<經 id="n1710">BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐATÂM KINH U TÁN HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1710 BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH U TÁN Đời Đường-Khuy Cơ soạn <卷>QUYỂN THƯỢNG Tán rằng: Nay vì hữu tình bị kiết tập che lấp, kính thọ Tà giáo, chê bai Đại thừa, như lời kinh nói là không là có, chấp theo sự hiểu biết riêng của mình mà sinh ra mong chán. Nếu mong cầu yếu chỉ xuất ly, ắt phải nương theo bạn thiện. Nhưng do mê lạc phương hướng mà học tập loạn động. Lại ngại biển kinh văn rộng lớn mà không tìm tòi học hỏi, tuy thích kinh lược nhưng không hiểu nghóa, đối với chân đế tục đế, tranh nói có, không, trong pháp của tâm, cảnh, bèn lần lượt lấy bỏ. Muốn cho nghóa của chánh pháp chân giả rõ ràng, để hữu tình tin học đều được lợi lạc, nay nương theo những điều tiên Hiền đã dạy, lược tán về Trung Đạo. Như trong kinh Giải Thâm Mật sau khi Phật dựa nơi Biến kế sở chấp để thuyết tất cả pháp đều không có tự tính, không sinh, không diệt, bổn lai Niết-bàn, cùng sinh Thắng nghóa ba vô tánh rồi, lúc ấy Bồ-tát Thắng Nghóa Sinh bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Đầu tiên Phật chỉ vì những người hướng đến Thanh-văn mà chuyển Tứ đế luân, tuy rất hiếm có nhưng chưa liễu nghóa, là chỗ đứng của các tranh luận. Tiếp đó là vì những người hướng đến Đại thừa mà chuyển Ẩn mật luân, thuyết giảng hết thảy các pháp đều không có tự tánh, không sanh không diệt, bản lai Niết-bàn, tuy kỳ diệu hơn những vẫn chưa liễu nghóa, cũng còn có chỗ đứng cho các tranh luận. Nay vì những người hướng tới Nhất Thiết Thừa mà chuyển Hiển liễu luân, Vô thượng, vô dung là giáo lý liễu nghóa chân thật trong Thắng nghóa, chẳng phải là chỗ đứng cho các tranh luận. Kinh Kim Quang Minh nói ba pháp đó tên là Chuyển, Chiếu, Trì. Do các hữu tình mê lầm nơi thật tướng của pháp mà khởi tạo hoặc nghiệp, luân hồi trong biển sinh tử. Đại Thánh pháp vương, chứng tự tính của pháp, tạo phương tiện thiện xảo, đúng với căn cơ, trong pháp ly ngôn, dùng lời thuyết rõ, muốn khiến theo đó đạt được thật tướng của Trung Đạo. Vì vậy có tụng: Chư Phật hoặc thuyết ngã Có lúc thuyết vô ngã Trong thật tướng các pháp Không Ngã không phi ngã Các kinh khác lại nói: Phật dùng một âm, diễn vô biên nghóa, chúng sanh tùy theo loài, đều hiểu được bằng nhau. Đã như trống trời ứng với niệm nghó mà phát tiếng, cũng như hạt ngọc Ma ni, như cầu mưa báu, ứng với vật. Tuy bày nhiều loại pháp môn nhưng trí kiến thuần hòa chưa sinh trái lạ. Sau khi Phật nhập Niết-bàn. Nhân nơi Đại Thiên kia, người và pháp ngổn ngang, trước là chấp chặt vào hữu, như có tụng: Phải xét kỹ Phật giáo Thánh Đế thuyết để nương Như đãi vàng trong cát Chọn lấy thứ chân thật Thánh Long Mãnh,… vì để trừ chấp hữu, sưu tập chân giáo, đề xướng Tông không, như có tụng khác: Chân tính hữu vi không Vì duyên sinh như huyễn Vô vi không có thật Chẳng khởi tựa hoa không Tụng kia nói: Theo thế tục thì có thể nói pháp là hữu (có) nhưng theo Thắng nghóa đế thì tất cả đều là không, tuy chân không đó, tính của nó chẳng phải là không hay có, nhưng dựa vào đó để thuyên bày lý của Thắng nghóa đều là tính Không. Hữu tình do vậy tiếp sinh chấp kiến Không. Bồ-tát Vô Trước lại xin Đức Từ Tôn thuyết về giáo lý Trung đạo trừ cả hai chấp, mà nói tụng: Hư vọng phân biệt có Hai thứ đó đều không Ở đây chỉ có không Ở kia cũng có đây Nên nói tất cả pháp Chẳng không, chẳng bất không Có không cùng với có Ấy tức hợp Trung đạo Kệ nói: Thế tục nói ngã và pháp là có, theo Thắng nghóa đế thì cả hai là không. Tuy Phật vì phá chấp không, chấp có, nhưng theo tổng tướng tuyên thuyết các pháp là có không. Hoặc thuyết các pháp là chẳng phải không chẳng phải có, tính danh tự là lìa không và có, lìa chẳng phải không, chẳng phải có, Thắng nghóa dựa vào văn tự để thuyên bày có không, có Có. Vì vậy, Đức Từ Tôn nói: Hữu vi, vô vi, gọi đó là có. Ngã và Ngã sở gọi đó là không. Chẳng phải nói pháp Có, không là đều rỗng không không có. Xét Thánh ý đó, thì không và có không trái nhau. Pháp lìa trí thuyên bày thì cái gì là không, gì là có? Đối cơ để trị bệnh mà giả nói là có, không. Các học đồ đời sau, theo văn khởi chấp, những điều mình hiểu cho là khế với Trung tông. Những điều người khác biết thì cho là sai lầm. Nay tán nghóa kinh để làm rõ về hai đầu mối đó. Diệu lý đúng hay sai kẻ trí sẽ rõ. “Bát-nhã Ba-la-mật-đa” là tên chung của Đại kinh. “Tâm kinh” là tên riêng của kinh này. Là Tâm kinh của Bát- nhã. “Bát-nhã” nghóa là Tuệ. Xưa chú thích có ba: Thật tướng: là chân lý. Quán chiếu: là chân tuệ. Văn tự: là chân giáo. Nay chú thích có năm: (thêm) Quyến thuộc nghóa là vạn hạnh. Cảnh giới nghóa là các pháp. Phước và trí đều tu, có và không cùng chiếu. Tìm lời để hội với ý chỉ, suy cứu lý mà sinh ra giải tỏ. Tính tuệ, tư trợ tuệ đều gọi là Bát-nhã. Bát-nhã có thể trừ chướng tập, chứng chân lý pháp đứng đầu các đức, dẫn dắt vạn hạnh, tuy chỉ gọi là tuệ nhưng nó gồm thâu tất cả pháp. “Ba-la” nghóa là Bỉ Ngạn. Xưa nói có hai là Bồ-đề và Niết-bàn. Nay chú thích có năm: 1.Sở tri (đối tượng nhận thức); 2.Giáo; 3.Lý; 4. Hạnh; 5. Quả. “Mật đa”: nghóa là ly, là đến. Do hành Bát-nhã, lìa các chướng nhiễm. Cảnh tận có không, hiểu tột cùng sáu Tạng. Nghóa xuyên suốt cả chân và tục, nghiệp đủ cả hai nhân. Giác đã mãn, Tịch đã viên, ấy là lên “Bỉ ngạn”. Thể và dụng cùng nêu, nên đặt tên gọi này. Nhưng những hạnh đã tu phải có đủ bảy thứ thù thắng phất mới được gọi là Ba-la-mật-đa: Trú nơi chủng tánh Bồ-tát. Dựa vào tâm đại Bồ-đề. Thương xót hữu tình. Hành đủ sự nghiệp. Thuộc về Trí vô tướng. Hồi hướng Bồ-đề. Không bị hai chướng xen tạp. Nếu hành tất cả nghiệp thiện của tuệ v.v… chỉ thiếu một trong bảy thứ đó thì chẳng đến bờ giác (bỉ ngạn). Đây là ở tại Sơ kiếp, gọi là Ba- la-mật-đa. Ở tại kiếp thứ hai gọi là Cận Ba-la-mật-đa, Ở tại kiếp thứ ba gọi là Đại Ba-la-mật-đa. Trong quả vị Phật càng không có tên gọi nào khác. Nay bao gồm cả nhân và quả nên nêu tên gọi chung. “Tâm” là tên gọi cho sự chắc thật, sự vi diệu tối thượng. Đại kinh (kinh Đại Bát-nhã) tùy căn cơ, nghóa văn đều rộng, người thọ trì, truyền pháp, tu tập, hoặc sinh ra khiếp sợ mà thối lùi, Bậc Thánh truyền pháp ghi lại những yếu chỉ chắc thật, vi diệu tối thượng ở trong đó để xuất riêng ra kinh này, ba phần, hai tựa, nên đều thiếu sót. Tổng hợp tinh vi, nêu bật đề cương. Sự tuy muôn tượng nhưng gom lại tức sắc mà là không. Đạo dù ngàn môn nhưng xuyên suốt vô trí mà gồm được. Chọn ý chỉ bí mật của văn rộng mà nêu cái Tâm thuần khiết để làm tên gọi. “Kinh” là Bờ Bến, là cách ngôn của diệu lý, là khuôn pháp thường hằng dẫn dắt chúng sanh mê lầm, muốn khiến họ tùy chứng, hoặc dựa, hoặc nêu về sự trinh thật của Bát-nhã mà nói kinh này. Kinh: Bồ-Tát Quán Tự Tại Tán: Thắng Không thì nói: Nay trong kinh này lược có hai phần: “Quán Tự Tại…” là phá hai chấp, hiển hai Không. “Bồ-đề tát đỏa…” là tán thán hai nương tựa, đắc hai lợi. Đại kinh nói: Phật bảo cụ thọ Xá-lợi-tử: Khi đại Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la- mật-đa nên quán như vậy: Thật có Bồ-tát nhưng không thấy có Bồ-tát, không thấy danh Bồ-tát vì tự tính của Bồ-tát là rỗng không, danh của Bồ-tát là rỗng không. Cho nên, nay nêu Bồ-tát là để kẻ kia không thấy là nhằm phá chấp sinh mà thuyết sinh Không. Theo Như ứng mà nói: Nay trong kinh này gồm có ba phần: “Quán Tự Tại…” là nêu bậc Thượng nhân tu hành, khuyên bày phát tâm. “Xá-lợi-tử…” là trình bày tên gọi của bậc có căn cơ, cảm nhận thuật về lý, bày thí dụ. “Bồ-đề tát đỏa…” tỏ rõ đức của việc nương theo đó mà học, tán thán lợi ích gặt hái được. Hoặc là: Khiến mài luyện. Đoạn trừ bốn xứ. Ly khổ, viên chứng. Trong phần mài luyện, có ba. 1.Nay nêu Bồ-tát là người trước đã tu hành trước để khuyên bày phát tâm, bắt đầu mài luyện (tâm); 2. Nghe Bồ-đề sâu xa rộng lớn, hoặc sanh thối khuất nên phải mài luyện tâm; 3. Bồ-tát Quán Tự Tại kia, xưa mới phát ý, có đủ các phiền não, ở trong võ vô minh mà kiến lập thắng tâm, xả thân mạng tài sản, cầu trí tuệ Phật, khởi đại dũng mãnh mà thành Đẳng giác, ta cũng nên như vậy để khuyến khích chính mình tăng tu, không nên tự khinh mà sinh thối lùi. “Quán”: Nghóa là quán xét, tuệ bi cứu giúp. “Tự Tại”: nghóa là không có trở ngại, diệu dụng cứu vớt các hữu thanh tịnh, ba nghiệp quy y ắt ứng nơi nguyện, sáu thông giáo hóa, không quản nguy khổ, nhanh chóng điều phục, làm bạn không mời trị bệnh đúng thuốc, gồm thâu lợi lạc khó lường, gọi là Quán Tự Tại. Lại nữa, Quán nghóa là chiếu tuệ rõ “không”, “có” Tự Tại nghóa là tùy ý, là quả thù thắng vốn được. Do xưa đã hành sáu độ, nay đạt được quả viên mãn. Trước là Tuệ, quán thành mười tự tại: Thọ mạng tự tại: Có thể kéo dài hay rút ngắn tuổi thọ. Tâm tự tại: không bị nhiễm sinh tử. Tài sản tự tại: Có thể hiện ra tùy thích, do bố thí mà được. Nghiệp tự tại: chỉ làm việc thiện và khuyên người khác làm việc thiện. Sinh tự tại: Tùy theo ý muốn mà có thể vãng sinh, do trì giới mà được. Thắng giải tự tại: Có thể tùy theo ý muốn mà biến hiện do nhẫn mà được. Nguyện tự tại: Tùy theo quán xét ưa thích đều thành do tinh tiến mà được. Thần lực tự tại: khởi thần thông tối thắng, do định mà được. Trí tự tại: Tuệ tùy theo âm thanh lời nói. Pháp tự tại: đối với khế kinh v.v.. do tuệ mà được. Ngôi vị Bổ xứ, đạo thành Đẳng giác, không có chỗ tối tăm nào mà không soi đến, gọi là Quán Tự tại. Nếu chỉ nói là Quán Âm thì từ và nghóa đều mất. “Bồ-tát”: là gọi tắt của từ Bồ-đề tát đỏa. Bồ-đề là Bát-nhã. Tát đỏa là phương tiện. Hai thứ đó có thể tạo tất cả lợi ích an lạc cho hữu tình. Lại nữa, Bồ-đề nghóa là giác, là quả của Trí mong cầu. Tát đỏa nghóa là hữu tình, là chúng sanh được Bi cứu độ, nương theo lời hoằng thệ, nên gọi là Bồ-tát. Lại nữa, Tát đỏa nghóa là dũng mãnh, siêng năng, tinh tấn, dũng mãnh mong cầu Đại Bồ-đề nên gọi là Bồ-tát. Lại nữa, người tu hành gọi là Tát đỏa, những hữu tình mong cầu Tam Bồ- đề nên gọi là Bồ-tát. Có đủ cả Bi và Trí, thương xót hành khắp, nối dõi Phật chủng làm thanh tịnh các cõi cứu giúp cõi uế. Cơ và cảm tương ưng nhau nên chỉ nêu lên Bồ-tát. Hoặc ở ngôi vị trên, chư vị có đủ cả đại tâm, diệu tuệ thành tựu đều là Quán Tự Tại, Hoặc chỉ rõ cái đó, bảo hãy nhìn cho kỹ gọi là Quán, chứ chẳng phải là các người ở phương Tây du hành đến đây. KINH: Hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật đa thời. (Khi thực hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa) TÁN: Người thắng không nói: Tiếp theo phá pháp chấp nên thuyết pháp “không”. Đại kinh tiếp nói: “Không thấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy tên gọi của Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì tự tính của Bát-nhã là không, tên gọi của Bát-nhã là không. Người Như ứng thì nói: hiển bày do học Tuệ mới chiếu tính không, là chỉ rõ về pháp cần phải tu trước tiên, thứ hai là mài luyện tâm. Nghóa là, thấy vạn hạnh của Bồ-tát rất khó thực hành, nếu sinh thối lui thì phải mài luyện tâm: “Ta từ vô thủy đến nay, vì để mong cầu an lạc thế gian tuy bị nhiều nỗi khổ vô nghóa mà vẫn còn chịu được, huống nữa là mong cầu Bồ-đề, để ra khỏi sinh tử, độ loài hữu tình, mà lại sinh tâm khiếp sợ thấp kém sao? Bát-nhã sâu xa này họ đã tu học, ta cũng phải vậy, tự cảnh tỉnh lấy mình, tăng tiến tu hành, không nên thối chuyển. Ngài Xá-lợi-tử trước phát đại tâm, nhưng vì thí mắt mà thối lùi, mong cầu tiểu quả, e rằng kiếp này lại bị thối lùi nên Đức Phật khuyên bày mài luyện. Về chữ “hành”: Người Thắng thông nói: Nếu theo thế tục, muốn chứng trí vô phân biệt, xuất thế gian quán “không” không điên đảo thì phải học khả năng từ bỏ tất cả sở duyên: văn, tư, tuệ… Học chiếu rõ (thấu rõ) không tức gọi là Hành. Nếu theo thắng nghóa, thì do vô sở đắc vô phân biệt nên đều là vô sở hành, đó gọi là Hành. Kinh Vô Cấu Xứng nói: Chẳng hành chính là Bồ-đề vì không có nhớ nghó. Đại kinh cũng nói: Không thấy hành, không thấy chẳng hành, vì không có tự tính. Nay ở đây nói hành là đều vô sở hành, ấy gọi là Hành, chẳng phải là nghóa hành. Hoặc có mật ý chọn nghóa khác giải thích nói: Nếu không có gì là hành, không có gì là chẳng hành thì đó tức là hành. Nếu có cái là hành, có cái là chẳng hành thì không phải hành. Lại có giải thích khác Động niệm vin duyên làm gốc cho sinh tử nên chẳng phải là Hành. Lắng tâm dứt nghó là gốc của xuất thế, đó gọi là hành. Người Như ứng nói: Ví như huyễn só có chỗ tạo tác tuy là không thật nhưng không phải không có tương tự. Nhân duyên đối đãi, nghe tin, học chứng, thuyết, từng không tạm bỏ, nhưng không phân biệt, không thấy tướng của hành, đó gọi là nghóa của hành, chẳng phải là đều không có hành. Vì bệnh mà nói trừ, chẳng phải là trừ pháp. Nếu vốn không có pháp để có thể hành để có thể trừ, tức là người ngu pháp tự xưng là mình đã thành giác ngộ, nói có mê có ngộ càng tự hủy hoại mình hơn nữa. Hoa đốm do đau mắt, thể của hoa đốm là không, nhưng không chữa trị sao? Bệnh mắt nhặm đã không phải có thì sao lại giả trừ? Bệnh mắt nhặm đã không trừ thì đầu tiên không có mắt chân, nhờ đâu thắng nghóa chiếu thể của hoa là không. Nếu không có gì là hành, không có gì là là chẳng hành, thì vô minh của hữu tình, không có gì là chẳng minh, nên từ vô thủy tất cả đều minh, trước đây chưa minh, nay thì minh cái gì? Liền giống dị đạo, “không có gì không làm”, ngược lý trái tông, sao thành Tuệ giác? Nếu tuyệt dứt tư lự níu kéo, tức chính là chân hành, thì vô tưởng v.v… đều là chân Thánh đạo và uổng thiết lập thọ trì hạnh chán bỏ, tạo sự tu hành có thể tư duy xét kỹ mau trừ tà vạy. Nay ở đây nói hành là: Tuy hành nhưng không thấy hành, chẳng phải là không có hành. Do kinh nói; không thấy hành, không thấy chẳng hành, tức cái hành đó là giả có, thật ra thì không có hành. Nếu không phải vậy thì chỉ nên nói là không thâý hành. Lại còn nói thêm là “không thấy chẳng hành”, để nói lý gì? Do đó, chắc chắn nên theo thuyết sau đây: Quả đức của Phật thù thắng vô biên, nếu chẳng tu lớn rộng thì không do đâu để chứng đắc, vì vậy nương theo nghóa đó mà nói về Hành phải có đủ hai loại chủng tính của Đại thừa, mới có thể tu hành dần dần ở trong năm ngôi vị. Hai loại chủng tính đó là: Chủng tính bổn tính trụ: nghóa là trú nơi bổn thức có thể sinh ra công năng của bổn tính vô lậu. Chủng tính Tập sở thành: nghóa là khởi lên do huân tập từ việc được nghe chánh pháp,… Vì sao biết được có chủng tính Bổn tính trụ nương theo đấy để tu tập nhân đại Bồ-đề? Như tính thích bố thí, thích ca ngợi khuyến khích người khác trong những sự việc vô tội, đúng thời mà thuyết giảng, người trách mình, mình không giận, người trao và kẻ nhận không có sai biệt, tâm không mê đắm trong tài sản báu vật lớn. Hoặc tính thành tựu, nghiệp ác yếu ớt không đủ làm tổn hại người khác, làm việc ác thì nhanh chóng sám hối, thường hành từ ái, biết ơn báo ơn. Phàm những điều mong cầu đều không phi pháp, ưa tu nghiệp phước, tội nhẹ sợ nặng. Thấy nghe người khổ hơn thân mình chịu khổ, thích cùng làm những việc thiện, xa lánh các pháp ác, không nói lời trách mắng với kẻ tùy tùng, thường ngưỡng mộ những người có đức. Hoặc bị người khác hại, không sinh tâm báo thù, người khác đến khuyên răn can gián, nhận lãnh mau chóng không kết hận, không ôm lòng oán giận lâu dài. Hoặc tính năng nổ, bỏ thói quen dậy trễ hễ làm việc thì mạnh dạn quyết đoán, ưa làm đến cứu cánh, gặp việc đại nghóa thì không sợ hãi, không tự khinh miệt. Hoặc đối với nghóa pháp, tính tư duy kỹ càng, ham thích tịch tónh, ái mộ xuất ly, không quên những điều đã làm, từ bi với kẻ oán thù. Hoặc tính thông tuệ hễ học mau thành, trong sự lìa ác có lực xét chọn, tính không thề khởi phiền não phẩm thượng trói buộc, tạo nghiệp vô gián đọan các thiện căn. Giả sử bị sinh ở các cõi ác cũng có thễ mau chóng ra khỏi, cũng không thọ nhận các khổ lớn ghê gớm. Tuy bị khổ nhẹ cũng phát sự chán ghét, sinh lòng thương xót sâu xa với các hữu tình khổ. Nếu thấy những tướng kể trên thì biết chắc chắn người đó có bổn tính Bồ-đề nhưng do chưa gặp thiện hữu chân thật thuyết giảng về Bồ-đề, hoặc tuy đã gặp thiện hữu, đã nghe thuyết nhưng vì điên đảo chấp học, phương tiện kiêu mạn, chậm chạp, thiện căn chưa chín muồi, cho nên vẫn ở tại sinh tử. Nếu nhập vào năm vị, tu vô biên chủng pháp, thiện thù thắng gọi là Tập sở đắc (do tu tập mà được). Năm vị là gì? 1.Vị Tư lương: Từ mới phát khởi tâm Bồ-đề, cho đến bắt đầu tu bốn Quán tầm tư, trú nơi bốn mươi Tâm, đều thuộc về vị này. Bốn mươi tâm gồm: Mười tâm tín. Tín Tinh tiến, Niệm, Tuệ, Định, Thí (còn gọi là Bất thối) Giới, Hộ, Nguyện, Hồi hướng. Mười Trụ: Phát tâm, Trị địa, Tu hành, Sinh quý, Phương tiện, Chánh tâm, Bất thối, Đồng chân, Pháp vương tử, Quán đảnh. Mười Hạnh: là Hoan hỷ, Nhiêu ích, vô khuể, Vô tận, Lìa si, Thiện hiện, vô trượt, Tôn trọng, Thiện pháp, Chân thật. Mười Hồi hướng: là Cứu hộ chúng sanh, bất hoại. Cùng với tất cả Phật. Đến hết thảy xứ, Vô tận tạng công đức. Tùy thuận thiện căn bình đẳng. Tùy thuận cùng quán tất cả chúng sanh. Như tướng, Không buộc không chấp, Pháp giới vô lượng. 2.Vị Gia hạnh: là ngôi vị sau vị Tư lương, gồm có bốn loại Đẳng trì: Minh đắc. Minh tăng. Ấn thuận. Vô gián. Vị Thông đạt: Từ sau bốn Định trên là bốn bậc: Sơ địa, Sơ tâm, Chân tướng, Kiến đạo. Vị Tu tập: Từ sau Kiến đạo đến Định Kim cang gồm mười địa nơi tu đạo. Mười Địa là: Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diễm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ, Pháp vân. Vị Cứu cánh: Là sau khi đã đạt Định Kim cang, trong Đạo giải thoát là ba loại Phật thân, bốn Diệu viên tịch, quả Phật viên mãn. Tuy đã biết về năm vị nhưng tu hành như thế nào? Các người tu hành muốn chứng Bồ-đề tạo lợi lạc lớn thì trước hết phảt phát khởi tâm Đại Bồ-đề, rồi mới hưng khởi chánh hạnh. Ví như biển lớn mới bắt đầu có một giọt nước cũng có thễ làm trú xứ cho các thứ báu. Tâm phát khởi đầu tiên cũng lại như vậy, pháp thiện của năm thừa đều nhân tâm này mà sinh ra. Lại như thế giới mới bắt đầu dần dần khởi thì đã làm nhân cho sự gánh vác các chúng sanh. Tâm này cũng vậy, có thễ làm chỗ y chỉ, gánh vác vô lượng chủng loại nơi năm cõi. Lại như hư không giới, không có gì mà không bao gồm ở trong đấy. Tâm đại Bồ-đề cũng lại như vậy, hiện bày khắp hữu vi “không” đều chán lìa, như Bồ-đề “không” đều cầu chứng đắc, tận chúng sanh “không” đều nhớ nghó sâu xa. Sơ phát tâm đó, tuy là một niệm thấp kém, nhưng phước tụ còn khó nói hết, huống nữa là công đức lợi lạc trải qua nhiều kiếp phát tâm tu hành. Nhân gì phát tâm? 1.Thấy nghe về thần lực của Phật. 2.Nghe thuyết về tạng giáo của Bồ-tát. 3. Thấy nghe Phật pháp sắp diệt, nghó rằng: pháp trú có thể diệt được đại khổ. 4.Mạt kiếp, thường thấy chúng sanh si mê, không biết hổ thẹn, keo kiết, ganh tị, lo khổ, hành ác, phóng dật, biếng nhác, bất tín, nghó rằng: khi thế gian ô trược hay khởi các phiền não xấu ác như vậy, ta phải phát tâm khiến những người khác học theo ta khởi nguyện Bồ-đề. Do vậy liền phát tâm đại Bồ-đề. Muốn phát tâm, trước tiên phải có đủ mười thắng đức, khởi ba diệu quán. Mười thắng đức là: Thân cận Thiện hữu, cúng dường chư Phật, tu tập thiện căn, chí cầu thắng pháp, tâm thường nhu hòa, gặp khổ nhẫn được, từ bi thuần hậu, thâm tâm bình đẳng, tin ưa Đại thừa, trí tuệ cầu Phật. Ba Diệu quán là: Chán lìa hữu vi: Nghóa là quán cõi ác sinh tử không lúc nào ngừng nghỉ những khổ não bức bách. Ở trong tự thân, năm uẩn, bốn đại sinh ra nghiệp ác, chín lỗ thường chảy các thứ bất tịnh, là chỗ tập khởi của ba mươi sáu vật, vô lượng phiền não thiêu đốt thân tâm, như bọt nước như bong bóng nước niệm niệm chảy dời. Si mê che lấp nên tạo nghiệp, luân hồi trong sáu cõi, do đó tư duy xét kỹ, thâm tâm chán bỏ. Cầu Bồ-đề: nghóa là quán Phật quả tướng tốt trang nghiêm, Pháp thân vốn tịnh, có đủ giới uẩn v.v…. lực vô úy, vô lượng thắng pháp, thành hai diệu Trí, thương xót chúng sanh, dẫn dắt ngu mê khiến cho đi đường chánh, các loài hữu tình, gặp đều trừ não, thấy những công đức đó mà mong cầu tu tập. Niệm chúng sanh: Nghóa là quán chúng sanh bị mê lầm do si ái, chịu khổ rất lớn, không tin nhân quả, tạo nhân cho nghiệp ác lìa bỏ chánh pháp, tín thọ tà đạo, bị trôi theo bốn dòng, bị rỉ chảy ở bảy lậu, tuy sợ chúng khổ, nhưng vẫn làm nghiệp ác, thường tự tạo ưu bi khổ não, tuy yêu nhau biệt lìa là khổ, nhưng thấy rồi vẫn cứ yêu. Tuy oán nhau gặp nhau là khổ, nhưng biết rõ rồi vẫn cứ oán. Vì dục mà khởi nghiệp, sinh ra khổ não không chán, mong cầu sự an vui mà phạm giới, ôm ấp sự lo buồn, phóng dật mà tạo nghiệp vô gián, ương bướng không biết xấu hổ, chê bai Đại thừa, si chấp sinh mạn, tuy là thông sáng lanh lợi, nhưng đều đoạn dứt thiện căn. Vọng tự cao ngạo, thường không hối cải, tuy được nghe pháp nhưng không trì, không tu, lại đi tu tập nghiệp tà, đắc được quả tốt ở thế gian thì cho là đã chứng được Niết-bàn, thọ hưởng hết dục lạc kia rồi, vẫn trở lại sinh vào cõi ác. Thấy những hạng người như vậy, tâm sinh thương xót sâu xa, tiếp đó phải phát tâm, phát nguyện như vầy: Nguyện ta quyết định thường chứng Chánh đẳng Bồ- đề vô thượng, có thễ làm tất cả nghóa lợi cho hữu tình. Hoặc tùy ý vui thích danh hiệu của chư Phật, giống như Phật Thích ca, ban đầu phát nguyện hiếm có: Ở ba vô số kiếp Quá khứ gặp Thắng quán (Phật Tỳ-bà-thi) Phật Nhiên Đăng, Bảo kế Trước Thích ca Mâu ni Bồ-tát Vô Trước do đấy mà nói: Sức thanh tịnh tăng thượng Tâm kiên cố thắng tiến Là Bồ-tát mới tu Vô số ba đại kiếp Trước tiên là khởi các căn: Tín, Tinh tiến, Niệm, Định, Tuệ để trừ diệt chướng nhiễm. Tiếp đó là phát đại nguyện thường gặp bạn lành để làm thắng duyên. Tuy gặp bạn xấu tìm cách phá hoại nhưng cuối cùng vẫn không xả bỏ Tâm Bồ-đề, những pháp thiện vốn đã ta dần dần tăng trưởng. Do không thối lùi mà được gắng sức phát tâm. Có đủ các điều trên gọi là bắt đầu tu hành. Theo những điều trên, thì mới phát tâm rồi, tức gọi là hướng vào Bồ-đề vô thượng. Dự vào số các Bồ-tát Đại thừa ở biển sinh tử tạo ra hạn lượng. dũng mãnh nhất định sẽ mau chóng bước lên bờ giác.Tiếp đó là phải tu hành. Ở đây có hai loại: 1. Lược; 2. Rộng. Lược lại có ba: Cảnh; 2. Hành; 3. Quả đạt được. Do trước kia không biết cảnh giới chân và vọng, khởi các nhân phiền não mà thọ khổ, nay thì lật ngược lại chúng, cho nên cũng có ba. Do vậy trước tiên hết phải quán xét kỹ về cảnh. Đã biết thiện ác, thì hành tu đoạn thành tựu, nhân hành đã viên mãn thì liền chứng quả đức. Thánh giáo của chư Phật, tuy là vô biên, nhưng nói về môn tu hành thì không ngoài ba loại, vì vậy mà người tu hành phải nương vào đó mà học. Thế nào gọi là cảnh giới sở quán? Nghóa là, đầu tiên quán sát, Tất cả sắc tâm, tâm sở,…theo duyên mà sinh ra tựa như hoa đốm ở hư không, tướng nó lừa dối mê người ngu gọi là y tha khởi. Người ngu không hiểu, vọng chấp đó là ngã pháp. Dụ cho tánh tướng hoa đốm hư không thật sự đều không có gọi là kế sở chấp. Trên y tha khởi, ngã và pháp vốn không. Chân lý được hiển rõ do quán cái không đó, ví như hư không, gọi là viên thành thật. Các pháp sở tri (đối tượng nhận thức) không ngoài có, không. Không có pháp, thể không có chỉ có thể nói chung gọi là kế sở chấp tức sở chấp do tâm vọng tính toán đặt ra. Có pháp, thể có, theo lý trên đây tương ưng mà phân biệt. Các pháp hữu vi gọi là y tha khởi, là sự của duyên sinh. Tất cả pháp vô vi gọi là viên thành thật, là lý của pháp gốc. Hoặc pháp hữu lậu gọi là y tha khởi vì tính điên đảo. Các pháp vô lậu gọi là viên thành thật, vì chẳng điên đảo. Khi biết cảnh giới rồi thì tương ưng chánh hành: Một kà dựa vào học hỏi (nghe pháp) để thành tựu. Hai là dựa vào tư duy để thành tựu. Ba-là dựa vào tu tập để thành tựu. Cả ba thứ đó tuy chung cho tất cả công đức của hai thứ phước và tuệ, nhưng là cương yếu sâu xa căn bản của hành trì. Dễ nhập thắng nghóa, ứng thời không gì bằng, lìa các sai lầm. Xét cho kỹ thì chỉ Duy thức là tối quan trọng. Tiệm ngộ, đốn ngộ, Tiểu thừa Đại thừa, đều nương theo. Vì nói lý thâm diệu này. Vì vậy, kinh Hoa Nghiêm thuyết: Tâm như người thợ vẽ Vẽ các loại năm ấm Trong tất cả thế gian Không pháp nào không tạo Như Tâm, Phật cũng vậy Như Phật chúng sanh vậy Tâm Phật cùng chúng sanh Cả ba không sai khác Chư Phật đều hiểu rõ Tất cả từ tâm chuyển Nếu hiểu được như vậy Người ấy thấy Phật chân Thân cũng chẳng là Tâm Tâm cũng chẳng là thân Khởi tất cả tác dụng Tự tại chưa từng có Nếu người muốn cầu biết Hết thảy Phật ba đời Phải nên quán như vậy Tâm tạo các Như Lai. Luận Trí Độ nói: Bồ-tát lại khởi niệm này: Tất cả những thứ vốn có trong tam giới đều do tâm tạo, do tùy thuộc ý niệm của tâm nên thảy đều được thấy, dùng tâm thấy Phật, dùng tâm làm Phật. Tâm tức là Phật, tâm tức là thân ta. Tâm chẳng tự biết, cũng chẳng tự thấy. Nếu chấp giữ tướng của tâm thì đều là không có trí. Tâm cũng là hư dối, đều theo vô minh mà ra. Nhờ tướng của tâm ấy tức hội nhập thật tướng của các pháp. Cho nên quán Duy thức là đệ nhất tối thượng. “Thức” là tâm. Do tâm tập khởi vẽ vời làm chủ. Đứng riêng gọi là Duy, gồm thâu các pháp khác. Duy gọi là ngăn chận chấp ngã và pháp lìa tâm mà có. Thức là biểu hiện, nhân duyên và pháp tính đều không lìa tâm. Hiển bày pháp lìa tâm, quyết định là không có, nên gọi là Duy thức, chứ chẳng phải tất cả chỉ duy một thức tâm, ngoài ra không có vật gì khác. Bạn thiện bạn ác các quả, các nhân, lý, sự, chân, tục đều không có không có thức. Tính Kế sở chấp chỉ là thức hư vọng. Tính Y tha khởi chỉ là Thức thế tục. Tính của Viên thành thật chỉ là Thức thắng nghóa, do đó các pháp đều không lìa tâm. Như có tụng nêu: Quỷ, bàng sinh, người, Trời. Tùy mỗi loài cảm ứng Những sự, tâm khác nhau Có nghóa mà chẳng thật Nơi các sự quá khứ Và mộng cảnh ảnh hiện Tuy sở duyên chẳng thật Nhưng tướng cảnh thành tựu Kệ này, rất nhiều chổ chốn nói duy chỉ có tâm, e rằng văn rườm rà nên lược không nói. Nay xét kỹ Thánh giáo nói về Duy thức tuy có vô lượng thứ, nhưng không ngoài năm điều chỉnh: Dứt bỏ hư, giữ lại thật: Quán Biến kế sở chấp, chỉ do hư vọng khởi, đều không có “thể, dụng”, phải chính thức trừ bỏ. Quán Y tha, Viên thành, thể của các pháp là thật, nơi cảnh giới của hai trí, nên giữ làm có. Như có Tụng nêu: Danh, sự cùng làm khách Tính chúng nên tầm tư Với hai cũng phải suy Duy lượng và duy giả Thật trí quán vô nghóa Chỉ có phân biệt ba Kia không nên đây không Ấy tức nhập ba tính “Dứt bỏ”: là quán “không” đối phá chấp hữu “Giữ lại”: là quán “có” đối dứt bỏ chấp không Nay quán “không, và có mà trừ bỏ có, cái không. Nếu có cái không đã là không có thì cũng không có “không và có” Quán “không và có” là đối đãi nhau, để thành tựu cái thuần không, thuần có thì không và có của pháp nào? Vì vậy, muốn chứng nhập pháp tính lìa ngôn từ đều cần phải nương vào phương tiện đó để vào chẳng phải cho là không và có đều đã quyết định. Ở vị quán chứng chân thì chẳng phải có, chẳng phải không, pháp không phân biệt, khó nghó bàn. Nói phải quán Không mới chứng chân, nghóa là vì quán ngã và pháp do biến kế sở chấp kia đều là “không”, nên được vào chân tính. Thể của chân chẳng phải rỗng không. Ở đây Duy thức nói là đã ngăn chặn sở chấp, như chấp các thức là thật có, là duy nhất, thì đã là sở chấp tức cũng phải trừ bỏ. Những thứ nơi các chỗ khác nói như: Tất cả duy thức, hai Đế, ba tính, ba vô tánh, ba môn giải thoát, ba nhẫn vô sanh, bốn Tất-đàn, bốn Ốt đà nam, bốn tầm tư, bốn Trí như thật, năm quán Nhẫn ,… đều gồm thâu trong quán này. Xả bỏ tạp giữ lại thuần: Tuy quán sự, lý đều không lìa thức nhưng trong nội thức này có cảnh có tâm. Tâm khởi phải nhờ cảnh giới mà sinh. Chỉ gọi là Duy thức chứ không gọi là Duy cảnh vì Thức chỉ ở bên trong, mà có cảnh chung cũng bên ngoài, e lạm dụng bên ngoài, nên chỉ gọi là Duy thức. Lại nữa, các phàm phu ngu si mê chấp ở cảnh, khởi nghiệp phiền não, trầm luân trong sinh tử không hiểu quán tâm, siêng cầu xuất ly. Vì thương xót những kẻ đó nên nói là Duy thức. Khiến cho tự quán tâm, giải thoát sinh tử, chứ chẳng phải cho là cảnh trong như bên ngoài đều không có. Do cảnh có lạm dụng nên xả bỏ nên không gọi là Duy. Khi thể của tâm đã thuần, lưu lại gọi là Duy thức. Vì vậy, khế kinh nói: Tâm, ý, thức sở duyên Đều chẳng lìa tự tính Nên Ta nói tất cả Chỉ có thức không khác Các kinh khác lại nói: Tam giới duy tâm. Gom lại thì đều gồm thâu trong quán này. Thâu nhiếp ngọn trở về gốc: Cảnh giới được giữ lấy (sở thủ) ở trong tâm, hiển hiện rõ ràng, tác dụng của tâm là chủ thể giữ lấy (năng thủ) ở bên trong cũng như vậy. Cả hai pháp đó đều nương theo thức mà có, lìa thể của thức thì pháp gốc, ngọn đều không có. Luận Duy thức Tam thập tụng nói: Do giả nói ngã, pháp Có các loại tướng chuyển Sở biến kia dựa thức Năng biến này chỉ ba Luận Thành Duy Thức nói: Biến: Nghóa là thể của thức chuyển tương tự; hai phần, tướng và kiến đều nương vào tự chứng mà khởi. Kinh Giải Thâm Mật nói: cái mà các thức duyên vào chỉ do thức biến hiện. Thâu tóm ngọn của tướng kiến trở về gốc của thức. Những thứ quán về lý, sự, chân, tục,… đã nói đa phần đều gồm thâu trong quán này. Ẩn giấu kém hiển bày hơn: Tâm và tâm sở đều có thể biến hiện, nhưng chỉ nói là Duy tâm, chứ không nói là Duy tâm sở. Tâm vương thì thể trội hơn, còn những thứ nương dựa vào vương thì kém, ẩn giấu cái kém, chỉ hiển bày pháp hơn. Cho nên Bồ-tát Từ thị (Di lặc) nói: Tâm, tợ tâm đều hiện Như vậy tợ như tham Hoặc tợ như với Tín Không pháp nhiễm thiện riêng Trưởng giả Vô Cấu Xứng nói: “Tùy tâm cấu, tịnh,…”, đều gồm thâu trong quán này. Bỏ tướng chứng tánh: Thức gọi đó là đối tượng được biểu hiện. Có đủ cả lý và sự. Sự là tướng, dụng, dứt bỏ không giữ lấy. lý là tính, thể phải cầu tác chứng, cho nên tụng nêu: Nơi đây khởi biết rắn Thấy dây rõ nghóa không Khi chứng thấy phần kia Biết như rắn, trí loạn Các kinh khác nói: Tự tính tâm thanh tịnh, các pháp Hiền Thánh đều tức là chân như, tướng Y tha, tính thức căn bản. Lại nữa, nói một Đế, một Thừa, một nương Phật tính, Pháp thân, Như Lai tạng, Không, Chân như, Vô tướng, Bất sinh, Bất diệt, pháp môn bất nhị, không có các phân biệt, quán lìa ngôn,… đều gồm thâu trong quán này. Năm loại quán đã nói trên, không và có, cảnh và tâm, dụng và thể, tâm vương và tâm sở, sự và lý, từ thô đến tế, lần lượt cùng nối đẩy nhau, diệu lý của Duy thức gồm thâu tất cả nhờ văn, tư, tu mà thành diệu tuệ, làm thể của quán. Xét chọn rõ ràng, chẳng phải là thiện sinh đắc. Nếu quán Dục giới thì chỉ có văn và tư. Quán Sắc giới thì cả văn, tư, tu. quán Vô sắc giới thì chỉ có tu. Quán Vô lậu tu thì nghóa chung cả hai thứ trước. Các duy thức đó, từ lúc mới phát ý, trong bốn mươi tâm, lắng nghe, tư duy chỉ là Tín hiểu sâu xa, tùy theo cảnh gặp, y giáo mà tư lường, khiến tâm quán kia dần dần tăng trưởng, chưa có thể là vị tu quán hai thủ “không”. Tuy chút ít vào vị tu nhưng vẫn chưa phải chính thức tăng trưởng. Ở vị gia hạnh, trong bốn Đẳng trì, khởi bốn tầm tư, quán kỹ các đối tượng đã giữ lấy (sở thủ) hoặc danh hay nghóa, tự tính sai biệt, chỉ là giả có thật sự không có, khởi Trí như thật, đối với thức năng thủ biết khắp là chẳng phải có. Thánh Từ Tôn giáo truyền tụng: Bồ-tát ở vị định Quán ảnh chỉ là tâm Nghóa tưởng đã diệt trừ Xét kỹ chỉ tự tưởng Trụ nội tâm như vậy Biết sở thủ chẳng có Tiếp Năng thủ cũng không Sau xúc vô sở đắc. Bồ-tát ở ngôi vị này, tuy đắc tu quán, nhưng vì vẫn còn vướng tướng nên chưa có thể chứng thật. Ở trong ngôi vị Thông đạt thì vô phân biệt, với các sở duyên đều không có gì là đắc: lý và trí đã ngầm hợp thì tâm và cảnh đã hội ngộ sâu xa, khi tướng của có và không không hiện tiền, thì chỉ chân lý của duy thức mới gọi là chứng đắc. Cho nên Bổn tụng nói: Lúc đối với sở duyên Trí đều vô sở đắc. Bấy giờ trụ Duy thức Xa lìa tướng hai thủ. Khi đã chứng chân thức rồi, sau đó khởi Hậu đắc trí, mới chứng tục thức. Kinh Hoa Nghiêm nói: Chẳng phải không thấy Chân như Mà hiểu được các hành Đều như các sự huyễn Tuy có nhưng chẳng thật Đạt đến ngôi vị này, gọi là đạt pháp giới, trụ Địa Cực hỷ, sinh nơi nhà Như Lai, tự biết không lâu sẽ thành Vô thượng giác. Ở ngôi vị tu tập thì sự tu có sai biệt. Trong bốn Địa đầu tiên, Duy thức chân tục đều chứng từng phần riêng nhau. Đến Địa thứ năm, mới hơi hợp quán, phải hết sức tạo công dụng, chưa được thường tự nhiên. Đến Địa thứ bảy, quán thức chân tục, tuy đắc nhưng thời gian dài và có gia hạnh. Từ Địa thứ tám trở lên thì không cần gắng sức tu, mà tự tại ở trong “không” khởi thắng hạnh. Đến ngôi vị cứu cánh thì tuy không còn tu nữa, nhưng niệm niệm đủ có thể duyên với thức chân tục. Có hai loại tu: 1.Hiện hành. 2.Chủng tử. Ở hai ngôi vị đầu, ba Tuệ hữu lậu đều chung hai loại tu. Trong vị Thông đạt, tu tuệ vô lậu, thì tu cả hiện hành và chủng tử. Hữu lậu thì chỉ tu chủng tử. Tại ngôi vị tu tập, địa thứ bảy trở về trước hữu lậu và vô lậu đều có đủ cả ba tuệ, tu cả hiện hành và chủng tử. Ở ngôi vị cứu cánh, tất cả hữu lậu đều xả bỏ, tuy chỉ là vô lậu nhưng có đủ cả hiện hành và chủng tử. Gọi là tu, tức khiến cho quán về chủng tử và hiện hành, lần lượt tăng thắng, sinh trưởng viên mãn. Người được tự tại thì vị dưới cũng tu vị trên. Người chưa tự tại thì không thể tu trên. Đó là tu của Duy thức, gồm thâu chung các hành vì các hành đều nương nơi duy thức mà tu. Đó là lược nói về tu hành. Còn quả tướng thì sao? Người tu hữu lậu thì có thể chiêu cảm tất cả quả diệu ở thế gian. Người tu vô lậu thì vónh viễn diệt trừ các chướng, đắc đại Bồ-đề, cùng tận vị lai, rộng sinh làm lợi ích. Đó là nói về chứng đắc riêng. Nếu hỗ trợ nhau thì thâu gồm thì chứng đắc tất cả. Trên đã nói về tu lược, còn tu rộng thì sao? Tu rộng cũng có ba thứ: Xứ sở học. Pháp tu học. Chủ thể tu học. Đầu tiên là phải biết xứ của đối tượng, tiếp đến là phải nương vào giáo pháp, như vậy mà tu học, sau cùng mời thành người là chủ thể tu học. Do đó, cả ba thứ đều được gồm thâu trong hạnh Bồ-tát. Phần một: Xứ sở học gồm có năm loại: Xứ sở hóa: Nghóa là phải hiểu rõ ba thừa bất định, chủng tánh A-điên-để-ca, sai biệt, như ứng hợp mà thành thục. Xứ lợi hành: Hoặc thuần là tự lợi, như vì mình mà ưa cầu của cải thọ dụng. Vì keo kiệt pháp mà thăm hỏi, thọ trì. Vì muốn sinh nơi cõi Trời thọ diệu lạc mà trì giới tu hành. Cầu quả có nhiễm để cúng dường Tam bảo. Vì tham lợi lạc, danh dự mà nói về đức của mình khiến cho người thoát nạn, rồi trở lại tự thâu nhận, mê đắm vị định, bỏ tạo lợi cho hữu tình. Nếu thuần là lợi tha: như vì tà kiến mà tu bố thí,… vì kiến chấp không nhân mà thiếu hành thuyết pháp. Những thuần lợi như thế đều phải trừ đoạn, phải khéo siêng tu hai lợi không tội. Xứ chân thật nghóa: Nghóa là đối với tính như sở hữu, tính tận diệt sở hữu, những thành tựu của thế gian, thành tựu của đạo lý, hai loại chướng ngại chân thật của trí thanh tịnh hiện hành… tùy tương ứng hợp mà tu đoạn. Xứ oai lực: Nghóa là oai lực của thần thông, sáu Ba-la-mật có thể đoạn dứt các thứ keo kiệt,… cho đến oai lực của pháp thiện cho quả vị lai. Vì lợi lạc cho hữu tình mà gắng chịu khổ lớn, bốn loài tín nhờ, tám tướng hiện hóa, mù lòa tật nguyền, gặp đều được lợi ích, oai lực cùng được sanh. Pháp giới hữu tình, pháp khí, xứ và thời đều có thể nhận biết rõ. Thần thông hóa cảnh, hiện bày khắp vô biên giới với oai lực cộng và bất cộng. Đã biết về năm lực đó, thì nên siêng năng tu thành pháp Phật của chính mình. Xứ Bồ-đề: Nghóa là tất cả công đức của trí đoạn, phải thấu đạt khắp, mong sẽ chứng quả. Năm xứ như trên, trước tiên là phải thấu đạt đúng căn cơ của đối tượng được hóa độ rồi mới phát khởi thắng hạnh lợi tha. Tiếp đó, phải biết thật nghóa để có thể đoạn, có thể tu. Đối với môn oai lực, tu thành tự lợi, sau cùng đối với quả vị Bồ-đề vô thượng, yêu thích mong cầu, siêng năng tu chứng. Biết rõ về học xứ rồi, tiếp đến là tu học. Pháp Tu học là: Đầu tiên là với công đức của Tam bảo, oai lực của Phật Bồ-tát, các nghóa chân thật, nhân quả không đảo, nên đắc ng- hóa lợi, đạt được phương tiện đó, tịnh tín, hiểu rõ những lời thiện trong các khế kinh v.v…. quyết định hỷ lạc. Tiếp đến là phải cầu pháp, phải ở nơi tất cả pháp Phật: Nội Luận, Nhân luận, Thanh Luận, Y Luận, Công luận, siêng cầu chân chánh. Nên cầu như thế nào? Với chánh pháp của Phật, phải trụ nơi dũng mãnh, yêu kính cần nghe. Giả như nghe được một câu pháp thiện, dù đường đi như sắt nhọn hãy còn vui vẻ bước vào, huống hồ là muốn nghe nhiều lời nghóa thiện, tuy yêu tự thân và của cải, đồ dùng, nhưng so với yêu quý chánh pháp chẳng thể thí dụ được, không cho là đủ, không chán mệt, thâm tín, nhu hòa, tâm thẳng thấy thẳng, yêu đức yêu pháp, đến chỗ Pháp sư, không có tâm thắc mắc, cật vấn, chỉ có các tưởng về báu diệu, tuệ nhãn, trí minh, quả thù thắng, không tội, vui ý, sinh sự kính trọng sâu xa, không có tâm cao ngạo, kiêu mạn, không có tưởng về huỷ hoại giới, tự ti, câu văn xấu xa, thô lỗ, ý khác lạ. Chỉ vì cầu thiện, chẳng phải phô diễn đức mình, không vì danh lợi mà cầu chánh pháp, đúng thời ân trọng, cung kính lắng nghe, đừng khởi tâm tổn hại tìm kiếm lỗi lầm. Cũng không khinh chê đối với tự thân, chỉ cầu sự hiểu biết, nên chuyên chú lãnh nhận. Vì nghóa gì mà cầu? Đối với nội minh, vì lợi ích bản thân tu tập, tỏ ngộ ở người khác đối với xứ Nhân minh, vì hàng phục tà luận, an lập chánh đạo, đối với xứ thanh minh, để khiến tín ưa điển ngữ, chúng sanh sinh kính trọng thân sâu đối với xứ Y phương minh, để dứt các bệnh, tạo an lạc cho chúng sanh, đối với xứ Công nghiệp minh: Vì để dùng ít sức mà năng suất cao, sản lượng nhiều, tạo lợi ích rộng lớn. Với năm thứ đó, phải lần lượt siêng cầu. Không có chướng tri thì sinh tư lương mau chóng viên mãn. Tiếp đến là phải vì người khác mà thuyết giảng chánh pháp thuyết về xứ năm minh, tùy chỗ ứng hợp mà lợi lạc. Thuyết giảng như thế nào? Nghóa là phải an trú oai nghi nơi pháp, không vì không bệnh, ở tòa cao mà thuyết giảng chánh pháp. Do chư Phật, Bồ-tát luôn kính trọng pháp, nên khiến mọi người hết sức quý trọng pháp. Phải thuyết giảng không gián đoạn, đừng tạo ra quyền, hành pháp sư mà tùy đại chúng vui thích lần lượt nêu ra giải thích, không có bỏn sẻn keo kiệt, gọi là tùy thuận thuyết. Đối với những người oán thù, phải trú nơi tâm từ. Đối với những người hành ác thì trú nơi tâm lợi ích. Đối với những người ưa thích phóng dật, khổ não kém cõi thì phải trú vào tâm lợi ích, thương xót, không khởi tâm đố kị, tự khen mình, chê bai người, không mong cầu danh lợi, cung kính, tán thán mà thuyết pháp. Tiếp theo là phải tu hành thường giỏi xa lìa tội lỗi của ba nghiệp mà Phật đã ngăn không tu hành sự nghiệp, trái nghịch những gì cho phép, một mình ở chổ vắng lặng suy tư về những pháp đã nghe luôn trân trọng, quan sát, lường xét không gián đoạn, chưa biết thì cầu biết, đã biết thì đừng quên, dù chưa đạt cũng không sinh ra phỉ báng. E không có mắt Tuệ, thẳng tâm mạnh tin, khéo biết mật ý, thuyết lạ không động thì chuyên chú buộc tâm ở cảnh lìa ngôn từ, lìa các hý luận, không có tưởng nhiễu loạn, tu Xa ma tha (chỉ) và Tỳ bát xá na (quán). Tiếp đến nên truyền dạy, phải quán nơi tâm, căn, ý thích người nghe tùy nghi thuyết giảng ở mức vừa phải, khiến họ xả bỏ mọi tăng thượng mạn,… Tiếp nữa nên răn dạy; phải ngăn chặn những điều có tội, khai mở những điều vô tội, răn bảo như pháp những sự hiện hành, những người vừa hành phạm. Đối với kẻ phạm nhiều lần khởi tâm không nhiễm khác, thì thân thiện ý lạc trách cứ khiến nhớ, đừng để người phạm gồm thâu nhiều phi phước. Những người chánh hạnh thì từ ái ca ngợi, nhẹ nhàng giải bày khiến họ vui vẻ tăng tu. Tiếp đến là an định ba nghiệp: Trước là dùng của cải vật dụng làm lợi ích cho hữu tình, khiến họ nghe những điều đã thuyết giảng, tuân theo lời dạy mà thực hành. Đối với những kẻ si ám thì phải dùng ái ngữ, khiến họ chấp nhận, suy xét chánh lý, nhổ bỏ những chỗ bất thiện, an trụ ở chỗ thiện. Đối với các sự nghiệp chánh, phải cùng tu hành kh- iến cho các chúng sanh được hóa độ không theo lời nói cuả kẻ khác. Tiếp theo là tu Ba-la-mật-đa. Thí: Thí tức là vị xả bỏ, ba nghiệp không tham. Hễ hành bố thí, nếu chỉ khiến họ vui vẻ mà thôi, không tạo lợi thiện, hoặc chẳng phải lợi lạc thì đều không nên cho. Nếu chỉ lợi thiện nhưng chẳng an lạc, hoặc đủ cả lợi và lạc thì nên thí cho. Nếu cầu dao, súng,… là hại tự tha. Chẳng phải tài vật của mình, môi giới người khác, các đồ ăn có trùng, vật dụng an lạc vô nghóa pháp, pháp sát hại vật, tà tạo cúng trời, chúng sanh ở trên đất, dưới nước, nơi bị tổn hại, giết chết đọat của thí thí cho người khác, tự trái học xứ, kẻ oán, người thân sinh tâm phân biệt, hứa tốt cho xấu, hứa nhiều cho ít, hoặc ôm ý khác, sinh tâm ô trược, thí rồi kể ơn, vơ vét bên kia thí cho bên này. Vọng hưng tà thí, chấp là thiện tịnh, bị người dẫn dắt, sợ mình nghèo nàn, đồ dư và uế tạp đem cho người xuất gia, từng không thưa báo, lén thí phi pháp, vật không hợp nghi, đem ân Tuệ xả thường cầu đến chổ thân thuộc, nương danh dự đời, cầu quả báo ơn, để được tiếng khen, ý lượng hẹp hòi, không cho theo thứ tự người đến, tâm không vui tịnh, sau sinh hối não, xin thật cho giả, trước chưa vận dụng tâm, cho không đúng thời, oai nghi tán loạn, đùa nói cười giỡn, khiến sinh hổ thẹn, nhăn mặt lặng thinh, xin hoài không cho. Ngoại đạo tìm đến, cầu chánh pháp Phật, khoe bán bí tạng, nghiệp chưa thành pháp, những thứ đó có tội, đều không nên làm, trái với các thứ kể trên thì nên làm. Nếu tài sản bảo vật ít, phải xem người đến xin: Loại người an lạc chẳng nghèo khổ; 2. Hạng người nguy khổ, không có chỗ nương tựa. Lường mình đủ tiền thì cho cả hai, thiếu tiền thì cho người nghèo khổ. Biết người ôm lòng keo kiệt, hoặc trước kia nghèo thiếu gởi trồng cây phước, thì phương tiện hướng dẫn, nói: không hao tổn nhưng vẫn tạo lợi ích. Ta có của cải, châu báu tùy ông lấy cho. Cẩn thận đừng để người xin về không. Nếu khi ta thí, ông phải tùy hỷ, khiến ý vui vẻ, hạt giôïng thí mới dần dần sinh khởi. Thấy tướng người đó đến xin biết là vui thích thì nên cho. Nếu có kiêu trá, lừa dối xin cầu, đừng phanh phui sự lừa dối, đừng làm tổn thương mà khiến thỏa mãn điều mong nguyện của họ,… khiến không bị xấu hổ, hoan hỷ mà đi. Có người ban đầu là lừa dối, sau đó mới biết rõ, đừng nêu đừng trách, chỉ sinh thương xót. Họ dối với mình, khởi sai trái đó, Ta mang tâm hỷ, khiến họ không tội. Nếu không có tiền của, tùy theo khả năng của mình, như pháp mà cầu, khiến thí không khuyết. Với chánh pháp Phật, xảo diệu tuyên dương, khiến các hữu tình, tùy chỗ ứng hợp mà tu tập bố thí. Thấy người thường bạn ân tuệ xả, nên bảo nhiều người đến xin để khuyến khích tâm người hành trì. Biết có pháp khác thì nên cho người xin, hoặc sao chép mà cho. Nếu thấy pháp khác không sứx sao chép, nên suy xét: Ta bị che lấp là do keo kiệt? Hay thí như vậy làm trở ngại cho những điều cần thiết tốt đẹp hơn? Nếu vì trở ngại do keo kiệt thì nên thí cho. Do thí kẻ si câm còn phải không keo, xẻn, huống nữa là để thiếu tư lương của diệu trí. Khi thí cho họ, để diệt trừ phiền não, vì nhớ nghó đến các loài để nuôi dưỡng nhân của trí. Nếu không có chướng ngại do keo kiệt, nhưng vì trở ngại cho những điều tốt đẹp, thì suy xét khi thí cho là để diệt trừ phiền não hay là để nhớ nghó các loài chúng sanh hay vì để nuôi dưỡng nhân của trí. Xét không có phiền não, nếu không thí thì càng tăng thêm tư lương của trí, sẽ làm phong phú tuệ, liền nghó như vậy: Không thí pháp như vậy, cũng chẳng trái với tịnh giới. Nếu tích trữ tiền của, vì tác tịnh pháp nên, tâm ứng phụng thí chư Phật, Bồ-tát thì tuy tích chứa tiền bạc, nhưng cũng như trú nơi Thánh chủng, thường suy tư phước đó, khiến thường tăng trưởng, như sự gởi gắm, hộ trì của chư Phật, Bồ-tát. Nếu xét khi thí không đúng với chánh lý thì nên nói: “Hiền thủ! Đây là vật của người khác, không thể cho ông”. An ủi họ, hoặc lấy số tiền khác mà cung kính bội thí, khiến biết người thí chẳng phải là keo kiệt. Nếu có bốn chướng, không thể bạn ân Tuệ xả, phải khởi bốn trí mà đối trừ. Có tiền của nhưng tâm không vui cho: Phải suy tư, do trước đây chưa hề tu tập, nay không cố gắng xả thí sau này càng tăng thêm xấu, vì vậy mà cố gắng tu, sinh ra Trí giác ngộ. Tiền bạc thiếu thốn tâm không vui thí: Suy tư về sự thiếu thốn đó là nhân duyên làm chướng ngại trí, nên khởi tâm bi, tự chịu nghèo khổ, thấy được sự lợi ích của bố thí, sinh ra tri nhẫn khổ. Tiền của làm ý vui, nhưng tâm không vui thí: Suy tư sự tham đắm đó là hy vọng, điên đảo, phải hiểu rõ là sẽ sinh ra nhiều khổ trong vị lai, cho nên cố gắng xả bỏ, sinh ra trí biết đảo. Tuy hành bố thí nhưng mong cầu quả thế gian: Phải mau chóng thông đạt, thấy rõ đó là quả tà, phải quán các hành đều không kiên cố, ly tán mau hết, không sinh ra mong cầu sự vui sướng nơi thế gian, chỉ cầu Bồ-đề, sinh trí biết chẳng bền vững. Nên ở chỗ tónh lặng, khởi tín thuần hậu, luôn duyên niệm nơi nhiều tài sản bảo vật thượng diệu, dùng lực ý hiểu thí cho chúng sanh, tuy ít dụng công, nhưng sinh vô lượng phước. Đối với những thứ mình yêu quý, cũng có thể tự mở xả, dù đạt được một cách khó khăn cũng đừng keo xẻn. Tín tâm cung kính, tự tay đúng thời, không hại mình người, mà hành ân Tuệ xả. Đây có ba loại: Cho vật tịnh diệu, rộng tu tài thí, trừ bỏ mọi sợ hãi, tu vô úy thí, khuyên tu nghiệp thiện mà hành pháp thí. Mau chóng mà cho, không lưu giữ lâu, chẳng phải là họ xin gấp mà mình cho mau, nhưng tùy có liền cho chẳng tích chứa rồi mới xả, đối xử với họ một cách khiêm tốn, không kiêu mạn. Giới: Tức là thọ học tịnh giới nơi ba nghiệp; hễ tu tịnh giới, chánh thọ và tịnh ý, đã phạm thì hoàn tịnh, kính niệm không phạm. Chánh thọ có phạm thì xem người khác mà khởi hổ thẹn. Tịnh ý có phạm thì tự xét mình mà sinh hổ thẹn. Vì vậy nên có thể hộ giới, hoàn tịnh và kính niệm. Nhờ hai thứ trước mà lìa các ác, tác. Hai thứ đầu một thứ sau, có thể không hủy giới, phạm rồi hoàn tịnh, có thể hoàn thì mau xuất, tức là tịnh giới vi diệu vô lượng tạo ích tăng thêm lợi lạc cho tại gia. Tại gia và xuất gia đều tu ba loại. Luật nghi giới: Là những luật nghi mà bảy chúng đã thọ người trụ xuất gia; xả bỏ ngôi vị Luân vương như dứt ngọn cỏ nhơ, không mong cầu dục lạc nơi cõi Trời, huống nữa là ngôi vị, tiền tài khác, còn nhàm chán cả quả tốt đẹp, huống nữa là các sự việc thấp kém lại còn siêng năng tu thêm các thứ khác, chẳng cho giới là đủ. Lìa ngôn niệm ác, dù có khởi cũng mau chóng hối cải, dần dần trở thành ngôn niệm chánh lý, nghe những việc khó làm, tâm không kinh khiếp, siêng năng tu hành, không xét lỗi người, thường xét lỗi mình, thấy các hung bạo tâm bi thâu nhận, hại mình không giận, đừng trách mắng đánh, có lỗi hối cải, thề không tái phạm., ít muốn vui đủ, gắng chịu các khổ, không gấp không vội, oai nghi tịch tónh, lìa các dối ngạo, các pháp tà mạng. Nhiếp thiện pháp giới: Là những pháp thiện tập khởi, vì đại Bồ-đề sau khi đã thọ giới. Nương giới ở riêng, khởi văn, tư, tu, chỗ tôn quý thì kính sự, chỗ bệnh họan thì từ bi, khen ngợi thuyết thí, tán thán đức thí, tùy hỷ với thiện, hồi hớng các thiện, phát nguyện cúng dường, siêng năng hộ giới, ăn uống đúng lượng, mật hộ căn môn, nửa đêm giữa đêm, thường sinh tỉnh giác, nương nhờ bạn thiện, đừng màng thân tài, ở trong pháp ác đều không nhẫn thọ, khéo biết nhân quả, cho đến trừ bỏ chướng thì dần dần sẽ trú trong mười độ. Nhiêu ích hữu tình giới: Đối với các hữu tình, sự nghiệp vô đảo đều làm trợ bạn, người bệnh thì cung cấp, chăm sóc, người mù thì dắt dẫn chỉ đường, người điếc thì bày nghóa. người câm thì nêu rõ hình ảnh, lạc đường thì chỉ đường, mệt thì thí cho sự yên nghó, người tàn tật thì cho gậy, xe, người ngu muội thì dạy cho trí tuệ thù thắng, khuyên đoạn dứt tham ác, dạy đạt của tiền, khiến tin Thánh giáo, hết kết lìa khổ, nhớ ơn báo đáp, cứu hộ người sợ hãi, giải mở kẻ lo âu, để sẵn vật dụng kẻ xin liền cho. Nếu mình thiếu tiền, dốc tìm kiếm để cho. Có chúng dùng chung, mình không giấu giếm, thường hay thực hành, giáo thọ khuyên răn, trừ hạnh vô lợi, còn tùy tha chuyển, chẳng trách người trái phạm, trọn không não hại người khác, cũng không gièm pha chê trách khiến sinh giận dữ, không phơi bày sự kém cõi của người, không tự cao ngạo, không thân cận quá, cũng chẳng không thân cận, cũng không thân cận với họ trái thời. Không chê bai các thứ người ưa thích, không ca ngợi điều người ghét bỏ. Người chẳng tình giao, không thổ lộ hết lòng mình, không nhiều lần cầu xin, không trái lời hứa trước. Ấy gọi là vô lượng tạng đại công đức. Nếu các Bồ-tát trước đối với Bồ-đề đã phát hoằng nguyện, muốn siêng tu học, đối với người có thể mở bày, trao cho như pháp xin thọ, thì Bồ-tát đó khiến người cầu thọ sinh tâm ân trọng, chuyên niệm trưởng dưỡng mở bày trao cho chính đáng. Nếu không có người khai thọ giới thì ở trước tượng Phật, như pháp tự thọ, từ đó về sau, suy tư nhớ nghó. Nếu tuy thông tuệ nhưng hủy báng tạng Bồ-tát thì không nên tòng thọ. Những người bất tín hủy báng cũng đừng khai thị. Như trú tịnh giới, đủ đại công đức, kẻ phỉ báng kia cũng thành tội lớn. Ngôn và kiến chưa xả thì cuối cùng cũng khó lìa, chẳng phải chỉ khuyên kẻ khác và vì hơn họ; tự nơi Tuệ mình xét chọn, khởi sự thọ nhận kiên cố. Có bốn pháp tha thắng xứ: Vì danh lợi và sự cung kính mà tự ca ngợi mình, chê bai người. Theo cầu tài, pháp, keo xẻn không cho. Người não hại mình, mình không xả bỏ được oán kết. Huỷ báng tạng Bồ-tát, thích tuyên dương tượng pháp, tự tín theo kẻ khác, phạm những điều đó thì không tăng trưởng tịnh ý, gồm thâu đại tư lương là Bồ-tát tương tự, chẳng phải chân Bồ-tát. Lược nêu có hai duyên xả bỏ tịnh giới đó: Xả bỏ đại nguyện Bồ-đề vô thượng. Thượng phẩm buộc (kết) phạm tha thắng xứ. Hạ trung buộc phạm thì không xả tịnh giới, nhiều lần phạm cả bốn loại nhưng đều không có xấu hổ, cứ thích phạm cho là đức, gọi là thượng phẩm buộc phạm, không phải tạm hành tức gọi là xả. Nếu không có hai duyên thì tuy chuyển sinh nơi cõi khác, tịnh giới cũng không xả. Các kiếp khác quên mất, tuy nhiều lần thọ lại, tỉnh giác giới niệm chẳng phải là mới thọ được. Người trú giới này, ở Phật, Pháp, Tăng và nơi an tạo, nên trong hàng ngày, tùy ứng cúng dường, lạy xuống một lạy, tán thán bốn câu, cực sinh một tín, tùy niệm đức thật, đừng để uổng qua, siêng năng cung kính, chán bỏ danh lợi, kính trọng phụng sự các bậc kỳ lão có đức, nương lý thù đáp, dự mời như pháp, nhận thí nhiễm, xả pháp không nhiễm, ngăn tội ở tính, phải dốc hộ trì. Nếu vì lợi tha, tùy ứng hiện khởi, phải trú chánh mệnh, ba nghiệp tịch tónh, chán lìa sinh tử, vui muốn Niết-bàn. Người xâm phạm mình, không trả sân giận. Vô nhiễm chế ngự, ngũ nghỉ lượng thời, lìa thích nói đùa, khiêm tốn cầu pháp, đoạn trừ năm cái, không chê nhị thừa, nghiên cứu kỹ tạng Bồ-tát rồi mới học tạng Thanh-văn, tinh thông pháp Phật mới tập ngoại luận. Người thông tuệ bậc thượng, hàng ngày, hai phần học nội, một phần học ngoại, giống như tập quen gần với mùi vị cay, pháp có thể tin, ưa, mới dùng lợi lạc. Nghe pháp như ý, cố gắng đến nghe, khéo nương văn nghóa, ngợi kính pháp sư, cho đến hiện thông có thể chánh thức dẫn thâu. Tất cả như vậy nếu tâm cuồng loạn thì bị bức bách do trọng khổ, chưa thọ tịnh giới và trú mười địa đều không vi phạm, trái ngược với những điều kể trên thì biết có phạm. Nếu phạm thượng triền hoặc cả ba, hoặc nhiều hơn thì những hạng ấy ở trong các thừa đều như pháp sám hối tất được trừ diệt, hối rồi thọ lại. Phạm hạ triền, trung triền thì đối trước một tăng, phát lồ. Hiện tiền nếu lại chớ người để đối diệt thì ý tịnh tự thề, không còn phạm lại. Do vậy, với phạm hoàn xuất, hoàn tịnh, nương theo đó mà tu tập thì được ba mãn nghiệp: Hành mãn: Do không khuyết phạm, ba nghiệp thanh tịnh. Ý mãn: Vì pháp xuất gia, cầu đại Bồ-đề, cho đến không vì dị thục nương vị lai. Nhân mãn: Xưa hành diệu nghiệp, nay đắc thắng quả, lại còn tu thiện há chẳng an lạc. Trái với điều trên thì suy tổn nguy khổ. Vì trì tịnh giới mà xả bỏ ngôi vị, của cải cho đến mệnh chung, không hề khuyết phạm một tí nào, thường không phóng dật, cũng không lầm phạm. Do đó đời đời kiếp kiếp thường đạt được năm lợi: Mười phương chư Phật hộ niệm. Khi xả mệnh, trú đại hoan hỷ. Người trì giới thường làm thân hữu. Tạng công đức thành tựu viên mãn. Sinh thường đắc giới, giới thành tựu tính. Vì trú tâm ấy mà thành tựu pháp Phật, làm lợi hữu tình, nên chuyên tinh đừng phạm. Nhẫn: Nhẫn tức là đối với cảnh, tất cả không sân, tinh tiến tuệ xét, Đây có ba loại: Nhẫn nại oán hại: Nghóa là khi gặp người hại nên nghó như vầy; Đó là nghiệp trước của ta, nay nếu không nhẫn càng làm nhân của khổ, liền chẳng yêu mình thành tự trói hại. Lại nữa, tính của thân mình và người đều là hành khổ, vì họ không biết mà tăng hại thân ta. Ta đã có biết, sao còn tăng thêm khổ kia. Thanh-văn là hạng tự lợi còn chẳng làm khổ người khác, ta đã là hạng lợi tha nên nhẫn nhịn người hại. Nghó vậy rồi nên tu năm tưởng: Nghó họ với ta, vô thủy nhiều thời, hoặc là thân thuộc hoặc là bạn bè, cho nên ta phải xả oán hại, trú tưởng thân thiện. Niệm nhờ các duyên chỉ hành chỉ pháp đều không có ngã, thì ai là kẻ oán hại? Nên xả tưởng hữu tình, trú tưởng chỉ pháp Niệm sự sinh trưởng kia, tự tính là vô thường, ta cực báo oán, chẳng qua chỉ là đoạn dứt thọ mạng. Ai là người có trí, đối với thân mạng kia, trong pháp sinh tử mà lại muốn giết hại, tâm nhiễm trược còn không nên khởi, huống là gia hại. Phải xả tưởng thường kiên cố trú tưởng vô thường. Niệm sự suy và thịnh đều là ba khổ, thường theo đuổi, ta nay đối với kẻ kia nên tìm phương tiện khiến vónh viễn xả lìa, ôm làm gì càng thêm khổ, phải đoạn hữu lạc, trú tưởng hữu khổ. Niệm cầu Bồ-đề vốn là sinh loại, phải cùng nghóa lợi nhiếp thọ làm thân, đâu dễ ngày nay trái nghịch oán hại? Phải xả ở tha, trú tưởng thâu nhận, tự không giận dữ bồng bột, không báo thù người, cũng không tạo phiền não trôi chảy tương tục. Vì vậy đều nhẫn thọ được với những người oán hại mình. Nhẫn an thọ khổ: Nếu gặp sự khổ, nên nghó như vầy: Ta từ vô thủy, ngu si lỗi lầm, vì cầu các dục còn bị các khổ, huống là cầu Bồ-đề thành tựu đại sự nghiệp, dù trải trăm ngàn câu chi khổ lớn, cũng nên nhẫn chịu, huống chỉ là khổ nhỏ. Hoặc đối với tất cả đồ dùng trong bốn sự, cam chịu thiếu thốn, không sinh lo buồn, đối với thế pháp suy hoại, cho đến bệnh tử. Trú bốn oai nghi để nhiếp thọ pháp mà hủy hoại hình mạo, mặc áo hoại sắc, cố gắng thâu giữ, đi ăn xin, vứt bỏ tiền của phi pháp, dứt lạc dâm dục, tu thiện, tạo lợi ích, như pháp siêng năng, đều có thể nhẫn chịu. Tinh tiến không lười, cầu đại Bồ-đề, lìa tâm nhiễm dị, đừng sinh thối chuyển. Nhẫn xét kỹ pháp: Đối với Tam bảo, thường xuyên tu tập tịnh trí, khéo an trụ nơi thắng giải, đối với hữu tình thấp kém, tự ở chỗ tôn quý, quan lại, tôi tớ, kẻ oán, người thân và không oán thân đều có thể nhẫn chịu. Trước chúng, nơi chốn khuất ngăn, ngày đêm qua lại, cho đến nằm bệnh, ba nghiệp tu tập, đối với sự tổn não mình, nhờ nhẫn mà lìa, đối với sự xin mình, do nhẫn nên chọn thường tạo lợi ích trước sau không khác chẳng phải vừa tạo lợi ích xong, liền xả không ích. Kẻ oán xin lỗi, nhanh chóng chấp thuận, đừng để tâm tư mỏi mệt. Điều mình nhẫn chịu không nỗi thì lấy làm hổ thẹn. Xét kỹ nhờ nhẫn mà kiếp này an lạc, có thể trừ được sự bất thiện, dẫn đến nhân của an lạc, khi lâm chung không có hối hận, sau này được sinhvào cõi thiện, không oán không thù, chứng vô thượng giác, còn thấy được tất cả các quả khổ do sự không nhẫn chịu sinh ra, tự mình thực hành nhẫn nhục, dạy bảo người khác nhẫn nhục, ca ngợi khuyến khích đức nhẫn nhục. Tinh Tiến: Tức là dũng mãnh tấn phát ba nghiệp, khi tu phẩm thiện. Tinh tiến gồm ba loại: Tinh tiến gia hạnh: Nghóa là tu thiện, tâm sinh dũng mãnh, thệ nguyện: Ta nay vì nhằm giải thoát nỗi khổ của hữu tình, nên lấy ngàn đại kiếp hoặc nhiều gấp trăm ngàn lần số đó xem ngang với một ngày đêm, dù thường ở nơi địa ngục mới chứng Bồ-đề, sự dũng mãnh của ta cũng không bao giờ thối lui, huống nữa là chỉ trải qua một thời gian ngắn khổ não, khởi được một phần nhỏ sự tin hiểu đó, đã làm lớn mạnh vô lượng nhân Bồ-đề, huống nữa là thành tựu. Vì vậy ở vị tu thiện không có một chút khiếp nhược. Tinh tiến nhiếp thiện: Nghóa là sự tinh tiến này có thể dẫn đến làm viên mãn các hạnh, không bị lay động do tất cả phiền não phân biệt, dị luận khổ xúc. Luôn trân trọng, lìa mọi cao ngạo mà hành trì. Đức Thế Tôn thường hay ca ngợi sự tinh tiến, vì nó làm viên mãn pháp thiện, mau chứng Bồ-đề. Tinh tiến nhiêu ích hữu tình: Nghóa là cố gắng làm các thứ lợi lạc hữu tình như trên, cứ như vậy mà xa lìa các tưởng về những thứ vật dụng nuôi sống thân, tận hết các phận sự, không gián đoạn, không bỏ phế. Bình đẳng thông đạt, tu tập không đảo, không chậm, không gấp, có thể khiến pháp nhiễm không sinh ra và đoạn dứt, còn khiến cho pháp bạch sinh khởi rộng lớn, ba nghiệp tịnh, ba tuệ tăng không xả thông thối, không kém, không đảo, siêng năng dũng mãnh mà hành. Tónh Lự: Tónh lự tức là văn, tu làm đầu, tâm nhất cảnh tính. Tónh lự có ba loại: Tónh lự hiện pháp lạc trú: Nghóa là lìa tướng phân biệt hôn trầm, trạo cử, ái, có thể sinh ra Đẳng trì (Định) khinh an tịch tónh. Tónh lự dẫn phát thần thông: Nghóa là có thể dẫn trụ vào thần thông nơi Đẳng trì. Tónh lự nhiêu ích hữu tình: Nghóa là Đẳng trì (Định) làm lợi lạc cho tất cả hữu tình, nhờ nương theo tónh lự mà có thể thành tựu chú thuật, dứt tai ách, trừ các bệnh, dẫn đến mưa cam lộ, dứt bỏ các sợ hãi, bố thí tiền của, cho đồ ăn uống, khuyên ngăn sự phóng dật, tạo những việc đáng làm. Thần thông ghi nói, giáo giới biến hiện, cho đến phóng ra hào quang dứt trừ các khổ, cũng có thể mãi mãi đoạn dứt tất cả chướng nặng. Tuệ: Tuệ tức là đối với cảnh, như lý phân biệt xét đoán, tuệ có ba loại: Đối với vật hiện biết trí tuệ theo đó giác ngộ chân thật: Nghóa là ở trong chân thắng nghóa vô ngã, bình đẳng thấu rõ, giác ngộ. Với năm minh, ba tụ diệu tuệ: Nghóa là thâu nhận thứ này thì có thể mau chóng viên mãn Trí tư lương giác. Tuệ làm các nghóa lợi cho hữu tình: Nghóa là trợ giúp diệu giác cùng hành. Học nội minh thì lấy tịnh tuệ làm chỗ nương. Chỉ rõ cho những kẻ ngu si, dạy dỗ những người phóng dật, khích lệ những người yếu kém, khen ngợi những người siêng tu. Tiếp đến là tu bốn nhiếp sự: Bố thí: Như đã nói ở trên. Ái ngữ: Thường nói những lời dịu dàng hợp lý, như pháp mà dẫn nghóa, xa lìa cau có, cười cợt. Trước tiên là hỏi thăm, tùy nghi mà an ủi, thấy có hưng thịnh, nhưng không tự biết, biết pháp thiện tăng nên tỏ vẻ vui, thuyết pháp Phật, thường làm ích hơn. Đối với kẻ oán thù, luôn khởi ý thanh tịnh. Với người cực si, thề trừ nghi hoặc; người lừa dối, hành ác đối với chân phước điền đều không có giận trách, tu ái ngữ khó hành. Đối với những người muốn trừ chướng cái, vì họ mà thuyết giảng về những điều trước tiên phải làm; những người tâm đã điều thiện thì thuyết giảng về pháp thật, người nhiều phóng dật thì khuyên bảo xuất ly; người có nghi hoặc thì thuyết giảng về sự quyết trạch. Nương theo bốn tịnh ngữ mà khởi tám thánh ngữ. Lợi hành: Do nhờ ái ngữ, nên trước tiên chỉ bày Thánh lý, tùy chỗ hiểu biết, tâm bi không nhiễm khuyên răn hướng dẫn, điều phục. Có thể gặt hái được lợi lạc về tài, vị ở hiện tại lợi về xuất gia sau này, cùng lợi lìa dục, khí nhan giải thoát. Những người tập quen gần với bạn xấu, chưa trồng thiện căn, người vướng mắc vào của cải giàu có, hết mực phóng dật, buông thả; người người ngoại đạo chấp chặc nơi tà kiến tạo sự phỉ báng; những người thường khởi tám triền, mười nghiệp ác, đối với tất cả những người đó, đều có thể khai mở cho hiểu, khởi tâm đại bi. Dù chịu khổ lớn, nhưng tâm không bao giờ mệt mỏi, càng sinh hoan hỷ. Tuy ở trong cảnh giàu có, tiền của bậc nhất nhưng tự hạ mình như tôi, như tớ, như chiên đồ la, như đứa con hiếu,… không nhiễm không dối, chân thật thương xót, tâm từ bi ấy vónh viễn không thối chuyển. Đồng sự: Dùng nghóa lợi đó, vừa khuyên người học, vừa tự tu học, dạy người biết rồi, cùng nhau tu học, thiện căn kiên cố, không sinh thối chuyển, khiến nghó như vầy: “Đó là điều dạy ta, nhất định lợi lạc, thì họ tự nhiên hành”. Không như vậy, liền nói: “Ông tự bất thiện, sao còn dạy tôi, ông lại còn bàn bạc chuyện đó với người khác sao?” Tiếp nữa là cúng dường Tam bảo: Đối trước xá lợi và tháp của Phật hiện tiền: Chính mình đích thân cúng dường. Đối với tháp chư Phật ba đời, mười phương: Nghó tưởng về chư Phật… tu cúng dường không hiện tiền. Khi hiện đối trước, suy nghó như vầy: Một Phật, tháp bình đẳng pháp tính, tức là pháp tánh của tháp Phật nơi ba đời, mười phương. Vì vậy, Ta nay hiện tiền cúng dường một tháp Phật tức chính là cúng dường tháp Phật của ba đời, mười phương, là tu cúng dường hiện tiền và không hiện tiền. Nếu sau khi Phật diệt độ, tạo một hoặc nhiều tháp Phật mà cúng dường sẽ được vô lượng quả đại phước đức, thọ nhận phước của bậc Đại phạm, vô số đại kiếp không đọa nơi cõi ác. Cũng viên mãn tư lương của đạo quả Bồ-đề vô thượng. Ở những chỗ như vậy, chỉ tự cúng dường. Hoặc khởi tâm bi, tùy vật , sức thí cho các người nghèo khổ, nguyện họ an lạc, khiến họ cúng dường. Hoặc là cùng cúng dường. Dùng hoa hương,… kính cẩn thăm viếng, lễ bái, cho đến dùng các thứ châu báu,… để tu tập đem của cải cung kính cúng dường. Tức dùng tài sản cung kính cúng dường trong thời gian lâu dài, tâm tịnh hồi hướng đến Bồ-đề, tu cúng dường rộng lớn. Không dùng sự khinh mạn, giả dối, phóng dật, các vật bất tịnh v.v… Tu tập cúng dường không nhiễm, tự mình tích tập tài sản, hoặc xin người khác phát nguyện tưởng, hóa thành trăm ngàn thân, cung kính lễ bái. Mỗi một hóa thân xuất ra trăm ngàn tay cầm rải hoa hương, xuất ra trăm ngàn tiếng, ca ngợi thật đức. Lại còn xuất ra trăm ngàn đồ dùng trang nghiêm vi diệu để cúng dường, đều sinh tùy hỷ. Tuy ít dụng công, nhưng hưng khởi vô biên cúng dường rộng lớn, phải khởi tâm thiện, tâm hoan hỷ, chân chánh siêng năng tu học. Tu bốn vô lượng tâm dù trong chốc lát, cho đến một ít thời gian, tín nhẫn, chân như, pháp tính xa lìa ngôn luận khởi không phân biệt, trú nơi tâm vô tướng, tức là giữ gìn tịnh giới của Bồ-tát cho đến tu hành bốn nhiếp sự,… Tu chánh hạnh cúng dường, nên nghó: Đó là tối thượng thắng diệu, vượt qua các cúng dường nêu trên cả trăm ngàn vạn lần, không thể tỉ dụ. Khi tu cúng dường, nên nghó: Như Lai là đại phước điền, đủ ân đức lớn là bậc tôn quý tột cùng khó gặp được trong giới hữu tình. Đối với Pháp, với Tăng, cúng dường tư niệm tùy chỗ ứng hợp cũng vậy sẽ đạt được đại quả nói không thể tận. Tiếp đến là Thân Cận Tiện Hữu Giới không hủy phá, đa văn, tu chứng, thương xót, vô úy, gắng sức nhẫn chịu không mệt mỏi, ngôn lời biện biệt rõ ràng, là tướng của thiện hữu. Cầu thí lợi lạc, chánh tri mọi việc, có lực dụng khéo quyền biến, tạo lợi ích không bỏ, đại bi bình đẳng gọi là thiện hữu. Việc làm không hư dối, oai nghi viên mãn, lời nói, hành vi luôn đôn hậu, nghiêm túc, không kiêu mạn, không ghanh tị, tùy xả, đó gọi là thiện hữu đáng tin tưởng, nương theo. Can gián, khiến nhớ, truyền dạy, răn bảo, thuyết pháp, đó gọi là thiện hữu, Khi có bệnh khi không bệnh yêu kính, cung cấp hầu hạ, thăm hỏi, nghinh lễ, tu nghiệp hòa thuận, cung ứng đồ dùng bốn sự không thiếu, đúng thời thăm kính, thừa sự, hỏi nghe không động, gọi là thân cận. Tiếp nữa là Tu Vô Lượng Pháp giới hữu tình gồm có ba loại: Không khổ không vui. Có khổ. Có vui. Từ bi hỷ xả đối ba loại đó, đầu tiên là loài hữu tình ở trong mười phương. Người muốn cầu vui, thì tạo sự hiểu biết về hữu tình, tùy thuận cho vui đó gọi là hữu tình duyên từ. Tạo tưởng pháp, giả nói là hữu tình, đó gọi là pháp duyên từ. Lại đối các pháp lìa tưởng phân biệt, gọi là vô duyên từ. Đối với người có khổ, vì muốn trừ bỏ khổ, nên tu hữu tình duyên bi; người có vui vì giúp họ được vui mà tu hữu tình duyên hỷ. Đối với người không khổ không lạc thì khởi tưởng lìa si; người có khổ thì khởi tưởng lìa sân; người có lạc thì khởi tưởng lìa tham. Bình đẳng muốn khiến lìa các hoặc, gọi là hữu tình duyên xả, còn lại đều giống với trên. Trong ba loại vô lượng trước, loại đầu tiên là chung với ngoại đạo. Loại thứ hai là chung với Nhị thừa, loại thứ Ba-là duy chỉ là Bồ-tát. Ba loại đầu là tạo an lạc, loại sau là tạo lợi ích. Tiếp nữa là Tu Hổ Thẹn. Nếu có những thứ đáng làm, nhưng lại không tùy thuận làm, làm những việc không đáng làm, vì che giấu cái xấu xa của mình, việc đáng hối hận, theo duyên không bỏ. Nên xét lại thân mình, hổ thẹn với phi pháp, tuân theo Hiền Thánh, quý trọng pháp thiện, tu khởi ở tàm (hổ). Ngoài xét lẽ đời, hổ thẹn với tiếng xấu, khinh bỏ hung dữ, kiêng sợ pháp ác, tu khởi ở quý (thẹn). Tiếp nữa là Tu Kiên Lực: Cấm chế tâm nhiễm, đừng theo hoặc chuyển, tuy gặp khổ lớn, mà tu hạnh không khổ, sợ hãi không động, dũng mãnh xét chọn, tự tính kiên trì. Tiếp đến là quán thế gian Mạng trược, Hữu tình ô trược, Phiền não trược, Kiến trược và kiếp trược, mà chán lìa, thương xót. Thấy tất cả mọi vật thành rồi lại hoại, nên tu tưởng vô thường. Quán tự nội thân, sáu giới tập khởi, giả lập danh tính, nhưng không chấp chặc. Các bậc đức độ già cả, đón kính lễ hỏi, tưởng như cha mẹ. Tuổi tác ngang hàng thì thăm hỏi luận đàm, tưởng như anh em. những người tuổi nhỏ thì từ ái khuyên tu, tưởng như con cái. Ở chỗ tôn kính gặp kẻ hèn hạ quyết không trái ngược, dữ phá hoại vật dụng cũng đều, tùy thuận thâu nhận. Quen hay không quen, bệnh hay không bệnh, sang hèn nghèo giàu, tất cả đều tâm hiện bình đẳng. Là bạn bè, không oán thù, dù có vi phạm cũng không trách cứ, đừng để khoảnh khắc nào trú nơi không an lạc. Lìa mười bốn cấu, tàng ẩn sáu phương, xa bốn bạn xấu, thâu bốn thiện hữu, chia của bình đẳng, không mưu toan đồ vật của người khác ; xét thấy của cải, vật báu tương xứng giá trị mua bán, kia nếu không hiểu, thì không làm uổng phí hào ly. Tiếp nữa là tu bốn y: chỉ cầu ở nghóa, không nương lời văn. Vì khởi kính ái, chỉ y ở pháp, không nương nơi người thuyết. Vì tâm trú lý, chỉ y kinh liễu nghóa, không y kinh bất liễu nghóa. Do không có nghi hoặc chỉ y ở trí, không dựa ở thức, mà chứng quyết định. Nói tóm lại, bốn vô ngại giải, cho đến bốn Tổng trì vi diệu, ba mươi hai tướng nghiệp cho đến nhất thiết chủng diệu trí, đều là những thứ mà Bồ-tát phải học. Dùng thân ngữ ý, vì khắp hữu tình, mọi thời mọi lúc hoan hỷ không đổi, không làm tổn não người khác, chỉ thấy công đức là tịch tónh chân thật. Tâm khéo quyết định không mong cầu dị thục, tu nhất thiết chủng đều khiến hiện hành. Quán bất tịnh,… cho đến ba mươi bảy phần pháp Bồ-đề. Tuy Bồ-tát tu khác với Nhị thừa, nhưng không tác chứng, như kinh đã nói. Tiếp đến là phải tu nguyện: Phát khởi chung một loại mà gồm thâu tất cả nguyện. Nghóa là thâu nhận chánh pháp. Lại có ba nguyện: Nguyện đời đời đạt được trí chánh pháp. Nguyện tâm không nhàm chán chúng sanh mà vì thuyết giảng. Nguyện xả thân mạng, tài sản để hộ trì chánh pháp. Lại có bốn nguyện: Người chưa lìa khổ thì mau chóng được lìa. Người chưa được an lạc thì mau chóng đạt được. Người chưa phát tâm đoạn ác tu thiện, thì phát tâm đoạn ác tu thiện. Người chưa thành Phật thì mau đắc thành Phật. Lại có năm loại nguyện: Phát tâm đầu tiên nguyện đắc Bồ-đề vô thượng. ích. Nguyện thọ sinh: Nguyện sinh ra ở cõi thiện, tùy thuận tạo lợi Nguyện Sở hành: Nguyện xét chọn đúng đắn, tu các nghiệp thiện. Chánh nguyện: Nguyện gồm thâu tất cả công đức của Bồ-tát, nơi hết thảy chánh nguyện vốn có hoặc chung hoặc riêng. Đại nguyện: Ở đây có mười loại: Nguyện sẽ được vật dụng thượng diệu để cúng dường chư Phật. Nguyện hộ trì chánh pháp, truyền giữ không dứt. Nguyện như chư Phật, tám tướng hiện hóa. Nguyện hành trì tất cả chánh hạnh của Bồ-tát. Nguyện thành thục khắp tất cả hữu tình. Nguyện có thể thị hiện ở các thế giới. Nguyện có thể tịnh tu tất cả cõi Phật. Nguyện chư Bồ-tát cùng hướng đến Đại thừa. Nguyện những điều tu hành đều không uổng bỏ. Nguyện sẽ mau chứng đắc Bồ-đề vô thượng. Vì muốn khiến các quả tu được rộng lớn, nên tu mỗi một hạnh đều phát những nguyện đó. Như trên đã nói về tất cả nguyện hạnh trong bốn mươi tâm, chung cho cả pháp đã tu. Xét về tu riêng mỗi vị thì khi mới phát tâm, trụ học nơi mười loại pháp: Cúng dường Phật, tán thán Bồ-tát, Hộ tâm chúng sanh, thân cận hiền minh, tán dương pháp bất thối, tu Phật công đức, nguyện sinh gặp Phật, tu tập Tam muội, tán thán lìa bỏ sinh tử, vì khổ quy y, cũng tu mười lực. Các ngôi vị khác như vậy, mỗi ngôi vị đều có hai mươi pháp tu riêng biệt, chi tiết như kinh đã nói. Nhưng trong ngôi vị này đa phần là tu hạnh phân tán một ít cũng tu định, chưa do chế phục, sắp nhập vào quả vị gia hạnh. Trong tiền phương tiện, thì trước tiên là tu ba Tam ma địa. Tu các pháp có hai: là có và chẳng phải có. Hữu vi và vô vi gọi đó là có, ngã và ngã sở gọi là chẳng phải có. Đối với sinh tử hư vọng, y tha hữu vi, đáng nhàm chán nên tu Tam ma địa Vô nguyện. Đối với Niết-bàn chân thật, viên thành, là chánh nguyện lạc vô vi, nên tu Tam ma địa vô tướng. Đối với ngã và ngã sở, là biến kế sở chấp, trong sự chẳng phải có, không mong cầu, không có không mong cầu, nên tu Tam ma địa Không. Ở đây, nếu chỉ nói là không, vô nguyện tướng, thì chung cho cả hữu lậu và vô lậu, ba tuệ định tán. Nói Tam ma địa là chung cho cả hữu lậu và vô lậu chỉ tu không tán loạn. Nói môn giải thoát thì chỉ là vô lậu, cũng tu không tán loạn. Những thứ tu ở vị này cứ theo nghóa đó thì rõ. Tiếp đến là tu bốn loại pháp Ôn-đà-nam: Vì muốn khiến cho các hữu tình thanh tịnh nên thuyết: Quán các hành đều là vô thường, vì có sinh có diệt. khổ. Quán vô thường thảy đều là khổ, vì có đủ sự bức bách. Quán Niết-bàn tính tướng tịch tónh. Vì lìa mọi sự trói buộc của Quán các pháp đều là vô ngã, vì không có chủ tể. Tu phương tiện rồi, tiếp đến ở hai quả vị Noãn và Đảnh, tu bốn tầm tư, Nhẫn, Thế đệ nhất pháp, tu bốn trí như thật, tức là tu tướng không. Tu tự lợi rồi, tu chung cả năm khởi vô lượng, thiện xảo lợi tha, để làm lợi ích, nên đầu tiên là quán sáu mươi bốn loại hữu tình, dựa xứ thọ hóa. Thứ đến là quán mười phương thế giới sai biệt, hữu tình ở đó có nhiễm và tịnh. Tiếp theo là quán các pháp thiện khác nhau, tức là các hữu tình đó có sức chịu đựng được để tu tập giải thoát khổ. Tiếp đến là quán năm mươi lăm thứ điều phục khác nhau, phải do phương tiện thiện xảo, khiến đắc giải thoát. Tiếp nữa là quán phương tiện tùy chỗ ứng hợp để điều phục. Ở ngôi vị gia hạnh, tu hai lợi. Đã ở trong địa thứ nhất dùng quán vô lậu, chứng đạt lý, sự, gọi là tướng kiến chân thật, không có một chút nào tu phân tán, như đã lược giải thích về tướng trong phần nói về hành. Từ sau ngôi vị này, tu mười hạnh thù thắng ở trong mười địa, đoạn mười trọng chướng, chứng mười chân như. Mười hạnh thù thắng là: Sáu Ba-la-mật như bố thí, trì giới đã nói,… ở trên, thêm các độ: Phương tiện, Nguyện, Lực, Trí. Hết thảy diệu hạnh đều gồm thâu trong mười hạnh thù thắng này. Phương tiện thiện xảo gồm có mười hai loại: Tâm bi quyến luyến thương xót. Biết rõ các hành. Mừng diệu trí Phật. Vui ở nơi sinh tử. Luân hồi không nhiễm, tinh tiến dũng mãnh. Sáu thứ đó là nội. Khiến dùng ít thiện mà chiêu cảm vô lượng quả. Khiến dùng ít lực mà gồm thâu thiện căn lớn lao. Kẻ ghét Thánh giáo thì trừ dứt giận, não. Người ở giữa chừng thì khiến họ hướng nhập. Người đã hướng nhập thì khiến họ thành thục. Người đã thành thục thì khiến họ chứng đắc giải thoát, sáu loại phương tiện đó là ngoại. Mười hai loại như vậy gom lại làm hai: 1. Hồi hướng. 2.Cứu độ. Nguyện có năm loại, gom lại thành hai: 1. Cầu đạt Bồ-đề. 2.Hành lợi lạc. Lực có mười loại, gom lại thành hai: Xét chọn. Tu tập trí. Chứng đắc các pháp, an lập tịnh trí đó, cũng có hai: Thọ dụng pháp lạc. Thành thục hữu tình. Đối với các hạnh như bố thí v.v… đã nói trên, khi tu ở vị mười địa thì vượt hơn hẳn trước. Nghóa là, những người cầu xin thân xác và các thân phần như tay chân v.v… thì dùng tâm vô nhiễm, tùy theo ý muốn cầu xin của họ. Nếu người cầu xin hơn thế nữa, thì nên dùng trăm ngàn thân mạng để bố thí trọn không dở dang. Tâm thí nếu tịnh tức hiện lợi nơi chúng sanh. Bị các ma não hại si cuồng, tâm lọan, thì đều không nên cho. Người xin là kẻ hung bạo, tàn hại,… xem vợ con như tôi tớ, nô lệ thì không nên thí cho, trái với những điều trên thì nên hành tuệ xả. Thà phạm tính tội, tự đọa địa ngục, nhưng trọn không khiến người khác tạo thành nghịch nghiệp, xét khởi tư duy, tâm không phải là bất thiện, thâm sinh hổ thẹn thương xót diệt nó. Tể quan bạo ác, phương tiện truất phế, trộm tiền cướp của, đọat bỏ trả lại. Để cứu khổ nạn của người khác mà khởi lời nói hư dối, khiến lìa bạn xấu mà nói lời ly gián, ngăn chặn chỗ vượt nẻo chánh nên phá tan lời thô ác. Dẫn thâu căn cơ thích hợp nên hành lời uế tạp. Do đấy liền sinh vô lượng công đức. hoặc là thị hiện thần thông cho thấy các cõi ác xấu, thấy rồi sợ hãi mà mãi mãi lìa xa sự bất thiện. Nếu gặp những người không tin, hỏi việc thì không trả lời, thị hiện thần thông khiến họ sợ hãi mà tin, thực hành lợi hạnh, khiến đắc lợi ích. Nếu bị khổ bức bách thì không có dị tưởng. Chứng nhẫn xét kỹ, dũng mãnh không mệt mỏi, trú ở thù thắng rất khó suy lường. Chủng tính mười lực, tất cả đẳng trì, mạng chung không xả, sinh lại Dục giới, khởi được thắng nghóa, bình đẳng đầy khắp, do đó mới biết các pháp vô ngã. Phương tiện điều phục, cảnh giới vô ngại. Ở trong bốn nhiếp sự, hoặc có người ẩn dấu oai lực, công đức của mình là đồng sự với kẻ khác mà không hiển hiện. Hoặc hóa độ sự sợ hãi sinh trong loài chó v.v… là không đồng sự với kẻ khác mà tự hiển hiện. Những thiện căn đã làm vẫn còn bị lay động, vì để kiên trụ mà thật hiện đồng sự. Nếu hành phóng dật thì cả hai loại đều sai trái. Ở trong cúng dường, do đạt bình đẳng với Phật, nên đầy đủ châu báu. Hoặc dùng thần thông hóa thành vô lượng thứ châu báu, cho đến lễ bái, trì tụng, tán dương mười phương Tam bảo, hành cúng dường chân thật. Trong tu vô lượng, đắc bình đẳng với hữu tình, nhờ chứng tục và chân nên tu tập tác chứng. Tức bi vô lượng, còn gọi là đại bi, duyên với khổ vi tế, trường thời tu tập, phát khởi mãnh lợi, thanh tịnh tột cùng khi tu tâm đó, tức là tu tất cả tâm bi của Bồ-tát. Ý bi lạc tịnh, vì vậy với các hữu tình đạt được sự thân ái hậu trọng, nhớ ơn đức, không nhàm chán, có tâm gắng sức gánh vác. Thanh-văn đã đắc Bồ-đề cứu cánh, tâm nhàm chán sâu xa cũng không bằng tâm hành bi trên của Bồ-tát. Từ đó huân tu, không có một chút nội ngoại nào mà không thể xả bỏ, cho đến diệu tuệ, không có nẻo nào mà không thể hội nhập. Bồ-đề của Bồ-tát do bi kiến lập, nhờ vậy mà gắng sức chịu được những nỗi khổ ở sinh tử. Lại nữa, ở trong mười địa, mỗi địa đều có các thứ tu riêng. Nghóa là, Sơ địa thì tu bố thí, cho đến địa thứ mười tu tác nghiệp thần thông, những thứ đó tùy chỗ ứng hợp, đều gồm thâu trong mười hạnh, chỉ nói là mười độ không tăng giảm. Tụng nói: Chướng phú quý cõi thiện Không bỏ các hữu tình Kẻ mất đức giảm tăng Khiến hướng nhập giải thoát Chướng các thiện như thí Vô tận cũng vô gián Việc làm khéo quyết định Thọ dụng pháp thành thục Mười loại chướng là: Tùy tu mười độ, Vô minh câu sinh được đoạn trừ trong mười địa. Lại có mười chướng: nghóa là chướng của dị sinh tính và chướng vì các pháp chưa được tự tại. Mười chân như là: Biến hành: Do đây mà đắc tự tha bình đẳng. Tối thắng: Do đây mà tu khắp hạnh đồng xuất ly. Thắng lưu: Do đây mà cầu pháp, chẳng luyến tiếc thân mạng. Không thâu nhận: Do đây cho đến pháp ái cũng đều chuyển diệt. đẳng. Loại không khác: Do đây mà đắc mười ý lạc, tịnh tâm bình Không nhiễm tịnh: Do đây mà biết duyên khởi là không nhiễm, không tịnh. Vô số loại không khác: Do đây mà biết pháp vô tướng, chẳng hành nơi nhiều loại pháp tướng trong Khế kinh,… Tự tại nương vào tướng cõi: Do đây mà viên mãn, chứng vô sinh pháp nhẫn, không thấy một pháp có nhiễm tịnh, tăng giảm. Tự tại nương trí: Do đây nên chứng đắc viên mãn vô ngại giải. Tự tại nương nghiệp: Tùy muốn giáo hóa làm sự lợi lạc. Tất cả Bồ-tát nên dùng bốn tướng tu các hạnh trên: Khéo tu: Đều đã quyết định đã thường hằng, không có tội mà tu tập. Thiện xảo: Khiến được nghóa lợi tu đầy đủ ứng cơ thuyết pháp cho những người lãnh thọ luật nghi. Tạo lợi ích: Có thể dùng lợi lạc tùy riêng chung mà cho. Hồi hướng: Ba môn tích tập, toàn bộ thiện căn của kiếp này, kiếp trước, kiếp sau, tất cả đều thâu giữ, để thuần một vị nơi tín tâm diệu tịnh, hồi hướng cầu Bồ-đề, không mong cầu quả nào khác. Nên dùng bảy tướng mà thương xót hữu tình; chẳng khiến họ sợ hãi. Như lý khuyên, truyền, không có tâm mệt mỏi, không đợi người khác thỉnh mời, không mong cầu gì, gặp hại cũng không xả, bình đẳng vô hạn. Tất cả như vậy gọi là pháp cần học. Bồ-tát ba đời đều siêng năng tu những thứ đó, từng đang hiện chứng Bồ-đề vô thượng, lại không tăng giảm. Các người xuất gia, lìa bỏ thân thuộc, bỏ nghề nghiệp ở thế gian, thực hành phạm hạnh, xả chứng viên mãn, trụ trong tịnh giới xuất ngôn đều tin, các người tại gia không có các đức đó, thật sự là đại tôn quý, chân thắng, thù thắng.  BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH U TÁN <卷>QUYỂN HẠ Đã biết các pháp cần học và đã tu như vậy rồi, thì tướng gì gọi người là chủ thể tu học, tu đủ cả chủng và hành, thành mười hai trụ thâu gồm chung cho tất cả các ngôi vị Bồ-tát đều tận, sau đó mới chứng đắc Bồ-đề vô thượng là trụ thứ mười ba, thành tựu quả viên mãn. Tụng nêu: Chủng tính, thắng giải hành Cực hỷ, giới tăng thượng Tâm tăng thượng ba tuệ Vô tướng có công dụng Vô tướng không công dụng Cũng do vô ngại giải Bồ-tát trụ tối thượng Như Lai trụ tối cực Trụ chủng tính: Chưa phát khởi hướng đến Bồ-đề vô thượng, ở trong các trụ khác, chỉ có nhân chuyển. Tướng như trên đã nói. Trụ thắng giải hành: Từ mới phát tâm cho đến địa thứ nhất do trước tu tướng, ở trong tự trụ, tuy đã được tịnh, nhưng vì để được tịnh mà tu chánh hạnh. Khởi tuệ phân biệt ý gắng tu tập, thành khổ luyện chậm thông, hành gắng sức nói pháp. Trụ này tùy lực cũng có thể hiện chánh giác… tạo lợi ích an lạc đối với các hạnh ở trụ trước hoặc chưa học hết, các tướng chưa thành, ý lạc chưa tịnh. Trụ Cực hoan hỷ: Tức là địa thứ nhất. Như phẩm Bạch và mười đại nguyện trước đều hiện viên mãn, do đó mà chuyển, gọi là ý lạc tịnh thắng, vượt quá địa phàm phu, chứng Chánh tánh ly sinh, sinh ở nhà Như Lai, thành người con chân thật của Phật, nối giòng giống Phật, đắc các bình đẳng, lìa các tránh hại, được chứng tịnh đích thật, biết ta đã gần kề với Bồ-đề, chứng lý hai không, thành hai diệu trí, sinh đại hoan hỷ hành mười pháp trụ tịnh tu: là Tín, Từ bi, Tuệ, Không mệt mỏi, Biết các luận, Hiểu thế gian, Tu tàm quý (Hổ thẹn). Kiên lực trì, Cúng dường chư Phật. Đối với pháp chín trụ, chuyên tinh cầu đến. Đa phần làm Luân vương, làm vua ở châu giới này, điều phục mọi sự keo kiệt cấu uế cho đến nguyện ta thường làm bậc tối tôn, làm chỗ nương dựa cho hữu tình, tạo các lợi ích. Hoặc có người vui thích với sự tinh tiến, tịnh tín xuất gia, trong khoảng sát na chứng đắc trăm Tam ma địa, dùng Thiên nhãn thanh tịnh thấy trăm đức Như Lai ở các Phật quốc. Biến hóa và trụ trì đều có thể hiểu rõ. Thần lực có thể làm động cả trăm thế giới Phật, thân cũng có thể đi đến các thế giới đó, phóng hào quang lớn, chiếu khắp khiến người khác đều thấy, hóa làm trăm loài, lợi lạc trăm hữu tình. Nếu muốn lưu giữ lại thân xác thì trụ được trăm kiếp, thấy được trăm chuyện ở đời trước và đời sau, chứng trăm pháp môn, hóa thành trăm thân, mỗi thân đều có thể hiện trăm Bồ-tát quyến thuộc. Trụ giới tăng thượng: Tức là địa thứ hai, do mười ý lạc trụ trong trụ trước thanh tịnh mà được nhập vào trụ này, đầy đủ tính giới, ít tà nghiệp đạo, các thứ phạm giới ác cũng không hiện hành, huống nữa là ở nơi phẩm trung, thượng. Khéo hiểu rõ đươc các nhân quả nơi nghiệp đạo, tự mình hành và khuyên người khác hành các nghiệp tịnh, thương xót nỗi khổ của hữu tình. Như thật quán chiếu, thấy rõ các thiện căn thanh tịnh của chư Phật. Đa phần làm Luân vương, làm vua bốn thiên hạ, dập tắt phạm giới, tất cả oai lực vượt hơn gấp mười lần trụ trước. Trụ tâm tăng thượng: Tức là địa thứ ba. Do trụ trước tác ý, hiểu rõ thông đạt, lại còn nhờ mười tâm tịnh mà nhập vào trụ này. Có khả năng thông đạt các hành đại Bồ-đề của hữu tình, cũng chính thức tìm cầu phương tiện thoát khổ, các phiền não, trói buộc không chướng ngại, trí tuệ không phân biệt trong tịnh pháp giới, trí và kiến này hơn cả Tam ma địa. Tinh tiến, đa văn nơi tạng Bồ-tát. Không tiếc thân mạng, xả bỏ những gì yêu thích, không có sư trưởng, không thề thừa sự. Giáo và thệ nguyện đều hành, thân thề chịu khổ, chỉ cần được nghe một bài tụng, còn hơn cả việc có được châu báu đầy cả đại thiên. Nghe được một câu pháp của Phật, có thể dẫn đến Chánh đẳng giác, làm tịnh hạnh Bồ-tát, còn hơn quả báo Thích Phạm hộ đời…, Giả sử có người bảo: Ta có một câu pháp có thể dẫn đến chánh đẳng giác làm tịnh hạnh Bồ-tát nếu ông chịu nhảy vào hầm lửa lớn, ta sẽ vì ông mà thuyết giảng, thì Bồ-tát cũng hoan hỷ, nói: Được! Dù đống lửa lớn bằng tam thiên giới, vì để nghe được pháp ta còn có thể nhảy vào, huống nữa là một hố lửa nhỏ. Vì để cầu pháp Phật nên hãy còn ở lâu trong đại địa ngục, huống nữa là các nỗi khổ nhỏ khác. Nghe rồi liền có thể tùy pháp hành pháp, dẫn đến được trụ vào tónh lự của thế gian. Lại xả bỏ, tùy nguyện thọ sinh, đa phần làm làm vua trời Đế thích, hóa độ mọi người khiến đoạn dứt dục tham, oai lực vượt quá các trụ trước hàng trăm ngàn lần. Trụ Giác phần tương ưng tuệ tăng thượng: Tức là địa thứ tư. Do trụ trước cầu đa văn thành tựu mười pháp Minh, nên được nhập vào trụ này, đắc mười trí thành thục, tu pháp Bồ-đề, phần đoạn tất cả kiến chấp, như Tát-ca-da-kiến (thân kiến),… lìa nghiệp hủy báng, tu nghiệp khen ngợi, tâm chuyển nhu hòa, công đức hưng thịnh. An trụ tầm cầu, tu trị nghiệp địa, ý lạc viên mãn, thắng giải giới tánh. Oán địch của Thánh giáo không thể lay động được. Đa phần làm vua cõi Trời Tô Dạ ma, hóa trừ kiến chấp về thân tướng, oai lực vượt quá trụ trước hàng số câu chi. Trụ các đế tương ứng tuệ tăng thượng: Tức là địa thứ năm. Do mười ý lạc bình đẳng thanh tịnh ở trụ trước mà nhập nơi trụ này. Dùng mười phương tiện quán sát các đế từ bỏ các hành, thương xót hữu tình, thâu nhận tư lương, siêng tu chánh nguyện. Hành niệm, tuệ… đều được tăng trưởng, lìa tác ý khác lạ, dùng các phương tiện để thành thục hữu tình, tất cả các thứ công xảo đều được dẫn phát, đa phần là làm vua cõi trời San-đô-sử-đa, hóa độ xả bỏ tất cả pháp tà nội ngoại. Trụ duyên khởi tương ưng tuệ tăng thượng: Tức là địa thứ sáu. Do đắc mười loại pháp tính bình đẳng ở trước mà nhập nơi trụ này. Giác ngộ duyên khởi, sinh môn giải thoát, tất cả tưởng tà đều không thể làm lay động. Vì để đem lại ích lợi cho hữu tình mà thâu nhận sinh tử, trí, bi, tùy duyên trí không chấp trước. Bát-nhã Ba-la-mật-đa trụ hiện tiền, chứng đắc vô lượng Tam ma địa thù thắng, ý lạc chẳng hoại, những thứ khác không thể xâm đoạt. Đa phần làm vua cõi trời Diệu Hóa thiên, hóa độ dứt trừ tất cả tăng thượng mạn, oai lực hơn cả hàng trăm ngàn câu chi lần trụ trước. Trụ vô tướng có công dụng: Tức là địa thứ bảy. Do mười loại diệu tuệ phương tiện trước dẫn dắt thắng hạnh của thế gian tiến đạo, nên được nhập trụ này, đạt cảnh giới Phật, tu tập không gián đoạn, thiếu sót, mỗi một sát na chứng mười độ, pháp Bồ-đề, phần có hành gia hạnh, tất cả đều viên mãn, tuy tịnh trụ dẫn trước mà vẫn gọi là có nhiễm, trí công xả đầy đủ vượt quá cảnh Tam ma địa của Nhị thừa, niệm niệm có thể nhập định diệt tận, có thể hiện ra những hành nghiệp rất hiếm có của Bồ-tát, đa phần là làm vua cõi trời Tha hóa tự tại, có thể truyền dạy phương tiện hiện quán cho nhị thừa, oai lực hơn cả hàng trăm ngàn câu chi lần trú trước. Trụ vô tướng Vô công dụng: Tức là địa thứ tám. Do mười loại trên, nhập trí Đệ-nhất-nghóa của tất cả các pháp, nên được vào trụ này. Bốn trí như thật đã tu trước đây, nay đắc thanh tịnh, thành vô sinh nhẫn, đoạn dứt bốn tai hoạ nơi ái, trú nẻo thâm diệu. Nhờ chư Như Lai giác ngộ khuyên bảo hướng dẫn, truyền cho vô lượng môn trí phát khởi sự nghiệp thần thông, ngộ nhập vô lượng phần thân diệu trí, đắc mười tự tại, theo đó thọ nhận nhiều lợi lạc thù thắng, đa phần là làm vua cõi trời Sơ tónh lự. Sát na đầu tiên vừa nhập vào trụ này, toàn bộ phước trí, tất cả oai lực đã hơn gấp một lần các trụ trước. Sát na thứ hai thì gấp hai lần, đến mãn mười địa, nối tiếp tăng trưởng, nói không thể hết. Trụ Vô ngại giải: Tức là địa thứ chín. Do trước ở trụ thâm diệu không sinh mừng đủ, lại với tính trí thù thắng, ưa thích tùy nhập, khởi trí gia hạnh, tuyên thuyết các pháp, nói pháp và những việc mình làm đều biết như thật, thành đại pháp sư, đủ cả vô ngại giải. Đa phần là làm vua cõi Trời tónh lự thứ hai. Trụ Bồ-tát Tối thượng thành mãn: Tức là địa thứ mười. Vô ngại giải nêu trên đã thanh tịnh khắp rồi mới thành pháp vương, thọ pháp quán đảnh, đắc vô lượng đẳng trì như ly cấu,… làm những việc Phật đã làm, đắc tất cả pháp toà, tương xứng của Phật, đắc đại quang minh, chứng pháp tạo lợi lạc hữu tình, diệu trí hành Phật sự, đạt được vô lượng Đà la ni môn giải thoát, vô lượng công đức thần thông, đại niệm,… Đa phần là làm vua đại tự tại cõi Trời Sắc cứu cánh. Đạo Bồ- tát viên mãn, đủ cả tư lương, từ vầng mây lớn Phật, lãnh được trận mưa pháp rộng lớn vi diệu tự như mây lớn, đồng hiện đẳng giác, tuôn khắp mưa pháp, lắng dịu bụi trần, khiến lúa mạ thiện, sinh trưởng kết hạt. Các công đức tu chứng được, các thứ được đoạn dứt trong mỗi một trụ, chẳng phải là các trụ khác không có, nhưng dựa vào sự viên mãn của mỗi một công đức mà kiến lập riêng từng trụ một. Trú Thắng giải hành thì hướng đến vô tướng mà tu những điều mình làm, phạm vi còn nhỏ hẹp, còn thiếu sót, bất định. Sáu trụ tiếp theo là đạt được tu vô tướng, những điều làm, phạm vi đã rộng lớn, không thiếu sót, đạt quyết định. Bốn trụ sau thì viên chứng thanh tịnh, thọ nhận quả tu, những điều đã làm là vô lượng. Trụ Thắng giải hành là tín tâm thứ sáu. Tín sinh ra bất thối, không đoạn thiện căn, mười trụ tâm thứ bảy, ở ngôi vị bất thối, không hành Nhị thừa, đến cực hỷ trụ thì những điều mình chứng được là bất thối, mãi mãi không bao giờ quên mất. Đến vô tướng trụ vô công dụng, tu hành bất thối, tự nhiên tiến tu, đều cầu chủng trí, rộng hành lợi lạc. Vì vậy mà giữ lại hoặc để trợ giúp cho nguyện thọ sinh, do đó không nói đoạn tướng phiền não. Sinh có năm loại: Trừ tai sinh: Do nguyện tự tại, làm cá lớn để cứu những người đói khổ, làm đại y dược để cứu các người bệnh khổ, làm đại thiện xảo để khéo giảng hòa chiến tranh, làm đại quốc vương, như pháp dập tắt mọi nỗi khổ, làm đại thiên thần, để đoạn dứt hành tà kiến. Làm lửa, làm nước, làm xe, làm thuyền, làm nhiều loại vật, để dứt trừ tai họa. Tùy loại sinh: Dùng lực nguyện tự tại, sinh ra trong các loài nơi cõi ác như bàng sinh,… chúng hành ác nhưng mình không hành. Chúng không hành thiện nhưng mình lại hành thiện, như vào quán rượu mà vẫn lập được ý chí. Vào các quán dâm mà chỉ bày tội lỗi của dục. Vì họ mà thuyết giảng chánh pháp để trừ bỏ lỗi lầm kia. Đại thế sinh: Bẩm tính khi sinh, thọ mạng hình dáng, giòng họ, phú quý đều thù thắng nhất, có thể trừ bỏ các lỗi lầm khinh mạn của chúng sanh. Tăng thượng sinh: Thọ nhận quả mười vua, tự tại hóa độ dẫn dắt, tùy chỗ mà ứng sinh. Tối hậu sinh: Tư lương trong kiếp sống này đã viên mãn hoàn toàn. Như Bồ-tát Từ Thị, sinh ra trong giòng họ Bà-la-môn, nơi nhà của đại quốc sư. Như Phật Thích Ca sinh trong nhà đại quốc vương, dòng Sát đế lợi, có thể hiện bày đẳng giác, làm các Phật sự. Lại còn dùng bốn tướng để thâu nhận hữu tình Đốn phổ (tức thì hiện khắp): Ở ngôi vị mới phát tâm, thâu nhận khắp tức thì tất cả hữu tình đều làm quyến thuộc, tùy lực tạo lợi ích. Tăng thượng: Nếu làm gia chủ, khuyên biết ơn tuệ, hiếu dưỡng cha mẹ, tùy thời cung cấp cho vợ, con,… không bức bách tôi tớ, nô bộc, lại có thể nhẫn chịu được. Với những người bệnh, dùng ái ngữ để an ủi, giống như thân của mình, không có tưởng khinh chê. Nếu làm quốc vương, không dùng hình phạt dao gậy, dùng pháp lý mà giáo hóa, dùng tài lợi để tạo lợi ích, dựa vào ruộng đất của nước mình để tự nuôi sống, không đi xâm đoạt nước khác. Xem chúng sinh như cha như con, lời nói thành thật, không dối trá, khuyên bỏ các ác, dạy tu các thiện. Nhiếp thủ (thâu giữ): Bình đẳng không thiên lệch, làm việc không màng danh lợi, không nhiễm, thâu nhận đồ chúng, với tự nghóa lợi, tu tập chánh giáo, gia hạnh không tà. Tùy thời: Các loài hữu tình có phẩm hạ, phẩm trung, phẩm thượng, có thời gian dài ngắn khác nhau mới tính được, vì vậy tùy chỗ ứng hợp thành thục mà hành thâu nhận. Mười ba trụ này, gồm thâu trong bảy địa: 1.Địa Chủng tính; 2.Địa Thắng giải hạnh; 3.Địa Tịnh thắng ý lạc. Ba Địa này tức là ba trụ đầu; Địa Hành chánh hạnh: Tức là sáu trụ tiếp theo; 5.Địa Quyết định: Tức là trụ thứ mười, quyết định ở trong địa thứ ba; 6.Địa Quyết định hạnh. Tức là trụ thứ mười một. Địa Đáo cứu cánh: Tức trụ thứ mười hai, mười ba, do trong cả hai, nhân và quả đều là cứu cánh. Các hạnh Bồ-tát đã nói trên, tuy có vô lượng, nhưng chỉ bao gồm trong bốn loại: 1.Hạnh Ba-la-mật-đa: là sáu độ, mười độ; 2. Hạnh Bồ- đề phần: là tất cả diệu hạnh thuộc ba mươi bảy phẩm, bốn tầm tư; 3. Hạnh Thần thông: Tức sáu thần thông; 4.Hạnh Thành thục hữu tình: Tức là cảnh giới điều phục, vô lượng cảnh giới điều phục phương tiện. Như trên đã nói về đối tượng học xứ, hoặc đối tượng học pháp, hay chủ thể tu học đều là hạnh Bồ-tát. Nhiệt tâm dũng mãnh, dựa theo trên mà tu học, không thấy tướng của hành, đó gọi là hành. Pháp được hành đó sao gọi là sâu? Người thắng không nói: Diệu lý sâu xa huyền vi, không thể nghó bàn, Nhị thừa không hiểu nỗi, phàm phu thì không lường nỗi, nên gọi là sâu xa. Người như ứng nói: trí và cảnh thuộc chân, vượt ra ngoài lời nói và suy nghó, không thể dùng ví dụ để tỏ, vi diệu khó biết. Có đủ cả ba vô thượng, bảy đại tính, thể nghiệp lợi lạc, tất cả đều thù thắng, biển khơi bạch pháp, suối ao diệu bảo, chỉ tương xứng với đại Bồ-đề là chủ pháp giới, cho nên pháp tu học đều gọi là sâu xa, phải siêng năng tu chứng. Hoặc là tất cả các hạnh Bồ-tát đó, là chân như, thật tướng khó có thể viên chứng, trí tuệ quán chiếu rất khó đạt được, văn tự giảng giải khó có thể tỏ ngộ, vạn hạnh quyến thuộc khó có thể thành tựu. Cảnh giới có và không khó có thể thông đạt, dùng tuệ làm đầu, tính và tư lương khác đều gọi là Bát-nhã, vì vậy nên gọi là sâu xa. Sao gọi là Thời? Người thắng không nói. Nếu theo thế tục thì: Tín học tu chứng, cầu chiếu đạt không. Nếu theo thắng nghóa thì: Ngộ pháp, thể không, tu hành Bát-nhã. Sự việc và cứu cánh gọi chung là Thời. Người như ứng nói: Bồ-đề Vô thượng, rộng lớn sâu xa, phải tích chứa nhiều nhân mới có thể chứng đắc. Trong phần nói về mười ba trụ ở trên, nếu tính theo thời gian ngày đêm, trong mỗi một trụ phải trải qua nhiều câu chi trăm ngàn đại kiếp, hoặc vượt quá số lượng ấy mới chứng mới mãn. Nếu lấy đại kiếp để chỉ cho số lượng vượt quá tất cả số lượng thì phải trải qua ba vô số đại kiếp mới viên mãn đắc chứng. Trải vô số đại kiếp thứ nhất, tu một hạnh trong một hạnh mà chứng trụ cực hỷ. Trải qua vô số đại kiếp thứ hai, tu tất cả hạnh trong một hạnh mà chứng vô tướng trụ vô công dụng, nhờ ý lạc tịnh, quyết định dũng mãnh. Sau cùng, trải qua vô số đại kiếp thứ ba, tu tất cả hạnh trong tất cả hạnh chứng trụ Như Lai. Đó là thường tinh tiến, nếu không tinh tiến thì chẳng phải vậy. Nếu dũng mãnh thì hoặc có thể chuyển nhiều trong kiếp hoặc nhiều đại kiếp, chắc chắn không chuyển vô số đại kiếp. Vì vậy mà biết, ở ngôi vị nhân phải trải qua ba vô số đại kiếp tu hành viên mãn mới chứng Bồ-đề, năm loại Bỉ ngạn đều có thể đến (đáo). Ý trên là nói, tu năm Bát-nhã, ba kiếp phần vị hoặc là tùy tự tâm, biến làm phần hạn, từ đầu đến cuối cùng của một sự việc gọi chung đó là Thời. Nếu đạt thời là không thì chỉ có trí chứng. Đã tu học vị thì gồm thâu cả những thứ khác. Hàng Độc giác lợi căn hãy còn phải trải qua trăm kiếp, huống nữa là cầu được làm Phật mà không trải nhiều kiếp tạo nhân. Kinh: Chiếu thấy năm uẩn đều không (chiếu thấy năm uẩn đều không) Tán: Đây là hiển bày do nhờ hành nơi Bát-nhã sâu xa mà đắc tuệ nhãn chân chính. Đạt không gọi là chiếu. Nghóa là các pháp hữõu vi như sắc, thọ, tưởng,… đều có ba đời (thời gian), nội, ngoại, thô, tế, hơn, kém, gần xa. Tích tụ gọi là uẩn, gồm có năm là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. “Đẳng” là vân vân… là các pháp như thủ, xứ,…. Người thắng không nói: Trước đã phá chấp năng quán, để hiển bày năng quán là không. Nay ở đây là phá chấp sở quán, để làm rõ sở quán là không. Nếu bị si che lấp, mê mờ thắng nghóa lý, thì đối với các uẩn, vọng chấp là có. Như người ở trong mộng thấy cảnh hiện tiền trước mắt. Nếu biết rõ đúng về lý của thắng nghóa đế thì không sinh chấp trước, như khi tỉnh mộng, hiểu cảnh là chẳng có. Vì vậy mà thựchành Bát-nhã liền chiếu tính không. Người như ứng nói: Tuy tu tất cả, đều hành Bát-nhã nhưng chứng chân bỏ vọng, do tuệ chiếu không, nên nói riêng. Chữ “không” được nói ở đây là ba vô tính. Nghóa là kế sở chấp về bản thể phi hữu, tướng, vô tự tính, do đó gọi là không. Vì các thứ đều y tha khởi: Sắc thì như bọt nước tụ, thọ dụ như bọt nổi, tưởng thì như dợn nắng, hành giống như cây chuối, thức giống với huyễn sự, không như chỗ chấp là tính tự nhiên sinh tính, cho nên cũng gọi là không. Tính Viên thành thật, nhờ quán sở chấp kia là rỗng không không có mới chứng. Hoặc là không có, như chơn tính kia đã chấp, vì vậy thắng nghóa đích thực còn được gọi là không. Thật ra thì cả ba tính đều là phi không, phi bất không, vì để phá bỏ chấp có mà mật nói là không, chẳng phải hai tính sau đều không có mà gọi là không. Thuyết tất cả là không, đó là mật ý của Phật. Đối với có và không đều nói chung là không. Như Thế Tôn thuyết rằng: Thắng nghóa tướng sinh không tự tính Như vậy ta đều đã hiển thị Nếu không biết mật ý Phật đó Hoại mất chánh đạo, không thể đến. Lại nữa, “không” đó là lý của chân như. Tính thì chẳng phải không, chẳng phải có, nhân nơi không mà hiển bày, để ngăn chặn chấp có nên giả gọi là không. Hàng ngu phu không biết, chấp năm uẩn định lìa là chân có, khởi tướng phân biệt. Nay ở đây quy về bổn thể tức là chân như. Vì sự mà lìa lý thì chẳng có tính riêng. Do vậy, kinh nói: “Tất cả hữu tình đều là Như Lai tạng. Tất cả các pháp đều là chân như”. Nói: “Sự hữu tướng tức là không vô tướng”. Khiến các hữu tình đoạn dứt sự trói buộc do các tướng. Nhãn có năm loại: Nhục nhãn: sắc do đại thanh tịnh tạo, chẳng do định sinh ra. Thiên nhãn: Đại tạo tịnh sắc, do định khởi. Tuệ nhãn: là trí chiếu lý không. Pháp nhãn: là thông đạt giáo có tuệ. Phật nhãn: là bốn giác trên đã viên mãn, được gọi chung là Phật. Nay ở đây là vị nhân, tuệ nhãn đạt không, chiếu quán rõ ràng, vì vậy mà nói là “chiếu thấy”. Nhưng tính không này, là lắng nghe (văn) tư duy (tư) trong vị Tư lương, thường chỉ là tín, giải. Ở tại vị gia hạnh mới thuần là tu quán. Tuy đều gọi là chiếu, nhưng còn vướng tướng, chưa chứng chân. Khởi quán vô lậu trụ trong mười địa, thông đạt lý chân mới thật là chiếu không. Đến vị Như Lai thì chiếu kiến mới viên mãn, biết lìa ngôn cảnh, giả gọi là không. Tuy chữ không này là nói chung cả ngã và pháp không nhưng đây dạy cho Xá-lợi-tử chỉ nói về pháp không. Vì Xá-lợi-tử từ lâu không còn chấp ngã, nên không nói ngã không. Lại nữa, chấp ngã nương theo chấp pháp mà sinh. Chỉ cần quán pháp không thì ngã theo đó mà không. “Không” được nói ở đây, tuy thể không khác, nhưng theo sự mà nói thì cũng có sai biệt. Như trong đại kinh (kinh Đại phẩm) hoặc nói có mười sáu không: Nội không, Ngoại không, Nội ngoại không, Đại không, Không không, Thắng nghóa không, Hữu vi không, Vô vi không, Tất cánh không, Vô tế không, Vô tán không, Bổn tính không, Tướng không, Nhất thiết pháp không, Vô tính không, Vô tính tự tính không. Hoặc là có mười bảy không, thêm vô sở đắc không. Hoặc nói là mười tám không là thêm tự tính không. Hoặc có mười chín không, là thêm Sở duyên tăng thượng cập hỗ vô không. Hoặc nói hai mươi không tức là trong mười tám không chia vô tán không thành là vô biến dị không và tán không, chia tướng không thành là tự tướng không và cộng tướng không. Tụng nêu: Năng thực và sở thực Đây nương thân mà trụ Thấy được như lý ấy Chỗ cầu nhị đế không Vì thường ích hữu tình Vì không bỏ sanh tử Để thiện vô cùng tận Nên quán đó là không Để chủng tánh thanh tịnh Vì được các tướng hảo Để định các pháp Phật Nên Bồ-tát quán không Pháp Bổ đặc già la Thật tính đều phi hữu Vô tính, hữu tính đó Nên lập riêng hai không Kinh: Độ nhất thiết khổ ách Tán: Người thắng không nói: Trên đây là lược nói về phá hai chấp, hiển cả hai không, vượt qua được các khổ. Đã chiếu tính không, lìa các phân biệt, như chim ra khỏi lồng, mãi mãi thoát khỏi sự trói buộc, liền vượt qua khổ ách, mau chứng Niết-bàn. Theo thắng nghóa thì không có vượt qua, không có đạt đến, nhưng theo Thế tục thì có vượt qua, có đạt đến. Người như ứng nói: Do chiếu tính không mà vượt qua sinh tử, là hiển bày về ích lợi trước tiên của sự tu tập, là tâm mài luyện thứ ba. Nghóa là, quán chuyển y thâm diệu khó chứng, nếu sinh tâm thối lùi thì phải mài luyện tâm. Hữu tình ở thế gian, thực hành các hạnh bố thí thô sơ, khi mạng chung còn chiêu cảm được quả thù thắng, huống nữa là ta nay tu không chướng diệu thiện, sau này chẳng chứng được chuyển y vượt qua khổ hay sao? Như Bồ-tát kia đã thực hành tuệ mà vượt qua khổ ách, xả bỏ chỗ nương thô nặng, đắc cái không thô nặng, ta cũng nên làm như vậy, tự khuyến khích rồi tăng tu, không nên tự xem thường mình, sinh ra tự thối lui, khuất phục. “Độ”: nghóa là vượt qua, thoát khỏi. “Khổ”: là hữu tình của ba cõi và xứ, tức là những phiền não của nghiệp sinh ra và khởi lên. Theo lý thật thì tất cả hữu lậu đều là khổ. Ở đây có ba loại: Các pháp hữu lậu đều mang tính chất dời đổi, bức bách, bất an, đều gọi là hành khổ. Các thú vui ở thế gian, cuối cùng rồi cũng quay về với sự hủy diệt, duyên hợp khiến kéo theo sự lo âu đều gọi là hoại khổ. Tính đã bị bức bách, càng tăng thêm sự khổ sở, khó chịu đựng nỗi, gọi là Khổ khổ. Chữ khổ này có nghóa là tai ách, tai nạn. Hoặc có tám loại khổ: Trụ thai và xuất thai (khi còn ở bào thai và khi sinh ra) đều bị bức bách, là gốc của các Khổ, gọi là sinh khổ. Suy yếu hư hoại theo thời gian gọi là lão khổ. Đại chủng suy kém, biến đổi, gọi bệnh khổ. Tuổi thọ tàn diệt gọi là tử khổ. Không thích mà lại ở ngay trước mắt, gọi là oán tắng hội khổ (oán ghét mà gặp nhau, khổ). Điều mình yêu thích lại bị lìa xa, gọi là Ái biệt ly khổ (yêu thương mà bị lìa biệt, khổ). Những thứ mình mong cầu lại không toại ý, gọi là cầu bất đắc khổ (cầu không được, khổ). Hành và danh thuộc hữu lậu, gồm thâu tất cả năm thủ uẩn là khổ. “Ách”: Nghóa là tám nạn và các điều nguy hiểm, sợ hãi, như tiểu tam tai,… do chưa chiếu không, bị trói buộc nơi tướng của cảnh làm cho tâm khởi lên sự phân biệt, phát khởi phiền não của nghiệp khổ sinh ra trong năm cõi. Khi đã thấy rõ ba loại vô tính là không, hoặc là chiếu các uẩn tức chân như không thì phân biệt không còn sinh ra, quả ác theo đó mà diệt, vì vậy thoát khỏi các khổ ách, như có tụng nói: Tướng buộc, buộc chúng sanh Cũng do thô trọng buộc Khéo song tu chỉ, quán Mới là đều giải thoát. Thật ra thì chiếu không còn vượt qua được hoặc nghiệp, thể rộng lớn, quả hiện rõ, nên chỉ nói là khổ. Tức vượt qua tướng của không đó là chiếu soi văn, tư trong ngôi vị tư lương. Từ tâm thứ sáu trong ngôi vị mười tâm đầu tiên, thì tâm tín bất thối, thiện căn bất đoạn, liền mãi mãi hàng phục, vượt thoát khổ ách cực nặng. Vì vậy tụng trong kinh nói: Nếu thế gian có thành Phẩm chánh kiến tăng thượng Tuy trải qua ngàn đời Trọn không đọa cõi ác Sau khi đạt đến trụ thứ tư trong mười trú thì các vô minh thô nặng đều không hiện hành nữa, mới có thể hàng phục, độ thoát khổ ách ở cõi ác. Trụ sinh quý nói: là trừ diệt phiền não, hết hẳn không sót, xả bỏ sinh tử, ra khỏi tam giới. Kinh Duyên Khởi nói: Ngoại đạo dị sinh nơi các hành đều lấy bốn ngu làm duyên. Nội pháp dị sinh, nếu người phóng dật thì hành phước và bất động, lấy ba ngu làm duyên. Các hành vốn có của người không phóng dật, ta không nói là lấy Vô minh làm duyên. Vì vậy mà biết là từ đó về sau lìa bỏ tất cả khổ ách của các cõi ác. Sau trụ thứ bảy thì càng bất thối, lìa bỏ tất cả các khổ ách của Nhị thừa. Đạt đến vị thông đạt, sau khi chứng chân không mới vónh viễn thoát khỏi tất cả các loại khổ ách trong ba cõi ác và tám xứ. Hoặc có người cũng có thể vónh viễn lìa bỏ phiền não sợ hãi nơi khổ ách phần đoạn trong tam giới. Có người, sau khi đạt đến địa thứ tám mới lìa bỏ được ách nạn đó, vì địa thứ bảy trở về trước còn lưu giữ lại phiền não, đến cuối địa thứ mười, chiếu “không” đạt viên mãn, tất cả chủng tử hữu lậu được trừ bỏ vónh viễn. Các ách khổ về biến dịch sanh tử đều hết, đến vị Như Lai là làm lợi lạc cho chúng sanh. Hoặc có lúc thị hiện chẳng phải thật như vậy, quán tự tại đó còn chưa thành Phật, do ở chiếu không nên sẽ trừ bỏ tất cả, khuyên bảo chỉ bày phát tâm nên nói là “vượt qua tất cả”. Kinh: (Xá-lợi-tử!) Tán: Người thắng không nói: Sinh nhờ pháp mà lập, pháp tức là nhân của sinh. Phần này nói rộng về sinh không, phần sau sẽ nói về pháp. Người như ứng nói: Từ đoạn này là nói về sự cơ cảm, nói về lý, nêu ra thí dụ, chỉ bày thắng hạnh để trừ bốn xứ. Đoạn này chia làm ba phần: Từ “Xá-lợi-tử!…”: Nói chung về không. Từ “thế nên,….”: kết riêng về đối tượng không. Từ “do vô sở đắc nên,…”: Là giải thích về lý không. Xá-lợi là tiếng Phạm, tiếng đời Đường gọi là Xuân thu, do mẹ có biện tài, lấy dụ mà đặt tên, hiển bày là do bà ấy sinh ra nên lại gọi là tử. Mẹ nhân có thể luận bàn nên con mượn làm tên. Thời nhỏ nghe ít hiểu nhiều, nhờ tri kiến mà ngộ nhập. Nay diễn bày tánh không, nên gọi tên ngài để làm dụ, chỉ nói về thắng giáo để gồm thâu pháp, hiển bày lý ấy đều không, riêng nói cho bậc thượng nhân, dùng để thâu tóm căn cơ, tức thì chúng cùng được bảo cho biết. Tuy nắm giữ việc báo cho biết nhưng chưa ngộ không, nên trước tiên là khuyên mài luyện, mới dứt trừ bốn xứ. Kinh: (Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Tán: Nghóa là: Bốn đại chủng và những thứ do bốn đại chủng đó tạo ra, tức là mười sắc xứ và sắc của pháp xứ, tính của chúng đều biến hiện, gọi chung là Sắc. Người thắng không nói: Từ đoạn này là nói rộng về pháp không. Đại kinh nói: Nguyên do vì sao? Tự tính của sắc là không, chẳng phải do không nên có sắc không chẳng phải là sắc. Sắc chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Đó là phá hai loại chấp. “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc”: là phá cái chấp của thế gian cho ngoài sắc ấy còn có riêng cái chân không, chẳng tỏ ngộ chân không, chấp trước các sắc, vọng tăng thêm nghiệp hoặc, luân chuyển nơi sinh tử. Nay nói rõ là do bệnh mắt mà thấy hoa sắc, vì mắt bệnh nên thấy vậy, chẳng phải khác không là có dựa nơi thắng nghóa thì sắc chẳng khác không. Như Thánh giáo nói: “Pháp do nhân duyên sinh, ta nói là không”. “Sắc tức là không, không tức là sắc”: Là phá chấp của ngu phu, phải ở vị sắc không có mới bắt đầu có không, nên phân biệt thành nhiều thứ đối với sắc, đối với không. Nay làm rõ theo thắng nghóa, sắc vốn tính không, do mê và ngộ nên thấy khác nhau nghóa mà làm rõ không, sắc. Sao lại cho sắc diệt mất mới thấy là không. Như mắt đau thì thấy không hoa, tự tính của không hoa là chẳng phải có, há cần hoa diệt mất rồi mới thành không. Vì vậy, đối với sắc và không đừng sinh chấp trước, phải trừ bỏ đảo kiến, mới thấy Niết-bàn cứu cánh. Do hai câu này nên kinh nói: Tự tính của sắc là không, chẳng phải sắc diệt rồi mới không. Người như ứng nói: Nếu theo thắng nghóa thì các pháp đều không, đều là không có. Đầu tiên tuy có thể như vậy, nhưng lý thì chưa chắc là thế. Chân và tục là so sánh nhau, tục không có thì chân cũng diệt. Sắc và không là đối đãi nhau sắc mà diệt thì không cũng mất. Vì vậy, chẳng phải thể của sắc xưa nay vốn không. Người thắng không nói: Thật ra không đó là phi không-bất không, lật ngược cái mê đối sắc, ngộ thì nói là sắc không, chẳng phải cái không nói đó tức nhất định là không, mà không đó cũng rỗng không. Người như ứng nói: Nếu theo nhân duyên, sắc tự nó vốn đều không, thì các người ngu cũng thành người trí, thế thì phàm và Thánh lẫn lộn, ai là thầy, ai là mê?. Người thắng không nói: Phiền não thành giác phần, sinh tử tức Niết-bàn. Chi phần của trần lao là chủng tánh của Như Lai. Các chúng sanh xưa nay vắng lặng. Há chẳng phải ngu phu trước là kẻ trí? Người như ứng nói: Nếu chấp nhận sự sắc có khác với lý không, thì có thể bỏ mê sắc mà cầu ngộ không đã gốc không là sắc, thì trí tức là ngu, cầu trí bỏ ngu, há chẳng phải là điên đảo? Vả lại, chán sinh tử, cầu Niết-bàn, khổ và lạc không khác, cầu ấy ích gì? Ngu phu sinh tử đã đắc Niết-bàn. Bậc Thánh lại cầu, càng thành hư vọng. Người thắng không nói: Mê ngộ sự tục, cầu thánh bỏ phàm, chân lý sắc không, sao thành lấy bỏ? Người như ứng nói: Nếu chấp nhận sự là riêng biệt, thì cũng có thể nói tức không, cả hai đều có trong thắng nghóa thì tự thành mâu thuẫn. Ứng với người chưa ngộ thì biết sắc tức không. Với người đã ngộ thì chẳng ngộ không sắc. Với bậc thánh tinh cần thì đáng thương xót, với kẻ ngu phu biếng trễ thì đáng vui mừng. Như đức Thế Tôn nói: Bồ-tát tùy thuận thông hợp nơi phương tiện thiện xảo Ba-la-mật-đa như thế nào? Nếu các hữu tình không thể hiểu rõ những kinh điển nói về tính không mà đức Phật đã thuyết giảng, như tất cả pháp đều không có tự tính, đều không có sự, không sinh, không diệt, đều như huyễn mộng thì Bồ-tát vì họ mà hội thông như lý, nên bảo cho họ biết. Kinh này không nói tất cả pháp đều không có gì cả, mà chỉ nói tính của các pháp đều là không. Vì vậy mà nói các pháp đều không có tự tính. Tuy có tất cả ngôn thuyết về sự đều nương dựa ở đấy mà các ngôn thuyết chuyển, nhưng các tự tính có thể được nói ấy, theo thắng nghóa đế thì chẳng phải là tự tính của chúng. Cho nên nói các pháp đều vô sở hữu. Tự tính của tất cả pháp đã nói kia, theo lý thì từ xưa nay vốn đều không thì cái gì sẽ sinh, cái gì sẽ diệt. Vì vậy nói chư pháp không sinh, không diệt. Lại như huyễn mộng, chẳng hiển hiện như thật có, cũng chẳng phải tất cả hình chất của huyễn mộng đều là không có gì cả. Như vậy các pháp chẳng như ngu phu cho là thật có, do các thế lực hiện ra như thật là có. Cũng chẳng phải thắng nghóa của tất cả pháp, tự tính lìa ngôn đều không có gì. Từ đó, ngộ nhập, tất cả các pháp chẳng phải là có chẳng phải là không, giống như huyễn mộng, tính chúng không hai, do vậy nên nói các pháp đều như huyễn mộng. Như thế, Bồ-tát đối với khắp tất cả các pháp nơi pháp giới, không giữ lấy một phần nhỏ nào, cũng không xả bỏ một phần nhỏ nào, không làm giảm hao, cũng không làm tăng ích, không có gì bị mất mát. Nếu pháp thật có, biết là thật có. Nếu pháp thật không có biết là thật không, có như vậy mà mở bày, chỉ dẫn. Đó gọi là Bồ-tát tùy thuận thông hợp nơi phương tiện thiện xảo. Ý của kinh này nói: Tất cả ngu phu như nói cái thật đã chấp là tự tánh của các pháp có thể diễn nói như thật mộng huyễn, đều không có tự tính, đều không có sự, không sinh, không diệt, không phải không có Thánh trí, xét kỹ cảnh chân tục thì pháp tính lìa ngôn, chẳng phải như huyễn mộng, có hình chất cũng có “thể” mà đều vô danh, vô tính,… Thấu đạt sở chấp rỗng không thì ngộ lý chẳng phải có. Đạt được Thánh cảnh có thì ngộ lý chẳng phải không. Vì vậy mà nói: Bồ-tát không giữ lấy phần nhỏ nào, không xả bỏ phần nhỏ nào. không biết là có, không, biết là có. Nếu dựa nơi thắng nghóa thì thể của pháp đều không không chút nào có. Hiểu chung như vậy, thì chẳng thiện xảo, xưng là ngộ lý chẳng phải không mà, chẳng xả bỏ một phần nhỏ nào còn uổng công bày vẽ, là làm tổn giảm, hư mất chánh lý. Do vậy mới biết, ý của kinh này trước phá chấp sắc có nên thuyết sắc không. Không tức không có, chẳng phải pháp tính không. Ngu phu lại chấp, cái tình sắc tướng hiện có, bổn tính chẳng phải có, hoặc là chấp chẳng phải không, và sắc diệt không có mới thành thể “không” mà thành hai đảo. Do vậy phải dứt bỏ cả hai chấp đó để hiển rõ sự và lý của sắc, chẳng phải như đã chấp, đừng khởi vọng tình, sinh kiến điên đảo. Vọng tình đã đoạn dứt, thì mất chỗ chấp về sắc. Vì vậy đoạn dứt y tha, trừ bỏ kế sở chấp, như bệnh mắt đã hết thì không còn thấy không hoa. Nhị thừa, ngoại đạo thì chấp thật có tác dụng, theo nhân duyên sinh pháp tính đều chẳng phải có. Vì vậy Thánh giáo nói : nhân duyên sinh các pháp, ta nói đều là không. Chẳng nói là cái sắc của y tha như huyễn cũng đều không. Vì vậy có tụng nói: Hư vọng phân biệt tính Do nghóa đó được đắc thành Chẳng thật có, toàn không Nên thuận diệt, giải thoát Thánh giáo lại nói: Các pháp chẳng tự sinh, cũng chẳng từ tha sinh, cũng không từ cộng sinh, cũng chẳng từ cả hai sinh. Tuy không có chấp tác dụng theo nhân duyên, nhưng chấp có công năng duyên có thể đạt được, nếu chấp không có thì không có tục đế. Tục đế đã không có thì chân đế cũng không có. Thế thì nương vào ai, do ai mà đắc giải thoát? Hoặc không đó tức là pháp tính không. Hoặc chấp các sắc của biến kế sở chấp và các sắc của y tha là chắc chắn khác cái có thật, thì chân và tục riêng biệt, thế thì rất thành mê loạn. Nay ở đây tỏ rõ tính của cả hai sắc tức là không như, vô tướng, vô vi, chẳng phải là trí cảnh, phải xả bỏ cả hai chấp mà cầu đến chân không, nên thâu tóm quy về không song song dứt trừ vọng kiến. Thể sắc của pháp tính, tức chân tướng. Chẳng khác không tức không thì nghi hoặc còn gì. Đức Phật thuyết về hai đế, mỗi đế đều có mức độ cạn và sâu, so sánh lẫn nhau thì đều có chân tục. Có tục là tục của tục, có tục là chân của tục. Có chân là chân của chân. Có chân là tục của chân. Tức tục là tục của chân, chân cũng là chân của tục. Có tục, có chân, tục không thì chân diệt. Đã chẳng phải không có sắc mà riêng có không, thì cũng chẳng phải sắc không, mà quyết định chẳng khác” không, tức không. Do vậy, chân không và sắc là chẳng phải khác chẳng phải không, chẳng phải phải tức, chẳng phải không tức. Nay ở đây, vì để ngăn chặn định chắc là khác v.v… nên chỉ nói là chẳng khác mà tức. Đây cũng là nói chẳng phải khác, chẳng phải chẳng tức. Luận Biện Trung Biên nói: Không có hai có, không Chẳng có cũng chẳng không Chẳng khác cũng chẳng một Đó nói là tướng không Nay nói về sắc không, hỗ tương nhau mà hiển bày khiến nghóa càng rõ thêm, để phá trừ chấp nghi. Đoạn trước nói về quán tự tại, chỉ dạy mài luyện tâm. Đoạn này thuyết về sắc và không v.v… là để trừ bốn xứ: Nhị thừa tác ý, thích chán hẹp hòi, nên không thích lợi tha. Ở trong Đại thừa, tìm cầu điên đảo và khởi nghi hoặc. Đối với văn, tư,… nói ta có khả năng như thế, tức có nhiều loại pháp chấp. Hiện tiền an lập, chấp trước, phân biệt về sắc cho đến Bồ-đề. Nay nói sắc v.v… “chẳng khác không”; “tức không “ khiến xả bỏ sự tác ý kém cỏi của Nhị thừa,… thành tựu hạnh xuất thế, vô phân biệt. Kinh: Thọ, tưởng, hành, thức… diệt phục như vậy. Tán: E họ nghi chấp cho chỉ có sắc mới không khác với không, chỉ có thể của sắc tức là không, còn các pháp khác thì không vậy, do đó mà kể ra thọ, tưởng,… cũng như sắc. Có thể lãnh nạp cảnh dấy khởi khổ, lạc, xả gọi là Thọ. Có thể giữ lấy ở cảnh, có tướng, không tướng, lớn, nhỏ, vô lượng, không ít, với những sai biệt hiện có gọi là tưởng. Suy tư tạo phần vị thiện, ác, vô ký và các tâm sở chuyển trôi, gọi là hành. Tâm, ý, thức, cả ba đều có thể phân biệt hiển bày đều gọi chung là thức. Nghóa là bốn thức trụ và thức là chủ thể trụ. Như sắc mà lãnh hội, như lãnh hội mà biết, như biết mà làm, như làm mà hiểu, cho nên sắc, thọ,… theo thứ tự như vậy. Nhưng do thế tục chấp sự của ngã có năm thứ: Thân xác ta, đồ dùng của ta, lời ta nói, việc làm của ta, tự thể của ta. Nay tỏ rõ uẩn chỉ là công năng của pháp, không có tự tính thật, chẳng phải là ngã, ngã sở, chỉ nói năm uẩn không thêm không bớt, ngu phu không biết để phá ngã chấp, nên ở trong phi uẩn mà nói là uẩn, bèn chấp là có. Vì vậy ở đây, để phá trừ chấp, nên nói là không. Nhị thập tụng Luận nói: Không có cái ngã hữu tình, chỉ có nhân của pháp. “Đẳng”: là cùng chọn lấy năm loại thiện xảo của xứ giới tiếp sau. Nhưng Đại kinh nói: Sắc không, cho đến Bồ-đề cũng không, dù có một pháp vượt quá Niết-bàn đi nữa, ta cũng nói chúng là như huyễn như hóa. Vì vậy, chữ “Đẳng” này là thâu tóm chung cho tất cả mọi pháp. Người thắng không và như ứng, cả hai đều dựa theo đó mà giải thích. Đại kinh tiếp theo nói: thọ, tưởng, hành, thức, tự tính của chúng là không, không phải do không nên không. Cho đến nói rộng thì thọ, tưởng, hành, thức tức là không, không tức là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì đó chỉ là có danh, gọi là Bồ-đề, gọi là không. Ở đây chúng chỉ có danh, gọi là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Kinh: Xá-lợi-tử ! thị chư pháp không tướng bất sinh, bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. (Xá-lợi-tử! Tướng không của các pháp ấy không sinh, không diệt, không cấu không tịnh, không tăng không giảm Tán: Trước đã bảo cho biết thể của pháp là không. Nay bảo cho biết nghóa của pháp là không. “Các pháp ấy”: là các pháp sắc, thọ,…. đối với không đã nói trên. Xưa không có nay có gọi là “sinh”. Tạm có rồi trở lại không gọi là “diệt”. Chướng nhiễm gọi là “cấu”, ngược lại với cấu gọi là “tịnh”. Tướng được mở rộng gọi là “Tăng”, ngược với tăng gọi là “giảm”. Người thắng không nói: Theo Thế tục đế thì có sắc, thọ,… có sinh, diệt,… Theo thắng nghóa đế thì sắc, thọ,… vốn là không, làm sao trong không lại còn có sinh, diệt,… Vì vậy, tướng không của sinh, diệt,… đều là không. Người như ứng nói: Trên Biến kế sở chấp và y tha pháp, tự nhiên sinh, bổn tính của chúng là rỗng không, không có. Pháp tính nơi sắc, thọ,… theo lý thể tức là không, đều không có như Nhị thừa đã chấp sinh v.v… có vị riêng. Cho nên nói là tướng không, không sinh không diệt,… Lại nữa, nếu có chấp hữu vi dời trôi thì chắc chắn có sinh có diệt. Với phần vị vô vi đang bị ràng buộc và vô vi xuất khỏi sự ràng buộc thì khác nhau, thật có cấu và tịnh. Ở ngôi vị chưa chứng chân và ngôi vị đã chứng chân thì hữu vi và vô vi cùng có sự tăng, giảm, mọi định chấp như vậy đều là sở chấp, cho nên thể và tướng đều là không có. Đâu thể như kia chấp hữu vi sinh diệt, vô vi cấu tịnh, cả hai chung tăng giảm ? như thấy dợn nắng chấp nước là thật, nước này vốn không, làm gì mà có sinh diệt ? cũng không phải không có dợn nắng mà tợ như nước có sinh. Có người hỏi. Nếu nhiếp về tánh, thì sắc… thuộc y tha đều tức không, như kia có sinh diệt thì không này cũng phải sinh diệt. Nay trả lời : Sắc trên bầu trời không, tuy có sinh diệt mà tướng không có sinh diệt. Như thế, Y tha tuy có sinh diệt mà chơn không không giống vậy. Lại hỏi: Nếu tất cả pháp đều tức chân không, thì tướng không ấy ở khắp trong tịnh tín… trong cấu nhiễm tham… giống như tương ưng với cấu tịnh? đáp: Như trong hư không, sắc có nhiễm tịnh mà hư không, không giống vậy. Như vậy, tuy các pháp có cấu tịnh mà tướng không không có. Cho nên có tụng nói. Như vậy, các pháp tuy có cấu và tịnh nhưng không có tướng thì không có cấu tịnh, vì vậy có tụng nói: Chẳng phải, chẳng không nhiễm Chẳng tịnh chẳng không tịnh Vì tâm tính vốn tịnh Do khách trần làm nhiễm. Hoặc có người thắc mắc: Nếu pháp đều là chân không có tướng riêng khác thì cam lồ nơi Thánh giáo vốn có sự tăng giảm thì chân không cũng phải có sự tăng giảm như vậy?. Nay theo nghóa, đáp: Sắc tướng ở trong bầu trời có sự tăng giảm, nhưng tướng không thì không. Cũng vậy, Thánh giáo tuy có sự tăng giảm, nhưng tính không thì không có sự tăng giảm, đều do sự và lý, thể mà tướng riêng khác. Nếu tất cả pháp chỉ là chân như, không thì sao lại có các chuyện sinh và diệt? Trên là nói chung: chẳng phải chỉ thể của Sắc “không khác không”, “tức không” mà các sai biệt sinh ra trên sắc, nghóa cũng “không khác không”, “tức không”. Đại kinh tiếp đó nói: Như vậy, tự tính là không sinh, không diệt, không nhiễm không tịnh. Khi Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như vậy, thì không thấy sinh, diệt, không thấy nhiễm, tịnh. Vì sao? Vì chỉ là giả lập tên gọi là khách tách biệt từng pháp mà khởi phân biệt, theo đó khởi bày ngôn thuyết, cứ theo những lời như vậy mà sinh khởi chấp trước. Khi Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả những thứ như vậy đều không thấy, do không thấy nên không sinh ra chấp trước. Kinh: Thị cố, không trung vô sắc vô thọ tưởng hành thức. (Do đây, trong không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức). Tán: Người thắng không nói: Trên là dùng, nghóa thể của sắc, thọ v.v… đối chung với không để làm rõ là “không khác” không “Tức” không, e nghóa không rõ, khiến quán thuần thục, mới kết luận riêng là các pháp đều không có trong không. Theo những điều đã nêu trước để kết luận, nên nói là “Do đó”. Người như ứng nói: Cả ba thừa đều tu chung cả năm loại thiện xảo: là Uẩn, Xứ, Giới, Duyên khởi và Đế. Tùy theo sự ứng hợp với những thứ đó mà thành là quán xa và quán gần. Do Nhị thừa,… đều chấp có, nay để đối lại nên nói là không có. Cái không đã chấp, ấy nghóa thể của nó đều vắng lặng, cho nên các uẩn sở chấp, tính của chúng đều là không có. Nhưng Phật phương tiện, ở trong hữu vi, giả bày là uẩn, để phá năm sự ngã, dần dần khiến nhập chân mà nói. Đó là thiện xảo, nói chẳng phải nói là thật có. Tụng của kinh nêu: Như sao, màng, đèn, huyễn. Sương, bọt, mộng, chớp, mây Các hòa hợp tạo thành Nên tác quán như vậy. Pháp thuộc hữu vi hãy còn chẳng phải là uẩn nhất định, các uẩn sở chấp kia lý nào thành chân? Pháp tính không như, nên chẳng phải là tướng uẩn, do đó trong không, đều không có năm uẩn. Đại kinh tiếp theo nói: Lại nữa, Xá-lợi-tử! Khi các Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán như vầy: Bồ-tát chỉ có danh, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chỉ có danh, Sắc, thọ, tưởng, hành, thức chỉ có danh cho đến nói rộng. Kinh: Vô nhãn nhó tó thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp: Không có nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý. Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tán viết: Đây là nói trong không, không có mười hai xứ. Người thắng không nói: Phật phương tiện quyền biến, nói là có xứ,… để dẫn hội nhập chân, đã hội nhập chân rồi, dựa nơi nghóa chân thật, mà nói là đều không. Người như ứng nói: Chỉ do căn cảnh, cùng với sáu hành thành môn sinh trưởng, nói đó nghóa là Xứ. Dùng sự thấy nhau hỏi han, hương thơm, ăn uống, tiếp xúc, phân biệt, ở thế gian mà Phật nói là Xứ, theo thứ tự như vậy. Cái dụng của nhãn và nhó thù thắng được gọi là thiên nhãn thông. Thiên nhó thông. Biến hóa chẳng phải chân chỉ ở Dục, Sắc giới. Các thức ở địa dưới có dựa nơi trên là Nghiệp, Duyên, Thông, Định, Pháp lực đều sinh. Sắc: là Hiển rõ, hình dáng, biểu hiện. Thanh: là giữ nhận, không giữ nhận, đều sinh ra do đại chủng. Hương: là câu sinh, hòa hợp, biến dị. Vị: là đắng, chua ngọt, cay, mặn, nhạt. Xúc: là bốn đại và chỗ tạo của chúng. Pháp: là sắc vô đối và tâm sở khác, bất tương ưng, vô vi. Luận Nhị Thập Tụng nêu: Nương kia mà hóa sinh Thế Tôn mật ý sâu Thuyết có các xứ sắc Như hữu tình hóa sinh Phật thuyết điều đó vì những ngườivọng. chấp có ngã, chìm đắm lâu trong sinh tử không chịu hướng cầu không phải, trong pháp không xứ mà thuyết đó là xứ. Như để ngăn chận đoạn kiến mật thuyết là hóa sinh, khiến hội nhập chân, trừ bỏ ngã chấp. Những người Nhị thừa không hiểu đó chỉ là phương tiện ngôn thuyết, chấp là thật có. Nay tỏ rõ tính của những sở chấp đều là không. Trong pháp nhân duyên đã chẳng phải là xứ thật. Pháp tính lý không cũng không có tướng của xứ. Theo nghóa trên mà kết luận xứ là không có. Đại kinh tiếp đó nói; nhãn xứ chỉ có danh, cho đến pháp xứ chỉ có danh. Nãhn xứ không, cho đến pháp xứ không. Kinh: Vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Không nhãn giới cho đến không ý thức giới. Tán: Đây là trong không, không có mười tám giới Người thắng không nói: Nhãn giới, Sắc giới, Nhãn thức giới, Nhó giới, Thanh giới, Nhó thức giới, Tỷ giới, Hương giới, Tỷ thức giới, Thiệt giới, Vị giới, Thiệt thức giới, Thân giới, Xúc giới, Thân thức giới, Ý giới, Pháp giới, Ý thức giới gọi là mười tám giới. Nay nêu giới đầu cho đến giới cuối cùng đều là không có, theo thế tục thì nói là có, theo thắng nghóa đều là không có, chỉ có tên gọi giả, vì tự tính là không. Người như ứng nói: Do căn và cảnh có thể giữ lấy sáu thức. Chúng lại tự giữ lấy nghóa của tính nhân quả, gọi đó là giới. Có thể giữ lấy cảnh là tướng của sáu nội giới. Đối tượng được chọn lấy là nhãn, nhó,… là tướng sáu ngoại giới. Nương căn duyên cảnh, tựa cảnh mà phân biệt hiểu rõ, là tướng sáu thức giới, trong đó ý giới tức là tâm, ý, thức. Tâm là thức thứ tám, duy trì chủng tử, thọ nhận huân tập là thể của sinh nơi các cõi. Tính thiện, vô phú, có thể biến thân căn, khí thế giới làm thành chỗ nương của hữu tình, có ba: Ngã ái chấp tạng vị danh: là A-lại-da, tiếng Hoa dịch là Tạng là nghóa Năng tàng (chủ thể chứa giữ), Sở tàng (đối tượng được chứa giữ) chấp và sự chứa giữ. Nghiệp quả thiện ác là Tỳ bá ca, tiếng Hoa gọi là dị thục, là chỗ chiêu tập của nghiệp thiện và bất thiện. Chấp trì tương tục vị danh là A đà na, tiếng Hoa gọi là chấp trì. Vì nó có thể nắm giữ thân xác, làm cho thân xác không bị hư hoại. Ý là thức thứ bảy. Nhiễm chấp tướng ngã, làm thành chỗ nương của hữu lậu. Tịnh thì thường bình đẳng. Tính thiện hữu phú, cũng có ba: Ngã chấp tương ưng: Là Mạt na hữu phú, duyên theo A-lại-da mà chấp làm ngã. Pháp chấp tương ưng vị danh: là Mạt na vô phú, duyên với Tỳ bá ca, chấp làm pháp. Tư lượng tính vị: chỉ gọi là Mạt Na, duyên theo với A-đà-na,… dấy khởi suy tính lường xét. Chủ thể duyên và đối tượng duyên, dài ngắn bình đẳng vì vậy mà thức thứ bảy và thức thứ tám, mỗi thức đều có ba tên gọi. Hai danh gọi đầu đều là hữu lậu, tên gọi sau thì chung cho cả vô lậu. Thức là sáu thức còn lại, như tên gọi riêng của chúng đều chung cả ba tính, đạt đến ngôi vị Phật thì chuyển thức dị thục, gọi là trí viên cảnh. Chín loại thí dụ về hình ảnh hiện ra trong đó. Tùy theo chỗ ứng hợp với địa thứ nhất, chuyễn thức Mạt na, gọi là trí bình đẳng, vì có đủ mười loại tính bình đẳng. Ba thừa kiến vị chuyển thức thứ sáu, gọi là trí diệu quán, do tùy ứng đầy đủ cả mười thắng dụng. Chuyển năm thức trước, gọi là trí thành sự, khởi mười hóa nghiệp viên mãn bổn nguyện. Nhân thì hay phân biệt, lấy thức làm chủ. Quả thì đều quyết đoán, nêu trí làm danh. Tám thức trước này tức là bảy tâm giới. Bốn trí chỉ là thiện, đều cùng được gồm thâu trong pháp giới. Ba trí thì chiếu có và không, có đủ cả tục trí và chân trí. Trí thành sự thì chiếu có, chỉ có tục trí chẳng có chân trí. Trí Viên cảnh và trí bình đẳng thì thường không bị lay động. Bắt đầu thường quán khắp thì gọi là nhất thiết trí. Trí diệu quán và trí thành sự có khi bị gián đoạn. Tuy cả bốn trí đó đều có đủ các đức, nhưng tùy theo tướng tăng mà dấy khởi thâu tóm bất định. Kinh: Vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. (Không Vô minh, cũng không Vô minh tận, cho đến không lão tử cũng không lão tử). Tán: Người thắng không nói: Chữ không ở trước là quán xa, chữ không ở sau là quán gần. Chữ không đó là gần gũi với sở quán của Độc giác. Do vậy, khế kinh nói: Vì những người cầu Độc giác mà đức Phật thuyết pháp mười hai duyên khởi. Lại nói: Vô minh,… cho đến lão tử chỉ có giả danh vì tự tính của chúng là không, nên nay nói là không. “Tận” là rỗng không, cái không đó cũng rỗng không. Cho nên nói “không vô minh tận cho đến không lão tử tận”. Mười hai duyên khởi, có và không đều rỗng không. Liệt kê các thứ khác đều như vậy. Người như ứng nói: Bồ-tát Từ Thị nói : Đây là đối với nhiễm, tịnh đều có thuận nghịch. Tạp nhiễm quán thuận thì nương theo pháp sinh tử lưu chuyển mà nói. Quán nghịch thì nương theo pháp gia hạnh ở thế gian mà nói. Thanh tịnh quán thuận thì nương theo pháp căn bản đoạn chướng mà nêu. Nghịch thì nương theo pháp trùng quán đã đoạn mà thuyết. Tạp nhiễm quán thuận là: khởi đầu biết thể tính có đủ mười hai chi: 1.Vô Minh: là mê ngu nội ngoại; 2.Hành: là phước, phi phước, bất động. 3.Thức: là thức dị thục; 4.Danh sắc: là uẩn; 5.Lục xứ: là sáu căn; 6.Xúc: Có thể đối nơi chỗ hơn kém của cảnh; 7.Thọ: Lãnh nạp sự khổ, lạc của cảnh; 8. Ái: là tham nơi tam giới; 9. Thủ: là phiền não; 10. Hữu: Tức là hành đến thọ chủng tử của sáu chi, do ái, thủ làm nhuần thấm nên có thể tạo đời sau; 1 1. Sinh là quả khổ hiện khởi; 12. lão tử: là suy yếu, chết chóc. Tiếp đó là quán do si nên phát khởi hạnh tà, tích tập quả thức theo nghiệp ở đương lai. Năm uẩn cùng khởi, các căn đầy đủ, xúc thọ nơi cảnh giới, chủng tử chiêu cảm quả, đắm chấp mong cầu, phiền não tăng trưởng, tăng thêm các nghiệp, theo đó mà bị các nỗi khổ, lo buồn, sinh, lão tử trong năm cõi. Do vậy, khế kinh nói: Vô minh duyên Hành cho đến Sinh duyên lão tử, năm chi như thức nhân không có thứ tự, nương theo với lúc đang khởi mà làm hậu duyên. Tạp nhiễm quán nghịch: là dựa theo vị tập ban đầu vị an lập đế mà nói. Nghóa là lão tử khổ, lão tử tập, lão tử diệt, lão tử hướng tới diệt hành, cho đến tùy chỗ ứng hợp mà quán các đế. Từ chi lão tử gồm thâu trong khổ đế. Ở trong duyên khởi, trước tiên là quán sát nghịch dùng ba loại tướng mà quán chi lão tử: 1. Nhân duyên tế. 2. Nhân duyên thô. 3.Phi bất định. Nhân duyên cảm sinh gọi là tế, nghóa là Ái, Thủ, Hữu. Tự thể sinh gọi là thô, nghóa là chi sinh. Do hai sinh ấy mà có lão tử. Nhân của lão tử đương lai là sinh tế. Nhân của lão tử hiện pháp là sinh thô. Ngoài hai thể của sinh, còn lại quyết định không có khả năng cho quả lão tử, gọi là phi Bất định. Tuy quán lão tử khổ đế, đến Ái ở hậu tế khổ cùng tập đế kia, vẫn chưa cho là đủ, bèn lại quán sát nhân duyên hậu tập nơi các khổ hiện tại, nghóa là quán nghịch khắp Thọ, Xúc, Lục xứ, Danh sắc và Thức. Quán khổ vị lai sẽ là khổ đế, quán tập nhân kia, sẽ là tập đế. Quán tập đế khổ ở đời vị lai do ai mà có, biết là sinh khởi do các tập ở trước kia, thức làm biên vực, hiện pháp có khổ. Đã biết sinh khởi từ các tập trước kia thì không còn quán nó vì sao mà có. Do thức, Danh sắc ví như bó lau, lần lượt cùng duyên với nhau mà không có tác giả. Cứ như vậy mà quán sát khổ và tập nơi mười chi đã xong. Tiếp đến là quán Diệt đế: Bắt đầu từ lão tử cho đến Vô minh, vì sao tất cả đều sẽ diệt tận. Nghóa là, do không tạo Vô minh làm duyên cho nghiệp với hành, nên khổ đó mới diệt, tiếp đến còn phải tìm cầu chứng được đạo Diệt đó, nhớ lại xưa kia thầy đã truyền pháp duyên khởi, chánh kiến thế gian, niệm, trí hiện tiền, cứ quán như vậy nhiều lần, khiến kiến tăng trưởng, đó gọi là tạp nhiễm quán sát thuận nghịch. Thanh tịnh quán thuận: là do trước đã tích tập tư lương chánh kiến. Nên có thể ở các đế, lần lượt đạt được Hữu học, Vô học, trí kiến thanh tịnh. Có thể đoạn trừ hẳn Vô minh và ái, các vô minh, xúc làm duyên sinh thọ, cũng lại theo đó mà đoạn, ở trong hiện pháp, chứng tuệ giải thoát. Thọ, tâm tương ưng, phiền não tham ái được lìa sự trói buộc mà chứng tâm giải thoát. Vì Vô minh đã đoạn dứt nên ứng sinh các hành, thức cho đến vô minh diệt nên hành diệt, cho đến Xúc diệt, nên thọ diệt. Thọ kia không sinh thì không có chỗ nào để khởi ái. Do vậy lại nói; Thọ diệt nên ái diệt, cho đến sầu than lo buồn đều diệt, duy chỉ có thức thanh tịnh tươi trắng trú nơi cảnh giới Niết-bàn hữu dư y, gọi là chứng đắc Niết-bàn hiện pháp. Sau đó, hữu lậu tận, trú chân thường tích, gọi là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y. Thanh tịnh quán nghịch là; Đã đoạn diệt rồi trở lại quán sát ng- hịch: do cái gì không có mà lão tử không có, do cái gì diệt mà lão tử diệt. Biết là do vô tác, chủng tử duyên sinh vô tác hai sinh hiện hành không có, nên lão tử không có, vô thường duyên sinh hai sinh diệt ho nên lão tự diệt. Cứ như vậy cho đến biết do duyên sinh vô tác phát khởi tùy miên triền ba Vô minh không, nên hành không, duyên sinh vô thường nơi ba Vô minh diệt, nên hành diệt. Đó gọi là thanh tịnh quán sát thuận nghịch. Kinh: Vô khổ tập diệt đạo (Không khổ tập diệt đạo) Tán viết: Người thắng ngôn nói: Trên là không có Độc giác quán gần. Đây là không có Thanh-văn quán gần, nên khế kinh nói: Vì những người cầu Thanh-văn mà thuyết pháp tương ưng Tứ đế. Lại nói: Tứ đế chỉ có giả danh vì tự tính của chúng là không. Nhưng trên bao gồm dưới đây cũng là cảnh khác. Ở trong duyên khởi, cũng tu quán đế, cho nên sau duyên khởi mới thuyết đế là không. Người như ứng nói: kinh Thắng Man thuyết: An lập bốn Thánh đế, phi an lập, bốn Thánh đế. Tám Thánh đế như vậy, hàng Nhị thừa chẳng biết được. Phần đoạn sinh tử gọi là khổ. Phiền não và nghiệp hữu lậu gọi là tập. Trạch diệt gọi là diệt. Phẩm trí của sanh không gọi là đạo. Thô hiển lộ ra, kẻ trí cạn biết được gọi là an lập đế; sinh tử biến dịch gọi là khổ. Sở tri chướng và nghiệp vô lậu có phân biệt gọi là tập. Tự tính thanh tịnh nơi Niết-bàn vô trú gọi là Diệt, trí phẩm của pháp không gọi là đạo. Vi tế ẩn chìm khó biết chẳng phải là cảnh giới thô cạn, gọi là phi an lập đế, hợp lại mà nói thì hữu lậu bức bách đều là khổ. Chiêu cảm hữu sau gọi là tập. Cho nên pháp vô ký đều chẳng phải tập đế. Đó tức lược nói về quả nhân của sinh tử. Bốn loại Niết-bàn gọi là Diệt. Hữu vi vô lậu làm con đường chứng diệt gọi là đạo. Đó tức là lược nói về quả nhân xuất thế. Cũng như người thầy thuốc chữa bệnh, biết nguyên nhân của bệnh, cách chữa bệnh lành. Quán sinh tử khổ, nguyên nhân khổ, khổ diệt, cách thức diệt cũng như vậy, chỉ có bậc thánh mới biết thật, gọi là thánh đế. Hoặc là tùy theo sự quán sát cả hai không, chân như không tác quán riêng gọi là phi an lập. Quán xa về tứ đế mỗi đế đều có bốn hành, nghóa là Vô thường, khổ, không vô ngã. Nhân, Tập, Sinh, Duyên. Diệt, Tónh, Diệu, Ly. Đạo, Như, Hành, Xuất. Do hành của khổ đế mà trừ dứt được bốn điên đảo, nên có chung riêng mà nhập vào môn chân. Quán gia hạnh gần không chỉ quán khổ, vì phải quán phi an lập mới nhập được nẻo chân. Ở trong phi khổ v.v… Phật thuyết giảng là khổ,… Các hạng Thanh-văn không hiểu nên vướng mắc theo lời. Nay ở đây để phá chấp ấy nên thuyết là không. Y tha nhất định chẳng phải các tướng khổ, tập,… chân lý thì đâu có những sai biệt đó. Do vậy đều là không. Vì thế, địa thứ năm tuy tác quán ấy, nhưng còn chấp các tướng thô có thật nhiễm, tịnh. Trong địa thứ sáu mới trừ chướng về nhiễm tịnh. Nhiễm là hữu lậu tức ở đây không có hai đế khổ và tập. Tịnh là vô lậu, tức ở đây không có hai đế diệt và đạo. Kinh: Vô trí diệc vô đắc (Không Trí Cũng Không Đắc) Tán viết: Người thắng không nói: Trên là tỏ rõ không có quán gần thuộc Thanh-văn. Đây là hiển bày không có quán gần của Bồ-tát. Chủ thể chứng đạo gọi là “Trí”. Cảnh sở chứng gọi là “Đắc”. Có trí năng chứng thì có thể có sở đắc. Trí chứng chẳng phải thì có sở đắc cũng không. Như khế kinh nói: đức Phật vì những người cầu Bồ-tát mà thuyết giảng tương ưng pháp sáu Ba-la-mật-đa. Ở đây chỉ nói không trí, không đắc là nói chung. Nếu pháp chẳng phải không thì đầu tiên có sở hành, sau đó mới có đắc. Pháp đã là chẳng phải có thì đầu tiên đã không có sở hành, thì sau đó làm sao có đắc. Cho nên Đại kinh nói: Tất cả trí không, cho đến Bồ-đề Vô thượng cũng không. Người như ứng nói: Bồ-tát quán đích thật, chỉ là phi an lập, nên gọi chung là gần cũng không có trí, đắc. Như có tụng nói: Dựa thức hữu sở đắc Cảnh vô sở đắc sinh Dựa cảnh vô sở đắc Thức vô sở đắc sinh Vô phân biệt, trí chứng vị chân như, tâm và cảnh ngầm hợp sâu xa, bình đẳng với cái bình đẳng. Năng thủ và sở thủ, tất cả đều không. Trong hậu đắc trí, lìa sự trói buộc của tướng, không có cái chấp hư vọng, cũng lìa hai thủ kia. Lại có tụng nói: Do thức tính hữu đắc Cũng thành vô sở đắc Nên biết hai hữu đắc Tính vô đắc bình đẳng Các thứ chấp về chủng ở các vị khác còn chưa đoạn dứt nên quán không được rõ ràng, nghóa là có năng thủ và sở thủ. Vì để phá trừ chấp thật có năng thủ nên nói là “không trí”. Vì để phá trừ chấp thật có sở thủ mà nói là “không đắc”. Lại nữa, đối với cả hai pháp đều nhằm ngăn chặn cả hai thủ. Ngăn chận riêng hai thủ nên nói là không đắc, năng đắc và sở đắc: Để ngăn chặn cái có diệu dụng mà nói là không trí, vì soi chiếu đoạn chủ thể. Giải thích đó đều là trừ bỏ biến kế sở chấp, huyễn sự y tha chẳng phải chắc chắn là trí, đắc. Chân như thể tịch đều không có cả hai tướng. Vì vậy, nương vào ba tính đều thuyết là không. Chẳng phải là chân trí sinh thì tất cả chẳng phải có. Thuyết trí và xứ của trí đều gọi là Bát-nhã vì chân không có tướng không có tướng thủ và chẳng thủ. Kinh: Do Vô Sở Đắc (do không có gì đạt được) Tán viết: Người thắng không nói: Phần trước đã nêu: Do đây trong không, không có sắc,… là kết thành câu “Sắc chẳng khác không, không sinh diệt,…” ở trên, nhưng chưa giải thích nguyên do các sắc,… không có. Nay làm rõ nguyên do trong không không có pháp. Nếu ở trong sắc,… thể có một ít là có thì thắng nghóa, phải có một ít sở đắc nhưng vì đều là vô đắc, cho nên vốn là không. Như Đại kinh nói: Vì tự tính không cho nên tất cả đều không. Người như ứng nói: Luận Biện Trung biên nêu: Bồ-tát chánh tu mười quán thiện xảo: 1. Uẩn; 2. Xứ; 3. Giới; 4. Duyên khởi; 5. Xứ phi xứ; 6.Căn; 7.Thế; 8.Đế; 9.Thừa; 10.Hữu vi vô vi. Do cụ thọ Xá-lợi-tử tiệm ngộ Đại thừa, nên ở đây đều không có ba thừa với sáu loại: chung, riêng, gần, xa, gia hạnh, căn bản. Hai vị quán chân, chứng sự lý của pháp, sáu tướng nơi chỗ chấp đều vô sở hữu. Y tha và viên thành chẳng định sáu tướng, vì vậy mà dùng “không đắc” để giải thích chung chữ “không” đã nêu trước. Như đại kinh nói: “Các pháp sắc, thọ v.v… là vô sở đắc, cho nên Bát-nhã thâm diệu cũng vô sở đắc”. Kinh: Bồ-đề tát đỏa y Bát-nhã-Ba-la-mật-đa cố tâm, vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly nhất thiết điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết-bàn (Bồ-Đề Tát Đỏa nương nơi Bát-Nhã Ba-La- Mật-Đa, nên tâm không chướng ngại, vì không chướng ngại nên không có sợ hãi, xa lìa tất cả mộng tưởng điên đảo, về Niết-Bàn Cứu Cánh). Tán: Người thắng không nói: Trên là phá hai chấp, rộng tỏ hai không. Sau là khen hai y, nói rõ được hai lợi. Đây là khen lợi ích nhân nơi nương theo nhân, đoạn dứt chướng nhiễm. Chữ “Y” (nương vào) là tên gọi khác của chữ “hành” đã nói trước. “Quái” là chướng. “khủng” là sợ. “Bố” là hãi, sợ hãi. Chưa nương vào tuệ để tỏ ngộ thì bị vướng mắc ở hữu, của sắc, thọ,… bị trói buộc trong các khổ, thường sinh sợ hãi, có hư vọng. điên đảo và mộng tưởng sinh tử, do vậy mà vui thích với cứu cánh Niết-bàn. Đã nương vào Bát- nhã, đạt sắc, thọ,… là không, thì không còn bị trói buộc, chướng ngại, nơi khổ, sợ, đảo, tưởng. Vì sắc, sinh tử tức Niết-bàn, thì cần gì phải mong cứu cánh viên tịch. Vì vậy, nương vào Bát-nhã thì xa lìa tất cả. Người như ứng nói: Phần sau là tỏ rõ việc nương vào học đức, tán thán về chỗ đạt được thắng lợi lìa khổ chứng viên. Còn đây là tán thán về lợi ích, tu ở vị nhân của Bồ-tát. Bồ-tát thường xuyên, duyên với văn tự nêu giảng mà học khởi quán chiếu, xét quán thật tướng, làm quyến thuộc của sự tu trì, chẳng vọng tìm, biết tất cả cảnh giới, gọi là “nương nơi Bát-nhã”. “Quái”: nghóa là phiền não chướng, chẳng đắc Niết-bàn. “Ngại” nghóa là sở tri chướng, chẳng đắc Bồ-đề. Hoặc quái tức là ngại, đều chung cả hai chướng. “khủng bố” là năm thứ sợ hãi: 1. Sợ không sống: Do phân biệt ngã trợ giúp mạng sống mà ái khởi nên sợ; 2.Sợ tiếng xấu: Vì hành không tạo lợi ích, có hy vọng khởi; 3. Sợ chết: Do có ngã thấy mất hoại mà khởi tưởng sợ; 4. Sợ cõi ác: do không gặp chư Phật nên khởi các nghiệp ác; 5. Sợ chúng động. “Điên đảo”: là bảy đảo: 1. Tưởng: 2. Kiến; 3. Tâm; 4. Vô thường cho là thường; 5. Khổ cho là lạc; 6. Với bất tịnh cho là tịnh; 7. Vô ngã cho là ngã. Bốn loại phân biệt vọng tưởng sau gọi là “tưởng đảo”. Nhẫn chịu, dục lạc, kiến lập, chấp trước gọi là “kiến đảo”. “Tâm đảo” là phiền não. Có ba loại: 1.Căn bản là ngu si; 2.Thể tính là một phần biên chấp kiến, giới cấm thủ, kiến thủ và tham, Tát-ca-da-kiến; 3. Đẳng lưu là các phiền não khác. “Mộng tưởng” là chưa đạt trí giác chân chánh, thường ở trong mộng. Do vậy mà Phật nói là “Đêm dài sinh tử”. Mộng do tưởng khởi, nên gọi là mộng tưởng. Bảy đảo trên là do vọng tưởng sinh ra. Ở trong mộng mà hành nên gọi là mộng tưởng. Hoặc các đảo trên đều là nhân của sinh tử, còn mộng tưởng này là quả của sinh tử. Như ở trong mộng thường thấy cảnh thân, vì vậy nghiêng về quả mà nêu chữ mộng tưởng. Tiếng Phạm gọi là “Niết-bàn”, tiếng đời Đường gọi là viên tịch, tức nghóa là thể hiện bày khắp cả, tính an nhiên, vắng lặng. Tuy tính chân như là không hai, không khác, nhưng dựa theo duyên hết, chứng thì có bốn loại: 1.Niết-bàn tự tính thanh tịnh: Nghóa là chân như thật tướng của tất cả pháp; 2.Niết-bàn Vô trú xứ: là chân như thanh tịnh khi xuất khỏi sở tri chướng, thường được hỗ trợ làm tăng trưởng do tuệ của đại bi; 3. Niết-bàn hữu dư y: là chân như được hiển rõ do tập đế tận; 4. Niết-bàn Vô dư y là chân như được hiển rõ do khổ đế tận. Có kinh dựa theo loại Niết-bàn đầu mà nói, các phàm Thánh bình đẳng cùng có, tất cả hữu tình không sinh diệt v.v… nên xưa nay là Niết- bàn. Có kinh dựa theo loại Niết-bàn thứ hai mà nêu bày: chư Bồ-tát trụ nơi không có gì trụ và hạng Thanh-văn không đắc Niết-bàn. Có kinh thì dựa theo hai loại Niết-bàn sau mà nêu bày, người cả ba thừa cùng đắc giải thoát. Chữ “Niết-bàn” ở đoạn kinh này là nói chung. Do chư Bồ-tát nương nơi Bát-nhã mà tỏ ngộ ba vô tính, nhờ ngã và pháp cả hai đều không nên hiển rõ tất cả là không, tâm không còn bị hai chướng làm trở ngại, không còn bị năm thứ sợ hãi làm kinh sợ, không còn bị bảy đảo trói buộc, mộng tưởng làm mê hoặc, liền được cứu cánh, chứng hợp Niết-bàn. Hoặc là các Bồ-tát do nhờ nương nơi Bát-nhã mà hành vị thắng giải, trong đạo tư lương, dần dần chế phục hai chướng phân biệt hiện hành. Ở đạo gia hạnh, có thể hàng phục dứt hết nhanh chóng, cũng có thể dần chế phục hai chướng câu sinh, tâm không chướng ngại. Trong vị kiến đạo, đoạn trừ chấp phân biệt, tùy nguyện nhanh chóng viên mãn, không có sợ hãi. Ở vị tu đạo giải, hành tăng rộng, đoạn các điên đảo, xa lìa tất cả mộng tưởng sinh tử. Ở đạo vô học Niết-bàn là cứu cánh. Trong bốn giai đoạn trên là nói theo sự tăng dần. Kinh: Tam thế chư Phật y Bát-nhã-Ba-la-mật-đa đắc cố đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ-đề. (Ba đời Chư Phật nương nơi Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa nên chứng đắc đạo quả Bồ-Đề Vô Thượng.) Tán viết: Người thắng không nói: Trước là tán thán lợi ích nhân dựa vào mà đoạn chướng nhiễm. Sau là tán thán lợi về quả chứng đắc Bồ-đề do dựa vào Bát-nhã. “Ba đời”: là quá khứ, hiện tại, vị lai. “Chư Phật”: Vì chẳng phải chỉ có một đức Phật. Tiếng Phạm nói là “Phật Đà”, tiếng Hoa lược nói là Phật, là bậc chủ có tuệ, đời Đường gọi là bậc giác ngộ. “Đắc”: là chứng đắc. “A” là vô. “Nậu Đa La” là thượng. “Tam” là chính. “Miệu” là đẳng. Không có pháp nào hơn được gọi là vô thượng. Biết khắp lý và sự, gọi là Chánh đẳng. Lìa vọng, chiếu chân gọi là Chánh giác. Tức chính là Chánh đẳng Chánh giác vô Thượng. Luận Đại Trí Độ nói: Trí và xứ của trí đều gọi là Bát-nhã. Chư Phật ở ba đời nhờ nương vào đó mà chứng trí đạt không, gọi là đắc Chánh giác. Hoặc chỉ Không tính gọi là Bồ-đề, diệu thể của Như Lai tức là Pháp thân. Người như ứng nói: Xuất sinh tử mà tuệ ngộ, như tỉnh giấc mộng. Khế hợp pháp tính mà phô bày, dụ như hoa nở. Thành tựu trí chân tục, đủ tự giác, giác tha. Tuệ hành đều mãn, gọi là Phật. Giác tuệ viên mãn, tuy chẳng còn tu, nhưng giữ vững không xả, để cứu độ loài hữu tình, vì vậy mà nói, Phật nương nơi Bát-nhã. Hoặc nương vào tức là tu, vì Phật do ở vị nhân, nương hành Bát-nhã mà đắc Chánh giác. Đây có năm pháp: Tịnh pháp giới tức Pháp thân Phật, chân như, Niết-bàn, đủ tính tướng chân thật, công đức vi diệu, do quán lý không mà đắc quả. Bốn trí còn lại là đức hữu vi tức là thân Phật thọ dụng đã chứng, là quả đạt được nhờ tu nhân tự lợi. Vì đại Bồ-tát mà hiện tướng tịnh nơi thân Phật rộng lớn gọi là tha thọ dụng. Vì hàng Nhị thừa mà hiện tướng tịnh uế, nơi thân Phật bất định gọi là biến hóa, đều vì lợi tha mà hiện. Thân tự thọ dụng có đủ một trăm bốn mươi công đức Bất cộng chân thật. Đó là ba mươi hai loại tướng đại trượng phu của Như Lai, tám mươi tướng đẹp tùy thuận, bốn nhất thiết chủng thanh tịnh, mười lực, bốn vô sở úy, ba Niệm trụ, ba Bất Hộ, đại bi, không quên mất tập khí vónh viễn dứt trừ, Nhất thiết chủng diệu trí, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười biến xứ, bốn vô lượng, ba môn giải thoát, ba nhẫn vô sinh, ba mươi bảy loại phần pháp Bồ-đề, năm nhãn, sáu thông, bốn Vô ngại giải, nguyện trí vô tránh, Thường trụ tính xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cho đến Nhất thiết chủng trí, vô lượng công đức nói không thể hết. Thân tha thọ dụng và thân biến hóa cũng có đủ các công đức tương tự đó. Công đức hữu vi gồm thâu nơi bốn trí, lấy trí làm chủ gọi là Bồ- đề trí. Pháp thân chân như gọi là Bồ-đề đoạn. Như Khế kinh nói: Bồ-đề trí và Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề. Do đó mà biết đều xưng là Bồ-đề. Trí, đoạn viên mãn gọi là giác ngộ vô thượng. Phần Kim cang nói: Tất cả chư Phật từ kinh này xuất, tất cả Như Lai từ kinh này sinh, do đó ba Phật đều là Bồ-đề. Phần Lý thú nói: Tin học kinh này, mau chóng đầy đủ hạnh chư Bồ-tát, mau chứng Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng, cho nên tam Bồ-đề đều do đây mà chứng đắc. Kinh: Cố tri Bát-nhã-Ba-la-mật-đa thị đại thần chú, thị đại minh chú thị vô thượng chú. (Nên biết Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa là thần chú lớn, là minh chú lớn là chú Vô thượng là chú vô đẳng đẳng). Tán: Người thắng không nói: Đoạn trước tỏ riêng về hai sự nương dựa nhân quả, đạt hai lợi là đoạn. Phần sau là tán thán chung về thắng dụng của Bát-nhã. Theo đoạn văn trước để khởi kết do đó nói: “Nên biết”. Diệu dụng rộng khắp gọi là “Thần”. Soi sáng tất cả gọi là “Minh”. Tối thắng bậc nhất, gọi là “Vô thượng”, không gì có thể so sánh được, gọi là “Vô đẳng đẳng”. Đại sư nêu bí mật, pháp diệu làm kỹ cương, hiển chánh trừ tà, dứt ác hành thiện, linh kỳ kính phụng, Hiền Thánh tuân giữ, oai lực chẳng gì hơn nên gọi là “chú”. Người như ứng nói : Tiếng Phạm gọi là Đà la ni, trung hoa dịch là Tổng trì. Tóm lược có bốn loại tổng trì: Pháp: Dùng giáo tóm lược bao hàm rộng; Nghóa: Dùng nghóa tóm lược bao hàm rộng, Năng đắc vô minh nhẫn của Bồ-tát. Bồ-tát Từ thị nói: Nhất chỉ mật chỉ cát chỉ tì lũ để bát đà nhị sa ha. Chú Đại Kinh nói: Nạp mộ bạc già phạt đế nhất bát thích Ba-la nhó đa duệ đát điệt tha thất lệ duệ, thất lệ duệ thất lệ duệ tế sa ha. Thần lực chú này có nói rộng trong Đại kinh. Niệm tuệ có thể gồm đủ hàm vạn đức. Thuận theo xưa nói tổng lập làm tên chú. Nay nương theo phần. Trước hết hai tổng trì pháp, nghóa, để khởi Chú sau. Vì vậy nói “cho nên biết” (cố tri) Do tổng trì này nên vượt ra khỏi Dị sinh, Thanh-văn. Độc giác, và Bồ-tát. Hoặc văn tự diệu dụng, quán chiếu soi trọn, quyến thuộc tăng ích, thật tướng không thể ví dụ. Hoặc cả bốn đều thông, cho nên, Bát- nhã này gọi là chú thần… Hoặc Bát-nhã này là đại thần cho đến là chú mà không ai có thể sánh bằng nói ra. Khuyên các người học đều tu theo mười pháp hành của kinh này Bồ-tát Từ thị, tụng nói : Cúng dường sách, viết lách Cho người nghe, cầu đọc Thọ trì chính khai diễn Phúng tụng, tư duy tu Người hành mười pháp ấy Được phước tụ vô lượng Thù thắng và vô tận Do nhiếp tha chẳng dừng. Kinh: năng trừ nhất thiết khổ ách (Có thể dứt trừ tất cả khổ) Tán: Trước là hiển bày tỏ về đủ đức, đây là nói rõ về phá ác. Tin, học, chứng nói đều trừ các khổ, nên Đại kinh nói: Nếu có thể hành mười pháp nơi kinh này thì tất cả chướng ngại, ngăn che đều không thể nhiễm, tuy tạo tất cả nghiệp ác cực nặng, nhưng có thể siêu vượt tất cả cõi ác. Giả sử giết tất cả chúng sanh ở tam giới vẫn không do vậy mà bị đọa địa ngục, bàng sinh, quỷ giới, dù trụ ở trong rừng rậm phiền não, nhưng vẫn như hoa sen không bị nhiễm. Thường hòa hợp với tất cả thắng sự, đối với pháp, hữu tình, đắc trí vô ngại, khéo ngộ nhập các tính bình đẳng, có thể điều phục các thứ sân hận của tự và tha, khởi tâm từ với các kẻ oán địch trong đời này thường thấy chư Phật, đắc trí Túc trú. Chánh pháp đã nghe đều đạt tổng trì không quên. Các hỷ lạc thù thắng thường hiện tiền, luôn siêng tinh tiến tu các pháp thiện. Ma ác, ngoại đạo không thể cản trở. Tứ Thiên vương thường theo hộ vệ, trọn không bị chết dữ, không bị suy hoạn. Chư Phật Bồ-tát cũng thường hộ trì, khiến cả mọi lúc thiện tăng ác giảm. Tùy nguyện vãng sinh ở các cõi Phật. Cho đến đạt được Bồ-đề, không đọa cõi ác, chóng được viên mãn các hạnh Bồ-tát, mau chứng đạo quả Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng, tùy sở nguyện nơi tâm đều được thành tựu. Do đó thành vua bốn chúng vừa tụng niệm mà ma được hàng phục. Thiên cung, thiên nhãn vừa thọ trì mà oán địch tan vỡ, huống nữa là tự mình ân cần trồng nhân, tròn quả mà chẳng làm thầy cả năm cõi, chẳng làm chủ cả mười phương. Kinh: Chân thật bất hư (Chân thật không hư dối) Tán: Để trừ bỏ sự nghi ngờ, khuyên tin mà lặp lại lời này. Do đó, kinh nói: Như Lai là người nói lời chân thật, cho đến là người không nói lời sai khác, nên phải tin phụng, đừng khởi nghi hoặc. Kinh: Cố thuyết Bát-nhã-Ba-la-mật-đa chú tức thuyết chú viết : Yết đế, yết đế, Ba-la yết đế, Ba-la tăng yết đế, Bồ-đề sa ha. Nên thuyết chú Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa, liền nói Chú: Yết đế, Yết Đế. Ba-la Yết Đế, Ba-la Tăêng Yết Đế, Bồ-Đề Sa Ha Tán viết: Trên đã nói về việc thọ trì cả hai thứ pháp và nghóa, tuy khuyên tin học, nhưng muốn khiến được thần dụng mau chóng gồm đủ, nên lại thuyết thêm chú trì. Đức Phật dùng tuệ, bi, nguyện hành khó tu trong suốt cả đại kiếp, tóm nêu văn tự, ý nghóa sâu xa, giáo lý mênh mông, khó mà chú thích được rõ ràng. Trinh ứng năm thứ Ba. (Năm Giáp thân), tháng giêng ngày 15 <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 117