<經 id="n1707">SỚ KINH NHÂN VƯƠNG BÁT NHà <藥>( QUYỂN 1 ↘ 6 ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1707 SỚ KINH NHÂN VƯƠNG BÁT NHà Tác giả: Đời Tùy Pháp Sư Cát Tạng <卷>QUYỂN 1 KINH NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT NHà BA LA MẬT PHẨM TỰ Tập kinh bất đồng, tùy dòng mỗi khác, không thể nêu đủ. Thiên Thai trí giả thiên thai, khi chú giải các kinh đều chia làm năm phần. Nay bộ kinh này cũng chia làm năm phần riêng biệt: Giải thích tên kinh. Nêu thể của kinh. Nêu tông của kinh. Biện về dụng của kinh. Luận về tướng của kinh. Nêu về tên của kinh để tỏ cái thể ở sau tên. Nói về cương tông của kinh để biện về công dụng của kinh và luận về giáo tướng của kinh. Như vậy thì đại ý của cả một cuốn kinh sẽ được giải thích tóm lược rõ ràng đầy đủ như kinh Pháp Hoa. Nay lược nêu rõ phần thứ nhất: GIẢI THÍCH TÊN KINH Các kinh có tên khác nhau; có kinh chỉ lấy pháp để đặt tên, có kinh thì chỉ lấy thí dụ để đặt tên, hoặc có kinh chỉ lấy người để đặt tên, hoặc có kinh lấy cả pháp và thí dụ để đặt tên, hoặc nói về cả người và pháp. Chỉ lấy pháp mà đặt tên như kinh đại Niết-bàn theo quả pháp mà đặt tên. Kinh Đại phẩm Bát-nhã, lần lần có đủ mười địa, theo nhân mà đặt tên. Kinh chỉ lấy thí dụ để đặt tên như kinh bảy thí dụ về xe, kinh cây khô là dẫn thẳng thí dụ về xe… mà được mang tên. Những kinh chỉ lấy người mà đặt tên là; như kinh Thất nữ, Lão nữ. Những kinh thuyết chung cả pháp và dụ như kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Kim cang Bát- nhã. Những kinh nói cả hai người và pháp như kinh Duy Ma, Thắng Man, Tứ Thiên vương vấn Bát-nhã, Nhân vương Bát-nhã. “Phật thuyết”: Tự giác giác tha gọi là “Phật”. Lời của bậc Thánh nói ra gọi là “Thuyết”. “Nhân vương”: Nhân là thi ơn ban đức gọi là nhân; thống hóa tự tại gọi là vương. “Hộ quốc” là: Nhân vương là năng hộ. Đất nước là sở hộ. Do nhân vương như pháp trị đạo mà muôn dân vui thích quốc độ an ổn. Nếu nhân vương mong cầu Bát-nhã thì Bát-nhã là năng hộ; nhờ trì Bát-nhã, nhân vương được an ổn cho nên là sở hộ. Nếu xét theo người nắm giữ pháp, thì nhân vương là năng hộ, Bát-nhã là sở hộ. Ở đây, nhân vương, và Bát-nhã đều là năng hộ, quốc thổ đất nước là sở hộ. “Bát-nhã”: Đại trí luận, quyển bốn mươi ba giải thích; Có hai giải thích: Bát-nhã: đời Tần (Trung Hoa) gọi là trí tuệ. Khai thiện Tạng sư (Trí Tạng) cũng dùng tử phiên dịch này. Và cho rằng. Bát-nhã là tiếng của đất nước Phật, ở đây (Trung Hoa) gọi là trí tuệ. Chữ trí tuệ không xứng với chữ Bát-nhã. Vì thật tướng của Bát- nhã thì sâu thẳmcực nặng, còn trí tuệ thì mỏng nhẹ, vì vậy mà không thể tương xứng. Trang nghiêm Mân sư dựa vào lời văn trên mà cho Bát- nhã bao gồm cả năm nghóa. Trí tuệ chỉ là một trong năm nghóa đó nên chẳng thể phiên dịch. Hai sư mỗi vị đều chấp quan điểm riêng mà biên luận, đều không thể đạt được ý nghóa của Bát-nhã. Hỏi: Luận đã có hai cách giải thích, ở đây làm sao giải thích cho thông? Đáp: Theo luận mà giải thích thì có hai loại: Môn phương tiện. Môn thật tướng. Nói phiên dịch được là dựa theo môn phương tiện mà phiên dịch là trí tuệ. Nói không phiên dịch được vì Bát-nhã phi ngu phi trí, cho nên bảo không thể phiên dịch được. Nhưng Kinh luận giải thích về trí tuệ có khác nhau. Kinh Tịnh Danh nói: Giải thích riêng từng chữ: biết tất cả tâm niệm của chúng sanh như ứng hợp mà thuyết pháp là khởi ở trí nghiệp. Không thủ không xả, nhập môn nhất tướng là khởi ở tuệ nghiệp. Trước đây, giải Thích câu văn trên; trí là giải, hiểu thuộc phạm trù hữu (hữu giải), tuệ là hiểu về “Có”, tuệ là hiểu về “Không”. Nay ở đây thì không giải thích như vậy. Vì tâm niệm của chúng sanh đâu hẳn là “Có”, nhập môn thật tướng đâu hẳn là “Không”. Mà cho là khéo đạt được ý đó. Luận Thành Thật thì giải thích chung hai chữ trí tuệ. Nói; “chơn tuệ gọi là trí”. Ý đó nói tuệ tức chính là trí. Lại cho, “Nghóa của tuệ là những điều thuyết giải ở trong kinh. Trí là nghóa của tuệ, cho nên gọi là trí tuệ hợp lại để giải thích. Hỏi: Ngữ ngôn trong Kinh luận vì sao lúc thì biểu lộ rõ ra, lúc thì ẩn mật, lúc thì phân khai, lúc thì kết hợp, mà không là một cách phân minh chỉ bày cho người? Đáp: Chẳng phải Thánh nhân không thể chỉ bày một cách rõ ràng, cho mọi người nhưng sở dó nói như thế là có thâm ý. Vì chúng sanh xưa nay chấp trước khó lay động, do nhân duyên đó mà bị trói buộc vướng mắc với ma, sinh tử không bao giờ dứt, luân chuyển mãi trong đau khổ, không ngộ chánh đạo. Nay nếu dùng một cách nào đó nhất định để nói thì càng tăng thêm chấp trước, cho nên phải dùng ngữ ngôn tỏ rõ hoặc ẩn mật…, làm lay động từ cành đến gốc sinh tử sau đó, khiến cho quay lại tỏ ngộ chánh pháp. Cho nên việc nói một cách bất định, làm cho ích lợi càng sâu dày. Nếu người học nhất định chấp chặt một câu văn trong kinh luận, lấy đó thành ý nghóa của một môn phái thì thành ra lầm lẫn quá lắm. Hỏi: Được thâu gồm trong năm bộ, tám bộ là thế nào? Đáp: Năm bộ như kinh này thuyết. Tám bộ là; Đại phẩm, Tiểu phẩm, Quang tán, Phóng quang, Văn thù vấn, Kim cang Bát-nhã Đạo Hành Thiên vương vấn Bát-nhã. Kinh Nhân Vương vấn Bát-nhã là thuộc về kinh Thiên vương vấn Bát-nhã. Vì Nhân Vương cũng là Thiên vương. Cho nên biết là thuộc về Thiên vương vấn Bát-nhã. Tiếp theo là giải thích chữ “Ba-la-mật”: Ba-la-mật là đáo bỉ ngạn Ba la là bỉ ngạn (bờ kia), mật là đáo (đến). Xả bỏ tướng mà hội với thật gọi là đáo bỉ ngạn (đến bờ kia). Lại nữa, nhân có thể đạt được quả, gọi là đáo bỉ ngạn, nói tương ưng là đáo bỉ ngạn mà còn giữ lại âm gốc Hồ nên gọi là Ba-la-mật. “Kinh” gọi là Tu-đa-la, Trung Hoa dịch là pháp bổn. Lý không thể tự phát, nhờ giáo để hiển rõ lý, thì giáo là gốc của lý. Giáo không thể tự khởi, nhờ lý mà giáo sinh, thì lý là gốc của giáo. Giáo, lý cùng nhờ vào nhau đều nói là gốc. Nay chính lấy văn là gốc của lý. Tiểu thừa luận về Kinh có năm nghóa: Xuất sinh: vì xuất sinh ra các nghóa. Suối phun: vì nghóa vị không bao giờ hết. Hiển rõ: vì hiển rõ các nghóa. Chuẩn mực: vì trừ bỏ tà; đạt được chính. Liên kết: vì kết nối xuyên suốt các nghóa nên là gốc cho huấn từ của thế tục. Kinh là sợi chỉ (diên) nghóa của văn kinh đan dệt thành tâm của hành giả, cho nên gọi là kinh. Nói “Phẩm thứ nhất: Phẩm tự”. Do dựa vào đâu mà phát khởi; gọi đó là tự. Nghóa loại theo nhau, gọi đó là phẩm. Trong tám phần, phần này là đầu tiên, gọi là thứ nhất. Phân biệt sơ lược về ngôi vị nhân vương Bát-nhã thì tên gọi khác nhau. Theo kinh Anh Lạc nói; có mười bốn vương: Túc tán vương: là thập thiện hạ phẩm. Tập chủng Bồ-tát là Đồng luân vương. Tính chủng Bồ-tát là Ngân luân vương. Đạo chủng Bồ-tát là Kim luân vương cũng gọi là chuyển luân vương. Sơ địa Bồ-tát là Tứ Thiên vương. Nhị địa Bồ-tát là Đao lợi Thiên vương. Tam địa Bồ-tát là Diệm ma Thiên vương. Tứ địa Bồ-tát Đâu suất Thiên vương. Ngũ địa Bồ-tát là Hóa lạc Thiên vương. Lục địa Bồ-tát là Tha hóa tự tại Thiên vương. Thất địa Bồ-tát là Sơ thiền vương. Bát địa Bồ-tát là Nhị thiền vương. Cửu địa Bồ-tát là Tam thiền vương. Thập địa Bồ-tát là Tứ thiền vương. Nay ở đây nói Nhân vương tức chính là Túc tán vương thuộc hạ phẩm thập thiện, là phẩm thấp nhất trong mười bốn vương. NÊU THỂ CỦA KINH Lấy năm nhẫn, mười địa làm thể. Cho nên văn phần sau nói: “Năm nhẫn là pháp của Bồ-tát, đã nêu đủ về năm nhẫn”. Văn kết phần sau nói: “Gọi là chư Phật Bồ-tát tu Bát-nhã Ba-la-mật”. Vì vậy mà biết nhân tu Bát-nhã mà chứng đắc năm nhẫn, tất cả Phật Bồ-tát không có ai là không do nhờ năm nhẫn đó mà thành thánh. Do đấy nên biết năm nhẫn mười địa là thể. Nghóa của năm nhẫn, đoạn văn sau sẽ giải thích rõ. NÊU TÔNG CỦA KINH Muốn giảng, đọc kinh, thì cần phải nhận thức rõ ý đại chỉ chính của kinh. Kinh này lấy chánh quán vô sinh làm tông, lìa hai kiến “Có” và “Không” tạm nói là trung đạo. Do vậy đoạn văn sau nói: “Bát-nhã vô tri, vô kiến, bất hành, bất thọ, bất sinh, bất diệt, vì Bát-nhã là bất tư nghị”. Bất sinh bất diệt là tên gọi khác của trung đạo. Bất khả tư nghị là cách gọi khác của tịch diệt, cũng gọi là Phật tính, tức là mẹ của chư Phật mười phương. “Một đại sự”; tức là sự đó. Hỏi: Tông và thể khác nhau như thế nào? Đáp: Các pháp xưa nay vốn tịch diệt thì có tông gì, thể gì. Nay muốn làm duyên mà hiển thị, ở trong không danh tướng, mượn danh tướng mà nói từng phần riêng biệt. Nếu theo thông môn thì tông cũng là thể, thể cũng là tông. Nay ở đây dựa theo biệt môn: Vành bánh xe dụ cho tông, khoảng không bên trong, dụ cho thể. Tông như dây lưới, thể như ô lưới. Ý bảo; xách lưới, kéo giường lưới, nhờ ở thể của dây lưới mà các ô lưới tự trương giản, nghóa của tông và thể khác nhau như vậy. BIỆN LUẬN VỀ DỤNG CỦA KINH Kinh này lấy hai hộ nội và ngoại làm dụng. Nội hộ là như đoạn văn sau nói: “Vì chư Bồ-tát mà thuyết về nhân duyên hộ Phật quả, nhân duyên hộ hạnh thập địa”. Ngoại hộ là như đoạn văn sau nói: “Ta nay vì ông mà thuyết về nhân duyên để hộ quốc độ”. Khiến cho đất nước được an, bảy nạn không khởi, tai nạn không sinh, vạn dân an lạc, gọi là ngoại hộ. GIÁO TƯỚNG CỦA KINH Muốn hoằng tuyên chánh pháp thì cần phải biết sự thiên trọng, và viên mãn của giáo, mới có thể tỏ ngộ được giáo mà mình bẩm thụ. Nói về giáo tướng các kinh thì khác nhau như đã giải thích đầy đủ trong Pháp Hoa Huyền Nghóa; ở đây chỉ nói tóm lược. Như các sư ở Giang Đông thì chia ra làm ba loại giáo: Đốn giáo: Nghóa là, Phật mới bắt đầu xuất thế, đốn thuyết về lý thân diệu. Tiệm giáo: Nghóa là, từ cạn đến sâu. Vô phương bất định giáo: Nghóa là, cạn và sâu không nhất định. Riêng ở trong tiệm giáo thì có hai thuyết. Thuyết thứ nhất nói: Tiệm có bốn thời, kinh này là thời thứ hai, thuyết về Đại thừa. Thuyết thứ hai nói: Tiệm có năm thời, kinh này là thời thứ hai, thuyết về Tam thừa thông giáo. Cả hai sư đều cho Bát-nhã được thuyết vào thời thứ hai, cho nên kinh Đại phẩm nói; “Thấy pháp luận thứ hai chuyển”. Nay ở đây thì không cho là vậy. Nếu lấy Đại phẩm đối nơi sơ giáo, gọi là thời thứ hai thì phẩm Thí dụ trong kinh Pháp Hoa nói; “Xưa ở Ba-la-nại, nay lại chuyển tối diệu”, nếu, đối sơ giáo để nêu rõ thì Pháp Hoa cũng đáng lẽ là thời giáo thứ hai! Kinh Niết-bàn cũng nói: “Xưa ở Ba-la-nại, nay ở thành Câu thi na, thuyết đại Niết-bàn”, cũng đối với sơ giáo lẽ ra Niết- bàn cũng vào thời thứ hai! Người hậu học nên tự mình nghiên cứu tìm tòi, không thể vọng theo thuyết cũ. Lại nữa, luận sư Thập địa chia giáo lý Phật thành bốn tông, năm tông, ở đây không nói thêm cho rườm rà. Nay theo Ngài Bề đề Lưu Chi chỉ chia giáo ra thành bán và mãn. Như Tiểu thừa giáo gọi là bán tự, là Thanh văn thừa. Đại thừa gọi là mãn tự, là Bồ-tát tạng. Nay tìm trong các kinh luận thì lời nói ấy thỏa đáng. Sở dó nói tiểu thừa bán giáo. Vì nếu nói rõ lý đến cùng thì chỉ nói nhân và pháp cả hai đều không, còn về nhân quả thì chỉ thuyết hữu tác, Tứ đế. Như vậy thì giáo không trọn hết được tông chỉ ngôn ngữ chẳng đạt đến nghóa tột cùng. Nói xứng với tiểu căn, tiểu hạnh, công đức còn có chỗ khiếm khuyết, gọi đó là bán. Vì vậy nói là tiểu thừa, Thanh văn tạng. Giáo Đại thừa mãn tự nếu nói rõ lý đến tận cùng của nó là bình đẳng vô đắc, chánh quán bất nhị làm tông. Ngôn ngữ nói nhân quả thì thuyết vô tác tứ đế. Đây chình là giáo tương xứng tông chỉ Đại thừa, ngôn ngữ tột cùng đến ý thú viên mãn, thuyết xứng với, tiến thành đại hạnh, đầy đủ không thiếu, gọi đó là mãn. Cho nên nói Đại thừa là Bồ-tát tạng. Trong hai tạng thì kinh này được gồm thâu trong Bồ-tát tạng mãn tự Đại thừa. Do đó kinh nói: “Chỉ hành Đại thừa. Ba Hiền mười Thánh thực hành trong nhẫn, chỉ riêng một mình Phật là ở tịnh độ”. Cho nên nói Đại thừa mãn giáo là Bồ-tát tạng. Tiếp sau đây đi vào văn kinh. Tuy nhiên chư Phật thuyết giảng kinh thì không có chương đoạn, bắt đầu từ lúc pháp sư Đạo An mới chia kinh làm ba đoạn: Tự thuyết. Chánh thuyết. Lưu thông thuyết. - Tự thuyết: là từ nghóa của tự mà thuyết nguyên do của kinh. Chánh thuyết: nghóa là không thiện lệch, là tông chỉ của cả giáo. Lưu thông: lưu là tuyên bố, thông là không bưng che, muốn cho pháp âm ban bố lâu dài không bị ngưng trệ. Sở dó có ba thuyết là để tỏ con người đặc biệt khi dạy dỗ đều có nguyên nhân. Trước tiên là nói về tự thuyết là để lần lần khai mở rồi mới tỏ rõ, chánh kinh thì nên biện biệt, nên tiếp đó lại nói về chánh thuyết. Thánh nhân đại bi thì vô hạn, chúng sanh được hóa thì vô cùng, chẳng chỉ ích lợi cho lúc đó mà còn muốn truyền lại lâu dài xa xôi cho hậu thế, nên có phần thứ ba, phần lưu thông. Nhưng ba phần đó chẳng phải là ba ba mà là một là ba. Tự tức là chánh, cho đến phần lưu thông cũng là phần tự. Ví như Tam bảo; tuy ba mà một, tuy một mà ba. Kinh này có tám phẩm, chia làm ba đoạn; đoạn thứ nhất là phẩm tự, tức là phần tựa. Đoạn thứ hai; từ phẩm Quán Không đến phẩm thứ sáu là phần chánh thuyết. Đoạn thứ ba; lấy phẩm Chúc Lụy làm phần lưu thông. Nếu theo văn mà xét thì cuối phẩm thọ trì, từ câu “Phật bảo Nguyệt Quang…” tức chính là phần phó chúc, nhưng phẩm trước đã nói về phó chúc, không khởi bảy nạn. Phẩm sau nói về phó chúc nói về chỗ phần hạn của kinh. Do đó nói phẩm Phó chúc là phần lưu thông. Trong phẩm Tự lại chia làm hai phần: Chứng tín tự. Phát khởi tự. Các sư vì hai tự này mà có nhiều quan điểm khác nhau. Nay lấy bốn đôi để gom trọn các nghóa: Chứng tín đối phát khởi. Đối thông tự để tỏ biệt tự. Đối Như Lai để tỏ A-nan tự. Đối tự trước kinh để tỏ tự sau kinh. Chính tôn giả A-nan nghe âm chỉ của Phật gọi là chánh tín tự. Phát khởi chánh kinh, nên bảo là phát khởi tự. Các kinh cùng có, gọi là thông tự, phát khởi của mỗi kinh thì khác nhau, gọi là biệt tự. Miệng Phật tự thuyết, gọi là Như Lai tự. A-nan chứng tín, gọi là A-nan tự. Lời Phật thuyết, gọi là tự trước kinh. A-nan chứng tín kết tập sau, gọi là tự sau kinh. Các sư tuy giải thích nhiều cách nhưng rối rắm phần nào không thỏa đáng nên nay ở đây không luận bàn. Nay theo một đôi tự trước kinh và tự sau kinh để giải thích. Hai tự thành hai đoạn riêng; từ đầu kinh cho đến câu “Đại chúng đều ngồi.” gọi là tự sau kinh. Khi Phật còn tại thế thì chưa có tự này. Lúc Phật sắp nhập Niết-bàn mới bảo tôn giả A-nan; “Sau khi Ta diệt độ, lúc kết tập pháp tạng, phải kể những việc như vậy.”, cho nên bảo là tự sau khi Phật diệt: Tự thứ hai là từ câu “Bấy giờ, mười hiệu…” là tựa về thời gian thuyết kinh. Đang khi thuyết kinh, dùng sự việc để phát mở, nên nói là tự thời thuyết kinh. Nay trước hết nói về tự sau khi Phật nhập diệt: Theo Đại Trí luận thì cứ theo văn mà giải thích, không có chia đoạn. Sau đó các sư giải thích thì chia đoạn khác nhau, hoặc chia thành năm phần, hoặc chia thành sáu phần. Ở đây theo “Kim cang Tiên luận” chia làm sáu cú riêng biệt: “Như vậy”: Là để biểu thị cho tín tướng. “Tôi nghe”: Là chính A-nan nghe rồi kể lại, không phải tự đặt. “Một thời”: Là nói rõ thời tiết nghe kinh. Tỏ rõ Phật là hóa chủ. Trú xứ: nghe và nói đều có nơi chốn. Nói giống với những điều đã nghe đã chứng, không giả dối lầm lẫn, tuy nhiên cả sáu sự đó không hoàn toàn thuộc về A-nan. “Tôi nghe như vậy”: tôi nghe như vậy là hoàn toàn thuộc về A- nan. Từ câu “Một thời…” kiêm luôn cả hai nghóa, nếu A-nan kết tập pháp tạng theo di chỉ thì thuộc về tự sau kinh, nếu đứng về mặt khi thuyết kinh, không thể không có đồ chúng, nơi chốn, thời gian thì nó thuộc tự trước kinh. Đó là trong vô danh tướng, một thời nào đó mượn danh tướng để phân biệt, không thể lấy đó mà chấp nhất định, thành ra tranh luận. Giải thích chữ “Như vậy” có hai phần: Giải thích về nhân duyên đặt chữ “Như vậy”. Giải thích về danh nghóa của “Như vậy”. Xuất xứ về nhân duyên đặt chữ “Như vậy” khác nhau, nay theo Giải thích của Ngài Long Thọ. Vì sao đầu tất cả kinh đều nói hai chữ “Như vậy”? Trong quyển hai của Đại Trí luận nói: Phật sắp diệt độ, tâm của A-nan chìm trong biển u buồn, anh của A-nan là A nê lô đậu nói; “Em là người truyền pháp tạng, không nên như phàm phu, nếu nghi gì thì cần phải hỏi cho kịp thời.” A-nan vẫn còn bị cảm xúc không biết hỏi gì, A-nê-lô đậu bày hỏi bốn điều; sau khi Phật diệt độ, chúng ta làm sao hành đạo? Ai sẽ làm thầy chúng ta? Làm thế nào ở chung với Xa-nặc ác khẩu? Đầu kinh Phật nói chữ gì? A-nan theo đó hỏi Phật, Phật trả lời câu hỏi thứ nhất; nương theo tự pháp tu tứ niệm xứ. Đáp câu hỏi thứ hai là; kinh giải thoát giới là đại sư. Đáp câu hỏi thứ ba là; Xa-nặc thì phải trị bằng pháp phạm. Đáp câu hỏi thứ tư; tập pháp tạng ba-tăng-kỳ kiếp của Ta thì đầu kinh phải nói chữ “Như vậy”, chư Phật ba đời đều thuyết “Như vậy”. Giải thích danh nghóa của “Như vậy”: là từ ngữ của sự tín thuận, biển lớn Phật pháp lấy tín là công năng đi vào trí tuệ là khả năng siêu độ. Nói “Như vậy” là để làm tín. Vì vậy, người có tín thì nói việc ấy như vậy, là tướng của tin. Người không tin thì nói; việc ấy không như vậy, là tướng của không tin, cho nên đầu kinh xưng là “Như vậy”. Vì thế mà sư Tăng Triệu nói: “Như vậy” là từ ngữ của sự tín thuận, tín thì thuận theo lý của lời nói, thuận thì đạo mà thầy đã dạy mới thành. Kinh thì không có nhiều hay ít, nhưng kẻ chẳng tin thì không truyền. “Như vậy” chính là tín vậy. Lại nữa, “Như vậy” là ý nghóa không bị sai khác, năng muốn tỏ pháp này là vô y, vô đắc, vô hý luận, thanh tịnh rốt ráo, chơn thật đáng tin, nên bảo là “Như vậy”. “Tôi nghe”: Phật bảo A-nan, khi xuất pháp tạng, phải nói là tôi nghe được ở bên Phật, e người không tin A-nan cho là người phế đạo. Tính của ngã và vô ngã, không có hai khác, vì thế tục cho nên nói là “Ngã” (tôi). “Văn” (nghe): cũng như vậy, nhó căn, thanh trần, và nhó thức, ba xứ vô gián hòa hợp nên gnhe; cũng là chẳng nghe. Nay nói nghe là nghe của tánh “Chẳng nghe” Hỏi: A-nan sinh ra vào đêm Phật đắc đạo, hai mươi lăm tuổi mới bắt đầu đến phụng sự Phật. Từ lúc Phật thành đạo, đã thuyết rất nhiều A-nan đều không có mặt, nhưng đều xưng là “Tôi nghe”, thì ý nghóa là sao? Đáp: Trong quyển thứ sáu của kinh Báo Ân đã nói đầy đủ các nguyện mà A-nan xin. Những kinh chưa nghe, xin Phật thuyết lại, cho nên đều là chính mình được nghe. Phần thứ hai trong Thích Luận, A-nan tự thuyết kệ rằng; khi Phật bắt đầu thuyết pháp, bấy giờ tôi không gặp, như vậy lần lượt nghe, Phật ở Ba-la-nại Phật vì năm Tỳ khưu, bắt đầu khai mở môn cam lộ, thuyết bốn pháp chơn đế, đó là Phật thuyết lại, gọi là lần lượt nghe. Kinh Bồ-tát Xử Thai nói; Phật ở tại Song lâm, đã nhập vào kim quan, còn khởi tay vàng hỏi A-nan; từ trước đến nay, ta vì chư Bồ-tát thuyết các kinh Đại thừa phương đẳng, ông đều đã biết cả chứ? Đáp: duy chỉ Phật mới biết. Lại hỏi: Ta xưa lên cõi trời Đao Lợi, vì mẹ mà thuyết pháp, ông biết chứ? Đáp: Không biết. Lại hỏi; Ta ở Long cung vì các rồng mà thuyết pháp, ông biết không? Đáp: không biết. Cứ như vậy hỏi xong, Phật bảo A-nan: ông nay hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà thuyết giảng, khẩu mật của Như Lai đều một lúc truyền lại, A-nan chứng đắc được Phật giác Tam muội. Theo kinh Xá-lợi-phất vấn nói: A- nan tu ngộ thiền không quên tổng trì huân tập nhiều đời trước đắc Phật giác Tam-muội. Theo “Kim cang Tiên Luận” nói có ba loại A-nan: tạng. Đại thừa A-nan. Tức là A-nan hải, trì Đại thừa pháp tạng. Trung thừa A-nan. Tức là A-nan Đà-bà-la, trì trung thừa pháp Tiểu thừa A-nan. Tức là A-nan hiền, trì tiểu thừa pháp tạng. Nay ở kinh này, lý huyền diệu, tướng tịch lặng, nhân viên, quả mãn, rộng lớn như pháp giới, cứu cánh rốt ráo như hư không cho nên xứng là A-nan hải, xưng là “Tôi nghe”. Hỏi: Đại Trí luận nói: Các pháp đều “Không”, sao lại xưng là “Ngã” (tôi)? Đáp: Tuy biết là các pháp đều không, nhưng tùy thuận thế tục, vì ngôn ngữ lưu hành ở đời, tạm gọi là “Tôi”, cho nên không có lỗi vậy. “Một thời, Phật trú ở thành Vương Xá”: Một thời; là lúc thuyết kinh, như thuyết kinh Niết-bàn vào ngày rằm tháng hai. thời thuyết kinh này là ngày mùng tám tháng giêng năm thứ ba mươi. Thời có ba loại: Thời Tam-ma-da: tức thời dài. Thời-ca-la: là thời ngắn. Thời khư-lâu: là thời không dài không ngắn. Chữ “Thời” nói ở đây là thời Tam ma da, nhưng các sư càng phân tích chi li lại thành ra không đúng. Như giữ đúng phong thái của Ngài Long Thọ thì cần phải phá; phá một thời, mà thuyết Tam-ma-da. “Phật”: là tiếng nước Phật, gọi là Phật-Đà. Trung Hoa dịch là Giác giả tức là người giác ngộ. Đã tự mình giác ngộ, lại có thể giác ngộ cho người khác, nên gọi là Phật. Trí Độ Luận nói: Phật đà là tiếng nước ngoài; phương đây (Trung Hoa) gọi là giác giả. Biết rõ chúng sanh số và phi chúng sanh số ở ba đời. “Trú thành Vương Xá” có ba phần: Trú. Vương Xá. Núi Kỳ-xà-quật. “Trú” là Thiên Trú, Phạm trú, Thánh trú. Lục dục thiên gọi là Thiên Trú. Sơ thiền trở lên gọi là phạm trú. Người tam thừa gọi là Thánh Trú. Trong ba trú đó, Phật thường trú ở Thánh Trú. Lại còn có tám trú: Thiên Trú: trú tứ thiền. Phạm trú: trú bốn tâm vô lượng. Oai nghi trú: trú bốn oai nghi. Thánh Trú: trú ba không. Thọ giả trú: trú năm phần pháp thân. trú. Y chỉ trú: trú ở Kỳ-xà-quật ở thành Vương xá. Giáo hóa trú: là trú ở mười sáu đại quốc. Phật trú: trú Đệ-nhất-nghóa-đế. Trú tạm thời, gọi là tại. Ở lâu gọi là trú, ngừng lại cũng gọi là “Thành Vương Xá”: ngoại quốc gọi là Ma-ha-duyệt-kỳ-già-la. Ma ha; là đại. Duyệt kỳ: Trung Hoa gọi là Vương Xá. Già la: Trung Hoa gọi là thành. Nước Ma-già-đà có mười hai thành. Ma hađà: nghóa là nơi giữ Cam-lộ, có mười hai thành: Thành lớn khu-kỳ-ni. Thành lớn Phú-lâu-na-bạt-đàn. Thành lớn A-giám-xa-đa-la. Thành lớn Phất-ca-la-bà. Thành lớn Vương Xá. Thành Xá bà đề. Thành lớn Bà-la-nại. Thành lớn Ca-tỳ-la bà. Thành Chiêm-bà. Thành Bà-xí-đa. Thành Câu-diêm-di. Thành Cưu-lâu. Trong mười hai thành này Phật ít trú ở sáu thành sau; còn sáu thành đầu, Phật không trú bốn thành trước đa phần trú ở hai thành sau. Trong hai thành này, Phật trú nhi Cù ở thành Vương Xá vì để báo ơn pháp thân, và thỉnh thoảng trú ở thành Xá-bà-đề vì báo ơn sinh thân. Vì sao tên là thành Vương-xá? Đó là vì do bốn Thiên vương cùng tạo ra. Có nhiều vị vua ở, Phật là pháp luân vương. Từ nhiều vị vương mà được gọi là Vương-xá thành. Vua nước Ma-già-đà sinh một con trai có một đầu, hai mặt, bốn tay, người thời đó cho là tướng chẳng lành. Vua bèn xé thân đứa con vứt bỏ ngoài đồng hoang. Có một nữ quỷ La sát tên là Lê La đem về hợp lại thân xác đứa bé đó, dùng sữa nuôi dưỡng, khi đã trưởng thành, có thế lực rất lớn, thâu tóm các nước, bắt tám vạn bốn ngàn vị vua giam ở trong Ngũ Sơn, lập thành để cai trị, vì là nhà của nhiều vua ở nên gọi là Vương-xá thành, các nhân duyên rất nhiều, không thể kể ra hết. “Trong núi Kỳ-xà-quật” Vương Xá thành có sáu tinh xá: 1. Tinh xá Trúc Viên, tại vùng đất bằng, do trưởng giả Ca-lan-đà tạo, cách Tây Bắc của thành ba dặm. 2 . Tinh xá núi Thiểu Lực Độc Thượng. Tinh xá hang núi Thất Diệp. Tinh xá hang núi Tứ Thiên vương. Tinh xá hang Xà (hang rắn). 6 . Tinh xá hang núi Kỳ-xà-quật. Trung Hoa dịch là núi đầu chim Thứu. Kỳ Xà là chim Thứu, Quật là đầu. Đỉnh núi đó giống chim Thứu, người thành Vương xá thấy nó giống với chim Thứu, nên gọi là núi đầu Thứu. Lại nữa, phía Nam thành Vương xá có nhiều rừng Thi đà, chim thú đến đây tìm thức ăn, đa số là chim Thứu, nên gọi là núi đầu Thứu. “Ngũ sơn” (năm núi): hướng Đông là núi đầu voi, hướng Nam là núi đầu ngựa, hướng Tây là núi đầu dê, hướng Bắc là núi đầu sư tử, ở giữa là núi đầu Thứu. “Cùng chúng đại Tỳ khưu tám trăm vạn ức, Học và Vô học đều là A-la-hán”; “Cùng chúng đại Tỳ khưu”: là Cú thứ sáu, phân biệt theo Kim cang Tiên luận, liệt kê chúng cùng nghe. Phần liệt kê chúng ở đầu tất cả các kinh, không ngoài bốn loại: Chúng ảnh hưởng. Chúng kết duyên. Chúng phát khởi. Chúng đương cơ. Chúng ảnh hưởng: là như chư Phật phân thân đến nghe pháp. Chúng kết duyên; là kiếp này chưa ngộ, làm nhân duyên để kiếp sau được ngộ, gọi là chúng kết duyên. Chúng phát khởi: là pháp thân Bồ-tát còn cùng nhau biểu hiện phát khởi. Chúng đương cơ; chính là chúng sẽ được đắc đạo vào thời điểm thuyết kinh. Kinh này đã vậy thì các kinh khác đều tương tự. Trong phần chúng cùng nghe, có hai phần: Liệt kê riêng. Kết chung. Trong phần liệt kê riêng, chúng tuy có mười hai loại, nhưng có thể chia làm ba loại chính: mười loại chúng trước là chúng ở cõi này. Chúng thứ mười một là chúng ở phương khác. Chúng thứ mười hai là hóa chúng. Về mười chúng trước, nếu xếp theo lớn đến nhỏ thì trước tiên phải nói Bồ-tát, sau mới nói Thanh văn. Nếu xếp theo nhỏ rồi đến lớn thì trước phải nói Ưu-bà-di… Nay ở đây vì sao trước nói Thanh văn, sau là Bồ-tát? Trong Phật pháp có hai loại đạo: Đạo hiển hiện. Đạo bí mật. Ở đây dùng đạo hiển hiện nên liệt kê Thanh văn trước. Lại nữa, Bồ-tát hiện lậu chưa hết, hình tướng không có phương thức nhất định, nếu liệt kê ở trước thì e người đời nghi ngờ, nên liệt kê Thanh văn trước. Trong phần chúng Thanh văn, đầu tiên có năm đoạn: Nêu tên của chúng đại Tỳ khưu. Liệt kê số. Nêu ra ngôi vị. Tán thán đức. Tóm kết. “Cùng”: là cùng chung. “Đại”; gọi là thắng, còn gọi là nhiều. “Tỳ khưu”: có năm nghóa như Trí Độ Luận nói: Khất só. Phá phiền não. Danh hiệu Tỳ khưu. Thọ giới là Tỳ khưu. Ma sợ. “Khất só” là nuôi mạng một cách thanh tịnh. Như (kinh) Xá-lợi- phất nhân duyên đã thuyết. “Phá ác”: Tỳ là ác, khưu là năng, có thể. Có thể phá ác, nên gọi là Tỳ khưu. “Danh hiệu Tỳ khưu”; như các nơi Hồ, Hán, Di, mỗi xứ đều có danh hiệu, nên gọi là Tỳ khưu. Thọ giới gọi là Tỳ khưu. Tỳ gọi là năng, có thể, khưu gọi là bố, sợ, có thể làm sợ hãi các quân ma nên gọi là Tỳ khưu. Tỳ khưu chẳng phải chỉ có một, nên gọi là “chúng”. “Tám trăm vạn ức”: là đoạn hai, liệt kê số. “Học và Vô học đều A-la-hán; là đoạn ba, hiển bày về quả vị. “A-la-hán” có ba nghóa: A-la-hán là Ứng cúng. A-la-hán là Bất sinh. A lâu khư gọi là Sát tặc. Thông thường thì mỗi một thứ đều có ba nghóa. Người ba quả sau vì sao đều gọi là A-la-hán? Cũng có ba nghóa. Lại nêu phần thắng để tán thán. “Công đức hữu vi, công đức vô vi”: là đoạn thứ tư, tán thán đức hữu vi là nêu trí đức, vô vi là nói về đoạn đức. Nếu xét theo cảnh thì đạo đế là hữu vi, diệt đế là vô vi. Công thí cho gọi là công, đã quay về gọi là đức, nên gọi là công đức. “Mười trí Vô học, tám trí Hữu học, sáu trí Hữu học, ba căn, mười sáu tâm hành”: “Mười trí Vô học” là bốn đế, pháp, tỷ, đẳng trí, tha tâm Tận và Vô sinh trí. Mười trí đó, quả thứ tư mới có đủ. “Tám trí Hữu học” là người A-hàm, trừ tận trí và vô sinh trí, có đủ tám trí kia. “Sáu trí Hữu học” là hai loại người Tu-đà-hoàn và Tư-đà-hàm, trừ Tận trí, vô sinh trí ở nơi Vô học ; trừ Tha tâm trí, vì chưa đắc căn bản thiền, và trừ đẳng trí, vì trước đã có chẳng phải mới đắc. Cũng có thể nói Tu đà hoàn có đủ sáu trí, vì đẳng trí chẳng phải là trí đoạn kết của người Tu đà, nên trừ nó. “Ba căn” là: Căn chưa trí; đang ở kiến đạo chưa trọng quyết đoán. Căn trí đã ở vị tu đạo trọng quyết đoán. Căn vô trí đang nơi đạo Vô học, không cần thêm thắng trí nữa. Sư Tam Tạng nói: Căn tự tính; vốn là phàm phu. Căn dẫn thủ là từ thập tín đến thập địa. Căn đắc quả là Phật địa. Nếu theo luận kinh Đại Phẩm thì: Vị tri dục tri căn là đang kiến đạo hòa hợp với chín căn vô lậu, làm thể của Vị tri dục tri căn. Tri căn ở trong tu đạo, tăng tiến nơi chín căn làm thể của căn biết. căn. Tri dó căn ở đạo Vô học, tăng tiến chín căn làm thể cho Tri dó “Mười sáu tâm hành”; nếu biết cho đủ thì phải là “Mười sáu tâm, mười sáu hành”, vì người viết kinh lược. Mười sáu tâm thâu gồm chung hai pháp. “Mười sáu tâm” theo tiểu thừa thì gồm: Khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí, khổ loại nhẫn, khổ loại trí, tập pháp nhẫn, tập pháp trí, tập loại nhẫn, tập loại trí, diệt pháp nhẫn, diệt pháp trí, diệt loại nhẫn, diệt loại trí, đạo pháp nhẫn, đạo pháp trí, đạo loại nhẫn, đạo loại trí, thành là mười sáu tâm. “Mười sáu hạnh” là trong bốn đế mỗi đế có bốn hạnh: khổ, không, vô thường, vô ngã, nhân, tập, duyên, sinh, diệt, tận, diệu, ly, đạo, chánh, tích, thừa, cũng còn gọi là mười sáu đế. Lại nữa, giải thích mười sáu tâm cũng có thể tám nhẫn, tám trí đoạn trừ hoặc do kiến đạo. Nếu dựa theo pháp sư Tam Tạng nêu ra mười sáu tâm thì ba mươi tâm hợp làm tứ địa thứ nhất có mườii tâm cộng với tâm Kim cang, Phật địa hợp thành mười sáu. Và dựa theo ba pháp giả hư thật quán, thọ giả hư thật quán, danh giả hư thật quán. Nói pháp giả quán, là quán pháp ngũ ấm gọi là pháp giả (tạm bợ). Ngũ ấm hình thành duyên sinh nên quán chúng sinh là quán thọ giả. Dựa hai sự giả tạo này lập tên nên gọi là quán danh giả tạo. Pháp giả là thật, hai giả là hư nên nói Pháp giả hư thật quán. Danh giả hư thật quán thì danh giả là hư, pháp giả thọ giả là thật. Cho nên nói hư thật quán. Pháp sư Tam Tạng dựa trên ba tính để giải thích ba quán: Không có tự thể, phải dựa vào pháp khác mới tồn tại, nên gọi là giả tạo. Quán pháp giả hư thật là hiểu rõ về hình tướng. Pháp giả là tính chơn thật, thọ giả là tính y tha, danh giả là tính phân biệt. Pháp là pháp chơn thật, giả lập để đối lại với tục. Thọ là vọng tưởng, tâm của y tha (nương theo cái khác), thọ nạp cảnh ở trước mắt là danh giả, tức chính là tất cả danh tướng tương ưng với Đại phẩm. Mỗi một giả đều gọi là hư, thật quán. Hư quán là chấp trước thành cảnh hư vọng. Thật quán, nghóa là quán sát, quán đạt. Nếu nương theo chánh quán để tỏ rõ giả thì không phải như vậy; pháp do nhân duyên sinh tức không, tức giả, tức trung. Nói là giả danh, là danh của sự tịch diệt vô đắc. “Tam” không quán môn, Tứ Đế, Thập nhị nhân duyên, vô lượng công đức đều thành tựu”. Tam “Không” là không, vô tướng, vô tác. “Không” không có hai mươi lăm hữu, gọi là không giải thoát môn. Không có mười tướng, gọi là vô tướng giải thoát môn. Đối với hai mươi lăm hữu, không khởi các mong cầu, gọi là Vô tác giải thoát môn. Còn gọi là ba Tam-muội, còn gọi là ba môn giải thoát. Hai pháp đó khác nhau như thế nào? Ba Tam muội thì chung cả lậu và vô lậu, còn ba môn giải thoát chỉ một mực vô lậu. Sư Tam Tạng nói; ba giả “Không”, gọi là ba không, ba “Không” tức là lý của ba vô tính. Lại giải thích; mười tám không, gọi là không môn, phá tướng nam nữ, gọi là vô tướng môn, cầu trong không nguyện, gọi là vô tác môn. “Tứ đế”: là hai loại tứ đế, hữu tác và vô tác. Người thuộc Tiểu thừa vì trí chiếu chưa cùng, trí có hạn lượng, cảnh không cực diệu, nên gọi là hữu tác. Người thuộc Đại thừa, dùng chơn trí của vô tâm mà chiếu hư tông của vô tướng, cảnh cùng trí cực, gọi là vô tác. Ngày nay luận là hữu tác tứ đế, bị bức bách do sinh tử phân đoạn, gọi là khổ, không hư giả gọi là đế. Nghiệp và phiền não gọi là tập, không hư giả, gọi là đế. Lặng bặt gọi là diệt, không hư giả, gọi là đế. Tám đạo phần gọi là đạo, không hư giả gọi là đế. Hỏi: Sao gọi là đế? Đáp: Có người nói; lấy cảnh làm đế. Nếu vậy thì tất cả súc sanh; bò, ngựa cũng có đế. Nay hiểu không phải vậy. Trí chiếu như thật, gọi đó là đế. Cho nên Kinh Tư Ích nói: Biết khổ không có sinh, tập không có hòa hợp, ở trong pháp diệt rốt ráo, vô sinh vô diệt. Đối với tất cả pháp mà bình đẳng, do pháp “Không hai” mà đắc đạo, gọi là Thánh đế. “Mười hai nhân duyên”: là hai nhân quá khứ, năm quả hiện tại, ba nhân hiện tại, hai quả vị lai, nên bảo là mười hai. “Vô lượng công đức đều thành tựu” là đoạn thứ năm, tóm kết. “Lại có tám trăm vạn ức Đại tiên Duyên giác, phi đoạn phi thường, tứ đế, thập nhị duyên đều thành tựu.” Từ câu “Lại có tám trăm…” là chúng thứ hai, liệt kê chúng Duyên giác, có bốn phần: Nêu con số. Nêu danh. Thán đức. Tóm kết. Câu có tám trăm vạn là nêu số. Phần nêu danh lại có ba phần nhỏ: “Đại Tiên Duyên giác”: trong nhân xưa, làm Quốc vương, cùng cung nữ vào vườn dạo chơi, nằm ngủ, khi chưa ngủ thì cây cỏ hoa lá xanh tươi, lúc tỉnh dậy thì hoa lá đã bị cung nữ hủy hoại, vương liền suy nghó; “Ta không lâu cũng sẽ như vậy”, lấy bên ngoài mà so với bên trong, liền chứng ngộ thành Đại Bích chi Phật, nên gọi là Đại Tiên Duyên giác. Sau khi Phật qua đời. Nhàn cư nơi tịnh thất, ngồi kiết già, tự mình ngộ, suy tư, hốt nhiên thành đạo, gọi là Độc giác Bích chi Phật. Tu đà hoàn bảy lần sinh ở hữu, nhờ thiện căn giải thoát phần trước, sinh ở cõi người bảy lần, lại sinh ở cõi trời bảy lần, không bị sinh lần thứ tám, liền thành Tiểu Bích chi Phật. Trong ba loại Bích Chi Phật, loại đầu là lớn nhất, từ nhân duyên mà đắc đạo, nên là Đại tiên Duyên giác. Câu “Phi đoạn phi thường” là phần ba, tán thán đức. Quán mười hai nhân duyên, hai nhân duyên quá khứ thành năm quả hiện tại là phi đoạn. Ba nhân duyên hiện tại, nhập vào vị lai là phi thường. Lại nữa, từ duyên sinh, nên là phi đoạn. Sinh rồi diệt, nên phi thường. Lại nữa, nhân duyên tương tục có là phi đoạn. Tức pháp vô tự tính là phi thường. “Đều thành tựu” là phần bốn, tóm kết. Hỏi: Duyên giác xuất hiện khi đời không có Phật, không có thầy mà tự mình ngộ, nay vì sao lại liệt kê thành là chúng cùng nghe? Đáp: Các người Đại tiên ở trong núi Tuyết, ngộ nhân duyên mà đắc đạo, nay nghe Như Lai phóng quang động địa, tìm ánh sáng mà đến, cho nên tôn giả A-nan liền liệt kê thành là chúng cùng nghe. Chúng thứ ba là chúng Bồ-tát, có năm phần: Liệt kê số. Nêu danh. Nêu vị địa. Thán đức. Tóm kết. “Lại có chín trăm vạn ức Bồ-tát Ma-ha-tát đều là A-la-hán công đức thật trí, công đức phương tiện trí.” “Chín trăm vạn ức” là phần liệt kê số. Chín ngàn vạn là chín trăm ức. “Bồ-tát Ma-ha-tát” là phần nêu danh. Ma-ha-tát dịch là đại đạo tâm chúng sanh, ấy là dịch theo nghóa đúng theo phải nói : Ma-ha Bồ- đề-tát-đỏa. Cũng còn gọi là khai só, vì dùng đạo để khai ngộ vật. Cũng còn gọi là Đạo nhân, vì nhờ đạo mà thành. “Đều là A-la-hán”; là phần nêu vị địa. La hán có ba nghóa, Bồ- tát cũng có ba nghóa, cho nên Bồ-tát là La hán. Kinh Đại Tập nói: Đại pháp Bồ-tát danh gọi là A-la-hán. Kinh Đại phẩm nói: Thanh văn hoặc trí hoặc đoạn đều là Bồ-tát vô sinh pháp nhẫn. Cho nên nói đều là A- la-hán. “Công đức thật trí…” là phần tán thán đức. Thật trí là thật tướng Bát-nhã. Phương tiện trí là phương tiện Bát-nhã. Thật đó là phương tiện thật. Phương tiện đó là thật phương tiện. Cũng còn nói soi hư chiếu thật, gọi là thật trí. Công dụng thanh tịnh không chấp trước gọi là phương tiện trí. “Công đức”: Thi công gọi là công, hoàn trả về mình gọi là đức. Cũng còn gọi là quên công bỏ đức, nên nói là công đức. “Chỉ thực hành Đại thừa: bốn nhãn, năm thông, ba đạt, mười lực, bốn tâm vô lượng, bốn biện, bốn nhiếp, định Kim cang diệt, tất cả công đức đều thành tựu”: “Chỉ hành Đại thừa”: không xen tạp nhị thừa, gọi là chỉ hành Đại thừa. Lại nữa, Bồ-tát có hai loại: Tam thừa hóa. Thuần Đại thừa. Vì khen ngợi Bồ-tát thuần Đại thừa, nên bảo là chỉ hành Đại thừa. “Bốn nhãn”: là nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn. Vì Bồ-tát đang tu tại nhân nên chưa đắc Phật nhãn. “Năm thông”: là thân thông, thiên nhãn thông, thiên nhó thông, tha tâm thông, túc mệnh thông. Vì Bồ-tát các lậu chưa hết nên trừ lậu tận thông. “Ba đạt”: là túc mệnh đạt, thiên nhãn đạt, lậu tận đạt. Ba thứ đó có thể biết được chuyện mình và người là hư hay thật, gọi là đạt. Đạo lý ba đạt là Phật đắc còn Bồ-tát đắc tùy phần, cũng còn gọi là ngưỡng tập quả đức. “Mười lực”: là mười lực của Bồ-tát, lực phát tâm kiên cố, lực đại từ, lực đại bi, lực tinh tiến, lực thiền định, lực trí tuệ, lực không chán ghét sinh tử, lực vô sinh pháp nhẫn, lực giải thoát, lực vô ngại. “Bốn tâm vô lượng”: là Từ, bi, hỷ, xả. Từ có thể cho lạc, bi có thể cứu khổ. Hỷ là cùng chúng sanh lạc tăng thượng, xả là xả ở phiền não, lại xả hai tâm trên. “Bốn biện”: Pháp biện: biết danh và thể của vạn pháp, vì các pháp mà đặt tên. Từ biện: hiểu tất cả âm thanh lời nói của tất cả chúng sanh trong sáu nẻo, tất cả những loài khác, phương khác. Nhạo thuyết biện: tự có ưa thích biện luận vô cùng tận, vì mọi mười mà thuyết. Lại thấy rõ căn cơ thích nghe của chúng sanh mà thuyết cũng gọi là nhạo thuyết biện. Nghóa biện; kinh nói: vô lượng kiếp tích tập luận Tỳ bà la đắc Pháp biện tập đệ nhất Nghóa nên đắc nghóa biện. “Bốn nhiếp”: Bố thí: Để dẫn dắt những chúng sanh không tin, khiến cho hội nhập lòng tin. Ái ngữ: để dẫn dắt những người đã hội nhập tin, khiến cho họ tu hành. Lợi hành: khiến cho những người tu hành được lợi ích giải thoát. Đồng sự: Bồ-tát cùng chung sự nghiệp của họ, để dẫn họ hội nhập Thánh vị. “Định Kim cang diệt”: thầy tam tạng nói; thập địa thông giáo đều gọi là Kim cang, lại đắc thập địa thượng nhẫn. “Kim cang”: cũng còn gọi là Tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Do Kim cang có thể làm hư hoại vạn vật, không bị vạn vật làm hư hoại. Bồ-tát dùng trí tuệ này đoạn dứt phiền não, không bị phiền não làm hư hoại. Thích Luận nói ba loại Kim cang : như Kim cang luân, có thể diệt phiền não là lực Kim cang đập nát thân, xá lợi là Kim cang Tam muội, là định Kim cang diệt. “Tất cả công đức đều thành tựu” là phần tóm kết. “Lại có ngàn vạn ức hiền giả năm giới đều hành A-la-hán, thập địa hồi hướng. Năm phần pháp thân, đầy đủ vô lượng công đức đều thành tựu.”: Đây là chúng thứ tư; chúng hiền giả năm giới. Có bốn phần: Liệt kê con số. Nêu danh. Thán đức. Tóm kết. “Ngàn vạn ức”: là nêu số. “Hiền giả năm giới”: Nêu danh; như Đề-bà-ba-lợi hỏi: Phật sao không vì con mà thuyết bốn giới hoặc sáu giới? Phật đáp: Năm giới là số lớn của trời đất. Tại trời tức là năm sao, tại đất là năm nhạc (núi) tại người là năm tạng, tại âm dương là năm hành, tại đế là năm đế, tại đời là năm đức. Tại sắc là năm sắc, tại pháp là năm giới. Lấy không sát sanh để phối với phương Đông, phương Đông là mộc, mộc chủ về Nhân, Nhân lấy việc nuôi dưỡng sự sống làm nghóa, vì vậy mà lấy không sát sanh phối với phương Đông. Phương Bắc là thủy, thủy chủ về Trí, kẻ trí thì lấy sự không trộm cắp làm nghóa, vì vậy mà lấy không trộm cắp phối với phương Bắc. Phương Tây là kim, kim chủ về Nghóa, người hành nghóa, chẳng lẽ lại có thể tà dâm sao? Nên lấy không tà dâm phối với phương Tây. Phương Nam là hỏa, hỏa chủ về Lễ, lễ là để phòng ngừa sự lỗi lầm mất mát, người uống rượu đa phần bị mắc lỗi lầm mất mát, nên lấy không uống rượu phối với phương nam. Trung ương là thổ, thổ chủ về Tín, người vọng ngữ, xoay trở hai đầu, là thất tín. Nên lấy không vọng ngữ phối với trung ương. “Hiền giả” (người hiền); điều tâm tu đạo gọi là hiền. Giả gọi là ngưới thực hành (hành nhân), gọi là đó là giả (người). “Đều hành A-la-hán, …” là phần thán đức; A-la-hán ở đây là tên gọi chung, không luận theo nghóa hữu sinh, vô sinh. Lại nữa, tu hướng La hán, gọi là hành A-la-hán. “Thập địa”; là Hoan hỷ, Ly cấu, Minh diệm, Thiêu nhiên, Nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ, Pháp vân. “Hồi hướng”: là thập đạo chủng, bắt đầu từ cứu hộ tất cả chúng sanh, lìa tướng chúng sanh cho đến pháp giới thứ mười, vô lượng hồi hướng. Hồi hướng có hai loại; một là hồi hướng xuống dưới, công đức tu được đều cho tất cả chúng sanh. Hai là những công đức đã làm đều hồi hướng cho Tát-bà-nhã (Nhất-thiết-trí) là hồi hướng lên trên. “Năm phần pháp thân”; là giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Phàm phu bị mê hoặc chồng chất chấp năm ấm là thân, Thánh nhân thì thanh cao, lấy năm phần pháp thân làm thể. “Vô lượng công đức…” là phần tóm kết. “Lại có mười ngàn thanh tín nữ năm giới, đều hành A-la-hán, thập địa đều thành tựu. Bắt đầu sinh công đức, trú sinh công đức, cuối cùng sinh công đức, ba mươi sinh công đức đều thành tựu.” Đây là chúng thứ năm. Lại nói về chúng thanh tín nữ. Có bốn phần: 1. Nêu số. 2.Nêu danh. 3. Thán đức. 4. Tóm kết. Nêu số; mười ngàn. Nêu danh; thanh tín nữ. Ngoại quốc gọi là Ưu-bà-di, đây gọi là thanh tín nữ. Di là nữ. “Đều hành A-la-hán, Thập địa…” là phần tán thán đức như trên đã nói. Bắt đầu sinh là tâm nhập địa. Trú sinh là tâm trải nghiệm an trú trong địa. Cuối cùng sinh là tâm viên mãn ở địa. “Ba mươi sinh” là mười địa, mỗi một địa đều có ba sinh; là nhập, trú, mãn. Mười địa hợp lại thành ba mươi sinh câu “Đều thành tựu” phần tóm kết. “Lại có mười ức thất hiền cư só, đức hạnh gồm đủ hai mươi hai phẩm, mười Nhất thiết nhập, tám trừ nhập, tám giải thoát, ba tuệ, mười sáu đế, bốn đế, bốn, ba, hai, một phẩm quán đắc chín mươi nhẫn. Tất cả công đức đều thành tựu”. Đây là chúng thứ sáu. Nói về chúng thất hiền cư só, cũng có bốn phần: Liệt kê số. 2. Nêu danh. 3. Thán đức. 4. Tóm kết. Liệt kê số: có mười ức. Mười ngàn là một vạn, mười vạn là một ức, một trăn vạn là mười ức. Nêu danh : Thất hiền cư só. Thất hiền có hai nghóa : Một là theo tiểu thừa : Ngũ đình tâm quán. Biệt tướng niệm xứ. Tổng tướng niệm xứ. Noãn pháp. Đảnh pháp. Nhẫn pháp. Thế đệ nhất pháp. Những người này đều điều phục tâm thuận đạo, cho nên gọi là hiền. Hai là theo Đại thừa: Người sơ phát tâm. Người tu hành hữu tướng. Người tu hành nhân vô tướng. Người tu hành phương tiện. Người tập chủng tính. Người tính chủng tính. Người Đạo chủng tính. Bảy loại người đó tại Địa tiền, (trước khi bước vào ngòi Địa) điều tâm thuận đạo, gọi là thất hiền. Nói “Cư só”, ở ngoại quốc Ấn Độ, người có tiền của trên vạn ức, gọi là cư só. “Đức hạnh đầy đủ…” là phần tán thán đức, trong phần này ba đoạn: 1. Tổng. 2. Biệt. 3. Kết. Trong phần biệt có sáu môn tán thán: Một là tán thán đạo phẩm là người đó trước kiến đạo chỉ hoàn bị bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, hợp thành hai mươi hai đạo phẩm. Hai là tán thán mười Nhất thiết nhập, nhập đó là xứ; xanh, vàng, đỏ, trắng, địa, thủy, hỏa, phong, không xứ, thức xứ, thành là mười. Ba là tán thán tám Thắng xứ; cũng gọi là tám Trừ nhập: 1.Nội có sắc tướng, ngoại quán sắc ít, như đẹp như xấu. 2. Nội có sắc tướng, ngoại quán sắc nhiều, như đẹp như xấu. 3. Nội vô sắc tướng, ngoại quán sắc ít, như đẹp như xấu. 4. Nội vô sắc tướng, ngoại quán sắc nhiều, như đẹp như xấu. 5. Xanh. Vàng. 7.Đỏ. 8.Trắng. Bốn là tán thán tám giải thoát: 1.Nội hữu sắc tướng, ngoại quán sắc. 2.Nội vô sắc tướng, ngoại quán sắc. 3.Quán tịnh sắc. 4. Không xứ. 5. Thức xứ. 6. Vô sở xứ. 7. Phi tướng xứ. 8.Diệt tận giải thoát. Năm là tán thán ba tuệ; Càn-tuệ-địa gọi là Văn Tuệ. Bốn thiện căn gọi là Tư Tuệ, khổ nhẫn trở lên gọi là Tu Tuệ. Sáu là tán thán về bốn đế, mười sáu đế, như đã nói ở trên. “Bốn, ba, hai, một phẩm” là đoạn thứ ba trong phần tán thán đức, tóm kết giải thích có ba nghóa; nghóa thứ nhất; nói bốn, ba, hai, một quán đắc chín mươi nhẫn; bốn tức là bốn hiện nhẫn, từ dưới lên trên Noãn là thứ bốn, Đảnh là thứ ba, nhẫn là thứ hai, Thế đệ nhất pháp là thứ nhất. Bốn tức là bốn hiện nhẫn, ba tức là trừ Noãn pháp trước. Hai tức trừ Đảnh pháp trước. Một tức là trừ Nhẫn pháp trước. Bốn, ba, hai, một hợp với mười phẩm quán cõi dục đến địa thứ chín phi tưởng thành ra là chín mươi nhẫn. Nghóa thứ hai là; bốn tức là bốn đế, ba tức là ba đế, hai tức là hai đế, một tức là một thật đế, nói “Đắc chín mươi nhẫn” là ba Hiền Địa tiền, tập chủng tính, tính chủng tính, đạo chủng tính. Ở trong ba mươi tâm đó, làm thượng, trung, hạ, ba phẩm quán ba mươi tâm, hợp lại có chín mươi phẩm quán gọi là chín mươi nhẫn. Nghóa thứ ba là sư Tam Tạng giải thích; bốn tức là bốn quả, ba tức ba quả hai tức hai quả, một tức một quả. Nói chín mươi nhẫn là hai mươi hai phẩm từ đăng Địa trở lên đến Phật, hợp thành mười một vị, mười một vị có hai phẩm định, tuệ, hợp thành hai mươi hai phẩm. Tu hành pháp này, từ hai mươi hai phẩm đến bốn, ba, hai, một hợp thành tám mươi mốt phẩm. Từ pháp đó mà xuất bốn thiền, bốn không và diệt định, hợp thành chín mươi nhẫn. “Tất cả công đức…” là phần tóm kết chúng này. “Lại có vạn vạn ức cửu phạm, ba tịnh, ba quang, ba phạm, năm hỷ lạc thiên, thiên định, công đức định, vị, thường lạc thần thông, mười tám sinh xứ công đức đều thành tựu.” Đây là chúng thứ bảy, liệt kê Phạm chúng. Có bốn phần: 1.Nêu số tổng; 2. Nêu danh số riêng; 3. Tán thán đức; 4. Tóm kết. Nêu số tổng là lấy vạn để đến vạn, nên nói là vạn vạn ức. “Ba tịnh…” là phần nêu danh số riêng. “Ba tịnh” là ba cõi trời thiền thứ ba, là Tiểu tịnh, Vô lượng tịnh, biến tịnh. “Ba quang” là ba cõi trời thiền thứ hai, là Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang âm. “Ba Phạm” là ba cõi trời sơ thiền; phạm chúng, phạm phụ, đại phạm. “Năm hỷ lạc thiên”; thiền thứ tư có chín cõi trời: 1.Trời Quả thật; 2.Trời Tiểu quả; 3. Trời Quảng quả; 4. Trời Vô tướng. Bốn cõi trời đó không luận mà chỉ liệt kê năm cõi trời sau. Năm hỷ lạc, là năm trời Tịnh cư. Chúng sinh nơi đây chỉ vui thích luận nghóa, gọi là hỷ lạc. 1. Vô phiền; 2.Vô nhiệt; 3. Thiện hiện; 4. Thiện khả kiến; 5. Sắc cứu cánh. “Thiên định công đức …” là phần tán thán đức. “Thiên định” là báo định, tức chính là báo thiền, báo năm ấm. “Công đức định” là tịnh định, tức chính là tịnh thiền thiện, năm ấm hữu lậu. “Vị” tức chính là vị định, ái chấp nơi thiền định. “Thường lạc thần thông” là tu đắc thần thông, báo đắc hai loại thần thông. “Mười tám sinh xứ công đức đều thành tựu” là tóm kết mười tám cõi trời của bốn thiền trên. “Lại có ức ức chư thiên tử nơi lục dục thiên, thập thiện quả báo, thần thông công đức đều thành tựu.” Đây là chúng thứ tám, liệt kê chúng ở sáu cõi trời Cõi dục. Có bốn phần: 1. Liệt kê số; 2. Nêu danh; 3. Tán thán đức; 4. Tóm kết. Liệt kế số:“Ức ức” : Ức ức là số trùng. “Lục dục thiên”. Là phần nêu danh: 1.Tứ Thiên vương : Đông phương Đề-đầu-lại-tra, Trung Hoa gọi là Trì quốc chủ. Nam phương Tỳ-lưu-lặc-xoa, Trung Hoa gọi là Tăng trưởng chủ. Tây phương Tỳ-lưu-bác-xoa, Trung Hoa gọi là Tạp ngữ chủ. Bắc phương Tỳ-sa-môn, Trung Hoa gọi là Đa văn chủ. 2.Đao lợi thiên Trung Hoa gọi là Hí lạc, còn gọi là Tam thập tam thiên. 3. Diệm ma thiên; Trung Hoa gọi là là Thiện phần, cũng gọi là Thiện thời. 4. Đâu-suất-đà thiên; Trung Hoa gọi là Tri túc. 5. Hóa lạc thiên mình hóa các vật dụng vui thích mà hưởng lạc. 6. Tha hóa tự tại thiên; người khác hóa các thứ vật dụng vui thích của năm dục mà tự tại thọ nhận nên gọi là Tha hóa tự tại. “Thập thiện,…” là phần tán thán đức. Không khởi người ác tức là mười thiện, đắc báo ở sáu cõi trời, cho nên gọi là thập thiện báo. “Công đức đều thành tựu” là phần tóm kết. “Lại có mười sáu đại Quốc vương, mỗi vị có một vạn, hai vạn cho đến mười vạn quyến thuộc. Năm giới, mười thiện, tam quy công đức thanh tín hạnh đều đầy đủ. Đây là chúng thứ chín, các vua ở cõi người. Cũng có bốn phần; Liệt kê số; 2. Quyến thuộc; 3. Tán thán đức; 4; Tóm kết. “Mười sáu Quốc vương” là liệt kê số. “Mỗi một vị vua…” là nêu rõ về quyến thuộc. “Năm giới, mười thiện…” là tán thán đức. Tam quy công đức là khi Phật chưa xuất hiện thế gian thì quy kính tam bảo tà: Chư thiên, tà sư cho là Phật bảo. Tứ vi đà thì cho là Pháp bảo, chư ngoại đạo thì cho là Tăng bảo. Khi Như Lai xuất thế mới quy kính chánh tam bảo. “Thanh tín hạnh”; là thành tựu bốn tín, nên nói là thanh tín. Lại nữa, đắc trọn vẹn chánh tín Đại thừa, gọi là thanh tín. “Đầy đủ” tùy thuận từng phần của bốn tín Phật, Pháp, Tăng, Giới đều đầy đủ. Câu này là phần tóm kết. “Lại có tất cả chúng sinh thuộc năm nẻo đường”. (Năm đạo) Đây là chúng thứ mười. Liệt kê chúng năm nẻo, nhờ từ lực của thánh mà đến được pháp hội. Đúng thì phải kê ra sáu nẻo, vì A-tu-la gồm thâu trong quỹ đạo. “Lại có chúng tha phương không thể lường được”. Đây là chúng thứ mười một. Thánh chúng phương khác. Văn có thể hiểu. “Lại có biến tịnh độ mười phương, trăm ức tòa cao, hóa trăm ức hoa báu Tu di. Trước mỗi một tòa, trên hoa có vô lượng hóa Phật, có vô lượng Bồ-tát. Tỳ khưu, đại chúng Bát bộ, mỗi vị đều ngồi trên hoa sen báu, đều có vô lượng quốc độ .” Đây là chúng thứ mười hai. Liệt kê chúng biến hóa. Đó là Bồ-tát bất tư nghị, nên có thể biến tịnh độ mười phương và Phật chúng đến đất này. Văn có ba phần; 1. Lực bất tư nghị có thể biến quốc độ, 2.“Có vô lượng…”; lực bất tư nghị có thể hiện Phật và Bồ-tát, 3.“Mỗi một Phật…” là nói về lực bất tư nghị có thể thuyết Bát-nhã. Biến quốc độ, văn nói mười phương”; là sáu phương và bốn hướng. “Tịnh độ”; như Tây phương tịnh độ. “Trăm ức”; là trăm ức nhật nguyệt, trăm ức Tu di. “Có vô lượng hóa Phật, …” là nói lực bất tư nghị có thể hiện Phật và Bồ-tát. “Bát bộ”; 1.Sát lợi chúng; 2.Sa môn chúng; 3.Bà-la-môn; 4.Tứ Thiên vương chúng; 5. Tam thập tam thiên chúng; 6. Lục dục thiên chúng; 7. Ma chúng; 8. Phạm chúng. Lại nói “Long quỷ Bát bộ”; 1.Càn-thát-bà; Tỳ-xá-xà. Hai bộ đó thuộc Đề đầu đại tra Thiên vương; 3.Cưu-bàn- đề; 4.Tiết-lệ-đa. Hai bộ này thuộc Tỳ lưu lặc xoa Thiên vương; 5. Long; 6.Phú-đơn-na. Hai bộ này thuộc Tỳ-lưu-bác-xoa Thiên vương. 7. Dạ-xoa; 8. La-sát. Hai bộ này thuộc Tỳ-sa-môn Thiên vương. “Mỗi một quốc độ Phật là đại chúng như nay không khác, trong mỗi một quốc độ, mỗi một Phật và đại chúng, mỗi vị đều thuyết Bát- nhã Ba-la-mật, tha phương đại chúng và hóa chúng cùng chúng trong ba cõi này, tổng cộng mười hai đại chúng đều đến tập hội, ngồi tòa hoa sen chín kiếp. Hội đó vuông rộng chín trăm năm mươi dặm, đại chúng cùng nhau vui vẻ yên ngồi” “Mỗi một Phật và đại chúng, mỗi vị đều thuyết Bát-nhã”; là phần ba. Lực bất tư nghị có thể thuyết pháp. Ở trên đã liệt kê xong mười hai chúng từ câu “Tha phương đại chúng…” là phần thứ hai tổng kết trong phần “Chúng cùng nghe”. Nói tha phương đại chúng là tổng kết loại chúng thứ hai. Nói là hóa chúng là tổng kết loại chúng thứ ba. Nói “Chúng trong ba cõi” là tổng kết loại chúng thứ nhất. Nói “Mười hai đại chúng” là tổng kết chung ba loại chúng. “Hoa sen chín kiếp”; là hoa sen chín tầng. “Rộng chín trăm năm mươi dặm” như pháp hội Song-lâm rộng mười hai do tuần, có thể chứa chúng lớn lao. Hội này cũng vậy, tuy hẹp nhưng có thể dung chứa rất nhiều. “Đại chúng an nhiên mà ngồi” đều cùng ngồi để nghe pháp. Hỏi: Vì sao chư thiên có người không nghe pháp, mà chúng sanh nơi ba đường ác lại đến nghe thọ đạo? Đáp: Thiên Thai Trí giả nói: Đối với việc này như kinh Niết-bàn, nói đối với người giới hoãn (chậm) thì không gọi là hoãn, với người thừa hoãn mới gọi là hoãn. Căn cứ đây làm thành bốn câu phân biệt: tự có; thừa cấp mà giới hoãn, giới cấp mà thừa hoãn, đều cấp và đều hoãn. Vì chư Thiên kia quá khứ trì giới tu định mà sinh thiên. Nhưng quá khứ không tu tuệ, cho nên không được nghe kinh. Những kẻ trong tam đồ (ba đường ác) vẫn đến thọ đạo, là vì tuy họ phá giới bị đọa nơi tam đồ, nhưng nhờ kiếp quá khứ họ tu tuệ, cho nên được cảm nhận pháp âm và ánh sáng. Đều cấp đều hoãn thì có thể hiểu. “Bấy giờ, mười hiệu, ba minh, đại diệt đế, Kim cang trí Thích ca Mâu ni Phật, sơ niên, tháng giêng ngày tám mới tọa thập địa nhập đại tịch thất Tam muội”. “Bấy giờ, mười hiệu …” từ đây về sau là phần giải thích thời gian thuyết giảng kinh. Trong đó có bảy đoạn; 1. Như Lai nhập Tam muội phần; 2.Phóng quang; 3.Hiện hoa; 4.Địa động; 5.Nghi hỏi; 6.Làm nhạc để tán thán Phật đồng thời gọi chúng mười phương đến tập. 7. Khởi định. Trong đoạn thứ nhất - Nhập định, nhập Tam muội phần: “Bấy giờ”; là thời của lúc đó. “Mười hiệu”; là nêu đức khiến cho vật quy y. “Ba minh” là biểu thị cho sự viên mãn chiếu soi ba đời, biết rõ căn cơ của vật. “Đại diệt”; là tán thán Đoạn đức của Phật, biểu thị tự mình không bị trói buộc và có thể cởi trói buộc cho người khác. “Kim cang”; là tán thán Trí đức của Phật. Lại “Bấy giờ” là nói thời gian sắp thuyết pháp. Mười hiệu là tiêu biểu danh đức vang xa, vạn vật tin tưởng trở về. Ba minh là tiêu biểu Phật thấy vô căn tính của chúng sinh Đại diệt tức là Niết-bàn Kim cang là không phải còn trong nhân tu hành mà là quả độc cứu cánh. Kim cang Đạo chủng trí. “Thích ca”; là Năng nhân, chư Phật đều lấy một đức để làm rõ hiệu, như Di lặc, danh là Từ Thị, Phật nào mà chẳng có từ, đó là lấy từ để làm tên, danh là Từ Thị. Thích ca là Năng nhân cũng như vậy. “Sơ niên , tháng giêng; ngày mùng tám”; đó là nói về thời gian sau khi thành đạo ba mươi sáu năm vào tháng giêng ngày mùng tám, thuyết kinh này. Nếu nói năm thứ ba mươi sáu, thì trở thành Phật thành đạo bảy năm mới thuyết pháp. Ngoài ra, Bát-nhã y cứ theo các văn ghi lại; hai mươi chín tuổi thành đạo cho đến nay, sau ba mươi sáu năm, tức làm Phật sáu mươi sáu tuổi mới thuyết kinh này. “Mới tọa thập địa”; vì nhân đã viên tròn mới chứng Phật quả, nên nói là mới tọa thập địa, đó là nói ngược về nhân xưa, chứ chẳng phải là mới bắt đầu tọa. Lại nói; đó là thập địa của Phật; 1.Rất sâu xa khó biết quảng minh trí đức địa; 2. Thanh tịnh thân chẳng thể nghó bàn địa; 3. Hải tạng địa; 4.Thần thông trí đức địa; 5.Minh đức địa; 6.Vô cấu diệm quang khai tướng địa; 7. Quảng thắng pháp giới tạng minh giới địa; 8. Vô ngại trí tuệ địa; 9. Vô biên ức trang nghiêm hồi hướng năng chiếu minh địa; 1 0.Tỳ-lô-giá-na trí tạng địa. Đó là dẫn từ kinh Đồng Tính. “Nhập đại tịch thất”; Như Lai thuyết pháp thì trước tiên cần phải nhập định, quán cơ xét lý, cho nên nhập định, muốn tỏ rõ Như Lai tịch nhưng thường dụng, dụng nhưng thường tịch, chẳng lẽ lại có nhập và xuất khác nhau, địa thứ tám trở lên đã không có nhập, xuất định, chẳng lẽ Như Lai lại còn nhập khởi định sao? Chính là để cho người đời thấy quy tắc, Như Lai thuyết Bát-nhã còn phải nhập định tư duy, huống nữa là các người khác lại không tư duy mà thuyết sao? “Tư duyên phóng ánh sáng lớn chiếu trong ba cõi. Lại ở trên đảnh xuất ra ngàn hoa sen báu, hoa lên đến Phi tưởng phi phi tưởng thiên, ánh sáng cũng lại như vậy, cho đến tha phương hằng hà sa chư Phật quốc độ ở phương khác.” Văn nói “Tư duyên”; là khởi giáo lớn nhất thì phải duyên nhờ đại trí sáng suốt soi xét nên nói là “Tư duyên”. Lại hiểu tư duyên tức là muốn thuyết Bát-nhã, suy tư nghóa vô tướng. Duyên là duyên theo như lý pháp tính. “Phóng ánh sáng lớn” là đoạn hai, trong phần thời tiết thuyết kinh. “Ánh sáng lớn”; là hiện sự việc hiếm có, khiến những người chưa tin thì sinh tin, những người đã tin thì khiến được tăng ích lợi, cũng muốn khiến cho chúng sanh phá bóng tối vô minh, được ánh sáng trí tuệ. Ánh sáng có hai loại; Ánh sáng thần thông và ánh sáng trí tuệ. Vì sao phóng ánh sáng thần thông? Vì có các vị có duyên rải rác ở mười phương, nếu không phóng quang để chiêu tập thì họ không biết nhân duyên thuyết Bát-nhã, cho nên phóng quang. Phân biệt pháp tướng, xứng với căn cơ của vật, nên phóng ánh sáng trí tuệ. “Chiếu trong ba cõi”; là nơi ánh sáng đến. “Lại nữa, ở trên trên đảnh…” là đoạn thứ ba: Thần lực hiện hoa. Hoặc thấy ánh sáng mà phát khởi căn cơ, hoặc thấy hoa mà được lợi ích, cho nên hiện hoa. “Lên đến phi tưởng”; là chỗ đến của hoa. Kinh này nói Vô cõi sắc có sắc, “Quang cũng lại như vậy”; cũng đồng với hoa. “Cho đến tha phương”; chẳng phải chỉ chiếu ở phương này, mà chiếu khắp mười phương. “Hằng hà sa Phật quốc”; là hóa đạo tương thông với nhau. “Lúc ấy”, Vô cõi sắc mưa vô lượng biến thành đại hương hoa, hương như xa luân, hoa như Tu di sơn vương, như mây mà hạ xuống.” “Lúc ấy, Vô cõi sắc”; có người giải thích; Vô cõi sắc tuy không có sắc thô, nhưng có sắc tế. Nay ở đây không giải thích như vậy Sắc không có tướng của sắc mà không có sắc gì không phải là sắc, nên nói là Vô cõi sắc. Chư thiên ở các cõi trời Sắc và Dục đã nghe Bát-nhã, hoan hỷ mưa hoa cúng dường. Trong đó có ba phần; 1.Vô cõi sắc thiên mưa hoa; Cõi sắc thiên mưa hoa; 3. Sáu cõi trời cõi dục mưa hoa. Trong phần Vô cõi sắc mưa hoa có ba câu; 1.Mưa vô lượng đại hương hoa; 2.Hương như xa luân; 3. Hoa như Tu di sơn vương như mây hạ xuống.” “Mười tám Phạm Thiên vương mưa trăm hoa sắc Kỳ lạ đổi khác. Sáu cõi trời Cõi dục mưa hoa vô lượng sắc, trước tòa Phật tự nhiên sinh chín trăm vạn ức kiếp hoa, lên đến cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng.” “Mười tám …” là phần hai: Cõi sắc thiên mưa trăm biến hoa sắc kỳ lạ… Cõi dục thiên mưa hoa, là phần ba. Trước tiên phóng quang để cho chúng sanh phá ám được minh, tiếp là hiện hoa muốn khiến cho chúng sanh tu nhân đắc quả. “Lúc ấy, đất thế giới có đủ sáu loại chấn động” là đoạn bốn - Thần lực động địa. Vì sao lại động địa? Vì muốn động cái tâm hữu sở đắc của chúng sanh, khiến ngộ Bát-nhã vô sở đắc. Sáu động là; Đông vọt Tây chìm, Tây vọt Đông chìm, Nam vọt Bắc chìm, Bắc vọt Nam chìm, bên vọt giữa chìm, giữa vọt bên chìm. Lại hiểu như Đại kinh nói; động, dũng (vọt lên), chấn (rung), khởi, kích (đánh), hống (gầm) thành sáu thứ động.  NHÂN VƯƠNG BÁT NHà KINH SỚ <卷>QUYỂN 2 “Bấy giờ, các đại chúng đều cùng tự nhiên sinh nghi, cùng hỏi nhau bốn sở úy, mười tám pháp bất cộng.” Đây là đoạn thứ năm nghi hỏi, trong phần thời tiết thuyết kinh văn. Có bốn phần: Đại chúng cùng nghi. Phát ngôn luận biện. “Trước đã vì chúng ta…” Trình bày sự việc nghi. “Lúc đó, mười sáu đại Quốc vương…” Sự của Như Lai thì bất khả tri. Trong văn phần một. “Tự nhiên”; là đều như thế. “Bốn vô úy” muốn nêu ra nghi tình đó trước tiên phải nêu Phật đức, cho nên hỏi nhau về bốn vô úy: 1.Nhất-thiết-trí; 2. Lậu tận; 3. Tận khổ đạo; 4.Thuyết chướng đạo. Gọi chung là vô úy. Luận Thập trụ Tỳ Bà-sa nói: Không sợ ngoại nạn, gọi là vô úy. Mười tám pháp bất cộng là: 1.Thân không lỗi lầm; 2.Khẩu không lỗi lầm; 3. Niệm không lỗi lầm; 4. không dị tưởng; 5. không bất định tâm; 6.Không có gì là không biết, tâm đã xả; 7.Ý muốn lớn không giảm; 8.Tinh tiến không giảm; 9.Niệm không giảm; 1 0.Tuệ không giảm; 1 1.Giải thoát không giảm; 1 2.Giải thoát tri kiến không giảm; 1 3. Thân nghiệp hành theo trí tuệ; 1 4.Khẩu nghiệp hành theo trí tuệ; 1 5.Ý nghiệp hành theo trí tuệ; 1 6.Trí tuệ biết đời quá khứ vô ngại; 1 7.Trí tuệ biết đời vị lai vô ngại; 1 8. Trí tuệ biết đời hiện tại vô ngại. “Năm nhãn, pháp thân đại giác Thế Tôn, trước đây hai mươi chín năm đã vì đại chúng chúng ta mà thuyết Ma ha Bát-nhã Ba-la-mật, Kim cang Bát-nhã Ba-la-mật, Thiên vương vấn Bát-nhã Ba-la-mật, Quang tán Bát-nhã Ba-la-mật. Ngày nay Như Lai phóng hào quang lớn là để làm việc gì?” “Năm nhãn”; một nhãn Như Lai đã rốt ráo hết các đạo, cần gì cả năm nhãn? Vì muốn cảnh tức là trí nên có năm nhãn: Nhục nhãn là chiếu Kim cang đã trả về, tất cả các pháp đều tận. Thiên nhãn là chiếu Như Lai quả Đệ-nhất-nghóa-đế, gọi là chướng ngoại. Tuệ nhãn là chiếu tất cả các pháp thường, vô thường đều không. Pháp nhãn là chiếu lý sự nhân quả của tất cả pháp. Phật nhãn tức cứu cánh các đạo. “Pháp thân”; là chơn pháp làm thể, diệu giải làm thân, cho nên ảo là pháp thân. “Đại giác”; cùng cực trong giác, gọi là đại giác. “Thế Tôn”; ngoại quốc gọi là Lộ-già-na-già. Trung Hoa gọi là Thế Tôn. Lộ-già là Thế, Na-già là Tôn. “Trước đây, vì chúng ta…” là phần thứ ba trình bày sự nghi sự. Hai mươi chín năm trước đã thuyết Bát-nhã. Nay năm ba mươi tháng giêng ngày mùng tám, lại phóng hào quang, so với trước đây khác nhau ra sao? Ở núi Kỳ-xà-quật, thành Vương Xá, thuyết đại phẩm, đến nước Xá-vệ thì thuyết Kim cang Bát-nhã, Thiên vương vấn Bát-nhã. Sau đó, trở về núi Kỳ-xà-quật, thành Vương Xá thuyết Quang tán Bát-nhã, Đạo hành Bát-nhã, xuất ra đầy đủ quang tán Bát-nhã. Hôm nay, Như Lai phóng hào quang lớn vậy để làm gì? Là lời tỏ về nghi tình không quyết. Theo luận Kim cang Tiên thì có tám bộ Bát-nhã, kinh này chỉ nói năm bộ. “Lúc ấy, trong mười sáu đại Quốc vương, quốc chủ nước Xá vệ, vua Ba-tư-nặc, tên là Nguyệt Quang, đức hạnh thập địa, lục độ, ba mươi bảy phẩm, bốn bất hoại tịnh hạnh Ma-ha-diễn hóa. “Lúc ấy, trong mười sáu đại Quốc vương…” là phần bốn Sự của Như Lai không thể biết. Văn có hai phần; phần đầu nói tên của vua Ba tư nặc, “Đức hạnh,…” là phần hai tán thán đức. Phần đầu, tên gọi có hai nhân duyên: Nếu theo sự đặt tên của cha mẹ thì gọi tên là Thắng Quân, sinh cùng một ngày với Như Lai, lớn lên là người đại hùng lược, có thể phá tan cường địch, hễ đánh đâu thắng đó, cha mẹ đặt tên là Thắng Quân. Tên gọi Nguyệt Quang là người đời đặt tên. Phật như ánh sáng mặt trời, (Nhậät Quang). Vua Ba Tư Nặc giúp Phật, giống như ánh sáng mặt trăng cho nên tên là Nguyệt Quang. “Đức hạnh Thập địa…” là phần tán thán đức. “Lục độ”: 1.Đàn xả tiền của làm công năng; 2. Thi la: phòng ngừa sự sai trái, làm nghóa; 3.Nhân, dập tắt sự sân giận, làm công; 4.Tinh tiến lấy ân cần cố gắng làm dụng; 5. Thiền: thâu giữ tâm làm đức; 6. Bát-nhã quán thông đạt được “Vô”, được giải thích đầy đủ trong Luận Trí độ. “Ba mươi bảy phẩm” là ba nhân bốn bằng mười hai, hai nhân năm bằng mười cộng thêm bảy và tám. Danh tuy là ba mươi bảy nhưng lấy mười pháp làm căn bản, nghóa là tín, giới, niệm, định, tuệ, tinh tiến, tư duy, trừ, hỷ, xả. Trong mười pháp đó khai sáu hợp bốn thành ra là ba mươi bảy. Khai sáu là chia tín làm hai, thành là tín căn và tín lực. Giới chia làm ba; chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh. Niệm chia làm bốn; niệm căn, niệm lực, niệm giác chi, chánh niệm. Tinh tiến có tám; bốn chánh cần, tinh tiến căn, tinh tiến lực, tinh tiến giác chi, chánh tinh tiến. Khai định làm tám; bốn như ý túc, định căn, định lực, định giác chi, chánh định. Khai tuệ làm tám là; bốn niệm xứ, tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp giác chi, chánh kiến. “Bốn bất hoại tịnh” là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin giới bất hoại. “Hành Ma-ha-diễn hóa” là Nguyệt Quang hoằng dương Đại thừa. “Lần lượt hỏi tám trăm người cư só Bảo Cái, Pháp Tịnh Danh,… Lại hỏi năm ngàn người như; Tu-bồ-đề, Xá-lợi-phất,… Lại hỏi mười ngàn người; Di lặc, Sư tử hống… không ai đáp được.” “Lần lượt hỏi” là xin quyết về mối nghi, từ cư só Bảo Cái cho đến Sư tử hống đều không thể đáp được. Như Lai phóng hào quang không biết muốn thuyết pháp gì. Những người thuộc ngôi vị dưới không thể biết được. Như Lai xuất định sẽ tự thuyết, cho nên không đáp. “Lúc ấy, vua Ba-tư-nặc liền dùng thần lực làm tám vạn loại âm nhạc, mười tám Phạm, chư thiên sáu trời Cõi dục làm tám vạn loại âm nhạc, thanh động ba ngàn cho đến mười phương hằng hà sa cõi Phật, người có duyên thì hiện. Trong các Phật quốc phương khác kia. Bồ-tát Pháp Qua ở phương Nam cùng năm trăm vạn ức đại chúng đều đến nhập hội lớn này. Bồ-tát Hư Không Tính, ở phương Bắc, cùng trăm ngàn vạn ức đại chúng đều đến nhập đại hội này. Bồ-tát Bảo trụ ở phương Đông cùng chín trăm vạn ức đại chúng đều đến nhập hội lớn này. Bồ-tát Thiện Trú ở phương Tây cùng mười hằng hà sa đại chúng đều đến nhập đại hội này. Sáu phương cũng lại như vậy, làm nhạc cũng vậy, cũng lại cùng làm vô lượng âm nhạc để giác ngộ Như Lai.” Đây là đoạn thứ sáu trong phần trình bày, thời gian thuyết kinh. Nguyệt Quang và chư thiên tạo âm nhạc để tán thán Phật, chiêu tập chúng mười phương đến nghe kinh. Trong đó có ba phần: 1.Nguyệt Quang làm tám vạn loại âm nhạc; 2. “Mười tám phạm…” là chư thiên làm nhạc tán thán Phật; 3.“Trong các Phật quốc phương khác kia…”; Bồ-tát mười phương vân tập làm vô lượng âm nhạc để giác ngộ Như Lai. “Bồ-tát Pháp Qua” phương Nam mỗi vị đều dùng một đức để tỏ hiệu mình. Khi đã nhập thiền thứ hai thì đã không bị âm thanh làm động tâm. Nay ở đây nói “Giác ngộ Như Lai”, đó chỉ là tỏ về có căn cơ để cảm Phật mà thôi. “Phật liền biết lúc ấy là lúc căn cơ của chúng sinh đạ được, liền xuất định, mới ngồi trên tòa sư tử hoa sen như Kim cang sơn vương đại chúng hoan hỷ, mỗi vị đều hiện vô lượng thần thông địa đại chúng nơi hư không và nơi đất đều an trú.” “Phật liền biết lúc ấy…” là đoạn thứ bảy trong phần trình bày, thời gian thuyết kinh: Nói Như Lai khởi Tam muội. “Biết lúc” là biết lúc có thể thuyết pháp Đại thừa. “Căn cơ chúng sinh…”; là biết căn cơ của vật đã chín muồi. “Liền xuất định”; là để tỏ rõ Như Lai khéo thông suốt sâu xa duyên khởi, khéo biết rõ căn cơ của vật, muốn hiện đại dụng, cho nên xuất định. Ba nghiệp của Như Lai làm ích cho vật; trên nói phóng quang, mưa hoa là thân nghiệp làm ích cho vật. Từ phẩm không trở đi là phát âm bày giáo, là khẩu nghiệp ích vật. Thân và khẩu chẳng thể độc hành, ắt phải kiêm cả ý nghiệp, ý nghiệp ngầm gia thêm động địa, là ý nghiệp ích vật. Vì sắp hiện khẩu nghiệp, cho nên xuất định. “Mới ngồi tòa sư tử hoa sen”. Hoa sen là biểu hiện vẻ mềm mại, muốn hiện cái tướng đặc biệt kỳ lạ. “Tòa sư tử”; như Thích Luận nói; chẳng phải là sư tử thậtcũng chẳng phải là sư tử gỗ, đá. Vì Như Lai là sư tử trong cõi người nên nơi Như lai ngồi, hoặc ghế hoặc giường đều gọi là sư tử. “Như Kim cang sơn vương”: Ví như núi Tu di, ở yên trong biển lớn, không bị lay động do bốn gió, là để biểu thị cho trí tuệ của Như Lai ở yên trong pháp tính hư không, không bị bốn loại tà sư lay động, nên nói là Kim cang sơn vương. “Đại chúng hoan hỷ, mỗi vị đều hiện vô lượng thần thông”; vì trước đó thấy Như Lai nhập định hiện thần thông lớn, tình nghi không được quyết cho nên không hoan hỷ, nay thấy Như lai xuất định ngồi tòa sư tử sắp thuyết pháp để quyết cái nghi của chúng ta làm cho chúng ta, hiểu rõ được lợi lạc sâu dày, cho nên gọi là hỷ. “Từ đất cho đến hư không, đại chúng đều an trú” người có thần thông thì ở trên không, người không có thần thông thì ở dưới đất. ----------------------- PHẨM QUÁN KHÔNG Trên là phần Tự, từ đây trở xuống là phần Chánh thuyết. Trình bày nghóa đã đủ, tiếp thích hợp hiển chánh tông, vì vậy nói là chánh thuyết. Trong văn phần chánh tông. Tuy có sáu phẩm, nhưng chỉ có bốn nghóa: 1.Gồm ba phẩm đầu. Bát-nhã làm chủ thể hộ, còn gọi là nội hộ; 2.Phẩm Hộ quốc. Đất nước quốc gia làm đối tượng hộ, còn gọi là ngoại hộ; 3.Phẩm Tán hoa. Chỉ bày vật cúng, nghi lễ để người cúng dường; 4. Phẩm Thọ trì tướng mạo đức hạnh người hoằng kinh, khuyên vị lai hãy theo kinh mà học. Ba phẩm đầu chia làm ba phần riêng, phẩm Quán Không là nói về hộ quả. Phẩm Giáo Hóa là hộ nhân của Thập địa, dạy vật khởi hạnh, phẩm Nhị Đế là biện về Nhị đế không hai. Trong hộ quả chẳng phải là không có nhân, để thành hộ quả. Trong hộ nhân chẳng phải là không có quả, để tỏ rõ nhân đó. Trong vô phân biệt thì nhân và quả xưa nay vốn thanh tịnh, vì nhân duyên mà nói như vậy đừng nên lấy tâm hữu sở đắc mà chấp chặt. Gọi là “Quán không” tức chư Phật Bồ-tát dùng diệu tuệ vô tướng để chiếu diệu cảnh vô tướng, trong và ngoài đều bặt, duyên và quán đều lặng, nên bảo là quán “Không”. Vì vậy mà đoạn văn sau nói:”Thấy cảnh, thấy trí, chẳng phải là cái thấy của bậc thánh”. Lại nói; “Quán là chánh quán vô đắc”. “Không” là tên gọi khác của thật tướng, pháp tánh, bản tế của các pháp chẳng phải là cái “không” thuộc Nhị thừa. Phẩm này chia làm ba đoạn; 1.Bảo đại chúng; 2.Từ “bấy giờ, đại vương…”; ba câu hỏi đáp. Nguyệt Quang hỏi nghóa của hộ quả; 3.Từ “Khi Phật thuyết pháp…”. Thời hội đắc ích. Trong đoạn thứ nhất, bảo đại chúng. Có bốn phần: 1. biết ý của mười sáu Quốc vương; 2. từ “Ta nay,…” là hứa sẽ thuyết nói; 3. từ “hãy lắng nghe…” là bảo lắng nghe; 4.Từ “lúc ấy, vua Ba tư nặc…” là tán hoa cúng dường. “Bấy giờ, Phật nói cho chúng biết về ý của mười sáu đại Quốc vương muốn hỏi về nhân duyên hộ đất nước. Ta nay trước vì chư Bồ- tát, thuyết về nhân duyên hộ Phật quả, nhân duyên để hộ trì hành Thập địa.” “Bấy giờ, Phật bảo đại chúng” là sắp nói về nguyên do Thánh mệnh. “Ý của mười sáu đại Quốc vương muốn hỏi về nhân duyên để hộ đất nước” làm vua thì muốn cho trong đất nước mình, bảy nạn không khởi, yêu, tai tiêu diệt. Đất nước thanh bình, vạn dân an lạc, đó là bản ý của các vua. “Đây thì sinh” trở xuống là văn kinh nói về ngoại hộ, tức phẩm Hộ quốc. “Ta nay trước vì… là phần thứ hai: hứa sẽ thuyết nói. Muốn hộ vệ trong ngoài thì trước tiên phải lập hạnh bên trong, hạnh bên trong đã thành thì hộ bên ngoài mới hoàn bị. Vì vậy trước tiên là nói về nội hộ. “Hộ Phật quả” thì sinh ra phẩm này, văn kinh hộ quả. “Hộ Hành thập địa” thì sinh ra phẩm này, văn kinh hộ quả. Hộ trì hành thập địa” thì sinh ra phẩm Giáo hóa ở sau. “Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Khéo suy niệm, như pháp tu hành.” Lúc ấy, vua Ba tư nặc nói: “Thiện đại sự nhân duyên, cho nên liền rải trăm ức loại hoa sắc, biến thành trăm ức trướng báu, che các đại chúng.” “Hãy lắng nghe!” là phần ba, bảo nghe hứa nói. Sắp thuyết nên trước bảo để ước thời. “Chúng lắng nghe” tức là văn tuệ. “Khéo suy niệm nó” tức là tư tuệ. “Như pháp tu hành” tức là tu tuệ. “Thời, vua Ba tư nặc,…” là phần bốn - rải hoa cúng dường. “Vua nói: Thiện” là thành những điều Như Lai đã nói. Thuận lý, ích vật, gọi đó là thiện. “Đại sự nhân duyên” là thuyết về Bát-nhã thì ngôn cùng, lý lặng, tức là kinh Pháp Hoa nói; một đại sự nhân duyên. “Rải hoa” là để tỏ sự thành kính với pháp rải hoa để cúng dường. “Biến thành trướng báu” là để tỏ về việc thực hành nhân ở trong ruộng Phật, nhân tuy nhỏ nhưng cảm quả lại lớn, dụ như hoa nhỏ mà lại thành trướng lớn. “Che các đại chúng” là biểu cho từ bi che khắp. Bấy giờ, đại vương lại đứng lên tác lễ bạch Phật; kính bạch Thế Tôn! Tất cả Bồ-tát làm thế nào để hộ nhân duyên Phật quả, làm thế nào để hộ nhân duyên hành thập địa. Đây là trong phần thứ hai. Nguyệt Quang hỏi về nghóa hộ quả. Trong đó có ba câu hỏi đáp thành ba phần; 1. Hỏi đáp để tỏ sinh, pháp hai “Không” bổn lai tịch diệt và Phật quả là không hai; 2.Hỏi chúng sanh không thể có được thì làm sao để hóa độ? Đáp: Nhân duyên còn tịch lặng, huống là chúng sanh; 3. Hỏi về trí “Không”. Trí nếu là có thì có thể nói về sự chiếu dụng. Trí đã là hư tịch, rỗng lặng thì sao lại nói về chiếu. Đáp: pháp còn thể “Không”, huống nữa là trí. Trong phần hỏi đáp thứ nhất, trước hỏi sau đáp, ở trong phần hỏi có hai câu; 1.Nguyệt Quang xin; 2. Từ “Tất cả Bồ-tát…” là đề xuất xin hỏi. Trong phần xin: “Đại vương lại đứng lên tác lễ”: Nguyệt Quang là chủ của sự gọi mở huyền sắp muốn hỏi thì trước hết phải biểu thị sự thành kính; 2. Trong việc hỏi câu trước là xin hộ Phật quả, câu sau là xin hộ hành Thập địa. Phật nói: “Bồ-tát hóa bốn sinh: Chẳng quán sắc như, thọ tưởng hành thức như; chúng sanh, ngã, nhân, thường, lạc, ngã, tịnh, như; tri kiến, thọ giả như; Bồ-tát như; sáu độ bốn nhiếp như; tất cả hành như; hai đế như.” “Phật nói:…” là phần thứ hai: Phật đáp, trong đó có hai; 1.Nêu chung hóa bốn sinh; 2.từ “Chẳng quán sắc như…” theo riêng từng phần. Giải thích sinh và pháp cả hai đều không, chẳng thể được, đồng nghóa với như, với Phật quả không hai không khác. Hỏi: Nguyệt Quang đã hỏi nhân duyên, hộ phật quả Phật phải trả lời về việc Phật quả, vì sao lại nói về việc hóa độ bốn sinh? Đáp: Các sư nói; không thể nêu ra đủ. Ở đây thì cho rằng muốn tỏ nhân và quả không hai thì phải tỏ chúng sanh rốt ráo “Không” với Phật không khác. Cho nên, kinh Tịnh Danh nói; chúng sanh như, Di lặc như, một như không hai. Như kinh Niết-bàn nói; ngã tức là nghóa Như Lai tạng. Kinh này nói về bốn sinh tất cả pháp đều là như, với Phật không khác. Nếu biết bốn sinh với Phật là một không hai tức chính là hộ Phật quả. Người đời làm sao hiểu nổi lời hỏi đáp như vậy. Trừ phi người đó đã trồng thiện căn lâu ngày, gặp được chư Phật, tỏ ngộ tất cả pháp “Không”, thì mới có thể tương ưng với đoạn văn đó. “Bốn sinh” là; từ thai mẹ sinh ra, gọi là thai sinh. Mẹ của Tỳ-xá-khư sinh ra ba mươi hai trứng, gọi là noãn sinh. Như dâm nữ Am-la-ba-lợi, gọi là thấp sinh. Thời kiếp sơ, con người đều là hóa sinh. - “Chẳng quán sắc như…” là phần hai trong phần Phật đáp. Theo riêng từng phần để tỏ rõ sinh và pháp cả hai đều “Không”, có hai phần: Nói rộng về “Không”; 2.“Do đó, tất cả…” Tóm kết. Trong phần một, nói về “Không”, có bốn câu: 1.Tỏ pháp “Không”; 2.“Chúng sanh…” là tỏ về sinh “Không”; 3. “Lục độ” là tỏ về hành “không”; 4. “Nhị đế…” là tỏ về cảnh và giáo của nhị đế cũng tịch lặng. Văn phần thứ nhất nói “Chẳng quán sắc như” thì có nhiều cách giải thích, không thể đưa ra hết. Nay ở đây theo giải thích theo Luận Đại Trí: Thể tính của pháp từ duyên sinh, tự nó là không, không cần phải nhờ trí suy mới không. Đó là muốn tỏ, duyên và quán đều tịch lặng. Cho nên, kinh Đại Phẩm nói; sắc còn chẳng thể có được, huống nữa là phi sắc. Như như theo ý của kinh thì phải nói đủ bốn câu (bốn trường hợp). Nay vì lược bớt cho nên chỉ nói là “Chẳng quán sắc như”. Thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy. Sư Tam Tạng nói: Nếu vứt bỏ sắc, quay về như thì đúng phải nói là “Quán sắc như” nhưng văn lại nói: “Chẳng quán sắc như”, vì nếu vứt bỏ sắc còn giữ lại như thì tâm quán chưa tịnh. Nay vì viên quán chẳng quán sắc, chẳng quán như, chẳng thấy “Không, có” chẳng thấy trí cảnh. Các câu sau đều giải thích như vậy. “Chúng sinh…” là phần hai nói rõ về sinh không, có bảy câu; sinh trong năm ấm, nên gọi là “Chúng sinh không”. “Ngã”; cho năm ấm là ngã. “Nhân” là tạm gọi người hành tác. “Thường - lạc - ngã - tịnh”; là nói thể của chúng sanh là “Không”. Chúng sanh điên đảo, ở trong khổ, vô thường, vô ngã, vô tịnh mà cho là thường lạc ngã tịnh. Cho nên bảo là “Sinh tử không”. Nay cho rằng chúng sanh ngã nhân là pháp điên đảo, bốn đức Thường - lạc - ngã - tịnh là pháp thanh tịnh. Nếu thể tri được cả hai thứ đó rốt ráo “Không”, là “Như”. Trong đó muốn nói rõ sinh tử và Niết-bàn là không hai. “Như” là tên gọi khác của Phật tính, pháp tính, chánh đạo bất nhị. “Tri, kiến, thọ giả”: ý thức là tri, nhãn thức là kiến, sắc tâm không đoạn dứt, gọi là thọ giả. “Bồ-tát”; tâm đại đạo, gọi là Bồ-tát. Chúng sanh nói trên là đối tượng hóa. Bồ-tát là chủ thể hóa, chủ thể (năng) và đối tượng (sở) đều tịnh, nên bảo là như. Phần ba nói về hành không, có ba câu: 1. Lục độ; 2. Tứ nhiếp; 3. Tổng tất cả các hành pháp, nói rõ tất cả hành pháp của Bồ-tát đều như, cho nên có. Phần bốn là nói về Nhị đế như. Lấy “không, có làm thế đế, lấy hữu không, làm Đệ-nhất-nghóa-đế, nên kinh Niết-bàn nói “Đệ- nhất-nghóa-đế như, tức thế đế như”. Phật nói” “Như vậy! Như vậy!” đến phẩm Nhị đế sau sẽ giải thích riêng. “Do đó, tất cả pháp tính chơn thật không, không đến, không đi, vô sinh vô diệt, đồng chơn tế bình đẳng pháp tính không hai không khác, như hư không. Vì vậy, ấm giới nhập vô ngã, không có tất cả các tướng. Đó là Bồ-tát hành hóa thập địa Bát-nhã Ba-la-mật”. “Do đó…” là phần hai. Tổng kết, đáp câu hỏi hộ quả hộ nhân trên. Văn có hai phần; 1. Kết về sinh và pháp cả hai đều không ở trên, đồng đẳng với pháp tính, không hai không khác, tỏ về bốn sinh như và Phật như không khác nhau, tức là tỏ về nghóa của hộ quả. “Đó là Bồ- tát hành hóa Thập địa…” là phần kết, đáp hộ nhân duyên hành thập địa để nói rõ về Bồ-tát quán giải tức là hộ nhân. Trong phần thứ nhất; sinh và pháp cả hai đều “Không” ở trên. Văn nói “Tất cả pháp tính” là tên gọi khác của thật tính. “Chơn thật không”; là chẳng phải cái hiểu về “Không” của Nhị thừa. Không từ đâu đến, gọi là “Không đến”, không đi về đâu, gọi là “Không đi”. Tuy pháp tính không có đến đi, nhưng rõ ràng đến đi. “Bất sinh bất diệt”; pháp vốn bất sinh thì làm sao có diệt? “Đồng chơn tế”; là đồng với thật tế các pháp. “Đẳng pháp tính”: Thích Luận nói; pháp gọi là Niết-bàn, tính gọi là bổn phần chủng. “Đẳng”; là trong tất cả các pháp đều có tính an lạc, tính an lạc tức là tên gọi khác của Niết-bàn. “Không hai không khác”; có người nói; không có người nào ở ngoài pháp gọi là vô nhị (không hai), không có pháp nào ở ngoài người, gọi là không khác (vô biệt). Nay ở đây thì cho cho là vậy, để tỏ về bốn sinh và bốn đức thường lạc ngã tịnh là không hai không khác. “Như hư không”; là dụ chung cho không có người và pháp. “Vì vậy, ấm giới nhập vô ngã,…” là kết người vô ngã ở trên. “Vô sở hữu tướng” (không có tất cả các tướng) là kết về pháp vô ngã. “Đó là Bồ-tát, …” là nói Bồ-tát quán giải, tức là kết, đáp câu hỏi về hộ nhân trên, vì tỏ ngộ vô sở đắc mà chứng thập địa Bát-nhã. Cho nên Kinh Kim cang Bát-nhã nói: Đều do pháp vô vi mà có sai biệt. Thấy mình và người đều vô vi tức là lấy vô vi làm thể của Bồ-tát. Bạch Phật: “Nếu chư pháp đã vậy thì Bồ-tát hộ hóa chúng sanh vì hóa chúng sanh sao?” Đây là phần hỏi đáp thứ hai, Nguyệt Quang hỏi lại ý nghóa trước, chúng sanh còn chẳng thể có được thì làm sao để hóa? Văn có hai phần; trước hỏi, sau đáp. Trong phần hỏi có ba phần; 1. Lãnh hội nghóa trên. “Nếu chư pháp đã vậy.” Nhắc lại ý trước; 2. Nêu nghi sự. “Bồ-tát hộ hóa chúng sanh”; vua tuy nghe trước đã nói bốn sinh đồng chơn tế, đẳng pháp tính, do còn chấp chúng sanh khác với Phật, nếu hiểu như trên thì rõ ràng là hộ hóa chúng sanh, có liên quan gì với Phật quả; 3. Chánh nạn. (thắc mắc chính). Nếu như trên đã nói, chúng sanh rốt ráo rỗng lặng. “Bồ-tát vì hóa chúng sanh”; vua nghe Phật thuyết; tướng của chúng sanh tịch lặng, liền cho là giải hiểu về “Không”. Vì cho không có chủ thể hóa và đối tượng được hóa mà sinh nghi. “Đại vương! Pháp tính, sắc thọ tưởng hành thức, thường lạc ngã tịnh, chẳng trú sắc, chẳng trú phi sắc, chẳng trú phi phi sắc, cho đến thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng trú, phi phi trú.” Đây là phần hai - Đáp. Văn có năm phần: 1.Theo ngộ nhập để đáp. Nếu tâm của chư Phật, Bồ-tát vốn không có chủ thể hóa và đối tượng được hóa; 2.Theo thế đế mà xuất ra dụng, cho nên có chúng sanh để hóa; 3.Kết trở lại. Quy về ngộ nhập; 4.Nói về hai kiến thuộc tà và chánh đều gọi là kiến; 5. Kết. Nếu tùy theo danh tự của tục thì thật không có gì thấy gọi là chánh kiến. Trong phần một - Ngộ nhập để đáp. Văn nói: pháp tính tức sắc thọ tưởng hành thức. Hỏi: vì sao lấy pháp tính để đáp? Đáp: chúng sanh từ vô thủy đến nay, đắm trước thâm sâu vào hữu tình, nên Phật nêu tính “Không” để đáp. “Pháp tính”; là tên gọi khác của Đệ nhất nghóa không. Ở đoạn văn này có hai phần: 1.Căn cứ pháp nói chẳng trú; 2.từ câu “Vì cớ sao…” giải thích nghóa “Chẳng trú” là chánh kiến. Ở phần thứ nhất, năm ấm, bốn đức đều lìa danh ngôn đồng tuyệt tứ cú để hiển bày hành “Chẳng trú”. Nói “Chẳng trú sắc” là biết sắc không mà chẳng trú, không chỉ chẳng trú sắc, mà phi sắc cũng chẳng trú. Vừa sắc vừa không cũng chẳng trú, không chỉ chẳng trú vừa sắc vừa không, mà cũng chẳng trú phi sắc phi không. Mọi nẻo ngôn ngữ dứt, nơi hành tâm diệt. Cho nên bảo là “Chẳng trú phi phi sắc” đã nói sắc và phi sắc đều không thể trú được, huống nữa là phi phi sắc lại sẽ có trú sao? “Vì sao? Chẳng phải sắc như, chẳng phải phi sắc như, vì thế đế, vì ba giả nên gọi là kiến, chúng sanh, tất cả sinh tính thật, cho đến chư Phật, ba thừa, bảy Hiền, tám Thánh cũng gọi là kiến, sáu mươi hai kiến, cũng gọi là kiến. Đại vương! Nếu lấy danh gọi là kiến thì tất cả pháp, cho đến chư Phật, ba thừa, bốn sinh đều phi phi kiến tất cả pháp.” “Vì sao?…” là giải thích nghóa “Chẳng trú” trên. “Phi sắc như”; là chẳng phải phân tích chia chẻ sắc rồi sau đó mới không. Thể của sắc vốn không, nên nói là phi sắc như. “Phi phi sắc như”; là chẳng phải lìa ra ngoài sắc còn có cái không riêng biệt. Sắc tức không. Phần hai tùy thế tục cho nên có chúng sanh để hóa. Văn có hai phần; 1. Nêu gốc của hoặc; 2. Chủ thể hóa. Vì hoặc, cho nên thấy thế đế làm đối tượng hóa. Văn nói “Vì thế đế ba giả”: Vì Như Lai nương vào ba giả của thế đế, nên gọi là thấy tất cả chúng sanh, tức là có chủ thể hóa. Phần ba Trở lại kết thành phần trên, ngộ nhập ở trên tức vào nghóa chúng sanh bất khả đắc. Văn nói “Tất cả chúng sanh tính thật”; tất cả chúng sanh là bốn sinh đã nói ở trên. “Tính thật”; tất cả chúng sanh ngay ở thể là tịch lặng, đều là tính thật. Phần bốn - Hai kiến chánh và tà đều là kiến trước. Văn nói “Cho đến chư Phật” câu này tức là nói chung cả phàm lẫn Thánh, nên nói là “Cho đến”. Sau đây sẽ phân biệt thêm về tà và chánh: Tiểu thừa cho sáu mươi hai kiến là tà. Cho rằng các ấm là có tức là thường kiến, chấp các ấm là không , tức là đoạn kiến. Vì đoạn và thường đó mà sinh ra sáu mươi hai kiến. Nhưng hiểu về sáu mươi hai kiến thì có nhiều cách hiểu khác nhau, nay theo Thích Luận nói về sáu mươi hai kiến. Qua từng năm ấm mà nói; thần và thế gian thường, là sự thật, ngoài ra là vọng ngữ, kiến ấy là y theo sắc. Thần và thế gian phi thường phi vô thường là sự thật ngoài ra là vọng ngữ kiến ấy y theo sắc. Thần và thế gian vô thường, là sự thật, ngoài ra là vọng ngữ, kiến ấy y theo sắc. Thần và thế gian vừa thường vừa vô thường, là sự thật, ngoài ra là vọng ngữ, kiến ấy y theo sắc. Sắc có bốn câu. Thọ, tưởng, hành, thức, mỗi thứ cũng đều có bốn câu, hợp lại là có hai mươi câu. Thế giới vô biên, vô biên cũng trải qua năm ấm thì có hai mươi câu. Sau khi chết, như đi, không như đi, qua từng năm ấm cũng lại có hai mươi câu, hợp lại thành sáu mươi câu Thân là thần và thân khác thần, lại có hai câu, hợp thành sáu mươi hai kiến. Phần năm - kết. Nếu có thể tùy theo danh tự của thế tục mà thấy, thật ra không có gì để thấy gọi là chánh kiến. Văn nói: “Đại vương! Nếu lấy danh mà gọi là thấy tất cả pháp là chỉ có danh chứ không có thật, cho đến chư Phật ba thừa, bốn sinh cũng chỉ có danh tự, có thể thấy được như vậy, thì chẳng phải phải là cái thấy của vọng tưởng, gọi là cái thấy chơn thật”. Bạch Phật: “Bát-nhã Ba-la-mật là hữu pháp, phi phi pháp thì Ma- ha-diễn làm sao chiếu?” “Đại vương! Ma-ha-diễn thấy (kiến) phi phi pháp, pháp nếu phi phi pháp, ấy gọi là phi phi pháp không”. Đây là phần ba. Nói về trí chiếu. Văn chia làm hai phần; hỏi và đáp. Hỏi; Bát-nhã là hữu pháp hay là vô pháp. Nếu là hữu pháp thì có thể chiếu dụng, mà Bát-nhã đã chẳng hữu thì làm sao chiếu dụng. “Phi phi pháp” đúng thì phải nói là phi hữu phi vô, nhưng kinh này lược bớt nên chỉ nói tắt là phi phi pháp. 1.Phi-phi-hữu; 2.Phi-phi-vô Ma-ha-diễn đã chẳng hữu vô thì làm sao chiếu? Đó là nêu thể để hỏi về dụng. Ma- ha-diễn tức là Bát-nhã, cho nên đoạn văn sau nói: “Có thể vận tải gọi là Ma-ha-diễn”. Tức diệt là Kim cang, luận về sự chiếu dụng của nó gọi là Bát-nhã. Lấy sự vận tải của nó tức là nghóa của thừa. Cho nên, Đại Trí luận hợp cả hai danh cùng làm thành một danh. “Đại vương!…” là phần hai. Đáp. Văn có sáu phần; 1. Dựa theo ngộ nhập để tỏ pháp “Không”. Từ “Pháp tập cho nên hữu,…” là căn cứ nêu dụng theo tục mà đáp. 3.Từ “Thiện nam! Thấy chúng sinh pháp…” là nêu phi để hiển bày thị. 4 Từ “Đại vương! Kinh này danh vị cú…” là so sánh để hiển bày thắng; Từ “Đại vương! Kiến cảnh kiến trí…” là kết phần nêu phi để hiển thị trên; 6.Từ “Thiện nam! Nếu có người tu tập…” là khuyến tín thọ trì, đáp câu hỏi về nghóa hộ Phật quả trên. Trong phần thứ nhất, ngộ nhập thì có hai phần; 1.Lược đáp; 2.Từ “Pháp tính…” đáp riêng qua từng phần. Trong phần một - Lược đáp, văn nói: “Ma-ha-diễn thấy phi phi pháp, pháp nếu phi phi pháp, ấy gọi là phi phi pháp không.”, phi phi pháp là phi hữu phi vô. Pháp nếu là hữu, thì có thể như hữu mà biết. Pháp nếu là vô thì có thể như vô mà chiếu. Vì pháp phi hữu phi vô, cho nên Thánh chiếu tất cả như hư không vậy. Nay ở đây nói “Thấy” là cái thấy của không thấy chẳng phải là cái thấy của tính cố định. “Pháp nếu phi phi pháp” là nêu thể của pháp là rỗng lặng, lìa bỏ hữu vô, gọi là trung đạo. Nếu biết lìa tánh hữu vô tức là trung. Trung là chổ nào? “Ấy gọi là phi phi pháp không” là chính nói rõ chủ thể quán và đối tượng quán “Không”. Cho nên Pháp sư Sinh nói; Tông của phi vô hữu, đối tượng của tông đó là vô tướng, Thánh trí chiếu phi vô hữu, mà cái được chiếu đó là vô tâm. Cho nên lấy trí của vô tâm để chiếu tông của vô tướng. Cảnh và trí đều tịch lặng. “Pháp tính không, sắc thọ tưởng hành thức không, mười hai nhập không, mười tám giới không, sáu đạo pháp không, bốn đế không, mười hai duyên không.” “Pháp tính…” là phần hai, trải qua từng phần để tỏ “Không” hiển bày Bát-nhã hộ Phật quả. Văn có hai phần: Dựa theo pháp để tỏ không, hiển bày thành nghóa thật trí. Từ “Nội không…” nêu thêm mười hai không, để kết nghóa của không đã nói trên. Trong phần một, dựa theo pháp để tỏ “Không”, có hai phần: lấy sắc để giải thích không. Từ “Sát-na…” là lấy tâm để biện về không. “Pháp tính”; là tất cả pháp bổn tính thanh tịnh, tức là thể của Bát- nhã Đại thừa. “Sắc thọ tưởng hành thức không” là nói về quả báo năm ấm không. “Mười hai nhập”; là thọ dụng không. “Mười tám giới” là tính biệt không. Đại Trí độ luận nói; vì để đối trị bệnh khác nhau mà thuyết ba loại ấy. Vì những chúng sanh nghi về tâm số mà thuyết năm ấm. Vì những chúng sanh nghi sắc mà thuyết mười hai nhập. Vì những chúng sanh nghi tâm, sắc mà thuyết mười tám giới. “Sáu đại”; gọi là khắp đến không. Cho nên kinh A-hàm nói: Sáu vua, mỗi vị đều cho mình là đại. Địa nói: Ta có thể chở tất cả vạn vật, cho nên xưng là đại. Thủy nói; ta có thể làm thấm ướt tất cả. Hỏa nói; ta có thể đốt soi tất cả. Phong nói; Ta có thể làm động tất cả. Không nói; Ta có thể bao chứa tất cả. Thức nói: Nếu không có ta, sắc liền hư hoại. Tuy mỗi vị đều xưng mình là đại, nhưng Thức là chính. Cho nên bảo: Bốn đại vây không, Thức cư ở giữa. “Bốn đế”; là cảnh không. “Mười hai nhân” là nghóa không. “Sinh, trụ, diệt” là pháp ba đời không. Mười hai nhân duyên nghóa không là trở lại phân tích cảnh của khổ và tập, cho nên hai nhân quá khứ, ba nhân hiện tại, năm nhân đó là tập. Năm quả hiện tại, hai quả vị lai, bảy quả đó là khổ đế. Nên bảo là nghóa của mười hai nhân duyên rất sâu xa thăm thẳm. Lại nữa, “Mười hai nhân duyên” là để tỏ mười hai nhân duyên vốn tịch diệt, nhị thừa chẳng biết được. “Pháp ấy tức sinh, tức trú, tức diệt, tức hữu, tức không, Sát-na, Sát-na cũng như vậy, pháp sinh, pháp trú, pháp diệt. “Pháp ấy tức sinh” là nhắc lại các sắc ở trên, các pháp tập khởi, cho nên sinh. “Tức trú” là hữu vi tạm thời ngừng lại, gọi là trú. “Tức diệt” không khởi là tức diệt. “Tức hữu, tức không” tập khởi cho nên tức hữu, tự thể không, nên tức không. Cho nên, kinh Tịnh Danh nói: vừa sinh vừa lão vừa diệt. “Sát-na cũng như vậy…” là lấy tâm để biện về không. “Pháp sinh, pháp trụ, pháp diệt”; là giải thích tâm pháp cũng có đủ ba tướng. “Vì sao? Chín mươi Sát-na là một niệm, mỗi Sát-na trong một niệm trải qua chín trăm lần sinh diệt, cho đến sắc, tất cả pháp cũng như vậy.” “Vì sao?” là để giải thích sắc, tâm “Không” ở trên. Muốn tỏ về không thì trước hết phải lập pháp của nó. Pháp tuy vô lượng nhưng không ra ngoài sắc và tâm. Sắc pháp là từ tế vi mà thành thô vi. Từ bốn vi mà thành bốn đại, từ bốn đại mà thành các căn. Đó là sắc pháp. Chín mươi Sát-na thành ra là một niệm, mỗi một Sát-na trong một niệm trải qua chín trăm lần sinh, diệt. Một niệm có chín mươi Sát-na, hợp lại thành tám mươi mốt ngàn lần sinh diệt. Lấy sinh diệt để chiết tách Sát- na, lấy Sát-na để tách chiết một niệm, tâm pháp như vậy là không thể có được. Đây là chứng tỏ tâm không. Lấy bốn đại để phân tích các căn, các căn cũng chẳng thể có được. Lấy bốn trần để tách bốn đại, thì bốn đại chẳng thể có được, lấy thô vi để tách bốn vi thì bốn vi chẳng thể có được, lấy tế vi để tách thô vi, thì thô vi chẳng thể có được, phân nhỏ sắc cho đến cực vi, cùng tâm đến tận sinh diệt, sắc tận, tâm cùng, rỗng rang không có gì trú chấp. Cái trú của vô trú, không biết gọi tên là gì, gượng gọi là không, tức là hộ Phật quả. “Tất cả pháp cũng như vậy” là kết về sắc tâm không ở trên. “Vì Bát-nhã Ba-la-mật không, cho nên không thấy duyên, không thấy đế, cho đến tất cả pháp không.” “Vì Bát-nhã Ba-la-mật không, cho nên không thấy duyên, không thấy đế.” trên đã nêu pháp để tỏ trí không, nay nêu trí để tỏ pháp không “Không thấy duyên” là tâm không. “Không thấy đế” là cảnh không. Lại giải: Không thấy duyên là mười hai duyên. Không thấy đế là bốn đế. “Cho đến tất cả pháp không” là Tóm kết phần giải thích về không. Phần lấy pháp để tỏ không đã xong. “Nội không, ngoại không, nội ngoại không, hữu vi không, vô vi không, vô thủy không, tính không, đệ nhất nghóa không, Bát-nhã Ba- la-mật không. Nhân không, Phật quả không, không không, cho nên không.” “Nội không” là sáu nhập bên trong không có thần ngã. “Ngoại không” là sáu trần bên ngoài không có ngã sở. “Nội ngoại không” là trong, ngoài hợp quán đều không có ngã, ngã sở. “Hữu vi không” là nhân duyên của sắc và tâm hòa hợp mà sinh các ấm giới nhập đều không hề có. “Vô vi không” là hư không số diệt phi số diệt. Đúng thì phải có hữu vi và vô vi hợp quán, vì văn lược bớt. “Vô thủy không” sắp tỏ vô thủy thì trước tiên phải nói có thủy (khởi đầu), kinh Niết-bàn nói từ minh sơ sinh ra đại. Nếu theo Thích Luận thì từ thế tính sinh giác, đó gọi là thủy (khởi đầu), để phá cái có sự khởi đầu đó, nên gọi là “Vô thủy không”. “Tính không” các pháp vốn không có, chúng sanh kế chấp khác nhau. Hoặc cho rằng tính vị lai có, cho đến tính đế, tính Như Lai, chắc chắn là có, vì vậy mà nói “Không” để phá. Nhãn không, không có ngã, ngã sở. Vì sao? Tính nó tự vậy, cho đến ý… cũng như vậy. “Đệ nhất nghóa không”; thật tướng của các pháp, không bị phá, không bị hư hoại. Đối lại với thế đế mà được tên gọi như vậy. Thật tướng của các pháp cũng chẳng thể có được. Vì sao? Vì không có ái chấp. “Bát-nhã Ba- la-mật không”; kinh Niết-bàn nói: Đại không là Bát-nhã không. Thích Luận nói mười phương đều không, gọi là đại không. “Nhân không”; tức Kim cang đã hoàn, đều đã rỗng lặng, gọi là nhân không. “Phật quả không”; mười lực cho đến mười tám pháp bất cộng đều không, gọi là Phật quả không. “Không không cho nên không”; Thích Luận nói; trước lấy pháp không để phá các pháp nội ngoại. Sau lấy không đó để phá các không, gọi là không không. Hỏi: Không và không không khác nhau như thế nào? Đáp: Không để phá năm ấm, không không là để phá không. Như uống thuốc là để trừ bệnh, bệnh đã lành rồi thì phải bỏ thuốc, nếu không bỏ thuốc thì lại là bệnh. Lấy không để diệt các bệnh phiền não, e không lại thành bệnh, do đó dùng không để xả không, nên gọi là không không. “Chỉ vì pháp tập, cho nên có, thọ tập cho nên có, danh tập mà có, nhân tập mà có, quả tập mà có, thập hạnh mà có, Phật quả mà có, cho đến sáu đạo tất cả có.” Đây là phần hai - dựa theo tục nêu ra dụng để đáp. Phần trên đã nói về không, cùng nhập với thật. Nay nói về cái có của nó tức do ba giả tạo thành gọi là có. Nghóa của giả thì đã nói như trên. “Pháp tập cho nên có” vì tế sắc thành thô sắc gọi là pháp tập mà có. Nói “Thọ tập”; tức là thọ giả, bốn đại; địa,… nắm cả thành bốn trần gọi là thọ tập. “Danh tập”; tức là danh giả. Danh tự, câu… gồm lại thành thanh trần, nên gọi là danh tập mà có. “Nhân tập cho nên có”; các nghiệp phiền não từ duyên tập khởi. “Quả tập cho nên có”; các báo năm ấm từ kết nghiệp sinh ra. “Thập hạnh cho nên có”; từ Thập tín đến Thập địa, theo duyên mà tập khởi. “Phật quả cho nên có”; Bồ-đề Niết-bàn từ nhân hành mà đắc, cho nên bảo là Phật quả nên có. “Cho đến sáu đạo tất cả có” trong phần liệt kê chúng ở trước, chỉ nói năm đạo, vì A-tu-la nhập chung quỷ đạo, nay liệt kê đủ các hữu, nên bảo “Cho đến sáu đạo, tất cả có”. “Thiện nam! Nếu Bồ-tát thấy pháp, chúng sanh, ngã, nhân, tri kiến, thì người ấy hành thế gian, không khác với thế gian, ở các pháp nhưng không động, không đến, không diệt, vô tướng, vô vô tướng, tất cả pháp cũng như.” Đây là chúng thứ ba trong phần đáp. Nêu thất để hiển đắc. Văn có hai phần; 1.Nêu thất (mất); 2.Từ “Ở các pháp…” là hiển đắc. Phần một. Thất. Người nếu chấp ngã tưởng chưa quên, tâm còn trước pháp, người đồng với thế tình, cho nên không khác với thế gian. “Ở các pháp mà không động…” là phần hai. hiển đắc. Nếu phân tích sắc mà đắc không, ấy là hoại pháp, gọi là động. Nếu thể giải được sắc tức chính là không, là bất động. “Không đến”; luận Trí Độ nói: Tất cả Thánh nhân không đến được pháp bình đẳng. Thiện cáo bạch Phật rằng: các thánh khác thì không thể đến, còn Phật thì vì sao không đến? Phật nói; cho đến Phật cũng không thể đến, vì sao? Phật tức bình đẳng, bình đẳng tức chính là Phật. Phật và bình đẳng không hai, nên gọi là không đến. “Bất diệt”; pháp vốn không thế nay tức không có diệt. “Vô tướng, vô vô tướng”; tất cả các pháp đều là một tướng, gọi là vô tướng. “Tất cả pháp cũng như” là tỏ tất cả pháp đồng một, vô sở đắc. “Chư Phật, Pháp, Tăng cũng như. Tức là một niệm tâm nơi sơ địa đầy đủ tám vạn bốn ngàn Bát-nhã Ba-la-mật.” “Chư Phật, Pháp, Tăng cũng như”: giải thích như trên. “Tức là một niệm tâm sơ địa đầy đủ tám vạn bốn ngàn Bát-nhã Ba-la-mật” là trong pháp hữu vi nhưng có sai biệt một niệm vô sở đắc thì có đầy đủ tất cả. Nói “Tám vạn bốn ngàn” là suốt cả pháp môn. “Một niệm”; Bồ-tát sơ địa lấy chơn như làm tâm. Chẳng lẽ có một niệm. Nay vì mượn một niệm của địa thấp còn vậy huống chi là sự tích đức của các địa trên, nên bảo là một niệm. “Tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật”; theo kinh Hiền kiếp nói về ba trăm năm mươi độ. Bắt đầu từ tu hành độ, quang diệu độ, cuối cùng đến phân xá lợi độ thành ba trăm năm mươi độ. Trong một độ lại có mười thiện thì hợp thành hai vạn một ngàn độ, lấy bốn thiện căn phân nó tức là tám vạn bốn ngàn các Ba-la-mật, cũng là đối lại với tám vạn bốn ngàn môn trần lao. “Tức chuyển tải gọi là Ma-ha-diễn, tức diệt là Kim cang”, cũng gọi là định, cũng gọi là tất cả hạnh, như nói trong Quang Tán Bát-nhã Ba-la-mật. Đại vương! Danh vị cú, của Kinh này là trăm Phật, ngàn Phật, trăm ngàn vạn Phật thuyết danh vị cú.” “Tức chuyển tải gọi là Ma-ha-diễn”; nếu dựa theo sự chiếu dụng của nó thì gọi là Bát-nhã. Xét về sự vận tải của nó thì gọi là diễn, có thể chuyển chở con người đến Phật, nên bảo chuyển tải gọi là Ma-ha- diễn”. “Tức diệt là Kim cang” phá được phiền não gọi là “Tức diệt là Kim cang”. Vì ly tán loạn, cho nên gọi là định. Có thể lợi mình lợi người, bao gồm tất cả đức, cho nên bảo là “Tất cả hạnh”. “Như Quang Tán”; là dẫn chứng. “Đại vương! Danh của kinh này… vị cú” là phần bốn. So sánh hiển bày phần hợp. “Kinh này”; là kinh Bát-nhã này. “Danh vị cú”. Thích Luận nói một chữ gọi là tự, hai chữ gọi là danh, như một chữ “Bồ”, một chữ “Đề”, hai chữ đó không hợp lại thì không thành là danh. Nếu hợp lại mà nói thì gọi là danh. Bốn chữ thì thành cú (câu), hoặc ba chữ, bốn chữ, tám chữ đều gọi là cú. Nguyên nhân ở sau cú thì gọi là vị. “Trăm Phật ngàn Phật thuyết danh vị cú”; chư Phật cùng một đạo, chư Phật tuy khác nhau, nhưng thuyết thì không hai, thuyết không hai tức chính là một. “Đem vô lượng bảy báu chất đầy trong hằng hà sa tam thiên đại thiên quốc độ thí cho chúng sanh trong tam thiên đại thiên quốc độ đều đạt được bảy báu, bốn quả, không bằng ở trong kinh này khởi một niệm tín, huống gì là hiểu một cú. Cú phi cú, phi phi cú, cho nên Bát-nhã là phi cú, cú phi Bát-nhã, Bát-nhã cũng phi Bồ-tát. Đây là phần nêu sự so sánh. Tài thí thì đắc bảy báu, pháp thí thì đắc bốn quả. “Không bằng trong kinh này khởi một niệm tín”; Tin Bát- nhã vô sở đắc hơn cả tài thí và pháp thí hữu sở đắc trước. “Huống nữa là hiểu một cú”; tâm tín còn như vậy, huống chi là hiểu nghóa một câu. “Cú phi cú” vì cú không có tướng của cú, cũng không có tướng của phi cú cho nên bảo “Phi phi cú”. Lại nữa, cú phi cú là lìa tính của văn tự. Phi phi cú là chẳng phải hai cú trước. “Bát-nhã phi cú, cú phi Bát-nhã”; Bát-nhã là trí, cú là văn, văn và trí đều vô sở hữu, nên bảo là Bát-nhã phi cú, cú phi Bát-nhã.”Bát-nhã cũng phi Bồ-tát” người và pháp khác nhau. Đó là cái riêng khác trong cái không riêng khác. “Vì sao? Vì mười địa ba mươi sinh “Không”, nên khởi đầu sinh, trú sinh, chung sinh, bất khả đắc. Vì ba sinh trong mỗi địa đều không, nên cũng phi Nhất-thiết-trí, phi Ma-ha-diễn, vì không.” Đây là phần giải thích nhân và pháp đều không. “Vì mười địa ba mươi sinh “Không” chia Bát-nhã thành mười phần, tức mười địa, một địa có ba sinh, hợp lại thành ba mươi sinh. Mười địa đã không, cho nên Bát-nhã tức không. “Cũng phi Tát-bà-nhã, phi Ma-ha-diễn không”; “Phi Tát-bà-nhã” là khi nhân thì chẳng phải là quả. “Phi Ma-ha-diễn là khi chiếu thì chẳng phải là chuyển tải. “Cũng” là Bát-nhã một mực phi, phi Bồ-tát, cũng là nghóa phi quả trí, phi Thừa. vì không: như giải thích ở trên. “Đại vương! Nếu Bồ-tát thấy cảnh, thấy trí, thấy thuyết, thấy thọ, thì chẳng phải là cái thấy của bậc Thánh. Đảo tưởng thấy pháp, là người phàm phu; thấy ba cõi là tên gọi của quả báo chúng sanh.” Đây là phần năm. Kết nêu phi để hiển thị trong phần đáp ở trên. “Thấy cảnh” là trần chấp, “Thấy trí” là thức chấp, “Thấy thuyết, thấy thọ”; là nhân chấp. Những thứ đó vì không thấy nhân và pháp cả hai đều không, nên gọi là “Chẳng phải cái thấy của bậc Thánh”. Trái lý ngược Thánh gọi là “Phàm phu”. “Ba cõi” là khí thế gian. “Báo của ba cõi” là chúng sanh; thọ dụng trú xứ, gọi là “quả báo”. “Sáu thức khởi vô lượng dục vô cùng, gọi là Cõi dục tạng không. Những nghiệp quả khởi do hoặc nơi sắc, gọi là Cõi sắc tạng không. Những nghiệp quả khởi do hoặc nơi tâm, gọi là Vô cõi sắc tạng không. “Sáu thức khởi vô lượng dục” từ năm dục mà sinh khởi phiền não, nương theo dục mà sinh cho nên gọi là tạng. “Không”; tức thể tự nó vốn không. “Nghiệp quả khởi do hoặc sắc…”; là tỏ rõ về Cõi sắc tạng không. Nếu luận về phiền não tức là sắc ái trú địa, từ sắc mà sinh. Trong Cõi sắc có đủ năm ấm, sắc là mạnh nhất, nên nói sắc. Nếu xét theo nghiệp là bất động hạnh. Nếu xét theo quả báo thì còn thuộc phân đoạn. “Ng- hiệp quả khởi do hoặc nơi tâm, gọi là Vô cõi sắc tạng không”; Vô cõi sắc chỉ có bốn chúng, thiếu vô sắc chúng, cho nên bảo là tâm. Nếu luận về phiền não thì hữu ái trú địa. Nếu luận về nghiệp là bất động hạnh. Nếu luận về quả báo thì còn thuộc phân đoạn. Nếu luận về y báo thì hai cõi Dục, Sắc có trú xứ cung điện, Vô sắc chỉ là tâm tịch mặc, không có cung điện. “Tam giới không, vô minh tạng căn bản của tam giới cũng không. Tam địa, chín sinh diệt. Quả báo vô minh tập trong ba cõi không.” “Tam giới không” là Tóm kết ba cõi trên đều không. “Vô minh tạng căn bản của tam giới cũng không” vô minh tạng căn bản là nhân không, vô minh giống như mãnh đất lớn sinh ra phiền não, nên gọi là căn bản, gốc rễ. Nếu luận về nghiệp thì sinh ra nghiệp lậu. Nếu luận về quả báo thì sinh ra biến dị tam giới. “Tam địa, chín sinh diệt là quả không. Có hai cách giải thích: Địa thứ tám, địa thứ chín, địa thứ mười đều có ba tâm, hợp lại thành chín sinh diệt Biến dị trong tam giới mỗi thứ đều có ba loại ý sinh thân, gọi là tam địa chín sinh diệt. Từ sơ địa cho đến địa thứ năm gọi là Tam muội lạc hành ý sinh thân. Địa thứ sáu, địa thứ bảy gọi là Giác pháp tự tính ý sinh thân. Địa thứ tám trở lên gọi là Chủng loại câu sinh vô tác hành ý sinh thân. Sư Tam Tạng nói: Kiến địa tại địa thứ nhất (sơ địa). Tu địa tại địa thứ hai trở lên. Cứu cánh địa tại địa thứ mười. Ở trong tam địa trên mỗi địa đều có: sinh, trú, mãn. Thành chín sinh diệt. “Kim cang Bồ-tát đắc lý tận Tam muội, nên quả “Hoặc” sinh diệt không, quả hữu không, nhân không cho nên. Tát-bà-nhã cũng không. Diệt quả không. “Kim cang Bồ-tát đắc lý tận Tam muội.”: Bồ-tát địa thứ mười chiếu cùng nhân tận, nên bảo là lý tận. Quả “Hoặc” sinh diệt không”; tập vi tế, nên bảo là hoặc. “Hoặc” là tất cả phiền não. “Quả”; là tất cả quả ở tam giới và giới ngoại. “Sinh diệt không”; là vô ngại đạo không. Nên kinh Anh Lạc nói; Đẳng giác Bồ-tát và Diệu giác Phật, sinh diệt khác nhau, đó là nói pháp thân cũng mang tính sinh diệt. “Quả hữu không”; là khổ đế vô tướng, gọi là quả hữu không. Tập đế vô sinh gọi là nhân không. Phần trên đã nói về pháp nhiễm không. “Nhất-thiết-trí không” là nói pháp tịnh không. Nhất-thiết-trí không, là trí đức không. Diệt quả không, là đoạn đức không. Đức hạnh tuy nhiều nhưng không ra ngoài hai thứ đó. Lại nữa, cũng không, là để tỏ Bồ-tát không. Diệt quả không, là để tỏ Niết-bàn không. “Vì những hoặc trên đã không, cho nên Phật đắc ba quả vô vi. Trí duyên diệt, phi trí duyên diệt. Hư không Tát-bà-nhã quả không. “Hoặc trên đã không” Như Lai đã ra ngoài các hoặc cho nên bảo là hoặc trước đã không. Lại có người giải thích: chưa lúc nào đoạn phiền não, vì xưa nay vốn tịch diệt. Nên bảo là hoặc trước đã không. “Phật đắc ba quả vô vi”; là nói chung về ba đức. “Trí duyên diệt” là số duyên diệt vô vi. “Phi trí duyên diệt” là phi số duyên diệt vô vi. “Hư không” là pháp tính hư không vô vi. “Tát-bà-nhã quả không” Phật quả thể không. “Thiện nam! Nếu có tu tập nghe, thuyết, không nghe không thuyết, như hư không, pháp đồng với pháp tính. Nghe giống với nói, tất cả pháp đều như.” “Thiện nam! Nếu có người tu tập nghe, thuyết…” là phần sáu, trong phần đáp. Khuyến tin thọ trì. Nghóa của hộ Phật quả. Văn có hai phần: Khuyến tin, tỏ về nghe và nói đồng như hư không. Từ “Đại vương!…” là Tóm kết, đáp câu hỏi trên. Văn phần đầu nói: “Nghe và nói đồng như hư không”; kinh Đại Phẩm nói: Nghe người ảo nghe, nói như người ảo nói. “Không nói, không nghe” là đáp câu hỏi trên. Kinh Tịnh Danh nói: Người thuyết pháp thì không thuyết, không hiển thị, người nghe pháp thì không nghe, không đắc. Trong câu “Như hư không, pháp đồng pháp tính, nghe đồng thuyết đồng tất cả pháp đều như”; như hư không; là so với nghe và nói như hư không trên. Tịnh Danh nói: Pháp đồng pháp tính, vì nhập các pháp. Luận về lý không, thì tuyệt ở nghe và nói nên bảo “Tất cả pháp đều như”. “Đại vương! Bồ-tát tu hộ Phật quả là như vậy, người hộ Bát-nhã Ba-la-mật là hộ Tát-bà-nhã, mười lực, mười tám bất cộng pháp, năm nhãn, năm phần pháp thân, bốn tâm vô lượng, tất cả công đức quả là như vậy. “Đại vương! Bồ-tát tu hộ Phật quả là như vậy” là phần Tóm kết đáp nghóa của hộ quả trên. “Người hộ Bát-nhã Ba-la-mật là hộ Tát-bà- nhã; là nêu nhân đó mà thành quả đó. Là muốn tỏ nhân không có nhân nào khác, do quả cho nên nhân. Quả không có quả nào khác, do nhân mà nên quả. Do đó hộ nhân tức là hộ quả. “Mười tám pháp bất cộng… năm phần pháp thân” là nêu quả đức do nhân mà được. “Khi Phật thuyết pháp, vô lượng người và chúng đắc pháp nhãn tịnh, tính địa, tín địa. Có trăm ngàn người đều đắc đại không đại hạnh Bồ-tát. “Khi Phật thuyết pháp, vô lượng người…” là đoạn lớn thứ ba trong phẩm, nói về những người ngộ đạo. “Pháp nhãn tịnh”; là kiến đạo thuộc Tiểu thừa. Mới bắt đầu chứng tứ đế rõ ràng, cho nên bảo là pháp nhãn tịnh. Nay thuyết Đại thừa, sao lại đắc tiểu thừa? Thuyết thì một nhưng người ngộ khác nhau, quả đắc được cũng khác nhau. Như kinh Tịnh Danh nói; Phật chỉ một âm mà diễn thuyết pháp, chúng sanh tùy loài hiểu khác nhau. Lại giải thích; Như Lai ban bố mây từ bi, mưa nước mưa thật tướng. Cây to rễ lớn thì được thấm nhiều, cây nhỏ rễ nhỏ thì được thấm nhuần ít. Ngộ thì ở căn gốc của vật, không phải ở tại pháp. Lại rằng; mới bắt đầu chứng sơ địa gọi là kiến đạo, còn gọi là Pháp nhãn tịnh. “Tính địa”, tức là Thập giải trở lên. “Tín địa” tức Thập tín trở xuống. “Đều đắc đại không”; từ sơ địa trở lên, hai không tăng trưởng, tâm tịch lặng, gọi là Đại không. “Đại hạnh” là sơ địa trở lên, tám vạn bốn ngàn các hạnh độ. <篇> SỚ KINH NHÂN VƯƠNG BÁT NHà <卷>QUYỂN 3 PHẨM BỒ TÁT GIÁO HÓA Phẩm trên là nương vào “Không” mà hộ Phật quả, tức thật trí của trí phương tiện. Phẩm này nương vào năm nhẫn, mười địa mà hóa độ chúng sanh, tức là phương tiện của thật trí. Cho nên nói là phẩm giáo hóa. Phẩm trên là chẳng phải không có nhân mà thành quả. Phẩm này thì chẳng phải không có quả mà thành nhân. Lại nữa, khởi giáo tích như huyễn để hóa chúng sanh như huyễn, nên nói là phẩm giáo hóa. Phẩm này chia làm hai đoạn; trước hỏi, sau đáp. Trong phần hỏi có phần: 1.Hỏi về tướng của hạnh tự lợi trong Thập địa; 2.Hỏi về tướng của hạnh lợi tha; 3. Hỏi về tướng mạo đức hạnh chúng sanh được hóa. Bạch Phật: “Thế Tôn! Hộ hành thập địa Bồ-tát thì thực hành hạnh gì? Lấy hạnh gì để hóa chúng sanh? Do chúng sanh tướng gì để hóa?” Trong đoạn thứ nhất; “Hộ thập địa” là nhắc lại mười địa vị tu. Hỏi rằng: “Thực hành hạnh gì?” là hỏi dùng hành pháp gì để nương vào đó tu hành thành tựu thập địa, đắc tự lợi. Câu hỏi thứ hai; “Lấy hạnh gì để hóa chúng sanh?”; là hỏi Bồ-tát hành hóa thì dùng những pháp gì để hóa chúng sanh? Câu hỏi thứ ba; “Dùng chúng sanh tướng gì để hóa?” Là hỏi về tướng mạo của chúng sanh được hóa độ. Phật nói: “Đại vương! Năm nhẫn là pháp Bồ-tát. Phục nhẫn thượng trung hạ, tín nhẫn thượng trung hạ, thuận nhẫn thượng trung hạ, vô sinh nhẫn thượng trung hạ, tịch diệt nhẫn thượng hạ, gọi là Bát-nhã Ba-la-mật của chư Phật, Bồ-tát.” Từ “Phật nói…” là đoạn thứ hai, đáp ba câu hỏi trên. Đoạn này chia làm ba đoạn chính; 1.Từ “Năm nhẫn là pháp của Bồ-tát…”; là thuyết về mười bốn nhẫn cụ túc, để đáp câu hỏi thứ nhất, tự hạnh; 2. Từ “Phật nói: Bổn nghiệp thanh tịnh của Bồ-tát là gì?… Chư quỷ thần hiện thân tu hành Bát-nhã”; là để đáp câu hỏi thứ hai trên, hỏi về hạnh ngoại hóa; 3. Từ “Phật bảo: Đại vương! Ông trước nói… hết phẩm” là đáp câu hỏi thứ ba. Trong đoạn thứ nhất, đoạn tự hạnh, có hai phần: 1.Lược thuyết về năm nhẫn để tỏ thể của tự hạnh; 2.Từ “Thiện nam!…”; phân biệt chi tiết mười bốn nhẫn để hiển bày tướng của tự hạnh. Trong phần một, phần lược thuyết, có hai ý; 1.Sinh khởi; 2.Lập ý năm nhẫn. Trong phần một - Sinh khởi; 1.“Phục nhẫn thượng trung hạ”; Tức là đắc hạnh phương tiện của bậc thánh; 2. “Tín nhẫn thượng trung hạ”; tức chính là nhập vào cửa thứ nhất của bậc Thánh; 3.“Thuận nhẫn thượng trung hạ”; tức chính là duyên gần kề với thuận quả vô sinh; 4. Vô sinh nhẫn thượng trung hạ; tức chính là công năng của hướng quả; 5. Tịch diệt nhẫn thượng hạ; tức chính là thuyết chung nhân và quả. Ở phần lập ý của năm nhẫn, có ba đoạn: 1. “Năm nhẫn là pháp Bồ-tát” là để biểu thị năm nhẫn là thuộc về loài người; 2.“Phục nhẫn thượng trung hạ…”; là để xuất ngôi vị năm nhẫn; 3. “Gọi là…”; kết. Văn đoạn một - Đã rõ. Trong đoạn hai - Xuất ngôi; “Phục nhẫn thượng trung hạ” thì; Tập nhẫn là hạ, Tính nhẫn là trung, Đạo chủng nhẫn là thượng, ở tại ngôi vị Tam Hiền. “Tín nhẫn thượng trung hạ” thì; Sơ địa là hạ, địa thứ nhì là trung, địa thứ ba là thượng. “Thuận nhẫn địa trung hạ” thì; địa thứ tư là hạ, địa thứ năm là trung. Địa thứ sáu là thượng. “Vô sinh nhẫn thượng trung hạ” thì; địa thứ bảy là hạ, địa thứ tám là trung, địa thứ chín là thượng. “Tịch diệt nhẫn thượng hạ” thì; địa thứ mười là hạ, Phật địa là thượng. “Thiện nam! Sơ phát tướng tín hằng hà sa chúng sanh tu hành phục nhẫn, ở trong Tam bảo sinh ra mười tâm tập chủng tính; tín tâm, tinh tiến tâm, niệm tâm, tuệ tâm, định tâm, thí tâm, giới tâm, hộ tâm, nguyện tâm, hồi hướng tâm, đó là Bồ-tát có thể ít phần hóa chúng sanh.” Từ “Thiện nam!…” là phần hai, phân biệt chi tiết mười bốn nhẫn, khai mở năm nhẫn thành mười bốn nhẫn. Đầu tiên nói về tập chủng tính, gọi là tập nhẫn. Có ba đoạn: 1.Nêu người tu nhẫn; 2.Kê riêng mười loại tâm; 3.Từ “Đó là Bồ-tát…”; công năng hóa chúng sinh. Văn nói: “Sơ phát tướng tín hằng hà sa chúng sanh tu hành phục nhẫn”; giải rằng: vô lượng hằng hà sa thế giới trời, người, nhị thừa tu hành nhiều loại công đức tu tập làm một phần tâm chánh và tín của Bồ-tát. Văn nói: “Ở trong Tam Bảo, sinh tập chủng tính”; Tam Bảo đạo lý, tức là quả báo, vì lập chí to lớn. Không khiếp nhược ở Tam Bảo, siêng năng cố gắng tức là tín tập bổn tính thập tín của Nhất-thiết-chủng-trí. “Đã vượt qua nhị thừa, tất cả thiện địa, tất cả chư Phật Bồ-tát đều nuôi lớn mười tâm để làm Thánh thai. Lần lượt khởi ở Căn tuệ, tính chủng tính có mười loại tâm gồm; bốn ý chỉ (niệm xứ) thân thọ tâm pháp; bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã. Ba ý chỉ, ba thiện căn; từ, thí, tuệ. Ba ý chỉ là ba đời; quá khứ nhân nhẫn, hiện tại nhân quả nhẫn, và vị lai quả nhẫn. “Vượt qua nhị thừa địa”: Đó là vì chỗ giải, hiểu của Đại thừa vượt quá nhị thừa. Thành chủng tử pháp thân Đại thừa, gọi là “Thánh thai”. Tiếp đến là phần hai, nói về tính chủng tính của trung nhẫn. Văn có ba phần: 1. Nêu chung mười tâm thuộc tính chủng; 2. Liệt kê riêng mười tâm; 3. Từ “Bồ-tát đó,…”; nói về công năng của trung nhẫn. Nói “Lần lượt khởi ở căn tuệ”; trong pháp tiểu thừa, trước ngoài tập chủng, có riêng một Căn tuệ địa, vì chưa đắc lý giải làm nhuận tâm. Còn Căn tuệ địa dùng ở đây là sơ địa chơn giải, gọi là chủng tính. Trong mười tâm liệt kê ở phần thứ hai: Bốn ý chỉ; là bốn niệm xứ. Ba ý chỉ tức là ba thiện căn; thiện căn bất tham tức là “Thí”. Thiện căn bất sân tức là “Từ”. Thiện căn bất si tức là “Tuệ”. Ba ý chỉ là quá khứ vô minh hành gọi là nhân nhẫn. Ba nhân năm quả hiện tại gọi là nhân quả nhẫn. Sinh tử vị lai, gọi là quả nhẫn. “Bồ-tát đó có thể hóa độ tất cả chúng sanh, đã có thể vượt qua các tưởng về ngã, nhân, tri kiến, chúng sanh, và tưởng đảo của ngoại đạo không thể phá hoại được. Lại có mười đạo chủng tính địa là quán sắc, thức, tưởng, thọ, hành, đắc; giới nhẫn, tri kiến nhẫn, định nhẫn, tuệ nhẫn, giải thoát nhẫn. Quán nhân quả trong ba cõi; không nhẫn, vô nguyện nhẫn, vô tưởng nhẫn. Quán nhị đế hư thật, tất cả pháp vô thường, gọi là vô thường nhẫn, tất cả pháp không đắc vô sinh nhẫn.” “Bồ-tát đó cũng có thể hóa độ tất cả chúng sanh…” Đây là chúng thứ ba, nói về công năng của trung nhẫn. Quán năm ấm vô ngã, cho nên đã vượt qua. Các tưởng ngã, nhân… Quán nhân quả ba đời phi thường phi đoạn nên những ngoại đạo không thể phá hoại được. Kinh này thì tính chủng tính ở tại mười giải, mười hạnh. Còn theo kinh Hoa Nghiêm thì mười trụ là tập chủng, mười hạnh là tính chủng. Theo Hoa Nghiêm mười giải là thập trú; thứ nhất là phát tâm trụ… thứ mười là quán đảnh trụ. Thập hạnh là; thứ nhất là hoan hỷ hạnh … thứ mười là chơn thật hạnh. Phần thứ ba: là đạo chủng tính, nói về thượng nhẫn, có ba phần: Nói chung về ngũ ấm quán; 2.Nói riêng về mười kiên tâm; 3.Từ “Bồ-tát đó…” là kết về công năng hóa độ chúng sanh trên. Mười kiên là; năm phần pháp thân, ba không nhẫn, tất cả vô thường nhẫn do quán nhị đế hư thật, và vô sinh nhẫn do tất cả pháp không. “Mười kiên tâm của Bồ-tát đó làm Chuyển luân vương, cũng có thể hóa độ bốn thiên hạ, sinh ra thiện căn của tất cả chúng sanh. Lại nữa, tín nhẫn Bồ-tát là người đạt minh trung hạnh, đoạn dứt sự trói buộc sắc phiền não trong ba cõi, có thể hóa trăm Phật, ngàn Phật, vạn Phật trong Phật quốc, hiện thần thông trăm thân ngàn thân, vạn thân, vô lượng công đức, thường lấy mười lăm tâm làm đầu. Bốn nhiếp pháp, bốn vô lượng tâm, bốn hoằng nguyện, ba môn giải thoát. Bồ-tát đó từ thiện giác địa đến Nhất-thiết-trí, dùng mười lăm tâm đó làm hạt giống căn bản cho tất cả hạnh. Lại nữa, thuận nhẫn Bồ-tát gọi là kiến thắng hiện pháp. “Bồ-tát đó…” là kết về đức hóa chúng sanh do công năng của thượng nhẫn. “Mười kiên tâm” là kết về đức tự lợi. “Làm Chuyển luân vương…” là kết về đức hóa tha. Kinh này thì nói là đạo chủng tính, kinh Hoa Nghiêm thì nói là mười hồi hướng; hồi hướng thứ nhất là cứu hộ tất cả chúng sanh, lìa tướng chúng sanh,… cho đến hồi hướng thứ mười tên gọi là pháp giới vô lượng. Kinh này làm Kim luân vương, cho nên hóa bốn thiên hạ. Theo đoạn văn sau thượng phẩm thập thiện Thiết luân vương thì hóa một Diêm-phù-đề, tập chủng Đồng luân vương thì hóa hai thiên hạ, ngoài hai phương Đông và Bắc ra. Tính chủng tính Ngân luân vương thì hóa ba thiên hạ, trừ phương Bắc. Về điểm này văn kinh lược bớt. Văn phần tín nhẫn có bốn phần: 1.Nêu về danh và đức của tín nhẫn; “Tín nhẫn Bồ-tát”; là nêu danh. “Khéo đạt minh trung hạnh”; là nêu đức; 2. Từ “Đoạn dứt ba cõi…”; là đoạn chướng; 3. Từ “Có thể hóa trăm Phật…”; là quốc độ sở hóa; sơ địa thì hiện trăm thân, nhị địa thì hiện ngàn thân, tam địa thì hiện vạn thân. 4. Từ “Thường lấy mười lăm tâm làm đầu…”; là khởi thắng tu. Trong phần một: “Thiện đạt minh trung hạnh”; là nêu chung ba vị của tín nhẫn. “Thiện” là thiện giác nhẫn, ở tại sơ địa.”Đạt” là quán đạt nhẫn, tại nhị địa. “Minh”; là minh tuệ nhẫn, tại tam địa. Tam muội chiếu minh, gọi là “Minh tuệ”. “Đoạn sắc phiền não trói buộc trong ba cõi”: Sơ, nhị, tam địa quán sắc đế vô tướng, không chấp trước sắc pháp, cho nên lìa sắc buộc. Phần thứ ba: Là nói về thần thông hóa ích. Theo kinh khác thì ở trong phần báo quả, sơ địa hóa trăm Phật thế giới. Hiện thân cũng vậy. Theo nguyện trí quả thì đều là không thể đếm được. Phần thứ tư: Khởi thắng tu hành; sơ địa hành Bố thí nhiếp (gồm thâu) khiến cho sinh tín. Ái ngữ nhiếp khiến sinh giải. Lợi hành nhiếp khiến cho khởi nhân. Đồng sự nhiếp khiến đắc quả. Còn gọi là đồng sự, vì cùng chung khổ vui. “Bốn tâm vô lượng” là tâm lợi tha. Tâm đó phải đủ ba duyên: 1.Chúng sanh duyên duyên; giả danh chúng sanh và lạc; Pháp duyên duyên, pháp số của năm ấm; 3. Danh vô duyên duyên, năm ấm của chúng sanh vô sở đắc. Từ: Là tâm cho lạc; 2.Bi Là tâm cứu khổ; 3. Hỷ Là tâm mừng vật; 4. Xả Là tâm bình đẳng. Duyên cảnh vô hạn, nên gọi là lượng. Bốn hoằng thệ nguyện là lợi tha nguyện, người chưa độ được khổ, khiến cho độ được khổ. Người chưa giải tập, khiến cho giải tập. Người chưa an đạo, khiến đắc an đạo. Chưa đắc Niết-bàn, khiến đắc Niết-bàn. “Ba môn giải thoát” là ba Tam muội vô lậu. Lìa trói buộc gọi là giải thoát, thông người đến quả, gọi đó là môn. Luận Bà-sa nói: 1.Vô nguyện: Có thể chán ghét sinh tử; 2.Vô tướng: Có thể vui với Niết-bàn; 3. Không định: quán sinh tử Niết-bàn. Cả hai đều vô tướng như phẩm Bồ-tát phần trong kinh Địa Trì đã nói. Theo văn bài kệ sau thì sơ địa làm Tứ Thiên vương. Nhị địa làm Đao lợi thiên. Tam địa làm Dạ ma Thiên vương. Sơ địa gọi là Hoan hỷ, nhị địa gọi là Ly cấu. Địa gọi là Minh địa. Cả tam địa đó cùng ở tại ngôi vị tín nhẫn. Phần thứ ba là giải thích về thuận nhẫn. Văn có bốn phần: Nêu chung về danh thuận nhẫn Bồ-tát. Từ “Kiến thắng…” là nêu ba vị thuận. Từ “Có thể đoạn…” tỏ về lìa chướng. Từ “Hiện một thân…” là tỏ hiện thổ khởi dụng để hóa sinh. Văn phần một thì đã biết. Trong văn phần hai: “Kiến” là địa thứ tư Diệm địa. Đoạn văn sau gọi là địa Diệm tuệ. “Thắng”; là địa thứ ngũ địA-nan thắng. Đoạn văn sau nói là thắng tuệ nhẫn. “Hiện pháp” là địa thứ lục địa Hiện tiền, đoạn văn sau gọi là hiện pháp nhẫn. Tiếp sau là phần ba lìa chướng có sai biệt. “Vì đoạn dứt các tâm phiền não trói buộc trong ba cõi, cho nên hiện một thân ở trong mười phương Phật quốc, vô lượng thần thông hóa chúng sanh không thể diễn thuyết. Lại nữa, vô sinh nhẫn Bồ-tát gọi là viễn bất động, quán tuệ vì cũng đoạn dứt các sắc tâm tập phiền não, hiện công đức thần thông không thể nói.” Văn nói; “Đoạn dứt tâm phiền não trói buộc trong ba cõi; đó là ba ngôi vị chủ thể quán tam giới tâm đế lý vô sinh vô sở đắc, không chấp giữ tướng tâm, biết tâm vô sinh, nên có thể đoạn tâm mê phiền não. Luận chung thì cũng đoạn dứt tâm mê hoặc. Nay ở đây theo số nhiều mà chỉ nói là đoạn dứt mê tâm mà thôi, đó là thuyết trong vô danh tướng. Không thể lấy chắc chắn một đoạn văn mà chấp, những người giảng kinh cần phải biết ý đó. Trong phần bốn. Hiện cõi văn nói: “Hiện một thân ở mười phương quốc để hóa chúng sanh”; theo kinh khác thì gồm thâu luôn cả báo quả, Diệm địa Bồ-tát có thể hiện ra một ức thân, có thể hóa chúng sanh ở một ức Phật quốc. Địa-nan thắng gồm thâu báo quả có thể hiện ra một ngàn ức thân, hóa chúng sanh ở một ngàn ức thế giới. Địa hiện tiền gồm thâu báo quả, có thể hiện ra trăm ngàn ức hóa thân. Hóa chúng sanh cũng vậy. Đó là theo cấp bậc mà nói, còn nếu trong nguyện trí quả thì không thể kể xiết. Theo kinh này thì Tứ địa làm đâu suất Thiên vương. Ngũ địa làm Tha hóa lạc Thiên vương. Lục địa làm Hóa lạc Thiên vương. Nếu theo thứ tự của sáu cõi trời thì ngũ địa làm Hóa lạc Thiên vương, lục địa làm Tha hóa Thiên vương. Đoạn văn này nói nhầm vậy. Phần thứ tư: Nói về vô sinh nhẫn; văn có bốn phần: 1. Nêu danh nhẫn; 2.Xuất vị; 3.Trị chướng; 4.Hiện cõi Văn phần một, đã rõ. Trong văn phần hai: Xuất vị: Nói “Viễn”; là địa viễn hành. “Bất động”; là địa bất động. “Quán tuệ”; là quán tuệ địa từ câu “Thất địa…” là đoạn văn nói về viễn đạt nhẫn. Từ câu “Bát địa…” là đoạn văn nói về đẳng quán nhẫn. Từ câu “Cửu địa…” là đoạn văn nói về tuệ quang nhẫn. Phần thứ ba, nói về trị chướng, cũng đoạn dứt các phiền não tâm, sắc trong ba cõi; vì ba ngôi vị này đã chứng sâu tâm sắc tâm sắc vô sinh, có thể đoạn dứt các tập sắc tâm. Theo địa luận thì đã đoạn dứt tế tướng tập chướng. Ngũ địa thì đoạn dứt vô tướng hành chướng. Cửu địa thì đoạn dứt chướng không thể làm lợi ích cho chúng sanh. Phần thứ tư, nói về hiện cõi: Kinh nói: “Hiện thần thông”: theo Địa luận trong phần Thất địa gồm thâu báo quả; hiện trăm ngàn Na do tha thân để hóa chúng sanh cũng như vậy. Bát địa thì nhiếp báo quả, hiện ra số thân như số vi trần của trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới để hóa độ chúng sanh, cũng giống trên, cửu địa thì hiện ra số thân sanh, cũng như trên. Theo đoạn văn sau của kinh thì thất địa làm sơ thiền vương. Bát địa làm Nhị thiền vương, cửu địa làm tam thiền vương. Những điều ấy đều là tự tại vô sinh của chư Bồ-tát, không thể cố chấp nhất định. “Lại nữa, tịch diệt nhẫn, là dụng chung của Phật và Bồ-tát, nhẫn này nhập vào Kim cang Tam muội hạ nhẫn trung hạnh, gọi là Bồ-tát. Phần thứ năm: Nói về tịch diệt nhẫn: “Tịch” là định, “Diệt” là tuệ. Tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch. Nên gọi là tịch diệt nhẫn. Văn có năm phần: 1. Nói về vị địa phân đều; 2. Từ “Nhập Kim cang Tam muội…” là nói về hạnh sai biệt. 3.Từ “Cùng quán…” là nói về nhân khác quả; 4.Từ “Tận tướng, vô tướng …” là nói về quả khác nhân; Từ “Thiện nam! Tất cả chúng sanh…” là tán thán về quả thù thắng. Văn phần một nói: “Phật và Bồ-tát cùng dùng nhẫn này”; là Pháp vân địa Bồ-tát. Phật dựa vào Nhất-thiết-trí, Nhất-thiết-chủng-trí, Trí thể viên mãn, gọi là đạo giải thoát. Bốn nhẫn trước chưa đoạn dứt hết sinh tử không thể gọi là tịch diệt. Phần hai, hạnh sai biệt: “Nhập Kim cang Tam muội, hạ nhẫn trung hạnh, gọi là Bồ-tát”; định này kiên cố, mãi mãi không bị thối chuyển, gọi là Kim cang Tam muội, được gồm thâu trong vô ngại đạo phân vị, gọi là hạ nhẫn. Theo Địa kinh thì chứng đắc Tam muội nhiều như số vi trần trong cõi Phật mười lần không thể nói hết. “Thượng nhẫn trung trung hạnh, gọi là Nhất-thiết-trí, cùng quán Đệ-nhất-nghóa-đế, đoạn dứt tâm tập vô minh tam giới. Tận hết tướng là Kim cang, tận hết tướng và vô tướng là Nhất-thiết-trí. Siêu độ ngoài ngoài Thế đế và Đệ-nhất-nghóa-đế, thành địa thứ mười một, Tát-vân- nhã phi hữu phi vô trong lắng thanh tịnh, thường trú không biến đổi, đồng với chơn tế pháp tính. Đại bi vô duyên mà giáo hóa tất cả chúng sanh.” “Thượng nhẫn trung hạnh, gọi là Nhất-thiết-trí”; được nhiếp trong quả vị của đạo giải thoát, gọi là thượng nhẫn vị. “Tát-bà-nhã”; tiếng Hoa gọi là Nhất-thiết-trí, nhẫn này nhân và quả khác nhau, chỉ chia thành hai phẩm thượng và hạ. Bốn nhẫn cùng là nhân vị cho nên chia ra làm ba phẩm. Đó là trong vô sai biệt mà có tên gọi sai biệt, không nên lấy đó mà chấp chặt, năm nhẫn ở đây là thông chung cả nhân và quả, giải thoát vô ngại, đều gọi là nhẫn. Khác với Tiểu thừa trong phần thứ ba, nói về nhân khác quả; “Cùng quán đệ nhất nghóa”; là cùng quán thật đế giống với Phật, gọi là cùng quán. “Đoạn dứt tâm tập vô minh trong ba cõi”: theo Địa luận, đoạn dứt trí chướng vi tế, gọi là tâm tập vô minh. Quán không đế, trong đạo rốt ráo vô ngại, đoạn dứt hết tâm tập vô minh, cũng là đoạn sắc tập. Vì văn lược bớt không nói mà thôi. Nói “Tận hết tướng là Kim cang”có thể phá rốt ráo nhân quả của sinh tử gọi là tận. Phần thứ bốn: Nói về quả khác nhân; văn nói là “Tận hết tướng và vô tướng là Nhất-thiết-trí”; chẳng phải chỉ tận hết tướng, mà còn tận hết cả vô tướng. Nghóa là duyên và quán đều dứt, cảnh và trí đều lặng, mới bắt đầu hiển hiện viên mãn, nên gọi là tận hết tướng và vô tướng. “Tát-bà-nhã”; là Nhất-thiết-trí, chứng nhất thật đế trung đạo, cho nên bảo là xuất ra ngoài hai đế. Địa thứ mười là quả học, địa thứ mười một là Phật, quả Vô Học. Tuyệt cả tướng, chẳng phải là hữu, có đầy đủ các đức, chẳng phải là vô, vì lìa nhiễm, thanh tịnh lìa khổ, cho nên thường lạc. Hội ở vô đức, tuyệt các vọng tưởng, gọi là pháp thân. Cho nên bảo là đồng với chơn tế, đẳng pháp tính. “Đại bi vô duyên giáo hóa tất cả chúng sanh”; là ứng thân. “Cưỡi chiếc xe Nhất-thiết-trí đến hóa độ khắp Tam giới. Tất cả hai mươi hai căn quả báo chúng sanh không ra ngoài tam giới. Ứng thân, Hóa thân, Pháp thân của chư Phật cũng không ra ngoài tam giới. Ngoài tam giới thì không có chúng sanh. Phật làm sao hóa độ. Vì vậy mà Ta nói ngoài tam giới còn có riêng một chúng sanh giới tạng là trong kinh Đại hữu của ngoại đạo nói chứ chẳng phải là lời nói của bảy đức Phật. Đại vương! Ta thường nói tất cả chúng sanh đoạn dứt hết quả báo phiền não trong tam giới, gọi là Phật.” “Cưỡi chiếc xe Nhất-thiết-trí đến hóa Tam giới”; là Hóa thân. Lại nữa, trước là hóa tha tâm, sau là hóa tha thân. Phần thứ năm: Tán thán về sự thù thắng của đức. Văn có sáu phần: 1. Nói về đối tượng hóa là tam giới; 2.Từ “Ứng thân của chư Phật…” nói về chủ thể hóa là ứng thân; 3. Từ “Từ ngoài tam giới…” nói về tam giới thâu gồm hết chúng sinh; 4. Từ “Ta nói ngoài tam giới còn có riêng một chúng sanh tạng…” là tỏ phi tà để hiển chánh; 5.Từ “Đại vương!…” là tán thán quả khác nhân; 6. Từ “Chúng sanh bổn nghiệp…” là nêu nhân để hiển quả. Phần một: Nói về đối tượng hóa độ là tam giới. Văn nói: “Phiền não không ra ngoài tam giới”; là tập đế. Tam giới có hai loại: 1.Phân đoạn; 2. Biến dị. Văn nói: “Quả báo hai mươi hai căn không ra ngoài tam giới”; đó là tỏ về khổ đế. “Hai mươi hai căn”; là sáu căn nhãn, nhó, khổ, lạc, ưu, hỷ, xả, là năm hợp lại thành mười một. Nam, nữ, mệnh, là ba, hợp thành mười bốn. Tín, tiến, niệm, định, tuệ, là năm, thành mười chín. Ba căn vô lậu; là Vị tri căn, Dó tri căn và Vô tri căn, thành hai mươi hai căn. Hai mươi mốt căn không xuất ra ngoài phân đoạn tam giới. Còn căn vô tri ở tại Vô học thì xuất ngoài phân đoạn tam giới. “Không xuất ra” là không xuất ra khỏi bốn trú tập khí. Phần hai: Nói về chủ thể hóa. Văn nói: “Ứng, Hóa, Pháp thân của chư Phật cũng không xuất ra ngoài tam giới” là vì chúng sanh, được hóa độ cho nên không xuất ra ngoài tam giới. Thật mà nói thì tam giới bổn lai vốn thanh tịnh, có cái gì xuất hay không xuất. Phần ba: Nói về tam giới gồm thâu hết chúng sinh. Văn nói: “Ngoài tam giới, không có chúng sinh” là ngoài hai loại tam giới; phân đoạn và biến dị thì không có sinh tử chúng sanh để hóa độ. Phần bốn: Phi tà để hiển chánh. Văn nói: “Ngoài tam giới còn có riêng một chúng sanh giới là trong kinh Đại Hữu của ngoại đạo nói, chẳng phải là những lời thuyết nói của bảy Phật.”; nếu theo cách nói cũ, đến để hóa, tức giống với kinh Đại Hữu của ngoại đạo đã thuyết. “Ngoài hai loại sinh tử, còn có một sinh tử chúng sanh tạng”; tức là những lời thuyết xưa do vô minh, đó là tà thuyết của ngoại đạo, chẳng phải chánh thuyết của Phật. Phần năm: Trong phần quả khác nhân: “Ta thường nói tất cả chúng sanh đoạn dứt hết quả báo phiền não trong ba cõi, gọi là Phật” là đoạn dứt hết hai loại phân đoạn và biến dị. “Tự tính thanh tịnh gọi là giác tính Nhất-thiết-trí. Là bổn nghiệp của chúng sanh, là chư Phật Bồ-tát vốn đã tu hành đầy đủ mười bốn nhẫn trong năm nhẫn.”; “Tự tính thanh tịnh” là phiền não đã hết tận, thể không có vết. Đó là đoạn đức. “Giác-tát-vân-nhã”; tiếng Hoa gọi là Nhất-thiết-trí, là trí đức. Phần sáu: Nêu nhân để hiển quả; văn nói; bổn nghiệp của chúng sanh là hạnh tu của chư Phật, Bồ-tát. Mười ba nhẫn là Bồ-tát tu gọi là nhân hạnh. Nhẫn thứ mười bốn là Phật đức gọi là hiển quả. Đến đây là hết phần đáp về tự lợi. Thưa Thế tôn! “Bổn nghiệp thanh tịnh của Bồ-tát hóa độ chúng sanh là gì?” Phật nói: “Từ địa thứ nhất cho đến địa cuối cùng, với tất cả tri kiến tự hành xứ và Phật hành xứ. Bổn nghiệp là nếu Bồ-tát trú trong trăm Phật quốc, làm Tứ Thiên vương Diêm phù, tu trăm pháp môn nhị đế, tâm bình đẳng hóa độ tất cả chúng sanh. Nếu Bồ-tát trú trong ngàn Phật quốc làm Đao Lợi Thiên vương, tu ngàn pháp môn thập thiện đạo, hóa độ tất cả chúng sanh. Nếu Bồ-tát trú trong mười vạn Phật quốc, làm Diệm Thiên vương, tu mười vạn pháp môn tứ thiền định, hóa độ tất cả chúng sanh.” Từ “Thưa Thế tôn…” là đáp câu hỏi thứ hai. Tướng của hạnh lợi tha. Văn có hai phần: 1. Nêu lên lại câu hỏi trước. Nguyệt Quang hỏi trước đây đã lâu, nay hỏi lại. “Bổn nghiệp thanh tịnh của Bồ-tát là gì?”. Thập địa là bổn nghiệp thanh tịnh của Bồ-tát. Bồ-tát dùng từ bi trí tuệ ở hai xứ sanh tử và Niết-bàn nhưng không nhiễm, gọi là bổn nghiệp thanh tịnh. Từ “Phật nói…” là phần đáp hỏi chính để hiển tướng của hạnh lợi tha. Văn có ba phần: 1.Lược đáp câu hỏi trước; 2.Từ “Nếu Bồ-tát trú…” là rộng đáp; 3. Từ “Rải vô lượng…”; may nhờ pháp lợi, cúng dường tán thán. Văn phần một nói: “Từ địa thứ nhất đến địa cuối cùng.” là từ Sơ địa đến Phật địa. Nói “Tự nơi hành xứ” là nhân địa. “Phật hành xứ”; là quả địa. Chiếu với vô duyên thì nhân và quả đều tắt dứt, nên nói là “Nhất-thiết-trí kiến”. Từ “Nếu Bồ-tát trú trăm Phật…” là phần hai. Rộng đáp mười địa thành mười phần khác nhau. Ở phần sơ địa văn có năm câu: 1.Từ “Trú trăm Phật…” là đối tượng hóa: Quốc độ; 2.Từ “Làm vua Diêm phù đề” là gồm thâu ngôi vị: Là làm bốn loại luân vương và tứ Thiên vương trong cõi người. Theo Địa kinh thì Sơ địa làm Thiết luân vương. Kinh Anh Lạc nói; “Tu hành thập tín thiện có ba phẩm: Thượng phẩm thiện Thiết Luân Vương giáo hóa một thiên hạ. Trung phẩm thiện Túc Tán Vương, Hạ phẩm thiện Nhân Trung Vương (Vua trong loài người). Thập Trú Đồng Luân Vương. Thập Hạnh là Ngôn Luân Vương. Thập Hồi Hướng Kim Luân Vương. Sơ địa trở lên thì lưu-ly báu anh-lạc. Sơ địa thì trăm báu anh lạc, bảy báu, tướng luân, vạn con tứ Thiên vương làm quyến tộc. Thập Trú làm Đồng Luân Vương.” Nếu vậy ngôi vị Thập Trú đã quá sơ địa, chẳng thể dựa vào một kinh mà chấp. Vì vậy mà kinh đó nói: “Các địa đó là vô danh, vô tướng. Chỉ vì ứng hóa mà nói là có.” Phần ba: Từ “Trăm pháp môn…” là pháp môn mà mình hiểu được. Đó là một niệm mà, hiểu trăm pháp môn. Phần bốn: Từ “Nhị đế…”; là tự hạnh chứng lý chơn và tục vô tướng, gọi là tâm bình đẳng. Phần năm: “Hóa độ tất cả chúng sanh.” là tướng của hạnh lợi tha. Từ nhị địa đến thập địa, mỗi địa đều có bốn câu. Bốn câu của nhị địa là: 1.“Nếu Bồ-tát trú ngàn Phật…” là cõi sở hóa; 2. “Làm Đao Lợi Thiên vương.” Là sinh tướng tăng thượng. Địa kinh nói; nhị địa làm Kim Luân vương. Kinh Anh Lạc và kinh này cùng nói là làm Đao Lợi Thiên vương; 3. “Tu ngàn pháp môn…” là pháp môn hiểu được; 4. “Mười đạo thiện hóa độ tất cả chúng sanh.” Là tướng hạnh lợi tha. Bốn câu của tam địa là: 1. “Nếu Bồ-tát trú mười vạn…” là cõi sở hóa; 2.“Làm Diệm Ma Thiên vương” là sinh tướng tăng thượng địa kinh nói là làm Đao Lợi Thiên vương. Kinh Anh Lạc và kinh này cùng nói là làm Diệm Ma Thiên vương; 3.“Tu mười vạn pháp môn” là pháp môn được hiểu; 4.“Thiền định hóa độ tất cả chúng sanh” là hạnh tướng lợi người. Lấy thiền định làm lợi ích cho vật. “Nếu Bồ-tát trú trong trăm ức Phật quốc, làm Đao Lợi Thiên vương, tu trăm ức pháp môn, hành đạo phẩm hóa độ tất cả chúng sanh. Bốn câu của Tứ địa là: 1.“Nếu Bồ-tát trú trăm ức…” là cõi của đối tượng giáo hóa; 2.“Làm Đâu Suất Thiên vương” là sinh tướng tăng thượng cho nên địa kinh nói; làm Diệm Ma Thiên vương. Kinh Anh Lạc nói giống với kinh này; làm Đâu Suất Thiên vương; 3.“Tu trăm ức pháp môn”. Là pháp môn hiểu được; 4.“Đạo phẩm giáo hóa tất cả chúng sanh” tướng hạnh lợi người, lấy đạo phẩm để giáo hóa chúng sanh. “Nếu Bồ-tát trú trong ngàn ức Phật quốc, thì làm Hóa Lạc Thiên vương, tu ngàn ức pháp môn, nhị đế, tứ đế, bát đế mà giáo hóa tất cả chúng sanh.” Bốn câu của ngũ địa là: 1.“Nếu Bồ-tát trú trong ngàn ức…” là cõi sở hóa; 2. “Làm Hóa Lạc Thiên vương” là sinh tướng tăng thượng. Địa kinh nói làm Đâu Suất Thiên vương. Kinh Anh Lạc và kinh này đều nói là làm Hóa Lạc Thiên vương; 3.“Tu ngàn pháp môn” là những pháp môn được hiểu; 4.Từ “Nhị đế…” là tướng hạnh lợi tha. Hai đế chơn và tục, lại còn có bốn đế hữu tác và bốn đế vô tác thành ra là tám đế. Cũng có thể tu tám pháp thành là bát đế; vô thường, khổ, không, vô ngã là bốn. Thường, lạc, ngã, tịnh là bốn, thành ra là tám. Lại nữa, tám đế là; tướng đế, sai biệt đế, thuyết đế, thành đế, sự đế, sinh đế, tận vô sinh trí đế, khiến nhập đạo trí đế, Bồ-tát và thành tựu Như Lai trí đế. Vì giác pháp hữu vi tương tục cho nên khéo biết sinh đế. Vì giác phiền não diệt, cho nên khéo biết tận vô sinh đế. Tám tên gọi đó tương tự với tám tên gọi trong mười sáu đế của kinh Anh Lạc. “Nếu Bồ-tát trú trong mười vạn ức Phật quốc, làm Tha hóa Thiên vương, tu mười vạn ức pháp môn, dùng trí mười hai nhân duyên để giáo hóa tất cả chúng sanh.” Lục địa có bốn câu như trên. “Nếu Bồ-tát trú trong trăm vạn ức Phật quốc, thì làm sơ thiền vương, tu trăm vạn ức pháp môn, phương tiện trí, nguyện trí, giáo hoá tất cả chúng sanh.” Thất địa có bốn câu chia như trên. “Nếu Bồ-tát trú trong trăm vạn số vi trần Phật quốc, thì làm nhị thiền Phạm vương, tu trăm vạn số vi trần pháp môn, song chiếu phương tiện thần thông trí, giáo hóa tất cả chúng sanh.” Bát địa có bốn câu như trên. “Nếu Bồ-tát trú trong trăm vạn ức A-tăng-kỳ số vi trần Phật quốc, làm tam thiền đại Phạm vương, tu trăm vạn ức A-tăng-kỳ số vi trần pháp môn, bốn vô ngại trí giáo hóa tất cả chúng sanh.” Cửu địa có bốn câu như trên. “Nếu Bồ-tát trú trong số Phật quốc không thể nói, làm đệ tứ thiền đại Tịnh Thiên vương, chủ của ba cõi, tu pháp môn không thể nói, không thể nói. Đắc lý tận Tam muội, đồng với hành xứ của Phật, tận hết cội nguồn ba cõi, giáo hóa tất cả chúng sanh như cảnh giới Phật, do đó bổn nghiệp hạnh tịnh của tất cả Bồ-tát, như chư Như Lai mười phương cũng tu nghiệp đó, đăng quả Nhất-thiết-trí làm vua ba cõi, giáo hoá tất cả chúng sanh.” Mười địa có bốn câu như trên. Dùng Tam muội để giáo hoá chúng sanh, dùng định Kim cang để chiếu cùng Phật tính, gọi là “Lý tận”. Thấy như Phật nhãn gọi là “Đồng Phật địa”. Lại nữa, đồng với tịch diệt nhẫn gọi là “Đồng Phật hạnh xứ”. Khéo đoạn dứt hữu đảnh chủng gọi là “Tận nguồn nơi ba cõi.” Phật địa có ba: 1.Từ “Chư Như Lai mười phương…” là tự đắc được quả Nhất-thiết-trí; 2. “Vua tam giới…” sinh tướng tăng thượng; 3.“Giáo hóa tất cả…” là tướng hạnh hóa ích. Hết phần thứ hai, đáp câu hỏi về lợi tha. “Bấy giờ, trăm vạn ức hằng hà sa đại chúng đều từ chỗ ngồi đứng lên, rải vô lượng hoa chẳng thể nghó bàn, đốt vô lượng hương chẳng thể nghó bàn, cúng dường Phật Thích ca Mâu ni và vô lượng đại Bồ- tát, chắp tay nghe vua Ba tư nặc thuyết Bát-nhã Ba-la-mật, nay ở trước Phật, dùng kệ tán:” Từ “Bấy giờ, trăm vạn ức …” là đoạn văn lớn thứ ba. Đại chúng may nhờ pháp lợi, cúng dường. Văn có năm phần: 1.Bày thiết cúng dường; 2.Từ “Nay ở trước Phật…” là Nguyệt Quang tán thán Phật thuyết hành tướng của mười một địa, làm lợi cho chúng sanh; 3.Từ “Thời, chư đại chúng nghe Nguyệt Quang…” là đại chúng nghe được lời tán của Nguyệt Quang, được lợi ích vô lượng; 4.Từ “Phật bảo: chư đắc đạo …” là Phật tán thán Nguyệt Quang đã khởi hạnh lâu dài, những điều đã nói không hư dối: cũng còn gọi là Bổn hạnh của Nguyệt Quang. 5. Từ “Mười bốn pháp môn đó …” là phần kết, nhắc lại pháp môn trên để khuyến khích tu học, cũng gọi là tam thế Phàm, Thánh đồng tu. Phần 1: Cúng dường: Trước là cúng hoa, sau là cúng hương, tán mười bốn Bà nhã, ở hạnh môn thì đó là hoa tâm Bồ-đề, hương giới Đại thừa. Phần 2: Tán. Gồm năm mươi chín bài kệ để tán tụng việc trên, năm mươi chín bài kệ chia làm ba phần chính: 1.Có sáu hàng tụng chung về nghóa trên; 2.Từ “Thập thiện…” mười lăm hàng tụng riêng về công đức mười bốn nhẫn; 3. Từ “Tam hiền…” tám hàng, kết. Khen các công đức năm nhẫn trên. Trong phần sáu hàng tụng chung, có bốn phần; phần một: Là tán thán ba nghiệp của Đức Phật: Thứ nhất là tán thán về thân nghiệp, thứ hai là tán thán về ý nghiệp, câu thứ ba là tán thán về khẩu nghiệp. “Thế Tôn! Đạo sư Kim cang thể Tâm hành tịch diệt chyển pháp luân. Tám biện hồng âm vì chúng thuyết, Thời chúng đắc đạo bách vạn ức. Thời sáu thiên nhân xuất gia đạo Thành Tỳ khưu chúng Bồ-tát hạnh. Năm nhẫn công đức diệu pháp môn Mười bốn chánh só thường rõ đế Ba Hiền mười Thánh hành trong nhẫn Chỉ một mình Phật tận được nguồn. Phật chúng pháp hải tam bảo tạng Vô lượng công đức gồm trong ấy. “Tám biện” là theo kinh Phạm ma dụ: 1.Hay nhất; 2.Dễ hiểu; 3. Điều hòa; 4.Dịu dàng; 5.Không sai lầm; 6.Không vọng; 7.Tôn tuệ; 8. Sâu xa. “Hồng” là âm thanh lớn. Phần hai: Từ “Thời chúng…” một hàng rưỡi; nói về chúng được lợi ích vô lượng. Cõi Trời thì không có pháp xuất gia, nay nói xuất gia là nói theo Phật xuất ra khỏi căn nhà sinh tử. Loài người thì cạo râu tóc xuất gia thành chúng Tỳ khưu. Loài trời thì xả bỏ tục, nhập đạo thành Bồ-tát tăng. Phần ba: Từ “Năm nhẫn…” hai hàng, tán thán chung công đức của năm nhẫn, là pháp môn thâm diệu của hạnh năm nhẫn. Bốn thánh nhân chứng đến cùng cực, không hư giả, gọi là “Rõ đế”. Tập tính đạo chủng, điều tâm học quán; gọi là “Tam Hiền”. “Mười Thánh” là mười địa. Từ Đẳng giác trở xuống, hội với chơn, gọi là Thánh, mười ba người đó đều cùng đang ở vị nhân, vì tạo tu chưa dứt, gọi là hạnh trong nhẫn. Phật ở quả vị, chứng thật tướng cùng cực, gọi là tận nguồn. Phần bốn: Từ “Phật chúng…” một hàng, tán thán một thể tam bảo; Phật là Phật bảo, chúng là tăng bảo, pháp là pháp bảo. Một thể tam bảo bao hàm uẩn súc, gọi đó là tạng, không có đức nào là không có đủ, cho nên bảo là “Gồm ở trong ấy”. Lại nữa, chia sáu hàng trước thành hai phần: Năm hàng đầu tán thán Tam bảo, một hàng sau là kết thán. Năm hàng đầu chia làm ba phần; ba câu đầu là tán thán Phật, ba câu tiếp là tán thán Tăng, hai câu tiếp là tán thán pháp. Từ “Thập Thiện Bồ-tát…” Đây là chúng thứ hai. Có bốn mươi lăm hàng tụng riêng mười bốn nhẫn trên. Trong đó chia làm sáu đoạn: 1. Hai hàng đầu tụng về tiền phương tiện của phục nhẫn trên; 2. Từ “Tập chủng…” có bảy hàng, tụng về công đức của phục nhẫn thượng trung hạ. 3. Từ “Thiện giác…”, có mười hàng, tụng về công đức của tín nhẫn thượng trung hạ; 4.Từ “Diệm tuệ…”, tám hàng, tụng về công đức của thuận nhẫn thượng trung hạ; 5.Từ “Viễn đạt…”, mười hàng tụng về công đức của vô sinh nhẫn thượng trung hạ; 6. Từ “Quán đảnh…”, tám hàng, tụng về công đức của tịch diệt nhẫn thượng hạ. “Bồ-tát Thập Thiện phát đại tâm Trường biệt ba cõi biển khổ luân. Trung hạ phẩm thiện túc tán vương Thượng phẩm Thập Thiện Thiết Luân vương. Tập chủng Đồng luân hai thiện hạ Ngân Luân Tam thiên tính chủng tính. Đạo chủng kiên đức Chuyển Luân vương, Thất bảo kim quang bốn thiên hạ. “Bồ-tát Thập thiện” tức chính là tụng thứ nhất, ngoài phàm phu. Phát một niệm tâm Bồ-đề mà phá tan hữu luân từ vô thuỷ, cho nên bảo là “Trường biệt ba cõi biển khổ luân”. Thập tín tuy chưa xuất ra khỏi tam giới nhưng đã phát đại tâm cầu xuất ra khỏi tam giới, đã có thể lìa ba đường ác, văn gọi chung là “Trường biệt”. Kinh Anh Lạc; gọi là Bồ- tát Tín căn, còn gọi là Bồ-tát giả danh, còn gọi là Bồ-tát danh tự. Nếu một kiếp, hai kiếp, ba kiếp tu Thập tín thì thượng phẩm thiện thiết luân vương, trung phẩm túc tán vương, hạ phẩm thì làm Nhân vương (vua cõi người), trong đó có đầy đủ tất cả phiền não. Trong kinh này thì hạ phẩm Thiện Túc tán vương, đó là ngôi vua trội hơn. Từ “Tập chủng…” là phần tụng thứ hai, bảy hàng, ba mươi tâm phục nhẫn địa tiền; chia làm hai phần; hai hàng trước là tán thán riêng ba phẩm, chia làm ba loại Luân vương. “Phục nhẫn Thánh thai ba mươi người, Mười tín, mười tâm, mười kiên tâm Chư Phật ba đời hành trong đó Đều do phục nhẫn đó mà sinh. Nguồn gốc tất cả hạnh Bồ-tát. Vì vậy phát tâm, tín tâm khó. Nếu đắc tín tâm tất bất thối, Tiến vào đạo vô sinh sơ địa. Giáo hóa chúng sanh hàng trong giác, Ấy là Bồ-tát mới phát tâm. Thiện giác Bồ-tát tứ Thiên vương Song chiếu nhị đế bình đẳng đạo. Quyền hóa chúng sanh đi trăm nước, Mới đăng đạo Nhất thừa vô tướng. Nhập lý Bát-nhã gọi là trụ. Trụ sinh đức hạnh, gọi là địa Một tâm sơ trú đủ đức hạnh Ở đệ nhất nghóa mà bất động.” Từ “Phục nhẫn…” Đây là chúng thứ hai: Tán thán chung ba phẩm gồm năm hàng. Ba mươi tâm chia làm hai phần: 1. Một hàng liệt kê ba mươi tâm phục nhẫn; 2.Từ “Chư Phật ba đời…”, bốn hàng, thán công năng của phục nhẫn. “Thánh thai” là với mười thánh thành ra là mười thai. “Mười tín, mười tâm, mười kiên tâm” là tụng ba mươi tâm trên. Phần thứ hai trong phần thán công năng của phục nhẫn, có bốn hàng, chia làm ba phần; ba câu đầu nói về phục nhẫn có thể sinh ra chư Phật, hiền thánh. Ba câu tiếp nói về công năng phát tâm. Tiếp theo một hàng là Tóm kết. Ba câu đầu chia làm hai phần; câu đầu “Chư Phật ba đời” đó là nêu người sở sinh. Hai câu sau là nói ra gốc của chủ thể sinh. Ba câu tiếp thì có ba phần; câu đầu là tỏ pháp tâm khó. Câu tiếp là tỏ trú thứ bảy thì bất thối. Câu tiếp nữa là đạo chứng được do phương tiện bất thối. Phần thứ ba: Hai câu từ “Giáo hóa chúng sanh…” là kết chung về nhân quả hóa hạnh. Từ “Thiện giác…” mười hàng là phần tụng thứ ba về tín nhẫn, chia làm hai phần; tám hàng đầu là tụng về ba nhẫn của tam địa trên. Hai hàng sau là kết thán. Tám hàng đầu chia làm ba phần: 1.Bốn hàng đều tụng về sơ địa tín nhẫn hạ phẩm trên; 2.Hai hàng tiếp theo tụng về nhị địa tín nhẫn trung phẩm trên; 3. Hai hàng phần một lại chia làm hai phần: 1.Một hàng rưỡi là tán thán công đức của Bồ-tát có thể thống hóa; 2. Có hai hàng rưỡi, nói về công năng nhập địa. Hai câu trước tán thán về trí tuệ thì có ba phần riêng biệt; câu đầu nói về nhiếp báo quả sinh tăng thượng, tiếp là nói về quán hạnh trong địa, chứng hội với vô sinh, đạt chơn hóa tục, thành cùng chiếu bi, trí cùng hành, nên bảo là bình đẳng. Tiếp nữa là nói về sự rộng hẹp của quốc độ trong địa. Trong phần thứ hai, nói về công năng, có năm câu thành năm phần riêng biệt; câu đầu là việt phàm đắc Thánh, nhập đạo Nhất thừa vô tướng. Câu tiếp nói về nhập địa, tâm được nhập thắng lợi, gọi là trú. Câu tiếp nữa là nói về sinh thành trí Phật, gọi là địa, câu tiếp nữa là nói về tâm tướng vô sinh, ngộ lý bất động, nên bảo: “Ở đệ nhất nghóa mà bất động.”. Đoạn thứ hai có hai hàng, tụng về nhị địa trên, tức thành ra bốn câu, câu đầu giải thích tên của địa. “Ly đạt khai só Đao lợi vương. Hiện hình sáu nẻo ngàn quốc độ. Vô duyên vô tướng đế thứ ba Vô vô, vô sinh vô nhị chiếu. Minh tuệ không chiếu Diệm Thiên vương, Ứng hình vạn quốc độ quần sinh. Nhẫn tâm vô nhị tam đế trung Xuất hữu nhập vô biến hoá sinh. Thiện giác ly minh tam đạo nhân, Năng diệt sắc phiền não ba cõi.” “Khai só”; là Bồ-tát đại só. “Đao Lợi”; là địa trung vương. Câu thứ hai là nói về hoá độ rộng hẹp. Câu ba “Vô duyên” là không có duyên bên trong tâm. “Vô tướng”; là không có tướng của nhị đế, lìa tướng duyên đó, gọi là đế thứ ba. Lại nói: vô duyên tri tâm, vô duyên vô tướng là sắc vô tướng, cả hai đều thể không, gọi là đế thứ ba. “Vô vô”; tức là không có hai đế chơn và tục. “Vô sinh”; tức chính là vô sinh của sơ địa. “Vô nhị chiếu”; không có hai kiến chơn và tục, nên bảo là vô nhị chiếu. Phần thứ ba: Từ “Minh tuệ …”, hai hàng, tụng về tam địa tín nhẫn thượng phẩm, có bốn phần; câu thứ nhất là giải thích tên của địa, là vương trong địa. Câu thứ hai, nói về cõi của đối tượng giáo hóa. Câu thứ ba nói về tín nhẫn thượng phẩm nhập tam đế, chiếu cảnh cùng tận, sắc tâm không đế, gọi là tam đế trung. Câu thứ tư, “Xuất hữu nhập vô” là nói về Bồ-tát tam địa duyên với hữu mà hóa sinh nhưng không chấp, tức là “Xuất hữu”. Ngay ở hữu mà biết là không, gọi là “Nhập vô”. Thần thông đổi khác, nên bảo là “Biến hóa sinh”. Từ “Thiện giác ly minh…” là hai bài kệ, tụng chung về tín nhẫn trên, câu thứ nhất là tụng ba vị trước. “Giác” là sơ địa. “Ly”; là nhị địa. “Minh” là tam địa, nên bảo là “Tam đạo nhân”. Câu thứ hai là tán thán về đoạn đức. “Hay diệt ba cõi sắc phiền não”; là nói về địa đoạn tướng, xứ đó là biến hóa sắc phiền não. “Lại quán ba cõi thân khẩu sắc Pháp tính đệ nhất chiếu không sót. Diệm tuệ diệu quang đại tinh tiến, Đâu suất Thiên vương đi ức cõi. Thật trí duyên tịch đạo phương tiện, Đạt vô sinh chiếu không hữu rõ Thắng tuệ ba đế tự đạt minh. Hoá lạc Thiên vương trăm ức nước. Không không đế quán vô nhị tướng. Biến hóa sáu nẻo nhập vô gián. Pháp hiện khai só tự tại vương, Vô nhị, vô chiếu đạt lý “không”. “Thân khẩu sắc” là biến hoá sắc. Quán sắc đồng với pháp tính, nên “Chiếu không sót” Từ “Diệm tuệ…” là đoạn thứ tư: Gồm tám hàng, tụng về thuận nhẫn thuộc tứ địa trở lên. Trong tám hàng đó, có hai đoạn; sáu hàng đầu tụng về thuận nhẫn trên, hai hàng sau là Tóm kết. Sáu hàng đầu có ba phần; hai hàng đầu tụng hạ phẩm, hai hàng tiếp là tụng về trung phẩm, hai hàng tiếp nữa là tụng về thượng phẩm. Hai hàng đầu thành bốn câu; trong câu thứ nhất; “Tinh tiến” là tăng thượng tinh tiến của tứ địa. Câu thứ hai là nói về cõi hóa độ của vương trong địa. Câu thứ ba; “Thật trí”: tứ địa hóa khiến chứng tha, nên gọi là “Thật trí”. Thanh tịnh không chấp trước, tức chính là “Đạo phương tiện”. Thật trí đó là phương tiện thật địa xứng thật, nên bảo là “Duyên thật”. Thật trí thì quán không, phương tiện trí thì chiếu hữu, nên bảo là “Đạt vô sinh, chiếu không hữu rõ”. Từ “Thắng tuệ…”, hai hàng bốn câu, tức thành ra bốn phần; câu đầu là tên của địa, tự đạt tam minh. Câu thứ hai là nói về giáo hóa cõi của vương trong địa. Câu thứ ba: “Không không”; là vì không sót không, nên bảo là không không. “Vô nhị tướng”; là không có tướng hai đế. Câu thứ tư là nói về hoá sinh nơi sáu đường. Từ “Pháp hiện…” tụng về lục địa, bốn câu, tức thành ra bốn phần. “Pháp hiện”; là địa hiện tiền. “Khai só”; tức chính là người trong địa, gọi là đại só, cũng còn gọi là khai só. “Tự tại vương”; tức là gồm thâu báo quả. “Vô nhị, vô chiếu” tức lý không. “Ba đế hiện tiền đại trí quang, Chiếu ngàn ức cõi giáo tất cả. Diệm thắng pháp hiện định vô tướng, Tẩy được ba cõi tâm mê hoặc. Không tuệ tịch nhiên quán vô duyên, Hoàn quán tâm không vô lượng báo”. “Ba đế”; tức là đế thứ ba. “Hiện tiền”; tức là đại trí hiện tiền. “Chiếu ngàn ức”; tức là cõi của đối tượng giáo. Từ “Diệm thắng…” hai hàng, bốn câu là tụng chung, câu kết trên; câu đầu bốn chữ tụng về tam địa trên; “Diệm” là tứ địa, “Thắng” là ngũ địa, “Hiện” là lục địa. Ba chữ sau là công năng củA-nan Thắng địa. Câu tiếp theo là đoạn chướng, nên bảo là “có thể rửa sạch tâm mê hoặc”. Câu tiếp nữa là nói về thật trí làm tắt duyên, duyên và quán đều dứt bặt, nên bảo là “tịch nhiên quán vô duyên”. Câu tiếp nữa “Hoàn quán tâm không”; chẳng phải là không quán sắc, vì theo đa phần mà bảo là “Quán tâm không” “Vô lượng báo” là phương tiện trí, vô lượng công đức báo. “Viễn đạt vô sinh sơ thiền vương, Thường vạn ức cõi hóa chúng sanh, Chưa độ báo thân còn một sinh, Tiến vào Đẳng Quán pháp Lưu Địa. Mới nhập Kim cang nhẫn vô duyên, Báo hình ba cõi mãi không thọ. Quán nghóa thứ ba vô nhị chiếu, Hai mươi mốt sinh hạnh không tịch. Ái tập ba cõi thuận đạo định, Viễn đạt chánh só riêng rõ đế. Từ “Viễn đạt…” là đoạn thứ năm, có mười hàng, kệ tụng về vô sinh nhẫn địa thứ bảy trở lên, chia làm ba đoạn; năm hàng đầu tụng về vô sinh nhẫn hạ phẩm thuộc địa thứ bảy trên. Ba hàng tiếp tụng về vô sinh nhẫn trung phẩm thuộc địa thứ tám. Hai hàng tiếp nữa, tụng về vô sinh nhẫn thượng phẩm thuộc địa thứ chín. Trong năm hàng đầu tức là mười câu; trong câu đầu; “Viễn đạt” là thất địa, gọi là địa viễn đạt. Kinh Đại phẩm gọi là thâm nhập vô sinh, tức là hạnh trong địa, “Sơ thiền vương” tức là vương trong địa, mượn tướng để hiểu rõ nghóa. Trong câu thứ hai; “Vạn ức” là nói về cõi thuộc đối tượng giáo hóa có sai biệt nên bảo là “Vạn ức cõi”. “còn một sinh”; Địa tiền thì có phân đoạn sinh, sơ địa trở lên thì chỉ có biến dị sinh. Nay nói là “Thất địa còn một sinh” là mượn tướng để giải nghóa, nên bảo là “Báo thân còn một sinh tại”. Lại có giải thích; thất địa công dụng sinh tức là biến dị sinh, nên nói là còn “Một sinh”, bát địa trở lên không có công dụng sinh, chỉ có vô công dụng biến dị sinh. Song quán, nên nói là “Đẳng”. Vô công dụng khởi đầu, nên nói là “Pháp lưu”. “Mới nhập”; là bối công dụng tướng sinh cho nên nói là “Thủy nhập”. Dứt trừ tướng kiên cố, nên bảo là “Vô duyên Kim cang nhẫn”. Ly tập của tam giới, nên bảo là “Không thọ”, lại nói; không thọ phân đoạnbáo vị lai, nên bảo là “Báo hình ba cõi mãi không thọ”. Bát địa trở lên còn thọ thân nhị thiền, đó là biến dị. Đắc trung đạo đệ nhất nghóa, nên bảo là “Vô nhị chiếu”. Từ sơ địa đến thất địa, mỗi địa có ba sinh, nên bảo là “Hai mươi mốt sinh”. Đạt pháp vô sơ hữu, nên bảo là “Không tịch hạnh”. “Ái tập ba cõi” là vô minh tập trong ba cõi. “Riêng rõ đế”; là Bồ-tát thất địa tõ rõ công dụng vô tướng, nên bảo là “Riêng rõ đế”. “Đẳng quán Bồ-tát nhị thiền vương, Pháp thân biến sinh vô lượng quang Nhập trăm hằng cõi hoá tất cả Viên chiếu sự hằng kiếp ba đời. Phản chiếu lạc hư vô tận nguồn Ở đệ tam đế thường vắng lặng. Từ “Đẳng quán…” ba hàng, sáu câu, tụng về bát địa trên. Thành là sáu phần: câu đầu “Nhị thiền vương” là người làm lợi tha. Bồ-tát bát địa quên công dứt tướng, cùng quán nhị đế, tu khắp vạn hạnh, nhập vào giòng nước đại pháp, quán ngang cả không và hữu, nên bảo là đẳng quán. Câu thứ hai, nói về bát địa trở lên, đắc đại pháp thân, gọi là thân lợi tha. Câu thứ ba “Nhập trăm hằng cõi”; đó là hạnh lợi tha. Câu thứ tư; “Viên chiếu hằng kiếp” là trí lợi tha. Câu thứ năm; bát địa trở lên, đắc trí phản chiếu, khổ và lạc đều hư giả, nhưng người thế gian đa phần cho khổ là thật, lạc là giả. Nay ở đây, Bồ-tát bát địa, quán hư và thật đều bình đẳng, tận ở nguồn vô tận. Lại có giải thích; phản chiếu tính của lạc thọ là khổ, gọi là hư giả. Từ vô thủy đều khổ, gọi là nguồn vô tận. Câu thứ sáu; trung đạo Đệ-nhất-nghóa-đế không dời đổi, nên bảo là “Thường vắng lặng”. “Tuệ quang khai só tam thiền vương. Hiện được cùng lúc ở ngàn hằng. Thường tại vô vi hạnh không tịch, Hằng sa Phật tạng một niệm rõ. Từ “Tuệ quang khai só…”, bài kệ bốn câu, hai hàng, tụng về địa thứ chín trên. Trong câu đầu; “Tam thiền vương” là nói về người lợi tha. Câu thứ hai; “Cùng túc”; là thân lợi tha. Câu thứ ba; tán thán hạnh vô công dụng. Câu thứ tư; tán thán vô công dụng về trí giáo, cho nên bảo là “Một niệm rõ”. “Bồ-tát Quán đảnh Tứ thiền vương, Ở ức hằng cõi hóa quần sinh. Mới nhập Kim cang rõ tất cả, Hai mươi chín sinh đã độ mãi. Tịch diệt nhẫn trung hạ nhẫn quán, Nhất chuyển diệu giác thường an nhiên Đẳng tuệ quán đảnh tam phẩm só, Trừ dư tập trước vô minh duyên. Tập tướng vô minh nên phiền não, Nhị đế lý cùng tất cả tận. Từ “Quán Đảnh Bồ-tát…” là đoạn thứ sáu, có tám hàng, tụng về tịch diệt nhẫn trên, có hai đoạn; đoạn đầu năm hàng, tụng về thập địa tịch diệt nhẫn hạ phẩm. Đoạn sau ba hàng tụng về tịch diệt nhẫn thượng phẩm. Mười câu trong năm hàng đầu; “Quán đảnh” là ở trên mười ba pháp sư, tức là đảnh đầu của chư sư, nên gọi là quán đảnh. Nói “Ngũ địa vương” là cõi dục và tứ thiền vương, cũng có thể là năm tịnh cư vương, đó là tỏ về lợi tha. Trong câu thứ hai “Ở ức hằng cõi” là tỏ về hạnh ích người. Câu thứ ba; Kim cang tâm bắt đầu đạt được kiên cố, nên bảo là “Thuỷ nhập Kim cang rõ tất cả”. Câu thứ tư; “Hai mươi chín”; mười địa thì phải là ba mươi sinh, vì sao chỉ nói hai mươi chín sinh, vì lưu lại một sinh, đến Phật địa mới tận hết. Câu thứ năm nói “Hạ nhẫn quán” là kết về Bồ-tát mười địa, để nói rõ nhân sai biệt. Câu thứ sáu; “Một chuyển Diệu giác” là tỏ về đắc quả sai biệt. Câu thứ bảy; “Đẳng tuệ quán đảnh tam phẩm só” là tụng chung để kết địa thứ tám, chín, mười trên. Cùng đắc một tịnh độ, nên gọi là tam phẩm só. “Đẳng” tức là bát địa, “Tuệ” tức là cửu địa, “Quán đảnh” là mười địa. Câu thứ tám, ba câu sau là tỏ về lìa chướng sai biệt: “Trừ tiền dư tập vô minh duyên”; bát địa trở lên chỉ đoạn dứt các tập phiền não của vô minh sắc, tâm, nên bảo là “Trừ tiền dư tập vô minh duyên”. “Vô minh tập tướng nên phiền não” là các phiền não cũ, tứ trụ địa là khách phiền não. Chủ thể và đối tượng đều dứt bặt, cảnh và trí đều tịch lặng, nên bảo là “Lý cùng tất cả tận”. “Viên trí vô tướng vương tam giới, Ba mươi sinh tận, đẳng đại giác. Đại tịch vô vi Kim cang tạng, Tất cả báo tận, bi vô cực. Đệ-nhất-nghóa-đế thường an ổn. Cùng nguồn tận tính, diệu trí còn”. Từ “Viên trí vô tướng…” là phần hai. Ba hàng, tụng về Phật địa thượng nhẫn, tức thành sáu phần; “Viên trí”; là cảnh hết, trí không, gọi là viên trí, tức là Nhất-thiết-chủng-trí. “Vương tam giới” là pháp vương vô thượng, cũng là mười ba vương, ngoài Phật ra là pháp luân vương. “Ba mươi sinh tận” mười địa, mỗi địa có ba sinh đã hết. Nhân đã thành, quả đã chín, nên bảo là “Đẳng đại giác”. “Đại tịch vô vi”; tức là nhẫn trên đã nói. “Kim cang” là Kim cang không có hoặc. Nói “tất cả báo tận”; là phân đoạn và biến dị đều hết, nói “Bi vô cực” là nói về ân đức đó, tức là đại bi vô duyên. “Đệ-nhất-nghóa-đế thường an ổn”; là thật tính Niết-bàn, tinh nhất trong lý, gọi là “Đệ nhất”. Có nguyên do sân xa, gọi là “Nghóa”. Biết tất cả pháp, tướng không hai nên bảo là “thường an ổn”. “Cùng nguồn tận tính”; nhân hết gọi là “Cùng nguồn”. Kiến đã kết thúc, gọi là “Tận tính” chủng trí thường tại, nên bảo là “Diệu trí còn”. Bốn mươi lăm hàng trên, đã hết phần tụng riêng về năm nhẫn. “Ba Hiền thánh Trú quả báo, Chỉ một mình Phật cư tịnh độ. Tất cả chúng sanh tạm trú báo, Lên nguồn Kim cang cư tịnh độ. Ba nghiệp Như Lai, đức vô cực, Nay con Nguyệt Quang lễ Tam Bảo. Pháp vương vô thượng, cây trong người, Che trùm đại chúng vô thượng quang. Miệng thường thuyết pháp chẳng vô nghóa, Tâm trí tịch diệt chiếu vô duyên. Sư tử cõi người vì chúng thuyết, Đại chúng hoan hỷ rải hoa vàng Trăm ức vạn cõi, sáu đại động, Sinh bao gồm sinh thọ diệu báo. Thiên Tôn! Đã nói mười bốn vương, Nên con nay lược tán thán Phật.” Từ “Ba Hiền mười Thánh…” là đoạn lớn thứ ba. Tám hàng Tóm kết năm nhẫn, trong đó có ba phần: 1. Hai hàng đầu nói về tịnh độ sai biệt; 2.Một hàng, tán thán công đức nơi ba nghiệp của Như Lai; 3.Năm hàng sau tán thán về ba nghiệp ích vật. Câu đầu nói: “Ba Hiền mười Thánh trú quả báo” là trú phân đoạn và cõi của biến dị báo. Lại nữa, ba Hiền trú phân đoạn cùng cư ở cõi một báo, mười Thánh thì trú thật báo, cõi báo vô chướng ngại. Câu thứ hai nói: “Duy chỉ Phật” là không có một người nào trú nơi cõi thường tịch quang. Câu thứ ba nói; “Tạm trú báo” là hai só trước đều là sinh diệt vô thường. Câu thứ tư nói; “Nguồn Kim cang” là duy chỉ một mình Phật cư ở thuần tịnh Tịnh Độ. Phần thứ hai một hàng: Câu đầu tán thán về khẩu nghiệp. Câu sau tán thán thân nghiệp, văn đã rõ. Phần thứ ba: Năm hàng sau tán thán về ba nghiệp lợi ích. Trong đó, hàng đầu nói “Pháp vương vô thượng cây nơi cõi người”. Là nói về hào quang của thân làm ích cho vật. Như Lai vô thượng pháp vương, đạo ương, che chở tất cả, dụ như cây ở thế gian, che chở cho đại chúng. Hàng thứ hai câu đầu thán về miệng nói, Như Lai thuyết thường và vô thường, tất cả pháp đều có nguyên do thâm sâu, nên bảo là “Chẳng vô nghóa”. Câu sau tán thán về ý nghiệp tịch, đại tịch Tam muội của Như Lai, không duyên mà chiếu, nhân và duyên cùng nhau tịch lặng, nên bảo là “Vô duyên chiếu”. Hàng thứ ba: Nói về Sư tử hống, thuyết giảng để trừ nghi, làm cho chúng sanh hoan hỷ. Hàng thứ tư thân thông cả sáu động, làm cho chúng sanh đắc quả. Hàng thứ năm kết thán về Thiên tôn khéo giảng thuyết: Phật xuất thế là biểu hiện cho Thiên Tôn, nên bảo là “Thiên Tôn khéo giảng thuyết”. “Mười bốn vương” là Tập chủng Đồng Luân, Tính chủng Ngân Luân. Đạo chủng Kim Luân vương, thập địa là mười, thì thành mười ba, Phật là tam giới vương, hợp mười ba vương trước thành là mười bốn vương. “Do đó, con nay lược tán thán” Nguyệt Quang tự khiêm tốn, Tuệ quang mỏng nhỏ, không thể rộng tán thán trí của Như Lai, nên bảo “Lược tán thán Phật”. “Bấy giờ chư đại chúng nghe Nguyệt Quang vương tán thán mười bốn vương với vô lượng công đức tạng, đắc đại pháp lợi, liền ở nơi chỗ ngồi có mười hằng hà sa Thiên vương, mười hằng hà sa Phạm vương. Mười hằng hà sa Quỷ thần vương, cho đến ba cõi, đắc vô sinh pháp nhẫn. Bát bộ A-tu-luân-vương, hiện chuyển thân quỷ, trên trời thọ nhận đạo, có người thì ba sinh nhập chánh vị, hoặc có người thì bốn sinh, năm sinh, cho đến mười sinh thì đắc nhập chánh vị, chứng Thánh nhân tính, đắc tất cả vô lượng quả báo.” Từ “Bây giờ chư đại chúng…” là phần ba. Nói về đại chúng nghe pháp được lợi ích. Cả hàng dài có ba đoạn: 1. Nói về chư Thiên, nhân đắc lợi ích; 2.Từ “Cho đến…” ba cõi đắc lợi ích; 3.Từ “Ba sinh…”; đắc đạo lâu mau khác nhau, được ích nhanh chậm. Phần một: Nói về Thiên vương đắc vô sinh nhẫn. Đối với riêng thì thất địa trở lên, gọi là vô sinh nhẫn, còn đối với chung thì sơ địa trở lên gọi là vô sinh nhẫn. “Ba cõi đắc ích”; vô sinh thông cả trên dưới. “Ba cõi”; là ba cõi người, Trời, Thần. Chẳng phải là tam đồ, vì tam đồ không kham nổi, không thọ nhận đạo. “Bát bộ” là ở dưới bốn Thiên vương có bốn Tu-la-vương: 1. La-hầu-A-tu-la-vương; 2.Tỳ-ma-chất-đa-la-a-tu-la-vương; 3. Ban-lợi- tu-la-vương; 4.Tỳ-lâu-đồ-a-tu-la-vương. Ở dưới núi Tu di còn có bốn đại A-tu-la: Khủng-miệu. Phú-lâu-ma. Bà-la-ha. Đâu mâu lâu, nên bảo là “Bát-bộ-A-tu-la”. Dẫn từ cuốn Tam Tạng ký. Từ “Ba sinh…” là phần ba, nói về nhập đạo lâu mau, có bốn câu; ba sinh, bốn sinh, năm sinh, mười sinh, trải qua khác nhau, lâu hay mau khác nhau. Sau khi đã được nghe pháp còn phải trải qua ba, bốn đời mới đắc nhập, gọi là “Chánh vị” thì có hai nghóa: 1.Nhân không chánh vị. Mười giải trở lên thì đắc nhân không; 2. Pháp không chánh vị. Sơ địa trở lên thì đắc vô sinh chánh vị. <篇> NHÂN VƯƠNG BÁT NHà KINH SỚ <卷>QUYỂN 4 Phật bảo với chư thiên chúng đắc đạo quả thật: “Thiện nam! Nguyệt Quang vương này đã là khai só tứ trụ nơi pháp của Long Quang vương Phật trong mười ngàn kiếp thời quá khứ, Ta là Bồ-tát Bát trụ. Nay ở trước Ta là đại sư tử gầm vang như vậy! Như vậy!” Từ “Phật bảo…” là phần bốn, Phật kể lại Nguyệt Quang lâu đã cúng nhiều Phật. Văn có năm đoạn: Phát bổn tích của Nguyệt Quang. Từ “Như vậy! Như vậy!…” là lược thuật. Từ “Thiện nam!…” thuật rộng về hữu tâm đắc và vô tâm đắc. Từ “Ấy nhờ công đức của Bát-nhã…” chẳng thể nghó bàn. Tán thán Bát-nhã quên lời lìa chấp trước, như gió thổi trong bầu trời; 5. Từ “Thiện nam! Công đức tạng này…” phần công đức, so sánh sự hơn kém giữa những điều Nguyệt Quang đã thuyết và mười ba pháp sư đã thuyết. Trong phần một, phần phát tích. Có hai phần: 1. Bảo chúng Hiền Thánh đắc đạo ở trên trời; 2.Từ “Thiện nam!…” là bổn tích của Nguyệt Quang. “Tứ trụ”; là nghóa rõ của Thập địa, tức là đệ tứ Diệm-địa. “Bát trụ” tức đệ bát Bất-động-địa. “Sư tử gầm vang” là khen lời giáo đó liễu nghóa, là lời nói quyết định. Từ “Như vậy!…” là phần hai: Lược thuật. Trong đó có hai câu: Thuật những điều Nguyệt Quang đã thuyết; 2.Dẫn Phật để chứng thành. “Như vậy! Như vậy!” là ý nói được, đúng. “Như ông đã hiểu, nói được chơn nghóa, không thể nghó bàn, không thể lường xét, chỉ Phật với Phật, mới biết việt ấy. Thiện nam! Những điều đã thuyết đó; mười bốn Bát-nhã Ba-la-mật, ba nhẫn, mỗi địa thượng trung hạ thành ba mươi nhẫn, tất cả hạnh tạng, tất cả Phật tạng, đều không thể nghóa bàn. “Như ông đã hiểu” là xưng về nghóa đó. “Không thể nghó bàn” là tên gọi khác của chánh quán vô đắc. “Không thể lường xét; là chẳng phải cảnh giới thuộc nhị thừa ngòi vị dưới. “Duy chỉ Phật với Phật …” là phần hai. Dẫn Phật để chứng chứng thành những điều Nguyệt Quang đã thuyết. Từ “Thiện nam!…” là phần ba, rộng thuật. Văn có bốn phần: 1. Lược thuật mười bốn nhẫn; 2. Từ “Vì sao?…” Là rộng thuật công năng của mười bốn nhẫn; 3. Từ “Tất cả chúng sanh…” là nêu không để thích thành; 4. Kết: vô tâm đắc. Trong phần một, lược thuật mười bốn nhẫn: “Mười bốn Bát-nhã” là nhắc lại mười bốn nhẫn đã nói trên, gọi là mười bốn Bát-nhã, tên gọi tuy khác nhưng thể thì cùng một. Phần sau là nói riêng mười bốn nhẫn. “Ba nhẫn” là ba nhẫn trong phục nhẫn, tín, chỉ, kiên nhẫn. “Mỗi địa, thượng, trung, hạ thành ba mươi nhẫn”; có hai nghóa: 1.Mỗi thập địa đều có thượng, trung, hạ thành là ba mươi nhẫn; 2.Ở trong phục nhẫn thì tập chủng là hạ, tính chủng là trung, đạo chủng là thượng, ba vị, mỗi vị đều có mười, nên thành là ba mươi nhẫn. “Tất cả hạnh tạng”; tức chính là nhân tạng. “Tất cả Phật tạng” đó là quả tạng. Tức chính là viên giác nhẫn của chư Phật, kể cả mười ba thứ trước thành là mười bốn Bát-nhã. Nhân, quả đều chứng vô sở đắc, gọi là Bất “Chẳng thể nghó bàn”. “Vì sao? Vì tất cả chư Phật ở trong ấy sinh ra, ở trong ấy diệt, ở trong ấy mà giáo hóa, nhưng vô sinh, vô diệt, vô hóa, vô tự, vô tha. Đệ nhất vô nhị, phi hóa, phi bất hóa, phi tướng, phi vô tướng, vô lai, vô khứ, như hư không.” Từ “Vì sao?…” là phần hai, rộng thuật công năng của mười bốn nhẫn. Văn có hai phần: 1. Xuất mà dụng; 2. Ngộ mà nhập. Xuất mà dụng: Chư pháp vốn tự bất sinh, nay cũng bất diệt, vì nhân duyên nên trong vô phân biệt vì chúng sinh mà thuyết có sinh, diệt. Văn nói “Tất cả chư Phật từ trong ấy sinh ra”; là nương theo nhẫn mà hóa hiện thành Phật, gọi là sinh. “Trong ấy diệt”; là diệt hoặc mà hóa ẩn, gọi là diệt. “Trong ấy hóa” là nương theo nhẫn mà giáo hóa chúng sanh. Ngộ mà nhập: Nói về vô sinh, vô diệt,… văn nói; “Vô sinh, vô diệt, vô hóa”: Vì duyên mà xuất dụng, thuyết các việc sinh, diệt, hóa,… nếu biết sinh tức vô sinh, diệt tức vô diệt thì không cần mượn lời mà nói. Vì e chúng sanh theo với danh tên mà chấp trước tướng, nên lại nói lại; gọi là sinh đó là vô sinh, vô diệt, vô hóa,… lấy vô sinh để phá cái sinh. Sinh trước kia, lấy vô diệt để phá cái diệt trước kia, lấy vô hóa để phá cái hóa sinh trước kia. “vô tự vô tha”; tự tâm bất sinh gọi là bất tự. Tự thấy tiền cảnh, gọi là vô tha. Lại rằng; không thấy mình gọi là diệt ngã. Không thấy người; gọi là diệt ngã sở. “Đệ nhất vô nhị”; cảnh và trí đều tịch lặng, cho nên bảo là đệ nhất vô nhị. “phi hóa, phi bất hóa”; là vô đắc chánh quán, cư tâm có lúc, có khi nói hóa là bất hóa, có khi nói bất hóa là hóa, nên bảo là “phi hóa phi bất hóa”. Không thể lấy tâm định chấp của người thường mà hiểu lời văn. “Phi vô tướng”; vì e chúng sanh nghe nói ngộ nhập, thì cho đều là vô sở hữu, cho nên bảo là phi vô tướng. Như kinh Đại phẩm nói: “vô sở đắc nghóa là đắc như vậy, đắc vô sở đắc”. “Vô lai, vô khứ”; không từ đâu đến, không đi về đâu, cho đến vô y, vô đắc, nên bảo là “như hư không”. “Tất cả chúng sanh không có sinh, diệt. Không có buộc, mở. Chẳng nhân chẳng quả, chẳng không nhân quả. Phiền não, ngã, nhân, tri kiến, thọ giả, ngã sở, vì tất cả khổ thọ hành không, tất cả pháp tập huyễn hóa, năm ấm không hợp không tan, pháp đồng với pháp tính, tịch nhiên không. Pháp cảnh giới không, rỗng lặng vô tướng, không chuyển, không điên đảo, không thuận với huyễn hóa.” Từ “tất cả chúng sanh…” là phần ba. Nêu không thể thích thành, trong đó có năm đoạn nhỏ: 1.Chúng sanh không; 2.Từ “tất cả khổ thọ…”; nói về pháp không; 3. Từ “pháp cảnh giới…”; cảnh không; 4. Từ “không có tam bảo…”; Phàm, Thánh không; 5. “Bát-nhã vô tri…” là tri không. Phần một: Nói về sinh không: văn nói; “chúng sanh không có sinh, diệt”; chúng sanh vốn vô sở đắc vì lìa khổ, nên bảo là vô sinh vô diệt. Vì lìa tập, nên bảo là “không bị trói buộc, không được giải mở”. Vô tập, nên chẳng phải nhân. Vô khổ, nên chẳng phải là quả. Vì nhân duyên mà tuỳ theo tục, phi bất nhân quả. Chúng sanh giả danh, phi vô thật tính nhân, phi vô Niết-bàn quả. (Chẳng phải là không có nhân Phật tính, chẳng phải là không có quả Niết-bàn). Chúng sanh sanh tử, gọi là “phiền não”. Trong năm ấm sinh ra, gọi là Ngã. Hành giả giả danh, gọi là nhân. Ý thức, gọi là tri biết, nhãn thức gọi là thấy. Mệnh căn không dứt, gọi là thọ giả. Phần hai: Nói về pháp không. Văn nói: “Vì tất cả khổ, thọ, hành không”; quán tất cả khổ ở trong năm ấm đều không. Năm ấm hòa hợp, gọi là pháp tập. Vì không có thật, gọi là huyễn hóa. Năm ấm vốn thanh tịnh, cho nên bảo “không hợp, không tan”. Vì thể biết năm ấm tức là chơn như, nên bảo là “pháp đồng pháp tính, tịch nhiên không”. Phần ba: Nói về cảnh không. Văn nói “pháp cảnh giới không” tâm chủ thể quán đã tịnh, cảnh nơi đối tượng quán cũng không, nên bảo là cảnh giới không. Trong môn thật tướng thì vô tướng bất tướng, nên bảo là “không chuyển”, vì lìa hoặc nên gọi là “không điên đảo”. Vì lìa giải, hiểu, nên gọi là “không thuận”. Biết các pháp đều không, nên gọi là huyễn hóa. “Không tam bảo, không Thánh nhân, không sáu đường, vì như hư không. Cho nên Bát-nhã vô tri, vô kiến, bất hành, bất duyên, bất nhân, bất thọ, bất đắc tất cả chiếu, tướng. Hành đạo tướng, hành đạo tướng ấy như hư không, pháp tướng như vậy, thì lấy gì để hữu tâm đắc, vô tâm đắc.” Phần bốn: Nói về Phàm Thánh không. “Không tam bảo, không Thánh nhân” là Thánh không. Không sáu đường”; là phàm không. Phần năm: Nói về trí không, văn nói: “Bát-nhã vô tri” Bát-nhã là trí tuệ. Nay nói “vô tri” là tuyệt ở tướng của tri biết, nên nói là “vô tri”. Vô tri, vô kiến, quên ở kiến tri. Duyên và quán đều tịch lặng, nên nói là “bất hành, bất duyên. Không thọ nhận danh Bát-nhã, nên nói là “bất nhân, bất thọ”. Bên trong chứng chơn như, nên bảo là “bất đắc tất cả các tướng của chiếu”. Các pháp vô sở hữu, nên bảo là “hành đạo tướng ấy như hư không”. Lại cũng nói: vì vô phân biệt, cho nên đồng với hư không. Phần thứ tư. Kết. Pháp tướng như vậy. Tận hết đều không thì lấy gì để hữu tâm đắc hay vô tâm đắc. Lại nêu; vì ly tướng hữu, nên không thể hữu tâm đắc. Vì lìa tướng vô, nên không thể vô tâm đắc. “Ấy vì công đức Bát-nhã không thể hành trong chúng sanh mà hành, không thể hành trong pháp năm ấm mà hành, không thể hành trong cảnh mà hành. Không thể hành trong giải mà hành. Vì vậy, Bát- nhã là chẳng thể nghó bàn, chư Phật Bồ-tát hành trong đó, cho nên cũng là chẳng thể nghó bàn. Chư Như Lai giáo hóa ở trong pháp huyễn hóa vô trụ, cũng là chẳng thể nghó bàn”. Từ “ấy vì công đức Bát-nhã…” là đoạn lớn thứ tư, nói về Bát-nhã quên lời lìa chấp trước, trong đó có hai phần: 1. Nương theo không mà khởi hạnh; 2. Thán thuyết. Ở trong phần khởi hạnh, có bốn câu: 1.“không thể hành trong chúng sanh mà hành”; vì sinh không, vô sở hữu; 2.Không thể hành được trong năm ấm mà hành; vì pháp không, vô sở hữu; 3. “Không thể hành được trong cảnh mà hành”; vì cảnh không, vô sở hữu; 4.“không thể hành trong giải mà hành”; vì tri không, vô sở hữu. Phần thứ hai: Tán thán thuyết, có ba phần: 1. “Vì vậy, Bát-nhã là chẳng thể nghó bàn” là tán thán mười bốn Bát-nhã; 2.“xuất sinh ba đời chư Phật chẳng thể nghó bàn”; 3. Biết tục là hư huyễn nhưng hóa ích. “Thiện nam! Công đức tạng này, giả sử vô lượng hằng hà sa khai só quán đảnh thứ mười ba thuyết công đức ấy trong trăm ngàn ức phần, như vương đã nêu, như giọt nước biển. Ta nay lược thuật, phân nghóa công đức, có đại lợi ích cho tất cả chúng sanh, cũng vì từ quá khứ đến nay, vô lượng chư Như Lai đã nói ra được. Ba Hiền mười Thánh, tán thán vô lượng phân nghóa công đức của Nguyệt Quang vương đó. Từ “Thiện nam!…” là đoạn lớn thứ năm, thuyết về rộng hẹp. Trong đó có hai phần: 1.Chánh hẹp rộng; 2. Từ “Ta nay…” là tán thán lợi ích của sư thuyết giảng. Ở phần một: Tán thán những điều Nguyệt Quang đã nói, công đức như nước biển lớn, Bồ-tát Thập Địa thuyết, như nước biển lớn. Vì là đặc biệt, cho nên kinh nói: Khai só Quán Đảnh thuyết công đức ấy trong trăm ngàn ức phần, những điều vương nói như giọt nước biển, không bằng Bồ-tát Thập Địa thuyết như biển lớn. Ở phần hai: Lợi ích, có ba phần: 1.Từ “Ta nay…” là dựa theo những điều Phật Thích ca nói để làm rõ những điều Nguyệt Quang đã nói thật có thể lợi ích cho chúng sanh; 2.“Từ quá khứ đến nay: …” là dựa theo chư Phật ba đời để ấn được; 3.Từ “ba Hiền…” là dựa theo bốn mươi Hiền, Thánh để tán thán phần nghóa công đức của Nguyệt Quang đã hết phần so sánh. “Thiện nam! Mười bốn pháp môn đó, tất cả chúng sanh ba đời, tất cả ba thừa, tất cả chư Phật đều tu tập, chư Phật vị lai cũng lại như vậy. Như tất cả chư Phật Bồ-tát không từ môn đó mà đắc Nhất-thiết-trí thì không có việc đó. Vì sao? Vì tất cả chư Phật, Bồ-tát không có con đường nào khác, do đó, tất cả chư Thiện nam! Như có người nghe pháp môn các nhẫn; tín nhẫn, chỉ nhẫn, kiên nhẫn, thiện giác nhẫn, ly đạt nhẫn, minh tuệ nhẫn, Diệm tuệ nhẫn, thắng tuệ nhẫn, pháp hiện nhẫn, viễn đạt nhẫn, đẳng giác nhẫn, tuệ quang nhẫn, quán đảnh nhẫn, viên giác nhẫn.” Từ “Thiện nam! Mười bốn pháp môn đó…” là đoạn lớn thứ năm. Nhắc lại những điều đã nói, khuyến tu học. Trong đó có ba phần: 1. Ba đời cùng tu, hiển bày hạnh đặc biệt; 2. Từ “nếu có người nghe…” là thán ích khuyến tu; 3.Từ “thời, trong các chúng, có mười ức…” là nghe thuyết mà thu được ích lợi. Trong văn phần một có ba phần: 1. Nói về ba đời đồng tu, đồng thuyết; 2.“Nếu chư Phật Bồ-tát không do từ…” nguyên do đồng tu đồng thuyết; 3.Từ “vì sao?…” giải thích ý đồng tu trên, vì không có con đường nào khác. Từ “nếu có người nghe…” là phần hai. Khuyến tu: Trong đó có hai phần: 1.Liệt kê lại tên mười bốn nhẫn; 2.Từ “Người đó vượt qua…” tán thán công năng của kinh. Phần thứ nhất: Liệt kê tên mười bốn nhẫn: 1.Tín nhẫn; là tập chủng tính; 2. Chỉ nhẫn; là tính chủng tính; 3. Kiên nhẫn; là đạo chủng tính; 4. Thiện giác nhẫn; là Sơ địa; 5. Ly đạt nhẫn; là hai địa; 6.Minh tuệ nhẫn; là tam địa; 7. Diệm tuệ nhẫn; là tứ địa; 8. Thắng tuệ nhẫn là ngũ địa; 9.Pháp hiện nhẫn; là lục địa; 1 0.Viễn đạt nhẫn; là thất địa; 1 1. Đẳng giác nhẫn là bát địa; 1 2.Tuệ quang nhẫn; là cửu địa; 1 3.Quán đảnh nhẫn; là mười địa; 1 4.Viên giác nhẫn; là Phật địa Như Lai vạn đức. “Người đó vượt qua trăm kiếp ngàn kiếp vô lượng hằng hà sa sinh sinh khổ nạn, nhập pháp môn này, hiện thân đắc báo. Thời, trong các chúng, có mười ức đồng tên gọi là Bồ-tát hư không tạng hải, hoan hỷ pháp lạc, mỗi mỗi rải hoa ở trong hư không, biến thành vô lượng đài hoa, mỗi vị đều ngồi trên đài hư không. Thuyết mười bốn chánh hạnh, thọ trì đọc tụng, hiểu nghóa lý của chúng. Vô lượng chư quỷ thần hiện thân tu hành Bát-nhã Ba-la-mật.” Từ “người đó vượt qua…” là phần tán thán công năng của kinh. Phần thứ hai: thán ích khuyến tu đã giải thích xong. Phần thứ ba: Từ “thời, chư đại chúng…” văn pháp được lợi ích, rải hoa cúng dường. Văn có ba phần: 1. Bồ-tát hoan hỷ cúng dường. Mười bốn nhẫn gọi là mười bốn chánh hạnh; 2.Mười tám phạm thiên hoan hỷ cúng dường; 3.Từ “vô lượng chư quỷ thần…” là nói về chư quỷ thần cúng dường. Lược bớt không nói về các chúng khác cúng dường. Nói “mười tám phạm” là sơ thiền có ba; 1.Phạm chúng; 2.Phạm phu; 3.Đại phạm. Nhị thiền có ba: 1.Thiểu quang; 2.Vô lượng quang; 3.Quang âm. Tam thiền có ba: 1. Thiểu tịnh; 2. Biến tịnh; 3. Vô lượng tịnh. Đệ tứ thiền có chín; 1. Phúc sinh; 2. phúc ái; 3; quảng quả. Ba cõi trời này, phàm và Thánh cùng ở. 4. Vô tưởng thiên. Chỉ có ngoại đạo phàm phu trú ở. 5. Vô phiền; 6. Vô nhiệt; 7. Thiện hiện; 8.thiện khả kiến; 9.Sắc cứu cánh. Năm cõi trời này chỉ các Thánh nhân A-na-hàm,… trú ở. Duy chỉ đệ tứ thiền hữu sắc địa, nên bảo là mười tám phạm mà không nói Vô cõi sắc. Nói “quỷ thần hiện thân tu hành” là vì họ ở quá khứ tu kính, nên khiến cho được tu hành Bát-nhã vì họ hủy giới, cho nên đọa vào trong cõi quỷ.phần đáp về câu hỏi thứ hai tướng hạnh lợi tha đã xong. Phật bảo: “Đại vương! Ông trước hỏi; lấy tướng gì để giáo hóa chúng sanh? Nếu dùng thân huyễn hóa để thấy kẻ huyễn hóa, thì Bồ- tát đó chơn hành hóa chúng sanh một cách chân thật. Thức của chúng sanh một niệm thức đầu tiên khác với gỗ đá, sinh được thiện sinh được ác, ác thì thành gốc thức của vô lượng ác, thiện thì thành gốc thức của vô lượng thiện. Phần thứ ba: Từ “Phật bảo: Đại vương! Ông trước hỏi…” đáp câu hỏi trước về chúng sanh sở hóa. Văn có ba phần: 1.Muốn đáp nên nhắc lại câu hỏi, nên bảo “lấy tướng gì để hóa?”; 2.Từ “Nếu dùng thân huyễn hóa…” là chánh đáp; 3. Từ “Thời, chúng…” là nói về đắc lợi ích. Trong phần chánh đáp có hai phần: Lấy ngộ nhập để đáp, còn gọi là lược đáp. Còn gọi là vì vô sở đắc để đáp. Văn nói: “Nếu dùng thân huyễn hóa để thấy người huyễn hóa, thì Bồ-tát đó chơn hành hóa chúng sanh” là biết tướng của thân vốn tự bất sinh. Vì để hóa chúng sanh, cho nên gọi là thân huyễn hóa. Chúng sanh vốn không có mà nay lại nói hóa, là vì không có mà có, nên bảo là “thấy huyễn hóa”. Biết chủ thể hóa và đối tượng hóa vốn thanh tịnh, nên bảo là “chơn hành hóa chúng sanh”. Từ “một niệm đầu tiên của thức chúng sanh…” là phần rộng đáp. Cũng còn gọi là theo xuất dụng mà đáp, cũng còn gọi là theo tục để huyễn có mà đáp. Văn có năm phần: 1. Định chắc tâm thiện ác đó khác với gỗ đá; 2.Từ “sắc gọi là sắc cái…” xuất tên năm ấm; 3.Từ “cái là…” giải thích tên gọi, rộng giải; 4.Từ “tứ đại vương…” sắc thô tế phàm thánh khác nhau; 5. Từ “chúng sanh…” nói về tất cả pháp. Kết là thuộc thế đế. Phần một nói: “Một niệm thức đầu tiên của thức chúng sanh khác với gỗ đá, sinh được thiện, sinh được ác, sinh ác thì thành ra gốc thức của vô lượng ác, thiện thì thành gốc thức của vô lượng thiện. Cho đến Kim cang Bồ-tát”; nhiều cách hiểu khác nhau, ở đây không thể nêu ra đầy đủ. Nay chỉ y theo kinh để giải thích; kinh Niết-bàn nói: Như cây thuốc núi tuyết, cùng một vị như vậy, nhưng tùy theo chỗ mọc của nó mà có nhiều loại vị, chơn vị của thuốc đó, dừng lại ở núi, giống như trăng tròn hợp thí dụ nói; một vị là dụ cho Phật tính. Vì phiền não, nên xuất ra nhiều loại vị là địa ngục, súc sanh… Nay ở đây, một vị tức là chơn tính vô sở đắc bất nhị. Lại cho “một vị như vậy, tùy theo xứ giòng của nó mà có nhiều loại vị khác nhau” là nương theo chơn tính vô sở đắc mà khởi vọng tưởng hữu sở đắc, thì thành vô minh phiền não khởi nghiệp, thành nơi báo sáu nẻo. Lại nữa, kinh đại phẩm nói; chư pháp vô sở hữu, như vậy có, như vậy có. Như vô sở hữu, việc đó không biết, gọi là vô minh. Thật tướng và vô minh trụ địa vốn không có trước sau. Chỉ vì chúng sanh trong vô sở hữu bột khởi nhớ tưởng phân biệt mà trôi mãi trong sáu nẻo. Luyến mê được giải mở, biết phiền não vốn là Niết-bàn thì có gì trước sau, nên kinh này nói rằng: “Một niệm thức chi đầu tiên, bổn thức giải tính, nên khác với gỗ đá”. Văn nói: “Sinh đắc thiện, sinh đắc ác”; là duyên với cảnh giới thiện thì khởi ở thức thiện. Thức thiện đó tức từ nơi chánh nhân của tự tính chơn thật thiện sinh ra. Lại nữa, duyên với việc thiện mà khởi thì thức đó là thiện tức sinh ra từ sinh nhân của vô minh huân tập. Nếu duyên với cảnh giới ác mà khởi ở thức ác thì thức đó gọi là ác. “Ác thì thành gốc thức của vô lượng ác, thiện thì thành gốc thức của vô lượng thiện”. Một niệm thiện ác đầu tiên đó là do công huân tập của thức mà sinh ra tập của của vô lượng thiện ác. “Một niệm đầu tiên, một niệm Kim cang cuối cùng, trong đó sinh ra không thể nói, không thể nói thưc, thành sắc tâm chúng sanh, đó là căn gốc của chúng sanh, sắc gọi là sắc cái, tâm gọi là thức cái, tưởng cái, thọ cái, hành cái, cái; là che đậy làm, dụng thân, gọi là tích tụ.” “Một niệm đầu tiên, một niệm Kim cang cuối cùng, trong đó sinh ra không thể nói thức”; ý đó là ở bên trong sinh tử, đã duyên với vô minh, niệm niệm sinh khởi tâm sinh diệt, nên bảo là “bất khả thuyết thức” đó là tỏ về nhân thành chúng sinh. Thành chúng sinh sắc tâm là biện về quả. Văn nói: “căn gốc của chúng sanh”; là kết một niệm thức đầu tiên đó thành gốc của chúng sanh. Lại giải thích; “một niệm đầu tiên” đó là lấy vô thủy làm thủy: (khởi đầu). “Một niệm Kim cang cuối cùng”; như tiểu thừa thì phân đoạn cuối cùng, Đại thừa thì biến dị cuối cùng. Từ “sắc gọi là sắc cái…” là phần hai. Lược xuất tên của năm ấm. Từ “cái là …” là phần ba, thích danh rộng giải. “cái là che đậy làm dụng, thân, gọi là tích tụ”; thân giả danh là do năm ấm mà thành, nên bảo là tích tụ. “Đại vương! Một sắc pháp này sinh ra vô lượng sắc; nhãn đắc được là sắc, nhó đắc được là thành, tỉ đắc được là hương, thiệt đắc được là vị, thân đắc được là xúc. Kiên trì gọi là địa, thủy gọi là thấm ướt, hỏa gọi là nhiệt nóng, lay động gọi là phong, sinh năm thức xứ gọi là căn, một sắc một tâm như vậy mà có sắc tâm chẳng thể nghó bàn.” “Một sắc pháp đó sinh ra vô lượng sắc”; theo Thành Thật luận thì mười bốn loại sắc thành ra là sắc ấm, che đậy chúng sanh không thể xuất ly ra khỏi sinh tử được. Đầu tiên nói về sắc năm trần, tiếp là sắc bốn đại, tiếp nữa là sắc năm căn. Văn tướng quá rõ. Từ “một sắc như vậy…” là Tóm kết sắc tâm có sắc tâm chẳng thể nghó bàn. “Đại vương! Phàm phu sáu thức thô, cho nên đắc giả danh; xanh, vàng, vuông, tròn,… vô lượng sắc pháp giả. Thánh nhân thì sáu thức tịnh, cho nên đắc thật pháp; sắc, hương, vị, xúc, tất cả thật sắc pháp. Chúng sanh là tên gọi của thế đế, như có như không, chỉ vì sinh ra chúng sanh nhớ nghó mà gọi là thế đế.” Từ “Đại vương! Phàm phu sáu thức…” Đây là chúng thứ tư. phàm thánh sắc thô tế phân biệt. Sáu thức của phàm phu là pháp tổng tướng tụ, nên bảo là đắc giả danh xanh vàng trên. Thánh nhân thì phân biệt bốn vi… nên nói là đắc thật. Lại nói; thánh nhân duyên với sáu thức pháp giới, đắc pháp chơn thật. Từ “chúng sanh là tên gọi của thế đế…” là phần. Nói về tất cả pháp chúng sanh thuộc thế đế. Văn có ba phần: Tổng nêu tất cả thuộc thế đế. Từ “tương tục giả…” ba giả thuộc thế đế. Từ “Đại vương!…” chư Phật, Hiền, Thánh xứng cảnh mà biết đều là như huyễn có, kết thuộc thế đế. Trong phần tổng trước có hai phần: 1. Nói về tất cả pháp đều như không hoa đều thuộc thế đế; 2.Từ “trước khi không có Phật xuất thế…” là lập nhân duyên danh tự. Trong phần một, có hai phần: 1. “Chúng sanh như có như không, đều như huyễn hóa” gọi là nhân; 2.“Thế đế giả trá huyễn hóa, cho nên có. Cho đến sáu nẻo huyễn hóa, chúng sinh thấy huyễn hóa. Huyễn hóa thấy huyễn hóa. Các sắc tâm Bà-la-môn, Sát lợi, Tỳ xá, Hủ đà, Thần ngã, gọi là huyễn đế. Pháp huyễn đế vô, trước khi Phật xuất thế, không có tên gọi, không có nghóa danh huyễn pháp huyễn hóa. Không có tên gọi, không có thể tướng, không có tên gọi ba cõi, không có tên gọi quả báo thiện ác sáu nẻo.” “Giả trá huyễn hóa cho nên có, cho đến sáu nẻo cũng như huyễn hóa”; gọi là vô quả. Vì chúng sanh hư vọng nhớ tưởng thành ra giả trá, nên có trên gọi người trời sáu nẻo. Nếu đạt vọng đó xưa nay vốn không có, cho nên bảo là huyễn hóa thấy huyễn hóa. Từ “Bà-la-môn…”; là nói sang và hèn đều như huyễn hóa, đều nhập thế đế. Lại nói, phần đầu là nói về phàm phu lấy giả sắc làm thật. Phần sau. Từ “huyễn hóa thấy huyễn hóa…” là nói Thánh nhân biết giả sắc là hư giả. Câu văn này đúng thì phải nói là “huyễn sư thấy huyễn” nhưng lại nói là chúng sinh, đó là chúng sinh Phật. Trong phần hai: Lập nhân duyên danh tự. Có hai phần: 1.Không có Phật xuất thế thì không có tất cả các tên gọi về nhân duyên. “Đại vương! Do đó, chư Phật xuất hiện ở đời vì chúng sanh nên thuyết đặt tên ba cõi, sáu đường, tên đó có vô lượng tên gọi; như không pháp, tứ đại pháp, tâm pháp, sắc pháp, tương tục giả pháp, phi nhất phi dị, nhất cũng bất tục, nhị cũng bất tương tục, phi nhất phi dị nên gọi là tục đế.” 2. Từ “Đại vương!…”; Phật xuất thế vì chúng sanh mà lập các danh tự tên gọi tất cả thế giới sáu đường vô lượng các loại sắc tâm. Từ đó có thể biết được phần thứ hai này là nói về ba giả thuộc thế đế. “Tương tục giả”; khác với sư thành thật; nếu thấy chư pháp là một, đó là thường kiến, nếu thấy chư pháp niệm niệm khác nhau, đó là đoạn kiến. Lìa hai kiến đó, biết pháp trước sinh ra pháp sau, những pháp sau cứ thứ đệ mà sinh ra pháp, đó là nghóa của nhân duyên tương tục. Nên văn bảo: “Một cũng không tục, khác cũng không tục”, vì tuyệt ở trước sau, nên không tương tục. “Giả pháp tương đãi, tất cả danh tương đãi, cũng gọi là bất định tương đãi, như các pháp về năm sắc, tất cả các pháp hữu vô. Tất cả pháp đều duyên thành giả thành, chúng sanh câu thời nhân quả, dị thời nhân quả, ba đời thiện ác, tất cả huyễn hóa, đó là huyễn đế chúng sanh.” Tương đãi giả có hai biệt đãi và thông đãi. Như dài ngắn, già trẻ, đẹp xấu, gọi là biệt đãi. Như dài đối đãi với không dài, tất cả vạn vật đều bất định. Vì không dài là đối đãi theo một vật bên ngoài, nên bảo là bất định, còn gọi là thông đãi. “Duyên thành giả” tức là nhân thành giả, bốn trần thành bốn đại, bốn đại thành năm căn, năm căn thành chúng sanh, cho nên duyên thành. Văn nói “năm sắc” nói năm căn là năm sắc, còn nói tạp sắc xanh vàng đỏ trắng là năm sắc. “Câu thời nhân quả” là quá khứ hai nhân vọng đến năm quả hiện tại, gọi là dị thời. Lại nói: câu thời nhân, là duyên nhân. Dị thời nhân là sinh nhân. Nếu theo pháp bên ngoài thì cột kèo thành nhà cửa, gọi là câu thời. Mười hai giờ thành một ngày, gọi là dị thời nhân quả. “Đại vương! Nếu Bồ-tát thấy chúng sanh huyễn hóa như trên, đều giả trá như hoa trong không, thập trú Bồ-tát, chư Phật năm nhãn, như huyễn đế mà thấy. Bồ-tát hóa chúng sanh như vậy. Lúc đó, vô lượng thiên tử nơi các cõi và các đại chúng đắc phục nhẫn, đắc vô sinh nhẫn, cho đến một địa, mười địa đức hạnh chẳng thể nghó bàn. Phần thứ ba: Từ “Đại vương! …” tỏ về chư Phật Bồ-tát năm nhãn cũng gọi là thế đế. Văn nói: “Nếu Bồ-tát thấy chúng sanh huyễn hóa như trên, như hoa trong không”; chúng sanh bổn lai vốn vô sở hữu. Vì hư vọng mà có, ví như hoa trong không. Chư Phật năm nhãn như huyễn đế mà thấy, như cảnh mà biết, như lý mà tri chiếu, duyên và quán đều bặt, nên bảo “là như vậy”. Từ “thời, vô lượng thiên tử…” là đoạn lớn thứ ba trong phần đáp câu hỏi. Nghe pháp được lợi ích. “Chư thiên tử…”; là tỏ về người đắc đạo. Từ “phục nhẫn…” là tỏ về đắc lợi ích sai biệt khác nhau. Địa tiền ba hiền, gọi là phục nhẫn. “Không nhẫn” là tứ địa trở lên, thuận vô tướng không. Từ thất địa trở lên, gọi là vô sinh nhẫn. Tam địa đầu tín nhẫn, lược bỏ không nói. Sơ địa danh là nhất địa, đến pháp vân, gọi là mười địa. Rộng lớn như hư không, gọi là đức hạnh chẳng thể nghó bàn.  PHẨM NHỊ ĐẾ Nguyên do dẫn đến phẩm này là phẩm quán không, và giáo hóa ở trên đã nói thật trí và phương tiện trí đều không, bất nhị, cũng có thể hiểu rõ về hộ nhân và hộ quả rốt ráo không có sai khác. Khởi như huyễn hóa để hóa chúng sanh, hóa không cô khởi một mình, tất phải có cảnh giới giáo giáo sở quán. Cảnh giới giáo là gì? Đó gị là nhị đế. Hai đế là chơn và tục chẳng chung một gọi là nhị, tức không hư giả, gọi là đế, cho nên bảo là “phẩm nhị đế”. Nghóa của nhị đế là đại tông của Phật pháp. Nếu muốn hiểu cho rõ cảnh của nó và giáo, có nhiều cách hiểu khác nhau, không thể trình bày đầy đủ. Nay ở đây nói nhị đế là; lấy nhân duyên không hữu làm thế đế, nhân duyên hữu không làm chơn đế. Nếu xét cho cùng thì chư pháp bổn lai vốn không hai, vì nhân duyên nên thuyết nói là hai mà thoi 6.trong phẩm này có ba lần hỏi đáp. Luận biện về hai đế không hai, thành ra ba phần: 1. Hỏi đáp chánh biện về hai đế không hai; 2.Hỏi đáp để bày tỏ thuyết pháp không hai; 3.Hỏi đáp để chánh biện về pháp môn không hai. Ở trong phần hỏi đáp thứ nhất trên có hai phần; trước hỏi sau đáp. Trong phần hỏi lại có ba phần: 1.Hỏi; 2.Thắc mắc; 3.Kết về hỏi. Chính biện về hai đế hữu vô, văn nói; trong Đệ-nhất-nghóa-đế có thế đế không? Đó chính là hỏi. Bấy giờ, vua Ba tư nặc bạch Phật: “Trong đệ nhất đế nghóa đế có thế đế không? Nếu nói không, thì trí không phải hai, nếu nói có, thì trí không phải một. Nghóa của một và hai, sự đó như thế nào?” Nếu nói không, thì trí không phải hai; phương tiện trí và thật trí. Nếu nói có, thì trí thánh nhân không phải một, nếu luận về lý của nó thì không một không hai. Nếu định chắc là một thì phàm phu thấy tục cũng chỉ thấy chơn. Nếu định chắc có thì trí không phải một, đó là thắc mắc chính. “Nghóa của một và hai, sự đó như thế nào?” Đó là chánh kết về câu hỏi. Vì đã thắc mắc một và hai, cho nên Nguyệt Quang mới hỏi, vì vậy mà nói: “Sự việc một và hai như thế nào?” Phật bảo; “Đại vương! Ông ở bảy Phật thời quá khứ, đã hỏi về nghóa một nghóa hai. Ông nay không nghe, Ta nay không nói, không nghe không nói tức là nghóa một nghóa hai. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Khéo suy tư về nó, như pháp mà tu hành. Kệ của bảy Phật như vậy.” Từ “Phật bảo…” là phần hai. Phật đáp. Trong phần đáp có ba phần: Hàng dài, tán thán câu hỏi; 2.Dẫn bảy Phật để làm chứng; 3.Từ “Đại vương!…” là hàng dài, trả lời chính về thắc mắc. Hàng dài thứ nhất, tán thán câu hỏi có ba phần: 1. Tán thán việc hỏi; 2. Lược bày tông nghóa; 3. Dạy bảo. Tán thán việc hỏi nói ra bổn hạnh nguyện của vương. Trước đây ở thời quá khứ đã luận về nghóa một và nghóa hai rồi. Nay vì sao lại còn hỏi việc đó. Từ “Ông nay…” là phần hai - Lược bày tông ng- hóa: “Ông nay không nghe, ta nay không nói” như huyễn không nói gì cả, cần gì ông nghe, nên bảo là “không nghe”. Người nghe như người huyễn không có nghe gì, cần gì ta nói. Như vậy không nói không nghe hnưng nghe và nói vẫn hiện lên rõ ràng. Nghóa của một và hai cũng vậy. Nên kinh Tịnh Danh nói: “Người thuyết pháp thì không thuyết, người nghe pháp thì không nghe. Nếu tâm còn tồn nghe, nói tức là nhị kiến thì chẳng tương ưng với kinh này. Từ “Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe!…” là phần ba. Răn bảo khuyến tu, nương theo ba tuệ mà tu hành, mới có thể hiểu rõ nghóa một và hai. “Lắng nghe! Lắng nghe!” tức chính là văn tuệ. “Khéo suy niệm nó” tức là tư tuệ. “Như pháp tu hành” tức là tu tuệ. Phần thứ hai, dẫn kệ của bảy Phật, có tám hàng rưởi, chia làm bốn phần: 1.Ba kệ theo nhân duyên không hữu để tỏ hai đế không hai; Có ba hàng, dựa theo tình giải thấy một và hai để tỏ hai đế không hai; 3. Có hai hàng, lấy thí dụ để tỏ hai đế không hai; 4. Nửa hàng, kết khuyến thuộc về người. Ba kệ phần một thì thành ba phần; kệ thứ nhất là nêu nhân duyên không hữu, nhị đế chương môn. Kệ thứ hai là giải thích. Kệ thứ ba là kết nữa trên của kệ thứ nhất, dựa theo hữu không để tỏ chơn đế, nữa kệ sau là dựa theo không hữu để tỏ rõ về thế đế. “Vô tướng đệ nhất nghóa, Vô tự vô tha tác. Nhân duyên vốn tự có, Vô tự vô tha tác. Pháp tính vốn vô tịnh. Đệ nhất nghã không như. Các hữu vốn hữu háp Ba giả tập giả có. Vô vô đế thật vô Tịch diệt đệ nhất không. Các pháp nhân duyên có Nghóa hữu vô như vậy.” “Vô tướng đệ nhất nghóa” đó là nói về chơn đế. Như Lai thuyết pháp trước và sau khác nhau, trước thuyết thế đế, sau là tỏ chơn đế. Đó là đi từ cạn vào sâu. Tự hữu thì trước thuyết chơn đế, sau nói tục đế, đó là để tỏ tông quay về với gốc hữu. “Vô tướng” là lý của thật tướng, tuyệt ở hữu và vô, gọi là vô tướng. “Vô tự vô tha tác” là xưa nay vốn vô tướng, chẳng phải nay mới là vô. Đã nói là vốn vô tướng, sao bỗng lại có tạo tác? Nên bảo: “Vô tự vô tha tác”. Theo như chín mươi sáu loại ngoại đạo ở tây vực lấy bốn tác để thu tóm tất cả nghóa. Nên kinh Niết- bàn nói: “Chẳng phải tự mình làm, chẳng phải do người khác làm ra, cũng chẳng phải cùng làm, cũng chẳng phải không có nhân mà làm.” Vì vậy mà hơn cả các ngoại đạo. “Nhân duyên vốn tự có” là tỏ về nhân duyên không hữu, làm thế đế. Nhân duyên vốn tự, chẳng phải là nay mới có, đã nói là “vốn có”. Cho nên bảo “vô tự vô tha tác”. Nên luận đại trí nói: mười hai nhân duyên do ai làm ra? Phật nói: Chẳng phải Phật làm ra, chẳng phải Bồ-tát làm, cho đến chẳng phải do tất cả thánh nhân làm ra, nên bảo là “vô tự vô tha tác”. Từ “pháp tính…” một kệ, có hai phần; nửaa phần kệ trước giải thích nửa trên, nửa phần dưới giải thích phần dưới của kệ trên. “Pháp tính vốn vô tính”; tức là vô tướng đệ nhất nghóa trên. Thật tướng của các pháp gọi là pháp tính. Pháp tính lấy vô tính làm pháp tính. Đó là đối tính mà nói là vô tính. Nếu không có tính thì cũng không có vô tính. “Đệ nhất nghóa không như”; tức chính là đệ nhất nghóa không. Vì vô y (không dựa), vô đắc nên gọi danh là không như. “Các hữu vốn hữu pháp”; là giải thích “nhân duyên vốn tự có” trên. “Ba giả tập giả có”; đó là tỏ không có thể; nhờ mượn cái khác mà có. Kệ thứ ba; “vô vô đế thật vô”; là trở lại kết về vô tướng đệ nhất nghóa trên. “Tịch diệt đệ nhất không”; là kết của vô tự, vô tha tác. “Chư pháp nhân duyên có” là kết của câu “nhân duyên vốn tự có” trên. “Nghóa hữu vô như vậy” là tổng kết mười một câu trên. Hữu là để kết nửa dưới ba kệ trên, tỏ về hữu. Vô là kết nửa trước của ba kệ trên, tỏ về vô. Cho nên bảo là “hữu vô nghóa như vậy”. Lại nói: “vô vô đế thật vô” là hai vô vứt bỏ hai thật. Nên bảo là vô vô đế thật vô”. “Tịch diệt đệ nhất không” là tự thể của hữu vốn là vô, cho nên bảo là tịch diệt đệ nhất không. Tất cả pháp hữu vi đều nương theo sáu nhân duyên mà sinh ra, cho nên bảo là các pháp nhân duyên có. Lại có giải thích vô vô đế thật vô là một cái vô là để bỏ đi cái vô trên, nên bảo là “vô vô đế thật vô là trí chiếu như thật trí, nên bảo là “đế thật vô”. “Tịch diệt đệ nhất không” là tinh diệu nhất trong pháp tịch diệt, tuyệt bốn câu, lìa trăm phi. Khác với cái không mang tính chất đoạn dứt của nhị thừa, nên bảo là “đệ nhất không”. “Chư pháp nhân duyên có, hữu vô nghóa như vậy” là tổng kết phần trên. Lại có giải thích; vô vô là; một vô là không có thế đế. Một vô là không có chơn đế. “Hữu vô vốn tự hai Thí như hai sừng bò. Chiếu giải kiến vô nhị Hai đế thường bất tức. Giải tâm thấy không hai Cầu hai bất khả đắc Chẳng gọi hai đế một Chẳng hai, đắc được gì? Với giải thường tự một Với đế thường tự hai Thông đạt vô nhị đó Chơn nhập đệ nhất nghóa.” Từ “Hữu vô vốn tự hai…” Đây là chúng thứ hai, có ba kệ. Ở chung một và khác nhau, lấy tình giải để biện về hai đế không hai: Kệ thứ nhất là lược nói một và hai. Kệ thứ hai là giải thích, kệ thứ ba là kết tán thán. Kệ thứ nhất chia làm hai phần; nửa trên là dựa theo hai tình để tỏ hai đế, nửa dưới là dựa theo quán giải để tỏ bất nhị. Câu đầu phần nửa trên là pháp thuyết, câu tiếp là dụ thuyết. “Hữu vô vốn tự hai”; hữu tức phi vô, vô tức phi hữu, nên bảo là “vốn tự hai”. Lấy cái gì để biết hữu và vô? Câu dưới dụ: Tựa như hai sừng bò, hai sừng tách biệt nhau, tựa như nghóa không tương tức nhau của hữu vô. Cùng ở trên một cái đầu, tựa như hữu và vô cùng chung một thể, từ “chiếu giải, kiến không hai…” là phần nửa dưới, dựa theo quán giải. Bên trong tâm của chư Phật Bồ- tát đạt chiếu các pháp, rốt ráo thanh tịnh, đã từng là hai hay không hai gì đâu? Vì để đối lại với hai, cho nên bảo là “chiếu giải, kiến không hai”. Có người nói: “kiến không hai tức chính là chung một.” Đó là kiến về chung một và hai khác, chẳng phải là chiếu giải. “Hai đế thường bất tức”; chẳng phải là chiếu giải. “Hai đế thường bất tức” trở lại lấy theo hai tình, nên bảo là “bất tức”. Kệ thứ hai là dựa theo tâm đã đạt giải để giải thích kệ trước về duyên kiến chung một hay hai khác. “Giải tâm thấy không hai” là giải Thích câu trước của kệ trên. Kệ trên thì ở duyên mà thấy hữu, vô. Nay là liễu ngộ được hai cái hữu và vô đó, đối với giải thì không hai. “Cầu hai bất khả đắc” là giải thích dụ thuyết của câu thứ hai. Vì mê nên nói là hai, dụ là hai sừng, biến đổi mê thành giải thì hai cái đó té ra vốn không hai. Cầu hai rốt ráo không có gì, cho bảo là “bất khả đắc”. “Chẳng gọi hai đế một” là giải Thích câu đầu “chiếu giải thấy không hai của nửa phần sau kệ trên. Vốn để đối lại với hai mà nói là không hai, cái hai đó đã không có, lại còn một được sao? Nên bảo là “chẳng gọi hai đế một”. Lấy đó mà suy, đã không hai thì chẳng thể trở lại cho là cùng một. “Chẳng hai, đắc được gì?”; một đã bất khả đắc huống nữa là hai sao? Hàng thứ ba là kết thán nửa trên, kết phần trước. “Với giải thường tự một” là kết về “giải tâm thấy không hai” trên. Cái một này là để đối lại với cái hai mà nói, đừng có cho là một. “Với đế thường tự hai” là kết câu “hữu vô vốn tự hai”. Lại giải thích “với giải thường tự một” là hai đế cùng một thể. “Với đế thường tự hai” là kết về nghóa khác nhau của chúng. “Thông đạt vô nhị đó” là nửa kệ dưới. Thán ích tỏ về trong và ngoài cùng bặt. Hữu và vô đều tịch lặng, vô y vô đắc bình đẳng thanh tịnh, nên bảo là “thông đạt vô nhị đó, chơn nhập đệ nhất nghóa”. “Thế đế huyễn hóa khởi Ví như hoa hư không. Như bóng, ba tay không Nhân duyên mà dối có. Huyễn hóa thấy huyễn hóa Chúng sanh là huyễn đế. Huyễn sư thấy huyễn pháp Đế thật thì đều không. Gọi là chư Phật quán Bồ-tát quán cũng vậy.” Từ “Thế đế huyễn hóa khởi” Đây là chúng thứ ba, có hai kệ. Lấy dụ để tỏ hai đế là hai: 1.Một hàng rưỡi đều là tỏ về nhân và pháp thuộc thế đế cùng ở huyễn hóa; 2. “Huyễn sư…” nửa hàng là lấy theo dụ để tỏ chơn đế. “Thế đế huyễn hóa khởi, thí như hoa hư không” là tỏ thế đế hư dối không thật, dụ như hoa trong không chỉ là giả mà mắt thịt vọng thấy là có. Như mây nổi điện chớp, như gió thổi lửa, thí như hoa không, không có gì cả. “Như bóng ba tay không, nhân duyên mà dối có”; đó là không nhân duyên, chỉ có cái danh hư giả, không có cái thật. “Huyễn hóa gặp huyễn hóa” Thể của chúng sanh là cái huyễn đó, lại còn nhiễm phải huyễn trần, gọi là huyễn gặp huyễn. “Chúng sanh là huyễn đế”; là thế đế, trên đã tỏ về pháp huyễn, nay là tỏ về nhẫn huyễn. “Huyễn sư thấy huyễn pháp” nửa dưới của kệ, tỏ về chơn đế. Chư Phật Bồ-tát là dụ cho huyễn sư, tam giới hư vọng là dụ cho huyễn pháp. “Đế thật thì đều không” vì mê nên thấy có. Luyến mê được thật chiếu thì biết đều là không có. Đối lại với hữu mà thuyết là vô. Hữu và vô đều dập tắt, duyên và quán đều lặng bặt. Từ “gọi là chư Phật quán” Đây là chúng thứ tư, nửa kệ nêu quán để kết thuộc nhân, câu đầu ở quả người. Biết ở nhị đế nên gọi là chư Phật quán. Câu thứ hai nhân người. Biết ở hai đế nên gọi là “Bồ-tát quán cũng vậy”. “Đại vương! Bồ-tát Ma-ha-tát ở trong đệ nhất nghóa, thường chiếu hai đế giáo hóa chúng sanh, Phật và chúng sanh một mà không hai. Vì sao? Vì chúng sanh không, nên đạt được ở Bồ-đề không. Vì Bồ- đề không nên đạt được ở chúng sanh không. Vì tất cả pháp không, nên không không, vì sao? Bát-nhã vô tướng, nhị đế hư không, Bát-nhã không, ở vô minh cho đến Nhất-thiết-trí, vì không tự tướng, không tha tướng. Từ “Đại vương!…” là chính thích những điều thắc mắc vấn nạn để tỏ nhị đế không hai. Trong đó có ba phần: 1. Nêu quả để đối lại với nhân, tỏ nhị đế không hai; 2. Từ “năm nhãn…” nghiêng về quả để giải thích không hai; 3. Từ “Bồ-tát chưa thành Phật…” là song kết nhân và quả để giải thích không hai. Trong phần một nêu quả để đối lại với nhân có hai phần: 1.Lấy Bồ-tát là chủ thể hóa, thấy không hai để chiếu hai đế mà phàm phu nhị thừa đã thấy; 2. Từ “Phật và Bồ-tát…” là rộng tỏ chúng sanh là đối tượng giáo hóa và pháp đều là không, bất nhị. Ở văn phần một năng hóa: “Bồ-tát ở trong đệ nhất nghóa thường chiếu hai đế giáo hóa chúng sanh” ở bên trong một thật đế thuộc trung đạo, thường chiếu hai đế không và hữu để giáo hóa chúng sanh. Cái gọi là “thường chiếu hai đế” tức là đại bi Bát-nhã giáo hóa chúng sanh, nhờ Bát-nhã nên ở tại sinh tử nhưng không chấp trước tức là khác với phàm phu, nhờ đại bi nên không trụ Niết-bàn, khác với Nhị thừa. Không xả bỏ sinh tử, khác với Nhị thừa. Không xả bỏ Niết-bàn, khác với phàm phu, nên bảo là “thường chiếu hai đế hóa chúng sanh”. Xưa nói: “Đệ nhất nghóa không thuyết về tục”, lời đó không chính xác. Từ “Phật và Bồ-tát…” tức đối tượng giáo hóa là chúng sanh và pháp đều không hai. Trong đó có hai phần: 1.Tỏ về sinh không; 2.biện về pháp không. Trong phần sinh không; “Phật và chúng sanh một mà không hai”; Phật và chúng sanh bổn lai vốn tịch diệt, đều cùng vô sở đắc, nên bảo một mà không hai; hư vọng phân biệt mà thấ chúng sanh mà nhân địa, Phật là quả địa. Đạt lên trên quán thì thể biết Phật và chúng sanh bổn lai vốn tịch diệt, nên bảo một mà không hai. Không hai đó là nhân duyên giả danh. Để đối phá hai kiến mà nói một. Hai một đều tiêu tan, thuốc một và bệnh đều vứt bỏ, cũng là vứt vô vứt hữu. Vì sao? Dưới giải thích; vì chúng sanh không nên đặt được Bồ-đề không, chúng sanh và Bồ-tát đều cùng vô sở đắc.” Chúng sanh như, Bồ-tát như, không khác, nên nói “đặc”, chẳng phải là hai vật cùng đặt với nhau. Tiếp nữa là tỏ về pháp không, văn nói “vì tất cả pháp không, nên không không.” Tất cả pháp không; là nêu chung các pháp không, pháp môn thì vô lượng, không thể nói ra hết ở đây được, nay ở đây chỉ nói chung vì tất cả đã gồm thâu vô tận, cho nên bảo tất cả pháp không. Vì chúng sanh từ vô thủy đến nay bị trệ ở hữu, tình thâm sâu, cho nên mượn trí không để vứt bỏ hữu; lại bị ngưng trệ ở không, nay dùng không để trị không; nên gọi danh là không không. Vì vậy mà trong mười tám không của trí luận, phá nội không và ngoại không, hết nội ngoại không. Tiếp là tỏ về không không, dùng không để trị ba loại không trước, nên bảo là không không. Lại giải một không là không ở trí, một không là không ở pháp nhị đế. Vì sao? Đoạn dưới giải thích hai không. Văn nói: “Bát-nhã vô tướng” là giải thích trí không. Vì Trí không có sinh ra tướng, gọi đó là không. Văn nói; “hai đế hư không” là giải thích hai đế pháp không. Vì tất cả rốt ráo thanh tịnh nên bảo là hư không. Văn nói: “Bát-nhã không ở vô minh”; là vì pháp thuộc nhân duyên, bổn tính tự không, không cần dùng trí suy sau đó mới không. Chỉ vì chúng sanh hư vọng không biết mới lại mượn trí chiếu mà đắc không. Nên kinh Niết-bàn nói: “Chư pháp tuy không, nhưng phải nhờ Bồ-tát tu không mới thấy không”. “Cho đến Nhất-thiết-trí, không tự tướng không tha tướng”; bên trong tận ở quán gọi là không tự, bên ngoài trong sạch các duyên gọi là không tha. “Khi năm nhãn thành tựu thì thấy cái vô sở kiến, hành cũng bất thọ, bất hành cũng bất thọ, phi hành phi bất hành cũng bất thọ, cho đến tất cả pháp cũng bất thọ. Khi Bồ-tát chưa thành Phật, lấy Bồ-đề làm phiền não. Khi Bồ-tát thành Phật, lấy phiền não làm Bồ-đề. Vì sao? Ở đệ nhất nghóa mà không hai. Vì chư Phật Như Lai, cho đến tất cả chư pháp đều là như.” Từ “năm nhãn…” là phần hai, nghiêng về quả địa để tỏ năng kiến và sở kiến không hai. Văn nói “thấy vô sở kiến” cái thấy này là cái thấy của vô kiến. Nói “vô sở kiến” là các pháp bổn lai vốn thanh tịnh thì thấy ở đâu? Mà nói thấy là vì tuỳ theo thế tục, không lỗi. Pháp Hoa nói: Phật nhãn thấy chúng sanh nơi sáu nẻo. Kinh Đại phẩm nói năm nhãn không thấy chúng sanh. Pháp Hoa nói tức là cái thấy của không thấy, còn Đại phẩm là cái không thấy của cái thấy. Kinh này nêu cái phi vô của đối tượng được kiến để tỏ cái phi hữu của chủ thể kiến. “Hành cũng bất thọ”, kinh Đại phẩm nói về không thọ Tam muội thì có đủ cả năm câu, trong kinh này chính thì chỉ có bốn câu. Nếu lấy câu “cho đến tất cả cũng bất thọ” thì chính là câu thứ năm. “Hành cũng bất thọ” đại trí luận nói; hành cũng bất thọ là để trị cái hữu kiến đó. “Bất hành cũng bất thọ” là trừ vô kiến đó. Nói vô là để trị hữu, chứ chẳng phải nói là có cái vô đó. Nói hữu là để trừ vô, chẳng nói có cái hữu đó. Nói vô nhưng chưa từng không có, nói hữu nhưng chưa từng có, vì nhân duyên đối trị mà nói thế. Vì muốn khiến cho những người bị mắc vào hai kiến, đến với chánh quán, diệt hữu vô, đều sinh diệt, mất đạo tục, yên hai tế, nên bảo “hành, bất hành, đều không thọ”. “Hành” là hữu nhân còn không đắc, huống là vô nhân. “Tất cả pháp cũng bất thọ”; theo luận đại trí tức là bất thọ cũng bất thọ. Từ “khi Bồ-tát chưa thành Phật…” là phần ba. Song kết nhân và quả không hai. Văn nói: “Khi Bồ-tát chưa thành Phật, thì lấy Bồ-đề làm phiền não” ví như kết khăn thành con thỏ, mở nó ra thì thấy khăn, vọng mà thấy thỏ. Cũng như người bị bệnh, ăn ngọt cho là đắng, đến lúc bệnh lành rồi thì cái đắng trước đây là ngọt. Không có thêm một pháp nào khác biệt, do vọng nên thấy không sinh tử thành ra là sinh tử, phiền não cũng vậy. Vì mê nên Bồ-đề tức là phiền não. Ngộ thì phiền não tức là Bồ-đề. Mê thì bốn phương đổi ngôi ngộ thì bao la không sót. Vì sao? Đoạn sau giải thích phiền não tức Bồ-đề. “Ở đệ nhất nghóa mà không hai”; phiền não và Bồ-đề đồng cùng là vô sở hữu, nên nói là không hai. Chư Phật cho đến tất cả pháp đều tuyệt tâm hành, nên gọi là như. Phần hỏi đáp thứ nhất đã xong. -------------------- Bạch Phật: “làm sao chư Như Lai mười phương, tất cả Bồ-tát không lìa văn tự mà hành chư pháp tướng?” “Đại vương! Pháp luân là pháp Bổn Như, Trùng tụng Như, Thọ ký Như, Bất tụng kệ Như, không hỏi mà tự thuyết Như, Giới kinh Như, Thí dụ Như, Pháp giới Như, Bổn sư Như, Phương quảng Như, Vị tằng hữu Như, Luận nghị Như, là danh vị cú, âm thanh, quả, văn tự, ký cú, tất cả Như, nếu chấp giữ văn tự thì chẳng hành không”. Phần thứ hai, từ “bạch Phật nói…” là phần hỏi đáp thứ hai, tỏ rõ về thuyết pháp bất nhị. Có hai phần; trước hỏi sau đáp. Trong phần hỏi có hai ý; ý đầu là vì sao ở trên đã nói Bồ-tát ở trong Đệ-nhất-nghóa-đế thường chiếu hai đế giáo hóa chúng sanh. Trong Đệ-nhất-nghóa-đế, có gì để giáo hóa mà nói là Phật Bồ-tát thường thuyết mười hai bộ kinh để giáo hóa chúng sanh. Không lìa văn tự mà đắc giải thoát, văn tự tức tịch. Nếu vì để hành chư pháp tướng thì làm sao ở trong đệ nhất nghóa mà giáo hóa chúng sanh? Ý thứ hai là lấy phần trên để hỏi, trong phẩm không ở trên nói về hộ Phật quả, hộ thập địa. Trong đệ nhất nghóa, không có chủ thể hộ và đối tượng hộ, thì làm sao hộ Phật quả. Thập địa giáo hóa chúng sanh? Trong phần đáp, có bốn phần: 1. Mười hai bộ kinh đã thuyết như; 2. Từ “Đại vương! Như như…” là nói về ba loại Phật tính; 3.Từ “Nếu Bồ-tát…”; nói về phương pháp để tu; 4.Kết. Từ “Đại vương! Nếu Bồ-tát hộ Phật…” Ở phần một, có hai phần: 1.Lấy mười hai bộ kinh để tỏ về nhị đế giáo như; 2. Từ “là vị cú…” khuyên nương theo văn tự để chọn lấy như, đừng chấp giữ văn tự. Mười hai bộ kinh là pháp luân tức pháp Bổn Như. Tây Trúc gọi là Tu-đa-la, ở đây gọi là pháp bổn, nghóa là bổn gốc để thuyên giảng lý, cũng có thể cùng mười hai bộ kinh làm gốc. Nói “pháp Bổn Như” là tỏ chư pháp bổn lai vốn là như. “Như” là tên gọi khác của không một không hai, chẳng phải chỉ Chơn đế là Như mà Thế đế cũng Như. Nay văn nói Thế là vì tùy theo phương tiện của thế tục mà gọi là thế đế. Tức là thể của thế đế đó bổn lai vốn bất khả đắc, gọi là như. Mười một bộ còn lại cũng vậy. Khác với thuyết cũ nói; “pháp bổn là Thế đế”, Như là Chơn đế”. Đó là hai kiến chơn và tục mà thôi, đâu thể lấy theo Nhị đế để nói về Như? “Trùng Tụng Như” đó là tiếng Hoa, tiếng Phạm vốn gọi là Kỳ dạ. Dùng kệ để tụng lại các nghóa trong phần văn xuôi trước. “Thọ ký Như” là tiếng Hoa, tên ngoại quốc là Hòa già la na. Dùng ký để nói đời vị lai đắc quả Phật. Luận Thành Thật nói là giải nghóa kinh dùng vấn đáp đó để giải thích, nói về nhân đắc quả. “Bất tụng kệ Như” là tiếng nước này, tiếng Phạm là Già đà. Dùng kệ thuyết, không tụng hàng dài. “Vô vấn mà tự thuyết Như” đó là tiếng Hoa, Ấn độ gọi là Ưu-đà-na. Vì không đợi hỏi mà thuyết. “Giới Kinh Như”; đó là tiếng Hoa, tiếng Phạm vốn tên là Ni-đà-na. Đó là Nhân duyên kinh, vì nhân ở sự việc mà chế giới. “Thí Dụ Như” ngoại quốc gọi là A-na-bà-na, mượn sự mà thuyết pháp. “Pháp giới Như”; tiếng Ấn độ gọi là Y-đế-viết-đa-già, tiếng Hoa đúng phải dùng chữ “Bổn sự”. Phật thuyết về lãnh vực pháp giới cũng nói là thuyết sự mười tám giới thời quá khứ. “Bổn Sự Như” tiếng ngoại quốc là Đồ đà già, tiếng Hoa là Bổn Sinh kinh; thuyết về các chuyện tự thân bổn sinh. Còn bổn sự kinh trên là thuyết về mười tám giới của mình và người khác. “Phương quảng Như”; tên ngoại quốc là Tỳ-Phật-lược, thuyết về pháp không, lý rộng lớn. “Vị tằng hữu Như” tên ngoại quốc là A phù đà đạt ma, thuyết về việc thần thông biến hóa. “Luận-nghị Như” tên ngoại quốc là Ưu bà đề xá, dùng hỏi đáp để biện về lý. Từ “là danh vị cú…” là đoạn lớn thứ hai, nói về nương theo văn tự mà chọn lấy Như, không chấp giữ danh tự. Trong đó có năm phần: Danh vị cú: là ứng thuyết; 2.Âm thanh là chánh thuyết, âm thanh là: Ngực, cổ, họng, căn lưỡi, răng, môi miệng, mũi, đảnh đầu. Do những thứ đó động mới có âm thanh nói ra; 3. Quả báo: là chủ thể thuyết; 4.Tất cả như tức chính là những điều được thuyết ra đều nương vào đó mà thuyết, thật ra thì không có pháp để thuyết. Nên Kim cang Bát-nhã nói không pháp để thuyết, ấy gọi là thuyết pháp; 5. “Nếu chấp giữ văn tự”; là nêu cái mất để hiển bày cái đắc. Vì chấp văn tự cho là giải hiểu, không đạt văn tự tính lìa cho nên gọi là “bất hành không”. “Đại vương! Như như văn tự tu Phật trí mẫu. Tấtt cả chúng sanh tính căn bản trí mẫu, tức là thể của Nhất-thiết-trí. Chư Phật chưa thành Phật, lấy đương Phật làm trí mẫu, chưa đắc là tính, đã đắc là Nhất-thiết- trí, ba thừa Bát-nhã, bất sinh bất diệt, tự tính thường trú, tất cả chúng sanh lấy đó làm giác tính”. Từ “Đại vương! Như như văn tự…” phần thứ hai trong phần đáp câu hỏi, tỏ về ba loại Phật tính: 1.Hiện thường Phật tính; 2.Đương thường Phật tính; 3.Liễu nhân Phật tính. Phật tính thì chẳng đương, hiện, nhưng theo duyên thì đương và hiện khác nhau, nên nói là có ba loại. Nếu vô y, vô đắc, tùy duyên mà thuyết nói thì không lỗi. Nếu chấp đương và hiện là định thật thì thành tranh luận. Văn phần một hiện thường nói: “Như như văn tự tu chư Phật trí mẫu, tất cả chúng sanh tính căn bổn trú mẫu tức chính là thể của Nhất- thiết-trí” vì trước nghe mười hai bộ kinh là như cho nên biết văn tự tức chính là như, như tức chính là Bát-nhã, Bát-nhã là Phật mẫu. Cho nên bảo là trí mẫu. Nói là; “tất cả chúng sanh tính căn bổn trí mẫu”; là biết tính của chúng sanh bất khả đắc tức như. Nên bảo “tức là thể của Tát- bà-nhã”: Đạt hiểu chúng sanh và Nhất-thiết-trí không một không hai thì gì đương, gì hiện? Vì phá đương cho nên nói hiện mà thôi. Từ “chư Phật chưa thành…” là phần hai tỏ rõ về đương quả Phật tính. Lấy gì để biết? Vì văn nói: “Chư Phật chưa thành Phật, đương Phật cho là trí mẫu, chưa đắc là tính”. Vì vậy biết, đương hữu chẳng phải là hiện hữu. Hiện hữu là hữu ẩn tính, đương vô là vô đương tính. Vì vậy mà biết là; vì hiểu rõ nên gọi là đương. Vì ẩn kín nên gọi là hiện. Luận về thật tính của chúng thì thể tuyệt các phi đương phi hiện. Vì nhân duyên nên thuyết đương, thuyết hiện mà thôi. Từ “đã đắc…” là phần ba. Nói về liễu nhân Phật tính, về ba thừa Bát-nhã rõ xuất bất sinh bất diệt, nhờ đắc Bát-nhã chánh quán, thể biết sinh là bất sinh, diệt là bất diệt, nên bảo “tự tính thường trú”. Tất cả chúng sanh, hư vọng nhân duyên, luân hồi sáu cõi. Thể biết hư vọng không theo, tức chính là bất sinh bất diệt. “Nhờ tự tính thường trú, đó thành là giác tính.” “Nếu Bồ-tát không thọ không văn tự, lìa văn tự phi phi văn. Tự tu, vô tu là tu văn tự thì đắc Bát-nhã chơn tính, Bát-nhã Ba-la-mật. Đại vương! Như Bồ-tát hộ Phật, hộ giáo hóa chúng sanh hành thập địa là như vậy.” Từ “Nếu Bồ-tát…” Đây là chúng thứ ba trong phần đáp câu hỏi. Nói về phương pháp tu, có hai phần: 1.Phương pháp tu, văn nói “không thọ không vốn tự lìa văn tự phi phi văn tự tu. Vô tu là tu văn tự”; nhờ biết tính văn tự là lìa, tâm vô sở y, văn và lý đều dứt bặt. Tu và không tu đều tịch lặng, cho nên bảo “phi phi văn tự tu văn tự”; 2.Từ “là tu văn tự…”; là thể biết phương pháp tu trên. Thể biết Bát-nhã tu mà đắc danh tính Bát-nhã. Lấy vô đắc làm đắc, thật thì vô sở đắc. Từ “Đại vương! Như Bồ-tát hộ Phật quả…” Đây là chúng thứ tư. Trong phần đáp câu hỏi hộ hóa độ chúng sanh, hộ hạnh thập địa chủ thể hộ, đối tượng hộ trên và phương pháp tu. Hộ Phật là hộ quả, hộ hạnh thập địa là hộ nhân, hộ hóa độ chúng sanh là hạnh lợi tha. Bạch Phật: “Vô lượng phẩm, chúng sanh căn cũng vô lượng, hạnh cũng vô lượng, thì pháp môn là một hay là hai, hay là vô lượng? “Đại vương! Tất cả pháp quán môn chẳng một chẳng hai cho đến tất cả pháp cũng chẳng hữu tướng, chẳng chẳng vô tướng (phi hữu tướng, phi phi vô tướng). Nếu Bồ-tát thấy chúng sanh, thấy (chung) một hay thấy hai (khác) thì tức là không thấy một không thấy hai. Một không hai là Đệ-nhất-nghóa-đế. Từ “Bạch Phật rằng; vô lượng phẩm…” là phần hỏi đáp thứ ba, tỏ về pháp môn bất nhị. Trong đó có hai phần; trước hỏi, sau đáp. Trong phần hỏi; Nguyệt Quang nêu sở hóa chúng sanh “vô lượng phẩm” là tỏ về nhân biệt, “vô lượng căn” là tỏ về căn biệt, “hạnh cũng vô lượng”; là tỏ về hạnh biệt. Ba thứ đó đã khác nhau, chẳng biết chủ thể hóa pháp môn là một hay là hai. Hay là vô lượng? Từ “Đại vương! Tất cả pháp quán môn…” là phần Phật đáp, trong đó có ba phần: 1.Chánh đáp pháp môn bất nhị; 2. Từ “Đại vương! Bảy Phật thuyết …”. Thán giáo khuyến tu tỏ về công đức của kinh; 3.Từ “Đại vương! Kinh này…” định tên kinh khuyên thọ trì. Trong phần một: Chánh đáp pháp môn bất nhị, có bốn phần: 1. Chánh đáp câu hỏi trước để tỏ pháp môn bất nhị; 2.Từ “Nếu Bồ-tát…”: là nêu cái sai để hiển bày cái đúng; giải Thích câu hỏi trên; 3. Từ “Đại vương! Hoặc hữu hoặc vô…” là tỏ về chư đế giáo môn gồm thâu tất cả pháp đều quy về với không; 4. Từ “Chúng sanh phẩm phẩm…” là phần kết, trả lời câu hỏi trên. Trong phần một: Đáp câu hỏi; văn nói; “Đại vương! Tất cả pháp quán môn…” là đáp ba câu hỏi trên, “chẳng chung một”; là đáp câu hỏi thứ nhất. “Chẳng hai khác” là đáp câu hỏi thứ ba. Đúng thì phải nói là “phi vô lượng” nhưng ở đây lại nói là “cho đến vô lượng”; là vì muốn hiển bày cái vô lượng của phi vô lượng. Nghóa của chung một và hai khác đã phi thì vô lượng cũng vậy. Xem văn sẽ rõ ý. Từ “Tất cả pháp cũng phi” là nhắc lại tuyệt bốn câu (bốn luận chứng) để giải thích tất cả pháp quán môn ở trên. Người viết kinh lược bớt, chỉ nêu hai câu phá hữu và vô, các câu khác suy ra thì biết. “Cũng phi hữu tướng” là phá tướng hữu. “Phi phi vô tướng”; tức chính là cú thứ tư. Để phá “phi vô tướng” cho nên nói là “phi phi vô tướng”, có người nói; “phi phi” là sai lầm, phải nói là “phi vô tướng”. Nói như vậy là không hiểu kinh. Phần hai: Nêu cái sai để hiển bày cái đúng. Trước tiên là nêu cái sai. Văn nói; “nếu Bồ-tát thấy chúng sanh” tức là chấp trước dính ngã và nhân. “Thấy một thấy hai” tức là đồng với Vệ Thế Sư, Tăng Khư, kiến chấp về chung một và hai khác. Tiếp nữa là tỏ về cái đúng. Văn nói; “một và hai là Đệ-nhất-nghóa-đế” vì biết chính nhân duyên một hai, rốt ráo thanh tịnh, vô y, vô đắc. Biết tướng của một, hai đó là tịch diệt, nên bảo là “Đệ-nhất-nghóa-đế”. “Đại vương! Nếu có người hoặc hữu hoặc vô thì tức là Thế đế. Vì ba đế gồm thâu tất cả pháp, Không đế, Sắc đế, Tâm đế. Vì vậy mà ta nói; tất cả pháp không ra khỏi ba đế. Ngã, nhân tri kiến, năm thọ ấm không, cho đến tất cả pháp không, nên phi nhất phi nhị pháp môn.” Phần thứ ba: Từ “Đại vương!…” tỏ về các đế không. Trong có ba phần: 1. Tỏ về thế đế; 2. Tỏ về ba đế gồm thâu pháp; 3. Tỏ về các đế cuối cùng quy về với không. Thế đế: văn nói; “hoặc hữu hoặc vô”; ý nói là phàm phu định chấp hữu, vô nên gọi là thế đế; 2.Ba đế nhiếp pháp; văn nói; “tất cả pháp không đế”, sư Tam Tạng nói; bổn tính của các pháp là không đế. Phàm phu sắc thô hiển, chiếm cứ sắc làm đầu mối, gọi là sắc đế. Người ba thừa tu đạo tâm vô lậu, gọi là tâm đế. Nếu xét về nghóa thì sinh tử, Niết-bàn, mỗi thứ đều có ba đế. Sinh tử có ba đế là; bốn đại sắc thuộc cõi trời. Người là sắc đế, tám thức tâm là tâm đế, ở trên sinh tử không có Niết-bàn là không đế. Niết-bàn ba đế là: chơn thật sắc cõi trời, người là sắc đế, hai tâm chơn thật gọi là tâm đế, không có bốn điên đảo sinh tử là không đế. Giáo tuy là nói ba nhưng lý thì chẳng ba. Từ “Ngã, nhân, tri kiến…” là phần ba. Tỏ thế đế trở về với không. Từ “chúng sanh phẩm phẩm…” là phần tư - Tổng nêu để đáp câu hỏi trên. “Chúng sanh phẩm phẩm” là để đáp vô lượng phẩm chúng sanh trên. “Căn” là để đáp “căn cũng vô lượng” trên. “Hạnh” là đề đáp “Hạnh cũng vô lượng” trên. “Phi nhất phi nhị pháp môn” là đáp “chủ thể giáo hóa pháp môn là một là hai là vô lượng” trên. “Đại vương! Bảy Phật thuyết Ma ha Bát-nhã Ba-la-mật, Ta nay thuyết Ma ha Bát-nhã Ba-la-mật không hai không khác, đại chúng các ông thọ trì đọc tụng, giải thuyết kinh này, công đức có vô lượng không thể nói, không thể nói chư Phật, mỗi một Phật giáo hóa vô lượng không thể nói chúng sanh, mỗi một chúng sanh đều đắc thành Phật, Phật đó lại giáo hóa vô lượng không thể nói chúng sanh đều đắc thành Phật.” Từ “Đại vương! Bảy Phật…” là đoạn thứ hai trong phần đáp, tán thán giáo khuyến tu, tỏ công đức của kinh. Văn có sáu phần: 1.Đạo của chư Phật đồng nhau.; 2.Từ “Đại chúng các ông…”. Khuyến trì; 3.Từ “có vô lượng…” liệt kê ba lớp Phật; 4.“Ba Phật trên…” nhắc lại ba Phật trên để tỏ thuyết Bát-nhã phân giáo nhiều ít; 5.Từ “huống nữa lại…” so sánh; 6. Từ “Thời, chư…” nghe pháp được lợi ích. Phần một: Chư Phật đạo đồng, văn nói: “bảy Phật đã thuyết, Ta nay thuyết Bát-nhã không hai, không khác”; theo giải thích chung thì Phật Thích ca là vị Phật thứ bảy. Tỏ mình đã thuyết giống với sáu Phật, hiển bày pháp chơn chính. Cùng là vô sở đắc, nên là không hai không khác. Phần hai: Khuyến trì; văn nói; “Đại chúng các ông thọ trì.”; đại trí luận giải thích về thọ trì là; nghe mà phụng hành là thọ, lâu mãi không mất là trí. Phần ba: Nêu ba lớp Phật giáo hóa chúng sanh. Từ vô lượng chư Phật không thể nói là lớp thứ nhất. Mỗi một Phật giáo hóa vô lượng chúng sanh không thể nói, mỗi một chúng sanh đều được thành Phật là lớp Phật thứ hai. Từ những Phật đó lại giáo hóa vô lượng chúng sanh không thể nói là lớp Phật thứ ba. “Ba đức Phật trên, thuyết Bát-nhã Ba-la-mật kinh tám trăm vạn ức kệ, ở trong một kệ lại chia làm ngàn phần, ở trong một phần thuyết một phần câu nghóa không thể cùng tận, huống lại ở trong kinh này khởi một niệm tín, thì các chúng sanh đó siêu vượt cả những công đức thập địa trăm kiếp ngàn kiếp. Huống chi là công đức của thọ trì, đọc tụng, giải thuyết. Tức ngang với chư Phật mười phương, không khác. Nên biết người đó tức chính là Như Lai, đắc Phật không lâu. Lúc ấy các đại chúng nghe thuyết kinh này, mười ức người đắc nhẫn không, trăm vạn ức người đắc nhẫn đại không, tính thập địa.” Phần bốn: Nhắc lại ba loại nhiều Phật trên. “Mỗi một Phật đều thuyết tám trăm vạn ức kệ”: Những điều thuyết đã rộng, nay chia giáo nhiều ít. Có ba câu: 1.Chia kinh làm tám câu trăm vạn ức kệ; 2.Ở trong một kệ chia làm ngàn phần; 3. Ở trong một phần thuyết một phần câu nghóa không thể cùng tận. Phần năm: Từ huống nữa…” so sánh với tín. Văn nói: “Một niệm tín vượt cả thập địa”; là một niệm tín Bát-nhã vô sở đắc, hơn cả toàn bộ công đức tu hành thập địa trong trăm ngàn kiếp. Văn nói: “ngang với chư Phật không khác, nên biết người đó tức chính là Như Lai, đắc Phật không lâu.”; Phật thì chẳng sẽ (phi đương) chẳng ghiện (phi hiện). Vì để phá sẽ (đương) nên bảo là “tức chính là Như Lai”. Vì để phá hiện, nên bảo là “đắc Phật không lâu”. Chẳng thể chấp sẽ và hiện, thành ra tranh luận. Phần sáu: Từ “Lúc ấy các đại chúng…”. Nghe pháp được lợi ích. Văn nói; “mười ức người đắc nhẫn ba không”; là không, vô tướng, vô tác. Nói “đại không nhẫn”; ở bên trong thập địa, bổn trí chứng như, gọi là đại không nhẫn. Cũng còn gọi là vô sở đắc không, nên bảo là đại không nhẫn. Nói “tính thập địa” là chủng tính Thánh tại Sơ địa trở lên. “Đại vương! Kinh này tên là kinh Nhân vương hỏi Bát-nhã Ba-la- mật. Các ông thọ trì kinh Bát-nhã Ba-la-mật. Kinh này lại có vô lượng công đức, gọi là công đức hộ quốc độ. Cũng còn gọi là tất cả Quốc vương pháp dược phục hạnh vô bất đại dụng hộ xá trạch công đức, cũng hộ thân của tất cả chúng sanh. Tức Bát-nhã Ba-la-mật này là hộ quốc độ, như thành hào, tướng vách, đạo kiếm, mâu thuẫn ông nên thọ trì, Bát-nhã Ba-la-mật cũng lại như vậy.” Từ “Đại vương!…” là đoạn thứ ba trong phần đáp hỏi. Định tên kinh, khuyến trì. Văn có ba phần: 1. Liệt kê chung về tên kinh khuyên người thọ trì; 2.Từ “Lại có vô lượng…”; hiển bày công năng của kinh; 3. Từ “ông nên…”; kết. Khuyến thọ trì. Trong phần một liệt kê tên: “Kinh này tên là nhân vương hỏi Bát- nhã”; kinh này có hai tên: 1. Nếu dựa theo người hỏi mà thành tên thì tên là kinh nhân vương hỏi; 2.theo công năng mà đặt tên thì tên là kinh hộ quốc, theo đạo lý thì hộ chung tất cả các chuyện buồn phiền, suy bại. Vì chỉ lấy hộ quốc làm tông, nên nghiêng về tên hộ quốc. Phần hai hiển công năng của kinh để người vui thọ trì: “Lại có vô lượng công đức” là tỏ chung về công đức rộng nhiều. Phần sau tỏ riêng về công năng có bốn thứ: 1.Hộ quốc, vừa hộ thân vua; 2.Hộ nhà, cũng là hộ thân người; 3. Từ “tức Bát-nhã…”; kết. Bát-nhã là hộ quốc; 4.Từ “như thành hào…” dụ. Hộ quốc. “Thành hào” là giới. Thành cao là dụ cho Đại thừa, hào ở ngoài dưới thành mà lại nhỏ là dụ cho tiểu thừa, đều có ý nghóa là phòng ngừa sự sai trái và cấm chỉ đều ác. “Tường vách”; như định, dụng của nó là để an thân. Tường rộng, dụ cho Đại thừa. Vách nhỏ, dụ cho tiếu thừa. “Đao kiếm”; như trí tuệ, “mâu, thuẫn”; như giới định: Phần ba: Từ “ông nên…” kết. Khuyến thọ trì. <篇> NHÂN VƯƠNG BÁT NHà KINH SỚ <卷>QUYỂN 5 PHẨM HỘ QUỐC Trong sáu phẩm thuộc phần chánh thuyết, ba phẩm trước đã nói về chủ thể hộ Bát-nhã và lực dụng của kinh, sinh ra hai lợi cho Bồ-tát; chủ thể năng hộ Phật nhân quả và biết bốn sinh tướng tịch lặng, bặt dứt ngôn từ, nhân quả vốn không hai; đắc lợi ích xuất thế. Phần trên đã nói xong. Nay phẩm này là nói về đối tượng hộ là quốc độ và lợi ích thế gian. Trong phẩm Không, mười sáu Quốc vương ý muốn hỏi phương pháp để hộ quốc độ đất nước. Trước tiên là pháp đáp vì chư Bồ-tát mà thuyết nhân duyên hộ Phật quả hành thập địa. Ba phẩm trên, nói về các quán môn để làm rõ nhân của chủ thể hộ Bát-nhã mà sinh ra giải, hiểu, đức bên trong đã viên tròn, hóa bên ngoài đã hiểu rõ. Uy lực của kinh khiến cho đất nước không có tai hoạ, dân và chúa được an lành, nên gọi là hộ. Đối tượng hộ vì sao gọi tên là quốc. “Quốc” là lãnh thổ mà vương giáo hóa gọi là quốc. Phẩm này chỉ đặt biệt nói về ý nghóa đó nên gọi là phẩm Hộ quốc. Hỏi: Vì sao hoằng kinh này có thể bảo hộ được quốc độ? Đáp: có nhiều ý nghóa, nay chỉ lược nói ba nghóa mà có thể hộ quốc độ. 1.Bát-nhã là Phật mẫu, có thể sinh ra chư Phật. Nay hoằng tuyên Bát-nhã thì xứng với tâm Phật, vì nhờ thần lực của Phật bảo hộ, có thể làm cho bảy nạn không sinh, vạn dân an lạc; 2.Kinh Đại thừa là sở học của Bồ-tát, do giảng kinh này, Bồ-tát mười phương vân tập đến đất nước này để nghe, thọ nhận Đại thừa. Nhờ thần thông lớn của Bồ-tát có thể khiến cho bảy nạn không khởi; 3.Kinh Đại thừa này được các hộ pháp Thiên long quỷ thần mười phương yêu kính. Do giảng kinh này mà các Thiên long thần đều đến nghe pháp, ủng hộ đất nước có thể bảo hộ được quốc gia. Phẩm này chia làm năm phần: 1.Nói về hành pháp hộ quốc; 2.Từ “Đại vương! Xưa kia…” dẫn chuyện xưa để hiển thời nay, ích lợi chẳng hư dối; 3.Từ “Đại vương! Mười sáu đại quốc…”. Khuyến vật tu hành; 4. Từ “Bấy giờ, Thích ca…” nêu đắc ích; 5. Từ “Ta nay…” kết. Trong đoạn thứ nhất lại có bốn phần: 1.Nói về hành pháp hộ quốc; 2.Từ “Đại vương! Khi đất nước loạn…” bảy nạn đang phá hoại đất nước, đất nước làm đối tượng hộ; 3.Từ “không chỉ hộ quốc…” hộ các thần dân, còn gọi là hộ phước; 4. Từ “không chỉ hộ phước, còn hộ chúng nạn…” hộ các người khác về tám nạn. Trong phần một: Hộ quốc hành pháp lại chia làm ba phần: 1. Bảo nghe hứa nói; 2. “Khi đất nước sắp…”; lúc cần phải hộ; 3. “Phải thỉnh trăm Phật…” chính tỏ về hộ quốc hành pháp. Bấy giờ, Phật bảo: “Đại vương! Các ông khéo nghe! Ta nay chánh thuyết phương pháp sử dụng để bảo hộ quốc độ. Ông nên thọ trì Bát- nhã Ba-la-mật, khi quốc độ sắp loạn, kiếp thiêu phá hoại, giặc đến phá quốc độ thì phải thỉnh trăm tượng Phật, trăm tượng Bồ-tát, trăm tượng La hán, trăm Tỳ khưu chúng, bốn đại chúng, bảy chúng, cùng nghe kinh này. Thỉnh trăm pháp sư giảng Bát-nhã Ba-la-mật, một trăm tòa cao Sư tử hống, trước thắp trăm đèn, đốt trăm hoà hương. Trăm loại sắc, dùng để cúng dường tam bảo, ba y mười vật cúng dường pháp sư, cơm cháo ăn trưa cũng lại đúng thời.” Phần một văn nói: “Bảo: Đại vương!” là dạy nghe. “Ta nay” là hứa chánh thuyết. “Ông phải thọ trì…” là khuyên vua tu hành. Phần hai: Lúc cần phải hộ. Văn nói: “Khi nước sắp loạn” là bảy nạn sắp khởi, hư nước hại dân, cho nên Quốc vương tu đức trừ họa, khiến vạn dân an lạc. Nói “giặc”; có hai loại: 1. Bên ngoài trộm cướp, cầm thú; 2. Bên trong, các giặc phiền não tạo ra. Đã có hai giặc thì hộ cũng phải có hai: 1.Ngoài thì trăm bộ quỷ thần; 2.trong thì công đức trí tuệ, trong hay ngoài cũng đều là thần lực của chư Phật Bồ-tát. Phần ba: Nói về hành pháp, lại chia làm bốn phần: 1. Từ “thỉnh trăm Phật…” liệt kê bảy loại phước điền, nói phước điền rộng lớn; 2.Từ “trăm tòa cao…” liệt kê sáu loại cúng dường, nói về việc cúng dường; 3.Từ “Đại vương! Một ngày hai thời…” giáo thứ ba, nghi thức thuyết pháp; 4.Từ “Trăm bộ quỷ thần…” nói về chư thiện thần vương, nghe kinh hoan hỷ, ủng hộ quốc độ. Phần một: Tỏ bảy loại phước điền: 1. Trăm Phật; 2. Trăm Bồ-tát; 3.Trăm La-hán, những vị đó sau khi đã nhập Niết-bàn nên chỉ thỉnh tượng. Vì thời mạt thế bảy nạn quá gấp. Nếu như khi Phật còn tại thế cũng thỉnh thân Phật Bồ-tát La hán; 4.Trăm Tỳ khưu chúng; 5.Bốn đại chúng; Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di; 6. Bảy chúng; bốn đại chúng trên, thêm Thức xoa ma na, Sa di, Sa di ni, là bảy; 7.Thỉnh trăm pháp sư. Phần hai: Nói sáu loại đồ dùng cúng dường: 1.Trăm tòa sư tử. Phật và pháp sư ngồi trên tòa đó thuyết diệu pháp, gọi là tòa sư tử; 2. Thắp trăm đèn; 3. Trăm hòa hương; 4. Trăm loại sắc hoa; 5. Ba y mười vật, mười vật là: ba y, bát, đồ ngồi, dao cạo, áo, quần, dao, bọc lọc nước, bao đựng bát, ống đựng kim; 6. Ăn trưa cơm cháo. Dùng sáu thứ đó để cúng dường Tam Bảo. “Trăm tòa cao”; vì có trăm pháp sư. Đèn, hương, hoa, mỗi thứ một trăm vì để cúng dường trăm Phật. Phần thứ ba là nghi thức thuyết pháp. “Khi đó, Đại vương! Một ngày hai thời, giảng đọc kinh này, trong quốc độ ông có trăm bộ quỷ thần bảo hộ quốc độ ông.” Văn nói; “giảng một ngày hai thời” là trước ngọ và sau ngọ. Phần bốn: Thiện thần hộ quốc độ văn nói: “Trăm bộ quỷ thần”; sư Tam Tạng nói; xuất ra từ kinh Kim Ngân Tiên Nhân Nghóa. Kinh đó ở ngoại quốc không đến Trung Hoa. Vị tiên nhân này thống lãnh chư quỷ thần, quỷ thần căn bản có mười bộ, mỗi một bộ đều có mười bộ, nên gọi là trăm bộ. Mười bộ căn bản là: 1.Đại thần: có thể hóa làm chư thần; 2.Đồng tử thần: Con trai của Ma-hê-thủ-la, phạm vào Tiên nhân, pháp của Tiên nhân thì không giết trẻ con, vì vậy tiên nhân ký nói đến năm mười sáu tuổi sẽ thành đại tiên, và phải chết. Lời ký đó không thể tránh được. Lực của Ma-hê trú ở đứa con đó mãi đến mười bốn tuổi. Nó dùng trẻ con làm bộ đảng để hại trẻ con ở thế gian, nếu qua mười lăm tuổi thì trẻ con đó không còn bị hại nữa; 3. Mẫu thần: là nhũ mẫu của đồng tử thần; 4.Phạm thần: là Ma-hê-thủ-la, mặt có ba mắt, có Nhất- thiết-trí. Nếu mất vật. Chú ở mặt trẻ con, sinh thêm một mắt, đến lúc lấy lại được vật thì mắt đó mất; 5.Thần đầu voi; thích làm chướng ngại tất cả các việc thiện áccủa người khác, mong cho họ không thành tựu; 6.Thiên Long Thần: nhiều tham sân; 7.La La Thần: thích phạm đến người, trời. Có hai đứa con trai thiện, ác; 8. Sa thần: ăn thịt bạc phước, thân hình như đất cát; 9.Dạ xoa Thần: có đại thần thông; 1 0.La sát Thần, phiên dịch là Cực nạn. Văn nói “trăm bộ” là quỷ thần vương. “Mỗi một bộ lại có trăm bộ quỷ thần”, là bà con giòng họ của các thần vương trên. Những quỷ thần đó đều muốn được làm người để thực hành Bát-nhã, nếu không hoằng tuyên thì sẽ làm tổn hại. Do ở trong nước giảng kinh này, các quỷ thần vì nghe pháp mà đều đến hộ nước, khiến không có bảy nạn. Do không có bảy nạn mà được giảng được nghe. Nên bảo là “vui nghe kinh này”. Nói về hành pháp đã xong. “Đại vương! Khi quốc độ loạn, trước hết là quỷ thần loạn, quỷ thần loạn, nên vạn dân loạn. Giặc đến cướp nước, trăm họ tang tóc, vua tôi, Thái tử, vương tử, vương tôn, trăm quan cùng sinh thị phi, trời đất quái lạ. Hai mươi tám ngôi sao, tinh đạo, nhật nguyệt trái thời mất độ, giặc nổi khắp nơi. Đại vương! Nếu gặp nạn lửa, nạn nước, nạn gió, tất cả các nạn, cũng nên giảng đọc kinh này, dùng cách như trên đã nói.” Phần thứ hai: Nói về bảy nạn chính làm hư hoại đất nước. Bảy nạn là: 1. Nạn quỷ thần; 2. Nạn giặc; 3. Nạn quân thần, Thái tử, trăm quan; 4.Nạn hai mươi tám sao; 5.Nạn lửa; 6.Nạn nước; 7.Nạn gió. Đó là do nước không có Tam bảo, lại không giảng đọc Đại thừa. Các quỷ thần không có nghe chánh pháp, cho nên tâm ác càng nhiều, não loạnvạn dân, vạn dân đã bị loạn, suy yếu chết chóc, nên giặc ngoài mới đến xâm lăng đất nước. Lại nữa, trăm bộ quỷ thần thích nghe chánh pháp, vì trong nước đó không giảng kinh, nên các quỷ thần sân giận mà khởi bảy nạn, não loạn nước nhà. “Nhị thập bát tú” (hai mươi tám sao) là; giác, cang, để, phòng, tâm, vỹ, kỳ, là sao phương Đông. Đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, là sao phương Bắc. Khuê, lâu, vị, ngang, tất, tử, tham, là sao phương Tây. Tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, là sao phương Nam. Một phương có bảy sao, bốn lần bảy là hai mươi tám sao. “mất độ”; là số độ ở trên bị sai loạn, nên gọi là mất độ. “Nhật nguyệt mất độ”; trời có ba trăm sáu mươi lăm độ một phần tư. Mặt trời một ngày đi một độ, một năm đi một vòng trời. Mặt trăng một ngày đi mười ba độ bảy phần mười chín. Một tháng đi một vòng trời. Lại nữa, Nhật nguyệt đi trong thiên đạo có vô lượng đường đi, đại khái thì có ba đường. Nghóa là; ngày Đông chí thì mặt trời hành ở Nam đạo Hạ chí hành ở Bắc đạo, Xuân phân và Thu phân hành ở Trung đạo. Dùng cách hộ nạn giống trên, nên nói “như đã nói trên”. “Đại vương! Không những hộ quốc mà còn hộ phước; cầu phú quý, quan vị, bảy báu như ý, đi lại, cầu con cái, tuệ giải, danh tiếng, cầu quả báo nơi Lục Thiên, quả lạc chín phẩm trong cõi người, cũng giảng đọc kinh này, dùng cách như trên đã nói.” Từ “Đại vương! Không chỉ hộ quốc…” Đây là chúng thứ ba dùng cách để hộ thần dân. Có chín loại phước: 1.Giàu; 2.Sang, chức quan; 3. Bảy báu như ý; 4. Đi lại bình an; 5. Con cái; 6. Tuệ giải; 7. Danh tiếng; Quả sáu cõi trời; 9. Quả chín phẩm trong cõi người. “Chín phẩm” là chín phẩm nơi người thượng trung hạ, mỗi thứ có ba phẩm. Hợp lại là chín phẩm. “Thượng phẩm thượng trung hạ” là thượng phẩm Đạo chủng tính Kim Luân vương. Hạ phẩm Tập chủng tính Đồng Luân Vương. “Trung phẩm thượng trung hạ” là thượng phẩm Thiết Luân vương, trung phẩm Túc Tán vương, hạ phẩm Tiểu Quốc vương. “Hạ phẩm thượng trung hạ” là; thượng phẩm giòng họ quý tộc Sát Lợi. Trung phẩm giòng họ Bà-la-môn, hạ phẩm cư só đại gia. “Đại vương! Không những hộ phước, còn hộ nhiều nạn: Như tật bệnh khổ nạn, xiềng, cùm, gông, xiềng, buộc trói thân, phá bốn trọng cấm, làm năm nhân nghịch, làm tội tám nạn, hành việc nơi sáu nẻo, tất cả vô lượng khổ nạn, cũng giảng đọc kinh này, dùng pháp như trên đã nói.” Từ “Đại vương! Không những hộ phước, còn hộ nhiều nạn…” Đây là chúng thứ tư, nói về hộ nạn. Nạn có tám: 1.Tật bệnh khổ nạn; 2.Nạn xiềng; 3.Nạn cùm; 4.Nạn gông; 5.Nạn xiềng xích; 6.Buộc trói; 7.Bốn trọng, năm thiên; 8.Năm nghịch là giết cha, giết mẹ, giết chơn nhơn La hán, làm chảy máu thân Phật, phá hòa hợp Tăng. Đó là tám nạn. Lại nữa tám nạn là: 1-3 nạn nơi ba cõi ác là ba; 4.Nạn sinh ra trước khi Phật tại thế và sau khi Phật nhập diệt; 5.Nạn sinh ra ở vùng biên địa; 6.Nạn điếc đui câm ngọng; 7. Nạn thế trí biện thông (trí thông minh của thế gian); 8. Nạn sinh nơi Trường Thọ Thiên. Đã xong phần hộ quốc hành pháp. “Đại vương! Xưa kia, có vị vương, Thích Đề Hoàn Nhân, bị Đỉnh Sanh vương lên trên trời muốn diệt nước của ông. Lúc đó, Đế Thích Thiên vương liền dùng pháp của bảy Phật, bày trăm tòa cao mời trăm pháp sư giảng thuyết Bát-nhã Ba-la-mật. Đỉnh Sanh vương liền thối lui như trong Kinh Diệt tội đã nói.” Từ “Đại vương! Xưa kia…” là đoạn lớn thứ hai là dẫn xưa ví với nay. Trong đó có hai phần: 1. Dẫn chuyện Đế Thích vương làm chứng Bát-nhã có thể hộ quốc độ, như kinh Niết-bàn đã dẫn ra chuyện đó; 2. Từ “Nước Thiên La…” là dẫn chuyện của Phổ Minh làm chứng cho Bát- nhã có thể hộ thân mệnh. Như trong kinh Thập Vương nói năm ngàn Quốc vương tập họp, dẫn những chuyện đó để làm chứng. Ở phần một: Dẫn chuyện Thiên vương, có bốn phần: 1. Đỉnh sinh Vương đoạt Thiên quốc; 2. Đế Thích hành pháp hộ quốc; 3. “Đỉnh Sinh liền thối lui…” nói về Đỉnh Sinh lui tan; 4.“Như Kinh Diệt tội…” dẫn kinh để làm chứng. Kinh đó đúng là kinh Niết-bàn. “Đại vương! Xưa có Quốc vương Thiên La, có một Thái tử sắp lên ngôi vua, tên là Ban Túc. Thái tử vì học với thầy ngoại đạo tên là Đa Là, phải lấy đầu của ngàn vị vua để cúng mộ thần, rồi mới đăng ngôi, được chín trăm chín mươi chín vua, thiếu một vua, bèn đi về hướng Bắc vạn dặm, bắt được một vua, tên là Phổ Minh vương, Phổ Minh vương nói với Túc Minh vương; xin cho một ngày để cúng dường Sa môn đảnh lễ Tam Bảo. Vua Ban Túc đồng ý cho về một ngày. Phổ Minh vương bèn theo pháp của bảy Phật thời quá khứ, thỉnh trăm vị pháp sư, bày trăm tòa cao, một ngày hai thời giảng thuyết Bát-nhã Ba-la-mật, hết tám ngàn ức kệ, vị pháp sư thứ nhất vì Phổ Minh vương mà nói kệ. Từ “Đại vương! Xưa có Thiên La Quốc vương…” Đây là chúng thứ hai, dẫn chuyện Phổ Minh vương làm chứng. Văn có ba phần: 1.Nạn sự; 2. Từ “Phổ Minh vương bạch Ban Túc…” theo kinh tu phước, hành pháp hộ quốc; 3. Từ “bấy giờ, pháp sư…” nghe pháp được ngộ, giải: Phần thứ một: Nạn sự; Ban Túc muốn diệt các nước lấy đầu ngàn vua để tế mộ thần, văn đã rõ. Phần thứ hai: Hành pháp: Văn có ba phần: 1. Phổ Môn xin được thả một ngày. Ban Túc cho phép; 2. Từ “Thời, Phổ Minh…” thỉnh pháp sư thuyết pháp; 3.Từ “Một vị pháp sư bậc nhất…” với một người kia thuyết kệ bốn phi thường. Hai phần trước, văn dễ hiểu. Ở phần thuyết kệ có tám kệ, chia làm bốn phần: 1. Hai kệ thuyết về vô thường; 2.Hai kệ thuyết về khổ; 3. Hai kệ thuyết về không; 4.Hai kệ thuyết về vô ngã. “Rồi kiếp thiêu hết, Đất trời rỗng không. Tu Di biển lớn Đều thành tro bay. Trời rộng phước hết Tiêu tan trong ấy Âm dương còn mất Huống nước thường còn !” Kinh Bổn khởi nói: trời đất thọ hai trăm vạn kiếp, tuổi thọ tận hết là kiếp hỏa thiêu tận, bảy ngày ngưng trú, qua bảy ngày thiên hạ rỗng không. Kiếp hỏa lên đến cõi trời thứ sáu cõi dục. Kiếp hỏa vừa hết, Đại Long vương phương khác làm mưa nước diệt tắt hết lửa, nước lên tận cả trời Phạm thiên thứ mười thuộc cõi Sắc, lại có một kiếp gió lốc xoáy từ phương khác đến thổi nước mưa ở cõi trời này, sóng lớn lên tới cõi vô sắc, lại còn có kiếp thủy tận thổi sóng nước làm thành núi sông. Trời đất mới bắt đầu thành hình, chưa có mặt trời, mặt trăng, sao, chư thiên bay đến, mặt trời, mặt trăng, đất đai mới bắt đầu có; trong hai bài kệ thứ nhất, hai câu đầu là nói về trời đất, hai câu tiếp là núi biển, hai câu tiếp nữa là Thiên, Long một câu, tiếp là âm dương. “Hai nghi”; là một âm, một dương. Hai loại đó có thể làm sinh ra, và tạo thành sự vật, gọi là hai nghi. Nói “còn mất”; ý nói âm dương đó tuy sinh trưởng nhưng niệm niệm tiêu tan, nên là vô thường; câu sau cùng là kết về vô thường, vô thường có nhiều loại, nay ở đây lược đưa ra năm loại: 1.Diệt vô thường; xả hiện báo; 2.Hoại vô thường phá tan hòa hợp; 3.Chuyển biến vô thường; các sắc biến đổi thành ra khác, bốn tập tướngvô thường, sinh diệt không thật; 5.Tự tính vô thường pháp hữu vi là bình đẳng chẳng trụ. Hai bài kệ tiếp nói về khổ, tức là tám khổ. “Sinh lão bệnh tử Luân chuyển không cùng Việc, mong trái ngược, Ưu bi làm hại Dục sâu họa nặng Nhọt bướu không ngoài Ba cõi đều khổ Nước có nhờ gì.” “Sinh v.v …” tức là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ. “Luân chuyển không cùng”; luân hồi, tức chính là hành khổ. “Việc, mong trái ngược”; tức chính là cầu bất đắc khổ, cũng gọi là ái biệt ly khổ. “Ưu bi”; tức chính là hoại khổ. “Dục sâu họa nặng”; luận nói; như nước biển lớn không bờ không đáy, có thể nhận lấy nỗi khổ nặng nề, nên nói là “họa nặng”. “Nhọt bướu không ngoài”; tham dục do bên trong sinh ra. Nhọt bướu tức thân tự có, nên bảo là “không ngoài”. “Ba cõi đều khổ; khổ thì thật, vui thì giả. “Nước có nhờ gì”; là y báo đều khổ. Khổ vị có bốn: Cõi dục bất tịnh, nên khổ; 2.Cõi sắc thối đọa, nên khổ; 3.Vô cõi sắc bất an, nên khổ; 4. Nhị thừa không hoàn toàn tịch tónh, nên khổ. Hai kệ tiếp, là nói về không. “Có tự vốn không hữu tự vô, Nhân duyên mà thành Thịnh thì phải suy, Thật thì phải hư Chúng sanh ngu tối Đều như huyễn cư Thanh, hưởng đều không Quốc độ cũng vậy.” Văn nói: “Có tự vốn không” là tự tính vốn không. “Nhân duyên mà thành” là nói nhân duyên không, pháp của nhân duyên như hoa đốm trên không, chỉ có danh giả không có thật. Chánh quán nói: “pháp do nhân duyên sinh, tức chính là không”. “Thịnh thì phải suy” đó là thủy chung không. Chúng sanh hư vọng, vọng cho là có. Đế thật mà quán thì thủy chung đều bất khả đắc. “Thật thì phải hư”; chúng sanh cho ngã là thật. Cây đao thật tướng cắt thân vô thường thì thân bị hư hoại, tức là “thật thì phải hư”. “Chúng sanh ngu tối, đều như huyễn cư” là nói về sinh không. “Thanh, hưởng đều không” là nói về tướng không. Tiếng vọng hưởng chỉ có tướng mạo, không có thật, nên bảo là tướng không. Người nghe tiếng vọng hưởng là nhó căn hoại, nghe điên đảo. Ví như hoa đốm trên không; vòng lửa xoay… Hai kệ tiếp là nói về vô ngã, tâm chẳng phải là hình tướng, nên nói là vô hình. “Thức thần vô hình, Giả cỡi bốn rắn. Vô nhãn bảo dưỡng, Cho là xe vui Hình chủ vô thường, Thần nhà vô thường Hình, Thần còn lìa Há có nước sao?” “Giả cỡi bốn rắn” là dựa theo sắc mà nói về vô ngã, bốn rắn là dụ cho bốn đại. “Vô nhãn bảo dưỡng; cho xe là vui”; hai câu này là dựa theo tình để nói về vô ngã, vì phàm phu không có tuệ nhãn, bảo dưỡng thân xác này, cho đó là xe vui, tựa như con voi không có mắt, chỉ cầu mong mùi vị thức ăn. Vui thú với chiết xe năm ấm, không đạt vô ngã, bảo dưỡng bốn đại, cho là có ngã. Không biết thân xác này do giả hợp mà có, giống như nhiều gỗ hợp mà thành chiếc xe, xong chấp cho những nỗi khổ nhẹ là vui thú, gọi đó là xe vui. “Hình” là bốn đại. “Thần” là thức thần. “Hình, thần còn lìa” là chính nói về vô ngã. “Há có nước sao?” là nêu sự giống nhau để làm rõ quốc gia cũng không. “Bấy giờ, pháp sư thuyết xong kệ này, thời quyến thuộc Phổ Minh vương đắc pháp nhãn không, vương, tự chứng đắc các định hư không, nghe pháp ngộ giải, trở về lại nước Thiên La, nơi chỗ ở của Ban Túc vương.” Phần thứ ba, nghe pháp ngộ giải, có hai phần: 1. Tự hành; 2.Hóa tha. Phần tự hành có hai phần: 1. Quyến tộc đắc giải; 2. Phổ Minh tự chứng các định hư không. Phần hóa tha, có năm phần nhỏ. “Trong chúng, bèn bảo chín trăm chín mươi chín vị vua; đúng lời hẹn trở lại, mọi người đều phải tụng đọc kệ trong kinh Nhân Vương vấn Bát-nhã Ba-la-mật của bảy Phật thời quá khứ. Lúc ấy, Ban Túc vương hỏi các vua: các ông đều tụng pháp gì. Lúc ấy, Phổ Minh vương bèn dùng kệ trên để trả lời vua. Vua nghe pháp đó, đắc Tam muội không. Chín trăm chín mươi chín vị vua cũng nghe pháp, đều chứng định ba môn không. Lúc này, Ban Túc vương rất hoan hỷ, bảo với các vua: Ta vì ngoại đạo tà sư mà bị lầm lẫn, chẳng phải là lỗi lầm của quí vị, các ông có thể trở về nước mình, mỗi vị đều thỉnh pháp sư giảng thuyết về danh vị cú Bát-nhã Ba-la-mật. Ban Túc vương lại đem nước giao cho em trai, xuất gia vì đạo, chứng pháp nhẫn vô sinh, như trong Thập vương địa nói năm ngàn Quốc vương thường tụng kinh này, đời hiện nay sinh báo.” Từ: “Bèn bảo chín trăm chín mươi chín…” là phần một, giáo hóa các vua khác, từ “Lúc ấy, Ban Túc hỏi các vua…” là phần hai, Ban Túc và các vua cùng nghe pháp được lợi ích. Từ “bảo với các vua…” là phần ba: Thả các vua về nước hoằng kinh này. Từ “đem nước giao cho em trai…” là phần bốn: Ban Túc xuất gia, tu hành tinh tấn đắc nhẫn vô sinh. Từ “năm ngàn…” là phần năm: Năm ngàn vua đắc lợi ích, xong phần thứ hai: Dẫn chứng. “Đại vương! Mười sáu đại Quốc vương tu pháp hộ quốc, pháp nên như vậy, ông phải thọ trì. Trên trời, trong cõi người chúng sanh nơi sáu đường đều nên thọ trì danh vị cú của bảy Phật. Trong đời vị lai, nếu có vô lượng tiểu Quốc vương muốn bảo hộ đất nước cũng lại như vậy, nên mời pháp sư thuyết danh vị cú Bát-nhã Ba-la-mật.” Từ “mười sáu đại quốc…” là đoạn lớn thứ ba trong phẩm Khuyến trì có ba phần: 1.Khuyến khích mười sáu Quốc vương thọ trì; 2.Từ “Trên trời, trong cõi người…” là khuyến khích chúng sanh trong sáu đường thọ trì; 3.Từ “vô lượng tiểu Quốc vương…” là khuyến khích các tiểu Quốc vương thọ trì. Đã xong phần thứ ba, thọ trì. “Bấy giờ, Phật Thích ca Mâu ni thuyết Bát-nhã Ba-la-mật này lúc ấy, trong chúng có năm trăm ức người được vào sơ địa. Lại có tám mươi vạn người con trời trong sáu trời thuộc cõi Dục đắc địa tính không. Lại có mười tám trời phạm đắc pháp nhẫn vô sinh, đắc vô sinh pháp lạc nhẫn. Lại có những người trước đã học Bồ-tát, chứng nhất địa, nhị địa, tam địa cho đến thập địa. Lại có tám bộ A-tu-luân-vương, đắc mười môn Tam muội, đắc hai môn Tam muội, được chuyển thân quỷ, chánh thọ trên trời. Người trong hội này đều đắc tín tự tính, cho đến tín vô lượng không. Ta nay lược nói công đức của các trời, không thể nói hết được.” Từ “bấy giờ, Phật Thích ca…” là đoạn lớn thứ tư trong phẩm: nói về đắc lợi ích. Có sáu loại đắc lợi ích khác nhau: 1.Năm trăm ức người đắc sơ địa; 2.Tám mươi vạn người nơi sáu cõi trời thuộc Cõi dục đắc địa tính không, ở tứ địa trở lên; 3.Mười tám phạm thiên đắc nhẫn vô sinh và nhẫn pháp lạc, tại thất địa trở lên; 4. Lại có những người trước đã học Bồ-tát: Sơ địa cho đến thập địa; 5. “Tám bộ thần vương đắc mười Tam muội; là mười Nhất thiết nhập. “Đắc hai Tam muội là tám thắng xứ và tám bối xả, hoặc là không và vô tướng, lại còn được chuyển thân quỷ thần, đắc thân chư thiên; 6. Người trong chúng hiện tại ở hội này, đắc tín tự tính; là bốn tín bất hoại. Còn đắc tín không; là nhập sơ địa. Thập tín gọi là tự tính tín, chủng tính trở lên gọi là tín không. Từ “Ta nay…” là đoạn lớn thứ năm. Tóm kết. “Lược nói là như vậy, nếu nói cho đủ thì không bao giờ cùng tận. ------------------------ PHẨM TÁN HOA Sáu phẩm thuộc phần chánh thuyết được chia làm bốn phần. Ba phẩm đầu đã nói về chủ thể hộ là Bát-nhã. Phẩm Hộ quốc thuộc phần thứ hai đã nói về đối tượng được hộ là quốc độ. Phẩm này đây là chúng thứ ba chỉ bày về vật cúng dường, khiến người cúng dường. Mười sáu Quốc vương đã nghe thuyết Bát-nhã, đắc lợi ích rất nhiều, nội tâm vui mừng, rải hoa cúng dường, do đó mà đặt tên nên nói là “phẩm Tán Hoa”. Hỏi: cúng dường thì có nhiều thứ, vì sao chỉ nói rải hoa? Đáp: cúng dường tuy nhiều, nhưng không ngoài ba loại: 1.Kính cúng dường; là hương, hoa…; 2.Lợi cúng dường là áo quần…; 3.Tu hành cúng dường là sáu độ, bốn nhiếp… phẩm này đa phần nói về cung kính cúng dường và tu hành cúng dường. Văn phẩm này chia làm sáu đoạn: 1. Mười sáu Quốc vương nghe pháp hoan hỷ, rải hoa cúng dường; 2. Từ “Lúc ấy, các Quốc vương…”. Phát nguyện; 3.Từ “Phật bảo đại vương…” là Như Lai thuật thành; 4.Từ “thời, Phật…” là hiện thần lực; 5. Từ “Phật hiện thần túc…” thời chúng đắc ích; 6. Từ “lắng nghe! Lắng nghe!…”. Kết. “Bấy giờ, mười sáu đại Quốc vương nghe Phật thuyết mười vạn ức kệ Bát-nhã Ba-la-mật, hoan hỷ vô lượng, bèn rải trăm vạn ức hạnh hoa ở trong hư không, biến thành một tòa, chư Phật mười phương cùng ngồi nơi một tòa, thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật, vô lượng đại chúng cùng ngồi một tòa cầm hoa Kim-la rải trên Phật Thích-ca Mâu-Ni, thành hoa Vạn-luân che trên đại chúng.” Trong phần thứ nhất, rải hoa. Có bốn phần: 1. “Rải trăm vạn ức hoa hạnh”; ba mươi hoa Tâm thuộc địa tiền; 2.Lại còn rải tám vạn bốn ngàn hòa Bát-nhã Ba-la-mật; hoa Thập địa, Sơ địa trở xuống; 3.Lại rải hoa Diệu giác; là hoa Phật địa; 4. Các trời, người rải hoa Trời. Trong phần hoa hạnh ba mươi tâm. Có bốn phần: 1.Mười sáu Quốc vương đã nghe thuyết Bát-nhã, hoan hỷ bèn rải trăm vạn ức hoa hạnh; 2. Hoa ở không trung biến thành một tòa. Chư Phật mười phương cùng ngồi trên một tòa thuyết Bát-nhã; 3.Vô lượng đại chúng cùng ngồi một tòa, cầm hoa Kim-la rải trên Phật Thích-ca; 4.Hoa Kim la biến thành hoa Vạn luân che trên đại chúng. Hỏi: vì sao trong một thời gian mà các hoa biến chuyển tự tại như vậy? Đáp: Nhờ Bát-nhã, nên ở bên trong một tâm vô sở đắc mà làm thành nhiều loại tên gọi không thể lấy tâm tướng mà cầu. Nếu dựa theo sự khuyến tu để hiểu thì rất nhiều, không thể nói ra hết. Đoạn sau nói về các hoa cũng vậy. Lại rải tám vạn bốn ngàn hoa Bát-nhã Ba-la-mật ở trong hư không, biến thành đài Bạch vân. Trong đài, Phật Quang Minh vương cùng vô lượng đại chúng thuyết Bát-nhã Ba-la-mật. Trong đài, đại chúng cầm hoa Lôi hống rải trên Phật Thích ca và các đại chúng. Phần thứ hai: Hoa hạnh Địa thượng. Văn có ba phần: 1. Rải hoa biến thành đài Bạch vân; 2. Trong đài, Phật Quang Minh vương thuyết Bát-nhã; 3. Trong đài, đại chúng cầm hoa Lôi-hống rải trên Phật Thích ca và đại chúng. “Lại rải hoa Diệu giác ở trong hư không, biến ra thành Kim cang. Trong thành, Phật Sư Tử Hống vương cùng Phật chúng đại Bồ-tát mười phương luận về Đệ-nhất-nghóa-đế. Lúc đó, Bồ-tát ở trong thành cầm hoa Quang-minh rải trên Phật Thích ca Mâu ni thành một đài hoa, trong đài, chư Phật mười phương thuyết pháp Bất Nhị. Phần thứ ba: Rải hoa Diệu giác Phật địa. Văn có năm phần: 1.Rải hoa Diệu giác; 2. Hoa ở trong không, biến ra thành Kim cang; 3. Trong thành Phật , Sư Tử Hống Vương cùng với Phật, đại chúng Bồ-tát lu- ận về Đệ-nhất-nghóa-đế; 4. Lúc đó, trong thành Bồ-tát cầm hoa quang minh rãi trên Phật Thích ca, thành một đài hoa; 5.Trong đài, Phật mười phương thuyết pháp Bất Nhị. “Và các trời người cũng rải hoa Trời lên Phật Thích ca Mâu ni, trong hư không, thành lọng mây tía che trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới, trong lọng che, trời người rải hằng hà sa hoa, như mây ơi xuống.” Phần thứ tư, chư đại chúng Trời, người rải hoa. Có ba phần: 1.Rải hoa trời lên Phật Thích ca; 2.Hoa ở trong không thành lọng mây tía che tam thiên đại thiên thế giới; 3. Trong lọng, Trời, người rải hằng hà sa hoa. Những điều đó, nếu xét về sự, là kính cúng dường. Nhưng nếu theo hạnh là tu hành cúng dường. Hỏi: Trước sau bốn lần rải hoa, biến thành lọng hoa, vì sao trong, bốn lần ấy, có lần Phật thuyết pháp, có lần thì không có Phật thuyết pháp? Đáp: Đó là phương tiện của chư Phật, tùy duyên và khác nhau, không thể nhất định. Xong phần thứ nhất. Rải hoa cúng dường. “Lúc đó, các Quốc vương rải hoa cúng dường rồi, nguyện Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai thường thuyết Bát-nhã Ba-la-mật, nguyện cho tất cả những người thọ trì; Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Tín nam, Tín nữ, những điều cầu mong được như ý, thường hành Bát-nhã Ba-la- mật”. Từ “Lúc đó, các Quốc vương…” là đoạn lớn thứ hai, phát nguyện, trong phẩm, văn có hai phần: 1. Chư Thiên, Quốc vương, nguyện chư Phật ba đời thường thuyết Bát-nhã; 2.Từ “nguyện tất cả người thọ trì …” là nguyện những điều cầu mong của sáu chúng đều được như ý, thường hành Bát-nhã vô sở đắc. “Phật bảo: “Đại vương! Như vậy! Như vậy! Như đại vương đã nói; Bát-nhã Ba-la-mật nên thuyết giảng nên thọ, đó là mẹ của chư Phật, mẹ của chư Bồ-tát, là nơi sinh ra thần thông.” Từ “Phật bảo…” là đoạn lớn trong phẩm, phần thứ ba. Như Lai thuật thành. Văn có hai phần: 1. Đồng ý, nên nói: như vậy như vậy! 2. Từ “như đại vương đã nói…” khuyên nên thuyết nên thọ trì. Khen Bát- nhã là gốc rễ của chư Thánh. Có ba câu: Mẹ của chư Phật, mẹ của tất cả chư Bồ-tát, mẹ của tất cả thần thông. “Lúc ấy, Phật vì Quốc vương hiện năm thần biến chẳng thể nghó bàn: Một hoa nhập vào vô lượng hoa, vô lượng hoa nhập vào một hoa, một cõi Phật nhập vào vô lượng cõi Phật, vô lượng cõi Phật nhập vào một cõi Phật. Vô lượng cõi Phật nhập vào cõi một lỗ chân lông; cõi một lỗ chân lông nhập vào cõi vô lượng lỗ chân lông. Vô lượng núi Tu di, vô lượng biển lớn nhập vào trong hạt cải. Một thân Phật nhập vào vô lượng thân chúng sanh, vô lượng thân chúng sanh nhập vào một thân Phật, nhập vào thân sáu nẻo, nhập vào thân địa thủy hỏa phong. Thân Phật chẳng thể nghó bàn. Thân chúng sanh chẳng thể nghó bàn. Thế giới chẳng thể nghó bàn. Từ “Lúc ấy, Phật hiện thần thông…” Đây là chúng thứ tư. Thần lực. Hiện năm bất tư nghị, thành năm phần; 1. Hoa biến chẳng thể nghó bàn: “Một hoa nhập vaò vô lượng” là ít mà nhập vào nhiều được. “Vô lượng nhập vào một”; nhiều nhập vào ít, nên đều là thần lực chẳng thể nghó bàn; 2. Cõi Phật chẳng thể nghó bàn: vô lượng cõi Phật nhập vào một cõi Phật. Biến được nhiều độ nhập vào một cõi; 3.Lỗ chân lông chẳng thể nghó bàn: ít có thể dung chứa nhiều; 4. Núi Tu di lớn chẳng thể nghó bàn vì nhiều mà có thể nhập vào một hạt cải; 5. Chúng sanh bất tư nghị: vì vô lượng chúng sanh nhập vào một thân Phật. Năm loại thần thông gọi là chẳng thể nghó bàn là tên gọi khác của chánh quán vô đắc. “Khi Phật hiện thần túc, các trời, người ở mười phương đều đắc Tam muội Phật hoa. Mười hằng hà sa Bát bộ thần vương thành đạo Bồ- tát. Mười ngàn nữ nhân hiện thân đắc thần thông Tam muội. Thiện nam tử! Bát-nhã Ba-la-mật đó, có lợi ích ba đời, quá khứ đã thuyết, hiện tại đang thuyết, vị lai sẽ thuyết.” Từ “Phật hiện thần túc…” là đoạn lớn trong phẩm. Phần thứ năm. Nói về được lợi ích. Có hai phần: 1.Nói riêng về bốn loại người đắc lợi ích; 2. Từ “thiện nam!…” là nêu chung về ba đời được lợi ích. Trong phần nói riêng về bốn chúng, chia làm bốn phần: 1. Thiện nhân mười phương đắc Tam muội Phật hoa. Đó là sở đắc ở địa thứ mười, Tam muội Hoa Nghiêm; 2. Mười hằng hà sa Bồ-tát đắc thành thân Phật; 3. Ba hằng hà sa Bát bộ thần vương thành đạo Bồ-tát, là sơ địa trở lên; 4. Mười ngàn nữ nhân hiện thân đắc thần thông; là năm thần thông. Từ “thiện nam! Là nêu chung về Bát-nhã, nói rõ về lợi ích ba đời. “Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo suy niệm về nó, như pháp tu hành.” Từ “lắng nghe! Lắng nghe!…” là đoạn lớn trong phẩm. Phần thứ sáu, khuyên nương theo ba tuệ. Kết về khuyên tu hành. ------------------------- PHẨM THỌ TRÌ Phẩm này nói về mười ba pháp sư. Triển khai phụng hành là thọ. Lâu mãi không quên là trì. Vì vậy mà đặt tên, nên nói là phẩm Thọ Trì. Sáu phẩm chánh thuyết chia làm bốn phần thì đây Đây là chúng thứ tư. Nói về tướng mạo đức hạnh của người hoằng dương kinh. Khuyên lấy đó làm y cứ để học kinh. Văn có hai phần: 1.Nguyệt Quang nghi hỏi; 2.Từ “Đại Mâu ni…”. Đáp. Trong phần hỏi, có hai phần: 1.Nguyệt Quang từ phẩm trên mà sinh nghi; 2. Từ “bạch Phật…” phần hỏi chính, hỏi về người trì pháp đời Mạt pháp. Trong phần nghi hỏi trước, đầu tiên thấy điềm lạ sinh niệm nghi, sau là phát lời xin hỏi. Bấy giờ, Nguyệt Quang tâm nghó, miệng nói. Thấy Phật Thích ca Mâu ni hiện vô lượng thần lực, cũng thấy trên ngàn đài hoa báu, đầy các đức Phật, là tất cả Phật hóa thân chủ. Lại thấy Phật trên thế giới ngàn cánh hoa, mỗi vị Phật trong đó đều thuyết Bát-nhã Ba-la-mật.” “Nguyệt Quang”: họ Nguyệt, tên là Ba-tư-nặc. Sau khi đã thọ pháp, đặt thêm một tên chữ là Quang, nên gọi là Nguyệt Quang. Tiếp là phát lời; thấy thần lực của Phật Thích ca, lại thấy đài hoa báu đầy Phật Thích ca hóa thân Phật chủ, lại thấy Phật trên ngàn cánh, mỗi vị đếu thuyết Bát-nhã. Ba nơi đó Phật là một hay là khác? Bạch Phật: “vô lượng Bát-nhã Ba-la-mật không thể thuyết, không thể giải, hiểu, không thể dùng thức mà biết, như thế thì làm thế nào các thiện nam đối với kinh này có thể giải biết rõ ràng, như pháp vì tất cả chúng sanh khai mở đạo pháp không.” Từ “Bạch Phật …” là phần hỏi chính. Trong ấy có hai phần: 1.Hỏi chính về Bát-nhã thâm diệu vô lượng đã được thuyết; 2. Từ “Làm thế nào…” là kết về ý hỏi. Trong phần hỏi chính có ba câu tán thán về Bát- nhã thâm diệu: 1.Vượt quá ngôn thuyết: vì không thể nói ra được, dứt bặt mọi ngôn ngữ; 2.Vượt quá cảnh giới tướng của tâm; Cho nên nói là: “Không thể giải, hiểu, sâu xa mà vô tận; 3. Vượt quá giác quán: Nên nói “không thể dùng thức để biết”, chẳng phải cảnh giới thuộc suy tư, chẳng đạt đến bằng duyên xét đoán. Phần hai: Pháp tướng như vậy tuyệt duyên dứt quán, thì làm thế nào để giải, hiểu, làm cho chúng sanh đắc nhập đạo “không”. “Khai pháp đạo” “không” là thấy đạt “có” vốn “không”, tức là không mà có thể thông, gọi là đạo, nên bảo là “khai pháp đạo không”. “Đại Mâu ni nói: “có tu hành mười ba môn quán. Thiện nam! Đại pháp vương từ tập nhẫn đến Kim cang đảnh, đều là pháp sư nương giữ kiến lập, đại chúng các ông nên như Phật cúng dường mà cúng dường đấy. Nên đem trăm vạn ức thiên hoa, thiên hương để dâng cúng.” Từ “đại Mâu ni…” là phần hai. Phật đáp. Có ba phần: 1.Chánh đáp câu hỏi; 2.Từ “Phật bảo Nguyệt Quang, sau khi Ta diệt độ…” là khuyến trì; 3. Từ “Lúc ấy, chư đại chúng và A-tu-luân-vương …” nói rõ về thời chúng đắc lợi ích. Trong phần một: Chánh đáp có ba phần: 1.Lược đáp; 2.Từ “thiện nam! Pháp sư đó…”. Rộng đáp; 3.Từ “thiện nam! Như vậy! Như vậy!…” Tóm kết công năng của mười ba pháp sư. Trong phần lược đáp. Có hai phần: 1.Phật đáp khuyên tu môn quán, lược bỏ phần khen công đức. Văn nói; “mười ba môn quán”; là ba Hiền và mười Thánh thành là mười ba. Bốn nhẫn trước mỗi nhẫn đều có ba phẩm, thành là mười hai, thêm tịch diệt hạ nhẫn là mười ba; 2.Từ “Tập nhẫn…”: biện về ngôi vị. “Tập nhẫn” tức chính là tập chủng tính. Đến “Kim cang đảnh” tức địa thứ mười. Nêu đầu và nêu sau, ở giữa mười một nhẫn lược bớt. “Nương giữ kiến lập”; là nói rõ mười ba loại hợp lại có thể làm chỗ dựa; 3.Từ “các ông…” khuyên đại chúng như pháp cúng dường. Văn nói: “Nên như Phật cúng dường”; là dạy cung kính cúng dường vì vậy phẩm nhị đế nói: “Một niệm tín Bát-nhã, nên biết người đó tức là Như Lai.” Huống nữa là mười ba pháp sư, không cúng dường như Phật được sao? Này “Thiện nam! Những pháp sư đó, là Bồ-tát tập chủng tính. Như tại gia là Bà-sai, Ưu Bà-sai như xuất gia Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, tu hành thập thiện, tự quán thân mình, cùng địa, thủy, hỏa, phong, không, thức. Từng phần bất tịnh. Lại quán mười bốn căn; là năm tình, năm thọ, nam, nữ, ý, mệnh, có vô lượng tội lỗi, vì vậy liền phát tâm Bồ-đề vô thượng, thường tu tất cả niệm niệm của Tam giới đều bất tịnh, nên đắc bất tịnh nhẫn quán môn. Trú ở tại nhà Phật, tu sáu hòa kính, gọi là ba nghiệp đồng giới, đồng kiến, đồng học, hành tám vạn bốn ngàn đạo Ba-la-mật.” Từ “Thiện nam! Những pháp sư đó…” là phần hai. Rộng đáp mười ba nhẫn, tức thành mười ba đoạn. Trong phần một, Tập nhẫn, có ba phần: 1.Nội phàm phục nhẫn; là sơ tập nhẫn thập trụ; 2.Từ “thiện nam! Tập nhẫn…”. Nêu mất để hiển đắc. Còn giải thêm trước ba mươi tâm là ngoại phàm phu thập thiện Bồ-tát; 3.Từ “người định đó …” là hiển đắc, trở lại kết tập nhẫn vị. Ở phần một, Tập nhẫn, có tám câu văn: 1.Nêu danh vị của nhẫn. Văn nói: “Là Bồ-tát tập chủng tính”; 2.Nói riêng bốn bộ chúng: tại gia hai chúng; Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Có bản nói: Bà-sai, Ưu Bà-sai. Vì ngữ âm ngoại quốc khác nhau mà có sự khác biệt thôi. Ở xứ này gọi là thiện túc nam, thiện túc nữ. Còn gọi là thiện nam tử, thiện nữ nhân. Hai chúng xuất gia la: 1. Tỳ-khưu; tiếng Hoa gọi là phá phiền não; 2.Tỳ-khưu-ni tiếng Hoa là nữ; 3. Tu tập đức hạnh: văn nói: “Tu hành mười tín”; mười tín là mười loại tâm phục nhẫn hạ phẩm trong phẩm Giáo Hóa trên đá nói. Mười tín là; thứ nhất tâm tinh tiến… cho đến thứ mười, tâm hồi hướng; 4. Tác quán sáu đại tức; bốn đại, và không, thức; 5.Tác quán mười bốn căn: Năm tình căn, năm thọ căn, nam, nữ, ý, mệnh. Mười bốn căn đó là gốc rễ của sinh tử, nên Thành Thật luận gọi là căn vãng lai. Là lỗi lầm trong sinh tử, nên Bồ-tát trước tiên cần phải quán chúng. Ba căn vô lậu nhập vào Thánh vị, chẳng lỗi nên không cần quán. Năm căn như tín v.v… là thiện căn chẳng đoạn, cũng không quán. Vì vậy trong hai mươi hai căn, trừ tám căn kể trên là không có quán, chỉ quán mười bốn căn. Hỷ, lạc, xả, ý, bốn căn đó tuy chung cho cả lậu và vô lậu nhưng là gốc rễ của sự nhiễm ô, vì vậy không ngoại trừ; 6.“Phát tâm Bồ-đề” luận Trí Độ nói: “Năm thứ Bồ-đề” đây là tâm Bồ-đề vô thượng thứ năm. Bốn loại Bồ-đề theo kinh Niết-bàn, đây là phát thượng thượng quán Bồ-đề thứ tư. Ba loại Bồ-đề của kinh Đại Phẩm thì đây là Phật Bồ-đề tâm thứ ba; 7. “Thường tu tam giới nhẫn”; quán niệm niệm trong tam giới đều bất tịnh là gốc của các lậu, không một niệm nào là xứ tịnh, tức đắc nhẫn bất tịnh, đã tác các quán trên gọi là đệ tử Phật. Nên bảo là “trú tại nhà Phật”; 8. Tu sáu hoà kính; cùng vật đồng tu gọi đó là hòa, cùng nhau thọ nhận đức, gọi đó là kính. “Ba nghiệp đồng tu” làm thành ba phần; đồng giới, đồng kiến đồng học. Tám vạn bốn ngàn độ, gọi là sáu. Các kinh khác cho đồng lợi lợi là sáu. Này “Thiện nam! Trước tập nhẫn, hành thập thiện Bồ-tát có thối có tiến, thí như lông nhẹ theo gió tây đông, chư Bồ-tát đó cũng lại như vậy, tuy mười ngàn kiếp hành mười chánh đạo, phát tâm tâm Bồ-đề, là sẽ nhập tập nhẫn vị, cũng thường học ba pháp phục nhẫn mà không thể đặt tên.” Từ “thiện nam!…” Đây là chúng thứ hai trong đoạn lớn tập nhẫn. Giải thêm ba mươi tâm trước. Ngoại phàm thập thiện. Nêu mất để hiển được. Văn có sáu câu: 1. Pháp thuyết; nói về Bồ-tát ngoại phàm thực hành thập thiện, còn có tiến, thối; 2.Từ “ví như…” nêu dụ lông nhẹ, thấy lý chưa rõ. Đa phần thối lui Đại thừa mà trú ở tiểu thừa. Giống như sợi lông nhẹ kia bị lay chuyển theo gió, không thể chánh trụ; 3.Từ “các Bồ-tát đó…” hợp dụ; 4.Từ “tuy mười ngàn kiếp…”; mười ngàn kiếp dùng tâm “có sở đắc” thực hành mười chánh đạo thì cũng không tiến được vào ngôi vị; 5.Từ “phát tâm Bồ-đề…” phát tâm vô sở đắc, “đắc nhập vào ngôi vị tập nhẫn; 6. Từ “cũng thường học…” kết, là người bất định, không thể đặt tên. Đó là người bất định. Người định thì đã nhập vị sinh “không“ tính Thánh nhân, nên sẽ không khởi năm nghịch, sáu trọng, hai mươi tám khinh, kinh sách Phật pháp nói lời tội phản nghịch thì chẳng phải Phật thuyết là không có việc đó, phải một A-tăng-kỳ kiếp tu hạnh phục đạo nhẫn, mới bắt đầu nhập được vào ngôi vị Tăng-già-đà (Tập chủng tánh). Từ “người định thì…” là đoạn lớn thứ ba trong tập nhẫn vị, hiển bày sở đắc, trở lại kết về tập chủng nhẫn. Văn có ba phần: Đắc vị sinh “không”; người đó đắc nhân “không” vô ngã giải, còn gọi là giả danh “không”. Từ “sẽ không khởi…” lìa lỗi lầm, không phạm năm nghịch; (như đã giải thích ở trên) sáu trọng là bốn trọng, thân không mua bán rượu là năm, không nói tội lỗi của bốn chúng là sáu. “Hai mươi tám khinh” là xuất ra từ kinh Thiện Sinh Ưu-bà-tắc: 1. Không cúng dường cha mẹ, Sư trưởng; 2.Say đắm trong ăn uống rượu chè; 3.Không thấy được thân bệnh khổ; 4. Có người xin ăn không cho nhiều ít để họ ra đi không; 5.Như ở chỗ các Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Trưởng lão, Tôn túc, các Ưu-bà- tắc, không lễ bái hỏi han; 6. Như thấy người tứ quả phạm giới mà sinh tâm kiêu mạn; 7. Hàng tháng không trì giữ sáu trai, thọ tám chi giới; 8. Trong khoảng bốn mươi dặm, có nơi giảng pháp mà không đến nghe; 9.Thọ nhận đồ nằm, giường, ghế ngồi của Tăng Chiêu-đề; 1 0. Nghi nước có trùng mà cứ uống; 1 1. Nơi hiểm trở nguy hại, không có bạn cùng đi mà đi một mình; 1 2. Một mình không có bạn cùng đi mà ở lại chùa ni; Vì tiền bạc tài mệnh mà đánh mắng nô tỳ, đồng bọc, người ngoài; Đồ ăn thừa, thí cho bốn bộ chúng; 1 5.Như nuôi mèo, hồ ly; 1 6.Nuôi dưỡng voi, ngựa, bò, lừa, tất cả cầm thú mà không tịnh thí; 1 7.Hoặc không chứa y Tăng già lê, bát, thau, tích trượng; 1 8. Hoặc vì thân mà làm ruộng; 1 9.Không vì nuôi bản thân mà buôn bán ở chợ, cân đong bán đồ vật, vừa nói giá rồi không làm đúng theo lời đã nói, lại bỏ giá rẻ mà bán giá đắt; 2 0. Như tại chẳng đúng chỗ, chẳng đúng lúc mà hành dâm; 2 1.Kinh doanh buôn bán không đóng thuế cho quan, trốn thuế mà đi; 2 2.Như phạm luật nước; 23.Được rau quả mới không dâng cúng Tam Bảo, mình lại dùng trước; 2 4. Tăng nếu không dám nói pháp tán thán, liền tự tác; 2 5. Không được nuôi tằm; 28.Khi đi đường gặp người bệnh, không đứng lại xem thử tìm phương tiện dặc dò mà bỏ đi. “Kinh thư Phật pháp tạo tội phản nghịch nói chẳng phải Phật thuyết” đối với Phật pháp, do chân thật Phật thuyết, lại nói là chẳng phải Phật thuyết. Thật chẳng phải Phật thuyết mà nói là Phật thuyết, không có chuyện đó. “Dùng một A-tăng-kỳ “; là từ cõi sơ tâm thiện đến tập chủng vị mãn tâm, hợp lại suốt đúng một A-tăng-kỳ. “Mới bắt đầu đắc nhập Tăng già đà vị” là đoạn ba. Kết về tập chủng nhẫn. Ngoại quốc gọi là Tăng già đà. Xứ này gọi là tập chủng tính. Phiên dịch theo nghóa gọi là Ly trước địa, vì không chấp trước nhân và ngã. Hỏi: Tập chủng tính còn có tên khác, lại còn cách gọi khác? Đáp: Kinh Anh Lạc nói: Có sáu tên; tại tính gọi là tập chủng tính. Tại tín gọi là kiên tìn, tại nhẫn gọi là tín nhẫn. Tại tuệ gọi là văn tuệ. Tại định gọi là tập tướng định, tại quán gọi là trú quán. Hỏi: Mười trụ là gì? Đáp: 1.Phát tâm trụ; 2.Trị địa trụ; 3.Tu hành trụ; 4.Sinh quý trụ; 5.Phương tiện cụ túc trụ; 6.Chánh tâm trụ; 7.Bất thối trụ; 8.Đồng chơn trụ; 9.Pháp vương tử trụ; 10.Quán đảnh trụ. Vương trong vị gọi là Đồng bảo Anh lạc. “Lại nữa, tính chủng tính hành mười tuệ quán, diệt mười điên đảo và ngã, nhân, tri kiến, phần giả ngụy, chỉ có danh, chỉ có thọ, chỉ có pháp bất khả đắc, không có định tướng, không có tự tha tướng, nên tu hộ “không“ quán cũng thường hành trăm vạn Ba-la-mật, niệm niệm tâm không lìa bỏ dùng hai A-tăng-kỳ kiếp hành chánh đạo pháp, trụ vị Ba-la-đà.” Từ “lại nữa, tính chủng…” là phần hai - Nói về trung nhẫn, văn có tám câu: 1. Nêu danh; 2. Xuất hạnh đức; 3. Diệt hoặc; 4. Tri tục; 5.Tu quán; 6. Biện hạnh nhiều ít; 7. Thời gian tu hành; 8. Kết danh. Phần một Nêu danh, văn nói: 1.Tính chủng tính; 2.Xuất hạnh đức; văn nói; hành mười tuệ quán. Mười tuệ quán tức là mười chỉ tâm trong phẩm Giáo hóa trên. Bốn ý chỉ là bốn , tức bốn niệm xứ, ba thiện căn là bảy, tức là từ, thí, tuệ, ba ý chỉ là mười. Ba ý chỉ là tam thế nhẫn; quá khứ nhân nhẫn, hiện tại nhân quả nhẫn, vị lai quả nhẫn. Diệt hoặc văn nói; “diệt mười điên đảo”: mười điên đảo là thường lạc ngã tịnh, bốn đối, bốn y chỉ. Ba phiền não đối ba y chỉ. Quá khứ nhân nhẫn đối lại với nhân đảo. Vị lai quả nhẫn đối lại với quả đảo. Hiện tại nhân quả nhẫn đối lại nhân quả đảo, hoặc có thể như trong phẩm phát tâm của luận địa trì nói; mười loại phiền não là đảo. Ngã, ngã sở làm chướng cả mười địa, người tính chủng diệt một ít phần. Biết thế đế giả có chẳng thật; văn nói: phần phần giả ngụy bất khả đắc. Không quán; văn nói: Không có tướng tự tha. Tu hộ “không“ quán; quán ngã, nhân không có tướng tự, tha, nên “không“, tức là môn “không“ quán. Chưa đắc đầy đủ gọi là tu. Đã đắc gọi là hộ. Biện hạnh nhiều ít; văn nói: “Thường hành trăm vạn Ba-la- mật, niệm niệm không bỏ tâm”; vì tu không gián đoạn, nên tâm không lìa bỏ tâm. Thời gian tu hành; văn nói: “Dùng hai A-tăng-kỳ”. Kết danh, vị Ba la đà: Tiếng Hoa gọi là tính chủng tính. Sư Tam Tạng nói; dịch theo nghóa là Thủ Hộ Độ. Các hạnh tập được, có thể giữ vững một cách chắc chắn không mất. Từ cõi sơ tâm thiện đến tính chủng vị, trải qua hai A-tăng-kỳ kiếp ; ở kinh Anh Lạc thì có sáu tên gọi: tại tính gọi là tính chủng tính. Tại kiên gọi là pháp kiên, tại nhẫn gọi là pháp nhẫn, tại tuệ gọi là tư duy tuệ, tại định gọi là tính định, tại quán gọi là hạnh quán. Hỏi: Thập hạnh là gì? Đáp: 1. Hoan hỷ hạnh; 2. Nhiêu ích hạnh; 3. Vô sân hận hạnh; 4. Vô tận hạnh; 5. Ly si loạn hạnh; 6. Thiện hiện hạnh; 7. Vô trước hạnh; Tôn trọng hạnh; 9.Thiện pháp hạnh; 10.Chân thật hạnh. Vương trong vị là Ngân Luân vương. “Lại nữa, đạo chủng tính trú trong kiên nhẫn, quán tất cả pháp vô sinh, vô trú, vô diệt, gọi là năm thọ tam giới nhị đế không có tướng tự tha, vì tính như thật là bất khả đắc, thường nhập Đệ-nhất-nghóa-đế thứ mười, tâm tâm tịch diệt.” Từ “lại nữa, đạo chủng tính…” là phần ba, nói về thượng nhẫn, có sáu câu: 1. Nêu danh; 2. Hạnh đức; 3. Quán giải; 4. Vì vật thọ sinh; 5. Thời gian tu hành; 6.Kết vị. Nêu danh: Đạo chủng tính. Hạnh đức: Văn nói: Trú trong kiên nhẫn. Tức mười kiên tâm trong phẩm Giáo hóa trước. Mười kiên là: 1.Giới nhẫn; 2.Tri kiến nhẫn; 3. Định nhẫn; 4. Tuệ nhẫn; 5. Giải thoát nhẫn; 6. Tam giới nhân quả “không“ nhẫn; 7.Vô nguyện nhẫn; 8.Vô tướng nhẫn; 9.Vô thường nhẫn; 1 0. Nhất thiết pháp “không“ vô sinh nhẫn. Quán giải: Văn nói; “quán tất cả pháp không có ba tướng.” Gọi là nhờ biết năm thọ, tam giới, hai đế không có tướng tự, tha. “Tính như thật” là tính không hai, vô sở đắc. Văn nói: “Thường nhập Đệ-nhất- nghóa-đế thứ mười; nhắc lại năm thọ trên là năm, tam giới là tám, thế đế là chín. Chơn đế thành ra là mười. Từ quán trước đến sau cùng, nên bảo là “thường nhập Đệ-nhất-nghóa-đế thứ mười”. “Tâm tâm tịch diệt” là các cảnh quán trước đây là vô sinh, nay nói rõ về tâm là chủ thể duyên cũng tịch diệt. “Mà thọ sinh nơi ba cõi. Vì sao? Vì quả báo của nghiệp tập chưa hoại hết, nên thuận đạo mà sinh. Lại dùng ba A-tăng-kỳ kiếp tu tám vạn ức Ba-la-mật, sẽ đắc địa bình đẳng Thánh nhân, trú chánh vị A-tỳ- bạt-trí.” Phần bốn: Vì vật thọ sinh; Văn nói: “Mà thọ sinh nơi ba cõi.” “Vì sao?” : Dưới là giải thích ý thọ sinh. Vì nghiệp tập chưa hết, nên Bồ-tát tam Hiền, Địa tiền vì vật mà thọ sinh ở ba đường. Vì nguyện từ vô thủy, vì đại bi, vì duyên phát nguyện mà nhập vào ba đường dữ để giáo hóa chúng sinh. Phần năm: Nói về thời gian tu hành; văn nói; “ba A-tăng-kỳ kiếp.” Tu tám vạn ức các độ mới nhập vào sơ địa, nên bảo “sẽ đắc địa bình đẳng Thánh nhân”. Phần sáu: Kết vị. A-tỳ-bạt-trí, chánh phiên dịch là bất thối. Đạo chủng tính, có sáu danh gọi; tại kiên gọi là tu kiên, tại nhẫn gọi là tu nhẫn, tại tuệ gọi là tu tuệ, tại định gọi là tuệ định, tại quán gọi là hướng quán. Mười hồi hướng là: 1.Lìa tướng chúng sanh hồi hướng; 2.Bất hoại hồi hướng; 3.Đẳng Nhất thiết Phật hồi hướng; 4.Chí Nhất thiết xứ hồi hướng; 5.Công đức vô tận tạng hồi hướng; 6.Thiện căn bình đẳng hồi hướng; 7.Đẳng quán chúng sanh hồi hướng; 8. Như tướng hồi hướng; 9. Không trói buộc giải thoát hồi hướng; 1 0. Pháp giới vô lượng hồi hướng. Kinh Anh Lạc gọi tên là Kim Luân vương. “Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát thiện giác trú nhẫn bình đẳng, tu hành bốn nhiếp, niệm niệm tâm không lìa bỏ. Nhập vô tướng xả, diệt phiền não tham trong ba cõi, ở Đệ-nhất-nghóa-đế mà bất nhị, vì pháp tính vô vi, duyên lý mà diệt tất cả tướng, nên là trí duyên diệt vô tướng, vô vi.” Từ “lại nữa, thiện giác…” là tiếp theo, nói về tín nhẫn ở sơ địa, lại có mười đoạn: 1.Nêu danh; 2.Tán thán về công đức ở địa; 3.Không và có cả hai đều giải; 4. Diệt hoặc; 5. Đắc hai vô vi; 6. Hiểu phương tiện của pháp; 7.Hai trí thành tựu; 8.Tiến hạnh; 9.Kết vị; 10.Dùng bốn đại tạng để ích vật. Nêu danh: Văn nói: Bồ-tát thiên giác. Tán thán về đức hạnh của địa: văn nói: Trú nhẫn bình đẳng, sơ địa chứng tín, không và có cùng quán, nên nói là nhẫn bình đẳng. Không và hữu cả hai đều giải: Văn nói: “Tu hành bốn nhiếp”; tức là giải có. “Nhập vô tướng…”; tức là giải “không“. Diệt hoặc; văn nói: “Diệt phiền não tham trong ba cõi”. Đắc hai vô vi; văn nói: “Ở đệ nhất nghóa mà bất nhị”. Diệt tất cả tướng; đó là số diệt vô vi. “Khi trú sơ nhẫn, vô lượng sinh tử vị lai không do trí duyên mà diệt, nên chẳng phải trí duyên mà diệt, vô tướng vô vi, vô tự tha tướng. Vì vô tướng, vô vi, nên vô lượng phương tiện đều hiện tiền. Người quán phương tiện thật tướng thì ở Đệ-nhất-nghóa-đế, không chìm không xuất, bất chuyển, bất điên đảo. Người học khắp phương tiện thì chẳng phải chứng chẳng phải không chứng mà học tất cả.” Trú sơ nhẫn thì sinh tử vị lai không khởi; tức là phi số duyên diệt vô vi. “Không tướng tự tha”; do tự nên có tha. Tự đã không có, nên tha cũng không có. Một vô là vứt bỏ tự, một vô là vứt bỏ tha. Hai vô đều vứt bỏ, nên gọi là vô vô tướng. Phần sáu: Giải thích phương tiện của pháp. Văn có sáu câu: 1. Phương tiện thật tướng; 2.Phương tiện học khắp; 3.Phương tiện hồi hướng.; 4.Phương tiện tự tại với ma; 5.Phương tiện Nhất thừa; 6.Phương tiện biến hoá. Phương tiện học khắp; văn nói: “Phi chứng phi bất chứng”; Bồ-tát không và hữu đều cùng quán, thực hành một cách ngang nhau, không hai khác, nên nói là phi chứng phi bất chứng. “mà học tất cả”; tức nói về đại và tiểu đều học khắp gọi là “học tất cả”. “Hồi hướng phương tiện là phi trú quả, phi chẳng trú quả nhưng hướng Nhất-thiết-trí. Nếu đối với ma tự tại phương tiện là ở phi đạo mà hành Phật đạo, không bị bốn ma làm động. Nhất thừa phương tiện là ở tướng không hai mà thông đạt tất cả hạnh của chúng sanh. Biến hóa phương tiện là nhờ nguyện lực, tự tại sinh tất cả quốc độ Phật thanh tịnh. Như vậy, Thiện nam! Sơ giác trí đó ở tướng có và không nhưng không hai, khác là chiếu thật trí.” Phương tiện hồi hướng: Văn nói: “Phi trú quả, phi chẳng trú quả nhưng hướng Nhất-thiết-trí”. Có ba loại hồi hướng: 1. Hồi nhân hướng quả; toàn bộ thiện căn đều hướng quả Nhất-thiết-trí; 2. Hồi quả hướng nhân: cùng chung với tất cả chúng sanh; 3.Hồi hướng vô sở đắc; cho nên lìa tướng. “Phi trú quả”; là không trú quả nhị thừa, trời và người. “Phi chẳng trú”; là trú bốn loại quả thuộc sơ địa trở lên; quả điều nhu, quả phát thú, quả nguyện trí, quả nhiếp báo. Lại nữa, “phi trú” là không trú bốn quả. Phi chẳng trú là trú nơi quả Nhất-thiết-trí. phương tiện tự tại đối với ma văn nói: “Ở phi đạo mà hành Phật đạo, bốn ma không làm lay động được”: Cùng với ma nhưng hành Phật đạo, ma không thể làm hư hoại được. Là để làm rõ hai nghóa: 1.Muốn dẫn tà nhập vào chánh; 2.Tà và chánh không hai khác, giải, hiểu rõ ma sự không là gì cả, tức chính là Phật sự. Bốn ma là; phiền não ma, ấm ma, tử ma, thiên ma. Muốn nói Bồ-tát sơ địa có thể hàng phục bốn ma, nên nói là “không bị lay động” Bồ-tát sơ địa đoạn dứt mê hoặc thuộc sơ địa, nên lìa phiền não ma. Đắc pháp thân, nên lìa ấm ma. Đắc pháp lực đạo, nên lìa tử ma. Đắc Tam muội bất động nên lìa thiên ma. Nếu theo kinh Đại-Tập thì bốn đế, ba không, bốn niệm xứ,… trị bốn ma. Những điều như vậy là để tỏ bày phi đạo thông đạt Phật đạo. Phương tiện Nhất thừa; văn nói: “Tướng không hai, thông đạt tất cả hạnh của chúng sanh”; chỉ hành một pháp môn bất nhị của Đại thừa để giáo hóa chúng sanh. Phương tiện biến hóa: văn nói: “Nguyện lực tự tại sinh tất cả quốc độ Phật thanh tịnh” là khởi thân thông ích vật. “Nguyện lực” là khởi thông tâm. Nói “tự tại”; là nói về thông suốt thể trí tuệ đó. Nói “sinh tất cả quốc độ Phật thanh tịnh” là nói về thông dụng của nó. Đúng lý thì cũng sinh uế độ, vì lược bỏ nên không nói. Hai trí thành tựu, có ba ý: 1.Pháp thuyết; 2.Từ “thí như nước…” là phần thuyết thí dụ; 3.Từ “cho đến…” là hợp thí. Trong phần pháp thuyết; trước là nói về thật trí, sau là nói về phương tiện. Văn nói: “Sơ giác trí ở tướng hữu và vô nhưng không hai khác” là thật trí. “Khéo dùng không chứng, không chìm, không xuất, không đến, là phương tiện quán. Thí như nước và sóng không một không khác, cho đến tất cả hạnh Ba-la-mật, Thiền định, Đà-la-ni, không một không hai. Mà hai hạnh thành tựu, dùng bốn A-tăng-kỳ kiếp thực hành hạnh. Nhập môn công đức tạng đó thì không sinh nghiệp tập nơi tam giới mà hết, không tạo mới. Nhờ nguyện lực nên biến hóa sinh tất cả tịnh độ. Vì thường tu quán xả mà đăng ngôi vị Cưu-ma-la-già. Nhờ dùng bốn đại bảo tạng mà thường trao cho người.” Từ “khéo dùng…” là nói về phương tiện trí. Thí dụ nói: “Như nước với sóng, không một không khác.” là nói về nghóa của động khác với nghóa của ướt, giống như nghóa của hạnh khác với nghóa của lý. Nói “không khác” là nói về thể của sóng tức thể của nước, giống như thể của hành tức là thể của lý. Trong phần hợp dụ, văn nói: “Cho đến tất cả hành không một” là tỏ tướng của hành khác với lý. Lại nói về thể của các hành đồng nhau, nhưng nghóa thì khác nhau. Nói “không hai” là nói thể của lý và hành đồng nhau. Lại còn nói thể của các hạnh là đồng nhau, chúng tựa như sóng và nước. Hợp với trên thành là “không một không khác”. Nay ở đây nói nói về hai trí không giống, người khác nói là khác nhau; ngoài thật trí còn có phương tiện riêng biệt. Gọi là “thật trí” tức là phương tiện thật. Nói “phương tiện” là thật phương tiện, há lại có thể nói là một, có thể nói là khác được sao? Trong thí dụ nói đã tự rõ. Tiến hạnh: Có bốn câu: 1.Đã thực hành lâu ngày mới nhập vào môn này. Văn nói: “Bốn A-tăng-kỳ đắc nhập”; vượt quá ba nhẫn trước, nên bảo là bốn A-tăng-kỳ; 2.Không có sinh ra nghiệp báo trong ba cõi. Văn nói: “đã xong hết nên không tạo ra cái mới”; không còn thọ nhận quả báo trong ba cõi, nên bảo là không tạo ra điều mới; 3. Nhờ nguyện lực mà thọ sinh; nhờ ba mươi tâm địa tiền, vô lậu làm nhân, vô minh làm duyên mà chiêu cảm sơ địa biến dị sinh ngoài ba cõi; 4. Thường tu quán xả; vì đã đoạn dứt các phiền não. Kết vị: Cưu-ma-la-già: Tiếng xứ này gọi là vị đồng tử. Vì sinh ra tại nhà Phật. Còn gọi là địa ly dục, còn gọi là địa thắng ác ma. Sơ địa lìa năm nỗi sợ, vượt quá ma thuộc nhị thừa. Thường dùng bốn đại tạng làm ích cho vật; bốn đại tạng là: Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm, Tạp tạng. Cũng có thể theo kinh Thắng Man: 1. Nhân thiên thiện căn tạng; 2. Thanh văn tạng; 3. Duyên giác tạng; 4. Đại thừa tạng. Cũng có thể y theo kinh Địa Trì: Bốn nhiếp tạo lợi ích vật là bốn tạng. “Lại nữa, Bồ-tát Đức Tuệ dùng bốn tâm vô lượng diệt các phiền não sân thuộc ba hữu, trú trong trung nhẫn mà hành tất cả công đức, dùng năm A-tăng-kỳ kiếp mà hành quán đại từ, tâm tâm thường hiện rõ tại tiền, nhập vị Ám-đà-bà-la vô tướng, giáo hóa tất cả chúng sanh.” Từ “Đức Tuệ …” là địa thứ hai. Văn có năm phần: 1.Nêu danh; 2. Trí đoạn; 3.Trú trong nhẫn tự hành; 4. Thời gian; 5. Kết. Nêu danh: Văn nói: Bồ-tát Đức Tuệ. Trí đoạn: Văn nói: Dùng bốn tâm vô lượng; là nói về trí. Diệt phiền não thuộc ba hữu là nói về đoạn. Trú trong trung nhẫn hành tất cả công đức; là tán thán về tướng của hạnh tự lợi. Thời gian tu hành: Văn nói: Dùng năm A-tăng-kỳ kiếp, dựa vào bốn A-tăng-kỳ kiếp trước là năm. Kết: Nhập Ám-đà-ba-la: Trung Hoa dịch là vượt qua bóng tối, không còn tối tăm nữa, còn gọi là Địa Vô úy. Sư Tam Tạng dịch là Mãn túc. “Lại nữa, đạo nhân Minh Tuệ thường dùng vô tướng nhẫn trung hành, quán tam minh, biết pháp ba đời không có vị lai, không có quá khứ, không có nơi dừng, tâm tâm tịch diệt, tận hết phiền não si trong ba cõi, đắc tam minh tất cả công đức quán, nên thường dùng sáu A-tăng- kỳ kiếp mà tập vô lượng minh Ba-la-mật. Nhập vị Già-la-đà, hành vô tướng thọ trì tất cả pháp.” Từ “Minh Tuệ, …” là địa thứ ba. Văn có năm phần: 1. Nêu danh; Nhận danh; 3. Trí đoạn; 4. Thời gian tiến hạnh; 5. Kết vị. Nêu danh: Văn nói: Đạo nhân Minh Tuệ. Nêu tên nhẫn: Văn nói: Vô tướng hành nhẫn trung; là tín nhẫn thượng phẩm. Nói “Tam minh”; là chiếu ba đời vô sinh, nên bảo là; “vô lai, vô khứ, vô trú xứ” (không có vị lai, không có quá khứ, không có hiện tại) ba đời bất khả đắc (không thể nắm bắt) là quán tận ở duyên. “Tâm tâm tịch diệt”; là duyên tận ở quán. Trí đoạn; văn nói: “Tận hết phiền não si trong ba cõi”. Thời gian tiến hạnh: Sáu A-tăng-kỳ kiếp, đủ trước năm thành sáu. địa. Kết vị: Văn nói: Nhập vị Già-la-đà: Tiếng Hoa gọi là Độ biên <篇> NHÂN VƯƠNG BÁT NHà KINH SỚ <卷>QUYỂN 6 “Lại nữa, Nhó Diệm Thánh Giác Đạt Bồ-tát, tu hành nhẫn thuận pháp, nghịch năm kiến lưu, tập vô lượng công đức. Trú vị Tu đà hoàn.” Từ “Nhó diệm…” là địa thứ tư. Văn có bốn phần: 1. Nêu danh; 2. Lập tên nhẫn; 3. Lìa chướng; 4. Tiến hạnh. Nêu danh: Văn nói Nhó Diệm Thánh Giác Đạt Bồ-tát. “Nhó Diệm” tiếng Hoa gọi là Trí mẫu. Đã tiến lên đoạn dứt tư duy, nên gọi là Giác đạt. Cảnh có thể sinh trí, lấy cảnh làm trí mẫu (mẹ của trí). Lập tên nhẫn: “Tu hành nhẫn thuận pháp.” Là thuận nhẫn hạ phẩm. Lìa chướng: Văn có ba câu: 1. “Nghịch với năm kiến lưu” do Bồ-tát địa thứ tư có thể diệt năm kiến phiền não tập khí. Địa kinh nói: Ngã kiến làm đầu, thảy đều xa lìa. Nhiếp luận nói; địa thứ tư đoạn thân kiến, vô minh câu sinh. Sư Tam Tạng nói; Đại thừa có năm kiến riêng; Sinh diệt kiến giống như biên kiến của tiểu thừa; 2.Tứ niệm xứ kiến: làm tổn hao chánh niệm, chánh niệm đối trị giống như tà kiến của tiểu thừa; 3.Thiện ác kiến; làm tổn chánh cần, chánh cần có thể hành tất cả pháp thiện của Bồ-tát vô phân biệt. Nếu phân biệt pháp thiện Bồ-tát thì không thể siêng năng. Giống với giới thủ kiến của tiểu thừa; 4.Chúng sanh kiến; là đối trị của Bồ-tát. Bồ-tát không thấy chúng sanh khác với Bồ-tát; 5.Chánh pháp kiến: Chánh trí là đối trị không thấy có pháp. Bồ-tát hành chín loại đạo thì có thể nghịch năm giòng kiến đó, bắt đầu nhập Bồ-tát Tu đà hoàn vị. Chín loại đạo là: 1.Hành sinh tử như bệnh uống thuốc đắng; 2. Gần với chúng sanh; như thầy thuốc giỏi không kể người bệnh não loạn; 3. Ngưng tụ thân lực: như đồng bộc tôi tớ không kể đói rét, sức chịu nổi; 4. Nhập vào dục trần như kẻ buôn bán sợ mất tiền. Vì làm lợi cho chúng sanh, tuy sống sung túc vui thú nhưng không thọ nhận nhiều quả báo tốt; 5. Tịnh ba nghiệp: như người giặt áo quần chưa sạch thì không nghỉ; 6. Không não người khác; 7. Tập thiện căn; như người đánh lửa, lấy được lửa rồi mới ngưng; 8. Tu định: Thí như có người hầu hạ; 9. Nương theo trí tuệ; như huyễn sư ở trong huyễn chúng không sinh chơn thật. 2 . Trú vị Tu đà hoàn: Có hai nghóa nghóa thứ nhất là ở trong vị Tu đạo, nhị địa, tam địa tu đạo hữu lậu, chán ghét, điều phục phiền não. Tứ địa thì tu đạo hữu lậu, đã vónh viễn đoạn dứt phiền não, sơ đắc tu vô lậu, gọi là Tu đà hoàn. Nghóa thứ hai là đã đạt tam địa rồi, vẫn tạo nghiệp hữu lậu. Sơ địa hành thí, nhị địa trì giới, tam địa tu Bát thiền định hữu lậu. Tứ địa trở lên thì tu đạo vô lậu, đoạn dứt ba cõi, nghịch giòng sinh tử. Gọi là Tu đà hoàn. Cũng có thể người đó đoạn dứt nhân của nhân tướng ngã chướng vì giống như sơ quả của tiểu thừa, nên tương đó mà lập danh. “Thường dùng thiên nhãn, thiên nhó, túc mệnh, tha tâm, thân thông đạt, ở trong niệm niệm diệt nơi tất cả kiến tam giới. Cũng dùng bảy A-tăng-kỳ kiếp hành năm thần thông, hằng hà sa Ba-la-mật tâm, thường không lìa bỏ. Năm thông; thiên nhãn … là Bồ-tát địa thứ ba ở trong vị hữu lậu tu đạo đắc năm thông. Địa thứ tư ở trong vị vô lậu đắc năm thông, đắc một phần lậu tận, lược bớt nên không nói. Kết về lìa chướng: Diệt tất cả kiến trong ba cõi. Thời gian tiến hạnh: Văn nói: Dùng bảy A-tăng-kỳ. Đúng thì phải có kết về danh vị, văn lược bớt không nói ra. “Lại nữa, Bồ-tát Thắng Đạt ở nhẫn thuận đạo dùng bốn vô uý quán Na-do-tha-đế, nội đạo luận, ngoại đạo luận, dược phương, công xảo, chú thuật. Ta là người Nhất-thiết-trí, diệt các phiền não - Nghi trong ba cõi. Ngã tướng đã tận. Tri địa, địa có sở xuất, nên gọi là xuất đạo.” Từ “Thắng đạt…” là nói về ngũ địa. Văn có năm đoạn: 1.Nêu danh; 2. Nêu nhẫn; 3.Nói về bốn vô úy; 4. Chứng quả; 5. Thời gian tu hành. Nêu danh: Văn nói: Bồ-tát Thắng Đạt. Tức là ĐịA-nan Thắng. Nêu nhẫn: Văn nói: Ở nhẫn thuận đạo; Bồ-tát địa thứ năm tu thuận nhẫn trung phẩm, tùy thuận quán như đạo, gọi là nhẫn thuận đạo. Bốn vô úy có hai phần: Trước là nêu chung, sau là giải thích riêng. Nêu chung là bốn Vô úy. Từ “quán na-do-tha…” là giải thích riêng: Nhất-thiết-trí vô úy. Nói “Na-do-tha-đế”; Trung Hoa gọi là ức ngàn vạn đế. “Nội đạo luận” là mười hai bộ kinh Phật. “Ngoại đạo luận” là bốn Vi-đà. “Dược phương” là sách thuốc cỏ gốc được vua quan tướng só chế tạo. “Công xảo” là khéo biết được các sự về thành trì, thị tứ. “Chú thu- ật” là khéo hiểu về phương thuật. “Ta là người Nhất-thiết-trí” là kết về vô úy Nhất-thiết-trí. Vô úy thứ hai là từ “diệt ba cõi…” là nói vô úy lậu tận. “Các phiền não nghi trong ba cõi” là: 1. Thân kiến; 2. Giới thủ; 3. Nghi. Nhân và ngã hết từ lâu, hai phiền não cũng đã trừ, nay bắt đầu trừ nghi. Nghi là công dụng của tâm phiền não, lấy ba cõi làm gốc. Từ ba cõi mà xuất ra, nên bảo là “tam giới nghi đẳng”. “Ngã tướng đã tận”; là không còn ngã mạn. Vô úy thứ ba là “biết địa, địa có chỗ xuất” là vô úy tận khổ đạo. “Có chỗ không xuất, cho nên gọi là chướng đạo. Nghịch tam giới, tu tập vô lượng công đức, liền nhập vị Tư-đà-hàm, lại tận hành trong tám A-tăng-kỳ kiếp hành các Đà-la-ni nên thường hành vô úy tâm quán không bỏ”. Vô úy thứ tư là: “Có chỗ bất xuất” là nói vô úy về chướng đạo. Bồ-tát riêng có bốn vô úy, tên gọi xuất từ luận Đại Trí: 1.Văn trì; 2. Thuyết pháp; 3. Đáp thắc mắc; 4. Đoạn nghi. Nhưng văn đó giải thích bốn vô úy này là căn cứ theo bốn vô úy của Phật, tức là Phật Bồ-tát. Chứng quả: Tu tập vô lượng công đức liền nhập quả Tư-đà- hàm. Tiếng Phạm là Tức kị già di, tiếng Hoa gọi là Nhất Lai. Tức kị là nhất, Già di là lai. Đoạn Dục Sắc giới, sáu phẩm tu đạo. Hoặc nói: tứ địa thì đoạn tư duy cõi dục, ngũ địa thì đoạn tư duy cõi sắc. Lục địa thì đoạn tư duy vô cõi sắc. Trú trong chỗ mỏng, gọi là bạc phiền não. Lại giải; người nhập vị Tư-đà-hàm thì đoạn thân tịnh, chướng ngã mạn tận, còn có tập chướng vi phiền não, tựa như Tư-đà-hàm của tiểu thừa. Cũng có thể người đó hướng tới lục địa sau, là nghóa chỉ còn một lần vãng lai. Sư Tam Tạng nói; Bồ-tát địa thứ năm còn địa thứ sáu thì thấy tam giới, gọi là nhất vãng lai. Tiến hạnh: Tám A-tăng-kỳ, là theo số bảy trước nên bảo là tám. “Đà-la-ni”; tiếng Hoa gọi là Năng trì. “Lại nữa, thường hiện chơn thật trú, trong thuận nhẫn, tác quán trung đạo, tận tập nhân tập nghiệp của tất cả phiền não nơi ba cõi, quán phi hữu phi vô. Một tướng, vô tướng nhưng vô nhị, chứng vị A-na-hàm. Lại còn với chín A-tăng-kỳ kiếp tập chiếu minh trung đạo, lực vui thích sinh tất cả quốc độ Phật”. Từ “thường hiện…” là địa thứ sáu, địa Hiện tiền. Có sáu đoạn: 1. Xuất địa danh; 2.Trú nhẫn tu quán; 3.Đoạn hoặc; 4.Chứng quả; 5.Tiến hạnh; 6. Kết trung đạo. Xuất danh: Thường hiện chơn thật. Trú nhẫn tu quán: Nêu: Trú trong thuận nhẫn, tác quán trung đạo là nói Bồ-tát địa thứ sáu tác quán vô sở đắc. Diệt hoặc: Nêu tận tập nhân tập nghiệp nơi ba cõi nghiệp tuy không thể đoạn dứt, nhưng đoạn phiền não thì nhân của nghiệp tự diệt. Nói “phi hữu phi vô” là trung đạo hiện tiền. “Một tướng vô tướng”: Đối với hai mà nói một, đối hữu mà nói vô. Nên bảo là “một tướng vô tướng”. Hai bỏ một cũng mất, hữu hết thì vô cũng dứt, đó là nói theo đối trị, xin đừng cho đấy là kiến giải về pháp. Chứng quả A-na-hàm: Tây phương gọi là A-na-già-di, tiếng Hoa gọi là Bất hoàn. A-na là bất, già-di là hoàn. Nghóa là không trở lại Cõi dục nữa. Lược nói thì đoạn năm kiết hạ phần, rộng nói thì đoạn chín mươi hai tức, tám mươi tám sử, kiến đế và bốn sử tư duy. Sư Tam Tạng nói: Bồ-tát địa thứ sáu có bốn Bất hoàn: 1.Bất hoàn nhị thừa tâm (không trở lại tâm nhị thừa); 2. Bất hoàn ma sự. Ma sự tức là sáu trần; Bất hoàn ái pháp; 4. Bất hoàn vị thiền. Thời gian tiến hạnh: Chín A-tăng-kỳ. Kết quán trung đạo: Nêu: Tập chiếu minh trung đạo nhờ nguyện lực nên được sinh tất cả cõi Phật. “Lại nữa, Bồ-tát Huyền Đạt. Trong mười A-tăng-kỳ kiếp tu nhẫn vô sinh pháp lạc, diệt tập nhân nghiệp quả nơi ba cõi trú trong hậu thân. Vô lượng công đức hạnh đều thành tựu.” Từ “Huyền Đạt…” là nói về địa thứ bảy. Văn có bảy đoạn: 1.Nêu tên địa. 2. Tiến hạnh; 3. Biện nhẫn; 4. Lìa chướng; 5. Tập đức; 6.Kết vị; 7. Hành hóa trong địa. Nêu danh tức nói: Bồ-tát Huyền Đạt. Tức là địa Viễn hành. Thời tiến hạnh nói: Mười A-tăng-kỳ: Số lượng nhiều ít trong địa Biện nhẫn: Nêu: “Vô sinh pháp lạc”; là địa thứ bảy đắc vô sinh, mới bắt đầu chứng pháp thích hợp thần, nên bảo là pháp lạc nhẫn. Ví như sơ địa đắc phần khởi đầu của mười địa, nên gọi là hoan hỷ. Tức là nhẫn vô sinh quán hạ phẩm. Lìa chướng: Nói: Diệt tập nhân nghiệp quả nơi tam giới: Đó chỉ là phân đoạn, chẳng phải là tận hết mãi mãi. Lục địa trên thì diệt nhân, địa thứ bảy thì diệt quả. Cũng có thể là lục địa thì đoạn chánh sử. Địa thứ bảy thì đoạn tập. Tập đức nói: “Trú hậu thân” là cuối cùng ràng buộc nghiệp phân đoạn nơi ba cõi, gọi là trú hậu thân. Theo Trí Độ luận: Nhân duyên đời trước, Bồ-tát địa thứ bảy có nhục thân. Thất địa, Thanh văn địa, nhục thân Thanh văn thành đạo, mượn tướng để hiểu nghóa, nên bảo là thất địa có nhục thân. Luận Trí-Độ nói: Sơ địa gọi là pháp thân, huống nữa là nhục thân thất địa. Nhục thân đó là Biến dị pháp thân nhục. (Nhục thân của pháp thân Biến dị). Đấy cũng là một cách nói, không thể lấy đó làm định chấp. Cho nên, kinh Pháp Hoa nói: Khi mới phát tâm, liền thành chánh giác. Chẳng lẽ địa thứ bảy vẫn còn là nhục thân. “Vô lượng công đức đều thành tựu” là trú trong hậu thân. Nói chung về công đức không một, nên bảo là vô lượng. “Vô sinh trí, Tận trí, năm phần pháp thân đều đầy đủ, trú địa thứ mười vị A-la-hán Phạm thiên, thường hành môn ba không, quán trăm ngàn vạn Tam muội hoằng hóa pháp tạng đầy đủ.” “Vô sinh trí, Tận trí”; là nói riêng về các công đức của hậu thân. Vả lại, tác một loại, chỉ mong nhân phân đoạn tận, được gọi là Tận trí. Khổ quả không sinh, gọi là Vô sinh trí. “Năm phần pháp thân”; là vô lậu giới, định, tuệ, giải thoát tri kiến. Kết vị nêu: Trú nơi vị thập địa A-la-hán Phạm thiên. Sư Tam Tạng nói: La hán có ba xứ: 1.Tam giới rốt ráo, gọi là La-hán. Thấy phiền não tam giới tận; 2.Kết tận, gọi là La-hán. Thất địa thấy tam giới hoặc, phi hữu phi vô; 3.Sinh tử rốt ráo Phật địa, gọi là La-hán. Thấy tất cả hoặc, phi hữu phi vô. Lại nói: phân đoạn sinh tử tận, gọi là La-hán. “Phạm thiên vị” là sơ thiền Phạm Thiên vương. “Thập địa” là ba Hiền trước thêm bảy, gọi là đệ thập địa. “Nội hóa hành đệ thất địa”; là hành quán ba không. Không, vô tướng, vô nguyện là tuệ vô lậu. “Trăm ngàn vạn Tam muội” là định vô lậu. “Hoằng hóa” là lợi ích chúng sanh. “Lại nữa, đẳng giác nhẫn là trú trong nhẫn vô sinh quán tâm tâm tịch diệt, nhưng vô tướng tướng, vô thân thân, vô tri tri. Mà dụng tâm, vận hành ở phương của các phương, an nhiên trú ở trú của vô trú.” Từ “đẳng giác…” là nói về địa thứ tám, có năm đoạn: 1. Nêu tên địa; 2.Biện nhẫn; 3.Quán vô tướng; 4.Kết đại thần vị; 5.Thời tiến hạnh. Nêu tên địa: Là Đẳng giác Bồ-tát, tức Bất động địa. Giải thích nhẫn: Trú nhẫn vô sinh; là nhẫn vô sinh trung phẩm. Quán giải: Nêu: Quán tâm tâm tịch diệt; là tâm vô sở đắc. “Vô tướng tướng”; là không có tướng công dụng của bảy địa nhưng có tướng vô công dụng địa thứ tám. “Vô thân thân” là không có thân công dụng bảy địa, mà có pháp thân vô công dụng của địa thứ tám. “Vô tri tri” là khác với công dụng tri của thất địa mà có vô công dụng tri của địa thứ tám trở lên. Nói địa thứ tám song chiếu vạn cảnh bất tri mà tri. “Dụng tâm thừa ở phương của các phương”: Thừa là có thể vận tải quần sinh. Phương; là tình có hướng đến gọi là phương. Cho nên thiên Hệ Từ nói: “Cùng loại tụ, vô phương ứng hóa, tùy vật tại xứ” nên bảo: “Phương của các phương”. Tuy giáo hóa khắp mọi phương nhưng không trú nơi sinh tử. Đó làvô lậu tùy thích. Nên bảo là an nhiên trú ở vô trú. “Tại có thường tu “không”, nơi “không” thường vạn hóa, vì song chiếu tất cả pháp, biết Thi xứ phi thi xứ, cho đến Nhất-thiết-trí quán mười lực mà có thể đăng vị Ma-ha-la-già, giáo hóa tất cả chúng sanh ở các quốc độ, ngàn A-tăng-kỳ kiếp hành pháp mười lực, tâm tâm tương ứng thường nhập Tam muội kiến Phật”. “Tại có thường tu không” là tại có mà không nhiễm có. Có không có chướng ngại “không”, vì biết có chẳng phải có, nên có thể không và có vô ngại. “Ở nơi “không” thường vạn hoá” tịch mà thường dụng, vì không và có là không hai, nên bảo là song chiếu tất cả pháp. “Biết thị xứ, phi thị xứ” là có và không cùng chiếu. Không gọi là thị xứ Có gọi là phi xứ. Cũng có thể là phần đầu ấy là lực thị xứ phi xứ. Chứng vị: Ma-ha-la-già: Hoa dịch là đại thần. (quan lớn) đã không và có cùng quán, cùng Phật hành hóa, nên bảo là đại thần. Như kinh nói: Xá lợi phất là đại tướng nơi pháp Phật. Tiến hạnh: Nói Ngàn A-tăng-kỳ kiếp hành pháp mười lực. Mười lực; đã giải thích ở trên. “Tâm tâm tương ứng thường nhập Tam muội kiến Phật” vì đắc giải vô sở đắc, cho nên bảo là tương ưng. “Thường nhập Tam muội kiến Phật” là chứng Tam muội niệm Phật. “Lại nữa, Tuệ Quang thần biến, trú thượng thượng vô sinh nhẫn. Diệt tâm tâm tướng, pháp nhãn thấy tất cả pháp, ba nhãn thấy sắc không; nhờ đại nguyện lực, thường sinh nơi tất cả tịnh độ, vạn A-tăng- kỳ kiếp, tập Tam muội vô lượng Phật quang, có thể hiện trăm vạn ức hằng hà sa thần lực của chư Phật, trú vị Bà-già-phạm, cũng thường nhập Tam muội Phật hoa.” Từ “Tuệ Quang…” là nói về địa thứ chín. Có bảy đoạn: 1.Nêu tên địa; 2.Nêu nhẫn; 3.Diệt ác; 4.Nói bốn nhãn chiếu dụng; 5.Nguyện lực thọ sinh; 6. Thời tiến hạnh; 7. Kết vị. Nêu danh: Tuệ Quang tức địa Thiện tuệ. Tuệ là Bát-nhã. Quang là pháp thân. Thần biến là giải thoát. Nêu nhẫn: Trú thượng thượng nhẫn vô sinh. Là nhẫn vô sinh trung hạ phẩm. Vì hình dung về bát địa trên là trung phẩm thượng với hạ phẩm. Nên đặt tên địa thứ chín này là thượng thượng nhẫn vô sinh. Diệt hoặc: Diệt tâm tâm tướng: tức chính là biên hạn vô tri của tâm. Bốn nhãn chiếu dụng khác nhau: “Pháp nhãn chiếu tất cả pháp” pháp nhãn chiếu “có”, tức là đạo chủng trí, có thể duyên với có để độ chúng sanh, nói là pháp nhãn thấy tất cả pháp. Đó là một cách nói không thể lấy đó làm định chấp. “Tam nhãn thấy sắc không”; tam nhãn là; nhục, thiên, tuệ. Dụng của ba nhãn đó khác nhau; Nhục nhãn và thiên nhãn thấy sắc thô tế, tuệ nhãn thì thấy không, ba nhãn hợp lại dùng, nên bảo là ba nhãn thấy sắc, không. Ba nhãn ở trong tam Hiền, Địa tiền. Pháp nhãn thì nơi địa thứ nhất. Phật nhãn thì ở sau khi đắc đạo. Luận chung thì mỗi một địa đều có năm nhãn, nay ở đây là ở trong nhân mà lập bốn nhãn. Nguyện lực: Nói nguyện lực thường sinh tịnh độ: Nhờ nguyện vô sở đắc mà giáo hóa tạo lợi ích chúng sanh. Thời tiến hạnh: có hai phần: “Vạn A-tăng-kỳ…” là tiến trình thiền định. “Có thể hiện…” là khởi thần thông ích vật. Kết vị: “Trú vị Bà già phạm” tiếng Hoa dịch là Thế Tôn. Còn gọi là địa phá tịnh. Bà-già-là phá. Phạm là tịnh địa. “Tam muội Phật Hoa”; là định Thủ Lăng nghiêm. “Lại nữa, Bồ-tát quán Phật, trú nhẫn tịch diệt. Từ bắt đầu phát tâm đến nay, đã qua trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp, tu trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp công đức, cho nên đăng nhất thiết pháp giải thoát, trú đài Kim cang.” Từ “quán Phật…” là nói về địa thứ mười, văn có ba đoạn: 1.Nói về công năng ở trong địa; 2.Từ “thiện nam! Từ tập nhẫn đến quán đảnh…” là so sánh để hiển bày nghóa thù thắng. Nói về hạnh sai biệt, nói về nhân khác quả, còn nói về kiến tính và bất kiến tính khác nhau; 3.Từ “Thường tu tất cả…” kết khuyên nhập vị. Trong phần một: Nói về công năng trong địa. Có bốn phần: 1. “Quán Phật”: Là địa Pháp vân; 2. “Trú nhẫn tịch diệt”: là nêu tên của nhẫn. Địa thứ mười này cùng chung một nhẫn với Phật, hợp thành pháp sư thứ mười ba. Nói “trú nhẫn tịch diệt”; nếu theo riêng thì chỉ lấy nhẫn thứ mười, hạ phẩm nhẫn tịch diệt. Nếu theo chung thì nói chung Phật và Bồ-tát đều gọi là nhẫn tịch diệt; 3.Nói về thời gian tu hành trong địa: văn nói: “Trải qua trăm vạn…” là nói thời gian tu hành dài lâu. Nếu theo như cách nói trước đây thì phải nói là mười ba A-tăng-kỳ. “Trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp công đức” là nói khởi hạnh trong địa rất nhiều; 4. Nói về vị sai biệt cực cao: Văn nói “đạt tất cả pháp, trú đài Kim cang”; địa thứ mười là đài Kim cang. Cũng có thể là nêu quả để hiển nhân, gọi Phật thành là đài Kim cang. Vì nhân của địa thứ mười đã viên mãn, nên Phật trú quả đài Kim cang. Này “Thiện nam! Từ tập nhẫn đến đảnh Tam muội đều gọi là phục tất cả phiền não, nhưng không có tướng tín. Diệt tất cả phiền não, sinh trí giải thoát, chiếu Đệ-nhất-nghóa-đế, không gọi là kiến. Cái gọi là kiến ấy là Nhất-thiết-trí. Vì vậy mà Ta từ xưa cho đến nay thường nói duy chỉ Phật mới biết, kiến, giác. Từ Tam muội quán đảnh trở xuống đến tập nhẫn đều không biết, không kiến, không giác, duy chỉ Phật mới hiểu, giải, không gọi là tín, lần lần mà phục. Tuệ tuy khởi diệt, nhưng do có thể không sinh, không diệt. Tâm đó nếu diệt thì tăng thêm vô, bất diệt, không sinh, không diệt nhập lý tận tam mượi Kim cang, đồng chơn tế, đẳng pháp tính, nhưng chưa có thể đẳng vô đẳng giác.” Từ “thiện nam! Từ tập nhẫn…” là đoạn thứ hai, so sánh hiển bày nghóa thù thắng, nói về hạnh sai biệt. Văn có sáu câu: 1.Nói nhân khác quả; 2.Nói quả khác nhân; 3.Giải thích nhân khác quả; 4.Giải thích quả khác nhân; 5.Kết về nhân khác quả; 6. Kết về quả khác nhân. Nói nhân khác quả: “Tập nhẫn đến quán đảnh đều gọi là phục (chế ngự); từ nhẫn đến Kim cang, chưa trừ một niệm, từ nguyên phẩm đến nay, một Sát-na hoặc, theo chung mà nói thì gọi là phục. Lại cho dùng nhân đối lại quả, nội tâm mang hoặc, chẳng phải là mãi mãi không còn, nên bảo là phục. Văn nói: “Mà không có tướng tín, diệt tất cả”; sơ địa đến tam địa, trong tín nhẫn vị cũng chiếu đệ nhất nghóa. “Không gọi là kiến” là thấy tính chưa rõ. Lại giải: “Không gọi là kiến” là thập địa nhân vị. Không thấy tính của quả, gọi là không thấy. Kinh Niết-bàn nói: Bồ-tát thập địa thấy không hết, đến tận cùng Phật địa thì thấy từ đầu đến cuối. Nói về quả khác nhân: “Cái gọi là kiến (thấy) là Nhất-thiết-trí. Vì vậy mà Ta nói duy chỉ Phật mới biết, thấy, giác”; là nói quả Phật thấy tính rõ ràng phân minh. Giải thích nhân khác quả: Văn nói: “Từ quán đảnh Tam muội đến tập nhẫn không thể biết, thấy, giác” là mười địa Tam muội Kim cang. “Tập nhẫn” là ba mươi tâm. “Không thể biết, thấy giác.” Là nhân vị cho nên không thấy Phật tính. Giải thích quả khác nhân văn nói: “Chỉ Phật đốn giải, không danh là tín.”; “đốn giải” là vạn hạnh đã đầy, Phật chiếu lý tận cùng, nên gọi là đốn. Kết về nhân khác quả: nói: “Lần lần phục tuệ tuy khởi diệt” là nói về nhân đạo vô thường. “Nhờ có thể không sinh không diệt” là nói có thể diệt phiền não sinh diệt kia. Lại giải: Nếu biết nhân chẳng nhân, khởi chẳng khởi nên bảo là nhờ có thể không sinh không diệt. Kết về quả khác nhân: Trong đó, trước là pháp thuyết, tiếp là thuyết dụ, sau là hợp. Trước nói: “Tâm đó” là tâm của vô minh trú địa. “Nếu diệt” là vô minh trú địa diệt. Là nói về nhân đạo lìa sinh diệt. Nói: “Thì thêm vô bất diệt” là tỏ thêm ngoài, dứt trừ chướng. Nói: “Vô sinh vô diệt” là cứu cánh thanh tịnh. Chiếu lý cùng nguồn, nên bảo là lý tận Tam muội. Nói “đồng chơn tế” là đồng hội vô sở đắc. “Đẳng pháp tính” là biết chư pháp không hai. “Nhưng chưa thể đẳng, vô đẳng đẳng” là chưa đồng với Phật. “Thí như có người lên đài cao lớn, nhìn xuống thấy rõ tất cả, trú lý Tam muội tận cùng cũng lại như vậy. Thường tu tất cả hạnh, đầy công đức tạng, nhập vị Bà-già-độ, vừa lại thường trú Tam muội Phật tuệ.” Từ “Thí như…” là lấy thí dụ mà thuyết. Nói: “Thí như có người lên đài cao lớn.” tức địa Như Lai. Sư Tam tạng nói: Thí dụ có năm: 1.Tối cao: Vì là đỉnh của tất ca; 2.Chơn thật bất hoại; như quả Phật thường trú khó lên; 3. Hoàn nguyên; vì là vượt phàm và Thánh; 4.Tự tính tịch tónh; như Phật, vô sinh diệt; 5.An lạc y xứ: Như tịch quán chiếu, không có gì là không rõ. Nói: “Trú lý Tam muội tận cùng cũng lại như vậy.” Là hợp thí. 3. Từ “thường tu tất cả hạnh…” là kết khuyến vị. “Nhập vị Bà già độ; tiếng Hoa gọi là Địa-thí-đức. Vì có thể tạo ra mây mưa thuyết pháp, nên còn gọi là địa phá độ. Định và tuệ đầy đủ, cho nên bảo là Tam muội Phật tuệ. Này “Thiện nam! Các Bồ-tát như vậy, đều có thể giáo hóa chúng sanh trong tất cả quốc độ của chư Như Lai nơi mười phương. Chánh thuyết chánh nghóa, thọ trì đọc tụng, giải, đạt thật tướng, như Ta ngày nay không có khác. Từ “thiện nam tử!…” là phần chánh đáp. Trong đó có ba chương: Lược đáp; 2. Rộng đáp. Hai đoạn này đã xong, nay là đoạn thứ ba. Tóm kết. Có ba phần: Nói về pháp sư thứ mười ba có thể hoằng hóa Đại thừa, nên bảo: “Bồ-tát như vậy đều có thể hóa đạo chúng sanh tất cả mười phương.” 2 . Từ “chánh thuyết chánh nghóa…” là pháp sư thứ mười ba có thể thuyết chánh nghóa. “Chánh nghóa” tức là thật tướng của các pháp. 3.Từ “như Ta…” là những điều được thuyết không khác. Ý nói người mười ba có thể giáo hóa ngang với Phật, nên bảo là “đẳng không khác”. Phật bảo vua Ba tư nặc: “Sau khi ta diệt độ, khi pháp sắp diệt tận, các Quốc vương đều phải thọ trì Bát-nhã Ba-la-mật ấy, làm Phật sự lớn. Tất cả quốc độ an lập, vạn dân vui vẻ đều do Bát-nhã Ba-la-mật này.” Từ “Phật bảo vua Ba tư nặc…” là đoạn lớn thứ hai trong phần đáp hỏi. Khuyên giữ. Văn có bảy đoạn: 1.Lược nêu thời gian để tỏ ý trao gởi cho vua, không trao gởi cho người khác; 2.Từ “Đại vương! Ta nay…” chỉ ra nơi hoằng dương kinh; 3.Từ “trong nước đó…” xuất về bảy nạn; 4.Từ “Đại vương! Bát-nhã này…” là tán thán về đức của Bát-nhã có thể diệt bảy nạn; 5. Từ “Đại vương! Ta nay năm nhãn …” nêu về công đức lợi ích ba đời; 6. Từ “Đại vương! Nếu đời vị lai …” là nương theo giáo mà hành. Khuyên tạo kinh tượng cúng dường; 7. Từ “Đại vương! Ta nay…” là chánh kết, khuyến trì kinh. “Do đó, dặn dò (phó chúc) các Quốc vương, không dặn dò Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, thanh tín nam, thanh tín nữ. Vì sao? Vì không có oai lực của vua, cho nên không gởi gắm. Ông phải thọ trì, đọc tụng, hiểu nghóa lý của nó.” Phó chúc có hai phần: 1.Dặn dò Quốc vương thọ trì Bát-nhã; 2.Không dặn dò Tỳ khưu… vì không có oai lực của vua nên không trao gởi, chỉ khiến thọ trì đọc tụng giải thích nghóa lý. Trao vua có hai nghóa: 1.Có thể giáo hóa những chúng sanh khó hóa độ; 2.Lợi ích đại nhân như gió lướt cỏ. Tỳ khưu không có những lực đó nên không thể trao. “Đại vương! Ta nay đã hóa trăm ức Tu di, trăm ức nhật nguyệt, mỗi một Tu di có bốn thiên hạ, ở Nan Diêm phù đề có mười sáu nước lớn, năm trăm nước vừa, mười ngàn nước nhỏ.” Nói về nơi chốn hoằng dương Bát-nhã: nói: “Đại vương! Ta nay đã hóa trăm ức núi Tu di” là nói chung nơi Diêm-phù-đề. “Phía Nam Diêm-phù-đề”; là nói riêng các quốc độ; trước là mười sáu nước lớn, tiếp là năm trăm nước vừa, tiếp nữa là mười ngàn nước nhỏ. “Trong quốc độ đó có bảy nạn đáng sợ, tất cả Quốc vương vì nạn đó mà giảng đọc Bát-nhã Ba-la-mật, bảy nạn liền diệt, bảy phước liền sinh, vạn họ an lạc. Đế vương hoan hỷ lấy gì làm nạn?” “Trong quốc độ đó…” là tỏ về bảy nạn. Văn có hai phần: 1.Nêu chung; pháp lực có thể diệt bảy nạn, có thể sinh bảy phước; 2. Từ “lấy gì làm nạn…” là kê riêng bảy nạn, tỏ về lực của kinh có thể diệt được. Nói bảy nạn: 1. Nhật nguyệt mất độ; 2. Tinh tú đổi khác; 3. Hỏa tai. 4.Thủy tai; 5. Phong tai; 6. Hạn tai; 7. Giặc. “Nhật nguyệt mất độ, thời tiết trái nghịch , hoặc mặt trời đỏ mọc, mặt trời đen mọc, mọc hai, ba, bốn, năm mặt trời. Hoặc nhật thực không có ánh sáng, hoặc nhật luân hiện một lớp, hai, ba, bốn, năm lớp luân, đương khi biến đổi quái lạ, đọc thuyết kinh này. Đó là nạn thứ nhất.” Nạn Nhật nguyệt: Trong đó có mười bốn phần: 1.Mất độ không theo đạo thường, gọi là mất đo; 2. Thời tiết biến nghịch; 3. Mặt trời đỏ mọc; 4. Mặt trời đen mọc; 5. Hai mặt trời mọc; 6.Ba mặt trời mọc; 7.Bốn mặt trời mọc; 8. Năm mặt trời mọc; 9. Nhật thực; 1 0. Mặt trời một lớp luân; 1 1.Mặt trời hai lớp luân; 1 2.Ba lớp luân; 1 3.Bốn lớp luân; 1 4.Năm lớp luân. Mưới bốn thứ đó đều là tai nạn là tướng đói khát, chiến tranh, tật dịch. “Nhị thập bát tú mất độ, kim tinh, tuệ tinh, luân tinh, quỷ tinh, hỏa tinh, thủy tinh, phong tinh, đao tinh, nam đẩu, bắc đẩu, bắc đẩu, ngũ trấn đại tinh, các sao như vậy, mỗi sao đều biến hiện, cũng đọc thuyết kinh này. Đó là nạn thứ hai.” Nạn tinh tú: “Nhị thập bát tú” bốn phương, mỗi phương đều có bảy sao, bốn lần bảy là hai mươi tám sao. “Mất độ” là sao đi không đúng theo đường thường, nên bảo là mất độ. “Kim tinh” là Thái Bạch tịnh. Sư Tam tạng nói: Ngoại quốc gọi là sao thiên sư. Sao này đi đúng như lý thì đất nước được giàu có phong thịnh, mất độ thì nghèo đói. “Tuệ tinh” (sao chổi): Ngoại quốc gọi là sao Diêm la vương. Chỗ nào có sao này hiện ra thì chỗ đó có tai nạn. “Luân tinh” có ánh sáng như vòng luân, nếu nhật nguyệt, ngũ tinh, phá chính giữa luân tinh thì đất nước phân tán. Nhật nguyệt, ngũ tinh, đi bên phải luân tinh thì đất nước an lạc, đi bên trái cũng không tốt. “Quỷ tinh” giữa ngày tháng chín, thiết ở Đông Bắc. Nếu đi nhanh là quá thời tiết, nếu kề trên thì quỷ thần đến phá đất nước làm bệnh người. “Hỏa tinh”: Là sao Danh Hoặc: sao đó chủ về giặc, nếu nó cao thì giặc nổi, nếu thấp thì giặc núp. Như tại xứ tý thì thấp, tại cung ngọ là cao. “Thủy tinh” tức chính là sao thấp, cũng là sao Thái Bạch. Nếu ở tại dần là thấp, ở tại thân là sao. Một xứ là ba mươi ngày, đi mười hai tháng thì được một vòng. Đi từ bốn xứ; gà, chó, heo, chuột thì không có. Nước, nếu đi từ bốn xứ; thỏ, rắn, dê, khỉ thì nhiều nước. Đi từ bốn xứ, trâu, cọp, rồng, ngựa thì bình thủy, bình thủy thì nước không nhiều không ít. “Phong tinh”; tức là sao ngang. Tạo xứ cọp (ung dần) thì cao, một xứ đi ba mươi ngày, đi tại xứ khỉ (ung thân) thì thấp. Nếu cao thì nhiều gió không mưa, nếu thấp thì nhiều mưa ít gió. Tháng bảy cao, tháng giêng thấp. Tháng tám đến tháng giêng thì lần lần thấp. Tháng hai đến tháng bảy thì từ từ cao, tùy theo mặt trời đi, có ba loại: tháng hai tháng ba tháng tám tháng chín đi cùng với mặt trời. Tháng mười tháng mười một tháng mười hai tháng giêng, bốn tháng đó thì đi trước mặt trời. Tháng tư tháng năm tháng sáu tháng bảy, bốn tháng đó thì đi phía sau mặt trời. Đó là đi đúng như pháp. Đi khác với đó thì mất độ, không tốt. “Đao tinh” là sao Mãn, đi một xứ (cung) trải qua hai năm rưỡi, như tại xứ thỏ (cung mão) là cao nhất, như tại xứ gà (cung dậu) là thấp nhất. Nếu cao thì nhiều chiến tranh đao binh, chúng sanh đói rét tật bệnh, nếu thấp thì ít chiến tranh. “Nam đẩu, Bắc đẩu”: là chẳng phải tú, là diệu. “Ngũ trấn đại tinh” là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. “Tất cả quốc chủ tinh, tam công tinh, bách quan tinh” nếu sao thiện đến nhập vào xứ của bốn sao đó thì đại an ổ, phong lạc. Sao ác đến nhập thì đại khổ não. Tùy theo các sao đều cùng đi không theo quỹ đạo thường, cho nên nói là “mỗi mỗi biến hiện”. Nếu đại vương, đại thần trị dân trái đạo, dù có tự tại đi nữa thì khổ báo cũng sẽ sinh ra, nhật nguyệt khuyết, đầy, tinh đạo mất độ biểu lộ sự chẳng lành, nên các sao có thể biểu lộ các nạn. Nếu có thể giảng đọc Đại thừa, quy y Tam bảo, theo phước bỏ nạn, nhật, tinh lại đúng đường. Nên nói là “cũng thuyết kinh này.” “Đại hỏa thiêu quốc, vạn tính thiêu tận, hoặc quỷ hỏa, long hỏa, thiên hỏa, sơn thần hỏa, nhân hỏa, thọ mộc hỏa, tặc hỏa, biến quái như vậy, cũng đọc thuyết kinh này. Đó là nạn thứ ba.” Từ “đại hỏa thiêu quốc…” là hỏa nạn. Có hai phần: 1. Nói về bảy loại lửa; 2.“Cũng đọc kinh này…” là nói về lực của kinh có thể diệt lửa. Bảy loại hỏa là: “Quỷ hỏa”, quỷ sân giận chúng sanh làm ra lửa, ban đêm khởi, cũng khiến người nhiệt bệnh. “Long hỏa”; là long nổi sân mưa hỏa độc khiến người bị sưng thũng. Tức hỏa báo đắc thần thông. “Thiên hỏa” là lửa sấm sét. “Thần hỏa”; là biến hiện. Thần có hai: 1.Tiên nhân sân, hỏa từ sân sinh ra; 2.Tiên nhân tụng chú, sai quỷ thần đốt nhà trăm họ. “Nhân hỏa”; lấy người mà đặt tên. “Thọ mộc hỏa”; đã hiểu rõ. “Tặc hỏa”; giặc châm lửa, gọi là tặc hỏa. “Cũng đọc kinh này” là lực của kinh có thể diệt hỏa. “Đại thủy trôi chìm trăm họ, thời tiết trái nghịch, Đông mưa hạ tuyết, Đông thời lôi điện sấm sét, tháng sáu mưa băng, sương đá. Mưa nước đỏ, nước đen, nước xanh, mưa thổ Sơn thạch sơn, mưa sa lịch thạch, sông ngòi chảy ngược. Núi nổi đá chảy, biến thời như vậy, cũng đọc thuyết kinh này, đó là nạn thứ tư.” Từ “đại thủy…” thủy nạn. Cần nước nhưng nơi không dùng lại có nhiều. Sương đá… đều thuộc thủy nạn. Mưa nước đỏ thì nhiều đao binh chiến tranh, mưa nước đen là tật bệnh, mưa nước xanh là nhiều đói khát. Mưa đất đá là tiên nhân La sát sân. Sông ngòi chảy ngược, nước biển dâng tràn là có giặc. “Gió lớn thổi giết vạn họ, cây cối núi sông quốc độ một thời bị diệt, gió lớn trái trời, gió đen, gió đỏ, gió xanh, gió trời, gió đất, gió hỏa, gió thủy, biến thời như vậy, cũng thuyết kinh này. Đó là nạn thứ năm.” Phong nạn: Cũng có hai phần: 1.Liệt kê bảy gió; 2.Lực của kinh có thể chuyển diệt: “Gió đen”: Bờ biển gió thổi cát đen. “Gió đỏ”: tức cát đỏ. “Gió xanh” tức cát xanh. “Gió trời, gió đất” trời là dương, đất là âm. “Gió hỏa” là gió nóng. “Thiên địa quốc độ, kháng dương diễm hỏa, đốt cháy trăm cây cỏ, ngũ cốc không mọc, đất đai nóng cháy, vạn họ diệt tận, biến thời như vậy, cũng đọc kinh này, đó là nạn thứ sáu.” Hạn nạn: Văn đã rõ. “Bốn phương giặc đến xăm lăng đất nước, giặc khởi trong ngoài, giặc lửa, giặc nước, giặc gió, giặc quỷ, trăm họ hoảng loạn, khởi kiếp chiến tranh, quái thời như vậy, cũng đọc kinh này. Đó là nạn thứ bảy.” Nạn giặc. “Đại vương! Bát-nhã Ba-la-mật này là thần bổn của tâm thức nơi tất cả chúng sanh, chư Phật Bồ-tát, là cha mẹ của tất cả Quốc vương, còn gọi là thần phù, còn gọi là hạt châu trị quỷ, còn gọi là hạt châu như ý, còn gọi là hạt châu hộ quốc, còn gọi là gương thiên địa, còn gọi là long bảo thần vương.” Từ “Đại vương! Bát-nhã…” là phần bốn. Tán thán về đức của Bát- nhã có thể diệt bảy nạn. Văn có hai phần: 1.Tán thán về Bát-nhã chẳng thể nghó bàn; 2. Từ “Phật bảo đại vương…” tỏ về Bát-nhã đã diệt bảy nạn, khuyên người cúng dường. Trong phần một tán thán về Bát-nhã; có tám câu: Bát-nhã có thể làm ra chư Phật, Bồ-tát, Thần bổn của tất cả tâm thức Bát-nhã là vô sở đắc. Vì chư Phật nhân ở Bát-nhã mà ngộ vô sở đắc nên Bát-nhã là Phật mẫu, nên bảo là Thần bổn. Thần bổn vô sở đắc của tâm thức tất cả cúng sanh. Vì vọng tưởng nhân duyên mà có nẻo sai biệt, nếu có thể biết vọng rốt ráo vô sở hữu. Quay trở về Bát-nhã, nên bảo là thần bổn tâm thức nơi tất cả chúng sanh. Tâm, ý, thức, thần, thể là một nhưng tên gọi thì khác nhau. Lại có giải thích; thần bổn tâm thức giống như Như Lai Tạng, là căn gốc của sinh tử. Nói: “Cha mẹ của tất cả Quốc vương” vì Bát-nhã có thể hộ quốc độ, nên ví như là cha mẹ. “Còn gọi là Thần phù” có thể thông đạt cảnh giống như thật, có thể hàng phục thiên ma ngoại đạo. Đều có thể giữ gìn thiện căn của thế và xuất thế, nên ví như thần phù. “Hạt châu trị quỷ” có thể trừ nạn quỷ thần. “Hạt châu như ý”; vì Bát-nhã đắc được vừa ý. “Hạt châu hộ quốc” vì lực của Bát-nhã khiến cho quốc độ được an ổn. “Gương thiên địa”; Bát-nhã chiếu thế giới vô sở hữu. “Long bảo thần vương”; Bát-nhã có thể xuất các vị thiện thần, nên bảo là “long bảo thần châu.” Phật bảo: “Đại vương! Nên làm phướn chín sắc, dài chín hoa chín sắc, cao hai trượng, đèn ngàn cành, cao năm trượng, chín rương ngọc, chín khăn ngọc, còn làm bàn bảy báu, đặt kinh quyển ở trên.” Từ “Phật bảo: Đại vương!…” là phần hai, khuyên người cúng dường. Trong đó có hai phần: 1.Sự biệt cúng dường; 2.Từ “ngày ngày…”. Tổng dùng hương hoa cúng dường. Trong phần biệt cúng dường; trước là liệt kê sáu loại sự cúng dường. Sau là xuất Bát-nhã mà cúng dường. Sáu sự là: 1. Phướn; 2. Hoa; 3. Đèn; 4. Rương ngọc; 5. Khăn ngọc; 6. Bàn bảy báu. “Nếu khi vương đi, thường ở phía trước, đủ một trăm bước, kinh này thường phóng ngàn hào quang sáng, khiến trong vòng ngàn dặm, bảy nạn không khởi, tội lỗi không sinh. Nếu khi vương đứng, làm trướng bảy báu, tòa cao bảy báu ở trong trướng đặt kinh quyển trên tòa, ngày ngày cúng dường, rải hoa đốt hương, như thờ kính cha mẹ, phụng sự Đế Thích. Phần dụng pháp cúng dường. Trong đó có năm câu: 1. Xuất Bát- nhã đặt ở trên bàn; 2.Khi vương đi, Bát-nhã đi trước; 3.Vương đi trăm- bước, Bát-nhã phóng quang ngàn dặm; 4. Khiến cho trong vòng ngàn dặm không có bảy nạn là đắc lợi ích; 5. Nếu khi đứng thì làm tòa bảy báu đặt Bát-nhã ở trên. Phần hai: Từ “ngày ngày…” tỏ chung về pháp cúng dường. Phần dụ đã rõ. “Đại vương! Ta nay năm nhãn thấy rõ ba đời tất cả Quốc vương đều do đời quá khứ hầu hạ năm trăm Phật, được làm đế vương chủ. Do đó, tất cả Thánh nhân, La hán đến sinh trong quốc độ kia, làm đại lợi ích. Nếu khi phước vương hết thì tất cả Thánh nhân đều bỏ đi, nếu tất cả Thánh nhân bỏ đi thì bảy nạn sẽ khởi.” Từ “Đại vương! Ta nay…” Đây là chúng thứ năm. Nói về ba đời lợi ích, khiến người tín trì. Văn có ba phần: 1.Năm nhãn chiếu tất cả Quốc vương hầu năm trăm Phật; là nói rõ từ xưa đã cúng dường nhiều Thánh, hiện ở ngôi vua. “Do đó Thánh nhân đến …” ; là Thánh nhân đến sinh ra ở nước này, làm lợi ích lớn. “Nếu khi…”; phước hết thì nạn sinh. “Đại vương! Nếu đời vị lai, có các Quốc vương thọ trì tam bảo, Ta sẽ sai năm Bồ-tát đại lực đến hộ trì nước đó: 1.Bồ-tát Kim-cang- hống, tay cầm thiên bảo tướng luân, đến hộ trì nước kia; 2.Bồ-tát Long- vương-hống, tay cầm kim luân đăng, đến hộ trì nước kia; 3.Bồ-tát Vô-úy-thập-lực-hống, tay cầm chày Kim cang, đến hộ trì nước kia. 5. Bồ-tát vô-lượng-lực-hống, tay cầm ngũ thiên kiếm luân (bánh xe năm ngàn kiếm) đến hộ trì nước kia. Năm đại só đó, năm ngàn đại quỷ thần vương, ở trong nước ông, làm lợi ích lớn. Nên lập hình tượng mà cúng dường họ.” Từ “Đại vương! Nếu đời vị lai…” là phần sáu. Tỏ về y theo giáo mà thực hành, sẽ khiến năm đại Bồ-tát làm hộ vệ, khuyên tạo tượng cúng dường. Văn có bốn phần: 1.Tỏ về đời vị lai năm đại Bồ-tát thường hộ trì nước đó; 2. Liệt kê riêng. Tên của năm đại Bồ-tát; 3. Năm ngàn đại thần vương ở nước ông làm lợi ích lớn; 4. Bảo lập hình tượng cúng dường. “Đại vương! Ta nay đem Tam bảo trao gởi cho các ông, tất cả các vương nơi các nước: Tỳ-xá-ly, Kiều-tát-la, Xá-vệ, Ma-kiệt-đề, Ba-la- nại, Ca-di-la-vệ, Cưu-thi-na, Thiểm-di, Cưu-lưu, Kế-tân, Di-đề, Già-la càn, Càn-đà-vệ, Sa-đà, Tăng-gia-đà, Kiện-noa-quật-đồ, Ba-đề. Như vậy tất cả các Quốc vương đều nên thọ trì Bát-nhã Ba-la-mật.” Từ “Đại vương! Ta nay…” là phần bảy. Khuyến thọ trì kinh này. Văn có ba phần: 1. Tỏ về trao gởi các Quốc vương; 2. Liệt kê tên mười sáu nước; 3. Từ “như vậy,…” khuyến trì kinh này. Nói mười bảy nước, đâu phải mười sáu? Đáp: kinh Đại Vân nói có mười sáu đại quốc. “Lúc ấy, chư đại chúng A-tu-luân-vương nghe Phật thuyết bảy nạn đáng sợ trong đời vị lai, lông thân dựng đứng, hô tiếng kêu lớn nói: Nguyện không sinh vào nước đó. Bấy giờ mười sáu đại Quốc vương bèn đem quốc sự trao cho em trai, xuất gia tu đạo, quán sáu đại sáu sắc thắng xuất tướng, bốn đại bốn sắc, “không” dùng thức, không nhập hạnh tướng.” Từ “Lúc ấy chư đại chúng A-tu-luân-vương…” là đoạn lớn thứ ba trong phần đáp câu hỏi. Tỏ về thời chúng nghe pháp được ích. Văn có sáu phần: 1.Nêu chung về đại chúng nghe thuyết, khởi nguyện; 2.Mười sáu Quốc vương ngộ đạo; 3. Mười ngàn Bồ-tát niệm đời sau đắc ích; 6. Mười ức Bồ-tát hiện thành chánh giác. Thời chúng nghe thuyết bảy nạn đáng sợ, lông thân dựng đứng. Nguyện không sinh nước kia. Mười sáu Quốc vương đắc ích: Trong đó có hai phần: 1.Mười sáu Quốc vương trao nước cho em trai, phát nguyện xuất gia; 2. Nói về tu đạo. Trong đó lại có hai: 1.Hai khóa, giả tướng quán tu đạo; 2.Từ “ba mươi nhẫn…” là nói thật hành nhập đạo. Ở phần một: “Quán bốn đại bốn sắc tướng thắng xuất; là tám thắng xứ. Bên trong quán bốn đại tức là bốn thắng xứ. Nội quán bốn đại, ngoại quán sắc ít bất hoại. Nội ngoại sắc quán là một thắng xứ. Nội quán bốn đại, ngoại quán sắc nhiều là hai thắng xứ. Nội không bốn đại, ngoại quán sắc ít là ba thắng xứ. Nội không bốn đại, ngoại quán sắc nhiều, là bốn thắng xứ. Đó là hoại nội sắc, bất hoại ngoại sắc quán. Bốn thắng xứ sau là xanh, vàng, đỏ, trắng, hợp thành tám thắng xứ. Tám thắng xứ quán thành, nên nói là “Tướng thắng xuất”. Tiếp nữa là nói về mười quán Nhất thiết nhập: Bốn đại, bốn sắc tức thành là tám. “Không dùng”; là vô xứ hữu xứ. “Thức” là thức xứ. “Không” là không xứ. Cả ba hợp lại thành mười Nhất thiết xứ. Mười quán Nhất thiết nhập thành, nên bảo là “nhập hành tướng.” “Ba mươi nhẫn tướng sơ địa, Đệ-nhất-nghóa-đế tướng cửu địa. Do đó, đại vương! Xả thân phàm phu, nhập thân lục trú, xả bảy báo thân, nhập tám pháp thân, chứng tất cả hạnh Bát-nhã Ba-la-mật.” Từ “ba mươi nhẫn…” là phần hai. Thật hành nhập đạo. Hai loại giả tướng là quán ở địa tiền, ba mươi nhẫn là ở tại địa thượng. Mười địa, mỗi địa ba tâm, hợp lại có ba mươi nhẫn. Nói “tướng sơ địa”; tức chính là địa thứ nhất. Nói “Đệ-nhất-nghóa-đế” đó là sơ địa đắc Đệ-nhất-ng- hóa-đế thành làm tướng phương tiện cho cửu địa. Nói “cửu địa” tức là cửu địa từ ly cấu trở lên. “Xả thân phàm phu nhập thân lục trú” là xả thân phàm phu bên ngoài nhập thân lục trú, chủng tính trở lên. “Xả bảy báo thân, nhập tám pháp thân” là xả bảy phương tiện địa tiền, đắc pháp thân thứ tám của sơ địa. Cũng có thể là xả thân có công dụng của thất địa trước, nhập pháp thân không công dụng thuộc địa thứ tám trở lên. “Mười tám Phạm thiên A-tu-luân-vương đắc quán ba thừa, đồng cảnh vô sinh, lại rải hoa cúng dường; không hoa, pháp tính hoa, Thánh nhân hoa, Thuận hoa, Vô sinh hoa, Pháp lạc hoa, Kim cang hoa, Duyên quán trung đạo hoa, ba mươi bảy phẩm đạo hoa, rải trên Phật và chín trăm ức chúng đại Bồ-tát. Còn tất cả các chúng khác chứng đạo tích quả thì rải tâm không hoa, tâm thọ hoa, lục Ba-la-mật hoa, Diệu-giác hoa, rải trên thân Phật và tất cả đại chúng.” Từ “mười tám Phạm thiên A-tu-luân-vương…” là phần ba. Tỏ về Chư thiên đắc lợi ích. Văn có hai phần: 1. Ba thừa quán thành, đắc vô sinh lợi ích; 2.Rải hoa cúng dường. Trong phần rải hoa này có hai phần: 1.Rải hoa năm nhẫn 2.Rải hoa nhị thừa. Hoa năm nhẫn là: Hoa không, hoa pháp tính, hoa phục nhẫn địa tiền. “Thánh nhân hoa” là Hoa tín nhẫn thuộc sơ địa, hai địa, tam địa. “Thuận nhẫn hoa” là hoa thuận nhẫn thuộc tứ địa, ngũ địa, lục địa. “Vô sinh hoa”; là hoa vô sinh nhẫn thuộc thất địa, bát địa, cửu địa. “Kim cang hoa”; là hoa mười địa. “Phật hoa” tức là hoa nhận tịch diệt. Tiếp là nói về hoa nhị thừa; “Duyên quán trung đạo hoa”; tức là hoa duyên giác trung thừa. “Ba mươi bảy phẩm hoa”; là hoa Thanh văn. “Mà rải trên Phật”; là cúng dường. Từ “và chín trăm ức đại Bồ-tát chúng…” là đoạn thứ tư. Đắc lợi ích. Văn có hai phần: 1. Chín trăm ức Bồ-tát đại chúng ngộ giải đắc lợi ích. 2. Tỏ rõ về rải hoa cúng dường đắc lợi ích. Văn nói: “Chứng quả đạo tích” là đắc sơ địa giải, nên bảo là “chứng”. Ngay ở chứng có thể thông, gọi là “đạo”. Ngay ở đạo có thể tiến, gọi là “tích”. Ngộ, giải đầy đủ, gọi là “quả”. Tiếp nữa là cúng dường bên trong tức là có bốn loại hoa nhân quả cúng dường: “Tâm không hoa” tức chính là hoa lý không vô sinh. “Tâm thọ hoả” tức là hoa cây ý. “Hoa sáu Ba-la-mật”; là hoa hạnh. “Diệu giác hoa” là hoa Phật địa. “Rải trên Phật” là cúng dường. “Mười ngàn Bồ-tát niệm chúng sanh đời sau, tức chứng Tam muội Diệu giác, Tam muội Viên minh, Tam muội Kim cang, Tam muội Thế đế, Tam muội Chơn đế, Tam muội Đệ-nhất-nghóa-đế, Tam muội Tam đế, đó là tất cả Tam muội Vương Tam muội.” Từ “mười ngàn Bồ-tát…” Đây là chúng thứ năm, nói về mười ngàn Bồ-tát niệm chúng sanh đời sau, ngộ giải, đắc chứng Tam muội. “Tam-muội Diệu giác” còn gọi là Tam muội lý tận. “Tam muội viên minh” là chiếu lý tận, nên bảo là Tam muội Viên minh. “Tam muội Kim cang”: là kiên cố không thể hư hoại. “Tam muội Thế đế” là lấy theo tướng định mà phàm phu thấy được. “Tam muội Chơn đế” là dựa theo chân thật nghiêng lệch mà Nhị thừa thấy. Nên bảo là đệ nhất, còn gọi là Tam muội thật tướng. Tam muội đó là tất cả vua Tam muội, bao gồm tất cả pháp, như vua thống lãnh, nên bảo là vua tất cả. “Còn đắc vô lượng các Tam muội khác: Tam muội bảy tài, Tam muội hai mươi lăm hữu, Tam muội Nhất thiết hạnh, còn có mười ức Bồ- tát đạt đến đảnh Kim cang, hiện thành chánh giác.” “Tam muội bảy tài” là 1.Tín; 2.Giới; 3.Tàm (hổ); 4.Quý (thẹn); 5. Đa văn; 6.Trí tuệ; 7. Xả ly (lìa bỏ). “Tam muội hai mươi lăm hữu” là hủy hoại hai mươi lăm hữu. Đắc Tam muội vô cấu, có thể phá địa ngục hữu. Đắc Tam muội bất thối, có thể phá súc sinh hữu. Đắc Tam muội tâm lạc có thể phá ngạ quỷ hữu. Đắc Tam muội hoan hỷ có thể phá A-tu-la hữu. Đắc Tam muội nhật quang có thể phá Phất-bà-đề hữu. Đắc Tam muội nguyệt quang đoạn dứt Cù-gia-ni-hữu. Đắc Tam muội nhiệt diệm đoạn dứt uất đơn việt hữu. Đắc Tam muội như huyễn đoạn dứt Diêm phù đề hữu. Đắc Tam muội nhất thiết pháp bất động đoạn dứt Tứ thiên vương xứ hữu. Đắc Tam muội nan phục đoạn tam thập tam thiên xứ hữu. Đắc Tam muội duyệt ý đoạn Diệm-ma Thiên hữu. Đắc Tam muội thanh sắc đoạn dứt Hóa-lạc-thiên hữu. Đắc Tam muội xích sắc đoạn dứt Tha-hóa-tự-tại-thiên hữu. Đắc Tam muội bạch sắc đoạn Sơ thiền hữu. Đắc Tam muội chủng chủng đoạn Đại Phạm Thiên hữu. Đắc Tam muội song đoạn nhị thiền hữu. Đắc Tam muội lôi âm đoạn tam thiền hữu. Đắc Tam muội trú vũ đoạn Tứ thiền hữu. Đắc Tam muội như hư không đoạn Vô tưởng Thiên hữu. Đắc Tam muội chiếu cảnh đoạn Tịnh cư A-na-hàm hữu. Đắc Tam muội vô ngại đoạn Không xứ hữu. Đắc Tam muội thường đoạn Thức xứ hữu. Đắc Tam muội lạc đoạn bất dụng xứ hữu. Đắc tam mưội ngã, đoạn Phi tưởng xứ hữu. Đó gọi là Bồ-tát đắc Tam muội hai mươi lăm hữu hủy hoại hai mươi lăm hữu; bốn hữu thuộc bốn cõi ác, sáu lục dục thiên thuộc phạm thiên. Bốn thiền, bốn không vô tưởng, năm tịnh cư. “Còn mười ức Bồ-tát …” là phần sáu: Mười ức Bồ-tát thành Phật. ----------------------- PHẨM CHÚC LỤY Kinh có ba đoạn. Đây là đoạn thứ ba, phần lưu thông. Gọi chúc lụy, là Như Lai ân cần trao gởi cho Quốc vương, giao cho chúng Bồ-tát, nên nói là phẩm Chúc lụy. Phẩm này chia làm bốn đoạn: 1.Răn bảo Nguyệt Quang, tổng khuyến lưu thông để nói sự gởi trao; 2.Từ “Đời ngũ trược sau này…” bảy môn dạy bảo riêng chư Quốc vương và bốn bộ đệ tử; 3.Từ “bấy giờ, mười sáu đại Quốc vương nghe bảy điều răn của Phật…” nói về chư Quốc vương không chế ngự bốn bộ chúng đệ tử; 4.Từ “bấy giờ, vô lượng đại chúng… là nói về thời chúng hoan hỷ thọ trì. Trong phần một Tổng khuyến lưu thông. Lại chia làm ba phần: Răn bảo Nguyệt Quang về thời gian pháp diệt; 2. Từ “Tam bảo kinh này…” tỏ về người được trao; 3. Từ “vì chúng sanh nơi tam giới…” nói về lợi ích lưu thông. Phật bảo vua Ba tư nặc: “Ta khuyên bảo các ông, sau khi Ta diệt độ, trong tám mươi năm, tám trăm năm, tám ngàn năm lúc không có Phật, không có Pháp, không có Tăng, không có tín nam tín nữ, kinh này Tam bảo trao gởi cho các Quốc vương, bốn bộ đệ tử thọ trì đọc tụng, giải thuyết nghóa lý của nó, vì chúng sanh nơi tam giới mà khai đạo không tuệ, tu hạnh bảy hiền, thực hành hạnh thập thiện, giáo hóa tất cả chúng sanh.” Nói: “Tám mươi năm” là sau khi Phật diệt độ. Sau khi Phật diệt độ, trong một trăm năm, năm sư trì pháp, mỗi sư hai mươi năm. Ca diếp, A-nan, Mạt-điền-địa, ba người đó chính mắt thấy Phật giáo hóa, trải qua sáu mươi năm. Sư thứ tư là Thương-na-hòa-tu. Sư thứ năm là Ưu-ba- cúc-đa, hai sư này mỗi vị trì pháp hai mươi năm. Thời Thương-na-hòa- tu là đúng tám mươi năm, vì không chính mắt thấy Phật giáo hóa, cho nên oai nghi pháp diệt. Nói “tám trăm năm” là chánh chứng pháp diệt, trong năm trăm năm, hai mươi lăm sư đều là Thánh nhân tương truyền cho nhau, nên chứng pháp không diệt. Trong khoảng sáu trăm năm và bảy trăm năm, hai vị; Mã Minh và Long Thọ truyền pháp, vì người hoằng pháp dũng mãnh, nên pháp không diệt. Trong khoảng tám trăm năm, các người khác hoằng pháp, vì người yếu kém mà khiến pháp bị diệt. Nói “tám ngàn năm” là Tượng, Mạt pháp diệt. Do thời Mạt pháp, chúng sanh thích thực hành pháp tà, chán ghét xem thường pháp chánh, chánh pháp không hành, nên hai thời Tượng pháp và Mạt pháp, pháp bị diệt. Theo kinh Niết-bàn; đời Tượng và Mạt có mười hai vạn đại Bồ-tát khéo thọ trì pháp, của Ta nên pháp của Ta không diệt. Trên là nói theo phàm phu, nên bảo là diệt. Nói: “Không có Phật, Pháp, Tăng”; là chính nói pháp diệt, cho nên cần phải trao gởi. “Không có tín nam, tín nữ” là nói không có Tam bảo trên để quy y, nên không có nơi để sinh ra niềm tin. Vì không có niềm tin hủy báng Tam bảo nên làm cho không hiện. Phần hai là nói về người được trao, trong đó có hai phần: 1.Trao cho Quốc vương có oai lực hộ pháp, có công lớn nên trao trước tiên; 2. Trao cho đệ tử bốn bộ, đó là trao chung cho tất cả chúng sanh, vì bốn bộ thì gồm thâu hết tất cả chúng sanh. Trong phần thứ ba: Lợi ích lưu thông: Văn nói: “Chúng sanh nơi tam giới khai đạo không tuệ”; chứng giải vô sở đắc, nên bảo là khai đạo không tuệ. Nói: “Tu hạnh bảy hiền” tức là bảy phương tiện: 1. Ngũ đình tâm quán; 2. Biệt tưởng niệm xứ; 3. Tổng tướng niệm xứ; 4. Noãn pháp; 5. Đảnh pháp; 6. Nhẫn pháp; 7. Thế đệ nhất pháp. Nói “hành mười thiện hóa độ tất cả chúng sanh”: 1.Không sát; 2.Không trộm; 3.Không tà dâm; 4.Không vọng ngữ; 5.Không ác khẩu; 6.Không lưỡng thiệt; 7. Không ỷ ngữ; 8. Không tham; 9. Không sân; 10. Không tà kiến. Dùng mười hạnh đó giáo hóa chúng sanh, nên bảo là “Hạnh mười thiện hóa độ tất cả chúng sanh”. Hết phần tổng khuyến lưu thông. “Đời năm ô trược sau này, Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, đệ tử bốn bộ, Thiên, Long bát bộ, tất cả Thần vương, Quốc vương, đại thần. Thái tử, vương tử, tự ỷ cao sang, diệt phá pháp Ta, ngăn pháp, ngăn cản đệ tử Ta, Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, không cho xuất gia hành đạo, cũng lại không cho tạo tác tượng hình Phật, hình tháp Phật, lập thống quan để chế ngự chúng, làm sổ sách để ghi Tăng. Tỳ khưu đứng dưới đất bạch y ngồi tòa cao binh nô làm, Tỳ khưu. Tỳ khưu nhận pháp thỉnh riêng và Tỳ khưu tri thức chung làm một: tâm thân thiện với Tỳ khưu để, làm trai hội cầu phước, như pháp của ngoại đạo, chẳng phải pháp Ta, nên biết không lâu chánh pháp sẽ diệt.” Từ “đời năm ô trược…” là phần hai, răn riêng về bảy môn, tức thành bảy phần: 1.Không được ngăn cản người xuất gia; 2.Không được dùng quan lại thể tục để trị tăng; 3. Không được trói buộc Tỳ khưu; 4. Không được trái pháp thuyết kinh, giống như sâu bọ trong thân sư tử; 5. Không được sai khiến Tỳ khưu, tựa như phép lính hầu; 6. Nói trái pháp đắc tội thì chế phạt, đừng vì tự tạo tội lỗi phá hoại quốc độ; 7.Không được nương nhờ pháp Phật mà cầu danh lợi của thế gian. Nếu làm bảy sự đó thì phản lại với giáo, mất lý, nghóa của hạnh không lập được. Vì nghóa đó mà pháp Phật mau chóng bị diệt. Trong phần một: Không được ngăn cản người xuất gia: chia làm hai: 1. Nói chung về năm trược; 2. Từ “Tỳ khưu…” là nói riêng về bảy sự. Gọi là “năm trược”: Chúng sanh trược; 2. Mệnh trược; 3. Kiến trược; 4. Phiền não trược; 5. Kiếp trược. Từ “Tỳ khưu…” nói riêng bảy sư: 1.Không cho xuất gia; 2.Không cho tạo tượng…; 3. Lập ra quan để thống lãnh; 4. Làm sổ sách ghi chép Tăng; 5.Không được Tỳ khưu đứng dưới đất bạch y ngồi tòa cao; 6. Không được biến Tỳ khưu thành lính hầu; 7.Không được nhận mời riêng mà hành pháp. Bảy tà pháp hưng thì bảy chánh pháp diệt. “Đại vương! Hoại loạn đạo Ta chính do các ông tự làm, tự ỷ oai lực, chế ngự bốn bộ đệ tử của Ta thì trăm họ tật bệnh, không ai là không bị khổ nạn, đó là nhân duyên phá nước. Nói về tội lỗi của năm ô trược thì đến cùng kiếp cũng không hết.” Phần hai: Không được để tục quan xử trị Tăng, từ “Đại vương! Hoại loạn đạo Ta…”: nói “tự ỷ oai lực, chế ngự bốn bộ đệ tử” là ngoài năm thiên bảy tụ, còn làm thêm tục pháp, để trị Tỳ khưu, thiện thần hộ pháp nổi sân, khiến cho tật bệnh phá hoại quốc độ, năm ô trược tăng trưởng. “Đại vương! Khi đời mạt pháp, có các Tỳ khưu, đệ tử bốn bộ, Quốc vương, đại thần, làm hạnh trái pháp, ngang nhiên cùng Phật pháp chúng Tăng làm đại phi pháp, làm các tội lỗi, trái pháp trái luật, trói buộc Tỳ khưu, như pháp ngục tù, đúng thời như thế, không lâu pháp diệt.” Phần ba: Không được trói buộc Tỳ khưu như pháp ngục tù. Đúng trong pháp giới luật, chỉ có xua đuổi chúng xuất gia, nay lại thi hành tục pháp thì biết pháp không bao lâu sẽ bị diệt. “Đại vương! Sau khi Ta diệt độ, trong đời vị lai, đệ tử bốn chúng, các tiểu Quốc vương, Thái tử, vương tử, là những người nhận giữ việc hộ trì Tam bảo, lại chuyển thành diệt phá Tam bảo, như sâu bọ trong thân sư tử, tự ăn sư tử, chẳng phải do ngoại đạo. Đa phần người hoại pháp Phật ta, bị tội lỗi lớn. Chánh giáo suy bại, dân không có chánh hạnh. Dần dần trở thành xấu ác, tuổi thọ ngày càng giảm, đến còn trăm tuổi, người hoại Phật giáo, không còn con hiếu, bà con thân thích bất hòa, thiên thần không phù hộ, tật bệnh quỷ ác ngày càng xâm hại, tai quái đầu đuôi liên họa, tung hoành chết vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu xuất ra làm người thì bị làm lính nô dịch quả báo, như tiếng vang, như hình bóng, như người viết sách ban đêm, đèn tắt chữ còn, quả báo ba cõi, cũng lại như vậy.” Từ “Đại vương! Sau khi Ta diệt độ…” là phần bốn. Răn bảo bốn bộ chúng, Quốc vương… Đều là những người nhận giữ hộ trì pháp Phật, trở lại tự mình phá diệt, khiến cho quốc độ. Các tai họa đua nhau khởi lên, đều do phá pháp, khiến ra như vậy. Trong văn có hai phần: 1.Tỏ về thuyết kinh trái pháp. Có ba phần: a. Thuyết pháp; b. Từ “như sâu bọ…” là dục. Từ “đa phần người…” là hợp thí. 2. Trong sự tổn thất; chánh pháp suy bại, bị nhiều loại khổ. “Đại vương! Trong đời vị lai, tất cả Quốc vương, Thái tử, Vương tử, bốn bộ đệ tử, ngang nhiên cùng đệ tử Phật, ghi viết chế giới, như pháp bạch y, như pháp lính hầu. Nếu đệ tử ta, Tỳ khưu, Tỳ khưu ni lập sổ sách, bị quan sai khiến, thì chẳng phải là đệ tử Ta, là pháp binh nô dịch, lập thống quan để gồm thâu tăng điển, chủ tăng tịch, chúng tăng lớn nhỏ, cùng nhau thâu tóm, như pháp ngục tù, pháp của lính hầu, đương thời ấy, Phật pháp không còn lâu nữa.” Từ “Đại vương! Đời vị lai…” là phần năm. Răn bảo Quốc vương, Thái tử, bốn chúng đệ tử. Lập tịch chế là theo pháp của binh lính nô địch, lập thống quan trị người như phép tục. Nên biết Phật pháp diệt cũng chẳng lâu. “Đại vương! Trong đời vị lai, các tiểu Quốc vương, bốn bộ đệ tử. Tự làm tội đó là nhân duyên phá nước, thân tự chịu lấy, trái Phật pháp tăng.” Từ “Đại vương! Trong đời vị lai, lưu thông kinh này…” Đây là chúng thứ sáu. Răn bảo tiểu quốc bốn chúng, là tỏ tráo pháp bị tội, chế ngăn đừng làm. Tự làm tội lỗi, phá hoại quốc độ, tự mình chịu lấy, không dính dáng gì đến tam bảo. “Đại vương! Trong đời vị lai, lưu thông kinh này, là pháp khí bảy Phật, chư Phật mười phương, thường hành đạo, các Tỳ khưu ác, đa phần là vì cầu danh lợi, ở trước mặt Quốc vương, Thái tử, vương tử, tự thuyết nhân duyên phá pháp Phật, nhân duyên phá quốc độ, vương ấy không phân biệt rõ ràng, tin nghe lời đó, ngang nhiên làm pháp chế, không theo giới của Phật, thành nhân duyên phá Phật, phá nước. Đương khi như thế, chánh pháp không lâu sẽ diệt.” Từ “Đại vương! Trong đời vị lai, lưu thông kinh này…” Đây là chúng thứ bảy. Răn bảo các Tỳ khưu không nương theo lời dạy của bảy Phật. Mà lại nương nhờ pháp Phật để cầu danh lợi ở đời, đến bên Quốc vương, tự thuyết nhân duyên phá Phật pháp. Văn có ba phần: 1.Tỏ về các Tỳ khưu tà thuyết đối với pháp Phật; 2. Từ “vương ấy không phân biệt rõ ràng…” là tỏ Quốc vương không biết Tam bảo; 3. Từ “đương khi như như thế…” chánh pháp diệt. “Bấy giờ, mười sáu đại Quốc vương nghe Phật thuyết về bảy điều răn, chuyện đời vị lai, rơi lệ buồn khóc, tiếng động cả ba ngàn nhật nguyệt, ngũ tinh, nhị thập bát tú, mất ánh sáng không hiện. Thời các Quốc vương, mỗi vị đều chí tâm thọ trì lời Phật, không chế ngự bốn bộ đệ tử, xuất gia hành đạo, đúng như Phật dạy. Lúc này, đại chúng mười tám Phạm Thiên vương, các thiên tử của sáu cõi trời dục, đều cất lời than: Đương khi như thế, thế gian trống rỗng, đời không có Phật.” Từ “bấy giờ, mười sáu Quốc vương…” là đoạn lớn trong phẩm, phần thứ ba. Chư Quốc vương nghe bảy điều răn của Phật, không chế ngự bốn chúng. Văn chia làm hai phần: 1. Mười sáu Quốc vương buồn than kinh sợ, thương xót cho mình trước đ6ay đã làm những tội lỗi, theo lời dạy không chế ngự bốn chúng; 2. Mười tám phạm thiên, … đau xót than; sẽ đúng thời ấy thì thế gian trống rỗng, không có Phật ở đời. Than chánh pháp bị diệt tận, nên nói “không có Phật ở thế”. “Bấy giờ, trong vô lượng đại chúng, trăm ức Bồ-tát; Di lặc, Sư tử nguyệt,… trăm ức Xá-lợi-phất, Tu-Bồ-đề,… năm trăm ức mười tám Phạm, chư thiên Lục dục, ba cõi sáu đạo A-tu-luân-vương,… Nghe Phật thuyết về nhân duyên hộ Phật quả, nhân duyên hộ quốc độ, hoan hỷ vô lượng, vì Phật tác lễ, thọ trì Bát-nhã Ba-la-mật.” Từ “bấy giờ, trong vô lượng đại chúng…” là đoạn lớn trong phẩm, Đây là chúng thứ tư. Thời chúng nghe pháp, hoan hỷ phụng hành. Văn có ba phần: 1. Liệt kê trăm ức Bồ-tát chúng; 2. Liệt kê trăm ức Xá lợi phất,… 3.Năm trăm ức cõi trời Sắc, Dục, các chúng nơi sáu đường A-tu- luân-vương, đều phụng hành. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 116