<經 id="n1702">KIM CANG KINH TOẢN YẾU SAN ĐỊNH KÝ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1702 KIM CANG KINH TOẢN YẾU SAN ĐỊNH KÝ TỊNH TỰ Giáo của họ Thích, Kinh Kim Cang xưa nay được đời tôn sùng. Từ đời Tần đến nay hơn mấy trăm năm, phúng tụng chẳng kể cao hèn, chuyện cảm ứng ghi đầy sách vở, lợi đến cõi u minh mà đạt ở thần linh. Để hướng đến Đại thừa thênh thang, phá tiểu thừa hoành lược, mà Bổ Xứ tụng lấy đó làm Bổn, hai luận giải thích mà xuyên suốt nhau, các sớ đua nhau giải thích, hoặc theo hoặc trái. Khuê Sơn Đại Sư, chọn lọc tinh anh, bỏ nhau giải thích, hoặc theo hoặc trái. Khuê Sơn Đại Sư, chọn lọc tinh anh, bỏ bớt phù ngụy, tên sách “Toản yếu”, thủ lấy trung dung, lại còn ghi chép, dùng để truyền tập. Thạch Bích Sư, thông suốt nghóa ý, viết riêng một cuốn, đặt tên “Quảng Lục”, hay thì hay vậy, nhưng lời rườm rà, hậu học thướng chẳng tiện dùng, nay san định lại, cắt bỏ những điều phiền hà tạp loạn, khiến cho trôi chảy chẳng trệ, học rồi suy tư giảng giải, đạo chúng ta chẳng lo đọa địa vậy. Đại Tống, Niên Hiệu Thiên Thán, năm thứ hai, tháng chạp ngày giáp Tý. (chú thích của dịch giả: Kinh sớ số 1702 này là quyển Sớ chú thích từng câu từng chữ kinh sớ No 1 7 0 1.tức là san định cuốn “Kim Cang Kinh Sớ Luận Toản Yếu”. Nên quyển sớ này mới có tên là “Kim Cang Kinh Toản Yếu San Định Ký”, tức là san định lại cuốn “Toản Yếu”). -------------------- Trường Sa, Sa Môn Tử Tuyền Lục <卷>QUYỂN 1 Sớ Văn chia ra ba phần: Phần Thứ Nhất: ĐỀ MỤC: Gồm hai phần Tên Sách Sớ Kinh: “Kim Cang Bát-nhã Kinh Sớ Luận Toản Yếu”: Đề này chín chữ, từ rộng đến hẹp. Năng sở sáu lớp: Năng thích và Sở thích (giải thích): “Kim Cang Bát-nhã Kinh” năm chữ là sở thích (được giải thích, chú thích). “Sớ Luận Toản Yếu” bốn chữ này là Năng thích. Năng thuyên và sở thuyên (thuyên giảng): Chữ “Kinh” là Năng thuyên, “Kim Cang Bát-nhã” là sở thuyên. Năng giảng và Sở giảng (phân biệt): Có hai phần: Giảng chung: Chữ “Kinh” thì thông cả một đời thời giáo, còn chữ “Bát-nhã” chữ cục hạn ở đương bộ. Giảng riêng: “Bát-nhã” thông cả tám bộ, “Kim cang” chỉ thuộc một kinh. Năng Dụ và Sở Dụ: “Kim Cang” là Năng Dụ, “Bát-nhã” là sớ dụ. Năng Toản và, Sở Toản: chữ “Toản” thuộc năng, nghóa là chủ Sớ, tác giả viết chú thích, người giải thích. Chữ “Yếu” là sở; nghóa là chánh nghóa. Nếu thêm vào hai chữ “Tịnh Tự” thì lại thêm một lớp nữa, hai chữ “Tịnh Tự” là năng, những chữ ở trước nó đều thuộc về Sở. Mà bảy lớp này chẳng ra ngoài Giáo, hàn, nhơn, lý. Nghóa là: chữ “Kinh” và “Sớ Luận tịnh tự” cả năm chữ này là giáo, là năng thuyên, năng thích, năng tự. Chữ “Bát-nhã” là Hành, là quán chiếu. Chữ “Toản” thuộc Nhơn, là sớ chủ, người sớ giải kinh. Chữ “Kim Cang”, chữ “yếu” thuộc về Lý. Kim Cang là dụ cho Thật tướng, tức là Chơn lý, chữ “yếu” là chánh nghóa, tức là Đạo lý. Đã biết một đề, năng sở rõ ràng, cần biết trong đề, nghóa lý cạn sâu. “Kim Cang” có ba nghóa: đó là Kiên (cứng), lợi (bén), Minh (sáng). “Bát-nhã” cũng có ba nghóa: đó là Thật tướng Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã và Văn tự Bát-nhã. “Kinh” có ba nghóa” là Thường (thường hằng), Quán (xuyên suốt, thông suốt), nhiếp (thâu tóm, bao trùm). “Sớ” cũng có ba nghóa: là Sơ (sơ tông) quyết, bố (trãi. “Luận” là nghị (bàn xét). Cũng có ba nghóa; là nghị lý, nghị trí, nghị hành. “Toản yếu” cũng có ba nghóa: là yếu nghóa, yếu hành, yếu văn. Kim Cang ba nghóa là: Vạn vật chuyển thể làm hư hoại nó, nó có thể làm hư hoại vạn vật. Lại còn có khả năng chiếu dụng, có thể dụ cho ba loại Bát-nhã vậy! Kiên (cứng) là dụ cho Thật tướng Bát-nhã; vì nó tuy trãi qua nhiều kiếp lưu chuyển lục đạo chưa từng sanh diệt, chưa từng sức mẻ hao mòn, cho nên gọi là Kiên. Vì vậy mà Tâm kinh nói: “Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm,…” Lợi (Sắc bén) là dụ cho Quán chiếu Bát-nhã, nghóa là khi nó hiển hiện rõ thì soi chiếu chư pháp không, cho nên nói là “Lợi” (sắc bén). Vì vậy mà Tâm kinh nói: “Quán tự tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật Đa thời chiếu ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Cho đến nói rằng: Vô trí diệc vô đắc”… Minh (sáng tỏ) là dụ cho văn tự Bát-nhã. Vì văn tự có thể thuyên giải rõ ràng, tỏ rõ về thật tướng và quán chiếu khiến cho hiển hiện. Do từ ba nghóa này tựa như Kim Cang kia, vì vậy mà nêu ra Kim Cang để dụ cho Bát-nhã. Mà Bát-nhã này, chư Phật và chúng sanh thảy đều có. Do kia đang tại triền (trói buộc) nên chẳng thể lợi dụng. Nếu được nghe giáo giải ngộ, nhờ lực nội ngoại huân hun thì sẽ đoạn dứt phiền não, xuát khỏi sanh tử. Lý và trí cùng nhau hòa hợp, có thể phát khởi đại dụng, cùng Phật chẳng khác. Cũng như vàng ở mỏ khoáng, nếu ra khỏi mỏ khoáng thì ắt sẽ thành thứ chặt đứt đồ vật. Mới biết Huệ này ai ai đều có, mới biết Huệ này xây lên nghóa lớn. Nay gọi “Bát-nhã”, đó là âm phạm, nghóa là Đại Huệ “Kim Cang” tức chánh dụ cho “Bát-nhã”, pháp và Dụ cả hai đều rõ ràng. Cho nên gọi là “Kim Cang Bát-nhã”. Nếu theo đề kinh đầy đủ hợp lại gọi là “Ba-la-mật”. Tức là khen ngợi cái công của Huệ. Tiếng Đường gọi là “Bỉ Ngạn đáo”, đây còn mang phong thái tiếng Tây vực. Nếu thuộc với phương này (Trung Hoa) thì gọi là “Đáo Bỉ Ngạn” (Đến bở bên kia). “Bỉ Ngạn”, tức là Niết-bàn, để đối lại với sinh tử là “Thử Ngạn” (Bờ bên này), gọi Niết-bàn là Kia, ý nói Bát-nhã là Huệ đến bờ kia, đây là biệt tướng của Huệ, mà Huệ đến bờ kia gồm có hai ý: Là Đốn và Tiện. Đốn là: khi huệ này hiển hiện, trong khoản một Sát Na, soi chiếu chư pháp không, tức là đến bờ kia, gọi đó là Huệ đến bờ kia. Vì chẳng trãi nhiều thời gian nên mới gọi là “Đốn”. Tiệm là: tuy đốn chiếu pháp không, nhưng vì quen với Tính, thành ra nhậm vận kế chấp, do vậy cần phải thúc đẩy Huệ đốn ngộ kia, giác sát vọng tình, tổn chi hựu tổn chi, (một câu trong Lão tử đạo đức kinh, tổn nó lại tổn nó, tổn cái vọng tình) để đạt đến vô vi. Tiệm này rốt cuộc cũng đạt đến bờ kia, cũng gọi là Huệ đến bờ kia. Vì trãi nhiều thời gian nên gọi đó là Tiệm. Tiệm và Đốn, nhanh chậm tuy khác, nhưng cùng một loại, gọi là Huệ đến bờ kia. Hợp lại đầy đủ gọi là “Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật”, ở đây lược bớt. Tiếp đến là nói về chữ “Kinh”. Có đủ ba nghóa. Nhưng theo các nhà giải thích, gồm có nhiều nghóa, chỉ là những nghóa từ gốc mà suy diễn ra. Nếu theo cuốn Phật Địa Luận thì chỉ thuyết hai nghóa: Quán và Nhiếp. Quán là xuyên quán những nghóa đã thuyết. Nhiếp là nhiếp trì những chúng sanh được Hóa. lại nữa, Như Lai nhập Diệt hơn hai ngàn năm, di phong vẫn còn, người được nghe chánh pháp, đó đều là nghóa xuyên quán của kinh. Chúng sanh trôi nổi, chẳng biết theo đâu, được giáo môn Phật, đều quy về chánh đạo, đó đều là nghóa nhiếp trì của kinh. Có đủ hai nghóa này, gọi đó là Kinh. Nay ở đây thêm vào một nghóa nữa là nghóa Thường, để đối với ba loại Bát-nhã: Thật tướng Bát-nhã là Thường. Quán chiếu Bát-nhã là Quán (Xuyên suốt), văn tự Bát-nhã là Nhiếp. Kinh này do La Thập dịch, câu kệ trong sáng, bóng bẩy, làm cho người thích nghe. Đến nay già trẻ sang hèn, đầy cả hoàn vũ, ai cũng đều thọ trì kinh này. “Sớ Luận Toản Yếu” tức là một quyển sớ văn này. Sớ tức là những quyển sớ chú giải thích như quyển Đại Vân của Thanh Long, quyển trần ngoại của Tự Thánh. Luận tức là trí Độ Luận của Ngài Thiên Thân Vô Trướng công đức thí luận của ngài Kim Cang Tiên. Trong mỗi một bộ luận, nhạm vận nghị bàn về Lý, Trí, Hành. Hỏi: Đã có Sớ Luận giải thích kinh rồi, hà tất còn chế thêm sớ này. Đáp: Vì để toát yếu, tức là chọn lọc những yếu nghóa của những sớ luận khác mà thành Sớ này. Mà bày ra toát yếu, gồm có hai ý: Trên thì phù với Thánh chỉ. Dưới thì hiệp với lòng người. Ý rằng các thuyết có thuyết chẳng phù hợp với ý chỉ của Thánh Nhơn, chẳng thể hiệp với lòng người. Vả lại ý thứ nhất là: Như kinh này là không Vô Tướng Tông, có người lại dùng pháp tướng Hạnh vị kê ra mà giải thích, thế tức chẳng phù hợp với Thánh chỉ sai về Tông. Vì vậy mà bài tự nói rằng: “Hoặc phối với danh tướng, trước dính sự trái với Tông”. Có người nghe là không Tông, bèn mật mạch dùng đạo lý vô tướng để giải thích, đó cũng chẳng phù hợp với ý chỉ của Thánh Nhơn. Vì Tông tuy là Vô tướng nhưng ng- hóa lại vô cùng, cứ dùng một lối giải thích, thế ắt mê ở ngọn. Cho nên bài Tự nói: “Hoặc chỉ nói Nhất Chơn, vọng nguồn mê sông”. Trước thì trái với Tông chẳng mê sông, đây thì mê sông chẳng trái tông, đều có đắc thất, đều chưa suông sẽ. Còn có người dựa theo kiến giải của riêng mình mà chú thích, tông và chỉ đều sai, chẳng đáng để bình luận. Cho nên bài tự nói: “Ngoài ra những chú thích hời hợt cạn cợt chẳng đáng luận vậy”. Mà các thuyết tuy có chỗ hay của nó nhưng vì chưa suông sẽ thì đều nói là chẳng phù hợp với Thánh chỉ. nay chế sớ này, chẳng thêm pháp tướng để khỏi trái với Tông. Tùy theo văn mà giải thích thì chẳng mê ở ngọn, khỏi hai lỗi trên thì sẽ đắc trung. Như thế mới phù hợp với Thánh chỉ. mà nay trong quyển sớ này đều dùng lời Thánh. Cho nên bài tự nói: “Chú thích chẳng công kích dị đoan tà thuyết, sớ văn luận này, như phi thành nội”. Hơn nữa hai vị Bồ-tát, tôn sư Bổ xứ, Bổ Xứ Như Lai, sư Thích Ca Phật, triển chuyển suy bổn, Phật Phật tương thừa giáng đến Vô Trướng, Thế Thân càng không có dị thuyết, mới biết sớ này tức là lời Phật, người báng sớ này, tức như báng Phật. Cho nên bài Tự nói: “Vả lại, Thiên Thân, Vô Trướng, tôn sư bổ xứ, hậu học đàu nghi, hoặc thêm hoặc bớt”. Ý thứ hai là hiệp với lòng người là: Các sách chú của các nhà, tại Lý thì chưa đúng, về văn thì quá rườm, làm cho người học, ít người dám bỏ ý, nên kẻ chuyển được niệm, kẻ thông hiểu rất ít. Cho nên bài tự nói: “Khiến cho miệng tụng lông trâu, tâm thông sừng lân”. Nay sớ này tóm tắc những điều chính yếu để hiểu rõ kinh. Phần kinh và Sớ công lại khoản năm mươi trang. Chẳng kể tăng lử hay người trần tục đều có thể lưu tâm, chẳng chỗ thượng, trung, hạ căn đều có thể học tập. Có hai ý này, nên chú thích kinh vậy. Đây là trước Trí sau Bi, tự và tha cùng lợi vậy. Vì vậy mà gọi là “Kim Cang Bát-nhã kinh Sớ Toản yếu Tịnh Tự”: Tịnh là cộng, cùng kiêm, và. Tự là thuật, là chú thích, Tự thuật chú thích ý của kinh và Sớ. Lại nữa, Tự là đầu mối,. Ý rằng bài tự chỉ nữa trang giấy, làm đầu mối để chú thích giải nghóa vậy. Quyển Sớ này có hai tác giã. Chữ “Kinh” là kinh độ, là đại. tức là Só thứ quý tiện đều hội tụ ở xứ lớn, mà là Tây kinh chứ chẳng phải là Đông, Bắc. Vì ngầm chọn nên chẳng nói là Tây. Hai chữ “Sa Môn” là tiếng phạm, tiếng Hán gọi là Cần Tức, tức là danh hiệu chung của chúng Thích Ca, nghóa là siêng tu các hạnh, dập tắt phiền não. Chữ “Thuật”; nghóa là chẳng phải tự mình chế tạo ra, phù hợp với chữ “Toản yếu” ở trước. Chỉ là tự thuật lại những ý của tiên thánh, chẳng phải riêng mình chế tạo ra, ví như phu tử nói: “Thuật mà chẳng tác, tin mà hiếu cổ, ngầm so với Lão bành ta”. TỰ TÔNG CHỈ có hai phần: 1.Tự tán ý chỉ của Kinh. Có hai phần. Mê Chơn Khởi Vọng. Có hai phần. (Đây là giải thích bài tự của cuốn “Kim Cang Bát-nhã Kinh Sớ Luận toản yếu”, câu trước là “Gương tâm vốn tịnh”, câu sau là “Hình sắc nguyên không”. Chơn không: Tính lìa duyên. Câu sau tức là Duyên, duyên thì vô tự tính, đại khái là như vậy, nếu nói cho chi li thì trước là lược phối, sau là giải tích rộng phần lược phối trước, trong hai cú này, gương và hình bóng là Dụ, tâm và sắc là pháp. “Vốn Tịnh” và “Nguyên không” thông cả pháp và Dụ. Gương là dụ cho tâm, hình bóng là dụ cho Sắc, hình bóng là cái sở hiện của gương, cũng như sắc là cái sở hiện của tâm. Gương tuy hiện hình, “Hình ấy nguyên không”, tức là hiểu rõ “gương vốn Tịnh”. Tâm tuy hiện sắc, sắc nguyên không, tức là hiển tỏ tâm vốn tịnh. Nói “Vốn Tịnh” tức là Tính Tịnh, thông cả Nhân va quả, phàm và Thánh, cho nên Hoa Nghiêm nói: “Phi Thức sở năng thức, diệc phi tâm cảnh giới. Kỳ tính bổn thanh tịnh, khai thị chư quần sanh” (chẳng phải chỗ mà Thức biệt được, cũng chẳng phải cảnh giới của tâm, tính ấy vốn thanh tịnh, khai thị cho quần sanh). Đây là lược chỉ về phối. Nếu rộng giải thích thì gương tức là gương ở nhân gian thường dùng, nhưng có bụi trần chẳng thể dùng để soi, có gương tuy sạch không có bụi trần nhưng để trong hộp, cũng chẳng thể soi. Có gương sạch, không có bụi nhơ, treo ở trên cao, soi tỏ vạn hình. Nay lấy loại gương sau cùng làm dụ. Về tâm: Có hai tông, Tính Tông và Tướng Tông, hai thuyết khác nhau: Thuyết của Tướng Tông; hoặc tập khởi là tâm, duy chỉ Thức thứ tám tích chứa các chủng tử mà khởi hiện hành, hoặc lấy Duyên lự làm tâm; thông cả tám Thức, đều có thể duyên lự với cảnh của tự phần. Nhưng thuyết này chỉ là Hữu vi sinh diệt, chẳng phải chỗ dụ ở đây. Thuyết của Tính Tông: tức là Như Lai Tạng, nguồn gốc tự tính thanh tịnh tâm, Ở đây nói tâm, chính là Tâm này, bởi vì mê hay ngộ, phàm hay thánh, thế gian hay xuất thế gian đều chẳng lìa nó. Do vậy trong khởi Tín Luận, lập nó làm pháp thể của Đại thừa. Cho nên luận nói: Ma Ha Diễn là một pháp hai nghóa. Cái gọi là pháp đó là chúng sanh tâm, tâm này nhiếp tát cả pháp của Thế gian và xuất thế gian, nương theo tâm này mà hiển thị nghóa Ma Ha Diển (Đại Thừa). Lại nói: Nương một tâm pháp, có hai loại môn: Tâm Chơn Như Môn. Tâm sanh diệt môn. Hai loại môn này, mỗi môn đều tổng nhiếp tất cả pháp, nghóa này là sao? Vì hai môn này không tách lìa nhau. Vì Chơn Như Môn là tướng chung nên nó nhiếp tất cả sinh diệt môn tuy là tướng riêng nhưng vì nó tức sinh diệt của Chơn như nên cũng nhiếp tất cả. Vì hai Môn này cùng nương theo một tâm làm suối nguồn, thì biết vạn pháp chẳng ra ngoài tâm này. Lại như Hoa Nghiêm là một thừa cực kỳ viên trên, cũng lấy tâm này làm Thể của Nhất Chơn pháp giới, cho nên quyển sớ thuyết về kinh kia, gom cả bốn pháp giới làm thành một Chơn pháp giới. Nghóa là vắng lặng, rổng rang, xung thâm, bao bác, thâu tóm vạn hữu, tức là một tâm. Thể thì tuyệt Hữu tuyệt vô, tướng thì phi sanh phi diệt. Cho đến nói rằng: chư Phật chứng cái diệu giác tròn sáng này, hiện hành Bồ-đề, vì vật mà khai thị. Mà một tâm này, có tính có tướng. Tướng thì phàm và Thánh, Mê và Ngộ, Nhân và quả,.. khác nhau. Tính thì linh linh chẳng muội, liểu liểu thường tri. Mà Tính và tướng này bất tức bất ly. Vì tướng chẳng lìa Tánh nên Hương thì đồng mà xứ thì dị (khác nhau). Vì tính chẳng lìa tướng nên ở dị (khác) mà xứ thì đồng (giống nhau). Vì tính chẳng lìa tướng nên ở dị (khác) mà xứ thì đồng (giống nhau). Vì Tính chẳng tức tướng, nên không hẳn là có sai biệt. vì tướng chẳng tức là Tính, nên chưa từng chẳng khác nhau. Bởi duyên Tính và tướng nhất vị, cho nên đồng và dị cả hai đều còn tồn, chúng cũng giống như nước và sóng vậy, tính và tướng, đồng và dị có thể biết vậy. Mà Linh tâm này chẳng phải là tất nhưng có thể vì tất cả, danh từ tâm cũng do từ đó mà đặt ra. Nay nói “Tịnh” là chỉ dựa theo nghóa tất cánh không, chẳng phải là Tịnh do phân biệt với Nhiễm, chỉ duy một tâm, xuyên suốt cả Nhiễm Tịnh. Hà Trạch nói : “Chỉ một chữ “Tri”, cửa của chúng diệu”, tất cả chư pháp y theo đó mà kiếp lập. Đã là Bí phủ mà kiến lập. Đã là Bí phủ cùa đắc thất, vừa là Huyền khu của thăng giáng, gọi là “cửa của chúng diệu”, thật là đạt vậy. Nay điều muốn bàn, tức là tâm này, mà hai loại Tông đã nói phần trên, tướng tông là Môn sinh diệt bên trong tâm này, để bàn về cạn sâu thì cần phải chia ra để phân biệt, rồi hòa hợp thông nhiếp thì thật không bị sai sót. “Vốn Tịnh” là dụ thì có thể biết. Trong phần pháp thì có hai ý: Tâm này từ bổn đến nay, tính tất Cánh Không. Hiện bị phiền não vây bọc nhưng vô nhiễm đây vừa đúng là Chơn Như Môn trong cuốn Khởi Tín Luận. Cho nên Đại Tập Kinh nói: “Thiện nam tử, tất cả chúng sanh tâm tín bổn tịnh vì tâm bổn tịnh nên phiền não chư kết chẳng thể nhiễm trước, giống như hư không, chẳng thể nhiễm ô”. Tâm tính và không tính là đẳng không có hai đẳng, hình bóng tức là vạn tượng hiện ra ở trong gương. Sắc tức là các pháp hiện ra ở trong tâm bổn tịnh (vốn tịnh), mà những pháp hiện ra đó chẳng ra ngoài Sắc tâm. Nay ở đây (bài tựa của cuốn toàn yếu), chỉ nói “Sắc” mà chẳng nói tâm, là vì: Vì câu văn chật hẹp. Vì ảnh ở dưới. Vì lấy phần đầu mà nhiếp phần sau. Hai ý trước dể hiểu, Ý sau cùng (ý thứ ba) là tất cả chư pháp chẳng ra ngoài Ngũ uẩn. Một chữ “Sắc” đứng đầu xuyên suốt cả năm. Nay nói “Sắc” là nêu ra đầu mà nhiếp cả những uẩn sau. Cho nên trong kinh Đại Bát-nhã, mỗi lần ví với chư pháp đều dùng chữ “Sắc” làm đầu. như nói: “Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật Đa thanh tịnh, nên Sắc thanh tịnh. Vì sắc thanh tịnh nên Nhất Thiết trí trí thanh tịnh…”, do vậy văn tuy nêu “Sắc” mà ý kiêm luôn cả tâm. Sắc tâm đã tỏ, vạn pháp đủ vậy. “Nguyên không” là dụ, dể hiểu có thể biết vậy. Trong pháp, có hai ý: Tức bổn lai là không. Luận nói: Tất cả chư pháp, chỉ y theo vọng niệm mà có sai biệt, nếu lìa tâm niệm thì không có tướng của tất cả cảnh giới. Tức hiện kiến không (ngay hiện thấy không): Các pháp sắc…. Vốn tự không, người mê chẳng biết vọng chấp là có, tuy là chấp có, chưa hẳn bất không, cho nên Trung Luận nói: Chư pháp nếu bất không, tức là Vô Đạo, Vô ngã. Lại nói: Vì có nghóa không, nên tất cả pháp được thành. Mà một cú này, cũng là giải thích mối nghi, e người nghe nói tâm tính vốn tịnh. Còn thấy Luận nói: Tâm này nhiếp cả pháp thế gian, bèn cho rằng vốn có đủ cả nhiễm, chẳng hợp với Tịnh, nên câu sau giải thích rằng “Hình sắc nguyên không”. Ý nói rằng Sắc,.. nếu là thật thì sẽ làm nhơ nhớp Tịnh tâm, sắc… đã là không, thì lấy gì mà làm nhơ nhớp tâm. Như gương hiện ra hình nhơ nhớp, hình nhơ nhớp nguyên không, tựa có mà thật không có thì làm sao nhiễm nhơ. Cho nên nói: “Gương tâm vốn tịnh, hình sắc nguyên không”. Kinh Vô thượng y nói: Thanh tịnh có hai nghóa: Tự tính thanh tịnh: đó là tướng chung. Ly cấu thanh tịnh, đây là tướng riêng. Trong cuốn Thật Tính Luận cũng có hai nghóa: Tự Tính thanh tịnh, đó là tính tịnh giải thoát. Ly cấu thanh tịnh: nghóa là chướng tậm giải thoát. Đời Ngụy dịch cuốn Duy Thức Luận nói: Tâm có hai loại: Tương ưng Tâm, đó là tất cả phiền não thọ, tưởng, hành,… Bất tương ưng tâm, đó là Đệ Nhất Nghóa Đế, thường trú bất biến, là Tự tính thanh tịnh tâm. Nay cái được tỏ tức là tự tính thanh tịnh và Đệ nhất nghóa đế tâm, cho nên nó là “Vốn Tịnh”. Lại nữa hai cú (tức là cú trước và cú sau”; “gương tâm vốn giải tịnh” là cú trước, “Hình sắc nguyên không” là cú sau) hổ tương giải thích cho nhau mà thành, lấy cú trước giải thích cú sau, thành nghóa “Sắc không”, lấy cú sau giải thích cú trước, thành nghóa “Tâm tịnh”. Sắc nếu chẳng không thì tâm ắt chẳng tịnh. Tâm nếu chẳng tịnh thì sắc tức chẳng không, do tâm tịnh nên sắc không, do sắc không nên tâm tịnh. Vì hai pháp; sắc và tâm chẳng lìa nhau nên biết do tâm tịnh mới có thẻ hiện sắc, như gương trong sạch mới có hể hiện hình bóng, nhiễm thì chẳng thể. Lại nữa, do vì sắc không, nên chẳng thể nhiễm tâm, cũng như hình ảnh không, nên chẳng thể làm nhơ nhớp gương. Nếu hình thật thì sẽ như vậy. Cú trước và cú sau, pháp và Dụ đối nhau mà tỏ, phản phục tương thành cho nhau. Cho nên nói là hổ tương giải thích cho nhau. Vọng Hữu: Từ câu “Mộng thức vô sơ…”: tức là vừa đúng với tâm sinh diệt Mông trong cuốn Khởi Tín Luận. Mà đây cũng có đủ cả pháp dụ, lấy mộng dụ cho Thức, lấy những vật hiện ra ở trong mộng dụ cho cảnh. Như người sau khi ngũ, nằm mộng ở chỗ không có vật mà thấy vật, dụ cho tâm mê thành Thức, ở chỗ có cánh mà thấy cảnh. Nhưng tuy vật y theo mộng mà hiện, nhưng mộng và vật đều là hư, tuy cảnh từ Thức sinh ra, mà Thức và cảnh đều là vọng. “Mộng”: Như người thường, bị thùy cái che lấp, tâm thức hôn muội, hoảng hốt thành mộng. Theo trong tự điển Thiết vận thì “Mộng” là trạng thái của tâm loạn, còn nói: “Mị kiến viết mộng”, ý nói tâm thức hôn loạn thấy những chuyện lạ, gọi đó là mộng. “Thức”: là bổn tịnh. Một tâm bổn nguyên bất giác, bất giác là vọng, tâm tính là Chơn. Chơn và vọng hòa hợp, gọi đó là Thức, tức là Thức thứ tám A Lê Da thức. Cho nên Khởi Tín Luận nói: Y theo Như Lai tạng mà có sinh diệt tâm, đó là bất sinh bất diệt hòa hợp với sinh diệt, phi nhất phi dị, gọi tên là A Lê Da Thức. “Vô Sơ”: Là sơ thủy, là khởi đầu, là đầu tiên: ý nói Thức này không có Tiền Tế (bờ mé trước kia), mà Chơn tâm và vọng thức, tuy hư và thật khác nhau nhưng nếu xét cho cùng thì không có bờ mé khởi đầu, mà có hai ý: Như kinh Phật Đảnh nói: Phiền não và Bồ-đề, cả hai đều vô thủy. Nghóa là từ khi có Chơn tâm này đên 1nay liền có vọng thức này chẳng phải Chơn có trước rồi vọng có sau, cũng chẳng phải vọng trước Chơn sau. Nếu nói Chơn trước vọng sau thì đúng phải chư Phật sẽ còn khởi vô minh lại. Nếu nói vọng trước Chơn sau thì làm sao có chuyện cái vọng của không có Chơn đứng riêng một mình được, do vậy mà biết cả hai đều vô thủy. Ở đây thì dụ mộng chẳng chỉnh, lại tựa như vàng và khoáng. Nếu nói khoáng trước vàng sau thì hợp khoáng bị vứt bỏ, luyện nó thành vàng. Nếu nói vàng trước khoáng sau thì đúng phải đồ đã thuần vàng rồi lại sinh ra khoáng được sao? Do vậy cả hai vật đều không có bờ mé khởi đầu. với pháp có thể biết vậy. Hỏi: Như Luận nói: Y Như Lai Tạng mà có sinh diệt tâm đã nói là y Chơn có vọng, tức là vọng sau Chơn trước, sao lại nói cả hai đều vô thủy? Đáp: Chẳng vậy! Cái gọi là y là tỏ rằng vọng không có tự thể, y theo Chơn mà thành, hiển rõ cái nghóa gốc và ngọn, chứ chẳng phải cái nghóa trước và sau. Cho nên Khởi Tín nói: Vì Như Lai Tạng không có tiền tế (bờ mé trước kia, khởi thủy) nên tướng của vô minh cũng không có khởi thủy. Nếu nói ngoài tam giới ra còn có chúng sanh bắt đầu khởi, tức là kinh của ngoại đạo nói. Vọng và Thể toàn không, đều không có tung tích sinh khởi, cho nên nói là “vọng vô thủy”. Cho nên Khởi TÍn Luận nói: “Giác tâm sơ khởi, tâm vô sơ tướng” tức là nghóa này. Nếu theo ý này thì dụ mộng là thích hợp vì khi mộng sinh ra, chẳng có tung tích. Có hai ý trên, cho nên nói là “Vọng Vô Sơ”. Mà trong hai dụ mộng và khoáng trên kia, mỗi dụ lấy một ít phần cùng với một thức thì nghóa vô sơ mới tận lý. Mộng thì dụ pháp vô sơ, khoáng thì dụ cho Thời vô sơ. Nếu chỉ dùng riêng một dụ khoáng thì vọng Thức có thật. Nếu chỉ lấy dụ mộng thì vọng thức có thủy (khởi thủy). Nay đã chia ra lấy chỗ tương tự, lý cực thành vậy. “Vật”: Tức là những vật hiện ra trong mộng. “Cảnh”: Những cảnh ngã, pháp biến ra trong thức. “Thành Có”: Ví như trong mộng thấy cảnh giới mình người khi tỉnh giấc nhớ lại liền chắc là không có, khi đang trong mộng quyết chắc là có. Nếu chẳng vậy thì sao lại có những chuyện khen mừng, chê giận, ghét khổ thích sướng, vì vậy mà biết là có (Hữu), như trong sách Trang Tử kể: trang Châu mộng làm bướm, quên mất mình là Trang Châu, đến lúc tỉnh dậy hết mộng, đâu từng còn có Bướm, khi làm trang Châu đã chẳng ham thích bướm. Khi làm bướm cũng chẳng ham thích Trang Châu, bướm và Trang Châu đường ai nấy đi, chẳng quen biết nhau. Mà theo ý sách ấy là để tỏ rõ sống và chết ngang bằng. Nay ở đây dẫn ý sách ấy là để tỏ rõ cái nghóa chấp thật. Nghóa là nương vào Vọng Thức mà biến khởi những tướng, ngã, pháp … Ngộ đến rồi, liểu đạt thì biết là không. Nếu khi đang mê, chấp chặc là có. Nếu chẳng vậy thì đâu có những chuyện ham, giận, yêu, ghét, lấy, bỏ … Mới biết là có. Cho nên Thành Duy Thức Luận nói rằng: Y Thức sở biến, vọng thấy Ngã pháp. Giống như huyển mộng. Vì lực huyển mộng, tâm tựa nhiều thứ tướng ngoại cảnh hiện, duyên theo chấp này làm thật có ngoại cảnh. Nhưng tuy trong mộng thấy nhiều sự việc, suy cho cùng chỉ là một tâm mộng. Vì khi tâm mộng diệt thì việc mộng đều diệt. Trong pháp cũng vậy. Cảnh tuy vô lượng, căn gốc của nó chỉ là một Thức tâm, khi Thức tâm diệt, cảnh giới tùy diệt. Cho nên khởi tín luận nói: tất cả chư pháp tuy y vọng niệm mà có sai biệt. nếu lìa tâm niệm thì không có tất cả tướng của cảnh giới, biết rằng tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức, thật chẳng đổi thay! Do tam thế gian này, tất cả khi lậu nhiễm pháp đều từ vọng thức mà sanh, cho nên gọi tên Thức này là vọng bổn (gốc vọng). Mà tất cả hữu làm nhiễm pháp, thứ tự sinh khởi vi trước, gồm có hai lớp: 1.Căn gốc vô thủy; 2.Cành ngọn triển chuyển. Phần cành ngọn triển chuyển sẽ nói trong phần sau, phần “Đuổi vọng”. Phần căn gốc vô thủy đúng đang nằm ở đoạn này. Nói căn gốc, tức là căn bản vô minh. Nói vô minh, nghóa là không có cái sáng suốt của Diệu giác. Vì dựa theo tướng chung mà nói thì đúng với Thức này, mà căn bản vô minh, có đủ hai nghóa, đó là mê Chơn, chấp vọng. “Mê Chơn”; tức Chơn tâm vốn chẳng sanh diệt, đức tướng và nghiệp dụng của nó nhiều không kể xiết, thường ngày dùng nó mà chẳng hay, như cuồng như say, cũng như cô gái nghèo trong nhà có chôn cất kho báu. Con trai cùng khổ trong áo có minh châu, tuy có như không, oan uổng chịu khổ nạn cho nên Hoa Nghiêm nói: chẳng liểu hiểu Đệ Nhất nghóa, gọi đó là vô minh. “Vọng chấp”: Vọng tức là sắc ngã uẩn cùng với tâm, như huyển như hóa, vốn không có thật thể, chúng sanh nhận đó cho là tự thân tâm mình, cho hư là thật, gọi là vọng chấp. Cho nên kinh Viên Giác nói: Vọng nhận tứ đại cho đó là tự thân tướng mình. Lục trần duyên theo ảnh cho đó là tự tâm tướng mình, cho đến kết luận rằng do từ vọng này mà có luân chuyển sinh tử. Cho nên gọi là vô minh. Mà hai nghóa này (mê Chơn, vọng chấp) tương thành cho nhau, nêu ra một nghóa thì kiêm luôn cả hai, chưa từng riêng lẻ. Nếu chấp vọng thì ắt phải mê Chơn. Nếu Mê Chơn thì ắt cần chấp vọng. Thí như có người mê Đông ắt chấp tây, cũng hổ tương thành lập cho nhau, ngẩm suy sẽ rõ. Bài tự của sớ,từ đây về sau là phần hai. 2.Tập Vọng Lưu Chuyển: Ngay khi vọng pháp sinh khởi là Môn thứ hai, triển chuyển cành ngọn. “Do bởi…”: Do bởi là nhân vì, bởi vì. Vì mè Chơn mà thành thức, hiện khởi thế gian tất cả cảnh giới. Duyên theo cảnh giới này mà khởi Hoặc, tạo nghiệp, thọ báo vô cùng. Trong đoạn văn này có 4 chữ “Hoặc nghiệp, Báo ứng”, chỉ là ba đạo, mà ba pháp này trong các giáo, có giáo gọi đó là ba chướng, vì làm chướng ngại Thánh Đạo, hoặc gọi là ba Đạo. Vì dẫn tâm quanh co men đến nghiệp báo, hoặc gọi là Ba tạp nhiễm, vì tính chẳng thanh tịnh. Lại nữa, Ba chướng này nương cậy nhau: Do vì phiền não mà khởi ác nghiệp, do nhân duyên ác nghiệp mà đắc quả khổ. “Hoặc”: tức phiền não. Về phẩm loại tức là căn bản và tùy căn bản có sáu: đó là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kến. Tùy phiền não có hai mươi: phẩn, hận, phú, não, tật, san,… tán loạn, bất chánh tri. Nếu nói tóm tắc thì chẳng ngoài ba thứ trong căn bản phiền não, đó là tham sân si, ngay ở ba thứ này thì có thể thành tựu tam giới thế gian. Vọng nhận thân tâm ngủ uẩn. Ngay thân tâm này là căn gốc lỗi lầm hoạn nạn, cho nên Triều Công nói: Dựa theo trời đất mà làm ra cao thấp. Dựa theo trời trăng mà làm ra đông tây, dựa theo thân xác mà thành ra kia đây, dựa theo tâm mà làm ra thị phi đúng sai phải trái. Lão tử cũng nói: ta có hoạn nạn lớn, đó là ta có thân xác, đến khi ta không có thân thì ta có hoạn nạn gì! Mới biết thân này là gốc rể của tất cả lỗi hoạn nạn. Đã chấp nó là có, bèn chia ra mình và người, nương theo thân tâm này mà khởi những phiền não, trên tất cả cảnh thuận với tình, khởi lên tham tâm. Trên tất cả cảnh trái với tình, khởi lên sân tâm, để tự hộ vệ tự thân mình cho nó là chủ tể, ở trong hai thứ đó, chẳng biết đó là vọng, nhậm vận mà khởi, mới gọi đó là Si, những thứ phiền não này, xét cùng nguyên nhân của chúng đều từ căn bản vô minh mà có. “Nghiệp”: Nghiệp tuy vô lượng, gom lại chỉ có ba; đó là thiện, ác, bất động, do tham, sân hừng hực, phát động thân, khẩu làm các ác nghiệp, tức là mười nghiệp; thân ba nghiệp, khẩu bốn nghiệp, ý ba nghiệp, hoặc có người hơi biết Nhân quả, tham đến sinh ra những sự việc vinh dự vui thích, liền lật ngược làm thành thiện, trì giữ năm mươi tám giới như, bất sát,… tức là thiện nghiệp, hoặc ghét những chướng thô khổ ở dưới, thích những lợi diệu tịnh ở trên, tu thiền định Hữu lậu, gọi là Bất động nghiệp. Mà ba loại nghiệp này tuy hơn kém khác nhau, đều do mê tâm tạo ra, đều nằm trong Hữu lậu. cho nên trong viêc giác kinh kết luận ba nghiệp rằng: Vì đều luân hồi, chẳng thành Thánh đạo, do đó mà biết ba nghiệp trước đều nương theo phiền não mà thành. “Báo Ứng”: ứng tức là Báo, đã có nghiệp chủng, uẩn tại trong Thức, khi nhân duyên hội, ắt phải thọ báo. Niết-bàn kinh nói: Dù trong bầu trời biển. Dù vào giữa đá núi, không có phương chốn nào, mà tho- át chẳng thọ báo. Thương Thư nói: Trời làm nghiệt, còn có thể trái, tự mình làm nghiệp thì chẳng thể trốn. Do vậy, có nghiệp ắt có báo ứng, nhưng nếu suy các nghiệp, thể, tướng đều không có. Như bóng gương, như tiếng vang, chẳng sai lầm. Mà xét chung quả báo, lục đạo khác nhau, xếp theo loại thì chỉ có ba loại: đó là khổ, lạc, xả, do những Ác nghiệp trước kia làm Nhân sẽ cảm khổ báo tam đồ; là Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Do từ Thiện nghiệp trước kia làm Nhân liền cảm lạc báo cõi người cõi trời, đó là Tứ châu, lục Dục. Thiện do những Bất động nghiệp trước kia làm Nhân tức cảm báo giới trên sai biệt, tức sắc giới, vô sắc giới. Mà ở trong Tam giới, thân cảm thọ khỏ Lục là biệt nghiệp chánh báo môi trường sống hơn kém tức là cộng nghiệp. Y báo, chánh báo có sanh lão bệnh tử, y báo có thành, trụ, hoại, không, môi trường sống không rồi lại thành, Hữu tình chết rồi trở lại sinh, vô thủy đến nay liên miên bất tuyệt, mê hoặc đắm say, thật đáng thương thay! Nên Pháp Hoa nói: tam giới vô an, giống như nhà lửa, do vì báo nhân nghiệp cảm, Nghiệp do hoặc mà thành, Nhân của hoặc là vô minh, vô minh vô thủy, một niệm vọng có. Ắt biết Tam giới, lục đạo, Hữu tình, vô tình xét về nguyên do, đều vì mộng thức mà có. “Quen tập, xoay vòng”: “Quen” nghóa là tiếp nối, nghóa là, liên tục, do hoặc mà phát nghiệp, nghiệp chiêu cảm khổ, thứ đệ tương tục nhau. “tập” nghóa là huân tập, bắt chước nhau, ý nói Hoặc nghiệp niệm niệm bắt chước nhau, niệm niệm huân tập nhau. Duy Thức nói: Do chư Nghiệp, tập khí nhị thủ, tập khí câu, nên gọi là Tập. Mà hai nghóa này cùng nuôi dưỡng cho nhau. Nghóa là vì tương tục nối tiếp nhau nên bắt chước nhau, bắt chước nhau nên nối tiếp nhau, cho nên gọi là “Quen tập”. Cho nên Duy Thức nói: Dị Thục trước kia đã hết, lại sinh ra dị thục khác. Thí như có người tập Nho học văn, do thừa tập ở Nho mới có thể học tập văn. Do học tập văn mới có thể kế thừa Nho. Nghóa nuôi dưỡng nhau há chẳng rõ ràng ư! “Xoay”: là xoay tơ: Nghóa là chúng sanh nghiệp chủng tuy lại vô biên, rốt cuộc chẳng cùng một thời thọ nhận quả báo lục đạo, báo có thứ tự, cho nên gọi là xoay tơ. Mà có hai nghóa: Như người mắc nợ, chủ nợ mạnh thì kéo trước. Như người trồng cây, càng tươi nhuận thì mọc trước. “Vòng”: là chuyển vòng, nghóa là sinh ra rồi chết, chết rồi lại sinh, sinh tử chẳng ngừng, cho nên gọi là “Xoay vòng”. Hoặc chết ở cõi trời, sinh ra ờ cõi người, chết ở cõi người, sinh ra ở cõi súc sanh, cho nên kinh Vô Thường nói: Tuần hoàn trong tam giới, giống như bánh xe múc nước. Mà hai nghóa này cũng hổ tương nuôi dưỡng nhau. Do xoay tơ mà chuyển vòng, do tơ kia chuyển vòng mà chẳng ngừng nghó. Khiến đầu tơ khởi chuyển chẳng tuyệt, cũng co đầu tơ khởi chẳng dứt, khiến cho tơ xoay vòng chẳng ngừng. Hoặc có thể lấy chữ “Luân”, thì nghóa cũng thông, là trầm luân, chìm đắc, nghóa là trong dòng sông lớn sinh tử, bị chìm đắm lâu ngày, nên gọi là “Luân”. Niết-bàn Kinh nói: Nếu có chúng sanh, vui với Hữu Vi, tạo tác các nghiệp, người ấy mê mất Chơn thường, đó gọi là ạm ra lại chìm. Trong quyển Sớ Toản yếu lại dùng chữ “Luân” (vòng) như trên đã nói. “hoặc Nghiệp” thì nói là “Quen tập”. “Báo ứng” thì nói là “Xoay vòng”. Mà hai đôi đối nhau, cũng hổ tương nuôi dưỡng nhau, nghóa là do hoặc nghiệp quen tập mà báo ứng xoay vòng, khiến cho Hoặc quen tập, đây tức là thừa theo Nhân mà cảm quả, y theo quả mà tạo Nhân. Nhân và quả nuôi dưỡng nhau làm cho chẳng dứt. Đây tức nghóa của Thập Nhị Nhân duyên, tiền tiền làm Nhân, hậu hậu làm quả. Cho nên Duy Thức Tụng nói: “Do chư nghiệp tập khí, Nhị Thủ Tập khí câu, Tiền Dị Thục dó tận, phục sinh dư dị thục”. Hoặc nói: Cứ như vậy mà khởi Hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, luân chuyển thời kiếp dài ngắn hay sao? Cho nên tiếp đến nói rằng: “Trần Sa kiếp Ba, chẳng hề dứt tuyệt”: Trần là vi trần do đập tan thế giới mười phương. “Sa” tức là cát trong sông Hằng, mịn như bột. Sông này chu vi bốn mươi dặm, cát mịn như bột. “Kiếp Ba” là âm phạm, tiếng Hán gọi là thời phần. Đại kiếp, tiểu kiếp, thời dài, thời ngắn, co dãn tuy khác, gọi chung là Thời phần. “Chẳng hề”: là chẳng thể. “Dứt tuyệt” là ngừng, diệt. Ýù nói lục đạo chúng sanh, khởi hoặc tạo nghiệp thọ sanh luân chuyển cho đến nay, một hạt cát là một kiếp ba, cát hết nhưng kiếp ba chẳng kết, lại cho mộ trần là một kiếp ba, trần hết mà kiếp ba chẳng tận. Trần sa thì có hạn, kiếp ba thì vô cùng, nối tiếp đến nay, chẳng thể ngừng nghỉ. Cho nên nói: “Chẳng hề dứt tuyệt”. Mà hai đoạn này, chữ câu tuy niều, nếu xét sự việc thật thì chẳng qua chỉ năm chữ; đó là “Tâm, Thức, Hoặc, Nghiệp, Báo”, ngoài ra đều là tỏ rõ Chơn và Vọng, thành lập từ ngữ luân hồi. Ý nói vốn là một tâm, bất giác thành ra thức, khởi Hoặc, tạo Nghiệp, sinh tử vô cùng. Do vậy mà Như Lai hiện thân thuyết giáo, cho nên mục này gọi là “Duyên khởi giáo”. 2. Ý của thuyết giáo. Trong bài tự của quyển “Sớ Luận Toản Yếu”, từ câu “Vì vậy, ta….”: Như Pháp Hoa Kinh nói: “Ta dùng Phật Nhãn thấy lục đạo chúng sanh, bần cùng không có phước và huệ, nhập vào con đường cheo leo sinh tử, khổ nối tiếp nhau chẳng dứt… vì những chúng sanh ấy mà khởi Đại bi tâm…” Văn chia ra hai phần: Nói về ý A Hàm. Có hai phần. Chánh tỏ: Đoạn văn này, hai câu đầu nêu Phật hiện thân: “Vì vậy”: là do vậy, cho nên. “Ta”: tức là chỉ cho Phật. “Mãn Tịnh”: là để phân biệt khác với một phần Tịnh. Vì Phật vô minh vónh viễn tận hết, cực kỳ vô niệm. “Giác”: là giác ngộ. “Giả”: Là chỉ cho người. Nghóa là Phật là người giác ngộ, tiếng phạm là Bồ-đề. Hán dịch là giác, đây là dựa theo pháp. Tiếng phạm là Phật Đà, Hán dịch là Giác Giả, đây là dựa theo Nhơn (người). Nay ở đây nói về người (Nhơn). Cho nên nói là “Giác giả”. Cũng có thể chữ “Mãn” là tổng (chung), chữ “Giác” nồi là biệt (riêng), chữ “Giả” là thuộc về Nhơn (người) tức tỏ rằng Như Lai là bậc mãn tịnh mãn giác, phân biệt với chư Thánh Nhơn, Giác và Tịnh chưa mãn. Duy chỉ có Phật Như Lai, ba chướng đều tận, ba giác đều viên tròn. Cho nên gọi Như Lai là “Mãn Tịnh giác giả”. Nếu dùng Tịnh và giác so với chúng sanh, Nhị thừa Bồ-tát, chư Phật và Bổn Tính để phân biệt thì có hai loại bốn cú: lại về Tịnh: chúng sanh bất tịnh, Nhị Thừa Bồ-tát được phần tónh, chư Phật Mãn tịnh, Bổn Tính chỉ có tịnh. Loại về Giác: Chúng sanh bất giác, Nhị Thừa Bồ-tát có phân giác, chư Phật mãn giác, Bổn Tính chỉ có giác. Nay ở đây trong hai loại bốn cú này, đều đúng ở cú thứ ba. “Hiện tướng”: Tức là tướng của Hóa thân. “Trong cõi loài người”: Tức là xứ hiện hóa, duy chỉ thị hiện tướng trong cõi loài người. Trên cõi trời thì đắm dính vào vui thú, không có nguyên do để phát tâm, trong tam đồ thì quá khổ, đúng vào nơi khổ nạn, duy chỉ ở trong cõi người, kiêm cả khổ và lạc, đối khổ ắt có thể phát tâm, cho nên Phật xuất hiện giáo hóa. trên cõi trời giống như bệnh chưa phát, đâu cần châm cứu. Tam đồ thì tựa như bệnh bẩm sinh khó trị, chẳng đủ y trị. Trong cõi người thì như bệnh tương đối nhẹ, có thể cho thuốc, cho nên Phật xuất hiện. Mà Như Lai hiện tướng gồm có bốn loại: Tha Thọ Dụng Báo Thân, Đại Hóa Thân, Tiểu Hóa Thân, tùy loài Hóa Thân. Nay tỏ rằng người thuyết giáo này tức là Tiểu Hóa Thân. Mà có tám tướng: Từ Đâu Suất Thiên thối lui. Nhập thai. Trú thai. Xuất thai. Xuất gia: (chú) năm 19 tuổi. Thành đạo (chú), năm hai mươi lăm tuổi. Chuyển pháp luân (chú) trãi năm mươi lăm năm. Nhập Niết-bàn. (chú) năm tám mươi tuổi. Luận này nói hiện thân là nói tướng lúc thành đạo, tiếp đó nói về thuyết pháp, tức là tướng chuyển pháp luân. Tướng Phật thành đạo; là thân cao trượng sáu, thân màu vàng tía, cổ hào quang tròn, ngực đề chữ vạn, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Bát Bộ hộ vệ, tứ chúng tôn sùng, nguy nguy nga nga, sáng rợp trời trăng, đức tướng rất nhiều, chẳng thể kể xiết Tiểu Hóa thân này, tướng ấy hơi kém. Nếu là thọ dụng thân thì mây, bùn có khác. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: Trưởng giả cởi áo trân ngự, mặc áo nhơ rách, y phục trân ngự để dụ cho Thân thọ dụng, y áo như rách tức dụ cho hình thể vàng tía. Bởi vì chúng sanh cấu trọng, chẳng kham nổi thấy cái thân thắng diệu, đã chẳng thể thấy, cũng chẳng thể nghe, thì với chúng sanh đều không lợi ích. Đại bi tiếp vật mà hiện tiểu hóa thân cũng như Pháp Hoa kinh nói: Cùng tử thấy cha, ngồi ghế sư tử, bệ ngọc đở chân, phú quý thù thắng, oai đức đặc tôn, cùng tử thấy vậy, thầm nghó thế này; đây hoặc là vua, hoặc là hàng vương, chẳng phải là nơi ta ra trước được vật. Trưởng giả thấy con trai, lẳng lặng mà nhận con,.. bèn cởi bỏ áo quần sang trọng và đồ trang sức, mặc áo thô xấu tay phải cầm chỗi quét phân, nhờ phương tiện này, được gồm con trai. Dụ này là Như Lai dấu Thân thù thắng kia, hiện thân tướng kém. Quyển “Sớ Luận Toản Yếu”, từ câu “Trước thuyết…”: là nói về thiết giáo. Vì Phật sự ở phương này, nhờ vào âm thanh, nếu không có ngôn giáo thì hiện tướng có ích gì, giáo thì trước là thuyết tiểu (Thừa) sau mới thuyết Đại (Thừa), hoặc có người nói rằng: Đây là nói về Bát- nhã, sao lại luận về Tiểu Thừa? Đáp rằng: tuy đồng là Phật thuyết, có sâu có cạn, nếu chẳng đối biện thì làm sao biết cạn biết sâu, mà một đời Phật giáo chẳng ngoài Đại thừa tiểu Thừa, cho đến Viên Tông cũng là thâu tóm trong Đại thừa, mà tông thì đều là tông Nhân duyên, tuy đồng là tông Nhân duyên. Trong đó có cạn có sâu khác nhau; Tiểu thừa tức nhân duyên sinh diệt, Đại thừa thì Nhân duyên vô tính. Vô Tính Nhân duyên; là như Trung Luận nói: “Pháp do Nhân duyên sinh, ta nói tức là không”. Không tức nghóa là Vô tính, nay tỏ về Tiểu Thừa cho nên nói “Nhân duyên sanh diệt”. Nhân duyên sanh diệt; là chư pháp duyên hội thì sinh, duyên lìa liền diệt. Đã sinh đã diệt, đủ biết vô thường, mà có pháp sinh diệt là bởi vì có pháp chấp. Phật xuất thế trước tiên thuyết Tiểu thừa là vì có hai đối trị: Thuyết sinh diệt để đối trị ngã chấp của phàm phu ngoại đạo. Ngã nghóa là chủ tể, đã nói sinh diệt thì biết là vô chủ, vô chủ vô tể thì vô ngã. Thuyết nhân duyên để đối trị kế cho là tự nhiên của ngoại đạo. Cái chấp của ngoại Đạo đa phần là chấp vào thần ngã. Vì có tác giả có thọ giả nên chấp luôn cả tự nhiên. Đã nói Nhân duyên thì chẳng phải là Thần Ngã, chẳng phải tự nhiên. Vì để trị hai chấp trên do vậy “Trước thuyết Nhân duyên sinh diệt”, tức là Phật sơ thành đạo, bắt đầu từ Lộc Uyển độ năm Câu Luận, tiếp đó độ ba anh em Xá-lợi-phất, Mục Liên, Ca Diếp, trong khoảng mười hai năm thuyết giáo, tức là các bộ kinh A Hàm… “Khiến ngộ …”: Phật thuyết pháp này, ý khiến cho chúng sanh ngộ Tứ Chơn Đế. Đây có hai loại Nhân quả: tập là Nhân Thế gian khổ là quả thế gian. Đạo là Nhân Xuất thế, Diệt là quả xuất thế. “Khổ” tức là Ba khổ, tám khổ. Ba khổ: là khổ khổ, Hoại khổ, hành khổ. Tám khổ là: sinh, lão, bệnh, tử, cầu chẳng được, năm ấm quá thịnh, yêu mà ly biệt, ghét mà hội nhau. “Tập”; tức là Nghiệp Hoặc, như đã nói trong phần đuổi theo vọng. “Diệt”; tức là hai loại Niết-bàn; Hữu Dư và Vô Dư. Vào kinh có thể thấy. “Đạo”; tức là Bát chánh Đạo là chánh kiến, chánh tư duy, kì Ngữ, chánh Nghiệp, chánh mệnh, chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định. “Đế”: nghóa là Thánh thật, như thế gian khổ tập, bức bách hòa hợp, sự không có hư dối, sai lầm, gọi đó là Thật nghóa, chẳng phải nói Bất sinh bất diệt gọi là Thật, tức nói rằng khổ định khổ, tập định tập, do vì nghóa này, cả bốn đế đều là vậy. Cho nên kinh Di giáo nói: Mặt trời có thể khiến cho lạnh, mặt trăng có thể khiến trở thành nóng, Phật thuyết khổ đế, Thật khổ chẳng thể khiến cho (trở thành) lạc, tức ví như Phật ở vườn Lộc uyển vì năm Tỳ kheo tam chuyển Tứ Đế pháp luân. “Tam chuyển” là: Thị tướng chuyển, Thị: nghóa là hiển thị khổ hành tướng, khiến cho họ ngộ giải, nói rằng “Đây là khổ, đây là tập”. Khuyến Tu chuyển khuyến; nghóa là khuyên răn khiến cho họ tu đoạn, rằng “đây là khổ, ông cần nên biết. Đây là tập, ông cần nên Đoạn”. Tác chứng chuyển: Tác chứng nghóa là dẫn những việc mình đã làm, khiến cho họ tin nhân, rằng “Đây là khổ, ta đã tri. Đây là Tập, ta đã đoạn”. Ý nói ta đã tri, đã đoạn, đã tu, đã chứng, các ông bắt chước theo ta, sẽ tri, sẽ đoạn, sẽ tu, sẽ chứng thuyết như vậy xong, một loại người tiểu căn, như lời khải ngộ, ghét sinh tử khổ. Lạc cần Niết-bàn, phát tâm tiến tu, tác ngũ Đình tâm, bảy loại phương tiện, Đoạn những Hoặc thọ phân biệt dưới Tứ Đế tam giới, đắc chứng sơ quả, cho đến tiến tu dần dần đoạn dứt những Hoặc vi tế câu sinh tử ở Tam giới, chứng ba quả còn lại, đăc A La Hán, ắt khiến cho Thế gian nhân vong, quả táng, xuất thế gian Nhân Sinh, quả chứng. Pháp Hoa nói: Vì hàng cầu Thanh Văn, thuyết ưng Tứ Đế pháp, độ sinh lão bệnh tử, cứu cánh Niết-bàn, do vậy sớ nói: “Trước thuyết Nhân duyên sinh diệt, khiến ngộ khổ tập diệt đạo”. Kết Phán Quyển “Luận Sớ Toản yếu” bài tự, từ câu “Đã trừ…”: “Ngã chấp”; tức ở tổng tướng của Ngũ uẩn, kế cho là có chủ tể, gọi đó là Ngã chấp, Nếu mỗi một uẩn mà suy cầu thì trong tính của sắc, thọ,… chẳng thấy thể của Ngã, gọi đó là Ngã không. Nếu thấy những pháp ngũ uẩn thật có thể tính thì gọi đó là pháp chấp. Nếu liểu hiểu ngũ uẩn như huyển như hóa, theo từ Duyên, không có Tính, thì gọi đó là pháp không. “Đã trừ”: Là đã tận. Vì người Tiểu thừa nghe thuyết nhân duyên sinh diệt, chuyển chấp ở Ngã nữa, cho nên nói “Đã trừ ngã chấp”. “Chưa đạt”: Là vì chưa nghe thuyết Nhân duyên vô tính, còn kế cho pháp uẩn là thật, cho nên nói “ chưa đạt pháp không”. Nếu nói cho đầy đủ thì hợp lại mà nói rằng “Đã trừ ngã chấp, đã đạt Ngã không, chưa đạt pháp không, chưa trừ pháp chấp”. Vì văn tóm lược nên nói “Đã trừ ngã chấp” thì chính là đã đạt Ngã không. “Chưa Đạt pháp không” tức là chưa trừ pháp chấp. 2.Tự Thuyết Ý Bát-nhã. Có hai phần: Bắt đầu từ câu “Muốn tận…” Nói chung về đại bộ. Có hai phần: Tự về Giáo, giải thích ý. “Bệnh căn”: Là dụ cho pháp chấp, như người có bệnh khiến cho người bất an, như cây có gốc rể, có thể sinh ra ành lá, ý nói rằng hai chấp giống như bệnh, làm cho chúng sanh chẳng được an lạc. Nếu thủ pháp chấp thành ra là bệnh thì bệnh chính là căn, theo trì nghiệp mà giải thích. Nếu thả Ngã chấp là bệnh, là căn của bệnh thì giải thích theo chủ. Nay ở đây bệnh thông cả hai chấp. “C8an” là dụ cho pháp chấp, bởi vì Năng y và sở y, hai thể khác nhau, Ngã là Năng y, pháp là sở vì Năng theo Sở mà sinh, cho nên Nặng chẳng phải là căn. Căn chỉ hạn cục ở Sở. Do vậy, phàm phu có Ngã chấp, ắt kiêm có luôn cả pháp chấp. Nhị Thừa có pháp chấp chẳng ắt có cả Ngã chấp. Lại nữa, Nhị Thừa không có Ngã chấp thì chưa chắc không có pháp chấp. Bồ-tát không có pháp chấp thì ắt không có ngã chấp, như nhân vì mê ghế mới có thể thấy người. “Bát-nhã”: tức Huệ. Vì để hiển pháp này, cho nên di ngôn thành giáo. Giáo tức là văn tự. Bát-nhã tức là hai Bát-nhã; Quán chiếu Bát- nhã và Thật tướng Bát-nhã. Nay dựa theo Phật mà luận, cho nên cả pháp và giáo đều gọi là Bát-nhã. Trong đoạn văn này ý nói: Như Lai ý muốn tận căn bệnh hấp có của chúng sanh mới thuyết về Bát-nhã không Tông. Mà Đại thừa giáo pháp vô lượng vô biên, vì sao trong này chỉ nói về Bát-nhã? Đó là vì Bát-nhã là cánh cửa đầu tiên của Đại thừa, nó có khả năng phá chấp. Hai chấp nếu trừ thì Chơn tính tự hiện. Do vậy mà chỉ thuyết về Bát-nhã để trừ những căn bệnh đó. Do vậy mà Cổ Đức nói: Hoa Nghiêm kinh giống như phép trị quốc, như thuốc dưỡng tính. Bát-nhã giáo giống như tướng định loạn, thuốc trị bệnh. Hai kinh đã vậy, các kinh khác có thể suy ra mà biết. “Tâm cảnh …”: mà Phật đầu tiên thuyết Tiểu thừ, tâm và cảnh đều có. Thuyết Đại thừa pháp tướng thì cảnh không, tâm có. Thuyết Bát-nhã giáo thì tâm và Cảnh đều không. Nay chính tỏ điều này, cho nên nói là “Đều dứt” “Tâm” tức là Tâm, Tâm sở pháp. “Cảnh” tức là tướng phần của các Thức. Tâm thì thông cả Năng biến và năng duyên, cảnh thì thông cả bản chất và hình ảnh. Tâm và cảnh đều mất, cho nên nói là “Đều dứt”. Nghóa là dựa theo Biến kế thì đều vô sở Hữu, như dây thừng mà tưởng là con rắn. Dựa theo y Tha thì duyên vô tự tính, như dây thừng trên gai. Do tâm mà cảnh, do cảnh mà tâm. Cảnh diệt tâm không, tâm như cảnh rụng. Mà chư pháp tuy nhiều, chẳng ngoài Tâm và Cảnh. Tâm cảnh đã dứt thì tất cả đều dứt. Tâm kinh cũng nói: “Vô nhãn nhỉ tị thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nải chí vô ý thức giới…”, cho nên nói “Đều dứt”. “Tức là Chơn Tâm”: Là hiểu rõ chẳng phải đoạn diệt. E rằng nghe tất cả pháp dứt thì đều là vô ( không có), chư pháp đã không có thì đúng phải thành là đoạn diệt, cho nên ở đây hiểu rõ rằng “ tức là Chơn tâm”. Mà tâm này khác với chữ “Tâm” ở phần trên. Trên là Duyên sinh vọng tâm, tức mộng thức ở phần trước. Còn đây là thường trú Chơn tâm, tức là “gương tâm” ở phần trước. Vì để tách biệt rõ, cho nên nói là “Chơn”. Vì tất cả pháp đều y theo tâm này, nếu lìa tâm này thì không có một pháp nào riêng biệt. cho nên kinh nói: tất cả thế gới Nhân quả, vi trần, nhân ở tâm mà thành Thể, những thứ mà tâm hiện ra, gọi đó là y Tha, chấp chúng là Thật, thì gọi là Bến kế, Y Tha và Biến kế đã mất, tức là viên thành, như dây thừng nhờ sợi gai mà có, tưởng con rắn do ở dây thừng mà sinh ra. Dây thừng và con rắn đã mất thì ắt trước dính vào sợi gai vậy. Đó là mật ý của tác giả quyển “Sớ Luận toản yếu” khi xuất ra Bát-nhã. Nếu căn cứ theo văn kinh thì chỉ nói chư pháp giai không, chẳng nói “tức là Chơn tâm”. Cho nên phần sau kinh nói: “Ly tất cả tướng, tức danh chư Phật”. Văn tuy chẳng nói ra, nhưng nghóa thật thì như vậy. Nếu theo pháp tính tông thì ngay ở chỗ chư pháp không mà hiển ra Chơn tâm. Cho nên Viên Giác kinh nói: “Nhiều thứ Huyển hóa đều sanh ra Diệu tâm viên giác Như Lai. Giống như không hoa, từ không mà có, cho đến nói rằng: Chư huyển tận diệt, giác tâm bất động, cho nên nói “Tức là chơ tâm”. “Như sạch đều mất”: Phần trên nói tâm, cảnh, nhiễm, tịnh đã xả, văn chưa nói rõ, cho nên nói lại. Yù nói chẳng những không có những pháp tâm, cảnh Hữu lậu. nếu ở trong pháp, pháp nhiễm, tịnh cũng lại chẳng có. Vì để đối trị nhiễm như, nên mới nói tên Tịnh pháp, nhơ cấu bị trị đã mất thì cái Tịnh Năng trị sao đứng vững được. Cũng như không có xan tham thì Bố thí cũng bỏ, thế mới biết hoặc lý hay trí, hoặc Nhân hay quả, tất cả hành vị, các môn đối trị, thảy đều chẳng có. Nhơ và sạch đều không có, cho nên nói là “đều mất”. Vì vậy mà tâm kinh nói: Vô vô minh diệc vô vô minh tận…”: “Tất cả Thanh tịnh”: Chữ tịnh này khác với chữ “Sạch” (tịnh) trên. Tịnh trên đổ đối lại với nhiễm. Tịnh ở đây gọi là “Chơn không là Tịnh”. Vì Thanh Văn sợ không, cho nên nói Thanh tịnh. Thanh Tịnh tức nghóa không, trong kinh Đại Bát-nhã, hoặc nói không, hoặc nói là thanh tịnh. Mà vạn pháp tuy nhiều nhưng chẳng ra ngoài tâm và cảnh, e thu chẳng hết nên lại dựa theo sạch và Nhơ để tỏ lại. Nay ở đây thì pháp này đều thâu tóm, không có bỏ sót một pháp nào cả, cho nên nói là “Tất cả”. Vì vây mà Đại Bát-nhã nói: “Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la- mật Đa thanh tịnh, nên sắc thanh tịnh,… chư Phật Vô Thượng Bồ-đề thảy đều thanh tịnh”. Lại nữa, chẳng phải cho rằng mất hết tâm cảnh hiểu rõ Chơn tâm rồi, sau đó mới mất Nhơ, sạch hiển Chơn không. Đây là vì nhà văn muốn viết cân cho đối nhau. Nếu muốn thuận nghóa thì phải nói rằng: “Tâm cảnh đều dứt, nhơ sạch đều mất, tất cả thanh tịnh, tức là Chơn tâm” thì lý được rõ vậy. Nghóa là trong Chơm tâm vốn không có những pháp; tâm. Cảnh, nhơ, sạch, gọi đó là không., chẳng phải cho rằng không có tâm pháp, trở thành đoạn diệt. Cho nên Duy Thức Tụng nói: “Đầu tức tướng vô tính, tiếp vô tự nhiên tính, sau do viễn ly trước, sở chấp Ngã pháp tính, đây thắng nghóa chư pháp, cũng tức là Chơn Như, bởi tính nó thường như, tức Duy Thức Thật Tính”. Mà ở đây với phần “Mê Chơn, tập vọng” ở phần trên, chính là một đôi. Nếu không có ý của phần văn trên thì làm sao có đoạn văn này. Tứ “Tam thiên…” của bài tự quyển “Sớ Luận Toản Yếu” là: b. Hiền Thụy, tỏ Hội. “Tam Thiên”: tức là Tam Thiên đại thiên thế giới, như sẽ nói ở phần sau. “Rực rở”: là điềm kết tường, sáng rực, khi Phật thuyết kinh này, phóng đại quanh minh chiếu Tam Thiên giới, chẳng có chỗ nào chẳng sáng rở, lại còn hiện nhiều sự kỳ lạ. Vì có điềm lành này mà nói là “Tam thiên rực rở”. Đại Bát-nhã kinh quyển nhất nói: “Bấy giờ, Thế Tôn ở trên tòa sư tử, tự trãi Ni Sư Đàn, kết Gia phu tọa, nhập Đẳng trì vương Tam muội, an tường mà khởi, mỗi một Thân phần đều phóng sáy mươi trăm ngàn câu kỳ Va Du Da quang, mỗi quang chiếu tam Thiên thế giới… khiến thế giới đó, sáu thứ biến động, kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe..” Lại nói: “Các Thiên Nhơn đó, nhờ Phật thần lực, mỗi vị đều thấy Phật ngồi ngay trước mặt mình, đều cho rằng Như Lai thuyết pháp cho riêng chính họ”. “Mười Sáu Hội”: Loại Bát-nhã có tám bộ: Đại phẩm, Tiểu phẩm, phóng quang, quang tán, Đạo Hành, Thắng Thiên Vương, Văn Thù Vấn, Kim Cang. Đời Đường dịch 600 quyển, 275 phẩm, tổng cộng 16 phần: 5 phần đầu không có tên, 11 phần sau có tên, 6 phần đầu có chia phẩm, 10 phần sau chẳng chia phẩm. Tức là: Phần thứ Nhất chia ra 79 phẩm. Phần thứ hai chia thành 85 phẩm. Phần thứ ba 31 phẩm. Phần thứ tư 29 phẩm. Phần thứ năm 24 phẩm. Phần thứ sáu là Thắng Thiên vương Bát- nhã, chia ra 17 phẩm. Phần thứ bảy là Mạn Thù Thất Lợi Phần. Phần thứ Tám là Na Gia Thất Lợi phần. Phần thứ chín là Năng Đoạn Kim Cang phần. Phần thứ mười là Bát-nhã Lý Thú Phần. Phần thứ mười một là Thí Ba-la-mật Đa phần. Phần thứ mười hai là Tịnh giới. Phần thứ mười ba là An Nhẫn, phần thứ mưới bốn là Tinh Tiến. Phần thứ mười lăm là Tịnh Lự, phần thứ mười sáu là Bát-nhã, tức là Đại Minh Độ vô cực kinh, 4 quyển, giống với phần thứ năm trên. Như thủ Bồ-tát Vô thượng thanh tịnh phân vệ kinh, 2 quyển, tức là phần thứ chín. Thật tướng Bát-nhã tức là phần thứ mười. Đạo Hành và Tiểu Phẩm, mỗi bộ 10 quyển, đồng với phần thứ tư. Quang tám 10 quyển, phóng Quang 30 quyển, đại phẩm 30 quyển, đều đồng với phần thứ hai, các bộ trên về khai hợp, đại bộ, văn thế, thứ tự, sự lý, mỗi mỗi đều giống nhau, chỉ khác nhau về rộng, lược. Bản Nhân vương kinh chẳng nằm trong 8 bộ này. Từ câu “Nay sở truyền…” của quyển “Sớ luận toản yếu” là phần. Nói riêng về kinh này. Có hai phần. Lược nêu chỉ như văn. Có hai phần: * Quảng tự tám. Có hai phần: - Tự thán u huyền. Có hai phần: + Tự ý chỉ thuyên giảng cả kinh. Có 3 phần: Chánh tự: từ câu “Câu kệ thì ….” “Câu”: có câu văn, câu nghóa. Nay ở đây là chung cho cả hai. “Kệ”: Nghóa là tích chữa câu mà thành kệ, cũng thông cả hai nghóa trên. “Ẩn”: nghóa là tiềm ẩn, tức là hiện nay không có văn, như trong kinh đa phần không có văn nói về đoạn nghi và những danh từ trú xứ. “Tóm tắc”; nghóa là ít, tức là hiện nay tuy có văn nhưng chẳng nhiều, chẳng rộng, như trong kinh chỉ có văn nói về năng đoạn và nghóa Hữu trú. “Chỉ”: là ý chỉ. “Thú”: Là chỗ quy về của ý chỉ. “Thâm sâu”: Là vì tiệt lý. “Vi tế”: là vì khó hiểu. Khó hiểu có hai ý: 1. Vì văn ẩn mật tóm lược nên nghóa thú khó hiểu; 2.Vì triệt lý nên thâm sâu khó hiểu mà ẩn chứa tóm lược tướng thâm sâu vi tế, tức là “Huệ” nằm ở câu sau. “Huệ”: Tức là ngược dòng, tịnh dụng, dựa theo đoạn chấp, quán không mà đắc danh. Bát-nhã; chính dịch là Huệ, chẳng dịch là Trí, phần sau, phần giải thích Đề kinh sẽ nói chi tiết về Thể và tướng của Bát-nhã. “Ba không”: Tức là Ngã không, pháp không, câu không. Như phần sau kinh Kim Cang nói: “Vô Ngã tướng Nhân tướng,…” tức là Ngã không. “ngã tướng tức thị phi tướng…” tức là pháp không. “Ly Nhất thiết tướng tức danh chư Phật”, đó là câu không. Ngã không và pháp không thì có thể hiểu rõ. Còn câu không thì có ba thuyết: 1. Quán riêng Nhơn và Pháp gọi là Nhị không, đồng một sát na Song quán nhơn pháp, gọi là câu không; 2. Tức là nhị chấp đã trừ, nhị không cũng trừ, gọi là câu không; 3. Tức là khi Năng và Sở đã khiển trừ, Huệ cũng vô trú, tức là tương ưng với bổn tính, ngay khi ấy tự không có hai tướng Nhơn và Pháp và phi pháp tướng, gọi đó là câu không. “Triệt”: Là thấu triệt. “Huệ”: là năng triệt. “ba không”: là sở triệt, khi Bát-nhã chiếu, xuyên qua bề ngoài của ba không, tức là tương ưng với nguồn gốc. Vì nguồn gốc bổn tâm là phi không phi hữu. Vì để đối lại với Nhơn chấp mới thuyết Nhơn không. Vì để đối lại với pháp chấp mới thuyết là pháp không. Vì để đối lại với Nhị chấp mới thuyết câu không. Tức không là năng đối, chấp là sở đối. Cái chấp của sở Đối đã trừ thì cái không của Năng đối cũng trừ, không và chấp cả hai đều mất mới khế với bổn tính. Nếu trú ở cảnh không thì chưa thể gọi là tương ưng. Cho nên trong quyển “Sớ Luận” nói là “Huệ triệt”. Do vậy Bồ-tát tứ gia hạnh vị, vì thủ không tướng, chẳng gọi là kiến đạo. Cho nên Duy Thức kệ nói: “Hiện tiền còn tí vật, cho là Duy Thức Tính, bởi vì Hữu sở đắc, chẳng Chơn trú Duy Thức”. Nay đã triệt không tướng, năng và Sở kiêm vong, tức là đồng với Duy Thức kiến Đạo tụng nói: “Nếu khi ở Sở Duyên, trí đều vô sở đắc, bấy giờ trú Duy Thức, vì ly nhị thủ tướng”. “Bố thí bao hàm vạn hạnh”: Tiếng phạm là Đàn na, tiếng Hán gọi là Bố thí, “Bao hàm”, là bao hàm thâu tóm “Vạn hạnh”; là những Hạnh mà Bồ-tát hành. Chẳng cỉ ở con số vạn, nay nêu con số lớn mà thôi. Vì Bố thí bao hàm cả ba thí, ba thí bao quát cả lục độ, lục độ bao trùm cả vạn hạnh, lấy gốc mà nhìn về ngọn cho nên nói là “Bố Thí bao hàm vạn hạnh”. Do vậy khi Phật đáp về tu hành, chỉ nói về Bố thí. Vì vậy mà Di Lặc Tụng nói: “Đàn nghóa nhiếp cả sáu, tư sinh, vô úy, pháp, trong này một hai ba, gọi là tu hành trú”. “Trú mười tám xứ…”: Là dựa theo hai luận để tự thán. Theo trong luận của Ngài Vô Trướng, tứ phần Phật chánh thuyết trở ề sau cho đến phần cuối kinh, chia thành mười tám trú xứ, đó là : trú xứ thứ nhất phát tâm trú,… trú xứ thứ mười tám thượng cầu Phật Địa trú, tức là những xứ an trú từ nhân đén quả của người tu Đại thừa hạnh. “Mật bày giới sai”; nghóa là âm thầm chỉ bày những tướng sai biệt khác nhau giữa các giai vị khi người tu hành nhập vào. Vì trong kinh đều không có tên gọi của mười tám trú, ngầm có nghóa của mười tám trú. Vì chẳng phối rõ cho nên nói là “mật bày”. Trước sau cạn sâu khác nhau cho nên nói là “giai Sai”. “Đoạn hai mươi bảy nghi”; là dựa theo luận của ngài Thiên Thân từ phần Phật đáp ba câu hỏi xong, bèn lần lượt đoạn nghi, cho đến cuối kinh là hai mươi bảy điều nghi ngờ: Mối nghi thứ nhất cầu Phật hành thí trú tướng…. Mói nghi thứ hai mươi bảy nhập tịch làm sao thuyết pháp được. “Ngầm thông huyết mạch”: Ngầm là âm thầm, thông là thông lưu, thông chảy, chảy thông, hơn thông. Huyết mạch là dụ. Vì trong kinh đa phần chỉ có những từ ngữ về Năng Đoạn mà không có nói về Sở Đoạn, do vậy mà văn khởi rời rạc, thế ý đứt đoạn, đến khi tìm tòi ý chỉ của kinh thì đều có nguyên nhân, văn tuy chẳng tỏ nhưng lý thì liên quan. Vì chẳng tỏ rõ nên nói là “Ngầm thông”. Cũng như huyết mạch trong thân người, ngoài tuy chẳng tỏ rõ, trong vẫn lưu chảy, dựa theo dụ mà tỏ pháp, nên gọi là “Tiền thông huyết mạch”. Ý này sẽ thấy rõ ở những đoạn văn nói về nghi. Phản hiển. “Chẳng trước khiển khiển”: Tức là phản hiển tỏ nghóa của Huệ triệt ba không. Nghóa là Hai chấp là sở khiển, Hai không là Năng khiển. Lại nữa, hai không là sở khiển, câu không là năng khiển. Vì cân không khiển (trừ) Nhi không, Bệnh không cũng không, cho nên nói là “khiển khiển”. Như Viên Giác nói: Cần phải viễn ly tất cả những cảnh giới Huyển hóa hư vọng. Do bởi kiên chấp trì tâm viễn ly, cái tâm như huyển cũng lại phải viễn ly, viễn ly vì huyển cũng lại phải viễn ly, viễn ly ly huyển cũng lại phải viễn ly. “Lấy gì khế Như Như”, Khế là khế hợp. Như Như: tức là biểu của ba không trên, tức là nguồn gốc Chơn Tính. Nhị không phá chấp, chấp tan, không sáng tỏ, bệnh không cũng không, mới khế với Bổn nguyên Chơn Tính, ý nói: nếu chẳng trước khiển trừ khiển trừ thì sẽ trệ ở Hữu, trệ bởi không, làm sao có thể khế hợp với Chơn Như bổn tính. Mà thế của lời nói này cũng là văn bài tự của ngự chú. Kia nói: “Đều quy ý chỉ khiển khiển, tận nhập diệu lý Như Như”. Từ câu “Tuy khuyến khích…” của quyển “Sớ Luận” là phần ba. Thuận kết. Như trong kinh nói: “Độ tứ sinh” tức là “Thúc dục tu”. “Không có chúng sanh để độ”, tức là “Vô tướng”. “Hành lục độ”, tức là thúc tu, khuyến tu. “Bất trú bố thí…”, tức là “Vô tướng”, những loại như vậy có khắp trong kinh. Mà độ sanh và tu hành hợp lại là Hữu tướng. Nay vì vô sanh khả độ, vô trú bố thí, vô pháp khả thuyết, vô ngã tu thiện, cho nên thuận với nghóa vô tướng của tông kinh. Cả cuốn kinh trước sau không có chỗ nào chẳng nói về điều đó. Cho nên nói là “thủy chung”. Lại nữa, Nhân tâm thì quả tâm, thảy đều như vậy, đây tức là đang khi thúc dục tu thì vô tướng, đang khi vô tướng thì thúc dục tu, chứ chẳng phải nói là trước sau thủy chung đều vậy, từ câu “Do đây…” là phần hai. + Kết thán bốn pháp y huyền. Có ba phần: Chánh kết thán. Nếu theo trong phần chánh tự thán trên, dựa theo giáo nghóa chia ra năng thuyên và sở thuyên. Nay ở đây trong phần sở thuyêt chia ra Hạnh và quả, tức là bốn pháp, đủ vậy. Mà: “Giáo mật” như “câu kệ thì ẩn mật tóm tắc” trên kia. “Lý mật” giống như “chỉ thú thì thâm sâu vi tế”. Hạnh và quả, hai huyền, đoạn văn trước chưa nói rõ nên phải nói riêng. “Hạnh huyền”: Bởi Bồ-tát hạnh chẳng ngoài hai loại: đó là Tùy Tướng Hạnh và Ly Tướng Hạnh. Tùy tướng tức giống với thúc dục tu ở phần trên. Ly tướng tức là giống với vô tướng ở phần trên. “Huyền” là diệu. Nếu hai hạnh kháng nhau mà hành, hoặc trước hoặc sau thì chẳng gọi là Huyền. Hai hạnh đồng một thời, chẳng phương hại nhau mới gọi là Huyền. Nếu chỉ tùy tướng thì đồng với phàm phu. Nếu chỉ ly tướng tức đồng với Nhị Thừa. Hia hạnh cùng nuôi dưỡng nhau thì vừa phù hợp với Trung Đạo, tức là Quán không mà vạn hạnh hăng say, thiệp Hữu mà một đường thanh tịnh, đó là Bồ-tát Hạnh vậy. “Quả lập”, quả tức là Phật quả. Trong đây Phật quả gồm có hai loại: Đó là Chơn thân và ứng thân. Ứng Thân có tướng, Chơn thân không có tướng. “Huyền”; Nếu hai thân khác nhau, khác nhau ở chỗ có tướng và không có tướng thì chẳng gọi là Huyền. Vì tướng tức vô tướng, vô tướng tức tướng, Chơn và ứng chẳng ngăn ngại nhau, cho nên gọi là Huyền. Cho nên trong kinh. Nếu dùng tướng quán Phật thì người ấy hành tà đạo, chẳng dùng cụ túc tướng Phật tâm thì rơi vào đoạn diệt. Vì Chơn thân và Ứng thân này là bất nhất bất Nhị, cho nên khiến như vậy. Tỏ khó Hiểu. Từ “Đến nổi khiến cho…”: Do bởi bốn pháp trên kia quá u Huyền làm cho người phúng tụng rất nhiều mà người hiểu cực kỳ ít. “Miệng tụng”: Tức là đọc tụng văn kinh. “Lông trâu”: là dụ cho rất nhiều, khéo hiểu ý kinh, gọi là “tâm thông”. “Lân:” Là con thú mang điều lành. Thời có vua Thánh thì hiện. “Sừng”: Con lân chỉ có một sừng, dụ cho người ngộ thì ít, ở đây có hai lớp so sánh nhau. Để xét nhiều ít thì nói Lân so với trâu mà thôi. Sừng ít mà so với lông thì càng ít hơn nữa. Ý rằng người đọc tụng quá nhiều mà người thông ngộ thì cực kỳ ít. Hiểu Sai. Từ câu “Hoặc phối…”. Bốn câu trước thì chỉ chẳng phù hợp với ý chỉ của Thánh, riêng tác ý độ thì chẳng được tròn trịa suông sẽ, tuy chẳng tà vạy nhưng cũng gọi là hiểu sai, hai câu sau “giải thích cạn cợt”, thì chính là tà vạy. Phần trước nói người tâm thông thì ít, người chẳng thông thì nhiều. Ba loại ở đây là tướng của người chẳng thông. Hai nhà trên đều trước nói nguyên nhân, rồi sau kết luận là lỗi lầm. “Phối vào Danh Tướng”: Nghóa là có sách chú thích kinh Kinh Cang đem pháp tướng, danh cú phối vào trong đó, đó tức là “Tham trước kỳ sự, tôn sùng pháp tướng” như phần sau kinh nói: “Phàm phu chi Nhơn, tham trước kỳ sự”. “Sai trái tông”; là vì tông của kinh Vô Tướng Chơn không, đã dùng pháp tướng để giải thích thì làm sao khế hợp với ý chỉ của kinh được. Vì chẳng thuận với lý, gọi là sai trái. “Chỉ nói Nhất Chơn”: Vì nghe nói kinh này là không, vô tướng Tông thì đầu đuôi đều viết đạo lý ly tâm, ly cảnh, không, vô tướng, cứ một mực mà giải thích, cho nên nói là “Nhất Chơn”. “Vọng nguồn mê phái”: “Vọng” là nhìn, ngắm. “nguồn” là suối nguồn. Là nơi sinh ra nước. “Mê”: là hôn mê. “Phái”: nhánh sông. Đường rẻ gọi là kì, sông rẻ nhánh thì gọi là phái, Ý nói: Kinh này tuy Tông Vô Tướng nhưng văn nghóa ngàn điều khác nhau. Nay tuy phù hợp đại để tông nguồn nhưng toàn trái với nghóa lý sai biệt, cho nên nói : “Vọng nguồn mê phái”. Lời này là của Hiển công trog bài tự cuốn Khởi Tín. Nay tuy dùng nó nhưng ý khác với kia. Kia thì lấy Nhất tâm làm nguồn, tùy duyên sinh diệt làm phái. Đây thì lấy Tông kinh làm nguồn, nghóa lý làm phái. Cho nên chẳng đồng vậy. “Ngoài ra…”, trên đều có một chỗ hay, đây thì đều là tà vạy. Trên thì y Nhơn y giáo, đây thì tùy ý suy oán, chú giải sai lầm, cho nên nói là “Giải thích cạn cợt”, chẳng cần xem bàn gát qua một bên, cho nên nói “chẳng đáng để bàn , nói chung rất nhiều người giải thích kinh này. Sớ chủ nói: Ta đã lâu chí để ở kinh này, tìm khắp các quyển Sớ giải, chính mình xem hơn mấy chục bản. Có quyển giả danh Kim Cang tạng, có quyển nói là của chí công. Có quyển thì bác Đại Só, Hoặc ghi là Đạt Ma, hoặc ghi là Ngũ Tổ, hoặc đề tự tên mình, đều là giấy tốt mực tốt, trang trí rất đẹp, văn nghóa trong những quyển đó đều chẳng đáng xem, như chú thích về “Xá vệ Quốc” rằng: trăm linh hộ vệ, nêu ra một lệ, đầu đuôi đều vậy. Ví có vô hạn người ngu, chẳng thể pân biệt rõ bảo là chí diệu thật đáng buồn thay! Cho nên nói “Giải thích cạn cợt”. Nếu đem nguồn và phái dựa theo mê và bất mê, trước sau nhìn nhau thì có bốn cú của chúng: Mê nguồn chẳng mê phái, tức là người phối vào danh tướng. Mê phái chẳng mê nguồn, tức người chỉ nói Nhất Chơn. Nguồn phái đều mê, tức là chú thích cạn cợt sai lầm. Nguồn phái đều chẳng mê, tức là câu sau “chẳng công dị đoan”, là quyển sớ này. Dẫn văn kết hiển, từ câu “trân bảo hà sa…” “Trân bảo hà Sa”: Tức kinh nói: “Như toàn bộ số cát trong Hằng hà, có những bằng số cát như vậy, cát của số con sông đó có nhiều hay không?… phước đức này hơn phước đức trước”. “Thân mệnh ba thời”: Tức là kinh nói: “Tu Bồ-đề! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn, sơ nhật phần, dùng hằng hà sa đẳng bố thí,… hà huống viết chép, thọ trì, đọc tụng, vì người giải thuyết. “Dụ chỗ…”; có hai ý: Tức là ở đây dụ nội tài và ngoại tài dụ cũng chẳng bằng. Tức như đoạn văn sau “Ta nhớ quá khứ vô lượng A tăng kỳ kiếp, ở trước Phật Nhiên Đăng… chỗ thí dụ chẳng thể bằng”, gồm hai ý này nên nói “Chỗ dụ chẳng bằng”. “Há uổng vậy ư!” há là để, có thể. Uổng là luống qua, ý nói: Để có thể luống qua như vậy! Ý nói: Kinh này câu kệ ẩn, một tóm tác, ý thú thâm vi, tìm tòi căn nguồn thật khéo được ý, bỗng ngộ được lý huyền thì tùy phần mà thọ trì, được phước nhiều chẳng thể nghó bàn. Đã nếu như vậy chẳng thánh trí thì chẳng thể viết ra nổi suối nguồn cùa nó, hạng thường tình há lại hợp ý. Văn này ý gần hai thế: Nghiệm phân tâm chẳng hiểu. Nghiệm người trì phước nhiều. * Ý tạo Sớ. Từ câu “Vả lại…” có hai phần: Bày tỏ sư thừa của Sớ Luận có y cứ. Có hai phần: + Xét dư Hữu, trách người thêm bớt. Tiếng phạm Đề Bà Bàn Đậu, tiếng Hán gọi là Thiên Thân, là Bồ-tát Địa tiền Tứ Gia Hạnh vị, tức là em trai của ngài Vô Trướng, tiếng phạm là A Tăng Khư, là Sơ Địa Bồ-tát, tức là Anh của ngài Thiên Thân. “Bổ Xứ”: Tức là Di Lặc Bồ-tát, thấy ở trên Đâu Suất Thiên sẽ bổ xứ Phật, hiện là Đương Lai Hạ Sanh Di lặc Tôn Phật. Vì hai vị Bồ-tát y theo kệ tụng của Di lặc Bồ-tát, tạo luận giải thích kinh, cho nên nói là “Sư Bổ Xứ Tôn”. Phần sau phần Huyền Đàm sẽ nói rõ hơn. + Từ câu “hậu học…”, là trách bác những điều trái với Luận, tức là những người viết chú giải thích sau thời ngài Vô Trướng, ngài Thiên Thân. “Nghi gì”: là lời trách cứ. “Thêm”: tức là trên kia nói những người phối vào danh tướng, ngoài bổn luận ra, thêm vào pháp tướng hành vị của Đại thừa Tiểu Thừa, cho nên gọi là “Thêm”. “Bỏ”: tức là trên kia nói: Những người chỉ nói Nhất Chơn. Vứt bỏ hai luận, tự mình giải thích riêng. Vì chẳng biết mà người chỉ nói rằng ta hơn Bồ-tát, hang vì chẳng biết những cuốn luận Bồ-tát đã tạo? Nếu nói chẳng phải ta hơn Bồ-tát cũng chẳng phải chẳng biết luận tạo, chỉ nhờ đạt đạo thấu Huyền, quên lời thủ ý, thẳng đường tu tiến, chẳng để ý đến ngọn ngành, aio đâu có tâm lực tìm ở văn luận, tức đáng nên tránh họ rằng; tìm tòi nghiên cứu luận giải thích kinh thì đổ cho không có tâm lực, thế còn suy theo ý mình thì tâm lực bao nhiêu? Hơn nữa, dùng lời nói thẳng mà tránh ý rằng: Nay chẳng kể ông có Lý hay vô lý. Vả lại, luận chủ là bậc nhập vị thượng lưu, lại còn thọ nhận cú nghóa từ Đức Di Lặc, đó là Phật Phật tương truyền cho nhau, triển chuyển sư truyền trao, ông người hậu học, sao thể trái ngượcc mà tự suy theo ý mình? 1. Đó là khoản cách giữa phàm và Thánh, ngu và trí; 2.Đó là ngôn lời của sư phụ, phản trí theo ngu, nghịch Thầy vô lễ cũng như việc cha đã làm, con lại cố trái, há lại hợp với Đạo Trời sao? Do vậy, đây là dẫn Thầy để tránh, từ “Vì vậy mà nay…” là phần - Nay thuật giải chẳng công dị đoan. Nay hai câu đầu, đối chẳng hiểu rõ. “Vì vậy mà nay”: Do Bồ-tát triển chuyển trao truyền cho nhau, cho nên nay quyển chú thích kinh này chẳng công dị đoan. “Công”; nghóa là công kích. “Dị”; nghóa là biệt dị, riêng khác, “Đoạn”; là đầu mối, tức là hiển các nhà lại là dị đoan. Cho nên nói rằng đối chẳng hiểu rõ. Cho nên Luận Ngữ nói: “Công hồ dị đoan tư hại dã”. Chú thích rằng: Vì Thiện đạo đã có giêng mối, cho nên đi đường khác mà vẫn đồng quy, còn Dị đoan thì chẳng đồng quy. Hai câu từ “Sớ văn…”: là đưa ra nguyên do. Đã dùng Bổn luận để giải thích kinh thì chẳng thành công dị đoan, đó là điều rõ ràng vậy. “Sửa chẳng trong thành”: là dẫn dụ của kinh. Kinh Niết-bàn quyển mười nói: “Lại nữa, Thiện nam tử! Như cô gái chăn bò, vì muốn bán sửa, tham nhiều lợi, mà thêm hai phần nước, chuyển bán lại cho cô gái nuôi bò khác, cô gái nuôi bò kia được rồi, lại thêm hai phần nước nữa, chuyển bán cho người nữ ở gần thành. Người nữ kia được rồi, lại thêm hai phần nước nữa, bán cho người nữ ở trong thành, nữ kia được rồi, lại thêm hai phần nước nữa, đem đến chợ để bán. Bấy giờ có một người cưới vợ cho con, đang cần sửa tốt để đải tân khách, đến chợ muốn mua người bán sửa đòi giá cao. Người ấy đáp rằng: sửa của ngươi nhiều nước, chẳng đáng giá như ngươi nói. Nay tôi cần đải tân khách, do vậy phải mua, mua xong trở về nhà nấu dùng, nấu cháo mà chẳng có mùi dùng nhưng nó vẫn còn ngon hơn ngàn lần mùi đắng. Vì sao? Vì mùi vị của sửa là đứng nhất trong các mùi vị. Thiện nam tử! Sau khi ta Niết-bàn, chánh pháp chưa diệt, còn hơn 80 năm. Bấy giờ kinh này ở Diêm phù đề sẽ lưu bố rộng rải. Thời ấy sẽ có các Tỳ kheo, sao lược kinh này chia ra nhiều phần. Sao phần trước thì dính phần sau, sao phần sau thì dính phần trước, phần trước phần sau dính phần giữa, phần giữa dính phần trước phần sau. Xen vào những từ ngữ thế gian, làm sai kinh này, khiến cho đa phần chúng sanh chẳng đắc chánh kiến. Cũng như người nữ kia triển chuyển bán sửa cho đến thành cháo mà không có mùi sửa”. Mà ý kinh kia là để dụ cho Niết-bàn. Còn ở đây mượn dùng nó để dụ cho Bát-nhã. Trong này, chữ “trong thành”, có hơi chung chung. Nay ở đây là lấy loại sửa đầu tiên mới tạo ra, chưa thêm nước, lấy đó làm dụ. Hoặc có người nói rằng: Trong quyển Sở này chẳng lẻ không có lời nói của chính Sớ chủ, cũng giống như sửa thêm nước hay sao? Đáp: Chẳng vậy! Tuy có lời nói của mình, nhưng chỉ là liên hợp lại trước và sau, hoặc đầu mối dẫn văn, đều là từ bổn nghóa mà chẳng phải thêm. Từ câu “Toản yếu…” là phần hai, tỏ bày danh và Đề kinh, chư gia đến đây, đều lược chia đề kinh, nay chủ yếu là giản lược, bỏ bớt rườm rà, phần văn sau sẽ giải thích rõ. Phần ba: Giải thích bổn văn: Có hai phần: - Văn kệ quy thỉnh. Sắp muốn chế sớ, e chưa phù trên hợp dưới. Vì vậy mà quy thỉnh. Ý nói: Kinh Pháp Hoa nói: “Giả sử cả thế gian đều như Xá-lợi-phất, tận hết suy tư cùng nhau đo lường, cũng chẳng thể đo lường nổi trí Phật” trí Thánh còn khó đo lường, tâm phàm chẳng lẻ đo lường được sao. Vì vậy mà thỉnh cầu gia hộ để không bị sai lầm. Trong đây ba câu trước là quy kính tam bảo, câu sau là cầu nguyện lợi sanh. Hai chữ đầu là Năng quy chí thành. “Khể thủ” là cúi đầu lạy Thượng Thư nói: “Khể thủ bái thủ”. Chú rằng: Khể thủ là đầu đến nền đất. “bái thủ” là đầu đến tay. Nay tức là cúi đầu đến đất giữ lại như vậy một ít thời gian, bày tỏ òng rất tôn kính. Lại nữa, lễ lạy có ba loại: hạ là vái, trung là quỳ, Thượng là cúi lạy. Nay là thượng lễ, bày tỏ không có tâm ngọa mạn mà người năng quy, ắt đủ ba nghiệp; vì bày tỏ Phật có Thiên Nhãn, Thiên Nhó, Tha Tâm tri. Nghóa là dùng thân nghiệp để quy, bày tỏ Phật có thiên nhãn thấy, dùng khẩu nghiệp quy, biểu tỏ Phật có Thiên Nhó nghe, dùng ý nghiệp quy, biểu tỏ Phật có Tha tâm tri. Lại nữa, vì đã viên mãn tam nghiệp Thiên, thành tựu Tam Luân Nhân. Vì trước khi chưa quy Tam bảo, ba nghiệp thảy đều chẳng thiện, nay nhờ quy Tam Bảo nên ba nghiệp đều thiện. Tam Luân là Ba Luân; Thần thông luân, ký tâm luân, giáo giới luân. Trong giai đoạn Nhân thì Thân nghiệp quy, đến giai đoạn Quả thì được Thần thông luân. Trong Nhân, khẩu nghiệp quy, quả được giáo giới luân. Trong Nhân, ý Nghiệp quy, quả được ký tâm luân. Căn cứ theo đó, thì Ba nghiệp là Nhân, ba luân là Quả. Nhân của tam Luân là giải thích theo chủ. Nay nói “cúi lạy” tức là thân nghiệp, chỉ nêu ra Thân nghiệp, những nghiệp còn lại tự đủ: Người là xưng danh tam bảo và kể ra những sự việc mình làm, tức là khẩu nghiệp. Tâm chẳng thành khẩn thì đâm chịu quy lễ tức là ý nghiệp. Từ “Mâu Ni…” là chánh nên Tam Bảo, là Phật pháp tăng, làm thửa ruộng phước, cả ba đều đáng quý, đáng Bảo. Cho nên gọi là Tam bảo. Mà có ba loại: Trú Trì: Phật tức là tượng Phật, tranh Phật,… pháp tức là Tam tạng giáo văn. Tăng tức là năm chúng hòa hợp. Tuân thủ di ngon, nhậm trì tượng pháp, gọi là trú trì. Biệt tướng: Phật tức là Tam Thân. Pháp tức là Tam Than. Pháp tức là giáo lý hạnh quả. Tăng tức là Nhị thừa, Bồ-tát. Đồng Thể: Giác chiếu, gọi là Phật, Quy trì, gọi là pháp, Hòa hợp, gọi là tăng. Trong này còn có tên khác, Bổn Tính, Quán hạnh, Dung thông đều cùng trên một pháp mà nói. Cho nên gọi là Đồng Thể. Trong Ba loại trên, nay sở quy, tức là loại Biệt Tướng. Trong năm giáo, vừa đúng vào giáo thứ nhất, vì kinh này thuộc giáo đầu tiên. Nay chỉ thủ trong đương tông; Năng thuyết Bát-nhã là Phật, Sở thuyết Bát-nhã là pháp. Phần phát khởi lưu thông làm Nhân, cho nên chẳng phải giáo khác. “Mâu Ni…” là Phật. Aâm tiếng phạm là Thích Ca Mâu Ni, tiếng Hán gọi là Năng Nhân Tịch Mặc. Vì Năng Nhân nên chẳng trú Niết- bàn. Vì Tịch Mặc nên chẳng trú sinh tử. Lại nữa, Tịch là hiện tướng vô tướng, Mặc là Thị Thuyết vô thuyết, đây tức là ứng của Tức Chơn. “Đại giác”; Giác tức là Phật. “Đại” là để phân biệt với Thánh khác. Các Thánh khác tuy giác nhưng chưa gọi là Đại. nhị Thừa thì thiên giác (giác lệnh). Bồ-tát thì giác một phần, đều chẳng phải Đại Duy Phật Như Lai nhất giác vónh giác, không có gì mà chẳng giác, như đại mộng giác, như hoa sen nở, hướng siêu quần thánh, cho nên riêng xưng là Đại. “Tôn”: là có đủ chín hiệu trên, được vật tôn. Phần văn sau sẽ nói rõ. Năng khai hạ pháp. Trong câu này chữ “Năng” thuộc Phật. Chữ “Khai” thông cả Phật và pháp. Nghóa là tại Phật là năng khai, tại pháp là Sở khai. “Bát-nhã tam không cú”, năm chữ, chỉ cục hạn ở pháp, mà ở trong này có đủ cả giáo, lý, hạnh, quả. Bát-nhã là quả, vì nhờ Huệ năng mà đến Bờ kia, cho nên gọi là “lý ba không”. “Cú” tức là giáo. Lý và quả hợp lại để luận hành. Bởi nhờ Huệ chiếu lý là Bồ-tát Hành, phát khởi hạ tăng. “Phát khởi Thượng Só”; tức là Tu Bồ-đề, vì Tu Bồ-đề phát ba câu hỏi nên Phật gọi ngài như vậy. “Lưu Thông Thượng Só”; tức là Ngài Di Lặc, ngài Vô Trướng, Ngài Thiên Thân, men theo giải thích mới bắt đầu hoằng truyền. “Thượng só”; là bậc cao thượng, hoặc gọi là Thượng Nhơn. Cho nên Mã Minh Bồ-tát bài kệ quy kính của kinh Vô thường rằng: “Bát Bối Thượng Nhân năng ly nhiễm”, hoặc gọi là Đại só. Cho nên quyển sớ của Đại Vân nói: Những đại só như vậy đều quy mệnh. Từ này đều thông dụng mà tùy người xưng hô. Câu “Ngầm giúp văn này khế quần cơ”, Cầu nguyện lợi ích cho chúng sanh, ngầm là âm thầm, giúp là giúp đở, “Văn này” tức là quyển Sở luân toán yếu này. Khế là khế hợp. Quần cơ tức là tất cả chúng sanh. Mà giúp đở gia hộ có hai loại: 1- Hiển gia: nghóa là hiện thân thuyết pháp, có thấy, có nghe. 2- Minh gia: chỗ được trí lực, không thấy, không nghe. Nay trong hai loại gia hộ đó chỉ cầu loại gia hộ minh gia. Bởi vì chế sớ giải thích kinh chỉ cần nhờ trí lực, chỉ được ngầm giúp, chẳng cần thấy nghe. Vì kinh này nói: Nếu dùng sắc thấy, âm thanh cầu là hành tà Đạo, để thuận với lời dạy này, nên chẳng cầu gia hộ rõ ràng (hiền gia), phàm hể thiết giáo đều khế lý khế cơ, nay ở đây chẳng nói khế lý, vì quyển sớ này là văn của luận, đã khế lý rồi. Lại nữa sớ chủ, ở trong hai lợi, nghiên nặng về lợi Tha. Nay chỉ nói “khế cơ”, là tướng Bi tăng thêm vậy.  KIM CANG KINH TOẢN YẾU SAN ĐỊNH KÝ <卷>QUYỂN 2 Từ câu “Tương thích ….” là: Phần Thứ Hai: KHAI CHƯƠNG CHÁNH THÍCH. Đã được gia hộ, tâm thông trí sáng, theo nghóa chia chương. Rồi tỏ kinh chỉ, văn có hai phần: Nêu Kê Chương, Môn Chữ “Tương”: Giống Nnhư Chữ Muốn Quyển sớ này (Sớ Luận Toản Yếu, Số 1 7 0 1) dựa theo quyển Sớ “Trần ngoại” của chùa Sùng Thánh, chỉ chia ra bốn môn (bốn phần). Nếu theo quyển Sớ Đại Vân thì chia ra sáu môn (sáu phần): Kinh ý. Tông chỉ. Kinh Thể. Dịch thời. Đề mục. Giải thích kinh văn. Quyển sớ này tuy chia ra bốn môn nhưng nghóa thì bao hàm cả sáu môn. Nghóa là: phần thứ hai của sớ này bao gồm cả phần thứ hai thứ ba của sớ kia. Phần thứ tư của quyển sớ này bao gồm cả phần thứ năm thứ sáu của quyển sớ kia. Phần còn lại thì như nhau, chỉ khác là văn ít mà thôi. Theo Chương Giải Thích: Có hai phần. Tổng Luận Chư Giáo: Như nhiều phương thuốc cùng trị một bệnh. Tỏ Riêng: Như mỗi một phương thuốc đều có công năng riêng. Trong Phần 1: Có hai phần: Thông phó cơ duyên: “Thù Nhân”: Thù là thù báo, báo đáp. Nhân là Nhân địa. Vì Phật khi còn ở Nhân Địa, khi sơ phát tâm, mong cầu vô thượng chánh đẳng Bồ-đề, bèn khải phát Bốn Hoằng Thệ nguyện: phiền não vô biên thệ nguyện đoạn. Pháp môn vô biên thệ nguyện học. Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Trong bốn Nguyện này, ba nguyện đều xong, chỉ còn một nguyện chưa tròn, thệ độ chúng sanh, chúng sanh vẫn tại, nay tuy chứng quả, chẳng bỏ Nhân môn, hiện thân thuyết pháp, tế độ quần phẩm, để báo đáp nguyện trước kia, cho nên nói là “Báo đáp Nhân”. Kinh Pháp Hoa nói: Ta vốn lập thệ nguyện, muốn khiến cho tất cả chúng sanh như ta chẳng khác. Như ta xưa đã nguyện. Nay vì để mãn túc, hóa tất cả chúng sanh đều khiến nhập Phật Đạo. “Thù thỉnh”: Phật sơ thành đạo, Phạm vương, Đế Thích thỉnh chuyển pháp luân. Pháp Hoa nói: bấy giờ, chư Phạm vương và chư Thiên Đế Thích, Hộ Thế Tứ Thiên Vương và Đại tự tại Thiên, cùng chư thiên chúng khác, quyến thuộc trăm ngàn vạn, cung kính chắp tay lễ, thỉnh ta chuyển pháp luân. Như Lai im lặng nhận thỉnh, vì đã nhận sự tỉnh xin của họ, nên khởi đầu ở vườn Lộc Uyển, cuối cùng đến tại rừng Hạc, bốn mươi chín năm thuyết chư kinh giáo, cứu độ chúng sanh. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: tức ở Ba La Nại, chuyển Tứ Đế pháp Luân. “Hiển lý độ sanh”: Hai tướng này là nói theo Hợp. Mà có chung và riêng. Chung thì Phật dùng một âm, diễn thuyết pháp, chúng sanh tùy theo loài của mình, mỗi loài đều được giải hiểu. Riêng thì thuyết Tứ Đế pháp, hiển tỏ cái lý sanh không, độ phàm phu ngoại đạo, thuyết Lục Ba-la-mật, hiển tỏ lý Nhị không, độ Nhị Thừa bất định tính và phàm phu lợi căn, khiến nhập Đại thừa. Thuyết Nhất Thừa pháp, hiển lý pháp giới, độ Nhị Thừa định tính và bất định tính và Bồ-tát Địa trú, cùng những phàm phu thượng thượng lợi căn, khiến nhập Nhất Thừa cứu cánh Phật Đạo. Từ câu “Nhược cứ (Nếu theo)….” Là phần hai. Phật ý. Câu “Duy vì một đại sự…”; Pháp Hoa kinh nói đầy đủ: “Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự Nhân duyên cho nên xuất hiện ở thế gian, Xá- lợi-phất! Vì sao nói là chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên, cho nên xuất hiện ở Thế (gian)? Chư Phật Thế Tônmuốn khiến chúng sanh khai Phật tri kiến để đắc thanh tịnh cho nên xuất hiện ở thế gian,… Muốn khiến chúng sanh nhập Phật tri kiến đạo, cho nên xuất hiện ở thế gian. Theo quyển Sớ của Thiên trường, giải thích rằng: Tri kiến của Phật, chẳng ba chẳng năm, nên gọi là “Một”. Rộng lớn bao trùm, nên gọi là “Đại”. Chư Phật nghi thức, thuyết hóa sanh này, nên gọi là “Sự”. Chúng sanh có cơ này, có thể cảm ở Phật, gọi đó là “Nhân”. Phật liền ứng ngay, gọi đó là “Duyên”. “Cố”: nghóa là cho nên. Do một đại sự Nhân duyên này, cho nên Phật xuất hiện ở Đời. “Khai, Thị, Ngộ, Nhập”; bốn cú này chẳng ra ngoài hai. Hai cú đầu (khai và thị) là Năng Hóa, hai cú sau (ngộ, nhập) là Sở Hóa. năng Hóa có hai; là Đại khai mà do thị đây thuộc về Phật. Sở Hóa cũng có hai; là Thủy ngộ mà chung nhập, đây thuộc về chúng sanh. Sở Hóa cũng có hai; là Thủy ngộ mà chung nhập, đây thuộc về chúng sanh. Nếu theo quyển pháp Hoa Luận thích thì khai là song, khai hai quả vô thượng; Bồ-đề và Niết-bàn, Thị là biệt thị pháp thân, hiển rõ Tam Thừa đồng một thể. Ngộ; nghóa là Tri, chỉ riêng cho Báo thân. Vì Nhị Thừa chẳng biết, nên thuyết cho họ biết. Nhập; nghóa là nhân, vì tu Nhân thì khế nhập. Hoa Nghiêm sớ chủ giải thích rằng: Khai là khai trừ Hoặc chướng. Thị là thị lý Chơn thật. Ngộ; là ngộ vọng vốn không, liểu tâm thể là Tịch, chỉ nay ngộ Chơn lý trên Nhập; là ngầm với Tâm thể. Thạch Bích giải rằng: tất cả chúng sanh đều có Phật Tính, đó là Đại “Khai”. Chỉ rằng trong tâm liểu liểu phân minh rõ ràng, là khúc “Thị”. Một loạt lỉnh giải, quyết định ấn khả chẳng nghi, là thủy “Ngộ”. Tất cả niệm tưởng đều vong, là chung “Nhập”. Các nhà giải thích, chỉ thú khác nhau, ngọc trắng vàng kim đều là chí Bảo. Phần 2: Luận riêng…” của quyển sớ “Toản yếu”: gần thì chỉ cho một quyển Kim Cang. Xa thì có liên quan với các Bộ Bát-nhã. Bởi vì đồng tông. Ý nói: Có nguyên do gì mà thuyết kinh vô tướng. Năm đoạn trong này, đều kê ra như quyển sớ (Toản yếu). Trong đoạn một (a) có ba phần: Nêu: “Đối trị”; là như bệnh cho thuốc, nghóa xem tong phần bài tự. “ngã chấp”: có hai: Phàm phu tình, kế cho là Ngã, tức là chấp tướng chung của ngũ uẩn, cho đó là chủ tể. Thần Ngã của ngoại Đạo; tức uẩn và Ly Uẩn, hoặc lớn, hoặc nhỏ. U Linh thần thánh, động dụng khó suy đều cho đó là Thật, cho nên thị Ngã chấp. Kế cho tất cả pháp là thật có thật tính, gọi đó là “pháp chấp”. Mà Phật thuyết Tiểu thừa là để trừ Ngã chấp, nay thuyết Bát- nhã cũng lại vì những người này, bởi sâu ắt bao quát cả cạn, do vậy đang trừ pháp chấp, nói luôn Ngã không. Giải thích: Từ câu “Do hai chấp này…” có hai phần: Nêu chung: Do chấp mà khởi chướng, phiền não tức căn tùy,… đây là y theo Ngã chấp mà khởi, như đã nói trong phần trục vọng ở trên kia. Sở tri tức là căn bản vô minh. Cho nên khởi Tín luận nói: Vô Minh nghóa, gọi đó là Trí ngại, tức là sở tri chướng, đây là y theo pháp chấp mà khởi, từ “Do phiền não …” phần hai. Tỏ riêng lỗi lầm của hai chướng: có hai phần: Phiền não chướng: Từ cầu “tâm chẳng giải thoát…”: Tâm vốn thanh tịnh tự tại, công đức diệu dụng hơn hẳn trần sa, do vì chướng này che lấp, chẳng thể hiển hiện rõ. Cho nên nói “tâm chẳng giải thoát”. Giải thoát; nghóa là tự tại, chẳng chỉ kến cho tâm chẳng giải thoát, lại còn có thể tạo nghiệp, nhuận thêm nghiệp. Nghiệp tức là thiện nghiệp, Ác Nghiệp, bất động nghiệp, gọi là Ngũ Đạo, sanh ra rồi lại chết, đến rồi lại đi. cho nên nói là “Luân chuyển”. Tướng của luân chuyển như nghóa “Xoay vòng” nói trong phần bài tự. Suy ngược nguồn gốc của nó tức là Ngã chấp, mới biết Ngã chấp là căn gốc của quá hoạn lỗi lầm nên phải trừ nó. Từ “Do sở tri…” là phần hai. Sở Tri Chướng: “Huệ chẳng…” : Đây tức là Đại thừa thâm Huệ (Huệ sâu) chẳng kể Tiểu Thừa thiểu Huệ (Huệ cạn). Huệ này nếu phát, “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chỉ là tâm tính, lìa ngoài tự tâm, không có pháp nào riêng. Nay vì vô minh che lấp, chẳng thể khai phát. Cho nên Hoa Nghiêm nói: “Nếu chẳng liểu tự tâm, làm sao chánh đạo, kia do điên đảo Huệ, tăng trưởng tất cả Ác”. “Chẳng đạt…”: Mà chư pháp tính tướng, có riêng có chung. Riêng thì như nước, lấy ẩm ướt làm tính, lấy động tịnh là tướng. Chung thì chư pháp đồng lấy vô vi làm tính, Hữu vi làm tướng. Do vì Vô là Huệ, nên chẳng thể liểu hiểu nó, mà liểu tâm, tức là căn bản trí. Liểu tính tướng, tức là Hậu Đắc trí, cả hai trí chẳng hiểu hiện, bởi do vô minh. Vô minh chẳng trừ, chẳng thành Phật pháp. Cho nên nói “Dù xuất tam giới cũng bị trệ ở Nhị Thừa,…” thế thì tuy ra khỏi ngôi nhà lửa nhưng vẫn còn nghó ở Hóa thành, chẳng đến chỗ báu. Nếu suy ngược về nguồn gốc, do bởi pháp chấp, mới biết pháp chấp là căn gốc của quá hoạn mà hai chướng này chẳng đối chọi nhau, đều do bởi một tâm làm ra, nhưng vì trước có khác. Sở Tri thì tế, phiền não thì thô. Thô và Tế tuy khác nhưng đều không có thể riêng, giống như một dòng sông, nước khởi động thành sóng. Vì trước có khác; trong đây cũng có hai nghóa; vừa động thì chẳng thể hiện rõ hình tượng, đồng với sơ tri kia, mạnh mẻ thì lật thuyền chìm người, huống nữa là phiền não. Pháp dụ cho tướng, đối chiếu rõ ràng có thể thấy. Lại nữa, Tâm và Huệ giải thoát phân tách theo người để thành bốn cú, nghóa là: tâm giải thoát, Huệ chẳng giải thoát, là Nhị Thừa. Tâm chẳng giải thoát, Huệ giải thoát, là Đại Bi Bồ-tát. Đều giải thoát, là Phật. Đều chẳng giải thoát, là phàm phu. Từ câu “Hai chấp…” là phần ba. Kết: Phần trên suy cho cùng tất cả quá hoạn căn bản là do Ngã chấp và pháp chấp. Hai chấp nếu khiển trừ thì hai chương liền trừ hai chướng nếu trừ thì các lỗi lầm tự diệt. Do vì nguồn gốc của quá hoạn tức là hai chấp. Vì để trừ hai chấp, cho nên thuyết knh này. Mới biết kinh này là đại lương dược. Cho nên tâm kinh nói: “Bát-nhã Ba-la-mật Đa là Đại thần chú, là Đại minh chú,.. năng trừ Nhất thiết khổ, Chơn thật bất hư”. Muốn biết kinh này trừ hai chấp, như kinh nói: “Vô ngã tướng nhơn chúng sanh tướng thọ giả tướng”, đó là trừ Ngã chấp. “Vô pháp tướng cũng vừa vô phi pháp tướng”, đó là trừ pháp chấp. Loại kiểu như vậy, có khắp trong kinh. Trong đoạn hai (b) của sớ (tức là quyển toản yếu) có hai phần: Nêu: Có thể tự biết (chẳng cần giải thích thêm) Giải thích: “Nghi”: là về lý, về sự, do dự chẳng quyết, tức là phiền não trong pháp tâm sở. Một số mà có hai loại nghóa: 1. Chủng tử. 2. Hiện hành. “Chủng tử”; nghóa là thứ uẩn chứa ở tại tạng thức chưa phát rõ ra, gọi đó là vị khởi (chưa khởi, sẽ khởi trong vị lai). “Hiện hành”; nghóa là động ở tâm, hoặc hình ở khẩu, gọi đó là Hiện Khởi (đang khởi, khởi trong thời hiện tại). Già (ngăn chặn) thì ngăn chặn chủng tử của nó, chẳng để nó khởi ở hiện hành. Đoạn thì Đoạn ở Hiện hành, tức là tự trừ căn gốc của nó. Nó giống như xây đê chặn nước, xách nước dội lửa vậy, nghóa của nó có thể hiểu được. Từ “Tức là…”; là chỉ về kinh. Mà tho kinh thì đáp ba câu hỏi, đã triển chuyển mà đoạn, khởi phục liên hoàn, cho nên nói là “Từng tiết một cho đến hai mươi bảy”. Mà ngăn chặn và đoạn dứt, gồm có hai ý: 1. Trong kinh có Tu Bồ-đề trình bày chỗ nghi, đó là Hiện Hành, tức là nghi thứ hai, nghi thứ mười một, nghi thứ mười chín, còn lại thì không có lời hỏi, đều là chủng tử. 2.Tức là lúc đó đều là Hiện Hành, nhìn về đời sau, đều gọi là chủng tử, thế thì khi đoạn Hiện Hành tức là ngăn chặn chủng tử. Mà trong hai ý trên, ý sau hơi thiết, cho nên hai mươi bảy nghi, đều nói Đoạn chứ chẳng nói ngăn chặn. Trong phần ba (c) Của sớ. Có hai phần: Nêu. Giải thích. Mà xét chung thì nghiệp có ba loại: thiện, ác và Bất động. Thọ có ba thời, là hiện, sanh, hậu. Nếu đời này tạo thiện ác, đời này thọ (chịu, nhận) khổ, lạc, gọi là Thuận Hiện Báo Nghiệp. Nếu đời này tạo Thiện, ác nghiệp, đời sau mới thọ, gọi là Thuận Sanh báo nghiệp. Nếu đời này tạo thiện ác, từ đời thứ ba trở đi, cho đến trăm ngàn đời sau mới thọ, gọi là Thuận Hậu báo nghiệp. Đời này có người tạo thiện ác nghiệp, trước mắt không có báo, bèn nghi là không có Nhân quả, do vì chẳng thông hiểu ba thời báo này. Cho nên kinh Phật Danh nói: Người hành thiện, gặp việc trắc trở, người hành ác thì gặp hên. Làm cho thế gian người ngu cho rằng thiện ác bất phân, trong kinh ta nói có ba loại báo. Như đã kể trên. Nay nói chuyển và diệt, trong ba nghiệp trên, chỉ chuyển ác ng- hiệp, vì trái với lý. Còn thời thì chung cho cả ba nghiệp. Mà Ác nghiệp thọ báo này, theo thuyết của Tông Tiểu Thừa thì có Định và bất định nghiệp. Như Tứ trọng trong thiên thứ nhất, gọi là Định nghiệp. Tăng tàng trở về sau, gọi là Định nghiệp. Tăng tàng trở về sau, gọi là Bất Định nghiệp. Lấy đây so với thời, thành ra bốn cú: là thời định, báo bất định. Báo định, thời bát định. Cả hai đều định, cả hai đều bất định. Nếu theo kinh này nói, thì chẳng vậy, chưa nhập Ngã pháp thì gọi là quyết Định nghiệp. Nếu nhập ngã pháp thì gọi là bất quyết định nghiệp. Bất định nghiệp là hoặc nhẹ hoặc nặng, hoặc thọ hoặc chẳng thọ. Hỏi: Nếu vậy thì vì sao trong Đại Bát-nhã nói chỉ trừ quyết định nghiệp đúng phải thọ báo? Đáp: Chỉ chuyển nặng thành nhẹ, chứ chẳng phải làm cho chẳng thọ chịu, cho nên không trí. Như kinh này nói: “Nếu có người thọ trì đọc tụng kinh này, bị người (ta) khinh tiện, (đó là vì) người ấy đời trước nghiệp tội, đáng phải bị đọa ác đạo nhưng vì nhờ đời nay người đời khinh tiện, tội nghiệp đời trước ắt bị tiêu diệt, sẽ đắc A Nâu Bồ-đề”. Nói “Tiên Thế” (Đời trước) có hai ý: Những kiếp sống trước kia, gọi là Tiên thế (đời trước). Trước khi chưa trì kinh, gọi là tiên thế, tuy thông cả hai nhưng nghóa sau là chính. Nay lấy Nghiệp báo đọa vào tam đồ, dùng “Khinh tiện” để thay thế nghiệp báo đó, khiến cho báo bất định sanh báo hiện đời nay trả, khiến cho thời trở thành bất định. Đó đều là chuyển nặng thành ra nhẹ, còn chuyện diệt tội nhẹ thành ra chẳng thọ chịu thì không có văn nói trong kinh. Kinh tuy không có văn nhưng nghóa thì có, mà có hai ý: lấy nghiệp nặng so với nghiệp nhẹ, ý nói: Nghiệp nặng đã chuyển nó thành ra nhẹ thì vì nghiệp nhẹ nên đúng phải chẳng chịu. Người đã từng đọa tam đồ, xuất ra ở trong loài người, do còn có nghiệp sót lại thì bị khổ như nghèo nàn, suy yếu. Nay đã chẳng đọa tam đồ thì nghiệp còn sót lại ắt sẽ hiện, đó cũng là thời và báo đều bất định. Trong phần bốn (d) của sớ, có ba phần: Nêu. Thích: Có hai phần: Chưa thuyết Bát-nhã cho phàm phu, tiểu thừa: “Phật thành chánh giác”: tức là dưới cây Bồ-đề, ba mươi bốn tâm đoạn kết, ngũ phần pháp thân mới tròn, thị thành chánh giác. “Chưa thuyết…”: tức là mười hai năm đầu, sau khi thánh đạo, chỉ thuyết Nhân quả của cõi người và Tứ Đế duyên sinh, chưa thuyết tam không Bát-nhã. “Không có Diệu Huệ”: Diệu Huệ là vô tướng thậm thâm Bát-nhã. Đây là Huệ của pháp không, vì chưa thuyết Bát-nhã, chưa hiển pháp không, nên không có Diệu Huệ này. “Bố thí… trú tướng”: Đẳng v.v.. là giới, nhẫn, tiến, định. Trú vào những tướng; Ngã, Nhơn, chúng sanh… và tú pháp tướng, phi pháp tướng. Đã trú những tướng ngã, pháp … thì thành ra thế gian nhân quả, cho nên đều là Hữu Lậu. đây là nói về những người phàm phu, những người y theo lời dạy của người, trời. “Hoặc bị trệ ở Nhị Thừa”: Dù có đoạn Hoặc chứng Chơn, nhưng vì ghét khổ thích lạc, nên dù xuất ra tam giới cũng vẫn rơi vào phạm trù Thanh Văn, Duyên giác. Đây là những người y theo giáo Tiểu thừa. Từ câu “Vì vậy mà thuyết…” Đã thuyết được làm Nhân cho Phật. Có hai phần: Thuận giải thích: Tức là mười hai năm sau, mới thuyết các bộ giáo lý Bát-nhã, giảng giải rõ về Đệu Huệ. Diệu Huệ tức là đệ lục Bát- nhã Ba-la-mật. Bởi pháp thân là Chơn Như diệu lý, vốn bất sinh diệt, chỉ vì bị phiền não che lấp, gọi nó là Như Lai Tạng. Nếu Diệu Huệ chiếu phá phiền não, Chơn lý hiển rõ thành Đại pháp thân, cho nên nói “Diệu Huệ làm Nhân cho pháp thân”. “Năm Độ…”; năm Độ tức là Thí, Giới, Nhẫn, Tiến, Định ứng thân tức là Ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, thân thể có màu vàng tía. Đây là những thứ cảm được do tích tập năm Ba-la-mật. Cho nên nói: Năm Độ làm Nhân cho ứng Thân”. Từ câu “Nếu không có…” là phần hai. Phản hiển: Từ câu “Chẳng phải là Ba-la-mật…” Tuy hành Bố Thí,… nhưng do vì không có Huệ dẫn dắt, đều thành ra trú tướng. Do vì trú tướng, sẽ thành Hữu Lậu. chỉ thành thế gian Nhân thiện, quả lạc. Cho nên chẳng phải là Nhân thành Phật. Vì vậy, cuốn Bồ-đề Tư Lương Luận nói: Thí, Giới, Nhẫn, Tiến, Định, và ngoài năm thứ này nữa, đều do trí độ mới thuộc về Ba-la-mật. Từ câu “Cho nên cần phải…”: là phần ba. Kết: Phước và Huệ thuộc về Nhân, tức là Ngũ Độ, Lục Độ là năng Nghiêm. “Lưỡng Túc” là quả, tức là Chơn thân, ứng thân là sở nghiêm, quả đức của chư Phật, tuy vô lượng vô biên nhưng nói tóm lại chẳng qua là phước và huệ này. Cho nên Pháp Hoa nói: như pháp đã đắc được, lực Định Huệ trang nghiêm lấy đó độ chúng sanh, tự chứng vô thượng Đạo. Đại ý nói rằng: Do vì không có Bát-nhã, khiến cho Thí, Giới,.. chẳng phải Ba-la-mật, chẳng thành Nhân Phật, cho nên cần phải hai nghiêm; phước và Huệ mới thành Lưỡng Túc Diệu Thể. Mà năm Ba-la-mật trước và Ba-la-mật thứ sáu hổ tương giúp đở nhau, bởi vì hai quả Chơn thân và ứng thân cần phải có đủ, cũng như keo và màu, màu mà chẳng có keo thì màu chẳng dính, keo chẳng có màu thì không có sắc. Độ thứ sáu chẳng có năm độ trước thì không có tướng. Năm Độ trước chẳng có độ thứ sáu thì không có Nhân, như kinh nói: “Ưng vô sở trú”, tức là tu Huệ. “Hành ư Bố thí”, tức là tu phước. Lại nữa, “dó vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả”; tức là tu huệ. “Tu nhất thiết thiên”; tức là tu phước thí dụ này rất nhiều. Trong phần năm (e) Của quyển “Sớ luận toản yếu”, có ba phần: Nêu: “Hai quả, Chơn Thân và ứng thân”, mà các kinh luận đều nói ba thân. Trong phần này chỉ nói hai thân. Như Quyền Tông nói: Pháp thân là Lý, vô lậu vô vi. Báo thân là Trí, do chuyển thức mà thành. Hữu vi và vô lậu tuy chướng ở Lý, nhưng trí lại chẳng phải là Lý, như mặt trời nằm trong bầu trời, do vậy Lý và trí chia ra thành hai. Hóa thân là hình bóng, cố nhiên bất đồng, do vậy nói là Phật có ba thân. Nay ở đây nói hai, là vì báo thân và pháp thân hợp lại, bởi vì trí tức là Lý, như ánh sáng tức là hạt minh châu. Do vậy hợp lại nói là Chơn Thân. Như Kinh Tịnh Danh nói: “Phật thân vô vi chẳng rơi vào chư số”, há lại nói Báo thể là Hữu vi sao? Lại nữa kinh Niết-bàn nói: “Nếu người nào nói Như Lai đồng Hữu vi, chết vào Địa ngục”. Do vậy trong này chẳng nói ba thân, chỉ nói hai thân. Cho nên trí Độ Luận nói: Phật có hai thân: 1.Chơn Thân; 2. Ứng Thân, còn gọi là sinh thân, đều là Hóa thân. Hỏi: Pháp, Báo, Hóa, Thân đều là Phật thân, pháp và báo đã chẳng tách ra, còn Hóa Thể (Hóa thân) vì sao lại tách riêng mà nói? Đáp: Vì pháp và báo đều là thật, cho nên hợp luận, Hóa Thể chỉ là Hư, cho nên riêng. Giải thích: từ “Chưa nghe…” của quyển sớ luận toản yếu: nghóa là mười hai năm trước kia, người Tiểu thừa chỉ thủ lấy ba mươi hai tướng, thân kim sắc, cho đó là Chơn Phật, chẳng biết còn có Chơn Phật, cho nên nói “chỉ nói rằng sắc tướng là Phật”. “Chẳng biết…”, vì chưa đạt pháp không, cho nên chẳng biết tướng đó chỉ là hình bóng do Chơn thân hiện ra, cho nên Duy Thức nói: “Đại viên kính trí năng hiện năng sinh thân Thổ trí ảnh”. Đã nói là ảnh thì biết là chẳng Chơn. Cho nên Di Lặc Tụng nói rằng: “Ứng Hóa chẳng Chơn Phật, cũng chẳng bậc thuyết pháp”. “Chẳng Như thật…”. Nếu biết Chơn thân là thật, ứng thân là hư giả. Lại còn liểu hiểu tương1 tức vô tướng, đó gọi là Chơn thân. Vô tướng tức tướng, đó gọi là ứng thân. Người thấy như vậy gọi là “Như thật thấy…” cho nên Hoa Nghiêm nói: Ở thật, thấy Chơn thật, chẳng thật thấy chẳng thật, như vậy mà giải pháp tướng, đó tức gọi là Phật . nếu chẳng như vậy thì gọi là chẳng như thật thấy. Kết: Từ câu “Vì vậy mà kinh này…”: “Phát minh hai quả”: là như kinh nói: “Như Lai thuyết ba mươi hai tướng tức là phi tướng”: là phát minh Chơn thân. “Là danh ba mươi hai tướng”: là phát minh ứng thân. Lại còn nói: “Tức phi cụ túc sắc thân”, phát minh Chơn thân. “là danh cụ tức sắc thân”; phát minh ứng thân. Còn lại những câu khác cứ theo trên mà biết. “Hai Nhân…”: Chơn thân do từ Nhân Huệ trước kia mà chứng đắc ứng Thân do từ Nhân phước trước kia mà chứng đắc. Trong đoạn trước nói: “Cho nên cần phải hai nghiêm; phước và Huệ…” tức là dựa theo quả mà nói Nhân. Nay nói “Vì vậy mà kinh này phát minh…”tức là nhìn Nhân mà nói quả. Nói như vậy là ý muốn khiến chúng sanh tu hai loại Nhân, chứng hai loại quả. Mà năm phần trên (quyển sớ từ phần a đến phần e) triển chuyển nối tiếp nhau: nghóa là thuyết kinh Bát-nhã là để trừ hai chấp, cho nên có phần thứ nhất (a). Hai chấp đã trừ nhưng hai nghi vẫn còn, cho nên có phần thứ hai (b). Dù cho không có nghi nữa nhưng tranh sao với nghiệp trước, cho nên có phần thứ ba (c). Ác nghiệp đã diệt, Nhân vô lậu đã thành, cho nên có phần thứ tư (d). Nhân đã rõ rệt, quả chứng đâu xa, cho nên có phần thứ năm (e). Do vậy, đại ý của cả cuốn kinh đều nằm ở năm lớp này vậy. - Về phần nói về Tông Thể của kinh quyển “Sớ Luận Toản Yếu”: Tông: tức là sở thuyên. Thể: tức là năng thuyên (thuyên là thuyên giảng). Tông: Tông là tôn, là trọng, Tông là chỗ tôn sùng của tâm và ngô mà Ngô (lời nói) do từ ở tâm, cho nên Triệu Công nói: Tình còn ở không, khi xúc chạm với Ngôn mà chẳng còn không nữa. Bài tự Mao Thi nói: Tình động ở trung mà hình ở ngôn. Đoạn văn này có hai phần: Nói chung các giáo: phương này xưa nay, giáo có ba loại: Cạn sâu đã khác, tông chỉ cũng riêng: 1.Nho giáo: chủ là văn Tuyên Vương, tức là khổng khau. Tông ở Ngũ thường, Nhân, Nghóa, Lễ, Trí, Tín. Ý lấy tu thâm thận hành, trị quốc, tề gia, dương danh đời sau; 2.Đọa giáo: Chủ tức là Huyền Nguyên Hoàng Đế, là Lão Đam. Tông ở tự nhiên, tức là dung hòa thị phi, sinh tử ngang bằng, chung quy về hư vô; 3.Thích giáo: chủ tức là Thích Ca. Tông ở Nhân duyên, ý khiến cho biết mê phá Hoặc, chứng Chơn khởi dụng. Vì vậy mà sớ nói “Nhân duyên làm tông”. Mà một đời Phật giáo là tông Nhân duyên. Tuy Tiểu thừa thì sinh diệt, Đại thừa thì vô tính, cạn và sâu có khác nhưng đại khái xét chung đều là Nhân duyên. Mà nhân duyên thì có hai loại: Thế gian. Xuất thế gian. - Thế gian: có hai loại: Nội và ngoại. Ngoại lại có hai loại: 1.Đó là hạt giống làm Nhân. Nước đất, con người, thời gian,.. làm duyên, mà rồi mầm cây sinh ra. Lại nữa, Đất sét làm Nhân, bánh xoay, dây thừng, thợ gốm… làm duyên, mà rồi đồ vật được thành; 2. Nội: nghóa là vô minh làm Nhân. Chi hành làm duyên mà sinh ra năm chi, Thức,… và hai chi, sinh, lão tử. Hai khí thế gian trước, một sau tức là Hữu tình Thế gian. Cho nên biết thành tham giới thế gian này chỉ do hai chữ “Nhân Duyên”. - Xuất thế gian: có ba loại: 1. Bổn giác nội luân làm Nhân, thầy dạy ngoại Huân làm duyên, mà thủy Giác đắc sinh ra; 2.Thủy Giác (giác mới khởi đầu) làm Nhân, năm Độ; Thí, giới,.. làm Duyên mà Phật quả được thành; 3.Đại Bi làm Nhân, chúng sanh làm duyên mà ứng Thân, Hóa Thân được hưng. Cho nên biết rằng xuất thế gian tất cả những sự, tịnh, diệu,… điều chẳng ra ngoài hai chữ Nhân duyên. Cho nên pháp Hoa nói: Phật chủng từ duyên mà khởi, vì vậy mà thuyết Nhất Thừa. Trung Luận nói: “Chưa từng có một pháp nào mà chẳng từ duyên sinh ra”. Lại nói: “Ta thuyết Nhân duyên này, năng diệt chư hý luận”. Tóm lại nói: “Ta thuyết Nhân duyên này, năng diệt chư hý luận”. Tóm thu thế gian, xuất thế gian tất cả chư pháp. Nghóa Hữu, Nghóa không, Nghóa Giả, nghóa trung, tuy cạn và sâu khác nhau nhưng đều rơi vào Nhân duyên. Nói Hữu (có); là sinh có diệt. Nghóa là chư pháp duyên hội hợp mà sinh, duyên lìa thì diệt. Hư Tỳ kheo Mã Thắng vì Xá-lợi-phất mà thuyết kệ rằng: “Chư pháp từ duyên sinh, duyên lìa pháp liền diệt. Cứ vậy diệt và sinh, sa môn thuyết nhưv ậy”. Không; đã thuộc nhân duyên thì biết là vô Thể, vô thể tức là nghóa không. Cho nên Trung Luận nói: “Pháp do Nhân duyên sinh, ta nói tức là không”. Giả: là như hình trong gương, như trăng dưới nước, tuy chẳng thật nhưng Duyên hội hợp chẳng thể chẳng hiện. Cho nên Tịnh Danh nói: Thân này như bóng ảnh, từ nghiệp và Duyên mà hiện. Trung: Vì giả, cho nên phi không, vì không, cho nên phi giả. Phi không phi giả, tức không tức giả, gọi là nghóa trung, cho nên Tịnh Danh nói: Thuyết pháp bất Hữu cũng bất vô, vì nhân duyên mà chư pháp sinh. Lại nữa, như Trung Luận đều nói về bốn nghóa; Hữu, không, giả, Trung, nói rằng: Pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là không, còn gọi là giả danh, cũng gọi là Trung Đạo. Tức là trong Tam thừa giáo nói về nghóa không, Hữu, Trung giả đều chẳng ra ngoài Nhân duyên. Cho nên nói rằng “Tông chung của Phật giáo là Nhân duyên”. Quyển Sớ Luận, từ câu “Xét riêng về kinh này…” là riêng ở trong chung, tùy theo kinh mỗi kinh tông mỗi khác. Như Hoa Nghiêm là pháp giới. Pháp Hoa là Nhất Thừa, Tịnh Danh là Bất tự nghị, Chơn Như, Phật tính,… Văn có ba phần: 1.Dựa theo pháp mà lập: về chủng loại Bát-nhã. Các thuyết khác nhau. Theo thuyết của Trí Độ Luận thì có ba loại: 1.Văn tự Bát-nhã tức là giác năng thuyên; 2. Quán chiếu Bát-nhã; tức là Trí năng quán; Thật tướng Bát-nhã: tức là cảnh sở quán. Về sau La Thập tách ra thành năm loại. Nghóa là trong Quán chiếu Bát-nhã tách ra quyến thuộc Bát-nhã, tức là tủy hành ngũ uẩn và những Thiện căn như; Nhu,… ở trong Thật tướng Bát-nhã tách ra thêm cảnh giới Bát-nhã, tức là cảnh của Tục Đế. Trong năm loại Bát-nhã này, chỉ có Quán chiếu Bát-nhã là tùy nghiệp, còn lại đều là y chủ. Đại vân cho rằng năm Bát-nhã này đều là trì nghiệp, nghóa là văn tự tính không tức là Bát-nhã. Quyến thuộc, cảnh giới đồng với văn tự, thật tướng tức là pháp thân. Khởi TÍn Luận nói: “Y pháp thân này, gọi là Bổn giác”. Tuy ba năm nhưng ba loại Bát-nhã là chính. Những gì mà Bát-nhã chiếu, đều là thật tướng, chẳng chỉ Chơn Như. Cho nên Trí Luận nói: “Chiếu sắc,… không, tức gọi là thật tướng. Tính không và thật Lý lìa khỏi Điên Đảo, chẳng hư ngụy, cho nên ở không mà thấy không, cũng gọi là điên đảo, ở không mà chẳng dính mắc mới là thật pháp. Sắc,… là hư giả, lừa dối nhãn căn người ta”. Vì vậy mới biết chỉ dựa theo bất điên đảo, ly hư ngụy, liền là Thật tướng, Chơn đế và tục đế, cả hai đều thật, vì cùng là một thật tướng. Vì quyến thuộc như nhu,.. là Huệ tính, nên tương ưng và tùy Hành đều Quán chiếu, cho nên biết Quán chiếu nhiếp cả quyến thuộc, do vậy, tuy nói ba mà đã bao trùm cả năm, đã phù hợp với Trí Luận, ắt phải khế hợp với thâm kinh, do vậy ba loại Bát-nhã là chính. Mà chư gia lập tông, hoặc là tông quán chiếu Bát-nhã, hoặc chỉ tông thật tướng Bát-nhã. Như thế thì chưa đúng! Hơn nữa kinh này thuyết giảng, chỗ nào cũng ly tướng, há lại chỉ là quán hcie6u 1. lại nữa, giáo hóa chúng sanh, đoạn nghi phá chấp, há lại chỉ dùng thật tướng. Do vậy, nay sớ này, lấy cả hai làm tông. “Bất nhất bất nhị”: Vì muốn nói cái nhất của chúng nhưng thể và dụng có khác. Vì muốn nói cái nhị của chúng nhưng Tịch và chiếu thường đủ, cho nên phi Nhất Phi Nhị. Dựa theo dụ để giải thích thành: Từ câu “dùng cái trí của tức lý…” đây là tỏ rõ lấy cả hai thứ Bát-nhã làm chính. Hơn nữa đã nêu ra kim cang vừa kiên cố vừa bén nhọn để dụ cho hai loại Bát-nhã; Thật tướng và quán chiếu. Nếu chỉ lấy Quán chiếu Bát-nhã làm tông thì thiếu mất nghóa kiên cố. Nếu chỉ lấy thật tướng thì thiếu mất nghóa sắc bén. Lại nữa, đều nói “tức”; là để thích thành cái tướng “bất nhị”. Vì chiếu mà thường tịch, cho nên lý chẳng ngoài trí. Vì Tịch mà thường chiếu, cho nên trí chẳng ngoài Lý. Đã lìa Lý thì không có trí, lìa trí thì không có Lý. Cho nên như Kim Cang tức kiên tức lợi (sắc bén). Dựa theo Hạnh, kết hiển. Từ câu “Trong vạn hạnh…” Nghóa là trong Bồ-tát Hạnh ắt phải đủ cả hai. Nếu muội thật tướng thì khó quên phân biệt, bèn thành trú tương, tức đọa Hữu lậu. Nếu muội (mê) quán chiếu thì chiếu trí dụng, liền trệ ở thiên không, đồng với Nhị Thừa. Cho nên cần phải hai sự kiên hành, mới khế trung đạo. Đây cũng giống như nghóa của Hạnh Huyền ở phần trên. Do vậy, trong khởi Tín Luận, chỉ và Quán hợp thuyết. Trong Pháp Hoa Kinh, Định và Huệ trang nghiêm Hoa Nghiêm nói rằng Định, Huệ hai sự, Bồ-tát nương nhờ. Niết-bàn tỏ rõ, Định Huệ chẳng đẳng, chẳng thấy Phật Tính. Trong chư giáo nói: Vô minh tà kiến, từ đó mà sinh, cho nên sớ Hoa Nghiêm nói rằng: vạn hạnhl vong và chiếu mà tề tu, Đốn và Tiệm vô ngại mà song nhập đều là nghóa đó vậy. Thể: Chia ra ba phần: Nêu lập: có thể hiểu được. Chánh thích: Hoặc có người nói rằng: Chư gia xuất ra giáo thể đều lấy thanh danh, cú, văn, hoặc lấy chung pháp được thuyên giảng. Nay sao ở đây chỉ lấy Văn tự? Do vậy mà Sớ nói rằng: văn tự tức là bao hàm cả thanh, danh, cú, văn, nó có đủ cả bốn pháp. Thanh tức là âm thanh tiếng nói. Danh, cú, văn cả ba tức là sự biểu thị khuất khúc ở trên thanh. Danh thì chú thích rõ tự tính của các pháp, cú thì tỏ rõ sự sai biệt của các pháp, văn tức là tự (văn tức là chữ) làm chỗ nương cho hai thứ trên (Danh và Cú). Hỏi: Trong bốn pháp, văn tự đứng ở sau cùng, vì sao lại bao gồm cả những pháp; thanh, Danh….? Đáp: Sở dó nó có thể bao gồm, là vì có hai ý: Năng hiểu rõ văn tự có ba chỗ: đó là hiểu ở trên tâm, tức là cảnh của ý thức. Hiểu ở trên thanh, tức là cảnh của Nhó thức, hiểu ở trên sắc, tức là cảnh của Nhãn thức. Nay lấy cái thứ nhất, cho nên nó có thể bao gồm hai cái kia. Có Thanh chưa ắt có Danh, cú, văn. Có văn thì ắt có thanh, danh, cú. Có hai thứ trước chưa ắt có hai thứ sau, có hai thứ sau thì ắt có hai thứ trước, như có mầm non ắt có rể, có rể chưa ắt có mầm non. Do vì nghóa này, cho nên bao gồm cả thanh,… Từ câu “ Văn tự tính không…”: Là tỏ rằng nó thâu tóm cả lý, nghóa là nương ở Bát-nhã mà hiển hiện văn tự. Văn tự vốn không, tức là Bát- nhã, không có một Thể văn tự nào riêng cả. Mà có hai ý: 1. Thể thuộc duyên sinh, cho nên nó không có tự thể của chính nó; 2.Vì chẳng có một pháp riêng biệt nào làm Thể của văn tự. Đó đều ý nói rằng Bát- nhã là Thể của văn tự. Chúng cũng giống như nấu chảy vàng đúc thành tượng, tượng tức là vàng vậy. Tổng kết nghóa bao hàm. Như trên đã nói; vì thâu tóm cả năng và sở, cho nên nói là “Lý vô bất tận”. Văn tự thì bao quát cả Năng thuyên, Bát-nhã thì bao quát cả sở thuyên. Thuyên và ý chỉ đã đủ, cho nên nói “hợp làm giáo thể”. Phần Phân Biệt Xứ Hội của Quyển “Sớ Luận Toản Yếu” Văn có hai phần. Trong phần thứ nhất có hai phần: Nói chung về Đại Bộ, từ “Kinh này …” là phần hai: nói riêng về kinh này, có thể hiểu được. Trong phần nói về truyền dịch. Văn có ba phần: Chánh tỏ về Đông Thổ phiên dịch trước sau có hai phần: Nói chung các bản dịch: “Lưu chi”: Thiên Bình, năm thứ hai, ở Lạc Dương, dịch thành mười bốn chỉ (giấy) tên là Kim Cang Bát-nhã. Ngài Chơn Đế; Thái sang năm thứ nhất, ở kim Lăng quận, dịch thành mười bốn chỉ, tên là Kim Cang đoạn cát. Ngài cấp Đa; khai Hoàng năm thứ mười, ở Lạc Dương dịch thành mười sáu chỉ, tên là Kim Cang Đoạn Cát. Ngài Huyền Trang; trinh Quán năm thứ hai mươi, ở Ngọc Hoa cung dịch thành mười tám chỉ, tên là Năng Đoạn Kim Cang. Ngài Nghóa Tịnh: chứng Thánh năm thứ hai ở Phật thọ ký tự, dịch thành mười hai chỉ, tên là Năng Đoạn Kim Cang. Nói về sở thuyên: từ câu “ Nay sở truyền…” Từ câu “ở ThiênTrúc…” là phần hai. Nhân nói về Tây phương mà giải thích về dị và đồng. Câu “Chuyển truyền trao cho ngài Thiên Thân”: có thuyết nói: Vì ngài Thiên Thân lâu ngày tập quen Tiểu thừa, gần đây mới theo Đại giáo, vì cần phải tẩy rửa tình chấp, cho nên chuyển trao cho ngài để đoạn dứt nghi chấp. Có thể xem trong văn của Hiển Hành vị chánh Tông. Từ câu “Nay ở đây chia kinh…” là phần ba. Chia kinh y cứ sai biệt, có hai phần: Nói rõ chỗ y cứ để chia và giải thích kinh. “Kiêm Vô Trướng”, để tỏ rằng sớ này chính là y theo Thiên Thân, tham khảo thêm Vô Trướng và các bản sớ luận khác. Xem phần mở đề. Từ “Đề tên…”; là phần kết thành nguyên do đặt tên sách: khác với cuốn “Tịnh Danh tập sớ bị thử” là danh nghóa của tứ Thánh, tức như cuốn “hà Yếu tập giải luận ngữ”, ở trong chú giải của khổng An Quốc, Mã Dung,… thứ nào hợp thì dùng, chẳng hợp thì cắt bỏ. Nay sớ này cũng vậy, hoặc lấy cả hai, vì đều có lý, hoặc cùng thành một nghóa, cho nên giữ lại cả hai. Phần Giải Thích Văn Nghóa của Quyển “Sớ Luận Toản Yếu” Có hai phần: Giải thích tên kinh. Có hai phần: Giải thích sở thuyên có: ba phần Giải thích “Kim Cang”. Có hai phần: - Dịch tên, tỏ tướng. Từ “Tiếng phạm…”: tiếng tân là: Phược tả La. “Các lực só cầm”, như Kinh nói: Thần cầm Kim Cang, tiếng phạm là Nặc Kiến na, tiếng Hán là Lộ Hình Thần, tức là vị Lực só này. “Chất cương cứng nhất trong vàng”: Từ Kim (vàng) là chung cho cả năm (ngủ kim?) nó kiên cứng nhất, cho nên đặt tên là cang (cương). Nó chẳng phải là đồ vật của nhân gian loài người, cho nên nói là “Đế Thích có bảo vật đó”, nó là vật chí bảo ở trên trên, cho nên nói là “kẻ bạch phước khó mà thấy được”. Cuốn chánh lý luận nói: Đế Thích có Bảo, gọi là Kim Cang, chúng sanh bạch phước chẳng thấy được nó. - Từ “Cực kỳ kiên cứng…” dựa theo pháp mà biện về nghóa: Có hai phần. Dẫn kinh luận để tỏ chung về hai nghóa. Có ba phần: Nêu tổng quát, bàn tóm lược. Vì có năng lực đắc biệt cho nên nói “cực kiên cực lợi, dụ cho Bát-nhã”. Từ “Không có vật nào…” là giải thích những tướng cực kiên… mới biết nếu có một vật nào pha hoại được nó thì chẳng phải là cực kiên. Nếu có một vật mà nó chẳng đập tan được thì chẳng phải là cực lợi (sắc bén), như bạc, sắt tuy cứng, gặp lửa thì cháy tan. Đạo kiến tuy bén, chặt đá thì sứt mẻ. Chẳng phải là cực kiên cực lợi. Để tách biệt với những thứ cứng bén khác, mà thêm một chữ “cực”. Từ “Kinh Niết-bàn…” là phần hai dẫn giáo, giải thích. “Kinh Niết-bàn…” là dẫn kinh. “Ngài Vô Trướng nói…” là dẫn luận khó hoại, tức là nghóa kiên. Năng đoạn, tức là nghóa lợi. “Tế Lao”, tế là để phân biệt với thô, là vi diệu. “Lao” là để phân biệt với bị hư hoại. Nghóa kiên cố thành vậy. Nhân của Trí, tức là Huệ. Huệ là Nhân của Trí. Trí là Quả của Huệ. Đây là nói theo Quán chiếu Bát-nhã. Vì vi tế, nên có thể nhập vào Hoặc khiến cho hoặc kia tiêu diệt. “Bất khả hoại”, trí Luận nói: tất cả những sự việc, ngữ ngôn, danh tướng…. Đều có thể phá hoại, duy chỉ Trí vô tướng là chẳng thể phá hoại. Đây là nói theo Thật tướng Bát-nhã. Hỏi: Thật tướng Bát-nhã chia ra Nhân và Quả sao? Đáp: Vì Dụng có hơn kém nên chia ra Nhân và Quả. Thể không có tăng giảm, Nhân và Quả cùng một Như. Cho nên Phổ Hiền Quán nói: Nhân của Đại thừa là thật tướng của chư pháp. Quả của Đại thừa cũng là Thật tướng chư pháp. Hoa Nghiêm Kinh Sớ nói: Lý khai ra Thể và Dụng, gọi là Đại Phương Quảng. Trí chia ra Nhân và Quả, gọi là Phật Hoa Nghiêm. “Đều lấy sự kiên cứng…” là phần ba: Kết, tỏ ý chỉ của Dụ. Đây là kết ý những kinh luận đã dẫn, chư đức xưa kia đều dùng nghóa đó. Tứ Thánh nói: Kim Cang: là vừa kiên cứng vừa lợi bén, kiên là dụ cho Bổn giác, Chơn tình, tuy lưu chuyển các cõi mà giác tính chẳng hư hoại. Lợi là dụ cho Bát-nhã, tịnh chiếu Tam Hiền, Thập Địa, xuyên suốt cả vạn hạnh. Vô minh và mê hoặc u ám đều bị tan hoại. Tăng Triệu nói: Kim Cang là dụ cho kiên lợi. Vì kiên, nên chẳng vật nào ngăn trở được. Vì lợi nên vật nào cũng bị bẻ gảy, tam vở, dùng để so với Huệ ấy, tà ma chẳng hể hủy hoại cái cực kiên. Có thể phá tan vạn vật, đó là ý nghóa của lợi. Lại nữa, các kinh luận nói rằng Kim Cang là dụ cho Định. Kinh Thắng Man nói: Kim Cang là dụ cho trí. Kinh Phạm Võng lấy Thập Hồi Hướng làm Thập Kim Cang. Kinh Nhân vương gọi đó là Thập Kiên tamn 6. kinh Tịnh Danh dùng Huệ Kim Cang để quyết liểu tướng này. Vô phược, vô thoát, đắc vô sanh pháp nhẫn. Lại nữa, chư kinh luận thuyết về Kim Cang trà, Kim Cang Sơn. Kim Cang Luân, những thuyết như vậy đều dùng nghóa kiên lợi. Lại nữa, cuốn “Tấm Vỏ Đế Khởi Cư” chú giải nói: Vỏ Đế năm thứ mười ba, ở Đôn Hoàng có người hiến dâng Kim Cang Bảo, sinh ra ở trong vàng kim, màu sắc như Tử Thạch Anh, hình trạng giống như Kiều mạch, trăm luyện chẳng tan, có thể cắt ngọc như cắt bùn, mới biết cực kỳ kiên lợi. Từ câu “Chơn Đế…” là phần ba: dẫn người Chơn Đế, tỏ về sáu loại: có hai phần: 1- Chánh tỏ về sáu loại: mỗi một loại đều phối với pháp, trong sớ đã rõ ràng, đều là công dụng của Bát-nhã. “Tai ách…”, có Ách thì tai nạn ắt đến. Có nghiệp thì quả khổ sẽ đến. Ách trừ thì tai họa chẳng khởi. Nghiệp tan thì quả khổ chẳng sanh. Câu: “Tùy theo Nhu cầu của con người”: có hai ý: 1.Như các vật khác chẳng thể tùy theo nhu cầu của mình được. Vàng chẳng thể dùng làm bạc, lưới chẳng thể dùng làm gấm,.. Kim Cang thì chẳng vậy, muốn dùng gì đều được. Trong pháp cũng vậy, người công đức Hữu lậu, chẳng thể làm chư thiên, giàu có chẳng thể làm nghèo. Vô lậu thì chẳng vậy, tùy tâm mình mà thành; 2. Những vật khác, xử dụng rồi thì hết. Kim Cang thì xuất ra chẳng cùng. Tên pháp cũng vậy. Hữu lậu, thọ hưởng xong thì hết. Vô lậu thọ hưởng chẳng tận. Câu “Đối mặt trời…”; Hệu tức là thủy giác (cái giác ban đầu) khi hợp với bổn giác thì thấy pháp vô sanh, gọi là trí vô sanh. Như Khởi Tín nói: Được thấy tâm tính, tâm tức thường trú, thường trú tức là nghóa của Vô Sanh, lửa xuất ra thiêu đốt hết cả thế gian, làm cho Lục hợp rổng không. Trí khởi thì đoạn trừ phiền não, khiến cho đại đạo thông đồng. “Làm trong nước…”: nước trong thì vạn hình cùng soi. Nghi trừ thì Phật pháp hiện tiền. “Trong không gian…”: bay lên bầu trời thì chân chẳng đạp đất, tú ở Chơn không thì chẳng đọa thế gian. “Tiêu tan các độc”, trúng độc thì khiến người mệnh chung, khởi hoặc thì mãi chìm sinh tư. Trừ độc thì sống lâu ích thọ. Hoặc tan thì bất diệt bất sinh. Từ “Kiêm thêm…” là phần hai: Kết, tỏ về chánh phụ. Phật đã đạt tên, vốn dựa theo nghóa kiên lợi, như sáu nghóa trên, mới là kiêm tỏ, chư gia đến đây, thường chẳng phân chia, chỉ theo nghóa chính. Nếu đem sáu loại trên, phối với năm nhãn trước thì loại một hợp với nhân thứ ba. Loại hai ba hợp với nhân thứ tư thứ năm, loại bốn hợp với nhân thứ hai. Loại năm sáu hợp với nhân thứ nhất. Phần Giải Thích Chữ “Bát-nhã” của Quyển sớ. Có hai phần: Dịch tên, lược chỉ: “Bát-nhã”: Chánh dịch là Huệ. Xưa nay chư Đức, dịch nghóa là: Diệu Huệ, Tịnh Huệ, Vô Tướng Huệ, đều kẹp với nghóa Đến bờ kia, đó là tướng riêng. Nay nói “Chánh dịch là Huệ”, tức là tướng chung. “Tức chiếu…”: là dựa teo công dụng để xuất Thể. “Chiếu uẩn không”, tức là công dung. Huệ của Bổn giác, tức là xuất Thể. Đại phẩm nói: Sắc như nước bọt tụ, thọ như bọt nước, ảo tưởng như diểm. Hành như Ba Tiêu, Thức như Huyển Hóa. người quán như vậy, gọi là chiếu` uẩn không. Sớ: “Huệ tương ưng với Bổn giác…”: Bổn giác tức là Như Lai tạng tự tính thanh tịnh tâm. Chẳng phải là mới sinh ra, nên nói là Bổn. Chẳng gan ám mờ tối, nên nói là Giác. Huệ tức là Thủy giác, y theo Thể mà khởi dụng, gọi đó là Huệ. Thủy tức là đồng với Bổn, cho nên gọi là tương ưng. Mà Bổn giác và Huệ là bất nhất bất nhị, vì bất nhị cho nên nói là tương ưng. Vì bất nhất, cho nên gọi đó là Huệ. Cho nên Tư Thánh nói: Vọng tâm thấy tục, gọi là vô minh, Ngộ tâm chiếu Chơn, đó là Bát-nhã. Tục cảnh vạn hữu thấy tâm ắt dị, Chơn không lý Nhất ngộ tự vô sai, đệ nhất nghóa không, ly chiếu vô lý, thanh tịnh bổn giác ngay lý là chiếu. Lại nữa, Kinh Niết-bàn nói: Phật Tính gọi là Đệ Nhất Nghóa không. Đệ Nhất Nghóa không, gọi là Trí Huệ, những thứ này đều là chứng nghóa phi nhất phi nhị giữa Thể và DụÏng, mà gốc (bổn) tức là Thật tướng, Thủy (khởi thủy) tức là Quán chiếu. Sớ: “Nếu nói theo…”: Là phần hai, dẫn giáo giải thích rộng. Có hai phần: Dẫn luận biệt tướng giải thích. Có hai phần: Nhiếp chung ba Huệ: “Người Học”: tức là người tu Đại thừa Hạnh, đầu tiên cần phải nghe pháp, sinh ra giải hiểu, gọi là Văn Huệ. Tiếp đó đo lường những điều mình đã nghe, nhận xét giáo lý, phân minh chấp nhận để ấn tự tâm, gọi là Tư Huệ. Rồi sau đó như chỗ nghe, như chỗ suy xét, y theo đó mà hành, chẳng có trái vượt, gọi là tu Huệ. Hai Huệ trước là Hữu Lậu, Huệ sau là vô lậu. Hai Huệ trước là cạn, Huệ sau là sâu, sâu và cạn tuy khác nhưng gọi chung là Huệ, tóm thu hết Huệ trên, gọi đó là Bát-nhã, cũng như người đèn sách, đi thi, thi đổ, tuy trước kém sau hay nhưng đều cùng một người… Sớ: “Cho nên ngài Vô Trướng…”: Là phần hai, dẫn luận văn thích thành. Có hai phần: Chánh thích thành: câu “Trong Bát-nhã Ba- la-mật”: Đây là tiệm tu trong Đốn ngộ. Khi Huệ mới phát, chiếu vạn pháp không, liền đến bờ kia, gọi là Đốn Ngộ. Do thường hay sanh tập tích, chưa thể niệm niệm tương ưng, cho nên cần nghe chánh pháp, tư duy nghóa lý, như thuyết tu hành, mới có thể chứng nhập, gọi đó là tiệm tu, trong phần mở đề đã nói qua, nếu trong Duy Thức nói thì có đủ hai trí, căn bản Trí và Hậu đắc trí nghóa là trong mười Độ, sáu độ trước thông với căn bản trí, bốn độ sau chỉ hậu Đắc trí. Trong sáu Độ thì hai trí đều đủ. Vì chia thành mười độ, cho nên độ thứ sáu chỉ thủ Nhị không bổn. Nay theo ngài Vô Trướng thêm vào Gia hạnh Trí thì thông với ba độ trước vậy. “Kim Cang đoạn xứ…” là như Xứ mà Kim Cang đoạn vật mà đoạn phiền não, chẳng phải nói Kim Cang cũng thông cả sở Đoạn. Sớ “Lại nói…” là phần hai, phối Nhân quả. Có hai phần: Song dẫn luận. Nhân của Trí là Huệ, quả của Huệ tức là Trí. Trước tuy dẫn dụng, nay mới giải thích. Đây là dẫn ngài Vô Trướng, tiếp đó là dẫn Trí Luận, có thể biết được. Sớ “Thì văn, tư…” là phần hai, song giải thích. Đây là nói về pháp không, thâm Huệ, ý muốn tách biệt với Ngã không Huệ là thô thiểu chẳng làm nhân Phật, chỉ là Nhân Nhị Thừa. “Vì Bát-nhã…” là đưa ra nguyên do, bởi Huệ là nghóa giản trạch (tách bạch, chọn lọc), chọn lọc Hoặc chướng, hiểu rõ vô vi. Vì ở Nhân vị có Hoặc nên cần phải chọn lọc nó, mới gọi là Huệ. Còn Trí thì theo nghóa quyết đoán. Vì ở quả vị, không có Hoặc, chỉ duy quyết định, lỏng nhiên độc chiến, cho nên gọi đó là Trí. Chỉ là một pháp mà hai tên gọi. Như người phá tan giặc là tướng quân, công thành là tướng quốc. Có người nói: Lấy Vô Lậu trí tính làm Nhân của Trí. Đại Vân phá điều đó, tam đồ (Ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục) đều có tính, sao chẳng đoạn Hoặc, vì thiếu nghóa tế (Diệu Huệ). Đây là dựa theo Diệu Huệ tướng riêng để phá. Nếu dựa theo tướng chung thì vẫn được vậy! Bởi vì hể là có tâm đều thành Phật, đó là Nhân vậy! Sớ: “Nếu theo…” là phần hai, dẫn kinh thông tướng để giải thích. Đây là nói về trị duyên và tự giới. Chữ “Nhã” là Tự giới. Chữ “Bát” chữ “Na” đều là Duyên. Nếu lấy chữ “Bát”làm duyên, giúp cho “Nhã” giới thì gọi là Huệ. Nếu lấy chữ “Na” làm duyên giúp cho “Nhã” giới thì gọi là trí. Như người tăng, người tục,… tên khác thì gọi là Trí, là Huệ. Nghóa khác thì gọi là quyết đoàn, là giản trạch, trong đây, vì nghóa khác, nên làm cho tên khác. “Thể tính giống nhau”, đều là một trong cảnh riêng khác. Vì ba loại trí trước đều gọi là Huệ, cho nên Trí và Huệ đều như Kim Cang. Vì vậy mà Kinh tát Già Ni càn nói: Đế Thích Kim Cang Bảo, năng diệt A Tu La, trí tan núi phiền não, năng hoại cũng như vậy. Kinh Vô Thường nói: chày Trí Kim Cang đập tan núi Tà, vónh đoạn vô thủy tướng triền phược. Sớ: “Ba-la-mật…” là phần ba, giải thích Ba-la-mật. Văn có ba phần: Dựa theo ngữ đối dịch: phải nói là tiếng phạm vùng hạ Hồi. Bởi vì phong tục vùng tây Vực lệ đều như vậy,.. Thanh Long nói: Mật Đà, nghóa là lìa khỏi, đạt đến. Nguyên Sang nói: Phong tục ở Thiên Trúc, khi làm xong việc, đều nói: Đến bờ kia. Đến, nghóa là ly, lìa khỏi. Đoạn văn sau sẽ nói rõ. Sớ: “Nghiã là lìa hỏi…” là phần hai, dựa theo nghóa thuận giải thích. Có hai phần: + Giải thích nghóa trong ba câu trước. Mỗi câu đều trước pháp, sau là dụ. Ý nói phiền não như con sông lớn, khó mà độ qua sông. Sinh tử như bờ bên này, là chỗ ở của Hữu Tình. Niết-bàn như bờ bên kia, là chỗ trú của Chư Phật thế thì Huệ là năng ly, Năng độ, Năng Đáo. Sinh tử… là sở y, sở độ, sở Đáo. Nếu muốn ly khỏi này đến kia, ắt cần độ qua Trung Lưu (giữa dòng). Điều này nói theo Tứ Đế thì lý sẽ rõ vậy. Biết khổ là ly bờ này.đoạn tập, tu Đạo là độ trung lưu (qua sông). Chứng Diệt là đến Bờ kia. Đây là thuận theo nghóa Tiểu Thừa mà nói. Phần sau kinh, khiến nhập Đại thừa vô Dư Niết-bàn, tức là cần phải ly khỏi hai loại sinh tử bờ này, cởi thuyền bè Lục Dộ, độ qua ba chướng trung lưu, đến Hai Niết-bàn bờ kia. “Niết-bàn…”: Vì dịch Ba-la-mật là Bờ kia, tức là Niết-bàn, do đó, dựa theo chuyển y quả để tỏ nghóa Bờ kia. Mà sinh tử tức là phân Đoạn Biến dị, phiền não tức là bao quát cả hai chướng. “Viên tịch”: là dịch nghóa. Nghóa là: Đức thì đầy đủ cả trần sa, gọi là viên. Diệu thì tuyệt cả tướng lụy, gọi là Tịch. “Diệt độ”, Tăng triệu nói: là Niết-bàn tiếng Tần gọi là Vô vi, còn gọi là Diệt độ, hoặc chỉ nói là Diệt. Mà Diệt khác với Tiểu Thừa. Tiểu thừa cho Diệt sinh tử là Diệt. Đại thừa cho tịch Diệt là Diệt. Cho nên kinh Niết-bàn nói: Sinh Diệt đã diệt, tịch Diệt là Lạc. Mà Diệt chỉ căn cứ theo quả, Diệt độ lại kiêm cả Nhân. Nay thì dựa theo quả mà nêu Nhân. Cho nên nói là “Diệt độ”. Sở dó trong kinh phần trước thì nói Niết-bàn, phần sau thì nói Diệt Độ, cũng là tiếng Đường tiếng Phạm đều nêu. Về chủng loại Niết-bàn, phần sau sẽ nói rõ. + Sớ: “Tất cả…” là phần hai: thông nạn. Đây là văn của kinh Tịnh Danh. Kinh kia nói: Nếu Di Lặc đắc thọ ký thì tất cả chúng sanh cũng nên thọ ký. Vì sao? Vì tất cả chúng sanh tức tịch diệt tướng, chẳng còn diệt nữa…. Nay dùng văn này để làm lời nạn vấn, nạn ý rằng: Chúng sanh đã tức tịch diệt, sao lại còn có ly khỏi bờ này đến bờ kia, nay nói đến bờ kia, thế chẳng trái với kinh sao? Chỉ lấy phần sau để giải thích. Chỉ dựa theo lật mê mà thành ngộ tức là rời khỏi bờ này đến bờ kia. Nếu ngộ này rồi, dần trừ dần chứng; gọi là cứu cánh. Mà thành Ba-la-mật,c ần phải cùng với bảy Tối thắng tương ưng, như nói trong Duy Thức. “Nếu kiêm luôn…” là phần ba, thuận nghóa thông kết, tức là văn, tư, tu huệ nằm trong Ba-la-mật. Sớ: “Kinh…” là phần hai, giải thích Năng thuyên. Có hai phần: Dịch tên. Tu Đa La, hoặc gọi là Tu Đố Lộ, hoặc gọi là Tố Đát Lãm. Đây chỉ vì sự khác nhau giữa âm tiếng phạm, âm tiếng sở và âm tiếng hạ mà thôi. Dịch nghóa là: Tu Đa La chánh dịch là Tuyến (sợi chỉ), do Tây Thiên dùng danh từ Tu Đa La để chiêu gọi bốn Thật; đó là Thánh giáo, tịch kinh, tỉnh tác, Tuyến ở nước kia, thường dùng Hoa hiến Phật, đặt hoa ở tên bàn, e gió thổi bay dùng chỉ xâu lại. Lại thấy Thánh giáo ở phương này Thánh giáo, người trì lời Phật, chẳng quên lời nào, như chỉ xâu hoa, dùng “tuyến” (chỉ) để đạt tên xứ kia gọi là Tu Đa La, theo đó chánh dịch tức hợp gọi là Tuyến (sợi chỉ) ở phương này chẳng thích gọi là “tuyến”, cho nên dịch là “Kinh”, chữ này cũng ngầm phù hợp với chữ “Tịch kinh” ở phương kia, vừa thuận với chữ “Kinh” của Nho Đạo ở nước này, tuy hợp thuận cả hai bên, nhưng chẳng khỏi tương lạm nhau, do vậy thêm vào một chữ “khế” để phân biệt khác nhau, mà càng hợp hơn khi thêm hai chữ “Dục Để” trên chữ Tu Đa La, dịch là khế kinh thì tiếng Đường và tiếng phạm đều đủ. “Khế;…” là phần hai, giải thích nghóa. “Thuyên biểu…” là giải thích chữ Khế, “thuyên biểu nghóa lý” là giải thích khế lý. Nghóa là thuyết Sự Như sự, thuyết lý Như lý.. câu “Khế hợp lòng người” là giải thích khế cơ, nghóa là khiến cho người có chỗ ngộ hiểu, hoan hỷ tín thọ,… tức là kinh khế lý khế cơ”, giải thích theo chủ. Văn tuy đảo nhưng ý cho kinh là năng khế. “Kinh…” là phần hai. Giải thích chữ kinh. Nêu “vì Phật …” để giải thích, như đã nói trong phần mở đề. Nay chỉ nói kinh mà chẳng nói khế là vì có hai chữ “Bát-nhã” để phân biệt chẳng phải là những kinh như Đạo Đức kinh,… cho nên chẳng nói. GIẢI THÍCH KINH VĂN: Có hai phần: Chia phần kinh. Đây là cách chia của Đạo An Pháp Sư, hể là Phật kinh, chẳng kể là Đại hay tiểu thừa đều chia thành ba phần: ý nói, Tự phần: là nói về nguyên do dẫn đến thuyết pháp. Phần chánh Tông: là bổn ý huyền môn, Lưu Thông phần: Kế thừa vạn cố. Phù hợp với cách chia xưa nay ở tây Vực. Kinh này từ “Như thị… phô tòa nhi tọa” là tự phần. Từ “Thời Trưởng Lão… ưng tác như thị quán” là chánh tông phần. Từ “Phật thuyết thị kinh… Tín thọ phụng trì” là Lưu thông phần. “Chứng tín tự”: tức là sáu thành tựu. Tỏ rõ về thuyết, nghe, thời, xứ, mỗi một phân minh rõ ràng để chứng tỏ rằng chẳng sai lầm, khiến cho vật (người, chúng sanh) sanh ra niềm tin. “Phát khởi tự”: là dùng sự tướng bày tỏ phát khởi chánh tông pháp nghóa. Mà hai tự này còn có tên khác, đó là Thông tự và Biệt tự. Thông là vì các kinh đều có giống nhau. Biệt; nghóa là các kinh có riêng. Còn gọi là kinh Hậu tự và kinh đều có giống nhau. Biệt; nghóa là các tỳ kheo đem việc này bạch Phật, Phật nói: kinh có riêng. Còn gọi là kinh Hậu tự và kinh tiền tự. Kinh hậu tự là khi Phật thuyết thì chưa có, khi kết tạo mới an lập ra. Kinh tiền tự là Phật phát khởi trước, rồi mới thuyết kinh. Ba phần trong quyển sớ, nay là phần thứ nhất. - Nhân kiến lạp: ý nói những lời “Như thị Ngã văn” do đâu mà ra. “Khi Phật sắp …”: Phật sắp nhập diệt, A Nan buồn bả, A Nê lâu Đậu bảo A Nan rằng: ông là người trì Phật pháp, cần phải kềm chế, ông nên đến hỏi Phật về hậu sự. A nan nói: Hệu sự là sao? A nê Lâu Đậu nói: Ngày Thế Tôn còn, y theo Thế Tôn mà trú, Thế Tôn diệt rồi, y theo gì mà trú. Ác tính Tỳ kheo, những ngày Phật còn tại thế, Phật tự điều phục, sau khi Phật diệt độ, làm sao điều phục. Để ích cho về sau, theo lý thì nên kết tập, đầu tất cả kinh, đặt những lời gì? A Nan theo lời dạy, hỏi từng điều một. Nay sớ nói tóm lược, chẳng ghi lại lời hỏi chỗ viết lời đáp. “Tứ Niệm Xứ” Trí: tức là Thân, Thọ, tâm, pháp. Niệm là Niệm Huệ. Xứ; là Thân,.. tức là xứ mà Niệm Huệ an trú. Niệm là Năng trú. Bốn Xứ; Thân, thọ, tâm, pháp là sở trú, An trú Niệm Huệ ở bốn xứ này, gọi là Tứ Niệm Xứ Trú. Mang số giải thích. Quán Thân bất tịnh: tức là Hữu Lậu Sắc uẩn có đủ năm loại bất tịnh: Chủng tử bất tịnh; Thừa theo quá khứ nghiệp Thức chủng tử (hạt giống nghiệp thức thời quá khứ), nếu cả tinh và Huyến của cha mẹ thời hiện tại, hợp lại thành thân. Cho nên kinh Tịnh Danh nói: Thân này như Huyển ảo từ Điên Đảo mà khởi, Thân này như hình bóng từ Nghiệp và duyen mà hiện ra. Trí Luận nói: hạt giống của thân bất tịnh, chẳng như những diệu bảo vật khác, thân này chẳng sinh ra từ giữa những cánh hoa, chỉ xuất ra từ con đường nhơ nhớp. Trú xứ bất tịnh: Ở trong thai mẹ, nằm ở dưới sinh tạng, nằm ở trên Thục Tạng, thường chịu huôn hun mùi nhơ uế. Cho nên trí Luận nói: Thân này như đồ vật hôi thúi, hẳng Nhân ở giữa hoa sinh ra, chẳng từ hoa Đảm bặc mà có, cũng chẳng xuất ra từ Bảo Sơn. Tự Thể bất tịnh: Vì hợp ba mươi sáu vật để thành thân này, ng- hóa là bên ngoài có lông tóc, móng tay, răng, nước mắt, nước mũi, đờm rải, mồ hôi, tiểu tiện… mười hai loại, tiếp có da, máu, thịt, gân, xương, tủy, não… mười hai loại giữa có tỳ, thận, tim, phổi, gan, mật, bao tử, ruột đàm đỏ, đàm trắng, sinh tạng, thục tạng… mười hai loại. Trí Luận nói: Chất Địa Thủy Hỏ Phong, chứa đựng nhận bất tịnh, cả biển rửa thân này, chẳng thể khiến thơm sạch. Tự tướng bất tịnh: Chín lổ thường chảy vật bất tịnh. Cho nên Trí Luận nói: Nhiều thứ vật chẳng sạch, chứa đầy ở trong thân, thường chảy ra chẳng ngừng, như bao thủng chứa đồ. Cứu cánh bất tịnh: một mai mất mạng, thình trướng hư thúi chẳng dám nhìn. Cho nên kinh Tịnh Danh nói: Thân này giả, nhờ vào tắm rửa ăn mặc, ắt sẽ trở về hoại diệt. Trí Luận nói: Xét kỷ thân này, rốt cuộc quy về chỗ chết, khó ngự chẳng trở lại, bội ơn như trẻ con. Kim Quang Minh cũng nói: Tuy thường cung cấp ôm oán hại, chung quy bỏ ta chẳng biết ơn. Quán Thọ là Khổ: Thọ tức là một trong năm Tâm Sở Biến Hành. Có ba loại: Khổ, lạc, xả. Khổ là khổ khổ. Lạc là Hoại khổ. Xả là Hành khổ. Hỏi: Khi mình cảm nhận niềm vui mà niềm vui đó, niềm lạc thú đó chưa tan biến, chưa hư oại thì đúng phải lúc đó chẳng phải là khổ? Đáp: Vì lạc (vui thú) là Nhân của khổ, phàm phi vọng cho đó là Lạc, nguyên vốn là khổ. Hỏi: Xả; chẳng phải là khổ, chẳng phải là Lạc, vì sao lại nói nó là khổ? Đáp: Hành uẩn (dòng tư tưởng) dời đổi, trôi chảy, bức bách thường khổ, chỉ vì những tướng thô của khổ và lạc che lấp nên tình thường chẳng biết, vì đây là nổi khổ vi tế nhỏ nhiệm. Ba pháp này đều gọi là khổ. Quán tâm vô thường: Tâm là tâm duyên lự sinh diệt nghóa là tâm tâm niệm niệm trước diệt, sau sinh liên tục nhau chẳng ngừng chẳng tuyệt, như dòng nước trôi chảy. Cho nên trong kinh nói: trog một niệm có chín mươi sát na, trong mo6t sát na có chín trăm sinh diệt. Quán Pháp Vô Ngã: Pháp tức là năm uẩn, nghóa là trong năm pháp uẩn, suy cầu, tìm tòi từng uẩn một, ngay ở uẩn lìa khỏi uẩn đều là Vô Ngã. Quán xét như trên thì có thể đối trị bốn loại điên đảo của phàm phu. Nghóa là phàm phu điên đảo thì tạo nghiệp thọ sinh, dụng tâm như trên thì tự nhiên sẽ không mắc lỗi nữa. “Lấy Giới làm Thầy”: trên theo quy phạm của giới luật, chỉ y theo giới luật mà làm hay chẳng làm, phân minh rõ ràng. Cho nên bài tự của Bồ-tát giới nói rằng: Ba La Đề Mộc Xoa là Đại Sư của ông, Như Lai còn tại thế cũng không khác giới luật đó. “Mặc tẩn (phạt bằng cách im lặng chẳng càng nói)…”: Phật pháp từ bi, không có hình phạt, Tỳ kheo tính xấu, chỉ im lặng với họ, ý khiến cho họ tự xét chính mình, biết hổ thẹn thì tự nhiên điều phục mà thôi: Những lời đặt ở đầu kinh, sẽ giải thích ở phần văn sau. Mà quyển sớ này, ý tại điều bốn, trong văn luôn tiện, nêu cả ba điều trước. Sớ: Phần hai “Kiến lập ý”: Phật kiến lập từ ngữ “Như Thị Ngã Văn”, ý ở tại đâu? Có ba ý, như ba đoạn của quyển sớ (Toản Luận): 1- Để đoạn dứt nghi ngờ: Trí Độ Luận kể: Sau khi Phật diệt đọ, chư Thiên Vương thỉnh ngài Ca Diếp rằng:… Ngôi thành pháp sắp bị sụt lở, pháp sàng sắp đổ, nên dùng Đại Bi, xây dựng Phật pháp, ngài Ca Diếp nhận lời thỉnh xin, đến đỉnh núi Tu Di, gò đại kiền chùy. Chư Thánh đệ tử người đắc thần thông đều đến tập hội. Ca Diếp bảo rằng: Phật pháp sắp diệt, chúng sanh đáng thương, đợi kết tập xong, tùy các ông nhập diệt. Thánh chúng đến Hội, nghe dạy như vậy, chấp nhận mà trú, ở hang động Tất bát la, Ca Diếp nhập diệt, dùng Thiên Nhãn quán. Nay trong chúng này, ai có phiền não, nên trục xuất ra. Chỉ có A Nan phiền não chưa tận. Bấy giờ Ca Diếp, từ Định mà khởi, ở trong đại chúng, kéo A Nan ra, bảo rằng: trình chúng thanh tịnh, kết tập pháp tạng, ông kết chưa tận, chẳng nên ở đây. Bấy giờ A Nan, hổ thẹn buồn khóc, bảo Ca Diếp rằng: Tôi có đủ lực để có thể đắc đạo đã lâu, nhưng vì để hầu hạ Phật, vì những bậc A La Hán thì chẳng thể hầu hạ Phật, cho nên tự lưu lại một tí kết sử, chẳng đoạn dứt hết mà thôi. Ca Diếp nói rằng: ông còn có tội nữa, ý Phật chẳng chịu cho người nữ xuất gia, vì ông ân cần xin xỏ, khiến cho Phật chánh pháp năm trăm năm suy yếu, là ông phạm tội Đột Kiết la. Phật sắp Niết-bàn, gần thành Câu Thi Kiệt, lưng đau, xếp Uất Đa la tăng trãi nằm, bảo với ông cần nước, ông chẳng cung cấp, là ông phạm tội Đột Kiết la. Phật xưa kia hỏi ông. Nếu có người thích tu Tứ Thần Túc thì đúng sẽ trú thọ một kiếp. Nếu không có thì sẽ giảm một kiếp. Vì ông chẳng đối (đáp) khiến cho Phật sớm nhập Niết-bàn, đó là ông phạm tội Đột Kiết La. Ông vào một thời, dùng Uất Đa La Tăng mặc lót trong thân mà nằm đó là ông tội (đột Kiết La. Ông xưa kia xếp y Tăng Già Lê cho Phật, dùng chân đạp lên trên, đó là ông tội Đột Kiết La. Phật Âm tàng Tướng, sau khi nhập Niết-bàn, bảo người nữ, thật là hổ thẹn, đó là ông tội Đột Kiết la. Ca Diếp nói: Ông có sáu loại tội Đột Kiết La như vậy, phải Sám hối tội lỗi ở trong Tăng. Bấy giờ, A Nan cởi giày, để hở vai phải, quỳ xuống chắp tay sám hối theo sáu loại tội Đột Kiết La. Sám hối xong, Ca Diếp kéo A nan ra nói rằng: Lậu của ông hết rồi mới có thể đến. Nói xong tự đóng cửa hang động. Bấy giờ, A Nan buồn bả khóc lóc, cầu đoạn kết Hoặc, chẳng tinh thành đến cuối đêm, quá mệt mỏi muốn nghó ngơi, đầu chưa đặt xuống gối, lảng nhiên đắc ngộ. Tam Minh Lục Thông, làm Đại La Hán. Lại đến cửa động gỏ cửa mà gọi. Ca Diếp nói: Ông sao còn đến? Nói: Tôi Lậu đã tận. Ca Diếp nói: ông nếu lậu tận, có thể dùng thần thông chui vào trong lổ khóa cửa. A nan dùng thân bay vào, đến lễ bái chân tăng. Ca Diếp tay xoa đỉnh đầu A nan nói: “Ta muốn vì ông, khiến ông đắc đạo, ông đừng hiềm hận”. Đây giống chuyện Tô tần, Trương Nghi…, mà bước lên Thánh quả thì chủ yếu ở tại tu tâm chẳng như thuyết mà hành, phụng sự hầu hạ Phật thì có ích gì đâu! Cáo mượn oai cọp, cần nên cấm tuyệt, ý năng rất hay, xem cho kỷ để tự mình cảnh giác mình. Thời, Đại chúng thỉnh A Nan thăng tòa, kết tập pháp tạng. Đã thăng tòa rồi, giữa khi chưa phát ngôn, cảm được tự thân mình tướng hảo như Phật. Bấy giờ, Đại chúng bên khởi ba mối nghi ngờ. Cho nên khi thuyết đã nói: “Tôi nghe từ Phật” thì biết là chẳng phải Phật sống lại, chẳng phải Phật ở phương khác đến, cũng chẳng phải A-nan thành Phật. Cho nên quyển Sớ nói “Ba điều nghi đầu đoạn dứt”. Chi tiết thì như Luận kia đã nói, e phiền nên kể tóm lược. Sớ: “Đế dập tắt tranh cải”: Đồng là La Hán, Đức và nghiệp đều ngang nhau. Nếu nói tự A nan nói ra thì sẽ tranh cải nhau. Sớ: “Để khác với tà”: Chữ “A” là Vô. Chữ “Ưu” là Hữu. Ngoại đạo ý rằng: Vạn pháp tuy khác nhau, nhưng chẳng ra ngoài Hữu và Vô, kinh của Ngoại Đạo đạt hai chữ “A” và “ưu” ở đầu kinh, cho đó là điều cát tường. Vì đầu kinh cát tường thì giữa kinh và cuối kinh cũng cát tường. Nay kinh Phật chẳng vậy, cho nên nói là “khác với ta”. Sớ: “Phần “giải thích văn nghóa”: Có hai phần. Phần đầu nêu kệ ra ý giải thích. Nói “thành tựu”: Sáu là năng thành thục. Giáo là sở thành thục. Sớ: “Tín…” là phần hai. Theo phân chia mà giải thoát, có sáu phần. Trong phần thứ nhất, có hai phần: Hợp giải thích: Nghóa là kiêm đoạn sau mà hợp lại giải thích. Đây là nghóa riêng, chẳng kể số sáu, giải thích riêng, nghóa là giải thích nghóa của Tín Thành tựu đã dẫn. Văn luận có phần nêu và phần giải thích. Từ câu “Phật pháp …” là giải thích. Hoặc có người hỏi: Vì sao đầu tiên lại nói về Tín? Cho nên ở đây nói giải thích. “Tín là Năng nhập”: Phật pháp vô lượng, Tín làm nền móng đầu tiên. Nếu không có tín tâm thì đâu chịu tu tập. Do vậy, trong nam vị Tín vị đứng đầu. trong Thập Tín, Tín xưng đệ nhất. Tong mười một Thiện pháp, Tín cũng đưng1 đầu. mới biết trước khi có tín tâm, không có một thiện pháp nào khác. Nương vào tín này, mới hưng khởi giải và hành mới đạt đến chứng và nhập. Cho nên Hoa Nghiêm nói: Tín là suối nguồn của Đạo. Tín la mẹ của công đức. Nuô lớn tất cả các thiện căn, đoạn trừ lưới nghi, ra khỏi sông Ái. Khai thị Niết-bàn vô thượng Đạo. Nay đặt ở đầu kinh để biểu tỏ tín tướng là sự khởi đầu để nhập pháp. “Trí là Năng độ”: Bồ-tát vạn hạnh, chẳng trí bất thành. Nếu không có trí huệ thì sẽ trệ ở Hữu, dính ở không. Lấy trí làm chủ, chẳng dính mắc hai biên, thành Nhân Vô lậu, găt quả Bồ-đề. Cho nên Bồ-đề Tư lương luận nói: Thí, Giới, Nhẫn, Tiến, Định và ngoài năm Độ này đều do Trí Độ mà được nhiếp trong Ba-la-mật. Từ “Người tin…” là phần chánh Hiển. Hai chữ “Như vậy” là từ ngữ của tín. Phần trên là giải thoát của cuốn Trí Luận. Từ “Lại nữa, Thánh Nhơn…”: Đây là giải thích của Lưu Đẩu chú thích kinh Vô Lượng nghóa. Từ đây về sau đều dựa theo pháp mà nói. “Hiểu rõ Như”: chúng sanh thì ẩn như, như chẳng hiển cho nên chìm đắm trong tam giới. Dục vọng mê đắm tam giới, chỉ cần hiển Như. Cho nên nói: Ngoài “Như” ra, còn lại đều là hư vọng. Cho nên nói: “Duy Như là Thị” (chỉ có Như” là đúng”. Luận nói: ngoại trừ thật tướng của chư pháp ra, còn lại đều là ma Sự. Có kinh nói: bắt đầu từ khi đắc đạo, cho đến Niết-bàn, khoảng giữa đó những điều Đức Phật . “Lại nữa, Hữu và Vô…”: Tức là Lương Vỏ Đế giải thích, ý nói Hữu tức vô, cho nên Bất Hữu, vô tức Hữu, cho nên Bất Vô, tương tức đồng thời cho nên gọi là Bất Nhị tức Như. Đây là dựa theo cả hai tan hòa nhau mà hiển như. “Như phi…”: nghe Hữu vô bất nhị là Như, bèn cho rằng Thể của Như là Hữu và Vô, cho nên ngăn chặn nói “Như phi Hữu phi vô”. Ý nói, Hữu vô tức chẳng Thị, Thị tức phi Hữu vô. Hai giải thích trên, chữ “Như” là hiểm trở, chữ “Thị” tức là vô phi. Sớ: “Văn…” có hai phần: Giải thích nghóa của “Ngã văn”. Mà Ngã có bốn loại: 1.Phàm phu Biến kế ngã; 2.Ngoại Đạo Thần Ngã; Tam thừa giả ngã; 4. Pháp thân Chơn Ngã. Nay để pân biệt cho nên nói “Ngũ uẩn giả”, tức là loại Ngã thứ ba, tùy theo đời lư bế. Cần phải phân biệt chú và khác, mới xưng là “Ngã”. A nan đã đạt Ngã không, thật chẳng kế chấp, cho nên nói là “Giả”, là “Văn”. Mà các luận của Đại, Tiểu thừa nói về “Văn” có khác nhau có luận nói là Nhó căn, hoặc nói là Nhó thức, luận nói là căn và thức hòa hợp mà văn (nghe). Nay nói rằng “Nhó căn phát thức”, tức là nghóa sau. Vì căn và thức đứng riêng thì dầu chẳng nghe… mà căn và thức nghe thanh chứ chẳng nghe giáo. Nếu theo Danh cú thí chỉ là ý nghe, cho nên Du Già nói: Văn (nghe) là Tỉ lượng, mà do Nhó thức duyên với Thanh cảnh cùng với ý đồng thời mà được nghe. Mà hai Thức này nghe Thanh, danh, cú, thật chẳng trước sau khác thời. Vì suất Nhỉ (?) Nhỉ thức đồng thời ý thức, cho nên được nghe. Năm thức đều vậy. “Bỏ riêng…”: Hoặc có người nói: Đã nói là Nhó căn phát Thức, cho nên nghe, hợp lại nói là “Tai Nghe”, sao trong kinh chỉ nói là “Tôi nghe”. Cho nên mới giải thích, vì tai là riêng của sáu căn. “Tôi” (ngã) là chung của một thân. Nay bỏ tai riêng mà theo cái chung “tôi”, cho nên nói là “Tôi nghe”. “A Nan chẳng nghe…” là phần hai: bàn bạc pháp đã nghe. Hai câu đầu là lời nạn vấn. Nghóa là: A nan sinh ra vào đêm Phật thành Đạo, năm hai mươi tuổi mới làm thị giả, Phật thuyết pháp hai mươi năm trước đều chẳng nghe. So lại khi kết tập chư kinh đều xưng là “Tôi nghe”. “Có người nói…” là giải thích chung. Đây có ba ý: 1- Có người nói: Phật thuyết lại”: Phật bảo A nan làm thị giả, A nan xin Phật ba nguyện: 1- Chẳng mặc áo Phật đã bỏ. 2- Chẳng theo Phật thọ nhận thỉnh mời riêng. 3- Xin thuyết những pháp chưa nghe. Phật tùy nguyện của A nan, cho nên được nghe, ý thứ hai: “đắc tam muội thâm sâu”. Kim Cang Hoa Nghiêm kinh nói: A nan đắc lực pháp tính giác tự tại tma muội, cho nên những kinh đã thuyết trước kia đều có thể trì nhớ. Không khác gì với nghe. Cho nên Pháp Hoa Kinh nói: Thế Tôn rất hy hữu, khiến tôi nhớ quá khứ, vô lượng chư Phật pháp, như hôm nay được nghe. “Nếu suy tận…” là phần ba; Kinh Bất Tư Nghị Cảnh giới nói: Còn có trăm ngàn vạn ức Bồ-tát, hiện hình Thanh Văn, cũng đến tại tòa, tên họ là Xá-lợi-phất, cho đến A Na,… Đó là trong ba điều trên, hai điều trước là quyền thuyết, điều sau cùng mới là thật Luận, cho nên nói “Suy cho tận gốc”. Sớ: “Thời….” có hai phần Giải thích: “Sư tư hợp hội”: Nghóa là người thuyết dạy người bằng Đạo Đức, gọi là Sư. Tư: là thủ, từ giáo dạy của Sư, thủ lấy mà hành. Phật và Đại chúng, thuyết và nghe cụ túc đầy đủ, cho nên nói là “Hợp Hội”. Thuyết xong, nghe xong, cho nên nói là “cứu cánh” (xong xuôi). Ý nói thủ và thuyết không khác, xuyên suốt thông cả đầu đuôi. Cho nên nói là “Nhất thời” (một thời). Phật Địa Luận nói: Đây là dựa theo Sát Na tương tục nhau chẳng dứt thuyết và nghe xong xuôi, gọi chung là “Một thời”, từ ngữ “Nhất thời” là Phật tự nói. Cho nên kinh Niết-bàn nói: xưa kia Phật “một thời” tại rừng Thi Thủ. Lại nói: ta vào một thời, tại nước Ca Thi. Đây tức ý nói; thuyết và nghe, năng và sở tất cả xong tròn. “Các phương thời gian…”, là phân biệt thời gian. Bất đồng có hai: nghóa là ngang thì tham và sai khác nhau. Dọc thì dài và ngắn khác nhau. Về dài ngắn khác nhau, như nhân gian năm mươi năm thì Thiên Vương Thiên một ngày đếm, các cõi trên trên nữa thì tăng gấp bội. Về Tham sai khác nhau, như Câu Xá luận nói: Nữa đêm mặt trời mới lặn, giữa ngày mặt trời mọc ở bốn châu… đã vậy thì làm sao nói chắc là giờ dần, mảo, thìn, tị, ngày, tháng…? “Lại nữa…” là phần hai, Hội pháp thích. Đây là ý của khác công trong quyển Lăng Nghiêm Sớ. Thuyết và lỉnh tức là Sư và tư, sau có bốn đôi: “Tâm và cảnh mạnh”, vì khi nghe pháp, vọng tâm chẳng khởi,t am đã bất khởi thì cảnh tức bất sinh, tâm và cảnh cả hai đều mất, cho nên nói là “manh”. Đây tức là chẳng thể lấy tâm hành sinh diệt mà nghe thật tướng pháp, đây là thông cả y tha và biến kế, cho nên đều manh. Đây là nhiễm tâm và tục cảnh một đôi. “Lý và trí dung hòa”; vì khi nghe pháp, Năng và Sở chẳng tách ra. Vì động niệm tức là trái pháp Thể. Cả hai Chơn thật, cho nên nói “Dung hòa” (tan hòa) mà chẳng nói “manh”. Đây tức là tịnh tâm và Chơn cảnh, thành một đôi. “Phàm và Thánh Như”, do tâm phân biệt thì thấy Thánh thấy phàm, tâm đã bất sinh thì ai phàm ai thánh, tên tướng và bổn đều tận cho nên nói là Như. Đây là Nhân và Quả một đôi. “Bổn và thủy hội”; khi vọng niệm khởi thì ngăn cách bởi bổn và thủy, niệm đã bất khởi thì Bổn và Thủy tự nó như nhau, nhiếp dụng quy Thể, cho nên nói là Hội. Đây là Thể và Dụng một đôi. Hỏi: Đây với đôi thứ hai có gì khác nhau? Đáp: Trí ở trên là căn bản trí trong thủy giác. Lý ở tên là cảnh Chơn Đế trong Bổn giác. Thủy và bổn ở đây vốn thông cả Chơn và Tục. Thủy xá Bổn sau thì trước là hẹp, sau là rộng. Trước là hình nhiễm, mới nói Chơn cảnh và Tịnh trí.còn ở đây đều sáng tỏ cho nên nói là Bổn giác, thủy giác. Lại nữa, 1 là phần chứng, cho nên nói là “Lý và trí dung”, đây là cực chứng cho nên nói là “Bổn Thủy hội”. “Chư Nhị”; nghóa là Tâm và cảnh, lý và trí, phàm và thánh, Bổn và Thủy. “Giai Nhất”; Nghóa của chữ “Nhất” có khác nhau, nghóa là tâm và Cảnh thì manh chúng, cho nên là “Nhất”. Lý và trí thì dung hòa tan hòa, cho nên “Nhất”. Phàm và Thánh thì như, cho nên nhất, bổn và Thủy thì Hội lại, cho nên Nhất. Nghóa tuy bất đồng, đều gọi là Nhất. Cho nên nói là “Nhất thời”. Sớ; “Chủ…” có hai phần: 1.Dịch tên: Kinh chỉ nêu chữ “Phật”. Vì người tầm thích tóm lược, nên vẫn giữ âm phạm vì e lẫn lộn với chữ “Bồ-đề”, vì Bồ-đề gọi là Giác, thì thuộc về pháp, nay chỉ về người, cho nên gọi là “Phật”, không có bọ lỗi lạm nhau, lẫn lộn nhau, cho nên chẳng dịch. Nếu giải thoát nghóa thì cần tiếng Đường, cho nên trước dịch đối. Mà Giác nghóa là giác sát, giác ngộ. Giác ngộ đã soi Chơn vốn có, giác sát thì hiểu vọng vốn không, hiểu vọng vốn không thì chẳng đuổi theo vọng. Soi Chơn vốn có thì chẳng mê ở Chơn. Chơn và Vọng đã sáng tỏ thì có thể phá cái Thức hòa hợp, diệt cái tâm tương tục, hiển hiện pháp thân trí thuần tịnh, ngay khi ấy, Thủy và Bổn không hai, chỉ một giác mà thôi. Bồ-tát tuy cũng soi Chơn, hiển vọng, nhưng chưa được xong xuôi rốt ráo, còn mang cái tên Tát Đỏa, duy chỉ Phật Như Lai việc làm xong xuôi, cho nên riêng xưng là “Giác giả”. Từ câu “Khởi tín luận…” là phần hai; giải thích nghóa, có hai phần: Giải thích theo Thể ly niệm: Mà luận này nói rằng Bổn giác tâm Thể tính ly chư niệm, nay dẫn luận này để giải thích quả Phật, là vì Thể của quả Phật tức là Bổn giác, nguyên tự ly niệm, Nhân và quả tuy chia tách nhưng ly niệm thì chẳng có riêng khác, cho nên lấy Bổn giác ly niệm tức là Thể Phật. Cho nên kinh nói: Nhân của Đại thừa là thật tướng của chư pháp. Do vậy, khi còn tại Triền thì danh là Bổn giác, khi đã xuất triền thì danh là cứu cánh giác. Thủy chung Thể là cùng một, không có thêm pháp nào riêng khác. Cho nên Luận nói: tức là Như Lai bình đẳng pháp thân, nói theo pháp thân này mà danh là Bổn giác. “Tức lấy vô niệm, gọi đó là Phật”, sớ kết luận Bổn giác ly niệm là Phật Thể”. “Mà giác có ba nghóa;…” là phần hai dựa theo vị, dùng ba nghóa giải thích: “Vô sanh diệt”; nghóa là Trí chiếu Chơn như, thấy như lý. Mà có hai ý: Trong tâm không có pháp sinh diệt, như khởi Tín luận nói: Như Thật không; là từ xưa đến nay tất cả nhiễm pháp bất tương ưng. Cho nên Niệm sinh tức là Nhiễm. Nay vô niệm cho nên bất tương ưng. Vô: là bất, chỉ tỏ rằng tâm này vốn bất sinh diệt, tức là giống với khởi tín luận nói: Vì viễn ly niệm vi tế, cho nên được thấy tâm tính, tâm tức thường trú. Thường trú tức vô sinh diệt. “Giác tha”: Đây cũng là Thủy giác, liểu sư tức Chơn. Vì nhìn về tự tâm, cho nên gọi là “Giác tha”, tức đồng với khởi Tín luận nói: tất cả chư pháp từ xưa đến nay, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng, chẳng có đổi khác, chẳng thể phá hoại, duy là một tâm, cho nên danh là Chơn Như. “Giác Mãn”; vì hai giác trên, có giải có chứng, trước sau hơn kém, còn tướng tự và tha, chưa thể gọi là Mãn. Nay ở đây đã tròn đầy, chẳng lập tên là tự và tha, cho nên gọi giác này là mãn. Nếu theo kinh Niết-bàn nói: Tự giác là giác tự thân mình có Phật Tính. Giác Tha là giác tất cả chúng sanh đều có Phật tính. Giác Mãn hoặc tư hoặc tha, chẳng hai Phật tính. Mà nói theo cách thông thường thì tự giác là khác với phàm phu, giác tha là khác với Nhị thừa, giác mãn là khác với Bồ-tát. Trong sớ này nói là Tự giác là đã khác với Nhị thừa, quyền giáo Bồ-tát há lại chỉ phàm phu! Cho nên Hoa Nghiêm nói: tất cả chư pháp Tính, vô sinh cũng vô diệt. Lạ thay đại Đại sư, tự giác năng giác tha. “Cho nên biết…” là phần hai: dẫn luận phản giải thích: có ba phần: Phản hiểu: ý nói; vô niệm, nên danh là Giác. Mới biết Hữu Niệm chẳng danh là Giác; Từ “Khởi ín…” là phần 2.Dẫn chứng: Trên kia nói: tâm thể ly niệm tuy thông cả Nhân và Quả. Nay nói Rằng: chúng sanh chẳng gọi là Giác, chỉ riêng quả nhơn (Phật) mới gọi là Giác; 3.“Lại nói…” là phần ba, Thuận kết: chánh kết nghóa: Vô niệm là Phật. Vì vô niệm là Phật, cho nên người năng quán vô niệm tức là hướng đến Phật Trí. Sớ: “Xứ:….”. Có hai phần: 1- Giải thích Xá Vệ: Xá Vệ còn gọi là Xá Bà Đề, tân dịch là: Thất la Phiệt tất Để. Đây chỉ là âm phạm vùng Sở Hạ mà thôi. Thành này tại cùng Trung Ấn ven nước Kiều tát la. Nam Thiên cũng có nước Kiều Tát La, e lẫn với nước kia, cho nên lấy tên thành làm tên nước. “Văn vật”: nghóa là danh tiếng thắng đức, bảo vật trân quý, sản xuất nhiều ở nước này. “Nghóa là có đủ..” là giải thích: “Dục trần” tức là sắc nữ đẹp đẻ. “Tài bảo”: tức là bảo vật trân quý kỳ lạ. “Đa văn”: nghóa là học rộng, thông cả sách vở Nội ngoại. “Giải thoát”, tức là Ngũ Thông Tiên Nhân…, viễn ly dục. Đây là nước có đầy đủ bốn đức, còn dịch là nước phong Đức. “Viễn văn”… như bốn sự trên, đều được nước ngoài nghe biết. “Ngài nghóa Tịnh…”: là chứng nghóa viễn văn, vì có danh tiếng, cho nên được viễn văn. “Kỳ Thọ..” là phần hai, giải thích chữ kỳ viên. Có hai phần: Chỉ chung: Xá Vệ quốc chủ, Ba Tư Nặc Vương, có một Đại Thần, tên Tu Đạt Đa, cưới vợ cho con, đến vương xá thành, ở lại nhà trưởng giả San Đàn Na. bấy giờ, nữa đêm trưởng giả thức dậy, trang hoàng nhà cửa, nấu thức ăn ngon, Tu Đạt nghe xong, hỏi rằng: Đại só định mời quốc vương hay là lễ hội hôn nhân? Đáp rằng: Thỉnh Phật vô thượng pháp vương, tu Đạt nghe xong, lông thân đều dựng đứng. Lại hỏi: hạng bậc nào gọi là Phật? Trưởng giả kể cho Tu Đạt nghe về công đức của Phật. Tu Đạt Đa nói: lành thay! Lời kể của Đại só. Phật là người có công đức vô thượng, nay đang ở đâu? Trưởng giả đáp rằng: tại Xá Vệ Thành, Tinh-xáù rừng Trúc Ca lan Đà, bấy giờ Tu Đạt Đa một lòng tưởng nhớ đến Phật, bỗng nhiên trời sáng tỏ, ánh sáng rực rở, giống như ban ngày, lền đi theo chỗ phát sáng, đến dưới cửa thành. Nhờ Phật thần lực, cửa tự mởi ra, tìm đường mà đi. bấy giờ, Như Lai ra ngoài kinh hành, Tu Đạt thấy xong, hoan hỷ hớn hở, chẳng biết lễ phép, hỏi thẳng Thế Tôn. Bấy giờ, Thù Đà Thiên, vì trưởng giả Tu Đạt, hóa thành bốn người, đến chỗ Thế Tôn, lễ bái chân ngài quỳ xuống hỏi han, nhiểu phải ba vòng, rồi đứng một bên. Tu Đạt thấy vậy, bắt chước làm theo. Thế Tôn liền đó. Như ứng thuyết pháp. Trưởng giả nghe xong, đắc quả Tu Đà Hoàn. Sau lại thỉnh Phật, chỉ nghiệm lâm cố, đến Xá Vệ thành, để con cúng dường. Phật bèn hỏi rằng: Ở nước Xá Vệ, sanh có Tinh-xá, để ta ở không? Tu Đạt Đa nói: Ở nước Xá Vệ, sanh có Tinh-xáù, để ta ở không? Tu Đạt Đa nói: Nếu Phật rủ lòng, ắt sẽ xây dựng. Thế Tôn bấy giờ, im lặng nhận lời, thời Tu Đạt Đa, về Xá Vệ quốc. Phật bảo Thu Tử (tức Xá Lợi Phật), cùng đi chỉ bày, nghi thức xây chùa. Tu Đa Đa trãi vàng, mua vườn của Thí Tử Kỳ Đà. Thái tử Kỳ Đà có cây trong vườn, hai người cùng xây Tinh-xá, xây xong, bèn bưng lư hương, đến vương Xá thành, xa xa đã nói: Xây chùa đã xong, duy nguyện Như Lai, nhận trú xứ này. Phật đã biết trước, tâm của trưởng giả, bèn cùng đại chúng, đến vương xá thành. Giống như tráng só, trong khoản co duổi cánh tay, đã đến vườn Kỳ Đà. Bấy giờ trưởng giả, dùng chùa đã xây, cúng dường cho Phật, Phật bèn thọ nhận, rồi trú trong ấy. Chi tiết như nói trong kinh Niết-bàn, Kinh Hiền Ngu, Tứ Phần luật, tây vực ký, người cần xem kỹ thì tìm những kinh sách trên mà xem. Nay Phật ở đó thuyết kinh Kim Cang Bát-nhã, cho nên nói là “Tại Xá Vệ quốc, kỳ thọ Cấp Cô Độc Viên”. A Tu Đạt là chủ, kỳ thọ giúp thành, nay “Thọ” đứng trước, “Viên” đứng sau, vì là Thái tử thuộc hàng vua chúa, Tu Đạt là thần dân, vì lễ mà phân biệt tôn ti, cho nên vậy. Cuốn ký của Ngài Chơn Đế nói rằng: trú Xứ có hai: 1.Cảnh giới xứ; tức là Xá vệ. Vì để giáo hóa người tục; 2.Y chỉ xứ: tức là Kỳ viên, vì để thông lỉnh người xuất gia. Lại nữa, Thiện kiến bà Sa nói: Nêu lên Xá Vệ là để khiến cho người ở xa biết. Nêu kỳ viên là để khiến cho người ở gần biết. Cho nên song nêu (nêu cả hai). “Kỳ Đà,….” Là phần hai, giải thích riêng, có ba phần: Giải thích chữ “Kỳ Đà”; là chiến thắng, còn gọi là Thắng Lăng. Những chữ khác thì như sớ đã nói. Từ “tiếng phạm…” là phần hai Giải thích từ “Cấp Cô”; nghóa là còn nhỏ tuổi mà không có cha, gọi là “cô”. Già mà không có con, gọi là “Độc”. Cứu trợ cho người cô độc, gọi là “Thiện Thí”. “Còn gọi là thương Hành Thí”; Cô Độc thì thương xót bị thiên lệch, thật ra thì những loại người khác, trưởng giả Cấp Cô Độc cùng thường bố thí. “Ở tây quốc…” là phần ba Giải thích chữ “Viên”, âm phạm gọi đủ là tăng già lam ma, tiếng hán gọi là chúng viên (vườn chúng). Tăng già là chúng năng trú. Lam Ma là viên sở trú. Đây là dựa theo Năng cần sở mà thôi. Chữ “Tự” (chùa) là Ty, là nhà quan. Vì Phật pháp khi đầu tiên đến Trung Hoa đặt ở Hồng Lô tự, về sau xây nhà Tăng bèn lấy đó làm tên (tức là tự, chùa). Sớ; “Chúng…”, văn có hai phần: 1- Giải thích nêu loại: “Danh cao”, nghóa là gần xa khen ngợi. “Đức trước”; nghóa là Hạnh Nghiệp to lớn. “Bố Ma”; nghóa là ngày đầu tiên xuất gia, Phi Hành Dạ Xoa xướng hát,… Ma cung nghe, cho nên sợ hải. Vì một người xuất gia sẽ triển chuyển hóa độ cho nhiều người, số bà con quyến thuộc của Ma sẽ bị giảm bớt. Mà người xuất gia từ giai đoạn tu Nhân cho đến giai đoạn thành quả, có ba lần Bố ma. Đó là khi xuất gia, khi phát Bồ-đề tâm, khi thành chánh giác. Hai lần trước chỉ là sợ hải, lần sau thì hưng bịnh bị Phật đánh bại, đều phải hàng phục. “Khất só”; nghóa là trên thì theo Thiện Hữu khất xin pháp để luyện tâm, dưới thì khất thực từ Đàn Việt để nuôi thân. Cho nên trí Độ Luận nói: Tỳ kheo là gì? Tỳ kheo gọi là khất só. Dùng Thanh tịnh để nuôi mạng sống, gọi là khất só. Như trong kinh nói: Xá-lợi-phất khất thực xong, đến bên bức tường mà ăn. Bấy giờ, có nữ phạm Chí tên là Tịnh Mục, đến gặp Xá-lợi-phất nói: Sa môn, ngài ăn thanh tịnh không? Đáp: Ăn thanh tịnh. Tịnh Mục nói: Sa môn hạ khẩu thực (kiếm ăn bằng cách cúi mặt xuống) sao? Đáp rằng: không… cho đến hỏi ngưỡng khẩu thực, Duy Khẩu Thực, Phương khẩu Thực? Đều đáp: không. Nữ Tịnh Mục nói: Kiếm ăn có bốn loại, tôi hỏi ngài, ngài đều đáp không, tôi nay chẳng hiểu ý ngài nói? Xá-lợi-phất nói: có người xuất gia; bốc thuốc, chữa bệnh, trồng lúa, trồng cây, kiếm sống bằng bất tịnh, gọi danh là Hạ khẩu thực. Có người xuất gia xem sao, xem mặt trời mặt trăng, xem mưa, sấm, chớp. Kiếm sống bằng bất tịnh, gọi là ngưỡng khẩu thực (kiếm sống bằng cách ngữa mặt lên). Có người xuất gia cúi lòn nịnh bợ bọn hào thế, đi khắp bốn phương, xảo ngôn đa cầu, kiếm sống bằng bất tịnh, gọi là phương khẩu thực (kiếm sống bằng cách bôn ba bốn phương). Có người xuất gia dùng các loại chú thuật, bói toán cát hung, kiếm sống bằng bất tịnh, gọi là Duy Khẩu thực. Thưa chị! Tôi chẳng rơi vào trong bốn loại Bất tịnh này, tôi dùng thanh tịnh để khất thực nuôi mạng sống. Tịnh Mục nhờ nghe thuyết này, thanh tịnh pháp thực, hoan hỷ tín giải, đắc Tu Đà hoàn đạo. Thanh tịnh như vậy, khất thực nuôi mạng, cho nên gọi là khất só. “Tịnh giới”: nghóa là Tỳ kheo hai trăm năm mươi giới, Tỳ kheo ni năm trăm giới. Hữu Biểu thọ giới, Vô Biểu trì giới và thanh tịnh trì giới, gọi đó là Tịnh giới. Có thuyết nói năm nghóa là thêm Tịnh Mệnh và phá ác. Nay ở đây vì khất só tức là Tịnh Mệnh và phá ác. Nay ở đây vì khất só tức là Tịnh Mệnh, Tịnh giới tức là phá Ác, cho nên chỉ có ba. “Lý Hòa…”: Tiếng phạm là tăng Già, tiếng Hán gọi là chúng Hòa Hợp. Nghóa là Lý Hòa là không có chống trái, sự hòa là không có tranh giành, tranh cải. “Thiên Nhị…” là phần hai, giải thích nêu con số. “Phật Sơ thành đạo”: là dưới gốc cây Bồ-đề, thị thành chánh giác. “Kiều Trần Như…”: còn lại là A Thấp tỳ ma. Ha nam bà Đề. Bà phô phú na, Bà Tu. Theo kinh Bổn hạnh kế: Phật sơ thành đạo, phạm Thiên Vương thỉnh Phật chuyển pháp luân. Thế Tôn thọ nhận lời thỉnh cầu, tư duy như vầy: Trong chư thế gian, ai được độ trước, có năm Tiên Nhân, ngày xưa cùng ta, có đại lợi ích, kham chịu nhận ta, sơ chuyển pháp luân. Lại nghó thế này; năm vị Tiên kia, nay đang ở đâu? Dùng Tịnh Thiên Nhãn, quán năm Tiên kia, trong vườn Lộc Uyển. Bấy giờ Thế Tôn, bèn đến vườn kia, rộng vì thuyết pháp, ngoại đạo thân tâm, thảy đều phục diệt. Y phục họ mặc, liền thành ba y, tay ôm bình bát, rầu tóc tự rụng, trãi qua bảy ngày, oai nghi cụ túc, như Tỳ kheo trăm hạ… vì chuyển Tứ Đế pháp luân, đắc A La hán quả. “Ba anh em Ca Diếp…”: Trí Độ Luận nói: Bây giờ, người anh đầu tiên Ưu Lâu tần Loa Ca Diếp, làm thủ lảnh ở hang động Hỏa Long, giáo hóa năm trăm đệ tử. Người anh thứ hai, Na Đề Ca Diếp, lỉnh ba trăm đệ tử, tu hành tại Núi Đầu voi, người thứ ba, già Na Ca Diếp, lỉnh hai trăm đệ tử, tại khúc Sông Hy Liên, tổng cộng một ngàn người, đều là những người được Thế Tôn hàng phục, cầu xin xuất gia. Sư và đồ đều đắc A La hán quả. “Xá Lợi Phật…”: Trí Độ Luận nói: ở tụ lạc ma Già Đà, có Bà-la- Môn tên là Đàn Da na, có tám người con trai, trong đó có một người con trai tên là Ưu Ba Đê Sa, tức là Xá-lợi-phất. Lại có một Bà la môn sinh một con trai tên là Ly Đa, tức là MụcLie6n. hai đồng tử này, cùng làm bạn thân, xuất gia ở chỗ ngoại đạo san xà da. Hai người đồng tâm, lập thệ nguyện rằng: Nếu có người nào, hơn vị Thầy này, vì chúng ta thuyết, thắng Đạo cam lộ, ắt củng khế ngộ.bấy giờ Thế Tôn, có một đệ tử, tên là Mã Thắng, oai nghi đỉnh đạc, vào thành khất thực đi đứng có phương, Xá-lợi-phất thấy vậy, theo đến chỗ nghỉ, bạch rằng Nhân giả! Ngài là Chánh Sư, hay là đệ tử? Mã thắng nói: Còn có Đại sư, tôi là đệ tử. Lại còn hỏi rằng: Đại Sư của ngài, thuyết những pháp gì? Đáp rằng: Chư pháp từ duyên sinh, chư pháp theo duyên diệt. Như vậy diệt và sinh, thầy ta thuyết như thế. Thời Xá-lợi-phất, nghe lời ấy xong, ngay ở chỗ ấy, viễn trần ly cấu, đắc pháp Nhãn tịnh, quay về chỗ nghó, thuyết cho Mục Liên, cũng lại nư vậy. Hai người cùng nhau, lỉnh các đệ tử, đều đến chỗ Phật, cầu xin xuất gia, Phật hô Thiện lai! Râu tóc tự rụng, Cù Sa dính Thể, chấp trì đồ ứng, thành tướng Tỳ kheo. Ở otrong chúng Thanh Văn, hai vị một vị là trí huệ đệ nhất, một vị là thần thông đệ nhất. Hai trăm quyến thuộc của họ, đều được xuất gia, liền thọ cụ giới, cho đến đắc thành A La Hán giả. “Da Xá…”; chưa kiểm. “Chúng này thường theo Phật…” vì những người này trước kia đều theo ngoại đạo, gian khổ nhiều kiếp, chẳng có chứng đắc, vừa gặp được Phật, liền đắc thượng quả. Cảm Phật ơn sâu, nên thường theo Phật. Mà có đủ cả bốn chúng và Thiên Long, nay chỉ tỏ rõ một chúng, ẩn nững chúng còn lại, trong phần lưu thông sẽ có đủ. “Câu…”, trước thì nêu chỉ dựa theo chủ nhìn chúng cho nên nói là “Dữ”, đây thì đều kết cả chủ và chúng mà xét chung, đầu và đuôi nhìn nhau mà sự chẳng khác. <篇> KIM CANG KINH TOẢN YẾU SAN ĐỊNH KÝ <卷>QUYỂN 3 “Phát khởi….”, có hai phần: Tự ý: từ “Giới nuôi….”. Vì giới nghóa là phòng ngừa sai trái, ngăn chặn điều ác. Định là nghóa của tịch tónh bát động. Huệ là nghóa của soi sáng chọn lựa, chỉ cần phòng ngừa tâm sai trái, tức là bất động tâm. Nếu tâm bất động thì Huệ mới phân minh, pháp thế gian và xuất thế gian đều soi chiếu, cũng như trong biển cả, muốn hiện rõ vạn hình, ắt cần phải nước trong. Muốn cầu nước trong, chỉ cần nước lặng. Muốn được nước lặng, đừng để khởi sóng. Ngăn sóng như giới, nước lặng như Định, nước trong như Huệ, vạn hình hiện ra, như tất cả pháp. Trong dụ này là nước, nếu chẳng khởi sóng thì nước lặng, nước lặng thì nước trong, nước trong thì hiện vạn hình. Trong pháp thì tâm chẳng khởi sai trái thì tâm sẽ tịch, âm tịch thì soi biết vạn pháp. Trên pháp chỉ duy một tâm, trên Dụ chỉ duy một nước, pháp và Dụ tương đối nhau, so với nhau thì nghóa rõ ràng. Cho nên kinh nói: “Thi la chẳng thanh tịnh, tam muội chẳng hiện tiền”. Đây là giới nuôi dưỡng Định. Kinh Viên Giác nói: tất cả chư Bồ-tát, vô ngại thanh tịnh Huệ, đều nhờ Thiền Định sinh, đó tức Định Pháp Huệ. Sớ: Trong giới, có bảy tiết như Sớ. Há chủ: câu “đủ chín hiệu trên”: Vì Phật có mười Hiệu. Thế Tôn là hiệu thứ mười. Cho nên nói là “Đủ chín hiệu trên”. Mười Hiệu là: 1.Như Lai; 2.Ứng cúng; 3.Chánh Biến tri; 4.Minh Hạnh Túc; 5.Thiện Thệ thế gian giải; 6. Vô Thượng Só; 7. Điều ngự Trượng Phu; 8.Thiên Nhơn Sư; 9. Phật; 10. Thế Tôn. Hóa Thời: Câu “Đúng sơ phần ngày”, nghóa là một ngày đêm, mười hai thời, tổng thành bốn phần: 1.Sơ phần: tức là giờ Dần, mảo, thìn, giờ ăn của chư thiên; 2. Trung phần: tức là giờ Tị, Ngọ, mùi, giờ ăn của người pháp; 3.Bộ phần (phần qua trưa): Tức là giờ thân, dậu, tuất, giờ ăn của quỷ thần; 4.Dạ phần:tức là giờ Hợi, Tý, sửu, giờ ăn của súc sanh. Nay Sớ nói: “Giờ thìn”, tức là phần sau cùng của sơ phần. Hai bản dịch đời Đường, đời Châu đều nói là “Nhật Sơ phần”, đây tức thời thắng, giờ này thì khất xin chẳng khó, vì quá sớm hay quá trưa đều khó được. Nếu trái thời khất thực, người muốn thí đã không còn thức ăn, chẳng thí thì hổ thẹn, thành ra là não tha (làm phiền não người ta). Khất thực chẳng được, mất ăn lại đói, đó là não tự. Hóa Nghi… Nghóa là Phật có ba y: 1.An Đà Hội: tức là năm điều, gọi là Hạ phẩm y, còn gọi là áo hành đạo, áo làm việc, áo lót; 2.Uất Đa La Tăng: tức là bảy điều, gọi là trung phẩm y. còn gọi là nhập chúng thuyết pháp y; 3. Tăng già lê, tức là chín điều, cho đến hai mươi lăm điều, gọi là Thượng phẩm y, còn gọi là phước Điền y, may giống như ruộng lúa nước, thấy sinh ra phước, vào vương thành, vào tụ lạc thì mặc áo này. Nay vì vào thành khất thực mà mặc. “Thiên vương Bát”; tiếng phạm là Bát Đa La, tiếng Hán gọi là Ứng lương khí, là Bát của Đức Phật Duy Vệ thời quá khứ, sau khi nhập Niết-bàn, Long VƯơng đặt ở trong cung cúng dường. Thích Ca thành đạo, Long Vương đưa lên mặt biển, Tứ Thiên Vương muốn thủ lấy, hóa thành bốn bát, mỗi vị một Bát để phụng cúng Như Lai. Như Lai nhận xong, chồng bốn chiếc bát ở bên tay trái, dùng tay phải ấn xuống hợp lại thành một bát, đây là bát bằng đá lưu ly màu xanh da trời, trì dùng khất thực. Phật ra ngoài hành hóa, cần phải mặc y, trì bát, là vì để ly hai biên khổ và lạc. Những người tại gia, thích thời trang gấm vóc, áo quần hoa lệ, trang sức vàng ngọc, tăng trưởng phóng dật, quá dính mắc vào biên lạc. Xuất gia ngoại đạo, khổ hạnh Ni Kiền lỏa hình, tay bưng cơm ăn, khiến chiêu tiếng xấu, quá dính mắc biên khổ. Phật xử ở hàng giữa, cho nên mặc y trì bát. Hóa xứ: Vườn là chỗ trú ở. Nước là nơi đến hóa. nay hành Hóa, cho nên ra khỏ kỳ viên, vào Xá vệ. “Xứ rộng…”: Theo cuốn tây vực ký, nghiệp chu vi 60 dặm, nội thành chu vi 20 dặm, cho nên nói là “xứ rộng”. Trí Độ Luận nói: nhà ở chín ức, cho nên nói là “người nhiều”. Hóa sự: Đây là giải thích hai chữ “khất thực” trong kinh, từ “Đầu Đà…”; hoặc nói rằng: Phật là giáo chủ, cần gì khất thực? Vì vậy mà sớ giải thích. “Đầu Đà”, tiếng hán gọi là Đẩu tẩu, phấn chấn trừ sạch phiền não. Mà Đầu Đà có mười hai loại sự: Đó là thường khất thực, A Lan Nhã,… ngồi dưới cây, ngồi ngoài trời giữa bãi tha ma. Nay là sự thứ nhất. Nếu hành sự này, được đại công đức, Phật hiện quy phạm này để người ta bắt chước theo. Đầu Đà đã được công đức thì phóng dật đủ tỏ là rất lỗi lầm. Thế Tôn còn tự mình khất thực, người khác há lại giải đải lười nhác. Hổ thẹn áy náy, tự nhiên hành theo. “Đồng sự nghiệp”; là một trong bốn nhiếp pháp. Lại nữa, Phật tự mình khất thực, theo kinh Anh lạc nói có mười ý: 1.Dứt khổ: nghóa là mù được thấy; 2.Được lạc: nghóa là vừa nhìn ngắm vừa lễ bái, sinh vô lượng phước; 3.Trừ mạn: nghóa là chúng sanh thấy Phật, chẳng sinh ngã mạn; 4.Đầy bát nguyện: người giàu muốn thí nhiều, bát liền thành ra rổng không, người nghèo muốn thí tí, Bồ-tát sẽ thành ra đã đầy; 5. Quỷ thần cúng dường; 6. Người bị chướng ngại, thấy Phật già, bệnh, nghèo, hèn, thảy đều được thấy Phật; 7.bày Bát do Thiên vương hiến dâng; 8.Làm mô phạm; 9.Tuyệt dứt phỉ báng. 1 0. Khiến cho đệ tử chẳng tích chứa tám vật bất tịnh. Có mười ý này, cho nên tự mình khất thực. Từ “Anh Lạc Nữ…” là nạn vấn chung. Trước dẫn kinh để hỏi, từ “Nay những người…” là giải thích từ “Tịnh Danh…”; là chỉ chứng cho nghóa khất thực nhưng chẳng ăn ở trên. Hóa Đẳng: Đây là giải thích câu “ở rừng thành ấy, thứ đệ khất xong” trong kinh. Câu “Nội chứng bình đẳng”, là thấy như lý. Câu “tâm ly tham, mạn…”, là chẳng ham thích nhà giàu, chẳng kiêu mạn với người nghèo hèn. Ta khất thực một cách bình đẳng, cho nên nói là “từ bi không thiên lệch làm lợi cho riêng ai”. Câu “bày tỏ oai đức”, nghóa là Phật chế luật tiểu thừa, chẳng cho phép vào nhà nuôi voi dử, e voi kia làm tổn hại, chẳng cho phép vào nhà dâm nữ, bán rượu, e sinh nhiễm tâm. Phật vào những chỗ đó là bày tỏ oai đức đặc bệt thắng hợm. Câu “Dập tắt hiềm nghi…”: vì e ghét người này yêu người kia. Câu “phá sự phân biệt của Nhị thừa”, nghóa là Ca Diếp bỏ nhà giàu, khất thực nhà nghèo, ý ngài muốn khiến cho nhà nghèo sanh phước. Tu Bồ-đề thì bỏ nhà nghèo, khất thực nhà giàu, vì chẳng muốn làm phiền não người khác… cái thấy của hai người trên đều có thị phi, còn Như Lai thì khác lạ, Thị và phi là nhất quán. Mà trong năm điều trên: 1.Là Đại trí; 2.Là Đại bi; 3. Là hiển Đức; 4. Là dập tắt phân kiên; 5. Là phá tiểu. Hóa chung: “Mà chữ “Dó”: nghóa là chữ hòa hội với câu. Nay đọc thì theo văn, giải thích thì theo nghóa. Câu “Nếu mở rộng câu văn…”, nếu theo quyền, qua thêm mấy chữ thì văn sẽ rõ rệt, nghóa sẽ suông sẽ. “Phạm”; tức là ăn. Luận Ngữ nói: “Phạm sơ thực” (ăn cơm đạm bạc). Từ câu “Phật nếu…” phục chung về Nạn vấn. Ứng với nạn vấn trước rằng: trước đó dẫn kinh Anh Lạc Nữ nói: ‘Chẳng ăn”. Nay kinh này sao lại nói là “ăn”. Cho nên ở đây giải thích. Có thuyết nói: thức ăn sắp đến miệng, có oai Đức Thiên đứng ở một bên, ẩn hình tiếp nhận, đem đến phương khác bố thí, làm Phật sự. Đây là thị hiên mà ăn, chẳng phải là ăn thật. Do vậy, đây và kia đều chẳng trái nhau. Từ câu “Bảo vân Kinh…” là nói về trai nghi. Hai điều trước thì nói “nghó định”. Hai điều sau chẳng nói, là vì người phạm hạnh, người nghèo, bệnh đến thì cho họ, chẳng đến thì tự mình ăn. Hai điều sau thì chẳng vậy, cho nên chẳng nói. “Thập Nhị Dần Dà kinh, bỏ điều phạm hạnh”; là vì tự mình khất thực nên chẳng chia phần cho họ. Sớ: phần “Định”: trong này có ba tiết, như Sớ đã kể. Sớ: phần “gộp tự duyên”: đây là giải thích việc “thu y bát” ở trong kinh. Hai chữ “phạn thực”, như trên đã giải thích; ăn đã xong. “Cần gộp duyên” là vì khi tu Định, cần đủ năm duyên, đó là; nhàn cư, tịnh xứ, dừng nghó các việc làm,… Phật tuy đã đạt đến bậc Thánh, các tập đều không có, thật ra chẳng sinh ra nhọc nghó về y và bát, nhưng nếu chẳng vậy thì người đời sau sẽ bắt chước, chẳng thể đắc định. Vì Phật là giáo chủ, hể làm việc gì, người ta đều bắt chước theo, cho nên nói rằng “thị hiện làm khuôn mẫu cho người đời sau”. Sớ: “Tịnh thân nghiệp…”: Đây là giải thích ba chữ “rửa chân xong” trong kinh. Từ “A Hàm…” là điệp lai nạn vấn. Lại nữa, như trong ba mươi hai tướng của Phật có tướng da chẳng dính bụi trần, nay sao lại còn phải rửa? Từ câu “Thị hiện…” là giải thích. Ở đây có hai ý: 1. Vì thuận với đời: Bởi người khi đi ra ngoài, trở về ắt e nhiễm bụi trần cho nên cần phải rửa chân, Phật thuận với đời, cũng làm vậy; 2.Biểu tỏ pháp: tẩy rửa nhiễm cấu uế phiền não, tỏ rằng đã đắc pháp thân thanh tịnh; 3.Để làm mô phạm cho đời sau, như nói trong phần gộp duyên ở trên. Sớ: “chánh nhập định”: đây là giải thích câu “trãi tòa mà ngồi” trong kinh. Âu “Trầm, trạo…”; Trầm là hôn trầm, khiến cho buồn ngũ, tăng thêm chướng ngại cho Định. Trạo là trạo cử, cứ chạy theo những phân duyên, làm cho tán loạn, cũng chướng ngại Định tâm. Lại nữa, ở trong bốn nghi, vì nằm thì hôn trầm, đi thì trạo cử, đúng thì mệt mỏi, chỉ có ngồi là hơn hẳn, cho nên chẳng hôn trầm, chẳng trạo cử. Mà hôn trầm và trạo cử, bởi là phàm phu, nếu theo Như Lai thì không có những chuyện đó. Nay làm khuôn mẩu để cho người đời sau. Hoặc có người nói: trong kinh chỉ nói trãi tòa, sao biết là nhập định? Vì vậy mà tiếp đó giải thích rằng: ‘bản đời Ngụy dịch”. Thì biết là nhập định. Câu “Như thường trãi tòa”: nghóa là Như Lai mỗi Hội thuyết Bát-nhã đều tự mình trãi chỗ ngồi. Vì Bát-nhã sinh ra chư Phật, tức là mẹ của Phật, bày tỏ lòng tôn kính Bát-nhã, cho nên tự mình trãi tòa xong mới thuyết tám hội. Đây là hội thứ chín, nghi thức chẳng đổi cho nên nói là “như thường”. Chữ “phu”: là lưng bàn chân. “Gia” nghóa là lấy một chân đè lên một chân. “Kết”; tức là hai chân chẳng rời nhau, biểu tỏ cho cát tường. Cho nên Trí Luận nói: thấy bức tranh vẻ gia phu tọa (ngồi kiết già) ma Vương còn kinh sợ, huống nữa là người nhập đạo đoạn thân chẳng lay động. Lại nữa, vì để chánh quán năm loại nhân duyên, do vậy mà kết gia phu tọa. 1. Do nhờ thân thể thu liểm lại mà chóng phát khinh an, là điều rất tốt; 2. Do nhờ ngồi yên, nên có thể trãi qua thời gian lâu dài, chẳng làm cho thân chóng mệt mỏi; 3.Do ngồi yên này là pháp bất cộng, ngoại đạo, phái luận khác đều không có; 4. Do ngồi yên này mà hình tướng đoạn nghiêm, khiến cho người khác thấy rồi, cực kỳ tin kính; Do vì ngồi yên này được Phật Phật đệ tử khai sáng và chấp thuận, được tất cả hiền thánh khen ngởi. Chánh quán năm loại nhân duyên, vì vậy mà đáng nên kết già phu tọa. “Đoan thân trú”: là chẳng thấp, chẳng ngưỡng cao, chẳng nghiên bên trái, bên phải. “Chánh niệm”; Như lý mà niệm, gọi đó là chánh niệm, niệm tức là Niệm Huệ, nghóa là lìa khỏi Hôn trầm, trạo cử, Hữu, vô… “Bất Động”: nghóa là bất động ở chánh niệm. Từ “Bản dịch đời Đường, cũng là chứng nghóa như trên. “Chánh Nguyện tức là chánh Niệm. Nếu chỉ nói riêng một chữ “Nguyện” thì nguyện là mong muốn, nghóa là mong muốn trú đối diện niệm. Niệm là sở nguyện điều mong muốn), mà ở tại trước khi Định là khác, đây tức chẳng phải là chán nguyện. “Trú đối diện Niệm”, Diên tức là Dụ. Niệm tức là pháp. Hai chữ “Trú đối” thông cả pháp và Dụ. Nay trong Pháp và Dụ, mỗi thứ đều thiếu một sự. Nghóa là Pháp thì thiếu cái lý sớ chiếu, dụ thì thiếu cái gương Năng chiếu (soi), gương đứng ở trước mặt thì mặt này ắt sẽ tự tỏ tỏ. Niệm đứng trước lý thì lý ắt sẽ tự hiện rõ. Pháp và dụ bị thiếu là vì văn ảnh tóm lược. Hoặc có thể chẳng vậy! Chỉ là Lý và quán phân minh, như mặt và mắt thấy hiện lượng, tức là dụ nước cũng được. Từ câu “Vô Tướng…” là hiển ý nhập định. Trên kia là phần điệp nạn vấn, gộp duyên, nhập định, ý ở tại đâu? Từ “Ở đây,…” là phần giải thích thông: “Ư thử” (ở đây): là luận nói về pháp. “Năng giác”; là Định thông. “Năng thuyết”, là thuyết thông. Ý nói Định thông mới có thể thuyết thông. Bởi vì tán tâm thuyết pháp thì chẳng thể Như thật, từ Định mà phát lời thì ắt sẽ có đường vậy. Cho nên văn sau kinh nói: “Làm sao vì người thuyết pháp, bất thủ ở tướng, Như Như bất động: “Làm sao vì người thuyết pháp, bất thủ ở tướng, Như Như bất động”. Trong các kinh, mỗi lần muốn thuyết pháp đều nhập định trước đã, ý đều như vậy,… Đây cũng thị hiện làm mô phạm cho đời sau. Nếu chuẩn theo Như Lai thì Ngôn, niệm lỗi gì! Do vậy mà luận nói “Hiển thị như tịch”. Sớ: “Mà đại thành…” là phần hai, thông cả biểu và pháp ở trước mà giải thích. Có hai phần: 1. Dựa theo Đại Vân mà nói rộng ra có ba phần: 1. Nêu: “Đại Thánh” tức là Phật thể. Trùm cả pháp giới, gọi là “Đại”. Trí soi thiếu, không có mê muội, gọi là “Thánh”. “Hiện tích”: là Phật hiện hóa tích. “Sở biểu” là những việc làm của chư Phật, ắt chẳng khinh suất, chẳng qua quýt, đều dùng sự tướng để biểu tỏ thân tâm bên trong, như khi thuyết về Như Lai Tạng, kinh nêu rõ; Phật thân phóng quang, trong quang hiện hoa, nhụy hoa thấy Phật, A Nan hỏi Phật, Phật vì A Nan mà thuyết. Như trong kinh Hoa Nghiêm thuyết Phật Bồ-tát, thuyết Thiên, thuyết mây, Tu Di Sơn, đại hải,… đều có sở biểu, đây đều là sự tướng làm Năng biểu, pháp làm sở biểu. Vì chẳng uổng phí, cho nên nói là “Ắt”. Sớ: từ “biểu Bổn giác…” là phần hai Giải thích. Có hai phần: Biểu thông tự: Bổn giác Phật là biểu cho Hóa Phật Ngũ uẩn là biểu cho Xá Vệ Quốc. Hóa thân Phật tại Xá Vệ quốc là biểu cho Bổn giác Phật tại Ngũ uẩn thành. Trong thành có đủ cả người và vật, trong uẩn cũng có đủ cả sắc và tâm. “Giác Ma…” là biểu cho “chiến thắng”. Tiếng phạm gọi là Ma La, tiếng Hán gọi là Sát giả. Sát hại Huệ mệnh của hành nhơn (người hành đạo). Mà có bốn loại: 1. Thiên Ma, tức là chủ của Dục giới; 2.Phiền não Ma; 3.Ấm Ma. 4.Tử Ma. Nay nói “Giác không”, là như Tâm Kinh nói: “Chiếu kiến Ngũ uẩn giai không.. vô vô minh, nải chí Diệc vô lão tử tận”. Chiếu Ngũ uẩn không, tức là phá Ấm Ma. Vô vô minh tận, là phá phiền não Ma. Nải chí vô Lão tử, tức là phá Tử Ma. Các pháp xuất thế khác còn không, huống nữa là Thiên Ma chẳng không sao? “Chiếu tâm thức cụ đức” tức là biểu cho “Cấp Cô Độc”. Trên thì mê cha Bổn giác, gọi là “Cô”, dưới thì ẩn mất đứa con Diệu dụng, gọi là “Độc”. Nay chiếu Bổn tính có đủ cả trần sa công đức, chẳng có thiếu một tí công đức nào cả, tức là “Cấp ô Độc”. “Cầu pháp…” là biểu cho nghóa Tỳ kheo khất só. Ngoài thì khất thực dưỡng mạng, trọng thì cầu pháp nuôi thần. Từ “Giác tâm…” là phần hai Tự riêng. “Giác tâm…” là biểu cho nhập Xá Vệ đại thành. Câu này đúng phải nên nói “Giác tâm đã phát thì bỏ trần lao. Như Lai xuất thế thì vứt quần phàm, sắp muốn Biến quán, bèn nhập Thức tạng, ly thành ấp mà giáo hóa người nào, ly tâm thức mà quán sát sự chi”. “Tâm tâm số pháp” là biểu cho câu “ở trong thành ấy, thứ đệ thất thực xong rồi”. Khất thực chẳng phân biệt nhà giàu nhà nghèo, thì quán sát há lại lựa chọn tâm sở hay tâm vương. Từ “Tức vọng…” hai câu là biểu cho khất xin được thức ăn. Bên ngoài hóa người mà được thức ăn, bên trong quán pháp mà sanh hỷ. từ “Pháp hỷ…” hai câu này là biểu cho, là chỉ cho “về đến bổn xứ, ăn cơm”. Thức ăn có thể nuôi thân, pháp có thể ích tâm. “Câu “Tư duy mượn duyên” là biểu cho “Mặc y, trì bát”, câu “Vong duyên phù Chơn” là biểu cho “thu y bát”. Khất thực đã cần y bát, tư duy phải mượn Nhân duyên, nhập định đã gộp tư duyên, khế lý cần quên niệm lự. Từ “Quán chiếu…” hai câu là biểu cho “rửa chân”. Nếu muốn ngồi yên, ắt cần rửa sạch bụi chân. Nếu muốn Hoàn Nguyên, ắt phải phủi sạch tâm niệm. Từ “Phản bổn…” hai câu, là biểu cho “Trãi tòa mà ngồi”.. pháp không, tức là “Trãi tòa”, tâm tịch, tức là “mà ngồi”. Trãi tòa rồi người mới ngồi được, pháp đã không thì tâm mới tịch lặng, từ “Tâm tịch…” hai câu là biểu cho chánh tông pháp, nghóa là An tọa rồi mới có thể thuyết kinh. Tâm tịch lặng rồi, mới tỏ rõ Diệu Huệ. Sớ từ câu: Muốn thuyết Bát-nhã…” là phần ba Kết. Từ “Tư Thánh…” là dẫn quyển Tư Thánh, tức là quyển sớ của Đạo Dịch pháp sư, nay trích Văn mà dùng, chẳng lấy hết văn, trong đây có hai phần: Chánh tỏ: câu “Thân có hai” là xét chung về sinh Phật. “Ngụy”, là sắc thân. “Chơn” là pháp thân. Từ câu “Ngũ uẩn…” “Ngụy”: là sắc thân, “Chơn” là pháp thân. Từ câu “ngũ uẩn…”, y áo là che bên ngoài. “Thức ăn” là để nuôi bên trong. Sinh ra thì tuy nhờ ở cha mẹ, sống còn thì phải nhờ ở ăn mặc, câu “Pháp thân….” Nghóa là chẳng phải cái Sở sinh của Sinh Nhân, chỉ là cái sở liểu của liểu nhân. Do vậy, sắc thân lấy thức ăn làm mệnh, pháp thân lấy Huệ làm Mệnh. “Bảo ngụy”: nghóa là chấp vọng hợp trần. Dị Chơn”, nghóa là mê lý trái với giác. Đây đều là Đảo. “Dưỡng Chơn”: nghóa là ngộ lý hợp giác. “Vứt Ngụy”, nghóa là đạt vọng trái trần. Từ “quần sanh…” là điệp lại Đảo trên. Từ “Ta lại…” là thị hiện vào thành khất thực để biểu cho pháp . ý khiến cầu Bát-nhã chiếu thành pháp thân, cho nên nói là ‘Dẫn Chơn”. Từ “Vì vậy mà mượn…” đều là kết ý biểu cho pháp. Nghóa là thị hiện khất thực, ý tại thuyết pháp mà thôi. Sớ từ “Niết-bàn…” là phần hai. Dẫn chứng. Chỉ chứng cho pháp là nghóa của thức ăn. Phần Chánh Tông Trong Sớ. Có hai phần: Nêu chương môn: Một quyển kinh dùng hai cuốn luận để giải thích. Quyển “Đại Vân” và “ Thanh Long” đều dùng cả hai luận. Nay quyển sớ này chẳng vậy. Vì sao? Vì luận của Ngài Vô Trước thì phối với mười tám trú xứ. Còn Luận của ngài Thiên Thân thì đoạn hai mươi bảy nghi. Chỉ thú đã khác nhau thì chia đoạn cũng khác. Hoặc trong một nghi có bốn trú, năm trú. Hoặc trong một trú có hai nghi, ba nghi, lúc thì hợp nhau, lúc thì rời nhau, liền với phần trước, nối với phần sau. Vì lẻ ấy mà văn lẫn lộn nhau, lý thì chưa ắt sâu huyền. Người học sẽ rất khó hiểu. Nay giải thích riêng lẻ, chẳng tương can nhau. Người truyền giảng sau này sẽ ít tốn sức mà gặt hái được nhiều. Trong phần thứ nhất, có ba phần: Chánh tỏ bảy cú: “Bảy nghóa cú” là: Luận thuật về kệ quy kinh xong rồi, liền nói rằng: thành lập bảy loại cú nghóa này rồi thì Bát-nhã Ba-la-mật này liền được thành lập. Nghóa cú thì khác với văn cú, lấy một nghóa làm một cú, kinh này tổng cộng có bảy nghóa cú. Tên của bảy ghóa cú trong sớ đã có. Trong đó, sáu cú trước là hiển thị sở tác của Bồ-tát đã xong xuôi, cú thứ bảy là hiển thị thành lập pháp môn này. Mà văn của bảy cú này, giáo, lý, hạnh, quả đều viên mãn vậy. Trong đó, cú một, hai, ba, bốn là Hạnh. Cú năm là Lý, cú Sáu là quả, cú bảy là giáo, gom cả bảy cú nghóa này chia thành một mục, chỉ dựa theo danh từ của ngài Vô Trướng để chú thích. Sớ 1: “Chủng tính bất đoạn” đây chẳng phải là phàm phu, Nhị thừa và quyền giáo Bồ-tát, Ý nói là Phật chủng tính chẳng đoạn. “nghóa là Hộ niệm…” là chỉ cho kinh, tức là giải thích, ý nói đem tiểu giao phó cho đại, dặn dò đại hóa tiểu, triển chuyển như vậy thì đâu có đoạn tuyệt, như con người, cha mẹ phó chúc cho con cháu… đây là bổn ý của không sinh. Cho nên lấy sự này để tán thán Phật, mà dẫn khởi câu hỏi. Sớ 2: “Phát khởi hành tướng” Đã muốn chủng tính chẳng dứt thì cần phải phát khởi cái tương tựa tu hành. Câu “nghóa là do từ …” là chỉ cho kinh, thật ra, đứng, nghe cũng bao gồm trong này. Sớ 3: “Hành Sở Trú Xứ”; Đã có năng phát thì ắt có Sở phát. Phần sau, phần danh nghóa của mười tám trú, sẽ giải thích rộng, từ câu “từ Phật …” là chỉ cho kinh. “Đó là….” Là giải thích danh nghóa. Đây tức là vô tướng của tướng. Chẳng phải một mực là vô tướng, hơi thấy hành huyền là thuận với Bổn tông, cho nên nêu vô tướng. Sớ 4: “Đối trị”, “Tà hành” tức là bất chánh hành. Chỉ cần chẳng thuận với Phật Đạo đều gọi là tà hành. Chữ “Công” nghóa là chẳng cùng một. “Kiến” là phân biệt tình. “Chánh hành” tức là chánh hành của ly kiến. Chẳng phải chánh hành của thuần chánh. “Hai loại đối trị”; dùng chánh hạnh trị tà hành, đó là một đối trị. Dùng Vô phân biệt Trí trị phân biệt kiến, là hai đối trị, mà tà tức toàn trị, trong cộng, chẳng trị kiến, chẳng trị chánh hành, như đải cát lọc vàng một chỉ bỏ cát, chẳng vứt vàng. Nay trong kinh chỉ có Năng trị, không có sở trị. Như trong trụ xứ thứ nhất, chẳng độ chúng sanh là tà hạnh, độ chúng sanh là đối trị. Khi độ chúng sanh, thấy có chúng sanh là Sở độ, thấy Ngã (ta) là năng độ, đó là phân biệt, thấy độ mà vô độ, đó là đối trị. Ở đây Lý thật thì đồng một lúc, nghóa thì chia ra trước sau, trú thứ nhất đã vậy, các trú khác có thể theo đó mà biết. Cho nên luôn nói: Khi hành chư trú xứ có hai loại đối trị. Sớ 5: “Bất thất”; từ “Nghóa là do…” là tỏ ý. “Ly tăng giảm”; nghóa là chấp Hữu là tăng, chấp vô là giàm. Trước kia vì rơi vào hai thứ này mà đánh mất Trung Đạo, nay đến lìa chúng cho nên được “Bất thất” (Chẳng đánh mát), như trong kinh; “Tức phi Phật pháp”, là thấy nghóa Đế, ngăn chặn biên tăng ích. “Thị danh Phật pháp”, là thế tục đế, ngăn chặn biên tổn giảm, những thứ “tức phi”, “Thị Danh” khác đều lẽ như vậy. Phần sau cùng của Luận, kết luận rằng: Bồ-tát ly hai biên này. Với đối trị kia, chẳng còn đánh mất nữa. Cho nên gọi là “Bất thất”. Sớ 6: “Địa vị”: từ nghóa là do…” là giải thích. Hai biên tà vạy gát qua một bên chẳng bàn đến, Trung Đạo mới là con đường Đại Bồ-đề. Cho nên ở trong phần này chia lập ra địa vị, cũng như đi đến kinh đô Hoàng Đế, có ba con đường khác nhau: hai con đường bên đều sai, chẳng phải, con đường giữa thì chánh, trong con đường chánh mới có thể luận về gần xa, nhanh chậm,.. trong pháp cũng vậy, cho nên kinh nói: “Tất cả Hiền Thánh đều dùng vô vi pháp mà có sai biệt”. “Tín hành…” là phân vị. Trong mười tám trú, mười sáy trú trước là tin Hành Địa, đây đúng vào Tam Hiền, nương Tín mà khởi hành, cho nên gọi là Tín hành, còn gọi là TÍn giải, vì nương Tín mà khởi giải. Trú thứ mười bảy là Tịnh Tâm Địa, đây đúng vào Sơ Địa, vì lì phân biệt chướng, chứng Chơn Như. Trú thứ mười tám là từ Địa thứ hai trở đi, cho đến Phật vị, gọi chung là Như Lai Địa. Lại nữa, Vì chư gia nói về Địa vị, hoặc rộng hoặc lược, rộng thì có năm mươi hai vị, lược thì bỏ hết. Không có vị nào cả, nay thì bìn quân giữa rộng và lược, bỏ đi những điều thái quá, chỉ nói ba Địa, năm vị vậy. Sớ 7: “Lập danh” từ “nghóa là do…” là giải thích. Nghóa là dựa trên ba loại pháp, lập tên Kim Cang: 1.Dựa theo Thể, dụng của Bát-nhã, danh là kim cang, đây là như Kim Cang Kiêm và Lợi (cứng và bén); 2. Dựa theo địa vị cộng hẹp mà gọi là Kim Cang: đây là như hình của chày kim cang: vì Tín hành một tăng kỳ, tịnh tâm chỉ một Sát Na, Phật Địa hai tăng kỳ, như chày kim cang, đầu và sau rộng, ở giữa thì hẹp; 3.Dựa theo văn tự, gọi là Kim Cang. Đây là như vẻ tranh, để thuyên giảng Tín Hành Địa thì bảy chỉ (giấy), thuyên giảng Phật Địa thì ba chỉ (giấy) Văn còn lại Tịnh Tâm Địa chỉ năm hàng kinh. Cũng như vẻ tranh kia, đầu và sau rộng, ở giữa hẹp. Lại nữa, ba loại này là trên dụ và pháp đều triển chuyển mà thành, trong Dụ căn bản là Kim Cang kiên cứng bén nhọn, nhân nhờ tạo mà thành cái chày. Nhân ở vẻ mà thành hình của nó. Trong pháp, căn bản là Thể dụng Bát-nhã, Nhân ở ti mà thành (Địa vị của nó, nhân ở thuyên giảng mà thành văn tự của nó. Lại nữa, trong pháp va Dụ này mỗi thứ đều có ba sự, một sự tức là thật, hai sự còn lại đều là hư giả. Trong Dụ, kiên lợi Kim Cang là Thật, hình chày, tranh vẻ đều là hư giả. Trong pháp, Thể Dụng kim cang là Thật, vị Địa, danh tự là hư giả. Vì ba sự này, đầu và đuôi tương nhau, cho nên đặt tên là Kim Cang. Mà một sự trước là bổn ý của Phật, hai sự còn lại là ý của Bồ-tát và Cổ đức. Câu “Do từ sáu nghóa cú trên”, trong đó năm cú nghóa trước là kiên lợi (cứng bén), cú nghóa thứ sáu là rộng hẹp. Trong rộng hẹp bao gồm cả Năng thuyên và sở thuyên. Sớ “Bốn nghóa cú sau…” là phần hai, chỉ chung bốn cú sau. Đúng thì nên trước hỏi rằng: “Trong cú thứ ba đã thuyết hết văn kinh, chưa biết bốn cú sau phối nhiếp ra sao?” Nghóa là mội một trú, thuyết đối trị, ở chỗ đối trị, hiển tỏ chẳng mất Trung Đạo, cho nên ở rong cái chẳng mất trong đó mà lập ra vị và Địa, ở sáu cú trước, Trung Đạo lập lập danh. Sớ từ câu “mười tám trú xứ là…”: là phần ba, giải thích rộng. Có ba phần: Nói về Mười tám trú xứ. Trong Sớ đã kê đủ tên mười tám trú và giải thích tóm lược, nghóa của chúng cũng nói về đối trị mười hai loại chướng, còn chỉ ra văn kinh để biết nó thuộc về phần đoạn nào mà mỗi trú, sớ chỉ lược nêu ba chữ, năm chữ văn kinh. Bởi vì kinh bản chia phần đoạn đầu đuôi văn thế hơi trùng lặp, e bị lẫn lộn, nên chẳng nêu ra những chữ đầu tiên, chỉ lấy những câu văn khác tiếp theo đó. Cũng chẳng có đoạn văn cuối là ở chỗ nào, cũng vì tỉnh lược gọn mà thôi. Sau này sẽ tùy theo văn mà lược nói đầu đuôi để cách biệt trước và sau. Trong phần một: Phát tâm nghóa là phát bốn loại tâm quảng đại bậc nhất. Văn kinh là từ “Phật bảo Tu Bồ-đề: cư Bồ-tát Ma ha tát nên Như vậy mà Hàng phục kỳ tâm… Nếu Bồ-tát có Ngã tướng, Nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ-tát”. Bởi vì Đại thừa Bồ- tát, tối sơ pháp nhỉ, hợp phát tâm ấy. Trong mười tám trú, nó đứng thứ nhất. Kinh từ “Lại nữa, Tu Bồ-đề! Về pháp, nên vô sở trú, hành ở bố thí… Tu Bồ-đề! Bồ-tát chỉ nên Như sở giáo trú”. “Bất trú… đẳng, chữ đẳng có hai ý: Một là đẳng với những văn. Còn lại, như trên đã dẫn. Hai là đẳng với những nghóa còn lại, nghóa là đẳng còn lại, giới (đẳng là vân vân, giới, nhẫn, tiếng, định). Đây tuy là chỉ kinh, luôn tiện kiên cử giải thích nghóa. Tức ba L Mật là sở ứng, Giới đẳng là Năng ứng. Này và sở hợp lại, cho nên nói là “Tương ưng”. Do vậy, chỉ hành Thí, giới,… chẳng thể ly tướng, hoặc chỉ hành ly tướng, chẳng hành thí, giới, .. đều chẳng phải là tương ưng hành. Mãi cho đến khi ly tướng ở chỗ hành thí, giới…hành thí, giới ở chỗ ly tướng đến thì mới được gọi là tương ưng Hành. Kinh từ “Tu Bồ-đề! Về ý ra sao? Có thể thân tướng thấy Như Lai không?… Nếu thấy các tướng Phi Tướng, tức thấy Như Lai…” Hỏi: Sắc thân là tướng, sao lại ly tướng cầu nó? Đáp: Tướng của Sắc thân là bóng, pháp thân vô tướng là Thể, muốn được sắc Thân hỮu tướng, cần thấy pháp Thể vô tướng, mới được Thân sắc tướng vậy. Trong này, ý tại ngoài văn, cho nên Luận dựa theo ý này mà chia ra phần, đoạn. Trong phần bốn “Ngôn thuyết”: là kinh từ “Tu Bồ-đề bạch Phật rằng: Thế Tôn!… Pháp còn nên xả, hà huống phi pháp”. Hỏi: Pháp thân chẳng phải là Ngôn thuyết, sao lại cho Ngôn thuyết là pháp thân? Cho nên Sớ giải thích rằng: “Vì Nhân ở ngôn thuyết mà hiển tỏ lý”. Đây có hai ý: Dùng ngôn thuyết để hiển pháp Thân,Pháp Thân chẳng phải ngôn thuyết. Văn tự tính ly, tức là pháp thân, không có một pháp thân nào riêng khác. “Trí tướng”: Kinh từ “Tu Bồ-đề! Về ý ra sao? Như Lai đắc A nậu Bồ-đề Ư?… Tất cả Hiền Thánh điều nhờ vô vi pháp mà có sai biệt”, tức cho Vô tướng vô vi pháp là Trí tướng, cho nên Khởi Tín Luận nói: Vì Trí tướng không có gì để có thể thấy. “Phước tướng”; Kinh từ “Tu Bồ-đề! Về ý ra sao? Nếu người đầy ba ngàn Đại Thiên Thế Giới bảy báu để dùng bố thí… Tu Bồ-đề! Cái gọi là Phật pháp, tức phi Phật pháp”. Đây thì cho rằng trì thuyết kinh này được phước vô lậu, cảm được sắc thân vi diệu, gọi đó là phước tướng mà phước tướng của pháp thân, phước tướng chẳng phải là pháp thân giải thích theo chủ. “Ở trong…”: Văn có ba phần: Chánh tỏ văn này kinh từ “Tu Bồ- đề! Về ý ra sao? Tu Đà Hoàn năng tác niên này; tu Đắc Tu Đà Hoàn quả hay sao? Tu Đà Hoàn năng tác niệm này: ta đắc Tu Đà Hoàn quả hay không?… vui với hạnh A Lan Nhã”. “Đắc thắng”: Bởi vì Tiểu Thừa tứ quả thì hơn tứ hướng… so với cái kém mà tỏ ra cái hơn. Đây tức là lấy Tiểu mà so với Đại. tiểu nhân còn chẳng có lỗi, quân tử há lại bị lầm! Do vì không có kiêu mạn, mới đắc chứng quả, cho nên kinh đều nói: “Tôi chẳng nghó như thế này “tôi đắc Tu Đà Hoàn quả”. Sớ “Kể từ trú này…” là phần hai, tự chung đoạn sau: Ý nói rằng là ngay bằng, ý nói về thứ đệ, thứ tụ. Vì trước hỏi rằng: Bốn trú trước vì sao chẳng gọi là ly tướng? Cho nên nói vậy. Ý nói: Hể muốn tu tiến, trước kết cần phải phát tâm, phát tâm rồi, mới tu hành. Vì vậy mà có trú thứ nhất, trú thứ ba. Phát tâm và tu hành, vốn để cầu Phật quả, mà bên trong Phật quả chỉ có hai thân (sắc thân và pháp thân), giữa thô và tế. Sắc thân trước, pháp thân sau. Vì vậy mà có trú thứ ba, trú thứ tư. Trước kia tu thắng hạnh, e có mạn tâm, làm chướng ngại cho việc nhập vào Thánh vị, cho nên mới thuyết Tiểu quả để so sánh với Đại thừa, nay lìa khỏi chướng, tiến nhập vào Thập Hồi Hướng vị, vì vậy mà từ trú thứ năm mới thuyết ly chướng. Mà mười hai chướng này, mỗi lần đạt đến một trú đều cần phải lần theo trú trước để rõ lai ý. Như nói: “Tuy đắc vô mạn, nhưng còn tự cho mình là thiểu văn”, cho nên trong trú thứ sáu đối trị thiểu văn chướng. Nhưng trú khác đều phỏng theo như vậy mà biết. Đây là vì các chướng này đều ở tại Địa tiền (tức là trước khi đắc Sơ Địa) có thể làm chướng ngại kiến đạo, chẳng phải là Địa Thượng (Địa thượng, tức là đã đạt đến giai đoạn Sơ địa trở lân). Cho nên nói rằng: “Chướng hết tận mới nhập Chứng Đạo”. Mà chướng là Sở trị, văn tại ngoài kinh, trú là năng trị, văn là văn kinh, nếu nhìn nhau mà nói thì lý ắt sẽ rõ vậy. “Nay đang đối trị…” là phần thứ ba, biệt kết đối trị. Mà dựa theo Ngũ uẩn, Luận nói: Mạn có hai loại; bảy và chín mạn. Chỉ khác nhau về khai và hợp. Nay dựa theo người nhập đạo mà nói: Bảy mạn: Luận nói: 1.Mạn: với kém, nói là hơn, với tương tựa, nói là ngay hàng; 2.Quá mạn: với tương tựa, nói là hơn. Với hơn, nói là ngay hàng; 3. Mạn quá Mạn: Là với người hơn mình, tưởng cho mình hơn ho; 4. Tà mạn: mình thật không có Đức, tưởng cho mình có đức; 5. Ngã mạn: Nghóa ở ngũ, tụ uẩn tưởng cho là Ngã, Ngã sở; 6. Tăng thượng mạn: nghóa là ở trong Thắng Diệu pháp, chưa đắc mà cho là đắc; 7. Ti liệt Mạn thứ năm và Mạn thứ sáu. Vì đã chứng Ngã không, vì đã thủ tự quả. Kinh từ “Phật bảo Tu Bồ-đề về ý ra sao? Như Lai xưa tại chỗ Nhiên Đăng Phật … thật Vô Sở đắc”. Vì sao ly chướng mà đắc thành trú? Sớ tiếp đó nói: “Ly chướng thứ hai…” là chướng đã ly. “Chẳng lìa…” là kết nghóa của thành trú. Trong đó, câu trước là thành trú, câu sau là ly cướng. Nếu rời khỏi Phật thế thì chẳng gọi là trú xứ. Không có Phật thuyết pháp, tức là thiểu văn, liền thành chướng đó. Nếu chẳng lìa Phật thế thì mời thành trú xứ. Thường gặp Phật thuyết pháp thì có đa văn liền sẽ ly chướng. Mà kể là tu hành, trí Huệ làm gốc, muốn được trí huệ, ắt cần đa văn. Cho nên y theo Phật là trú, ly Phật là Thiểu văn chướng. Cho nên kinh nói: “Đa văn tăng trí Huệ, siêng nghe đệ nhất phương”. Hỏi: Nếu vậy, theo kinh này nói: “Về pháp, thật vô sở đắc”, thì sao lại thành đa văn? Đáp: Đây là Văn mà vô văn, đắc mà vô đắc, vô đắc mà đắc, là Chơn đắc. Vô văn mà văn, đó là thật văn, cho nên thành trú này. Kinh từ “Tu Bồ-đề! Về ý ra sao? Bồ-tát trong Nghiêm Phật Thổ hay không?… Nên vô sở trú mà sanh kỳ tâm, từ “Ly tiển…” là chướng sở ly. Chữ “Phan duyên” tức là “Tác niệm”, vì chỉ cùng một nghóa mà thôi. “Ly hình…”, ý nói: Nếu thủ tướng của sắc, thanh… làm Thổ, tức có phân hạn, cho nên gọi là “Tiểu”, vì chẳng như pháp thân, nếu chẳng thủ tướng thì Phân biệt chẳng sinh. Tâm và cảnh lưỡng vong, đâu gì phân hạn. Cho nên nói là “Đại”. Từ “Khế pháp …” là giải tích nguyên do. Ý bảo vong tình, nghiêm pháp tính thổ, chẳng bảo sanh tâm, nghiêm pháp tướng thổ. Cho nên kinh nói: “Chẳng nên trú sắc,.. sanh tâm, nên vô sở trú mà sanh kỳ tâm”. Bài kệ giải thích rằng: “Trí tập Duy Thức thông, Như thị Tịnh thổ, phi hình đệ nhất thể, phi nghiêm trang nghiêm ý”. Kinh từ “Tu Bồ-đề! Về ý ra sao? Thí như có người, thân như Tu Di Sơn Vương,… là danh Đại thân”. Chữ “Thành thục”; tức là do từ giáo hóa, khiến cho chúng sanh, thành chủng căn thục, có thể chứng ngộ. Từ “Ly xả…” là chướng đã lìa, nếu xả chúng sanh thì chẳng thể giáo hóa, cho nên khiến ly chướng mới thành trú. Từ câu “Nếu thấy đại, tiểu…” là phản giải thích nguyên do ý nói: Người có khả năng cứu vớt vật (chúng sanh) là vì chẳng thấy đại hay tiểu. Cho nên kinh nói: “Phật nói phi thân, đó là đại thân”, há lại còn đại tiểu. Nếu thấy đại tiểu thì có cao thấp, thâm sơ, yêu ghét. Tâm đã chẳng bình đẳng thì sao gọi là Đại bi, dù cho hóa sanh, chỉ thành ái kiến, người ghét thì đi, tức xả chúng sanh, làm sao thành thục? Dụng ý ngược lại thì chẳng vật nào bị bỏ xót, khỏa giữa nhanh chậm đều được thành thục. Kinh từ “Tu Bồ-đề! Như trong Sông Hằng, toàn bộ số cát,… Như Lai vô sở thuyết”. Từ câu “Ly Lạc…” là chướng sở ly. Mà tùy thuận theo ngoại luận tức là tán loạn, nếu có thể viễn ly tức là thành trú. Tức là kinh sách của Nho, Mặc, ngoài Phật giáo ra, đều là Ngoại luận. Vì những sự việc của ngoại luận là suối nguồn danh lợi. Nếu đã cầu danh thì làm sao tâm chẳng tán loạn. Hơn nữa, đắc được thì vui, mất đi thì khổ. Bị khổ thì lo buồn, được sướng thì phóng dật, do đây mà nghiệp nghiệp chồng chất, kiếp kiếp trầm luân, suy ngược tận gốc, đều do tùy thuận theo ngoại luận mà thôi. Từ câu “Hằng sa…” là nêu Trì kinh phước nhiều để trách ngoại học. Ý nói: Người trì kinh công đức như vậy mà chẳng tu hành. Nguồn danh lợi là gốc khổ luân hồi, sao lại tùy thuận theo. Kinh từ “Tu Bồ-đề! Về ý ra sao? Ba Ngàn Đại Thiên thế giới toàn bộ vi trần là nhiều hay không?… là danh thế giới”. Sắc là y báo tức là Tứ Đại ngoài, Thân là chánh báo, tức là Ngũ uẩn trong. “Đoàn thủ”; nghóa là Hòa Hợp. Nhưng bản dịch đời Tần, đời Ngụy dịch là “Dị nhỉ”,, mà Đoàn thủ là dựa theo pháp tương ưng, kiêm cả Nhơn. Hai sự tương vọng nhau, tổng cộng có ba đôi: 1. Nội thân sắc uẩn và ngoại khí giới, chỉ hợp với vi trần mà thành gọi là Đoàn Thủ. Thấy có Thân và khí (đồ vật) là y và chánh, chấp thủ… là tương ưng; 2.Bốn uẩn, Thọ tưởng…. Tức là tương ưng, chưa hợp với tâm, tâm sở pháp mà thành, gọi đó là Đoàn thủ, thấy có khổ, Lạc, thọ,… tức là tương ưng; 3.Sắc và tâm hòa hợp để thành thân này, gọi là Đoàn thủ, thấy có tâm, sắc, tức là Ngã, nhơn tương ưng. Hành nghóa là dời đổi, trôi chảy, tạo tác. Vô nghóa để quán phá nó, thì phần san sẽ nói rõ. “Ảnh tượng tướng”; là những pháp; sắc, tâm,… đây là những hình ảnh nằm trong pháp giới, cũng có thể là những hình ảnh của Nghiệp Thức. Từ “Lu phá…”: là chướng sở ly. “Vô sáo tiện” là do không có thiện xỏ phương tiện, chẳng thể phá những hình ảnh này, mới gọi là chướng. Nếu có thiện xảo phương tiện phá chúng thì thành trú đó. Về tướng của Thiện xảo phương tiện, sẽ nói rõ ở phần văn sau. Từ “Đã ly …” là lần theo trú trước lấy đó làm gốc của phương tiện, do từ không có trú loạn thì thành trú này, từ định mới có thể phát Huệ, quán mà phá nó, từ “Dó tế…”: là chỉ rõ hai loại phương tiện, là tướng của thiện xảo phương tiện. Mà phá trừ thì đủ cả hai loại, phá tâm thì chỉ một loại trừ tế mạt. Bởi vì tâm, tâm sở pháp chẳng thể chiết phá. Thô sắc thì rõ rệt, tình chấp thì khó quên, chiết đến cực vi, để trừ vọng niệm, cho nên cần đủ cả hai, như nói ở văn sau. “Tướng tưởng”; tức là tâm và cảnh, tâm và cảnh lưởng vong, cho nên gọi là “Trừ”. Kinh từ “Tu Bồ-đề! Về ý ra sao? Có thể bằng ba mươi hai tướng thấy Như Lai hay không? Là danh ba mươi hai tướng”. “Ly phước…” là chướng sở ly. Muốn vào Thánh Đạo, cần phước Tư Lương, như người đi xa, há lại đi không, Phật là chí Thánh, là Nhân của phước, cúng dường hầu hạ, sẽ đắc được phước. Tức lấy phước này, làm tư lương kia. Nếu cúng dường được phước, tức là trú, chẳng phải chướng. Ngược lại, tức là chướng, chẳng phải trú. Từ “chẳng dùng…”. Hoặc hỏi văn rằng: chẳng dùng tướng thấy Như Lai, Như Lai còn chẳng thể thấy thì làm sao hầu hạ cúng dường? Cho nên ở đây giải thích: Đây tức là chỉ dùng Trí Huệ tùy thuận tương ưng, gọi đó là cung cấp hầu hạ. Chứ chẳng nói là tướng thâm, hầu hạ riêng vị Phật vô tướng, chỉ liểu tướng tức phi tướng, chẳng sinh chấp trước mới gọi là tương ưng, hể cúng dường, thân cận, cung kính đều gọi là cấp thị (cung cấp, hầu hạ). Nếu sinh ra chấp trước thì chẳng thuận với Lý, tuy thường thấy Phật, chẳng gọi đó là thấy. Như văn sau nói: “Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người ấy hành tà đạo, chẳng thể thấy Như Lai”. Hoa Nghiêm nói: “Nếu người trăm ngàn kiếp, thường tùy theo Như Lai, chẳng hiểu Chơn thật nghóa, mù lòa chẳng thấy Phật”. Lại như; Phật xưa kia thăng lên Đao lợi Thiên, ba tháng vì mẹ thuyết pháp, sau đó Phật giáng xuống Diêm phù, có Tỳ kheo ni, tên Liên Hoa Sắc, muốn thấy Phật trước, hóa làm Chuyển Luân Vương, đội trượng đi đến chỗ Phật, Phật bèn trách cô, cô kể việc trên. Bấy giờ, Tu Bồ-đề đang ở trong núi, cũng muốn gặp Phật, lại suy ngẩm rằng: Lý không vô tướng, là Chơn pháp thân, cần gì gặp sắc tướng, nghó rồi lại ngồi, rốt chẳng đến gặp. Thế rồi Phật bảo, Liên Hoa sắc rằng: Tu Bồ-đề đã gặp ta trước rồi cô dẫn đến sau. Mới biết; chấp tướng mê Chơn, đối mặt ngàn dặm, hư tâm thể vật, trời đất một nhà. Cho nên cổ nhân nói: gan mật tuy gần, tình sanh ắt cách, sông núi tuy xa, Đạo khế ắt gần. Mới biết thông đạt đạo lý, mới Chơn cấp thị (cúng dường, hầu hạ). Hầu hạ ở đây là hầu hạ Chơn Phật, cho nên được phước không có bờ bến. Kinh từ “Tu Bồ-đề! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn, dùng Hằng Hà Sa đẳng thân Bố thí…, là danh đệ nhất Ba-la-mật”. Từ “Hy Lạc….” Là chướng sở ly, mà tên chướng có chỗ thiếu sót, nếu đặt cho đầy đủ thì nên gọi là Bất quá trú. Chỉ lạc vị thì thành chướng, viễn ly thì thành Trú. Vả lại, dựa theo bị chướng mà khởi quá (lầm lỗi) thì có năm lớp: 1.Vì thân mà cầu lợi; 2.Do vì cầu lợi dưỡng mà khiến cho thân mệt mỏi, đây lại có hai: a. Do phóng dật khiến cho thân mệt mỏi. b. Cầu chẳng được, thân cũng mệt mỏi. 3.Do vì thân mỏi mệt, khiến cho tâm phiền nóng mà chẳng khởi tinh tiến. 5.Do chẳng khởi tinh tiến mà thối mất công đức. Từ “Hằng sa mệnh thí…” là giải thích thành đối tại. Kinh nhiều lần so sánh, ý bảo phải cải cách, vì thấy đại lợi mà chẳng cầu tiểu lợi, đã chẳng cầu lợi thì thân chẳng mệt, thân đã chẳng mệt thì tâm chẳng não, tâm đã chẳng não thì khởi tinh tiến, đã khởi tinh tiến thì có thể thọ trì, gặt được vô biên phước mới biết kinh ý là trị chướng này mà thành trú kia. “Một thân”: là một báo thân. Ý nói há lại vì một thân báo mà Suốt ngày cầu danh cầu lợi, cầu mãi chẳng thôi, vẫn chưa xứng tình, dù cho nhiều tiền, chết thành tiền người. Trì kinh công đức, Vô lượng vô biên, tận mãi sau này, dùng nó chẳng hết, lợi hai như vậy. Người sao chẳng nghe. Kinh vô thường nói: Quyến thuộc đều xả đi, tiền bạc mặc họ mong, chỉ giữ thiện căn, mình đường hiểm đầy lương thực. Kinh từ “Tu Bồ-đề! Nhẫn nhục Ba-la-mật… như người có mắt, ánh trời sáng soi, thấy những thứ sắc” Từ “Ly bất…” là chướng sở ly. Đây chỉ vì chẳng Nhẫn mà thành ra là chướng. Nhẫn chịu thì thành trú. Từ “Vô Ngã…” là chỉ ra nguyên do của Nhẫn. Đây có hai ý; là thông và biệt; Thông (chung) thì do vô ngã tướng, tuy nhiều lần bị cắt xẻ, thường vẫn nhẫn chịu. Biệt (riêng) thì do vì vô ngã nên có thể nhẫn, do lũy khổ cho nên có thể nhẫn. Kinh từ “Tu Bồ-đề! Thời sau này, nếu có Thiện Thiện nam tử, Thiện nữ Nhơn, thọ trì đọc tụng kinh này… quả báo cũng bất khả tư nghị”. Từ “Lý Trí…”: là chướng sở ly. Từ “Ngày ba thời …”: là chỉ kinh đối trị. Ý nói: Muốn chứng Thánh Tính thì phải có Trí. Kinh nhiểu lần so sánh, ý ở chỗ thúc đấy phát. Đây giống với tướng chê trách, khuyến khích trong Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Pháp Tính Chơn thường ly tâm niệm. Nhị thừa điều này cũng đắc được, chẳng nhờ đây mà được đời tôn, chỉ nhờ thậm thâm vô ngại trí”. Mà đây là ý riêng về đối trị, cho nên cần phải nói một loạt để cho người ta xả định, tu huệ. Nếu căn cứ theo cứu cánh mà xét chung thì cần phải Định và Huệ đẳng học, ngang bằng nhau. Trong Kinh Niết- bàn nói: “Định, Huệ chẳng đẳng, chẳng thấy Như Lai. Vô minh tà kiến, từ đó mà sinh. Trú thứ mười một trên, tức là Định Môn. Vì đối trị khác nhau nên cần phải vậy. Người tu tập cần phải kiên hành chúng. Kinh từ “Bấy giờ, Tu Bồ-đề bạch Phật rằng: Thế Tôn!… Thật không có pháp phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề”. Từ “ly chướng thứ mười một…”: là chướng sở ly. Nghóa là động chẳng tự nhiếp, tức là chướng, chẳng phải trú. Nếu tự nhiếp, bất động, tức là trú, chẳng phải chướng. Trong luận thì gọi đó là chướng tự thủ. Từ “Ta có thể…”: Là giải thích. Ýù nói: Do kể cho là Ngã, bèn khởi tâm mình có khả năng hàng phục, tâm trú, bất giác Hỷ động, cho nên chẳng tự nhiếp. Nay kinh nói: “Không có một chúng sanh nào được diệt độ, không có một pháp nào được Bồ-đề” thì chẳng kế cháp cho mình có khả năng đặc biệt, cho nên có thể đối trị nó. Kinh từ “Tu Bồ-đề! Về ý ra sao? Như Lai ở chỗ Nhiên Đăng Phật, có pháp đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề không?… Do vậy mà gọi là Nhất Thiết Pháp”. Từ “Lìa chướng thứ mười hai…”: Nếu không có giáo truyền trao tức là chướng, chẳng phải trú. Nếu được trao truyền giáo, tức là trú, chẳng phải chướng. Tự “Muốn nhập….”: là giải thích thành nghóa trú. Tuy trong tam Hiền vị, loạn tu lục độ trãi qua vô số kiếp, muốn nhập Thánh Đạo, cần phải Phật sách phát, cho nên sau Tư Lương Vị, đặt tên Gia Hạnh, nó cũng giống như dùi lửa, khi lửa sắp phát ra, phải gia thêm gấp bội công lực. “Gặp Phật”; là Phật Nhiên Đăng. “Đắc Vô Sở Đắc”: tức là Nhiên Đăng thọ ký cho Thiện Huệ, sẽ đắc làm Phật, Hiệu Thích Ca Mâu Ni, chẳng phải Phật cho pháp. Cho nên nói là “Vô Đắc”. Hỏi: Đây nói Thiện Huệ đắc thọ ký, tiến nhập vào Địa thứ tám, sao lại đem giai đoạn này phối với giai đoạn Địa tiến (chưa nhập Sơ Địa)? Đáp: Muốn nhập Sơ Địa, cần phải học Bát Địa, dụng tâm mới có thể đắc nhập, nếu chỉ học sơ địa thì rốt cùng chẳng thể nhập, cũng như người học bắn cung vậy. Lại nữa khi sắp chứng Bát Địa, còn cần phải có giáo thọ. Muốn nhập kiến Đạo (Sơ Địa) cũng cần như vậy. Mà từ trong trú thứ năm đến trú này, mỗi trú đối trị một chướng, chướng này chướng cho kiến Đạo (Sơ Địa). Nay là cùng cực của Gia Hạnh Vị, đối trị đã hết, cho nên nói rằng: “Mà chứng đạo vậy”. Kinh từ “Tu Bồ-đề! Thí như thân người trường đại… Phật thuyết tất cả pháp vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả”. Từ “Nhiếp chủng tính…”: là giải thích thành nghóa Trú. Trí Thể tức là quán chiếu, Bát-nhã là Năng chứng, tức là không có phân biệt giữa hai trí, Diệu và Binh, vì nhớ đắc trí này mà sanh vào nhà Như Lai, quyết định nối dõi giòng giống Phật. Cho nên đây tức là Trí của Địa tiền, Gia Hạnh vị khi đạt đến Sơ Địa, chuyển nhận tên này (nhiếp chủng tính trí). Vì nó có khắp ở trong tất cả pháp. Duy Thức nói: do vì nó hiển hiện ra từ Chơn Như thị không, cho nên không có một pháp nào mà nó chẳng tại. Trong Luận thì gọi tên là Bình Đẳng trí. Mà có năm loại nhân duyên Bình đẳng: 1. Bình đẳng thọ ác; 2. Bình đẳng Pháp vô ngã. 3.Bình đẳng tất cả Đoạn tương ưng; 4.Bình đẳng vô hy vọng tâm; 5.Bình đẳng tất cả Bồ-tát chứng đạo. Có năm loại nhân duyên này, cho nên gọi là Bình đẳng trí. Cho nên luận nói: khi nhập chứng đạo, đắc hai loại trí: 1.Nhiếp chủng tính trí; 2.Bình đẳng trí, mà sở chứng là Lý. Nay ở đây nói trí, là có hai ý: 1. Theo Khởi Tín Luận nói: y theo pháp thân này, gọi tên là Bổn giác; 2.Lý và trí ngầm hợp, năng và sở chẳng khác. Như hạt châu và ánh sáng chẳng xả lìa nhau. “Thành pháp, Bảo Thân”: Nhiếp chủng tính trí đạt đến quả, đắc thành báo thân. Bình đẳng trí đạt đến quả, đắc thành pháp thân. “Trường Đại”: Luận thì nói là Diệu Đại. diệu; tức là báo thân, vì trang nghiêm bởi công đức của vạn hạnh, đại, tức là pháp thân, vì Chơn Như thật lý khắp tất cả. “Thành pháp, Báo thân”: nhiếp chủng Tính Trí đạt đến quả, đắc thành Báo Thân, bình đảnh Trí đạt đến quả, đắc thành pháp thân. “Trường Đại”: Luận thì nói Diệu Đại. diệu tức là báo Thân, vì trang nghiêm bởi công đức của vạn hạnh, Đại, tức là pháp thân, vì Chơn Như thật lý khắp tất cả. 1 8.Từ đây về sau đều là cầu Phật Địa. Trong đó lại còn có sáu loại cụ trú. “Cụ trú”; nghia là viên mãn. Nghóa là chuyển xả hai chướng, chuyển đắc Bồ-đề Niết-bàn, nhiếp chuyển cụ túc. Đã chứng Thánh Tính, sinh nhà Như Lai, cần tỏ công đức Phật quả, khiến cho vui vẻ hướng đến, mà quả đức đó tuy nhiều, nói tóm lại chẳng ngoài y báo và chánh báo. Trong hai báo này, trước tỏ rõ về sở y, nếu không có sở y thì năng y làm sao đứng vững. Bên trong chánh báo, chẳng ngoài phước và trí. Vì trí dẫn phước, cho nên trí phước sau. Mà sau là nói riêng về ba nghiệp, nói thứ tự như sau: Kinh từ “Tu Bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói thế này, ta đang trang ng- hiêm Phật Thổ, vị ấy chẳng gọi là Bồ-tát… nếu Bồ-tát thông đạt Vô Ngã pháp, Như Lai gọi đó Chơn là Bồ-tát. Từ “Đây là dạy…”: là chỉ cho vị, tức là từ Nhị Địa cho đến đẳng giác, đang ở giai đoạn tu đạo vị, nghóa là khi trang nghiêm, lìa năng tướng và sở tướng, đó đó là Tịnh, xứng khắp pháp giới, cho nên nói là “cụ túc”. Cho nên kinh nói: “Người thông đạt Vô ngã pháp, Như Lai thuyết danh Chơn là Bồ-tát”. Kinh từ “Tu Bồ-đề! Về ý ra sao? Như Lai áo nhục nhãn không?… vị lai tâm bất khả đắc”. “Kiến Tịnh” là ngũ nhãn. Kiến tức vô kiến, gọi đó là Tịnh, không có chỗ nào chẳng thấy, gọi đó là cụ túc. “Trí tịnh”: tức là thảy tri chư tâm… Tri tức vô tri, gọi đó là Tịnh, không chỗ nào chẳng tri, gọi đó là cụ túc. Vì trí và kiến chẳng riêng khác, cho nên cùng một xứ. Từ “Từ đây về sau…”, tức là chỉ cho vị. Chẳng phải Tu Đạo vị. Đến đoạn sau đều hợp nói trên Hữu và Vô. Cho nên nói là “quán thông”. Bốn Đoạn sau: Kinh từ “Tu Bồ-đề! Về ý ra sao? Nếu người đem bảy báu đầy cả ba ngàn Đại thiên thế giới để dùng bố thí… vì phước Đức là vô, nên Như Lai nói đắc phước đức nhiều”. Hỏi: Trước đã nhiều lần nói về phước đức của bố thí, đây có khác gì với trước? Đáp: Trước nói đều là để so sánh chẳng bằng phước thọ trì, nay ở đây nói là phước của vô trú xứng với Tính, chẳng thể so sánh, cho nên khác. Hỏi : Phật là Quả, Bố Thí là Nhân. Vì sao trong quả lại nói về Nhân Hành. Đáp: Hể là quả đức đều là Nhân kia, thành cái Nhân của Vô trú để làm rõ phước của xứng với Tính. Nói “Tự tại”: là để tách biệt với phước thuộc Hữu lậu, chẳng tự tại. Nếu theo trong luận thì đoạn này và Đoạn trí Tịnh, hợp lại thành một đoạn, ý tỏ rằng phước và trí chẳng lìa nhau, như thế thì trong đoạn nói về thuận, cũng tách ra làm hai đoạn; đó là sắc thân cụ túc, cũng là đủ con số sáu đoạn. Nay ở đây thì hợp sau, tách trước ý rằng phước và Trí xa nhau mà khác nhau, phối nhiếp Nhân và Quả. Đoạn văn và đoạn sáu có khác, khác nhau thì cần phải tách ra. Tướng và Hảo cùng là một thân, ý là vì thành ba nghiệp, cho nên cần pải hợp lại. Kinh từ “Tu Bồ-đề! Về ý ra sao? Phật có thể dùng cụ túc sắc thân mà thấy không?… đó gọi là chư tướng cụ túc”. Đây là nói vể Như Lai Chơn Thân và ứng thân cụ túc. Như kinh nói: “Tức phi cụ túc sắc thân” là tỏ về Chơn thân. “Thị danh cụ túc sắc thân” là tỏ về Ứng Thân. “Tức phi chư tướng cụ túc”; là tỏ về Chơn Thân. “Thị Danh chư tương1 cụ túc”; là ứng thân. Kinh từ “Tu Bồ-đề! Ông đứng cho rằng Như Lai nghó thế này “Ta đang Hữu Sở thuyết pháp”… thị danh thuyết pháp”. Thuyết mà vô thuyết, thuyết vô thuyết, là Chơn thuyết pháp. Cụ túc là vô pháp để thuyết, không có chỗ nào chẳng thuyết, đó gọi là thuyết pháp. Mà trong tâm, lại có sáu loại: 1.Niệm xứ. 2.Chánh giác. 3.Thi thiết đại lợi ích; 4.Nhiếp Thủ pháp Thân. 5.Bất trú sinh tử Niết-bàn. 6.Hành trú tịnh. Hóa độ chúng sanh, đại bi làm gốc. Cho nên trước tiên là tỏ về Niệm xứ. Mình chưa thành Phật, sao thể độ người. Cho nên, tiếp đó nói về chánh giác, tự lợi đã mãn, liền hợp lợi tha, cho nên tiếp đó tỏ về Thi Thiết Đại Lợi ích; còn e trệ ở tướng Đại, nên tiếp đó tỏ về Nhiếp Thủ pháp thân, lại e trú không và Hữu, cho nên nói về bất trú Sinh tử, Niết-bàn, lại e chấp thí hóa tích, cho nen tiếp theo nói vê Hành trú tịnh, dùng sáu ghóa này, để so riêng với văn kinh, chi tiết như Luận kia đã nói, vì tránh phiền não nên chẳng kể ra. Từ “Lại nữa, mười tám trú…” là lớp thứ hai, dùng tám nghóa thâu tóm mười tám trú trên. Nhiếp: Nghóa là bao trùm, bao nạp, tức là lấy phổ độ chúng sanh, hiện không có trái ngược, do vậy, phối với Trú thứ nhất phát tâm trú. Tịnh và tương ưng: Bởi cùng một nghóa, do vậy, phối với Trú thứ hai. Tuy ba sắc, bốn pháp đều là Dục đắc (muốn đắc). Do vậy, phối với hai trú giống nó, là trú thứ ba và trú thứ tu. Có thể hiểu được. Vừa đúng vào Tịnh tâm Địa, cho nên đồng với trú này. Đang đúng là cứu cánh vị, cho nên đồng với Trú này, tuy thông cả Tu Đạo, vì theo nhiều mà nói. Từ câu “trong mõi một trú…” là tỏ về các nghóa nhiếp như trog trú thứ nhất, “Phổ độ tứ sinh” là quảng “Nhiếp nhập vô dư Niết-bàn là thâm. “Thật vô chúng sanh đắc diệt độ” là quảng (rộng). “Bồ-tát, Vô Ngã, Nhơn tướng” là thâm, trú thứ nhất là như vậy, cò các trú khác cứ theo lệ trên thì rõ. “Nhược ngũ bách sinh Nhẫn” là quảng “Đều Vô Ngã Nhơn” là thân, nếu nói chi tiết thì trước dùng sáu trú, nhiếp mười tám trú. Sau lấy hai trú nhiếp mười tám trú, đều được đầy đủ. Sớ từ “Mười tám trú,…” là phần ba. Còn phối theo Địa và vị để giải thích. Mà trong các giáo, nói về Địa và Vị, hoặc có (Hữu) hoặc không có (vô). Như kinh Lăng Già nói: ‘Thập Địa tức là Sơ, Nhị Địa tức là Bát… không có một địa nào cả”, đây là tỏ rằng vô ( không có). Kinh Nhân Vương, kinh Anh Lạc thì nó đủ cả Địa và Vị, đây là tỏ rằng vô (không có). Kinh Nhân vương, kinh Anh Lạc thì nói đủ cả Địa và Vị, đây là tỏ rằng Hữu (có), còn ở đây kinh này Hữu hay vô đều tùy cơ mà nói. Nếu kinh Hoa Nghiêm; hành Bố vạn sai, viên dung nhất tế, hữu và vô là vô ngại, thì kinh này thuyết về xứng với tính. Mà theo Hoa Nghiêm. Hữu và vô vô ngại, mới là liểu nghóa. Vì dựa theo pháp, tức là vô, mà dựa theo Nhơn (người) thì tức là Hữu. Nhơn và pháp đã chẳng lìa Hữu và vô, cho nên hợp lại ngang bằng với nhau. Mà hành nhân niệm niệm cần ngầm hợp Phật cảnh, phản cùng biển quả thì tự nhiên giai cấp bất đồng. Nếu dụng tâm mà sẳn có đẳng cấp thì rốt cuộc chướng cho chứng nhập. Cho nên Hoa Nghiêm Sớ nói: Tu thì đốn tu, vị thì chia nhân và quả. Huống nữa Tông của kinh này là vô tướng, há lại hợp với kê ra ngôi vị cạn sâu, chỉ dựa theo Tình và Hoặc dẫn đến mỏng bớt mà vị và Địa chuyển cao. Nghóa và tướng hơi giống nhau mà lược phối nhiếp nhau. Câu “Đệ Nhất Thập trú”: Thập trú là: 1. Phát tâm trú; 2.Trì Địa trú; 3. Tu hành trú; 4. Sanh quý trú; 5. Phương tiện cụ túc tru; 6.Chánh tâm trú; 7.bất thối trú; 8.Đồng Chơn trú; 9.Pháp vương tử trú; 1 0.Quán Đảnh trú. Nay phối với mười trú là; vì đồng tên vơi trú thứ nhất kia nên phối với nó. Hỏi: So nhau chỉ nói là một, sao lại phối với cả mười. Đáp: Vì trú dầu bao trùm cả những trú sau. Hỏi: Vì sao chẳng nói Thập Tín vị? Đáp: CŨng bao trùm vào trong Thập trú vị. Vì chúng đứng trước thật trú, nên gọi chung là Tín Hành Địa, cũng giống giới Hoa Nghiêm mà thôi. Câu “Đệ nhị Thập Hành…”: Thập Hành tức là: 1. Hoan Hỷ hành; 2.Nhiêu ích hành; 3.Vô sân hận hành; 4.Vô tận hành; 5.Ly si loạn hành; 6.Thiện hiện hành; 7.Vô Trướng hành; 8.Tôn trọng hành; 9. Thiện pháp hành; 10.Chơn thật hành. “Tiền lục”: là sáu hành trước trong nười hành, dùng phối với trú xứ thứ ba thứ hai này thuyết về lục độ, tức là bố thí phối với hoan hỷ hành, trì giới phối vói nhiêu ích hành. Nhẫn nhục phối với vô sân hận hành, tinh tiến phối với vô tận hành, Thiền Định phối với si Loạn hành. Trí huệ phối với Thiện Hiện Hành. Bởi tâm ly phân biệt, thiện xảo thị hiện. “Tam, đệ thất hành”, câu “chẳng dùng tướng thấy Như Lai”, tức là Vô Trướng Hành. “Tứ, Hậu tam hành” phối với ba loại pháp thân trong trú thứ tư. Đó là: Pháp thân ngôn thuyết phối với Tôn Trọng Hành, bởi vì sinh tôn trọng với ngôn giáo của Phật. Pháp thân trí tướng phối với Thiện pháp hành, bởi vì Chơn Như vô vi là Chơn thiện pháp, pháp thân phước tướng phối với Chơn thật hạnh, bởi vì phước của trì kinh là vô lậu Chơn thật. “Năm đến mười bốn phối với mười hồi hướng” 1. Cứu hộ tất cả chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng; 2. Bất Hoại Hồi Hướng; 3. Đẳng nhất thiết Phật Hồi hướng; 4.Đến tất cả xứ hồi hướng; 5.Vô Tận công đức tạng hồi hướng; 6. Tùy thuận kiên cố hồi hướng; 7. Đẳng tâm tùy thuận tất cả chúng sanh hồi hướng; 8. Chơn như tướng Hồi hướng; Vô phược Vô Trướng giải thoát hồi hướng; 1 0.Pháp giới vô lượng hồi hướng. Trú thứ năm phối với Hồi hướng thứ nhất; ly mạn tức là ly chúng sanh tướng. Trú thứ sáu phối với Hồi hướng thứ hai; gặp Phật đa văn tín, giải hành,.. là Bất Hoại. Trú thứ bảy phối với Hồi Hướng thứ ba; chư Phật ly tướng, đã bất trú sắc, tức là đẳng Phật. Trú thứ tám phối với hồi hướng thứ tư; đã thấy đại thân phi thân, là Chơn như tế, mới đến tất cả xứ. Trú thứ chín phối với hồi hướng thứ năm; chẳng theo ngoại luận, thọ trì kinh này, tức là đắc vô tận công đức. Trú thứ mười phối với Hồi Hướng thứ sáu, quán phá ngũ uẩn, tương ưng với Định, Bồ-đề kiên cố. Trú thứ mười một phối với Hồi hướng thứ bảy; đã chẳng thủ tướng, tức với chúng sanh, đẳng tùy thuận vậy. Trú mười hai phối với Hồi Hướng thứ tám; kinh nói; ly tất cả tướng, tức danh chư Phật, tức là Chơn như tướng. Trú thứ mười ba phối với Hồi Hướng thứ chín. Cắt xẻ chẳng sân, tức là vô phược Vô Trướng. Trú thứ mười bốn phối với Hồi hướng thứ mười. Kinh nói: không có biên là công đức bất khả tư nghị, tức là công đức pháp giới. “Trú mười lăm là Noãn…”: là phối với bốn gia hành vị. Mà bốn gia hành vị này là do tam Hiền Bồ-tát đã trãi qua vô số kiếp tu, tích chưa tư lương phước và trí, vì để nhập kiến đạo mà lại gia hành. Hai vị, Noản và Đảnh dùng bốn tầm ty quán, quán sở thủ bốn pháp; danh,.. là giả có, thật không có, tức là sở thủ là không. Nhẫn và Thế Đệ Nhất, dùng bốn trí như thật, quán chung Năng danh và sở danh,.. là Nhẫn có ba phẩm đó là Hạ, Trung, Thượng. Hạ phẩm ấn sở thủ là không. Trung phẩm thuận Năng thủ không, Thượng phẩm ấn năng thủ không, Thế Đệ Nhất, Nhị không đều cùng ấn, mà đều trệ tướng, chưa thể chứng thật, cho nên Duy Thức nói: “Hiện tiền lập ít vật, cho là Duy Thức Tính, bởi vì Hữu Sở Đắc, chẳng thật trù Duy Thức”. Nếu phối với văn kinh, tức là trú thứ mười lăm. Kinh nói: “Thật không có pháp phát A Nậu Bồ-đề tâm. Vì Bồ-đề Tâm có thể phát Sở thủ, mà đã nói là Thật không có thì tức là sở thủ không, đúng vào hai vị, Noãn vị và Đảnh vị. Trong trú mười sáu, kinh nói: “Phật ở chỗ Nhiên Đăng Phật, bất đắc Bồ-đề đó là ấn sở thủ không, đúng vào hạ phàm Nhẫn. Tiếp đó nói: “Như Lai tức là Nghóa Như của chư pháp”. Tức là thuận Năng thủ không, nhưng vẫn chưa nói thời sau bất đắc thì biết là chưa thể ấn trì, đúng vào trung phẩm Nhẫn. Tiếp đó nói: “Thật không có pháp đắc A Nậu Bồ-đề”, đây tỏ rằng thời sau rốt cuộc chẳng đắc, tức là ấn Năng thủ không, đáng là Thượng Phẩm Nhẫn. Tiếp đến nói: “Pháp mà Như Lai đắc, pháp đó không thật không hư… tức phi tất cả pháp”, tức là song ấn hai không, đúng vào Thế Đệ Nhất Vị. “Trú mười bảy sơ Địa” như trên kia, sớ nói: Nhiếp chủng Tính Trí, chứng Biến hành Chơn như,… cho nên ứng vào Sơ Địa. “Trú mười tám…” trong này, hợp lại có hai, nghóa là trong trú này, phần đầu, Quốc Thổ Tịnh cụ túc, là đang tu Đạo vị, cho nên trên kia sớ nói: giáo này nhị Địa trở lên chư đại Bồ-tát, từ vô thượng kiến trí tịnh cụ túc trở xuống, đều là cứu cánh vị, cho phần trước nói rằng: “Từ đây về sau đều là trú Phật quả”. Trú mười lăm, mười sáu là gia hành. Trú mười bảy là kiến đạo. Trong trú mười tám, phần đầu là cụ túc tu đạo. Còn lại tức là vô học đạo, chia phần đã xong. Có hai phần: 1.Điệp chương chia văn; 2. Thao chương chánh thích: có bốn phần: Thiện Hiệu thân thỉnh: có hai phần: Chỉnh nghi tán Phật: Sớ có hai phần: phần đầu là giải thích người hỏi: từ đầu… cung kính, là phần chỉnh nghi. Còn lại đều là phần tán Phật. Kinh: chữ “Thời” tức là khi Như Lai đã ăn xong, trãi tòa mà ngồi. “Đức Trưởng Niên lão”; nghóa là Đức cao, gọi là Trưởng, tuổi nhiều, gọi là Lão. Từ câu “Đường dịch…”; là chứng cho niên lão, từ câu “Ngụy dịch…” là chứng cho Đức Trưởng. Trí Huệ siêu luân, tức là nghóa của Đức Trưởng. Còn “Lấy Huệ làm mệnh”, là dựa theo Dụ mà tỏ pháp. Nghóa là thân người lấy mạng làm gốc, Phật pháp lấy Huệ làm gốc. Mệnh tận thì sáu căn đều phế, Huệ tạng thì vạn hạnh bất thành…, đây là dựa theo nghóa riêng mà giải thích “Trưởng lão”. Nếu theo ý chung thì chỉ có Đức nghiệp mới gọi là trưởng lão, như nói: Tiên sinh, chưa ắt là tuổi đã già. “Tu Bồ-đề” còn gọi là Tô Bổ Để, chỉ là âm phạm ở vùng sở hạ mà thôi. Từ “Thiện cát …”: là nêu ngược theo ngọn, từ “Khi sanh…” là theo gốc mà thuận giải thích. Tây Vực Ký nói: Tu Bồ-đề là Phật Thanh Long Đà ở Đông phương, ảnh hưởng hội của Thích Ca, thị tích Thanh văn, phát dương không Lý, mười phương chư Phật pháp đều vậy. “Tòng tòa…” là phần trai, giải thích nghi. Có hai phần: Chánh thích văn kinh: “Đều chỉnh nghi …”, sớ tuy tỏ chung nhưng kinh thì cần giải thích riêng. “Tòng tòa khởi”, Đạo giữa thầy trò, tôn ti có khác, muốn có điều hỏi, chẳng thể ngồi hỏi. Đây giống với tăng tử đứng lên hỏi phu tử (khổng tử). Trong Hiếu kinh, phu tử hỏi Tăng Tử rằng: Tiên vương có chí Đức yếu Đạo dùng để thuận thiên lạc, dân dùng hòa mục, trên dưới vô oán, ông có biết điều đó không? Tăng Tử đứng lên đáp: Sâm chẳng minh mẫn, đâu đủ để biết điều đó! Tuy kia đáp đây hỏi, mà đạt đến chữ kinh là như nhau. “Thiên đản hữu kiên”: là nghi lễ ở phương kia (Ấn Độ). Ở đất này (Trung Hoa) thì chẳng pải nghi lễ. Muốn hỏi Như Lai, cần phải thiên đản (trịch áo vai). “Hữu tát …”: Hữu (phải) tức là thuận, đầu gối có thể co duổi, biểu cho tâm thuận với lý. “Trước địa” (dính đất, sát đất): tức là bày tỏ tướng thấp kém. Đầu gối biểu cho Trí. Địa (đất) biểu cho Lý. Chắp tay là biểu cho tâm ngầm. Chắp tay thì chẳng cầm đồ vật bên ngoài, tâm ngầm với giác, chẳng duyên với khác. Vì muốn hỏi pháp môn thật tướng nên cần dụng tâm như vậy. “cung kính” là tổng kết. Đứng dậy, trịch vai, qùy gối, chấp tay, đều là vì cung kính mà vậy. Cũng có thể phối với ba ng- hiệp, nghóa là: Đứng dậy, trịch vai, chắp tay; là Thân nghiệp. Cung kính tức là ý nghiệp. “bạch Phật rằng …” là khẩu nghiệp. Hy Hữu …”: sớ chỉ nói chung, đầy đủ thì có bốn loại: Thời Hy Hữu: Kiếp dài khó gặp, mà nay nằm trong Hiền kiếp. Đang đúng trụ kiếp, ngay trong trụ kiếp, có hai mươi kiếp tăng giảm, nay tức là trong kiếp giảm thứ chín, khi tuổi thọ con người là hai vạn tuổi, Ca Diếp Như Lai ra đời, cứ một trăm năm thì giảm một tuổi thọ, đến khi tuổi thọ con người là một trăm tuổi, Thích Ca Như Lai ra đời, cứ một trăm năm thì giảm một tuổi thọ, đến khi tuổi thọ con người là một trăm tuổi, Thích Ca Như Lai ra đời, sau khi giảm, kiếp này đã hết, đến kiếp thứ mười, triển chuyển kiếp tăng, đến tám vạn bốn ngàn tuổi, lại cứ một trăm năm giảm một tuổi, đến khi tuổi thọ con người là tám vạn tuổi, Di Lặc Phật ra đời. Nhìn quá khứ và vị lai, hai vị Phật cách nhau hơn một ngàn một trăm vạn năm, khoảng giữa thời gian đó không có một vị Phật nào khác. Cho nên nói là “Hy hữu”. Cho nên Pháp Hoa nói: “Chư Phật hưng xuất thế, xa xôi thật khó gặp”. Xứ Hy Hữu: trong Tam Thiên giới, chỉ có một Phật, trăm ức Tứ Thiên hạ, trăm ức Tu Di Sơn, trăm ức Nhật Nguyệt, trăm ức lục dục trăm ức phạm thế, trong đó, chỉ có một Phật, ở phương này mà hiện. Đức hy hữu: Bởi phước Huệ siêu tuyệt, thấy vô thượng. Cho nên Pháp Hoa nói: “Trí Huệ ta đã đắc, vi diệu tối đệ nhất”. Lại nói: “Như pháp sở đắc đó, Định Huệ lực trang nghiêm, lấy đó độ chúng sanh, tự chứng vô thượng Đạo”. Mà công đức Phật, chẳng thể thuyết nói, tận hết bờ mé. Cho nên Hoa Nghiêm nói: “Sát trần tâm niệm đến biết được, nghiệp trong biển lớn uống hết được, hư không lường được gió buộc được, chẳng thể nói hết công đức Phật”. Sư Hy Hữu: Dùng Đại từ bi cực xảo phương tiện, hiện nhiều loại thân tướng, diễn vô lượng pháp môn, tùy theo căn của chúng sanh đều lợi ích. Nay đều tán thán, là ý thì tuy thông, nghóa thì sự đáng tán thán, sau đó nêu rằng: “Thiên hộ niệm….”. “Như Lai”: có Chơn và hóa khác nhau: Chơn Phật, danh là Như Lai: khi mê, bỏ giác, hợp với trần, gọi là Như khứ, khi ngộ rồi, bỏ trần hợp giác, gọi là Như Lai. Như tức Chơn Như, Lai khứ tức tùy duyên. Hóa Phật, danh là Như Lai từ Chơn Như khởi lai ( đến), thành chánh giác mà hóa chúng sanh. Nay đang hậu (sau), cho nên nói: từ Như mà lai. “Căn Thục” là những Bồ-tát Tam Hiền trở lên, tín căn thành thục, mãi không thối chuyển. “Trí Huệ lực” tức là thành tựu Trí vô phân biệt. “Phật pháp” tức là tùy theo phần vị, khiến chứng Chơn Như, là ở một pháp, khiến đạt trăm, ngàn, vạn pháp minh môn, đây tức là hạnh tự lợi. “Giáo hóa lực” tức là Hậu Đắc Trí. “Nhiếp thọ chúng sanh” tức là tùy theo phần vị của họ, khiến họ giáo hóa chúng sanh ở trong trăm ngàn vạn ức thế giới. Đây là hạnh lợi tha. “Căn chưa Thục” là Bồ-tát Thập Tín vị. Bởi vì người ở vị này, loạn tu lục độ, tâm như lông nhẹ, cần phó chúc trao cho người Trí, bảo họ giáo hóa, khiến cho chẳng thối lùi. “Đam nhỏ….” Đem Tiểu Bồ-tát phó trao cho Đại Bồ-tát, chúc (dặ dò) Địa Bồ-tát hóa tiểu Bồ-tát. Đây giống như cha mẹ di chúng cho con cháu. “Bồ-đề…” là phần hai: giải thích riêng về Bồ-tát. Âm phạm gọi Bồ-tát, là chưa đầy đủ, gọi cho đủ là Bồ-đề tát Đỏa. Tiếng Hán gọi là Giác Hữu Tình. Vì người thời ấy chẳng quý trong tiếng Đường cho nên vẫn lưu lại tiếng phạm, nước Tân thích tóm lược lại bỏ bớt hai chữ Đề và chữ Đỏa, chỉ gọi là Bồ-tát. Dựa theo cảnh sở cầu là giác, sở độ là Hữu tình. Mà dựa theo con người (Nhơn) thì có bốn cú: đó là Nhị Thừa có cầu, không có độ. Chư Phật có Độ, không có cầu. Bồ-tát vừa có cầu vừa có Độ. Phàm phu thì không có cầu, không có độ. Dựa theo tâm thì cũng có bốn cú: chư Phật có giác, không có tình. Phàm phu có Tình, không có giác. Bồ-tát có tình có giác. Nhị Thừa nhập vào vô y giới; không có tình, không có giác. Dựa theo Năng và Sở thì sở cầu là giác, Năng cầu là Hữu tình. Từ câu “cả ba …” đều câu trước là giác, câu sau là Hữu Tình. Mà trong ba nghóa này; nghóa một là dựa theo Bi và Trí. Nghóa hai là dựa theo Chơn và Vọng. Nghóa ba là dựa theo con người và pháp. Nghóa của chữ Bồ-tát chẳng ngoài ba nghóa này, chưa ắt đội mũ báu, mặc áo trời mới là Bồ-tát. Trong phần Sở chia ra hai phần: 1. Giải thích đương cơ: từ câu “Hoa Nghiêm …” là dẫn chứng, đây có hai ý: ý đầu nói rằng: có người trước kia đã từng phát tâm, về sau quên mất, còn chẳng phải là căn khí, huống nữa là những người hoàn toàn không có phát tâm. Vì sao lại vậy? Vì bị ma nhiếp trì. Yù sau thì nói: Chúng sanh phát tâm rồi, về sau lại quên mất, là vì chẳng hiểu (phương pháp), trú, tu, hàng phục mà thôi… cho nên nay hỏi là đẻ dừng bị quên mất. Phần trước là phân biệt cái cơ, sau là phòng ngừa sự thối lùi. Có hai ý này nên mới dẫn dùng kinh kia. Do vậy, Thiện tài đồng tử mỗi lần gặp bạn lành đều trình bày rằng: tôi đã phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề Tâm rồi nhưng chưa biết làm thế nào học Bồ-tát Hạnh, tu Bồ-tát đạo. Ý nói phát tâm mới là khí (căn khí, đồ chứa) của tu hành. Từ “A Nậu …”; trước tiên là dịch tên. “nghóa là chánh trí …” là giải thích chữ “chánh” ở trước. Còn so với chữ “Biến” để chia thành hai Trí. Chữ “chánh” ở sau tức là tỏ rõ sở giác của hai trí là chẳng thiên, chẳng lệch. Tức là dùng chánh trí để giác Chơn, dùng Biến Trí để giác tục, đều chẳng thiên lệch, chẳng tà vậy, cho nên gọi là “chánh giác”. Vì Nhị Thừa thì giác một cách thiên lệch, phàm phu thì giác một cách tà vạy, nay để tách biệt với hai loại đó mà nói là “chẳng thiên lệch, chẳng tà vạy”. Nghóa là như lý mà tri (biết), như sự mà tri. Mà Hai trí này còn gọi tên là; Như lý và Như Lượng, căn bản và hậu Đắc, Chơn và Tục, quyền và thật. Lại nữa, theo thuyết của Trí Độ Luận; Từ Nhân đến Quả, có năm loại Bồ-đề: 1.Phát tâm Bồ-đề; tức là Thập Tín; 2. Phục tâm Bồ- đề; tức là Tam Hiền, 3.Minh tâm Bồ-đề, tức là Sơ Địa đến Thất Địa; 4. Xuất Đáo Bồ-đề, tức là Bát Địa, cửu Địa, Thập Địa; 5. Vô Thượng Bồ- đề;Phật tức là Như Lai Địa. Nay dựa theo Năng phát tâm, tức là đúng vào loại Bồ-đề thứ nhất. Dựa theo sở phát thì loại Bồ-đề thứ năm. Năng và Sở hợp luận thì xuyên suốt từ loại một cho đến loại năm. Sớ phần hai Giải thích chánh vấn. Có ba phần: Giải thích bản dịch Đời Ngụy: trước tiên là dẫn căn. Từ “ý nói…” là giải thích ý. Câu “Trú cảnh gới gì?” là khi chưa phát tâm thì trú cảnh của lục trần. Đã phát tâm rồi, nên sửa nên nếp. Cho nên nói: trú cảnh giới gì?”. Câu “tu hạnh nghiệp gì?” khi chưa phát tâm, làm mười nghiệp ác. Đã phát tâm rồi, chẳng thể như trước, cho nên nói “Tu hạnh nghiệp gì?” Câu “Vọng tâm….”: khi chưa phát tâm, vọng tâm khởi, liền đuổi theo vọng, đã phát tâm rồi, chẳng thể theo vọng. Cho nên hỏi rằng “làm sao hàng phục?” “cho nên Phật…” là tỏ bày ý đáp. Ý nói: Xưa kia trú cảnh của lục trần, nay trú bốn tâm. Xưa kia hành mười ác, nay hành sáu độ. Thời xưa trước (dính mắc) tướng, nay khiến chẳng trước, dụng tâm như vậy là Chơn thật tu hành thì phát Bồ-đề tâm làm sao quên mất được! Từ câu “Tần dịch…” là hội với bản kinh này. Câu đầu là nạn khởi. Từ “ý nói…” là giải thích câu đầu. Câu thứ hai là nêu: Ý nói: Tuy bản dịch này không có đoạn văn nói về tu hành nhưng đã bao hàm nghóa của tu hành như trong Khởi Tín nói: Lục Thức Bát thức, chẳng nói thức thứ bảy, tuy chẳng nói nhưng nghóa cũng đã đầy đủ… Từ “nghóa là Bốn tâm…” là chỉ cho kinh, giải thích thành, ý nói: trong bốn tâm, cũng có nghóa của Trú, tu, hàng phục. Trong Lục Độ cũng có nghóa của trú, tu, hàng phục. Vì sao? Trú: nghóa là phát tâm, ắt cần tu tiến. Hàng: nghóa là chế phục, là nói theo trú, tu. Do vậy, ở đây chúng chẳng xả lìa nhau. Bản dịch đời Tần, Cưu ma La Thập lược bớt, ý là ở đó. Văn tuy chẳng nói, nghóa đã đủ vậy. Từ “cho nên, Vô Trướng…” là phần ba, dẫn luận làm chứng. Câu “Trú; nghóa là Dục nguyên”; Dục nguyên (mong muốn) ý khởi, tức là phát tâm. Câu “tu hành…”, bình đẳng trì tâm gọi là Đẳng trì, Đẳng Trì tức là tương ưng, tương ưng tức là nghóa của tu hành. “Hằng phục…”, “tâm kia” tức là tâm tương ưng ở trước, chế nó khiến nó trở về với trú, tức là lại khiến cho tương ưng, đây tức là nghóa của hàng phục nói theo trú, tu. Kinh và luận khế hợp nhau, ý chỉ của thánh có chỉ giống nhau, cho nên như trên nói, lý thật là vậy. Câu “Lại nữa, mười tám trú…”: đây là luận của ngài Vô Trướng là đáp dọc về ý của ba câu hỏi. Nếu theo ngài Thiên Thân giải thích kinh thì đáp ngang về ba câu hỏi. Nếu theo ngài Thiên Thân giải thích kinh thì đáp ngang về ba câu hỏi. Từ “Tu Bồ-đề! Hỉ nên như sở giáo trú” về sau, tức là đoạn riêng về nghi tình. Nay tỏ về ngài Vô Trướng nên có thuyết này, ý nói: chẳng chỉ bốn tâm, mà ngay cả trong Lục Độ cũng có nghóa của trú, tu, hàng phục. Như bên trong mười tám trú đều có ba nghóa đó. Như trong trú thứ nhất: “Độ bốn sinh nhập Niết-bàn” là nghóa của trú. “Vô sinh khả độ” là nghóa của tu. “Vô Ngã tướng….” Là nghóa của Hàng phục. Trú thứ nhất đã vậy, những trú khác đều thế. Từ “Mới biết…” là kết nghóa ba. “Hành một”, ba nghóa đầy đủ mới thành một hành. Đó là, không, phát tâm, Hàng phục. Chẳng tu hành thì cũng chẳng phải là Hành, chỉ phát tâm, tu hành mà chẳng hàng phục, cũng chẳng phải là Hành. Không., Hàng phục, tu hành, mà chẳng phát tâm, cũng chẳng phải là Hành, Như Đỉnh ba chân, như trời ba quang, thiếu một chẳng được. Cái diệu của dịch kinh, chính là tại đó vậy. “Ấn tán sở tán”: là ấn và tán lời tán thán của Tu Bồ-đề. Tức là kinh nói: “Thiện tai! Thiện tai!” là tán, “Như Như sở thuyết” là ấn. “Như Lai thiện hộ niệm…”, là sở tán. “Lời lặp…” là những lời tán thán của Tu Bồ-đề khế hợp với tâm Phật, nếu không lặp lại thì sao thể biểu tỏ sự cực thiện. Như Nhan Hồi chết, khổng Phu Tử than rằng: “Trời chôn ta! Trời chôn ta!” chú thích: Lời nói lặp lại là đau thương cực kỳ. Cát và hung tuy khác, nhưng lòng ân cần thì giống nhau. Từ “Hộ niệm và phó chúc…”: Không sinh (Tu Bồ-đề) phát ngôn, lời nói đúng với sự, do đó Điều ngự (Đức Phật) ấn trú… “Bảo nghe hứa thuyết” Kinh nói: “ông nay lắng nghe” là bảo nghe. “Sẽ vì ông thuyết” là hứa thuyết. “Đế” là nghóa của thẩm thật, xét thật, xét kỷ. Ý bảo nghe thật kỷ, Chơn thật dụng tâm mà nghe từ câu “có dùng tâm hành sinh diệt…” đây là dùng văn của kinh Tịnh Danh, Kinh kia nói: “Không có dùng sinh diệt tâm hành mà thuyết Thật tướng pháp” Ở đây ý nói: đã chẳng thể dùng tâm sinh diệt mà thuyết thì sao thể dùng tâm sinh diệt mà nghe. Đã là pháp thật tướng bất sinh bất diệt thì sao lại dùng tâm hành sanh diệt mà thuyết nó, nghe nó. Đừng có đặt món ăn ngon trên chiếc đóa nhơ uế. Từ “trí luận…” là giải thích tướng: “Đoạn thị” là nhìn ngay, chẳng liếc trái liếc phải. Mắt nếu nhìn đi chỗ khác thì tâm ắt duyên theo điều khác. Vốn muốn chế tâm, bèn bảo nhìn thẳng, đó là phương tiện của dụng tâm. “Khát nước” là dụ. Như khát nước vậy, chỉ e nước hết, không nhìn chỗ khác. Người nghe pháp, cũng lại giống vậy, mong mỏi diệu pháp, vô tâm liếc mắt. “Một tâm nhập lời nghóa”, trong ý hiện nghóa, mới phát ra lời, trong lời có nghóa, trong nghóa có ý, bảo người nghe dùng nhỉ thức mà nghe lời ấy. Dùng ý thức mà chọn lấy nghóa ấy, tìm nghóa mà lấy ý, được ý mà bỏ nghóa. Nếu được ý ở trng lòng, lo gì đánh mất lời nghóa, tâm tâm nếu vậy, như bình rót bình, nhận lảnh không sót, thế thì chí diệu. Cho nên nói: “Nhất tâm nhập vào trong trang ngữ nghóa”. “Dũng diệu” tức là hớn hở vui mừng, tức là khi muốn nghe pháp. “Bi hỷ” tức là khi đã nghe hiểu “Bi” nghóa thươn tâm, ngày xưa chẳng gặp, như phần sau kinh nói: “Rơi lệ buồn khóc”. Hỷ: Nghóa là mừng. Hôm nay được nghe, như Thu Tử hớn hở vui mừng. Thương cho ngày xưa, vui vì hôm nay, cho nên nói là “Bi hỷ”. từ “như thị…” là kết về cái cơ, ý nói: Nếu chẳng dụng tâm như vậy thì chẳng thể vì họ mà thuyết. Lại nữa, quyển ký của ngài Chơn Đế nói: “Đế Thích” ba lỗi lầm, được ba công đức, đó là ly tán loạn, khinh mạn, điên đảo, như thứ tự sinh ra ba Huệ văn, tư, tu. “Tiêu khuyến tương trần” Tiêu: là tiêu chỉ, nêu chỉ, khuyến là khuyến miễn, khích lệ. Tương là như muốn, sắp. Trần là thuyết nói: “Thiền nam tử!”; là tiêu. “Ưng như thị…” là khuyến. Ý của tiêu khuyến là ý đang muốn nói. Cho nên nói là “tương trần”, tức là ý chỉ cho đoạn văn chánh đáp ở phần sau. Do vậy, sớ nói “ta sẽ vì ông…” Trong Phần III: Từ “Duy…” như nay người ta nói “Dạ”. Đều là từ thuận theo. Lão Tử nói: Duy và A, cách nhau bao xa? Văn chú thích gống như Sớ. Nay ở đây là lễ phép. Từ “Thập Địa kinh…” giải thích tướng của “nguyện văn”. Tức là trong Hoa Nghiêm Thập Địa Phẩm; chư Bồ-tát chúng thỉnh Kim Cang tạng thuyết bài kệ của Thập Địa pháp môn, nay ở đây mượn dùng nó. Bốn câu đầu, trong đó, dựa theo dụ để phối với Ba Huệ. Câu thứ nhất là Văn Huệ, nghe pháp chẳng suy ngẩm, như uống nước chẳng mùi vị. Câu thứ hai là Tư Huệ, nếu muốn tìm cầu mùi vị món ăn thì cần phải nhau. Câu thứ ba là Tu Huệ, tu hành thì hoặc trừ, như uống thuốc thì bệnh trừ. Câu thứ tư là quả của ba Huệ, ong hái trăm hoa để thành Mật, người tích chứa vạn hạnh để chứng Chơn, ong thành mật rồi, nhờ mật mà sống. Người chứng Chơn rồi, nương Chơn mà trú, từ câu “chúng con…” là hợp dụ. Câu cuối cùng là dụ chung cho những điều được nghe.  KIM CANG KINH TOẢN YẾU SAN ĐỊNH KÝ <卷>QUYỂN 4 IV. Như Lai Chánh Thuyết: có hai phần: Chánh đáp sở vấn. Có hai phần: Nêu chung kê riêng để điệp vấn: Kinh: “Chư Bồ-tát Ma ha tát”: Hỏi: trong phần nêu đương cơ trước, nói: “Thiện nam tử! Thiện nữ nhơn”, đến nay là trả lời, sao lại nói. “Bồ-tát ma ha tát”? Đáp: Đại tâm chưa phát, tức là phàm phu, đã phát đại tâm, tức danh Bồ-tát. Thiện Hiện khi nêu là dựa theo khi chưa phát tâm, cho nên nói “Thiện nam tử, thiện nữ nhơn”. Thế Tôn trả lời là dựa theo sau khi đã phát tâm, mới nói chư Bồ-tát Ma Ha Tát. Sớ “Đây là lấy…” có bốn phần: Giải thích văn kinh: Vì không sinh (Tu Bồ-đề) nghe có ba loại, Phật nay nêu lại chỉ nói hàng phục, cho nên ở đây mới giải thích: hai câu đầu là nêu, từ “nghóa là trong trú…” là giải thích: nghóa là vô ngã mà độ chúng sanh, đó là hàng phục ở trong trú. Bố thí chẳng trú tướng, là hàng phục trong tu. Do những nghóa này, cho nên hàng phục là chung. “Ý kinh tại đây”: là ở tại nêu hàng phục mà chỉ rõ trú và tu, là muốn hiển rõ văn giản dị mà nghóa phong phú, huyền diệu lắm thay đầu tuy trú, tu, rốt sau hàng phục, được ý thâm sâu, cho nên nói một. Từ “Có người chia…”: là phê phán người khác chia kinh lầm lẫn, tức là quyển Sớ Đại Vân, Thanh Long thì nói: “Nêu phần cuối bao quát cả phần đầu, nghóa cũng giống nhau”. Từ “Mới khiến cho…” là chánh phê phán sự sai lầm đó. Câu “Văn chẳng ổn, chẳng suông” nghóa là vốn nên phần đầu bao quát phần sau, như sắc nêu sắc là để ví cho thanh, hương… sao bổn nhiên lại nêu sau, như nêu sắc là để ví cho thanh, hương.. sao bỗng nhiên lại nêu sau nhiếp đầu, làm cho văn chẳng ổn chẳng suông. Chẳng ổng chẳng suông là do bởi chia phần, chẳng phải bổn ý của văn kinh, từ “Huống nữa xem kỷ …”: là định rõ ý chỉ của kinh, câu “hàng phục nằm trong trú và tu”, hàng phục trong trú, tức là “Thật vô độ giả”. Hàng phục trong tu, tức là “vô tướng bố thí”. Vô độ Vô trú tức là ly tướng. Ly tướng đã thông cả trú và tu. Từ “Chẳng riêng đáp…” là phần bốn, điệp nạn thích thông nạn rằng: Không sanh đã hỏi có thứ tự, trú, tu, hàng phục rõ ràng. Vì sao trong kinh chẳng riêng đáp mà lại gởi gắm trong trú và tu? Từ câu “trông của kinh này …” là chánh thông. Như trên đã dẫn vô độ, vô trú. Câu “Cần phải dựa theo trú, tu mà hiển”: là nếu có phát tâm, tu hành thì mới có thể nói đến hàng tâm. Nếu không có trú, tu thì nói chi đến hàng phục. Thế thì chỉ ở trú và tu. Vì hàng là phân biệt vọng niệm nên nói “vốn chẳng lìa nhau”. Từ câu “Mười tám trú của ngài Vô Trướng …” là dẫn chứng, có thể hiểu được. Trong Sớ phần đáp câu hỏi về an trú, hàng tâm: Đây tức là an trú bốn tâm. Di Lặc kệ nói: “Quảng Đại đệ nhất thường, kỳ tâm bất điên đảo, lợi ích thâm tâm trú, thừa này công đức mản”. Theo bài kệ này mà chia, cho nên kê ra bốn tâm. Sớ “Cú thứ nhất…” có hai phần: Giải thích nêu “Tam giới phổ độ” là giải thích nghóa của Quảng đại tất cả chúng sanh chẳng vượt tam giới, tam giới phô độ mới gọi là quảng đạo. Nếu một chúng sanh chẳng cho độ thì chẳng phải là Quảng đại. Cho nên kinh nêu rằng: “Toàn bộ tất cả chúng sanh”, tức là bao quát hết. Tiếng Phạm gọi là Bậc Hộ Thiện na, tiếng Hán gọi là chúng sanh. Trí Độ Luận nói: Sanh ra trong ngũ Uẩn hòa hợp, cho nên gọi là chúng sanh. Du Già Luận nói: Tư nghiệp làm Nhân. Noãn, Thai, thấp. Hóa làm duyên. Ngũ uẩn mới bắt đầu khởi, gọi đó là sanh. “Loại” tức là dòng loại, tức là bốn loại; Thai, trứng… từ “Nhược Noản…” là phần hai: giải thích liệt kê. Có ba phần: trong phần một, có hai phần: Giải thích văn: bắt đầu bẩm mệnh, gọi đó là “Thọ Sanh”, tức là khi mới bắt đầu thai, trứng,… bốn loại khác nhau, cho nên nói là “Sai Biệt”. Nghóa là Noản (trứng) là sanh ra trong vỏ. Thai thì sanh ra trong tạng. Nương theo ẩm thấp mà sanh, Hóa là bỗng nhiên mà sanh, cho nên khác nhau, mà tam giới chúng sanh chẳng ra ngoài Ngũ đạo, dùng Bốn loại để nhiếp năm đạo cũng được đầy đủ. Cho nên Sớ tiếp đó nói rằng: “trời, Địa ngục thì Hóa Sanh”, đây là nó theo từ hẹp đến rộng. Câu “Loài trời, loài Địa Ngục la Hóa sanh”; loài trời, loài địa ngục chỉ là Hóa Sanh, là hẹp nhất, câu “Ma quỷ thông cả thai sanh và Hóa sanh”: là rộng vừa. Nghóa là Địa Hành la sát và quỷ tử mẫu đều là Thai Sanh. Cho nên có chuyện quỷ mẫu (quỷ mẹ) bạch với Mục Liên rằng: “Tôi ngày đêm sanh ra năm trăm đứa con, sanh xong liền ăn, ăn hết chẳng nó”. Cho nên biết có quỷ thai sanh, ngoài ra đều là Hóa sanh. Câu “Loài người, loài súc vật, đều bốn sanh” Mẹ Tỳ xá khư, trứng sanh ba mươi hai đứa con. Người thường thì thai sanh. Thấp sanh thì có nãi nữ từ khí ẩm thấp của cây Am-la mà sanh ra. Hóa sanh tức là loài người ở thời đại kiếp sơ (khởi đầu kiếp), cho nên Câu Xá nói: “Nhị thiền phước sắp hết, hạ sanh Thiền Bộ Châu”. Súc vật có đủ cả bốn sanh: Chánh Pháp niệm kinh nói: “Chim Kim Sí hóa sanh, ăn được rồng bốn sanh… Thấp sanh”. Mà cầm và thú tuy khác nhau, đều nằm trong Súc sanh Đạo. Các loài thú khác đều là Thai Sanh, các loài chim khác đều là Noãn sanh. Từ “những loài vi tế khác…” như Hoa Nghiêm nói: “Tận pháp giới, hư không giới, mười phương Sát hải, toàn bộ chúng sanh, những loài sai biệt”. Nghóa là trứng sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh. Hoặc có loài nương vào đất, nước, lửa, gió mà sanh, trụ, hoặc có loài nương nhờ vào không gian và cỏ cây mà sanh, trụ. Nhiều thứ loài sanh, nhiều thứ sắc thân khác nhau. Cho đến nói rằng tất cả Thiên Long Bát Bộ, Nhân phi nhân,… không có chân, bốn chân, nhiều chân, hữu sắc, vô sắc, Hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng. Vì nay trong kinh không có chỗ nào nói riêng, chẳng thể hư cấu mà nói, cho nên sớ hết rằng: “Chẳng thể phân chia đầy đủ phẩm loại”. Từ câu “Noản sanh là thấp kém…” là phần hai. Nạn vấn và thông nên nạn vấn rằng: Noản sanh là kém nhất, sao lại đứng đầu? Hóa sanh là trội nhất, sao lại đứng sau? Từ câu “có hai giải thích…” là thông. Từ câu “Nếu dựa theo cảnh…”: nghóa là trứng sanh ắt có đủ cả thai, thấp, hóa. vì chưa sanh là thai, trong thai ắt ẩm thấp, không mà bỗng nhiên có, là Hóa. thai sanh ắt kiêm cả Thấp, hóa. thấp ắt kiên cả Hóa. Hóa thì chưa ắt kiên những thứ khác. Vì chỉ từ ở vô mà bỗng nhiên Hữu. Đây tức là trước trước ắt đủ cả sau sau. Sau sau chẳng đủ cả trước trước. Cho nên lấy đây làm thứ tự. “Nếu dựa theo tâm thì từ gốc đến ngọn nên lấy đây làm thứ tự. “Nếu dựa theo tâm thì từ gốc đến ngọn…”: nghóa là chúng sanh bổn Nhân khởi nghiệp, nghiệp thức tức là căn gốc, vô minh hòa hợp với Bổn tính, khi năng và Sở chưa tách ra thì hổn độn như Noãn (trứng), Noãn tức là vỏ trứng. Cho nên Dược Sư Kinh nói: “Phá trứng vô minh, cạn sông phiền não, vô minh phát nghiệp, uẩn tại tàng Thức, làm thai thọ sanh là Thấp, khi sanh từ không mà bỗng có là Hóa, do bởi những nghóa này, cho nên lấy đây làm thứ tự. “Y chỉ sai biệt”: Y chỉ tức là chúng sanh thân, thân đủ cả y chỉ, nghóa y chỉ khác nhau, cho nên nói là “sai biệt”. Vì vậy mà sớ tiếp đó nói “Hữu sắc, vô sắc…” Hữu sắc tức là lấy sắc làm thân vô sắc tức là lấy bốn uẩn làm thân. Lại nữa, “Sắc giới có Tứ thiền”… “Vô sắc có tứ không”, vì khác nhau về phẩm loại như vậy cho nên nói là “Y chỉ sai biệt”. Hỏi: Như có Kinh nói: Khi Phật Niết-bàn, vô sắc giới Thiên, lệ rơi như mưa. Đã có lệ rơi, sao gọi vô sắc? Đáp: Gọi là vô sắc là không có nghiệp quả sắc, chứ chẳng phải không có Định quả sắc, cho nên chẳng trái. “Cảnh giới Sai biệt”: Tuy nói Cảnh giới, ý nói là bốn xứ; không,… ”Hai xứ; không xứ và thức xứ” là cõi trời thứ nhất và cõi trời thứ hai của vô sắc giới. “Vô Sở Hữu Xứ” là cõi trời thứ ba. “Phi hữu thông phi vô tưởng” là cõi trời thứ tư. Không có thô tưởng, có tế tướng, là đảnh của ba Hữu, cho nên gọi là “hữu đảnh”. Hỏi: Hai giới dưới đều có sắc. Vì sao chỉ nói Tứ Thiền, cho đó là sắc giới. Lại nữa sắc giới cùng có một Thiên (cõi trời) đều là vô tưởng, sao lại chỉ cho vô sở Hữu xứ là vô tưởng? Đáp: Tam giới xét chung, chẳng ngoài năm sự đó là Dục, Sắc, Hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tưởng phi vô tưởng. Mà phi hữu vô tưởng thì cục hạn ở một cõi trời Hữu Đảnh, một thiện sắc giới, tuy danh là vô tưởng nhưng đã từ đa phần gọi chung là sắc giới cho nên chỉ cho vô sở hữu vi là vô tưởng, ba sự còn lại, từ hai xứ không và thức trở xuống cho đến Dục giới càng nhìn nhau, Hữu và vô, rộng và hẹp khác nhau, nghóa là Dục giới có đủ cả ba sự, sắc giới thì không có Dục. Vô sắc giới thì chỉ có tưởng, không có sắc, không có Dục, cho nên đặt tên là Hữu tưởng, sắc giới tuy có tưởng, vì e lạm với tên của giới trên, nên đặt tên là Hữu sắc. Dục giới tuy kiêm cả sắc, tưởng, những giới trên đã chiếm hai tên này, vì để tách khác kia nên chỉ gọi là Dục giới. Dưới dưới ắt đủ cả trên trên chẳng kiêm cả dưới dưới. Cho nên gốc đạt tên là ở tại đó vậy. Như có ba người; một người hiển kinh, luật, luận một người hiểu kinh, luật. Một người chỉ hiểu luật, để phân biệt mà đặt tên… có thể biết được vậy. Lại nữa, ở Dục giới, ba dục năm diệu, dục cảnh thắng. Sắc giới thì tế diệu sắc thắng. Vô sắc giới thì tưởng tâm thắng. Do vậy, dục chỉ ở Dục giới. Sắc thì thông cả hai giới. Tưởng thì khắp cả ba giới. Vô tưởng thì thông hai giới trên. Phi hữu tưởng phi vô tưởng thì chỉ ở một giới trên. Đây thì khác với giải thích của công Đức Thí. Trong phần hai: Kinh chữ “Ngã” tức là Bồ-tát phát Bồ-đề tâm tự xưng. Nay Phật kể vị kia. “Niết-bàn”. Bản dịch đời Tần dịch là Diệt Độ. Nay kinh trước là tiếng phạm, sau là tiếng đường, cho nên nói rằng: “Như Diệt độ chi”. Nếu âm phạm đầy đủ thì phải gọi là Ma ha Ba Lê Ni Phược Nam, tiếng Hán gọi là Đại Viên tịch. Nay trong kinh luận đa phần nói là Niết-bàn. Mà theo Duy Thức Luận nói: Có bốn loại Niết- bàn: thân. Tự tính thanh tịnh Niết-bàn, phàm và Thánh đồng có. Hữu Dư Y Niết-bàn: tức là ra khỏi phiền não chướng, có khổ y Vô Dư y Niết-bàn: Thận xuất khỏi sinh tử khổ, không có y, mà Tiểu Thừa cho tro thân Diệt trí là Vô Dư. Vô Dư có ba loại: a. Phiền não Dư; b. Nghiệp Dư; c. Giới Báo Dư. Đại thừa thì cho rằng cứu cánh Bảo Sở là Vô Dư. Cho nên trí Luận nói: Tứ Trú Địa, phiền não tận, dịch là Hữu Dư y. Ngũ trú Địa, phiền não tận, danh là Vô Dư Y. Vô trú xứ Niết-bàn: Bi và trí cùng kiêm cả nhau, chẳng trú sinh tử, Niết-bàn. Sớ: “Tức là vô…”: tức là trong bốn loại Vô Dư của Đại thừa, đó là Vô trú xứ Niết-bàn, nghóa là bất trú Bồ-tát biến dị sanh tử, bất trú xứ Niết-bàn, nghóa là Bất trú Bồ-tát Biến dị sanh tử, bất trú Nhị thừa tro thân Niết-bàn, tức Chơn vô trú xứ, gọi đó là Vô Dư. Nếu Vô Dư của Tiểu Thừa thì cũng như diệt giảm của hữu tình, chẳng có gì khác. Nay khác với kia, cho nên nói là “Bất cộng Nhị Thừa”. Bất cộng tức là chẳng phải Niết-bàn loại Niết-bàn thứ ba trong bốn loại kia, tức là ngôn thì đồng mà ý thì khác. Như Pháp Hoa kinh nói: Nếu khi được làm Phật, có đủ ba mươi hai tướng, bấy giờ mới có thể gọi là vónh tận diệt Vô Dư. Đây là Hai chướng đều tận, hai tử vónh ly. “Đệ nhất” là kết, quy về ý chỉ của kệ. Còn giải thích tên của đề mục (Đệ nhất tâm), ý nói nếu chẳng phải là Vô Du của vô trú xứ thì sao thể Di Dặc là chỉ cho Đệ Nhất Tâm? Từ “Ngài Vô Trướng…”: hai câu đầu là nạn vấn. Ý nói tất cả chúng sanh, năm tính sai biệt thì vì sao đều nhập Vô Dư Niết-bàn. Ba phần rưởi chúng sanh chẳng đắc thành Phật, cho nên mói là “Bất khả đắc nghóa”. Câu “Sanh sở nhiếp” là đáp. Đây là ngài Vô Trướng lập lượng, thành lập đều khả độ, nên lập lượng rằng: Ba phần rưởi chúng sanh là Hữu pháp Định, đều thành Phật, cho nên làm Tông. Nhân vậy nói là sanh tử nhiếp, đồng với Dụ một phần rưởi chúng sanh, ý nói Niết- bàn kinh nói hể là Hữu tâm định đều sẽ làm Phật. Viên giác kinh nói: Hữu Tính, vô tính đều thành Phật đạo, đây tức là khả đắc nghóa, sao lại nói là bất đắc. Câu “Lại nói, Noản, thấp…”: Là nên nạn Xứ khó: Noản, Thấp là súc sanh khó. Vô tưởng, hữu Đảnh, tức là Trường Thọ Thiên khó. Tuy nên ra hai xứ, ý kiêm cả tám nạn xứ. Tám Nạn xứ là Tam Đề, Bắc châu, Trường Thọ Thiên, Phật tiền, Phật hậu, Thế Trí, Biện thông, vô căn, ý nói Nạn xứ thì chẳng thể Độ, sao lại đều nhập? Từ câu “có ba nhân duyên…” là đáp. “Nạn xứ đợi thời”. Đây cũng khiến cho thành cái chủng. Ý nói chúng sanh ở Nạn Xứ, chẳng thể thường định, đến phi nạn xứ mà độ thoát họ. Nếu đắc thành chủng, giữa chậm hay mau, ắt cần thành thục. Vì phát đại tâm, cho nên hợp không có sót. “Phi Nạn Xứ”, tuy chưa độ nhưng lại làm cho thành thục. Đã thành thục rồi thì có thể biết vậy. Đây hơi giống với nghóa của Hộ niệm và phí chúc ở phần trên. Sớ trong phần ba. Phần một Tính Không: Chúng sanh duyên sinh, vì duyên sinh là Vô Tính (không có tính) cho nên tức là không. “Đồng Thể”: vì đồng một tính Chơn như, cho nên Khởi Tín Luận nói: Biết như thật tất cả chúng sanh cùng với Thân mình là Chơn Như, bình đẳng không có sai khác, từ câu “cho nên luận nói…” là dẫn chứng lời này còn ngược. Nêu nói là Chúng sanh diệt độ, không khác tự thân mình, thà ở tự thân mình mà khởi tha tưởng. “Bổn Tịch”: là vì tướng vốn tự nó tận diệt, chẳng cần đợi diệt nữa. Tịnh Danh nói: tất cả chúng sanh, tức tướng tịch diệt, chẳng còn diệt thêm nữa. Hỏi: Đây có khác gì với tính không? Đáp: Trước chỉ là Tức không. Đây thì bổn lai thành Phật, (vốn đã thành Phật). Thành Phật tức là nhập Niết-bàn, cho nên nói là “Bổn tịch”. Trước cạn sau sâu, có thể biết vậy. “Pháp giới”: Nhất Chơn pháp giới, bình đẳng không có sai khác. Trong ấy, sao lại thấy tướng mình và người? Cho nên kệ nói: “Bình đẳng Chơn pháp giới, Phật chẳng độ chúng sanh”. Năm nghóa trên là văn của Đại Vân, mà trong đó. Nghóa một và nghóa ba là dựa theo sở. Nghóa hai là dựa theo Năng Sở, nghóa bốn chỉ dựa theo Năng. Nghóa năm là bao quát cả gốc ngọn. Đại để ý nói: Nếu thấy chúng sanh có để độ thì sẽ sinh ra mệt mỏi chẳng thể thường độ: Nếu thấy chúng sanh có để độ thì sẽ sinh ra mệt mỏi chẳng thể thường độ, ngược lại tức là thường. Lại nữa, độ hay bất độ, tâm cũng không hai, gọi đó là Thường, cho nên Kinh Kim Cang tam Muội nói: Nếu hóa chúng sanh, chẳng sinh có hóa, chẳng sinh không có hóa thì Hóa kia là đại vậy. Phần bốn Trong kinh, câu “Hà dó cố” là trưng hỏi. Ý nói: Nếu thấy có chúng sanh để độ thì điều này có lỗi gì? Tiếp đó thông rằng: “Nếu Bồ-tát có tướng Ngã,.. tức phi Bồ-tát”. Đây là tỏ ngược. Ý nói: là Chơn Bồ-tát,,.. tức phi Bồ-tát”. Đây là tỏ ngược. Ý nói: Là Chơn Bồ-tát ắt không có là nghóa Năng độ, há lại còn thấy có chúng sanh được diệt độ sao? Câu “Lìa xa y chỉ, thân thấy chúng sanh? Y chỉ tức là tên gọi khác của Thân Kiến, còn gòi là Tương Tục, tiếng phạm là Tát-ca-da, tiếng Hán gọi là Thân kiến, cũng ngang bằng vơi Ngã, Nhơn, thọ giả. Ở đây gọi là Thân kiến, vì y chỉ thân mà khởi kiến này, cho nên nói: “Y chỉ thân, thấy tướng chúng sanh…”. Lại nữa, thân kiến làm gốc, các kiến khác nương vào đó mà sanh ra, nay đều lìa xa, cho nên nói là “Bình đẳng tướng”. “Đã đoạn…” bên trong Vô Ngã, tức là vô tự tướng, vô tự tướng tức là Bình đẳng. Bình đẳng tức là nghóa không. “Tín giải…”; vì mình mới người. Do bên trong vô tự tướng, mà đắc bên ngoài vô tha tướng, bên trong có, cho nên tự mình là nguyên do, đã không có tướng mình và người thì tự và tha bình đẳng. Chí Công nói: Vì thân ta không, nên chư pháp không. Ngàn phẩm vạn loại thảy đều đồng nhau. “Hiển thị Hàng phục…” là dựa theo luận của Vô Trướng: “Quảng đại đệ nhất, đương trú thướng tâm, đương tu Bất Đảo, đương Hàng an trú”. Trong một đoạn có đủ ba nghóa. Nay văn đoạn này, chính là nghóa hàng, cho nên nói “Hiển thị Hàng phục…” “Bất chuyển” chuyển tức là nghóa của sanh khởi. Ý nói: Ngã kiến,… chẳng sanh khởi. Ngã chẳng sanh khởi, chính là nghóa của hàng tâm. Bản Tín có thể sinh ra Hậu Đắc trí, cho nên gọi là trí Mẫu, tức là căn Bản Trí có thể sinh ra hậu Đắc Trí, cho nên gọi tên là Trí Mẫu. Vì Căn Bản Trí tuy Nội chứng Chơn Lý mà không có cái tâm năng chứng. Nay hậu đắc trí tuy ngoại độ chúng sanh mà không có cí niệm năng độ, cho nên nói là “Như Nhó Viên”. Dụng tâm như vậy, gọi là Bất Điên Đảo tâm. Ngược lại tức là Điên Đảo. Phần hai là đáp về tu hành, có năm phần: Nêu chung: Sớ “Ư pháp” nên chung. Nghóa là sắc, thanh,… lục trần, gọi chung là pháp, cho nên bản dịch đời Ngụy nói: “Bất trú ở Sự”. “Bồ-tát vạn Hạnh”: Đó là tự lợi lợi tha, Sự hành lý hành hành, những hành như vậy, vô lượng vô biên, nay nói “Vạn” là nên con số lớn. “Gọi chung Bố thí” Đó là Độ thứ nhất tức là Tư Sanh Thí. Độ thứ hai, thứ ba tức là vô úy Thí. Độ thứ tư, thứ năm, thứ sáu đều gọi là pháp thí. “Kệ nói…”: Là dẫn kệ giải thích. Trong đó hai câu đầu là tiêu, câu thứ ba là phối, câu thứ tư là kết. “Nhất nhị tam”: nghóa là một nhiếp một, hai nhiếp hai, ba nhiếp ba. Đây là Ba thí làm Năng nhiếp, sáu đô làm sở nhiếp. “Ngài Vô Trướng…” Là nguyên do nhiếp. Hai nghóa trước thì hiển rõ, nghóa pháp Thí thì ẩn, cho nên Sớ nói rõ vậy, mà phải lược tỏ: “Tư sinh”, tư tức la ngoại tài. “Vô úy” là do trì giới, Nhẫn nhục, nên không có tâm hại vật, dù có oan gia, cũng chẳng báo thù. “Nếu không có tinh tiến…” Khởi Tín luận nói: Với các Thiên Sự, tâm chẳng khác nhóm chán nản thối lùi, lập chí kiên cường, xa lìa khiếp nhược yếu đuối. “Nếu không có Thiền Định”. Văn sau nói: “Làm theo nào vì người diễn thuyết? Bất thủ ở tướng, như như bất động”. Bất động tức là nghóa của vô nhiễm. Tâm so nghó liền sai lệch, đã gọi là Nhiễm, huống nữa là ham được tin kính, danh lợi, há lại chẳng nhiễm. “Nếu không có Trí Huệ”; thì nói lửa là ẩm thấp, nước là nóng, đất thì động, gió thì kiên cứng, gọi đó là Diên đảo. Nếu thuyết sự như sự, thuyết lý như lý,thì chẳng phải điên đảo. Do vậy khai mởi một thí ra làm ba thí, khai mởi ba thí ra thành sáu độ, khai sáu độ ra thành vạn hạnh, vạn hạnh chẳng ra ngoài sáu độ, sáu độ chẳng ra ngoài ba thí, ba thí chẳng ngoài một loại Đàn Na (Bố thí). Do vậy trong đây chỉ nói Bố thí. Giải thích riêng. Sớ chỉ: “Ba sự”: Sáu cảnh tuy khác nhau, gom lại chỉ có ba dự. “Đó là tự thân…” là liệt kê ra. “Kệ nói:…” là giải thích: Hai câu đầu tiên. “tư bất trước” chữ tư, nghóa là này đây. Chẳng để trước dính ba sự này. Hai câu tiếp là giải thích. “Tồn kỷ bất thí”: là giải thích về tự thân mình ở trước. Vì trước chính tự thân mình, chẳng hành Bố Thí! “Cầu dị sự”: giải thích về báo ân và quả báo ở trước. Đó chẳng phải là chánh hạnh mà Bồ-tát hành, cho nên nói là “Dị sự” (sự việc khác). Báo ân là đáp trả, báo đáp ân thời quá khứ. Quả báo là mong ngóng quả báo thời vị lại. Nghóa của câu “Tự thân chẳng thí” là đang thời hiện tại. Chữ “Hộ” là phòng hộ. Ý bảo phải phòng hộ ở trong ba sự đời này thảy đều chẳng trước dính, tức là Bố thí mà chẳng trú trước dính trú sắc, thanh… Sớ: Từ câu “Trước chỉ…”: ý nói, ba sự trên, tóm thu hết quá khứ, vị lai. Chẳng phương hại Hữu, chẳng dính tự thân, chẳng dính quả báo, chẳng vì báo ân mà hành thí. Cũng chẳng phải là Vô trú. Từ câu “nay thì…”: là hiển rõ ý kinh này. Tâm tức là Năng duyên, cảnh tức là sở duyên. Hữu tức là cả hai tâm và cảnh này “Hữu”. “Không”: tức là lìa những tướng của tâm và cảnh. Hỏi: Trú Cảnh thì trái với lý, ly tâm thì có gì sai trái? Đáp: Không và Hữu, hai pháp đối đải nhau mà đặt tên. Hữu và không, cả hai đều là tướng, rơi vào tướng nào cũng chẳng phải là Thường tâm. Do vậy, ở đây bảo tất cả đều khiển trừ. “Vi tế rủ sạch”; Chẳng kể tâm hay cảnh, không hay Hữu, khởi tâm động niệm thì trái với pháp Thể. Do vậy mà tất cả rủ sạch, trừ sạch, mãi đến khi cần Thí, tâm dó bình đẳng, chẳng khởi phân biệt, mới thành Vô trú. Hỏi: Nếu vậy, sinh tâm động niệm thì chẳng phải vô trú, nhưng chúng sanh tâm hành, nhậm vận chẳng thường, nếu đợi tương ưng, rốt cuộc vô phần, nếu một mực chẳng thí thì lại chẳng thành Nhân Phật, nếu hành Bố thí thì lại rơi vào trú tướng, tiếng hay thối đều chẳng được, thế thì sự ấy ra sao? Đáp: Muốn cầu Bồ-đề, ắt cần hành thí, khi mới hành thí, khó mà bỗng nhiên tương ưng, cần phải dụng tâm, mới thành tùy thuận nhậm vận khởi niệm, tác ý xa đấy. Dụng tâm nhiều thời, tự nhiên nhậm vận, đắc hợp với Lý, từ vi đến trước, tan dần dần lần lượt tương ưng vậy, như Khởi Tín nói: Chơn Như ly ngôn thuyết, danh tự, tâm duyên chẳng đạt đến. Bèn hỏi thêm rằng: Nếu nghóa như vậy, thì chư chúng sanh, làm sao tùy thuận, mà đắc nhập được? Cho nên đáp rằng: Nếu biết tất cả pháp, tuy niệm cũng không có năng niệm để niệm, đó gọi là Tùy thuận. Nếu ly ở niệm, gọi là đắc nhập…. Từ “Kệ nói…” là dẫn kệ để chứng cho nghóa trên. Cho nên biết tâm và cảnh, không và Hư, đều là tướng. Từ “Luận nói…”; là nói theo ly hai chấp, dùng ba luân để giải thích nghóa ly tướng trên. Vật thí là pháp, người thí, người nhận là Nhơn (con người), nay đều chẳng thấy, tức là ly hai chấp, gọi đó là Nhị không. Hai không đều ly, tức là Thể của ba luân đều không “Luân”: là dụ, như bánh xe, bên trong rổng, mới có thể vận chuyển được. Lão Tử nói: “Nhờ ở cái Vô (không có) của nó mà có cái dụng của xe”. Ba sự Thể không, chiêu được Phật quả. Ba Thể thể thật, ắt đọa thế gian. Đây tức là lấy bánh xe vô tướng để đập tan tướng ba Hữu, vượt ra ngoài Thế gian. Từ “Cô trước…”: chỉ là chướng thành nghóa trên. “Tướng” tức là cảnh. “Tưởng” tức là tâm. Từ “có người cho rằng…”: là phê phán sự phân chia văn đoạn sai lầm, như văn. Hiểm ích: Kinh ở văn này cũng đoạn riêng một nghi, nghi rằng: Vô trú thì không có phước đức? Hai mươi bảy nghi của quyển sớ Đại Vân, từ đây là nghi thứ nhất “vô trú có phước hay không?”. Nay sớ này chẳng cho đó là số nghi của đoạn chính. Vì sao? Vì đó là nghi một phần trong trả lởi câu hỏi. Cho nên luận nói: “Đắc hàng phục tâm”. Là vì tiếp đó nói về “Bố thí lợi ích, bất trú tướng” là nghóa của Thí thành tựu tiếp sau nữa mới bắt đầu. Văn thế nói “từ đây về sau, tát cả Tu Đa la thị hiện đoạn dứt tâm sanh nghi”. Sớ chia hai phần: 1. Giải thích ý văn: Từ câu “Nếu lìa…” là giải thích ý trưng hỏi: bởi vì bản đời ngụy dịch nói: “Bất trú tướng tưởng”. Bèn nghi rằng: Nếu còn tồn tưởng thí tức là có Nhân Thí, vì nhờ có Nhân Thí, mới có quả thí. Đã không có tưởng thí thì không có Nhân thí, nhân còn chẳng thành thì quả làm sao lập được? Cũng như cho vay nợ thì cần phải ghi nhớ, nếu quên thì ai trả. Nghi này đồng với hành thí trong tâm vô ký, trong pháp cũng vậy. “Bất khả tư lượng”: Vì là phước của vô tướng Bố thí, cho nên bất khả tư lượng. Trong Dụ Đông Phương là đứng đầu trong các phương. Do vậy mà nói trước. Nam, Bắc, Tây phương, như thứ tự mà ví thuyết. Pháp dụ đều đồng là Bất khả tư lượng. Ý nói: Chẳng phải nói rằng không có, rổng không. Không này là tương đối, nghóa ở tại trong Hợp. “Hư không…”: là phần hai, nói riêng về ý chỉ của Dụ. “Khắp tất cả xứ”: nghóa là trong sắc, phi sắc đều có “Không”. “Nghóa là trong trú…”: là pháp hợp. Vì trong trú và bất trú, đều có phước. nghóa là: gần thì cảm được phước trong Thập Vương Trú. Xa thì chiêu được phước của Bồ-đề bất trú. Lại nữa, gần thì được phước trong sắc thân trú, xa thì được phước pháp thân bất trú. Không tuy vô tướng nhưng chẳng phải nói là rổng không. Phước tuy bất trú nhưng chẳng phải nghóa là không có phước. “Hai là khoan quảng”: Tức là ngang khắp mười phương, “Cao” tức là dọc cùng ba tế. “Đại”, tức là gồm chung cả ngang dọc, những nghóa như trên, pháp dụ đều đại. “Thù Thắng”: Dụ thì ba tai chẳng hoại. Pháp thì bốn tướng chẳng dời. “Ba là vô tận”: Chỉ một nghóa mà thôi đó là cứu cánh chẳng cùng tận. Mà thế giới thì có tận, hư không thì vô cùng. Ba loại nghóa thường, chính tại đây vậy. Đại để ý nói phước của Vô trú, đầy khắp tất cả, phước của vô trú, cứu cánh chẳng cùng. Giống như Hư không, lường suy chẳng nổi. Xưng là pháp giới là vì được như thế, nghóa lợi rõ ràng, còn bị gì Hoặc. Kinh “Đản ưng như sở giáo trú”: Hỏi: Phần trên thì bảo là bất trú, đây lại bảo trú. Trú và bất trú, cái nào đúng, cái nào sai? Đáp: trước là bảo bất trú dụng tam. Đây là bảo trú ở bất trú. Bất trú mà trú, tức là trú Chơn không, cùng như con chim bất trú không (bầu trời) nhưng lại có thể trú không. Nếu trú ở không, tức là bất trú không. Cho nên bản ngụy dịch nói: “Chỉ nên như vậy hành ở Bố thí”. Theo đó trả lời ba câu hỏi xong, liền hợp với cuối kinh, nhập vào phần Lưu Thông. Duyên theo không sanh (Tu Bồ-đề) và ở chỗ Như Lai trả lời mà sinh khởi ra nghi tình, cho nên là Đoạn. Đoạn xong rồi, lại khởi nữa, triển chuyển nhiều lên, chấp hết, nghi trừ, cuối cùng có hai mươi bảy đoạn văn. Do vậy mà còn có những phần văn kinh tiếp theo. Sớ hai: Lần Lượt Đoạn Nghi: Văn có hai phần: “Lần lượt đoạn nghi”: Là lần theo dấu vết những câu văn trước để đoạn dưt 1nghi ình kia. Trong kinh tuy chẳng hiểu rõ có những từ ngữ nghi ngờ nhưng tiềm phục ở bên trong văn. Cho nên chỉ nói đoạn mà chẳng nói khởi. Trong tụng của ngài Di Lặc cũng giống ở đây, cho nên kệ nói: “trong điều phục sự kia, lìa xa thủ tâm tướng, và đoạn nhiều loại nhi, vừa ngừa sinh thần tâm”. “Thị Hiện” có hai ý: Không sanh (Tu Bồ-đề) giả bày lời nói. Chỉ bày, hiển hiện. Đệ Nhất: (nghi tình thứ nhất). Sớ đầu tiên là nêu chương mục. Từ câu “Vì để cầu Phật quả…”: là chỉ ra chỗ khởi nghi. Đây là đến từ “Bố thí bất trú tướng”. Vì nghe phần trước nói bất trú tướng của không và Hữu trong ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) mới gọi là Chơn Bố thí. Bèn nghi rằng: hể hành Bố thí, đều để cầu Phật, đã có sở cầu, sao lại vô trú? Từ câu “Lại nữa, nếu bất trú…”: Đây là nạn vấn. Giả sử Nhân thành Vô trú, đây cũng phi lý. Tiếp đó nói “Nhân và quả chẳng cùng loại”: Bởi vì Nhân và quả ắt phải cùng loại với nhau. Hữu thì phải đều Hữu, không thì phải đều không. Nhiễm và Tịnh đều vậy. Nếu đã sắc tướng là quả thì sao lại lấy Vo trú làm Nhân! Như thế là Nhân thì thuộc phạm trù không, quả thì thuộc phạm trù Hữu, lý e chẳng vậy nay đem quả mà nghiệm Nhân, Nhân hợp với Hữu trú, Phật thuyết Vô Trú là dối lừa tôi sao? Nêu ra nhân của mối nghi. Kinh ý nói: Ở trong ý ông, có thể dùng thân ba mươi tướng để thấy pháp thân Như Lai, hay là chẳng thể? Tướng này là Nhân của khởi nghi. Cho nên nêu ra để hỏi. Từ “Vốn chỉ…”: Là giải thích Nhân khởi nghi. Vì người Nhị Thừa chỉ thủ tướng cao sáu trượng, cho đó là Chơn Phật. Vì đã cho tướng đó là quả, nên chẳng tin Nhân của vô trú. Vì Nhân và quả chẳng cùng loại với nhau. Phật nay nêu quả để hỏi, khiến biết biển quả là vô tướng thì tự nhiên ở Nhân, sẽ chẳng Mê hoặc Vô trú. Ngăn ngừa tướng mạo trả lời: Kinh ý: Không sanh (Tu Bồ-đề) thấy Phật nêu tướng để hỏi, liền biết chẳng thể cầu bằng tướng. Cho nên đáp là “không thế”. Từ câu “Vì ngăn ngừa..”: Ý e chúng sanh đời sau chẳng thông đạt lý này, thủ tướng cho là Chơn. Vì vậy mà ở đây ngăn ngừa mê kiến. Theo nghóa thì chính là đang đoạn hiện hành của không sanh (Tu Bồ- đề), ngăn ngừa chủng tử vị lai. Từ “Luận nói:…”: là dẫn chứng. Hỏi: Trong kinh thì nói “Thấy”. Luận giải thích thì nói “thành tựu”, lúc lại hợp với ý Phật hay sao? Đáp: Đã tác cái kiến giải này thì ắt sẽ làm ra chứng này, cho nên không trái nhau. “Khác với Hữu vi”: Kinh trưng hỏi ý rằng: Vì nghóa gì mà chẳng dùng ba mươi hai tướng để thấy pháp thân Như Lai? Giải thích ý rằng: Vì Như Lai thuyết thân tướng ba mươi hai tướng, tức chẳng phải tướng của pháp thân. Chữ “Tức” giống như chữ “Thị” (là), chữ “Phi” giống như chữ “Bất”, bổn văn giống như đảo, chánh ngôn là “bất, thị”. Từ câu “Tướng là…”: Nghóa là ba mươi hai tướng đều là những hình ảnh hiển hiện lên trên gương Trí, đã rơi vào con số Hữu vi, cho nên sẽ bị bốn tướng làm dời đổi, hơn nữa khi đối cơ, có lúc nên Hữu, có khi nên vô chẳng nhất định thì sao lại cho đó là pháp thân. Cho nên nói “tướng là Hữu vi…”. Đây là giải thích câu “Như Lai thuyết thân tướng” trong kinh. Câu “Phật thể khác với thứ đó”: Pháp thân Phật thể khác với thứ hữu vi đó. Cho nên nói: “Ba mươi hai tướng” chẳng phải là tướng pháp thân. Đây là giải thích câu “Tức phi thân tướng”. Từ “Kệ nói…” là dẫn chứng. Bài kệ đầy đủ là “Phân biệt Hữu vi thể, phòng kia thành tựu đắc, vì ba tướng khác thể, lìa lìa là Như Lai”. Trong kệ này, hai câu đầu, nghóa đúng với đoạn văn trước. Câu sau cùng đúng vào phần sau. Câu thứ ba phù hợp với đoạn văn này. Cho nên chỉ lấy câu này đề làm chứng. Từ “Phật Thể…”; là chuyển qua giải thích văn kệ. Tức là kinh nói “tức phi thân tướng”. Từ “Hai tướng Trụ và Dị…” là giải thích nghóa của ba tướng. Vì phần trước nêu ra bốn tướng, kệ này chỉ có ba tướng. Vì sinh là ở tại thời quá khứ, Diệt là thuộc thời vị lai, hai tướng Trụ và Dị đồng xử ở thời hiện tại. Lại nữa, hai tướng nỳ chẳng lìa khỏi nhau. Tức trụ mà Dị, tức Dị mà trụ. Vì đồng một thời, cho nên hợp lại làm một, e lạm với Thường trụ, nên chỉ nêu ra Dị. Từ “nếu chia nhỏ ra”: là dựa theo nghóa mà chia nhỏ ra tức thành là bốn tướng. Đây là dẫn Duy Thức để giải thích về tướng. Nghóa là từ không có mà có, gọi là sinh. Từ có mà không có, gọi là Diệt. Trước và sau biến đổi, gọi đó là Dị, tạm thời tương tục, gọi đó là Trụ. Mà pháp thân Như Lai chẳng phải là tiền tế sanh, chẳng phải là Hậu tế diệt, không có biến dị, chẳng thể phá hoại, cho nên “khác với đó”. Ấn Vô tướng: Kinh ý nói: Bởi tất cả tướng đều từ Vọng niệm mà sinh. Do vậy, tướng Phật cũng là hư vọng. Nếu phân biệt chẳng khởi thì tướng tự nó chẳng sinh, liền thấy phi tướng. Cú tướng đã vong, duy là giác thể, đó gọi là thấy Như Lai. Do vậy thì biết, Phật thân vô tướng. Sớ: Có hai phần: Giải thích hai câu đầu: có hai phần: Chánh giải thích: “Chẳng những (phi Đản)”, là chẳng riêng, chẳng chỉ. “Phàm”: là chúng sanh trong lục đạo. “Thánh”: tức là tam thừa Hiền Thánh. “Y”: là có tịnh có uế. “Chánh”: tức là phàm thánh. Vì để đối y Báo, cho nên nhắc lại, chư pháp tuy nhiều, chẳng ra ngoài bốn pháp này, tuy nên ra bốn pháp nhưng bao quát tất cả. Đây là giải thích trong câu kinh “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, e người ta nghe nói “thân tướng phi tướng”, rồi cho rằng duy chỉ Phật thân. Nay nói chỗ phàm là để ngăn chặn cái thấy cục bộ. Từ “Vì do từ vọng niệm…”: là giải thích nguyên do. Phàm và Thánh, nhiễm và tịnh, hơn và kém tuy khác nhau, đều từ niệm sanh, đều là hư vọng. Niệm không có tự tướng, chẳng lìa giác tính. Niệm còn vô tính, huống nữa là những tướng mà nó hiện ra lại thật có sao? Niệm là sở y, tướng là Năng y, Sở y còn hư, thì năng y làm sao mà có? Nó cũng giống như; da đã chẳng còn thì lông làm sao nương vào được? Từ “Khởi tín…” là phần hai. Dẫn chứng: trong đây, thuận hiểu và phản hiển, làm rõ hết nghóa. “Nhược kiến….”: là phần hai, giải thích hai câu sau, có hai phần: Chánh giải thích: “Ngăn chặn lìa sắc…”: vì sắc tức là lầm không, không tức là sắc, lìa khỏi sắc để cầu không, ấy là điều sai lầm lớn. Cho nên đây là ngăn chặn vậy. “Chẳng chỉ…”: lại e nghe “tướng tức phi tướng là Như Lai”. Sẽ cho rằng chỉ nói theo thân tướng Phật, ngoại trừ Phật thân ra, những tướng khác đều chẳng phải Như Lai, cho nên nói tất cả tướng đều vô. Đây là giải thích chữ “chư” trong kinh. Thí như trong gương hiện hình bóng của một người, kiên hiện cả những vật khác, chẳng chỉ hình người không xứ là gương mà những vật khác cũng đều là gương, hợp với pháp có thể hiểu được. “Như thị liểu”: tức tri kiến cùng với kiến duyên tựa hiện tiền cảnh, nguyên ngã giác minh. “Cho nên khởi Tín nói…”: là dẫn luận để giải thích. Có bốn phần: Dẫn Khởi tín: Đây có hai ý: a. Chứng chư tướng đều là nghóa của vô tướng, vì tướng nương theo niệm mà sinh, giác Thể còn ly ở niệm, há huống là ở tướng sao? b. Chứng chư tướng vô xứ, đều là nghóa của Như Lai. Tướng thuộc ly niệm, gọi đó là pháp thân, pháp thân đã đẳng với Hư không. Hư không đâu từng có tướng! Vô tướng bình đẳng, nhiếp tất cả tướng, tức là pháp thân. Văn sau nói: “Ly tất cả tướng, tức danh chư Phật”. Lại nói: “Như Lai: tức nghóa Như của chư pháp”. Cho nên nói “chẳng chỉ…”. “Triệu nói….”: là phần hai, dẫn triệu để chú giải. Đây tức gọi là thấy hành tướng của pháp thân Phật. E người nghe “chư tướng phi tướng, tức thấy Như Lai”, bèn mong Phật vô tướng hiện rõ ràng trước mắt, nếu như vậy thì có khác gì với tướng kia. Cho nên nói “Hành hợp…”. Trí ngầm với Lý, tâm hội với Thần, cho nên nói “Hành hợp”, “Giải thông”: là như trên kia, giải liễu tất cả tướng là phi tướng. Trước kia là Chơn kiến, đây là tựa kiến, cho nên khởi Tín Luận nói: Pháp thân không có bỉ thử, sắc tưởng đắp đổi cùng thấy nhau. “Kệ nói…”: là phần ba: dẫn bổn luận, tức là phần trước bài kệ thiếu sót. Đây y theo giải thích của Luận ngài Thế Thân. Từ “Cô Tước…” là phần bốn: dẫn ngài Vô Trướng. “Ly Biến Kế”, là chẳng chấp trước hư giả là Thật. Duy Thức nói: Viên Thành Thật với kia, thường viễn ly tiền tính. “Chơn sắc thân”: có hai ý: a. Cho Hư vọng là Hư vọng, chỉ như sự cả nó, bất tất phải thủ bất sinh bất diệt, cho đó là Chơn. Như cho Trăng dưới nước là trăng dưới nước, tuy tựa mà chẳng Chơn vậy, cho nên Hoa Nghiêm nói: Với thật thì thấy Chơn thật, chẳng thật thì thấy chẳng thật, cứ như vậy mà giải hiểu ba pháp tướng thì đó tức gọi là Phật. b. Nghóa là tướng tức vô tướng, đồng với pháp thân, nhiếp ngọn quy gốc, gọi đó là Chơn sắc thân, tức là Chơn thiện diệu sắc. Cho nên Niết-bàn nói: Ta nay thân này tức là Thường Thân Pháp Thân là Thân Kim Cang bất hoại. Hỏi: Trước thì manh (trừ) tướng, đây lại tồn tướng, tướng nào là trái? Đáp: Trước là hiểu pháp thân, cho nên nói tướng tức phi tướng. Nay tỏ sắc thân, cho nên nói vô tướng tức tướng. Bởi vì quả Phật ắt đủ hai thân, tướng Hai thân thì như song và nước. Trong hai luận, mỗi luận hiểu một nghóa: nói tựa tướng là phản, nói ý Thật tướng là phù. Bồ-tát xảo tiện, diệu tại chỗ này! Từ “Cho nên luận kia…”: Hai văn đều chứng hiển nghóa của sắc thân mà thôi. Mà trong mối nghi của đoạn này, từ vi đến trước nói về hai Thân Chơn và ứng, gồm có sáu lớp: Phật tướng phi tướng. Phật tướng phi, tức Như Lai. Tất cả tướng đều phi tướng. Tất cả tướng phi tướng đều Như Lai. Duy chỉ chứng tương ưng, không có Phật để thấy. Tướng của vô tướng là Chơn sắc thân. Mà sáu lớp này, trước trước thì cạn, sau sau chuyển sâu. Văn chẳng nhọc viết, Lý thì đốn hiện. Người đạt, cái thấy ắt cần phải cùng một lúc, không có trước sau. NGHI TÌNH THỨ HAI: Sớ: đầu tiên là nêu chương mục. Từ câu “Luận nói:…”: là chỉ chỗ khởi nghi. “Vô Trú…”: Đây là chỉ cho chánh đáp câu hỏi về trú, Tu, Hàng. “Vô tướng thấy Phật” tức là câu “Nếu thấy chư tướng phi tướng tức thấy Như Lai” ở phần trước. “Vị lai…”: là kết thành nghi. Ý nói: Nhân và Quả đã đều vô tướng, tức Nhân và Quả đều thâm sâu, như chính tôi (Tu Bồ-đề) thừa theo, mới có thể lỉnh ngộ, mạt thế độn căn, làm sao tín thọ, đã chẳng tín thọ, uổng thuyết ích gì? Trình lên mối nghi. Kinh hỏi ý rằng: Vị lai Mạt thế, có thể có chúng sanh nghe câu văn Nhân quả đều thâm sâu này mà sanh ra tâm Chơn thật tín hay không? Chữ “Phả” là Năng, có thể. Ý muốn tách biệt với niềm tin chung chung, cho nên nói là “Thật Tín”. Từ “Bản ngụy đời ngụy viết…”: là dẫn bản Ngụy để hiểu văn. Bản Ngụy có, kinh này thiếu. La Thập xảo dịch, diệu tại ảnh lược mà thôi, cũng có thể văn này là dựa chung cả hiện tại và vị lai để hỏi. Vì thời Phật còn tại thế cũng có người khó tin thâm pháp này, như chư Tiểu Thừa và ngoại đạo. Trên Hội Pháp Hoa, còn có những Thanh văn rút lui hỏi Hội, huống nữa nay là Bát-nhã. Đến phần sau, Phật đáp, chỉ nêu mạt thế để so với hiện tại. Mạt Thế còn có ( người tin) Phật thế lại không có (người tin sao). Cho nên nay bản Tần dịch chẳng nói “Vị lai”. “Cú thuyên sai biệt”: Dùng danh, tên để thuyên tỏ tự tính chư pháp, như nói “Sắc” tức chọn phi tâm (chẳng phải tâm), nói tâm chọn phi sắc. Mà sắc và tâm đều có nhiều loại, mà chưa tỏ rõ đây là sắc nào, tâm nào? Cú có thể phân biệt Chơn tâm, vọng tâm, hình sắc, hiểu sắc,… cho nên nói :cú thuyên Sai biệt”. “Chương là giải cú”: Dùng cú tuy thuyên sai biệt nhưng chưa rộng tỏ nghóa lý, vì trong Chơn và vọng, hình và hiển, sắc và tâm bao hàm nhiều nghóa, chương có thể nói rõ về chúng, cho nên nói là giải cú, chữ “chương” giống như chữ “chươg (rõ rệt)”. Sớ văn thuận theo nghóa, cho nên giải thích trước chữ “cú”. Từ “Đại phẩm…”; là nói về tướng của Tín. Nghóa là thấy có những pháp; sắc, tâm,… đó là tin tất cả pháp. Nay dùng Bát-nhã chiếu chúng, tất cả những tướng phù trần, những tướng Huyển hóa, đương xứ xuất sinh, tùy xứ diệt tận, Huyễn vọng gọi là tướng, tính Chơn của chúng, gọi đó là Diệu giác minh thể. Đó là chẳng tin tất cả pháp, mới gọi là tin Bát-nhã vậy, cũng giống như Tịnh Nhãn chẳng thấy Không Hoa, nếu chấp Hoa không, thì làm sao tin được Tịnh Nhãn, hợp so với pháp thì có thể hiểu vậy. Để hiểu tỏ niềm tin. Kinh nói “Đừng nói như thế!”: Đó là lời trách, lời khuyên. sao lại nói đời sau chẳng có người tin nư sau khi Phật được, trong thời Mạt Thế, người có giới, định thật có tín tâm với thâm nghóa này, ti đây là thật. Từ “Kinh Đại tập nói…”: là tỏ rằng sau khi Phật diệt, có năm giai đoạn năm trăm năm, những năm trăm năm đầu thì vượt trội, những năm trăm năm sau thì kém cõi. “Giải thoát”: là chứng, tức là Thánh quả của Tam Thừa. “Thiền Định”: là hành,tức là những Định; Lậu; vô lậu, Đại thừa, Tiểu thừa, sự, lý… “Đa văn”: Là giải (hiểu). Tức là giải hiểu Đốn, Tiệm, Thiên, Viên không và Hữu… đây là giai đoạn năm trăm năm thứ ba, những giai đoạn trước thì có đủ những giai đoạn sau, sau chưa dứt ắt có đủ trước. “Tháp tự”: nghóa là chẳng cần đạt đến Đạo đa phần thích Hữu vi, dùng tư tài tiền bạc ngoài thân, tu nghiệp phước có thế gian. “Đấu Tránh”: Đây là tỏ về trong Phật pháp thường có tranh luận, như ở Tây Thiên, tông Đại thừa và tiểu thừa, chia sông uống nước. Trong Đại Thừa, Tính tông và tướng tây khác nhau. Trong Tiểu Thừa có hai mươi Bộ phái khác nhau, kết bè với nhau, tự cho mình đúng, bài bác người sai. Truyền đến phương này (Trung Hoa, Đông Thổ), chẳng khỏi như vậy, Hoặc Tướng hoặc Tính, Nam tông Bắc tông, Thiền Tông cho rằng, Tướng Tông là sai. Đó đây Bè đảng, chẳng chấp nhận nhau, gọi là “Đấu tránh”. “Đều như ví”: Là cần có những lời như “Năm trăm năm và lao cố”. Lao cố: là con người đa phần công kích nhau, quyết định chẳng bỏ. Nhưng ở đây chỉ nói theo sự tăng thắng, chứ chẳng phải là chẳng tương thông nhau, như sau khi Phật diệt, trong khoản hai trăm năm. Vua A Dục xây tháp, chẳng lẻ chỉ giới hạn ở giai đoạn thứ sao! Lại nữa, Bồ-tát Tạng Kinh nói: Năm trăm năm sau, vô lượng người thiện, tu thiền định, giải thoát, đa văn, há chỉ là giai đoạn một, hai, ha hay sao? Nay kinh này nói: “Năm trăm năm sau”, tức là thời đại này, tuy đang là thời đại đấu tránh, nhưng cũng có người có giới Đức. Mới biết năm loại lao cố; chỉ dựa theo sự thắng mà nói. Từ “Vốn nghi…”: Sớ dùng phần văn đoạn nghi, dựa theo chỗ trình nghi trước, đó là hiển rõ ngài không sanh, nghi vào thời Ác Thế, không có người tin. Trước là dẫn kinh dịch đời Ngụy để chứng cho nghóa này; Ác thế còn vậy, huống nữa là những thời đại khác! Từ “Giới Định…”: Là dựa theo Tam Học để giải thích về Định, đó là Thể của phước, cho nên đối với Định. “Chánh giải vô đảo”; Đã có chánh giải, ắt không đáo Hoặc. Vì giải hiển cái đạo lý của Nhân quả vô tướng, gọi đó là “Thật Tín”, tức là Huệ Học. “Ngài Vô Trướng nói:…”: là dẫn chứng. Kinh đời Ngụy nói: “Có người trì giới, tu phước đắc trí Huệ”. Di Lặc tụng nói: “thuyết nhân quả thâm nghóa, vào thời sau ác thế. Bất không cho co thật. Bồ-tát ba Đức đủ”. Ba Đức, tức là Tam Học. Nay văn chỉ lấy chương cú này “sanh ra Tín tâm, cho đó là Thật”, tức là Huệ. Nếu họ không có Huệ thì ai có thể cho đây là thật mà sanh Tín? “Thiểu dục…”: là trì giới thiểu dục, tu Định làm tỉnh lặng những loạn động. Tập Huệ thì đoạn dứt mê Hoặc, cho nên nói là “Đẳng”. Nói “Tăng thượng”: vì ba Học, giới, Định, Huệ làm tăng hơn thâm pháp trên. Trong kinh nói là Ba nghóa quyết định. Từ “Giới thì ra khỏi…”: là nói về ba tướng ích lợi. Người có giới thì chẳng rơi vào Địa ngục, Ngạ quỷ, súc sanh. Sanh ra ở cõi Tứ châu, Lục Dục Thiên. Giới kinh nói: Người muốn được sinh lên cõi trời, sanh trong cõi người, thường nên hộ giới đủ, đừng để bị hủy phạm. “Đinh xuất Lục Dục”: Vì Dục giới thì không có Định, người được Định thì sẽ sanh ra trong hai giới trên. Cho nên Viên giác kinh nói: “Bỏ ái lạc xả, trả về gốc Ái, liền hiện Hữu vi, tăng thêm thiện giả”. “Huệ xuất tam giới”: gốc của tam giới là do Nghiệp Hoặc, người có Trí Huệ thảy đều trừ bỏ. Nghiệp Hoặc đã trừ, tự nhiên Siêu việt. Cho nên tâm kinh nói: “Quán tự tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Mà Huệ cạn còn có thể xuất ra khỏi tam giới, huống chi là Bát-nhã thâm sâu của Đại thừa. Về phần Nhân của Tín. Kinh phản hiểu và thuận tỏ khác nhau, có thể biết vậy. “Duyên thắng”: Tuy làm lợi ích ta, đó là người bạn, đều là bạn vậy. Nhưng phàm chẳng bằng Thánh. Tiểu chẳng bằng Đại. Nhân chẳng bằng Quả. Một Phật tuy là quả nhưng chẳng bằng nhiều Phật. Đã nói “vô lượng ngàn vạn”. Cho nên nói là “chung thắng”. “Nhân thắng”: ba Độc tức là Tham sân si, chúng làm hại Hữu Tình, cho nên gọi chung là Độc, vì sinh khởi, tức là Bất thiện, lâu ngày chế phục, nên gọi là Thiện Căn. Cho nên Hoa Nghiêm nói: Ta xưa đã tạo các ác nghiệp, đều do vô thủy tham sân si. Duy Thức nói: Thiện: đó là ba căn, tín, tâm quý (hổ thẹn), vô tham. Có nghóa sanh trưởng nên gọi là căn. Thiện và bất thiện đều do từ ba căn này. Nếu chế phục được nó, mới gọi là “Nhân thắng”. Nhân và duyên đều thắng, mới Khởi Tín này. Do vậy mới biết, Thật Tín chẳng để được. Một niệm còn vậy, huống chi là mãi mãi tin, cho đến trì, thuyết? Về phần phước Đức, kinh ý nói rằng: “Người tin kinh, được vô lượng phước, Như Lai thảy đều biết, thấy người kia”. Câu “Như thị vô lượng phước”: là chỉ cho phước của tin kinh. Giống với phước của phần trên “Phước của Bố thí bất trú, mười phương hư không, chẳng thể tư lương”. Từ : Ngài Vô Trướng nói…”: đầu tiên là giải thích về Phật tri kiến. “Đi, Đứng…” tức là trong bốn oai nghi, mỗi oai nghi đều có những sở tác khác nhau. Cho nên chú thích nói: Bốn uẩn tức là Thọ, tưởng, hành, thức. Đó là tương ưng và bất tương ưng. Suy nghó chuyện gì, niệm nhớ chuyện gì, những niệm lấy, bỏ, buồn, vui đều gọi là tâm. Chú thích về sắc thân, tức là chỗ nương dựa của bốn uẩn. Nay dựa theo nghóa mà nói, nên gọi là “y chỉ”. tức là đi, đứng, nằm, ngồi, co, duổi, cúi, ngửa, sinh tâm khởi niệm, tất cả đều biết. Cử động làm gì, cũng đều thấy hết, bởi mất Trí của Phật, rộng lớn vô biên, y chánh ấy tại, há chẳng soi khắp! Pháp Hoa nói: Ta không tri chúng sanh hành đạo hay chẳng hành đạo. Vì tâm không có hình tướng, cho nên chỉ nói là Tri. Thân xác vật chất, đã là hình tướng, cho nên có thể nói là “Đã thấy người ấy”. Đức hạnh đã sẳn đủ, thiện căn đã thành mà Phật chẳng nhiếp trao, về lý ra sao? Cho nên nói “thử đẳng hiển thị…”. Mà Phật trí chẳng thiên lệch, xem chúng sanh như một. Có cảm thì ứng. Từ “Luận nói…”, hoặc hỏi: Thấy và biết, chỉ cần nói một thứ thì được rồi. Sao trong kinh lại dùng cả hai? Cho nên nói: “Nếu chẳng nói…”, vì phàm phu cũng có biết và thấy. Thấy thì thông với Nhục Nhãn (mắt thịt). Biết thì kiên cả tỉ lượng. Vì vậy mà có người chẳng biết chẳng thấy. Nay biết thấy của Phật chẳng giống như thế. Nghóa là ở chỗ thấy tức liền biết, chẳng như cái biết tỉ lượng ở chỗ biết tức liền thấy, chẳng như cái thấy của mắt thịt, tức là không có sự việc nào chẳng biết, không có việc nào chẳng thấy. Kinh nói cả hai là ý tại đây vậy. Cho nên Di Lặc tụng nói: “Phật phi kiến quả tri, nguyện trí lực hiện kiến”. “Đắc phước….” Là phần hai, giải thích về Đắc phước. Trước tiên là dẫn kinh. Từ “Luận nói:…”: là giải thích nghóa. “Năng sinh Nhân” là chánh tu phước nghiệp, tức là người tín, giải, trì, thuyết. “Tự thể quả”: tức là huân thành chủng tử tự thế, sau đó cảm đương quả. “Chánh khởi”: Khi làm phước, đang ở hiện hành. “Kia diệt”: nghóa là Hiện hành diệt rụng, chủng tử mới thành, uẩn chứa ở trong Thức, dùng cảm quả. “Đây nói chữ “Đắc….”: Văn này dùng một chữ “Đắc” để gộp cả Sanh và Thủ, nghóa là sinh đắc và Thủ đắc. Cái diệu của bản dịch đời Tần là ở tại đây vậy. Trong phần hai, phần nguyên do, sớ chó hai phần: Ý chia phần: Từ “Do từ không có…”, nghóa là do không có hai chấp; Ngã, pháp đó là nguyên do được nhiếp thọ. Phần: Đã đoạn thô chấp: ý kinh như Sớ. “Trưng Hỏi”: Văn có hai phần: phần đầu, giải thích văn kinh, ý hỏi có thể biết được. Trong phần giải thích: “Ngã”: Nghóa là chấp tự tổng tướng của ngũ uẩn là Ngã. “Nhơn”: là kế cho Ngã (ta) chết rồi, sanh lên cõi trời, chết ở cõi trời, sanh làm súc sanh. Tiếng phạm gọi là Bổ Đặc Già La. Tiếng Hán gọi là Số Thủ Thú, tức là “Nhơn”. “Chúng sanh”: Kế cho ngã là thọ mệnh một đời chẳng đoạn tuyệt. Thọ giả còn gọi là Thọ mệnh, kế cho Ngã một đời thọ mệnh chẳng đoạn tuyệt. Mà Ngã là tổng chủ, còn Nhơn, chúng sanh, thọ giả là biệt (riêng), thu tóm biệt quy về tổng chung, cho nên nói là “Ngã chấp”. Do vậy ba thứ sau đều nói là “kế ngã”. Mà bốn tướng trên, tuy trong kinh đều là Vô (không có), nhưng chẳng thể chẳng hiểu. Từ “Năng thủ…”: tâm và Cảnh đều vọng. Vì vạn pháp tuy nhiều, tóm lại chỉ tâm và cảnh. Tâm và Cảnh, mỗi thứ đều có vô lượng sai biệt. cho nên nói: “tất cả”. “Chơn không…”: Tuy tức chư pháp đều không nhưng chẳng phải nói rằng một mực là phi tướng, chỉ vì nhờ ly chấp mà Chơn không bất đoạn. Cho nên nói rằng: “Diệc vô phi pháp tướng” (cũng không có pháp nào chẳng phải là pháp tướng). “Ly…”: là phần hai, bên ý chỉ kinh. Đây là nói về sự kiêm chánh mà đắc Phật tri kiến. “Cho nên Luận nói…”: Trong dẫn chứng, có đặt câu hỏi, giải thích rõ mà chỉ bày. “Thật tướng sai biệt”: thật tướng tức vô sai biệt, phương tiện sanh ra thật tướng mới có sai biệt. “Công Đức trì giới” là chỉ cho đoạn trước. “Tín tâm…”: Phần sau nói: Tín tâm thanh tịnh thì sinh ra thật tướng Di Lặc trong nói: “Người kia nương tín tâm, cung kính sanh thật tướng”. “Không chỉ…”: Ý nói: Có nhiều phương tiện làm cho sanh ra thật tướng. Chẳng phải chỉ có riêng thuyết Bát-nhã. Trên thì nói ly chấp, đây thì nói Bát-nhã. Do vì Bát-nhã này có thể trừ chấp. Trên thì dựa theo sở đoạn, đây thì dựa theo Năng Đoạn. Năng và Sở tuy khác nhau, nhưng ý thì chẳng khác. “Chưa trừ tế chấp”: nghóa là cả hai chấp cùng sinh, nhậm vận mà khởi. Trên thì ly phân biệt thô chấp, đã thành tựu tịnh tín, đắc Phật tri kiến còn cạn. Tế chấp chưa trừ, rốt cuộc làm chướng ngại Thánh Đạo. Nay hiển thị khiến cho đoạn dứt chúng. Kinh hỏi ý nói: Vì nghóa gì mà cần phải Vô pháp phi pháp tướng” giải thích ý rằng: do vì thủ tướng, tức là trước dính ngã, nhơn… văn còn lại… có thể hiểu rõ. Sớ: Có hai phần: Giải thích, nói chung về hai tướng. Từ “giải thích chung…”: Kinh nói: nếu tâm thủ tướng, trong tướng, ý xả pháp tướng, phi pháp tướng. Cho nên nói là “Tổng” (chung). “Cũng là …”: Vì văn tiếp theo là nói riêng về thủ pháp, phi pháp, đều trước dính tướng ngã, nhơn,… Đây lại là lập tông. Từ “Nếu thủ…” là phần hai, giải thích nói riêng về Hai tướng. Có hai phần: Chánh tỏ về hai tướng: “Vô Minh Sử”: là pháp chấp câu sinh, là nằm trong vô minh trú địa, cho nên gọi là “Sử”. “Hiện hành …”: tức là ngã chấp phân biệt hiện hành, trước kia đã đoạn. “Thị vô ngã kiến”: Kết thành nghóa trên. “Chỉ thủ…”: Tức là vô minh sử trước kia là thứ sở Hữu. Chữ “chuyển” giống với chữ “Khởi”. “Ngã tưởng”: là ngã chấp phân biệt hiện hành. “Y chỉ”: Phân biệt chủng tử làm chỗ y chỉ cho hiện hành kia, cũng có thể pháp chấp phân biệt, gọi là y chỉ, cùng chỗ y chỉ cho ngã chấp kia. b.“Trong có…”: Là phần hai, giải thích riêng. Ý hỏi có thể biết rõ. “Dùng sau giải thích trước”: Chẳng bằng nói: Dùng nghóa tế để giải thích nghóa thô thì dể thấp hơn. Hỏi: Người Nhị thừa cũng có pháp chấp, vì sao chẳng khởi Ngã kiến? Đáp: Vì người Nhị thừa khi mới bắt đầu tu hành đã nghiêng hẳn về việc đoạn dứt ngã chấp, đên khi đạt đền Vô Học vị thì thô và tế đều trừ hết. Do vậy tuy có pháp chấp nhưng chẳng khởi Ngã chấp. Nay dựa theo người học Đại thừa, song đoạn hai chấp, phân biệt cùng trừ, câu sinh lưỡng tồn, do hai chấp này nhậm vận mà khởi. Cho nên Vô Trướng nói: Bởi vì trong Ngã tướng, tùy manh chẳng đoạn, tức có Ngã Thủ. <詞>PHẦN HUYỀN MÔN: Kinh: “Thị cố”: Do thủ pháp phi pháp trên đều là trước dính ngã… cho nên khuyên bảo “bất ưng”, tức nhập trung Đạo. “Dó thị nghóa cố”: do vì bất thủ pháp phi pháp. Sớ: “kết quy trung”: chẳng nên thủ pháp, là ly hữu, chẳng nên thù phi pháp, là ly vô. Đã ly Hữu vô, tức quy trung Đạo. “Mượn lời hiểu nghóa”: nghóa là cái gọi là phi pháp, đó là hiển pháp Thể ly khỏi Tính kế (chấp). Nếu không có câu nói “Phi pháp” thì làm sao biết nghóa kia. Những nghóa khác đều ví theo đây. Nên biết, nghóa chẳng tự nó hiển rõ, ắt phải mượn lời nói. Cho nên Tịnh Danh nói: Không lìa văn tự mà thuyết giải thoát. “Chẳng nên…”: nghóa là tuy nghe phi pháp, chẳng thể như lời bèn chấp vào nghóa không. Đây là ngăn chặn những người chấp vào lời nói. “Chẳng chấp…’: Nghóa là nếu hoàn toàn vứt bỏ lời nói thì làm sao hiểu rõ nghóa không của chư pháp. Mới biết, chỉ trừ bệnh chứ chẳng trừ pháp. Đây là ngăn chặn những người một mực cư ly ngôn. Đó là toàn chấp hay toàn bỏ, cả hai đều chẳng thể. Cho nên Hoa Nghiêm Sớ nói: Pháp thì vô ngôn tượng, chẳng phải lìa ngôn tượng. Không có ngôn tượng mà điên đảo, mê hoặc, chấp ngôn tượng mà mê Chơn. “Kệ nói…”: Hai câu còn lại là: “Như người bỏ thuyền bè, trong pháp nghóa cũng vậy”. “Luận giải …”: Là chuyển qua giải thích văn kệ. “Đắc chứng trí”, dùng lời để tỏ Trí, được trí thì quên lời. Quên lời tức là “Bất trú”. Như đi thuyền qua sông, đến bờ thì bỏ thuyền. “Tùy thuận”: Là khi chưa đắc chứng trí thì chẳng thể đều quên hết lời kia. Chưa đạt bờ kia, chẳng nên bỏ thuyền. “Thật tướng anh”: Thật tướng gọi là pháp, Đắc thật tướng trí, vô tướng vô đắc. Cho nên nói là “Nên xả”, bởi vì Thật tướng vô tướng. Duy Thức nói: Bấy giờ, Sở duyên trí đều vô sớ đắc. “Lý bất ưng”: Pháp thật tướng này còn bất khả đắc, huống nữa là tất cả pháp lìa ngoài thật tướng. Ngoài thật tướng chư pháp ra, đều là ma sự. Cho nên nói rằng: “Phi pháp chẳng hợp với lý, cho nên bất tương ưng”. Dùng thị để ví với phi, cho nên nói là “Hà huống” (huống nữa). NGHI TÌNH THỨ BA Sớ: Đầu tiên là nêu tên chương mục. “Tứ phần trên đã nói rằng: …”: Là chỉ ra chỗ khởi nghi. Mối nghi này là do từ mối nghi thứ nhất mà đến. Vì văn kia nói rằng: “Chẳng thể dùng thân tướng mà thấy được Như Lai”. “Phật phi hữu vi”: Đây là chỉ về kệ nói: “Phân biệt Hữu vi thế, phòng kia thành tựu đắc, Ba tướng khác với Thể, ly kia là Như Lai”. Cho nên nói là phi Hữu vi. Cũng là dựa theo những thứ định trước mà lập ra cái mối nghi này. “Sao lại …”: Là kết thành nghi. Đã rằng nếu Phật chẳng phải Hữu vi thì chẳng hợp với có đắc, có thuyết, sao Thích Ca lại đắc Bồ-đề ở dưới cây Bồ-đề, thuyết pháp ở những Hội trước kia mà sau này. Đã có đắc, có thuyết, tức là rơi vào Hữu vi. Sao trên kia nói chẳng dùng tướng thấy, cho là vô vi ư? Nêu Nhân để hỏi Kinh: Ý nói: Ở trong tâm ông, cho như thế nào? cho rằng ta đắc Bồ-đề hay chẳng đắc? Cho rằng ta thuyết pháp hay chẳng thuyết pháp? Ông vốn nghi vậy, nên nêu ra để hỏi ông! Từ “Phật hỏi:…”: là ngài không sanh nghi có đắc, nghi có thuyết. Phật bèn thuận theo nghi để hỏi: từ ngữ tuy nói “đắc”, ý tỏ vô đắc, để thử xem câu trả lời là hiểu hay chẳng hiểu. “Ngài Vô Trướng nói…”: Là dẫn chứng. Kia nghi Hữu thủ, Phật hiểu tỏ là vô thủ, dùng vô để phá Hữu, cho nên nói là “Phiên”. Về thuyết pháp cũng giống vậy. Thuận lý để đáp: Ý kinh biết được. Chữ “Định”: Nghóa là Thật. Nghóa là không có Thật pháp, danh là Bồ-đề, không có thật pháp, danh là Như Lai thuyết. Đây là một mực dựa theo thắng nghóa mà đáp. “Kệ nói…”: Hai câu kệ còn lại là: “thuyết pháp bất nhị thủ, vô thuyết ly ngôn tướng”. Ý nói Thích Ca Như Lai là ứng hóa, tướng của ứng hóa, đối với Tục thì có, đối với Như Lai là ứng hóa, tướng của ứng hóa, đối với Tục thì có, đối với Chơn thì không có, do vậy trong đáp, đều nói không có tiêu chuẩn nhất định. Kim Quang Minh Kinh và Nhiếp Luận nói: Phật quả không có công đức sắc thanh riêng biệt, duy chỉ có Như Như và Như Như Trí độc tồn. Đây là Chơn Phật. Nay đã khác đây, sao thể nói Chơn! Cho nên nói “ Ứng hóa phi Chơn Phật”. Vô Định pháp: Kinh hỏi ý rằng: Vì nghóa gì mà không có định pháp để có thể thuyết? Giải thích ý rằng: Muốn nói cái Hữu của nó thì lại không có hình trạng, không có tên gọi. Muốn nói cái Vô của nó thì Thánh nhờ cái linh của nó. Đế lý nếu như vậy thì muốn thuyết gì đây! Thuyết còn bất đắc, muốn thủ gì đây! Thủ tức là Đắc. Do vậy, trên nói: “Không có định pháp để Như Lai thuyết”. Sớ: Có hai phần: Dẫn ngài Vô Trướng: “Chánh văn…”: Đây là nghe mà không nghe, thuyết mà vô thuyết, chẳng phải nói là hoàn toàn chẳng nghe chẳng thuyết. Như kinh Tịnh Danh nói: Thuyết pháp; là vô thuyết, vô thị. Nghe pháp, vô văn vô đắc. Đó là nghóa này vậy. “Phân biệt tính”: tất cả chư pháp đều nương theo vọng niệm mà có sai biệt. niệm còn vô niệm, pháp há lại là pháp. Cho nên nói! “Phi pháp”. “Pháp Vô Ngã”: Chỉ cần tính phân biệt mất, tức là lý của pháp vô ngã. Lý này chẳng vô, cho nên nói là “Phi phi pháp”. phần: Từ “Luận nói…”: Là phần hai, dẫn ngài Thiên Thân. Có hai Giải thích văn: “Y Chơn…”: Đây là nêu ra cái gốc của sở y. mà phần trên kia đã nói là ly hữu vô. “Tất cả….”: Pháp thuộc về Duyên sinh, vốn không có cái thể Chơn thật, cũng không có cái tướng Chơn thật. Cho nên nói là “Phi”. “Thật tướng hữu”: Chư pháp đã vô, tức là Chơn thật tướng. Thật tướng chẳng vô (bất vô), cho nên nói là “Phi phi pháp”. Đây tức là phi khước luôn phi pháp. “Vì sao …”: là nạn vấn chung, Ý nạn vấn rằng: Vốn là nghi về chứng, nghi về thuyết thì hỏi đáp đều dùng cả hai. Nay ở trong phần giải thích nguyên do, sao lại chỉ nói thuyết mà chẳng nói chứng? “Có người nói…”: Là giải thích. Đây là dùng thuyết để phản nghiệm về chứng. Hơn nữa, sông có châu mà chẳng khô, núi có ngọc mà thêm nhuận, bên rtong không có gốc đức thì làm sao có thể nói ra. Cho nên chỉ nói thuyết mà tự nó đã bày tỏ cái chứng vậy. Lại nữa, ở đây nói Thủ, tức là chứng. Vô thủ vô thuyết: Kinh hỏi ý rằng: nguyên do nói Vô thủ, vô thuyết, phi pháp, phi phi pháp là sao? Giải thích ý rằng: Thánh Nhân tức là vô vi, vô vit ức vô phân biệt. nếu có thủ, thuyết pháp, phi pháp … đều thuộc phân biệt, chẳng gọi là vô vi, là Thánh nhân, vô thủ vô thuyết. Nói “Hiền Thánh”: Hiền tức là Thánh, giải thích theo nghóa lân cận. Từ “Bản dịch đời Ngụy viết:…” Hỏi: Hành vị thì thông cả Hiền và Thánh, vì sao chỉ lấy Thánh Nhân? Đáp: Nếu xét chung thì bao gồ cả Hiền vị, vì đây nói về chứng quả sậu cạn nên chỉ nói Thánh. “Đắc danh”: tức là sai biệt. vì chư Thánh Nhân đều là dựa theo nghóa chứng vô vi sai biệt mà đặt tên, như chứng Thiên hành Chơn Như thì đắc danh là Hoan Hỷ Địa Bồ-tát… đây tức là đắc danh sai biệt. Bởi chỉ cùng một nghóa mà thôi: “Luận ý …”: Nghóa là đăng địa trở lên, tùy chứng một phần Chơn Như, đều đoạn dứt một chướng, hai ngu, tức là một phần thanh tịnh, dựa vào nghóa này mà đặt một tên, cho đến Phật Địa, lệ đều như vậy. “Phi biệt đắc pháp”: Là vô đắc mà đắc, tức là Chơn đắc Bồ-đề. Nếu nói có đắc, tức là chẳng Đắc. Mới biết (chuyện) dưới cây Bồ-đề là sự việc không có thật. Cho nên kệ nói: “Ứng Hóa phi Chơn Phật…” “Vô thủ thuyết”: là kết, quy về nghóa vô phân biệt của văn kinh. “Cụ túc thanh tịnh”: Là Phật, nghóa là tất cả Hoặc, tập, thảy đều đoạn trừ không còn một mảy vọng trần, thuần nhất vô tạp. “Phần thanh tịnh”: là Bồ-tát. Phần đoạn các chướng, phần chứng Chơn Như. Cấu chia hoàn toàn trừ, cho nên gọi nhanh là phần. Cho nên Phật Đảnh kinh nói: “Còn trần còn chư Học, Minh cực tức Như Lai”. Rộng thì như đã nói trong bài tự chỗ “mãn Tịnh giác giả”. “Vô Trướng…”: Là dựa theo vô vi sai biệt mà nói về Hiền Thánh. “Vô phân biệt”: Tức là nghóa của vô vi. Không có tạo tác, không làm gì cả, cho nên gọi là Vô vi. Vô vi và Chơn Như là cùng một pháp. “Bồ-tát…”: Vì hữu phân biệt, vì Hữu sở vi. “Như Lai…”: Vì vô phân biệt, vì vô sở tác. “Sơ vô vi”: là Bồ-tát. “Chiết phục…”: Đây là khi đang tại Quán, phân biệt chẳng sanh, được một phần tương ưng, cho nên gọi là “Hiển liểu”. “Hậu vô vi”: là Như Lai. Không còn phân biệt nữa, là Chơn vô vi, tức là Đệ Nhất Nghóa. Đây là dựa theo Phật, cho nên còn nói rằng không có gì vượt trên nữa, cho nên gọi là Vô Thượng giác, tức là Phật. “Tam Thừa…”: Là kết chung các Thừa. Vì người Nhị Thừa cũng phần chứng Chơn lý, cho nên ở đây thông nhiếp. do vậy mà biết Hiền Thánh ba thừa đều tu và chứng vô vi. Sở chứng tuy không có cạn sâu, nhưng Năng chứng thì có sai biệt. giống như ba con thú cùng độ qua một xon sông, Năng độ (những con thú) thì có sai khác, sở độ (con sông) thì không sai khác. Đại phẩm nói: Muốn cầu Thanh văn Thừa, phải học Bát-nhã Ba-la-mật, muốn cầu Duyên giác, Bồ-tát, Vô Thượng Phật thừa, đều nó phải học Bát-nhã Ba-la-mật. Do vậy, Kinh nói: “Tất cả Hiền Thánh”. Phần So sánh: Hỏi: Vốn do ngài Thiện Cát khởi nghi, cho nên Thế Tộn mới đoạn trừ, đoạn nghi đã xong, sao còn so sánh? Đáp: Luận nói: Pháp tuy bất khả thủ, bất khả thuyết, nhưng lại bất không. (chẳng không). Ý nói: e có người nghe là pháp bất khả thủ, thuyết. Bèn muốn đồng loạt hủy bỏ, vứt bỏ hết ngôn giáo (lời dạy) ở đây so sánh này để tỏ rõ sự vượt trợi, khiến cho họ diễn thuyết, thọ trì, do vậy, quyển Sớ Đại Vân ở đoạn này lập ra mối nghi thứ năm; phước đức bất không. Vì văn của Luận chẳng nói Đoạn nghi, cho nên quyển sở này chẳng lập. Nêu phước kém để hỏi: Kinh ý nói: bảy báu quý nhất, tam thiền lớn nhất, dùng đó Bố thí, phước nhiều hay không? Từ “Câu Xá…”: là nói về Tam Thiên Thế giới. “Bốn Đại Châu”: là Đông Thắng Thân Châu, Nam Thiện Bộ Châu, tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Câu Lô Châu. “Nhật Nguyệt”: Tức là một Tứ Thiên hạ. Cùng một Nhật Nguyệt soi chiếu. “Tô Mê”, còn gọi là Tu Di Lô, chỉ vì tiếng phạm vùng Sở Hạ (tây vực) mà thôi, tiếng Hán gọi là Diệu Cao Sơn, do bốn bảo tạo thành, cao tám vạn do tuần. “Dục Thiền”: là Lục Dục thiên, đó là: Tứ Thiên Vương Thiên, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên. “Phạm Thế”: Cõi trời thứ nhất của sắc giới. Trong ấy lại còn có ba cõi trời, đó là: Phạm chúng thiên, phạm phụ thiên, Đại phạm thiên. “Mỗi một ngàn…”: Như trên mỗi đầy một ngàn mới thành một tiểu Thiên giới. “Tiểu thiên này…”: Lại một ngàn tiểu thiên giới mới thành một trung thiên giới. “Ngàn hàng…”: Lại với một ngàn cái Trung Thiên giới mới thành một Đại Thiên giới. “Đều đồng…”: nghóa là Tứ Thiền trở lên thì tam tai chẳng hề gì, cho nên chẳng nói thành hay Hoại. Tam thiên trở xuống thì đều nằm trong tam tai, cho nên nói “Đồng một thành hoại”. Trong đó, từ Sơ Thiền trở xuống, đồng cùng Hỏa tai, từ Nhị Thiền rở xuống, đồng cùng thủy tai. Tam Thiền trở xuống, đồng cùng phong tai. “Thất bảo…”: Có thể biết được. Phước nhiều để đáo: Kinh văn trả lời, có thể xem hiểu. Hỏi rằng: Vì nghóa gì mà nói nhiều? Giải thích ý rằng: chẳng dựa theo Thắng Nghóa không, cho nên nói nhiều, đó là dựa theo Thế Đế Hữu cho nên nói nhiều. “Thắng Nghóa không”: Môn này là tuyệt tướng vô vi, chẳng thể nói là phước hay chẳng phước. Phước đã chẳng có thì không có gì để nói là nhiều. “Thế Tục Hữu”: Môn này là Hữu tướng Hữu vi, có thể nói là phước, vì có phước, cho nên kiêm để có thể nói là nhiều. Phước của kinh. Kinh ý có thể biết được. Mà bốn câu phước còn nhiều vậy, huống nữa cả bộ kinh! Sớ: Có hai phần: Giải hích văn kinh: Kệ giải thích trì và thuyết. Do nói về nguyên do của Thắng (vượt trội), nhìn về sau văn kinh thì hình như hơi gấp dùng văn kệ, liên hoàn nhau chẳng thể chia tách ra. “Thọ trì và thuyết”: Nêu hai pháp môn. “Bất không…”: Nghóa là trì, thuyết kinh này khác với Bố thí tài bảo, Không đức phước đức, còn đắc vật gì? Là đoạn văn tiếp theo. “Phước bất thú Bồ-đề”: Nghóa là tài bảo bố thí tuy nhiều nhưng thành phước Hữu lậu ở thế gian, rốt cuộc chẳng thể thành Vô thượng Bồ-đề. “Nhị Năng thú Bồ-đề”: là trì, thuyết kinh này, đoạn trừ phiền não, chỗ hết phiền não, tức là Bồ-đề. “Tứ cú…”: là phần hai. Tỏ riêng tướng của câu. “Thuyên nghóa…”: nghóa là dùng mộtt câu để thuyên tỏ một nghóa. Một nghóa là một câu, bốn nghóa mới thành một kệ. Nhất và Dị, Hữu và không, thường và vô thường, đếu có tứ cú của nó. Mà này kinh “tứ cú”, có nhiều thuyết khác nhau: Có thuyết; lấy Vô Ngã, Vô Nhơn, Vô chúng sanh, vô thọ giả làm tứ cú, có thuyết lấy “Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh,..” làm tứ cú. Có thuyết nói: “Tất cả Hữu vi pháp…” làm bốn câu. Có thuyết nói: Chỉ tùy ý lấy bốn câu văn trong cả cuốn kinh, tức là bốn câu. Có thuyết nói: bắt đầu từ “như thị” cho đến cuối kinh “phụng hành”, mới thành bốn mà những thuyết trên đều chẳng phải là chánh nghóa. “Như phàm sở…”: Là về chánh nghóa. Đây là dựa theo Hữu Vô làm bốn câu. Nghóa là: Cú thứ nhất là Hữu, cú thứ hai là vô, cú thứ ba là Diệc Hữu diệc vô. Cú thứ tư là phi hữu phi vô. Văn và nghóa đều kiêm đủ, cho nên nói là “tối diệu”. Vì bốn nghóa này có thể thông với thật tướng, tức là bốn môn. “Nhưng mà…”: mà câu một, câu hai, câu bốn đều là bốn môn. Chữ, chỉ có câu ba thành ra sáu chữ. Vă đã tăng, giảm thì làm sau thành kệ? Cho nên ở đây là giải thích. “Trì, thuyết…”: Vì bốn nghóa này là cánh cửa của vạn pháp, nếu liểu bốn nghóa, tức thông vạn pháp, vạn pháp đã thông, há có Bồ-đề, mà chẳng chứng ư! “Văn hoặc…”: Nhưng xét về nghóa, nghóa chẳng tại văn, nghóa ắt tròn đủ, văn theo tăng giảm. “Nghóa nếu…”: thiếu nghóa thành báng, đủ thì thành Môn. “Thành báng”: nghóa là thiếu vô thì thành ra là Tăng ích Báng Thiếu Hữu thì thành ra là tổn giảm báng. Thiếu phi hữu phi vô, thành ra là tương vi Báng, Thiếu diệc Hữu diệc vô thành ra là hý luận báng. Ví Hữu thì định Hữu, vô thì định vô, hai cú còn lại cũng lệ theo đó, thành bốn Báng. Vì sao? Vì pháp chẳng Như Thị. Vì chẳng Như pháp mà thấy. Đây tứ là Bát-nhã Ba-la-mật giống như đống lửa lớn, bốn bề chẳng thể thủ. “Cụ tứ cú”: đó là nghóa chẳng bị thiếu. Hữu bất định Hữu, là Hữu của tức vô. Vô bất định vô, đó là vô của Tức Hữu. Còn lại cũng lệ theo vậy, tùy theo ở trong một cú, thấy tròn cả nghóa của bốn cú, chẳng rơi vào báng tăng, giảm,… cho nên thành Môn. Vì sao? Vì pháp như thị. Vì Như pháp kiến. Đây là Bát-nhã Ba-la-mật giống như Hồ nước mát mẻ, bốn bề đều có thể nhập vào, chỉ vì Nhơn (người) nương vào pháp, pháp khác thì Nhơn trái, nếu pháp nghóa được hoàn toàn, há lại Bồ-đề chẳng chứng ư! Cho nên nói; thọ trì kinh này thắng hơ phước thí. Chánh giải thích. Kinh hỏi ý rằng: Vì nghóa gì trì thuyết kinh này thắng hơn bảo thí? Giải thích ý, có thể biết. “Chư Phật Bồ-đề pháp”: chẳng phải là pháp Bồ-đề của các Thừa khác nhưng Bồ-đề khác cũng từ đây mà xuất ra, chỉ nêu ra thắng (Vượt trội) là để vui. “Thứ nhị”: là trì và thuyết. “Liễu nhân”: Vì pháp thân là lý của bổn Chơn, bất sinh bất diệt, chỉ bởi phiền não che lấp nó thì ẩn kín, trí Huệ liểu nó, thì hiển cả, trì thuyết pháp này, diệu Huệ tự tỏ, quán phá phiền não, pháp thân hiện vậy. “Sanh Nhân”: Báo thân Hóa thân, vốn thì không có, đến do vạn hạnh, nên gọi là sanh. Cho nên Di lặc tụng nói: “Ở thật, làm liểu Nhân, cũng làm Sanh nhân khác”. Là kinh nói: tất cả chư Phật Bồ-đề pháp, đều từ chỗ kinh này. Chuyển giải thích kinh: “Sở ngôn Phật pháp”: là dựa theo Thế Đế, cho nên Hữu (có). “Tức phi Phật pháp” Theo Đệ nhất nghóa thì vô. “Đệ Nhất…”: Nghóa là trong tướng Tục Đế có sự khác nhau giữa Mê và Ngộ, nhiễm và tịnh, phàm và thánh, cho nên nói Phật pháp từ kinh này mà ra. Lý của Chơn Đế thì lìa khỏi tướng của Mê ngộ, nhiễm tịnh, phàm Thánh, cho nên chẳng thể nói ra nghóa của Phật pháp. Cho nên Viên Giác Kinh nói: Tất cả Như Lai viên giác diệu tâm, vốn không có Bồ-đề và Niết-bàn, cũng không có thành Phật và bất thành Phật, không có vọng luân Hồi vọng và phi luân hồi. Nhưng bổn luận thì khác với kia, đây chẳng thể rườm kể ra. NGHI TÌNH THỨ TƯ: Sớ: đầu tiên là nêu ra chương mục. Từ “Hướng thuyết…”: chỉ về chỗ khởi nghi. Nghi tình này đến từ trong nghi tình thứ ba. “Bất khả thủ thuyết”: Vì phần văn trước nói: “Pháp mà Như Lai thuyết, đều bất khả thủ, bất khả thuyết”. “Vì sao…”: là kết, thành nghi. Vì phần trước nói: tất cả Hiền Thánh thông cả Ba thừa, mà nghi rằng Thanh văn đắc quả, đó là Thủ như người Sơ quả, chứng tự Sơ quả, cũng tự nói rằng: đã chứng Sơ quả. Nhập Lưu quả: Kinh hỏi ý rằng: Ở trong ý ông ra sao? Ông cho rằng người Tu Đà Hoàn nghó rằng Đắc Tu Đà Hoàn quả hay không? Đáp: Không! Ý hỏi rằng: Nếu như vậy thì vì nghóa gì mà đắc danh Tu Đà Hoàn, giải thích ý rằng: Chỉ dựa theo chẳng nhập những cảnh giới, sắc… tức danh là Tu Đà Hoàn. Sớ có ba phần: Giải thích Văn kinh: “Nhập lưu”: Tứ quả gọi là Thánh nhân, trãi từ phàm phu mới bắt đầu nhập loài Thánh lưu là loài. Dự là xen vào. “Hỉ do…”: là giải thích về nguyên do Đắc danh. “Nhập”: Nghóa là thủ trước, thủ dính, nếu thủ lục trần, tức là bị trệ ở phàm lưu. Chẳng thủ lục trần, gọi dan là nhập Thánh Lưu. Mới biết, công đức ở tại con người, chẳng tại cảnh giới lục trần. Căn cứ theo đó thì đó có riêng pháp nào mà làm sở nhập? “Luận nói…”: là dẫn chứng nghóa trên. “Hằng thủ một pháp”: chẳng chỉ là Lục trần. “Danh Nghịch lưu”: nghịch phàm lưu. Nghóa là nếu thủ tục trần, tức là nhập vào dòng phàm, ngược với dòng Thánh. Đã chẳng thủ trước, tức nhập vào dòng Thánh, ngược với dòng Thánh. Đã chẳng thủ trước, tức nhập vào dòng Thánh, ngược dòng phàm. “Cho đến…”: là nói về những quả khác. Sơ quả còn vậy, huống là quả khác! “Nhưng chẳng…”: là phần hai bàn giáo, quả chứng: hoặc hỏi: Đã đều bất thủ thì cũng phải bất chứng? Cho nên ở đây giải thích. “Chỉ ngay khi cứng…”: Là chuyển giải thích: ý nói chỉ là không có tâm thủ, chứ chẳng phải nói là chẳng chứng. “Nếu khởi…”: Tỏ ngược rằng phàm phu trước Ngã là do khởi tâm. Thánh Nhân vô ngã, ắt chẳng khởi vậy. “Cho nên biết…”: là phần ba Kết. Đoạn trừ nghi tình. Ngài không sanh vốn cho rằng chứng quả là Thủ, cho nên sinh ra nghi tình. Nay tỏ rõ rằng Vô Thủ mới thành nghóa của chứng, khác với điều nghi, nếu theo đoạn trừ nghi thì văn này đến đây là hết. Nhưng vì bốn quả là hành vi của Tiểu Thừa Hiền thánh tu chứng, do vậy trong kinh nói đầy đủ cả. Mà bốn quả này còn có bốn hướng. Nghóa là Hướng về Quả, tức là Tu Đà Hoàn hướng… Trong bốn quả, quả đầu tiên là Kiến Đạo, hai quả tiếp theo là tu Đạo, quả sau cùng là vô Học Đạo. Hơn nữa, người mới tu hành, được nhập Kiến Đạo, nghóa là mười sáu tâm đoạn tam giới, dưới Tứ Đế tám mươi tám sử, phân biệt thọ Hoặc, đắc Sơ quả chứng, nghóa là Tam giới, mỗi giới có Bốn Đế, dưới mỗi Đế đều có phiền não, tức là Tham, Sân, Si, mạn, Nghi, Thân kiến, Biên kiến, tà kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ, phía dưới Bốn Đế, hoặc đủ hoặc thiếu, cho nên thành tám mươi tám sử. Cuốn tạp tâm Luân nói: “Dưới khổ đủ tất cả, Tập, Diệt trừ ba kiến, Đạo trừ bớt hai kiến, giới trên chẳng hành Nhuế”. Nghóa là câu thứ nhất tức là Dục giới dưới khổ đế đủ cả trừ đi ba kiến, tức là thân kiến, biên kiến và giới cấm thủ. Sở dó trừ đi ba kiến này là vì duyên thân là gốc khổ, quán khổ đã đoạn, thân kiến và biên kiến, y theo Thâm mà khởi, cho nên cũng tùy tho đó mà mất. Không có giới Cấm Thủ là vì tập Đế chẳng cho phi Đạo là Đạo, Diệt Đế lại chẳng phải là Tu vị, do vậy đều không có Giới cấm thủ. Đạo thì đúng ở Tu Vị, nhưng lại có nó, cho nên chẳng trừ. Vì vậy mà nói “Đạo trừ đi hai kiến, chẳng trừ giới cấm. Do vậy, dưới khổ Đế có đủ mười sử. Tập Đế và Diệt Đế, dưới mỗi Đế có bảy sử, công với mười sử trước là hai mươi bốn. Dưới Đế là tám, hợp lại là ba mươi hai. Câu sau cùng nói “ Giới trên chẳng hành Nhuế:, tức là dưới Bốn Đế của hai giới trên đều rừ đi một sân, mỗi giới có hai mươi trú, cộng thành năm mươi sáu. Kiêm luôn Dục giới ở dưới ba mươi hai, tức là tổng cộng tất cả là tám mươi tám. Thế nào là Mười sáu tâm? Nghóa là dưới Bốn Đế củ Dục giới, mỗi Đế có một Nhẫn, một trí mà thành ra tám tâm, lại hợp với hai giới trên là một Bốn Đế, loại hạ Dục giới quán, Đoạn trừ cũng mỗi Đế có một Nhẫn, một trí thành ra tám tâm. Hai lần tám tức là mười sáu tâm. Nhẫn tức là vô gián Đạo, là khi đang đạo hoặc. Trí tức là Giải Thoát Đạo, là khi đã Đoạn xong. Đó là: khổ pháp Trí Nhẫn khổ pháp trí, khổ Loại trí Nhẫn khổ loại trí… Đạo pháp trí, Nhẫn Đạo Pháp Trí, Đạo Loại Trí Nhẫn đạo loại trí. Đoạn đến tâm thứ mười lăm Đạo Loại Trí Nhẫn, gọi là Sơ quả Hướng, khi đến tâm thứ mười sáu Đạo Loại trí, gọi là chứng sơ quả, nhập vào kiến Đạo, là Tu Đà Hoàn. Phân biệt Thô hoặc cùng một thời đốn đoạn, giống như chẻ tre, ba đốt cùng tánh, tức lấy tám trí của Kiến Đế làm Thể của sơ quả. Hành tướng của sơ quả, lược nói như trên, ba quả còn lại, xem ở văn sau. Nhất Lai Quả: Kinh hỏi đáp và trưng ý đều giải thích như trên. Ý nói bậc Tu Đà Hàm, chỉ ở Nhân gian và trên trời, một lần vãng lai. Tuy còn vãng lai, thật không có chỗ vãng lai, chỉ dựa theo nghóa này mà gọi là Tư Đà Hàm. “Đoạn hoặc”: Dục Giới Tu Hoặc, có bốn: Tham, sân, si, mạn. Đây là câu sanh Tế hoặc. “Nhậm vận khởi”: Chướng cho Tu Đạo, vì khó đoạn, cho nên chia ra thành chín phẩm; Thượng thượng… hạ hạ. Chín phẩm hoặc này, người Nhị quả và Tam quả đoạn trừ chúng. Đoạn đến phần thứ năm gọi là Nhị Quả Hướng. đoạn hết phẩm thứ sáu gọi là đệ Nhị quả. Cho nên Câu Xá nói: “Đoạn chí Ngũ Nhị Hướng, đoạn Lục Nhất Lai Quả”. “Nhất văn…”: Bởi vì chín phẩm tu Hoặc, làm nhuận bảy sinh thuộc Dục giới, nghóa là thượng thượng phẩm nhuận hai sinh, ba phẩm tiếp theo, mỗi phẩm làm Nhuận một sinh. Hai phẩm tiếp theo tổng cộng một sinh, ba phẩm sau tộng cộng một sinh, nay đoạn sáu phẩm đã tổn sáu sinh, còn sót lại ba phẩm hạ, làm nhuận một sinh ở Dục giới. Do vậy một vãn sanh lên trời, còn cần phải thêm một lần hai về Nhân gian thọ sanh, đoạn trừ những hoặc còn lại. “Bèn đắc…”: Hỏi: Căn cứ theo thứ tự này, hợp lại là đệ tam quả. Vì sao lại nói “bèn đắc La Hán”? Đáp: Nói “ bèn đắc La Hán”, chẳng phải nói là vượt qua chẳng chứng quả thứ ba, chỉ nói theo Hoặc ở Dục giới tận hết, văn mà chẳng lại, là nói theo một lần đi. cho nên nói là “bèn đắc…”, nếu sửa đổi “bèn đắc” thành ra là “thẳng đến” thì có sao lâu! Còn lại ba phẩm dưới, một sanh (một kiếp sống) thì đoạn trừ hết, bèn vãn đến la Hán, tức là chẳng cần lai hòa hội ở trên kia. “Cho nên gọi là…”: Là kết thành đệ nhị quả. Tức là lấy kiến Đạo tám phẩm vô vi và Tu Đạo sáu phẩm vô vi làm Thể của quả này. “Vô Ngã…”: Do vì Vô Ngã, cho nên chẳng kế cho là khứ và lai, chứ chẳng phải nói là chẳng khứ chẳng lai, chỉ chẳng kế cho là người khứ lai, nó cũng giống như người thợ đóng thuyền ở nước lổ, điêu khắc thanh gổ thành con người, tuy lại chèo qua lại văn lai nhưng thật không có tình lự kế cho là vãn lai. Bất Lai quả: Kinh hỏi đáp, trưng ý, cũng giống với giải thoát ở phần trên, ý nói: “A Na Hàm”: một lần vãn sanh lên trời, không còn tái lai nhân gian nữa. Tuy là bất lai nhưng cũng không có cái bất lai, dựa theo nghóa này mà gọi là A Na Hàm. Bất lai (chẳng về nhân gian) bất hoàn (chẳng rở về nhân gian) là cùng một nghóa. “Đoạn Hoặc…”: nghóa là trong chín phẩm Hoặc ở trước, còn lại ba phẩm hạ, đoạn đến phẩm tám, gọi Lê tam quả hướng. Đoạn hết chín phẩm, gọi là quả thứ ba. Cho nên Câu Xá nói: “Đoạn Hoặc bảy tám phẩm, danh Đệ tam quả Hướng, chín phẩm toàn đoạn tận, tứ đắc Bất Hoàn quả”. “Cánh bất hoàn…”: Dục giới Tu Hoặc, chỉ còn ba phẩm ba phẩm phiền não, cùng nhuận một sinh, nay vì đoạn nó, chẳng còn Hoặc nhuận, ngăn Huyệt luẩn quẩn, cho nên không còn tái lai nữa. “Cho nên gọi là …”: Là kết, thành đến tam quả, tức là lấy kiến Đạo tám phẩm vô vi và Tu Đạo chín phẩm vô vi làm Thể của quả này. Người Nhị quả Tam quả này Đoạn Hoặc cũng giống như chặt cây đứt ngang vậy. “Đồng tiền”: Là hợp nói, đã ngộ vô ngã thì ai vãn lai. Bất Sanh Quả: có hai phần, phần đầu nói về Đắc danh. “Ba giải thích”: Do vì có ba nghóa, cho nên giữ nguyên âm phạm. “Vô tặc”: ý cho phiền não là giặc. Nghóa là đoạn dứt Huệ mệnh của con người, cướp đi của cải công đức, làm cho người hành đạo mất đi Thánh Đạo, trôi đạt vùng hoan sinh tử, chẳng đạt đến chỗ báu Niết-bàn, làm hại rất sâu, nên gọi là giặc. “Kiến tu …”: Nghóa là hai giới trên, mỗi giới có ba loại Tu Hoặc, đó là Tham, Si, Mạn. Hoặc này vi tế khó trừ, cho nên chia chúng theo tám Địa. Mỗi Địa chia thành chín phẩm, hợp lại là bảy mươi hai phẩm, mỗi phẩm đều có một vô gián và một giải thoát. Đoạn đến phẩm bảy mươi mốt, gọi là A La Hán Hướng. Đoạn hết bảy mươi hai phẩm hoặc, gọi là A La Hán. Quả này đoạn hoặc, như bước lên thang lầu, dần bước dần cao. Kiến và tu hợp lại mà xét, kiêm thêm một Địa Dục giới, tổng cộng dùng tám mươi chín phẩm vô vi, làm thể của quả này. Nếu dựa theo Tứ Quả Hữu vi xuất Thể thì sơ quả chỉ thủ Đạo Loại Trí một giải thoát Đạo làm Thể. Đệ Nhị quả chỉ thủ phẩm thứ sáu trong đoạn Dục giới chín phẩm tu Hoặc, một giải thoát Đạo làm Thể. Đệ tam quả chỉ thủ một giải thoát Đạo của phẩm thứ chín làm thể. La Hán quả chỉ thủ một giải thoát đạo tận trí trong phẩm thứ chín của Hữu Đảnh Địa làm Thể. Gọi là vô vi, tức là Ly Hệ quả, Hữu vi tức là Đẳng Lưu quả. “Bất sanh…”: Đó là Ta sanh đã hết, phạm hạnh đã lập. Việc làm đã xong, chẳng thọ Hậu Hữu. Mà ba câu trước, tức là Tận Trí. Câu sau cùng, tức là vô sanh trí, nghóa là chẳng hướng trong tam giới, thọ hữu là thân khổ. Vì Nhân quả của Thế gian đã chết, quả đã chôn. Nhân của xuất thế gian đã thành, quả đã chứng. “Ứng thọ…”: Vì đã siêu thoát cõi trời, cõi người, thọ nhận nổi sự cúng dường của người, rời. Vì nếu còn một loại trầm luân thì làm sao kham chịu nổi sự cúng dường. Cho nên Câu Xá nói: “Cúng dường A La Hán, đắc hiện tại phước báo”. Bởi do đã hết nghiệp phiền não, phước điền vượt trội. Nên biết người chưa xuất ra tam giới mà thọ nhận sự cúng dường của người khác, chủ yếu là cần phải tùy thuận xuất ly, há lại có thể an nhiên bỏ qua ư Nêu câu hỏi: Kinh ý theo trên có thể biết. Đáp và trưng ý, theo giải thích trên. Ý nói: A La Hán là bậc không có phiền não, chẳng thọ sanh, ứng cúng dường. Với những nghóa đó, gọi là A La Hán. Ngoài những điều trên, chẳng còn cò một pháp nào gọi là A L a Hán. “Nhược A La Hán tác …”: Là phân giải thích rằng: Nếu nghó rằng: tôi đắc A La Hán quả, liền trước dính tướng ngã, Nhơn… thì có gì khác với phàm phu! Do đây mà nghiệm biết không có ý nghó ấy. Dẫn mình làm chứng, để tin: lấy mình, rồi mới người. Cũng vì khiến cho chúng sanh mất đi ý nghó ấy, nhập vào Thánh Đạo. Trước tiên là ẩn ý kinh rằng: Vào thời trước, Phật từng nói con đắc tam muội này, là đệ nhất trong cõi người. “Bất não…”: Nếu người ta hiềm mình đứng, thì mình ngồi xuống, cho đến chẳng khất thực nhà người nghèo, đều là vì để chẳng não người khác. “Khiến cho…”: Đã chẳng não người thì phiền não đâu khởi. “Đệ Nhất…”: Nghóa là mười Đại đệ tử, mỗi vị đều có một (khả) năng, đều xưng là Đệ Nhất. Tức là Ca Diếp Đầu Đà, A Nan Đa văn, Xá-lợi-phất Trí Huệ, Mục Liên thần thông, La hầu La mật hạnh, A na Luật Thiên Nhãn, Phú Lâu Na thuyết pháp, Ca Chiên Diên luận nghóa, Ưu Ba Ly trì luật. Tu Bồ-đề giải không. Nay nói “Vô tránh”: Chỉ do vì giải không mà đắc Vô tránh. Cũng như Khổng Phu Tử có mười đệ tử gọi là Thập Triết, mỗi vị đều có khả năng riêng. Về Đức Hạnh thì có Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm bá Ngưu, Trọng Cung, Ngôn ngữ thì có Tể Ngũ, Tử Cống, chính sự thì có Nhiễm Hữu Quý Lộ. Văn Học thì Tử Du, Tử Hạ. “Ly Dục…”: Nghóa là Tham sử phiền não, thông cả ba giới, đoạn tận tham này, mới Chơn Ly Dục. Hỏi: Nếu vậy thì chỉ là La Hán đều đoạn tam giới phiền não. Vì sao ngài Thiện Hiện lại xưng là Đệ Nhất, gọi là Đệ Nhất, là nói theo Vô tránh, chứ chẳng nói theo ly Dục. Cho nên kinh nói: “Tôi đắc vô tránh, là đệ nhất trong cõi người”. Lại nữa bản kinh dịch đời Ngụy nói: ‘Tôi nếu tác niệm, Thế Tôn ắt chẳng ký tội vô tránh Hạnh đệ Nhất”. Ý là: Vì chỉ riêng ngài không sanh đắc vô tránh Tam Muội, trong các la Hán ly dục, xưng là đệ nhất. Bất Thủ: Kinh nói: Phật tuy khen tôi, tôi vào thời ấy, chẳng có niệm này. Phật ý: Kinh nói: Nếu tôi ngày khi đóm, tác niệm thế này “tôi đắc A la hán quả”, Phật ắt chẳng nói tôi là người vui với tịch tỉnh. Chỉ vì chẳng tác niệm ấy, nên Phật khen vậy. “Vô Sở Hành”: Tức là chẳng tác niệm, cho nên trong kinh phản thuyết, tức nói rằng “Nếu tác niệm ấy”. Thuận giải thích thì nói: “Thật vô sở hành”. “Ly phiền não chướng”: Là mười sử tham, sân,… thô và tế tận trừ. “Ly Tam Muội chướng”: Tam Muội là Định, chướng tức là Hoặc. Chướng của tam muội, là giải thích theo Quả. Khác với phiền não, tức là chướng, giải thích trì Nghiệp. Do ly phiền não chướng mà đắc La Hán, ly Tam Muội chướng mà đắc Vô Tránh. “Tịch Tỉnh”: Tịch tỉnh tức là Vô tránh Định, ý nói: Tu Bồ-đề là người Lạc Tịch tỉnh. NGHI TÌNH THỨ NĂM. Sớ: đầu tiên là nêu chương. “Thích Ca…”: Kể chuyện trước kia, ý nghi tức là Thích Ca trong Nhân, là Tiên Nhân Thiện Huệ, được Nhiên Đăng Như Lai thọ ký rằng: Ông vào đời sau, sẽ được làm Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni, do vậy tăng tiến nhập vào đệ bát Địa. Cho nên nói là “thọ pháp”. Về chi tiết thì có những nhân duyên như nói trong nghi tình thứ mười hai. “Sao lại…”: Chỉ ra chỗ khởi nghi, rồi kết thành nghi. Mối nghi này cũng đến từ mối nghi thứ ba. Vì văn kia nói: Như Lai sở thuyết pháp đều bất khả thủ, bất khả thuyết. Kinh hỏi ý rằng: Ở trong ý ông ra sao? Cho rằng ta xưa kia ở chỗ Nhiên Đăng Phật, ở trong thọ ký ngôn thuyết, có pháp sở đắc hay không có sở đắc? Đáp ý rằng: Như Lai xưa kia tại chỗ Nhiên Đăng Phật, ở trong thọ ký ngôn thuyết, thật không có pháp làm sở đắc. “Thuyết là ngôn ngữ lời nói…: Vì đó là ngôn ngữ lời nó, cho nên là vô sở đắc. “Ngôn ngữ phi thật”: Nghóa là ngôn ngữ là từ duyên, duyên thì không có tự tính, nêu ra Thể là toàn không, vì không, cho nên vô đắc, đây tức là văn mà vô văn? Nghe, thuyết mà vô thuyết. “Trí chứng pháp”: Giải thích về nguyên do được thọ ký, ý nói dùng cái trí tự vô phân biệt, chứng cái lý tự vô phân biệt. trí ngầm với Lý. Cảnh hội với thần há lạ có Sở thuyết, sở đắc sao? “Luận nói…”: Là dẫn chứng nghóa trên. Vì chứng pháp là lìa tướng của ngôn thuyết. Chứng pháp là lìa tướng của tâm duyên, cho nên bất khả thuyết. Chứng pháp là lìa tướng của tâm duyên, cho nên bất khả thủ. <篇> <卷>QUYỂN 5 NGHI TÌNH THỨ SÁU Sớ: đều tiên là nêu chung. “Nếu pháp …”: là chỉ chỗ khởi nghi, nghi tình này cũng đến từ mối nghi thứ ba trên. “Sao lại…”: Là kết, thành nghi. Đã hưng công vận hành sáu độ cùng tu, hồi hướng, phát tâm nghiêm tịnh Phật Thổ, đó nếu chẳng phải là Thủ thì gì là Thủ? Nghi tình về thân Phật, ý cũng như thế. Bởi vì cả hai báo này chẳng lìa khỏi nhau. Cho nên trong văn của Luận, cùng nói cả hai nghi tình. Mà nay phần này chỉ đoạn trừ một loại nghi tình. Nêu hỏi: Kinh ý nói: Bồ-tát thủ hình tướng trang nghiêm Phật thổ hay không? “Ý Phật…”: Ngài không sanh vốn nghi có thủ, ý Phật muốn tỏ không có thủ, thủ và không có thủ là ở tại Hai Thổ: Tính Thổ và tướng Thổ, cho nên nêu ra tướng để hỏi ngài, thử xem ngài có giải hiểu hay không. Giải thích trả lời: Ý kinh nói: Chẳng thủ tướng trang nghiêm Phật Thổ. Trưng hỏi ý rằng: Vì sao lại chẳng thủ trang nghiêm Phật Thổ? Giải thích ý rằng: Chẳng dùng tướng để trang nghiêm Phật Thổ, đó là Chơn thật trang nghiêm. “Kệ nói…”: Trong đó, ba câu đầu là giải thích kinh. Câu sau cùng tức là giải thích câu thứ ba của bài kệ. Lại nữa, hai câu đầu là giải thích câu “Trang nghiêm Phật Thổ” trong kinh. “Phi hình” là giải thích câu “Tức phi Trang Nghiêm Phật Thổ” trong kinh. “Phi hình” là giải thích câu “Tức Phi trang nghiêm”. Đệ Nhất Thể” là giải thích “Thị Danh Trang nghiêm”. “Phi Nghiêm” là hiển tỏ “phi hình” của bài kệ “trang nghiêm ý” là hiểu tỏ “đệ nhất Thể trong bài kệ. Đây chỉ là phối với văn kia, nghóa ý thì quah co, tiếp theo sau sẽ tỏ tỏ. “Luận giải thích…”: Là chuyển qua giải thích văn của bài kệ: “Chư Phật…”: Đạt đến khả thủ. Giải thích nữa trước bài kệ. Nghóa là tu tập trí vô phân biệt, thông đạt cái tính của Duy Thức Chơn thật, đây tức là dùng Trí khế với Như, gọi là Trung Nghiêm, tức là nghóa của vô thủ. Điều nghi vè có thủ, từ giải thích này mà khiển trừ nó. “Trang nghiêm có hai…”: Là giải thích nữa bài sau của kệ. Trước tiên là kê ra hai Thổ: “Hình tướng”: Tức là pháp tướng Thổ. Nghóa là nền đất toàn vàng ròng, hồ bằng trân bảo… Nói tóm lại, những gì thấy, nghe được, đều thuộc về hình tướng. “Đệ nhất nghóa” tức là Pháp tính Thổ”. Nghóa là ly tất cả tướng, chẳng có thấy, nghe, tức là Lý Chơn Như. “Phi nghiêm…”: Là chánh giải thích, tức là lấy câu thứ ba làm nguyên do xuất ra. Do vậy mà đắc “phi nghiêm” và “Trang nghiêm”. “Phi nghiêm” tức là để phân biệt với “Pháp tướng Thổ”, chẳng phải là thứ mà nay được trang nghiêm, tương đương với “phi trang nghiêm” ở trong kinh. “Trang nghiêm ý” tức là pháp Tính Thổ. Tương đương với “Là danh trang nghiêm” ở trong kinh. Nghóa là hiển phát quá khứ hằng hà sa số công đức mà làm trang nghiêm, như vậy làm ra đồ vật, đồ vật chẳng phải từ bên ngoài đến, tức là dùng đồ vật này, trở lại trang nghiêm cho vàng. Do vậy trên kia dẫn luận nói: “Chư Phật không có sự việc trang nghiêm quốc thổ”, đó tức là ở trong các trang nghiêm, không còn những thứ thuộc quá khứ nữa. Nói “Đệ nhất trang nghiêm”, nói “ý” tức là chỉ cho “Phi hình đệ nhất Thể”, đó là cái ý nghiêm cái phi trang nghiêm, ý tức là nguyên do. Hỏi: Chư Phật Thân Thổ ắt cần phải có đủ cả Tính và Tướng mới là liễu nghóa. Nay chỉ hiện rõ chúng. Nếu có thể thanh tịnh tâm đó thì Thân Thổ tự nhiên hiển hiện. Có chăng như chùi gương, bụi hết thì hình ảnh sinh ra tự nhiên như nhiên, cho nên chẳng phải là tạo tác. Vì vậy mà Duy Thức nói: “Đại Viên Kính Trí, năng hiện năng sinh Thân Thổ trí Cảnh”. So với đây là ngay ở tướng mà vong mất tướng, chứ chẳng nói là vứt bỏ tướng mà tìm thủ Tính, chỉ là không có tình chấp thì đâu ngại gì ở Tướng. Mà Tông của kinh này là Vô Tướng, thì nghóa ấy hơi bị tăng. Đầu và đuôi đều vậy. Tướng của Dụng tâm, phần sau sẽ nói. Khuyên Tinh tâm: Kinh ý nói: Vì những nghóa đó, ông các Bồ-tát nên sinh tâm thuộc vô trú thanh tịnh. “Nếu người…”: Trước tiên là kể ra cái tâm cần phải bị ngăn chặn, Ý cho hình tướng là Chơn Phật thổ, do từ cái kiến giải này mà muốn dùng hình tướng để trang nghiêm, vì vậy mà nói rằng “ta đã thành tựu”. “Người đó trú…” là tỏ rõ điều sau lầm. Ý nói: Vốn muốn nghiêm tịnh, sao lại sanh ra nhiễm tâm, vì trú sắc,.. tức là tâm sinh tử, làm sao là Tịnh được? “Vì để ngăn chặn…”: Lần theo điều ngăn chặn trước mà dẫn khởi ý kinh: Đã cho rằng bất rú sắc… là thanh tịnh. Nên biết trú ở sắc… thật thì bị nhiễm vậy. “Chánh trí”: tâm thuộc vô trú đã là chánh trí, mới biết cái tâm sinh ra do có trú, đồng là vọng thức. Trong đây, chánh trí mà nói là sanh, đó là hiển phát, chứ chẳng phải do sáng tạo mà sanh ra. Cho nên Đại Kinh nói: Chẳng sanh ra tất cả pháp, đó là Bát-nhã Ba-la-mật sanh ra. Vì Bát-nhã này bất sanh bất diệt, cho nên nói là “Chơn tâm”. Cái tâm thiên Chơn, vốn vô sanh diệt. Chỉ vì duyên theo với cảnh trú, tức là chẳng tương ưng, cũng chẳng phải là tâm đoạn diệt, nếu bất trú Bát-nhã thì rõ ràng cũng chẳng phải sanh khởi. E người ta mê cái này, cho nên hiển tỏ để ngăn chặn nó. Đây tức là trước thì bảo đừng trú sắc… là ngăn chặn Hữu, sau thì bảo hãy sanh tâm, là ngăn chặn vô. Đã ly Hữu và Vô, tức là Trung Đạo. Như thế mà thể đạt, là Chơn trang nghiêm, có Phật Thổ nào mà chẳng thanh tịnh. Cho nên Kinh Tịnh Danh nói: Muốn tịnh Phật Thổ, phải tịnh kỳ tâm. Theo với Tâm tịnh, tức Phật Thổ tịnh, “Tịnh kỳ tâm”; tức là ly Hữu vô. NGHI TÌNH THỨ BẢY: Sớ đầu tiên tức là nêu chương mục. Về ý khởi nghi, phần trước đã nói. Hỏi: Nghi tình này có khác gì với nghe tình thứ ba? Đáp: nghi tình trước là Hóa Thân, nghi tình này là báo Thân, cho nên khác nhau. Vì trước kia nghe nói ứng và nó chẳng phải Chơn, cho nên không có Thủ, bèn cho rằng Báo Thân là thật, đúng phải có tâm thủ. Do vậy, nghi tình này là men theo nghi tình thứ ba mà khởi. Đoạn nghi: Kinh hỏi đáp: Có thể biết được. Trưng ý rằng: Vì nghóa gì mà gọi là Đại. giải thích ý rằng: chẳng phải là thân Hữu lậu Hữu vi, là thân vô lậu vô vi. Nếu dựa theo ngài Vô Trướng thì hoàn toàn khác với ở đây, đại để đầu đuôi đều y theo Nhị Đế mà giải thích. Nay trong quyển sớ này có y theo ngài Thiên Thân, có y theo ngài Vô Trướng. Mà đoạn này thì theo ngải Thiên Thân. Sớ có hai phần: Giải thích chung về ý chỉ của Dụ: “Cao Viễn…”: Nghóa là dưới nương Kim Luân, Cao tám vạn do tuần, sáu vạn ngọn núi làm quyến thuộc, nên gọi là Đại, cho Hoa Nghiêm Sớ nói: Tu Di vắt ngang biển cao vượt cái đỉnh núi. “Mà bất thủ…”: Núi kia tuy do bốn báu tạo thành, trong năm vị pháp, nó nằm trong sắc pháp, trong ba tính, nó thuộc vô ký Tính, há lại có phân biệt mà thủ cho là vương. “Báo Phật…”: Nói về điều được dụ nghóa là tiến tu nhiều kiếp, phước và trí tròn sáng, tuần tịnh vô cáu, không có gì hơn nó, cho nên nói là Vô Thượng. Riêng Vua pháp giới, nên gọi là pháp vương “Đại”, có hai nghóa: Dựa theo Thể thì thân trí bọc ngoài. Dựa theo vị thì chư thánh chẳng bằng. “Vô phân biệt”: Chẳng phải như sắc pháp là vô ký tính. Chỉ nhờ ba kỳ tu tập, vạn lự đều vong, như tri tịch nhiên, cho nên vô phân biệt. “Kệ nói….”: Là dùng kệ để kết. Từ “Phi thân …” là phần hai giải thích riêng về phi thân. Có hai phần: Nhắc lại lời kinh, lược chỉ: “Vô lậu vô vi”: Vô lậu thì khác với thế gian. Vô vi là biểu cho phi sinh diệt. Hỏi: Nay nói về Báo thân, tức là hợp cả Hữu vi vô lậu, sao đây lại nói vô vi? Đáp: Đây là căn cứ theo Phật giáo, chẳng theo quyền tông, nên là vô vi. Vì vậy mà kinh tịnh Danh nói: Phật thân vô vi, chẳng rơi vào số. Phật thân vô lậu, chư lậu đã tận. “Cho nên kệ nói:…”: Là phần hai, dẫn luôn giải thích rộng: Có hai phần: Dẩn bổn kệ: kệ này nên rõ viễn ly Hữu vi Hữu lậu ý nói rằng chỉ có pháp thể vô lậu. “Luận nói…”: Là phần hai Dẫn luận văn. Có ba phần. + Nêu : “Nếu như vậy…”: Là chỉ kinh trưng hỏi để nêu. + “Vì bởi duy chỉ…”: Là phần hai Giải thích song đồi: Thanh Tịnh thân tức là pháp thân. Đây là giải thích về câu “Hữu vật”, tức là câu “Thị danh đại thân” ở trong kinh. Hỏi: Đây nói về báo thân, sao lại nói pháp thân? Đáp: Vì pháp thân và Báo thân hợp lại mà nói, cả hai thân chẳng khác nhau. Vì thật giáo này. Lý và Trí không hai, cho nên có thể nói vậy. “Vì bởi viễn ly…”: Là giải thích câu “vô vật”. Tức là câu “Phật thuyết phi thân” trong kinh. Pháp thân đã là vô vi ắt ly Hữu vi sinh diệt, Hữu vi đã ly, huống là Hữu lậu! Cho nên văn giải thích này chẳng nói về chư lậu. + “Do vì…”: là phần ba kết song đi: Nghóa là vì là viễn ly và Duy Hữu, cho nên hiểu rõ được pháp thân Chơn ngã. Vì vô lậu vô vi chẳng sinh diệt, trạm nhiên thanh tịnh, cho nên có thật thể, gọi đó là Hữu vật, chẳng như phàm phu, cái ngã biến kế, hữu lậu hữu vi, tức sinh tức diệt, như huyển mộng kia, không có thật thể. “Vì chẳng y…”: là kết, không có vật, cũng là hiển rõ lại nguyên do. Vì chẳng nương vào Ngũ uẩn, duyên thuộc hữu vi mà trú. Duy chỉ Như Như và Như Như Trí độc tồn cho nên có thật ngã, phải biết rằng phàm phu đều y theo ngũ uẩn Hữu. Vì duyên mà trú, ngũ uẩn còn là giả, huống nữa là cái ngã sở kế! Duyên pháp chẳng phải mình, cho nên nói là y tha. Nói về cát: Ý kinh có thể rõ. “Hồ A nậu”: Thiềm Bộ Châu này, từ giữa, hướng về Bắc có cửu Hắc Sơn, tiếp đó có Đại Tuyết Sơn, tiếp nữa có Hương Túy Sơn. Phía Bắc Đại tuyết Sơn, phía Nam Hương Túy sơn, có Hồ A Nậu, tiếng Hán gọi là vô não nhiệt. Chu vi năm mươi do tuần. Nước tám công đức, đầy tràm trong Hồ. Trong đó, bốn mặt, mỗi mặt xuất ra một con sông lớn. Con sông phía đông tên là khắc Gia, nhiểu quanh hồ một vòng, chảy vào biển đông, phía Nam là sông Tín Độ, phía Tây là sông phược Sô, phía Bắc là sông Đồ Đa, đều nhiểu hồ một vòng, như thứ tự chảy vào Nam, Tây, bắc hải. Nay kinh nói Hằng Hà, tức là sông khắc Già. Nói: “Hằng”: Là dịch sai. “Châu bốn mươi dặm” là chỗ cửu hồ mới bắt đầu xuất ra. “Phật đa phần…” là nêu ra nguyên do lấy dụ này, nhưng khi thuyết kinh này là thuyết ở tại Kỳ Viên, những thời thuyết pháp khác đa phần gần nơi sông kia, cho nên lấy nó làm dụ. Lấy nói về phước: Ý kinh có thể thấy. “Luận nói…”: Là trưng hỏi, nghóa là sau phần nghi thứ ba, trước phần thứ tư quả đã nói về dụ tài bảo Bố thí, nay lại nói nữa, chẳng trùng lặp sao? “Kệ nói…”: là giải thích. Trước kia đã nói một tam Thiên giới bảo thí, nay nói là vô lượng tam thiên giới bảo thí. Đây là so sánh sự vượt trội của nó. “Mà sau đó…”: tức là nhiều trong nhiều, vượt trội trong vượt trội, do vậy mà nói lặp lại. Đây tuy nói trùng lặp nhưng nghóa và ý chẳng trùng. “Vì sao…” là chuyển qua nạn vấn. Ý nói: Vì sao trong phần văn trước chẳng nói luôn dụ này? “Vì để dần dần…”: là dựa chung theo người nghóa là cơ thì cạn mà pháp thì sâu. Nói liền thì khó tin, dần dần lần hồi dẫn dụ làm cho biết được cái đức vượt trội. “Lại nữa, trước…” là dựa theo pháp thông, nghóa là dụ trước chưa nói tứ quả vô tâm, Thích Ca vô đắc, Nghiêm tịnh thổ là bất nghiêm mà nghiêm, tu chứng Phật thân là vô chứng mà chứng. Do vậy mà dụ để so sánh vẫn chưa thể vượt trội, dụ sau đã nói về nghóa này, pháp và lý đều sâu xa, do vậy dụ để so sánh cũng lại càng thù thắng hơn, hoặc có thể xuất sinh nghóa của Phật pháp cũng ở tại phần sau của dụ trước, huống nữa trong phần sau giải thích nguyên do, có năm đoạn văn kinh, cũng thuộc về dụ này, hãy suy ngẫm nó. Hiểu thắng: ý kinh có thể thấy. Câu “Đại ý giống trước”: tức là phước chẳng hướng đến Bồ-đề. Trì, thọ kinh có khả năng thú hướng đến Bồ-đề. Xứ đáng kính: Kinh: có thể biết. “Đại Bát-nhã…”: là dẫn sự làm chứng. Đế Thích mỗi lần ở trong Thiện pháp Đường, thuyết pháp Bát-nhã Ba-la-mật cho Thiên chúng, hoặc có chi chẳng ở tại đó, chư thiên nếu đến đều hướng về phía tòa mà làm lễ, vì trọng pháp mới tôn trọng nơi chốn. “Cao hiểm”: Vì tôn trọng người mà làm cho xứ trở nên cao và rõ để xa gần đều tháy, sinh ra hiềm tôn kính mà sinh ra phước. “Hình mạo”: Trong tháp có hình mẹo của Phật, người thấy ắt sinh tâm kính, thấy nơi thuyết pháp, cũng như thấy hình mạo của Phật, tiếng phạm là Chế Đa, tiếng Hán gọi là Linh Niếu, hoặc gọi là nơi đáng cúng dường, giống với phần này. Gặt hái ích lợi: ý kinh nói: nơi tuyên thuyết tứ cú còn được người, trời cúng dường, huống nữa là người thọ trì hết cả văn kinh này! Như kinh đã nói. “Trước kia bốn câu”: Là căn cứ theo ý kinh này nhìn về những đoạn văn trước mà có hơn và kém. Vì sao? Vì trước kia là nói về nơi chốn, nay nói vềø con người, trên kia nói về bốn cậu kệ, nay thì thọ trì hết, do vậy trước là kém, nay là vượt hơn, phản phục mà nói, cho nên nói là “Hà huống”. “Tối thượng”: là pháp thân, vô lậu vô vi tuyệt thượng thượng. “Đệ nhất”: là báo thân, tôn trong chúng thánh chẳng gì hơn. “Hy Hữu”: là Hóa Thân, như bốn thứ sự, đã nói ở phần trên. Ý nói rằng thọ trì đọc tụng thì có đủ cả ba thân, công đức viên mãn. Có người nói: Có thể đi đến Bồ-đề, cho nên nói là Tối thượng. Hơn hẳn các Thừa, cho nên nói là Đệ nất. Thế gian không có gì so nổi, cho nên nói là Hy Hữu. Nơi có Phật: Kinh ý nói: Văn kinh này ở đâu, ở chỗ đó có Phật và chư đệ tử. “Kinh hiểm…” là tỏ rõ rằng: có Phật và nguyên do có Phật, nghóa là Báo thân và Hóa thân ắt phải y theo pháp thân, pháp thân lại từ kinh mà hiển, đã có giáo Năng hiểm, ắt có Phật sở hiển. Lại nữa, kinh là giáo pháp, Phật là quả pháp, quả do lý mà hiển, lý do hành mà đạt đến. Nay thì ba Phật đều đủ, bốn pháp trọn đầy nơi kinh sở tại, há lại hèn kém! “Lại nữa, tất cả…”: Là tỏ nguyên do có để tử. Hiền Thánh ba thừa, Thể là vô vi, kinh kiểm vô vi, nên có Hiền Thánh. “Tôn trọng”: Nghóa là người chứng Như đều là Thánh nhân nhập lý, đáng tôn trọng. Nếu theo kinh đời ngụy thì chỉ nói có Phật, bảo người ta tôn trọng, chẳng nói có các đệ tử khác. Cho nên văn kia nói: “Tức là có Phật, tôn trọng tựa Phật”. Tên kinh: Kinh hỏi ý rằng: chưa biết kinh này có tên là gì? Chẳng biết tên thì làm sao phụng trì? Đáp văn có thể biết. Trung ý nói: Như Lai thướng thuyết chư pháp danh tướng đều không . nay lại đặt tên này, có nguyên do gì? Ý giải thích rằng: ta đạt danh tên, danh tức vô danh, danh của vô danh, há lại trái với nghóa không? Vì để thọ trì, nên trong vô danh, gượng đặt tên vậy. “Phật đặt…”: là giải thích nguyên nhân đặt tên. (nguyên) nhân tức là nghóa sở mà nó nương theo. Nghóa là kim cang thì có cái nghóa Năng hoại, Bát-nhã thì có cái công quán chiếu, pháp và dụ cả hai đều rõ rệt. Cho nên gọi là Kim Cang Bát-nhã. Thật ra thì cũng dựa theo nghóa kiên cố để đật tên. Nay chỉ giải thích theo tác dụng, nói đầy đủ thì như trong phần Đề mục và trong phần bảy nghóa cú. “Vì đoạn Hoặc, cho nên là Thắng”: Chúng sanh lưu chuyển. Vì bị Hoặc Nghiệp, nếu đoạn trừ Hoặc nhiễm thì thành Phật, thế chẳng thắng sao. “Đối trị…”: dựa theo danh mà hiển nghóa, nghóa thì thật, danh thì giả. Nếu chấp danh gỉa, sao được nghóa thật! E bị chấp ấy, do vậy đối trị. Dị thuyết thắng: Kinh hỏi ý rằng: Ông cho rằng Như Lai ngoài pháp đã chứng, còn có thuyết những pháp riêng khác hay không? Đáp ý rằng: Như Lai ngoài pháp đã chứng không có thuyết pháp nào riêng khác. Đoạn văn này là lần theo đoạn văn đạt tên kinh ở trên mà đến. Yù nói: chẳng nững đặt danh tên kinh này, danh tức vô danh, hể có sở thuyết thảy đều như vậy. Lại nữa, chẳng chỉ ta là vậy, chư Phật cũng vật. “Không có riêng khác…”: Nghóa là một Phật Thích Ca, thuyết đầu, giữa, cuối. Rốt không có riêng khác, không có tăng giảm, chỉ căn cứ theo Chơn thật không có sai khác, chẳng dựa theo ngôn từ có sai khác. “Chỉ như chứng…”: Nêu ra nguyên do, hể khi có thuyết, đều như cái chứng của mình, trong chứng vô thuyết, há lại có khác! “Tam thế…”: Là kết, thông chư Phật: Vì chư Phật đồng chứng. Rốt không có hai nguồn, chẳng chứng thì thôi, chứng thì chẳng khác. Nếu chưa đạt đến cực vị, đang ở trong Nhân Địa, tùy theo sở thuyết của mình, mỗi mỗi sai biệt khác nhau. Vì sao? Vì sở chứng khác nhau, như Địa tiền, Địa Thương Thập Địa, giai đoạn cấp bậc khác nhau. Do vậy người đã đạt đến Quả thì quyết không có thuyết riêng khác. “Cho nên nói…”: La kết, thành nghóa trên, một Phật, nhiều Phật, quá khứ, vị lai sở thuyết đều giống nhau, đều như đã chứng. Thuyết đúng như chứng, chẳng cũng vượt trội lắm sao! “Cho nên luận nói…” là dẫn chứng. “Chỉ riêng…”: thuyết Bát-nhã năng đoạn phiền não, không có một vị Phật nào mà chẳng thuyết như thế, những vị khác đều như vậy. “Đệ nhất…”: Vì Đế lý thì ly ngôn thuyết, tướng thì ly tướng danh tự, cho nên bất khả thuyết. Chứng này trước kia đã như cái chướng, tức là vô sở thuyết. Mà lời nói của Vô Trướng và Thiên Thân tuy tựa như khác nhau nhưng ý thì thật giống nhau đã như kỳ chứng, há lại chẳng phải là đệ nhất nghóa hay sao? Trần thắng: văn hỏi đáp của kinh, có thể xem rõ, giải thích ý rằng: Cái gọi là Trần, chẳng phải phiền não trần, chỉ là Địa trần. Cái gọi là Thế giới, chẳng phải Nhiễm Nhân giới, chỉ là Địa Trần Giới. Đây là mau theo so sánh trước mà đến. Do trước đó nói: Hà sa bảo thí, chẳng bằng trì kinh. Hoặc có người nghe, chưa thể thành tín, cho nên Như Lai, riêng thuyết nghóa này, khiến họ thấy rõ hơn kém, rửa sạch mối nghi, nói đủ ở văn sớ, hiểu được rõ ràng. “Luận nói…”: là giải thích nết cái ý của nó. Ý nói, đất tan thế giới thành bụi trần, trên bụi trần chẳng khởi phiền não, bảo thí được phước, tức có tham sân ngũ dục tự mình vui sướng, không có việc ác nào mà chẳng tạo, cho nên tướng Truyện nói: “Bố thí là sanh oán thứ ba”, cho nên Trần giới hơn hẳn bảo thí, hơn nữa, trần giới chẳng những chẳng khởi lầm lỗi mà còn được điều tốt đẹp, huống nữa là thọ trì kinh này, chắc chắn sẽ dẫn đến Phật Quả, há lại là kém ư? Do vậy, so sánh nhau sẽ có ba lớp hơn kém: Nghóa là Báo Thí chẳng bằng trần giới, trần giới chẳng bằng trì kinh, trì kinh còn thắng hơn trần giới, há lại chẳng bằng bảo Thí! Cũng như trăm họ chẳng bằng Tể tướng, tể tướng chẳng bằng Thiên Tử, Thiên tử còn thắng hơn Tể tướng, há lại chẳng bằng trăm họ! Trong Dụ thì Thiên tử là tối thắng. Trong pháp thì trì kinh là tối thắng. Nguyên do kinh thắng, há chẳng rõ vậy! “Đại vân…”: chỉ so với văn kinh để phân biệt giữa pháp và Dụ, chẳng có nghóa riêng nào khác. Mà ý nói; vi trần là Trần, tham, sân… cũng là trần, vì đều có nghóa là bụi nhơ. Nói tam Thiên là giới, nói Nhân nhiễm phiền não cũng là giới, vì đều có nghóa là Nhân của Hữu vi cũng có thể tam Thiên là khí giới, phiền não là Hữu Tình giới. Nay ở đây chẳng phải là bụi trần tham, sân… và nhiễm nhân giới, chỉ là Địa trần và tam Thiên giới, đây là kết nghóa đã giải thích trên. Quả thắng” Văn hỏi đáp của kinh, có thể biết: Trưng hỏi ý rằng: Vì nghóa gì mà chẳng cho ba mươi hai tướng là pháp thân Như Lai? Giải thích ý rằng: Như Lai thuyết ba mươi hai tướng, chẳng phải là tướng của pháp thân vô vi, chỉ là tướng của Hóa thân hữu vi. “E người bố thí…”: là nói về ý khởi kinh: e ý kia cho rằng: Nếu thí chẳng cầu Phật, tức là gốc khởi phiền não. Vì để cầu Phật thì so lại phiền não? Cái mà người kia cầu, tức là Thân ba mươi hai tướng, để phá cái kiến này, nên lại hỏi thế. “Trì và thuyết…”: Nêu ra sự hơn và kém. Nghóa là Bảo Thí chỉ được sắc tướng, trì kinh thì đắc Bồ-đề, cho nên nói là “thắng hơn phước đức kia”. “Vì sao?… Trưng ý rằng: đã đắc ba mươi hai tướng, sao lại chẳng đắc Bồ-đề? “Vì tướng kia…”: Là giải thích. Lý pháp thân là tướng Bồ-đề, ba mươi hai tướng kia chẳng phải là tướng Bồ-đề. “Cho nên nói…”: Vì Bồ-đề vô tướng, do pháp thân tức là tướng Bồ-đề, chẳng phải tướng Bồ-đề không vậy. Lại nữa, ở trong đó; pháp thân thì thắng, sắc thân thì liệt. Vì sao? Vì pháp thân vô vi Chơn thật tính. Vì sắc thân là Hữu vi tướng hình ảnh. Mà do nhờ Nhân của trì và thuyết là thắng, cho nên trong quả gặt được pháp thân, nhân của Bảo Thi kém, cho nên trong quả gặt được sắc thân, vì vậy mà phần tâm trên nêu ra rằng: “trì thuyết kinh này thắng hơn phước đức kia”. “Phước của kinh…”: Là chuyển qua ngăn chặn giải hiểu sai. E người thí bảo, nghe vừa nói trên, bèn cho rằng tuy biết sắc thân kém hơn pháp thân, bảo thí chẳng bằng trì thuyết. Tôi vì chẳng thể trì thuyết, chẳng cần pháp thân, cứ mãi bảo thí, thành tựu sắc thân, tướng hảo đã tròn, chẳng cùng diệu sao! Vì ngăn chặn cái kiến này mà ở đây nói thế. Nghóa là, trước kia là dựa theo nghóa riêng mà chia ra Nhân và quả, mà nói Bố thí thì cảm Thân tướng. Nếu căn cứ theo nghóa thật mà nói thì chỉ Bố thí một mình thôi thì chẳng thành quả tướng. Vì sao? Là do vì không có Trí Huệ, tùy theo tướng mà sanh ra tình, của Bố thí tuy nhiều, chỉ thành ra Hữu Lậu, dù đắc ba mươi hai tướng cũng chỉ là Sắc tướng của Huyễn Luân Vương, tuy cũng giốn nhau nhưng chẳng gọi là Phật. Nếu có khả năng trì thuyết kinh này thì trí Huệ khởi tròn, y theo Huệ mà hành Thí, chẳng trú Hữu và Không, dùng Nhân Vô lậu, gặt quả Vô Lậu, Ba mươi hai tướng như vậy mới có thể gọi là Phật vậy. “Ý nói…”: Là kết, giải thích nghóa trên, chẳng ra ngoài thuyết trên. So sánh: Kinh ý: Như văn có thể biết được. Chỉ chữ “Thậm Đa” là tỏ rằng phước vượt hẳn mệnh thí. “Xả thân…”: Ý e người nghe Bảo Thí chẳng bằng thọ trì, bèn cho rằng dùng tiền bạc ngoài thân để bố thí, cho nên kém hơn phước của kinh, nếu đem thân mạng Bố thí ắt hơn thọ trì, để phá cái kiến đó, cho nên có đoạn văn này. Sa số còn kém, huống là một thân sao? Khóc than: Kinh ý: nghóa là ngài không sanh nghe sở thuyết trên, hỷ cực thành bi, lệ rơi liền liền, tự bày khúc lòng, thân là La Hán, đã là lâu ngày, Huệ Nhãn tuy khai, chưa nghe giáo này. “Xả thân….” Nguyên do buồn khóc, là có ba ý: 1.Thương cho người kia xả mạng uổng công, cho nên ý nói rằng: Xả mạng hà sa kém hơn trì thuyết, chẳng đạt thâm chỉ, uổng phí vô công; 2.Buồn cho nhiều kiếp chẳng gặp. Cho nên ý nói: tại phàm chẳng nghe, nên gánh phận này, từ khi đạt Thánh quả cũng chưa được nghe pháp thân diêu này; 3. Mừng hôm nay được nghe, vui quá thành buồn. Ngài Thiện Cát mới nghe thêm pháp, vốn Chơn từng nghe. Rơi lệ để tỏ cực kỳ vui mừng nay otrong sớ này chỉ nói về ý thứ nhất. “Luận nói…”: là dẫn chứng. “Huệ nhãn…”: Nghóa là ngài không sanh đến thân gởi vị Tiểu thừa, từ khi chứng Nhơn không đến nay chưa nghe lý của pháp không, vì pháp không là cảnh sở chứng của Đại thừa, cho nên vậy. Vì đây là nguyên do của kinh thắng, có hai lớp ý: 1. Giáo nếu thô thiển, nghe sẽ tầm thướng. Đã cảm buồn khóc, mới biết thâm diệu; 2. Người thường khóc lóc, chưa đáng làm lạ. Thiện Cát buồn đau, mới biết tối thắng, nguyên do tối thắng, chẳng rõ lắm ư! Chánh tỏ: Kinh ý nói: Nếu người được nghe kinh này, có thể sanh ra tín tâm. Tín này nếu sanh, chẳng tin chư pháp, cho nên nói là “Thanh tịnh”. Chư pháp đã mất. Thật tướng sanh vậy. Công đức ba thân, từ đó đầy đủ, chẳng thắng lắm sao! “Đệ nhất…”: như nói ở phần trên, văn kinh lược bớt, cho nên chỉ nêu hai (Đệ nhất, hy hữu). “Trong này” tức là Bát-nhã giáo. “Dự” (ngoài ra, còn lại) tức là trước khi chưa thuyết Bát- nhã. Thuộc Nhị Thừa, Trời, người. Cái gọi là “Thật tướng” tức là tướng của Vô tướng. Nghóa là tướng của vô ngã vô pháp. Nói tóm lại, lìa tất cả tướng, gọi là Thật tướng. Từ “cho nên…”: Văn nói: Ly tất cả tướng, tức danh chư Phật. Nói “Giáo khác không có”; nghóa là trong giáo của người và trời có đủ cả hai chấp, trong giáo của Tiểu thừa thì còn tồn tướng của pháp, chẳng thể lấy tướng của hai chấp mà cho là thật tướng, cho nên nói “những giáo khác chẳng phải là Chơn thật”. Chữ “Phi” giống với chữ “Vô”. Nói “Đây có nghóa là đốn trừ hai chấp, song hiển cả hai không, bệnh không cũng không. Nhị Biên đều lìa, Trung Đạo này tỏ, gọi là Thật tướng. Cho nên nói là “trong đây có”. Hỏi: Thật tướng là Lý, còn giáo thì chỉ là Năng thuyên (tỏ rõ) thì vì sao tín tâm lại có thể sanh ra thật tướng được? Đáp: Nghóa là người tin kinh này, ắt không có hai chấp, chỗ không có hai chấp, tức là Thật tướng, chứ chẳng phải nói là có một thật tướng kiêng sanh ra. Phật tính: Kinh: ý nói: “Thị Thật Tướng” Thể đương Thắng Nghóa, duy chỉ vô tướng, danh là y theo Thế Đế, cho nên nói là Thật tướng. “Vì để ly…”: E nghe cái tên của Thật tướng, bèn sanh ra cái tưởng thật tướng, tưởng tức là phân biệt. do vì thật tướng Chơn Diệu, ngôn niệm chẳng thể đạt đến được. Tuy mượn ngôn niệm, duy chỉ chứng cái tương ưng (với áo). Nếu khởi tình thường thì chỉ duy là hình bóng, e nhận cho đó là thật, cho nên nói rằng “Tức phi”. Tín giải: Kinh ý nói: Tôi là A La Hán, chính mình vâng theo lời Phật, Tín giải thọ trì, chẳng cho đó là việc khó. Nếu vào đời tương lai, trong thời đại đục xấu, cách xa thời Thánh, chẳng nghe Phật nói, xem những lời giáo lý này mà tin hiểu pháp không, lãnh thọ nhậm trì, y theo giải hiểu mà khởi hành, những loại người như vậy, chẳng cũng khó sao? “Vị lai…”: Nghóa là, vào thời đại ngài Vô Trước ra đời là đúng vào Thời chánh pháp, cho nên dẫn những người đặc biệt khá ở thời vị lai để răn bảo những người kém cõi ở thời đó. Mới biết Tiểu nhân hay quân tử, thời đại nào cũng có, đây là chỉ cho những người trì giới tu phước trong thời đại năm trăm năm sau, đã nói trong nghi tình thứ hai. Ba không: Kinh trưng ý hỏi rằng: Dù có người tin hiểu thọ trì thì vì nghóa gì mà được là “Hy Hữu”? Giải thích ý nói: Bởi vì không có những tướng của Ngã, Nhơn… đó tức là Ngã không. Trưng hỏi ý nói: Nguyên do bảo người ta không có những tướng ngã… là sao? Giải thích ý rằng: Bởi vì những tướng ngã… tức là phi tướng. Thể của tướng ngã là pháp tâm, tâm sở, đã không có thể đó thì tức là pháp không. Lại nữa, trưng ý nói: Vì nghóa gì mà bảo là không có tướng của Ngã và pháp. Phần sau giải thích ý nói: ly tất cả tướng, danh gọi là Phật. Cho nên các tướng tuy nhiều nhưng chẳng ra ngoài Ngã và pháp. Nay ở đây tóm thu hết, cho nên nói là “Tất cả”. Những tướng này đều ly thì gọi đó là Câu không( đều cùng là không), cái lý của câu không, tức gọi danh là Phật. Phật từ đó mà thành, cho nên nói là “Thắng”. Nhơn thủ và pháp thủ, nghóa của chúng có thể biết vậy! “Hiển thị…”: Vì Ngã và pháp cả hai đều không, Bồ-tát có được một phần. Ly tất cả tướng mới là Như Lai. Nay hiển thị nghóa này là khiến cho chư Bồ-tát phương tiện tùy thuận theo mà học và tu tập nó, mau chóng thành Phật, cho nên nói “chư Phật Thế Tôn… như thị học”. Ấn định: Kinh ý như văn, có thể biết được. Mà từ trước đến nay, ngay bây giờ Tu Bồ-đề nghe thuyết kinh này cho đến phần Ly tất cả tướng tức danh Bồ-đề, đều là lời nói của không sanh, trong đó quanh co có sáu lớp, đó là: Nghe pháp buồn khóc, tín thì sanh thật tướng, so về khó và dể, vô ngã vô nhơn, pháp chấp kiêm vong, tận thành Phật. Những lời nói như vậy đều thành đế lý, cho nên Phật Thế Tôn ấn rằng: “Như thị”! Nói lặp lại hai lần “Như thị” là biểu tỏ Thế Tôn ấn rằng: “Như thị”! Nói lặp lại hai lần “Như thị” là biểu tỏ lời nói rất đúng lý. Bất động: Kinh ý nói: Kinh này thâm diệu, khó hiểu khó biết, hoặc có người nghe, thường sinh sợ hải. Nếu chẳng sinh ra sợ hải há chẳng hiếm có lắm ư! Người ấy thật là khó có, do vậy mà kinh là Thắng! Ng- hóa của kinh thắng đã biết rõ ràng vậy. Kinh, Bố Úy: Ba hành tướng này khác nhau: Kinh là ngạc nhiên mà quái lạ. Bố: là hoang mang không biết nên tiến hay thối. Úy: là một mực sợ hải. Như một người muốn đi đến kinh Đô, đang đi trên đường cái, vì trước kia chưa từng đến kinh thành nên bỗng nhiên mà kinh, trong lòng tự nghó có phải là đi đường này không? Hoặc tiến hoặc lùi, nghi đúng ngi sai, lòng không có quyết định, cho rằng đi đường này vốn chẳng đúng đường, hoặc muốn quay lại, hoặc sợ hải phát cuồng rớt xuống vực sâu mà toi mạng. Trong pháp cũng vậy, ở trong giáo lý Tiểu thừa, trời, người, Phật nói không, nói Hữu. Người chẳng đạt ý, theo lời mà chấp. Cho đến khi thuyết kinh này thì hiển tỏ cái lý của trung đạo phi không phi hữu, những người trước kia đã chấp, thảy đều kinh sợ, lại cho đó là sai, chẳng thể tiến thối, hoặc rơi vào phàm phu, hoặc rơi vào Tiểu thừa, Bồ-đề Chơn không, từ đó mất luôn. Nay ý kinh nói rằng: Nếu người nào nghe pháp khó tin, bất hữu bất không này mà chẳng sinh lòng kinh sợ thì người ấy chẳng xả bỏ Bồ-đề, tiến hướng vào đại Đạo, chỉ thú thâm diệu, hiếm có người ấy, nếu có người đó thì thật là hy hữu hiếm có! Đại Nhân: Kinh trưng hỏi ý rằng: Vì nghóa gì nghe mà chẳng kinh sợ, đắc là hy hữu? Giải thích ý rằng: Vì pháp môn này là đệ nhất Ba-la- mật trong các Ba-la-mật. Mà pháp môn này, nếu dựa theo thắng nghóa thì chẳng thể nói ra thành lời, cho nên nói là “Phi đệ nhất Ba-la-mật”. Nay những điều nói ra đây là dựa theo Thế Đế mà nói, đó là nghóa của Thắng chẳng cũng vậy sao! Cho nên nói là “ Thị danh đệ nhất Ba-la- mật”. “ 2.Đều lần theo…”: Là trước kia đã hai lớp so sánh, đều nói là kinh thắng, nguyên do kinh thắngm, thì đã kê ra chín môn, trong mỗi một môn đều có một nghóa, chưa biết nghóa nào là nghóa căn bản của thắng (vượt hơn), nay ở trong những nguyên do của sự vượ hơn mà trưng hỏi nguyên do của sự vượt hơn (thắng). “Đại nhân”: là Ba-la-mật thứ sáu Bát-nhã. Vì Phật có ba thân, pháp thân là lớn nhất, mà Bát-nhã thì dắc được pháp thân, nên gọi Bát- nhã là Đại Nhân (Nhân lớn), nó vượt trôi nhất trong sáu độ, cho nên khen là “đệ nhất”. “Hơn hẳn những giáo lý khác,…”: Nghóa là trong giáo pháp người, thời, Nhị thừa chẳng thuyên giảng pháp này. Nay mới thuyên giảng Bát-nhã. Bởi vì sở thuyên của những giáo kia là kém cõi, cho nên Năng thuyen của những giáo kia cũng kém cõi. Còn Sở thuyết của giáo Bát- nhã này là thắng, là vượt trội, nên Năng thuyên cũng thấy, cũng vượt trội. “Thanh tịnh…”: Nghóa là pháp thuộc tùy theo tướng thì lời nói ra ắt có sai khác, Lý thuộc ly tướng thì lời thuyết ra ắt không có sai khác. Vì nó bình đẳng nhất mực, bình đẳng nhất vị, tức là Thắng Nghóa Đế, do những nghóa này, cho nên đó là thanh tịnh vậy. “Do vậy, Bố thí…”: là giải thích chung về ý trưng hỏi. “Đàm” tức là Bố thí. Chung cả Nội tài và ngoại tài, cho nên nói là “Đẳng”. “Vô như thị công đức”: Nghóa là ở tại Nhân thì không có công năng phá Hoặc. Ở tại Quả thì không có cái Đức của pháp thân. “Phước này”: Là thọ trì đọc tụng, mà những phần trên kia phần nào, đều nói về sự vượt trội của kinh, mà căn bản của sự vượt trội thì chẳng ngoài phần này, nó có khả năng năng lực thành pháp thân thanh tịnh, do vậy mà gọi là “Thắng”. Nội tài và ngoại tài Bố thì đâu thể so với nó được. NGHI TÌNH THỨ TÁM: Sớ: Đầu tiên là nêu chương mục. Từ “Hướng thuyết…”: Là chỉ ra chỗ khởi nghi. Nghi tình nàng đến là do từ trong phần so sánh với Nội tài Bố thí ở trên. Nghóa là dùng hà sa thân mạng để Bố thí thì hơn dùng tiền của bên ngoài để bố thí, nhưng vẫn còn cảm thọ cái thân xác khổ đau, cho nên gọi đó là “Liệt” (kém). “Nếu vậy…”: Là ấn định cách nói ở phần trước. “Theo pháp môn này…”: Là kết thành nghi: nghóa là y theo kinh này, thọ trì, giải thuyết chẳng chán nản vì nhọc mệt lao khổ, tức là Bồ- tát Hạnh. Hạnh của Bồ-tát, chẳng việc gì chẳng làm, khoét thân thắp đèn, cắt đùi cứu chim bồ câu, một câu liền nhảy vào lửa, nữa bài kệ mà mất thân. Cúng Phật thiêu thân, quyên thân xác cho cọp ăn, những hạnh như vậy đều gọi là Nhân khổ, hạnh đều giống nhau, quả chứng đâu khác. Nhân và quả đã giống nhau, sao lại có hơn kém? “Sao…”: Ý nói trên kia xả bỏ thân mạng thì thành là quả khổ, nay thọ trì kinh cũng là khổ hạnh, sao lại chẳng thành quả khổ? Thể của Nhẫn: Kinh ý nói: “Nhẫn nhục Ba-la-mật”: Trong thắng Nghóa Đế thì không có tướng này, cho nên nói là “Phi Nhẫn nhục Ba-la-mật”. Ý đoạn nghi là: Nếu như ông nói: Thọ trì kinh này và Bồ-tát hành khổ hạnh thì sẽ giống như xả thân ở phần trên, đều sẽ thành quả khổ. Ở đây nghóa chẳng phải vậy! Trước kia xả thân chẳng đạt vô tướng, tức thành khổ quả, trì thuyết pháp này và Bồ-tát khổ hạnh đạt vô ngã, vô nhơn, biết Nhẫn là vô nhẫn, biết bỉ Ngạn là phi ngạn, trực tạo bổn nguồn, há lại thành khổ quả sao? Cho nên nói “Nhẫn nhục, phi nhẫn nhục…” “Nhẫn đáo bỉ ngạn…”: mà đây là lấy Siêu Nhẫn làm Thể. Cần biết năm lớp từ gốc đến ngọn, rồi sau đó xem quyển sớ phần này thì sẽ biết rõ cái lý của nó, năm lớp là: Là tâm bổn nguồn này chẳng động chẳng tỉnh. Bất nhẫn: nghóa là lấy oán báo oán. Nhẫn tuy chẳng báo oán nhưng lại chưa thể vong hoài, chưa thể quên phức, tức là chưa đạt đến Bỉ Ngạn Nhẫn. Vọng tình tuyệt lự, tịch nhiên bất động, tức là đạt đến Bỉ Ngạn Nhẫn. Chẳng phải động phải tỉnh, tức là siêu Bỉ Ngạn Nhẫn. Vì để trị tâm động, nên mới cư ở cảnh tỉnh. Động đã chẳng thật, tỉnh há lại Chơn! Nếu theo năm môn (lớp) trên mới là rốt ráo. Cùng với lớp thứ nhất trên thì không có hai nguồn, Thể và Tướng thường vậy, rốt chẳng thay đổi. Nay ở đây nói “Nhẫn nhục Ba-la-mật”, tức là môn (lớp) thứ tư trên, “Phi Nhẫn nhục Ba-la-mật”, tức là môn thứ năm. “Ly khổ tướng”: Là đã siêu vượt môn thứ ba Ba Ngạn phi Ngạn, kiêm siêu vượt cả môn thứ tư. Tỉnh cảnh mà còn vượt qua, huống nữa là động tâm! Hai mút từ đầu đến cuối chinh là Thể của Nhẫn. Chánh tỏ: Kinh trưng ý hỏi rằng: Vì những nghóa gì mà có thể hành được nhẫn này? Giải thích ý rằng: Vì không có những tướng, Ngã, Nhơn…” Ca Lợi vương…”: Là nói theo kinh Niết-bàn: ta nhớ xưa kia, sinh ra tại nhà Bà la Môn ở Thành phú Đơn Na. Nam Thiên Trúc, bấy giờ có vua tên là Ca La Phú, tính tình hung bạo, kiêu mạn tự tại, ta vào thời đó, là vì chúng sanh, ở ngoài thành kia, tịch nhiên Thiền tư, bấy giờ vua kia, xuân cỏ hoa bày cùng với quyến thuộc, cung nhân mỹ nữ, ra thành chơi ngắm, ở dưới rừng cây, năm dục tự vui, cái vị nữ đó, bỏ vua đi chơi, bèn đến chỗ ta, ta vào thời ấy. Vì muốn đoạn trừ lòng tham vui thú của những người nữ kia mà thuyết pháp cho họ, khi ấy vua thấy ta, bèn sinh ác tâm, mà hỏi ta rằng: Ngươi nay đã đắc quả A La Hán chưa? Ta nói: chưa đắc! Lại hỏi: Đã được quả Bất Hoàn chưa? Ta nói: chưa đắc! Lại nói: ngươi tuổi còn trẻ, chưa đắc hai quả như vậy, tức là có đủ tham dục phiền não, sao lại mặc tình ngắm nhìn nữ nhân của ta. Ta bèn đáp rằng: Đại vương nên biết, ta nay tuy chưa đoạn trừ tham dục kết nhưng trong nội tâm ta thật không có tham trước. Vương nói: đồ người si ngu! Ở thế gian có Tiên Nhân hít không khí, ăn trái cây, thấy sắc còn tham, huống nữa là ngươi, thanh niên chưa đoạn trừ tham dục, làm sao thấy sắc mà chẳng trước dính, ta nói: Đại Vương! Thấy sắc chẳng tham, thật ra chẳng do từ nhờ hít khí ăn quả, đều do nhờ buộc niệm ở vô thường, bất tịnh. Vua nói: như có khinh người ta mà sinh ra phỉ báng, thì làm sao có thể gọi là tu trì tịnh giới, ta nói: Đại Vương! Nếu có tâm đố kî ghen tî thì tức là phỉ báng, tôi không có tâm đố kî ganh tî thì sao thể gọi là phỉ báng. Vương nói: Đại si! Sao gọi là Giới? Ta nói: Nhẫn, gọi đó là giới. Vương nói: Nếu nhẫn là giới, ta sẽ cắt tai ngươi, nếu ngươi nhẫn được, biết ngươi trì giới. Bèn cắt tai ta, khi ta bị cắt, sắc mặt chẳng đổi, bấy giờ, quần thần của vua, thấy sự này rồi, bèn can vua rằng: Đại só như vậy, chẳng nên gia hại! Vua nói với quần thần: Các ông làm sao biết đó là Đại só. Chư thần nói: thấy khi chịu khổ, sắc mặt chẳng đổi. Vua lại nói rằng: ta sẽ thử thêm một lần nữa thì biết có đổi hay không đổi! Bèn xẻo lổ mũi, chặt đứt tay chân. Bấy giờ Bồ-tát trong vô lượng vô biên kiếp sống, đã tu tập Từ bi thương xót nổi khổ chúng sanh, khi ấy Tứ Thiên Vương lòng ôm tức giận, làm mưa đá sỏi, vương thấy việc ấy, tâm đại sợ hải, lại đến chỗ ta, quỳ xuống mà nói: chỉ mong thương xót, nghe tôi sám hối! Ta nói: Đại Vương! Tâm ta không sâu, cũng như không tham. Vua nói: Đại Đức! Làm sao biết được? Ta bèn lập thề: Ta nếu Chơn thật không có sân hận thì khiến cho thân này của ta, bình phục như xưa! Phát nguyện ấy rồi, thân liền bình phục. Sớ nói “Hỏi đắc tứ quả” là theo tướng chung mà nói. “Luận nói:…”: Nghóa như giải thích ở sau. Phần hiển: Kinh trưng ý hỏi rằng: Vì nghóa gì mà biết được không có những tướng Ngã, nhơn…? Giải thích ý rằng: Nếu có tướng ngã thì phải sinh ra sân hận! Đã chẳng sân hận tức không có tướng Ngã, như xưa kia lập lời thề; Nếu thật không sân, thân liền bình phục. Vì vô sân nên biết là Vô Ngã. Vì vô ngã nên mới thành Chơn thật Nhẫn Ba-la-mật, tứ chi lìa khỏi. Tương tục Nhẫn: Kinh ý nói: e người ta sẽ cho rằng chỉ là một lần chịu được Nhẫn này, cho nên nói rằng quá khứ đã năm trăm kiếp sống! Hoặc e người ta nói rằng vô ngã chỉ có Nhẫn chịu tạm thời, nếu nhiều lần thì ắt chẳng thể như vậy. Cho nên nói trãi nhiều kiếp sống thảy đều như vậy. Hoặc e người nói có nguyên nhân gì đó mới nhẫn. Vì vô ngã nên có thể Nhẫn. Cho nên nói nhiều kiếp để tỏ là Nhẫn đã thành thục! Ngầm có ba ý cho nên nói lời ấy! “Nhờ tích lũy khổ”: Bốn nghi nhiều khổ chồng chất thì khó mà nhẫn nổi, nhưng lại do nhờ nhiêu khổ chồng chất mà có thể nhẫn được. Đây là hai ý sau trong ba ý trên. “Mà Lạc”: Có bốn ý, cho nên là Lạc: 1. Vì nhẫn thành thục nên Lạc, như người dùng sức lâu ngày thì đắc được chí hướng; 2. Vì chánh Định cho nên lạc. Vì thường ở Đại định, tịch diệt bất động; 3.Vì thương người, cho nên lạc, như con nhỏ nhờ vào cha, cha vui vẻ; 4.Vì tự lợi mình, cho nên lạc, đem huyển hình này, đổi thành kiên cố. Có đủ bốn ý này, cho nên nói là “Lạc”. Văn của quyển sớ chỉ có ba ý trước. “Cho nên kệ nói…”: Là dẫn chứng. “Như thị khổ hạnh quả”: là đối phá nghi tình, nghóa là nhân khổ thì quả lại khổ, nhân lạc thì quả lại lạc, cho nên khác nhau, như nếu vàng làm thành đồ vật, đồ vật vẫn là vàng, trộm đất làm ngói, ngói vẫn là đất. Trên kia trưng ý hỏi rằng: Sao pháp này lại chẳng thành quả khổ? khổ. Nay đây kết rằng: Vì khổ hạnh như vậy nên chẳng thành quả 2. Khuyên ly tướng: Sớ có hai phần: 1. Dẫn luận tỏ ý. Từ “Luận nói:…”: là nêu ra nguyên do khuyên, nghóa là chẳng thể an nhẫn, muốn xả Bồ-đề tâm, do vì thấy khổ. “Thấy khổ là khổ”: là do vì chẳng lìa khỏi Ngã tướng, nếu ly ngã tướng, ắt chẳng thấy khổ, tự nhiên thành nhẫn, chẳng xả Bồ-đề. Nay khuyên bảo ly tướng. “Bồ-đề tâm”: nghóa là thượng thì cầu, hạ thì hóa. cả hai lợi chẳng ngừng nghó. Nếu đã thấy khổ là khổ thì chẳng thể quên thân xả mạng, ra sanh vào tử. Do vậy mà sẽ xả bỏ Đại Bồ-đề tâm. Cũng như Xá-lợi- phất vốn xưa kia phát đại tâm, hành Bồ-tát hành, khi đạt đến Lục Trú Vị, bị người ta xin con mắt, bèn sinh tức giận, chẳng thành Hạnh Nhẫn, bỏ Đại thừa quay về Tiểu thừa, đó là do vì Ngã tướng. “Ba loại khổ”: hai loại khổ trước, tức là đoạn văn sau, loại khổ sau tức là trong mối nghi thứ mười, tâm trú ở pháp mà hành Bố thí, ý nói trú tướng mà hành Bố thí thì sẽ rơi vào trong Hữu Lậu, thọ dụng dục lạc, mệt mỏi ma sanh ra khổ. Cũng có thể là Hữu Lậu thì có hạn. Ví có giới hạn, nên thiếu thọ dụng, vì thiếu thọ dụng, nên sinh ra khổ. Mà nay ở đây là y theo sự chia kinh của ngài Thiên Thân, nên chẳng thụ lấy vào đoạn này. Hai văn trước, lý tương tựa nhau, cho nên toàn dùng lấy. Nêu chung: Kinh ý nói: Vì không có ngã tướng mà đắc thành Nhẫn Hạnh, cho nên chưa Bồ-tát kia, cần phải ly tướng mà phát Bồ-đề tâm. “Nếu ly tướng…”: Trú tướng đã là xả Bồ-đề tâm, bất trú tức là thành Đại Nhẫn, tâm Bồ-đề, tự nhiên lâu bền, làm gì có chuyện xả bỏ. “Ngài Vô Trướng…” có thể biết! Lưu chuyển khổ: Kinh ý nói: Chẳng nên trú sáu cảnh, sắc… sinh ra vọng tâm, nên sinh tâm Bồ-đề Vô trú. Nếu tâm có trú cảnh giới sắc,… tức là chẳng phải trú Bồ-đề. Vì những nghóa này, Phật trong phần chánh đáp hỏi, nói rằng Bồ-tát tâm chẳng nên trú sắc,… mà Bố thí. Hạnh của Bồ-tát, chỗ nào cũng như nhau, cho nên dẫn đoạn văn trước để chứng cho đoạn văn sau. “Lưu là…”: là giaỉ thích văn trên chia mục. Đây tức là trong Tứ Đế, hai đế trước là Nhân quả thế gian. Đại Vân giải thích rằng: tập đế là chiêu mời quả khổ, cho nên nói đó là “Lưu”, sinh tử chẳng ngừng, cho nên gọi đó là “chuyển”. Ở đây thì theo nghóa nói theo xoay vần. “Trước sắc…”: Trước dính sắc… thì sẽ mệt mỏi, Bồ-đề tâm chẳng sinh, chẳng trước dính sắc,… thì sẽ chẳng mệt mỏi, Bồ-đề tâm sinh vậy. “Dẫn lời trên…”: là trong phần văn nói về tu hành ở trên, đã như phần trên nói. Tương vi khổ: Kinh ý nói: Bồ-tát hành hạnh, vốn vì lợi ích chúng sanh, cho nên ly tướng mà hành Bố thí. Nếu có thể ly tướng thì khi chúng sanh trái nhau sẽ chẳng sanh ra mệt mỏi. Hống nữa ngã và pháp, cả hai tướng, Như Lai thuyết là phi tướng. Vì đều là bổn vô (vốn không) cho nên cần phải ly vậy. Nếu chúng là bổn Hữu (vốn có), thì cần gì ly chúng, ý chỉ khuyên ly, mới chính là đây vậy! Trong văn của quyển sớ, dẫn ngài Vô Trướng để tỏ rõ ý. “Đã vì…”: Bởi chẳng hợp vì mà vì để. Như người ta mời khách, vốn vì để cung ứng, cung cấp, mà thấy khách có nhu cầu, lại sanh ra lăng nhục khách, thì có hợp lý hay không? “ Do vì chẳng thể…”: Là nguyên do nổi cơn sân. “Hiển thị…”: là nêu ra ý kinh, chỉ cần không có hai tâm đó thì sẽ tương ưng nhau. “Luận nói…”: là phần hai, theo văn giải thích của ngài Thiên Thân. “Chúng sanh tướng” bản kinh đời Ngụy nói: tất cả chúng sanh tướng. “Trong ấm…”. Nay ở trong ấm chẳng thấy có Ngã, cho nên nói là phi tướng. “Pháp ngũ ấm”: Vì những chúng sanh kia đều dùng sở thành của ngũ ấm. “Ấm không…”: Vì không có Ngũ Ấm năng thành, cho nên nói là pháp vô ngã. Mà hai tướng Nhơn và pháp này vốn tự nó không, vô chúng sanh chẳng biết, vọng chấp là có. Nay những điều nói ra, ý là muốn cho biết để mà lìa chúng. Lại nữa, văn của kinh khi nói về Ngã và pháp này, văn và ý ngược nhau. Văn thì trước pháp sau nhơn. Ý thì trước Nhơn sau pháp, trong bản kinh đời Ngụy, câu văn rõ ràng, cho nên trong quyển sớ này thuận theo ý mà giải thích. NGHI TÌNH THỨ CHÍN: Quyển sớ đều thêm là nêu chương mục. “Ở chứng…”: Là nói về ý nghi và chỉ ra chỗ khởi nghi. Nghi tình này đến từ nghi tình thứ ba và thứ bảy. So sánh kia dùng nội tài và ngoại tài để bố thí chẳng bằng trì kinh, vì đây thì đắc Bồ-đề, cho nên khởi nghi rằng: Nếu vậy thì ngôn thuyết là Nhân, Nhân tức là lời nói, nhờ lời nói này mà chứng quả, lý ắt chẳng thành! Vì sao? Vì quả là vô vi, vô vi thì có Thể, Nhân và Hữu vi, Hữu vi thì không có thể. Lời nói thuộc không có Thể thì chẳng đạt đến trong quả, thì sao lại nói kinh này mà là làm Nhân? Đoạn nghi: Kinh ý nói: Lời nói của Như Lai, Chơn thật không khác, đều như sự của nó, chẳng lừa dối chúng sanh, trì, thuyết kinh này ắt sẽ thú hướng đến Bồ-đề. Các ông sao lại chẳng tin. Lại nữa, vì lời nói của Như Lai là ngay bằng với sự Chơn thật, cho nên gọi là Như Lai. “Là Chơn ngữ giả”, “Là thật ngữ giả” chữ “giả” đều thuộc Như Lai. Văn sớ, đầu tiên là lược nêu ý kinh: “Phật sở…”: Là nói chung về ý định nghi. “Đều như kỳ sự”: Tức là những sự do bốn ngữ ở phần sau sẽ nói. “Nay nói…”: là dùng cái kia để so với cái này. Ý nói: Kia đã chẳng sai lầm thì đây há lại chẳng đúng! “Chơn ngữ…”: là phần hai, giải thích rộng về năm ngữ: Phật thân tức là Chơn thân, vì pháp thân hợp với báo thân, lý và trí không hai mà nói. Nếu chia ra mà nói thì Phật thân là báo thân, Đại Bồ-đề pháp là pháp thân. “Là Chơn Trí”: Bởi vì Bồ-đề là giác, giác tức là trí. Luận nói: y theo pháp Thân này, gọi danh là Bổn giác. Pháp thân và Báo thân hợp lại mà nói thì đồng danh là Chơn thân. Như Lai nói pháp Chơn Trí này, gọi danh là “Như Lai và Chơn ngữ giả”. Đây là lấy sở thuyết gọi danh là Năng thuyết, những ngữ khác đều lệ theo như vậy. Nghóa của chữ “Thật Đế” đã nói như trên. “Như Ngữ…”: Tiểu Thừa tuy có cáo Lý của sanh không, nhưng chẳng phải thật Chơn Như. Vì đây chỉ là Chơn lệnh, chưa triệt nguồn, cho nên trong Đại thừa, hiểu đủ cả ba không, bệnh không cũng là không, đó là cứu cánh Chơn Như pháp. “Bất Dị Ngữ”: thọ ký cho đệ tử ba thừa, những sự việc kiếp số lâu dài, danh hiệu Thọ Lượng quốc độ,… mỗi một sự chẳng khác nhau. “Phật…”: nghóa là vốn chỉ có bốn ngữ, vào đời Tần Cưu Ma La Thập dịch, thêm vào một ngữ này, vì muốn dùng nó để tóm thu cả bốn ngữ, làm rõ ý Phật dùng nó để đoạn trừ nghi. Có thể nêu ra từng ngữ một mà hỏi để tỏ rõ nghóa của bất cuống”. Hơn nữa, như khi Phật thuyết Đại Bồ-đề pháp là Chơn trí thì đó là Chơn hay chẳng Chơn? Thì sẽ trả lời rằng: là Chơn, Như Lai là bậc Chơn ngữ! Thế là nghóa của bất cuống sẽ rõ vậy, những điều khác đều theo lệ đó vậy, thuyết về bốn sự này đã chẳng lừa dối người, nay nói thọ trì kinh này sẽ đắc quả Bồ-đề, há lại thành lừa dối hay sao? Vì sao chẳng tin? Tuy ngôn thuyết này là nhân Hữu vi vô thể, nhưng có thể chứng quả vô vi ly ngôn có Thể, cho nên kệ nói: “Quả tuy bất trú Đạo, nhưng thủ năng làm nhân”. Vì chư Phật ngữ, trí kia có bốn loại, cũng như Tịnh Danh nói: văn tự ly tính, tức là giải thoát, không ly văn tự, mà thuyết giải thoát. Ly chấp: Kinh ý: phần trước tuy dùng lời nói để trừ nghi, nhưng lại e theo lời mê sinh chấp. Nghe nói y theo lời nói mà đắc Bồ-đề, bèn cho rằng trong ngôn thuyết lời nói có Bồ-đề, đến khi nghe nói trong ngôn thuyết không có Bồ-đề, bèn cho rằng rốt ráo không có Bồ-đề. Chẳng đạt ngôn thuyết là không mà pháp là thật, cho nên tạo ra mối nghi này. Nay để trừ bỏ nó mà nói rằng: “Như Lai sở đắc…” “Như ngôn…”: ngôn thuyết là do duyên sinh, vốn không có tự tính. Bồ-đề trong ngôn (lời nói) cũng đồng với ngôn thuyết. Vì sao? Vì có danh mà không có thật, như nói lửa thì chỉ có danh từ lửa. Danh và ngôn, cả hai pháp đều không có Thể Tính, cho nên nói là “Như ngôn…” “Chẳng như…”: chẳng tựa như ngôn thuyết. Nghóa là ngôn thuyết rốt ráo vô thể, pháp Bồ-đề thì bất vô ( không phải không có) nhưng do vì nó chẳng ở tại trong lời nói, nên pháp ly ngôn thì bất vô. Cũng như lửa không có trong lời nói nhưng lửa ly ngôn thì bất vô. Do trong lời nói tuy không có lửa nhưng cũng có thể nhân ở lời nói mà được lửa. Trong lời nói tuy không có Bồ-đề, nhưng cũng có thể nhân ở lời nói mà đắc Bồ-đề, bởi vì y theo lời nói mà tiến tu thì ắt sẽ chứng Bồ-đề. Nếu vậy thì chẳng nên trong lời mà chấp Hữu, ly ngôn mà chấp vô, đạt Hữu và vô này mới gọi là Ly chấp. Cho nên kệ nói: “Thuận kia thật trí thuyết, bất thật cũng bất hư, như nghe thnah thủ chứng, đối trị như thị thuyết”. NGHI TÌNH THỨ MƯỜI: Sớ đầu tiên là nêu chương. “Nếu Thánh Nhơn…”: là chỉ chỗ khởi nghi. Mối nghi này đến từ trong nghi tình thứ ba. Theo kia thì chỉ nói vô vi, chẳng nói Chơn như. Nay thứ được nói là để phân biệt với những vô vi khác. Sở dó phân biệt là vì muốn hiểu mối nghi cần phải thành nghóa khắp. Vì những pháp vô vi khác có nghóa chẳng khắp. “Chơn như kia…”: là thành lập cái lý, như Hoa Nghiêm nói: pháp tính tại khắp tất cả xứ, tất cả chúng sanh và Quốc Thổ ba thế (ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai), thảy đều tại, không có sót. Vừa không có hình tướng nhưng có thể đắc, đây tức là xứ và trần, trần thời, gồm cả niệm niệm. “Vì sao…”: là kết, thành nghi. Đã khắp cả thời gian, không gian thì hợp lại đều đắc, vì sao lại có người đắc, có người chẳng đắc? Đoạn nghi: Kinh ý nói: Nếu trú pháp hành thí thì chẳng đắc Chơn như, như người trong tối, chẳng thấy gì cả. Nếu vô trú hành thí thì đắc Chơn như, như mặt trời trên bầu trời, chỗ nào cũng rõ. Chơn Như tuy khắp, đắc thất tại người, nghóa lý rõ ràng, còn mê gì nữa. “Vô trí…”: Nghóa là không có cái trí Bát-nhã quán chiếu, do vì không có trí hèn chấp trước sáu trần, sắc… và tất cả pháp không, hữu. Vì trú là nghóa của chấp trước, cho nên nói là “trú pháp”. “Tâm bất tịnh”: do vì chấp trước, cho nên bị nhiễm bởi trần, chánh trí chẳng sinhm chẳng chứng Chơn lý, cho nên nói là “bất đắc”. Đắc tức là chứng. “Hữu trí…”: ngược với trên, có thể hiểu. “Đối trị…”: vì trong kinh có đủ cả Pháp và Dụ. Trong sớ thì phối hợp giải thích, lược bớt nên khó hiểu, nay cần phải nói trước mới hiểu văn của Sớ, nghóa là trong Dụ có năm thứ: 1.Không; 2.Sắc; 3.Ám (tối); 4.Nhật (mặt trời); 5.Mắt. Trong pháp có bốn: 1.Chơn Như; 2.Tính Đức; 3.Phiền não; 4.Trí. Pháp thì bốn, dụ thì năm, con số chẳng ngang nhau. Lấy không dụ cho Chơn Như, sắc dụ cho Tính Đức, bóng tối dụ cho phiền não, mặt trời và mắt cả hai sự dụ cho một trí. Sở dó vậy là vì mặt trời và mắt, hai sự mỗi sự đều có một năng, trong trí Huệ thì có đủ cả hai nghóa. Mặt trời thì năng phá bóng tối, như Trí thì đoạn trừ Hoặc. Mắt thì năng thấy không, cũng như Trí thì chứng lý. Đã là mắt thì không có cái nghóa của phá bóng tối. Mặt trời thì không có khả năng thấy không. Dựa theo nghóa mà chia thì chỉ có bốn đối pháp và dụ. Trong Dụ, ý là: Ví như Hư không, có khắp mọi nơi, tất cả sắc pháp cũng tràn đầy cả thế gian, trăm ngàn vạn người thảy đều ở bên trong sắc pháp ấy. Mặt trời chưa mọc thì trời đất tối tăm, tuy ở tại không mà chẳng thấy không, tuy đứng trước sắc mà chẳng thấy sắc. Nếu mặt trời mọc thì tối tăm liền hết, mắt mày mở tỏ, không và sắc đều thấy. Chẳng những không chẳng có bờ mé, thân ở tại trong đó, nhớ lại khi đang còn ở trong bóng tối, thân chẳng từng tạm ra khỏi. Trong pháp cũng vậy, nghóa là cái lý Chơn Như, ở khắp mười phương, công đức trên tính, cũng khắp tất cả, chúng sanh vô lượng, đều tại trong đó, bởi vì Trí Huệ chưa sinh, nên đều chỉ là Si ám, tuy ở bên trong Chơn lại chưa từng thấy Chơn, tuy có Tính Đức, lại chẳng thấy tính đức. Nếu trí Huệ tỏ phát thì ám tối Mê hoặc trừ sạch, Chơn tính bao quanh, tự nhiên thấy rõ, chẳng những tính không có bờ mé, thân ở tại trong tính, nghó lại khi còn mê ám, chưa từng tạm lìa. Cho nên Triêu Công nói: Đạo xa lắm thay! Xúc sự mà Chơn. Thánh xa lắm thay! Xúc sự mà Chơn. Thánh xa lắm thay! Thể thánh ắt thần. Di Lặc tụng nói: Thời và xứ thật có, vì bất đắc Chơn Như, vô trí bởi trú pháp, người khác Hữu trí đắc. “Đắc đối trị pháp”, tức là trí Huệ, dùng mặt trời và mắt, cả hai thứ cùng dụ cho trí Huệ. Cho nên nói mặt trời là năng trị, ám tối là sở trị. Sở trị bóng tối đã hết thì ánh mặt trời năng trị sẽ hiện tiến, tức là thấy rõ sắc… trong pháp, Hoặc và trí ví cho lời nói trên, cho nên kệ nói: Ám như ngu vô trí, sáng như người có trí, đối pháp và đối trị, đắc Diệt pháp như vậy. Khen Đức: Sở dó hiển tỏ được Chơn Như là do nhờ tâm tịnh, tâm tịnh là do nhờ bất trú vào pháp, bất trú pháp là do nhờ có trí, có trí là do nhờ nghe kinh, mới biết kinh này có thắng đức của nó, cho nên cần phải tán thán để thị hiện cái tướng thấy đức tương lai. “Tức…”: là nêu chung mười đoạn ý kinh, như văn có thể biết. Nói “dùng Phật trí huệ biết công đức” là ý nói: ngoài Phật Thế Tôn ra, những hạng người khác không biết, thế mới tỏ rõ sự thù thắng của công đức. “Nhân thọ trì”: là nêu. “Vì muốn…”: là giải thích. Muốn thọ văn kinh thì trước tiên là đọc, muốn trừ nghóa của kinh mà trước tiên là tụng. Do vậy, thọ và trì đều do độc và tụng, cho nên chia ra Nhân và quả. “Thọ trì…”: nghóa là y theo pháp tổng trì mà thọ trì tu hành, hoặc văn hoặc nghóa, thu tóm lảnh nạp, mới gọi là Thọ trì. Đây là Tư Huệ. “Đọc tụng…”: Nghóa là y theo nghe mà Huệ được mở rộng, độc tụng tu hành, nếu chẳng nghe thì dựa vào đâu mà đọc tụng. Đây là Văn Huệ. Luận nói: Rộng, nhiều đọc tập, cũng gọi là Văn Huệ, nhưng đều nói là tu hành, đó là vì nói theo tướng chung, chứ chẳng phải Tu Huệ trong ba Huệ. Bởi vì tu Huệ thì tương ưng với Lý, nó chỉ là Vô lậu xuất ra bên ngoài thành bốn pháp, đọc tụng, thọ, trì, cho nên chẳng phối với nó, chỉ dựa theo hai Huệ: văn Huệ và Tư Huệ, cùng chung thành tựu. Sớ tiếp đó nói “Đây tức là nghe pháp từ người khác…” “Cho nên kệ nói…”: là dẫn chứng. “Tòng tha” tức là văn Huệ. “Cập nội” tức là Tư Huệ. Phước của xả mệnh: ý kinh có thể biết. “Bởi sự và thời…”: Phần trên đã thuyết về mệnh thí, trong phần này lại thuyết nữa là vì Thời và sự đều thắng. Thời, tức là thời Bố thí. Sự tức là sự việc Bố thí. Trước chỉ một lần thí Hà Sa thân mệnh, thời và sự đều nhỏ. Nay thì trong vô lượng kiếp, hàng ngày ba lần dùng Hà Sa thân mệnh Bố thí, đó là Thời và Sự đều lớn, là thắng phước đức trong phước xả mệnh. Phước do tinh kinh: ý cũng có thể biết. “Bất nghịch”: nghóa là chẳng báng, bản kinh đời Ngụy như vậy. “Tín kinh”: nghóa là trong so sánh giữa năng và Sở đều có hơn kém. Trong Năng thì một hà sa số là kém, ba thời nhiều kiếp là hơn (thấy), đây là lấy thắng mà so với kém, trước cạn sau sau, trời đất xa xôi vậy. Hạng khác chẳng đo lường nổi: Kinh ý nói: Nếu tán thán cho đầy đủ thì chẳng bao giờ hết, nói thật thì có vô biên công đức. “Phi dư…”: Nhị thừa, Bồ-tát chẳng thể biết hết được, cho nên phần trước nói “dùng Phật trí tuệ mà thảy biết”. Lại nữa, văn phần sau nói: “Nêu biết nghóa của kinh này bất khả tư nghị, quả báo cũng bất khả tư nghị”. Phật còn như vậy, huống nữa là những hạng khác lại biết được sao? “Tự giác”: nghóa là dùng tâm suy ngẫm, dùng miệng bàn bạc, chỉ đạt đến cảnh của danh tướng. Vì đây chẳng phải danh tướng nên chẳng thể nghó bàn, duy chỉ chứng tương ưng. “Đẳng cập thắng”: là hai ý: 1.Vì không có gì ngang bằng với thắng công đức này; 2.Vì không có công đức gì hơn nó, không có gì ngang bằng với nó. Cho nên tâm kinh nói: “Thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú”. “Cập”: tức là nghóa của Đẳng, nên chẳng nêu riêng. Đại tâm thuyết: Kinh ý nói: Bởi vì nhhững bậc khác chẳng thể biết được. “Nhất Phật thừa”: Trong kinh đầu tiên là nêu tên Đại thừa, vì e lạm, lẫn lộn với quyền giáo, cho nên lại tách biệt rõ nói là “Tối thượng Thừa giả”. Nay trong sớ xuất ra Thể của tối thượng thừa, cho nên nói là Nhất Phật thừa. Thể vừa đúng là bổn giác, cho nên gọi là Phật, chẳng nhị chẳng tam, cho nên gọi là Nhất Thừa. Vì vậy mà bản kinh đời Ngụy nói: “thuyết cho những chúng sanh trú Đệ nhất Đại thừa”, tức là vừa đúng với ngài Thiện Cát làm cơ cho những hạng bậc phát vô thượng Bồ-đề tâm. Năng truyền: Kinh ý nói: Nếu người năng tuyên thuyết thọ trì, đó tức là tu hành hai lợi, làm cho hạt giống Phật chẳng dứt, ấy gọi là gánh vác Bồ-đề. “Mãn túc vô thượng giới”: Mãn túc nghóa là thành tựu. Giới, nghóa là Nhân, ý nói những công đức chẳng thể đo lường làm nhân cho vô thượng Bồ-đề. “Hà đảm (gánh vác)…”: Ở vai, gọi là gánh (đảm). Vai vác, gọi là Hà (vác)…”. Nay tỏ rằng hành Bồ-tát Hạnh, tức là gánh vác, nghóa là dùng Đại bi mà giáo hóa ở dưới, dùng Đại Trí mà thượng cầu, dùng Đại nguyện mà song vận, an ở trên vai tinh tiến, xuất ra từ trong phiền não sinh tử, niệm niệm bất trú, thẳng đến Bồ-đề Chơn tính tự và tha cùng một thời giải thoát, rồi mới xả bỏ gánh này. Trong kinh pháp cự, có đủ thuyên này. Nay kinh này nói: thọ trì độc tụng tức là tự lợi. Rộng vì người thuyết, tức là lợi tha. Nếu đã là hai lợi kiêm hành thì ắt phải lấy Đại Nguyện làm Thể, do vì nó có thể làm cho Phật chủng chẳng đoạn dứt, cho nên nói là “Hà đảm Bồ-đề”. Lạc Tiểu: Kinh trưng ý rằng: Vì sao chỉ thuyết cho hàng Đại thừa? Vì sao trì thuyết mà gọi là gánh vác Bồ-đề? Giải thích ý nói: Vì những người vui thích với Tiểu pháp thì trước dính vào những kiến; ngã,… chẳng thể trì và thuyết. Mới biết rằng Năng trì, Năng thuyết, là những người thuộc hành Tối thượng thừa gánh vác Bồ-đề. Hỏi: Gì gọi là Tiểu pháp? Ai là người vui thích với tiến pháp? Đáp: Tứ Đế, Duyên sinh, gọi đó là Tiểu pháp. Thanh Văn, Duyên Giác, tức là người vui thích với Tiểu Pháp, tình bị trệ ở trong đó, gọi là Lạc. Kia thì có pháp chấp. Đây thì hiểm cả ba không. Đó là phi xứ, cho nên chẳng thể trì thuyết. Vì vậy Bản kinh đời Ngụy nói: “Nếu người có kiến Ngã, nhơn…. Mà có thể thọ trì pháp môn này, không có chuyện đó”. Mới biết nếu năng trì thuyết, tức là bậc lạc Đại thừa, chẳng trước dính kiến, ngã, nhơn… Hỏi: Thanh Văn, Duyên Giác thông đạt ngã không, sao trong kinh lại nói trước ngã? Đáp: Vì những kiến, ngã, Chơn… là tâm, tâm sở pháp, trước dính chúng, tức là pháp chấp, chỉ cho Duyên Giác, Thanh Văn, hoặc những hàng vui thích với Tiểu pháp, tức là Thanh văn Duyên Giác. Còn trước Ngã kiến, tức là tất cả phàm phu. Như Tháp: Kinh ý nói: Kinh hiển tỏ pháp thân, y theo pháp thân ắt có Báo Thân, Hóa thân, ba thân đã tồn, tháp miều tại đó. Do vậy, khuyên nên cúng dường nơi ấy. Theo quyển Toản Linh ký kể lại: Triều tùy, tại ích châu, Huyên Tân phòn, thôn vương giả, có một thư sinh, họ cẩu, chẳng rõ tên gì, ở phía đông thôn kia, viết chữ ở trong không khí. Người trong thôn hỏi: Viết gì vậy? Đáp: Tôi viết kinh Kim Cang Bát-nhã. Hỏi: Để làm gì? Đáp: Để cho chư thiên đọc. Bấy giờ người nghe thấy, có người nhớ, người quên. Vậy đó khi trời mưa, chỉ có chỗ đó hơn một trượng vuông. Y như trên có mái che vậy, chẳng bị mưa ướt, do vậy trẻ chăn trâu thướng đến chỗ đó để núp mưa, người thời ấy chẳng biết nguyên do vì sao lại vậy, đến những năm đầu đời Vũ Đức, có vị tăng tây vực đến, thần mạo rất lạ, lễ bái chỗ đất đó. Người trong thôn hỏi: Trước mặt không có điện tháp, sao lại lễ bái? Nói: ông là người trong làng sao? Đáp: Vân ạ! Tăng nói: Ông thật chẳng biết, ở đây có kinh Kim Cang Bát-nhã, chư Thiên xây mái che ở phía trên, cúng dường chẳng dứt, sao lại dẫm đạp làm nhơ uế đến vậy! Người trong thôn mới hiểu ra nơi mà thứ sinh họ Cẩu đã viết kinh, từ đó bên hàng rào chung quanh bảo vệ đừng để dẩm đạp nhơ uế, mỗi đến ngày trai thường luôn cúng dường, người chiêm lễ thường nghe tiếng nhạc Trời, đến nay chỗ đó mưa vạn chẳng ướt. Viết trong không khí, không có dấu vết, mà còn như vậy, huống nữa là viết trên giấy trắng rõ ràng mà chẳng được vậy! Chuyển tội: Kinh ý nói: Như người quá khứ tạo cực ác, đúng phải kiếp sau đọa vào ba đời, nếu gặp kinh này, thọ trì đọc tụng, công lực đã trước dính (đã đạt) thì có thể tiêu tan tội cực ác, rồi hiện kiếp nàng gặp những sự việc khinh tiện,sẽ chẳng còn bị đọa vào đường ác nữa, tức là chuyển đổi tội nghiệp nặng thành ra chịu nhẹ, trì kinh, không có những tướng ngã,… tức là phiền não chướng hết tận. Cực ác tiêu diệt, tức là nghiệp chướng hết tận. Bất đọa, tức là báo chướng tận. Ba chướng đã diệt, ba đức ắt tròn. Cho nên nói: “Sẽ đắc Bồ-đề”. “Trong đó bao gồm…”: Bị đánh đập, chưởi mắng,.. đều gọi là khinh tiện. “Tùy dịch…”: Là dẫn chứng. “Vô Trướng…”: Là chuyển qua giải thích. “Vô lượng” dùng thân, khẩu, ý làm những việc chẳng lợi ích, đều thuộc về khinh tiện, cho nên nói là “vô lượng”, “Tội diệt” tội chướng đã tận, dần dần tu hành, nhân tròn, quả đầy, tự nhiên thành Phật. Kinh nói “Đương Đắc” ý tỏ về thời gian sau này, chứ chẳng phải nói kiếp này đắc thành Phật quả. Còn những nghóa về chuyển và diệt khác, đã nói trong phần Huyền đàm về Năm Nhân. Kinh sớ có hai phần: 1.Ý chung: “Tốc chứng…”: Ý nói trì thuyết kinh này, mau chóng chứng pháp Bồ-đề. Cho nên nó vượt hẳn phước của Như Lai thời quá khứ phụng sự nhiều đức Thế Tôn. Cho nên kệ nói: “Phước chẳng đến Bồ-đề, trì thuyết đạt Bồ-đề”. Chia phần giải thích, có hai phần: 1. Phước hoàn toàn đủ: Kinh ý, có thể biết rõ. “Nhiên đăng tiền”, do Thích Ca tu hành trong Nhân Địa, trãi qua ba vô số kiếp, kiếp thứ nhất mãn, gặp Bảo kế Như Lai. Kiếp thứ hai mãn, gặp Nhiên Đăng Như Lai. Kiếp thứ ba mãn, gặp Thắng Quán Như Lai. Nay nói: Nhiên Đăng tiền”, tức là trong kiếp thứ hai. “Na Do Tha”, Số thứ chín, con số sẽ vạn vạn. Thiểu Phần Phước: Kinh ý: So với phước trước. Có thể hiểu. Mà chẳng bằng thì có hai nghóa: 1.Kia thì đắc phước đức. Đây thì đắc Bồ-đề; 2.Kia thì có ngã tướng. Đây thì không có Ngã tướng. Cho nên trước kia nói: Người này không có những tướng; Ngã, Nhơn… Sẽ nghi: Kinh ý nói: trước tuy so sánh, cũng chư nói đủ, nếu nói đủ thì người ta sẽ hồ nghi. “Hồ” là con hồ ly, vì thường đa nghi, cho nên nói là Hồ nghi, quyển Thuật chinh ký nói: Mùa đông khi nghiệp sông bắt đầu đóng băng, cần phải để con Hồ ly đi qua sông, vì con vật này rất giỏi về nghe xong ngóng, nó nghe dưới băng không có tiếng nước chảy, mới đi qua. Bản kinh đời Ngụy thì chỉ nói là: “Nghi Hoặc”. U huyền: Kinh ý nói: Về việc so sánh chẳng bằng, Phật chẳng nói đầy đủ. Bởi vì nghóa của kinh này, cho đến người trì kinh này, quả báo đều chẳng thể suy lường bằng tâm, chẳng thể nghị bàn bằng lời. “Phước Thể”: là nghóa của kinh, đó là chỗ nương của phước. “Quả thể”: tức là Bồ-đề của Phật. “Đo lường”: tức là tư nghị, bởi vì phước Điền, Phật quả đều vô tướng. Mà phần này gọi là Tổng kết, u huyền, là theo phân chia của quyển Sớ thì chỉ nằm trong phần nghi tình thứ mười. Nay xét kỹ thì kiêm cả phần nghi tình thứ ba và thứ bảy. Vì bắt đầu từ nghi tình thứ ba cho đến nghi tình thứ mười lần lượt thứ tự năm lần so sánh, đó là: Ngoại tài hai lần, nội tài hai lần, Phật Nhân một lần, lần thứ nhất dùng Tam Thiên giới bảy báu Bố thí, so sánh chẳng bằng trì thuyết. Lần thứ hai dùng Vô lượng tam thiên giới bảo thí so sánh chẳng bằng. Lần thứ ba dùng một Hà sa số thân mệnh Bố thí so sánh chẳng bằng. Lần thứ tư dùng vô lượng hà sa số thân mệnh bố thí so sánh chẳng bằng. Lần thứ năm dùng Như Lai Nhân Địa cúng dường chư Phật công đức so sánh chẳng bằng. Đến đây là lần thứ năm so sánh cùng cực, không còn có thí dụ nào so nồi, cho nên nói: “Toán số thí dụ chẳng thể bằng”. Nếu nói cho đầy đủ thì người ta ắt sinh nghi. Cho nên lại nói: “Ta nếu nói đủ, hoặc có người nghe, tâm sẽ cuống loạn, hồ nghi chẳng tin”. Từ đoạn này về sau, tán thán, so sánh đều tuyệt dứt, cho nên nhìn về mấy đoạn trước mà tổng kết nói rằng: “Nên biết nghóa của Kinh này bất khả tư nghị…” Hỏi: Từ đây cho đến cuối kinh còn có mấy chỗ so sánh, sao lại nói là không có so sánh? Đáp: Những chỉ khác so sánh, chỉ là ý riêng, dùng nó để đoạn trừ nghi ngờ, thật thì chẳng phải thứ tự năm lớp nói ở phần trước. Do vậy tùy lúc lược nêu ra một tam thiên giới bảo, hoặc Tu Di Tụ bảo, hoặc A -tăng-kỳ giới bảo dùng để so sánh. Nếu chẳng vậy, há lại sau khi đắc thắng nghóa, rồi lại còn nêu ra phước kém để làm thứ tự được sao? NGHI TÌNH MƯỜI MỘT. Sớ: đầu tiên là nêu chương mục. “Phật Giáo…”: là chỉ chỗ khởi nghi. “Trú, tu…”: Là chánh đáp ba câu hỏi và mười đoạn trên. “Nếu Vô Ngã…”: Là kết, thành nghi. Đã dạy tôi trú, tu, lìa lỗi lầm, sao lại là Vô Ngã, Vô Nhơn! Nếu nói vô ngã thì Ai trú, ai tu, ai lìa lỗi lầm? “Còn nói….”: Là nói về nghóa riêng. “Trừ tế chấp”; tức là cái chấp chưa được trừ, nằm trong mối nghi thứ hai. Nay nêu ra nó để khiến đoạn trừ. Hỏi: Chấp và Nghi, khác nhau như thế nào? Đáp: Chấp thì dính cứng, nghi thì chẳng quyết. Nếu theo ý của luận thì chính là trừ chấp, chẳng nói đoạn nghi. Nay sớ nói Đoạn nghi, vì nếu nói trừ chấp thì văn thế sẽ bị cô khởi, huyết mạch chẳng xuyên quán, cho nên dựa theo các quyển sớ để lập ra nghi này. “Kệ nói…” Là dẫn chứng trừ chấp, bởi Đao và tâm, vốn cùng một pháp, chỉ vì tâm vốn vô ngã mà chấp ngã. Đạo vốn bất trú mà thành trú. Cho nên lập chướng tâm trái đạo. Mà văn nói về nghi chấp này, nếu xét kỹ phân biệt nghóa của kinh thì từ câu “Bấy giờ, Tu Bồ-đề…” tức phi Bồ-tát” là Đoạn nghi, đoạn văn sau là trừ chấp, cho nên trong luận khi giải thích xong bèn chỉ rõ đoạn văn sau. Hỏi: Văn kinh tuy tựa như ý câu hỏi trước hoàn toàn riêng khác. Ýù nói: Nếu người phát tâm không có ngã thì ai hàng phục kỳ tâm? Phản phục như đã nói trên, ắt là vô ngã. Kinh ý nói: Nếu người phát Bồ-đề tâm rồi thì phải sanh ra tâm độ tận chúng sanh, nhưng không được khởi niệm có chúng sanh để độ, cũng không được khởi niêm ta độ. Niệm đã chẳng khởi, tức là Vô ngã. Vô ngã tức gọi danh là Bồ-tát. Phi Bồ-tát: Kinh trưng hỏi ý rằng: Vì nghóa gì, độ chúng sanh mà đừng khở niệm chúng sanh? Giải thích ý rằng: Nếu có Ngã tướng, chúng sanh tướng,.. Phi Bồ-tát. Trước là dựa theo cảnh sở độ, đây là dựa theo tâm Năng độ. Tâm và Cảnh hợp luận, gọi chung là Ngã. Đã là trước và sau hổ tương nêu ra thì ắt hiểu tỏ năng và Sở đều là vô. Đều tịch: Kinh trưng ý hỏi rằng: Trước thì không có cảnh sở hóa, tiếp đó thì không có tâm năng hóa, nguyên do cần phải không có Năng và Sở là sao? Giải thích ý rằng: Bởi vì Năng và Sở câu, mười phương là Bồ-tát. Một chữ “pháp”, Năng và Sở câu nhiếp. NGHI TÌNH THỨ MƯỜI HAI: Sớ: đầu tiên là nêu ý. “Nếu không có Bồ-tát”: Là chỉ chỗ khởi nghi, tức là đến từ đoạn văn trước. Vì đoạn văn trước nói: không có người phát tâm, người phát tâm, tức là Bồ-tát. “Thì sao…”: Là kết thành nghi. “Nhiên Đăng”: tức là vị Phật mà Thích Ca đã gặp khi mãn kiếp thứ hai, đang còn ở Nhân Địa. Đã ở xứ kia hành Bồ-tát Hạnh thì sao nói là không có người phát tâm? Nêu chỗ nghi: Kinh ý nói: Trong ý của ông, có cho rằng ta đắc Bồ-đề ở chỗ Phật Nhiên Đăng hay không? Nếu đắc Bồ-đề, sao thành Bồ-tát? Đó là từ chỗ nghi kia mà nêu ra câu hỏi. “Hàng oán…”: Là kể chuyện bổn sự. Theo Kinh Bổn Hạnh kể: Xưa có Đại Thành, tên là Liên Hoa, trong thành có vương tên là Hàng oán. Có một bà la môn, tên là Nhật chủ, được vương coi trọng, chia cho nữa trước, phong cho làm vương, làm vương thành riêng, tên là Duyên chủ. Phu nhân Nhật chủ, tên là Nguyệt Thượng Nhiên Đăng Bồ-tát, giáng thần nách phải, xuất gia thành đạo. Bấy giờ vua Hàng oán sắp muốn nghinh thỉnh Phật Nhiên Đăng, bèn ra lệnh trong ngoài thành, hai mươi do tuần, cấm hái các hoa, không được bán cho người khác, vua đều tự mua, để cúng Như Lai. Phía nam núi Tuyết Sơn ở nước đó, có một phạm chí, tên là Trân Bảo, có năm trăm đệ tử, trong có một đệ tử, tên là Vân Đồng, còn tên là Thiện Huệ, làm Thượng thủ ở trong chúng đó, toàn bộ Tiên pháp, đều học xong rồi, cáo thầy về nhà. Thầy nói: con nay sắp về, cần phải dùng dù lọng thanh tịnh, giày dép, gậy vàng và năm trăm tiền vàng để báo cảm ân. Linh Đồng nói: con nay không có những đồ vật đó, cứ để con đi, được đồ vật rồi, tức liền đưa đến. Thầy bèn cho đi, Vân Đồng nhân nhờ phó Hội Vô Già, được năm trăm tiền vàng, bèn muốn đưa về chỗ thầy, nhân đến bên trong Thành Liên Hoa, thấy thành trang hoàng đẹp đẻ, bàn hỏi người ta, mới biết Nhiên Đăng Như Lai sắp đến, bèn đem ba trăm tiền vàng ở nơi một cô gái, mua được năm cành hoa Ưu bát La. Kiêm thêm cô gái kia gởi hai cành hoa cùng chung cúng dường, khi Phật vào thành, bèn dùng số hoa này rài trên đầu Phật, do nhờ nguyện lực, biến thành lọng hoa, theo Phật đi đứng, do Phật thần lực, hóa một vũng bùn, Thiện Huệ thấy vậy, xỏa tóc mà lấp, lại nghó thế này, nay được Như Lai, đạo trên thân ta mà đi qua, nếu chẳng được ký thì ta chẳng đứng dậy, Như Lai liền đến, bước trên thân mà qua, cấm những đồ chúng đều chẳng được đạp. Bèn thọ ký, nói như thế này, Ma Na Bà này, ở đời vị lai, sẽ được làm Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni, mười hiệu đầy đủ, như Ta không khác! Nay ý Thiện Cát nghó rằng: Nếu đã mua hoa cúng Phật, trãi tóc lấp bùn, tức là Bồ-tát, nếu người đó chẳng phải là Bồ-tát thì ai là Bồ- tát? Đoạn nghi niệm: Kinh đáp ý rằng: Ý ta chẳng cho rằng Như Lai đắc Bồ-đề, ta đã hiểu nghóa những điều Phật nói, ở chỗ Phật kia, không có một pháp nào đắc thành là Bồ-đề. “Thời đó”: là khi được thọ ký trong thành Liên Hoa. Trí ngầm hợp với Lý, Tâm hội với Thần, vong mất pháp sở đắc, không có tâm Năng Đắc. Cho nên nói là “Đều vô…” “Do vô…”: Tức là chỉ về vô đắc ở trên, bởi Bồ-đề mà là pháp, là vì tịch nhiên Vô Sinh, bất không bất hữu, ly tất cả tướng. Nếu ly năng và sở thì thuận với Bồ-đề, được Phật thọ ký. Nếu tồn Năng và Sở thì tâm và cảnh bất vong, ắt sẽ rất trái nghịch với Bồ-đề. Làm sao được ký? Cho nên Tịnh Danh nói: “Tịch Diệt là Bồ-đề”, bởi diệt chư tướng. Ấn quyết định: Kinh ý nói: Lời của không sanh, khen là thật lý, cho nên nói “Như thị”! Từ “Thật vô…”: Là Như Lai thuật thành, có thể biết rõ. “Ta vào thời đó”: tức là thời thọ ký và tu hành. “Không có một pháp nào đắùc Bồ-đề”: Đây là dựa theo ngang và dọc mà hiển nó. Ngang thì ở trong lục độ vạn hành, hành hành đều vô đắc, nếu Bố Thí đắc Bồ-đề thì chẳng cần giới, nhẫn, dọc thì niệm đầu, niệm giữa, niệm sau, niệm niệm đều nghóa của vô đắc. Nếu niệm đầu đắc thì cần gì niệm niệm tương tục, cứ như vậy ngang và dọc trong những tâm hành đều vô đắc Bồ-đề nghóa. “Công đức thí…”: Chưa rõ kinh nào! “Nếu thấy…”: Vì tướng của tự và tha, tương đải nhau mà thành. Đã thấy tha thì ắt cần thấy tự. “Thấy thân thanh tịnh…”: Phản với trước. Thanh tịnh tức là nghóa không. Thấy Tha ắt đã thấy tự, chẳng thấy tự thì chẳng thấy tha, thành đã là tương nhân nhau mà thành thì diệt cũng tương nhân nhau mà diệt. Như Tịnh Danh nói: như tự quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy. Cũng như Chí Công nói: Vì thân ta không, ngàn phẩm vạn loại thảy đều đồng. cũng giống như trong Trang Tử nói: Nhâ có mà có đó, nhân không mà không đó. “Thấy thanh tịn trí…”: Chẳng những không có cái Sở thấy tự tha, kiêm cả không có Trí dụng thuộc về năng thấy. Đó tức là Năng và Sở, cả hai cùng diệt. Viên Giác kinh nói: y theo Huyển mà nói là Giác thì giác đó cũng gọi danh là Huyễn, đã đều là Huyễn, há lại lưu tồn được sao? Mà tuy Năng và Sở cả hai vong mất nhưng chẳng thành Đoạn diệt, bởi vì nguồn linh Chơn tâm vốn không có Năng Sở, vọng sinh ra Năng và Sở tức là trái với Chơn. Năng Sở đã trừ, tức là hợp với Bổn Thể, linh nhiên chẳng muội, vật và ngã đều Như. Cho nên Hoa Nghiêm nói: “Năng kiến và sở kiến, cái kiến thảy trừ bỏ, chẳng hoại ở Chơn kiến, đó gọi là Chơn kiến”. Lại nữa, Viên Giác nói: “Chư Huyễn diệt hết, tâm giác chẳng động”. “Ấy danh thấy Phật”: là kết, thành nghóa của thấy, dụng tâm như trên, mới được thấy Phật. Nếu sinh phân biệt, chấp tướng trái Chơn thì chẳng gọi là Thấy. Cho nên Hoa Nghiêm nói: tất cả pháp bất sinh, tất cả pháp bất diệt, nếu hiểu được như vậy, chư Phật thường hiện tiền. “Đắc Vô Sanh Nhẫn…”: nghóa là vì nhờ chánh Trí nhẫn khả, ấn trì vô snah pháp. Vì tất cả pháp vốn vô snah diệt, chúng sanh mê đảo, vọng thấy sanh diệt, nếu lìa vọng chấp, chánh trí liền sinh, khế hợp bổn thể, đạt tất cả pháp, bổn lai vô sanh, danh là vô sanh nhẫn. Cứ theo lệ như vậy mà nói thì thấy tất cả pháp vô diệt, cũng danh gọi là vô Diệt Nhẫn. Nay thì nêu ra thứ trước để nhiếp thứ sáu. “Nhất Thiết Trí Trí”: là cái trí đạt tất cả chư pháp, biểu và dụng chẳng cùng một mà nói lặp lại hai lần. Chữ “Trí” mà thôi. Có người nói: nương theo Tủy Giác mà hiểu được Bổn giác, Trí nằm trong Trí, gọi danh là Trí trí. “Đắc thọ ký”: Theo quyển Lăng Nghiêm kinh ký thì có bốn loại: Khi chưa phát tâm, được cho thọ ký. Hoặc có người lưu chuyển ngũ Đạo, sanh ra ở nhân gian, yêu thích Phật pháp, trãi qua trăm ngàn vạn ức kiếp, sẽ phát tâm. Trãi qua trăm ngàn vạn ức kiếp, hành Bồ-tát Đạo, cúng Phật hóa sanh, đều khoản mấy kiếp sẽ đắc Bồ-đề; 2. Người vừa phát tâm liền được cho thọ ký: Người này lâu kiếp trồng các thiện căn, yêu thích đại pháp, có từ bi tâm, tức là trú Bất Thối Địa, phát tâm cho ký; 3- Mật ký: có Bồ-tát chưa được ký, nhưng hành Lục độ, công đức mãn túc, Thiên Long Bát Bộ đều nghó thế này: “Bồ-tát này khi não sẽ đắc Bồ-đề? Kiếp quốc đệ tử, chúng số bao nhiêu? Phật vì đoạn mối nghi đó mà thọ ký cho. Cả chúng ai cũng đều biết, chỉ Bồ-tát ấy chẳng biết. 4.Vô sanh Nhẫn ký: Ở trong đại chúng, hiển lộ rõ ràng thọ ký cho. Nay ở đây là đúng vào loại thọ ký thứ tư. Nghóa là trong rải hoa đầu Phật, trãi tóc lấp bùn, nương theo tâm Hữu lậu, mà đắc vô sanh trí, trong một khoản khắc, thọ ký rõ ràng, ở trước Đại chúng. “Tiếng chẳng đến tai”: Năng và Sở đều tịch, bởi vì lìa tâm phân biệt. tam đã chẳng khởi, tai nghe được gì? Riêng “Những trí khác…”: Chỉ vô phân biệt này, chẳng phải cho rằng riêng có một trí khác biết được. Viên Giác nói: “Ly viễn ly, huyển cũng lại viễn ly? “Cũng chẳng hôn mê…”: E nghe đều vô phân biệt, cũng chẳng phải trí khác, bèn cho rằng đồng với gổ đá, một mực đần độn. Cho nên viên giác nói: chư huyển tận diệt, giác tâm bất động, mà ngay cả giác tâm này cũng vô sở đắc. Cho nên tụng nói: “Nếu thời ở Sở Duyên Trí đều vô sở đắc,…”. Đây là ly trầm, ly trạo, liểu nhiên tịch nhiên, diệu khé bổn tâm, rốt vô sở đắc. Thiện Huệ khi đó, tâm giống với đây. Phản phục giải thích: Kinh ý: Có thể biết vậy. “Nếu pháp chánh giác…”: Là giải thích theo phản giải thích. “Bởi vì pháp chẳng thể nói…”: Là phục giải thích. Căn cứ theo đây thì Thiện Huệ ngày đó chỉ nghe lời nói, tính của lời nói thì bổn không, rốt đâu có đắc. Chỉ dựa theo chỗ vọng Hoặc hết tận, Chơn trí hiện tiền, ngay lúc đó, nghóa và ngôn đắc vậy. NGHI TÌNH MƯỜI BA Sớ có hai phần: Một Chia phần. Hai đoạn của phần một này đều thuộc về mối nghi trước, trong đó chỉ men theo mà luận thuật. Nay dùng văn luận để nói riêng, cho nên lại cia nó ra thành hai phần: “Một Đoạn…”: là giải thích theo. Sớ đầu tiên nêu ra chương mục: “Nghi cho rằng không có Phật”: Nếu liểu hiểu cái vô của hư vô thì vô tức là không có lỗi. Nếu chấp đó là vô thì vô đó tức là thương tổn, cho nên thành mối nghi này, pháp sau cũng vậy. “Nếu không có Bồ-đề”: Là chỉ ra chỗ khởi nghi. Mối nghi này đến từ trong mối nghi mười hai. Các quyển Sớ khác khi nói về mối nghi này, đa phần đều viết chữ “Bồ-tát”: rồi nói rằng mối nghi này đến từ mối nghi thứ mười một. Nhưng trong văn của luận chỉ nói là “Bồ-đề”, mới là huyết mạch theo thứ lớp với nhau. “Tức không có…”: là kết, thành nghi. Ý nói: Pháp quả mới gọi là Bồ-đề, chứng đắc mới gọi là Phật. Đã là Bồ-đề bất khả đắc, há lại có người Năng chứng. “Báng”: Tức là lỗi lầm tổn giảm. Nếu nói vô Phật, đó là Chơn báng Phật. Đại Luận nói: Thà khởi Hữu kiến, chẳng khởi Vô kiến… “Để đoạn…”: Là chỉ ra trước văn đoạn nghi. Mà bản Ngụy, văn kia nói: “Như Lai giả, tức thật Chơn Như”. Phi Vô: Kinh trưng ý rằng: Nếu không có Bồ-đề thì không có Phật. Vì những nghóa gì mà có Như Lai? Giải thích ý rằng: Câu Nếu không có Chơn như thì không có Phật” là bởi vì Chơn Như là Phật. Nay Chơn Như vốn có, sao lại còn nghi gì nữa! “Vô Trướng…”: là chèn vào giải nghóa. Vì Chơn Như thông cả phàm và Thánh. Chúng sanh cấu nhiễm, chỉ gọi là Như khứ. Phật vị thanh tịnh, gọi là Như Lai. Cũng như nghóa Mãn Tịnh trong phần tự và nghóa cụ túc thanh tịnh trong phần nghi tình thứ ba. “Giống như…”: Tỏ bằng dụ. Ý nói tinh thuần, cho nên gọi là Chơn Kim (vàng thật). Nghóa là chúng sanh thì như chất khoáng hoàn toàn. Bồ-tát như nũa vàng nữa khoáng, Phật như thuần vàng. Mà tính của vàng vốn có luyện nó thì mới thuần, cũng như Thể vốn vậy, tu nó thì tịnh. Cho nên Kinh Viên Giác nói: Thí như nấu chảy khoáng vàng, vàng chẳng phải nấu chảy mà có, tuy vàng trở lại vồn xưa nay vàng, nhưng rốt cuộc cũng phải nhờ nấu chảy mới thành tựu, vừa thành Thể vàng ròng thì chẳng còn trở lại lần khoáng nữa. Vô Đắc: Kinh ý: Hai người nghe chẳng phải không có Như Lai, bèn cho rằng đã có Như Lai tức là Bồ-đề, lấy cái gì để đắc Bồ-đề, mới gọi là Như Lai? Vì để phá kiến này, cho nên nói: “Hữu Nhơn Ngôn”, đắc thật vô đắc. “Vô Hữu pháp” tức là b pháp. “Hiểu sai”: Là thật chẳng đắc mà cho rằng đắc. “Bất thật ngữ”: Tức là hiểu sai. “Đẳng Bồ-tát hạnh”: nghóa là đem những Bồ-tát hạnh trước kia để đẳng với Bồ-đề, tức là chỉ ra rằng đồng với trong ngàn vạn hạnh trước kia đến nay đều là nghóa của không có Đắc Bồ-đề. Nhưng ngài không sanh lại nghi là Đắc mà cho Phật là đẳng với Bồ-đề. Phật hiểu tỏ nghóa vô đắc, cho nên lấy Bồ-đề mà đẳng (với) hạnh. “Ngài Vô Trướng…”: Có thể hiểu được! Bởi Phật và Bồ-đề, ng- hóa thì chia ra Nhơn và Pháp, nhưng Thể thì không có hai nguồn. Do vậy mà tiếng Đường gọi chung là Giác. Đã là Phật tức là Bồ-đề, Bồ-đề tức Phật, há lại còn có nghóa đắc. Nên biết rằng khi nói thành chánh giác dưới cây Bồ-đề là giống với chỗ Phật Nhiên Đăng kia, cũng vô sở đắc. Sớ: 2.“Đoạn…”: Có hai phần. Sớ đầu tiên là nêu ra chương mục phần nghi không có Phật. Vì trước đó đem hạnh đẳng với Bồ-đề, tỏ về nghóa Vô đắc. “Thì Như Lai…”: Là kết, thành nghi, Ý nói: Hạnh tức là Nhân, Bồ-đề là quả. Đã không có Nhân Hạnh thì làm sao đắc Bồ-đề, hoặc là chẳng dựa theo Năng đắc và Sở đắc để thành nghi, trước kia đoạn nghi thì lấy Bồ-đề đẳng hạnh, như nay khởi nghi lại lấy Hạnh đẳng (với) Bồ-đề. “Để đoạn …”: là chỉ ra đoạn văn năng đoạn. Ngăn chặn nghi: Kinh ý: Bởi ngài không sanh trước kia ngi đắc Bồ-đề là chấp hữu. Nghi này là bất đắc Bồ-đề, là chấp vô. Nay thì cả hai đều trừ bỏ, cho nên nói là “vô thật vô hư”, cả hai chấp đã khiển trừ, lại còn nghi là vô nữa sao? Cho nên nói là “ngăn chặn”. “Không có những tướng, sắc…”: là giải thích “vô thật”. Tức là tỏ rõ rằng Bồ-đề không có những tướng, sắc, thanh,… Mà đây chỉ là không có thật những tướng, sắc, thanh… chứ chẳng phải không có tướng giả, cho nên kinh chỉ nói “vô thật”, chẳng nói hoàn toàn vô. “Đó tức Bồ-đề”: là giải thích “Vô Hư”. Đây có ba ý: 1.Không có xứ tướng, sắc, thanh,… tức là tỏ rằng Chơn Lý vô tướng là tướng Bồ-đề. Tức là lấy tướng, sắc, thanh,… làm tướng Bồ-đề. Do bởi sắc, thanh,… không có tính, tức là Bồ-đề, như hình bóng không có thể, chính là gương sáng. Ngay ở sắc mà tỏ không, chẳng cần đợi Diệt, cho nên nói “Kia tức Bồ-đề tướng”. Tướng tức Tính; 3. Bồ-đề Vô Tướng, lại lấy sắc,… làm tướng; Vì Bồ-đề tức Chơn Như, Chơn Như tùy duyên mà thành sắc,… Luận nói: Vô lậu, vô minh đều đồng Chơn Như Tính tướng. “Ngài Vô Trướng…”: là nêu. “Chơn Như vô nhị”: Vì Hư và Thật là hai biên không và Hữu, Đoạn và Thường. Đã nói là hai câu vô (đều cùng là vô) tức hiểu tỏ Trung Đạo. “Nghóa là ngôn thuyết”: Là giải thích về “vô thật”. Như nói Bồ- đề, nhưng mà trong lời nói không có Bồ-đề. “Nghóa là chánh giác kia…”: là giải thích “Vô Hư”. Có hai ý: 1- Không lìa văn tự mà thuyết giải thoát; 2. Tỏ rằng Bồ-đề khác với ngôn thuyết vì ngôn thuyết hoàn toàn không có tính (vô tính). Cho nên bản kinh đời Ngụy nói: “Bất thật bất vọng ngữ”. Đoạn nghi: Kinh ý nói: Vì tất cả pháp cùng lấy Chơn Như làm Thể, nói “tất cả” là thu hết cả phàm và thánh, cho nên đều là Phật pháp. Chơn Như đã là Phật pháp thì chẳng pháp khác há lại chẳng phải là Phật pháp hay sao? Cũng như tất cả hình ảnh lấy gương làm Thể, cho nên tất ca hình ảnh đều là ảnh gương. Lại nữa, cái nói là tất cả pháp là chẳng định thật, tất cả pháp là toàn không tất cả pháp. “Nhất thiết pháp…”: Về nghóa, như trên đã nói. “Do sắc…”: Nghóa là sắc,… tức không, cho nên phi sắc,… như ảnh tức gương, cho nên phi ảnh. Đây là dựa theo chư pháp tức Chơn, hiển phi pháp. “Chơn Như…”: Nghóa là trong không ắt vô sắc, vì trong thanh tịnh tràn đầy, không chứa những thứ khác. Đây là dựa theo trong Chơn, không có pháp (vô pháp), giải thích phi pháp. Có đủ hai nghóa này, cho nên gọi là Tức phi. “Thị danh…” vì những sắc,… kia tuy chẳng phải là tất cả khất ngại nhưng lại là tất cả Tức tính. Nay dựa theo nghóa này, cho nên gọi là Chơn Như, để phân biệt với những sắc,… vô tính, cho nên gọi là Tự Tính. Chơn Phật: Kinh ý: Vì trước kia nói Phật và pháp cả hai đều bất vô. Lại nữa, Phật và pháp, cả hai đều Bất Dị, chưa biết cái gì là Chơn Thể của Phật và pháp mà nói là bất vô, bất dị? Cho nên đây hiển tỏ rằng Chơn Như là Chơn Phật pháp để làm rõ nghóa của Bất Vô, Bất Dị. “Y kia…”: hai câu nêu ra. “Ly tất cả chướng”: ly phiền não chướng, sở tri chướng. “Khắp tất cả cảnh”: Như Hoa Nghiêm nói: pháp tính khắp tị tất cả xứ. Công đức tức tướng đại, tức đại trí Huệ ánh sáng chiếu khắp pháp giới. Đại Thể tức Thể đại, chỗ sở y của công đức. “Cho nên tức…”: Công đức và Thể quảng đại, từ đây về trước là giải thích về Phật đại thân. “Phi thân…”: là hai câu, văn luận tự giải thích. “Vô chư tướng”: Là không có tướng hữu vi, như ba tướng trước, vì là khác Thể”. “Có Chơn Như Thể”: là có pháp vô vi, như phần trên Ly kia là Như Lai. “Nhiếp tất cả…”: Căn cứ theo lý dung nhiếp. Hoa Nghiêm nói: tất cả chúng sanh và Quốc thổ tam thế thảy tại, không có dư sót. Cho nên gọi là Đại thân. “An lập…”: Lý Chơn Như vốn phi tự tha, phi bất tự tha, vì để phá chúng sanh chấp tự tha, cho nên nói là phi tự tha, gượng nói về hình, cho nên nói là an lập. Đây tức là an lập Chơn như giả danh, gọi là Đại Thân, đã là nhiếp tất cả thì vô tự tha, cho nên Khởi Tín nói: Thể Chơn như này cũng chẳng thể lập, bởi vì tất cả pháp đều đồng với Như.  KIM CANG KINH TOẢN YẾU SANH ĐỊNH KÝ <卷>QUYỂN 6 NGHI TÌNH MƯỜI BỐN Sớ đầu tiên là nêu chương. “Nếu không có Bồ-tát”: là chỉ ra chỗ khởi nghi, mối nghi này đồng với mối nghi mười hai đến trong mối nghi mười một, nhưng khởi thì đồng thời. Đoạn thì thứ đệ. “Chư Phật…”: Là thuận với tha để lập lý. Đã là không có Bồ-tát, tức là không có sự này, không có Phật thì chẳng thành Bồ-đề, tức là chúng sanh chẳng nhập Niết-bàn, chỉ dựa theo phàm và Thánh mà chia ra Nhân và Quả, phần sau kết về chỗ của nghi thì hợp lại mà nói. “Sao Bồ-tát lại…”: là kết, thành nghi, ý nói: Nếu không có Bồ-tát thì kẻ độ chúng sanh, nghiêm thổ là người nào? Thất niệm: Có thể biết, nhưng nói “Diệc như thị” là men theo văn chỗ khởi nghi, chứ chẳng phải tiếp theo đoạn văn trước. “Kệ nói…”: là kiêm giải thích nghóa của Nghiêm Thổ ở đoạn văn sau, vì văn ý dính liền nhau cho nên nối liền lại mà dẫn chúng. Câu đầu là nêu, hai câu tiếp là giải thích, câu sau cùng là kết, ý nói: Chơn giới bình đẳng, nghó tâm liền sai lệch, đã sinh tâm đó, há chẳng điên đảo! Câu “tác như thị ngôn” trong kinh, tức là sinh tâm. Vì đó là lời của ý. Vô Nhơn: Kinh trưng ý rằng: Vì sao tác niệm ấy thì chẳng danh là Bồ-tát? Giải thích ý rằng: chỉ dựa theo vô ngã, vô nhơn, Chơn như thanh tịnh mà gọi là Bồ-tát, chứ chẳng có riêng một pháp khác. Cho nên đoạn văn sau nói: Nếu tác niệm ấy thì chẳng danh là Bồ-tát. Sớ văn có thể biết. Tiền thuyết: Vì những nghóa đó, Phật thường tuyên thuyết, tất cả chư pháp đều không có tướng, ngã, nhơn,… mà tất cả chư pháp vốn vô ngã, vô Chơn, chỉ cần trái với đó, tức là chúng sanh, thuận đó tức là Bồ-tát. Thất niệm: Kinh ý: theo phần trên thì rõ. Giải thích nguyên do. Kinh trưng ý: giống như giải thích trên. “Như Lai thuyết trang nghiêm Phật Thổ”: chẳng có Năng Nghiêm và sở nghiêm thì nghiêm đẳng với bất nghiêm, không có hai, đó là Chơn Nghiêm. Nay đã khác đây, cho nên là phi Bồ-tát. Giải thích thành Bồ-tát: Kinh ý: có thể biết. “Luận nói…”: là giải thích chung đoạn văn trước, dùng văn kệ nêu chung ở trước, văn luận giải thích chung ở sau, trước và sau nhìn nhau lý sẽ rõ ràng. “Khởi những tâm gì…”: Là dựa theo trong hỏi của Luận. “Cho nên kinh nói…”: Là dẫn kinh giải thích. “Ngài Vô Trướng…”: Có thể biết! Hỏi: Đây và nghi tình thứ sáu về nghóa có khác gì nhau? Đáp: trước là đối với vô thủ mà nghi Hữu thủ. Đây là đối vô nhơn mà nghi hữu nhơn. Mà Nghi tình này và nghi tình thứ mười hai đều khởi từ trong nghi tình thứ mười môt. Văn kia nói: Không có kẻ phát Bồ-đề tâm. Ý Phật chỉ là quét cái tâm Ngã, Nhơn, chẳng phải dập tắt Bồ-tát ngài không sanh chẳng đạt ý đó, bèn cho rằng Ngã, Nhơn chẳng khác với Bồ-tát. Do vậy, chỗ ngài không sanh khởi nghi thì nói “Nếu không có Bồ-tát”. Chỗ Như Lai đoạn nghi thì nói “Vô Nhơn”. Cả hai bên ngấm ngầm, chưa từng nói rõ ra, mãi cho đến chỗ này mới thông suốt. Văn kinh chỉ nói kẻ thông đạt vô ngã pháp, Như Lai thuyết danh, Chơn là Bồ-tát. NGHI TÌNH MƯỜI LĂM Sớ: đầu tiên là nêu chương. “Phần trên kia nói Bồ-tát…”: là chỉ chỗ nghi khởi. Đây là đến từ trong nghi tình mười bốn, vì phần trước nói. Ta độ chúng sanh, ta nghiêm Phật thổ, đều phi Bồ-tát. Đây thì nghóa của chẳng thấy tự tha. Nếu nói chung thì cũng kiên đến từ phần chánh đáp câu hỏi và trong nghi tình mười một. “Nếu như vậy…”: là kết, thành nghi. Vì nghe chẳng thấy những tướng tự tha, bèn cho rằng Như Lai đều không có Trí Nhãn, cho nên thành nghi. Sớ: “Đoạn nghi này…”: là phần hai, dẫn luận tỏ ý. “Kệ nói…”: là bày tỏ ý đoạn nghi. Câu đầu là túng cân tiếp là đoạt. Câu thứ ba là tỏ Ngũ nhãn năng kiến, thể Thường, cho nên nói là Thật. Câu sau cùng là tỏ về Chư tâm sở kiến, thể Vọng, cho nên nói là Điên Đảo. Mà mấy loại tâm này là Trí sở tri cảnh, nay phối thành sở kiến cảnh. Bởi vì Như Lai Tri kến không có hai thể. Theo Nhãn gọi là thấy, tại tâm gọi là tri, cho nên trong trú mười tám, hợp lại thành một trú xứ. Ý đoạn nghi nói: Bồ-tát chỉ ly phân biệt năng và sở. Cho nên nói là chẳng thấy, chư Phật há lại không có Trí Nhãn Chơn thật! Đây là tỏ rõ chánh đoạn nghi tình đó, phần sau chỉ theo văn chia phần giải thích. Văn Sớ có năm phần: ba phần sau là theo kinh mà đoạn nghi. - Nhục Nhãn: Kinh hỏi đá, văn ý có thể biết. “Cục thịt…” nghóa là bốn trần gọi là thịt, Nhãn căn thanh tịnh, nương theo thịt mà trú, gọi đó là Nhục Nhãn, chư Lăng Nghiêm nói: mắt như trái nho, tai như lá mới cuốn, mũi như trái dưa song thùy, lưỡi như trăng đầu tháng, thân như trán eo trống, ý như thấy trong phòng tối, Nhãn căn thanh tịnh nương theo đây mà phát. “Chướng nội…”: Dựa theo Sở kiến phân tề để kết danh. Con mắt nương vào thịt, gọi đó là Nhục Nhãn. “Phật đủ…”: hoặc có người hỏi rằng: Phật là Chí tôn sao lại đồng với phàm có mắt thịt? Cho nên ở đây đã thông, mà chỉ dựa theo chỗ đủ chư các mê nói có nhục nhãn, chứ chẳng nói Như Lai là thân xác máu thịt. Cho nên kinh nói: Xả vô thường sắc, được thường sắc… “Nhục nhãn biên…”: Nghóa là khi tác quán hành, nương theo Nhục nhãn xứ, tưởng cảnh giới ngoài, quán tưởng thành mà thấy những sự việc ở bên ngoài, gọi đó là Thiên nhãn, như ngài A-na-Luật… “Đại Bát-nhã…” trước câu “Phật thuyết” là chỉ dựa theo danh mà giải thích chung, cho nên nói là “Chướng ngại”. Nay là dựa theo Phật vị mà nói, cho nên nói là “vô số thế giới trong cõi người…” “Ngoại trừ cõi Trời ra…”: là kết thành phân tề, cũng tỏ rõ rằng thể của cả hai nhãn đều là giống nhau, vì Thể của Phật nhãn là một mà có năm tác dụng, “Căn bản trí có thể sinh ra hậu Đắc Trí, còn gọi là chánh Thể trí, Chơn Trí, Như Lý Trí, vì nó có thể chiếu Chơn, cho nên gọi là Huệ Nhãn. Hậu Đắc Trí là từ sau căn bản trí, mới có thể khởi được, còn gọi là Biến Trí, tục trí, như Lượng trí, do vì nó có thẻ đạt tục, cho nên gọi danh là pháp nhãn. Hỏi: Theo nhãn một và nhãn hai, thì trước cạn sau sâu, vì sao nhãn ba và nhãn bốn lại trước sâu sau cạn? Đáp: Trước là dựa theo thứ đệ của Nhãn. Đây là dựa theo thứ đệ của chứng. Bởi vì đạt tục do nhờ chứng Chơn, gọi là Hậu Đắc. Trong phần này, sớ có hai phần: đầu tiên là giải thích cục bộ ngay nơi văn. “Bốn nhãn trên…”: là Phật có những nhãn này, cho nên gọi là Phật nhãn. Hai nhãn trước là thông cả phàm phu. Nhị Thừa không có pháp nhãn. Bồ-tát tuy có nhưng lại kém. Nếu ở tại Phật thì cả bốn nhãn đều thù thắng, gọi chung là Phật nhãn. Thế thì ngoài Phật nhãn ra, không còn có riêng bốn nhãn nữa, nó cũng như bốn con sông quy về Biển thì mất đi tên của chúng. “Cả bốn đều thắng”: nghóa là phàm phu nhục nhãn thấy chướng nội, Thiên Nhãn thấy chướng ngoại, Phật nhãn thấy vô số Thế giới, Nhị Thừa Thiên Nhãn chỉ thấy một tam thiên giới, Phật Thiên Nhãn thấy hà Sa Phật Thổ, Nhị Thừa Huệ Nhãn chỉ chiếu sinh không. Địa Thượng Bồ-tát củng đều phần chứng, Huệ Nhãn của Phật, viên chiếu ba không, triệt suốt Chơn Tính, pháp Nhãn của Bồ-tát, sở tri chướng chưa tận hết, trong từng địa một, mỗi địa đếu có phân hạn, pháp nhãn của Phật, sở tri chướng đã tận, không có pháp mà mà chẳng biết, không có chúng sanh nào mà chẳng độ. Cho nên cả bốn nhãn đều thắng. “Lại nữa thấy Phật tính…”: Bởi vì sở kiến là Phật tính (cái được thấy là Phật tính), nhãn này là Năng kiến, như kinh Niết-bàn nói: Thanh Văn thì Định Huệ, Huệ ít, chẳng thấy Phật tính. Bồ-tát thì Huệ nhiều, định ít, tuy thấy Phật tính nhưng chưa rõ ràng, chư Phật Như Lai thì Định Huệ ngang bằng, cho nên thấy rõ Phật tính, như xem trái Am-ma-lặc nằm trong bàn tay. Đó chẳng phải là nghóa của Viên cực sao! Hỏi: Bồ-tát, Thanh Văn, Định và Huệ đều hổ tương thiếu sót. Về mặt Phật tính, vì sai Thanh văn chẳng thấy, Bồ-tát chỉ thấy một phần? Đáp: Vì Định và Huệ, nhìn về Phật tính, thì Huệ là Nhân, Định là Duyên, Nhân thân, duyên sơ, cho nên khiến vậy! Lại nữa, vì Thanh Văn chỉ có Thiên không Huệ, không có trung Đạo Huệ, cho nên nói là Huệ ít, Bồ-tát có Trung Đạo Huệ, cho nên thấy Phật Tính. Lại nữa, trong năm nhãn này, chỉ có nhãn thứ ba là Trì Nghiệp Thích, ngoài ra đều là y chú thích. “Ngài Vô Trướng…” phần hai là: thông trước biển chung. Có hai phần: 1. Dẫn nghóa của ngài Vô Trướng để giải thích chung. “Tịnh Thắng”: Là phi điên đảo, chẳng điên đảo vì siêu vượt các Thánh. “Bốn loại”: Nêu ra nguyên do nhiếp, có thể tỏ rõ về phần tề, như dùng lục cảnh nhiếp lục Thức. Sắc nhiếp, tức là Nhục Nhãn, và Thiên Nhãn. Luận nói: Sắc nhiếp có hai: 1. Pháp quả; 2. Tu quả”: pháp quả tức là Nhục Nhãn, vì nó được cảm bởi nghiệp pháp từ quá khứ. Tu quả tức là Thiên Nhãn, nghóa là Định quả, do tu mà đắc, cả hai nhãn cùng thấy sắc pháp. Vì sắc pháp là thô nhất, cho nên nói trước. Đệ nhất nghóa, tức là Chơn Đế Cảnh, nhiếp Huệ Nhãn. Thế Đế tức là Tục Đế cảnh, nhiếp pháp nhãn. “Nhất Thiết nhiếp” là nhiếp Phật Nhãn, tức là hiểu rõ tất cả, đó là Nhất Thiết chủng trí. Luận nói: “Nhất thiết chủng vô công dụng trí, danh là Phật Nhãn”. “Cổ Đức…” là phần hai: dựa theo Cổ Đức mà kết, có thể biết được. Năm đoạn văn trong phần trí Tịnh, từ hẹp đến rộng, triển chuyển mà số. Nghóa là số cát, số sông, số giới, số sanh, số tâm. Vì muốn nói rõ Trí của Như Lai, vi diệu năng tri, cho nên dựa theo cảnh sở tri rộng lớn, để hiển rõ. Kinh đều có thể thấy, thảy biết, văn kinh có thể biết. “Công dục tâm”: là nhiễm. Dục, nghóa là ngũ dục, tức là năm trần, Sắc,… Tâm hợp với Dục, cho nên gọi đó là “Cộng”. Lại nữa, Dục là tham dục, là tâm sở nhiếp, nêu đầu để nhiếp sau, ý là kiêm luôn cả sân,… tâm tương ưng với tham, sân…. Cho nên nói là “Cộng”. Trước là dựa theo tương ưng với cảnh, đây là dựa theo tương ưng với phiền não, đều là nhiễm. “Ly Dục”: là tịnh, tức là chẳng tương ưng với cảnh sáu trần phiền não, gọi đó là Tịnh, tâm của nhiễm và tịnh, mỗi thứ đều có vô lượng, cho nên nói là “Nhược can”. - Giải thích về “thấy biết”: Kinh trưng ý rằng: Vì nghóa gì mà có thể “thảy biết”? Giải thích ý rằng: những tâm đó đều là vọng thức, vọng thức tức không, cho nên nói là “phi tâm”. Bởi vì tức không, thì Chơn tâm bất diệt, cho nên nói là “Thị danh Chơn tâm”. Vì Thể là đồng như nhau, cho nên có thể “thảy biết”. “Đại Vân…”: Là giải thích nguyên do của năng tri ( nguyên do biết được). Bởi vì chư tâm là pháp được hiển hiện một ít phần trong chơ tâm, nay đã chứng Chơn thể thì sao lại chẳng biết ư! “Chư tâm…”: là giải thích lại, có thể biết được. “Khác với ở đây”: Vì thuyết của Đại Vân là kiêm luôn cả Chơn mà nói rằng là “duy vọng”, cho nên là khác. Giải thích của luận là chánh, nếu xét theo phân chia đoạn văn thì giải thích của Đại vân là chánh. Xin xem kỷ. Câu “chủng chủng điên đảo thức”: là giải thích chữ “chư tâm” ở trong kinh. Bản Ngụy nói: “Như Lai thuyết chư tâm trú đều là phi tâm trú, đó gọi là tâm trú”. Luận giải thích ý rằng: chữ “chư” tức là chủng chủng trú (trú nhiều thứ khác nhau), nghó là điên đảo, bởi vì cả tám thức đều có thể duyên với cảnh, đều có thủ trước, hoặc là dựa theo sáu thức trước, gọi đó là “chủng chúng”, duyên theo những cảnh thô thiển rõ ràng, tương tục nhau chẳng dứt, gọi đó là Trú. Hai câu từ “dó ly…”: Là giải thích, đều là phi âm trú. Chữ “Ly” và chữ “bất trú” đều có cùng một nghiã. “Trí” và “Thật niệm” cũng không có Thể riêng, ý nói: vì chẳng trú vào Tứ niệm xứ của Đại thừa, nếu trú vào đó, tức là thật niệm, thật trí. Đã là trú sáu trần, tức là Thức Điên Đảo. Do vậy mà nói “Điên đảo” là để giải thích câu “thị danh vi tâm”, đây chỉ là kết, quy về Thức Điên Đảo. - Giải thích “phi tâm”: Kinh trưng ý rằng: Sở dó nói chư tâm là điên đảo thức, là không có thể, nguyên nhân vì sao? Giải thích ý rằng: là vì quá khứ, hiện tại, vị lai cầu bất đắc. “Đã diệt…”: là giải thích nguyên do tam thế bất khả đắc. Luận văn, kinh Tịnh Danh, kinh Hoa Nghiêm đều giống nhau, chỉ giải thích về hiện tại có hơi khác mà thôi. Luận nói: Hiện tại là hư vọng phân biệt. kinh Tịnh Danh nói: hiện tại là bất trú. Kinh Hoa Nghiêm nói: Hiện tại là không, tịch nhiên. Văn khác nhưng ý chẳng khác. Mà sớ này chỉ riêng trong hiện tại, nói là đệ nhất nghóa, vì ngài Vô Trướng giải thích kinh, đều dựa theo hai Đế. Trong văn nói về Năm Nhãn, chẳng nói “Nhãn tức phi nhãn”, lại dùng hai loại kiến và trí, thể của chúng sanh chẳng khác, rồi cuối cùng an lập Đệ Nhất Nghóa. Đệ Nhất Nghóa tức là không tịch, không tịch tức là nghóa của bất khả đắc, ý đều như nhau vậy. NGHI TÌNH MƯỜI SÁU. Sớ đầu tiên là nêu chương. “Luận nói: Phần trên nói…”: Là chỉ chỗ khởi nghi, mối nghi này đến từ trong mối nghi mười lăm. “Tâm trú”: là chỉ bản kinh Ngụy, như phần trên đã dẫn. “Điên đảo”: là chỉ cho văn của kệ… “Đều bất khả đắc”: là chỉ cho văn của kinh. “Nếu như vậy…”: là kết thành nghi, ý nói: chúng sanh tâm là điên đảo, phước đức y theo tâm mà thành, há chẳng điên đảo? Điên đảo đã đồng nhau, sao lại gọi là Thiện pháp? Đã chẳng phải thiện pháp thì tu phước ích gì? Hỏi đáp về phước: Kinh: có thể biết. “Vì đây là…”: Là giải thích nguyên do phước nhiều. Vì Như Lai nêu ra nhân duyên để hỏi, ngài không sanh nhắc lại Nhân duyên để đáp. Nhân duyên vô tính, phước cũng vô tính, mới thành vô lậu, vì thế mới nhiều. Văn này chỉ nêu, văn sau giải thích. Phản giải thích, thuận giải thích. Kinh ý nói: Nếu đó là phước (thuộc về) Trú tướng thì ta chẳng nói là nhiều, vì đó là phước vô trú, do vậy mà nói là nhiều. Sớ: đầu tiên là dẫn luận chánh giải thích. “Kệ nói…”: là nêu. “Luận nói…”: là giải thích. Ýù nói: vì tâm Thức trú, cho nên thân là điên đỏ. Vì điên đảo, cho nên phước đều là hư vọng, Phật Trí vô trú, y theo đó mà làm phước, tức là chẳng điên đảo, chẳng phải điên đảo, cho nên đều là Chơn thật. “Thủ tướng”: là phước Hữu lậu, cho nên chẳng nói là nhiều. “Ly tướng”: là phước vô lậu, cho nên nói là nhiều. “Hỏi: Bởi tính của phước…”: là phần hai, dùng hỏi và đáp để giải thích ý hỏi có thể biết được. “Trái và thuận…”: nghóa là, cùng một pháp giới tâm, vốn xưa nay vô trú, vốn không tịch. Phật trí không mà vô trú, cho nên nói là “thuận”. Vọng thức trú mà bất không, cho nên nói là “trái”. Cái gọi là Bất không là chỉ cho vọng thức bất không, chứ chẳng phải là Chơn Thật bất không. Nếu vọng hoài mà đạt điều đó, thì không có chỗ nào mà chẳng phải Dụ. NGHI TÌNH MƯỜI BẢY Sớ: Đầu tiên là nêu chương “Nếu chư Phật…”: là chỉ chỗ khởi nghi, nghi tình này đến từ trong nghi tình thứ ba. “ Làm sao…”: là kết. Thành nghi. “Đây là vì…”: là xuất ra chỗ nương của Nghi, ý nói: Đã nói pháp thân vô tướng là Phật thì sao lại thành tựu tướng hảo cũng gọi là Phật. Đây là dựa theo pháp thân mà nghi sắc thân. - Hiện thân: Kinh: hỏi đáp, có thể biết được. Trưng ý hỏi: Vì nghóa gì mà chẳng dùng sắc thân thấy Phật. Giải thích ý nói: Vì dựa theo Thắng nghóa, chứ chẳng phải là dựa theo Thế Đế. Do vậy chẳng nên định chắc dùng sắc thân để thấy Phật. “Tùy hình hảo”: Là tám mươi loại. Pháp số như thường tức là Tiểu tướng, tùy theo thân hình, mỗi mỗi đều hảo, cho nên tám mươi hảo tức là sắc thân. “Trong gương…”: là dùng dụ để nói. Mới biết rằng trong gương có vật thì lại chẳng thể hiện vật, như phàm phu tuy có pháp thân nhưng chẳng thể hiện (ra) tướng hảo là vì có vật. Cái gọi là vì có vật, là dựa theo Tính và Tướng để phân biệt, thu tóm. “Tất cánh rốt ráo…”: Là dựa theo thể mà phân biệt. “Mà tướng hảo…”: Là theo tướng mà thu tóm. “Vì hai thứ này…”: Là giải thích tướng Hảo là nguyên do ở Phật, như vang rốt ráo chẳng phải là sư tử, cũng chẳng phải không có vàng vì sư tử chẳng lìa khỏi vàng. “Vì vậy…”: là dựa theo tồn và diệt mà giải thích văn kinh. “Bói vô”: là dựa theo Thể mà nói, giải thích cân “tức phi sắc thân”. “ Nói Hữu”: là tùy theo tướng mà nói. Giải thích câu “Thị danh sắc thân”. “Thành tựu”: bản kinh đời Ngụy tức là nghóa cụ túc của văn này. - Hiện tướng: Kinh: Như phần trên. “Ba mươi hai tướng”: là pháp số như thường, tức là đại số. “Mỗi một…”: Phần trước, từ trong gương vô vật trở về sau, nghóa cà ý đều giống nhau, đã nói ở phần văn trên, nay chẳng giải thích thêm. NGHI TÌNH MƯỜI TÁM: Sớ: đầu tiên là nêu chương. “Nếu Như Lai…”: Là chỉ chỗ khởi nghi, nghi tình này và nghi tình trước là đồng một thời, khởi ở trong nghi tình thứ ba. Khởi thì đồng thời, đoạn thì thành trước, sau, chẳng phải đến từ văn của nghi tình kế trước. Nếu nói đến từ đó thì đã ngộ thân của phi thân thì còn nghi gì về thuyết của vô thuyết, suy ngẩm thì sẽ rõ. Vì sao chẳng kết, thành nghi? Ý nói: thanh chẳng tự thanh, y theo sắc mà phát, đã là không có sắc sở y thì làm sao có Thanh năng y, cho nên thành nghi vậy. Ngăn chặn hiểu sai: Kinh: Văn có thể biết vậy. “Trong thung lũng…”: là dùng dụ để nói, ý nói: Vì có tiếng ở bên ngoài mới có tiếng vang đáp trả lại, trong thung lũng thật không có kẻ làm ra tiếng vang. Thuyết pháp cũng vậy, pháp thân thật không có kẻ năng thuyết, vì cơ cảm mới thấy Như Lai có phép sở thuyết. Lại nữa, thung lũng tuy có ứng tiếng nhưng lại không có niệm ứng tiếng. Phật tuy thuyết pháp nhưng không có tâm thuyết pháp, căn cứ theo đây, lại do vi vô niệm mới có thể thuyết pháp, do vậy mà ngăn chặn rằng: “Vật vị…” “Đừng cho rằng…” Giải thích nguyên do: Kinh trưng ý hỏi rằng: Vì nghóa gì khiến ta chẳng tác niệm ấy? Giải thích ý: có thể biết được. “Thế Tôn…”: Sớ: như văn có thể hiển. Bày chánh kiến: Kinh ý: Như Sớ. Câu “Như Phật pháp cũng vậy”: Phật đã là vô thân (không có thân), cho nên hiện thân, pháp cũng vô thuyết, cho nên gượng thuyết. Lấy Phật để lệ cho pháp, cho nên nói là “cũng vậy”. “Hai Sai biệt”: Luận nói: 1.Năng thuyên: danh, cú, văn; 2.Sở thuyên nghóa. Năng thuyên và sở thuyên này nếu nhìn về Phật thì đều là sở thuyên, gọi chung là pháp. “Chẳng lìa…”: Luận nói: là giải thích câu “Thị danh thuyết pháp”. Giới của pháp tướng. Cho nên gọi là “pháp giới”. Câu “thuyết pháp vô tự tướng”: Luận nói: là giải thích câu “vô pháp khả thuyết”, nghóa là tướng tức tính. Vì ngôn thuyết là do duyên mà sinh ra, cho nên ngôn thuyết không có tự tính. Lại có giải thích: Hai câu từ “chẳng lìa khỏi pháp giới, thuyết pháp vô tự tướng” đều là giải thích câu “vô pháp khả thuyết”. Nghóa là hai loại này chẳng lìa pháp giới, ngoài pháp giới, không có tự tướng của hai pháp để có thể đắc, bởi vì tự tướng của hai pháp này vốn không, bất khả đắc. Đây tức là lấy câu sau để giải thích câu trước. “Chơn thuyết…”: Vì thuyết pháp thì thuyết đúng như pháp, gọi là Chơn thuyết pháp, pháp lìa tất cả danh phân biệt, gọi thuyết này là Như pháp thuyết. Văn phần sau nói: “Làm sao vì người diễn thuyết? Bất thủ ở tướng, như như bất động”. Mà nghi tình thứ ba, thứ năm, thứ bảy, và nghi tình này, cả bốn chỗ trên đều tỏ về không có kẻ thuyết. Ý mỗi chỗ đều khác nhau. Vì nghi tình thứ ba là Hóa Thân có thuyết, nghi tình thứ năm là chứng trí có thuyết, nghi tình thứ bảy thì tỏ rằng Phật không có dị thuyết. Văn này thì nghi là không có thân làm sao thuyết. Khác nhau ở đó. Mà các sớ, giữa nghi mười tám và mười chín, đưa theo văn kinh bản ngụy đều xuất một nghi. Long, ngoại đều nói: “Người nào năng tín nghi”. Vân nói: “Năng Tín thâm phép nghi”. Nay kinh Tần đã không có câu văn đó. Sớ cũng chẳng nêu ra giải thích. Nay thấy những bản gần đây, văn Tần đều có đoạn này, mới chép ra gọi đó là mối nghi sở thuyết đã là thâm, vô tín. Luận nói: Nếu nói chư Phật là người thuyết pháp, thì đó là vô sở thuyết vô thuyết bất ly pháp thân, pháp thân vô tướng, có hạng người nào có thể tin được pháp giới thậm thâm như vậy? Đoạn trừ mối nghi này. Kinh nói: “Bấy giờ, Huệ mệnh Tu Bồ-đề bạch Phật rằng: Thế Tôn! Có chúng sanh nào vào vị lai thế, nghe thuyết pháp này, sinh tín tâm hay không? Đây là nghi thậm thâm vô tín để hỏi. Giải không đệ nhất, trí huệ viên thông, lấy Huệ làm Mệnh, nên gọi là Huệ mệnh. “Sanh tín tâm”: là sinh ra tâm chánh tín của Đại thừa. Chẳng tin tất cả pháp, mới là chánh tín, tín này tương ứng với Thánh tính, cho nên Khởi Tín nói: “Như vậy tín tâm thành tựu”. “Đắc phát tâm”: Là nhập chánh định tụ, rốt ráo bất thối, gọi là trú trong Như Lai chủng, tương ưng với Chánh Nhân. Tiếp đó là phân biệt về Thánh tính có người để đáp: “Phật nói: Tu Bồ-đề! Kia phi chúng sanh, phi bất chúng sanh”. “Tu Bồ-đề!…”: là hợp nói rằng Thật có chúng sanh năng tín pháp này . “Kia năng tín”: chẳng phải là phàm phu chúng sanh, chẳng phải là không phải Thánh tính chúng sanh. Luận nói: “phi chúng sanh” là chẳng thể phàm phu. “Phi bất chúng sanh” là vì có Thể Thánh, cho nên chẳng không phải chúng sanh Thể Thánh. Kệ nói: “Phi chúng sanh chúng sanh, phi Thánh phi bất Thánh, cái Thể Thánh trong này, là tri kiến của Phật”. Vì đây là căn gốc của Tín. Tiếp đó là trưng ý bỏ đúng sai, sanh tín để giải thích. Kinh nói: Hà dó cố? Tu Bồ-đề! Chúng sanh chúng sanh giả, Như Lai thuyết phi chúng sanh, thị danh chúng sanh”. Câu “hà dó cố”: là trưng. Vì nghóa gì mà nói phi chúng sanh, lại danh chúng sanh? Câu “Tu Bồ-đề! Chúng sanh chúng sanh giả”: Đây là điệp lại, ở trong phi chúng sanh, nói đó là chúng sanh. Câu “Như Lai thuyết phi chúng sanh, thị danh chúng sanh”: “Phi chúng sanh”, là chẳng phải ngu tiểu, dị sanh. “Thị Danh chúng sanh”: là kết thành người Năng Tín có Thánh Thể. Kệ nói: “Sở thuyết, thuyết già, thâm, phi vô năng tín giả”. Văn kinh trên đây, Ngụy dịch thì có, bản Tần thì không. Đã là cả hai quyển luận đều giải thích đoạn văn này, người đời sau thêm vào cũng chẳng có gì sai lầm, hơn nữa lại có cái duyên minh báo (minh báo, là cõi âm báo) nên cũng đáng tin! NGHI TÌNH MƯỜI CHÍN Sớ: đầu tiên là nêu chương. “Bất đác nhất pháp”: là chỉ chỗ khởi nghi. Nghi tình này đến từ trong nghi tình thứ ba, nghi tình mười hai, mười ba. Vì trong những văn kia đều nói vô pháp bắc Bồ-đề. “Thì làm sao…”: Là kết thành nghi. “Ly thượng thượng”: là như Sơ Địa so với Địa tiền thì gọi là Thượng, chưa ly Nhị Địa trở lên, cho đến Đẳng Giác, cũng chưa miễn ở trên Diệu Giác. Duy chỉ có Phật là cực chứng, không có ngôi vị nào ở trên ngội vị Phật. Cho nên nói là Ly Thượng Thượng. Thế thì phàm phu là ly hạ hạ, chư Phật là ly Thượng Thượng. Còn lại Trung lưu, chẳng ly thượng hạ. “Chuyển chuyển…”: Nghóa là chuyển xả hai chướng, chuyển đắc hai quả. Chuyển xả, chuyển đắc, cho nên nói là chuyển chuyển. Ý nói: đã nếu chuyển đắc Bồ-đề thì sao lại chẳng đắc một pháp? Cho nên thành nghi. “Vì để đoạn…”: Là dự sẳn chỉ ra ý Đoạn nghi, chỉ bày hiền hiện, cho nên nói là “thị hiện” - Vô pháp làm chánh giác: Kinh túng hỏi: Vô Đắc là Đắc. Đều có thể biết vậy. “Chỗ kia…”: Đây là tỏ rằng không có một pháp nào để danh là Thượng. Như Tu Di cực lớn, vi trần cực nhỏ, đều cũng chưa được ở trên (thượng) bởi vì chúng đều là Hữu (có), như Hư không là vô, cho nên được gọi là Vô Thượng. “Nơi Bồ-đề”: Bồ-đề tức là nơi sở chướng. “Không có một pháp nào…”: Chỉ cần vọng hết tận, giác đầy mãn, gọi danh là Bồ-đề. Lìa khỏi điều đó thì đều có Bồ-đề để đắc. - Bình Đẳng làm chánh giác: Kinh: cũng có thể biết. “Chẳng tăng giảm”: Tức là giải thích câu “Không có cao hạ” ở trong kinh, nghóa là: tại Thánh chẳng tăng, cho nên “vô cao”, ở phàm chẳng giảm, cho nên “vô hạ”. Đây tức là nghóa của bình đẳng. “Bình đẳng gọi là vô thượng”: Bởi vì Thượng là nhờ so với hạ mà đắc danh. Hạ đã chẳng đứng vững thì thượng chẳng lẻ lại còn tồn tại được sao! “Không có gì trên nữa”: Là chuyển giải thích nghóa của vô thượng. Mà trong hỏi đáp này có ba loại nghóa của vô thượng: 1.Trong phần hỏi, nói Vô Thượng là trên đầu mút, là nói theo tu chứng; 2.Vô pháp là thượng, cho nên danh là vô thượng, là nói theo không tịch; 3. Không có cái Thượng so với Hạ, cho nên gọi là Vô Thượng, là nói theo Phàm và Thánh là đồng Thể. Hai nghóa sau là ý ở trong phần đáp. - Tu Chánh giác: Kinh: Ý nói rằng: Mà tuy vô pháp, mà tuy bình đẳng, nhưng chẳng phải cho rằng chẳng tu mà đắc thành chánh giác, phải dùng tâm vô ngã,… mà tu Chư Thiện pháp, rồi sau đó mới đắc thành, mà những Thiện pháp này theo Thắng nghóa thì vô (không có), theo Thế Đế thì Hữu. Ngài Thiên Thân thì giải thích khác với đây, xin xem quyển luận trả ngài. “Liểu Nhân”: chữ Liểu có hai nghóa: 1.Liểu đoạn: Bởi vì Bát-nhã là năng liểu phiền não không; 2.Hiểu liểu: Vì Bát-nhã là năng hiển pháp thân. Nay Viên mãn,… tức là nghóa này. Còn gọi là Chánh nhân, chánh do nhờ Huệ này mà trừ vọng, đắc pháp thân cho nên nay nói là “chánh đạo”. Chữ đạo tức là nghóa của Nhân. “Duyên Nhân”: là năm Độ, Thí, giới,… làm tư duyên cho Bát-nhã kia (tư duyên, duyên giúp đở). “Trợ”: tức là Tư (giúp đở), giúp sức cho Chánh Nhân kia để đoạn trừ phiền não, đắc Bồ-đề. Giống như ánh đèn phá ta bóng tối. Muốn hiển tỏ không, ắt phải nhờ dầu tâm làm trợ duyên. “Là chánh giác”: Tiếng phạm là Tam Bồ-đề, tiếng Hán là chánh giác, tức là quả sở chứng, vô lậu Thiện. Hỏi: Trong Hữu lậu cũng có Thiện pháp, vì sao chỉ cục hạn ở Vô Lậu? Đáp: Vì tu bởi những tướng vô ngã, nhơn,… nên duy chỉ là vô lậu. lại nữa, vì thiện thuộc hữu lậu chẳng phải là nhân của Bồ-đề. Nay là Bồ-đề nên cần vô lậu. Hỏi: Trong ba đoạn trên, hai đoạn trước là vô đắc, đoạn sau là hữu chứng, nghóa đã mâu thuẩn nhau, sao cả hai lại tồn tại? Đáp: Cái gọi là Tu, chỉ là Đoạn trừ ngã, pháp, hiển tự Chơn lý, rốt không có một pháp để đắc. Do hai nghóa này phù thuận với nhau. Hỏi: Nghi tình thứ ba, mười hai,mười ba, kiêm luôn một đoạn này, trước sau bốn chỗ đều nói bất đắc Bồ-đề, làm sao phân biện rõ chỗ khác nhau? Đáp: Trước và sau, văn tuy tương tựa, nghóa ý bất đồng, bởi nghi tình thứ ba là nghi Thích Ca đắc quả, thứ mười hai là nghi Thiện Huệ thành Nhân. Nghi thứ mười ba là vô pháp vô Phật, nghi thứ mười chín là Hữu tu hữu chứng, những nghóa ấy rõ ràng, xin đừng lẫn lộn. NGHI TÌNH HAI MƯƠI. Sớ: đầu tiên là nêu chương. “Nếu tu…”: Là chỉ chỗ khởi nghi. Nghi này đến từ trong nghi thứ mười chín. “Thì pháp sở thuyết…” so sánh mấy đoạn trước, kết thành nghi. Ý nói: Đã nói tu tất cả Thiện pháp đắc Bồ-đề, sao trước nay vẫn nói là trì thuyết đắc Bồ-đề? “Vì đó…”: Là thành lập cái lẻ trì thuyết chẳng đắc Bồ-đề. Vì danh, cú, văn, cả ba đều thuộc về Tính Vô Ký, trong pháp thuộc tính vô ký không có nhân quả. Chẳng lẻ lại cảm Bồ-đề được sao? Kinh: So sánh, như văn có thể biết. “Tuy lời…”: Là chấp nhận ngôn thuyết là vô ký. “Mà thuyết….”: Là không chấp nhận là phi nhân (chẳng phải Nhân) “Do vậy….”: Là xuất ra ý kinh, có thể làm Nhân Phật, cho nên thắng hơn tài Bảo Bố Thí. “Luận nói…”: Là chuyển qua giải thích nguyên do làm Nhân. Vì kinh thuyên giảng Chơn lý, nhân đó mà ngộ giải, y theo giải hiểu mà khởi hành, mới đắc Bồ-đề. Nếu không có giáo môn thì làm sao biết chỗ nhập vào. Cho nên Pháp Hoa nói: Nhờ Phật giáo môn, xuất tam giới khổ. “Lại nói:…”: Là biệt ý riêng của luận. “Pháp ông là Vô ký” nghóa là Tiểu Thừa Tát Bà Đa Tông thuyết nói âm thanh thông cả Thiện và ác, danh, cú, văn thân, đều chỉ là vô ký. “Pháp ta là Ký”: Nghóa la Đại Thừa Tông Địa Thượng Bồ-tát ở trong hậu Đác Trí biến ra danh cú văn thân, duy chỉ là Thiện Tính, chẳng vô ký Tính. “Do vậy…”: Ngay vô ký còn có thể làm nhân, huống nữa là thuộc về Tính thiện vô lậu mà chẳng đắc Bồ-đề sao? Hỏi: nghi này có gì khác với nghi thứ chín? Nghi kia là nạn vấn theo Hữu vi vô thể. Nghi này là nạn vấn theo vô ký phi Nhân. Lại nữa, nghi kia chỉ nạn vấn theo trí thuyết, nghi này nạn vạn kiêm luân Thiện pháp. Rõ ràng khác nhau. NGHI TÌNH HAI MƯƠI MỐT. Sớ: đầu tiên là nêu chương. “Nếu pháp…”: Là chỉ ra chỗ khởi nghi, nghi này đến từ trong nghi thứ mười chín. “Thì làm sao…”: Là kết thành nghi. Đã độ chúng sanh, tức là có cao thấp, có cao thấp tức là chẳng bình đắng, cho nên thành nghi. - Hiểu Sai: biết. Kinh văn: 1.Chánh ngăn chặn; 2.Răn bảo lại lần nữa. Có thể Chánh kiến: Kinh Trung ý rằng: Vì nghóa gì mà đừng tác niệm ấy? Giải thích ý rằng: Vì thật không có chúng sanh được Như Lai độ. “Bình đẳng…”: hai câu là lập tông nghóa. “Bởi Danh…”: Hai câu là giải thích nguyên do. “Luận nói…”: Là chuyển giải thích hai câu sau. “Giả danh”: Là chỉ có cái Danh chúng sanh, không có cái thể chúng sanh. Cho nên nói là giả. “Cùng chung với Ngũ ấm”: Nghóa là ở chỗ Ngũ ấm hòa hợp, thuyết ngôn là chúng sanh, vì bất tức bất ly, cho nên gọi là cùng chung (cộng). “Chẳng lìa pháp giới”: Phật là người cực chứng, đã toàn là pháp giới, chúng sanh tuy chưa thể chứng duyên sinh vô thể, nhưng cũng đồng là pháp giới, chẳng lẻ đem pháp giới mà độ cho pháp giới sao? Cho nên kệ nói: “Bình đẳng…”. - Nguyên do: Kinh: Văn nói ngược, nếu nói thuận thì phải nói: “Vì Phật không có tướng, Ngã, Nhơn,… nên chẳng thấy có chúng sanh được độ”. “Lỗi thủ tướng…”: Vì vô ( không có) mà cho là Hữu (có), nên chẳng như pháp giới, vì chẳng hiểu rõ Duyên Sinh, bèn thành Hữu Niệm (Niệm có, hoặc là niệm trong phạm trù Hữu). “Nhó Viêm…”: Đây có hai nghóa: 1. Là Trí Mẫu (mẹ của trí) như nói ở phần trên; 2.Là cảnh giới: mà là cảnh giới ở trong Định nay ở đây lấy nghóa này. Ý nói: Phật trí xứng với Cảnh mà tri. Chơn Như là Hữu tác Hữu tri, chúng sanh là vô tác vô tri. Nếu giải thích theo nghóa Trí mẫu thì tức là căn bản trí chứng Bình đẳng Lý. Không có phân biệt, nay quán chúng sanh lại như vậy. - Phủi tích: Kinh: ý nói: Phật tuy nói Ngã, nguyên vốn vô ngã, người chấp có ngã, đều là phàm phu. Tuy nói phàm phu, cũng vô phàm phu, cũng như nằm mơ thấy cọp, cọp và người nằm mơ đều bất khả đắc. Trong pháp cũng vậy. Vì người phàm phu chấp Ngã, cho nên nói rằng “Phi ngã”. Vì e chấp phàm phu lại nói là “Phi phàm phu”. Bởi quanh co trừ bỏ chấp tình, cho nên nói rằng “triển chuyển phủi tích”. Mà trong phần chánh đáp câu hỏi ở trên và trong nghi tình mười một, mười bốn, cùng với nghi tình này, trước sau bốn chỗ đều nói rằng Độ sanh vô độ, tuy văn thì đồng nhưng ý thì khác: nghóa là đầu tiên là ly ngã mà độ sanh, nghi tình mười một là cái Năng độ là ngã, nghi tình mười bốn là vô ngã thì ai độ. Nghi tình hai mươi mốt là Chơn giới bình đẳng, bất hợp chúng sanh. Chỗ giống nhau và chỗ khác nhau rõ ràng. NGHI TÌNH HAI MƯƠI HAI. Sớ: đầu tiên là nêu chương. “Luận nói…”: chỉ chỗ khởi nghi. Nghi này đến từ trong nghi mười bảy. “Tuy tướng…”: Vì văn ở phần trước nói rằng: “Tức phi cụ túc sắc thân”, “tức phi chư tướng cụ túc”, cụ tức tức là nghóa của thành tựu. Kinh Tần, kinh Ngụy khác nhau. “Nhưng vì…”: Là vì văn trước nói rằng: “Đó là danh cụ túc sắc thân”, “Đó là danh chư tướng cụ túc”. Trong đó ý nói: pháp thân rốt ráo chẳng phải là tướng hảo, tướng hảo cũng chẳng phải là không phải Phật. Do vì Vô tướng mà hiện tướng, tướng đó chẳng lìa pháp thân. Cho nên nghi rằng: Đã là vô tướng mới có thể hiện tướng thì chỉ cầu thấy tướng liền biết là vô tướng. Như ở xa xa thấy khói thì biết chắc rằng là có lửa. Bởi vì lìa khỏi lửa ắt chẳng có khói. Biểu cho Phật: Kinh: hỏi ý rằng: Có thể dùng tướng để so sánh quán vô tướng pháp thân Như Lai hay không? Thức căn: Kinh: đáp ý rằng: Thật có thể dùng tướng để tỉ quán pháp thân Như Lai. “Ngộ sắc thân”: Nghóa là biết ứng thân và Hóa thân chẳng phải là Chơn. “Mê pháp thân”: là chẳng biết pháp thân rốt cuộc chẳng phải là sắc tướng. “Ý cho rằng…”: Là xuất ra ý đáp. Ý nói: Chỉ cần thấy tướng hảo của pháp thân thì biết pháp thân tướng hảo, cũng như thấy mầm non của cây cỏ thì ắt biết gố rể của nó. Do vậy chia đoạn văn này là dựa theo dụ mà chia. - Phàm và thánh bất phân: Kinh: Ý nói: Luân vương cũng có tướng này thì đúng phải là Như Lai. “Kệ nói…” Ý nói: chỉ cần dựa theo gốc mà nhìn ngọn thì định, nếu dựa theo ngọn mà nhìn gốc thì bất định. Hơn nữa, như Luân vương và Phật, sắc tướng tuy đồng nhưng chỗ nương của tướng thì khác nhau, tướng của Phật là do pháp thân hiện ra, tướng của luân vương là nương theo Nhân của nghiệp mà sinh ra. Phàm và Thánh khác nhau, còn có gì làm chuẩn đích, huống nữa nhờ pháp Thân mà có tự tha thọ dụng, lại còn có lớn nhỏ tùy loài mà hóa, mỗi mỗi khác nhau. Cũng như cây non và rể, sự cũng bất định, cây mới gieo thì có mầm không có rể, cây ghép thì mầm và rể mỗi khác. Ngộ Phật chẳng thấy bằng tướng. Kinh ý nói: Vì nghe, nhờ Chơn mà hiện giả, giả chẳng lìa Chơn. Rồi thì dựa quả cầu Chơn, Chơn chẳng do giả, thật đức chẳng tại tướng khiến cho sắc tươi vậy, lấy dáng dấp bên ngoài để đánh giá đức độ thì sai lầm lắm vậy. Mà từ nay về sau đâu dám chẳng biết. Thấy, nghe chẳng đạt đến: (kiến văn bất cập). Kinh: Văn có thể xem, e ngài không sanh còn dựa theo thuyết pháp mà so biết Như Lai, cho nên nói rằng âm thanh cầu chẳng được. Nghi này thì đến từ trong nghi thứ mười tám. Nay ngăn chặn phòng ngừa trước. “Kệ của bản dịch đời Ngụy”: là nói về ngyên do thấy và nghe chẳng đạt đến, còn kinh Tần thì chỉ nói thấy nghe chẳng đạt. “Kệ rằng…”: Là kệ của ngài Di Lặc. Trong đó, nữa bài là giải thích Kinh Tần, nữa bài là giải thích kinh Ngụy. Ý nói: Thấy và nghe là Thức, chỉ có thể duyên với sắc, thanh, Phật chẳng phải sắc, thanh, cho nên chẳng thể biết. “Pháp kia…”: là pháp thân. “Chơn Như tướng”: Tức ly tất cả tướng, là Chơn Như tướng. “Phi như ngôn thuyết tri”, bởi vì Chơn Như pháp lìa ngôn thuyết, Chơn Như chỉ là cảnh của Chơn Trí, chỉ tương ưng với chứng, cho nên nói là tự chứng. Nghi thứ nhất, nghi thứ bảy, nghi mười bảy và đoạn văn này đều nói rằng chẳng dùng tướng thấy Như Lai, nghóa và ý đều khác: đầu tiên là vì đối quả mà nghi nhân. Tiếp đó là cảm quả ly tướng, tiếp nữa là y theo Chơn mà hiện giả, sau cùng là dựa theo giả mà cầu Chơn. Cho nên khác nhau. NGHI TÌNH HAI MƯƠI BA Sớ: đầu tiên là nêu chương. “Do từ phần trên…”’: Là chỉ chỗ khởi nghi, nghi này đến từ trong nghi hai mươi hai. “Bèn nghó rằng…”: Cho rằng một mực là ly tướng, tức là chỉ ra tông của khởi nghi. “Nếu vậy…”: là kết thành nghi, Ý nói: phước chỉ thành quả tướng, tướng đã là chẳng phải Phật thì tu phước có ích gì. “Thế thì quả Phật…”: là kết thành tên của nghi. “Luận nói…”: là dẫn chứng. “Mất phước”: Là chẳng phải nhân Bồ-đề. “Mất quả”: là chẳng phải quả Bồ-đề. - Ngăn chặn Niệm: Kinh: Ý nói: Ông nếu cho rằng Như Lai chẳng nhờ cụ túc tướng mà đắc Bồ-đề. Dừng tác niệm ấy”. Văn thế tựa như trùng lặp, nhưng ý thì chẳng trùng lặp. Chỉ là trước là nói ra sau là ngăn chặn. Trong kệ của kinh Hoa Nghiêm, nữa bài kệ trước thuộc đoạn văn trên, nữa bài kệ sau thuộc đoạn văn này. Vì ý của văn liên hoàn với nhau, cho nên ở cùng một chỗ mà dẫn.đã nói chẳng lìa sắc, thanh, há lại một mực hủy tướng sao! Hủy tướng là phi lý, cho nên ở đây ngăn chặn điều đó. “Triệu nói…”: Cũng là trước và sau đều một nữa mà thôi. “Chẳng riêng chỉ…”: là vì tướng bất định, như Luân vương chẳng phải Phật. “Chẳng phải chẳng (phi bất)…”: Vì ứng với cỏ thì hiện, chẳng lìa pháp thân, như Thích Ca là Phật. “Đoạn Diệt Kiến”: nghóa ở tại đoạn văn tiếp theo. - Xuất ra lỗi lầm: Kinh: Văn có thể biết. “Tổn giảm…”: Nghóa là chấp Hữu là lỗi tăng ích, chấp Vô là lỗi tổn giảm. Nay đã là một mực ly tướng, tức là đúng vào câu này (chấp vô là lỗi tổn giảm). Đây tức là với quả thì tổn hại phước đức trang nghiêm, với nhân thì tổn hại hành năm Độ, làm hủy hoại Tục Đế. “Đoạn kiến”: Trung Luận nói: Định Hữu thì trước dính thường, định Vô thì trước dính Đoạn. Nay đã một mực cho là vô tướng thì chính là đúng vào Đoạn kiến. “Biên kiến”: Không và Hữu, đoạn và thường đều lá trước dính cái kiến biên tà, đều chẳng phải là chánh kiến, cho nên nói là “quá” “lỗi lầm”. - Phước tướng chẳng thất: Kinh Trưng ý rằng: Vì nghóa gì mà chẳng tác niệm ấy? Giải thích ý rằng: Bởi vì những người phát Bồ-đề tâm đều chẳng tác niệm ấy, cho nên biết rằng người tác niệm ấy là điều sai lầm. “Như sở trú pháp”: Pháp sở trú tức là đại Bồ-đề tâm, Bồ-đề tâm tức là Bi trí nguyện. <卷>QUYỂN 7 Tất cả Bồ-tát đều an trú tâm này, vì có Đại trí, nên chẳng trú sinh tử. Vì có Đại Bi, nên chẳng trú Niết-bàn, nay bảo lìa khỏi hai kiến Đoạn, Thường, tức là bất trú sinh tử, Niết-bàn, cho nên nói là “Như Sở trú pháp”, tức là y chỉ tối thắng trong bảy tối thắng. “Chẳng đoạn…”: Ý nói: Sinh tử vốn không, giống như bình bóng. Hình bóng chẳng có, còn đoạn gì nữa! Nay nói bất đoạn, chẳng phải cho rằng cứ cố lưu giữ lại, chỉ cần hiểu rằng Tính nó chẳng có, tướng nó chẳng không, tùy thuận theo Tục Đế, cho nên nói là “Bất đoạn”. Đây tức là nghóa của thông đạt. “Ở Niết-bàn…”: Nếu bị tịch tỉnh vắng lặng trói buộc thì chẳng tự tại, nay tịch mà thường dụng, dụng mà thường tịch, đó là nghóa của tự tại. “Trong đây…”: Đây là thiên về Niết-bàn. Nhưng nếu căn cứ theo bất đoạn sinh tử, lợi ích chúng sanh, chỉ cần thành Đại Bi, bất trú Niết- bàn. Nhưng nêu xét cho đầy đủ thù cũng cần phải bất trú sinh tử mới thành “như sở trú pháp”. “Một mực…”: Tức là xuất ra ý thiên về Niết-bàn. “Ngăn chặn tịch tỉnh”: Tức là người Nhị Thừa, thân tro diệt trí, bác táng vô dư, bị Niết-bàn trói buộc, đó là bất tự tại. Nay dùng bất cụ túc tướng mà phát tâm, chính là bị rơi vào điều này, vì để đối trị nên chỉ nói riêng một môn, đoạn văn sau “Bồ-tát bất thọ phước đức”, tức là bất trú sinh tử, thì nghóa sẽ viên tròn vậy! “Kệ nói…”: Là dẫn chứng. “Luận nói…”: là giải thích kệ. “Tuy chẳng nương…”: Là tung, pháp thân Chơn Phật là Chơn Bồ- đề, chính là do nhờ Trí liểu làm Nhân, cho nên chẳng nương theo phước đức kia. Báo “Nhưng chẳng mất…”: là đoạt, phước Đức là Nhân, tức là quả báo của năm Độ, quả này tức là ba mươi hai tướng, tướng thì chẳng phải không phải Phật, cho nên nói là “chẳng mất”. Đã là chẳng mất quả, tức là chẳng mất Nhân. “Bởi chúng có thể…”: Là nói về nguyên do chẳng mất, nghóa là: hơn Bồ-đề thì ắt cần phải có đủ cả hai thứ trang nghiêm, trí Huệ tức là Chơn thân, phước đức tức là ứng thân. Cho nên luân nói: pháp thân là trí tướng thân, phước tướng là dị tướng thân. Vì chư Như Lai đều hợp đủ hai loại tướng này. Cho nên Pháp Hoa nói: “Như những Đức pháp kia, lực định Huệ trang nghiêm, dùng chúng độ chúng sanh, tự chứng vô thượng đạo”. - Đắc Nhẫn: Kinh: Ý nói: Bồ-tát trong tâm vô ngã mà tu phước Đức thì hơn hẳn trong tâm có ngã mà tu phước đức. Bởi vì những thứ đó sẽ trang nghiêm pháp thân, rốt cuộc chẳng mất. “Luận nói…”: Là nêu ra ý niệm bị khiển trừ. Nghó rằng: Nếu Trí xuất Thế vô phân biệt chính là Nhân thành Phật thì những phước đức mình đã tu đều sẽ bị mất hết. Vì sao? Vì phước đức chẳng phải là Nhân. Vì để ngăn chặn ý niệm này mà dẫn khởi đoạn văn khiển trì này. “Đắc Thắng nhẫn bất thất”: Là chánh tỏ về nghóa của bất thất, nghóa là nếu tâm trú tướng, tu chủ phước đức, rơi vào Hữu lậu, phước này ắt thất. Nếu tâm ly tướng, tu chủ phước đức, thành ở vô lậu, phước này chẳng mất. “Bởi đắc…”: Là xuất ra nguyên do chẳng mất. Đây là dùng quả để nghiệm nhân, thành nghóa chẳng mất. “Vô cấu” tức là thanh tịnh, vô lậu, là Phật thân vậy. “Hai vô ngã”: là Nhơn vô ngã, pháp vô ngã, đắc cái trí của hai không này, gọi đó là Nhẫn. - Chánh tỏ rõ: Kinh ý nói: Nhưng trước kia nói những phước đã tu do Vô ngã, cho đó là vượt trội, chỉ do vì Bồ-tát chẳng thọ nhận phước. “Đáng trách…”: Là nói về nguyên do chẳng thọ nhận, đây cũng là dùng quả để nghiệm Nhân, thành quả của Bất thọ. Ý nói: Quả nếu Hữu lậu thì biết thọ hướng phước, đó là điều đáng chê trách. Quả đã vô lậu thì biết chẳng thọ, làm sao đúng trách! “Ngài Vô Trướng…”: Là nói đối lại với văn trước bát trú Niết-bàn, trước và sau so nhau mà cùng thành nghóa của Bi và Trí. “Nếu trú…”: Là nói ngược. - Trưng hỏi, giải thích: Kinh ý nói: Bồ-tát làm phước, nếu sinh tham trước, ắt thành Hữu Lậu. nhân đã Hữu lậu, quả cũng Hữu lậu. Đắc ba mươi hai tướng, chỉ đồng với luân vương, chẳng gọi là Phật, đây thì Nhân, quả đều thất, thành ra chỗ Nghi. Nay đã làm phước, chẳng sinh tham trước thì Nhân thành vô lậu, Nhân đã vô lậu, quả cũng lại vậy. Đắc ba mươi hai tướng trang nghiêm pháp thân, gọi đó là Phật, sao lại nghi rằng mất Nhân và quả? NGHI TÌNH HAI MƯƠI BỐN Sớ: đầu tiên là nêu chương. “Nếu chư Bồ-tát…”: Là chỉ chỗ khởi nghi, tức là đến từ đoạn văn trên, tức là trong luận nói: “Nếu chư Bồ-tát chẳng thọ quả báu kia…” “Thì làm sao….”: Là kết thành nghi. “Chúng sanh dụng”: căn cứ theo Phật thọ lượng, hợp mãn một trăm tuổi, đến tám mươi tuổi bèn nhập Bát-nhã, ý lưu lại hai mươi năm phước cho đệ tử đời sau thọ dụng. Lại nữa, cúng dường thừa sự Phật, có thể khiến cho chúng sanh được phước vô lượng, đây cũng là phước của Phật mà chúng sanh thọ dụng. Hỏi: Trước nói Bồ-tát chẳng thọ dụng, nay sao lại hỏi về Phật thọ dụng? Lại nữa, trước nói Thọ nghóa là thủ, ấy nghi thọ nghóa là Dụng. Văn nghóa đã khác, sao thể thành nghi? Đáp: Đây đề là lấy quả mà nghiệm Nhân. Trong Nhân nếu chẳng thọ thủ thì trong quả sao hợp thọ dụng. Trong quả còn tự thọ dụng, trong Nhân hoặc lại không có thọ thủ sao? - Hiểu sai: Kinh ý nói: Nếu người nào nói: Như Lai xuất hiện “Lai”, Như Lai nhập diệt “khứ”, Trú thế gian, đều chẳng hiểu nghóa ta đã thuyết. “Phước đức…”: là ứng báo của phước vô lậi kia, tức là vô cấu quả. Vì trong quả không có sắc tướng. Luận nói: Phật quả không có sắc tướng để thấy. Lại nữa, Luận nói: Phật quả không có sắc thanh riêng biệt, chỉ là Như Như, luận nói: Phật quả không có sắc thanh riêng biệt, chỉ là Như Như, lại vừa là Như Như Trí độc tốc, cho nên không có lai khứ… “Là để hóa…”: Hoặc hỏi rằng: Đã là Phật quả không có sắc thanh không biệt lai khứ thì sao lại xuất hiện thọ phước, vì để chúng sanh thọ dụng sao? Vì vậy, ở đây giải thích ý nói: Chúng sanh căn thành thục thì có thể cảm duyên, bởi vì Phật vô duyên đại bi từ vô lượng kiếp đến nay, lợi tha thiện căn, huân tịnh pháp giới để thành thuận tập, có cảm liền ứng, nhậm vận vô tâm, cũng như một mặt trăng chẳng hạ gián xuống trăm dòng sông, trăm dòng sông cũng chẳng thăng lên mặt trăng. Do từ Thiện căn lực, pháp nhó như thị. Đó chính là ý để đoạn nghi. Nếu trong quả có tâm thọ dụng thì trong Nhân cũng có tâm thọ thủ. Trong quả đã là tự nhiên, trong Nhân đủ trõ có trước dính. - Chánh kiến: Kinh trưng ý rằng: vì nghóa gì mà gọi danh là Như Lai, đã gọi là Lai thì cũng biểu tỏ khứ, sao lại nói là hiểu sai. Giải thích ý rằng: Vì Chơn Phật vốn không có lai, khứ. “Kệ nói: Là nêu ra sự khác nhau giữa Chơn Phật và Hóa Phật. Như Lai tức là pháp thân, vốn bất động, giống như hư không, cho nên khác với Hóa thân, tùy theo cơ mà lai và khứ, nó chẳng khác nhau mà khác nhau. “Đại Vân…”: Là giải thích. Đây là dựa theo cơ, tâm nhiễm tịnh bèn thấy Phật có lai, khứ, gọi đó là Hóa thân, “chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu”, tức là bất động, gọi đó là pháp thân, đây là cơ thấy có Phật lai, khứ, Phật thật bất động… từ kia với Ngã là sao? Trong này lược nêu ra Dụ về Nước: chúng sanh tâm tức tri, mặt trăng dụ cho pháp thân, ảnh dụ cho Hóa thân, Thể trong đục là dụ cho nhiễm và tịnh. Nước trong, mặt trăng hiện, mặt trăng cũng chẳng đến. Nước đục, mặt trăng ẩn, mặt trăng cũng chẳng đi, chỉ là nước có trong có đục, chẳng cho rằng mặt trăng có trăng có trầm. Trong pháp cũng vậy, tâm sạch thì thấy Phật, chẳng phải Phật đến, tâm nhơ thì chẳng thấy, cũng chẳng phải Phật đi. chỉ là chúng sanh Nhơ sạch, chẳng nói rằng chư Phật ẩn, hiển. “Giải cực…”: Nghóa là giải cực thì tâm tuyệt, tâm tuyệt thì hội với Như, thể của Như thì châu khắp, cho nên không có phương chốn, đây là tỏ về Chơn của tức ứng. “Duyên đến…”: Nói về ứng của tức Chơn. Ý giống với Đại Vân, dùng ẩn và hiển để đoạn trừ nghi. Ý là: Có chuyện Phật xuất hiện, huống nữa lại có chuyện thọ phước ư! NGHI TÌNH THỨ HAI MƯƠI LĂM Văn của luận về nghi tình này chẳng nói riêng về nghi, nhưng nghóa và ý hợp lại thì có. Đâu Sớ đầu thân là nêu chương. “Theo phần trên…”: Là chỉ chỗ khởi nghi. Nghi này đến từ ba chỗ: “Chẳng thể dùng hóa…” là mối nghi thứ hai mươi hai. Vì lẫn lộn với Luân Vương. “Pháp thân không có lai khứ…”: Là nghi tình thứ hai mươi bốn, tránh là hiểu sai. “Căn cứ tho phần ngăn chặn…”: là nghi tình thứ hai mươi ba. “Chẳng mất…”: Là Di Lặc tụng nói: Đắc thắng Nhẫn bất thất. Nhất và Dị tương phản nhau, khó mà tồn giữ hay bỏ đi, cho nên thành nghi vậy. “Đây là dựa theo…”: là ý của đoạn nghi. Kia thì dựa theo Nhất và Dị song tồn mà nạn vấn. Đây thì dựa theo Nhất và Dị đều phi mà thông. - Phá thô sắc: Kinh: Hỏi đáp về nhiều hay ít. Như văn có thể biết. Sớ: Có ba phần: 1. Dẫn ngài Thiên Thân, theo Đoạn nghi: “Kệ nói…” là nêu. “Luận nói…” là giải thích. Nhất Chơn pháp giới, số lượng tiêu diệt, phi nhất phi Dị. Chư Phật chứng đây, cũng phi nhất dị, mà nói “trú xứ” là bởi vì chẳng phải hai nghóa này để có thể trú trước. “Để tỏ rõ…”: Là chánh hiển về ý trú, ý lấy giới dụ cho Chơn Thân, Trần dụ cho Hóa Thân, trần nhân ở giới bị tan vụn, cho nên là phi dị, dụ cho từ Chơn thân mà khởi ứng thân. Trần thì tế, giới thì thô, cho nên là phi nhất. Dụ cho Chơn thì Thật, Ứng là Giả. “Ngài Vô Trướng…”: phần 2. Phá pháp chấp, là một nghóa riêng, chẳng phải là đoạn nghi. “Danh Thân”, tức là bốn uẩn, Thọ, tưởng,… “Sắc thân”, tức là bốn đại, Địa, thủy…”Trong đó…” dùng tế mạc phá sắc thân. Dùng vô sở kiến để phá Danh Thân. Vô sở kiến tức là bất niệm. Đoạn này thuyết Trần rất nhiều, chính là sơ phương tiện. “Đại Vân…”: phần 3. Tỏ về phá tướng. Nói về tướng của phương tiện. Vì năng phá là Tế Mạc. Sở phá là Thô sắc, Năng và Sở hợp lại mà thành ra tên của phần này. “Vi trần ở đây…” là phân biệt sự khác nhau giữa Đại thừa và Tiểu thừa: Đại thừa dùng quán, giả tưởng phân biệt mà khởi Huệ số của nó. Phá tách chiết sắc kia phân tách đến mức cực vi, Thiên Nhãn của Nhị Thừa chẳng thể thấy được. Đó tức là tế mạc đến mức cùng cực, chẳng thể phá tách chiết ra được nữa, gọi tên là cực Lược sắc. “Chẳng phải Tiểu Thừa…”: Bởi vì Tông Tiểu Thừa mê với Lý của Duy Thức, chẳng thông đạt chư pháp tức không. Kế chấp cho vi trần này là Thật có mà nói rằng tích chứa các vi trần để thành thế giới. Câu Xá Luận nói: “Cực vi vi kim thủy, Thố Dương Ngưu liêu thành, xoa Tâm Mạch chỉ tiết, bỉ hậu tăng thất bội”. Nay ở đây phải bác bỏ, cho nên nói rằng: Chẳng phải là thật trần. - Phá vi trần: Kinh: Ý nói: Vì nghóa gì mà thuyết vi trần? Giải thích ý rằng: Bởi vì không có thật thể. Lại trưng ý rằng: Nguyên do gì mà thuyết vi trần là không? Lại nữa, thuyết vi trần là gì? Giải thích ý rằng: Thứ mà Phật nói, chẳng phải là Thật vi trần, là không vi trần. Sớ: có hai phần: 1. Giải thích theo đoạn nghi: “Trần Vụn…”: là dùng dụ để nói. Trần là đập vụn thế giới thành ra là bột mạc. Cho nên giới thì thô, mà Trần thì tế, đó là phi Nhất. “Trần chúng tụ”: vì thế giới là do chúng Trần mà thành. Cho nên Trần và giới là Phi Dị (chẳng khác nhau). “Cũng như vậy…”: là pháp hợp. Nghóa là Phật ứng thân hiện ở mười phương, cho nên là phi nhất. Cùng giống nhau nương vào cùng một Thề, cho nên là phi dị. Lại nữa, y theo pháp mà khởi Hóa, cho nên là phi nhất. Lìa pháp thì không có Hóa, cho nên là Phi Dị. “Lại nữa, nếu…”: là phần hai, dựa theo pháp mà giải thích, cũng là dựa theo Dụ. “Pháp thuyết”: Nếu Hóa là Thật, cũng chẳng cần Phật thuyết, chỉ vì đó là hư giả, người khác chẳng biết, cho nên Phật thuyết vậy. “Ngài Vô Trướng…”: là dẫn chứng. Giống với đây. - Phú Thế giới: Kinh: Ý nói: chẳng những sở khởi vi trần là không vi trần, ngay cả năng khởi thế giới cũng là không thế giới. “Bổn luận…”: Như đoạn văn tiếp theo sẽ nói. “Chúng sanh Thế giới”: là thế gian Hữu tình. Bởi vì tâm pháp vô chất, chẳng thể chia tách, chỉ cần dùng phương tiện bất niệm để phá nó. Niệm nó thì có, bất niệm thì không có. Cho nên khởi tín nói: tâm sinh thì pháp sinh, tâm diệt thì pháp diệt. - Phá Hòa Hợp: Kinh: Trưng ý nói: Vì nghóa gì mà thuyết Thế giới? Giải thích ý rằng: Thế giới nếu thật thì đó là Nhất Hợp Phật thuyết Nhất Hợp là Nhất Hợp chẳng thật có, đó là nhất Hợp (thuộc) không, vô. Sớ: Trong văn, dẫn giải thích của ngài Thiên Thân: “Luận nói….”: Là nêu. “Đại Vân…”: Là giải thích. Ngầm hợp, ngấm ngầm hợp làm một. Một (Nhất) tức là Hòa hợp, cho nên nói là Nhất Hợp vậy. “Tam Thiên phá Nhất”: Đã nói ba ngàn thì chẳng phải là nghóa của một. Đây là nói thông cả Ngũ uẩn không có nghóa của Nhất Hợp. “Ngài Vô Trướng…”: Là phần hai. Dẫn giải thích của ngài Vô Trướng. “Ghép nói….” nói về cả hai, tình và khí. “Cho nên có hai…”: Là nêu ra hai loại Đoàn Thủ. “Đại Vân…”: Là tỏ rõ rằng tình và khí đều gọi là Thế giới. Là: Trần chúng tức là thế giới. Chúng sanh thì Hữu Tình Thế giới. “Đoàn Thủ là nhất…”: Nghóa là Tình và khí chẳng phân chia, đó là một thế giới. Nhất Hợp này có hai Đàm Thủ: Ở trong Ngũ uẩn chia ra sắc và tâm. Vốn thì hợp hai thành một, nay thì tách một thành hai, nhưng Hòa hợp và Đoàn Thủ vân là nghóa của một, chỉ vì bản tần và bản ngụy dịch khác nhau mà thôi. “Nhất Đoàn Thủ”: là Danh thân. Chúng sanh và Thế giới, nghóa chẳng thể phân chia, chỉ có nghóa của một. “Sai Biệt Đàm Thủ”: là khí thế giới tụ nhiều vi trần thành một thế giới. Cho nên luận của ngài Vô Trướng nói: Chúng sanh Thế giới Hữu, đó là Nhất Đoàn Thủ. Vi trần Hữu (có). Đó là sai biệt Đoàn Thủ. Vì hai giới Đoàn Thủ. Vi hai giới Đoàn thủ này không có thật. Cho nên tâm kinh nói: “Thị cố không trung vô sắc vô thọ tưởng hành thức, vô Nhãn Nhó tỉ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp”. Câu “thị Danh Nhất Hợp Tướng” của kinh, là dựa theo Tục Đế mà nói là có, sẽ nói ở đoạn văn sau. - Vọng chấp có: Kinh: Ý nói: Nhất Hợp Tướng này không có Thể để có thể nói, chỉ vì phàm phu vọng sinh tham trước. “Bởi tụ tập kia…”: là giải thích “bất khả thuyết” ở trong kinh. Ngũ uẩn hòa hợp, không có thật thể, đây tức là giới quy về trần, tức là không có giới để có thể thủ. Trần quy về Duy Thức, tức là không có Trần để có thể thủ. Bốn uẩn ly niệm thì không có tâm để thủ. Chúng sanh thủ trước đều do hư vọng phân biệt. khởi Tín Luận nói: Tất cả cảnh giới duy y theo vọng niệm mà có sai biệt. đây là tỏ về từ câu “chi” vì phàm phu…” Trở về sau. “Nếu có…”: là nói ngược lại, bởi vì Thể của thế giới nếu là Thật có thì chẳng gọi là hư vọng phân biệt, hợp là chánh kiến. “Thế Đế thì nói…”: tức là “thị danh” ở trên. Giống với Luận nói: “Tụ tập kia”. Đệ nhất nghó thì chẳng thể nói, tức là “Tức phi” ở trên. Giống với “vô vật khả thủ” trên. “Trẻ con…”: Thế Đế tuy nói, chỉ là giả có, phàm phu chẳng mẫn tuệ, chấp đó là thật, giống như trẻ con kia, như lời mà chấp vật. “Thấy ngũ uẩn”: chẳng liểu (hiểu) pháp không, đó là chấp pháp. “Thủ hòa hợp”; chẳng thông đạt các pháp, tức là Ngã chấp. Hai chấp chẳng vọng, cho nên nói là “tham trước kỳ sự”. Mê ở sự pháp, sở tri chướng. “Phá ngã pháp”: trên kia là phá cảnh sở duyên của ngã pháp, khiến biết là chẳng thật. Nay thì phá chúng khiến vong mất phân biệt, nhập vào Thánh Đạo. Cho nên kệ nói: “Phi vô nhị đắc đạo. Viễn ly ư ngã pháp”. Bắc Hiểu sai: Kinh: Văn hỏi đáp, đều có thể biết vậy! Chỉ bất giải, (chẳng hiểu), ắt chẳng hiểu sai. Khiển trừ chấp lời: Kinh: Tương ý rằng: Vì nghóa gì mà thuyết là bất giải? Giải thích ý rằng: Phật thuyết kiến, ngã, nhơn… chẳng phải thật kiến, ngã, nhơn… là giả danh Ngã kiến, nhơn kiến,… chúng sanh chẳng hiểu cho đó là thật. Cho nên phân chia trước gọi là Hiểu sai vậy. “Hư vọng…”: Thấy có ngã, cho nên gọi là Ngã kiến. Thể thật không có, cho nên nói là Hư vọng. Hư vọng không có thật, nguyên là chẳng thấy. Như nơi đây thấy rắn, há lại là thật thấy. “Như Sở bất phân biệt”: có hai ý: 1.Lấy Chơn Như làm sở, bất phân biệt giống như Chơn Như kia; 2. Lấy ngã pháp làm sở, ngã pháp vốn không có sở tri của Như. “Vì sao…”: Là trưng. “Như ngọa đạo…”: Là giải thích. “Nhơn vô ngã…”: Trong một pháp giới, vô ngã, vô vô ngã. Nay đối lại Hữu ngã mà nói Vô Ngã, giả mượn ngôn thuyết, cho nên nói là đặt ta (an trí). “Pháp Vô ngã…”: Vì kiến (thấy) là tâm, tâm sở pháp chấp có cái kiến (cái thấy) này, gọi đó là pháp chấp. Tâm pháp chẳng thật, cho nên nói là an trí (đặt ra) đoạn văn này phá pháp vô ngã. Liên đời mà dẫn, chẳng cho đó là ý chính. “Tương ưng…”: Nhập Địa thì chứng Như. “Bất Phân Biệt”: Là lìa phân biệt chướng. “Tức ngang…”: Nếu còn tồn ngã và Pháp, tức là phân biệt vô cùng. Chỉ cần liểu cả hai không thì tự vô phân biệt, tức là nhị không quán này làm phương tiện để nhập vào Lý. - Trừ phân biệt: Kinh: ý nói: Người phát Bồ-đề tâm, nên như vậy tri kiến, tín giải, chẳng sinh ra pháp tướng. Sớ: Có hai phần: 1. Chỗ nương của vô phân biệt. có hai phần: 1. Tổng trưng ba pháp: “Ngài Vô Trướng…”: Mỗi tiết mỗi đoạn dùng giải thích để trung khởi, dùng kinh để đáp. “Người nào”: tức là câu “người phát Bồ-đề tâm” trong kinh. kinh. “Ở pháp nào”: Tức là câu “Nhất thiết pháp” ở trong kinh. “Phương tiện gì”: Tức là câu “nên như vậy tri kiến tín giải” trong Đoạn trừ “Đây là hiển thị…”: là phần hai, giải thích riêng phần thứ ba. Có hai phần: 1. Nêu chung. “Đây là hiển…”: tâm tăng thượng tức là Định, Trí tăng thượng tức là huệ. Dang là tăng thắng những pháp trên, cho nên nói là Tăng Thượng. “tri kiến thắng giải”: là những ngôi vị sau của Định Huệ đoạn từ “ ở trong ấy…”: là phần hai. Giải thích riêng. Có hai phần: 1. Nói chung về ba nghóa: “trong ấy” là ở trong ba sự kia. “Nếu Trí…”: Là tỏ về Thể của ba loại này, tức là Trí y chỉ vào ba phương tiện khác nhau mà đặt ra ba tên gọi. Xa-ma-Tha, tiếng Hán gọi là Chỉ. Chỉ tức là Định. Trí y vào Định này thì dập tắt vạn duyên, duy chỉ có tâm, cho nên gọi là Tri (biết). “Tỳ Bát…”: Tỳ Bát Xá Na: tiếng Hán gọi là Quán, Quán tức là Huệ, y vào Huệ này, cho nên nói là Quán sát tất cả, ủy tế suy cầu, lịch lịnh phân minh rõ ràng, cho nên gọi đó là kiến (thấy). “Hai thứ này”: là tri và Kiến. “Tam Ma Đề: tiếng Hán gọi là Đẳng trì, chỉ do vì Định và Huệ đẳng xứ (chỗ Định và Huệ ngang bằng), gọi là Tam Ma Đề, dựa vào ngóa này nên gọi là “Thắng Giải.” “Nói y chỉ”: Là danh y theo nghóa mà đặt. “Vì Tam Ma Đề…”: Là phần hai. Chuyển giải thích nghóa sau. “Tự tại”: là Định Huệ vô ngại. “Nội Duyên”: đã chưa chứng Chơn, chỉ duyên hình ảnh. Vì pháp Chơn như thì lìa tâm duyên, nay thì đã biến ảnh, duyên với Như, gọi là Thắng giải, từ đó có thể dẩn căn bản chánh Trí, làm phương tiện gần trong vô phân biệt. “Thế nào là…”: là phần hai. Chánh hiển lý vô phân biệt: tức là luận giải thích câu “bất sinh pháp tướng” trong kinh. Câu đầu là trưng khởi, câu sau là chánh hiển. “Đại vân nói…”: là dựa theo vị mà giải thích luận. Tiền phương tiện”: tức là tri, kiến, thắng giải. Đây là đang ở giai vị Tứ Gia Hạnh thuộc Địa Tiền. “Nay bất phân biệt”: tức là bất sinh pháp tướng, thông tại thập Địa và Phật địa, tuy mãn và phần khác nhau nhưng đều dùng căn bản vô phân biệt trí, chính mình chứng đế lý, như bài tụng về kiến Đạo của Duy thức nói: Khi ấy ở Sở Duyên, Trí đều vô sở đắc, bấy giờ trú Duy Thức, lìa khỏi nhị thủ tướng. - Hiển Bổn tịch: Kinh: Ý nói: Cái gọi là pháp tướng là pháp tướng chẳng thật có, đó là pháp tướng bổn vô (vốn không có). “Bất cộng”. Là phi pháp tướng trong thắng nghóa Đế chẳng chứa chấp nó, ly tính, ly tướng, phi hòa hợp. “Tương ưng”: Là “Thị danh pháp tướng”, tính khởi thì thành ra là tướng, tướng chẳng lìa Tính, cũng như dụ về vàng trong phần trước. Đồ vật chẳng lìa vàng. NGHI TÌNH THỨ HAI MƯƠI SÁU Văn của luận đến đây chẳng nói rõ là đoạn trừ nghi tình nào, cho nên hai quyển Sớ Vân và ngoại đều thu vào trong đoạn văn trên, hợp những quyển sớ và xem văn của luận thì có, cho nên tách ra phần này. “Nhân vì nghi…”: Là chỉ chỗ khởi nghi, nghi này đến từ trong nghi hai mươi lăm. “Ý cho rằng…”: Là lập lý. “Tức hóa thân…”: Là chỉ không có thể của Hóa thân. “Nếu vậy…”: là kết thành nghi. Ý nói: Phật năng thuyết đã là hư giả thì giáo sở thuyết chẳng lẻ lại thật! Trì thuyết giáo chẳng thật, lại có phước sao? - Công Đức: Kinh văn so sánh. Có thể hiểu được. “A Tăng Kỳ”: Tiếng Hán gọi là vô số. “Phát Bồ-đề tâm giả”; là phân biệt với những người khác. “Kệ nói:….”: Là nêu. “Luận nói…” Là giải thích. Trước là nhắc lại nghi để túng nó. “Nhưng mà chư Phật kia…”: là căn cứ theo lý mà đoạt nó. “Vô lượng…”: là phân biệt với Hữu lượng. Đây tức là ba lớp để tỏ rõ sự vượt trội của trì thuyết. - Bất nhiễm: Kinh: Trưng ý nói: thuyết pháp như thế nào để gặt hái được công đức như vậy? Văn giải thích có thể hiểu, trước đó nói: Phát Bồ-đề tâm giả là ý ở tại đây. Nếu phi Bồ-tát thì sao được như vậy. “Ngài Vô Trướng….”: Là dẫn giải thứ nhất. Có hai phần: 1. Nói về ý kinh. Đã là tâm thuyết pháp, cũng giống như Chơn Như kia không có phân biệt, chẳng thủ tướng của năng thuyết, sở thuyết thì sẽ gặt hái công đức lợi ích cực kỳ vậy, cho nên quyết định thuyết. “Vô sở nhiễm”: tức là vô phân biệt, bất thủ, bất động. Đây chính là ý của Đoạn Nghi. Nghóa là toàn bộ những điều Phật thuyết đều Như Chơn thật, người tryền thụ phải đều như vậy. Đã như pháp thì phước mới vô biên, sao lại còn nghi trì thuyết chẳng có phước đức? Lại nữa, như kệ nói: Khi chư Phật thuyết pháp, chẳng nói là Hóa than, vì chẳng nói như vậy nên thuyết kia là chánh. Ý nói: Nếu nói là Hóa nhơn thì người ta không có kính tâm, thì làm sao chịu tin thọ pháp sở thuyết, do chẳng nói nên người ta đều tông phụng, giáo được thuyết, thảy đều thọ trì, phước vô lậu tự nhiên sẽ vô lượng vậy. “Vân hà…”: là phần hai: tiêu văn kinh. “Chẳng thể…”: Đây là tỏ rằng lìa khỏi tướng thuyết, chẳng phải hoàn toàn chẳng thuyết. Phần trên nói: “Vô pháp khả thuyết”. Kinh Tịnh Danh nói: “Vô thuyết vô thị”, đó gọi là thuyết pháp. Cho nên bản kinh ngụy nói: “Như bất diễn thuyết”. “Nếu khác với đó…”: Nói ngược lại; vì thủ tướng mà có phân biệt, chẳng Như Như. Đã là chẳng Như Như, tức thành điên đảo. “Lại nữa, khi thuyết…”: Là dựa theo sự mà nói về Vô nhiễm. Trước là dựa theo chẳng xứng lý, nay là dựa theo chẳng xứng sự. Bởi thuyết pháp vốn là để lợi ích chúng sanh, nay lại vì danh lợi, há lại chẳng nhiễm thuyết! “Đại Vân…”: là phần hai, dẫn giải thích của Đại Vân: tâm hành sinh diệt tức là Hữu sở đắc, phân biệt thủ tướng, nay đã chẳng thể, Dùng Tức hợp vời Như, cho nên nói là “Như Như”. Chữ Như trước, tức là nghóa tựa như. Chữ Như sau, tức là Chơn Như, tựa như Chơn Như, cho nên nói là Như Như. “Tâm, cảnh Như”: Tức là cả hai đều là Chơn Như, không có nghóa tựa như. “Tức Vô Nhiễm”: Nghóa là tâm nghó liền sai, bèn gọi là Nhiễm. Cho nên Luận nói: Động tức hữu khổ, quả bất ly Nhân: Đây tức là niệm lự vi tế đều gọi là Nhiễm, bất tất phải là tham dục. NGHI TÌNH HAI MƯƠI BẢY Sớ: Đầu tiên là nêu chướng. “Nếu chư…”: Là chỉ chỗ khởi nghi. Nghi này đến từ trong nghi hai mươi sáu. Vì hóa thân Như Lai thướng thuyết pháp, phần trước tuy không có văn nhưng có ý này. “Thì sao lại….”: Là kết thành nghi. “Niết-bàn” tức là nghóa của Bất động, vô vi, như văn trước nói: “Nếu người nói Như Lai đến, đi, ngồi, nằm, tức chẳng hiểu nghóa mà Như Lai đã thuyết, Như Lai là chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu, cho nên gọi là Như Lai”. Đây là Phật Nhập Niết-bàn. Ý nói: Niết-bàn thì tịch tỉnh, thuyết pháp thì huyên động. Đây và tịch tương phản nhau, sao cả hai đều tồn tại. Kinh: Trưng ý rằng: Vì nghóa gì mà Phật thường thuyết nhưng chẳng ngại Niết-bàn? Như Luận đã nói. Giải thích ý rằng: Thường Phật có diệu trí, quán chư pháp không, như mộng huyễn… Tuy hiện thuyết pháp, tựa như là tướng Hữu vi nhưng thường trú Niết-bàn, lý của vô tác, còn nghi gì nữa! Nếu ở ngoài luận thì chẳng giải thích đoạn nghi. Văn này chỉ trách thuyết pháp bất nhiễm. Trưng ý nói: Vì nghóa gì mà khi thuyết pháp chẳng thủ ở tướng, đắc hợp Chơn Như, bất động bất nhiễm? Giải thích ý nói: Chỉ quán các tướng Hữu vi giống như mộng huyễn… thì tự nhiên thuyết sẽ bất thủ, bất trước, khế hợp Chơn Như, không có lay động, phân biệt,… Sớ: Văn có hai phần: 1. Chia phần, nêu văn. “Trong bản đời Ngụy…”: Hai bản kinh đều thuyết thí Dụ, bản kinh kia thì rộng, bản kinh này thì lược, nay thì nêu rộng để giải thích. “Trong phần…”: Là phần hai. Theo phần giải thích, có ba phần: Dựa theo giải thích hai luận: trong bản Ngụy có chín dụ; 2.Văn thứ nhất: “Kệ nói…”: là nêu. “ Luận nói….”: Là giải thích: Đầu tiên là giải thích hai câu trước của kệ: Chơn thân và hóa thân chẳng cùng một, cho nên là phi Hữu vi. Chơn thân và Hóa thân chẳng khác nhau (Bất dị), cho nên là bất ly Hữu vi. Nói “Chư Phật” là để phân biệt với Niết-bàn của Tiểu Thừa chỉ một mực là tịch diệt, còn Niết-bàn của Như Lai là Bi và trí kiêm vận, gọi là Vô trú xứ. “Vì sao…”: là men theo phần trên mà trưng hỏi, giải thích hai câu sau của kệ. Ý trưng hỏi có thể biết! “Do diệu trí…”: Diệu trí là để phân biệt với Thô trí của Nhị Thừa. Chánh quán, là để phân biệt với đảo kiến của phàm phu. Đã dùng Diệu trí, chắng quán Hữu vi các pháp như mộng huyễn… cho nên thiệp Hữu mà chẳng trú Hữu, quán không mà chẳng trú không, dụng mà thường tịch, tịch mà thường dụng. Suốt ngày thuyết pháp, suốt ngày Niết-bàn, như sớ của Hoa Nghiêm nói: “Tịch liêu ở vực vạn hóa, động dụng ở trong nhất hư”. Mới biết rằng nếu chẳng thiệp hữu, há lại gọi là Đại thừa Niết-bàn. Nếu chẳng chứng Như thì sao gọi là Vô nhiễm thuyết pháp. Lời tuy tựa như ngược, nhưng ý lại phù hợp nhau. Ngài Thiện Hiệu dựa theo cực trái để trình bày mối nghi, Như Lai căn cứ theo cực thuận để giải thích thông nghi. Lý thật thâm diệu, sáng cả thiện cuối. “Kiêm Vô Trướng…”, đầu tiên là chia văn. “Bài kệ này”: là văn của bản kinh đời Ngụy. “Bốn tướng Hữu vi”: Tức là bốn tướng. tự tính… ở phần sau. 1.Tự tính tướng…”: Theo văn mà giải thích bốn tướng. Hai câu đều là giải thích ý chương. “Kiến và tướng này…”: Nghóa là hai phần kiến và tướng, dùng tự chứng phần làm Thể. Mà ba pháp này là tự tính của sinh tử, tất cả sinh tử từ đó mà sinh ra, cho nên gọi ba pháp này là căn bản vậy, chúng thông cả tám Thức. “Tinh (sao đêm)…”: Là giải thích riêng. “Kiến phần”: Đại Vân nói: Đó là Đệ-lục-thức. Đo lường tính toàn phân biệt, duyên với cảnh mộng tướng, các trí ở thế gian đều ở trong này. Cho nên dùng tính toán ánh sáng sao đêm để so với thức này. Đây là dựa theo chấp dính toán quá cường thịnh, cho nên riêng chỉ cho thức thứ sáu, chẳng phải là chẳng thông với tám thức. “Vô trí…”: trong này, pháp và Dụ kiêm nhau, văn còn bị thiếu sót, tóm lược. Nếu phối cho đầy đủ thì pháp và Dụ kiêm nhau, văn còn bị thiếu sót, tóm lược. Nếu phối cho đầy đủ thì pháp và dụ có bốn đôi: Đó là, lấy mặt trời dụ cho Trí. Lấy ánh sáng dụ cho ngộ, lấy bóng tối dụ cho Mê, và như trong dụ, ý nói: Trong bóng tối không có mặt trời, có ánh sao. Trong ánh sáng mặt trời, có Thức dụng. Trong ngộ, có Trí không có phân biêt, chúng cũng giống như đêm tối, ngày sáng. Đêm tối thì chỉ có ánh sáng mà biết hướng nam Bắc, mặt trời vừa hiện, ánh sao tự tồn. Trong pháp cũng vậy, trong mê sinh tử, bổn Trí chưa hiển rõ, Ý thức phân biệt tựa như có soi biết. Nếu Trí hiển rõ, ánh sáng soi khắp thì niệm lự phân biệt chẳng còn tí nào. “Không có ánh sáng kia”: Đây là dựa theo một phần dụ. Trong dụ đều không có ánh sao nhưng có thể của sao, trong pháp thì đồng cùng một trí, không có riêng tâm thức. “Ế (mắt màng)”: Ý nói: màng nếu ở tại mắt thì mắt chất thấy vòng tơ. Nếu tại ý thì thấy thât ngã pháp. Nếu dụ phối với pháp thì Màng mắt dụ cho Thức Thứ bảy, vòng tơ dụ cho Sở kiến phần. Nay nêu ra rằng: màng mắt là dụ cho Sở kiến phần là vì có ba ý: a. Mật phối với Đệ Thất Thức: nghóa là nếu chỉ thủ vòng tơ thì chỉ dụ cho sở kiến. Đệ Thất Thức không có Nhân để thủ, cho nên đây là mật phối không bị sót; Cũng giao ảnh lược: Vì trên dụ thì nêu ra Năng, trong pháp thì nói Sở, tự nhiên ảnh lược, thuyết thu những thứ khác; c. Hiển thị vòng tơ có Thể Tính, ý tuy tại sở nhưng lại nêu năng, để hiểu rõ, Sở từ năng mà sinh ra, đủ biết là nó không có thể. “Vì kiến điên đảo”: là chỉ ra nguyên do vô thể, không có mà thấy có, cho nên nói là Điên Đảo. “Thủ vô nghóa”: Về tính thì có, về lý thì không có. Trong phần ba: Đều là dụ cho Thức. Về mặt lý thì tuy thông cả tám thức, nhưng về mặt nghóa thì chỉ năm thức trước. Vì thức thứ sáu thứ bảy, thứ tám đều có Điên Đảo. “Thủ vô nghóa”: Về tình thì có, về lý thì không có. Trong phần ba: Đều là dụ cho Thức. Về mặt lý thì tuy thông cả tám thức, nhưng về mặt nghóa thì chỉ năm thức trước. Vì thức thứ sáu thứ bảy, thứ tám đều có phối riêng. “Đèn dựa theo cao dầu…”: Lấy dầu cao dụ cho Tham ái, lấy ánh đèn dụ cho Thức. Nếu không có dầu cao thì ánh đèn chẳng khởi, nếu không có tham ái thì thức niệm bất sinh. Cho nên luận nói: “Y chỉ tham ái pháp trú”. Ba dụ trên đều là Năng Huân, là căn bản của Nhiễm ô. Cho nên gọi chung là Tự Tính tướng. Sở huân của chúng là Thức thứ tám trì giữ hạt giống mà dẫn khởi tâm, phối thuộc dụ mây, sẽ nói ở phần sau. Hoặc có thể sao là dụ cho kiến phần. Mắt màng thấy vòng tơ, vòng tơ là dụ cho Tướng phần. Đèn dụ cho tự chứng phần. Tự chứng phần tức là thứ tám. Sau đó dụ mây, mây chỉ dụ cho những chủng tử (hạt giống) trong Thức, những hạt giống này sẽ cho ra những pháp vị lại. 2.“Trước Sở trú vị”: Tức là dính mắc. Đắm dính vào chỗ trú ở. “Huyển là dụ…”: Tức là nói theo Cảnh Sở Huyễn, như kết khăn tay biến ra thành con thỏ, kết có biến ra thành con ngựa, cho đến biến hiện ra nhiều thứ cảnh giới khác nhau. “Vì những đồ vật…”: Là Pháp sở dụ. Cảnh giới của sáu trần chẳng cùng một, cho nên nói là “chung thủy”. “Ngài Vô Trướng…”: là giải thích đề mục phần này. Còn về ý giải thích của Đại Vân thì dể có thể biết. Thức Năng biến còn chẳng thật, thì cảnh sở biến há lại có Thể, cho nên Khởi Tín nói: Tất cả cảnh giới chỉ nương vọng niệm mà có sai biệt. nếu lìa tâm niệm thì sẽ không có tướng của tất cả cảnh giới. Tùy Thuận (quá thất tướng): có hai phần: Giải thích ý của chương. “Tự thân…”: là tỏ rằng Thân và thọ đương thể là quá thất (lỗi lầm). “Quán chúng …”: Tùy thuận xuất ly. “Lại có giải thích…”: Chấp trước tự thân và thọ là tùy thuận quá thất. Đó là chấp thân xác này là thường hằng, chấp thụ hưởng là lạc, tức là Điên Đảo. Điên đảo tức là quả thất. - Lộ (giọt sương)… là phần hai. Chánh giải thích văn, có hai phần: Thời gian ngắn ngủi: “Trú” như giọt sương ở trên ngọn cỏ, mặt trời mọc liền bốc hơi, vọng thân của chúng sanh cũng giống như vậy. Có ba ý: 1.Mệnh ngắn ngủi: Hữu vừa sinh ra liền chết; 2.So với những cõi giới trên thì thời gian cực kỳ ngắn ngủi; 3.Niệm niệm dời đổi rơi rụng, tức sinh tức diệt. Có ba ý này cho nên gọi là thời gian ngắn ngủi. - Bào (bọt nước): “Thọ dụng sự”:Thọ là năng lảnh nạp, ngay ở lảnh nạp này là dụng của Thọ, ngay ở thọ dụng này thì gọi là Sự. “Thọ, Tưởng, Nhân”: Nhân tức là Nhân củ Xúc thọ. Tưởng trợ giúp cho Thọ. Cââu Xá nói: Thọ giống như món ăn ẩm thực, tưởng giống như gia vị trợ giúp. “Ba pháp bất định”: có ba giải thích: 1. Khổ, Lạc, xả ba thọ bất định; 2.Thọ, tưởng, Nhân với ba pháp mà bất định, ba pháp tức là ba cảnh; trái, thuận… 3.Thọ, tưởng, xúc là ba, cả ba đều bất định. Vì một thứ bất định thì những thứ còn lại cũng đều bất định. Mà đây tuy nói tưởng, xúc, ý tỏ về Thọ. Như gió và nước kích nhau thì có bọt nước khởi. Xúc và tường hòa hợp thì có Thọ Sinh ra. Vì vậy mà lấy bọt nước dụ cho Thọ. Cho nên Đại vân nói: bọt ở trên nước, ẩn hiện bất định. Thọ ở trong tâm, khổ lạc bất thường. “Khổ Thể”: Thọ là thể của khổ, khổ là ba khổ. Trong thân khổ kia có khổ sinh, cho nên là khổ khổ. Phá diệt là Hoại khổ. Chẳng lìa nhau là Hành khổ. Đuổi theo cảnh, trú ở tình, vọng sinh ra Lạc tưởng, cho nên gọi là Tùy thuận. “Công đức thí…”: Ý nói thọ mệnh, khác với nghóa trên. Dụ thì có thể biết rõ! Trong pháp thì “Bắt đầu sinh”, gửi chứa trong bụng, gọi là sinh (có người) hình thể chưa thành liền chết. “Hoặc mới vừa sinh” nghóa là (có người) vừa mới sinh ra liền chất. “hoặc tạm định trú. Cõi trời thứ nhất thấy nhân gian năm mươi năm giống như một ngày đêm, huống nữa là trí của bậc Thánh! Cho nên kinh chánh pháp niệm nói: Có người chết trong thai, có người vừa mới sinh ra mà đã mệnh chung. Có người vừa biết đi thì chết, có người vừa biết chạy thì mất, tuy ngắn ngủi khác nhau, đều về chỗ chết. Cho nên kinh Tịnh Danh nói: “Thân này hư giả”, giả mượn dùng tắm rửa ăn mặc, ắt sẽ quy về môn diệt. 4.Tùy thuận xuất ly tướng: Có ba phần: a. Giải thích ý chương: “Tùy Thuận Nhơn Pháp…”: Chơn Trí của Nhơn không và pháp không, có thể xuất ra hai tử. Phương tiện quán sát, gọi là tùy thuận; b. Chánh giải thích: Văn có ba phần: Như Mộng: Là Thần du của con người. Vì những việc làm, những việc nghe thấy thời quá khứ đều là xứ xứ của sở niệm, không có sai biệt gì với những giấc mơ về đêm, nhớ lại thì có thể kể ra nhưng chẳng thấy. Như Kinh nói: Như khi ngũ dậy, kể chuyện trong mộng, tâm buông thả cho tinh minh vì nhân duyên mà thủ lấy vật trong mộng. “Chỉ là tính nhớ niệm”: Vì niệm nhớ là Thể tính, nhớ lại thì tựa như là có, chẳng nhớ thì hoàn toàn không có. “Quán sát…”: Nghóa là ban ngày bị những cảnh giới, thấy, nghe, hun huân, trong mộng thấy lại rõ ràng, tuy không có người tạo tác nhưng cảnh giới vẫn hiện tiền rõ ràng. “Cũng giống như vậy…”: Là hợp với pháp, bị huân bởi những nghiệp nhân thời quá khứ; cảm chiêu quả báo hiện tại, tuy không có người tạo tác, chẳng khỏi sinh tử luân hồi. Cho nên Tịnh Danh nói: “Vô Ngã, Vô tạo, Vô Thọ giả, Nghiệp của thiện ác cũng chẳng mất:. Khi tỉnh mộng, nhưng việc thấy rong mộng đều chẳng có, khi mê, đã giác thì sinh tử luân hồi, tuyệt hẳn dấu vết. Cho nên Khởi Tín nói: Nên quán các pháp quá khứ mà mình nhớ, mơ màng như mông. Như Điện: “Bất trú sinh diệt”: Văn thì khác mà nghóa thì đồng. Hể là Hữu vi, tức sinh tức diệt, không có khác thời. Bởi vì không có Tính, cho nên Thể là hư vọng, kinh nói: “Nhân duyên hòa hợp, hư vọng Hữu sinh, Nhân duyên biệt ly, Hư vọng danh diệt”. Kinh Lăng Già nói: “Vừa sinh liền có diệt, chẳng thuyết cho người ngu”. Khởi Tín nói: Nên quán hiện tại, những pháp sở niệm, giống như Điện chớp. Mây: “Tý thời”: Là tại thời vị chủng tử (hạt giống). Giai vị chủng tử, làm chủng tử căn bản cho tất cả pháp”. Bởi vì tất cả chư pháp từ chủng tử mà sinh ra. “Thô ác chủng”: là Hữu Lậu Chúng. Bởi vì vô lậu chủng tử là tế diệu. “Tựa không”: là dụ cho nhiều. Hoa Nghiêm nói: Nếu Ác nghiệp này có thể tướng thì cả Hư không giới chẳng thể chứa đựng nổi. “Như vậy”: Hư không là dụ cho chủng tử. Mây là dụ cho những pháp sẽ khởi sẽ hiện hành thời vị lai. Bởi vì mây nương theo hư không bầu trời, hốt nhiên mà khởi. Cho nên Khởi Tín Luận nói: Nêu quán chư pháp sở hiện ở thời vị lại giống như mây bỗng nhiên mà khởi. “Ngài Vô Trướng …”: Là nói chung về ba sự, kết giải thích đề mục của phần. “Đại Vân…”: Tỏ về ý chia văn của ngài Vô Trướng. Ba Đời đã không, dựa vào đâu mà có Ngã chấp. Có Ngã thì đã chẳng thể xuất ly, người Đạt Vô Ngã ắt sẽ xuất ly. Cho nên kệ nói: Quán căn và Thọ Dụng, quan ở tam thế sự, ở trong Hữu ci pháp, đắc vô cấu tự tại. Trong phần hai, Chư kinh…: Nghóa là Như Lai thuyết pháp, đa phần dùng sự huyển mộng, hư giả để so với nghóa không của chư pháp, hoặc chi tiết hoặc tóm lược ở trong chư kinh và chư luận, tùy theo kinh luận nào, tông thú tuy khác nhưng đại ý đều phá Biến kế tình chấp của chúng sanh, người tình chấp nhiều, người chẳng đạt pháp, theo dụ mà sinh nghi, bệnh đa liên miên, được vẫn chẳng ngừng, cho đến khi ngộ thì thôi. Pháp dụ trùng trùng, nay dựa theo văn sớ chú thích Thập Nhẫn phẩm của kinh Hoa Nghiêm, kiêm cả thế của các luận Đại thừa để nói về ý của các Dụ, khiến đừng bị lẫn lộn. “Tất cả pháp không”: Đây là tông nghóa, nếu là người thượng căn, vừa nghe câu này liền hiểu. Người loại trung căn, vừa dụ liền rõ. Người hạ căn, triển chuyển sinh ra mê hoặc, lại càng phải dùng thêm các dụ, như phần sau sẽ nói. “Hiện thấy…”: chất vấn rằng: Chư pháp nếu chẳng thấy thì còn có thể nói là chư pháp đều không, nay hiện thấy rõ ràng tồn tại, sao lại là không? “Vì vậy mà thuyết là Như Huyển…”: Dùng dụ để giải thích dụ. Phần sau đều theo vậy. “Ái trước…”: Chất vấn rằng: Chúng sanh chẳng ái trước thì còn có thể nói là chư pháp như huyển, đã sinh ra tâm ái trước thì làm sao có thể nói là Như huyển? “Vì vậy mà thuyết như Dương diểm…”: là giải thích, đó là người khát nước chăng được nước. Nạn vấn rằng: Tham cầu nếu chẳng được thì còn có thể nói là Như Dương diểm, người cầu đều toại lòng thì làm sao có hể nói là như Dương diểm, (niệm tưởng ảo ảnh trong sa mạc,…) “Cho nên nói là như mộng…”: Là giải thích. “Mộng tạo thiện ác…”: Nạn vấn rằng: Mộng tạo thiện ác, không có quả báo, thì làm sao lại nói là chư pháp như mộng. Sự việc nhân quả rõ ràng thì sao thể nói là như mộng? “Cho nên nói là như ảnh…”: “nghiêm” là đẹp đẻ. “Suy” là xấu xí, đây là nói về sắc đối với gương. “Cao thấp” đây là nói về Thanh đối với thung lủng, hang động. “Mỗi mỗi đều ứng”: không có một hình ảnh nào mà chẳng ứng với sắc, không có âm hưởng, âm vang nào mà chẳng ứng với thanh.” Không có tạp loạn….”: Ắt chẳng đối với đẹp mà hiện ra hình ảnh xấu, đối với âm thanh cao mà ứng ra âm thanh thấp. “Lợi lạc…”: nạn vấn rằng: Bồ-tát chẳng Hóa sanh thì còn có thể nói là như ảnh, như hưởng (tiếng vang), Bồ-tát đã hóa sanh thì sao lại như ảnh, như hưởng? “Cho nên nói là như hóa…”: là giải thích. “Tác hóa sự”: Đừng cho rằng tác hóa sự bèn nói đó là thật, đừng cho rằng độ chúng sanh bèn nói là chúng sanh thật có. Do vì chúng sanh Tức không. Vì (chúng sanh) mê, chẳng giác, mà thuyết cho (chúng sanh) nay giác. Nếu (chúng sanh) thật có thể thì Hóa (chúng sanh) có ích gì? Cho nên Tịnh Danh nói: Quán chúng sanh như Huyển hóa, như trăng dưới nghiệp, như ảnh trong gương, như lông rùa, sừng thỏ. Văn Thù hỏi rằng: Nếu vậy thì Bồ-tát sao lại hành từ? Duy Ma Cật nói: Thuyết như thị pháp cho chúng sanh, đó là Chơn Thật từ. Phần trên, năm lớp trưng hỏi và giải thích đều là hiểu tỏ pháp không. Vì nhân ở dụ mà sinh ra mê, bèn triển chuyển dạy dổ cho hiểu rõ. Lấy dụ này để giải thích cho dụ sau, hết dụ rồi thì pháp được tỏ rõ, mối nghi kết sẽ tự cởi mở. Trong chư Kinh, hoặc có khi thuyết dụ làm thành, trăng nước, ghế ma, dây rắn, màng mắt, không hoa, lông rùa, sừng thỏ,… đều là tùy cơ tùy thuyết, dẫn khiến được xuất, ắt chẳng theo thứ tự của năm lớp trên. - Bản kinh dịch đời Tần: “Mộng, Huyễn, Bào,…”: Vì bốn sự, mộng, huyển, bào, ảnh, đều không có thể tính. Nếu quán các pháp hữu vi như mộng, huyễn,… thì lý không sẽ để tỏ rõ. Hai sự, sương mai và chớp, tạm có liền không, nếu quán chư pháp như giọt sương mai, như tia sấm chớp thì vô thường tự hiển rõ. “Ngộ Chơn không….”: là nói về sự ích lợi. “Bất trú tướng”: Phàm phu mê Chơn không, tức là đã trú tướng, mới biết rằng ngộ Chơn không tức là bất trú tướng. Trú tức là nghóa của chấp thủ nhiễm trước. Lại nữa, phàm phu điên đảo, chẳng liểu hiểu vô thường. Cho nên mê luyến nam thích Thế gian, chẳng để ý gì đến tu tiến. Nên biết đạt tất cả thảy đều vô thường niệm niệm dời đổi trú chẳng lâu dài kia, do vậy mà kinh sợ sinh tử, vui hướng đến Niết-bàn, tranh thủ thời gian, như cứu lửa cháy trên đầu. Cho nên ở trong hội Niết-bàn, Phật chỉ khen ngợi quán vô thường đó là đệ nhất. Trong hai câu này, mỗi câu đều có giải và hành, phối hợp nhau mà giải thích, có thể biết vậy! “Phù hợp một cách kỳ diệu…”: Là kết, khen ngợi. “Phù hợp với tông phá tướng”: là khen ngợi bốn dụ kể trên, mà giáo môn một đời của Phật, trong Đại Thừa, có ba tông đồ: 1.Pháp tướng Tông: là những kinh giải thân mật,… những luận như, Du Già, Duy Thức…; 2.Phá tướng tông: là những kinh Bát-nhã những luận, trung Luận, Bách Môn; 3.Pháp Tính Tông: là những kinh pháp Hoa, Niết-bàn,… Khởi Tín luận, Bảo Tính Luận. Bát-nhã Tông đã là phá tướng tông, nay thuyết dụ Hữu Vi, dùng Huyễn, Mộng, Bào, ảnh, thì rất phù hợp với Tông chỉ. “Bày tỏ vong tình”: Là khen ngợi hai dụ sau. Nếu quán các pháp ở thế gian như tia chớp, như giọt sương thì tự mình sẽ chẳng buộc tình ở thân xác thọ mệnh, tiền bạc mà sinh ra hiển giải Thường. Lại nữa, do nhờ bốn dụ trước mà Huệ giải vong tình, do từ hai dụ sau mà tập Định vong tình. Lại nữa, dụ trước là vong mất cái tình chấp vào Hữu (có), dụ sau là vng mất tình cho là Thường. Nếu chẳng giác không. Vô thường thì sẽ buộc trói tình ở thân mệnh, tiền của, nay đã ngộ cái lý không vô thường này thì tình niệm sẽ tan rả, Chơn trí hiện tiền, thế ắt trên thì sẽ hợp với Tông của kinh, cho nên nói là “Diệu”, dưới thì khế với vật tình, cho nên nói là “Xảo”. “Bản đời Ngụy dịch….”: là điệp vấn hỏi lại. Hoặc hỏi rằng: bản đời Ngụy dịch chín dụ, bản đời Tần dịch lược bớt ba dụ, là vì sao? Nay ở đây điệp lại. “Vì sao…”: Là giải thích. “Hữu Thể”: Tuy sao đêm chẳng bằng mặt trời. Đèn thì nhờ mượt dầu cao, chưa hoàn toàn là không. Cho nên nói là “Hữu Thể” (có thể, thể thuộc Hữu. “Vân chủng”: là nêu ra cả hai; pháp và dụ” Mây thì ngậm mưa, chủng tử (hạt giống) thì sinh ra mần non, cho nên nói nói là “hàm sanh”. “Khó khế với…”: Vốn bị chấp tình, kiên cố chẳng hiểu liểu “tức không”, do vậy bày ra dụ để quét sạch phân biệt. Nếu quán vật có thể chất thì sẽ giống như cách phân tách sắc ra thành cực nhỏ, khó mà ngộ “Tức không”, không quán chẳng thành, cho nên nói là “Khó khế với”. “Tiền tư (ngầm thêm, ngầm làm nhuận ướt thêm)”: Đã chẳng liểu hiểu vô thường, ở nơi cảnh tướng mà sinh ra tưởng thường, chẳng thể xả bỏ lìa khỏi, dù chẳng cố ý nhưng vẫn nhậm vận sinh ra tình, bất giác mà khởi, cho nên nói là “Tiềm”. “Lấy ý…”: Tiên đức đến nói: So ngang bản tiếng phạm và bản tiếng Hán thì Huyền Trang là có khả năng. Còn lấy ý để dịch kinh thì Ưu Ma La Thập là nhất. Mà ba dụ, Mây,… thì cắt bỏ bớt. Trong sáu dụ còn lại, thay đổi một dụ, đó là dùng dụ ảnh để thay cho dụ màng mắt. Nguyên do đổi là vì ảnh so với màng mắt thì nghóa không sẽ rõ ràng hơn. - Lưu Thông phần: Văn kinh có thể xem. Câu “Phật thuyết kinh này xong”: Vốn vì ngài không sanh hỏi, nên Phật trả lời về hàng phục, trú, tu hành. Đáp câu hỏi đã xong, bèn tổng hợp kinh. Luôn dùng cách lần theo vết tính mà khởi nghi, liên hoàn hai mươi bảy đoạn, đến đoạn văn này, nghi niệm được giải tỏa. Nếu Thiện Cát (Tu Bồ-đề) chẳng hỏi thì Năng Nhân (Phật) chẳng tuyên (thuyết). Trong cả quyển kinh, tuy kiêm có cả thầy và trò, nhưng vì để tỏ sự vượt trội của kinh này nên chỉ nói là “Phật thuyết”, những nghóa của chữ Trưởng Lão,… như phần trước đã giải thích. Sớ: Có hai phần: 1.Theo văn kinh mà giải thích riêng (từng chữ). “Cận sự nam, nữ”: Là nên và giải thích, có thể biết! Còn gọi là cận trú nam, Thanh Tín Nam…. Cũng có thể biết! “Phi thiên”: Còn gọi là Phi Nhơn, nghóa là loài chẳng nằm trong loài Trời, loài người, còn gọi là Vô Tử (không có rượu). “Như thật”: Là thuyết lý như lý, thuyết sự như sự. “Quả tịnh”: là y theo giải mà khởi hành, đắc vô lậu. “Ngài Vô thường…”: Là phần hai, dẫn những lời khen và giải thích của luận, sớ. “Vá giác”: Là chẳng phát Trí nhị không. Hai chấp cứng rắn kiên cố như đá, đá còn có thể mài, có thể dủa, nghe kinh mà chẳng thể vô ngã mà giải thì chẳng chỉ so với đá. Cho nên nói là “cứng hơn”, “quá hơn”, “nặng hơn”. Thơ nói: “Tâm ta giặc đá chẳng thể chuyển”. Chữ “chuyển” giống với động, mài, dủa đều là nghóa của động. Lại nữa, luận nói: Con người chẳng thể giác và tin thâm pháp, người đời đa phần là như vậy. Vì vậy mà pháp bị hoang phế. “Vô Nhân”: vì không có chánh nhân của Đại thừa, chẳng đắc Bồ-đề. “Tổng trì pháp”: là Bát-nhã Bí Mật. “Thâm cú nghóa”: là Bát-nhã Hiểu liễu. Hoặc là: Tổng trì pháp là thâm kinh, thâm cú nghóa là bổn kệ. “Từ tôn giả”: Tức là DI Lặc, Vô Trướng. “Quảng thuyết”: Tức là tự chỉ cho văn luận. “Mẹ Phật”: vì có thể sinh ra chư Phật và Bồ-đề pháp, những văn còn lại đều dể hiểu.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 115