<經 id="n1706">NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA KINH SỚ THẦN BẢO KÝ <藥>( QUYỂN 1 ↘ 4 ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1706 NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT NHÃ KINH SỚ THẦN BẢO KÝ BÀI TỰ Nói thông kinh dể chú thích khó là dối Phật. Chú thích dể thông kinh khó là dối tổ. Ngu tôi chẳng dám dối đạo của Phật, tổ, mà hoặc có ký thuật chú thích cũng đều chỉ là vì duyên vậy. Trước kia sớ kinh này (tức quyển sớ giải thích kinh Nhân vương của Trí giả Đại Sư, số 1 7 0 5) truyền bá ở Nhật Bản. Rốt cuộc trao cho những người đi thuyền buồm. Giáo pháp này thịnh suy, qua lại khó khăn nguy hiểm như vậy, xin đem bài tựa của cảnh Vu Tiền sinh sau thời ông Triều Văn Nguyên (bài tựa quyển số 1 7 0 5. Nhân Vương Hộ Quốc Vương Bát-nhã Kinh Sớ của Trí Giả Đại Sư). Thời này vua Thánh tướng hiền là lúc tôn giáo được đề cao, xem kinh pháp này thật là quốc bảo, nhưng lại chưa có ký thuật, làm cho giáo môn bị thiết sót mức tiêu chuẩn. Một ngày, một vị Quảng Sư ở chiếu khánh tên là Hành Bân ôm sách này (quyển số 1 7 0 5) đến gặp tổ: Ở Linh Sơn, khách làm lể xong rồi nói: Xin viết ký thuật giải thích thâm để phát huy sách này. tôi từ chối không được, bất đắc dó cầm đem về phương đông, ngày rãnh rỗi đốt hương, đánh chuông, lật quyển nhiều lần xem ý chỉ, có kẻ nói rằng: Khó lắm thay! Chẳng dám biết đến! Lần lửa qua năm cái học dở dang, chí lụn tàn, thế rồi chẳng dám đụng đến. Có kẻ khuyến khích rằng: Đây cũng là một thịnh sự tông giáo, khiến cho thấy rõ nghóa, chẳng làm ác, cố gắng lên! Tôi nói: Dạ vâng! Rồi thử viết xem chưa dám cho đây là hay tốt. Viết soạn xong, đặt tên sách này là Thần bảo ký, mong người thông suốt phủ chính cho, ngỏ hầu cho mọi người, ngày càng phụng hành phát triển nền tảng vậy thôi. Thiện Định, năm Canh Dần, ngày Trung Nguyên. Thiện Nguyệt viết tựa. Tứ Minh, Sa Môn Bách Đình Thiện Nguyệt Thuật <卷>QUYỂN 1 Chú: Kinh này có hai tên, tên ở cuối kinh là “Long Bảo Thần Vương”, nay trích ra hai chữ để đặt tên cho quyển sách giải thích này. vì có thuyết nói Luân Vương ra đời có “Thần Bảo” tự nhiên đến. Cho nên đặt tên như vậy. Danh gia phái Thiên Thai, thật thì lấy việc truyền tông làm gốc, còn việc giải thích kinh là việc phụ. Nhờ đắc Phật tâm tông mà phát xoay tổng trì. Hể giải thích một kinh hay chú thích một nghóa đều có phép tắc, bởi thế quyển giải thích này chia ra hai phần: Bàn về nghóa chính. Theo văn giải thích. Hể các ý chỉ chính của kinh, ắt tìm tòi ở tại đầu đề, giải thích kinh này, dùng năm lớp Huyền nghóa, đó là: Danh, Thể, Tông, Dụng, giáo tướng. Hể là pháp ắt phải có Thể, Thể là cái thật của pháp, còn gọi là chủ là Ấn. Nếu được Ấn thì pháp ấy, đáng được tin nhận, nếu không thì chỉ là Tà giáo ngoại đạo mà thôi. Tông là hiển rõ cái cốt yếu của Thể, lấy Nhân quả làm tông thì Thể được cái cốt yếu của nó. Thể hiển rõ mà có Dụng, có đủ bốn thứ này thuyết ra mà thành giáo, giáo thì tánh biệt Tiểu và Đại, Bán và Mãn, Đốn và Tiệm, quyền và thật, đó là Tướng, chi tiết như văn của quyển Pháp Hoa Huyền Nghóa đã nói. Đoạn từ câu “Kinh này lấy người và pháp…” là kể ra năm nghóa của kinh này. lấy con người và pháp làm tên; nghóa là năng thuyết kiêm với pháp Sở thuyết mà đặt tên cho kinh này. theo sau sẽ nói về đề tên của các kinh thì có ba thứ; người, pháp, dụ. Dùng riêng lẻ một thứ hoặc dùng hai thứ và cả ba thứ để đặt tên kinh… “Thật tướng làm Thể”: Hễ chư Đại thừa đều chỉ chung cho một Thật Tướng Ấn làm Thể. Dùng ba Đức mà nói thì kinh này đẽ gọi tên là Bát-nhã thì có đủ cả ba nghóa, vừa đúng với thật tướng Bát-nhã tức là Thể của pháp, Thân Tính Đức. Thể ắt quy về nhất mà chẳng lìa Tông và Dụng bởi thế mới có nghóa ly và hợp. “Tự Hành Nhân quả làm Tông”: Nghóa là Tông ắt phải dựa theo Hành mà có Nhân quả. Theo Thể mà nói, đây là Quán chiếu Bát-nhã thì tự hành. Bắt đầu Nhân cho đến cuối cùng Quả, đều là Bát-nhã. “Hà Trí Quyền và Thật làm Dụng”, mà Dụng vốn giải thoát , đây là văn tự Bát-nhã, bởi chiếu dụng làm nghóa. Hai trí tiến và thủ làm dụng. “Đại thừa thục tô làm giáo tướng”: Nghóa là các Bộ Bát-nhã dung thông các pháp, sán lọc Nhị thừa thành là Thục ích tướng. Kinh này là một trong những bộ kinh Bát-nhã đó. “Danh có thông và biệt”: Đề tên của kinh gồm có mười hai chữ, kiêm luôn “Tự phẩm đệ nhất” thì có đủ cả ba thông và biệt, như văn nói. Lại nữa, hai chữ “Phật thuyết” là Thông (chung), những chữ còn lại là Biệt (riêng) có thể biết vậy. “Ngôn Phật giả…” là phần giải thích đề kinh, nghóa là Phật là người Năng thuyết. Phật có đủ mười đức, mười hiệu, giác là một trong mười đức đó. Giác có nghóa của tự giác, giác tha, giác mãn. Tám biện tuyên sướng là Thuyết. “Tám âm”; như giải thích thông thường. Theo giải thích của cuốn khởi Tín luận; một âm vừa diễn, các loài đều hiển như nhau. “Nhân vương…”; là pháp sở thuyết. Bốn chữ đầu tiên “Nhân vương Hộ quốc” chính là phát khởi cả một cuốn kinh. Nhân vương là Đế vương có đạo xưa nay. Ở đây giải thích thì thi ân rải đức là Nhân, thống hóa tự tại là Vương, đó chỉ là thấy cái Đức dụng của nó mà thôi, nếu xét cho cùng cái đạo đó thì như thế vẫn chưa đủ, văn của quyển sớ có đủ cả bốn giải thích. Nhân duyên: hễ các sự nghóa, cho đến cơ ứng, năng sở đều là Nhân Duyên. “Hộ Quốc”: Có năng Hộ và Sở Hộ. Gồm có ba nghóa: 1.Lấy vương làm Năng hộ, Quốc làm Sở hộ thì lấy vương đạo làm trị quốc. 2. Lấy Bát-nhã làm năng hộ, vương là Sở hộ thì do nhờ trì Bát-nhã nên vương và quốc đều được an ổn. 3. Lấy vương làm Năng Hoằng, pháp làm Sở Hoằng thì gọi là người hoằng đạo. Tuy thông cả ba nghóa nhưng thật thì lấy nghóa thứ hai Bát-nhã làm năng hộ là chính, hai nghóa kia chỉ là trợ giúp giải thích mà thôi. Từ “Hựu Nhân vương…” là dựa theo chữ mà giải thích. “Nhân là Nhẫn”; còn có nghóa là bao hàm cả Hoằng, nghóa là Đức ấy có thể bao hàm cả hoằng đạo. Chẳng ngay lúc vui giận mà phát thì ắt sẽ trúng tiết, sẽ thấy được sự nhân hậu của người đó. Dựa theo giáo mà giải thích: Giáo môn Thiên thai lấy tạng, Thông, Biệt, Viên làm cương mục để giải thích nghóa, cho nên một nghóa văn đều phải dựa theo bốn giáo này để phân biệt cạn sâu thì ý chỉ giáo mới có chỗ quy về, cơ và giải sẽ không bị sai lầm. Nếu dựa theo ý chỉ của các bộ kinh xưa nay thì lại có chia ra từng nghóa. Văn lại chia ra bốn phần, mỗi một phần đều có hai cách giải thích. 1. Dựa theo giáo mà giảng về ý chỉ. 2.Giải thích theo văn. Đầu tiên là nói về Tạng giáo; nếu thấy chư pháp sanh thì tạng thuyên sanh diệt, pháp chẳng tức không ắt phải tách chiết nó ra cho đến diệt hội về không, cho nên sanh tức là Hữu, diệt tức là không; không thì lục trần đều dung chứa, đó là nghóa của quốc, cho nên là bất động chuyển giải thích theo văn thì Quốc an mà vương thái. “Nhị thừa sở đắc vi vương”: là vị quả theo nhân nhưng thật thì nhân kiêm cả quả. Về phần “Thổ” thì có thể biết. Còn ba phần thì theo cách trên mà giải thích. Thông giáo thì thuyên giảng rằng chư pháp; sắc tức là không. Khác với cách phân tách Thể của tạng giáo, cho nên là bất sanh diệt, thảy đều như huyễn hóa, phiền não tam giới đồng một lúc đoạn trừ ngay, đây là nói theo quả, nếu nói theo Nhân thì cũng vẫn thông với tạng giáo là theo thứ tự mà đoạn trừ. Từ câu “Trú ở ngoại giới…” là dựa theo văn mà giải thích Biệt giáo thuyên giảng thứ đệ của ba Đế. Nói về không thì chẳng khác với thông giáo, vì sắc vô biên cho nên đẳng với giả, tuy là vô biên nhưng cùng với tâm chẳng phương ngại Trung. Nếu căn cứ vào giáo đạo chỉ nên ngang đây mà nói pháp của vô biên ở tại nhất tâm thì tựa như phương ngại ý chỉ đã thuyên giảng, nay dùng hai nghóa để dung thông điều đó: 1.Theo tâm năng tạo là đúng, chẳng phương ngại, tại tâm cũng dung thông, nhưng pháp sở tạo thì sai, thẳng thể dung thông với Sắc; 2.Dựa theo trú quả mà chẳng tại nhân, như nói bát địa nhập vô cộng dụng đạo hiện mười loại thân là đúng, cũng chẳng phương ngại thuyết của giáo đạo. “Từ ở sơ địa…” là giải thích theo văn. Câu “bất động chuyển mà năng động chuyển, tức là Bồ-tát thập địa trong kinh Hoa nghiêm, tùy lực, tùy phần mà trú trong Thập Độ. Chữ “Lục” e là viết nhầm, đúng phải là chữ “Thập” Từ “Nếu quán…”: là viên giáo thuyên nghóa: Vì chư pháp vốn chỉ là lý tính, cho nên vô sinh diệt. Bởi vì thấy rõ sự và lý có đủ trong một niệm. Tuy vô sinh diệt mà sinh diệt hiện rõ. Duy sinh diệt hiện rõ, tức là dựa theo tục, gọi đó là chiếu. Vốn vô sanh diệt, tức là dựa theo chơn, gọi đó là vọng. Đây là vừa chiếu chơn chiếu tục, gọi đó là chiếu. Vừa ngăn chơn ngăn tục, gọi đó là vọng, tức là vọng chiếu và ngăn trước kia, chiếu cái ngăn và chiếu trước kia, vọng và chiếu đều không thể đắc mà khế với trung đạo. Vì cả ba đều gọi tên là Tính, cho nên nói rộng lớn như pháp tính. Vì cả ba đều bất động, cho nên rốt cuộc như hư không, từ câu “Từ Sơ Trú…” là dựa theo phần chơn cứu cánh để giải thích những nghóa của “Trú quốc, xưng vương”. Từ câu “Lại nữa, Tam tạng…” là dựa chung vào nhân quả của bốn giáo (Tạng, Thông, Biệt, Viên) để xác định được hay chẳng được gọi là Nhân vương tức là theo tam tạng giáo đắc trí quả, nhờ đã tận hết hoặc, được gọi là Nhân vương, ngoài ra đều chưa thể gọi là Nhân vương chỉ hợp gọi là vương chứ chẳng nhân. Thông giáo thì ngoại trừ Phật quả, đều có thể gọi chung là vương. Tam giáo chỉ gọi là tiểu vương, cái gọi là Nhị Tam tiểu vương, xem phẩm lý thương. Câu “Đương tự có ưu liệt”: nghóa là mỗi mỗi đều nhìn theo giáo của nó mà nói thì hai chữ “Nhân vương” tự có hơn kém, cho nên nói là “Chẳng Nhân thì vương”, tức là hơn kém… Lại nữa, nói theo đời tục thì có kẻ Nhân mà chẳng vương, chưa từng có người bất Nhân mà vương. Bất nhân mà vương thì như vua Kiệt vua Trụ vậy. Giải thích theo bổn tích: có hai thuyết: Bổn tích xa xưa thì chỉ ở tại pháp hia kinh, tích môn còn chẳng nghe được, huống nữa là ở các bộ kinh khác. Ngoài ra, trong tích chỉ có thể mượn dùng Thể Dụng Bổn Tích. Đây lại chia ra hai nghóa: 1.Dựa theo thiền viên,… 2.Dựa theo phần luận cạn sâu thì viên hành là Bổn, Biệt quả là Tích. Phật địa của Thông giáo, tuy đang ở quả vị nhưng so nhìn với biệt giáo thì thành ra là tích. Tam tạng (Tạng giáo) Nhị thừa tuy đồng là Tiểu quả nhưng so nhìn với Thông giáo thì thuộc về mạt, chữ “Mạt” cũng giống như chữ “Tích”. Nói biết uyển chuyển so các giáo với nhau, nghóa của Bổn và Tích đều thông. Hoặc dựa theo ngay giáo đó mà tự xét thì mở, giáo đều có nghóa của Bổn tích chẳng như nhau. Lại nữa, dựa theo Bổn tích cao và thấp, thành ra bốn cú (tứ cú, bốn trường hợp) mà luận. Giải thích theo quán tâm: Ba giải thích trên tuy rất viên diệu nhưng so với quán thì chỉ thuộc về sự, duy chỉ Viên quán tự hành mới có thể đắc được cái lý. Cho nên nói rằng thí như người nghèo ngày đêm đếm tiền của người khác. Vì thế nên cần giải thích theo quán tâm. Văn có bốn: Tức sanh diệt, vô sanh, vô lượng, vô tác. Dựa theo Tứ đế quán môn, quán những cảnh; sắc không,… Tùy theo giáo mà quán riêng khác. Nói rằng “Quán sinh diệt pháp, thấy sắc là Hữu,… đó là tam tạng quán (cách quán của tạng giáo). Nói rằng “Sinh diệt sắc do tâm sở chuyển tâm đắc tự tại, quán sắc tức là không”, đó là Thông quán (quán của Thông giáo). Chẳng những tâm đắc tự tại, mà vì tức không, cho nên sắc cũng tự tại, cho nên nói rằng “Không và sắc tự tại”, nếu quán không chính là sắc, thứ đệ mà nhập, đó là Biệt quán (quán của Biệt giáo), đó chính là câu “Dùng hai quán làm phương tiện, đắc nhập Trung đạo” của Kinh An lạc. Nếu quán sắc và không là bất nhị, đó là viên quán (quán của viên giáo), duy chỉ viên đốn sắc và không, vốn chỉ cùng một lý, vì về mặt (chiếu thì bất nhị mà nhị, tức chiếu (ngay khi chiếu, ngay ở chiếu) mà vọng nhị mà bất nhị song chiếu song vong, chỉ ở tại một niệm, thể tức trung đạo, cho nên không có gì chẳng phải là thật tướng, một tâm ba quán, ba quán một tâm, vốn chẳng có trước sau, đó cũng là một tâm ba quán, cho nên chẳng dọc, ba quán một tâm, cho nên chẳng ngang. Chẳng dọc chẳng ngang, như Thiên mục (mắt trời, thiên nhãn), vi diệu tự tại, chẳng gì sách bằng, “Ngã kinh Thánh chủ” là dựa theo quán tâm mà giải thích đề cao công đức Chúa thượng, nhờ dùng đạo mà hóa, nên có đủ Đức của một vị nhân vương. Nhờ dùng chánh quán mà tỏ rõ năng lực của Hộ quốc, có đủ nhiều thiện, bổn tích cao thâm, chẳng thể nghó bàn, phần quán tâm này cũng có đủ ý của ba giải thích trên, phối hợp giải thích, có thể tự biết… từ đây về sau là hợp giải thích nghóa của Hộ quốc, như phần giải thích về chủ vương ở trên, đã lược nói xong, cũng như phần sau sẽ giải thích thêm hèn chẳng nên ra ở đây. Tiếp đó là giải thích hai chữ “Bát-nhã”: Nói đầy đủ là Bát-nhã Ba-la-mật, tức là pháp năng hộ của cả một bộ kinh. Do nhờ trí lực Bát- nhã làm cho quốc và Vương được an ổn, chính hóa được tuyên lưu. Chỉ “Bát-nhã” này vốn chẳng thể phiên dịch. Kinh luận có nói về năm nghóa chẳng phiên dịch, đây là nghóa thứ nhất “Tôn trọng” vậy. Chẳng phiên dịch là vì chẳng thể tận hết lý. Nay lược so với cổ để mà luận về nó. Trước tiên là nêu ra tên của cuốn luận đã nói ba điều này. gồm có hai đoạn văn: Một phe chủ trương là có thể phiên dịch tức là nhóm sư ở chùa khai thiện một phe chủ trương là chẳng thể phiên dịch; tức là sư Mân ở chùa trang nghiêm. Cho nên nói rằng: danh từ bao hàm nhiều nghóa”, chữ “Bát-nhã” này cũng bao hàm nhiều nghóa. Nếu dịch là “Trí tuệ” thì lý của nó bị riêng lẻ, cạn cợt chẳng hoàn toàn, nên không thể dịch. Nay quyển sớ này bình phẩm cả hai thuyết trên, trước là bài bác, tiếp đó là dung hội, tức nói rằng “Đều thành tranh cãi, nay để thông hội”. Nghóa là Bát-nhã có hai loại: Đầu tiên là dựa theo ý chỉ của bộ kinh, có đủ Thiên, viên, quyền, thật. Có chuyển dịch nghóa và chẳng chuyển dịch nghóa, dung hội thuyết của hai nhà, tuy chưa có chánh ý chấp nhận nhưng có lẻ có chấp nhận. Tiếp đó là kết luận bài xích. Nói “Lửa nóng chẳng thể thủ lấy”, là như luận nói… nghóa là Bát-nhã chánh trí chẳng thể dùng thiện kiến mà thủ lấy, thủ thì sẽ bỏng tay hại thật. Chẳng thể thủ mà thủ, tuy thủ nó có thể, chỉ lần ở khoản giữa của thủ và bất thủ, chẳng rơi vào tư duy, chẳng lạc vào nghó tưởng, trực hạ thừa theo cái đang là, thì sẽ thật đang có tồn tại. Chữ “Trí huệ” cần phải giải thích theo hai mặt; Ly và Hợp, cũng không hẳn thiên về một mặt. Cho nên cuốn Thành Luận thì giải thích theo hợp, kinh Tịnh Danh thì giải thích theo Ly. Nếu như kinh giải thích thì Trí lấy phân biệt làm Tính, còn Huệ thì vô trước (không có dính mắc). Do vì phân biệt, cho nên Trí tức là Hữu, do vì vô trước, cho nên Huệ tức là không. Do vậy, Ly thì đó là không, là hữu, hợp thì Trung đạo tồn tại. Mà luận giải thích theo hợp thì chơn huệ tức là trí, nó gần với Bát-nhã, đâu nhất định là trú ở Hữu. “Kim thủ (nay này)…” là nói về bộ kinh quyển Bát-nhã đồng và dị. Theo phần văn sau của kinh; Phật thuyết Bát-nhã trong hai mươi chín năm, kiêm cả sở vấn hiện nay thì đúng là kinh Nhân vương, tức là chỉ có năm bộ kinh mà thôi. Quyển sớ này nói là tám bộ kinh Bát-nhã là chỗ xuất xứ khác nhau, đúng thì Bộ trật khai và hợp khác nhau mà thôi… “Có người nói: Bộ kinh Thiên vương Bát-nhã tức là bộ kinh Nhân vương Bát-nhã”: Nay không chấp nhận thuyết ấy. Nếu thuyết ấy đúng thì chẳng nên thuyết xong kinh Nhân vương: Lại còn có thêm sở thích. Cho nên biết thuyết ấy Sai. Tuy văn trong kinh Đại phẩm (Đại Bát-nhã kinh) có tên gọi giống nhau nhưng chẳng phải chính nói là có hai bộ kinh. “Hỏi: Nhơn và nhân…” là xét chung, nghóa của nhơn (con người) và nhân (nhân đức) là khác nhau, sao thể giống nhau? Đáp: Căn cứ theo Đại kinh (Đại Bát-nhã kinh) thì nhân tức là gọi cho Nhơn (người), cùng với Kinh thù nói: Nhơn là Nhân, kết hợp lại mà nói đó là Đạo. Ý chỉ của chúng rất giống nhau. Mã lão Tử đạo đức kinh nói: Thánh nhân bất nhân… quyển sớ giải thích rằng Nhân vương thực hành Nhân đức chẳng cần báo đáp, cho nên nói như vậy, chứ chẳng phải là Bất nhân. Chính là nói rằng Nhân và bất Nhân tức là đạo vả phi đạo mà thôi. Nay chữ Nhân vương ở đây chính là kẻ chư hành đạo, nếu kẻ ấy trái đạo thì ngay cả nhơn (con người) còn chẳng thể, huống nữa lại có thể là nhân được sao? Lại hỏi: Nói nhân là sao? Đáp: Bởi nhân thì khó nói, tạm dùng thể của chữ để xét thì còn có thể. Chữ nhơn (con người) theo với chữ Nhị, đó là Nhơn chữ Nhị thì có hai nét tức là đủ cả tài vật. Lại nói xuyên chữ tam thành ba là chữ vương, tức là nghóa của Nhân vương. Cái gọi là “hạ học mà thượng đạt, phải chẳng lấy câu đó mà giải thích ư! Lại hỏi: Người xưa cho kinh này chẳng phải là chánh dịch, bởi vì kinh này chẳng thấy trong mục lục. Ý đáp rằng: Mục lục không có, e vì ngẫu nhiên bị sót, như đời sau xuất ra ba bản dịch, há lại chẳng chánh sao? Hơn nữa kinh này có trong mục lục của Trường phòng, có thể tra cứu, tin rằng chẳng bịa ra vậy. “Hải dung…” là dẫn sự việc để bác điều sai trái. Nghóa là dung ở trên biển, bậc Thánh thời cổ sơ đều dùng tai mắt, những thứ chẳng thấy nghe mà ưa đoán nó có hay không có, sao thể biết sự thật của nó được thay! Chữ cách hoặc đọc âm là cức. Văn xem cuốn Liệt Tử. “Thả chuẩn hạ…” là nêu ra hai bản kinh quảng và lược. Trước sai ba bản dịch tỏ rõ sự chơn và ngụy của nó. Viết ra bình phẩm này, lỗi chẳng lớn vậy! Mà trong ba bản dịch, chỉ chú giải bản dịch đời Tần. Vì so với hai bản kia, bản dịch của La Thập hay hơn, từ ngữ và lý đều suông sẻ, cũng được đương thời ưa chuộng. Ba-la-mật: Dịch nghóa là sự đã xong xuôi, còn dịch nghóa là đã đến bờ bên kia. Tỏ rõ thắng dụng của Bát-nhã. Nghóa là khi sự (việc) đã xong xuôi: thì có thể biết rõ cái lý của sự việc. Năm độ trước thuộc về sự Bát-nhã độ thì thuộc về lý. Sự do nhờ lý dẫn dắt, sự còn cứu cánh xong xuôi, huống nữa lý là cái dẫn dắt chẳng thể cứu cánh xong xuôi, được sao? Nói “Đáo Bỉ ngạn” thí như dùng thuyền bè đi vượt qua biển cả, nào có bờ này, bờ kia, giữa biển khác nhau. Tại bờ này tại giữa biển đều là chưa cứu cánh xong xuôi. Duy chỉ đạt đến bờ kia thì sự việc của ta đã xong xuôi, đây đều là nghóa của đạt đến cực điểm. Cho nên nói rằng: Sinh tử là bờ này… Đây tuy giải thích theo văn nhưng nghóa vẫn còn chung chung. Tiếp đó là giải thích theo giáo: Tạng giáo thì lấy thật Hữu sinh tử làm thử (bờ này), lấy Diệt Hữu, Niết-bàn là Bỉ (bờ kia). Trung lưu (giữa dòng) là kiến, Tư Hoặc. Sở thuyên ở tại Tiểu Lục độ đều là Sự. Vì chưa đắc cứu cánh đáo ngạn, cho nên lấy Đạo phẩm Bát Chánh làm thuyền bè. Thông giáo thì Thử và Bỉ chẳng khác với tạng giáo, chỉ vì phân tách thể của Hữu, cho nên lục độ là lý. Nếu so với Tạng giáo thì Sự và Lý kia đều là sự, giáo thì sự và lý đều là lý, khác nhau như vậy mà thôi. Biệt giáo thì lấy vô minh làm Trung lưu, nghóa là lấy sắc và không của phàm phu, tiểu thừa làm thử, Thử là giới nộ: lấy Bồ-tát giả pháp làm Bỉ, Bỉ là giới ngoại. Mà lấy vô lượng hạnh nguyện làm thuyền bè. Viên Đốn giáo thì cực Sự và Lý; Sự cực, cực ở lý thì Nhị mà bất nhị. Lý cực, cực ở sự thì bất nhị mà nhị, lấy ví cho sinh tử và Niết-bàn làm Thử và Bỉ. Nghóa đó có thể biết. Nhưng thật không có sanh tử, Niết-bàn để đắc. Vì cho đó là tề hành thì một hành là tất cả hành, lấy đó làm thuyền bè, rốt cuộc đạt đến Bờ đại Niết-bàn, đó là Viên giáo. Tiếp đến là dựa theo quán tâm mà giải thích chữ “Bỉ ngạn”: Chủ yếu là dựa vào không, giả, trung. Lấy Sắc và không làm nghóa của Bỉ và Thử mà luận về Tu tướng tức là nhờ vào Sự quán môn. Như văn nói… nghóa của tam giả, như phần sau giải thích. “Kinh: Có…” là giải thích nghóa của chữ kinh. Tiếng phạm là Tu- đa-la, cựu nói: Có phiên dịch hoặc không có phiên dịch, năm nghóa, chỉ xâu… nỗi một nghóa dựa theo giáo, hành, lý mà thành ra mười lăm nghóa. (Nói rõ như trong cuốn Huyền nghóa…). Lại như chữ kinh của Lục kinh, lấy tên gọi của Trung Hoa thay cho tên gọi của Ấn độ cho nên gọi là kinh. Từ câu “Ước giáo lục trần” trở xuống, là lại người nơi Kinh để nói rõ thể của giáo là kinh là chỗ Thánh người khai thị giáo; người nơi giáo để ngộ đạo, thì cũng có chung, có riêng. Chung là mười phương cõi Phật, bao gồm nơi lục trần, đều là thể của giáo, như văn giải thích v.v… Hoặc dùng quang minh v.v… bày ra đủ sáu trần mà làm Phật sự. Phật sự này nơi Hương phạn (Cơm thơm trong kinh Tịnh Danh) cũng tự bao gồm ba trần. Hương tức là hương trần, phạn là cơm khi ăn vào miệng tự nó có mùi vị tức là vị trần, thưởng thức nếm vào nơi lưỡi có cảm giác mền mại, thích thú cái tướng v.v… tức là xúc trần. Hoặc im lặng không nói, mà được Tam muội tức là pháp trần, cứ thế mà suy rộng ra. Mỗi một trần kia đều có đủ sáu căn mà mỗi một căn đều có đủ sáu trần, căn căn, trần trần đều có thể vào đạo. Đều thích hợp với tể của giáo. Tiếp đến giải thích Bản tích, Quán tâm đều có thể nói như trên v.v… Vì dù có giáo ngoại biệt truyền tâm yếu cho đến vô ngôn vô tự, nhưng hể có một pháp đượng tình và không đương tình thì cũng là thể của giáo, còn chỗ nào, pháp nào biệt truyền nữa ư! Nếu tự mình chẳng sâu xa nhìn thấy lý này thì khó dùng lời, bút viết ra được. Riêng thì dùng thanh sắc làm thể, Phật tại thế và sau khi Phật diệt độ, nhưng đối ba thứ danh, cú, văn thì đó là một thật; cả ba giả hòa hợp thành thể, đó là giáo vậy, hoàn bị vậy. Nếu giải thích chữ Kinh theo nghóa “Kinh vó” (đan xen chỉ dọcngang) thì như thế gian dọc, khởi đầu làm tấm lụa ắt trước phải có đường chỉ ngang mà dệt thành hoa văn màu sắc. Nay vì là kinh giáo nên cũng vậy. Lấy văn tự làm kinh thì đó là nghóa thường. Dùng tâm của người mà hành giống như kéo sợi tơ mối chỉ từ trong giữa ra dệt làm sợi ngang. Tuy là xuất thế chánh giác cũng ắt nhờ đây mà thành tựu, cho nên lấy thí dụ Kinh vó làm nghóa chữ kinh. Từ “Tự giả là giải thích phẩm Tựa thứ nhứt, cũng là sự nối tiếp theo, ý chính tóm lược có thể biết”. Thứ hai biện luận về Thể gồm hai phần: 1.Bình luận các giải thích của người xưa. Có người dùng văn tự làm Thể, nghóa này rất sơ sài, chắc chắn không cần bình phẩm. Có người lấy Vô tướng làm Thể, tuy như là được lý mà chung chung. Nói vậy cũng không gần nghóa của Thể? Có người cho rằng: Ngũ nhẫn, Thập địa làm Thể, đây tuy ý chỉ kinh này, có văn có lý, nói đến, nhưng gọi là tông của La Thập thì được, chẳng phải là nghóa của Thể. Phàm là Thể ắt phải quy về một. Chưa nghe dùng nghóa, số làm Thể, cho nên biết là chẳng phải. Nay giải thích gồm ba phần: dựa vào nghóa giải thích v.v… Gọi thể đó là pháp. phân biệt tôn ty cao thấp vua tôi, cha con; đạo quân thần đều có thứ tự tiết lễ chẳng có gì không có pháp tắc. Ví như thể của pháp xuất thế cũng vậy. Tuy có riêng biệt của mười giới mà đồng dựa vào một Thể của pháp tánh, chỉ có Thể như thế, không hể nào khác; tức là cái hiển bày tột cùng chỉ ở Phật. Cho nên phàm các kinh Đại Thừa chung đều chỉ thật tướng để làm Thể chánh. Nếu giản lược thể theo khai, phế thì chẳng phải ý chính của bộ này, nên không luận đến. 2.Dẫn chứng v.v… Nghóa là dựa vào thật tướng pháp tánh mà biện minh về người quả, ngay nơi thật tướng người quả chứng minh Thể của kinh, nếu như các Sư xưa xử dụng thì trở thành bị phê bình là lấy người quả chứng minh thật tướng. Đây có biết đó gọi là Thể của nhà Tông, Tông của nhà Thể, một nghóa đều có chổ trở về. (Như Huyền Tiêm nói v.v….), căn cứ giáo của bộ, luận riêng mà vẫn thông với nghóa trước, nên cần luận riêng; bên cạnh đó căn cứ nghóa của bộ phái định Duyên Thật cộng, biệt, rồi tiếp nói chính, phụ chỉ riêng nói v.v… Nghóa là Bát-nhã vốn là pháp của Bồ-tát, nhưng có nghóa cộng và bất cộng. Cộng là nói cộng (chung) Nhị thừa là Thông giáo vậy. Bất cộng là pháp của riêng nơi Bồ-tát, là Biệt Viên giáo vậy. Chuẩn theo giáo nói lý, thì thể cũng Thật tướng, cũng lại có hai khác. Tức gọi là thật tướng thiên chân (thiên vị chơn thật) là tướng các pháp mà Tam thừa đều được, cũng không gọi là Phật Thật tướng trung đạo đối giáo có thể biết. Lại dựa vào cộng và bất cộng để phán định quyền thật, thì cộng hóa tha quyền thật. Bất cộng tức là tự hành quyền thật. Nếu đối chiếu vào nhau để luận thì hóa tha tuy có quyền thật nhưng đều gọi là quyền, tự hành theo đây mà biết, tức thành tự tha quyền thật. Cho nên chú giải v.v… Nay như trên phân biệt. Từ “Ước giáo” … là nói đối với nghóa các bộ trước, này đây chính là luận theo bốn giáo. Tức một thời Bát-nhã tuy thông với các bộ mà phế bỏ bán nói rõ mãn. Đó là chỉ nói môn Ma-ha-diễn tuy thông các pháp, dựa vào đại tồn đọng tiểu ở Nhị thừa, bí mật xoay chuyển vào, cho nên có Tam thừa cộng hành mười địa v.v… Nói theo chánh, phụ thì Kinh này thông chánh tiếp phục; nói theo quyền thật thì quyền Thiên thật Viên; đã chỉ từ lý tột cùng của ba giáo để hiển bày Thể, thì Thể chính là chỉ Thật tướng viên mãn tột cùng. Cũng như Kinh Quang Minh (Kim Quang Minh) có luận phán giáo thuộc Thông mà giải thích thể là Viên. Thứ ba nói về Tông. Hiển bày hành của Thể là Tông, hành bao gồm tu chứng tổng nhiếp người quả, cho nên lấy người quả làm Tông cũng không thích hợp ư? Bởi thế có bình luận xưa, có giải thích ngày nay. Người xưa có dùng vô sanh chánh quán làm Tông. Phần nhiều là ý nơi luận Bát-nhã vô tri của đại sư Tăng Triệu. Nghóa là Thể Bát-nhã vốn không sanh, tức tri (biết) của không sanh diệt ấy. Tức tri làm quán chiếu thì xa lìa hai bên, có không, giả danh trung đạo chính là chánh quán. Từ “Cố văn vân” (cho nên văn nói là dẫn chứng. Ý chính văn đó chỉ rõ rằng: Thể vô sanh là rỗng không, không hề có thấy gì, tuy biết mà là không biết, thấy mà là không thấy, không hành, không thọ nhận v.v.. Các Luận giả đời này phê bình đây là ý Thông giáo; tức ngài Triệu Thập giải thích Kinh phần nhiều phụ thuộc vào ý Thông giáo. Tuy được quyền ý Thông giáo, mà mất đi thật Viên đốn, nếu là mất đi cái thật thì quyền thật đều sai v.v… Tiếp nay giải thích nói lấy tự hành người quả của Phật làm tông, tức là trí tuệ tột cùng, cái tri linh tỏ, vắng lặng mà chiếu soi của Phật đã chứng làm tông Bát-nhã này. Phàm nói tự hành thì chứng chỉ có ở Phật, người khác chẳng có thể biết. Nói đến người quả thì hành không gì không bao gồm, đức không gì không thâu nhiếp; đã chứng trí ấy ắt khế hợp cảnh ấy. Vì thế nói: Một sắc, một hương không gì không phải trung đạo. Nói Trí và trí xứ đều gọi là Bát-nhã thì không thể lấy tâm có mà nhận, tâm không mà nhận, chỉ lìa có lìa không khế hợp trung đạo mà được; nhưng lìa có lìa không tức vắng lặng là Thể vậy. Có và không rõ ràng tự nhiên là tác Dụng của chiếu vậy. Chỉ vì trí một lúc vừa chiếu vừa ngăn, chẳng có gì là được cả, cái tướng không cũng không có tướng, mà chỉ tự nó tướng Không, không có riêng khác, không có tướng; vì đó là cốt lõi của Tông, chẳng có gì hơn đây. Từ: “Vấn Tông dữ thể” (Hỏi: Tông và thể)… Là phân tích sơ lược sự giống và khác của hai thứ, và lấy thí dụ giềng lưới và áo. Phàm giềng lưới đạo do mắt lưới, nhấc giềng (đầu mối) lưới lên thì các mắt lưới tự nhiên theo. Áo làm bằng sợi, nhấc áo lên các sợi chuyển động theo. Thí dụ này cho rằng Thể theo Tông, nên hiển bày Tông thì được Thể chính. Hoặc lấy thí dụ rường cột không gian trong nhà, không gian là cái được nhận (sở thủ), đây là nói lấy Tông theo Thể, mỗi thứ đều có đảm đương. Nay nói đến giống và khác: Có hàng trăm thứ chẳng phải đồng, chẳng phải khác (bách phi) như luận về ly, hợp cũng vậy. Ngài Tứ Minh nói phân tích thể như đây là chẳng tức Tông dụng, chẳng lìa Tông dụng mới làm sáng tỏ được cái vi diệu của một nhà Tông Thể. Lại như vàng làm ra các thứ để trang sức, đây thí dụ về chẳng phải khác, chẳng phải không khác, ý nay cũng ít khác biệt v.v… Thứ tư Biện giải về Dụng: Tông đã hiển Thể, thể hiển thì có Dụng cho nên tiếp theo Tông nói đến tỏ Dụng, cũng tức là lực dụng công năng của Bát-nhã. Từ “Hữu người” (có người: Là bình phẩm người xưa người. Xưa lấy trong và ngoài hai hộ làm dụng Như trong văn nói v.v… bảy nạn không khởi. Là như đoạn văn sau kê ra ngoài giải thích. Quyển sớ này… Nay bình phẩm như sau: Nghóa có đoạt lấy và cho. Cho là nói trong và ngoài được một đầu mối của Chân và Tục, đoạt lấy thì mười địa tên gọi thông, mà không nhắm đến nói rõ Tục; chỉ biết một mà không biết hai, nên không thể nương tựa vào. Tức là đoạt lấy. Nay dùng hai trí của Phật làm dụng còn thâu nhiếp được Y, chánh, người quả Phật quốc, thế gian Y báo quốc độ v.v… mà không hộ ư? Cho nên dùng cái thắng thâu nhiếp cái kém, nêu chánh thâu lấy y. tức hai hộ trong, ngoài chẳng có gì không thâu nhiếp hết. Huống gì nói Nhị trí, lý của nó rất sâu xa, thật hơn hẳn giải thích của người xưa rất nhiều vậy. Hoặc là phàm nói đến quyền và thật ắt có chiếu soi tự tha. Chiếu tự nơi mình tức là chiếu lý, chiếu soi kẻ khác tức xem xét căn cơ, đó gọi là trên thì pháp tánh sâu xa xứng hợp, dưới khế hợp cơ duyên, chưa từng có chiếu soi một mà không chiếu soi hai. Nếu kèm theo giáo để xét, thì có ba cặp quyền thật, như văn giải thích v.v… Từ “Như Tát bà” trở xuống là dẫn sự chứng dụng mà có mạnh yếu. Hai trí Thông, Biệt lực dụng yếu giống như cung tên của người phàm, hai trí Viên trung lực dụng mạnh, giống như cung tên của Thánh. Từ “Thứ hà giả” là nêu câu hỏi. Nói câu một hoặc đẳng giả từ ngữ, tấn thối không định. Nghóa là tuy hai trí của Thông giáo là bình đẳng nhưng là chân không cho nên chiếu lý không khắp. Biệt giáo có thứ tự chứng đạo mới biết, nhưng nghóa không bằng Viên giáo cho nên hoặc chiếu hoặc chứng đều phải xả bỏ Thiên theo Viên, tức xuống là dùng nhị trí đối các cõi Đồng cư v.v… Nói khiến cho các hoặc Kiến tư v.v… Không khởi là giải thích rõ lại nghóa quốc. Đó gọi là Thập địa hạnh v.v… tuy thông ba giáo, mà nghóa hệ của Thập địa đã hành là một. Chuẩn đúng theo đây thì cõi tịch quang cũng nên gọi là Hộ. Văn ít nói quả tột cùng, cho nên không nói vậy thôi. Văn sau tuy có nói hộ quả, mà không ở trong quả, trở về ở tâm người, phần sau sẽ giải thích rõ hơn. Lại trong Kinh Lăng già, có cần Kim cang lực só hộ là nói theo hóa thân, như Kinh kia nói v.v… Thứ năm nói về tướng giao, nêu ra chung chỉ rộng ra, mà các tên gọi bốn chương có luận tổng biệt đầy đủ. Nếu chẳng phải tướng giáo thì không dựa vào đâu để biện luận hiểu nghóa cạn, sâu, bán, mãn. Vì vậy, đây phải nói về tướng giáo. Từ “Kim lược Minh”. Là chính thức phán định. Tức bộ này là Bát- nhã, là một trong các bộ, dùng bán và mãn so với Tam Tạng giáo, thì đây là Mãn tạng giáo: Ma-ha-diễn môn bao gồm Thông, Biện, Viên. Ma-ha dịch là Đại, Đa, Thắng v.v… Diễn cũng là Đại. Dùng thứ tự, năm vị, thì Bát-nhã xuất từ phương đẳng. Ví như từ vị sanh tô, xuất ra tướng vị thục tô. Bởi thế dung thông nhị thừa, rèn luyện sàng lọc những chấp tình còn vướng đọng mà có thể kham nhận đến một vị của Pháp Hoa khai tỏ. Đây cũng như là tướng chung vậy. Như bộ này thì riêng nói Hộ Phật quả đức, người hành thập địa và ngoại hộ Quốc độ v.v…, tức bàn đến mức tột cùng đạo xuất thế và cốt lõi đạo của Phật hóa độ. Lại Vua Ba-tư-nặc hỏi Phật; Nghóa Ma-ha-diễn nên chiếu như thế nào? Phật nói v.v… Đã dùng Ma diễn làm cảnh sở chiếu, thì biết chẳng phải nói Tam Tạng giáo vậy. Tuy chẳng phải Tam tạng, mà sớ phá và năng thông có đủ bốn giáo. Nhưng Tam tạng đã là chỗ được phế bỏ, cho nên xuống là giải thích nghi ngờ. Nếu như ý chỉ chính của bộ này chỉ nói Đại Thừa, mà kinh có tám kệ bàn luận về vô thường sanh diệt. Đây là như thế nào? Cho nên giải thích v.v… Tức Vua Phổ Minh bị Ban Túc bắt, chuẩn bị đem tế thần, Phổ Minh xin y theo pháp của bảy Phật, tập họp trăm pháp sư thuyết Bát-nhã xong rồi mới chết. Ban Túc được nghe Bát-nhã thế là Pháp sư vì vua nói bốn câu kệ phi thường (Xem văn cuốn quyển đầu) vua người đó chứng đắc Không bình đẳng, Tam muội. Câu Phụ hành phán chi v.v… Tức đoạn văn này khuyên vua bỏ nước, tức là thuộc trợ đạo chẳng phải ý chỉ chính của kinh. Bàn rộng về nghóa chính của Kinh đến đây đã xong. Tiếp dựa vào văn giải thích chia làm hai. chỉ chung phân chia Kinh. Phàm xưa nay giải thích kinh, tùy theo nơi chốn, có chia ra hay không chia nên đây liệt kê ra. Nên nói Tây Trúc và Chấn đán (Trung quốc) văn tóm lược mà thôi. Như Đại Luận giải thích Bát-nhã, Ngài Thiên Thân giải thích Niết-bàn. Tức Tây Trúc chia và không chia. An sự chia ra phần. Lưu cầu giải thích Pháp Hoa: Trung Quốc chia và không chia vậy. (Sự tích đức hạnh của hai vị Hiền hai vị Thánh này và phương thức giải thích Kinh, có ghi đầy đủ trong phần chú thích thêm của Đại bộ). Phàm giải thích Kinh quý ở chổ thông lý, chia Kinh hoặc không chia Kinh chỉ cần nghóa sở tại, nên không cố chấp nhất định phân chia. Nhưng phân chia nói là để hiểu hết, nếu không thể, sao tránh khỏi cắt vụn Kinh ra; việc cần chính vẫn là đắc ý chí của kinh. Cho nên nói: “Nhơn tình như Lan, Cúc”. Chữ “Kỹ” nên làm chữ “Hảo”. E lầm chữ. Tiếp đến phần Chánh chia làm ba phần: Phàm Thánh nhơn nói pháp há không hề tự nhiên mà, bất chợt nói ra. Ắt phải nói có nguồn gốc, nghe ắt phải có người nghe, có thời gian có nơi chốn chứng tín chẳng sai lầm. Hoặc có ánh sáng, hoặc có điềm tốt lành, phát khởi không nghi ngờ. Bởi vậy, có phần Tựa; có phần Chánh tông, có phần Lưu thông đó vậy. Văn nói Tựa rõ để Chánh hiển bày. Xưa nói Tựa và Chánh Tông kèm nhau là nghóa đó vậy: Chánh tông thì phải đúng căn cơ thiết lập giáo. Lưu thông thì lợi ích cho vị lai, mới là phần chính. Tiếp dựa vào kinh phần định làm hai: Một là tùy theo phẩm chia văn. Tức là phẩm Tự là tựa. Đây tạm căn cứ phẩm phân đều, chẳng phải phân văn, phân đều. Dựa vào văn mà phân ra, tức là từ câu “Phật bảo Bồ-tát Nguyệt Quang: của cuối phẩm này trở xuống đến hết Kinh, là phần Lưu thông. Hai là theo văn chính thức giải thích lại chia làm ba. Phần Tựa đầu phân làm ba: Ban đầu nêu bày tên khác gồm có ba cặp đối nhau là thông với biệt; chủ với bạn; trước với sau, đều không ra ngoài một phẩm Tự này. Giải thích nghóa. Liệt kê giải thích tổng làm bốn nghóa, tức là lấy sáu việc trình bày ở đầu Kinh mỗi sự đều được thật nghóa, nghiệm chẳng sai cho nên có thể chứng tin. Do đức Như Lai hiện năm điềm lành v.v… nên được lấy đó làm phát khởi chánh tông. Thông giải thích hai, gọi là nghóa thứ nhất. Thông tựa mỗi kinh đều có, biệt thì chỉ ở phẩm này là nghóa thứ hai. Sau sự trình bày ở đầu Kinh thuộc ba đời, đều là lời từ Kim Khẩu của Phật nói ra nên gọi là Như Lai tựa: Cũng là chứng tích về A-nan truyền lại, nên là A-nan tựa là nghóa thứ ba vậy. Liệt kê ở đầu Kinh nên gọi là Tựa trước Kinh. Mà ở Phật tại thế gọi là sáu sự của Thông tựa. Phật ở đờ đời hay sắp nhập Niết-bàn thì cũng là lời của Phật, người kết tập sắp xếp lại vào lúc sau Phật diệt đột gọi là Tựa sau kinh là nghóa thứ tư vậy. Từ “Kim thả y” trở xuống là đối Kinh kết lại v.v… Thuật lại duyên khởi: Chia làm hai phần: Đầu tiên chỉ Kinh, tiếp từ “Trí Luận” trở xuống là dẫn luận gồm có hai văn: 1.Như ngài A-nan trình bày thỉnh bốn việc. Phật tùy theo hỏi mà đáp. Năm việc chứng tín là một việc trong đó.; 2.Như ngài Ca Diếp đã hỏi lúc chánh kết tập. Khi đó ngài Ca diếp hỏi, ngài A-nan như Phật trả lời v.v.. Giải thích theo văn có hai. Phần 1: Chia văn làm sáu phần như thông thường giải thích v.v…; Tùy theo giải thích sáu nghóa. Ban đầu nói “Như vậy”, là chỉ pháp đã nghe từ “Như” trở xuống là nói một bộ kinh nào cũng đều thể theo pháp đã nghe, một khi thị nói “Như” thì thâu nhiếp trọn hết. Nếu không như thịy thì chẳng phải pháp, cho nên nói rằng giải thích như thị xong thì cả bộ kinh sẻ rõ ràng là ý đó vậy. Tóm lược chia làm hai giải thích. Mười Giải thích theo bốn Tất đàn, đều là người duyên, Tất đàn, tất cả đều là người duyên. Văn cho là đồng với đạo không tranh luận thế gian là Tất đàn thứ nhất. Trên thì đồng tri kiến Phật, dưới thì thuận tục thế tục, cho nên đều không tranh luận. Nêu thời và phương để muôn loài tin, tin là gốc thiện cho nên là Vị người Tất đàn thứ hai. Bổn này phân tích đủ cả hai Tất đàn này. Lại để phá ngoại đạo Âu A, là đối trị tất đàn thứ ba. Phàm phu ngoại đạo cho rằng không ngoài có và không. Nay lấy “như vậy” mà phá dẹp tức chính là Đối trị Tất đàn. Xưa lấy Tín thuận giải thích “Như vậy” đây phải nên là đệ nhứt nghóa Tất đàn. Đã tin, rồi còn thuận lý chẳng gì hơn như thế. 2.Giải thích theo Giáo: Dựa vào giáo thuyết nói rõ nghóa “Như vậy” Nghóa là nếu giải thích Chân, Tục, một Có, một Không thì ngài A-nan truyền lại lời Phật nói không khác, gọi là Như thị. Tức là nghóa Tam tạng giáo. Hoặc sắc không, không hai, không khác gọi là như, gọi là thị, đó là nghóa Thông giáo. Biệt giáo nói sanh tử là có, Niết-bàn là không. Có và Không như vậy thứ tự ra vào, là nghóa Biệt giáo. Viên giáo nói sanh tử tức Niết-bàn không gì không phải thật tướng là Như; như như bất động là Thị tức nghóa “như vậy” của Kinh Viên giáo. Kinh đây đầy đủ nói, nghóa như vậy của ba giáo. Ngài A-nan mỗi mỗi truyền lại không sai, cũng khiến cho dời sau tùy theo giáo mà chọn hiểu. Bộ kinh phần này. Nghóa Quán thì đầy đủ. “Tôi nghe”: Tôi tức là A-nan là người nghe trì kinh này. Luận lấy tai và các duyên, tức có đối tượng được nghe là Thế giới Tất đàn. Nêu tổng nhiếp biệt, nghóa thế đế vậy. Vì kết tập pháp tạng xưng là tôi nghe, đó là Vị người tất đàn. Người vì cảm thương khóc lóc rơi lệ đều là sanh thiện cho muôn loài thiện. Vì xưng Tôi nghe cho nên có ba cái nghi, tức để khiển trừ là Đối trị tất đàn, nghi mà không quyết chắc, thì chúng còn ôm trong lòng chưa thỏa mãn, khiến trừ nghi nên phá ác. Ba nghi luận như trong chương khác v.v… Thật đế vốn không có cái Tôi (Ngã) tùy theo Tục mà xưng Tôi (Ngã) mà rõ ràng không có gì là nghe, cho nên dùng Vô ngã mà ngã, không nghe mà nghe, đó là Đệ nhứt nghóa Tất đàn. Giải thích ngã theo Giáo là ngã gồm có ba: Gọi là kiến mạn danh tự, đối với phàm phu v.v… mà có nhiều ít. Ngài A-nan đã là người hữu học, và đoạn kiến phục mạn, tùy theo đời mà xưng Tôi, đây là ý của Tam tạng giáo. Lại nữa A-nan đảm đương vị vô học, tích (nay) làm thị giả theo hầu Phật cho nên lui về địa vị hữu học, chẳng phải thật sự chưa đạt đến. Đến khi kết tập phải phát khởi tích trước, thị hiện Tứ quả ra mới có thể kham nhận kiết tập, nguyên do là thế. Xưa phần nhiều không hiểu chỗ này, người đây mà chỉ rõ ra. Bốn câu trong Thập trụ Tỳ Bà-sa gọi là Ngã là: Phàm rơi vào bốn câu đều gọi là tà kiến. Nếu như không có ngã thì ai sẽ nghe, đây là ý Thông giáo. Như trong Đại kinh xưng gọi A-nan là Đa văn só, có thể hiểu Ngã Vô Ngã cho đếnphân biệt Ngã, Vô ngã là hai, không hai v.v… thứ tự trước sau là ý Biệt giáo. Biết Ngã Vô ngã hai mà không hai, cùng chiếuềung ngăn cùng dung thông Phương tiện làm thị giả là ý viên giáo. Từ “Hựu Chánh Pháp Niệm” trở xuống nói A-nan có bốn. Điển tạng. Giải thích nghóa bốn Ngã: Đó là Hoan hỷ Hiền Hải thứ tự nắm giữ ba pháp tạng. A-hàm có điển tạng A-nan, nắm giữ Bồ-tát tạng. Bao trùm chỉ có một người mà có đủ bốn đức,… Đại (Diếp) Tiểu khiến cho trí hết bốn pháp tạng, là giải thích theo ý giáo. Giải thích theo quán tâm không ngoài dùng ngã và vô ngã v.v… phối hợp ba môn quán, tức thành nghóa diệu cảnh; diệu quán từ đây cũng được an lập. Đó là ý quán tâm vậy. Tiếp giải thích chữ Văn (nghe) có hai. Ban đầu nêu ra nghi ngờ dấy khởi. Nghóa là ngài A-nan đản sanh vào đêm Đức Phật thành đạo, theo hầu Phật hơn hai mươi năm thì Kinh lúc chưa hầu Phật lẽ ra không được nghe? Tiếp dẫn kinh luận giải thích theo nghóa người duyên, đầy đủ nghóa bốn Tất đàn. Từ “ Tức Luận vân” trở xuống là căn cứ ở xoay vần nghe lại là nghóa Thế giới Tất đàn. Từ “Báo ân Kinh” trở xuống là nguyện xin nghe lại. Có nghe tức có sanh thiện là nghóa Vị người Tất đàn. Từ “Thai kinh” trở xuống nói dõi theo tướng hiện nhập thai, thì hóa sự của Phật trước đó thảy đều thấy nghe. Thai biểu thị cho bất tịnh, tức là Phá ác Tất đàn. Từ “Pháp Hoa” trở xuống là nói A-nan vì được Phật thọ ký nên nhớ nghó như trước mắt, được Phật giác ngộ cho Tam muội đều nghe được tất cả; tức là Đệ nhứt nghóa Tất đàn. Văn thêm một chữ “Linh” (Khiến cho) thì tóm lược kết ý giải thích không rườm rà. Tiếp giải thích chữ “Văn” theo Giáo: Như trước đã giải thích Ngã, nay chuẩn theo chữ ngã giải thích “Văn”, cũng phải theo như vậy. Phối hợp tiếp theo giải thích, thì Hoan hỷ (A-nan) trì giữ cái “Văn văn”( năng, sở) là Văn (nghe) Tam tạng giáo, còn ba giáo sau có thể biết v.v… Từ “Nhất nhất giáo” trở xuống là nguyên do giải thích tất cả, có đủ trong các sớ, không phiền dẫn ra. Chữ nhứt thời đó là: Thời lúc nghe và trì hòa hợp, gọi là nghe tức là đối tượng được nghe (sở văn) trì tức là năng trì; hai thứ này không nhứt thời thì không gọi là hòa hợp. Ứng và cơ làm một thì Phật hóa độ đây mới thành. Đây lại chia làm hai giải thích: Đầu tiên giải thích theo nghóa người duyên. Ngài Triệu sư giải thích sự viện hiển bày lý, nên giải thích thế giới tất đàn là phù hợp. Đại luận giải thích “thời” có giả có thật. Thời vốn không khác mà nói nghóa có khác nên lấy hai ba chữ khác nhau không phải để làm khó dễ. Cho nên, nói Ca la thời tức nghóa thật là thời mà các đệ tử nơi giáo ăn, mặt trời không quá giữa, không thể sai. Nói Tam-ma-da là thời tức giả vì để phá ngoại đạo chấp thời gian la thường, mà nêu rõ tỏ, niệm niệm vô thường. Nay phân phối làm hai giải thích. Văn chỉ rõ ràng không cần giải thích. Đệ nhất giáo nghóa tất đàn lấy không thời gian và không phải không thời gian là thời gian, nghóa là cả hai chẳng phải giả, thật chánh để hiển bày Trung đạo thêm Đệ nhứt nghóa cho nên biết nghóa thời gian là to lớn như vậy. Chỉ rộng ra có thể biết. Tiếp giải thích “Nhất thời” theo giáo. Nhưng lấy giáo vốn thuyết lý, hành vốn trãi qua ngôi vị ở Tạng, Thông, thì trí có phân tích thể, còn ở Biệt, Viên thì chứng phần của Địa, Trụ. Tuy có hạ, trung, thượng, thượng thượng khác nhau, mà chứng nhập diệu dụng không có chấp nhận trước sau. Cho nên gọi là nếu xét về kinh này thì đủ cả ba giáo, hợp lại mỗi giáo theo chánh, có thể phân biệt như phầnû trên. Tuy nhiên Biệt Viên này trong kinh nói theo tiếp, nhập vào thì mà lấy Bát-nhã chung làm sơ môn, tiếp và chánh chia chẻ. Vì nói theo gai đoạn đầu mới phân làm tiếp chánh, lấy chánh làm chuẩn để tiếp và nhận mọi thứ về với chánh. Phật là vị giáo chủ năng thuyết, tuy thôngcả bốn giáo, nhưng để phần văn sau mới giải thích. Nay tạm tổng nói làm bốn nghóa Tất đàn giải thích: Phật gọi là giác. Các phiền não là sở giác. Thân tâm hai bệnh là bao gồm nghiệp báo, người quả đầy đủ v.v… là tam Giác đầy đủ. Năng sở đầy đủ. Vì đủ, cho nên đạo giác ngộ năng phá phiền trược trói buộc bèn gọi là Phật. Nhưng có căn cơ cảm ứng thời xứ khác nhau, tức là Thế giới Tất đàn. Gọi là kiếp sơ không bệnh v.v… đều chẳng phải cảm ứng thời có Phật. Nói cõi Đông thiên hạ giàu có mà thọ lâu v.v… là nơi không cảm ứng Phật. Thời tám vạn tuổi, tuy gọi là thọ mạng dài nhưng không cảm ứng tới Phật. Người cõi Nam thiên hạ chưa thấy quả mà tu người, là người có thể giác ngộ trước vậy. Vì thế tuy giảm so với kiếp sơ cho đến trăm tuổi nhưng nói chung là có thể cảm được Phật. Cho nên Phật xuất thế ở nơi này. Từ câu “Nhật nhược bất xuất” trở xuống là văn có thí dụ và kết hợp. Nghóa là Phật ví như mặt trời, nếu mặt trời không xuất hiện thì hoa trong ao không hiện, nếu mặt trời hiện thì có hoa sanh. Mặt trời hiện là người của Hoa, là việc tốt để ứng sanh. Đây là Vị tất đàn, còn lại có thể biết. Từ “Tam thừa căn tánh” trở xuống. Vì có cơ duyên xuất thế nên có thể cảm ứng đến Phật. Nói người đoạn Hữu Đảnh chủng, tức là địa thứ chín, một phẩm tư hoặc đã hết vónh viễn ra ngoài ba cõi. Cho nên gọi là vónh viễn qua dòng sinh tử. Trái lại, hiển bày nếu chưa phá ác thì không thể cảm. Đây là Đối trị tất đàn. Từ “Phật ư pháp tánh” trở xuống: Vô thể pháp tánh biến khắp tất cả xứ, chưa hề có động, xuất, nếu có cơ duyên cảm ứng thì nơi không động xuất thấy có động xuất. Nhưng thấy có động xuất tức là thân ứng hóa; Vốn không động mà xuất tức là thân đệ nhất nghóa của pháp tánh.  PHẬT THUYẾT NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA KINH SỚ THẦN BẢO KÝ <卷>QUYỂN 2 Tiếp giải thích theo Giáo: Phật là phật bốn giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên. Phật vốn không có bốn vị, nhưng từ sở thuyết của bốn giáo cho nên có bốn thân Phật tương đương. Thông suốt mà nói thì vốn chỉ có một Phật. Lấy cảnh làm gốc thì Tam tạng giáo Như Lai có bốn kiến khác nhau trên sắc tướng. Nói Phật Bản tích thì Phật Viên giáo là bản, thùy (thị hiện) là Phật tích của ba giáo (Tạng, Thông, Biệt). Nói chơn trung thì bốn giáo, mỗi giáo có hai mà có ba cặp cảm ứng khác nhau. Nói thể dụng Phật thì thể vốn có một, mà dụng có bốn v.v… nếu hiểu được các ý này thì luận bốn Phật có đồng, có khác, không có gì trở ngại. Nay tạm theo những phần phù hợp để nói. Phật phiên dịch tiếng Hoa là Giác; Giác có tự tha, cũng gọi là Giác mãn. Năng giác ngộ pháp người quả của thế gian xuất thế gian, như là khổ tập, đạo, diệt vậy. Thân thọ tám mươi tuổi v.v… là biểu thị đồng với phép tắc của con người. Tuy đã xuất ra ngoài cõi người rồi, mà chưa xa lìa cõi người. Giống như ứng hiện làm kém đi mà thôi. Ba mươi bốn tâm tức tám nhẫn, tám trí, tám trí, chín vô ngại, chín giải thoát. Tóm lại không ra ngoài hai đức, Trí, (đoạn; năng phá kiến tư, dưới gốc cây thành Phật. Chỗ gọi là cây Bồ- đề, để phân biệt, khác với bảy báu, tức là Phật của Tam tạng giáo hiển thị tướng thành đạo. Thân cao trượng sáu, giống như hiện thân tôn quý đặc biệt, thông suốt diễn môn, hai căn cơ, lợi, độn, nên thấy tướng hơn kém không đồng, như nói hợp với thân tôn quý đặc thù, đó là vậy, đó là vậy. Mà thật ra, chỉ một thân tùy cơ mà thấy có khác, chẳng phải là to lớn thu nhỏ, gọi đó là còn vướng đọng. Nói hợp, nói cộng cũng là một nghóa vậy thôi. Xưa giải thích có nhiều sai lầm. Cho nên lược chỉ bày vậy v.v… Một niệm tương ưng đó là không đồng với Tạng giáo dùng ba mươi bốn tâm tiệm tu, đốn đoạn. Nay lấy trí thì một niệm tương ưng với Không, vô gián mà đoạn. Có ở trước sau, tức là chánh sử trước tiên đã đoạn hết, đến quả chỉ là tận trừ những tàn dư tập khí mà thôi. Có khác với Phật Tạng giáo đó là lấy đại tiểu giáo môn vì cơ, mà thiết lập giáo hóa không đồng cho nên nói v.v… Tướng Phật Biệt giáo, chỉ hiện thân nguy nguy đường đường tôn quý đặc biệt. Thọ Phật ký cũng gọi là thọ Phật chức. Tức sắc cứu cánh Thiên thọ Phật chức là vậy. Phật Biệt giáo này hoàn toàn giống với kinh Hoa nghiêm nói mà ngôi vị thứ tự, lên xuống có khác, ở kia thì là rốt ráo quả vị lên trời thuyết pháp, là vị bắt đầu từ một tướng ứng hóa. Đây là phù hợp với giáo pháp của Biệt giáo bắt đầu đoạn mười hai phẩm vô minh, dùng quyền giáo hành vị giáng xuống người gian thì chỉ dừng ở nhận chức vị Phật mà thôi. Xưa nay, giải thích hình như giống, mà thật khác nhau rất lớn. Tuy khác mà lại đồng, không dễ gì phán định, càng nên phải nói rõ v.v… Tướng Phật Viên giáo, không giống như ba tướng trước, cho nên nói rằng ẩn trước, chỉ thị hiện tướng như hư không, không thể nghó bàn, nhưng cũng không lìa tướng thường vốn hiện, bởi vì Viên cơ là một. Có thể xưng là tính đông hư không đẳng với pháp giới… chỉ dựa vào tâm hiện, không thể dùng lời nói mà nói ra được, không thể dùng thức mà hiểu biết được. Thể thấu suốt như thế gọi là pháp thân cứu cánh. Cho nên nói: Ta có thân này tức là pháp thân. Ký lại ngăn chặn nói rằng: Chẳng phải như thái hư gọi là Viên Phật, ấy là sợ học giả người nông từ mà hiểu sai vậy. Đã là có ý sâu xa, cần phải suy nghó. Từ “Tượng pháp quyết nghi” trở xuống là dẫn chứng trong bốn Phật. Nói hoặc thấy tòa Liên hoa v.v, là ở lời nói… chứng minh Phật riêng biệt, ấy há chẳng phải tướng ứng hoàn toàn đồng kinh Hoa Nghiêm, mà địa thứ tư cao thấp có khác ư! Chứng minh ba Phật kia, tóm lược có thể biết nghóa. Về giải thích bản tích lấy ba Phật làm tích. Một vị Phật làm bản. Đây là nói theo Thể, Dụng, bổn, tích. Nếu lấy kinh Pháp Hoa chỉ rõ ra ý chỉ bộ Kinh thì bản là Phật Viên giáo, thị hiện Phật của ba giáo kia là Tích. Lại nói: Nếu hiểu được thật ý thì mới biết thể dụng bốn Phật đồng khác ra sao! Nếu nay đối luận, chắc chắn không thể một ngày nói hết, nên nói v.v.. Giải thích bốn Phật theo quán tâm. Tức không ra ngoài bốn câu ba quán thâu nhiếp, nay bốn Phật, tức nơi một niệm mà thấy trọn vẹn đủ ba thân. Đã thấy tự tâm tâm Phật, không hai thì giác cảnh từ đâu khế hợp. Cũng dựa vào Phật quán ý chỉ của tâm v.v… Giải thích chữ “Trụ”: Phật có đủ ba thân, trụ xứ có tám và.v.v… Phần lớn theo tây trúc Luận gia phân biệt danh nghóa, có nhiều loại như đây, nhưng cũng không thể nào không thể. Vì nay nói Phật vốn không trụ. Trụ của không trụ đó có sự và có lý, lý trụ tức là đệ nhứt nghóa không, sự trụ như phân biệt ở trên. Thế thì cùng với trước có gì khác đâu! Nếu nói rằng: Không trụ, không gì không trụ, thì không tồn tại không gì không tồn tại, nhưng nói vốn thật sự là thần thông của Phật biến hóa tức có hạn kỳ, số lượng nhất định, thì chưa dám nghe phân biệt như đây, nghóa không thể rốt ráo hết v.v… Theo giáo giải thích trụ tức không ngoài dựa vào bốn giáo. Môn dựa vào thể, phân tích, khéo, vụng thứ tự, không thứ tự v.v… lý của nhập chứng dùng làm sở trụ. Nếu từ môn năng nhập thì có bốn; dựa vào lý sở trụ thì chỉ hai, hai thì khác biệt của trong chơn, bốn mới là đặc thù của Tức, Ly. Mà nói có Niết- bàn và, Bí tạng khác nhau nghóa là Niết-bàn thì từ Chơn không được tên gọi; còn Bí tàng thì lấy ba đức đặc tên. Do đây mà phân biệt. Lý thì phải có quy về. Quyền và Thật mà luận thì nghóa không nhứt thiết như vậy v.v… Giải thích chữ Thành: Văn đây hơi dài, nay theo từng đoạn mà giải thích. Ban đầu dịch tiếng Phạm tiếng Hoa như văn. Từ “Thiên la” trở xuống là chỉ rõ bổn duyên. Từ “Nối tiếp ngôi vua” trở xuống nói rõ nguyên do Ban Túc bị đuổi. Nước đó đầu tiên hiệu là Bất Hại, mà rồi mỗi ngày giết một người sao được không lưu truyền trong thiên hạ là ác độc, mà còn bị người dân trong nước ruồng bỏ ư! Từ “La sát phụ dực” trở xuống nói rõ vua Phổ Minh bị Ban Túc bắt. Có hai thuyết: Một là nguyên do cởi mở niềm tin, cho nên thành tựu cái đức hạnh của Ban Túc. Hai là bắt nguồn khởi giáo, vì vậy thiết lập hội pháp thí. Đó đều làm pháp khởi cho Bát-nhã này. Từ câu “Phồ tập thiên vương” trở xuống trình bày đáp trả nguyện lập và Nguyên thủy xưng tên gọi Vương xá. Từ “Hựu thành trung” trở xuống là nêu ra tên gọi khác của Vương Xá. Giải thích gồm bốn nghóa, cũng có thể phối hợp nghóa bốn Tất đàn thành giải thích theo Người duyên v.v…. Hai chữ “Lực doanh e rằng là chữ “lực cái”… Hoặc có thể là “Danh Doanh chử bị viết nhầm vậy. Từ câu “hựu mó già đà” trở xuống là phiên dịch tên gọi khác nhau; trước chưa hẳn dịch đúng, mỗi tùy nghóa mà dịch vậy. Kiêm đưa ra nước đó có mười hai thành, mà Phật trụ ở đời có nhiều ít vì báo ân sanh thân, pháp thân, có nhẹ có nặng cho nên vậy. Như văn nói v.v… Cũng giống như kinh Pháp Hoa nói: “Xem cây và Kinh hành”: tức là báo ân cây và đất. Vì vậy biết Đức Phật là bậc thánh người phàm một khi xuất ra nơi chốn nào ắt phải có nguyên người, không hề uống phí vậy. Từ “Hựu xá” trở xuống là phân chữ giải thích. Nói Vương tức là Vương thành. Xá thì có sáu Tinh xá cho nên được đặt tên này. Như văn nói v.v… Có ba giải thích núi: Nghóa là núi Kỳ-xà-quật, Trung hoa dịch là Linh Thức gồm có ba nghóa cho nên nói v.v… Từ “Phật hà cố”. (Phật cớ sao) trở xuống là nêu rõ Phật phần nhiều ở hai nơi nói pháp. Vì núi thành này đều thù thắng cho nên vậy. Chuẩn theo luận giải thích v.v… nay nói Bát-nhã cũng ở nơi đó vì nơi đó thù thắng nhất. Nhưng ở nơi khác Phật nói Kinh, há nhất định không thù thắng sao! Cho nên biết, nói thiên trọng một phía nào thì luôn nói như thế. Liệt kê chúng đồng nghe gọi là các chúng Tỳ kheo riêng bậc tam thừa, đồng nghe một âm giáo của đức Như Lai. Cho nên gọi là đồng nghe. Mà Phật thiết lập giáo hóa có quyền thật, được lợi ích, có cạn có sâu, vì vậy có sự khác biệt của bốn loại chúng: phát khởi, ảnh hưởng, đương cơ và kết duyên v.v… Hỏi: Các kinh liệt kê chúng nghe hoặc là tam thừa, nhơn, thiên, hoặc là bốn chúng: Tỳ kheo v.v… nay vì sao đặc biệt riêng nói có chúng phát khởi v.v… ư? Đáp: trong Kinh hoặc có nói tam thừa từ người. Nói phát khởi v.v… là cách nói phân loại. Nếu liệt kê từ người thì Kinh nào cũng nói, nhưng nay trước dùng loại để luận. Vì vậy nói: Một là ảnh hưởng, hai là phát khởi. Song, nói người mà không nói loại, tức là số đông (chúng) nên nhiều xuất xứ, không thể nói một mà đủ. Nói loại mà không nói người, thì loại tất nhiên nhiếp chung cả người. Tuy có các bốn chúng mà nghóa ắt phải thông nhau, thu về phải không ngoài quyền, thật, cạn, sâu. Nay dựa vào một chúng triển khai làm bốn loại, thì mỗi mỗi chúng đều có bốn. Như vậy thì có một chúng nào mà không được thu nhiếp, có một căn cơ nào mà không được nói đến ư! Đây là cách nói đặt biệt, sở dó vì sao không nói người vậy. Lại nói Tỳ kheo, Tỳ kheo ni mỗi chúng có bốn nghóa, tức là nói người từ loại vậy. Luận về chúng Tam thừa v.v.. liệt kê thứ tự trước sau có thể biết. Nói về tâm của Bố tát thù thắng, hình tướng thua kém là sao: Nếu luận về hình tướng y phục thì chưa hẳn thua kém Thanh Văn, nhưng nay lấy hình tướng, y phục của người xuất gia mà tỉ dụ đó thôi. Đầu tiên giải thích chúng Thanh văn. Chữ “ “Dữ” nghóa là cộng, là chung. Dựa theo luận làm ra nghóa bản nhất (bảy thứ giống nhau) Nghóa là Tỳ kheo v.v… tuy nhiên bất đồng nhưng bảy thứ như sở y, thời xứ v.v… Không gì không giống nhau (như văn). Nếu giải thích hết sự đồng dị trong Diệu ký có nói đủ v.v… Tuy nhiên, đời sau luận đến điều này, khiến cho không có cách nào làm cho đồng nhất, và người tình mỗi khác nhau có còn được nói là chung ư? Và nói Hòa hợp chúng cũng chỉ là nói càn mà thôi! Trong tên hiệu chung nói Đại A-la-hán. Chữ Đại còn nói là Đa, Thắng. Cho nên bao gồm có ba nghóa giải thích. Cũng lấy Ma-ha-diễn hàm ý nghóa Đa. Dựa vào như vậy riêng giải thích từ phiên dịch, giải thích Tỳ kheo có năm nghóa. Vốn chỉ có ba tên gọi là” Khất só v.v… ba tên thuộc về Người. Ứng chúng v.v… ba nghóa thuộc về Quả. Lấy người phối hợp nghóa quả như giải thích thông thường. Nay thêm hai nghóa, nơi văn không quan trọng, sự giải thích phân chữ trái khác Phạm ngữ, chưa rõ dựa vào đâu, có thể tạm để qua một bên không nói đến v.v… Trình bày sơ lược địa vị Học và Vô học, dựa vào Thành Luận giải thích. Nói La hán có hai loại. Gọi là Hành cùng với Trụ. Hành là vị trí đã tu hành của Hữu học, Trụ tức là đương quả. Vì phân ra nên hai thứ khác nhau. Lại nói bậc Hiền giữ năm giới đều là hành A-la-hán, tức là ở địa vị đang học, là nói về cái hạnh của Vô học vậy. Cũng không hoàn toàn giống như sự riêng biệt của Hướng và Quả. Tin như đã nói, không nhất định phải luận. Giải thích chữ La hán, mà Trung hoa phiên dịch, có ba nghóa. Gọi là Bất sanh, Sát tặc, Ứng cúng. Tức lấy quả đối với người, nghóa này càng hiểu rõ, đây là ý Thông, Tạng, giáo. Nếu từ ý Viên giáo cao nhất giải thích, thì bất sanh v.v… đều y theo Trung đạo. Cho nên nói: Không chỉ là Bất sanh v.v… Nghóa là vô lậu Niết-bàn cũng đều bất sanh vậy. Cung ứng trái ngược với Ứng Cúng nghóa là đem đức từ bi cung ứng cho sở cầu của họ, tức là nghóa Cung ứng. Từ “Hữu vi công” trở xuống gồm có tám khoa pháp môn ca ngợi đức của Thanh văn, hoặc làm sáu khoa, tức hai khoa sau là tổng kết, chỉ là triển khai và hợp lại có khác đó thôi; như sau nói v.v…. Các kinh Phần nhiều ca ngợi đức là lấy từ ngữ văn cú để tán thân, trình bày, nhưng đây đặc biệt khác thường nêu các pháp môn để ca ngợi con người. Con người sáng sủa ắt có đức độ, đức độ ắt trong người đó, ý tức là dùng đức nêu rõ người vậy. Phần dưới cũng như đây. Lại nói: Cũng có thể tán thán người ba thừa. Văn vốn ở Thanh văn, nay lấy ý chỉ bộ Bát-nhã đó vậy. Nhị thừa cũng thông với các giáo sau. Hai cách giải thích khác nhau, phần nhiều ứng với ba giả, danh nghóa gồm cả Biệt Viên. Từ câu “Hữu vi cữ trí đức” trở xuống là giải thích theo trí, Đoạn. Nếu luận về hai đức. Thì chứng Đoạn ắt đều có cảnh thành tựu để luận. Đạo diệt vốn là một, nay làm giải thích khác nhau cũng cứ nói như vậy, như thông thường luận, nên căn cứ vào hai loại giải thoát mà nói v.v… Tiếp dựa vào mười trí tán thán: Một là Pháp trí v.v… tức đôi với Tư hoặc trong chín phẩm giới của cõi Dục, tu bốn hành quán phát ra trí vô lậu. Từ “Như thị nhất nhất đế” trở xuống nói sự phát khởi, đó là bốn Pháp trí. Đối với các pháp ràng buộc của hai cõi trên (Sắc, vô sắc) mỗi cõi tu bốn hành quán, đó là bốn Tỉ trí. Tỉ tức là so sánh với cái trí đã phát trước đây. Gộp chung mà nói, cộng một Tỉ trí, một pháp trí, Tha tâm trí, Thế trí đã phát thành là bốn trí. Lại thêm bốn Đế trí sau và Tận trí, Vô sanh trí trở thành mười trí. Nếu chỉ hợp trước, và bốn Đế trí sau thì thành tám trí thêm Tận, Vô sanh trí thì đủ mười vậy. Nên biết chỉ là khai, hợp mà có khác thôi. Từ “Ngũ khổ trí” trở xuống là giải thích trở lại mười sáu hành quán, chỉ là nói rộng thêm văn trên thôi. Văn nói phần tập trí hình như lầm lẫn. Phần Tận, Vô sinh trí dẫn luận nói, có thể biết. Vì kế tiếp lại thêm Như thật trí thành mười một trí. Căn cứ theo giáo Đại Thừa mà luận, chẳng phải ngăn làm sáng tỏ, nhưng chỉ ở Phật, không thể so sánh với Nhị thừa; còn đối với Học, Vô học vẫn nói sự tăng giảm khác nhau, như văn. Tiếp trong phần tán thán ba căn, trước tiên biện luận về trí, rồi theo đó mà giải thích. Nghóa là trước Kiến đao dùng chín căn như Tín v.v… thành tựu Trí hành, Pháp hành cho đến vị trí căn trước đây ở trong Kiến đạo. Nay tri (biết) vô lậu nên gọi là Dục tri căn. Như thế lần lượt trải qua hai đạo Tư duy, Vô học chuyển tên gọi Tri căn thành Tri dó v.v… Về mười sáu tâm hành, trước giải thích Đế trí đã rõ, nay đâu cần liệt kê lại! Nhưng giải thích trước đây chỉ là nêu loại để tán thán đức, không chuyên nói về hành. Nếu căn cứ về hành theo thứ lớp phải ở trước trí. Nay nói tâm hành nghóa phải ở quả sau, cũng đâu có gì sai? Chỉ nghi ngờ thiếu một chữ “Kim” (nay) v.v…. Cũng theo như Tiêm giải thích so sánh nói mười sáu hành thì lại bao quát nhiều nghóa, nên sự giải thích không phải hầu hết như nhau. Như Sớ nói v.v…. Lại nữa, tâm hành là: Nghóa có Tức có Ly, nay theo Ly lược bớt Tức. Vã lại cũng thường như vậy. Vì mười sáu hành cùng có nơi Tiểu thừa. Ba thứ Giả, tán thán đức nói Pháp giả v.v… Trước chỉ rõ Thể giải thích tên gọi. Thọ là tên gọi để ở đầu tiên. Tưởng, Hành tiếp theo. Thức là chủ của Thọ, chung được gọi là Thọ. Nhưng nói bản thân nó thật ra không có Thể, chỉ dựa vào cái khác mà có, đó là nói vì sao nói là Giả vậy. Như sách Chỉ Quán nói: “Giả là không có chủ mà được sinh ra” là nghóa đó vậy. Lại nói Hư và Thật cùng so sánh nhau đó là giải thích Hư và Thật. Nhưng nói: Chỉ Thật mà là Hư là kết hợp nói tóm kết theo cái chung nên nêu ra như vậy. Chỉ vì Thật Hư đó nên Thật vì thế là Huyễn, do huyễn nên thành nghóa chung. Trong ba thứ Giả, mỗi thứ đều có ba quán, dựa theo phần nói riêng ở trên căn cứ theo ba quán mà nêu giảng. Câu Pháp giả tức là Hư: nghóa là Pháp vì Hư (giả dối) nên không thật; do không thật nên là rỗng không. Đó là không quán. Không tức là Giả. Thật là đối với Giả mà gọi tên là Thật. Thật mà chẳng phải thật nên nơi chốn của Thật tức là Không. Một sắc, một hương vốn đang ở Giả vì Thể Không nên không có gì không phải là Bát-nhã. Vì tức Lý cho nên Không chỉ là Giả. Tức là Giả quán. Câu Chữ Quán là Trung chỉ trung với có cái Thể của phi không phi giả và có cái Dụng của năng Không, năng Giả. Vì vậy, Không và Giả là phương tiện để đi vào nẻo Trung đạo nhờ trung nên các biên bị mất, vì thế hai biên chỉ có tên gọi, mà không gọi là quán. Vì trung thật nên mới được nói như thế. Đây là đều căn cứ vào Pháp giả để biện minh. Hai quán tiếp theo giống như thế, suy ra có thể hiểu v.v… Nếu dựa theo ba thứ giả, biện minh về Viên quán thì Viên là tròn đầy, trọn vẹn không có riêng biệt, Viên quán chỉ dựa vào thứ tự lần lượt hòa tang quy về nơi một tâm tức là Không, Giả, trung. Tự nhiên mất đi, tự nhiên soi chiếu, thế là chứng đắc. Từ câu “Trí Luận” tiếp xuống là dẫn Luận giải thích xác nhận. Đây chia làm ba phần: 1. Xác lập. 2. Dụ. 3. Kết hợp. Như Thí dụ con chó đến miệng giếng. Về ý có thể nhận biết. Chữ “Sất” ( ) nghóa là la, kêu, nên làm chữ Phệ ( ) nghóa là sủa cắn. Chữ “Tương ảnh” e là phải đảo ngược lại thành “Ảnh tướng”. Từ câu “Chúng sinh cũng vậy” tiếp xuống là phần kết hợp. Vẫn bao gồm ba nghóa Pháp giả v.v.. Như văn nói và.v… Lại tất cả pháp chỉ từ danh tự hòa hợp mà đặt tên là Thân v.v… lại không có tên khác tức là không có tên riêng biệt. Cùng nêu chữ Pháp ấy gọi là Không có pháp riêng biệt trong Tam giới, chỉ là một tên gọi Giả. Các pháp đều tức là Sự là Danh là Phần v.v… có thể biết. Từ câu “Ba Không” tiếp xuống là tán thánh về đức của Tam muội: Nhờ Giả mà thấu đạt Không, nên tiếp đến là tán thán ba Không; cũng là Người Quả thứ tự nêu ra. Nghóa là vì Pháp giả nên Không v.v… đối nghóa có thể nhận biết được v.v… Từ câu: “Cho nên, Đại Luận nói” tiếp xuống: Là dẫn Luận nói rõ về ba mươi bảy phẩm trợ đạo là cửa ngỏ đi đến Niết-bàn. Tức Đạo phẩm là chủ thể đi đến; đi đến cái cửa Niết-bàn là đối tượng được đi đến. Lại cửa Niết-bàn có ba thứ tức là ba Không. Đây lại là cửa để đi đến Niết-bàn, nên phải lập thành nghóa của hai lớp cửa (Môn). Nghóa là lớp cửa bên ngoài tức Đạo phẩm: lớp cửa bên trong tức ba loại Không. Đây tức là ba đức Đại tịch diệt an lạc của Như Lai vững chắc, sâu thẳm lại càng sâu xa hơn nữa. Từ câu: “Không môn” tiếp xuống là lặp lại giải thích. Nghóa là quán các pháp Vô ngã, những gì thuộc về Ngã thí quán trừ bỏ. Nó che lấp: Từ người duyên hòa hợp mà có, tức là hiểu rõ pháp, duyên, chủ với nơi chốn của chúng tức là rỗng không. Không có tạo tác, thọ nhận thì xứng với gốc nơi tự nó vốn là rỗng không. Do ba nghóa đó nên gọi là cửa Không (Không môn). Vô tướng môn. Nghóa là tuy quán thân là rỗng không - tức lãnh hội được không môn ở trên nhưng tướng Có tồn tại, vì để đối trị vướng chấp vào tướng nên dùng môn tu Vô tướng. Như hành động co, duỗi, ngẩng lên, cúi xuống đều gọi đó là tướng. Nhưng tướng vốn có, thật mà chuyển động là nhờ gió, gió đưa vào Thức thì có hành động. Nếu Thức mất đi thì niệm niệm Không có vì thế cái gì gọi là có nơi tướng ư! Không có tường thì không có ngã, mà thấy có tướng nam nữ v.v… tức là có ngã, là tâm hiện tại Không có trí tuệ. Vì thế, Vọng còn thấy có tướng bộ xương liền lạc, duy trì; đó gọi là da, xương, che đậy các cơ quan động ác như tượng gỗ người máy mà thôi. Vô tác môn; Phàm những gì tạo tác đều cùng nương tựa vào tướng Không có (vô tướng), tướng Không có cũng không thì tạo tác sao có? Cho nên nói: Vô tướng cũng không có, gọi là Vô tác. Ba môn Không này là mấu chốc quyết định trong các Thiền, nếu không có định này thì không gọi là Tam-muội, rất dễ thoái lui. Nói: “Chỉ có ba loại khiến người đến được Niết-bàn: Đó là người trì giới, quán Không và tinh tấn. Có đủ ba loại này tức đã có Tư tuệ hơn phân nữa ba mươi bảy phẩm. Do nhờ môn đầu nên được ba Giải thoát, thì môn thứ hai theo đó mà được xác lập, và cách tạng Bí mật chẳng còn xa. Từ câu “Bốn đế, mười hai người duyên” tiếp xuống: Tổng kết tán thánh. Phần này có thể biết. Nếu dùng Đế, Duyên tự chia làm hai khoa, e rằng phiền phức, trùng lắp. Huống chi phần văn tán thán Duyên Giác ở sau cũng có. Nay thì giải thích bằng cách nêu bày, phân thích. Tuy nhiên, Đế, Duyên, Độ v.v… vì Tạng giáo thì lợi căn, độn căn đều tuân theo tu tập, nên có khác nhau, về chia ra và kết hợp. Nay là thừa của Thông giáo nên được hội tụ lại làm một, thì có giống có riêng biệt. Như sớ nói v.v… Lại nói người độn căn quán nơi bốn đế v.v…” tiếp xuống là bao gồm cả Người duyên phía sau, người lợi căn, độn căn đều quán, nên có chung có riêng. Thứ đến nêu ra Đại Kinh đều chung cho bốn giáo. Tức là theo văn sử dụng không thể suy lường đồng nhất với nghóa. Hai là: Liệt kê chúng Duyên Giác: Nói Duyên Giác đại Tiên là nêu ra quả vị có ba: Độc giác đẳng: Gốc là liệt kê Duyên giác mà dùng chữ Đại Tiên nói là sao? Tức đó là dùng ngoài so sánh với trong. Chọn lấy sự tỏ ngộ của họ giống nhau, nên được dùng tên Đại tiên để gọi. Người Duyên Giác: Tức Kinh nay liệt kệ gọi là chúng Đồng Văn (cùng ngồi trong Hội nghe Phật thuyết). Tuy ra đời có Phật, nhưng họ một mình tỏ ngộ Vô sinh, nên đâu có khác gì Duyên giác? Nói “Chẳng phải đoạn, chẳng phải thường” là giải thích bao gồm theo ba nghóa. Thông hợp mà nói: Vì Duyên sinh nên chẳng phải đoạn, vì Duyên diệt nên chẳng phải thường. Chẳng phải đoạn, chẳng phải thường là chổ tán thán cái đức tận cùng. Tiểu Bích chi Phật: Cũng gọi là Độc Giác. Giữa hai loại này có đồng có khác. Đồng là cùng ra đời mà không có Phật - khác là do căn có lớn nhỏ nên khác. Lớn thì không hạn chế quả nên chỉ Vô học. Đây vẫn là trụ ở Người vẫn còn Hữu học. Bích chi Phật căn tính khó lường, không dễ biện minh, nên tóm lược ý chính như đây v.v… Phân biệt, chọn lọc làm hai lớp: Đầu tiên là hỏi, bao gồm hai ý: Hỏi: Ba Thừa nêu một hướng hoàn toàn khác nhau thì không nên hai nơi đều nêu rõ Đế, Duyên. Tiếp đến ý thứ hai: Liệt kê chúng Bồ-tát vẫn gọi là A-la-hán, nếu một hướng hoàn toàn giống nhau thì ba Thừa vì sao riêng biệt? Đáp: Vì trên một cảnh giới, chọn lấy sự tỏ ngộ thì tự nó có sai khác. Nghóa là chung căn cứ vào Đế Duyên giác vốn đồng một cảnh nhưng tùy theo căn cơ hiểu khác, nên chọn lấy việc tỏ ngộ không giống nhau. Vì thế có thí dụ ba thú cùng vượt qua sông v.v… Câu: “Vì vậy, Đại Kinh” tiếp xuống là nêu dẫn quán đồng, chứng ngộ khác biệt. Vì cảnh đồng nên chung quán người duyên, vì chứng ngộ riêng khác nên đắc quả Bồ-đề có khác. Cũng phải nêu ra thêm về bốn loại bốn Đế. Như trên đã nói v.v… Câu “Bởi do” tiếp xuống là tóm kết ý trả lời, có thể nhận biết. Lớp thứ hai ý hỏi Đại Tiên-Duyên-giác vốn ra đời, không có Phật tại thế gian, nay tại sao nêu bày là có mặt trong chúng Đồng Văn? Vì cho rằng Kinh Không có tên gọi Độc giác nên chung dùng Duyên giác để hỏi như trên. Đáp: Duyên giác cũng có khi ra đời, có Phật tại thế, nhưng thuộc về trong số Thanh văn. Nay nói Duyên giác ra đời, không có Phật tại thế, là căn cứ ở Độc giác mà nói như thế. Phần liệt kê chúng Bồ-tát gồm có năm như phiên dịch danh, nghóa v.v… Người có tâm đạo lớn (đại đạo tâm) là cách nói hiện nay. Tức là Thật trí, Phương tiện trí, các công đức đều thành tựu. Đại só còn gọi là Khai só. Là người có khả năng đảm nhận, duy trì việc lớn, khai mở thông suốt con đường chánh pháp. Căn cứ trong Giáo nói là người có tâm hơn trội, đạo thấp kém là nơi Bồ-tát trước vì mọi người sau mới vì mình, gắng siêng làm vì mọi người nên trội hơn hàng Thanh văn. Đây tương đương Tạng giáo trãi qua tu tập ba A-tăng kỳ hàng, trăm kiếp, chẳng màng đến việc đoạn trừ hoặc, nên lại kém hơn hàng A-la- hán. Thông giáo tuy khác Tạng giáo nhưng về mặt giáo pháp thì không biến đổi, tạo lập. Cho nên nói tập khí còn lưu lại. Tập khí như thói quen Không thể riêng một mình sinh ra, nên nói có Nguyện phù trợ. Vì thế nên nói là khác. Bồ-tát Thập địa hành hóa viên mãn nên biết như là Phật: Vì Địa thứ mười cũng gọi là Bồ-tát nên được gọi là như Phật. Nghóa là ngang bằng với Phật của giáo hiện tại. Nói “Chẳng phải thành, chẳng phải chẳng thành” Nghóa là dùng tâm vô tác quán cảnh bất nhị, thì các hành vô tác nên gọi là chẳng phải thành. Một niệm chứng ngộ trọn vẹn nên nói chẳng phải chẳng thành. Câu: “Nay đây” tiếp cuống: Là tóm kết phần trước đã nêu bày nghóa của Bồ-tát. Nay đây chính là tương đương môm đầu tiên của giáo pháp Đại Thừa. Tức là những người cùng tu hành trong mười Điạ và đến địa thứ tám được có nghóa của gồm cả Thông, hàm chứa Biệt. Vì chính là gồm cả, tiếp theo nên nói là bí mật gồm cả, Không phải là nghóa mật của hiển mật. Nếu căn cứ theo Đại Phẩm nói ba loại phát tâm thì lại tương ưng thông hợp với nghóa của mỗi giáo được nêu bày trong ba giáo (Tạng, Thông, Biệt). Hai thuyết trên đều được. Nói đều là A-la-hán tức biện minh cho quả vị Bồ-tát. Bồ-tát trải qua ba a-tăng kỳ chưa đoạn Hoặc hết, không gọi là A-la-hán. Đạt đến quả mới được gọi là A-la-hán. Lại Kinh Bản Hạnh nói, văn có hai ý: 1.Căn cứ vào Bồ-tát đạt đến quả mà gọi tên. 2. Căn cứ Như Lai chính vì thiết lập sự hóa độ cho Tiểu thừa, thường luôn hạ mình giống nhau mà ấn chứng. Cho nên nói vậy. cho đến hai vị sau, vễ tính chất sẽ phế bỏ, che trách. Đâu thể đều là có? Về Bồ-tát thuộc ba giáo, căn cứ sự so sánh của quả vị như văn nêu ra. Lại dẫn văn Đại phẩm chứng minh: Nghóa là Bồ-tát ấy lập riêng tên gọi là Nhẫn. Đó, ý cũng là chê, khen Bồ-tát dẫn dắt hai Thừa tiến lên. Song, trước ở phần Thanh văn nói rõ đều là A-la-hán, không có ngăn cách Học và Vô học, nay ở Bồ-tát có thu vào, có chọn lọc đây là ý gì? Trong phần đáp cho rằng hình tướng Bồ-tát không có chuẩn nhất định để giải thích. Nay cho rằng đó là cách nói vững chắc nhất, nhưng không thể không có ý khác. Nghóa là trước căn cứ vào Thanh văn chỉ là Học, Vô học thì tiến lên từ Hữu học cho đến Vô học, nên đều gọi là A-la-hán. Nay biện minh Bồ-tát đã tiếp cận Biệt, Viên thì có các quả vị sau có thể đối chiếu. Căn cứ vào chân thật, tương tợ đối nhau mà luận về nghóa thu vào hay chọn lọc. Sớ không nói tức là lược bỏ. Từ câu “Hỏi: Nếu” tiếp xuống: Là giải thích lý do biện minh lần nữa. Nghóa là nay nói rõ hình tướng, sắc phục của Bồ-tát đã là chung, hoặc đồng là phàm phu, Tiểu thừa nên không tránh khỏi lẫn lộn. Vì thế nên biện minh lần nữa tức là biết có sự tiến, thoái hiện hữu. Nghóa là người quý trọng Tiểu thừa thì khiến cho biết công đức của Đại, Tiểu thừa là bằng nhau, cho nên tiến đến Tiểu thừa. Người chấp lấy danh tướng, làm cho tỏ ngộ đạo phàm, Thánh rất cách nhau, cho nên thoái lui phàm phu. Vì thế, biện minh lần nữa. Tiếp đến nêu ra ý khác. Từ câu “Thật trí công đức” tiếp xuống gồm có mười một ý phân biệt. Đầu tiên tán thán về đức của Trí. Có Thật trí, có Phương tiện trí. Thật trí soi chiếu Không tức là Thễ của Bát- nhã-Phương tiện trí soi chiếu là Dụng của Bát-nhã. Như Kinh Duy Ma có nói bốn luận chứng (tứ cú) về Thật tuệ, Phương tiện, trói buộc, giải thoát, gần như ý phần này. Câu “Hướng là biện minh về quả vị” tiếp xuống. Là lần nữa nêu ra lý do tán thán công đức chung riêng. Nay căn cứ Thông giáo cho địa thứ bảy, tám là đối với hai trí. Tức là địa thứ bảy vị Vô sanh Nhẫn nên tương đương Thật trí; vượt qua đây tức là Quyền trí. Không căn cứ vào nghóa gồm cả, tiếp theo thì còn là nghóa gì ư? Nói “Chỉ riêng một mình thực hành Đại Thừa” là tán thánh cho rằng chỉ có riêng Bồ-tát là được nương theo pháp Đại Thừa. Nhị thừa không có phần nên nói “Chỉ riêng một mình” Tán thán Bốn loại Nhãn (mắt)” Đầy đủ phải là năm Nhãn, nhưng có khác nhau của sự tiến triển tu tập hay không tiến triển. Như Bồ-tát tu hành ở Người, quả vị chưa trọn vẹn, thì chỉ có bốn Nhãn. Chưa đến quả vị tột cùng nên không có Phật nhãn. Tuy nhiên, nếu cho là nghóa như Phật mà suy luận, nói chung cũng nên gồm đủ năm Nhãn. Nếu là sơ tâm của Viên Đốn thì tuy là Nhục nhãn nhưng vì tỏ ngộ thù thắng nên cũng gọi là Phật nhãn. Nay đối với Thập Tín mà nói thì lại dùng sự chứng ngộ, tiến triển tương tợ như vậy. Tiếp tán thán về Thông (Thần thông) dựa theo phần nói Nhãn ở trên mà suy luận. Nhưng có năm Thông, chỉ kém ở quả tột cùng không đạt đến sáu Thông. Còn lại suy xét như phần nói về Nhãn v.v… Nói “Ba Đạt” tiếp xuống là trong sáu Thông, thấu suốt rõ về ba đời, gọi đó là Ba Minh. Văn viết lầm một chữ “Lai”. Nói Thập Lực: Đầy đủ như trong Trí Luận. Trong đó, có lực “Không chán sinh tử” là lực duy nhất bao gồm chín lực còn lại. Lực đó nhấn mạnh bởi vì vô ngã, ở trong sinh tử mà không chán mỏi, thì còn lực gì lớn hơn? Nhị thừa không có lực này nêu không tránh khỏi sự sợ hãi, mà cầu lìa ra khỏi sinh tử. Nói bốn tâm Vô lượng: Là duyên với tâm rộng lớn nên gọi là vô lượng. Vốn là Phạm hạnh, nay tán thán Bồ-tát, thì cũng là đức của Bồ-tát. Ví như đủ ba tâm trước mà chưa có thể xả bỏ thì chưa là thiện (khéo), chỉ có thể người kia đã không còn chấp trước thì việc hành hóa của họ mới đến mức tột cùng. Vì thế chú giải v.v… Nói “Các danh nghóa của Pháp tướng khác” tức gọi là Pháp giới… lần lượt có thể biết. Nói “Các danh nghóa của Pháp tướng khác” tức gọi là Pháp giới,… lần lượt có thể biết. Nói Kim Cương diệt định: Tán thán Đạo đức. Đối với các phân tích trước thì đều thuộc Trí. Tức là hai thứ Trí đức, đức. Trí là dùng trí tuệ đoạn trừ Hoặc. Đoạn là nhờ việc đoạn Hoặc mà lãnh hội chứng ngộ. Nói Vô ngại đạo đoạn là thuộc Trí đức. Nói Giải thoát đạo chứng là thuộc Đoạn đức. Lại nói: Trí đức là thật có cái đoạn của việc đoạn trừ. Tức cho rằng Trí thì phải thật có đối tượng bị đoạn. Còn Đoạn đức là không đoạn mà đoạn. Tức là không đoạn, do đã đoạn rồi ắt có chứng, cũng là do đoạn nên chứng. Lý này thật khó biện minh. Lại chữ Đoạn còn nói là Đoán (quyết đoán) nhưng nghóa không nối tiếp nhau thì là chữ Đoạn, tức nghóa đoạn trừ. Nói “Cũng là sự giác ngộ viên mãn không có chủ thể, đối tượng có thể đắc, đó là đầu tiên đã đoạn, nên không có chủ thể đoạn, do đó ví dụ Kim Cương. Định là khả năng phá tan phiền não là Kiện tướng. Nghóa là tánh của tự nó dõng mãnh, mạnh mẽ chuyên có thể hàng phục ma, ngăn cản địch. “Lại có ngàn muôn ức” tiếp xuống, là phần thứ ba liệt kê chúng đủ loại (Tạp) Gồm có bốn: 1.Người. 2.Quan. 3.Trời. 4.Bậc Hiền. Phân ra khoa phiên dịch có thể nhận biết. Chúng Hiền thì văn lầm làm làm chúng người. Chính giải thích năm giới: Là lìa sát, đạo, dẫn v.v… Chỉ nói đề phòng thân khẩu mà không nói ý nghiệp. Nêu ra ngọn có thể biết gốc. Một giới “Uống rượu” là phòng chung cho hai nghiệp, tức lược bỏ ý không nói. Đối với trên nói như vậy tức cũng như nghóa giải thích ở trên thì đây tương đương Người thừa, chưa luận đến nghóa lớn nhỏ ngăn phòng, không ngăn phòng. Nếu tách rời ra đối với Thập Thiện tức là Thiên thừa. Người dẫn văn nói Đề vị, Ba lợi: Tức Phật mới thành đạo chưa chuyển pháp luân, người tiện vì hai người phù hợp nếp sống cũ, nên vì nói pháp năm giới. Vì thế, có văn hỏi đáp hiện nay. Đầy đủ biện minh về năm giới, không là bốn, không là sáu mà rộng lớn bao quát không thiếu sót. Tức là có năm vì sao. Cùng tám việc, mỗi mỗi chử đối một việc v.v… Câu “Cho rằng không sát sinh” tiếp xuống là dùng năm giới phối hợp năm phương Tức không sát sinh là phương Đông thuộc Mộc. Mộc chủ lòng Người, Người lấy sự nuôi dưỡng sinh mạng làm gốc, nên phối hợp với giới, không sát. Các giới còn lại phối hợp tương tự với các phương v.v… như văn v.v… Nếu căn cứ vào giáo Viên đốn thì ý chỉ sâu xa nơi trì phạm không gì không phải là Viên thừa. Đầy đủ như số Quang Minh đã giải thích v.v… Tuy nhiên, khi nói Kinh này vào lúc đầu tiên mà không phải giáo pháp ban đầu, do chưa có đủ Tam bảo nên không phải là gốc của giáo pháp xuất thế. Nói cũng như thiết lập Tiểu thừa gồm cả thu về, thu nhiếp bên cạnh thì có thể được. Người xưa không hiểu rõ nên lập giáo đầu tiên là Người thừa, Thiên thừa, dẫn đến bị đả phá bởi bảy nghóa của các Luận giả đời nay. Đầy đủ nói rõ trong Huyền văn, cũng như trong chương riêng đã nói v.v… Gần bậc Thánh gọi là Hiền. Lại nói giả gọi là người tu hành. Nghóa là thường thì Hiền Thánh đối nhau để giải thích nên nói là gần bậc Thánh. Theo Tích mà nói, mới chỉ tương đương tiếp cận sự tu tập (cận sự) còn chưa được là người trong sự tu tập hành Quán. Vì thế giả tên gọi như thế, cũng như là Danh tự. Câu: “Đều là bậc A-la-hán hành hóa vì đây đứng đầu” tiếp xuống là pháp của hàng Vô học nơi Hành; Vị. Và Thập địa v.v… đều tu tập. Vì thế! Biết Tích tuy đồng là phàm phu, mà Bổn đều là A-la-hán và Bồ- tát. Nếu bình phẩm về lượng có hơn kém thì chẳng dễ dàng, chủ yếu chỉ là cùng tham dự trong hội của Phật mà nghe pháp. Nếu xét về bản Tích thì càng chẳng thể nghó bàn vậy. Câu “Thập địa có ba loại” tiếp xuống: Đều có các kinh, Luận nói đến nhưng chẳng giống nhau. Nhưng nếu tự chẳng phải xuất phát từ một ý chỉ sâu xa của các nhà chú giải kinh, Luận giới hạn lại để phân biệt thì ai có thể biện minh được sự diệu dụng và sâu cạn của mười Địa ư! Nói ba loại nghóa là: Loại thứ nhất là ba Thừa cùng tu hành mười Địa. Đây thuận hợp với quả vị của Thông Giáo, như thông thường nêu bày giải thích. Loại thứ hai như Đại Luận nói rõ Càn-tuệ-địa có hai thứ: Một là Càn-tuệ-địa của Thanh văn như ba Thừa cùng tu hành đã nói ở trên. Đây thì công đức quả vị, hành hoa hoàn toàn giống như Tam Tạng giáo, vì thế nói là Thanh văn. Chỉ riêng mình nhập Niết-bàn, với sự tu tập hành hóa đều vì tự độ bản thân, nên quả vị ở Thông Biệt. Hoặc tu tập quán Phật Tam muội làm chánh quán, quán bất tịnh v.v… làm trợ quán, nhưng đều là mới phát tâm, tu hành còn nông cạn, chưa đạt được nước lý của Thiền định. Mặc dù có trí tuệ ít nhưng chưa thể tương ưng nên gọi là Càn-tuệ-địa. Câu “Nói về Bồ-tát” tiếp xuống là nói Càn-tuệ-địa của Bồ-tát trong mười Địa (thứ hai). Tức văn nói về Bồ-tát. Từ sơ phát tâm cho đến chưa đạt được thuận Nhẫn là nói riêng biệt, tức là đồng với Thập Tín vị ngoại phàm. Hai loại dưới đều là nói quả vị Thông Biệt, đối văn có thể thấy. Nói “Cho đến Bồ-tát địa” là từ bắt đầu Hoan Hỷ địa đến Pháp Vân địa đều gọi là Bồ-tát. Đây là mượn cái riêng đặt tên cho cái chung (địa) vì thế mà nói Bồ-tát địa. Lập riêng tên gọi Nhẫn, nên gốc tương đương quả vị riêng. Mà mượn cái riêng để gọi chung là Địa. Vì các Bồ- tát đều có đức Nhẫn thù thắng hơn Nhị thừa, đó cũng là ý của pháp môn Đại Thừa rèn luyện cho Nhị thừa. Nếu khiến cho không dùng quả vị gọi tên, thì hòa trộn với nhau chẳng thể biện luận. Ngoài ra như trong văn Chỉ Quán. Huyền nghóa đã nói. Vì thế, nghóa “Mượn” của nhà chú giải là đều có ý chỉ sâu xa đó vậy! Nói Phật địa v.v… cũng là do các Bồ-tát trước đây trong Người tu hành công đức tự tha đã đầy đủ, khi đạt được quả thành tựu Chủng trí, nên được gọi tên là Phật địa. Nếu Thập địa của Biệt giáo, Viên giáo thì trước sau vốn chỉ là Bồ-tát, không cùng chung với hàng Nhị thừa, quả vị hẳn nhiên rõ ràng không cần mượn đặt tên. Nhưng nêu căn cứ riêng từng quả vị để luận, thì vẫn còn các giáo đạo riêng. Cho nên nói là có bước ngăn cách. Chỉ có sự chứng đắc viên mãn, thì đạo mới hoàn toàn viên dung. Chú giải v.v… là dùng giải thích riêng v.v… Lại nói: Hồi hướng năm phần Pháp thân: Nếu luận về Hồi hướng thì gốc tương đương với hàng trước Địa (Địa tiên). Nay liệt kê ngược lại để nó phía sau, vì tán thán Hồi hướng nghóa là: Sớ căn cứ vào sự tiếp theo riêng để trình bày, khiến cho Không vướng chấp vào Không, khiến trở về trung đạo, tức là nghóa Hồi hướng. Câu “Đầy đủ” tiếp xuống: Là đối trị với trước nghiên về Chân (Thiên Chân), nên năm phần pháp thân chưa đủ, nay đã làm đầy đủ nên nói vậy. Năm phần không ngoài ba Thân. Nghóa là bốn phần công đức trước (Giới, Định, Tuệ, Giải thoát) là Đức thân; tri kiến là trí thân. Vì là cùng trang nghiêm tánh đức nên là Pháp thân. Tức rõ ràng ba thân vốn đủ. Nói “Hồi hướng là thiện lợi”: Nay tóm hai nghóa: Tức là hồi tự hướng tha, hồi người hướng quả. Quả ắt đến tột cùng thì hồi Sự hướng Lý, nghóa tự nhiên bao gồm. Về tán thán nam, nữ có tín tâm cũng có đủ công đức của mười Địa, phần này bắt đầu chia mười Địa nơi ba đời để nói. Tức chẳng ngoài trước, giữa và sau trải qua mười địa phối chung thành ba mươi đời (sinh). Đó gọi là tăng đạo tổn giảm sinh, cùng với phàm phu, một địa đầy đủ các công đức. Lại nói Sơ địa không biết Nhị địa oai nghi hành hóa, cho đến chỗ nay nói là khéo ra, vào, trụ v.v… nghóa chẳng là một huớng. Thế mới biết pháp môn Viên đốn, không thể nói hết được lý của nó. Trong phần ngợi khen đức hạnh của cư só, nói bảy Hiền có hai loại: Đều như văn sớ nói. Song, các hàng trước Địa với sở tu hiện có, đều là điều phục tâm, thuận theo đạo, nếu tâm không đều phục, thì không thể thuận theo đạo, tức không có cơ sở được bước vào hàng Thánh. Về danh tướng của bảy Hiền thuộc Đại Thừa, hơi có khác biệt. Nhưng đây chưa tập hợp để nêu ra. Người nước ngoài (ngoài Ấn độ) nói cất chứa của cải đến muôn gọi là Cư só. Kinh Tịnh Danh nói người giàu có bảy tịnh tài. Hai nghóa hoàn toàn cách xa. Nay thấy người đời lạm dụng tên gọi này rất nhiều! Người đức hạnh đầy đủ: Đức tức là hạnh, cũng xác lập là hành của đức. Câu: “Nay tạm theo giải thích nghóa đầu cũng được”. Câu này là tổng. Tiếp xuống dưới câu “Các công đức” là biệt. Nghóa là hai mươi hai phẩm chung nói gồm tám khoa Đạo phẩm có bốn v.v… Chỉ đối với một loại vị, trừ bảy giác chi, tám Thánh đạo thuộc về Kiến đạo, các phẩm còn lại ở trước, nên chỉ thành hai mươi hai. Mười Nhất thiết Nhập v.v… Các phân biệt về danh tướng, đầy đủ như quyền Pháp giới thứ đệ nói v.v… Hỏi: Tám giải thoát là có quán có chứng, nay ở vị Hiền có quán mà chưa chứng đắc, sao cứ tán thán? Đáp: Bảy Hiền trước thuận theo quán, mặc dù chưa chứng đắc nhưng từ lượng nhiều mà nói. Lại hỏi: Giải thoát là nghóa gì? Đáp: là nghóa vất bỏ lại sau lưng (Bối xả). Đầu tiên bỏ sắc, vô sắc; bỏ tâm, vô tâm, tâm sắc đều bỏ, cuối cùng ở diệt tận chỉ có duyên tâm, cùng phải bỏ đi. Tiếc cho giáo lý Tiểu thừa chỉ là vậy thôi! Mà phải đến tất cả cái “Không có” có thể bỏ, người bỏ là cái gì, tất cả chủ thể, đối tượng đều bặt dứt, không có pháp nào phù hợp, chắc chắn không phải Tiểu thừa có thể đạt đến được. Lại hỏi: Ba xứ Biến v.v… tại sao riêng biệt? Đáp: Vì Kiến có đối tượng được bỏ, tức đối tượng được bỏ ấy là giải thoát. Nhưng Kiến có tất cả cảnh giới thù thắng, tức chủ thể thù thắng là nơi chốn thù thắng. Không chỉ có thể thù thắng mà còn có thể rộng lớn, tất cả xứ chỉ do tâm biến hiện, không gì không phải là màu xanh v.v… Đó là cảnh giới đâu có gì bằng, thế thì sao không dùng nghóa Thắng mà làm nghóa Thánh ư? Chẳng qua gọi là Thánh thì khéo, tốt hơn. Nói ba Tuệ: Nghóa là từ Văn, Tư, Tu thứ tự tăng tiến, là bước dần tiến vào Đạo, mà thảy đều có thể phát sinh trí tuệ, cho nên được đặt tên chung là Tuệ. Vì tiếp theo đối với quả vị có thể biết. Cùng với việc Văn, tư, tu nhập Tam ma địa của Bồ-tát Quán Âm là: Tức giải thích nghóa khác v.v… Nói bốn đế, mười sáu đế v.v… là dựa vào đế, môn quán mà tán thán, có chung, có riêng. Nghóa là pháp người quả thế gian, xuất thế gian, nói chung là bốn tức Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Nói riêng là bốn đế phân làm bốn loại: Sinh diệt, Vô sinh, Vô lượng, Vô tác thành mười sáu. Căn cứ trong Chân đế thì luận bàn đều có rộng hẹp. Là duy nhất, thẩm tra suy xét về nghóa thật gọi là Đế. Nếu dựa theo đó phân biệt ra, thì không thể nói hết lý. Nay dựa theo Sớ đã giải thích. Nghóa là trong quả vị Nhẫn có sự sai khác về quán khắp trong các phẩm thượng trung hạ v.v… gồm có mười sáu hành nơi Đế. Nói từ Hành tức gọi là Quán môn Từ cảnh đối tượng quán thì gọi là Đế môn. Đều chỉ rõ như trên đã nói v.v… Bốn, ba, hai, một phẩm quán, là không ngoài dùng bốn thiện căn, khen ngợi đức hạnh của Cư só. Từ Noãn đến Thế đệ nhất mà có khác nhau của nghịch số, thuận trừ. Nghịch số là từ phần trước trước bồi đắp cho phần sau sau. Thuận trừ là từ phần sau sau giảm đi phần trước trước. Như văn có thể biết. Hoặc dựa theo bốn quả từ sau hướng về trước nhưng không Phải ý trong số này. Vì thế, thuận theo cách giải thích trước được chín mươi Nhẫn. Nghóa là xưa nói gồm có ba cách giải thích, nay đều không dùng, chỉ chọn lấy phần chính nơi Kinh mà làm văn kết riêng. Câu “Từ hai mươi hai phẩm” tiếp xuống là tướng của các pháp chung thành tám mươi mốt số, gồm cả chín của Tứ thiên v.v… vừa văn là chín mươi Người. Rõ ràng có văn nói rõ về nghóa số lượng đâu cần nơi khác nói. Đã nói là phương pháp điều phục tâm, thì có một pháp nào không là Nhẫn ư! Trong phần liệt kê số các Trời nói cho đến số vạn vạn, tức là ức. Ngoài ra ba bản khác nhau, chỉ là bất đồng trên phương diện chia ra, hợp lại, chung, riêng, đầy đủ, tóm lược mà thôi. Đối chứng có thể biết. Năm là Hỷ lạc Thiên: Văn bao gồm hai thuyết. Nghóa là năm chi tức các chi công đức nơi Tứ thiền phát sinh, chẳng liên quan đến số các trời. Nếu nói Ngũ Tịnh sau thì tức là trời Ngũ NA-hàm. Nhưng nói Hỷ lạc cũng là nghóa nói như vậy, tức đây là Thánh quả thứ ba (A-na- hàm) Phân tán dấu vết ở các Trời, vốn không có phượng sở nhất định. Như trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: Như thế gian hiện tại, các nơi chốn Thánh địa, đạo tràng núi sâu, đồng trống đều là trú xứ của các vị A-la-hán. Cho nên người trí tuệ thấp kém ở đời không thể hiểu được. Tiếp theo liệt kê thêm về Tứ thiền, đều dựa vào Luận Câu Xá nói v.v… Nói định của Trời, định của công đức v.v… như giải thích chi tiết ở Sớ, tức hai nghóa Tu và Báo. Vị nghóa là tham đắm Thiền định. Chỉ ở trên Căn bản định mới có sự tham đắm này. Nếu ở thiền không đắm chấp thì gọi là Tịnh thiền. Như sáu hành quán, tám Thánh chủng v.v… Nói có năm dục nhỏ: Nghóa là như nắm tay, cười, nhìn nhau v.v.v… nếu nói Lục dục là nói thuộc nơi chốn (Trời Lục dục). Bốn Tín thành tựu: Tín Tam bảo và Giới. Đây là bốn niềm tin không hoại mất, cũng gọi là Tịnh tín. Câu “Lại có năm đạo” tiếp xuống là liệt kê chung. Trong đây hoặc chỉ nêu Trời, người tức là đối tượng có khả năng tiếp nhận đạo pháp: Hoặc nói chung năm đạo thì hoại trừ A-tu-la vì vừa quỷ súc sinh không có hình tướng xác định. Nếu nói ba thiện ba ác và bốn nẽo thì số sáu đạo đầy đủ v.v… lại trong sáu đạo, nói trước sau tức là: Trước có trời, người và ba ác kế tiếp. A-tu-la thì hoặc có hoặc không có nên trước sau không xác định. Hoặc Không có chủng tử người duyên đối với Kinh này, nên không có trong số chúng liệt kê. Liệt kê chúng ở phương khác: Nói nơi chốn khác, thấy khác nhau nghóa là ở hội chúng tha phương mà thấy có khác nhau. Hoặc tuy thấy có đi lại mà không có vết tích đi lại. Hoặc thấy chúng kia không rời tòa, mà đi đến cõi này, thành tựu sự giáo hóa v.v… đây đều là tùy duyên thấy khác. Tóm lại làm rõ sự không khác là biến hóa vậy. Lại có biến tịnh độ ở mười phương:” Tức là biến bhư sự biến hiện ba lần thành cõi tịnh ở trong Kinh Pháp Hoa nói. Tiếp đến các tướng thanh tịnh được bày hiện, tuy không có phân biệt nhưng luôn căn cứ nới sự. Vả lại, từ sự thị hiện cõi Thật báo để nói cho nên nêu là: “Chẳng phải sự thanh tịnh của cõi Tịnh quang. Bởi lẽ, tướng thanh tịnh của cõi Tịch quang, chỉ có bậc trí tuệ tột cùng thấy được, không phải các chúng được giáo hóa, và các địa thấp khác có thể nhìn thấy. Lại nói: Hiện ra trăm ức tòa cao: Đó là tướng ứng hiện của Hoa Nghiêm. Nói cho đến trên đài hoa: Là có trăm ngàn ức hóa thân ngồi dưới cây Bồ-đề. Đó thật ra đều là cảnh giới Hoa Tạng bất động, bất ly mà lên cung Trời, du hành giáo hóa khắp nơi. Cho nên nói v.v… Nói tám bộ đại chúng, mỗi mỗi đều ngồi trên hoa báu. Là tổng nêu việc giáo hóa của Chủ. Bạn chẳng thể nghó bàn. Phật và Đại chúng đều nói Bát-nhã: Nghóa là vì Bát-nhã có hai loại: Cộng và Bất cộng. Cộng như Kinh này, Bất cộng như Kinh Hoa Nghiêm. Mặc dù có Cộng và bất cộng khác nhau nhưng đều là Bát-nhã. Đã đều là Bát-nhã thì không gì không phải là Hoa nghiêm. Vì vậy biết sự giáo hóa của Phật là dung thông từ đầu không có đây, kia. Vì người tự sinh ra kiến giải khác mà thấy khác đó thôi. Trong phần này Sớ nêu ra tám bộ, cho rằng bốn Thiên vương mỗi vị thống lãnh hai chúng làm thành tám bộ, nhưng các Kinh lại cho rằng trời, Rồng v.v… làm tám bộ. Thật sự, họ đều là chúng bảo hộ chánh pháp v.v… Nói: ngồi trên tòa chín cấp: Căn cứ Sớ chỉ phải đổi chữ “Kiếp” thánh chữ “Cấp”. Cấp là tầng cấp. Kinh hiện tại gốc đã là đúng rồi, không cần sửa lại, huống hồ là lý chẳng thể nghó bàn? Huống là chúng đều vân tập ợ hội đều ngồi tòa này; mà hội đó rộng chín trăm năm mười dặm cũng chỉ là dựa vào Thế đế mà nói. Nếu đã chẳng thể nghó bàn, há chỉ là số lượng bấy nhiêu mà thôi! Như Kinh Duy ma, phòng phương trượng chứa đủ ba vạn hai ngàn tòa sư tử. So sánh đây, e rằng không thể chấp nhận lấy sự rộng, hẹp, hơn, kém để bàn luận vậy. Do đó biết, sự giáo hóa của Phật chỉ có thể tạo ra chúng hội không thể nghó bàn, nếu dùng phàm tình phân biệt, thì bao nhiêu mà không là sai ư? ! tuy nhiên cần phải tạm nói ra, thì sao tránh khỏi như người si mê nói mộng. Câu “Hỏi các kinh” tiếp xuống là hỏi về chúng được nêu bày ra, có thể biết. Trong phần đáp nói quả báo của tam giới có thể luận là do Nghiệp. Đó như sự khác nhau của người có duyên, hay không có duyên gặp Phật, chứ không hẳn hoàn toàn dựa vào phần thiện, ác. Vì thế nói v.v… Dùng so sánh việc nghe pháp và không nghe pháp v.v.v… cũng nên thấy. Nay dùng một đoạn trong Đại Kinh để nhận định chính xác. Nghóa là Giới chậm chưa hẳn là chướng ngại, Thừa chậm đây mới là chướng ngại. Cho rằng hai câu kế tiếp là nói về người có duyên và không có duyên. Đó mới là nhận định đúng. Lại phải nên phân, Thừa, Giới riêng biệt, mỗi thứ có ba phẩm, rồi cùng xen nhau biện luận sự gấp và chậm thành bốn Luận chứng như văn. Nghiệm thấy cùng đều như vậy.  KINH SỚ THẦN BẢO KÝ <卷>QUYỂN 3 Từ câu “Bấy giờ, Thập hiệu” tiếp xuống là văn phần Phát khởi tự. Gồm năm phần. Nói “Bấy giờ” là ngay sau khi chúng tập họp, và trước lúc phát khởi điềm lành. Đó là thời gian ấy. Nói Thập hiệu là danh hiệu của bậc Giáo chủ có muôn đức hạnh quả vị. Sở dó là lúc phát khởi là do tâm ý của chúng hội đang khao khát mong chờ. Đó là đức là chí thành tột cùng vậy. Tóm lược nói có bốn: Nói mười hiệu, ba Minh, trí đức, Đoạn đức. Phàm là danh hiệu của “Đức hạnh”, thì không gì không đầy đủ. Nghóa là cũng như lấy sự sung mãn nhất về đức hạnh đó mà nói. Về danh, tướng của mười hiệu như phần giải thích riêng trong sớ v.v… Trí đức, Đoạn đức như trên đã giải thích v.v… Thích Ca Mâu Ni đối với tên là danh hiệu chung, còn đây là riêng. Nghóa là: Thích Ca là họ. Trung Hoa dịch là Năng Người. Mâu Ni là tên. Trung Hoa dịch là Tịnh mặc. Đã có lòng người từ lại u mặc thì là người đức mà tónh lặng. Suy ra đến tột cùng thì biết đạo của Phật này có thể đến tột cùng. Là đệ tử của Ngài, có thể nào Không theo ư? Xứ Thiên trúc gồm có bốn chủng tánh (họ). Thích Ca là chủng tánh Kim luân, còn gọi là Sát-đế-lợi. Còn lại như chủng tánh Bà-la-môn v.v… như trong phần sớ nêu riêng v.v… Như phàm là họ của họ tộc, thì hoặc nói Cù đàm, hoặc nói Cam-giá tùy theo thế hệ mà có họ chẳng đồng. Nói: “Dân quy về hội tụ như chợ” cũng như sách kinh Thư nói Người xưa nói Đại vương ở nước Bân, người rợ xâm đoạn, dời ấp về ở Kỳ sơn. Người đi theo như quy tụ về chợ” Nói “Sơ niên bát nguyệt” tức là thời gian phát khởi điềm lành, đức Như Lai sắp nói Kinh. Số nêu dẫn sự nhận định của Tam tạng Chân Đế không ngoài ba điều: Như Lai ở đời, bốn mươi lăm năm thuyết pháp. Dùng việc chuyển ba lần pháp luân phối hợp thành số bốn mươi lăm năm. Dùng hai giáo Hiển, Mật để nhận định đồng thời, trước và sau. Nay dùng ý kiến của một nhà chú giải xác nhận nói có ba điều không thể thay đổi; để so sánh xem có phù hợp hay không. Phật sau khi thành đạo, có năm mươi năm thuyết pháp. Kinh Luận đều nói vậy. (Chỉ có Kinh Thập Nhị Dụ nói Phật thành đạo năm ba mươi lăm tuổi. Đó là do cơ thấy không đồng) là đều thứ nhất không thể thay đổi. Vì Tiểu thừa, nêu đầu tiên mười hai năm Phật thuyết giáo pháp bốn A-hàm là đều thứ hai không thể thay đổi. Sau khi nói Bát-nhã, ở linh sơn tám năm Phật thuyết Pháp Hoa là đều thứ ba không thể thay đổi. Đây là ba điều không thể thay đổi. Dùng đây so sánh đối chiếu với số năm trên có sự hơn, thiếu rõ ràng có thể biết. Nay nói “Sơ niên bát nguyệt nhật” là thời gian nói phần sau của các bộ Bát-nhã, tiếp đến Người Vương chính là thời gian đó. Mà nói Nguyệt bát nhật, cũng như là chánh nguyệt sơ bát. Tức là ngày mồng tám tháng giêng. Do văn lược bớt. Nói “Phương tọa” (mới ngồi) cũng như là bắt đầu ngồi, cũng như chính thức ngồi. Như Phật bản trụ và tự chứng pháp thì việc trụ đó đã lâu. Mà nói “Mới ngồi” tức dùng tu để hiển bàt tánh, nên nói vậy. Nói Thập địa, không phải Thập địa mà bên tên đã định nghóa. Sớ nêu dẫn ra kinh Đồng Tánh v.v…. mới là địa của Phật đã an trụ. Nói cũng như Thập địa nói trong Kinh Lăng già mà không theo thứ tự, tức chẳng phải thứ tự mười Địa. Song sớ dùng cách riêng tiếp nối cái chung để giải thích, thì tuy không phải không có lý, nhưng không phải cách luận thông suốt. Hãy tạm để qua mà nói v.v…. Lại nói: “Nhập đại tịch thất Tam muội”: Là nói các địa vốn an trụ trước đây là rốt ráo với lý Tịch, nhưng thường để luận về chốn an trụ trước đây là thuộc về trí, nay chốn đi vào (sở nhập) lại là Định (Tam muội) tức nhấn mạnh phàm thuyết pháp ắt phải có nguyên do đầu mối. Nhập định rồi sau quán xét căn cơ mới phát khởi việc thuyết pháp. Nên đây tức là Tựa Phát khởi vậy. Nay nhập định ấy gồm chia làm bốn chương diễn giải: Quán xét căn cơ trao cho thuốc hay Người định phát khởi trí tuệ. Nguyên tắc của việc thuyết pháp Lấy Thánh so sánh với phàm phu. Hiểu được bốn ý này, thì ý chỉ sâu xa rõ ràng vậy. Cũng có thể đối bốn Tất đàn mà giải thích. Tức người duyên tất đàn v.v… Câu “Lại Đại tịch” tiếp xuống là chia làm hai: Đầu tiên dựa theo Lý giải thích. Phàm là lý tức là nghóa tịch diệt đến tột cùng, Niết-bàn cũng là tên gọi của Tịch diệt nên dùng ba đức ở nơi Kinh Đại bát Niết- bàn mà phối hợp giải thích. Nghóa là: Đại tức là Pháp thân. Tịch tức là Bát-nhã. Diệt tức là Giải thoát. Đây đủ ba đức ấy mới gọi là Thiền sâu… Dựa vào đây mà an trụ thì còn gì cao thượng hơn. Vì thế dùng chữ Thất (nhà) để biểu thị. Nghóa hạng sâu cũng là Thật vậy. Kiêm dẫn chứng Phật Đại Thông nhập thất. Lại phẩm Pháp sư trong kinh Pháp Hoa nói Từ bi làm nhà cũng là lý đó. Tuy nhiên Đại tịch, tức chiếu làm nghóa. Sự vẳng lặng đến tột cùng (tịch) tức là soi chiếu, soi chiếu mà luôn vẳng lặng. Phàm chỉ là soi chiếu, mà thường vẳng lặng tức tuy động mà lại càng vẳng lặng thì sự soi chiếu ấy không cùng tận. Vẳng lặng mà luôn soi chiếu cho nên tức là Tónh. Vì nói soi chiếu thì sự soi chiếu ấy phải là vô ngại. Cũng như khả năng dung chứa của căn nhà trống khả năng soi chiếu của Bát-nhã cũng vậy. Tiếp đến căn cứ vào Quán để hiển bày, tức là nghóa Quán tâm. Văn trước tiên lập cảnh quán. Bốn câu đầu nghóa là hư không trong nhà vốn là một cảnh. Sáng, tối tự nhiên sai khác nghóa là đối với tối, thiết lập sáng để quán. Tuy sáng, tối khác nhau mà cảnh luôn tự nó như vậy. Bốn câu tiếp theo tóm lược pháp và dụ ở đề mục, có thể biết. Câu “Mặt trời xuất hiện” tiếp xuống là bốn câu chính thức kết hợp. Nghóa là trí tuệ sinh nên cảnh hiển hiện, cũng như mặt trời xuất hiện thì vạn vật đều nhìn thấy rõ. Vì mê hoặc tối tâm nên u tối, ví như mặt trời lặn thì một chút cũng không hề nhìn thấy. Cũng như bầu trời vốn chẳng phải là sáng tối, mà sáng tối là nó tự trừ bỏ nhau. Đây cũng như mê hoặc và trí tuệ tương phân mà lý tánh luôn luôn tức là như thế. Cũng là nghóa viên mãn. Hoặc nói về sáng tối tuy khác nhau, mà tánh thường thanh tịnh, tức là chỉ căn cứ thẳng vào Thể của cảnh không thể nghó bàn để chỉ rõ sự viên mãn tột cùng, đó gọi là sáng tối không trừ bỏ nhau, hiển bày ra quả vị Bồ-đề Phật là nghóa đó vậy. Vì thế dẫn chứng nói v.v… Tức là vô minh tuy là nhiễm mà tánh tức là minh, không thiếu một pháp nào. Vì thế, hết thảy chúng sanh tức là tướng Bồ-đề. Nói “Không thể diệt độ lại nữa”. Câu này e lầm, văn nên làm chữ “Đắc” (đắc lại nữa) cũng có thể theo văn lược bớt cùng hiển bày được vậy. Câu “Vì đó chỉ là” tiếp xuống là nói Thể hiện tại tức là. Lại không có một mảy may thêm hoặc giảm bớt. Nói “Suy nghó duyên, phóng quang”: Nếu giải thích về Sự thì chỉ là suy nghó duyên có thể độ được mà Phật phóng hào quang phát khởi. Nghóa này cũng như gần. Nay Sớ căn cứ vào Lý mà giải thích. Tức là nói v.v… Nghóa là Không có tư duy mà là tư duy, tư duy nơi vô tướng. Không có duyên mà là duyên, duyên ở pháp tánh. Đây chính là sự an lạc lớn của thân Tự thọ dụng. Nếu chính là pháp vốn không có tướng (vô tướng) tư duy về nó thì tướng sinh; tánh vốn không có duyên, duyên với nó thì tánh phát khởi. Phàm rõ ràng như thế thì tư duy điều gì, suy nghó điều gì ư? Chỉ là vì căn cơ chúng hội nên chẳng tư duy mà được phóng quang hiện điềm lành đến sáu loại chấn động đại địa, dấy khởi nghi ngờ trong chúng, vua Ba Tư Nặc tâm ý biết việc ấy rõ ràng chỉ có Phật mới có thể giải đáp. Tuy nhiên, đức Như Lai hiện đang nhập định không tiện cho việc thỉnh hỏi, bởi thế mới có vô số tiếng nói, âm nhạc hay, đẹp vang lên nhắc gọi đại chúng, bởi thế đức Như Lai xuất định, bước lên tòa pháp mà phần chánh tông sau đó mới được triển khai. Như Kinh nói v.v…. Từ câu “Hỏi: Cõi Vô sắc tiếp xuống là hỏi với tính cách ngược lại nghóa là: hào quang chiếu ắt phải ở cõi Sắc, tại sao ở cõi Vô sắc mà cho là chiếu?” Trong phần trả lời nói: Tuy cõi Vô sắc không có sắc thô, mà có sắc vi tế. Đây là thuận theo câu hỏi mà đáp. Nếu luận về hào quan của Phật thì có sắc, không sắc đều soi chiếu cả. Tức nhấn mạnh ánh hào quang của Phật vốn dùng sự soi chiếu của Vô tướng mà chiếu vào sắc của vô sắc, thì đâu cần hỏi chẳng phải… vậy. Nhưng nói là sắc vi tế, thì chỉ Thiên nhãn mới thấy, Nhục nhãn không thể thấy. Nói: Đây kiêm cả Nhị thừa không thể không thấy là Nhị thừa có Tuệ nhãn chiếu thấy về không, nên cũng không thể thấy hào quang của Phật, phải đạt được Thiên nhãn mới nhìn thấy vậy. Lại Đại Kinh nói: Sắc của cõi Vô sắc, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể nhận biết. Tức là pháp pháp đều là vi diệu nói về pháp ấy, không giống như Luận đã biện minh về sắc của cõi Vô sắc là có, không chẳng định rõ, nghóa là các Tông phái đã chấp ấy đều chẳng thể nói chung chung vậy. Câu “Phóng hào quang khiến biết được đó là gốc của trí tuệ” tiếp xuống là biểu hiện sự thiết lập không là giả dối. Hào quang gốc nơi trí tuệ, chỉ là trí tuệ thì sau đó mới có thể phát ra hòa quang. Vì vậy, lấy trí tuệ làm gốc. Hoa tiêu biểu cho Người, chỉ là Người thì sau đó mới đạt được Giả. Cho nên, lấy Đạo làm Người. Lại hào quang để hóa độ cho căn cơ lúc ấy, nên Thức là Hoa, để biểu thị sự kết duyên với Phật pháp nên nói thấy hào quang. Phối hợp giải thích có thể biết. “Nay khiến cho không phải “Tướng” thấy “Hoa”: chữ “Tướng” nên viết thành chữ “Tưởng” (tưởng tượng thấy) thì đúng hơn. Văn dựa vào hai lợi ích của hiện tại, vị lai mà phân biệt từng phần. Đo là sự khéo sử dụng văn. Lại trước nói rõ Giáo chủ hiện bày tướng, vốn thuộc về phương diện ứng; mà nói có cảm v.v… thì đều là cảm ứng, ý vượt ngoài danh ngôn. Từ câu “Vô lượng biến” tiếp xuống: Nói về mưa hoa, có biến, Không phải là biến. Biến là hoa tâm, không phải biến là hoa của cảnh vật bên ngoài. Chỉ là Trời Sắc. Vô sắc dùng sự thù thắng diệu lực nơi định của họ nên có thể biến. Cõi trời Dục không có nên không nói là biến. Nói “Đại địa chấn động”: Chữ chấn ( ) nghóa là nhấc lên, nên viết chữ Chấn ( ) nghóa là rung động, như nói địa chấn là động đất, thì đúng hơn. Động là có duyên, có số, có ý. Sáu loại tức là số. Duyên của động như trong Kinh Tăng-nhất, A-hàm nói đều có tám duyên. Về ý động như phần sau dẫn giải thích của Luận Thập Địa. Nói “Đất động khiến cho tâm động”: Là kết hợp với Sự, cũng phù hợp ở Lý. Như trong Thiền gia với thoại đầu “Gió lay phướng động”, hoặc cũng như xưa nói thể của đất là tịnh; động ắt có biến. Tất cả đều gần đạt được ý trên. Trong Kinh A-hàm nói về tám duyên, thì duyên “Tức giáo” nghóa là lúc trở về chân, dứt sự hóa độ (tịch diệt). Dứt sự hóa độ chưa hẳn trở về Chân, nhưng trở về Chân ắt phải dứt sự hóa độ. Các duyên khác có thể biết. Trong tám duyên của kinh tăng nhất A-hàm có nói trên dưới Phong luân: Nghóa là chẳng qua Phong luân cùng với Phong đại của bốn đại, trên dưới ràng buột nhau lần lượt mà động là động ắt có tiếng, tiếng tức là sấm. Đó hoặc là một cách nói diễn đạt vậy. Trong Văn sớ thiếu chữ “Nhất” (một), phần lớn giống như kinh A-hàm nêu ra ở trước, chỉ khác nhau một ít. Trong phần giải thích ý động nói là đối trị ba loại phiền não đó là Tham, Si và Mạn, tức phần văn đối giải thích từ sinh lên trời xuống dưới thấp, có thể nhận biết. Nói đức của con người thành tựu, có bốn thứ nghóa là: Cho rằng nói Phật thì tức là bậc Nhất-thiết-trí đều vô úy. Mà nói con người thành tựu tức là Phật cũng là con người, ấy gọi là chúng sinh vô thượng tức là Phật vậy. Mười tám pháp bất cộng, thì có tướng trạng của pháp khác nhau mà Đại, Tiểu thừa đã diễn đạt. Đây một thứ bất cộng (chẳng chung). Nay Số nói: Nhị thừa không có phần: Tức cũng tạm dùng Cộng, Bất cộng Bát-nhã mà nói. Nếu nói hết lý, thì cũng chẳng cùng với phàm phu, địa dưới. Nói Pháp thân có ba thứ: Là kết hợp giáo lý Đại, Tiểu thừa mà nói. Đó cũng là một cách so sánh biện minh về các Pháp thân. Còn về tướng của pháp thì như thông thường giải thích v.v… Câu “Trước đã vì chúng ta” tiếp xuống: Là lãnh hội những Kinh Phật đã nói trước đây. Câu “Từ sau khi đắc đạo”: Câu này văn lược bớt. Nên nói “Từ Phật nói A-hàm về sau trải qua từng ấy thời gian tổng cộng là bốn mươi mốt năm, lại gồm cả một năm sau đó Phật thuyết Người Vương Bát- nhã, đúng vừa là bảy mươi hai tuổi và tiếp tám năm sau Phật thuyết Pháp Hoa. Tức rõ ràng là năm mươi năm Phật thuyết pháp. Nếu lại chỉ khác liền nhận thấy sai lệch vậy. Trong phần “Nghi ngờ” trong Kinh có hai phần nhơ: Đầu tiên là dấy khởi nghi ngờ của đại chúng. Phần này lại có hai: Dựa vào nơi chốn hiển bày người v.v… Nêu lên tên gọi, khen ngợi đức. Nói “Người Vương” thì họ là nguyệt, tên là Quang: Không hẳn phải đúng như vậy. Vì tên gọi gốc là Ba-Tư-Nặc, do sau khi đã nhập đạo lấy pháp danh là Nguyệt Quang. Cũng như Thiên Thai Trí Giả Đại sư thêm vào tên hiệu của Tấn vương là Tổng trì vậy. Thập địa v.v… là khen ngợi đức. Sớ cho rằng “Đa” là Thông giáo, tức cũng một cách giải thích thông thường như vậy. Đã nói thực hành Ma-ha-diễn, hóa độ dùng Đại Thừa trị quốc, thì há chẳng bao gồm chung ba giáo ư? Kế tiếp trong chúng hỏi đáp: Hoặc chỉ tên hai người phần nhiều là một pháp tự, có sai lệch để tiện đó thôi. Lại hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề tức bao gồm hiển bày sự nghi ngờ trong đại chúng không thể giải đáp được. Câu “Giác ngộ Như Lai”: Chữ Ngộ nên làm chứ Ngụ (tỉnh thức) kinh gốc đã chính xác, đây nên sửa đổi. Nhưng, cho rằng Như Lai tịch mà luôn soi chiếu, thì há là phải đợi giác rồi sau mới ngụ (tỉnh thức) ? Nay đây, giả thiết có sửa đổi cũng chỉ là để biểu đạt về nghi thức nên nói vậy. Cõi này tạo sự an lạc mà cõi Phật ở mười phương cũng lại nghe biết: Bởi vì đồng một diệu dụng giáo hóa, có duyên với đây nên hiện. Mới đầu không có ngăn cách đây kia, nên bèn có Bồ-tát ở mười phương đều đến, hòa chung sự an lạc, cũng lại như vậy. Câu “Phật biết thời” tiếp xuống: Nói rõ do vì trước có duyên tư duy nên được cơ hội lúc này, tức là thời thuyết kinh Bát-nhã nay đến rồi. Bởi vì Thầy thuốc đến lúc cho thuốc, và ba nghiệp, ba luân v.v… cùng kết hợp giải thích, có thể biết. Kinh nói “Tòa Sư tử”: Tức là Sớ nêu dẫn Luận giải thích v.v… Cần bổ sung nói: Sư tử là loài chúa trong các thú. Có thể so ví như uy thế, diệu lực vô úy của Như Lai, cũng như Sư tử trên loài người vậy. Lại nói: “Như núi chúa Kim Cương”. Nghóa là thể trạng, dung mạo bất động nghiễm nhiên như núi chúa, cũng tiêu biểu cho bốn đức của Pháp thân; như sự an ổn vững chắc của núi Tu di mà tám thứ gió không thể làm lay động, Phàm nói về uy nghi mẫu mực, thì chẳng gì không phải tướng trạng của cõi Thực báo hiển hiện thân tướng đặc thù, tôn quý. Vì vậy, dùng hình tượng núi Chúa để ví dụ. Xét về giáo thì lại là ý chí của các Tông Bộ, về nghóa sẽ tiếp tục phân biệt. Văn tuy theo chi tiết riêng nhưng nghóa ắt thâu tóm chung v.v… Nói Địa và Hư không: Cả hai đều tiêu biểu cái tột cùng của cõi Thật, tức là nơi nương tựa vào Tịnh quang. Cũng có thể có chung là qua lại hư không. Không chung là ở dưới đất. Sự Lý đều được vậy. Giải thích phẩm Quán Không. Kinh này dùng Bát-nhã làm Tông nên phần đầu của Chánh Tông nói phẩm Quán Không. Căn cứ phần tiếp theo hợp với phần trước phân văn làm hai: Giải thích tên phẩm. Giải thích văn. Nay trước giải thích tên phẩm rồi tiếp đến phần văn nghóa là: Ý cho rằng tên của phẩm là nối tiếp ở trên, đứng đầu ở dưới, nguồn chảy chẳng đoạn, nên thông thường giải thích tên phẩm trước tiên. Gồm có bốn: Một tổng ba biệt. tổng là chung dựa vào ý chỉ sâu xa của Bát-nhã Vô tướng biệt là dụng bao quát cả ba Giáo. Vì thế nói v.v… Nói Vô tướng tức là trí tuệ vi diệu của Bát-nhã soi chiếu cảnh chân thực của vô tướng. Đã đều là vô tướng thì trong ngoài đều tịch tónh. Nghóa là trong tức sáu căn, ngoài tức sáu trần thảy đều vẳng lặng y nhiên (tịch nhiên). Chủ thể duyên, đối tượng được quán vì đều là Không nên gọi tên là phẩm Quán Không. Từ câu “Lại phàm phu” tiếp xuống là dùng chủ thể (Năng) đối với đối tượng (Sở) thì phàm phu không phân biệt biết, ngoại đạo vọng càn chấp giữ, Nhị thừa vướng vúi ở không, thảy đều thuộc nghóa của Tam Tạng giáo, là đối tượng bị phá bỏ. Mà Bồ-tát dùng chánh trí quán không, chẳng phải Không v.v… tức nghóa chủ thể đối tượng đều đủ. Vì vậy biết căn cứ Thông giáo mà nói. Câu “Hai là nói về” tiếp xuống: Người là phàm phu vướng chấp ở Có, Nhị thừa vướng chấp vào Không; tức phàm phu, Tiểu thừa lệ thuộc bởi hai bên. Tuy ngay tại Biệt giáo không có Nhị thừa, nhưng xét quả vị mà định lượng thì tức là Thập trụ của Biệt giáo. Rồi tiếp đến Bồ-tát xả bỏ cái Có của hai bên, tu cái Không ở chính giữa (Trung đạo), tức là quán Biệt giáo. Từ câu “Lại quán là” tiếp xuống: Luôn dựa vào hai chữ “Quán Không” để nói. Quán tức là Chủ thể quán. Cảnh là đối tượng được quán. Chủ thể, đối tượng đều rỗng Không. Không có thì ý chỉ sâu xa của vô tướng là chính yếu, bởi thế tương đương là Đệ nhất nghóa không, là Trung đạo. Nếu chẳng như thế thì sao gọi là tri kiến của Phật thật sự vậy ư? Sớ dẫn văn chứng minh bằng cách ngược lại (phản chứng). Chính là dùng Kiến của phi Kiến, mà nói đó mới là Kiến chân thật. Như đây phối hợp giải thích, nghóa chung, riêng tự rõ ràng. Câu “Sáu phẩm này” tiếp xuống là phân văn, có thể biết. Trong phần giải thích nói đầu tiên biết ý thỉnh hỏi tức ý nơi Hộ quốc Người Vương. Căn cứ trước đây tán thán, thì thỉnh hỏi cũng chỉ chủ yếu là vua Ba Tư Nặc. Nay biết ý thỉnh hỏi là chung, mười sáu nước cũng là như vậy. Hỏi thì không thể nhiều người hỏi, nên thỉnh hỏi ắt phải có một người làm chủ. Tạm cho vua Ba Tư Nặc là đại diện đứng đầu, mà Phật biết ý thỉnh hỏi chẳng giới hạn nghi vấn trong một người, nên pháp cũng sẽ phù hợp với số đông thôi! Câu “Ta nay” tiếp xuống: Người sự thỉnh cầu mà triển khai hai sự hộ trì rộng lớn, cũng là phát sinh hai phẩm sau, mở rộng phần gốc. Như văn nói v.v… Đã qua người tu hành Thập địa là gốc, thì phải sinh khởi sự giáo hóa. Văn trong phẩm nói chữ “Tán hoa” (tung rải hoa) là nhầm. Có Quốc vương kia tuy có ý đó, nhưng chỉ là sự đòi hỏi được giữ lấy vừa vặn với căn cơ hướng đến Phật, mà Phật mở bày hai sự hộ trì vượt quá những gì họ được giữ lấy, tức lại là nghóa sâu sắc của sự ứng đáp. Yù như sau sẽ thấy. Câu: “Hỏi: Vua” tiếp xuống là nói nguyên do lựa chọn triển khai hai việc hộ trì. Trong phần đáp gồm dựa theo nhiều ý diễn đạt. Đầu tiên vì thô, diệu, khó, dễ mà nói: Tức là Vua chỉ biết một mà không biết hai, Đức Phật biết đủ cả. Đây, kia đều đạt đến mức vượt quá những đòi hỏi của họ muốn giữ lấy. Lại cho rằng nếu dựa vào Chân, Tục của thế gian, xuất thế gian để luận thì khiến cho cõi nước dù có an bình mà sinh kêu mạn, chẳng bằng nay trình bày vẽ Người quả của xuất thế gian, thì Chân Tục đều phù hợp. Lại dựa trên sự đòi hỏi có nhiều ít: Nghóa là như đòi ít, ban cho nhiều, đạt được Thể của Thầy trò. Cũng như Kinh Pháp Hoa đòi hỏi xe, xin ba mà cho một vượt quá mức kỳ vọng xưa kia, há không là vui thích lắm thay! Nói “Tiêu biểu cho không tham, không sẻn tiếc”: Câu này có thể biết. Nói: “Chí nguyện của Từ bi dẫn dắt”: Từ bi là chủ thể dẫn dắt. Đây đều có ở Phật. Chữ “Chí” nên làm chữ “Tác ý”. Nhưng cũng còn là cách nói phân biệt. Nếu nói trên phương diện hỗ trợ cho nhau thì hộ trì Người, hộ trì quá ắt có lực của Bát-nhã hỗ trợ, mới khiến cho Người quả đều được hộ trì. Đã tin, thực hành theo Đại Thừa thì làm sao có cõi nước không an ư? Vua nghe nói về hai việc hộ trì, ba Tuệ khuyến khích phát tâm mà xưng ngợi tán thán là “Thiện” đó là ý nghóa tột cùng của sự hay đẹp. Nói “Đại sự người duyên”, là bày tỏ tán dương về lý có thể đạt đến tận cùng. Chẳng phải chỉ riêng Bát-nhã mới dùng câu nói ấy, mà còn tán dương cả một đời Phật thuyết pháp hiển đốn. Vì vậy, Sớ so sánh nêu ra các văn, để nói lên câu nói ấy vậy. Cân “Tán hoa” tiếp xuống: là căn cứ tiêu biểu cho pháp mà giải thích. Nghóa là phàm các sự cúng dường…. Ắt phải biểu hiện một pháp môn nào đó. Đây cũng là cách giải thích Kinh. Nếu chỉ hiểu trên phương diện Sự thì làm sao đủ thấy được sự tu hành Nhận đạt được Quả dấy khởi lên ý nghóa giáo hóa. Vì vậy, dùng sự biểu hiện Lý thì cả hai đều được cã. Biện minh rộng về hai Hộ, chia làm hai: Đầu tiên là từ câu “Bấy giờ” tiếp xuống là nối tiếp văn trên. Tiếp đến văn thỉnh hỏi bao gồm nào việc hộ trì. Trong phần đáp kết hợp với phần trả lời hộ trì quả ở trước, mà nói “Hóa độ cho bốn loài”, thì biết rằng tuy hộ trì người quả đều được thâu gồm, nhưng thật sự lấy việc hóa độ chúng sanh làm gốc. Nghóa là từ quả vị Phật hóa độ chúng sinh, cho đến trong tu hành Người thành quả Phật cũng hóa độ chúng sinh. Nhưng tánh của sở chứng (đạo quả) nơi Phật, vốn là quên mất, lìa bỏ, thì có cái gì gọi là hộ trì, nên phải dựa vào Người để nêu dẫn Quả. Nếu giải thích thẳng từ công hạnh của Phật, thì công hạnh không chấp đắm, tức lý tự nhiên sáng tỏ. Văn đã tóm kết theo nghóa công hạnh, mà lại nói Bồ-tát tu tập đạt quả vị Phật, tức là biết được như thế dựa vào Người nói rõ Quả, thì Lý hẳn rõ ràng. Nói “Cảnh của đối tượng được hóa độ” như Sớ đã giải thích v.v… Mà thứ nhất nói “Đều như huyễn là nơi của năm đường từ đó đi ra”. Nếu luận về đối tượng được hóa độ, thì vốn bao trùm cả chín cõi. Nay vả lại từ chủ thể sinh ở trong ba cõi mà nói vậy. Thứ hai nói về trí tuệ là chủ thể hóa độ, tức là chẳng quán sắc như v.v… Gồm năm khoa. Nay gọi gọn lại làm thành bốn. Một là nhận biết về năm ấm, ta và người, tức chúng sinh là đối tượng được hóa độ. Kinh cho rằng Thường Lạc ngã Tịnh như. Câu: “Trói buộc ta, người”: Câu này e lầm; nghóa thấy ở văn sau. Hai là Bồ-tát như v.v… Tức pháp, người là chủ thể hóa độ. Ba là quả vị Phật tức là nơi bộ trì bốn đức. Đây có thể bao gồm nghóa hộ trì quả, bốn là hai đế tức chổ nương tựa của hai hộ trì. Mà tất đều nói là chẳng quán, tức để ngăn chặn những sai lầm của chúng. Người là nay Bát-nhã là chủ thể quán, quán trí tuệ, dùng tuệ không làm gốc, nên chẳng quán sắc là để ngăn chặn chấp có sắc, chẳng quán như là ngăn chặn chấp Không, chỉ quán tánh của pháp là cái Không của chân thật. Như Sớ giải thích v.v… Đó đều là thiển kiến nên chẳng quán. Câu “Nếu biết tánh của tất cả Pháp” tiếp xuống là ngầm chọn lấy ý văn sau mà nói, tức đều dùng trí tuệ viên mãn, thì có cái gì chẳng quán, chẳng thâu nhiếp? Tuy không nói cụ thể đối tượng là gì mà lý lại hiện hữu trong đó. Vì thế kết luận như không. Đó chính là cái Không của chân không chẳng ngăn ngại cái Có của Diệu hữu. Nêu ra đây để so sánh thì đồng nhất đều là vô ngã, vô tánh. Câu “Ấy là vì Bồ-tát” tiếp xuống là tóm kết về công hạnh (hành) Xác nhận nghóa hộ trì Người. Vốn ý này ở phẩm kế tiếp, nay tóm kết trong đây, là để dựa vào làm rõ nghóa hộ trì Quả, chẳng phải chính thức tóm kết phần nói về Người, nhưng lại cũng nhất quán với ý nghóa của văn nêu tông chỉ ở phần trên. Nói: “Nếu như tức là sắc, để làm Kiến giải riêng khác” thì tức Không ngoài nghóa từ Không sinh ra Giả. Câu “Thường lạc ngã tịnh như” nếu đặt thêm vào câu “Tất cả hành” tiếp theo chữ như, thì rất dễ hiểu. Nhưng vì là Thánh Kinh, nên không dám tự tiện sửa, tạm thời giữ nguyên như cũ. Sớ căn cứ đối với năm ấm nói trước mà làm giải thích các nghóa điên, không điên đảo v.v… Không phải không có lý đó v.v… Mà nói tùy theo dứt hết phiền não v.v… Nghóa là đối với năm ấm là đối tượng được diệt trừ bao gồm trong chín cõi, nên tùy thuộc vào nơi diệt trừ phiền não. Tuy sự diệt trừ có sâu cạn, mà tánh được lộ bày chỉ một mà thôi. Cũng như sự dần dần hòa tan của nước và băng. Dùng ví dụ này mà giải thích. Nói “Tri kiến thọ”: Như vốn phải nối liền với câu “Cúng sinh ngã người ở trên, cũng như duyên với phần gián đoạn của câu trước, cho nên dùng tri kiến để làm đối với quả vị mà giải thích. Lại nên xét kỹ điều đó. Câu “Bồ-tát như” tiếp xuống: Là Sớ giản lược câu “Tất cả đều Như ở trong không Tịnh Danh. Nhưng “Như” ấy tương tợ Kinh nay hay là khác? Trong phần đáp nói: kinh Tịnh Danh vì chê trách việc thọ ký nên dùng Chân không lấn đoạt. Kinh nay hiển bày các Pháp đều là Như nên dùng Diệu hữu để nói. Lại dùng động, tịch v.v… đối với nhau giải thích, như Sớ có thể biệt. Song nếu dùng đoạn, thường mà hiển bày Trung đạo, thì cũng là đối tượng được lìa bỏ có nói trong Kinh A-hàm, nên phải dùng “Diệu” sớ giải. Tuy đối tượng được lìa gần nhưng chủ thể lìa thật sự còn xa chổ thành tựu. Lại dẫn Kinh Tịnh Danh có đoạn viết: “Chẳng quán sắc, sắc tánh” Phân biệt câu đó v.v… chỉ là tình chấp chặt chưa mở, mê hoặc giữ lấy chưa quên, đáo quán chưa dung thông, lý tánh chưa hiển bày, điều là phải cần trừ bỏ, cũng là phù hợp với nghóa Hộ trì. Văn còn lại, như giải thích bên trên, có thể biết. Câu “Bạch Phật rằng” tiếp xuống là nói rộng ra phần ở trên trên sau khi đã khỏi không quán Bồ-tát tu hộ trì quả Phật, thấy nghóa ba Bát-nhã. Đầu tiên dựa vào bất trú mà nói về thật tướng Bát-nhã. Trước tiên lãnh hội nghóa ở trên mà đặt câu hỏi: Nếu các pháp đều như như thì Bồ-tát hộ trì hóa độ chúng sinh, là không có chúng sinh được giáo hóa hay là vì hóa độ chúng sinh thì có chúng sanh được giáo hóa? Tức là câu hỏi có hoặc không. Câu hỏi vốn tóm lược câu trả lời cũng khó hiễn Bởi thế trình bày ra hai ý. Nghóa là nói theo Chân đế thì không có giáo hóa, theo Tục đế thì có giáo hóa. Câu “Tánh của pháp tự nó nơi sắc” tiếp xuống là nói rõ chân đế thì không có giáo hóa. Nghóa là tánh pháp nơi năm ấm tức là cảnh của Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Đếu là cảnh ở nơi quán không chấp tục. Xưa so sánh nhiều giải thích, Kinh vốn có ba luận chứng, nay thêm vào luận chứng thứ tư v.v… Bốn luận chứng (câu) ba quán đã đều không chấp trụ, thì không chấp trụ cũng là không chấp trụ, vì thảy đều là Như, tức thể của trung đạo Thật tướng. Thế là nghóa rõ ra vậy. Vì thế, nếu nói theo Chân đế, hì sao có chúng sinh là giả hay thật mà có thể được giáo hóa ư? Tiếp đến biện minh theo Tục đế tức nói Thế đế, ba giả nên nói thấy có chúng sinh được giáo hóa. Nhưng lại nói tánh thật của tất cả pháp, nghóa là xứng với tánh thật mà thấy thì không có chúng sinh có thể thấy. Như thế, cho đến chư Phật Thánh Hiền cũng đều gọi là thấy, cũng đều là không phải thấy. Ví như đây mà nói thì thấy có chánh, tà. Nghóa là cái thấy của chánh kiến, cái thấy của tà kiến. Nay vì là các danh của giả danh gọi là thấy tất cả pháp, thì biết chư Phật, phàm, Thánh như vậy đều dùng lý chẳng phải thấy để thấy, xứng hợp với tánh thì thấy tất cả pháp vậy. Đó tức là tuy hai Đế khác biệt mà vì thiết lập việc giáo hóa, nên nghóa hộ trì nhẫn, quả cũng chưa từng thiên lệch phế bỏ. Trong đây nói ba giả Không phải như Luận Thật nói ba thứ người v.v… vì nay không phải giáo lý Tiểu thừa. Tuy nhiên, hoặc dẫn ở sau văn nói về hai không, lúc ấy mới được dùng Tiểu xác nhận Đại v.v… Tiếp theo, dựa theo nghóa chủ thể soi chiếu để biện minh về Quán chiếu Bát-nhã mà nói “Pháp có”, “Pháp chẳng phải là chẳng phải” là Ma-ha-diễn - tức Sớ đưa ra ý hỏi v.v… Nay nói “Pháp có” là đưa ra pháp nmơi cảnh thuộc đối tượng được chiếu. Pháp “Chẳng phải là chẳng phải, thì câu này là tóm lược. Đúng nên nói: pháp chẳng phải là pháp, đều chẳng phải là chẳng phải pháp vậy. Tức là: pháp là có, chẳng phải pháp là không. Chẳng phải là chẳng phải pháp là chẳng phải, cái chẳng phải pháp đó, tức lại không luôn của cái Không, tức là trung đạo đệ nhất, tất cánh Không. Câu “Căn cứ” tiếp xuống là Căn đáp. Đích thực nên như thế nào soi chiếu, vì chưa hiểu, vì phàm tình không thể hiểu được nên mới nói Pháp Ma-ha-diễn làm thế nào soi chiếu. Vì vậy, chính là lãnh hội văn nói ở trên, để phát sinh ý trả lời. Ma-ha-diễn, Trung Hoa dịch là Đại Thừa, cùng với bộ Bát-nhã nay, đồng nêu ra tên gọi khác. Phật trả lời ý cho rằng ở nơi tự tánh Bát- nhã thấy chẳng phải là chẳng phải pháp. Nếu có thể thấy như thế mà quán chiếu thì có thể làm không luôn cả lý không, kia. Pháp này vì thế tức chẳng phải là chẳng phải pháp nên gọi là Không của chẳng phải là chẳng phải pháp. Đã nói pháp Không mà lại nói tánh pháp là Không, nghóa là Không là Bát-nhã, tánh là lìa, không có tự tánh. Lý vốn tự nó Không, ấy gọi là Thọ, tưởng, hành, thức là Không cho đến mười hai duyên là không, cũng đều là lý nói trên. Câu “Cho nên đáp” tiếp xuống là trải qua các pháp nói rõ về Không. Sớ nêu dẫn Đại Luận đã dựa trên sáu môn nói về Không: Nghóa là Quả Báo Không v.v… Tuy Không chỉ là một nhưng nghóa, loại lại chẳng giống nhau. Năm ấm là quả báo Không. Vì là pháp ấm thọ nhận quả báo. Thập nhị nhập thọ dụng Không vì căn cảnh đối nhau, nên sự thọ dụng đều riêng biệt Thập bát giới tánh biệt không. Là thêm vào sáu thức, một phần chuyên nói rõ là sáu hòa hợp trở thành sự thấy, nghe, biết khác biệt: Vì thế chỉ một tâm sâu sắc có ấm, nhập, giới phân ra, kết hợp khác biệt, là bởi do bệnh chẳng đồng. Vì thế nói v.v… Ngoài ra luận bàn về nghi hoặc là mê. Nói mê, nghóa càng rõ. Tiếp nói sáu Đại gọi là Biến đáo Không (“Không” biến khắp) nghóa là từng Đại đó điều khắp ở tất cả, mà có tướng trạng lấn át nhau, tiêu diệt nhau. Đây lại riêng biện minh như trong Kinh Lăng Nghiêm đã nói v.v… Lại nêu dẫn kinh A-hàm nói sáu vị vua tranh cãi v.v… Nghóa là năm thứ đều riêng có tác dụng, mà Thức đại là chủ, nên ở trong đó thì trội hơn. Nói Người duyên nghóa Không tức là nghóa có duyên sinh, duyên diệt của người quả nơi ba đời, mà cùng với Đế Cảnh chung, riêng có khác v.v… Câu “Là pháp” tiếp xuống là căn cứ vào ba nghóa để giải thích xác nhận. Tuy nhiên sinh diệt v.v.. vốn không phải là nghóa của Không, nên nay chọn lấy nghóa nhanh chóng, không dừng lại thêm vào để làm rõ nghóa tức là Không, thì phương diện ý nghóa càng sáng rõ. Vì thế nói v.v… Nói “Tức Có tức Không”: là tổng kết luận, cái Có của các pháp quay về nghóa tức Không , hơi khác với Sớ giải. Luận nêu dẫn kiến giải của các sư Tiểu thừa về sinh diệt, trước sau có đồng có dị. Mỗi mỗi đều đề cao, nhưng đều có lỗi v.v… Nói như ngọn lửa nhanh đi qua đầu ngọn dao, tức nói chính xác phải là: Như ngọn lửa chạnh nhanh từ đầu đến thân dao. Ý nói nhanh đếnmức không thấy dấu vết. Là thí dụ về nghóa Không đã nói bên trên mà thôi. Sớ ở trước cho các pháp hiển bày thì nói pháp ấy tức sinh tức diệt. Tiếp đến cho tâm niệm nói là Sát-na, Sát-na. Tuy nhiên ý nói vẫn còn khó hiểu. Vì thể, lại nêu câu hỏi ra để giải thích v.v… Nói: “Chín mươi Sát-na v.v… như Kinh”, thì chưa kiểm chứng xuất xứ, Phàm cho một Sát-na là thời gian thật ngắn, nhưng Kinh lại nói trong thời gian ấy có chín trăm sinh diệt, dùng tính mà đo lường phân biệt cuối cùng chẳng thể hiểu được. Dùng bất khả tư nghị thì có thể hội được. Hoặc dùng ý chỉ của Viên, Đốn giáo để nói về nó ấy gọi là một niệm quán khắp vô lượng kiếp thì chín trăm sinh diệt củng còn là ít thay phải dùng lý suy tìm, khó dùng lời nói hết v.v… Từ câu “Chín mươi Sát-na” tiếp xuống là giải thích thông. Tức Không gồm hai nghóa. Hoặc từ số một đến số nhiều, nghóa là chín mươi Sát-na được thâu nhiếp trong một niệm, chín trăm sinh diệt được tha nhiếp trong một Sát-na, tức thành tám vạn một nghìn sinh diệt tương đương với chín mươi Sát-na được thu nhiếp trong một niệm. Suy tìm cái thật nhất định của nó là không thể được. Lại là ít của nhiều nơi tự nó, nghóa là sinh diệt không ngoài Sát-na, Sát-na không ngoài một niệm, ở trong niệm đó tìm cầu cái thật nhất định không thể được. Ở trên tức là tâm Không, còn đây tức là nói niệm Không. Vì thế nói: Pháp như thế, Không thể đạt được. Đây gọi là tâm Không. Nhưng hiểu rõ tâm là Không, thì các pháp tự mất, tâm pháp mất đi, nơi chốn tâm pháp rơi rụng thì cái Không là ai Từ câu “Lại dùng bốn đại phân tích các căn” tiếp xuống là ví như suy tìm từ bốn đại cho đến cực vi, rồi phân tích tiếp thì chẳng có gì có thể đạt được. Như thế mà suy tìm, chia chẻ nhỏ đến làm hư trần. Đó là sự phân tích đúng đắn, không giống như sự phân tích của ngoại đạo, tà vạy. Sắc đến mức hết không còn, tâm đến mức tột cùng thì hoát nhiên không có gì chấp trụ. Có thể nói là đã đạt đến mức rốt ráo. Song, đây cũng chỉ là sinh diệt để hộ trì quả vị Phật thuộc Tam Tạng giáo mà thôi. Nếu so với Đại Thừa vô sinh, vô lượng, vô tác thì cách xa. Thế tại sao ngày nay, mọi người toan dùng tâm thô vụng, suy lường nông cạn, bàn bạc về chổ tinh vi của Phật pháp. Ta chưa hề thấy họ có chút gì phảng phất hình bóng Phật! Câu: “Như thấy sắc không” tiếp xuống là suy luận nói rõ yếu chỉ giáo lý Đại Thừa. Văn hay ngắn gọn nhưng lý thì rất đạt Như nói Thể của Thông giáo là không, chắc chắn không có tùy thuận theo người khác để nói: Biệt giáo nêu bày về tâm, sắc là một, là khác. Vì cho là tâm, chủ thể tạo ra nên chẳng là khác. Vì cho không phải pháp - đối tượng được tạo nên chẳng là một. Lại vì giáo hóa phương tiện nên chẳng là một, vì lý thật nên chẳng là khác. Đây chính đạt được yếu chỉ của Biệt giáo. Lại Viên giáo nói rõ sắc tâm và vốn không tịch, khéo bàn luận tức đầy đủ ý chỉ tại đây. Dùng để hộ trì quả Phật thì quả vị Phật đều được chánh dùng để hộ trì Bát-nhã thì Bát-nhã nhờ đây được rõ, dùng để hóa độ chúng sinh, thì chúng sinh nhờ đây được độ. Chẳng những hàng Bồ-tát hộ trì, mà chư Phật cũng đều hộ niệm. Vì cớ sao? Vì lý đó vốn đồng. Nếu không như thế, thì có lỗi tổn hại tuệ mạng, bỏ mất pháp thân, há không đáng sợ sao?! Kinh lại lấy tâm so sánh sắc, tức biện minh lật ngược trở lại. Nên nói: Sắc cũng như thế. Câu “Vì Bát-nhã” tiếp xuống là nói chủ thể quán, quán trí, tóm kết thành cả hai soi chiếu, để hiển bày ý chỉ sâu xa của không nơi trung đạo. Nghóa là vì Bát-nhã là Không, nên vô tướng, vô tướng nên soi chiếu và đối tượng soi chiếu đều vắng lặng. Đó chính là Bát-nhã Ba- la-mật như trong Đại Luận nói vậy. Nói Bát-nhã là còn tóm lược. Tuy nhiên, hiểu thấu rõ trong Bát-nhã ấy là Không có một chút pháp nào có thể thủ đắc, vì vậy nói: Không thấy duyên v.v… Tức là các pháp đều Không, gọi đó là không thấy, không phai nói Không soi chiếu mà gọi là không thấy. Câu “Không phai thấy và thấy”: Văn thiếu một chữ sở (đối tượng). Vì đều bỏ mất tướng do đó chính là Bát-nhã chân thực, cũng là đối tượng được chứng đắc của hàng Trụ, Địa. Như vậy, vô lượng giáo môn chung, riêng trước đây nghóa là tiếp nối theo phần chinh v.v… tức là tương tợ Bát-nhã, cho đến trải qua các pháp nói rõ về Không, cũng gọi là phân biệt giới hạn của không. Nghóa là tóm lược thì có mười hai loại như Văn Sớ hiện tại, hoặc mười tám loại Không như Đại Luận. Sớ nêu bày ra, giải thích v.v… Như vậy thì Không vốn phá Có, Có đã là Không, thì Có lại lấy cái gì để thiết lập mà làm Tục đế? Cho nên nói: Chỉ vì pháp tích tập cho nên có. Tức là pháp có hợp, tan. Hợp là có là Tục đế. Tan là Không là Chân đế. Tích tập cũng là nghóa hợp. Cả hai thứ nếu luận về mỗi thứ Không hoặc Có tức là thiên lệch, thiên lệch thì có hai bên, không phải Trung đạo. Cả hai đều biện minh, thấu rõ thì viên mãn, viên mãn tức Trung đạo; Trung đạo là Diệu như Kinh đây mà thôi. Ba giả cùng đối giải thích, như văn có thể biết Tiếp nói về được mất thì như trong Kim Cương Bát-nhã có nói. Nghóa là nếu thấy có pháp có thể giữ lấy được, tức là chấp trước tướng Ngã, Người, Chúng sinh, Thọ giả, thì đều là thấy. Nếu cái thấy này chưa bỏ thì là pháp Có. Không phải pháp không có, tức không phải chỗ gọi là khai nhãn. Nhãn là nghóa chấp trước. Nếu không chấp trước cái thấy này, thì có, không đều đúng nghóa là không khác thế gian, thấy giống như phàm phu thấy, không phải chánh quán, hẳn nhiên khác hoàn toàn với cái thấy có thể liễu ngộ tướng thế gian của đức Như Lai xuất thế gian. Tuy nhiên, nếu thấy pháp thế gian là không hợp, không tan v.v… đó là pháp Thánh cảnh phàm chưa bao giờ có khác, chưa bao giờ không khác. Chắc chắn đối tượng thủ chứng phải như thế nào thôi! Câu “Đối với các pháp” tiếp xuống. Lại dùng Tông chỉ biện minh về quán. Nghóa là tức Sắc là Không, lý đến tột cùng, sự đến đầy khắp. Vì thế nói bất động là pháp bình đẳng không có hai, Không có riêng biệt. Không có đến là vì gốc chẳng sinh nên không có thể diệt. Vô tướng không có cái Vô tướng nên các pháp đều Như. Còn lại như Số giải thích. Từ câu “Là tức Sơ địa” tiếp xuống - Nói, một niệm tâm vốn có đủ tám vạn bốn ngàn Bát-nhã Ba-la-mật vì lý Thật duy nhất thì đồng, trái ngược với mê hoặc là trí tuệ nên phá trừ phiền não trần, nêu ra Kinh. Trong một tâm thấu rõ tất cả pháp, nên mỗi mỗi địa cũng gồm đủ công đức của các địa. Câu “Tức tái nói”. Tái nghóa là Chở cũng như chữ Thừa (xe). Diễn cũng là nghóa Thừa “Tức diệt là nghóa chủ thể đoạn, nên như Kinh Kim Cương. Tùy theo nghóa đặt tên gọi tuy khác mà lý giống nhau. Tiếp nói về loại Bát-nhã thứ ba: Văn tự Bát-nhã, thì căn cứ vào Danh, vị Cú v.v… để biểu thị công đức sâu lớn không thể nghó bàn của Bát-nhã. Văn Sớ trước nêu ra Thể của giáo, tiếp nói về công đức sâu lớn. Trước nói về nghóa là: Giáo pháp của chư Phật Không ra ngoài ba thứ Danh, Vị, Cú, hoặc gọi là Danh, Cú, Văn thân. Đó là ba thứ giả lập, cùng với Thanh văn, một Thật chung làm Thể của giáo. Như văn Sớ dẫn Luận đã giải thích v.v… Tức văn tự nay là chổ nương tựa của Bát-nhã. Văn vốn đủ hai đức Bố thí: Tài và Pháp. Bố thí của cải bảy báu là Tài thí; làm cho đắc bốn quả v.v… là Pháp thí. Chẳng bằng khởi một tâm niệm tin vào Bát-nhã này, tức là còn hơn cả Pháp thí. Bởi vì niềm tin đối diện với hiểu (giải) thì hiểu sâu nhờ vào niềm tin, lớp lớp đối lẫn nhau so sánh quyết định có thể biết. Từ “Cú chẳng phải Cú” tiếp xuống: Chính thức nói rõ về Văn tự Bát-nhã. Cũng là tướng trạng tin và hiểu. Nghóa là Cú chẳng phải Cú tức là Nghóa đối với Cú như văn tuy chứa đựng bốn Cú mà ý chỉ sâu xa của ba Đế thuận hợp theo nghóa Bát-nhã, vì thế đều là Không. Tức là ba cú tức một Cú, một Cú tức ba Cú, cũng tức chẳng phải ba, chẳng phải một Cú, vi diệu sâu xa bặt dứt Không thể nghó bàn. Lại Cú tức là Văn tự, chẳng phải Cú tức là tánh lìa của Văn tự, là cũng như Văn tự chứa đựng, ý chỉ sâu xa của ba Đế đều quên mất, cho nên tánh là lìa. Chính cái tánh lìa đó tức là Giải thoát; Giải thoát tức là Bát-nhã, cũng tức chính là Văn tự Bát-nhã nay v.v… Chỉ Quán cho rằng: Thấu đạt Văn chẳng phải là Văn, chẳng phải là văn, chẳng phải chẳng là văn. Diệu chỉ đây thật là khéo phù hợp. Câu “Lại Bát-nhã chẳng phải Cú” tiếp xuống: biện minh về văn, nghóa đều là Không. Nghóa là Cú chẳng phải Cú thì Văn là Không, nghóa của Bát-nhã là Không, thì Cú chẳng phải Cú đồng nhau với Bát- nhã. Đây là căn cứ Tức, ly gắn liền với Thể. Hoặc như trong ngoài tự tha cùng lìa, truy cầu từng cái một đều chẳng thể có được, nơi chẳng thể nắm bắt được đó, tức Bát-nhã chân thật đáng hiện hữu ở văn này. Vì thế nói. Bát-nhã chẳng phải cú, Cú chẳng phải Bát-nhã, tức tánh đều là lìa, đều không thể nắm giữ được. Câu: “Lại nói: Bát-nhã cũng chẳng phải là Bồ-tát” tức nói rõ Người và Pháp đều là không. Bát-nhã là Pháp. Bồ-tát là người thực hành Bát-nhã. Pháp được thực hành là Không, thì người thực hành cũng Không. Vì vậy nói: Trong Bát-nhã cầu tìm Bồ-tát, chẳng thể có được. Đây là nói về Người Không. Dựa vào lý kết hợp sẽ hiểu rõ về câu nói Pháp Không. E rằng, sót đi một câu, hoặc vì trên đã nói đủ rồi, nên nay lược bỏ vậy. Nhưng Sớ viết: “Lược bớt Văn nói về người Không” thì không thể không có lầm lẫn. Hoặc nói rằng: Nay chính là nói người thực hành Bát-nhã. Như thế thì không hợp với nói Bồ-tát cũng Không. Cho nên nói là lược bớt. Tuy nhiên, bỏ thì đều bỏ, thật không nên nghóa còn nghóa bỏ. Hãy xem kỹ lại thử: Câu “Vì cớ gì?” Tiếp xuống là chính thức đưa ra giải thích câu “Chẳng phải Bồ-tát” ở trên đã nói. Vì vậy mới có phần ở bên dưới nói về mười Địa ba mươi đời đều chẳng thể có được. Há chẳng phải là văn nói, về người Không ư? Tại sao lại nói ngược lại? Nói : “Cũng chẳng phải Tát-bà-nhã, cũng chẳng phải Ma-ha- diễn, đều là Không”, tức đây lại dùng Người so sánh với Pháp để nói rõ Người Quả đều Không. Nghóa là: Tát-bà-nhã là Quả, Ma-ha-diễn là Thừa, thừa (vận hành) tức là Người. Người Quả đều không, là nghóa Pháp Không. Há chẳng phải chính là dùng người Không so sánh biện minh về Pháp Không đó sao? Câu “Nếu chấp vào thấy cảnh” tiếp xuống là Sớ phân biệt cho rằng dựa vào Giáo tu quán, thì quán có tà chánh. Tuy Không là không có nghóa ấy, nhưng chỉ là nhắc lại văn đã giải thích nhấn mạnh nói, rút gọn lại là tưởng điên đảo. Nghóa là nếu thật có cảnh v.v… có thể thấy thì rơi vào vọng tưởng, thật chẳng phải là cái thấy của Thánh người, cho nên rút gọn, lặp lại để giải thích. Nói “Thấy ba cõi”: Nghóa là v.v… (đẳng) mà Sớ cho rằng “Thấy cảnh v.v… đối với ba Bát-nhã”. Nghóa là Trí đối với Cảnh nói là Thọ, tuy đều là Bát-nhã nhưng nếu lấy Kiến chấp giữ lấy thọ nhận, thì đều là tưởng điên đảo. Vì thế nói gọi là chúng sinh quả báo vậy. Như văn Sớ đã nói v.v… Câu “Sáu thức” tiếp xuống: Nghóa là vì chấp vào Tưởng mà thấy nên dấy khởi nghiệp quả, vô minh, phiền não trong ba cõi. Văn trong phần này lặp lại nhiều ba chữ “Tam giới Không”. Câu “Về căn bản vô minh” tiếp xuống là đối với nghiệp quả ở trước đã nêu ra mà nói, trở thành ba nẻo cùng với vô minh, các tập khí còn lại. Cũng bao gồm trong ba cõi nên nói cũng vậy. Mà mỗi mỗi đều nói tạng không, thì tạng tức là nghóa tích tập, tàng chứa v.v… Không là giải thoát. Vì chúng sinh nơi ba nẻo mê lạc không thể tích tập. Vì ba đức đều là Bát-nhã, nên đều là không. Kinh Tịnh Danh có nói: Trừ bệnh không trừ pháp. Đây có thể tương đương nghóa ở Kinh này. Nói “Ba địa chín đời diệt”: Sớ gồm hai giải thích v.v… Giải thích đầu thì ưu việt. Câu “Tức Kim Cương Tạng” tiếp xuống là nêu dẫn người (Bồ-tát Kim Cương Tạng) chứng nhập Không, cũng là giải thích nguyên do Không. Như Kim Cương hậu tâm nói trong Kinh Hoa Nghiêm, dùng Tam muội đạt lý tận cùng đoạn trừ vô minh rốt cuối. Đó gọi là Nhập trùng huyền môn. Kinh đảo ngược một chữ “Tạng”, nhưng sai sót nhỏ, thứ tự đối với văn xem có thể nhận biết. Câu “Phật đạt được ba Vô vi” tiếp xuống là biện minh về quả tột cùng nơi chúng đắc Không. Ba vô vi gốc xuất ra từ giáo lý Tiểu thừa. Cũng nói là Trạch diệt, Phi Trạch diệt vô vi… Nay đối với Phật nên suy rộng nói là v.v… (đẳng). Trong phần giải thích nghóa “Hư không vô vi nói Không có sắc hiện xứ” là do Luận Khởi Tín cho rằng hư Không dùng để đối với sắc. Có sắc thì có tướng có thể nhận thấy, tức là chổ Không có sắc hiện chính là Không. Câu “Nếu có tu tập” tiếp xuống là căn cứ việc nghe thuyết mà không có gì là nghe thuyết, đều quy tụ về nơi Bát-nhã. Nên tất cả pháp đều là Như. Tiếp đến tóm kết sự tu tập trì quả vị Phật. Nghóa là nếu y như nghóa gì nói ở trên đây mà tu tập, thì tức là hộ trì quả chứng đắc của Phật, cũng hộ trì Tát-bà-nhã, Thập lực v.v… tất cả công đức, quả vị đều như nhau vậy. Cuối cùng nói đến lợi ích của đại chúng hiện có. Như Sớ giải thích v.v… có thể biết. Giải Thích Phẩm Bồ-tát Giáo Hóa. Giáo lấy sự lợi tha làm gốc. Không có lợi ích muôn vật, thì sao cho là giáo. Hóa lấy sự tu hành chính mình làm đầu. Không gắn liền với tu hành thì sao cho là hóa độ. Cho nên trước nói rõ về quán Không, để thành tựu công hạnh của mình hiện tại, tiếp nói đến giáo hóa, để sinh khởi việc lợi ích mọi người nơi đời sau. Phẩm Giáo Hóa đây, chính là đáp lại nghóa hộ trì bên trong đã nêu trước, tiếp đến là hỏi. Nói theo nghóa tự tha, thì không riêng mà riêng tức là hành lợi tha. Bởi thế, đầu tiên giải thích tên đề phẩm gồm có ba đôi Nói Giáo và Hóa: Giáo là chỉ dạy cho chúng sinh lìa bỏ tất cả ác. Hóa là chuyển hóa căn cơ muôn loài thành tu tất cả thiện. Đây là một đối Thiện và Ác. Nói Phật dùng giáo pháp này hóa độ chúng sinh được thành tựu hạnh Bồ-tát. Đây là đôi Phàm Thánh. Lại dùng pháp này chuyển hóa các Quốc vương, khiến nhận biết về Bát-nhã. Đây là đôi Chân và Tục. Phàm nói về Hóa chuyển có ba nghóa tức là ý chỉ đã nói vậy v.v… Nhưng phẩm này tuy chính nói về sự hộ trì bên trong nhưng đã hóa độ các Quốc vương nên thật sự bao gồm cả hộ trì bên ngoài. Mặc dù dựa vào Tục đế, nhưng đã khiến cho nhận biết Bát-nhã, hiểu thấu các pháp là Không nên thật sự bao gồm đủ Đế (ba Đế). Một giải thích này thông suốt về lý, nghóa càng thêm rõ. Tiếp đến “Tùy thuận giải thích”: Câu “Bạch Phật” tiếp xuống gồm hai: Trước nêu ra hỏi. Nói Hộ trì Bồ-tát trong công hạnh của mười Địa: Đây nên làm hai lớp chủ thể, đối tượng. Lớp một: Bát-nhã làm chủ thể hộ trì, các pháp làm đối tượng được hộ trì. Lớp hai công hạnh của mười Địa là đối tượng được hộ trì. Bồ-tát là chủ thể hộ trì. Nói hộ trì cái đối tượng hộ trì nào, để hộ trì nó mà không rơi vào thiên lệch ư? Đây là ý như thế nào hành hóa cái đáng được hành hóa v.v… gồm lập ra ba câu hỏi. Nghóa là Bồ-tát hành hóa, thì sự hành hóa đó rất chung, nay trong đây hỏi sự hành hóa nào có thể tu hành. Là câu hỏi thứ nhất. Lại ở trong đó có tự, tha thì dựa vào quả vị, nào để hành hóa mà hóa độ chúng sinh là câu hỏi thứ hai. Phàm thấy chúng sinh có tướng chấp trước, tướng lìa bỏ, này dùng tướng gì mà thấy chúng sinh để kham nhận việc hóa độ, là câu hỏi thứ ba. Câu “Xét theo” tiếp xuống là nhận định trả lời. Tức năm Nhẫn là sự hành hóa, mười Địa là quả vị, tự và tha đều là huyễn. Theo thứ tự đó trả lời rõ ràng vậy. Câu “Lại Kinh này” tiếp xuống là nhận định lần nữa về nghóa tự tha. Tức lại dùng Tông nêu lên mục. Chẳng riêng biệt, mà riêng biệt là hành lợi tha. Từ câu “Phật nói” tiếp xuống là Văn trả lời, gồm hai phần. Đầu tiên phân khoa nhận định, tiếp đến giải thích rộng ra v.v… Song dùng năm Nhẫn trả lời cho câu thứ nhất, nghóa là năm thứ: Phục Nhẫn v.v… là pháp của Bồ-tát. Căn cứ quả vị thì mỗi vị phân ra ba phẩm, mỗi một phẩm có tướng trạng tăng tiến mà vị thì trụ bất định, kết hợp với ý chỉ đều Không, an trụ ở Đế lý nên chung được gọi là Nhẫn. Đó là chổ nương tựa của Bồ-tát hành hóa. Tức là tu hành các pháp có thể thực hành vậy. Trong phần giải thích rộng, Sớ kết hợp năm Nhẫn và sáu Chủng tánh để giải thích và bổ sung thêm nghóa phần văn nói tướng Hoặc, là đối tượng được đoạn, nên thật không dễ hiểu rõ. Phân trước nêu ra các tướng khác rồi sau dùng kết hợp. Cho nên, nay nói tướng khác: Căn cứ vào giải thích thông thường thì Sơ địa Biệt giáo chứng đạo đồng với Viên giáo, đã phá Vô minh có thể phân thân ra trăm cõi thành Phật. Mà Kinh này nêu ra mười Địa, chính là phân ra làm bốn. Nghóa là ba thứ trước, một thứ sau dùng đối với mười Địa. Tức hai trước cũng là hai Nhẫn Tín, Thuận, thì ba Nhẫn sau mới phá vô minh. Nếu vậy thì cùng với Sơ địa chứng đạo đồng với phần quả của Viên giáo, thị hiện dấu vết v.v… là tướng trạng khác thứ nhất. Lại Hoặc - đối tượng được đoạn của hai Nhẫn: Tín, Thuận thì chỉ đoạn phiền não thô, trọng sắc, tâm nơi ba cõi. Đây với cách thông thường giải thích có khác, là tướng trạng khác thứ hai. Ở đây cần biết có hai nẻo đường Giáo, Chứng-Căn cứ vào Chứng đạo để biện luận, chắc chắn sẽ như vừa nói bên trên tức đồng với Viên giáo. Nay chọn lấy nẻo đường Giáo làm nghóa, thì chẳng trở ngại những phẩm khác nhau trong mười địa. Và nghóa của Hoặc được đoạn trừ nhiều ít, nghóa tương ưng xác lập ba phần thượng trung hạ của quả vị nơi Vô sinh nhẫn, như là văn nay nói. Vì căn có lợi độn. Lợi thì ba phẩm đầu liền phá vô minh. Độn thì ba phẩm trung mới phá, lại kế tiếp ba phẩm sau mới phá. Đã cho là đầu tiên phá được thì cũng chẳng trở ngại nói chứng đồng với Viên giáo. Tiếp đến chưa đoạn thì vẫn còn ở Tín, Thuận nhẫn cũng là ảnh hưỡng cùng hiển bày vậy. Cho đến ba Nhẫn sau đoạn, thì quả vị mới định cùng như hạ căn tiếp nhận quả vị của họ là định rõ đó vậy. Mà Hoặc - đối tượng được phá kia, tuy phân biệt sự khác nhau của sắc tâm và tế, nhưng đối với lợi căn thì tức là vô minh, người độn căn tức Kiến, Tư Hoặc. Thế thì lại đâu có gì cố định hẳn vậy. Huống nữa tất đàm bao trùm muôn vật! Đầu tiên không có pháp nhất định, nói có đường khác, chớ cho danh tướng la mê người có chí học thì nên tận tâm, như chẳng như vậy thì đặt qua ư! Một bên. Câu “Kinh nói phát khởi tướng tín”: Tức quả vị tương đương Tín của Biệt giáo, là phát khởi tướng trạng trước đây của tâm Tín. Sớ cũng làm chữ Tưởng. Đó gọi là về lý thì vốn đủ tướng này; dựa vào lý khởi lên tưởng v.v.. cũng là nghóa đó vậy. Câu “Nhưng cùng với Viên, Biệt giáo nay khác vậy v.v… là nói mười Trụ đầu của Phục Nhẫn. Căn cứ vào quả vị mà định lượng, cũng là Nhị thừa. Mà nói “Vượt qua” tức là căn cứ sự nhận biết trong đó, trí tuệ hiểu biết có thể hàng phục vô minh. Sớ lại dựa vào Tín của Viên giáo để giải thích. Nghóa là hoặc sợ chọn lấy văn giải thích Tín này giống như bằng với chổ loại trừ bốn trụ vô minh. Nhưng mà kia lấy sự hàng phục vô minh làm vượt qua, đây lấy việc đoạn trừ làm vượt qua. Nghóa đó đã thông suốt, thì sự tiến thoái không có lỗi, mà cũng là thuận tiện tiếp nối nghóa “Nuôi lớn Thánh thai” ở bên dưới. Theo nội dung như đây nếu luận về việc xuất thai thì thì phù hợp ở phần Chân đế. Hoặc riêng có ý v.v… Từ đây trở xuống nghi rằng văn sớ nghi ngờ thêm một hai chữ. Phần cuối văn sẽ nói việc xuất Thánh thai. Câu “Khởi Can Tuệ” tiếp xuống nghóa là nói chưa có nước Lý, vốn là đang ở điểm khởi của Văn tuệ, nên nói là Can Tuệ. Nay ở trong vị Tư, Tu tuệ mà nói e rằng vẫn như cách nói ở trước, nên khởi đầu từ Can Tuệ là Văn tuệ. Đó thật ra chính là tương đương vị Phục Nhẫn. Sớ nhận định về quả vị vốn đương là… nhưng giải thích chữ Văn lầm thành chữ Danh (Danh tuệ). nghi rằng nhiều hơn một câu kết. chữ Thiên (là ngàn) thì không đúng. Nhưng Kinh chính xác đã vậy, há lại không dùng! Cũng có mười thứ, tâm gọi chung là ý, vì vậy bốn thứ là ý tức chỉ Niệm xứ. Ở Thân, Thọ, Tâm, Pháp khiến không dấy khởi tà vạy, điên đảo. Ba thứ là ý tức chỉ ba Nhẫn khiến không dấy khởi suy nghó về người quả ở ba đời. Ba thứ là ý, tức chỉ ba thiện căn khiến không dấy khởi ba độc. Như Sớ nói v.v… Câu “Lại có” tiếp xuống: Nói rõ về Thập Hướng, tức quả vị Đạo chủng tánh. Cũng nhờ tu tập Phục Nhẫn trước đây, nên tiến đi vào đạo bình đẳng, cùng với Thánh đạo của Sơ địa làm người tu tập. Cũng vẫn như trên nói tức dùng trước so sánh đối chiếu với sau, thì lại có mười loại Nhẫn v.v… dùng Quán đối với Nhẫn, thứ tư có thể biết. Quán đầu tiên ở sắc ấm được Giới, Nhẫn, nghóa là gốc của giới, tác, vô tác thuộc vềấm, sắc thu nhiếp, nên quán sắc, ấm thì phát ra Giới Nhẫn. Nhưng văn không nói lý do được Sắc ấm thu nhiếp. Đây như Luận riêng v.v… Câu “Dùng quán này, thì Thức đối với tri kiến nhẫn v.v… như Sớ nói và. v… Cũng có thể người nơi tưởng vào Định, Thọ thì lấy Pháp tuệ, Hành thì lấy Không giải thoát. Thức là tâm vương mà có thể phát ra v.v… trước sau không nhất định. Quán người quả của ba cõi là, Không, đắc ba nhẫn về không v.v… như Sớ có thể biết. Quán hai đế thông suốt, hiểu rõ pháp là vô thường gọi là Vô thường Nhẫn. Thấu đạt tất cả pháp là Không gọi là Vô sanh Nhẫn. Nhưng Thập Hướng vẫn còn là Đạo chủng tính tuy chưa đắc Vô sinh, mà được tồn tại chẳng lâu. Thế cho nên nói vậy. Lại dựa theo Vô thường v.v… nhận định về hai Nhẫn cũng là một cách giải thích thông thường. Từ hành, vị riêng biệt của tự nó mà nói, nghóa là cũng có thể quán vô thường, an trụ ở vô thường, quán Vô sinh thì an trụ ở Vô sinh, đầu tiên thì Không có quyết định hiện hữu (an trụ). Câu: “Là mười tâm kiên cố của Bồ-tát” nghóa là không ngoài do mười Nhẫn trước đây mà được thành tựu đức hạnh nhẫn chịu, kiên cố. Cho nên nói vậy. Câu “Lại Tín nhẫn” tiếp xuống là nêu ra khởi lên quả vị của Nhẫn “Nhưng vì” tiếp xuống là ba loại Tín, nghóa nói rõ đây tương đương Chương tín tức là quả vị của Sơ địa chứng đạo. Ấy gọi là khéo sáng suốt thấu hiểu mà tu hành trong đó, còn đối với quả vị thì như Kinh nói, tức địa thứ nhất, hai, ba; các Nhẫn sau đối với quả vị ví như đây. Nói “Tu hành trong đó” cũng như văn tiếp dưới nói tu hành trong Nhẫn vậy. Nói đoạn các sắc phiền não trói buộc trong ba cõi, tức ba vị Hiền trước đoạn các Hoặc, thô, chứ không phải nói Sơ địa mới đoạn. Nếu căn cứ chứng đạo thì đồng với Viên giáo kết hợp việc đoạn căn bản vô minh ở ngoài cõi. Đã như trên chỉ rõ, mà nay lại nói phiền não tâm tức tương đương phần trước nói sắc v.v… nhưng chỉ căn cứ vào tâm sắc mà nói. Nay căn cứ sắc tâm đều là tâm, gộp lại mà nói. Vì thế, phải kết hợp để luận nghóa vậy. Như văn tiếp dưới, lại nói phiền não tập, thì tập là vô minh chánh sử, cho đến sau tướng Vô minh tập tận cùng hết, mới phân thành chánh tập. Nói riêng mỗi thứ là đều có nghóa của nó. Cho nên biết, cách nói là một nhà tập khí, thì thật là khó hiểu. Như luận riêng v.v… Trong phần văn trình bày về thâu nhiếp hóa thân nói một thân, nhiều thân, Sớ giải thích nghóa là hóa thân thật có sự khác nhau, nhưng cũng chỉ là cách thông thường gọi là phân thân ra trăm cõi ngàn cõi v.v… Đã nói phân ra quả thì tự nhiên vô lượng thân là một thân; một thân là vô lượng thân chỉ căn cứ ở quả vị sâu, cạn. Dùng gốc theo ngọn thì một thân là vô lượng thân, dùng ngọn theo gốc thì vô lượng thân là một thân. Cũng thuận theo mà nói khác, tức nói một thân tức là Không, vô lượng thân tức là giả không phải một, không phải vô lượng là Trung đạo. Câu “Lại dùng mười lăm tâm” tiếp xuống là từ từng phần cho đến tột cùng. “Là gốc của tất cả hành của Bồ-tát”: Nghóa là Bồ-tát dùng Tứ nhiếp v.v… cùng chung mười lăm tâm mới phát khởi ở đây, đó là nghóa Thủ (đứng đầu); là gốc của chủ thể sinh các hành là nghóa chủng (Chủng tử) như Sớ nói v.v… Nói: “Đoạn trừ các phiền não tập, tâm v.v… trong ba cõi” tức là bao gồm cả trước đối chiếu sau, nghóa có tiến thối giảm như trên đã nói. Cho nên, Hoặc được đoạn ấy có sắc tâm đồng dị cùng sai biệt, như trước đã luận bàn. Nói tâm sắc phiền não tập v.v… thì chẳng phải như trên nói cho rằng Hoặc thô nên sắc tâm đều đoạn, mà đây là quả vị rất cao nên Hoặc sâu, và nhỏ nhiệm, không những không phân ra được sắc tâm, mà chánh tập cũng không thể phân thành, tức là không có tập có thể đoạn. Lại nếu căn cứ vào tâm sau của quả vị Đẳng giác thì ngược lại tu tập bao gồm sự, cũng đoạn trừ Hoặc vi tế v.v… tức có tập khí có thể đoạn. Mà văn sau nói cùng đoạn chánh tập; tức là cũng không trở ngại bao gồm có nghóa này, mà nghóa đầu tiên không có vậy. Cho nên biết cảnh giới của chư Phật trên phải hạn của Hiền Thánh, quyết không thể lấy lượng định rõ mà luận bàn. Tiếp nói về Tịch Diệt Nhẫn thứ năm, nghóa là so với bốn Nhẫn trước thì có khác nhau của tận cùng và chẳng tận cùng. Bốn Nhẫn kia thì gọi là Người địa tu hành tuy có đoạn phiền não Hoặc mà chưa tận cùng đến bờ mé. Như là chánh, là tập thì Phật mới rốt ráo đoạn tận. E rằng có phù hợp với nghóa Văn ở phần này. Nếu cho rằng nghóa Tịch Diệt Nhẫn là đều đoạn trừ tâm sắc, tưởng tập v.v… thì cũng còn năng sở đối đãi Nhẫn ấy đối với danh, tướng chưa có thể quên mất vậy. Nếu nói về sự tột cùng của Nhẫn, là tột cùng ở vô sinh, tột cùng ở vô diệt, thì không có tâm nào mà Không tịch, Không có trưởng nào mà không diệt; nơi diệt của vô diệt đó chính là nghóa của tánh tịch chân thật, là chổ của chư Phật và Bồ-tát cùng chứng. Vì thế nói v.v… Đó cũng là đồng vận dụng Trí Nhẫn nhập vào định của Lý Kim Cương. Căn cứ vào tu chứng để nêu bày về nghóa nên nói: Vận dụng đi vào, không còn Thể riêng nào khác nữa vì không là thứ lớp, mà thứ lớp người quả đã phân ra, tức là sự khác nhau của tột cùng và phần hạn. Câu “Cho nên nói” tiếp xuống là nói sự tu hành trong Nhẫn v.v… Căn cứ Nhẫn phân ra vị thì Người gọi là Bồ-tát, Quả gọi là Tát-bà-nhã cây, cùng quán Đệ-nhất-nghóa-đế đoạn trừ tập tâm phiền não, đó là dùng tận tướng vô tướng. Phân ra nói tận tướng tức là đối với trước mà nói, chính là tâm sau Kim Cương. Nói tận tướng vô tướng thì bao gồm cả sau để diển đạt cái quả Tát-bà-nhã tột cùng. Câu “Cho đến ở địa vị vượt qua Hai đế” tiếp xuống là dùng vị Đẳng giác đối với Diệu Giác mà nói. Tức địa thứ mười một là Tát vân nhã, phiên dịch là Nhất-thiết-trí trong đương quả vị Đẳng giác. Câu “Giác chẳng phải có, chẳng phải không” tiếp xuống là chính nói vị Tát-bà-nhã của quả Diệu giác. Dựa theo Sớ phiên dịch là Nhất- thiết-chủng-trí. (đã thấy ở quyển trung) thì chữ “Nhã” của đầu tiên và thứ hai (Tát văn nhã, Tát-bà-nhã) càng phù hợp với phần trên hơn! Vì thế, biết người xưa phân biệt sự đồng khác và phiên dịch danh nghóa đảo ngược vậy. Do đó, mà bàn luận, thì Tát vân nhã cũng như vẫn còn chưa đến quả vị tột cùng. Nếu căn cứ vào Thể để nói, thì Tát-bà-nhã mới chính là quả vị tột cùng cũng căn cứ vào Dụng mà nói, thì Tát-bà- nhã được gọi ậy là thừa hành, vận dụng đi đến ba cõi để hóa độ. Như thế, giải thích chi tiết tức cã hai có đồng có khác, rõ ràng có thể biết. Cho nên, giữ lại cả hai cách nói. Và Sớ theo cách giải thích trước; đều thuận theo sự dung hòa mà nói vậy, không nhất định cũng nói như người xưa. Câu “Kim Cương dụ định nói” là dẫn giải hai cách nói của người xưa v.v… Sớ tuy không xác định nhưng nay cho rằng hai chổ nói Kim cương ấy, chính tự nó không đồng với “Dụ” trong Đại Kinh, tức có thể ví Kinh này là Kim cương trí định, có thể phá phiền não mà tự thể nó Không hư hoại; như Kinh nói v.v… Nếu như chổ Đại luận nói cho rằng sừng dê, mai rùa có thể bị nghiền nát thì đây là những loại vật chắc chắn cùng cảm nhận được, cũng chỉ như đá quý, Kim cương đó vậy. Đây là gốc từ Đại luận nêu bày. Nay nói từ Đại Kinh, e là lầm. Chính là nói “Không có tiếng kêu nào phá được âm thanh đó” là nghóa ấy vậy. Nếu như Kinh Lăng Già đã nêu, thì Vàng, Kim cương có đủ tính chất không thể phá hoại, tức một văn này có thể chứng minh hai sự khác nhau. Xưa nay phần nhiều không biện giải về điểm này, chỉ nêu bày ra thôi. Câu “Lại nữa” tiếp xuống là nói sự hành hóa trong Nhẫn cùng phối hợp với quả vị. Gồm có ba nghóa: Nghóa là quả vị có thượng hạ. Thâu nhiếp có người quả, hội nhập có trước sau. Như Sớ nói v.v… Chữ “Tát-bà-nhã” như phần văn Sớ trên đã phiên dịch là “Nhất- thiết-chủng-trí”, nay lại phiên dịch “Nhất-thiết-trí”, e đoạn văn này lầm v.v… Nói “Đẳng giác hoặc có hoặc không”, thì nay dùng Bát-nhã phụ vào để thông hợp, nên không giống như là có riêng biệt. Dẫn hai văn chứng minh, càng thấy rõ Không thể nói Đẳng giác là như thế. Nói tập, vô minh, tận tướng: Như Sớ đã phân tích, giải thích v.v… đều là luận đến chổ cực vi, sâu nhiên tột cùng, chổ phù hợp với nghóa tận tướng và tâm. Rõ ràng, nói theo trí tuệ, thì tuy có thể tận trừ hết tướng, mà chưa tận trừ được vô tướng thì vẫn còn có trí, trí tuệ hiện còn không tự quên mất, thì Thể chân thật của Bát-nhã không tự nhiên mà sáng. Đây nghóa là ngoài tận trừ tướng ra, cần phải tận trừ cái tận trừ kia thì mới gọi là Tát-bà-nhã. Nếu nói Tát vân nhã vẫn còn ở Trí địa, nên chưa đủ đạt đến đích tột cùng, thì điểm đến tột cùng ấy chính là tướng, vô tướng đều tận trừ hết. Vì vậy, vượt qua hai Đế, là vượt ra ngoài cảnh ấy, Giác chẳng phải có, chẳng phải không, là ra ngoài cái gọi là trí tuệ, tức chổ gọi là đồng chân đế bình đẳng pháp tánh thì cũng là giả danh. Nếu vượt ra ngoài những thứ đây, thì kia tự nhiên không có, kia không đây không, thì chủ thể, đối tượng cùng bặt dứt, cầu sự sáng suốt, rõ ràng chẳng có gì là đạt được, thì vô minh sao được còn hiện hữu ư?! Đây là chứng minh lý do Trí tuệ là tướng chủ thể mà lại có thể tận trừ vô tướng, khiến cho tận cùng tướng vô minh, cũng đã bị tận trừ theo vậy. Lại nói: “Vô minh chưa tận trừ hết, tức chỉ là vô tướng chưa tận trừ hết”. Như vậy, theo đây mà giải thích, cũng không cần phân tích, chọn lọc. Lại việc tận trừ và không tận trừ tướng đây nếu giỏi tận trừ một, ắt được tận trừ cả hai. Khiến cho tận trừ cả hai mà không giỏi, thì tận trừ một cũng chưa xong. Có thể dùng lý để hiểu, khó dùng lời nói hết vậy. Nói: “Tát-vân-nhã là của địa thứ mười một”: Tức tương đương quả vị Đẳng giác, chấp nhận có lý “Chưa tận cùng”. Vì vậy Sớ nói: “Theo như trước giải thích”.”Như trước” lại nói “Có nghóa tức là ngầm nói về quả vị Đẳng giác”, hoặc sợ lầm chữ “Như trước” để chỉ văn trên, thì văn giải thích sau sẽ lầm cho là hai cách nói ở trên đều có thể là Tát- bà-nhã. Tát-bà-nhã đã tương đương quả vị Diệu giác, chứng trí đến tột cùng, sao được cùng gọi chung với Tát-vân-nhã? Vì thế biết Tát-bà-nhã ra xa hẳn các biểu thị của danh tướng, nghó bàn. Đều trở về một Như mà thôi. Dùng Tát-bà-nhã dấy khởi sự nghiệp giáo hóa thì gọi là vận dụng, nương theo mà đến ba cõi để giáo hóa, ấy gọi là như điều khiển chiếc xe đi đến đích, cũng gọi là Thừa vậy. Câu “Vì sao gọi là ý chỉ sâu nhiệm của Kinh này thì có giống như đây”. Câu này có thể bỏ qua v.v…. Câu “Vô duyên đại bỉ” tiếp xuống là nói về phần loại của sự thâu nhiếp giáo hóa. Nghóa là quả vị cứu cánh thì giác ngộ tự mình, giác ngộ hành hóa đã viên mãn, vận chuyển chiếc xe Trí tuệ, dùng duyên của vô minh, mà duyên với chúng sinh trong cảnh khổ đau nơi ba cõi, để thực hành tâm bi hóa độ. Vì thế nói: Tất cả chúng sinh bình đẳng”. Từ có ba thứ, thì Bi cũng theo đó như vậy. Chẳng nói v.v… (đẳng) Từ câu “Này người thiện nam” tiếp xuống, là nói dùng Tông tóm kết nghóa thấu nhiếp. Bởi vì sự giáo hóa cơ, cảm, chủ thể, đối tượng này theo gần mà tóm gọn không ngoài nhất tâm, tam giới. Đây tức có kết hợp ý chỉ sâu xa về cái gọi là “Tam giới duy tâm”. Cho nên, lại là Tông chỉ. Văn trước tuy chính thức nói về công hạnh tự mình, mà cũng bao gồm cả nghóa lợi tha, tuy gấp rút việc cứu khổ, mà cũng nói chung về sự an lạc, nên phần chính đều không ngoài các văn bên trên đã nêu bày. Và thế nói: Tất cả chúng sinh, phiền não không ra ngoài sự tích chứa (tạng) trong ba cõi. Như vừa nói nghóa tích chứa (tạng) trong ba cõi, nhưng văn trước có nói nghóa Tạng không, tức là nay nói về cảnh của đối tượng được hóa độ nên khác. Nói hai mươi hai căn: Sớ giải thích tổng các căn, xác nhận từng đó số, không thể không có lý đúng. Nhưng đã liệt kê ở phần dưới các quả báo lại nói: Không ngoài ba cõi”; e rằng đó là nói: “Không có sự giáo hóa nào mà không xuất hiện”. Nếu dựa theo ba cõi, sáu căn mà nói, thì có mười có tám, gồm với Noãn, thức, tức, mạng tổng biệt đều nêu, cũng là hai mươi hai, lý ấy có vẻ gần, nên cùng nêu ra đây v.v… Câu: “Thân Pháp, Ứng, Hóa của Phật không ngoài ba cõi”. Tuy nhiều, cho rằng Phật đã phá trừ bốn Ma, đã không còn được kể là trong ba cõi. nay là cho Pháp thân của Phật. Không nơi nào không có mặt, cho Ứng thân, Hóa thân của Phật thị hiện vô cùng, không giới hạn phương sở, Ứng Hóa tức là Pháp nên không ở trong ba cõi, Pháp thân tức là Ứng thân nên không ngoài ba cõi. Kinh bao gồm hai ý, nên nói: Ứng, Hóa, Pháp thân. Sớ giải thích theo ý sau. Vì vậy nói: “Ngoài ba cõi thì không có chúng sinh riêng khác, nếu không có chúng sinh riêng khác, thì Phật chổ nào hóa độ, mà nói là ngoài ba cõi ư? Từ câu “Vì thế, Ta nói” tiếp xuống: Sớ cho rằng chữ “Thích, thuyết” (lắng nghe, Ta nói) thì chữ “Thích” tương ưng tiếng gọi bình thường. Nghóa là Kinh của ngoại đạo thuyết giảng cũng nói là “Thích”, chấp nhận có như văn kinh đây, nhưng thuyết giảng thì không phải nghóa rõ ràng, chính xác theo Lý. Vì thế nói: “Không phải sự thuyết giảng của bảy Đức Phật”. Câu “Đại kinh” tiếp xuống là nêu dẫn các Kinh chung chứng minh Thể của ba thân tức là bốn cõi Không sai biệt cho nên biết, ngoài ba cõi, không có ba cõi riêng biệt để nói vậy. Trong ngoài cõi đều là một, đây là nói cùng trọn lý. Tiếp đến phân biệt nhận định bên ngoài cõi thật có hay không. Trong phần giải đáp nói có, không đều chẳng nhất định, rồi nêu ra Thánh giáo nói rõ điều này, có thể biết. Tuy nhiên, Kinh Pháp Hoa nói ở ngoài ba trăm do tuần, phương tiện thiết lập Hóa thành, thì ngoài ba cõi còn riêng có cõi phương tiện. Dựa vào trong, ngoài cõi luận định về có hoặc không tức là sự khác biệt của pháp tánh và phần giả. Nếu như Không Tịnh Danh nói: Xét theo mười phương cõi nước là không có cùng tận, sao lại dùng một phương định đoạt nó là có hay không? Lại hỏi: Đều rút ra từ Thánh giáo mà có, không như đây nói, há không phải là mâu thuẫn với Thánh giáo ư? Trong phần giải đáp là hội chung giải thích. Ý là: Chúng sinh có hai loại: Chúng sinh trong cõi Phật có sinh tử quả báo. Chúng sinh ngoài cõi, thì có pháp tánh người quả biến dịch. Mà Kinh đây nói không có, tức không có chúng sinh thuộc phân đoạn (sinh tử), còn lại Kinh nói có, thì là có chúng sinh thuộc biến dịch. Đây là có và không có sở dó khác là vậy. Nay nói ngoài cõi không có chúng sinh thuộc biến dịch; e sợ lầm, hoặc riêng có ý, khác xin xem kỹ lại. Cũng nên theo như trên mà nói: Trong cõi nói có, là có chúng sinh thuộc phân đoạn; trong cõi nói không có là không có chúng sinh thuộc biến dịch. Nghóa này có thể biết. Vì vậy nói hàng Thanh văn sinh ra ở ngoài cõi, thì ví như trên đã nêu rõ v.v… Nói “Sinh thế giới bạch ngân” tức là nói không có phiền não nhiễm ô. Căn cứ ở không có phiền não nói không có sinh, là cũng theo giải thích thông thường như vậy. Mà thật ra, Thanh văn hoàn toàn vẫn còn vô minh, há được gọi là vô sinh ư? Nói “Vệ Thế sư ngoại đạo” tức chỗ văn bên trên, bác bỏ các sư chấp đại hữu (chấp có). Họ cho ngoài ba cõi, còn có thế giới khác, cho rằng y báo giống như chánh báo nên cũng có chúng sinh riêng khác. Nếu không phân tích riêng cái lý do khác ấy, thì cũng đồng với ngoại đạo tà thuyết. Lại nói: “Luận Khởi Tín có nêu: Nếu nói ngoài ba cõi lại còn có chúng sinh bắt đầu sinh khởi, tức là Kinh của ngoại đạo thuyết giảng”; chính là chỉ Kiến chấp của Vệ Thế sư này vậy. Chỉ vì Luận kia bao gồm nói đến nghóa Như Lai Tạng là vô thủy vô chung nên mới khẳng định: “Không được nói có chúng sinh bắt đầu sinh khởi” (hữu thủy), mà cho đây là khác với ngoại đạo đó thôi! Từ câu “Thật lý” tiếp xuống: Căn cứ vào Thật mà luận: Nghóa là Vốn chẳng phải là không hay có. Nói có và không đều là thuyết giảng tùy thuận tất đàn, cũng là phá chấp nên thuyết để đối trị. Vậy nên, nói có là phàm phu ngoại đạo, nói không có là đồng với Nhị thừa. Nếu là Bồ-tát, Phật thì thật thấy, thật biết chẳng có chẳng không chẳng như chẳng khác, lý thật trong đó là tâm, không giống như ba cõi thấy, là phân biệt tình tưởng. Đây chính là thuyết giảng của Kinh Pháp Hoa, cứu cánh khai bày tỏ rõ vậy. Tứ câu “Đại vương ta thường nói” tiếp xuống là dẫn xưa chứng minh nay. Nói rằng tất cả hoặc nghiệp quả báo nơi ba cõi của chúng sinh đều trừ sạch hết, tức gọi đó là Phật, cũng gọi là Giác. Không để một chút gián đoạn, há để cho chúng sinh xen vào gián đoạn? Trong phần này nghi đã thêm một chữ Giác. Cho nên biết nơi ba đạo chuyển tức là Phật là Trí tuệ, là hành hóa nơi bản nghiệp. Ở trong năm Nhẫn thảy đều đầy đủ, lại không có đạo khác, há có chúng sinh ở ngoài ư? Bản nghiệp của chúng sinh tức sự nghiệp tu hành của Phật và Bồ-tát, nghóa là tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay với những sự nghiệp tu hành xưa kia, thì Thể tương đương không gì không phải Duyên, Liễu của tánh đức, cùng với năm Nhẫn nay thật sự bình đẳng không khác. Đó là như Kinh Tịnh Danh nói: Không lìa si ái mà phát khởi các minh, giải thoát vậy. “Cũng có thể”: Nghóa là theo điểm chính mà tóm kết. Cho nên nói: Trong năm Nhẫn, mười bốn Nhẫn đều có đủ. Tức ba cõi không ngoài một tâm; một tâm không ngoài tự tánh. Nên nói: Tự tánh thanh tịnh. Sớ thì lại nói: Do phiền não nên tu hành, nhờ tu hành nên thành tựu đức, đức thành tựu thì quả viên mãn. Suy từ gốc mà nói thì chỉ là một lý. Từ câu “Bạch Phật rằng” tiếp xuống là phần thứ hai, tiếp phần trả lời là hỏi trong đây trước lặp lại câu hỏi, sau trong phần đáp, trước nêu bày về Thập địa và nới hành hóa của Phật quang minh. Đó gọi là vượt qua sự thanh tịnh của Bồ-tát vốn có hiện hành nghóa là tri kiến của Phật, là cảnh vi diệu mà bậc đạt được quả vị cứu cánh đã chứng đắc; quay trở lại dựa vào pháp này giáo hóa chúng sinh hộ trì sự thanh tịnh hiện hữu, bởi thế tức là không có “Mất”. Như trước đã phân biệt v.v… Văn Sớ nêu ra hai Kinh là Pháp Hoa, Tịnh Danh để giải thích nghóa “Mất”. Hầu như tương tợ giống, mà có ý khác. Tiếp đến phân định giới hạn chung của mưới địa, như giải thích bên trên v.v… Tiếp đến nói rộng về bản nghiệp, như văn Kinh nói có năm. Nghóa là trăm, ức v.v… cảnh nước, rộng hẹp, thứ tự, số tăng. Giải thích về cõi nước có ba v.v… căn cứ theo đây thì trí tuệ đứng đầu, thần thông kế tiếp, thuyết pháp là sau cùng. Cũng có thể lấy đây phối hợp với ba cõi: Đồng cư v.v… Như vậy, thuyết pháp thì chung ba, thần thông chỉ hai, trí tuệ chỉ một. Tuy phân biệt là vậy, nhưng thần thông cũng bao gồm đủ. Sao có cõi dưới mà không có thần thông ư? Cõi Tịch quang mà không có thuyết pháp ư? Làm Tứ đại Thiên Vương v.v… thì có thể hiện bày thân tướng, tu trăm pháp môn v.v… là pháp môn được thực hành. Hai đế tâm v.v… là hành hóa riêng của từng địa. Hóa độ tất cả chúng sinh v.v… là sự hành hóa chung. Cho nên trong mỗi mỗi, văn nói lần lượt nhiều hơn. Đó chính là sự như Kinh Hoa Nghiêm nói tùy phần, Tùy lực. Tổ Kinh Khê nói: Đều là thuyết giảng của giáo đạo vậy. Lại Sớ dẫn Kinh Thập địa, Anh Lạc và Kinh này, danh tướng nêu ra ở ba Kinh có giống, có khác phải là không có nguyên do. Sớ cũng chưa nói tường tận, tóm lược mà không thể dung hòa lãnh hội v.v… Nói “Túc Tán Vương”: Xét theo sự thích ở sau nói: là Vua nhỏ số nhiều như hạt thóc vỡ vụn ra (hạt tấm), quả vị tương đương với Thiện ở phẩm trung hạ. Cũng như đây là các chư hầu, Thừa tướng v.v… Mà văn Sớ cho rằng thứ bậc ở trên Người vương, e rằng văn nói đảo ngược vậy. Kinh Anh Lạc giải thích ở vị Thiết Luân vương là Thập tín phẩm thương, kinh Thập địa nói tương đương Sơ địa. Căn cứ vào Sớ thì nghóa là ý Biệt, Viên. Phân biệt chưa biết Kinh nào đúng v.v… Nói: “Trong mười Thiện, mỗi Thiện có mười thành một trăm pháp môn” nghóa là dựa theo Kinh Thập địa và Hoa Nghiêm mà nói vậy. Tức lấy một Thiện làm đứng đầu, ắt đủ mười Thiện kia, hỗ tương cùng luận là thành một trăm thiện. Lại dùng hai Thiện: Chỉ và Hành để suy, như điều thiện không sát sinh v.v… đủ mười hành Thiện dùng một hành thiện thì có đủ mười thiện đình chỉ điều ác. Cũng là nghóa đó nên nói v.v… (đẳng) Kinh nói “Cội nguồn của ba cõi”. Nghóa là cội nguồn của gốc cội nguồn vẫn còn mê Hoặc. Chữ bổn (gốc) hoặc viết thành chữ nguyên (cội nguồn) nghóa là cội nguồn của tánh. Cú (câu) có loại ba, năm, bảy, chín sai biệt. Như văn khác nói v.v… Có khi dùng ba mươi hai chữ làm một kệ thủ-lô. Phần này chưa kiểm chứng xuất xứ. Ý e rằng chỉ là nghóa của sự tóm tắt điểm chính. Cũng nói là “Đô lộ”. Sớ nhận định về kệ tụng v.v… Tam bảo gồm nhiều phẩm loại, nay chỉ tán thán hai loại. Nghóa là Biệt tướng thì tướng theo nghóa đó có thể biết, nói một thể là lý tánh có thể rõ. Cho rằng Đại, Tiểu thừa riêng biệt, tùy theo giáo mà khác nhau. Cho quy y là nghóa an trụ giữ gìn thật tại. Tuy tóm lược tán thán hai loại, mà ý nghóa thì đầy đủ. Nói chung là bảo, tức là nghóa đáng tôn quý. Nói Thế Tôn Đại sư là danh hiệu chung của Phật. Nói thể Kim cương là tên gọi chỉ pháp thân bất hoại; dùng tự chứng tức là tâm hành tịch diệt, mà có khả năng xoay chuyển bánh xe pháp lớn để làm lợi ích muôn loài. Nói: “Âm thanh như nước lớn với tám biện tài” là chỉ pháp Phật thuyết ra. Tuy xuất âm thanh từ Phật mà khác loài cùng hiểu được, chính căn cơ hiện có nên nói vì chúng thuyết. Do chứng đắc đạo nên vạn ức tuy là nhiều mà pháp để thành đạo chỉ một. Lại nói về Tăng bảo. Câu “Sáu cõi Trời và người khi ấy” tức là nói sáu cõi Trời Dục và người nơi bốn chúng. Ở cõi Trời tuy không có pháp xuất gia, nhưng có thể dùng tâm xuất gia, đó cũng là đạo xuất gia vậy. Cho nên, nói Tỳ kheo, Bồ-tát, ba Thừa sở dó vì sao thành tựu vậy. Câu “Năm Nhẫn” tiếp xuống là riêng tán thán về Bồ-tát. Đã là mười bốn Đại só thảy đều có thể thấu rõ như thật, thì người quả trước sau thảy đều được thâu nhiếp. Vì thế, ba Hiền mười Thánh, không tách lìa năm loại Nhẫn. Đây đối với mười bốn Đại só tuy có, hợp lại khác nhau mà công đức chỉ là một. Nói: “Chỉ Đức Phật, một con người có khả năng thấu rõ tận cùng cội nguồn” tức rốt ráo hiển bày một cách thấu đáo chỉ có một mình Đức Phật, cũng được gọi là Tăng bảo cứu cánh nhất. Văn tổng kết quy về một Thể. Đã nói Tam bảo tạng, mà lại nói vô lượng công đức được thâu nhiếp vào trong đó, là giải thích chung về nghóa tạng (thâu chứa). Thế mới biết, Tam bảo tuy riêng biệt mà chung đều thâu tóm vô lượng công đức vào trong, cũng là Tam bảo, mỗi bảo đều có vô lượng công đức. Từ câu “Một là vì thâu nhiếp các thập thiện Bồ-tát phát khởi tâm lớn” tiếp xuống là tụng về các quả vị của Phục Nhẫn v.v… công đức xa lìa các lỗi. Ở trong đây trước đưa ra giải thích của người xưa v.v… Nay bác bỏ, cho nên dùng Biệt, Viên gia giảm mà phán định. Nếu cho rằng Thập Tín của Biệt giáo, thì chắc chắn không thỏa đáng, nay phân định là người Thập tín của Viên giáo. Đó gọi là bằng với người cùng trừ bốn trụ (vô minh). Nếu hàng phục vô minh, thì thuộc Tam Tạng giáo, còn yếu. Lại dẫn Kinh Pháp Hoa chứng minh là sinh ở cõi Hữu Dư, mà nói “Dần từng bước” nghóa là bước dần ở trong Viên giáo. Vì thế biết nói phát tâm lớn v.v… Không gì không phải thật sự là Viên giáo. “Thập tín khởi đầu được” nghóa là mới được cách xa biển khổ. Lại tóm tắt phân định cùng so sánh với ba giáo trước (Tạng, Thông, Biệt) cùng lấn đoạt mà luận, có thể biết v.v… Nói: Túc Tán Vương của phẩm Thiện trung, hạ, nghóa là Thập thiện là chính để nêu bày ra vị. Sáu vị Luân vương như Thiết luân v.v… là sáu chủng tánh: Tập đạo v.v… Hai thiên hạ v.v… là cảnh hoa vị của Luân vương v.v… Văn ngắt quãng, lẫn lộn, đối nhau có thể hiểu v.v… “Thất bảo” là chỉ nữ cùng thất bảo. Đây ở tại Luân vương, nên không thể giải thích thất bảo khác. Phần liệt kê trong số, chữ Tín phải làm chữ Trụ. Văn nhầm. Câu “Chữ Phật ba đời” tiếp xuống là nói công đức của Nhẫn những việc khó điều phục. Chữ Phục là hàn phục, lấy điều phục làm nghóa. Vì người đó có thể hàng phục vọng tâm ấy. “Bắt đầu” (thủy) tức là chủ thể sinh ra quả vị Phật ba đời. Suy tư gốc mà nói, là chổ bắt đầu của Hành. Chổ chính giữa tức bởi vì là gốc của Hành nên có thể thành tựu tâm khó phát khởi ấy. Nên là phần giữa của Hành. Có Hành thì có thể đến. Vì người đó kiên cố, không dao động thì chẳng gì mà không nhờ vào đó đến được vô sinh, tức là chổ cuối cùng của Hành. Nay Sớ cho Tín làm Trụ, người xem cứ cho rằng quả vị chính xác, không thể không có lý này chỉ vì văn nhấn mạnh tín tâm, như vậy, chưa hẳn không phải là Thập Tín. Nay vì vậy giữ lại cả hai. Nói “Vô minh bàn bạc” nghóa là chỉ sự rộng lớn mênh mông của Hoặc, khó thể hết, như sự rộng lớn của khối đá. Câu “Có khi không thể tự mình nhấc lên” là nói không phải trí lực của Bát-nhã, thì chẳng có gì thắng nổi. Câu “Nếu được” tiếp xuống là nói công đức của Tín. Văn bao hàm hai ý chẳng ngoại cho là Thập tín của Biệt giáo từng bước tiến dần vào đến Sơ địa. Nếu là Thập tín Viên giáo tức là đi vào Sơ trụ. Đây cũng như đại khái dựa theo nói. Nếu nói đầy đủ ba vị bất thoái là đối với quả vị như thường nói v.v… Câu “Hỏi: Bản nghiệp” tiếp xuống, là phân biệt nhận định sáu tâm thoái chuyển trong mười Trụ. Trong phần này trước nêu dẫn Kinh, tiếp đối với kinh này làm vấn đáp. Trong đây lại có hai, trước nêu ra dụ bất định, có thể biết; tiếp dựa vào giáo phán định để đáp v.v.v. Tức là chung nơi bốn Giáo đều có nghóa “Thoái chuyển”, như văn. Đều không nói lý do sáu tâm kia thoái chuyển. Nghóa là nếu căn cứ văn hiện tại thì còn có mười Hồi hướng thoái chuyển, tức sáu tâm của mười Trụ không thể làm vấn nạn vậy. Cho chổ phán định nay là thoái chuyển của A- tăng-kỳ đầu, thì chắc chắn cũng tự là một lối giải thích, ba thứ sau căn cứ vào vị sâu cạn, e rằng chỉ là đối với quả vị mà so sánh thì nói chung không ngoài nghóa có thoái chuyển trong tương tợ vị. Nhưng mà, các sư Nhật bản vấn nạn chỉ căn cứ vào sáu Trụ. Đã đoạn trừ Kiến Hoặc lìa sinh trong bốn thú, sao được còn có thoái ư? Thời gian trôi qua, đến khi ngài Tứ Minh trả lời, Kinh sách phần nhiều thất tán, không tìm thấy. Nên Sớ nay căn cứ lối giải thích riêng, vốn đủ quyết đoán để nói, chớ không lại lạc vào chốn vô cùng. Nói “Phát tâm, tất cánh cả hai không khác”, nghóa là Trụ ở sơ phát tâm cùng tức là vị cứu cánh. Tuy có khác nhau giữa phần hạn, tột cùng nhưng chứng đạo đồng. Vì vậy nói cả hai không khác. Tuy lý là đối tượng được chứng đắc chỉ một, nhưng mới đầu phát tâm chẳng dễ chút nào, nên nói sự phát tâm trước là khó. Câu “Bồ-tát Thiện Giác” tiếp xuống: Là tụng về phần nói Sơ địa bên trên. Có thể dùng thân Tứ vương thiên tu trăm pháp môn, dùng tâm hai đế, bình đẳng mà hóa độ chúng sinh. Nên nói: Tục như huyễn có v.v… Cũng có thể bình đẳng chiếu Tục và Không, chiếu Chân cùng Huyễn, Chân, Tục không hai. Nên nói cùng chiếu bình đẳng. Câu “Mới bước lên Nhất thừa” là gốc ở Sơ trụ của Viên giáo tức khởi đầu của người chân thật. Nay nói bước vào địa, là ý nói bao gồm Biệt, Viên. Địa tức là Trụ vậy. Kinh pháp Hoa nói về Thừa như câu: “Cưỡi xe báu dạo chơi bốn phương” tức là bốn mươi vị. Lại Kinh Bát- nhã nói bắt đầu chữ A, vốn đủ công đức các địa, cho đến quá chữ Đồ. Chữ Vô có thể nói (chữ A) đó là đạo Vô tướng. Trụ lấy hội nhập lý làm nghóa, nói đó là khởi đầu. Địa lấy chủ thể sinh làm nghóa, nói đó là điểm cuối. Tuy đầu và cuối có khác trên danh nghóa, mà thật sự hội nhập lý, công đức đếu chung, đều được tên gọi là Địa, nên nói v.v… Câu “Vì thế, ở đệ nhất nghóa mà không động” tức là dựa theo Kinh Tịnh Danh đối với thiện riêng pháp tướng mà nói. Nay ở đây tức Lý tột cùng, Sự biến khắp, đầu và cuối nhất như. Đó là một nghóa về bất động. Như Sớ lại dùng Chân đối với Tương tợ so sánh nói, đó hoặc như cũng là một cách nói. Nay dùng Viên Đốn mà luận, đều có thể được. Câu “Ly Đạt Khai Só Đao lợi vương” tức không ngoài căn cứ ở Vua nói rõ Vị, hình hiện tại là nêu bày trí tuệ sáng suốt (minh trí) hóa độ vô duyên v.v.. Sớ giải thích rõ ràng. Cũng có thể nói Vô duyên tức chẳng phải có, Vô tướng là chẳng phải không; chẳng phải có chẳng phải không chính là đế thứ ba - Trung đạo, cũng như trước nói là Tâm đế. Bởi vì, đều là tánh của tâm, tức là nghóa trung. Lại câu “Vô vô đẳng” Sớ giải thích có thể biết. Cũng có thể nghóa là: Không có tức Không có tướng duyên trước; Không không tức không có tướng không, là tức vô sinh. Tuy đây phân biệt, mà đó thật ra không khác, nên không có hai chiếu. Đó là như Kinh Viên Giác nói: Chiếu (năng) và chiếu (sở) cùng lúc đều vẳng lặng, quý ở chổ vong tình, lãnh hội lý thì chỉ một. Nói “Minh tuệ Không chiếu” nghóa là nói trí tuệ là chủ thể sáng suốt, soi chiếu rõ ràng, người và pháp không gì không đều là Không. Cũng tức Không mà soi chiếu nên nói “Không chiếu”. Nói “Tâm nhẫn không có hai”, nghóa là phàm nói về tâm Nhẫn ắt không có hai thứ chấp: chủ thể và đối tượng, cũng là đế thứ ba, đều bặt đứt sự đối đãi nên gọi là Trung. Nói “Xuất có nhập Không”: Một là như Sớ giải thích thẳng mà chưa khéo nay cũng có thể cho rằng văn Sớ còn sơ lược; đầy đủ phải nói: Xuất không nhập có là Biến. Xuất có nhập không là hóa. Chỉ xuất nhập ở giữa có không, nên là biến hóa sinh. Từ câu “Thiện giác, Ly minh” tiếp xuống là tụng phần nói về Tín nhẫn ở trên. Hạng người này có ba. Nghóa là có thể dùng Không Nhẫn đoạn trừ phiền não sắc v.v… Kiến, Tư hoặc của ba cõi, nhưng còn có tâm sắc cùng với vô tri của ngoài cõi. lại xoay trở lại dùng Giả Quán mà quán. Pháp tánh đệ nhất nghóa Không, dùng hai phương tiện được hội nhập, đó là ở đế thư ba soi chiếu không còn sót. Thật trí duyên tịch tức là: dùng Thật trí tức Không trung đạo duyên với tịch, phương tiện tức Quyền trí soi chiếu giả, vì tịch nên thấu rõ đạt được vô sinh, vì soi chiếu nên Không và có đều thấu suốt. Cũng có thể như Sớ đã đối nhau giải thích v.v… Nói “Không Không đế quán”, là dùng Không Quán soi chiếu Chân đế, cũng như nắp và hộp vừa khít nhau, nên Không có hai tướng. Mà dùng giả cho nên có biến hóa trong sáu nẻo, dùng Không, Trung đạo đi vào thì lý ba Đế đầy đủ mà Không gián đoạn. Nói “Vô nhị vô chiếu đẳng” (Không hai không soi chiếu…): Tức đối tượng được soi chiếu, đối tượng được thấu suốt không có hai tướng, không soi chiếu mà chiếu, chiếu tức đạt được lý Không. Nói: Diễm thắng pháp hiện” là tụng phần nói ba địa ở trên, tức quy trở về định vô tướng. Nghóa là định này có khả năng rữa sạch tâm mê Hoặc trong ba cõi. Tuy Không Tuệ vẳng lặng y nhiên không có đối tượng duyên quán nhưng tức tịch mà soi chiếu, quán trở lại quả báo với vô lượng sai biệt. Đó là như kinh Tịnh Danh nói: Vô ngã, vô tạo, vô thọ giả”. Nghiệp của thiện ác cũng chẳng mất là ý nghóa vậy. Trong phần tụng về Vô sinh Nhẫn, nói người Viễn đạt (đạt đến chỗ xa) tức nói Địa thứ bảy hội nhập sâu vào lý Vô sinh. Đối ở sau so sánh với trước lại nói là Viễn đạt. Nói “chưa vượt qua thân báo” nghóa là trong hai mươi mốt đời sau cùng, vị Bồ-tát địa thứ bảy còn có một đời, vì chưa hết nên còn ở phân đoạn sinh tử, hết một đời này tức đi vào biến dịch sinh tử. Vì vậy nói, Bồ-tát vào Pháp lưu địa (dòng pháp). Hai mươi mốt đời là căn cứ nơi bảy địa mỗi địa có ba phẩm, thành hai mươi mốt đời, tức là dùng Trung đạo chánh quán bình đẳng đi vào dòng pháp, không còn ngăn ngại nữa. Nếu vì chứng đạo thì gốc ở Sơ địa, nay bắt đầu đi vào địa thứ tám, tức là ý chứng đạo của Biệt giáo nối tiếp Thông giáo. Nói “Bắt đầu tiến vào vô duyên đẳng”, nghóa là người đó đã vào dòng Thánh pháp, mới đạt được địa thứ tám, và định Vô duyên nhẫn. Nếu dựa theo Biệt giáo mà luận, cũng là tâm sau Kim cương; tức trong người nói quả, không nhận lấy quả báo sinh tử trong ba cõi. Nói: “Ái tập trong ba cõi v.v…” là bảy địa tuy đã đoạn hết Hoặc trong ba cõi, nhưng cũng do trí tuệ bản thân chưa đầy đủ, tham đắm trí tuệ Phật. Đó gọi là ái tập thuận theo đạo định. Mặc dù một mình đã suy xét thấu rõ rồi, nhưng chưa có thể xả bỏ, đến địa thứ tám đắc vô sinh thì hết tham đắm. Câu “Quán viên mãn nơi ba đời mà nói phản chiếu v.v…” nghóa là địa thứ tám, Bồ-tát soi chiếu rõ sự việc của ba đời, như mặt trời chiếu ngược lại mọi việc đã qua, như niềm vui chân thật với việc hiện tại, như suối nguồn vô tận các việc vị lại. Suy nghó có thể hiểu. Cũng như, Luận Khởi Tín nói, ý giống như đây v.v… Do quán như thế, chẳng thể không có lý vi diệu hiện hữu, chính là được dựa vào Sự, thấu rõ Lý, văn nói rõ ràng như thế. Câu “Tập theo văn đây” là nghóa “Há không đạt đến sự tư duy ư” Câu “Quán đỉnh” tiếp xuống là tụng phần nói về Tịch Diệt nhẫn ở tên. Nói: “Ở trên mười hai Pháp sư” là Tín Nhẫn ở trước tức ba mươi tâm, là ba, và trước mười Địa có chín cộng thành mười hai. Đỉnh là ở trên cao nhất, nên nói “Ở trên mười hai pháp sư”. Tịch Diệt nhẫn cũng có ba phẩm. Phẩm hạ trung tức Quán đỉnh của mười địa, so với Diệu giác, chỉ vừa vặn một khoảng cách. Vì thế nói: Một khi chuyển tức đi vào phẩm thượng Diệu giác. Nói “Thường trạm nhiên” nghóa là quả vị tột cùng nên pháp thân hiển bày rốt ráo. Đây chính là Kinh Hoa Nghiêm nói: Pháp thân vi diệu thanh tịnh, trạm nhiên ứng hiện khắp tất cả. Đối với nay có sự khác biệt của phần hạn và tột cùng. Câu “Ba phẩm sớ còn lại”: Sớ giải thích tường tận rồi. Cũng có thể là lặp lại, tóm kết các vị trước để hiển bày sự viên mãn tột cùng. Nghóa là cái nay phải đoạn trừ, tức là tập khí còn lại của chánh sử phiền não nói trước, chính là duyên phần ngọn của vô minh, nếu không là trí tuệ tột cùng, thì chẳng có thể đoạn. Nhưng đều đã ra khỏi phần gốc của vô minh. Vì vậy nói tướng tập khí có khác với mới huân tập. Lại nói: Nên cảm nhận chỉ là thấu rõ tận cùng hai đế, suối nguồn Trung đạo, thì mới được cứu cứu cánh tận cùng. Câu “Trí viên mãn vô tướng” tiếp xuống là sáu câu. Mỗi một câu đều có chữ “Do” (nhờ bởi) để hiển bày đức. Chữ “Ba” còn lại là tùy thuận theo đức nhận tên gọi. Đều như Sớ giải thích có thể biết. Nói “Diệu giác Bồ-tát” là giống như Phật, vẫn còn danh xưng trong mười địa. Đó gọi là Người tận cùng biển Quả, Quả thấu đến nguồn Người, là nghóa đó vậy. Lại nói: “Năm Nhẫn cùng nêu ra”, nghóa là văn trường hàng sơ lược nói năm nhẫn cùng với bốn mươi hai vị kết hợp nêu ra mà thôi. Nay tụng thì văn năm nhẫn lại rộng, còn quả vị chỉ biểu đạt bên trong nó. Nói: “Thập địa Diệu Giác ẩn, hiển chẳng đồng” nghóa là Diệu giác nay cũng gọi là Bồ-tát, nên ẩn, hiển chẳng đồng. Nếu nói là Thập địa, tức Người hiển bày, Quả ẩn mất, nói Diệu giác thì Quả hiển bày, Người ẩn mất. Vì vậy nói: Đại Thánh tùy căn cơ, chuyển văn làm rõ nghóa, đầu tiên là không có chấp nhất định. Câu “Ba Hiền mười Thánh”: Tiếp xuống là tán thán pháp thân của Phật. Dùng cõi là đối tượng nương ở, để hiển bày thân là chủ thể nương theo, cũng là nêu lên Người so sánh Quả. Tức là tu đến tột cùng của pháp thân, thì an trú nơi cõi Tịch quang phẩm thượng, đây là cõi thuộc về Lý. Nếu nói theo Sự, cũng gọi là cõi của báo thân vô thượng, thì thân Phật hiện hữu cứu cánh. Nếu nói từ sự thuận theo Lý thì được danh xưng hai cõi, cho đến nếu căn cứ vào Biệt, Viên giáo có chứng đạo, có giáo đạo, mà luận về cõi, thì xét theo giáo đạo tức mười địa của Biệt giáo sinh ở Báo độ (cõi Thật báo), xét theo chứng đạo tức sơ Trụ của Viên giáo sinh ở thế giới Hoa Tạng. Vì thế nói v.v… (đẳng) Câu “Được không chướng ngại” tiếp xuống: Nghi là thiếu một chữ “Thân”. Từ đây trở xuống văn hơi lẫn lộn, nên phải là văn nói quả vị Diệu giác tột cùng chỉ cõi Tịch Quang, tiếp theo là cõi báo của tất cả chúng sinh tạm ở, chung làm một đoạn; trái lại đem văn ba lần vấn đáp ở trước dời vào phần này, thì văn ít thuận. Nói: “Cõi báo của tất cả chúng sinh tạm ở”: Xưa nói v.v… nghi văn thiếu chữ “Cố” Nay sớ không dùng. Chính là nói trong đó Phật dùng sự chứng đắc tột cùng bước lên Kim Cương, nguồn gốc là vô vi, nhưng cuối cùng vì chúng sinh, nên việc hóa độ có dài, ngắn. Trong phần nhận định, đáp cho rằng là người viên mãn. Nghóa là cho Thánh Hiền đều được sinh. Hiện tại viên mãn mà không nói cõi Tịch Quang, là vì quả kém. Nếu dựa vào ba phẩm để luận thì quả vị Đẳng giác trở lui, cũng được trung, hạ, phẩm sinh, mà vẫn còn tên gọi Hiền Thánh, đó chính là dựa vào Biệt giáo gọi thành Viên giáo. Tuy nhiên ba cõi dưới cũng có Tịnh độ, như Sớ giải Quán Kinh nói v.v… “Mà đây chỉ nhấn mạnh Viên mãn tột cùng” nghóa là Kinh kia căn cứ vào tu tâm quán diệu, nên chung được nói là Tịnh độ, không giống Kinh nay là đối người quả nói tột cùng là Tịnh Quang. Trong phần tán thán hóa tha căn cứ vào đối hình và tiếng, Pháp, thí dụ kết hợp để giải thích, có thể biết. “Ngoại đạo hoàn toàn vô nghóa”, tức học thuyết của họ đều là giả dối, tà kiến, nên không có nghóa Như thật. Đó gọi là nghóa hữu danh vô thực của Thế đế. Ngoài ra học thuyết thiên lệch, Tiểu thừa cũng hiểu như trên. Câu “Tâm trí tức quán” tiếp xuống, e văn có lầm sót. Phải nói; Tâm trí tức quán, tịch diệt vô duyên. Quán tịch duyên Không gọi là vô duyên, chiếu, mới thuận với hai câu dưới. Sáu động như giải thích ở trên v.v… Chữ sinh củA-hàm sinh vốn chỉ ở mê. Mà được quả vi diệu: Vì họ thấy điềm lành, được nghe pháp, nên có lợi ích như thế.  PHẬT THUYẾT NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT NHÃ BA LA MẬT KINH SỚ THẦN BẢO KÝ <卷>QUYỂN 4 Giải thích phẩm Giáo Hóa (Tiểu thừa) Từ câu “Khi ấy đại chúng” tiếp xuống là chúng đã nghe pháp một cách sâu rộng. Họ được lợi ích về phương diện pháp, còn được xứng hợp bản thân. Cho nên, Kinh nói và.v… nghóa là so sánh với sáu nẻo, tám bộ đúng là khác biệt, so với lợi ích thì khác với chánh vị vô sinh, nên đắc đạo có lâu mau, sinh tử trải qua nhiều ít, nhập vào quả vị khác nhau. Sớ lược bỏ chúng sinh ở nẻo ác đắc Nhẫn, có thể biết, Vô sinh pháp Nhẫn chính là tương đương quả vị chứng chân của các giáo, đại khái là không khác với chánh vị như phẩm Phổ Hiền Quán nói Vô sinh nhập chánh vị là vậy. Căn cứ vào Kinh nay nói. Thì Dường như chẳng đồng. Dùng hai không để nói. Dựa vào chân tương tự để nói. Chánh vị thông cả chân và tựa, tương tợ; Vô sinh chỉ thuộc về Chân. Chưa biết căn cứ vào đâu, nhưng cho rằng câu “Tánh của người chứng “Thánh” là đúng thì cũng là nghóa tương đương với quả vị chứng. Sớ tuy chưa hề phán định, mà chứng nhập vị rồi, tiếp chuyên ở vị chứng đắc, há ắt phải là luận nhất định? Nói theo hai Không cũng thuận theo văn xử dụng cùng với như trên mà nói v.v… Nói một đời, hai đời hoặc dựa trên việc phá một phẩm hai phẩm vô minh như Đại Kinh nói. Hoặc căn cứ việc tồn giảm sinh tử, như văn Sớ nay so sánh giải thích v.v… Câu “Này người thiện nam” tiếp xuống là Như Lai thuật lại xác nhận, kết hợp về giáo lý, bao trùm bản, tích sâu xa của Phật. Bởi thế, trước tuyên bảo thật phát khởi Tích; căn cứ theo Sớ giải thích “Thật” là kết hợp ở trên đạo quả đã chứng đắc, nói quả vị của bản (xưa) đã an trụ cùng cới Phật là gần nhau, nghiêm biết Tích nay cách Phật chẳng xa. Mưa pháp của mười địa, có thể cất lên tiếng rống Sư tử, đâu thể giả dối trao cho! Đó là Bát-nhã phát khởi niềm tin, chẳng thể nói sai. Trong phần thuật tán thán, tóm lược không ngoài ba nghóa; liệt kê giải thích như văn sau. “Chỉ có Phật cùng với Phật” chữ “Giữ” (cùng với) có thể dùng chữ dó (lấy). Như Kinh Luật cũng có làm chữ giữ thành nghóa dùng. Nhưng dùng đúng như Kinh Pháp Hoa nói, rốt cuộc không gì bằng chữ giữ. Nói “Không là Bồ-tát” e chữ Vi (là) là chữ duy (chỉ). Câu khởi đầu để hỏi cũng theo như phần đầu nói vậy. Dựa theo nghóa ở trong phần giải thích rộng, hỏi tất cả chư Phật là “Trung sinh v.v…” thì chữ trung nên giải thích hai nghóa: Là nghóa ở bên trong. Tức tất cả chư Phật tuy có sinh, diệt, hóa cả ba mà đều không lìa ở trong đó. Là nghóa Trung của Trung đạo: Nghóa là tuy còn sinh diệt mà không gì không phải trung đạo. Cũng như Phật thường ưa thích Trung đạo mà nói vậy. Lại căn cứ phần nêu rõ nghóa Không phân làm ba. 1. Căn cứ tướng hóa là Không tức Không sinh, không diệt, không hóa. Nghóa là nói theo hai tính chất rũ bỏ và xác lập, thì pháp thân vốn vô tướng, vì muôn vật nên có hình, cho nên sinh ở vương cung, diệt ở Song lâm, tức là dùng sinh diệt hóa độ chúng sinh tức là xác lập. Lại nói Không có sinh, diệt, hóa, là theo tính chất rũ bỏ. Tức rũ bỏ mà xác lập, tức xác lập mà rũ bỏ, trung đạo hiện hữu vậy. Câu “Không có tự tha” tiếp xuống, là sớ thuận theo phần khó, giải thích lại. Nghóa là phàm nói hóa ắt có tự tha, có tự tha thì có một và hai, nên là che lấp. Sớ nói không có tự, không có tha, không có một, không có hai. Không phải hóa, không phải không hóa, thì hóa và không hóa đều dứt tuyệt, sao có ở tướng ư? Tức là vô tướng mà thôi. Nhưng nói không phải không có vô tướng tức trái ngược trên xác lập lại. Đã không có vô tướng, mà vô tướng cũng không có, làm gì có ở đến đi, cũng nên nói không phải không có đến đi, đó gọi là Không phải tướng đến mà đến, không tướng thấy mà thấy, không phải không có đến đi mà quên mất vết tích đó thôi. Nên nói như hư không. Từ đây trở xuống gồm có ba câu “Như hư không” đều kết luận trở về không, là Tất cánh Không mà thôi. Cho nên nay căn cứ vào ba tiết giải thích, lý đó rõ ràng vậy. Hai là căn cứ Người, Pháp của chúng sinh nói rõ Không. Như văn v.v… Nghóa là tất cả chúng sinh không có sinh diệt, chung nói về người, pháp là Không. Sinh diệt hóa cả ba đều chẳng thể có được, nên đều Không. Nói không phải không người quả là so sánh theo tính chất rũ bỏ, xác lập như trên có thể biết. Như Sớ dẫn văn Đại Phẩm v.v… đầy đủ giải thích rõ ràng, nay không giải thích riêng. Câu: “Phiền não” tiếp xuống: Riêng nói về hai Không, ngã, Người này là thuộc về Kiến sử, thuộc phiền não, thâu tóm. Nếu luận về Ngã sở, tức là đối tượng được nhờ gửi của giả danh gốc tương đương pháp thật. Này dùng chử giả ( ) tức căn cứ vào chủ Thể chấp là người để nói nên là hai chấp về người, pháp. Câu “Tất cả pháp tập” tiếp xuống là dùng pháp Thật hiển bày Không. Thật vốn chẳng phải giả, trở thành nghóa không nên dùng danh v.v… ba thứ giả để nói. Cảnh giới pháp không là chính nói cái Không của Người, Pháp đã hiển lộ, “Không” này không có tướng nên chẳng thể chuyển, “Không” này không điên đảo nên không thuận theo huyễn hóa đó là như Kinh Viên Giác nói: Biết huyễn tức lìa, lìa huyễn tức giác. Không tùy thuận theo các huyễn, là cũng như nghóa không thuận vậy. “Không có Tam bảo”: Phàm nói có danh tướng, vốn là có đối trị, nếu không có đối tượng để đối thì danh cũng chẳng xác lập. Nay hiển bày nghóa Không, thể nên nói vậy. Lại nói “Không có Thánh người, sáu nẻo” nghóa là cảnh giới vốn không, tất nhiên chẳng có khác nhau của thế, xuất thế, tên Thánh, hiệu Phàm lại từ đâu mà lập. Đó gọi là tuyệt dứt giả danh của Phàm Thánh. Câu “Ba là Bát-nhã vô tri” tiếp xuống, gắn liền vào thể phù hợp Bát-nhã nói về Không. Nghóa là Thánh phàm Người Pháp đều không thì chỉ có Bát-nhã, mà Bát-nhã cũng không nên nói: Bát-nhã vô tri. Nói về Bát-nhã, thì lấy trí làm tên, lấy Không làm Thể, lấy vô tri, Vô kiếm làm Tướng. Đó gọi là tri dừng lại ở chổ bất tri của tri. Đó nói là tri đến tột cùng vậy. Đại sư Tăng Triệu lấy nghóa này làm Bát-nhã vô tri để luận. Cho nên Luận của ngài nói v.v… Câu “Mà Kinh nói chẳng hành” là con đường của tâm hành dứt tuyệt. Nói “Không duyên không người” là không giống như các pháp được tạo thành do người duyên, nói thẳng tức là Không mà thôi. Cho nên không tiếp nhận tất cả pháp, không tiếp nhận cũng không tiếp nhận mới được là nay không tiếp nhận. Nói “Không được tất cả tướng soi chiếu” nghóa là chủ thể đã mất, đối tượng chiếu cũng vẳng lặng, nói thẳng như tướng hành đạo. Hành cùng như hành mà là hành sâu xa nơi Bát-nhã, đây là lý do, tại sao nó là tướng hành đạo, cũng như tướng Không nơi Kinh nói mà thôi. Vì vậy nói “Pháp tướng như thị”. Tóm kết phần trên nói pháp tướng như nơi hư không, không gì không phải Bát- nhã. Vì vậy nói Như như, không thể dùng tâm có thủ đắc, nên không thể thiết lập, vì tất cả pháp thảy đều Như. Không thể dùng tâm không để thủ đắc, nên không thể trừ bỏ. Vì tất cả pháp thảy đều Chân. Thế thì, công đức Bát-nhã, không phải chúng sinh tâm hành có thể đạt đến, không thể dùng các hành giả trung thật, ngũ ấm của chúng sinh cùng với trí cảnh giới phàm phu để hiểu, đều là chổ chẳng thể hiểu được. Chỉ thuận theo nơi Không, khế hợp với vô tướng, rõ ràng là có thể vận hành Bát-nhã. Vì thế biết, Bát-nhã là chẳng thể nghó bàn, ngôn ngữ tâm hành bặt dứt, là nghóa đó vậy. Duy nhất là Bát-nhã chẳng thể nghó bàn, nên Bồ-tát giữ gìn, thực hành, chính là kho tàng của tất cả hành, như trước đã nói là ba mươi Nhẫn v.v… Tất cả Như Lai đều an trụ trong Bát-nhã mà hóa độ, tức là kho tàng của tất cả Phật, là cảnh Tịch quang phẩm thượng, nơi được trí tuệ cùng soi chiếu. Đều là chỗ không thể nói bằng lời mà biết vậy. Câu: “Này người thiện nam” tiếp cuống là khen ngợi công đức. Bát-nhã đã không thể nghó bàn, thì công đức của Bát-nhã cũng không thể đo lường. Tức là lời tán thán pháp ấy thù thắng của Quốc vương; chỉ kết hợp với câu vua nói là: như một giọt nước của biển, thì văn sáng rõ hiểu ngay. Mà Kinh nói như nghóa của lời vua đó thì giống như trái ngược lại. Nếu chấp nhận theo đây giải thích, đến phần vấn đáp hiển bày lời vua nói là thù thắng thì vì đó có gốc, nên nói vậy. Vì thế nói: Vua không có bổn địa làm sao mà biết? Tức giải thích ngược lại nói vậy. Nhưng vì ý gốc của văn, nên thuận theo sự giải thích đầu. Nếu từ sự thuận hợp để nói thì mỗi cách giải thích nên vì thuận tiện trên phần hạn Hiền Thánh, thích nghi mà linh động. Về phần nghóa công đức, nghóa là trong vô lượng nghóa nói đó là phần ít. Sớ nhấn mạnh công đức của nguyệt Quang là vô lượng, tuy lược mà đủ nghóa, không phải không có lý này. Hoặc e rằng chỉ Bát-nhã mà nói, nhưng nghóa đó cũng thuận. Nên xem kỹ lại. Câu “Cũng là quá khứ vị lai, hiện tại” tiếp xuống là phần nhiều tương ưng thuật lại hứa khả cho Nguyệt Quang. Thuật lại hứa khả cũng như ấn khả. Câu “Mười bốn pháp môn” tiếp xuống, là khuyến khích tu hành, có thể biết. Không nhờ pháp môn này mà được Tát-bà-nhã” là nêu lên sự cần thiết để tóm kết khuyên. Câu “Vì cớ sao” tiếp xuống lại nêu ra lại giải thích, nêu bày không có đạo khác. Kinh Lăng Nghiêm như nói: Bạc-già-phạm ở mười phương có một con đường đến cửa Niết-bàn. Lại như nói: Phương tiện có nhiều cửa, trở về nguồn nơi tánh chỉ là một. Lại dùng nghóa không vướng ngại giải thích chữ môn (cửa). Chủ thể không giải thích là đường, cũng là một cách thông thường giải thích vậy. Như chủ thể không nói là môn thì há chẳng phải môn này cũng có thể thông suốt ư. Nhờ môn này được Tát-bà-nhã thì môn cũng không vướng ngại, đâu chỉ là đường. Nói “Đi theo con đường chính” nghóa là không phải mười bốn nhẫn môn, trước sau Viên, thật thì do đâu được đi trên con đường thẳng, lớn. Nói “Siêu vượt qua trăm ngàn kiếp khó thấy thân được quả báo vi diệu” là không làm lỗi lầm. Câu “Phật bảo Đại vương” tiếp xuống là dùng chương lớn tức trả lời câu hỏi thứ hai. Vì văn gồm ba câu hỏi, đây là trả lời câu hỏi thứ ba. Chính là nói Bồ-tát dùng tướng gì thấy chúng sinh, khiến chúng sinh có thể được hóa độ? Tuy chính hỏi về đối tượng được hóa độ, mà thật ra bao gồm cả chủ thể hóa độ. Câu “Nếu lấy” tiếp xuống là trả lời gồm hai ý. Nghóa là Bồ-tát tự nhìn thấy bản thân như tướng huyễn hóa, thấy chúng sinh đối tượng được hóa độ cũng như huyễn hóa tức có thể dùng tướng ầy để hóa độ. Nếu không thế thì hoặc chấp mình, chấp người, thọ giả, chúng sinh, trái với tự tánh của Bát-nhã. Không phải là nay sở dó hóa độ, ấy gọi là như biết chúng sinh là vô sở hữu, thệ nguyện độ chúng sinh vô sở hữu ấy. Lời nói này tận cùng hết lý. Cách nói sau là những người chưa hiểu diễn đạt ra nói thế. Chính là trong phần đáp rộng. Nói “Thức của chúng sinh” nghóa là một niệm đầu tiên, tánh của nó chẳng phải gỗ đá, gặp thiện thì thiện, gặp ác thì ác. Niệm này do đó là gốc của thứa thiện ác tức ba cõi, sáu nẽo đều do tâm phát sinh. Gốc là một niệm đầu tiên, cuối cùng là ở tâm Kim cương. Kim cương là tâm sau của vị Đẳng giác, trong đó có thủy, vô thủy, có mê, có ngộ, có thiện, có ác người quả khác nhau, hữu lậu vô lậu khác nhau đều từ tâm biến sinh, là thức không thể nêu bày cũng có thể thành tựu chúng sinh sắc tâm không thể nêu bày, đều từ một sắc tâm mà ra. Vì tâm thức như huyễn nên sắc cũng như huyễn, chủ thể hóa, đối tượng được hóa đều bao hàm như vậy. Nói: “Đây cho nên dung thân huyễn hóa thấy đối tượng huyễn hóa” tức chân thật hành hóa ở chúng sinh. Vì vậy, Sớ giải thích v.v… Câu “Nghóa là bản Thức”, tức là chánh người Phật tánh, chỉ rõ ra Thể của Thức. Đó gọi là phàm người có tâm đều sẽ làm Phật, là nghóa đó vậy. Nói: “Không phải có, không phải không” là không phải sự đo lường của hai bên có được. Như nói là: Vừa nói đó là có, nhưng không là diện mạo, hình sắc, chất lượng v.v… là nghóa đó vậy. Nói “Không biết không quên” là chính nói thể của Thức không phải ký, vô ký, như tánh ướt của nước v.v… Nghóa là các pháp đều tùy theo tánh mà riêng khác, không phải nói là tánh duy nhất. Chỉ tùy thuận theo thiện ác mà có sai biệt, thì tánh tập cũng do đó mà khác. Văn Sớ nêu dẫn Đại Kinh chứng minh, là chẳng phải hoàn toàn chứng minh là đồng, cũng để hiển bày sự khác biệt. Trên dùng tánh của nước lữa v.v… để nói, tức chọn lấy tánh của tánh tập mà thôi. Đây dùng một vị như nhau, lưu chuyển thành khác để nói thì ở chổ khác hiển bày về lý của nó là đồng. Sớ nhận định phân biệt về bản tế của chúng sinh là có không tức là dựa vào văn gốc kia dùng không vấn nạn có. Nếu nói bản tế là không thể đạt được tức là không có; cũng nên dùng có vấn nạn không, chỉ vì văn lược. Trong phần đáp tóm lại có hai. Căn cứ lý nói không có ức là không chấp nhận có ở trước sau. Nghi là thêm vào một chữ “Vô” (không). Căn cứ vào Sự nói về có, thì một niệm sinh Thức, nghóa ấy chắc chắn, là có rồi, nhưng không phải đó gọi là biên vực của chân tế (chân thật). Nếu nói về giáo lý Đại Thừa để biện minh, thì biên vực chính là không biện vực, không biên vực chính là biên vực. Biên vực và không biên vực cả hai đều được; cũng chưa hề có thuyết nhất định; như thông thường luận đó v.v… Câu “Thức của chúng sinh” tiếp xuống là rộng giải đáp về chúng sinh là đối tượng được hóa độ thì tướng như huyễn. Nói về tướng huyễn thì lấy giả dối không thật làm nghóa. Sớ căn cứ vào sáu thứ giả mà nhận định giải thích. Đầu tiên trong phần pháp giả nói một Thức sinh năm ấm sắc tâm; lại ở một sắc sinh ra vô lượng sắc, tức có nghóa của mười hai nhập trong đây. Lại dùng bốn đại được tạo ra mà sinh năm ấm, thức dựa nhờ ở căn, đó là năm căn, tức hết thảy là mười tám giới. Nhưng đều từ một niệm Thức sinh ra nhiều. Từ nó không có, huyễn là có, tức là tướng huyễn ảo giả dối. Đã nó căn, thức, bốn đại, thì bốn loại pháp, không, thức v.v… cũng thảy được bao gồm, chỉ vì văn lược thôi. Cho nên, tổng kết như Sớ có thể lãnh hội. “Không nói về pháp nhập sắc”. Nghóa là đối với sắc, tâm pháp nhập là phần nhỏ, lại văn Sớ cũng lược. Nói về sự khác nhau về Kiến giải của Phàm Thánh, tức cũng là pháp không có tự tướng, nhưng hoặc thấy là giả, hoặc thấy chân thật. Cho nên nói Phàm phu sáu thức thô v.v… Nghóa là phàm phu nhận thức thô thấy giả mà ngộ nhận ở thật. Thánh người nhận thức trong sạch, thấy thật mà chẳng mê hoặc nơi giả. Cho nên Thánh phàm thấy có khác nhau. Thậm chí ở vị Thánh còn có lớn, nhỏ, sâu, cạn, nên thấy có thướng, vô thường, hoặc diệt sắc hiển thường, hoặc ở thật thấy lý v.v… Đó gọi là các pháp tự nó đâu từng cho là có đồng khác, chẳng qua hết thảy do tâm phân biệt thôi. Chúng sinh là tên gọi của Thế đế: Sớ chân chính từ đây trở xuống nói về thọ giả, không phải không có nghóa thọ mà là văn không hiển bày, chỉ kết hợp phần phân tích tiếp theo đồng làm một nghóa giả danh. Đối với năm ấm pháp thật ở trên, thành hai cảnh người và pháp. Tiếp đến phần sau, ba giả đều được gọi là huyễn. Văn nhận định mà không nhiều, tuy cùng phân tích có khác nhưng cũng có văn đồng mà phân tích khác nhau, tức như trong văn của Diệu Sớ v.v… Nói “Hoặc có hoặc không” nghóa là đối ở trên pháp Thế đế tức giả danh là có là không, chỉ vì sinh ra tưởng nhớ của chúng sinh nên gọi là Thế đế, không phải Thật đế lại là Thế pháp mà không phải đế. Cho nên nói Thế đế, là giả dối huyễn hóa nên có mà chẳng phải có thật; chẳng phải có mà có, đó là huyễn hóa ra có, cũng gọi là Huyễn đế. Lại Huyễn đế là đối với Thật đế mà được tên gọi; Thế đế là đối với chẳng phải đế để nói. Mỗi thứ đều có lý riêng mà tùy theo đó nghóa có sâu cạn. Lại nói: Cho đến chúng sinh huyễn hóa trong sáu nẽo, nghóa là có chủ thể và đối tượng. Một là cho sáu nẻo huyễn hóa làm chủ thể thấy, thấy huyễn hóa là đối tượng được thấy. Hai là cho hai chữ huyễn làm chủ thể thấy, thấy bốn tánh huyễn hóa là đối tượng được thấy. Chỉ là câu nghóa ảnh hưởng bổ sung; không có cách nói khác. Câu “Sớ nói Kiến là” tiếp xuống là giải thích kỹ lại nghóa kiến đã nêu bên trên. Không phải chỉ nghóa chủ thể thấy mà thôi, cũng còn là chủ thể soi chiếu nhận biết chủ thể hóa độ, đối tượng được hóa độ đồng nhất đều như huyễn. Nói Chân huyễn tức Bồ-tát của Biệt giáo là người tức chủ thể hóa độ. Còn lại Thông, Viên có thể biết. Văn lược bớt đó thôi. Nói “Hóa thật huyễn” tức nghóa phàm phu trong sáu nẽo đã nêu trên. Hóa và đối tượng được hóa thảy đều thấy nên nói vậy. Bởi thế lại tiếp nối phần nói Huyễn đế ở trước nghóa là pháp huyễn từ kiếp Không đến nay, cho đến lúc Phật chưa ra đời, vốn không có danh tự, cho dù có cũng không có nghóa thật. Nên nói Không có nghóa, gọi là pháp huyễn đó là nghóa, của Thế đế hữu danh vô thật. Vì vậy biết, huyễn hóa gốc là danh tự, đã không có nghóa thật há có Thể, Tướng. Cho nên, đối với tất cả danh tự trong sáu nẻo là không có, nhưng nếu hoàn toàn không có danh tự thì chúng sinh không có chổ đi vào đạo Thật; chứ Phật không có chổ thiết lập quyền phương tiện, chúng sinh nhờ đâu ra khỏi sanh tử? Vì thế nên Phật, Phật ra đời đều vì chúng sinh mà thiết lập giả danh, làm cho các chúng sinh người nơi danh biết được pháp, nhờ pháp ngộ không. Đó là như Kinh Kim Quang Minh nói: Kiếp sơ mênh mông vạn vật không có văn tự, Thánh người hướng lên tức là pháp chân, cúi xuống thiết lập danh hiệu Tục, là nghóa đó vậy. Câu “Như pháp Không” tiếp xuống là kết tóm nghóa các pháp của ba cõi v.v… từ trước đến nay; vô lượng danh tự thảy đều như pháp không, tức như huyễn như hóa không gì không phải Bát-nhã. Lấy đó ví như các pháp khác, khởi lên ba giả sau nối tiếp, đối đãi, không có pháp thật định, đó tức như huyễn cho nên, nói chẳng phải một, chẳng phải khác. Vì thế, ắt phải căn cứ vào sự nối tiếp, đối đãi để suy luận, nghóa là đối với Người, Pháp, cả hai, không và có, chưa có thể hội nhập, nên cần phải dựa trên sự nối tiếp, đối đãi để hổ trợ phát khởi, nghóa là ắt phải khiến hội nhập Không, rồi sau tất nhiên đầy đủ cả hai. Như Chỉ Quán nói v.v… Nói sự nối tiếp nhau, là lấy sự tiếp nối trước sau không dứt đoạn làm nghóa, khiến cho nhất định là một là khác, không gọi là nối tiếp, không phải một, không phải khác như vậy mới gọi là nối tiếp. Như thể của cành, chồi chẳng phải một, chẳng phải khác mà thứ tự sinh trưởng đó là giả có sự nối tiếp. Lấy đó mà suy ra, thì không có pháp thật nhất định, ấy tức là Không. Lại sự giả có đối đãi, là hết thảy danh tướng đối đãi nhau, như năm sắc có, không có đối đãi đều được còn gọi là đối đãi không định rõ. Nên Sớ giải thích có hai ý, đối đãi nhau, đối đãi so sánh với nhau, phối hợp nghóa có thể biết. Còn nói Đối đãi xa cách nhau, cũng như nói hai thứ không thể xác lập gần nhau. Như Luận nói v.v… Lại nói “Duyên Thành giả” nghóa là cũng gọi là người sinh, không ngoài người duyên của mười hai chi, ngũ ấm tạo thành chúng sinh nên nói là đồng thời người quả Sớ giải thích v.v… Nhưng văn có hơi lược, dường như không dễ hiểu. Nói duyên với thấy là đồng thời. Chữ Kiến (thấy) nên phát âm nghóa là Hiện nghóa là quán, cảnh hiện hữu xảy ra trong cùng một thời điểm gọi là đồng thời (câu thời) nếu quán chỉ là người, tức khác thời. Lại như rường cột làm thành nhà là đồng thời, mà sự thành có từng bước gọi là khác thời. Như mười hai thời (giờ Âm lịch) có trước sau là khác thời, cùng thành là một ngày tức đồng thời. Cũng như đèn và ánh sáng v.v… nghóa đó có thể biết. Nhưng tìm lấy trong các người quả như nêu trên v.v… có pháp thật, rõ ràng đều chẳng thể đạt được, đó là Huyễn đế. Chúng sinh sống trong huyễn, mà huyễn là không phải đế, tức là sống trong vọng, huyễn. Huyễn mà có khả năng hiểu đúng thật (đế) về huyễn ấy, gọi là Huyễn đế, Huyễn đế tức là Không vậy. Nếu như Bồ-tát thấy như trên nói, chúng sinh là huyễn hóa, cũng là một cách nói thông suốt vậy. Câu “Thập trụ Bồ-tát” tiếp xuống là chổ thấy của Bồ-tát-chủ thể hóa độ hiện nay. Cho nên nói như huyễn để mà thấy Bồ-tát hóa độ chúng sinh là như đây. ------------------- Phần Tổng Kết Trở Về Nói Ý Phần Hỏi Trên Giải thích Phẩm Nhị Đế: Tiếp theo giáo hóa mà nói hai đế nghóa là: Sớ căn cứ hai nghóa luận tiếp. Đầu tiên là trong đối ngoài, tức văn nói hộ trì bên trong có ba phần riêng; tức là người quả, tự tha và y chánh, chung được làm thứ tư. Hai là dùng hai đế của phẩm này đối với hai hộ trì nói trên, tức có khác biệt của chủ thể nương tựa và đối tượng nương tựa. Đối tượng là Huyễn đế được thấy, chủ thể là Thức chẳng thể nghó suy, tức là hai đế Chân Tục, nên tiếp theo luận bàn về hai đế. Nói chung, hai đế là tông chỉ đại cương của Phật giáo, tức là nói trên phương diện nền tảng. Đức Như Lai thường dựa vào hai đế mà nói pháp, một đời thuyết giảng giáo pháp của Phật đều thâu gồm trong hai đế. Lại dùng bảy loại hai đế (?) thâu tóm hết, thì một sự nghiệp giáo hóa qua năm thời đều trọn vẹn cả. Nói đến cùng thì có pháp nào mà không là phải Chân Tục ư? Nếu hạ thấp cho rằng có, không, thì ai không biết. Chính vì thế nên phải nghiên cứu thẩm tra, xét nghóa thật sự của có, không đó, mà dẫn đến trải qua các giáo phân định sâu cạn, tùy văn, diễn đạt nghóa, có nối tiếp, có chính đáng, tình trí mở ra. Kết hợp lại, đó cho nên là vấn đề khó. Phàm nói là đế tức chỉ là lý. còn không có một, làm sao có hai, huống gì đủ loại sai biệt? Lại nói, phàm phu thấy cạn gọi là Tục, Thánh người thấy sâu xa gọi là Châu, bởi thế nói, tức chỉ có Chân Tục mà thôi. Do đó, nối tiếp thông với phẩm trước, tiếp đến, kết luận v.v… Hai lớp hỏi đáp đều nói rõ về lý Không hai, thì lớp đầu nói hai đế, không hai, là kinh hỏi v.v… cũng nên nói: Trong Thế đế có Đệ-nhất-nghóa-đế hay không chỉ là tóm lược. Nếu đều nêu ra thì nói: Nếu nói là không có v.v… thì xưa nay gồm có hai thuyết. Một là xưa giải thích. Hai là nay, tức Sớ giải thích. Căn cứ vào lý thì mỗi thuyết đều có nghóa phù hợp, tuy nhiên cả hai cùng giữ lại cũng được. Nhưng thuyết đầu là đối trí phàm với trí của Thánh, tức một tí của Phàm, một của Thánh nên mất nghóa Đế. Nay Sớ trình bày thì Đế, Trí đều được. Nên nói một có một không đều là đế, nói đều là Không tức bằng với Trí. Nên gọi là cả hai đều được. Ýù nơi phần hỏi khó nhận biết, rõ thấy rõ nơi phần Kệ dưới, mới hiểu được sự vi diệu của không thuyết không nghe, mới là chổ bàn luận không phải một không phải hai, tức chẳng phải một, chẳng phải khác, là Bát-nhã chánh tuệ có mặt ở Kinh này. Vì thế, học giả xét kỹ, không nên phỏng đoán, luận bàn. Phần đáp của Kệ tụng, vì Văn trường hàng đã dẫn lời đáp về người xưa kia của Nguyệt Quang, nên đây thích nghi dùng kệ dẫn lời của bảy Phật để nêu bày. Như phần giải thích, phân biệt bên dưới, tiết, mục chặt chẽ, không có lẫn lộn. Nghóa là luận không dựa trên suy lường trong phẩm, mà chỉ thẳng chân, tục là một lý vi diệu vốn không phân biệt. Dùng một lý vô để nói là vô tánh, vô tướng, vô tự, vô tha, vô hữu, vô vô, vô nhị, bất nhị. Chữ vô bằng với nghóa bất tác thì thảy đều là nghóa Vô (không). Dùng lý bản hữu (vốn có) mà nói thì đệ nhất nghóa bản hữu, người duyên bản hữu, chư pháp bản hữu, có không bản hữu, hai đế bản hữu, ba giả bản hữu, không có chợt nhiên, mà chẳng phải bản hữu. Dùng lý Không để nói thì đệ nhất nghóa Không Đế thật cũng Không, Tịch diệt cũng Không, hai, không hai cũng Không, huyễn hóa hoa đốm hư không, như bóng như ba cánh tay cũng đều Không. Cho đến, cho là Đệ-nhất-nghóa-đế thì đều là Đệ-nhất-nghóa-đế, cho Thế đế thì đều Thế đế, cho một thì đều một, cho hai thì đều hai, cho có đều có cho không đều không, cho đúng đều đúng, cho sai đều sai, cho tất cả dị danh biệt thuyết thì đều là dị danh, biệt thuyết, cho là nói vụng, lời hay thì đều là nói vụng, lời hay. Nếu cho cả những câu kệ nêu trên là lầm lạc, e rằng không dễ dùng lý luận bàn rõ nghóa để hiểu, nên chỉ để làm rõ cái tự tánh Bát-nhã là vô tận diệu lý vậy. Câu “Có không vốn tự là hai”: Chính giải đáp vấn nạn v.v… Trong một hàng kệ đầu, Sớ hình như lầm lẫn vài chữ v.v.. nay lại dùng Kệ kết hợp giải thích nói. “Có không vốn tự là hai” là nói đủ theo lý thiên nhiên ví như bò có hai sừng, không thể thiếu một. Thấu rõ tâm thì không hai, đối với hai thấy rõ lý không hai, chữ không phải thật có hai. Hai để là thường bất tức (chẳng là nhau), bất tức cũng bất ly (chẳng lìa nhau); mà trí tuệ có thể thấu suốt thì tìm có hai chẳng thể được. Lại dùng Lý ngăn tình (mê) không phải nói hai đế là một, trở lại dùng Trí chiếu Lý biết là hai cũng không là hai thì không phải hai làm sao có thể được. Ởû hiểu thường tự là một tức Lý chẳng vướng ngại Trí. Ở đế thường tự là hai thì Trí chẳng vướng ngại Lý. Lý trí cùng hiển bày cho nhau, không một lại không hai là thông đạt đạo không hai, là thật sự hội nhập lý Bất nhị. Phải biết không có nghe, nói tức là sự nghe nói này. Trung phần nói Thế đế có, không, nêu ba cánh tay: Nghóa là cánh tay, ngón tay là hai, nếu nói ba cánh tay tức không có. Cũng giống như Kinh Tịnh Danh nói đại thứ năm, tình thứ bảy v.v… Từ câu “Đại vương Bồ-tát” tiếp xuống là giải thích xác nhận phần nói Bồ-tát ở trên: “Đối ở trong một nghóa thường chiếu hai đế để giáo hóa chúng sinh”. Văn gồm có hai, trước lược sau rộng. Vì văn phần đầu không xác định một, hai, nên phân biệt về nghóa một, hai không có. Phần đầu lược là chỉ nói đệ nhất nghóa là Không. Thường soi chiếu hai đế nghóa là không lìa Trí Chân mà hóa độ ở Tục; tức biết Phật và chúng sinh thường tự là một. Thế thì Sớ nói Chiếu Tục hóa độ phàm phu, chiếu Chân hóa độ Nhị thừa nghóa là sao? Đây là văn căn cứ vào đối tượng chiếu để phân định Chân, Tục; chứ không phải Chân của chủ thể chiếu tương đương với đối tượng hóa độ. Nếu dùng Chân của chủ thể chiếu so với Tục của đối tượng được hóa độ thì Chân Tục đều là Chân; nếu dùng Tục của đối tượng được hóa độ so với Chân của chủ thể hóa độ thì Chân Tục đều là Tục. Văn có lý riêng, không cứ chuẩn làm một. Câu “Vô cớ sao?” tiếp xuống là câu nối thông phần trên, nhấn mạnh chứng cớ. Tiếp đến phần giải thích riêng: Gồm ba đối (cặp). Đầu tiên đối Năng, Sở (chủ thể đối tượng) để nói rõ lý Bất nhị. Nên nói Phật và chúng sinh là một mà không là hai. Chính vì không là hai, nên được an đặt chúng sinh Không vào Bồ-đề Không, tức đối tượng được hóa độ quy tụ về chủ thể hóa độ. Vì an đặt Bồ-đề “Không” vào chúng sinh Không, tức chủ thể hóa độ quy tụ về đối tượng được hóa độ. Sắp đặt ở đây cũng như sự an đặt các con và sự an đặt của kho tàng bí mật. Như nước đổ vào nước, đều hòa nhập, như hư không kết hợp với hư không chẳng thể là hai. Lại nói vì tất cả pháp là Không nên Không Không. Câu này thuộc về hai nơi. Nghóa là nếu tiếp nối văn trên, tức là tóm kết phần nói chủ thể, đối tượng đồng là một là Không, được dùng nghóa “cùng vào”. Nếu sinh khởi cho văn đối sau tức nói tất cả pháp Không đó là cảnh Không. “Không Không” là do cảnh Không nên trí Không, cũng do trí Không nên cảnh Không. Vì thế nói Bát-nhã là vô tướng v.v… Nói vô tướng là Thể nơi tự nó là Vô tướng, cũng không có cái vô tướng. Cho nên, hoặc Chân, hoặc Tục như tướng hư không thì lại nói: Không cả nơi vô minh là không có tướng tha, và Tát-bà-nhã không có tự tướng. Nếu không có tự tướng thì chủ thể thấy là gì, đối tượng nhận là ai, cái gọi là Người là Quả đều không thể được mà là có vậy. Cho đến nói là Ngũ nhãn thành tựu thấy mà không có gì là thấy, quả vị Phật cũng Không, ấy gọi là Bồ- tát với Ngũ nhãn thành tựu đầy đủ đó vậy. Văn lại dùng Hành so sánh với Thấy, nói v.v… Hành cũng như hành ở công hạnh của Bát-nhã rát sâu kia, Hành, chẳng Hành đồng đẳng, dó nhiên đều chẳng thọ, chẳng thọ cũng chẳng là thọ, thế thì chẳng thọ tức tự tánh của Bát-nhã. Đối Nhiễm Tịnh nói v.v… Nghóa là Bồ-đề, phiền não tuy mê ngộ nhiễm tịnh có khác nhau nhưng trong Đệ-nhất-nghóa-đế gốc chỉ là một Thể, nên Không có hai Như. Vì vậy, khi chưa thành Phật toàn tịnh là nhiễm, sau khi đã thành Phật đổi ngược lại mê thành ngộ. Đó thật ra không có pháp sai biệt. Từ lâu “Bạch Phật” tiếp xuống là lặp lại nối tiếp văn trước nói nghóa của ba đối không ngoài tướng Không của các pháp, tức không có Văn tự thì làm sao Phật và Bồ-tát được gắn liền với văn tự mà vận hành tướng Không của các pháp, dùng Bát-nhã để hóa độ chúng sinh. Kinh nói: “Hành các pháp trong” nghi sót một chữ “Không” Sớ nói “Nếu các Không như” nghi thiếu một chữ “Pháp”. Tiếp đến trong phần đáp nói về Pháp luân. Nghóa là bao gồm mười hai bộ Kinh mà đồng nhất đều nói “Như” tức là chẳng tức văn tự, chẳng lìa văn tự. Chính vì chẳng lìa đó, các pháp đều Như, được vận hành tướng Không của các pháp. Sớ dùng tên Kinh giải thích trong mười hai Bộ: Tức là theo lý nên trước nêu ra tiếng Phạm, giải thích dùng tiếng Trung Hoa để nói. Nay thì ngược lại, tức cho tiện lại. Câu “Là Danh Cú” tiếp xuống là so sánh về Thể của giáo có giả có thật, Giả là ba thứ Danh, Vị, Cú-Thanh sắc nơi nó là một thật. Ba, một hòa hợp để thành Thể của Giáo. Thanh (tiếng) tuy chẳng phải báo mà dựa nhờ ở báo nên cùng gọi là quả. Chính xác luận bàn về văn tự, tuy chúng chẳng phải thiện ác, nhưng pháp mà văn tự nêu ra không ngoài thiện ác, nên tánh cũng thuộc về Ký ? (Hữu ký). Xét cho cùng, thì cũng chẳng tức chẳng lìa; chẳng tức là không có tánh cố định, là cũng như Không; Không nên đều Như. Vậy, không đắm trước văn tự, mà vận hành được tướng Không, nghóa đó bao trùm như đây. Vì thế nói: Nếu chấp giữ văn tự, là người không thể vận hành lý Không, trái lại còn bài xích kia là sai hiển bày đây đúng. Nhưng Sớ lại nói “Thực hành Không, không phải chánh quán” e rằng trái ngược nghóa ở đây, (chưa xem kỹ v.v…). Từ câu: “Này Đại Vương! Như văn tự” tiếp xuống: Lại đưa ra lý do chỉ lại người hành tu tướng. Nói Như như, ý trước sau có khác, chính là Như ở Văn tự của đối tượng được nhận biết, dùng đó tu trí tuệ là mẹ của chư Phật, mà có thể sinh ra quả phù hợp. Cho nên nói mẹ trí tuệ. Có khác biệt giữa tánh của lý và tánh của hành, cũng là tánh căn bản của tất cả chúng sinh tức tánh của lý tánh. Tức tánh thành trí là Thể của Tát-bà-nhã. Nên dùng ba đời để nói, thì sẽ được là mẹ trí tuệ, chưa được làm tánh của lý. Đã được là Tát-bà-nhã, thì đó thực chỉ là một. Câu “Bát-nhã của ba Thừa” tiếp xuống là nói tánh của Hành tánh. Vì căn cứ vào hành của ba thừa khác với tánh duy nhất, nên nói là tánh của hành; tức là tự tánh bất sanh, bất diệt thường trụ vậy. Lại nói tất cả chúng sinh dùng đây làm tánh giác là lấy chung chứng minh riêng chỉ vì trước nói tánh của lý nên nói căn bản, đây từ Hành mà nói nên gọi là tánh giác, đại thể không khác. Câu “Bồ-tát không thọ” tiếp xuống là tổng kết xác nhận Hành đều là Bát-nhã vẫn dùng ba nghóa nơi Hộ trì nói trước thuộc phần Tông chỉ làm như đây, nhưng ở trong văn có chút lầm lẫn, nay sửa lại cho đúng. Nghóa là trong tâm Bồ-tát có thể không thọ nhận chấp trước, thì bên ngoài Không có văn tự có thể được, đó chính là không có thọ thì không có văn tự. Nay sửa lại thì vô văn tự không phải là không có văn tự, tánh văn tự là lìa, là lìa văn tự. Sách Chỉ Quán nói: Thấu đạt văn chẳng phải văn, chẳng phải văn, chẳng phải chẳng là văn, thì còn văn tự gì là có. Nên nói lìa văn tự là chẳng phải văn tự. Trong văn thêm một chữ “Phi” (chẳng phải). Nói “Tu vô tu” là nói theo Hành bên trên thì Tu mà vô tu. Tu vô tu là văn thuộc câu tiếp theo, lầm là phần nói tu văn tự, khiến làm cho khó hiểu. Nhưng khiến văn thông hợp lý hiển bày, ít có đồng dị cũng lại đâu có sai, thử xem kỹ lại. Câu “Lại nữa, bạch Phật” tiếp xuống là lần nữa vì căn hành của chúng sinh hỏi pháp môn là một, hai, hay vô lượng. Sớ gồm hai giải thích. Theo cách giải thích sau thì đúng hơn. Căn là căn tánh có lợi, độn khác nhau. Hành là những gì tu tập, có sâu, cạn khác biệt. Căn, hành đều là đối tượng được bao gồm, pháp môn là chủ thể bao gồm. Kinh dùng đối tượng theo chủ thể để hỏi, tức hỏi pháp môn cũng có một, hai, vô lượng ư? Đáp: Tất cả pháp quán môn v.v… Vân hỏi nói, như vậy, đúng nên trả lời: Tất cả pháp vốn chẳng phải một, hai; quán môn mới có vô lượng. Nhấn mạnh lại dùng quán theo đế, vốn chẳng phải một, hai; dùng đế theo quán mới có vô lượng tức pháp thì theo cảnh, quán thì theo trí, cảnh quán cùng hiển bày cho nên khác. Lại nói tất cả pháp cũng chẳng phải tướng có v.v… Lại hiển bày tất cả pháp chẳng phải một chẳng phải hai, nên nói chẳng phải tướng có v.v… Đầy đủ nên làm bốn câu: Chẳng phải tướng có Chẳng phải tướng không. Chẳng phải tướng chẳng phải có. Chẳng phải tứớng chẳng phải không. Văn lược hai câu giữa, cùng có thể làm riêng, hợp mà luận, thì câu trên theo riêng lược câu tướng không, câu dưới theo họp lược câu tướng có v.v… Xét cho cùng, không phải tất cả tướng đó gọi là Thật tướng. Tức là Bồ-tát không thấy tướng chúng sinh, không thấy có một pháp, hai pháp có thể được. Bồ-tát nếu thấy có thể được tức không thấy một, hai của Đệ-nhất-nghóa-đế hiện tại, nên nói một, hai là Đệ-nhất-nghóa-đế. Lại nói: Nếu thấy có, không tức là Thế đế. Sớ định nghóa là gốc của các thấy (kiến), nghóa này cục bộ; nay nói là gốc của các pháp. Cho rằng đế quán không ra ngoài ba đế thâu nhiếp tất cả pháp, đó gọi là Không đế tức không, Sắt đế tức Giả; Tâm đế tức Trung. Không gì không phải tánh của tâm. Ba thứ này là cùng với nay nói Chân, Tục, Trung đạo thì đồng mà tên gọi khác, triển khai, kết hợp khác mà thôi. Cũng cùng một nhà phán giáo trong về ba quán (Thiên Thai gai), đó chỉ là một. Nhưng Sớ nói: Tất cả pháp là Sự Lý đều bao gồm, cách nói đó v.v… thì ở Lý không phải không có nghóa đó, nhưng về Chân Tục mỗi thứ có ba phân biệt mà thôi, chưa thấy được cái vi diệu của ba đế hiện nay. Nói theo nay, đó gọi là thấy trọn vẹn sự lý đầy đủ trong một niệm. Phàm nói chỉ một niệm đầy đủ hết cả, tức là không một, không khác, không có trước sau, pháp vốn tự như vậy chưa hề tăng, giảm, thì tánh vi diệu, Thiện chân hiển nhiên tồn tại mà trước sau khắp tóm, ý chỉ càng rõ. Một nhà quán môn sao lấy thêm vào đây? Cho nên, sau phần ba đế, nói về ba giải tức lại là Tông chỉ. Hai đế dùng để hiển bày đều không, thì không lìa sắc tâm, không gì không phải Bát-nhã, thì một căn một hành sao, chẳng được do đây? Tức sự mà chân chẳng còn xa vậy. Cho nên nói: Pháp môn chẳng phải một chẳng phải hai. Văn còn lại là tán thán giáo pháp khuyến khích hành trì như Sớ giải thích có thể biết. Giải thích Phẩm Hộ Quốc. Kinh dùng chữ “Hộ pháp” đặt tên, giáo dùng sự lập pháp làm gốc, là nguyên do thiết lập phẩm này vậy. Mà Hộ có trong ngoài. Trong là hộ pháp thì có hộ trì người quả, hóa độ chúng sinh, tức dựa vào Chân đế. Ngoài là hộ người (người) tức có bảo hộ lãnh thổ, người dân, các hoạn nạn, tức dựa vào Tục đế. Nên tiếp theo phẩm Hai Đế là có phẩm này. Sớ giải thích gồm hai phần: Trước nương theo văn phân trong, ngoài có thể biết. Tiếp giải thích tên phẩm lại có hai. Nếu nói cho tiện, nên giải thích Hộ trước tiếp giải thích Quốc. Nay theo nghóa thuận tiện giải thích Quốc trước. Vì không có quốc gia, hộ trì cái gì, mà có thiết lập hộ trì? Nên đầu tiên nói về quốc độ, tiếp trình bày lý do phải hộ trì. Văn phần đầu, nghóa là thế gian thì có ba cõi phần đoạn, là nơi nương ở của phàm phu, Nhị thừa. Phàm phu bao gồm Trời, người mà không nói bốn thú kia nghóa là không phải phần chính được bảo hộ. Nếu dùng ý Phật, thì có chỗ nào mà không thông. Về xuất thế gian thì có ba cõi biến dịch, là chổ nương ở của Thánh vị bốn quả. Nay văn dùng Thập tín đến Thập địa để nói, là căn cứ vào vị đã đoạn Hoặc, ra ngoài cõi. (Ba cõi). Nhị thừa chưa đoạn hết Hoặc, quả còn bị trói buộc trở lại, vẫn còn trong ba cõi nên nói. Ngoài ra, Bồ-tát chưa đoạn hết Hoặc cũng giống như Nhị thừa nên lược không nói đến. Xem rõ trong Luận v.v… Tiếp đến nói nguyên do phải hộ trì cũng có trên ngoài. Nghóa là trộm cướp tức giặc ngoài, phiền não kiết sử v.v… tức giặc trong. Vì có giặc trong, ngoài nên phải có hộ trì cả hai, mà có chủ thể, đối tượng được hộ trì. Chủ thể hộ trì như trăm bộ quỷ thần v.v… hộ trì bên ngoài; như Bát-nhã trí tuệ v.v… là hộ trì phần bên trong. Nhấn mạnh phần gốc mà nói tức nương theo thần lực hộ trì, mà công Thánh được tỏ rõ, há là người lực có thể làm được vậy? Nhưng cũng người nơi con người mà có như thế, nên nói: “Hoặc như trong naòi v.v…”, như phần sau giải thích. Tiếp căn cứ vào giáo quán giải thích: Cõi nước là đối tượng được hóa độ không ngoài bốn loại: Tức là bốn cõi. chủ thể hộ trì là pháp môn Quán, tức quán sinh diệt v.v… tùy thuộc vào Giáo, mà quán có riêng khác. Về nghóa ấy có thể hiểu. Nhờ vào lực quán nên làm cho ba Hoặc không dấy khởi, thì tức là bốn cõi được an ổn. Câu “Lại trăm bộ” tiếp xuống là nói về đối tượng được hộ trì có khác nhau. Nghóa là trăm bộ chỉ có thể hộ trì cho đất nước v.v… mà không thể hộ trì nổi chánh báo (con người) nên nói nước, cõi là Y báo. Bát-nhã vốn hộ trì ở chánh báo mà cũng hộ trì nước nên nói nước cõi là chánh báo. Thường tuy nghóa như vậy, mà hẳn phải gồm chung Hộ trì mạng sống… cũng như thế, đi vào nội dung văn tùy thuận giải thích. Nói “Tôi nay” (Ngô Kim), là chỉ chính vào người đang nói, là đốt tượng thỉnh cầu. Tuy nhiên, pháp ắt phải từ chổ sâu nên trước nói việc hộ trì quả. Nhấn mạnh chẳng phải gốc, không lấy gì để sửa gọn. Khi nước sắp loạn nghóa là phàm việc trị loạn của quốc gia có hưng thịnh, suy vi nên chắc chắn tự nhiên là có kịp thời và có chậm rãi. Kịp thời thì có thể nhận thức chuyển biến là thông, có chậm rãi thì có thể dùng sự nhận biết về răn đe, sợ hãi. Loạn mà biết sợ hãi đó là khó làm sao có vậy. Vì vậy nói: “Còn mà không quên mất, an mà không quên ngay”. Sớ có cho nghóa thật hại là thiếu, nghóa đơn giản chỉ là thật sự bị hại, đó là nghóa thiêu, không hẳn là nghóa thiêu đốt trong ba tai nạn (tam tai). Mà đây nói kiếp thiện là nhấn mạnh nghóa mà chọn nói. Như Diệu Sớ nói lửa ba độc đó vậy. Nếu quả như cho rằng là cướp lửa, chắc chắn không được mà có thể trốn, thì còn được quả gì mà hộ trì ư? Sẽ đề phòng lúc chưa hình thành là được vậy. Nếu phàm khi lửa lớn thiêu đốt mà ta và cõi này an ổn, thì tuy có cướp lửa cũng không được mà đốt. Nên suy nghó. Nói: “Nên thỉnh trăm tượng Phật” là nói sự thiết lập, sắp xếp đúng nghi thức của việc hộ pháp. Nghóa là: Thỉnh tượng. Tập họp chúng (Tăng). Mời Pháp sư thuyết giảng. Cúng dường Tam bảo. Phụng sự Pháp chủ. Ngày hai thời thỉnh thuyết Bát-nhã. Thỉnh trăm bộ quỷ thần vui thích vân tập nghe pháp, người đó hộ trì đất nước. Trên đây là nghi thức bắt buộc, nhưng quý ở sự tôn nghiêm, không nghe người khác nói. Tiếp nói các nạn của đối tượng hộ trì gồm hai tức là quỷ thần và người. Ba nạn như lửa v.v… trong đó trời đất sinh việc quái gỡ cũng thuộc nạn ở người. Nghóa là Trời đất tam quang (Trời, trăng, sao) không có việc quái dị, mất mùa, là do con người nên thuộc về nạn của người. Như nước, lửa, gió ba tai họa vốn là do nghiệp cảm, tùy loại tương ứng, sao cho rằng giảng Kinh pháp này mà có thể thoát ư? Là cũng có đạo lý đó, nhưng Sớ không luận đến. Lại căn cứ vào nghi thức thỉnh thế lực khác, căn cứ vào danh giáo mà nói tức nói đến Thiên thời chẳng bằng như địa lợi, địa lợi chẳng bằng như người hòa. Sớ dó nước có tai họa do Trời không gặp thời, đất không thuận lợi, người tình không hòa thuận mà thôi. Nên khiến cho giảng Kinh này, thì đạo pháp được thông suốt nên thuận với lý trời, tu theo pháp này nên phù hợp việc của con người v.v… Cả ba đều được cả, thì tai nạn trong nước làm gì còn có! Lại nói: “Người dân trong thành không vì sự giới hạn của bờ cõi v.v…” tức là biết việc hộ trì đất nước không ở việc này mà có. Đây là sự hộ trì khiến cho thần dân thiên hạ không ai không thuận phục mà quy về. Nếu như có sự thuận lợi cho binh lính, núi non địa hình hiểm trở, bờ cõi mở rộng thì lại nói đó là do người chứng đắc đạo nhiều hổ trợ, người mất đạo thì ít giúp sức v.v… Song, sự dạy dỗ người dân trong thành là hỗ trợ cho cái đức phục tòng, để họ bắt chước như đây, huống chi Bát-nhã là công đức lớn, sao có mặt mà chẳng giúp gì ư? Vậy còn nghi ngờ sao? Do đó mà luận, lý này dễ hiểu. Chẳng qua con người không dốc hẳn niềm tin mà thực hành theo đó thôi. Lại đôi khi không hiểu, con người có khi cho việc giảng là cứu cánh vậy. Kinh nói rõ về diệu dụng của pháp không là một, mà rất nhiều. Như hộ quốc, hộ phước hộ nạn v.v… Vì thế hộ quốc ắt phải hộ nạn, hộ người dân; hộ phước cho nên cầu nguyện. Tuy nói đối tượng được hộ trì rất nhiều, nhưng thực ra không ngoài hai thứ. Tuy nhiên việc cầu nguyện cũng có cầu có trí tuệ, giải thoát, há không thể gọi là phước, chỉ vì đối với Bát-nhã nay nên trí tuệ thế gian cũng thuộc về phước vậy. Nói “Hạng cửu phẩm trong người” tức là đã nói cầu giàu sang chức vị, phải là hạng quan cửu phẩm vậy. Lại nói: “Trải bày trăm tòa cao” mà Sớ có giản lược giàu nghèo để giải thích. Vì thế nói: Nếu xét theo văn đây nên lấy việc giảng pháp làm chính. Tuy không chung với ý câu hỏi, nhưng cũng nên nói cho trọn vẹn. Nghóa là nói: Giàu nghèo tùy theo sức của mình. Như vậy việc chính là giảng pháp cũng không trở ngại. Từ câu “Xưa có vua” tiếp xuống là dẫn chứng có hai. Đầu tiên dẫn chứng các Trời chứng minh Hộ quốc. Văn nói về Đỉnh sinh một duyên có hai đoạn. Tướng lành lúc sinh ra. Đọa ác có nguyên do. Tức là từ câu “Dạ Xoa từ đất hiện ra” tiếp xuống Dưới đó lại có Đế Thích nương theo Kinh, thỉnh được gia hộ. “Như pháp của bảy Đức Phật đã xử dụng…. Cho đến câu: “Đỉnh sinh tức thoái” nghóa là nói bị thoái đọa. Nhưng vì mới sinh có tướng lành, nên Đỉnh sinh tin không phải là người tầm thường mà sau thọ báo như đây, nên biết phước báo có lúc hêt vậy. Nếu không phải tự trong Bát-nhã mà đến, thì chẳng thể dựa vào cái gì. Rõ ràng vậy. Câu “Lại, Đại vương” tiếp xuống là dẫn chứng vua Người vương hộ trì thân. Lại gồm hai phần. Một là trình bày những duyên khó khăn như văn. Chữ “Thiên La” là gọi vua cha của Ban Túc. Đầu tiên nói rõ xuất thân. Câu “Thường cúng dường một vị Tiên người” tức nói người tu hành nhẫn nhục. Câu “Vua tức lập nguyện” tiếp xuống nói người nguyện mà được thoát làm La sát vương. Câu “Sau các La sát nói” tiếp xuống là thiết lập hội. Câu “Lúc ấy, Tu đà vương” tiếp xuống là tóm kết hội thông xưa nay như văn. Từ câu “Vua Phổ Minh đó” tiếp xuống là chính nói thiết lập hội, hộ trì nạn. Văn có trường hàng, kệ tụng, như văn. Căn cứ vào Sớ nhận định phần kệ tụng, không ngoài bốn nghóa Vô thường, khổ, không, vô ngã. Gốc là sự thuyết giảng của giáo pháp Tiểu thừa mà cho là Bát-nhã, tức là vì người nghe đắc Không bình đẳng Tam muội chứ không phải Bát-nhã, vã lại huống gì một nhà phán định về lợi ích lại nói: “Chỉ xem các Kinh biết chưa được đạo”. Tức nhận thức được pháp Phật thuyết là có ý chung, riêng. Đã thông suốt chung riêng, nghiệm biết chẳng phải chấp vào một lối. Dựa theo nội dung Kinh trước nói: Ngày hai thời giảng Bát-nhã, và văn nay nói tám ngàn ức kiếp được gặp nên biết không giới hạn vào văn hay kệ để nhận định. Lại sách Phụ Hành nói: Diễn môn ấy hỗ trợ đạo. Tức gồm việc khuyến Pháp Phổ Minh cũng không chuyên là giáo Tiểu thừa. Vì lợi ích nghiệm thấy mà nói, nghóa đó rõ ràng. Xem các câu trong kệ này, thì ngôn từ, lý lẽ đều đạt đến mức khác thường. Nay bên ngoài phần Sớ giải, thuận theo đó mà giải thích: Kệ thứ nhất nói: Thành, trụ, hoại, không mỗi đều hai mươi tiểu kiếp” đây là cuối kiếp sơ, đầu kiếp sau nên nói là chung ngật (cuối cùng hết). Càn là kiện. Khôn là thuận. Càn phối là Trời. Khôn phối là Đất. Vì thế gọi là Càn Khôn, thật ra là chỉ Trời đất. Cho là kiếp thiện nên mênh mông không có gì cả. Chử tổng (suốt) cũng như chữ Không. “Tu di, cự hải” là nói biển núi trong thành đều lớn. Phàm thế giới sở dó có thành hoại là do nghiệp báo của chúng sinh nên vậy. Khi xảy ra tam tai, phá hoại con người chắc chắn đã hết. Nay lại phước đức của Trời Rồng hết nên ở trong thế giới ấy điêu tàn. Hai uy nghi còn mất, là nêu lên so sánh có thể biết. Kệ thứ hai nói: Sinh lão bệnh tử là bốn tướng trạng của con người. Vì chúng lưu chuyển không ngừng, cũng như bánh xe quay vòng, không có biên hạn bờ mé. Chí nguyện của người vốn ở thường lạc mà bốn tướng chỉ là khổ. Nên nói: Trái lại với ước mong thì sầu thương làm hại. Họa chẳng gì lớn bằng năm dục, nên dục sâu thì họa nặng khổ báo xuất sinh từ trong đây, không phảu bên ngoài đưa đến. Chỉ vì ba cõi luân hồi trong đó, nên rốt ráo đều là khổ, câu “Nước làm sao có thể nương nhờ” là có hai ý. Kệ thứ ba: “Có vốn tự Không” là muôn điều có gốc xuất ra từ không thì cái thật của nó không có. Huống gì cái Không xuất ra từ cái không không ư. Chỉ là người trong, duyên ngoài hòa hợp mà sinh trong sáu nẻo này, nên thành như thế. Có thịnh ắt có suy, thật ắt có hư, là xu thế đối đãi hiển nhiên, sao có đủ mà không có hết ư? Nên chúng sinh các loài côn trùng trong ba cõi rõ ràng đồng một cảnh mộng, chưa từng có lúc nào an. Đó cũng như tiếng vang từ hang động nương hư không mà ra, đầu tiên là không có thật; cõi nước cũng như thế. Kệ thứ tư nói: “Người dùng thức thần làm chủ”. Nghóa là Thần ngã mà không có hình tướng, dựa nhờ vào bốn đại hòa hợp để làm chốn nương, Thức ở giữa chúng. Nói về bốn đại thì tánh của chúng là không điều hòa, tàn hại lẫn nhau, thêm Thức vào tánh lại khuấy động, làm sao được yên. Chỉ vì vô minh phiền não được bảo dưỡng nên không thấy khổ mà cho rằng vui. Hơn nữa, rong chơi ra vào trong bốn đại, không cho là mệt mà cho là việc phải đi, hình dựa vào trong hoặc ở đây, ka, đó là vô thượng làm chủ. Thức dựa nơi hình mà hoặc sinh hoặc tử? Chỉ là một nhà vô thường. Cho đến ở hình không cho là hình; Thần không cho là thần, hình, thần còn xa lìa, huống còn có được núi sông cõi nước, y báo, chánh báo sắc tâm ư? Đó tức là cái ngoài của sự vật bên ngoài là bốn thứ đã nêu ra vậy. Câu “Bấy giờ, Pháp sư” tiếp xuống là nói chúng nghe pháp lúc ấy được lợi ích. Chúng lúc ấy có bốn, mỗi chúng được lợi ích chẳng giống nhau. Nói chung không ngoài sáu thứ lợi ích, đối với quả vị như Sớ giải thích có thể biết; không giải thích riêng nữa. Giải thích Phẩm Tán Hoa Sở dó tung rãi hoa là để báo ân, sở dó làm trang nghiêm thanh tịnh là vì cúng dường. Trên nói việc hộ trì cõi nước là giáo pháp rộng lớn nên ăn sâu nặng vì thế, tiếp theo là trình bày sự tung rãi hoa để cúng dường. Tức là tri ân mà báo đáp. Theo phong tục người Thiên Trúc dâng hoa là tiêu biểu cho sự tôn kính, chư Phật Bồ-tát, không hề muốn, chỉ vì sự trang nghiêm thanh tịnh là chính, nên việc tung rãi hoa để biểu đạt sự tôn kính Đức Phật thôi. Mà hoa là có người có quả, việc cúng dường thì chủ thể dâng chúng, đối tượng được nhận. Nay tung rãi hoa cúng, tiêu biểu do người gắn liền với quả. Sớ giải thích ba phẩm thuyết kệ có nhiều ít chẳng qua là triển khai ra, kết hợp lại cùng với Phật thuyết ở quá khứ và nay có khác. Nhưng các văn đa phần dựa vào nghóa Tất đàn, dẫn đắt những tâm ý ưa thích của muôn loài. Nếu Luận chính xác, thật ra lời Thánh người nói, phàm phu chẳng thể hiểu được, nên Không thể chấp vào một định kiến để luân. Lại nói việc tung rãi hoa có ba hành v.v… Hai trước thuộc người, một sau thuộc quả. Hoa vốn không có ba, tùy theo sự hiểu nông cạn biểu đạt ra. Mà hoa được tung rãi ra đó hoặc biến hóa làm tòa, đài, thành, lọng, là cũng nói theo thứ tự tăng dần. Ba thứ hoa vốn tiêu biểu sự tu hành trải qua từng bước trong riêng biệt, mà nói Bồ-tát Viên giáo được nói trong Biệt giáo, thì bàn luận cũng không phương hại gì, nhưng Biệt giáo nói là Viên giáo thì khó được. Cho rằng Bồ-tát Viên giáo nói trong Biệt giáo không gì không được, thì lại xem kỹ thử. Trong phần đức Như Lai thuật lại xác nhận nói “Nơi Thần thông sinh” nghóa là Bát-nhã chỉ một mà chổ sinh chẳng đồng. Tức Bát-nhã là mẹ của chư Phật, là nơi Thật tướng sinh ra, thì Bát-nhã cũng là mẹ của Bồ-tát, là nơi quán chiếu Bát-nhã sinh ra, nên Bát-nhã văn tự tức là nơi Thần thông sinh ra, là giải thoát. Trong phần đức Phật thị hiện thần lực, văn có đủ hai ý. Trước dùng tên gọi biểu thị đó là Thần biến. Tức ấy như gọi là Thần của âm dương chẳng lường được. Hai là dùng con người biểu thị, đó là thần lực của Đức Phật. Trong đây trước nêu bày chỉ rõ hạng mục v.v… Đó là năm. Sở dó năm thứ hỗ tương hòa nhập vào nhau, vì mỗi mỗi đều là pháp giới. Nghóa là tánh của ba đế là dung thông, do đó không vướng ngại, không vướng ngại nên hòa nhập vào nhau. Đây cho nên gọi là Không thể nghó bàn. Nói “Chỉ đều là một niệm” là tức tâm là pháp, tức pháp là tâm, tâm pháp dung hòa cả hai, pháp chính do tâm biến, đây là lý duy nhất mà Phật Bồ-tát đã chứng đắc. Nên nói chân tánh giải thoát không thể nghó bàn, xứng tánh mà hiện không bị phân tán bên ngoài. Văn nay cho rằng Thần túc lực, nên tin chắc rằng không phải là loại tác ý thần thông. Vì thế nói sự y chỉ của tất cả thân, của thân trong mỗi một vi trần nếu phải Không Giả Trung trong tam thiên thế giới thì sao có thể thành diệu dụng tự tại này, tức là lý đó vậy. Bởi thế nói thì Không Trung là lý của sự hòa nhập vào nhau (tương nhập), diệu Giả là tướng của sự hòa hợp vào nhau. Không nhờ không, Trung thị không lấy gì để dung hòa làm một, không nhờ diệu Giả thì không cho rằng thấy được một nhập vào tất cả, tất cả nhập vào một như thế! Tuy nhiên cần phải khéo léo lãnh hội tốt, nếu không thì mê tình tức trái quấy. Tiếp theo hỏi là đáp giải thích nghi: Nếu hiểu được ý trước thì nghi ngờ này không khó, dù không giải thích cũng được. Đã giữ ý kiến người xưa, không được không hiển bày. Dùng ý nay nên chia làm hai: Nêu lên ý xưa, gồm có bốn cách nói v.v… nay trước tiên nhận định theo hai tính chất chấp nhận cùng với, và phủ nhận lấy đi. Chấp nhận thì mỗi thuyết đều có mặt thiên trọng của nó. Phủ nhận thì từng không nêu ra nguyên do như thế. Nay cho rằng một Không, tất cả Không đồng đẳng thì pháp pháp đều là Không Giả Trung, vì tức Không Giả Trung, thì thể của nó vốn hư hư nên diệu diệu tức dụng thông hòa nhập, mà lớn, nhỏ, một, nhiều chẳng vướng ngại nhau, cũng chẳng có gì không đều do lý tánh. Tuy nhiên, đây đặc biệt là hiểu biết thôi, nếu còn mê tình chưa phá thì do cái gì để một niệm tương ưng toàn phát khởi hiện bày ư! Nêu nói “Không” phá trừ kiến, Tư v.v… Đây là kiến giải của một nhà phán định giáo môn nói về người muốn tu tánh trí đoạn chứng nhập phải như đây. Khác với các Tông khác chỉ ngôn thuyết mà thôi. Chớ cho rằng bịa đặt! Chúng lúc ấy thấy các tướng được lợi ích. Có thể biết. Giải thích Phẩm Thọ trì. Chư Phật vì pháp vô thường nên hiện vô lượng thần lực, Bồ-tát dùng Bát-nhã nên là sự y chỉ chổ của mọi người. Nguyệt Quang đã thọ nhận, lại thỉnh được xem thần lực, Bồ-tát khai mở sự giác ngộ làm chổ y chỉ cho đời sau, nên có Phẩm Thọ trì này. Thị trì nghóa là: Như văn nói v.v… Hai là trong phần tùy thuận giải thích, trong đó nói rõ ba Phật. Sớ làm, ba lớp vấn, đáp. Lớp một hỏi: Vì sao biết ba đức Phật được nhìn thấy là ba thân ư? Đáp dùng ba Kinh để nhận biết v.v… Lớp hai hỏi: Hai Đức Phật là gốc chẳng đồng ư? Văn không nói chữ “gốc” mà chỉ sự viên mãn tôn quý là chủ của Hóa thân. Chủ tức là gốc. Vì thế hỏi Xá Na là gốc và.v… Lại như Sớ giải, Giới kinh nói về hai lớp Bản Tích. Nay chổ đây nói rõ đức Thích Ca là Bản. Lời nói này tuy đồng với Sớ mà khác ở Kinh. Nên trong phần đáp nói Bản Tích theo như Giới Kinh nêu là Bản trong Tích, không phải là Bản của nghóa “Từ lâu”. Khác với Kinh này, căn cứ Thể, Dụng mà nói thì Pháp thân là Bản, Ứng, Hóa là Tích. Vì thế nói: Bản Tích tuy khác nhưng đều là một “Chẳng thể nghó bàn”. Lại lớp tiếp theo dùng ý trong phẩm Bảo Tháp để hỏi. Do trong phẩm này nêu ra Phật Thích Ca là Bản, phân thân là Tích (Dấu vết). Nên nói v.v… (đẳng). Nghóa là đồng nhau tức thường thì chỉ Bản không khác, là khác thì bao gồm và một có khác v.v… Tuy chỉ ra có sự bất đồng, mà đều nói Bát-nhã Không Tuệ thì chỉ một. Trong phần thỉnh nói “Khai pháp đạo” thì văn tiếp theo cũng nói “Khai Không Tuệ đạo” nên không ngoài Không Tuệ mà nói để khai mở giác ngộ cho chúng sinh, tức nghóa đó không khác. Trong phần đáp nói “Mười ba môn quán”, là lặp lại chỉ rõ công đức pháp môn của quả vị Nhẫn, để làm pháp môn mở giác ngộ cho chúng sinh. Sớ giải thích chữ “Khai Không” nói là: Văn chỉ sáng rõ, có thể nói là Khai thông. Kết hợp với trước câu “Đại Mâu Ni” thì văn hơi sai. Câu “Là Đại Pháp vương v.v….” là nói người đã khai sáng sự giác ngộ cho chúng ta tức là Pháp sư, là chủ của ta, nên nói Pháp vương. Hóa độ dẫn dắt chúng ta nên nói tri thức là chổ Kiến lập của ta nương theo gìn giữ. Vì thế nên cúng dường Pháp sư như Phật. Trong đây không nói Tịch Nhẫn, ví nghóa này đối với địa vị Phật mới có, nên không thể nói cho tự mình. Cũng là nêu Người có thể biết Quả không nói Đẳng giác, mà kết hợp ở mười Địa, nên chỉ là mười ba vị Nhẫn. Vị Tập chủng tánh thứ nhất, rõ ràng được giải thích như văn. Câu “Tập nhẫn lui về trước” tiếp xuống là Sớ nêu lên kán so sánh hơn, chung giải thích để trừ bỏ các vân nạn. Nay sợ chưa hết nghi nạn, nên giải thích thẳng ra đây mà có gia giảm. Nghóa là vì vị dơ tâm nên là cạn. Ví như, tay nhẹ gió thổi không định. Câu “Tuy trải qua mười ngàn kiếp”, có thể hiểu, nên đối chiếu văn tiếp theo đã giải thích có thể biết. Tức là các Bồ-tát tuy trải qua số kiếp tu hành như vậy, mà không cho rằng lâu; vẫn chưa đủ A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất tuy đương vào vị Nhẫn mà không phải đã vào cũng luôn học pháp nhẫn mà không phải đã tu lâu đạo phục nên về tên gọi không là người quyết định. Lại nói về người quyết định tức định rõ về người và pháp, để hiển bày sự bất định. Văn lý tự vắn tắt. Nếu như trước, sửa lại một hai chữ, thì có thể biết. Trong phần thứ hai nói về Tánh chủng tánh, nêu ra bốn Niệm xứ v.v… vốn là pháp Quán của Tiểu thừa. Nay hội chung căn cứ Biệt, Viên mà tu. Sự tu hành tuy có cục bộ, mà lý quán luôn chung suốt v.v… Sớ giải thích về tướng vô định nói giáo pháp của Như Lai không có tướng của trụ xứ nào cố định. Đây là lời nói thật chí lý. Cớ sao người nay lại làm thuyết cố định, há phù hợp lý ư? Lại nói: “Không có tướng tự tha”, tức bao gồm tánh, tướng. Nghóa là tánh của thể là Không, không có tự tha v.v… Về Tướng cũng là Không, không có tướng. Lại nói “Tu hộ trì quán Không”, thì người không thấu đạt ý sẽ rơi vào thiên lệch, tà vạy, nên cần phải hộ trì. Trong phạn Đạo chủng tánh thứ ba nêu ra quán tất cả các pháp sanh diệt là quán tống. Năm thọ ấm v.v… là quán biệt. Câu “Mà thường hội nhập đệ nhất nghóa tâm” là quán thành tựu ngộ nhập “. Tuy tâm tâm tịch diệt mà vẫn còn thọ sinh”, câu này Kinh tự giải thích v.v… Sớ thì giải thích do kiến, ái, vốn luân nhiễm nân vẫn còn thọ sinh hiện tại”. Đây thì khác với giải thích thông thường. Nay cho đó là vô minh tức chủ thể huân nhiễm, kiến ái là đối tượng được huân nhiễm, hoặc cho Kiến ái là chủ thể huân nhiễm còn Thức thuộc sự là đối tượng được huân nhiễm. Mỗi cách tùy theo Văn mà có sự chỉ ra khác nhau. Trong phần thứ tư nói về Pháp sư hai thứ tướng trí, như Sớ nhận định giải thích v.v… Câu “Về đệ Nhất nghóa” tiếp xuống là kết luận xác nhận về ba Vô vi, giải thích nghóa đó như có Luận riêng. Đây là danh tướng của giáo pháp Tiểu thừa, nhưng Kinh này nói đến, tức chịu lấy loại nghóa giống, nên không phụ thuộc giới hạn của giáo văn nói còn lại như đây. Nói “Không có tướng tự tha, Không có tướng không không”, nghóa là Thật trí xa lìa tướng, thì trí Phương tiện hiện tiền. Đó gọi là Thật tướng phương tiện tức là phương tiện của Thật tướng. Vì vậy nói: Ở Đệ-nhất- nghóa-đế không có hiện ra, không có chịu khuất. Sáu loại phương tiện bao gồm hết các phương tiện, vẫn cùng với Thật trí tướng có sự ra, vào. Nghóa là bất tức, bất ly, không trói, không mở, vi diệu mà không cho là thêm vào. Như Kinh mỗi thứ đều là giải thích v.v… Câu “Trí giác ngộ đầu tiên” tiếp xuống là giải thích lần nữa về sự đồng dị của hai trí. Đó ví như nước và sóng không là một, không là khác. Lấy đây mà ví dụ cho trí phương tiện và Thật. Ngoài ra đối với tất cả công hạn của khắp các bậc Học, cùng với Thật trí này cũng không là một, không là khác, cho nên không có nghiệp tập sinh tử nơi ba cõi, nên tự tại vô ngại, thậm chí sự biến hóa sinh nơi cõi Phật thanh tịnh cũng lại như thế. Nhưng nói: Nêu ra ví dụ hiển bày chỉ sai trái, nghóa là sợ lầm lẫn. Nên lại nói là hiển bày về tánh. Tức tánh đó không là một, không là khác. Nói “Bốn kho báu lớn”. Sớ làm ba giải thích. Kinh Tịnh Danh cũng có nói đến bốn kho báu lớn, mà không có chấp thủ giữ lấy, bỏ đi. Nghóa này đều chung. Văn trong phần thứ năm pháp sư, không có giải thích khác, chi nói ra diệt trừ sâu trong ba cõi. lược nêu ra các Tông chấp ý kiến bất đồng, bao gồm dẫn Kinh Pháp Hoa là giáo lý đúng thực mà thôi. Thứ sáu phiên dịch nói là “Cập biên” (biên hạn đến) tức nói sáu độ v.v.. đều có biên vực, giới hạn, cũng như “Đến bờ giác kia” nên nói vậy. Thứ bảy nói là “Như Diễm” Sớ giải thích v.v… Hoặc dịch là Trí chướng tức là Trí và chướng ngại đạo ngược lại thì khác. Mà soi chiếu có chủ thể và đối tượng có đối tượng gọi là chướng, không có đối tượng là Trí. Nay chiếu mà không có đối tượng để đắc, không là Trí sao! Nay phiên dịch chữ Trí là mẹ là gốc (Mẫu, Bản) không là cách dịch đúng, chẳng qua tiện theo nghóa nói. Nói “Tu đà hoàn”’: Sớ cho rằng mượn Tiểu thừa đặt tên cho Đại Thừa. Sở dó mượn quả Tiểu thừa kiến, lưu mà nói là để gọi cho quả vị của Đại Thừa đoạn kiến như mười ba pháp quán đều là công hạnh Đại Thừa. Nếu không căn cứ dựa nhờ vào quả vị, sao lại dùng đặt tên ư. Lại nói cũng là ý riêng hòa nhập vào dung. Tức dùng vị đoạn kiến của Biệt giáo nối tiếp hàng Kiến địa của Thông giáo, tức là sự tiếp nối của vị tiếp theo. Năm tướng là: Không ngoài các Luận hội điển (không phải Luận ngoại đạo) nói năm loại tướng. Mà nói: “Ta là bậc Nhất-thiết-trí, không phải đoạn cội rễ nghi ngờ nơi ba cõi, về tướng ta đã chấm dứt” tức là Kiến chấp của ngoại đạo. Lại nói biết khắp mọi nơi đều có đạo xuất ly, có chổ nào không là cửa giải thoát. Biết khắp nơi có chổ nào không là đạo xuất ly, thì làm sao thích hợp mà không phải chướng ngại ý chỉ gốc của đạo ư? Sự thông suốt, bế tắc là do con người trước tiên, không ở nơi pháp. Tất cả phiền não là người được tích tập v.v… Căn cứ luận theo Nghiệp cũng thuộc về người. Nay đối với quả khổ, theo riêng mà nói. Cho nên chỉ rõ phiền não là người tập, tập là tập nghiệp. v.v… Trong phần giác, nói quán tâm tâm tịch diệt mà Không có tướng tướng, là căn cứ theo Sớ kết hợp với dụng của tịch diệt là tướng tức. Nghóa là tướng gốc do tâm, tâm do tướng khởi, tâm đã tịch diệt, tướng do đâu sinh. Huống là tâm tâm tướng tướng là vậy. Vì theo dụng tương tức nên không có tướng tướng. Vì thế dụng tâm theo ở mọi phương, không chổ nào mà không hiện hữu, thân nhiên ở nơi vô trụ, mà không chổ nào không vẳng lặng. Vì thế nói: Hiện tại có mà tu Không, ở nơi Không mà thường giáo hóa. Do đó, cùng chiếu nơi Có, Không mà dụng của tịch diệt vô ngại. Câu: “Diệt tâm tâm tướng đẳng”: Sớ thêm một chữ “Số”. Nếu làm giải thích câu “Diệt tâm diệt tướng” thì nghóa không gì không được. Câu “Pháp nhãn thấy tất cả”: Sớ giải thích chung riêng về ba loại mắt. (Tam nhã). Kinh viết “Tam muội” là lầm. Cũng có thể nói “Pháp nhãn thấy tất cả pháp, nơi Bồ-tát là giả”. Câu “Ba mắt thấy sắc không là hai mắt: Nhục nhãn, Thiên nhãn thấy sắc, và một Tuệ nhãn thấy Không. Cho nên nói: “Sắc, Không thấy”. Đây là văn đặc biệt đảo ngược câu thôi. Mà không nói Phật nhãn, nghóa là Người hộ trì ở Quả. Kinh vốn không nói thấy giả, cũng là được nghóa suy ra. Nếu cảnh là một, thấy có ba thì tự nhiên là một ý nói v.v… Sớ lại người nơi Nhãn nói về Đế làm giải thích về năm đế, ba đế v.v… Tức căn cứ vào nghóa của giáo vậy; đầy đủ như trong Pháp Hoa Huyền nghóa. Lại dùng hỏi đáp nói rõ về Phật nhãn có hay không, thì văn Sớ này cho là kết hợp nói chỉ ở Người. Nay từ sự thông hợp, trình bày hai ý là phần hạn và tột cùng, thì chẳng trở ngại giữ lại cả hai thuyết. Từ câu “Lại nữa, quán Phật và Bồ-tát” tiếp xuống: Nói về Tịch diệt nhẫn. Nếu nói về Tịch nhẫn, thì tương đương quả vị tột cùng. Mà nói quán Phật, tức Tịch nhẫn có ba thứ. Nói theo riêng mỗi thứ, thì tương đương Thập địa, nếu triển khai rộng tức vị Đẳng giác, Diệu giác: Nói quán Phật đây cũng như phẩm hạ so với Viên giáo cũng còn vô minh còn sót lại. Theo lý thì cần phải quán Phật để tăng trưởng đạo, hội nhập quả vị. Câu “Từ Tập nhẫn cho đến Đỉnh Tam muội” tiếp xuống: Căn cứ Sớ nhận định giải thích, gồm có năm thứ sai biệt nông sâu. Phục, đoạn. Tín, Kiến. Đốn, Tiệm. Thường, bất thường. Đẳng, vô đẳng. Nay thuận theo giải thích, không thể không có chút khác nhau. Trong Kinh hai chữ “Dó năng” (vì có thể) e lầm. Nên làm chữ “Dó” thành chữ “Vị” (chưa). Nói về Phục đoạn: Là từ Nhẫn đến Đỉnh đầu gọi là Phục, tức hàng phục trước rồi sau mới đoạn trừ. Đó gọi là hai thứ đứng đầu ở trong các Phục. Tín, Kiến: Nghóa là tuy tin có thể đoạn hoặc, và sinh trí tuệ nhưng không phải chứng đắc trí tuệ, nên không gọi là “Kiến” mới được trí tuệ ấy. Vì thế, dùng tri (biết) cái sở tri, so sánh với cái nó bất tri. Cho nên nói v.v… Đốn, Tiệm: Nghóa là chỉ có Phật liễu ngộ ngay, thì không gọi là Tín. Nói tin là do tiến chậm. Thường và bất thường: Nghóa là hàng phục từ từ thứ trí tuệ có lúc khởi lên, diệt mất, hiện tượng đó gọi là bất thường. Nếu tâm sanh diệt đã diệt, hệ lụy không còn, nên không có sinh không có diệt, hiện tượng này là Thường. Đẳng, vô đẳng: Vì là thường nên Chủ thể, đối tượng đồng đẳng; chưa thường tức là không đồng đẳng- vô đẳng. Chữ đẳng trong từ “Vô đẳng” là nghóa không có bậc bằng nhau. Từ câu “Thí như” tiếp xuống là dẫn thí dụ. Lên cao nhìn xuống vạn vật, vật ở dưới thấp, nên không gì không chiếu tỏ. Về nghóa nói cũng như vậy, nghóa là tuy Phật lên ngôi vị Bà-già-độ, tột cùng ở tánh đức cũng phải nhà tu tập mới thành tựu. Cho nên nói: Thọ nhận sự tu tập. Sở dó trong phần khuyến khích thọ trì, không nhắn nhủ trao về bốn chúng mà chỉ ở các Quốc vương, vì thế lực vua lớn. Lại nói: Phàm cúng dường sâu rộng với trăm sự lớn lao, tự mình không phải thế lực của vua, thì ai có thể làm xong? Đây đặc biệt nói đến hai nghóa. Nếu lại nói đầy đủ phải có nhiều nghóa nói về sự lớn lao ấy. Lại như trong Kinh Niết-bàn, Phật trao giữ giáo pháp cho các Quốc vương, đại thần cũng là nghóa đó, mà trong phẩm An lạc Hạnh (Kinh Pháp Hoa) lại khuyên răn chớ nên thân cận hạng người ấy. Tuy nhiên đều có nghóa để nói. Tức đây vì việc hộ trì pháp. Kinh kia vì sự trở ngại hạnh tu, cho nên vậy. Bảy việc có thể gây khó khăn: Dựa phần văn Kinh phía dưới, thì đã sót đi một chữ “Úy” (sợ). Do sợ khó cho nên phải giữ giữa vậy”. Trong phần nói “khuyến khích thọ trì, tán thán danh hiệu”: Sớ phối hợp với ba loại Bát-nhã để giải thích; như văn v.v… Câu “Tất cả tâm thức của chúng sinh” tiếp xuống: Đây nên thứ tự phân biệt năm thứ làm gốc. Nghóa là người lấy thức làm gốc. Thức lấy tâm làm gốc, Tâm lấy thần làm gốc, Thần lấy Bát-nhã làm gốc, Bát- nhã lấy Pháp thân làm gốc. Lại nói: “Cha mẹ của tất cả Quốc vương”. Đây cũng thứ tự phân biệt năm loại chủ thể sinh. Nghóa là Lý- chủ thể sinh giải (hiểu). Giải là chủ thể sinh Trí. Trí là chủ thể lập đức. Đức là chủ thể thành Thánh. Vì vậy là cha mẹ của vua. Câu “Cũng gọi là Thần phù” tiếp xuống là gồm sáu tên gọi. Tức văn tự Bát-nhã, còn ba đức tức giải thoát. Chỉ có văn tự tức là giải thoát nên chổ gọi là thần đức diệu dụng có mặt ở Kinh này. Vì vậy, từ công năng mà nói cũng gọi là thần phù, tức như bùa, ấn của thần cao cả. Được ấn này nên có khả năng xua đuổi các ác, đón nhận mọi thiện, không thích ứng nào mà không lợi ích. Còn gọi là Tịch quỷ châu là hạt ngọc xua đuổi quỷ tà ác khiến không thể làm tai họa, nhiễu loạn. Hoặc gọi là Như ý châu, là hạt châu đạt được mọi ý nguyên vốn do tinh khí của Kim sí điểu vương tạo thành, có thể làm mưa xuống tràn đầy của báu không bao giờ hết. Còn gọi là Hộ quốc châu cũng như hạt ngọc của Kinh Thốn, trước sau đều chiếu tỏ mười hai thặng; có hạt ngọc này, các nước không thể xâm lăng, tổn hại. (Xem trong phần sau ở sách Xuân Thu nói). Cũng gọi là Thiên địa kính. Tức tâm gương soi của trời đất là nói trí tuệ có thể soi chiếu muôn vật, như dùng trời đất làm tấm gương soi vạn vật chổ nào mà không chiếu tỏ. Cũng như nói tâm của Thánh người tónh lặng ở trời đất, là tấm gương của sự soi chiếu vạn vật. Long thần bảo vương. Câu này làm hai giải thích. Là chỉ Phật hiểu thần của việc hộ pháp có đức hộ trì. Phải là vua của thần, báu của Rồng cho rằng được lực của thần, báu của Rồng thì có khả năng hộ trì Phật thừa và cõi nước. Nay chọn lấy hai chữ cùng với việc Luân vương xuất hiện ở đời, báu thần tự nhiên có đủ, để kết hợp nói, dùng làm đề mục để thuật ký, thì nghóa về là đối tượng được giải thích, không phải tự khoe khoang vậy. Trong phần chỉ rõ pháp cúng dường nói nên làm cờ chín màu v.v…. đó là chọn số chín, năm (cửu ngũ) tức theo sách ngoại điển chọn âm dương phối hợp mà thành số, không phải là ý trong đây. Nay chính là nói vật để trang nghiêm, mà biểu thị cho chín nẻo, chín khổ mà nói, cũng là ý tức vọng hiển chân. Số khác như Sớ mỗi mỗi tiêu biểu để giải thích, có thể biết. Ngàn ngọn đèn tiêu biểu mười thiện thập thiền, cũng như phần thuật ký trước v.v… Nói “rương ngọc, khăn ngọc”: Chữ khăn cũng như nghóa các tráp nhỏ, đều là vật để an trí pháp bảo Bát-nhã. Hoặc vua khi đi: Chính là nói vua khi đi đứng đều nên tôn kính pháp Bát-nhã. Như Kinh nói v.v… Nay thì gọi là đội lên đầu, nghi lể này có thể xem trong “Tăng Sử lược”, Mà người đời sau không biết cách đó, đáng tiếc cho người không hiểu lại giải thích như là nguyên do của sự chuyên cần. Như Kinh nói v.v… Than ôi! Khiến cho không tin lời nói ấy thì thôi, giả sử tin được, đáng hâm mộ mà không làm, càng đáng sợ. Lại nòi: “Ta sẽ sai năm Bồ-tát đại lực”, nghóa là Kim Cương Hống v.v… và năm ngàn thần vương đại lực, đến hộ trì cho nước kia. Nếu tin đúng như Kinh thuyết, thì thần lực kia ngầm gia hộ, hiển bày cái tướng trạng che chở, mà hoạn nạn tự nhiên sẽ tiêu tan. Há là bịa đặt ư? Câu “Quán bốn đại, bốn sắc” tiếp xuống là nói rõ tướng tu đạo. Như Sớ nói v.v… Nói “Sở duyên giác quảng” là nói chổ đối tượng duyên, đối tượng được giác ngộ thì rộng lớn. “Hoa của đối tượng được tung rãi tuy không thể không có hơn kém mà có nhiều tên khác” nghóa là căn cứ vào đối tượng được biểu lộ mà nói vậy. “Không định gọi là tâm học” là cái vi diệu của tâm học có thể chứng đắc. Nhưng nói biệt truyền thì lại thái quá. Giải thích phẩm chúc lũy. Phần Chánh Tông, hai thứ hộ trì, việc lớn nói xong. Phật ra đời giáo hóa, đạo pháp cũng như đủ khắp, sẽ dùng đạo pháp mà lưu truyền rộng rãi đến đời sau. Nhưng Tam bảo cùng suy giảm, chánh pháp khó hành trì, nếu không giao phó trách nhiệm hộ pháp cho đệ tử bốn bộ đại thần Quốc vương thì pháp Bát-nhã vô thượng do đâu hoằng dương, làm lợi ích cho muôn loại. Vì thế theo phẩm trên, là chúc lũy vậy. Nói Chúc lũy, sớ gồm ba giải thích, như văn nói v.v… Tiếp đến chọn lựa không phó chúc cho hàng đệ tử Phật, chỉ phó chúc cho Quốc vương là sao? Phần đáp cũng có ba nghóa. Tức là muốn trừ bỏ nạn tai cho đất nước, nên phải vua đích thân làm, sắp đặt việc lớn nên phải vua mới hoàn thành, công do tin ở pháp nên vua thực hành. Vẫn cần có sự trợ giúp của quan thần kết hợp, nên bao gồm phó chúc cho cả đại thần. Văn lược không nói đến quan. Văn đầu tiên nói việc phó chúc đến thời, nghóa là tám mươi năm mới gọi là đến thời. Dựa theo Sớ giải thích v.v.. Chưa rõ ý nói, nhưng cũng khả nghi, đây không luận đến. Tạm chọn lấy thứ thí tự tắt. Phân tích những lời như vậy là ý nghóa gì? Nghóa là khởi đầu của tám trăm năm chánh pháp đầu tiên, trên qua thời gian như vậy, thì Như Lai tuyên bố diệt độ, nên không có Phật. Sau tám ngàn năm, đến khoảng cuối của chánh pháp, thì tà pháp tăng mạnh, tà lấn át chánh nên không có pháp. Sau tám mươi năm đến khoảng cuối của thời mạt pháp, hình dáng như Tỳ kheo cũng không có, nên không có Tăng. Lúc ấy Phật, Pháp, Tăng bảo diệt hết không còn, vì thế đức Như Lai ân cần, ra sức nói lời phó chúc cho các Quốc vương, khuyên răn bốn bộ chúng hoằng dương, hộ trì Tam bảo đừng để đoạn tuyệt, cũng là khiến cho chúng sinh mở mang đạo Không Tuệ, tức là hạnh của Thánh Hiền. Nói hành trì mười hạnh thiện v.v… là Người, Thiên Thừa tức đều là giáo lý của ba tạng. Vốn là Kinh Niết-bàn nói phù trợ luật nghi, bàn luận lý Thường khiến cho pháp thân tuệ mạng của Như Lai được trụ ở đời. Tức là ý đó. Câu “Đời năm trược sau này” tiếp xuống, là đức Như Lai đối với vua Nguyệt Quang, rộng nêu bảy điều răn cấm. Diệt pháp. Hủy hoại hạnh của bốn chúng. Cấm không cho nương theo pháp. Tự mình chê bai. Sai khiến người hủy hoại. Tự tạo lỗi. Tin sai lầm. Như văn Sớ nói v.v… Lược nói mối liên hệ thứ tự. Nghóa là do diệt pháp nên hủy hoại hạnh của bốn chúng. Đã không có pháp được nương theo thì tức là phi pháp pháp. Phi pháp do ở tự mình chê bai chánh. Ví như không thể gượng dậy, lại theo đó sai người theo mệnh lệnh của mình. Mờ mịt như vậy thì hai chúng trong, ngoài do đó khó tránh khỏi cùng nhau làm lỗi, thậm chí các đệ tử bên trong (chúng xuất gia) vì cầu danh lợi nên ở nước vua quan, lộng ngôn tuyên pháp, áp đặt thị phi không chút phân biệt, người nghe lầm, rồi lầm làm theo chẳng ít. Mượn người làm cho đời vẫn đục, mạt pháp trở nên như thế, mà cảnh tượng điêu tàn tệ hại ấy thật do con người làm ra, cuối cùng sẽ đổ lỗi về ai? Than ôi! Nghe bảy điều răn ấy, mà chẳng chạnh lòng thay! Còn lại như Sớ giải thích v.v… <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 116