<經 id="n1705">SỚ KINH NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT NHÃ <藥>( QUYỂN 1 ↘ 5 ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1705 SỚ KINH NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT NHÃ Đời Tùy Thiên Thai Trí Giả Đại Sư thuyết Quán Đảnh ký <卷>QUYỂN 1 PHẨM THỨ NHẤT: TỰ Để giải thích kinh này đại sư theo, tiền lệ làm năm lớp huyền nghóa: Thích Danh. Biện thể. Minh tông. Luận dụng. Phán Giáo. Kinh này lấy nhân (người) và pháp làm danh; thật tướng làm thể, nhân quả tự hạnh làm tông, hai trí quyền và thật làm dụng, thục tô đại thừa làm giáo tướng. THÍCH DANH: Cái gọi là “Danh” có chung có riêng, một chữ “Kinh” là tên chung cho cả các bộ. “Phật thuyết Nhân vương hộ quốc Bát-nhã Ba-la-mật” là tên riêng. Lại nữa, “Phật thuyết Nhân vương hộ quốc” là riêng biệt cho bộ này. “Bát-nhã Ba-la-mật” là tên chung cho các bộ. Lại nữa; “Phật thuyết Nhân vương Hộ Quốc Bát-nhã Ba-la-mật kinh”, tức là tên chung cho cả một bộ. Phẩm thứ nhất: Tự” là tên riêng trong một bộ kinh. Sự đặt tên các kinh thì khác nhau, hoặc riêng chỉ ở pháp, như kinh Niết- bàn hoặc riêng theo người, như kinh A-di-đà hoặc riêng theo thí dụ, như kinh Phạm Võng hoặc đề cả hai là người và pháp như kinh Tịnh Danh và kinh này hoặc cùng nêu cả hai là pháp và dụ như kinh Pháp Hoa hoặc có đủ cả ba như kinh Hoa Nghiêm. Người được gọi là “Phật”, nghóa là đủ đức, tự giác khác phàm, giác tha khác thánh, giác mãn khác Bồ-tát. Tám âm tuyên xướng gọi là “Thuyết”, đó là người năng thuyết. “Nhân vương…” là biểu thị cho pháp được thuyết. Thi ơn bố đức, nên gọi là “Nhân”. Thống hóa tự tại, nên gọi là “Vương”. “Nhân vương” là năng hộ; “Quốc độ” là sở hộ, bởi Nhân vương lấy đạo để trị nước, nếu đứng về mặt Bát-nhã thì Bát-nhã là năng hộ, Nhân vương là sở hộ. Nhờ Bát-nhã, cho nên Nhân vương được an ổn. Nếu cho rằng vương có thể truyền pháp, thì vương là năng hộ, Bát-nhã là sở hộ. Lại nữa, nhân là nhẫn, nghe thiện không liền mừng; nghe ác không liền giận. Nhẫn có thể bao hàm cả thiện và ác; thò mới gọi là nhẫn. Vương là thống, bởi bốn phương quy thống; đó là giải thích theo nhân duyên. Nếu giải thích theo giáo; thấy các pháp sinh thì biết sinh là thật; thấy các pháp diệt, diệt tức là không. Không thì cõi nước của sáu trần. Không động không chuyển. Dứt hết phiền não trong ba cõi thì vương an ổn, đó là sở đắc của nhị thừa, gọi là Nhân vương; là ý của tạng giáo. Ở Phàm thánh đồng cư độ mà được tự tại. Nếu quán các pháp, sắc tức là không, không sinh, không diệt, như huyễn, như hóa thì phiền não ba cõi nhất thời bỗng dứt. Trụ ở trong hóa thành ở ngoài ba cõi, mà tưởng là đã độ, tưởng là an ổn, tức là người của ba thừa, cùng hành thập địa. Có thể hộ trợ cõi phương tiện, hữu dư hóa thành, thảy đều được gọi là vương. Đó là ý của Thông giáo. Nếu quán các pháp; không tức là sắc. Mà sắc vô biên, cho nên các pháp Bát-nhã cũng lại vô biên. Tuy vô biên nhưng không làm phương ngại tâm. Ví như hộp lớn thì nắp lớn; mà pháp vô biên ở trong một tâm, trong mỗi một pháp, đầy đủ Phật pháp. Từ nơi sơ địa, cho đến diệu giác, viên mãn từng phần, trụ Đài Liên hoa, không động không chuyển, năng động năng chuyển, tức Bồ-tát thập địa trụ lục độ là bố thí… mỗi mỗi đều là “Vương”. Đó là ý của Biệt giáo. Nếu quán các pháp xưa nay không sinh, nay thì không diệt. Tuy không sinh diệt, mà sinh diệt vẫn như thế, song chiếu song vong, khế bình trung đạo, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, tức từ sơ trụ cho đến Phật địa. Trong bốn mươi hai tâm, từng phần từng phần minh chứng cái lý trung đạo. Trụ cõi thường tịch quang, thì mỗi mỗi đều được gọi là vương. Đó là ý của Viên giáo. Lại nữa, theo Tạng giáo thì La hán, Bích chi Phật, phiền não đều đã tận hết, cho nên được gọi là Nhân vương. Bồ-tát đến địa vị quả Hướng Nhẫn mà Kiến hoặc và Tư hoặc chưa tận, thì chỉ gọi là vương, không gọi là nhân. Thông giáo thì Phật địa, Biệt giáo thì diệu giác, Viên giáo thì cực quả, đều là Nhân vương. Đương giáo thì có hơn kém, nếu chẳng phải là nhân, thì tức là vương. Nếu dựa theo bổn tích thì Nhân vương của tạng giáo là tích, Nhân vương thuộc Viên giáo là bổn. Xét riêng về bổn tích thì mười hạnh thuộc Viên giáo, có thể làm bổn của Biệt giáo. Phật địa thuộc Thông giáo tức là tích của Biệt giáo. Nhị thừa trong Tạng giáo lại là bổn trong Thông giáo. Lần lượt đương giáo thảy đều có bổn tích. “Quán tâm”, nghóa là quán pháp sinh diệt. Thấy sắc là có, phân tách nó cho đến không. Tâm ở trên sắc, mà đắc tự tại; đó là Nhân vương quán tâm sinh diệt. Quán sắc tức là không; không và sắc tự tại. Đó là Nhân vương quán tâm vô sinh. Nếu quán không tức là sắc, thì thứ lớp mà nhập chánh quán trung đạo, đó là Nhân vương quán tâm vô lượng. Nếu quán sắc không, không sắc, không hai mà hai, hai mà không hai, thì song chiếu song vong, đó là thật tướng một tâm ba quán. Ba quán một tâm, như ba mặt của vị thiên nhãn kia không ngang không dọc mà đắc tự tại. Đó là Nhân vương quán tâm theo Viên giáo. Ta nay thánh chủ, đạo giáo hóa chẳng ngại gì coi chúng sinh như con đẻ, nhân ơn thấm khắp, thường lấy ba quán mà an ổn sắc tâm. Tích còn không thể cùng, bổn thật là khó xét vậy. “Bát-nhã”: ở Trung Hoa gọi là trí tuệ, được giải thích trong bốn mươi hai quyển trí luận. Pháp sư Tạng, chùa Khai Thiện, của dùng thuyết đó. Luận thứ bảy mươi lại có một giải thích: Bát-nhã không thể xưng gọi là trí tuệ, Bát-nhã thì thăm thẳm dày nặng, còn trí tuệ thì mỏng nhẹ, vì vậy mà không xứng! Sư Mân ở chùa trang nghiêm dùng văn đó nói, danh Bát-nhã bao hàm rất nhiều nghóa, trí tuệ chỉ là một môn, phiên dịch thì chẳng sát. Nếu theo thuyết của hai sư, thì sẽ có sự cạnh tranh. Nay ở đây thì thông cả hai. Bát-nhã tự có hai loại: Thật và Quyền. Quyền thì có thể phiên dịch, thật thì không thể! Thật tức Viên giáo, còn Quyền thì ba giáo trước. Lại nữa, quyền không thể phiên dịch, tức thật sắc của Tạng giáo, không thể khiến sắc tức là không. Thật thì có thể phiên dịch; tức là ba trí. Nhất-thiết-trí thuộc Thông giáo. Đạo chủng trí thuộc Biệt giáo. Nhất-thiết-chủng-trí thuộc Viên giáo. Lẽ nào mọi người cứ khăng khăng cho rằng: Hễ có lửa cháy tại một nơi, thì khắp nơi đều có lửa cháy. Nếu thế, thì không thể nắm bắt được cái thực tại đang hiện hữu. Trí và tuệ thì kinh luận giải thích khác. Thành thật luận thì hợp thì giải thích rằng: Chơn tuệ gọi là trí, tức tuệ là trí. Kinh Tịnh Danh thì ly thuyết, biết tâm niệm của tất cả chúng sanh, nếu cần thuyết pháp thì khởi ở trí nghiệp. Bất thủ bất xả, nhập nhất tướng môn. Khởi Tuệ nghiệp”, được giải thích rằng: Trí là hữu, tuệ là không, vì có trí cho nên chẳng trụ không. Vì có tuệ cho nên chẳng trụ hữu. Nay Bát- nhã này phiên dịch đủ tám bộ. Có người nói: Nhân vương bộ được gồm trong bộ thiên vương, giải thích này không đúng. Vì trong Đại kinh nói: Nhân vương cũng là thiên vương. Vậy mới đúng! Hỏi: Nhân (đức) và nhân (người); hai chữ khác nhau, sao lại cho là giống nhau? Đáp: Đại kinh nói: Vì có nhân ơn, cho nên bảo đó là nhân (người). Sách lão tử nói: “Thánh nhân mà bất nhân, xem trăm họ như chó rơm”. Cho nên biết: Vua trong loài người, thì thực hành nhân đức mà chẳng cầu được báo ân. Nếu vua trái đạo, thì tuy là người, nhưng chẳng phải là nhân (đức). Nếu vua thuận đạo, đó là người, cũng là nhân (đức). Hỏi: Chữ nhân (đức) nghóa là gì? Đáp: Theo chữ mà xét nghóa, thì rất dễ hiểu lý. Gạch ngang trên là biểu thị cho đức của trời; gạch ngang dưới là biểu thị cho đức của đất; bộ nhân đứng bên là biểu thị cho đức của người. Thánh chủ thì đạo ngang với tạo hóa, đức hợp tam tài, cho nên bảo là Nhân vương. Hỏi: Người xưa nói: Kinh Nhân vương chẳng dịch theo chánh truyền; việc đó là sao? Đáp: Trí nhỏ biết ít, thật đáng thương xót thay! Vì không thấy trong mục lục, liền cho rằng không phải là chánh phiên dịch. Loài cá ở biển Hạ cả không tin có núi rừng! Cách cũng cho rằng: Thời cổ sơ vô vật”. Than thay kẻ mù, chê ngọc pha lê! Hơn nữa, đúng ra kinh này có hai bản: Bản thứ nhất là rộng thuyết. Như phẩm Tán Hoa nói: “Bấy giờ, mười sáu đại Quốc vương đã nghe Phật thuyết trăm ngàn ức kệ Bát-nhã Ba-la-mật, bèn rải hoa cúng dường”. Bản thứ hai là lược bản, tức kinh văn này. Người dịch khác nhau; trước sau có ba bản dịch: Bản dịch thứ nhất vào đời Tấn, năm Vónh - Gia, do Nguyệt Chi Tạng giáo Đàm ma la sát dịch. Nước Tấn gọi tên ông là Pháp Hộ, dịch thành hai quyển gọi là “Nhân vương Bát-nhã”. Bản thứ hai là đời Ngụy Tần, năm Hoằng Thủy thứ ba, Cưu-ma- la-thập, ở Biệt Quán, vườn Tiêu Dao, kinh đô Trường An, dịch thành hai quyển, gọi là “Phật thuyết Nhân vương hộ quốc Bát-nhã Ba-la-mật”. Bản thứ ba là do Chơn Đế dịch vào đời Lương, năm Đại Đồng, ở chùa Thật Nhân vùng Dự Chương dịch thành một quyển, gọi là “Nhân vương Bát-nhã kinh”. Sớ có sáu quyển. Tuy có ba bản, nhưng bản đời Tần là đầy đủ nhất. Theo lời trong mục lục nhập tạng của ông Phí trưởng phòng. “Ba-la-mật”: Trung Hoa gọi là Sự cứu cánh, cũng gọi là Đáo Bỉ Ngạn, sinh tử là bờ đây, Niết-bàn là bờ kia, phiền não là giữa dòng, lục độ là thuyền bè, đó là giải thích theo nhân duyên. Theo tạng giáo thì thật hữu là bờ này, thật hữu diệt là bờ kia, kiến tư là giữa dòng, Bát chánh làm thuyền bè. Theo Thông giáo thì lấy sắc làm bờ này, tức không làm bờ kia; kiến tư làm giữa dòng, lục độ làm thuyền bè. Theo Biệt giáo thì lấy “Sắc không” làm bờ này, lấy “Không tức là sắc” làm bờ kia, lấy vô minh làm giữa dòng lấy “Vô lượng hạnh” làm thuyền bè. Theo Viên giáo, thì lấy “Sắc không không sắc, chẳng phải hai mà là hai” làm bờ này; lấy “Hai mà là chẳng hai” làm bờ kia, lấy vô minh làm giữa dòng, lấy “Một hạnh là vô lượng hạnh, vô lượng hạnh là một hạnh” làm thuyền. Theo các giáo kể trên mà độ, gọi là Đáo bỉ ngạn (đến bờ kia); đó là giải thích theo giáo. “Không quán”: quán sắc tức không và sắc diệt không, tuy có khéo, vụng, nhưng đều cùng là đoạn dứt Kiến hoặc tư hoặc. Xét về này, kia, thì “Giả quán”, quán ba giả, đắc lý luận về bờ này, bờ kia. Còn “Trung quán”, thì về trước thập tín, thập trụ về sau, là luận về này, kia (bỉ, thử). Đó là giải thích theo quán tâm. “Kinh”: Có phiên dịch hay không phiên dịch, đều có đủ năm nghóa giải thích rộng, như trong Pháp Hoa Huyền nghóa. Theo giáo thì sáu trần đều là cả trong kinh. Kinh nói: Hoặc lấy ánh hào quang mà làm Phật sự, tức sắc trần là kinh. Hoặc lấy âm thanh mà làm Phật sự, tức thanh trần là kinh. Hoặc lấy cơm thơm mà làm Phật sự, hương thơm tức hương trần là kinh. Ăn cơm, nhập vào cổ họng, có mùi vị, tức vị trần là kinh. Miệng nhai động lưỡi, tức xúc trần là kinh. Tịch nhiên không có thanh như các Bồ-tát đắc nhập tam muội, tức pháp trần là kinh. Mỗi một căn trần đều căn cứ vào bổn tích của giáo đó là giải thích theo quán tâm. Lại nữa, chỉ lấy văn tự làm kinh (sợi dọc), lấy tâm hành làm vó (sợi ngang), thì làm thành tấm vải chánh giác. Lấy chuyện đời mà dụ cho kinh. “Tự”: là nguyên do, là thứ tự. “Phẩm”: tiếng Phạm gọi là Bạt cù, tiếng Hoa gọi là phẩm. Phẩm là loại. Ý nghóa và thứ loại đi theo với nhau thành một phẩm. “Đệ”: là thứ tự, khiến đừng hỗn loạn. “Nhất”: nghóa là đầu tiên. Vậy là đã hết phần giải thích về danh. BIỆN THỂ: Có người nói: Nghóa của văn là thể, đó là thông thuyết. Có người cho rằng: Vô tướng là thể Bốn giáo đều có vô tướng; vô tướng mãi mãi đầy khắp, cũng là thông thuyết. Có người nói: Lấy năm nhẫn mười địa làm thể. Như trong kinh này có nói: Năm nhẫn là pháp Bồ-tát, kể ra năm nhẫn xong, lại kết luận, gọi đó là chư Phật Bồ-tát tu Bát-nhã Ba- la-mật, thế nên biết nhờ tu Bát-nhã mà chứng được năm nhẫn; tất cả Phật, Bồ-tát đều do năm nhẫn mà thành thánh, cho nên lấy năm nhẫn mười địa làm thể. Nay ở đây thì không cho là vậy. Trước tiên xin giải thích chữ thể. “Thể” là pháp. Làm cha đúng với cha, làm con đúng với con. Vua tôi đúng tiết. Nếu vô thể thì phi pháp; pháp xuất thế gian cũng giống như vậy. Thiện, ác, phàm, thánh, Bồ-tát, Phật, tất cả đều không ra ngoài pháp tính. Đúng ra chính thật tướng làm thể. “Phổ Hiền Quán” nói: Nhân của đại thừa là thật tướng của các pháp. Quả của đại thừa cũng là thật tướng của các pháp. Thật tướng tức pháp tính. Nương vào nhân pháp tính này mà đắc quả pháp tính. Thế nên biết kinh này lấy làm thể thật tướng. Nếu luận riêng về nó; thì Bát-nhã có hai loại: Cộng nhị thừa nhơn thuyết. Bất cộng. Theo thật tướng đó thì cũng có hai loại: 1.Cộng. 2.Bất cộng. Cộng: là chỉ thấy không, mà chẳng thấy Bất không, không đoạn dứt được vô minh, chỉ trừ được kiến tư, đó là thật tướng mà nghiêng về bên chơn. - Bất cộng thì gọi là thật tướng trung đạo. Theo Biệt giáo, địa tiền thứ lớp mà tu, thì địa mới chứng. Theo Viên giáo, thì nhất tâm từ bắt đầu Thập trụ cho đến Phật quả, đều gọi là viên chứng. Nếu xét theo quyền, thật; thì cộng tức là quyền là hóa tha. Bất cộng là thật là tự ha- ïnh… Căn cứ vào giáo thì Thông, Biệt Viên đều có Bát-nhã, chỉ trừ Tạng giáo là không có. Có tam thừa cùng hành thập địa; có biệt nhập thông có viên nhập thông. Thông chánh Biệt và Viên là phụ. Tức Thông Biệt là quyền, Viên giáo là thật. Kinh nầy tuy đủ ba giáo, đúng ra dùng thật tướng theo viên giáo làm thể. MINH TÔNG: Tông là chủ yếu. Gọi là lấy Phật tự hành nhân quả làm tông. Có người lấy chánh quán vô sinh làm tông, lìa hai biên hữu và vô, tạm gọi là trung đạo, cho nên đoạn văn sau nói: Bát-nhã là vô tri, vô kiến, bất hành, bất thọ, bất sinh, bất diệt. Đó là ý nghóa theo Thông giáo, chỉ đắc ở quyền mà mất ở thật. Nay ở đây lấy nhân quả tự hạnh của Phật làm tông yếu. Khiến những người nghe thích thú thêm tu. Mỗi sắc mỗi hương đều là Bát-nhã. Chơn trí Bát-nhã lìa hữu lìa vô. Tuy lìa hữu, vô, nhưng hữu và vô vẫn uyển nhiên, tuy vẫn uyển nhiên nhưng chỉ tự vô tướng; cho nên lấy nhân quả vô tướng để làm tông. Hỏi: Tông và thể khác nhau như thế nào? Đáp: Tông như giường lưới; thể như từng mắt lông; nâng lưới thì lông đưa lên; động giường thì mắt khởi. Nghóa của tông và thể cũng giống như vậy! Lại như thoa xuyến thì vàng bạc là thể thợ kim hoàn tạo ra nó là tông. Nay lý thật tướng là thể, tu nhân đắc quả là tông… BIỆN VỀ DỤNG: Dụng là lực dụng. Có người nói: Kinh này lấy hai hộ nội ngoại làm dụng. Nội hộ như văn nói: “Vì các Bồ-tát mà thuyết nhân duyên hộ trợ Phật quả, nhân duyên hộ trợ thập địa hạnh”. Ngoại hộ như văn nói: “Ta nay vì ông mà thuyết nhân duyên hộ quốc, khiến cõi nước được an, bảy nạn không khởi, tai hại không sinh, vạn dân an lạc.”, gọi là ngoại hộ. Đó chỉ được một tục một chơn, mà chơn lại bất định! Thông, Biệt, Viên đều có thập địa làm hộ; vì sao là thập địa? Lại không thể nương theo hoàn toàn, nay lấy hai trí của chư Phật làm lực dụng; bởi các Như Lai đều lấy thật trí để tự chiếu, lấy quyền trí để chiếu tha; mà kinh này thì có ba loại quyền và thật. Thông giáo và Biệt giáo tuy có thật trí cũng vẫn gọi là quyền. Viên giáo tuy cũng có quyền, nhưng vẫn gọi chung là thật; bởi Viên giáo là hai trí tự hạnh của Phật. Chiếu lý tức soi cơ, soi cơ tức chiếu lý. Ví như cung của Tát bà tất đạt loan tổ vương mới đủ sức gọi là lực vì xuyên thủng bảy trống sắt, xuyên cả một núi Thiết Vi. Thấu suốt đất và nước gọi là dụng. Lực dụng của Thông giáo và Biệt giáo thì yếu ớt, như cung tên của người phàm. Vì sao? Vì Thông giáo vâng theo hai trí hóa tha, hoặc cũng cùng là chiếu lý mà không khắp, hoặc thứ đệ. Mới biết là không bằng viên chiếu, viên chứng của Viên giáo; cho nên mới lấy hai trí trong Viên giáo làm dụng. Lấy quyền trí để hộ các nước đồng cư hữu dư thật báo, khiến bảy nạn không khởi. Lấy thật trí để hộ nhân quả của bốn mươi hai tâm thuộc Viên giáo. Kinh nói: Nhân duyên hộ thập địa hạnh, đấy chỉ là căn cứ vào thập địa mà tam giáo thực hành. MINH GIÁO TƯỚNG: Muốn hoằng tuyên chánh pháp, cần phải biết sự viên mãn và thiên lệch của giáo, điều nầy đã nói rộng trong “Pháp Hoa Huyền Nghóa”, ở đây chỉ lược nói. Giáo: Lời dạy của thánh nhân. Tướng là phân biệt sự giống nhau và khác nhau. Kinh này thuộc bộ Bát-nhã giáo thông diễn môn, là kinh mang mùi vị của thục toa. Nói về nhân duyên hộ Phật quả và hộ thập địa hạnh. Lại nữa, vua hỏi: “Ma- ha diễn làm sao chiếu?” nên biết đó chẳng phải là đều mà Tạng giáo nói vậy! Tuy có tám bài kệ nói về các sự vô thường sinh diệt,… lại còn nói về trăm pháp sư thời trước, dùng tiểu thừa để thuyết về thế gian không bền, để khuyên phổ minh xả bỏ nước tức thuộc về trợ đạo. Chẳng phải nay chánh thuyết kinh mà tiếp tục nhập văn để giải thích. Cách giảng thuyết ở Trung Hoa thì khác nhau, có người thì chia văn kinh, có người thì không chia. Chỉ như Đại Luận giải thích kinh Đại Phẩm, thì không chia ra phần, đoạn. Ngài Thiên Thân giải thích kinh Niết-bàn thì có chia đoạn. Ngài Đạo An thì chia làm ba là tựa chánh và. Lưu thông. Còn Lưu Cầu thì theo văn mà giải thích. Đó cũng chẳng qua do tình người thích mà cái đẹp lan, cúc có khác nhau! Ý tại đạt huyền, chẳng tại nơi sự! Ở đây nương theo phân chia văn để nói. Thánh nhân thuyết pháp tấc có nguyên do dẫn đến; cho nên trước tiên là phần Tự, tiếp theo là nội dung chánh làm lợi ích thời, gọi là phân chánh thuyết. Mạt thế chúng sanh cùng thấm nhuần pháp lợi, gọi là phần lưu thông. Tám phẩm trong kinh này, Tự phẩm là phần Tựa; tiếp theo từ phầm sáu phẩm quán không gọi là phần chánh thuyết. Phẩm chúc lụy là phần lưu thông. Nếu theo văn kinh, cuối phẩm thọ trì, từ câu: “Phật bảo Nguyệt Quang…” tức là phần lưu thông… Nay ở đây, phần thứ nhất gồm hai phần: 1.Chứng tín. 2.Phát khởi; cũng gọi là Thông tự và Biệt tự. Còn gọi là Như Lai tự và A-nan tự; cũng còn có tên là tựa trước kinh và tựa sau kinh. Sáu sự chứng kinh gọi là chứng tín tự. Khởi phát chánh tông, gọi là phát khởi tự. Các kinh đều có cả, thì gọi là thông tự. Chỉ riêng kinh này có thì gọi là Biệt tự. Chính kim khẩu của Phật thuyết, gọi là Như Lai tự. A-nan chứng tín, gọi là A-nan tự. Thời Phật tại, là trước kia nên gọi là tựa trước kinh; trình bày khi kết tập gọi là tựa sau kinh. Nay theo cách gọi trước; từ câu: “Như vậy” cho đến “Mà ngồi”, gọi là chứng tín tự. Từ câu: “Bấy giờ, thập hiệu…” là Phát khởi tự. Chứng tín tự: Theo Đại Trí Luận nói: Phật lúc nầy ở nước Câu-di -na-kiệt, trong rừng Tát La Song Thọ, đang nằm, đầu hướng Bắc, sắp nhập Niết-bàn. Bấy giờ, A-nan lòng thương yêu chưa trừ, tâm còn chìm trong biển sầu, A-nê-lô-đậu nói với A-nan rằng: “Ông là người giữ pháp tạng, không nên như kẻ phàm, tự chìm trong biển sầu! Phật sắp trao pháp cho ông; ông nay sầu buồn sẽ làm mất sự thọ nhận. Ông nên hỏi Phật; sau khi Phật Bát Niết-bàn, chúng con làm sao hành đạo? Ai sẽ làm Thầy? Xa nặc ác khẩu làm sao ở chung? Đầu kinh Phật thuyết, nói những chữ gì?” - A-nan nghe xong, tâm buồn hơi tỉnh, ở bên dưới giường nằm của Phật hỏi các chuyện đó. Phật đáp: “Nương tứ niệm xứ mà trụ. Giới kinh giải thoát tức là đại sư. Tỳ khưu xa nặc, như pháp phạm thiên mà trị. Nếu tâm nhuyễn thì đổi dạy kinh Ca chiên diên; tức có thể đắc đạo. Đó là pháp bảo mà Ta đã tích tập bA-tăng-kỳ. Đầu tiên nên để câu: “Tôi nghe như vậy, một thời, Phật tại, phương nào, nước nào, nơi nào, trong rừng cây nào đó, trong pháp môn của Ta nên đầu tiên như vậy mà thuyết. Vì sao? Trải qua ba đời chư Phật đều có lời ấy …” Lại nữa, Ma-ha ca diếp hỏi A-nan: “Đầu tiên Phật thuyết pháp ở đâu? Thuyết những pháp gì?” A-nan đáp: “Tôi nghe như vậy, một thời, Phật ở tại nước Ba-la-nại, rừng Nai Tiên Nhân, vì năm Tỳ khưu mà thuyết khổ thánh đế.” Bấy giờ, đại chúng nghe rồi đều tin. Như phần thứ hai trong Trí Luận đã nói: Vì việc ấy cho nên mới có chứng tín tự … gồm sáu phần: “Như vậy”: là nêu pháp thể sở văn. “Tôi nghe”; là A-nan năng trì. “Một thời”: là văn và trì hòa hợp, cảm ứng đạo giao. “Phật”: là chủ thuyết pháp. “Trụ ở thành Vương xá…”: là nơi thuyết giáo. Từ câu: “Cùng đại chúng Tỳ khưu…”: là chúng cùng nghe. Giải thích sáu câu này là: Kinh của chư Phật ba đời đều sắp xếp như vậy, đạo của chư Phật đều giống nhau, không tranh với đời; đó là thế giới tất đàn. Đại Luận nói: Nêu thời gian và không gian để khiến cho người sinh tín; đó là nhân tất đàn. Tăng Triệu nói: “Như vậy” là từ ngữ của sự tín thuận; tín thì hội được những lý đã nghe; thuận thì thành đạo thầy đã dạy. Lý hội tức Đệ nhất nghóa tất đàn. Bốn thứ Tất-đàn điều đó đều là giải thích theo nhân duyên. Theo Giáo; khi Phật nói về tục đế thì có văn tự, chơn đế thì không có văn tự. A-nan truyền lại tục văn của Phật không sai khác, gọi là như. Nhờ tục văn đó mà hội được chơn, không sai trái, cho nên gọi là thị. (vậy). Đó là giải thích hai chữ “Như thị” ở đầu, kinh theo tạng giáo. Phật nói: Tức sắc thị không, không tức thị sắc; sắc không, không sắc, vô nhị vô biệt, không sắc chẳng khác là như. Tức Sự là chơn là “Thị”. Đó là giải thích “Như thị” ở đầu kinh theo Thông giáo. Phật thuyết tử sinh là hữu, Niết-bàn là vô; từ hữu của tử sinh nhập vào vô của Niết-bàn. Rồi ra khỏi vô của Niết-bàn, nhập ở Trung đạo. A-nan truyền lại không sai khác với Phật. Đó là giải thích “Như thị” ở đầu kinh theo Biệt giáo. Phật thuyết “Sinh tử tức Niết-bàn, tức Trung Đạo biến khắp tất cả xứ, không có gì chẳng phải là Phật pháp”, gọi là Như thật tướng. A-nan truyền lại điều đó không khác với Phật, gọi là như. Như như bất động, gọi là thị. Đó là “Như thị” ở đầu kinh của Viên giáo. Kinh này có đủ ba loại nghóa của như thị theo ba giáo, (Thông Biệt Viên). A-nan truyền lại không sai không khác. Phần nói về Pháp thể như vậy là đả xong. Giải thích tôi nghe: Đại Luận nói: Nhó căn không hư hoại, có âm thanh ở chỗ để nghe, thêm tâm muốn nghe, đủ các duyên hòa hợp, cho nên bảo tôi nghe. Tôi là chung, nghe là riêng. Nêu chung để nhiếp riêng, là giải thích theo thế giới tất đàn. A-nan thăng tòa miệng nói tôi nghe, đại chúng thương khóc bay lên hư không nói kệ. Đây là giải thích theo vị nhân tất đàn. A-nan thăng tòa, đại chúng nghi là Thích Ca lại khởi, hoặc A-nan đã thành Phật; hoặc là Phật ở phương khác đến. Nếu xướng lên câu tôi nghe, thì ba mối nghi đó liền dứt; đó là giải thích theo đối trị tất đàn. A-nan tùy theo tục mà xưng là tôi nghe. Trong đệ nhất nghóa: Tôi (mã) tức vô ngã; nghe tức không nghe. Không nghe mà nghe, không ngã mà ngã, đó là giải thích theo đệ nhất nghóa tất đàn. Theo giáo; thì Thích Luận nói: Phàm phu ba loại, đó là kiến mạn danh tự, học nhân hai loại, vô học, một loại. A-nan là học nhân không có tà, ngã có thể chế phục mạn ngã, nhưng theo danh tự ở đời, mà xưng là Tôi; đó là ý theo Tạng giáo. Thập trụ Tỳ Bà-sa nói: Bốn câu xưng ngã đều đọa tà kiến; trong chánh pháp của Phật, vô ngã thì ai nghe; đó là ý theo Thông giáo. Đại kinh nói: A-nan bậc đa văn, tự nhiên hiểu rõ ngã cùng với vô ngã. Biết ngã vô ngã nhị mà bất nhị, song phân biệt ngã vô ngã. Đây là ý của Biệt giáo. Nếu A-nan biết ngã và vô ngã, bất nhị mà nhị, nhị mà vô nhị, lấy phương tiện làm thị giả để truyền trí tuệ của Phật; đó là giải thích theo Viên giáo. Chánh pháp niệm kinh có ba A-nan: 1.A-nan đà; tiếng Hoa gọi là Hoan hỷ, trì giữ Tiểu Thừa Tạng. 2. A-nan bạt đà: tiếng Hoa gọi là Hoan hỷ hiền, trì giữ Tạp tạng. 3. A-nan bà già: tiếng Hoa gọi là Hoan hỷ hải, Trì Phật tạng. A-hàm có Điển Tạng A-nan, Trì Bồ-tát tạng. Bởi chỉ một người mà có đủ bốn đức truyền trì bốn giáo. Nghóa của chúng đã quá rõ ràng. “Quán tâm” nghóa là có không quán, giả quán, trung đạo chánh quán. “Tức không” nghóa là ngã tức vô ngã. “Tức giả” nghóa là vô ngã tức ngã. “Tức trung” nghóa là chơn ngã. Người nghe là A-nan, sinh ra vào đêm Phật đắc đạo, hầu Phật hơn hai mươi năm. Khi chưa hầu Phật thì đúng là không nghe. Đại luận nói: A-nan lần lượt nghe, chẳng phải là nghe tất. Kinh Báo ân nói: A-nan xin bốn nguyện, trong đó có pháp chưa được nghe xin Phật nói lại. Kinh Thai Tạng nói: Phật từ trong kiam quan đưa cánh tay kim sắc ra ngoài, lại vì A-nan mà hiện tướng nhập thai, xuất thai, chư kinh nhờ vậy mà được xưng nghe. Kinh Pháp Hoa nói: A-nan đắc ký, tức thời nhớ lại Phật pháp quá khứ, nhớ như việc hiện tại ở trước mắt; cho nên tất cả đều gọi là nghe. Đó là giải thích theo nhân duyên. A-nan Hoan hỷ: mặt sáng như trăng rằm, mắt như hoa sen xanh vâng theo Phật chỉ, như bưng đồ chứa, hứng nước rót từ bình khác. Một câu cũng chẳng sai sót: đó là trì văn văn pháp. Hoan Hỷ Hiền: trụ học địa; đắc không, vô tướng, vô nguyện, lục căn bắt lậu; đó là trì văn bất văn pháp. – A-nan Điển Tạng, đa sở hàm thọ, như mây giữ mưa, trì ấy bất văn văn pháp. A-nan hải, là bậc đa văn, tự nhiên hiểu rõ thường và vô thường. Nếu biết Như Lai thường không thuyết pháp, ấy gọi là đa văn nước của; biển lớn Phật pháp chảy vào tâm A-nan; đó là trì bất văn bất văn pháp. Kinh này có đủ ba giáo, tức một mình A-nan lấy ba đức truyền trì vậy. Giải thích “Một thời”. Tăng Triệu nói: Ngày pháp vương khải vận, lúc đại chúng gia hộ; đó là giải thích chữ thời theo thế giới. Đại Luận nói: Ca la là thật thời, biểu thị bên trong chỉ về thời đệ tử, thời ăn, thời mặc áo là chữ thời nói theo vị nhân tất đàn. Tam ma da là giả thời, là để trừ tà kiến của ngoại đạo; đây là giải thích thời theo Đối trị tất đàn. Trong đệ nhất nghóa thì vô thời, vô bất thời. Nghóa của chữ thời, được nói chi tiết trong cuốn một của Đại Luận. Theo giáo, thì trên kiến đế, dưới vô học, gọi là một thời hạ. Nếu ba người đồng nhập trong đệ nhất nghóa, thì gọi là một thời trung. Đăng địa trở lên thì gọi là một thời thượng. Sơ trụ trở lên thì gọi là một thời thượng thượng. Nay kinh này, đầu kinh thuyết tức là “Một thời” thông. Theo sự tiếp nhập của Viên giáo và Biệt giáo, thì có đủ cả ba thời. Giải thích về “Giáo chủ”: đó là Phật. Phật gọi là giác, biết rõ các phiền não hai bệnh thân và tâm. Nhân và quả tròn đầy, có thể phá tan được sự trói buộc. Kiếp sơ thì không bệnh; kiếp tận thì nhiều bệnh; khi trường thọ thì vui lạc, đoản thọ thời khổ não; thiên hạ ở hướng Đông giàu mà thọ thiên hạ về hướng Tây thì nhiều bò dê; thiên hạ ở phường Bắc thì vô ngã, vô nhân. Những xứ như vậy không thể cảm Phật! Khi tuổi thọ của con người là tám vạn, thì thiên hạ ở hướng Nam, chưa thấy được quả mà vẫn tu nhân, cho đến khi tuổi thọ chỉ còn một trăm, thì cũng như vậy, cho nên Phật xuất hiện ở nơi đó; đó là giải thích theo thế giới tất-đàn. Nếu mặt trời không mọc, thì những bông hoa chưa sinh hoặc đã sinh ở trong hồ đều không hiện rõ. Mặt trời đã mọc rồi thì tất cả đều sinh. Nếu Phật không xuất, thì cõi trời, người bị giảm bớt, cõi ác đạo tăng thêm. Nếu Phật xuất thế, thì có Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, cư só cõi trời; tứ thiên vương, cho đến cõi trời hữu đảnh. Đó là giải thích theo vị nhân tất đàn. Căn tính ba thừa, cảm Phật xuất thế, ngoài đó ra thì không thể cảm. Nếu đoạn dứt hạt giống hữu đảnh, thì mãi mãi vượt qua được dòng chảy sinh tử. Đó là giải thích theo đối trị tất đàn. Phật ở pháp tính thì không động, không xuất; có thể khiến chúng sanh cảm mà thấy có động có xuất; nhưng với Như Lai thật không có động, xuất. Đó là thuyết theo Đệ nhất nghóa tất đàn. Phật là bậc giác. Giác cái khổ, tập thuộc thế gian. Giác cái đạo, diệt thuộc xuất thế gian. Thân cao trượng sáu, thọ tuổi tám mươi, hiện hình Tỳ khưu. Ba mươi bốn tâm, dưới cây thành Phật, là Thế Tôn tự giác giác tha theo Tạng giáo. Mang hình trượng sáu, hiện thân tôn đặc nơi gốc cây nhất niệm, tương ưng đoạn dứt những tàn tập còn sót lại; tức Phật tự giác giác tha theo Thông giáo. Hiện thân tôn đặc, ngồi đài hoa sen, thọ nhận Phật ký, là Phật của Biệt giáo, tự giác giác tha. Ẩn ba tướng trên, duy chỉ thị hiện, tướng bất khả tư nghị, như hư không; tức Phật tự giác giác tha theo Viên giáo. Kinh Tượng pháp Quyết Nghi” nói: Hoặc thấy thân cao trượng sáu; hoặc thấy thân nhỏ thân lớn; hoặc thấy ngồi đài hoa sen thành trăm ngàn Thích ca, thuyết pháp môn tâm địa; hoặc thấy thân đầy hư không biến khắp ở pháp giới, không có sự phân biệt; tức nghóa bốn Phật. Giải thích theo bổn tích; thì ba Phật làm tích, một Phật làm bổn. Giải thích theo quán tâm; là quán những pháp sinh ra do nhân duyên, phân tích nó cho đến lúc không có; đó là vụng giác thuộc Tạng giáo. Quán nhân duyên tức không, đó là khéo giác thuộc Thông giáo, đều là giác không. Nếu trước tiên là quán không, tiếp theo là quán giả. Sau cùng là quán trung; thì đó là giả giác thuộc Biệt giáo. Nếu quán các pháp tức không, tức giả, tức trung thì đó là viên giác thuộc Viên giáo. Giải thích về “Trụ xứ” gồm ba phần: 1.Giải thích trụ. 2.Giải thích vương thành. 3. Giải thích sơn. Trụ: Phật có đủ ba thân, gồm tám trụ xứ: Ứng thân có bốn trụ xứ: 1. Thọ mệnh trụ, đó là năm phần pháp thân. 2. Y chỉ trụ: nghóa là Vương thành, kỳ sơn. 3.Cảnh giới trụ: đó là cảnh tam thiên giới. 4. Uy nghi trụ; đó là đi, đứng, nằm, ngồi. Báo thân có ba trụ: 1. Thiên trụ là trụ sáu cõi trời Dục giới. 2. Phạm trụ là trụ cõi trời tứ thiền. 3.Thánh trụ là trụ không, vô tướng, vô nguyện. Pháp thân có một trụ là trụ đệ nhất nghóa không. Theo giáo thì Phật Tạng giáo từ tích môn phát chơn tri vô lậu, trụ hai Niết-bàn hữu dư và vô dư. Phật Thông giáo thì từ thể môn phát chơn trụ hai Niết-bàn. Phật Biệt giáo thì từ thứ đệ môn mà trụ bí mật tạng. Phật Viên giáo thì từ bất thứ đệ môn mà trụ bí mật tạng. Thành: Nói đủ theo âm tiếng Phạn, thì phải nói là: La duyệt kỳ Ma-ha-ca-la. La duyệt kỳ, tiếng Hoa gọi là Vương xá. Ma-ha; tiếng Hoa gọi là Đại. Ca la tiếng Hoa gọi là thành. Tên nước là Ma-già-đà; tiếng Hoa gọi là bất hại nhân; nghóa là không có những pháp loạn sát; cũng còn gọi là Ma-kiệt-đề; tiếng Hoa gọi là thiên la. Thiên la tức cha của Ban túc. Thời xa xưa, ông vua đó làm chúa cả ngàn tiểu quốc, vua đi săn gặp sư tử cái. Cùng vua thông giao; sau đó đủ tháng, đến điện vua sinh ra một đứa con trai. Vua xét biết là con trai của mình, bèn cáo lệnh: “Ta không có con trai, trời tặng con cho Ta”. Rồi nuôi dưỡng khôn lớn, trên chân có ban đốm, người thời đó gọi là Ban Túc. Về sau Ban túc nối ngôi vua thường thích ăn thịt. Một thời vì thiếu thịt, nhà bếp bèn lấy thịt đứa bé mới chết ở cửa Tây thành, để dâng vua ăn, vua khen ngon, ra lệnh thường phải cung phụng món đó. Từ đó về sau mỗi ngày nhà bếp đều giết một người, sự độc ác tràn khắp thiên hạ, các nước đều oán. Vua của ngàn nước tiểu quốc đem binh trừng phạt, vua Ban Túc bị giết ở núi Ngũ Sơn, được La sát phụ giúp làm vua quỷ. Nhân một hôm, cùng thần núi thề giết hết ngàn ông vua kia mới thỏa nguyện, bèn dùng thần lực bắt được các vua, duy chỉ có vua Phổ Minh sau cùng mới bị bắt. Khi định đem hết các vua ra giết để tế thần núi, vua Phổ Minh tiếc hận thương khóc nói: “Kiếp này thật ngữ mà nay đành phải bội tín!” Ban Túc hỏi: “Ông cầu tín gì?” - Phổ Minh đáp: “Hứa làm đại bố thí”. Ban Túc nói: “Thả cho ông về làm bố thí, xong việc đến đây”. Phổ Minh vui mừng trở về nước, làm đại thí hội, giao quyền chính lại cho Thái tử, tâm an hình vui, trở lại chịu chết. Ba Túc hỏi: “Cửa chết khó đến, ông đã đi rồi, sao còn trở lại?” lúc đó vua Phổ Minh rộng thuyết cho Ban Túc về từ bi tâm, để bỏ đi tâm sát hại; lại còn bày vẽ, cho biết tất cả đều là vô thường! Ban Túc nghe tin, đắc bình đẳng không, trụ ở sơ địa. Bèn tập hợp ngàn vua, phổ biến cho mỗi vị đều lấy một giọt máu và ba sợi tóc để tế tạ cái nguyện của thần núi, tìm chỗ cho ngàn vị vua đều cùng ở trong vùng núi Ngũ Sơn, rồi xây thành, dựng nhà, làm thành đại quốc, thay nhau trông coi việc nước. Bởi chỗ ngàn vua ở, cho nên gọi là Vương xá. Lại nữa, trăm họ trong thành, bảy lần dựng nhà, bảy lần bị cháy. Chỉ riêng khu nhà Vương xá thì không bị cháy. Thái tử bèn ra lệnh: Kể từ nay về sau, nhà của trăm họ cũng đều gọi là Vương xá, để tránh hỏa nạn, từ đó không còn bị cháy. Vì vậy mà nhà trăm họ cũng đều gọi là Vương xá. Cũng có người cho “Xá” là xá tội. “Vương xá”; là nhờ vua Phổ Minh mà cả ngàn vị vua được thả; cho nên gọi là Vương xá. Lại nữa, thành đó do Tứ thiên vương tạo ra, cho nên gọi là Vương xá. Lại nữa, vua Ma ca đà sinh được một đứa con trai, một đầu hai mặt bốn tay; cho là bất tường bèn xé tay chân, vứt bỏ ngoài đồng hoang. Có nữ quỷ La sát tên là Lê la, hợp lại thành thân người lấy sữa nuôi nó, lớn lên thành người, sức mạnh thâu tóm cả các nước, bắt tám vạn bốn ngàn vị vua, nhốt ở trong năm núi, xây thành trị hóa. Vì có nhiều vị vua ở, cho nên gọi là Vương xá. Lại nữa, Ma-ca-đà gọi là nơi trì cam lộ, có mười hai thành: 1. Đại thành Khu-tỳ-ni. 2.Đại thành Phú-lâu-na-bạt-đàn. 3.Đại thành A-giám-xa-đa-la. 4.Đại thành Phất-la-bà. 5. Đại thành Vương-xá. 6. Đại thành Xá-bà-đề. 7.Đại thành Ba-la-nại. 8.Đại thành Ca-tỳ-la. Thành Thiệm-bà. 1 0. Thành Bà-sí-đa. 11. Thành Câu-diên-di. 1 2.Thành Cưu-lâu. Trong mười hai thành đó; sáu thành sau thì ít trụ, sáu thành trước nhiều người trụ. Lại nữa. Trong sáu thành trước, trụ nhiều ở thành Vương-xá, bởi để báo ơn pháp thân. Ít trụ ở thành Xá-bà-đề, vì báo ơn sinh thân. Về “Xá”: trong thành Vương xá có sáu tinh xá: Trục viên tinh xá, ở vùng đất bằng, do Trưởng giả Ca-lan-đà xây dựng, cách tây bắc thành ba mươi dặm. Tiểu lực-độc-sơn-tinh-xá. Thất diệp-huyệt-sơn-tinh-xá. Thiên chủ-huyệt-sơn-tinh-xá. Xa-thần-huyệt sơn-tinh-xá. Kỳ-xà-quật sơn-tinh-xá. Núi Kỳ-xà-quật, Trung Hoa dịch là Linh Thứu. Bồ-tát Thích ca, kiếp trước làm chim Thứu ở trong núi đó, nuôi dưỡng cha mẹ. Từ đó núi ấy được gọi là Linh Thứu. Lại nữa, phía nam thành Vương-xá có rừng Thi-đà, chim Thứu ở trong rừng ấy, thường ăn thịt người chết, những người sắp chết, chim Thứu bay đến liệng quanh nhà ấy, kêu lên mấy tiếng. Người ta lấy đó biết trước sẽ có người chết, cho nên gọi là Linh Thứu. Lại nữa, núi có năm ngọn, ngọn hướng đông đầu voi; ngọn hướng nam đầu ngựa; ngọn hướng tây đầu dê, ngọn hướng bắc đầu sư tử, ngọn trung ương đầu Thứu; nên cũng được gọi là Thứu sơn. Hỏi: Vì sao Phật ở vương thành, mà đến núi Thứu thuyết pháp? Đáp: Theo luận Pháp Hoa nói: Thành Vương xá hơn hẳn các thành khác. Núi Kỳ-xà-quật hơn các núi khác. Bởi Phật thường ở nơi Thắng xứ, để nói lên sự đặc biệt thù thắng của pháp môn. Bát-nhã này là pháp tối thắng, nên thuyết ở tinh xá Kỳ sơn trong vương thành. “Trung” (trong): là biểu thị cho thuyết Bát-nhã trng đạo. Từ câu: “Cùng chúng đại Tỳ khưu …”: là phần thứ sáu nêu chúng cùng nghe. Liệt chúng của các kinh, không ngoài bốn loại: Ảnh hưởng; nghóa là chư Phật Bồ-tát, đại quả đã tròn đủ, vì muốn chánh pháp trụ lâu dài ở thế gian, cho nên đến để có ảnh hưởng. Kết duyên chúng; hiện tại tuy nghe, nhưng không thu gặt được lợi ích, chỉ làm nhân duyên cho sự đắc đạo sau này. Phát khởi chúng: Pháp thân Bồ-tát cùng nhau phát khởi: thỉnh Như Lai thuyết cùng lợi ích cho chúng sanh. Đương cơ chúng: Trồng nhân đã lâu, kiếp này thỏa quả. Khi nghe pháp, liền ngộ nhập. “Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.”; Hết thảy có bốn nghóa, suy thì hiểu. Văn gồm hai phần: 1. Liệt chúng. 2. Tổng kết. Văn phần một có ba phần nhỏ: 1. Chúng vùng này. 2. Chúng phương khác. Hóa chúng. Văn phần nhỏ 1. Lại có ba: a. Thanh văn chúng. b. Bồ-tát chúng. c. Tạp loại chúng. nhị thừa dính mắc vào không, cho nên xếp ở đầu tiên. Phàm phu dính mắc vào hữu, cho nên Xếp ở sau cùng. Bồ-tát hành trung đạo cho nên xếp ở giữa. Lại nữa, tâm và hình của Thanh văn cả hai đều thù thắng, cho nên xếp đầu. Bồ-tát thì tâm thắng nhưng hình kém, cho nên ở giữa. Phàm phu thì tâm và hình đều kém, cho nên xếp ở sau. Văn phần a. Lại có hai: - Thanh văn. - Duyên giác. Phần Thanh văn. Có năm: 1. Thông hiệu; 2. Nêu số; 3. Hạnh vị; Thán đức; 5. Tổng kết. + “Cùng” là cùng chung. Thích luận nói: cùng một thời, một nơi, một giới, một tâm, một kiến, một đạo một giải thoát. - “Đại”: cũng gọi là nhiều, cũng gọi là thắng; đều là A-la-hán, cho nên gọi là đại. Số đạt đến tám trăm vạn ức, cho nên gọi là nhiều. Hơn các đạo khác, cho nên gọi là thắng. - “Tỳ-khưu”: có năm nghóa: 1. Gọi là khất só; trong sạch tự sống, lìa bốn tà mệnh. 2.Phá phiền não; bởi kiến ái diệt. 3. Danh hiệu: như phạm hán có tướng khác lạ, đều có danh hiệu. 4.Thọ giới cụ túc, cho nên gọi là Tỳ-khưu. 5.Tỳ gọi là năng, khưu gọi là bố, có thể làm cho giặc phiền não sợ hãi, cho nên gọi là Tỳ khưu. Bốn hạng người kể trên, gọi đó là chúng. + Nêu số: là tám trăm vạn ức. + Hạnh vị: Từ câu: “Học và vô học đều A-la-hán…”. Đã nói là hữu học, vô học, sao lại còn gọi là A-la-hán? Theo Thành Thật Luận nói: La hán có hai loại: 1.Trụ. 2.Hành. Nên biết “Hành” là người học. “Trụ” là người vô học. Cho nên kinh nói: Hiền giả năm giới đều hành A-la-hán tức là học nhân (người học). Lại nữa, trong một đoạn văn trước có nói về đức hạnh, tức “học vô học”; vì người đó học cái hạnh của vô học, chớ chẳng phải là hướng nghóa. Trong tám hạng người; thì bốn hướng và ba quả gọi là học vô học. Hạng thứ tám chỉ riêng A-la-hán gọi là vô học. “Đều A-la-hán”: có ba nghóa: Bất sinh: vỏ hạt thóc vô minh đã thoát khỏi mảnh ruộng kiếp sau, không còn thọ sinh lại nữa. Cho nên bảo là bất sinh. Giết giặc: diệt tận chín mươi tám sử phiền não, cho nên gọi là giết giặc. Ứng cúng: có đủ cả trí và nguyện, tiêu hóa nổi vật cúng dường. Đó là ý của tạng giáo và Thông giáo. Theo giải thích Viên giáo thì chẳng phải chỉ riêng bất sinh, mà còn bất sinh cái bất sinh. Vô lậu là bất sinh. Chẳng phải chỉ giết giặc mà còn giết không giặc, “Không giặc” là Niết-bàn. Chẳng phải chỉ là ứng cúng mà cũng là cung ứng cho tất cả chúng sanh, là cung ứng. + Thán đức: Từ câu “Công đức hữu vi …” văn chia làm tám phần pháp môn; cũng là để khen ngợi ba hạng người. Bốn phần đầu ca ngợi người Thông giáo. Ba phần giả tiếp theo là khen người Biệt giáo. Từ câu: “Ba không …”; là khen người Viên giáo. Lại nữa, bốn phần đầu khen Thông giáo. Từ câu: “Pháp giả tạm” là cùng khen cả Biệt giáo và Viên giáo. Phần đầu có bốn phần: Nay ở phần thứ nhất; là khen “Công đức hữu vi vô vi”. Hữu vi là nêu trí đức; vô vi là theo đoạn đức. Nếu luận theo cảnh thì đạo đế là hữu vi, diệt đế là vô vi. Thí vật gọi là công; quay trở về với chính mình gọi là Đức; cho nên bảo là công đức. Ở phần thứ hai; câu: “Mười trí vô học …”; là khen ngợi trí sai biệt. - Nói “mười trí” là: Pháp trí: là trí vô lậu trong pháp hệ thuộc Dục giới; là trí vô lậu đối với nhân hệ thuộc Dục giới; là trí vô lậu trong diệt pháp hệ thuộc Dục giới; là trí vô lậu trong đạo pháp hệ thuộc Dục giới; và là trí vô lậu trong phẩm pháp trí. Tỉ trí: ở đối với đạo hệ thuộc sắc giới và Vô sắc giới, vô lậu xưng là trí; trong đó, theo tứ đế mà xét bốn loại trí vô lậu, như trong pháp trí kể trên. Chỉ có pháp trí và tỉ trí là đặc biệt. Tha tâm trí; trí biết tâm tâm số pháp hiện tại của người khác hệ thuộc Dục giới và sắc giới và ít phần vô lậu tâm, tâm số pháp; gọi là tha tâm trí. Thế trí; biết trí tuệ hữu lậu của thế gian; cũng gọi là đẳng trí; bởi phàm và thánh đều có. Khổ trí; quán năm ấm vô thường, khổ, không, vô ngã. Tập trí; nhân của pháp hữu lậu có bốn tướng là nhân tích tập mà sinh duyên khi quán thì được trí vô lậu. Diệt trí: quán bốn tướng tận diệt diệu xuất khi trí vô lậu. đạo trí: quán bốn tướng thì được đạo chánh thì tích thừa khi trí vô lậu. Tận trí: đã thấy khổ, đã đoạn tập, đã chứng diệt, đã tu đạo. Trí luận nói: Ta đã thấy khổ, đã đoạn tập, đã tận chứng và đã tu đạo. Vô sinh trí; đã thấy khổ rồi, không còn thấy nữa v.v… Các kinh đôi khi nói trí thứ mười một là trí độ đó, là trí như thật, biết tướng chung và tướng riêng của tất cả pháp; biết chính xác như thật, không có quái ngại, ấy là như thật; chỉ riêng đúng tại tâm Phật mới có; nhị thừa không có phần. Cho nên chỉ nói mười trí. Nói “Tám trí hữu học” là người NA-hàm; bởi ở trong tu đạo vị, không có ttận rí và vô sinh trí; chỉ có tám trí mà thôi. Nói “Sáu trí hữu học”: nghóa là trong Kiến đạo chỉ có chỉ có sáu trí là tứ đế và pháp tỉ trí … Nói “Ba căn” là tiếp theo khen ngợi đức của ba căn. Nếu tu hành có thứ lớp thì trước tiên xét về ba căn sau mới xét về mười trí. Nay ở đây; trước nói về quả, sau nói về nhân. Ba căn: Căn chưa biết muốn biết; là chín căn vô lậu hòa hợp tín pháp nhị hạnh nhân ở trong kiến đạo; gọi là căn chưa biết muốn biết. Chín căn là năm thứ tín và hỷ, lạc, xả, ý. Căn biết: là tín giải kiến đắc nhân; ở trong tư duy đạo, chín căn nầy chuyển đổi gọi là căn biết. Chín căn như trên đã nói. Căn đã biết: Nếu đến trong vô học đạo, thì chín căn nầy chuyển; gọi là căn đã biết… Nói “Mười sáu tâm hành” là tiếp đến khen ngợi mười sáu quán môn, đi theo sở hành của tâm, cho nên gọi là tâm hành. Chẳng phải tâm tức là hành. Nương sự tu hành, tiếp đó ứng tạiï mười trí đã nói trên; cũng trước tiên là nói về quả. Chỉ ly tứ đế là mười sáu hành. Hành lấy vãng thú làm nghóa. Tu mười sáu quán pháp này có thể hướng đến lý của bốn thật, cho nên gọi là hành. Khổ có bốn hành: 1. Vô thường; 2. Khổ; 3. Không; 4. Vô ngã. Tập có bốn hành: 1. Tập; 2. Nhân; 3. Duyên; 4. Sinh. Diệt có bốn hành: 1. Tận; 2. Diệt; 3. Diệu; 4. Xuất. Đạo có bốn hành: 1. Đạo; 2. Chánh; 3. Tích; 4. Thừa. Lại mười sáu hành thuộc nhẫn pháp. Như bốn mươi địa tiền là bốn, thập địa là mười. Cộng đẳng giác và diệu giác là mười sáu. Đó là nói theo biệt giáo.  SỚ KINH NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT NHÃ <卷>QUYỂN 2 Từ câu: “Pháp giả hư thật quán” là phần tiếp theo, khen ngợi ba giả quán môn: “Pháp giả”: là pháp sắc ấm; “Thọ giả”: là bốn ấm, thủ hai danh đó, ấy gọi là “Danh giả”. Tự thật không có cái thể, mượn nơi khác mới có, thì gọi là giả. Lại nữa, sắc ấm là pháp; thọ, tưởng, … là Danh. Trong tất cả thế gian, chỉ có danh và sắc; mà nay có tới ba cách nói khác nhau! Nói “hư thật” nghóa là: 1.Hư. 2.Thật; là cách gọi tướng hình. Pháp ấm là hư, phàm phu cho là thật. Trí thì muốn biết rõ, nhưng cầu thì bất khả đắc! Như thật mà hư nên gọi là hư thật. Đó là ý của Thông giáo. Nếu dựa theo nghóa của Biệt giáo, thì trong ba giả đều có ba quán: Pháp giả tức hư, là Không quán. Không tức giả thật, mỗi sắc mỗi hương đều là Bát-nhã đó là Giả quán. Riêng một chữ quán đó là trung quán. Lấy không và giả là phương tiện đạo, cho nên không lập quán danh. Được nhập vào trung đạo mới riêng xưng quán. Các danh và thọ thì đại khái là hiểu. Nếu theo Viên giáo, thì ba pháp tức không, tức giả, tức trung; là song chiếu song vong. Trí độ luận nói: chư pháp phi thật, phàm phu hư giả, nhớ tưởng phân biệt, vọng cho có người; như chó soi giếng nước tự sủa với bóng nó. Trong nước không chó, chỉ có hình bóng, nhưng sinh tâm xấu, nhảy xuống giếng thì chết! Chúng sinh cũng vậy, bốn đại hòa hợp, gọi đó là thân. Nhân duyên sinh, động tác nói năng giả, phàm phu ở trong đó vọng khởi tướng người; đó là “Pháp giả”. Sinh khởi sự thương ghét, ngu, vui, đọa ba đường ác, đó là “Thọ giả”. Lại nữa, tất cả pháp chỉ theo danh tự hòa hợp, hoàn toàn không có danh gì khác nữa. Như đầu, chân, bụng, lưng hòa hợp tạm gọi là thân. Như tóc, mắt, tai, mũi, miệng, da, xương, hòa hợp tạm gọi là đầu; các lông hòa hợp, tạm gọi là tóc. Phần phần hòa hợp, tạm gọi là lông. Bụi đất hòa hợp, tạm gọi là phần; cũng là hòa hợp các phần, tạm gọi là bụi trần. Tất cả đều là “Giả danh”, vì giả danh đó, cho nên tất cả pháp không. “Ba không”: là phần khen ngợi đức của tam muội. Nhờ nhân duyên ba giả, cho nên đắc danh ba không. Nhân quả đó sẽ thuyết theo thứ lớp. Vì pháp giả, cho nên không; vì thọ giả, cho nên vô tướng; vì danh giả, cho nên vô tác. Vì vậy mà đại luận nói: Nhân ở ba mươi bảy phẩm mà hướng đến Niết-bàn môn. Niết-bàn môn gồm có ba: Không, vô tướng, vô tác. Nói “Không môn” là quán các pháp vô ngã, vô ngã sở. Các pháp từ nhân duyên hòa hợp mà có, không có kẻ tạo ra, không có kẻ thọ nhận; ấy danh “Không môn”. Nói “Vô tướng môn” nghóa là quán thân tuy không nhưng đang có tướng; vì con người mắc dính vào tướng đó, cho nên tu vô tướng. Như nói: cúi, ngửa, co, duỗi, đứng, đến, đi, nhìn, xem, nói năng trong đó đều không thật! Gió nương với thức, cho nên có chỗ tạo tác. Thức ấy là tướng diệt, vì mỗi mỗi niệm đều không! Nam nữ đó có ngã tâm nhưng không có trí huệ, cho nên vọng thấy có! Xương cốt liền nhau, da thịt che các cơ quan, cử động như người gỗ đó là “Vô tướng môn”. Còn vô tác môn nghóa là vô tướng cũng không có, ấy gọi là vô tác. Trong các thiền, nếu không có ba định đó, thì không gọi là tam muội. Để thối mất, cho nên đọa trong sanh tử. Như nói: Người có thể trì tịnh giới gọi là Tỳ khưu. Có thể quán không, thì gọi là người hành không. Nhất tâm thường siêng năng tinh tiến, gọi là người chơn thật hành đạo, ba điều đó có thể đến được Niết-bàn, đắc ba giải thoát môn. - “Tứ đế thập nhị nhân duyên”; là phần tiếp theo, khen ngợi duyên đế. Hai thứ đó vừa có chỗ giống, vừa có chỗ khác biệt. Giống là Thanh văn đoạn dứt kiến tư, cho nên gọi là đồng. Lợi, độn khác nhau; rộng, lược số khác nhau; cho nên gọi là biệt. Người độn căn quán tứ đế: Theo Đại kinh có bốn loại tứ đế: Sinh-Diệt-Tạng-Giáo. Ở đây không nói. Kinh này có đủ ba giáo; có ba loại tứ đế đó là vô sinh, vô lượng, vô tác. Xem xét bốn pháp khổ… thì thấy là thật không hư, cho nên gọi chúng là đế. Nếu khổ, tập là hữu lậu; thì diệt, đạo là vô lậu. Đó là theo Tạng giáo. Nếu cả bốn đế đều vô lậu thì theo Thông giáo. Nếu cả bốn đều có đủ, cũng hữu lậu cũng vô lậu; thì theo Biệt giáo. Nếu cả bốn đều phi hữu lậu, phi vô lậu thì theo Viên giáo. Người lợi căn quán thập nhị nhân duyên: Theo trong đại kinh thì cũng có bốn loại Thập nhị nhân duyên. Ở trong bốn loại đó, mỗi loại đều có ba thứ riêng biệt: 1.Thập nhị nhân duyên ba đời. 2. Hai đời. 3. Một đời. Về chi tiết, như những luận khác đã nói. Kết văn: “Vô lượng công đức đều thành tựu”: theo văn tự biết. Phần văn: Chúng Duyên giác: Từ câu: “Lại có tám vạn ức…”, gồm bốn phần: 1. Xướng số. 2. Nêu vị. 3. Khen đức. 4. Kết thành. Xướng số thì đã biết. nêu vị: “Đại tiên Duyên giác” có ba sự sai biệt: Độc giác: Như xưa kia, có vị vua vào vườn du chơi; trời trong xanh, thấy cây cỏ hoa trái đẹp đẽ đáng yêu. Lúc bấy giờ vua đã ăn xong, bèn nằm ngủ nơi bãi cỏ, các cung nữ của vua cùng tranh nhau hái hoa bẻ cành làm hư hại cả vườn cây. Khi vua tỉnh dậy, liền ngộ tất cả các pháp là vô thường. Như vậy lấy bên ngoài so với bên trong mà thành đại tiên Duyên giác! Nhân Duyên giác: ra đời không có Phật, nghe mười hai nhân duyên, đoạn dứt kiến hoặc và tư hoặc. Tiểu Bích Chi Phật: là người Tu đà hoàn, sinh ở nhân gian. Lúc ấy không có Phật, Phật pháp đã diệt, sinh ra trong cõi người bảy lần, sanh lên cõi trời cũng vậy, không thọ nhận lần sinh thứ tám; tự ngộ thành đạo, tức thành tiểu Bích chi Phật. Khen đức: là “Phi đoạn phi thường”; hai nhân quá khứ lôi kéo các thức, cho nên là phi đoạn. Các thức đã diệt, nên ba nhân không sinh, cho nên là phi thường! Lại nữa, ba đời tiếp nối liên tục, cho nên là phi đoạn. Không có tự tính. Cho nên là phi thường. Lại nữa, thuận thì sinh tử không bờ bé, cho nên phi đoạn; nghịch thì vô minh cháy tiêu, cho nên phi thường. Kết thành: “Tứ đế, Thập nhị duyên đều thành tựu”. Hỏi: Trước nêu chúng Thanh văn cũng nói đế duyên; nay khen chi Phật cũng lại nói vậy. Sau này nêu chúng Bồ-tát vẫn nói về La hán, là vì sao? Đáp: Ở trên một cảnh, mà thủ ngộ tự sai khác. Ba con thú qua sông, ba con chim ra khỏi lưới; sông đồng một mà thú thì khác, lưới chủ một mà chim thì khác. Cho nên đại kinh nói: Hạ trí quán thì đắc Bồ-đề Thanh văn. Trung trí quán thì đắc Bồ-đề Duyên giác. Thượng trí quán thì đắc Bồ-đề Bồ-tát. Thượng thượng trí quán thì đắc Bồ-đề của chư Phật. Nguyên do là lý thì cùng một nhưng kiến thì khác. Cho nên đế và duyên cùng hổ trợ thuyết. Hỏi: Duyên giác ra đời không có Phật, nay vì sao lại liệt là chúng cùng nghe? Đáp: Phật tại thế cũng có Duyên giác. Chỉ gồm thâu ở trong Thanh văn. Nói ra đời không có Phật; là để đối lại với Thanh văn; chứ chẳng phải nói Phật tại thế thì không có Duyên giác! Từ câu: “Lại còn có chín trăm vạn ức trở đi… là phần b. nêu chúng Bồ-tát. Văn gồm năm phần: 1. Số. 2. Hiệu. 3. Vị. 4. Đức. 5. Kết. Phần một thì đã biết. “Bồ-tát Ma-ha-tát” là phần hai. Nói về hiệu. “Bồ-tát” tiếng Hoa gọi là Đạo Tâm chúng sanh “Ma-ha-tát” tiếng Hoa gọi là Đại Đạo Tâm, cũng gọi là Đại só. Cũng còn gọi là Khai só. Nếu lấy tâm sinh diệt để hành sáu Ba-la-mật, thì tam kỳ thành Phật. Đó là Bồ-tát trong Tạng giáo giáo tâm hơn Thanh văn, đạo kém La hán. Nếu lấy tâm vô sinh đoạn kiến tư hoặc, chỉ lưu lại dư tập, phù nguyện thọ sinh, thập địa thực hành viên mãn, nên biết là Như Phật. Đó là Bồ-tát trong Thông giáo. Nếu lấy vô lượng tâm để hành vô lượng hạnh, tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh. Đại từ bất cùng, Đại bi vô hạn, Đài hoa xoa đảnh, thành thân công đức; đó là Bồ-tát trong Biệt giáo. Nếu lấy tâm vô tác, mà quán phiền não và Bồ-đề, sinh tử và Niết-bàn, không hai, không khác; chẳng thành, chẳng bất thành; đó là Bồ-tát trong Viên giáo. Nay ở đây nói chính là về Thông giáo, ngầm kiêm cả Biệt giáo và Viên giáo. Phần ba nói về vị: câu “Đều A-la-hán”: Như trong Tạng giáo, Phật tức là La hán. Cho nên trong kinh Bổn Hạnh nói: “Bấy giờ thế gian có sáu La hán năm người là nhóm Kiều Trần Như. Một người nữa tức là Phật. Nếu theo Thông giáo thì ba thừa cùng hành chung thập địa. Bồ-tát địa thứ bảy tức là A-la-hán. Nếu trong Biệt giáo, thì Bồ-tát thập hướng đoạn dứt hết hoặc trong ba cõi mới ngang với A-la-hán. Nếu trong Viên giáo, thì Bồ-tát thập tín đoạn hết hoặc ba cõi cũng ngang với La hán. Nay “Đều A-la-hán” tức là Bồ-tát Thông giáo. Kinh Đại phẩm nói A- la-hán hoặc trí hoặc đoạn, đều là Bồ-tát vô sinh pháp nhẫn. Kinh Đại Tập cũng nói: Đại pháp Bồ-tát gọi là A-la-hán. Hỏi: Nếu “Đều La hán” thì trước đã nói rồi; sao nay còn nói lại? Đáp: Vì hình tướng của Bồ-tát không có sự định chuẩn, hoặc giống phàm phu, hoặc giống với nhị thừa; nếu không phân biệt cho rõ, thì e rằng sự thật sẽ lộn xộn hầu như kẻ chuộng tiểu thừa thì cho rằng đức của Đại só ngang với La hán; kẻ chấp danh tướng, thì cho rằng đạo Bồ- tát vượt cả phàm phu vì vậy mà phải càng phân biệt khi diễn nói. Phần bốn khen đức Từ: “Thật trí công đức…” trở đi trong phần khen đức, trước tiên là khen ngợi trí đức. Thật trí thì chiếu không phương tiện trí thì chiếu hữu. Có thật trí cho nên không trụ ở sinh tử có phương tiện trí, cho nên không trụ Niết-bàn. Phần trên đã nói về vị, gọi là La hán nay ở phần khen đức này khác với nhị thừa cho nên nói riêng vậy! Bồ-tát Thông giáo trong địa thứ bảy có đủ thật trí. Địa thứ tám trở lên có đủ phương tiện trí. “Hành độc đại thừa” là phần tiếp theo, khen ngợi về thừa. Vì nhị thừa không có phần, cho nên gọi là độc đại” ở đây là khen ngợi Bồ-tát Biệt giáo. Bốn Nhãn là phần khen ngợi nhãn. Bồ-tát hạnh chưa viên mãn, đúng nghóa thì không có Phật nhãn, nhưng theo Thông giáo thì nên biết là như Phật, suy theo nghóa đó, thì nhãn cũng như Phật! Theo Viên giáo, thập tín tuy là nhục nhãn, tên gọi vẫn là Phật nhãn. Nay ở đây nói “Bốn nhãn” tức là Bồ-tát địa tiền Biệt giáo. Năm Thông là khen ngợi thông. Có đủ năm thông: Thiên thông… trừ lậu tận thông. Thông giáo chưa đoạn dứt vô minh. Biệt giáo thì đoạn vẫn chưa hết, cho nên chỉ nói là năm. Ba Đạt là phần tiếp theo nói về, quá khứ túc mệnh minh, hiện tại thiên nhãn minh, vị lai lậu tận minh. Chữ “Minh” tức là “Đạt”. Mười Lực tiếp theo là khen lực. Trí luận nói: Mười lực của Bồ- tát là: 1. Phát tâm kiên cố lực. 2. Đại từ lực. 3. Đại bi lực. 4. Tinh tiến lực. 5. Thiền định lực. 6. Trí tuệ lực. 7. Thân không chán sinh tử lực. 8.Vô sinh pháp nhẫn lực. 9. Giải thoát lực. 10. Vô ngại lực. Bốn vô lượng tâm tiếp theo là khen ngợi tâm. Từ có thể cho lạc; bi có thể cứu khổ, hỷ thì cho chúng sanh vui lạc tăng thượng. Ba tâm như trên đều xả không dính mắc. Bốn biện là khen ngợi về bốn biện pháp: Từ nhạo thuyết nghóa. Bốn nhiếp là khen ngợi về nhiếp; gồm: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. “Kim cang diệt định” là khen ngợi về đoạn đức: Trên địa thứ mười, nhẫn định như kim cang; đập nát núi phiền não, tự không khuynh động, cũng gọi là Thủ Lăng Ngiêm Định. Từ: “Tất cả công đức…” trở đi là phần năm: phần tổng kết. Từ câu: “Lại có ngàn vạn ức …” trở đi là phần c. Tạp loại chúng. Vì trong đó danh và sắc chẳng phải một, cho nên bảo là Tạp loại gồm: Riêng. 2. Chung. Trong phần riêng có bốn phần: 1. Người. 2.Só. 3.Trời. 4.Hiền nhân. Trong phần nói về người, lại có hai: Nam và nữ. Phần nam lại có bốn: 1. Số. 2. Danh. 3. Đức. 4. Kết. Phần 1. nói về số như đã biết. “Ngũ giới hiền giả” là phần tiếp theo, nói về danh. Ngũ là con số. Giới nghóa là chặn đứng, phòng ngừa. Tiếng phạn gọi là Ưu-bà-tắc, tiếng Hoa gọi là Thanh tín nam, vì sinh tâm tịnh tín đối với Phật pháp; lại còn gọi là Cận sự nam, vì nương tam bảo, thân cận sư trưởng, phụng sự không sai sót. Lìa sát, đạo, dâm; đó là ba giới để phòng ngừa thân nghiệp. Một giới vọng ngữ là phòng ngừa khẩu nghiệp. Một giới uống rượu là phòng ngừa cả hai nghiệp thân, khẩu. Giải thích về tướng của giới một cách chi tiết, đã được nói trong Đại Luận, phần Thi la Ba-la- mật: Đề vị ba lợi hỏi Phật: Sao không vì con mà thuyết bốn hoặc sáu giới? Phật đáp: Số năm là đại số của thiên hạ. Tại trời thì là năm sao. Tại đất là năm núi cao. Ở người là năm tạng. Với âm dương là năm hành. Tại vương là năm đế. Tại đời là năm đức. Tại sắc là năm sắc. Tại pháp là năm giới cấm. Bởi không sát thì phối với phương Đông. Phương Đông là Mộc, Mộc chủ về cái Nhân. Nhân lấy nuôi dưỡng sự sống làm nghóa. Không trộm đạo thì phối với phương Bắc. Phương Bắc thuộc Thủy, Thủy chủ về Trí; người Trí lấy việc không trộm cắp làm nghóa. Không tà dâm thì phối với phương Tây. Phương Tây là Kim. Kim chủ về nghóa, người có nghóa thì không tà dâm. Không uống rượu phối với phương Nam. Phương Nam là Hỏa. Hỏa chủ về Lễ, Lễ để phòng sự sai sót. Lấy bất vọng ngữ phối với Trung ương. Trung ương là Thổ, Thổ chủ về tín, người vọng ngữ xoay trở hai đầu, không khế hợp trung chính. Trung chính lấy sự không sai lệch làm nghóa. Đạo dẫn tới kề cận thánh, gọi là hiền. Tạm gọi hành nhân là giả. Từ câu: “Đều hành A-la-hán” là phần ba khen ngợi đức. Tuy vết tích giống với phàm phu nhưng gốc đều là A-la-hán. Thập địa có ba loại; nếu Bồ-tát và nhị thừa cùng hành, đó là Thông giáo: 1. Càn tuệ địa. 2. Tính địa. 3. Bát nhân địa. 4. Kiến địa. 5.Bạc địa. 6. Ly dục địa. 7. Dó biện địa. 8. Chi Phật địa. 9. Bồ-tát địa. 10. Phật địa. Nương vào mười địa này, tức là Ưu-bà-tắc trong Thông giáo. Càn-tuệ-địa: Kinh Đại Phẩm nói: Nếu Bồ-tát đủ Càn-tuệ-địa, ở Phật địa mau chứng Bồ-đề. Đại luận phẩm thứ bảy mươi tám có nói: Càn-tuệ-địa có hai loại: 1.Thanh văn. 2.Bồ-tát. Thanh văn chỉ vì Niết- bàn, cho nên siêng năng tinh tấn trì giới, hoặc tập quán Phật tam muội, quán bất tịnh … tuy có trí tuệ nhưng không được nước Thiền Định; cho nên gọi là Càn-tuệ-địa. Đối với Bồ-tát đó là; người mới phát tâm cho đến chưa đắc Thuận Nhẫn. Tính địa thì với Thanh văn từ noãn cho đến Thế đệ nhất; còn với Bồ-tát thì đắc Thuận Nhẫn, ái trước thật tướng, không sinh tà kiến, được nước Thiền Định. Bát nhân địa là từ khổ pháp nhẫn cho đến đạo tỉ nhẫn là mười sáu tâm. Với Bồ-tát tức vô sinh pháp nhẫn nhập ngôi vị Bồ-tát. Kiến địa là mới bắt đầu đắc quả Tu đà hoàn còn với Bồ-tát tức là A-tỳ-bạt-trí địa. Bạc địa là người Tư-đà-hàm bởi đoạn một phần của chín loại khổ thuộc cõi dục. Với Bồ-tát thì đã qua A-tỳ-bạt-địa, cho đến chưa thành Phật, đoạn các phiền não, các tập khí sót lại cũng đã mỏng. Ly dục địa là lìa các tham ở cõi dục; gọi là A-na-hàm. Với Bồ-tát ly dục nhân duyên, đắc năm thần thông. Dó tác địa là người Thanh văn đắc tận trí vô sinh, vô trước A-la- hán. Với Bồ-tát thì thành tựu Phật địa. Bích chi Phật địa là kiếp trước trồng đạo nhân Bích chi Phật, kiếp này được một ít nhân duyên, cũng quán sâu pháp nhân duyên, gọi là Bích chi Phật. Bồ-tát địa là từ Hoan hỷ địa thứ nhất: cho đến pháp vân địa đều gọi là Bồ-tát; là mượn tên riêng để gọi chung. Phật địa là các pháp Nhất-thiết-chủng-trí. Các Bồ-tát ở trong tự địa thì quán cụ túc; ở trong các địa khác thì hạnh cụ túc. Hai sự cụ túc, cho nên gọi là Phật địa. Nếu theo Biệt giáo thì từ sơ địa suốt đến pháp vân địa. Chỉ tự tu hành không cùng với Thanh văn, Bích chi Phật. Đúng như vậy là Ưu-bà -tắc trong Biệt giáo. Hồi hướng năm phần pháp thân cụ túc nghóa là biệt tiếp thông không; là lấy sơ địa Biệt giáo tiếp nối với Thông giáo, khiến không trệ ở giới nội; tức cái không của sắc, hồi tâm hướng biệt, đoạn dứt vô minh giới ngoại, thành tựu năm phần pháp thân. Đó là khen ngợi sự hồi hướng. Nói: cụ túc nghóa là Thông giáo nghiêng về chơn, năm phần đó là bất cụ túc. Biệt, Viên, Trung đạo chánh quán thành tựu năm phần mới gọi là cụ túc. - Năm phần pháp thân là: 1. Giới thân. 2. Định thân. 3. Tuệ thân. 4. Giải thoát thân. 5. Giải thoát tri kiến thân. Hỏi: Những việc làm của Bồ-tát, tại sao lại phải hồi hướng? Đáp: Cái lợi của hồi hướng, công đó là tối thiện, cho nên Tịnh Danh nói: Hồi hướng là Thiện Lợi. Hồi hướng có hai loại: 1.Đem những việc làm của mình hồi thí cho chúng sanh. 2. Đem những việc làm của mình hồi hướng cho Phật. - Từ “Vô lượng công đức…” là phần bốn. Phần tổng kết. Từ câu: “Lại có mười ngàn…” là nói về phần hai: Thanh Tín Nữ. Văn gồm ba phần: 1. Số. 2. Danh. 3. Đức. Phần một thì đã rõ. Phần hai là nêu danh: Thanh tín nữ; tiếng phạn là Ưu-bà-di, tiếng Hoa gọi là Thanh tín nữ. Từ câu: “Đều hành A-la-hán…” là phần ba khen ngợi đức. Cũng là Ưu-bà-di trong Thông giáo và Biệt giáo.văn có hai phần: Phần trước là khen chung thập địa, ý đã rõ. Phần sau là từ câu “Thủy sinh…” là khen riêng công đức trong thập địa. Văn cũng gồm hai phần. Nay trước tiên là khen ngợi chính. Một địa ba tâm, từ hồi hướng thứ mười. Đầu tiên có sơ địa, công đức đạt được là sơ tâm. Dừng lại không tiến, công đức đạt được là trụ tâm. Công đức tròn đầy, muốn nhập địa thứ hai là chung tâm. Kinh Pháp Hoa cũng nói: Khéo nhập, xuất, trụ… Từ câu: Ba mươi sinh công đức … trở đi là phần kết. Từ câu: “Lại có mười ức…”; là phần hai, nói về chúng cư só. Văn có bốn phần: 1. Số. 2. Danh. 3. Đức. 4. Kết. Phần 1.Số đã biết. Thất hiền cư só là phần hai, nêu Danh. Thất hiền có hai loại: 1.là tiểu thừa Ngũ Đình Tâm Quán. 2. Đại thừa. Thất hiền gồm: 1. Gọi là người mới phát tâm. 2. Gọi là người hành hữu tướng. 3. Gọi là người hành vô tướng. 4.Gọi là người hành phương tiện. 5. Gọi là người tuyệt chủng tính. 6.Người tính chủng tính. 7.Người đạo chủng tính. Tất cả đều tại địa tiền, điều thuận tâm đạo; gọi là thất hiền. Cư só nghóa là ở ngoại quốc, tích chứa tiền bạc đến trăm triệu, gọi là cư só. Nay ở Tung Hoa nhà giàu, có đủ bảy tịnh tài, gọi là cư só: Tín, thí, giới, văn, tuệ, tàm, quý gọi đó là bảy thứ tài. Từ: “Đức hạnh cụ túc…” là phần ba khen ngợi đức nghóa là có đủ hạnh của các đức, gọi là đức hạnh cụ túc. Hai mươi hai phẩm; đó là khen về đạo phẩm. Nhờ kiến đạo tại tiền chỉ có bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn năm lực là hai mươi hai phẩm. Mười nhất thiết nhập là ngợi khen mười biến xứ. Nhập là xứ. Xanh, vàng, đỏ, trắng, đất, nước, lửa, gió, không xứ, thức xứ. Đó là mười. Tám trừ nhập là khen thắng xứ. 1.Trong có sắc tướng ngoài quán sắc ít. 2.Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc nhiều. 3.Trong không sắc tướng ngoài quán sắc ít. 4. Trong không sắc tướng, ngoài quán sắc nhiều. 5. Xanh. 6. Vàng. 7. Đỏ. 8. Trắng. Tám giải thoát là khen về giải thoát. 1.Nội hữu sắc tướng, ngoại quán sắc. 2.Nội vô sắc tướng, ngoại quán sắc. 3.Quán tịnh sắc. 4.Không xứ. 5. Thức xứ. 6. Vô sở hữu xứ. 7. Phi hữu tưởng phi vô tưởng. 8. Diệt thọ tưởng giải thoát. Hỏi: Quán chưa đắc thánh; vì sao nay lại khen tám giải thoát? Đáp: Trong tám đắc bảy. Diệt tận chưa đắc. Ở đây theo số nhiều mà khen! Hỏi: Giải thoát lấy gì làm nghóa? Đáp: Giải thoát lấy sự vứt bỏ, quay ngược lại làm nghóa. Phần 1. và 2. Vứt bỏ sắc tham tâm. Phần 3. Vứt bỏ bất tịnh quán tâm. Từ bốn vô sắc trở đi vứt bỏ hạ địa tâm. Diệt tận khiến vứt bỏ tất cả mọi tâm duyên đã có. Hỏi: Giải thoát thắng xứ và biến xứ khác nhau như thế nào? Đáp: Có vứt bỏ, quay ngược lại gọi là giải thoát. Có thể trừ bỏ cảnh giới, gọi là thắng xứ. Thắng cảnh gọi là biến xứ. - Ba tuệ là khen tuệ đó là văn, tư, tu. Đầu tiên là Càn-tuệ-địa, tiếp là bốn thiện căn, khổ nhẫn trở lên gọi là tu tuệ. Mười sáu đế là khen quán môn. Như trên đã nói. Bốn đế cũng là khen quán môn. Như đã nói ở trên. Phẩm quán là khen bốn môn tức bốn quán nhẫn. Từ dưới kể lên thì noãn là thứ tư, đảnh là thứ ba, nhẫn là thứ hai và thế đệ nhất pháp là thứ nhất. Bốn tức bốn thiện căn. “Ba” tức ngôi vị trừ noãn. “Hai” tức trừ noãn đảnh; “Một” tức trừ cả ba thứ trên. Lại nữa; bốn tức là bốn quả. “Ba” tức là ba quả. “Hai” tức là nhị quả. “Một” tức là sơ quả. Đó chẳng phải là ý khen ngợi. Ở đây lấy theo giải thích trước. “Đắc chín mươi nhẫn” là phần bốn: Kết. Văn có hai: Trước kết riêng, sau kết chung. Ở đây là phần kết riêng. Có người nói: Ba mươi tâm của tam hiền địa tiền, trong mỗi một tâm, đều có thượng, trung, hạ hoặc tam phẩm quán các nhập, trụ, xuất, hợp lại thành chín mươi nhẫn. Có người nói: Bốn-ba-hai-một hợp thành mười nhẫn. Lấy theo chín địa trong ba cõi, trong mỗi một địa đều có chín phẩm, thành chín mươi nhẫn. Lại nói: Hai mươi đế quán, đó là mười sáu đế và bốn đế. Phẩm quán có mười, đó là bốn-ba-hai-một, thành ba mươi; mỗi thứ có hạ, trung, thượng phẩm, tổng thành chín mươi nhẫn. Nay ở đây cho chín mươi nhẫn là kết riêng. Trong văn kinh, đức không thể có nhiều thyuết khác nhau, chỉ nói đầy đủ hai hai phẩm, xuống đến bốn-ba-hai-một. Số có tám mốt phẩm, từ các pháp đó, mà xuất bốn thiền, bốn không diệt định, hợp thành chín mươi nhẫn. Kinh tuy không có đoạn văn về tứ thiền, nhưng suy nghóa thì biết. “Tất cả công đức đều thành tựu” là kết chung. Từ câu: Lại có vạn vạn ức là phần ba, liệt kên thiên chúng. Văn có hai phần: Trước liệt về sắc, sau liệt về dục. Văn phần trước có bốn: Số. 2. Xứ. 3. Đức. 4. Kết. ức”. Đây là phần một. Số. Vạn là con số vạn, cho nên nói “Vạn vạn Từ câu “Chín phạm…” là phần hai. Xứ. Kinh này có ba bản khác nhau có một bản nói: “Lại có vạn vạn ức mười tám phạm thiên, chín phạm, ba tịnh, ba quang, năm hỷ lạc thiên.” Lại một bản khác nói: Chỉ ba tịnh, ba quang năm hỷ lạc thiên. Lại có một bản khác bỏ chữ số năm, bỏ bốn chữ mười tám phạm thiên đầu. Sau chỉ có ba chữ, không có chữ phạm; bởi người dịch bỏ sót. - Nói “Chín phạm” là chín cõi trời của thiền thứ tư: 1.Vô vân. Phước sinh. 3. Quảng quả. 4. Vô tưởng. 5. Vô phiền. 6. Vô nhiệt. 7.Thiện hiện. 8. Thiện kiến. 9. Sắc cứu cánh. Ba tịnh: là thiền thứ ba có ba trời, là thiểu tịnh, vô lượng tịnh, biến tịnh. Ba quang: là đệ nhị thiền có ba trời, là thiểu quang, vô lượng quang, quang âm. Ba phạm: là ba cõi trời của sơ thiền: Phạm chúng, đại phạm, phạm phụ. Năm hỷ lạc thiên tức năm chi: Giác, quán, hỷ, lạc, nhất tâm; là năm tịnh sau trong bốn thiền. Đó là nghóa thiên luận về thọ hỷ lạc. Thiên định công đức định vị là phần thứ ba, khen đức. Thiên định là báo sinh lên trời đắc định đó. Công đức định là tu đức được sinh lên trời, đắc định đó. Một chữ vị làm thành một cú, tức là vị dính mắc thiền định. Có người nói: “Công đức định vị” làm thành một cú là chẳng đúng! Thường lạc thần thông nghóa là: Trong các trời cõi sắc, đều có hai loại thần thông tu báo. Nói thường lạc là chẳng phải báo đức thần thông. Từ câu: “Mười tám sinh xứ…” là phần bốn: Tổng kết. Từ câu: “Lại có ức ức…” là phần hai: liệt kê cõi dục. Văn có bốn phần đây là phần một nói về số. Lục dục chư thiên tử là phần hai, nói về xứ. Trong sáu cõi trời đó, có ít ngũ dục, từ cõi trời tứ thiên vương, đến cõi trời tha hóa tự tại thành là sáu. Thập thiện quả báo thần thông là phần ba; khen đức. Thập thiện là nhân, sinh thiên là quả báo! Công đức đều thành tựu là phần bốn: Kết. Từ câu: “Lại có mười sáu Quốc vương…” là phần bốn liệt kê chúng người. Văn có bốn: 1.Số. 2.Chúng. 3.Đức. 4.Kết. Đây là phần một: Số mười sáu Quốc vương là nêu số nước để nói người. Từ câu: “Mỗi vị đều có …” là phần hai, nói về chúng. Từ câu: “Năm giới …” là phần ba, khen đức. Đức có ba: 1. Giới. 2. Thiện. 3. Quy. - Thanh tín hạnh cụ túc là phần bốn: Kết. Bốn tín thành tựu cho nên bảo là thanh tín. Từ câu: “Lại có năm đạo…” là phần hai; liệt kê chung. Trong phần liệt riêng biệt ở trước chỉ nói trời, người. Ở đây nói chung cả năm đạo; Tu la hoặc quỷ, hoặc súc sanh; vì vậy chỉ nói năm đạo. Lại nữa, trong lục đạo trời, người có trước, ở trong tam ác hoặc có hoặc không. Kinh này không có duyên, cho nên nói chung là năm. Phần liệt kê về chúng ở vùng này đã xong. Từ câu: “Lại có phương khác…” là phần hai liệt kê chúng ở phương khác, xứ khác, kiến khác… Từ câu: “Lại có biến thập phương tịnh độ…” là phần ba, liệt kê về hóa chúng. Văn gồm ba phần; đây là phần đầu, nói về lực bất tư nghị, có thể biến tịnh độ. Tịnh độ ở đây chẳng phải là tịnh của tịch quang, mà còn hiện rõ các tịnh tướng đài hoa, thật báo. Hiện trăm ức tòa cao và hoa. Lại còn nói về ứng thân hóa tướng của đại thiên. Từ câu: “Các các tọa tiền…” là phần hai nói về lực bất tư nghị có thể hiện chư Phật, Bồ-tát. Bát bộ gồm: Hai chúng Càn-thát-bà và Tỳ-xá-xà, do Đông phương Đề đầu lại tra thiên vương lãnh. Hai chúng Cưu-bàn-trà và Bệ-lệ-đa, do Nam phương Tỳ lưu lặc xoa thiên vương lãnh. Hai chúng Long phú và Đơn na, do Tây phương Tỳ lưu bác xoa thiên vương lãnh. Hai chúng Dạ xoa và La sát, do Bắc phương Tỳ sa môn thiên vương lãnh … Từ câu: “Trong mỗi một quốc độ…” là phần ba, nói về lực bất tư nghị đều thuyết Bát-nhã. Phần liệt kê chúng đã xong. - Từ câu: “Tha phương đại chúng…” là phần hai: Tổng kết. Tha phương đại chúng tức kết lại phần hai tha phương chúng ở trước. Và hóa chúng tức kết phần ba. Hóa chúng ở trước. Chúng trong ba cõi tức phần kết chúng ở trước của vùng này. Mười hai đại chúng đều đến tập hội, là tổng kết ba chúng có quả sai biệt ở trên: 1.Thanh văn. 2.Duyên giác. 3. Bồ-tát. 4.Ngũ giới hiền giả. 5. Thanh tín nữ. 6. Thất hiền cư só. 7.Sắc thiên. 8.Dục thiên. 9.Nhân vương. 1 0.Ngũ đạo. 1 1.Tha phương. 1 2. Hóa chúng. - Ngồi tòa chín kiếp nghóa là kết tòa, kiếp là cấp, cấp là tầng. Từ câu: “Hội đó…” là kết chúng rộng hẹp. Hỏi: Liệt chúng ở các kinh, hoặc có hoặc không là vì sao? Đáp: Thuyết báo sinh ở ba cõi là do nghiệp lực thiện hay ác. Gặp Phật hay không gặp Phật, là do có duyên hay không có duyên; tức là dù có sinh lên cõi trời thọ lạc cũng không nghe được kinh; cho dù bị địa ngục thiêu đốt nhưng vẫn đến nghe pháp. Nay xin lấy nghóa của đại kinh để nhận định đó. Đại kinh nói: Với giới hoãn, thì không gọi là hoãn; với thừa hoãn mới gọi là hoãn. Nói theo tướng chung thì thừa tức là giới. Nay theo biệt thuyết thì thừa và giới khác nhau. Tức lấy tam quy, ngũ giới, thập thiện, tám giới, hai trăm năm mươi, năm trăm giới… gọi đó là giới. Niệm tụng tu hành, thiền thí, trí tiến. Gọi đó là thừa. Mà giới và thừa mỗi thứ đều có ba phẩm. Thừa có tiểu, trung, đại. Giới có thượng, trung, hạ. Nếu thừa và giới đều gấp gáp thì lại có ba phẩm. Như gấp trì thượng phẩm giới thì sinh cõi trời vô sắc; hạ phẩm thừa gấp, thì lấy thân ở vô sắc thiên, để nghe Phật thuyết pháp Thanh văn. Trung phẩm thừa gấp thì nghe thuyết nhân duyên. Thượng phẩm thừa gấp thì nghe thuyết trung đạo. Nếu gấp trì trung phẩm giới, thì sinh lên cõi trời sắc giới; hạ thừa gấp thì nghe thuyết tứ đế; trung thừa gấp thì nghe thuyết nhân duyên; thượng thừa gấp thì nghe thuyết lục độ. Nếu gấp trì hạ phẩm giới thì sinh trời cõi dục. Hạ thừa gấp thì nghe tiểu thừa. Trung thừa gấp, thượng thừa gấp, đều theo như trên đã nói. Nếu mà giới và thừa đều hoãn thượng phẩm giới hoãn đọa địa ngục; trung phẩm hoãn đọa súc sanh; hạ phẩm hoãn đọa ngạ quỷ. Vì thừa hoãn cho nên mãi mãi sẽ không thấy Phật; huống nữa là nghe pháp! Nếu người mà giới hoãn thừa gấp, thì thấy được Phật và nghe pháp. Thượng phẩm giới hoãn thì sinh trong địa ngục. Hạ thừa gấp thì lấy thân địa ngục mà nghe thuyết tứ đế. Trung thừa gấp thì nghe nhân duyên. Thượng thừa gấp thì nghe lục độ. Nếu người giới gấp thừa hoãn; tam phẩm giới gấp đắc thân ba cõi. Như thừa hoãn nên dính mắc vào cái lạc của cõi người cõi trời; sẽ không gặp được Phật, huống nữa là nghe pháp! Chúng cõi trời vô sắc ở đây do thượng phẩm giới gấp đại thừa hoãn, vô duyên với kinh này cho nên không đến. Các kinh khác có hay không, theo đó thì có thể hiểu. Phần trên là chứng tín tự đã xong. Từ câu: “Bấy giờ, mười hiệu…” là phần thứ hai phát khởi tự. Văn gồm năm phần: 1.Phật sự hiện điềm. 2. Thời chúng sinh nghi. 3.Giác ngộ Như Lai. 4. Phật thăng tòa hoa. 5. Đại chúng Hoan hỷ. Trong phần thứ nhất lại có năm phần: 1.Tán công đức Phật. 2. Hiện điềm thời tiết. 3. Chánh trụ thập địa. 4. Nhập đại tịch định. 5.Tư duyên hiện điềm. Ở đây là phần một. Nói bấy giờ là đang lúc ấy. Mười hiệu là đức của giáo chủ. Hễ đức là có bốn: 1.Đức của mười hiệu. 2.Đức của ba minh. 3.Đức đoạn dứt. 4. Đức trí. Ở đây là phần một. Nói mười hiệu là: 1. Như Lai. 2. Ứng cúng. 3.Chánh biến tri. 4.Minh hạnh túc. 5.Thiện thệ. 6.Thế gian giải. 7.Vô thượng só. 8. Điều ngự trượng phu. 9. Thiên nhân sư. 10. Phật Thế Tôn. Đó là số của mười hiệu. Tiếp nữa là khen về “Đức ba minh”, lấy minh sáng soi ba đời; thứ nữa là khen đức đoạn dứt, đó là “Đại diệt đế”. Vì chẳng phải tiểu diệt cho nên bảo là đại. “Kim cang trí” là ca tụng đức trí của Phật. “Thích ca mâu ni Phật”, ở trên đã nói là chung cả hiệu và đức. Ở đây là nói riêng về hiệu. Dòng họ của Phật, xuất xứ khác nhau hoặc dòng họ sát lợi, hoặc Bà-la-môn. Ở đây mang họ Thích ca; Trung Hoa gọi là Năng nhân. Như kinh Trường A-hàm nói: Xưa kia, vua Phạm ma cốc, có người con trai thứ tư phạm lỗi, bị đày ở núi Tuyết Sơn, để tự sinh sống người con đến ở đó, dân chúng lại quay về đông như chợ! Nhà vua khen con: Con của Ta năng nhân, có thể tự mình duy trì cuộc sống của mình. Nhân đó lấy họ Thích. Tổ thứ tư của Phật mới bắt đầu lấy họ Thích. Vốn họ là Cù đàm, hoặc dòng Cam giá; hoặc dòng Mặt trời; hoặc dòng Ngư phẩm. Mâu ni là tên, tiếng Hoa gọi là Tịch Mặc, ba nghiệp thảy đều tịch mặc. “Sơ niên, nguyệt, ngày tám” là phẩm hai nói về ngày giờ hiện điềm. Chơn đế nói: Như Lai tại thế bốn lăm năm, thuyết ba pháp luân; đó là chuyển, chiếu, trì. Ba pháp luân đó có hiển có mật. Mật thì từ đêm đắc đạo cho đến đêm Niết-bàn, đều chuyển cả ba pháp luân. Hiển thì bảy năm, kể từ năm bắt đầu thành đạo chỉ chuyển pháp luân “Chuyển”. Sau bảy năm, trong ba mốt năm tiếp chuyển pháp luân “Chiếu”. Từ cuối năm thứ ba tám liên tục bảy năm, chuyển pháp luân “Trì”. Từ lúc chuyển pháp luân “Chuyển” khoảng ba mươi năm trở lại; nhưng trước năm thứ hai chín, thì đã thuyết các Bát-nhã khác. Đến năm thứ ba mươi tháng giêng, ngày mùng tám mới thuyết Nhân vương; cho nên mới nói là: “Sơ niên nguyệt ngày tám”. Năm thứ ba bảy thuyết kinh này, Phật năm đó là bảy hai tuổi. “Phương tọa thập địa” là phần ba, nói về chánh trụ thập địa. Phương là chánh. Chánh tọa thập địa của Phật, chẳng phải thập địa thuộc Bồ-tát. Lại nữa, Phật lấy biệt để tiếp nối với thông, tọa thập địa thuộc biệt, là muốn mật hiển thập địa Thông giáo, khiến ngộ đúng đắn biệt địa; cho nên bảo là “Phương tọa”. “Thập địa Phật”: Theo kinh đồng tính là: 1. Thậm thâm khó biết quảng minh chí đức địa. 2. Thanh tịnh thân bất tư nghị địa. 3. Hải tạng địa. 4.Thần thông trí đức địa. 5.Minh đức địa. 6.Vô cấu Niết-bàn viêm quang khai tướng địa. 7. Quảng thắng pháp giới tạng minh giới địa. 8. Vô ngại trí tuệ địa. 9. Vô biên ức trang nghiêm hồi hướng năng chiếu minh địa. 1 0.Tỳ-lô-giá-na trí tạng địa. “Nhập đại tịch thất tam muội” là phần bốn nói về nhập tịch định. Vì muốn quán sát căn cơ chúng sinh để truyền trao pháp dược; lại để biết do định phát tuệ lại để làm nghi tắc cho sự thuyết pháp. Phật có đủ Trí đức đoạn mà còn phải tự quán cơ, huống nữa với phàm phu mà lại không thẩm đế! “Đại tịch thất” tức đại Niết-bàn. Theo đại kinh nói: “Niết-bàn là hang sâu thiền định” hang tức nghóa là thất. Trong kinh Pháp Hoa Đại Thông Trí Thắng Phật cũng nhập tịnh thất; là đồng nghóa với đây. Lại nữa, “Đại tịch” nghóa là tức động thì tịch. “Thất” tức tịch mà chiếu. Đại tịch là pháp. Thất là dụ. Như phòng trống có thể chứa vạn vật. Lý không của Bát-nhã có thể bao trùm nhiều nghóa. Theo quán thì thất là pháp một, không cũng không hai. Sáng tối tự khác, nhưng cái rỗng không của thất thì chẳng khác! Sáng dụ cho trí tụê; tối dụ cho phiền não; thất (phòng dụ cho thân người; rỗng không dụ cho tâm thức. Mặt trời mọc thì phòng và không gian của phòng đều sáng, dụ cho trí sinh ra thì thân và tâm đều tịnh. Mặt trời lặn thì phòng và không gian đều tối, dụ cho trí diệt thì thân và tâm đều nhơ uế. Nhơ và sạch tuy khác, nhưng tính thường thanh tịnh. Cho nên Tịnh Danh nói: Tính của vô minh tức là minh. Tất cả chúng sanh tức tướng của Bồ-đề. Không lại còn diệt. Đó tức là chứng. Từ câu: “Tư duyên phóng đại quang minh chiếu trong tam giới…”; có chỗ nói: “Chiếu tam giới chúng sinh” là phần thứ năm về tư duyên hiện điềm. Văn có năm phần: 1. Tư duyên phóng quang. 2. Trên đảnh xuất hoa. 3.Chư thiên mưa hoa. 4.Phật tự sinh hoa. 5.Đại địa chấn động. Ở đây là phần một. Tư duyên nghóa là suy tư ở vô tướng, duyên với pháp tính. Tự thọ đại lạc. Quang chiếu trong tam giới là giác hóa cảnh. Hỏi: Vô sắc giới, thì không có sắc ấm; vì sao lại chiếu nó? Đáp: Tuy không có thô sắc nhưng có tế sắc. Phàm phu nhị thừa bởi vì không thấy nên, cho rằng không có, nhưng thật có! Từ câu: “Lại ở trên đảnh xuất ngàn hoa sen báu…” là phần hai nói trên đảnh xuất hoa. Văn có ba phần: 1.Xuất hoa; hoa ấy từ trên đến dưới. 2.Câu “Hoa ấy, trên thì từ…” Nói về hiện dọc. 3.Câu cho đến tha phương-hiện ngang; phóng quang là để biết gốc của trí tuệ. Xuất hoa là để ngộ cái nhân của sự đắc đạo. Lại nữa, quang là muốn giáo hóa chúng đương cơ. Hoa là khiến họ thấy đó tạo nhân để kết duyên. Trong phần liệt kê chúng trên, không có chư thiên vô sắc giới vì họ giới gấp thừa hoãn, không có hiện ích duyên. Nay ở đây, khiến chư thiên cõi Phi tưởng thấy hoa là để làm hột giống cho sau này. “Thời vô sắc giới thiên” là phần ba tức chư thiên mưa hoa. Ở trên, giáo chủ hiện tướng là để tỏ rõ có cảm. Nay ở đây, chư thiên mưa hoa là để tỏ rõ có ứng. Đó tức thuốc và bệnh tương xứng, là cảm ứng đạo giao. “Vô lượng biến” nghóa là hoa cây tâm chứ chẳng phải hoa sinh tử. Văn có ba phần: 1.Vô sắc giới. 2.Sắc giới. 3.Dục giới đều có thể thấy. Trời cõi sắc, đa phần là thiền. Trời cõi vô sắc đa phần là định. Vì có thể làm cho cây tâm biến thành hoa, cho nên bảo là biến. Trời cõi dục thì không có thứ đó, chỉ mưa hoa báu mà thôi. Từ câu: “Trước tòa Phật đó…” là phần bốn tức Phật tự sinh hoa. Ở trước nói xuất hoa trên đảnh để hiển hiện điềm chánh báo. Nay ở đây, sinh hoa trước tòa Phật, là tỏ điềm y báo. “Kiếp”: là tầng. Từ câu: “Khi ấy, thế giới…” là phần năm tức đại địa chấn động. Phóng quang mưa hoa là để cho mắt thấy. Động địa để cho tâm ấy động. Tâm động thì phiền não động; cho nên đại kinh nói: Đại địa động có thể khiến cho tâm chúng sinh động. Động, vọt, giác, khởi, rung, rống thành ra sáu. Lại nữa, đông vọt, tây chìm… sáu cách như vậy. Tám duyên đất động như A-hàm nói: 1.Khi đại thủy động. 2.Khi Tôn Thần thử sức lực. 3. Khi Như Lai nhập thai. 4. Khi xuất thai. 5. Khi thành đạo. 6. Khi chuyển pháp luân. 7. Khi ngừng giáo hóa. 8. Khi Niết-bàn. Kinh tăng Nhất cũng nói tám duyên: 1.Phong luân của Diêm phù đề từ trên hướng xuống dưới; địa, thủy, hỏa, phong, từ dưới hướng lên trên tuần tự động. Bồ-tát nhập thai. 3.Xuất thai. 4.Xuất gia học đạo thành đạo. 5.Nhập Niết-bàn. 6.Thần thông Tỳ khưu tâm đắc tự tại. 7.Chư thiên mệnh chung sinh trở lại ở nơi thắng xứ. 8. Chúng sanh phước tận tướng. Động tâm, theo Thập Địa luận là để trị ba loại phiền não: 1. Chúng sanh sinh thiên, lạc trước thiên báo, chấn động thiên cung, khiến sinh chán bỏ, khởi tâm cầu pháp. 2. Chúng sinh tạo ác, không biết vô thường; buông thả tâm ý. Nhờ động đất khiến họ, xả ác theo thiện. 3. Chúng sanh ngã mạn, lại nhờ lực chú thuật làm đất động nhỏ khởi tâm cao mạn, khiến thấy động lớn, mới biết sức mình còn kém vậy! Từ câu: “Bấy giờ; các đại chúng…” là phần hai tức thời chúng sinh nghi. Văn có ba phần: 1.Chúng sinh nghi. 2.Chúng nghi ý. 3.Hỏi, chúng, không ai đáp được. Đây là phần đầu, có thể hiểu được. Từ câu “thảy câu “Thảy đều cho rằng…” là phần hai: chúng nghi ý. Văn có ba phần: 1.Ca tụng đức của Phật. 2.Lãnh việc trước. 3.Nâng việc hôm nay. Văn phần một có hai phần nhỏ phần đầu nói về đức của thành nhân lại có bốn phần: Bốn đức vô úy đó là Nhất-thiết-trí vô úy, lậu tận vô úy, tận khổ đạo vô úy, thuyết chướng đạo vô úy. “Mười tám pháp bất cộng” tự nó có hai: Trong tiểu thừa là mười lực, bốn vô úy, đại bi, ba niệm xứ. Ba niệm xứ là: Ứng tham bất tham, ứng sân bất sân, thường hành xả tâm. Trong đại thừa, là thân, khẩu, ý vô thất là ba, bốn là vô dị tướng, năm là vô bất định tâm, sáu là vô bất tri, đã xả, bảy là dục, tám là tinh tiến chín là niệm, mười là tuệ, mười một là giải thoát, mười hai là giải thoát tri kiến đẳng vô giảm. Mười ba mười bốn, mười lăm là ba nghiệp đạo tùy trí tuệ hành; mười sáu, mười bảy mười tám là trí huệ biết ba đời vô đắc. Nhị thừa không có phần, cho nên bảo là bất cộng. Năm nhãn: là nhục, thiên, tuệ, pháp; ở trên thân Phật cùng gọi là Phật nhãn. Pháp thân: Pháp thân có ba: 1. Đãn không pháp thân: Ba thừa đều có. Như thiện cát lễ pháp thân Phật trong thất diệp nham. Đó là tiểu thừa diệt ba mươi hai tướng tức không, làm pháp thân. 2. Tức giả pháp thân; đó là diệt sắc vô thường, được thường. Ngã, lạc, tịnh, cả ba cũng lại như vậy. 3.Tức trung pháp thân; đó là; Như Lai pháp thân, phi thường, phi vô thường. Các lạc, ngã, tịnh cũng lại như vậy. Từ câu: “Đại giác Thế Tôn …” là phần hai, thành nhân bởi đức. Hiểu được lý trung đạo gọi là đại giác. Trời người đều trọng, gọi là Thế Tôn. Từ câu: “Trước đã vì đại chúng của chúng ta…” là phần hai biết việc trước nghóa là từ sau ngày đắc đạo, hai mươi chín năm thuyết bốn Bát-nhã. Ở Linh Sơn thuyết đại phẩm; tiếp đó ở Xá Vệ thuyết kim cang và thiên vương vấn. Sau trở lại Linh Sơn thuyết Quang Tán và Đạo Hành, cụ xuất Quang Tán v.v… Từ câu: “Ngày nay Như Lai…” là phần ba: Nêu việc ngày nay đó là nghi tướng điềm trên. Từ câu: “Thời mười sáu…” là phần ba, hỏi chúng bất quyết. Văn có hai: 1. Hỏi. 2.Chúng không giải quyết được. Văn phần một có hai phần nhỏ: 1. Trước nêu xứ khen ngợi đức. 2. Tuần tự nêu câu hỏi. Văn phần nhỏ một lại có ba phần: 1. Nói về xứ: Nương theo chúa nước Đại luân kiều tát la vua Ba tư nặc. Nay gọi là Xá Vệ; hoặc gọi là Xá bà đề thành. Thiện kiến luật nói: Xá vệ là tên người, xưa kia có vị vua tên là Xá Vệ, thấy đất tốt, lập làm nước, nhờ ở đất đó, từ người mà đắc danh, gọi là Xá Vệ. Từ câu: “Vua Ba tư nặc…” là phần hai, nêu danh. Có người nói: Vua họ Nguyệt, sau khi nghe pháp, lấy thêm tên là Quang. Từ câu: “Đức hạnh thập địa…” là phần ba khen ngợi: Đức thập địa, lục độ đạo phẩm đa phần là Thông giáo. Tin tam bảo và giới bất hoại gọi là tứ bất hoại tịnh. Thực hành Ma-ha diễn hóa là lấy đại thừa trị nước. Từ câu: “Thứ đệ hỏi cư só…” là phần hai, tuần thứ tự nêu câu hỏi. Trước tiên hỏi tục chúng. Bảo là bảo tích. Cái là nguyệt cái. Pháp là pháp tài. Tịnh danh là Duy ma cật. Tiếp đến là hỏi Thanh văn sau nữa là hỏi Bồ-tát. Từ câu: “Không thể đáp…” là phần hai, chúng đã không giải quyết. Từ câu: “Thời vua Ba tư nặc …” là phần ba giác ngộ Như Lai. Văn có ba: 1.Vùng đất này tấu nhạc giác ngộ Như Lai. 2.Tha phương. 3. Cùng bày. Ở đây là phần một, có hai phần: 1. Ba loại người tấu nhạc: Là nguyệt quang, phạm thiên, dục thiên. 2. Thanh động thế giới. Trước tiên là thế giới của một Phật, sau đó là thế giới mười phương. Từ câu: “Tha phương kia …” là phần hai nói về tha phương. Văn có hai phần: 1.Đến tập. 2.Tấu nhạc. Trong văn phần một, thì trước nói bốn phương, tiếp đến liệt sáu phương. Tác nhạc cũng vậy. Từ câu: “Lại cùng tác …” là phần ba, cùng tấu nhạc. Trước đó Phật hiện điềm là tỏ năng ứng; nay thì tấu nhạc để tỏ là có cảm; tức giác ngộ Như Lai. Từ câu: “Phật tức tri thời…” là phần bốn, nói rõ Phật thăng tòa hoa tức là Như Lai phó cảm. Lại nữa, Phật hiện điềm tức lương y! Thời chúng tấu nhạc tức bệnh nhân cầu cứu! Phật thăng tòa hoa tức thầy thuốc cho thuốc! Lại nữa, phóng quang là thân nghiệp. Nhập định là ý nghiệp. Tức từ định khởi thuyết Không Quán là khẩu nghiệp. Lại nữa, phóng quang động địa là Thần thông luân. Nhập định biết căn cơ của chúng sanh là Tha tâm luân. Thuyết phẩm Không Quán là Thuyết Pháp Luân. “Sư tử tòa”; theo Đại luận nói: Chẳng phải là sư tử thật, cũng chẳng phải là Sư Tử đá, gỗ. Chỗ ngồi của Như Lai là sư tử tòa. Như giường nằm gọi là sư tử sàng… “Như kim cang sơn vương”: Kim cang là dụ cho pháp thân tứ đức của Phật, mọi thứ đều không thể làm hư hoại. Sơn vương tức núi Tu di, dụ cho Phật; không bị tám loại gió làm lay động. Lại nữa; tòa hoa đều là hiện thật báo độ. Như sơn vương là hiện thân tôn đặc; cũng là biệt tiếp nối với thông. Từ câu: “Đại chúng Hoan hỷ…” là phần năm, nói về sự Hoan hỷ của đại chúng. Người có thần thông thì trụ tại hư không; người không có thần thông thì ngồi trên mặt đất. Đến đây phần tự đã xong. <篇> SỚ KINH NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT NHÃ <卷>QUYỂN 3 PHẨM THỨ HAI: QUÁN KHÔNG Nói quán không là dùng diệu tuệ vô tướng chiếu cảnh của vô tướng. Nội ngoại đều tịch, duyên, quán đều không, cho nên nói là quán không phẩm. Lại nữa, phàm phu thì không biết; ngoại đạo thì vọng thủ; nhị thừa thì vui trệ. Nay Bồ-tát lấy chánh trí Bát-nhã quán không phi không; vượt khỏi phàm thánh, cho nên nói là quán không. Lại nữa, phàm phu dính mắc hữu nhị thừa dính mắc không, Bồ-tát thì xả hữu mà lại quán không. Vả lại, quán tức là năng quán, không có sở quán; năng, sở đều không; chơn tri kiến Phật. Cho nên đoạn văn sau nói: “Kiến cảnh, kiến trí phi thánh kiến”. Sáu phẩm sau đây gọi là chánh thuyết. Đại ý chia làm bốn phần: Ba phẩm đầu nói về Nội Hộ. Hộ Quốc có một phẩm nói đến là Ngoại Hộ. Phẩm Tán Hoa là nói về báo ân cúng dường. Phẩm thọ trì nói về hoãn, kinh Tướng Mạo phần đầu văn lại có hai phần nhỏ: 1. Lược khai hai hộ. 2. Hỏi đáp giải thích. Văn phần nhỏ một lại có bốn phần: 1.Biết thỉnh ý. 2.Lược chánh khai. 3.Khuyến phát ba tuệ. 4.Hoan hỷ cúng dường. Ở đây là phần đầu. “Bấy giờ, Phật bảo đại chúng…”: nghóa là chỗ dạy đã có đủ cơ, mười sáu đại Quốc vương có ý muốn hỏi nhân duyên hộ quốc độ; đó là gốc rễ sinh ra đoạn kinh văn Ngoại Hộ và phẩm Hộ Quốc. Từ câu: “Ta nay trước tiên vì…” là phần hai, chánh lược khai hai hộ đó là nhân quả, là hộ nhân duyên Phật quả mà sinh ra phẩm này. Hộ nhân duyên thập địa hạnh thì sinh phẩm Tán Hoa. Thập địa hạnh là hộ cái nhân. Hỏi: Vua chỉ xin nhân duyên hộ quốc; vì sao Phật lại thuyết nhân duyên quả hộ Phật trước? Đáp: Nhân tình thô thiển, diệu lý khó biết. Vua tuy thô tình chỉ xin một, nhưng Phật thô diệu đều ban cho. Lại nữa, nếu chỉ nói về Hộ Quốc, để cho quốc độ được an lạc, thì càng tăng thêm sự kiêu mạn! Vì vậy mà Phật thuyết nhân quả xuất thế, để chán tục mà vui nhập vào chơn. Vả lại thông thường, đòi ít là lễ của đệ tử cho nhiều là pháp của người làm thầy. Đòi ít là biểu thị cho bất tham cho nhiều là biểu thị không keo kiệt. Đòi ít mà cho nhiều là biểu thị cho chí của từ bi dắt dẫn. Từ câu: “Hãy lắng nghe! Lắng nghe!…” là phần ba, khuyên phát ba tuệ. Lắng nghe khiến sinh văn tuệ. Khéo suy niệm về nó là để sinh tư tuệ. Như pháp mà tu hành để sinh tu huệ. Từ câu: “Bấy giờ, vua Ba tư nặc…” là phần bốn: Hoan hỷ cúng dường. Vua nói: Thiện, nghóa là ngôn từ của sự tín thuận. Đại sự nhân duyên vì lẽ đó mà xuất thế. Hiển bày khiến cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật. - Pháp Hoa lấy tri kiến Phật làm đại sự. - Hoa Nghiêm lấy pháp giới làm đại sự. Nay kinh Bát-nhã này, lấy nhân quả thành Phật làm đại sự. Danh tự tuy khác nhưng nghóa là một. Vì vậy mà trí luận nói: Phật thuyết Bát-nhã, vô ương số chúng sanh sẽ nối dòng giống Phật ấy là đại sự. Kinh đại phẩm cũng nói: Tu Bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã vì đại sự mà khởi. Long Thọ giải thích: Năng phá các đại phiền não của chúng sanh; năng cho đại pháp vô thượng của chư Phật; gọi là đại sự. “Tán Hoa” tiêu biểu cho hành nhân. “Thành Trướng” tiêu biểu cho đắc quả. “Cái chúng” tiêu biểu cho từ bi, độ vật, che chở, nuôi dưỡng quần sinh. Từ câu: “Bấy giờ, đại vương đứng dậy tác lễ…” là phần thứ hai hỏi đáp giải thích. Văn có hai phần: Trước hỏi, sau đáp. Phần hỏi có hai: trước tiên nói rõ về tu kinh. Phần tiếp theo từ câu: “Bạch Phật ngôn…” là chánh phát hỏi trong hỏi có hai phần: Một là hỏi quả của hộ, hai là hỏi nhân của hộ. Từ câu: “Phật nói: Bồ-tát hóa tứ sinh…” là phần hai: Phật đáp. Văn có ba phần lớn: 1. Phẩm này, nói về hạnh lợi tha, đáp câu hỏi thứ nhất. 2.Phẩm giáo hóa, nói về hạnh lợi tha, đáp câu hỏi thứ hai. 3. Phẩm nhị đế nói về chỗ nương của hai hộ. Trong phần đáp câu hỏi thứ nhất, văn có hai phần: 1. Chánh thích quán không. 2.Từ câu: “Tùng Phật thuyết pháp thời…” là thời chúng đắc ích. Văn phần đáp đầu, có hai phần: Trước là chánh thích, sau là tổng kết. Trong phần chánh thích lại có hai phần: Phần đầu nêu tông chánh thích; phần sau là hỏi đáp, giải thích lại một lần nữa. Văn phần đầu lại có hai phần: 1. Chánh thích. 2. Kết hạnh. Chánh thích lại có hai phần: a. Sở hóa cảnh. b. Năng hóa trí. Đầu tiên nói tứ sinh là sở hóa cảnh. Cõi trời và địa ngục là hóa sinh. Súc sinh gồm điểu và long. Đó là tứ sinh (bốn loài). Trong loài người cũng có bốn: Con người hiện nay thì thai sinh. Dâm nữ Am la ba ly từ thấp sinh. Thời kiếp sơ, con người đều hóa sinh… Từ câu: “Bất quán sắc như…” là phần b nói về trí của năng hóa. Văn có ba phần: 1.Theo pháp. 2. Giải thích. 3. Kết thành. Phần một là lấy theo năm pháp: 1.Năm ấm. 2. Chúng sanh. 3. Phật quả. 4. Bồ-tát. Chơn vọng. Năm ấm là sở y. Chúng sanh là năng y. Phật là quả. Bồ-tát là nhân. Năm ấm và chúng sanh là vọng. Phật và Bồ-tát là chơn. Phần một ở đây: Năm ấm là hữu. Như hư không. Nếu thấy sắc, thấy như thì không tránh khỏi bị đoạn, thường. Như tức là đoạn. Sắc tức là thường. Nếu quán sắc diệt mới như, đó là kiến của Thông giáo. Nếu như tức sắc, đó là kiến của Biệt giáo. Nếu biết tất cả pháp tính chơn thật không, vô sinh vô diệt, đồng với chơn tế, ngang bằng với pháp tính, không hai không riêng khác; đó là kiến của Viên giáo. Nay ở đây nói rằng: Bất quán sắc như, là viên kiến. “Chúng sanh-ngã-nhân như” nghóa là: Trong năm ấm chúng cùng sinh, gọi là chúng sinh. Ngã là chấp lấy năm ấm làm ngã; giả danh hành giả, gọi là nhân. “Thường-lạc-ngã-tịnh như” nghóa là: Năm ấm và chúng sanh ở trên là pháp điên đảo chẳng phải thường-lạc-ngã-tịnh. Nay đắc Phật quả là pháp phi điên đảo là thường lạc ngã tịnh. Tùy phiền não và tận phiền não đều có cái riêng biệt, nhưng tính thường không khác. Nó giống băng tuyết và nước cho nên bảo là như. Từ câu: “Tri kiến thọ giả…” là nói về Bồ-tát. Có ba phần: 1. Vị. Nhân. 3. Hạnh. - Vị: Thập tín gọi là tri. Thập giải, thập hạnh gọi là kiến. Hướng đến địa gọi là thọ giả. Tuy có ba thứ riêng biệt nhưng cùng một như. “Bồ-tát như” là phần hai, nói về nhân như. Từ câu: “Lục độ…” là phần ba, nói về hạnh như. Hỏi ngài Tịnh Danh rằng: Tất cả chúng sanh đều như. Tất cả pháp cũng như. Chúng thánh hiền cũng như. Cho đến Di lặc cũng như; thì có khác gì với bây giờ? Đáp: Kia là chơn không, đây là diệu hữu. Hỏi: Chơn không, diệu hữu là sao? Đáp: Động tức tịch chơn không. Tịnh tức động, diệu hữu. Vì chơn không cho nên phi thường vì diệu hữu, cho nên phi đoạn. Chơn không thì bất trụ sinh tử diệu hữu thì bất trụ Niết-bàn. Vì diệu hữu cho nên năng khởi đại bi; vì chơn không cho nên năng sinh đại từ. Hỏi Tịnh Danh rằng: Tất cả đều như. Ở đây lại nói bất quán sắc như là sao? Đáp: Nếu thiên về quán, tất cả đều như thì vẫn trở lại là đoạn. Nếu bất quán như thì trở lại là thường. Tịnh Danh nói: Như khiến cho lìa thường kiến. Ở đây nói bất quán là khiến lìa đoạn kiến. Hai kiến đã lìa, thì trung đạo tự nó đã rõ vậy! Hai đế như là nói về chơn và vọng. Thế đế là vọng. Xuất thế là chơn. Từ câu: “Vì vậy, tất cả pháp tính…” là phần hai giải thích. Văn có ba phần: 1. Giải thích. 2. Hội thông. 3. So sánh. Ở đây là phần một. Tất cả pháp tính là chơn hữu. Chơn thật không là chơn không. Vì chơn không cho nên không đến vì chơn hữu cho nên không đi. Không đi thì vô diệt, không đến thì vô sinh. Đã vô diệt vô sinh thì ai phàm ai Thánh? Đã vô phàm - Thánh thì ai luận quán với bất quán? Từ câu: “Đồng chơn tế…” là phần hai, hội thông. Chơn tế vẫn trở lại là chơn không. Pháp tính vẫn trở lại là diệu hữu. Một sắc một hương đều là như vậy. Cho nên bảo là “Đồng đẳng”. “Như hư không” là phần ba, so sánh trong không chẳng lẽ lại có năm ấm, chúng sanh, Bồ-tát, chư Phật? Chẳng lẽ lại có thế đế, chơn đế, sinh diệt, đến, đi nữa sao? Sợ người mê không hiểm cho nên nêu ra dụ này để so sánh. Từ câu: “Vì vậy mà ấm nhập giới…” là phần ba kết thành. Vô ngã là kết ấm nhập giới, chúng sanh,… như. “Vô sở hữu tướng” là kết Phật Bồ-tát và tri kiến thọ giả đẳng như. Từ câu: “Ấy là Bồ-tát…” là phần hai kết hạnh. Kinh kim cang nói: Tất cả hiền thánh đều do vô vi pháp mà có sai biệt; tức đồng với đoạn văn này vậy! Từ câu: “Bạch Phật ngôn…” là phần hai, hỏi đáp giải thích lại. Văn có hai phần: 1.Nói về ba Bát-nhã giáo. 2.Nói về y giáo phát quán. Ở đây là phần 1.Ba Bát-nhã tức là ba biệt. Ở trong phần đầu; nói về thật tướng Bát-nhã thì trước hỏi, sau đáp. Như trên đã nói: Bất quán sắc như. Nay ý hỏi là: Nếu nói đó là Bồ-tát hạnh hóa thập địa khiến các pháp đều không thì Bồ-tát hóa những hạng chúng sinh nào? Từ câu: “Đại vương! Pháp tính sắc…” là phần hai: Đáp. Văn có hai phần: 1. Chơn thì vô hóa. 2. Tục thì hữu hóa. Phần một có bốn phần: 1. Cảnh. 2.Quán. 3.Trưng. 4.Thích. Ở đây là phần một. Năm ấm là cảnh của Bồ-tát địa tiền. Thường lạc ngã tịnh là cảnh của Bồ-tát địa thượng. Có người nói: Bất trụ sắc là để ngăn chận trụ sắc. Bất trụ phi sắc là để ngăn chận trụ không. Bất trụ phi phi sắc là ngăn chận cả trụ không và trụ hữu. Lại nữa, bất trụ sắc là ngăn chận trụ sắc ấm bất trụ phi sắc là ngăn chận trụ bốn ấm bất trụ phi phi sắc là ngăn chận trụ năm ấm. Lại nữa, bất trụ sắc là để ngăn chận trụ sắc pháp bất trụ phi sắc là để ngăn chận trụ tâm pháp bất trụ phi phi sắc là để ngăn chận trụ phi sắc phi tâm pháp. Vả lại bất trụ sắc, bất trụ hữu bất trụ phi sắc, bất trụ không bất trụ phi phi sắc, bất trụ không không. Cho nên Tịnh Danh nói: “Không bệnh cũng không.” Nay giải rằng: Nói cho đầy đủ thì phải nói: Bất trụ sắc, bất trụ phi sắc, bất trụ vừa sắc vừa phi sắc, bất trụ phi sắc phi phi sắc. Trong đó lược bớt hai chữ “Phi sắc” trong câu thứ ba và câu thứ tư. Vì sắc tức không, cho nên bất trụ sắc. Vì không tức sắc, cho nên bất trụ phi sắc. Vì sắc và không là không hai mà hai; cho nên bất trụ vừa sắc vừa phi sắc. Vì sắc và không là hai mà không hai; cho nên bất trụ phi sắc phi phi sắc. Tiếp theo là liệt kê bốn ấm. Ở trên “Phi phi trụ” nói là “Bất trụ”. Nay ở đây nói phi bất trụ, chỉ vì lấy bất trụ làm trụ; tức trụ vô sở trụ. Kinh kim cang cũng nói: “Nên vô sở trụ mà sanh tâm ấy.” “Vì sao vậy?” Là phần ba: Trưng. Ý rằng: Vì sao đã nói trụ lại còn nói bất trụ? Từ câu: “Phi sắc như…” là phần bốn: Giải thích. Bởi phi sắc như cho nên không thể nói một cách chắc chắn là trụ sắc. Bởi phi phi sắc như, cho nên không thể nói một cách chắc chắn là trụ phi sắc. Từ câu: “Bởi thế đế…” là phần nói về tục thì hữu hóa. Văn có bốn phần: 1.Bởi hai duyên cho nên thấy có chúng sanh để hóa. 2.Kết thành nghóa vô chúng sanh trên. 3. Hai kiến tà và chánh đều là kiến. 4.Kết thành chánh kiến. Ở đây là phần một. Nói “Thế đế”: Đế có ba loại: 1. Sắc đế. 2.Tâm đế. 3.Không đế. “Ba giả” đó là pháp giả, thọ giả, danh giả. Trong ba giả đó, chẳng phải như trong thành thật luận đã nói vì không có Tạng giáo. “Danh kiến chúng sanh” bởi thế đế và ba giả, cho nên có chúng sanh để hóa độ. Bởi tất cả sinh tánh thật là phần hai, phần kết thành nghóa trong chơn đế không có chúng sanh trên. Tất cả chúng sanh tức tướng của Niết-bàn không còn cần diệt, cho nên bảo là thật. Từ câu: “Cho đến chư Phật…” là phần ba nói hai kiến tà và chánh đều là kiến. Tam thừa là Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Thất hiền là bảy phương tiện. Bát thánh là bốn quả, bốn hướng. Sáu mươi hai kiến thì giải thích khác nhau. Theo đại luận thì ở trên năm ấm đều tác bốn câu. Ở sắc ấm thì cho quá khứ sắc thần và thế gian thường là sự thật ngoài ra đều là vọng ngữ. Ba câu về vô thường,… cũng vậy. Các ấm khác cũng vậy; thành ra hai mươi kiến. Hiện tại hữu biên, vô biên,… trải trên năm ấm thì có hai mươi kiến. Sau khi chết, như đi, như không đi, cũng có hai mươi kiến. Thành ra sáu mươi kiến. Thần và thân là một, thần và thân là khác; hợp thành sáu mươi hai kiến. Từ câu: “Đại vương! Nếu cho danh, danh kiến…” là phần bốn, kết thành chánh kiến. Nếu biết các pháp chỉ có giả danh thì danh đó làm kiến. Chẳng giống với người đời là kiến tất cả pháp. Từ câu: “Bạch Phật ngôn…” là phần nói về quán chiếu Bát-nhã. Văn có hai phần: Trước hỏi, sau đáp. Ý hỏi rằng: Hữu pháp đã chẳng phải là đại thừa, thì làm sao để chiếu? Đó là từ câu văn: “Phi phi kiến tất cả pháp” mà sinh ra thắc mắc này. Từ câu: “Đại vương! Ma-ha diễn…” là phần đáp văn có hai phần trước là tóm lược, sau là chi tiết. Phần trước, ý đáp rằng: Đại thừa kiến là thấy pháp chẳng phải pháp. Vì pháp của các sắc là không. Từ câu: “Pháp nếu phi phi pháp…” là phần giải đáp chi tiết. Văn có hai phần: 1.Giải thích chi tiết. 2.Nói về cái trí năng quán song chiếu không và hữu. Văn phần một, lại có hai hai phần: Trước là nói về pháp không tính không. Phần tiếp theo là thông qua pháp để tỏ không. Ở đây là phần trước rằng: Pháp nếu đã là phi phi pháp thì gọi là pháp không. “Pháp tính không” tính vốn nếu bất không, thì không thể khiến nó đắc không; vì bởi tính vốn tự không, cho nên các pháp đều không. Từ câu: “Sắc, thọ, tưởng, hành…” là phần sau; thông qua pháp để tỏ không. Văn có hai phần: Trước là tỏ cải chính; sau là giải thích thành nghóa không. Đây là phần trước. Theo sáu môn để tỏ không. Đại luận nói: Năm ấm không là quả báo không. Mười hai nhập không là thọ dụng không. Mười tám giới không là tính biệt không. Nguyên do là bệnh khác nhau, cho nên nói ba loại khác nhau. Vì si tâm số mà nói năm ấm; vì si sắc mà thuyết mười hai nhập. Vì si sắc tâm mà nói mười tám giới. “Sáu đại” gọi là biến đáo không. Kinh A-hàm nói: Sáu vua tranh đại: Địa nói, Ta có thể làm thấm nhuần, Hỏa nói, ta có thể đốt sáng; phong nói, ta có thể sinh chuyển động; không nói, Ta có thể dung chứa; thức nói, nếu không có Ta, sắc liền bị bại hoại. Sáu thứ tuy là đại, nhưng thức mới là chủ, cho nên bảo bốn loại đại vây bọc không và thức ở giữa. Tứ đế là cảnh không, nhân duyên là nghóa không. Từ câu: “Pháp ấy…” là phần giải thích thành nghóa không. Văn có hai phần: Phần đầu là thức ấm, phần sau liệt kê bốn uẩn và các pháp. Văn phần đầu có bốn phần: Nêu tông. Loại thích. Trưng cật. Thích thông. Ở đây là phần một. Vì trong sắc pháp có năm nghóa, cho nên không. “Tức sinh, tức trụ, tức diệt”: Theo các sư tiểu thừa nói: Trước là sinh, tiếp nữa là trụ, sau cùng là diệt. Hoặc lại nói: Sinh và trụ cùng một lúc. Nếu vậy thì không tránh khỏi sự thắc mắc. Vì sao? Nếu cho rằng trước sinh, sau là trụ cuối cùng là diệt thì khi sinh không trụ, vì sinh là trước! Nếu không có trụ thì làm sao có sinh? Vì trước đã không trụ, trụ ở sinh đó mà sinh bất đắc trụ tức vô sinh vậy! Nếu trước trụ, không có sinh tức cũng vô trụ, bởi vô nhân. Nếu trước sinh có trụ thì sinh và trụ cùng một lúc. Nếu sinh đã diệt, mới có trụ, thì trụ chẳng phải nhờ sinh mà có. Chấp vào đó mắc lỗi cho là khác. Nếu sinh và trụ cùng một thời thì nhân và quả cùng một thể, sinh tử một tướng. Chấp vào đó thì bị mắc sai lầm cho là một. Nay ở đây: “Tức sinh, tức trụ, tức diệt” khác với hai thuyết trên. Vì thể của các pháp trong từng niệm trôi dời không ngừng nghỉ; chính lúc sinh ấy cũng tức là lúc trụ lúc diệt. Cho nên Tịnh Danh nói: “Ông nay tức thời cũng sinh cũng lão cũng diệt”. “Tức hữu tức không.” Nghóa là: Sắc tính tự không, chẳng phải sắc hư hoại rồi mới không! Từ câu: “Sát-na, Sát-na” là phần hai: Loại thích, nói rõ trong từng niệm đều là không, giống với năm điều kể trên. Sát-na là khoảng thời gian cực ngắn…” “Vì sao?” là phần ba: Trưng cật. Ý rằng: Sinh và diệt trái ngược nhau, sao lại nói tức sinh, tức trụ, tức diệt? Từ câu: “Chín mươi Sát-na…” là phần bốn: Thích thông. Lấy chín mươi Sát-na làm thành một đại niệm một Sát-na trong một niệm lại có chín trăm sinh diệt. Vì vậy mà khi sinh tức có trụ, diệt. Lại nữa, chín mươi Sát-na làm thành một niệm, một Sát-na trong một niệm, trải qua chín trăm lần sinh diệt. Một niệm có chín mươi Sát-na, tổng cộng có tám vạn một ngàn lần sinh diệt, lấy sinh diệt nhiếp Sát-na, Sát-na nhiếp một niệm, cứ như vậy mà tâm pháp bất khả đắc, điều đó đã chứng minh rõ là tâm không. Lấy bốn đại phân chia các căn, các căn cũng bất khả đắc! Lấy bốn vi phân chia bốn đại thì bốn đại bất khả đắc! Lấy thô vi phân chia vi, thì bốn vi bất khả đắc! Lấy cực vi phân thô vi, thì thô vi bất khả đắc! Suy sắc cho đến cực vi, cùng tâm tận ư sinh diệt; thì sắc tận, tâm cùng khoát nhiên vô trụ. Cái trụ của vô trụ, không thể gọi tên nó được, gượng gọi là không. Tức là hộ Phật quả thuộc Tạng giáo. - Nếu kiến sắc, sắc không kiến tâm, tâm không vô đắc, vô trụ đó là hộ Phật quả thuộc Thông giáo. - Nếu thấy hai pháp sắc và không, phi nhất phi dị. Rộng lớn như pháp giới; rốt ráo như hư không dung chứa và che đậy tương xứng với nhau; đó là hộ Phật quả thuộc Biệt giáo. - Nếu thấy hai pháp sắc và tâm, xưa nay vốn không tịch, bất động, bất trụ, bất sinh, bất diệt; đó là hộ Phật quả thuộc Viên giáo. Từ câu: “Cho đến sắc,…” là phần hai loại thích. Bốn ấm và các pháp, cũng tức sinh, tức diệt, tức hữu, tức không. Từ câu: “Vì Bát-nhã Ba-la-mật không, cho nên,…” là phần thứ hai nói về trí năng quán song chiếu không và hữu. Văn có hai phần, phần trước nói về quán chiếu phần sau nói về đắc thất. Phần trước lại có hai phần: Chiếu không và chiếu hữu. Chiếu không thì vô tướng, chiếu hữu thì hữu tướng. Vô tướng chẳng phải chỉ có vô sở chiếu, mà cũng vô năng chiếu, chiếu cái vô sở chiếu. Trong kinh đại phẩm gọi đó là chơn thật Bát-nhã. Hữu tướng thì tiếp biệt phàm thánh vô lượng giáo môn. Trong đại phẩm kinh gọi là Tương tợ Bát-nhã. Trong phần nói về chiếu không, lại còn có hai phần riêng biệt: Phần đầu nói rõ về tướng của chiếu. Vì trong trí Bát-nhã không có một tí nào thật pháp, cho nên chiếu tất cả pháp không. Không thấy duyên là mười hai nhân duyên không. Không thấy đế là pháp tứ đế không. Cho đến tất cả pháp không nghóa là sáu đại pháp không. Nói bất kiến là quán các pháp không, cho nên bảo là bất kiến; chứ chẳng phải bất chiếu là bất kiến. Vì vậy mà kinh nói: Phi kiến và kiến gọi là tất cả chơn thật pháp. Từ câu: “Nội không…” là nói rõ sự không. Phân tề có mười hai loại. Đại luận có mười tám không. Luận hỏi rằng: Nếu ít thì một không, nếu nhiều thì phải vô lượng. Vì sai nay chỉ có mười tám không? Ngài Long Thọ đáp: “Nếu lược thì sự không đầy đủ; nếu chi tiết tỉ mỉ thì sự rườm rà khó hiểu.” Như uống, thuốc ít thì bệnh không lành, nhưng uống nhiều thuốc quá thì bệnh lại càng nặng! Nay nói về không cũng như vậy. Nói ít thì không thể phá tà kiến. Nói nhiều thì càng thêm rộng! Kinh này tùy thời mà trị bệnh, không nhiều không ít, chỉ có mười hai không. Nội không nghóa là sáu nhập bên trong không có thần ngã. Ngoại không là sáu trần bên ngoài, không có ngã sở. Nội ngoại không là căn và trần hợp quán, không có ngã và ngã sở. Hữu vi không là sắc tâm hòa hợp, sanh các ấm-giới-nhập… đều là vô sở hữu. Vô vi không là hư không diệt số. Phi số diệt không. Vô thủy không là ngoại đạo lấy minh sơ làm sự khởi đầu, để phá kiến đó, cho nên gọi là vô thủy không. Tánh không là các pháp vốn vô, người mê hoặc cho là hữu, dẫn đến chấp trước, rằng tính Như Lai, quyết định chắc chắn là có để phá kiến ấy cho nên bảo là tính không. Vì vậy kinh nói: Nhãn không, vô ngã, vô ngã sở. Vì sao? Vì tính tự nó vậy! Cho đến ý cũng như vậy. Lại nữa, kinh Hoa Ngiêm nói: Quán nhãn vô sinh vô tự tính; thức không, tịch diệt không có gì cả! Đệ nhất nghóa không, nghóa là vốn không thế đế; thế đế không có, đó cũng là không! Bát-nhã Ba-la-mật không thì theo đại kinh nói: Đại không là Bát-nhã không. Bát-nhã nói: Mười phương thảy đều không, gọi là đại không. Nhân không là lục độ không. Quả không là Bồ-đề Niết-bàn không. Không không đại luận nói: Lấy các không để phá các pháp nội ngoại. Rồi lấy không đó để phá các không; ấy gọi là không không. Lại nữa, lấy không để phá hữu, các hữu là không. Nếu chấp không cho là đúng, thì cần phải lấy các không không đó để phá nó. Từ câu: “Chỉ vì pháp tập, cho nên hữu…” là phần hai nói về chiếu hữu. Văn có ba phần: 1. Dùng ba giả môn để tỏ hữu. Như trên nói: Vì nhân tập mà hữu… 2. Dùng tứ đế môn để tỏ hữu. Nhân tập và nhân của sinh tử, tức khổ đế. Thập hạnh tức đạo đế. Từ thập tín tâm cho đến thập địa, mỗi thứ đều có mười loại hạnh môn. Phật quả là Niết-bàn, tức diệt đế. “Cho đến tất cả hữu trong lục đạo” là phần ba, dựa vào hai mươi lăm hữu trong đạo để nói rõ về hữu. Từ câu: “Thiện nam tử! Nếu có Bồ-tát…” là phần thứ hai, nói rõ về sự đắc thất. Văn có hai phần: 1. Tà quán là thất. 2. Chánh quán là đắc. Ở đây là phần một. Nếu Bồ-tát phát tâm hành học Bát-nhã mà thấy có pháp, có chúng sanh, có ngã, nhân, tri kiến; thì chẳng khác gì phàm phu ở thế gian! Từ câu: “Với các pháp, nhưng bất động…” là phần hai, nói về chánh quán. Văn có hai phần: 1.Nói rõ về hạnh. 2.Nói rõ về vị. Ở đây là phần một. Nói bất động tức sắc là không, ngay ở sắc là không chứ chẳng phải phân chiết sắc rồi mới không. Bất đáo như kinh đại phẩm nói: Pháp bình đẳng, tất cả thánh nhân đã không thể đến được! Tu Bồ-đề bạch Phật: Chẳng lẽ các thánh khác cũng không đến? Vì sao Phật cũng không đến? - Phật nói: Cho đến Phật cũng không đến! Vì sao? Phật tức bình đẳng. Bình đẳng tức Phật. Phật và bình đẳng không hai; cho nên không đến. Nói bất diệt nghóa là không tức là sắc. Nói vô tướng nghóa là sắc không, không sắc đều vô tướng. Nói vô vô tướng là vô tướng cũng vô! Phần sau đó là liệt kê các pháp. Từ câu: “Ấy tức sơ địa…” là phần hai nói về vị. Văn có hai phần: phần đầu nói rõ chánh quán phần sau tỏ bày thuyết xứ. Văn phần đầu có ba phần: 1. Vị. 2.Danh. 3. Dụng. Ở đây là phần một. Nói nhất niệm nghóa là: từ hồi hướng thứ mười trong một niệm dùng tuệ Bát-nhã tức có sợ địa; lúc ấy sẽ đầy đủ tám vạn bốn ngàn độ. Theo kinh hiền kiếp, thì bắt đầu từ quang diệu độ, cuối cùng đến phân bố xá lợi độ. Hợp lại có ba trăm năm mươi công đức môn, mỗi một công đức đều tu sáu độ, tức hai ngàn một trăm độ. Lại đem hai ngàn một trăm độ đối trước mười pháp, đó là bốn đại sáu suy lại đối trước mười thiện, mỗi một đều có hai ngàn một trăm tức hai vạn một ngàn. Lại đem hai vạn một ngàn đối trước bốn loài chúng sinh, các phần ba độc, đa tham, đa sân, đa si mỗi thứ đều có hai vạn một ngàn; hợp lại tức tám vạn bốn ngàn độ. Từ câu: “Tức tải danh…” là phần hai tập trung ở danh để tỏ chánh quán. Có bổn nói: “Tức năng vận, gọi là Ma-ha-diễn.” Nghóa của tải và vận đều giống nhau. Theo thể tức là Bát-nhã, theo dụng tức là đại thừa. Từ câu: “Tức diệt là kim cang…” phần ba nói theo dụng. Có thể diệt phiền não, như kim cang phá tan đồ vật, nghóa là một niệm cuối cùng của địa thứ mười. Vì có thể lìa sự tán loạn, cho nên gọi là định. Một hạnh ở trong đó có đủ cả vô lượng môn. Từ câu” Như quang tán…” là phần nói về thuyết xứ. Từ câu: “Đại vương! Kinh này…” là ba, khen ngợi văn tự Bát-nhã. Văn có năm phần: 1.Nhiều Phật cùng thuyết. 2.Nêu dụ. 3.Cách lượng. 4.Nêu sự so sánh. 5.Nói về Tướng của tín giải. Ở đây là phần một - Thích luận nói: Một chữ gọi là tự, hai chữ gọi là danh, hai chữ không hợp không thể thành danh. Nếu hợp thuyết đầu tiên đắc là danh, bốn chữ gọi là cú; những điều được giảng giải trong cú thì gọi là vị. Từ câu: “Ở trong hằng hà sa…” là phần nêu dụ. Trăm ức núi Tu Di, trăm ức mặt trời mặt trăng, biển lớn, thiết vi là một cõi đại thiên. Như Cát trong sông Hằng, một bạt là một thế giới. Lấy bảy báu chứa đầy ở trong đó để thí cho chúng sanh sẽ dẫn đến đắc tứ quả. Trong đó mang ý nghóa có hai thí là tài và pháp; nhưng trong văn tựa như là ẩn! Từ câu: “Bất như…” là phần cách lượng. Tam thuộc vô lậu khởi một niệm tín, hơn hai thí trên. Huống nữa là hiểu được một cú! Đó là phần bốn - nêu sự so sánh. Tín thì không chê bai, giải cho hiểu thì có thể làm lợi cho người; tức là tín cạn mà giải hiển thì là sâu! Đó là nói theo những người độn căn. Như theo kinh Pháp Hoa nói: “Xá lợi phất! Còn với kinh này, nhờ tín mà đắc nhập”. Đó mới là tức tín là giải, là nói theo lợi căn. Từ câu: “Cú phi cú…” là phần năm, nói về tướng của tín giải. Văn có phần: 1.Văn không. 2.Văn và nghóa đều không. 3.Nhân và pháp đều không. Ở đây là phần một. Cú là hữu, phi cú là vô. Phi phi cú là phi hữu phi vô. Phi hữu là chẳng phải là hữu cú trước; phi vô là chẳng phải vô cú trước. Lại nữa, cú tức văn tự. Phi cú tức lìa tính của văn tự. Phi phi cú là chẳng phải văn tự trước và kiến về lìa tánh trước. “Bát-nhã phi cú, cú phi Bát-nhã” là phần hai, nói về văn và nghóa đều không. “Bát-nhã phi cú” là nghóa không. “Cú phi Bát-nhã” là văn không. Vì tức văn phi Bát-nhã, tức Bát-nhã phi văn. Lìa văn không có Bát-nhã, lìa Bát-nhã không có văn. Trong văn không có Bát-nhã, trong Bát-nhã không có văn. Cứ như vậy mà tìm cầu lẫn nhau bất khả đắc cho nên tức tự không. Lại nữa văn và Bát-nhã, tự và tha đều cùng lìa, cầu bất khả đắc cho nên không. Từ câu: “Bát-nhã cũng phi Bồ-tát…” là phần ba, nói về nhân và pháp đều không. Trong văn cũng hợp tỏ nhân không, nhưng vì văn lược bớt; tự làm hai phần riêng: 1. Theo nhân vị để biện về pháp không. 2. Theo quả vị để biện về pháp không. Trong phần một có ba phần: Ở đây là phần thứ nhất: Nêu. Bát-nhã là pháp. Bồ-tát là nhân. Trong Bát-nhã mà cầu Bồ-tát thì bất khả đắc. Tức là pháp không. Vì sao? Là phần hai: Trưng. Từ câu: “Thập địa…” là phần ba: Thích. Nếu theo Thông giáo, tức ba ba thừa cùng hành thập địa, thuyết đầu tiên mà trụ cuối cùng. Nếu theo Biệt giáo tức Bồ-tát thập địa minh đầu tiên trụ cuối cùng. Từ câu: “Cũng phi Tát-bà-nhã…” là phần thứ hai theo quả để biện về pháp không. Tiếng phạn gọi là Tát-bà-nhã, tiếng Hoa dịch là Nhất- thiết-chủng-trí. Nhất-thiết-chủng-trí tức Phật quả. Phật quả cũng không; cho nên bảo cũng phi Tát-bà-nhã. Ma-ha diễn là thừa, người năng thừa đã không thì pháp sở thừa cũng không. Từ câu: “Đại vương! Nếu Bồ-tát…” là phần thứ hai; nương giáo phát quán. Văn có hai phần; trước nói về tà quán, sau nói về chánh quán. Ở đây là phần đầu. Kiến cảnh là thấy thật tướng Bát-nhã kiến tri là thấy quán chiếu Bát-nhã. Kiến thuyết, kiến thọ là thấy văn tự Bát- nhã. Chấp những kiến như vậy là vọng tưởng điên đảo của phàm phu, chẳng phải là thánh kiến! Lại nữa, kiến cảnh gọi là kiến trần; kiến trí gọi là kiến kiến thức; kiến thuyết kiến thọ gọi là kiến nhân, vọng chấp như thế thì chẳng phải thánh kiến! Từ câu: “Kiến tam giới…” là phần thứ hai nói về chánh quán. Văn có hai phần: 1. theo nhân quả tịnh nhiễm để tỏ rõ tướng của không. 2. theo vô thính thuyết để biện về tướng của không. Văn phần một có hai phần nhỏ: phần trước nói về sinh tử không; phần sau biện về Phật quả không. Phần trước lại có hai phần: 1.Chánh minh sinh tử không. 2.Giải thích nguyên do không. Văn phần chánh minh sanh tử không lại có hai phần: Chánh sử không và tập khí không. Phần chánh sử không lại chia hai phần: Phân đoạn sinh tử và biến dị sinh tử. Phần phân đoạn sinh tử lại có ba phần: 1.Quả không. 2.Nghiệp không. 3.Phiền não không. Ở đây là phần quả không. Tam giới là khí thế gian, chúng sanh là giả danh thế gian; quả báo là ngũ ấm thế gian. Nghóa là tam giới nương theo báo. Từ câu: “Sáu thức khởi vô lượng dục …” là phần hai; nghiệp không. Vì sáu thức thủ sáu trần, khởi các phiền não, tham dính năm dục; dần dần vô lượng uẩn tích ngậm chứa, gọi đó là tạng. Vì vô tự tính, cho nên gọi đó là không. Từ câu: “Tam giới không…” là phần ba nói về phiền não không. Gốc của tam giới là một niệm tâm si. Bóng tối ở trước cảnh, gọi là vô minh. Vô minh có đó liền sinh tam giới. Vô minh như đất đai, sinh ra vạn vật, cho nên gọi là gốc. Từ câu: “Tam địa cửu sinh…” là phần hai, nói về biến dị sinh tử không. Có người nói: Tam địa là: 1.Kiến địa từ mười hồi hướng đến địa thứ ba. 2. Tu địa: Từ địa thứ tư đến địa thứ bảy. 3. Cứu cánh địa: Từ địa thứ tám đến địa thứ mười. Tâm diệt đối với phiền não, gọi là trí duyên diệt. Phi trí duyên diệt nghóa là chánh nhân Phật tính, tính vốn tự tịnh, không có phiền não cấu. Chẳng mệt với quán hạnh mà diệt hoặc. Hư không là nơi không có sắc hiện ra. Từ câu: “Tát-bà-nhã…” là phần kết về quả không. Từ câu: “Thiện nam tử…” dựa theo không nghe và nói để tỏ rõ không tướng. Trong văn, pháp dụ cho hợp; có thể thấy nghe và nói như hư không. Kinh đại phẩm nói: Nghe như người ảo, nghe nói như người ảo nói cho nên không có nghe và nói. Tịnh Danh nói: Thuyết pháp là vô thuyết vô thị, người nghe pháp đó là vô văn vô đắc, vì pháp đồng với pháp tính. Tịnh Danh nói: pháp đồng pháp tính nên nhập các pháp, vì đó mà nói tất cả đều như. Từ câu: “Đại vương! Bồ-tát…” là phần tổng kết. Trước tiên là kết về năng hộ thể. Từ hộ Bát-nhã trở đi là phần kết về năng hộ dụng. Từ câu: “Phật thuyết…” là phần nói về thời chúng đắc ích. Văn có hai phần: Trước là thời, sau là ích. Pháp nhãn tịnh là pháp nhãn trong kiến của sơ địa trở lên, chẳng phải là pháp nhãn trong tiểu thừa. Tính địa đó là mười địa cùng hành của tam thừa. Lược bỏ chín chỉ, nêu một. Tín địa tức là tín thư tư bất hoại tín trong mười tín của Bồ-tát. Đại không, đại hạnh; tức sơ địa của Biệt giáo. Sở trụ trở lên của Viên giáo, đều gọi là đại không, đại hạnh. Hỏi: Phật thuyết Bát-nhã, sao lại đắc ích lại khác nhau? Đáp: Kinh Pháp Hoa nói: Một vùng đất sinh ra nhiều cây khác nhau. Một cơn mưa mà mỗi loài cây cỏ được thấm nhuần khác nhau; bởi gốc rễ của cây to nhỏ khác nhau, tùy loài mà được sinh trưởng khác nhau. Nay thuyết Bát-nhã cũng giống như vậy. Tuy thuyết một pháp mà lợi ích đạt được tự nó có sai khác! ------------------------- PHẨM THỨ BA: BỒ TÁT GIÁO HÓA Ba phẩm đều là nói về nội hộ. Đây là phần thứ hai giải thích hộ thập địa hạnh; tức nói rõ về lợi tha, đáp câu hỏi thứ hai. Nói: “Giáo hóa phẩm” nghóa là: Bồ-tát lấy lợi vật làm đức, dạy các chúng sinh lìa tất cả ác; giáo hóa các chúng sinh tu tất cả thiện. Lại nữa, Phật cũng dùng pháp này để giáo hóa chúng sinh, đắc thành Bồ-tát; cho nên bảo là giáo hóa phẩm. Vả lại, lấy pháp này để hóa các Quốc vương khiến cho họ hiểu biết Bát-nhã. Văn phẩm có hai phần: Phát hỏi. 2. Phật đáp. Ở đây là phần một, phần này văn có hai ý: 1.Ghi chép trong phẩm trước, hộ Bồ-tát thập địa hạnh, tức năng hộ nhân. Hạnh nào có thể hành? Chính là từ để hỏi: 1. Hỏi về pháp tự lợi của Bồ-tát. 2.Hỏi về hạnh lợi tha. 3.Hỏi tướng của chúng sanh để hóa. Lại nữa, trong phần hỏi tự lợi, thì nương vào đâu để tu hành? Cho nên lấy năm nhẫn để đáp. Trong phần hỏi lợi tha, thì nương vào vị gì để hành? Cho nên lấy thập địa hạnh để đáp. Cuối cùng trong phần hỏi chúng sanh tướng gì để hóa; cho nên lấy huyễn hóa thân kiến. Huyễn hóa chúng sanh mà giáo hóa. Lại nữa, kinh này thuyết thông cả tự và tha, nhưng thuyết về tha là chính. Cho nên đa phần văn nói về hạnh lợi tha. Người dịch kinh này cũng lấy hai chữ giáo hóa để đặt tên phẩm. Từ câu: “Phật nói: Đại vương!…” là phần Phật đáp. Văn có hai phần: 1. Đáp hai câu hỏi trước. 2. Đáp câu hỏi thứ ba. Văn phần một; lại có ba phần nhỏ: 1. chánh đáp hai câu hỏi. 2. Dùng kệ tán thán Phật. Như Lai thuật thành. Văn phần nhỏ một lại có hai: 1.Chánh đáp câu hỏi trước kiêm cả lợi tha. 2. Chánh đáp câu hỏi sau kiêm cả tự lợi. Văn của phần một này lại có ba: 1.Lược đáp. 2.Rộng đáp. 3.Tổng kết. Phần lược đáp lại có ba: 1. Nêu số; 2. Liệt kê nhiều danh để bày giáo; 3.Tổng kết. Ở đây là phần một. Sau cùng là kết văn; là chỗ tu hành của chư Phật Bồ-tát. Nay tùy theo câu hỏi mà đáp, cho nên chỉ nói là là Bồ-tát pháp. Nhất phục nhẫn thượng trung hạlà liệt kê danh. Ba hiền địa tiền chưa đắc vô lậu, chưa thể chứng, chỉ có thể chế phục, không thể đoạn dứt; vì vậy mà thành là trí phục nhẫn. Vì có trí cho nên có thể chế phục phiền não. Sợ địa, nhị địa, tam địa, đắc vô lậu tín, cho nên gọi là tín nhẫn. Địa thứ tư, năm, sáu, một mực hướng đến vô sinh, gọi là thuận nhẫn. Địa thứ bảy, tám, chín các niệm không sinh gọi là vô sinh nhẫn. Địa thứ mười, mười một, mười hai đắc quả Bồ-tát gọi là tịch diệt nhẫn. Sơ địa đắc vô lậu tín, đó là ý của Biệt giáo. Địa thứ bảy đắc vô sinh nhẫn, tức ý của biệt tiếp Thông giáo. Nhưng năm nhẫn này, các kinh nói khác nhau. Nương theo bổn nghiệp thì kinh Anh Lạc nói là sáu tính: 1. Tập chủng tính. 2. Tính chủng tính. 3. Đạo chủng tính. 4.Thánh chủng tính. 5. Đẳng giác tính. 6. Diệu giác tính. Tức là đẳng giác diệu giác của mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, mười địa. Cũng gọi là bốn mươi hai hiền thánh. Từ câu: “Danh là chư Phật…” là phần tổng kết. Từ câu: “Thiện nam tử…” là phần hai, giải thích rộng. Năm nhẫn tức là năm biệt. Ba hiền khác nhau trong phục nhẫn đầu, tức là ba biệt. Trước tiên là giải thích mười trụ. Văn có năm ý riêng: 1. Phương tiện. 2.Nói về nhập vị. 3.Hiển bày lực dụng. 4.Giải thích sự siêu vượt. 5. Nguyên nhân thành thánh. Ở đây là phần một. Nói phát tưởng tín nghóa là: Ở trong thập tín chưa nhập thập trụ, chưa thấy đạo lý; chỉ có thể tướng tín. Tưởng tín nếu thành tức nhập thập trụ. Nói hằng sa; nghóa là phát tâm nhiều. Đại kinh nói: Như cây Am la, hoa nhiều quả ít; như trứng con cá mẹ lớn, tuy vô lượng nhưng thành tựu lại ít! Nói thế để chỉ cho những chúng sanh muốn tìm bờ châu báu nhưng nửa đường đều thối lui. Từ câu: “Ở trong tam bảo …” là phần hai, nói về nhập vị. Ở trong ruộng tam bảo, sinh ra mười tâm đó. Vì nhờ khéo thuận cho nên tín không thối lui, gọi là tiến. Quyết đoạn gọi là tuệ; bất động gọi là định, xả được gọi là thí phòng hộ gọi là giới, không mất gọi là hộ; thượng cầu gọi là nguyện; đến Bồ-đề gọi là hồi hướng. Từ câu: “Ấy vì Bồ-tát…” là phần ba nói về lực dụng. Lấy thập trụ Bồ-đề làm đồng luân vương, vương của hai phương nam và tây gọi là “Ít phần hóa chúng sanh”. Từ câu: “Đã vượt qua khỏi nhị thừa…” là phần bốn giải thích về sự siêu vượt. Đó là thập tín đại thừa Viên giáo tức ngang bằng với nhị thừa. Thập trụ thì đã đoạn dứt vô minh, vượt qua địa nhị thừa. Nói tất cả thiện nghóa là thập tín gọi là thiện. Vì vậy mà phần sau của kinh có nói: Bồ-tát thập thiện phát đại tâm, từ biệt mãi mãi biển khổ luân của ba cõi. Nói vượt quá nhị thừa, tức Thanh văn, Duyên giác; nói tất cả thiện địa, tức Bồ-tát thập tín. Từ câu: “Tất cả chư Phật…” là phần năm, nói về nhân thành thánh. Mười tâm là nhân, chư Phật Bồ-tát là duyên. Nhân và duyên hòa hợp mà thành thai của thánh; tức lấy một tâm ba quán của trung đạo làm hạt giống, đoạn dứt một phẩm vô minh liền thấy Phật tính mà thành thánh thai. Từ câu: “Thứ đệ khởi càn tuệ…” là phần thứ hai nói về thập hạnh. Có bản viết là: “Lại nữa, thiện nam tử.” Ở đây thì theo “Thứ đệ” mà giải thích. Văn có bốn phần: 1. Nói về vị. 2. Biện về thể. 3. Nói về hóa tha. 4.Giải thích lìa hoạn. Ở đây là phần một nói về vị; tức nhẫn thứ hai trong ba nhẫn. Hạ phục nhẫn ở trước là văn tuệ. Trong phục nhẫn ở đây là tư huệ. Nói “Càn tuệ” là không có nước Định; cho nên chỉ nói là tư tuệ mà thôi. Chữ “Ngàn” trong kinh là sai. Trong kinh An Lạc nói có sáu tính, còn gọi là sáu tuệ. Nói sáu tính đó là: Tập chủng, tính chủng, đạo chủng, thánh chủng, đẳng giác, diệu giác. Nói sáu tuệ là: Văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ, vô tướng tuệ, chiếu tịch tuệ và tịch chiếu tuệ. Tập đã thành tính, gọi là chủng tính. Có mười tâm là nêu chung về con số của chúng. Từ câu: “Gọi là bốn ý chỉ …” là phần biện về thể. Văn có ba phần: Ở đây là phần một; nói về tứ niệm xứ. Ý chỉ là nhờ trí tuệ làm cho tâm chỉ trụ. Ý tức là tâm vương. Thân thọ tâm pháp là nói về cảnh của sở quán. Bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã là thể của năng quán. Quán thân bất tịnh để trừ tịnh đảo điên. Quán thọ là khổ để trừ lạc điên đảo. Quán tâm vô thường để diệt thường đảo điên. Quán pháp vô ngã để trừ ngã đảo điên. Từ câu: “Ba ý chỉ…” là phần nói về ba thiện căn. Nhờ từ mà vô sân; nhờ thí mà vô tham; nhờ tuệ mà vô si. Từ câu: ““Ba ý chỉ…” là phần ba, nói về nhẫn ba đời. Tâm duyên với vô minh và hành thời. Quá khứ gọi là nhân nhẫn. Năm quả hiện tại và ba nhân hiện tại; gọi là nhân quả nhẫn. Hai quả vị lai gọi là quả nhẫn. Vả lại, với tất cả pháp, đều có ba thứ đó. Ví như hạt giống chỉ là nhân. Như nấm cô hồ vừa nhân vừa quả. Cái có thể làm ra quả là nhân. Thật sự kết thành chủng là quả. Các chủng chỉ là quả, chẳng phải nhân; đó là dựa theo một thời ba đời mà luận. Từ câu: “Bồ-tát ấy cũng có thể hóa…” là phần nói về hóa tha. Từ câu: “Đã có thể vượt qua…” là phần lìa hoạn. Văn thì trước tiên là nói rõ về lìa nội hoạn; tức “ngã, nhân, tri, kiến…” Từ câu: “Và ngoại đạo…” là phần tiếp theo nói về lìa ngoại hoạn. Từ câu: “Lại có mười…” là phần nói về mười hồi hướng. Có bản viết: “Lại nữa, thiện nam tử! Tu hành thượng phục nhẫn, tiến nhập vào đạo bình đẳng; gọi là đạo chủng tính địa”. Văn có bốn phần. Ở đây là phần đầu: Nêu vị nghóa là muốn nhập sơ địa, có thể cùng với thánh đạo làm làm nhân cho tính. Cho nên gọi là đạo chủng tính. Từ câu: “Đó gọi là quán sắc…” là phần xuất thể. Văn có ba phần: Nói về năm nhẫn. 2. Hiển bày ba nhẫn. 3. Lại biện về hai nhẫn. Ở đây là phần một - Liệt ra năm ấm, là pháp sở quán. Từ câu: “Đắc giới… trở đi, là trí năng quán. Nhờ quán sắc ấm, liền đắc giới nhẫn. Nhờ tác vô tác giới đều là sắc ấm. Đúng theo văn kinh này, thì tác vô tác giới đều là sắc nhiếp. Nhờ quán thức ấm mà đắc tri kiến nhẫn. Nhờ phân biệt rõ ràng thức và tri kiến mà văn loại tương tự. Quán tưởng ấm mà đắc định nhẫn. Nhờ từ đảo tưởng mà có thể nhập vào định. Như trời của cõi vô sắc, do tưởng mà thành. Quán thọ ấm, đắc tuệ nhẫn. Nhờ nương vào thọ mà lập cõi trời tứ thiền. Do ở thiền mà có thể phát trí tuệ. Quán hành ấm mà đắc giải thoát nhẫn. Nhờ hành vô thường cho nên đắc giải thoát nhẫn. Hỏi: Vì sao sau sắc lại thuyết thức? Đáp: Bốn ấm đều do tâm làm chủ; do thức phân biệt ở sắc; do sắc nên thức mới hành được. Vì nghóa tương sinh với nhau mà nói như vậy. Từ câu: “Quán ba cõi…” là phần hai nói về ba nhẫn. Nhờ quán khổ quả ở ba cõi không, mà đắc không nhẫn. Quán nhân của ba cõi không mà đắc vô nguyện nhẫn; bởi lấy phiền não nghiệp làm tập đế. Quán nhân giả ba cõi không, cho nên đắc vô tướng nhẫn. Chứng nhân quả không, thành vô tướng quán. Từ câu: “Nhị đế hư thật…” là phần nói về hai nhẫn. Nhờ quán tục đế là pháp hữu vi, mà đắc vô thường nhẫn. Quán chơn đế là pháp vô vi, cho nên đắc vô sinh nhẫn. Vô thường nhẫn tức tiểu thừa tạng giáo. Vô sinh nhẫn tức đại thừa Thông giáo. Từ câu: “Mười kiên tâm của Bồ-tát ấy…” là phần ba nói về nhiếp hóa. Nhờ đạo chủng tính mà đạo Bồ-tát làm luân vương. Hóa bốn thiên hạ. Vả lại mười kiên tâm, tức kết từ năm nhẫn, ba nhẫn, hai nhẫn ở trên thành ra mười kiên. Từ câu: “Sinh tất cả thiện căn chúng sanh…” là phần bốn nói về thắng dụng.  SỚ KINH NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT NHÃ <卷>QUYỂN 4 Từ câu: “Lại tín nhẫn Bồ-tát…” là phần thứ hai, nói về tín nhẫn. Văn có phần ở đây là phần một. Nêu danh phối vị. Nói tín nhẫn là dùng vô lậu tín, tin tam bảo, cho nên gọi tín. Nói “Thiện đạt minh trung hành” nghóa là phối vị. Như kinh nói sau đây: Thiện đó là thiện giác Bồ-tát sơ địa, chứng nhân và pháp đều không, cho nên gọi là thiện giác. Đạt tức ly đạt, là Bồ-tát địa thứ hai. Ly phá giới cấu, đạt lý chơn tục cho nên gọi là ly đạt. Minh tức minh tuệ đó là, trí tuệ trong sáng của Bồ-tát địa thứ ba chiếu các pháp cho nên gọi là minh tuệ người giả năm ấm, tu hành trong đó, gọi là trung hành. Phần sau kinh gọi là người đạo hạnh. Đạo này thành người nên gọi là hạnh nhân. Từ câu: “Đoạn dứt ba cõi…” là phần nói về ly chướng. Vì ở địa thứ ba đó, mà đoạn dứt sắc phiền não thô. Từ câu: “Năng hóa trăm Phật…” là phần nói về nhiếp hóa. Ba bậc hạng khác nhau phối đối với ba địa. Có thể tự hiểu. Hỏi: Tín có mấy loại? Đáp: Lược thì có ba loại: 1. Tưởng tín: là thập tín khinh mao Bồ- tát. 2. Cửu tín: là tam hiền Bồ-tát. 3. Chứng tín: là sơ địa, nhị địa, tam địa. Từ câu: “Thường lấy mười lăm…” là nói về phát hạnh chủng tử. Bốn nhiếp, là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Bốn vô lượng, là từ, bi, hỷ, xả. Bốn hoằng thệ nguyện; như kinh Anh Lạc nói: Nguyện tất cả chúng sanh; độ khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo; gọi là bốn nguyện; cho đến thành Phật. Từ sơ địa dùng mười lăm tâm đó làm căn bản. Từ câu: “Thuận nhẫn Bồ-tát…” là phần ba nói về thuận nhẫn. Văn có ba phần: 1.Nêu danh vị. 2. Nói về trừ chướng. 3. Hiển bày về nhiếp hóa. Ở đây là phần một: Nêu danh vị. Thuận theo vô sanh nhẫn quán, nhưng chưa chánh đắc, cho nên gọi là thuận nhẫn. “Kiến thắng hiện pháp” tức là vị. Nghóa là dưới thuận nhẫn, thấy lý đạo phẩm phân minh rõ ràng, tức địa thứ tư: Diễm địa. Thắng tức trung phẩm là địa- nan thắng thứ năm. Nan thắng có hai nghóa: 1. Giáo hóa chúng sanh. 2. Không theo phiền não. Đắc thắng với hai sự đó, gọi là nan thắng địa. Hiệ pháp tức địa thứ sáu: Hiện tiền địa. Nhờ ở nhân duyên quán giải mà hiện tiền. “Có thể đoạn dứt tâm phiền não bị trói buộc trong ba cõi” là phần hai nói về trừ chướng. Trước đã đoạn dứt sắc phiền não, nay lại đoạn dứt tâm phiền não. Vả lại, trước đã đoạn kiến hoặc, nay đoạn tư hoặc; cho nên nói là tâm. Từ câu: “Cho nên hiện một thân…” phần nói về nhiếp hóa.Tín nhẫn trước nói rõ về hóa thân; cho nên mới nói là hiện trăm thân, ngàn thânvạn thân. Nay thuận nhẫn thì nói rõ về thật thân; cho nên nói là; hiện một thân ở mười phương cõi Phật để hóa chúng sanh. Hỏi: Vì sao chỉ một thân mà hiện ở nhiều độ? Đáp: Lực thần thông bất khả tư nghị, biến hóa khiến cho nhiều chỗ được thấy. Từ câu: “Lại vô sinh nhẫn Bồ-tát…” là phần nói về vô sinh nhẫn. Văn có ba phần: 1.Nêu danh vị. 2. Trừ chướng. 3. Nhiếp hóa phân tề. Ở đây là phần một: Nêu danh vị nghóa là, lấy vô nhân tự tha cộng, cầu hai pháp sắc và tâm bất khả đắc nhờ đó đắc trí, danh là vô sinh nhẫn. “Gọi là viễn bất động quán tuệ”, đó là phối vị. Viễn tức là viễn hành địa thứ bảy bởi có tâm công dụng có thể bờ mé sau cùng. Bất động tức là bất động địa thứ tám; bởi phiền não thuộc tướng hữu không thể làm lay động. Quán tuệ tức địa thứ chín thiện tuệ, bởi bốn vô ngại giải, hóa chúng sanh. “Cũng có thể đoạn dứt các phiền não tập của tâm sắc ba cõi” là phần hai nói về trừ chướng. Trước đoạn mỗi một tiết, nay đoạn cả hai chánh tập. Từ câu: “Cho nên hiện bất khả thuyết…” là phần ba, nói về nhiếp hóa phân tề. Từ câu: “Lại nữa, tịch diệt dẫn…” là phần thứ năm biện về tịch diệt nhẫn. Văn có bốn phần: 1. Nêu danh vị. 2. Biện về trừ chướng. 3. Dựa đế biện về những cái khác. 4.Nói về sở hóa phân tề. Phần nêu danh vị lại có ba: Một là nêu danh; hai là chứng dụng, ba là phối vị. Ở đây là phần một. Bốn nhẫn trước chưa tận nguồn pháp. Nay một nhẫn tịch các tâm sắc, diệt ở tưởng tập gọi là “Tịch diệt nhẫn”. Từ câu: “Phật và Bồ-tát…” là phần chứng dụng. Kim cang là dụ, tam muội là định. Có người cho phiền não như kim cang, vì nó cứng chắc không thể đoạn dứt ngay. Nếu chẳng phải là trí lực Phật thì không thể đoạn dứt được! Như trong đại kinh nói: Sừng dê mai rùa sở năng phá, là nghóa đó vậy! Có người cho trí tuệ như kim cang, có thể phá phiền não, không bị nó làm tổn hại. Cũng trong đại kinh ví như bình báu kim cang, không có tiếng rè bể, là nghóa đó vậy! Nay Phật và Bồ-tát mười địa đồng dùng tịch diệt nhẫn, nhập kim cang tam muợi. Từ câu: “Hạ nhẫn trung hành…” là phần phối vị. Hạ nhẫn, tức pháp vân. Thượng nhẫn tức Phật. Tát-bà-nhã tiếng Hoa gọi là Nhất- thiết-trí. Lại nữa, vì nhiếp cả nhân và vị đạo vô ngại nên gọi là hạ nhẫn. Nhiếp quả đạo giải thoát, nên gọi là thượng nhẫn. Lại nữa, pháp vân và Phật đồng nhập kim cang tam muội thì tâm trước gọi là Bồ-tát, tâm sau gọi là Phật bởi không có khoảng giữa. Chỉ có thượng, hạ. Bốn nhẫn trước đều là nhân vị, cho nên có ba phẩm. Hỏi: Các kinh đều có đẳng giác, vì sao trong này lại không lập? Đáp: Nếu y theo cư kinh thì tổng hợp có ba phẩm: Hạ phẩm thập địa. Trung phẩm đẳng giác. Thượng phẩm diệu giác. Ở đây Bát-nhã nương theo thông, khác với Biệt giáo cho nên chỉ luận pháp vân tức cập Phật địa. Cho nên đại phẩm nói: Thập địa Bồ-tát, nên biết là như Phật. “Như” là chưa phải nghóa như vậy. Đại kinh cũng nói: Thập địa Bồ-tát kiến tính chưa liễu ngộ. Những điều trên đều là ý của Thông giáo. Từ câu: “Cộng quán Đệ-nhất-nghóa-đế…” là phần biện về trừ chướng. Văn có ba phần: phần một là nói về cảnh của sở quán, phần hai nói rõ về trừ chướng phần ba nói về tướng sai biệt của hai đạo. Ở đây là phần một. Cũng quán chơn đế nhưng sáng tối khác nhau. Như đại kinh nói: Thập địa Bồ-tát thì văn kiến Phật tính. Chư Phật Như Lai thì nhãn kiến Phật tánh. Lại nữa, thập địa Bồ-tát gọi là hữu thượng só. Phật gọi là vô thượng só. Lại nữa, Bồ-tát như trăng đêm mười bốn. Phật như trăng rằm. “Đoạn ba cõi tâm tập” là phần nói về chánh biện trừ chướng. Trong vô sinh nhẫn trước, đoạn cả hai thô tập của sắc và tâm. Nay trong nhẫn này, mãi mãi đoạn dứt tế tập của tâm pháp. Từ câu: “Vô minh tận tướng…” là phần ba nói về tướng sai biệt của hai đạo. “Vô minh tận tướng làm kim cang”. Đó là vô ngại đạo. Nói “Tận tướng” là nghóa đó chưa tận. Như khói là tướng của lửa, nhưng chưa là lửa! Kim cang dụ cho định; đó là cái tướng của tận vô minh, nhưng vô minh thì chưa tận. Hỏi: Nếu vô minh chưa hết thì là phiền não. Vì sao đoạn văn trước nói Phật và Bồ-tát cùng nhập định đó? Đáp: Cái tính của vô minh tức ở chỗ minh. Như đèn khi đang cháy, cũng là lúc đang diệt. Chỉ lấy một niệm vô minh tâm biến thành minh. Vi minh tức Bồ-tát, đại minh tức Phật. “Tận tướng vô tướng là Tát-bà-nhã”, đó là giải thoát đạo. Kim cang hạ định trước, chỉ tận hết các tướng thô tế của sắc tâm, chưa tận hết vô tướng; chưa được gọi là Nhất-thiết-trí. Nay Phật địa, không những chỉ tận hết tướng mà cũng tận hết cả vô tướng; cho nên được gọi là Nhất-thiết-trí. Có thể gọi là duyên. Quán song minh, trí, cảnh câu tịch. Từ câu: “Siêu độ thế đế…” là phần ba: Dựa theo đế mà biện về sự khác nhau. Ba hiền đa phần là trụ thế đế. Mười địa đa phần là trụ chơn đế. Chơn đế tức vô, thế đế tức hữu. Vì vượt qua thế đế, cho nên phi hữu. Vượt qua chơn đế cho nên phi vô. Phi hữu phi vô tức Tát vân nhã. Hỏi: Tát-bà-nhã và Tát vân nhã khác nhau thế nào? Đáp: Có hai thuyết: một thuyết cho là giống nhau một thuyết cho là khác nhau. Tát-bà-nhã là Nhất-thiết-trí; Tát vân nhã là Nhất-thiết- chủng-trí. Ở đây, nay cho rằng; trong đoạn văn nói về năm nhẫn, trong phần tịch diệt nhẫn đã chỉ chia thành hai phẩm, không lẽ còn có sự khác nhau giữa Tát-bà-nhã và Tát vân nhã! Lại nữa, kinh này nói tức có ngầm ý về nghóa của đẳng giác. Tức ở trong tịch diệt nhẫn đã có thượng, trung, hạ. Hạ tức thập địa; trung tức Nhất-thiết-trí thượng tức Nhất-thiết-chủng-trí. Nếu theo siêu độ ngoài nhị đế của kinh, thì địa thứ mười một là Tát vân nhã. Tức là theo giải thích trước. Từ câu: “Vô duyên đại bi…” là phần nói về nhiếp hóa phân tề. Văn có ba phần: Phần đầu là lược, phần hai là nói rộng phần cuối là kết. Đây là phần đầu: Lược. Đối với tất cả chúng sanh ở trong ba cõi, Phật dùng đại bi mà cứu vớt họ. Pháp Hoa nói: Các con vui chơi, rồi lại nhập vào nhà đó. Kinh Trưởng Hạnh thì nói: Trưởng giả thì sợ nhập nhà lửa. Tịnh Danh nói: Bồ-tát và người bệnh đều từ đại bi mà khởi. Đều là nghóa đó vậy. Đại bi là tâm năng hóa. Chúng sanh là cảnh sở hóa. Tát-bà-nhã là thể năng hóa. Đại bi có ba: 1.Chúng sanh duyên bi; ngoại đạo cũng có. 2. Pháp duyên bi; nhị thừa cũng có. 3. Vô duyên bi: Chỉ riêng Phật mới có. Từ câu: “Thiện nam tử!…” là phần thứ hai, theo tông mà giải thích rộng. Văn có ba phần: 1. Nói về thánh lý. 2. Nói về thính và thuyết. 3. Nói về cổ chứng cho nay theo chánh lý ba cõi là cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Tạng là bao trùm hàm chứa cả sáu đạo bốn loài. Quả là báo quả phân đoạn. Báo là các báo khổ và lạc. Hai mươi hai căn gồm: Nhãn, nhó, tỉ, thiệt, thân, ý, khổ, lạc, ưu, hỷ, xả, nam, nữ, mệnh, tín, tiến, niệm, định, tuệ, và căn chưa biết căn muốn biết, căn đã biết cộng lại là hai mươi hai căn. Hai mốt căn thì không ra khỏi ba cõi phân đoạn. Căn đã biết thì không ra khỏi ba cõi biến dị. Ba thân của chư Phật cũng không ra khỏi ba cõi vì pháp thân cũng tức là ứng, hóa thân. Kinh Pháp Hoa nói: Thường ở tại núi Linh Thứu và các trụ xứ khác. Kinh Phổ Hiền Quán nói; Thích ca mâu ni gọi là Tỳ-lô-giá-na biến khắp mọi nơi. Kinh Hoa Nghiêm nói: Vừa gọi là Thích ca, vừa gọi là Xá na… Đã biết ba thân tức một thân, thì cũng cần phải biết cõi ngoại tức là cõi trong. Từ câu: “Ngoài ba căn không có chúng sanh…”; là phần nói rõ về nghe và thuyết. Thuyết thì cho rằng: Cõi ngoài có chúng sanh để hóa; đó là thuyết của ngoại đạo, chẳng phải Phật thuyết. Hỏi: Cõi ngoài thật không có chúng sanh để để hóa sao? Đáp: Thánh dạy khác nhau lúc có, lúc không thuyết khác nhau. Trong kinh này thì nói ngoài giới không có chúng sanh các kinh thì nói là có. Kinh Pháp Hoa nói: Làm Phật ở các quốc độ khác. Ngoài ba trăm do tuần, quyền đặc để hóa thành. Tịnh Danh nói; cõi phương trên chia độ, như bốn mươi hai hằng Phật độ có vị Phật tên là Hương Tích. Nếu giới ngoại không có người, thì làm sao dung chứa tam giới nội. Phương trên còn có Phật độ như vậy; cho nên phải biết là cũng có. Hỏi: Kinh này nói không có, kinh khác nói có, thì làm sao hiểu cho thông? Đáp: Kinh này nói không có, là không có chúng sanh biến dị. Kinh khác nói có, là có chúng sanh biến dị. Cho nên đại luận nói: Ngoài sinh giới Thanh văn, có thế giới bạch ngân, thế giới đó không có danh từ phiền não chỉ dựa vào điều không có phiền não, liền bảo là không có chúng sanh. Thanh văn thì vô minh chưa đoạn, chẳng lẽ là thật sự không có sao? Đúng là ý của Thông giáo khi luận về giới nội phiền não chúng sanh. Ngoại đạo vệ thế sư nói có sáu đế. Kinh đại hữu thì nói; cũng một đế. Kinh đó nói rằng: Ngoài giới còn có thế giới riêng. Nếu nói ngoài ba cõi còn có chúng sanh khác, thì đồng với thuyết của ngoại đạo kia. Thật lý mà xét nếu nói ngoài giới có chúng sinh, tức đồng với ngoại đạo. Nếu nói không có, tức đồng với nhị thừa. Kiến của chư Phật Bồ-tát thì bất hữu bất vô, tức không hữu không vô. Không hữu không vô tức chẳng như cũng chẳng khác. Chẳng như chẳng khác tức không như ba cõi mà kiến ở ba cõi giới. Những việc như thế, trong kinh Pháp Hoa, Phật mới thuyết một cách rõ ràng. Từ câu: “Đại vương! Ta thường…” là phần cổ chứng kim, tức dẫn xưa để chứng minh cho nay. Ta xưa thường nói, đoạn dứt mọi quả báo phiền não trong ba cõi. Gọi là Phật. Chẳng lẽ ở ngoài ba cõi còn có chúng sanh khác nữa sao? Tự tính thanh tịnh, gọi là Tát vân nhã tính tức chánh nhân Phật tính. Tất cả chúng sanh, Phật và Bồ-tát cùng có tính đó. Chẳng lẽ ngoài ba cõi mà còn có chúng sanh khác để hóa nữa sao? Từ câu: “Bổn nghiệp của chúng sanh …” là phần tổng kết. Văn có hai phần: phần một; tổng kết năm nhẫn. Bổn nghiệp của chúng sanh tức phiền não. Chư Phật Bồ-tát khi chưa thành đạo, cũng có phiền não; vì phiền não phải tu các công đức trí huệ mà nay được thành Phật. Cái gốc phiền não của Phật không khác với chúng sanh hiện nay; cho nên gọi là bổn (là gốc!). “Đầy đủ mười bốn nhẫn trong năm nhẫn …” là phần nói về lược và rộng. Lược tức là năm nhẫn; rộng là mười bốn; nghóa là: Tam hiền ba, thập địa mười và Phật địa là thành mười bốn. Trên đây đã xong phần đáp câu hỏi trước kiêm luôn lợi tha. Từ câu: “Bạch Phật rằng: …” là phần hai; đáp câu hỏi sau kiêm tự lợi. Văn có hai phần: Trước hỏi, sau đáp. Ở đây là phần hỏi. Lặp lại câu hỏi trước. Thập địa là bổn nghiệp của Bồ-tát. Bồ-tát không nhiễm ở sinh tử và Bồ-đề, gọi là bổn nghiệp thanh tịnh. Nhờ tịnh pháp mà giáo hóa chúng sanh. Khác với phàm phu và nhị thừa dùng tạo pháp nhiền não để giáo hóa chúng sanh! Hỏi: Dùng tạp phiền não để giáo hóa chúng sanh có gì sai trái? Đáp: Đã có sự trói buộc, thì làm sao có thể giáo hóa chúng sanh khác! Thầy đã bị đọa thì trò cũng bị đọa theo. Nhị thừa thì chê bai Phật, hủy hoại pháp; khởi tâm oán với các chúng sanh; lại thành lợi ích thật sao? Từ câu: “Phật nói: Từ địa thứ nhất …” là phần đáp. Văn có hai phần: Trước lược, sau rộng. Văn phần trước lại có ba phần: 1.Nói rõ về chỗ nương của tịnh nghiệp. Đó là từ Hoan hỷ địa cho đến pháp vân địa. Hỏi: Vì sao chỉ nói thập địa? Đáp: Ba hiền địa tiền, hiền nhưng chẳng thánh. Không gọi là bổn nghiệp thanh tịnh. Địa diệu giác thì diệu quả đã viên mãn; cho nên ở trong nhân mà nêu mười địa. Câu trả lời: “Tự sở hạnh xứ …” chia làm hai hạnh: 1. Tự hạnh xứ; tức cảnh của mười địa. 2. Phật hạnh, là cảnh của diệu giác địa. Trước thập địa chỉ thực hành tự sở hạnh xứ. Kim cang tâm sau thì hành chung cả hai xứ; vì vậy mà văn sau nói: Đắc lý tận tam muội đồng với Phật hành xứ. Lại nữa, kinh Anh Lạc nói: Bồ-tát con Phật bấy giờ trụ đại tịnh môn, cho đến vượt ra ngoài mười địa, thì cùng ngời với Phật. “Bởi nhất thiết tri kiến”; là phần ba: Thích thành thanh tịnh. Nhờ năm nhãn của Phật mới có thể thấy tất cả pháp. Nhờ ba trí của Phật mới biết tất cả pháp. Từ câu: “Bổn nghiệp…” là phần thứ hai, rộng đáp. Văn có ba phần: Nêu. 2. Giải thích. 3. Kết. Ở đây là phần một có thể tự hiển. Từ câu: “Nếu Bồ-tát trụ…” là phần giải thích thập địa là mười. Nay phần một, giải thích về thiện giác địa. Văn có năm phần. Đây là phần một. Nói về quốc độ rộng hẹp. Nói: “Trụ trăm Phật quốc”: Quốc độ có ba: 1.Thuyết pháp độ trăm ức nhật nguyệt hóa tiểu thừa. 2.Thần thông độ ức ức nhật nguyệt hóa trung thừa. 3. Trí tuệ độ vô lượng thế giới hóa Bồ-tát. Nay nói trăm Phật quốc độ là thuyết pháp độ. “Làm bốn thiên vương ở Diêm phù đề” là phần nói về phối vị. Hóa ở trong bốn thiên vương ở phương nam, làm thiên vương tăng trưởng vì Diêm phù đề hơn các phương khác bởi là nơi có Phật xuất hiện. Lại nữa, tuần tự mà làm bốn thiên vương theo kinh thập: Bồ-tát sơ địa làm thuyết luân vương ở Diêm phù đề. Không nói bốn thiên vương; nhưng kinh Anh Lạc lại nói: Tu hành mười tín thiện trong một kiếp, hai kiếp, ba kiếp thì có ba phẩm: Thượng phẩm thiện, thiết luân vương, hóa một thiên hạ. Trung phẩm thiện, túc tán vương. Hạ phẩm thiện nhân trung vương. Thập trụ thì đồng luân vương; thập hạnh thì ngân luân vương. Thập hướng thì kim luân vương. Sơ địa trở lên là lưu ly luân vương. Sơ địa làm thiết luân vương trong kinh thập địa, đó là ý của Biệt giáo. Kinh Anh Lạc và kinh này, thì thập thiện đã làm thiết luân vương, là ý của Viên giáo. “Tu trăm pháp môn …” là phần hiển bày pháp môn; tức hạnh tự lợi. Ở trong thập thiện, mỗi một thiện lại nói về mười thiện, cho nên bảo là trăm pháp môn. “Hai đế bình đẳng tâm” là phần bốn giải thích biệt hạnh trong địa. Tức tục tức chơn cho nên bảo là bình đẳng. “Hóa tất cả chúng sanh” là phần năm, giải thích thông hạnh trong địa; mỗi một địa đều dùng hóa sinh làm hạnh. “Nếu Bồ-tát trụ ngàn Phật độ…” là phần hai giải thích ly đạt địa. Đao lợi thiên, tiếng Hoa gọi là tam thập tam thiên. Địa kinh nói: Địa thứ hai làm kim quang vương. Kinh Anh Lạc và kinh này cũng nói vậy. “Ngàn pháp môn” nghóa là ở trong mười thiện trước, mỗi một thiện đều hành trăm thiện. Từ câu: “Trụ mười vạn Phật độ…” là phần ba giải thích phát quang địa. Địa kinh thì nói làm đao lợi thiên vương. Kinh Anh Lạc cũng nói vậy. Từ câu: “Trụ trăm ức Phật quốc…” là phần bốn giải thích viêm tuệ địa. Địa kinh thì nói làm viêm ma thiên vương. Kinh Anh Lạc nói giống với kinh này làm đâu suất thiên vương. Đạo phẩm là ba mươi bảy đạo phẩm. Từ câu: “Trụ ngàn ức…” là phần năm giải thích nan thắng địa. Nhị đế là chơn đế và tục đế. Tứ đế là khổ, tập, diệt, đạo. Bát đế là bốn hữu tác và bốn vô tác. Lại nữa, khổ, không, vô thường, vô ngã và thường, lạc, ngã tịnh cũng là tám đế. Địa kinh thì nói làm đâu suất thiên vương. Kinh Anh Lạc nói giống với kinh này là làm hóa lạc thiên vương. Từ câu: “Trụ mười vạn ức…” là phần sáu giải thích về hiện tiền địa. Địa kinh thì nói làm hóa lạc thiên vương. Kinh Anh Lạc nói giống với kinh này là làm tha hóa thiên vương. Từ câu: “Trụ trăm vạn ức…” là phần bảy, giải thích viễn hành địa. Địa kinh thì nói làm tha hóa thiên vương. Kinh Anh Lạc thì nói làm phạm vương, thường dùng hai trí để hóa chúng. Sanh. Từ câu: “Trụ trăm vạn vi trần…” là phần tám giải thích đẳng quán địa. Địa kinh thì nói làm phạm thiên vương. Vua của ngàn cõi. Kinh Anh Lạc nói làm phạm sư tử Anh Lạc quang quang thiên vương. Song chiếu cả chơn và tục không trái ngược nhau, gọi là phương tiện trí. Ở trong nhập quán có thể phát thần thông, gọi là thần thông trí. Từ câu: “Trụ trăm vạn ức…” là phần chín, giải thích thiện tuệ địa. Địa kinh thì nói; làm phạm vương, vua của hai ngàn cõi. Kinh Anh Lạc thì nói làm tịnh thiên vương. Từ câu: “Trụ bất khả thuyết…” là phần mười, giải thích pháp vân địa. Địa kinh thì nói, làm đại tự tại thiên vương; vua của ba ngàn cõi. Kinh Anh Lạc nói làm tịnh cư thiên vương. Đại tự tại, đại tịnh cư, đại tịnh thiên, đều giống nhau. Học, hạnh đã mãn, gọi là lý tận tam muội; duy chỉ còn một hạnh là Như Lai hạnh đó gọi là đại thừa đại bát Niết- bàn Bồ-tát cũng được gọi là đồng Phật hạnh xứ. Vô minh là gốc của ba cõi. Hoặc đó đã hết thì nguồn của ba cõi cũng hết! Từ câu: “Vì vậy mà tất cả Bồ-tát…” là phần kết. Văn có hai phần: phần một là kết Bồ-tát nghiệp. Từ câu: “Nếu mười phương…” là phần hai, kết Như Lai nghiệp. Lại là đáp và giải thích về diệu giác địa.. từ câu: “Bấy giờ, trăm vạn ức…” là chướng lớn thứ hai, nguyệt quang kệ tán. Văn có ba phần: 1. Thời chúng cúng dường. 2. Nguyệt quang khen Phật. 3. Đại chúng được lợi ích. Phần một: Lại có hai phần nhỏ: Phần đầu; của cải cúng dường Phật. Từ “Chắp tay…” trở về sau là pháp cúng dường. Từ câu: “Nay ở trước Phật” là phần hai nguyệt quang chánh tán. Văn có hai phần một nói về tán xứ. Từ câu: “Thế tôn! Đạo sư…” là phần hai nói về chánh phát lời tán. Kệ nghóa là kiệt. Mỗi câu có ba, bốn, năm, bảy chữ khác nhau. Như phạm thiên lấy ba mươi hai chữ làm kệ thủ lô tức lấy tám chữ làm câu. Năm mươi chín hàng chia làm ba phần chính: 1.Sáu hàng đầu tụng chung về nghóa trên. 2.Bốn lăm hàng, tụng riêng về mười bốn nhẫn. 3. Tám hàng tổng kết, tụng về năm nhẫn. Văn phần một: Có ba phần: Ba hàng đầu tán thán biệt tướng tam bảo; một hàng tiếp theo là thán năm nhẫn hàng sau cùng tán thán một thể tam bảo. Văn phần đầu có ba phần; sự sai biệt của Phật, pháp và tăng. Chúng sanh thế gian và khí thế gian đều tôn xưng là thế tôn. Thầy hướng dẫn gọi là đạo sư. Đạo sư có đạo sư thế gian và đạo sư xuất thế gian. Trong xuất thế có vụng độ, khéo độ, thứ đệ độ, nhất tâm độ. Kim cang thể là tán thán về pháp thân. Từ chữ “Tâm hành…” hai câu là tán thán pháp bảo. Tịnh Danh nói: Tâm đã tịnh, độ chư thiền định. Đây nói là tịch diệt. Tịnh Danh nói: Tam chuyển pháp luân ở đại thiên, luân đó xưa nay vốn thường thanh tịnh. Ở đây gọi là: “Tâm hành tịch diệt chuyển pháp luân.” Một câu bao gồm cả các nghóa lý không sai. Lại nữa, câu đầu tán thán thân nghiệp của Phật; câu tiếp tán thán tâm nghiệp; câu tiếp nữa tán thán khẩu nghiệp. Lại nữa, Phật có đầy đủ năm sự: 1.Cụ túc oai đức thế tôn. Trí huệ đầy đủ của bậc đạo sư. 3. Pháp thân đầy đủ thể kim cang. 4.Giải thoát đầy đủ tâm hành tịch diệt. 5. Chuyển pháp luân tha hóa đầy đủ. Ứng cơ một cách nhanh chóng gọi là biện. Tám âm là kinh Phạm Ma Dụ nói: 1.Âm thanh hay nhất. 2.Âm thanh dễ hiểu. 3.Âm thanh diều hòa. 4. Âm thanh như nhuyễn. 5. Âm thanh không lầm lẫn. 6.Âm thanh không nữ. 7. Âm thanh tôn trọng. 8. Âm thanh sâu xa. Hồng là to lớn. Từ câu: “Thời chúng…” là phần ba tán thán tăng bảo. Ở trên, trong phần văn đại chúng thiên, không có pháp xuất gia. Nay nói “Xuất gia” là nói theo tâm. Ba thừa cùng hành thập địa, cho nên bảo là: “Thành Tỳ khưu chúng Bồ-tát hạnh”. Lại nữa, thân người xuất gia thành chúng Tỳ khưu, tâm trời xuất gia thực hành hạnh Bồ-tát. Từ câu: “Công đức năm nhẫn…” là phần hai, ca ngợi riêng về năm nhẫn. “Tam hiền thập thánh” là nhân vị, gọi là nhẫn trung hạnh. Phật cư quả địa, cùng nguồn tận lý, gọi là năng tận nguyên. Lại nữa, mười bốn đều gọi là chánh só, tức bốn mươi mốt địa. Mười địa là mười. Trụ, hạnh, hướng và đẳng giác là bốn; thành mười bốn đại só. Viên giáo thì mười bốn thánh nhân, đều lấy một tâm ba quán đế liễu ngộ các pháp gọi là “Hạnh trong nhẫn”. Tỳ-lô-giá-na chúng hạnh dừng nghó, gọi là “Năng tận nguyên”. Một hàng từ câu “Phật chúng pháp hải…” là phần ba tán thán nhất thể tam bảo: Phật là Phật bảo, chúng là tăng bảo, pháp là pháp bảo. Bao hàm như biển, tích chứa như kho tàng, cho nên vô lượng công đức đều nhiếp cả ở trong. Từ câu: “Thập thiện Bồ-tát…” là phần biệt tụng mười bốn nhân. Văn có năm phần: 1. Chín hàng tụng phục nhẫn. 2. Mười hàng tụng tín nhẫn. 3. Tám hàng tụng thuận nhẫn. 4. Mười hàng tụng vô sinh nhẫn. 5. Tám hàng tụng tịch diệt nhẫn. Văn phần một: Có hai phần nhỏ: Hai hàng đầu tụng về phục nhẫn phương tiện, tức thập tín bảy hàng sau là tụng phục nhẫn công đức, tức tam bảo. Văn phần nhỏ một lại có hai: Một hàng trước là nói về ly quá một hàng sau là nói về nhiếp vị. Ở đây là phần trước. Người xưa nói: Bồ-tát thập tín, do phát đại tâm, cầu ra khỏi ba cõi tuy chưa ra được, nhưng đã có khả năng viễn ly các khổ trong ác đạo cho nên mới nói là trường biệt. Ở đây thì không phải vậy. Như thập tín của Biệt giáo là ngoại phàm chưa có thể tạm ly, làm sao trường biệt! Như thập tín thuộc Viên giáo, thì đoạn hoặc trong ba cõi, đến khi bắt đầu thập trụ, thì đoạn dứt các hoặc vô minh thuộc giới ngoại. Vì đã đoạn dứt ba cõi bốn trụ, ngang với La hán, từ biệt mãi mãi biển khổ; cùng với người nhị thừa, sinh đồng một phương tiện cõi nước hữu dư. Nếu La hán, chi Phật ở cõi nước đó gặp Phật, được Phật vì họ mà thuyết kinh Pháp Hoa, liền thành Bồ-tát, đoạn dứt tiếp vô minh. Như Bồ-tát thập tín, dù chưa nghe kinh Pháp Hoa, cũng có thể lần lần tự đoạn dứt vô minh sao lại cho rằng không bị sinh vào ác đạo là đã trường biệt biển khổ! Hỏi: Mười tín này nương tựa với tướng vị nào trong Biệt giáo? Đáp: Theo các luận định đoạt thì địa tiền Biệt giáo, thứ lớp tu chứng. Thập trụ thì tu từ giả nhập vào không quán thập hạnh thì tu từ không nhập vào giả quán. Thập hồi hướng thì tu chánh quán trung đạo. Thập tín Viên giáo thì có thể viên tu ba quán. Không thể nào luận giống nhau. Nhưng cũng có thể nói là ngang với thập hồi hướng thuộc Biệt giáo. Hỏi: Ngang với vị nào thuộc hai giáo trước? Đáp: Theo các luận định đoạt: Hai giáo tạng giáo và Thông giáo. Khéo và vụng tuy khác. Chỉ thấy ở không mà không thấy cái bất không chưa hiểu biết rõ trung đạo. Thập tín Viên giáo thì tu đủ cả ba quán, không thể so sánh cùng với hai giáo trước. Nhưng cùng luận thì thập tín Viên giáo, tạng giáo, Thông giáo, Phật với nhị thừa đều đoạn dứt kiến tư, tức ngang với Phật địa thuộc tạng giáo và Thông giáo. Đại tâm là thệ nguyện lớn, độ sinh lớn, thuyết pháp lớn, từ, bi, hỷ, xả lớn. Chia vùng riêng biệt thì gọi là cõi. Ba khổ, tám khổ, tám vạn bốn ngàn khổ đều gọi là khổ. Quang không ngừng như bánh xe là luân. Chìm nổi lên xuống như là biển. Từ câu: “Trung hạ phẩm thiện…” là phần nói về nhiếp vị. Tu hành mười thiện tất đủ ba tâm. Hai tâm trung và hạ, làm túc tán vương. Tiểu vương nhiều chúng giống như thượng phẩm tâm, hành thập thiện, làm thiết luân vương. Thiết luân báu đó của vua Diêm phù đề, rộng cả một câu lô xá… Theo kinh Anh Lạc thì thượng phẩm làm thiết luân, trung phẩm làm túc tán, hạ phẩm làm Nhân vương (vua người). Từ câu: “Tập chủng đồng luân…” là phần thứ hai, nói về công đức của phục nhẫn thượng trung hạ. Văn có hai phần: 1.Hai hàng, biệt thán ba phẩm, làm ba luân vương. 2. Năm hàng tán thán chung ba phẩm. Ở đây là phần một. Bồ-tát thập trụ là người tập chủng tính, làm đồng luân vương, vua cả hai thiên hạ báu đồng luân đó rộng hai câu lô xá. Bồ-tát thập hạnh là người tính chủng tính. Làm ngân luân vương, vua của ba thiên hạ báu ngân luân đó rộng ba câu lô xá. Bồ-tát thập hồi hướng là người đạo chủng tính, làm kim luân vương, vua của bốn thiên hạ; báu kim luân đó rộng bốn câu lô xá. Bảy báu gồm: Nữ báu, châu báu, luân báu, chủ binh báu, chủ tạng thần báu, voi báu, ngựa báu. Từ câu: “Phục nhẫn thánh thai…” là phần hai, tán thán chung ba phẩm. Văn có hai phần: 1. Một hàng, liệt kê ba mươi tâm, làm thai cho mười thánh, gọi là thánh thai. Ba mươi người là nêu con số chung. Từ câu: “Thập trụ…” là liệt kê riêng. Kinh viết là chữ tín. Có người nói: Tín tức thập tín chỉ thì thập trụ, kiêm thì thập hạnh; điều đó e rằng trái với nghóa lý của văn kinh! Lại có người nói: Tín tức thập trụ chỉ thì thập hạnh, kiên thì thập hồi hướng; theo đó thì được nghóa nhưng trái với văn. Nay ở đây cho rằng: Trụ và Tín viết tương tựa giống nhau. Người chép lại bị sai lầm. Đúng phải viết là trụ! Từ câu: “Chư Phật ba đời…” là phần hai chánh thán công đức. Văn có bốn phần: 1. Tán thán phục nhẫn có thể sinh ra chư Phật. Lấy phục nhẫn làm cửa đầu tiên để nhập đạo, là mấu chốt của Bồ-đề. Ai là người chẳng do cửa mà ra vào cho nên chư Phật ba đời đều từ đó mà sinh. Từ câu: “Tất cả Bồ-tát…” là tán thán phục nhẫn có thể sinh Bồ- tát. Gốc của biển lớn là các dòng chảy; gốc của các dòng chảy là những giọt nước. Gốc của hạnh Bồ-tát là ở phục nhẫn; phục nhẫn thành lập là ở tín tâm. Nếu có thể phát tín tâm, nhập viện thập trụ thì đoạn dứt vô minh. Vô minh thì bàn bạc, chẳng phải là một tâm ba quán thì không thể đoạn dứt. Mà trí năng đoạn thì từ thập tín sinh bởi vậy mà đức Phật than rằng: Tín tâm khó! Từ câu: “Nếu đắc tín tâm…” là phần nói về công năng. Nếu đắc viên tín tâm, tất không thối chuyển liền đắc nhập ở đạo của sơ địa. Trong đó, văn kinh bao hàm hai giáo. Nếu theo Biệt giáo thì từ thập tín lần lần tiến đến bất thối, lên tới địa Hoan hỷ. Nếu là Viên giáo, thập tín tâm Bồ-tát tức bất thối chuyển, liền đăng sơ trụ. Sơ trụ của Viên giáo tức sơ địa của Biệt giáo cho nên kinh Hoa Nghiêm và văn kinh sau cũng lấy thập trụ làm thập địa. Tất bất thối nghóa là thập tín của Viên giáo tất bất thối đọa phàm phu nhị thừa và ở ba cõi. Hỏi: Bổn nghiệp kinh Anh Lạc thuyết: Trong thập trụ, trụ thứ sáu chánh quán hiện tiền, được Phật Bồ-tát, thiện tri, thức hộ, thì xuất trụ thứ bảy thường bất thối chuyển. Trước trụ thứ bảy gọi là thối phần. Như hội thứ nhất của Phật có tám vạn người bị thối. Như tịnh mục thiên tử, pháp tài vương tử, xá lợi phất… Muốn nhập trụ thứ bảy, gặp nhân duyên xấu, thối rơi vào phàm phu bất thiện, trong ác, tác đại tà kiến. Nay trong kinh này không nói thối, là vì sao? Đáp: Tâm người thì như, nhưng mặt thì mỗi mỗi khác nhau. Đại thánh vì tùy theo cơ, nên cũng có sai biệt có lúc thuyết Bồ-tát thập hạnh là người chúng tính, còn bị thối đọa địa ngục. Lại nữa, kiếp A- tăng-kỳ đầu tiên còn bị thối đọa, thì người nhập hồi hướng cũng bị thối đọa. Kinh Anh Lạc đệ nhất thuyết về thập trụ. Từ trụ thứ nhất đạt đến trụ thứ bảy mới gọi là trụ bất thối trước trụ thứ bảy thì có nghóa là thối. Theo giáo mà đoạn, sơ A-tăng-kỳ mà thối, đó là ý Tạng giáo giáo. Thập hạnh thối là ý Thông giáo. Thập hồi hướng thối là ý Biệt giáo. Thập tín thối là ý Viên giáo. Nay bảo tín tâm bất thối tiến nhập địa sơ trụ tức nghóa của Viên giáo. Từ câu: “Giáo hóa chúng sanh…” là phần nói về lợi tha. Trường hợp ở trên là nói về hạnh của hóa tha: Giáo hóa chúng sanh khiến thường giác ngộ, tất bất thối chuyển. Trường hợp sau là kết: Tán thán sơ tâm. Đại kinh nói: Phát tâm và tất cánh là hai bất biệt. Hai tâm như vậy, thì tâm trước (phát tâm) khó. Kinh Bát-nhã nói: Có thể sinh một niệm tịnh tín, ở vô lượng Phật mà trồng thiện căn. Kinh Pháp Hoa nói: Ở vô lượng kiếp thực hành năm Ba-la-mật. Không bằng nghe thọ mệnh Phật mà sinh tín… Đều là ý nghóa đó. Từ câu: “Thiện giác Bồ-tát…” là phần tụng về công đức tín nhẫn. Văn có hai phần: Phần trước tụng ba phẩm phần sau hậu thán. Văn phần trước lại có ba phần: 1. Bốn hàng, tụng về sơ địa hạ nhẫn. 2.Hai hàng tụng về nhị địa trung nhẫn. 3.Hai hàng tụng về tam địa thượng nhẫn. Văn phần một: lại có hai phần: 1.Nửa hàng tán thán về công năng làm vua. Tục thì hữu như huyễn chơn thì vô như huyễn. Tâm tuy là chẳng thật, nhưng chẳng không ở huyễn. Rõ ràng ở huyễn, cho nên bảo là song chiếu. Bởi chơn và tục đều không, cho nên bảo là bình đẳng. Từ câu: “Bao đầu đăng nhất thừa…” là phần hai gồm hai hàng rưỡi. Nói về công đức nhập địa. Lấy một tâm ba trí, trụ ở đế lý, gọi là trụ. Có thể sinh ra các đức, gọi là địa. “Địa” tức là địa thứ nhất thuộc Biệt giáo Hoan hỷ địa. “Trụ” tức là trụ thứ nhất thuộc Viên giáo Hoan hỷ trụ. Ở trong một tâm tức là tu ba quán. Vạn đức vạn hạnh đều ở trong đó. Kinh Hoa Thủ nói: Tất cả đức đều ở trong phát tâm ban đầu tức là ý nghóa đó. “Ở đệ nhất nghóa nhưng bất động” nghóa là: Biệt giáo thì Bồ-tát thập hồi hướng tu trung đạo chánh quán, chưa chứng cho nên có động. Viên giáo thì thập tín tu một tâm ba quán, còn có động, đến sơ trụ chứng đắc mới không động. Từ câu: “Ly-đạt-khai-só…” là phần hai gồm hai hàng tụng về nhẫn tín trung phẩm. Ly đạt là lìa phá giới cấu thông đạt ba quán là địa thứ hai thuộc Biệt giáo là trụ thứ hai thuộc Viên giáo. Khai só là khai mở đạo pháp không. Đại só, chánh só, khai só,… đều cùng một nghóa. Đạo lợi là nói về ngôi vua. Hiện hình là nói về hóa. Vô duyên là nói về trí. Thứ đế thì không có cách gì để có duyên. Chơn đế thì không có cách gì để có tướng. Vô duyên, vô tướng tức là trung đạo Đệ-nhất-nghóa-đế. Vô vô là vô vô duyên, vô vô tướng; hai thứ đó đều không có; thì làm sao có sinh; cho nên bảo là vô sinh! Đã là chơn vô sinh, thì làm sao có chiếu. Vô nhị chiếu là sao? Chiếu vô sở chiếu, không hai. Từ câu: “Minh tuệ không chiếu…” là phần ba, gồm hai hàng, tụng về tín nhẫn thượng phẩm. Theo Biệt giáo là địa thứ ba; đạt nhân và pháp, cả hai đều không, được thành tựu nhẫn gọi là không chiếu. Theo Viên giáo là trụ thứ ba, tức không, tức giả, tức trung, gọi là không chiếu. Từ câu: “Ứng hình…” là nói rõ về hóa. Từ câu: “Nhẫn tâm…” là nói rõ về trí. Tam đế tức một đế. Ba tâm tức một tâm cho nên gọi là vô nhị. Tức hữu, tức không, cho nên gọi là xuất hữu, nhập vô. Tức không, tức hữu, cho nên gọi là biến hóa sinh. Từ câu: “Thiện giác ly minh…” là phần thứ hai, tổng kết tín nhẫn có thể diệt phiền não sắc ba cõi. Tức sắc là không; vẫn trở lại quán sắc thânà khẩu ba cõi. Tức không là sắc, đệ nhất pháp tính không sót mất chiếu. Không có gì là chẳng phải trung đạo. Có bản cho là duy chỉ chiếu, thì chẳng đúng với ý của kinh! Từ câu: “Viêm tuệ…” là phần thứ ba, tụng về thuận nhẫn. Văn có sáu phần; sáu hàng đầu là phần chánh tụng, hai hàng sau là phần tổng kết. Văn của phần đầu có ba phần: 1. Hai hàng đầu là tụng hạ phẩm. Hai hàng tiếp tụng trung phẩm. 3. Hai hàng sau tụng thượng phẩm. Trong phần thứ nhất: “Viêm huệ diệu quang v.v…” tức Bồ-tát địa thứ tư thuộc Biệt giáo được thành tựu tinh tấn Ba-la-mật. Viên giáo tức là Bồ- tát trụ thứ tư tinh tiến ở ba quán. Duyên tịch tức thật trí. Chiếu không và hữu tức quyền trí. Từ câu: “Thắng tuệ…” là phần tiếp theo tụng về trung phẩm. Là Bồ-tát địa thứ năm thuộc Biệt giáo, nhập thiền định thâm sâu, đắc ở thắng tuệ. Theo Viên giáo là Bồ-tát trụ thứ năm. Không không, đế quán vô nhị tức động là tịch. “Biến hóa sáu đạo tức tịch là động. Từ câu: “Pháp thiện…” là phần ba, tụng về thượng nhẫn. Bồ-tát địa thứ sáu thuộc Biệt giáo đắc Bát-nhã viên mãn, cho nên gọi là pháp hiện v.v… Là trụ thứ sáu thuộc Viên giáo. Vô nhị, vô chiếu v.v… tức tịch. Trí quang phổ chiếu tức động. Từ câu: “Diễm thắng pháp hiện…” là hai hàng tổng kết. Diễm tức là bốn địa trước. Thắng tức là địa thứ năm. Pháp hiện tức địa thứ sáu. Ba loại Bồ-tát đó, đắc trung đạo quán, không khởi hai tướng hữu và vô. Lấy nước chánh quán rửa sạch sự nhơ nhớp do vô minh. Không huệ tịch nhiên, vô duyên quán; tức sắc và tâm đều không. “Hoàn quán…” tức là sắc, tâm đều giả. Từ câu: “Viễn đạt vô sinh…” là phần thứ tư tụng về vô sinh nhẫn. Gồm mười hàng tụng chia làm ba phần: năm hàng đầu tụng về hạ nhẫn đệ thất địa; ba hàng tiếp tụng về trung nhẫn đệ bát địa; hai hàng cuối tụng về thượng nhẫn đệ cửu địa. Văn phần đầu có hai phần nhỏ: 1.Giải thích hạnh tướng. 2.Đoạn hoặc phân đều. Ở đây là phần một. “Viễn đạt vô sinh”: Kinh đại phẩm nói: Địa thứ bảy thì nhập sâu vào vô sinh thâm nhập và viễn đạt, ý nghóa giống nhau. Khác với chứng của địa thứ sáu có gián đoạn. Đạt đến nguồn của pháp, cho nên bảo là thâm nhập (nhập sâu vào). Thâm nhập tức là viễn hành địa. Cận kề với địa thứ tám; cho nên gọi là viễn hành. Viễn hành địa tức là viễn đạt. “Thường vạn ức…” có nghóa là làm rõ hóa dụng. Lược nêu con số lớn, cho nên bảo là vạn ức. Từ câu: “Chưa độ …” là nói về tổn sinh. Chưa độ được. Báo thân là thân phân đoạn bởi hết một thân đó tức nhập biến dị. Trí luận nói: Bồ-tát địa thứ bảy chưa xả nhục thân. Lại nữa, trong hai mươi mốt sinh, chưa độ được một sinh cuối cùng. Song quán hai đế cho nên gọi là đẳng quán; vả lại sắc tâm hai pháp là tướng không sai biệt, cho nên bảo là đẳng quán. Địa thứ thuộc Biệt giáo vẫn còn công dụng tiến nhập vào địa thứ tám thì không còn có công dụng tâm. Dòng pháp trung đạo chảy đến biển Tát-bà-nhã đó là ý của Biệt giáo tiếp Thông giáo. Khởi đầu nhập vào vô duyên kim cang nhẫn thì không còn chịu thân phân đaọn của ba cõi. Đó là nói trước về công đức thuộc địa thứ tám trở lên, nhờ chúng mà có thể dẫn đến lợi ích đặc biệt. Chẳng bao lâu thì sẽ đạt được, vì vậy mà nói trước cũng bởi để dạy người Thanh văn mà trước tiên phải khen ngợi về quả sẽ đắc là vậy! Trung đạo Đệ-nhất-nghóa-đế đối trước chơn và tục, tức là thứ ba. Một trung thì tất cả đều trung cho nên bảo là vô nhị chiếu. Từ địa thứ nhất đến địa thứ bảy, mỗi địa đều có ba phẩm Hạ-trung-thượng, ba lần bảy tức hai mươi mốt. Sinh trong cái sinh đều quán các pháp không tịch, lấy đó làm hạnh. Từ câu: “Ái tập ba cõi…” là phần nói về đoạn dứt hoặc phân đều. Bồ-tát địa thứ bảy đaọn dứt hiện hành đó là đoạn tập khí. Như kinh thập địa có nói: Viễn hành địa này không gọi là hữu phiền não bởi tất cả các phiền não đều không hành. Người tham cầu trí Như Lai, bởi chưa thỏa mãn đầy đủ cho nên không gọi là hữu phiền não. Kinh này cũng vậy. Bởi yêu thích Phật trí, tập chưa đoạn dứt, cho nên gọi là thuận đạo định. Đế nghóa là thẩm định thật. Vì địa thứ sáu trước chỉ đoạn phiền não, chưa đoạn dứt tập khí vô minh. Nay địa thứ bảy, đã sớm đoạn dứt hết phiền não thô trong cho nên có thể liễu đế mà chưa đoạn tập khí vô minh. Ái là si ái bởi si ái mà thọ nhận thân sinh tử. Vì vậy, Tịnh Danh nói: Từ si, có ái mà ta sinh bệnh nay trong địa thứ bảy đã đoạn hẳn. Ba hàng từ chữ “Đẳng quán…” là tụng về cô sinh trung phẩm nhẫn, tức Bồ-tát địa thứ tám. Câu này nêu danh nêu vị. Biến sinh pháp thân là báo thân phân đoạn thuộc địa thứ bảy đã xả bỏ biến phân đaọn kia, đắc pháp thân biến dị; cho nên bảo là pháp thân. Từ câu: “Tám trăm hằng độ…” là nói về thắng dụng. Đạo tiền là quá khứ, đạo trung là hiện tại, đạo hậu là vị lai. Phản chiếu là chiếu những chuyện quá khứ bảy địa trước. Lạc hư là duyên với những sự việc hiện tại. Vô tận nguyên, là chiếu sự việc vị lai. Địa thứ bảy tuy đắc chiếu vô nhị; vì sơ chứng đó mà không tỏ rõ tịch. Nhưng nay đến địa thứ tám, tâm càng thuần thục hơn cho nên thường tịch nhiên. Từ câu: “Tuệ quang khai só …” là phần tụng về vô sinh thượng phẩm nhẫn. Tức Bồ-tát thiện tuệ địa thứ chín. “Thường tại vô vi không tịch hành …” tức động và tịch hành ngang nhau. Từ câu: “Quán đảnh Bồ-tát…” là phần thứ năm gồm tám hàng tụng về tịch diệt nhẫn. Văn có hai phần: Năm hàng trước tụng về hạ phẩm. Ba hàng sau tụng về thượng phẩm. Trong năm hàng đầu nói quán đảnh nghóa là ở trên mười hai pháp sư nên gọi là đảnh. Phẩm hai bảy kinh Hoa Nghiêm nói: Ví như Thái tử luân vương khi thành tựu tướng của vua sẽ lấy nước của bốn biển lớn rưới lên đầu Thái tử gọi là quán đảnh đại vương. Đó gọi là Bồ-tát nhập vào chức địa trí tuệ tức là Bồ-tát pháp vân địa làm thiên vương đệ tứ thiền. Có bản lại viết là “Ngũ thiền vương” tức giữ lấy Dục giới và tứ thiền. “Thủy nhập kim cang nhất thiết liễu” nghóa là nhờ định đó mà phá vô minh, hiểu rõ được tất cả. Từ địa thứ nhất là Hoan hỷ, cho đến cuối cùng là pháp vân địa, có ba mươi sinh. Nay chỉ nói hai chín sinh, vì sinh thứ ba mươi là thân kiến thọ của chúng. Đã vượt qua hai chín sinh trước, cho nên bảo là đã độ hẳn. Hạ nhẫn quán là kết về nhân phân đều. Nhất chuyển diệu giác là kết về quả phân đều. Tuy chưa đắc, nhưng chuyển tâm thì liền đắc. Đẳng là đẳng quán tức Bồ-tát địa thứ tám. Tuệ là tuệ quang, tức Bồ-tát địa thứ chín. Quán đảnh tức Bồ-tát địa thứ mười. Đó là ba phẩm đại só. Cùng trừ những tập còn sót lại duyên bởi vô minh. Tướng của tập vô minh là phiền não cũ gọi đó là cố tức khách trần của trụ thứ tư là phiền não mới. Hai đế là chơn và tục. Lý cùng tức là trung đạo. Đắc được ba quán đế đó, thì tập khí hiện hành đều hết. Từ câu: “Viên trí vô tướng…” là phần ba gồm hai tụng về diệu giác địa, tức là tịch diệt thượng nhẫn. Đắc Nhất-thiết-chủng-trí viên mãn hết những tướng của vô minh, cho nên bảo là viên trí vô tướng đắc vô tướng đó mới làm chủ của ba cõi. Kinh Pháp Hoa cũng nói: Nay ba giới này đều là của Ta. Dụ rằng: Lúc đó chủ nhà đứng ở ngoài cửa! Bồ- tát địa thứ mười, thọ nhận sinh thứ ba mươi, chưa gọi là tận hết. Nay Bồ- tát diệu giác không còn thọ nhận sinh đó; cho nên bảo là tận hết. Sinh trước chưa hết, không gọi là đại giác. Phật địa sinh tận, mới gọi là đại giác. Đắc Niết-bàn gọi là đại tịch. Vô dư vô vi, bốn ma không thể phá hoại; giống như kim cang. Ba mươi sinh trước và nhân của hữu đều tận hết, thì quả sinh. Nay thì quả lớn đã viên mãn, không còn sinh lại nữa, cho nên bảo là báo tận. Đến hết vị lai vớt khổ chúng sanh; cho nên bi vô cùng cực. Đệ-nhất-nghóa-đế tức Niết-bàn, cho nên thường an ổn. Tức thường lạc ngã tịnh, tận cùng nguồn của vô minh; hết tính của phiền não. Khác với đoạn kiến của ngoại đạo và chứng không của Thanh văn. Tuy không đắc, không thành, nhưng diệu trí thường chiếu. Tới đây, là đã xong phần tụng về năm nhẫn. Những kệ và tụng đều cùng nhau nói rõ về năm nhẫn, nhưng thập địa diệu giác lên xuống khác nhau, bởi thánh lớn tùy cơ mà chuyển văn để để hiển bày nghóa phù hợp. Từ câu: “Tam hiền thập thánh…” là phần ba gồm tám hàng tổng kết về khen ngợi năm nhẫn. Văn có phần: Trước là tán thán quả pháp thân, sau là tán thán quả lợi ích. Trong phần trước nói về sự đặc biệt của chúng. Tam hiền tức ba mươi tâm thuộc địa tiền. Thập thánh tức thập địa Bồ-tát. Bốn mươi tâm đó đều cùng một cõi nước, sinh hoa tạng quả báo, chẳng phải là quả báo trong tạng giáo và Thông giáo. Nếu luận theo tạng giáo, thì chỉ là phám thánh cùng ở chung. Nếu luận theo Thông giáo, thì chỉ sinh vào cõi nước của hóa thành hữu dư. Nay nói quả báo, tức là người Biệt giáo và Viên giáo đắc vô chướng ngại, sinh vào cõi nước vô chướng ngại. Hỏi: Ba hiền, mười thánh; trong đó là Biệt giáo hay là Viên giáo? tạng? Đáp: Chính là Viên giáo. Hỏi: Viên giáo thì hợp sinh thường tịch quang, vì sao lại sinh hoa Đáp: Trong hoa tạng, biệt và viên cùng sinh chung. Vì là nhân, chẳng phải là quả. Không được sinh ở cõi nước tịch quang. Cho nên trong cõi nước hoa tạng. Có thập địa thuộc Biệt giáo, bốn mươi tâm thuộc Viên giáo cùng sinh chung. Chỉ riêng một người diệu giác cực quả, Tỳ-lô-giá-na mới sinh ở tịnh độ tịch quang. Hỏi: Trong ba cõi nước trên, cũng có cõi nước (độ) thanh tịnh. Tại sao chỉ gọi tịch quang là tịnh độ? Đáp: Phàm thánh cùng ở chung; thánh ít mà phàm lại nhiều, là nhơ uế chẳng phải là tịnh sạch! Phương tiện còn sót lại, chỉ trừ kiến tư, chưa đoạn dứt vô minh. Cái tịnh của chơn bị lệch, không phải là chơn tịnh. Thế giới hoa tạng mang phương tiện riêng, chưa thuần là tịnh, còn tịch quang thì không có những điều đó, cho nên được nhận tên gọi là tịnh độ. “Tất cả chúng sanh tạm trụ báo” thì có người cho rằng: Chúng sanh tuy từ vô thủy mà có chung, nên tạm thời thọ báo. Phật không có thủy chung cho nên cư ngụ tịnh độ. Ở đây thì cho rằng: Phật đăng diệu giác là ứng ở tịch quang; vì hóa chúng sinh mà tạm thời ứng hiện, thọ mệnh dài ngắn mà nhận lấy quả báo, cho nên mói nói như vậy. Từ câu: “Ba nghiệp Như Lai…”, là phần tán thán quả báo pháp thân. Quả tịnh độ tức là y báo. Nay ở đây nói về pháp thân tức là chánh báo. Câu trên là tán thán chánh; câu dưới là đảnh lễ nhất thể tam bảo. Từ câu: “Pháp vương vô thượng…” là phần tán thán quả hóa tha. Trong văn, hàng đầu là nêu dụ để tán thán; tức là tán thán thân nghiệp của Phật là hình ích, hàng tiếp là pháp thuyết, tán thán khẩu nghiệp của Phật, là thanh ích. Ngoại đạo hoàn toàn không có nghóa đó. Nhị thừa thì thiên lệch. Bồ-tát thì chưa tròn đủ. Chỉ Phật mới có nghóa đó. Tâm trí tức là quán. Tịch diệt tức là duyên. Quán duyên với tịch gọi là vô duyên chiếu. Lại nữa, ngoại sắc không có gì để duyên, nội tâm không có gì để chiếu! Một hàng tiếp theo là nói về đại chúng cúng dường; một hàng tiếp nữa là nói về địa động, một hàng tiếp nữa là nói về tán thán. Phật ở tại cõi người thì làm nhân tôn; ở tại trời thì làm thiên tôn. Lại nữa, đại kinh có nói: Vua người tức vua trời. Mười bốn vua tức là ba hiền mười thánh,… Nếu nói rộng ra thì e rằng chúng thời đó khó thọ nhận, cho nên chỉ khen ngợi sơ lược mà thôi. Lại nữa, đức của Phật thì vô lượng không thể tán thán cho hết, vì vậy mà lược thán! <篇> SỚ KINH NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT NHÃ <卷>QUYỂN 5 Từ câu: “Thời, chư đại chúng…” là phần thứ ba biện về đại chúng được lợi ích. Văn có ba phần: 1.Cõi trời và ba thú đắc ích. 2.Bộ đắc ích. Đắc đạo lâu, mau khác nhau. Trong phần một là nói về vô sinh nhẫn nghóa là: Thông giáo thì từ địa thứ ba trở lên. Biệt giáo thì từ sơ địa trở lên. Viên giáo thì từ sơ trụ trở lên. Hỏi: Sao ác đạo cũng đắc vô sinh nhẫn? Đáp: Đại kinh nói: Tất cả chúng sanh đều có Phật tịch, tất cả sẽ thành Phật. Nay gặp Phật, gặp thiện tri thức; cho nên đắc đạo. Cũng như giới và thừa, hoãn và gấp đã nói rõ ở phần trên. Vì ba phẩm giới hoãn mà sinh ba ác đạo. Nhờ đại thừa gấp, dùng thân ác đạo mà gặp Phật nghe pháp. Từ câu: “Bát bộ…” là phần nói về tám bộ được lợi ích. Từ câu: “Tam sinh nhập chánh vị…” là phần ba, nói về đắc đạo mau chậm. Do căn lợi, độn mà ngộ có cạn, sâu. Hai nghóa chánh vị là: 1. Nhân không đó là ngôi thập giải thuộc Biệt giáo và ngôi thập tín Viên giáo đắc được. 2.Pháp không: là ngôi sơ địa thuộc Biệt giáo và ngôi sơ trụ thuộc Viên giáo đạt được. Sau khi nghe pháp, từ một đời cho đến mười đời thì đắc chánh vị. Ví như tổn sinh trong kinh Pháp Hoa đã liệt kê. Từ câu: “Phật bảo…” là chương lớn thứ ba: Như Lai thuật thành. Văn có hai phần: Phần đầu tán về năng thuyết; phần sau tán về sở thuyết. Văn phần đầu lại có hai phần: Trước là chánh tán, sau là thuật tán. Văn phần trước lại có hai phần: 1.Bảo với chúng; thật đắc đạo quả, nhờ quyền hạnh mà tự biết bổn tích của vua diệu quang. Thật thì không biết, cho nên bảo cho biết. Từ câu: “Thiện nam tử ! Vua Nguyệt Quang ấy…” là phần phát tích: Xưa ở chỗ Long Quang vương, Phật là khai só, trụ thứ tư diễm tuệ. Ta là Bồ-tát trụ thứ tám, đẳng quán. Ta nay thành Phật, thì Nguyệt Quang là Bồ-tát pháp vân địa. Vì sao biết được vậy? Sư tử hống gọi là quyết định thuyết nếu chẳng phải là địa thứ mười thì không thể kham nổi! Vả lại, Tịnh Danh khen ngợi Bồ-tát địa thứ mười rằng: Có thể sư tử hống, nổi tiếng cả mười phương. Từ câu: “Đúng vậy! Đúng vậy!…” là phần thuật tán. Trước là tán về thắng giải. Với vua, giáo đã thuyết, xứng lý đã được giảng; giáo và lý tương xứng, cho nên nói hai lầm đúng vậy! Từ câu: “Từ sau địa thứ chín…”, thì tâm không thể suy tính, miệng không thể luận bàn. Tiếp đến là giải về Bát-nhã; bảo rằng: “Chỉ có Phật với Phật mới biết việc ấy”. (Có kinh viết chữ “Nhờ Phật” là chẳng đúng; phải là “Với Phật”.) Từ câu: “Thiện nam tử!…” là phần ca ngợi pháp được thuyết. Văn có ba phần: 1. Chánh tán. 2. Khuyến tu. 3. Đại chúng cúng dường. Văn phần một: lại có ba phần: 1.Giải thích về không thể suy bàn. 2.Giải thích về không thể độ lượng. 3.Giải thích chỉ có Phật mới biết. Phần một: lại có ba phần nhỏ: 1.Lược thuyết. 2.Giả nêu hai tạng. 3.Giải thích rộng. Văn phần nhỏ một lại có bốn phần: 1. Nêu con số: Là mười bốn Bát-nhã. Từ “Ba nhẫn địa” trở đi là phần hai: phối nhẫn; đó là ba phẩm phục nhẫn; thập trụ, thập chỉ, thập kiêu tâm. “Địa địa thượng -trung-hạ ba mươi nhẫn”; là từ sơ địa đến thập địa, mỗi địa đều có thượng, trung, hạ; mười địa thành ba mươi nhẫn. Từ “Tất cả hành tạng…” trở đi là phần ba: Tạng nhiếp. Nhất thiết hành tạng là mười ba nhẫn. Tất cả Phật tạng tức là thượng phẩm tịch diệt. Cả hai gồm thâu tất cả công đức, cho nên gọi là tạng. “Bất khả tư nghị” là phần bốn, kết về bất khả tư nghị. “Vì sao?” là phần hai nhỏ giả nêu hai tạng. Từ câu: “Tất cả chư Phật…” là phần nhỏ ba theo nghóa giải thích rộng. Văn có ba phần: 1.Lấy Phật để nói về bất khả tư nghị. 2. Giải thích chung cả hai tạng để nói về bất tư nghị. 3. Song kết hai tạng để tỏ rõ bất tư nghị. Ở phần một lại có hai phần: 1. Lấy sự thành tựu hóa thân để nói về vô sinh diệt. 2. Theo sự thắc mắc mà giải thích lại. Văn phần một nầy lại có hai phần: 1.Lập nhị bạc; ở đây là phần đầu: pháp thân không có tướng; vì vật mà có hình, sinh ở cung vua, diệt ở song lâm; lấy sinh diệt để hóa chúng sanh. Từ câu: “Vô sinh…” là bậc thứ hai, nói về cái dụng của nórất tịch rất rộng cái thể của nó tịch rộng cho nên vô sinh, vô diệt, vô hóa. Từ câu: “Vô tự tha…” trở đi, là theo sự thắc mắc mà giải thích lại. Trước là pháp, sau là dụ. Ở đây là phần trước. Kia và Ta, cả hai đều mất cho nên vô tự tha. Cảnh trí đều tuyệt, cho nên không hai.trung đạo tối thượng, cho nên là đệ nhất. Tức động là tịch, cho nên phi hóa. Tức tịch là động, cho nên phi bất hóa. Phi vô vô tướng là để thích nghi ngầm. Sợ người nghe vô sinh, vô tử, vô hóa… liền cho rằng không có pháp của xuất thế vô tướng, nên giải thích mối nghi đó mà bảo là “Phi vô vô tướng vô khứ lai…”. Chỉ cầu khứ lai thì bất khả đắc, cho nên bảo là vô khứ lai. “Như hư không” là phần hai: Nêu dụ. Từ câu: “Tất cả chúng sinh…” là phần hợp thích cả hai tạng, nói về không thể nghó bàn. Văn có hai phần: Trước là giải thích, sau là kết luận. Trong phần giải thích lại có hai phần: 1. Nhân và pháp tương đối, biện về bất tư nghị. Trong phần một lại có hai: 1. Nói về nhân không. 2. Nói về pháp không. Văn phần một lại có hai phần: 1.Dùng ba nghóa để biện về chúng sanh không. 2 Lấy các danh để biện về ngã nhân không. Ở đây là phần một. Nói ba nghóa là: 1.Vô sinh diệt; 2.Không trói, mở; 3.Phi nhân quả, phi bất nhân quả. Nghóa chúng sanh thì vô sở đắc. Lìa khổ cho nên không có sinh và diệt. Lìa tập cho nên không có trói, mở. Lìa tập thì phi nhân lìa khổ thì phi quả. Tuy là phi nhân quả, mà nhân quả rõ ràng cho nên bảo là phi bất nhân quả. Vả lại, kinh đại phẩm có nói: Sắc không thì thọ-tưởng-hành- thức không. Vì năm ấm không, thì lấy gì để có sinh? Cho nên vô sinh. Đã không sinh thì làm sao có diệt? Cho nên vô diệt. Không trói, không mở thì ở phẩm năm mốt của đại luận nói: Năm chúng không trói, không thoát. Như rốt ráo không tức không có kẻ làm, thì ai bị trói, ai được tho- át? Pháp về người của phàm phu là hư giả, bất khả đắc cho nên bảo là chẳng phải trói buộc. Thánh nhân thì rốt ráo, bất khả đắc; cho nên bảo là chẳng mở. Cho đến Bồ-tát trụ trong đạo ấy, các phiền não không lôi kéo rơi đọa trong phàm phu cho nên bảo là không trói. Không lấy các pháp vô lậu để phá phiền não; cho nên bảo là không mở. Đủ như thuyết kia, thì Vệ Thế Sư cho Ta là tác giả, gọi là nhân. Tăng khư cho Ta là thọ giả, gọi là quả. Nay Ta đã không cho nêu là phi nhân quả. Với chơn đế thì vô, với tục đế thì hữu; cho nên bảo là phi bất nhân quả. Từ câu: “Phiền não ngã nhân…” là phần hai. Lấy các tên gọi về ngã để biện về ngã, nhân không. Văn có hai phần: 1.Nói rõ ngã không. Nói ngã sở không. Ở đây là phần một; có năm phần: 1.Ngã. 2.Nhân. Tri giả. 4. Kiến giả. 5. Thọ giả. Từ câu: “Ngã sở giả…” là phần nói về ngã sở không. “Tất cả khổ thọ” nghóa là: Khổ thọ thì gọi là khổ khổ. Lạc thọ thì gọi là hoại khổ. Xả thọ thì gọi là hành khổ. Ba cái đó đều là hạnh hữu vi, đều cùng là các pháp thuộc ngã sở; cho nên bảo tất cả khổ, thọ, hạnh không là vậy. Từ câu: “Tất cả pháp tập…” là phần nói về pháp không. Tất cả pháp tập nghóa là nhân và duyên cùng thành, đó gọi là danh giả tạo. Năm ấm huyễn hóa là năm ấm không thật; đó là pháp giả tạo. Vô hợp vô tán đó là thọ giả tạo. Nhân, duyên cùng sinh, cho nên là vô tán. Nhân duyên tức không, cho nên vô hợp. Pháp đồng pháp tính nghóa là tất cả các pháp đều đồng một tính chơn như. Vì nó xưa nay vốn tịch nhiên không. Từ câu: “Cảnh giới pháp…” là phần nói về cảnh và trí đối nhau để biện về bất tư nghị. Văn có hai phần: 1.Biện về cảnh không. 2.Giải thích về trí không. Trong phần một có hai phần: Trước là pháp, sau là dụ. Trong phần pháp, nói cảnh giới pháp không là nói chung về không; nghóa là tất cả các pháp không có pháp nào không phải là không. Từ câu: “Không vô tướng…” là phần nói về cái không riêng biệt. Văn có ba phần: 1. Nói về pháp không. Nói không ấy là không định! Vô tướng vô ấy là vô tướng định! Bất chuyển là vì pháp nhiễm khổ tập không thể chuyển thành pháp tịnh vô lậu. Lại nữa, trong môn thật tướng, vô tướng bất tướng; cho nên bảo là không vô tướng. Tướng không thể động cho nên bảo là bất chuyển. Lìa hoặc cho nên vô điên đảo. Lìa giải cho nên gọi là bất thuận. Biết chư pháp không không cho nên gọi là huyễn hóa. “Vô tam bảo” là phần song hiển nhân và pháp, cả hai đều không. “Không có thánh nhân, sáu đạo.” Là phần nói về nhân không. Như hư không là nêu dụ để so sánh. Từ câu: “Bát-nhã vô tri…” là phần giải thích trí không. Văn có ba phần: Pháp - Dụ - Hợp. Ở đây là phần một. Tri không có, cho nên bảo là vô tri. Kiến không có, cho nên bảo là vô kiến. Không hành pháp sinh diệt; không nhiễm duyên vô minh. Lại nữa, quán và duyên đều tịch; cho nên bảo là bất hành, bất duyên. Không từ cái nhân sinh ra, cho nên bảo là bất nhân. Không pháp để có thể thọ, cho nên bảo là bất thọ. Bởi bất đắc tất cả tướng chiếu là giải thích: Chẳng lẽ là vô tâm mà bất tri, vô nhân mà bất kiến, chỉ vì lý và tướng quán chiếu bất khả đắc! Từ câu: “Tướng hành đào ấy…” là phần nêu dụ. Từ câu: “Pháp tướng như vậy…” là phần hợp. Tâm và cảnh đều không, thì lấy cái gì để có tâm mà đắc! Tâm và cảnh đều giả thì lấy cái gì để có thể vô tâm đắc! Từ câu: “Đó là nhờ công đức của Bát-nhã…” là phần kết bốn nghóa trên. Văn có bốn phần: - Không thể trong chúng sinh mà hành, kết về nhân không. - Không thể trong pháp mà hành, kết về pháp không. - Không thể trong cảnh mà hành kết về cảnh không. - Không thể trong giải hiểu mà hành, kết trí không. Từ câu: “Vì vậy, Bát-nhã…” là phần thứ ba song kết hai tạng bất khả tư nghị. Văn có hai phần: Phần đầu là tổng kết theo trí. Từ câu: “Nhưng tất cả chư…” là phần hai tổng kết riêng theo nhân; văn lại có hai phần: Phần một nói về Bồ-tát bất hành mà hành bất tư nghị. Từ câu: “Nhất thiết các Như Lai…” trở đi. Phần hai nói về chư Phậtvô hóa mà hóa bất tư nghị. Từ câu: “Thiện nam tử! Công đức tạng đó…” là phần thứ hai, giải thích về bất khả độ lượng ở trên. Những gì Bồ-tát thập địa nói là như biển. Nguyệt Quang cũng đã nói như biển lớn. Lại nữa, như vua đã nói, như biển là một chân lý. Đã nói thập địa như biển lớn. Hỏi: Ý vua nói hơn Bồ-tát những gì? Đáp: Vua vốn không địa làm sao biết! Từ câu: “Ta nay lược thuật…” là phần thứ ba, giải thích ý chỉ Phật mới có thể biết nêu ở trên. Đức của Nguyệt Quang là vô lượng. Lược thuật tức tận, cho nên mới nói là phân nghóa. Từ câu: “Thiện nam tử!…” là phần nói về khuyến tu. Văn có ba phần: 1. Ca ngợi khuyến tu. 2. Trưng dẫn. 3. Giải thích rộng. Ở đây là phần một. Trước tiên nói về phàm thánh tự tu. Từ câu: “Nếu hết thảy…” là phần nói về sự khuyến tu chánh chơn. “Vì sao? …” Là nói về trưng dẫn. Từ câu: “Nhất thiết Phật và Bồ-tát …” là phần giải thích rộng - Văn có ba phần: 1. Nêu sơ lược những điểm chánh. Trước nói môn là bởi không mắc vướng; nay nói lược là bởi có thể thông. Từ câu: “Cho nên, hết thảy…” là phần nói về chánh lược cho hàng nhị thừa nương mười bốn nhẫn tu học. Từ câu: “Người này vượt qua khỏi…” là phần nêu hai lợi ích của quả thán thắng: 1. Ly khổ. 2. Đắc lạc. Từ câu: “Thời, trong chúng sanh…” là phần nói về đại chúng cúng dường. Văn có ba phần: - Trước tiên là công đức cúng dường của Bồ-tát - Tiếp đến là trời cúng dường, cuối cùng là quỷ thần tu hành; từ hơn cho đến liệt kém! Cho đến đây là đã trả lời câu hỏi thứ nhất và thứ hai về hạnh tự lợi, lợi tha xong. Từ câu: “Phật bảo đại dương…” là chương lớn thứ ba, trả lời về tướng của sở hóa chúng sanh. Văn có ba phần: 1. Ghi chép lại câu hỏi trước. 2. Chánh đáp. 3. Đắc ích. Nay ở phần đầu, là lặp lại lời câu hỏi trước: Chúng sanh tướng như thế nào có thể hóa? Từ câu: “Nếu dùng huyễn hóa…” là phần trả lời. Văn có hai phần: 1.Lược. 2.Rộng. Ở đây là phần một. Năng hóa, Sở hóa đều do nhân duyên sanh hết thảy đều là huyễn hóa. Năng đúng là như vậy Chơn là hành hóa chúng sanh. Tịnh Danh nói: Ví như huyễn só tạo ra các người huyễn thuyết pháp vậy! Từ câu: “Một niệm ban đầu, chúng sanh ý thức được…” là phần hai, trả lời chi tiết. Văn có hai phần: 1. Sở hóa như huyễn. 2. Năng hóa như huyễn. Văn phần một có hai: Trước giải thích, sau là kết. Trong phần trước, giải thích sáu giả thành sáu phần riêng biệt. Thứ nhất; trong phần giải thích pháp giả, có hai phần: 1.Nói đúng pháp giả. 2.Cảnh phàm và thánh khác nhau. Trong phần một lại có hai phần: 1. Nói về bổn thức có thể sinh sắc, tâm; bổn thức tức là cái nhân chính của Phật tính, khác với cỏ đá, phư hữu phi vô. Bất tri bất vọng như nước thì tính ẩm ướt, lửa thì tính nóng. Đá thì tính kim loại, chỉ tùy theo cảnh giới mà có sự sai khác. Đắc cảnh giới thiện thì sinh ra thiện; đắc cảnh giới ác thì sinh ra ác; cho đến thành những thân của địa ngục, súc sanh … chỉ lấy một niệm ban đầu cho đến kim cang; thì khoảng giữa trong đó sẽ sinh ra vô số thân tâm thiện ác không thể nói ra được. Đại kinh nói; như thuốc núi Tuyết, chỉ là một vị, tùy theo nơi mà có nhiều tên gọi khác nhau. Vị chân chính của nó thì giữ ở tại núi, rừng cây dược quả thì không thể bị mai một! Hỏi: Các loài chúng sanh có bổn tế hay không? Nếu nói là có, vì sao Trung A-hàm nói: Bổn tế của chúng sanh bất khả đắc? Đáp: Nói tóm lược có hai cách nói: 1. Trong lý thì không thể nói phiền não và thân; không có trườc và sau. 2. Theo sự thì có một niệm thức sinh. Từ câu: “Chúng sinh căn bản…” là phần hai, nói về sắc tâm thành ấm giới,… Văn có hai phần: 1.Thành năm ấm. 2.Thành mười hai xứ. Ở đây là phần một. Một chấm trắng đỏ gọi là “Sắc cái” bởi lực nghiệp hành. Thức gởi ở trong đó, gọi là “Thức cái”. Tức là khai tâm thành ra là bốn cái. Cái tức là ấm. Ấm nghóa là che đậy cái nghóa cũng như vậy. Thân gọi là tịch tụ, vì có ba mươi sáu vật cộng chung mới thành thân này. Từ câu: “Đại vương! Một sắc pháp đó…” là phần hai, nói về sự tạo thành mười hai xứ. Văn có ba phần: 1. Một sắc sinh vô lượng sắc: Nghóa là năm trần, bốn đại,… sinh ra năm thức xứ… 2. Năng thành năm căn. Nghóa là: Cái do bốn đại tạo ra, có thể sinh ra năm thức; nên gọi là căn. Từ câu: “Một sắc như vậy…” là phần tổng kết. Một sắc sinh ra năm trần, năm căn, bốn đại chưa nói về pháp nhập sắc! Một tâm động trong mười hai nhập có thể sinh ra ý căn ở trong mười tám giới có thể sinh ra sáu thức và không giới; trong phần giải thích, lược bỏ không nói. Từ câu: “Đại vương! Phàm phu…” là phần nói về cảnh sai biệt của phàm và thánh. Văn có hai phần: 1. Nói về cảnh phàm, đều giả. 2.Nói về cảnh thánh chơn thật. Văn phần một dễ hiểu. Từ câu: “Sáu thức của thánh nhân…” là phần hai nói về thánh cảnh. Giả danh tuy là một, mà cái thấy thì khác nhau! Vọng kiến của phàm phu là chấp trước. Thánh nhân diệt sắc vô thường, thu được sắc thường; đó là ý của Biệt giáo và Viên giáo. Từ câu: “Chúng sanh…” là phần hai, nói về thọ nhân giả tạo. Văn có bốn phần: 1. Theo hai đế; 2. Nói hữu; Vô. 3. Theo sáu đạo; 4.Theo bốn tính. Ở đây là phần một. Trên đã nói, năm ấm là pháp giả, bởi cho rằng có chúng sinh tức có thọ giả tạo. Theo thế đế thì có, theo chơn đế thì không có! Từ câu: “Hoặc hữu, hoặc vô…” là phần nói về hữu và vô. Ngoại đạo cho thật có làm hữu, thoát đạt làm vô. Đó là cái gốc của sáu mươi hai kiến. Từ câu: “Chỉ là ý niệm của chúng sanh…” là giải thích nguyên do hữu. Phàm phu vọng chấp cho rằng có thọ; còn thánh nhân lấy thọ như huyễn hóa. Đều là lấy thánh đế đối lại với phàm. Từ câu: “Cho đến sáu đạo…” là phần ba, lấy sáu đạo để nói rõ thọ là giả tạo. Từ câu: “Huyễn hóa thấy huyễn hóa…” là phần bốn, dựa theo bốn dòng họ. Cái gọi là kiến ấy là chiếu người hóa chơn huyễn người hóa thật huyễn. Chơn huyễn tức người người Biệt giáo. Đó là thành tựu năng hóa và sở hóa để tỏ nói về thọ là giả tạm. Từ câu: “Huyễn đế pháp…” là phần giải thích tên gọi giả tạm. Văn có hai phần: 1.Nói rõ Phật biết trước đây là không có danh. 2.Nói về Phật đặt tên. Văn phần một có ba phần: 1. Không có nghóa danh: Vì Phật chưa xuất thế, không có bậc thánh lớn, không nói danh là giả. Từ câu: “Huyễn pháp huyễn hóa …” là phần hai, nói về vô danh thể. Tăng Triệu nói: Danh không đắc được cái công của vật. Vật không làm cái thật của danh! Từ câu: “Không có tam giới,…” là phần ba, nói về không có ba cõi sáu đường. Từ câu: “Đại vương! Vì vậy mà…” là phần Phật đặc tên gọi. Văn có hai phần: 1.Phật lập danh, đủ tri thức giả tạm. Từ câu: “Danh ấy vô lượng…” là phần kết. Danh chẳng một! “Tương tục giả tạo pháp…” là phần bốn; nói về tương tục giả tạo. Văn có ba phần: 1.Nêu tông. Từ câu: “Một cũng không tiếp tục…” là phần hai: Giải thích. Một cũng bất tục; vì nó một. Khác cũng bất tục vì nó riêng biệt. Từ câu: “Chẳng chung một, chẳng riêng khác…” là phần ba: Thuận kết. Nó giống như mầm và mạ, không thể nói là chung một, riêng khác! Từ câu: “Tương đãi giả tam…” là phần năm, giải thích về tương đãi giả tạm. Trong văn có hai ý: Tất cả đều đối đãi nhau, tướng ấy kị sự đối đãi. Trung luận nói: Nếu pháp thành do đối đãi, thì pháp ấy lại thành đối đãi! Như các pháp thuộc năm sắc, thì tướng ấy đối đãi với nhau. Tướng đối như mắt thấy sắc, tai nghe thanh… như dài đối đãi với ngắn đó là tướng hình đãi. Tất cả pháp đều duyên thành; tạm mượn các pháp của năm ấm làm duyên, giả tạm mà thành chúng sanh. Từ câu: “Câu thời nhân quả…” là phần sáu, giải thích nguyên nhân sinh giả tạm. Như năm quả ba nhân là câu thời nhân quả! Hai nhân quá khứ, năm quả hiện tại, là dị thời nhân quả. Lại nữa, duyên hiện là câu thời quán nhân là dị thời. Lại nữa, trụ, cột thành nhà ở là câu thời. Một ngày mười hai thời là dị thời. Lại nữa, đèn và ánh sáng là câu thời; tối và sáng là dị thời. Từ câu: “Tất cả huyễn hóa…” là phần tổng kết về giả tức tạm tức kết phần sở hóa như huyễn ở trước. Từ câu: “Đại vương!…” là phần thứ hai nói về năng hóa như huyễn. Vì Bồ-tát thấy chúng sanh không thật, giống như người bệnh về mắc thấy hoa đốm giữa không trung. Chúng sinh không biết, mới vì họ mà tuyên thuyết. Đều là giả tạm, là lực dụng của Bồ-tát. Từ câu: “Thời chư…” là phần thứ ba, nói về thời chúng đắc ích. Văn có hai phần: 1.Nói về đắc nhẫn: nghóa là địa tiền, địa thượng, cho đến nhất địa trở đi. 2. Nói về đức hạnh của địa thượng. -------------------------- PHẨM THỨ TƯ: NHỊ ĐẾ Trong phần nội hộ trên, văn có ba phần riêng biệt. Ở phẩm nhị đế này tức là phần ba, nói về chỗ nương của hai hộ. Nói nhị đế là đại tông của Phật giáo có bảy loại: Hữu thật, hữu huyễn, hữu biệt nhập thông, Biệt giáo, Viên nhập biệt, Viên giáo. Về chi tiết như pháp hoa huyền nghóa đã nói. Chỉ vì cái thấy của phàm phu cạn cợt, nên gọi là tục. Cái thấy của thánh nhân thâm sâu, gọi là chơn. Xét kỹ thật lý, gọi là đế. Lại nữa, phẩm thượng quán không đã nói: Thật trí, phương tiện trí đều không mà hộ. Những người chưa đạt sự thì cần phải thực hành hóa, hóa thì phải có do, gọi đó là nhị đế; cho nên ở đây nói về cái đó. Văn phẩm có hai phần: 1. Hỏi đáp. 2. Khuyến trì. Văn phần một có ba phần: 1. Nói về hai đế bất nhị. 2. Nói về thuyết pháp bất nhị. 3. Nói về pháp môn bất nhị. Văn phần 1. Lại có hai phần: Trước hỏi sau đáp. Trong phần hỏi lại có ba phần: 1.Nêu cả hai. Từ “Bấy giờ” trở đi…, sắp hỏi cho nên ra hai trưng. 2. “Nếu nói không có…” nghóa là thắc mắc cả hai. Có người cho rằng: Nếu nói không có nghóa là trí phàm phu, không ứng với có hai, đó là hai đế chơn và tục. Nếu nói có, thì trí của thánh nhân không ứng với một. Một tức là Đệ-nhất-nghóa-đế. Nay ở đây cho rằng: nếu nói có thì không cần phải nói là hữu và vô đều không! Nếu nói là không có thì không cần phải hai kiến sai biệt! Từ câu: “Nghóa của một và trụ…” là phần song kết. Từ câu: “Phật bảo, Đại vương!…” là phần đáp. Văn có ba phần: 1.Chánh đáp. 2.Dẫn chứng. 3.Thích thành. Văn phần một lại có ba phần: 1. Tán thán nhân thuở xưa của Nguyệt Quang; có thể tự hiểu. Từ câu: “Ông nay không có nghe…” là phần hai chánh đáp. Nghe và nói đều không, tức bất nhị. Nghe và nói vẫn rõ ràng, tức bất nhất. Từ câu: “Lắng nghe…” là phần ba: Bảo nghe, khuyến tu ba tuệ. Từ câu: “Kệ của bảy Phật như vầy:…” là phần dẫn chứng. Tụng có tám hàng rưỡi; chia làm ba phần riêng biệt: Ba hàng đầu là phần bày tỏ chính về nhị đế; ba hàng tiếp theo là giải thích nghóa; đáp câu hỏi là chính; hai hàng rưỡi sau cùng là kết thành nghóa ở trên. Văn phần đầu lại có ba phần: Hàng đầu nói về nhị đế thuộc Biệt giáo; nửa trên nói chơn đế tức hữu không; nửa dưới nói tục đế tức không hữu. Đại luận nói: Mười hai nhân duyên là do ai làm ra? Phật nói: Chẳng phải Phật, chẳng phải Bồ-tát, cho đến chẳng phải tất cả thánh nhân làm ra! Cho nên mới nói là: Vô tự vô tha tác. Từ câu: “Pháp tính vốn vô tính…” là phần thứ hai một hàng nói về nhị đế thuộc Thông giáo; nửa trên còn lại nói về chơn, nửa dưới còn lại nói về tục. Giả là pháp, thọ, danh. Từ câu: “Vô vô đế thật vô…” là phần ba, hàng thứ nhất nói về nhị đế thuộc Viên giáo. Không có tục đế riêng biệt là một vô. Không có chơn đế riêng biệt là một vô, cho nên mới nói là “vô vô đế”. Hai câu trên nói về chơn. Câu tiếp nói về tục. Câu sau là tổng kết. Từ câu: “Hữu vô vốn tự nhị…” là phần trả lời chính các câu hỏi. Nói về không một không hai. Văn có ba phần: 1. Hàng thứ nhất, lý và trí tương đối nhau, để quên mất chung một và riêng khác (nhất dị). Nửa trên nói về một, hai. Nửa dưới nói về không một không hai. Từ câu: “Giải tâm kiến bất nhị…” là phần hai: Hàng đầu là trí và lý cùng đối nhau để mất chấp. Nửa trên còn lại là nói giải tâm. Từ câu: “Cầu hai bất khả đắc là nửa sau còn lại, nói về dính mắc mất. Cái gọi là giải nghóa là thấy hai đế đều không, liền dính mắc vào cái không đó. Hai còn chẳng đắc, chẳng hai lại đắc được sao! Từ câu: “Đối với giải thường tự một…” là phần ba: Hàng đầu, lý và trí cùng đối nhau để nhập chơn nghóa. Từ câu: “Thế đế huyễn hóa khởi…” là phần ba hai hàng rưỡi kết thành ba nghóa trên: 1.Hàng đầu nói về thế đế hữu vô, với ba dụ: 1. Không hoa. 2. Ảnh. 3. Tay thứ ba. Đều là không có thật. Tuy là không có thật nhưng chẳng không. Từ câu: “Huyễn hóa kiến huyễn hóa…” là phần hai; một hàng nói về thánh kiến hữu vô; gọi là quán của chư Phật. Nửa hàng sau là phần ba, kết thành quán. Từ câu: “Đại vương! Bồ-tát…” là phần thích thành. Văn có hai phần: Phần trước nói nghóa của hai phần sau nói về nghóa của một. Chiếu tục là để hóa phàm phu; chiếu chơn để hóa nhị thừa. Từ câu: “Phật và chúng sanh…” là phần hai, nói về nghóa một. Văn có ba phần: 1.Năng và sở đối với nhau để làm rõ nghóa một. Có ba, đó là nêu, trưng, thích. Ở đây là phần nêu. “Vì sao?” là phần trưng. Từ câu: “Vì chúng sanh…” là phần thích. Vì chúng sanh không được đặt Bồ-đề không, là giải thích Phật năng hóa. Vì Bồ-đề không, cho nên được đặt chúng sanh không, là giải thích sở hóa. Lại nữa, chúng sanh không là nhân không; Bồ-đề không là pháp không. Từ câu: “Vì tất cả pháp…” là phần hai, nêu cảnh và trí đối với nhau để làm rõ nghóa một. Văn có ba phần. Văn có ba: Nêu, trưng, thích. Ở đây là phần nêu. “Vì tất cả pháp…” là nghóa là cảnh và trí cả hai đều không, cho nên nói là “không không”. “Vì sao?” là phần trưng. Từ câu: “Bát-nhã vô tướng…” là phần thích. Văn có hai phần: 1. Giải thích chính nghóa một, đã rõ. 2. Từ “Bát-nhã không ở vô minh…” trở đi là giải thích lại câu hỏi trước. Vì sao tất cả tướng không; sự đã rõ, có thể biết được nhưng cái không của Bát-nhã có sai biệt gì? Vì vậy mà ở đây mới giải thích rằng: “Từ vô minh cho đến ở Phật quả.” Là để nói rõ sự riêng biệt. Văn có hai phần: 1.Theo thứ bậc của mê và ngộ để làm sáng tỏ tướng không; thì đã rõ. 2. “Khi năm nhãn thành tựu …” là dựa theo Phật quả để hiển bày tướng không. Văn có hai phần: 1. Nói về không thấy mà thấy. Bốn nhãn: Nhục nhãn, thiên nhãn… ở Phật thì gọi là năm nhãn của Phật. Từ câu: “Hành cũng không thọ…” là phần hai nói về không hành mà hành mới lìa năm phi. Từ câu: “Bồ-tát khi chưa thành Phật…” là phần thứ ba, nói về nhiễm và tịnh đối với nhau để làm rõ nghóa một. Trong văn có ba: Nêu, trưng, thích. Phần nêu thì đã rõ. “Vì sao?” là phần trưng. Từ câu: “Ở đệ nhất nghóa nhưng bất nhị…” là phần giải thích. Như tối và sáng tuy là hai, nhưng không gian thì không hai. Từ câu: “Bạch Phật rằng:…” là phần thứ hai nói về sự thuyết pháp không hai. Văn có hai phần: Trước hỏi sau đáp. Ý hỏi: Nếu các hư không như như tức không có văn tự; vì sao thánh nhân lại nhờ đó mà giáo hóa? Từ câu: “Đại vương! Pháp luân…” là đáp. Văn có hai phần: 1. Danh không. Nói pháp luân là chỉ cho hai loại hành và giáo. Pháp bổn nghóa là kinh Tu-đa-la. Trùng tụng là kinh Kỳ Dạ. Thọ ký là kinh Hòa- già-na. Bất tụng kệ kinh là kinh Già-đà. Không hỏi nhưng tự thuyết là kinh Ưu-đà-na. Giới kinh là kinh Ni-đà-na. Thí dụ là kinh A-bà-đà-na. Pháp giới là kinh Y-đế-mục-đa-già. Đại kinh nói: Giới kinh; bổn sự là kinh Xà-đa-già. Phương quảng là kinh Tỳ-Phật-lược. Chưa từng có là kinh A-phù-đà-đạt-ma. Luận nghị là kinh Ưu-bà-đề-xá. Mười hai thứ đó đều rỗng không, tức như. Từ câu: “Là danh vị cú…” là phần giáo không. Lấy âm thanh của cõi nước này làm Phật sự, lìa tính văn tự; cho nên đều như. Từ câu: “Nếu giữ lấy văn tự…” là phần nói về bất hành không. Hành không thì chẳng phải là chánh quán. Từ câu: “Đại vương! Như như văn tự…” là phần thứ hai nói về tu không. Văn có ba: Phần thứ nhất, biện về tu tập. Văn lại có hai phần: Nói về nhân vị. Nhân ở giáo mà sinh trí, giáo làm mẹ của trí. Lại nữa. Không như văn tự, văn tự như hư không; cho nên bảo là như như. Nhờ ở như như đó mà có thể sinh ra Phật trí; cho nên bảo là mẹ của trí. Từ câu: “Tất cả chúng sanh…” là phần nói về quả vị. Tại thân của chúng sanh là quả Phật tính. Tại thân Phật gọi là Nhất-thiết-chủng-trí. Khi chưa thành Phật, tất sẽ thành Phật. Vì nó là năng thành, cho nên phải là mẹ. Khi chưa đắc đạo thì gọi là Phật tính. Khi đã đắc đạo, gọi là Nhất-thiết-chủng-trí. Từ câu: “Tam thừa Bát-nhã…” là phần thứ hai giải thích lại. Nghóa là, trước thì gọi Phật trí mẫu, lại còn bảo tính căn vốn trí mẫu. Vì sợ người khó hiểu, cho nên nay giải thích lại. Văn có hai phần: 1.Giải thích theo lý tính. 2.Giải thích theo hạnh tính. Lý tức như như trí mẫu. Ở đây là phần giải thích theo lý tính; là trí mẫu căn bản. Từ câu: “Nếu Bồ-tát vô…” là phần giải thích theo hạnh tính; là trí mẫu như như. Nếu Bồ-tát vô văn tự mà học, vô tu mà tu, thì đắc chơn trí Bát-nhã. Từ câu: “Đại vương! Nếu Bồ-tát…” là phần thứ ba kết luận về tu thành. Từ câu: “Tiếp đó, bạch Phật rằng…” là phần thứ ba nói về pháp môn bất nhị. Trước hỏi sau đáp. Trong phần hỏi có ba phần: 1. Hỏi về căn. Từ câu: “Hạnh cũng vô lượng” là phần hai hỏi về hạnh. Từ câu: “Pháp môn là một…” là phần ba, hỏi về pháp môn. Vả lại ý muốn hỏi là: Căn tính của chúng sanh, chí hướng khác nhau. Quán môn đã thuyết, là một hay là hai? Từ câu: “Đại vương!…” là phần Phật đáp. Văn có ba phần: 1.Lược đáp. 2. Rộng đáp. 3. Kết. Văn phần lược đáp lại có hai phần: 1.Quán môn. 2. Pháp sở quán. Ở đây là phần một. Văn đã rõ. Từ câu: “Tất cả pháp cũng phi hữu tướng…” là phần nói về pháp sở quán. Phi hữu tướng là vì tướng không thật. Phi phi vô tướng là bởi lìa lỗi lầm của không. Từ câu: “Nếu Bồ-tát…” là phần rộng đáp. Văn giải thích có ba ý: 1.Theo nhị đế để hiển bày. Từ câu: “Nếu Bồ-tát quán chúng sanh…” là phần tục đế. Không thấy một, hai là chơn đế. Tức tục tức không, cho nên bảo là bất nhị. Là Đệ-nhất-nghóa-đế. Hoặc hữu hoặc vô tức là gốc của các kiến, gọi là thế đế. Từ câu: “Lấy ba đế…” là phần hai dùng ba đế để hiển bày các pháp. Có người cho rằng: Không tức chơn; sắc tức năm căn, tâm tức sáu thức. Ở đây nói rằng: Tất cả pháp thì lý và sự đều ở đấy. Không thì bắt đầu từ hư không cho đến Bát-nhã, cũng có chơn và tục. Sắc thì bắt đầu từ thật sắc cho đến chơn sắc, cũng có chơn và tục. Tâm thì bắt đầu từ sinh diệt cho đến cô tác, cũng có chơn có tục. Nhiếp pháp thật rộng. Năm loại ba đế thì trong pháp Hoa huyền nghóa đã nói. Từ câu: “Ngã, nhân, tri kiến…” là phần ba, lấy ba giả tạm để hiển bày pháp. Ngã, nhân, tri kiến là danh giả tạm. Năm ấm là thọ giả tạm; tất cả pháp là pháp giả tạm. Từ “Phẩm chúng sanh…” là phần kết đáp. Từ câu: “Đại vương! Bảy Phật …” là chương lớn thứ hai: Khuyến trì. Văn có hai phần: 1. Thán giáo. 2. Nêu danh khuyến trì. Văn phần một có năm phần: 1.Thuyết thông với bảy Phật. Văn đã rõ. Từ câu: “Đại chúng các ông…” là phần nêu lợi ích khuyến trì. Từ câu: “Huống nữa lại ở kinh này…” là phần thứ ba, nói về thắng tín. Năng tín kinh này thì thành tựu được ba trí, tức vượt qua khỏi công đức của mười địa Thông giáo. Từ câu: “Huống nữa là thọ trì…” là phần bốn, nói về đắc nhập. Sơ trụ thành Phật thuộc Viên giáo, có thể hóa chúng sanh ở trăm Phật thế giới. Từ câu: “Thời, chư đại chúng…” là phần năm, nói về đắc ích. Từ câu: “Đại vương! Kinh này…” là phần hai nêu danh khuyến trì. Văn có hai phần: Trước là nêu danh thì đã rõ. Từ câu: “Cũng gọi là tất cả…” là phần tiếp theo, nói rõ về dụng, cũng đã thấy. --------------------------- PHẨM THỨ NĂM: HỘ QUỐC Chánh thuyết có bốn phần: Phần một, gồm ba phẩm, nói về nội hộ. Phần nầy đã nói xong. Nay phẩm hộ quốc này là phần thứ hai, nói về ngoại hộ. Có hai loại quốc độ: 1. Thế gian, nhị thừa, phàm phu. 2. Xuất thế gian, thập tín đến thập địa. Giặc có hai loại: 1.Giặc cướp ở bên ngoài. 2.Kết sử phiền não ở bên trong. Hộ cũng có hai: 1.Bên ngoài thì quỷ thần bách bộ. 2.Bên trong là trí huệ. Hoặc ngoài, hoặc trong đều là chư Phật, Bồ-tát, quỷ thần; có thể hộ quốc độ của con người; cho nên gọi là phẩm hộ quốc. Lấy quán để quán pháp sinh diệt; là hộ đồng cư độ. Quán pháp vô sinh diệt là hộ hữu dư độ. Quán pháp vô lượng là hộ quả báo độ. Quán pháp vô tác là hộ tịch quang độ. Lại nữa, quỷ thần bách bộ thì hộ y báo quốc. Tu hành Bát-nhã thì hộ chánh báo quốc. Lại nữa, quỷ thần hộ là hộ mệnh! Từ câu: “Bấy giờ, Phật bảo đại vương:…” là văn của phẩm, chia làm ba phần: 1. Bảo nghe, khuyến trì. 2. Rộng thích. 3. Nói về chúng đắc ích. Ở đây là phần một có thể tự hiểu. Từ câu: “Khi quốc độ sắp loạn…” là phần 2.Giải thích rộng về pháp hộ. Văn có ba phần: 1.Rộng thích về pháp hộ. 2. Dẫn xưa để chứng minh cho nay. 3. Kết, mách bảo khuyến trì. Văn phần một lại có ba phần: 1. Hộ quốc. 2. Hộ phước. 3. Hộ nạn. Phần hộ quốc lại có bốn phần: 1.Hộ thời. 2.Hộ pháp. 3.Hộ thể. 4. Hiển bày chỗ hộ nạn. Ở đây là phần một. Khi không có nạn thì tâm của vua không sợ hãi; có nạn mới sợ hãi; cho nên nói rõ về thời. Lấy thật hại làm sự thiêu đốt, vị tất là lúc bị hỏa tai! Từ câu: “Nên thỉnh trăm Phật…” là phần nói về pháp hộ. Văn có ba phần: 1. Nói về phước điền. 2. Nói về cúng dường. 3. Nói về túc thuyết. Văn phần một lại có ba phần: 1.Thỉnh hiền thánh; vì thân thật thì khó thấy; cho nên đặt hình tượng để biểu thị cho sự kính trọng. Từ câu: “Chúng trăm Tỳ khưu…” là phần thính chúng. Trời, rồng, người, quỷ là bốn chúng. Lại bốn chúng nữa là: đúng cơ, kết duyên, phát khởi, ảnh hưởng. Bảy chúng gồm năm chúng xuất gia: Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na và hai chúng tại gia: Thanh tín nam và thanh tín nữ… Từ câu: “Thỉnh trăm pháp sư…” là phần ba: Thỉnh sư giảng thuyết. Từ câu: “Trăm sư tử rống…” là phần nói về cúng dường. Văn có ba phần: 1.Phương pháp cúng dường: Đèn, hoa, hương. Từ câu: “Ba y…” là phần hai: Cúng dường pháp sư. Gồm mười vật: Ba y là ba, bát là bốn, tọa cụ là năm, dao cạo là sáu, dao con là bảy, bao lọc nước là tám; đồ đựng nước là chín, ống kim là mười. Từ câu: “Tiểu phạm…” là phần cúng dường cơm ăn. Từ câu: “Đại vương! Mỗi ngày hai thời…” là phần ba: Thuyết thời. Từ câu: “Trong quốc độ ông…” là phần nói rõ về năng hộ tức là hộ thể. Ngoại quốc có kim nhãn tiên nhân. Trong nghóa kinh thuyết về căn bản quỷ thần, có mười, mỗi loại mở ra mười thành trăm: 1. Đại thần. 2. Đồng tử thần. 3. Mẫu thần. 4. Phạm thần. 5. Nhạn đầu thần. 6. Long thần. 7. Tu la. Sa thần. 9. Dạ xoa thần. 1 0. La thần. Từ câu: “Đại vương! Khi quốc độ loạn…” là phần thứ tư: Hộ nạn. Văn có ba phần: 1. Nạn quỷ và người thì có tám: 1. Quỷ loạn. 2. Dân loạn. Giặc đến. 4.Trăm họ chết chóc. 5.Vua tôi thị phi. 6.Trời đất quái dị. 7. Sao trời mất điều độ. 8. Mặt trời mặt trăng khác thường. Về nhị thập bát tú, theo phẩm nhiếp thọ của kinh đại tập nói: Bảy sao phương Đông là: Giác, cang, để, phòng, tâm, vỹ, kỳ. Bảy sao phương Nam là: Tónh, quỹ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn. Bảy sao phương Tây là: Khuê, lâu, vị, ngang, tất, tử, tham. Bảy sao phương Bắc là: Đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích. Từ câu: “Đại vương! Như hỏa nạn…” là phần hai nói về ba tai nạn. Từ câu: “Tất cả các nạn…” là phần ba. Đối trước nạn để làm sáng tỏ về hộ. Từ câu: “Đại vương! Không những chỉ hộ quốc…” là phần nói về hộ phước. Hỏi: Người phú quý còn có thể bày biện được trăm tòa; người nghèo hèn thì làm sao? Đáp: Nếu đúng với văn này thì lấy sự giảng kinh làm chính. Từ câu: “Đại vương! Không chỉ hộ phước…” là phần nói về hộ các nạn gồm: Bốn trọng là dâm, đạo, sát, vọng. Năm nghịch là giết cha, giết mẹ, phá tăng, giết A-la-hán, làm Phật chảy máu.tám nạn: 1. Địa ngục. 2.Súc sanh. 3.Ngạ quỷ. 4.Trường thọ thiên. 5.Biên địa. 6.Các căn không địa. 7. Tà kiến. 8. Không gặp Phật. Từ câu: “Đại vương! Xưa có vị vua…” là phần thứ hai; dẫn chuyện xưa để chứng minh cho nay. Văn có hai phần: Trước là dẫn cõi trời để chứng cho hộ quốc sau là dẫn chuyện vua người để chứng cho hộ thân. Đây là phần trước. Kinh Hiền Ngu nói: Ở đời quá khứ, có một nước lớn, vua tên là Thiện Trụ, trên đầu vua bổng sinh một cái bọc, hình của nó như cái kén, đè cũng không đau, về sau chuyển đổi to ra, liền thành một đồng tử, mặt mày đoan chánh, tóc đen nâu, thân màu vàng tía. Mời thầy tướng đến xem, biết là người có đức, sẽ làm thánh vương, thống lãnh bốn vực, nhân đó mà đặt tên là Đảnh Sanh. Tuổi càng lớn thì đức càng nổi rõ. Vua cha băng hà các vua tôi muốn Đảnh Sanh lên ngôi trị nước. Đảnh Sanh bèn đáp: Ta có phước, ứng với việc phải làm vua, thì cần phải có tứ Thiên Vương và Đế Thích đến nghi đón, khi đó ta mới lên ngôi. Lập lời thề xong, thì bốn Thiên Vương đều có mặt, tay cầm bình báu, đựng đầy nước thơm, rưới lên đầu vua. Còn trời Đế Thích, thì cầm mũ báu, đến đội lên đầu vua. Từ đó vua tự do hưởng thụ năm dục ở Diêm phù đề. Trải qua tám vạn bốn ngàn năm, khi ấy thần Xạ doa từ đất vọt ra, thỉnh vua du chơi Đông Châu, trải qua tám ức năm. Rồi lại thỉnh du chơi Tây Châu trải mười bốn ức năm. Rồi lên tứ Thiên vương trải mười bốn ức năm. Trong ý lại muốn lên cung trời Đao Lợi, năm trăm tiên nhân giúp xe cùng bay lên trời, xa xa đã thấy thành vua, thành có một ngàn hai trăm cửa, chư thiên sợ hãi đều đóng hết các cửa lại. Binh chúng của Đảnh Sanh thẳng đến không bị trở ngại, nhờ thổi bối khấu đàn nên một ngàn hai trăm cửa cùng lúc tự mở. Đế thích ra tìm cùng gặp mặt nhau, tự thỉnh nhập cung, cùng chia tòa ngồi, thọ hưởng dục lạc trên trời. Đảnh Sanh lại ra thổi bối khấu cung, vậy là ác tâm đã phát, nhân đó mà bị đọa lạc, về sau bị ác bệnh, mệnh chung. Đế thích lúc ấy chính là Phật Ca Diếp bây giờ. Đảnh Sanh chính là ta đây. Nếu theo kinh này thì bấy giờ, Thiên Đế Như pháp bảy Phật, bày trăm tòa cao, mời trăm pháp sư giảng tụng kinh này, đảnh Sanh liền phải thối lùi. Từ câu: “Đại vương! Xưa có vua nước Thiên La…” là phần hai dẫn vua người để làm chứng về việc hộ thân. Văn có hai phần: 1.Nói về việc gặp nạn. 2.Nói về việc có thể hộ nạn. Ở đây là phần một. Kinh Hiền Ngu nói: Xưa có vua Ba-la-ma-đạt, được bốn loại binh đưa vào núi săn bắn; gặp một con sư tử cái, vua cùng giao hợp. Sư tử cái có thai, đủ tháng đủ ngày, sinh một bé trai, toàn thân giống người, chân có đốm như mẹ. Sư tử ngậm con trai đem trả về ở cung vua; vua nhận làm con, đặt tên là Ban Túc. Ban Túc lên ngôi vua thường cúng dường cho một vị tiên nhân, hàng ngày thường ăn tịnh thực. Có một ngày, tiên nhân không đến cung vua, liền có thiên thần hóa thành tiên nhân, vào cung vua đòi ăn cá thịt! Sáng mai đúng thời, vị tiên nhân thật lại đến, vua cung phụng thịt cá. Tiên nhân nổi sân trách, nhân đó vậy mà khởi lời thề: “Về sau vua sẽ phải ăn thịt người trong mười hai năm”! Tiên nhân nói xong liền trở về núi. Sau đó, nhà bếp vì thiếu thịt, ra chợ mua cũng không có, thấy xác một đứa bé vừa chết, bèn lấy thịt đó làm món ăn cho vua, vua ăn thấy ngon, bèn hỏi nguyên do, nhà bếp đáp lại. Vua nói: Từ nay về sau, phải dùng loại thịt đó. Từ đó, nhà bếp thường bắt trẻ con giết, lấy thịt làm món ăn hằng ngày cung phụng cho vua. Người trong nước mất con, đi tìm mọi nơi, thấy nhà bếp của vua bắt con họ; họ bèn bắt trói nhà bếp. Người trong nước cáo lên vua, vua nói là ta sai bảo. Người trong nước đều cho vua là Đại tặc; đợi vua đi tắm ở trong hồ, bèn phục binh bắt vua. Vua đã bị bắt, bèn bảo quốc dân: Mong tha ta một lần này, sau này sẽ không giết nửa! Quốc dân không chịu. Vua liền khởi nguyện: Nguyện ta ở kiếp sau sẽ tu các điều thiện, hồi hướng cho ngày nay. Ngược lại, nếu ta bị chết sẽ thành La sát ăn thịt người! Nói xong, liền ẩn trong không, hô lên rằng: Từ nay về sau, sẽ ăn thịt vợ con yêu của các ngươi! Mọi người nghe đều bỏ chạy. Từ đó có nhiều La sát theo hầu, đồ chúng La sát càng lúc càng đông, hại người càng nhiều. Thời gian sau đó, các La sát lại nói: Bọn ta từ nay làm tôi cho vua, nay vua phải ra lệnh vì bọn ta bắt ngàn vua để thiết một đại hội. Ban Túc đồng ý, cho quân đi bắt từng vị vua, khi đã bắt được chín trăm chín chín vị vua, vì còn thiếu một vị, không thể làm hội được! Các vị vua bị bắt cùng nhau bàn rằng: Bọn ta ngày nay hết cách thoát! Nếu bắt được vua Tu đà tố, vì vua Tu-đà-tố có phương tiện lớn, sẽ có thể cứu được mạng của bọn ta! Nghó cách ấy rồi, bèn bạch với Ban Túc: Vua muốn làm hội, chỉ có vua Tu-đà-tố là có đại danh đức. Nếu có được vị vua đó, thì hội mới được viên mãn. Tức thời, vua La sát liền đi bắt ngay. Khi đó, vua Tu đà tố đang ra khỏi thành hướng đến vườn để vào hồ tắm rửa, thấy một người ăn xin đã hứa cho, nhưng gặp vua bắt đến đây, làm ta không thực hành được lời hứa. Vì vậy mà buồn thôi, mong vua thả ta bảy ngày để bố thí đạo nhân. Ban Túc đồng ý. Vua trở về bố thí đạo nhân bảy ngày. Lúc ấy có Bà-la-môn vì vua mà thuyết kệ giống với kinh này, vua nghe xong hoan hỷ, liền lập Thái tử lên ngôi thay mình rồi chia tay, đến nhận cái chết. Vua Ban Túc nói: Ông nay đến nhận cái chết, sao lại hoan hỷ? Tu đà đáp: Đại vương ơn đức rộng lớn, thả tôi bảy ngày bố thí đạo nhân nghe pháp vi diệu, tâm tự khai mở, nguyện của tôi vậy là đã thỏa mãn. Ban Túc hỏi: Ông nghe pháp gì? Tu đà bèn vì Ban Túc mà tuyên thuyết diệu pháp, rồi còn thuyết về tội báo sát sanh. Ban Túc nghe xong, bèn thả Tu-đà và các vị vua trở về nước họ. Vua Tu-đà thời đó là thân Ta đây. Vua Ban Túc là ương Quật Ma la này vậy! Từ câu: “Vua phổ minh…” là phần hai, nói về năng hộ nạn. Văn có ba phần: 1. Xin tu phước để giải. Từ câu: “Vua Ban Túc…” là phần hai: Nghe xong đồng ý. Từ câu: “Thời, phổ minh…” là phần ba nói về chánh hộ nạn. Văn có hai phần: 1. Hàng dài là theo giáo xin hộ. 2. Thuyết kệ gia hộ. Văn lại có hai phần: 1. Thuyết kệ. 2. Hộ ích. Phần đầu kệ gồm tám hàng, chia làm bốn phần: phần một gồm hai hàng: Thuyết về lý vô thường. Căn tượng là thiên, thiên thì hành kiện, kiện thì không ngừng. Khôn là tượng cho thuận; khôn thuận theo bốn thời. Hai nghi tức là trời và đất. Từ câu: “Sinh lão bịnh tử…” là phần thuyết về lý khổ. Dục là tập, họa là khổ. Khổ và tập thành cục lở loét, tức là tự thân và tâm, chứ chẳng lẽ là ở bên ngoài!? Từ câu: “Có gốc tự không…” là phần thuyết về lý không. Từ câu: “Thức thần vô hình…” là phần thuyết về lý vô ngã. Từ câu: “Bấy giờ, pháp sư…” là phần nói về người nghe được hộ ích. Văn có ba phần: 1.Nghe pháp đắc ích. Pháp nhãn không, tức là nhân không. Hư không đẳng định, tức là pháp không. Từ câu: “Nghe pháp ngộ giải…” là phần nói về vua chuyển giáo. Từ câu: “Thời, vua Ban Túc hỏi…” là phần các vương ngộ đạo. Văn có hai phần: 1. Đắc đạo. 2.Thả vua. Văn phần một có hai phần: Trước nói về Ban Túc đắc đạo. Từ câu: “Chín trăm chín chín vua…” là phần tiếp theo nói các vua đắc đạo. Từ câu: “Thời, vua Ban Túc cực đại Hoan hỷ…” là phần thả các vua. Văn có ba phần: 1. Thả vua. Từ câu: “Mỗi vị vua…” là phần hai: Khuyến tu. Từ câu: “Thời, vua Ban Túc đem nước giao cho em trai…” là phần ba Nhập đạo. Từ câu: “Như trong kinh Thập vương…” là phần thứ ba kết chỉ bày khuyến trì. Văn có hai phần: 1. Kết, chỉ bày. 2. Từ câu: “Đại vương!…” là khuyến trì. Từ câu: “Trên trời, trong người, …” là phần khuyến sáu đạo. Từ câu: “Trong đời vị lai…” là phần khuyến các tiểu vương. Từ câu: “Bấy giờ, Thích Ca…” là phần thứ ba, nói về thời chúng đắc ích trong văn có hai phần: 1. Sáu ích. 2. Lược kết. Đều đã rõ. Đắc nhập sơ địa tức là sơ tâm địa thập tín thuộc Viên giáo. Tính không là thập trụ. Một tâm ba quán, quán tính của vô minh là không. Vô sinh pháp nhẫn tức thập hạnh. Vô sinh pháp lạc nhẫn tức thập hồi hướng. Mười tam muội tức mười nhất thiết nhập. Ba tam muội tức là tam muội của ba đế chơn, tục và trung; cũng là không, vô tướng… Tự tính tín là Thanh văn Thông giáo. Vô lượng không tín là chi Phật thuộc Thông giáo. Từ câu: “Ta nay lược nói…” là phần lược kết. ----------------------------- PHẨM THỨ SÁU: TÁN HOA Là chương lớn thứ ba: Báo ơn cúng dường cho nên có phẩm Tán Hoa. Hoa tiêu biểu cho cái nhân. Rải cho Phật tiêu biểu cho hành từ nhân cho đến quả. Văn của phẩm này gồm có ba phần: 1.Rải hoa cúng dường. 2.Hiện thông lợi ích. 3.Khen giáo khuyên trì. Văn phần một lại có ba phần: 1.Nghe kinh khuyên trì. 2. Rải hoa cúng dường. 3.Các vua phát nguyện. Văn phần một lại có ba phần: 1. Người nghe kinh có thể hiểu. Từ câu: “Nghe Phật thuyết…” là phần hai: pháp được nghe. Kinh này có ba chỗ thuyết kệ khác nhau: 1. Trong phẩm nhị đế thuyết tám trăm vạn ức kệ. 2. Cuối phẩm hộ quốc thuyết tám ngàn ức kệ. Kệ thứ nhất ở phẩm nhị đế thì hợp thuyết cả ba thời số. Kệ thứ hai ở phẩm hộ quốc, thì dẫn riêng Phật quá khứ thuyết. Kệ trong phẩm này, thì nói rõ là Phật hiện tại thuyết. A-nan quán cơ, lược kết như vậy. “Hoan hỷ vô lượng” là phần ba: Kết: Hoan hỷ. Từ câu: “Tức rải hoa trăm vạn” là phần thứ hai: Rải hoa cúng dường. Văn có ba phần: 1. Hoa hạnh. 2. Hoa Bát-nhã. 3. Hoa diệu giác. Ba thứ hoa này là tiêu biểu cho ngôi vị thuộc Biệt giáo. Đầu tiên; hoa hạnh là tiêu biểu cho ngôi vị ba hiền. Hoa Bát-nhã là tiêu biểu cho ngôi vị thập địa. Hoa diệu giác là tiêu biểu cho ngôi vị Phật địa. Văn phần đầu có bốn phần: 1.Vua rải hoa. 2.Từ câu: “Ở trong không trung…” hoa biến làm tòa. 3.Từ câu: “Chư Phật mười phương… là phần ba nói về hóa Phật thuyết pháp. 4.Từ câu: “Vô lượng đại chúng…”; hóa chúng rải hoa. Từ câu: “Lại rải tám vạn ức…” là phần thứ hai nói về rải hoa Bát- nhã. Văn có bốn phần: 1. Nói về rải hoa. Từ câu: “Ở trong hư không…” là phần hai, nói về hoa biến thành đài. Từ câu: “Trong đài sáng sủa…” là phần ba: Hóa Phật thuyết pháp. Từ câu: “Trong đài đại chúng…” là phần bốn nói về hóa chúng rải hoa. Từ câu: “Lại còn rải hoa diệu giác…” là phần ba, nói về rải hoa diệu giác. Văn có bốn phần: 1.Rải hoa. Từ câu: “Ở trong hư không…” là phần hai, hoa biến làm bờ thành; thành tức là Niết-bàn. Từ câu: “Sư tử hống trong thành …” là phần ba; hóa Phật thuyết pháp tức Bồ-tát trong Viên giáo thuyết pháp ở trong biệt. Từ câu: “Thời, Bồ-tát trong thành …” là phần bốn: Hóa Bồ-tát rải hoa. Từ câu: “Thời, chư Quốc vương…” là phần ba; nói về các vua phát nguyện. Văn có hai phần: 1. Vua phát nguyện thì đã rõ. Từ câu: “Phật bảo đại vương…” là phần hai: Như Lai thuật thành. Chư phật mẫu tức là Thật tướng Bát-nhã. Bồ-tát mẫu tức là Quán chiếu Bát-nhã. Thần thông tức là Văn tự Bát-nhã. Văn tự có thể phát trí tuệ. Trí tuệ sinh ra thì thần thông phát. Kinh kim cang nói: Tất cả chư Phật và các pháp của chư Phật đều từ kinh Bát-nhã này sinh ra. Từ câu: “Thời, Phật vì vua…” là phần hai: Phật hiện thần biến khiến chúng được ích. Văn có hai phần: Trước là hiện biến, sau là đắc ích. Văn phần trước có ba phần: 1. Nêu lên chương, số. Âm, dương khó lường gọi là thần. Chuyển đổi thường tướng gọi là biến. Tâm không thể nghó suy, miệng không thể nói bàn, là thần lực của Phật. Từ câu: “Một hoa nhập vào vô lượng hoa…” là phần hai; nêu riêng biệt: 1.Hoa. 2. Phật độ. 3. Tu di. 4.Phật thân. 5. Nhập bốn đại. Văn đã nói rõ. Hỏi: Núi thì lớn, hạt cải thì nhỏ sao lại có thể nhập vào được? Đáp: Có người nói: Nhờ thần lực của Phật mà nhập vào. Lại có người nói: Núi và hạt cải, cả hai đều như như, cho nên cùng nhập vào nhau. Lại có người nói: Tam giới duy tâm. Tâm dụ cho hạt cải. Núi dụ cho tam giới. Tâm có thể tạo ra giới, cho nên gọi là nhập. Có người nói: Núi và hạt cải đều vô pháp, vô tính, không không, cho nên cùng nhập vào nhau. Ở đây cho rằng: Nếu lấy không để giải thích, một đã không, thì tất cả đều không! Núi và hạt cải đều không. Mà không thì có thể tương nhập với nhau. Một giả tạm thì tất cả đều giả tạm; núi và hạt cải đều giả tạm. Đã là giả tạm cho nên luận là tương nhập với nhau. Một đã trung, thì tất cả đều trung. Núi và hạt cải đều trung; đã là trung cho nên luận là tương nhập với nhau. Không thì trừ kiến tư; tức là Bát-nhã. Giả tạm thì trừ vô tri; tức là giải thoát. Trung thì trừ vô minh; tức là pháp thân. Tức một mà ba. Tức ba mà một. Như trời ba mắt, không ngay không dọc, gọi là bất tư nghị một. Từ câu: “Phật thân bất khả tư nghị…” là phần kết tán. Từ câu: “Khi Phật hiện thần túc…” là phần thứ hai, nói về thời chúng đắc ích. Trong văn có bốn ích: 1. Đắc Phật hoa định. Tức là hoa tạng pháp giới định. Từ câu: “Mười hằng hà…” là phần hai; đắc ích thành Phật. Từ câu: “Ba hằng hà sa…” là phần ba: Đắc ích thành Bồ-tát. Từ câu: “Mười ngàn…” là phần bốn; đắc thần thông tam muội. Từ câu: “Thiện nam tử!…” là phần ba: Thán giáo khuyến tu. --------------------------- PHẨM THỨ BẢY: THỌ TRÌ Chương lớn thứ tư, mở rộng tướng mạo của kinh. Thọ trì đại luận nói: Nhờ tín lực, nghe mà phụng hành gọi là thọ. Nhờ niệm lực, nhớ lâu không quên mất gọi là trì. Trong phẩm này, phần chính là nói rõ về mười ba pháp sư thọ trì Bát-nhã; lại còn khiến cho người khác thọ trì; cho nên gọi là phẩm thọ trì. Từ câu: “Bấy giờ, Nguyệt Quang…”. Văn có ba phần: 1. Hỏi đáp việc cần phải thọ trì. 2. Khuyên các vua thọ trì. 3. Chúng ích đạt được. Văn phần đầu có hai phần: 1.Nguyệt Quang thỉnh. 2.Như Lai đáp. Văn phần một lại có hai phần: 1.Nghi niệm. 2.Chánh thỉnh. Trong phần nghi niệm ba Phật: 1.Thấy Thích Ca hiện thân, tức pháp thân. 2.Hiện đầy báu, tức báo thân. 3. Thấy ngàn Phật trên hoa, tức hóa thân. Hỏi: Vì sao biết được vậy? Đáp: Phổ Hiền quán nói: Thích ca mâu ni Phật gọi là Tỳ-lô-giá- na. Kinh Hoa Nghiêm nói: Cũng gọi là Thích ca, cũng gọi là Xá-na. Đại kinh nói: Thân Ta ở đây tức là pháp thân. Lô-xá-na; tiếng Hoa gọi là Tịnh nhãn; tịnh tức là báu. Hỏi: Kinh Phạm Võng nói: Xá na làm bổn; sao ở đây lại nói Thích ca làm bổn? Đáp: Kinh Phạm Võng làm sáng tỏ về Tích bổn; còn kinh này thì làm sáng tỏ về bổn tích. Bổn và tích tuy khác nhau nhưng là bất tư nghị một. Hỏi: Kinh này và phẩm bảo tháp của kinh Pháp Hoa, khác nhau như thế nào? Đáp: Có giống, có khác! Giống nhau là đều nói Thích ca làm bổn. Khác nhau là kinh này mang thêm phương tiện; còn Pháp Hoa thẳng thừng xả bỏ phương tiện. Từ câu: “Bạch Phật rằng: Như vậy…” là phần hỏi chính. Văn có hai phần: 1. Tán. Không thể dùng miệng để thuyết pháp môn này, không thể dùng trí thức để biết pháp môn này. Từ câu: “Làm thế nào để các thiện nam tử…” là phần hai: Xin thỉnh không, tức là trí tuệ Bát-nhã; nhờ trí tuệ này mà có thể đạt được thần thông biến hóa. Tất cả chúng sanh không biết xin Phật khai phát cho! Từ câu: “Đại mâu ni…” là phần Như Lai đáp. Ý trả lời chỉ là dùng Bồ-tát, trên thì cầu, dưới thì hóa làm lời giải nói mới đắc được đạo này. Khai mở về không, thì có rất nhiều; lược nói thì có ba loại: Nếu sắc tức là không, thì khai mở nhất tiết trí. Không tức là sắc thì khai mở đạo chủng trí. sắc và không không hai, thì khai mở Nhất-thiết-chủng-trí. Sắc nếu bất không, thì bị kiến - tư - hoặc. Không nếu bất sắc, thì bị vô tri hoặc. Bất được trung đạo thì bị vô minh hoặc. Cả ba đều là môn. Cứ như vậy mà ba quán thì ba trí khai mở. Đại khái là như vậy. Về văn có ba phần: 1. Nêu chung. 2. Giải thích riêng. 3. Tổng kết. Văn phần một lại có ba phần: 1.Nêu văn, thì đã rõ. Từ câu: “Từ tập nhẫn…” là phần tiếp theo: Kể riêng. “Y” là y chỉ. “Trì” là nhiếp trì. Ý nói pháp làm nơi y chỉ cho chúng sanh, nương vào đó mà kiến lập chánh pháp. Từ câu: “Đại chúng các ông…” là phần ba; khuyên cúng dường. Từ câu: “Thiện nam tử! Pháp sư đó…” là phần hai; giải thích riêng mười ba pháp sư. Ở đây là phần một. Tập chủng tính pháp sư; văn có năm phần riêng biệt: 1.Nêu ngôi vị. 2.Biện về sai biệt. 3.Hạnh nghiệp. 4.Làm rõ sự hơn kém. 5.Thời tiết nhập ngôi vị. Đây là phần một. Pháp sư thứ nhất, tập chủng tính; là phần nêu ngôi vị. Từ câu: “Nếu tại gia…” là phần hai, biện về sai biệt. Bà-sai tức là Ưu-bà-tắc. Ưu Bà-sai tức là Ưu-bà-di. Từ câu: “Tu hành thập thiện…” là phần ba: Hạnh nghiệp. Văn có ba phần; phần đầu là tu hạnh thập thiện. Nói thập thiện tức là mười tín tâm. Từ câu: “Tự quán thân mình…” là phần hai là tu hạnh bất tịnh. Đầu tiên là quán sáu đại; tiếp đó là quán các căn, sau cùng là quán ba cõi. Năm tình tức là năm thức. Năm thọ là khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Từ câu: “Trụ ở nhà Phật…” là phần ba: Sinh ở nhà Phật, thực hành sáu sự hòa kính. Từ câu: “Thiện nam tử! Tập nhẫn…” là phần bốn: nêu sự so sánh hơn kém. Trước nêu kém, sau so với hơn. Văn có hai phần: 1.Trước giải thích ngôi vị kém; pháp dụ hợp thì đều đã rõ. Từ câu: “Tuy thực hành cả mười ngàn kiếp…” là phần thông cả phục nạn. Văn nói là có thối có tiến. Từ câu: “Nhưng không thể danh tự…” là phần giải thích. Thông thì có ba nhưng không thể danh tự; cho nên có thối. Từ câu: “Là người định…” là phần hai, hiển bày ngôi vị hơn đó. Văn có hai phần: 1.Nói rõ về cái đắc. Nghóa là Bồ-tát thập trụ; đầu tiên chứng lý sinh không, đạt được tính thánh nhân; cho nên gọi là định. Khác với thập tín trước là bất định. Vì thập tín thì chưa hiểu chỉ thuần tu giả nhập không quán. Từ câu: “Tất nhiên không khởi năm nghịch…” là phần hai nói vềlìa lỗi lầm. Văn có bốn phần: 1. Không khởi năm nghịch. 2. Không làm sáu trọng. 3.Không làm hai mươi tám khinh. 4.Không chê bai kinh điển Phật pháp. Sáu trọng theo như phẩm thọ giới, quyển thứ tư kinh Ưu-bà-tắc giới nói: 1.Sát. 2. Trộm cắp. 3. Dâm. 4. Vọng ngữ. 5. Nghiện rượu. 6. Nói những lỗi lầm của bốn chúng xuất gia, tại gia. Hai mươi tám khinh cũng như kinh Ưu-bà-tắc nói: 1. Không cúng dường cha mẹ, sư trưởng. Chuyên uống rượu. 3.Không thấy bịnh khổ. 4.Không thể ít nhiều xả thí. 5. Gặp bốn chúng không nghinh đón lễ bái. 6.Thấy bốn chúng hủy giới, tâm sinh ra kiêu mạn. 7.Mỗi tháng không thể thọ trì tám giới cúng dường tam bảo. 8. Trong khoảng bốn mươi dặm, có giảng nhưng không đến nghe. 9. Dùng ngọa cụ, sàng tọa của chiêu đề tăng. 1 0. Nghi nước có trùng mà cứ uống. 1 1. Đi một mình nơi chỗ hiểm. 1 2. Trụ đêm một mình ở chùa ni. 1 3.Vì tiền, tánh mệnh mà đánh mắng nô tì. 14.Dùng đồ ăn dư thừa mà thí cho bốn chúng. 1 5. Nuôi mèo, hồ ly. 1 6. Nuôi những súc sinh như voi, ngựa…, không tịnh thí những người chưa thọ giới. 1 7.Tích chứa áo, bát… 18. Vì thân mà làm ruộng. 19.Buôn bán ở chợ cân đo không đúng. 2 0.Chẳng đúng thời mà hành dục. 2 1.Không đóng thuế vua. 22. Phạm luật nhà nước cấm. 2 3.Được trái cây món ăn mới, không cúng tam bảo. 24.Tăng không còn muốn nghe thuyết pháp nhưng cứ tự nói. 2 5. Trên đường đi, giành đi trước tất cả người xuất gia. 2 6.Giờ ăn trưa của tăng, biến vi sư trưởng. 2 7.Nuôi tằm. 28.Trên đường đi, gặp người bệnh không dừng lại xem, hỏi han thế nào, mà bỏ đi! Từ câu: “Kinh thư Phật pháp…” là phần bốn: Không chê bai kinh điển Phật pháp; nói đó chẳng phải là Phật nói! Từ câu: “Có thể dùng một A-tăng- kỳ…” là phần năm, nói về thời tiết nhập ngôi vị. Không thể biết được số ngày tháng năm. Cho nên bảo là A-tăng-kỳ. Tăng già đà vị tiếng Hoa gọi là “ly trước”. Từ câu: “Lại nữa, tính chủng…” là phần thứ hai, nói về tính chủng tính. Văn có ba phần: Nêu vị. Mới bắt đầu học gọi là tập. Tập quen rồi thành tính; cho nên gọi là tính chủng tính. Từ câu: “Hành mười tuệ quán…” là phần biện về những sai biệt. Mười tuệ quán là: Bốn niệm xứ; ba thiện căn và ba đời quán là mười. Như trong phẩm giáo hóa có nói: Diệt mười điên đảo nghóa là: Bốn niệm thì trừ bốn đảo; ba thiện thì trừ ba độc; quán ba đời thì trừ bỏ sự chấp chặt vào ba đời. Ngã, nhân, tri kiến, là giả lập theo pháp nhưng chẳng phải là thật. Vô định căn; là pháp ngã không có một trụ xứ tướng chắc chắn. Vô tự tha tướng, là tự ta không có cái thể, mà trên mặt tướng cũng không có. Từ câu: “Dùng hai A-tăng-kỳ kiếp…” là phần ba, nói về thời tiết nhập vị. Ba la đà vị, tiếng Hoa gọi là Thủ hộ. Bồ-tát thập hạnh, hạnh đó kiên cố, không mất tự tính. Bởi có thể từ không nhập giả, không bị giả nhiễm, có thể thủ tự hạnh. Từ câu: “Lại nữa, đạo chủng…” là phần thứ ba, nói rõ về Bồ-tát mười hồi hướng. Văn có ba phần: Nêu vị. Nhờ tu trung đạo chánh quán cho nên bảo là đạo chủng tính. Từ câu: “Trụ trong kiên nhẫn…” là phần hai; biện về sai biệt. Văn có hai phần: Trước là nói về quán sai biệt. Quán thọ năm ấm, đắc năm phần pháp thân. Quán ba cõi, đắc ba không. Quán hai đế đắc hai nhẫn là vô thường và vô sinh. Đệ-nhất-nghóa-đế thứ mười, tức vô sinh trung đạo không. Từ câu: “Mà thọ sinh ba cõi…” là phần thọ báo thù thắng. Văn có ba: Nêu. Đã hiểu. “Vì sao?” là phần trưng. Tâm đã tịch diệt, sao lại còn thọ sinh? Từ câu: “Quả báo tập ng- hiệp…” là phần giải thích. Do chưa chứng sơ địa; không đoạn dứt sự hun đúc bởi vô minh kiến và ái vẫn còn; cho nên đắc sinh. Từ câu: “Lại còn ba A-tăng-kỳ…” là phần thời tiết nhập vị. Đến lúc tu đủ thời thì mới đắc sơ địa. Song chiếu hai đế, cho nên bảo là Bạt trí. Chánh tức là chứng sơ địa; đó là trong nhân mà thuyết về quả. Từ câu: “Lại nữa, thiện giác…” là pháp sư thứ tư. Văn có năm phần: Phần một: Nêu vị. Văn đã rõ. Từ câu: “Trụ bình đẳng nhẫn…” là phần hai biện về tu hành sai biệt. Văn có hai phần: 1.Nói về hai trí làm tướng. 2.Hiển bày hai trí đồng dị. Văn phần một lại có hai phần: Trước nêu chương, sau giải thích riêng. Bình đẳng nhẫn tức là thật trí. Song chiếu hữu và vô nhưng không bị nhiễm. Tứ nhiếp tức là nêu phương tiện trí. Từ câu: “Nhập vô tướng xả diệt…” là phần giải thích riêng. Văn có hai phần: Trước là giải thích về thật tướng trí sau là giải thích về phương tiện trí. văn phần trước lại có ba phần: 1.Nêu chung. 2.Giải thích riêng. Nói rõ về ly tướng. Ở đây là phần đầu văn đã rõ. Từ câu: “Với Đệ- nhất-nghóa-đế…” là phần giải thích riêng. Văn có ba phần: Phần một: Pháp tính vô vi cũng gọi là hư không. Từ câu: “Vô vi duyên lý mà diệt…” là phần hai, nói về trạch diệt vô vi. Phật chơn trí diệt tất cả kết, vô tướng, vô vi. Từ câu: “Khi sơ trụ nhẫn…” là phần ba nói về phi trạch diệt vô vi đó là các pháp vô tướng. Từ câu: “Vô tướng vô vi…” là phần ba, nói về ly hai tướng hữu và vô từ câu: “Vô lượng phương tiện…” là phần thứ hai, hiển bày phương tiện trí. văn có hai phần: 1.Nêu văn đã rõ. Từ câu: “Thật tướng phương tiện…” là phần giải thích. Có sáu loại phương tiện: Thật tướng phương tiện; biến học phương tiện; hồi hướng phương tiện tự tại phương tiện, nhất thừa phương tiện; biến hóa phương tiện. Từ câu: “Như vậy! Thiện nam tử…” là phần giải thích lại hai trí đồng dị. Văn có ba phần: 1.Kết tướng khác nhau ở trên: trước làm sáng tỏ về tướng của thật trí. Mới bắt đầu biết về trung đạo cho nên bảo là sơ giác trí. từ câu: “Xảo dụng bất chứng…” là tướng của phương tiện trí. Từ câu: “Thí như…” là phần nêu dụ để hiển bày cái sai, làm sáng tỏ không một không hai; mà mỗi một hành đều thành tựu. Nghóa là ba minh hành thành tựu. Nhờ đắc tức không, tức giả, tức trung. Một hạnh vô lượng hạnh; vô lượng hạnh một hạnh; cho nên bảo là thành tựu. Từ câu: “Nhờ đắc bốn A-tăng-kỳ…” là phần thứ ba, nói về thời tiết. Chứng sơ địa thí thành tựu, cho nên bảo là nhập công đức tạng môn. Từ câu: “Không có nghiệp của ba cõi…” là phần tiếp theo, nói về sinh tịnh độ; tức là phương tiện hữu dư và cõi nước các thật báo. Từ câu: “Thường tu xả quán…” là phần thứ năm lên ngôi vị. Nhờ tu xả, cho nên thí Ba-la-mật được đầy đủ. Cưu ma la già, tiếng Hoa gọi là thắng oán; nhờ lìa ba cõi và lìa nhị thừa oán. “Bốn bảo tạng”; thì có người cho rằng: Đó là ba tạng và tạp tạng. Ở đây theo kinh thắng man: 1. Vô giá tạng Bồ-tát thừa. 2. Thượng giá tạng Duyên giác thừa. 3.Trung giá tạng Thanh văn thừa. 4.Hạ giá tạng thiên nhân thừa. Vả lại, bốn nhiếp cũng là bốn tạng. Từ câu: “Lại tiếp nữa, đức huệ…” là pháp sư thứ năm. Văn có ba phần: 1.Nêu vị; đó là thi la thanh tịnh và tuệ đều sinh. Trụ ở ba đức, cho nên gọi là đức tuệ. Từ câu: “Nhờ bốn vô lượng tâm…” là phần biện về quán sai biệt. Văn có ba phần: 1. Nói về địa biệt hạnh. Vì muốn đối trị các phiền não thuộc sân,… cho nên tu bốn vô lượng tâm. Từ câu: “Diệt sân thuộc ba hữu…” là phần nói về trừ chướng. Theo tông Tát bà đa, thì sân chỉ ở Dục giới. Theo tông Thành thật, thì sân thông cả ba cõi. Theo phẩm thí dụ trong kinh Pháp Hoa, thì trung, thượng cũng có sân. Từ câu: “Trụ trong trung nhẫn…” là phần vị phân đều; thuận nhẫn trung phẩm. Từ câu: “Dùng năm A-tăng-kỳ…” là phần thời tiết nhập vị. Xà-đà-ba -la, tiếng Hoa gọi là Mãn túc, cũng gọi là vô úy. Bởi Thi la được viên mãn. Từ câu: “Lại tiếp nữa, minh tuệ…” là pháp sư thứ sáu. Văn có ba phần: “ 1. Nêu vị. Đắc nhẫn thành tựu cho nên gọi là minh tuệ. Từ câu: “Thường dùng vô tướng…” là phần biện về quán. Văn có ba phần: 1. Nói về địa biệt hạnh: Biết ba đời rỗng không là ba minh quán. Tận hết phiền não si thuộc ba cõi là phần hai, nói về trừ chướng. Từ câu: “Đắc ba minh…” là phần ba nói về vị mãn túc. Từ câu: “Thường dùng sáu A- tăng-kỳ…” là phần ba nói về thời tiết nhập vị. Già la đà, tiếng Hoa gọi là độ biên; độ qua bờ si. Từ câu: “Lại nữa, nhó diễm…” là pháp sư thứ bảy. Văn có ba phần: Nêu. Nói nhó diễm, tiếng Hoa gọi là trí mẫu; nghóa là, trong địa này có thể sinh thiền trí; cho nên bảo là trí mẫu. Từ câu: “Tu hành thuận pháp nhẫn…” là phần nói về địa biệt hạnh. Văn có ba phần: 1. Nêu trụ vị. Nói Tu đà hoàn là mượn nhỏ mà gọi cho lớn. Năm kiến; tức là năm lợi sử. Từ câu: “Thường dủng thiên nhãn…” là phần khởi thông. Vì chưa đủ lậu tận, cho nên chỉ nói là năm. Từ câu: “Ở trong mỗi một niệm…” là phần diệt chướng; nghóa là vị này phối với sơ quả, cho nên diệt năm kiến. Lại cũng là biệt nhập thông ý. Từ câu: “Cũng dùng bảy A-tăng- kỳ…” là phần thời tiết nhập vị. Từ câu: “Lại tiếp nữa, thắng đạt…” là pháp sư thứ tám. Văn có ba phần: 1.Nêu vị. Thân tu thiền định, nên đắc thần thông, đạt sắc tâm pháp; cho nên gọi là thắng đạt. Từ câu: “Đối với thuận đạo nhẫn…” là phần nói về biệt hạnh trong địa. Văn có ba phần: 1.Đắc vô úy quán. Thông đạt năm tướng tức là Nhất-thiết-trí vô úy. Diệt các phiền não si trong ba cõi tức lậu tận vô úy. Biết những thứ xuất ra ở mỗi địa, tức là thuyết tận khổ đạo vô dị. Có những thứ không xuất ra, tức là thuyết chướng đạo vô úy. “Nghịch ba cõi nghi” là phần trừ chướng. Từ câu: “Tu tập vô lượng công đức…” là phần nhập vị phân đều cũng là mượn nhỏ để nói lớn. Từ câu: “Lại còn tập hạnh nhập A tăng …” là phần tu hành phân đều. Từ câu: “Lại tiếp nữa, thường hiện chơn thật…”; là pháp sư thứ chín. Văn có ba phần: 1.Nêu vị: Trung đạo chơn minh Bát-nhã thật, cho nên thường hiện chơn thật. Từ câu: “Trụ thuận nhẫn trung…” là phần biệt hạnh. Tất cả phiền não là nhân của tập. Các khổ là nghiệp của tập. Trong địa này đều hết sạch. Các pháp vốn không, cho nên là phi hữu. Kiến lập các pháp, cho nên là phi vô. Vô và hữu đều là thật; cho nên là một tướng. Thật tướng cũng là như, cho nên là vô tướng. Từ câu: “Lại ở chín A tăng…” là phần thời tiết nhập vị. Lạc lực; tức là nguyện lực. Từ câu: “Lại tiếp nữa, Huyền Đạt Bồ-tát…” là pháp sư thứ mười. Văn có ba phần: 1. Nêu vị. Huyền Đạt là Đạt Thông. Ngôi vị này đắc vô sinh nhẫn; vô công dụng tâm, cho nên bảo là Huyền Đạt. Từ câu: “Mười A tăng…” là phần thời phân nhập vị. Diệt phiền não tập trong ba cõi; trụ địa thứ mười, tức là pháp sư địa thứ mười trong mười ba pháp sư, chẳng phải là Bồ-tát địa thứ mười. Từ câu: “Thường hành ba không nên…” là phần biện về quán sai biệt. Bởi thực hành ba không quán, là mở rộng ba pháp tạng của Phật. Từ câu: “Lại tiếp nữa, bậc Đẳng giác…” là pháp sư thứ mười một. Văn có ba phần: 1.Nêu vị. Thực hành trong địa, chơn và tục song chiếu, gọi là bậc đẳng giác. Cũng chẳng phải là Đẳng giác của địa thứ mười một. Từ câu: “Trụ vô sinh…” là phần nói rõ về quán sai biệt. Văn có ba phần: 1.Quán hữu và vô lại là hai; trước tiên là phối vị. Từ câu: “Quán tâm tâm…” là phần biện chính về quán hữu, vô. Văn có ba phần: 1.Biệt thích. Văn lại có hai phần: 1. Tịch mà thường dụng: Tâm tâm tịch diệt; là niệm niệm không. Tức nói rõ về nghóa của tịch. Tuy vô tướng mà tướng. Tuy vô thân mà thân. Tuy vô tri mà tri. Đó là nghóa của dụng. Từ câu: “Mà dụng tâm…” là phần nói về dụng mà thường tịch. Từ câu: “Ở tại hữu thường tu không…” là phần thích hữu và vô. Tại hữu mà tu không, là giải thích dụng mà thường tịch ở trên. Hư không thường vạn hóa, là giải thích tịch mà thường dụng ở trên. Bởi song chiếu tất cả pháp” đó là phần song kết. Từ câu: “Biết xứ ấy chẳng phải là xứ ấy…” là phần nói về thập lực quán. Chỉ một hạnh sau cùng là lược bỏ. Lên ngôi vị Ma-ha la già, hóa tất cả chúng sinh ở các quốc độ” là phần thứ ba, nói về đăng vị sai biệt. Ma-ha-la-già, tiếng Hoa gọi là đại đắc; hoặc gọi là long tượng. Từ câu: “Ngàn A tăng…” là phần nói về thời tiết tu hành. Từ câu: “Lại tiếp nữa, tuệ quang…” là pháp sư thứ mười hai. Văn có ba phần: 1. Nêu vị. Nhờ địa này mà Bồ-tát đắc vô ngại trí. Hóa các chúng sanh, hiện các thần thông; gọi là tuệ quang thần biến. Từ câu: “Trụ thượng thượng…” là phần nói về quán sai biệt. Văn có bốn phần: Ở đây là phần một: Phối vị. “Diệt tâm tâm tướng”; là phần hai, nói về diệt tâm; diệt các ý gọi là diệt tâm. Diệt tâm số gọi là diệt tướng. Từ câu: “Pháp nhãn kiến…” là phần ba, nói về kiến cảnh. Pháp nhãn thấy tất cả pháp, tức sáng tỏ sự riêng biệt. Ba nhãn sắc không kiến, là sáng tỏ chung. Ba nhãn; là Phật nhãn, pháp nhãn, tuệ nhãn. Tuệ nhãn thì thấy sắc không. Pháp nhãn thấy sắc là giả tạm. Phật nhãn là thấy trung đạo. Không và giả là không hai mà hai, hai mà không hai! Song chiếu tức là không hai mà hai. Song vong tức là hai mà không hai. Nêu ba nhãn để đối hai cảnh sắc. Một chữ kiến là để làm sáng tỏ chung về sự sai biệt của ba kiến. Thấy sắc không tức là không đế. Thấy sắc giả tức là hữu đế. Song chiếu tức là Đệ-nhất-nghóa-đế. Ba thứ đó dựa theo giáo thì có năm: 1. Biệt nhập thông: Lấy huyễn sắc làm hữu; thấy không là chơn; phi hữu phi không là đệ nhất nghóa. 2.Viên nhập thông: Ba đế giống trên, gia thêm nhất thiết pháp thú. 3. Biệt giáo: Lấy huyễn hữu tức không làm tục; lấy bất không làm chơn; bất hữu bất không làm trung đạo. 4.Trong viên nhập biệt: Gia thêm nhất thiết pháp thú. 5.Ba đế Viên giáo đều gọi là nhất thiết pháp thú. Hỏi: Bồ-tát địa sao lại gọi là Phật nhãn? Đáp: kinh Pháp Hoa nói: Khai Phật tri kiến; tức là sơ địa của Biệt giáo, sơ trụ của Viên giáo. Phát ba chủng trí là: 1. Chánh nhân lý tâm phát: Dùng trung đạo quán, để khai mở nhất thiết chủng chủng trí. 2. Liễu nhân trí tâm phát: Dùng tức không quán, để khai mở đạo chủng trí. Sơ địa còn đắc được, huống ữa là địa thứ chín. Đó chỉ là đắc từng phần, chẳng phải là đắc đủ. Từ câu: “Dùng đại nguyện lực…” là phần nói về sinh tịnh độ. Từ câu: “Vạn A tăng…” là phần nói về thời tiết nhập vị. Bạt già phạm, tiếng Hoa gọi là Thế Tôn. Từ câu: “Lại tiếp nữa, quán Phật Bồ-tát…” là pháp sư thứ mười ba. Văn có bốn phần: 1. Nêu vị: Quán Phật Bồ-tát nghóa là: Nêu khai mở diệu giác, thì đó là đẳng giác, còn gọi là Bồ-tát. Đạt đến địa này, bảo đảm là rốt ráo, nhưng đó vẫn chưa là cực; còn cần phải quán sát thêm nữa. Biệt Phật (Phật thuộc Biệt giáo) còn có ba mươi hai phẩm vô minh; trí còn cách xa với viên Phật (Phật thuộc Viên giáo), cho nên bảo là quán. Thông Phật (Phật thuộc Thông giáo) thì có bốn mươi hai phẩm vô minh; cái này thì còn cách xa hơn nữa! Từ câu: “Bậc trụ tịch diệt nhẫn…” là phần hai, nói chứng thời phân. Văn có bốn phần: 1.Phối vị; nghóa là tịch diệt nhẫn thứ năm tự có hai phần riêng: Hạ và thượng. Ở đây địa thứ mười tức là tịch diệt nhẫn hạ phẩm. Từ câu: “Từ bắt đầu phát tâm…” là phần hai, trải qua thời gian nhiều ít; đó là từ tập chủng tính đến quán đảnh nhẫn; phải trải qua trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp. Từ câu: “Tu trăm vạn…” là phần biện về tu chứng. Từ câu: “Đăng nhất thiết pháp…” là phần bốn, nói về đăng vị. Hết thảy pháp giải thoát là chơn giải thoát. Kim cang đài tức là kim cang tam muội. Từ câu: “Thiện nam tử!…” là phần đối vị để biện về riêng biệt. Văn có năm phần: 1. Phục đoạn sai biệt; nghóa là từ tập cho đến đảnh tam muội, trước tiên là làm sáng tỏ về phục nhẫn. Từ câu: “Nhưng không có tướng, tín…” là nói về đoạn dứt. Diệt tất cả các phiền não tức là đại Niết-bàn. Sinh giải thoát tức là trí giải thoát. Chiếu tức là Bát-nhã. Đệ nhất nghóa tức là ngôi vị pháp thân. Từ câu: “Không danh là kiến…” là phần hai: Tín và kiến khác nhau. Trước tiên là nói rõ về bất kiến. Cái gọi là kiến ấy là Tát-bà-nhã. Tiếp theo là nói về kiến. Từ câu: “Vì vậy, ta từ xưa đến nay …” là phần dẫn chứng. Từ câu: “Chỉ có Phật là đốn giải…” là phần ba, nói về sự khác nhau giữa tiệm và đốn. Tuệ tuy khởi diệt…” là phần bốn nói về sự khác nhau giữa thường và vô thường. Vô sinh thì không có lụy nào là không vứt bỏ. Vô diệt thì không có đức nào là không viên mãn. Vô sinh thì đoạn đức. Vô diệt thì trí đức. Từ câu: “Nhập lý tận…” là phần năm, nói về sự khác nhau giữa đẳng và vô đẳng; trong văn pháp dụ hợp, đã rõ. Từ câu: “Thường tu tất cả..” là phần nói về nhập định vị. Trong đó, tất cả hạnh đầy đủ, trí tuệ đầy đủ; được gọi là công đức tạng. Bà già độ vị, tiếng Hoa gọi là Thế Tôn. “Cũng lại còn thường trụ Phật tuệ tam muội”; nghóa là: Tất cần phải ứng với nghóa thọ, tu; cho nên bảo là cũng lại còn. Tại biệt thì lợi vật, cho nên bảo là thường trụ. Từ câu: “Thiện nam tử! Như thị…” là chương lớn thứ ba, thán. Nói rõ về sự thí hóa không khác gì với Phật! Từ câu: “Phật bảo vua Ba tư nặc…” là phần thứ hai; trao cho vua thọ trì. Văn có bốn phần: Tán dụng khuyến trì. Tán thán danh khuyến trì. Giải thích nguyên do khuyến trì. Đặt tên phó chúc. Văn phần một có hai phần: 1. Lược thán. 2. Rộng thán. Phần lược thán lại có bốn phần: 1. Nêu diệt để khuyến trì. Từ câu: “Tất cả quốc độ…” là phần nói rõ về lực của Bát-nhã. Từ câu: “Do đó phó chúc…” là phần giải thích nguyên do phó chúc. Vì không có oai lực của một vị vua, cho nên không phó chúc. Từ câu: “Ông phải thọ trì…” là phần nói về việc trao riêng cho Nguyệt Quang. Từ câu: “Đại vương! Ta nay sở hóa…” là phần rộng khen khuyến trì. Văn có hai phần: 1.Trừ nạn phước sinh. 2. Hỏi đáp phân biệt. Ở đây là văn phần một đã rõ. Từ câu: “Bảy nạn là gì?…” là phần hỏi đáp phân biệt. Trước lại hỏi; đã rõ. Từ câu: “Nhật nguyệt thất độ…” là phần đáp. Bảy nạn là: 1. Nạn mặt trời mặt trăng mất điều độ là thời tiết thay đổi, tạo nhiều đói rét; số lượng biến đổi, có nhiều chiến tranh; sắc tướng thay đổi tạo nhiều dịch bệnh. Từ câu: “Nhị thập bát…” là nạn thứ hai: Nạn tinh tú mất điều độ. Từ câu: “Lửa lớn thiêu đốt quốc gia…” là nạn thứ ba: Hỏa tai. Từ câu: “Nước lớn nhận chìm…” là nạn thứ tư: Mưa lụt biến dị. “Gió lớn bão tố giết hại trăm họ…” là nạn thứ năm: Gió bão. “Thiên địa quốc thổ…” là nạn thứ sáu: Hạn hán. “Bốn phương giặc đến…” là nạn thứ bảy: Ác tặc; giặc giã. Như văn thì đã rõ. Từ câu: “Đại vương! Bát-nhã này…” là phần thứ hai: Tán danh khuyến trì. Văn có hai phần: Trước tán danh thắng, sau khuyên cúng dường. Trong phần đầu biện về ba Bát-nhã. Gốc của tâm thức; tức là thật tướng Bát-nhã. Cha mẹ của vua, tức là quán chiếu Bát-nhã; bởi nó có thể sinh ra tâm tuệ, giải cho vua. Sáu tên gọi tiếp ở dưới là văn tự Bát-nhã. Từ câu: “Phật bảo đại vương…” là phần khuyên cúng dường. Văn có hai phần: Trước là nói pháp cúng dường. Sau nói riêng về hành trụ cúng dường. Trong phần đầu, số chín là biểu thị cho nỗi khổ của chúng sanh. Phan là nêu lên hiển hạnh đắc thắng. Bên trong chín khổ kiến lập giải thoát thắng phan. Hoa chín màu là biểu thị chín khổ chúng sanh thực hành nhân Bát-nhã. Xanh, vàng, đỏ, trắng, đen là hoa năm trần. Đất, nước lửa, gió là hoa bốn đại. Hai trượng là biểu thị cho hai đế. Mười đèn là biểu thị cho công đức thập thiện; mỗi một công đức đều lần lượt dùng Bát-nhã nuôi dưỡng dần dần để thành ngàn trí tuệ. Cao năm trược soi rõ năm đạo. Chín rương ngọc là tiêu biểu cho chín khổ cư ở thanh tịnh là pháp khí. Chín khăn ngọc là tiêu biểu cho chín khổ cư ở chúng sanh đắc được khăn Bát-nhã. “Lấy kinh đặt lên trên; về văn tự có thể khiến thật lý hiển bày. Bảy báu; là tiêu biểu cho bảy phương tiện người; đều là nhân báu. Từ câu: “Nếu khi vua đi…” là phần nói riêng về đi, đứng cúng dường. Trước là nói về đi cúng dường. Từ câu: “Nếu khi vua đứng…” là nói về đứng cúng dường. Từ câu: “Đại vương! Ta nay năm nhãn…” là phần giải thích nguyên do khuyến trì. Văn có hai phần: 1. Nói về phước của vua đã hết. Văn đã rõ. Từ câu: “Đại vương! Nếu đời vị lai…” là phần hai; nói về lợi ích đời vị lai. Văn có ba phần: 1. Nêu con số; văn đã rõ. Từ câu: “Nhất kim cang hống Bồ-tát…” là phần hai giải thích riêng biệt; văn đã rõ. Từ câu: “Năm đại só đó…” là phần kết giải thích. Từ câu: “Đại vương! Ta nay đem tam bảo…” là phần bốn: Xưng tên, phó chúc. Văn có ba: 1. Nói chung về phó chúc. Văn đã rõ. Từ câu: “Nước Kiều tát la…” là phần xưng danh. Từ câu: “Như vậy, tất cả…” là phần kết khuyến. Từ câu: “Thời các đại chúng …” là phần nói về thời chúng đắc ích. Văn có năm phần: 1.Tu la ích. Từ câu: “Thời mười sáu đại Quốc vương…” là phần hai: Nhân vương ích. Trong phần ích, đầu tiên nói về tám thắng xứ; đất, nước, lửa, gió là bốn đại năng tạo. Xanh, vàng, đỏ, trắng là sở tạo. Xuất ly tham dục, cho nên gọi là thắng xuất. Từ câu: “Bốn đại…” là phần tiếp theo nói về mười nhất thiết xứ: Đất, nước, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng, không xứ, thức xứ, thức xứ. Bởi những Duyên giác rộng lớn, không có xứ nào là không nhập. Ba mươi nhẫn là phương tiện của sơ địa; gọi là tướng của sơ địa. Đệ-nhất- nghóa-đế tức là sơ địa. Sơ địa là tướng của chín địa; cho nên Nhiếp Luận tụng rằng: Như tre đã chẻ đốt thứ nhất, thì các đốt khác cũng mau chóng được nứt ra. Đắc được chơn trí của sơ địa, thì các địa khác cũng sẽ mau thành. Xả thân xác phàm, đắc thân sáu trụ. Xả bỏ báo thân phân đoạn địa thứ bảy, đắc pháp thân biến dịch địa thứ tám; cho nên Trí Luận nói: Địa thứ bảy xả bỏ sinh thân, nhục thân; đó là ích của Thông giáo. Từ câu: “Mười tám phạm thiên…” là phần nói về thiên ích. Tu la và thiên đều cùng được ích. Hoa không; là tiêu biểu cho nhân không. Hoa pháp tính là tiêu biểu cho pháp không; đó là hiển bày về phục nhẫn. Hoa thánh nhân là biểu thị cho tín nhẫn. Hoa thuận là biểu thị cho thuận nhẫn. Hoa vô sinh là biểu thị cho vô sinh nhẫn. Tứ biện tự tại thuyết pháp tức là hoa pháp lạc, là hạ phẩm tịch diệt nhẫn. Kim cang tam muội có thể đoạn dứt kết sử, tức thượng phẩm tịch diệt nhẫn. Từ câu: “Tất cả chúng còn lại…” là phần nêu đại chúng ích. Hoa tâm không; nghóa là định ở trong tam học gọi là tâm học. Hoa cây tâm; nghóa là quán mười hai nhân duyên sinh. Hoa lục độ là thập địa hạnh. Hoa diệu giác là quả hạnh. Từ câu: “Mười ngàn Bồ-tát…” là phần gọi tên Bồ-tát. Văn có hai phần: Trước nói rõ về mười ngàn ích; văn đã rõ. Từ câu: “Lại còn mười ức…” là nói về cái ích của sự thành Phật; trong đó thành Phật thuộc Biệt giáo. ------------------------ PHẨM THỨ TÁM: CHÚC LŨY. Đây là chương lớn thứ ba. Phần lưu thông. Chúc nghóa là phó chúc, dặn dò, trao gởi. Lũy nghóa là dựa vào, đem pháp này trao gởi cho Quốc vương. Dựa vào sự tuyên diễn đó; cho nên bảo là chúc lũy phẩm. Vả lại, trao gởi dặn dò Quốc vương; nếu gặp tai nạn dựa vào đó mà cứu độ; cho nên bảo là chúc lũy. Lại nữa, trao gởi kinh này, khiến cho lưu hành trong nhiều đời, cho nên bảo là phẩm chúc lũy. Hỏi: Sao không như kinh đại phẩm thì trao gởi cho Thanh văn; kinh Pháp Hoa thì trao gởi cho Bồ-tát; mà lại trao gởi cho Quốc vương? Đáp: Đó là Phật, tùy theo bệnh mà cho thuốc. Vì Quốc vương có tai ách, hoằng tuyên thì được ích lợi; cho nên mới trao gởi cho Quốc vương. Lại nữa, trăm việc đại cúng dường rộng lớn, nếu chẳng phải là sức vua, thì ai có thể làm nổi! Vì vậy mà chúc lũy. Lại nữa, vua nếu đã không tin pháp, thì không hành; pháp được hành là ở tại vua; cho nên trao cho vậy. Từ câu: “Phật bảo vua Ba tư nặc…”. Văn có hai phần: Trước là phó chúc răn bảo. Sau nương theo giáo mà phụng hành. Trong phần trước lại có hai: Trước là lược nói về phó chúc. Giới; nghóa là răn bảo, khuyên bảo. Sắc; nghóa dạy bảo. Từ câu: “Sau khi Ta diệt độ…” là phần hai; rộng nói về phó chúc răn bảo. Văn phần đầu lại có hai phần: 1. Nói rõ về trao gởi. 2. Nói rõ về dạy bảo. Phần một lại có hai phần: 1. Thời trao. 2. Phần chánh nói về trao pháp cho người. Ở đây là phần một. “Tám mươi năm” nghóa là: Nội trong trăm năm, sau khi Phật đi; năm người trụ trì: 1.Ca-diếp. 2.A-nan. 3.Mạt-điền-địa. Ba người đã thấy Phật tại thế, cùng tiếp tục nhau mà trụ trì. Trải qua sáu mươi năm pháp hành không diệt; tiếp đó là Thương na hòa tu, Ưu bà quật đa hai người đó không thấy Phật; tiếp nối trụ trì. Trải qua bốn mươi năm, oai nghi pháp diệt. Vì vậy mà ở thời đó, nói là không có Phật - pháp - tăng! Nói “tám trăm năm” là nội trong những năm chánh pháp, hai mươi sư trụ trìPhật pháp, đều là thánh nhân, pháp không bị diệt. Năm thứ sáu trăm: Mã Minh Bồ-tát. Năm thứ bảy trăm: Long Thọ Bồ-tát, đều là Bồ- tát, pháp cũng không bị diệt. Trong khoảng năm thứ tám trăm, Tà tông cựa kỳ thịnh! Vì vậy mà trong khoảng thời gian đó, trao gởi cho Quốc vương; là Đề bà Bồ-tát, Thanh vương đánh trống pháp. Tám ngàn năm là thời Tượng pháp Tận Mạt pháp. Chúng sanh tin tà, cho nên pháp diệt. Từ câu: “Tam bảo kinh này…” là phần hai; trao người, pháp; phần này lại có hai: 1. Trao pháp; văn đã rõ. Từ câu: “Vì chúng sanh ba cõi…” là phần hai trao cho người. Nay dạy ba hạnh: 1.Không hạnh. 2.Thất hiền hạnh. 3.Thập thiện hạnh. Không tức là Thánh hạnh. Thất hiền tức là bảy phương tiện. Thập thiện tức là phàm hạnh; từ câu chí cạn! Từ câu: “Đời năm trược sau này…” là phần thứ hai, rộng biện về bảy điều răn bảo. Văn có bảy phần: 1.Răn dạy về các lỗi lầm của diệt pháp. 2. Trừng giới phá hoại hạnh của bốn chúng. 3.Giới cấm không nương vào pháp. 4.Tự hủy. 5.Bị sai khiến. 6.Tự đáp. 7. Lầm tín. Ở đây là phần một: Điều răn thứ nhất là các lỗi lầm diệt pháp. Văn có ba phần: 1.Nói về người diệt pháp. 2. Biện về lỗi diệt pháp. 3. Kết; thành lỗi. Trong phần một Văn có hai phần: 1.Đầu tiên nói về thời diệt pháp; tức là thời năm trọc: 1.Mệnh trọc. 2 . Kiếp trọc. 3.Phiền não trọc. 4. Kiến trọc. 5. Chúng sanh trọc. Kinh văn thù vốn có nói: Chúng sanh mười tuổi cho đến ngàn tuổi, có sự dài, ngắn; thành ra là mệnh trọc! Đói rách, bệnh tật, chiến tranh là kiếp trọc! Có nhiều tham sân si là phiền não trọc! Tà kiến, giới thủ, kiến thủ, biên kiến là kiến trọc! Bất kiến, bất nghóa, chê cười sư trưởng… là chúng sanh trọc! Từ câu: “Tỳ khưu …” là phần nói về người diệt pháp. Từ câu: “Minh tác chế pháp…” là phần biện về lỗi diệt pháp. Trong văn có hai phần: 1. Nói về việc chế bốn chánh. 2. Làm sáng tỏ việc lập bốn tà. Chế bốn chánh là: 1. Không nghe xuất gia. 2.Không nghe hành đạo. 3.Không nghe tạo tượng. 4. Không nghe tạo tháp. Lập bốn tà là: 1. Lập thống chế chúng. 2. Tỳ khưu địa, lập bạch y cao tòa. Tỳ khưu làm lính tráng. 4.Thọ nhận sự mời riêng. Từ câu: “Nên biết bấy giờ…” là phần ba: Kết những lỗi lầm. Từ câu: “Đại vương! Phá hoại, làm loạn đạo ta…” là phần hai, phá hoại hạnh của bốn chúng! Làm vua mà không hành chánh pháp thì Phật đạo bị phá hoại! Từ câu: “Đại vương! Khi đời Mạt pháp…” là phần nói về giới cấm bất y pháp. Từ câu: “Đại vương! Sau khi Ta diệt độ…” là phần bốn: Giới tự hủy. Văn có ba phần: 1.Tự hủy. 2.Khởi ác. 3.Chiêu cảm quả báo. Văn phần đầu có hai phần: Trước là pháp, sau là dụ. Văn phần đầu thì đã rõ. Từ câu: “Như thân sư tử…”, là nói về dụ. Dụ đó, theo như kinh Liên Hoa Diện: “Phật bảo A-nan: Thí như sư tử mạng chung; thân nó chết ở trên không trung, ở trong đất, trong nước, trên đất liền; chúng sanh đều không dám ăn thịt của nó; mà chỉ có các loài trùng sanh ra từ thân sư tử lại ăn thịt sư tử! A-nan! Trong pháp của Ta, chẳng có ai khác phá hoại, mà chính các Tỳ khưu phá hoại pháp ta trong ba đại A-tăng-kỳ”. Kinh kia chỉ dụ cho người xuất gia. Kinh này thì dụ cho cả đạo và tục. Từ câu: “Những người phá hoại Phật pháp Ta…” là phần hai: Khởi ác. Từ câu: “Người hoại Phật giáo…” là phần chiêu cảm quả báo. Trong văn có bốn ý: 1. Bày tỏ cái tốt, không hoại chánh pháp; gọi là Lưu. Khai mở đạo pháp không, gọi là Thông. Có thể chứa được pháp và trí gọi là Khí. Từ câu: “Các ác Tỳ khưu…” phần hai bày tỏ cái ác xấu. Từ câu: “Vua đó không phân biệt rõ ràng…” là phần nói về tin lầm. Từ câu: “Đó là phá Phật…” là phần bốn, chỉ ra sự sai lầm. Từ câu: “Bấy giờ, mười sáu Quốc vương…” là phần thứ hai, nói về đại chúng phụng trì. Văn có hai phần: Trước là phụng trì; sau là phụng hành. Văn phần đầu: Trước là thương cảm, sau là tham tiếc. Văn phần đầu lại có hai phần: Trước là phần nói rõ thương cảm. Từ câu: “Thời, các Quốc vương…” là phần sau, nói về thọ trì. Từ câu: “Bấy giờ, đại chúng…” là phần than tiếc; thương cho thời đó vậy! Từ câu: “Bấy giờ, trong vô lượng đại chúng …” là phần phụng hành. Văn có năm phần: Một là liệt kê. Từ câu” Đại chúng đã nghe những gì Phật nói…” là phần hai; nói rõ việc đã nghe pháp của Phật. Từ câu: “Hoan hỷ vô lượng nghóa là…” là phần ba; nói về Hoan hỷ. Từ câu: “Vì Phật mà tác lễ…” là phần bốn; nói về việc lễ Phật. Từ câu: “Thọ trì Bát-nhã Ba-la-mật…” là phần năm, phần nói về phụng hành. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 116