa đó thôi! “Tứ Khẩn-na-la”: Tạp Tâm nói: là thuộc loài súc sinh. Khẩn-na- la một sừng, Càn-thát-bà không có sừng, thân tướng lược đồng. Nay nói “tấu tứ giáo”: Đã trải qua năm vị đều có Khẩn-na-la… Phải biết sở tấu cũng Thiên Viên Biệt, đến kinh này riêng hiển thật đế. Trong kinh Đại Thọ Khẩn-na-la nói: Đại Thọ Khẩn-na-la vương cùng vô lượng Khẩn- na-la và vô lượng Càn-thát-bà vô lượng chư thiên, tấu lên tám vạn bốn ngàn thứ âm nhạc thanh tịnh vi diệu khi đến chỗ Phật. Huyền ca một khi khởi động thì âm thanh chấn động khắp đại thiên, Tu-di Sơn vương vọt ẩn cúi ngửa, tất cả Thanh văn đều từ tòa đứng dậy cũng như múa giỡn. Thiên-quan Bồ-tát hỏi Ca-diếp rằng: Thiểu dục tri túc Đầu-đà đệ nhất hôm nay thì ra lại là cũng như trẻ con? Ca-diếp đáp: Chẳng phải bản tâm. Cho nên biết kinh kia thuộc Phương Đẳng bộ, dùng Đại để bài xích Tiểu. Khẩn-na-la tấu nhạc Biệt giáo Viên giáo, cho nên khiến Thanh văn không thể tự an. Cho nên đến Pháp Hoa thì lý hợp thuần diệu. “Mười núi báu”: Hoa Nghiêm nêu đủ, như trong Chỉ Quán quyển năm nói. Như trong Câu-xá trước nêu bảy núi và Diệu-cao là tám. Lại nói núi Tô-mê-lô ở giữa, tiếp là Du-kiền-đạt-la, ở ngoài Đại Châu… có núi Thiết-luân quanh, trước bảy lớp núi vàng thành Tô-mê-lô bốn báu và núi Tuyết hương hợp thành mười núi. Đã nói là chư thiên tấu nhạc trời, cũng là các cơ duyên không đồng. “Ca vịnh Thập lực”: Đã nói không khởi Diệt định tức Sở trụ trở lên, cho nên trong tích đàn sáo cũng nên ca bốn giáo, đều có thập lực. Nếu trong kinh Đại Thọ nói ở nam Hương sơn thỉnh Phật cúng dường, đức Phật nhân sự cúng dường rồi thọ ký cho kia làm Phật, hiệu là Công Đức Vương, lý ứng với pháp thân thọ ký. Nếu tại Sơ trụ thì tám tướng thọ ký cũng ở trong tích. Kinh này dẫn dắt chúng không sánh bằng số nhiều trong kinh Đại Thọ, bởi vì nghe thật kinh thì không dễ. Lại, kinh này nêu tám Long vương, Khẩn-na-la Càn-thát-bà đều có bốn, là có ý tiêu biểu. “Tám” nghó tám chánh, các giáo đều có tám chánh. Khẩn-na-la đã có bốn giáo, đại ý có thể biết, ngoài ra tục ưa dùng tục để nêu chân. Bốn Càn-thát-bà thì đối giáo tùy nghóa giải thích nêu. Tràng nghóa là duyên tràng tức các tre gỗ, đảo: là trịch đảo ném nghiêng ngửa. “Bốn vị A-tu-la”, cũng nói “Vô thiên” là không có thiên đức, Phật Địa luận nói thuộc về loài trời. Chánh Pháp Niệm nói là loài quỉ, súc sinh. Đại quyền thị hiện đến, duyên đâu có định. Theo các kinh A-hàm thì bốn vị Tu-la thứ lớp trụ dưới đáy biển đều cách nhau hai vạn do tuần. Nói “thuộc loài súc sinh, loài trời v.v…”, là đều căn cứ nguồn gốc tổ tiên. “Ngũ hệ trói buộc ma ngoại đạo”: đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói. “Ngũ trụ”: Nơi khác giải thích đó chỉ là giới nội Kiến Tư, nếu vậy thì cùng Tứ trụ đâu có gì sai khác. Tha nói: Tam giới kiến là kiến nhất xứ trụ địa, Dục tư là dục ái, Sắc tư là sắc ái, Vô sắc tư là vô sắc ái. Tam giới vô minh là vô minh trụ địa, nhưng y trong năm tánh tông thì lấy kiến nghi vô minh… chủng tử làm vô minh trụ địa, nay ý không như vậy. Ngũ trụ làm tác nhân của hai loại sinh tử tức dùng tam giới Thông hoặc làm tứ trụ, lại thêm Biệt hoặc làm trụ thứ năm. Cho nên, trong Biệt hoặc tổng bao hàm nội ngoại vô tri và do vô minh trong chướng. Đối với Duy Thức… chỉ thêm chủng tử là sai khác. “Chánh Bản” là Chánh Pháp Hoa. “Thủy tinh nhập thân”: Hoặc là hữu tình hoặc là phi tình. Nếu là phi tình thì nghóa đồng thấp sinh và kiêm cả thai tạng, như kinh A-hàm nói có người nữ hướng vào trong lửa, hơi ấm nhập thân liền có thai. Người cha nghi trách mắng con, cho đến vua biết việc ấy liền bắt tội. Người nữ ấy nói: Vì sao nhà vua vô đạo, bắt người vô tội? Xin vua hãy xét lại. Vua biết người này vô tội liền nạp làm phi, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói. “Sắc tâm Bản tịnh”: đối Tích xấu xí, Bản trụ sắc tịnh cho nên Bát-nhã tịnh, Bát-nhã tịnh tức tâm tịnh. Đây nói “chướng trì” tức năng chướng trì. Thế gian nói thường trì, là không có bằng cứ. “Nhật thực”: Nếu hoàn toàn không theo thế tục có chấp, thì như lịch số cũng có thể dự tính biết là thế nào. Do khí thế gian pháp như vậy, cùng với người âm dương lý hợp, cho nên trong thân người ngũ hành cùng thiên địa số hợp. Cho nên pháp thiếu đủ cần phải lịch số, há ngăn ngại chánh nghiệp ư? Nói “các thứ tà thuyết”: nhật nguyệt chiếu tứ thiên hạ, tứ thiên hạ cũng là âm dương không đồng, không thể đủ thiếu, thì khiến hết thảy vua… tận đều suy yếu ư! Nước hạn tai biến cũng lại như vậy. Cho nên, biết: tuy một phần cùng lý âm dương hợp và một phần phải y nghiệp lực chúng sinh, phàm cõi y báo đều thuận chánh báo, như cõi Hoa-tạng ắt thuận báo thân Phật và các Bồ-tát, y báo chánh báo tự tại, phương tiện cũng như vậy. “Sợ nhật nguyệt thời…”: Đại kinh quyển mười một nói: Khi La-hầu muốn ăn mặt trăng (nguyệt), Nguyệt thiên tử sợ hãi chạy nhanh đến mách Phật mà nói kệ rằng: “Phật Thế Tôn đại trí tinh tấn, con nay qui mạng cúi đầu lễ, La-hầu-la làm não loạn con, xin Phật thương xót đến cứu con”. Đức Phật vì La-hầu mà nói kệ rằng: “Nguyệt năng chiếu sáng và trong mát, ngọn đèn sáng lớn giữa hư không, sắc kia trắng trong muôn ánh sáng, ông chớ có nuốt, mau buông ra!”. Lúc ấy Bà-tró thấy La-hầu (mồ hôi chảy) nhả mặt trăng ra. Bà-tró nói kệ: “La-hầu người cớ sao run sợ, cũng như bệnh sợ tâm bất an”. La-hầu đáp: Ta nếu không nhả trăng (nguyệt), thì đầu bể làm bảy phần, cho dù được sống cũng không an ổn vì vậy nên ta nhả trăng ra. “Do xưa làm Bà-la-môn…”: như Câu-xá nói: Dục thiên Câu-lô-xá bốn phần mỗi mỗi tăng, đến đệ lục thiên chỉ một Câu-lô-xá rưởi. Đã nói thân dài tám vạn bốn ngàn do-tuần còn có thể được ở nơi Sắc thiên thứ nhất, do Sắc-cứu-cánh thiên thọ một vạn sáu ngàn kiếp, thân dài một vạn sáu ngàn du-thiện-na, ứng biến thì hóa thân có thể dài tám vạn bốn ngàn. “Ưa chiến đấu…”: Đây là bốn vị Tu-la cùng Đế-thích chiến đấu, thứ lớp bày trận đầy đủ như nay nêu. Trường A-hàm kinh số mười tám nói ở Nam Châu có núi Kim Cang trong đó có cung Tu-la, cai quản sáu ngàn do tuần. “Lan thuẩn hàng thọ (lan can hàng cây)…”: Như thế một ngày đêm ba thời chịu khổ, các khổ cụ tự đến nhập vào trong cung. “Thuộc tứ ác thú” đúng là có lý do. Biệt dịch A-hàm quyển ba, rộng nêu Tu-la cùng Đế-thích chiến đấu, cần phải kiểm xét lại. Nếu căn cứ giáo thì cũng có thể tùy danh lập nghóa như sau: “Ngũ hệ”: Sơ giáo Bồ-tát đầy đủ ngũ trụ; Tiếp, “Quảng kiên”: Thông giáo tam thừa thông quán hơi rộng. Tiếp, “Tịnh tâm”: Biệt giáo Bồ-tát mới biết chân tịnh. Tiếp, nói “Chướng trì”: Viên giáo Bồ-tát chướng hoặc trì lý. “Bản quán vân vân”: là lược không tiện luận, cũng có thể nói: “Bản trụ Đệ nhất nghóa thiên, Tích thì thị hiện vô thiên. Năng quán tức Không, cho nên không có tam giới nhân thiên. Tức Giả, cho nên không có Phương-tiện- độ nghóa thiên. Tức Trung, cho nên không có Thật-báo-độ nghóa thiên. Nhất tâm tam quán thường trú tịch quang nhân thiên phi nhân thiên”. “Bốn vị Ca-lầu-la vương”, nói “trú xứ có cung điện…”: Trường A- hàm kinh số mười tám nói: Phía Bắc đại hải có cây đại thọ tên là Cứa- la-thiểm-ma-la, chu vi bảy do tuần, cao một trăm do tuần, cành lá năm mươi do tuần, phía Đông cây có cung của rồng noãn sinh, lại có cung của kim sí điểu noãn sinh. Nam thai sinh, Tây thấp sinh, Bắc hóa sinh, mỗi phương đều có cung của rồng và điểu, đều có bảy lớp hàng cây, các chim đồng hòa kêu. Khi chim bắt rồng thì cánh quạt tát nước biển, chim noãn sinh thì cánh mở rộng hai trăm do tuần, thai sinh thì bốn trăm, thấp sinh thì tám trăm, hóa sinh thì một ngàn sáu trăm. Thai noãn thấp hóa thứ lớp như vậy, ăn nuốt một, hai, ba, bốn loài rồng. Như vậy trú xứ ác đạo muốn sánh với thế giới Tây phương an lạc, cho nên biết phước dễ mà giới khó, giới dễ mà thừa khó, do không đến. Lại như A-hàm nói: Hương sơn có voi tên là Thiện Trụ thường trú nơi gốc cây, có sáu ngà trên ngà có ao… cùng voi của Phổ Hiền tướng mạo gần như đồng. Một cây một voi số kia tám ngàn. Thiện Trụ là vua, ngoài ra đều là quyến thuộc, hoặc cầm dù quạt bình múc nước, hoặc hát xướng kỹ nhạc, hoặc vì vua tẩy rửa… các loài, kia cũng như ác đạo. “Kim- cang-sơn”: Nam châu đây. “Sắp thiêu Bảo sơn”: lửa muốn đến thiêu đốt các Kim sơn. Nếu căn cứ giáo, thì: Sơ giáo, nói lũ chúng thù thắng, vì vượt qua các ngoại đạo. Tiếp, nói “Đại thân”: là bắt đầu Đại thừa, tiếp là Đại mãn, vì xuất giả túc. Như ý: Như lý mãn… Tiếp, “Liệt kê chúng nhân”: “Vi-đề-hy”: Cũng gọi là Tự Thắng. Nói “Vị sinh oán”: Lúc ở trong mẹ đã thường có ác tâm với Bình-sa- vương, chưa sinh đã ác nên nhân đó đặt tên. “Vô chỉ”: khi mới sinh đã có điềm xấu, nên vua cha sai đem lên lầu ném xuống mà vẫn không chết chỉ tổn hại một ngón tay “chỉ”, cho nên lấy đó đặt tên. “Tám pháp”: Hoặc là tám tà hoặc là tám gió hoặc là tám đảo. Kinh Phổ Siêu, phẩm Quyết Nghi thứ ba nói: Đức Phật nhân vì A-xà Vương phá chấp cố định về tội giết vua cha, rộng nói ba đời ba tâm không thể được, khiến trụ pháp giới, Xà vương nghe rồi thì đắc Nhẫn nhu thuận. “Khi thuyết Pháp Hoa”: Căn cứ đắc nhu thuận ở trước thời Pháp Hoa, tại thời Pháp Hoa thì làm chúng thanh tịnh, đến thời Niết-bàn thì thân sinh ghẻ lở mới phát tâm sám hối và đắc Sơ quả, cho nên biết đó là dẫn nghịch tội. Đây chính là hoàn toàn dùng Đại Quyền mà giải thích, cho nên dẫn Ca-diếp làm lệ. Nếu theo thực hành thì: Ở hội Pháp Hoa tuy nói thanh tịnh, nhưng chưa thấy thâu hoạch lợi ích. Căn cứ theo lý, nên nói chướng chưa trừ, cơ chưa động. Đến thời Niết-bàn thì chướng muốn trừ cơ đã động, cho nên nghe Phật thọ ký thì lãnh giải hoan hỷ. Tiếp nói kệ tán Phật, cho nên phẩm thứ mười bảy nói: “Phụ vương vô tội, rộng thêm nghịch tội”, cho đến “Tâm sinh hối nhiệt biến thân thể sinh ghẻ lở”. “Ở đời không có lương y trị thân tâm”, là không tin lục thần lục sư, tuân theo lời dạy của gia huynh Kỳ-bà, nghe Phật thuyết pháp, được thọ ký, phát nguyện. Phải biết hai nơi đều là tích, ở nơi bản địa có thuận nghịch gì. Lại có Bà-la-môn tên là “Bất Hại”, do giết vô lượng các chúng sinh cho nên tên là Ương-quật, do gặp Phật mà phát tâm Bồ-đề. Lại ở Ba-la-nại có con của trưởng giả tên A-dật-đa giết cha hại mẹ giết A- la-hán thiêu đốt tăng phòng, sau muốn xuất gia, các Tỳ-kheo không độ liền tự phát Bồ-đề tâm đều là theo lệ. “Giải thích theo Quán tâm”: hại mẹ tham ái… như Chỉ Quán nêu dẫn kinh Lăng-già. Nói “hành nơi phi đạo…”: nghịch tức là thuận, phi đạo tức là đạo. Lại, đạo lấy thông đạt làm nghóa, lý sở giác năng thông quán trí, từ nhân đến quả cho nên gọi là đạo, cho đến cửu giới tâm đều gọi là phi đạo, huống gì nghịch tâm ư? Có người hỏi: Pháp Hoa nhất thừa cúi đầu dơ tay đều thành Phật đạo, đâu được Xà vương trọng tội không dứt? Đáp: Chỉ cần y hướng căn cơ động chướng trừ bốn câu… Phân biệt thời thuần thục trước sau, hóa duyên tùy cơ, không cần đây hỏi. Tiếp, hỏi: Có thể biết? Trong đáp tuy dẫn vô lượng nghóa căn cứ theo lý lại nên dẫn Phân biệt công đức. Vì bốn thiên hạ cho đến đại thiên trần số đắc đạo, trong đó sao không có loại chúng nhân ư? Cho nên biết chỉ là lược. Một câu khai làm bốn câu đến như sớ Tịnh Danh, kia dùng bảy nghóa giải thích bốn câu: 1.Nêu Thừa, Giới gặp Phật không đồng. 2. Tín pháp, hai hạnh không đồng. 3. Đại thừa Tiểu thừa sai biệt. 4.Căn tánh tiệm đốn. 5.Ứng Tích. 6.Quán tâm. 7.Hóa tha. Nghóa đầu, nói Thừa Giới: Có Thừa thì gặp Phật, không Thừa thì không đến. “Tín pháp”: Tọa thiền nghe học giảng thuyết đều được gặp Phật chỉ tùy tu tập Đại, tiểu mà thôi!. “Tiệm đốn”: Đại thừa Tiểu thừa đều có tiệm đốn. “Ứng Tích”: Đã đắc hai mươi lăm Tam- muội ứng với hai mươi lăm cõi. Dẫn thực hành: Đến chỗ Phật. Quán tâm: Chỉ tùy quán hạnh để phán định thấy Phật. Hóa tha: Thấy cùng không thấy đều căn cứ lợi tha. Đại quyền hiện tích lược như văn nay. “Nếu đạt ý này…” dùng bốn câu đây thì có thể nhận rõ tự tha thời xứ gặp Phật, đắc đạo rất nhanh. Các kinh theo lệ chúng nhiều ít có không, để nghiệm thân mình đương lai sinh xứ như dấu ấn không sai. Xét tâm tự trách nơi kinh Tựa, đâu không thẹn lòng nơi Chánh tông? Tiếp, “giải thích Biệt tựa”. “Biệt tựa”: là đối với Thông tựa mà đặt tên. Lại, căn cứ đương giáo đối nhau mà nói. Phật và đệ tử, trước sau của kinh, hai văn có thể biết. Nếu theo di chúc tối hậu của Như Lai, thì thông tựa chỉ là thông, biệt tựa chỉ biệt. Nếu Như Lai xuất thế cho đến kinh này, đối xưa mà biện rõ thì Biệt tựa đây ý biệt mà bao gồm thông, thông trình bày xưa cho nên chỉ tại kinh này, Thông tựa văn thông mà ý biệt, biệt tại nay nên các kinh thông như vậy. Nếu thẳng căn cứ xưa mà luận thông biệt thì Thông tựa văn thông và nghóa thông, vì bộ bao hàm các giáo; cũng có nghóa thông mà ý biệt, vì biệt tại các vị. Biệt Tựa văn biệt và nghóa biệt không liên quan đến các bộ khác. Như cầm bát hợp với dù, sự tại đương kinh cũng có nghóa biệt mà ý thông, vì thông các giáo. Lại, cũng có thể Thông tựa, văn thông mà nghóa biệt, vì tùy bộ đối giáo nhiều ít biệt. Biệt tựa, văn biệt mà nghóa thông, vì thông trình bày giáo ở trong bộ có nhiều ít, vì muốn thông khắp thông biệt cho nên như vậy. Hai tựa đối nhau danh kia tự phân. Trong kinh này nói “thông trình bày xưa”: là thuyết pháp thì quan trọng là trình bày ý xuất sinh, phóng quang thì tiệm đốn đều chiếu, chỉ có hoa địa chuyên tiêu biểu kinh điển này thì mật ý chưa tuyên bày rõ. Nhập định, thì nghóa bao gồm khai hợp. Chúng vui thì đẹp lòng, cảm động khác xưa, căn cứ xưa khác nay. Nghi niệm chính là hai duyên quá khứ và hiện tại, do dự chánh đáng. Đáp hỏi thì rộng trình bày ba đồng thông thâu một đời, ý kinh đã xa thì Tựa cũng khác thường. Vì vậy nên các kinh khác thì trực tiếp phát khởi như thế. “Nhó thời”: là thời muốn hiện sáu điềm lành. Người xưa nói: “là thời chúng tập”, thì không lónh hội được ý của lời nói. Phàm nói “Nhó thời”, đều chỉ cuối việc trước, bắt đầu việc sau. Đây chỉ trước là hiện sáu điềm lành. Muốn nói kinh Vô Lượng Nghóa, thời ban đầu chúng vây quanh. Nếu nói thời chúng tập, thì không thể nói khi chúng tập chúng vây quanh, như đầu phẩm Phương Tiện, tức là chỉ khi Văn-thù đáp vấn xong. Không thể nói là lúc Phật từ Tam-muội ra. Từ Tam-muội ra như nói : “sau lúc ấy, lúc ấy bèn v.v…”, đều là sau “Nhó thời”. Nếu tập chúng xong thì có thể nói “Lúc ấy bèn nói kinh Vô Lượng Nghóa”. Cho nên, biết: Biệt luận tức là thời muốn nói kinh Vô Lượng Nghóa. Thông luận thì có thể chỉ thời đức Phật chưa ra định. Ban đầu thì “bốn chúng vây quanh”, cho đến “mưa hoa, động đất”, cho nên nói “khi ấy trời mưa…”. Sở dó lập lại nói “lúc ấy trời mưa”, là vì biệt chỉ thời nhập định sau. Đây tuy việc nhỏ theo lệ kia thật nhiều, việc trở lại không thể khinh thường nên khiến khắp biết. “Phiên phúc”: là kết nghịch thuận nêu ở trước. Từ trước hướng theo sau gọi là thuận, ngược trở lại hướng trước gọi là nghịch. Nói “sinh khởi”: Từ trước hướng sau, thì trước sinh mà sau khởi, từ sau hướng trước, thì sau sinh mà trước khởi. Tức đáp sinh do nơi vấn khởi, cũng có thể nói đáp khởi do nơi sinh. Cho đến “tập chúng” cũng như vậy. Tuy chấp nhận sự thuận nghịch kia mà ý chê sự kia không có tôn chỉ, cho nên nói “chưa hiển bày”. Tôn chỉ kia như thế nào? Nghóa là tiêu biểu “Tứ nhất”. Nhất kinh hiển bày không ngoài bốn, đây cũng dùng nghóa Quang Trạch mà phá Quang Trạch. Nếu y Kinh gia này thì nên tiêu biểu Thập nhất. “Chỉ là một cách giải thích theo Nhân duyên…” “Trực thị nhân duyên…”: là khiển trách để hiểu văn. Thuận nghịch chỉ đắc một ý Thế giới Tất đàn trong nhân duyên, ba thứ còn lại hoàn toàn không có, cho nên, nói “còn tự không rõ”. “Huống chi hai ba bốn”, tứ là ba cách giải thích theo Giáo, theo Bản tích và theo Quán tâm “Nay nêu rõ…” là trong tứ Tất-đàn chỉ đối Tứ nhất, tiêu biểu Tứ nhất đương đồng, cho nên biết Nhất, thì kinh gia từ đầu đến cuối đắc ý chỉ. “Nhân (người) nhất” là Thế giới Tất-đàn, vì nhiều người hòa hợp đến nay đồng. “Lý nhất” là Đệ nhất nghóa, vì danh đây rất thuận sáu điềm lành, nhất nhất đều tiêu biểu Trung đạo “Hạnh nhất” là Vị nhân, tu hạnh đến nay là vì lợi lạc cho chúng sinh, gây nghi khởi niệm khiến các hạnh thành. “Giáo nhất” là Đối trị, do đáp vấn nên trừ nghi, giáo hưng khởi, vấn đáp tức là giáo trừ nghi. Đây lại một phen luận đại ý kia. “Tập chúng…” đều đầy đủ Tứ nhất, có nêu rõ điều này thì mới có thể sinh khởi, nghịch thuận có nguyên do. Nếu không như vậy, thì vì sao kinh Đại thừa không tập chúng, phóng quang, mưa hoa, động đất? Chỉ vì không sinh nghi Đại thừa, thỉnh đáp không hẳn là diệu đức, đáp vấn không dẫn ba thứ đồng. Nay tuy chưa chánh nói, chỉ nhân nghi thỉnh vấn đáp sau mới biết, mà trước khiến điềm lành mưa hoa động đất tức đã nói định khác thường, trước nói định chúng không đơn độc nhóm tập, tuy từng nghe kinh Vô Lượng Nghóa nhưng đã định không tán, là biết hướng nghe chưa vội, cho nên biết sau mưa hoa động đất từ định ra mà nói thì không thể xem nhẹ. Có trước sau là vì căn cứ cái ở giữa, nên mưa hoa động đất cũng khác, do đó nghe pháp là tiêu biểu người (Nhân) nhất thừa. Người do hiện điềm lành tiêu biểu Lý nhất thừa, vì hiển lý đây sinh nghi vấn đáp, Giáo Hạnh đây tại Nhân Lý rõ ràng. Lại, do trong điềm lành nói khai kinh là tiêu biểu hợp giáo, nhập hợp định là tiêu biểu Hạnh Trung đạo, phóng hào quang từ giữa chặn mày là tiêu biểu Lý Trung đạo. Mưa hoa thích hợp là tiêu biểu Vị trung đạo. Động đất thích hợp là tiêu biểu trừ hoặc Trung đạo tổng thành Nhân nhất, đúng là có lý do. Cho nên, “Thiên” tiêu biểu Đệ nhất nghóa thiên, “địa” tiêu biểu địa thật tướng. Tuy đều có biểu hiện điềm lành mà thời chúng chẳng thể lường được, cho nên dù nghe khai kinh mà vẫn còn chẳng biết là khai bản tiêu biểu hợp, huống chi lại có thể biết lý quyết định ư! Cho nên đợi Văn-thù dẫn việc xưa thì mới biết là hóa đạo không sai khác. Thế nên phải biết: sinh nghi là bản để lập hạnh, bởi vì nghi mà được giải quyết thì hạnh xứng hợp dẫn đồng giáo xưa, bèn biết Phật nay mới nói Giáo nhất và khiến thời hội thành Nhân (người) nhất thừa. Như vậy mới có thể là kinh này do Tiệm hiển bày thật đầu tiên mới xảy ra. Nếu không như vậy, thì uổng nói giải thích Tựa nêu ý Pháp Hoa mà cho đến cuối cùng tự mình cũng chưa rõ. Như đây, cũng là giải thích theo nhân duyên. Trong phần “Căn cứ giáo” nên nêu rõ thiết lập khai, phế, hợp, thì mới hiển bày những gì được tiêu biểu trong phần Tựa. Nói “Không phải Tam Tạng…”: tức lại căn cứ phế quyền cho nên đều nói “không phải”. Trước phế sau khai lý số như vậy, cho nên lịch giáo chọn ba còn chưa gọi là một. Nếu khai hiển rồi, thì đều là kinh vương. Lại, khai rồi thì chỉ là Viên, cho nên nói “không phải”. Cho nên, trước biện rõ năng khai mà không luận tạng… Năm vị bốn vị nghóa cũng như vậy. Như đây giải thích vẫn thuộc Tích môn. Từ “Căn cứ Bản Tích” trở xuống: là tiêu biểu Bản môn, phải đến thọ lượng cũng có thể tiêu biểu trước, cho nên biết Tựa đây hiển thì tiêu biểu Tích bốn, mật thì tiêu biểu Bản bốn. Đã thành từ lâu không vượt qua bốn thứ này. Lâu và gần tuy khác, mà lý Tứ nhất thì bình đẳng… “Quán tâm có thể giải v.v…”: Do đều tiêu biểu một lý quán dễ nêu rõ, nhưng phải lược biết để chỉ bày nói như vậy. Nhất tâm tam đế là Lý nhất. Nhất tâm tam quán là Hạnh nhất. Tác quán như thế, là Nhân nhất. Năng thuyên quán cảnh là Giáo nhất. Lại, thường quán tam đức năng sở đều có bốn, là lý Pháp thân, giáo Bát-nhã, hạnh Giải thoát, hòa hợp ba pháp thạnh tạm gọi là Nhân, tức quán hạnh Như Lai. Căn cứ lục tức vị, mỗi vị Tứ nhất. Trong mỗi một niệm, niệm niệm Tứ nhất. Nhất sắc nhất hương đều là Tứ nhất. Quán hạnh như đây là chân thật Pháp Hoa Tam-muội. Tâm cảnh xen lẫn phát khởi tức nhân duyên quán Tứ nhất. Chẳng đồng tam giáo, tức căn cứ giáo quán Tứ nhất. Từ lâu xa đã đắc, tức Bản địa quán Tứ nhất. Đây chỉ hướng đến phá bỏ kiến giải của ngài Quang Trạch, để lập Tứ nhất. Tổng giải thích năm chương đã xong. Tiếp, “Chúng tập…” là chánh biệt giải thích. Trong phần đầu “giải thích oai nghi”: trước dẫn luận. Luận văn có bốn thành tựu: 1.Nhiễu quanh. 2.Trước sau. 3.Cúng dường. 4.Tôn trọng tán thán. Kinh văn thiếu “trước sau”, lẽ ra phải nói “nhiễu quanh trước sau”. Thiệp Công nói: “Tuy là luận văn mà không thuận kinh nghóa”. Thiệp Công còn nghi người dịch, nhưng nay người dịch phần nhiều y luận văn, chỉ một, hai chỗ không hoàn toàn dụng. Luận dùng bốn giải thích ba, không cần đây bài xích như thế, như tư duy năm câu dùng tám câu giải thích, năm câu tán thán đức La-hán, thì dùng mười lăm câu giải thích. Như giải thích điều “khó giải khó nhập thêm khó ngộ…” cho nên thêm không có lỗi, từng tìm sớ kia ba quyển, hai quyển đến đáng sợ vì nhiều, cho nên đây ngưng. Trong bốn oai nghi thì giản lược ba oai nghi còn lại, muốn có sở văn khác với phi thời trụ, cho nên nói “như pháp”, cần gì phải đợi kinh này mới nói “như pháp”. Nếu thông luận, thì đương bộ đương cơ nhiễu quanh hay trụ, thảy đều “như pháp”. Trong phần chánh giải thích thì trước bài xích xưa chỉ nói bốn chúng: Tỳ-kheo v.v… Có chỗ nói bốn chúng là: Thiên long v.v… hoặc bốn chúng là: Phạm ma v.v… Người Đại tiểu, tuy xưa có liệt ra đây nhưng không phân biệt phàm Thánh, thuận nghịch, quyền thật, nói nín. Nay xưa vi tế biên chép chung riêng, kiêm riêng, thiết lập khai Bản tích đều không có chỉ qui. Nay liệt bày bốn là biến khắp các thứ bốn ấy, thâu nhiếp hướng mười cặp, phàm Thánh cho đến bản tích không lạm dụng. Lại Thiệp Công nói: “Tông Thiên Thai lập chúng ảnh hưởng v.v…, có nghóa không có văn, chưa thể dựa vào tin”. Nếu nói “có nghóa không có văn thì không dựa vào tin” như vậy, thì nếu “có văn không có nghóa, thì có thể dựa vào” ư? Nay nói: “có văn có nghóa” thì người tầm thường dùng, “không văn có nghóa” thì người trí dùng, “có văn không nghóa” thì người ngu dùng, “không văn không nghóa” thì kẻ mê dùng. Cho nên kinh nói: “Y nghóa không y lời”, tức ý đây. Cho nên, “ngoại, Tiểu thừa quyền, tích” đối với “nội, Đại thừa, thật, bản”, đều có danh không nghóa. Đức Phật chê trách Ca-diếp: Ông xưa chỉ nghe danh Niết-bàn mà chưa nghe nghóa kia. Pháp sư tự lập: Thanh văn Bồ-tát là hai Thánh chúng; long thần, người chủ là hai phàm chúng. Nay hỏi: Bốn chúng này lại có mặt trong bốn chúng của Thiên Thai không? Nếu kia không, thì liên quan gì đến Pháp Hoa? Còn chẳng phải người đương cơ được lợi ích, huống chi chúng phát khởi…, không có thì chưa phải. Nếu kia có, thì là “có văn có nghóa”, sao gọi là không có văn? Cho nên, kinh này liệt kê chúng ắt đủ bốn chúng đây tức văn kia. Nghóa ắt có bốn chúng phát khởi v.v…, tức nghóa kia. “Có văn có nghóa” rất đáng nương tựa. Cái mà Pháp sư lập thì không nghóa có văn, mà lại còn trách đây, huống chi lại bốn nghóa vẫn tại khắp các kinh. Tại đây nên nói: Phát khởi, Bản Tích, Căn cứ giáo, Nhân duyên. Bốn theo thứ tự này tức căn cơ tuy có thể phát ắt nhờ bậc đi trước dẫn dắt, dẫn dắt căn cơ đã phát tức ảnh hưởng giúp đỡ. Ba lợi ích hoàn toàn không có chúng kết duyên. Nếu nói không văn, thì Văn-thù Di-lặc lẽ nào chẳng phải phát khởi? Ba vòng thâu hoạch thọ ký, lẽ nào chẳng phải đương cơ! Trừ chúng phát khởi ra, các đại Bồ-tát lẽ nào chẳng phải ảnh hưởng! Trừ chúng đương cơ ra, như những người đứng dậy đi lẽ nào chẳng phải chúng kết duyên! Huống chi trong tạp chúng tuy không kích động cũng năng dẫn đạo, gọi chung là phát khởi. Tuy chẳng trấn nghiêm cũng năng phụ tá gọi chung là ảnh hưởng. Kinh Tịnh Danh nói: “Mà sinh trong năm đường để hiện tự mình, và dẫn bốn chúng”, nghóa đã đủ. Trong phần “giải thích chúng phát khởi” có pháp, dụ, hợp. Pháp: trước nói rõ đức bên trong, “kích dương…” là dụng bên ngoài. Ứng vật thi thiết nên gọi là “quyền”. Thuận thích nghi chế lập, nên gọi là “mưu”, có quyền thì có mưu, nên gọi là “quyền mưu”. Thật trí bên trong dung thông, không mưu mà thích đáng, nên gọi là “trí giám”. Giám xét thiện xưa kia đáng sinh đáng thành, cho nên gọi là “biết căn cơ”. Phù hợp cơ hội không lẫn lộn, cho nên gọi “biết thời”. Nói “kích dương” là nghóa đương phát khởi, dùng để giải thích danh, vì phát căn cơ khiến khởi, cho nên nói “phát khởi”. Đầu văn là giải thích “phát”, “thành biện rõ …” là giải thích “khởi”. Cũng có thể bốn chữ trước: “Kích dương phát động”, là chánh giải thích. Bốn chữ kế tiếp: “thành biện lợi ích”, là công năng. “Động” cũng là “khởi”. Lại phân tách rõ ràng: khiến khai nên gọi là “phát”; nhân kích dương, mở đầu mà động nên gọi là “khởi”, nghóa bao gồm năng sở thông đến tự tha. Lại, “kích” đại bi bình đẳng, “phát” thời chúng nhất thiện “dương” (nêu cao) đại tuệ bất nhị, “động” theo ba nghiệp lợi ích. Lại, “kích” nhân đại hội xưa, “phát” lợi ích vi diệu của đương cơ, “dương” cao đại giáo của Như Lai, “động” cái cố chấp của thời chúng. Lại xin Phật đại bi nên gọi là “kích”, hỏi bày Thánh chỉ nên gọi là “dương”, khiến nghe điều chưa nghe nên gọi là “phát động”, khiến người nghe đắc quả nên gọi là thành tựu xong, theo ắt thâu hoạch ngộ nên gọi lợi ích. Tiếp, nêu Dụ: Đại quyền tượng vương ngồi dưới gốc cây pháp thân đến khi dậy đất chấn động, diễn xướng nhất thừa thật đầy đủ cơ duyên diệu hạnh. Tiếp, “Cái gọi là…” là trong Hợp nói phát khởi năm Tựa bao hàm lợi ích căn cơ chúng sinh, cho nên biết nhóm tập ắt không riêng chỉ đại quyền làm mệnh lệnh. Do nhóm tập nên hiện điềm lành. “Cho đến vấn đáp phát khởi vân vân”, thì “vân vân” là chỉ Chánh thuyết, ý Tựa đã rõ, chánh thuyết hiện bắt đầu. Cho nên, trong Tựa phát khởi vốn hy vọng Chánh tông, nghiệm biết Tựa này chưa thông nơi Bản. Tuy đứng đầu kinh Bản do biệt, mà hai chỗ phát khởi đều nơi A-dật-đa. Nhưng Tích sự thì chẳng xa, có thể nương Văn-thù. Bản lâu khó quyết đoán suy lường nên chỉ nương Phật. “Giải thích chúng đương cơ”: cũng có Pháp, Thí, Hợp. Pháp: Do có phát khởi, đương cơ có thể thành. “Đương” là “đáng” (đọc khứ thanh), nghóa là hợp, là thích đáng. “Túc”: là đã qua, xưa. “Thực” là chủng, nghóa là gieo trồng. “đức” là các thiện. Là gốc của các thiện, nên nói “đức bản”. Do thiện có bản, nên được thành “cơ”. Đại quyền tác dụng lợi Thánh ích phàm. Như Lai có Tam đạt (tức Tam minh) cho nên nói xứng với chủng xưa. Lúc mới thành đạo thì hộ trì cho chúng ấy hết khổ. Đến thời Phương Đẳng Bát-nhã, thì lo nghó cho cơ ấy sinh. Đến kinh này thì trước lược sau rộng. Ba chu dung nạp, dự định thâu nhiếp tất cả cho đến Bản môn thì địa vị đăng Vô cấu, không mảy may sai lầm, xứng hợp với nhân xưa đó, Trung ngã có thể phát khởi, nên gọi là “đương cơ”. Nay căn cứ giải thích chúng. Hai chữ “đương cơ” đều thuộc sở hóa mà phải cơ ứng hợp luận, lý hợp nghóa kiêm năng sở. Nay lại từ sở dó ứng sở hóa. “Xưa gieo trồng…” là trước giải thích chữ “cơ”. “Duyên hợp…” là tiếp giải thích chữ “đương”. Tiếp trong dụ “như ung nhọt” là thí dụ có căn cơ. “Muốn (ung nhọt) vỡ ra”, là thí dụ có thể phát, vì Phật, đại Thánh và chúng phát khởi không mưu tính mà đè xuống. Phiền hoặc từng phần phá thì cơ duyên từng phần thuần thục, trí đức từng phần thành, pháp thân từng phần hiển. “Không khởi…” là hợp, không hợp căn cơ xưa, chỉ hợp hiện tại phát, hiện tại phát liền thành căn cơ hiện tại. Cho nên, không khởi từ nơi một tòa để xuất vô lượng tòa, mà tức thời nghe thâu tóm vô lượng để nói quy về một, đều đăng Sơ trụ, nên gọi là “đắc đạo”. Đây là căn cứ thể quyết định mà luận đương cơ. Thông thâu nhiếp, chính là nhiếp lục căn ngũ phẩm. Tiếp, “giải thích chúng ảnh hưởng”: Hình tiếng của hóa chủ ắt trợ giúp bạn, do ảnh hưởng mới khiến phát khởi kích động sự theo, như vang theo tiếng bóng theo hình. Cũng có pháp, thí, hợp. Pháp: hai câu đầu nêu ảnh hưởng là Bản, tiếp “Ẩn…” nêu năng phụ (giúp) là tích. Sở phụ chỉ một, nên nói “Pháp vương”. Năng phụ: giúp chỉ bày nhân, chỉ tiệm, chỉ thủy, chỉ chung, oai nghi của chúng Thánh. Chỉ nhân, nên Cổ Phật ẩn sự tột cùng mà hiện tu hành. Chỉ tiệm, nên pháp thân tiềm ẩn Viên mà hiện Thiên, Tiểu, đây đều là phụ giúp đức Thích-ca Pháp vương, phụ giúp chánh vậy. Ích Pháp nói: Tâm ngay thẳng đại độ gọi là giúp, phụ là trợ giúp. Tâm ngay thẳng trợ giúp chủ biết cơ duyên chúng sinh hiện có, nhường công chánh hóa nên nói “ảnh hưởng”. Tiếp, dụ: Như dụng của sao cuối tháng độc chiếu, chỉ kiến lập công phụ mặt trăng, hiển đức sâu kín phụ giúp cho nên nói “tuy không hành tác mà có lợi ích rất lớn”. Trong Đại luận, hỏi: “Các Tỳ-kheo vì sao thường đi theo Thế Tôn?”. Đáp: Như khỏi bệnh là nhờ theo thuốc, hiển công của thuốc. Đây nêu người thực hành còn có oai nghi ảnh hưởng, huống chi Pháp thân cổ Phật thị hiện hình trợ hóa. Cho nên biết bốn chúng như bệnh nhẹ được lành, Bát bộ như bệnh nặng được giảm. Nhẹ nặng đều có quyền thật ảnh hưởng. Tiếp, “giải thích chúng kết duyên”: “Kết” là kết cấu, lập khởi đầu cho căn cơ; “duyên” tức duyên trợ, năng thành cuối cùng, là làm mầm trước cho đời vị lai tu đắc Tam đức. Không có ba lợi ích trước, cho nên nói “kết duyên”. Tức là ngoài ba chúng trước, trong hội còn có chúng này, cho nên đây một duyên gồm đủ hai nghóa: là trợ hiện tại, trợ tương lai. Trong đó đối với ba chúng trước biện rõ không có. “Lực không có…”: là chẳng phải chúng phát khởi. “Đức không có…”: là chẳng phải chúng ảnh hưởng. “Mà quá khứ…”: là chẳng phải chúng đương cơ. Phàm là chúng phát khởi thì đều có đủ hai nghóa: 1.Dẫn dắt đến hội sở. 2.Xin Phật thành tựu căn cơ. Pháp thân Bồ-tát đầy đủ hai dụng này, cho nên nói là “năng”. Mà chúng kết duyên thiếu sót sự thù thắng, thuận lợi kia cho nên nói “lực không có”. “Trấn”: là trấn giữ quí trọng, tức đức bên trong. “Nghiêm”: là trang nghiêm tức uy nghi bên ngoài. Đức trong đã cao, uy nghi bên ngoài ắt nghiêm chỉnh, nghiêm sức hóa sự vinh quang chủ dụng. Kết duyên thì ở nơi kia không có, nên nói “lực không có…” Lại, “trấn” để chấn chỉnh, “nghiêm” để hàng phục. Đã chấn chỉnh đã hàng phục thì hóa đạo có thể thành, cho nên nói “dụng”. Chúng kết duyên này thì tự lợi còn mỏng, đâu có chấn chỉnh hàng phục người khác được, cho nện nói “đức không có”. “Phúc lậu…”: Chữ “Phúc” đọc nhập thanh. Không có Văn tuệ, ví như cái bát đang úp xuống. Thiếu Tư tuệ, ví như cái bát đã bị rỉ. Không có Tu tuệ, ví như cái bát đựng đồ nhơ tạp. Như bát tuy để ngửa mà toàn đựng đồ bẩn, cho nên bị người dùng vứt bỏ đi. Cho nên, tổng kết nói “ba tuệ không sinh”. “Hiện đời…”: Hiện đời tuy được nghe mà không gọi là tuệ. Văn tuệ mà còn không, thì Tư tuệ, Tu tuệ làm sao có? Đây tức Thông thì chọn lục căn, ngũ phẩm, Biệt thì dòng người năm ngàn người đứng dậy bỏ đi. Những người đứng dậy bỏ đi, tuy không có ba tuệ, nhưng thâu nạp chủng tử ở tánh, được buộc hạt châu, nên biết cũng không có lợi ích theo Thế giới Tất-đàn trong quán hành vị. Cho nên, nói “không có tứ Tất-đàn lợi ích”. Căn cứ đây phân vị tứ Tất đều đủ, gọi là chúng đương cơ, nên Ngũ phẩm trước đến nay, là nghóa Thế giới lợi ích. Lục căn trước đến nay, là Vị nhân Đối trị lợi ích. Sơ trụ trở đi là Đệ nhất nghóa lợi ích. Vì vậy nên văn dưới cuối phẩm Tùy Hỷ còn chưa thành đương cơ Một câu một kệ cũng là chúng kết duyên đó thôi! Nhưng nghe lược thuyết thì có vượt qua một câu, một kệ. Vậy thì không luận nghe nhiều ít, hễ chưa nhập phẩm đều gọi là kết duyên. Cho nên trước năm phẩm thì không có ba tuệ bốn Tất-đàn lợi ích. Không nghe (Văn) nên không có Thế giới, không Tư nên không có Vị nhân, không Tu nên không có Đối trị, không chứng nên không có Đệ nhất nghóa. Cho nên Đệ nhất nghóa có thông có biệt, Thông nơi năm phẩm, Biệt tại Sơ trụ, cho nên nói được độ cũng có thông có biệt, tức là thông biệt Đệ nhất nghóa. Vậy thì tuy tứ Tất-đàn thì nghóa thông, mà cuối cùng thành kết duyên vị biệt. “Chỉ làm…” là chánh chỉ bày tướng của chúng kết duyên. “Tỳ- kheo…” là kết số làm mười sáu chúng. Nếu căn cứ Văn-thù Di-lặc thì chỉ trong chúng Tỳ-kheo. Chúng Ni tuy không có văn thỉnh pháp, văn dưới cũng có tướng thỉnh thọ ký, chỉ có hai chúng thế tục tuy không có chánh văn nhưng căn cứ theo lệ hợp có. Đã đến hội ắt được quyền dẫn dắt, hai chúng đã vậy thì tám bộ cũng như vậy. Nay từ tổng tướng chỉ nói bốn chúng, cho nên biết hễ nói “bốn chúng: Tỳ-kheo v.v…” thì sở nhiếp chưa cùng khắp. Nói “vô văn”: là không đạt đến thành tựu sâu xa. Tiếp, “Căn cứ ba giáo…”: Bao gồm luận giáo xưa, ngũ vị truyền dẫn căn cứ trên có thể biết. “Bản tích có thể giải”: Nếu căn cứ thể dụng, thì Bản trú tôn quí cùng cực, hoặc thâm vị pháp thân. Tích là tứ Giáo nhất, mười sáu chúng. “Quán tâm” nêu vị, chọn năm phẩm làm kết duyên. Lại, căn cứ quán hạnh mà nói, cho nên dùng “danh tự Quán hạnh” mà làm kết duyên, để trong chúng đương cơ Sơ trụ liền nhập ảnh hưởng. Nên biết Sơ trụ đầy đủ có hai nghóa: Hoặc cựu nhập, chỉ danh ảnh hưởng, cho đến nghe kinh siêu nhập hậu vị, ý cũng như vậy. Hoặc mới nhập, được là đương cơ cũng là ảnh hưởng và để phát khởi, tức như người học phát thệ nguyện hoằng kinh. Trong câu “Nhập phần chân vị, tức thành chúng phát khởi chúng ảnh hưởng vân vân”, thì “vân vân” là: phân biệt bốn chúng này làm thành quán hạnh cao thấp không đồng, đến địa vị đây thì có khả năng làm bốn chúng đây. Năm ngàn người đứng dậy bỏ đi còn được kết duyên, thế nên phải biết: không chuyên danh tự Ngũ phẩm, cho nên căn cứ Quán hạnh từ chỗ dung nạp mà giải thích. Ở đầu văn nói “nhiễu quanh” có đủ nghóa tứ Tất-đàn, văn không nêu rõ chỉ dựa theo trên nói. “Tịnh Cư thiên…” tức Thế giới, “hóa làm giống như người” tức Vị nhân, “người lấy đó làm khuôn phép” tức Đối trị, “lễ rồi nghe pháp” tức Đệ nhất nghóa. Từ “Tiêu biểu bốn môn” trở xuống, là căn cứ giáo. Nếu chỉ đem đương giáo mà luận chúng, thì tự có Phật trong các giáo. Nay từ “nhiễu quanh” Viên cực nghóa biên, chính là tiêu biểu ba giáo bốn môn cơ động, động nên kiến lý. Vô Lượng Nghóa thời vẫn là thiên tiểu can dự tiêu biểu đương nghe Viên bốn môn. Nay và xưa hướng về nhau bốn giáo nghóa đầy đủ, nên chỉ nói theo lệ. Cho nên biết giáo xưa không phải không có bốn môn, đương giáo cơ động. Chỉ vì tiểu độn căn chưa thông, đến đây mới gọi là “đại cơ động”. Nếu người Bản Viên đến đây mới tăng tiến thì cũng gọi là “động”. Chỉ không Biệt mà Biệt thì được gọi là bốn môn. “Căn cứ Quán giải”: Tam giáo quán hạnh cũng như hành xoay chuyển, đều thành viên quán cũng như niệm Phật. Lại quán chỉ là niệm, dùng quán để chuyển, cho nên nói “tăng”. “Nếu quán…” là căn cứ quán để luận Bản tích. Nếu căn cứ thể dụng và lâu gần, thì: Bản trú pháp thân phi động phi bất động, Tích thì thị hiện các giáo cơ động nhiễu Phật. Giải Thích cúng dường: Cũng tại chúng kia vì nghe Kinh Vô Lượng Nghóa, thời chúng nhóm tập mà tu cúng dường, cho nên giải thích “Nhó thời” không được nói thời chúng tập. Kinh kia nêu bày chúng phàm phu đều cầm phẩm vật cúng dường, có dẫn kinh Hoa Nghiêm có sự cúng dường mây từ mười phương kéo đến, cũng chưa hoàn toàn như vậy. Như “Đại Trang Nghiêm” sở hiến cúng dường, đây theo lệ tợ như vậy; như người trong nước an trí và dụng sức làm, nếu vậy thì vì sao đều nói “thiên trù…” ư ? Đáp: Theo sự thù thắng mà nói tán thán nên dùng danh “thiên”. Cho nên biết phẩm vật cúng dường của hai chúng ảnh huởng và phát khởi ắt sai khác. Chúng đương cơ và kết duyên lại phải liệu giản, địa vị không đồng cho nên phẩm vật cúng dường cũng khác. Các địa vị trên còn chẳng phải là điều mà Nhị thừa biết đến, đâu chỉ thiên cúng dường. “Nghiễm nhiên không giải tán”: nói kinh vừa xong liền nhập định kia, lúc ấy phóng hào quang trời liền mưa hoa, đất sáu điệu chấn động, lúc đó chúng thấy liền sinh niệm nghi ngờ, cho đến vấn đáp. Do đó biến đổi kéo dài “nghiễm nhiên không giải tán”. Đồng tòa lại nói, nên gọi là “vẫn”, phải hoàn toàn ý chỉ kia nên nói “không được có khác”, văn tuy rộng lược sự không có riêng biệt. Hỏi: Trong ba nghiệp, thì hai nghiệp về sự đã xong, ý nghiệp như thế nào? Đáp: Nói Chuyên chú là nói thông sự biệt. Nếu do từ đầu đến cuối chuyên chú do đó mà sinh niệm nghi thì ý chưa dứt. Nếu lại dùng thân khẩu tán thán cúng dường, thì một kỳ hạn việc xong, ý đủ hai thứ đây không thể nhất hướng. Giải thích: “Tựa hiện tướng”: Trong đó ba phen trước chỉ bày văn, tiếp phá xưa trong đó trước chỉ bày xưa, tiếp nay… là lược phá, nhưng cũng theo văn kia vẫn phá nghóa kia, nghóa tức tiêu biểu báo. Nói “tiêu biểu báo” thì: “thụy” là năng biểu, biểu tức báo. Nói “chưa rõ”: Quang Trạch tuy tức kia đây đồng có sáu, đều nói ba cặp mà hoàn toàn không có sở biểu, cho nên biết: nói “động tónh” thì rất cạn, nói “trên dưới” đã rõ ràng, huống chi trong lòng hoan hỷ không chỉ nhìn thấy ánh sáng, vậy nên nay không còn lập xưng kia, huống chi độ người quán lý đâu phải không có giáo. Do đó tướng lành dự báo khiến biết đương thiện, cho nên trước chỉ bày điều đặc biệt tỉnh ngộ loài hữu tình, gọi là “biểu báo”. Nhưng chúng đã chưa biết rõ, nên quyết ở Văn-thù, Văn-thù đã biết nhất định khởi, sở thuyết không ra ngoài một nhiều tương tức, từ nhân đến quả cảm ứng đạo giao, cho nên dùng ba cặp mà trước biểu báo. Đã liệt kê giáo đầu tiên, thì giáo phải khác thường, trên dưới… nói sự thì dễ hiểu, đâu cần Văn-thù trù trừ Di-lặc ân cần? “Ba, Nay nêu rõ…” là ba phần trong Chánh giải thích: 1.Lược nêu giải thích, 2.“Đây sáu…” biện rõ hai thứ danh đồng khác. 3.“Lược nêu…” dùng điềm lành đối diệu. Đầu văn: trong sáu thứ trừ thuyết pháp còn lại năm thứ đồng thời; tuy lại khác đồng mà chung hiển theo một hướng, nhưng trong sáu tuy trước hai sau hai chính là thời chúng, lấy giữa hai làm tiêu biểu, chánh tại nhân quả. Do đó hoa tiêu biểu chân nhân địa, bao gồm phân biệt quả. Lại nói hiển lộ từ nhiều định, chính là mật ý từ nơi chốn, căn cơ Viên giáo đương phát Viên ứng chiếu. Cho nên biết sáu điềm lành đều khác với các kinh không đồng với Quang Trạch. Tiếp, nêu trong phần nêu đồng khác, trước dẫn văn nêu đồng, từ “Nhân tình phân biệt” trở xuống: biện rõ khác, tuy dùng cái khác làm tướng, biểu báo làm điềm lành, mà Khác với tướng lành bản báo diệu lý, theo nghóa đồng mạnh lại có văn làm chứng, cho nên thuận nhân tình thì chưa gọi là tận lý. “Huyền”: là sắc đen nghóa đồng ẩn khuất. “Di” tức sâu. “Nói điều đó rất khó…”: chư Phật xuất thế vốn vì Phật thừa, hơn bốn mươi năm giữ trong tâm, Viên âm sắphưng khởi, lo lắng chúng không tôn trọng. Lại nữa dùng điềm lành mà nâng cao lên khiến mọi người hâm mộ, tín sinh thì nghi đều trừ, hiểu rõ ràng. “Biểu báo thập diệu”: Nếu căn cứ theo văn trước, thì chỉ ứng biểu báo Tứ nhất mà thôi. Do văn Tứ nhất lược thuận với Quang Trạch. Nếu chuẩn đúng, khiến văn rộng thì vô lượng lược thì chỉ mười, lược tối đa thì chỉ có thể nói biểu nhất thừa. Nay tuy nói lược, nhưng chính là thành ở giữa (trung bình). Lại, “thập diệu”: Kinh này dã dùng diệu báo đẻ giải thích điềm lành (thụy), diệu nghóa đã mười sáu sở biểu, đạo lý cũng như vậy. Cho nên, cận thì biểu Tích, viễn thì biểu Bản, đầy đủ như Huyền Văn khai hợp. Nếu lại tiêu biểu tích thì cũng như Huyền Văn dẫn kinh nói sáu điềm lành. Nói: “trong Cảm ứng đã nói” tức sợ lầm văn. Huyền Văn liệt bày trong thần thông vi diệu, “nay lại nói” là vì biện rõ sai khác, nên lại nói lần nữa. Nay biên chép đầy đủ Huyền Văn thần thông vi diệu, đối kinh nay biện rõ riêng biệt, vì mỗi mỗi đều có nguyên do. Huyền Văn nói: “Đất đều nghiêm tịnh” là tiêu biểu Lý diệu, “Giữa mày phóng quang” là tiêu biểu Trí diệu, “nhập Tam-muội” là tiêu biểu Hành diệu, “Trời mưa bốn thứ hoa” là tiêu biểu Vị diệu, “gió hương chiên đàn” là tiêu biểu Thừa diệu, “bốn chúng có nghi” là tiêu biểu Căn cơ diệu, “thấy tám ngàn cõi” là tiêu biểu Ứng diệu, “Cúng dường” tiêu biểu Cảm ứng diệu, “đất động” tiêu biểu Thần thông diệu, “trống trời” là tiêu biểu Thuyết pháp diệu, “chúng hoan hỷ” là tiêu biểu Quyến thuộc diệu, “tu hành” là tiêu biểu Lợi ích diệu. Huyền Văn thì chung thâu gió hương, đất tịnh sáu điềm lành kia đây, cho nên khắp chọn lựa. Nay văn không liệt kê văn nói về cõi khác, cõi đây tự đầy đủ. Phàm các văn được dùng đều có thông biệt, huống chi gió hương, đất tịnh chỉ là khai hợp. Đến dưới giải thích văn lại có liệu giản. Lại, trong các cõi khác. trên Thánh dưới phàm nghóa đồng cảm ứng, nhân pháp lại cùng thuyết pháp nghóa đồng, chỉ trong phần từ đầu đến cuối thì cuối đồng ứng dứt, Bồ-tát hành hạnh lại đồng nhân quả, cho nên văn nói về hành hạnh thì rộng, tổng nhiếp Tiệm. Phàm sở biểu ngữ ý đều bao gồm rộng lớn, vì vậy cho nên văn dưới nhiều phen giải thích. Từ xưa đến nay các giải thích đều không có ý như thế. Các điềm lành như ánh sáng v.v… mà lạm dụng nghi ngờ, trả lời không thật, trạng thái như sáng rực rỡ thời chúng đâu khác quỉ thần thần thông ngoại đạo. Cho nên, một nhà giải thích điềm lành ắt có sở biểu. Vậy thì, đại sự đại nhân tác đại cảm động, đại cơ đại ích hiển bày đại lý, phải cần đại quyến thuộc để phụ giúp đại hội, đều cảm đại thời đại vận thạnh thục. Tự mình chẳng phải ở Linh sơn cùng thọ bẩm, thế thì Thế Thân sao có thể khế hợp, sao có thể so sánh! Trong phần “Giải thích điềm lành thuyết pháp” lại phân chia kinh làm bốn: 1.Trình bày thể của pháp thuyết. 2.Liệt kê danh trên thể. 3. Nói rõ sở y của Bồ-tát. 4. Nêu sự hộ trì của Phật. Văn đầu tiên: trước lược dẫn kinh giải thích. Tiếp, “Nay đem…”: dùng thập diệu. “Sớ kinh…” là Lại đem năm trong thập diệu thuộc Tích môn đến. Chữ Sớ: có âm đọc là phiên thiết của hai chữ Sắc và Dụ, có nghóa là trang nghiêm trang sức, đã dẫn kinh kia để trang sức đây khiến thành nay vi diệu. Do thiện giới kia chỉ từ tự hành nhân quả cho nên không có năm thứ còn lại, pháp đại cảnh. Thông là giáo pháp, Biệt dùng bộ Tì-Phật- lược trong mười hai bộ, là Phương Đẳng lý tâm giải trí, tịnh nghiêm hành. Tịnh nên đầy đủ bảy tức thủy chung hành, là thời vị, cũng là thủy chung vị, đầy đủ ba pháp vi diệu này. Do vì có nhân, quả sao lại không có chỗ? Cho nên chỉ có năm thứ trước ắt bao gồm năm thứ sau, huống lại chỉ đo nhân quả danh đồng, nghóa lý còn biệt, gồm riêng khai…, tư duy có thể biết… Huống chi tam kỳ nghóa liên quan đến Tam tạng, số có đại Tiểu cho nên khiến như vậy. Hỏi: Dùng thập diệu để giải thích kinh, chính là thành thô diệu không thể biệt? Đáp: Từ một phía danh đồng thì có thể đối thập diệu. Nếu từ Tựa tiêu biểu thật, thì như đã hỏi, cho nên phải biệt giải thích để đối với văn Tựa. Tiếp, liệt kê danh trên thể, trước đã phá ý kiến xưa. Thiệp Pháp sư nói: Luận về chọn các tên của kinh, thì có mười bảy, Từ Ân rộng giải thích chính là quá phần. Nay trước phá quan điểm của hai Pháp sư Sinh và Quán, trong đó trước là thuật lập luận kia. Tiếp, “Nếu vậy…” là nay văn nạn vấn: Bát-nhã và Tịnh Danh vô tướng không phải Tựa, đâu được dùng vô lượng vô tướng làm tựa? Tiếp, ý bào chữa: Năm thời tương sinh thứ lớp sai biệt, tuy đều vô tướng trước sau có sai khác, sau hai kinh mới Vô Lượng Nghóa, sau vô lượng nghóa mới Pháp Hoa, nên chỉ vô lượng làm tựa Pháp Hoa, hai thứ còn lại vì xa nên nghóa Tựa không thành. Từ “Nếu vậy” trở xuống: lại nạn vấn, bắt đầu từ sau Hoa Nghiêm về sau giáo khởi cho đến Pháp Hoa. Đây là cách thông thường, sau khi kinh trước sinh thì mới thành thứ lớp, lần lượt làm tựa cho nhau nghóa biệt không thành. Nếu các kinh không như vậy, thì đâu riêng Vô Lượng Nghóa làm biệt Tựa của Pháp Hoa? Tiếp, Cơ sư lập luận không khác hai sư Sinh và Quán, phá thì như trước đã nói. Tiếp đến là Ấn sư, Ấn sư thọ nơi Long sư, Long sư thọ nơi Viễn sư, sở chấp đã đồng phá lập cũng đồng. Nói “Vô tướng thiện có nghóa thành Phật”, ý nói: mười hai năm trước là hữu tướng giáo chẳng phải nhân thành Phật, chỉ vô tướng thiện có nghóa thành Phật, ý nói: đến trong Pháp Hoa, hết thảy đều thành Phật đạo. Cái gọi là “nghóa”: là có thể thành. Cho nên dùng nghóa thành Phật làm tựa của kinh Nhất thừa. “Lại nói…”: nếu vậy, Phương Đẳng Bát-nhã cũng nêu vô tướng, thì cũng nên dùng Phương Đẳng Bát- nhã làm Tựa của Pháp Hoa? Ấn sư ngăn chặn và hàng phục vấn nạn này, cho nên lại thuật Vô Lượng Nghóa cùng Đại Phẩm đối biện. Vô tướng trong Đại Phẩm còn nói có ba không ba, vô tướng trong kinh Vô Lượng Nghóa không nói có ba không ba. Cho nên Đại Phẩm vô tướng không phải là kinh Vô Lượng Nghóa được nói đến trong Pháp Hoa, vì kinh Vô Lượng Nghóa chưa phiên dịch. Đây có ba lỗi: 1.Lầm giải vô lượng nghóa nói: không thuyết có ba không ba. 2. Lỗi Vô Lượng Nghóa chưa dịch. 3. Lỗi vọng phá cổ Sư lấy Đại Phẩm làm Vô Lượng Nghóa. Nhưng lỗi đầu: Vô lượng nghóa kia đã nói hai, ba từ vô tướng xuất, sao gọi là khác nhau giữa có nói và không nói có không? Tiếp, “Nay nói…” là văn nay phá: chỉ phá lỗi thứ hai, còn lại hai có thể biết. Cho nên trình bày đầy đủ kinh đến niên đại phiên dịch, chú thích Tựa kinh Vô Lượng Nghóa rằng: Kinh Vô Lượng Nghóa đây tuy đầu Pháp Hoa biên chép danh mục kia mà giữa hạ chưa thấy, thường đến giảng bài, chưa từng không phế bỏ luận bàn mà tán thán. Chợt có Tỳ-kheo Tuệ Biểu ở núi Võ Đang từ Ngụy đế Diêu Tần Lược từ tử (con). Lược là Trường tử, nhân vì quân Tấn đâu có được lặng yên. Dưỡng là giả tử, liền bỏ đi xuất gia cần khổ cầu đạo, đều ở Kiến Nguyên ba năm, đến chùa Triều Đình ở Quảng Châu gặp Đàm-ma-gia-đà-da-xá, muốn truyền kinh này, Biểu bèn đến thỉnh chỉ được một bản. Vẫn trở lại Vũ Đương, đến niên hiệu Vónh Minh năm thứ ba ngày mười tám tháng chín mới lưu truyền ở đời. “Kinh đã đến như thế”, thật đáng cười ngài Ấn sư nói Vô Lượng Nghóa chưa dịch! Tiếp, “Đả phá ý của Quang Trạch”: cũng trước dựa vào ý của kia lập tức là: do Vạn Thiện Đồng Qui cùng Pháp Hoa vẫn có hai cái khác nhau. 1. Đồng qui chẳng phải không hai không ba. 2. Đồng qui chẳng phá ba cùng một. Tuy có hai cái khác do Đồng Qui nên có thể thành hai thứ đây, cho nên dùng Vạn Thiện Đồng Qui làm tựa cho nghóa không hai, không ba v.v… “Nếu nói…” là trước phá câu đầu. Hỏi: Vạn Thiện Đồng Quy trong Vô Lượng Nghóa, đâu khác Pháp Hoa nói không có hai, ba? Hai chỗ nếu đồng phá thì đều phá, qui thì đều qui. “Hai, ba…”: là kết nạn vấn. Tiếp, “Nếu nói…”: là phá câu kế tiếp, trước thì nêu Vô Lượng Nghóa kia nạn vấn Pháp Hoa, nay thì nêu Pháp Hoa kia nạn vấn nơi Vô Lượng Nghóa. Ý nạn vấn: là trước phá lời còn lược, phá ba chính là phá hai phá ba, cho nên nay nói “phá hai phá ba”, chỉ thêm cho một khác ở câu trên, cho nên trước muốn phá dùng nạn vấn đồng qui, nên nói “Vì sao không phá Vạn?”. Tiếp, “Phá hai…”: song nêu hai nạn, đầu nạn chỉ có Chánh không có Tựa. Phá tức là không có, nên phá hai, ba, là không có hai, ba. Trong văn, lời đã lược. Cũng lại nên nói: Nếu phá hai, ba thì tức là phá vạn, tức kia phá vạn, vậy thì không có Tựa. Nếu lấy cúi đầu giơ tay làm vạn thiện, thì hai, ba còn không có, vạn thiện làm sao có? Nếu kia đều không có Tựa, thì nghóa sao tồn tại? Tiếp, “Thủ kinh…” tức ví phỏng nạn. Nếu nói hai kinh đều qui đều phá, thì chỉ vì kinh này nêu phá, kinh kia nêu qui. Nay cũng phá nói không thành sai khác. Đã nói xen lẫn nêu qui ắt có phá, phá ắt có qui, xen lẫn nêu một bên đâu được gọi là khác? Tiếp, “Ý khác…”: kết nạn. Phàm nói Tựa, thì phải khác Chánh tông, sai khác lại tiêu biểu đồng thì mới có thể gọi là Tựa. Khác và đồng đã lẫn lộn, thì nghóa Tựa như thế nào? “Lưu Cầu…”: là phá chú gia, cũng trước y sở lập kia. Tiếp, “Nếu bao hàm…” là phá kia không lượng tính, cùng vô tướng kia tự nói trái nhau, cho nên đem điều không lường tính kia nạn vấn vô tướng kia. “Dựa vào các sư…”: là tổng xem xét phá: Trước là tổng phá. Tiếp, “Nếu nói…” là bỏ chọn, phá Tựa không thành là bỏ, phân biệt thuộc phương tiện là chọn. Đầu tiên phê phán Ấn sư, trước đối với vô tướng kia, huống lập hữu tướng phán định nhập Tam tạng! Tiếp, “Nếu nói vô tướng…” là chính phê phán Ấn sư. Tiếp, “Nếu nói…” là phá chú gia (nhà giải thích). Hai thứ đây đã vậy, còn lại theo lệ có thể biết. Cho nên điều mà các nhà giải thích nói thì không ngoài ba giáo, nên chỉ quyền giáo thông gọi là tha. Tiếp, “Nếu Pháp Hoa luận…”: nay văn giải thích luận. Đã nói Pháp Hoa là tên khác của Vô Lượng Nghóa, cho nên biết: Vô Lượng Nghóa cũng là tên khác của Pháp Hoa, thì trong Tựa lập danh đối với lý không có lỗi, trước nói kinh Vô Lượng Nghóa để làm Tựa của Pháp Hoa xong. Lại dựa theo ý luận, tức là trước nói tên khác của Pháp Hoa, trở lại nhập diệu định Pháp Hoa. Nếu vậy, thì trước đã nói xong, nay cần gì nói lại? Đáp: Trước đã nói kinh rõ ràng thành Tựa, lập lại danh nghóa kia bao gồm Chánh tông cho nên khiến luận dẫn đây là tên khác, danh nghóa cả hai gồm Tựa và Chánh tông cả hai đều được. Tiếp “Đại Phẩm…”: dẫn chứng trong Tựa lập danh không lỗi. Cho nên kinh Đại Phẩm phẩm Tựa nói: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nay đây đã hiện tại vì các Bồ-tát mà nói kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa”. Kinh Kim Quang Minh phẩm Tựa nói: “Kim Quang Minh là vua của các kinh”. Kinh Niết-bàn, phẩm Thuần-đà tự trình bày rằng: “Con nay có trí tuệ nông cạn đâu có thể tư duy nghóa Như Lai Niết-bàn”. Kinh xưa, văn đây vốn thuộc phẩm Tựa, Tạ công sửa lại quyết định mới thêm tên phẩm Thuần-đà, Ai Thán. “Lại nói…”: lập lại dẫn, khác danh đồng danh đều trong tựa xướng. “Nay xét…”: là dựa kinh lập lại giải thích tên Vô Lượng Nghóa, để chứng thành tựa, trước liệt kinh văn để biện rõ ý này. Tiếp “Lại nữa…” là dùng Vô Lượng Nghóa đối Phổ Hiền Quán để phá cựu sư. Văn đầu tiên, trước nêu năng sinh, tiếp “Cái gọi là…”: là nêu sở sinh. “Nay giải thích…”: trong giải thích có Pháp, Thí, Hợp. Đều giải thích Vô tướng trên. Hỏi: Trong kinh cũng dùng Vô tướng để giải thích, thế thì cùng các sư khác đâu có gì sai khác mà phải khổ công phá họ? Đáp: Không đồng các sư khác, vì xưa dùng sở sinh vô lượng làm vô tướng. Kinh thì dùng năng sinh nhất thật làm vô tướng, từ thật sinh các các gọi là vô lượng, vô lượng là tướng, sao gọi là Vô tướng? Cho nên, kinh nói: “Nói vô lượng ấy, là từ một pháp sinh”. Thế nên không đồng với xưa nói sở sinh vô tướng. Chú thích: chỉ nói bao hàm pháp không lường, chỉ đắc sở sinh mất năng sinh. Kinh từ năng sinh đối sở dùng làm đề mục. Các người, Sư đem năng làm sở để giải thích đề mục. Cho nên nói: “Từ thật tướng này sinh vô lượng pháp”, nên nay lại giải thích năng sinh. Cho nên, biết: năng sinh trung đạo thật tướng và thật tướng mà kinh này nói, thì không sai khác. “Hai pháp tức là” trở xuống, là lại giải thích sở sinh vô lượng. Tuy nói nghóa sở sinh bao gồm năng, mà theo nhiều đặt tên sở. “Đốn, nghóa là…”: tức trong bộ đốn có đủ tiệm đốn năng sinh sở sinh, cũng chỉ sở sinh nên nói tất cả pháp trong đốn. “Tiệm, nghóa là…”: tiếp nêu Tam-muội, trong Tam-muội đây cũng có năng sở, căn cứ theo đốn có thể biết… “Tam đạo…”: Trong đây ba, bốn cũng đầy đủ năng sở, Viên Bồ- tát và Phật dùng làm năng sinh, ba Bồ-tát hai Nhị thừa lấy làm sở sinh, cho nên ba, bốn nhiếp pháp cũng khắp, theo lệ như tiệm đốn cũng đầy đủ năng sở, vậy thì lý nhất thực đều từ các giáo lưu xuất, trong kinh Vô Lượng Nghóa thuật ý kia. Cho nên trong tam thừa thì nhị thừa bao hàm bốn, Bồ-tát gồm ba. Nếu tạo ba, bốn nghóa thì thông bốn giáo như trước sở đối, nếu tạo ba, bốn đều là sở sinh thì Bồ-tát và Phật chỉ tại ba giáo, từ giáo phán quyền. Huyền Văn lại dùng bốn đức Phật làm bốn quả, thì Viên Phật là một mà sinh ba quyền. Năng sở tương đối, nên nói bốn đức Phật, vậy thì Bồ-tát danh thông đối nghóa không lỗi. Cho nên đối độc nhất mà sinh kiêm nhất, tư duy có thể thấy. “Các pháp như thế…”: lại kết sở sinh để chỉ bày năng sinh, năng sinh biệt danh của Nghóa Xứ Pháp Hoa, sở sinh vô lượng làm Tựa của Pháp Hoa, cho nên một danh trong Tựa nghóa kiêm hai hướng. Nhưng nên biết từ một để xuất vô lượng, tuy nêu năng xuất mà thông đều thuộc tựa. Nếu vô lượng nhập một thì tuy liên quan sở sinh mà thông đều thuộc Chánh, cho nên nghóa xứ một pháp cũng thành hai hướng, Nghóa-xứ xuất sinh thì thuộc Tựa, Nghóa-xứ thâu hội thì thuộc Chánh, tức từ một nghóa xứ trở xuống hai câu văn là hai ý kia. Cho nên Phật nhập Nghóa-xứ, nghóa kiêm hai cách. “Thí du,ï Tựa như…”: từ một xuất nhiều, Chánh như trừ từ nhiều qui một. Cho nên biết giáo xưa thuyết pháp theo căn cơ làm lợi ích chúng sinh, như dùng tiền mua vật, mà đều chưa biết đại số kia. “Từ một…” là hợp dụ. “Như đây…” là kết năng sở trước để thành hai giải; năng sinh không trái luận, sở sinh không trái kinh, chỉ y hai giải thì lý kinh luận tồn tại. Hiểu giải thích đã vậy, được ý thì sao? Tức sở sinh là năng sinh thì mới là tên khác, nhà năng sinh là sở sinh, đây mới thành Tựa. Nếu chuyên thì năng đâu khác Sinh sư… và một Viên xưa, nếu chuyên luận nghóa sở sinh thì đâu khác các nhà chú thích và ba giáo xưa, vì vậy thãy đều tồn tại như cũ thành hai lỗi. Cho nên, các kinh gia nay năng sở phụ thuộc nhau, hai nghóa đều lập. Nếu chuyên Tựa, thì Pháp Hoa về trước chẳng những chưa luận “hội nhiều qui một”, cũng chưa từng nói “từ một xuất nhiều”, cho nên Vô Lượng Nghóa chỉ có ở Tựa kinh này. “Lại nữa…” là dùng hai văn trước sau đối phá xưa. Đây chẳng phải chánh phá, mà các sư Quang Trạch v.v… nói trong những văn khác: Kinh Pháp Hoa không nêu rõ thường trú, nay nhân nêu Vô Lượng Nghóa Tựa khác, tiện cứu kinh Pháp Hoa Chánh thường. Kinh Vô Lượng Nghóa ở trước Pháp Hoa, kinh Phổ Hiền Quán ở sau Pháp Hoa. Tựa, kết đều thường đúng, đâu có gì khác, vì sao lại nói thần thông diên thọ là vô thường? Cho nên dẫn kệ kinh kia nói: “Như Lai thanh tịnh diệu pháp thân…”, đâu chẳng thường ư? Nói “bách phi”: kệ kia nêu ba mươi bốn phi lấy làm khuôn mẫu, các phi căn cứ theo lệ có thể biết. Đây nêu rõ tánh pháp thân lìa các phi, cho nên tổng nêu bách (một trăm) phi. Nói “tuyệt tứ ly bách” cũng thông sâu cạn, mỗi mỗi so sánh, nay ưng theo kinh Thâm Quán nói bốn Ba-la-mật. Kinh nói: Đức Thích-ca Mâu-ni tên là Tỳ-lô-giá-na, Biến nhất thiết xứ, trú xứ của đức Phật ấy tên Thường Tịch Quang. “Thường Ba-la-mật” sở nhiếp thành xứ, “Ngã Ba-la-mật” sở an lập xứ, “Tịnh Ba-la-mật” diệt hữu tướng xứ, “Lạc Ba-la-mật” bất trú thân tâm tướng xứ. Đã dùng bốn thứ này thành thân thành cõi, vậy trước lý hợp thân thường cõi thường, cho nên Đại sư xét kỹ tổng quát năm thời thảy đều có kết đầy đủ như Huyền Văn. “Các vấn nạn khác…” các ý kiến khác vấn nạn nay, trong Tựa năng sinh đã nêu thường trụ thì Tựa đã là Chánh, Chánh cần gì nói? Nay lại chất vấn rằng: Tựa và Chánh đều thường, về lý thì đâu có lỗi? Lại liệt nêu các người khác lạm dụng dẫn nói: “Ví như trong kinh Tịnh Danh Tựa nói thường, Chánh không nêu thường tức là vô thường, cho nên đem Pháp Hoa theo lệ như kinh kia, lẽ ra kinh Pháp Hoa Tựa thường thì Chánh nên vô thường”. Nơi khác nói kinh Tịnh Danh Tựa thường Chánh vô thường. Là kinh Tịnh Danh ở phẩm Đệ Tử quở trách A-nan rằng: “Thể Kim-cang đang có bệnh tật gì?” cho đến “thân Phật vô vi không số bị chi phối bởi các quy luật”. Người xưa cho rằng phẩm Đệ Tử và phẩm Bồ-tát đều thuộc Tựa. Lại chấp Thông tựa tán thán đức Bồ-tát, tin sâu kiên cố cũng như Kim-cang, nay cũng hỏi ngược lại: Nếu dùng Pháp Hoa sánh với Tịnh Danh, thì cũng nên dùng kinh Niết-bàn theo lệ như kinh Tịnh-danh, thế thì kinh Niết-bàn Tựa thường Chánh vô thường. Cho nên biết chỉ có thể dùng kinh Tịnh-danh chiếu theo lệ kinh Niết-bàn, Tựa Chánh đều thường. Ông tự không hiểu tông thể của Tịnh Danh, nghóa là Chánh vô thường mà làm ước lệ. Nên biết Tịnh Danh thì cũng Tựa thành Chánh đều thường, nên trong phẩm Vấn Tật nêu Đệ nhất nghóa không, Không tức thường, phẩm Bất Nhị Pháp Môn chánh nêu Trung đạo thường, phẩm Bất Tư Nghì nêu dụng của thường, phẩm Quán Chúng Sinh và phẩm Phật Đạo thì dùng Không và Giả để hiển bày Trung, phẩm Hương Tích Phật nói rõ thể của cơm thơm là thường, phẩm Bồ-tát Hạnh trở đi thì chủ ý nêu thường. Cho nên, biết Chánh tông từ đầu đến cuối đều thường. “Nay luận…” là kết nạn vấn. Nếu như vậy, thì các bộ đâu có gì sai biệt? Đáp: Nói Tựa và Chánh đều thường, từ lý cùng cực mà nói, nếu phải biện rõ sai khác năm thời tự phân, đầy đủ như Huyền Văn quyển một nói. Nếu vậy thì Tựa và Chánh có gì sai khác? Đáp: Mỗi phần đều có cái tinh tế riêng của nó. Lại luận trong Tựa kinh đây tuy thường nhưng chưa nêu hội sở, trong Chánh phải do hội sở thì mới thường, ngoài thường ra không có Tựa Chánh khác mà lại biệt. Các kinh khác theo lệ đều có cái tinh tế của kinh đó. <篇> <卷>QUYỂN 3 (Phần Thượng) “Giáo Bồ-tát Pháp” nêu rõ nhân người sở y. Từ đây trở đi vẫn kèm (đới) danh khác để giải thích, nên thêm dùng “xứ”. “Xứ” là một pháp năng sinh, một pháp chỉ là tướng cứu cánh, cho nên nói “đế lý”, đế lý mới cùng Pháp Hoa không sai khác, cho nên Đức Phật Đăng Minh tán thán kinh Pháp Hoa cũng gọi là “Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”. “Cho nên được dẫn…” đều khiến các văn lấy đó làm chứng, chứng ng- hóa xứ. Do đó, tên kinh nơi Tựa chỉ nói Vô Lượng Nghóa thôi! Vì kiêm Chánh nên “Giáo Bồ-tát Pháp” thêm “xứ”. “Thủ… Tam-muội” là đến Thông giải thích khiến hai “Xứ Nghóa” đều cùng có ở Tựa và Chánh. Gia Tường nói: “Đây có hai nghóa: 1.Thật tướng gọi là vô lượng. 2. Thật tướng sở sinh gọi là vô lượng”. Nay nói tên “Vô lượng” có thể gọi là sở sinh, xưng “Thật tướng” nên coi là năng sinh. Tuy lập năng sở mà đều gọi là “Vô lượng” thì chưa thể được, nếu đối pháp khác gọi là năng sinh gọi là thật tướng, đây thì có thể được. Chỉ giải thích ý Tựa như vậy thì đều không đúng. Kinh tự giải thích nói: “Vô lượng nghóa từ một pháp sinh, sinh tức sở sinh một pháp, năng sinh tức thật tướng”. Xưa nay người tài giỏi sao được dùng năng sinh giải thích? Cho nên luận nói: Đây là lúc Như Lai muốn nói pháp đến chỗ thành tựu. Vì nói “muốn nói”, thì chẳng phải tức hoàn toàn giống. Nếu hoàn toàn giống, thì tức là “đã nói”, cho nên luận tồn Tựa, mới nói rằng muốn nói. Ý kiêm nơi Chánh, tức làm tên khác. Luận hai đường kia nay giải thích-căn cứ theo kia, cũng thuận hạ văn Tam-muội làm tán thán. Nếu sở nhập Tam-muội chỉ y sở sinh liệt danh thì nên chỉ nói vô lượng. Cho nên biết tên kinh văn tại sở sinh, ý kiêm năng xuất, thì sở nhập Tam-muội nghóa ắt song hợp. Do đó trước hiểu, luận nói: Muốn nói kinh này thì phải trước nhập định này. Nay từ kinh tiêu biểu biên hạn, lại dùng nghóa xứ tán thán, và dẫn văn chứng hoàn toàn tại kinh này. “Phật hộ niệm”: Quả nhân (người) sở hộ, đã là năng sinh Vô lượng nghóa xứ, lại là Phật sở chứng đắc, lẽ nào Phật sở chứng mà không phải thật tướng? Cho nên dẫn tự trụ mà lấy làm chứng. Xưa chưa nói, nên gọi là “hộ”, căn cứ pháp căn cứ cơ đều “hộ niệm”. Từ “Tuy muốn” trở xuống là nêu rõ ý hộ niệm, bản ý Phật muốn chỉ nói năng sinh, cho nên nói Vô Lượng Nghóa mà thời cơ vẫn chưa phát, ẩn mà không nói, cho nên nói “hộ niệm”. “Cho nên Vô Lượng Nghóa…” nói một hộ niệm cũng thành hai hướng. Chỉ vì kinh kia văn tuy nói “từ một xuất nhiều”, chưa nói “từ nhiều qui một”, cũng là tướng che chở, gọi là “hộ niệm”. Nếu không vậy, thì đã thuyết Pháp Hoa sao gọi là Tựa. Do vì chưa nói, nên nói “tuy muốn khai thị…”. Do chưa nói nên “hộ”, chưa tùy thích nên “niệm”. Nói “ Im lặng lâu “là từ xưa đến nay, tóm lược ý đây tư duy có thể biết. Nếu chỉ từ sở sinh chẳng chuyên Phật hộ niệm, thì tại xưa Thông thuyết không thời nào không như vậy. Cho nên Pháp Hoa luận nói: “Liên hoa” có hai nghóa: 1.Ra khỏi mặt nước. 2. Mở bày. Kia như Hoa ra khỏi mặt nước, đây như Mở bày, do đó vẫn gọi là “liên”, cho nên, “hoa” chỉ có sai khác là chưa nở sẽ nở ra. “Giải thích nhập định”: trước nêu định sở nhập, tiếp nêu thân tâm năng nhập. Trong phần đầu có ba: 1. Kết ý nhập. 2. Từ “Phi thiền…” : giải thích kết ý. 3. Từ “Người nghi…” : giải thích nghi. Kết ý nhập: Lại căn cứ kinh kia và định kia mà tương thành, lý có thể thấy. Tiếp, Giải thích kết ý, lại có hai: Đầu, nêu dụng của định tuệ, xen lẫn có giúp đỡ lẫn nhau đều có lực dụng. Tiếp, nêu tương tức, tức thể của định tuệ. Đầu, “tương thành”: “trước nói, sau định” là từ Tựa mà nói, “trước định, sau nói” thì như phần giải thích nghi bên dưới. Quả vị Đức Phật ắt không có trước sau, vì thuận nghi thức giáo hóa mà hiện có trước sau, xét kỹ mà luận thì thể kia tương tức. Tiếp, lập nghi: Lại y Tựa hỏi: Phàm các nghi thức giáo hóa đều “trước định, sau nói”, trong đây sao lại dùng trước nói sau định? Trong phần đáp, trước thuận ý hỏi, đáp là nghi thức thông thường của Phật, tiếp, trình bày định ý, muốn nêu một định mà nghóa phân hai cách. Tiếp, “Thuyết kinh này….”: thuật làm ý tựa, thời nay, vì sao “trước nói, sau định”? Nghi thức thông thường thì thuyết rồi thì hội chúng đáng lẽ giải tán, cho nên lại nhập định đây để chấn chỉnh hiện chúng, chúng đã không tan được gọi là Tựa nay. Tiếp, “Vì sao…” là thuật làm Chánh ý, do nghóa trong một định bao gồm hai ý. Ý tuy lại có hai: mà chúng lúc ấy chỉ thấy sau khi nói kinh Vô Lượng Nghóa, Phật liền nhập định, không biết sở nhập gọi là định gì! Không biết sau định thì Phật nói pháp gì! Cho nên người kết tập lại phù hợp ý chỉ của Phật thuật lại kinh mà Phật đã thuyết, chỉ nói “Vô Lượng”, thuật sở nhập định tức thêm “Xứ”. Hoặc từ Nghóa Xứ để xuất Vô Lượng, hiển thành ý Tựa. Hoặc thâu Vô Lượng để nhập Nghóa Xứ, mật thành Chánh tông; tuy thêm Nghóa Xứ nhưng chúng cũng chẳng ai biết. Nói “Nếu theo thứ tự…” cũng là thuận với nghi thức giáo hóa mà biện rõ định trước sau, tức dùng không thứ tự mà luận thứ tự, đối với Phật nội chiếu đâu có thể phân biệt giải bày. “Nếu nêu rõ văn…”: nghóa là Như Lai lúc bấy giờ không trước chỉ bày thể định, cho nên khiến Di-lặc siêng năng đặt câu hỏi, chính là kinh gia đối trong Biệt tựa, vả lại che Biệt để theo Thông. Hỏi: Như Đức Phật Đại Thông Trí Thắng sau khi thuyết pháp thì nhập định, gọi là định gì? Đáp: Văn tuy nói chung: “Tónh thất nhập định”, nhưng lẽ nào sau khi nói Diệu Pháp, lại nhập định khác ư?! Hỏi: Đức Phật nay sao không chuẩn theo Đức Đại Thông Trí Thắng, cũng “trước nói, sau định”, vậy thì đều dùng thuyết trước khi khai định, hay vì thuyết sau khi hợp định, làm Tựa? Đáp: Đức Phật kia nhường Vương tử kết duyên, nay đức Phật chỉ La-vân thông hóa, nghóa kết duyên đồng thông hóa đâu có ngăn ngại. Cho nên khiến Phật nay Tựa định kiêm Chánh, liền thành trước định sau nói. Trí định tương thành thì trước sau tại đâu? Nếu vậy thì đức Phật kia trước định lẽ nào không bao gồm hai? Chuẩn theo có nghi niệm thì kia và đây đều như vậy. “Di-lặc…” : “ân cần” là chỉ bốn phục nghi, “lần lửa bền bỉ” là chỉ bốn phục nạn, đều kéo dài đến bốn lần, nên gọi là “ân cần”, chữ “lần lửa” nghóa như bền chắc. Hai quyết định đều được làm Tựa, cho nên nói “nghóa kia chuyển rõ”. “Thân tâm…” là nêu thân tâm sở y: Trước là nêu duyên do bất động, do đắc sở duyên thật tướng khiến thân tâm bất động. Tiếp, “Nói thân…” là giải thích chỗ thân tâm sở y nói trên, cho nên biết thân tâm bất động cũng do Nghóa Xứ, nên nguồn gốc lý tánh đều gọi là “Xứ”, đối thân tâm kia giả lập hai danh xưng. Như Lai thật chứng sắc tâm thể nhất, tức sắc tâm đây là ba đức, muốn nói kinh Bản Hữu Lý Diệu Thường thì trước hết sùng sắc tâm bất động để tiêu biểu. Lại thân cùng tâm đều tiêu biểu chỉ bày Tích, nay dùng Tích tiêu biểu Bản cho nên nói “hư không thường tịch”. Tiếp, “dẫn Phật Đại Thông nhập Pháp Hoa định, chứng thân tâm”, cho nên thể của định đây, danh thì khác mà lý thì đồng, nếu phân sở nhập thì tướng đồng thời khác. Hai câu trên chứng thân hai câu dưới chứng tâm. “Thân nếu…”: lập lại thí dụ thân tâm xứng lý. Không phải thường trụ Pháp thân thì không thể dùng Kim cang để thí dụ; không phải Bản hữu lý định, thì không thể dùng hư không để so sánh. “Vô lượng nghóa…”: kết thân tâm này công qui về Nghóa xứ. “Xứng làm…” là giải thích nghi. Nghi rằng: Định nếu dựa xứ, thì lẽ ra chỉ gọi là “Xứ”, đâu được lại còn gọi là “Vô lượng”? Định này, dưới sẽ giải thích. Nói “Vô lượng”: là Sở chiếu mà được tên. Sở chiếu là gì? Tức là sở sinh, cũng chẳng phải khác thời nên nói: “mà chiếu”. Vô lượng tức xứ tồn tại cũng đâu ngại gì! “Nếu tác…” : lại còn cả tên khác, định thể thân tâm bất động; hoặc đem các tướng đây để tiêu biểu tựa, tức dùng bất động đây… Chánh tiêu biểu sau Tựa sẽ nói nhất thật, nay chỉ bất động không phân biệt thời, như Nghóa xứ. Câu trên giải thích thân, câu dưới giải thích tâm, vậy thì trở lại đối trước định, thân tâm động vận dụng phân biệt như vô lượng, trước khai sau hợp Tựa nghóa rõ ràng. Tiếp, lại hỏi đáp để giải thích nghi: Trước là hỏi, có thể biết. Tiếp là đáp ý: Nếu theo nghi thức thông thường khi thuyết pháp rồi thì chúng liền tan, đâu đủ làm khác thường? Nay nói pháp rồi thì nhập định biết về sau không uổng vậy, sau nếu không uổng phí thì tức trước thể định nên riêng biệt. Cho nên chúng nhóm tập, thuyết pháp, nhập định đều tiêu biểu sẽ nghe, cho nên khiến thời chúng nghiêm túc chờ đợi. Chữ “túc”: có âm đọc là phiên thiết của hai chữ “Tức” và “Lục”, có nghóa là nghiêm túc, chấn chỉnh. Bộ Nhó Nhã nói: Túc túc là cẩn thận cung kính. Cẩn thận cung kính tâm có sở đắc. Hỏi: Cuối kinh kia nói “Thọ trì mà đi”, nay vì sao nói “không tan, có chờ đợi”? Đáp: Đó là lời của người kết tập lưu thông kinh, cung kính vâng thừa tôn nghiêm ý chỉ nghe ắt phải lưu thông cho nên nói “mà đi”. Nay căn cứ kinh này không có văn tập chúng. Nói pháp rồi thì nhập định, khi xuất định liền bảo, bảo chúng tập hợp lúc trước đến nay “không tan”, đâu có gì nghi! Cho nên các kinh Hoa nghiêm v.v… đều trước dùng âm thanh, hào quang để tập chúng. “Tuy nhập, khai định…” nói khai định vẫn là ý của Tựa trước, chưa tận chỉ kia cho nên nói “tuy”. Ý đã tại hợp định thể, lẽ nào trái? Thường định mà còn chưa từng nói “từ một xuất nhiều” huống chi có ai nói “từ nhiều trở về một”, tức khai biểu hợp, cho nên cùng thường có khác. Văn-thù dẫn chuyện xưa, đã nói đều có việc như thế, cho nên biết: một định hai nghóa không nghi, nên nói “lấy gì để chứng minh nay?” “Lẽ nào có thể lấy…”: người xưa không coi thuyết pháp và nhập định là điềm lành, bày bác chung việc đó, chính là kết tập kinh đại quyền sắp xếp, cho nên chẳng phải phàm phu thấp kém lường sánh được. “Giải thích bốn loại hoa”: Trước nêu người xưa và kinh luận nói tên hoa bất định. Lại, Đại Bát-nhã cũng nói: “Thích ý, đại thích ý, nhu nhuyến, đại nhu nhuyến”. Nhưng các giáo không đồng, văn phần nhiều liệt kê bốn thứ. Hoặc Vân công sở cảm, nói như Vân mẫu, đây chính là nhất thời trưng dẫn mà thôi! Trong phần giải thích căn cứ theo sở biểu, bác bỏ ý xưa nói “hẹp mà không hợp”, trong đó trước là bài xích kia hẹp hòi, tiếp là bài xích không hợp. Đầu bài bác hẹp: nay mỗi một giáo có mười sáu chúng, đâu thể so sánh như xưa! Cho nên, trách rằng “thâu mười sáu chúng thuộc Tam tạng giáo mà còn không hết”, chỉ có bốn, huống chi chỉ nói mười sáu, làm sao giáo một thành mười sáu ư? Cho nên phải trải qua giáo phân một thành mười sáu, cũng có thể trách rằng: vì chúng phát khởi mười sáu cho đến kết duyên mười sáu, cho nên nói “huống gì bốn mươi tám”. Nên biết nói “bốn chúng Tỳ-kheo v.v…” tuy bao hàm phát khởi… mà không có lý hiển bày. Nếu nêu “bốn chúng phát khởi v.v… “nhiếp” bốn chúng Tỳ-kheo v.v…”, so sánh Thanh văn Bồ-tát và dùng tạp loại, thì trong loại mỗi mỗi đều đầy đủ chúng phát khởi v.v… Nhân xưa thuật bốn, cho nên phải nói “đối với các Tỳ-kheo v.v…” “Xét hoa…” là giải thích “không hợp”: Hoa đây mật báo hiện được nhân Diệu đang hướng đến quả Diệu. Xưa chỉ nói bốn là tiêu biểu cho Tỳ-kheo… cho nên dẫn đến vấn nạn hiện nay. Mưa là hoa, hoa nên tiêu biểu nhân, bốn chúng đã được, đâu cần lại tiêu biểu? Đây trách người xưa không biết rằng: mưa hoa tiêu biểu diệu nhân hiện có, khác với nhân xưa. Nếu tiêu biểu bốn chúng, chỉ hy vọng quả mới thì đâu cần mưa hoa? Đây là trách người xưa không biết rằng: tán Phật (rải hoa cúng Phật) tiêu biểu diệu quả hiện tại và đương lai, khác với quả xưa. Xưa nay nhân quả thô diệu vónh viễn trái, lẫn lộn đồng nhất xứng nay, xưa không theo. Lại, Sinh công cũng nói: “Biểu thị bốn quả không thật”. Đây chính là dùng văn nói Tam tạng Bồ-tát bài xích Tiểu thừa, thì biết bốn quả không thật. Còn chưa hiểu Thông giáo, thì sao có khả năng, hiển Pháp Hoa? Tiếp, “Nay nói…” : là chánh giải thích. Trước nêu xưa Thiên nhân đối nay Viên nhân. Xưa Viên nhân không riêng biệt cho nên chỉ bài xích tam giáo… “Trong Tam tạng chỉ nói Nhị thừa” là không thể tiếp nối, nên như Huyền Văn nói: “Xưa ba nhân đại mà có khác…”. “Phật nhân”: Chỉ là viên nhân. “Tứ luân nhân”: tức Sơ trụ trở lên. “Đồng, Ngân, Kim, Lưu”: Chỉ quán quyển một nói dẫn đầy đủ trong kinh Anh Lạc. Huyền Văn lại dùng bốn câu phê phán vị. Khai trước hợp sau, như Tam thập tam thiên… Khai sau hợp trước, như Thập tứ Bát-nhã. Đều khai, như Bốn mươi hai chữ. Đều hợp, như trời mưa bốn loại hoa. Tiếp “Văn dưới…”: dẫn các văn của kinh này, đều là nghóa Vị. Ý trong “phần vấn đáp”, là mượn Biệt để hiển Viên. Nói “mượn Biệt”: là Viên chẳng phải không có vị, nhờ nơi thứ lớp cao thấp để hiển bày cái không thứ lớp, bình đẳng. Đây là mượn nghóa để thỉnh hậu học lưu tâm, lấy đây làm tông chỉ. Học giả có khi cũng không phân biệt được rằng trong kinh Anh Lạc, thì “Tứ luân” là nghóa mượn biệt. Nếu luận Viên vị Lục tức, thì cũng đủ, cần gì phải liệt kê bốn mươi hai? Do phân chân vị thì lớn, nên mượn Biệt vị để phân ra phẩm bậc, ví như hư không thì đồng một thể mà bay thì có cao thấp… Cho nên, Chỉ Quán cuối quyển sáu nói: “Có khi mượn cao để thành tựu thấp…”. Huyền Văn còn dùng danh Thông nghóa Viên, huống chi danh Biệt nghóa Viên ư! Tiếp hỏi: Đã nhờ Biệt vị, Biệt có Hiền Thánh, Viên cũng có hay không? Đáp: Chỉ Huyền nghóa tức đầy đủ trong Huyền Văn quyển chín nói. Đều là Hiền Thánh, chỉ cao thấp không đồng. Lại trong Tứ niệm xứ cũng có bốn câu phân biệt. Nếu định phê phán thì trước Trụ thuộc về Hiền. Nếu bốn câu phê phán thì chỉ là nghóa lập, lại xen lẫn được tên. Trụ là Hiền vị, lại cách Thánh xa, cho nên gọi Hiền Thánh. Biệt địa gọi là Thánh, người Hạnh Hướng Viên cách địa đây gần cho nên gọi là Thánh Hiền. Đối với văn nay nói Viên thì Hạnh Hướng là Thánh, lại nhập Địa nữa, cho nên nói Thánh Thánh. Nếu không đối nhau thì tên đương giáo quyết định. Nếu nói trở đi, lại trải qua các giáo để đã phá luận xưa, thì tuy nói một nhân nên biết thể của nhân. Bốn giáo Bồ- tát, đều đối đức Phật kia, đều là một nhân và một nhân khác. Cho nên, Huyền Văn quyển mười nói: “Từ một khai một, từ một trở về một”. Đã không biện rõ khác thì Thông giáo có gì nghi! Cho nên Thông giáo nói: tam nhân đại đồng, vì đồng cho nên nhất, nên nói không ra ngoài Thông giáo. Nếu nói bốn chúng đồng là nhân Bồ-tát, thì từ sơ phát tâm không cùng với Tiểu. Ý Pháp Hoa như trước, đầy đủ như Tứ luân cho đến khai hiển. Trong phần “Giải thích khắp cõi Phật đất chấn động sáu cách”: Đầu tiên bác bỏ ý xưa. Dùng sáu tiêu biểu cho sáu nghóa ấy thì có thể đúng. Nói thẳng Tam thừa chỉ phá Tam tạng, thì nghóa Nhân Quả Tam thừa chưa chu toàn hết. Cho nên dùng Tam thừa theo hai giáo Tạng, Thông và ngang dọc của Biệt để so sánh mới hiển bày Viên trải qua sáu phen phá. Thiệp Pháp sư nói: “Địa thần khiến động”, kiến giải này rất cạn. Căn cứ trong Biệt phá nói theo hai chiều ngang dọc. Lại như Chỉ Quán quyển ba dẫn. “Nay giải thích…” là chánh giải thích. Đầu văn giống như Căn cứ giáo, Kinh Thanh Tịnh Hạnh giống như Nhân Duyên. Trong đầu văn giải thích, nói “bàn bạc”: tức dáng mạo cứng chắc rộng lớn, tức người Thất phương tiện chưa phá đại vô minh. Đến hội này mới phá vô minh, vô minh khó động cũng như đá lớn. Lại, trước chẳng phải không phá bởi vì khó phá, đến nay đều phá, cho nên nói “bàn bạc”. Nếu căn cứ Trường A-hàm thì nhiều duyên đất động cũng có thể làm tiêu biểu. Kinh nói: Có sáu duyên đất động là: Nhập thai, xuất thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn. Tiểu giáo tuy tức không nói sở biểu mà đã là sáu tướng sau trong tám tướng, tức công dụng của địa vị sơ trụ Sơ địa. Cho nên địa vị đây đứng đầu sáu phen. Tứ luân chỉ có nhân nên từ nhân lập danh, lục động bao gồm quả nên từ quả lập danh. Lại, quả tột cùng phân biệt quả đều được gọi quả, nên gọi là quả. Phá xưa đối nay thì đầy đủ bốn giáo. Lại, Diệu giác: Tuy chưa tức nhập, đến tại không lâu, từ đầu đến cuối gồm nêu cho nên nói từ quả. Cuối phần “Giải thích theo Bản tích” nói “vân vân”: là lẽ ra dẫn bản văn, lúc xưa ta vốn hành Bồ-tát đạo, tức bản Tứ luân, ta thành Phật đến nay, xưa sáu phen (chấn động) bổn sơ thật thành, cũng dùng tướng lành đây tiêu biểu sáu phen, cho nên hiển bày trong giáo. Văn-thù dẫn việc xưa của Đức Phật khác đồng với việc nay của Đức Phật ta trong phần Tựa, mật ý Chánh nêu Phật xưa ắt có như nay. Phật nay lẽ nào không có như xưa, xưa đã thành lâu rồi cho nên không phải là lần thứ nhất. Trong “Giải thích theo Quán hạnh”, câu đầu tổng nêu. Tiếp trong phần chánh giải thích, thì đầu tiên căn cứ động làm tiêu biểu, tiếp là căn cứ sáu làm tiêu biểu. Trong văn đầu tiên, nói tuy gồm sáu nhưng chủ yếu nói về “động”, đều tiêu biểu đương phá vô minh, gọi là “động địa khó động” tức năng biểu. “Tịnh căn chưa tịnh” tức sở biểu. Tiếp “Phương Đông dềnh phương Tây chìm” trở xuống, là giải thích “Lục động” theo sáu phương. Đều căn cứ số sáu tiêu biểu. Tiêu biểu tịnh sáu căn, là căn cứ quán giải thích, cho nên đắc thông các vị căn cứ quán hạnh tương tợ phần chân v.v…, đều tịnh sáu căn. Trong đây, đầu tiên giải thích “Lục động” theo sự. “Phía Đông dềnh phía Tây chìm…” đầy đủ như kinh Trung Ấm v.v… Nay xét theo Quán tâm thì nghóa lại phù hợp. Nói tiêu biểu căn: Nhãn, tó đã tiêu biểu hai phương Đông Tây, nhó, thiệt lý đối hai phương Nam Bắc, trung ương là tâm, tứ phương là thân: Thân đủ bốn căn nhãn nhó tỷ thiệt, tâm cũng duyên khắp bốn căn, cho nên dùng tâm đối thân mà làm dềnh chìm (dũng một), nghóa là ở giữa (trung) đối với một bên dềnh lên và một bên chòm xuống. “Dềnh lên, ở giữa, chìm xuống”, có thể tiêu biểu sáu đến mười hai nhập. Lại “Lục động”: Nghóa bao gồm mười tám, trong sáu kia thì ba loại trước là hình, ba loại sau là tiếng, hình thật tiếng hư. Sáu căn cũng tợ ba hình ba tiếng. Giải thích “Lục động” này theo sự, thì tân cựu giải thích không đồng. Tân nói: Động, dũng, chấn, kích, hống, bạo. Nay lại dùng theo Cựu, dao động không an gọi là “động”, tự dưới bay lên cao gọi là “khởi”, dập dềnh lồi lõm gọi là “dũng”, sáu phương ẩn chìm nổi cũng gọi là “dũng”, ngấm ngầm có tiếng gọi là “chấn”, va chạm phát ra âm hưởng gọi là “hống”, khiến chúng sinh giác ngộ gọi là “giác”. Tân dịch: “kích” như đánh đổ, “bạo” như tiếng lửa, Kinh luận lược nêu phần nhiều nói “chấn động”, tức hình tiếng ba thứ đều nêu một. Đại Kinh nói: “Sau khi Thuần-đà rời khỏi, thời gian chưa bao lâu thì đất kia bỗng nhiên có sáu thứ chấn động”. Lại, “mỗi loại chấn động đều có ba bậc” là để tiêu biểu một căn đều có ba thứ căn, thức, cảnh. Đầu văn tiêu biểu sáu cái ở giữa (trung), tiêu biểu tuy xen lẫn mà phá ắt đồng thời. “Tịnh mười tám giới”: là tiếp, biện rõ sở biểu đều phá vô minh. Cho nên, biết: chỉ là thấy ấm, giới, nhập đều thường trú. Trong câu “Tịnh mười tám giới vân vân” thì “vân vân” là lẽ ra thuật đầy đủ sở biểu để thành quán tâm, chỉ lược còn số và thiếu khuyết tâm cảnh biện rõ tướng trạng vi diệu theo thứ lớp và không thứ lớp… Cũng có thể mỗi căn đều tu tam quán như “mười tám loại động”. Trong đây chỉ căn cứ tướng năng động, sở động chỉ là một địa mà thôi! Như căn tuy sáu, mà dùng tâm phá thì hết thảy đều phá. Trong phần “Giải thích Đại chúng tâm vui mừng”: Trước là giải thích theo Nhân duyên: Giáo xưa ở đâu từng không thấy các tướng mưa hoa v.v…, nay vui mừng hớn hở khác thường, lý ưng như “cam lồ sắp giáng xuống”. Lúc ấy chúng tuy không lượng được, ắt biết cơ duyên thành không còn lâu nữa, cơ cảm tương ưng sao nghi không giải thích. Hỏi: Như văn. Đáp: Trong lời đáp thông suốt khác thường. Dẫn Đại kinh để chứng minh như văn. Tiếp, “Nếu nói…”: là căn cứ giáo, tuy nêu đủ bốn giáo đối xưa bốn hỷ không đồng, nay thuần nhất thật hỷ không còn sai biệt. Bốn “nghóa Nhân thiên v.v…” đều nói “động” là vì Quyền làm Thật động. Hỏi: Thật lý không động, nay sao nói động? Đáp: Động tức là phát. Viên cơ đương thành, gọi là “động thật tướng”, dùng bốn động còn lại sẽ hướng đến thật. Văn không có giải thích theo Bản tích, Quán tâm. Nếu giải thích theo Bản tích thì: Bản, trú bất động Tam-muội; Tích, do đất động tiêu biểu phát. Nếu theo Quán tâm giải thích nghóa “động”: thì như trong Hai mươi lăm loại Tam-muội phá tứ thiên vương Không Giả Trung động. Trong phần “Giải thích hào quang”: Đầu văn tổng nêu phóng quang. Trong giải thích, đầu tiên là giải thích “bạch hào”, tiếp là giải thích “phóng quang”. Đầu văn chỉ có hai giải thích. Đầu song nêu hai giải thích, ứng cơ nêu Nhân duyên, thiết lập giáo nêu căn cứ Giáo. “Phá hoặc…” : nêu sự ý, hiện hào quang vốn bày tỏ hai thứ đây, đầy đủ hai thứ mới trừ nghi hoặc. Trong “Bạch hào”, đầu là theo Nhân duyên; “Lại nữa…” là căn cứ giáo. Đầu văn nêu tứ Tất-đàn: Đầu là Thế giới, “Hào quang kia…” là Vị nhân, “Phóng quang…” là Đối trị, “Hào quang chiếu…” là Đệ nhất nghóa, bốn thứ đều tại kinh này. Tiếp căn cứ trong giáo bài xích đầy đủ tam giáo, “Nhị thừa” tức đương hai giáo trước, tuy có Bồ-tát mà đồng kiến nhị đế. “Lại nữa…” là nêu “phóng quang”, có đủ bốn cách giải thích. Trong phần giải thích theo Nhân duyên chia làm ba: Một là phóng quang, hai là thâu, ba là ý thâu phóng. Phần một ứng đủ tứ Tất-đàn, văn tướng không hiển, chỉ có thể thông khiến thấy được bốn lợi ích. Kinh Đại Phẩm nói: Mỗi một tướng đều phóng quang: Dùng thân luân tiêu biểu Bát-nhã khắp. Đại kinh nói: “Phật phóng quang từ diện môn”, Diện môn là khẩu, tiêu biểu Phật khẩu mật thuyết bí tạng. Kinh này xác định “phóng quang từ giữa chặn mày” là tiêu biểu ý tùy cơ duyên đều hiện, đều đầy đủ lợi ích tam mật tứ Tất-đàn. Tuy cả một đời đến nay, Phật dùng “tam luân” để giáo hóa, đương nhiên là có lợi ích thích đáng, nhưng không gì bằng ngôn giáo. Đến khi sắp diệt độ thì Phật phóng quang từ diện môn là tiêu biểu ngôn giáo đây lưu truyền đến đời sau. Đây lại là thông luận phóng quang. Nếu biệt luận thì căn cứ các văn nói, không chiếu vô sắc nghóa đồng tập chúng. Tiếp, “Thâu quang”: Đầu dẫn “kinh A-dục Vương”, phần nhiều là giải thích theo Nhân duyên, trong đây chỉ có một câu nói về “việc hiện tại” là nêu theo ý riêng. Từ “Nhập vào chân” trở đi, đều là kinh văn, đều biểu ký đương giới kia. Do đó các kinh khác thì thọ ký làm Phật đều kiêm các cõi, chỉ có Pháp Hoa này chuyên biểu Phật ký. Nói “đương giới” là nêu các cõi đều có tử đây, sinh kia và quả vị đại tiểu. Dùng hình ảnh thu quang vào các thân phần bên dưới để biểu thị việc của các hạng chúng sinh thấp kém, là thuộc kinh Phương Đẳng, cho nên đối nhiều duyên. “Mà kinh này…”: Phật từ định dậy ắt thâu quang, thâu ắt vào nhục kế. “Lược thôi” : Cho đến khi đức Phật từ định dậy ắt phải thâu quang, vì sở biểu sự đủ để thu liễm tâm của chúng trong pháp hội khiến nhập nhất thật, cho nên phải có “thâu quang”, chỉ là văn lược. “Lại, giải thích…”: là lại giải thích ý thâu quang phóng quang, có thể thấy. Cũng là một đường, chẳng cùng tận. Dùng hiện tại chánh khiến hội tam quy nhất làm chánh, vị lai sẽ đắc làm phụ. “Nếu một trượng sáu…” căn cứ trong giáo: Trước, là chánh giải thích ; tiếp, là nêu hào quang tiêu biểu. Trong phần Quang biểu thì trước là phá cựu, cựu nêu tuy ngang chiếu một vạn tám ngàn cõi đến Ny-tra thiên (trời Hữu đảnh) đều là điềm lành ở cõi này. Nay ý không như vậy. Phóng quang một điềm lành nghóa thông hai cõi. Nói “do người”: Không thể hoàn toàn phá. Tiếp, “Xưa…” là xưa giải thích chỉ căn cứ một phương nêu mãn không mãn (đủ không đủ). “Nếu chiếu…” là phá, đã thuận hứa thật chiếu mười phương thì đâu được riêng dùng phương Đông làm tiêu biểu. Có người nói: “Mi (lông mày)” là chỗ phóng quang. “Mi” là mị (đẹp). Nếu người không có mi thì không đẹp. Cái gọi là “phóng”: 1.Không hạn chế chỉ chiếu đại thiên. 2.Tác ý phát động thì chiếu một vạn tám ngàn, cũng nói tiêu biểu nhất thừa. Đây là vì không biết rằng chư Phật không mưu tính mà làm, cho nên dùng do tác ý phóng quang mà giải thích công dụng của chư Phật. “Nay nêu rõ…” là phần Chánh giải. Tiếp, “Nếu căn cứ…” là giải thích theo Bản tích, nêu “bốn vị tăng trưởng” là bốn phương biểu thị bốn sự tu tập tăng trưởng. Nói “tăng trưởng”: Từ Tín nhập Trụ, cho đến Đẳng giác. Cho nên văn dưới nói: còn lại một đời. Tiếp, trong phần “Giải thích theo Quán tâm”nói “Các cảnh giới như thế” tức mười tám giới đều có trăm giới ngàn như. Uẩn tại mười tám, thì Phật tuệ chưa khai mở, cho nên dùng hào quang chiếu là tiêu biểu “khai”, khai tức Biệt tại Sơ trụ. “Văn nói…” dẫn cơ duyên chúng sinh trong mười cõi đều khai mười tám giới. Nói “phân văn thuộc cõi này…”: Đầu từ “Nhó thời” cuối đến “châu biến”, đều thuộc điềm lành thứ sáu ở cõi này, các cõi khác thì tướng lành thứ nhất chỉ từ dưới lên đến Ni-tra thiên. Văn nay dùng phóng quang này là văn thông gồm kia đây, cho nên văn kia thế mạnh cũng bao hàm dài ngắn. Nếu chấp (đoản) ngắn thì như trước liệt bày, nếu chấp dài thì phải đến cõi Ni-tra, lại đem điềm lành thứ sáu đây mà làm tổng chung các cõi khác. Nếu là tổng các cõi khác cũng có ngắn dài, chuẩn đối nhau nên biết. “Tiếp, nêu…” : chánh nêu sáu điềm lành ở các cõi khác, chia làm hai: Trước lược, sau rộng. Trong phần lược chia làm bốn: 1. Nêu. 2.“Một là thấy…”: là liệt chương, tức đương chánh giải thích. 3.“Đã có…”: là sinh khởi sáu điềm lành. 4. “Nếu đây…” : là đối đây để nêu sở biểu của điềm lành. Tiếp, trong phần liệt chương thì chỉ nói thượng hạ mà không nói cảm ứng, bởi vì nghóa cảm ứng thông ba cặp. Không đồng cõi này hai cặp trước đều tại sở ứng, cho nên cặp thứ ba được gọi là cảm ứng. Lại, cõi kia điềm lành đến trong cặp thứ ba sinh khởi. Nói “hành ban đầu ắt đến cuối” là chỉ xen lẫn nêu mà thôi, nêu Bồ-tát có thủy mà ắt có chung, Như Lai đã chung mà có thủy. Lại, trong cặp Nhân pháp tuy nhân chưa thông Lộc uyển, pháp chỉ đầu của nhũ vị, nhưng pháp ắt có nhân, nhân ắt đối pháp, cho nên lại đối biện. Lại, trong “cặp thượng hạ”, tuy bậc thượng nói pháp để gia-bị cho bậc hạ, mà chúng sinh được gia-bị chưa hiển, tức là tuy chưa hiển mà thủy mạt vẫn như thế, cho nên được đối đó để luận thượng hạ. Huống chi phàm các thủ đối đều là nhất vãng. Vì vậy càng phải cầu thủy chung kia. Trong “cặp đầu” có “lục thú” là rộng giải thích chương môn chẳng phải ý trong đây, cho đến ly hợp lấy làm tứ sinh, ngũ đạo, thất thức trụ… như luận rộng giải thích… Nói “tổng báo”: Điềm lành tuy có sáu nhưng lấy hào quang làm gốc (bản), hào quang tiêu biểu trí giác, hào quang chiếu kia đây. Trước, tiêu biểu hai giác, tiếp, tiêu biểu ba đồng. Trong ba đồng có hai : trước tổng, sau biệt. Trước tổng nêu đạo đồng, tướng đồng tại sao không ngoài ba loại đồng? Vì đây đồng nhưng ẩn chỉ thành hai thôi! Nếu trong sở kiến cũng thấy thọ ký cho Thanh văn. Nói thọ mạng lâu dài thì nếu Như Lai đều không sở tác, thì nghi thức giáo hóa không thành. Tuy nhiên dù thấy thọ ký tiểu trường thọ thì chúng đây cũng nghi, không biết cõi này Thanh văn được hợp thọ ký không? Đã giáo Dũng Xuất, còn Thọ lượng nghóa như thế nào lại chưa biết, cho nên đều ẩn để sinh nghi vấn. Văn- thù rộng đáp thuật đủ ba loại đồng, chúng cơ lược biết tướng sau định, cho nên biết Thông tựa văn thông mà giải thích khế hợp với Biệt lý. Do bốn cách giải thích nên Biệt tựa văn biệt mà nghóa diệu. Do ngũ thời mà việc đáp vừa xong thì định khởi nơi đây, do sự phù hợp nơi đáp, nên biết rằng Văn-thù thấy cùng cực. Từ “tận kiến…” là biệt, tức tam đồng. Tiếp, trong phần Rộng nói, văn đầu trước xuất cõi khác, tiếp “Nên biết…” dẫn kia theo lệ, đây là kết đầu cuối đồng. Tướng xây tháp tuy tiêu biểu hai kinh, tướng Pháp Hoa còn chưa nêu rõ, vì vậy nên chỉ thành đầy đủ đối với đã và đương hai đồng, cõi này ba đồng sẽ vẫn chưa khởi. Nói “hai cõi xuất thế ý đồng”: là đồâng ngũ trược cho nên thí… không sai khác. “Khai quyền” tức là tướng Pháp Hoa, “dứt hóa” tức là trưng cầu Niết-bàn. “Chẳng phải đốn…” Pháp Hoa nhất thừa chẳng phải đốn tiệm nhiếp, nơi một khai xuất mới sinh đốn tiệm, vì vậy nên nay nói “phi đốn mà đốn, phi tiệm mà tiệm”, căn cứ đây có thể biết. “Xây tháp bảy báu”: hai kinh vị đồng, ẩn là chưa nói. Kinh Thập Nhị Nhân Duyên nói: Tám người nên được xây tháp là: Phật, Bồ-tát, Bích- chi-phật, Tứ quả, Luân vương. Tháp Phật thì tám lộ-bàn, tháp của bảy người còn lại thứ lớp giảm một. Cõi đây đã vậy, các cõi khác căn cứ đây thì biết, cho nên đây phải đều là tháp Phật. “Phải biết…” dẫn kia lệ đây, tổng kết văn trước. Nói “từ một xuất vô lượng”: là bắt đầu từ Hoa Nghiêm đến Bát-nhã đến nay đều từ một pháp khai xuất. Đến thời Bát-nhã thì “đốn tiệm đã xong”, mà người không biết Pháp Hoa xuất vượt ngoài đốn tiệm. Thỉnh xem chữ “xong”. Pháp Hoa chỉ là thâu vô lượng để quy một. Trong phần Giải thích “Chủng chủng nhân duyên”: Trong văn, tự có hai giải thích theo Thông và Biệt. Đầu nói thông, thông nơi tiệm đốn khắp bốn thời, trong bốn thời đều có cảm ứng, đối nay thì không có gì chẳng phải là nhân duyên của giáo nay, cho nên biết nhân duyên có nhiều thứ, tự hành hóa tha tự tha tương đối. Văn từ tự hành cho nên nói “thiện xưa giáo nay”. Tiếp, “Biệt thuyết…” là chánh nêu nhân duyên hiện tại, cũng có thể đây ba phen triển chuyển tương sinh, do nhân duyên phát tâm nên tin hiểu, do tin hiểu nên hành hạnh. Nếu Biệt thuyết, thì biệt chỉ tam giáo trong Bát-nhã là “chủng chủng”, cho nên nói sau Tam tạng, vì Bát-nhã bộ là Bồ-tát hạnh. “Lại căn cứ…” :vì tam giáo trong Bát-nhã mỗi một giáo đều có bốn môn và bốn Tất-đàn…, cho nên nói “lại có vô lượng tướng mạo”. Nói “Năm trăm” : là nêu trong “cộng” môn “chủng chủng” (các thứ) rất nhiều. Năm trăm tuy là Tam tạng hữu môn, căn cứ sở chứng đồng, mà lại chứng nơi côïng, đến Bát-nhã đều thành Thông nhân, âm thầm được lợi ích Biệt. Nay lại từ hiển nên được dẫn đồng, vẫn cựu mới thành “chủng chủng” (các thứ). “Bất cọâng” thì dễ biết, chỉ theo lệ mà thôi! “Cộng, bất cộng” danh được rút ra từ Đại luận. Đã nói sau Tam tạng, lý nên thông chỉ Phương-đẳng Bát-nhã. Chỉ nói Bát-nhã: Do Phương-đẳng ba đồng Bát-nhã ba, Tiểu đồng Lộc uyển cho nên không biệt chỉ. Người khác đối với điều này chia làm ba môn: Nhân duyên môn, tín giải môn, tướng mạo môn. Nay ngôn từ tuy như vậy mà nghóa lý không như vậy. Nhân duyên nghóa là cảm ứng sai biệt, Tín giải nghóa là năng cảm bất đồng, “Tướng mạo” nghóa là sau tín là hạnh sai khác. Các thứ bất đồng này đều gọi là “chủng chủng”. Tuy lại khác đường mà không vượt qua hai vị, cảm ứng thì xen lẫn có thưa, có dày nên gọi là nhân duyên “, năng cảm thì trong lòng lãnh thọ nên gọi là “Tín giải”, tu hạnh thì thân khẩu ngoài hiện rõ nên nói “tướng mạo”, ngoại tướng nghi mạo, nên nói “tướng mạo”. Hỏi: Hạnh nhất giải khác tại sao hạnh biệt? Đáp: Thấy ngoài biết bên trong, nên nói là bất đồng. Nói “Kia nêu rõ tướng như thế”: Kia là cõi kia, hiện tướng ở cõi kia cho nên nói tướng như thế. Tuy lại chủng chủng đồng đến Pháp Hoa, không còn các tướng nào khác. Chỉ vì chưa thấy ngồi tòa Pháp Hoa để nhập diệt tiêu biểu điều đó, cho nên chỉ nói “một nhân một duyên…” Nói “Một nhân…” cũng là cõi kia, Pháp Hoa trở về trước được gọi là “chủng chủng”. Đã hội nhập thật đồng một nhân duyên tướng mạo…, đây là tướng cảm ứng v.v… Hỏi: Trong hào quang, sở chiếu đồng thời ngang thấy, sao được nói trước đốn sau tiệm, cho đến hội quy? Lại, trong đó thấy không hoàn toàn đốn chỉ có tiệm… ư? Đáp: Thật như đã hỏi, thời chúng chỉ biết nhân hào quang mà được thấy. Đại thuật tại Thế Tôn, cái trông thấy chẳng phải là cảnh giới kia, nhưng khiến thấy, ý vốn làm chứng đồng. Sở phóng quang làm thành nhất thật. Sự sai khác, lý tuyệt dứt, thì chẳng phải là chỗ hào quang thấm nhuần, xa gần đã đều khiến chúng thấy nghe. Quá khứ vị lai cũng đâu có ngăn cách nơi thấy nghe, cho nên khiến cho mười phương từ đầu đến cuối sáng tỏ như trước mắt, đâu dùng phàm tình mà lường Thánh cảnh, đâu riêng gì hóa chủ Phật lực khiến thấy, đồng nghe trong chúng và để tập kinh, thời có cổ Phật ẩn tích trong đó. Trí sáng soi đương thời, thuật bày ngang dọc đây, thêm khiến cái trông thấy là phàm thánh đồng đẳng, cho nên biết chỉ y văn thứ lớp, ý kinh rõ ràng. Tiếp “Lúc bấy giờ…” là giải thích nghi niệm trong phần Tựa. Đầu tiên, nói “chỉ thành một nghi”: Vốn nghi về sáu điềm lành, tự sức mình không gánh vác nổi mới tư duy đáp, lại tư duy có tôn kính nhờ cậy Văn- thù, Văn-thù khởi tâm suy nghó có địa quyết nghi, cho nên niệm thứ hai ở đây tự mất, đã được có người đâu thì cần suy nghó lại, cho nên niệm thứ ba lúc ấy tự dứt, cho đến khi nghi vấn đầu tiên vẫn còn, cho nên nói “một nghi”. Hỏi: Kinh gọi Văn-thù là Pháp vương tử, vậy thì các Bồ-tát đây vị nào không phải là Pháp vương tử ? Đáp: Có hai nghóa: 1.Trong các vương tử, suy về đức thì chỉ có Văn-thù. 2. Trong các kinh thì Văn-thù đều là vị đứng đầu trong chúng Bồ-tát. Tiếp, trong phần giải thích “Sơ niệm”, đầu tiên là giải thích theo Nhân duyên. Nói “thần biến nội ngoại”: đây nêu biểu khác, nên đây biệt giải thích. Nếu thông giải thích, thì như kinh Đại Bảo Tích nói: “hết thảy các pháp đều gọi là thần biến”, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển một dẫn rõ. “Thần gọi là…” giải thích danh kiêm biện tướng. “Thủ Lăng…” là nêu pháp sở y. “Pháp vương…” là công dụng, cũng là vấn nguyên do. Tiếp, “Đến như…”: tức là căn cứ giáo cũng là lại giải thích công dụng và để vấn nguyên do. Lại, ở đây hỏi nguyên do, tuy do không thể lường thần biến, mà chánh do tự quyết vì để lợi tha cơ phát cho nên ứng phó, nhân duyên hòa hợp mà thiết lập sự hỏi này, khiến biết Di-lặc không hiểu nguyên nhân, cho nên cần phải các vị lần lượt so sánh quyết định. Tán giả, là khổ hạnh ngoại đạo và các phàm phu. Định giả là đắc thiền ngoại đạo và tín giả tập định. Thánh giả, là trong Tam tạng trừ Thân-tử ngoài các Thanh văn. “Đây là căn cứ cực xứ cũng không biết”: Phàm, nói “đến như” là chứng minh ý kia thông, cho nên bên dưới thì mỗi mỗi không biết bên trên. Nếu là cực vị, thì tất cả vị dưới đều không biết. Cho nên Bồ-tát Bổ xứ cho đến vị Tôn cực, ba vị đây, nếu còn giáo đạo ứng thông bốn giáo lần lượt xen lẫn so sánh, thì trong văn lại đúng. Nay tối cùng ở nơi địa vị cực, cho nên Bổ xứ cực không biết Tôn cực. “Lại, Di-lặc…” nghóa đương nơi Bản tích, ẩn Bản trí sáng suốt, Tích thì đồng tối tăm chậm chạp. Nếu giải thích theo Quán tâm, thì: Trí chiếu linh thông, lục tức tùy biến. Đầu văn nhân duyên nghóa đối bốn Tất-đàn, nghóa kia rõ ràng, trong ngoài sai khác cho nên thấy nghe hoan hỷ. Sáu điềm lành bên ngoài ảnh hiện rõ chúng sinh thấy thì sinh thiện. Y lý biến thông điều hòa khắp tất cả, pháp vương lý cùng cực cho nên không quá trên. “Nếu đem kệ dưới”: hiển bày nghi niệm của đại chúng đồng Di- lặc có ba: Các đại chúng cùng thấy sáu điềm lành, từ lúc nhập vị đến nay khắp trải qua nhiều hội, nên từ lâu đã biết Văn-thù thần dụng chẳng ai sánh kịp, cho nên đến khi Di-lặc hưng khởi niệm thì chúng cũng tinh thành, chuyên chú ở Diệu-đức (tức Văn-thù), khiến Di-lặc phát vấn. Trước quán Đại chúng mới tuyên bày điều nghi bền bỉ, xét biết Văn-thù là địa quyết nghi. “Cựu giải” có thể biết. Căn cứ theo ý vấn đáp nay dẫn kệ đã nói: ba niệm không chuyên Di-lặc chỉ ở nơi một việc, mặc cho phát vấn ở trước. Nói vấn đáp: Văn-thù rất có khả năng đâu riêng Di-lặc. Lẽ ra nói căn cơ chúng sinh ở nơi người hỏi và đáp, cho nên dùng bốn cách giải thích mà hiểu văn kia, tức nhân duyên… Vấn đáp đầu tiên là nhân duyên, như Văn-thù xét có khả năng vấn tật bệnh nơi Vô Cấu Thí (Duy-ma-la-đạt), vẫn bị chê trách cho nên nói: “tại vô” (ở không có). “Lại, pháp môn…” là căn cứ giáo, bốn giáo không ra ngoài quyền thật. “Lại Tích…” là Bản tích. “Lại danh…” là Quán tâm. Trong văn đầu giải thích theo Nhân duyên, văn kia tuy hẹp mà nếu nghóa lập cũng đầy đủ tứ Tất-đàn, vấn đáp tùy thuận an vui tức là Thế giới, phó chúng hân hoan là Vị nhân, bao hàm giải thích chúng nghi là Đối trị, lập hạnh bình đẳng là Đệ nhất nghóa. Tiếp “Phát vấn Tựa”: Trong phần đầu trước phân biệt chọn kệ văn có không. Trước “Ý gì …” là hỏi, tiếp “Long Thọ…” là đáp. Luận văn có mười nghóa, nay chỉ lược nêu sáu: Năm nghóa trước tức năm văn đầu. 6. Khiến người đời sau đối với kinh sinh lòng tin. 7. Dễ đoạt ngôn từ chuyển thế thuyết pháp. 8.Chỉ bày nghóa vô tận. 9.Nêu rõ đến người có, mà không có cách nói. 1 0.Như văn nay. Văn thứ sáu ấy là tổng luận tức giải thích theo Nhân duyên. Hai văn đầu là Thế giới. Văn thứ ba, năm là Vị nhân. Văn thứ tư là Đệ nhất nghóa. “Lại vì….” thứ sáu là Đối trị, năng trừ nghi cho đời sau, còn thiếu bốn văn, thứ sáu đồng Vị nhân, thứ bảy đồng Đối trị, thứ tám, chín đồng Đệ nhất nghóa, cho nên lược không luận. Trong Chánh giải thích, thì trước là thuật xưa, tiếp “Quán văn….” là lại tổng tâm không đúng, “Thuyết pháp…” là giải thích xuất hiển bày đúng. Trong đó, trước nêu không thiếu, tiếp nêu không thừa. Văn đầu căn cứ nghóa ở trong hai câu đầu cho nên nói “không thiếu”, trong đó trước là lập, chỉ nêu “phóng quang, động đất” là ngọn, thì biết “thuyết pháp, nhập định” là gốc. Nếu không có định tuệ, thì đâu thể hiện biến ? Tiếp, “Người khác không thấy…” là trách, “Nay trở lại…” là dẫn đáp để hỏi. “Lại hỏi…” là hạch xuất nơi hỏi (vấn), “Nay chỉ…” là đáp. Trước trường hàng chỉ tổng hỏi phóng quang. Nếu chấp chỉ có phóng quang là hỏi, ngoài ra không hỏi, thì ứng với không phải điềm lành, thì mưa hoa động đất còn không thành điềm lành, đâu riêng gì thuyết pháp và nhập định ư? Phóng quang đã là điềm lành cuối cùng ở cõi này, vẫn ở các cõi khác là đầu sáu điềm lành, cho nên tổng nêu một hào quang mà thông thâu sáu điềm lành ở hai cõi. Huống chi “Nếu lại…” là biệt vấn hai chữ “đạo sư” nghóa tự bao gồm điều đó. Tiếp nêu “Không thừa”: “Gió, đất” hai điềm lành đều có sở y. Sở y đúng, điềm lành năng y lẽ nào không đúng? Cho nên, nay nêu “không thừa”, trong đó cũng trước thuật ý không phải. Tiếp trong phần phá, một câu đầu lược bài xích. Tiếp “Gió vốn…” là phá, chia làm hai: Trước, nêu gió có hương còn gọi là điềm lành, huống chi “gió, đất” vốn để hiển bày hoa, tuy mỗi thứ có tên điềm lành mà chung thành đức hoa. Trong Chánh Pháp Hoa chỉ nói thẳng “hương”, không nói “gió”, cho nên biết gió nếu không có hương thì không thành điềm lành. “Luận về hoa trời…” là nêu rõ hương vốn thuộc hoa, hoa hương như mùi gỗ chiên đàn, cho nên nói “gió chiên đàn”. Nếu gió hương không phải điềm lành thì hoa cũng không phải điềm lành. “Đất tịnh” căn cứ đây thì biết. Trong đó chia làm bốn: 1.Tổng nêu có hương… 2.“Đây tiêu biểu…” là giải thích nguyên do xuất, nói “nhân vận chuyển đến quả” là nêu rõ hoa hương vào gió như gió đạo hương đức xông khắp cả. 3.“Kim Quang Minh…” là dẫn chứng. 4. “Cho nên dùng…” là kết thành. Dùng “hai sự” trên quả để hiển công của nhân. Do hoa có hương thơm chẳng phải riêng mình gió. Do gió thơm nên đất kia phải tịnh. Nói “hai sự”: là công đức pháp thân, công đức là nhân, pháp thân là quả. Do đạt đến quả nên thành tựu hai nghóa: 1. Đến quả. 2. Quả tịnh. Do nhân đến quả nên khiến quả tịnh. Tiếp, hai câu là điềm lành đất động. Tiếp một hàng chúng hoan hỷ, tuy không dựa vào thứ lớp trước mà sáu điềm lành đầy đủ. Tiếp “Ba hàng đầu…” nói nghiệm chứng các điềm này. Trong phần trường hàng bên trên thì điềm lành hào quang chính là điềm lành thứ sáu ở cõi này. Theo đây tức nêu sáu điềm lành ở các cõi khác, không ánh sáng nào chiếu tới mà không thấy, cho nên cần phán định làm tổng điềm lành của cõi khác, sợ người không hiểu đến điểm xuất này, cho nên nói “nghiệm đây”. Vì thế, trong kệ nói hào quang điềm lành ở cõi này là: “Đại quang phổ chiếu” (hào quang lớn chiếu khắp). Trước đã nói xong, đến đứng đầu điềm lành ở cõi khác, lập laị nói “Ánh sáng giữa chặn mày” là lập lại văn tổng nói điềm lành. Thiêïp công đều không lập sáu điềm lành ở hai cõi. Chỉ nói đây trong hàng đầu, nửa hàng dịch đúng nửa hàng dịch sai. Lẽ ra phải nói đức Phật ở trong đại chúng nhập Tam-muội, Tam-muội đại sự, mà không nói phóng quang bởi vì văn dưới tự có. Nay cho rằng văn đây tự nó chính là tổng nêu điềm lành cõi khác, cho nên biết tự chưa hiểu ý chỉ của kinh, huống chi người dịch sai! Đã là tổng điềm lành cõi khác, do đó không phân biệt chỉ chép tại bắt đầu trong lục thú. Tức một hàng đầu tụng tổng điềm lành, tiếp tụng riêng điềm lành. Đầu tụng trong lúc thú nói lục sáu là năng thú nhân là bốn thú, và Thiên tuy tức phi nhân mà chỉ chung chủ tể chính là khắp lục thú (sáu đường). Trong đó hai câu đầu lược nêu trên dưới. “Các thế giới…” là nêu đầy đủ y báo chánh báo nhân quả. Đầu, “các thế giới”: là chỉ một vạn tám ngàn, chẳng những thấy hữu tình năng thú mà còn thấy các hữu sở thú, chẳng những thấy quả báo tốt xấu mà còn biết nghiêïp duyên thiện ác, cho nên thấy lục thú chỉ là chỗ chọn căn cơ. “Lại thấy…”: nói “đấng Thánh chúa sư tử…”: “Thánh” tức là chủ “cho nên nói” Thánh chủ. Có người nói: Là chủ trong Thánh, ng- hóa là chủ đối với ngoại đạo, Bích-chi-phật, La-hán, Pháp thân Bồ-tát, các Thánh. Nay gọi là chủ của Hoa Nghiêm, chủ bạn mười phương thế giới, chẳng liên quan đến ngoại đạo nhị thừa, chỉ là chủ trong các bạn Bồ-tát. “Thánh chủ” như “Sư tử” cho nên nói vậy. Sư tử nói đủ như trong Đại kinh Đại luận nói Pháp môn Sư tử. Lại, “sư tử hống”: gọi là “Quyết định thuyết”. Trong các trận mưa giáo trước thì chủ chẳng phải Sư tử hống, thuyết chẳng quyết định, không bàn luận Đệ nhất nghóa chân thật. Tuy nói kiêm Biệt, nhưng tối sơ đầu thuần Đại, cho nên nói Đệ nhất. Các trận mưa giáo trước cũng là tạp phiền não, cho nên chẳng “thanh tịnh”. Phó cơ chưa cùng khắp thì không gọi là “nhu nhuyến”. Đều thuyên giảng Trung đạo, cho nên nói “thâm diệu”. Xứng lý đương cơ, nên gọi là “ưa nghe”. Có chỗ nói: “Trong lòng Như Lai chủng Đại thừa hưng khởi, nên gọi là “thanh tịnh”, không hung bạo nên gọi là “nhu nhuyến”. Đây là lấy báo chất của phàm phu thuộc cõi Dục và cõi Sắc để giải thích Phạm thanh của Phật, thật khổ biết bao! “Đều ở thế giới mình” : 1. Dùng một vạn tám ngàn làm “đều”. 2. Chủ bạn không đồng làm “đều”. Tin biết phải phán là Hoa Nghiêm giáo. Trước thì hai giáo và giữa thì ba vị, đều không có việc này. Hai giáo tám môn gọi là “chủng chủng”. Không có việc nhị thừa, gọi là “Phật pháp”. “Nếu người….” là tụng Tứ đế… Người khác nếu không dùng Hoa Nghiêm để tiêu văn thì “ gặp khổ “ rồi. Nếu trước bắt đầu từ Lộc-uyển thì lẽ nào có câu văn “Đều ở thế giới mình”? Bởi vì trong tiểu thừa không có mười phương Phật. Sau đốn thì tiệm bắt đầu chỉ có Lộc-uyển Tam tạng tam thừa. Sơ thừa Tứ đế cho đến Phật tử ba tướng rõ ràng, vì sao không dùng năm thời để tiêu văn? Trong văn trước nêu hạnh năng chán, chán không khắp nên chưa được gọi là “tận”. Chán cả hai nhân và quả cho đến “nói Niết-bàn”, mới chính là chán tận cùng. Tại văn rõ ràng, khổ gồm nhân quả tức khổ Tập đế, “chán lão bệnh tử” tức Đạo đế, “nói Niết-bàn” tức Diệt đế. Cũng có thể nói : “vì nói” là kiêm Đạo đế, đạo Niết-bàn tức Đạo đế, sở chứng lý diệt tức Diệt đế. Lại, “gặp khổ” là tổng nêu, nhàm “chán lão bệnh tử” là biết Khổ, biết khổ nên đoạn Tập, “vì nói Niết-bàn” là biết Diệt, biết diệt vì tu Đạo. “Nan-đà trì giới”: đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói. “Bích-chi-phật”: chỉ nói nguyên do đắc quả và để “cầu pháp thù thắng”. Nếu theo lệ Thanh văn thì cần phải nêu hành tướng… “Nếu có Phật tử…”: là khai lục độ Đại thừa, “tu chủng chủng hạnh”và “vô thượng tuệ”, các giáo cùng có. Nay bắt đầu hình phàm phu Tiểu thừa cũng được tên “chủng chủng” và “vô thượng”. Không lẫn lộn phàm phu, Tiểu thừa, được gọi chung là “tịnh”. “Chẳng phải Tất cánh tịnh” : lại căn cứ Tam tạng giáo Lục độ mà nói, “như trong dược không có bệnh”, gọi là “tịnh”. Nếu muốn nơi đây biện rõ tứ Tất-đàn thì: Tam thừa hạnh khác là Thế giới, Duyên giác là Vị nhân, Thanh văn là Đối trị, Bồ-tát là Đệ nhất nghóa. Huống chi mỗi mỗi đều đầy đủ tứ Tất- đàn. Tam thừa căn cứ giáo, chuẩn theo lệ có thể biết. Giải thích theo Bản tích Quán tâm thì cũng có thể hiểu. Văn dưới trở xuống các độ tùy văn lược để hiểu. “Lại, Thanh văn…” là căn cứ một đường đương giáo mà nói. Nên biết: Thông giáo Tam thừa, đều dùng giới nội Diệt đế làm sơ môn, Biệt giáo Bồ-tát thì dùng giới ngoại Đạo đế làm sơ môn, người Viên giáo thì dùng lấy giới ngoại Diệt đế làm sơ môn. Trong đây nêu rõ do hào quang mà tạm thấy, không hợp ý rộng cầu pháp tướng, chỉ lược có thể tiêu biểu đồng nơi lý, tức đủ. Nếu luận tu hạnh mới có thể biện rộng, thì dùng ba mươi mốt hàng rưỡi bên dưới để rộng nêu hai vị, cho nên phán định văn đây chỉ có Tam tạng. “Kết trước khai sau”: Trong kết trước, nói thấy nghe và sự, căn cứ giáo tiệm đốn đều nói: “diễn thuyết” và “vì thuyết…”, tức là nghe… “Lại thấy có Phật tử…” tức là thấy, trong phần thấy “chủng chủng” phần nhiều đều là sự. Đại cương lược đủ nên gọi là “dường ấy đó”. Các điểm đồng thì lược cho là “ngàn ức việc”. Nói “khai sau” là tiếp sau mà nói, cho nên nói: “nay sẽ”, và trong văn “ngàn ức việc” đã xếp đặt. Nay nên cả hai buộc, cũng có thể bốn câu trước là kết trước. “Như thế…” : hai câu khai sau, nói lan cúc đây hữu tại. Từ đây xuống ba mươi mốt hàng rưỡi tụng, là phần văn chỉ nói Bồ-tát tu hành. Đã ở sau Lộc uyển lại ở trước Niết-bàn, căn cứ dưới giải thích Bát-nhã bao gồm hai tô, do Pháp Hoa tướng chưa quyết liễu. Từ chấp nhận giải thích đó, tuy căn cứ hai tô mà giáo phần nhiều tại tam, như trước phân biệt. Nên các độ căn cứ giáo trước Biệt Viên, phần nhiều không nói giáo, bao hàm hai ý: 1. Như vậy. 2.Giải thích nghóa. Chuẩn theo bộ thì thông bốn khiến biết như trước mắt, bởi vì trong trường hàng đã nói đủ Phương-đẳng Bát-nhã. Trong phần tổng vấn, kinh nói “hằng sa”, tức là bốn phía ao A-nậu-đạt đều xuất một sông. Cửa khẩu Đông Ngân-ngưu chảy ra sông Căng-già, cửa khẩu Nam Kim-tượng chảy ra sông Tín-độ, cửa khẩu Tây Lưu-ly- mã chảy ra sông Phược-sô, cửa khẩu Phả-chi-ca chảy ra sông Đồ-đa, đều nhiễu quanh ao một vòng rồi chảy vào bốn biển. Trong số đó, sông Căng-già cát nhỏ mà nhiều, người ngoại đạo chấp cho là sông Phước, vào sông đó tắm rửa thì sẽ được diệt tội, đức Phật cũng thuận theo thế tục cho nên thường nói đến. Lại đức Phật thuyết pháp phần nhiều gần con sông này, cho nên lấy làm thí dụ. Dưới đây lục độ chỉ lược chỉ bày đại thể, nếu y hai vị thì nêu đầy đủ tướng kia như trong Chỉ Quán quyển hai và quyển bảy dẫn rõ. Hỏi: Đã nói Phương-đẳng Bát-nhã thì cũng nên có đầy đủ hai giáo Nhị thừa, đâu được hỏi tổng chỉ cầu Phật đạo? Đáp: Thật như đã hỏi, chỉ sợ văn rườm rà, lại đồng Lộc-uyển, cho nên lược không nói. “Xe tứ mã”: Xe bốn ngựa cùng kéo nên gọi là “tứ”.Chữ “Hiệp” có âm đọc là phiên thiết của hai chữ “Hồ” và “Thiếp”, có nghóa là hào phóng. “Văn-thù…”: Kinh dạy: “Qua đến chỗ của Phật”: tiêu biểu không phải qua chỗ khác, cho nên chỉ “chỗ của Phật”. Điều được hỏi là tôn quý cùng cực, nên nói “vô thượng đạo”, cái bị vứt bỏ không nhẹ, nên nói “bỏ nước vui vẻ”, thân tâm đều lìa nên nói “cạo sạch râu tóc” Như vậy hiểu giải thích, thế tục cùng có. Phàm các giải thích nói quý tại giáo tông, hiển lý tinh vi dứt sự rườm ra. “Kinh Ngũ Vương”: Đây là một quyển Tiểu kinh. Kinh nói: “Xưa có năm nước năm vua thân cận không đấu tranh, có một vị đại vương tên là Phổ An tu tập Bồ-tát hạnh, bốn vua còn lại theo tà kiến mãnh liệt. Vua Phổ An thương xót gọi đến trên điện bảy ngày bảy đêm vui thú thọ lạc. Bốn vị vua ấy nói: Việc nước rất nhiều, xin để chúng tôi về nước. Đại vương Phổ An tự tiễn và sai người hầu tiễn, đến giữa đường thì hỏi rằng: Các vị ưa thích điều gì? Một vị nói: Mong được trẻ mãi hằng ngày vui chơi xuân. Một người nói: Mong thường làm vua các thứ nghiêm (trang) sức, nhân dân theo hầu, trên đường mọi người nhìn theo. Một người nói: Mong được vợ con đẹp đẽ đoan chánh vô song. Một người nói: Mong cha mẹ thường còn, có nhiều anh em, thức ăn ngon quý, âm nhạc đầy đủ các thứ cùng nhau vui thú giải trí. Mỗi người đều nói ý mình rồi hỏi lại: Đại vương muốn gì? Đáp: Ta trước nói sở nguyện các ông không thể kéo dài, nếu ưa trẻ mãi vui chơi xuân thì đông đến khô héo, nếu ưa làm vua thì đến khi hết phước sát phạt lẫn nhau, nếu ưa vợ con đẹp… thì một sớm một mai tật bệnh chịu khổ vô lượng. Nếu ưa cha mẹ thường còn thì một sớm hữu sự, bị người bắt lấy. Bốn vị vua lại hỏi: Đại vương mong muốn thế nào? Đáp: Ta mong muốn không sinh không diệt, không khổ không vui, không đói không khát, không lạnh không nóng, còn mất tự tại. Bốn vua lại hỏi: Mong muốn như vậy ở đâu có? Nơi nào có thầy? Đại vương nói: Thầy ta là Phật, ở tại Kỳ Hoàn. Các vua vui mừng liền cùng đến chỗ Phật ngồi một bên bạch Phật và tự trách mình. Đức Phật liền vì các vua mà dạy tám khổ. Các vua và những người theo hầu, trăm ngàn vạn người đều đắc quả Tu-đà-hoàn, bỏ nước tu đạo. Tướng Đại lược đồng. Đã nói “hỏi vô thượng đạo” thì chẳng liên quan đến Tiểu quả, nhưng căn cứ “bỏ nước xuất gia” sự đồng, cho nên nay dẫn. Trong hào quang thấy cũng có tám thứ khổ, lấy làm trợ hạnh, các giáo cùng chung cho nên bỏ nước là sự đồng. Quán hạnh phải phân biệt để phân các giáo. Lại, như Trường A-hàm nói: Có bốn Luân vương, phân nơi một nước mượn người cạo đầu. Đã nói các vua căn cơ đây chẳng phải một. Văn dưới lại thấy cũng thông các căn cơ.  <卷>QUYỂN 3 (Phần Trung) Kinh nói: “Mặc y pháp phục”: như kinh Anh Lạc nói: “Nếu Thiên Long bát bộ đấu tranh, nhớ nghó đến ca-sa thì liền sinh tâm từ bi”, ý muốn cho Tỳ-kheo sao có thể không nhẫn được? Cũng khiến chúng sinh thế tục kinh mộ ưa thích, long được một sợi tơ, sừng trâu một phen chạm đến… Vua kia mến mộ cùng đây đại đồng. Trong đây chỉ hợp nêu ý sở kiến, lấy Tựa nêu Chánh. Các độ, hạnh tướng, công đức và ca-sa… chỉ là nương vào đây để rộng nêu rõ đó thôi! Nhưng chắc cần phải biện rõ hành thể hiển giáo để phân vị sai khác. “Sinh nhẫn…”: Trong văn có hai giải thích: Đầu thông dùng ba câu để giải thích ba nhẫn. Tiếp, mỗi một câu biệt đối ba nhẫn, cần phải phụ văn giải thích nêu nguyên do. Nếu phân ba nhẫn đối bốn giáo thì: Sinh nhẫn, Khổ nhẫn biệt tại sơ giáo, thông làm bốn cảnh, người nào không cần đủ hai thứ này ư! Biệt tại địa tiền. “Cầu Phật đạo”: Trong đây tuy không có mà chỉ nói ước lệ. Văn kế tiếp, tức dùng tụng kinh làm Đệ nhất nghóa. Nếu không cầu Phật, thì nhẫn không liên quan đến tụng, cho nên lấy tụng kinh đồng nghóa cầu Phật đạo. Đệ nhất nghóa nhẫn thông cũng tại ba, biệt chỉ Viên Biệt cho nên khiến ba câu các giáo không đồng, như kinh Biệt Dịch A-hàm. Khi Phật ở Xá-vệ có một Phạm chí đi đến chỗ Phật, dùng các lời lẽ thô ác hủy mắng để xúc não Phật. Đức Phật bảo Phạm Chí: Như ông dùng các món thức ăn dâng lên vua và để lại cho thân tộc, các vị ấy không thọ nhận, thì vật ấy thuộc về ai? Phạm chí nói: Thuộc về tôi. Phật bảo: Đây cũng như vậy, ta không thọ nhận lời nói của ông, chúng lại thuộc về ông. Cho nên, đây không thọ nhận cũng là Sinh nhẫn, cho nên đây riêng thuộc Tam tạng giáo tại A-hàm. Thông ở Thông giáo, về lý không thọ nhận, huống chi thông dụng. Các giáo cộng đó, danh kia đã thông, cần phải giải thích tướng trạng. Tiếp đến, trong phần nói về “Tinh tấn”, thật tướng cũng có thể thông bốn biệt hai. Trong phần nói về “Thiền nói” “cách chung đều có căn bản tu”: là các giáo đều tu. Nếu thông đạt căn bản thì thành xuất thế và xuất thế thượng thượng, đầy đủ như Chỉ Quán Thiền Cảnh nêu, nay văn nói lược chỉ nói “Xuất thế Thượng thượng” và dùng “căn bản”. “Căn bản” tức Tam tạng, “Xuất thế” tức Thông giáo, “Thượng thượng” tức Biệt Viên. Lại bốn giáo đều dùng căn bản làm cảnh, cho nên giải thích hàng trước thông liên quan đến các giáo. Trong hàng trước nói “ly dục”: là theo Thông giáo. “Lại, căn bản…” là hai giáo Tạng Thông bởi vì hai giáo này đều tu căn bản bối xả… Nhưng cần phải biết: quán hạnh vẫn còn là Biệt, để biện rõ hai giáo. Biệt thì lìa Nhị thừa lại theo nạn thuyết, trung đạo ly dục, nghóa trung đạo thông Viên Biệt, theo Viên mà thọ tên. Lại lần nữa giải thích “thâm tu” (tu sâu): Do thâm tu nên ly dục không đồng, tức là trong Căn bản cũng nên truyền truyền làm thâm. Trong đây căn bản cho đến Nhị thừa đầy đủ sáu đến nay cũng đủ ý hai giáo Tạng Thông. Biệt giáo “ngũ thông” như văn. Cũng có thể nhường ở sơ địa trở lên. Viên giáo thì từ đầu đến cuối đều đủ lục thông, chỉ căn cứ lý viên, chẳng có lỗi thiếu sót cho nên nghóa lập lục thông. Nếu theo Thật thuyết, thì Sơ địa, Sơ trụ phần đắc Vô lậu thông. “An thiền…” Trước trong thông giải thích thì thông sâu cạn. Nay Thượng thượng thiền thì biệt tại Biệt Viên. Trong phần giải thích “Bát-nhã hóa tha”, nói “Định tuệ đầy đủ”: là người Biệt giáo làm lợi ích cho chúng sinh, nói theo chiều ngang thì đủ các giáo cho đến Viên giáo. Nay theo Cực thuyết cho nên lần lượt so sánh cho đến Địa, Trụ thì mới đầy đủ. Vì vậy trong văn, đầu từ Sắc định cũng gọi là “đẳng”, đẳng cho nên đầy đủ, hữu lậu mà còn “đẳng” huống chi các thứ khác ư! Bối xả… gọi là “đẳng bất đẳng”, là căn cứ “Vô lậu sự thiền” để phán xét. Đã nói chán bối cho nên phần nhiều thuộc tuệ. Cửu định gọi là định, là từ danh phân biệt, bởi vì vô gián nhập. Thập nhất thiết xứ, thì tám xứ trước thuộc tuệ, hai xứ sau thuộc định. Lại, tám thứ trước tại sắc trong Sắc giới, cũng tự đắc đẳng đã như trước nói. Trước là nhân duyên. “Lại, Nhị thừa…” là căn cứ giáo phê phán, Nhị thừa tức hai giáo trước, Bồ-tát và Phật tức bốn giáo nghóa đầy đủ. “Không quán…” : là căn cứ quán mà phê phán. “Phá ma…”: Bốn đức Phật đều có bốn tướng hàng phục ma, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển tám nói. Nếu đối giáo: Quán Không quán Giả thuộc Biệt giáo, quán Trung thuộc Viên giáo tức đầy đủ hai nghóa giáo quán, cho đến Địa Trụ đều có “phá tám ma mười ma”, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển tám nói. Rốt ráo phá tận, cho nên nói “phá nhất thiết ma”. “Kích phạm…”: Tức Phạm âm chân thật vi diệu là Sở chuyển. Đã hàng phục ma rồi thì nên chuyển pháp luân. Văn theo Thật thuyết, chỉ nói Sơ trụ. Thông luận bốn Đức Phật đều năng chuyển, cho đến chân diệu cũng thông bốn Đức Phật. Tiếp, căn cứ “không thứ lớp” nói “tùy thấy mà hỏi” là: Hỏi: Trước nêu sở kiến, phải chăng không là tùy thấy? Đáp: Đều là tùy thấy, chỉ vì hai cách không đồng. Từ biên không thứ lớp thì tùy thấy, là hơn cả. Nếu một phen thấy như thế, thì đủ trải qua năm thời, đâu ngăn ngại việc thấy theo thứ lớp hay không thứ lớp. “Sau Tam tạng…”: Đây thì hoàn toàn do đức Phật kia nói. Vả lại, như thấy người thấy hạnh thì không ngăn ngại thấy nói. “Xả thiền”: là đệ tứ thiền, cũng có thể theo Biệt Viên thì không nhớ là “xả”, quên thiền kia nên gọi là “xả”. “Bi thiền”: Luận Bà-sa nói: Sơ thiền tu Bi dễ, Nhị thiền tu Hỷ dễ, Tam thiền tu Từ dễ, Tứ thiền tu Xả dễ. Trong đây Bi thiền đã nói hóa tha, đâu riêng gì sơ thiền, cho nên trong luận Bà-sa còn có thông biệt huống chi đại giáo ư. Cho nên mỗi một thiền đều nên nói Từ cho đến Hỷ Xả. “Kinh Hoa nghiêm Tư Ích…”: Hoa Nghiêm đầy đủ có hai. Tư Ích đầy đủ có bốn. Bởi vì Tư Ích đầu quyển hai nói rõ Bồ-tát phóng quang chiếu khắp mười phương A-tăng-kỳ nước, hết thảy phiền não hết thảy tật bệnh gặp hào quang thì an lạc, phiền não bệnh khổ đều nói “hết thảy”, cho đến Phật tự phóng hào quang lục độ, người xúc chạm đến thì đều được lợi ích, cho nên đều đầy đủ bốn. Do sơ địa theo lệ Phật cũng nên không ngăn ngại, nên được dẫn. Thứ nhất nói: Đức Phật bảo Tư Ích Phạm Thiên: Năng giáo chúng sinh nhất thiết trí tâm, đó gọi là Bố thí, không xả Bồ-đề tâm gọi là Trì giới, không thấy tâm tướng sinh diệt gọi là Nhẫn, cầu tâm bất khả đắc gọi là Tiến, trừ thân tâm thô gọi là Thiền, lìa các lý luận gọi là Tuệ, lẽ nào chẳng phải Tam tạng lục độ ư? Thứ hai nói: Ta nói bố thí gọi là Niết-bàn, ngu nghóa là đại phú, bởi vì nhập các pháp thật tướng của các pháp. Trì giới là Niết- bàn, vì không tác không khởi. Nhẫn là Niết-bàn, vì niệm niệm diệt. Tiến là Niết-bàn, vì vô sở thủ. Thiền là Niết-bàn, vì không tham trước. Tuệ là Niết-bàn, vì bất đắc tướng. Lại nói: Bố thí bình đẳng tức Tát-bà- nhã, cho đến Bát-nhã tức Tát-bà-nhã. Lại nói: Bố thí không thí không xam tham, cho đến Bát-nhã không trí không ngu, các thứ đây lẽ nào chẳng phải đều là tướng Thông giáo lục độ ư? Thứ tư nói: Năng thông đạt tất cả pháp không còn cái gì để xả, gọi là Đàn; thông đạt tất cả pháp không còn lậu thất, gọi là Thi, thông đạt tất cả pháp không còn thương tổn, gọi là Nhẫn, thông đạt tất cả pháp bình đẳng, gọi là Thiền, thông đạt tất cả pháp không có tướng sinh khởi, gọi là Tuệ, lẽ nào chẳng phải tướng lục độ theo Biệt Viên ư? Hoa Nghiêm nói đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy dẫn. Lại như Địa Trì lục độ đều có chín, đây đều là tướng nhờ hào quang mà được lợi ích, do Phật dạo danh thông bi thiền không hạn cuộc. Sơ địa, Sơ trụ và thông Thất địa đều đắc nhập, cho nên làm thông giải thích. Bốn tướng đã phân, năm thời có thể biện rõ cho nên không mượn các luận rườm rà khác. “Chưa từng có ngủ nghỉ”: đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói, nhưng kia là phương tiện trong đây chánh tu, cũng là thông bốn giáo. Nếu trong Tiểu thừa thì như Na-luật, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói. Trong đây ở Đại thừa để cầu Phật đạo cho nên dẫn “Bát-chu” lấy làm hành nghi. Bát-chu dịch là Phật vị, đây nêu ra để trừ bỏ “thụy cái”, là đúng nhất bởi vì chín mươi ngày thường hành. Căn cứ theo bộ lại thông, vì thông các giáo. Không thiếu sót cho đến cứu cánh, chỉ mười giới đây danh rút ra từ Đại luận, cũng là thông các giáo, đầy đủ như trong Chỉ Quán và Huyền Văn. Nay “mười giới” trước sau đều là Bồ-tát, cho nên đều “cầu Phật đạo”. “Sinh nhẫn, Pháp nhẫn”: hợp hai nhẫn trước làm Sinh nhẫn, Đệ nhất nghóa làm Pháp nhẫn. Nửa hàng đầu là người năng nhẫn, nửa hàng tiếp là cảnh sở nhẫn, nửa hàng dưới là dùng ý nhẫn. Ý tức kiêm Sinh pháp, cho nên biết Sinh nhẫn danh thông nghóa biệt. Trong Tam tạng thì sinh diệt sự nhẫn làm Sinh nhẫn. Trong Diễn môn, thì Sinh nhẫn Pháp nhẫn vónh viễn khác Tam tạng. “Lực”: A-hàm nói: Lực có sáu thứ: Trẻ con khóc là lực, người nữ sân là lực. Quốc vương kiêu ngạo là lực, La-hán tiến là lực, chư Phật bi là lực, Tỳ-kheo nhẫn là lực. “Lìa các sự…”: Là lìa ngũ cái, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói… Một hàng rưỡi đầu, tụng nêu đối tượng lìa. Tiếp nửa hàng, nêu ý lìa. Do các giáo thiền đều lìa ngũ cái, ý tại Phật đạo. Như trong Kinh Bảo Tích, Ca-diếp nói: Có bốn pháp nhanh chóng chạy xả ly ngoài một trăm do tuần: 1. Lợi dưỡng; 2. Ác hữu; 3. Ác chúng; 4. Đồng trú mà có nhiều sự hý tiếu, hoặc là sân, đấu tranh. Lại nói: Nếu có đánh đập đại thiên thế giới chúng sinh, hoặc có ác tâm não hại người phát Bồ-đề tâm, thì tội lỗi vô cùng. “Quyến thuộc ngu si…”: Đầy đủ như Bát-chu, phải lìa người si, làng xóm… Hướng về trước cũng có phương tiện chánh tu là Biệt “Tứ sự”: ba hàng trước chánh là nêu bốn việc, hàng đầu hai việc là ẩm thực thuốc thang, hàng tiếp y phục, hàng tiếp ngọa cụ phòng xá. Trong các giáo, hoặc lại kiều lương (cầu) nghóa (tỉnh) giếng vườn rừng ao tắm. Nay không có kiều (cầu)… Đồ ăn uống ngon, không biết sự thế nào là tốt lành? Thiêïp Pháp sư đều coi thức ăn lẫn lộn (hào) là thịt, dù có một phần của chữ “hào” là chữ “nhục” nghóa chung là thịt, cần gì đặt các thứ còn lại chuyên dùng thịt, khiến cho người đời sau ít hiểu biết sẽ nghi ngờ. Nên nói thức ăn chẳng phải ngũ cốc, gọi là “hào”, tức là thức ăn để ăn với cơm. Sách Thuyết Văn nói “thiện” là bữa ăn ngon : đầy đủ thức ăn. Chỉ nói từ thịt mà bàn về ăn, sao lại gọi là “ăn thịt”? Hoặc nói: Thịt ấy trước chưa chế (ngăn cấm). Nói thế là lầm. Đại thừa đốn chế tất cả đều đoạn thịt, tại sao luận Lăng-già trước sau chế ? Huống chi đều là trong hào quang thấy đâu phải một vạn tám ngàn cõi đều đồng chưa thiết lập chế đoạn thịt, cũng như đem thịt cúng dường Phật và tăng ư! Nói “y phục…”: Như cõi này ca-sa của Ca-diếp giá mười vạn lượng vàng, trong ánh sáng thấy hoặc đương có đây. Tiếp, “giải thích Bát-nhã” trong hàng thứ ba nói. “Ngôn ngữ đạo đoạn”: là Tâm không chấp trước thì ắt lìa ngôn thuyết. “Ngôn ngữ đạo đoạn” là dứt hết cái “bất khả thuyết mà thuyết” của hàng thứ nhất. “Tâm hành xứ diệt”: là diệt hết cái “bất khả quán mà quán” của hàng thứ hai. Tuy cả hai sạch hết, mà nói mà chiếu, cho nên nói “thuyết bất khả thuyết, quán bất khả quán”. Ngữ này lại thông trong các giáo Diễn (Đại thừa) không chỉ hạn cuộc ở đây. Để hiểu rõ ba hàng này văn có năm điều giải thích: 1.Hiểu trực tiếp kinh văn. 2.Giải thích ba hàng toàn tại Phương-đẳng, mà nói sáu tức là năm tùy Bát-nhã. 3. Giải thích ba hàng toàn đồng Bát-nhã, “luận đàm đầy đủ…” là ý hàng đầu, “tịch diệt…” là ý hàng thứ hai, “thanh tịnh…” là ý hàng thứ ba. Do danh thuận tiện, đồng gọi là “Bát-nhã”. 4. Giải thích dùng ba hàng đủ đối ba vị. 5. Lại đồng Bát-nhã. Hỏi: Nếu vậy thì điều thứ năm đây giải thích cùng điều thứ ba có gì sai khác? Đáp: Điều thứ ba thì trực tiếp dùng “bất thuyết mà thuyết…” cùng Bát-nhã tương đồng, cho nên lại đối. Trong đây nhân trong điều giải thích thứ tư, lấy hàng thứ ba. Đối với Pháp Hoa, tức là do hai chữ “Diệu Tuệ” vẫn nói “thấy người, không thấy tòa”, cho nên trở lại đem hai hàng là đầu và sau quy tụ về một hàng giữa, không quán mà quán chiùnh là đồng Bát-nhã, tức không thấy tòa Pháp Hoa đồng. Đồng là không thấy, cho nên chưa hiểu Pháp Hoa, đều nói hoặc là ý tại nơi đây. Hỏi: Trước phân văn riêng tại Phương-đẳng, nay giải thích đầy đủ đối ba vị ư? Đáp: 1.Phương-đẳng đầy đủ bốn giáo, nhiếp pháp nhiều. 2. Chỉ chưa thấy tòa Pháp Hoa cho nên ở trước Pháp Hoa, từ dung chứa mà nói kiêm Bát-nhã. Nhưng lại các giáo lục độ sai biệt, là đều do Bát-nhã, cho nên luận đủ. Do đó hoặc “nói” hoặc “quán” cho đến “ngôn ngữ đạo đoạn” có trong các giáo cho nên cần phải luận đủ v.v… Huống chỗ thấy khó lường cho nên nêu rõ đến năm phen, thâu nạp dù rộng cũng không ra ngoài các điều này. “Hai ý từ người”, là trong điều thứ tư thứ năm, chính chỉ hàng thứ ba. Trong câu “Kệ tụng đã rộng hiển nghóa hiếm thấy vân vân”, thì “vân vân” là: Như trước lược trình bày, văn trên chỉ nói “chủng chủng nhân duyên tín giải tướng mạo”, mà chưa phân ba vị, bốn giáo riêng biệt. Người giải thích, thì ai biết ba hàng bao hàm hai vị? Lại, các kinh luận thì sáu cùng mười ly hợp không đồng Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy nói. Lại, kinh Anh Lạc nói thập độ mỗi độ đều đủ ba, nghóa thông các ý, cho nên quyển dưới nói: Thí có ba: Tài, pháp, vô úy thí. Thi có ba: Tự tánh, thọ pháp, lợi sinh. Nhẫn có ba: Khổ hạnh, ngoại ác, Đệ nhất nghóa. Tiến có ba: Khởi tâm Đại thệ, phương tiện tiến tới, khuyến hóa chúng sinh. Thiền định có ba: Loạn tưởng bất khởi, sinh các công đức, lợi ích chúng sinh. Tuệ có ba: Chiếu hữu, chiếu vô, chiếu trung. Nguyện có ba: Tự hành, thần thông, ngoại hóa. Phương tiện có ba: Tiến hướng đến quả, khéo hội nhập hữu vô, bất xả bất thọ. Lực có ba: Báo đắc, tu đắc, biến hóa. Trí có ba: Vô tưởng trí, nhất thiết chủng trí, biến hóa trí. “Cúng dườøng xá-lợi Phật”, lược như trường hàng. Tân dịch Tốt- đổ-ba, đây gọi là Cao hiển. Phương phần: Nghóa lập là chỗ an trí thân cốt. Thấy có tướng diệt độ thì biết Đức Phật đã Niết-bàn, tuy thấy nhập Niết-bàn, không biết sở thuyết trước đây, mà chúng bấy giờ không quyết chắc, chưa lường được nguyên do thấy, cho nên không đồng xưa sợ ngăn ngại thọ lượng. Lại nữa, như trước đã thấy hai vị Tô, lý Đại Tiểu đầy đủ nên không nói lập lại, do đó nên hoài nghi. “Chư thiên, long, thần…”: Tháp cất giữ thân giới, cho nên người cúng được phước rất lớn, không giống điện đường là nơi để hình mạo. Cho nên kinh Trường A- hàm nói: Lúc đức Phật sắp Niết-bàn có Phạm ma Tỳ-kheo… đứng trước Phật cầm quạt quạt. Phật dạy: Các vị lui đi chớ đứng trước ta. A-nan suy nghó: Các Tỳ-kheo này thường hầu hạ cung cấp các thứ cần dùng cho đức Phật không nhàn chán, nay cuối đời cần phải có họ cung cấp, sai khiến sao lại bảo lui ra do nhân duyên gì? Phật biết ý bảo A-nan: Nay trong thành Câu-thi-la mười hai do tuần có thiên thần Trắc Tắc cơ hiềm Tỳ-kheo này đang đứng trước Phật rằng : “Nay cuối đời Đức Phật, chư thiên thần… đều muốn cúng dường, mà do Tỳ-kheo này có đại uy đức hào quang sáng chiếu khiến ta không đến gần gũi kính lễ được”. Do đó nên Phật dạy lui ra. A-nan bạch Phật: Do nhân duyên gì mà có thân hào quang ấy? Phật dạy: Vào thời đức Phật Tỳ Bà Thi, vị ấy đem tâm hoan hỷ cầm bó đuốc sáng chiếu vào tháp đức Phật kia, khiến nay được thân thể sáng chói như vậy. Trên đến tầng trời thứ hai mươi tám, thân sáng không sánh bằng. Lửa chiếu đã vậy, các thứ khác thì căn cứ đây có thể biết. Cho nên, biết: Xá lợi ở nơi đâu thì công nơi ấy không nhẹ, khinh mạn sinh tội, tội chẳng gì lớn bằng. Như đây theo lệ kinh văn rất nhiều đâu có thể nêu hết, và chẳng phải ý chánh. Kinh nói: “Thiên thọ vương” tức cây Ba-lợi-chất-đa-la ở Đao-lợi thiên, đầy đủ như Thích Tiêm dẫn văn Đại kinh. Kết ý văn: Chính là cúng Xá lợi, phụ là trang nghiêm các cõi nước. Nếu chỉ trang nghiêm cõi nước thì đâu cần xây tháp! “Bạch hào là gốc”: Đây là căn cứ đạo lý, bạch hào tiêu biểu trung đạo nguồn gốc của các pháp, không hẳn ban đầu, và do hào quang mà thấy cho nên coi đó là gốc. Như điềm lành ở các cõi khác, thấy lục thú đứng đầu, lẽ nào đó là gốc điềm lành, do đó các cõi khác coi Phật là gốc. Nếu luận tổng biệt vẫn đồng nhân hào quang. Nói “Phật là gốc”: Hạ phàm y Phật, người và pháp của Phật do Đức Phật từ đầu đến cuối, đầu ắt trở về cuối. Hỏi: Các cõi khác sáu điềm lành lẽ nào có thể do ánh sáng? Cõi này chỉ nói Phật phóng một luồng hào quang, thấy cõi nước đây đâu từng liên quan đến năm điềm ư? Đáp: Do hào quang mà thấy tất cả đều diệu, phải biết hào quang là gốc của sự thù diệu, huống chi các điềm lành đều lấy trung đạo làm gốc, hào quang tức trung đạo. Các cõi khác sáu điềm lành đều ở trong do hào quang cũng vậy. Hàng tiếp: hai câu đầu tán thán gốc của hào quang, trong đó một câu đầu và hai chữ “trí tuệ” nêu gốc của hào quang, gốc (bản) tức “thần lực trí tuệ”. Nói “chư Phật”: Là nêu nhiều để hiển bày một, chiùnh là chỉ đức Thích-ca. Tiếp hai chữ “hi hữu” là chánh tán thán, trước đó không như vậy cho nên nói “hi hữu”. Do hai việc nên hào quang mới “tịnh”. Hai câu dưới tán thán thể dụng của hào quang, câu đầu tán thán thể của hào quang, câu tiếp tán thán dụng, chiếu soi cõi nước. Quá một vạn tám ngàn cõi mới gọi là “vô lượng”, cho nên trước lập số. Lại, từ đó tiêu biểu so sánh chiếu các phương cũng lại như vậy, cho nên nói “vô lượng”. Trong hàng thứ ba thì hai câu đầu là lập lại nêu sở chiếu mà tán thán quá thường, tiếp hai câu nêu thấy xưng hiệu, dùng thỉnh đáp. Nói “thấy việc này”: là thấy điềm lành của hai cõi, cùng một mà giáo hóa khác cho nên nói “chưa từng”. Đã sai khác, phàm dua nịnh thì “chưa từng” không hư dối. “Xin các Phật tử…”: nghi việc không phải nhẹ, cho nên lập lại khải thỉnh, chẳng chuyên vì mình cho nên nói “chúng”. Nói “cấu nạn”: “Cấu” là đặt điều, là nhiều, là đến bốn lần cho nên nói lũy (nhiều)… Di-lặc mỗi mỗi thiết lập câu hỏi, Văn-thù đều đặt điều kháng cự. Đây có ba ý: 1.Việc lớn ý xa. 2.Dẫn hai chúng Phát khởi và Ảnh hưởng ủng hộ. 3. Dẫn hai chúng Đương cơ và Kết duyên ủng hộ. Tuy đầu và thứ hai mà chung thành thứ ba, cho nên ba ý Di-lặc đều dựa vào cơ duyên. Vì vậy nói: Sợ chướng ngại nghe pháp căn cơ ở nhân giả và do toàn chúng, cho nên dựa vào chúng mà lật lại ba ý kia. Thỉnh ắt đáp, lần lửa cũng là bền bỉ. Bộ Quảng Nhã nói: Cương Viên. “Hủy”: Tê giác: Tợ như trâu, chỉ một sừng, tợ trâu mà chẳng phải trâu nên nói “nghi hủy”. Nay trong lòng lo lắng không quyết định, cho nên gọi là “ưu hủy”. Chữ “hạp” có âm đọc là phiên thiết của hai chữ “hồ” và “lạp”, có nghóa là “bế” (đóng). Hán Thư nói: Hạp chúng không thiếu một người, “hạp” là “tận” (toàn). Nên biết nay trong hội toàn chúng đều nghi. Trong phản đối đầu tiên, nói “Chúng chưa từng nghi”, là lại y cứ không phát ra lời để chất vấn Di-lặc. Tiếp, đợi Đức Phật từ định ra, tức là nếu Đức Phật ra khỏi định thì nghi kia tự giải quyết. Nói “thời đáp”, là lời thúc giục khiến cho kia liền đáp. Lưu sư có đệ tử hành sâu, từ chi đạo mại sơn, chia đáp vấn làm bốn: 1.Khai chương. 2.Sinh khởi. 3.“Tư duy….”: nguyên do. 4.Rộng giải thích. Trong phần sinh khởi, nói “võng tượng” cũng có thể nói phỏng tượng (hình giống như) chưa xét kỹ trạng mạo. Hai chữ “phảng phất”, xưa gọi là “phỏng Phật”, trên mở qua lại, vật phương dưới phản lại, trên tương tự, dưới không xét kỹ. Nếu căn cứ nghóa đây thì chữ “thượng” (trên) chánh sẽ tư duy đáp, tư duy đáp điềm lành cõi này cõi trên, là ý nói năm câu. Đã đối sáu điềm lành tức là dùng năm tư duy lược sáu điềm lành đây. Đã từng nói “phóng hào quang rồi thì thuyết đại pháp”, các cõi khác sáu điềm lành lấy hào quang làm tổng, nhân hào quang mà trước thấy Thánh chúa diễn thuyết cho nên biết là đáp câu hỏi các cõi khác. Từng thuật đầy đủ chứng minh sáu điềm lành Phật Đăng Minh và hào quang chiếu. Như nay đã thấy, cho đến xuất định nói kinh, tức là trả lời cả hai câu hỏi về hai cõi. Cả hai câu hỏi ý hỏi sau định, cho nên nói đáp cả hai. “Duy thổn (tư duy)…”: đương nhân duyên giải thích. “Nhưng Văn- thù…” là giải thích theo Bản tích. Căn cứ chưa rộng thuật, giống đồng như chưa biết. Đã nói “xưa nay”, “xưa” tức rộng, chỉ vì từng chưa rõ. Nói “trước chỉ bày tư duy”, cho nên trước năm câu thì đáp Tựa sáu nghi, trong phần phá xưa trước trình bày tiếp. “Nay nêu rõ…” là phá. Trước là phá chấp, nói: “pháp thuyết kia không dùng” tức vẫn còn thí dụ; “không dùng pháp” bởi vì Bản môn thì rất sớm. Hỏi: Đến đây còn phá “thái tảo (rất sớm)”, thì làm sao giải thích Thông tựa theo Bản tích ư? Đáp: Thông tựa thì thông Bản Tích, Biệt tựa chỉ tại Tích môn, cho nên giải thích Thông tựa. Rộng dụng Bản môn chẳng phải là rộng khai Thọ lượng trong Thông tựa, cho đến Biệt tựa tuy có nói Bản tích, hoặc thời lại dùng thể dụng Bản tích. Hỏi: Nếu như vậy, thì: Thí vốn là thuyết pháp bằng cách nêu Thí dụ, mà đã không dùng Pháp, sao lại dùng Thí? Đáp: Chỉ duyên Quang Trạch thì Pháp và Thí tách rời nhau. Pháp thì Bản Tích đều luận đàm. Thí chỉ Tích môn hiển thuật. Bỏ Pháp còn Thí bởi có nguyên do. Hoặc nếu hoàn toàn chọn thì vẫn cần trách rằng: Thí vốn là thuyết pháp bằng cách nêu Thí dụ, vì sao ba thí chỉ có một thí được thọ ký? Cải đổi Tiểu thừa và phá lậu hoặc, hai pháp, mới dùng Bản tích song luận, dùng Thí trừ Pháp bởi do đây vậy. Nhưng luận có tám câu: 1. Muốn nói đại pháp. 2. Muốn mưa đại pháp vũ. 3.Muốn đánh trống đại pháp. 4.Muốn dựng cờ đại pháp tràng. 5. Muốn đốt đuốc đại pháp. 6. Muốn thổi đại pháp loa. 7. Muốn không đoạn trống đại pháp. 8. Muốn diễn đại pháp nghóa. Nay chỉ y năm câu, dùng câu đầu làm tổng, bốn câu dưới làm biệt. Các nơi khác dùng tám câu bốn đối giải thích mà nói: 1. Phá ác tiến thiện đối. 2.Khai quyền hiển thật đối. 3. Đắc trí chứng chân đối. Thuyết pháp lợi sinh đối. Vẫn nói dùng để giải thích nguyên do thì chỉ có năm câu thành hai đối rưỡi: Có phá ác sinh thiện thuyết pháp lợi sinh, khai quyền một câu, các câu còn lại thì thiếu, vẫn không có thứ lớp, người đọc nên biết. Nay nói luận văn tám câu để giải thích năm câu kinh thì biết : “không đoạn trống, đốt đuốc dựng cờ” là giải thích “trống pháp”. “Không đoạn” là nêu thể tướng của cổ (trống), “dựng cờ” là trống pháp tiêu biểu cờ, “đốt đuốc” là trống pháp phá sự tối tăm, dùng dụ giải thích dụ đạo lý. Như vậy, dựa vào năm câu để giải thích tổng biệt, thì Thông tựa đứng đầu bỗng thuận theo, biệt do nhờ sai khác không liên quan đến viễn bản. Văn-thù đáp Tích mà vẫn tự tư duy kỹ lược rộng rồi mới quyết định chính là đáp ý chỉ câu hỏi, sao được thuận theo như vậy để chỉ bày viễn bản? Nếu giải thích năm câu là để hiển Bản, thì “lược tằng, quảng tằng” đều phải biết viễn. Trong hào quang ngang thấy nên phát cận tích, trong hào quang ngang thấy còn ẩn đương đồng. Chỉ dùng xây tháp để mật tiêu biểu nhập thật, đâu được đối đây liền thấy viễn thành và cho là tháp vọt hiện đều là phân thân ư! Tư duy vì chưa liên quan đến viễn Bản, cho nên lược rộng chỉ luận bàn về cận Tích. “Giải thích sau đã hư dối…” : tức giải thích hiển viễn đã dối, giải thích khai ba cũng lầm, khai ba chỉ nên như nay tổng biệt, không cần để đối hai văn rộng lược. Nếu không như vậy thì uổng xưng quyền thật. Trong Chánh giải thích chia làm ba : 1.Thuật thẳng đại ý. 2.Chánh giải thích. 3. “Ngang dọc…” là kết ý. Trong Chánh giải thích: Trước, là giải thích, tiếp, là kết tư duy. Văn trước lại có hai: Trước đối năm điềm lành, tiếp biệt giải thích. Đại thánh suy lường không thể không từng trải lo lắng. Đây ban đầu tư duy chính là làm nền tảng cho lược rộng hai đáp, cho nên Di-lặc tư duy điềm lành để thiết lập nghi, Văn-thù dựa vào nghi để cân nhắc việc này cho nên nội tư duy sáu điềm lành chánh hiện ở trước đức Phật xưa, suy lường Phật nay hiện sáu điềm lành và ba chu về sau, cho nên lược rộng thời phương hiển nội tư duy. Đây là cốt tủy của một kinh. Trong phần đầu có ba: 1. Đối năm điềm lành. 2. “Muốn nói…”: mỗi mỗi giải thích đều khiến tiêu biểu chánh. 3. “Như vậy…”: kết chỉ bày hữu vô. Chỉ vì giải thích dùng điềm lành tiêu biểu việc “sẽ” xảy ra, cho nên luận tám câu đều nói “muốn”. Câu đầu đáp “điềm lành thuyết pháp”, là nêu xưa nói kinh Vô Lượng Nghóa, tiêu biểu muốn Tích môn nhập Thật. Hai thời Vô Lượng Nghóa nghóa đã không sai khác, thì nghiệm biết ngày nay sau khi (Phật) xuất sinh thu nhập tại sao nghi? Đại pháp lẽ nào vượt qua đây? Câu tiếp, đáp “điềm lành mưa hoa”: Tư duy xưa mưa hoa là tiêu biểu sẽ nói Viên nhân bốn vị, cho nên bốn hoa mà không phải quả. Tư duy nay hoa trời mà có bốn mưa rõ ràng thời hội một nhân, một nhân ắt có bốn vị làm thềm thang. Bốn loại mưa hoa dùng nghóa “thiên (trời)” làm năng biểu. Câu thứ ba đáp “điềm lành chúng hoan hỷ”: Tư duy nay đồng xưa chúng thấy điềm lành vui mừng, ngầm tiêu biểu ắt hành, hành dựa vào lý giáo, cho nên tâm vui mừng trong động Viên, chướng ngầm hoại. Cải đổi quyền nhân xưa thành chúng vi diệu nay, nhân (người) ắt thọ lãnh giáo, hành, lý đều như vậy. Câu thứ tư đáp “điềm lành động đất”: Tư duy nay đồng xưa thấy động đất là tiêu biểu sẽ sáu phen phá vô minh cho nên khắp thế giới Phật chấn động sáu cách. Động tuy hình tiếng hai thứ sai biệt, lại dùng “đại cổ” tư duy, cho nên biết răn dạy binh lính quyết phá giặc lớn ở biên cương. Đất động thì trừ bỏ vô minh của lý Trung đạo, cho nên Nhị thừa xưa nay đều không có lý này. Lợi sâu xa trong Tựa mà thời chúng chưa biết. Câu thứ năm đáp “điềm lành phóng quang”: Tư duy nay đồng xưa, thấy phóng quang là tiêu biểu khai hiển đạo đồng, cho nên dùng một luồng hào quang chiếu đều khắp kia đây. Đây tiêu biểu Thích-ca, kia tiêu biểu bốn đức Phật, cho nên biết Tích môn không được đồng Bản. Hỏi: “Đại pháp và Pháp nghóa”, hai câu có gì sai khác? Đáp: “Đại pháp” tiêu biểu cõi này khai hiển, “Pháp nghóa” tiêu biểu kia đây đạo đồng. Đây chiếu nơi kia, kia đồng với đây, cho nên nói “diễn”, và một đời không tin đáp vấn có tồn tại. Trong câu “Ý thì lại bao gồm đầy đủ, chẳng phiền nghi ngờ”, thì “bao gồm đầy đủ”: là nghiệm biết bốn điềm lành tại định, định thì không thể không có. “Thiếu một điều này, cho nên gọi là lược đáp” : Lược là rất tóm lược, một phen lược tợ như lược ở phần tư duy, nghóa thì không như vậy. Bởi vì trong phần “lược tằng” đã có lời của Phật quá khứ, chỉ là đối với rộng thì gọi là “lược”, chẳng đối với tư duy. Vì vậy cho nên tư duy chỉ suy lường quá khứ, hiện tại, không có nói “từng thấy”, cho nên lại “lược”. Đây lược nói có hai ý kia: 1. Nói lược, là vì không từng thấy, 2.Thiếu là lược, vì thiếu nhập định. Tiếp trong “Biệt giải thích”, lại có tổng và biệt. Tổng: vì bốn câu dưới đều là đại pháp, cho nên biết bốn câu dưới làm thành câu đầu. Nói Biệt: tức dùng mưa v.v… để phân biệt đại pháp kia, khiến nhập Trụ v.v… Vì đối bốn vị, nên gọi là biệt. Tức dùng ba thí dụ của ngài Quang Trạch, mà theo pháp này cho nên giải thích năm câu đều nương dụ theo pháp. Trước, dùng điềm lành hoa nêu ngang biệt để hiển bày dọc tổng. Do nghóa trong câu đầu bao hàm bốn vị, cho nên tiếp là dùng mưa… để lìa tổng trước mà xuất bốn câu. Căn cứ bốn câu dưới này, đương vị tự đầy đủ từ đầu đến cuối, trong văn lại theo đối dọc để thuyết, cho nên dùng mưa hoa để tiêu biểu bốn vị. Như “thổi pháp loa”, Thông thì tiêu biểu cải đổi bốn vị, mà Biệt thì tại Thập hạnh. “Đánh trống pháp”, Thông thì tiêu biểu bốn phen phá lậu hoặc, mà Biệt thì tại Thập hướng. Diễn thuyết đã thông nói ngang rộng dọc sâu. Dọc sâu tức như mỗi một vị dọc nhập, biến thông các vị, mà biệt tại Thập địa. Cho nên bắt đầu từ “mưa đại pháp vũ” cho đến “pháp nghóa”, nhất nhất khắp Tích môn rộng nói. Chỉ vì đối với chúng sinh đắc ích không đồng, phải từ dọc giải thích, buộc ngang theo dọc. Cho nên nhập Trụ thì tạm gọi là “pháp vũ”, cho đến nhập Địa thì tạm gọi là “pháp nghóa”. Vì vậy cho nên Tích môn gọi chung là “mưa đại pháp vũ” cho đến “pháp nghóa”. Nên dưới rộng giải thích mỗi một câu đều nói “vì muốn cho chúng sinh”. Sở nhập lại có siêu vượt thứ lớp không đồng, nay tạm theo thứ lớp đều nói “nay cùng xưa đồng”. Như ban đầu nêu “mưa đại pháp vũ” chỉ tiêu biểu “nhập Trụ” tức không nói “xưa nay”. Từ Tín nhập Trụ nơi nào luận sửa đổi ? Chẳng những không sửa đổi Tín mà còn chẳng đổi địa vị chân thật, không được cải đổi danh, cho nên ban đầu nhập Trụ không cần nói cải đổi. Vì thế, biết Nhị thừa độn căn, Bồ-tát xưa trước Pháp Hoa chưa phá vô minh, nay ban đầu nhập Trụ chỉ được gọi là “Khai”, cho nên “lược khai”. Lợi căn lợi ích sâu tại câu thứ hai, cho nên câu thứ hai chấp nhận có thời xưa lợi, độn Bồ-tát và người Nhị thừa. Trước mật nhập Trụ và nay tại kinh này bắt đầu nhập Trụ, đều tiến nhập Hạnh, đều gọi là cải đổi hiệu. Hoặc hiển hoặc mật, đến nay không đồng. Câu thứ ba và câu thứ tư đều chuẩn theo câu thứ hai, cho nên biết cải danh cũng thông ở sau. “Dạy bảo binh lính” cũng như vậy. Chứng vị tuy như vậy, cũng có xưa nay, nghe kinh có lợi ích mỏng nhập phẩm nhập tín. Lược thì như trước nêu hai chúng Đương cơ và Kết duyên, đầy đủ thì như trong Huyền Văn nói lợi ích diệu thuyết. Cho nên, biết như vậy trước cũng có nghóa Thông Khai… bốn danh. “Ngang rộng dọc sâu”, là ba câu trước chẳng phải không sâu rộng, nay đến Địa vị tối đắc danh kia. Tiếp, “Suy nghó xưa…” : là tổng kết. “Ngang dọc giải thích suy nghó xong”: Nếu tổng biệt đối nhau, thì lấy tổng làm ngang, lấy biệt làm dọc. Nếu biệt thích, thì câu đầu song hiển ngang dọc hai giải thích, ba câu dưới văn chiùnh là nêu dọc, vị vị kiêm ngang. Thiêïp Pháp sư nói: Luận giải thích văn đây lược không có công dụng nương tựa, khó có thể nương đủ, cho nên văn nay cũng không hoàn toàn xử dụng. “Thiện nam tử”: Thiêïp Pháp Sư nói: Lìa năm hạng người bất nam, trong Pháp Hoa chúng chỉ lìa bất nam, vừa mới kham thọ Thanh văn vô tác trong một duyên có ít phần mà thôi! Nay nói danh này Đại tiểu thông chung. Đến nay nên nói khai bảy phương tiện làm thiện, kham nghe độc diệu gọi là “nam”. “Nam tử” tức là trượng phu, đầy đủ như trong Đại kinh. Đại kinh vẫn bao hàm Phật tánh của Tam giáo, đầy đủ như Huyền Văn dẫn nói: Người Tu-đà-hoàn Phật tánh như (nhũ) sữa tịnh… lẽ nào trong Tiểu giáo có Phật tánh? Cho nên biết Đại kinh, sau Pháp Hoa, khai phương tiện giáo, khắp lập danh Phật tánh. Danh thông mà nghóa biệt, nên “nam tử” thì danh thông tại năm thời, nghóa thì biệt tại các giáo. Tiếp, giải thích “lược tằng” đầu tiên nói “tiểu phân minh”: lại tạm theo ngôn thuyết thứ lớp dần mà nói, ý thì không như vậy. Lúc trước nói “duy thổn” (suy xét), lại tư duy rộng lược, cho nên biết “lược tằng” lại thuật tư duy. Trong đáp chỉ lược nêu điềm lành hào quang, hào quang chiếu phương khác nghóa đương nhiên là nơi các cõi khác. Nói chung, thì đều đáp cõi này, huống chi văn nói các cõi khác văn vốn làm thành đây, cho nên biết “suy nghó” thì là đây, “lược tằng” thì là kia. Sở dó “phân kia đây” là vì trong “suy nghó” có nói Đức Phật nay, trong “lược tằng” có nói Đức Phật quá khứ. Dùng nay tiêu biểu đây, dùng quá khứ tiêu biểu kia. Nếu như vậy, “quảng tằng” cũng có nói quá khứ, thì vì sao song biểu? Trong đáp rộng thuật đầy đủ ba thứ đồng, có thể dùng ba thứ đồng để hiển bày đây. Lại, có nói quá khứ, và dùng quá khứ tiêu biểu nơi khác. Nếu như vậy, trong phân biệt đáp không nói quá khứ, thì vì sao song phê phán? Đáp: Nay thấy điềm lành này cùng bản không khác, bản tiêu biểu quá khứ. Ngày nay Như Lai tức hiển đây, song thuật quá khứ hiện tại cho nên tiêu biểu cả hai phân biệt. Nói “tằng kiến” (từng thấy), tức là thấy rộng, chỉ là trong cách nói trình bày thứ lớp lược rộng tăng dần, làm cách đáp, nghi thức khách chủ đó thôi. “Muốn khiến…” nói muốn khiến là luận đàm ý giáo. “Văn” tức Văn tuệ, “Tri” tức Tư tuệ. Tức khai hiển Văn Tư, cho nên nói “khó tin”. Đã có hai tuệ, ắt nhập Tu tuệ, lẽ nào Phật nói pháp khiến chỉ riêng có hai. Chỉ dùng “Tri” để giải thích “Tu” chưa thể hoàn toàn đúng, cho nên chỉ nói “Tư”. “Cũng là Tín, Pháp”: Tức viên hai hạnh. “Văn” tức Tín, Hành, như phẩm Tùy Hỷ Pháp Sư… “Tri” tức Pháp hành như phẩm An Lạc Hạnh… Lẽ nào hai hạnh hoàn toàn không có Tu tuệ, như tam chu thọ ký và công đức bản môn… đều một phen phân biệt; cho đến nói: “Nếu nghe kinh này tư duy tu tập…” Cho nên, trong kinh văn theo lệ đó không ít, vì một bộ văn hễ luận về nhập pháp thì không ra ngoài hai hạnh. Hai tuệ hai hạnh đắc nhập các vị, cho nên nói “muốn khiến” là ý thông từ đầu đến sau. Nói “Thâu vô lượng để quy về một”: Chỉ nói ý đại pháp, nghóa đương là tổng. Tiếp, nói “Cải đổi tam thừa” : là chỉ pháp Thập hạnh; Tiếp, nói “Sáu phen” chỉ đánh trống, là Thập hướng. Tiếp, nói “chư Phật…” chỉ diễn nghóa Thập địa. Tiếp, nói “ Khai…” : là chỉ lui lại pháp vũ Thập trụ. Cho nên, biết “lược tằng” trở lại thuật suy nghó kỹ, điềm lành tiêu biểu sở vi, cho nên nói “muốn khiến”. “Nhất thiết thế gian…”: Nếu không thông chỉ các vị đều khai Phật tri kiến thì lẽ nào được nói “nhất thiết…” ư? Như văn dưới nói: Tất cả thế gian nhiều oán “khó tin”. “Khó tin” nghóa thù thắng hơn bốn mươi năm mới tin hiểu. Tiếp “quảng tằng”: lại rộng nêu hai thứ trên. Nói “ngang dọc”: cõi này cõi kia đối nhau gọi là “ngang”; nay và xưa đối nhau, gọi là “dọc”. “Thông hiệu”: Ứng thân đều đầy đủ mười hiệu cho nên gọi là “thông”, Pháp thân đối Ứng thân mà được nghóa lập. “Nay thân ta đây” tức là Pháp thân. Cho nên biết Ứng hiệu tức Pháp hiệu, nhưng giải thích Pháp hiệu cần phải từ pháp lập, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển hai nói. Lại, trong các kinh có khi liệt kê chung cả ba hiệu, tức ba hiệu đầu trong mười hiệu. Cho nên Tịnh Danh nói: “Nếu ta phân biệt nghóa ba câu đây thì cùng tận kiếp cũng không hết”. Căn cứ ba đối với bảy, cũng là ứng có thể biết, hiệu Ứng thân vô tận huống chi Pháp thân ư! Biệt hiệu thì bất định, như Kinh Lăng Già: Phật bảo Đại Tuệ: “Ta ở trong cõi Sa-bà này có ba Tăng-kỳ trăm ngàn danh hiệu”. Cũng như trong kinh Hoa Nghiêm, Phật bảo: “Đức Như Lai ở trong tứ châu thiên hạ này có mười ngàn danh hiệu. Ở mỗi một thế giới trong mười phương thế giới, Đức Như Lai đều có mười ngàn danh hiệu. Cho đến mỗi thế giới trong mười phương tận pháp giới hư không giới, Đức Như Lai có rất nhiều danh hiệu không đồng”. Đức Phật đây đã vậy, chư Phật cũng đều như vậy. Phật hiệu đã vậy Phật thân, thuyết pháp cũng lại như vậy. Công đức của mười hiệu như Hương-khẩu Tỳ-kheo trong kinh A-Dục- Vương nói v.v… Nếu vậy, một đức Phật đây mà danh hiệu còn chẳng đồng, thì vì sao nói danh Phật đây đồng với Phật khác? Lại giải thích biệt danh, dùng định tuệ tự tha để giải thích. Đức Phật nào mà không có tự tha định tuệ đây, mà chỉ riêng nói Đức Phật Đăng Minh cùng Đức Thích-ca đồng? Đáp: Ứng Phật đắc danh tùy duyên đều khác biệt, nghóa kia dù đầy đủ cũng không sánh bằng Đăng Minh như trong kinh Lăng- Nghiêm: “Kiên Ý hỏi thọ lượng, Phật khiến đến Đông phương quá ba vạn hai ngàn cõi Phật, có Đức Phật hiệu Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương. Kiên Ý đến hỏi xong bạch Phật rồi. A-nan nói: Như con hiểu điều Phật nói, thì đức Phật kia là tên khác của Đức Thích-ca”. Cho nên, nói Chiếu Minh chiùnh là cùng Nhật Nguyệt Đăng Minh nghóa đồng. Thiêïp Pháp sư nói: “Nhật” phá sự tối tăm, “Nguyệt” tạo ánh sáng. Nhật thành nhiệt nóng, Nguyệt mát mẻ. Nhật khai các hoa hợp thanh hoa, Nguyệt hợp các hoa khai thanh hoa. “Đăng” ở nơi nhà kín năng phá tan sự tối tăm, như trí kia năng phá lậu hoặc. Tuy nhiên, hoàn toàn không hợp dụ, huống chi cũng không có thấy ba thứ đồng. Vì dựa vào nay hợp mới tại giáo này, mới có thể dựa vào định tuệ tự tha trước, cho nên nói tùy duyên mà danh xưng riêng biệt, nhưng nghóa thì không sai khác. Tiếp, trong “Thuyết pháp đồng” tức năm thời đồng. Như Hoa Nghiêm phẩm Tứ Đế nói: “Văn-thù bảo các Bồ-tát: Tứ Thánh đế ở cõi Sa-bà đây và mười phương thế giới mỗi mỗi đều có bốn trăm vạn ức mười ngàn danh hiệu”. Kinh Đại Tập cũng vậy. Cho nên, biết các kinh Đại thừa phần nhiều là biện rõ sự sai khác, chỉ có kinh này đặc biệt là hiển đồng. Chẳng những Phật đây cùng Phật khác pháp đồng, mà còn chính mình và người đều nhập một vị. Cho nên văn dưới nói: “Nhân duyên Thí dụ đều đến Chủng trí”, vì vậy các kinh không nêu ra ý khác. “Đại thừa thất thiện (bảy thiện)”: đã nói thông Đại Tiểu thừa trong luận lại dùng ba thứ Văn Tư Tu mà làm ba thời. Thành luận lại dùng “thuyết thiếu niên, trung niên, lão niên” làm ba, không đồng người nay. Người nay thì già được nói là không phải “Thiện”. Lại, cũng dùng tam thừa làm ba, cho nên nói thông. Nay văn dùng ba đoạn làm ba, kia nói vẫn thông mà nghóa kia thì biệt. Thời tiết đã vậy, sáu thứ còn lại chuẩn theo đây có thể biết. Nay kinh nên nói Viên thừa bảy thiện. “Bát âm (tám âm)”: 1. Cực hảo. 2. Nhu nhuyến. 3. Hòa thích. 4. Tôn tuệ. 5.Bất nữ. 6.Không lầm. 7.Sâu xa. 8.Không hết. Các giáo đều có cái khác nhau tùy theo sở tuyên, cho nên phán giáo không đồng. Tùy theo sở y khác nhau mà phán định Phật khác nhau. Từ xưa đến nay, giáo lý không có hai đường. “Giới nội giới ngoại…” : Biệt Viên hai giáo nhiếp hai xứ kia, tổng gọi là “mãn tự” cho nên gọi là “viên mãn”. Trong câu “Sư nói hành thiện phạm hạnh…” thì “Sư” là ngài Nam Nhạc. “Lại, sơ trung hậu thiện…”: là lần nữa lại nêu cách giải thích khác. “Kim Quang Minh”: Như Kim Quang Minh Tối Thắng Vương kinh quyển thứ tư nói: Kinh này hy hữu khó lường. “Sơ thiện, trung thiện, hậu thiện” nghóa kia cứu cánh. Tuy không nói rằng lời nói kia thuộc loại xảo diệu, nhưng do các văn khác theo lệ có thể dùng ý biết. Bộ tuy là Phương-đẳng, mà nghóa thì viên cực cho nên có thể dùng chứng minh đây. “Tiền Tâm” nghóa là trước Trụ. “Trung tâm”: là đăng Trụ. “Hậu tâm”: tức Diệu giác. Lý giống như chưa hiển, gọi là “Bất tư nghì”. Phần chứng Định Tuệ, gọi là Trang nghiêm. Hoặc (phiền não) rốt ráo tận, gọi là “Bất hoại”. Ba điều này, Như Lai hể có thuyết thì đều đồng nhất thiện. Sơ tâm còn gọi là Bất khả tư nghì, huống lại trung hậu sở thuyết đều thiện. Cho nên cũng cùng trong Thuyết pháp đồng là Thời tiết đồng, cho nên chỉ lập ba thời, ngoài ra đều thiện. Có người nói: Câu đầu tổng, sáu câu sau biệt, cho nên lìa bảy làm mười. Vì lìa ba câu đầu, còn lại câu 4. Nghóa sâu. Ngữ xảo. 6. Vô tạp. 7. Cụ túc. 8. Thanh tịnh. 9. Tiển bạch. 1 0.Phạm hạnh. Phải phân chia Đại tiểu kia, trong Tiệm không nêu Phương-đẳng Bát-nhã chỉ dùng lục Ba-la-mật để phác thảo, chỉ vì là văn lược. Đã nói đáp: các việc tu hành bên trên lẽ ra đầy đủ như trên. Đốn tiệm đã đồng ngang dọc không sai biệt cho nên biết nhân ánh sáng mà ngang thấy, chẳng những là đầu mối sinh nghi để Di-lặc hỏi khác mà còn là điềm báo trước Văn-thù đáp đồng. Lại, chẳng phải chỉ hai bậc Thánh vấn đáp sâu xa phù hợp, mà còn vốn là huyền chỉ Như Lai hóa đạo, cho nên chủ bạn cùng nhau bí mật thiết lập một đường, khiến thích hợp cơ duyên chúng sinh nghe đều khế hợp. Hỏi: Trước trong phần hỏi thì dùng Bồ-tát làm Tam tạng Đại thừa, sau Tam tạng mới nói các thứ, tức chỉ hai vị Sinh tô và Thục tô, nay tại sao lại dùng Bồ-tát lục độ để đáp các thứ? Đáp: Phàm các vấn đáp dù là văn kệ tụng hay trường hàng đều có rộng lược, đây văn đối trên nên chia làm ba ý: 1.Trên rộng nay lược cho nên nay Tiệm ban đầu chỉ nêu Nhị thừa. 2.Trên ly nay hợp, cho nên trên Bồ-tát biệt khai Sinh tô và Thục tô, biệt nêu các giáo. 3.Bên trên nêu đủ chánh phụ, tức thông liệt kê Tam thừa. Nay chỉ luận chánh, lại nói Nhị thừa. Hỏi: Xét văn thấy xu thế nói khiến đắc Bồ-đề thuộc về câu nói Bồ-tát, vì sao phân lìa ra, đối vị không đồng? Đáp: Có hai thứ: 1.Nghóa ý: thiết lập các vị trước gốc là Phật thừa, muốn khiến đắc dùng đối ý gốc. 2.Đáp ý: Hỏi đã đầy đủ ý vượt đến đầu cuối, đáp cũng tùy theo thuật đầu cuối, không thể chỉ theo văn lược khiến thiếu đại chỉ, cho nên tùy xu thế của câu hỏi dựa theo nghóa mà có ly khai, huống chi vấn đáp đây tùy kiến giải mà biện rõ. Tin rằng chẳng phải hai Thánh hư cấu nói nguyên do, mới có thể gánh vác khéo léo giải thích văn kinh này. Dẫn việc quá khứ vô lượng kiếp xa xưa đồng với việc một vạn tám ngàn cõi ở phương Đông, nghiệm xưa hiểu văn chưa thành đáp vấn. “Thành Nhất thiết chủng trí”: Trong văn nêu năm Đức Phật đều nói “Vì khiến…” cho đến “Chủng trí”, cho nên biết đồng. Do đó “xuất định” dẫn đồng mà lại đồng với những cái thấy trong hào quang cho nên trong văn nêu năm Đức Phật nói các thứ củng không ngoài bốn vị. Trong câu “nêu Phật nay hẳn phải cùng với xưa đồng vân vân”, thì “vân vân” là: Khiến lại phân biệt ba thứ đồng tướng trạng. Phật nay đang tại định, cho nên biết là sẽ thuyết Pháp Hoa bởi vì Phật xưa đã thuyết kinh Pháp Hoa, ba thứ đều đồng xưa. Vì thế cổ Phật sáu điềm lành và do bốn vị trước ấy mà cùng với nay, nay đồng đã đồng, chỉ có thuyết kinh Pháp Hoa gọi là sẽ đồng. Cổ sư không dùng sáu điềm lành mà nói nay đồng, đầy đủ như dưới phá. “Đầu tiên dẫn” cho đến “hỗ tương nêu”: là Văn-thù khéo nói vì tránh nhiều văn rườm rà, cho nên Văn-thù thấy thời đều đầy đủ năm vị. Nói “chỉ trước”: là dùng giữa và sau để chỉ một đức Phật đầu tiên là trước. Hai vạn là tiệm, chỉ tối sơ cho đến sau cùng. Tối hậu là đốn, chỉ hai vạn cùng với đầu tiên. “Mà không dẫn hai vạn trước…”: là lại dẫn đồng, đều là đốn khai tiệm. Quá khứ đã vậy, nghiệm thì biết cõi khác không quá một vạn tám ngàn, bởi vì ngoài quá đây thì không đồng. Nếu nói vô lượng thì tại sao ngăn ngại chiếu đồng? Nếu y hiện số thì trung gian không đồng cũng không chiếu, huống chi ngoài một vạn tám ngàn. Tuy nhiên cũng là một phen (nhất vãng) hào quang chiếu chỉ khiến thấy một vạn tám ngàn. Đáp chỉ dẫn hai vạn Đức Phật quá khứ, đủ để tiêu biểu đạo đồng, đủ để có thể giải thích nghi niệm. Cho nên, xuất định thì dẫn mười phương ba đời, đâu chỉ như trước đã thấy đã dẫn. Hỏi: Nếu vậy thì tại sao có thể dùng số mà làm sở biểu? Đáp: Phàm có tiêu biểu thì cũng đều căn cứ hiện số, bổng đến ba vạn lẽ nào không tiêu biểu ư? Do pháp môn tự tại vô tận, huống chi chánh vì sở biểu! Vả lại đến một vạn tám ngàn, hai vạn Đăng Minh, nếu giải thích theo Quán tâm thì vẫn tiêu biểu hai vạn, như trước hai ngàn tức hai vạn. Như Bồ-tát tám vạn, căn cứ đây nói có thể biết. Nếu đầy đủ thì dùng hai vạn để tiêu biểu, tức nêu Quyền Thật đầy đủ. “Họ Phả-la-đọa…”: Chân Đế giải thích là một họ trong dòng Bà- la-môn. Kinh Bản Hạnh Tập dịch là “trùng tràng”, chữ “trùng” là bình thanh. Hết thảy chư Phật đều không ở hai họ hạ tiện còn lại, còn dòng tôn quý là Sát đế lợi, người đa văn thì thuộc dòng Bà-la-môn. Lại, trược khó điều phục là dòng Sát-lợi, thanh dễ điều phục là Bà-la-môn. Hỏi: Ba đồng phán xét văn, dòng họ sao làm khác?! Đáp: Dòng họ thuộc Tổ phụ, tên thì tùy theo đức của mỗi người, dù cho dòng họ khác chưa đủ gọi là trái. Nếu tác nghóa đồng thì đều là lý kia, tôn quý và đa văn nghóa đồng danh biệt, như trong hợp danh, lẽ nào vì xưa nay đồng danh Thích-ca. Nói “Năng nhân”: Cũng là căn lợi nhanh chóng không trái vật tình cho nên được người trong nước theo như chợ. Cái gọi là “không hai” tức đều viên mãn chúng tâm, cho nên gọi là “nói lời viên mãn” (mãn ngữ). Mãn ngữ chỉ là Năng nhân. “Một, tám vương tử” cũng lại như vậy. Nếu vậy thì mười phương chư Phật vị nào mà chẳng lợi căn bình đẳng? Đáp: Bản dẫn khiến đồng, cần gì phải cầu khác? Huống chi nay chỉ dùng ba thứ đồng theo lệ, danh đồng chính là từ phương tiện đến. Như năm Đức Phật dẫn đồng, mười phương đều từ đốn khai tiệm, đều khiến đến Nhất thiết chủng trí. Đây tên của tám người con, làm bốn đối để giải thích, chỉ được giải thích theo Quán tâm, ba thứ còn lại thì hoàn toàn không. Kinh dạy: “Mỗi vị đều lãnh trị bốn châu thiên ha”, có chỗ nói: “Kim luân ắt không gặp Phật”, đây thì không như vậy, các vị ấy đều không theo lệ. Nói “phát tâm Đại thừa”: Chỉ là bốn hoằng thệ, các vị Thanh- văn này ở chỗ Đức Phật Đại Thông trước đã từng phát tâm, huống chi được hội nhập mà lại gọi là Tiểu ư? Nhưng “Phát tâm”: Tuy kinh Hoa Nghiêm nêu mười thứ mà không ngoài bốn hoằng, đầy đủ thì như trong Chỉ Quán quyển một nói rộng. “Nay chưa phát tích…”: Cũng nên nói khai quyền. Nói “phát Bản” là từ chỉ bày Tích mà nói. Hỏi: Tập kinh là ở sau phát Bản, vì sao vẫn nói Thanh văn? Đáp: Đây căn cứ lúc Văn-thù đáp vấn, vẫn là Thanh văn. Hỏi : Nếu vậy thì đầu kinh không lẽ nói cũng gọi là Thanh văn? Đáp: Theo xưa liệt kê như thế, đầy đủ như trong giải thích Tựa. Cho nên, giải thích thì trước cần phải thuận theo kinh hiện văn thứ lớp, vả lại tán thán Tiểu kia. Lại, căn cứ giáo và dùng Bản tích, lựa chọn ý văn căn cứ nay để nói. Hỏi: Đây nói “phát Bản” cùng “phát Tích” có gì sai khác? Đáp: Đại đồng Tiểu khác. Phát là khai. Hoặc là Tích che Bản, khai cái năng che kia gọi là “phát tích”. Tích đã phát rồi thì thấy Bản kia. Căn cứ biên hạn sở khai kia, thì gọi là “phát Bản”. Vì che Bản, nên Tích là Năng che, Bản là Sở che. Căn cứ biên hạn sở trừ, gọi là “phát Tích”. Căn cứ biên hạn sở kiến, thì gọi là “phát Bản”. “Văn dưới”: là đầy đủ như trong phẩm Ngũ Bách Thọ Ký nói, thì biết hết thảy Đầu-giác, Thanh-văn đều là Bồ-tát. Từ “Xưa nêu” cho đến “thì có”: là giải thích nghi. Sợ nghi xưa cùng nay, nay đồng ứng tất cả đồng, vì sao nay đầy đủ năm Tựa mà xưa chỉ có hai? Đầu là hiện tướng, từ “Di-lặc nên biết” trở xuống: là hoài nghi. Từ “Lúc bấy giờ có Bồ-tát” trở xuống : là tiện luận thuyết kinh. Sở dó xưa chỉ có hai, là có hai ý: Trước dẫn nêu xong. Tiếp “ Đã nói…” là giải thích trong đó có hai: Một là nêu văn không nghóa có, Hai “Lại nếu…” là nêu ẩn xưa hiện nay. Từ “Chủ yếu đáp hai lý kiêm….”: là lược. Nếu đầy đủ dẫn ba Tựa để đáp câu hỏi của Di-lặc thì trở lại thành Văn-thù dẫn xưa đáp, có gì mà không được? Chỉ Văn-thù xét biết tâm niệm của chúng lúc ấy đều hướng đến mình. Cho nên Di-lặc nói: “Bốn chúng đều mong ngóng nhìn ngài và nhìn ta”. Là do ẩn xưa ba mà chỉ thuật hai, khiến biết sau vấn đáp tức nói Pháp Hoa, khéo trình bày điều mình thấy để thỏa lòng mong muốn của hội chúng. Thích hợp thời thì có gì thêm? “Lại nếu…”: ý thứ hai, chỉ duyên không trình bày xưa đáp. Cho nên dùng lời mình đầy đủ từ đầu đến cuối. Đầu nói Pháp Hoa cuối cùng tận diệt độ, cho đến khi kết hội mới kết thuật, nói: “Nay thấy điềm lành này cùng xưa không khác…”, cho đến kệ nói: “Ta thấy Phật Đăng Minh xưa đã phóng quang như đây, bởi thế biết Phật nay, muốn nói kinh Pháp Hoa” chỉ lợi vật tùy căn cơ, đâu có nhọc phí lời. Cho nên ẩn vấn đáp chỉ thuật lại điều mình thấy. Nếu vậy thì đâu ngăn ngại thuật chúng? Đáp: Căn cứ lúc trước khi thuyết kinh Vô Lượng Nghóa không nói có chúng vây quanh… Vả lại nói không có chúng mà nói kinh Đại Thừa Giáo Bồ-Tát Pháp, số Bồ-tát được giáo hóa đến hai mươi ức, lẽ nào phải chúng ư? Huống chi hai thứ này bao gồm ba thứ còn lại thì đâu cần thuật. Nếu vậy thì sao không thuật vấn? Đáp vấn ắt có đáp tướng tùy theo phải thiếu. Trong phần đầu nêu “người sở nhân”, thì: trước là thuật không đồng làm trưng dẫn khởi, tiếp theo là thuật Diêu sư lầm giải. Nói “nhân thác”: là người lưu thông tức chỉ Diệu Quang. Nói “không phải trực tiếp” là không như nay, Đức Phật xưa vừa xuất định thì thuyết kinh, Đức Phật nay xuất định thì trực tiếp nói với Thân-tử. “Đức Phật kia…” là tiếp nêu Diệu Quang chẳng phải là người được đức Phật kia từ định ra bảo trực tiếp. “Như nay…” là nêu rõ Thân-tử chỉ kham đối với Phật bảo, mà chẳng kham lưu thông cho nên nói “chưa chắc”. Tiếp, “nhân thác…” nêu rõ Đức Phật kia lưu thông thuộc nơi Diệu Quang cho nên nói: “chẳng ai bằng”. Tiếp, “Như nay…” là dẫn người nay lưu thông đồng với Diệu Quang kia chẳng phải không có, hoặc là bằng. Đây Đức Phật hoằng tuyên không có ai bằng Văn-thù không thể là thường cho nên nói “không như”. Tiếp “Phật nay…”: nêu Phật nay đã không tán thán Thân-tử xưa Phật sở dó không tán thán người được trực tiếp bảo, cho nên biết xưa nay đều tán thán người hoằng thông, cho nên nói “hà tất”. “Hà tất”: là lời không tán thán. “Văn-thù…” là lập lại dẫn tán thán người lưu thông. Tiếp, “Lại xưa…” là thuật Cổ sư, “dùng Dược Vương làm sở nhân”: là chấp nhận mà không dùng. Nay sư thấy đầu phẩm Pháp Sư nói: Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nhân Dược Vương Bồ-tát để bảo với tám vạn Đại só, tức dùng Dược Vương làm người sở nhân. Nếu dẫn Dược Vương so sánh Diệu Quang, thì gần giống có thể như vậy, mất đi sâu sắc của Thân-tử thì không thể. Chỉ nói văn có nói sở nhân cũng là lời đối cáo. Lại nói có thể như vậy. Nói “dẫn xưa để chứng minh nay có chút không giống” tức là nếu dẫn xưa Đăng Minh chánh nói người đầu tiên đối bảo để chứng minh Dược Vương nay thì không giống, so sánh với Thân-tử đây thì giống. Nói “chút ít”: Cũng đồng Văn-thù. “Hoặc nói…” lại dẫn lời cổ sư. Nói “bất tiện”: là khi giải thích nghi thì Như Lai tại định, khi xuất định thì nhân căn cơ chẳng phải nhân Văn-thù. Sau khi xuất định thì chỉ nói “Bảo Xá-lợi-phất”, đâu được đem việc người giải thích nghi trong khi Phật tại định, để làm người đối bảo khi Phật xuất định ư ? “Nay nêu…” là bài xích xưa giải thích không đúng, cho nên tổng nói “không như vậy”. “Kinh nói: Lúc bấy giờ đức Phật Đăng Minh từ trong Chánh định mà dậy nhân Diệu Quang Bồ-tát mà làm…”: là trách xưa. Văn nói nhân Diệu Quang mà nói kinh, đâu được nói nhân Diệu Quang mà lưu thông. “Đây mới…” là trách hai sư. “Công” là rõ ràng, “kháng” là chống cự, hai chỗ đều là xuất định đối bảo, bảo là lời dạy bảo. Nếu dùng Diệu Quang làm lưu thông, Dược Vương làm đối bảo, thì trái kinh chống lại Phật, đâu có liên quan đến giải thích kinh. “Xưa nhân…” là dẫn các việc đồng chẳng phải chỉ một đường. Nói “Tích môn đã xong…”: chẳng phải nói Tích môn hoàn toàn xong, mà chỉ là xong chu Thí thuyết. Liền nói “Bảo Xá-lợi-phất, người vô trí đây…”. “Nay xưa…” là tổng kết bài xích. Nói “lại làm sao thắng” : là trước giải thích nạn rằng: Xưa đã phát Tích thì gọi là Bồ-tát, nay chưa phát Tích thì gọi là Thanh-văn, các việc đã đồng nên sở nhân cũng đồng. “Mà cận…” là bài xích dẫn Dược Vương. Mà cận bỏ ban đầu Chánh thuyết, viễn chọn lưu thông làm đầu. “Lúc bấy giờ…” là thuyết pháp danh đồng trong kinh, chỗ tán thán cùng Vô Lượng Nghóa lời câu không khác. Nếu giải thích trong đây, thì “Giáo Bồ-tát Pháp” là y nghóa tựa trước, chẳng phải ý chánh tông. Nếu làm danh khác thì cùng nay không khác, cho nên không lập lại giải thích. “Hạnh hậu không cảnh”: là sau khi thấy các thứ hạnh của thời Phương-đẳng Bát-nhã thì không thấy hội Pháp Hoa Niết-bàn, mà chỉ thấy việc xây tháp cúng dường, cho nên nói “không cảnh”. Vì vậy nên “Nay Văn-thù đáp….”: là đáp rút từ trong Pháp Hoa hội, tức là sự sau các hạnh. “Sáu mươi tiểu kiếp như trong khoảng bữa ăn”: sáu mươi cùng năm mươi, bữa ăn cùng nửa ngày, tợ khác chút ít đều là dài mà ngắn cho nên nói “đồng”. Sinh công nói: Lẽ nào thật như vậy ư? Chỉ là tiêu biểu tâm chí trọng pháp nên mượn thời gian nói thôi! Nếu nói mượn thời gian thì nên nói “như sáu mươi tiểu kiếp”, đâu được chỉ nói “sáu mươi tiểu kiếp như trong bữa ăn”, cho nên chỉ là tình, nghóa là chẳng thật ngắn. Tin Kinh văn nói sáu mươi tiểu kiếp chẳng hư dối, chí nghe pháp được tăng thêm do uy Phật, một phen ngồi quên mất thời gian lâu. Các nhà chú giải, ban đầu dẫn Tịnh Danh rút kiếp làm ngày, diễn ngày làm kiếp, chính là đức Phật rút gọn coi như bữa ăn. Đây là trái kinh, nghóa là nói bằng, cũng không bằng nói “chí trọng pháp”, chỉ vì nói dựa thời gian cùng kinh trái đó thôi! Dẫn quá ngắn ngủi, bèn nói huống chi huyền môn cận chân nhất, vì sao không dùng lịch kiếp làm số khắc ư ? Tuy lại so sánh giải thích lý xong nhưng chưa rõ. Nay là cho như người thế gian: lúc khổ thì thời gian ngắn mà thấy dài, lúc vui thì thời gian dài mà thấy ngắn. Đây cũng dài ngắn theo tình (thời gian tâm lý). Có chỗ nói “thọ nhận Phật pháp ví như thức ăn ngon nhưng chưa no, thí dụ này hơi thông suốt. Có người đối việc này lập bốn câu, như Trung luận phá. Đây thì không như vậy, ắt chẳng phải thính giả trong đó tu quán, mà chính là Phật lực mà chúng nghe quên cả thời gian. Cho nên, biết Trung luận quán pháp chỉ phù hợp với hàng độn căn đời mạt pháp thôi! Kinh nói: “Phạm ma…”: “Phạm” tức là chủ Sắc giới, cũng là chủ tam giới, “ma” là chủ Dục giới. “Sa-môn”: Trung Hoa dịch “Cần tức”, là siêng dứt ác. “Bà-la-môn”: Trung Hoa dịch Tịnh hạnh, xuất gia trong ngoại đạo gọi là tịnh hạnh chủng. Người xưa lạm dùng đây để giải thích bốn chúng. Nếu nhiếp chúng đủ thì tại sao lại nói “và thiên nhân” ư? Chỗ liệt bày không đồng đều hướng nêu lên. Trong đây trước nêu chủ hai cõi Dục và Sắc bốn dòng họ nêu thắng, lục đạo nêu thiện, đều lại theo thắng. Lược các đường ác khác: Đều chọn người nhập Phật pháp dễ. Cổ Phật xưa đã vậy, Phật nay cũng vậy. “Ca-diếp Phật…”: Nên nêu rõ Phật cùng cõi nước có tịnh uế Niết-bàn tiến hay không, để so sánh Đăng Minh, vì vậy nên Ca-diếp dùng cõi tịnh. Pháp Hoa xướng diệt tức nhập diệt. “Phật nay…”: Cuối văn trường hàng nói: “Tức thời đức Phật Thích-ca Mâu-ni dùng thần thông lực tiếp dẫn đại chúng đều bay lên hư không, dùng âm thanh lớn bảo khắp đại chúng: Ai có thể ở thế giới Sa-bà rộng nói kinh này, nay chính phải lúc. Như Lai không bao lâu nữa sẽ nhập Niết-bàn”. Chỉ nay Phật tuy xướng mà chưa liền diệt cho nên nói “không bao lâu”. Phẩm Tín giải cũng nói: “Sắp chết không bao lâu nữa”. Do ở cõi uế nên nói bỏ (chuộc) mạng, vì lượm lặt nên giúp đỡ, luật nói thường khiến trụ thế lâu dài. Kiêm quyền nêu rõ thật trợ phát thật, Đới thật dụng quyền hiển quyền lực. Quá khứ thường, vị lai thường, đầu cuối là một. Sắc thân là thường thân bởi vì vô sinh diệt. Tuy đây không đồng mà sự xướng diệt đồng. Trong phần Thọ ký đồng, trước là chánh thuật trưng dẫn câu hỏi. “Việc xưa…” là đáp. “Nếu nói…” là nêu ẩn ý xưa. “Văn-thù khéo luận đàm không phát tích”: là nêu ẩn ý, ý đợi định khởi. Sở thuyết một đời chẳng phải không viên dung, chưa thọ ký Nhị thừa thì hóa đạo không thông suốt. Nay mới bắt đầu liền “thôi công hữu quy”, đâu thể nào Văn-thù bỗng kết thúc tận lý, cho nên ẩn sở kiến đợi Phật xuất định. Nói thọ ký Đức Tạng thời chúng không kinh (sợ) ngạc, cho nên nói “các kinh đều như vậy”. Trong câu “Người chấp giáo thì không kinh sợ vân vân”, thì “vân vân” là: lẽ ra phải trình bày ý “thọ ký, không thọ ký” trong giáo pháp một đời của Phật. Như Hoa Nghiêm pháp giới, chỗ nào không bao hàm? Cách biệt Thanh-văn kia khiến như điếc câm, phần sau tuy có thọ ký mà sự trái nghịch. Thời Lộc-uyển ban đầu nghe chuyên chỉ Tiểu thừa, thời Phương-đẳng thì còn muội, thời Bát-nhã thì còn sinh. Tuy Lăng-già Phương-đẳng có nói thọ ký Tiểu thừa, nhưng Lăng-già chính là mật đối Bồ-tát, Phương-đẳng vì bài xích bỏ Thanh-văn, cho nên một đời giáo văn rõ ràng chỉ có đây. Xin kiểm tra Đại tạng thì mới nghiệm có sở quy. Cho nên người ủng hộ chấp quyền giáo, tức Thanh-văn vónh viễn trú Niết-bàn, mà ẩn nói xưa thọ ký Tiểu thừa. Từ sau dùng Bồ-tát lập hiệu, hoặc sợ người nghe kinh nghi sợ giáo, hoặc sợ giũ chiếu để quên sau nghe. Đây trước chưa sợ… Văn nói nơi nơi, cho nên không lập lại luận. Ý “giải thích nghi”: “Di-lặc” tuy ở trong số tám trăm, vì đi nhiều bỏ tu tập, cho nên gọi là “Cầu danh”. Tuy nhờ nhân xưa phụ giúp Đức Phật Thích-ca, mà đâu được như Diệu Đức các giáo luận đàm đầy đủ, huống chi từng làm thầy giải thích nghi chẳng sai lầm. Nói “mật khai thọ lượng”: Kích động trước thời chúng, mật phát nguyên nhân nghi, lẽ nào tại Già-da vừa thành đạo, mà đã làm thầy vì đệ tử, lúc ấy đệ tử đâu được gọi là tôn kính. Thầy ở hai nơi, thì ai thật nói? Đã là thầy trò không cố định thật, thì Bản tích khó nương tựa (bằng cứ). Cuối cùng cần phải khảo xét tường tận khiến lý có chỗ trở về, mật sinh nguyên nhân kia thì Bản tích mới xét kỹ. “Chín đời tổ sư”: Nếu luận tám người con ấy đều học với của ngài Diệu Quang, thì tám người con đều coi Diệu Quang mà là Sư phụ. Đã nói tám người con lần lượt được thọ ký, tuy đồng một thầy Diệu Quang nên trước thọ ký trưởng tử, các vị còn lại thứ lớp lần lượt làm thầy. Cho nên được Diệu Quang ở đầu tám đời. Trong tám vị ấy, vị cuối cùng tên là Nhiên Đăng. Nhiên Đăng đã là thầy của đức Thích-ca, vì vậy nên Diệu Quang là tổ của chín đời. “Sinh phi sinh…”: vì thầy trò xen lẫn, nên biết thầy trò sinh thật chẳng sinh. Vậy như thế trước từng diệt, diệt cũng phi diệt, ắt từ lâu từng chứng lý phi sinh phi diệt thường trú. Tích thì thị hiện sinh diệt nên nói “phi…”. Lại, Tích thì khó lường, cho nên nói “sinh phi sinh”. Bản lý diệu cho nên nói “diệt phi diệt”. Bản tích tuy sai khác mà bất tư nghì nhất, cho nên phải dùng thầy trò phi sanh phi diệt để dự mật biểu. “Hỏi: Di-lặc…”: Xưa tám mươi kiếp thọ lãnh lời dạy của Diệu Quang, tuy không thông lợi đâu được không nghe? Nay được Bổ xứ, trí xưa không thể quên, vì sao mà nay còn sinh nghi để hỏi? Đáp ý: Đây y quyền đạo không theo thật hành. Thật hành tuy tức từng nghe, đâu ngăn ngại nay vẫn còn do dự. Nhưng nhớ việc xưa từng nghe trong hội Pháp Hoa được thọ ký… cũng nên nhớ xưa từng thấy tướng trong hội Pháp Hoa, nguyên do trước để giải thích nghi. Cho nên biết thật vị Bổ xứ giúp Ứng hóa Phật, chỉ bày trải qua năm vị cũng lại theo Quyền. Vì vậy trong văn, theo Quyền để giải thích. Tiếp, tổng phần “phân minh phán” thì trước là nêu vượt ý, tiếp là chánh giải thích. Nêu vượt ý: Suy nghó kỹ đã suy lường xưa nay, nên biết tư duy thấy đã rõ ràng cho nên nói “không lầm”. Vì pháp đáp thì trước là trưng dẫn, sau là thêm vào, cho nên đến phán xét rõ, phải hiển bày trước chẳng nghi, nên nói “đều quyết định”. Đều nói “tiêu biểu tất cả”, tức đầu sau đều quyết, lẽ nào Văn-thù Đại Thánh trước tư duy sau sẽ thuyết? Tiếp, “Sẽ nói…”: là trong chánh giải thích. “Sẽ nói…” là sẽ nói… hợp với kinh. Khai kinh lấy đó làm tiêu biểu, khai vì hợp điềm lành, lý quyết định không nghi. “Tên Diệu Pháp…”: “Hoa” ắt có liên (sen), như nhân quyết định khắc quả, cho nên biết sẽ nhập diệu nhân, quyết định dụng bốn loại mưa hoa làm tiêu biểu. “Giáo Bồ-tát…”: Từ đây về trước các căn cơ vẫn còn cách biệt, bắt đầu trong pháp hội này căn tánh muốn thuần thục, thấy điềm lành thì vui mừng sẽ nhập Hạnh, Lý; định dùng người vui lấy đó làm tiêu biểu. “Phật Sở hộ niệm…”: trong lý sở hộ thì đất không chấn động, muốn niệm mở rộng khiến sẽ nhập quả. Nhập quả kiến lý, lý là sở hộ, cho nên dùng đất động làm tiêu biểu kia. “Kiêm tổng nhập định…”: bốn điềm lành tổng do trong định mà thành. Thuyết pháp tuy tức không chuyên do định, mà thuyết là tuệ tánh, toàn định làm thể, cho nên khai định hợp định tổng nhiếp Giáo Hạnh, Nhân, Lý. “Có người…”: là thuật xưa, chính là hiện điềm lành thời đồng cho nên được dùng điềm lành làm nay. Tàn hết mới gọi là “đã rồi”. Vì sao Phật tại định, mưa hoa động đất rõ ràng, chúng vui vẽ, hào quang sáng đầy mà người xưa nói “đã rồi”? Là vì đặc biệt không theo văn, mà chỉ nói pháp vừa dứt! Huống chi chúng còn ngồi tại pháp hội chưa giải tán, thế nên nhiều điềm lành đều gọi là “nay”. Cho nên dẫn văn nói : “Nay thấy điềm lành đây”. Nay vì sao ngăn cách điềm lành thông suốt, mà cho rằng đây thuộc về điều sẽ đến, cho nên nói “sẽ thuyết”? Trước nói “xưa đồng vân vân” thì “vân vân” là: chánh chỉ trong đây. “Cho nên tác…”: là xác định sáu điềm lành là nay, đầy đủ gồm hai nghóa: 1.Có văn chứng, văn nói: “Nay thấy điềm lành đây”. 2. Suy tìm lý: Phật nói kinh Vô Lượng Nghóa sự xong, thì chúng vẫn còn, Phật nhập định. Lại, văn nói: “Bấy giờ Đức Thế Tôn từ tướng lông trắng giữa chân mày phóng ra ánh sáng”. Nhó thời là đang lúc bấy giờ. Nếu nói mưa hoa dừng đất yên tónh là đã đồng, thì Như Lai cũng nên dã từ định dậy. Trong kệ không tụng phần Suy nghó và Lược tằng. Kệ vọng trường hàng ý rộng lược, đều có phương kia (làm) để giải thích nghóa cho nên vì nhiếp trì. Xen lẫn còn lẫn mất, mà vẫn không mất ý chỉ, huống là đáp pháp đâu cho từng bước tiến dần. Trường hàng đã nêu khách chủ lễ túc (chân), kệ tụng chỉ nêu đại cương. Đã có “quảng tằng” phân biệt rõ, cho nên không nêu “lược tằng” và “suy nghó”. “Ở trong phần quảng tằng” cho đến “trung gian”: nêu trước nêu sau, trung gian so sánh có thể biết. Tiêu biểu “Vô vấn tự thuyết”: bắt đầu phẩm Phương Tiện, Phật từ Tam-muội dậy, bảo Xá-lợi-phất…, rộng tán thán lược tán thán cõi này cõi kia, dựa nói, tuyệt nói, hoặc cảnh hoặc trí. Đây chính là căn bản của một kinh, là chức vụ chủ yếu của năm thời. Việc này không thể xem thường, cho nên phải tiêu biểu trước, tức là một trong mười hai thể loại kinh. “Hiện các…”: Đều chỉ bốn hàng cho nên gọi là “tổng”, trong đó sáu điềm lành văn tướng vẫn sai biệt. Đầu một hàng tụng thuyết pháp. Tiếp một hàng tụng nhập định. Tiếp hai câu tụng mưa hoa, chỉ thêm trống trời để trợ giúp diệu nhân. Tiếp nửa hàng tụng chúng vui. Tiếp nửa hàng tụng đất động. Tiếp một câu tụng phóng quang. Không thể phân nhỏ, chỉ nói tổng. Vì kiêm cả trống trời. Trời rồng cúng dường không rõ rệt để nói là vui. Nên lại nói là “tổng”, bởi lý do này. Trong phần tụng cõi khác: Đầu trong tụng lục thú, ba hàng chia làm bốn: Đầu nửa hàng tụng lại tổng điềm lành. Tiếp một câu chánh nêu lục thú cho nên nói “tất cả”. Tiếp trong một câu tổng nêu nhân quả sinh tử và xứ, hai chữ “sinh tử” là tổng nêu. “Nghiêïp” nêu nhân sinh tử, “báo” nêu quả sinh tử. “Xứ” tức hai mươi lăm cõi, cũng cùng đây đồng. Tiếp một hàng nêu cõi sở y. Văn trường hàng trước và trong vấn đáp, đều không nói hào quang sắc màu. Đến đây mới nói, thì trước chắc là không nói. Tiếp một hàng nêu rõ các thú cúng dường, tuy nói cúng dường nhưng ý tiêu biểu căn cơ thành. Phải biết ở phần trước cũng chẳng phải không có. Hỏi: Đã nói trang nghiêm thì là Tịnh độ, đã nói đạo đồng thì đâu liệt Tịnh độ ư ? Đáp: Tịnh do hào quang chiếu vốn đầy đủ lục đạo. Tịnh độ thì không có tên ác đạo, cho nên biết chẳng những chỉ có sắc tịnh do hào quang mà còn có các báu đầy đủ. “Đều cúng dường” là chỉ một vạn tám ngàn cõi. Trong câu “Căn cứ bốn giáo thì có thể biết vân vân”, thì “vân vân” là: bốn căn cơ đã khắp nơi các thú, bốn Đức Phật, cho nên bốn giáo đều có đạo chân thật, một tòa nhậm vận ba mươi bốn niệm, nhất niệm tương ưng không thêm công lực. Hai xứ Diệu giác vốn được tự nhiên, cõi khác không thấy Đại tiểu lẫn lộn. Tiếp theo “Lệ như…” dẫn lệ để giải thích “tự nhiên”, chỉ nêu Tiểu dụ Đại. “Thất sinh…”: Ý đồng trước hỏi “Nếu nói chân đạo tự nhiên ba giáo nhập chân, thì cần gì nghe pháp?”. Vì trong đáp “như thuyền thuận dòng gặp được gió”, cho nên dẫn Tiểu làm ước lệ. Như Thất sinh (bảy đời) nghe pháp mà còn “diệt” đến một đời hai đời, huống chi các Bồ-tát, lẽ ra biện minh đủ tam quả Gia-gia, Nhất lai, để so sánh Địa Trụ chân đạo vị. Nay trong hào quang thấy ứng đều là quả Phật, nghóa có thể thông nhân. Đã có Bản tích bốn câu không đồng, sao không có một cõi bản thấp tích cao, bản cao tích thấp và cùng đều thấp, bản tích đều cao? Lý lẽ là như vậy. Cho nên, “tự nhiên” xứng theo lệ kia thật nhiều. Nếu nói Pháp, Báo thì nên căn cứ Biệt Viên, cho nên chú thích “v.v…”. Nói “đem pháp ước nhân (người)” là chỉ nói pháp sâu, không nói Bồ-tát. Căn cứ pháp nên như vậy. Thứ tư gồm ba hàng, trong đó đã nói không tụng Duyên giác, thì hàng đầu tụng Thanh-văn xong, nên nói hai hàng tụng lục độ, nếu chỉ nói một hàng thì sợ là lầm. Lại, “tụng Thí Nhẫn…” : “bốn độ” cũng e rằngï lầm. Trong hàng thứ hai tụng Tiến, Giới hai độ, trong hàng thứ ba tụng Thí, Nhẫn hai độ. Còn các hàng… tụng Thiền Tuệ hai độ. Nếu cho rằng hai hàng đầu tụng Thanh-văn, thì một hàng đầu chỉ nêu thấy người, tiếp một hàng nêu sự tu hành, do nói “có các Tỳ-kheo”. Chỉ trong các văn phần nhiều không dùng Tiến, Giới để tiêu biểu nơi Thanh-văn, nhưng cũng không dùng Tỳ-kheo làm Bồ-tát. Trước trong kệ phát vấn, chỉ nói: “Hoặc lại thấy Bồ-tát mà hiện làm Tỳ-kheo”. Tiếp, một hàng nêu Bồ-tát thừa, tức chỉ Tam tạng. Nói “đem người ước pháp”, chỉ nói Thanh-văn không nói Tứ đế. Căn cứ người nên như vậy. Thứ năm có hai hàng, nói tụng các tướng mạo trên. Lại nói lược không xây tháp: Đầy đủ như văn trên dùng đối lục độ. Lại như dùng ba hàng Bát-nhã đối Tam-muội. Cũng có thể bốn hàng từ “Hoặc có các Tỳ-kheo” cho đến “thuyết pháp cầu Phật đạo” là tổng tụng Bồ-tát tức lục độ nghóa đủ, do hàng thứ ba là Thiền, hàng thứ tư là Trí, tức như văn trường hàng cũng trong Bồ-tát thừa kiêm Sinh-tô và Thục-tô, cho nên nói sáu Ba-la-mật. Từ “Khiến được…”: là ý Pháp Hoa, cũng chỉ là tiến thoái nhận lấy thôi! Nếu dựa theo sự phân biệt trước nay, tức là Lục độ bao hàm nhiều loại, do Bồ-tát đương ở vị Lạc và hai Tô. Tiếp, “Bấy giờ…”: một hàng rưỡi, tụng nói “truy tụng” là tụng theo vậy. Nếu căn cứ Huyền Văn thì dùng chữ “truy” đây, đều nói thoái thôi! Như nói Niết-bàn thoái phân biệt các kinh, tức thoái hướng trước, nay đây chỉ dùng nghóa thoái sau làm nghóa theo. “Thiên nhân…”: hai hàng và hai câu, tụng “nhân người” đồng. Kinh nói: “Từ Tam-muội dậy bèn tán thán Diệu Quang”, tán thán rồi sau mới bắt đầu nói kinh, cho nên biết chính là “đối bảo”. Cho nên không thể y xưa làm người lưu thông để giải thích, huống chi chỉ nói “chứng biết”, không nói “lưu thông”. “Chúc lũy như Di giáo”: tức kinh kia ban đầu nói: “Sau khi ta diệt độ, các ông phải trân trọng cung kính Ba-la-đề mộc-xoa như kẻ mù được sáng mắt, như người nghèo được báu vật… là thầy của các ông, như ta còn ở thế gian không khác”. Mỗi mỗi đầu văn đều nói “Tỳ-kheo các ông!”. “Có bi thương như Niết-bàn”: là khóc lóc mắt đầy lệ, toàn thân rởn ốc, máu nổi đỏ như hoa Ba-la-xa: Đây tức chí kính pháp mộ người. “Có ủy dụ cũng như kinh Di Giáo”: là cuối kinh kia nói: “Tỳ- kheo các ông! Chớ ôm lòng bi não. Nếu ta trụ thế thêm một kiếp nữa rồi cũng phải diệt, hợp mà không ly thì quyết không thể được. Pháp tự lợi, lợi người, Như Lai đều đã tuyên bố đầy đủ. Nếu ta trụ thế lâu nữa thì cũng không có lợi ích gì.” “Ví như nay Đức Phật phó chúc cho Di-lặc vân vân…”: Như nói hể xưng “Nam mô Phật” thì đều được gặp Di-lặc.., sau Di-lặc mới thành đạo thì nói rằng Đức Thích-ca Mâu-ni quở trách các thứ sao các ông không biết, dạy gieo trồng duyên vị lai trước, nên nay được gặp ta, tức văn Di-lặc thọ sự phó chúc. “Ta thấy…”: bốn hàng kệ không đồng. Xưa giải thích dùng làm kết thành. Cần tụng ý phấn đáp của văn trên. Nếu nói là kết thành, thì thừa mà văn phán đáp lại thiếu, đâu được không đem tụng phán đáp ư ? Tụng trên sẽ nói kinh Đại thừa, cũng nói tên Diệu Pháp Liên Hoa. Tụng nói “Đức Phật sẽ mưa pháp vũ…”, là tụng trên nói Giáo Bồ-tát Pháp, cho nên biết sáu câu trên chỉ nêu nguyên do muốn nói, răn dạy chúng khiến sinh ngưỡng mộ. Tụng nói “Các người cầu tam thừa”: tụng trên nói Phật sở hộ niệm, vì được Phật hộ niệm cho nên được đoạn nghi. Cùng với văn trên tướng hợp hết, đâu được không tụng trên ư! Nếu làm giải thích đoạn phục nghi, thì văn lại diệu đồng. Đoạn ý thứ nhất: điềm lành vi diệu vốn tiêu biểu báo đối với pháp đồng. Đoạn ý thứ hai: Điềm lành đồng pháp ắt thật tướng. Đoạn ý thứ ba: Đến hội này đều không mong cầu khác. Đoạn ý thứ tư: ba nghi được trừ, công ở nơi Phật. “Sự cùng…”: Sự cùng nghóa là danh đẳng tam, lý tận nghóa là sở hiển là thể. Sự lý hợp nhất, đâu còn nghi nữa.  <卷>QUYỂN 3 (Phần Hạ) GIẢI THÍCH PHẨM PHƯƠNG TIỆN THỨ HAI Đề Chánh Pháp Hoa gọi là phẩm Thiện Quyền, cho đến giải thích văn đều nói Thiện Quyền Phương Tiện. Nên biết Ngài Pháp Hộ cũng dùng Thiện Quyền mà giải thích Phương Tiện. “Thiện” là tên khác của “xảo”. Văn tự phân làm hai: 1.Lược, trong đó có hai: đầu là chánh giải thích, trong đó văn chia làm ba: Đầu một giải thích theo tự huấn, sau hai theo nghóa. Lại, đầu hai từ tích giáo, sau một thuộc kinh nay. Tuy có ba giải thích đều dùng ba giáo mà làm phương tiện, chỉ có năng thông phi năng thông và dùng tức bất tức dị, đến thành ba giải thích. Nhưng phải lược luận ba thứ đại chỉ (ý), mới có thể tiêu văn. Nhưng trong ba thứ, đầu tiên căn cứ năng dụng ba giáo, đắc danh pháp là sở dụng, dụng là năng dụng. Tuy pháp cùng dụng đều thông bốn giáo, chỉ có phương viên sai hội khác biệt, cho nên gọi là “phương tiện” tức từ quyền mà lập danh. Quyền bất tức thật, cho nên đối xưa biện thành thể ngoại quyền thì chẳng phải ý phẩm này. Trong văn nêu Viên tức thuộc chân thật, tương đối thôi! Cho nên biết tại xưa không nên dùng bí diệu giải thích Phương tiện, chính bí mật ấy mà không nói gọi là Phương tiện, huống chi Viên nơi Tích chính là Viên của Kiêm Đới, cho nên Viên khắp đều không phải ý ở đây. Tiếp, giải thích thứ hai: Quyền thuộc năng thông ba giáo cũng được gọi là Phương tiện. Nhưng tuy bất tức mà dùng năng làm viên làm Viễn thuyên. Viên của sở thuyên cũng “đới” năng thuyên làm Phương tiện, cho nên biết đều chẳng phải ý của phẩm này. Giải thích trước không nói ba làm năng, tức quyền thật phù hợp đều đi đến cùng cực, nên phương pháp không đồng. Đến giải thích thứ ba mới là “tam quyền tức là nhất thật”, chỉ đây tức Thật là Quyền, mới gọi là Phương tiện của kinh này. Tiếp tiêu văn: Đầu căn cứ pháp dụng, chia làm năm: 1.Pháp. 2. Nêu dụ. 3. Nêu ý dụng quyền. 4. Dẫn chứng. “Nghóa này…” : là tổng kết phi. Đầu lại có ba: Trước, giải thích theo Tự huấn. “ Phương “ là pháp vậy. Sách thuyết Văn nói là Pháp thuật. Chính là hợp với văn này. Sách Nhó Nhã nói là “Tắc” tức phép tắc của pháp gia, lại nói là “chánh”. Nay cũng như vậy. Pháp đó chánh nên mới hợp căn cơ, tuy chưa khai hiển mà không được không chánh. Tiếp, “Pháp có…”: là giải thích nghóa tuy đều là pháp dụng bởi vì thiên đối viên, thiên sai viên hội, hội tuy hơn sai nhưng hội chẳng là sai, dụng hiển phi diệu. “Tam quyền…”: giải thích tướng, lại có hai: Đầu giải thích Pháp phương viên, dùng đối quy cũ mà phân thiên viên, dụng hiển phi diệu. Ba phương một viên, tuy tức bốn giáo đều gọi là pháp dụng. Chánh dùng thiên pháp gọi là “Phương tiện”. Tiếp “Hoặc là trí…” : là giải thích dụng sai hội, sở dó đều đặt ra nói pháp dụng là do đều khế hợp căn cơ, chẳng phải đều hội viên cho nên đều nói hợp. Pháp dụng: Pháp tên tuy thông dụng đã thích hợp thời, mà chưa thuần nhất, là dùng pháp nào để hợp căn cơ nào? Cho nên dùng bốn pháp ứng phó căn cơ, sai hội không đồng. Quyền thật tương đãi thị phi, đều chẳng như trước giải thích, ý pháp đã chưa dung hợp, chúng sinh chưa thỏa thích, quy củ vẫn sai biệt. Lại nói “thiện dụng”, “nghệ” (đến): nghóa là chỗ hướng đến, chánh là dụng, “trí nghệ” không đồng, dụng pháp không bình đẳng. Thí dụ ý: Chánh thí pháp dụng không đồng, có hai lớp pháp thí, trong đó sắp đặt lấy phương pháp trong khước Viên đặt tên, lại mượn hiệu “bí diệu”. Cho nên, Viên cách Thiên cũng có Thể nội phương tiện cho nên gọi là “bí diệu”. Tên “bí diệu” giống như giải thích thứ ba, nhưng ý thì khác. Vì sao? Vì giải thích thứ ba chính là dùng khai hiển làm diệu. Trong đây chính dùng chỉ riêng Viên (độc viên) làm diệu, cho nên trong văn đây bốn giáo đều là phương pháp. Ba giáo trước chỉ gọi là phương pháp, chẳng “bí” không “diệu”, Viên giáo sau là “bí” là “diệu”. Cho nên giáo sau được gọi mới đúng tên “bí diệu”, chẳng liên quan khai hiển. Cho nên, dùng Thiên pháp ví như như dùng một ngón tay chỉ thì thấy thiên về một phương, nếu dùng Viên pháp ví như dùng năm ngón tay chỉ thì cho thấy khắp các phương. Nêu ý dụng quyền: Trước chưa hợp, tức dùng quyền pháp, gọi là tùy dục. Dẫn chứng: Nên dùng ba quyền làm pháp dẫn xuất, văn dựa vào Tiểu mà nói, cho nên gọi là “tam giới”, huống chi chỗ lìa không đồng, tam giới không sai biệt. Nếu đối Như Lai thì phương tiện bản nhất. Vì ý đây chưa tuyên bày, nên thuộc giáo xưa, tuy là Thể ngoại phương tiện mà về lý thì đều là bên Thể nội mà chúng sinh chưa biết. Căn cứ ý Phật mà nói, cho nên nói “xưng tán phương tiện”, do chưa khai nên chẳng phải ý phẩm này. Tiếp, thứ hai: Căn cứ năng thuyên. Nếu lý và giáo hướng về nhau, thì bốn giáo đều luận không giáo nào chẳng là năng thuyên. Nay dùng ba đối một. Ba vì nhất thật làm thuyên, cho nên ba gọi là năng thuyên. Vậy trong ba giáo trước thì Giáo Hạïnh Nhân, lý đều là năng thuyên, trong đó chia làm bảy: 1.Thẳng lập ba giáo làm môn, đây giải thích theo nghóa, không liên quan đến giải thích theo Tự huấn. 2. “Môn gọi là…”: là giải thích nghóa “môn”, như cửa thế gian vốn là năng thông, ba thứ đều nhập thật nên gọi là “môn”. 3. “Phương tiện…”: nêu rõ ý môn. Chúng sinh không hiểu vốn là sở thông, dựa vào sở chấp đó được thành “lộng dẫn”, chỉ vì không khéo, quanh co nên dùng “dẫn” làm “lộng” (bày trò). 4. “Chân thật…”: nêu môn dụng, tuy phi tức sở, đắc nhập do đây. 5. “Từ năng…”: nêu đắc danh. Quyền thật vẫn còn ngăn cách bởi vì căn cơ của chúng sinh sai biệt. Cho nên trước hai giải thích hiển lộ các biên và trước biệt địa, chẳng phải ý phẩm này. 6.Dẫn chứng ý: Nêu môn xưa kia chỉ nói năng thông, nay đây phải khai cho nên nói “khai phương tiện môn”, chẳng phải cho là ở kia đã nêu rõ khai môn. 7. “Nghóa đây…” : là tổng kết phi. - Thứ ba giải thích: Tức ý phẩm này. Trước hai giải thích đối xưa chỉ được gọi là thiên (lệch) gọi là môn. Bí mà không nói, nay khai thiên môn kia tức làViên sở cho nên nói bí diệu. Hiển lộ rõ ràng cho nên gọi là “chân bí”, lại chia làm sáu: 1. Thẳng lập: Đối xưa thành bí, bí kia bị khai, đối nay thành diệu. 2. “Diệu đạt…”: là giải thích công dụng: Đạt là khai dùng tiện của diệu, vì khai bí phương, ngoài diệu không có pháp cho nên nói “tức thị”. 3.“Điểm trong…”: là căn cứ nhân giáo để chỉ tướng, trong thân chúng sinh có chủng duyên xưa gọi là “y châu” (hạt châu ẩn trong chéo áo). Tự thoái lui từ xưa đến nay ở người khách say. Thiên môn mà còn không có tên Thiên môn, huống chi Viên sở. Nếu không khai thì ba quyền chưa hiển, như “hạt châu còn ẩn trong chéo áo”. Nay kinh khai đó, cho quả trí Nhất. Tác nhân cũng vậy, tư duy có thể biết. 4.“Như đây…”: là kết danh, phương pháp và môn tức là bí diệu cho nên nói “như đây”. 5.“Như kinh…”: là dẫn chứng. 6.“Cho nên dùng…”: là kết danh hiển thị. Tiếp trong phần “Liệu giản” có ba: 1.Căn cứ tự tha tam ngữ, nhờ giải thích đầu tiên ở trước để giải thích ba, cho nên cái đầu tiên được khai tức cái thứ ba. 2. Căn cứ năng sơ,û nhờ cái giải thích thứ hai để giải thích văn thứ ba cho nên cái được khai thứ hai cũng tức thứ ba. 3.Căn cứ bốn câu, cùng xét xem ba giải thích. Trong phần giải thích đầu tiên, phần “tự” có ba văn, xem văn đầu: ba giáo nhất hướng, gọi là “tha” gọi là “quyền”, quyền thì cách thật. Giải thích văn tiếp: Dùng ba giáo “tha” cùng Viên “tự “ đối biện. Văn thứ ba: Cả ba đều trong thể đều chân thật, chỉ gọi là “tự”, ngoài “tự” không có “tha”. Tam ngữ cũng như vậy. Phần thứ hai: Căn cứ năng sơ.û Cũng tự có ba văn, đều đem hai chữ “năng sở” để xem xét năng sở thị phi. 1. Giải thích văn đầu: Lại chỉ ba giáo, chỉ là pháp dụng, vẫn còn không phải năng thông, huống chi là sở thông. Thế nên ba giáo phi năng phi sở, nên ba phương tiện thảy đều là thô. Giải thích văn thứ hai: Môn là tam giáo được là năng thông. Không nói tam giáo tức là Viên, cho nên phi sở thông, kia đã bất tức, cho nên cũng là thô. Giải thích văn thứ ba: Cũng khai hai trước, phi năng phi sở và dùng năng thông đều khai thành sơ.û Trong sở thiện xảo gọi là “phương tiện”, cho nên diệu. Phương tiện khác với phương pháp và năng thông môn. “Cho nên biết…”: là kết bài xích. Trước là: kết danh thể, hoặc đồng hoặc khác. Tuy đều gọi là phương tiện, mà có ba thứ sai khác đây, lẽ nào chỉ nghe danh liền giải nghóa kia cho nên ba giải thích đều có nói “phương tiện”. Hai là: Chẳng phải phẩm này, cho nên nói “nghóa khác”. “Người đời…” là tổng bài xích người đời, lẽ nào Đại sư “đới” thiên tình có dựa vào bè đảng nào ư ? Kia như lý nào? Kia như văn nào? Kia như hạnh nào? Kia như chứng gì? Sinh công nói: “Thiên chân riêng đặc biệt” mà còn nói “theo xưa đề phẩm”. Nếu theo xưa đề, thì vì sao xưng tán? Nếu xưng tán xưa đâu thì lẽ nào chẳng phải hủy báng nay ư ? Nếu dùng xưa tán thán nay, lại lỗi lầm với xưa, thì khiến Quyền của Thể nội hoàn toàn thiếu, dụng của Thể ngoại lại thiếu, mới thành trong ngoài đều không có, thì làm sao được tán thán Phật quyền trí. Năm đức Phật khai triển tiện lạm sơ thi thiết, tam chu thiện xảo vẫn là. Nếu nói phẩm tuy đề xưa mà trong phẩm tại nay, thì là treo bảng nơi huyện làm hoặc loạn người đi đường. Lại nữa, trong phần đầu giải thích đã dùng tam ngữ “tùy tha…” để thông hai giải thích sau. Giải thích kế tiếp lại dùng “môn” để thông đầu sau, lý cũng nên dùng “diệu” để thông hai trước. Văn không nêu, chỉ lược, nên nói “vân vân”. Lẽ ra nói: Đầu tiên giải thích Phương tiện là bí mà phi diệu. Tiếp, giải thích Phương tiện bí mà có thể nhập diệu. Sau cùng, giải thích Phương tiện bí tức là diệu, đây chính từ giải trong Phật để nói, nay thành hiển lộ cho nên thiếu không luận. Phần thứ ba: Căn cứ bốn câu, đầu tiên là hỏi, ýù là: Chánh bản đã nói thiện quyền, nên biết “quyền” là tên khác của Phương tiện, muốn căn cứ tên khác để xem xét đồng khác, cho nên trước khởi hỏi. Trong phần đáp có bốn: 1. Nêu liệt; 2. Giải thích; 3. “Ba câu…”: là phân biệt; “Cho nên Chánh Pháp Hoa…”: là dẫn chứng. Trong phần hai Giải thích, tương phá một đối phân làm hai câu: Tương tu tương tức đều là một câu, hợp bốn câu. Các văn khác hoặc lấy đây làm ba câu hoặc làm sáu câu, tùy pháp tướng kia mà lập ý không đồng. Cú pháp thường định, nay lập ba đối rồi mới khai làm bốn câu, muốn lấy bốn câu dùng đối ba giải thích, lấy ba câu trước thuộc hai giải thích đầu. Nếu chỉ làm ba câu thì lấy hai câu trước phân biệt thuộc hai giải thích trước, có gì mà không được? Chỉ vì trong tương phá văn tương biệt. Lại căn cứ tương phá tương tu cũng có thể phân làm hai câu, bốn câu thuộc trước cũng không lầm lớn, danh cú đều tùy thời không thể căn cứ một. Nói “tương phá”. Quyền cùng phương tiện, xưa nay đều có hai tên, đối xưa thì “Thiên, Viên” hai danh tương phá, đối nay thì Thiên Viên danh thể tương tức, đây đối giải thích đầu tiên nên nói “tương phá”. Tại nay thì ba giáo đều diệu, cũng gọi là quyền, cũng gọi là phương tiện. Tại xưa thì ba thứ đều thô, cũng gọi là quyền, cũng gọi là phương tiện. Cho nên, đem hai xưa xen lẫn phá hai xưa để thành hai câu tức hai tô ba giáo đối Viên giáo kia. Cho nên trong giáo xưa ba đối người Viên giáo đều thành bí diệu và vì đồng thể, nên nói “bốn thứ đều là bí diệu và đồng thể”. Vì vậy nói tương phá, chỉ là theo danh không theo thể. Nay từ danh giải thích thể kia thường định. Nói “tương tu”: Cũng đều ở hai danh xưa xen nhau lập, chỉ là ba giáo hai danh xen lẫn tu Viên giáo hai danh, vì vậy nên khác với câu tương phá trước. Tuy xưa người Viên giáo cũng thấy bốn thứ đều là bí diệu, nhưng đối giáo kia không được hiển thuyết nói tương tức, cho nên chỉ y nơi xưa đối luận, nên tương tu cũng đối ba giáo để biện một Viên. Vì sao? Vì nếu xả bỏ ba tu Viên, thì trở lại đồng câu phá. Nếu tức ba là Viên thì mới đồng câu sau, không phá không tức, từ Quyền nhập Thật cho nên được gọi là “tu”. Nếu như vậy thì hai vị ba giáo trước, lợi căn Bồ-tát có hiển lộ đắc, hai giáo nhị thừa chỉ bí mật đắc. Do đắc nhập nên tức gọi là “môn”. Nói “tương tức”: Tức chỉ là khai cho nên tương phá thuộc giải thích thứ nhất, tương tu thuộc giải thích thứ hai, tương tức là giải thích thứ ba. Nói “v.v…”: lại dùng bốn câu, căn cứ vị so sánh quyết định, hoặc khai hoặc phân biệt, đầy đủ như văn khác, căn cứ đây nói thì có thể thấy. Dưới lại rộng nêu, nên không lập lại. Phần 3.Phân biệt : có thể thấy. Phần 4. Dẫn chứng: Chánh bản gọi là “tức nay”, chiùnh là thể tức. Ba quyền ba phương tiện tức là một quyền một phương tiện. Tiếp, giải thích “Phương tiện”: Cũng nên nói “Phương tiện” tức quyền, nêu kia để giải thích đây, nên không rườm rà nhiều. Phải biết Thể ngoại phương tiện tức Thể nội Quyền, danh tuy lại xen lẫn gọi, mà dưới là thể đã khai, trên thể gọi là bản thật. Do xưa phân có Thể ngoại Thể nội, thì khiến hai xứ danh dưới thể sai khác. Cho nên biết kinh này Phương tiện tức là Chánh Pháp Hoa thiện quyền, Chánh Pháp Hoa thiện quyền là kinh này phương tiện không hai không khác. “Đê đầu (cúi đầu)…”: Còn khai Nhân thiên, huống chi ba giáo. Nếu được khai rồi thì nhất thể không khác. Trước đã ba tầng tổng xuyên suốt tám môn. Môn thứ năm bên dưới, tuy kết quyền thật mà nhờ kia tiện nêu ba phen giải thích phẩm. Chánh ý nên dùng ba thứ giải thích phẩm thông suốt tám môn. Tư duy đó không sai lầm, mới có thể giải thích, huống chi mỗi mỗi môn trong mười cặp, mỗi cặp nên hiểu ba phen giải thích. Trong một bộ trong giáo một đời không ngoài tám môn mười cặp. Tiếp, trong phần rộng giải thích, trước là phá xưa, chia làm bốn: 1. Thuật năm thời giáo phi. 2. Thuật bán mãn… phi. 3. “Lại có…”: là thuật tạp giải thích phi. 4.“Lại có…”: thuật phụ bên phi. Như vậy bốn thất đều xưng quyền thật, quyền tức phương tiện, không biết lấy gì để giải thích phẩm này? Phần đầu: Năm thời phi: Đều trước trình bày, tiếp phá. Trước trình bày thời đầu. Tiếp, “Nay gọi là…”: là phá: Đại luận phá vô thường chỉ là đối trị, đối trị thuộc sự, sự tức không thật, chỉ thành Tiểu tông phương tiện. Dù có Đệ nhất nghóa Tất-đàn nhưng vẫn chẳng phải là hạnh môn ba Tất-đàn phương tiện, đâu phù hợp với giáo đây quyền xảo phương tiện trong Đệ nhất nghóa! Tiếp, phá sau mười hai năm là Bát-nhã, nay không rảnh phá kia tại trước thời Phương đẳng, chỉ phá quyền thật không ngoài Thông giáo cho nên nói tức không. Dẫn ý luận: Tuy không hữu tương tức, đối với thật thành tưởng, vẫn còn chẳng phải Thật trong Bát-nhã, không thật thì không đồng thể phương tiện, lẽ nào thành phẩm Phương Tiện của kinh này? Hỏi: Bát-nhã tam giáo đều niệm tưởng ư? Đáp: Thông biệt đều căn cứ chưa chứng thật, cho nên văn chỉ nói “chiếu giả hữu không”. Không chưa thật, nên cố phá gọi là tưởng, Tâm cảnh chưa dung thông, nên quán gọi là tưởng. Cho nên, có tưởng quán thì chẳng phải phương tiện nay. Tiếp, trình bày ý Tịnh Danh: Do trong Phương đẳng tự hành nội chiếu không hữu hai cảnh. Như nói tu học tam Tam-muội, không dùng tam Tam-muội làm chứng… Nạp biển pháp giới vào trong hạt cải gọi là biến động, ý cho rằng dùng quyền thật đây vượt qua Bát-nhã trước. “Nay gọi là…”: phá, có hai: 1) Đối trước, giáo trước lẽ nào không có nội chiếu ngoại biến? 2) Đương bộ trong thật đối ngoài trở lại gọi là hai, cũng chẳng phải nhập bất nhị môn của kinh Tịnh Danh. Đã chẳng phải bất nhị thì chẳng phải Viên giáo nhị đế tương tức, lẽ nào “Quyền thật bất nhị” của kinh này làm Phương tiện sao? Cũng không biết người khác chỉ cái gì làm hai và không hai, cho nên chẳng dùng. Tiếp, “Nay gọi là…”: phá kia trình bày Pháp Hoa dùng Tam tam, Tứ nhất, đầy đủ như trong phần hiển thật bên dưới nêu rõ, huống chi tuy phân quyền thật mà chưa ra ngoài giáo trước. Do không nói “tương tức” là “quyền”, nên biết quyền thật còn ngăn cách, cái gì khác thiên tiểu? Tiếp, trình bày kia phán xét Niết-bàn: Xưa Diệu giác mới gọi là thường. “Nay nêu rõ…”: là phá. Ông tuy chấp nhận Niết-bàn là thường, mà phân biệt tại Diệu giác. Vì sao? Vì đạo tiền đạo hậu chiếu chân chiếu tục, đều có thường và vô thường. Vì sao quyết định dùng Kim Cang tiền hậu để phân biệt kinh bộ? Trong bộ được lợi ích dâu phải đều là Diệu giác. “Lượng”: là số lượng và dùng thể lượng. Do cảnh thế tục kia là hữu lượng, pháp như cảnh mà chiếu là quyền trí. Đây dùng lý lượng của Nhiếp để luận phá, cho nên ý văn nay như nêu rõ thường trú, lý tánh chúng sinh vẫn còn thật vẫn còn thường, đâu phải sau Đẳng giác mới là thường ư! “Năm thời đây…”: là tổng kết vậy. Cho nên, năm thời kia quyền thật chẳng có gì khác, đều chẳng phải ý nay. “Cho đến…”: là Phần thứ hai: Căn cứ bán mãn…, phá các tông bán mãn đầy đủ như trong Huyền Văn quyển mười nói. Năm thời đã nghiêng, các tông Bán mãn không công phá mà bại. “Lại có…”: là Phần thứ ba: phá tạp giải thích, có bốn: 1.Biệt trình bày. 2.“Như vậy…”: là tổng phá. 3.“Quyền nay…”: là biệt phá. 4.“Đều không…”: là kết phi. Trong phần Biệt phá, nói “xứ sở”: nghóa là trí sở thác. Xứ nêu bày cùng giả đều nói tạm thời, cho nên biết trở lại căn cứ xứ tạm thời. Hóa thành, thảo am… tức là tướng kia. “Pháp môn”: Trí sở dụng pháp tùy căn cơ chúng sinh mà thích nghi, chỉ Tam thừa nên gọi là “pháp môn”. Nói “trí năng” : là trí năng thì thiết tiến hay không! Có tức nên ở Lộc-uyển thiết lập tam thừa. Chữ “chùy” có âm đọc là phiên thiết của hai chữ Trữ và Ngụy, cũng là phiên thiết của hai chữ Trữ và Vi ; có nghóa là quả cân. Bất cứ vật nặng hay nhẹ, khi đem cân thì quả cẫn cũng đi tới chỗ quân bình, cho nên gọi là trí xảo năng. Trong phần Kết phi, nói “không bao hàm”: Quyền thật tự trụ không tương tức, huống chi căn cứ xứ căn cứ pháp, chỉ nói ba xe, cho nên khiến trí năng không vượt qua đây, văn không thâu nhiếp bốn giáo, lý, hành cho nên nói “không bao hàm”. Nghóa vẫn chưa thâu nhiếp khai pháp tam nhân (người) cho nên nói không dung thông muốn hiểu rõ phẩm này thì đầy đủ như bốn câu, có pháp nào lại không thâu, pháp nào lại không dung? Trình bày “Phụ bên năm thời phi”: Nghóa thế mạnh phần nhiều là tốt đẹp xưa lập, cho nên nay trên dưới ba, hai xứ phá, khiến biết được mất. Như kia không mất, thì lấy gì quy tâm? Mất kia chính là trước quy tâm, phá chính là ánh sáng kia sau, trong đó có ba: 1.Lược lập, 2.“Đầu hai…”: lược phân biệt, 3. “Đây các…”: là căn cứ đế giáo trí ba tầng ba chuyển. Trước thuật lập: Ý văn đầu: Kia dùng tầng đầu hai tuệ làm căn bản, cho nên chỉ nói nhất quyền nhất thật. Ýù dùng quyền là phàm phu, thật là Nhị thừa; nghóa là Nhị thừa thật phá phàm phu quyền, mà phàm phu mê thì chưa gọi là quyền, đây cũng chưa thể như thế phụ thời Lộc- uyển phi. Tiếp, “Không hữu…”: ý dùng song ly cái không hữu trước nay, mà dùng “quán Không, bất chứng” làm quyền, lấy “thiệp hữu vô nhiễm” làm thật, cho nên dùng “quán Không phi Không”, “quán hữu phi hữu” để hiển bày Trung đạo, đây chính là phụ thời Bát-nhã phi, bất tri trong Bát-nhã thì Trung đạo phi nhất. Tiếp, nói “Không hữu nội tịnh”: Ý nói lấy dứt cái không hữu quyền thật trước làm thật, lấy ngoại dụng này làm quyền, chẳng những nội tịnh song phi, mà còn năng ngoại dụng song chiếu. Trước tuy song phi chỉ đồng nội tịnh, đây cũng không biết hai giáo cùng có, đây là phụ thời Phương-đẳng phi. Tiếp, lại dùng “song phi song chiếu” này, tại Kim Cang tiền vẫn là vô thường, tại Kim cang hậu mới là thường. Đây chính chẳng phải kia nội tịnh ngoại chiếu, đây là phụ thời Niết-bàn phi. Sư đây tuy thấy thời Niết-bàn thứ năm mà không nói đến Pháp Hoa chân thật, huống chi cũng trừ thời nhũ vị. Tổng luận tuy năm chỉ phụ bốn thời. Tiếp, thuật kia “lược phân biệt ý”: Đầu chỉ lập hai tuệ khiến tin có, cho nên chỉ trực tiếp nêu quyền thật. Tiếp, “Sinh giải”: Vốn lập hai trí, ý vốn lìa chấp, cho nên lìa nhị biên mới giải lập ý. Ý thứ ba: Lìa hai chấp nội, mới thành tự hành, lại năng không chấp biến dụng lợi ích cho người khác. Ý thứ tư: Chẳng phải chỉ ích tha mà tự tha đều quyền. Luận kia thật sự ý vốn tại cực quả, cho nên chỉ Kim Cang hậu tâm là thật. Nhưng nay nêu rõ năm Đức Phật chẳng phải không tại quả và dùng quả Bản môn cửu viễn, lý thì không như vậy. Khai phàm phu mà còn tức là chân thật, huống chi tại Kim Cang tiền vẫn cứ phân biệt là quyền. Quyền nếu chỉ tại Kim Cang tiền thì Phật vónh viễn không có quyền trí, làm sao để hiểu rõ phẩm này gọi là Thiện Quyền ư? Huống chi đều không phân biệt bốn tầng quyền thật là quyền hay là thật, huống chi đều không nói Pháp Hoa, hoàn toàn chẳng phải ý nay, cho nên không dùng. Trước đã thông biên rõ, cho nên nói “lược”. Tiếp, thuật “Ba chuyển”: Trải qua đầy đủ đế v.v… Nói “Ba chuyển”: Đối với bốn lớp trước, trừ quả thứ tư, dùng ba trước làm ba, trong đó lại chia làm bốn phần: 1. Lược đối ba chuyển. 2. “Vì sao…”: nêu nguyên do chuyển. 3. “Lại như…”: là dẫn chứng. 4. “Lại tiệm…”: là thuật ý. Phần đầu lại có hai: Một là: Chánh căn cứ “đế”. Hai là: Lệ giáo trí. Một, nói “đế” tức là hai đế, quyền thật làm bản, cho nên trước căn cứ đế để phân biệt cảnh, cảnh tức chân tục. Trong đó trước nêu, tiếp đối hai đế. Hai đế nói đồng sâu cạn đều khác, vả lại phân biệt lớp đầu một thật một quyền, chỉ gọi hai đế dùng hai đế đây làm tín bản (gốc tin), tức là chuyển phàm mà thành tiểu thánh. Tiếp, Lớp thứ hai: Chuyển hai đế trước đều gọi là “Tục”, song phi hai cái trước mới gọi là “Chân”. “Chân” đây chỉ là lìa chấp mà thôi! Lớp thứ ba: Trước trình bày lại cái Không hữu trước, chia làm hai: Trình bày lại cái không hữu trước là Tục. “Song phi bất nhị”: nêu lại song phi trước là Chân, tức là Chân tục này đây lại chuyển thành tục, cho nên nói “Nhị bất nhị đều là tục, phi nhị phi bất nhị là chân”. Lớp quả thứ tư : là ngoài ba chuyển đã song phi lý cực, chỉ có nhân quả tương vọng quyền thật, cho nên “không nói”. Tiếp, “Lệ giáo, trí”: Nêu rõ sở thuyên đây dùng làm sở quán. Đã có ba chuyển, thì năng thuyên năng quán lẽ nào không có ba ư ? Trong phần thứ hai “Nêu nguyên do chuyển”, nói “Vị nhân” (vì người): ba lớp hai đế đều phù hợp căn cơ chúng sinh, cơ tức là người, người có ba hạng, đây không chỉ “Vị nhân” trong tứ Tất-đàn, nên trước sau không ngoài hai đế. Vả lại căn cứ tùy căn cơ, lại gọi là “Vị nhân”. “Dẫn chứng”: Nói “thường nương tựa”, không vượt qua ba thứ này, cho nên chỉ đối nó lại lần nữa, nêu Phật giáo sở y, chứng ý căn cứ đế nêu ở trước. Tiếp, “Lại nữa, Phật giáo…”: là lại dẫn tổng ý làm chứng, tức chứng ý căn cứ giáo nêu ở trước, trong giáo trình bày không ra ngoài ba thứ này, cho nên nói “ba môn”, giáo tức môn. Tiếp, “Lại tiệm…”: là căn cứ ý Phật hóa mà tổng thuật ba thứ giáo, trí, đế nêu ở trước. Ý hóa độ năng sở không ngoài ba thứ này. Đầu tiên, khiến phàm phu xả Hữu nhập Không, tức ban đầu chế Tiểu. Tiếp, phá chấp Không của nhị thừa, cho nên Không hữu đều xả. Ý nói tiểu Bồ-tát vậy. Tuy xả Không hữu mà chưa thấy Trung đạo, Xưa Bồ-tát vậy. Chỉ vì vị theo thứ tự để phân đại tiểu, không luận biết Trung không biết Trung đạo… Tiếp “Hoặc là xả…”: là trung biên đều mất, tức đại Bồ-tát, hoặc là chỉ Bát địa, Sơ địa, Thập địa Đẳng giác. Tiếp “Đây là…”: lại dùng ngũ thừa để phân biệt ý giáo hóa trước nay. Ý nói: Phật tại thế ý giáo hóa không ngoài năm thừa. Đối ba lớp trước thì lấy phàm phu làm Nhân Thiên, Nhân Thiên sinh tín phá Hữu nhập Không để làm Nhị thừa. Tiếp “Lại vì..”: là căn cứ ba Giả để phán xét. Đây giống như người theo thứ lớp tu trung, trước phá ba Giả trong đây một phen chỉ thêm ba Giả còn lại không khác, chỉ là phân biệt giáo trước nay là năm thừa. Đầu tiên phá Hữu ắt đủ ba Giả, cho nên ban đầu dùng ba Giả làm tục, các ý đều đồng. Nhưng trong các phen tuy không nói Giả mà Tục đế của lớp đầu, lý phải là giả. Lại các phen trước không nói lớp đầu, nguyên vì tu trung chỉ là văn lược. Cho nên, phá giả tu trung, phần nhiều là ý của các sư thuộc phái Trung luận. Lớp thứ ba, nên nói: Chẳng phải ba thứ Giả Không Hữu, mà là hai thứ phi Không phi Hữu là bất nhị (không hai). Nhị bất nhị là tục, phi nhị phi bất nhị là chân. Căn cứ theo trước thì có thể biết, cho nên không nói lại. “Nay nêu rõ…”: chỉ tổng lược phá, chia làm năm phần: 1.Lược phi. 2. “Kinh nói…”: là dẫn văn chánh chỉ bày. 3. “Lại, ban đầu…”: là kết phi chỉ lỗi. 4.“Như Thiên Thân…”: là dẫn lệ. 5.“Phải biết…”: là kết chỉ bày. Phần một: Lược phi: Phụ bên dụng ý năm thời, dựa vào tên năm thời ngầm làm giải thích của mình. Nay dùng trong mỗi một thời ngang luận quyền thật thể dụng nhiều ít. Ý nêu xảo dụng của Như Lai khó nghó bàn, xảo dụng không lập chỉ thành Tiệm thứ, cho nên nói “phi”. Sau căn cứ ba chuyển lại trừ quả địa. Ý muốn phỏng theo làm trí đế lìa chấp, dùng nhân để hiển bày quả, không ý cũng chẳng thành Tiệm thứ. Tiếp, dẫn văn chính chỉ bày: Nay dùng năm thời tám giáo tương nhập mới thành Nhất thật, trong mỗi một thời ngang dọc xen lẫn, chỉ đến Pháp Hoa thì đế trí mới thuần nhất. Vẫn biện rõ khiến thành tướng phương tiện, nên đầu phẩm Phương Tiện tức tán thán trí đế phương tiện của năm Đức Phật, cho nên phẩm đề cần y viên đốn. Kinh nói: “Đều được nhìn thấy ông” cho đến “quả mới thường”. Kinh khiến bỏ phương tiện, ông mới bỏ liền dụng. Đại kinh nói “tự chỉ Pháp Hoa làm cùng tột”, ông bèn chỉ Kim Cang hậu tâm, lẽ ra khai các giáo ông mới phế phế bỏ đó. Tiếp, trong phần “Chỉ lỗi”, nói “tín giải hóa quả” tức trước lớp thứ tư thì thủy chung đều tiệm nhập. Tiếp, “Vì sao liên quan…”: là chánh chỉ lỗi kia, cho nên ngoài Gia Tường lại nói: “Thân cùng thừa đều tác bốn câu”. Thừa bốn câu là: Ba là phương tiện, một là chân thật, khiến xả ba chọn một. Đồ chúng thọ lãnh giáo, tuy lại bỏ ba mà được ban cho nhất thật. Thô hoặc tuy bỏ mà tế hoặc chẳng bao lâu sẽ sinh. Nay hỏi: Đến hội Pháp Hoa nếu đã bỏ ba thì ở xứ nào mà ban cho nhất thật? Nếu chưa đến Pháp Hoa, trước đó lại không bỏ giáo ba; thì người Thanh-văn đối trước Pháp Hoa, Kiến tu lâu phá, đến đây vì sao tế hoặc chẳng bao lâu sẽ sinh? Ban cho Thật là thế, thì như thế nào là hoặc nhiếp? Lẽ nào có tế hoặc do nghe pháp sinh? Lại nói vì đối phá, cho nên nêu ba cùng một đều là phương tiện. Nay hỏi: Không xét kỹ ba, một đều là phương tiện, vì ở trước kinh Pháp Hoa hay đến hội Pháp Hoa? Vậy trước đó còn mê ba là phương tiện, sao từng nói một cũng là phương tiện? Cho nên, phẩm này ban đầu chỉ nói ngày xưa phương tiện chỉ bày ba, đích xác thì không có ba, một, đều gọi là phương tiện, nói đối phá là ở hội nào? Người lãnh thọ giáo mới biết ba, một đều là phương tiện, liền ban cho hai phi mà làm lý cùng cực. Nay hỏi: Ba chu, thì chu nào là văn lãnh thọ hai phi? Trước đó, Nhị thừa mà còn không có hai trước, huống chi song phi ư? Nếu hàng Bồ-tát nơi nơi đắc nhập, thì đâu cần Pháp Hoa? Ba lại dùng ba, một làm hai, hai phi làm bất nhị; nhị và bất nhị đều là phương tiện, phi nhị và phi bất nhị đều là chân thật, phá cũng căn cứ theo trước trưng dẫn người và xứ. Nhị cùng bất nhị và dùng hai phi, vẫn thuộc bốn câu, vẫn chưa tránh khỏi danh ngôn, đều gọi là phương tiện. Các pháp tịch diệt không thể ngôn tuyên, chính là chân thật. Nay hỏi. Từ Tam-muội ra bảo tam chu hiển bản, là thuyết hay không thuyết? Nghóa tịch diệt trùm khắp đâu chỉ có Pháp Hoa ư! Lý trong giáo bản tự vô ngôn, huống chi đại thừa không thể nói, trước vì năm người (Thừa) huống chi nay rộng nêu năm Đức Phật khai Quyền biện rõ giáo Quyền thật. Quyền thật đã hiển, sao lại nói “ban cho”? Nói “ban cho ba”: thì mê giáo mê tình. Nay căn cứ bộ phán giáo, hiểu rõ tên “Phương tiện” cần có chỉ qui, lẽ nào luống sót lời? Dùng lời theo lời thì mê mãi mãi vẫn chưa trừ được, tuy ngàn vạn lần phá cuối cùng cũng không tận dứt. Bốn câu của Thân thì căn cứ đây có thể biết, huống chi đầu đề phẩm này là “Phương Tiện”, nên dùng phương tiện để giải thích phẩm này, mới là thật giải thích không trái đề phẩm. Cho nên, biết Gia Tường thân thấm nhuần diệu hóa nghóa đã rưới mầu nhiệm. Chương xưa nêu trước là hạnh lý phải nương theo phá, biết đại ý chỉ đây thì thầy trò có thể thành tựu. Căn cứ một đường hướng này thì các thứ còn lại cũng có thể rõ. Cũng như ba thứ pháp luân không trái với thừa lãnh, Đại sư gọi là “đốn nhũ”, kia dùng căn bản đặt tên, Đại sư dùng ba vị làm cành nhánh, kia cũng dùng Đề-hồ làm gốc trở về. Nay hỏi: Phàm nói căn bản tức nói năng sinh, năng sinh bắt đầu thành, sau nhiếp trở về bản, bản vẫn chẳng phải bắt đầu, hai lời nói trái nhau, cành gốc không lập, nhiếp cũng không đúng, huống chi căn bản hai phần nhiếp trở về còn một, một là căn gốc, hai thì gọi là cành. Vậy thì gốc rễ xưa nay là cành, nên phải hợp đầu mà theo ở sau cho nên khai cành Hoa Nghiêm Biệt để nhập gốc Pháp Hoa Viên, huống Hoa Nghiêm Biệt Viên đều thành cận tích. Nghóa căn lại hoại Phapù Hoa bản thành. Lại, nói “ba vị là cành ngọn”: Lộc uyển có thể vậy, hai tô như thế nào? Nếu hai tô Viên Biệt là cành, thì Hoa Nghiêm đâu thể thành gốc? Nếu vậy, chính thành “hội bản qui bản”, hoặc tức “hội cành qui cành”. Nếu Pháp Hoa không liên quan đến Hoa Nghiêm thì khiến hai bản vónh viễn sai khác, sao được gọi là “hội mạt qui bản”? Huống chi trong bộ Pháp Hoa không có văn nhập Hoa Nghiêm, chỉ có nhập Phật tri kiến, huống chi văn nêu Niết-bàn chung cực năm vị . Bản sư sở sư xưa nêu cần phải sửa đổi. Nếu y xưa lập, thì nghóa Thầy trò không thành. Thuyết để khuất phục thì chẳng có gì để làm, thuyết để tôn kính trên đầu thì nương tựa cái gì? Phần thứ tư: Dẫn lệ. Dẫn hai văn làm lệ: Tức là kinh này thì Thể nội phương tiện là loại được lưu truyền. “Kinh Đại Thừa Phương Tiện nêu mười thứ phương tiện”, chưa kiểm chứng. Phần 5.“Phải biết…”: là tổng kết chỉ bày bài xích phi. Nói “như hư không như biển lớn”, là tổng bao hàm các kinh đều quy về kinh này. Các kinh ví như hình sắc như dòng chảy. Kinh này ví như hư không như biển lớn. “Nay nêu rõ…” chính giải thích có hai: Trước thông, sau biệt. Phần Thông có ba: 1.Liệt kê. 2.Giải thích. 3.“Nếu tất cả pháp…”: là dùng tứ nhiếp pháp để biện rõ công dụng của pháp. Trong phần giải thích, bốn câu đều trước là nêu tiếp là dẫn văn giải thích. Câu đầu: đã dẫn văn nói “Các pháp…” Do có nói lên, lại theo có thuyết, có nói thì không ngoài ngàn như trăm giới. Câu thứ hai: gồm dẫn năm văn đều chứng nhập thật vả lại dùng nhập chứng đối thuyết làm thật. Văn đầu: ý gia bị cho căn cơ, văn thứ hai: là gốc các pháp, văn thứ ba: là tông hóa nghi, văn thứ tư: là nguồn gốc bản hạnh, văn thứ năm: là lý vong giáo, các văn đều dùng nhập chứng làm thật. Cho nên biết rằng: có nói, không nói đều dùng chân thật làm gốc. Trong câu thứ ba dẫn chứng ý: Các pháp là quyền, thật tướng là thật, thật tức câu thứ hai, quyền tức câu đầu, hợp hai câu đó cùng làm câu thứ ba, vì hai môn đầu không có biệt pháp, “Lệ như…”: dẫn lệ. Giả tưởng cho nên hư dối, trị dục cho nên thật. Chỉ nhất quán này là thật là hư, thì một pháp cũng quyền cũng thật có sao đâu? Câu thứ tư : dẫn văn tức chỉ lý Trung, lý hư thật… nhị đế khó nghó bàn, song phi hai đế này để hiển diệu trung, cũng không khác với ba môn trước, bốn môn lý đồng cho nên đều nói “tất cả”. “Nếu tất cả pháp…”: là phần 3. Biện công dụng, lại có hai: Một, chánh biện câu nhiếp pháp công dụng. Hai, “Thẳng nêu…” là nêu ý câu kia. Văn đầu, chỉ bốn câu đây còn lẫn nhiếp lẫn phá, quyền thì đều quyền cho đến đều là phi quyền phi thật, huống chi các pháp khác không nhiếp phá ư? Huống chi ngoài bốn câu không còn có pháp, như đây mới thành phá lập của kinh này, lẽ nào cùng với phá lập của các sư đồng ư? Phải biết các sư đã không biết nơi quyền thật, dù nói Thật nhưng vì chưa phân phán, cho nên thật nghóa không thành, huống kia kia tương vọng xen lẫn thôi mê thật, vì vậy đều là câu đầu sở phá cho nên nói “đều là quyền”. Câu đầu tiên còn vậy huống chi ba câu ư! Cho nên Quyền thật của các sư đều đắc chút phần quyền mà thôi. Nói “Như Lai sở thuyết”: nêu quả để so với phàm, Phật có sở thuyết mà còn đều là quyền, lẽ nào đời mạt pháp, phiếm bàn mà tự nói là chân thật, không suy nghó Thánh hóa chỉ tiến cử thân thể phàm phu. Câu thứ hai: Thật tức cứu cánh. Quyền của Phật thuyết mà còn phải nhập thật, huống chi các quyền khác, thật mà không nhập ư? Cho nên biết hết thảy chỉ có Nhất thật. Nói “tổ hang (sào quật)” Sách Thuyết Văn nói: Chim ở cây gọi là “tổ”, thú ở trong hang gọi là “hang”. “Bảo” là trú trước. Hiểu thông đại chỉ phải xứng tâm Phật, chỉ giữ một góc thì như “giữ gìn hang ổ”. Câu thứ ba, thứ tư căn cứ nói có thể biết. Cho nên, văn này mỗi một câu đều trùm khắp. Nếu thu nhiếp khiến có thể biết, thì chỉ là ba trí chiếu ba đế cảnh, gia bị cho ba hạng căn cơ. Cơ biến, pháp biến, lý biến sự biến, đều nói tất cả sở dó có thể biết. Do “một không tất cả không” nên tất cả đều Thật. Vì “một giả tất cả giả” nên tất cả đều Quyền. Hai câu thứ ba và thứ tư chỉ là Trung trí song chiếu song phi. Trong do ba đức ba thân đầy đủ, cho nên khiến ngoài dụng ngang dọc hiển mật, làm thành ý phá lập của kinh này. Do đối xưa cho nên phải làm bốn câu, Thông luận đại cương pháp tướng tuy vậy, biệt luận phẩm này chỉ tại câu thứ ba, cũng quyền một câu rưỡi gọi là phẩm Phương Tiện. Do đối tự chứng thật trí nói, cho nên phải nói nửa câu thứ ba, vẫn phải nhiếp ba thứ còn lại kia và nửa câu nhập vào một câu rưỡi đây, mới có thể được gọi là phẩm Phương Tiện này. Nếu chuyên bốn câu đều nhiếp tất cả còn chẳng thải thông phương, huống chi các Sư biến kế quyền giáo của các sư, cho nên nói “không được nhất hướng”. “Thẳng nêu…”: là tiếp nêu ý câu: Như trước đã giải thích tuy lại lược dẫn lược giải thích tướng trạng, vẫn thành “thẳng nêu” để biện rõ tướng câu, chưa kịp dung thông dể luận huyền chỉ. Hoặc phá hoặc lập mà còn đã không bỏ sót, không thiên một câu không đắm trệ một góc cho nên nói “còn tự như thế”, huống chi dùng đại chỉ mà xa quán, chẳng hạn cuộc một phương cho nên nói “huyền lãm”. “Phương”: Nghóa là một người một hạnh. Cái gọi là “một lý một giáo”, là tùy lập tùy nhiếp tùy phá tùy vong. Thủ xả tự tại, cho nên nói “khoáng đãng”. Vượt khỏi ám trệ, gọi là “cao minh”, lại cùng tận viễn giáo gọi là “xa quán”. Xét lý sâu là “huyền lãm”. Dụng ngang khắp là “khoáng đãng”. Chỉ dọc thấu triệt là “cao minh”, hiển một nhà tiêu thông cho nên nói “như thế”. Nếu làm chữ “huyền”, thì ý cũng có thể thấy. Người khác không thấy đây thì dùng cái gì để giải thích phẩm Phương Tiện? “Huống chi luận chỉ thú”: Vì phá lỗi xưa, vả lại dùng giáo tướng quyền thật phá lập khai thị ẩn hiện dư thiếu hành tàng. Nếu hạnh giải kiêm luận tự tha hợp nói, thì chịu nhận văn trước nay để luận ý chỉ kia. Tóm lược sự trước nay để luận thú hướng kia phải hiểu bốn câu chỉ một pháp tánh. Pháp tánh chỉ là chân như thật tướng như như Niết-bàn. Do thể Pháp tánh không trái các pháp, không thọ các pháp, không trụ các pháp, không nhập các pháp, cho nên mỗi một danh tự, mỗi một tâm pháp, mỗi một câu kệ, mỗi một nhân quả, mỗi một phàm Thánh, mỗi một y chánh, cho đến mười cặp đều là pháp giới, tự tại vô ngại nghóa kia có thể thành, đầy đủ trong trong Bất Nhị Thập Môn nói. Hoặc bản hoặc mạt, thể lý không khác, nói mà không nói, không nói mà nói, chiếu tánh không xa, tự tại vô cùng. Dù rằng vô cùng nhưng không ra ngoài bốn câu, bốn câu không câu, không câu mà câu, câu câu thâu khắp cả mười phương Phật pháp. Chỉ vì giáo, trước thời Pháp Hoa giáo bốn câu, mỗi câu chưa thông suốt, đến nơi hội này thì một vị không khác… Đầy đủ như trong phẩm Dược Thảo Dụ, sai biệt tức vô sai biệt, vô sai biệt tức sai biệt. Tiếp, khai chương biệt giải thích: Đã biết các pháp hỗ dung biến nhập, nêu Thật tức có Quyền trong Thật, chính là chỉ Quyền đây gọi là phẩm Phương Tiện. Nêu “Quyền tức là Bất tư nghì quyền”, thì Quyền đây có thật, mới dùng quyền đây gọi là phẩm Phương Tiện. Nêu “cũng Quyền cũng Thật”, thì đều có chỗ trở về, đây chính cả hai tương tức cũng nhiếp cả hai cả ba, cho nên gọi phẩm Phương Tiện. Cho nên dụng tức phương tiện chân thật, gọi là phẩm Phương Tiện, nêu phi Quyền phi Thật thì chỉ là lý Phương tiện, lý nhiếp ba câu đều gọi là phẩm Phương Tiện. Hỏi: Nếu vậy câu câu đều trùm khắp đều là phẩm Phương Tiện, thì đâu cần câu thứ ba? Đáp: 1.Danh tiện thì đầy đủ quyền thật. 2.Nghóa tiện thì sở nhiếp trùm khắp. Các câu khác nghóa tiện mà danh không tiện, ba câu còn lại tuy có nghóa quyền danh quyền mà không như câu thứ ba tức danh tức đủ. Dụng đây tức thật, mà quyền làm phẩm này. Cho nên mười cặp dưới, mỗi cặp đều đủ danh quyền thật, đều chọn “tức Thật mà Quyền” làm phẩm Phương Tiện, huống chi ba câu đầu tổng giải thích đều xuyên suốt mười văn tám môn. Nếu không vậy, thì chẳng phải phương tiện sự lý cho đến Tất- đàn, không phải liệt danh của pháp tướng trong phương tiện, cho đến chẳng phải bản tích mười nghóa của kinh này, mười nghóa không hai bản tích tợ như khác. Bản tích, tuy khác mà bất tư nghì nhất, mười nghóa tướng biệt mà Thực tướng nhất như. Vì chúng sinh nên liệt giải thích Sinh khởi cho đến Bản tích, Sự lý cho đến Tất-đàn không đồng, đạt ý quên lời, giải thoát ngôn thuyết . Nếu thấy ý đây thì thường im thường nói, nói làm không trái, vẫn dùng ý chỉ đây mà làm cảnh quán, khiến cảnh quán kia chiếu rõ có thể thấy. Các chổ giải thích không có nguyên do nơi đây, như đây giải thích mà còn sợ là hữu lậu, huống chi các nhà giải thích đơn độc nông cạn. Dù nêu nhiều nhưng pháp tướng đại tiểu khó phân, tuy phán giáo thời mà Pháp Hoa chưa hiển. Nếu cho rằng kinh Pháp Hoa cùng các kinh khác đồng vị, thì chỗ thuyết ba không có, thì lời nói ấy ở đâu? Nhưng trong tám môn này thi bảy môn trước là Tích, môn thứ tám là Bản môn, bản tuy chưa đến mà quyền thật lý khắp. Cho nên văn dưới nói: “Ta dùng phương tiện này, chư Phật cũng như vậy”. Cho nên tên gọi Phương tiện thông Bản tích. Đây đã huyền thích không đồng tiêu văn cho nên không đồng với ngài Quang Trạch phân biệt câu. Lại nữa, ý của tám môn đây theo thứ lớp: Nếu không Liệt danh thì không dùng Giải thích. Nếu không Sinh khởi thì mê nơi thứ lớp thuyên. Giải thích chánh chỉ bày tướng trạng của mười văn. Dẫn chứng vì phòng người không tin, kết quy là nêu ý gốc của phẩm, phân biệt vì khiến giải thích phẩm có chỗ trở về, phán xét giải thích khiến biết thô diệu đều có, như vậy mới hiển bày ý chỉ sâu xa của phẩm. Lại chuẩn bị biện Bản tích khiến biết bản địa quyền thật tự tha, mới hiển con đường Đại hóa gần, xa. Trong Liệt danh cần phải sắp xếp nhất nhất đều nêu quyền thật, như nói “Sự lý quyền thật” cho đến “Tất-đàn quyền thật”, tức là sự quyền lý thật, cho đến Tất-đàn ba quyền một thật. Lại dùng ba thứ giải thích phẩm, phân chia mới thành phương tiện của kinh này. Cho nên luận nói: “Từ đây trở xuống thị hiện tướng nhân quả kinh này”. Cho nên trong mười cặp thì năm cặp đầu là từ nhân đến quả, năm cặp sau thuộc thắng dụng của quả, huống chi một bộ văn cũng có thể Bản tích mà phân nhân quả. Cho nên, biết: trong nhân nếu không có bốn cặp trước thì nghóa nhân cạn hẹp. Nếu không có năm cặp sau thì dụng quả thô cận. Trong đó, giáo là thánh hóa. Vả lại, dùng người thọ mà đặt tên, không đồng người đời lấy giáo làm nhân, Phật trí làm quả. Cũng không đồng ba, bốn môn v.v… của người khác. Còn lại như dưới kết quyền thật nói. Ở cuối phần “Sinh khởi”, trong câu “đó là mười chương thứ đệ vân vân”, thì “vân vân” là: Lẽ ra mỗi một chương đều thuật tướng sinh khởi, suy tìm kỹ thì có thể thấy. Lại nữa văn nêu năng hóa, nghóa phải đối sở. Cho nên năm cặp sau chỉ một cặp trong thể dụng là đối sơ,û còn lại bốn cặp, đều từ năng đối mà đặt tên. Lại, đây cũng cùng mười diệu nghóa đồng. Nếu không vậy, thì ai biết phương tiện cần đủ mười pháp? Ai biết nghóa mười pháp biến khắp một kinh? Nếu không có mười pháp mà lại thành kinh văn thì không thuyên giảng nhân quả và dùng năng sơ.û Cho nên mười cặp đều cùng tận đến cốt yếu, mới là mười cặp của kinh này. Nếu vậy một kinh từ đầu đến cuối đều gọi là Phương tiện, đều chỉ giáo trước lấy làm sở khai, rồi mới có thể gọi là phương tiện của kinh này. Cho nên, biết rằng: trong Tựa thì Chứng tín là Phát khởi phương tiện. Thí dụ chỉ là So sánh phương tiện, Nhân duyên chỉ là Vãng tích phương tiện, Bản môn chỉ là Cửu viễn phương tiện, Lưu thông chỉ là chư Phật Bồ-tát thông pháp phương tiện, do phương tiện đó nên gọi là chân thật. Nếu hiểu được ý đây, thì như xem quả trong lòng bàn tay, thì một bộ Pháp Hoa tâm có thể biết, một đời giáo môn sát-na liền biết, nhân quả tự tha côïng thành một pháp, mười phương ba đời không chứa mong cầu khác. Dùng thập pháp thừa mà quan sát, Pháp Hoa Tam-muội hợp đủ thì có đủ vô thượng Phật quả, đường tu có thể kỳ vọng, có mắt chư Hiền xin thương xót xem xét.  PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ <卷>QUYỂN 4 (Phần Thượng) Tiếp, chánh giải thích: Trong phần đầu tiên giải thích sự lý, thì trước là giải thích, sau là nguyên do. Trong giải thích thì trước là giải thích lý, nói “Lý là chân như” cho đến “là thật”: lý thật tại đâu? Tại tâm ý thức, cho nên lý không chỗ tồn, biến khắp tại sự, nên “gọi sự là quyền”. Luận Câu-xá nói: Tập khởi gọi là tâm, tư lượng gọi là ý, liễu biệt gọi là thức. Ở luận kia, nhất hướng hoàn toàn không có tức lý. Như trong Đại thừa thức thứ tám gọi là tâm, thức thứ bảy gọi là ý, thức thứ sáu gọi là thức. Giáo kia vì người mê, lại không có tức lý, cho nên giáo Thiên (lệch) Tiểu thừa pháp hữu lậu, hoàn toàn không có tánh tịnh, tức ít biết lý thường trụ. Cho nên biết hữu lậu tuy duyên tịnh…, đồng thuộc sự, đầy đủ như Sự Lý Bất Nhị Môn nêu rõ. Cho nên trong phần nguyên do, nói: “không phải lý thì không thể lập sự, sự có công hiển lý”, cho nên xưng tán phương tiện. Ai dám dùng tâm tam giới hữu lậu… để làm phẩm Phương Tiện mà được Như Lai xưng tán ngợi khen? Nếu không vậy, vì muốn cho chúng sinh thì nghóa ấy ở đâu? Tướng thế gian thì nói làm sao để hiểu, để giải thích? Trong phần Giải thích “Lý giáo”: Trước là chánh giải thích, tiếp “Phi giáo…” là nêu nguyên do. Đầu tiên trong giải thích lý, thì trước là lược giải thích, tiếp là dẫn lệ. Đầu tiên nói tổng sự lý trước, là hợp hoặc lý trước. Cho nên, biết: vô minh pháp tánh cho đến ngoại giới tất cả các pháp đều là sở thuyên. Tâm ý thức đây, danh cùng thể, đầy đủ tất cả pháp ngoại giới, thì ai biết giáo Pháp Hoa, dùng các pháp đây mà làm sở thuyên? Nếu không vậy thì tà kiến Nghiêm vương ác nghịch Điều-đạt từ đâu mà đắc? Tiếp, nêu lệ: Đây tức nêu giải để ví như nơi mê, khi giải lý chân tục đều đế giải do mê đắc, cho nên trong mê thì còn gọi sự lý. Do giải thích lý đây mà được thành giáo. Dùng lý vọng giáo, thì giáo gọi là Quyền. Lý tại nơi mê, thì mê cũng gọi là Thật. Cho nên gọi quyền thật chẳng phải một chỗ đắc. Quả giáo luận đàm đây năng thuyên cũng quyền, cho nên biết giáo kia chỉ giải thích lý kia, vì vậy nên Như Lai xưng tán giáo này. Nếu chẳng phải kinh này, thì ai dám tán thán giáo giải thích mê này là phẩm Phương Tiện? Nếu không vậy, thì từ Tam-muội ra tán thán cái gì? Tiếp trong phần “Giáo hạnh”, “hành có sâu cạn”: nghóa là Viên tiệm. Viên tiệm là gì? Nghóa là bảy phương tiện, vẫn chỉ tiệm tiệm tức là Viên tiệm. Cho nên giáo định, mà hạnh thì dời đổi. Hạnh quyền giáo thật, vì vậy nói giáo không tiến thú, huống chi giáo giải thích thật tướng, lý thật tướng không còn sâu cạn nữa. Hỏi: Nếu không còn sâu cạn thì lẽ ra phải không còn giải thích hạnh giáo? Đáp: Giáo có hai thứ, giáo giải thích lý không hai thì tiêu biểu giáo hạnh tự phân, chỉ duyên hạnh có sai biệt dẫn đến giải thích (thuyên) hạnh giáo có chút sai biệt. Lại nữa giáo năng thuyên cũng không tiến thú, hạnh sở thuyên tự dần sai biệt. Nếu không vậy thì Như Lai phương tiện Ba-la-mật… sở chứng thế nào? Tiếp, “Phược thoát”: Hạnh danh còn thông vẫn kiêm trái thuận, cho nên dùng phược thoát mà phân biệt quyền thật, gọi là “phược thoát”. Lại thông xưa: Các kinh địa tiền còn tự trái lý vì chưa khai quyền, kinh này khảy móng tay đều là Phật nhân để hiển bày thật. Ai biết kinh này Phật dùng hạnh xấu cũng được gọi là thiện xảo phương tiện? Dụ Tử thi thông khắp tất cả, đầy đủ như trong Tu Tánh Bất Nhị Môn nêu rõ. Trong phần “Nhân quả” có ba: 1.Chánh giải thích. 2.“Không có quả…” : là nêu nguyên do. 3. “Hai loại quán…”: là giải thích thành. Trong phần Giải thích thành, nói “dùng hai loại quán làm phương tiện”: lại căn cứ pháp để nêu bày tướng, mượn quyền để lệ hiển, trong mỗi một lớp thông nhiếp các giáo, lẽ nào có thể quyết định hạn cuộc riêng hai loại quán ư? Như trong Thể dụng tiệm đốn khai hợp thông biệt, cũng có các pháp giáo thể dụng… Từ thể khởi dụng, từ đốn khai tiệm, từ tiệm hợp đốn… Tiếp “Thể dụng”: lại chỉ Sơ trụ vì tùy phân quả, quả đây tức có dụng của một trăm pháp giới. Nói “lập tất cả pháp”: trước trong phần sự lý thì dùng nhiễm duyên làm tất cả pháp, ở đây thì tịnh duyên là các pháp, đầy đủ như trong Nhiễm Tịnh Bất Nhị Môn nói. Tiếp, trong phần “Tiệm đốn”: 1. Tự tha đều có tiệm đốn. 2.Hóa tha khởi dụng nghóa kiêm quyền thật, đều là quyền trong thể làm pháp lợi tha quyền thật đây, cho nên phải nêu rõ khai hợp. “Khai hợp”: “Tiệm tự không hợp”: là Tạng Thông hai giáo không phế bỏ Tiểu thừa. “Cũng không hợp đốn” : Tam giáo Bồ-tát không nhập thật. Tiếp, “Thông Biệt ích”: Trước nói tiệm đốn môn thì trong tiệm tuy có bán giáo mà bán ở đầu tiệm, nay bán ở sau Thông. “Tất-đàn”: tức là phán thể dụng nói ở trước cho đến Thông Biệt. Căn cứ trước để giải thích. Tiếp, “Đương dụng…” là kết chỉ bày phương pháp. Nói “bốn câu”: là bốn câu “tương pha”ù v.v…, đầy đủ như trước giải thích. Tiếp trong phần “Dẫn chứng” có hai: Trước là dẫn, tiếp “Luận kia…”: là kết tán. Đầu lại có hai: Trước kinh, sau luận. Trong phần kinh: trước là dẫn một bộ, tiếp là dẫn một phẩm. “Dẫn một bộ”: là muốn lược chỉ phương tiện khắp, đầy đủ như trước đã xét. “Dẫn một phẩm”: Chánh nêu khắc thể, chỉ văn xứ, đầy đủ như liệt kê sau. Đầu, “dẫn một bộ”: thì trước là chọn lọc ý, tiếp chánh dẫn văn. Đầu chọn lọc ý: Phân chọn thông theo biệt, mười cặp, mỗi mỗi đầy đủ các giáo vị. Nếu có người không rõ sự lý cho đến Tất-đàn, thì tin không phải Phật giáo, lại từ đối đãi nhau cho nên phân chọn thông theo biệt. Tiếp, chánh dẫn: Đầu tiên trong sự lý nói: “không như tam giới”, nghóa là không đồng. Bắt đầu từ Nhị thừa đều khác tam giới, chưa đủ để biện rõ nay. Nay từ câu trên “phi như phi dị” mà thành văn đây, cho nên cùng phương tiện giáo sự lý không đồng. Trong lý giáo, lý nói “tịch diệt”: Chân tục hai lý không thể nói. Tiếp trong giáo nêu “năm Tỳ-kheo”: đầu tiên Từ tiệm thuyết, cũng cần nên nói: Nếu người vô tánh thì vì họ nói nhân thiên, cho đến Tu-la… vì nói hạ phẩm thiện, cho đến vì nói vô tác tứ đế. Cho nên, biết: theo lý thì đều không thể nói, theo sư thìï đại tiểu đều có thể được nói. Chứng giáo hạnh: Nếu nghe chứng giáo, khéo hành thì chứng hạnh. “Các ông…”: hai văn đều chứng hạnh, nên rộng căn cứ kinh này để nêu tướng khéo tu hạnh thành Phật. Nói “chủng chủng”: nghóa bao hàm giáo hạnh, vì có nhân duyên xưa nay. Tiếp, “Chỉ lìa”: là chứng phược thoát. “Chỉ lìa v.v…”: là trong Tiểu thừa thì lìa vọng gọi là “giải thoát”, tức dùng hư vọng, gọi là “phược”. Tiểu tuy giải thoát mà chẳng phải tất cả thoát. Tiểu thoát, đối với Đại thừa thì vẫn gọi đó là phược cho nên nói “chưa đắc”. Như thế chứng đại tiểu đều có phược thoát, chỉ nay gọi là thoát. “Tận hành…”: là chứng nhân quả, tận hành nhân, đạo tràng quả. Phải căn cứ trong đây để nêu rõ Bản tích quả biệt, cho nên nói “v.v…”. “Phật nhãn” là thể, “thấy lục đạo” là dụng. “Bắt đầu thấy” là đốn, “học Tiểu” là tiệm. Nói “v.v…”: là năm thời không đồng hội khiến nhập đốn, “Cùng tử” là khai, “phó tài” là hợp. “Hóa thành” là thông, “Bảo sở” là biệt. “Chủng chủng” là tứ Tất. Tiếp, “Biệt dẫn một phẩm”: Trước là kết phần trước sinh sau. “Chư Phật…”: là chánh dẫn, phải nhất nhất giải thích khiến nghóa hợp mười cặp và cùng ý kinh này hợp… Đầu, dẫn “Chư Phật…” hai câu: Câu trên nêu Phật trí sở tri, cho nên nói “thậm thâm”, tức là lý. Câu dưới dẫn môn môn tức là giáo. Sở thuyên vì diệu cho nên nói “khó hiểu”, sở tri sở thuyên lý kia không sai biệt. “Nhất thiết…”: Sự lý đều là cảnh, cảnh tức lý. Trí tức năng tri vọng năng thuyên, đều gọi là lý vì đồng là sở thuyên. Đây chính dùng chữ “môn” cho nên khó giải chữ, lại phân thuộc Thanh văn bên dưới bất tri, đối Đại thừa gọi là “phược”. Đây nêu bất tri chính hiển năng tri, cho nên năng tri gọi là “thoát”. Tiếp, “Sở dó…”: là giải thích “nan tri” (khó biết) bên trên. Chứng giáo hạnh do năng tri thuộc tại nơi Phật, bởi do bẩm giáo có hành. Do thân cận Phật ắt được nghe giáo, “danh xưng vang khắp” ắt hạnh đầy đủ. Tiếp “Thành tựu…”: là chứng thể dụng, “thành tựu rất sâu” tức thể đầy đủ, “tùy nghi sở thuyết” tức là dụng. Nên biết trong văn lược chữ “tùy nghi”. Tiếp, “Ta từ…” là chứng nhân quả, chánh thủ thành chữ để chứng nhân đắc quả cũng là quả có nhân. “Chủng chủng…”: là chứng tiệm đốn. Các thứ chứng tiệm khiến lìa chứng đốn. “Vì sao vậy?…”: là chứng khai hợp: Phương tiện chứng khai, đầy đủ chứng hợp. Vả lại căn cứ tự hành luận hợp, tự hành đã đầy đủ lợi tha tất nhiên. “Chư Phật vì đại sự…”: là chứng lợi ích. Đại sự từ biệt biệt ắt hội thông. “Tóm yếu mà nói…”: là chứng tứ Tất-đàn. Nói “vô lượng vô biên” là chứng ba Tất-đàn. “Thôi không cần nói nữa” là chứng Đệ nhất nghóa, chính là chỉ lý bất khả thuyết. “Tánh tướng như vậy…”: là chứng sự. Mười giới là sự, thật tướng là lý. Nếu chấp cứu cánh… thì Không Trung là lý, Giả… là sự. Nếu đem văn đây đối quyền thật… bên dưới, thì đều căn cứ trong thể mà luận, đương bộ đã khai. Nói “Phật Phật đều vậy”: là chư Phật hiển thật đều nêu năm Đức Phật lấy làm sự đồng. Tiếp, trong phần dẫn “luận Pháp Hoa”, thì đây cùng với luận kia có một ít khác biệt chỉ có tám cặp, thiếu khai hợp phược thoát. Lợi ích tức là thông biệt, khai biệt xuất thông làm lợi chúng sinh Phược thoát cùng nhân quả có chút sai khác, cho nên không biệt đối. “Luận giải thích trí tuệ chư Phật rất sâu, là chứng rất sâu”. “Thậm thâm (rất sâu) có năm”, nay căn cứ sở chứng nên phân biệt thuộc lý. Tuy phân làm năm mà không ngoài nơi chứng. “Nghóa”: là nghóa vị, Phật trí đắc chứng có thật nghóa. “ Thật thể”: nghóa là lý sở chứng. “Nội chứng”: là tự hành khế hợp cảnh. “Y chỉ ”: nghóa là chánh nêu lý sở y. “Vô thượng”: là tán thán lý sở chứng. Khi đến quả thì vượt quá ba, năm, bảy, chín thừa…, luận tự chuyển giải thích “Vô thượng thậm thâm”. Nói “Đại Bồ-đề”: Luận dùng chữ “Đại” để giải thích “Vô thượng”, không phải dẫn Bồ-đề chứng vô thượng. Do câu thứ ba tự có chứng rất sâu, nên hướng đến căn cứ đương phẩm cũng dùng câu trên chứng lý, câu dưới chứng giáo. Nói “A-hàm”: Đây nói là pháp không gì sánh bằng, tức nói “giáo”. Năm câu trước chứng lý mà năng khởi giáo, gọi là “lý giáo”. Nay lý thông nhân luận văn tại quả. “Môn” là giáo trí gọi là “trí tuệ môn”. Trong đây phược thoái một cặp trong luận văn không có. Nay nếu lập, thì khó hiểu, khó nhập, vẫn thêm khó thấy, khó giác, khó biết. Trên “khó hiểu”, nói “tất cả Thanh văn Bích-chi-phật không thể biết”, đây chính là ý giải thoát. Thoát nên đối phược tức cùng phược thoát ý đồng. Luận văn hợp ở trong nghóa A-hàm. Luận đối với nghóa A-hàm lại khai tám thị hiện: 1. “Phật đã từng thân cận…”: là Thọ trì đọc tụng rất sâu. 2.“Trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật sở tu đạo Bồ-đề”: là Tu hành rất sâu. 3. “Dũng mãnh tinh tấn”: là quả hạnh rất sâu. 4.“Danh tốt vang khắp”: là Tăng trưởng công đức rất sâu. Nay hợp luận bốn văn lấy “làm giáo hạnh quyền thật”. “Luận giải thành tựu…”: là Quyết diệu sự tâm rất sâu thứ năm. Luận “Ýù thú…”: là thứ sáu: Vô thượng thậm thâm. Luận lấy “tùy nghi thuyết pháp” làm cái thứ bảy: Nhập rất sâu. Nay hợp luận ba thứ này cùng làm “thể dụng quyền thật”. Luận dùng nhị thừa bất tri làm cái thứ tám: Trụ trì rất sâu. Kinh đã không có văn, nay không có sở đối. Luận từ đây về sau lại lập bốn thứ “thành tựu công đức của Như Lai”: nhân quả quyền thật là thứ nhất. Sơ trụ thành tựu. Tiệm đốn quyền thật là thứ hai, Giáo hóa thành tựu. Trong đây thiếu một khai hợp quyền thật, còn lại cùng luận không đồng cũng không cần hòa hợp. Do luận văn tăng thêm câu, nay chỉ trực đối, như trước dẫn văn đương phẩm, cho nên nay lại hiểu rõ hiện văn. Từ trong “Chứng giáo hạnh”, thân cận ắt tu hành, tinh tấn ắt tăng trưởng. Nếu không tinh tấn tăng trưởng thì đâu có danh tốt vang khắp, cho nên hai thành hạnh đều do nghe giáo. Tiếp, trong “Chứng thể dụng”, sự tức là dụng, vô thượng cho đến nhập tức đắc thể. Đã nói thành tựu tín dụng từ thể. Tiếp, trong “Chứng nhân quả” nói “Nói Như Lai công đức thành tựu”: là công đức thuộc nhân thành tựu tại quả. Kinh nói “thành Phật đến nay” là nghiệm biết quả do nhân khắc. Tiếp, trong “Chứng tiệm đốn”, nói “giáo hóa thuyết pháp”: “Giáo hóa” thì thông nhiếp tất cả nghi thức hóa độ kiêm cả nghịch thuận. “Thuyết pháp” thì chỉ tại khẩu luân, hạn cuộc nơi thuận hóa. Nên biết ba luân đều nói thành tựu không riêng thi hạnh đốn. Tiếp, trong “Chứng lợi ích” lấy tự chứng để giải thích “lợi”, lấy lợi tha để giải thích “ích”. Vì tự chứng thật, nên nói thành tựu bất tư nghì; tùy tha quyền nên nói ngôn ngữ. Trước nói thuyết pháp thông nơi tự tha, đây nói ngữ ngôn chỉ tại nơi tha. Tiếp, trong “Chứng tứ Tất-đàn” nói “có thể hóa”: Tứ Tất-đàn đều từ người có cơ duyên mà đặt tên, cho nên nói “có thể hóa”. Trước nói giáo hóa thông chủng thục thoát. Trong đây “có thể hóa” phần nhiều tại thục thoát. Nay nói “không thể hóa” là tương đối đến thôi! Tức là người không có cơ duyên tứ Tất-đàn. Trong “Chứng sự lý”ù nói “thành tựu chư Phật năng tri, thể Pháp thân”, đây chỉ quả địa Pháp thân làm lý, do tùy chúng sinh gọi đó là sự, đây cũng là pháp thân diệu cảnh sự lý đầy đủ. Nay ý thông tất cả, luận văn hạn cuộc quả, quả do đảm đương tất cả, cho nên nghóa cũng đồng. Đây cùng Phật kinh và Bồ-tát luận văn lý nhã hợp, cho nên nói “cùng Tu đa la… hợp”. “Kết thành ba thứ quyền thật”: Kết thành đầu số, cho nên dùng quyền thật cùng làm số kia. Hoặc thiết lập hoặc hội nhập, pháp không tăng giảm. Nếu không có văn đây thì khiến trước giải thích quyền thật chưa phân, Vả lại liệt kê mười danh, chỉ lược giải thích mà thôi! Cho nên, nay đối giáo chính là phân quyền thật. Văn tự chia làm ba: Đầu kết thành ba thứ, trong đó lại có hai: Đầu thông sau biệt, tóm thông thành biệt. Trong Thông lại có hai: Trước là Thông trong thông, tiếp là Biệt trong thông. Phần đầu, Thông trong thông: Trước nêu cho đến “cũng như vậy”: là nêu trong đó tuy nói bốn giáo đều có mười mà chính thành bốn giáo đều có hai mươi, hoặc ba mươi hoặc một trăm sáu mươi. Nói hai mươi: Tức tự mười, tha mười, do tự thông không có biệt pháp, lại dùng tự mười thông để lợi tha. Vì vậy, trong văn chỉ liệt kê mười, hoặc ba mươi nguyên do biên chép, hoặc nói là tiêu biểu bất định nên tự tha một hoặc không có bản số. Chỉ tự tha nên nay vẫn chia làm tự tha một đối: 1.Y giáo, do trong Đại Kinh có tự tha đây nhất trùng Nhị đế. 2.Y lý đã nhiếp đơn tự tha mà vì tự tha hợp, mất đơn kia gọi là tự làm một dối, hoặc chỉ mười để trong tự hợp quyền làm thật là mười thật, đối ở trong tha hợp thật làm quyền là mười quyền, tổng hợp mới thành mười cặp quyền thật. Hoặc hai mươi: Cũng đều tồn tại nơi tự tha mười cặp. Phải biết bốn giáo hoặc tám mươi hoặc một trăm hai mươi hoặc một trăm sáu mươi làm như đây cộng thành một bất tư nghì quyền thật, nghóa là quyền trong thể để đối thật. Nếu không vậy thì chẳng phải Pháp Hoa. Tiếp, “Lại đương giáo…”: là trong biệt giải thích nói bốn thứ làm tự hành. Trước đã nói thông: mười, mười đều thông tự tha v.v… Nay nói biệt: Trong mười phân làm bốn, hai, bốn. Cho nên biết thẳng vậy phân mười để làm tự tha, không đối các giáo, mỗi giáo đều như vậy. Lại cũng có thể dùng năm thứ trước làm tự, năm thứ sau làm tha, tương đối làm tự tha. E rằng tự tha trong một giáo còn thông tự tha tương đối, nay chia làm mười để thành ba nghóa thì xưa nay vẫn thành biệt cho nên như vậy. Vì vậy nên bốn giáo chỉ có bốn mươi đều đầy đủ tự tha, cho nên biết kinh này chỉ thuộc trong Viên hóa tha tự hành, hóa tha mới được gọi là phương tiện. Tiếp, trong “Biệt kết” nói “hoặc thông hoặc biệt”: Chỉ ở trước thì đương giáo thông biệt, nay tổng dùng bốn giáo cùng đối tự tha, thì ba giáo là tha, chỉ có Viên giáo là tự, cho nên nói biệt. Thông biệt nói ở trước gọi là tự, cùng tha nghóa có liên quan các giáo khác. Biệt thì buộc nơi thông biệt, tự thì chỉ có tại phẩm này, đó là Viên gia phương tiện thiết lập khai v.v… Tiếp, “Kết thành bốn câu”: Kết hướng biệt, kết tự tha để thành bốn câu. Hỏi: Trước lập bốn câu mỗi câu nhiếp khắp, nay vì sao phân quyền thật đều nêu tương đối làm câu, tất cả không thành? Đáp: Tuy nhờ bốn câu kia dùng để trình bày ý nay, mà chính là phân bốn giáo, lìa nay đối câu có ba ý kia: 1. Đối luận thứ ba lìa thâu hết tất cả giáo chưa được gọi là đầu đề của phẩm này. 2.Khai xong, lại đồng văn trước viên dung tất cả. 3.Nay câu thứ ba đã thâu hết giáo, chỉ dùng quyền thật tương tức trong câu thứ ba này, thì nhậm vận thâu được ba câu còn lại. Mượn tất cả kia bởi có nguyên do. Nếu dùng bốn câu đều thông các giáo, thì tư duy đó nói năng đó. 4. Kết thành ba thứ giải thích phẩm, tức là trong văn đầu pháp dụng… ba thứ, cho nên đem ba thứ đây đều trải qua năm vị để kết tên phẩm. Cho nên biết ở trước đã giải thích là lược, dựa vào đương phần đối giáo để nói. Cho nên một nhà hiển diệu, ắt còn năm vị mới thành diệu. Cho nên mỗi mỗi giải thích biến khắp năm thời thì khiến pháp dụng và môn đến thời Pháp Hoa đều khai, khiến thành đồng thể pháp dụng môn đại xa. Hai cái trước đều thành nghóa thứ ba. Phần đầu căn cứ pháp dụng, lại chia làm ba: 1.Thẳng nêu năm thời. 2.“Như Lai…”: là nêu ý năm thời. 3.“Cho nên giải thích…”: là kết thành giải thích tên phẩm. Phần Thẳng nêu chia làm hai: Trước nêu ý xuất thế thiết lập quyền, sau chánh giải thích năm thời. Phần trước lại có hai: Trước nêu bản ý nhập thật, tiếp “Phật tuy…” : nêu rõ đầu văn ý thiết lập quyền, đạo tràng sở đắc thật, tu đạo đắc nên quyền. Cho nên dẫn luận Nhiếp Đại Thừa để song chứng hai văn, tức “Lý và Lượng”. Tiếp, ý thiết lập quyền là vì tiếp dẫn Tiểu thừa và độn căn. “Chẩn” là vết xe đi, mới bắt đầu đi gọi là “phát”. Tiếp, trong phần “Chánh giải thích năm thời”, nói “bày việc này”, là bày riêng nói. Cho nên đến Hoa Nghiêm kiêm thuyết biệt. Trong bộ, luận chủ tuy là Viên giáo mà căn cứ ý năm thời dùng Biệt trợ giúp Viên, hai giáo dưới cũng vậy. Đây căn cứ ba thứ pháp dụng của bốn thời trước không thể đến thật, cho nên chỉ thành nơi sơ nghóa giải thích phẩm. Nếu đến Pháp Hoa thì dù gọi pháp dụng cũng thành pháp dụng bí diệu, tức có thể dùng dụng giải thích phẩm kinh này, thì phương pháp là danh mà ngày xưa thông bốn, nay không còn bốn, không còn ba nữa. Tiếp, trong phần “Căn cứ môn” có bốn phần: 1.Cũng thẳng lập năm thời. 2. “Từ đầu đến cuối…”: nêu ý năm thời, 3.“Giải thích phẩm nói…”: là kết thành giải thích phẩm. 4.“Trước một phen…”:cùng chương trước biện rõ sai khác. Phần một cũng trước nêu ý xuất thế thiết lập quyền, tiếp chánh nêu năm thời. Đầu văn nêu tự chứng đối với thuyết lấy làm quyền thật, cho nên nó tự chứng cũng không thể nói. Tiếp, trong nhũ giáo, không nói kiêm biệt mà thẳng nói biệt, vì từ nghóa môn. Do đó trước giải thích pháp dụng thông bốn, nay chỉ tại ba, cho nên căn cứ năm vị giải thích môn đều từ năng thông, cho nên một Nhũ một Lạc, ba trong Sinh tô, hai trong Thục- tô, Đề-hồ an trí như vậy. Phần bốn: Biện rõ sai khác: Cùng trước pháp dụng tuy đồng nêu năm thời, mà đây nêu năng thông đến sở thông, cho nên được biện sai khác. “Trước một phen…”: là đầu tiên căn cứ trong phương pháp nêu rõ “Như Lai năng tri năng dụng phương tiện”, pháp là năng tri, dụng là năng dụng. Chúng sinh không biết là Phật phương tiện, nay đều khai khiến chúng sinh biết. “Đây một phen nêu rõ” khiến chúng sinh thuận theo phương tiện, nghóa là từ môn thuận theo thật, mà cũng không biết phương tiện tức là thật của sở thuận. Nay cũng khai phương tiện đó. Lại hai chương trước đều có cơ duyên ứng với hai ý, chỉ trước phần nhiều theo ứng thuyết, cho nên lại nói Như Lai, sau phần nhiều theo cơ thuyết nên nói hành. Cho nên nói ân cần tán thán đều từ Phật đắc. “Lại nữa…”: là phần thứ ba căn cứ bí diệu giải thích, do diệu nên tức, vì muốn thông bốn thời trước nên dùng Viên làm tức. Ba vì bất tức cho nên lại đối bất tức để giải thích tức, trong đó lại chia làm bốn: 1.Nêu rõ ý hóa độ. 2. Trải qua năm vị. 3. “Hai ý trên…”: đối trên biện sai khác. 4. “Trên giải thích…”: là kết phẩm danh. Ý hóa độ là ý chỉ Đại, đồng trước. Năm vị, có thể thấy. Nói biện sai khác: Tuy đồng năm vị mà sở đối biệt, tuy trong các vị có tức bất tức, mà Phật thì thường tức, chúng sinh thì tự ly. Lại phàm giải thích năm vị thì chỉ được phân biệt danh, nếu thành phẩm này thì phải cần khai lại. Đây tuy căn cứ ba nghóa trước để giải thích phẩm, thì hai nghóa trước đến vị thứ năm đã thành khai xong. Tuy thứ ba thuộc khai, nay lại thông trước. Bốn thứ trước cũng nói “không phải nay sở dụng”, nay cũng thành sở đãi là thô. Viên và sở nhập mới là chân thật. Sau giải thích tuy lại đối năm thời nhưng chỉ biết Đề-hồ, đều là bí diệu, khai cùng phê phán tại trong kia. “Phần sáu: Phân biệt chiếu đế”: lại có hai phần: 1. Nêu dụng ý: 2.“Nếu thông…”: là chánh nêu chiếu đế. Phần một, ý: Trước tự tha… đã nói quyền thật từ trí đặt tên, nay biện minh sở chiếu nên lần nữa lại nêu. Trước nêu dụng trí chẳng phải không chiếu cảnh, muốn khiến dễ hiểu nên lần nữa lại nêu sở chiếu. Phần hai: Chánh nêu, chia làm ba: 1. Thông giải thích: danh thông mà giáo biệt, nếu tóm bốn làm hai thì, trong mỗi một giáo đều dùng bốn làm hai, như trong “Tự” thì quyền thật tóm làm một thật, trong “Tha” thì quyền thật tóm làm một quyền, cho nên chỉ thành hai. 2.“Nếu phải phân…”: là biệt giải thích, pháp biệt và giáo biệt, căn cứ trước có thể biết, trong đây chuẩn theo văn biệt kết ở trước, chỉ nên dùng bốn thứ: Sự, Lý v.v… làm tự chứng. Nay nói Tất- đàn, văn sợ lầm, Tất-đàn thuộc tự tha ở sau. 3. “Lại nữa Tam tạng…”: tức tổng lược bốn, nêu rõ trước là giáo biệt mà pháp có tổng biệt, nay là giáo tổng mà pháp biệt. Đây văn có ba lớp: Một là: Dùng Tam tạng làm tha; Hai là: Dùng nhị giáo làm tha; Ba là: Dùng tam giáo làm tha, và cuối cùng dùng Viên làm tự, do tha bất định, tự tha tùy thuận, cũng tiến thoái bất định. Trong lớp đầu dùng Thông, Biệt làm tự tha, vẫn là Biệt tướng tự tha, do tha chỉ có Tam tạng. Lớp thứ hai, đã dùng Thông và Tạng làm tha, cho nên chỉ dùng Biệt làm tự tha. Lớp thứ ba, đã dùng ba đều làm tha, tự tha không còn thể riêng biệt chỉ được đem ba giáo cùng Viên đối nhau nói. Cho nên, nói thu tóm ba giáo… Nhưng trong lớp đầu thì Thông, Biệt hai giáo đều có hai hướng. Thông có bất cộng cho nên đồng Biệt. Biệt căn cứ nghóa cộng cho nên đồng Tạng. Biệt theo giáo đạo cho nên là tha, có chứng đạo cho nên đồng tự. “Phần bảy: căn cứ các kinh”: Hỏi: Nay căn cứ các kinh trở lại liệt nêu năm vị cùng trước đâu có sai khác? Đáp: Trước dùng năm thời trải qua ba thứ: Pháp dụng, v.v… Chỉ vì thành năm thời đều có ba thứ: Pháp dụng, v.v… khiến biết Pháp Hoa ba lớp đều diệu, nên dùng năm vị trải qua các kinh, dùng bộ đối bộ mà biện thô diệu, thì sáu môn trước đều cần năm vị khiến tất cả giáo đều là ba thứ: phương pháp v.v…, đều là thô diệu sai biệt và do tất cả đều diệu. Huống chi đem các kinh mười cặp trải qua khắp năm vị, vì môn hộ biệt cho nên không cần trách đây. Như trong Huyền Nghóa thì khoa khoa đều nêu năm vị. Nếu không có năm vị này, thì một khoa một câu, bộ nay không khác trước, cho nên nơi nơi đều nêu rõ. Trong đó chia làm hai phần: Phần một: Nêu năm thời đầy đủ giáo nhiều ít. Phần hai: “Lại nữa…”: là lần nữa lại dùng nhiều ít mà nêu tự tha, kết thành giải thích phẩm. Phần một: Nay chánh nêu giáo vị cho nên thảy đều ở trước khiến biết lãnh giải đầy đủ vọt lên năm vị. Đầu tiên vị Nhũ chia làm năm: 1. Bán mãn. 2. Căn cứ thời. 3. Căn cứ pháp. 4.Căn cứ người, trong người lại biện sinh pháp không đồng. 5.Dẫn kinh này để phân biệt tướng vị. Bốn vị cũng như vậy. Chỉ ba vị Lạc v.v… đều thiếu người, văn bao hàm nghóa đầy đủ. Trong vị Lạc, ứng nói căn cứ người chỉ là Nhị thừa, Bồ-tát không dùng. “Phương đẳng” ứng nói căn cứ người lại đối Đại tiểu bài xích khắp nhập Viên. “Bát-nhã” nên nói căn cứ người đới Tiểu nêu Đại, dẫn Tiểu mà trở về Đại. Pháp Hoa căn cứ người rộng ở sau nói rõ, từ “Đây thật là con ta…” Nói “chưa từng thuyết”: Thông luận thì các giáo trước đều chưa khai, biệt mà luận thì ba thứ: Giáo, Hạnh, lý trước có lẽ đã hội. Nếu khai nhân (Người) thì các giáo trước vốn khộng co,ù nên dùng đólàm phẩm mục. Cho nên biết không phải đồng thể phương tiện, không dùng thiết lập khai… Phần hai dùng nhiều ít đểphê phán: Trước đã ủy thác nêu rõ nhân thời pháp… đe åluận năm thời dụng ý không đồng, đây lại lược thâu các pháp thời ở trước v.v… Chỉ căn cứ người, Đại Tiểu lợi độn đều nhập thật. Người kia nếu nhập, thì các thứ còn lại đều trở ve,à cho nên lại lần nữa nêu rõ. “Văn nói…”: là dẫn chứng để kết tên phẩm, “v.v…”: là lẽ ra lại giải thích thêm mà các phương tiện trước đều chẳng phải ý nay, ý không khác trước nên không nêu lại lần nữa. Tiếp, “Bản Tích”: Chưa là ý phẩm, bởi vì trong Bản tích đều có phương tiện, cho nên dựa phương tiện để nêu rõ Bản tích. Phương tiện danh đồng, mà viễn cận thì vónh viễn khác. Tuy vónh viễn khác mà không vượt qua mười cặp, vì Bản thật đắc cũng đâu ra ngoài nhân quả tự tha. Cho nên, “Ta xưa hành Bồ-tát đạo” và “Ta thật thành tựu”, tức là lý sự cho đến nhân quả. “Thành Phật đến nạy” tức là thể dụng cho đến Tất-đàn, trong đó thầy trò hai văn đều có hai. Trước nêu tự tha bình đẳng có ba, tiếp kết thành bốn câu. Văn nói về Thầy có hai: 1.Bản Tích đều có quyền thật, 2.Buộc Bản làm thật, buộc Tích làm quyền, lại trong Tích thì thô diệu đối với Bản đều thô, trong Bản thì thô diệu đối với Tích đều diệu. Cho nên nay cũng vậy, riêng chỉ “cửu thành” gọi là “tự”, nên trong “cửu thành” đều là hóa tha. Sở dó trung gian ngày nay dù có phế bỏ ba cũng gọi là tha. Người đời không thấy mà chỉ dùng pháp thân làm Bản, thì giáo nào lại không có? Chỉ lấp che không biết tuổi cha mẹ, nên hiển thật thành làm Bản. Tiếp, tóm lược chỉ ngoài một “cửu thành” thì đều gọi là “tha”, cho nên trong “Tự tha” chỉ tóm lược Bản Tích được, gọi là Quyền thật. “Kết thành bốn câu”: Đối thì nên nói trong Bản thì quyền thật đều thật, trong Tích thì quyền thật đều quyền, vì Thật trong Bản đối với (vọng) Quyền trong Tích, gọi là câu thứ ba. Bất tư nghì nhất, Bản tích đều đắc song phi cho nên vậy. Nói “vân vân” là khiến như những điều đối đã nói trước nay. Tiếp, đệ tử Tích bản đối nhau đều có Quyền thật, cũng từ Bản tích lập hai danh. Nếu luận chung thì Bản và trung gian cho đến ngày nay, mỗi một tiết đều đầy đủ có bốn câu. “Cũng đủ bốn câu vân vân”: thì “vân vân” là như trước đã nói về Thầy, chỉ lấy đệ tử làm khác cho nên nói “cũng đủ”. Tuy Thầy trò đều bốn câu mà nếu ở Thầy trò dựa theo phán Bản tích thì trong Bản bốn câu đều là Bản, trong Tích bốn câu đều là Tích. Nếu lấy tên Bản Tích làm bốn câu, thì nên nói: Tích của Bản đều là Bản, Bản của Tích đều là Tích. Bản Tích đều có Bản Tích, đều bất tư nghì, tư duy có thể thấy. Lại nên chỉ dùng hai câu để phán xét, tức hai câu đầu là đầy đủ như Huyền Văn Bản môn thập diệu, cho đến nhiều ít rộng hẹp căn cứ đây có thể biết. Tiếp, “Nếu từ Phật Tích…”: là kết thành giải thích phẩm. Thầy trò từ Bản thùy Tích, căn cứ bản ý về giáo hóa, thì đã đều được gọi là phẩm Phương Tiện, huống chi Thầy trò “dẫn nhập Viên nhân” mà không gọi là phẩm Phương Tiện ư? Có người hỏi rằng: Nay phẩm Phương Tiện lấy gì làm thể? Người khác đáp: Có người nói “Dùng Hậu-đắc-trí làm thể”. Dẫn Duy Thức nói: “Năm Ba-la-mật sau đều là Hậu-đắc-trí”. Ta nay dùng Căn bản trí làm thể. Nay cho rằng, nói “Thể”: là chấp sở y làm dụng đương thể. Hoặc là chấp sở y tức quyền mà thật làm “Thể”, hoặc là chấp đương thể tức thật mà quyền làm “Thể”. Hai nghóa này đối với Căn bản, Hậu đắc trí đâu thường tạm phân, huống chi chỉ nói năm thì Hậu đắc không có “Thể”, huống chi phân Bản tích. Chỉ một “cửu thành” mà làm Căn bản, còn lại đều là Hậu đắc! Tiếp, chánh giải thích kinh văn, nói “Hoặc đến sau kệ”: là sớ thứ chín nói: Căn cứ theo ý của ngài Nam Nhạc thì chỉ đến sau kệ làm chánh. Nếu y các sư phương Bắc thì đến Tứ tín đệ tử ở sau kệ vì để nghe kinh, phán thuộc chánh thuyết. Đây phân không sai lầm cho nên cả hai thuyết còn sử dụng. Nếu không so sánh thì thuật ý dựa vào ngôn ngữ. Mặc dù so sánh, vẫn là thuật ý tuyệt ngôn ngữ. “Chư Phật nhị trí như trước nói vân vân”: Đầy đủ như ba thứ và dùng mười cặp. Nay tán thán chư Phật và dùng đức Thích-ca làm năm Đức Phật lộng dẫn bên dưới, vì chư Phật gồm bốn Đức Phật. Trên hào quang chiếu đến nơi đây đều có năm thời chính tiêu biểu năm Đức Phật nhị trí không khác. Kia đây tương vọng, nên gọi là “ngang”, xưa nay tương vọng nên gọi là “dọc”. Đây tiêu biểu Đức Thích-ca, nơi khác tiêu biểu bốn Đức Phật, tức là nêu năm Đức Phật đạo đồng. “Lúc bấy giờ”: Là lúc năm điềm lành hiện. “Phật thường…” là hỏi. “Đây có…” là đáp. Đáp có đầy đủ tứ Tất-đàn, xưa nay sai khác nên có xuất nhập tức thế giới. Nói “Quyết trước nhập Vô lượng nghóa…”: đây căn cứ ý làm Tựa, chỉ trong một định nghóa bao gồm hai hướng đều thành Thế giới. Trong “Vị nhân Tất đàn” nói “lý lịch…”: Lý lịch tức trải qua sự đối cảnh, “Pháp duyên” tức nội duyên chân lý, xuất nhập xứng lý mới sinh vật thiện, tức “Vị nhân”. Định trị tán ác, phải trước nhập định, tức “Đối trị”. Căn cứ tự tha lợi ích đều đắc thật tướng, tức “Đệ nhất nghóa”. Nói “ai”: là tên khác của “mẫn”, là thương, thương chúng sinh khắp tất nhiên là tứ Tất-đàn. Tứ Tất-đàn đây bất tư nghì đại cảm ứng, cho nên bốn pháp đều gọi là “an tường mà khởi”. Đây nói “an” là trong an bốn pháp rồi mới khởi hóa tha. Có người hỏi: Trong đây bảo Thân-tử cùng với Đại Phẩm có gì sai biệt? Nay đáp: Đâu chỉ Đại Phẩm, bắt đầu là từ tứ A-hàm, cuối là đến kinh này, từ Xá-lợi-phất xuất gia đến nay nơi nơi đều có bảo mỗi mỗi không đồng. Trong tứ A-hàm thì hoặc là phát khởi sinh diệt pháp luân cho nên bảo, Phương đẳng thì bài xích cho nên bảo, Bát-nhã thì gia bị cho nên bảo, nay thì kinh khai cho nên bảo: Bản luận nói: Bảo Thân-tử, không bảo các Thanh-văn, do Thân- tử có trí tuệ thâm sâu. Không bảo các Bồ-tát có năm: 1.Vì các sự sở tác của Thanh văn. 2. Hồi hướng đại Bồ-đề. 3. Khiến không sợ hãi. 4.Vì muốn phát sinh khéo tư duy cho người khác. 5. Khiến không khởi tâm việc làm đã xong. Cho nên phải biết năm ý kiêm khác các kinh khác. Trước hiển lộ giáo không nói Thanh văn đắc nhập Phật trí. “Mười thứ như trong Huyền Nghóa”: Huyền Văn thứ chín giải thích: trong dụng thì Bản tích đều có mười. Trong Tích có mười: Phế, hội, khai, phú, phá ba hiển một, trụ ba hiển một, trụ một dụng ba, trụ một hiển một, trụ phi ba phi một hiển một. Nếu trong Bản mười thì chỉ dùng Bản thế một, dùng Tích thế ba, nói có thể. Cho nên trước bảo để động mọi người. “Đây chính là kinh gia…”: Cho nên biết bốn chữ “Bảo Xá-lợi-phất” hoàn toàn là lời của kinh gia. Nên biết Kinh gia từ đó rút gọn. Nếu bảo Xá-lợi-phất, rồi dưới lại ghi mấy chữ Xá-lợi-phất nữa, thì rườm rà. Nói “Luận cùng nghóa đây tương ưng”: là dẫn luận văn đây cũng đầy đủ tứ Tất-đàn: Đầu văn nói thế giới động và bất động sai khác. “Như thật trí…” là Vị nhân vì sinh vật thiện từ quán khởi. “Hiện Như Lai…” là Đối trị vì lực năng trừ ác. “Như Lai…” là Đệ nhất nghóa, vì không lìa định. Cho nên văn tự giải thích là Đệ nhất nghóa. Lại dùng tứ Tất để tổng giải thích tự tại. Nếu vậy thì tứ Tất-đàn tổng giải thích hai thứ trước nghóa là tự tại không ngang ngược, hai thứ đây đều đầy đủ tứ Tất. “Già phu…”: Văn của luận Bà-sa nay lại chép đủ, trong Tạp Kiền-độ quyển hai mươi hai hỏi: Tất cả oai nghi đều kham tu hành, đâu riêng gì “Kết-già”? Hoặc có người nói: Chính là pháp thực hành của hằng sa chư Phật quá khứ, là pháp mà đời sau cũng thực hành. Nay là văn thứ nhất. Có người nói: “Khiến người cung kính thì chẳng phải là nghi của thế tục”. Nay là văn thứ hai. Lại nói “Năng phát tam Bồ-đề tâm”. Nay là văn thứ tư. Lại nói “Năng phá ma quân”, nay là một nửa văn thứ ba. Lại nói “Có thể ý của nhân thiên không cùng ngoại đạo”, nay là một nửa văn thứ ba. Nay làm thành tứ Tất-đàn, Cho nên, hợp luận thứ tư thứ năm làm một Đối trị, luận đối trị ở sau Đệ nhất nghóa. “Riêng cho rằng…”: là riêng phê phán văn trước nói đầy đủ ý tứ Tất, khiến như trước đưa ra kiêm giải thích nêu bốn ý. “Hỏi: Các kinh khác…”: Cũng là luận văn. Luận nói: Sao gọi là buộc niệm ở trước? Đáp: Buộc tại trên mặt cho nên nói “ở trước”, trong luận đầu nói giữa chặn mày cũng như vậy. Lại nói: Từ vô thủy đến nay nam nữ nhìn nhau khởi dục tưởng phần nhiều ở mặt. Lại nói năm căn: nhãn v.v…. năng sinh dục tâm, nói có thể biết. Nay văn phân ra ở trước, ở mặt để làm hai giải thích vì nghóa lập. Văn đầu nói “ở trước” để làm chỗ tiêu biểu giải thích, tức ý tứ Tất-đàn. Tiếp, căn cứ nghóa ở mặt lập bốn giải thích, tức ý tứ giáo. Đầu tiên có quay lưng có hướng đến, tức Thế giới Tất đàn, quán tịch, định sinh tức Vị nhân, trái với sinh tử ác tức Đối trị; tịch diệt có lý tức Đệ nhất nghóa. Tiếp theo là, căn cứ giáo, “bất tịnh quán” thành rõ ràng là Sơ giáo, “cùng Không tương ưng” đâu chẳng phải Thông giáo? Vì “phân biệt” cho nên đâu chẳng phải Biệt giáo? Thật tướng tức là ý Viên giáo. Hỏi Mặt chỉ có bốn căn, tại sao được nói sáu? Đáp: Mặt có đủ năm căn, tức là bốn và hữu thân. Nếu khi duyên cảnh hiện lượng sắc v.v…, thì ý lại ở trên. Cho nên Câu-xá luận nói: Có thân căn chín việc, mười việc có các căn khác. Nói “chín việc”: Tức bốn đại năng tạo là địa, thủy, hỏa, phong, và bốn thứ sở tạo là lấy sắc hương vị xúc và thân căn một, cho nên nói chín việc. Nói “mười việc”: Còn lại các căn nhãn v.v… đều đủ mười việc, như trên nhãn căn có bốn thứ năng tạo và bốn thứ sở tạo, nhãn và thân căn, cho nên thành mười. Nhãn… giác xúc, tức tánh của thân căn. “Không phải ba thứ hóa tha”: là không phải Quyền thực trong ba giáo. Trước đã nhiều phen giải thích phẩm, vả lại căn cứ một thứ dùng ba thuộc hóa tha làm Quyền. Viên là tự hành thuộc thật, cho nên văn trước đã giải thích ba thứ tự tha….Trong phần “Căn cứ đế mà giải thích” làm ba tiết giải thích. Tiết thứ ba giải thích cả ba đều thuộc hóa tha. Cao sâu ngang độ. Trong đó pháp thí hợp lấy đây để lệ cho sau, nay giải thích thật đã cùng khắp ngang dọc. Dưới giải thích quyền lý nên sâu cùng cực, dưới sẽ giải thích quyền dự thuật tướng kia. Cho nên nói “vân vân”. “Trí tuệ môn kia”: Kia chính chỉ “thật quả nhân trí.” ở trước. Nếu trí tuệ tức môn, thì môn là quyền. Nếu môn của trí tuệ thì trí tức quả. “Bởi vì là…”: trong đây nên dùng thập địa làm Đạo tiền, Diệu giác làm Đạo trung, chứng sau làm đạo hậu. Cho nên biết văn ý tại địa vị của nhân, trừ Chân như ngoại phàm có tu nhập, còn lại đều thuộc Quyền. Chỉ lấy quả vị Chân như cứu mãn làm ao thanh lương (trong mát). Đây căn cứ tự hành nhân quả tương vọng để giải thích, tức giải thích lớp thứ năm trong phẩm. Nếu thông chín địa còn lại đây thì không như vậy, lẽ nào vì Đạo tiền mà không có Thật ư? Tức là thực trong bốn cặp đầu. Lẽ nào có Đạo hậu mà không có Quyền ư? Tức là Quyền trong năm cặp sau. “Khó hiểu khó nhập…”: là lược tán thán địa vị nhân của Đạo tiền từ đầu đến cuối. Tiếp, từ “Không mưu tính mà thấu hiểu” trở xuống: tức trong nhân vẫn chỉ sự dụng là Quyền, do nhân quyền đây đều là nhân chân thật, tức biết quyền đây do chứng thật lý. Trong văn theo dụng theo nhân mà tán thán riêng. “Thập trụ mới giải”: “Giải” là tên khác của “khai”, cho nên đem danh để đối vị. Trong luận, ở đây trước lại có ba câu: Khó thấy, khó giác, khó biết, nay nói đây là phương tiện khó giải, cũng có thể dùng đối Văn, Tư, Tu. “Bản ý pháp thân”: Nếu vọng mười phương thì không có thời nào là không ứng, nay căn cứ “phương này chưa thiết lập giáo hóa trước” cho đến “từ lâu xa chưa kết duyên đến đây”, trong đoạn này chúng sinh đều gọi là “tại pháp thân”. Không có nghóa muốn dùng Tiểu thừa giáo hóa cho nên nói “dự định điều đó”. “Không có cơ duyên…”: Đây là từ kết duyên về sau mà nói, thời đó vẫn còn rộng. Từ “Hoa Nghiêm” trở xuống: là đời nay thiết lập giáo hóa. “Nay Đại cơ” cho đến “không biết”: là Đại cơ kích đại ứng, nên nói “khải phát”. Lẽ ra nói “muốn phát”, vì sao nói “khải” ? Do điềm lành Đại đã hiển ro,õ cho nên nói “khải”. Tiếp, lần nữa lại giải thích “Môn” ,“Quang Trạch…”: Dùng Ngũ đình… gọi là Tiểu thừa phương tiện. Nếu luận ý giáo hóa thì tán tâm búng ngón tay mà còn được gọi là “môn”, đâu riêng gì Tiểu thừa phương tiện không phải môn ư? Ý ngài Quang Trạch chưa hẳn hoàn toàn đúng, không thể hoàn toàn đoạt cho, nên nói “dữ đoạt”. Trước nêu “đoạt” là chưa có khả năng nhập Đại, bị Phật phá bỏ, đã không thể biết thì nghóa “Môn” không thành. Cái gọi là “dữ” tức là: Tam giáo đều là môn năng thông, nhị thừa cũng đắc phần ít trong năng thông, vì chưa có khả năng nhập, còn tổn thất ở năng, còn chưa thành “năng” thì vónh viễn không biết “sở”. Nói “tối thiển” (rất cạn): Tiểu thừa đã nông cạn lại là phương tiện. Nói “vân vân”: “Dữ nhưng đoạt” này lẽ ra phải rộng phân năng sở thức, bất thức…, như trước dùng “Môn” để giải thích phương tiện. Từ “Nay giải” trở xuống, là rộng lập bốn câu, muốn dùng câu đầu phá Quang Trạch cho nên rộng nêu câu thứ hai thứ tư, vì không có Phật trí làm môn, nhập phương tiện trí cho nên có thể nghóa lập. Nếu luận kinh này chỉ ở câu thứ ba, thì Ngài Quang Trạch chỉ được phần ít của câu đầu, huống lại các môn. “Giải thích của Quang Trạch” cho đến “nhất quán”: là “Không” phân ra làm Thể và Tích. Tích là chút phần trong Không. “Thập nhị môn”: Nên phân biệt mười hai môn đều có tướng phương tiện trong môn. Đối với ba, bốn môn đã có tiến không? Hội rơi tại nhất. “Nhất môn”: Phần nhiều chỉ hữu môn, bởi vì trong hữu môn dùng Thất phương tiện. Câu thứ tư: Trước đã nhập trung, cho nên nói “song chiếu”. Nếu khai hiển Trung thì tức là kinh này từ thể khởi dụng. “Khu khu”: Là dáng mạo quanh co. “Đây cần khai thác”: khai luận một câu như trước nay các giáo đều có các môn. “Vân vân”: là trong mười sáu môn thì thuộc môn nào? Nếu viên bốn môn, thì đầy đủ như Chỉ Quán quyển thứ năm. Viên giáo quán môn và giáo trí hạnh lý. Cho nên luận chỉ nói A-hàm, nói giáo là môn. Sư nay bèn dùng trí làm trí môn, ý nói sơ trụ Phật trí làm môn nhập Phật quả trí, nên từ Trụ đến Địa đều gọi là “khó”. Vì “khóù” nên tán thán nhập để khiến đắc nhập. Cho nên nếu đắc môn vô công dụng đạo, thì ắt nhập Phật tuệ không chỗ nghi ngại. Thế nên, trên nói Viên nhân xứng phẩm Phương Tiện, nhân tức môn. Vậy thì khai thị ngộ nhập đều gọi là Trí tuệ môn. Từ “Sở dó vì sao?” cho đến “chư Phật nhị trí”: là không đồng giải thích của Ngài Quang Trạch: 1. Văn đầu nói “sở dó vì sao” tức nghiệm biết giải thích trên. 2.Văn dưới nói Thích-ca ban đầu tự nói “Ta từ khi thành Phật đến nay” chính là Thích-ca tự tán thán nhị trí. Nay giải thích chư Phật nói “Sở dó vì sao?”: là cả hai Nhị trí đứng đầu, vì sao Thật trí rất sâu? Bởi do ngoài gặp Phật nhiều. Nói “Thân cận…”: thân gần Phật ắt lãnh thọ vâng theo điều chí yếu. “Thuần hậu” ắt do tận hành. “Dũng mãnh tinh tấn tức giải thích Quyền trí” là các hạnh không ra ngoài dũng mãnh tinh tấn. Nay trên Quyền trí thêm Dũng mãnh tinh tấn, có hai ý: 1. Tâm hy vọng tồn tại. 2. Thân tâm đều cần mẫn. Nhị trí đều do tinh tấn, nhưng nay chỉ dùng hành biên đạo pháp, bởi vì thuộc Thật trí. Căn cứ danh xưng “biên”, vì thuộc Quyền trí, sợ chưa tận lý cho nên lại thêm “dũng mãnh”, dùng giải thích quyền trí. Lại dùng Thật trí sâu rộng để so sánh với Quyền trí, bởi vì Quyền trí cũng đủ ngang dọc. Cho nên cần phải dũng mãnh tinh tấn, một câu dụng phỏng theo dọc sâu, cho nên không được dùng tinh tấn để giải thích Thật trí. Lại nữa, “khó nhập môn”: Nếu kia thoái từ phần chứng tám tướng cũng tùy số của chư Phật, chính là dùng giáo hạnh làm môn. Từ hạnh nhập chứng, chứng không phải dễ dàng, cho nên “khó nhập môn”. “Nhập rồi” thì có thể ân thấm nhuần trăm cõi, cho nên nói “vô cương” (không cùng). Hỏi: Trăm cõi có hạn, sao nói “vô cương”? Đáp: Giới (cõi) tuy có hạn, mà lợi ích cho chúng sinh thì không cùng. Phần chứng mà còn như vậy, huống chi luận mười phương cứu cánh quả Phật. Dùng quả nghiệm nhân, lẽ nào có bất tận hành đạo pháp, không dũng mãnh tinh tấn mà năng khiến nhị trí ngang dọc sâu rộng ư? Tiếp, trong phần “Kết nhị trí”: dùng “thành tựu” làm kết Thật, “tùy nghi” làm kết Quyền. Thật ắt thành tựu, Quyền ắt lợi tha, cho nên Thật trí nói “đến bờ bên kia”, Quyền trí nói “xứng cơ thích hợp”. Lại, trong Thật trí xứng lý nên “đến bờ”, “rất sâu” nên cứu cánh, đều tùy thời mà nói đó thôi! “Tùy tình…”: Pháp Hoa về trước không hiểu nghóa nên nói “khó hiểu”. Tức chỉ giáo nay đều gồm nhập Thật, nên nói “dễ biết”. Nếu vậy, thì do nhập “không đúng” nên nói “khó hiểu”. Nếu đến kinh này thì hoàn toàn không có “không đúng”. Chỉ mượn “khó hiểu” xưa để giải thích giáo nay “dễ biết”. Dẫn “Nhiếp Đại Thừa”: Nay văn hiển liễu nghóa chỉ y văn để xét, như thọ ký nhị thừa thúc ép tăng thượng mạn, Thật đắc thì ắt tin mà Diệt tưởng thì còn nghe. Đại Thông kết duyên, Hóa thành không thật, Như Lai thành đạo từ lâu số kiếp như vi trần. Vượt qua chỗ tối tăm của ngày xưa, trì một bài bốn câu kệ mà công không thể lường, nghe Thọ mạng lâu dài mà thâu hoạch quả báo vô biên. Lẽ nào văn dưới đây lại có nghóa lập, khiến người nhị thừa không được thọ ký… ư! Khiến thọ lượng Phật gấp ngắn…ư! Cho nên trong Tứ ý thú, thì Bình đẳng ý thú chỉ nói chư Phật đều như vậy, không thể dùng Phật khác thế đây, cũng không thể dùng Biệt thời ý thú để giải thích thọ ký Thanh văn. Ý lạc ý thú giải thích Tích bản lâu (dài) xa. Ví có sử dụng chỉ có thể nói trước lúc ấy thì không ưa, vả lại hợp Diệt-tưởng thích nghi tùy tùng thân cận. Nếu dùng hết ý thú này để hiểu rõ văn kinh thì kinh này hoàn toàn thành thuyết bất liễu nghóa, đều phải dùng nghóa để xem xét văn. Cho nên các kinh trước thì tùy ý bộ nào mà văn nghóa bao hàm. Như Chân như chân đế, Vô sinh vô diệt, Địa tiền địa thượng, Pháp thân Hóa thân, đều phải nghóa quyết định mới liễu văn, do bộ bao hàm giáo chung, không thể dựa vào ngôn ngữ, phải theo nghóa mà phân phán mới gọi là ý của bộ kinh. Nói “hữu thời”: không phải là thời mà chúng kia nghe tiếp, biệt hỏi thăm quyết nghi, cho nên biết tự hành không chuyên nơi Thật, lợi vật đâu riêng chỉ có Quyền, bởi vì tự hành hóa tha đều có Quyền thật. Do đó trong Thành tựu nói: “rất sâu”. Trong Tùy nghi nói “khó giải”. “Rất sâu” đâu riêng nơi Thật, “khó giải” không chuyên nơi Quyền, cho nên chỉ dùng Thành tựu đối tự. Tùy nghi đối tha thì nhậm vận tự tha đều đầy đủ nhị trí. Nói “v.v…”: là cũng có thể câu trước kết tự hành là thật, câu sau kết hóa tha là quyền. Do tự hành, nên Quyền thật đều Thật, do hóa tha nên Quyền thật đều Quyền. Do đầu giải thích kết văn chỉ tại tự hành Quyền thật. Tuy nói “thích hợp” mà chánh nói nghóa công thành, cho nên ý “vân vân” lại phải biệt đối, đầy đủ như trong bốn câu trước nói. Tự hành quyền thật còn khai bốn câu huống chi đối hóa tha. Hóa tha lý cần phải đầy đủ bốn, vì thế tán thán thật, tán thán quyền và trong giải thích Quyền thật. Quyền đều từ nhân, dùng giải thích nguyên do quả quyền ở trước, bởi vì quả từ nhân đắc. Cho đến trong kết nói “tùy nghi…”: Nên nghóa kiêm cả nhân quả, bởi vì nhân quyền, dụng quyền đều gọi là Quyền, do dụng trong quyền lại thông nhân quả. Đến chương Thích-ca tán thán giải thích Quyền thật thảy đều từ quả. Đến trong phần Song kết thì Quyền chỉ nhân, song kết tán thán giải thích hai văn. Tiếp, trong phần “Bài xích ba ý xưa”: Cựu sư cũng có người cho rằng: từ “Sở dó vì sao?” trở xuống, là giải thích chư Phật nhị trí…, chỉ giải thích chương Thích-ca phân văn trước trở lại, Cựu cho rằng từ “Xá-lợi- phất” trở xuống, là đều thuộc Quyền, “Tiếp, Xá-lợi-phất” trở xuống, là đều thuộc Thật, cho nên khiến không đồng. Đầu khai hợp. Sự nay cho rằng: Chư Phật cũng quyền thật đều tán thán, bởi vì đức Thích-ca nhị trí lẽ nào không đồng ư? Chư Phật nhị trí lẽ nào không khác ư? Cho nên biết hai ý sau cũng không đồng xưa, đức Thích-ca cũng trước Thật sau Quyền. Nói “Chỉ y văn”: là y nay phân văn. Nói “Lại nữa, ông nói”: là trách ba thứ không đồng. Do chương môn ngũ Phật cùng hiển Nhất hóa, cho nên đắc Bản tích khai hợp tự tha không sai biệt. Đâu được ngũ Phật xen lẫn biện tại không có ư? Nhưng chẳng phải không có lý đây, chỉ không nên làm trái văn. Văn thuận nghóa đúng thì đâu cần giải theo cách khác, cho nên nói “vân vân”. “Thí dụ”: Lại phân biệt Tiểu và Diễn (Đại thừa) cho nên nói “ba tiêu” và “như huyễn…”. Đây dụ quán Tục đế nên lại lập. Nếu dụ Chân đế và mười sáu môn thì đều lập sự lý, rộng như trong Chỉ liệu giản Quán bốn môn đều lập sự thí. Nói “Y các luận”: e rằng lầm, phải nói “bản luận”. Bản luận lược nêu từ đầu đến cuối trong Tiệm nên nói “Nhũ” và “Đề-hồ”, vẫn thiếu nói “Nhũ, thí dụ mười hai bộ kinh”. Huyền Văn cũng dùng “Nhũ” đối Tiểu. Nói “đều đạt đến biên sự lý”: lẽ ra nói “đáy biên”, hoặc thiếu hoặc lược sự biên lý đáy. “Như lai tri kiến như trước…”: Như trước nay đã giải thích tri kiến Ba-la-mật. “Như đây…”: là giải thích nghi, sợ nghi giải thích kết thật trí mà nói sâu rộng cho rằng thật trí ngôn thuyết có thể sánh kịp. Cho nên, nay giải thích rằng: Căn cứ biên của thể thật không phải ngang dọc, bài xích kia nhiếp pháp không khắp cho nên nói “ngang”, bài xích kia chiếu lý không tột cùng cho nên nói “dọc”. Rốt ráo mà nói đều chẳng phải ngang dọc. “Dựa vào ngữ ngôn”: chánh để phá nghi, nói có ngang dọc, về lý ắt không như vậy. “Vô hạn” cho nên “không ngang”, “vô cực” cho nên “chẳng dọc”. Như hộp lớn thì nắp lớn…”: là dùng trí Bất nhị xứng lý Bất nhị. “Vô lượng vô ngại”: là như Sinh số kia, vì sinh vô lượng cho nên Từ… vô lượng. Cho nên, “vô lượng” đây còn gọi là “ngần ấy”. Nếu dùng “ngần ấy” mà tán thán Quyền, thì Quyền gọi là “tiện”, dùng “vô hạn” thì gọi là “vô ngại”. Nay lại từ biên tự năng nhập mà nói, cho nên dùng năng nhập xứng vô lượng… “Chẳng những Quang Trạch” cho đến “đời Lương…”: là từ triều đại nhà Lương đều dùng câu này, lấy làm kết thật, thật vô ngại trí không còn bao nhiêu, sao nói vô lượng? Cho nên biết vô lượng dùng tiêu biểu “chẳng phải một”. “Vân vân”: là bốn giáo thật trí đều không có bao nhiêu, lẽ nào viên thật trí lại có bao nhiêu ư? “Vô lượng…”: giải thích bao nhiêu… Cho nên bốn vô lượng định tại Quyền trí. Đã nói Tứ đẳng và Tứ biện nghiệm chẳng phải thật trí, tức là vô duyên tứ vô lượng tâm nhậm vận ứng vật. Bát âm, Tứ biện, lực vô sở úy: lược như Pháp Giới Thứ Đệ và Chỉ Quán quyển bảy nói. Đại luận rộng giải thích, trong đây thì văn lược, chỉ nêu Nhạo thuyết để thuyết ba thứ trước. Văn vẫn lược Pháp chỉ nói một từ một nghóa mà thôi! Căn cứ đây lại lược không nói, lại cùng tất cả tương tức nói. Tức nói so sánh Thông Biệt, lý hợp bốn giáo tương vọng so sánh quyết định lực vô úy v.v… “Thiền tận thật tướng của thiền…” Hỏi: Thiền thật tướng cùng Lăng-nghiêm có gì sai biệt? Đáp: Không đồng. Vì sao? Đối với Thiền căn bản thì đạt tức thật tướng, gọi là đạt thiền. Thủ lăng-nghiêm định bản tánh kiện tướng. Kinh giải thoát: Cũng cùng tận nguồn gốc của tám giải thoát. “Tam-muội”: là Thiền định giải thoát. Đến Sơ trụ thời phá hai mươi lăm hữu, đã được gọi là “Vương Tam-muội” huống chi hợp quả địa mà không đắc Vương Tam-muội ư? Cho nên dưới kết nói “thâm nhập vô tế”. Cho nên biết các thiền đều vô tế. Nếu dùng căn bản tam Tam- muội… mà giải thích trong đây, thì Pháp Hoa biến thành Bà-sa, Câu- xá. Cho nên giải thích kinh thì trước phải biết bộ loại là thuộc thời nào. Trong thời thì tại hội nào giáo nào, như thế mới có thể phê phán giải thích pháp tướng sâu cạn. Hỏi: Đã nói quyền trí, sao nói thật tướng? Đáp: Quyền tự hành hoàn toàn chỉ viên nhân, thúc đẩy nhân thành quả cho nên nói thành tựu, tức hướng vô lượng đều là thật tướng, đều là quả đức, do vô lượng pháp đắc lý. Cho nên có thể dọc ngang, ngang dọc bất nhị. “Trịnh trọng”: Hán Thư nói: “Hoàng thiên sở dó trịnh trọng là vì luôn giáng mạng” Nay văn trước dùng chư Phật đối Thích-ca bèn thành sáu lớp quyền thật. Vì sao trong đây lại hai lớp ư! Cho nên đây thuật nói tiêu biểu sự ân cần, một đời không có cho nên ân cần tiêu biểu, nhưng Tây phương thì nghe lại để tiêu biểu không xem thường. Cõi này căn biệt, nghe lại thì kiêu mạn cho nên văn thuật để dứt cái thấy này. “Nói lời…”: là nêu thật. Hỏi: Đã nói “khiến vui lòng chúng”, phó vật thì phải là nêu quyền, sao nói nêu thật? Đáp: Tâm chúng chính lấy đắc thật làm vui lòng, cho nên lại dẫn hai văn làm chứng. “Trước trong phần tán thán…”: Đây nêu quyền thật trước sau, muốn nêu Phật nay hóa nghi đầu cuối không đồng. Các Sư xưa dùng nghóa đức Phật nay đối với chư Phật mà làm ý đồng khác, khác thì thành lỗi. Nay biện rõ khác: Là vọng đến Phật khác vẫn đồng. “Lại nêu…”: Trước phân làm thật thì riêng làm một câu. Nay lần nữa lại giải thích thì đứng đầu hai văn dưới đều nói tóm yếu, tóm yếu không qua quyền thật. “Riêng nêu một việc”: Là nêu thiên hiển phi, cho nên không thiên chỉ hoặc quyền hoặc thật, cho nên nói “đều” vậy “Chỉ! (thôi!)…”: chánh nêu tuyệt dứt lời tán thán, xưa chẳng thể thấy. Ý nay: Văn chỉ có hai nghóa: 1.Tán thán, 2.“Thiết…”: là “Chỉ”. Đây chọn nghóa tiện, nếu theo văn tiện thì nên trước là giải thích chỉ. Tiếp, giải thích tán thán, sở dó theo nghóa: Do đầu giải thích lời tán thán gồm hai chữ: “Chỉ thán”. Bảo “Thôi !” (Chỉ) là tán thán, nên nói: “Chỉ thán”. Tiếp giải thích nhất hướng để giải thích ý “thôi” tuy nói sợ tổn thương thiện căn, chính dùng “thôi” để sinh ngưỡng mộ, cho nên không giải thích, chỉ sau đó năm ngàn Tỳ-kheo dự phần, hai điềm lành là biết Phật nói âm thanh vi diệu hợp tâm chúng. Lẽ ra đối hai nghóa chia làm ba ý: 1.Do lý vi diệu đây không thể nói cho nên “thôi”. 2.Muốn nói lý diệu, “thôi” mà tán thán nó. 3.Sắp hộ vật cơ, giống như “thôi” chưa nói, lấy một văn đầu chia hai, cho nên không đồng với Ấn sư ở dưới tự có lược nói khai nguyên do nghi thỉnh kia, cho nên kia giải thích chưa đúng. Ngài Quán sư vẫn giống như ý sau nay mà không biết thường tình có lỗi gì ắt phải “thôi”. Tiếp giải thích trong ý tán thán nói hai ý: Một là “Tu đắc”. Nói “tu đắc” thông nơi cảnh trí hạnh vị tự tha, hạn cuộc nơi quả. Hai là “Cảnh giới” thông nơi phàm Thánh thủy chung thuận nghịch hạn cuộc nơi Phật. Tiếp, “Căn cứ Phật thành tựu…”: ở trong ý thứ nhất, lại dùng hai ý “ngang dọc” để giải thích quả nhân pháp lý ngang dọc tột cùng. Thứ nhất giải thích trong ý đầu nói “Thành tựu đối bất thành tựu”: Dùng quả đối Nhân, Nhân tức Nhân nhân (người), tự tha tương đối tức là “ngang”. Cho nên, biết Nhân nhân (người) đều chưa thành tựu, nên đối giáo vị tùy theo đều phân biệt tha. Kinh, câu thứ nhất thứ ba cũng như vậy. Nay nói “Thành tựu đối bất thành tựu”, cho đến “ Nan giải đối bất nan giải”, trong đó lược hai câu cho nên nói “cho đến”. Nên nói “đệ nhất đối bất đệ nhất, hy hữu đối bất hy hữu”, vì bỏ những điều này thì ngoài đều chẳng phải đệ nhất hy hữu. Quả tột cùng trong Viên thì giáo khác không có, nói tức dựa theo để hiểu. Bốn pháp không thành tựu v.v… đối quả kiêm biện rõ nhân và các quyền. “Chỉ có Phật…” là nêu rõ dọc sâu. Câu trước đã dùng lời nói “thành tựu…” đối tha làm “ngang”. Nay có nói “rốt ráo biết hết” (cứu tận), cho nên đối Nhân nêu rõ “dọc”. <篇> PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ <卷>QUYỂN 4 (Phần Trung) Tiếp, “Các pháp…”: là giải thích “cảnh giới rất sâu”. Đây là lý bản của Pháp Hoa là đầu mối của các giáo, là chiếc chìa khóa giải thích nghóa, là chỗ y chỉ của chúng sinh, là nơi nương tựa để phát tâm, là dụng thể của quyền mưu, là nguồn gốc của mê ngộ, là lý bản của quả đức, là cùng khắp của Nhất hóa, là cuối cùng của năm thời. Được mười nghóa đây để hiểu rõ các sự đặc biệt điềm nhiên không lầm. Do đó trước tán thán trí năng y, tức quyền thật của năm Đức Phật. Quyền thật nương vào đâu? Cái gọi là “diệu cảnh”, cảnh không xứng, trí còn chẳng phải Phật trí, huống chi không có cảnh có thể luận thẳng nói đối v.v… Sao mà có thể hiểu trí tuệ vi diệu khó nghó bàn này là để rộng phá các sư vậy? Tiếp, rộng kiến lập: Huyền Văn và Chỉ Quán lấy đây làm chủ. Một nhà dụng nghóa bao quát đầy đủ đều do đây mà sợ hậu bối còn quên chỗ quay về kia, cho nên ân cần bận rộn. Tự thân thấy người tìm giáo đây còn mê muội, cho nên cần phải tư duy. Nếu mê ý đây thì lối đi tắt của các giáo mặc cho lạc đường, dòng chảy Nhất hóa nơi đây khô cạn. “Quang Trạch nói tam tam”: Nghóa là nhân (người), giáo, Nhân. Vì xưa không có nghóa quả cho nên tam thừa đều là tam, lý Nhất chẳng hư vọng. Nói “thật tướng”: Nên nói phi hư, cho nên thật, phi tướng là tướng cho nên gọi “thật tướng”. “Trong bốn Nhất thiên nêu Lý”: Căn cứ theo ý Quang Trạch, đã đồng người xưa không lập Lý nhất, chỉ nói Lý là gốc của bốn Nhất, cho nên bốn đều gọi là Nhất, đây không đề cập đến văn nay nói một trong bốn. Từ đây trở đi cho đến hết phần Bắc địa sư đều là giải thích của Quang Trạch.“Bồ-tát giáo lấy lục độ làm thể”, Quang Trạch cũng lập tam kỳ Bồ-tát, lấy làm Bồ-tát trong tam thừa, tức văn nay là Tam tạng Bồ-tát. Đời cận đại đến nay nghóa đây hoàn toàn bỏ, năm trăm người kết tập phải trở về Ngũ thiên, hoặc chỉ hợp thoái thất đại thừa tự qui Phật đạo không liên quan đây, thì đâu những định tánh vónh diệt mà cũng chính là Bồ-tát Không đàm. “Vân vân” là lẽ ra nói rõ Bích-chi-phật, Thanh-văn dùng đế duyên làm thể. “Thật cảnh có bốn Nhất, dùng bốn để rộng nêu lý Nhất kia”: Nhân duyên… bốn thứ phán xét làm thật cảnh, cho nên lấy những thứ này để rộng luận đàm lý Nhất. “Ngài Sướng sư chỉ căn cứ trên Phật”, chỉ lập Nhất thật mà không có tam quyền, đối “thập lực” đều có lý đây, đối với nay bốn giải thích, Phật thừa một giải thích còn tự chưa cùng khắp. Vì không có cứu cánh Không Giả Trung… Trong đó, đầu tiên là tổng nêu tướng thập lực, tiếp là biệt đối tánh… thể làm căn bản; sau cùng là nói tổng là căn cứ tám lực trước để giải thích Xứ phi xứ, tức dùng bản mạt tổng thâu chín thứ trước. “Các giải thích ở trên đều là một đường”: các giải thích có thể thấy, vọng nay giải thích thì đều được một chút phần của trong thập giới thập như, cho nên nói “một đường”. Quang Trạch tuy giống như tự đắc tứ Thánh mà chỉ lập chín. Lại phân giải chín là năm quyền bốn thật. Bắc, Diêu hai sư tuy lập đủ mười mà không phân biệt, chỉ tại Tam thừa, lại không có Nhất thật, nhưng tóm lược các giải thích đã tùy thuận Tam thừa và dùng Nhất thừa. Tam và Nhất đều có mười thứ: Tánh, Tướng v.v…, vì sao không nói lục đạo có mười ư ? Tứ thánh là sự, từ nhân đến quả. Lục đạo cũng sự, cũng nên như vậy. Nhân quả đã đồng mười nghóa đâu thiếu. Tứ thánh là năng chiếu, lục đạo là sở chiếu. Thập giới là sở chiếu, Phật thừa là năng chiếu. Cho nên Phật trí chiếu thập giới thập như tam đế đầy đủ. Cứu cánh… nói lý kia rõ ràng. Vì sao chư Phật đều căn cứ một đường khiến Phật cảnh trí không đầy đủ? Nay Sư không thể bài bác chi tiết, chỉ tổng phá Quang Trạch nói văn lý không thông… Lý là đạo lý, văn tức hiện văn. Văn đầu có thể thấy. Tiếp, trong phần Phá lý thì trước dùng bốn, năm trong mười để đối vấn nạn. “Nhân quả”: Nhân duyên là nhân, quả báo là quả. “Nếu thật…”: là căn cứ người đối phá, lại y bốn câu năm thừa. Nếu y văn nay thì nên căn cứ thập giới để luận hữu vô. Tiếp, “Nghóa không…”: là kết phá. Văn nói các pháp nên thâu thập giới. Thập giới thập như, thật tướng tức là thể của giới như. Nếu duy nhất chỉ bốn thì ngoài thể còn sót chín, năm, huống chi là mười. Mười đều là như. Nay muốn chánh giải, trước dẫn Đại luận tức Ngài Đạt-ma đã dùng. Dẫn ý luận, chỉ rộng làm so sánh ước lệ không phải giống chính xác. Luận đã nói mỗi một pháp đều có chín thứ, cho nên biết Quang Trạch không nên dùng bốn hoặc năm thứ mà riêng phê phán. Các sư không nên dùng ba Nhất mà mọi người đều dựa vào. Cho nên biết chỉ y thập giới thập pháp thì các nhà giải thích đều bỏ, huống lại bốn giải thích đứng đầu tuyệt xưa nay. Như đây, hiểu rõ văn mới khế hợp ý chỉ kinh. Các sư phân chia lý thú là tại sao! Đây Ngài Đạt-ma Uất-đa-la là chủ Tạp Tâm luận, Bà-sa có Pháp Cứu luận sư là chỗ nương theo của Luận chủ Tạp tâm, từ Sư đặt tên. Đã y Đại luận không riêng phân trang. Nay trong mỗi mỗi câu đều nói tức là “Tướng như vậy, v.v…” trong Pháp Hoa. Dù không theo chính xác tinh tế mà cũng tránh khỏi các lỗi trên. Tiếp, “Nay nêu…”: trong chánh giải thích, trước là thuật nêu chương, tiếp là chánh giải thích. Văn chia làm ba ý: 1.Thuật nêu chương. Dẫn lời Thánh làm chứng. 3. Chánh giải thích. Trong văn dẫn chứng hai văn đầu có thể thấy. Tiếp, trong dẫn “Ly hợp” nói: “Thôi thôi! chẳng cần nói nữa…” là dùng mười pháp này tùy tự tùy tha chỉ Phật mới hiểu rõ, cho nên nói “Pháp ta vi diệu khó nghó bàn”, chỉ dẫn hợp văn, nghóa kiêm ly. Đã nói “khó nghó bàn”, mới có thể hợp khắp cho nên phải ly. Dẫn căn cứ trong vị nói: “Chỉ Phật cùng Phật…”: là ba đức cực lý chẳng phải là điều mà Thất phương tiện biết được. Tuy lại không biết mà “các vị” pháp nhó, cho nên phân mười thứ sở thuộc không đồng. Phần chánh giải thích: Đầu trong mười giới chia làm mười: Liệt kê. “Pháp tuy…”: là Giới Như nhiếp pháp. “Như địa ngục…”: là chỉ tướng. “Cho nên Tỳ-bà-sa…”: là lấy Tiểu dụ cho Đại. “Nên biết…”: dùng lý chuẩn theo lệ thì biết có Giới Như. “Nếu chiếu…”: phê phán. Nói “tự vị”: Tuy nêu mười giới mà giới giới đều có mười, lại chiếu đương giới lấy chín làm Quyền, dùng một làm Thật, cho nên phải kết nói “Vô lượng trong một”. Một giới có đầy đủ mười, mỗi mỗi có mười như. Hoặc tự hoặc tha, hoặc nhân hoặc quả, tại nhất tâm, cho nên nói “Vô lượng trong một, một trong vô lượng” không thể dùng “một” nói, không thể dùng “nhiều” nói, không thể dùng “Quyền” nói, không thể dùng “Thật” nói. Nhân quả thiện ác, không hữu, đại tiểu, phàm thánh, tiệm đốn, khai hợp, tâm pháp, y chánh, một nhiều tự tại. Tất cả các pháp thảy đều “như vậy”. Thế nên: luận đàm pháp giới mà chưa cùng tâm diệu đây, thì dẫn đến khiến lầm quả sự và mê nhân lý. “Nếu chiếu lục đạo…”: kiêm phá Quang Trạch. Quang Trạch đã không nêu mười giới, nay lại y kia phá. Dù cho dựa vào mười giới đều đủ mười như, thì cũng phải phân rõ ràng cảnh tư nghì. Huống chi Quang Trạch chỉ tại bốn Thánh. Bốn, năm không đồng. “Sở dó…”: là kết vị. Trước là lần nữa lại lập cảnh nói “vô lượng trong một”. “Phàm phu tuyệt lý”: Là tự mình hèn kém không phân biệt, nên nói “tuyệt lý”, tùy tưởng mà thấy sai khác cho nên nói “tình mê”. Đã “tuyệt” lại “mê”, theo đủ thứ đây thì lợi ích gì? “Nhị thừa…”: tức nhị giáo nhị thừa. Ba đường tức là xả mà chẳng quán, tránh Không, cầu Không trở lại giúp Tiểu thoát. “Bồ-tát…”: Tạng, Thông chiếu sáu, Biệt chiếu thứ lớp, cho nên nói “không cùng khắp”, đều mê cõi mình không đạt Phật giới. Nói “bất liễu” hãy còn bao quát mười địa, cho nên nay nên chỉ Biệt địa và nhân. “Ngang dọc đầy đủ”: vô lượng trong một là “ngang”, vô lượng tức một là “dọc”. Nhiều một tương tức cho nên nói “đầy đủ”. “Chỉ riêng…”: dẫn chứng kết ý, như văn. “Trên Huyền Nghóa…”: là chỉ rộng, đầy đủ như Huyền Văn cảnh diệu phần cuối nói: Duỗi ra thì đầy dẫy pháp giới, không biết từ đâu mà đến; thâu vào thì chẳng biết sở tại, không biết từ đâu mà đi. Cho đến trong giải thích pháp thì rộng giải thích thập giới thập như. Tiếp, “Căn cứ Phật pháp giới” chia làm bốn: 1. Chánh giải thích 2.“Đây là…” là xưng tán. 3.“Theo lệ cũng…”: theo lệ, giải thích. 4. “Như Lai…”: là nêu quả kết bài xích. Hỏi: Phật giới trong đây và Phật giới trong mười pháp giới trước, có gì sai biệt? Đáp: Trước thì tại mê tại nhân thông ngộ thông quả. Nay chính là chỉ quả không thông nhân mê, cho nên mỗi mỗi pháp đều dùng song phi, phi tướng, phi giả, phi bất tướng, phi không. Tuy nêu song phi mà ý vẫn tồn tại ba đế. Chín cái dưới căn cứ đây thì biết, cho đến “Bản mạt cứu cánh đẳng”. Như vậy mới gọi là “cứu cánh Phật thừa”. Thế nên đều dùng “Đại xa” văn để kết. Đây tức là văn phẩm này. Chính Phật quả gia là thật tướng của các pháp. Đối kia thí thuyết, tức trang nghiêm đại xa đi đến Đạo tràng. Đối kia đời trước tức cực quả Phật khai quyền thật. Đối Bản môn kia, tức thành Phật đã lâu khế hợp diệu pháp. Nếu chánh tông có thể biết thì lẽ nào mê lưu thông? Nói một câu một kệ càng có thể tin. Nói ba đức ba khuôn phép sáng tỏ như trước mặt. Nếu được ý này thì rộng diễn tám năm không ra ngoài nhất niệm. Trải qua năm mươi tiểu kiếp há động một sát-na? Ví như biết một đời hợp căn cơ ở tâm tính, mười phương Phật sự rõ ràng trước mắt. Pháp giới căn tánh xem mà dễ thông, tùy nghi sở thuyết đều chỉ tạng lý. Trong phần kết bài xích, dùng nhãn làm dụ: Lại dùng Tiểu thừa tuệ nhãn thấy Không, cùng mà luận nói “đắc nhất nhãn”. Sơ trụ Bồ-tát cho đến Đẳng giác còn có vô minh, nay lại bài xích phương tiện giáo, Bồ-tát chưa thấy Trung thì đều như thấy ban đêm. Tiếp, trong giải thích “Ly hợp” có bốn: 1.Chánh giải thích. 2. “Ly khai…”: nêu cảnh xưng tán. 3. “Phàm phu…”: bài xích. 4. “Vì đây…”: là tổng kết. Văn đầu chia làm ba tức ba lời, tùy tự mình mới tại kinh này, tìm kỹ thì có thể thấy. Trong “Căn cứ địa vị” có hai: Trước là chánh giải thích mười như, tiếp “Sơ vị…”: là lần nữa lại giải thích “Cứu cánh đẳng”. Văn đầu: Tướng tánh thể ba thứ cùng Phật giới nói ở trước đều có chút ít sai khác. Trước nêu đã thành Phật quả, cho nên dùng tu tánh đối luận mà đầy đủ mười pháp, nay nêu địa vị liên quan Thánh phàm. Phân đối mười pháp, mười pháp địa vị sai biệt cho nên nói “Căn cứ địa vị”. Vì ba pháp đầu chỉ có lý, cho nên vị định tại phàm. “Lực” tại năm phẩm, “Tác” tại sáu căn. “Nhân duyên” tức là Sơ trú trở lên, tu đắc duyên liễu, “Quả báo” tức là cực quả Bồ-đề Niết-bàn, Bồ-đề quả, Niết-bàn báo. Vì vậy ba pháp đầu lại ở liệt kê chung mười giới. Giới giới ba đức đồng tại lý tánh, cho nên nói “mười giới” cũng chỉ tại lý. Nếu không vậy thì vì sao nói nếu nghiên cứu thì mười giới này bình đẳng? Cho nên lý tánh ba đức văn kia tại đây. Nhưng trong các văn phần nhiều căn cứ tu tánh tướng đối biện, làm thành giáo tướng, người đọc đều biết rõ. Nay thấy văn đây nên thông suốt các thuyết. Nếu nghiên cứu đến “Quả báo như vậy”, thì ba pháp đầu đã đều tại tánh tại nhân hợp gọi là chánh. Cho nên Lực trở xuống, là thuộc tu thuộc quả. Cho nên ở vị quán hạnh trở đi nghiên cứu tánh cảnh này, có lực trừ thô hoặc và có tác tợ hành. Nếu nhập phần chân đối ba tánh kia, hợp gọi là chánh, bèn lấy chân thật trợ giúp gọi là “nhân duyên”. Đến địa vị cứu cánh, Bồ-đề gọi là “quả”, Niết-bàn gọi là “báo”. Tuy phân ra đối đầu cuối mà chính là địa vị nhân quả một Pháp giới Phật cho nên chẳng đồng người xưa dùng Quyền thật để phân chia phê phán. “Sơ tam…” ba pháp đầu nghóa là ba pháp trong nhân: Tướng v.v… “Hậu” tức ba pháp quả địa trong báo, cho nên biết ba đức tức là ba đế. Cho nên nói: “Sơ hậu” đến “cứu cánh đẳng”. “Sơ vị…”: là lần nữa lại giải thích cứu cánh, chia làm hai: Giải thích và kết. Trong giải thích có ba: 1. Lần nữa lại giải thích ba đức bản mạt bất nhị, kết thành cảnh tuyệt tán. 2. Lần nữa lại giải thích cứu cánh đẳng thành bất nhị. 3.Giải thích bất tư nghì. Phần đầu giải thích “ba đức”: “Ác” tức ba ác, “thiện” tức ba thiện. “Hiền” nghóa là tiểu Hiền. “Thánh” là tiểu Thánh. “Tiểu” nghóa là Hiền Thánh trong Tiểu thừa. “Đại” nghóa là các vị trong Đại thừa. Phần giải thích “Cứu cánh đẳng” lại có ba: Một, căn cứ trong Hoặc trước là lập cảnh. Hai, “Nếu mê…”: là căn cứ mê ngộ đối biện tam đế. Ba, “Lại quyền thật…” là căn cứ giáo. Sở dó có bốn giải thích: Nêu rõ Lý nhiếp khắp, là căn cứ mười giới mà giải thích. Nêu tự chứng cùng cực, là căn cứ Phật giới mà giải thích. Nêu Phật hóa dụng, là căn cứ ly hợp mà giải thích. Nêu ba đức biến khắp, là căn cứ các vị giải thích. Nếu xem Chỉ Quán có xen lẫn rộng hẹp, nay đủ bốn giải thích, thì đây rộng kia hẹp. Đây chỉ chánh báo không nói tam thiên, thì đây hẹp kia rộng, tên gọi tuy vậy lý ắt đều đồng, nhân ắt đủ quả, chánh chắc có y. Nhưng trong bản luận giải thích mười Như này, thì lý cùng giáo cực. Nay thuật ý chỉ luận khiến cùng một nhà ý nghóa phù hợp. Luận nói thành tựu không thể nói hết. “Thật tướng”: Nghóa là thể bất biến của Như Lai tạng, Pháp thân. Phật trí biết đầy đủ thật thể này. Kinh nói: “Tướng như vậy…”, luận nói: Những gì gọi là pháp? Pháp như thế nào? Tợ pháp gì? Tướng pháp gì? Thể pháp gì? Những pháp gì là tam thừa pháp? Pháp như thế nào là khởi chủng chủng sự thuyết? Tợ pháp gì? là y ba môn được thanh tịnh. Tướng pháp gì? là nghóa của ba loại là một tướng pháp. Thể pháp gì? là chỉ có một Phật thừa, không có thừa nào khác. Nay cho rằng câu đầu trước nêu rõ mười Như thông tam thừa pháp. Câu tiếp: là cái gọi là tam thừa giáo sai biệt. Câu tiếp: tức là người tam thừa y giáo khế hợp thật. Câu tiếp: là khai tam thừa tướng, không có tướng khác. Câu tiếp: là khai tam thừa thể, chỉ có nhất thật. Luận lại nói: Những pháp gì? tức là pháp hữu vi vô vi. Nói pháp gì? tức là pháp nhân duyên, phi nhân duyên. Tợ pháp gì? tức là Pháp thường, vô thường. Tướng pháp gì? tức là ba tướng sinhv.v…, tức ba tướng Bất sinh v.v… Thể pháp gì? tức là ngũ ấm phi ngũ ấm. Nay nói phen này ly khai tam thừa, lần lược biệt giải thích trở về thể thực tướng. Câu đầu: Dùng Thanh văn vô vi đối pháp lục đạo là hữu Câu tiếp: Dùng Bích-chi-phật đối phi nhân duyên khác. Câu tiếp: dùng Bồ-tát pháp đối tám giới còn lại, đều vô thường. Câu tiếp: dùng tam thừa đối sáu cõi còn lại, đều là ba tướng. Câu tiếp: mười giới năm ấm đều là thật thể. Luận lại nói: Tợ pháp gì? Là pháp vô thường, hữu vi, nhân duyên. Tướng pháp gì? Nghóa là pháp có thể thấy tướng v.v… Thể pháp gì? Là pháp ngũ ấm năng thủ sở thủ, là thể khổ tập. Lại ngũ ấm là thể đạo đế. Nay lại nói một phen đây để giải thích hai câu trên, tổng hợp tại trong câu thứ ba, vẫn tóm lược câu ba nhập vào trong câu bốn, nghóa là pháp tam thừa đều có thể thấy. Lại tóm câu bốn nhập câu năm thành sơ khổ tập. Lại chỉ khổ tập toàn là định tuệ. Văn lại nói ngũ ấm là thể của đạo đế, cho nên biết lục đạo tam thừa vọng thật vẫn còn là Khổ tập. Luận lại nói: Lại có y thuyết, Những pháp gì? Nghóa là danh tự cú thân. Nói pháp gì? Là y Như Lai nói pháp. Tợ pháp gì? Là năng giáo hóa có thể hóa độ chúng sinh. Tướng pháp gì? Là âm thanh nhận lấy pháp kia. Thể pháp gì? Là giả danh thể pháp tướng. Nay cho rằng một phen mà giải thích, trở lại y năm câu, muốn dùng giáo pháp thông nói trước. Câu đầu: Thuyên giảng đủ pháp quyền thật của mười giới. Câu tiếp: Sở y đều thật, không còn các giáo khác. Câu tiếp: Nêu rõ quyền thật căn duyên thọ khổ không đồng. Câu tiếp: Nêu rõ các căn duyên hội đại hóa. Câu tiếp: Nêu năng hóa sở hóa, năng thuyên sở thuyên, đều giả thiết lập, bởi vì vọng sở chứng chỉ có chứng thật. Tin biết luận văn không thể liền phân biệt, cho nên dùng ý nay mới ứng diệu chỉ. Huống chi luận bốn giải thích tức là nhà nay bốn giải thích. Đầu giải thích đã dùng tam thừa thể tướng đều một thể tướng, tức Phật giới giải thích. Tiếp giải thích đã dùng tam thừa đối lục đạo giải thích tức mười giới giải thích. Tiếp giải thích đã căn cứ khổ tập đối với đạo, ngoài đây ra không còn nữa tức căn cứ địa vị giải thích. Tiếp giải thích tức căn cứ năng thuyên giáo giải thích. Do giáo quyền thật nên có thiết lập, hội nhập tức Ly hợp giải thích, cho nên biết một nhà nghóa Đại đều cùng ý chỉ luận phù hợp, vậy thì hiện văn một trăm mười tám câu bèn thành một trăm mười tám lớp giải thích mười Như. Luận văn phong phú mà người chẳng biết, nay từ tổng luận cho nên lại bốn lớp giải thích. “Nếu căn cứ…”: là giải thích bất tư nghì: Cảnh trước tuy đã thành bất tư nghì, danh kia vẫn thông, cho nên nay lại đối tư nghì mà biện khiến biết rõ bốn giải thích trước chân thật bất tư nghì. Văn này chia làm ba phần: Một: Lược xuất thể tướng. Hai: Dẫn sự loại so sánh. Ba: Nêu lý so sánh kết. Phần một: Trước là lược xuất. Tiếp “Các kinh…”: chỉ rộng. Đầu văn trước là giải thích danh, “xuất tâm số pháp” cho nên bất khả tư, quá ngôn ngữ đạo cho nên bất khả nghì. Tiếp, “Bất năng hành…”: xuất thể. Thể phi nhân quả và phi năng thú. Hành là nhân. Đáo là quả. Thể đây không hợp nhân cùng quả. Nếu kia thuộc năng thì không liên quan đến thể. Tiếp, nêu Thí, trong Thí có ba: Pháp, dụ, hợp. Phần đầu, Pháp: Quán sắc là thường nên không bại hoại, thường ắt có đủ bốn, bốn chỉ là tâm, bất dị cũng vậy. Thí dụ loại trong đó có hai lớp: Đầu dùng “sáng và tối” để dụ “Bất tư nghì” và “Hoặc”, đồng thể, cho nên chỉ trăng sáng, toàn sáng là tối. Tiếp “Lại, khi mặt trời xuất hiện…” là dụ chuyển tối thành sáng. Nói “thường tại”: Chỉ là tối không có tánh tối, nêu tối là sáng. Mê ngộ cũng vậy, lý tính không sai khác. Nhân vị thì sáng cùng không sáng xen lẫn không thể riêng biệt cho nên nói “cùng hợp”. Nhập phần chân vị phá một phần tối, chỗ tối bị phá thể biến thành sáng, lẽ nào có cái bị phá dời đổi đến phương khác? Không có chỗ để đến, nên nói “thường tại”. Lẽ nào trí sáng phát mà vẫn còn cái tối trước, mà nói “thường tại” ư? Tuy nói “thường tại” nhưng cuối cùng phải phá sạch, cứu cánh vónh viễn sạch mới gọi là “thường tại”. “Sinh tử cùng đạo hợp…” là hợp. Tiếp, “Các kinh….”: phần Chỉ rộng: như văn. Căn cứ sự để so sánh, là trong bốn thứ Bất tư nghì thiếu giải thích đức Phật, vì người đời dễ tin, vì giáo phần nhiều nói, cho nên Phật tại một trong bốn Bất tư nghì, ba loại còn như vậy, huống chi là Phật ư ? Nói “Như A-hàm”: Như Tăng Nhất A-hàm quyển mười tám nói: Xá-lợi-phất nói: “Chúng sinh không biết thọ mệnh của Như Lai”. Phật dạy: Có bốn thứ Bất tư nghì mà Tiểu thừa chẳng biết được. Thế nào là bốn? Như văn nói. Nhân giải thích thế giới bất tư nghì, dẫn kinh làm chứng. Nói “A-hàm nói một só phu”: là Tạp A-hàm cũng nói Phật tại nước Xá-vệ có nhiều Tỳ-kheo ở trong nhà ăn, tư duy việc thế gian. Đức Phật biết ý niệm đó, liền đến nhà ăn bảo các Tỳ-kheo rằng: Các ông tư duy việc thế gian không có nghóa gì, chẳng lợi ích gì, không thuận với Niết-bàn. Các ông nên tư duy “Tác tứ Thánh đế”, đây là việc có nghóa, có ích, chánh hướng Niết-bàn. Như thời quá khứ có một só phu ở thành Vương-xá bên ao Câu-si không chánh tư duy, thấy vô số tứ binh chui vào trong sợi tơ của ngó sen, thấy rồi liền khởi niệm: Ta cuồng si ư? Mất tánh rồi ư? Thế gian không phải cuồng mà nay lại thấy. Lúc bấy giờ cách thành ấy không xa có một đại hội, só phu liền đến hỏi việc như vậy. Người trong Đại hội đều cho só phu ấy là điên cuồng, mất tánh, cho nên mới như vậy. Vị kia thấy Phật hỏi…, Phật dạy: Chẳng phải cuồng mà là thật, vì cách ao kia không xa có chư Thiên cùng A-tu-la đánh nhau, binh Tu-la bị bại nên vào trong tơ sen trốn đó thôi! Vì vậy nên Tỳ-kheo chớ tư duy việc thế gian chẳng phải là việc của Tỳ-kheo. Trong giải thích “Long (rồng)” kiêm nêu có Thiên cũng có thể phun mưa tức là loài rồng vậy. “Ngũ đạo (năm đường)…”: tức giải thích chúng sinh. Luận nói: Chúng sinh trong năm đường đều có lực riêng như vậy. Trong luận Bà-sa Tạp-kiền-độ nói: Nếu nhân cúng tế chỉ quỉ thần được. Hỏi: Là hơn hay kém? Đáp: Chẳng hơn chẳng kém. Nếu hơn thì thiên nhân nên được, nếu kém thì địa ngục được, do đường kia có tự lực như vậy. Căn cứ lời dạy thành thật này, có thể chứng minh là người đời ví như sáu đường không thể đắc hết. Đây là Lương Võ thấy người Giang Đông phần nhiều ưa thờ cúng danh thần, cho nên dùng tương tợ Phật pháp quyền nghi thay thế. Luận nói: Như người không thể bay lên cách mặt đất bốn ngón tay dù trong chốc lát, mà chim thì bay trong hư không cao thấp tự tại. Trước nương một sự mưa để nói rõ các đường khác không có khả năng. Như Thiện-trụ Long vương để so sánh trí lực, biết Đế-thích muốn cùng Tu-la đánh nhau, xương sống kêu thành tiếng. Nếu khi Đế-thích muốn vào trong vườn trên xương sống tự nhiên có hương tượng hiện. Đây là sự bất tư nghì nhiếp trong đường súc sinh, như quỉ năng biến thức ăn… Lại nói: Các cõi đều có tự lực như vậy. Như Thích Tiêm nói đây có ba điều sai khác. Văn đây tụng hai trí, vọng chương đầu ở trước tán thán chư Phật nhị trí, văn đủ ba điều sai khác. Câu đầu tụng trong thật trí chỉ có hai điều sai khác. Ba câu dưới tán thán trong Quyền trí lại có một điều sai khác. Cái sai khác thứ nhất nên nói “song chích”(đôi lẻ). Tiếp, cái sai khác thứ hai: nói “khai hợp”: Trên trong văn trường hàng nhân pháp đều khai, cho nên trong chư Phật và nhị trí đều nêu tán thán giải thích kết, cho nên nói “khai”. Nay chỉ nói “thế hùng” cho nên nói “hợp”. Nhân ắt kiêm pháp cho nên nói nhân tổng. Nói “pháp biệt”: Do thời gian gia-bị cho chúng sinh khác nhau cho nên có Quyền thật. Đây biệt nhưng hợp, không có ba thứ: tán thán v.v… Cái sai khác thứ ba: nói “Nhị thừa và hết thảy chúng sinh, đồng là người không biết” thì còn chưa đủ khác, nên nói “Nhân pháp trên đều nêu” cho nên nói kia là pháp trí tuệ môn, tất cả hàng Thanh văn v.v… Nay chỉ nêu người lại là “có không” sai khác, cũng là “song chích” sai khác. Lại văn trên không phân bốn Đức Phật mà chỉ nói chư Phật, cho nên hàng trước chỉ nói “thế hùng” tức chư Phật đang hiện tại, hàng sau chỉ nói “Phật lực” không nói “ta nay”, do văn trước nói Đức Thích-ca quyền trí đầy đủ, có lực vô úy… biết là tụng Thích-ca. Lại văn trước có chữ “chư Phật”, thì có thể phân làm bốn Đức Phật, nay chỉ nói “thế hùng”, tợ chẳng phải chư Phật, nhưng dùng nghóa để phân, vì câu “thế hùng” có chữ “thế”, có thể thuộc ba đời (tam thế). Thế ắt có phương, cho nên biết là tụng chư Phật. Hàng sau thẳng nói Phật rõ ràng có thể thuộc về Đức Thích-ca. Nói “Phật lực vô úy là quyền trí”: trước trong trường hàng chỉ trong nhân quyền, trong đây đã nói công đức. Nói “công đức” cũng phần nhiều tại nhân. “Các pháp khác (còn lại)…”: là lực vô úy trước, chỉ là tự hành, từ nhân là quyền. Vì vậy nên “các pháp khác” là hóa tha quyền. Hóa tha đây chẳng phải chỉ quyền pháp gọi là hóa tha, mà chỉ đối tự nhân gọi là hóa tha. “Chỉ nêu đầu cuối”: Vẫn trước nêu hai cái sau, từ chối nêu hai cái đầu. Cho nên, trước là nói “đại quả báo”. Tiếp là nói “nghóa tánh tướng”. “Chữ “Nghóa: kiêm….”:“Nghóa” là nghóa lý, nói chỉ một cứu cánh, có nghóa lý Không, Giả, Trung. “Đại cùng chủng chủng…”: Đầy đủ như trong Huyền Văn. Trong phần phá giải thích của Quang Trạch, kia nói “Đại” cho nên biết là Thật, “chủng chủng” nên biết là Quyền. Nay văn ý nói: Quyền thật xen nhau mà có, lẽ nào quả báo chỉ có “Đại”, tánh tướng chỉ có “chủng chủng” ư? Lại, giải thích trong diệu thì đại diệu tương vọng, lấy làm sáu câu. “Lục độ” đến “phát tâm”: Đoạn tức thành Phật. Như ý châu đầy đủ như Chỉ Quán và Ký. “Vô lậu bất tư nghì”: Phải biết Bất tư nghì đây là vô lậu, cho nên “vô lậu” danh đồng, ứng “tư” nghóa biệt. Nói “Sinh xuất bốn thứ giải thích đã như trên”: tức chỉ bốn phen ở trên đã giải thích mười Như. Đây là dưới kệ văn đối. “Đãi đắc Niết-bàn”: chỉ lục độ vì đối với Nhị thừa, đây sinh tức đắc cho nên nói “đãi đắc”. “Đãi” là kịp vậy, lại nay muốn phế bỏ tiểu Bồ-tát vì là phụ (bàng), Cho nên bàng nói: “Kịp đến” hoặc “sẽ nhập diệt”. Nếu không như vậy thì nay căn cứ theo tha nhân ba câu trên chánh nêu nhị thừa, thoát phược tức là đã đắc Niết-bàn, tại sao lại nói “đãi đắc Niết-bàn”? Do nghe ba ngụy một chân, là các Thanh-văn chỉ nghe tam thừa đều là phương tiện. Phương tiện tức ngụy. Lại “nghe cần phải nói chân thật”, do đó nghi cái thật đó chưa từng nghe nói là chỉ nhất thật. Thiên nêu Nhị thừa: Người đời nếu hỏi: Nếu ba đều hội nhập thì vì sao trong đây trình bày nghi chỉ có hai? thì cũng nên phản vấn lại: Nếu Bồ-tát không nghi thì vì sao văn dưới nói Bồ-tát nghi trừ. Nếu nói nghi thông ba hạng người, hội nhập chỉ có hai, thì Bồ-tát lỗi gì mà không hội nhập? Kinh nói: “Nghi trừ”, là để giải thích “không hội nhập”. Đây chính là phá kinh, sao gọi là giải thích kinh? “Nhất giải thoát”: Xưa giáo hóa ba hạng người đồng một giải thoát. Trong Phương-đẳng Bát-nhã tuy nghe giải thoát thù thắng mà nay từ đầu nói; lại nói đã đắc một trong ba đức tức Giải thoát, điều này không đúng. Giải thích “ba phen thỉnh”: Diêu sư, Long sư không phải không nhìn thấy nghóa này, cho nên không hoàn toàn phá, nhưng không bằng Sư nay, vì đối với ba lần ức chế khiến ba phen thỉnh. Đây tức là giải thích văn biểu hiện đến chỗ sâu xa thấu đáo. Phàm một nhà phá nghóa đều sợ liên lụy đến người học sau, đối kinh có vượt quá biên cương, lại phá bỏ đó, không giống người đời luôn ấp ủ trong lòng. Lại, kệ sau ba hàng rưỡi, nói: “động chấp sinh nghi”. Đến “Bấy giờ trong chúng…”: chỉ nói nỗi lòng nghi dẫn đến thỉnh. Hỏi: Căn cứ đầu phẩm khai chương nói: Đầu là lược khai tam hiển nhất. Tiếp, (nhó thời) “Lúc bấy giờ…” là động chấp sinh nghi. Và đến trong đây vì sao dùng “văn lược khai tam” làm là “động chấp sinh nghi”? Và “bấy giờ…” hiện lên nghi để thỉnh, là gì ư? Đáp: Chỉ nói động chấp sinh nghi, nói kiêm hai hướng vì sao? Nếu “Lúc bấy giờ trong Đại chúng…” là ý nêu do trước lược khai động cái chấp xưa nên sinh cái nghi mới, nếu tại ba hàng rưỡi kệ tụng ý nêu đây lược khai động chấp xưa kia khiến sinh nghi mới, thì lại gọi văn trường hàng vì hiện lên nghi đến nổi thỉnh, chấp đã bị động, nhân đây có nghi. Nay trước hiện nghi sau mới đến thỉnh vì vậy nên văn đây dụng hai hướng chẳng lầm. Nếu dùng văn đây làm nghóa hiện lên nghi đến thỉnh thì nên khai chương nói: lược khai ba làm hai: Trước là trường hàng và mười bảy hàng rưỡi kệ tán thán nhị trí. Tiếp, ba hàng rưỡi: tụng chánh lược khai hiển động chấp sinh nghi. Văn nói “chấp động nghi sinh”: Do trước lược khai động cái chấp kia nên chấp động, do trước sinh cái nghi kia nên nghi sinh. Nghi đã sinh rồi, nay chỉ đến thỉnh. Thế nên đầu chương chỉ nói hiện lên nghi đến thỉnh. Người được lợi ích ngộ có sâu cạn, người sở dẫn thâu hoạch thọ ký sai biệt. Căn cứ năng dẫn quyền chúng biện rõ lợi ích không đồng, đã biết hiển lợi ích muốn biết lợi sâu kín cần phải biện rõ đợi thời. “Bấy giờ…” tiếp nêu hai lần bảo “Thôi”: Thôi đầu tiên ý sợ hoài nghi. Tiếp Xá-lợi-phất nêu đời trước căn lợi, cho nên lại thỉnh. Tiếp Phật bảo “Thôi”, là hộ hạng thượng mạn. Tiếp Xá-lợi-phất thuật trí tuệ lợi ích nhiều, nêu nghi lại thỉnh:Tiếp chánh rộng khai ba, có ba phần: 1.Phân chương chỉ tướng. 2.Nghóa bốn phân biệt. 3. Y văn chánh giải thích. Phân chương có bốn: 1. Dẫn kinh nêu chương. 2. Nêu phẩm phân chu. 3. “Cũng gọi là…”: là ba chu danh khác. 4. Dẫn lệ. Lệ như kinh Đại Phẩm nói ba căn, phẩm Phương Tiện thứ hai mươi mốt nói: Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Như lời Phật dạy hoặc rộng hoặc lược; các Bồ-tát… làm sao cầu ư? Phật dạy: Như vậy, Như vậy. Cho đến Nhất thiết chủng trí tướng như vậy. Đại Bồ-tát học là lược nhiếp Bát-nhã Ba-la-mật thì biết tất cả pháp tướng rộng lược. Bạch Thế Tôn! Bồ-tát lợi căn cũng nhập ư? Phật dạy: Lợi căn trung căn, định tâm tán tâm, đều nhập môn này. Môn này vô ngại cũng như ba thứ phát tâm không đồng. Dùng mười nghóa liệu giản, từ xưa nay văn phần nhiều có phân tranh, nay vì bình luận xét phán và để tự lập nhân làm mười môn. Nhưng mười môn đây tuy rộng lần lượt phá, mà một nhà lập chương đều theo thứ lớp, đầu muốn nêu người sở bị, trước nêu rõ pháp năng ích, cho nên trước biện ba chu thông biệt đồng khác. Tiếp biện rõ sở bị quyền thật có không. Tiếp nêu phần hai: Đối với thật hành, người đắc nhập tam chu không đồng do lậu hoặc có dày có mỏng. Tuy hiện lậu hoặc dày mỏng, cần phải biết do căn đời trước, tuy đã thành mà căn căn phải tại ngộ, đã được ngộ rồi ắt biết lãnh giải. Nếu có lãnh giải lý thì phải cùng được thọ ký. Người được thọ ký đó ngộ có cạn sâu. Người sở dẫn có thâu hoạch được thọ ký không? Chúng năng dẫn cần lợi ích có không! Đã biết lợi ích hiển, muốn biết lợi ích ngầm cho nên biện đợi thời. Đầu môn tự lập, trong văn đầu nói: “Nếu ta gặp chúng sinh…” là nói nhân duyên. Xưa từng kết duyên, tức là nhân xưa. Trung gian gặp nhau nơi nơi đều dùng Phật đạo để thành thục. Ngày nay năm thời đều nương tựa Phật đạo tức thủy chung phó vật. Căn lợi thì chưa cần thuật sự của Phật Đại Thông. Nếu nói văn đây thuộc thuyết pháp, thì mặc dù ở đầu văn thí thuyết mà phân văn vẫn thuộc sau văn pháp thuyết. Đã ở trong phần đầu thí thuyết, nên lại dùng đó. Nếu không như vậy thì chọn văn kế tiếp để dùng. “Trưởng giả văn dó kinh sợ vào…”, là nói nhân duyên. Nhân xưa, duyên nay, là nghóa cảm ứng. “Trưởng giả” thì “ứng” sở văn là “cơ”, “kinh sợ vào” tức là phó cơ. Cho nên, biết: ứng phó tức là nhất hóa ngày nay. Ý đáp: Chấp nhận đều đủ “ba căn”, pháp thuyết tự bị trong pháp thuyết có ba, hai thứ còn lại cũng vậy. Chỉ nói “ba căn” nhiếp chín tức đủ. Từ chánh lược phụ, thượng căn thì trung thượng căn là chánh, trung hạ là phụ. Cũng nên nói luận đủ thì có ba, tạm nói thượng thôi! Nếu hợp thượng căn thì thượng ba đều “bị”. Chỉ thượng căn là nhiều là chánh, trung hạ căn là lược là bên. Trung trung, thượng hạ, hạ trung, trung thượng, cũng lại như vậy. Trong nghóa thứ hai ngài Quang Trạch có thật làm quyền sở dẫn, thì thành quyết định có thật hành, dẫn ý quyền khiến có thật. Ngài Khai Thiện nhất định chấp ý dẫn quyền khiến không thật. Nay nói “có không”, lại căn cứ thật hạnh, quyền lẽ ra tạm có đâu cần luận. “Khai Thiện” chỉ Tứ niệm xứ làm “sơ nghiêïp”, cho nên nói “ngoại phàm”. Nay nói “có”, thì ai luận sơ nghiêïp năng biết thường ư? Lẽ nào do mới biết khiến nay không ư? Như sự Đại Thông Phật, sao không biết? Cũng nói nay có trú địa vị Thanh-văn. Nói “đâu có”: là rất không có khả năng. Trước Pháp Hoa sở chấp là gì? “Kinh nêu rõ…”: chính bị Ngài Quang Trạch phá bỏ. Đã nói đâu chấp Tiểu quả, thì Quyền làm sao sở dẫn ư? Nay trước tổng bài xích hai nhà “nương kinh mất nghóa”. “Nương kinh”: là ngài Quang Trạch. Kinh này hai văn được thọ ký cho nên “không”, chưa thọ ký thì “có”. Lại tại xưa cho nên “có”, nay thì “không”, cho nên nay dẫn văn căn cứ “khai” căn cứ “ký” để phá định “có” kia. Nếu vọng sau “không” mà chấp “có”, thì (lỗi) mất. “Mất nghóa” là phá “Khai Thiện”. “Nếu định không…” là văn, đã có nhập thành thì ắt có thật hành. “Quyền hà sở dẫn”, tức là lại do Quang Trạch kết phá Khai Thiện. Cho nên nay lập thật có, cùng Quang Trạch nói đồng, ý kia thì biệt. Nay tuy nói “không”, cũng cùng Khai Thiện không đồng, vì nói từ sau được thọ ký. “Nếu định có…”: là phá chấp định có, sợ chấp sau tam chu còn có Thanh-văn. Nếu định không thì phá định chấp không. Như ở đầu phẩm Tựa nhân hào quang chiếu mà ngang thấy Văn-thù dẫn việc xưa. Đầu phẩm Phương Tiện nói một ngàn hai trăm người khi chu Pháp thuyết xong, còn tự không ngộ vẫn đợi Thí thuyết. Trong văn “túc thế” (đời trước) nói nay có trụ Thanh-văn địa, lại nêu người không biết. Nói “Xá-lợi-phất, Bích-chi- phật…” cho đến lưu thông nơi nơi đều có, vì sao lại nói không? Lại nói “không”: là phá người trụ quả, định chấp vónh viễn diệt, chẳng phải cho là vốn không. “Nếu nói…”: là văn nay rộng nạn vấn, nay chấp nhận “thật có là quyền sở dẫn”, vẫn sợ nơi khác dùng Tam tạng Phật theo lệ. “Nghóa đây không theo lệ…”: nay văn trình bày. Đức Phật ở quả đầu thì không có thật hành, Thanh-văn thì không như vậy cho nên “có”. Tam tạng Phật nói xuất từ nơi giáo nay, cho nên biết không phải người khác vấn. “Nơi nào”: Phật ắt tam thân viên mãn cho nên xưng Phật đây là quyền. Nếu nói ba mươi bốn tâm, thì đây chính là giáo Quyền tương tự Thật. Xưa nay người học Phật đây còn không dám gọi là Quyền, thì ai biết tịch diệt đạo tràng không thật. “Nay nêu rõ…”: là chánh giải thích, chia làm hai phần: Lập lý. Dẫn luận. Phần Lập lý cũng có hai: Đầu, lược lập. Tiếp, nói “Nếu từ…”: Thật trí còn không có A-tỳ, lẽ nào kiến định có Thanh văn. Nếu nói thời chưa đến thì nghóa “có” chẳng sai, cho nên Trưởng giả Phật nhãn thủy chung đều không. Dùng Pháp nhãn quán Trung thì đường cần có. “Tác nhân” cũng căn cứ trước chưa được thọ ký. Phần Dẫn luận chia làm năm phần: 1.Chánh dẫn luận. 2.“Nếu y…”: là dùng kinh này vọng luận nghóa lập năm loại. 3. “Nếu từ..”: là phán xét. 4. “Nếu đắc…”: là kết ý. 5.“Lại nữa…”: là phán Đại. Phần Dẫn luận thì như văn. Phần hai, nay y kinh vọng luận, chỉ thêm một loại Phật đạo. Trong phần Phán xét, nói: “Nếu từ quyết định” cho đến “Bảo sở”: là căn cứ Đại tuy không chuẩn theo Tiểu nhưng vẫn có. “Thoái Bồ-đề tâm” vẫn thuộc có, là do tại Tiểu giáo. Nay luận bắt đầu nên nói thoái đại. “Thật đã vậy…”: là nêu Ứng hóa, sở dẫn hồi tâm năng hóa bản đại. Nếu tăng thượng mạn hai đường không thu nhiếp thì bản chẳng phải luận bàn. Phần năm “Lại nữa…”: là lại phán định Đại thừa có, không. Chia làm hai phần: Trước, phán xét. Tiếp, kết ý. Chỉ Ứng hóa là không, thứ tư, thứ năm đều gọi là “Đại”. Cho nên trong luận thì không nói Đại thừa chỉ nói Ứng hóa. “Nếu từ tự hành…”: là chánh chỉ Phật đạo, đây dùng danh do nhà này lập và dùng “phát tích” để giải thích nghóa, vẫn trừ khai tam đắc thọ ký rồi, tức gọi là Sinh thân đắc nhẫn Bồ-tát. Cho nên, chọn “phát tích” là biết có “thực bản”, cũng được gọi là Đại thừa Thanh-văn. Vậy thì theo ẩn đức nên không theo phát Tích thì có, do đó được gọi là Đại thừa Thanh văn. Rõ ràng nói “phát tích” vẫn thị hiện Thanh-văn, cho nên được tên. Không đồng nơi khác giải thích rằng trong Đại thừa tự lập Thanh-văn. Từ “Nay khai tam…” trở xuống: là định chánh ý văn, cần phân làm hai hạng người, vì hạng người thoái tâm Đại thừa cùng luận không khác biệt, nay chọn Quyết định ý giống như có chút sai khác. Luận căn cứ tại pháp hội được thọ ký. Nay căn cứ theo cách chung bị khai, chúng không tai pháp hội thi được Phật lần lượt vì nói. Hoặc ở ngoại giới cũng được nghe, hoặc sau khi Phật diệt độ thúc giục khiến tin. Kinh đây nói chung nói thẳng là thọ ký. Luận nói thoái đại. Lại dựa vào một con đường, như các Thanh-văn ở trước Pháp Hoa, ai biết thoái đại? Chúng tại pháp hội Phương-đẳng đều gọi là Chủng diệt. Căn cứ ý kinh này, vì kia đây đã nghe kinh, ắt kia đây được thọ ký. Sau một phen khai, không gián đoạn như vậy, quay về cùng chưa quay về dùng phân hai nghóa. Nên biết luận liên quan có nói đến các thứ khác, không dùng ý kinh mà cho là đồng nhau. “Thứ ba: Hoặc có (sâu) dày mỏng”: Sư xưa dùng “hồi Hoặc” để giải thích “Hoặc”, Sư nay dùng “phiền não Hoặc” để giải thích “Hoặc” cho nên cùng xưa không đồng. Trong đó trước liệt kê giải thích của các sư xưa, lần nữa lại quán sở chứng, cho nên nói “du quán”, do “du quán” cho nên biết lý Nhất đồng. “Và kia…”: là nêu rõ nguyên nhân của Hoặc kia là do nghe giáo khác. “Dẫn ắt…”: là chánh nêu lẫn nghi sinh hoặc, giáo vốn thuyên giảng lý, năng thuyên đã ba thì sở thuyên đâu chỉ một? Nếu sở thuyên một thì năng thuyên đâu phải ba? “Chần chừ…”: là nêu tướng Hoặc kia, mặc dù “hồi hoàng” (trở lại gấp gáp) mà chưa biện rõ “được và mất”, “Theo lý…” phán xét nghóa “được và mất”. “Theo lý mà nghi hoặc giáo” thì “được” là thuận lý. “Theo giáo mà nghi hoặc lý” thì có “mất” là trái lý. “Hàng thượng căn…” chính dùng lý giáo được mất trong Tiểu mà phán nhập Đại tam chu không đồng. Cho nên hàng thượng căn chấp một lý tình nhiều, lý gọi là gần đại. Cho nên nghe không ba mà thuận một lý do đó ngộ trước. Giáo nghi hoặc lý, ba phen nghe mới biết một lý không sai biệt, do nhân đây thành hạ căn ngộ, trung căn hai tình lực v.v… cho nên ngộ ở giữa. “Nay cho là”: là phá. Trước, tổng phá lý giáo kia xen lẫn nghi hoặc mà làm ba căn. Nếu dùng xen lẫn nghi hoặc mà làm ba căn, thì không thể chưa nghe tam chu dự đoán sinh “hồi hoặc”. Tiếp, “Ba người…”: đủ phá hai ý: 1.Đại tiểu vónh viễn không liên quan nhau, 2. Phá tại Tiểu không nên nghi hoặc Đại. Đây biệt phá hai ý. Trong phần đầu lại có hai: Trước, lại định đó, nên nói “Những gì”. “Nếu hồi hoàng…”: là chánh phá, lại có hai: Trước, căn cứ Tiểu thừa phá, nghi thuộc Kiến hoặc, Sơ quả còn không phải, sao được xen lẫn nghi mà gọi là ba căn? Tiếp, “Nếu hồi hoàng Đại thừa…”: là căn cứ Đại thừa phá. Đại tiểu đã sai biệt, sao được đối với đại lý giáo mà xen lẫn nghi? Ý tiếp là dùng ý kinh này. Nếu Đại tiểu lý giáo lại xen lẫn nghi hoặc, thì ông ở chỗ nào mà nghe bài xích ba ư? Phương-đẳng tuy bài xích, Bát-nhã tuy gia thêm, đều chưa từng nói “ba là phương tiện”. Cho nên biết trước lúc ấy Đại Tiểu chưa nghi hoặc, lẽ nào có xuất nhập quán ba một chần chừ ư? “Đã dự…” dù nạn vấn trước lúc ấy đã từng có lý giáo “hồi hoặc” mà nên biết đã từng động chấp sinh nghi. Nếu đã sinh nghi thì khi lược khai tam rồi thì phải lãnh giải, sao được lược nghe? Vẫn nói bốn chúng đều có nghi? Nói “ngày nay”: là khi nghe lược khai. “Tiến thoái…”: là kết ý không phải. Tiếp, “Nay nêu rõ…”: là chánh giải thích gồm ba phần: 1.Phán chánh ý. 2.Căn cứ bốn câu để phán ba căn. Căn cứ ba phẩm để nêu nhập trụ. Phần một: Trước tổng nêu căn Hoặc đều sai khác đối với người khác, Tiểu thừa căn nhất định “hồi hoặc”, lại trừ bỏ, sao được lại căn cứ Tiểu thừa để biện Hoặc? Người khác dù theo Tiểu mà nghi hoặc Đại, người kia lại không lập biệt danh của Hoặc, cho nên Tiểu “hồi hoặc” không thành dày mỏng. Hỏi: Các người hàng Thanh văn, trước lúc ấy văn không có nói đoạn biệt hoặc vì sao nay căn cứ để luận dày mỏng ư ? Đáp: Hiển giáo tuy không có, mà căn cứ lý hợp thì có, cho nên văn bị đào thải, nghóa đương đoạn phục, do căn không đồng nên đoạn phục cũng sai khác, dẫn đến có ba căn trước sau không đồng. Phần hai: Căn cứ bốn câu, chia làm hai phần: Một là nêu bày. Hai là: dùng bốn câu riêng đối bốn người. Căn Hoặc đều do quá khứ huân tập, dẫn đến khiến ngộ có tam chu không đồng, do đó ba phen phân phán. Đầu giải thích thâu căn cơ khiến tận, cho nên câu thứ tư nhiếp “chúng kết duyên”. Hai câu sau giải thích bất định: ba căn đã định, chỉ câu pháp đến bốn, đem bốn phán ba cho nên từ bao hàm tiến thoái. Trong giải thích thứ hai: nên coi hai câu giữa là trung căn. Văn nói “là trung hạ căn”: hoặc bỏ chữ “hạ”, hoặc chữ “hạ căn” riêng làm câu dưới. Phần ba: Căn cứ ba phẩm Hoặc, lại có hai: Đầu thích, sau lệ. Đầu giải thích: Tức hai vị đều có ba lớp, Nay lại nêu tam chu bắt đầu nhập Sơ trụ có ba không đồng. Hoặc tận không bằng nhau, nên khiến như vậy. Ví như dưới dùng Tiểu thừa so sánh Đại thừa. Mười sáu sát-na đều gọi là Vô lậu, đến thứ mười lăm còn thọ tên Hướng, cho nên ba phẩm Hoặc tận thì mới nhập Sơ trụ, bấy giờ bèn được thọ ký. “Thứ tư: Chuyển căn, không chuyển căn”: Trước là thuật xưa, tiếp “Nếu vậy…”: là phá. Tuy có gọi là chuyển, khi nghe đều có thượng căn mà ba căn không thành. “Nếu chuyển…”: là phá nghóa chuyển không thành, cũng không có ba căn. Khi tam chu ngộ đều gọi là thượng căn, lấy gì để biện tam chu ba căn? Còn lại người chưa ngộ thì không gọi là “chuyển”. Tiếp theo là ý ước lệ: Đầu lập sự, tiếp nạn vấn. Nếu cả hai đều lợi và lợi độn vẫn còn, thì không gọi là “chuyển”.“Thân-tử một phen nghe…”: đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển sáu nói. Tiếp “Chúng sinh…”: là trong chánh giải thích, có hai: Đầu là chánh giải thích, tiếp là liệu giản. Văn đầu: trước là dẫn hiện tại làm so sánh, hiện đã là duyên sở chuyển, nghiệm xưa cũng vậy. “Đời trước…” là nêu rõ đời trước chuyển ba căn đã thành, cho nên khiến ba căn trước sau ngộ nhập. Tiếp, “Thí dụ tam đao…”: “đao” như căn, “mộc” như nghi hoặc, người cầm đao như cơ, đức Phật khiến họ chặt đứt. Thọ giáo như nghe pháp, vận chặt như dụng quán, cây gãy như chứng, từng đập như chuyển, gặp để đập không đồng nên có căn lợi độn. Trong đây nghe ngộ tợ như Tín hành đều kiêm pháp, do đời trước tin pháp hồi chuyển giúp nhau không đồng. “Tin pháp…”: tướng đầy đủ như trong Chỉ Quán, đây trong một tòa không có sáu mươi bốn phen. Ý của câu “Hỏi” là: Chưa nhập Trụ trước gọi là ba căn, tức ba căn đây nhập Trụ rồi thì về sau còn được gọi là ba hay không? “Đáp”: Ý có thể thấy. Tiếp “Hỏi” ý là: Trước Trụ gọi là duyên, Sơ trụ gọi là Chân, chưa chứng Nhị trụ cũng gọi là “duyên tu”. Trước Trụ thì “duyên tu” đã có sai khác, trước đệ Nhị trụ cũng có sai khác ư? “Đáp”, ý: Vị đồng lý đồng không nên biệt nữa, trước Trụ chưa chứng chấp nhận có không đồng. Nhưng trước Viên trụ cũng gọi là “duyên”, thì chỉ có trong đây và Tứ niệm xứ. Vẫn đối với nghóa Biệt giáo mà lập danh kia. “Thứ năm: Ngộ và không ngộ”: Đầu văn nay tự lập: Trước dẫn kinh lập ngăn ngại. Tiếp, “Nếu nói…”: là nêu vượt ngăn ngại. “Nhưng kinh…”: là biện rõ biệt, cho nên nói “nghóa chưa hẳn như vậy”. Cho nên xưa ba căn không đồng tam chu, tam chu tam thừa đều ba thành chín. “Nay kinh…”: nay nhân đây cần phải biện rõ Bích-chi-phật có không. Trước là dẫn khởi lập lại ngăn ngại, đã biết ba căn khắp ở tam thừa. Kinh này văn nào nói Bích-chi-phật ngộ? Tiếp, “Bích-chi-phật…”: giải thích sự ngăn ngại. Nói “Trung căn”: là dựa vào Tam thừa trước. Nói “tùy căn”, là do trong Thanh-văn cũng có ba căn. “Cho nên Thân-tử…”: chứng, không có riêng Bích-chi-phật. Đã nói rõ Nhị thừa đắc ngộ ba căn không đồng, Bồ-tát cũng nên khắp ở tam chu, vì sao như vậy ư? Cho nên vượt ngoài các Sư xưa, nêu rõ Bồ-tát chấp nhận có ba căn, mà đều nơi pháp thuyết đều không đến hai chu trung hạ. Nói “Vực hoài”: “Vực” là hạn cuộc bờ cõi, là phần hạn của tâm kỳ vọng. Nói “cận quả”: Kia chỉ cùng địa vị, nghóa là lìa Nhị thừa tức cầu làm Phật, Phật quả vẫn đồng địa vị nhị thừa, cho nên nói “cận quả”. Nay nghe Phật quả tức vượt qua năm trăm (do tuần). Dù có nghi xa gần, cũng không đồng Tiểu thừa cho nên dễ ngộ. “Ba căn…”: xưa phán ba thời đồng tại pháp thuyết. “Nay nêu rõ…”: là phá. Chu đầu trước chỉ pháp thuyết, đầu và trong lược nói. Chu đầu thì tam thừa Bồ-tát đứng đầu, nhưng không cùng đầu tiên ngộ. “Nếu vậy…”: là dẫn chứng, sao được phẩm Phân Biệt Công Đức và trong Lưu thông, như phẩm Diệu Âm Bồ-tát… còn có mới ngộ Vô sinh nhẫn. “Xưa nói…”: là xưa có ý bào chữa nói: Chu đầu trước ngộ đã thành Pháp thân. “Nay nói….”: là lần nữa lại phá. “Sáu trăm tám mươi vạn ức…”: lẽ nào có thể trước là Pháp thân mà vẫn nói đắc Vô sinh nhẫn ư? Sau Vô sinh nhẫn mới gọi là “tăng đạo”. Tiếp, “Hỏi”: Đã không chấp nhận Bồ-tát chỉ tại chu đầu, thì Nhị thừa cũng nên đến Thọ Lượng ư? “Đáp”, ý: Người không hạn cuộc ở đầu, danh không thông sau. Hỏi: Đã đối tam chu đã đắc Vô sinh tức là Pháp thân, vì sao không chấp nhận giải thích của Sư xưa ư ? Đáp: Ý của Sư xưa: Vốn là Bồ-tát, chu đầu nghe pháp đắc thành Pháp thân, đến trong phẩm Thọ Lượng tăng đạo tổn sinh. Nay nói Thanh-văn đến sau tuy thông là Bồ-tát, hoặc là có người chưa đắc Vô sinh nhẫn thì không gọi là “tăng đạo”, cho nên chỉ nói Vô sinh. Sư nay trước nạn vấn người xưa: Vốn là Bồ-tát còn có đến đó mới đắc Vô sinh? Như đầu giải thích trong phần Duy thổn, trước đắc Thập trụ… tự là một đường, lẽ nào khiến cho Bồ-tát đều trước ở pháp thuyết đắc Vô sinh ư? Cho nên biết căn tánh Nhị thừa được thọ ký cũng có đến sau mới đắc Vô sinh nhẫn, cho nên không thể làm một đại khái. Phải biết tất cả đều thông trước sau, chỉ sau tam chu thì không có tên Tiểu thừa. “Thứ sáu: Có lãnh giải, không lãnh giải”: Tuy không nói cổ xưa có chấp đây mà nay dẫn phá. “Nay nêu rõ…”: là trước phá Duyên giác, tiếp là biện Bồ-tát. Văn đầu có bốn: 1.Lập ý. 2.“Thân-tử…”: dẫn sự. 3. “Lại, bốn chúng…”: là ý có. 4. “Tín giải….”: là nghóa có. <篇> <卷>QUYỂN 4 (Phần Hạ) Tiếp, trong phần biện Bồ-tát, có hai phần: Một, tổng thuật ý. Hai, “Lại ý kia…”: là biệt xuất lý do. Phần một lại có ba : 1.Nêu không. 2.Ý hoặc có hoặc không. Dễ thì không, cho nên nói “xứ xứ có văn”. Căn cứ lý hợp thì có, cho nên nói “Phạm văn…”. 3.Nêu trong “có”, nói “Bồ-tát hạnh vị…”: Bồ-tát thật địa vị cùng cực đến Diệu giác nhưng khác đối với biệt, nên gọi là “thâm”. Mới nhập thật còn chẳng sánh kịp, cho nên gọi là “tuyệt”, mới từ Quyền đến cho nên gọi là “tân”. Xưa quyền địa vị thấp, nên gọi là “tiểu”. “Nói Thọ lượng…” căn cứ lý thì trong Tích hợp đủ có lãnh giải, tân tiểu tựï không dám. Cho nên dưới tổng lãnh tụng nói: “Đức Phật thuyết pháp hy hữu xưa chưa từng nghe. Thế Tôn có đại lực, thọ mạng không thể lường, vô số các Phật tử, nghe Thế Tôn phân biệt, được pháp lợi ích”, cho đến, “hoặc vô ngại nhạo thuyết”. “Ngoài ra còn có Nhất sinh tại….” tức là Bổ xứ tổng làm lãnh giải. “Tám tướng” dễ lãnh cho nên Thanh-văn lãnh giải, Pháp thân thọ ký khó chẳng phải người nông cạn lãnh giải. Nói “Lại cầu vật gì nữa v.v…”: lẽ ra lại trách hỏi: Ông chỉ biết Thanh-văn biệt lãnh, mà không thấy Bồ-tát thông lãnh? Cho nên đây ba phen giải thích nghóa cũng như thông, ý đầu thông chỉ Tam giáo Bồ-tát, thông đều cầu Phật. Tuy là quyền nhân mà chấp nên dễ chuyển. Ý thứ hai, ba tuy nói “xứ xứ có văn”, và tiểu Bồ-tát… cho nên cần phân biệt. Tiểu ở tam quyền ngộ đại, nói lược. Cho nên nói “vân vân” là do nơi đây. “Thứ bảy: Được thọ ký, không được thọ ký”: Cũng là xưa chấp. Đầu tiên là dẫn khởi. Tiếp theo là chánh giải thích Duyên giác như trước nhập số Thanh-văn, cho nên chỉ đối Bồ-tát, cũng chia làm ba: 1.Văn dùng ý đầu trong phần lãnh giải có, không trước nay, nghóa kiêm ý thứ hai, Nếu đồng hai ý đầu, tức đồng ý thứ ba, nghóa là văn đầu đều dùng ba nghóa trước. Vì có thọ ký tức có lãnh giải. Nói “Như trước vân vân” là: Ý thứ nhất như trước lãnh giải. Trong ý thứ hai thiếu Phạm văn hoặc có, chỉ nói tùy yếu. Ý thứ hai nghóa đồng thứ ba trước, chỉ văn trước thì thông, nay thì đầy đủ thông và biệt. Long nữ biệt, Pháp sư thông. Đã thọ ký rõ ràng, tại sao ngại lãnh giải? Ý thứ ba căn cứ cận viễn biệt, cận không ưa thích, viễn ký cũng tại Phân Biệt Công Đức. Nói “Thọ Lượng”: lần nữa lại nghe Thọ lượng cho nên được thọ ký. Đối với ý thứ ba trước, thì chỉ Sở đối biệt, trước đối tiểu Bồ-tát, đây người Tiểu thừa. Tiếp “Hỏi”, ý: Vì sao không nói thẳng quá bao nhiêu kiếp thì đắc Diệu giác Pháp thân, mà chỉ nói Tám tướng Sơ trụ? Đây là giáo ý chánh văn của nhất gia, mà người phần nhiều không ngộ. “Đáp”, ý có hai: 1. Nêu rõ cần tám tướng. 2. Sau được Pháp thân ký. Do sau biện rõ trước nên biết là Sơ trụ. Vả lại ngang là chỉ Pháp thân bản. Cho nên biết Nhị thừa hai xứ được lợi ích, lại cho tám tướng thọ ký. Lại khiến cho chúng sinh kết nhân tịnh độ, Bồ-tát đã trải qua nhiều kiếp làm lợi chúng sinh, tùy thục tùy thoát, không mượn tám tướng thọ ký thiển cận. Nhị thừa không như vậy, nên cần biện rõ. “Thứ tám: Ngộ có sâu cạn”: Đây không có Sư xưa, trong đó lại có bốn: 1.Lược nêu nguyên do biện có sâu cạn có sáng tối. 2.”Đầu khai…”: là giải thích ý sâu cạn. Đã nói ban đầu nghe pháp thuyết rồi nhập Phật tuệ, nói Phật tuệ trong Trụ không chuyên một phẩm. Hoặc là chỉ có Sơ trụ hoặc là nhị, tam, tứ, cho đến thập địa, ba tiết tăng tiến lý thật như vậy. Như đã giải thích trong phần Duy thổn nói: “Truớc nhập nay nhập”, cho nên nói “nay nhập” thì bao quát bốn tiết tức Tam chu, Thọ lượng. Nhưng trước nhập hiển mật không đồng, sợ không hiểu ý trước, cho nên lần nữa lại nói đó thôi. 3. “Như nghe…”: là nêu phàm so với Thánh, nêu thô so với tế. Nếu nghe lần nữa mà không lợi ích thì ban đầu cũng uổng sự nghe, bốn tiết thêm công, lý nên tăng tiến, có khi đến Nhất sinh bởi do đây. 4.“Đơn phức…”: là dẫn sự, như lạnh được áo, lớp lớp dần hơn. “Dày mỏng”: là giải thích “đơn phức”. Hỏi: Nếu vậy thì vì sao trước nói người ở địa vị chân thật này thì không còn sâu cạn? Đáp: Nhất vãng đồng vị thật không có cạn sâu. Luận tỉ mỉ sáng tối và ánh sáng thêm vào, vì là địa vị sau khi thêm đèn sáng, cho nên lý có tăng tiến. “Thứ chín: Quyền thật được lợi ích”: Chia làm sáu phần: 1.Nêu xưa giải thích. Nói “Có một giải thích nói”: Xưa lẽ ra có nhiều giải thích, “một” kia trái văn cho nên tạm nói một. 2.“Nay nêu rõ…”: là chánh giải thích. Nói “gần viên”: “Viên” là viên mãn, lân cận địa vị viên mãn, gần Diệu giác. Nói “tế cực”: Nói rõ ở sát gần Viên. 3. “Sở dó…”: là nêu nguyên do được lợi ích: 4.“Văn nói…”: là dẫn chứng. Nói “hóa công”: Khi ảnh hưởng tích đã có lợi ích của giáo hóa, trước sau tăng đạo tức là lợi sâu, Quyền nhân nơi nơi được lợi ích sâu. 5.“Cho nên một âm…”: là lập lý, không hẳn đều phải đợi đến Thọ Lượng, cho nên nói “một âm”. Lại, mật ích: thích hợp nghe “lâu dài”, thời xứ không đồng, hiển mật đều khác, cho nên nói “vân vân”. 6. “Lại ta…”: là văn chánh chứng ảnh hưởng được lợi ích. Nếu đối với mình cũng không lợi ích, thì sao cho là muốn đắc? “Thứ mười: Đợi thời không đợi thời”: Đầu tiên trong chánh giải thích: Trước là đại phán. Tiếp, “Nếu căn cứ…”: là căn cứ tam chu và bản. “Theo luận đợi…” trong ba chu tự luận mật, như khi pháp thuyết; mật nghe Đại xa và sự Đại Thông mà được lợi ích tức không đợi thời. Chu giữa mật nghe căn cứ nói có thể biết. Hỏi: Tam chu và Bản là có mật thuyết, Huyền Văn sao nói Pháp Hoa chỉ hiển ư? Đáp: Nói hiển mật, là trước lúc ấy khắp nơi viên xen lẫn không biết nhau, nay đến kinh này đồng nhập một viên, tuy mật mà hiển thu- ần một vị, chỉ nơi một pháp hội có đợi không đợi, chỉ biết rõ thọ ký nhị thừa, vì hiển lộ phân minh nói thọ mạng lâu dài, nơi một pháp hội đây đều nghe biết cho nên gọi là hiển. Hỏi: Nói “chẳng hiển chẳng mật”: nghóa là quyết định tánh, đối với bốn thời trước đã không mật ích, không đến thời Pháp Hoa lại không hiển đắc, hai nơi không lợi ích, gọi là thất thời không? Đáp: Các kinh khác, nghóa là bốn thời trước đã nói vónh viễn diệt, vì các Thanh-văn… không biết Biến dịch. Trong kinh Tịnh Danh, ngài Ca-diếp tự trình bày rằng: Đều ứng kêu khóc chấn động tam thiên. Ở đây Đại thừa đã như bại chủng. Căn cứ kinh kia phán là bại chủng thì đâu thể sinh? mà đến Pháp Hoa đều được Phật thọ ký. Nếu vậy thì lúc bấy giờ sao Đức Phật không thọ ký liền mà khiến đợi đến Pháp Hoa? Vì hiển mật không đồng, như trước đã giải thích. Nếu đem vónh diệt quyền luận dùng giải thích khai hội thật kinh, kinh đã sinh rồi thì luận tại sao năng diệt? Chỉ do diệt nơi kia được nghe, các kinh khác không nói huống chi thông kinh luận, cho nên mất hiển mật cũng chẳng mất thời. Chỉ vì người hoằng giáo quanh co giải thích điều này, tức lỗi của người giải thích, không phải lỗi của Luận. “Năm ngàn người đứng dậy bỏ đi…”: không có mật ích của bốn thời, mất hiển công nơi hội này, mất thời hóa độ này, cõi kia không mong đợi, thế nên lẽ ra là thất thời? Đáp rằng: Sau khi diệt độ lợi ích là đúng. Hỏi: Kinh nói: Sau khi Phật diệt độ thật đắc A-la-hán chấp nhận có thể được lợi ích, người thượng mạn không thật nên chẳng phải đây thâu ư? Đáp: Thúc giục đến gần thật, thành thật như kinh nói, thì đã thông chấp nhận gặp Đức Phật khác, cũng đâu có ngăn cách thượng mạn, như kia không phát thì đợi thời Đức Phật sau. Hỏi: Phật nếu đại bi thì tại sao không khiến người kia không hủy báng mà sinh tín? Đáp: Đó là lỗi của người mù, chẳng phải lỗi của nhật nguyệt, pháp giới chúng sinh chưa làm lợi ích là chúng, huống chi năm ngàn người đây đã nhuần chủng, hạ căn, sau khi diệt độ tuy lâu xa vẫn không đổi đời. Hỏi: Thân-tử chu đầu vì hàng ba căn mà thỉnh, dưới đây tạp liệu giản, không liên quan mười môn. Nói vì bốn chúng ba căn, chu đầu khắp thỉnh Phật cũng khắp thuyết, các người chưa ngộ lại vì họ thỉnh khắp. Đã thỉnh khắp thuyết khắp, thì tại sao lại nói đức Phật đều vì họ nói ư? Đây dẫn ba phen đè nén đợi ba chu kia, Phật đã tạm đè nén dự định, tiêu biểu Thân-tử quyền năng dự tính, vì sao không mỗi mỗi thỉnh mà đầu ba chu thông làm ba căn, bắt đầu chu thí dụ thì chung vì trung hạ căn mà thỉnh, cho nên chư thiên lãnh giải. Văn sau có nói: Bấy giờ Xá-lợi-phất bạch Phật rằng: “Con nay không còn nghi hối,….các vị tâm tự tại một ngàn hai trăm đây…”, cho nên biết là vì hàng trung căn mà thỉnh. Cho đến văn nói: “Xin Phật vì bốn chúng nói nhân duyên kia”, tức vì hạ căn thỉnh? “Đáp”, ý có thể biết, nhưng Thân-tử giả sử dự biết tại ba, cuối cùng cần phải thỉnh khắp. Nếu vậy, chu đầu thỉnh khắp thì vì sao Phật chỉ làm Pháp thuyết ư ? Vì sao Thí thuyết lại thỉnh ư ? Thí thuyết đã vì hai hạng trung hạ căn, vì sao lại thuyết về đời trước? Đáp: Chu đầu thỉnh khắp, nói cũng nói khắp, người nghe chưa ngộ, chính ở vật cơ, trung hạ còn mê muội nên lần nữa lại vì trung hạ mà thỉnh khắp. Đức Phật cũng khắp vì trung hạ thí thuyết cho nên bốn người trong số một ngàn hai trăm người, ngoài số này là thuộc hạ căn, cho nên đức Phật xem xét căn cơ không cần thỉnh lại, liền hứa nói: “Nhân duyên đời trước, ta nay sẽ nói”. Nếu vậy, thì cũng chưa trình bày nạn. Nếu thông bị ba căn thì đâu nói ba phen nán đợi kia ba phen thỉnh để tiêu biểu ba chu? Đáp: Xem xét vật cơ tình, lý cần phải dự chiếu cho đến vì thuyết đâu lựa chọn hạ, trung. Cho nên khi pháp thuyết đã lợi ích trung hạ, mới khiến trung hạ trở lại ba phen liền ngộ. “Vân vân” là: Lẽ nào có pháp thuyết trung hạ không nghe, lẽ nào có sơ thỉnh chuyên vì cực lợi! Rộng trách kiến giải xưa không hiểu đại đạo. “Hỏi”: Đem hai chu: Pháp và Thí dụ, đối với nói đời trước, tợ như ba đời. Nếu thuận ba đời thì đương lai và hiện tại như thế nào? Trong “đáp”, nói “không có văn”: tức là nói Nhất vãng. Như trong thuyết pháp “sẽ vì ông nói”. Nếu đem ba xưa vọng một nay, thì nay là tương lai của xưa. Đây căn cứ dù không có phương pháp biện luận, để đáp câu hỏi vô phương, được làm thuyết này. Nếu không vậy, thì chỉ được y thường lập danh “Pháp, Thí”. Đã nói “vô phương” thì xúc chạm đến chuyển, như trong thí thuyết Đại xa vọng tiểu đại cũng là đương. Như trong Pháp thuyết, vọng ba làm xưa, thì một cũng thành hiện tại. Nay nói “Thí là hiện”: thí là hiện sự, tạm nói “hiện” đó thôi! “Căn cứ sau vọng trước”, thì “Pháp, Thí” ở sau đời trước, cho nên lấy nói đời trước làm quá khứ. Chuẩn theo đây thì biết “Pháp, Thí” hợp đồng đương hiện. “Hỏi: Xưa do năm trược chướng Đại thừa”, là chấp của Sư xưa. “Bốn liệu giản” là nay phá kia. Nói “như trước”: là chỉ Huyền Văn trên. Năm trược có trừ không trừ, đại cơ có động không động, không được hoàn toàn nói “chướng Đại”, cũng có thể nói “như sau”, tức trong phần sau giải thích năm trược, đầy đủ trải qua năm vị bốn giáo bốn câu. “Có người…”: lại dẫn người khác giải thích. Đoạn xong Kiến hoặc, còn có Vô minh, cho nên sở chứng chân cùng vô minh đây, cùng làm chướng Đại thừa. Vô minh nêu Tu hoặc, tức không phát tâm sơ quả, cho nên dẫn Pháp Hoa luận để chứng minh. Nói “người không phiền não” vì đã đoạn Kiến hoặc. “Có nhiễm mạn”: là có Tu hoặc. “Chưa biết thường trụ”: tức là chướng Đại. “Như Bác địa không chấp”: chưa có sở chứng chưa từng đoạn kiến. Hai si hợp minh vô minh hoặc mạnh, cho nên nói “độc chướng”. Ý nói trong năm trược thì Chúng sinh trược Kiếp trược và Mạng trược, không hoàn toàn là chướng. Vì chướng là “Kiến, Tu” hai trược. “Nếu vậy…”: là người khác vấn nạn. Ý nói: Nếu hai người vô minh, hoặc cùng hoặc riêng, đều năng chướng, tức là vô minh đây. Nếu định là năng chướng thì định phải phá. Nếu nghe pháp rồi phá, thì không ảnh hưởng nghe pháp, làm gì có chướng? Nếu chưa nghe pháp mà trước phá vô minh, thì lúc nghe pháp, vô minh đã không còn, nên không gọi là chướng. Đây là ý của Tam luận sư, không hỏi nguyên do vô minh làm chướng ngại, mà thẳng dùng tự tha v.v… để vặn hỏi rằng là: Chướng có hay không? “Đáp: Đó là tha nhân… làm thông”: nghe pháp cho nên phá, phá do nghe pháp. Nói “không trước sau”: Chưa nghe pháp mà phá là “trước”, nghe pháp rồi mới phá là “sau”, trước gọi là tự phá, sau gọi là tha phá, tự tha không phá không nhân không thể. Tiếp “tuy không trước sau…”: là tuy chẳng tự tha nhân duyên cho nên phá, mà do nhân duyên cho nên cũng trước cũng sau, cũng trước cho nên tối (ám) diệt, cũng sau cho nên sáng (minh) sinh. Nay từ phá mà nói, cho nên “không trước sau”. Nay từ lập mà nói thì Vô minh nhất định chướng. Lại, cũng nên nói “tuy không trước sau, mà nghe pháp thì nhất định phá”. Tiếp lại liệu giản (giải thích) “Tri và Bất tri”: Đầu dẫn hai kinh đều nói “tri (biết)”. Vì sao kinh này ba chu nói xong còn nói “bất tri (không biết)”? Nhưng tuy nói “biết” mà văn ý có chút sai biệt, kinh kia thuộc Phương-đẳng nên đầy đủ hai ý: 1. Đối các Bồ-tát, thì nói người Nhị thừa đầu tiên phát đại tâm, sau chung quy đại thừa. 2. “Do không ngu…”: hoàn toàn bài xích, đầy đủ như trong Chỉ Quán cuối quyển ba. Kia lạm dẫn dùng làm lời nạn vấn. “Vì sao sau ba căn…”: sau phẩm Pháp Sư mượn văn trường hàng nói: “Nếu người Thanh-văn nghe kinh này mà kinh nghi sợ sệt, thì phải biết đó là hạng tăng-thượng-mạn”. Đây dùng “thượng mạn, kinh nghi” để hiển bày “không biết”. Chỉ vì sau ba căn thảy đều phải “biết”, vì sao còn nói “kinh nghi sợ sệt” ư? Đầu tiên nghi cho rằng ba chu ban đầu động chấp sinh nghi, sau ngộ thì cho rằng ba chu lãnh giải, sau lãnh giải thì không còn nghi. Vì sao ở đây sau lãnh giải mà còn tự kinh nghi? Trong “Đáp” có hai ý: Đầu, thông nêu “biết”. Tiếp, “Phàm có…”: là phân môn biệt giải thích. Ý văn đầu: Kinh này cũng nói “biết”, trách người hỏi, vì sao chuyên dẫn văn “không biết”? Cho nên kinh này cùng thọ ký nơi nơi đều nói “biết”. Tiếp dẫn văn đây để chánh đáp nói “biết”. Sau ba căn có người không biết, tức là lời thúc giục. Những người không ngu thì đến thời Pháp Hoa thảy đều “đã biết”. Giả sử lại có người không biết, thì phán đó là hạng người thượng mạn. Đã chẳng phải thượng mạn, thì đạo lý đều “biết”, “tưởng diệt độ” mà còn biết huống chi các hạng khác ư! Tiếp, phân môn giải thích: Đầu nói rõ biết là Thanh-văn ở kinh kia cũng không nói “biết”. Phật tại kinh kia vì các Bồ-tát nói ý nguyên do kia, cho nên nói “biết”. Đây tức đáp câu hỏi về hai kinh trước. Xưa từng phát Đại thừa cho nên nói “trước biết”, trung gian thoái Đại cho nên nói “tiếp, nêu không biết”, “sau” đến hội Pháp Hoa này bị hội thì mới “biết”. Nếu Phật còn tại thế thì tam căn được thọ ký, sau khi Phật diệt độ thì không gì là không biết. “Lại, Thân-tử…”: là lần nữa lại dẫn kinh này để chứng minh là “không biết”. Câu đầu Thân-tử trình bày một ngàn hai trăm người không biết. “Ta nay…” là đầu Pháp thuyết, tự trình bày “không biết”, đây là văn “không biết” trước ba chu, chẳng liên quan đến sau ba chu. “Lại, Đại Thông…”: đây đương “Sau ba chu” cũng có văn “không biết”. Vì sao? Vì đã nói “Lúc nói kinh này thì mười sáu vị Sa-di thảy đều tin thọ, trong chúng Thanh-văn cũng có người tin (nhận) hiểu, các chúng sinh khác còn lại ngàn vạn ức chúng đều sinh nghi-hoặc”, tức là khi Đức Phật kia còn tại thế cũng có người “không biết”, nhưng cũng không được nói là “vónh viễn không biết”, bởi vì các vương tử vì họ mà trở lại giảng giải. Mười sáu vương tử này đương lai sẽ làm Phật. Đức Phật tuy tại thế, Tứ y hoằng kinh về lý cũng không sai. Nên biết tạm đối khi nghe Phật thuyết mà nói “không biết” đó thôi! “Nếu chấp…”: tiếp là hòa hợp: Trong đó: Trước là tổng ý không phải. Tiếp là chánh hội. Phần trước, không chịu thiên chấp, như hai văn trước, hoặc là đầu cuối biết mà trung gian không biết, hoặc là đầu không biết sau ắt được biết. “Sinh tưởng diệt độ” mà còn nơi kia biết, huống chi Phật tại thế mà tạm thời không biết, lẽ nào được cố chấp mà sinh mâu thuẫn? Mâu thuẫn đầy đủ như trong Chỉ Quán chép. “Luận…”: là ức chế khuất phục phàm tình, sợ thành tổn hại lớn. Nói “các việc khác”: là tu hành hướng đến quả, có ích lợi thì mới nên luận. “Thanh-văn…”: lại thuận văn tranh luận của Đại kinh cho nên Đại kinh đều nói “không hiểu ý ta”. Nhưng trong kinh kia hai mươi ba cặp đều nói “không hiểu”, do đối giáo xưa cho nên trách người mê cả hai đều “không hiểu”. Nếu biết ý hóa độ thì cả hai đều gọi là “hiểu”. Tại xưa nên nói “không thành chấp”, đối với nay thì thành lỗi. Tại nay nên nói “ắt thành”, đối với sau hợp Tiểu thừa thì thành lỗi. Do Đại Tiểu giáo “khai” và “không khai” đều thông ba đời. Nếu chỉ dẫn không thành để chứng minh định tánh, thì đã đều có lỗi, lẽ nào riêng dẫn ư? Cả hai dẫn đều chấp, còn trái ý chỉ của giáo, “mê thật chấp quyền” lỗi kia chẳng nhỏ, “vong quyền chấp thật” lỗi đây còn nhẹ. Đã trình bày thật giáo thì phải nói “quyết định thành”. Hạng người không thấy thì uổng theo kinh điển Quyền dùng để chứng Thật giáo. “Nay thử…”: chánh còn giáo nay mà làm dung hội. Trước chánh dung hội, tuy có hai cái bắt đầu mà Đại bắt đầu là quyết định, lẽ nào theo trung gian chấp tiểu tình chấp tiểu diệt làm quy cũ, cho nên Đại giáo quyết định thành, không cần tranh luận, một cặp nghóa đã vậy thì hai mươi hai cặp xin hãy theo đó mà quán. Nếu Phật Thế Tôn đều để lại văn có ngăn ngại, thì sao thành tam đạt ngũ nhãn được? Cho nên y đây thì phân biệt tranh luận tự tiêu. Dù trong hai mươi ba cặp tiểu bộ không đồng nhưng rõ ràng là dễ dàng. Tiếp, “Nếu hiểu được ý này…”: ở trong niệm xứ mà phân Quyền Thật, cho nên biết còn nghi hối, thì “biết” cùng “không biết” hai môn không nghẹt lấp, cho nên quyền thật hai người biết không biết sai biệt. “Có người nói…”: là dẫn xưa lược lập lợi độn hai người, cho đến giải thích ly làm bốn câu, thuần dùng Quyền nhân để chỉ rõ “biết” và “không biết”, cho nên không ứng lý. “Nay không chọn…”: làchỉ điểm hai thứ Sơ nghiêïp thì sự bế tắc kia tự tiêu đâu cần lại dùng một phần đầu làm ngăn ngại, huống chi nếu nghe Pháp Hoa mà không tổng phá. Cho nên căn cứ ý nay, nêu đủ quyền thật, vì vậy nên không dùng bốn câu thuần là Quyền. Nếu theo luận: Căn cứ Thật hành đối Quyền thì đều chia làm bốn câu cho nên nói “vân vân”. Văn lại lược lập. Quyền: Trước biết, Thật: Không biết. Nương sơ nghiêïp Tiểu thừa, sinh Diệt tưởng, là hiện đời không biết. Biết là hiện được ngộ, tức hai câu đầu. Câu thứ ba: đầu không biết, sau biết. Câu thứ tư: tức trong thời Phương- đẳng bị bài xích, do căn cơ chưa phát nên chẳng biết, do bị bài xích nên chẳng phải không không biết. Quyền nhân đồng với Thật, chỉ bày biết không biết. Luận rằng nội tâm kia không thời nào không biết, cho nên không dụng xưa, nơi nghóa tự hiển rõ. Lại rộng căn cứ các giáo, địa vị nào, thời nào, hiển mật, quyền thật, biết không biết… Vọng xưa tuy vậy, nay đối thật chỉ là đầu thì không biết sau mới được biết. Nhân đây lần nữa lại liệu-giản Duyên giác. Hỏi có thể biết? Trong “Đáp”, dẫn kinh nói từ biết. Hỏi: Đây Phật cũng có nghe pháp Duyên giác, sao không khiến kia nghe Phật thuyết pháp như người Nhị thừa trong thời Phương-đẳng Bát-nhã ư ? Đáp: Người chưa đoạn Hoặc thì có thể khiến họ nghe pháp, người đã đoạn Hoặc thì tự cho là Độc giác, do đó nên biết ở đời không có hai Đức Phật. Hỏi: Duyên giác trú tại Tiểu thừa thì có gì ngăn ngại? Đáp: Vốn là pháp diệt, không có thầy mà riêng ngộ. Đã có Phật hưng khởi lại không bẩm thọ giáo, ra đi thì không được lãnh thọ giáo, là ngăn ngại, cho nên không đồng Phương-đẳng vốn là người lãnh thọ giáo. Hỏi: Theo hướng nơi nào? Đáp: Hướng chỗ không có Phật, dù ở cõi đây cũng là Phật giáo không thể sánh kịp, như vị vua có đức xuất hiện, lẽ nào sao chổi không ẩn mất? Nếu vậy, thì kia đắc thần thông lẽ nào không biết ư? Đáp: Vì hộ căn cơ chúng sinh, không hộ Duyên giác, biết cũng đâu sai. “Nguyện sinh” cho đến “thập tứ sinh”: do nguyện lựa chọn số lần sinh mà được gặp Phật. Hoặc là nguyện sinh mà sinh số chưa mãn, hoặc là sau lên cõi trời mà nguyện còn lôi kéo dẫn đến, đầy đủ như trong quyến thuộc diệu, vì vậy nên người đây gọi là Thanh văn. Nói “Thập tứ sinh”: Nhân thiên đều có bảy, chỉ tổng lập bảy, hoặc hai mươi tám đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển sáu nói. Nêu cực độn đến thập tứ đó thôi! Cho nên sinh chưa mãn liền thành vô học. “Nhị quả tam quả”: Như người Nhất lai và ba loại người trong Ngũ hàm. Biết Phật xuất thế còn có kẻ từ cõi trời xuống đến thân cận Phật… Nếu thượng lưu thì dù đến Vô sắc và Vô sắc Bát, đều có khởi Dục giới hóa đến gặp Phật. Nếu không gặp Phật thì cũng có thể chấp nhận đắc Hữu dư Bát, cũng gọi là Độc giác, cho nên nói nhị quả tam quả theo lệ như vậy, do theo nguyện, huống chi hai quả dục nhân thiên sinh thì nguyện cũng dễ dẫn dắt. “Biến hóa Duyên giác”: Nghóa căn cứ theo Thanh-văn cũng đủ bốn thứ, nay văn liệt kê một nghóa đã bao hàm ba, sở hóa gồm hai. Văn chia làm ba, ba văn đều chia hai, do ba văn đều có hai chữ. Như trong văn thứ nhất: Đầu, là thuận. Tiếp, “Lẽ nào đắc…”: là hứa. Thứ hai: Đầu, là giới (răn). Tiếp, “Ta sẽ…” là hứa. Văn thứ ba: Đầu, là chọn, Tiếp, “Ông nay…”: là hứa. “Đại kinh nêu bốn thiện pháp”: Phẩm Đức Vương giải thích mười công đức, trong đó nói: 1.Thân cận thiện hữu. 2.Lắng nghe chánh pháp. 3. Tư duy nghóa kia. 4. Như thuyết tu hành. Chỉ bốn pháp này là nhân Niết-bàn. Nếu nói khổ hạnh là nhân Niết-bàn, thì không có việc đó. Ba câu sau tức Tam tuệ, cho nên đức Phật dạy đó là nhân duyên gần Niết-bàn. Năm ngàn người tại tòa cho đến giản chúng, hoặc là lúc quá khứ đã có duyên hủy báng pháp, hoặc căn cơ chưa thuần thục nghe ắt sinh hủy báng, cho nên Phật biết thời dùng thần lực khiến họ ra đi. Lại như khi Đức Phật nói kinh Anh Lạc, thì năm ngàn Bồ-tát lại từ tòa đứng dậy bỏ đi. Phẩm Thí Dụ kia nhân Phật nói Pháp thân công đức, trong pháp hội có năm ngàn Bồ-tát từ tòa đứng dậy đi. Mục-liên hỏi Phật: Các chánh só đây tu Bồ-tát đạo đã nhập chánh pháp tạng của Như Lai, tu hạnh quá tam thừa, vì sao khi nghe nói Tam thân thì không thọ mà thoái? Phật dạy: Thiện nam tử! Nghe nói thì bọn người này máu dồn lên mặt. Vì sao vậy? Vì người ấy trải qua vô số kiếp thường phỉ báng, bọn người ấy trong quá khứ đã ở nơi hằng sa Phật tu hạnh lục độ khởi tưởng chấp trước, có tâm hối hận, cho nên có thoái chuyển, sẽ lại trải qua nhiều gian nan cần cù. Ở nơi ngàn đức Phật trong quá khứ mà họ còn chưa được độ, bọn người ấy tu Bồ-tát đạo muốn được thành Phật trọn không thể được, như người muốn xây dựng nhà trên hư không, cuối cùng không thể thành. Nay nói đây chính là tâm Tam tạng Bồ-đề căn cơ chưa hợp thời. Nếu nghe tam thân lý hợp thì sinh hủy báng, thông tại Diễn môn sinh hủy báng nghóa thiếu. Cho nên biết người đời nay tuy muốn phát tâm, mà không lựa chọn thiên viên, không hiểu cảnh thệ nguyện, thì đời vị lai nghe pháp, sao có thể tránh khỏi phỉ báng?! Hỏi: Trước nói ba phen bảo “Thôi!” là để nán đợi ba căn, nay tại sao nói “vì năm ngàn người tại tòa”? Đáp: Sau ba phen thỉnh thì năm ngàn người ắt ra đi. Chỉ hết thảy ba phen bảo “Thôi!”, dùng tương đương hai nghóa, đối lý không ngăn ngại. Có khi một pháp đương vô lượng duyên, chỉ hai việc đây sao đủ sinh nghi? “Năm trược chướng nhiều”: là năm trược thêm nhiều biểu hiện đủ Kiến, Tu. Lại thêm chấp mạn, cho nên gọi là “căn thâm” (sâu). Chướng tội thì căn có khi chưa thâm (sâu), cho nên chấp mạn thì mới gọi là “thâm”. “Cành lá vụn mạt”: là nếu thật đắc quả như gốc rễ cây lớn mặc sức mà làm đồ dùng. Chỉ chấp cành lá cho là có khả năng mà khinh thường gốc rễ, cho là ngang bằng, cho là vượt quá, thì gọi là “tăng thượng mạn”. “Chấp Phương tiện của phương tiện”: Bốn quả Tiểu thừa đã là phương tiện, lại đối với Noãn, Đảnh chấp là chân cực, phải biết rằng thượng mạn chẳng phải hoàn toàn không có pháp, chỉ vì ở địa vị thấp mà tự cho là tăng thượng, mà kiêu mạn với người khác, nên gọi là “tăng thượng mạn”. “Bốn phen thỉnh”: Coi thọ ý chỉ văn nghóa là tương đương một phen thỉnh, gồm trước chia làm bốn. “Độc cổ (trống độc)”: Đại kinh nói: Ví như có người dùng chất độc bôi vào trống, ở trong đại chúng đánh trống khiến phát ra tiếng làm cho người nghe đều chết. “Trống”: Pháp thân bình đẳng. “Độc”: Từ bi vô duyên. “Đánh”: Chúng phát khởi. “Nghe”: Chúng đương cơ. “Tử (chết)”: Phá vô minh. Đời nay phá lậu hoặc bị phá gần chết, chỉ là người đương cơ. Đời sau lậu-hoặc bị phá (viễn) xa chết, đây là năm ngàn người tuy chẳng phải đương cơ, Như Lai vì sao không gượng vì họ nói để làm nhân lâu dài? “Như Hỷ căn…”: tức người được lợi ích xa, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển tám nói. Trong “Đáp” nói: “Trong pháp hội cuối của kinh Hoa Nghiêm”: đây lại hoàn toàn nhờ Kết tập thuyết. Cựu Hoa Nghiêm (kinh Hoa Nghiêm sáu mươi quyển) phẩm thứ ba mươi bảy nói: Lúc bấy giờ Xá-lợi-phất từ rừng Kỳ-viên đi ra, không thấy Như Lai tự tại trang nghiêm biến hóa và sư tử hống diệu công đức…, không thấy các đại Bồ-tát quyến thuộc, cũng không có trí nhãn năng kiến giác tri và sinh ý niệm, cũng không ưa nói không năng tán thán để người Thanh-văn xuất tam giới. Đây tức văn nói: “như câm như điếc”. Ở hội cuối của Hoa Nghiêm, tức sẽ bắt đầu nói Tiệm nhưng cũng đã gửi Ta-bà một kỳ vọng thiết lập giáo hóa Tiệm giáo, để thuyết dùng thông ý nay. Nên biết Hoa Nghiêm tận thời vị lai, tức là kinh này thường tại Linh Sơn, đâu khác mười phương lại xen lẫn chủ bạn. Đến phẩm thứ ba mươi tám: Nhập Cảnh Giới Phật thì Văn-thù từ lầu Thiện Trụ đi ra cùng chư thiên long… đến chỗ Như Lai đầu mặt lạy chân Phật, thiết lập cúng dường rồi dạo qua phương Nam. Bấy giờ Xá-lợi-phất nương thần lực Như Lai thấy Văn-thù-sư-lợi từ Kỳ Hoàn ra mà suy nghó rằng nay cùng đồng đi. Bấy giờ Xá-lợi-phất có sáu ngàn đệ tử từ phòng mình ra, lễ chân Phật rồi đi đến chỗ Văn-thù. Sáu ngàn người này đều mới xuất gia, đã từng thân cận chư Phật trong quá khứ, đều được Văn-thù hóa độ. Xá-lợi-phất vì các Tỳ-kheo mà rộng tán thán Văn-thù. Văn-thù nói với các Tỳ-kheo: Các ông khéo năng thành tựu mười thứ đại tâm thì đắc Phật địa, huống chi Bồ-tát địa. Từ xưa cùng nói thời Hoa Nghiêm dài, nếu vậy chính là giáo sau kết tập cho đến Bát-nhã mới có thể được nói khiến các Tỳ-kheo thành mười đại tâm, đây chính là nghóa đương lúc chuyển giáo. Kết các ý đây nhập trong thời Hoa Nghiêm, cho nên nói thời dài. Phải biết dùng pháp giới mà luận thì đều là thời Hoa Nghiêm, dùng Phật tuệ mà nói thì đều là thời Pháp Hoa. Đạo lý tuy vậy, nhưng nếu căn cứ thứ lớp bộ loại thì không tiện, tức là các giáo Lộc Uyển đều nên kết lấy, chỉ là đại tiểu không đồng căn cơ thấy không bình đẳng, cho nên khiến giáo chủ nói cũng không phải một. Nghiệm Xá-lợi-phất đã có sáu ngàn đệ tử, cho nên giống như thời Phương-đẳng, Bát-nhã giáo, đâu chỉ Lộc uyển ư? Nay văn lại nói “chưa phá tiểu chấp” tức tựa như bắt đầu thời Lộc uyển. Căn cứ văn dưới giải thích Trưởng giả trong phẩm Tín Giải chỉ là căn cơ thấy mặc, cởi trước theo. Nay cũng lại nhờ Tiệm giáo Đại cuối Tiểu đầu để giải thích câu: “Nay chư Phật” đến “lựa bỏ”, bởi vì không có mật giáo đồng tịch lợi ích. Nay muốn diệt Hóa thành phế bỏ thảo am, chính là thể bình đẳng Nhất hóa. Đây còn ở Tiểu thừa khởi tăng thượng mạn, huống chi năng Đại thừa lợi ích ư! Cho nên phần nhiều người ở đây chánh thích nghi khiến bỏ đi. “Dù đi hay ở đều phỉ báng…”: nghe lược thì không hủy báng, nghe rộng ắt hủy báng cho nên nói: “đi thì có lợi ích”. Vì vậy, “độc cổ” gồm hai nghóa hủy báng và không hủy báng. Trước nghe lược nói đã thành nhân không hủy báng độc cổ, tại sao lại cần thêm thành nhân hủy báng ư? Hai nhân không sai biệt thêm hủy báng đoạ vào khổ, không tạo nhân hủy báng thì có khi ở Niết-bàn đắc lợi ích đương cơ. Nếu thêm hủy báng thì phần nhiều mất lợi ích gần, cho nên mặc cho bọn kia đi để còn được lợi ích gần. “Hỷ căn, từ” cho nên khiến xa được lợi ích, ban cho hạt giống an lạc kia. “Như Lai, bi” nên hộ trì khiến không hủy báng, bạt (cứu) đương khổ kia. Tiếp, “Hỏi” có thể thấy. Trong “Đáp”, “chẳng phải đương cơ…” là: Nếu chỉ dùng năm ngàn người mà làm kết duyên, còn lại là đương cơ thì năm phẩm trở lên đều thuộc đương cơ, nhưng chuẩn vọng theo văn trước, trong giải thích bốn chúng thì chúng đương cơ chính là tại Sơ trụ trở lên. Có khả nàng làm Chúng ảnh hưởng thì sáu căn năm phẩm đều là kết duyên. Chỉ là kết duyên nghóa rộng muốn thâu tóm hạng đứng dậy bỏ đi. Dù dùng năm phẩm làm đương cơ, hạng này cũng được gọi là kết duyên. “Đã như trên nói”: như nói trong “đợi thời” bên trên, tức sau khi Như Lai diệt độ người hoằng trì kinh được lợi ích. “Xưa thời đức Phật Đại Thông…”: đầy đủ như văn trên giải thích Chúng kết duyên, cũng đem văn này mà làm chứng kết duyên. Trải qua thời gian nơi chốn như thế rồi mới được độ, sau khi Như Lai diệt độ người hoằng kinh biên được lợi ích của chúng đương cơ cũng vì rất gần, cho nên biết chúng của mười sáu vương tử kia lẽ nào không có đến nay vẫn có người chưa độ ư? Không thấy lợi ích ba đời lâu xa, mà cho là hiện khó khăn sâu xa không thể biết. Đây là Đại thánh thấy nói căn cơ, sau khi Phật diệt độ hoằng kinh thật đáng làm theo lệ. “Khi nói Đại kinh thì một vạn năm ngàn ức người…”: Sư Tử Hống Bồ-tát nói: Như Phật đã nói tất cả chúng sinh năng tin kinh Đại Niết-Bàn bất khả tư nghì như đây. Bạch Thế Tôn! Trong Đại chúng đây có tám vạn năm ngàn ức người đối với kinh nay không sinh tín tâm. Cho nên người năng tin thì bất khả tư nghì. Sớ văn thiếu tám chữ, ý sớ nói: Đã nói “ở trong Đại chúng”, lại nói “không sinh tín tâm”, cho nên biết: đã là chúng kết duyên. Cho nên năm ngàn người tuy bỏ đi mà đã nghe lược nói. “Không lâu”: ý cũng chỉ lợi ích của người hoằng kinh. “Kinh Kim Quang minh…”: quyển bảy nói “hai hạng người”: 1.Thâm tín Đại thừa Phương-đẳng. 2. Hủy báng, không sinh tin thích. Người không sinh tin thích cũng được kết duyên, cho nên dẫn làm ước lệ. Trong phần “Chánh rộng thuyết” chia làm hai: Trước nêu rộng để khai lược. Tiếp chỉ rộng liệt kê tướng chương. Văn đầu lại có hai: 1. Đối lược khai chương. 2. “Câu trên…”: lược chỉ nguyên do rộng. Tiếp “Sáu là”: chánh chỉ tướng rộng, trong đó lại có bốn: 1.Liệt kê sáu chương. 2. Sinh khởi sáu chương, cũng gọi là ý chương. 3. “Trong năm chương…”: là chỉ năm Đức Phật có không. 4.“Lại sáu…”: là nêu đại thể sáu chương: Sinh khởi rõ ràng đại thể tùy thời, dùng sáu nghóa đây cùng thành Đại chỉ khai hiển. Nói “lược mà không thiếu…”: năm đức Phật xen nhau lược xen nhau tồn không thiếu. “Đến” là nơi đến, cộng thành Nhất hóa đâu cần liệt kê nhiều phiền phức. Như ba đời Phật chỉ đều có hai chương, lẽ nào chẳng phải lược tối đa? Cho nên trong sáu chương khai hiển hai chương “lược mà không thiếu”. Nay Quyền đến Thật mà lược bỏ bốn chương khiến văn không nhiều. “Trước sau cũng không còn v.v…”: ý nói “không còn”. Điểm quan trọng trong sáu chương chẳng gì bằng khai hiển. Trước sau xen nhau không còn bốn chương kia, nhưng nghóa ở sáu chương chung thành một ý. Cần phải nói đầy đủ đại thể để biện rõ lý không thứ lớp v.v… “Nay chỉ…”: là tổng, nguyên do trong chương Phật chỉ bốn mà không hai, tức bốn là chánh, hai là phụ. Phải biết năm, sáu thành tựu ba, bốn cho nên lược chỉ. Lại trong bốn trước thì ba, bốn là chánh; một, hai là trợ thành, cho nên chương Tam thế đều chỉ ba, bốn. Đức Thích-ca hóa chủ đời ngũ trược, vì thiết lập ba, cho nên lại thêm, chỉ thiếu một đoạn văn tán thán pháp thôi! Tóm lại mà nói ắt phải đầy đủ sáu, vì tránh văn rườm rà cho nên phải chỉ xen nhau. “Hơn bốn mươi năm”: Luận Pháp Giới Tánh của ngài Bồ-đề Lưu- chi nói: Sau khi Phật thành đạo bốn mươi hai năm mới nói kinh Pháp Hoa. “Cửu cửu, hy sơ”: Trước lúc ấy không phải không có chỉ riêng hiển thuyết cho nên nói “hy sơ” (thưa thớt). Như Kinh Hoa Nghiêm nói Phật tuệ cách Tiểu đới Thiên, trải qua Tam-muội nay mới riêng thông suốt, đây có hai ý: 1.Lâu (Cửu) mới nói. 2.Đúng thời mới nói. Tuy liệt kê ba thứ: người đã có thể kham v.v…, mà ý nói ở thời vậy. Hỏi: Thời Phương-đẳng Bát-nhã tuy có “đới đối” cũng nói Phật tuệ, vì sao gọi là “hy sơ”? Đáp: Đây căn cứ nhị thừa độn Bồ-tát mà nói. Đầu ở thời Hoa Ng- hiêm mà không nghe, tiếp nơi Lộc uyển mà chứng nhập, sau ở nơi hai vị mà không dùng. Nay bắt đầu được nghe thì thành “hy”. Các Bồ-tát lợi căn sao từng không nghe? Chỉ dùng tăng tiến để làm lợi ích của kinh này. Nếu căn cứ Bản môn thì chẳng phải trong đây tán thán. Hỏi: Nếu vậy thì Hoa Nghiêm cùng hai tô (Sinh tô và Thục tô) đều nói Phật tuệ, đâu chỉ có Hoa Nghiêm đã nói Phật tuệ? Đáp: Hai tô đều có, chỉ Hoa Nghiêm tuy kiêm Phật tuệ khá thuần, từ thuần được tên. “Ưu-đàm hoa”: Tân dịch Ô-đàm-bát-la, Trung Hoa dịch là Thụy ứng. Kim luân vương xuất hiện thì đại hải giảm bớt. Kim luân lộ hiện thì hoa này mới sinh, điềm báo trước làm Kim luân vương. “Điều thục”: Cũng có thông biệt. Thông thì hai chữ thông nơi hai vị. Biệt thì “Điều” nghóa là điều phục bài bác như Phương-đẳng, “thục” là thành thục, tức nói thêm. Trong cụm từ “Đề-hồ vân vân”, thì “vân vân” là: Rộng căn cứ ba vị, nêu nguyên do không nói, như các văn trên cho nên không lập lại. Trong cụm từ “gọi là “Linh” vân vân”, thì “vân vân” là: Nên nói “linh” tức linh thông bởi vì thông tất cả. Tùy nghóa tiện cho nên “Linh tự tại sau”. Từ danh tiện cho nên “Linh ứng tại trước”. Có thực hành pháp quán đây cho nên được Phật thọ ký, cũng gọi là “thụy” (điềm lành). Có thực hành pháp quán đây thì sau mới đắc quả, cho nên gọi là “hoa”. Tam quán thành rồi thì chân nhân mới hiện. “Ba ngàn” là tiêu biểu thật có thể bao gồm. “Lý này…”: là lý giáo hạnh nhân. Nói “trái, ngược”: Dùng “trái” dùng “ngược” để giải thích “thuận, chánh”. Do xưa trái ngược nên nay trái ngược. Xưa nghịch tức thuận thì sao trái ngược ư? Đều nói “chí”: thật là cùng cực. Như “chí” đến kinh này thì không quá trên, cho nên đều nói “chí”. “Trở lại chỉ…”: là giải thích ý khuyên tin. Vì sao khuyên tin? Vì muốn nêu “xưa thô tức diệu”, sợ chúng sinh sinh nghi cho nên dự định khuyên răn. Nói “bốn thứ”: Chỉ trên đã nêu “Lý này” trở xuống là bốn văn, cho nên nói “khách làm…” mà không nói “người ….” chỉ nói “bốn thứ”, vì nói “khách làm” mà bao hàm bốn thứ. Cho nên tổng làm xuyên suốt. Sở dó xưa để “khách làm” nay thành bốn thứ của con Trưởng giả. Lại không sửa đổi hoàn toàn thành bốn thứ diệu, cho nên nói “việc các ông làm…”.“Tin không có v.v…”: là thời Phật tại thế mà còn chỉ dùng nhân (người) hiển pháp. Đời mạt pháp lẽ nào có thể pháp diệu nhân thô? Nếu nói Đại quyền ắt không dùng thiện mà lạm xen nơi ác. Thần dù sai khác, Tích đều siêu vượt hai đường. Thế gian nói siêng học không bằng chọn thầy, cho nên nói “Các ông nên tin lời Phật dạy”. Đầu tiên nêu Phật đạo cực kỳ khó biết, là ý thiết lập quyền. Bởi vì trong các giáo không thiết lập danh, nay muốn nêu “khai” cho nên trước trình bày sở khai, tức là sở thi (thiết lập). Cho nên Huyền Văn nói: Vì Thật mà thiết lập Quyền, thì ý tại nơi Thật. Khai Quyền hiển Thật thì ý tại nơi Quyền. Phải biết dùng Thật làm Quyền, Quyền gọi là ẩn Thật. Khai Quyền hiển Thật, ngoài Thật không còn có gì khác. Ẩn cùng hiển lợi tại tình thức của chúng sinh, thường trụ nguồn gốc chưa từng tăng giảm, cho nên trước chưa khai, chẳng những không nói “hiển thật” mà cũng đều không nói “thiết lập Quyền”, cho nên nói “thích hợp Quyền”, tức cần hiển Thật. Nên biết đây là thủ đắc tông chỉ của Pháp Hoa, nguyên do của Thật giáo, là chỉ quy để giải thích nghóa, phủ tạng của các hạnh. Nếu không thể nghiệm được mà chỉ thi hành vận dụng suông, hễ đạt đến ý đây, thì đều là người siêng năng. E rằngï học giả tông này lạc mất ý chỉ của Kinh. “Vì sao vậy?…”: ứng giải thích chư Phật. Nói “Ta dùng…”: là dùng “ta” để giải thích kia. “Mượn đây”: Đã đem tự Quyền mà giải thích kia. Chữ “tá” có âm đọc là phiên thiết của hai chữ “tử” và “dạ”, đọc khứ thanh, có nghóa là “mượn”. Ý chính là dẫn kia chứng minh đây, cho nên tạm dùng đây giải thích kia, ý cũng nêu đạo đồng. Kia đây đều thiết lập khai. “Pháp đó…”: Nếu kết khai Quyền thì hai chữ “pháp đó” chỉ các pháp diễn thuyết trước nay. Trong phần “Nêu Nhân pháp” nói: “Nêu vô phân biệt pháp” là đem “pháp đó” trước nay mà hiển thật pháp, cho nên nói “pháp”. “Chỉ có chư Phật” là nêu “nhân” (người). Chính là pháp trước nay cho nên nói “năng biết”. “Trừ chư pháp…”: Nếu vậy thì ngoài Pháp Hoa ra, đều là ma sự ư? Không như vậy, chỉ vì Quyền trong các giáo trước thì ma cũng nói được, chỉ một Thật đây thì ma vónh viễn không lường tới được nên đều nói “trừ” đó thôi! Cho nên mê hoặc A-nan thời cũng nói trung đạo, chỉ trừ ma kia mà khai pháp kia. “Chẳng phải năm, bảy, chín…”: Vì ba, năm… đều là phương tiện, cho nên đều nói “chẳng phải”. Tam tạng Tam thừa thêm Nhân Thiên là năm, thêm Thông giáo Nhị thừa là bảy. Chỉ hội Nhị thừa, tại sao nhị thừa ư? Do côïng nhị thừa và Nhị thừa trong luận Bà-sa hoàn toàn sai khác, Bát-nhã không cùng Nhị thừa kia, cộng cho nên nay hỏi. Nếu Tam tạng Tam thừa không cần hội nhập thì bốn thềm bực của Bà-sa tức là quả cứu cánh viên thường? Hoặc chỉ trở về quả này tức là cộng Phật của kinh Đại Phẩm, vì không làm vị Diệu-giác của kinh Anh Lạc? Hay là quả Phật giá-na của kinh Hoa Nghiêm? Thêm Thông, Biệt Bồ-tát thành chín. Nếu nghóa phân chia Hạnh, Hướng thì mới thành mười một. Các thứ đây đều là cái khác của “bị hội”. Bởi vì hợp các cái khác cho nên gọi là một. Một thể thâu nhiếp các cái khác, nên gọi là Đại. Đại tức Viên diệu Nhất thừa của kinh này. Vị đây cùng viên Hoa Nghiêm đồng. “Nghi thức”: là chỉ dùng tướng khai hợp làm pháp thức oai nghi. “Nay khai tam”:, là khai tam tại xưa. Mà nói “nay”: Chỉ nay nhất hóa, từ Nhất thừa khai cho nên gọi là “nay”. “Như trong Thích luận…”: Đầu văn vừa nói “chư Phật đại sự”. Nay văn lại nói “Vì sao gọi là chư Phật đại sự?…”. Phật sở tôn trọng cho nên thường nói đó, cho nên dẫn làm ước lệ. “Vân vân” là: Luận lại có văn, cũng nói như vua ưa lập con ruột của mình làm Thái tử, gọi là “luôn luôn cho…”. Tiếp trong Nêu hiển thật, xưa dùng bốn Nhất đây để hiển thật. Nay dùng bốn thứ: Khai, thị… đều là Lý nhất. Sư xưa không có, chỉ vì người nói người thọ đều nương trên lý mà lập nhân quả. Sư nay ở đây lập Nhân quả môn để giải thích khai…, vẫn không bằng ngài Quang Trạch, ở trọng Biệt tựa dùng Bản tích môn mà giải thích bốn câu, Biệt tựa tuy là tựa Tích môn vẫn ở đầu một bộ, lẽ nào ban đầu Pháp thuyết lại phân chia nhân quả ư? Lại chánh là “Nhân môn”: từ đệ tử là nhân mà nói. Nói “Quả môn”: từ Thầy là quả xa (viễn), sự thật đó đầy đủ theo như Huyền Văn. Nếu vậy tức trái ngược lại trưng dẫn của sư xưa. Bản môn đã di dời đến Tích môn đây lý hợp như trước, không thể Bản tích lần nữa lại mở ra khiến Bản môn theo nghóa “dài”. Nếu kia song nêu Bản tích thì nghóa trong phẩm hỗn hợp, lẽ nào có thể song song nêu, nơi đây dưới biệt sinh nhân duyên, huống chi giải thích Tứ nhất không bằng Quang Trạch. Nói “Phương dưới v.v…”: Là nêu nguyên do bản biệt để trách giải thích xưa. Tháp hiện để chứng minh trước kiêm là sau khởi, cho nên bảo tháp xuất hiện là nguyên do bản viễn, Bồ-tát từ đất vọt lên là nguyên do bản cận. Hai lý do chưa đến thì sao được biện bản? Tiếp, trình bày Quang Trạch. “Nay cũng không dùng…”: là phá. Đầu tiên làm nghóa nhân quả trái nhau tức phá tam tuệ tại nhân. “Lại tam tuệ…”: chỉ căn cứ nơi nhân, do nhiều thứ tam tuệ tức giả sử hỏi: Dù dùng tam tuệ mà cần chọn tam giáo, tam giáo tam tuệ còn chưa nhập nơi Thánh vị đương giáo, huống chi Thánh vị Viên giáo ư! Cho nên lại giả sử nói: Nếu là Viên tam tuệ thì địa vị này cũng chưa Khai tri kiến Phật, cho nên hai giáo trước và Biệt địa tiền không có Tri kiến Phật. “Nếu là tam tuệ khác….”: là kết nạn. Câu đầu kết chẳng phải Tri kiến Phật. “Nếu làm…”: là tự trái mêïnh chương. Nói “vân vân”: Cần phải biện rộng cái ý không thể dùng, đem giáo và lý để chứng minh ý không dùng. Để phá “Địa sư” thì trước thuật, tiếp phá. Trước thuật nói “Đệ ngũ hằng…”: Kia căn cứ Đại kinh phẩm Tứ Y thứ sáu nói: Thiện nam tử! Nếu chúng sinh nào ở nơi một hằng hà sa chư Như Lai phát Bồ-đề tâm, thì sau mới có thể ở trong đời ác không hủy báng kinh này, ưa thích kinh này nhưng không thể vì người phân biệt diễn thuyết. Ở nơi hai hằng sa chư Phật, chánh hiểu, tin ưa nhưng cũng không thể nói rộng. Ở nơi ba hằng sa chư Phật, thọ trì viết chép, tuy vì người khác nói mà không thể giảng nghóa sâu. Ở nơi bốn hằng sa rộng nói, trong mười sáu phần thì giảng nghóa một phần. Ở nơi năm hằng sa giảng nghóa được tám phần. Ở nơi sáu hằng sa giảng được mười phần. Ở nơi bảy hằng sa giảng được mười bốn phần. Ở nơi tám hằng sa giảng được mười sáu phần, giải thích đầy đủ tường tận nghóa thú kia, đó gọi là Như Lai thường hằng bất biến. Các câu sau, từ “hai hằng sa” cho đến “tám hằng sa”, mỗi câu đều có cấu trúc tương tự câu đầu (một hằng sa), không lập lại phần giống, chỉ nêu phần khác. Kinh văn trước một hằng sa, lại nói: “Nếu chúng sinh… một sông Ni-liên…” chưa có thể tin thọ, tổng cộng thành chín đoạn. Do sông Ni-liên, gần thành Câu-thi-la, nhỏ hơn sông Hằng. Nói “phát tâm”: Có người nói: Gặp một đức Phật phát một đại nguyện rải xuống một hột cát. Dù gặp nhiều đức Phật mà không phát nguyện, thì cũng không rải xuống một hạt cát. Dù có phát tâm không thấy Phật cũng không rải xuống một hạt cát. Thấy một đức Phật dù phát nhiều nguyện cũng chỉ rải một hạt cát. Một phen phát tâm thấy nhiều đức Phật cũng chỉ rải xuống một hạt cát. Như vậy tích chứa số đến tám hằng sa… là để nêu rõ nhập vị đầu dễ sau khó. Đầu tiên tăng lần thứ nhất tức được tám phần, sau lần này thì chỉ có thể tăng hai phần. Hai lần tăng này như đến Thái úy thì dễ, Thừa tướng thì khó. Nói mười sáu phần: Như thế gian cân mười sáu lạng làm một cân. Cho nên trong Đại luận nói: Phật nói Điệp Phúc ngoại đạo (cho là tài trí hơn người): Ông nếu xuất gia, so sánh với trí tuệ của Xá-lợi-phất thì trí tuệ của ông không bằng một phần mười sáu của Xá-lợi-phất. Phương Tây khi so sánh thì phần nhiều dùng ý đây. Người xưa cho rằng năm hằng sa tại Hiền vị, dùng “sáu, bảy, tám phần” đối với Sơ địa trở lên, đến Thập địa thì dùng đối “mười hai - mười bốn - mười sáu phần”. Phải biết ý xưa nói: nhiều lần phát tâm là tại phương tiện giáo, Thật giáo thì tâm kia không nhiều lần phát. Đối với giáo nay thì không thể nhiều lần phát mà phân biệt khai…, lại căn cứ Hiền Thánh lập vị không đồng. Hỏi: Kia nhiều lần phát tâm đều nói đối kinh Niết-bàn hiểu được bao nhiêu phần, tại sao phán định là phương tiện giáo? Đáp: Danh Niết-bàn đã thông, sở duyên sinh giải cũng khác. Dù chẳng phải hai giáo trước, cũng chỉ thành Biệt giáo giáo đạo. Lấy đây mà nói, thì giáo tướng khó biện, huống chi sư xưa đối vị tự hiểâu kinh kia. Nếu ở vị Kiến, Tư, Đoạn thì không thành nghóa Biệt, không thể Thông vị mà hiểu rõ Viên khai… Nếu đồng thể Kiến, Tư tận thì chẳng phải Lục địa. Cho nên biết hiện tại năng tin Như Lai trí tuệ thậm thâm cảnh giới thậm thâm, lý thì không dễ dàng, Hoa Nghiêm dung thông cực đốn thuyết, còn lạc mất chỉ quy. Pháp Hoa chỉ hiển Nhất thừa, không thể hội đó thành tiệm. Lại có Tiên tuệ khai thiện trị thành, đều có phân biệt giải thích, đều chẳng phải ý nay. Chương An nói: Tam thập tâm là Y thứ nhất, năm hằng sa, Sơ địa trở đi là Y thứ hai đều là địa vị Sư. Ý dùng Y thứ nhất đủ phiền não tánh làm địa vị đệ tử, Chương An cũng tự căn cứ kinh kia để phân biệt địa vị. Nếu phán khai…, thì đây cũng không phải thế. Vì sao? Vì muốn phán xét bốn y cần phải căn cứ bốn giáo, đều không thể dùng đây phán xét là khai… Bốn y thông phàm, khai…, chỉ có Thánh. Thánh lại căn cứ theo Viên. Cho nên bên dưới kết nói “không cùng kinh hội”. “Dẫn kinh…”: Đại kinh đối Địa tiền là Văn Kiến, tức Biệt giáo địa, sao lại được chứng Thông? Đăng địa nhãn kiến tức Phật nhãn, cho nên Lục địa Tư tận toàn tại Thông giáo. Từ xưa đến nay chỉ biết dùng Địa để giải thích Địa, mà toàn không biện rõ sở tại của địa. Nói “vân vân”: là rộng lập lý giáo để phá sư xưa, lược như thuật trước nay. “Nạn đây đồng trước”: Nạn đồng Quang Trạch dùng tam tuệ. Lại phá tam tuệ cho nên nói “đồng trước”. Cũng lại nên nói: Ngũ trược trước trừ, tại sao chỉ giáo nay? Nếu giáo nay trừ trược thì phải mới thành Thanh-văn. Nếu mới trừ trược thì làm sao tri kiến Phật hiển ư? Uế trừ lý hiển, nạn cũng như vậy. Tiếp, “Có người…”: hai sư đều dùng Pháp Hoa làm nhập, khiến Pháp Hoa thành cực, khước từ ba lỗi trước, tri kiến Phật đều nơi kinh này. Khai… lẽ nào có thể phân thuộc giáo khác, tức thành giáo khác có Tri kiến Phật? Bởi vậy nói Biệt giáo là Tam thừa Biệt, tức chỉ Lộc uyển. Hai sư đều dùng Thông giáo Tam thừa mà làm Bát-nhã. Nói “ức dương”( khen chê): là căn cứ trong kinh Tịnh Danh chê bai khuất phục Thanh Văn và tán dương Bồ-tát. Đây do không hiểu kinh kia cũng có chê bai khuất phục Bồ-tát, không phải chỉ có tán dương. Cho nên nay tám chữ phán xét hết lý kinh, đó là “chê Tiểu, trách Thiên, khen Đại, mộ Viên”. “Tách ra” cũng như phân ra, như xé lụa, tức bốn câu không thể phân. “Có người nói: Tam thập…”: Thông không có Địa tiền vị tam thập tâm cho nên gọi là “hiệp Biệt”, chỉ nói Sơ địa Lục địa cho đến Thập địa gọi là “bàng Thông”. “Chưa thấy Pháp Hoa kỳ dị”: Kinh khó tư duy, chẳng phải phàm phu lượng được, căn cứ Thánh tán thán lựa chọn Thầy trò có thể biết, nay y nghóa phụ văn lược. Có mười cặp để biện rõ tướng đặc thù, cùng Nhị thừa cận ký khai Như Lai viễn bản. Tùy hỷ tán thán người thứ năm mươi, nghe được lợi ích đến nhất sinh Bổ xứ. Thích-ca chỉ Ngũ nghịch Điều-đạt làm bản sư, Văn-thù dùng Long nữ tám tuổi làm sở hóa, phàm nghe một câu đều được thọ ký. Thủ hộ kinh nói công không thể lường, nghe phẩm rồi thọ trì thì vónh viễn từ bỏ thân nữ. Nếu nghe đọc tụng mà không già không chết, thì năm hạng Pháp sư hiện thâu hoạch tương tợ, bốn hạnh an lạc mộng nhập Đồng luân. Nếu não loạn thì đầu bể thành bảy phần, có cúng dường thì phước hơn mười hiệu, huống chi đã, nay, sẽ nói sự tuyệt diệu một đời giáo hóa. Tán thán giáo pháp kia bảy thí dụ xưng tán. Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất A-dật-đa không biết một người. Phương Đông Liên Hoa Long Tôn Vương chưa biết tướng Bản, huống chi Tích hóa nêu ba ngàn chấm điểm. Bản thành dụ năm trăm vi trần, bản tích sự ít hiếm các giáo không nói, như văn đây… căn cứ theo kinh vẫn có, lại y ý chỉ trước nay thì chẳng có gì cho là kỳ lạ. “Có người dẫn Hoa Nghiêm…”: ý người khác là lại trách các sư. “Địa tiền có tứ thập tâm” vị, tại sao không dùng đó để giải thích Khai tri kiến Phật, mà chỉ dùng Địa tiền tam thập vị ư? Phá có hai lỗi: 1. Lầm dụng Hoa Nghiêm Thập tín. 2. Hiền vị chẳng phải Tri kiến Phật. Nói “Hoa Nghiêm không nêu rõ Thập tín”: Người xưa cũng dùng Hoa Nghiêm Trụ tiền tu mười phạm hạnh Không, tức nhập Sơ trụ, đem mười phạm hạnh Không đối với vị Thập tín. Nay văn phá là kinh không có tên “Tín”, nên nói “không có”. Các vị theo “Nhiếp Đại Thừa luận” thì đầy đủ như Thích Tiêm dẫn. E rằng: chính là “Thập địa luận”, dư chữ “thất” trong cụm từ “Thập thất địa luận”. “Có người…”: là phá, dùng “luận tứ trí”: Sư kia dẫn nói: “Tổng biệt nhất thời”, muốn giải thích bốn câu khiến không có trước sau, không có ý khước từ thành nghóa cao thấp không đúng (đương). Nay chia làm hai phá: 1. Chỉ nói Tứ trí nhất thời mà không phân vị biệt. 2. Tứ trí tại quả khai… thông nhân. Do đây không đúng, nên nay không dùng. Lại căn cứ Chỉ Quán dẫn luận Tứ trí, do nhân quả kia đều có tổng biệt. Nếu chỉ chỉ quả Tứ trí thì địa vị cao. Nay lại thẳng dùng quả trí để trách kia. “Tứ trí”: Nghóa là Đạo tuệ, Đạo chủng tuệ, Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí. Tứ trí này tại quả nhất thể đầy đủ. Nếu bốn thứ: Khai, v.v… là trong dọc mà luận ngang thì phải bốn vị riêng đối bốn trí. Dù nhân quả tương đối đều có tổng biệt, chỉ thành nhân quả, tại sao gọi là “khai”?… “Có người nói phi Không phi hữu….”: Ý dùng lý song phi hiển làm “Khai”, chẳng xuất không hữu, phân minh chỉ lý năng không năng hữu, cho nên gọi là “Thị”. Thấy không hữu này không lìa lý mới chính là “Ngộ”. Lại hiểu lý đây không hai mà hai, mới gọi là “Nhập”. “Người này…”: là ý pháù: Nói “không hữu” là “căn cứ hai đế”, tuy làm bốn lớp mà chỉ là hai lý không hữu mà thôi! Thất lý sâu cạn, mê thể không hữu, chỉ liệt kê không hữu, uổng phân làm bốn lớp cho nên không có Thể trung đạo, uổng dùng song phi, không xuất nhị thừa, e rằng liên quan đến Thông giáo. “Có người nói: Đạt tam đế…” Tuy nêu tam đế mà không biện điều hòa, tức mặc cho phân mở. Biệt nhân sơ tâm đâu từng không thấu đạt lý tam đế, gọi đạt là khai mà không gọi khai! Đến địa vị Thập hạnh phân minh thấy giả, đến Hồi hướng vị quán không có một và khác. Nếu nhập Sơ địa thì mới thuận dòng pháp, như thế đâu có thể tránh được Biệt nghóa, cũng chưa có thể biện rõ tướng biệt của Khai…, chẳng phải sơ tâm rốt ráo không biệt cho nên không phải Phật giới. Tiếp, “Có người giải thích…”: Dùng tổng biệt tứơng để giải thích “Tri kiến”. Người này không biết luận nói: “Nhất thiết trí là trí Thanh- văn, không nên lấy đây làm “Tri” (biết), Nhất thiết chủng trí ở sau hai trí thuộc Biệt Phật trí, không nên lấy đây làm Viên Phật “kiến”. Lại người xưa nói “Kiến” nhất thiết, tiện lấy làm tổng, do có nói “chủng” bèn phán làm biệt. Đây cũng không thấy văn Đại luận nói Viên. “Thích luận nói….”: Vì muốn người dễ hiểu cho nên phân thuộc ba hạng người, so sánh kia phân ba điều Đại tiểu nhân quả, thì hoàn toàn sai khác, vì sao đem giải thích Viên Phật tri kiến? “Có người giải Tận trí….”: “Tận, Vô sinh” là tên xuất từ Tam tạng, nói Vô sinh hơi thông nơi Tam. Nói “căn cứ thanh tịnh” đều phán thuộc Thông Phật. “Như trên…”: Đều không thấy đại ý Pháp Hoa. Tổng thì như Huyền Văn, đại ý mới rõ. Lược thì như sớ này giải thích phẩm Phương Tiện, đến đây chỉ biết nghóa Phật tri kiến.  <卷>QUYỂN 5 (Phần Thượng) “Pháp Hoa luận nói…”: dẫn luận để giải thích: Luận có ba văn: Văn thứ nhất: Căn cứ Tam thừa, ý muốn Nhị thừa cùng Bồ-tát thừa đồng đắc đồng có. Trong đó có hai phần: Trước, là dẫn luận. Tiếp, “Luận nói…”: là giải thích ý luận. Nói “thứ lớp”: là để khiến giải thích theo thứ lớp không trái. Căn cứ luận văn ý, thì “câu thứ nhất”: lấy “Vô thượng” làm “Khai”. Luận văn lại nói “Phật tri kiến”: Như Lai năng chứng như thật Tri (biết) nghóa kia. Kinh văn đã nói: “vì khiến cho chúng sinh”. Nếu chỉ Phật chứng biết thì tại sao nói: “Vì khiến cho chúng sinh”? Cho nên chẳng phải nay giải thích, nghóa không thể thông. “Câu thứ hai”: “Thị” đồng có “Vô thượng”. Đầu luận văn chỉ nói Nhị thừa cùng Phật Pháp-thân đồng đẳng, cho nên trong đây giải thích nói “tam thừa”, không riêng Bồ-tát cho nên đem Bồ-tát hợp Nhị thừa giải thích, tức là tam thừa Pháp thân đồng Phật. “Câu thứ ba”: khiến cho biết vô thượng tức là “Ngộ”. “Câu thứ tư”: chứng Vô thượng nên gọi là “bất thoái”, chứng chỉ là đắc, tức nhập Sơ trụ. Ý luận dùng ba câu trước cùng khiến đắc nhập địa vị Sơ trụ. Đầu tiên “Khai”: Chỉ cho thấy sở tri kiến là Vô thượng. Tiếp: “Thị” (chỉ) cảnh đây đồng có. Tiếp, khiến “Ngộ” đồng có. Tiếp, khiến “Nhập” cảnh đây cho nên nói Bất thoái. Đã trước căn cứ Nhị thừa cùng Bồ-tát đồng chứng, cho nên biết ý kinh trước tại Nhị thừa, nên luận văn không phân chọn định tánh, huống chi luận nói chưa thuần thục tức sẽ thuần thục, sẽ không phải không có, cho nên không được nói không có. Văn thứ hai: Căn cứ Bồ-tát: Nghiệm biết Bồ-tát cùng Nhị thừa phải hội, nếu không cần hội vì sao biệt lập một giải thích đồng Nhị thừa? Trong giải thích câu đầu, luận không có biệt giải thích. Nay nói “như trước” là cùng Người nhị thừa đồng đắc. Độn đồng nhị thừa, bởi có nguyên do, cho nên biết trước lúc ấy chẳng phải vô thượng. Trong giải thích “Thị”, nói “Bồ-tát có nghi thì khiến biết như thật”, cho nên biết trước lúc ấy hiêïp nghi chẳng thật. Nghi thông hội biệt, lý không nên như vậy. Nếu không được hội, thì lẽ nào “biết được như thật”? Huống chi biết như thật thì vẫn phải tu hành. Trong giải thích “Ngộ”, nói “Người chưa phát tâm thì khiến phát Bồ-đề tâm”, nếu không phát tâm thì không gọi là Bồ-tát. Cho nên, biết rằng: trước lúc ấy thì được gọi là Bồ-tát mà chưa phát Viên tâm. Trong giải thích “Nhập”, nói “Người đã phát tâm thì khiến nhập pháp” cho nên “người chưa phát tâm”: là chỉ Tạng, Thông. Nói “đã phát”: phần nhiều chỉ Biệt giáo. Trong Biệt giáo Tri tuy tương tợ “đã phát” mà không nhập chứng đạo, cho nên cần phải “khiến nhập” Phật tri kiến. Nói chánh duyệt xem quyền. Phải biết tam giáo Bồ-tát có nghi chưa phát, chưa nhập chân thường. Do đó luận văn hiện khiến Bồ-tát khai thị ngộ nhập, mà khổ cho ông không chịu trái với luận văn. Văn thứ ba: Căn cứ phàm phu để giải thích. Trong luận cũng không giải thích câu “Khai”, nay cũng chỉ đồng văn thứ nhất, cho nên biết phàm phu cùng tam thừa đồng. Câu thứ hai tuy giải thích kia nói hoàn toàn đồng nhị thừa trong câu đầu và câu thứ hai. Đến câu thứ ba mới khác hai giải thích trước, cho nên biết phàm phu cùng tam thừa đồng có Pháp thân Phật tánh. Hai câu dưới nói “phàm phu cùng tam thừa biệt”, do ngoại đạo chấp thường, tất cả chúng sinh chưa biết Bồ- đề. Đã là phàm phu riêng một phen giải thích, cho nên biết không đắc (được) địa vị sâu xa để giải thích kia. Cho nên giải thích-câu “Ngộ” nói khiến giác ngộ, câu “Nhập” khiến nhập Bồ-đề. Nên biết phàm phu bất giác bất tri có vô thượng pháp cũng chưa từng phát Bồ-đề tâm mà đều nói cùng tam thừa đồng. Cho nên biết ba phen nhân (người) khác nghóa đồng, vì vậy nêu câu đầu đều có thể nghóa đồng. Tiếp, trong câu thứ hai giải thích Bồ-tát, nói “khiến biết như thật”. “Như thật” chỉ là tên khác của Pháp thân, đây cũng là tên khác nghóa đồng. Câu thứ ba: đối Nhị thừa không biết, cho nên nói “khiến biết”, đối Bồ-tát đã từng phát tâm thì khiến lại phát tâm, đối phàm phu thì khiến khác ngoại đạo, cũng khiến ngoại đạo ngộ. Đây thì nghóa khác ý đồng. Trong câu thứ tư: đối Nhị thừa thoái đại thì nói “Bất thoái”, đối Bồ-tát đã phát mà chưa nhập thì nói “nhập pháp”; đối phàm phu chưa từng phát thì trực tiếp nói “Đại đạo”. Nên biết chỉ là một Tri kiến Phật vì muốn đây… nhân khác khai đồng, cho nên biết nêu tam thừa và dụng phàm phu, thâu tóm căn cơ hết sạch. Bao trùm nói chúng sinh gồm thâu lục giới tam thừa đối thật tức Thập pháp giới giải thích. Nếu căn cứ chỗ hướng đến thì chỉ một Phật giới, tức căn cứ Phật giới giải thích. Ba phen nghóa biến khắp tức căn cứ vị giải thích. Phật giới đối chín giới lại thành ly hợp, huống chi luận giải thích bốn câu cùng nay bốn giải thích vị v.v… nghóa đồng. “Luận mỗi một câu giải thích”: Luận trong ba giải thích mỗi một câu biệt giải thích. Nay giải thích đầu lại tách làm bốn, tức thành ba phen đều có bốn giải thích, chỉ nêu Nhị thừa để so sánh các thứ còn lại, cũng là nêu khó so sánh dễ, vì Nhị thừa khó. Nay giải thích đầu: Trước thuộc đối luận văn. Đầu tiên dùng chứng Bất thoái chia làm bốn vị để giải thích, tức luận câu thứ tư. Đã nói bất thoái, tức khai thị ngộ nhập đều là niệm bất thoái. Tiếp nêu Phật sở chứng đắc làm bốn trí để giải thích, tức câu thứ nhất luận nói: “Trừ Nhất thiết trí ra thì không còn có sự nào khác nữa”. Tiếp, do nghóa đồng tức câu thứ hai luận nói: “Nhị thừa Pháp thân bình đẳng hoàn toàn không sai biệt”. Nếu không quán tâm thì làm sao biết đồng? Tiếp, do “không biết xứ cứu cánh”, tức câu thứ ba. “Xứ” là sở thông, nhị thừa không biết, nay vì khiến biết. Biết là môn, môn là năng thông, cho nên làm bốn môn giải thích. Nhị thừa đã vậy, Bồ-tát, phàm phu theo lệ đều như thế, vậy thì ba loại đều cần Viên giáo, giáo môn lấy làm năng thông. Nhập quán tu trí mới có thể đến vị, tri kiến Phật cảnh. Nếu làm các giải thích khác, nói: “Vì làm tốt.…”, thì chỉ uổng thiết lập và tri kiến Phật tại đâu? Cho nên một nhà giải thích nghóa y kinh, thuận luận, khế hạnh, đắc lý, ý Phật xuất thế lẽ nào không như vậy ư? Nay giải thích ý Phật lẽ nào có thể trái ư? Nếu mở sâu vị Địa thì phàm phu chẳng mong đợi, nếu trừ hai chương mới nêu rõ “khai” thì “thị…” ba chữ còn lại đều tại Phật địa. Đây giáo còn chẳng phân Địa tiền thì làm gì có lợi ích phàm phu Tiểu thừa ư! Trong câu “Nay làm bốn môn giải thích vân vân”, thì “vân vân” là: Cần phải dựa theo nêu ngang dọc để giải thích ý, do trình bày ngang dọc dùng luận văn, cho nên trong luận ba giải thích mỗi mỗi theo dọc giải thích. Nay trong mỗi mỗi giải thích câu câu ngang dọc, khiến luận bốn câu cũng thành ngang dọc. Tuy có ngang dọc mà ý tại bất nhị. Tiếp, “Nay giải thích…”: là văn nay chính giải thích. Trước, lược đối xưa nay. Tiếp, “Nếu vô lượng…”: nêu dụng ý nay. Dẫn văn giải thích thành dùng luận phế lập. Ý đầu: Xưa nay, tương đối, tức rộng trong lược. Đầu nói rộng: Nói ít ý bao hàm. Đã hiển thật rồi, thì phải biết các pháp thảy đều là thật, như nay Thập diệu chính gọi là ở giữa (Trung đạo), chỉ trong danh kia mà nghóa thì rộng; hiểu rõ văn hiển thật giống như khó dụng, cho nên lại thuận xưa, giữ lại Tứ nhất tức là rất lược. Tiếp, dùng ý nay: Rộng thì tâm trần hạnh pháp nhân lý đều Nhất thật, nơi giải thích môn thái quá trở thành thông lạm dụng, chỉ có thể quan sát chiếu, cho nên nói “có thể biết”. “Nếu làm…”: là thuật Thập diệu nay tuy không hiểu rõ câu mà đối nghóa chẳng phải không có, cho nên trước dẫn kinh đối mười khiến thấy. Hỏi: Vì sao kinh văn không nương Thập diệu khước từ tạp loạn? Đáp: Sáu thứ Lý, Trí v.v… kinh đã có thứ lớp, chỉ bốn văn sau tuy tương tự mà trước sau nghóa đều sâu tột cùng. Vì sao? Vì nếu cảm ứng thì có quyến thuộc, quyến thuộc nhận lấy ngộ thông để phát khởi. Thấy thông, thâu hoạch lợi ích bởi do thuyết pháp. Y Huyền Văn thứ lớp tự là một đường, sáu thứ không thể siêu vượt kinh văn rõ ràng. Đầu tiên nói “phi tư lượng v.v…”: đối “Lý nhất” là Sở tư vậy. “Duy có chư Phật”: đối “Trí nhất”, là năng tri vậy. “Chỉ vì một đại sự….”: Văn nghóa đã đầy đủ ba, lý cần phải phân biệt, văn tuy đủ ba mà ý lời tại một đại gia sự. “Sự” tức nhân quả, cho nên nói nghóa tiện, chính là Hạnh nhất. Lại trí năng chiếu cảnh mới đạt cảnh đại, cho nên “Đại gọi là trí, lấy sự làm hạnh”. Có hai ý kia: tự hành và hóa tha đều gọi là “sự”, nay hóa tha cho nên là đại sự Phật xuất thế. Nên biết: đầu tiên là phân biệt giải thích, dùng phân chữ ở trước để giải thích ý, tiếp là theo nghóa tiện, dùng tổng giải thích ở trước. Ở trước tuy có hai giải thích, mà tổng giải thích thì dễ thấy, cho nên nay dùng. Tiếp “Tri kiến…”: ý chọn kinh văn từ “Muốn khiến” trở xuống, làm Vị nhất. Trong văn chỉ nói tri kiến. Vì trong mỗi câu kinh văn đều nói “Tri kiến”, tức năng tri kiến đã thuộc Trí Hạnh, Sở kiến đế lý đã thuộc Lý nhất. Tuy không phân biệt Tri kiến sâu cạn mà lại dùng Khai v.v…, đối vị đều sai biệt, cho nên thuộc Vị nhất. Tiếp, “Lại chọn kết văn” đối ba pháp Nhất. Lại dùng văn trước xem ý mà nói cho nên nói “Lại” (hựu). “Lại chọn các câu” trở xuống: là nói “xuất hiện”, là “Cảm ứng nhất”. Bốn câu đều đồng, tùy nghóa cho nên biệt, đều là cảm ứng. Bốn cái Nhất còn lại thì có thể biết. “Kinh văn…”: là ý phế lập, tuy hiểu rõ văn không dùng nghóa mà lý chẳng phải không, cho nên trong ba còn lại mà dùng lược. Từ “Nếu lược…” trở xuống, là muốn dùng xưa lược, lại luận bỏ chọn phân biệt lược nghóa, còn số. Trong đó trước lược sau còn. Ban đầu phế bỏ quả lập lý, xưa dùng bốn câu đồng là Quả nhất, tuy dùng quả làm lý danh không biệt rõ nên cần phải phá mà biệt lập lý. Cho nên, y đạo lý, không có lý thì thuộc ma. Đã trong mỗi câu đều nói “Tri kiến”, cho nên sở tri kiến lẽ nào chẳng phải Lý nhất. Tiếp, “phế bỏ nhân lập hạnh”: Hạnh thì thủy chung, tức là nhân quả. Chỉ điểm Hạnh nhất tức thâu tóm hai nghóa, tuy phế quả xứng mà chính ở Hạnh cuối cùng chỉ thêm Lý nhất làm căn bản của Giáo v.v…, khiến lý danh thông thuận với nghóa của bốn: Khai v.v… Tiếp, “Nhân nhất…”: còn hai nhất kia. Tiếp, chánh giải thích: Trước nêu “Lai ý” nói “Lại theo lược”, đối “Thập…” mà nói cho nên gọi là “lược”, “Thập….” vẫn còn cho nên gọi là “thả (lại)”. “Trước, giải thích Lý nhất” tự làm bốn nghóa, nay lại làm ba: 1. Liệt kê. 2.Chánh giải thích. 3. “Sở dó…”: là kết yếu quy tông. Trong phần Chánh giải thích, đầu tiên căn cứ bốn vị: Tức các bậc đối tượng của Nhãn trí, trong đó phân làm tám để xuất văn tướng. Nêu như văn. “Đế cảnh…”: là dùng sở y năng dụng để hiển rõ đối tượng liên quan đồng thuật “Lai ý”. Nhưng đây Tứ nhất căn cứ dưới tiêu văn đều có hai hướng: đều từ một bên, tả hữu xen lẫn nhiếp dùng biệt Tứ nhất. Cho nên, bốn tương vọng còn đều đầy đủ bốn, huống chi hai hướng ư! Vì sao? Nếu như sở tri làm lý, thì năng tri thuộc trí, năng thọ theo là Người (Nhân), năng thuyên là giáo, nay văn đầy đủ hai. Vả lại theo lý, cho nên nói Lý nhất. Nay hiển lý đây, lý không riêng hiển mà dùng trí môn quán tam, trải qua các địa vị liên quan cùng mới hiển lý. Chính là đem Nhân (người), Giáo, Hạnh ba thứ, trải qua địa vị dùng lý quán tâm là Người, bốn môn là Giáo, bốn trí là Hạnh. Ba thứ tướng do phá lậu- hoặc nhập vị, dần dần đến lý. Nếu vậy về sau ba tướng thành thì cũng có thể như vậy. Vì vậy nên nay đầu tiên nêu sở y. Đế không có thể tự hiển bày, trí là năng dụng, do thấy lý cho nên nói “mới có thể”. “Nhị trí…”: là phân chọn năng dụng tiến hay không? Có hai trí, bốn nhãn hay không? Chủng trí Phật nhãn tiến. Tuy thể tương tức mà hiển thù thắng cần phải phân. “Kinh nói…”: Căn cứ vị dẫn văn giải thích nguyên do kia. Chúng sinh nghóa kiêm Phật quả duy nhất tột cùng, cực quả tri kiến khiến chúng sinh liền đắc cho nên khác các kinh trước. “Tam giáo…”: căn cứ giáo phán xét ý, xưa nay các sư giải thích Phật tri kiến, căn cứ làm chúng sinh thì lý kia không hiển, tự chẳng phải nay thấy ủy xuất cảnh vi diệu, tâm chúng sinh và Phật đồng một thể không sai khác, xin biết là chúng sinh có tri kiến Phật, cho nên căn cứ giáo phán xét thì lý kia rõ ràng. Trong đó trước xuất người năng tri kiến. “Lại phân đắc…”: là nêu rõ chúng sinh “khai”, hạn cuộc nơi Sơ trụ thì mới gọi là “khai”. “Cho nên ký…”: là kết ý, đều là chứng vị Tri kiến Phật. “Như điềm lành…”: là nêu sở biểu, sau định tuệ dựa vào mưa bốn thứ hoa, có thể tiêu biểu đồng quy trải qua bốn vị. Hoa đều tán Phật đến quả bất hư, lại tán đại chúng người thừa vị. “Khai…”: chính giải thích, có hai: Đầu, chánh giải thích. Sau, “Nhưng Viên đạo…”: là dung thông. Trong phần đầu “giải thích Khai” có hai: Một, lược đối. Hai, “Vì sao…”: là chánh giải thích. Trong đó lại có năm: Nêu chướng của vị, Thông hoặc là Kiến, Tư, Biệt hoặc là vô minh. “Thông Biệt hai hoặc” đồng tại nhất niệm, niệm thể tức thị (đúng), thị thể phi lý. Thị sự phi thị, thị phi nhất như đồng thể làm chướng. Hai hoặc không thể phân cho nên nói “khó có thể liễu tri”. “Sơ tâm…”: nêu vị dựa vào chướng, trước Tùy hỷ sơ tâm Viên Tín, là danh tự vị, Viên thọ năm phẩm vị, Viên phục sáu căn vị, đem phàm tâm đây tức vì “phục đoạn” cho nên nói “năng”. Phục thông tín thọ Tín ắt tại đầu, không đồng người đời sơ tâm tức Phật. “Nội gia…”: là nêu gia hạnh trừ chướng, có pháp thí hợp, do hạnh đây nên đắc nhập Sơ trụ. Hợp nói “duyên tu”: tức chỉ trước Trụ. Hỏi: Nếu nhập Sơ trụ mới gọi là “khai”, thì phải biết kinh này phàm phu tuyệt phầân, vì sao không chấp nhận người khác từ vị cao, vì sao luận văn nói là phàm phu ư? Đáp: Trong bốn giải thích căn cứ trí căn cứ vị, chỉ Thánh mới khai. Căn cứ quán, căn cứ môn mới thông danh tự, huống chi nói: “Vì khiến cho”. Khiến phàm nhập Thánh, lợi ích của kết duyên căn cứ đây có thể biết. Do đó bốn giải thích mới hiển bày ý này: không ngăn ngại địa vị cao, không bỏ phàm phu. Dẫn chứng trừ vị, nói nhập lý nghóa thông sâu cạn. từ đầu lập xưng cho nên lại nói Trụ. “Trụ nơi…”: là kết sở biểu để lập danh. Tiếp, trong giải thích “Thị” có ba: 1.Nêu phá chướng thì thể hiển. 2. Nêu hiển thể đầy đủ đức. 3. Kết vị danh. Căn cứ nghóa cũng phải như nhập Thập trụ. 1.Văn lược. 2.Đã nhập vô công dụng đạo, dưới… cũng như vậy. Tiếp, trong giải thích “Ngộ” có bốn: 1.Nêu chướng trừ hạnh thành. 2. “Sự lý…”: nêu thể đức thu khắp. 3. Dẫn chứng. 4.Kết danh. Tiếp, trong giải thích “Nhập” có năm: 1. Lược không có chướng trừ căn cứ trên hợp có, chỉ hợp với văn trước, cho nên chỉ nói “thể”. 2. “Tự tại…”: là tán thán thể đức. 3.“Tự tại lưu nhập…” là tán Hạnh mãn. 4. Dẫn chứng. 5. Kết vị. Trong giải thích “Ngộ, Nhập” đều dẫn “Nhiếp Đại Thừa” tức mượn Biệt thành Viên, cho nên trong giải thích Ngộ nói “Lý Lượng bất nhị” trong giải thích “Nhập” nói “Lý Lượng tự tại”. Nên biết trong Biệt không có việc đây. Nếu vậy thì trước trong giải thích Trụ, dẫn kinh Nhân Vương nói: “Nhập lý gọi là Trụ”, căn cứ lệ nhờ Biệt, cũng có thể Thập trụ như lý, Thập hạnh như Lượng. Lượng tức Lý, cho nên gọi là Trụ. Lý tức Lượng, cho nên gọi là Hạnh. “Dung thông”: Vì nhờ biệt nên phải dung thông, trong đó chia làm bốn: 1. Chánh dung thông, tức không còn sâu cạn. 2. “Chỉ như lý…”: là nêu rõ nguyên do sâu cạn. 3. Trong dẫn chứng thì trước dẫn, sau giải thích. 4. Trong nêu Thí có khai có hợp. Trước trong “Khai” nói “sóc vọng” (rằm mồng một): “Sóc” là minh, nghóa là ngày đầu tháng, “vọng” nghóa là tương vọng tức viên mãn thời, nhật nguyệt tương vọng. Nguyệt (trăng) chẳng phải sóc vọng mà dựa vào sóc vọng thì trăng có tròn có khuyếât, hợp văn có thể thấy. Nói “vân vân”: là nên dẫn Đại kinh Nguyệt Ái Dụ. Tiếp trong “Căn cứ bốn trí”, đầu tiên biện sai khác, chỉ là trí Viên vị năng khế hợp. Nói “Bất như”: là không đồng, lược giản khác ở khắp. Trong Bát-nhã kia thông Tam giáo, cho nên gọi là “Thông”, nay không y đó, chỉ có nhất Viên đạo, cho nên nói “bất như”, chữ “như” cùng chung gọi. Tiếp chánh giải thích: Trước trong Căn cứ vị đã lược nêu hành tướng. Trong đây nêu lại lần nữa chỉ là trực tiếp thuật mà thôi! Có giải thích, có kết. Trong Thích có hai: 1. Chánh giải thích. 2. “Lại đạo tuệ…”: là lần nữa lại dùng ý của Nhiếp Đại Thừa luận để giải thích, có thể thấy. Đầu văn nói “tuệ nhân trí quả” đều thông tổng biệt, trên nhân quả đều thêm “chủng” cho nên được biệt danh, đều thêm “nhất thiết” cho nên thọ danh xưng “quả”. Đầu tiên nói “đạo”: Cho nên thọ danh xưng “nhân”, tuệ cùng trí nhất vãng lại rõ ràng. Nếu y theo các kinh thì chưa hẳn hoàn toàn như vậy, đầy đủ như Chỉ Quán quyển ba nói. Tiếp “Đây cũng…”: là tổng kết ý văn cũng là dung thông. Nói “kết ý”: Đã thuộc Viên trí, cho nên Lý Lượng tương tức, chẳng phải nhân quả tổng biệt mà nhân quả tổng biệt. Văn trước tuy có nói “Như lý v.v…” mà chẳng phải ý chánh văn. Nay giải thích bốn trí chánh nên dùng đó, chỉ cần dung thông thôi! Như số lượng cảnh Tục đế kia, Như đối với thật lý khế hợp kia; đều gọi là “Như”, tức đều xứng cảnh. Nhưng mỗi một vị đều đầy đủ Nhị trí, Bất nhị, song nhập. Vả lại nương bốn vị, bốn danh thì tiện. Không biệt mà biệt, trước sau lý đồng. Tiếp, “Căn cứ môn”: Môn đã là giáo, lý nên trước liệt kê. Nay tại đây tức đều có ý kia. Nếu chuyên giải thích bốn thứ này, thì trước là Giáo, tiếp là Quán, sau mới Trí Vị. Trong đây giải thích lý, bốn đều là năng thuyên. Ở trong bốn pháp, thân cận thì liệt kê trước đầy đủ như văn dưới nghịch thuận sinh khởi. Do thân cận trước, cho nên trước là Vị, Trí , tiếp là đến Giáo, Quán. Trong Vị, Trí thì Vị làm đối tượng liên quan, Trí làm năng chứng, thì đối tượng là gần, năng chứng là xa, cho nên trước là Vị , tiếp là Trí. Trong Giáo Quán, chẳng phải Giáo không là Quán, cho nên Giáo trước Quán sau. Trong đó, cũng trước là Chánh giải thích, tiếp là Dung thông. Đầu tiên nói “hoành”( theo chiều ngang): Sơ tâm giáo pháp sở bẩm (thọ theo) đầy đủ bốn, do pháp tương vọng không còn ưu liệt, cho nên gọi là “ngang”. Nên biết Vị, Trí phần nhiều căn cứ “thụ”(theo chiều dọc). Căn cứ Quán mới thành phi dọc phi ngang, thông luận đều là căn cứ phi ngang dọc. Do luận ngang dọc nên Quán môn cũng có sâu cạn. Giáo tứ tương vọng tương tợ cũng là sâu cạn. Trong đây, phần đầu là giải thích, phần tiếp “Năng thông…”: là dùng lý nhiếp giáo, nhiếp tức dung, cho nên trong mỗi môn đều thông Trí Vị. Từ cạn đến sâu, vì trải qua hữu v.v… đều thông nơi quán để đến trú, cho nên môn thành ngang. Tuy đối Khai v.v… chỉ nêu Hữu v.v…, nghóa đồng khai v.v…, chẳng đối sâu cạn căn cứ Vị khai v.v… Lại trong mỗi một môn đều nói: “Nhất thiết”, Bản hiển xen nhau thông xen lẫn đầy đủ. Vẫn e rằng không hiễu rõ, cho nên dưới lại dùng lý tánh dung. Tiếp, “Căn cứ Quán tâm giải thích”: Lại nói Đại lược để hiểu rõ Khai… Ủy luận quán pháp đầy đủ như Chỉ Quán. Quán vốn không chướng không cần dung thông, do đó ba giải thích ở trước đầu tiên không thuật lý, cho nên mỗi mỗi giải thích văn sau dung thông, đều là phụ lý, lý là chánh ý văn nghóa. Quán thân cận dựa vào lý, cho nên đầu tiên luận lý tam đế. “Đó là…”: là kết quy, kết tam quán để quy về Khai… Tiếp, “Sở dó…”: là nghịch thuận sinh khởi: Đầu tiên, nêu sở do nơi năng. Tiếp, nêu năng hiển nơi sở. Tóm lại mà nói, tóm bốn giải thích để quy về lý hai. Đã biết bốn giải thích đều giải thích Khai v.v…, nên biết Khai v.v.. mỗi mỗi có bốn lớp, huống chi bốn văn thân sơ, lẫn nhiếp năng sở ánh hiển, đây chính là Giáo, Hạnh, Nhân ba thứ nhờ Lý để biện rõ. Lý đã như vậy, ba thứ còn lại theo lệ như vậy. Cho nên biết nay giống như mượn luận văn mà thầm hợp ý chỉ của luận. “Xưa phương tiện giáo…”: Biệt Sơ địa trở đi dùng phân bốn nghóa: tức là Sơ địa là “Khai”, từ Nhị đến Lục là “Thị”, từ Thất đến Bát là “Ngộ”, Thập là Nhập. Mà Đới địa tiền chẳng phải tri kiến Phật, cho nên biệt tri kiến không thể tức vì chúng sinh khai. Đã y theo nghóa Biệt cũng có thể Thông dùng Tam hiền Thập địa thứ lớp đối với nó. Hoặc là căn cứ sư xưa như trước các giải thích phán bốn hằng sa sau trong tám hằng sa, cho nên Biệt tri kiến, Tín phải trải qua nhiều kiếp số có thể đạt đến. Thông giáo Kiến địa là Khai, Bạc địa là Thị, ly dục là Ngộ, đã làm xong là Nhập. Trong Tam tạng giáo, nếu căn cứ Nhị thừa thì chuẩn theo Thông giáo nói. Nếu căn cứ Bồ-tát, thì Sơ kỳ là Khai, kỳ thứ hai là Thị, thứ ba là Ngộ, trăm kiếp là Nhập. Nếu kiêm Thánh vị thì dùng trăm kiếp thứ ba làm Ngộ, tam thập tứ tâm đoạn kết làm Nhập. Hai giáo này từ đầu đến cuối không nêu rõ Phật tri kiến. Vì đương giáo không thể nói. Cho nên nói: Không có và không thể đem bốn bậc của Bà-sa, ba của Bát-nhã, thứ lớp của Anh Lạc để hiểu được Pháp Hoa Tri kiến Phật. Cho nên biết tri kiến với các tên Khai, Thị v.v…, tên có thể thông dụng mà một chữ “Phật” chỉ hạn cuộc ở kinh này. Nếu kia muốn dùng nghóa Phật thông dụng, thì dùng đương giáo phát tâm đều cầu đương giáo Phật quả, cho nên khiến Khai… cũng được gọi là “Phật”, mà cần chọn bộ chọn giáo mà thôi . Trong phần “Giải thích Nhân (người) nhất”, nói “Chỉ giáo hóa Bồ- tát” là căn cứ ý Phật mà nói. “Cùng tử tự nhận mình là khách” là chuẩn theo thứ lớp mà luận. Nay từ Khai mà nói, cho nên gọi là “Nhân nhất”. Giáo, Hạnh căn cứ đây có thể biết. Trong “Hạnh nhất” , ngài Quang Trạch coi đó là Giáo nhất, tức căn cứ nay phân biệt văn cùng Quang Trạch không đồng, chẳng lập danh. Quang Trạch lập danh thì phần nhiều đồng các Sư xưa. Vì Viên cho nên nhiều tức là một sự, sở tác gọi là nhiều, một là sở vi. Một chỉ là Viên, tức là nhiều của một nhà, nhiều không gì không là một. “Cũng có thể…”: là hai hướng giải thích. Căn cứ giáo chủ, thì dùng sáu chữ “chư hữu sở tác thường vi” để nêu rõ ý nói. Ý tại sở vi cho nên nói “một”, sự của một nhà cho nên nói “sự”. Vẫn lấy sở tác làm sự, cho nên nói “giáo hóa”. “Nếu căn cứ hạnh…”: lại căn cứ hạnh giải thích, chuẩn theo ý đầu tiên ở trước. Nếu căn cứ văn trước thì đã dùng Trí làm Hạnh, đến nay giải thích Hạnh thì lẽ ra chỉ đủ bốn trí. Nếu không vậy thì dùng Hạnh ấy làm, Giáo chỉ bốn môn đây cũng như vậy, người năng lãnh thọ lại tu quán trước. Hai nghóa dưới theo đây, giải thích lý liệt kê đủ bởi do đây. “Nhưng bốn câu…”: nay mỗi mỗi hai hướng giải thích. Nếu luận nghóa thì có hai hướng, lại y văn nay, xưa cũng không ngăn ngại. Căn cứ xu thế của kinh văn thì sở quy cần phải y giải thích này. Văn thế tuy vậy, nếu dùng thì nghóa kiêm thì đều đầy đủ bốn nghóa. Từ “Chỉ dùng một Phật thừa…”: là giải thích Giáo nhất, trong đó trước là Chánh nêu Giáo nhất. Tiếp, “Từ Biệt giáo…”: là nêu “sở vô” trong Giáo nhất. Trước là chánh giải thích. Tiếp là phá ba sư. Trong phá, ngài Quang Trạch cũng còn biết không có bốn cấp Bồ-tát, nhưng Quang Trạch chỉ xưa không nêu rõ, cho nên Huyền Văn có phá. Đây nói thiên về Hạnh còn bao quát thông biệt, chỉ do Quang Trạch cũng còn không nói thông thừa là Quyền cho nên cần phải phá, huống chi nay lại dùng Bồ-tát mà làm thứ ba. Sư thứ hai giống như Quang Trạch, cũng biết phế bỏ thiên Bồ-tát, chỉ liệt kê ba danh đối với ngài Quang Trạch, điên đảo sai khác đó thôi! “Nếu làm…”: là thông phá hai sư cũng chỉ thành phá Tam tạng Bồ-tát, chưa liên quan đến Thông, Biệt cho nên chưa hoàn toàn đúng. Sư thứ ba đồng với Gia Tường, Gia Tường còn vậy, cho nên đều không biết tam thừa cộng vị và Anh Lạc… thứ lớp hành, là phương tiện Bồ-tát. Nếu không vậy, vì sao Đại Anh Lạc quyển thứ chín nói: Tuệ phẩm trong ba đạo phẩm. Tuệ Nhãn Bồ-tát hỏi Phật rằng: “Thế nào là tam thừa? Phật dạy: Bồ-tát thừa, lại có ba thứ: gọi là Bồ-tát Đại thừa, Bồ-tát Bích-chi-phật, Bồ-tát Thanh-văn. Bích-chi-phật cũng có ba: gọi là Bích-chi-phật Đại thừa, Bích-chi-phật Bích-chi-phật, Bích-chi-phật Thanh-văn. Thanh văn cũng có ba: Thanh-văn Đại thừa, Thanh-văn Bích-chi-phật, Thanh-văn Thanh-văn. Cho nên biết Bồ-tát có ba hạng, là Biệt Bồ-tát. Như trong Đại kinh giải thích biệt năm vị, cũng dựa vào Tam thừa mà phân biệt Bồ-tát vị. Bích-chi-phật có ba là Thông tam thừa. Thanh văn có ba là Tam tạng tam thừa. Lại quyển thứ tám nói: Tuệ Nhãn Bồ-tát nói: Lại có định ý tên là Vô tận môn, siêu vượt Tam thừa thành Bồ-tát hiệu. Đã siêu vượt Tam thừa chính là siêu vượt ba thứ Tam thừa trước, không thể riêng nói siêu vượt thừa thứ ba. Kinh lại không nói siêu Nhị, Tam thừa, lẽ nào chẳng phải Viên giáo Bồ-tát thừa ư? “Nếu vậy…”: là trong phá có bốn: 1.Phá Tam tạng Bồ-tát còn lại, còn tồn tại Tam tạng ắt tồn tại Thông Biệt. 2. “Nơi nào…”: là phá liệt danh. 3.“Nếu y…”: là ví phỏng hỏi. 4.“Nếu như…”: là kết vấn nạn. “Nay nói…”: là trong chánh giải thích không có các thừa khác… Đã nói không có các thừa khác lại nói hoặc hai hoặc ba. Nên biết ngoài ra không có các thừa khác lại không có hai, ba. Nói “các thừa khác”: Là chỉ Biệt giáo thừa trong Hoa Nghiêm. Đã biết ba vị thì có thể biết Lộc-uyển, tức đồng Tiểu thừa trong sở đối của Phương-đẳng. Cho nên trong văn nay chỉ so sánh xuất Lộc uyển. Cho nên nói huống chi Tam tạng tam! Nếu không làm giải thích như đây thì làm sao có thể hiển bày sự vi diệu của kinh bộ này khác với các kinh khác? Các chỗ khác đã không dùng giáo bộ để giải thích kinh, cho nên biết giáo bộ diệu nghóa khó hiển bày. “Chương tam thế Phật đều nêu Giáo nhất, Hạnh nhất”: Trong văn đều nói “Pháp ấy đều là nhất Phật thừa”, nên là văn nói Giáo nhất. “Các chúng sinh ấy…”: tức văn nói Hạnh nhất. “Sau tổng luận…”: cuối chương Tam Thế Phật tổng nói: Xá-lợi-phất! Chư Phật ấy chỉ giáo hóa Bồ-tát là Nhân nhất. “Muốn dùng…” là Lý nhất. Ở chương tam thế, sau gọi là tổng. Nếu đương chương…, thì chúng sinh tức Nhân nhất, “Chủng trí sở tri tức Lý nhất”, nhưng căn cứ chúng sinh chủng trí thì mới gọi là Hạnh nhất. Cho nên đây đều nêu rõ không đề cập đến dưới hợp. Lại trong chương chư Phật văn đã nói đầy đủ, vì tránh văn rườm rà, cho nên trong ba đời (tam thế) thì hai riêng biệt hai bao hàm. Kinh Anh Lạc quyển mười ba nói “chín đời”, e rằng lầm, tại văn nói mười một. Kinh kia Tịnh Cư Thiên tử hỏi Phật: Nay có quá khứ chư Phật và mười phương Phật, con cũng không nghi, vì sao có chư Phật vị lai! Phật dạy: Ông vì hỏi ba đời quá khứ hay là hỏi ba đời vị lai, ba đời hiện tại? Thiên tử thưa: Con không hỏi quá khứ hiện tại, chỉ hỏi vị lai. Phật dạy: Có hai nhân duyên có vị lai Phật. 1. Chư Phật quá khứ dùng tâm từ bi nhập vào đời vị lai. 2. Bồ-tát vị lai thành Phật. Nay văn y lời đức Phật kia đáp Thiên Tử, thảy đều là đời hiện tại và trước sau đối nhau tự có ba đời, cho nên Phật dùng ba thứ ba đời để hỏi Thiên Tử. Cho nên biết tức có nghóa chín đời. Nếu Kinh Hoa Nghiêm lại thêm câu “ba đời thuyết bình đẳng” thì hợp làm mười câu. Hỏi: Hoa Nghiêm vì sao lại nói bình đẳng? Đáp: 1. Hoa Nghiêm pháp tướng đến mười, khiến số viên (tròn). 2.Muốn nêu ba đời thì khó nghó bàn, muốn khiến lý đầy đủ cho nên cần phải mười. Lại nữa, Hoa Nghiêm nêu chẳng những chín đời cho đến dùng bình đẳng mà nói mười thứ ba đời, cho nên biết trên nói chín mỗi mỗi ba đời, do kia muốn nêu rõ chín, ba chỉ là chín đời, chín đời chỉ là ba đời, ba đời chỉ là một sát-na, sát-na sát-na đều tận quá khứ vị lai. Đây chính là ngắn dài thu nhiếp vào nhau, nay chưa luận việc đó. Lại căn cứ ba đời chín đời hướng về nhau để luận vì dẫn đồng. Cho nên, ba đời nếu đồng tức mười phương đồng, thì trần sát đều đồng. Người đọc chỉ nói “sát thuyết chúng sinh thuyết” mà không suy nghó: “Nếu sát và chúng sinh đều là năng thuyết, thì sở bị (đối tượng được gia bị) là ai?”. Bởi do không nghó “tánh của sát và chúng sinh”, nếu hiểu được ý này, thì kia đây xen nhau hiển rõ. “Hai thì chỉ trên, hai thì chỉ dưới”: Chương Ngũ Phật môn đều đủ sáu, trong chương tổng Phật chỉ có bốn, thiếu hai cái thứ năm thứ sáu, trong chương Thích-ca chỉ thiếu thứ nhất. Trung gian tam thế Phật chỉ đều có hai. Hai chỉ tổng Phật tức hai ý đầu, hai chỉ Thích-ca tức hai ý sau. Nhưng chương tam thế hiển thật đều nói “pháp đó”, và chương Thích-ca hai chữ “như đây”, đều chỉ Quyền là Thật, cho nên gọi là “hiển thật”. Vì sao? Vì xưa thíêt lập Quyền mà còn không có tên “Quyền” huống chi có thật. Cho nên nay khai Quyền, Quyền tức là Thật, nên nói “Pháp đó đều là Phật thừa”. Vì thế, biết rằng thuật lại thiết lập Quyền kia, ý tại Khai. Chương quá khứ Phật trong đó hiển thật. Nói “Kiêm đắc Nhân nhất” cũng nên kiêm Lý, dùng chữ “kiêm” ở trên xuyên suốt ở dưới. Do kiêm nên chẳng phải chánh, cho nên văn trên nói không cùng với tổng văn hiển bày. Vị lai hiện tại cũng như vậy. Chương hiện tại Phật từ đầu tức là khai Quyền hiển Thật. Kinh: “Xá-lợi-phất! Các đức Phật đó…” tức đương tổng văn, cho nên trong giải thích ở trước nói: “Chương tam thế Phật đều nêu Giáo, Hạnh, sau tổng nêu Nhân, Lý”. Căn cứ đây, nên trước khai chương nói: Đầu biệt sau tổng. Sở dó không trước khai là dưới trong tổng văn đã không tổng khai Quyền chỉ có một văn hiển Thật, nên đối ba đời đều có Quyền Thật, tổng biệt bất tiện. Cho nên hợp trong chương Phật hiện tại cộng thành văn đầy đủ, cho nên nói: “văn đầy đủ”. Nếu vậy, thì sao không chỉ hợp biên soạn trong chương hiện tại Phật làm “văn tứ Nhất” mà dùng làm tổng ư? Do đầu kinh văn tự nói: “Xá-lợi-phất! Chư Phật đó…”, cho nên biết là tổng. Kinh: “Biết rõ các chúng sinh… sức phương tiện mà vì đó nói pháp”, tức cảm ứng đối nhau. “Biết chúng sinh…” là cảm, “chủng chủng nhân duyên…” là ứng. Kinh nói “Chủng chủng dục (những điều ưa muốn)…”: Chỉ các chúng sinh quá khứ hiện tại vị lai căn, dục, tánh ba thứ là cảm Phật cơ. Trong kinh chỉ có dục tánh hai thứ, nếu có hai thứ đây ắt có căn cho nên thêm căn đối giải thích. “Thâm tâm sở trước” tức là căn, do chủng tử đời trước khó chuyển, tùy huân tập không bỏ, nên gọi là “sở trước”, tại phương tiện giáo cho nên tập gọi là “trước”. Vì sao? Vì căn lấy năng sinh làm nghóa, do quá khứ huân tập chủng tử thành hiện dục, dục lấy chấp cảnh làm năng, do năng chấp nơi ngũ thừa giáo, cho nên tập dục thành tánh. Tánh đối với dục, thì tánh gọi là vị lai, vị lai đối với nay thì gọi là bản tánh. Trên đã nói đến thiết lập quyền, căn cứ lý trước nêu ẩn Thật là Quyền tức là sở khai. Vì đã nêu rõ khai, tức biết từng thiết lập đều là chân thật, chỉ sợ không hiểu ý thiết lập cho nên trước nêu rõ ý kia. Tiếp, giải thích “Năm trược”, nên đầu văn nói “Chỉ là năm trược…”, “cho nên nói chỉ một Phật thừa…”, “còn không đới hai…”, là muốn nêu thiết lập Quyền thì trước dùng Thật để so sánh. Nay trong nhất Thật còn không có Bát-nhã “đới hai”, Phương-đẳng “đới ba”, huống chi có Lộc uyển “riêng ba riêng năm”, dù thêm Nhân thiên vẫn thuộc Lộc- uyển. Có người nói: Riêng năm là Tam tạng, riêng ba là Thông giáo, đây không đúng lý, Thông không biệt bộ. Đã trong tại Bát-nhã Phương- đẳng nêu rõ. Có bản sớ nói: “Không hai”: là không có hai thứ: Biệt giáo và Biệt nhập Thông. “Không ba”: là không có ba thứ: Thông giáo và Biệt Viên nhập Thông. Văn sau tự có giải thích điều này, không cần để ở đây. Nay tạm y đây. Nếu không có văn dưới thì giải thích này không ngăn ngại. Biệt, Viên nhập Thông cũng trong tại Phương-đẳng Bát-nhã nêu rõ, chỉ duyên với kia mà có Thông Biệt, cho nên có văn nói tương nhập. Nhưng riêng luận thì cùng với tương nhập đều có chút sai khác, cho nên không y đây. “Như thị: là nêu Thể tướng”: Thể và tướng của Trược không thể nêu ra đầy đủ, chỉ lược nói “như thị”. Kinh tuy không nói đủ mà Sớ văn lược thuật, trong đó trước là nêu thể kia, cho nên nói: “Kiếp trược không có biệt thể…”, lại chỉ giải thích văn cùng làm thể tướng, là văn được dẫn ở dưới. Nói “xan tham…” tức Kiến, Tu hai trược, lại nói “bất thiện” thì chung cho Kiến và Tu, chỉ có “Mạng trược” thì kinh văn không giải thích. Đã có ba thứ: Chúng sinh, v.v.. thì Mạng ắt có. “Kiếp” là thời gian dài… đến tám mươi. Kiếp là thời. Các giải thích rất rộng ở đây chẳng cần, cho nên chỉ lược luận. Nói “thời ngắn”: Như trong Câu-xá lập ba cực ít (thiểu), nghóa là sắc, danh, thời. Sắc cực thiểu tức là cực vi. Luận nói cực vi vi kim thủy thỏ dê trâu khích trần, rận chí lúa mạch lóng tay, sau tăng lên gấp bảy lần, hai mươi bốn lóng tay bằng một khủyu tay, bốn khủyu tay làm một cung, năm trăm cung thì bằng một câu-lô-xá, tám Câu-lô-xá thì bằng một Du-thiện-na. Gọi là “cực thiểu”, tức là một chữ. Luận nói: Một chữ (nhất tự) là danh, là danh cực thiểu; hai chữ là danh, cũng gọi là danh thân; ba chữ trở lên là đa danh thân; bốn chữ là một câu, bốn câu là một kệ… Thời rất ngắn (cực thiểu) tức một sát-na. Luận nói: Một trăm hai mươi sát-na là một Đát-sát-na, sáu mươi Đát-sát-na là một Lạp-phạ, ba mươi Lạp-phạ là một Tu-du, ba mươi Tu-du là một ngày đêm, ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm. “Chúng sinh trược đến giả danh”: kiến mạn là nhân, quả báo là quả. Do kiến mạn nên chiêu cảm quả sinh tử, lôi kéo nhân thành quả. Cho nên nói “lôi kéo kiến mạn…”. Trên Quả lại khởi hai trược Kiến Mạn, kiến mạn chỉ là lược nêu thể của hai đạo Kiến, Tu. Tiếp, “Giải thích tướng của năm trược”: Trước giải thích “tướng Kiếp trược”, nói “Bốn trược…”: Không, thành, hoại ba thứ mà không có Kiếp trược. Ở trong kiếp Trụ, căn cứ kinh Bi Hoa nói: tám vạn đến ba vạn năm cũng chưa có trược, đến hai vạn năm thì bắt đầu có năm trược. Rộng nêu nghóa kiếp, thì nông cạn dễ biết. Rút trong văn kinh luận không phiền chép đủ chỉ cần biết thế. Bốn trược tăng tụ, cho nên tiểu kiếp gọi là trược, đây là tổng nêu. Do bốn trược tụ, cho nên tiểu tam tai khởi. Tiếp, “Sân nhuế…”: nêu rõ nguyên do tiểu tai, do phiền não mạnh. Tiếp, “Tam tai khởi…”: là nêu do tiểu tam tai nên bốn trược tăng, “phiền não gấp bội” là nêu rõ do Kiếp trược nên phiền não hưng thịnh. Tiếp, “Các kiến…”: là do Phiền não, Kiếp, cho nên Kiến trược xí thạnh. Tiếp, “Thô xấu…”: là nêu do ba trược trước cho nên Chúng sinh trược, thô tệ sắc tâm ác ngũ ấm, lôi kéo ác ấm này thành chúng sinh ác. Chúng sinh là giả danh, cho nên nói “ác danh uế xứng”. Tiêu biểu tính chất, chỉ bày đức gọi là “danh”, ảnh hưởng sự tốt đẹp ngoại hình gọi là “xứng”. Nay lôi kéo thô ác làm chất ác ảnh hưởng bên ngoài, cho nên chỉ tiêu biểu “ác danh uế xứng”. Khiến năm tháng ngắn lại do bốn trược cho nên Mạng trược, tích tụ năm thành thọ, năm suy thì thọ giảm. Tuổi và thọ bức bách nhau, cho nên gọi là Mạng trược. “Các trược…”: là tổng kết. “Như nước…”: là nêu thí dụ. Do bôn (vội vã) cho nên hôn muội chỉ là trược, tức tổng thí dụ Kiếp trược. Vì Kiếp bị trược cho nên có bốn thứ còn lại cũng trược. Cho nên dùng “gió” để thí dụ bốn trược còn lại. “Sóng gió (Phong ba)…”: dùng dụ kiến mạn. “Ngư long (cá rồng)”: Dùng dụ chúng sinh. “Không thể nương cậy”: là chúng sinh bất an, chính là “tướng trược”. Do ba trược nên khiến mạng ngắn ngủi, như do phong cổ (trống gió) khiến nước vội mê, rồng cá không an vui. “Thời khiến như vậy”: lại dùng Kiếp trược để kết, “Như kiếp sơ…” lại xuất ra bốn trược tại thời Kiếp trược, cũng là do có trược. Tuy lại bốn trược đồng tại thời trược mà bốn cùng thời trược lại xen lẫn tướng trược. “Quang Âm…”: Lại nương hỏa hậu. Hỏa tai chỉ hoại. Sơ thiền cho nên ở thời sơ thành. “Trời này bắt đầu….”, tức là Trời bắt đầu của Nhị thiền nên bắt đầu xuống nhân gian, thân có ánh sáng, còn có thể bay đi. Không có nam, nữ căn, không có ăn nuốt như vậy cho đến rừng cây đất đai da thịt, đến gạo lúa..,. nam nữ căn sinh, đầy đủ như trong A-nê- lâu- đà nói, luận Câu-xá ở chương Kiếp nêu rõ. Địa tức là ác duyên, từ duyên mà nói, cho nên nói khiến như vậy. “Như Đao-lợi…”: Cũng là nêu theo lệ, lại hiển đất sinh dục ác. Đế-thích ngoại thành có bốn vườn uyển, nghóa là các xe thô tạp hỷ, chư thiên muốn đấu tranh thì từ vườn thô ráp xuất hiện các dụng cụ chiến đấu, cần xe thì xuất hiện vườn xe. Nếu vườn hoan hỷ nhập vào trong thì sinh hỷ, Dục giới sinh dục cũng lại như vậy. Tiếp, “Phiền não…”: Lại ở trong tổng dùng biện rõ bốn biệt: Trước nêu phiền não, liệt kê đủ năm độn (ngũ độn sử) mỗi đều nêu một dụ có thể tư duy biết. “Hủy” (Rắn độc) nên dùng chữ bên dưới . Chữ “Nạo”: sách thuyết Văn nói “nạo” là quấy nhiễu. Tiếp, “Kiến trược…”: Là giải thích kiến trược, chỉ riêng nêu hai kiến, còn lại y mười sáu tri kiến như kinh Đại Phẩm nói: Hai kiến nhiếp trọn các kiến, huống chi mười sáu và sáu mươi hai! Không có người mà cho rằng có người, là Thân kiến. Có đạo mà cho rằng vô đạo, là Tà kiến. Lại, nên ngược lại câu này, nói: Vô đạo mà cho rằng hữu đạo là Giới thủ. Sở thông chẳng thù thắng, tức Kiến thủ. Thiên chấp hữu vô, tức Biên kiến. “Mười sáu tri kiến”: đầy đủ như trong sách Pháp Giới Thứ Đệ. Sáu mươi hai kiến có ba thứ không đồng. Nếu làm tam thế (ba đời) ngũ ấm thì đều chấp bốn câu, nghóa là: Quá khứ như khứ…, Hiện tại thường vô thường…, Vị lai biên vô biên, và hai kiến Đoạn và thường làm sáu mươi hai kiến chỉ là hai kiến Hữu, Vô, thuộc Biên kiến Tà kiến sở nhiếp. Nếu sắc đại ngã tiểu… bốn thứ, thì dùng bốn trải qua năm ấm và ba đời thành sáu mươi và Hữu Vô hai thứ. Đây chỉ là Thân kiến Biên kiến sở nhiếp. Nếu Bản kiếp Bản kiến… sáu mươi hai, thì thuộc về đoạn, thường, biên, tà, giới thủ… Nếu làm ngũ ấm thì đều chấp ngã sở. Mỗi một ngã sở đều có ba: là Anh-lạc (chuỗi ngọc), đồng bộc (tôi tớ), quật trạch (hang nhà) trải qua bốn ấm thành mười hai và ngã mười ba, ngũ ấm hỗ luận tức sáu mươi lăm. Đây chỉ tại ngã và do ngã sở. Như trong luận Bà-sa, Sử-kiền-độ nêu mười hai nhập mười tám giới, mỗi thứ có sáu mươi lăm, cho đến Vô sắc cũng như vậy; trong Vô sắc giới chỉ tùy nghóa giảm sắc. Tổng các kiến đây khắp nhất thiết xứ và nhất thiết pháp, cho nên nói “la võng” và “trù lâm” (lưới giăng và rừng rậm). Tiếp, trong “Chúng sinh trược” có hai: Giải thích và kết. Trong giải thích hai lớp pháp, thí. Hai lớp pháp nghóa là: Trước, nêu giả danh. Tiếp, nêu lưu chuyển. Trong thí dụ có hai xứ đều thí dụ giả danh, bởi vì hai xứ pháp đều giả danh. Tiếp, trong “Mạng trược” có ba: Pháp, Thí, Hợp. Thứ lớp: Sinh khởi trước sau. Trong phần “Liệu giản”, đầu tiên hỏi: nay văn giả thiết kinh này do trược cho nên không được nói Đại, lại trước thiết lập Tiểu tức trược chỉ có chướng Đại. Nếu chướng Đại thì thời thuyết kinh Hoa Nghiêm, vì sao không chướng? Nhưng trong năm trược thì Kiếp trược tự thuộc thời, không thể khiến Phật không sinh giảm kiếp. Nếu sinh giảm kiếp, thì Đại tiểu không chướng, mạng tùy pháp báo cũng không thể trừ, Phật cũng thị hiện chúng sinh thọ mạng ngắn. Chỉ phiền não kiến gọi là “chưa trừ trược”. Như trong Hoa Nghiêm cho có phàm chúng nghe kinh Hoa Nghiêm. Vì vậy nên năm trược không chướng Đại. Đã không chướng Đại thì tại sao không bắt đầu Tiệm liền nói Phật thừa, mà thiết lập Tiểu thừa ? Đáp: Bốn câu phân biệt: Dùng căn đối cõi thì chướng đều không chướng, chỉ vì khinh trọng không đồng, dùng cõi đối căn lợi độn để thành bốn câu. Một câu đầu dùng đáp Hoa Nghiêm, một câu sau đáp bắt đầu Tiệm không thuyết ý Đại thừa, hai câu giữa nêu cõi sai biệt, tức đầu cuối đều không chướng Đại, chỉ do lợi độn đầu cuối không đồng. Căn độn chướng nặng, nên ban đầu thuyết Tiểu thừa. Nói trược năng chướng, cho nên căn cứ bốn câu đều không chướng Đại, cho nên hỏi chướng Đại là một phen nói đó thôi. Hỏi: Ngũ trược chướng Tiểu thừa không? Đã không chướng Đại, là chướng Tiểu phải không? Văn trước tuy nói Tiểu mà năng trị trược, cho nên không chướng Tiểu. Đối bốn câu trước đều không chướng Đại. Vậy thì Đại Tiểu hết thảy đều không chướng, tại sao năm trược được gọi là chướng? Cho nên đối Tiểu, lại hỏi: Nếu chướng Tiểu thì lẽ ra tất cả không nghe, nếu không chướng thì phải tất cả đều nghe, vì sao sơ chuyển chỉ là năm người ư? Đáp: Trong đó cũng khai bốn câu, đến câu thứ tư mới gọi là chướng. Chỉ là đối căn, căn độn thành chướng. Xưa chấp thẳng nói: “Năm trược đều chướng Đại tiểu”, lý kia rất sai trái. Cho nên đầu tiên vì năm người và Thân-tử… thuộc câu đầu, nay nêu Ương-quật-bàn-đặc làm hai câu, thì tất cả Thanh-văn trừ hai thứ này theo lệ, đều thuộc thượng căn. Hỏi: Trước, câu thứ tư dùng Thân-tử làm ngăn nặng, vì sao trong đây dùng Thân-tử làm ngăn nhẹ? Đáp: Đối với Đại cho nên nói là nặng, đối với Tiểu cho nên nói là nhẹ. Hỏi: Tự có… bốn câu đầu trả lời hỏi Hoa Nghiêm. Nhân đáp nêu Thân-tử nghe kinh Pháp Hoa. Bốn câu sau chỉ có nghóa Tiểu thừa đang nơi Lộc-uyển, vì muốn phân biệt nêu xuất các bộ Đại thừa. Vì vậy nên hỏi: Hai xứ không nhiếp, vì căn lợi độn, hay vì chướng không chướng? Đáp: Trong đáp, nói: Đây căn cứ bốn giáo, do trong Phương-đẳng, Bát-nhã nghe Đại tiểu. Đã ở thời kia, người đó không thể đắc nhập, đợi đến hai tô; hướng về trước làm độn, chỉ do đợi thời gọi là “độn” mà thôi! Hướng về trước tuy độn, mà ở đây đắc nhập, tự phán xét là lợi độn. Ở trong bốn môn vì các môn sau trội hơn các môn trước. Cho nên, trong bốn môn thì dùng môn thứ tư dời đổi biên soạn lại phần trước là muốn đối bốn căn thù thắng ở đầu. Phải biết trong đây Đại tiểu cùng hai câu trong bốn câu trước, Đại tiểu không sai khác. Trong bốn câu trước, thì hai câu giữa phân biệt ở tịnh độ, nay đều ở cõi đây. Nói “vân vân” là: Mỗi mỗi căn ý đối mỗi mỗi môn nói nguyên do kia. Hỏi: Trước vì sao nói căn độn ngăn nặng không nghe nơi Tiểu thừa, mà trong đây lại nói là nghe nơi hữu môn? Đáp: Tại trước không nhập nay mới nhập, Đại tiểu căn tánh khi thuần thục thời không đồng, cho nên biết không hỏi có chướng hay không chướng, tức thảy đều đắc nhập. Chỉ vì chướng khinh trọng dùng đối căn lợi độn và thời không đồng đó thôi! Nếu đều không nghe Đại tiểu, thì không hỏi có chướng hay không chướng, tức cõi đây không có căn cơ. Đời nay chưa thuần thục, không phải thuộc về bốn câu, bốn môn không nhiếp. Trong đây chánh dùng văn Đại luận quyển hai mươi bốn trong phần giải thích mười lực, đến lực thứ tư nói: “Thế Tôn dùng trí lực ấy khéo biết căn thượng trung hạ của chúng sinh”. Nếu năm căn Tín, Tấn… và bốn căn bị ngăn che v.v… thì luận chỉ căn cứ Tiểu thừa thì nay thông Đại thừa. Cho nên biết chướng cùng không chướng, quý tại có căn, có Thừa chủng. Chướng do phá giới, đầy đủ như bốn câu thừa giới phân biệt. Dùng đối năm thời bốn giáo ba phẩm, các môn phân biệt. Chú thích “vân vân”: là do đây. Nói “tìm chi tiết”: ý sợ bỏ sót vậy. “Hỏi: Năm trược nhất vãng (một phen)…”: Căn cứ hai câu đầu và bốn câu lập lại, thì Đại Tiểu đều không bị chướng, nay từ Đại căn có chướng, đầu tiên không nghe Pháp Hoa làm vấn, tức câu thứ tư trong bốn câu đầu nói người, ba câu trước không chướng, chỉ chướng ở câu thứ tư, nói chẳng tận lý cho nên nói nhất vãng ý trong đáp là dùng đủ văn trước ý câu thứ tư là bắt đầu chướng nặng. Tiếp, “Nếu nghe…”: là căn độn, Phật còn chưa nói. Như thầy thuốc xưa nói các tên: Thường, Ngã v.v… thuận theo đó chấp nghóa là tên Vô thường v.v…, năng trị đối với trược, cho nên chỉ chướng Đại mà không chướng Tiểu. Như một chủng căn cơ, năm trược chưa trừ không kham nghe Đại. Đến trong Lộc-uyển dùng Tiểu trị trược, sau mới nghe Đại. Sở dó thấy khổ nếu không trừ thì không kham nghe thường. Chấp ấm làm đức, tức Tứ niệm xứ sở trị, nhanh quá cũng là si mê, cho nên trách thầy thuốc xưa chuyên dùng tà thường, vì không biết sữa (nhũ) là không biết dược (thuốc). Không biết bệnh… là do không phân biệt bệnh. Không biết “khai” là không biết phương pháp cho thuốc. Không hiểu ba thứ đây thì không có khách y thuật. Có hai thường không đồng, như sữa ngon dở, kiến hoặc khinh trọng gọi là căn nguyên. Trước đoạn sau dùng, cho nên gọi là khai giá. Nhị là ăn, ăn thời sai khác. Chỉ có chấp danh Thường, Lạc, cho nên nói “không biết tốt xấu”. Thuyết Ngã làm tăng thêm tà tập, nên nói “không biết căn nguyên”. Không hiểu rõ Thuyết thường thời sai khác, nên nói “không hiểu khai, giá”. Do đó kinh nói: “Nếu Phật Thế Tôn trước nói thường, thì đồ chúng thọ hóa sẽ nói pháp này đồng pháp ngoại đạo kia”, cho nên nói: “Nếu chỉ tán thán…”. “Hai loại thuốc”: đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển ba nói.  <卷>QUYỂN 5 (Phần Trung) Tiếp, “Căn cứ năm trược luận Tứ Tất-đàn”: “Kiếp trược, Mạng trược là đối Thế giới Tất-đàn”: vì kiếp mạng chỉ là y báo và chánh báo, tức thế giới. Chúng sinh tức là Vị nhân, Kiến trược là năng chấp kiến, cùng chúng sinh đồng. Do hai thứ này cho nên có sở vi cơ, tức là kiến diệt thì thiện sinh. Phiền não trược là Đối trị Tất-đàn: Như trong Ngũ đình trị đủ ba độc, chánh dùng Tiểu thừa năng trị trược, cho nên thuộc Tất-đàn thứ ba, cũng chuẩn theo ý luận lấy Đệ nhất nghóa Tất-đàn dùng đối Diễn môn. Tứ Tất-đàn đây môn thông đáp trả câu hỏi năm trược chướng Đại, không chướng tiểu. Do văn Tứ Tất ảnh hưởng nhiều nên đứng đầu môn biên soạn giải thích. Từ “Nếu luận nhân quả” trở xuống: lại dùng nhiều môn phân biệt năm trược: Đầu tiên là Nhân quả môn. Hai trược làm Nhân tức là Phiền não và Kiến, ba trược còn lại là Quả, nghóa kiêm y báo chánh báo. Tiếp, “Nhất nhân…” là Nhân pháp môn. Nhân (người) nghóa là Chúng sinh trược, Pháp là bốn thứ trược còn lại, cùng sinh tương đối cho nên đều thành pháp, đều là sở chấp của nhà chúng sinh. “Bốn pháp…”: là Pháp thời môn nên nói “Bốn pháp một thời”, văn thiếu nên lược. Thời tức Kiếp trược, bốn thứ trược còn lại thuộc Pháp. Nếu đối thời nói chúng sinh thì cũng thuộc pháp. “Hai báo chướng…”: ba chướng môn. Hai báo chướng tức Chúng sinh trược và Mạng trược. “Hai phiền não chướng”: Kiến cũng chung được gọi là phiền não, “nghiêïp ở trong thời gian đó” là phiền não thấm nhuần nghiêïp, nghiêïp năng chiêu cảm báo cho nên nói “thời gian đó”. “Chúng sinh…”: Trung luận nói ba Giả môn, đối đãi nhau có thể biết, tức Kiếp, Phiền não và Kiến. Kiếp tức dài ngắn đối đãi, Phiền não tức trái thuận… đối đãi, Kiến tức hữu vô… đối đãi. Nếu thông luận thì đều đầy đủ ba giả, Y báo và Chánh báo đều từ ba giả mà thành. Nay từ phân biệt lại biệt thuyết cho nên biệt đối. “Chúng sinh…”: Đại luận nói ba môn Giả thiết lập: Chúng sinh hòa hợp mà thọ tên chúng sinh Mạng v.v… đều là pháp mà chúng sinh chấp, lại có sở chấp giả danh đối với chúng sinh danh cho nên nói “danh giả thông hai xứ”, xem giải thích đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói. “Phiền não…”: là Phàm Thánh môn, “Phiền não tại phàm”: nghóa là các phàm phu quyết định có. Nhưng Kiến ắt tại phàm, phiền não thì thông cả Thánh, như cụ phược Thánh giả và La-hán hướng. Nói “tam thông”: Kiếp giảm có Phật, kiếp tăng chỉ có phàm. Lại, giảm thì có Phật, tăng thì thông các Thánh khác. Lại tăng cùng giảm đều thông hữu vô, do Đại tiểu thừa không đồng, lẽ nào Hoa-tạng tịnh mãn đợi kiếp giảm ư? Thường tại Linh sơn, tức là nghóa này. Chúng sinh danh đủ thông phàm thánh, mạng có phàm Thánh, báo mạng không đồng. “Mạng đoản…”: là Trường đoản môn, trong một kiếp luôn luôn sinh cho nên dài ngắn sai biệt. Đây chính căn cứ nhân (người) và do chư thiên cõi Dục thấy xứ Phật mà thuyết. Nếu luận, thì Sơ thiền tức kiếp mạng bằng, Nhị thiền trở đi thì kiếp ngắn mạng dài, cho đến cõi Vô sắc căn cứ đây nói có thể biết. “Ba thông ngắn dài”: Phiền não tại phàm thì dài, tại Thánh thì ngắn. Các kiến ở phàm phu khác thì dài, ở ngoại đạo lợi căn thì ngắn; cũng có thể tại các phàm phu thì ngắn, tại độn căn ngoại đạo thì dài; cũng có thể tại Tiểu thừa thì ngắn, Nhất sinh đoạn tại Đại thừa thì dài vì lưu hoặc nhuận sinh để nhập sinh tử. Lại Kiến tiền tận thìø ngắn, phiền não hậu tận thì dài. Nay phân biệt trược nhập sinh tử thì không gọi là trược chúng sinh, căn cứ đó mà nói. “Kiếp chỉ…”: là đới bất đới môn. Mạng là bất tương ưng hạnh pháp, cần phải đới (mang) ấm pháp mà luận thời gian dài ngắn, còn lại đều thuộc pháp chẳng phải Bất đới thời, vì chẳng phải thân cận đới cho nên chỉ tại nơi pháp. “Kiếp thông…”: là nội ngoại môn. Đại kiếp hại khí thế gian cho nên gọi là “ngoại”, tiểu kiếp hại người cho nên gọi là “nội”. Hoặc là có thể bốn trược tích tụ thời thơì thông cả nội ngoại. “Ba tiểu…”: là Hại bất hại môn. Vật tức ngoại khí, khi Đại kiếp khởi thì người đã thượng sinh, tùy ba không đồng sinh ba Thiền xứ. “Tiểu kiếp…”: là Ngũ đạo tam giới môn, chuẩn ứng biệt luận ba và năm xen lẫn nhau, cho nên hợp nêu rõ, thông cõi Sắc như trước. Nói “Mạng thông”: Cũng nên nói bốn thứ trược còn lại thông nơi Tam giới ngũ đạo. “Mạng thông” đầy đủ như trong Câu-xá luận nêu rõ. Ngũ đạo sống lâu khác biệt nhân gian năm mươi năm…, cũng nên nói thông nơi tứ sinh (bốn loài), tứ sinh đều có dài ngắn. “Kiếp trược thì…”: là Côïng biệt môn. Tiếp, “Tiểu kiếp…”: là Thông biệt môn. “Từ tám vạn…”: là giải thích Đại tiểu kiếp. Nói “chánh tam độc”: Tịnh độ phương khác, như nước A-súc, cũng có người nữ không có tà dục. Nêu một căn cứ theo đó thì nhiều cõi khác theo lệ có thể biết, rộng trải qua các cõi phân biệt không đồng, cho nên nói “vân vân”. “Đốc thúc chân” là đốc thúc thật đắc, cho nên bài xích, nói “phi” (chẳng phải), thượng mạn cũng như vậy. Cuối cùng là người không thật đắc mà không tin. “Tự” cũng là “kế” (nối dõi). “Thân còn vô lượng”: Trong Tiểu thừa giáo không nói lại có giới ngoại sinh xứ, có chấp Biến dịch tại giới nội thì cũng gọi là sinh xứ. Trong Đại thừa giáo vì Biến dịch sinh xứ kia nhiều, cho nên nói “vô lượng”. Đây thuật ý bức bách, nói rằng: trong đó chỉ nói danh Tăng-thượng-mạn, ý chỉ La-hán. Nếu thật đắc thì lẽ nào có người không phát tâm Đại thừa ư? Chính dùng Đại thừa mật mà bài xích. Nếu cho rằng cứu cánh thì nên Biến dịch tận, nếu chưa tận thì vì sao không tin? “Gặp được đức Phật khác”: Văn đầu do có Phật các cõi khác, gọi là “Đức Phật khác”. “La-hán thọ thân đời trước”: trả nghiêïp trước cho nên gọi là “thân đời trước”, vì là phiền não quả nên “cần phải diệt”. Nếu phiền não sở hoặc năng bất diệt thì có lỗi nhân quả không đồng. Nếu nói biên tế định lực trì khiến không diệt, thì nay hỏi biên định là Đại hay Tiểu? Nếu là Tiểu, thì Tiểu không gọi là Biến dịch, cũng không nói là vónh thường. Nếu nói là Đại, thì biên đại trừ, danh chỉ tại Đẳng giác, lẽ nào được sau thọ ký tức là Đẳng giác ư? Nếu Đại nhập Tiểu định, thì rõ ràng Đại không có dụng của Định. Có người dẫn “La Vân”, đây không nên như vậy. Chỉ sau khi Phật diệt độ, các A-la-hán ẩn hiển không đồng đều tùy cơ duyên, huống chi vốn là Đại Bồ-tát? Đây là trong Đại luận Bồ-tát Long Thọ giả thiết lập câu hỏi này, và muốn căn cứ Đại giáo tùy đáp đầy đủ. Cho nên, trong văn đáp nói “không sinh tam giới”, huống chi luận lại dẫn Pháp Hoa để chứng minh. Cho nên, biết rằng: nói Bạc địa thì không có giáo nào có thể căn cứ. Nghóa “nước khác” xuất từ tha nhân, cho nên người xưa nói: Học không thầy đâu có nghóa không gặp khó khăn. Cho nên Pháp Hoa đây chẳng phải đây thì không rõ. Lại nếu Biến dịch không ra ngoài giới mà nói “sinh trong năm đường”, nói khước từ nhập sinh tử mà dụ “kinh sợ vào nhà lửa”, thì chẳng phải văn nói một ngày Niết-bàn, liền là hư cấu. Từ “Ngài Nam Nhạc ” trở xuống: ba phen giải thích đều là Nam Nhạc giải thích. Tiếp, trong phần giải thích nói: “La-hán nếu tu niệm Phật Tam- muội…”: nếu nói niệm mười phương Phật thì đã phát Đại tâm, nếu chỉ niệm Thích Tôn thì chính là nhân Tiểu cảm Đại, cũng là cơ phát khiến như vậy. Nhưng trong Tiểu thừa các bộ không đồng, cũng có tin có mười phương Phật, tức người Tiểu thừa tu đệ Tứ thiền biên tế định lực. “Thấy mười phương Phật…”: niệm Phật quán thành cảm Phật vì thuyết. Thứ ba nêu “phàm phu”: Nêu phàm phu huống chi Thánh! Cho nên La-hán ắt không có lý không nghe Pháp Hoa. Ý “Dao sư” nói: Thật đắc La-hán không có người nào không tin, không cần gặp Đức Phật khác, gặp Đức Phật khác tức chỉ phàm phu, Nam Nhạc lẽ nào không biết: phàm phu thì sau khi Phật diệt độ năng sinh tin ư? Cho nên gặp đức Phật khác, ắt chỉ La-hán. Nên kinh Tịnh Danh nói: “Phàm phu có trở ngược lại mà Thanh văn thì không”, cho nên biết Thanh văn khó hồi chuyển mà cần phải thương nghị, phàm phu dễ thọ tại sao cần dẫn theo lệ? Từ “Có người nói” cho đến “ắt như vậy”: là ý phá Dao sư. Lập “không tin” nghóa, cũng không như vậy, tâm chấp kiên cố ắt tại giáo xưa, không nên chứng minh đây là văn sau khi Phật diệt độ. Sư này lại dẫn chứng Thân-tử nơi Pháp Hoa ban đầu nghe văn lược khai, để chứng minh sau khi Phật diệt độ thì La-hán không thọ nhận. Ýù nói gặp Phật mà La-hán còn nghi là ma, huống chi sau khi Phật diệt độ lẽ nào chịu tin thọ ư? Nay thì không như vậy, Đức Phật dự biết đôn đốc đều tin, cho nên sau khi Phật diệt độ chấp kinh quyền thuyết, nghóa chấp nhận có thể như vậy. Trong cụm từ “Không chỉ phàm phu vân vân”, thì “vân vân”: là lẽ ra rộng nêu ý La-hán và dùng ý phàm phu tin không tin, để phá sư đây và chọn Dao sư. “Đây thẳng giải thích sai khác…” chín chữ (Thử trực dị giải bất dụng thử nghóa dã.): E rằng phải viết chữ “bạch” chỉ hai sư trước cũng chẳng phải hoàn toàn lỗi, chỉ vì chưa hoàn toàn thuận ý kinh đó thôi! Không thể hoàn toàn phá, cho nên nói “giải thích sai khác”. Nếu luận Dao sư thấy trái văn kinh. Kinh nói “La-hán gặp đức Phật khác thì sinh tín”, mà Dao sư nói không cần (phải), Ý kinh nói “Trừ sau khi Phật diệt độ, muốn hiển bày Tứ y thông kinh công năng”, mà Dao sư không dùng Tứ y. Vì Đức Phật khác tức là La-hán ba căn nghe cùng không nghe, đều không nhờ từ biên Tứ y, nghe thì thâm sâu không thể được. Lại lấy phàm phu để so sánh, đây thì có thể như vậy, chỉ cần nói gặp Tứ y thôi! Ý sư sau nói: “Phàm phu dễ, La-hán khó”. Đây cũng nói trái kinh quyết liễu nghóa, cho nên không dùng ý đây. Tiếp, “giải thích kệ tụng”: “Ba loại: Thượng mạn, v.v… bốn chúng đều có”: lại phàm phu thượng mạn có năm thứ không đồng: Nghóa là bốn thiện căn và dùng bốn quả, nghóa thông dễ biết vả lại sau biệt nói theo phần nhiều, cho nên kinh nói: Bốn chúng Tỳ-kheo v.v… có ba lỗi này. Đối với riêng ba lỗi này vẫn từ “Phất tịch” (quét dọn chỗ ngồi) mà nói. “Che giấu lỗi”: là giải thích ba lỗi, “che giấu lỗi bày đức”: là giải thích “thượng mạn”. “Không thể tự tỉnh”: là giải thích “ngã mạn”. “Người vô tàm: là giải thích “bất tín”. “Nếu tự thấy lỗi” không có ba lỗi này thì tuy chưa chứng quả vẫn gọi là “có hổ thẹn”. “Nơi giới”: giới danh thông mười, tức như Đại luận Đại kinh nói mười thứ không thiếu không phá…, nghiệm biết ba lỗi, còn không có không thiếu, huống chi đạo côïng, cho nên nói “khuyết…”. “Luật nghi” có ba: Nghóa là không thiếu, không xuyên, không phá kiêm không tạp. Nếu y Đại luận, thì không thiếu sót cái thứ ba. Nếu y Đại kinh thì không thiếu sót cương vị đứng đầu, danh đồng nghóa khác đều có ý kia, đầy đủ như giải thích nghóa. Nay lại y Đại Kinh dùng ba thứ: không thiếu… và định cộng, đạo cộng tức sáu giới. Cho nên biết trong sáu nếu không có hai cái sau thì còn gọi là “lậu”, huống chi đạo côïng định côïng phán xét tại Tam tạng tứ quả. Nay lại luận gần thì không có đạo, định. Cho nên người có ba lỗi mà còn không có Noãn pháp, huống chi có Tứ quả. “Hà” là tỳ vết ở bên trong viên ngọc nên nói “nội khởi”. “Tỳ” là tỳ vết ở bên ngoài viên ngọc cho nên nói “ngoại động”. Tỳ vết bên ngoài gọi là “khuyết”. Tỳ vết bên trong gọi là “lậu”. “Tiểu trong tiểu”: là bốn quả đã tiểu, bốn thiền lại tiểu, trí đã cực tiểu, huống chi thêm Tăng-thượng-mạn. “Tào khang”: Nếu y thiền thế gian để đắc vô lậu, thì như bỏ “tào” (bả) được rượu, từ văn nhập lý như bỏ hết “khang” (cám) ra thì được gạo. Đã không có vô lậu, mà ngược lại chấp thiền thế gian thì ví như bỏ rượu mà giữ bã (tào), không đắc chân lý, trái lại đề cao văn tự thì ví như bỏ gạo mà giữ “khang” (cám). “Chúng như thế có năm ngàn”: Là lấy có hiển không, có lỗi thì không đắc. Nói “chấp văn tự” (phong văn): cũng nên lại nói “chấp thiền là thật”, ví như có bã không rượu. Trong văn có hai giải thích, giải thích đầu là chánh, giải thích sau lại kiêm thật hành Thanh-văn. Đồ chúng đó đứng dậy ra đi cũng do hiện tại chưa có căn cơ Đại thừa cho nên thoái lui, như có bã mà không có rượu, có cám mà không có gạo. “Cành lá”: Không có tài nhập đạo. Hỏi: “Cơ” và “khí” có gì sai khác? Đáp: Tuy đều từ thí dụ đều có một ý, nhưng “Cơ” luận về khả năng phát, nói “khí” nghóa là kham nỗi trách nhiệm, được thân trời người thì gọi chung là “khí”. Do chứa ba lỗi nên “khí” thành “phi hảo” (không tốt), do hạt giống đời trước gieo lại nhỏ, không có cơ có thể phát, hai nghóa đều thiếu, do uy thần Phật nên khiến họ ra đi. “Có ba điều khác nhau”: 1.Liệt kê. 2.Giải thích. Liệt kê nói trên có tán thán pháp hy hữu: là trong sáu đoạn của chướng chư Phật bên trên chỉ không có hai đoạn sau cho nên có tán thán pháp. Văn nói: “Diệu pháp như vậy chư Phật Như Lai đúng thời mới nói” mà không có văn nói Ngũ trược. Trong tụng không có tán thán pháp. Đầu sau: Trên trước tán thán, pháp như trước nay đã dẫn. Nói “bất hư” thì văn tiếp mới nói: “Các ông nên tin lời Phật nói không hư vọng.” Và để khai hiển, trên khuyến tín cùng bất hư hợp. Trên nói: “Các ông phải tin lời Phật nói không hư dối”. Nay cách biệt bất hư là nay trong tụng “khuyên tin” ở trước, “bất hư” ở sau. Trong đó cách biệt văn Ngũ trược, cho nên trước bốn nay năm, do tách khuyến tín làm hai. Nên nói trong khuyến tín bất hư là ngũ trược sở cách. Chương An lại nói: “Trên do Đức Thích-ca phương tiện dùng giải thích chư Phật thiết lập Quyền”: Trên giải thích chư Phật khai Quyền, văn nói: “Ta dùng vô số phương tiện các thứ nhân duyên thí dụ ngôn từ” để diễn thuyết các pháp. Trong kệ, như văn. “Tu đạo đắc nơi các quyền pháp”: là tự hạnh nhân mãn thì cảm quyền pháp, chính đương là quyền trong thể tự hành tức pháp thể đây cũng không thể nói. Dùng phương tiện cho nên vì chúng sinh mà thuyết thành “hóa tha quyền”, tức văn nói Chiếu chín pháp giới trở về sau. Cho nên, biết rằng nói “lập một khai quyền”, mà đối nay bèn thành hai ý: l. Nêu cao (đằng) xưa thi Quyền. 2.Làm chỗ hiển thật. Không chỉ sở khai thì không do đâu mà thuyết Thật, huống chi chỉ cho mọi người biết Quyền là Quyền, biết đó chẳng phải cứu cánh. Đã hiển Thật rồi thì Quyền toàn là Thật. “Chiếu căn cơ của chín pháp giới thuyết Thất phương tiện”: chín là đối tượng được gia bị giáo không ngoài bảy, nói bảy gia bị chín dần dần khiến nhập thật. Nhân pháp chín và bảy cho nên lập tổng nói. “Chín pháp giới” là từ tự phầân mà đặt tên. “Phương tiện” là căn cứ nơi tiến đến mà gọi. Lại, chín pháp giới là căn cứ căn cơ chúng sinh mà đặt tên. “Phương tiện” thì từ hóa chủ mà được tên. Tổng nêu không đồng cho nên nói “bảy, chín”. Nói “không thể định phán”: Trong bảy, chín tùy những căn cơ nào; nghe những pháp nào gặp căn cơ liền hợp, cho nên nói “bất định”. “Hiện khởi…”: Niệm ắt đối cảnh cho nên nói “hiện khởi”. Nói “chủng chủng” (các thứ) cũng không ra ngoài bảy, chín! “Quá khứ…”: là giải thích “dục tánh”. “Dục” chỉ là niệm, cho nên biết chỉ là trước thì dùng hy vọng để giải thích niệm, tiếp thì dùng vui thích để giải thích “dục”. Cho nên, biết rằng: “niệm” thì nói nội tâm, “dục” thì luận đối cảnh sinh tưởng, nay chỉ căn cứ sự hâm mộ ưa thích, thông theo dục làm tên, không mượn đối niệm biện biệt, cho nên chỉ dùng dục đối tánh hai đời mà phán định. Hỏi: Trước nói quá khứ gọi là căn, vị lai gọi là tánh, nay vì sao nói quá khứ gọi là tánh? Đáp: Đều có ý kia. Tánh chắc không sửa đổi, cho nên từ hiện lại đến vị lai từ quá khứ đến nay, hai xứ đều được tên “tánh” cho nên như vậy. Cũng có thể hiện tại gọi là “căn” bởi vì sinh vị lai, nhưng “căn tánh” thì mới có thể xen nhau mà nêu lên. Lạc dục ắt ở hiện tại, tên “dục” tuy không từ quá khứ cũng có thể do hiện tại vọng đương lai, dùng danh lẫn xen cho nên cố lập lại giải thích nói: “Hoặc có thể huân tập dục để thành tánh, thành tánh sinh huân tập dục”. Câu trên thì hiện tại dục thành vị lai tánh, câu dưới thì quá khứ tánh thành hiện tại dục. “Vân vân”: là Hoặc có thể quá khứ dục thành hiện tại tánh, hiện tại tánh thành vị lai dục, hoặc có thể quá khứ dục thành quá khứ tánh, hiện tại dục thành vị lai tánh. Vậy thì tên “dục” tuy thông quá khứ vị lai vẫn từ hiện tại nói. Cho nên, biết rằng tên “dục niệm” định ở hiện tại. Từ “Thất phương tiện” đến “vân vân”: Đầy đủ như trong Chỉ Quán tùy tự ý quán, trong quán ác. Nói thông đồ (đường thông) thiện ác là nghóa đó. Từ “Độn căn” đến “ý thiết lập quyền”, đây là văn trường hàng, nay không nói trường hàng chỉ vì kệ cùng trường hàng không đồng, tùy sự trọng yếu thì biện rõ đồng khác. Hoặc có thể lược nêu rõ ý thì có thể biết. “Ta bày (thiết) phương tiện đó” trở xuống: ba hàng tụng lý. Văn phần nhiều nói “thuyết” thay vì “thiết”. Nói lý đó thế nào? Như nói chưa từng thuyết vì thời thuyết chưa đến, tùy thuận thuyết v.v… cũng là dùng năng hiển sở. Căn cứ theo các lệ trước lược cũng có thể biết. Nay văn chính dùng Phật tuệ làm hạnh lý. “Thanh văn kiêm đắc Duyên giác”: Trong số Thanh-văn có người gặp Phật Duyên giác. Lại Tam tạng Thanh-văn ắt kiêm đương giáo Duyên giác. Lại Bồ-tát đã bao gồm Tạng Thông, Nhị thừa ắt đủ hai giáo. Bồ-tát không nói Biệt: Trước dùng tịnh tâm làm Biệt giáo xong. Đã dùng Thanh văn Bồ-tát làm nghóa lập, cho đến một câu thảy đều thành Phật. Lại, khuyên răn nói “không nghi”: Nên biết đây là lời nói rất thành thực của bậc cực Thánh mà không chịu tin. Đại kinh nói: Hết thảy Nhị thừa vị lai nhất định quy về Đại Bát Niết-bàn như các dòng nước vào biển. Lại Bồ-tát cùng Nhị thừa hợp nêu rõ. Phải biết tam thừa ắt đều được hội. “Điệp giả danh tam giáo…” Tam giáo là giả danh, giáo bản nhất thật cho nên “tam” là giả. Vì chúng sinh mà giả thiết lập Quyền: Tam tạng… Nay đã hiển Thật lại lần nữa nêu đối tượng bị trừ bỏ để chỉ bày Phật tuệ, tức câu trên đã liệt nêu. “Không hai: là không có hai thứ Bán và Mãn đối nhau trong Thông giáo”: thông chân bao hàm hai. Do thiếu Biệt giáo cho nên lại dẫn các thừa khác còn lại ở trên đến đây giải thích thành. Nói “giả” tức là Thông luận tam giáo, nói cái khác và dùng hai, ba. Lại nói “tương nhập” do có cái khác đều là giả cho nên được tương nhập. Không có cái khác thì không còn gọi là tương nhập, bởi vì thuần nhất. Đây văn nói ba vị: Sữa, Sinh tô và Thục tô xong. “Một hàng rưỡi đầu, nêu nội tâm”. Kinh nói: “Như ta xưa đã nguyện, nay đã đầy đủ rồi”. Hỏi: Đức Phật ban đầu lập nguyện nguyện độ tất cả chúng sinh, nay chúng sinh còn nhiều thì nguyện làm sao mãn? Đáp: Hãy cứ theo một kỳ, nói tổng quát là: Chỉ khiến chúng sinh đắc nhập Phật thừa thì gọi là nguyện mãn. Cho nên kinh nói: “như ta không khác”. “Nếu ta gặp chúng sinh…”: là nêu trược không chướng Đại. “Gặp”: là tận khiến nhập Phật đạo. Không trí không thọ, nên gọi là “chướng Đại”. “Chúng sinh”: Trong văn có ba giải thích: 1. Giải thích đối “tha” đắc danh. 2. Giải thích từ “tự” lập xưng. 3. Giải thích tức là công năng. Tân dịch sợ lạm xưng làm hữu tình. Tuy giản lược vô tình mà ba nghóa đều lỗi. “Mười loại chúng sinh, Sinh tử ngắn” trong đó nói “phạm hạnh ít nói”: là ở Dục giới các địa pháp như vậy nhiều lời; do có ngôn ngữ đều do giác quán, do ít lời nên biết giác quán thiếu, phiền não tạm mỏng cho nên nói “ngắn”. “Phương”: Cũng như phương vật động tónh định, ở đây chết rồi định sinh lên cõi trời. “Tam giác”: Giác là tụ, tức thiện, ác, vô ký, ở trong sinh tử khắp làm ba thứ nghiệp này. Các luật luận văn phần nhiều dùng tụ gọi là giác, thiếu giải thích “tử (đỏ tím)” tức Tu-la. Tu-la có nhiều chủng loại gọi là thiên, quỷ, súc sinh như sắc đỏ tím, lại luân hồi. Như Kiến Bảo Tam-muội kinh nói: “Từ địa ngục đến, thì nghe tiếng hét bỗng gấp run sợ, mộng thấy lửa lớn thiêu cháy… Từ súc sinh đến, thì ám độn giải đãi, ăn nhiều tánh sợ, ngượng nghịu chậm chạp, hành động phần nhiều tợ như các trùng súc sinh… Từ quỷ đến, thì tóc vàng thường đói khát xan tham… Các loài khác so đây có thể biết”. Kinh rộng nói đủ. “Ta biết…”: là biệt nêu năm trược: Trước khai chương nói: biệt nêu năm trược chướng ba, năm trược vọng ba ắt không thể chướng, vì ba sở trị là sở trị chướng, cho nên nói chướng, cũng là có trược cho nên không ba, có ba cho nên không trược, cho nên nói chướng. “Thọ thai vi hình”: Đầu văn tức căn cứ quán tâm chỉ tùy tiện thôi chỉ nói từ tâm tức gọi là quán tâm, kỳ thật trong đây vẫn đới sự giải thích. Do đây nhất niệm tâm rất vi tế cho nên khiến tăng trưởng. Tiếp, “Thọ thai…”: toàn căn cứ sự giải thích lược như trong Chỉ Quán quyển bốn nói dẫn kinh Nhập Thai. Có người lập đủ thọ thai chương môn, đối với ở đây thì chẳng phải là trọng yếu. Nay ý chỉ tại hiển nghóa năm trược cần thiết lập Quyền, liệt kê danh mà đã nêu đầy đủ ý trược. Đâu uổng ở đây rộng kiến lập chương dài khiến mê đường, như thế nghóa là Pháp Hoa cũng nêu rõ năm trược cùng Bà-sa không khác. Như người đời nói: “Pháp Hoa cũng nêu tam thừa”, kia lỗi như vậy. “Thọ Ấm Thân”: E rằng chỉ là Nhập Thai kinh nói tổng có ba mươi tám lần bảy ngày để luận tăng trưởng. Như luận Câu-xá… văn chỉ liệt kê năm vị nói: Đầu tiên là Yết-lặc-lam, tiếp là sinh Ác-bộ-đàm, từ đây sinh Bế-thi, Bế-thi sinh Yết-nam, tiếp là Bát-la-xa-khư. “Hoặc là nói như trong kinh Đại Phẩm nói”: tức căn cứ hai mươi thân kiến, như… đầy đủ như trước dẫn. “Thời gian dài…”: Nay văn đầy đủ hai nghóa cho nên kiếp được gọi là trược, trong văn đầu chỉ có nghóa thứ hai, sau trong liệu giản mới có nghóa đầu. Tụng “Chương quá khứ Phật”: hai hàng đầu chánh thiết lập tam, gọi “thi” (thiết lập) là “khai”. “Một hàng đầu lược tụng Tam nhất bên trên”. Trong văn dùng “Giáo, Nhân, Lý ba Nhất, kiêm đắc Hạnh Nhất”: có đủ hai ý: l. Thông kiêm, đã có ba thứ kia lẽ nào không có Hạnh ư? 2. Biệt kiêm, tức dùng hai chữ “Phật đạo” để kiêm đó, sở thú là Lý, năng thú là Hạnh. Trong “Một hàng rưỡi đầu tổng căn cứ năm thừa” dùng “Nhân, Hạnh kiêm Giáo nhất”: Đã có Nhân, Hạnh ắt có sở bẩm tức là Giáo. Trong đây “dùng Thất phương tiện” làm “dị phương tiện”, do Tạng nhân không đồng Diễn môn, cho nên thành hoàn toàn sai khác, các văn khác phần nhiều dùng. Nay thông dụng: Chưa đồng Viên thì đều gọi là “dị”. “Nếu có…”: “hai hàng khai Bồ-tát thừa”, trong đó hai giải thích tiến, thoái cũng có hai nghóa. Danh xưng “năm thừa” chỉ tại Lộc uyển. “Thất phương tiện” danh thông cả ba vị. “Hành lục độ” không hạn cuộc nơi một giáo, cho nên có thể thông cả ba. Dùng Tam tạng làm bản cho nên nói “kiêm Thông, Biệt”. “Vì sao…?”: là giải thích xuất tam giáo lục độ hạnh tướng. “Phi tướng phi vô tướng thứ đệ hành”: là song phi, tức là sở tư (cái bị tách ra), cũng nên thứ lớp xuất tam đế hành tướng. Nhưng dùng tướng vô tướng cùng luận tức tam đế. Lại nhập địa tam đế không còn luận khai, nhưng trong Bồ-tát thừa cũng nói: “Xưa nghe pháp đã thành Giáo nhất” tức là: “Nếu Bồ-tát không khai thì đâu cần dẫn xưa khiến thành Giáo nhất”. Cho nên, phàm nói “xưa” thì đều đủ hai ý: l. Tại xưa nghe quyền. 2. Xưa đã từng khai. Nay chánh nói xưa nghe Quyền là xưa khai đã xong đều thành Phật đạo. Nghóa đầu căn cứ hóa nghi nói, ý tiếp căn cứ khai xong nói. Đi xuống các thừa còn lại mỗi mỗi đều như vậy; xưa Phật cũng vậy. Trong văn Nhị thừa có Nhân, Lý, Hạnh, không nói kiêm Giáo, chỉ là lược văn. Văn Bồ-tát ở trước cũng dùng ba kiêm một sau khi chư Phật diệt độ, cúng dường xá-lợi: Nếu do hiện tại so sánh quá khứ như trong Tăng Nhất nói: Phật nhân đưa cao xá-lợi rộng xưng tán rồi, khiến nơi ngã tư đường mà khởi Thâu-bà. Phật dạy: nên xây tháp cho bốn hạng người là Luân vương, La-hán, Bích- chi-phật và Như Lai. Sau phân nói: Luân vương không cấp bậc, La-hán bốn cấp, Bích-chi-phật năm cấp, Như Lai mười ba cấp. A-nan hỏi Phật: Vì sao như vậy? Phật dạy: Luân vương tự hạnh hóa tha thường trú thập thiện, La-hán không thọ thân đời sau, Bích-chi-phật không có thầy tự ngộ, Như Lai các đức đầy đủ. Người đời trên thì chưa bằng sơ quả, lẽ nào chịu dưới bậc Luân vương, sau khi diệt độ xây tháp không biết tiến không? Động tức đều đến ba, năm, bảy, chín. Đời cận đại xây theo theo chiều dọc, nói là Phương phần mà mái đưa ra cho nên trở lại thành một tầng. Ám: Tuy mê muội lẽ nào chẳng phải tối tăm nơi sơ quả ư? Có phương phần biên nói “tạo tháp công đức”, nghóa ấy lại lỗi, khiến người ngu chỉ lễ thầy ta, hoặc lại đối cao lễ thấp huống lại lân cận nối tiếp tôn ti không thành, ý không tiện không thể luận đủ. Dù rằng người chết mờ mịt mà rõ ràng người sống còn bận rộn, huống chi nay nói xá-lợi, hạn cuộc tại nơi Phật, cúng xá-lợi Phật phước thuộc nhân thiên, khai nhân lâu dài mới gọi là Phật đạo, huống chi nay phàm chất sinh phước sự khó. Người thiện từ đây không nên huân tập theo thế tục. “Địa sư” nói “Đồng chân địa”: địa lập danh đồng chân. Chỉ vì người xưa nói: “Trụ làm năng trụ, Địa làm sở y”, cho nên dùng tên “trụ” mà gọi là “địa”. Dưạ theo “trụ” làm tên thì từ lâu rất xa. Vì vẫn còn sâu cho nên thêm vào đó dùng “địa”. “Nay cho là….”: trách nói trái văn. Trong văn chỉ nói “đồng tử”. Nói “dọc hẹp”: Là ngang thì thâu tiểu thiện, dọc thì thành nhân Phật, tức là ngang dọc không trái, chẳng sâu chẳng cạn mà sâu mà cạn. Nếu dùng “đồng chân” để giải thích thì chỉ có dọc mà không có ngang, huống chi dọc sâu không có thì sẽ bỏ rộng trái văn, là biết “dọc hẹp” cả hai đều có lỗi. “Đăng địa…”: là phá lỗi chỉ có sâu, vẫn lược lỗi bỏ ngang. “Nay dùng…”: là chánh giải thích thâu nơi đồng tró (trẻ nhỏ) để hiển ngang rộng. “Chỉ vi tế tức chấp”: dùng để biện minh dọc sâu, chấp tại vi tế sâu tức chẳng sâu, vi tế tức chấp cạn cũng chẳng cạn, “chỉ vi tế tức chấp” duyên nhân nghóa thành, tức quán chấp, chẳng phải ở đây có thể biện. Bên dưới lệ như vậy. Cho nên nhập địa thành Phật như Tu-la qua biển, đây căn cứ kinh Anh Lạc cho nên nói “nhập địa”. “Người phàm phu” mộït chút thiện đi tắt thành nhân Phật, như “người qua biển lớn”. Từ “Phật phân minh…”: là lần nữa lập lý để bày xích hai lỗi. “Nếu như …”: lại nêu lỗi để bài bác. Lại theo lệ trên dưới cũng gọi là trái văn. Nếu sợ đồng tử sự nhỏ bé không xứng Phật đạo, thì tâm tán loạn một phen xướng lên làm sao hiểu rõ nghóa dung thông? Chấp tay đưa tay cao đều ứng lý giải thích. Cho nên biết chỉ còn Phật đạo, không biết khai Quyền. “Hầu như (đãi) không nhiếp Nhị thừa”: “Đãi” là “Cơ” (gần như). “Cơ” là “Cận” (giống như). Lẽ ra nói “hoàn toàn không thu nhiếp”. Tại sao chỉ “gần như” ư? Nếu tại đồng chân thì vẫn còn không nhiếp lục địa, huống chi là tiểu đạo. “Luận sâu…”: là kết “dọc hẹp” kia. “Định rộng…”: là kết lỗi “dọc hẹp”. Tiếp, “Vấn đáp”: Trong “đáp” ý nói “ba Phật tánh”: Quá khứ chút ít thiện nguyện trí làm ra đều hướng đến Bồ-đề, như lửa cháy hướng hư không, về lý luôn đều tắt, nước chảy về biển “pháp nhó” không ngừng, chỉ do nguyện trí chưa giúp, tiện phong cho quả báo, cho nên đợi nay Khai mới là “duyên nhân”. Nếu căn cứ ý hóa thì đâu đợi đây khai, nếu thuận phàm tình mà lập thì dùng cận xưng. Nay khai cận chấp pháp giới bản như, lẽ nào do phàm tình hạn cuộc nơi dòng, lửa kia, trong quan hệ tuy lập thiện không thọ báo mà không rõ thể của thiện vốn dung thông, chỉ vì chúng sinh từ vô thủy chỉ chuyển lưu vọng ngã, phàm sở tu tập chưa từng không cùng nó. Nói “Không thọ báo”, thì căn cứ vào đâu mà lập! Nếu căn cứ người đã phát tâm, thì do nguyện hạnh sở dẫn, tại sao liên quan đến thiện không thọ? Người chưa phát tâm đến thì tùy sinh thâu nạp phước, thiện này lẽ nào ngăn cấm khiến không thọ ư? Cho nên, biết rằng nói “không thọ” là thiện thể không có lực. Phải biết: người từng báo đáp, thì nhân kia đã xong, người chưa báo đáp thì chút thiện cũng không quên. Nếu từng phát tâm thì như nước ký thác vào biển. Báo đáp hạn cuộc nhân (Thù cục nhân), như quả đáp hoa, cho nên nay ở kia nhân chưa báo đáp. Khai hạn cuộc tình kia và từng thú hướng Quyền thừa đạo, dùng nhất Thật quán nhất Đại hoằng thệ nguyện, thể nghiệm điều đó, nói điều đó. Nếu không như vậy thì luống uổng nói “Thuyết khai”. Nếu không quán thì nên khéo thể nghiệm tự mình đến Bồ-đề đâu cần lại tu Bồ-đề hạnh nguyện. Hỏi: Nếu vậy, thì vì sao bản luận nói đồng tử đùa giỡn nhóm cát thành tháp Phật … gọi là phát Bồ-đề tâm hành Bồ-tát hạnh, sở tác thiện căn năng chứng Bồ-đề? Chẳng phải các phàm phu và quyết định Thanh văn, là người chưa phát tâm, mà có khả năng đắc ư? Đáp: Đây chính là từ khai mà nói, chẳng nói bản thiện, cho nên biết định tánh và hiện chưa phát tâm dù có thiện đời trước như cát sông Hằng trọn không có lý tự thành Bồ-đề, cho nên nói chẳng phải kia năng đắc. Nếu chưa khai thì chỉ trong khoảnh khắc lại qua đi đã thành phi (lỗi). Nay nếu được khai thì trước đã làm thành rồi. Cho nên biết thiện thể vốn vi diệu tùy tâm của người chấp. Vì vậy cho nên khai tâm thì thiện đời trước đều thành. Tiếp, “Đại kinh…”: là giải thích nguyên do xuất duyên nhân, ba mươi hai văn liệt đủ trong bốn câu: Xưa nói “người Xiển-đề không có”: là quyết định không có tánh thiện, chỉ có cảnh giới tánh ác, năm ấm ác thôi! Người thiện căn có liễu nhân tánh, đều có chánh nhân, đều không có quả tánh. Hà Tây nói: Người Xiển-đề có ác ấm tánh, người thiện có thiện ấm tánh, đều có vô ký, đều không đồng trước. Hưng Hoàng có ba giải thích: Thứ nhất là căn cứ lý giải thích, lý chẳng thiện ác, có hai dụng kia, tức chỉ hai hạng người đều có một loại dụng thiện ác. “Đều có đều không”: là xen lẫn được có không một bên. Hai giải thích còn lại không chính yếu. Chương An nói: Đây giải thích trong sông Niết-bàn có bảy loại chúng sinh, nên nói người Xiển-đề thường chìm, người thiện thường nổi. “Đều có” là đều ở trong sông, “đều không” là đều không đến bờ, cùng dùng quả tánh làm “đều không”. Lại, căn cứ Tam đế giải thích: Người Xiển-đề chỉ có Thế đế nhân ác, người thiện chỉ có Chân đế nhân thiện, đều có Thế đế quả thân, đều không có Trung đạo nhân quả. Trong các giải thích tuy có chút ít khác nhau, nhưng một câu Người thiện kia ý chỉ đại đồng. Cái không đồng kia, nay không rảnh giải thích. Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói. Cho nên nay dẫn “đồng”: là chứng duyên nhân thiện. Hỏi: Trên giải thích Tam thừa đều dùng quả thành làm câu Lý nhất, nay Nhân thiên thừa vì sao dùng Phật đạo mà làm duyên nhân ư? Đáp: Do sở khai không đồng, trước khai hai giáo nhị thừa và dùng Thông Biệt Bồ-tát đều có lý sở chứng, cho nên khai lý Tiểu để thành lý Đại, nay khai nhân thiên Tiểu thiện đã thành duyên nhân Đại thiện. Lại căn cứ năng hướng thiện thể chưa sâu, nếu từ biên sở thú nói đây, thì đều có lượng tính. Đây luận khai quyền đều căn cứ ở vị đã xem xét. Nếu từ tiến nhập thì tại sao riêng trụ duyên nhân ở trước mà thôi? Trong đây chỉ theo việc đã qua để nói. Việc và người vì kia đã định, không thể tồn pháp bỏ người, vì vậy cho nên khai làm duyên nhân, lẽ nào chẳng phải như người nghèo được vật báu. Kinh nói “Bảy thứ châu báu….”: Trong Phật Địa luận không nói Mai khôi, nhưng nói Lưu-ly và Châu thể có khác, Châu tức ngọc đỏ, nay kiêm Lưu ly chỉ thành bảy báu, tách ra thành tám. Pha-lê phần nhiều sắc hồng, Xà-cừ sắc xanh trắng, Mã não sắc hoặc trắng hoặc xanh. “Mộc mật”: Tự Lâm nói: Hương mộc thiết. Ngọc Thiên nói: Cây kia tợ cây hòe mà có hương thơm. Có người nói: trải qua năm năm mới có mùi hương. “Tạo tượng là thiệân nghiêïp”: như Phật lên cõi trời Đao-lợi dùng sức thần túc chế dạy các đệ tử, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển một nói. Nếu căn cứ Minh Tường Ký thì cõi đây có một trăm mười tám nơi tạo tượng ứng nghiệm, như tượng đá đời Ngô tạo… lại có Ngô Hưng Thái thú đeo nữ trang cho người con gái rồi tượng có cảm ứng… Lại như Tống vệ quân Lâm Khang Vương tại Kinh châu làm nhà ba gian ở trong thành, quanh vách phần nhiều có vẽ tượng Bồ-tát, đến Vệ Dương Văn Vương trấn giữ Giang Lăng phế bỏ làm nhà nghỉ ngơi, đều bằng đất bùn khô bôi thì rơi rớt nên vẽ hình trạng mới sạch rõ ràng không ô uế tổn hại, rồi bôi lại lần nữa cũng vậy vua không tin kính cũng cho là ngẫu nhiên, lại dùng bùn đặc bôi mà thấy thông suốt rõ ràng, vua lại sai hủy bỏ cho nên vách đều sửa đổi lại, sau vua bị bệnh sởi mỗi khi nhắm mắt liền thấy các tượng rất nhiều rõ ràng. Nơi ấy mới phế bỏ ở đây. Đây hoặc là người tạo tâm trịnh trọng, hoặc là người hủy rất hại, dùng khinh vọng trọng để hủy vọng thành. Phải biết tán tâm thiện vi tế không lỗi, lý không trái thuận mà tâm có đúng sai. “Kinh Ưu-bà-tắc Giới…”: Trong đây văn ý chánh khai thiện kia không luận tội kia, nhân nêu rõ dụng liên quan tiện giải thích đó thôi! Nay cũng nhân đây y kia lược nêu, cho nên kinh kia rộng nêu tướng năm giới trì phá. Lại nói nếu không trì giới thì gọi là Cấu Ưu-bà-tắc, Xú Ưu-bà-tắc, Chiên-đà-la Ưu-bà-tắc. Nếu trì giới sát thì cho đến con kiến, như trì giới rượu thì cho đến (hạt) giọt sương, đối với năm giới nói trên nếu thêm không giới bán rượu thì gọi là sáu giới trọng. Nay xuất gia tại gia nói trì giới rượu, còn dùng rượu hòa vào thức ăn, một người phàm uống bao nhiêu giọt ư! Còn không bằng Ưu-bà-tắc giới đâu có thể hy vọng Phật đạo ư! Trong năm giới trên lại có chúng phần nhiều thất tội lỗi nơi ý, nay văn chưa tận, lại có thất ý, nghóa là không cúng dường Sư tăng không thăm bệnh, không phát sinh sự cầu xin dư thừa là không nghinh đón, bốn chúng đã từng gieo nhân đời trước, thấy người phá giới, nói họ không như mình (không bằng mình), sáu ngày trai không thọ tám giới, trong bốn mươi dặm có giảng pháp mà không nghe, thọ nhận tọa cụ sàng tòa của Chiêu-đề tăng, nghi nước có trùng mà uống, đi một mình vào đường nguy hiểm nạn dữ, một mình ngủ đêm ở chùa ni, vì tài mạng nên đánh đập nô tỳ và người ngoài. Giữa đường thấy Tỳ-kheo, thì Sa-di không được đi trước, trong tăng làm thức ăn không được riêng cho (thầy) Bản sư ăn ngon và ăn quá phần, đi đường thấy người bệnh không được không săn sóc, không dặn dò khiến trị bệnh. Người trì giới như vậy gọi là tịnh, gọi là hương, gọi là Phân-đà-lợi Ưu-bà-tắc. Lại chế Ưu- bà-tắc khiến cúng dường Tam bảo hình tượng tháp miếu các thứ. Họa tượng không được dùng lẫn tạp sữa mỡ gà, cúng dường tượng thời đêm ngày không sai khác, không được dùng dầu tô bôi vào thân tượng và sữa rửa không được tạo tượng bán thân, thân tượng không đầy đủ nên cất dấu, và khuyên người sửa lại, sửa rồi phải đem ra cúng dường, lại thấy hủy tượng như hư hết không còn cách nào khác, dùng báu khắp tứ thiên hạ cúng dường, không bằng dùng các thứ công đức tán thán tôn tượng, chí tâm cúng dường, hai phước không sai khác. Người cúng dường pháp chí tâm tin ưa, thọ trì đọc tụng giải nói viết chép, như pháp mà hành và khuyên người làm, các thứ biên chép mười hai bộ kinh, cúng dường kinh như cúng dường Phật, chỉ trừ khi tắm rửa, gọi là cúng dường Pháp. Cúng dường Tăng: Cần phải cúng dường người phát Bồ-đề tâm người thọ trì giới, người xuất gia, bốn hướng bốn quả gọi là cúng dường Tăng. Nay trải qua tiểu thiện mà còn làm nhân Phật huống chi là thời gian dài chí tâm cúng dường, các thứ đây tuy thuộc tại gia Ưu-bà-tắc, và có chút ít chấp nhận chẳng phải chánh ý văn, nhưng để ngăn tội khiến trì, trì tức là thiện nhân thiên, đều có thể khai làm duyên nhân nhưng cũng đều là điểm yếu của người xuất gia tu hành có khả năng làm phép tắc qui cũ, vì vậy cho nên nhân tiện chép ra đây. Nay, kinh muốn thâu nhiếp thiện vi tế từ vô thủy đều hướng đến Bồ-đề. Nếu người đã phát tâm tùy có chút thiện thì đều là duyên nhân. Giới kinh nói: “Nơi dựng lập tượng thì phía trước không được ngồi vân vân”: là lại có nhiều duyên: Nếu nạn vua… thì tùy thời châm chước. Lại kinh Công Đức Tạo Tượng nói có mười một công đức: 1. Đời đời mắt thường trong sáng. 2. Sinh nơi nào cũng không gặp ác. 3.Thường sinh trong nhà giàu sang. 4.Thân có màu sắc vàng tía. 5. Giàu sang nhiều trân báu. 6. Sinh trong nhà hiền thiện. 7.Sinh được làm vua. 8.Làm Kim luân vương. 9.Sinh ở cõi Phạm thiên thọ mạng một kiếp. 1 0. Không đọa vào đường ác. 11. Đời sau sinh trở lại hay kính trọng Tam bảo. Phải biết đâu phải là thiện căn ở Dục giới nhân thiên. Kinh nói: “Duyên” (chì): Có chỗ nói Tích, nay nói Duyên thì xanh, Tích thì trắng, Duyên (chì) thì mềm, Tích (kẽm) thì cứng đều gọi là “thanh kim” (vàng xanh). Kinh Công Đức Tạo Tượng nói: “Nếu người sắp chết nói tạo tượng” cho đến “như dùng mì bún tạo tượng” thì có thể trừ diệt được tội nặng sinh tử trong ba đời tám mươi ức kiếp. “Miếu” là Mạo. Xưa nói: Chi-đề, nay nói Chế-đa dịch là Linh miếu, nên dùng chữ “Miếu”. Ngọc Thiên và Bạch Hổ chung đều nói là chỗ ở của Tôn mạo. “Lộ-bàn là Đồng bạt”, Trường an cũng không có âm đây, hoặc thanh chuyển đó thôi! Hoặc đương thời có người truyền, Chương An tùy tiện viết. Kinh nói “bối”, hoặc nói “bối nặc”, Trung Hoa gọi là “tán tụng”, phương Tây vốn có. Trung Hoa dựa theo Lương Tuyên Nghiệm ký nói: Trần Tư vương, họ Tào tên Thực, tự Tử Kiến con thứ tư của Ngụy Võ Đế, mười tuổi đã tài giỏi về văn chương nghệ thuật, tự chế tác chuyển bảy thanh. Thực đã từng dạo chơi ở Ngư Sơn trong hang cốc, nghe tiếng tụng kinh trong cốc xa vang ra tiếng hay, liền bắt chước mà chế tác lại âm thanh ấy, Như Kinh Hiền Ngu nói duyên Linh Thanh Tỳ-kheo… “Âm nhạc cúng dường”: Có trong chúng xuất gia âm nhạc tự tùy. Nói “cúng dường”: Tự tư duy rồi thực hành để tâm nào đi theo? Tuy có văn đây ắt cần phải lựa chọn. Kinh Phạm Võng răn dạy chế phục đâu đợi cố chấp lời nói, chỉ sợ tâm cúng dường thì nhỏ mà làm tăng thêm sự phóng dật của tự thân, tăng trưởng lòng tham mạn cho người khác, kính tưởng khó thành. Cho nên Biệt dịch A-hàm quyển năm nói: Đức Phật ở tại thành Ca-lan-đà có một kỹ nữ tên là Trường Phát bạch Phật rằng: Con xưa từng hầu hạ bên cạnh một kỹ nữ lớn tuổi, nghe nói rằng: Ở trong trường kỹ viện thi thiết các việc đùa giỡn khiến trăm ngàn người đến xem, người ấy khi mạng chung sinh cõi trời Quang Âm, nói như vậy là hư hay thật? Phật dạy: Thôi thôi! Chớ hỏi như vậy. Kỹ nữ lại hỏi lại ba lần như vậy, đức Phật đều không đáp. Lúc bấy giờ đức Như Lai nói với kỹ nữ rằng: Lúc ấy có trăm ngàn người đến xem kỹ nữ, các người ấy vốn bị ba độc trói buộc, lại tạo tác việc phóng dật, lẽ nào không tăng trưởng tham sân si ư? Ví như có người bị sợi dây gai nhỏ như sợi lông trói buộc, nếu đem nước tưới vào thì càng làm tăng thêm sự buộc chặt nữa. Vốn bị ba độc trói buộc, lại làm kỹ nhạc thì sẽ tăng trưởng mạnh lửa tam độc, sau mạng chung sinh lên cõi trời thì không có việc ấy. Người nói như vậy là người tà kiến, mắc quả tà kiến sinh vào địa ngục. Khi Phật dạy lời ấy kỹ nữ khóc lóc. Phật dạy: Vì duyên ấy nên ngươi ba phen thỉnh, ta không nói. Kỹ nữ nói: Con không được nghe Phật dạy nên con khóc, chỉ thương xót cho các kỹ nữ khác lâu nay thường nói như vậy. Có người đến đây dẫn các kinh nói: Người nào đem hoa hương âm nhạc cúng dường: thì được Bất thoái. Như kinh Bất Thoái Pháp Luân nói: Đức Phật bảo A-nan lấy một hoa cúng dường Phật và tháp Phật thì cũng được Bất thoái, và kinh Nghiêïp Báo Sai Biệt nói: Lễ bái sẽ đắc đến Đại Niết-bàn… Người kia đã làm nhân Thật, tức văn này khai thô tức Thật cho nên cùng này văn không theo lệ. Có người dẫn Đại luận nói tiểu nhân đại quả, không theo lệ cũng vậy. “Độ ngã có thể thi chúng sinh”: Nếu luận “độ ngã” nên tại cơ vật (căn cơ chúng sinh). “Thi” là thi thiết, nay đức Thích-ca nhân nghe mười phương chư Phật ủy dụ bèn xưng “Nam-mô” để đáp lời chư Phật. Cho nên, biết rằng đức Thích-ca không thỉnh chư Phật độ. Từ “Kinh Ngũ Giới” cho đến “thi Phật”: là căn cứ theo Phật cũng không có lý kinh sợ. Y trong thí dụ dưới: Trưởng giả nghe rồi kinh sợ vào nhà lửa, pháp thân tư duy căn cơ nghóa đáng kinh sợ. “Mừng xưng Nam-mô Phật”: tức là trong đáp thuận giải thích (xưng) Nam-mô chư Phật. “Kinh Ngũ Giới giải thích Quy mạng vân vân”: “Kinh Na-tiên…” kinh kia nói: Na-tiên lúc nhỏ có Cố Cựu làm vua nước ngoại biên, giỏi tài vấn nạn, có nhiều vấn đáp cũng có thể kiêm giải thích nghi nhỏ. Na- tiên nói các Sa-môn thuyết lửa thế gian nóng không bằng lửa địa ngục. Vua nói: Đem viên đá nhỏ đặt trong lửa thế gian cho đến chiều thì đá cũng không tiêu. Lấy cục đá lớn để trong lửa địa ngục Nê-lê tức liền tiêu, tại sao người chết đọa nơi địa ngục Nê-lê trăm ngàn vạn năm lại không tiêu? Na-tiên hỏi: Cá thuồng luồng ở dưới nước lấy đá làm thức ăn phải không? Vua nói: Đúng vậy. Na-tiên hỏi: Đá tiêu chăng? Vua nói: Tiêu, Na-tiên nói: Trứng cá trong bụng cá có tiêu không? Vua nói: Không tiêu. Na-tiên hỏi: Vì sao không tiêu? Vua nói: Do phước đức khiến như vậy. Na-tiên nói: Ở trong địa ngục ác nghiêïp chưa hết nên không tiêu, cũng như lang sói ăn xương thì xương tiêu, nhưng sói con ở trong bụng sói mẹ thì không tiêu. Vua lại hỏi: Phật có tướng tốt không? Đáp: Có. Vua hỏi: Đức Phật có cha mẹ không? Đáp: Không. Vua hỏi: Đức Phật cũng không có người sinh ra tợ như cha mẹ ư? Na-tiên nói: Vua thấy hoa sen không? Đáp: Có thấy. Lại hỏi: Sinh từ dưới bùn phải không’? Đáp: Sinh từ bùn. Na-tiên nói: Lẽ nào hoa sen vì sinh từ bùn mà tợ như bùn ư? Đức Phật cũng như vậy. Vua lại hỏi: một người chết sinh ở nước Kế Tân, một người chết sinh ở ngục Nê-lê thì ai đến trước? Na-tiên nói: Như hai con chim cùng bay từ kia đến đây, một con đậu trên cành cây cao một con đậu dưới cây thấp, hai con chim cùng bay con nào xuống đất trước? Vua nói: hai con cùng xuống đất. Vua nói: Hay thay! Hay thay! Các văn khác đều chẳng phải chánh ý sớ, nhân tiện biết điều đó cũng là để tăng trí phá tà để hiển bày niệm Phật. “Kinh Bồ-tát Xử Thai, kinh Báo Ân nói, Hoa Lâm hội…”: Kinh nói: Hội thứ nhất độ chín mươi sáu ức người, hội thứ hai độ chín mươi bốn ức người, hội thứ ba độ chín mươi hai ức người, đều là người sơ giáo đắc quả. Ở chỗ đức Phật kia đến thời thứ năm đều được hiểu. “Nếu theo lệ thì trên…”: bên trên văn lục độ sau kết tam giáo làm ba câu này. Nay liễu nhân trí cũng lại như vậy, đều khai thiên tiểu để thành nơi Thật, lại nói song phi bắt đầu từ Tam tạng Bồ-tát cũng khác phàm phu Tiểu thừa, cho đến Biệt giáo địa tiền đều phải khai. Nhưng cũng phải biết nguyên do khai. Nếu tâm thô cảnh diệu thì chỉ khai tâm kia, như dùng tướng tâm trì kinh Pháp Hoa, như nghe một câu, một bài kệ Pháp Hoa… Nếu cảnh thô tâm diệu, cảnh đã tùy chuyển thì không cần luận khai. Nếu tâm cảnh đều thô thì tâm cảnh đều khai, cũng có thể chỉ khai tâm kia thì cảnh đều chuyển. Đạo lý ắt phải biết khéo thể nghiệm tánh thì mới gọi là khai. Tóm lại mà nói tâm cảnh đều khai. Còn khai được bốn ác thô trí lâu xa, huống chi nhân thiên trí. Nếu không khai thì tri kiến Phật vónh viễn vùi chôn trong bốn ác chìm hẳn trong nhân thiên. Hỏi đáp ý: Khai chút thiện nhỏ trong quá khứ kia chính là kích động tâm chấp trong hiện tại. Đã được quá khứ Phật khai xong. Sở dó sau khi Phật diệt độ nghe một câu kinh nói được thọ ký là nêu lên chìm mất huống chi sâu! Đều là dự định khai tâm kia khiến thành tâm cảnh đều diệu. Nếu có người sau khi Phật diệt độ nghe kinh này không tin, còn trao cho đức Phật sau ở trong hội Pháp Hoa vì họ khai tâm kia. Ýù kinh chính nói: Ba đời đều khai, ta lẽ nào lại không như vậy? “Chư Phật đời vị lai…” hai hàng tụng Giáo nhất. Kinh văn đã nói: “Dầu nói” và “Cho nên nói” thì biết là “Giáo nhất”. Ba câu trong hàng đầu, nói “Dầu nói trăm ngàn ức…” là chỉ Thất phương tiện hết thảy thuyết Quyền, đồng thành liễu nhân. “Kỳ thật vì Phật thừa” một câu nói rõ ý thuyết Quyền. “Chư Phật lưỡng túc tôn” trở xuống, một hàng: nêu rõ nguyên do nói Nhất. Do biết “vô tánh” mà tu tịnh duyên, khiến được thành tựu năng diễn nói thừa đây. “Biết pháp thường vô tánh…”: Đến lý Nhất thật thì Tánh tướng nhị Không. Vô tánh tánh Không tức không có bốn tánh. Đã nói “Thật tướng không có tự tánh…”, cho nên biết tức là lý tánh tánh Không. Tánh Không đã vậy, tướng Không căn cứ đây mà biết. Vô tánh cũng không có, tức là tướng Không. Cho nên biết trong kinh nói một Vô tánh là đủ hai Vô tánh, tức là Vô tánh tánh, và Vô tướng tánh. Vốn tự có cho nên nói “thường vô”. “Biết” là chiếu, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm. Trong cảnh bất tư nghì thì “Nhất niệm tam thiên phi tự tha…”: Đã không có bốn tánh thì nhất niệm cũng không có, tức là tánh Không. Đã không có nhất niệm, thì “vô niệm” cũng không có, tức là tướng Không, tức là nhị Không bất tư nghì. Nếu không hiểu nay dựa theo Trí luận, Trung luận… chuẩn theo lý theo nghóa, duyên nơi tâm tánh, lập hai Không đây thì các thứ khác không thể chuẩn theo đây. Không phải dùng pháp tướng mà sánh kịp, cho nên nơi thật đạo cần phải “nhàn tu tánh”. Hoặc là vốn tự hai Không, tức là tánh đức. Hoặc là xét nghiệâm nhập Không, tức là tu đắc. Suy xét mà không thành thì cần phải tu vạn hạnh, chánh và trợ hợp hành. Trong hạnh đầy đủ tất cả các hạnh thì mới gọi là Duyên nhân, nghe nghóa đây rồi mới gọi là khai. Hỏi: Thế gian nhân duyên có thể dùng bốn câu để hiểu rõ sinh vô sinh, nay tánh vốn tịnh chẳng liên quan đến duyên khởi thì đâu cần dùng bốn câu này để suy tìm ư? Đáp: Pháp duyên khởi thế gian cũng vốn vô sinh chỉ do tình chấp cho rằng đó là sinh, lý tánh cũng vậy. Do cho rằng tự tha bình đẳng nên cần phải suy xét. Nhị Không không hiển bày thì còn phải lại tiếp tục đợi suy tìm huống chi nhân duyên ư? Tự có truyện nói đến nghóa đây ít có người hiểu tánh tướng đây tam giả. Hỏi: Văn nay vì sao không lập quán này ư? Đáp: Kinh từ lợi căn thì khai. “Phật chủng..”: Chú gia nói: Không có tánh Không hữu, thì gọi là Vô tánh. Kham nối tiếp Bồ-đề thì gọi là “chủng”. Như đây giải thích: Đây từ tu mà đắc, chưa hiểu biết tánh chủng. Gia Tường nói: “Vô tánh, là chỉ nói vô tự tánh”, lại dùng ba nghóa mà giải thích “Phật chủng”, nghóa là Nhất thừa giáo, Bồ-đề tâm và Như Lai tạng. Giáo và phát tâm chỉ là chủng duyên, tuy tức nói “Tạng” mà không nói “Không cùng Bất không” và Hạnh Lý, cho nên không biết trong Nhân là tại nhân nào mà thành chủng thành tánh? Cho nên, trong “ba nhân: Chánh, Duyên, Liễu” cần phải biết tánh chủng, cái gọi là ba đường. Tiếp, biết loại chủng tức đàn chỉ… Nhưng nên biết duyên khởi thông cả nhiễm tịnh mà lý chẳng phải nhiễm tịnh duyên khởi rõ ràng. Tịnh duyên khởi đây tức là nói nguyên do, nêu rõ do tịnh duyên từ nhân đến quả và lý bất tư nghì cảm ứng, cho nên lấy đây làm chủng duyên kia. Chỗ khác nói: là do thiện căn lực của hành giả. Về Như Lai thức thì văn nghóa tương sinh, đầy đủ như văn trước phá trong giải thích “Nghe”. Ở trong đó phần đầu nói trung đạo, dưới lập bản vô tánh làm bản tánh đức, nên biết chủng này tức chủng tánh gia cho nên trở lại lập vô tánh làm gốc (bản). Vì muốn nêu rõ “tánh gia duyên khởi” nên nói “chủng”. Chủng là nghóa sinh, tức như ở trước đã nói mười pháp giới mỗi giới như lý tánh câu tánh đều là chủng, đầy đủ như trước giải thích. “Mê lý này…”: song nêu nhiễm tịnh hai chủng duyên khởi, trước nêu nhiễm sau nêu tịnh. Trong nêu nhiễm thì do vô minh cho nên làm pháp tánh duyên, do duyên mê mà khởi chín giới, mỗi giới , tam thiên sự duyên khởi tức là tánh chủng từ duyên mê. Khởi nơi chúng sinh, tức là chân như tùy nơi nhiễm duyên. “Giải thích lý này…” nêu tịnh duyên khởi, tức nghe Nhất thừa giáo, khởi Nhất thừa hạnh, hạnh thông nhân quả, năng thành Chánh giác. “Muốn khởi…”: Thành chánh giác rồi thì năng vì người khác mà nói, cho nên nói Nhất thừa tại Giáo nhất, tức “quả Phật chủng” từ Tịnh duyên khởi. “chúng sinh Phật chủng” từ Thuyết duyên khởi. Như thế cũng thông đường làm nhiễm tịnh, cũng có thể mười pháp giới triển chuyển xen lẫn mà luận. Nay nêu rõ Phật thừa thì phải dùng chín giới đều gọi là nhiễm. “Lại, Vô tánh… “: Dùng Duyên giúp Liễu, Chánh, nêu rõ công năng Duyên Liễu tương thành. Đối Chánh mặc dù như vậy nhưng nếu luận hạnh thể thì mỗi mỗi đều ba nhân đầy đủ tức tu đắc. Chủng quả đã thành nên gọi là “đắc khởi”. “Nhất khởi nhất thiết khởi”: là hiển tướng quả thừa. Y chánh, chủ bạn, cho đến báo đáp nhân nhất trần nhất hạnh nhất thời đều khởi. “Khởi” là thành. “Như đây…”: là kết quả thừa thành tướng, tu tánh nhất hợp không còn phân rộng nữa, tức là lý tánh ba nhân khai phát. Thông danh “ba tánh”, từ đây trở đi không thể cải đổi. Đây là giải thích kinh trực tiếp từ Khai nói, nêu đủ tu tướng, dựa theo Chỉ Quán nói mười pháp thành thừa. Trong cảnh đầy đủ kiêm tu tánh, tánh chủng, chánh hạnh làm liễu, trợ khai làm duyên, hai mươi lăm pháp là tiền phương tiện. Biện rõ chín pháp dưới, nêu xét rõ về tu phát, giáo hạnh chánh trợ đều là lý. Lý nhất tức là sở trụ pháp vị thế gian tướng thường. Nếu không vậy thì y cảnh tu tập dựa tâm không có địa, cho nên biết tu tánh đều có tự tha. Trước trong suy tìm tánh thì không nêu vị tha, y đây khởi hạnh thì mới suy tìm hạnh tha, dùng hai tha đây cộng suy tìm một tự. Nếu suy tìm tánh thì lên xuống đạt lý. Nếu suy tìm tu thì ly chấp hạnh thành. Do tánh bản vong, mất vào lúc mới tu, vậy thì hai chiếu đồng nêu, song hoặc đều bỏ. Như vậy mới hiểu rõ nhiễm tịnh duyên khởi, vô thủy vô bản đều quy Nhất như. Lại từ tịnh duyên có chỗ nói là biên, cho nên nói Giáo nhất. Cho nên Ngũ Phật nói lý Đại đặc thù mà không khác. Nếu không vậy thì lẽ nào nhân duyên sự dẫn bốn Đức Phật đồng. Trong “Lý nhất” nói “Pháp đó trụ pháp vị…”. Đầu là “pháp” chánh chỉ Lý nhất. Thế nhân đều gọi là lý tánh bản tịnh, lý nếu bản tịnh thì cần gì tu? Nếu bản không tịnh thì tu cũng không thành. Nay nói lý tịnh chẳng phải đã tịnh. “Chúng sinh…”: là giải thích “trụ pháp vị”. “Chúng sinh chánh giác” là trùng xuất pháp đó, pháp bất xuất Như, đều Như, là “vị”, chúng sinh về lý là Phật, đã chứng lý đó, cho nên gọi là “Trụ”. Bởi vì Như là Vị nhất cho nên gọi là “vị”. Pháp tịnh hay nhiễm đều gọi là “pháp”. Nhiễm gọi là “chúng sinh”, tịnh tức là “Chánh giác”. “Chúng sinh chánh giác” là pháp năng trụ, nhiễm tịnh nhất như là vị sở trụ. Phân cuộc định hạn cho nên gọi là “vị”. Vị không có hai tên, đồng lập “nhất như”, không xuất chân như cho nên chỉ hạn cuộc đây. Hạn cuộc đây tức thông khắp tất cả; là tột cùng của hạn cuộc, là thịnh của nghóa thông. Như địa vị vua ở thế gian là sở trụ của ngườiï, “vị” cũng là tánh bởi vì không thể sửa đổi, như tánh nhân vương trước sau không sửa đổi. Áo vải, với lên ngôi cao tột tuy tướng khác mà tánh nhất. “Thế gian tướng thường trụ”: Tướng có thể nêu cờ xí, vị có thể ở lâu. Chúng sinh Chánh giác tướng vị không hai, hiển mê tức lý, lý tức thường trụ. Phật đã khế hợp thường, chúng sinh lý ấy, cho nên Chánh giác chúng sinh tướng vị thường trú. Nhiễm tịnh tướng vị đã đồng nhất. Như vậy cho nên tướng vị lý đó phải bình đẳng. Phật y thế gian tu thành lý cùng cực, nghiệm biết thế gian vốn có lý đây, cho nên nói thường trụ. Hỏi: Vị có thể Nhất như, tướng như thế nào bình đẳng? Đáp: Vị thì căn cứ lý tánh, quyết không thể sửa đổi. Tướng thì căn cứ tùy duyên, duyên có nhiễm tịnh. Duyên tuy nhiễm tịnh, đồng gọi là duyên khởi. Như sóng nước có đục có trong, mà tánh ướt thì không khác. Đồng dùng tánh ướt làm sóng, nên đều dùng Như làm tướng. Đồng dùng sóng làm tánh ướt, cho nên đều lấy Như làm vị. Sở dó “tướng” cùng “thường trụ” danh kia tuy đồng mà nhiễm tịnh đã phân, Như vị cần phải biện rõ, huống chi danh xưng “thế gian” cũng thông nhiễm tịnh nhân quả. Vả lại, nay từ ngộ hiển mê, dùng tịnh hiển nhiễm, thì tịnh ngộ đắc nơi thường sự, mê nhiễm chỉ gọi là “lý thường”. Lại danh xưng “thế gian” thông thâu Y báo Chánh báo, danh xưng “thường trụ” không ngại hai đường cho nên nói “Lý nhất”. Nếu không hiểu như thế, thì uổng nói Khai quyền thì làm sao hiển thật? Cho nên nay hỏi pháp bị khai đó, duy nhất chỉ tin Phật nói vì cũng sửa đổi mê. Tuy bốn pháp bao hàm vì người thu nhiếp, mà đắc ý quên lời thuyết bất khả tận. “Lại, giải thích…”: riêng căn cứ sinh để giải thích “thế gian tướng thường”. Trước đã giải thích mặc dù sự lý thông tổng, mà chưa chỉ bày một cách đích xác lý cảnh sở tại, cho nên dùng ấm nhập đối Chánh nhân mà nói, chín giới ấm nhập vị vốn thường trụ.  PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ <卷>QUYỂN 5 (Phần Hạ) Tiếp “Nhưng Chánh nhân này…”: dùng Chánh ấm nhập đối tu duyên liễu, tam nhân lục pháp bất tức bất ly. Nói “Chánh nhân…”: Là xen nhau nêu nhất biên. Lẽ ra nói: “ấm nhập” cùng “tánh chánh nhân” bất tức bất ly, lại cùng tu đắc duyên liễu bất tức bất ly, chánh nhân cùng với lý lục pháp cho nên bất ly, chỉ lý cho nên bất tức. “Duyên liễu” cùng “lục pháp” cũng lại như vậy. Hỏi: Trong văn vì sao làm thuyết thiên lệch? Đáp: Bởi vì dễ hiển bày. Chánh vốn bất ly nay thêm bất tức, duyên liễu bất tức nay thêm bất ly. Cho nên cần phải đều đầy đủ mới gọi là tận lý. Đây dùng thí dụ Sờ voi trong Đại kinh. Văn dụ đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển ba dẫn chứng: Nói “lục (sáu) pháp”: là ngũ ấm và thần ngã, cho nên sáu thứ đây cũng gọi là “chánh nhân”. Đồng thuộc khổ, cho nên cũng gọi là “duyên liễu”, kiêm Hoặc nghiêïp. Trong đây phải có thông biệt hai đối. Biệt đối: Trong sáu pháp thì Hành ấm và Thần ngã là Duyên nhân chủng, số còn lại và Sắc ấm là Liễu nhân chủng, Thức ấm là Chánh nhân chủng. Nếu thông đối thì đầy đủ như văn này. Sáu pháp tánh đức Chánh nhân cùng sáu pháp tu đắc Duyên liễu bất tức bất ly, cho nên tu sáu tánh sáu nhất thể không sai khác. Phải biết rằng: Ấm nhập chỉ là thường trụ. Nếu đem văn đây cùng trong Chỉ Quán đối thông biệt, thì kia đối với ba đức bốn đức của Đại kinh đều có ý kia. “Đạo tràng…”: Quả lý trước thành cho nên nói “cửu sướng” (từ lâu thông suốt). Lại, hướng về Tịch diệt đạo tràng hơn bốn mươi năm, gọi là “cửu sướng” (từ lâu vui thích thông suốt). “Vật tình chướng nặng”: Chỉ trừ Viên trong tam vị, ngoài ra đều là chướng nặng. “Vân vân”: Trải qua bộ, căn cứ vị, phân biệt vi tế. “Văn trên có bốn”: Chuẩn theo trên thì chỉ có ba: l. Ý xuất thế. 2.Khai quyền. 3. Hiển thật. Nay đã nói bốn thì phải biết văn trên cũng có thể chia làm bốn, nên nói ý thứ tư là: Tổng dùng Nhân nhất Lý nhất, kết ba đời ở trên, có thể không như trên. Lý hợp văn biệt cho nên nay nói bốn. Lại có hai thứ không đồng: l. Trên thì trước khai quyền tiếp hiển thật, nay thì trước hiển thật tiếp khai quyền. 2.Văn trên trong Thật chỉ có Giáo Hạnh, nay đây thì Lý Giáo hoặc là Lý Hành. Không đồng không ngại nên không nói riêng. “Chỉ thượng bản hạ”: Văn phẩm Thí Dụ dưới dùng đây làm bản, thí dụ ắt có pháp cho nên gọi là “bản hạ”. “Văn nghóa giao gia”: Trong đây chỉ dưới đến dưới chỉ đây, cho nên nói “tầm sớ…”. Chương An dự điểm khiến không mê loạn, mê loạn tại người độn lợi, vì sao lo buồn? Nhưng các sư phân thí dụ cùng pháp xen lẫn đời trước lẫn lộn ngăn cách muốn làm thí bản chấp định chẳng theo, cho nên trước trình bày “phi”, sau mới chánh giải thích. Đầu tiên sư nêu năm thí dụ: l. Thí dụ Trưởng giả tức văn “quốc ấp…”. Pháp thuyết tức chỉ văn “Nay ta cũng như vậy…”. Thí dụ Tư duy cứu giúp, tức văn: “Trưởng giả suy nghó rằng…”. Pháp thuyết tức chỉ văn: “Ta dùng Phật nhãn xem thấy…” 3. Thí dụ Quyền dẫn, tức văn: “Bây giờ Trưởng giả liền suy nghó rằng…”. Pháp thuyết tức chỉ văn: “Ta xưa ngồi đạo tràng…”. 4. Thí dụ Bình đẳng, tức văn: “Bấy giờ Trưởng giả đồng ban cho xe…”. Pháp thuyết tức chỉ văn: “Ta thấy các Phật tử chí cầu….”. 5. Thí dụ Bất hư, tức văn: “Xá-lợi-phất! Ý ông…”. Pháp thuyết tức chỉ văn: “Các ông chớ có nghi…”. Nếu đối nay, thì Thí dụ thứ nhất là tổng dụ, tổng dụ có sáu: l) Lẽ nào chỉ một Trưởng giả cho nên không dùng. Thí dụ thứ hai: “Tư duy cứu giúp”, đối nay là cứu con không được, chỉ là trong Biệt thí dụ dùng lại dự định thích nghi thí dụ đó thôi! Cho nên biết rằng: chỉ nói tư duy cứu giúp thì lý đó không trọn cho nên dùng lại cứu con, trong đó có ba: Dự định thích nghi, không có căn cơ, thôi hóa độ. Không nên chỉ riêng nói tư duy cứu giúp. Thí dụ thứ ba trở đi, thì nay là từ “Ta dùng” trở đi ở trong Biệt thí chia làm sáu ý, kia chỉ có ba. Thí bản không đủ cho nên cũng không dùng. Dao sư dùng trọn chương Ngũ Phật dùng để hiển Thật. Nói “bốn chương”: Hợp chương đầu ở trong chương Thích-ca, mà dùng Quyền Thật hợp làm một chương. Dùng chương Ngũ trược làm Bất đắc thuyết nhất, lại dùng văn “đốc thúc” làm Bất đắc đều không đúng văn, cho nên không dùng. Mà nói trong thí dụ chỉ có ba thì thiếu Thí dụ thứ ba: Ý bất đắc do trong thí dụ không có văn đây, cho nên gộp chung thì không đồng nhất. Trong văn liệt kê ra bèn dùng khai quyền làm Thí dụ thứ nhất. Khai quyền tức hiển thật, nên đối với Thí dụ thứ hai Đồng ban xe lớn. Đây thì Thí bản và Thí rất là sơ lược. Nhưng trong trường hàng chương môn Ngũ Phật chư Phật, còn tổng quát lại thiếu Ngũ trược. Ba Đức Phật căn cứ theo lệ văn kia lại lược. Đức Thích-ca hóa chủ văn tướng ít tùy thuận cho nên chỉ chọn Thích-ca chia làm bốn chương. Ngài Dao sư thì phí phạm nên không dùng. Tiếp, đến hai ngài Long sư và Sướng sư đều lập thành sáu dụ, theo cách nói tựa như sai khác mà ý kia không khác. Hai sư đều không lập Tổng thí, không thể dùng đối với phương tiện lược tụng, ở trong Biệt thí văn rộng tụng lược, sáu nghóa trong đó vẫn trước chia làm bốn, các phần nhỏ lại nhiều. Cho nên biết hai sư đều cùng phẩm thí dụ, nghóa không tương đương, bởi vì thí dụ ba, thứ tư chỉ là nay thí dụ thứ hai “Nghó Đại thiết lập Tiểu”. Lại, văn “Bất hư” hợp tán thán pháp hy hữu mà không thuật ý kia, cho nên không dùng. Tiếp đến ngài Quang Trạch phân làm mười thí dụ nói: Đầu lập tổng thí cùng nay văn đồng, chỉ chín thí dụ dưới đối với nay tức là rộng tụng sáu nghóa, nếu đối với văn đây thì chín thí dụ dưới chỉ nên hợp làm bốn. Trong đó Thí dụ thứ hai có bốn hàng là nghóa nay “Thấy lửa”. Tiếp, “Ta xưa…” là thứ ba có sáu hàng rưỡi, và thứ tư có mười một hàng nêu Tam thừa hóa đắc, là nay ý “nghó Đại thiết lập Tiểu”. Tiếp, “Ta thấy…” là thứ năm… tổng có năm văn sáu hàng là nay ý “hiển Thật”. Tiếp, “Các ông…” là thứ mười, một văn là nay văn “Bất hư”. Các nhà chú giải nay phân nhỏ hơi giống ngài Quang Trạch, nhưng cùng “Tín giải đời trước” không đồng, cho nên không chia nhỏ. “Có người…”: đây là người khác đem nghóa nay nhưng lẫn lộn với Quang Trạch, cho nên đem ý đây để nạn vấn Quang Trạch. Cùng là chia nhỏ tại sao không làm mười chín câu, dùng mười dụ của Quang Trạch đối nay tổng sáu biệt bốn, tổng biệt đều khai hợp có mười tám câu, thêm một câu Quang Trạch thành mười chín câu? Vì sao Quang Trạch dụ thứ nhất tức nay Tổng thí, lẽ ra chia làm sáu, Quang Trạch chỉ hợp làm một? Dụ thứ hai “Thấy lửa…”, nay trong biệt chia làm bốn thí, Quang Trạch lại chia làm chín? Một thấy lửa nay chia làm ba, Quang Trạch chỉ một. Dụ thứ ba: “Ta xưa…” tức nay văn biệt chia làm bốn trong đó dụ thứ hai Nghó đại cho Tiểu, Quang Trạch chia làm hai văn. Quang Trạch dụ thứ năm… đến thứ chín tổng năm đoạn văn nay hợp làm một dụ Đồng ban xe lớn, tức thí dụ thứ ba trong bốn biệt thí. Cho nên Quang Trạch dụ thứ năm: “Ta thấy các Phật tử” và thứ sáu đều dùng hai văn. “Đem tâm cung kính”, tức nay văn thí dụ thứ ba Đồng ban xe lớn trong bốn biệt thí: chia làm bốn văn, trong đó tức văn đầu trên. Thứ bảy “Ta liền…” tức nay văn trong bốn biệt thí, văn thứ hai trong văn thứ ba, tư. Thứ tám: “Ở trong các Bồ-tát…” tức nay văn thứ ba trong văn thứ ba, tư của phần bốn biệt thí. Thứ chín “Bồ-tát nghe…” tức nay văn thứ tư trong văn thứ ba, tư của phần bốn biệt thí. Thứ mười “Bất hư” tức nay một văn thứ tư trong bốn biệt thí, lại chia làm ba: Nghóa là tán pháp hy hữu và bản bất hư cho đến lập văn đốc thúc tin. Đây chính là trong Biệt chia thành mười hai. Ngài Quang Trạch lại chia trong bốn biệt thí của văn nay trong văn thứ ba thứ tư, đầu văn là Thoát nạn, xin xe hai văn, nay đã quá chi tiết chỉ làm mười tám câu. Nếu dụ thứ sáu trong mười hai biệt lại chia làm hai thì có bốn lỗi bởi do đây. Đã chia làm hai thì thành mười ba và trong tổng sáu hợp thành mười chín, tại sao không gọi là mười chín câu ư? Nay tuy mười tám không gọi là mười tám câu, là vì Pháp, Thí đời trước tín giải không có nghóa đây. Muốn khiến thông có lại hợp làm năm hoặc tổng biệt hai, chương đoạn đã ít trên dưới dễ đồng. Cho nên, trong văn nay có ba loại phân văn: Quang Trạch định làm mười không có thừa thiếu, tiến không thành mười chín, thoái không thành năm, tổng biệt rộng lược lại không tương đương, huống chi khai đại căn cơ lấy làm hai đoạn. Trong pháp có trở ngại nên không hợp khai. Nhưng đối với các sư thì Quang Trạch là hơn hết. Hoặc dùng đến trong sáu nghóa, hoặc lập sáu nghóa này tức thu nhiếp mười chín vào trong sáu nghóa đây, vì sao không chỉ nói làm sáu nghóa ư? Vì sao? Vì dựa vào sáu của tổng trước chấp nhận hợp làm một, trong bốn biệt chỉ tách thứ hai làm hai đoạn, tức làm năm chương, đối với một tổng trước tức thành sáu nghóa. Nếu hoàn toàn y văn đây thì chỉ thành năm nghóa. Người khác lại dựa vào sáu nghóa làm lời vấn nan. “Lại, mười dụ đến nỗi so le (không đều)…”: là khai làm mười thí dụ, pháp thí hai xứ còn tự so le huống chi cùng văn Tín giải v.v… hợp ư? Cho nên “Pháp thuyết…” nêu tướng không đều (so le). Lại, Quang Trạch câu số cùng nay chia nhỏ tựa như đồng, mà chương mục chưa ổn cho nên cũng không dùng. Dưới kết nói bốn lỗi: l. Trước sau. 2.Đại tiểu. 3.Có không. 4.Dẫn văn. Nay đầu tiên lỗi trước sau không đồng: Nếu nay trong phân biệt chia nhỏ, nghóa thứ năm tách làm năm, sáu và văn thứ bảy làm cha vui mừng thì đối với Pháp thuyết Đòi xe, cha vui mừng trước sau, xen lẫn trở về. Nói trong Pháp thuyết Đòi xe ở trước: Trước nói: “Xá-lợi-phất nên biết ta thấy Phật tử… đến cầu Phật đạo…” hai hàng tức xin xe ở trước, tức Quang Trạch là văn thứ sáu. Tiếp một câu cuối cùng trong hai hàng một câu, mới nói “nay vui mừng”, không sợ, tức cha vui mừng ở sau. Trong thí thuyết cha vui ở trước: Trước nói: “Bấy giờ Trưởng giả thấy các con an ổn được ra khỏi nhà lửa…”. Xin xe ở sau…: Tiếp văn mới nói: “Bấy giờ các con đồng thưa với cha rằng…” Nếu trong mười thí dụ của Quang Trạch hợp ở hai đoạn năm, sáu đồng làm căn bản một dụ Xin xe và căn bản dụ Thoát nạn thì không thể nói căn bản dụ Vui mừng tức không có lỗi đây. Nói tuy muốn hợp thông mà ví như nói quanh co để thông nói “do vui nên xin, do xin nên vui”, cũng chưa tiện ổn, cho nên nói “gọi là quanh co”. “Lại, Đại tiểu…”: ở trong Đại tiểu lại làm ba lỗi. Nói trong Pháp thuyết Đại căn cơ động: Tức Đại tiểu không đối. “Nay ta vui vô úy” lại tiến dùng câu dưới nói: “Ở trong các Bồ-tát”. Cho nên biết đây là thấy Đại căn cơ động cho nên vui. Nếu nói: “Thấy các con được an ổn được ra khỏi nhà,” cho nên biết đó là thấy tiểu căn cơ thoát nạn nhà lửa cho nên vui. Tiếp, Nhân quả không đối: Trong Pháp thuyết ý nói: “do xưa không tin,” cho nên nói: “Xá-lợi-phật nên biết cho đến nay ta vui vô úy,” nên biết là nhân Đại thừa. Trong Thí nói thấy các con được ra khỏi nhà lửa, cho nên biết là quả Tiểu thừa. Trong Pháp thuyết đại chướng sắp nghiêng, vậy sau liền nói: “Bồ-tát nghe pháp ấy thì lưới nghi liền trừ,… trừ không xa”. Trong Thí thuyết nói: “an ổn được ra”. Cho nên nói Tiểu quả có ba lỗi đây, lỗi do Quang Trạch dùng văn thứ năm, sáu, bảy, cho nên làm căn bản thí dụ chưa gọi là tiện ổn. Nói “Lại có không khác”: là phá trong mười dụ kia thì thứ sáu là căn bản của thí dụ Đòi xe, trong văn Pháp thuyết không nói Đòi xe, đến trong Thí thuyết vì: “căn chẳng lợi” do đó mới có, cho nên không được dùng làm căn bản của thí dụ Đòi xe, huống chi Pháp thuyết trong đó chỉ nói: “Ta thấy các Phật tử… chí cầu Phật đạo”, chẳng liên quan đến nhị thừa đòi xe Tiểu thừa. Lỗi thứ tư: “Nếu dẫn…”: gọi là lỗi dẫn văn. Lẽ nào được lạm dụng văn nói “lai chí” liền làm căn bản thí dụ Tiểâu thừa Đòi xe. Đây theo hợp trách làm bốn biệt thí, cho nên biệt thí với văn thứ ba hợp làm một văn đồng ban cho xe. Dù cho chia đây làm bốn, thì: l. Gọi là Đại thừa cơ động làm bản thí dụ Đòi xe sau chỉ không được nói Đòi xe nhỏ (Tiểu), cho nên trước căn cứ Đại tiểu, trong đó phá nói: “thí thuyết trình bày tiểu quả”, chỉ nói trình bày Tiểu mà tình thì cầu nơi Đại, tức gọi là “cơ động”, cho nên nói “sai khác không thấu hiểu ý văn”. Cho nên biết văn kia tự nó là đại cơ sắp động. “Nhưng có, không…”: văn nay tự biện rõ đồng khác có sáu. Đầu tiên trong “có, không”: nói “trường hàng có chân ngụy” tức là văn giản ngụy đốc thúc tin. Nói “trong kệ thì không”: Đây là hoàn toàn thuận xưa dùng bảy hàng kệ cuối làm pháp thuyết lưu thông. Nếu dựa vào ý này lấy bảy hàng đây làm văn đốc thúc tin, thì thiếu một ý “có, không” này. “Trong tụng có tán pháp”: Từ “Chư Phật hưng xuất…” là văn bốn nạn, trong trường hàng hoàn toàn không có. “Theo thứ lớp, phần trường hàng trước khai tam sau hiển nhất”: trong trường hàng đầu tiên nói: “Xá-lợi-phất. Ta nay cũng lại như vậy, biết các chúng sinh có các món dục…”. Lẽ nào chẳng phải thiết lập Tam? Tiếp, văn nói: “Như thế đều vì đắc nhất Phật thừa”, tức hiển nhất. Trong tụng, đầu tiên là tổng tụng hai hàng, thì hàng đầu hiển Thật, hàng sau thiết lập Quyền. Cho nên trước nói: “an ổn và chỉ bày (thị) Phật đạo”. Tiếp, văn mới nói: “Ta dùng sức trí tuệ biết chúng sinh tánh dục”. Nếu chấp văn Biệt thí thì trước tiên trong Ngũ trược lại chia làm ba: Mắt năng thấy cũng nên hiển Thật. Tiếp, lửa được thấy và nghó Đại thiết lập Tiểu đều thuộc Quyền. Nếu luận đại ý của Biệt thí, thì cũng là trước quyền sau thật. Nếu lấy tổng tụng, thì hàng trước hiển Thật hàng sau thiết lập Quyền. Trong “Khai hợp”, nói: “Đầu tiên hợp mà không khai”: là “Nếu được…” hai kệ chỉ là vì tổng thí mà làm căn bản, nên nói hợp mà không khai. Nếu dùng hai kệ tách làm sáu thì tổng cũng có biệt, vả lại từ hợp thuyết, cho nên đối với thí dụ dưới cũng lại phân. “Văn Ngũ trược tách làm bốn căn bản thí dụ”: E rằng văn lầm, lẽ ra nói ba căn bản thí dụ tức trong bốn Biệt thí thì văn đầu lại làm ba: tức là Năng kiến, Sở kiến, Kinh sợ vào. Đối văn thí dụ dưới vẫn có bốn. Kia dùng Thí dụ thứ tư rộng nêu thấy lửa, hợp tại văn thứ hai, cho nên biết chỉ có ba. Tiếp, trong phần “Nêu Thủ xả” nói “Bốn đoạn kinh văn chia làm sáu thí bản”: “Bốn đoạn”: là Biệt bốn. “Sáu thí”: Chia Ngũ trược làm ba và ba đoạn dưới tức là sáu. “Tán pháp chẳng phải căn bản của sáu thí dụ”: ở trong bốn biệt, tách đoạn thứ tư nêu tán thán pháp, đốc thúc tin, chẳng phải căn bản sáu thí dụ dưới. Tiếp, trong phần “Tổng biệt, đầu tiên khai tam hiển nhất”: tức hai hàng đầu tổng tụng. “Bản tích”: Lại căn cứ tích luận bản tích, tức pháp thân là Bản, khởi ứng là Tích. Tức đây chương đầu chia làm ba ý: Nhãn năng kiến là Bản. Thứ ba đại bi là Tích. Thứ hai sở kiến chấp là nguyên do chư Phật thùy tích. “Vân vân”: là cần rộng căn cứ tích bản, lâu mau, xưa nay, thể dụng… để phân biệt đồng khác, đầy đủ như trong Huyền Văn quyển sáu. Lần nữa bản tích và trong Tựa trước đã lược xem xong. “Nay nói…”: là chính nêu nghóa tông, tông chỉ biệt, cho nên nói “chiùnh là…”. Trước trực “Pháp thuyết…” là muốn phá các sư lập thí dụ không thể tận lý. Cho nên, trước đưa ra tam chu lý đồng, tiếp đến “Nếu làm…” là biện rõ lỗi xưa thí, nên nói nếu làm ba, sáu, mười thí dụ thì đối tam chu văn không hợp. Như trước đã nêu ngài Dao sư làm ba dụ, ngài Sướng sư và Long sư đều có sáu, Quang Trạch có mười. Nhưng nay văn chẳng phải không lập nơi các số ba, sáu mà chỉ vì phân tiết dư thiếu cùng chỗ khác không đồng. Nói “đối tam chu thì văn không hợp”: Pháp thí không hợp đã lược như trên. Đối với văn nói “đời trước” thì chỉ có thể chia làm hai thí ba thí, cho nên phân nhiều thì không thể. Nói “Bốn người tín giải trái ly”: Nếu đối tín giải chỉ có thể tổng sáu, biệt bốn, nếu đối tha năm, ba, sáu và nay mười tám thì trái trương ly phân, đầy đủ như trước phá mười thí dụ của Quang Trạch, cho nên phá xưa đã tự lập ba… Nay lập ba, như văn dưới nói, lại nhất thời ba thí, hoặc là năm như tổng một biệt bốn. Hoặc là sáu, như tổng biệt đều sáu. Hoặc là mười, tức tổng sáu biệt bốn. Cũng có thể là mười một, tức tổng một biệt mười. Cũng có thể là mười sáu, tức tổng sáu biệt mười. Cũng có thể là mười tám, như mười tám câu trước. Chỉ bản dưới theo trên thì không tương ưng. Nếu muốn thông trên dưới không sai thì chỉ y ba tiết mà giải thích văn. Nếu ứng bốn xứ (chỗ) thì chỉ là ba thí bốn thí. Nếu chỉ tại pháp thí thì lược sáu rộng sáu. “An ổn… trụ xứ”: Đức Phật vì đã chứng cũng khiến chúng sinh trụ nơi xứ này, mà nay chúng sinh còn trụ trong tam giới là xứ không an ổn, tâm Phật đại bi đến nỗi khiến kinh sợ mà vào. Nói “Chủng chủng pháp môn tức đối bất chủng chủng”: là cũng là từ bản ý Phật để nói. Như Lai vốn dùng một môn lợi vật sự không thâu hoạch, thiết lập chủng chủng môn mà ý thiết lập Quyền vốn tại hiển Thật, cho nên nói “tuyên thị (bày) Phật đạo”. Phật đạo chỉ có Thật, dùng Quyền đối Thật, dẫn Quyền nhập Thật cho nên nói “tương đối”. Tương đối chỉ là ý cảm ứng thôi! “Bản mạt tương thừa (nối nhau)…”: Bản pháp thuyết, mạt thí dụ… “Vân vân”: như dưới dẫn. Nói “Trong rộng tụng sáu nghóa trên chia làm bốn”: Nếu đối bốn biệt, thì cái thứ tư phân làm ba gọi là “sáu nghóa”. Nếu cái thứ tư làm một, thứ nhất làm ba thì chỉ gọi là “sáu thí”. Nếu nói sáu nghóa thì không ứng với văn thí dụ, chỉ có thể tụng trên, cho nên chỉ nói sáu nghóa. Nếu làm căn bản thí dụ thì hợp bốn, năm, sáu, chỉ làm một Bất hư. Trong đây có đốc thúc tín, đốc thúc tin tức giản lược ngụy, cho nên biết văn trên không được nói không. Vậy thì biệt sáu rộng nơi tổng sáu. Cho nên, nay chỉ hợp sáu nghóa làm bốn. “Nếu lại chia nhỏ khai”, hoặc muốn lại phân chia nữa thì như trước trong biệt chia làm mười hai câu, vì đối các văn trên rộng cho nên khai, vì đối các văn dưới lược cho nên hợp. Xưa dùng bảy hàng cuối cùng làm pháp thuyết lưu thông, nay văn không dùng. Nếu đối với thí dụ và văn nói “nhân duyên đời trước” về sau, thì tuy giống như lưu thông mà chẳng phải lưu thông, do đó người thấy nói đời sau thì cho rằng giống lưu thông. Cho nên xưa theo lệ đó lấy làm đắc ý; văn ý không như vậy. Cuối phẩm Thí Dụ, chỉ vì Thân-tử làm tam chu thỉnh Hóa chủ, tự mình đã đắc ngộ, lại vì hàng trung căn mà lần nữa lại thỉnh thuyết thí dụ. Đã đáp thỉnh rồi cho nên dùng pháp này mà lược giao phó. Luận cho cùng thì chỉ là chỉ cho kia tội phước của tin và hủy báng. Nếu vậy, thì tại sao không đợi sau chu thứ ba, một lúc giao phó? Sau thí dụ đã giao phó pháp thuyết trước, sau vì sao không giao phó? Đáp: Đến cuối tam chu thì tự có lưu thông rộng giao phó cả Bồ-tát, đâu riêng gì Thân-tử. Như trong văn dưới: Còn không thiên vị giao phó cho Bồ-tát phương khác, đâu riêng gì Thân-tử. Cuối chu Pháp thuyết Thân-tử lãnh giải đầu tiên, tự tu hạnh mới thành chưa Thích nghi lợi vật. Song, ý chỉ Đại thừa tại Phật không cần phải khổ nhọc luận! Dùng tụng tán pháp, đốc thúc tin: Nhưng trong văn trên liệu giản “có, không” nói “trong tụng không có chân ngụy” tức không có đốc thúc tin. Nay trong đây dùng tụng tán pháp, đốc thúc tin, tức chỉ là cách chung khuyên phàm phu khiến họ sinh lòng tin, cho nên nói tán pháp khuyên tin. Do không nói “chuyên đốc thúc Thanh-văn” cho nên trước nói “không”. “Nay chỉ tụng Số, Danh, Thể ba thứ”. Trong đây từ “Lục đạo” trở đi là tụng Ngũ trược bên trên, đây năm tức số, sáu ắt năm. Đây “bần cùng…” tức xuất thể, do năm pháp đây tức gọi là “trược”, cũng không có biệt danh. “Nêu dưới chứng trên….”: Đây dẫn văn “Trưởng giả ở ngoài cửa”, “vào” tức khởi ứng thân, “ngoài” tức Pháp thân. Lại nói Phật nhãn cho nên sở kiến căn cơ tức Phật pháp giới. “Nếu căn…”: tư duy không có căn cơ Đại thừa, mới nhập Lộc uyển. Bắt đầu Lộc uyển đã nói Viên chiếu cho đến Nhất thừa, cho nên biết Hoa Nghiêm, Phật tuệ không khác biệt, không thể ở đây gượng sinh phân biệt. Trong cụm từ “đều gọi là Phật nhãn vân vân” thì “vân vân” là: lẽ ra rộng phân biệt đây là năm nhãn thứ lớp và không thứ lớp mà biện rõ thể dụng. Cho nên, quán sắc v.v… dùng bốn nhãn, từ bản đặt tên vẫn gọi là Phật nhãn. “Bần cùng…”: là Chúng sinh trược. “Bần” là do không phước, “si” là do không tuệ, si bần chúng sinh tụ tại một chỗ cho nên gọi là “trược”. “Nhập sinh tử” là Mạng trược: Ở trong sinh tử lại thêm đường hiểm, trong đường hiểm thì mạng dễ bị đoạn, tức ở chỗ thọ mạng ngắn mà còn tương tục, là Mạng trược. “Ngũ dục” là Phiền não trược. Danh thể tối hiển. “Không cầu Đại thế Phật…” là Kiếp trược: Trong kiếp không có Phật cho nên gọi là “trược”. Bốn trược sinh đây cũng không sở cầu. Kiếp nếu có Phật thì tuy trược mà có thể phá. “Nhập tà” là Kiến trược, danh thể cũng hiển. Sáu mươi hai kiến, nhiều nên gọi là “các”. “Hoặc nói các kiến tức là thọ”: do kiến đây cho nên có ba thọ, thọ các kiến này nên nói kiến tức là thọ, ba thọ đều là khổ. Lấy khổ thọ đây muốn xả khổ thì không có việc ấy. “Nguyên lai của ngũ đạo”: là nhân trong ngũ đạo. Từ một đến một cho nên gọi là “thú” (hướng đến). “Suy” chỉ là tặc năng hao tổn. “Luận Tỳ-đàm nói: địa ngục sơ sinh niệm”: là lúc sơ sinh của tất cả các địa ngục đều có ba niệm, biết nơi đây là địa ngục, do nhân kia cho nên sinh từ nơi kia đến. Văn đây tựa như không đủ nghóa mà đã đủ ba. “Lại nói”: cũng là văn của luận Bà-sa. “Ngũ đạo đều có tự pháp như vậy”: đầy đủ như trước trong phần giải thích Bất tư nghì. “Giải thoát đạt phần”: Niết-bàn gọi là “giải thoát”, sở tu thiện căn không trụ sinh tử gọi là “đạt”. Phần giải thoát của Thanh văn tam sinh, Bích-chi-phật trăm kiếp, gọi là “giải thoát phần”. “Đắc chánh quyết định”: là sơ quả. Luận Bà-sa nói: Thế nào là đắc thiền tức căn bản thiền? Vì sao quyết định tức là vô lậu? Dùng tâm vô lậu tu các thiền định, đắc nhập sơ quả tức thiền định đây mà được giải thoát, giải thoát là sơ quả tức quyết định. “Trong cõi trời” cho đến “cần dùng liền được v.v…”: lẽ ra nói chư thiên tự nhiên báo tướng, hết thảy y báo đều là biến hóa mà có, và sơn hà lưu xuất thật báo kia đắc. Căn cứ thời thọ báo gọi là “tự nhiên”. “Địa ngục” cho đến “trung gian có thể biết”: là trong loài người ở quá khứ có thuận hậu nghiêïp, nghiêïp kia chưa mãn, đến trong địa ngục, gặp duyên năng khởi các tâm như vậy, nghiêïp liền thành tựu. Ở trong địa ngục không có thân khẩu hiện hành, chỉ tại khinh báo, chẳng phải vô gián. Rộng phân biệt có thể biết, cho nên nay không luận. “Trung ấm treo lộn ngược”: Luận Câu-xá nói: Thiên đạo thì trung ấm đầu hướng lên, ba đạo kia thì nằm ngang, địa ngục thì quay xuống dưới. Đây căn cứ loài người thì Trời ở trên người. Bàng sinh và quỷ cùng ở châu này, cho nên không phải lên, xuống. Ngục tại dưới châu này, cho nên nói đầu quay xuống. Từ địa ngục đến sinh trong loài người, thì lý hợp đầu hướng lên; quỉ, súc sinh cũng như vậy. Từ cõi trời đến sinh trong loài người thì đầu kia ắt quay xuống. Các nơi khác đều theo lệ đây. “Ban đầu đem tội nhân đến chỗ Diêm vương…”: Hữu tình, phi tình đều bị cộng nghiêïp chiêu cảm mà làm tâm biến đổi. “Ban đầu đều là chánh ngữ…”: Đầu tiên đến địa ngục như ngôn ngữ vốn có; sau thì chỉ là các tiếng ba ba (sóng âm) không còn có thể rõ. “Thời kiếp sơ…”: Trong các giáo tướng thì súc sinh có thể nói, đều là thời này. “Hậu sinh nói Tổ phụ” là theo ban đầu mà đặt tên. Thứ hai, hậu sinh cũng là tổ phụ của hậu sinh. “Trước là nhân duyên…”: Từ dẫn “kinh A-hàm” trở xuống tức giải thích theo Quán tâm. Trong nhân duyên trước cũng đầy đủ ý tứ Tất-đàn: Ngũ đạo không đồng tức Thế giới Tất-đàn. Nhân (người) là sở vi , tức Vị nhân Tất-đàn. Ác là sở phá, tức Đối trị Tất-đàn. Thiên là Đệ nhất nghóa Tất-đàn. “Hậu tợ quán tâm”: Từ tâm phân biệt nghóa, nghóa đương quán tâm. Lục đạo không đồng, lược như trong Chỉ Quán quyển hai nói. Các luận và các kinh Tiểu thừa phân biệt rất rộng, không cần thì không liệt kê. “Ta xưa ngồi đạo tràng…”: Căn cứ dưới dẫn ý Tiểu Vân sớ chỉ Hoa Nghiêm. Cho nên Địa luận nói: Sau khi Đức Phật thành đạo tuần thú hai nói kinh Hoa Nghiêm. Người đời giảng nói thì trách kinh Pháp Hoa ứng lời Phật dạy. Hoặc trách Địa luận lỗi nơi Viên tông. Nay hỏi: Tuần thứ hai nói kinh Hoa Nghiêm như trên dẫn và ba tuần trong kinh Pháp Hoa có gì sai biệt? Dù dài ngắn không đồng và sở thuyết đều khác, chỉ là cơ biệt hiển mật có khác. Thời thuyết đã vậy thân tướng cũng thế. Phải biết kinh Pháp Hoa là Báo Phật sở thuyết. Như luận nói: Báo Phật Bồ-đề như kinh nói “Ta thành Phật đến nay…”, Ứng Phật Bồ- đề thì chỉ Già-da. Cổ Đức đều nói: Già-da đã chẳng phải thì thời gian dài kia tại sao riêng đúng? Tức thành pháp Phật thuyết. Địa luận đã nói Tuần thứ hai chính là tiêu biểu Ứng Phật nói, đâu phải Báo Phật thành và để thuyết pháp ắt là tuần thứ hai! Theo lý mà nói thì kia đây không sai khác, căn cơ thấy chẳng phải là một, Đại tiểu phân đường. Tiểu thừa thấy ba tuần dừng lại, Đại thừa thấy từ đầu đến cuối không thay đổi, cho nên nói “tuần thứ hai” là biết chẳng tận lý. Nếu nói không khởi đạo thọ mà dạo đến Lộc uyển, thì đây tức trong Tích, Viên Phật thành tướng. Lại căn cứ ý của bộ thì nghóa kiêm nơi Biệt. Tiểu căn cơ thấy có quần áo rách rõ ràng, nay đây chính sẽ giáo hóa Tiểu thừa đầu tiên. Đạo tràng tại Tây Nam nước Ma-kiệt-đà cách sông Ny-liên-thuyền không xa. Tây Vức ký nói: Chung quanh cây Bồ-đề chất đầy đá gạch cao ngất kiên cố, chiều Đông Tây rộng, chiều Nam Bắc hẹp, chu vi hơn năm trăm bộ, chính giữa có tòa Kim Cang. Đây tức đạo tràng của hóa Phật trong Tích. “Giải thích theo Quán tâm Thọ (cây): Nhờ sự thấy lý, Đức Phật lẽ nào không như vậy? Vì sao Đức Phật không quán nhân duyên ư? Vì đây ở Tiểu thừa. Nếu căn cứ Hoa Nghiêm là tối sơ, thì đều phải căn cứ Viên Biệt để phán xét. “Kinh hành”: Đây cũng là giải thích theo Quán tâm. Nếu chỉ giải thích theo sự, thì chỉ là tiệm sơ, nên lại phụ quán căn cứ pháp tướng mà nói. Vì thế nói “Đạo phẩm…”: là giải thích theo sự. “Kinh hành”: đầy đủ như luật văn Uy Nghi kinh…, đủ như trong Chỉ Quán quyển hai nói “Xưa ngồi đạo tràng…” văn đầy đủ bốn giải thích. Đầu tiên nói “giả thời…” tức Thế giới, “đắc đạo” tức Vị nhân, “cảm ân báo đức” tức Đối trị, “muốn dùng Đại nghó” tức Đệ nhất nghóa. Nếu căn cứ giáo, thì ứng với bốn Đức Phật mười hai nhân duyên. Lại dùng Nhân duyên giải thích “cây”, như trong luận Bà-sa thì Vô minh làm căn (gốc)…, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển hai nói. Nên vi tế giải thích nêu ra để đối văn nay, tức Vô lậu cùng Thật tướng đều được gọi là “rừng”. “Ba mươi bảy phẩm là hành đạo pháp”: đạo phẩm tức định tuệ quân bình gọi là hành đạo pháp, huống chi bảy khoa đều là sở hành! Tức là dùng chân định tuệ để bước trên đất thật tướng, lý nhiếp các pháp cho nên nói “nhất thiết”. Đầu tiên an nơi đất này cho nên nói “đắc đạo”, muốn khiến người khác làm trước mình phải tiêu biểu mới mong dưới làm theo. “Cây đất…”: khởi hỏi. “Kinh Vị Tằng Hữu…”: là đáp. Kinh nói “Trong ba tuần…”: Lại dùng tam thừa mà làm ba căn, do mới thành đạo suy nghó thông suốt căn cơ, đầy đủ như văn trước nói: Suy nghó độ hai Tiên nhân. Ý Tiểu Vân sớ, là căn cơ chúng sinh tự chưa kham nổi Pháp Hoa, không hẳn ở sau, cho nên dẫn văn sau: đức Phật kia mới thành đạo liền nói Pháp Hoa. Do nay theo lệ đó cho là có căn cứ. Cũng như trong phẩm Phương Tiện, “Nếu chỉ tán thán Phật thừa thì chúng sinh không kham nổi, mới bắt đầu ưng đồng chư Phật mà thiết lập quyền hóa”. Cho nên, nói: “sau ở thành Vương-xá”. “Nếu suy tìm..”: Chương An thông giải thích, hai nơi không khác không thể hoàn toàn sai, cho nên chỉ nói “nếu suy tìm”. Nay phải biện rõ sự sai biệt, vì sao? Nếu dùng Phật tuệ làm Pháp Hoa thì từ đầu đến cuối đều có, nếu dùng hội quy làm Pháp Hoa thì cuối có đầu không. Cho nên biết Dức Phật kia dưới cây Bồ-đề, đầu tiên nói Phật tuệ làm Pháp Hoa, mà Tiểu Vân chưa hiểu ý chỉ đây, liền dùng sơ thành đạo để hiển thuyết hội quy, là không đúng. Cho nên căn cứ theo đây văn lý đều thông, nếu mật nói thì chẳng phải đây luận bàn. “Ác Sinh vương”: Ca-lợi vương. “Phật thệ”: Khi vua hại Phật, Phật phát đại nguyện: Ta nếu đắc đạo sẽ độ nhà vua trước. “Cam lộ: Chân đế. “Hỏi: Sao ban đầu độ năm người…?”: trong đáp có sáu văn. Câu hỏi tuy liên quan đến năm, mà ý chánh là hỏi người, cho nên đều lấy “người” đáp. Tiếp, “Luân vương…”: nêu ba việc để hỏi. Trong đáp có nhân của Luân vương là thiện nghiêïp, nhân của Kiều-trần-như là danh dự nghiệp, nhân Phật là xưng tán nghiệp. Cho nên nói Ni-tra. “Hữu đảnh”: là Phi tưởng, vì hiển bày âm thanh Phật, chúng sinh ở cõi kia không có nhó thức chứ chẳng phải tiếng không đến. Sắc giới chỉ không có hương vị hai thức, còn ngoài ra đều hành. Tuy có ý tứ Tất- đàn, mà tóm lại chỉ là vì hiển bày báo đời trước không đồng, dẫn đến khiến tiếng vang đến xa gần không đồng. “Nếu y…”: là căn cứ giáo. Trong hai cụm từ “đến Ny-tra vân vân” và “thế giới Ny-tra vân vân”, thì “vân vân” là: lẽ ra nêu rõ Ny-tra trăm ức, Ny-tra mười phương, Ny- tra đến khắp pháp giới, để phân bốn giáo: Đầu văn là Tạng. Trăm ức tức là bắt đầu Đại thừa Thông giáo, mười phương và khắp pháp giới tức Biệt và Viên. Vì một thành tất cả thành, mười phương trần sát khởi bốn oai nghi, xen nhau làm chủ bạn. “Sơ chuyển pháp luân… bốn xứ… định”: tiếng đã phân làm bốn, xứ cũng nên như vậy. “Đại thần biến”: Chẳng phải cho là tiểu vì tiểu thiên lệch đối một cơ, như hóa Ca-diếp đế hiến đá vuông, nơi ấy ắt nhất định. “Lại, trừ chuyển pháp luân….”: Tiệm sơ thì định, đây bắt đầu hóa tà nơi kia ắt định. Thông luận một đời, cho nên có thể không định. “Xưa nói tư duy lý giáo…”: Tức dùng ba tuần (hai mươi mốt ngày) dụng đối Đại thừa Lý, Giáo, Hạnh ba thứ, đều không có căn cơ không thọ. “Lại nói khuyên răn”: cũng là sư đây, tức như Thí dụ và Tín giải hai môn Đại thừa đều có dự định thích nghi, không căn cơ, thôi hóa độ. Dùng đối ba thứ đây, cũng có thể như vậy. “Ý của Dao sư”: cũng nói nghi thức giáo hóa chúng sinh, tư duy mà tiêu biểu lý sâu, đâu cần sự, sâu khiến Đại thánh tư duy mà sau hành. “Tiêu biểu Phật bắt đầu tam chu thuyết…”: đây cùng ý kinh Nhân Quả phần lớn đồng. Tứ phần luật Tát-bà-đa đều nói sáu tuần, Hưng Khởi Hạnh kinh nói bảy tuần, Ngũ phần nói tám tuần, Đại luận nói năm mươi tuần. Địa luận… đều nói hai tuần, căn cơ thấy không đồng không nên hòa hợp. Nay lại là giáo tột đỉnh sau cùng cho nên lại y cứ đây. Trong “giải thích theo Quán tâm” lại căn cứ bốn quán để chỉ rõ hóa nghi tức bốn giáo quán bởi vì tối hậu nói pháp phân tích. “Các Phạm vương tuy thỉnh Đại thừa”: hỏi: Làm sao biết được Phạm vương thỉnh Đại thừa? Đáp: Căn cứ lời Phật đáp rằng: Nếu chỉ tán thán Phật thừa… “Nay muốn” cho đến “thủy chung đắc độ”: Nếu không trước Tiểu thừa thì Đại Tiểu đều mất, nếu trước dùng Tiểu thì sau cùng ắt Đại lợi ích. “Các pháp tịch diệt…”: Hỏi: Trong đây ba giải thích nghóa có gì sai khác? Đáp: 1.Nhất thuyết dùng quyền thật tương đối, tức thật không thể nói, nói thì thuộc Quyền. Tam quyền là số, cho nên Nhất thật chẳng phải số. 2. Sinh diệt bất sinh diệt tương đối, tức bất sinh diệt không thể tuyên bày, đây là Tiểu Đại tương đối, cũng là sự lý tương đối, cho nên hướng tam thừa mà nói thông chỉ Đại giáo. Đây căn cứ Lý thật Giáo quyền đối nhau mà biện. 3. Tức là lý thiên chân, đối thiên bốn môn, lý thiên chân cũng không thể tuyên bày, vậy thì Đại tiểu hai lý đều không thể nói, phương tiện vì chúng sinh đều có thể được nói. Tuy đều có thể nói Phật ý tại Đại thừa, mà chúng sinh đối thật đều chẳng thích hợp, cho nên tư duy phương tiện chẳng phải nói sinh diệt. “Thọ hành ngộ nhập”: Căn cơ hợp tức “thọ”. Từ nghe quán chuyển tức Noãn pháp trở đi, gọi đó là “hành”. Nếu chuẩn theo Hữu tông thì thời tiết tuy ngắn mà không ngăn ngại đầy đủ trải qua các vị Nội phàm Ngoại phàm, đến Thế Đệ nhất gọi đó là “ngộ”. Nếu đắc Sơ quả thì gọi là “nhập”. “Chuyển Phật…”: Đây có hai nghóa: Nếu căn cứ vượt thời tiết thì thông bốn Như Lai, các pháp đầy đủ tùy gọi mà đến, phàm có nói gì đều là hóa tha, đối tự chứng nói. Nếu dùng viên tự đối tam giáo tha thì đây là căn cứ pháp, cũng gọi là tha. Nay từ đương phần căn cứ tiệm sơ nói, đây là Phật nội chứng cho nên nói “trong tâm”. Chứng có quyền thật, quyền pháp lợi vật cho nên gọi là “tha”. “Niết-bàn âm”: Do đệ tử thọ hành, phiền não đoạn, ở Niết-bàn, danh sinh cho nên danh làm âm. “Âm” là thanh giáo, là bắt đầu của các giáo cho nên nói “khởi tự nơi đây”. “Tam bảo do đó hiện ở thế gian”: Cũng căn cứ tiệm ban đầu, vả lại tại Tiểu thừa chưa luận nhất thể. “Từ kiếp lâu xa đến nay”: Nói “lâu xa” là căn cứ bên dưới nói nhân duyên đời trước, chính chỉ Phật Đại Thông về sau, do Tiểu thừa thuần thục nên dùng một văn giải thích hai nghi kia. “Văn trên gồm có ý kia”: Tam thừa hạnh nhân đều là Phật tử. Chương chư Phật trên cũng nói “có Phật tử tâm tịnh…”, đều chỉ thời xưa giáo nghe phương tiện đã gọi là “Phật tử”, nhưng nơi giáo xưa chưa thể nói rõ. “Ta liền…”: một hàng cũng chỉ Chủng trí… dùng năng hiển sở, sở tức lý. “Lại, căn cứ…”: là lần nữa trong phân văn nói Đại thừa cơ phát cũng gọi là Đòi quả. Hỏi: Văn trước vì sao bài xích Quang Trạch, nói trong văn pháp thuyết không có Đòi xe ư? Đáp: Quang Trạch nếu nói tình đòi Đại thì không có lỗi. Nếu dụng làm căn bản cho thí dụ Đòi tiểu quả bên dưới, thì cần phải phá, phá kia dẫn văn cũng lại như vậy. “Đây nên có bốn câu”: Hỏi: Văn trước đã căn cứ bốn câu đối căn, trong đây tại sao nói bốn ư? Đáp: Trước thì đầu tiên đối Nhũ, Lạc đều làm bốn câu, phân biệt Đại tiểu kia bị chướng không đồng, lại dùng bốn câu giải thích xuất Sinh tô và Thục tô, thông đối các giáo bốn căn nghe pháp, tiến hay không có khác có đồng, cho nên trước thì ban đầu lập lại chỉ câu thứ tư ở trong Pháp Hoa. Các văn khác phần nhiều ở bốn vị trước, nay thời thứ năm mới đối khai ba, riêng một là đại. Nói “tức phát”: Chỉ không khởi đương tòa, thì gọi là “tức”, từ tòa kia đến thì đều là trải qua thời gian (kinh thời), chỉ không vượt qua vị cho nên gọi là “tức”. “Đòi (sách) có ba ý”: hai ý Đòi đã nói tại cơ tại tình. Trong cơ chỉ nói có nghóa cảm quả, trong tình đã nói mật cầu mà thôi, cho nên hai ý Đòi trước ở xưa, nói “phát” chỉ ở nay. Xưa nói tuy tức thông nơi bốn vị, mà đây chỉ thời gian mà hai tô đều nghe Đại vì vậy cho nên được nói có hai ý Đòi. Lại nói hai ý Đòi có thông có biệt. Thông thì đều thông hai vị, cơ thì sâu kín ở bên trong, tình thì trong động ở giữa, hai vị đều như vậy cho nên nói thông. Biệt thì hai ý Đòi biệt đối hai vị, ở trong thời Phương-đẳng nghe bất tư nghì, tuy bài xích là phi chẳng có đại lợi , bị bài xích mà không hủy báng tức nghóa đương nơi Đòi (yêu cầu). Cho nên, biết không hủy báng lý tại hữu cầu. Ở thời Thục-tô là thời Đại dẫn dụ rửa bỏ. Tuy không hy vọng lấy mà chuyển giáo tình thân, dù không nói rõ mà nghóa Đòi dần dần cần thiết, tuy hai thứ không đồng, cơ xa tình gần. “Đắc, bất đắc”: Là riêng Bồ-tát cũng lợi Thanh-văn, trong tình tiến thoái nghóa đương nơi Đòi, vậy thì “tình đới cơ” thảy đều nhất định phải ở xưa. Cho đến Bát-nhã thì biệt thọ tên gọi “tình”, đến khi lãnh giải thì dùng cái được để hiển cái mất, cho nên nói “muốn dùng hỏi Thế Tôn là mất hay không mất”. Thỉnh đòi tuy tức mà chỉ có tại giáo nay, cho đến khải thỉnh nói thì cơ tình ắt đầy đủ. Từ chỗ mạnh miệng xin thỉnh, cơ tình cũng sai khác, xưa chỉ ngầm phục ở trong lòng, đối nay mới trợ giúp hiển rõ nơi miệng ba phen đòi xin đều bấu víu ở Thánh, đến (phó) cũng tự phân hiển mật, thời thuần thục đã hội nhân bên trong đầy đủ, nghe lược nói bởi vì ngoại duyên đầy đủ, nhân duyên đủ nên phát ra lời nói ở đây. “Hỏi: Xưa ra khỏi nhà…”: là nêu trong phẩm Thí Dụ để hiển bày nay. Kia nói “Các con đến chỗ cha xin ban cho chúng con ba thứ xe báu”, nay sao lại nói “Cơ… đòi thật” ư? Đáp ý: Khi chưa ra khỏi nhà nghe hứa, khi ra rồi thì không thấy xe đã hứa cho, chỉ thấy người hứa, nên theo người hứa mà đòi cái xưa đã hứa, đã hứa mà không cho ắt có điều sai khác. Cho nên, đòi xưa tại nay vốn là ý cầu xin cái khác. Nay hỏi: Lộc-uyển thì ra khỏi nhà chỉ bảo đảm Tiểu quả đâu từng đòi xe ư? Đáp: Nếu tại pháp thuyết, thì đến thời Lộc-uyển nghóa đang ra khỏi nhà. Lại trải qua hai vị hai lần đòi xin tại trong lòng, chỉ thí dụ ngắn mà bao hàm nghóa dài, đến đầu thời Pháp Hoa, cho nên thí dụ nói các con đến chỗ cha đòi xe, cha bèn cho nhưng đều ban cho xe lớn. Cho nên kia thí dụ ý bao gồm hai tô. Phẩm Tín Giải thì thí dụ dài mới khai thể mạng, cho nên phẩm Thí Dụ văn nghóa bao gồm ba phen đòi xin, phải biết lẽ nào cùng Quang Trạch làm bạn được? “Đều dùng tâm cung kính….”: Ý người khác nói căn cứ cơ luận đến, thẹn Tiểu mộ Đại, là Bát-nhã Phương-đẳng. Cho nên nay phá Cơ, thân đều đến Bát-nhã Phương-đẳng, huống chi Pháp Hoa ba nghiệp đều lãnh thọ. Vả lại, giải thích nghóa thỉnh cho nên nói cơ tình, đến ắt ba nghiệp không thể thiên lệch. “Nay hành dữ thọ ký…”: là tùy tiện thọ ký, lại thọ tám tướng cho nên nói “hành dữ”, lại thọ ký Đại thừa chỉ tại phân biệt công đức, trong đây lại tiểu thừa cho nên nói hạnh cùng. “Xưa chân xưa thành…”: “Xưa chân” chỉ lý, “xưa thành” chỉ quả, xưa La-hán… đã đều là thật, đều được “chân, thành”. Nay Tam thừa đều bài xích thì hai nghóa đều mất (thất), cho nên nói “cuối cùng biết tại đâu?”. “Lại, Tam thừa đồng học một đạo…”: Đây tức thuật lại thông tam thừa nghi, đã đồng một lý thì chứng chân không sai khác. Chân tuy không khác mà Bồ-tát lúc xưa đã từng được thọ ký. Nếu đã được thọ ký thì vì sao mà nay đều bài xích là phương tiện? Nếu đều là phương tiện thì xưa không nên biệt, cho nên nói: “sao ý có biệt?”. Vì vậy, nên nghi xưa nay, hoặc hai hoặc ba hoặc lý hoặc hạnh. Đã đều là phương tiện thì mất cái chất phác thật chứng, sao lại không nghi? Văn trước nhiều nơi thông bài xích tam giáo, trong đây chỉ bài xích Tạng, Thông hai thứ. Tam thừa đồng chứng chân đế. Chứng hai giáo này đều là quyền. Nếu lại căn cứ biệt: Đương giáo trong luận tự có chân thật, đã đới phương tiện thì đầu cuối hạnh sai khác. Thông đều nghe bài xích đó cũng sinh nghi. “Như thị Diệu pháp”: Đầy đủ như trong Thích Tiêm nói, cho nên nói: chỉ là “pháp Quyền thật”. Tiếp “Như tam thế…”: trong “dẫn đồng chư Phật” văn đầy đủ hai giải thích. Trước thì căn cứ “Vì Thật thiết lập Quyền”, sau thì căn cứ “khai Quyền hiển Thật”. Lại, văn đầu căn cứ giáo ba quyền một thật. Văn sau căn cứ lý cho nên “có quyền có thật” làm Quyền, “Quyền thật không hai” làm Thật. Đây giải thích thứ hai chỉ là hiển lý Thật giáo trước tức là Quyền thật không hai. Kinh nói: “Huyền viễn…” là: Nếu chuẩn theo kiếp đây sáu, bốn, hai vạn. Vọng dưới Phạm thiên một trăm tám mươi kiếp không vô hữu Phật vẫn chưa gọi là xa, sau đời Phật Di- lặc giảm mười lăm kiếp. Chín trăm chín mươi lăm Đức Phật thứ lớp xuất hiện, nên không nói đây. “Phương tiện có thể là quyền giả”: ý nêu giáo trước có thể là quyền lập, căn cứ bản hoài của Phật tuy chẳng hư vọng, dùng thật vọng giả cho nên gọi là “quyền giả”. Thiết lập rồi, lại phế bỏ, cuối cùng trở về chân thật. Nay đã nói Thật, cho nên khuyên chớ nghi. “Xưa từ các ông…”: lại trình bày cựu giải trước tuy lược phá mà đều là một đường, cho nên lại dẫn khiến biết đồng hay khác. Nếu ưa đắm các dục đến nỗi xen nhau chọn lựa sai trái thì phàm phu tiểu thừa đều xả bỏ mới có thể kham thọ ký. ---------------------------- GIẢI THÍCH PHẨM THÍ DỤ THỨ BA Có người đối với đây lập “Lai ý” ( dụng ý của phẩm), nói: “Đại thừa, phàm không thí dụ”, có lẽ có thí dụ thì thành Tiểu thừa. Có người nói: “Phật pháp nhiều môn, mỗi môn đều có thí dụ”. Đây thì có thể như vậy. Nói “Trước tiên là Tổng thích”: Hai chữ “tổng thích” thông quán (đứng đầu chung cho) bốn cách giải thích. Hoặc nay hoặc xưa dùng nhân duyên… đều có sai biệt. Đầu phẩm tuy kiêm văn của chu thứ nhất, mà giải thích đề thì lại nương ý của chu thứ hai, cho nên nói “hạng trung hạ căn chưa thông đạt. . .”. Đầu tiên tổng chia làm ba: Chữ: huấn. Giải thích huấn. Dụng ý. Tiếp, trong giải thích huấn, “Mượn đây…”: là giải thích chữ “Thí”. “Nương cạn..”: giải thích chữ “Dụ”. Ngọc Thiên nói: Dùng loại so sánh gọi là “Thí”, khai hiểu khiến ngộ gọi là “Dụ”. Đã hai chữ song đề nên có chút sai biệt, đầy đủ như giải thích “huấn”, cho nên dùng so sánh hiểu để huấn thời chúng, đây gọi là nhà xe trong cõi người tức giới nội. Kia gọi là Phật sự giới ngoại, mê ngộ, cạn sâu có thể biết. Kia chỉ Phật thừa nghóa sâu duy nhất, cho nên mê cùng ngộ chỉ có Tiểu đối Viên. Cây, cửa, gió, trăng chỉ có lý Viên giáo. “Trước rộng…”: nêu Dụng ý cũng là kết trước sinh sau. Câu đầu kết trước, “giữa cuối…” là sinh sau. Cho nên biết cơ tuy không dứt, lại đợi bi trí không dứt mà trung cơ sẽ sinh. Lại “rung cây, nhấc cửa”, khiến ý “gió, trăng” hiện rõ. Nhưng pháp nói thật tướng đâu ẩn đâu hiện, như gió lâu chẳng lúc nào dứt, trăng trên không thường lơ lững, chỉ vì hạng trung hạ, căn cơ Đại thừa chưa khai mở, che tình còn lấp cho rằng trăng ẩn gió dừng, nên tạm lưu lại ở hai đường đây mà cần phải rung cây, nhấc cửa. Bốn cách giải thích theo Nhân duyên, v.v… thì ý chỉ Đại thừa đều rõ. Cho nên dùng hai chữ để tổng đứng đầu các giải thích. Tiếp, Biệt giải thích: Đầu tiên trong Nhân duyên đều dùng bốn pháp thếâ gian để dụ cho bốn pháp của một Thực. Trong nghóa Thế giới đầu tiên thẳng nói “thế pháp”, bởi vì thế pháp đứng đầu ba pháp. Nghe thí dụ sinh vui gọi là “Thế giới”. Sở dó nói ba thứ bên dưới đều là thế pháp, chỉ vì sinh… biệt đắc ba tên dưới, cho nên ba loại dưới đều do nghe thí dụ mà sinh vui… Nhân đã từng có cha con thế gian, nay nghe thí dụ nói: “Ta là con thật sự của Phật, Thanh-văn cùng Phật thiên tánh không khác”, chỉ có tại kinh này, nên nói “chưa từng có”. Bởi vì ngày mật sai, còn không có tâm cho làm thuê làm mướn, cho nên khi lãnh nhận gia tài đâu có sinh niệm là vật của mình, mà đặc biệt do thiên tánh liên quan nhau, bèn được dự báo gánh vác. Trước lúc đó, lo lắng hối hận đến đây mới trừ bỏ, khi nói thí dụ mới gọi là chân tử (con chân thật). Nay mới được ngộ càng thêm hớn hở vui mừng, đây chỉ nghe thí dụ sinh cái vui chân thật tức văn tín giải ban đầu hoan hỷ, cho nên Đại tiểu hai thừa đều gọi là hoan hỷ. Tiếp trong Vị nhân nói: Thế sinh pháp tức của cải cho nên nói: quý giá ưa thích. Xuất thế pháp sinh tức tam thừa pháp, đứng đầu trong sinh thiện lẽ nào vượt qua đây? Cho nên xưa ba xe trân báu vi diệu thâu nhiếp. Việc các ông làm là Bồ-tát đạo. “Thế diệt pháp”: Trong nhà các tai họa có thể thoát ra được. “Xuất thế diệt pháp” nghóa là Hoặc đoạn. Vô lậu thuật xưa, trừ bỏ lo buồn chỉ nay. Bạt khổ vốn tại đồng ban cho xe lớn, tốt nhất trừ ác chẳng gì bằng đây. Xưa phá Kiến tư thông luận nay đều là trừ ác. “Thế bất sinh diệt” tức xe lớn, cha vốn có cho nên “bất sinh”, đến chỗ bất hoại cho nên “bất diệt”. “Xuất thế bất sinh bất diệt”: Tánh đức vốn có cho nên “bất sinh”, tu đắc quả thường cho nên “bất diệt”. Do trong Tín Giải nghe thí dụ thì hoan hỷ… cho nên tứ Tất-đàn đều thí dụ cha con. Nhưng ba Tất-đàn trước tựa như căn cứ thi quyền, Đệ nhất nghóa Tất-đàn mới căn cứ khai hiển. Phải biết ba Tất-đàn trước tức lộng dẫn của Đệ nhất nghóa. Cho nên, dẫn tâm trước đều ham thích và để thoát nạn nhà lửa. Nếu khai hiển rồi thì đều là xe lớn. Lại tứ Tất-đàn đều có một pháp một thí, trong pháp hoặc dùng văn pháp thuyết, Thân-tử lãnh giải và lại trợ giúp thành lời kia. Nếu thẳng tiêu hai chữ thì đâu đủ đề phẩm, cho nên kết nói “một âm khéo dụ”. Đây thì ngăn đâu phải từ đầu đến cuối một âm. “Một âm” thì chỉ có thật, “Khéo dụ” thì kiêm quyền. Quyền dẫn về Thật cho nên không đồng xưa thuần dùng một âm, cho nên thí dụ nghóa bao hàm bốn thứ: Nhân duyên v.v… Nếu không như vậy, thì làm sao hiểu rõ tiểu xa, đại xa, nhà lửa, nhà cha ở. “Trung hạ được lợi ích”: Hỏi: Hạ căn chưa ngộ vì sao nói lợi ích? Đáp: Pháp Tâhí được gia-bị chung cho hàng trung hạ tự mê, cho nên hạ căn nghe Pháp Thí, trung căn nghe Pháp thuyết, tuy chưa hiển ngộ cũng đều lợi ích ngầm. Cho nên đến Thí và nhân duyên túc thế (đời trước) thì thâu hoạch ngộ. Cho nên căn cứ Giáo… ba thứ đều phải căn cứ thí dụ. Thí đã ba xe, một xe xưa nay tương đối, pháp cũng hoặc Quyền hoặc Thật đều liệt kê thiên viên. Nếu không như vậy thì khai là khai cái gì? Vốn hứa cho ba xe, đòi mà không cho, cho đến vì nói đồng ban cho xe lớn. Phải biết xe kia vốn là ba, một. Vì vật phương tiện quyền lập ba tên. Ra khỏi nhà, phá bỏ quyền phá ba chỉ có một. Tam tạng giáo, là giáo đầu tiên của bốn giáo, nói thí dụ “Bồ-tát cỡi xe trâu v.v…”: Đây Bồ-tát từ đầu đến cuối đều hóa tha, rất được danh kia. Thông giáo thí dụ nói “Ba người đồng sợ..”: Tam tạng Nhị thừa lý cũng nên như vậy, vì đối đầu cuối một hướng lợi tha cho nên hai giáo kia lại nói “tự tế” (cứu giúp). Giáo này Duyên-giác tự, tha kiêm lợi ích hơn hàng Thanh-văn, cho nên nói: “cùng chạy nhanh cùng nhìn ngoảnh lại”. Thương các Bồ-tát yếu kém cho nên có nói “cùng”. Tự hành cho nên “chạy nhanh”, kiêm tha thì mới “nhìn ngoảnh lại”. Bồ-tát tự hành đã mãn, chỉ lấy lợi vật làm hoài bảo, vì vậy cho nên chỉ nói: “Toàn chúng chạy ra”. Trong Biệt giáo ban đầu bài xích hai giáo tam thừa đều gần. Tiếp, “Bồ-tát…”: là chánh giải thích. Đối trước đã liệt kê câu câu đều quyết chắc. Căn cứ “đại tượng” nói cho nên gọi là “biên đáy”. “Đại Phẩm…”: chứng minh đối hai giáo nhị thừa trước lược chọn. Thông giáo Bồ-tát đối Thông Nhị thừa, đoạn chứng đã đồng lược, không có hình trạng bài xích, cho nên biết là Biệt Bồ-tát bài xích hai Nhị thừa. Cho nên dùng “lửa đom đóm đối mặt trời” làm biệt, làm thí dụ. Căn cứ nghóa lược thí dụ nên đối “xe trâu” để phân biệt Bồ-tát, bởi do chứng kinh may mắn có thí dụ tam thừa đều khác. Hai giáo tam thừa ngoài thí dụ lại có riêng Bồ-tát thí như đại tượng (voi lớn). Và lấy “đom đóm, mặt trời” dùng để bài xích nhị thừa. Lại, “Bắt đầu thấy…”: là trong Viên giáo trước chỉ Hoa Nghiêm. Và “Vì chưa nhập…”: nêu rõ ý kinh này. Hai nơi hóa sự đều không cần thí dụ, tức Hoa Nghiêm lợi căn và Pháp Hoa ở chu thượng. “Như nay…”: nêu lý hai nơi.. bình đẳng, tuy tức hóa nghi trước sau mà đầu cuối lý nhất. Ban đầu tức Hoa Nghiêm, nay thì Pháp Hoa. Chỉ duyên “Tuệ Như”, cho nên lý đồng, cho nên nói “không hai không khác”. Hỏi: “Không khác và không hai”, hai thứ này có gì sai biệt? Đáp: Trọng yếu dùng “không khác” để lặp lại nơi bất nhị, do “không khác” cho nên mới gọi là “không hai” (bất nhị). Từ “Thượng căn lợi trí” cho đến “không cần thí dụ”: lại nêu hai xứ (nơi) hiển chu thượng trong đó đắc ngộ, là biện rõ sự sai khác. “Chỉ vì…”: là nêu nay có trung hạ căn, cho nên phải thí dụ. Nhưng trong Hoa Nghiêm đều là thí dụ, chỉ vì kia nhập đạo không chánh do đây, như nay Đàm hoa làm thành Pháp thuyết. Nói “động chấp…”: Thượng căn nhất xứ, trung căn hai xứ, hoặc nói năm xứ. Trong rộng có trường hàng kệ tụng đều là pháp thuyết lãnh thuật hai văn. Hạ căn tam xứ (ba chỗ) hoặc nói mười một xứ. Ở năm xứ trước, lại thêm trong Thí thì lãnh thuật đều có trường hàng kệ tụng, cho đến hạ căn hai mươi hai phen khai quyền hiển thật, đầy đủ như cuối phẩm Hóa Thành nêu. Do chưa ngộ cho nên mê nơi pháp thuyết quyền thật kỳ đạo (đường rẽ). Ta xưa cùng kia đồng ở nơi hạng Vô học, kia được thọ ký thuật, riêng ta chưa được thấm nhuần. Ban đầu nghe lược nói rồi thì trong lòng tiến thoái, đó là cực quả hay là phương tiện gì? Là vónh viễn tại tiểu thừa hay là (đương) sẽ thành Đại thừa? Lại nghe năm Đức Phật, mà nghi vẫn chưa trừ cho nên lại phải dùng thí dụ xe để dẫn, cho nên gọi là “Viên thí” (thí dụ trong Viên giáo). Người đời nói: “Thiên Thai ức chế Hoa Nghiêm”, chính là do không giỏi về các tông khác cho nên nói như vậy. Đã xét Phật tuệ hai kinh không sai khác, chỉ bộ vọng bộ đều có chút sai khác. Đã không thể chỉ Lộc uyển là bắt đầu, lại nói “nghe ta” mà các nghóa khác không thành! Thiêïp Công nói: Pháp Hoa, Hoa Nghiêm rộng lược sai biệt. Đây ngửi mùi hương chiêm-bặc lưu toả mà chưa cùng tận ý chỉ vi diệu của các mùi hương, do không thể tư duy tường tận tông này. Rộng lược tuy như vậy, Kiêm và Đới thì như thế nào? Hiển bản chưa rõ thọ ký tiểu chẳng theo lệ, cho đến văn dưới mười nghóa đồng khác. “Trì trù”: là như do dự. “Kỳ đạo”: Bộ Nhó Nhã nói: đến chỗ có hai, gọi là “kỳ”. “Bản tích quán tâm vân vân”: Đều phải căn cứ thí dụ Bản tích đầy đủ như Liên hoa tam thí Huyền Văn quyển bảy. Nếu muốn tiến mượn sơ thành thiết lập giáo thì lẽ nào không có một, ba, cho nên ngàn cành vạn lá đồng tông một gốc rễ, cho đến năm trăm, ba ngàn trần điểm có thể dùng ý biết. Quán tâm thí dụ: “Không” ví như bạch ngưu, “Giả” ví như cụ độ, “Trung” ví như thể của xe, cho đến huyễn Không, huyễn Giả, huyễn Trung. Tiếp, “phân văn giải thích”: Sắp xếp thí dụ, vả lại giải thích phần còn lại của phẩm trước. Đầu tiên trong lãnh giải: Sắp xếp trước Thí thuyết v.v… : Có người nói: Vì Thí làm Tựa thì nên nạn vấn rằng: Tín giải Dược thảo Thọ ký cũng nên sắp xếp trong phẩm Hóa Thành vì hóa thành làm tựa. Từ “Trường hàng lãnh cùng giải” đến “đều trình bày”: Trường hàng ba nghiệp đều có Nêu ra, Giải thích, Kết. Hai văn Nêu ra và Kết đều đầy đủ ba nghiệp mà không phân lãnh giải, chỉ trong Giải thích lấy thân nghiệp làm “lãønh”, khẩu, ý làm “giải”. Bắt đầu “Nay con theo đức Thế Tôn..” là lãnh. Từ “Vì sao vậy? Vì xưa con theo Phật…”: là giải. “Kệ đều trình bày”: Ba đoạn mỗi đoạn có hai, đến trong kệ dưới mỗi mỗi điểm xuất ra. “Một hạnh” (hạnh phúc, may mắn): Nghóa là một nghiệp gặp vui, nay ba nghiệp đều vui mới thành ba hạnh. Ta nay thân đã gần gũi Phật huống lại nghe pháp, nghe pháp tức là khẩu vui, được hiểu tức là ý vui. Lại xưa chỉ cơ tình, cơ tình ở trong gọi là “một hạnh”. Nay do miệng thỉnh, ba nghiệp đều vui cho nên nói “ba vui”, quá ý đã mưu tính cho nên gọi là “hạnh”. Cho nên văn dưới nói: chẳng phải trước mong cầu mà nay tự đắc. “Biện” là vỗ tay múa, tức tâm, miệng vui sướng đến nỗi hiện ra ngoài, do hai động hình, cho nên cả ba đều động. “Văn nói…”: dẫn chứng, là chánh chứng “ba vui”. Văn tuy lại liệt kê ý, khẩu hai vui, mà có hai ắt có ba, lý số phải như vậy; trong ngoài sai khác, cho nên tức thế giới. Lại, đây bốn văn nên căn cứ phẩm trước, mà nay ba văn sau căn cứ Tín Giải: Khai hiển nghóa đồng kia đây, thông dụng ý đồng, thời khác cũng nên không sai. “Bỏ nghèo, thọ nhận giàu”: Khai Tam tạng trân báu, đắc chân thật thiện lợi, là tốt nhất trong Sinh thiện. “Ưu hối đều bỏ…”: Khai hai vị. Vónh viễn trừ ưu nghi cho nên trừ ác nghèo. Ta nhớ xưa ở thời Phương-đẳng thì bị bài xích cho nên “ưu”, đến thời Bát-nhã thì “hối” vì đã trụ Tiểu thừa. Thời Phương-đẳng thì bị bài xích, cho nên “nghi”. Thời Bát-nhã thì không chấp, cho nên “nan” (khó). Trược là “ngoại chướng”, Tiểu làm “nội chướng”. Lại, bị chê trách không thọ, gọi là “ngoại chướng”. Được thêm mà không nhận lấy, gọi là “nội chướng”. Nay thì không có lỗi của ba cặp này, cho nên nói “đại lãng”, trú nhất thật đệ nhất nghóa. Tiếp trong phần “Căn cứ Giáo”: văn đầu tiên theo cách chung giản thể của vui xưa, cho nên trước trình bày xưa là Tiểu thừa. Tiếp, “Nay nói…”: là giản lược khác, tức lược không hiển có. “Hoặc là Khổ nhẫn …”: là chánh giải thích vì rằng cái vui thế gian từ lâu đã trừ. Tạng, Thông hai vui từ lâu đã đắc. “Hoặc là nhị Không….”: giáo đạo lại chẳng phải là đối tượng để làm theo, trải qua ba giáo bỏ đi bởi vì có nguyên do, vì không phải là điều mà nay muốn nêu, đó là chỉ có vui Viên giáo. Như cái ao ít nước, như phàm phu không thấm nhuần, thì không có trí xuất thế gian. Trong Viên giáo: Đầu tiên là vị, tiếp là nhân. “Sơ trụ gọi là Hoan hỷ”: là nghóa lập. Vì ba pháp khai phát cùng Sơ địa không khác, cũng gọi là Hoan hỷ. “Thân-tử” đến “hoan hỷ”: chưa dám định phán cho nên hoặc là hai cách. “Siêu nhập” tức Hạnh, hoặc là Hướng, hoặc là Địa. Dù không siêu thì cũng nhập sơ trụ, gọi là Hoan hỷ. Các nhà chú thích nói thẳng: Nghi lo ngoài đã trừ thì vui trong tâm phát sinh, bất giác chân dẫm đạp cho nên nói “dũng dược (hớn hở)”, nên phải phân giáo mới biện rõ tốt xấu (ưu liệt). Cho nên A-la-hán không có cái vui trong ba cõi. Nói “dũng dược”: là biệt Hoặc (lậu hoặc) đã huân tập ngoài diệu pháp được gia-bị. “Giải thích theo Quán tâm thì lại không ghi chép vân vân”: là lẽ ra giải thích Vui theo nhất tâm tam quán lục tức. Tiếp, giải thích “Uy nghi bên ngoài”, đây là sự kinh gia giải thích có thể hiểu, nơi khác dù có nêu ra chỉ nói biểu hợp chứ không biết năng sở, đó là trí gì và hợp lý gì? Nay tiêu biểu khác các bộ mà trong văn còn lược, rộng xem xét thì như giải thích phẩm Phương Tiện. Trong đây cũng xem xét hướng Phật vì nay biết là thật. “Chắp tay hướng Phật” thì giáo nào chẳng có mà nay tiêu biểu chỉ có Phật quả? Phải biết: xưa hướng chẳng thật, nay khai vì rằng thật hướng tiêu biểu phi thường, trong Tựa báo điềm lành cũng lại như vậy. “Chiêm ngưỡng tôn nhan…”: Trước nay tuy chắp tay là tiêu biểu Thật không hai, mà không thể nêu bên trong tâm đã hiểu cho nên hướng mà lại chiêm ngưỡng. Dựa vào “thấy tôn nhan” để tiêu biểu “hiểu”, biết là Phật chẳng phải ai khác, như chẳng phải quyền chỉ có thật. Cho nên biết, bên ngoài thấy Phật, mà cũng chính là ý không tư duy khác, tức tiêu biểu thấy tha thật cảnh mà tự khai tri kiến. “Ý giải…”: là phân ra thân và ý để đối lãnh giải. Vì nói xen nhau nêu hai nghiệp đều lãnh giải đủ quyền thật. Cũng căn cứ sở biểu để phân biệt thân ý, cho nên dùng “chắp tay” tiêu biểu thân, “chiêm ngưỡng” tiêu biểu ý. Xưa thân cách xa Phật như hai bàn tay tiêu biểu quyền, nay thân thấy Phật chắp tay là tiêu biểu thật. Cho nên, nói tức Quyền mà Thật. Ý cũng như nói xưa chưa hiểu (giải) Thật, nay lấy niệm mà tiêu biểu, cho nên nói giải thật tức là quyền, nên nói “xen nhau nêu”. “Bạch Phật…”: Nói miệng lãnh giải, là đối kinh gia kia. Nay lấy tự trình bày mà làm miệng lãnh giải, lãnh ắt đầy đủ ba chẳng riêng gì miệng. Cho nên ba phần: Nêu, Giải thích, Kết đều đầy đủ ba. Trong phần “Nêu”: “ba”, đã nói “Bạch Phật” thì nên chỉ ở miệng, tại sao nói ba? Nhưng nói “lãnh”, thì ắt trước biểu hiện nơi miệng vì miệng thuật lại sở đắc, lẽ nào chuyên một đường? Thế nên thuật đủ “sở tòng, sở văn” và sinh hoan hỷ, ba nghiệp đầy đủ. Tiếp, trong phần “Giải thích” thì trước là giải thích thân, nói: “Như mặt trời chiếu núi cao, mật có nghóa nghe”. Hỏi: Mật thông Lộc-uyển và dùng hai tô, vì sao riêng nói “núi cao chiếu trước”? Đáp: Đây đối Tiểâu thừa hiển bày điếc câm, bộ chỉ có Đại thừa, cho nên hiển hoàn toàn không có, tạm nói “mật” đó thôi! Lộc uyển có mật căn cứ theo lệ có thể biết. “Thọ ký chỉ Phương-đẳng”, có chỉ A- hàm thọ ký Di-lặc, A-hàm chưa từng nêu Tri kiến Phật có lỗi gì ư? “Con thường ở một mình, tư duy quá sở”, “sở” tức “núi rừng”, cũng nên nói “hành…”: là tư duy quá nghi. “Nghó như vầy…..”: Là tư duy quá tâm; nay tư duy chỗ ở, uy nghi và tâm niệm ngày xưa đều là lỗi, cho nên nói “tư quá (tư duy lỗi)”. “Đồng nhập…”: là xuất tướng lỗi kia, chỗ ở… có lỗi là do chấp pháp tánh. Hỏi: Giả sử xưa nhập Tiểu thừa pháp tánh, thì có lỗi gì? Đáp: Chỉ vì cho rằng cùng Bồ-tát đồng nhập, mà đối ba giáo để biện rõ lỗi mình, nghi Phật có thiên vị, do đó thành lỗi. Do vì không biết ngoài Tiểu pháp tánh, biệt có diệu lý mà Bồ-tát chứng đắc. Cho nên Tam tạng Thanh-văn cho đến Phật không có biệt pháp tánh. Đức Phật ấn chứng cho Ca-diếp đương giáo luận đồng, tức nghóa này vậy. Thông giáo ba người đều ngồi tòa giải thoát, trung luận thật tướng ba thừa cùng đắc, vậy thì ba thừa Thông giáo pháp tánh, cũng cùng Tam tạng pháp tánh không khác. Các người Thanh-văn tuy tại lực… mật thành người Thông giáo, chưa nói hợp hiện rõ, gọi là tiểu nhập đại, cho nên nay sở luận vẫn tại Tam tạng. Thuật lại ban đầu gặp Ác-ty và nghe cậu luận nghóa đắc pháp tánh thì chẳng liên quan, nghe diệu mới nhập viên thường. Tiếp, “Do ta mê quyền…”: là thuật nguyên do lỗi. Do mê quyền cho nên cho rằng pháp tánh đồng, đâu có liên quan đến sở Hoặc lý Nhất giáo tam? Do mê hoặc thật cho nên chỉ quyền là thật, đâu có liên quan đến Thế Tôn thiên thọ ký Bồ-tát? “Vì sao vậy…”: là dẫn nghóa chờ đợi, tự trách. Tiếp, “Sở nhân hai nghóa…”: là chánh giải thích sở nhãn. Đầu tiên nêu hai nghóa, nếu biết sở chứng không thật thì nên đợi nói nhân thật, nếu biết đã tại phương tiện thì hiểu tức Thật là quyền. “Đầu tiên chiếu…”: giải thích “nếu như vậy”. Nói “vội vàng” tức chẳng những Lộc-uyển mà còn chỉ hai tô, bởi vì trong hai vị đây cũng có sơ đắc tiểu quả, nhưng trong y văn thì hai tô đều ở giữa hai cột mốc. Nếu Lộc-uyển có sơ chứng thì cũng có thể dùng hai tô để giải thích nghóa dừng lại. Nhưng hai tô căn cơ lẫn lộn, cho nên dùng từ đầu đến cuối để giải thích nghóa dừng. Do trong Nhũ kia Viên thuyết Phật nhân, ta tự không đối, lỗi không thuộc người khác. Kinh nói “ắt dùng Đại thừa”: Lời thông các giáo, ý thì không như vậy, tuy chỉ vì phát Đại thừa mà tâm thì không “chết”. Nay thì giản biệt ý chỉ có tại Viên. Nên biết “sở nhân” không xuất nhân quả và dùng nguyện hạnh. Hạnh tức Lục độ, nguyện nghóa là Tứ hoằng. Cho nên trong Phật Địa luận thông nhân ba thứ: 1. Ứng đắc nhân: nghóa là Bồ-đề tâm tức Tứ hoằng. 2. Gia hạnh nhân: nghóa là các Ba-la-mật, Lục độ cũng thâu nhiếp các hạnh. 3.Viên mãn nhân: tức chỉ Phật quả. Thông lấy quả, quả làm kỳ hạn của nhân, cho nên cũng gọi là nhân. Xét kỹ mà luận thì chỉ tại hai thứ trước, thành tựu Bồ-đề tức là quả. “Mà nay được từ Phật là kết thân hỷ”: Đầy đủ như trước giải thích. “Đoạn các nghi hối…”: Thông thì thông chỉ hai tô thời thấy việc của Bồ- tát, Biệt thì chỉ tại lược thuyết thời bài xích làm phương tiện, lại thông nói các Phương-đẳng thắng cảnh chẳng phải một, Bát-nhã pháp tướng bao gồm thông. Phàm có thấy nghe đều là cảnh sinh nghi, do cảnh nên sinh nghi, do nghi nên hối, nay nghe pháp thuyết hối hận lỗi hai lần chờ đợi. Lại do rộng nói nghi hối đều trừ. Do xưa tuyệt phân hai nghóa đều liên quan, ngày nay mới biết chân thật là đồng. Đầu tiên căn cứ ba câu kết thành ba văn, văn đã phân minh trên dưới có Tựa. Lại do ba nên thành Phật pháp có phần. Phần tức Sơ trụ phần chân vị. Không cần “Từ miệng Phật…”: là đối ba tuệ, văn không từ sinh ba tuệ mà kéo dài cho nên nói “văn tận, lý rõ ràng”, đây tức là lý của đạo lý. Nói “Lại dùng tứ Tất-đàn”: Lại trở lại hướng trước hiểu rõ các văn lãnh. Đầu tiên nêu ba vui là Thế giới Tất-đàn, dũng dược tức hoan hỷ. “Vì sao vậy…”: Dùng văn giải thích thân khẩu hỷ làm Vị nhân Tất-đàn. Ba nghiệp tương vọng thân khẩu lại từ Sinh thiện thuyết. Cũng nên từ Phá ác thuyết dùng làøm Đối trị, không đề cập đến ý hỷ vì nghóa phá ác mạnh. Nếu như vậy thì ý hỷ cũng là khả năng tốt nhất sinh hỷ cho nên lại một phen đến. Tiếp, “Ta từ…”: dùng giải thích ý hỷ làm Đối trị, tự trách trừ nghi tức nghóa phá ác. Tiếp dùng văn thành tựu làm Đệ nhất nghóa Tất-đàn. “Chân Phật tử”: Do nhập lý cho nên thành đệ nhất nghóa. “Lại, căn cứ hỷ tâm làm tứ Tất-đàn”: Tuy lại nêu ba và dùng ba nghiệp lãnh cùng giải mà tóm lại không ra ngoài hỷ. Cho nên, đơn cử từ hỷ để luận bốn lợi ích: “Động vui” là lợi ích Thế giới. “Chưa từng có” là nêu rõ sở đắc hỷ, tức Vị nhân. “Động giác quán” là nêu rõ phá hỷ xưa, tức Đối trị. “Động nơi hình” là nêu rõ biệt lý hiển, tức Đệ nhất nghóa. “Vân vân”: là khiến y văn đây giải thích tướng tứ Tất-đàn. Lại thông luận: Vì rằng tướng vui khác thường, cho nên tâm hình đều động. Khác thường cho nên là Thế giới Tất-đàn, động vui cho nên là Vị nhân, trừ nghi cho nên là Đối trị, nhập lý cho nên là Đệ nhất nghóa Tất-đàn. <篇>