<經 id="n1699">KIM CANG BÁT NHÃ SỚ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1699 KIM CANG BÁT NHÃ SỚ Hồ-Cát Tạng Pháp Sư Soạn <卷>QUYỂN 1 KIM CANG BÁT NHÃ KINH TỰ Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật Kinh: Đây mới là hư minh của tam quán, uyên thâm của Nhất thật. Xưa trong vườn Tiên Nhân chưa bày tỏ Ma Ni này, nay trong vườn trưởng giả mới tưới rảy cam lồ ấy. Do người tiểu chí mà trước kia khi mở pháp cởi dê nai, nay đại tâm bắt đầu phát mới cởi trâu trắng này. Đây là khuôn mẫu của chánh giáo, lời dạy của tát Đỏa chẳng phải mây bay chẳng phải mưa mà đức thấm nhuần cả tứ sinh, chẳng phải mặt trời chẳng phải mặt trăng mà soi sáng cả tam giới. Gom vạn hạnh như biển Thương Hải thu nạp mọi giòng sông, quét tà dị như sương đông làm điêu tàn trăm cả. Nếu đầy đủ như bản tiếng phạm thì phải nói là: Bạt Xà la Bát-nhã Ba-la-mật Tu Đa La. Ở nước này (Trung Hoa) phiên dịch là Kim Cang Trí Tuệ Bỉ Ngạn Đáo Kinh. Không có khổ lụy, chẳng bị bẻ gảy, gọi là Kim Cang. Không có cảnh nào mà chẳng soi chiếu, gọi đó là Bát-nhã. Vươn lên Bỉ thử, gọi là Ba-la-mật. Kinh; là dạy pháp, dạy Thường. Chia ra mười phần để giải thích kinh: 1.Phần tựa thuyết về ý kinh; Bao nhiêu bộ loại; 3.Khai hợp; 4.Trước sau; 5.Tông kinh; 6.Đề kinh; 7. Truyền dịch; 8. Ứng nghiệm;. 9. Chương đạo; 1 0. Chánh văn. THUYẾT VỀ Ý KINH Hỏi : Phật vì nhiều nhân duyên khác nhau mà thuyết kinh Ma Ha Bát-nhã, nay vì những nghóa gì mà thuyết kinh này? Đáp: Kinh Ma Ha Bát-nhã (Đại Bát-nhã). Vì Bồ-tát mà rộng thuyết Bồ-tát Hạnh. Còn kinh này là vì chữ Đại Nhơn mà lược thuyết Đại pháp. Bởi như kinh nói: “Phật cáo Tu Bồ-tát: Thử kinh vị phát Đại thừa giả thuyết, vị Tối Thượng Thừa giả thuyết. Hỏi: Vì sao vì chư đại nhơn thuyết đại pháp? Đáp: Phật pháp vô lượng, lược thuyết Nhân quả thì bao gồm tất cả. Nhân; đó là Đại nguyện chơn thật, Đại hạnh chơn thật của Bồ-tát. Nói Đại Nguyện là; như Kinh nói: Bồ-tát trú trong tâm Bát-nhã, muốn độ khắp tất cả chúng sanh nhập vô dư Niết-bàn mà thật vô sở độ. Nói Đại Hạnh là; như kinh; “Bồ-tát bất trú ở pháp mà hành Bố thí,… tất cả chư hành mà vô sở hành”. Nếu chẳng lấy tâm Bát-nhã mà phát nguyện thì nguyện chẳng thành nguyện. Nếu chẳng lấy tâm Bát-nhã để tu hành thì Hành chẳng thành hành. Do đó, Bồ-tát muốn tu nguyện tu hạnh cần phải có Bát-nhã. Đó gọi là nghóa của Nhân. Cái gọi là Quả: Vì Bồ-tát hành cái Nhân có Bát-nhã. Đó gọi là nghóa của Nhân. Cái gọi là Quả: vì Bồ-tát hành cái Nhân vô sở đắc, cho nên đắc cái quả vô sở đắc. Quả vô sở đắc tức là Như Lai thật tướng pháp thân. Như kinh nói: “chẳng thể bằng chư tướng được thấy Như Lai, nếu thấy chư tướng phi tướng thì thấy Như Lai vô vi pháp thân”. Nay muốn thuyết cho chư đại nhơn về Nhân quả đó mà thuyết kinh này. Lại nữa, vì hiện tại vị lai tất cả chúng sanh, phân biệt một cách chơn thật về lợi ích công đức, cho nên thuyết kinh này, như Kinh nói: “Sau khi Phật diệt độ, năm trăm năm sau, trong Bát-nhã, năng sinh một niệm tịnh tín, ngoài được chư Phật hộ niệm, trong đắc vô biên công đức, hơn cả bố thí trân bảo đại thiên, cũng hơn cả bố thí hằng sa thân mạng”. Lại nữa, vì muốn thuyết Đệ Nhất Nghóa Tất Đàn, cho nên thuyết kinh này. Đệ Nhất Nghóa Tất Đàn nghóa là thật tướng của chư pháp diệt tất cả hý luận, quá tất cả ngôn ngữ, cũng vô sở quá, cũng vô sở diệt, thí như đống lửa lớn, bốn bề chẳng thể tiếp xúc, vô sở y chỉ, như kinh nói: “bất khả thủ, bất khả thuyết”, nghóa là chẳng thể thủ tâm hành đoạn, chẳng thể thuyết ngôn ngữ diệt, tức là Đệ Nhất nghóa tất Đàn. Lại nữa, vì thọ thỉnh thuyết pháp, lòng Đại bi tâm, cho nên thuyết inh này. Như kinh Pháp Hoa nói: “Trong ba bảy hai mươi mốt ngày, tư duy việc như vầy; chúng sanh chư căn độn, vui đắm lạc thú, mù mờ bởi si, ta thà chẳng thuyết pháp, mau nhập Niết-bàn. Bấy giờ phạm vương cúi đầu khuyến thỉnh; chúng sanh căn tính có Thượng, trung, hạ, nguyện khai cam lồ môn vì họ mà diễn thuyết pháp”. Vì vậy mà Như Lai liền đến Lộc Uyển thuyết về Tứ Đế, rồi đến Kỳ viên diễn về Bát-nhã. Hỏi: Xưa kia, tại Lộc Uyển, thuyết Tứ Đế, có thể đó là vì phạm vương, nay tại kỳ viên, diễn về Bát-nhã, sao lại thiếu phần thọ tỉnh? Đáp: Phạm Vương thỉnh cầu, chẳng chỉ Tiểu pháp, Như Lai thọ thỉnh, vốn vì Đại sư. Đại sư; là cái gọi là Bát-nhã Ba-la-mật. Lại nữa, vì Phật muốn tập hợp các phương thuốc pháp, trị lành bệnh nan y, cho nên thuyết kinh này. Nguyên do là sao? Tất cả chúng sanh, có hai loại bệnh; 1.Thân bệnh đó là lão bệnh, tử; 2.tâm bệnh; là Tham, sân, si. Vì Từ khi có sinh tử đến nay chẳng đắc được thuốc Bát-nhã, không có người có khả năng trị bệnh này, Phật dùng Bồ-tát Kim Cang đập tan hai bệnh, cho nên thuyết kinh này. Lại nữa, Phật muốn tăng cường niệm Phật Tam Muội của chư Bồ-tát mà thuyết kinh này. Tất cả chúng sanh tuy muốn niệm Phật, chẳng biết Như Lai, thì thường rơi vào tà quán. Như kinh: “Dùng sắc thất ta, âm thanh cầu ta thì đọa tà đạo, chẳng thể thấy pháp thân”. Pháp thân; nghóa là lấy chánh pháp làm thân, gọi là pháp thân. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Chánh pháp tính viễn ly tất cả con đường ngôn ngữ, tất cả thú và phi thú thảy đều tịch diệt tướng”. Chánh pháp tính tức là Thật tướng, kinh này tỏ rõ Thật tướng, tức là tỏ rõ pháp thân. Cho nên quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy. Quán ấy gọi là chánh Quán, khác với quán ấy gọi là tà quán. Lại nữa, vì muốn hiển thị rõ trung Đạo, nhổ bỏ Nhị Biên kiến mà thuyết kinh này, như Kinh nói: “Người phát Tam Bồ-đề tâm, với pháp chẳng thuyết đoạn diệt tướng”. Bồ-đề tâm tức là Đạo tâm. Đạo là chánh Đạo, pháp chánh Đạo tâm, há lại rơi vào Đoạn và Thường, nếu rơi vào Đoạn Thường tức là phát Đoạn Thường tâm, đó ắt chẳng gọi là pháp Chánh Dạo tâm. Nay muốn khiến chư Bồ-tát phát Chánh Đạo tâm, dập tắt Đoạn Thường quán, cho nên thuyết kinh này. Lại nữa, vì muốn thuyết pháp môn khác, niệm xứ khác cho nên kinh này. Xưa kia, thuyết Thiện môn, bất thiện môn, ký môn, vô ký môn, những Niệm xứ thường, vô thường, khổ, lạc,… Nay muốn thuyết Phi Thiện môn, phi bất thiện môn, phi ký môn, phi vô ký môn, phi Thường Niệm Xứ, phi vô Thường Niệm Xứ, như kinh nói: “Pháp còn nên xả, hà huống phi pháp”. Lại nữa, vì muốn chuyển những chướng sâu nặng của chúng sanh mà thuyết kinh này, phần sau nói rằng: “Đúng phải đọa Ác Đạo, nhờ thọ trì kinh mà ba Ác Đạo tiêu diệt, sẽ đắc tam Bồ-đề. Những Nhân duyên như trên đều căn cứ theo văn của kinh và theo cuốn Đại Luận của ngài Long Thọ mà nói về nhân duyên thuyết Bát-nhã. Hỏi: Kinh này thuyết cho người thuộc giai vị nào? Đáp: Có người nói rằng: Bát-nhã là sở hành của những vị đã đạt giai vị cao, chúng ta giai vị phàm phu há lại vào sự ấy, cho nên nhìn bờ mà tự tuyệt. Nay nói chẳng vậy: người kia lại là tự mình tạo ra chướng ngại trong pháp vô ngại, đáng thương lắm thay! Nếu nói rằng Bát-nhã ắt tại Cao Vị, người đạt giai vị cao, vốn tự chẳng đọa Ác Đạo, sao còn đợi tu tập thực hành mới đắc ly? Nay kinh nói rằng: “Muốn chẳng đọa Ác Đạo, chẳng sinh nhà ti tiện,muốn đời đời sanh cởi người, cõi trời, cõi Tịnh Độ thọ hưởng lạc thú, cho đến cứu cánh Đại Niết-bàn, cần phải học Bát-nhã”. Ý nói rằng người đúng phải bị đọa Aùc Đạo nhưng nhờ thực hành Bát-nhã mà chẳng đọa. Do vậy, từ Bạc Địa phàm phu trở lên cho đến Thập Địa trở về đều cần phải học Bát-nhã. Lại nữa, có sở truyền của ngài Bồ-đề Lưu Chi; Kim Cang Tiên luận sư đệ tử của ngài bà Đẩu Bàn Đậu, chú thích kinh Bát-nhã cũng nói về duyên khởi khi thuyết Bát-nhã nguyên do thuyết Bát-nhã là vì đoạn chúng sanh mười loại chướng. Mười loại chướng là: 1. Vô vật tướng chướng; 2. Hữu vật tướng chướng; 3.Phi hữu tựa hữu tướng chướng; 4. Báng tướng chướng; Nhất Hữu tướng chướng; 6.Dị Hữu Tướng chướng; 7.Thật Hữu tướng chướng; 8. Dị Dị tướng chướng; 9. Như Danh nghóa tướng chướng; 1 0.Như Nghóa Danh tướng chướng. Mười chướng này, chướng ngại Bát- nhã. Tám bộ Bát-nhã, trong mỗi một bộ đều mười cướng. Vô vật tướng chướng: Chúng sanh từ nhiều kiếp đến nay, dính mắc ngã và ngã sở, thướng mắc bệnh Hữu, do vậy mà Như Lai huyết “tất cả pháp đều tất cánh không”, nhưng người vâng theo giáo, khi nghe tất cánh không, bèn khởi Tà kiến, cho rằng không có Nhân quả, đánh mất nhị Đế. Đoạn kiến này, chướng ngại Bát-nhã, vì chướng đó mà Phật thuyết kinh này, như kinh này: “Bồ-tát bất trí Nhất thuyết pháp hành ư. Bố thí đẳng nhất thiết chư hành, vì lấy vạn ạnh làm Nhân, pháp thân làm chủ, cho nên tuy tất cánh không mà Nhân quả chẳng mất. Hữu vật tướng chướng: trước kia là Đoạn kiến. Nay là Thường kiến. Người vâng theo giáo, đã nghe Bồ-tát hành Nhân mà đắc Quả bèn cho rằng Nhân là Năng cảm, Quả là năng thù (báo trả), có người năng hành, có hạnh sở hành, thế là Vô kiến (vô kiến; kiến chấp rằng không có gì cả, không có nhân không có quả) tuy mất, niệm hữu lại sinh, gọi đó là chướng, vì chướng này mà thuyết Bát-nhã để trị nó, như kinh nói: “Nếu Bồ-tát có ngã tướng nhơn tướng thì phi Bồ-tát”, thấy có pháp tướng hay phi pháp tướng cũng phi Bồ-tát, tuy lại hành Thí những cả ba sự vẫn không. Nhân quả rõ ràng mà chưa từng cảm ứng, giống như trồng cây trong hư không, cũng giống như dệt lưới trong bầu trời, há lại nghe Hữu bèn khởi Thường kiến. Phi Hữu tựa Hữu tướng chướng: Người vâng theo giao khi nghe trên nói “Bồ-tát chẳng trước Hữu Vô”, bèn sinh di kiến; Nếu Hữu và vô đều bất khả đắc thì sao lại có vạn pháp tác dụng khác nhau, như tục trần khác độ, Tứ Đại tương phản. Vì có tác dụng của vạn pháp cho nên biết là bất vô. Hỏi: Sao gọ là Phi hữu tựa Hữu? Đáp: Ví như Dương Viên (những áo giác thường xảy ra khi đi dưới ánh nắng mặt trời gay gắt trong sa mạc) là phi Hữu tựa Hữu ( chẳng phải là có mà tựa như có), chúng sanh thấy cái Hữu của vạn dụng, cái Hữu đã thấy đó là phi Hữu tựa Hữu, cho nên gọi đó là chướng. Làm thế nào trị chướng đó? Vẫn dùng thí dụ mà phá, thí dụ như Dương viên, tuy lại tựa Hữu nhưng thật thì phi Hữu. Hữu được thấy đó vốn tự nó phi Hữu. Như kinh nói: “Nhất Hợp tướng thì bất khả thuyết, nhưng người phàm phu tham trước sự ấy”, những dụ sau; mộng, Huyển, bào, ảnh cũng là phá chướng này. Báng tướng chướng: hoặc là nghe chướng thứ hai trên, Hữu vật tướng chướng, pháp thể là không, tiếp đó nghe chướng thứ ba; vạn pháp Dung không, bèn cho rằng sinh tử và Niết-bàn, chúng sanh và Phật tánh tất cả đều không, tạo tác không kiến này, bèn báng bổ Phật tính. Nguyên do là sao? Nay xét về không; sinh tử hư vọng, khả đắc là không, Phật tính phi vọng (Phật tính chẳng phải là vọng), do vậy bất không (chẳng không). Vì kinh nói rằng: “Không là hai mươi lăm Hữu, Bất không là Đại bát Niết-bàn”. Văn phần sau của kinh này nói rằng: “Diệc phi vô tướng” (cũng phi vô tướng) phi vô tướng chính là pháp tính, chẳng phải là không có tính tướng. Hỏi: Kinh Niết-bàn có nói đến Phật Tính, kinh Bát-nhã đâu có nói Phật tính? Đáp: “Kinh Niết-bàn tỏ rõ Phật tính, kinh Bát-nhã chưa tỏ Phật tính”, đó là thuyết của môn nhân Ha Lê. Nay đệ tử của Bà Tẩu tỏ rằng, Bát-nhã và Phật tính chỉ là tên gọi khác nhau của Nhãn mắt (cùng chỉ cho một thứ). Do vậy, kinh Bát-nhã cũng tỏ rõ Phật tính. Nhất Hữu Tướng Chướng Dị Hữu Tướng chướng: Đây tức là nhất và Dị tương đối nhau, nhất và dị này thông cả hai kế chấp Nội và ngoại, đủ sẳn tất cả chư pháp như tăng Khư cho là Nhất (cùng một), Thế Sư cho là Dị (hai khác), Ni Kiền Tử cho là diệc Nhất diệc Dị, Nhã Đề Tử cho là Phi Nhất Phi Dị, bốn thứ chấp này đều đều chướng Bát-nhã. Lại như người học Phật giáo; hoặc có người nói rằng Hai Đế là cùng một thể, Hai Đế là hai thể khác nhau, hoặc nói rằng; vì tương tục giả cho nên là Nhất (cùng một), vì thật pháp diệt, cho nên là Dị, chấp chặc như vậy cũng chướng Bát-nhã. Làm sao trị nó? Như Văn sau nói: “Như Lai thuyết nhất hợp tướng tắc phi Nhất hơn tướng” cũng nên nói thêm câu: “Như Lai thuyết Dị tán Tướng tắc phi Dị Tán tướng” (Như Lai nói Tướng rời rạc khác nhau thì chẳng phải là tướng rời rạc khác nhau). Câu “Đản phàm phu tham trước kiến Nhất Hợp Tướng” (nhưng phàm phu dính mắc cho là nhất hợp Tướng), cũng nên thêm câu “Phàm phu tham trước kiến dị tán tướng”. (phàm phu tham dính cho là Tướng rời rạc khác nhau). Chư Phật Bồ-tát khi xét về Nhất Dị đó, rốt cuộc chẳng lấy theo Danh để phá Nhất Dị. Thật Hữu Tướng Chướng. Dị Dị tướng chướng: Hai chướng này là chấp giáo chấp tướng, thành ra một đôi, sáu chướng sự trên đều lấy không mà phá trừ. Người (mê) Hoặc bèn nói rằng: Nếu đã là vô, thì vì sao Phật lại thuyết, vì Phật đã thuyết, cho nên biết là bất vô, giống như sắc pháp, nếu nó là vô thì không nên nói là sắc, vì nói là sắc cho nên biết là phi vô. Vì chấp lời Phật thuyết mà nói rằng pháp là thật hữu (thật có). Cho nên gọi đó là chướng, làm sao trị nó? Như văn sau nói: “Bồ-tát chẳng nên trú sắc sinh tâm, chẳng nên trú thanh, hương, vị, xúc, pháp sinh tâm”. Nếu có lục trần, sao lại bất trú? Vì bất trú, cho nến biết là không có (vô) lục trần. Như Lai tuy nói có lục trần nhưng chỉ là mượn danh tự, sao lại chấp ở giả danh bèn nói là thật có (Thật Hữu). Về Dị Dị tướng chướng; Người (Mê) Hoặc nói rằng: Nếu chư pháp chỉ có cái giả danh, không có thật thể thì sao chư pháp mỗi một pháp đều có tướng. Nếu thấy con chim Thiên nga thì biết là có hồ nước, thấy khói thì biết có lửa, đó gọi là Tiêu tướng. Cổ nhỏ, mép thô, đáy bằng, bụng lớn, đó là thể tướng của chiếc bình. Sừng nhọn, thùy hồ, đó là thể tướng của con trâu. Đã có những tướng đó thì chẳng chỉ có giả danh, người tạo chấp này, tức gọi là chướng. Làm sao trị nó? Như kinh nói: “Ly nhất thiết tướng, tức danh chư Phật”, nếu thật có tướng thì làm sao ly nổi, vì ly được cho nên biết là vô tướng. Như Danh nghóa tướng chướng. Như nghóa danh tướng chướng: Nói về Như Danh Nghóa Tướng Chướng, Người Hoặc cho rằng; nếu chư pháp danh tên lửa để gọi lửa thì lửa đến, nước chẳng đến, dùng tên nước gọi nước hì nước đến, lửa chẳng đến, cho nên biết có Danh để biểu về pháp thì, pháp thể bất vô, người cho như vậy tức gọi đó là chướng. Mà chương thứ chín này khác với chướng thứ bảy kể trên. chướng thứ bảy vì chấp lời Phật dạy mà sinh ra mê dính, còn chướng thì xét ngay tướng, danh mà nói là có vật thể, cho nên là khác. Làm sao trị nó? Như phần sau kinh nói: “Thuyết vi trần tắc phi vi trần”, như tụ tập vi trần lại nới nhau thì thành tế sắc, tụ tế sắc… thành thế giới. Tuy có cái danh thế giới nhưng thật không có cái Thể của nó,… tuy có cái Danh của Vi Trần nhưng thật không có cái thể, đã không có Thể thì sao lại có Danh như ngài Triệu Công nói: “Danh không có dái công để đắc vật, vật không có cái thật để ứng danh”. Danh không có công đắc vật tức là phi Danh. Vật không có cái Thật để ứng với Danh, tức là phi vật. Phi danh, phi vật thì Danh và vật ở tại đâu. 1 0.Như nghóa Danh Tướng chướng: Người Hoặc nói rằng: Nếu chư pháp vô thể thì làm sao chúng sanh thọ dụng vạn pháp, đã thọ dụng thì có thể của vạn pháp, vì có cái Thể của vạn pháp thì phải có cái Danh của vạn pháp, lấy thể để chứng Danh, nên gọi đó là bị chướng. Làm sao trị nó? Như phẩm sau kinh nói: “Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh”, nội tâm và ngoại cảnh đều vô sở hữu thì sao lại nói có pháp thể, lấy thể để chứng danh? Hỏi: Mười chướng trên, Bát-nhã trị chúng, nay nên dùng giải thích trên hay chẳng dùng giải thích trên? Đáp: Nếu ắt phải nói có (Hữu). Hoặc là năng chướng, giải là Năng Biệt, vẫn là sinh diệt quan (quan điểm), nghóa tức là chướng thì cần phải phá nó. Nếu nói Bát-nhã là năng phá, chướng là sở phá, vì kiến mà phá, vì bất kiến mà phá, vì độc (một mình) mà phá, vì bạn mà phá, cứ như vậy mà kiểm trách thì chẳng thấy cái Hoặc để phá, chẳng thấy cái giả sinh, đó tức là phi giải phi Hoặc, vô sinh vô diệt. Nếu sự này liểu ngộ thì mới gọi là Bát-nhã. BÁT NHÃ NHIỀU ÍT Hỏi: Có mấy loại Bát-nhã Ba-la-mật? Đáp: tìm cả nam bắc, kiếm khắp kinh luân, số bộ khác nhau: Có hai loại: Xuất ở cuốn Đại Trí Luận, quyển 41 và quyển 99 nói: Bát-nhã có hai loại: 1. Thuyết chung cho cả Thanh văn. 2.Chỉ thuyết cho chư Đại Bồ-tát Thập Địa, những giai vị dưới Thập Địa chẳng nghe. Các bộ Bát-nhã hiện nay đa phần là thuyết chung cho cả Thanh văn. Có ba loại: ba loại là, cuốn Thích Luận, quyển 67 nói: Bát-nhã bộ loại có nhiều có ít, có Thượng, trung, hạ. Đó là Quang tán Bát-nhã, phóng quang Bát-nhã, Đạo hành Bát-nhã, Thuyết củ nói: bộ Quang Tán có năm trăm quyển, ở Trung Hoa chỉ có mười quyển rời rạc, hoặc chia thành mười hai quyển, có ba mươi bảy phẩm, tức là Thượng phẩm, bộ Phóng Quang Bát-nhã là Trung phẩm. Đạo Hành là Hạ Phẩm. Bộ Phóng Quang Bát-nhã có hai mươi quyển, là cổ Đại phẩm, do Đạo An Pháp sư giảng, bản tâm định hiện nay có hai mươi bảy quyển, hoặc là hai mươi bốn quyển. Đối Tiểu phẩm là Đại phẩm. Ba bộ trước đúng phải là Trung phẩm. Bộ Đạo Hành Bát-nhã tức là Tiểu phẩm, có mười quyển, có bản tâm định bảy quyển. Cuốn Thích Luận quyển 79 nói: Bát-nhã, nghóa là vô biên nhưng số quyển có hạn: Đó là Tiểu phẩm, phóng quang, Quang tán đã kể trên, hai bộ còn lại giống trên nhưng lấy tên Tiểu phẩm thay cho Đạo Hành, cho nên biết Đạo Hành tức là Tiểu phẩm. Có bốn loại Bát-nhã: Ở trường Am Duệ Pháp sư viết bài tự cho bộ Tiểu phẩm nói rằng: Kinh này chánh văn gồm có bốn loại; nhiều thì mười vạn kệ, ít thì sáu trăm kệ. Đại phẩm ở đây chỉ là trung phẩm của Ngoại quốc mà thôi, tùy nghi mà nói thì đâu đủ để cho là nhiều hay ít, tuy nêu tên bốn bộ nhưng chẳng kê số. Có người nói: nên lấy kinh Kim Cang Bát-nhã thêm vào ba bộ trên thành ra là bốn bộ, nhưng kIm Cang chỉ có ba trăm mấy kệ. Duệ Công nói: Ít thì sáu trăm kệ. Cho nên biết chưa chắc dùng Kim Cang để bổ túc cho đủ số. Tiếp theo là nói về năm thời Bát-nhã, xuất ở kinh Nhân Vương đầu kinh nói: “Thích Ca nhập Đại tịch Định, chúng nói với nhau, Đại giác Thế Tôn trước kia đã vì đại chúng chúng ta hai mươi chín năm thuyết ma Ha Bát-nhã Ba-la-mật, kim cang Bát-nhã, Thiên vương vấn Bát-nhã, Quang tán Bát-nhã, nay lại phóng quang để tác sự gì”. Đã kê ra bốn loại ở trước, loại thứ năm sau cùng thuyết kinh Nhân vương Hộ quốc Bát-nhã. Lại nữa phần ký ở cuối kinh. Đại Bi Tỳ kheo Ni Bổn Nguyện, hoặc tại phần ký ở cuối kinh Nhân Vương ghi rằng: Năm thời Bát-nhã; đó là Phật trong ba mươi năm thông hóa người tam thừa: 1. Phật tại vương xá thành, thuyết Đại phẩm Bát-nhã, Tiểu phẩm xuất ra từ trong đó; 2.Phật tại Xá Vệ Kỳ Viên tịnh xá, thuyết kim cang Bát- nhã, bản có tám quyển, ở Hoài Nam bị thiếu sót chỉ có một phẩm hiện lượng công đức, làm thành riêng một quyển, tên bản gốc tồn lại cũng gọi là Kim Cang; 3.Phật tại Kỳ Hoàn thuyết Thiên Vương Vấn Bát- nhã, đại bản chẳng đến đất Hán (Trung Hoa), nước này chỉ có Tu Chơn Thiên Tử vấn Bát-nhã (7 quyển), pháp tài vương Tử Vấn Bát-nhã (3 quyển), Tứ Thiên Vương Vấn Bát-nhã một quyển, đều xuất ra từ trong này; 4. Phật tại Vương Xá thành, thuyết Quang tán Bát-nhã, bộ thành cụ, Bộ Đạo Hành, bộ Quảng tịnh, ba bộ này xuất từ trong Quang tán; 5. Phật tại vương xá thành, thuyết Hộ quốc Bát-nhã. Tiếp nữa, Ngài Lưu Chi Tam tạng nói rằng: Bát-nhã đúng thì có 8 bộ: bộ thứ nhất có mười vạn kệ. Bộ thứ hai có hai vạn năm ngàn kệ, hai bộ này còn ở tại ngoại quốc. Bộ thứ ba có hai vạn hai ngàn kệ, tức là bộ Đại phẩm. Bộ thứ tư có tám ngàn kệ, tức là Tiểu phẩm. Bộ thứ năm có bốn ngàn kệ. Bộ thứ sáu có hai ngàn năm trăm kệ. Hai bộ này cũng chưa truyền vào đất Hán. Bộ thứ bảy có sáu trăm kệ, tức là Văn Thù Sư lợi Bát-nhã. Bộ thứ tám ba trăm kệ, thức là bộ kim cang Bát-nhã này. Còn nói rằng: có Quang tán, Đại không, Đạo Hành. Ngài Lưu Chi Tam Tạng nói: Đó đều là một phẩm trong Bát-nhã mười vạn kệ, chẳng phải là bộ riêng. Nay căn cứ theo cuốn Thích Luận để xét nghiệm thì khác với thuyết của ngài Lưu Chi. Cuốn Thích Luận nói rằng: “Niết-bàn bộ loại có nhiều có ít, có thượng trung hạ”, sao lại nói Quang Tán, Đạo Hành, chẳng phải là những bộ riêng biệt? lại nữa, cuốn Đại Luận quyển một trăm nói: “Như vậy, Trung Bát-nhã hoặc có hai vạn hai ngàn kệ. Đại Bát-nhã có mười vạn kệâ. Chư Long Thiên cung có ngàn ức vạn kệ, vì thọ mệnh họ dài lâu, niệm lực (trí nhớ) kiên cường nên nghe được nhiều thuyết. Thọ mệnh con người ngắn ngủi, trí nhớ yếu kém, chỉ có một ít văn tự”. Nếu vậy chẳng hạn tại năm thời hạn mà hiện tám bộ. KHAI HỢP Hỏi: Kinh khác không có tái thuyết, vì sao chủ bộ kinh Bát-nhã lại vô lượng? Đáp: Phật kinh vô lượng, kinh đến nước Hán, số chẳng đáng nói, nhưng nay chỉ thấy Bát-nhã nhiều bộ, chưa thấy kinh khác, có nhiều bộ, nay luận về vấn đề Bát-nhã nhiều bộ: chúng sanh nhập đạo phải do từ Bát-nhã, nguyên do là sao? Tất cả hàng phàm phu chưa đắc đạo đều do bởi Hữu sở y trước (có chỗ nương dựa, có chỗ dính mắc, có chỗ chấp trước, có lẻ dịch đúng nhất là dính mắc vào chỗ Hữu. Vì Hữu và Vô là hai phạm trù khác nhau,…) Bát-nhã chánh phá cái Hữu sở y trước (nương dính vào phạm trù Hữu) của chúng sanh, cho nên thuyết pháp, Vô y trước (y trước vào phạm trù vô, có người hiểu là pháp không có y trước, pháp không có chỗ nương dựa). Bát-nhã là chơn thật sám hối. Các kinh Đại Thừa khi biện về sám hối chơn thật đều y theo Bát-nhã, nương vào Bát-nhã. Như kinh Phổ Hiền nói: “Tất cả biển nghiệp chướng, đều sinh từ vọng tưởng, nếu người muốn sám hối, đoan tọa niệm thật tướng”. Kinh Đại Niết-bàn cũng nói: “nếu nghe vô ác, vô thọ, trong tội của vương, ắt đắc trừ diệt”. Hỏi: Chư kinh mỗi kinh thuyết pháp vô sở đắc đều diệt tội nặng, sao đây chỉ nói chủ kinh diệt tội đều y theo nương theo Bát-nhã? Đáp: Chư Đại thừa kinh tuy đều là vô y, vô đắc, nhưng chỉ có kinh Bát-nhã tạo tác nhiều thuyết vô y, vô đắc, chánh phá căn bệnh y, đắc của chúng sanh, kinh khác chẳng vậy, đến như kinh Niế bàn chính yếu nói về Thường, vô thường, kinh Pháp Hoa tỏ về pháp “Hội tam quy nhất”, kinh Hoa Nghiêm nói chi tiết về Bồ-tát nhân quả đức hạnh, chẳng biện rõ về vô y vô đắc. Do vì nghóa trên, chúng kinh thuyết đắc đạo cùng với Diệt tội đều cần Bát-nhã, do vì Bát-nhã có nhiều bộ khác nhau, nên chi chỉ lấy yếu chỉ chính của chúng. Chúng sanh thường có căn bệnh “y, đắc”, nên Như Lai thường thuyết pháp “vô y vô đắc”. Như kinh Nhi Da nói: “Phật từ đêm đắc Đạo cho đến đêm Nê Hoàn (Niết- bàn) thường thyết Bát-nhã”. Năm thời và tám bộ đâu có gì nhiều. Hỏi: Niết-bàn năm thời thành ra năm bộ, Hoa Nghiêm tám hội sao lại chẳng thành tám bộ? Tám Hội đã hợp thành một bộ, sao năm thời chẳng hợp lại thành một bộ? Đáp: Xét chung thì đều cùng loại như nhau. Nay chẳng vậy, Hoa Nghiêm tám hội, nó mang ý nghóa là trước sau tương thành cho nhau, như trước nói; Thập Tín, Thập Trú, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập Địa và Đại Tiểu Tướng hải, đó tức là cạn và sâu, thứ tự nhân quả tương thành cho nhau, cho nên có thể hợp lại thành một bộ. Còn Năm thời Bát-nhã chẳng phải là cạn, sâu thứ tự trước sau tương thành nhau, cho nên khai ra thành năm bộ. HAI KINH TRƯỚC SAU Hỏi: Kinh Ma Ha Bát-nhã và kinh Kim Cang Bát-nhã, kinh nào thuyết trước? Đáp: Khai Thiện pháp sư, Hội khể cơ pháp sư, Cô Tô Hoa Sơn Nhan Pháp Sư, Đại lảnh Sư đều nói: “Như Kinh Nhân Vương đã liệt kê; trước thuyết Ma Ha, tiếp đó thuyết kim cang”, còn dùng hai nghóa để chứng thực điều trên: 1- Cuốn Đại Trí Luận nói: “ Trước kia chưa thuyết Bồ-tát Hạnh, nay mới bắt đầu muốn vì Di Lặc,… thuyết Bồ-tát hạnh, cho nên thuyết (Ma Ha) Bát-nhã”. Nếu trước kia đã thuyết Kim Cang ắt đã thuyết Bồ-tát Hạnh thì chẳng nên nói là “chưa thuyết”. 2- Phần đầu kinh Kim Cang Bát-nhã nói: “Thiện hộ niệm chư Bồ-tát, thiện phó chúc chư Bồ-tát”. Chưa thuyết kinh Ma Ha Bát-nhã thì chưa có Bồ-tát thì làm sao phó chúc hộ niệm? Thuyết kinh Ma Ha Bát-nhã xong rồi mới có Bồ-tát, kinh Kim Cang Bát-nhã là thuyết sau thì mới có thể nói “Hộ niệm phó chúc Bồ-tát”. Lại có người nói: Trước thuyết kinh Kim Cang, sau thuyết kinh Đại Phẩm (Kinh Ma Ha Bát-nhã, còn gọi là Đại Bát-nhã). Căn cứ vào đâu mà biết điều đó? Có ba nghóa và ba văn để chứng thực. Ba nghóa là: Kim Cang là tên gọi của phá tướng. Trong mười hai năm gọi là Hữu Tướng giáo, những người thụ giáo, sinh tướng phân biệt, chấp chặc khó trừ, Phật đầu tiên khai mở kinh này, tỏ về đạo lý thâm sâu của vô tướng để phá tướng kia trước dính tâm, vì vậy mà mượn Kim cang dụ cho không giải. Khi thuyết kinh này chỉ tập hợp ngàn hai trăm năm mươi Tỳ kheo, chẳng rộng rải tập hợp Thiên nhơn Bồ-tát, chính vì sắp nói về thậm thâm không lý để hóa độ những chúng sanh trước tướng, khiến cho những đệ tử thân cận sớm được ngộ giải, nhờ đó mà tiện cho việc truyền giáo, tiện cho ciệc Thanh Văn giúp Phật hoằng dương giáo hóa. trong lý Bồ-tát cận Phật sự tích càng xa hơn. Lại vừa muốn khiến Bồ-tát chuyển giao, để Thanh Văn vọng ngạn mà thối, cho nên trước tiên vì những người thường theo Phật mà thuyết kinh này. Hình tiểu mà có Đại. trước kia thuyết kinh này (kim cang) rất tóm lược, chưa nói chi tiết về Bồ-tát vạn hạnh, gọi đó là Tiểu, về sau diễn nói phóng Quang Bát-nhã, kinh này mới trở lại nói mở rộng chi tiết về vô tướng giải vạn hạnh sai biệt, danh là kinh Ma Ha Bát-nhã, suy từ nghóa trên mà biết Kim Cang Bát-nhã là thuyết vào thời thứ nhất, tiếp theo là Ma Ha Bát-nhã tại thời thứ hai. Văn chứng cũng có ba: Phần sau kinh này (km cang) “Tu Bồ-đề hỏi Phật: có chúng sanh nào khi nghe ngôn thuyết chương cú như thế, sinh thật tín hay không?” Nếu trước kia đã thuyết Đại phẩm rồi, vô lượng chúng sanh đắc tín giải ngộ, chuyển giáo thuyết pháp, Thiện Cát (Tu Bồ-đề) ở Đại Phẩm (Kinh Đại Bát-nhã) giáo môn chưa từng có nghi ngờ này, đợi cho đến kinh này (kim cang) mới trở lại nghi hỏ, nghóa thật khó hiểu! Ngài thiện cát giải ngộ nói: “Tôi từ xưa nay sở đắc tuệ nhãn chưa từng được nghe kinh như vậy”, Nếu vậy trước kia Phật thuyết Đại phẩm, (trước kia Tu Bồ-đề đã nghe rồi) há lại chẳng thể thuyết kinh chuyển giáo, đâu thể nói là “chẳng nghe thâm kinh”. Nếu đã nghe mà chưa ngộ thì là làm sao có khả năng chuyển giáo. Thiện Cát đáp Phật: “Chẳng nên lấy ba mươi hai tướng thấy Như Lai”. Nếu trước kia đã nghe Đại phẩm rồi thì sao lại còn chấp sắc tướng là Phật. Nếu sinh chấp đó thì chẳng gọi là “giải không”. Mới biết rằng vì chấp chặc Tướng giáo ngày xưa mà cho sắc thân là Phật. Về ngài khai Thiện nêu ra hai nghóa để làm chứng. Nay cần giải thích chúng: 1.Đại Trí Luận nói: “Trước thời thuyết Ma Ha Bát-nhã, chưa nói về Bồ-tát Hạnh”. Đó là chưa nói chi tiết về Bồ-tát Hạnh mà thôi, chứ chẳng phải chẳng đã lược thuyết Kim cang; 2. Vì chưa thuyết Đại phẩm nên chưa có “Bồ-tát thiện phó chúc”. Việc này chẳng vậy. Nay nói rằng: Phật sơ thành đạo, lấy Tam thừa độ người, há lại không có Bồ- tát phó chúc, Di lặc tức là người ấy, căn cứ theo văn và nghóa mà suy nghó thì biết rằng kinh Kim Cang được thuyết trước. Nay tỏ rằng: Hai giải thích đó chưa thể chính xá, lời nói tùy nghi thì sao lại có thể định chúng là có trước hay sau, hoặc có cùng một thời thuyết đủ cả nhiều bộ, hoặc có thể cùng một bộ mà trãi đủ cả nhiều thời, đợi đến trong Đại phẩm sẽ giải thích ngọn ngành hơn. KINH TÔNG Hỏi: Kinh này lấy gì làm Tông? Đáp: Người giải thích khác nhau, có người nói: lấy vô tướng cảnh làm tông. Vì sao? Khi thuyết kinh này chính là để quét sạch vạn tướng tỏ rõ lý vô tướng, cho nên lấy cái lý của vô tướng làm tông của kinh này. Có người nói: kinh này lấy Trí tuệ làm tông, tự có hai thuyết: một thuyết nói; Tuệ có hai loại: 1. Trí tuệ trong Nhân; 2. Trí tuệ trong Quả. Nay chính là lấy trí tuệ trong Nhân làm tông của kinh này. Có bốn văn làm chứng: 1.Phần đầu Kinh Đại phẩm nói: “ muốn đắc Nhất Thiết chủng trí, nên học Bát-nhã”. Ý nói: muốn đắc Phật Địa trí tuệ thì phải tập trí tuệ trong Nhân; 2.Phẩm khuyến học “Thông khuyến tam thừa học Bát-nhã”. Kinh này chưa thuyết Nhị thừa làm Phật mà khuyến khiến học Bát-nhã, chứng Bát-nhã chỉ ở tại trong Nhân chứ chẳng phải là Quả; 3. Phần đầu của cuốn Thích Luận nói: “Vì Di Lặc,… thuyết Bồ-tát Hạnh, cho nên thuyết Bát-nhã”, mới biết là Bát-nhã hành ở trong Nhân, đến quả thì đổi tên là vạn Đức; 4.Thích luận quyển 49 nói: “Trong Nhân thì tên gọi là Bát-nhã, khi Bồ-tát thành Phật thì chuyển tên gọi là Nhất Thiết Chủng Trí”, cho nên Bát-nhã chẳng thuộc Phật, chỉ thuộc Bồ-tát. Lại nói: khi thành Phật, Bát-nhã chuyển tên gọi là Tát Bát-nhã, Phật trí cực kỳ cứng bén, tức là kim cang tát Ba Nhã, nay đã thuyết Ba Nhã, cho nên biết chỉ tỏ về thập Địa Vô Lậu. do vậy chính là Bát-nhã trong Nhân làm tông. Có người nói: từ sơ địa trở lên cho đến rốt cùng Phật quả, đều bình đẳng, thảy đều làm Thể của kinh. Đây là Nhân và Quả đều làm Tông kinh, tức ngài Khai Thiện cựu dùng trong Nhân Tuệ. Lại có hai thuyết: có người nói; chỉ lấy vô tướng thật tuệ làm tông kinh, kinh Thắng Man nói: Kim Cang là dụ cho Đệ nhất nghóa trí. Có người nói: Thật trí và phương tiện trí đều là Tông của kinh, cho nên kinh Đại Phẩm thuyết hai vòng đã nói đầy đủ về hai Tuệ. Có người nói: Cảnh và trí hợp lại làm Tông kinh. Dao pháp sư nói” nói về kinh tông, cực thì lấy thật tướng làm tông, nói về Thánh Tâm thì lấy Diệu trí làm chủ. Do vậy, Trí và Cảnh hợp làm kinh tông. Hỏi: Những thuyết trên, thuyết nào là thật? Đáp: Có người nói: đều có đạo lý, đều là Phật ngữ. Có người nói: các thuyết như trên thảy đều đánh mất ý Bát-nhã. Lại có người nói: chỉ có giải thích của tôi là đúng, những giải thích khác đều sai. Như Trang Nghiêm nói: Nhân gọi là kIm ang, quả chẳng phải Kim Cang, vì trong Nhân thì đoạn Hoặc, còn Quả Địa thì chẳng đoạn. Khai Thiện nói: Nhân và Quả đều là Kim ang, Nhân và Quả đều đoạn Hoặc, cho nên nói rằng: Phật trí đoạn Phật, Bồ-đề trí đoạn. Nay tỏ rằng Bát-nhã không có một tướng nào nhất định, như đống lửa lớn, bốn bề chẳng thể tiếp xúc, há lại có thể hấp chặc, nhất định một tướng nào đó. Nay sẽ trách từng thuyết một: Nếu nói Cảnh là Bát-nhã, nhưng nay Bát-nhã ở ông chính là trí tuệ, sao lại biện về Bát-nhã chẳng lấy Bát-nhã làm Tông mà lại lấy chẳng phải Bát-nhã (phi Bát-nhã) làm tông? Tránh hỏi tiếp theo là: Nếu lấy trí Tuệ làm tông. Đại trí Luận nói: “Bát-nhã thì thâm trọng (sâu nặng), Trí tuệ thì khinh bạc (mong nhẹ). Nay đã thuyết thâm trọng Bát-nhã, vì sao chẳng lấy Bát-nhã thâm trọng làm tông mà lại lấy Trí tuệ khinh bạc làm Tông? Thánh vấn tiếp nữa là: Nếu thủ lấy tri tuệ trong Nhân, cho đó là Bát-nhã, đó cũng chẳng đúng! Vì sao? Trong kinh có nhiều thứ thuyết, hoặc nói: “Nhân gọi là Bát-nhã, Quả gọi là tát Bát-nhã”, hoặc nói: “Nhân quả đều gọi là Bát-nhã, nhị Đại Kinh nói: “Trong ba Đức, có Đức Bát-nhã”, cho nên biết Bát-nhã cũng là tên gọi Quả Quả, chẳng nên thiên chấp. Câu hỏi tiếp: Nếu nói bắt đầu từ sơ địa, cuối cùng đến Phật quả đều thông thủ Nhân Quả làm Tông, điều đó cũng chẳng đúng. Thích Luận nói: “Có người nói: Lậu, vô lậu tuệ đều là Bát-nhã. Có người nói: chỉ vô lậu Trụ trí là Bát-nhã” Long Thọ không có phê phán. Vì nhân duyên gì mà ông thiên chấp? Lại hỏi: Nếu nói Bát-nhã thông cả Nhân quả thì vì sao cuốn Thích Luận lại nói là Nhân? Đó tức là đắc thông mất cái (riêng) biệt (được cái chung mà lại mất cái riêng). Trách hỏi tiếp: Nếu nói Cảnh và trí hợp làm Tông thì cũng phải Cảnh Trí làm Bát-nhã. Trong nghóa của ông, Trí là Chánh Bát-nhã, cảnh là tương tông Bát-nhã (Bồ-tát theo cùng, Bát-nhã phụ) thì cũng đúng phải trí là chánh Tông, cảnh là tương tòn Tông, thuyết này và thuyết trên có khác gì đâu! Câu hỏi tiếp: Nếu nói cả bảy nhà đều đúng, ấy chẳng biết đắc thất mà thôi, như người mù ngu si chẳng biết con đường thông hay chẳng thông, đều nói là con đường. Cho nên trở lại thành ra là thất. Câu hỏi tiếp” nếu nói ngài trang nghiêm là đúng, ngài khai Thiện là sai. Khai Thiện cũng cho khai thiện là đúng, trang nghiêm là sai. Này cũng một đúng một sai, kia cũng một đúng một sai, rốt cuộc ai đúng? Như Đại Phẩm nói: “Kiến này là Thật, ngoài ra đều là vọng ngữ mà thôi”. Hỏi: Sơn Môn giải thích giống hay khác với người khác? Đáp: Nếu cầu do đâu mà có nhiều giải thích thì còn có thể hỏi giống hay khác với nghóa hiện nay. Cầu còn bất khả đắc thì còn giống hay khác với ai? Năng như vậy, bất đồng bất dị, bất tự bất tha, vô y vô đắc, nhất vô sở trú, tức là Huyền Tông của Bát-nhã, những giải thích trên hữu sở y trú (có chỗ nương trú, hoặc là nương trú vào phạm trù hữu) đều chẳng phải Tông của Bát-nhã. Nay tỏ rằng: Bát-nhã không có định tướng (tướng nhất định, tướng quyết định), tùy duyên thiện xảo, nghóa nào cũng thông. Mà chánh Bát-nhã chưa từng cảnh với bất cảnh, Trí và bất trí, cho đến Nhân với bất nhân, quả với bất quả. Phương tiện tùy duyên, tại Nhân gọi là Nhân, tại quả gọi là quả, tại Cảnh gọi là Cảnh, tại trí gọi là Trí, cho nên Quả, Nhân, Cảnh, trí tất đắc, danh đều đắc. Như triệu sư nói: người vốn năng Cảnh, trí, Nhân, Quả, há lại là sở năng của cảnh trí Nhân quả, thà lấy phi cảnh phi trí, năng cảnh năng trí, phi Nhân phi quả, năng Nhân năng quả mà thôi. Nhưng nay theo văn mà xét, vẫn nói rằng: Bát-nhã phi nhân phi quả, chính lấy Nhân quả làm tông. Hỏi: Với nghóa gì mà biết nhân quả là Tông? Đáp: Kinh và luận văn đều nói như thế. Kinh nói: phát Bồ-đề tâm, trú Bát-nhã cho đến vô trú tướng bố thí, Đại nguyện, đại Hạnh, như vậy tức là nghóa của Nhân, tiếp đó đắc Như Lai vô vi pháp thân tức là những Quả. Còn luận văn thì trong chương chí Tín giả nói: “ thuyết Nhân quả thâm nghóa, vào thời ác thế kia, bất không ắt Hữu thật”. Mới biết khi đã nói xong về Nhân quả, sau đó mới nói về Tín Thọ, vì vậy mà biết Nhân quả là chánh tông của kinh này. KINH DANH Chia ra năm phần để giải thích: 1.Phật thuyết; 2.Kim cang; 3. Bát-nhã; 4.Ba-la-mật; 5. Kinh. 1.Phật Thuyết: kinh viết: Kim cang Bát-nhã Ba-la-mật. Giải thích rằng: Đề Kinh có hai loại: 1. Đầy đủ; 2. Chẳng đầy đủ. Nếu đầy đủ thì phải nói “Phật thuyết kim cang Bát-nhã. Nếu chẳng đầy đủ thì chỉ nói “Kim Cang Bát-nhã”. Hỏi: Kinh khác vì nhân duyên gì chẳng đề “Phật thuyết” Đáp: Tất cả chư kinh, Phật khẩu tự thuyết đều phải đề là “Phật thuyết”, mà không đề là vì lược bớt. Hỏi: Vì sao kinh này đề là “Phật thuyết”? Đáp: Đại trí Luận nói: có năm loại người thuyết: Phật khẩu thị thuyết. Đệ tử thuyết. Chư Thiên thuyết. Tiên Nhân thuyết. Hóa nhơn thuyết. Kinh này là Phật khẩu tự thuyết, chẳng phải người khác thuyết, vì vậy mà đề “ Phật thuyết”. Hỏi: Kinh khác cũng là Phật khẩu tự thuyết, chẳng phải loại người khác thuyết, vì sao chẳng nói là “Phật tự thuyết”? Đáp: Đã nói như trên, đáng lẻ phải đề, vì để lượt bớt. Lại nữa, như kinh Đại phẩm,… Phật bảo Tu Bồ-đề thuyết, chẳng phải Phật tự thuyết. Do vậy chẳng thể đề là “Phật thuyết”. Chỉ đề “Ma-ha Bát-nhã” Bát- nhã kiêm cả Sư (Phật) và đệ tử thuyết. Kinh này chẳng vậy. Tuy đối (đáp) Tu Bồ Đề nhưng Phật tự thuyết chứ chẳng bảo Tu Bồ-đề thuyết. Lại nữa, theo lý mà nói thì nên đề “Phật thuyết”, nguyên do là sao? Các ngoại đạo lục sư cũng đều thuyết kinh, nay e rơi vào tà kiến, muốn tách biệt rõ ràng với lục sư nên đề “Phật thuyết” khiến người tín thọ nhận pháp. Lại nữa, Đạo chẳng cô vận, ắt phải do người hoằng, pháp tuy là Thầy của Phật, cần phải do Phật thuyết thì pháp mới có thể hoằng. Do vì nghóa đó mà đề người Năng thuyết và pháp sở thuyết thì đầy đủ về nghóa. Kim Cang: Hỏi: “Kim Cang” là tên gọi thí dụ hay là tên gọi pháp? Đáp: Có người nói: Kim Cang, như trong thế gian, Kim Cang bảo (Kim cang) vừa cứng mà lại vừa bén, thí như Bát-nhã. Thể cứng Dụng bén, nay cho rằng chẳng vậy. Vì sao? Vì ông sinh hai kiến về Dụ và Pháp, hai kiến đó là Kim Cang chỉ là Dụ chứ chẳng phải pháp (phi pháp). Bát-nhã chỉ là pháp mà chẳng phải Dụ, thế thì Dụ bị ngại ở pháp, chẳng thể cho dụ là pháp, pháp ngại ở Dụ chẳng thể cho pháp là dụ. Lại nữa, nếu nói mượn kim cương thế gian để dụ cho Bát-nhã thì cũng phải mượn trí tuệ thế gian dụ cho Bát-nhã. Nếu nói Bát-nhã tự nó có trí tuệ chứ chẳng phải trí tuệ thế gian thì cũng phải tự nó có kim cang, chẳng phải kim cương thế gian. Lại nữa, nếu nói Kim Cang là Thí Dụ thì tên gọi ma ha” cũng phải là thí dụ. Nếu nói Thể của Bát-nhã rộng lớn là “Ma Ha” thì cũng phải nói Thể cứng bén mủ Bát-nhã là Kim Cang. Hỏi: Ông nay vì sao lại nạn vấn như vậy? Đáp: Bát-nhã gọi là pháp chơn thật, vô sở y chỉ, chẳng thể nói Đại, chẳng thể nói Đại, chẳng thể nói tiểu, chẳng thể nói là pháp, chẳng thể nói là Dụ, vượt mọi ngôn ngữ, diệt mọi quán hành, chẳng tiểu chẳng Đại, khen ngợi là Đại, phi Kim Cang, phi bất kim cang, khen ngợi là kim cang, phi tiểu phi đại, mượn đại để tuyên (dương) nó Đại đã là pháp. Phi kim cang phi bất kim cang, mượn kim cang để tuyên (dương) nó (thì) kim cang cũng có thể là pháp. Mượn kim cang để đặt tên cho nó (thì) kim cang đã là Dụ. Mượn Đại để đặt tên cho nó (thì) Đại cũng là Dụ. Do vậy, lấy Dụ mà gọi nó thì tất cả đều là Dụ, lấy pháp mà gọi nó thì tất cả đều là pháp. Lại nữa, kim cang là Dụ, Bát-nhã là pháp; Kim cang là Dụ, phi Dụ làm Dụ, cái lý sở dụ, phi lý làm lý, (đã là) phi lý làm lý (thì) tuy là lý mà (lại là) sự. Phi Dụ làm dụ (thì) tuy (là) sự mà (là) lý. Vì tuy lý mà sự, cho nên biết phi lý, vì tuy sự mà lý cho nên biết phi sự, do vậy Bát-nhã chưa từng lý, sự, chỉ trong vô danh tướng, mượn Danh tướng mà thuyết, vì vậy, Kim Cang là sự, Bát-nhã là Lý, hai thứ này là nghóa bất Nhị. Vì chúng sanh, mượn danh tướng mà thuyết là nhị (hai), há lại định chắc là nhị (hai) sao? Hỏi: Kim cang là gì? Đáp: Đại Trí Luận nói: tiếng ngoại quốc gọi là “Việt Độ”. Tiếng hán gọi là Kim ang, lại nữa, kinh Hoa Nghiêm gọi đó là chước gia la, tiếng Hán dịch là Kim Cang Vi Sơn. Lại nữa, tương truyền củ gọi đó là bạt Đồ la. Ngài Chơn Đế tam tạng thì gọi là bạt Đồ la Xa la. Hỏi: xưa dịch “Bạt Đồ la” là Kim Cang, xuất từ văn của kinh nào? Đáp: Kinh Hiền Ngu quyển thứ hai, Xú nữ của vua Ba Tư Nặc tên là Bạt Đồ la, tiếng Tấn (tiếng hán) gọi là Kim Cang. Hỏi: Ông lấy Kim Cang để dụ cho Bát-nhã, đó có ý nghóa gì? Đáp: Như châu báu ở thế gian, kim cang (cương) là đệ nhất, châu báu của xuất thế gian thì Bát-nhã là đệ nhất. Lại nữa, như báu kim cương, tất cả người đời chẳng thể giá nổi, mọi công đức do pháp bảo Bát-nhã sinh ra thì mọi người đời chẳng thể lường nổi. Lại nữa, như bảo Kim Cang nếu đặt nó trên đỉnh núi hay đặt nó tại đất bằng, nó một mực đêm thẳng xuống không gì làm trở ngại, cho đến vùng đất Kim Cang, đồng tính chất với nó mới dừng lại. Bát-nhã Kim Cang cũng lại như vậy, đặt nó ở đỉnh núi phước hay đặt nó tại đất bằng tội, xuyên qua không có gì làm trở ngại, khi đến thật tướng chư pháp, phi tội phi phước, phi hữu phi vô, đồng tính với nó, thì mới (dùng) trú. Lại nữa, như bảo kim cang ở thế gian, lấp lánh trong suốt, nên La Thập (Cưu Ma La Thập) nói; “Phương thốn Kim Cang, soi mấy chục dặm, vật đều hiện rõ, Bát- nhã cũng vậy, soi nước Thật Tướng, thông suốt thanh tịnh”. Lại nữa, như bảo Kim Cang, ngoài Na la Diên ra, mọi chúng sanh (còn lại) đều chẳng thể cầm giữ, Bát-nhã cũng vậy, ngoài những người tín ngộ vô y vô đắc đại lực quán ra, còn những chúng sanh thích tiểu pháp, và trước kiến thì chẳng thể tín trì, như Kinh nói: “Vì những người phát Đại thừa mà thuyết, vì những người phát tối thượng thừa mà thuyết”, nếu những người vui thích với tiểu pháp và những người chấp dính cái thấy cái biết hiểu của mình thì chẳng thể tín trì. Lại nữa, ví như trượng phu nuốt tiểu Kim Cang thì suốt đời chẳng tiêu hóa. Bát-nhã cũng vậy, nếu liểu ngộ được thì chẳng thể hư diệt, sẽ đắc làm Phật. Lại nữa, nếu có chúng sanh đắc bảo Kim Cang, viễn ly tất cả bần cùng khốn khổ, thụ hưởng an lạc. Nếu đắc Bát-nhã thì sẽ viễn ly nổi khổ sinh tử, đắc đại Niết-bàn. Lại nữa, như bảo kim cang, chỗ nó sở tại có khả năng tiêu trừ ác quỷ và trùng độc. Bát-nhã cũng vậy, chỗ Bát-nhã sở tại, thiện ma ngoại đạo ác quỷ chẳng thể làm gì được. Lại nữa, như bảo Kim Cang có thể đậptam mọi vật mà Kim Cang ấy chẳng bị sức mẻ, Bát-nhã cũng vậy, đập tan mọi phiền não mà chẳng sức mẻ. Lại nữa, tất cả mọi vật chẳng thể đập bể Kim Cang, Bát-nhã cũng vậy, tất cả luận giả và chư phiền não chẳng thể đập phá Bát-nhã. Lại nữa, như báu Kim Cang dưới ánh mặt trời thì sắc chẳng nhất định, Bát-nhã cũng vậy, ở trong đại chúng cũng chẳng (nhất) định, hoặc gọi là Nhân, hoặc gọi danh là Quả, ở trong người tiểu tâm thì gọi danh là Tiểu, ở người Đại tâm thì gọi danh là Đại tại cảnh thì danh là cảnh, tại Trí thì danh là Trí, mà Bát-nhã ấy không có một tướng nào nhất định, cho nên kệ nói: “Bát-nhã là một pháp, Phật thuyết nhiều thứ danh, tùy lực của chúng sanh, vì họ (mà) đặt tên khác”. Lại nữa, như báu Kim Cang tuy có nhiều thứ thắng dụng như vậy nhưng chưa từng có tâm tự nói ta thắng hơn, Bát-nhã cũng vậy, tuy có vô lượng chủng chủng công đức nhưng chưa từng có tâm. Do đó, Bát-nhã bất khả tư nghị. Hỏi: Kim cang xuất xứ ở đâu? Đáp: Tỳ Bà Sa nói: “Như từ khoáng xuất vàng, từ vàng xuất Kim Cang”. Mới biết Tinh nằm trong vàng gọi danh là kim cang. Hỏi: Kim Cang và Thiên Như ý châu (hạt châu như ý ở cõi trời) là khác nhau hay giống nhau? Đáp: Đại Trí Luận nói: “Đế Thích tay cầm Kim Cang đấu với Tu La, vở vụng rơi xuống Diêm phù đề biến thành Như ý châu”. Tỳ Bà Sa nói: Kim Cang có thể phá phả lê Sơn và Như ý Châu” cho nên biết là khác nhau. Lại nữa, ở đây tỏ Bát-nhã giống với Kim Cang nhưng Bát- nhã này siêu tuyệt kim cang, chẳng thể thí dụ. Kim Cang là vật thế gian, Bát-nhã thì phi thế gian. Kim cang ở thế gian khi mất thì buồn, khi được thì vui. Người đắc Bát-nhã thì vô ưu vô hỉ. Kim Cang là vật vô tri, còn Bát-nhã vô tri mà không có chỗ nào chẳng tri. Vô lượng công đức nay lược nói mà thôi. Lại nữa, có người nói: Trong Thanh văn pháp, từ Giả Danh không suất cho đến cuối cùng là La Hán đều gọi chung là Kim Cang. Trong Bồ-tát pháp, từ Tam Thập Tâm cuối cùng đạt đến Phật tuệ gọi chung danh là kim cang. Nếu riêng mà xét thì từ Sơ Địa trở lên rốt đến Phật tuệ mới gọi là CHơn Kim Cang. Vì sao? Vì người Tam Thập Tâm (ba mươi tâm; Thập tín tâm,…) chỉ là học vọng, chưa đắc chơn vọng, chỉ là phục Hoặc, chưa đắc đoạn Hoặc, tướng còn nhập (vào) Thể. Cho nên chưa thể gọi là chơn kim cang. Còn đắc hương tòng gọi là kim cang, Sơ Địa trở lên, đắc ở chơn vọng giải chánh, có thể đoạn Hoặc, tướng chẳng nhập thể, đó là chơn kim cang. Cựu cho rằng cái tâm Học cùng cực là dụ cho kim cang. Theo nghóa của khai Thiện; phục hoặc đã khắp. Hoặc của vô minh nguyên phẩm, Hoặc này khó phục hất, chỉ cái tâm học cùng cực này mới có thể phục nó, đến Phật quả, khởi Phật trí mà đoạn nó, do ở nghóa đó mà tạm học cùng cực gọi là Kim Cang. Lại nữa, có người nói: Tâm học cùng cực là năng đoạn hoặc, cho nên gọi là Kim Cang. Những thuyết như vậy đều nói là có (cái). Hoặc để mà Đoạn (sở đoạn), có (cái) Giải năng đoạn, vì nghóa này cho nên gọi là Hữu sở đắc. Vì là Hữu sở đắc, cho nên chẳng thể đoạn Hoặc, không có kim cang, như trong kinh nói: “Người Hữu sở đắc, chẳng từ một địa đến một địa”. Lại nữa, ông nói khi chưa đoạn (dứt) Hoặc thì có Hoặc mà không có giải. Khi đoạn hoặc thì có giải không có Hoặc, thế thì Hoặc là vốn có mà nay không có, giải là vốn không có mà nay có. Đó là sinh diệt quan, như trong kinh nói: “Chư pháp vốn có, nay không có”. Lại nói: “Nếu chư pháp trước kia có, sau đó không có thì chư Phật Bồ-tát ắt có tội quá”. Nay điều muốn nói là: biết Hoặc vốn bất hữu, nay cũng bất vô. Giải vô bất vô, nay cũng bất Hữu, do đó chư pháp bất Hữu bất vô, bất sinh bất diệt, phi phược phi giải, vô quán vô duyên, mới gọi là Bát-nhã. Hỏi: Nếu vậy, vì sao kinh nói: “Một niệm tương ưng (với) Tuệ thì đoạn phiền não và tập”. Đáp: Nếu thấy có sinh diệt thì chẳng thể đoạn, vì liểu chư pháp bất giải bất Hoặc, phi đoạn phi bất đoạn, cho nên phiền não đoạn. Hỏi: Kim Cang chỉ dụ cho Bát-nhã hay còn dụ cho những pháp khác? Đáp: Mượn Kim Cang để dụ cho nhiều thứ khác nhau. Đại kinh khi dụ pháp thân thì gọi là Kim Cang Thân. Lại dụ tam muội gọi là Kim Cang Tam Muội, đó là dụ cho Định là kim cang. Nay ở đây dụ trí tuệ là Kim Cang. Hỏi: Kim Cang là bảo ở trên cõi trời hay là bảo ở trong loài người? Đáp: Cõi trời và cõi người đều có, như Kim Luân của Chuyển Luân Vương là bảo kim cang, vì vậy nó đụng vào vật gì cũng đều tan vụn. Còn Đế Thích cầm kim cang đấu với Tu La, Kim ang đó tức là bảo ở cõi trời. Bát-nhã: Bát-nhã là tiếng ngoại quốc, cuốn Thích Luận có hai văn: “Bát-nhã tiếng tần, cuốn Thích Luận có hai văn: “Bát-nhã tiếng tần, tiếng hán gọi là trí tuệ”. Khai Thiện dùng từ ngữ đó. “Bát-nhã thì sâu dày, trí tuệ thì cạn mỏng, chẳng thể dùng trí tuệ cạn mỏng để gọi cho Bát-nhã sâu dày”. Trang nghiêm pháp sư nói: Bát-nhã gồm năm nghóa, trí tuệ chỉ là một trong năm nghóa đó, chẳng phải là chánh phiên dịch, nhưng khi giải thích hai chữ trí tuệ thì kinh luận giải thích khác nhau. Kinh Tịnh Danh tách hai chữ trí tuệ ra làm hai mà giải thích; “Biết chúng sanh tâm niệm như ứng thuyết pháp thì khởi ở Trí nghiệp. Bất thủ bất xả, nhập Nhất tướng môn thì khởi ở tuệ nghiệp”. Cực chú thích đoạn văn trên rằng: “Trí là Hữu giải, Tuệ là không giải, trí là Hóa tha, tuệ là tự hành”. Đại phẩm nói rằng: “Đạo tuệ, Đạo chủng tuệ, Nhất thiết trí, nhất thiết chủng trí”, thế thì Danh từ trí tuệ thông cả không và hữu. Lại nữa, tại Nhân thì gọi là Tuệ, tại quả thì gọi là trí, như tại Nhân thì gọi là Đạo Tuệ, Đạo chủng Tuệ, tại Quả thì gọi là trí, như tại Nhân thì gọi là Đạo Tuệ, Đạo chủng tuệ, tại quả thì gọi là Nhất thiết trí, nhất thiết chủng trí. Lại nữa, danh từ “trí” thông cả Nhân và Quả, như nghóa của ba trí. Nhất thiết trí của Thanh Văn, Đạo chủng trí của Bồ-tát, Nhất Thiết chủng trí của Phật. Lại nữa, danh từ “Tuệ” thông cả Nhân và Quả. Kinh pháp Hoa nói: “Chư Phật bình đẳng đại tuệ”. Cuốn Thành luận hợp cả hai chữ trí và tuệ mà giải thích rằng: “Chơn Tuệ gọi là Trí”. Và nói: “Tuệ gọi là người trí”, lại nói: “Về nghóa của Tuệ, trong kinh nói Trí giải thoát là nghóa của Tuệ”, cho nên trí giống như Tuệ. Đại trí Luận cũng có hai văn: “Bát-nhã, tiếng Tần gọi là Tuệ” và “Tiếng Tần gọi là trí tuệ”. Hỏi: Vì sao Kinh luận cuốn thì nói xuất, cuốn thì nói một lúc hợp lúc khai, chẳng một mực phân minh rõ ràng chỉ bày cho người khác, khiến cho họ hiểu một cách rõ ràng? Đáp: Thích nhân chẳng phải chẳng một mực phân minh rõ ràng chỉ bày cho người khác, mà nay có nói xuất, nói một đó là có thâm ý. Vì chúng sanh xưa nay vốn có tâm thủ trước. Vì nhân duyên đó mà hệ thuộc với ma. Sinh tử chẳng dứt duyên, như bánh xe thường chuyển, chẳng ngộ trung Đạo Phật tính chánh quán Bát-nhã. Nay lại cứ một mực nói thật thì sẽ càng tăng thêm tâm dính mắc kia, cho nên xuất một chẳng nhất định, lay động căn thức sinh tử, khiến cho quay trở lại ngộ chánh pháp, cho nên thuyết một cách chẳng (nhất) định là điều có ích lợi thâm sâu vậy! Nếu người học định chấp vào một lời văn nào đó của kinh luận để thành nghóa của một nhà, một phái thì đều là người hệ thuộc Ma mà thôi. Hơn nữa, chúng sanh chẳng phải cùng một quốc thổ, cùng một căn tính, cùng Thiện tri thức, vì vậy mà chư Phật dùng nhiều thứ thuyết pháp. Hỏi: Đã biết về tên Bát-nhã, Thể của Bát-nhã là gì? Đáp: Địa luận Nhơn nói: có hai loại Bát-nhã: 1. Chơn tu Bát-nhã, tức là Đệ Bát Thức; 2. Duyên tu Bát-nhã, tức là đệ thất thức. Thành Luận Sư nói: Duyên chơn Đế tâm, vong hoài tuyệt tướng, cho tâm giải đó, là Thể của Bát-nhã. A Tỳ Đàm Sư nói: Duyên Tứ Đế lý, vô lậu tuệ tướng, đó là Thể của Bát-nhã. Cả ba giải thích trên rất thịnh hành thời đó, đếu cần phải tẩy phá. Đến Đại phẩm, phần Huyền trung thì nói một cách chi tiết, nhưng thời đó thường tụng kinh đó, nay ở đây chỉ nói những câu chính yếu, để trợ giúp cho quân tử tham cứu huyền cơ, lãnh hội ngoài ngón tay chỉ. Hỏi: Nay ở đây cho gì là Bát-nhã? Đáp: Nếu người hành, liểu ngộ điên đảo, hoát nhiên ngộ giải thì đó giả gọi là Bát-nhã. Hỏi: “Hoát nhiên ngộ giải: này là phi tâm (chẳng phải tâm) sao? Đáp: Giải ngộ này phi tâm, phi ly tâm. Hỏi: Thế nào là phi tâm phi ly tâm? Đáp: Đã nói là Tâm ngộ giải, thì há lại là ly tâm? Tâm ngộ này rốt ráo chẳng khởi Hữu tâm nay vô tâm thì há lại là tức tâm? Hỏi: Nếu nói tâm ngộ thì vẫn là Tức tâm. Nếu nói ngộ tâm này, bất đắc tâm Hữu hay vô thì là ly tâm. Đáp: Còn nói Tức và Ly thì vẫn là bất ngộ, nếu đã đắc ngộ thì còn có Tức, ly gì nữa! Hỏi: Đã chẳng tức, ly thì đúng phải chẳng mê, ngộ. Đáp: vì mê nên nói tức, ly, vì ngộ nên hiểu không có tức, ly, đã chẳng tức, ly thì còn có gì mê, ngộ? Hãy hiểu ý đó, đừng dính mắc lời nói đó. Ba-la-mật Ba-la-mật, tiếng Hán gọi là Bỉ ngạn Đáo. Theo phong tục của ngoại quốc, hể làm một việc gì đã xong xuôi thì gọi là Ba-la-mật. Nay người ngộ đạo, tuy đã tích chứa công đức nhiều kiếp. Nếu chẳng đắc Bát-nhã thì Hạnh chẳng thành, nếu ngộ Bát-nhã thì vạn hạnh đều làm xong xuôi, cho nên gọi là Ba-la-mật. Hỏi: Đã có Bỉ ngạn (Bờ kia). Vì sao lại còn có Thử ngạn (bờ này) và trung lưu (giữa dòng)? Đáp: Thánh nhân mượn thẳng danh ngôn mà thuyết Bỉ ngạn, khến họ nhờ đó mà ngô nhập, đều cần phải tạo ra bờ này bờ kia hay giữa dòng? Đại kinh nói: “Tuy không có bờ này nhưng lại có bờ kia”, tức là sự đó vậy, ắt cần tác giả. Đại trí luận nói: “Hữu kiến và vô kiến là Thứ ngạn, trí tuệ phá Hữu kiến và vô kiến là Bỉ ngạn, Đàn (bố thí) là Trung Lưu”. Kinh Kinh có ba loại: hoặc văn là Kinh, hoặc lý là kinh, hoặc văn lý hợp lại là Kinh. Địa luận sư nói: Người trước (khi đến giai đoạn) Tam, Thập tâm (Thập Tín,..) thì văn là kinh, người Tam Thập tâm thì văn và lý là kinh. Sơ Địa trở lên thì dùng lý làm Kinh. Nay cho rằng vì văn lý nhân duyên cho nên là kinh. Vì nhân ở văn mà ngộ đạo, lấy văn năng biểu làm kinh. TRUYỀN DỊCH Hỏi: phần ký cuối Kinh Đại Bi Tỳ kheo Ni Bổn Nguyện nói: Bản Kim Cang Bát-nhã có tám quyển, nay chỉ có một phẩm cách lượng công đức, việc đó là sao? Đáp: nghóa chẳng phải vậy. Vì sao? Một quyển kinh này vốn có ba người phiên dịch: 1. La Thập Pháp Sư, niên hiệu Hoằng Thủy, năm thứ tư, ở Tiêu Dao Viên, chánh phiên dịch một quyển, nếu có tám quyển sao chẳng phiên dịch cho luôn; 2.Lưu Chi tam Tạng phiên dịch lại ở đát Hán. Kinh cùng với luận, hợp lại có ba quyển, mà kinh dài có một chương tín giả. Luận giải thích đầu đuôi sự và nghóa đã xong xuôi. Phần đầu là nói về duyên khởi của kinh, nghóa của quy kính, phần cuối nói về tùy hỷ tán thán công đức. Nếu có tám quyển thì vì sao chỉ giải thích một phẩm; 3. Chơn Đế Tam tạng, ở Lỉnh Nam, dịch lại kinh này, văn tiểu mà ý rộng, chẳng nói có tám quyển. Hơn nữa, kinh này có đủ ba phần; Tư, chánh, lưu thông, sao lại có thể nói là một phẩm. Hỏi: Phần ký ở cuối Kinh Đại Bi Tỳ Khưu Ni Bổn nguyện còn nói: Đầu tiên là thuyết Đại Phẩm, Tiểu phẩm xuất ra từ trong đó, về sau thuyết Quang tán, Đạo Hành Xuất từ trong đó. Việc này là sao? Đáp: Điều ấy cũng chẳng đúng! Đạo Hành vón là tên gọi khác của Tiểu phẩm. Cuốn Đại trí Luận phần trước thì liệt kê là Quang Tán, Phóng Quang, Đạo hành, về sau lại liệt kê là Tiểu phẩm, phóng quang, quang tán, cho nên biết Tiểu phẩm tức là Đạo hành gọi tên khác nhau mà thôi. Duệ Công viết bài tự cho tiểu phẩm nói: kinh này ba mươi chương, xuyên quán nó bằng Đạo, cho nên gọi là Đạo Hành, thì biết Đạo hành là Tiểu phẩm. ỨNG NGHIỆM Hỏi: Tụng trì Bát-nhã, có nghiệm ích gì? Đáp: Kinh này lư hành ở nước Hán hơn hai trăm năm. Người tụng được ích chẳng thể kể xiết. Xưa kia tại núi, tăng tụng kinh này, đàn chỉ trong không, hương thơm đầy phòng. Lại nữa, khai Thi6n5 pháp sư tụng, kéo dài tuổi thọ thêm bảy năm. Lại nữa, chi só Hành ném kinh Đại phẩm vào dòng lửa, lửa tắc mà kinh chẳng cháy, quáng ích vô lượng, chẳng thể kể hết. CHƯƠNG ĐOẠN Kinh này văn ước lược, lý huyền vi, người chú thích ít người hiểu hết ý kinh, khiến cho chia đoạn mù mờ lẫn lộn, làm cho trười trăng Bát- nhã bị che mờ chẳng sáng tỏ. Nay liệt kê ý của các sư để tỏ sự đắc thất của họ. Vốn bởi Đại Thánh, tùy duyên thuyết giáo, ý khiếu ngoài nôm ngộ thật, ý chì ắt chẳng ở tại văn tư, mong được ý, lỉnh hội được yếu chỉ của nó mà quy về, đó là điều đã được truyền đạt vậy. Từ đất bắc tương thừa nhau, Lưu Chi Tam tạng chia kinh ra thành mười hai phần để giải thích: 1.Tự phần; 2.Hộ niệm phó chúc phần; trú phần; 4. Tu Hành phần; 5. Pháp thân phi hữu vi phần; 6. Tín giả phần; 7.Cách lượng phần. 8.Hiển Tính phần; 9.Lợi ích phần; 10.Đoạn nghi phần. 1 1. Bất trú Đọa phần; 12. Lưu Thông phần. Đại Thánh thuyết pháp, ắt có nguyên do, nên có Tự phần. Sắp thuyết Đại pháp, ắt vì chư Bồ-tát, những vị đã ngộ thì cần gia bị, những người chưa ngộ thì phó chúc cho người đã ngộ, cho nên có phần hai, Hộ niệm phó chúc. Đã Hộ niệm phó chúc để cho họ trú trong Bát-nhã, cho nên có phần thứ ba, trú phần. Tuy đã có thể trú lập nhưng còn phải tiến chư hạnh hơn nữa, cho nên tiếp đến có phần thứ tư, tu hành phần. Do bởi tu cái Nhân vô đắc, cho nên đắc cái giả vô vi, vì vậy mà tiếp đó là nói về Pháp đàn phi Hữu vi phần. Thuyết nhân quả này, ắt có người trú thọ, cho nên tiếp đến cần tỏ về Tín giả phần. Tín Trì thì công đức vô biên, cho nên cần tỏ về cách lượng phần. Người trì thuyết, sở dó công đức vô biên là do từ Phật Tính, nếu chẳng biết Phật tính thì chẳng có công đức đó, cho nên có Hiển Tính phần. Bởi y theo Phật Tính mà tu công đức thì lợi ích vô cùng, cho nên cần nói về Lợi ích phần. Qua một vòng thuyết pháp trên, người lợi căn thì đã ngộ, người trung căn hạ căn thì chưa liểu ngộ, càng lại sinh nghi, cho nên có phần thứ mười, Đoạn nghi phần. Nghi tâm đã trừ thì vô sở y trú. Cho nên có phần thứ mười một, bất trú Đạo phần. Đại pháp này chẳng những ích lợi ngay hiện tại, mà còn lợi ích cho vị lai, cho nên có phần mười hai, lưu thông phần. Tuy chia ra mười hai phần, nhưng chẳng ngoài Nhân và Quả, gom cả đầu đuôi; gồm có bốn vòng. Từ Họ Niệm phó chúc phần đến Tu Hành phần, đó là nói về Nhân. Pháp Thân phi hữu vi phần là biện về Quả ích. Đó là vòng thứ nhất tỏ về Nhân quả. Tiếp đến là từ Tín giả phần đến cách lượng phần, đó là vì Nhân mà cảm được quả Hiển Tính, đây tức là vòng thứ hai tỏ về Nhân quả. Đã rõ Phật Tính, y theo Tính mà tu hành, tức là nghóa của Nhân, có Nhân cho nên đắc quả, tức là lợi ích phần, đó là vòng thứ ba tỏ Nhân quả. Đoạn nghi làm Nhân, bất trú Đạo làm quả, tức là vòng thứ tư tỏ Nhân quả. Giải thích trên thịnh hành ở đất bắc, đời đời tương thừa trãi qua nhiều năm mà người học Phật đều tin theo. Tôi nghiền ngẩm thâm nhập đã nhiều năm, ý cho giải thích trên chẳng đúng. Nay xin hỏi rằng: mười hai phần trên là xuất ở văn kinh Bát-nhã hay là xuất ở văn kinh Bát- nhã hay là xuất ở luận chú thích của Bà Tẩu? Nay xem hết kinh luận đều không có ý trên, đó là nhna6 tình tự xuyên tạc mà thôi, phân chia lẫn lộn mù mờ thêm hại mà thôi. Hỏi: Chia văn như vậy, có lỗi lầm gì mà ông cho là sai trái? Đáp: phương hại rất nhiều, chẳng thể kể xiết. Nay nêu ra mấy lỗi để cho thông suốt. Một là chia văn như vậy, vì chẳng biết thông và biệt của kinh. Vì sao? Đến như Tự phần là phần thông tự cả cuốn kinh, mười phần như Hộ niệm phó chúc phần,.. đó là Biệt đoạn (Đoạn riêng biệt) nằm trong phần chánh Thuyết. Sao lại lấy phần Thông văn của kinh mà xếp thành Biệt đoạn của phần chánh thuyết ấy là sai lầm chớn vậy. Hơn nữa, ông nói: từ “Đại Thiền trân bảo…” cho đến “Xả hằng Sa Thân mệnh…” gọi là Cách lượng phần, đó là vì chưa hiểu thủy chung của kinh, cho nên mắc si lầm đó. Nguyên do là sao? Trong cách lương, gồm có Nội thí và ngoại thí; ngoại thí thì có Tam Thiên và Hằng sa, trong Nội thí cũng có hai loại: 1.Xả thí hằng sa thân; 2.Một ngày ba thời xả thí Hằng sa thân, đến đây mới hết phần cách lượng, ông vì cớ sao chỉ lấy ba phần trước làm phần cách lượng, ông vì cớ sao chỉ lấy ba phần trước làm phần cách lượng, mà chẳng lấy “Ba thời xả thân” làm cách lượng phần, đó là sai lầm. Hơn nữa, luận nói rằng: từ “pháp thân phi Hữu vi phần” trở lại đều là phần Đoạn nghi, ông vì sao chỉ lấy từ “Tu Bồ-đề trùng vấn…” trở đi làm Đoạn nghi phần. Hơn nữa, kinh này thuyết có hai vòng, kinh luận đều chia như vậy, ông vì sao lại lấy thuyết của vòng trước, rồi chia ra nhiều phần, lấy thuyết của vòng sau hợp thành một phần, ép đại thành tiểu, cực kỳ hại vậy! Lại nữa, phần lưu thông thật ra là đại chương, ông lại xếp theo tiểu đoạn, cũng là điều chẳng thể, trong đó còn chia vụn chuơng cú, thế rồi dị ngôn ngữ mục, làm cho kinh luận đều uế tạp, đến phần cãn sau sẽ nói đầy đủ rõ ràng hơn. Lại có người nói: chia kinh ra mười hai phần thì khó hiểu, lấy chỗ để thấy của kinh mà chia ra thành sáu chương, sáu chương là: 1. Tự phần; 2. Hộ niệm phó chúc phần; 3. Trú phần; 4. Tu hành phần; 5. Đoạn nghi phần; 6.Lưu thông phần. Cách chia đó do bởi người học quá kém cõi, vẫn mắc lỗi như trên mà tại hại hơn nữa. Vì sao? Nếu nói phần sau đồng là Đoạn nghi phần thì trong Đoạn nghi phần chẳng cần chia ra phần khác nữa, những phần kèm theo ở trước cũng là chẳng phải Đoạn nghi phần thì trong chẳng Đoạn nghi cũng chẳng nên chia ra phần khác, trong những phần chẳng Đoạn nghi, có nhiều loại nghóa, đã chia nhiều phần thì trong Đoạn nghi. Vì sao chỉ lấy một phần, nếu vậy thì “Đồ hành khất thực” cũng phải là một phần. Nếu cho rằng: Đi hành khất thực” đã thuộc về tự phần nên chẳng tách ra, thế thì “Hộ niệm phó chúc” thuộc về phần chánh Thuyết cũng phải chẳng tách ra. Lại nữa, nguyên trước giải thích và sau đó chú thích đều chẳng biết đại thể của luận văn. Vì sao? Luận chủ chỉ giải thích những câu văn khó, bỏ những câu văn dè”. Vì sao người đời sau lại giải thích của luận bèn lấy đó làm phân đoạn”. Lại có người chú thích Kim Cang Bát-nhã, chia ra ba môn: từ “Như thị Ngã văn… Nguyện lạc dục văn” là nhân duyên môn, nghóa là có đủ những nhân duyên đó nên thuyết Bát-nhã. Từ “Phật cáo ưng như thệ hành phục… kiến chư tướng phi tướng” là Bát-nhã Thể Môn. Từ “Bạch Phật, phả hữu chúng sanh…” là công đức môn. Cách giải thích này, nghóa cũng chẳng tận, phần lưu thông thuộc về môn nào? vòng sau thuyết lại thì thuộc về môn nào? Có người nói: Chia ra thành ba đoạn: 1.Tự thuyết; 2.Chánh thuyết; 3.Lưu thông thuyết, Đại thánh thuyết pháp, ắt có nguyên do, cho nên có tự thuyết. Tự thuyết đã xong, chánh tông nên khai, cho nên có chánh thuyết. Chẳng chỉ ích lợi cho đương thời mà còn làm ích lợi cho mai sau, cho nên có lưu thông thuyết. Nay cho rằng chia kinh thành ba thuyết chẳng phương hại gì về lý, nhưng nhóm khai Thiện chẳng biết ba thuyết khởi tận, cho nên lại thành ra thật bị. Vì sao? Đến như văn phần Tự, lấy phần hỏi của ngài Thiện Cát (Tu Bồ-đề) làm Thán Thỉnh Tự, còn phần đáp của Như Lai mới thuộc về chánh kinh. Điều đó là sai lầm Vì tất cả kinh hoặc hỏi hoặc đáp thảy đều là chánh, sao lại cho Hỏi là Tự, cho Đáp là chánh. Kinh Đại Niết-bàn, thời hội hiến cúng là Tự, Thuần Đà thỉnh thọ vấn nạn, tức cho là chánh. Kinh này “Đồ hành khất thực” cho đó là Tự thì ngài Thiện Cát phát vấn tức phải là chánh. Kinh Đại phẩm cũng vậy, phần “Như Lai quảng hiện thần biến” là tự. “Cáo Xá-lợi-phất” tức là chánh, việc này dể hiểu, chẳng nên lạm dụng. Hơn nữa, ba thuyết vô định; tuy là Tự thuyết nhưng chẳng ngại có chánh, tuy chánh thuyết nhưng chẳng ngại có Tự. Lưu thông cũng vậy. Vì sao? Vì Tư là đối với chánh, cho ên gọi đó là tự. Vì chánh là đối với Tự, cho nên gọi đó là chánh. Chánh thuyết ngộ đạo đã có thể là chánh, tự thuyết ngộ đạo cũng có thể là chánh. Nay chia kinh thành a ba phần khác nhau, trong ba phần này, mỗi phần đều chia thành hai đoạn. Phần tự có hai: 1. Thông tự; 2. Biệt tự; Phần chánh văn có hai; vòng thứ nhất là quảng thuyết, vòng thứ hai là lược thuyết. Phần Lưu Thông có hai: 1. Tự Phật đã thuyết xong kinh. 2. Thời chúng hoan hỷ phụng hành. Hai đoạn trong phần tự gồm có bốn đôi: 1. Thông. 2.Biệt. “Thông” có nghóa là giống nhau. Các kinh sáu sự thảy đều giống nhau, cho nên gọi là Thông Tự. “Biệt” với nghóa là khác nhau,c ác kinh mỗi kinh mỗi khác, hoặc là cha mẹ cho sách, hoặc là Trưởng giả hiến dâng lọng, hoặc là Trời mưa bốn hoa, hoặc là đồ hành khất thực. Cho nên gọi là Biệt tự. Đôi thứ hai là “ chứng Tín Tự” và “phát khởi tự”: có sáu sự này khiến cho người sinh Tín, cho nên gọi là CHứng Tín Tự. Đồ hành khất thực, phát khởi chánh kinh, gọi là phát khởi tự. Đôi thứ ba là “Di giáo Tự” và “Ghiện Tiền Tự”: Như Lai sắp nhập Niết-bàn, A Nan tâm buồn rầu chẳng nói năng gì. A Nê lâu Trì nói với A Nan. Ông là người trì giữ pháp tạng của Phật, điều ông nên hỏi thì cần phải kịp thời hỏi ngay, thế rồi A Nan hỏi bốn câu hỏi, câu hỏi cuối cùng là: “Đầu tất cả kinh để những lời gì? Phật nói: “Đầu tất cả kinh nên nói: “Như thị ngã văn” lời di ngôn bảo sáu sự như vậy, cho nên gọi là “Di giáo Tự”. Khi hiện thuyết kinh tức có những sự như khất thực… gọi là Hiện Tiền Tự. Đôi thứ tư là “Kinh Tiền Tự” và “Kinh Hận Tự”: Thuyết kinh xong rồi mới có sáu sự như vậy thì gọi là “Kinh Hậu tự”. Trước khi thuyết kinh có những sự khất thực thì gọi là Kinh Tiền Tự. Hỏi: Phật vì nhân duyên gì mà phần đầu tất cả kinh đều bảo sắp xếp sán sự? Đáp: Vì để chứng tín. Đại Trí Luận nói: “Thuyết thời gian, nơi chốn, con người, để cho người ta tin tưởng”. Lại nữa, tất cả ngoại đạo đều lấy Cát pháp đặt tại đầu kinh, cho nên cuốn Bách Luận nói: “Chư sư tác kinh giản sơ đều thuyết cát”. Nay vì muốn khác với ngoại đạo, cho nên dùng sáu sự. Hỏi: Nếu an đặt sáu sự để khác với ngoại đạo thì ngoại đạo cũng nói an đặt sáu sự đó thì sao phân biệt được? Đáp: tỏ rằng đây là sáu sự Bát-nhã, cho nên, lấy phần chứng tín để tách biệt khác với ngoại đạo. Bát-nhã Tín: Đó là niềm tin của Vô y vô đắc, cho nên Đại phẩm nói: “Chẳng tin tất cả pháp gọi đó là Tin Bát-nhã, tất cả pháp bất sinh, gọi đó là Bát-nhã sinh”. Vì chẳng tin tất cả pháp, nên gọi là tin Bát-nhã. GIẢI THÍCH CHÁNH VĂN NHƯ THỊ NGÃ VĂN: Là Tông tự, có 6 sự: 1.NHƯ THỊ: là pháp sở văn (pháp đã được nghe). Hỏi: Phật là người Nhất Thiết Trí, vô sư tự ngộ, chẳng nghe từ người khác, vì sao lại nói “Như thị ngã văn”. Nếu nói “Như Thị Ngã văn” tức là nghe từ người khác, chẳng phải người Nhất Thiết Trí? Đáp: Như giải thích trên, đó chẳng phải Phật tự xưng “Như Thị ngã văn”, đó là sắc lệnh cho thị giả bảo xưng là “Ngã văn”. Lại nữa, Đây là sắc lệnh cho thị giả bảo xưng là “Ngã văn”. Lại nữa, Đây là Đại đệ tử A Nan tự xưng “Như thị ngã văn”. Như trong Tập pháp tạng kể: “A-nan đăng cao tòa, Đại Ca Diếp hỏi: Thuyết pháp lần đầu tiên ở đâu? A Nan chấp tay hướng về như vầy, Phật lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển vì năm Tỳ kheo thuyết pháp”. Do đó, chẳng phải Phật tự xưng. Chơn Đế tam Tạng chú thích cuốn Thích Luận của Bà Tẩu nói rằng: A Nan sắp tụng xuất pháp tạng, đăng vô úy tòa, biến thân như Phật ba mươi hai tướng tám mươi vẻ đẹp. Bấy giờ đại chúng sinh ba loại nghi: 1. Thích Ca tuy trước kia đã diệt rồi, nay lại trùng xuất, vì ta mà thuyết pháp; 2.Cho rằng Thích Ca tuy đã diệt, đây là Phật ở phương khác đến; 3. Cho rằng Thích Ca tuy đã diệt, A Nan là đệ tử của Phật, nay đã thành Phật, thay Phật thuyết pháp. Vì có ba loại nghi trên, cho nên A Nan bèn giải thích mối nghi nói rằng: “Như thị ngã văn”, ý nói Như Lai đã diệt như vậy, tôi nghe được từ bên Phật, chẳng phải là ba việc trên. Về cú “Như Thị”, có hơn hai mươi sư giải thích cú này, nay lượt bớt chẳng nêu ra: Theo giải thích của Long Thọ: Phật pháp đại hải, Tín là năng nhập, trí là Năng độ, “Như Thị” tức là Tín. Nhờ có niềm tin cho nên nói việc này là như vậy. Nếu chẳng tin thì nói việc này chẳng như vậy. Nay phải do từ nơi Tín mới đắc nhập Phật pháp, do vậy đầu kinh đặt lời “Như thị”. Bát-nhã là Tín, ý nói rằng Bát-nhã vô y vô đắc, vô hý luận, tất cánh thanh tịnh, chơn thật đáng tin, Nhân ở niềm tin này mà đắc nhập Bát-nhã. Giải thích của Bà-tẩu-bàn-đậu: “Như thị” có ý nghóa là quyết định, lược nêu hai loại: 1. Giáo như thị; 2. Lý Như thị. Về giáo như thị, gồm có mấy nghóa: Như mức độ của lời Phật dạy, cho nên nói là “Như Thị”, nguyên do là sao? Tam thế chư Phật, hoặc quảng thuyết pháp, hoặc xử ở trung mà thuyết, hoặc lược thuyết pháp. Nay A Nan truyền chánh pháp, vẫn như Phật, quảng hay lược, chẳng tăng chẳng giảm, cho nên nói là “Như thị”. Như chư Phật, thứ đệ mà thuyết, nguyên do là sao? Tất cả thuyết pháp, gồm có 6 sự: 1.Phát khởi; 2.Nêu Tông; 3.Gải thích; 4.nan; 5.Thông; 6.Lưu thông phó chúc. A Nan nay theo thứ đệ mà tụng trì lợi Phật, cho nên nói là “Như Thị”. Như tên của kinh, cho nên nói là “Như Thị”; truyền trì Phật kinh, cần phải biết tên kinh, nếu chẳng biết tên kinh thì làm sao hiểu nghóa. Nguyên do là sao? Là vì đề tên của kinh, cho nên nói là “Như thị”; truyền rì Phật kinh, cần phải biết tên kinh, nếu chẳng biết tên kinh thì làm sao hiểu nghóa. Nguyên do là sao? Là vì đề tên của kinh là thâu tóm tổng quát ý nghóa của cả cuốn kinh, như kinh Đại phẩm tuy có 90 chương, gọi chung là Ma Ha Bát-nhã, lấy tên Ma-ha thâu tóm nghóa của cả 90 chương, vì vậy mà cần phải biết tên của kinh, A Nan theo đúng như tên kinh mà tụng trì cho nên gọi là “Như thị”. Nhân duyên Như thị: Tam thế chư Phật thuyết kinh nhân duyên, gồm đủ bốn nghóa: 1.Bi tâm rồi mới thuyết pháp; 3.Vì để báo ân chánh pháp mà sau đó mới thuyết pháp. 4. Quyết định chứng tín. Về quyết định chứng tín phải có bốn yếu tố: 1. Biết thuyết kinh có thời; 2. Biết nơi chốn thuyết kinh; 3. Biết người năng thuyết, tức là Như Lai; 4. Biết có chúng nghe kinh. Thời gian, nơi chốn, người nghe, người thuyết đúng như vậy, như lời tôi nói, thật đáng tin nhận cho nên nói là “Như thị”. Về Lý Như Thị: Nói Lý là Hữu thì gọi là Hữu kiến. Nói Lý là vô thì gọi Tà Kiến. Nói Lý là Diệc Hữu, diệc vô (vừa có vừa không có), đó gọi là Tương vi kiến (kiến giải trái ngược nhau). Phi Hữu phi vô, thì gọi đó là Ngu si kiến. Cái Lý được nói ra, nếu rơi vào trong bốn trường hợp trên thì chẳng gọi là “Như thị”. Nay ly bốn báng này, vô sở y chỉ, (không có nương chính chỗ nào cả), cho nên gọi là “Như thị”. NGÃ VĂN: Là Người Năng văn. NGÃ: Những nguyên do A Nan tự xưng mình là “Ngã”: 1.Vì muốn chứng thực chính mình nghe từ bên Phật, chứ chẳng phải truyền nghe. Nguyên do là sao? Là vì chính tôi nghe từ Như Lai cho nên xưng là “Ngã”; 2.Vì muốn tỏ rõ nguyên , hạnh đời quá khứ của A Nan đã thành tựu, cho nên xưng là “Ngã tôi”. A Nan từ vô lượng kiếp đến nay đã tu tập đa văn, nhờ lực Bổn nguyện mà đắc Đà La Ni, vừa qua tai thì mãi mãi không bị bỏ sót mãi mãi chẳng quyên, chưa từng hỏi lại, thí như đổ nước vào một ái tách khác, cho nên kinh pháp Hoa nói: “Ta và A nan ở chỗ Phật Không Vương, đồng thời phát tâm, ta thích tinh tiến mà rồi tâm Phật, A Nan thường vui với Đa Văn, cho nên trí nhớ pháp tạng của ta”. Lại như kinh nói: “Thích Ca xưa kia làm sa di cho Phật Ca Diếp. Ư (Phật Ca Diếp) ra hạn định ngày phải tụng kinh ngàn lời, kiêm luôn việc khất thực cho sư, e tụng kinh chẳng thuộc, lòng đầy âu lo, A Nan thời ấy làm trưởng giả trên đường đi thấy sắc mặt âu lo của Sa Di, bèn hỏi nguyên do, Sa Di kể lại việc trên, trưởng giả nói với Sa di, ngày ngày cho chú thức ăn, khiến an tâm tụng kinh, đừng âu sầu nữa, trưởng giả phát nguyện rằng: “Nếu Sa Di thành Phật, ta sẽ làm pháp tạng đệ nhất đệ tử”. Vì nguyện xưa đã mãn túc, cho nên xưng là “Ngã”; 3.Vì tự tại, cho nên xưng là “ngã”: như Đại kinh nói: A Nan đầy đủ đa văn trí tuệ, tất cả chúng sanh chẳng thể nhất thời lỉnh đầy đủ lời Phật, dù có thể lảnh nhận đầy đủ lời Phật, nếu không có lực Đà la ni thì chẳng thể nhớ mà chẳng quên, tuy có nhớ mà chẳng quên nhưng cũng chẳng thể có đủ ba tuệ ở trong văn pháp ( pháp nghe), chẳng thể tự tại, chẳng gọi đó là “Ngã”. “Ngã” là nghóa tự tại. Nay A Nan có thể nhất thời kỉnh nhận đầy đủ lời Phật, cũng có thể nhớ mãi chẳng quên; 4. Phát sinh đầy đủ ba Tuệ ở trong văn pháp mà đắc tự tại, do đó xưng là “Ngã”. Hỏi: Phật pháp vô ngã, vì sao xưng “Ngã”? Đáp: Trong thật tướng chư pháp, phi Ngã, phi vô ngã, vì muốn dẫn dắt chúng sanh nên giả danh nói “Ngã”. Do đó không có lỗi. VĂN: Sở dó xưng là “Văn”, cũng gồm đủ mấy nghóa: 1.Muốn hiểu rõ Đức của người sở văn; sở văn của A Nan chẳng nghe từ ngoại đạo và đệ tử Phật, Tiên nhân, Hóa nhân, Chư thiên, nay sở văn là nghe từ bên người Nhất Thiết trí; 2.Muốn hiểu rõ pháp sở văn (pháp đã được nghe) là tối thắng, Phật pháp danh, cú, vị xảo diệu, nghóa lý thâm tịnh, pháp ngoại đạo chỉ có ngữ ngôn, không có thật nghóa. Nếu nghe Phật pháp, gọi đó là chánh văn (chánh nghe); 3.Lý đã được bày tỏ là tối thắng; Phật pháp chánh đạo, viên mãn cụ túc, không có điên đảo, như lý mà thuyết, gọi là chánh thuyết. Như lý mà văn, gọi là chánh văn; 4.Vì Hành tối thắng, cho nên gọi là chánh văn: y theo chánh giáo mà tu hành, tức là tối thắng trong Hành, cho nên gọi đó là chánh văn; 5.Vì tu hành đắc chánh quả, nên gọi đó là chánh văn, chánh quả là; cái được gọi là Đại Bát Niết-bàn. Hỏi: Là dùng thần văn (nghe) hay là dùng thức văn, hay là dùng căn mà văn, hay là Hòa hợp văn? Nếu dùng thần văn (nghe) thì vì sao Thần dùng tai văn (nghe) chẳng dùng mắt văn? Nếu dùng thức văn, cũng nạn vấn như trên. Nếu dùng căn để nghe thì khi không có thức, căn rổng không cũng phải nghe. Nếu mỗi một hứ riêng lẻ chẳng thể nghe thì hòa hợp chúng lại cũng chẳng thể nghe. Với những nghóa như vậy thì thảy đều không có văn (nghe). Đáp: Nay ở đây nói “văn” là nhân duyên văn. Nhân duyên văn là bất văn, văn mà vô sở văn. Là vì kinh nói: Người ấy thuyết pháp vô vô thuyết vô thị, người ấy nghe pháp vô văn vô đắc, Như Lai thuyết vô sở thuyết. A nan văn vô sở văn, thuyết và nghe như vậy mới có thể tương thành cho nhau. NHẤT THỜI Đây là thời của thuyết giáo, như Chuyển Luân Vương xuất thế là Thời có thể đắc bảo vật. Như Như Lai xuất thời, đó là thời có thể đắc pháp bảo. Cho nên nói là “Nhất thời”. Hai là, tất cả chúng sanh cuồng điếc khi nghe Như Lai thuyết, thời đắc tỉnh ngộ, cho nên gọi là “Nhất thời”. Lại có chánh sư thời, có chánh giáo thời, có chánh học thời, cho nên nói là “Nhất thời”. Có đủ ba thời đó, chúng sanh đắc đạo. Trung Quán Luận nói: chơn pháp, người thuyết, người nghe, thật là khó đắc. Nếu đủ ba loại đó thì sinh tử hữu biên, nếu chẳng đủ ba loại đó thì sinh tử vô biên. Lại nữa, chúng sanh nếu khi chưa, trồng xuống niềm tin thì chẳng gọi là “nhất thời”, nay thuyết Bát- nhã là lúc trồng xuống niềm tin (hạ tín chúng), nếu khi đã trồng xuống niềm tin, đó là lúc chánh quán tăng trưởng, nếu khi chánh quán đã tăng trưởng thì đó là lúc thiện căn thành tựu, cho nên nói là “Nhất thời”. Lại nữa, A Nan nhất thời có thể lảnh nhận đầy đủ Phật thuyết cho nên nói là “nhất thời”. Vì sao? Chư Phật thuyết pháp, quảng và lược khác nhau, sở dó thuyết Bát-nhã, đó là vì tạm dừng một chút căn duyên vậy. Lại nữa nên biết rằng đó là Bát-nhã Nhất thời. Bát-nhã nhất thời là chẳng thời mà giả nói là Thời, chẳng Nhất mà giả nói là nhất. PHẬT “Phật” là nêu chủ của thuyết giáo. Trên kia tuy đã tỏ ba sự nhưng tà và chánh chưa phân, sự thứ tư nêu “Phật” mới hiểu rõ đắc thất. Nguyên do là sao? Vì tuy nói “ngã văn”, nhất thời chưa biết là nghe từ ai, do đó nay mới nghe từ “Phật”, chẳng phải người khác. Mà luận nói: Bà Gà là Năng Đoạn phiền não, có đại công đức, cho nên gọi là bà Già Bà (Phật). “Trú”: có hai loại: 1. Ngoại trú; 2. Nội trú. Ngoại trú gồm có 4 trú: 1. Vương hóa xứ trú; nghóa là Thích Ca trú tại Sa bà; 2.Dị Tục trú; nghóa là trú ở bên trong tất cả Tăng già lam (chùa); 3. Oai nghi trú; nghóa là đi, đứng ngồi, nằm đều gọi là trú; 4.Vị xả Thọ phần trú; nghóa là Như Lai chưa nhập Niết-bàn. Nội trú có bốn loại: 1. Thiên Trú, trú thí, giới; 2.Phạm trú; trú tứ vô lượng tâm; 3. Thánh Trú: trú không, vô tướng, vô nguyện; 4.Phật trú; trú trong thật tướng chư pháp . đó là Bát-nhã vô trú, vô bất trú, vì chúng sanh mà giả danh gọi là “trú”. XÁ VỆ QUỐC “Xá vệ quốc” là tỏ về trú xứ ( nơi ở). Xứ có hai loại: 1.Thông xứ; Biệt xứ. Xá Vệ quốc tức là thông xứ (xứ chung) Kỳ Hoàn Tinh-xá tức là biệt xứ (xứ riêng). Hỏi: vì nhân duyên gì mà Đức Phật đa phần trú tại Vương xá thành và Xá vệ quốc tức là thông xứ (xứ chung). Kỳ Hoàn Tinh-xá tức là biệt xứ (xứ riêng). Hỏi: Vì nhân duyên gì mà Đức Phật đa phần trú tại Vương Xá Thành và xá vệ quốc? Đáp: Trước kia, Đức Phật đã thọ nhận lời cầu thỉnh của Tần Bà Sa La Vương, cho nên trú Vương xá thành, sau đó thọ nhận lời thỉnh cầu của Tu Đạt Đa mà trú Xá vệ quốc. Lại nữa. Vì muốn báo ân pháp thân mà trú Vương xá thành. Vì báo ân sinh thân mà trú Xá vệ quốc. Nguyên do là sao? Phật đắc đạo tại Vương xá thành, Ma Già Đà quốc, do đó, để báo ân pháp thân mà trú Vương xá thành. Hỏi: Đức Phật sinh ra tại nước Ca Tỳ La vệ ở Trung Thiên trúc, Xá Vệ quốc là nước ở Đông Thiên Trúc, nay vì sao lại nói vì báo ân sinh thân mà trú ở Xá Vệ Thành? Đáp: Tổ tiên của Đức Phật vốn ở tại Đông Thiên trúc, Xá Vệ quốc. Về sau đến Trung Thiên Trúc, Ca Tỳ la thành. Nay theo gốc là lập danh, cho nên nói báo ân sinh thân mà trú Xá vệ quốc. Lại nữa, Vương Xá Thành và Xá vệ quốc nhiều nhân vật, cho nên Phật muốn ở nơi nhiều người để giáo hóa chúng sanh, như kinh nói: Xá Vệ Quốc có chín ức nhà. Như Kinh Hiền ngu nói: có mười tám ức người. Lại nữa, vì hai nước này sinh ra nhiều người trí huệ và hạng lục sư, do đó đức Phật đa phần trú ở Thành này. Hỏi: Vì sao gọi tên là Xá Bà Đề? Đáp: Có vị luận sư ở đất Bắc nói: vào thời kiếp sơ xưa kia, có hai anh em Tiên nhân, người em tên là Xà bà, hán dịch là Ưu Tiểu. Anh thì là A-bà-đề, Hán dịch là Bất khả hại. Hai người trú ở xứ đó để cầu đạo, nhân vậy mà lấy tên người đặt tên cho thành. Tên người em bỏ bớt chữ “bà”, tên anh bỏ bớt chữ “A”, gộp chung hai tên, nên gọi là “Xá Bà Đề”. Ngài Chơn Đế Tam Tạng nói: Nước đó chánh âm phải gọi là Xa la ma Tử Để. Hán gọi là Hảo Danh Văn Quốc. Xưa kia, có vị Tiên Nhân có danh tiếng tốt trú ở trong xứ ấy. Từ vị Tiên nhân mà đặt tên, cho nên gọi là Hảo Danh Văn Quốc (nước anh tiếng tốt). Còn nói rằng: Nước này có đầy đủ 4 nghóa: 1. Nhiều của báu; 2. Người trong nước ấy đa phần thọ hưởng thú vui ngũ Dục; 3.Có chư phép đức; 4.Vị lai sẽ đắc quả giải thoát. Có 4 nghóa trên, danh tiếng vang xa đến các nước khác, cho nên gọi là Hỏa Danh văn quốc. Trước kia phiên dịch là văn vật quốc, nước này sản xuất nhiều các sản vật quý tốt, danh tiếng vang xa các nước cho nên gọi là văn vật quốc. Kinh Thập Nhị Do nói: Không có vật nào mà chẳng có, hơn hẳn các xứ khác. Hỏi: Đức Phật trú ở nước Xá vệ bao nhiêu năm? Đáp: Kinh nói: Trú ở Xá vệ quốc hai mươi lăm năm, có chín ức nhà, ba ức nhà gặp nhưng chẳng nghe pháp, ba ức nhà gặp Phật nghe pháp, ba ức nhà chẳng gặp Phật chẳng nghe pháp. Ngài CHơn Đế Tam Tạng nói: trú ở Xá Vệ trước sau bảy năm, trú ở vương xá thành bốn năm. Nay chưa rõ rệt. Hỏi: Vương Thành và Xá vệ, trú nơi nào trước? Đáp: Đức Phật trú ở vương xá thành trước, về sau ở Xá Vệ. 6.KỲ THỌ CẤP CÔ ĐỘC VIÊN: Đây là loại thứ hai, gọi là Biệt xứ. Hỏi: Vì nhân duyên gì mà xây dựng Kỳ Viên Tinh-xá này? Đáp: Như những kinh Thập Nhị Do, Kinh Niết-bàn, kinh Hiền Ngu… đã kể chi tiết. Như kinh Hiền Ngu quyển 9 nói: Xá Vệ quốc chủ, vua Ba Tư Nặc có một đại thần tên là Tu Đạt, là người giàu có, của cải vô hạn, thích bố thí, cứu giúp người nghèo, và những người già yếu cô đơn. Người thời ấy, nhân việc ấy mà đặt danh hiệu là Cấp Cô Độc. Bấy giờ trưởng giả Cấp Cô Độc sinh bảy người con trai, tuổi đều đã trưởng thành, cưới hỏi cho con, theo thứ tự cho đến người con thứ sáu, còn lại người con trai thứ bảy, đoan chánh khác thường, đem lòng thương yêu, muốn cưới cho con thứ bảy một người vợ dung mạo đẹp đẻ, đoan chính tướng tốt, bèn nói với các Bà la môn rằng: nhà ai có con gái tướng mạo song toàn, tôi sẽ cầu hôn cho con tôi, chư Bà La Môn bèn vì ông mà để ý tìm kiếm, lần hồi đến trong Vương xá thành, có một đại thần tên là Hộ Trân, cực kỳ giàu có, tín kính Tam Bảo. Bấy giờ Bà la môn đến nhà vị đại thần để khất thực, theo phép nước kia, khi người thí cho thức ăn thì phải bảo đồng nữ đem thức ăn, ra bố thí, trưởng giả Hộ Trân bấy giờ có một người con gái, nghi dung đoan chánh, nhan sắc thù diệu, đem thức ăn ra thí cho Bà la môn. Bà la môn vừa thấy cô con gái, tâm đại hoan hỷ; người mà ta tìm chính là đây vậy! Bèn hỏi cô gái rằng: có người nào đến cầu hôn cô chưa? Cô gái đáp: chưa có. Còn hỏi thêm cô gái rằng: Cha cô có ở nhà hay không? Cô gái đáp: có Bà la môn nói: Có thể bảo cha cô ra đây cho tôi gặp mặt cùng bàn chuyện được không? Bấy giờ cô gái vào trong nhà, bạch với cha rằng: bên ngoài có khách đến muốn được gặp cha. Người cha bên đi ra. Bấy giờ Bà la môn sau khi hỏi thăm xả giao xong, nói với trưởng giả rằng: Ở vương quốc Xá vệ có một đại thần, tên là Tu Đạt, làm Quốc phụ, Ngài có quen biết vị đó không? Đáp rằng: chưa gặp người ấy, chỉ nghe danh. Nói rằng: có biết người ấy là đệ nhất phú quý ở nước Xá Vệ kia hay không? Ngài cũng là phú quý đệ nhất ở nước này. Tu Đạt có người con trai đoan chính thù diệu, đa tài lỗi lạc, muốn cưới con gái ngài có được hay không? Đáp: được! Bấy giờ Bà la môn chưa thể tự trở về, gặp lúc khách buôn đến Xá vệ quốc, luôn tiện gởi thư báo cho Tu Đạt, trình này hết sự việc. Tu Đạt nhận được thư rất hoan hỷ, bèn đến gặp vua Ba Tư Nặc cầu xin nghó phép một thời gian để cưới vợ cho con. Vua liền chấp thuận. Thế rồi chở đầy trân bảo đến Vương xá thành, trên đường đi, cứu giúp người nghèo khó cho đến vương xá thành, đến nhà trưởng giả Hộ Trân cưới vợ cho con. Trưởng giả Hộ Trân hoan hỷ nghinh đón Tu Đạt, sắp xếp nơi nghó ngơi qua đêm, bèn trong nhà thì đang lao xao làm đồ ẩm thực. Tu Đạt nghó rằng: Nay vị trưởng giả này bày cóng thứ gì? Muốn làm việc gì? Phải chăng muốn thỉnh quốc vương thái tử, trưởng giả đại thần hay là lễ hội hôn nhân? Bèn hỏi rằng: trưởng giả đêm nay tự mình chỉ huy sự việc bày biện đồ cúng dường như vậy, có phải là muốn thỉnh mời quốc vương thái tử đại thần? Đáp rằng: không phải. Lại hỏi: muốn mở lễ hội bà con hôn nhân ư? Đáp: không phải. Lại hỏi: thế để làm gì? Đáp rằng: ngày mai muốn thỉnh Phật và Tỳ kheo tăng. Tu Đa vừa nghe danh Phật, Tăng, tỏ lòng cung kính, như Hữu sở đắc, tâm tình vui vẻ, hỏi lại rằng: sao gọi là Phật? Mong được giải thích. Trưởng giả đáp rằng: ngài chẳng nghe sao? Con trai của vua Tịnh Phạn, tên gọi là Tất Đạt, ngày Ngài sinh ra, trời giáng điềm ứng, Thiên thần hộ vệ, liền đi bảy bước, xướng rằng: “Trên trời dưới trời chỉ ta là tôn”. Tu Đạt nghe kể những chuyện như vậy, hoan hỷ vui mừng, cảm niệm kính tín, muốn gặp Phật ngay đêm nay, thế là trời chưa sáng đã ra đi, nữa đêm ra ngoài, thấy Thiên tử bèn lễ bái, bỗng quên mất tâm nhớ nghó về Phật, thế rồi sáng trở lại càng tối hơn, tự nghó rằng; đêm nay tối quá, nếu ta cứ đi thì sẽ bị ác quỷ mảnh thú làm hại, hay là trở về thành, đợi sáng sẽ đi. Bấy giờ có vị Thiên trong bầu trời thấy ông muốn hối lùi, bèn xuống nói rằng: cư só đừng hối lòng, Tôi là Bà la môn Mật Kiên, là thiện tri thức của ông kiếp trước, nhờ nghe pháp mà được sinh ra trong cõi trời, ông đến gặp Phật, sẽ đắc vô lượng lợi ích, dù cho ngày nay được trăm xe trân bảo, cho đến được trân bảo đầy cả Tứ thiên hạ, chẳng bằng cử chân đi đến chỗ Thế Tôn lợi ích ông đắc d, hơn trăm ngàn lần, ông hãy đi đi đừng thối lùi. Tu Đạt nghe thiên nói như vậy, càng thêm kính niệm, thế rồi ngay tại đêm tối, trở lại được sáng tỏ, bèn tìm đường đi đến chỗ Thế Tôn. Bấy giờ, Phật biết Tu Đạt đến, bèn ra ngoài đi kinh hành. Lúc ấy, Tu Đạt xa thấy Thế Tôn như ngọn núi vàng, tướng đẹp oai dung,.. Tu Đạt thấy Phật, tâm vui vẻ, chẳng biết phép lễ, chẳng hỏi han Cù Đàm khởi cư ra sao, Thế Tôn liền bảo ngồi. Lúc ấy Thủ Đà Hội Thiên ở xa thấy Tu Đạt tuy thấy Thế Tôn nhưng chẳng biết cách lễ chân Phật, chư Thiên liền hóa thành bốn người đi thành hàng mà đến chỗ Thế Tôn, làm lễ chân Phật, quỳ xuống hỏi han, nhiểu phải ba vòng, rồi đứng một bên. Bấy giờ, Tu Đạt thấy họ như vậy, bèn rất ngạc nhiên mà tự nghỉ rằng: phép cung kính là phải như vậy! Bèn đứng dậy, rời chỗ ngồi, làm phép lễ kính, thăm hỏi khởi cư, nhiểu phải ba vòng, rồi đứng một bên. Bấy giờ Thế Tôn liền vì họ thuyết pháp; Tứ Đế vi diệu, khổ, không, vô thường, Tu Đạt nghe pháp, lòng hoan hỷ, liền chứng quả Tu Đà Hoàn. Và rồi bạch Phật: Duy nguyện Như Lai rủ lòng từ bi đến trong tại thành Xá vệ, vì chúng sanh trừ là tựu chánh. Thế Tôn bảo rằng: phép của người xuất gia có khác với tục, nơi chốn ở cũng phải có khác, xứ kia chẳng có Tinh-xá làm sao đến được! Bấy giờ Tu Đạt bạch Phật rằng: Thế Tôn! Đệ tử có thể xây dựng Tinh-xá, mong Thế Tôn chấp thuận cho? Thế Tôn im lặng. Khi Tu Đạt xin cáo từ ra về, luôn tiện bạch Phật rằng: về đến bổn quốc, sẽ xây Tinh-xá, chẳng biết cách xây, duy nguyện Thế Tôn, sai một đệ tử cùng đi để chỉ bày. Thế Tôn suy nghó; Bà la môn trong thành Xá Vệ, tin tà đảo kiến, người khác đi, ắt chẳng có khả năng biện luận, chỉ có Xá-lợi-phất là chủng Bà la môn, thời niên thiếu đã thông minh, kiêm đủ thần thông, đi ắt có ích. Bèn bảo ngài Xá-lợi-phất cùng đi với Tu Đạt. Thế rồi về đến thành Xá vệ cùng với Xá-lợi-phất đi xem xét các vùng đất, nơi nào bằng phẳng rộng rải để xây Tinh-xá, xem khắp chẳng nơi vừa ý. Chỉ có mảnh vườn của thái tử Kỳ Đà, mảnh đất ấy bằng phẳng, cây cối tươi tốt, chẳng xa chẳng gần trung tâm thành phố, chính là đắc xứ sở. Bấy giờ Xá-lợi-phất bảo Tu Đạt rằng: Ở đất vườn này nên khởi Tinh-xá, nếu xây dựng ở xa thành phố thì khó khất thực, nếu gần thì ồn ào náo nhiệt khó cho hành đạo. Tu Bồ-đề hoan hỷ đến chỗ Thái tử, nói với Thái Tử rằng: Tôi nay muốn vì Như Lai khởi xây Tinh-xá, chỉ có vườn đất của Thái tử mới thích nghi xử dụng, mong Thái tử bán cho. Thái tử cười nói: Tôi thiếu gì đâu! Vườn đó tươi tốt, sẽ dùng làm chỗ vui chơi, sao lại bán được? Tu Đạt năn nỉ chẳng thôi, Thái tử nói đùa rằng: Nếu sanh lót vàng che đất khiến chẳng có khoản trống nào cả thì sẽ bán cho, Tu Đạt cung kính đồng ý, chở vàng trãi đất. Thái Tử nói: tôi nói chơi, đâu có bán! Tu Đạt bạch rằng: phép làm thái tử, chẳng thể nói đùa, nay nói vọng ngữ thì chẳng xứng đáng kế vị ngôi vua. Bèn cùng thái tử đi đến chỗ người chuyên phụ trách phán quyết sự việc phải trái. Bấy giờ, Thủ Đà Hội Thiên sẽ vì Phật mà khởi xây Tinh- xá, e đại thần chuyên trách phán quyết sự việc thiên về thái tử, bèn hóa thành người chuyên trách phán quyết sự việc, nói với Thái Tử rằng: làm một vị thái tử thì chẳng thể vọng ngữ, nay đã nói đùa hứa bán thì chẳng nên nữa chừng lại hối tiếc! Thế rồi cắt bán vườn cho Tu Đạt. Tu Đạt hoan hỷ bèn sai người dùng voi ngựa chở vàng trãi đầy 80 mẫu đất, một hồi sau, sắp trãi xong, chỉ còn sót lại một ít đất, Tu Đạt đang suy nghó nên mở rương hàm vàng nào để vừa đủ trãi xuống miếng đất đó. Thái tử Kỳ Đà hỏi: Hiềm mua giá cao à? Đáp rằng: đang nghó cần phải rương vàng nào đủ để trãi miếng đất đó! Thái tử Kỳ Đà thầm nghó: Phật ắt có đại đức mới khiến cho người này xem nhẹ tiền tài đến vậy, bèn nói rằng: thôi ngang đây ngừng vậy, đừng đem vàng ra nữa. Vườn thuộc sanh, cây thuộc ta, ta tự vì Phật tạo lập cửa lầu. Tu Đạt hoan hỷ bèn trở về nhà, chuẩn bị thi công. Lục sư nghe chuyện, bèn đến bạch vua, trưởng giả Tu Đạt mua vườn Thái tử, muốn vì Cù Đàm, tạo lập Tinh-xá. Cho phép tôi cùng với họ đấu thứ đạo thuật, nếu họ thắng tôi thì mới cho xây dựng. Vua bèn gọi trưởng giả hỏi: Nay lục sư nói: Sanh mua vườn của Kỳ Đà để xây Tinh-xá cho Cù Đàm, họ xin cùng đệ tử Sa Môn đấu đạo thuật, nếu sa môn đệ tử thắng thì mới được phép xây dựng Tinh-xá, nếu thua thì chẳng thể xây dựng. Trưởng giả về nhà, mặc áo nhơ xấu, sầu não chẳng vui, thân tử (Xá-lợi-phất) ngày mai, mặc áo ôm bát, đến nhà trưởng giả, thấy trưởng giả chẳng vui, bèn hỏi: Vì sao mà vậy? Trưởng giả đáp: xây dựng Tinh-xá, e chẳng đắc thành. Vì vậy mà buồn. Thân tử (Xá-lợi- phất) nói: Có sự cố gì? Đáp: chư Lục sư đến vua, xin đấu đạo thuật với tôn giả, nếu tôn giả đắc thắng thì mới hco phép xây dựng, nếu chẳng bằng họ thì chẳng cho phép, mà nhóm lục sư này xuất gia đã lâu, chuyên học pháp thuật, chẳng có ai bằng họ, chẳng biết tôn giả có khả năng cùng họ đấu đạo thuật hay không? Xá-lợi-phất đáp: Dù cho nhóm lục sư đầy đủ cả Tam Thiên thế giới nhiều như rừng tre cũng chẳng thể động đến một sợi lông của ta, muốn đến thuật thì chỉ tùy theo ý họ. Trưởng giả hoan hỷ, thay mặc áo mới, đến bạch vua rằng: Lục sư muốn đấu thì cứ tùy theo ý họ. Vua bèn bảo lục sư tuyên bố với người cả nước: bảy ngày sau, ở ngoài thành, lục sư sẽ cùng sa môn đắc đạo thuật. Trong nước có mười tám ức người, thời bấy giờ, theo pháp nước kia, đánh trống triệu tập dân chúng, nếu đánh trống đồng thì triệu tập mười hai ức người, nếu đánh trống bạc thì triệu tập mười bốn ức người. Nếu đánh trống vàng thì tất cả đều tập họp. Bảy ngày đã qua, đánh trống tất cả đều triệu tập. Chúng lục sư có ba ức người. Bấy giờ, nhân dân thảy đều vì vua và lục sư mà phê tòa, trưởng giả vì Xá-lợi-phất mà thi tòa. Bấy giờ, Xá-lợi-phất ngồi dưới một gốc cây, tịch nhiên nhập định, du các Thiền môn, thông đạt vô ngại, tác niệm rằng: trong hội này, đại chúng tập tà đã lâu, kiêu mạn tự cao, nhóm quần sinh này sẽ dùng đức gì mà hàng phục họ, tư duy vậy rồi, bèn lập thề rằng: Nếu trong vô số kiếp, ta từ hiến phụ mẫu sa môn, Bà la môn thì nay ta nhập chúng sẽ khiến cho tất cả mọi người vì ta mà trú lễ. Bấy giờ, chúng lục sư đã tập họp, chỉ riêng Xá lợi tử chưa đến, bèn bạch vua rằng: Đệ tử Cù Đàm tự biết mình không có đạo thuật, sợ hãi chẳng đến. Vua bảo trưởng giả: Thầy ông nay ở đâu? Tu Đạt bèn đến chỗ Xá-lợi-phất, bạch rằng: Đại chúng đã tập họp, mong đến dự hội. Bấy giờ, Xá-lợi-phất từ Thiền định đứng dậy chỉnh y áo, an tường mà đi đến như vua sư tử đến với đại chúng. Bấy giờ Đại chúng và các Lục sư thấy hình dáng của ngài, đều bỗng nhiên đứng dậy, như gió thổi cỏ, bất giác mà làm lễ. Bấy giờ Xá Lợi Tử bèn thăng lên tòa do Tu Đạt đã phô, trong chúng lục sư, có một đệ tử tên là Lao-độ-sai, giỏi biết huyển thuật, đứng trước đại chúng, đọc chú thành cây đại thụ, bóng mát che cả đại chúng đều nói rằng: đó là Lao- độ-sai làm. Bấy giờ, Xá-lợi-phất dùng Thần lực tâm trận gió Tỳ Lam thổi bức gốc cây đổ nhào xuống đất, tan vụn ra như bụi trần. Chúng nói Xá-lợi-phất thắng. Lao-độ-sai lại đọc chú làm một hồ nước, bốn bên là bảy báu, trong nước sinh ra hoa sen, mọi người nói là do Lao-độ-sai tạo ra. Xá-lợi-phất làm ra một con voi trắng sáu ngà, trên ngà có hoa, trên hoa có ngọc nữ, con voi đó đi từ từ đạp tan hồ nước, bẻ hoa. Chúng nhân đều nói Xá-lợi-phất thắng. Lao-độ-sai lại làm ra một ngọn núi, trang nghiêm bằng bảy báu, hoa quả sum xuê, chúng nhân nói là do Lao-độ- sai làm ra Xá-lợi-phất lài ra kim cang lực só, dùng chày kim cang đập tan vụn ngọn núi, chúng đều nói Xá-lợi-phất thắng. Lao-độ-sai lại làm một con rồng có mười cái đầu, ở trong hư không, mưa nhiều loại bảo điện, sấm sét rung động đất, chúng nhân đều nói là Lao-độ-sai làm Xá-lợi- phất làm một con chim Kim Xí Điểu Vương, bèn bửa nức ra rồi ăn con rồng đó chúng nhân đều nói Xá-lợi-phất thắng. Lao-độ-sai lai làm một ngưu vương, thân thể mập to, sừng lớn nhọn hoắc xông đến, Xá-lợi-phất hóa làm vua sư tử xé nát con trân mà ăn, chúng nhân đều nói Xá-lợi- phất thắng. Lao-độ-sai lại biến thân làm một Dạ Xoa quỷ, hình thể to lớn, lửa cháy trên đầu, mắt đỏ như máu, miệng bốn răng nanh, mắt phun lửa xông đến. Bấy giờ Xá-lợi-phất lại hóa làm Tỳ Sa Môn vương, Dạ xoa sợ hải, bèn muốn thôi chạy, bốn bè lửa nổi, chẳng có chỗ đi, chỉ có bên Xá-lợi-phất là mát mẻ không có lửa, bèn khuất phục đảnh lễ, lửa liền diệt tắt. Chúng nhân đều nói Xá-lợi-phất thắng, Lao-độ-sai chẳng bằng. Bấy giờ thân của Xá-lợi-phất bay lên hư không, hiện mười tám biến và tám tự tại. Bấy giờ Hội thấy thần lực của ngài, đều ôm niềm hoan hỷ. Xá-lợi-phất bèn vì họ mà thuyết pháp, tùy theo phước hạnh của mỗi người mà đắc mỗi đạo tích khác nhau. Lục sư đệ tử ba ức người xuất gia học đạo ở chỗ Xá-lợi-phất. Đấu kó thuật xong, bốn chúng trở về chỗ ở của mình, trưởng giả và Xá-lợi-phất trở về vùng đất định xây Tinh-xá, tay tự mình cầm một đầu dây, Xá-lợi-phất vui vẻ mỉn cười. Trưởng giả hỏi: Tôn nhân sao lại cười? Đáp: Mới vừa muốn kinh địa (đo đất?) Sáu Thiên cung đã thành, liền mượn đạo nhãn, trưởng giả thảy đều thấy. Trưởng giả bèn hỏi Xá-lợi-phất; trong sáu cõi Trời Dục Thiên, cõi nào là tối thắng nhất? Xá-lợi-phất nói: Trong cõi Thiên thứ tư, thiểu Dục tri túc, thường có Nhất Sinh Bổ Xứ Bồ-tát đến sinh ra ở trong cõi ấy. Tu Đạt nói: Tôi sẽ sinh ra ở trong cung trời thứ tư. Trưởng giả nói ra lời ấy rồi thì năm cung trời còn đại đều mất, chỉ còn cung trời thứ tư, vẫn vậy chẳng biến. Khi căn dây tiếp, Xá-lợi-phất vẻ mặt buồn bả. Tu Đạt bèn hỏi: Tôn nhân sao lại buồn bả? Đáp: ông thấy con kiến trong khoảng đất này không? Đáp: đã thấy Xá-lợi-phất nói: Vào thời quá khứ Tỳ Bà thi Phật, ông cũng khởi xây Tinh-xá cho Phật kia ngay tại đất này, thời đó con kiến này sinh ra ở đây, cho đến ngày nay đã là chín mươi mốt kiếp. Vẫn cứ thọ nhận thân xác loài kiến, chẳng được giải thoát, sinh tử dài lâu, duy chỉ phước là điều quan trọng, chẳng thể chẳng siêng năng cố gắng. Vì vậy mà Xá-lợi-phất buồn bả, trưởng giả thương xót. Trưởng giả xây Tinh-xá, dùng diệu Chiên Đàn làm Hương Nê, biệt phòng trú ở ngàn hai trăm người, gồm một trăm hai mươi xứ. Muốn đến thỉnh Phật, lại nghó rằng; trên có quốc vương, phải báo cho vua biết, nếu chẳng phải bạch thì e sẽ hờn giận, mới đến bạch Vua Ba Tư Nặc; Tôi vì Phật đã khởi xây Tinh-xá xong, mong Đại vương sai xứ thỉnh Phật. Vua nghe xong, sai sứ giả đến Vương xá thành thỉnh Phật và tăng đến Xá vệ quốc. Bấy giờ, Thế Tôn và bốn bộ chúng trước sau nhiểu quanh, phóng quang động địa, đến Xá Vệ quốc, gần đến thành, tất cả đại chúng, đem những vật cúng dường đến nghinh đón Thế Tôn. Khi Thế Tôn đến nơi rồi, phóng đại quanh minh, dùng ngón tay án vào Tam Thiên thế giới thảy đều chấn động. Ca nhạc chẳng gảy mà tự vang, tất cả những người khuyết tật đều được cụ túc đầy đủ. Tất cả người dân thấy Phật liền hoan hỷ. Mười tám ức người dân đều đến tụ tập ở chỗ Phật Thế Tôn bấy giờ tùy theo bệnh mà vì họ thuyết pháp được đều đắc đạo tích. Chuyện Tu Đạt xây dựng Tinh-xáù, nhân duyên là như vậy. Về “Kỳ Đà”: Ngài Chơn Đế Tam Tạng nói: Tiếng ngoại quốc thì gọi: Cưu Ma La Kỳ Đà. Tiếng Hán gọi là: Đồng Chơn Thái Tử. Lại nói rằng: Kỳ Đà. Tiếng Hán nghóa là chiến thắng. Xưa kia có binh giặc muốn phá Xá vệ, vua Ba Tư Nặc đem binh phá tan giặc, lúc ấy chung nhân vào bẩm rằng: vừa sinh ra Thái tử! Do vậy đặt tên Thái tử là chiến thắng. “Tu Đạt Đa”: tiếng Hán gọi là: Thiện dử (khéo cho). Cha mẹ không con, bèn cầu thầm xin con, trong mộng được con trai, cho nên gọi tên là Thiện Dữ. Nước này từng có thời bị hạn hán trong suốt mười hai năm không mưa, mà Tu Đạt là nhà cự phú, chẩn tế cứu giúp người nghèo, cho nên gọi tên là Cấp Cô Độc trưởng giả. “Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên”: Đây là nêu ra cả hai tên gọi Quân và Thần, Thông và Biệt. Kỳ Đà là đệ tên của quân, Cấp Cô Độc tức là tên của thần. Thọ là biệt sở, Viên tức là thông xứ. Lại nữa, vì Kỳ Thọ là môn xứ, cho nên đứng trước. Viên là Tinh-xá, cho nên đứng sau. Lại nữa, Kỳ Đà là tên gốc, Cấp cô là tên ngọn. Ngài Chơn Đế Tam tạng nói rằng: đã xây dựng Tinh-xá cho Đức Phật đệ tứ ưu Lưu Thôn Đạt thời quá khứ ở ngang trên mảnh đất này. Thời ấy, mảnh đất này rộng bốn mươi dặm. Phật và con người tuổi thọ bốn vạn tuổi. Tu Đạt thời đó tên là Tỳ Sa trưởng giả, dùng vàng tấm trãi lên mặt đất, dùng áo báu đậy lại, cúng dường Phật. Vào thời Đức Phật đệ ngũ Câu Na Xá Mâu ni, con người và Đức Phật thọ ba vạn tuổi, bấy giờ Tu Đạt tên là Đại gia chủ trưởng giả, dùng bạch trãi đầy mặt đất, dùng con trai của Nhũ Ngưu (bò sửu) để cúng dường. Thời ấy đất rộng ba mươi dặm. Thời Đức Phật đệ lục (thứ sáu) Phật Ca Diếp, con người thọ mệnh ba vạn tuổi, Tu Đạt thời ấy tên là Đại Phiên Tất trưởng giả, dùng bảy báu trãi đất, đất rộng hai mươi dặm, làm thể để cúng dường. Thời Phật đệ thất Đức Phật Thích Ca, con người thọ trăm tuổi, đất rộng mười dặm, dùng vàng trãi mặt đất xứ ấy để cúng dường. Vào thời tương lai Đức Phật Di Lặc xuất thế mảnh đất trở lại rộng bốn mươi dặm, dùng bảy báy trãi mặt đất để cúng dường. Phật và con người thọ tám vạn tuổi. Tu Đạt thời ấy tên là tương Khư Vương (vua Tương Khư). Tương Khư Vương tiếng Hán gọi là Loa Vương (vua ốc), sắc trắng như con ốc. Xuất gia đắc thành La Hán. Lại nữa, cần biết rằng: xứ này là Bát-nhã Xứ, là Bát-nhã y quả, nó giống như Di Lặc Lầu Quán, cũng giống như pháp Thương Hương Thành.  KIM CANG BÁT NHÃ SỚ <卷>QUYỂN 2 nghe. “Dữ Đaị Tỳ Khưu Chúng”: Đây là sự thứ sáu, tỏ về chúng cùng Hỏi: Vì sao cần phải có sáu sự? Đáp: Có đủ sáu sự, nghóa mới trên đủ. Vì sao? “Như Thị” là pháp sở văn. “Ngã Văn” là người Năng Văn, “Nhất thời” là thời thuyết kinh. “Phật” là chủ diễn giáo. “Kỳ viên” là xứ nơi thuyết giáo. Nay là chúng đồn văn (chúng cùng nghe), cũng tức giáo là để dạy cho con người, vì con người, đây cũng có thể là người chứng kinh, cũng có thể gọi là người nghe kinh. Nếu nói theo những người thiện hữu kiếp trước đồng hạnh với Thích Ca thì đa phần là người chứng kinh, chứng những điều Như Lai thuyết là đáng tin, chứng những điều A Nan đã nghe là không sai lầm. Nếu là người nghe kinh thì đa phần là thật hành. Hỏi: Đại Trí Luận nói: Đầu kinh Bồ-tát, có Thanh Văn Chúng, có Bồ-tát chúng. Đầu kinh Thanh văn, chỉ có Thanh Văn, không có chúng Bồ-tát. Nếu vậy, nay đây là kinh Đại thừa vì sao lại có chúng Thanh Văn mà chẳng có chúng Bồ-tát? Đáp: Kiểm điểm tất cả kinh Đại thừa, có bốn trường hợp khác nhau: 1. Đầu kinh Đại thừa chỉ có Bồ-tát chúng, không có Thanh Văn chúng, tức là kinh Hoa Nghiêm, Thất Xứ, Bát Hội; 2.Đầu kinh Đại thừa chỉ có Thanh Văn chúng, không có Bồ-tát chúng, tức là kinh này; Đầu kinh Đại thừa có đủ cả hai chứng Tiểu Thừa và Đại thừa, tức như Kinh Niết-bàn, kinh Đại phẩm; 4. Đầu kinh Đại thừa không có hai chúng tức như kinh Kim Quang kinh, kinh Thắng Man,… Hỏi: Vì nhân duyên gì, kinh Đại thừa này chỉ có Thanh Văn chúng? Đáp: Trong kinh này thật ra là đủ cả hai chúng, sao lại biết vậy? Văn phần sau, phần Lưu Thông đã rộng kê ra các chúng. Nay ở đầu chỉ kê chúng Thanh Văn là để chỉ rõ Bát-nhã này là môn tóm lược chính yếu. Lại nữa, đúng phải đủ cả bốn chúng nhưng chỉ nêu ra Tỳ kheo là vì: 1. Thích Ca xuất thế, Tỳ kheo là những vị đầu tiên nhất nhập đạo; Tâm và hình, cả hai đều thấy hơn. Hình (hình dáng), thì hơn những người đang tại thế tục, tâm thì thăng hơn Tỳ kheo ni. Vì vậy mà chỉ kê ra Tỳ kheo. Lại nữa, chư Tỳ kheo là nội quyến thuộc của Như Lai, cùng ở chung với Phật, thường ở bên Phật, còn ba chúng kia thì không vậy. Lại nữa, chúng Tỳ kheo có khả năng thọ nhận chánh pháp, có khả năng thuyết chánh pháp, giúp Phật dương hóa, do đó chỉ kê ra Tỳ kheo. Sở dó chẳng kê hàng Bồ-tát là vì Bồ-tát là khách đến, cho nên chẳng kê. Thanh Văn là chúng củ, cho nên chỉ kê Thanh Văn. Lại nữa, vì để tỏ rõ trong giáo, oai nghi của Thanh Văn hơn hẳn Bồ-tát. Bồ-tát hình không nhất định, phản thường mà hóa. lại nữa, nay chính là muốn phá kiến chấp tà vạy của người Thanh Văn, khiến cho họ tin nhận Bát-nhã. Do đó chỉ kê Thanh Văn, Bồ-tát thì chẳng vậy, cho nên chẳng kê. “Đại Tỳ kheo tăng”: tiếng ngoại quốc phải là: Ma Ha Tỳ kheo tăng. “Ma Ha”; hoặc là Đại, hoặc là Thắng, hoặc là Đa. Nói “Đại” là vì có đủ đại giới, là vì có đủ đại đức, là vì có danh tiếng lớn. Nói “Đa” là vì con số lên đến một ngàn hai trăm năm mươi người. Nói “Thắng” là vì tối thắng trong các chúng. Khi luận nghị đã thắng chín mươi sáu loại ngoại đạo. “Tỳ kheo” gọi là khất só, xin thức ăn từ người thế tục để nuôi thân. Xin pháp từ chư Phật để luyện thần. “Tăng”: Theo kinh phước điền nói: “Chư Hữu ngũ tịnh Đức Danh viết pước Điền” (những người có năm tịnh đức gọi đó là phước điền) 1. Phát tâm lìa tục. Vì để mãi mãi theo đạo; 2.Hủy hinh đẹp, vì để ứng với pháp phục; 3. Cắt bỏ người yêu thân thích, vì để không có Đích mạc; 4. Vức bỏ thân xác. Vì để tích tập thiện pháp; 5. Chí cầu Đại thừa, vì muốn độ người. “Thiên Nhị Bách Ngũ Thập Nhân”: Phật mới bắt đầu thành đạo, Trước tiên là độ năm người, tiếp đó là độ Ưu Lâu tần Loa Ca Diếp, Ma Ha Ca Diếp, được năm trăm người. Tiếp nữa là độ cho nên anh em Na Đề Ca Diếp. Già Da Ca Diếp hai người, mỗi người có hai trăm năm mươi đệ tử, hợp thành một ngàn người. Tiếp nữa là độ cho Xá-lợi-phất, Mục Kiền Liên, lại được hai trăm năm mươi người, hợp lại có một ngàn hai trăm năm mươi lăm người. Nay chỉ nêu con số chính, là lấy những hàng có danh tiếng, chính là nói “Ngàn hai trăm năm mươi”. Từ “Nhó Thời Thế Tôn…” Là phần hai, Biệt tự. Trong phần Biệt tự, chia làm hai phần: 1.Trở về Như Lai đồ hành khất thực; 2.Tỏ về Như Lai trãi tòa mà ngồi, nhập vào tam muội. Trong hai phần này, mỗi phần đều chia ra làm hai đoạn. Hai đoạn của phần đầu là: 1.Tỏ về vãn sự; 2.Tỏ về Hoàn sự. Hai đoạn của phần sau là: 1.Tỏ về phô tòa (trãi chỗ ngồi) tức là phương tiện trước khi nhập định; 2. Một cú “Nhị tọa” là phần hai, chánh nhập tam muội. Hỏi: Vì nhân duyên gì mà trước tỏ về khất thực, rồi sau là nhập tam muội? Đáp: Vì muốn khiến cho chúng sanh sinh phước đức cho nên trước là nói về khất thực. Vì muốn cho chúng sanh Trí tuệ cho nên nhập tam muội rồi thuyết pháp. Lại nữa, trước là vì lợi ích cho chúng sanh tại gia, sau là lợi ích chung cho cả các đại chúng xuất gia và tại gia. Còn nói rằng: trước là lợi ích cho bạch y, tức là biệt ích. Vì sao? Vì chỉ khất thực ở người bạch y, chẳng khất thực ở Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cho nên gọi là Biệt (riêng). Sau là vì Tứ chúng thuyết pháp, tức là Tông ích (lợi). Lại nữa, trước là cho chúng sanh những lợi ích thuộc thế gian, sau là cho chúng sanh những lợi ích thuộc xuất thế gian. Lại nữa, trước tỏ Phật là phước điền, tỏ Như Lai là vị đáy cúng dường. Sau tỏ Phật là Thí chủ, dùng pháp Bát-nhã thí cho chúng sanh, tức là người Thích Ca Như Lai Chánh Biến Tri. Lại nữa, đều là trung tiền lợi ích chúng sanh, sau là trung hậu lợi ích chúng sanh. Lại nữa, đầu là Thân nghiệp ích vật, sau nhập tam muội là ý nghiệp ích vật, tiếp nữa thuyết Bát-nhã là khẩu nghiệp ích vật. Lại nữa, trước là muốn khiến cho sinh thân được trú lâu dài, sau là muốn khiến cho pháp thân được trú lâu dài, sau đó thuyết Bát-nhã, tức là ích về pháp thân, nhờ có hai trú này mà khiến cho chúng sanh được sự ích lợi của hai thân. Lại nữa, khất thực là biểu thị cho ha- ïnh thiểu dục tri túc của Như Lai. Thuyết pháp là biểu thị cho giải triển vi diệu của Như Lai. Lại nữa, khất thực là tỏ về Từ Bi của Đức Phật, thuyết pháp là tỏ về Trí Huệ của Đức Phật. Lại nữa, khất thực là chỉ cho pháp tắc thân của chúng sanh thời Mạt Thế, hợp lại khiến cho tất cả chúng sanh tâm y Bát-nhã. Lại nữa, khiến cho Đệ tử từ người tục mà khất thực để nuôi thân, từ Như Lai mà thọ nhận Bát-nhã để luyện tâm, cả hai sự liền đủ. Lại nữa, khất thực phá kiêu mạn tâm, thuyết Bát-nhã phá ngu si tâm. Hỏi: Đại kinh (nói) nhân ở thực (ăn) mà khai mở, kinh Niết-bàn kinh này có gì khác nhau? Đáp: Kinh kia nhân ở thực (ăn) mà khai mở Như Lai pháp thân, Thường Thân, chứ chẳng phải là Tạp thực thân. Kinh này nhân ở khất thực mà tỏ rõ những nghóa như trên. Lại nữa, hai kinh cũng giống nhau, đầu tiên là khất thực để tỏ rằng đồng với phàm phu nhị thừa, tiếp đó là thuyết pháp là tỏ rằng chẳng thể lấy thân tướng để thấy được Như Lai, do đó Như Lai thân chẳng phải là thực thân (thân ăn uống, thân xác). Luận nói: ba tướng khác thể, cho nên ly kia là Như Lai. Cần phải trước là đồng (giống). Rồi sau đó là Dị (khác). Đây là muốn khiến cho phàm phu và nhị thừ đều phát tâm cầu Phật thân. Hỏi: Nay thuyết Bát-nhã, vì nhân duyên gì mà trước là tỏ về khất thực? Đáp: Người Chí Nhân, khi động thì không có phi thòi, những điều người ấy làm thảy đều là ích vật, vì vậy chẳng nên trách chỗ do đâu. Lại nũa, lấy gồm để tỏ rõ xa, cho nên trước kia sắp thuyết Bát-nhã thì tỏ về khất thực. Lý do là sao? Thế gian ẩm thực vốn là để nuôi thân dưỡng mạng, còn Bát-nhã pháp thực là để nuôi pháp thân, dưỡng Huệ mệnh. Lại nữa, khất thực là chủng của Tứ Thánh. Bát-nhã là gốc của chúng thánh. Lại nữa, Đạo xa lắm thay! Thể đạo tức là Thần, do đó ẩm thực chẳng lìa Bát-nhã, nếu năng liểu thực thanh tịnh, tức là Bát-nhã. Trong văn kinh, gồm có năm cú: 1. Người phước vật; 2. Thời tiết khất thực; 3. Nghi dung khát thực; 4. Xứ sở khất thực; 5. Phương pháp khất thực. “Nhó Thời Thế Tôn”: Nêu người phước vật. Thành Thành Luận nói: có đủ chín danh hiệu trên, gọi là Thế Tôn. “Thực Thời”: Là tỏ thời tiết khất thực. Đây là sự việc thô ở thế gian mà biểu thị xa Phật pháp có hai lợi ích, mà tự và tha vô não. Cư só ở thế gian, ăn thì có thời giờ nhất định; sáng sớm thì chưa nấu ăn, quá buổi trưa thì đã ăn xong, nay là thời (lúc) thức ăn mới nấu chín, đúng thời ấy thì đi đến, có thể gọi là đắc thời. Thánh Nhân tâm tuy tòn đạo, thân nhờ vào thức ăn. Nay bên trong không có nổi khổ lụy vì tích chứa, bên ngoài có cái công của phước vật, khi khất thực nếu đắc thời thì người và ta đều đắc ích, khất nếu thất thời thì mình và người cả hai đều não. Cho nên nói là “Thực Thời”. Vì biết thời, cho nên gọi là Đại Pháp Sư. Tín thay! Lời nói thành tín! “Trước Y Trì Bát”: Nghi dung khất thực. “y” có ba loại; “Trước” cũng có ba thời. Nếu bình thường nằm ngồi thì mặc áo năm điều, gọi là An Đà vệ, tiếng Hán gọi là Hạ phẩm y. còn gọi là áo mặc trong. Nếu vào chúng, pháp sự thì mặc áo bảy điều, gọi là Uất Đa La Tăng, tiếng Hán gọi là Trung phẩm y. nếu vào Tụ Lạc gặp quốc vương trưởng giả thì mặc tăng Già Lê, tiếng Hán gọi là Đại y, còn gọi là chánh Trước y (áo mặc chánh). Từ chín điều trở lên đến hai mươi lăm điều, chia thành ba phẩm. Trong mỗi phẩm có ba, hợp lại thành chín loại: Ba loại Hạ phẩm là: 9 điều, 11 điều, 13 điều, ba loại Trung phẩm là; 15 điều, 17 điều, 19 điều. Ba loại Thượng phẩm là: 21 điều, 23 điều, 25 điều. Đó là tùy theo thân hình lớn hay nhỏ mà chế lá điều nhiều hay ít. Thân của Phật cao một trượng sáu, có thể mặc 25 điều. Người ngày nay chỉ có thể 15 điều mà thôi, tiếng ngoại quốc gọi là Cà Sa, tiếng Hán gọi là ly trần phục. Nếu màu đỏ màu tía rực rở thì tăng vật làm nhiễm tâm. Nay ba loại sắc thì tham tâm chẳng khởi. Hai gọi là Tiểu Sấu Y: Người nhập đạo, thân mặc áo này thì phiền não rơi rụng. Ba gọi là Liên Hoa Phục, đây là mượn dụ mà đặt tên Thể trong sạch, lìa nhơ nhớp, hơi giống hư hoa phù cự. Bốn gọi là Gián Sắc Y: ba màu sắc xen kẻ nhau cùng thành một y. Chơn Đế Tam Tạng nói: Xích Huyết Sắc y, tiếng ngoại quốc gọi là Cà Sa. Tuy có năm Bộ khác nhau, nhưng đều mặc áo màu xích (đỏ đậm). Hỏi: Thường nói là ba loại hoại sắc. Sao lại nói “đều là màu xích). Đáp: Thường giải thích rằng: Y mới, trước hết là nhuộm xanh, tiếp đó thì nhúng nó vào trong bùn, tiếp nữa là lấy mủ nhựa cây mà độ nó, gọi là Mộc Lan. Cho nên nói là: hoặc xanh, hoặc bùn, hoặc Mộc lan. Tam Tạng nói: Người Trung quốc đều không có phép ấy. Nói ba loại hoại sắc là: trong ba màu sắc, tùy dùng một sắc để điểm ấn áo. Nếu xứ có màu xanh thì dùng màu xanh để điểm, nếu xứ không có màu xanh thì dùng đất bùn để điểm. Nếu xứ (nơi) không có bùn thì có thể mài nước sắt mà điểm nó, đều chỉ nên dùng một màu là đủ. Chỉ vì thời đại, xứ sở mỗi thời mỗi khác, một sắc thì chẳng dài lâu, e chư Tỳ kheo sinh ra nghi hối, cho nên nói ba loại màu, tùy dùng một màu sắc. Nghóa của 18 Bộ tuy khác nhau nhưng màu sắc của y áo là cùng một màu như nhau. Cho nên Đại Kinh nói: Thấy đệ tử ta mặc y màu xích, gọi đó là máu. Chỉ vì điểm khác nhau mà có các Bộ khác nhau. Như Tát Bà Đa bộ thì điểm ở nơi hiển hiện rõ. Thượn tọa Bộ thì tiết nào cũng đều điểm. Còn Chánh Lượng Bộ thì chỉ điểm bốn góc. Tam tạng còn nói: ngoại quốc cũng không có Năm Bộ mặc năm loại y. chỉ (có) Phật giải mộng cho vua Ba Tư nặc, truyền ký rằng thời Mạt Thế có Ác Tỳ kheo phá pháp ta, chia thành năm Bộ. Người tục ở vùng đất kia, có năm họ, cho nên mặc áo năm màu sắc để biểu thị cho năm loại Thành khác nhau. Hỏi: Khi Phật nhập Niết-bàn, ba y ở tại đâu? Đáp: Có nhiều thuyết khác nhau. Nếu theo Thai kinh nói: Phật sắp nhập Niết-bàn, tay tự mình xếp ba y đặt vào trong quan tài bằng vàng để liệm Phật thân. Nếu theo thuyết của kinh Ma Da: Ma Da từ Đao Lợi Thiên xuống, chẳng còn thấy Phật, chỉ còn thấy tăng già lê và Tích trượng của Phật mà tự buồn than rằng: “Con ta tại thế, mặc và cầm những đồ vật này để dùng độ người, nay trống rổng không có chủ”. Từ đó mà suy ba y vẫn còn. Ngài Tam Tạng nói: “Áo năm điều của Phật thì ở tại nước Di Thi La. Áo bảy điều thì ở tại nước Bán Già Thi. Đại y và Tích Trượng thì ở tại nước Kế Tân. Ni Sư Đàn thì ở tại nước Ca Tỳ La”. “Trì Bát”: 1.Tùy thuận theo pháp pháp ba đời; 2.Vì để phá ngoại đạo tay tự ôm thức ăn; 3.Hiểu rõ oai nghi, lợi vật, khác với những người ăn xin hạ tiện; 4.Để bày tỏ đồ chứa công đức. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Trử công đức là biểu thị cho phước điền. Mặc áo cà sa biểu thị cho phước điền”. Trong luật nói: Phật và A Nan đến nước Nam Sơn, nước ấy có nhiều ruộng tốt, chia ra từng ô đẹp mắt, bèn lệnh truyền giống như thế mà chế y áo, biểu thị cho người xuất gia làm ruộng phước cho đời, có thể khiến cho hạt giống tâm bố thí gặt hái vô lượng quả báo, rải trồng vào ruộng tốt thì sẽ gặp hái gấp vạn lần vậy. Lá điều của y, gần giống như những thửa ruộng. Cho nên kinh nói: “Biểu thị cho phước điền”. “Bát Đa la”: tiếng Hán gọi là ứng lượng khí, tức là biểu thị cho Thể của người xuất gia có đủ trí để đoạn dứt những tương ưng nội ngoại, tức là đờ chứa (khí) để thọ nhận vật do trời và người cúng dường. Phật đầu tiên là thọ nhận cháo` sửa của hai cô gái thì dùng đồ bằng vàng để đựng, rộng một tầm, đây là đồ vật đựng thức ăn khi chưa thành đạo. Đến khi thành Đạo rồi thì thọ nhận Đề Vị Ba Lợi trưởng giả bố thí đồ đựng gọi là Quả, hoặc gọi là Siêu. Thời bấy giờ chưa có Bát, tự nghó; Tam thế chư Phật không có pháp tay ôm thức ăn. Thế rồi Tứ thiên vương phụng cúng bốn bát, Phật dùng tay ấn xuống hợp thành một bát, mà bốn lớp văn ngấn hiện rõ. Lại nữa, Tam tạng nói: Tịnh cư Thiên vẫn đem bốn chiếc Bát Đá của Tứ Thiên vương thời quá khứ để trả cho Tứ Thiên Vương, Bốn vương mỗi vương dùng bát mình cúng cho Phật. Bát này nay đang ở tại nước Kế Tân, có Tháp để đặt nó. Đến thời tượng pháp diệt, Tứ Thiên vương sẽ đem trả cho Tịnh cư thiên. Tịnh cư thiên đợi cho đến lúc Phật Di Lặc xuất thế, sẽ báo Tứ Vương tặng cho Di lặc. Về bát lớn hay nhỏ thì có ba phẩm khác nhau: Thượng phẩm thì chứa được ba bát cơm của người, một bát canh của người phần còn lại để ăn thức ăn là nữa bát canh. Hạ phẩm thì chứa một bát cơm và nữa bát canh của người khác, phần còn lại để ăn thức ăn là nữa bát canh. Nếu bát lớn hơn bát nhỏ, nhỏ hơn bát lớn thì gọi là bát trung phẩm. Bát Tha là tiếng ngoại quốc, tiếng Hán gọi là Lục tịch khí. Thượng phẩm bát thì đựng ba đẩu, có thể chứa hai đẩu bảy tịch thức ăn. Cần có phần không ở trên là ba tịch để biểu thị cho sự Thiểu dục. Hạ phẩm bát thì chứa được một đẩu rưởi, có thể đựng một đẩu hai tịch thức ăn, cần phần rổng không ở phần trên là 3 tịch, tức là một đẩu hai tịch, dung tích nằm giữa hai phẩm trên thì gọi là Trung phẩm bát. Cuốn Đại trí Luận nói: nói về Bát thì có 8 loại: không cho phép đệ tử cất giữ bát làm bằng vàng và bạc, vì e sinh tham. Không cho phép cất giữ bát bằng gổ, vì để bị nhơ nhớp, chỉ cho phép cất giữ hai loại bát, đó là bát bằng sắt và Bát gốm. Đức Phật thì Bát Đá. Hỏi: Có khi nào Phật chẳng mặc Cà Sa, chẳng dùng Bát hay không? Đáp: Có, cuốn Đại Luận nói: “Thiên vương Phật tác bạch y oai nghi”. “Nhập Xá Vệ Đại Thành Khất Thực”: là nói về xứ sở khất thực. Cựu giải thích rằng: Vường cách thành một ngàn hai trăm bước, hoặc có người nói là bốn dặm. Như Lai thọ thực, pháp thọ thực có ba: Ngồi đợi nhật thời, gọi là Thiện tự chí (thức ăn tự đến). Bên ngoài đến thỉnh Phật. Về thỉnh Phật thì có hai: Phật và chúng tăng đều đi; Tăng đi nhưng Phật chẳng đi, khiến người thỉnh Phật. Sở dó chẳng đi là vì có năm sự: Vì nhập định. Vì thuyết pháp cho chư thiên. Vì thăm những Tỳ kheo bệnh. Vì án hành phòng xá. Vì muốn chế giới. Như Lai tự mình đi khất thực, pháp đi khất thực có ba: Bay trên không mà đi. Chân lìa mặt đất bốn thốn mà dấu chân hiện trên mặt đất. Chân đạp hoa sen, hoa sen động mà chân chẳng động. Phật sở dó đi bộ khất thực, theo kinh Anh Lạc Nữ thì vì có 10 sự: 1. Như Lai vào thành khất thực, chúng sanh thấy Phật ba mươi tướng như Tu Di Sơn Vương mà phát Bồ-đề tâm, ắt sẽ cầu mong Như Lai thân; 2.Trong thanh có những người mù, điếc, tật bệnh, cho đến những người bị trăm khổ chẳng thể đến chỗ Như Lai, vì vậy mà Như Lai vào thành, phóng quang chiếu họ, chúng khổ hiền ngừng nghó, bèn phát Bồ-đề tâm; 3.Vì những Xát Lợi Bà la môn, những trưởng giả hào quý tự ỷ vào chủng tính của mình, chẳng sinh kính tâm, thấy nghi dung nghiêm nghị, oai đức của Như Lai đặc biệt khác lạ với đời, vì vậy mà tâm kiêu mạn tắt ngấm mà phát Bồ-đề tâm; 4.Vì thủ hộ nữ nhân bị ba thứ giám sát và năm trở ngại nên chẳng thể gặp Phật, lại còn vì những người lười biếng nhát nhớm tuy ở gần Như Lai mà chẳng thể đến. Vì vậy mà Phật vào thành khiên họ nhờ thế mà được lễ bái hỏi han, do vậy mà phát Bồ-đề tâm; 5.Như Lai vào thành, Tứ vương Bát bộ thảy đều theo hầu, mổi vương mỗi bộ đều mang hoa hương ca vịnh để cúng dường, người trong thành thấy thế bèn sinh ý niệm rằng: chư Thiên còn xả bỏ niềm vui thú cõi trời, cúng dường cho Phật, chúng ta sao lại chẳng cúng dường lễ bái! Nhờ vậy mà phát Bồ-đề tâm; 6.Như Lai âm bát do Tứ vương phụng cúng, thật là một bát có bốn viền ngấn, rõ ràng khác lạ. Người trong thành thấy vậy hiếm có, vì vậy mà phát Bồ-đề tâm; 7.Vì hai hạng giàu và nghèo; Nếu để cho người giàu có thấy Như Lai bát không thì sẽ thí nhiều. Nếu gặp người nghèo sẽ thấy Như Lai bát đã đầy thì sẽ thí ít, đều sinh hoan hỷ, do đó phát Bồ-đề tâm; 8.Trong bát của Như Lai, thọ nhận thức ăn trăm vị, thảy đều chẳng lẫn lộn nhau. Vẫn như những chén bát khác đựng thức ăn, tất cả chúng tăng, chư chúng sanh, tùy ý mà tán rải, chẳng tăng chẳng giảm, thấy vậy hoan hỷ, đều phát tâm; 9.Vì đệ tử chư Tỳ kheo thời vị lai, nay hành khất thực để làm mô phạm cho họ, chẳng tích chứa của cải Hữu vi; 1 0. Thân của Như Lai, thường tại Tam Muội, thân ngài chẳng ăn, chỉ vì lợi ích chúng sanh mà hiện hành khất thực. Với những nhân duyên trên cho nên nói rằng: “Nhập thành khất thực”. 5.“Ư Kỳ Thành Trung Thứ Đệ Khất Thực”: Là tỏ về phương pháp khất thực. Có luận sư nói: Ở ngoài quốc (Thiền trúc) bốn họ hào tộc đều ở trong thành, dân thường, đồ tể,.. đều ở ngoài thành. Nếu khi vào thành thì đều đi riêng, chẳng xen tạp nhau. Nay ở đây nói “Thứ đệ khất thực” là do từ trong bốn họ ở bên trong thành, chẳng lựa chọn giàu nghèo, theo thứ đệ mà khất thực. Lại nữa, như Ngài Thiệt Cát bỏ nghèo giàu (chẳng khất thực nhà nghèo chỉ khất thực nhà giàu) vì ngài cho rằng những nhà giàu trong kiếp này tuy thọ nhận quả báo giàu có nhưng không có gieo nhân cho thời vị lai kiếp sau, nay muốn cho họ tu Nhân thời vị lai để nghiệp quả được tương tục, do đó mà bỏ nghèo theo giàu. Ngài Ca Diếp thì bỏ giàu theo nghèo, vì ngài thương xót nuổi khổ bức thiết của những người nghèo khó, vì họ kiếp trước chẳng bố thí nên kiếp này sinh ra nghèo khó, nay nếu chẳng hành bố thí thì kiếp sau lại nghèo nữa, nghèo cứ tương tục chẳng bao giờ thoát khỏi, do đó mà bỏ giàu theo nghèo. Hai người này tuy có từ bi nhưng chẳng thể bình đẳng. Vì vậy mà bị ngài Tịnh Danh (Duy Ma Cật) khuất phục. Nay Như Lai muốn hiểu rõ Đạo bình đẳng., cho nên “thứ đệ khất thực”. “Hoàn Chí Bổn Xứ…”: là phần thứ hai, tỏ sự việc sau khi đã đắc thức ăn. Nhưng cần phải biết đại ý của Bát-nhã, đây là đi mà chẳng đến, quy về chỗ không có chỗ về, thọ mà chẳng nạp, thực mà chẳng ăn. Trong đoạn này cũng có bốn cú: Cú thứ nhất là tỏ về “Hoàn Chí Bổn Xứ” Bát đã đầy cần phải trở về chỗ trú ở để đợi trúng thời (giữa trưa). Lại nữa, vì lợi vật mà đi, lợi xong thì trở về, cho nên bát đã đầy thì về, chẳng thể vừa được thức ăn liền ăn ngay. Gồm có hai việc: 1. Cúng dường sư trường; 2. Kiên giúp người già bệnh. Như Lai đắc thực, chia làm ba phần: một phần bố thí cho chúng sanh ở trên đất, một phần bố thí cho chúng sanh ở trong nước, một phần tự mình ăn, nếu có người già bệnh thì cũng chia ra mà thí cho. “Phạm Thực Ngật” là cú thứ hai, tỏ về sự việc ăn uống đã xong. “Thu Y Bát: là cú thứ ba, tỏ về nhiếp dung nghi. “tẩu Túc Dó” là cú thứ tư, cũng có năm: 1. Tẩy trần lụy, đi bộ hành khất, tuy cách mặt đất bốn thốn nhưng thị hiện có bụi nhơ, cho nên tẩy rửa; 2.Biểu thị lòng tôn kính Bát-nhã nên cần phải thân sạch sẽ mới thuyết; 3.Vì để giữ gìn ngọa cụ của Tăng; 4.Vì để chư thiên xuống lễ kính đôi chân; 5.Vì biểu thị phiền não của chúng sanh cần phải sạch sẽ thanh tịnh. Hỏi: Phật ngày đi mấy dặm? Đáp: Anh Lạc Nữ Kinh nói: Tuy tỏ khất thực, vì mười sự, nay ở đây còn có nghóa nào khác không? Đáp: Phật muốn phá những người xuất gia vào thời Ác thế, tham danh lợi, cao ngạo, đa phần tham tích tụ, cho nên Như Lai tự mình hành khất thực. Lại nữa, vì để dập tắt những lời chê bai của ngoại đạo nói rằng: Sa môn Thích tử thường thích vui an lạc, Do đó mà hành khất. Lại nữa, vì để tỏ rõ Như Lai thiểu dục tri túc, chẳng thọ nhận sự cúng dường của nhân thiên, tự mình hành khất. Lại nữa, có hai ngoại đạo: 1. lạc hạnh; ngồi mà thọ nhận cúng dường; 2.Khổ hạnh: quá thời mà khất, sở dó quá thời, chính vì cho rằng hoặc đắc hay chẳng đắc (thực phẩm) là khổ hạnh. Nay Như Lai vì phá hai sự; Phật tự mình đi khất thực là phá ngoại đạo trước lạc, vì ngài đi khất thực đúng thời là phá ngoại đạo khổ hạnh. “Phô Tòa Nhi Tọa…” là phần hai, vì sắp thuyết Bát-nhã cho nên trước tiên phải nhập tam muội. Văn cũng có hai: 1.“Phô Tòa” là phương tiện trước khi nhập định; 2. “Nhi Tọa” là chánh nhập tam Muội. Sở dó tự mình phô tòa là vì Bát-nhã gọi là mẹ của chư Phật, nay muốn tỏ lòng tôn kính, cho nên tự mình phô tòa, hai là vì tùy thuận theo giáo giới của chư Phật, nếu chẳng tự mình phô tòa ngọa cụ thì đắc tội Đột kiết La. Lại nữa, đó là biểu thị cho thiểu dục tri túc, chẳng sai người khác phô trãi. Nói “Nhi Tọa” là phần hai, Chánh Nhập tam Muội. Luận và kinh thường có kết già phu tọa, tọa này hơn hẳn trong các cách ngồi (tọa), người thấy sẽ hoan hỉ, thân được an ổn, tâm được đoan trực. Sở dó nhập tam muội: là vì Như Lai tịnh và tán là vô nhị, thật thì không có xuất nhập, mà nay làm mô phạm cho những người thuyết pháp, bởi thuyết thâm pháp ắt cần tónh tâm, nếu chẳng tónh tâm thì chẳng biết căn duyên, cũng chẳng rõ pháp tướng. Do đó Như Lai trước nhập tam muội, rồi sau thuyết pháp tức là soi sáng về căn duyên, xét rõ pháp tướng. Luận Tỳ Bà Sa nói: Theo Sách Tướng, thiện pháp là biểu thị cho tướng người thông minh. Tướng người thông minh là khéo nói những điều mình nói, khéo làm những điều mình làm, khéo suy ngẩm những điều mình suy ngẩm. Do đó Như Lai nhập định tư duy, rồi sau đó mới thuyết. Lại nữa, vì để làm phép tắc, mô phạm cho những chúng sanh bồng bột, hời hợt. Có người mới đắc một ít tri kiến, kiến thức, người ta vừa hỏi liền đáp mà chẳng gì cả. Như Lai chẳng vậy, tư duy kỷ càng rồi mới thuyết. “Thời Trưởng lão Tu Bồ-đề” Nếu theo ngài khai Thiện thì đây vẫn thuộc về Tự phần, Câu văn trên gọi là Thán tỉnh tự. Nay cho rằng chẳng phải vậy. Như trên đã nói, Thiện át (Tu Bồ-đề) Chánh vấn, Như Lai Chánh đáp. Cũng như kinh Hoa Nghiêm, ngài Phổ Huệ hai trăm câu hỏi, ngài Phổ Hiền hai ngàn câu đáp. Sao lại cắt phần hỏi làm phần tự, cắt phần đáp làm phần chánh. Luận sư đất bắc nói rằng: Câu văn trên thuộc về phần Hộ niệm phó chúc trong mười hai phần. Điều đó vẫn chẳng đúng! Như phần trên đã nói. Ngài Thiện Cát (Tu Bồ-đề) có thán có thỉnh, thán tức là Hộ niệm phó chúc. Thỉnh tức là phát hỏi về Tứ cú. Nếu cho rằng Thán là phần Hộ niệm phó chúc thì cũng phải cho văn thỉnh là phần Thỉnh Vấn. Nếu nói rằng Vì luận giải thích về Hộ Niệm phó chúc nên cho Hộ niệm phó chúc là phần, chẳng giải thích về Thỉnh vấn nên thỉnh vấn chẳng phải là phần. Thế thì luận cũng chẳng giải thích về Thông tự và Biệt tự, nên không có tự phần. Đó là vì chưa thấy ý của luận gia khi chế tác luận. Vì vậy mà sinh ra sai lầm đó mà thôi. Đó là vì để nên luận gia chẳng giải thích, vì khó nên phải giải thích, đâu phải giải thích và chẳng giải thích mà chia ra phần và chẳng phần! Nay văn này thuộc về phần thứ hai, chánh thuyết Bát-nhã phần. Nếu dựa theo ba nghiệp để phân chia kinh thì khất thực là Thân nghiệp lợi ích phần. Nhập tam muội là ý nghiệp lợi ích phần. Nay phần này là khẩu nghiệp lơi ích phần. Nếu lấy phước và tuệ để chia thì phần trên là sinh vật phước Đức Môn, phần này là sinh vật trí Tuệ Môn, cũng có thể phần trên là lợi ích tại gia môn, phần này là Tông ích Nhất thiết môn. Đủ thì như mười số đối thuyết trên kia, cũng chẳng thể chuyên chia ra hai phần; Tự phần và chánh phần. Ý kinh vô tận, lời tỏ chẳng hết, chia đoạn thì đánh mất ý chỉ, ý hiểu rõ ở đây. Nay tạm mượn một danh từ để nói là Tự, Chánh, Lưu Thông mà thôi. Phần Chánh thuyết này chia ra làm hai vòng: vòng thứ nhất là rộng thuyết Bát-nhã cho người lợi căn. Vòng thứ hai là lược thuyết Bát- nhã cho người Trung căn và hạ căn chưa ngộ. Viết ra lời văn này để cảnh giác cho những điều thường nghe. Nay dẫn đầy đủ sự và nghóa để chứng thực sự khởi tận đó. Hỏi: Vì sao lại biết trước là thuyết một vòng, sau đó lại thuyết một vòng nữa? Đáp: Nay sẽ dùng mấy nghóa để nghiệm điều đó. Một là kinh tự có văn, Thiện cát (Tu-bồ-đề) có tiền vấn và hậu vấn, tiền vấn và hậu vấn gần giống nhau, Như Lai thì tiền đáp hậu đáp, hai đáp tương tựa nhau. Vì vậy mà biết là thuyết hai vòng. Lại nữa, lời kinh khó rõ, nay lấy luận làm chứng; Luận giải thích xong bốn câu hỏi ở phần trước kinh, rồi sau đó thứ tự sinh khởi giải thích về Huyền nghi phục nan, liền nối với nhau mà đến. Cũng vậy, giải thích xong những hậu vấn thì thứ đệ sinh khởi giải thích những huyền nghi phục nạn, tương tiếp nhau mà đến, vì vậy mà biết là hai vòng. Đây là hai chứng cứ của kinh và luận, đâu có hư cấu! Hỏi: Thánh nhân chế tác, lý thì cực kỳ huyền viễn, từ thì xảo diệu, hoặc lại một cuốn kinh mà có hai vòng dài dòng phiền toái sao? Đáp: Tuy gọi là hai vòng, nhưng ý chỉ mỗi khác, chẳng phải là dài dòng phiền toái. Nguyên do là sao? Giống như hai vòng của kinh Đại phẩm (Đại Bát-nhã) vòng trước nói về thật tuệ, còng sau nói về Thiện quyền. Hai vòng của kinh này, về nghóa cũng có khác. Vòng trước thì tịnh về Duyên, vòng sau tức là tận về quán, mà cần phải duyên tịnh, quán tận, bất duyên bất quán, vô sở y chỉ, mới có thể ngộ về Bát-nhã. Vì vậy mà Triệu Công nói: “Pháp thì không có số của Hữu vô, Thánh thì không có trí của Hữu vô” Pháp không có số thuộc Hữu vô thì vô số ở ngoại (bên, ngoài), Thánh không có Trí thuộc về Hữu vô thì vô tâm ở Nội (bên trong). Ở bên ngoài thì vô số, ở bên trong thì vô tâm, kia đã tịch diệt mới bước lên sự kỳ diệu đó. Ảnh công nói rằng: Vạn hóa chẳng phải là không có Tông (vạn hóa đều có Tông), Tông của chúng là Vô tướng. Hư tông chẳng phải là không có khế, cái khế với nó là vô tâm, cho nên người chí Nhân thì lấy Diệu Tuệ của vô tâm mà khế với Hư tông của vô tướng kia. Đây tức là nội và ngoại cả hai đều manh, Duyên và trí đều tịch, há lại còn Danh và số ở giữa chúng sao! Lời của hai ba vị trên là hội với kinh, tin mà hiếu cổ, còn nói gì khác được sao! Hỏi: Vì sao mà biết được vòng trước là tận duyên, vòng sau là tận quán? Đáp: Kinh có văn rõ ràng, Luận có thuyết thành thực, phần trước kinh nói thẳng rằng: tuy độ chúng sanh mà vô số chúng sanh khả độ, chính là khen Bồ-tát y theo Bát-nhã mà tác Vô sở đắc phát tâm, cho đến vô sở đắc tu hành mà ý của kinh tuy trở lại Duyên và Quán đều dứt, nhưng văn của kinh thì chưa nói rõ phá về Quán chủ, do đó người độn căn do từ lời nói mà cho rằng có Bồ-tát khéo độ chúng sanh, có Bồ- tát khéo tu hành. Vì vậy mà văn kinh vòng mới dứt bốn tâm, không có người phát tâm, không có kẻ tu hành, mà vòng trước chính là khuyên sinh bốn tâm, vòng sau thì nói rằng bốn tâm cũng dứt, há chẳng vậy sao! Bài kệ của luận nói rằng: “Ở nội tâm tu hành, cho ta là Bồ-tát, ấy ắt chướng ở tâm, trái với đạo bất trú”, nhờ vào nghóa đó mà biết, đoạn văn này chính là dứt quán cho đến tận cả quán chủ. Văn nghóa rõ ràng, không còn nghi ngờ gì nữa. Hai vòng ở đây chẳng chỉ là đại ý của một kinh, mà là ý chỉ của những kinh Phương Đẳng quy về đến diệu thuật nằm trong cõi con người. Lại nữa, vòng trước là Hội trước, vòng sau là Hội sau, phần sẽ sẽ nói thêm về điều này, ngay văn của vòng trước chia ra hai phần: Thiện Cát hỏi. Như Lai đáp. Trong phần Hỏi lại chia ra hai phần: 1.Phần Tự của kinh gia, nghi dung của người Năng Vấn; 2. Phát ngôn chánh vấn. Trong phần một, phần tự lại chia làm hai phần: 1. Phần tiêu (nêu) chủ của đối dương. 2. Phần tự, nghi thức thỉnh pháp. “Như Thời”: Đây là Thời của Như Lai Thiện Cát, cũng là thời hội, thời của phát ngộ, cho nên nói là “Nhỉ thời”. Hỏi: Ý nghóa “Gia cho” của kinh này có gì khác với kinh Đại Phẩm? Đáp: Kinh Đại phẩm thì có đủ cả hai gia; khẩu gia và ý gia, phát ngôn bảo thuyết thì gọi là khẩu gia, cho trí tuệ biện tài thì gọi là ý gia. Nay kinh này chỉ cho trí tuệ biện tài, đó là ý gia, chẳng ra lệnh bảo thuyết, không có khẩu gia. Mà văn phần sau cũng có ý nghóa của đối dương nhưng không rõ ràng bảo thuyết, cho nên khác với kinh Đại phẩm. “Tu Bồ-đề”: Bổn tích của người này, sự việc đó khó biết! Ngài Tam tạng nói: Ngài vốn là Đông phương thế giới Thanh Long Đà Phật ảnh hưởng Năng Nhân vì Đệ tử hóa, cũng giống nhưng chuyện của Ngài Văn Thù vậy, hoặc có kinh nói: Đây là Hóa Nhân. Cuốn Nhiếp Đại thừa Luận nói rằng: Thân Tử (Xá-lợi-phất) là Hóa nhân. Thiện Cát (Tu Bồ-đề) cũng giống như vậy, có kinh nói: là con trai của một trưởng giả ở Xá vệ quốc, ngôi vị đạt đến Di Nhan. Di Nhan là pháp thân Bồ-tát, vượt hơn cả giai vị A Tỳ lại nói: trong nước Xá Vệ, có Bà la môn, tên là Cưu Lưu, Câu lưu không con, cầu đảo Thiên thần, Thiên Thần nói: Nhà ông đại phú, chẳng thể sinh con, nhân thấy một đại đức thiên, hạ xuống thác sinh vào nhà đó, khi con trai đã trưởng thành, bảo cha mẹ thỉnh Phật vào nhà, sau đó tiển đưa Phật trở về Kỳ Hoàn, liền đắc La Hán quả. Lại có Kinh nói: Xưa kia là người bạch y, thấy Sa Môn khất thực chẳng được thức ăn, ôm bát không mà quay về, vì vậy mà đem thức ăn cho vị Sa Môn đó. Về sau suốt mười kiếp thường sinh ra trong cõi trời, do đó người này phước đức sâu dày không gì sánh nổi. Lại nói: là Thái tử của Vua Tịnh Âm Hưởng. Những thuyết như trên, đa phần xuất ở kinh Phước Báo tạp Thí Dụ. “Tu Bồ-đề”; dịch là Thiện nghiệp, còn gọi là Thiện Học, cựu dịch là Thiện Cát. Hoàn cảnh sinh ra Thiện Tài và Thiện Cát khác nhau. Là sao? Khi Thiện tài sinh ra bảy báu vọt hiện, vì vậy mà gọi là Thiện tài, Tu Bồ-đề khi sinh ra, cả phòng đều rổng không, cha mẹ lấy làm lạ, thỉnh hỏi thầy tướng, thầy tướng nói: dung Thiện Duy Cát, cho nên gọi là Thiện Cát, còn gọi là Không Sinh, tức là thọ nhận tên gọi từ khi sinh ra, người này bên trong ngầm ẩn Bồ- tát Hạnh, bên ngoài hiện rõ dáng Thanh văn, ngôi vị cao đáng sùng kính cho nên gọi là “Trưởng Lão”. “Tức Tùng Tọa Khởi…”: phần hai, nghi dung thỉnh pháp. Trong này gồm có năm cú: 1.“Tị Tịnh Tu Kính” (Rồi chỗ ngồi tu kính) phép nghi lễ củ đệ tử, đã là tôn người trong năm pháp thì chẳng thể ngang nhiên mà ngồi. Vì sắp muốn thỉnh đạo, cho nên rời chỗ ngồi; 2. “Thiện Đản Hửu Kiên”: đã bày tỏ lễ nghi giữa thầy và trò, biểu thị tướng cúi mình. Lại vừa là tùy theo phép nước, cho nên tu kính nghiêng vai; 3.“Hữu Tất Trước Địa”: Đây là tỏ cúi mình phục tòng, biểu thị cho giữa thầy và trò không có tướng mạo chống trái; 4. ‘Hợp Chưởng Hướng Phật”: Đây là thu liền làm nghiên túc dung mạo, chuyên tâm thọ nhận Đạo; 5.“Nhi Bạch Phật Ngôn”: Bốn cú trên là phần Tự về Thân nghiệp. Cú này là Tự về khẩu nghiệp. “Hy Hữu Thế Tôn”: Từ đây về sau là phần hai chánh tỏ về phát hỏi. Phần này gồm hai phần: 1. Xưng thán; 2. Thỉnh vấn. Nói “Hy Hữu Thế Tôn”; như Kinh Trung A Hàm quyển 24 nói: Đại vương thời xưa là thân ta vậy. Ta từ con đến con, từ cháu đến cháu, từ tộc đến tộc, tám vạn bốn ngàn Chuyển Luân Vương, đều là cạo bỏ râu tóc, xả gia hướng đến phi gia. Lại nữa. Tăng Nhất A Hàm quyển 21 nói: Nếu Như Lai chẳng xuất gia thì sẽ hai ngàn năm trăm năm làm Chuyển Luân Vương, nay bỏ ngôi Chuyển Luân Vương thì có thể vi vật mà độ hạnh khất thực, cho nên là “Hy Hữu”. Lại nữa, Thiện Cát biết Bát-nhã là vô tướng vô mạo, niệm tướng quán trừ, ngôn ngữ cũng diệt, nhưng trong vô danh tướng, vì chúng sanh mà tác danh tướng thuyết, tuy tác danh tự nhưng chẳng thương tổn gì đến vô danh, cho nên đó là “Hy Hữu” thí như kiếp tận, lửa lớn thiêu cả thế giới cháy rực, có người gánh một bó cỏ khô mà từ trong lửa vượt qua nhưng chẳng cháy một ngọn lá cho nên đó là “Hy Hữu”. “Thiện Hộ Niệm Chư Bồ-tát Thiện Phó Chúc Chư Bồ-tát”: là Thán (ca ngợi, khen ngợi). Hỏi: Vì nhân duyên gì mà có lời thán này? Đáp: Lời thán này xuyên suốt cả trước sau. Như Lai sở dó đồ hành khất thực, chính là vì Đại Từ Đại Bi, hộ niệm phó chúc chư Bồ-tát. Lại nữa, nay thuyết Bát-nhã cũng là vì để hộ niệm phó chúc chư Bồ-tát. Lại nữa, thán về Đồ hành khất thực trên, cho đó là “hy Hữu”, tức là thán thân nghiệp của Phật, nay thán Hộ niệm Bồ-tát là thán về ý nghiệp của Như Lai. “Thiện phó chúc chư Bồ-tát” tức là thán về khẩu nghiệp. Như Lai đã ba nghiệp lợi vật, cho nên Thiện Cát đều thán cả ba nghiệp. Hỏi: Sao gọi là “Thiện Hộ niệm”? Đáp: Muốn khiến cho nội đức của họ kiêm cố, gọi đó là “Hộ niệm”, khiến cho ngoại đức của họ thành tựu, gọi đó là “phó chúc”. Hỏi: Chư Phật Như Lai thường niệm lục đạo, vì nhân duyên gì chỉ niệm Bồ-tát? Đáp: Tuy thường niệm lục đạo nhưng vì Bồ-tát thọ nhận nổi Bát- nhã, vì có cái Nội Nhân (nhân bên trong), vì vậy mà bên ngoài được chư Phật hộ niệm. Hỏi: Chư Phật Hộ niệm có lợi ích gì? Đáp: Giống như cá con, cá mẹ niệm thì thành, chẳng niệm thì hư hoại, Bồ-tát cũng vậy, Phật nếu hộ niệm thiện căn thì thành, nếu chẳng hộ niệm thiện căn thì sẽ hư hoại. “Phó Chúc”: lấy vô thường pháp bảo trao cho chư Bồ-tát, vì chư Bồ-tát thiện năng vấn đáp, như vậy pháp bảo sẽ được trú lâu dài vô lượng ngàn đời, cho nên gọi chung đó là “Thiện”. Nếu hộ niệm phó chúc Thanh Văn thì bất thiện, nay vì hộ niệm phó chúc Bồ-tát, cho nên gọi đó là “Thiện”, như kinh Đại Phẩm nêu ra thí dụ giống như phó chúc cho người già yếu và người trẻ trung vậy. Căn cứ theo giải thích của luận thì luận nói rằng: “Xảo hộ nghóa ưng tri, gia bỉ thân đồng hạnh” đó là giải thích về Thiện hộ niệm. Thiện là tên gọi khác của xảo, cho nên nói là “Xảo hộ nghóa ưng tri”. “Gia bỉ thân đồng hành” là hộ niệm, tức nghóa là gia thêm cho, đó là gia thêm cho hai lực: 1.Gia thêm lực trí tuệ khiến cho thành tựu Phật pháp, đây tức là gia thêm tự hạnh, cho nên gọi đó là “Thân”. Thân tức là tự thân; 2.Gia thêm lực giáo hóa chúng sanh, tức là gia thêm lực hóa tha, khiến cho những người thọ nhận giáo hóa đồng với hạnh của họ. Cho nên nói là “Đồng hạnh”. “Bất thối đắc vị đắc, thị danh thiện phó chúc”, nữa bài kệ này là giải thích nghóa của phó chúc. Luận nói: Thiện hộ niệm là nói theo Bồ-tát căn gốc đã chín mùi. Thiện phó chúc là nói theo Bồ-tát căn gốc chưa chín muồi. Những Bồ-tát căn đã nói chín muồi thì mới kham nổi gia thêm cho hai loại lực tự hạnh và hóa tha, như trên đã nói. Nay đem những Bồ-tát căn chưa chín muồi phó chúc cho những Bồ-tát căn đã chín muồi, khiến cho cái chưa chín muồi được chín muồi. Câu “Bất thối đắc vị đắc” là: Đã đắc công đức thì khiến cho bất thối, những thứ chưa đắc mà khiến cho đắc thứ đó, cho nên nói là “bất thối đắc vị đắc” Hỏi: Luận giải thích điều trên và cựu giải thích, giống nhau và khác nhau ở chỗ nào? Đáp: Luận đem người phó chúc cho người, gọi là Thiện phó chúc, cựu giải thích đem pháp bảo phó chúc cho người, gọi là Thiện phó chúc. Tuy hai lời khác nhau nhưng đều hội quy về một, bởi vì đem người phó chúc cho người, chung quy là khiến cho đắc ngộ pháp, tức nghóa là phó chúc pháp. Đem pháp phó chúc cho người, chung quy là để hóa người, tức là phó chúc người. Còn một nghóa nữa là phòng bị chúng ma, đó là Hộ niệm, thuyết Đạ pháp khiến cho như thuyết tu hành, đó là phó chúc. Hỏi: Căn chín và chưa chín là dựa theo giai vị nào? Đáp: Luận Sư đất bắc nói rằng: Bồ-tát căn chín muồi tức là người Nội phàm tập chủng tính, ắt sẽ có khả năng đạt đến Sơ Địa, gọi đó là căn thục (căn chín muồi). Nếu là Ngoại phàm thì chưa thể nhập vào Sơ Địa, gọi đó là Vị thục (chưa chín muồi). “Thiện Nam Tử Thiện Nữ Nhơn Phát Bồ-đề Tâm”: Đây là phần hai, chánh phát vấn. Nếu căn cứ theo kinh do la Thập pháp sư dịch thì chỉ có ba vấn (hỏi): Vấn thứ nhất là “Bồ-đề tâm”. Vấn thứ hai là “Vân hà ưng trú”. Vấn thứ ba là “Hàng phục”. Nhưng giải thích ba vấn này thì nhiều sư giải thích khác nhau. Sư thứ nhất nói rằng: Vấn tuy có ba nhưng chẳng ngoài nguyện và hạnh. Vấn về Bồ-đề tâm tức là vốn về Nguyện. Vấn về hàng phục, vấn về trú, tức là Vấn Hạnh. Đạo của Bồ-tát chẳng ra ngoài hai môn Nguyện và Hạnh. Hạnh lấy thiệp hạnh làm nghóa, Nguyên lấy kỳ vọng làm chỉ. Hành nếu không có nguyện thì hành không có chỗ ngự. Nguyện nếu không có Hành thì nguyện ắt chẳng quả. Chúng giống như hai cánh của con chim, hai bánh xe vậy, do vậy hạnh là ngay ở sự việc mà thực hành nguyện là mong cầu chưa đắc. Nay nói về nghóa của Hạnh nguyện, thật ra là như những điều đã nói. Nếu chỉ cho Bồ-đề tâm là Nguyện, việc đó chưa đúng. Nay cho rằng phát chánh Đạo tâm gọi là Bồ-đề Tâm, há lại có thể chỉ có nguyện suông mà không có hành được sao? Lại có Sư nói: Đúng là ba vấn: 1.Vấn Bồ-đề Tâm tức là vấn Bình đẳng không; 2.Vấn “Vân hà ưng trú” là vấn đề Thật pháp không; 3. Vấn “Vân hà hàng phục” là vấn đề Giả Danh không. Mà thứ tự của Quán môn, đúng phải từ cạn đến sâu, nhưng nay lại là từ sâu đến cạn. Đó là thuyết Môn, chẳng phải là hành môn. Vì người hỏi chỉ hâm mộ để ý đến sự thâm sâu nên trước là hỏi thâm sâu. Nay nói rằng điều đó cũng chẳng đúng. Ba không là xuyên thông cả Đại thừa và Tiểu thừa, nay đang nói về hạnh của Bồ-tát, hơn nữa trong phần hỏi, không có từ ngữ của Ba không, Phật đáp cũng không có ý của ba không, phần đáp đầu tiên là tỏ về Bồ-tát thành tựu tâm quảng đại, khắp độ chúng sanh mà vô sở độ, chẳng phải là chỉ nói về giả Danh không. Nếu chỉ tỏ về Giả Danh không thì đúng phải chỉ biện về vô chúng sanh, đây cũng tức là nghóa vô độ, cũng tức là nghóa vô quảng đại tâm, nhưng nay lại tỏ rõ rằng Đại tâm mà vô độ, vô độ mà đại tâm, đây lại là nghóa của Vô độ độ, nghóa của Độ Vô Độ, cả hai tuệ đều có đầy dủ, sao lại chỉ là giả Danh không. Lời đáp thứ hai để trả lời câu hỏi về trú cũng chẳng phải là Thật không! Nếu là Thật không thì phải tỏ rõ rằng không có chư pháp, không có tu hành. Nay lại tỏ rõ rằng với tất cả pháp vô sở y trú mà tu vạn hạnh Bố thí… há chỉ là Thật không sao? Nay căn cứ theo Luận và kinh, gồm có bốn câu hỏi: 1. Hỏi “Vân hà phát Bồ-đề tâm”; 2.Hỏi “Vân Hà Ưng Trú”; 3.Hỏi “Vân hà tu hành”; 4. Hỏi “Vân hà hàng phục”. Sở dó có bốn câu hỏi này, vì hể là Bồ-tát ắt cần phải phát Bồ-đề tâm, cho nên đầu tiên là hỏi về phát tâm. Nếu chẳng y theo Bát-nhã mà phát tâm, tức là trú điên đảo, chẳng trú Bát-nhã. Nay y Bát-nhã phát tâm, tức là trú Bát-nhã, chẳng trú điên đảo. Cho nên câu hỏi thứ hai là trú Bồ-đề tâm. Vì đã đắc trú lập mà tu hành vạn hạnh, do đó câu hỏi thứ ba là hỏi về tu hành. Vì nhờ tu cái hạnh vô sở đắc mà cái tâm điên đảo hữu đắc bị chiết phục chẳng khởi lên, do đó tiếp đó là hỏi câu hỏi thứ tư, hỏi về hàng phục. “Phật Ngôn Thiện tai…” từ đây về sau là phần hai, Như Lai trả lời câu hỏi. Chia ra hai phần: 1. Đáp hỏi về Duyên khởi; 2. Chánh đáp. Đáp hỏi Duyên Khởi lại chia làm hai phần: 1.Khen lời thán thỉnh; 2. Hứa trả lời câu hỏi. Phật khen ngài Thiện Cát là vì lời tán thán của ngài Thiện Cát đắc được thời nghi, câu hỏi của ngài lai hội với Đạo, cho nên Phật khen ngài. Lại nữa, vì Thiện Cát là người Thanh văn, nay lại có thể hỏi về việc của Bồ-tát, đó là điều hy hữu hiếm có, do đó lại khen ngài. Lại nữa, Thời hội e đạo Bồ-tát sâu, trí Tiểu Thừa cạn, câu hỏi dể bị sai lầm, do vậy mà ấn chứng khen ngài, để cho chúng tôn người trọng pháp. “Nhủ Kim Đế Thính….”. đây là phần thứ hai, Hứa trả lời câu hỏi. Đoạn văn này chia làm hai phần: 1- Chánh văn bảo Hứa đáo. 2- Thọ nhận ý chỉ, nguyện nghe, hai phần này dể hiểu, điều như văn đã nói. “Phật Cáo Tu Bồ-đề…” là phần hai, Như Lai chánh đáp. Trong phần chánh đáp này, nếu theo sự phân chia của Luận thì phải chia làm hai phần: 1.Trả lời bốn câu hỏi. 2.Từ “Ư ý vân hà khả dó thân tướng kiến Như Lai…. Hết kinh” đếu là đoạn nghi. Cho nên luận chủ phân chia chương này, từ “Vân hà….” Là phần đoạn sinh nghi tâm trong tất cả Tu Đa La. Phần đầu, trả lời bốn câu hỏi, gọi là phần lược thuyết Bát-nhã. Phần sau, đoạn chúng nghi, tức là quảng thuyết Bát-nhã. Nay chọn lọc ý của luận, dựa theo cả cuốn kinh, chia ra làm ba phần: 1. Bát-nhã Thế Môn; 2. Tín Thọ Môn; 3. Cách lượng môn. Nói về ba môn này; Đã xưng là Bát-nhã Ba-la-mật kinh thì trước hết là nói về Thể của Bát-nhã, đã tỏ về Thể của Bát-nhã xong thì ắt có người tín thọ (tin nhận), do đó tiếp đến là Tín Thọ Môn. Tín trì thì gặt được phước vô tận, do đó tiếp nữa là tỏ về Cách Lượng Môn. Lại nữa, trước tiên là ngay ở Nhân quả mà thuyết Bát-nhã, tức là pháp môn tiếp đó, ngay ở Tín Thọ môn mà thuyết Bát-nhã, tức là Nhơn Môn. Sau cùng, ngay ở công Đức Môn mà thuyết Bát-nhã, tức là Nhơn hành pháp mà đắc công đức. Trong môn thứ nhất, chia ra hai phần: 1. Đáp bốn câu hỏi, tức là tỏ về Nhân Môn; 2.Đoạn chúng nghi, tức là biện về Quả Môn. Nhân thì vô y, vô trú. Quả thì vô tướng, vô vi. Bát-nhã chưa từng Nhân quả, vì chúng sanh mà đạt tên Nhân và quả để thuyết. Trong phần Nhân Môn, đáp bốn câu hỏi, chỉ có hai chương Văn kinh, do vì cựu giải thích; chương đầu chẳng phải là trả lời câu hỏi về về Bồ-đề tâm mà là trả lời câu hỏi về Hàng phục tâm. Chương tiếp theo là trả lời câu hỏi về trú. Sau cùng là nêu Phật quả, trả lời câu hỏi Bồ-đề tâm. Nay cho rằng đều chẳng đúng! Nếu nói rằng trong đó “Khắp độ bốn sinh” chẳng phải là trả lời câu hỏi về Bồ-đề tâm thì ông cho pháp gì là Bồ-đề tâm? Lại nữa, trong vòng hai ở sau, ngài Thiện Cát còn phát ba câu hỏi, Phật đáp phát Bồ-đề tâm là “Đương sinh như thị tâm, Diệt độ nhất thiết chúng sanh nhị vô diệt độ”, đó tức là lặp lại câu hỏi Bồ-đề tâm mả giải thích nó, sao lãi nói rằng chẳng phải là trả lời về Bồ-đề tâm? Nay tỏ rằng kinh tuy hai chương nhưn đều cùng trả lời bốn câu hỏi; chương đầu kinh trả lời câu hỏi về trú, tức là đáp câu hỏi về Bồ-đề tâm. Chương tiếp theo là đáp câu hỏi tu hành, tức là đáp câu hỏi ề hàng phục tâm. Hỏi: Vì sao đáp câu hỏi về trú tức là đáp về Bồ-đề tâm? Giải rằng: do phát Bồ-đề tâm mà đắc trú Đại thừa pháp. Nếu chẳng phát Bồ-đề tâm thì chẳng trú Đại thừa. Do đó luận nói rằng: “Lợi ích thâm tâm trú, thừa này công đức mãn”. Văn kinh phần đầu, lại chia hai phần: 1. Đói với Thiện Cát, tổng khuyên Bồ-tát phát Bồ-đề tâm; 2.Chánh tỏ về nghóa của phát tâm. Phần một thì như văn. Hỏi: Nay chánh biện về Bồ-đề tâm, sao lại nói “Như thị Hàng phục kỳ tâm”? Đáp: Vì nhờ phát Bồ-đề tâm mà chẳng khởi phàm phu tâm và Nhị thừa tâm, tức là Hàng phục, đầu là tỏ “khắp độ chúng sanh”, cho nên khác với Nhị Thừa tâm. Sau là tỏ “Độ vô sở độ:, tức là hàng phục phàm phu tâm. Hàng phục nhị thừa tâm tức là lấy Tha mà hàng tự. Hàng phục phàm tâm tức là lấy vô mà hàng Hữu. Vì Nhị thừa không có Từ Bi tâm, Bồ-tát có Từ Bi tâm, đó là lấy Hữu mà hàng Vô, trở lại lấy vô mà hàng Hữu, như nói ở phần trên. lại nữa, trong đó tỏ về Đại Từ Đại Bi, tức là hàng phục tham sân phiền não, cho nên gọi là Hàng phục. Lại nữa, “Bồ-tát tuy độ chúng sanh, thật không có chúng sanh để độ”, tức là hàng phục chúng sanh kiến. Lại nữa, “Bồ-tát nếu nói có chúng sanh để độ” tức là thường kiến. Nếu nói không có chúng sanh để độ, tức là Đoạn Kiến. Nay tuy độ chúng sanh, thật vô sở độ, đó là hàng phục Thường kiến. Tuy vô sở độ mà thường độ chúng sanh, đó là hàng phục Đoạn kiến. “Sở Hữu Nhất Thiết Chúng Sanh Chi Loại…” Đây là phần hai, chánh tỏ về phát Bồ-đề tâm. Luận kệ nói rằng: “Quảng đại đệ nhất thường, kỳ tâm bất điên đảo, lợi ích thâm tâm trú, thử thừa công đức mãn”. Do đó mà dùng bốn tâm để giải thích đoạn văn kinh này. Bốn tâm là: 1. Quảng đại tâm; 2. Đệ Nhất tâm; 3. Thường tâm; 4. Bất điên đảo tâm. Hỏi: Vì nhân duyên gì mà lập ra bốn tâm. Đáp: Hể là Bồ-tát thì khác với phàm phu, Nhị thừa tự điều tự độ. Nay nói khắp độ tam giới lục đạo, gọi là Quảng Đại tâm. Tuy khắp độ chúng sanh, nhưng nếu khắp cho chúng sanh niềm vui của cõi người cõi trời thì gọi đó là Hạ tâm. Nếu khắp cho chúng sanh niềm vui của Nhị thừa thì gọi đó là Trung tâm. Nay khắp cho chúng sanh niềm vui Đại Niết-bàn, gọi là Đệ Nhất Tâm. Bồ-tát tuy khắp cho chúng sanh niềm vui Đại Niết-bàn nhưng hoặc có khi dừng nghó, đường sinh tử dài, tính chúng sanh nhiều, làm sao có thể khắp độ họ khiến họ đắc được thường lạc, do vậy mà ở trong sinh tử, khởi tâm mệt mỏi nhàm chán. Nay nói rõ ràng sinh tử biên như hư không, chúng sanh tính biên cũng như hư không, trong ấy không có sinh tử văn lai cũng không có kẻ giải thoát. Do đó Bồ-tát thường độ chúng sanh, dạy dổ mà chẳng mệt mỏi, gọi đó là Thường tâm. Tuy độ chúng sanh mà chẳng thấy chúng sanh để độ, đó gọi là Bồ-tát bất điên đảo tâm. Nhờ xây lên bốn tâm này mà trú Bồ-tát Đạo, đắc đại lợi ích, do đó. Luận nói: “Lợi ích thâm tâm trú”. Là vì xây dựng lên bốn tâm này thì Bồ-đề tâm mãn túc, do đó luận nói: “Thử thừa công đức mãn”. Tuy có bốn tâm nhưng chẳng ra ngoài Từ Bi và Bát-nhã. Ba tâm trước là Từ Bi tâm, một tâm sau cùng là Bát-nhã tâm, ba tâm trước là công đức, tâm sau là trí huệ, ba tâm trước cũng là phương tiện, tâm sau gọi là Thật Huệ, do đó phát tâm tức là đủ cả phước và Huệ, cũng tức là đủ cả hai Huệ. Như Đại kinh nói: “Phát tâm và tất cánh, cả hai thứ chẳng sai biệt”. nếu theo nghóa của ngài Khai Thiện thì Giả Danh không, chỉ là không tâm, chỉ đắc một trong bốn tâm, hơn nữa trong hai Huệ, chỉ đắc được thật Huệ ý mà thôi. Hỏi: Vì sao gọi là Quảng Đại Tâm? Đáp: Từ câu “Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại” đến câu “phi hữu tưởng phi vô tưởng” là tổng nhiếp cả chúng sanh, gọi đó là Quảng Đại tâm. Trong đó có hai cú: “Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại” là tổng nhiếp chúng sanh. “Nhược Noản sinh…” phần này có ba cú, biệt nhiếp riêng từng loài chúng sanh , gọi đó là Nhất sinh môn, cú thứ hai dùng hai môn Hữu Sắc và vô sắc để nhiếp chúng sanh. Dục giới và sắc giới, gọi đó là Hữu sắc. Vô sắc giới gọi là vô sắc. Cú thứ ba dùng ba môn để nhiếp chúng sanh, “Vô Tưởng” là vô tưởng Thiên trong sắc giới đệ tứ thiền. “Phi hữu tưởng phi vô tưởng” là cõi Thiên sau củng của vô sắc giới. Một cú “Hữu tưởng” là thông cả ba giới. Ngoại trừ hai xứ kể trên. Hỏi: Vì sao chẳng dùng lục đạo để nhiếp chúng sanh? Đáp: Lục đạo chẳng nhiếp trung Ấm. Bốn sinh thì tất cả nhiếp. “Ngã Giai Linh Nhập Vô Dư Niết-bàn”. Đây là phần hai tỏ về Đệ nhất tâm. Ở đây nói “Vô Dư”, chẳng phải là Vô Dư của Tiểu Thừa thân tro tàn diệt trí. Aáy là không có lụy nào mà chẳng hết, không còn sót lại một lụy não cả. Không có Đức nào mà chẳng viên tròn, không còn sớt lại mộ Đức nào cả, cho nên nói là “Vô Dư”. Hỏi: Đó là giáo ý của kinh Niết-bàn, sao lại dùng nó để giải thích văn Bát-nhã? Đáp: Câu hỏi này là giáo ý cảu cả năm thời, chẳng phải thuyết của kinh luận. Cuốn Bát-nhã luận nói: Kinh này chính là biện về vô vi pháp thân, có khác gì với Kinh Đại Bát Niết-bàn đâu. “Như Thị Diệt Độ Vô Lượng Vô Biên Chúng Sanh”: Đây là phần ba, gọi là Thường tâm. Hỏi: Bát-nhã Luận nói: “Chẳng thấy chúng sanh khác với Bồ-tát, thường chẳng lìa tâm ấy, gọi đó là Thường tâm”, ý này là sao? Đáp: “Thường tâm” ở đây, có thể có hai nghóa: 1. Thường chẳng lìa chánh quán tâm, gọi là thường tâm, tức là ý của luận, “Chẳng thấy chúng sanh khác với Bồ-tát”. Vì chẳng thấy Bồ-tát khác với chúng sanh, cho nên chúng sanh và Bồ-tát đều là Tất cánh tịnh. Thường tác quán này, danh là Thường tâm; 2. Dùng chánh quán tâm, thường độ chúng sanh, chẳng ngừng chẳng nghó, danh là Thường tâm. “Hà Dó Cố… Nhược Bồ-tát Hữu Ngã Tướng..” Đây là phần bốn, bất Điên Đao tâm. “Tuy thường độ chúng sanh vô chúng sanh khả độ”, gọi đó là bất điên đảo tâm. Nếu thấy có c, tức là ngã kiến, phàm phu tự chẳng thể độ thì làm sao độ được vật? “Phục Thứ Tu Bồ-đề Ư Pháp Ưng Vô Sở trú Hành Ư Bố Thí…” Đây là kinh chương thú hai, đáp hai câu hỏi về Tu hành và Hàng phục tâm. Trước đây là tỏ vì nhờ sơ phát tâm mà đắc trú Đại thừa, chẳng phát tâm thì chẳng đắc trú Đại thừa, do đó hai sự; phát tâm và trú là tương thành cho nhau, vì vậy mà hợp lại mà đáp. Hai môn hiện nay cũng vậy, nhờ tu hành mà đắc hàng phục điên đảo, nếu chẳng tu thì chẳng đắc vạn hạnh. Nhờ có mà có hàng phục phiền não, do đó hai môn này tương thành cho nhau, nên cần phải hợp lại để đáp. Lại nữa, thứ tự của bốn môn là: trước tiên cần phải phát tâm, phát tâm rồi mới đắc trú Đại thừa, trú Đại thừa rồi mới tu hành, tu hành nên phiền não được hàng phục. Mà kinh này, văn thì tóm lược, ý thì hàm súc, chẳng thể một lời mà nói hết được. Nay còn cần phải dùng giáo nghóa để giải thích rõ. Một là chương trước kia là chánh biện về phát Bồ-đề tâm, nay chương này biện về Tu hành. Sở dó nói hai đều này là vì như kinh Hoa Nghiêm Thiện tài đồng tử ở chỗ mỗi một Thiện tri Thức đều tự xưng rằng: “Đã phát cái tâm Bồ-đề, chưa biết làm sao tu hành Bồ-tát hạnh, Học Bồ-tát Đạo”. Mới biết cần phải phát tâm trước, rồi sau đó tu hành. Bồ-đề tâm tức nghóa là Nguyện. Nay chương này biện về nghóa của Bồ-tát Hạnh. Đạo của Bồ-tát tuy có nhiều môn nhưng tổng thể đại quy chẳng ngoài nguyện Hạnh, mà nguyện Môn tuy nhiều, lưược thành là bốn hoằng thệ nguyện. Hạnh Môn vô lượng, lược thành là sáu Ba-la-mật. Bốn Hoằng Thệ nguyện là: Chưa độ khổ hải, khiến cho đắc độ. Chưa thoát phiền não phược, khiến đắc thoát nó. Chưa đắc cái an của Đạo Đế, khiến cho đắc an. Chưa đắc Diệt Đế Niết-bàn, khiến đắc Niết-bàn. Chương trước tỏ rõ tất cả chúng sanh đều đắc Niết-bàn, tức là trong bốn nguyên, lược nêu nguyên sau cùng. Chương này lược nêu hạnh đầu tiên trong sáu độ. Mà chương trước nêu ra nguyện sau tức là nhiếp được cả ba nguyện trước, chương sau nêu Hạnh đầu, tức nhiếp cả năm hạnh. Hỏi: Vì sao Nguyện sau nhiếp được những nguyện trước. Vì sao Hạnh đầu nhiếp được những hạnh sau? Đáp: Nguyện sau đã khiến cho chúng sanh đều đắc Niết-bàn của Diệt Đế. Há lại chẳng độ khổ đế, thoát tập Đế, kiến Đạo Đế hay sao? Tiếp theo là biện về Hạnh đầu nhiếp cả những hạnh sau: Luận nói rằng: “Đàn nghóa nhiếp ư lục, tư sinh vô úy pháp. Thử trong nhất nhị tam, danh vị tu hành trú”. Bài kệ này ý nói lục độ đều gọi là nghóa của Đàn, nhưng Đàn nghóa có ba loại: 1.Tư sinh Đàn; tức là Bố thí, tư ích chúng sanh cũng là đem những đồ vật nuôi dưỡng sự sống để dùng bố thí; 2.Vô úy Đàn; là Trì giới, nhẫn nhục. Trì giới thì chẳng phạm tiền tài, chẳng đoạt sinh mạng, tức là Thí vật vô úy. Nhẫn nhục thì chẵng gia thêm báo ở vật, cũng là Thí vật vô úy, do đó hai độ này gọi là Vô úy Đàn; 3.Pháp Đàn: là ba độ Tinh tiến, Thiền Định, Trí tuệ. Nói pháp Đàn là dùng pháp mà thí cho vật, cho nên gọi là pháp đàn. Tinh Tiến thì thuyết pháp chẳng có mõi mệt. Thiền định thì biết tâm người khác mới năng thuyết pháp, Bát-nhã là Trí huệ, chánh Năng thuyết pháp. Do đó ba loại này gọi là pháp Đan. Nói “Nhất Nhị Tam” là “Nhất” tức là Tư sinh Đàn, “Nhị” là Trì giới Nhẫn nhục, “Tam là ba độ sau. Lại nữa, trong đó cho y Bát-nhã mà tu hành. Chỉ nói Bố thí là vì như nhiếp năm phẩm, nói Đàn là nhiếp đủ cả năm. Lại nữa, lược nêu hạnh đầu tiên là vì Đàn là pháp yếu để nhiếp chúng sanh. Lại nữa, chương trước đã nói Bồ-tát bên trong có Đại Từ Đại Bi, chương này tỏ rằng Bồ-tát có phương tiện, bên ngoài có thể chó cứu. Vì sao? Bồ-tát phát Bồ-đề tâm, lấy phó duyên độ vật làm nghóa vụ. Do đó kinh Đại phẩm nói rằng: Việc đại sư của Bồ-tát là chẳng xả bỏ tất cả chúng sanh. Mà độ chúng sanh ắt cần phải hai Sự: 1. Bên trong có từ bi; 2.Bên ngoài có phương tiện cứu tế. Chương trước nói khắp bạt nhổ nổi khổ sinh tử của chúng sanh, đó là nghóa của Đại Bi tâm. Cho chúng sanh niềm vui Đại Niết-bàn, tức là nghóa Đại Từ tâm. Tuy bên trong có cái tấm Từ Bi, chưa có cái sự của từ bi. Do đó nay biện về Bồ- tát tu hành vạn hạnh như Bố thí,… mà cứu vớt chúng sanh, khiến họ lìa khổ, khiến họ đắc lạc, tức là thành tựu nghóa của từ bi kể trên. Hỏi: Phần trước nói về bên trong có từ bi, nay nói về bên ngoài có thể phó cứu, thì cần gì Bát-nhã? Đáp: Phần trước nói về bên trong có từ bi thì cần có Bát-nhã, nếu không có Bát-nhã thì từ bi chẳng thành. Cho nên Đại Luận nói: Từ Bi và Thật tướng hợp hành. Đại Bi tuy cứu vớt nổi khổ nhưng thật thì không có cái được cứu vớt. Đại Từ tuy cho niềm vui nhưng thật thì không có cái được cho, cho nên từ Bi chẳng phương hại gì đến Tất Cánh không. Tất cánh không chẳng phương hại gì đến Từ Bi tâm. Do đó tuy hành Tất Cánh không quán mà chẳng xả bỏ Đại Từ Đại Bi. Tuy hành Đại Từ đại bi mà chẳng xả bỏ Tất cánh không Quán mới biết rằng tức lấy Tất cánh không làm Từ Bi, tức lấy Từ Bi làm tất cánh không. Do vậy Từ bi chưa từng chẳng không, không chưa từng chẳng từ ni (Từ Bi mà luôn luôn không, không mà luôn luôn từ bi). Nay nói tu hành cũng với Thật tướng hợp hành, là vì tuy tu vạn hạnh mà thật thì vô sở hạnh, tuy vô sở hạnh mà thường tu vạn hạnh. Vì hành vô sổ hành, do vô sở hành nên có đủ cả hai Huệ. Lại nữa, chương trước là chính nói về Bồ-tát độ chúng sanh, hiểu chúng sanh tướng, hiểu độ tướng, biết độ vô sở độ mới là hiểu độ, biết chúng sanh vô chúng sanh mới hiểu chúng sanh, nay chương này chính biện về Độ nghóa. Trước tuy hiểu Độ vẫn còn chưa chánh độ, cũng như tuy đã hiểu bệnh nhưng vẫn chưa cho thuốc. Nay chương này là chính nói về Độ nghóa, tức là chánh trao cho được, cũng tức là chương trước chánh nói về hiểu bệnh, chương này chánh nói về hiểu thuốc. Chúng sanh tức là bệnh, nhờ Bát-nhã mà hiểu chúng sanh, tức là do từ Bát-nhã mà có thể có khả năng hiểu bệnh. Nay tu vạn hạnh đều là vì chúng sanh. Do đó vạn hạnh đều gọi là Dược, do từ Bát-nhã mà giải ngộ vạn hạnh, do nhờ Bát-nhã mới có khả năng hiểu được. Lại nữa, chương một chánh biện về chúng sanh không. Chương này nói về chư pháp không. Vì chương trước nói tuy độ chúng sanh vô chúng sanh khả độ, đó là chúng sanh không. Nay nói tuy tu vạn hạnh, thật vô sở tu, tức là pháp không. Hỏi: Kinh Đại phẩm Khai tông thì nói: “Chẳng thấy Bồ-tát và Bồ-tát Tự”. Kinh này khai tông, vì nhân duyên gì chỉ nói chẳng thấy chúng sanh? Đáp: Kinh Đại phẩm; “chẳng thấy Bồ-tát” tức chẳng thấy chúng sanh. Kinh này nói: “Chẳng thấy chúng sanh” tức chẳng thấy Bồ-tát. Chỉ là hai kinh cùng nhau nên Năng và Sở khác nhau mà thôi. Lại nữa, Kinh Đại phẩm chánh khuyên Bồ-tát học Bát-nhã, hoặc có người bèn cho rằng có Bồ-tát Năng Học và có Bát-nhã Sở Học. Vì nghóa đó mà trước phá Bồ-tát, nói rằng: “Chẳng thấy Bồ-tát”. Kinh này nói Bồ-tát phát Bồ-đề tâm muốn độ chúng sanh, bèn cho rằng có chúng sanh để độ. Do đó nay phá; “Không có chúng sanh”. Hỏi: Vì nhân duyên gì trước nói chúng sanh không. Nay nói pháp không. Cho đó là thuyết Bát-nhã? Đáp: Bát-nhã chưa từng không và bất không, chỉ vì chúng sanh thường bị trệ ở bệnh Hữu, vì muốn phá Hữu mà nói là không, bệnh Hữu đã dứt, không ắt chẳng lưu, như đống lửa lớn bốn bề chẳng thể chạm, chỉ khi Phật còn tại thế, chúng sanh căn lợi, vừa nghe thuyết không, chẳng thủ tướng không, vô sở y chỉ, bèn liền đắc đạo. Chương này chia làm ba đoạn: 1. Vô trú tướng để tu hành; 2.Đắc quả vô sở đắc; 3. Kết khuyến. Phần một chia làm hai phần: 1. Chánh đáp câu hỏi về tu hành. 2. Đáp câu hỏi hàng phục tâm. Đây tức là phần một, nói: “Vô Sở Trú Hành Bố Thí” tức là như kinh Đại phẩm đã khai tông “bất trú pháp, trú Bát-nhã, Vô sở xả, cụ Túc Đàn”. Mà trong kinh này đã nói bất trú lục trần, cũng tức là bất trú lục căn, lục thức. Nhưng vì văn tóm lược, chỉ nói “bất trú lục trần” mà thội. Kinh Đại phẩm, vấn trú phẩm nói “Vì bất trú Nhất thiết pháp, đó là Trú Bát-nhã”. Kinh này nói “bất trú lục trần. Lục trần nhiếp kết cả pháp này. Mà Bồ-tát thân khẩu ý nghiệp, tất cả những hành vi, đi đứng ngồi nằm, cho đến cử động hành vi, sự việc sản nghiệp đều là vô y vô đắc. Nay kinh này chỉ nói “bất trú hành thí”, há chẳng phải là lược nêu một để làm lệ cho những thứ khác sao? Nếu theo Luận kinh thì có ba loại: 1. Bất trước tự thân mà hành Bồ-tát: vì nếu trước tự thân thì tiếc ngoại vật mà chẳng hành bố thí. Nay bất trước tự thân thì chẳng tiếc ngoại vật mà có thể hành bố thí; 2. Một cú “Vô sở trú”; 3. Bất trú sắc thanh hương vị xúc pháp Bố thí, tức là chẳng trước quả báo. Quả báo nghóa là khoái lạc của cõi người cõi trời. Bồ-tát nếu trước báo ân và quả báo thì bỏ xa Phật đạo, do đó bất trước báo ân và quả báo. “Tu Bồ-đề Bồ-tát Ưng Như Thị Bố Thí…” Nếu theo ý của Luận thì đây là đáp câu hỏi thứ tư về Hàng tâm. Mà cần phải tu hành thì tâm Hữu sở đắc mới hàng phục mà thôi, cho nên tiếp đó là tu hành, sau là hàng phục. bởi Bồ-tát chẳng thấy ba sự mà hành bố thí, gọi đó là hàng phục. Nói ba sự là: Người cho, người nhận, tài vật. Vì chẳng thấy tài vật cho nên đắc chư pháp không. Chẳng thấy kẻ cho kẻ nhận mà đắc chúng sanh không. Đắc hai không này tức là hàng phục Nhân kiến, pháp kiến. Mà luận viết ra ý đó, chính vì cho rằng tu hạnh vô sở đắc tức là hàng phục tâm Hữu sở đắc, do đó hai câu hỏi tương thành cho nhau, hai đáp tương thành cho nhau. Hỏi: Kinh chương đầu có hỏi hàng phục, vì sao chẳng đáp câu hỏi hàng phục, nay chương này mới đáp câu hỏi đó? Đáp: Có người giải thích rằng: trước chỉ nói về chúng sanh không, chưa tỏ về pháp không. Vì sinh không và pháp không, hai không chưa đắc đủ nên chẳng thể gọi là hàng phục. Nay đắc đủ cả hai không, sinh không và pháp không mới là danh hàng phục. Lại nữa, chương trước là tỏ về Bồ-đề tâm, chưa tỏ Bồ-tát Hạnh, cho nên nghóa hàng phục chưa thành. Nay nguyện và hạnh đều thành, nghóa Hàng phục mới hiểu rõ. “Nhược Bồ-tát Bất Trú Tướng Bố Thí…” Đây là phần thứ hai, nói về tu Nhân vô sở trú, đắc quả vô sở đắc. Sở dó có đoạn văn này là có hai nghóa: 1. Tức là nêu ra quả để khuyến khích tu, nhờ tu nhân vô trú mà đắc phước vô biên. Vì vậy mà khuyên tu vô trú tướng bố thí; 2.Tức là giải thích mối nghi ngờ. Nghi ngờ rằng: Hữu trú bố thí mới có thể có phước đức. Vô trú Bố thí thì phải không có phước đức. Do vậy mà giải thích rằng: Hữu sở đắc thí thì công đức ít, vô sở đắc thí thì phước đức vô biên. Hỏi: Nay trì giới, hành đạo, viết kinh, tạo Phật, công đức có thể nhiều sao lại cho rằng vô trú tâm mà làm phước ngang với thập lực, không, lời nói này cực kỳ sai lầm. Đáp: Tướng lưỡi dài che cả mặt, lời nói há lại dối! Bạn nếu chẳng tin, nay sẽ lược giải. Bởi Nhân của phước đức phù lý mà sinh ra, (cùng sinh với lý), cho nên khi chú thích giải thích chữ “Thiên” thì lấy phù lý (cùng sinh ra với lý) làm nghóa. Bởi vô sở trú là cực kỳ phù lý, phước há lại chẳng nhiều! Từ đó mà suy thì giải hiểu rõ ràng bởi tất cả Hữu sở đắc tâm tích chứa lâu đời nhiều thứ tu hành, trì giới, tọa thiền đều là trái đạo, nên phước chẳng nhiều. Nay vì vô đắc thí tương ưng với Đạo nên phước nhiều. Vì vậy mà tất cả công đức trước kia chẳng bằng dùng năm đóa hoa bố thí phước nhiều. Trong văn này chia thành ba phần: 1. Pháp thuyết. 2. Thí thuyết. 3. Hợp thí. Phần một, pháp thuyết thì như văn. “Đông Phương Gư Không…” là phần hai, thí thuyết. Trong này có hai phần: 1. Nêu Hư không làm dụ; 2. Nêu chín phương Hư không làm dụ. Mỗi phần đều có vấn đápp như văn mà rõ. Hỏi: Vì nhân duyên gì mà mượn Hư không làm dụ? Đáp: Gồm có hai nghóa: 1.Hư không thì vô tướng vô vi, còn vô trú tướng thí thì vô y vô đắc, vì vậy mà mượn nó làm dụ; 2. Hư không (bầu trời) thì bao hàm rộng lớn, vô trú tướng thì thì quả báo cũng lớn, vì vậy mà mượn làm dụ. “Tu Bồ-đề Vô Trú Tướng Bố Thí Diệc Như Thị…” là phần ba, Hợp thí, như văn có thể hiểu rõ. “Tu Bồ-đề Đản Ưng Như Sở Giáo Trú”: Đây là chương thứ ba, kết khuyến. “Như sở giáo trú” là: như giáo (lý) vô sở đắc đã nói ở phần trên. Cần phải y theo đó mà trú, y theo đó mà tu hành. “Tu Bồ-đề, Ư Ý Vân hà, Khả Dó Thân Tướng Kiến Như Lai Bất?” Nếu theo khai Thiện thì đây là nêu ra bình đẳng không để đáp câu hỏi về Bồ-đề tâm. Nay nói hai nghóa chẳng vậy: 1. Vì có lỗi điên đảo nên trước tiên phải phát Bồ-đề tâm, rồi sau đó mới hành Bồ-tát Hạnh, há lại trước đã nói về Bồ-tát hạnh xong, nay mới biện về Bồ-đề tâm sao? Trong đây văn nói “Có thể dựa vào thân tướng mà thấy Như Lai không? Nếu là bình đẳng không thì không còn Như Lai, sao gọi là thấy Phật? Nay nêu năm nghóa sinh khởi chương này: Nếu theo giải thích của luận, từ phần trên đến đây, là đã trả lời xong bốn câu hỏi. Từ đây về sau là chương thứ hai, đoạn sinh nghi tâm phần. Trả lời bốn câu hỏi, tức là phần lược thuyết Bát-nhã. Còn phần Đoạn Sinh tâm, tức là quảng thuyết Bát-nhã. Cho nên luận nói: “Từ đây về sau là đoạn sinh nghi tâm trong tất cả Tu Đa La”. Mới biết rằng thuyết kinh đều là vì để đoạn sinh nghi tâm. Nếu dựa theo Nhân và quả để chia ra Môn thì phần trên trả lời về bốn câu hỏi, tức là biện về Vô sở Đắc Nhân (Nhân thuộc về phạm trù vô sở đắc). Từ đây về sau là phần hai nói về Quả của vô vi pháp thân. Nếu hành Hữu Sở đắc Nhân (nhân thuộc về phạm trù Hữu Sở Đắc) thì sẽ trở lại đắc Hữu sở đắc Quả (Quả thuộc về phạm trù Hữu sở đắc). Vì vậy mà Đại kinh (kinh Đại phẩm): Hữu Sở đắc, gọi đó là vô minh. Hữu sở đắc gọi là Hai lăm Hữu. Nay vì vô sở đắc Nhân, cho nên đắc quả (thuộc về phạm trù) pháp thân vô vi. Cho nên Đại kinh nói: Vô sở đắc, gọi đó là Trí Huệ. Vô Sở Đắc gọi là Đại Niết-bàn. Lại nữa, kinh chương đầu nói về phát Bồ-đề tâm, kinh chương tiếp theo nói về Tu Bồ-tát ha- ïnh. Nay kinh chương này biện về đắc Phật Đạo. Ba điều đó tức là thứ đệ, đó là điều chính yếu của kinh này. Lại nữa, vừa thành nghóa của Bồ-đề tâm ở phần trên; phát Bồ-đề tâm, hạ độ chúng sanh, thượng càu Phật đạo. Phần Hạ độ chúng sanh thì đã nói về Tướng của chúng sanh mà độ vô sở độ. Nay là phần Thượng cầu Phật đạo thì cần phải hiểu biết pháp thân, tức là cầu vô sở cầu. Nếu chẳng hiểu biết chúng sanh thì chẳng thể độ chúng sanh. Nếu chẳng hiểu pháp thân thì chẳng thể thượng cầu Phật đạo. Nếu Hữu sở đắc phát tâm cầu Phật thì như ngài Tịnh Danh (Duy Ma Cật) đã trách; tức là muốn khiến họ xả Bồ-đề kiến mà phát Bồ-đề tâm, xả về Phật kiến mới thất pháp mà thôi, phần trên biện về chúng sanh cũng tức là biện về chúng sanh không, tiếp đó biện về tu vạn hạnh tức là biện về lục trần chư pháp không. Nay phần này nói về chẳng thể dùng chư tướng để thấy được Như Lai, tức là chư Phật không. Thế nên chúng sanh vô sở Hữu thì tức là phi chúng sanh. Chư Phật vô sở hữu, đó tức là phi Phật. Vì phi chúng sanh, phi Phật, phi sinh tử phi Niết-bàn, cho nên chúng sanh và Phật bổn lai bất nhị. Mà vì phá Nhị kiến, cho nên nói là bất Nhị. Tại Nhị đã dứt, bất Nhị cũng trừ. Vì vậy mà kinh Hoa Nghiêm nói: “Bất trước bất Nhị pháp. Bởi vì không có Nhất hay Nhị”. Nếu được như vậy mà ngộ thì tất cả chư kiến rốt ráo chẳng khởi, mới là kim cang, gọi đó là Bát-nhã. Trong văn này chia ra làm ba ý: 1. Như Lai dựa theo chúng nghi để hỏi Thiện Cát; 2. Thiện Cát đối Như Lai để giải thích mối nghi ngờ; Như Lai ấn chứng lời giải thích, kết thành đắc thất. Đây tức là ý thứ nhất. Cái gọi là Nghi; phần trên đã nói Bồ-tát hành vô trú tướng mà Nhân viên trò, bấy giờ chúng sanh nghi ngờ. Nhân nếu đã là vô trú Quả phải là vô vi. Nay thấy Quả là Hữu vi thì sao Nhân lại là vô trú. Vì sao lại vậy? Người Tiểu Thừa nói: Thân thể của Thích Ca, có đủ ba tướng; mới sinh ra ở Vương cung, tức là Sinh, tám mươi năm trú thế, tức là Trú. Nhập diệt ở rừng song lâm, tức là Diệt. Nay quả đã đủ cả ba tướng đó, sao lại nói Nhân là vô sở trú? Vì vậy mà Phật dựa theo chúng nghi để hỏi Thiện Cát “Có thể dựa vào thân có ba tướng mà thấy pháp thân Như Lai hay không?” “Tu Bồ-đề Ngôn: bất Dả Thế Tôn”: Đây là phần hai Thiện Cát đối Phật giải thích mối nghi ngờ của Hội thời bấy giờ. Hỏi: Phật đúng phải tự giải thích, vì sao lại bảo Thiện Cát giải thích? Đáp: Muốn bày tỏ rằng có người đắc giải, cho nên bảo Thiện Cát giải thích, hơn nữa, Thiện Cát là người Tiểu thừa, nay muốn tiếp dẫn người Tiểu thừa khiến cho họ tin rằng Thân Như Lai là vô vi nên mới bảo Thiện Cát giải thích. Lại nữa, cũng như chim sẽ mẹ dẫn dắt chim con, Thiện Cát cũng vậy, muốn dẫn dắt Thanh văn, khiến cho họ đồng với sớ giải (cái giải hiểu, cái giải ngộ) của mình. Thiện Cát là Thanh Văn, đã biết Thân của Như Lai là vô vi, chúng ta cũng là Thanh Văn, cũng cần phải biết thân Như Lai là vô vi, chẳng bị tướng của ba tướng. Lại nữa. Thiện Cát muốn dẫn dắt Bồ-tát, khiến cho họ cầu Như Lai pháp thân. Vì sao? Người Tiểu thừa còn biết thân Như Lai là vô vi thì sao Bồ-tát lại nói Phật là Hữu vi. Hỏi: Kinh Niết-bàn còn có thể nói Phật là vô vi, kinh Bát-nhã sao lại có thuyết như thế? Đáp: Người theo thuyết năm thời giáo mới có câu hỏi đó mà thôi. Nay trong Bát-nhã luận chính là để phá câu hỏi đó. Cho nên kệ nói: “Tam tướng dị thể cố, ly bỉ thị Như Lai”. Đâu có thể trong thời Bát-nhã giáo Phật là Hữu vi được sao? Lại nữa. Nay nói về Bát-nhã chánh pháp, tức là pháp thân. Bát-nhã Phi Hữu vi phi vô vi, tức là pháp thân, phi hữu vi phi vô vi, nhưng vì để đối lại thân của phàm phu, Nhị thừa là Hữu Vi mà nói là vô vi mà thôi, cũng chẳng như luận sư đất bắc cho rằng: Như Lai thân nhất định là vô vi, Hữu vi và vô vi đều là công dụng của Bát- nhã. Câu “bất khả dó thân tướng kiến Như Lai” là chẳng thể dựa theo ba tướng; sinh, trụ, diệt để thấy pháp thân vô vi của Như Lai. “Hà Dó Cố. Như Lai Sở Thuyết Thân Tướng…” Bất giờ, trong hội lại nghi rằng: Nếu nói ba tướng chẳng phải là Như Lai (phi Như Lai) thì vì sao xưa kia Như Lai nói có ba tướng” Trước kia nói rằng “Sinh ra tại nhà Tịnh Phạm Vương”, tức là nói có sinh tướng, về sau nói rằng “ba tháng sau sẽ nhập Niết-bàn”, tức là Diệt tướng. “tám mươi năm trú thế” tức là trụ tướng. Do đó giải thích rằng: “Như Lai sở thuyết hữu tam tướng giả, tức phi thân tướng”. Nói phi thân tướng, tức ý nói chẳng phải là pháp thân vô vi tướng, đây là vô sinh sinh phương tiện, tức là sinh thân, cho nên có ba tướng. Nếu là sinh vô sinh phương tiện thì tức là pháp thân, không có ba tướng. “Phật Cáo Tu Bồ-đề…”. Đây là phần ba, Như Lai thuật thành, kết luận về đắc thất. Sở dó cần phải thuật thành là vì Thời Hội bấy giờ e cái giải hiểu của Thiên át chưa chắc đã là chẳng sai lầm. Do vậy mà Như Lai thuật thành sự giải hiểu đó của Thiện Cát. Trong văn này gồm có hai cú: í thứ nhất nói về Thất; phàm có danh tướng đều là do nhớ nghó tưởng tượng mà có, thảy đều là hư vọng, há lại chỉ cho rằng sinh trụ, diệt là chẳng hư vọng sao? “Nếu thấy chư pháp tướng phi tướng” tức là cú thứ hai, nói về Đắc. Nếu thấy tất cả chư tướng phi pháp thân tướng, tức là thấy pháp thân. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nhất thiết pháp bất sinh, nhất thiết pháp bất diệt, nhược năng như thử quán, chư Phật thường hiện tiền”.  KIM CANG BÁT NHÃ SỚ <卷>QUYỂN 3 “Tu Bồ-đề Bạch Phật Ngôn Phả Hữu Chúng Sanh”. Từ đây về sau là đoạn thứ hai, nói vể nghóa của Tín thọ Bát-nhã. Sở dó nói về tín thọ là vì phần trên đã nói Bát-nhã tức là giáo của năng bị. Nay nói tín thọ tức là Duyên của sở bị. Đây tức là Duyên và giáo tương xứng với nhau. Nếu Duyên mà phi giáo thì Duyên với giáo đó ắt chẳng xứng với duyên. Nếu giáo mà phi duyên thì giáo cho Duyên đó, Duyên đó chẳng vâng theo giáo. Vì nay Duyên chính là giáo duyên cho nên Duyên này vâng theo giáo mà đắc ích. Vì giáo chính là Duyên thì giáo này chẳng uổng thuyết. Vì nhân duyên đó, cho nên Duyên và giáo tương xứng với nhau. Lại nữa, Phật dùng nhiều thứ Môn khác nhau để thuyết về Bát- nhã; phần trên đã dựa theo Nhân và quả mà thuyết Bát-nhã. Phần này là dựa theo Tín Thọ môn để thuyết về Bát-nhã. Do vì liểu ngộ vô y vô đắc nên gọi là Tín thọ, thuyết về tín của vô y vô đắc này gọi là thuyết nghóa Bát-nhã. Trong môn này chia ra hai phần vấn và đáp. Phần đầu tức là Thiện cát phát vấn, sở dó vấn hỏi, là vì phần trên đã nói về Nhân, đã biện về quả, nghóa đã tròn đầy, vì vậy mà nay hỏi về người tín thọ. Mà nhân là nhân (thuộc phạm trù) vọ sở đắc. Quả là Quả (thuộc phạm trù) vô sở đắc. Nhân là nhân vô sở đắc, tuy hành vạn hạnh mà thật thì vô sở hành. Quả là quả vô sở đắc, tuy đắc Bồ-đề mà thật vô sở đắc. Sự này khó tin. Nếu thật có vạn hạnh khả hành, thật có Phật quả khả đắc thì tin điều đó ắt dể. Nếu thật không có vạn hạnh khả hành, thật không có Phật quả khả đắc thì tin điều đó ắt dể. Nếu thật không có vạn hạnh khả hành, thật không có Phật quả khả đắc thì tin điều đó cũng vẫn là dể. Nếu nói tục để tự có nhân quả (Hữu) chơn đế tự không có nhân quả (vô), có và không có (hữu vô) khác nhau tin điều đó cũng dể. Nay điều chẳng vậy! Tuy tu vạn hạnh mà chẳng thấy Bồ-tát năng hành, chẳng thấy vạn hạnh khả hành, vô sở y chỉ mà tu vạn hạnh tế độ chúng sanh, sự này hy hữu, vì thế mà khó tin, như trồng cây trong bầu trời, chẳng nương ở đất mà tưới nước chăm bón cho có hoa thật, việc đó là khó. Cho nên nay hỏi có kẻ tin. Nếu nói Phật thân đồng với Nhị Thừa là sinh diệt pháp thì cũng dể tin. Nếu nói Phật thân là thường trú pháp, ngưng nhiên tại kim cang hậu tâm thì điều đó cũng dể tin. Nếu nói ứng thân tự nó vô thường, pháp thân tự nó là thường, thì điều đó cũng dể tin. Nay nói Như Lai tuy sinh nhưng rốt ráo chẳng sinh, tuy diệt nhưng rốt ráo chẳng diệt, tuy vô sinh vô diệt mà sinh diệt phương tiện lợi ích chúng sanh thì sự việc đó rất hy hữu, cho nên khó tin mà hỏi. Hỏi: Đây là vấn hiện tại tin hay là vấn vị lai tin? Đáp: Hiện tại chúng sanh phước huệ thâm hậu, tam đa cụ túc, tại vườn Kỳ Hoàn thọ nhận đạo, nghe ắt sinh tín, cho nên chẳng hỏi hiện tại, chỉ sau khi Phật diệt độ năm trăm năm sau, nhập vào trong tượng pháp, thời ấy chúng sanh bạc phước độn căn, tuy tin văn kinh, chẳng thể thông hiểu, cho nên nghe mà chẳng sinh tín. Đại Trí Luận, đoạn văn giải thích phẩm Tín Hủy nói rằng: Sau khi Phật diệt độ, năm trăm năm sau có năm trăm bộ, đều chấp lời Phật, chẳng hiểu ý Phật. Vì để giải thoát, khi nghe Tất Cánh không, như dao đâu tim, cho nên biết vị lai người tin thì ít, mới biết đó là hỏi cho đời vị lai. Lại nữa, nêu vị lai có người tin, huống chi là hiện tại, vị lai là thời ác thế, bên ngoài thì không gặp Phật, bên trong thì bạc phước độn căn còn tin Bát-nhã, huông nữa là người thời hiện tại nghe mà chẳng sinh tín sao? “Phật Cáo Tu Bồ-đề…” Đây là chương thứ hai, Như Lai đáp. Văn chia hai phần: 1.Già vô đáp; 2.Hữu tín đáp. Câu “Mạc tác Thị Thuyết” tức là già vô đáp. Ông đừng nói hiện tại có người tín thọ mà nói vị lai khởi tín thọ, cho nên nói “Mạc tác thị thuyết”. “Như Lai Diệt Hậu, Hậu Ngũ Bách Tuế…” Đây là phần hai Hữu Tín đáp. Đoạn văn này chia ra bảy phần: 1.Thời tiết tín; 2.Người năng tín; 3. Pháp sở tín; 4. Chánh xuất tín tâm; 5. Nguyên do tín; 6. Lợi ích của tín; 7. Rộng giải nghóa tín. Đây tức phần một. Nói “Hậu Ngũ Bách Tuế”: Có người nói; chánh pháp năm trăm năm là năm trăm năm đầu, tiếp đó tượng pháp năm trăm năm là năm trăm năm giữa. Tiếp thep năm trăm năm sau tượng pháp gọi là năm trăm năm sau (hậu ngũ bách niên), ở đây là nói năm trăm năm sau cùng, đó là thời tượng pháp sắp diệt, suy tàn, cũng có kẻ tin Bát-nhã, huống nữa là hai lần năm trăm năm trước không có người tin sao? Nay cho rằng điều trên chẳng đúng! Nói “Hậu ngũ bách tuế” là như Đại Trí luận nói: “Năm trăm năm sau. Năm trăm năm đầu, người đắc đạo thì nhiều, kẻ chẳng đắc thì ít, cho nên gọi là chánh pháp. Năm trăm năm thứ hai, người đắc đạo thì ít, kẻ chẳng đắc thì nhiều, cho nên gọi là tượng pháp. Chánh pháp đã diệt rồi, tiếp đó vào tượng pháp, gọi là “Hậu Ngũ Bách Tuế”. Trong đó tuy đa phần chẳng tin, như năm trăm bộ, nhưng cũng có người tín thọ không Đại phẩm nói: Bát-nhã Ba-la-mật này, sau khi Phật diệt độ phương Nam chuyển đến phương bắc, trong đó Tứ chúng phải có người tín trì… cho đến cúng dường. Còn giải thích rằng: Một ngàn năm sau khi Phật diệt. Vì để đoạn nhứt mối nghi ngờ rằng: năm trăm năm đầu là chánh pháp cho nên nghe mà có tin. Năm trăm năm sau là tượng pháp cho nên nghe chẳng tin. Nếu vậy năm trăm năm sau không có người tin Bát-nhã. Cho nên Phật đáp rằng: Năm tăm năm sau cũng có người tin, chẳng nên nói không có người tin. Thời đó cũng có n tin trì,… cho đến cúng dường. “Hữu Trì Giới Tư Phước Giả”. Đây là phần hai, có người Năng Tín. Thập sư (sư Cưu Ma La Thập) dịch kinh chỉ nói rõ hai người: 1. Người trì giới; 2.Người tu phước. Người trì giới đa phần là xuất gia Bồ- tát, người tu phước đa phần là tại gia Bồ-tát. Đại Trí Luận nói: xuất gia Bồ-tát lấy Thi La làm đầu, tại gia Bồ-tát lấy Đàn làm đầu, do đó văn ở đây chỉ nói hai người. Mà hai loại người này thông cả Đại thừa Tiểu thừa. Nếu hai loại n thuộc Tiểu thừa Hữu sở đắc thì chẳng tin Bát-nhã, cho nên phần văn sau nói: “Nếu người vui thích tiểu pháp thì chẳng thể nghe nhận được đọc tụng kinh này”. Nếu hai loại người thuộc Đại thừa vui với vô sở đắc mới tin pháp này, cho nên phần văn sau nói: “Kinh này là thuyết cho hàng Đại thừa, là thuyết cho hàng tối thượng thừa”. Nếu là luận kinh thì có ba loại người. Luận nói: “Bất không vì có thật, Bồ-tát đủ ba đức loại người thứ ba tức là người trí tuệ. Hai loại người trước, gọi là Văn Tín. Loại người Trí huệ, đó là chứng tín. Lại nói: Người Năng tín đã là Thắng nhơn, mà nêu ra hai loại người thiện; chỉ Thiện và Hành Thiện, được người tôn quý để khen ngợi họ khiến cho đắc Tín thọ. Trì giới là chỉ Thiện, Tu phước là hành thiện. Hai loại này nhiếp hết mọi thiện, tức là “Đừng làm điều ác, phụng hành điều thiện”. Vì vậy mà nêu ra hai loại người này, nhiếp hết tất cả người. “Ư Thử Chương Cú”: Là phần ba, pháp sở tín, tức là pháp môn Nhân quả đã nêu trên, gọi đó là “Chương Cú”. “Năng Sinh Tín Tâm”: Đây là phần thứ tư, Sinh Tín về kinh. “Dó Thử Vi Thật” tức là Thật Tín (thuộc phạm trù) vô sở đắc. Vì khác với Tín (thuộc phạm trù) Hữu sở đắc nên Tiểu thừa chẳng tin. Nếu vọng theo Tín (thuộc phạm trù) vô sở đắc thì Tín trở lại thành ra là bất tin, cho nên kinh Đại phẩm có phẩm (nói về) Tín Hủy, phẩm này muốn nói rằng Hữu Sở Đắc Tín thì đó liền thành ra là Hủy. Nay ở đây là vô sở Đắc thật tướng chánh tín. Vì vậy mà nói “Dó Thử Vi Thật”. Cũng tức là Tin Bát- nhã là Thật tướng của pháp, vì vậy mà nói “Dó thử vi thật”. “Đương Tri Thị Nhơn” Đây là phần năm, nguyên do Tín. Sở dó người nghe kinh mà tin là vì trồng Nhân đã lâu cho nên tin thọ được, vì vậy mà kinh Niết-bàn nói: phát Bồ-đề tâm ở vô số chỗ chư Như Lai, rồi mới có thể hẳng phỉ báng kinh này trong thời đại Ác Thế. Nay kinh này cũng vậy, đã lâu đời trồng nhân nên mới có thể tin mà chẳng phỉ báng. Văn có hai cú: cú thứ nhất là “chẳng phải trồng ở ít Phật, cú thứ hai là “Dó ư…” tỏ rằng ở nhiều Phật. “Văn Thị Chương Cú Nãi Chí Nhất Niệm Sinh Tịnh Tín Giả…” là phần thứ sáu. Tín đắc lợi ích, gồm có hai lợi ích: 1. Bên ngoài thì chư Phật thấy biết; 2.Bên trong thì đắc vô biên công đức. Lợi của tin Bát- nhã khó mà nói hết, khó mà đo lường. Nay nên chỉ một niệm tin mà còn gặt được vô biên công đức, huống chi là trước sau đều tin thì lại càng khó, nói rằng Như Lai soi thấy tín hay báng đều biết, mà nay chỉ nêu ra người tin, gồm có ba nghóa: 1. Không này là Mẹ của chư Phật, được Phật thủ hộ. Nếu sinh niềm hy vọng hướng đến thì được Phật ghi nhớ, cho nên kinh nói: “Phật thường dùng Phật Nhãn quán kinh quyển này. Nếu người nào thọ trì, thì được Phật hộ niệm, được ghi nhớ ở chỗ Như Lai, ngay cả được quen biết làm bạn với bậc tôn quý với Thiên vương ở thế gian, còn tự mình vui mừng hoan hỷ, huống nữa là được làm người thân yêu ở chỗ Như Lai. 2.Phước này ngang bằng với hư không bầu trời, đất thấp chẳng thể biết được, duy chỉ Phật là cùng tận bờ đáy. 3. Phật không có hai lời, nói ắt đáng tin. Nay nói tin thì được nhiều phước, do vậy phước đó ắt nhiều. Hỏi: Vì nhân duyên gì gọi là được thấy biết? Đáp: Luận nói: Như Lai biết bằng nguyện trí lực, chứ chẳng phải là biết bằng Tỉ Trí. Thấy bằng Phật nhãn, chẳng phải thấy bằng Nhục Nhãn. Lại nữa, Phật biết người đó hành Nhân Bồ-đề, thấy người đó đắc quả Bồ-đề, cho nên nói là “thấy biết”. “Hà Dó Cố…” Đây là phần bảy, giải thích rộng về nghóa của Tịnh Tín. Nếu theo luận sư giải thích thì phần trên là nói chung cả ba loại người tin. Đây là biện về loại người tin thứ ba, người Trí Huệ phần trên giải thích về Tín thì đắc phước vô biên, phần này giải thích lý do của sự vô biên đó. Nguyên do là đắc vô sinh tín (tín thuộc phạm trù vô sinh), cho nên phước đó vô biên. Nhưng Vô Sanh Tín tự nó có đủ hai loại: 1. Văn Tín (tín nhờ nghe); 2. Chứng Tín (Tín nhờ chứng). Trong giải thích này có ba “Hà dó cố” (Vì cớ sao), chia ra ba phần: 1.Đắc; 2.Thất; 3. Khuyên bỏ Thất theo đắc. Đây là phần một, tự nó có hai cú: cú thứ nhất tỏ về chúng sanh không, cú thứ hai tỏ về chư pháp không. Sở dó nói về hai không đó là để giải thích nghóa của Tín. Đại trí Luận nói: “Tri chúng sanh và pháp bất sinh, cho nên gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn”. Tuy độ chúng sanh nhưng chúng sanh tất cánh bất khả đắc, tức là vô chúng sanh, tuy hành vạn hạnh nhưng chư pháp tất cánh bất khả đắc, đó tức là vô sanh pháp nhẫn. Do vậy nay biện về hai không này là để Vô Sanh Tịnh Tín. Lại nữa, vì chúng sanh không, nên không có cái hoạn bởi Quả. Vì chư pháp không, nên không có cái hoạn bởi Nhân, nguyên do là sao? Bởi vì hội pháp đã thành nhơn. Pháp là Nhân mà Nhơn (người) là quả, hai hoạn Nhân và Quả song ly, cho nên “Kỳ Phước vô biên”. Lại nữa, vì không có Nhơn kiến, nên Siêu Vượt phàm phu địa, phàm phu trước ngã, chẳng biết vô ngã, nay biện về vô ngã, tức là ly phàm phu địa. Lại nữa, Vì biết pháp không, nên ly Nhị Thừa Địa. Người Nhị Thừa chỉ đắc Nhơn vô ngã, chẳng đắc pháp vô ngã. Lại nữa, vì vô nhơn, nên ly phiền não chướng. Vì đã vô pháp cho nên ly khỏi Trí chướng. Siêu phàm vượt Thánh, kiêm cả hai chướng đều tận. Vì vậy mà “Kỳ phước vô biên”. Trong Ly Nhơn Kiến, có đủ cả không có mười sáu kiến, nay vì tóm lược nên chỉ nói là vô (không có) bốn kiến. Trong Ngũ Ấm khởi tâm Ngả, Ngã sở, gọi đó là “ngã”, chẳng đoạn, chẳng tuyệt tương tục nối liền nhau trú thế, gọi đó là “Chúng sanh”. Kế cho rằng có một căn Mệnh chẳng đoạn, giống như có ngã, gọi đó là “Mệnh giả”. Còn gọi là “Nhơn”. Ngoại đạo cho là có thần ngã, khất ở đây, sinh ra ở kia, trãi qua lục đạo, gọi đó là “Thọ giả”. Cú thứ hai là “Vô Pháp Tướng Vô Phi Pháp Tướng” tỏ về pháp không. Tuy chẳng thấy Ngã nhưng vẫn còn thấy pháp của ngũ Ấm, cho nên nay tỏ rõ rằng “cũng vô pháp tướng, pháp của ngũ Ấm đã vô, ngũ ấm bốn vô, gọi đó là “phi pháp”. Bệnh không cũng không, cho nên nói rằng “vô phi pháp tướng”, đó đúng phải như ba loại thứ đệ của kinh Tịnh Danh (Duy Ma Cật) 1.Chẳng thấy Ngã, đó là chúng sanh không; 2. Chẳng thấy pháp, đó gọi là pháp không; 3. Chẳng thấy phi pháp, đó gọi là bệnh không cũng không. Sở dó tỏ rõ ba không này là vì; Ngã kiến là căn gốc của các kết, cho nên tỏ rõ về Ngã kiến, tiếp đó, Hữu kiến và vô kiến là gốc của Đoạn và Thường, rất trái với Đạo, cho nên nói về Hữu, vô kiến. Có người nói: dựa theo tu Thiện bỏ Ác thì Thiện là pháp, Ác là phi pháp. Lại có người nói: lấy không để trừ bỏ Hữu thì không là pháp, Hữu là phi pháp. Nếu theo Luận kinh thì trong Nhơn không, có bốn cú. Trong pháp không, cũng có bốn cú, cho nên luận kệ nói: “Y Bát Bát Nghóa Biệt”, nói “Bát Bát nghóa” là; Nhơn có bốn, pháp có bốn, gọi đó là một bát, phá bốn bệnh thuộc nhơn, phá bốn bệnh thuộc pháp, chẳng còn tám bệnh đó nữa, đó là một bát, cho nên nói là “Bát nát”. Nói “Bốn bệnh thuộc pháp” là: 1. Pháp tướng; 2. Phi pháp tướng; 3.Tướng; 4. Phi tướng. Bốn thứ này là bệnh. Hỏi: Ngoại đạo kế chấp ngã, có thể đó là bệnh. Nay khi thấy pháp sanh (ra) thì đó là Hữu, khi diệt thì đó là vô, sao lại nói là bệnh? Đáp: Đặt câu hỏi này là vì chưa đọc kinh luận Đại thừa. Vì phá cú thứ nhất “pháp tướng” mà nói “phi pháp tướng”, vì những pháp Ấm, giới, nhập bất khả đắc, cho nên nói là “Vô pháp tướng”. Để phú cú thứ hai mà nói là “phi vô pháp tướng”, người (mê) Hoặc nghe Ấm, Giới, Nhập là hư dối cho nên là không, bèn cho rằng thật tướng của chư pháp cũng là không. Như Đại kinh nói: “Đã nghe sinh tử hư dối, cho rằng Niết-bàn cũng hư dối”. Để phá chấp đó, sinh tử tự nó là hư dối không, thật tướng Niết-bàn chẳng phải là không, cho nên nói rằng: “Không là hai mươi lăm Hữu, bất không là Đại bát Niết-bàn”. Vì để phá cú thứ ba mà nói là “Vô tướng”; người mê Hoặc cho rằng Niết-bàn thật tướng nếu chẳng thể không, bèn trở lại cho nó là đồng với Hữu, Nếu chẳng thể là Hữu thì trở lại cho nó phải là không. Vì vậy mà nay nói rằng: Niết-bàn lại là Hữu tướng hay Vô Tướng. Thật tướng của Niết-bàn chẳng thể nói là Hữu tướng hay vô tướng. Vì để phá cú thứ tư; người mê hoặc đã nghe Thật tướng chẳng thể là Hữu hay vô thì phải là chẳng thể nói ra được( bất khả đắc thuyết). Vì vậy mà nay nói rằng; tuy tuyệt cả Hữu và vô nhưng vì chúng sanh, cho nên vô thuyết nà thuyết (không thể nói ra được nhưng vẫn nói) sao lại cho là bất khả thuyết (chẳng thể nói ra)? Chỉ vì cựu văn kinh tóm lược, chỉ nói là “Vô phi pháp tướng”. “Hà Dó Cố? Nhược Tâm Thủ Tướng…” Đây là phần thứ hai, đối với Đắc mà nói về thất, cũng là nêu Thất mà hiểu Đắc. Phần này chia làm hai phần: 1. Kế (cho) nhơn là Thất; 2. Kế pháp là Thất. Thất này tức là Thất của phần một; “Nếu tâm thủ tướng tức là thủ chúng sanh tướng” thì đồng với Ngoại đạo cho rằng (kế) có ngã, nhơn. Do đó là Thật. “Nhược Thủ Pháp Tướng…” Đây là phần hai, kế pháp là Thất, trong này có hai phần: 1. Thấy pháp là thất; 2. Thấy phi pháp là Thất. Hỏi: Nếu kế (cho là) pháp thì đó là Thất thì đúng phải nói là “Trước ở pháp tướng”, vì nhân duyên gì kế pháp là Thất lại nói là “Trước Ngã Tướng”? Đáp: Lý thật phải vậy! Kế Nhơn mà trước Nhơn. Vì kế pháp nên trước pháp. Nay ở đây muốn tỏ rõ sự sai lầm đó rất nặng. Nhơn (người) kế pháp chẳng những khởi về pháp kiến mà còn khởi cả ngã kiến, bởi vì pháp là nhân duyên của ngã. Thành Thật Luận nói: “Tro than chẳng tâm, cây tưởng vẫn sinh”. Lại nữa, Số Luận: “Thủ tất cả Hữu tướng, chẳng phải là bệnh, thủ ngã tướng, đó là bệnh”, Thành Thật Luận nói: “Có Nhị Đế thì chẳng phải bệnh, chỉ có thủ ngã, nhơn mới là bệnh mà thôi”. Nay nói rằng chẳng phải vậy! Chỉ cần sanh tâm động viên thì lỗi đồng với Ngã, Nhơn. “Hà Dó Cố? Nhược Thủ Phi Pháp Tướng…; Trước vào phi pháp, đó cũng là Thất. Đã nghe nói kế pháp là Thất, hoặc có người cho rằng vô pháp là Đắc. Vì vậy mà nay nói: “Nếu kế phi pháp thì đó cũng là Thất”. Nguyên do là sao? Kế chấp cho rằng có phi pháp thì ắt sẽ khởi pháp kiến. Nếu có pháp kiến thì có Ngã kiến. Lại nữa, Nếu không có Ngã thì không có cái kế chấp đó. Vì có điều kế chấp đó mà biết là có ngã. Do vậy, kế chấp cho là phi pháp cũng trở lại trước ngã. “Thị Cố Bất Ưng Thủ Phi Pháp…” Đây là phần ba, khuyên xả bỏ Thất theo Đắc. Văn này có hai phần: 1.Chánh khuyên xả bỏ thất. 2. Dẫn chứng. Đây là phần một, khuyên xả bỏ Thất. Pháp và phi pháp còn tự cần phải xả, kiến về ngã, Nhơn đi đâu chẳng xả. Do đó nêu pháp để so Nhơn, chỉ khuyên xả pháp, chẳng khuyên xả nhơn. “Dó Thị Nghóa Cố Như Lai Thường Thuyết…” là phần hai. Dẫn chứng. Trong kinh A Hàm, Phật vì Tỳ kheo, cho ra thí dụ về chiếc bè; ví như có người bị giặc truy đuổi, dùng cỏ lau làm bè để độ qua bờ bên kia. Đã đến bờ kia rồi thì phải bỏ bè, khởi đầu thì lấy bè để qua sông, đã đến bờ bên kia rồi thì sông và bè cả hai đều xả bỏ, ý của thí dụ khởi đầu là dùng thiên để xả bỏ Ác, sau đó thì thiện và Ác đều xả, cũng như vậy, sinh tử và Niết-bàn vạn Thiện đều giống vậy. Nếu theo luận kinh thì đại ý giống nhau nhưng văn có hơi khác. Luận kinh cũng có ba “hà dó cổ” thứ ba nói rằng: “Bất ưng thủ pháp, phi bất thủ pháp”. Đây là nói về nghóa của Lý và Giáo. Bởi vì khi đã đắc Lý rồi thì quên giáo, khi đã đắc mặt trăng rồi thì xả bỏ ngón tay (chỉ mặt trăng), cho nên nói rằng: “bất ưng thử pháp” (chẳng phải là chẳng thủ pháp), cũng như đã đến bờ bên kia thì bỏ bè, cho nên nói “chẳng nên thủ lấy bè”. Vì muốn qua sông cho nên “chẳng phải là chẳng thủ lấy bè”. Hỏi: Thí dụ về chiếc bè là của kinh Tiểu Thừa, sao lại chứng cho? Đáp: Bè tại tiểu thừa thì gọi là Tiểu, tại Đại thì gọi là Đại. lại nữa, nêu ra Tiểu Thừa để so với Đại thừa, ở trong pháp Tiểu thừa còn nói là cả hai đều xả bỏ, huống nữa là ở trong pháp Đại thừa? Như trong cuốn Trung Luận đã dẫn cuốn Ca Chiên Diên Luận; đó là Tiểu thừa còn Xả Hữu Vô, huống nữa là Đại thừa”. “Pháp còn phải xả, hà huống là phi pháp”; ý nói Hữu là sự an lập bởi vật và Tình, còn cần phải xả bỏ. Vô chẳng phải lục tình sở đối, há lại chấp được sao? “Tu Bồ-đề, Ư Ý Vân Hà…” Văn này sở dó đến là vì hai nghóa: 1. Vì để chứng tín mà đến: phần trên đã nói về niềm tin thuộc về phạm trù vô y vô đắc, cho đến pháp và phi pháp đều xả bỏ. Nay nói về tất cả Thánh hiền đồng tác ngộ này, vì vậy mà biết pháp này đáng để tin nhận; 2. Theo luận giải thích mối nghi mà đến; luận chủ khi giải thích đến chương này, giải thích ba mối nghi ngờ; đầu tiên là nêu ra pháp thân chẳng phải là Hữu vi là giải thích mối nghi lấy quả hỏi Nhân. Tiếp đó là chương Tín giải; giải thích mối nghi về Nhân quả, cho rằng thuyết pháp môn Nhân quả thì sẽ chẳng có người tin nhận, phần trên tỏ rõ rằng “có người tin nhận”, tức là giải thích mối nghi ngờ đó. Nay ở đây kinh chương này là giải thích mối nghi lấy quả hỏi quả. Chương pháp thân phi hữu vi ở phần trên nói rằng: “Vì tướng sanh, trụ, diệt chẳng phải là vô vi pháp thân, nên chẳng thể dùng ba tướng đó mà thấy pháp thân Như Lai”. Người nghi nói rằng: “Nếu nói rằng ba tướng chẳng phải là Phật thì đúng phải Thích Ca cũng chẳng Đắc Bồ-đề, chẳng vì vật mà thuyết pháp, nhưng nay Thích Ca dưới gốc cây, thật chứng đắc Bồ-đề đi đến vườn Lộc Uyển. Vì vật thuyết pháp, nếu vậy thì đúng phải thật có sanh (ra) ở vương cung thật (có) diệt (mất) ở giữa hai cây sa la, chẳng nên nói là ba tướng chẳng phải là Phật”. Nay chính là phá mối nghi đó. Văn có hai phần: 1.Phật thừa theo chúng nghi để hỏi Thiện Cát; 2. Thiện Cát phụng đối để phá chúng nghi. Nay ở đây tức là phần một. Phật hỏi ý rằng: “Ư ý vân hà,…”; ông nói rằng Phật ở dưới cây thọ vương, thật đắc Bồ-đề sao? Năm mươi trú thế, thật để thuyết pháp sao? Trong phần Thiện Cát đáp, chia ra hai phần: 1. Chánh phá mối nghi về Thật chứng, thật thuyết; 2. Phá thêm những mối nghi khác. Đây tức là phần một. Thiện Cát nói: không có thật đắc Bồ-đề, không có thật thuyết pháp. Luận kệ nói: “Ưng Hóa phi chơn Phật, diệc phi thuyết pháp giả”. Về Phật thì có ba loại: 1.Pháp thân Phật, tức là lấy chánh pháp làm thân; 2. Báo thân Phật, tức là tu Nhân đã mãn, Quả khởi để đáp trả lại cho Nhân, gọi đó là Báo; 3.Hóa Thân Phật; Nay nói rằng không có thật chứng (Bồ-đề), không có thật thuyết (pháp), Thích Ca tức là Hóa Thân Phật, chẳng phải là Chơn Phật, tức là Hóa chứng, hóa thuyết, chẳng phải là thật chứng, thật thuyết lấy đây mà ví với những điều trên thì Thích Ca tức là Hóa Sanh, Hóa diệt, chẳng phải là thật Sanh, thật diệt. Do đó, Như Lai Thân là vô vi, cho nên nói rằng: “Vô Hữu Định Pháp Danh Bồ-đề, Diệc Vô Hữu Định Pháp Như Lai Khả Tuyết” (không có pháp nhất định nào gọi là Bồ-đề, cũng không có pháp nhất định nào Như Lai khả thuyết). “Hà Dó Cố, Như Lai Sở Thuyết Pháp Giả”. Đây là phần hai, phá mối nghi về vô thuyết. Hoặc có người nghe phần trên nói Thích Ca là Hóa Phật, không có thật chứng, không có thật thuyết, bèn cho rằng không có Hóa chứng, không có Hóa thuyết. Do đó nay nói rằng; tuy không có thật thuyết mà có Hóa thuyết. Cho nên nói rằng: “Như Lai Sở Thuyết Pháp Tức Thị Hóa Thuyết”. Phần trên đã phá mối nghi cho là thật thuyết, phần này là phá mối nghi cho là không có Hóa thuyết. “Bất khả thủ, Bất khả thuyết”. Câu này lại phá nghi, hoặc có người khi đã nghe nói với Hóa Thuyết là có, bèn cho rằng có pháp khả thuyết. Phật nếu có thuyết thì người nghe ắt sẽ có thủ. Vì có thuyết thì ngôn ngữ chẳng đoạn (dứt), bởi người nghe có thủ thì tâm hành chẳng diệt. Nay vì ngôn ngữ diệt, cho nên (Bất Khả Thuyết), vì tâm hành diệt, cho nên (Bất khả thủ). Trí Luận nói: “Bát-nhã Ba-la-mật thật pháp bất điên đảo niệm tướng quán, đã trừ ngôn ngữ, pháp cũng diệt” tức là ý đó. “ Phi Pháp, Phi Phi Pháp”, câu này kết thành câu ý của câu “Bất khả thủ, bất khả thuyết” tên. Chư pháp thật tướng phi Hữu, phi vô. Vì phi Hữu cho nên “Phi pháp”, vì phi vô, cho nên “Phi phi pháp”. Đã ly Hữu, ly vô thì làm sao khả thuyết, đã ly Hưu ly vô thì làm sao khả thủ. Điều đó cũng như đã nói trong kinh Tịnh Danh (Duy Ma Cật) và kinh Nhân Vương. Cái thuyết pháp đó là vô thuyết vô thị, cái nghe đó là vô văn vô đắc. “Nhất Thiết Hiền Thánh Giai Dó Vô Vi Pháp Nhi Hữu Sai Biệt”. Sở dó có văn này đến là vì để thành nghóa phi pháp, phi phi pháp, phi Hữu phi vô ở trên. Vì tất cả Hiền Thánh đều thể ngộ vô vi, vô vi là không có Hữu, không có Vô, do đó mà biết chư pháp thật tướng phi Hữu phi vô, há thể thủ thuyết! Luận văn nói: “Phật sở dó năng thuyết thật tướng vô vi pháp là do vì đã tỏ ngộ vô vi pháp, cho nên vô vi là Thuyết Nhân”. Còn nói rằng: “Những điều sở chứng của tất cả Hiền Thánh còn chẳng thể nói, người nghe há lại có thể thủ được sao!”. Trong đó chẳng chỉ nêu ra Phật, cho đến rộng dẫn chứng Thánh. Chương này muốn chứng minh tất cả hiền Thánh đồng ngộ pháp này, nên biết pháp này ắt đáng tin nhận. Hỏi: Vì sao lại nói “Tất cả Hiền Thánh vô vi mà có sai biệt” Đáp: Vì để giải thích mối nghi. Trên đã nói là đồng ngộ vô vi” thì chúng Thánh sẽ không có khác nhau thì sẽ không có giai cấp mười Địa, sẽ không có sự cạn sâu của bốn quả Thánh. Vì vậy mà nay nói rằng “Tuy đồng ngộ vô vi, nhưng sở ngộ thì khác nhau, cho nên có ba Thánh khác nhau”, ba con chim thoát ra khỏi lưới, ba con thú vượt qua sông, mà bay lên bầu trời thì có con bay gần có con bay xa, vượt sông thì có cạn có sâu, tức là sự đó. Hỏi: Ba Phật là thuyết của Địa luận sư, ông nay sao lại dùng nghóa ấy? Đáp: Đặt câu hỏi đó là sai. Đó là luận thông phương. Nay một sư biện về không có một tí nào để có thể đắc thì tất cả đều là nghóa, như Tư ích nói rằng: Tất cả pháp chánh, tất cả pháp tài. Nếu tâm Hữu sở đắc thì chẳng phải chỉ có ba Phật bất khả đắc mà một Phật, hai Phật thảy đều là Hý luận. Nếu với tâm vô sở đắc liểu ngộ thì tùy duyên sở thuyết một Phật, hai Phật, ba Phật, mười Phật, cho đến vô lượng Phật thảy đều vô ngại. Sao lại chỉ cho có hai thân mà nghi về ba Phật? Hỏi: Vì sao cần phải lập ba Phật? Đáp: Nghóa phải có ba: Do có pháp (thân) Phật mà có Báo Phật, do có Báo Phật mà có Hóa Phật. pháp Phật là Phật Tính, phải do từ Phật tính mà tu Nhân, đã mãn thì thành Báo thân. Hai Phật trên tức là tự đức, rồi sau đó Hóa chúng sanh, tức là Hóa Tha Đức, cho nên có Hóa Phật. “Tu Bồ-đề, Ư Ý Vân Hà, Nhược Nhơn Mãn Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới Thất Bảo Bố Thí…”. Đây là phần ba, so sánh để tỏ rõ sự vượt trội, xưng thán khuyến tu môn. Nếu dựa theo, phước và Huệ mà chia ra phần thì phần trên là dựa theo Trí Huệ Môn mà đã thuyết Bát-nhã. Nay phần này là dựa theo công đức Môn mà thuyết Bát-nhã. Bát-nhã chưa từng phước và Huệ. Vì chúng sanh mà đạt ra danh từ phước và Huệ để thuyết. Lại nữa, phần trên là dựa theo vô y vô đắc mà thuyết Bát-nhã, phần này là dựa theo xưng Thán Môn mà thuyết Bát-nhã. Lại nữa, phần trên là nói về Thể của Bát-nhã. Nay là nói về Dụng của Bát-nhã. Nhờ thọ trì mà sinh ra vô biên công đức, đó là Dụng, dựa theo trong Môn này, chia ra ba phần: 1. Nêu ngoại Thí để so sánh; 2. Nêu Nội thí để so sánh; 3. Nêu Nhân xưa kia của Thích Ca để so sánh. Trong phần một, nêu ngoại thì để so sánh, lại chia ra hai phần: 1. Chánh Nêu Ngoại thí để so sánh; 2. Giải thích kết thành ý so sánh hơn kém. Trong phần chánh so sánh, lại chia ra hai phần: 1. Chánh nêu hai loại tài thí để so sánh khen ngợi. 2. Biện về tên kinh. Trong phần một cũng chia thành hai phần: 1. Chánh nêu ra hai loại Thí để so sánh với thọ trì Bát-nhã một bài kệ bốn câu; 2.Xưng thán khen ngợi Bát-nhã “tại nơi nào thì nơi đó được tôn quý, tại người nào thì người đó được tôn quý”. Trong phần một, nêu ra hai loại thí để so sánh với thọ trì bốn cú, lại chia làm hai phần: 1. Nêu Tam Thiên Thế giới Thát bảo bố thí để so với tứ cú; 2.Nêu Hằng sa giới thất bảo bố thí để so với tứ cú. Trong phần một lại chia ra hai phần: 1. Chánh nêu tài thí để so sánh; 2. Thích thành nghóa so sánh. Nay ở đây tức là phần một. Hỏi: Vì nhân duyên gì mà có văn này đến? Đáp: Lại ý của văn này, gồm có cận và viễn. Cái gọi là viễn thì như nghóa của Hướng số, cái gọi là vận thì như Luận Sanh Khởi nói rằng: Nếu chư pháp thật tướng là chẳng thể thủ, chẳng thể thuyết, còn văn tự thì có thể thủ, có thể thuyết thì thọ trì đúng phải chẳng có công đức. Vì để giải thích mối nghi đó mà nói rằng văn tự tuy là có thể thủ, có thể thuyết, nhân ở văn đó mà đắc ngộ Bát-nhã, đó tức là Nhân ở thuyết mà ngộ vô thuyết, do vậy người thọ trì thì phước vô biên, cho nên so sánh. Văn này chia làm hai phần: 1.Chánh nêu tài thí; 2.So sánh với Bát-nhã. Trong phần nêu tài thí, tự chia ra hai phần: 1. Phật vấn; 2. Thiệt Cát đáp. chia ra hai phần: 1.Chánh đáp; 2.Giảm trạch đáp. Phần chánh đáp thì như văn đã nói. A Nê Lâu Đạt chỉ thí một bửa ăn mà hưởng thụ an lạc suốt chín mươi mốt kiếp, huống nữa là nay thiên diệu bảo dùng để bố thí, phước ấy chẳng nhiều sao! Hỏi: Thật có chuyện dùng Diệu bảo của Đại Thiên để bố thí hay không? Đáp: Cũng có thể nói là thật có chuyện đó, cũng có thể nói là giả thuyết. Nói thật có là Chuyển Luân Thánh Vương thống lãnh Tứ Thiên hạ, có thể lấy diệu bảo trong khắp bốn Thiên hạ để dùng Bố thí. Đại phạm Thiên vương chủ lảnh Đại Thiên Thế giới, có thế dùng Diệu bảo của Đại Thiên để bố thí. Vì vậy mà biết rằng có thể là thật có. Nói giả thiết là nếu không có chuyện đó, giả thuyết nói có, cũng chẳng bằng thọ trì Bát-nhã, vì Phật muốn khiến người tôn trọng Bát-nhã, tuy không có sự việc đó mà mượn nó để thuyết minh. “Hà Dó Cố? Thị Phước Đức Tức Phi Phước Đức”. Đây là phần hai; Giản Trạch đáp. Có người nói: phước đức tức là Thế Đế, tức phi phước đức tức là Chơn Đế, tỏ rằng phước đức này hư giả tức chơn, đó danh là phước đức. “Đa” là Thế đế, cho nên nói là “Đa”. Tất cả chư pháp chẳng ngoài Nhị Đế, cho nên dựa theo nhị đế mà nói chúng. Nay nói rằng giải thích trên hình như không có thứ lớp, nay mới là giải thích nghóa của “phước đức đa”. Vì sao lại nói về nhị đế? Lại có người nói: Đây là phước đức phi phước đức, phi phước đức phước đức, đây là phước đức của Bát-nhã. Nhưng trong Bát-nhã có tài thí và pháp thí. Bát-nhã tài thí và pháp thí thật ra không có hạn kém, nhưng người thọ nhận tài thí thì một đời giàu có an vui, chưa thể diệt nổi khổ bọ snah vào ác đạo trong thời Vị lai. Người thọ nhận pháp thí thì có thể diệt quả báo sinh vào ba đường ác đạo, vị lai có thể sinh lên cõi trời sinh vào nhà tốt cõi người, cho đến làm Phật. Do đó Tài Thí chẳng bằng pháp thí. Nay nói rằng: Nếu dựa heo người thọ nhận thì thật là như thế, nhung đây là dựa theo người Năng thí, chẳng dựa theo người thọ nhận, cho nên chẳng giống với giải thích trên. Bố thí thì có khác nhau; Hữu Đắc Tài thí chẳng bằng Vô Đắc Pháp Thí. Đây là hổ tương đối nhau mà tự có; vô đắc tài thí thì thắng hơn Hữu đắc pháp thí, tự có vô đắc tài pháp thắng hơn Hữu Đắc tài pháp. Hỏi: Vô Đắc Tài Thí sao bằng Vô Đắc Pháp Thí, Hữu Đắc Pháp Thí cũng hỏi như vậy? Đáp: tài và pháp bất nhị thì Vô Đắc Tài Thí và Vô Đắc Pháp Thí không có hơn kém. Nhưng trong nghóa hơn kém của không có hơn kém thì pháp thì là thắng hơn, tài thí là kém hơn. Hữu Đắc pháp thí cũng thắng hơn Hữu Đắc tài thí. Đại khái là như vậy. Nay y theo giải thích của luận. Luận nói: phước chẳng thú hướng đến Bồ-đề, đây là phân biệt phước của Bố thí tuy nhiều, đây là Hữu lậu phước Đức. “Tức phi phước Đức” là phi vô Lậu, vô sở Đắc phước gọi là phước Đức. Luận kinh nói lặp lại hai lần phước đức phước đức, đây ý chia phước đức gồm có hai loại: 1.Hữu Lậu phước đức; 2.Vô Lậu phước đức. Do đó mà lặp lại hai lần phước Đức phước đức. Hỏi: Thiệt Cát chỉ nên đáp Phật về Bố thí phước nhiều, vì nhân duyên gì bỗng nhiên phân biệt phước đức hữu lậu và vô lậu. Đáp: Thiện Cát lỉnh giải được ý Phật, ý Phật muốn nói rằng phước của Bố thí tuy nhiều nhưng là Hữu Lậu, vì vậy mà đáp Phật như tôi đã giải thích. “Bố Thí phước đa”, đây là phước Hữu lậu nhiều mà thôi, chẳng phải là vô lậu. “Phật Ngôn…” phần hai, chánh nêu Tài Thí để so với pháp thí. Trong này có hai phần: 1. Trì kinh hơn Bố thí; 2. Nguyên do hơn. Đây tức là phần một. Hỏi: “Tứ cú kệ” là gì? Đáp: Có người nói: đó là hai bài kệ bốn câu trong phần sau kinh này. Nay nói rằng người đó chỉ đắc lời kinh, chẳng đắc ý kinh. Nếu cho bài kệ sau là “Tứ cú kệ” thì từ đầu kinh cho đến phần này chẳng phải là kệ, người thọ trì sẽ không có công đức, hơn nữa, khi Phật đang thuyết kinh đến đoạn này chưa có hai bài kệ sau, thì saoo lại so sánh ngược? Có người nói: tất cả những bài kệ chín bốn câu của kinh Đại thừa, như bốn câu của kinh Tuyết Sơn,.. tức là sự đó. Điều đó cũng chẳng đúng! Nay chánh luận về kinh Bát-nhã, chẳng dính gì các kinh khác. Có người nói: hể là ngôn thuyết để thành tựu một nghóa thì đó tức là kệ, cho nên kệ gọi là tâm hết nghóa. Lấy hết nghóa của nó thì đó gọi là kệ. Nay nói rằng điều đó cũng chẳng đúng. Kinh này tỏ rõ là “Tứ cú kệ”. Người kia nói tận hết nghóa của nó thì cần gì nói bốn cú, tự nó có một cú cũng đã tận hết nghóa. Nếu là Biệt kệ thì câu cú định mà ngôn (từ) bất định. Nếu là Thông kệ thì Ngôn định mà câu bất định, Biệt kệ câu định mà ngôn bất định là, cần phải có bốn câu, cho nên gọi là câu định. Hoặc là ngũ ngôn, hoặc là tứ ngôn, hoặc là Thất ngôn (bảy chữ) hoặc là lục ngôn (sáu chữ), cho nên nói là ngôn bất định (chữ không nhất định). Thông kệ thì ngôn định là; cần phải đủ ba mươi hai chữ, cú bất định là; ba mươi hai chữ hoặc một, ba, bốn câu chẳng nhất định. Nay kinh này đã nói là “Bốn câu” tức là Biệt kệ, sao lại lấy thông kệ để giải thích? Có người nói: Ba mươi hai gọi đó là một kệ. Điều đó cũng chẳng đúng, đó chỉ là phép đếm kinh của ngoại quốc mà thôi, chẳng liên quan gì đến “Tứ cú kệ”. Có người nói: Hể là kinh luận có thể hiểu rõ Đạo thì đều gọi là Kệ. Điều này cũng chẳng đúng! Kinh này rõ ràng là nói “ Tứ cú kệ”, sao lại lấy chung những lời nói hiểu rõ đạo, hiểu rõ đạo thì cần gì bốn cú? Có người nói: giả danh tứ cú, như một giả Hữu, chẳng thể định là Hữu, chẳng thể định là Vô, diệc Hữu diệc Vô, phi Hữu phi Vô. Cũng có thể nói là Giả Hữu, tức Bất Hữu cho đến Giả Hữu chưa từng là Hữu hay vô, cho nên giả Tứ cú đó tức gọi là kệ. Nay nói rằng xưa nay cũng không có thuyết đó, chỉ là luận một cách thông phương mà thôi. Có người nói: bất khả thủ, Bất khả thuyết, phi pháp, phi phi pháp ở phần trên tức là một “Tứ cú kệ”. Nay nói rằng điều đó cũng chẳng đúng! Nếu chỉ bốn câu trên là kệ thì những điều khác những câu khác chẳng phải là kệ. Có người nói: phần trước đáp bốn câu hỏi của Thiện Cát, tức là “Tứ cú kệ”. Điều này cũng chẳng đúng! Phần trước là đáp về bốn câu hỏi, đâu có liên quan gì đến kệ? Nay trong Thế tục, lấy bốn câu làm thành một kệ, Phật tùy theo thế tục cũng lấy bốn câu làm thành một kệ. Phật nói lên câu đó chỉ là nêu ra số ít để so với số nhiều mà thôi. “Một Tứ cú”, lời nói ấy là tối thiểu, nếu thọ trì một tứ cú thì phước đức vô biên, huống nữa là thọ trì cả đoạn, cả chương, cả phẩm, cả bộ kinh? Cho nên cần phải đắc ý của kinh, đừng trước vào ngữ ngôn. “Hà Dó Cố…” Đây là phần hai, giải thích nguyên do thắng hơn. Người Chí Nhơn cực pháp là sinh ra từ kinh này, do đó trì kinh thì phước đức thắng hơn. Luận nói: “Nhị năng thú Bồ-đề”, tức là thọ trì tứ cú và diễn thuyết tứ cú. “Sở Vị Phật Pháp Tức Phi Phật Pháp”: Có người nói rằng; đây là khiển trừ chấp trước, câu trên nói từ kinh này mà xuất sinh ra những vị cực quả nhơn pháp, e rằng vật (chúng sanh, người ta) chấp trước, cho nên cần phải kiển trừ là “tức không”. Nay cho rằng phải vậy! Phần trên nói “Tức phi phước đức” thì đúng phải cũng e sinh ra vật trước nên cần khiển trừ. Có người nói: “Phật pháp tức phi Phật pháp” là giống như dòng Trung, giả. Điều này cũng chẳng đúng! E rằng chưa trọn vẹn. Nay theo giải thích của luận: để thành tựu cái nghóa trì kinh phước nhiều ở phần trên. Kệ nói: “Duy độc chư Phật pháp, phước đệ nhất nghóa”. “Sở Ngôn Phật Pháp”; chỉ có Phật là pháp của vô lượng Bồ-đề. “Tức Phi Phật Pháp”; là ngoài Phật ra, Nhị thừa, Bồ-tát không có pháp này, cho nên nói “Tức phi Phật Pháp”. Vì chỉ Phật mới có, cho nên pháp này là đệ nhất, nay trì kinh, phước có thể sinh ra pháp đệ nhất, do đó cái phước của trì kinh, phước ấy hơn hết. “Tu Bồ-đề, Ư Ý Vân Hà, Tu Đà Hoàn Năng Tác Thị Niệm…”: Đây là phần hai, giải thích thành nghóa so sánh, chương này chia ra hai phần: 1.Nêu Nhân quả của Tiểu thừa để thích thành nghóa của so sánh; 2. Nêu Nhân quả của Đại thừa để thích thành nghóa so sánh. Hai phần này, mỗi phần đều chia ra hai đoạn, hai đoạn của phần một là: 1.Nêu Nhân của Tiểu thừa để thành nghóa so sánh; 2. Nêu quả của Tiểu thừa để thành nghóa của so sánh, nay tức là đoạn một. Hỏi: Vì sao lại nêu nghóa của Đại Tiểu thừa để thành cho so sánh? Đáp: Chương trên nói “những điều Như Lai thuyết đều chẳng thể thủ, chẳng thể nói”. Cho đến “tất cả Hiền Thánh đều thể ngộ thật tướng vô vi mà có sai biệt”, mà ý của những lời nói trên tức là nói rằng ngộ cái nghóa của Thật tướng vô y vô đắc. Vì ngộ vô y vô đắc, cho nên cần phải có Đại Tiểu thừa Hiền thánh khác nhau. Người nghi ngờ nói rằng: Nếu nói chư pháp bất khả thủ, bất khả thuyết, vô y vô đắc thì vì sao Tiểu thừa thủ lấy thì đắc bốn quả, cho đến Đại thừa thì chứng đắc Phật? Vì đại, tiểu thừa đều có chứng đắc mà biết chẳng phải là vô y vô đắc. Vì Đại Tiểu Thừa đều nói là có chứng đắc, cho nên biết chẳng phải là bất khả thuyết. Nay để giải thích mối nghi đó mà nói rằng Đại Tiểu thừa tuy có chứng đắc nhưng thật thì vô sở đắc, tuy Hữu sở thuyết nhưng thật thì vô sở thuyết. Do đó nên biết vô thủ, vô thuyết, vô y, vô đắc. Vì vậy mà nêu ra Đại Tiểu Thừa để giải thích thành nghóa của “bất khả thủ, bất khả thuyết… cho đến” Đầu nhờ vô vi pháp mà có sai biệt” ở phần trên. Hỏi: Vì sao mà thành sự so sánh trên? Đáp: Chư pháp nếu là khả thủ, khả thuyết, hữu y, hữu đắc thì thọ trì không có công đức, lương do vì Bát-nhã vô thủ, vô thuyết. Do vậy mà thọ thì phước đức vô biên. Hỏi: Văn phần sau kinh này nói: thuyết cho những người Đại Thừa, nếu những người vui thích với Tiểu pháp thì chẳng thể nghe nhận. Kinh Đại Phẩm nói: “Bát-nhã là Bồ-tát pháp, chẳng thuộc Nhị Thừa”, nay vì sao lại dẫn Tiểu Thừa để chứng thành? Đáp: Đó là nêu ra Tiểu để so sánh với Đại. Nói rằng người Tiểu Thừa còn ngộ vô y vô đắc vô thủ vô thuyết thì vì sao Bồ-tát lại chẳng tin pháp (thuộc phạm trù) vô sở đắc? Như kinh Đại phẩm dẫn vị Ni xưa kia để làm chứng, vì người nghe nghe chư pháp tất cánh không, chẳng tin nhận, vì vậy mà dẫn vị Ni xưa kia để làm chứng. Người Tiểu Thừa còn tin pháp không, nay người Đại thừa trong vô tướng pháp há lại chẳng tin không hay sao? Lại nữa, nay là Tam thừa (thuộc phạm trù) vô sở đắc, đó là cái dụng phương tiện thiện xảo của Bát-nhã, đó là Tiểu thuộc Đại, chứ chẳng phải Tiểu Thừa (thuộc phạm trù) Hữu sở đắc. Lại nữa, vì muốn dẫn dắt người Tiểu Thừa khiến cho họ nhập vào Đại pháp. Vì muốn tiểu thừa cũng cần phải học pháp này, như kinh Đại phẩm nói: “Chư Thiên Tử! Các ông muốn Tu Đà Hoàn quả cũng chẳng lìa Nhẫn này”. Hỏi: Nếu vậy, pháp này là thông cả ba thừa? Đáp: Như những người quán trung Đạo, có ba phẩm: Hạ Trí quán mà đắc Thanh văn Bồ-đề, Trung trí Quán mà đắc Duyên Giác Bồ-đề Thượng Trí quán mà đắc Phật Bồ-đề. Hỏi: Vì sao trong pháp Thanh Văn, lập ra bốn quả? Trong pháp Bồ-tát, chia thành mười Địa? Sư đáp: Nay cần phải mở ra con đường này, con đường này bị b61 tắc dã lâu. Nay tỏ rằng vô ngại thông phương thảy đều đắc, Thánh nhân thiện xảo, vì muốn Xuất Xử chúng sanh, tùy theo căn tánh mà khai mở ra Đại, Tiểu. Nhưng xét cho cùng thì chưa từng Đại, Tiểu. Nay đặt ra Đại, Tiểu là tùy theo căn duyên mà khai Đại, tiểu phương tiện, mà Đại, Tiểu bất đồng, là do bởi sự thông và Biệt. nếu xét theo mặt Thông, thì Đại hay Tiểu đều có thể gọi đó là Địa. Đại hay Tiểu đều có thể gọi là Quả, như Tam thừa công thập địa, Bát Nhơn Địa kiến Địa tức là Tu Đà Hoàn Quả, Bạc Địa tức là Tư Đà Hàm Quả. Ly Dục Địa tức là A Na Hàm quả. Dó Biện Địa tức là A La Hán Quả. Trong Bồ-tát pháp, Dó Biện Địa thuộc về Phật Địa, vì vậy mà biết Đại và Tiệu đều có thể gọi là Địa. Đại hay Tiểu đều gọi là quả. Tiểu Thừa đã gọi là Tứ quả, Bồ-tát Thập Địa cũng gọi là Thập Quả. Kinh Đại phẩm nói: “Hữu pháp là Bồ-tát Đạo, Vô Pháp là Bồ-tát Quả”. Nếu luận theo mặt Biệt; khai Ba Đại, Tiểu khác nhau thì quả địa cũng khác, Tiểu Thừa thì gọi là Nhân Quả, Bồ-tát thì gọi là Thập Địa. Dở dó Bồ-tát gọi là Địa là vì Bồ-tát thì thắng trì hơn, phổ độ rộng lớn hơn, Năng sanh, năng thành, có những ý nghóa đó nên gọi tên là Địa. Thanh văn thì không có những ý nghóa đó, nên chẳng gọi là Địa. Người Thanh Văn chán ghét Lão, bệnh, tử, muốn nhập Vô Dư mà đoạn trừ phiền não, toại lòng nguyện vọng, nên gọi là Quả, Bồ-tát không có những sự việc đó nên chẳng gọi là Quả. Mà lại có ý nghóa hổ tương cùng nêu ra, sự đó thường thông. Vì sao mà biết? Như ba loại đều là Thừa, ba loại đều là Đạo, ba loại đều là Địa, ba loại đều là Thánh Nhơn, còn Địa há lại chẳng thông sao? Cho nên biết tùy nêu ra một nghóa mà thôi. Hỏi: Theo nghóa Tiểu Thừa, khi nói về Hoặc, chỉ có Kiến Đế tư duy đoạn Tam giới kiến Đế Hoặc thì đã lập Sơ quả. Đoạn tư duy cũng lập một quả. Nếu vậy đúng phải thì chỉ có Hai quả, sao lại có bốn quả? Nếu đoạn tam giới tư duy đã lập ra ba quả thì tma giới kiến Đế cũng phải lập ra ba quả. Lại nữa, nếu dựa theo Giới mà chia. Đã có Tam giới, thì Đoạn Tam giới Hoặc, đúng phải có ba quả. Vì sao đoạn trừ Hoặc của Dục giới, lập ra hai quả, Đoạn Hoặc của hai giới trên thì chỉ lập ra một quả? Nếu dựa theo tónh và tán mà chia thì Dục giới đã là Tám Địa, Đoạn hoặc của Dục giới, đúng phải chỉ lập một quả. Hai giới trên đã là Tónh Địa, Đoạn hoặc của hai giới cũng phải lập một quả. Nay vì nhân duyên gì chẳng dựa theo các nghóa đó mà lập Nhân quả? Đáp: Đó là Như Lai thiện xảo giả danh chế lập, không có tướng nhất định, xét theo mặt thông thì có đủ như câu hỏi trên. Nhưng nay chẳng vậy: Đoạn giới Kiến Đế Xuất khỏi Tam Đồ (ba đường ác đạo) đó là Thánh nhân, cho nên lập người Sơ quả. Dựa theo Đoạn Tam giới tư duy mà lập ra thêm ba quả; Đoạn Dục giới tư duy, lập ra hai quả, Đoạn tư duy của hai giới trên thì chỉ lập ra La Hán quả. Vì sao lại vậy? Dục giới là khổ Nan Địa, Địa này khó mà vượt qua, do vậy Đoạn trừ Hoặc của Dục giới, lập ở Hai Quả. Hai giới trên chẳng phải là khổ Nạn Địa, đã có nền tảng của giải thì Hoặc sẽ dể đoạn trừ. Do vậy Đoạn trừ Hoặc của hai giới trên chỉ lập ra A La Hán quả. Nói “Đoạn trừ Hoặc của Dục giới, lập ra hai quả là; Dục giới tư duy có chín phẩm, đoạn trừ sáu phẩm trước gọi là Tư Đà Hàm quả, đoạn đủ cả ba phẩm sau gọi là A Na Hàm quả. Sở dó đoạn trừ sáu phẩm trước lập Tư Đà Hàm quả là vì trong Tỳ Bà Sa, Hòa Tu Mật luận sư nói rằng: phiền não của sáu phẩm trước có khả năng phát vô tác, làm nhuận cho ba đồ, do đó đoạn sáu này chế lập ra một quả, hơn nữa đã chia hoặc ra thành chín phẩm thì ba phẩm trước và giữa, những hoặc ấy ắt nặng do đó đoạn trừ chúng mà lập thành một quả, ba phẩm sau thì nhẹ, đoạn trừ chúng mà lập A Na Hàm Quả. Trang Nghiêm Sư nói rằng: Dục giới Tư duy chín phẩm phiền não làm nhuận cho nghiệp khá nhau: ba phẩm trước làm nhuận cho nghiệp biên địa bần cùng, ba phẩn tiếp theo làm nhuận nghiệp biên địa phú quý. Hỏi: Lập bốn quả này, xuất ở văn của kinh luận nào? Đáp: Tỳ Bà Sa dùng năm nghóa mà lập: 1. Xả bỏ Tằng Đạo (con đường, Đạo đã từng theo) 2. Đắc vị tằng đạo; 3. Đắc Nhất vị giải thoát; 4. Tu đủ mười sáu hạnh; 5. Tu đắc tám trí. Nay dùng đủ năm nghóa để lập sơ quả. Ba Quả sau có thể có đủ ba nghóa là; xả bỏ tằng Đạo, đắc vị tằng Đạo và nhất vị giải thoát. Những nghóa như vậy đã giải thích chi tiết trong cuốn số luận. Chỉ biết đó là phương tiện giả danh, chẳng như Số luận giải thích theo phạm trù Hữu sở đắc, Số Luận chỉ đắc danh tự, chẳng biết ý Phật. Trong văn nói về Sơ Quản có hai phần, trước hỏi, sau đáp. Trong phần đáp có ba phần: 1. Chánh đáp: tỏ rằng khi ngộ Sơ quả chẳng thấy Đắc và bất đắc, chứng và bất chứng, tức là thành nghóa bất khả thủ, bất khả thuyết ở phần trên. Từ “Hà Dó Cố…” là cú thứ hai, giải thích nghóa trên: “Tu Đà Hoàn”; đây nói về tu tập vô lậu, còn gọi là ngược dòng sinh tử. Dòng (lưu) có hai loại: 1- Dòng sinh tử tức là phiền não; 2.Dòng Đạo, gọi đó là chánh quán. Nay trong này nói đủ cả hai dòng (lưu) gọi đó là Nhập lưu, tức là nhập vào Dòng Đạo, chẳng nhập vào Dòng Đạo mà ngược dòng sinh tử, cho nên là Nhập Dòng Đạo. Mà nhập Dòng Đạo nhưng thật vô sở nhập, cũng vừa ngược dòng sinh tử nhưng thật thì vô sở ngược, cú thứ ba gọi là “Tu Đà Hoàn: là kết danh. Kinh khác nói là “Đắc Tu Đà”, gọi đó là câu quyển đoạn hết. Trước kia Quán Dục giới khổ, đoạn Dục giới khổ hạ phiền não, tiếp đó quán Thượng giới khổ, đoạn Thượng giới khổ hạ phiền não, trở lại quán Dục giới tập, tiếp đến quán thượng giới Tập cứ như vậy trên dưới khuất khúc tựa như câu quyển, cho nên gọi là câu quyển đoạn hết. Tam Tạng Sư nói: “Đắc Tu Đà Hoàn”; tiếng Hán gọi là Chí Lưu, như phiền não dẫn dắt con người đến với dòng sinh tử, Bát chánh Đạo dẫn dắt con người đến Dòng Niết- bàn. Hỏi: Vì sao chỉ nói “Bất Nhập Lục Trần”. Đáp: Đã chẳng nhập lục trần thì cũng chẳng nhập lục tình, lục thức, tức là tỏ về pháp không, chẳng thấy Tu Đà Hoàn, tức là Nhơn không. Vì nhập Đạo lưu vô sở nhập thì Niết-bàn bất khả đắc, ngược dòng sinh tử vô sở ngược, thì sinh tử bất khả đắc, cho nên bất nhơn, bất pháp, bất sinh tử, bất Niết-bàn mới gọi là Bát-nhã Tu Đà Hoàn. Quả thứ hai cũng có vấn đáp. Văn đến có thể biết rõ được. “Tư Đà Hàm”: Tiếng Hán là Bạc Dâng Nộ Si (mỏng tham sân si). Còn gọi là Nhất Vãn lai. Người này còn cảm hai lần sinh ra ở Dục giới, một lần sinh lên cõi Trời, một lần sinh trong cõi người, rồi thành La Hán, cho nên gọi là Nhất Vãn Lai. Còn gọi là Tần lai, vì trãi qua thọ nhận lai lần sinh ra, nên gọi là Tần Lai. Quả thứ ba là “A Na Hàm”, tiếng Hán gọi là Bất Hoàn, còn gọi là Bất Lai, Đoạn Dục giới kết tận, chẳng sinh ra ở Dục giới, cho nên gọi là Bất Lai, mà thật vô lai. Hỏi: A Na hàm gọi là Bất lai, đã nói thật bất Lai Tư Đà Hàm gọi là Nhất Vãn Lai thì đúng phải nói là Thật Vãn Lai. Trên nói Nhất Vãn lai thật vô văn lai thì A Hàm gọi là Bất Lai cũng nên nói là Vô bất lai? Đáp: Thật thì nên vậy, chỉ vì văn hổ tương nhau mà hiện ý. Nhưng chẳng vậy là vì A Na Hàm gọi là Bất lai, mà nói Thật Vô lai, tên gọi Bất lai này mà ngữ lời vô đắc, nghóa của chúng tương xứng nhau, cho nên dùng ngữ thuộc vô lai, trở lại giải thích Danh bất sinh, sự khác nhau của tên gọi hai quả tên là ở đó, cho nên chẳng gọi giống nhau. Lại nữa, ý thật nên nói là “Mà Vô Bất Lai”, nay thiếu một chữ “Bất”, chỉ nói là “Vô lai”. “Vô” tức kiêm luôn cả “Bất”, vì lược bớt để khởi bị rườm lời. Hỏi: Bốn quả trong mười Trí, có đủ mấy trí? Đáp: Sơ quả và Nhị quả, trong mười trí, ngoại trừ Tâm vô sanh trí và Tha Tâm trí. Hỏi: Phàm phu, ngoại đạo còn đắc Tha Tâm. Thú Nhơn hai quả vì sao chẳng đắc? Đáp: Thánh nhơn chẳng phải chẳng đắc. Nếu đắc Tha tâm tức là đắc Tứ thiền đoạn Dục giới, chẳng còn sơ quả nhị quả nữa. Người đệ tam quả đắc tám trí, thêm tha tâm trí, đệ tứ quả có đủ mười trí. Từ Đệ tứ quả trở đi, tức là phần hai, nên quả của Tiểu thừa để thành nghóa so sánh. Ba loại kể trên, tuy đều xưng là Quả, nhưng nếu vọng đến La Hán thì đều là Nhân. Trong văn này lại chia ra hai phần: 1. Thông nêu La Hán; 2. Biệt tỏ về Thiện Cát, trong phần một cũng có Hỏi đáp. Trong phần đáp, có ba phần: 1. Trực đáp; 2. Thuận giải thích đáp; 3. Phản giải thích đáp. Hỏi: Bốn người đều xưng là Quả, vì sao ba người trước thì gọi là quả, La Hán thì gọi là Đạo? Đáp: Danh của Quả và Đạo, đều thông cả bốn người, nhưng vì La Hán thì Đức của họ đã cùng cực, để phân biệt với ba loại người trên, chỉ gọi là Đạo. Vì sao vậy? Kinh nói: Bồ-đề gọi là Tận trí, Vô Sanh Trí “Bồ-đề”, tiếng hán gọi là Đạo. La Hán đã đắc hai trí đó, gọi danh là Đạo ba quả kể trên chưa đắc hai trí, chẳng danh là Đạo. Phần hai, chỉ căn cứ theo sự ngộ giải của Thiện Cát để làm chứng: Thiện Cát vẫn còn là La Hán, nhưng nay là chủ đối dương. Lại nữa, Thiện Cát không đắc thắng Định, khác với người khác, lại tự dẫn mình để làm chứng, muốn khiến cho nghóa được rõ ràng. Văn có bốn phần: 1.Phật nêu những quả đã đắc; 2.Quả ấy chẳng tác ý Đắc; 3. Nếu có ý đắc thì chẳng được Phật ấn chứng; 4. Vì vô trước mà được Phật tán thán; “Nhơn trung tối vi đệ nhất”, có ba loại đệ nhất: 1.Nhơn đệ nhất; 2.Ly đệ nhất, đó là ly hai loại chướng: a. Ly phiền não chướng, b. Ly Định chướng; 3.Đức đệ nhất, tức là đắc Vô Tránh Định và Trí đoạn phiền não chướng và trí đoạn Định chướng. Hỏi: Gồm có ba nghóa: 1.Xưa kia nghe Phật thuyết tam muội này có nhiều thứ công đức, tâm tin mong đắc, nay thành La Hán, mà tu Định này, do nhờ Nhân xưa kia, bèn tu tập đắc; 2. Khi còn phàm phu, ở chỗ nhiều người, hay sanh khởi tránh mà chịu khổ báo, nay đắc Vô Học, nhớ lại chuyện xưa, hối hận mà tu Định này; 3. Muốn khiến cho nhiều người đắc quả báo hiện tại mà trở lại tu Định này. Đắc Định này rồi, trước tiên là tác phương tiện, thủ hộ tâm người khác, không có một chúng sanh nào khởi tranh cải với ta, rồi sau đó hiện thân, cho nên gọi là Vô tránh. Hỏi: Dùng pháp phương tiện nào để tu định này? Đáp: Trong tiền tán tâm, phát nguyện, tùy theo tâm nguyện, phải giới hạn gần xa, hoặc một vùng, một thôn, nhân vật, xứ sở, nguyện thấy hình dáng, họ tên của họ và biết tâm sở của họ thú hướng đến phát nguyện này rồi, nhập vào Đạt phần Tam Muội, nhưng những điều mình mong nguyện xưa đều thấy rõ ràng, sự này xong rồi, trở lại xuất tán tâm nhớ lại những điều thấy ở trong Định cũng như thấy trong mộng, tỉnh giấc mộng rồi nhớ lại, nhờ vào người đó mà có thể ngăn chặn Ác, sanh ra thiện, chẳng phiền não người khác, cho nên gọi là Vô Tránh. Vô Tránh và Nguyện trí tương thành cho nhau, như trước kia nói. Hỏi: Vô Tránh là gì? Đáp: Có người nói: Từ tâm là Vô tránh, vì từ tâm chẳng tránh với vật, có người nói: Đệ Tứ Thiền gọi là Vô Tránh. Vì Định này lìa khỏi tam tri, miển bị tứ thọ. Có người nói: Không giải là Vô Tránh Định. Có người nói: Vô Tránh Trí là Vô Tránh Định. Nay y theo luận giải thích: Luận nói: “Theo Thiện Cát kia là người viễn ly hai loại chướng, đoạn phiền não, mà đắc La Hán. Đoạn Tam Muội Chướng, đắc Vô Tránh Định”. Mới biết Định này là Biệt (riêng), là phương pháp Định, chẳng phải là không Giải, cũng chẳng Tứ Thiền, cũng chẳng phải là Từ tâm. Hỏi: Văn nói “Ly Dục La Hán”, là ly dục gì? Đáp: Chẳng phải là Dục phiền não, mà là Thiện Cát thích Tu Hạnh A Lan Nhã, viễn ly những cảnh ngũ dục, ngũ trần, gọi đó là Ly Dục. “A Lan Nhã”; tiếng Hán gọi là vô sự, tức là thong dong tự tại, chẳng bị gò bó bởi trần lụy. Bốn đoạn văn khá dể hiểu, chẳng cần xuất. “Phật Cáo Tu Bồ Đề, Như Lai Tích Tại Nhiêu Đăng Phật Sở…” là phần hai, nêu Đại thừa nhân quả để giải thích thành nghóa trên. Văn có hai phần: 1.Nêu Nhân Đại thừa để giải thích thành nghóa trên; 2. Nêu quả Đại thừa để giải thích thành nghóa trên. Trong phần một nêu nhân Đại thừa, chia ra hai phần: 1.Thọ ký; 2.Nghiêm thổ. Đây là phần một. Sở dó có văn này đến là do vì đoạn văn “Như Lai sở thuyết pháp bất khả thủ, bất khả thuyết” trên sinh ra. Nếu nói chư pháp bất khả thủ thì xưa kia khi còn Nho Đồng Bồ-tát đúng phải chẳng được thọ ký. Nếu xưa kia khi còn là Nho Đồng Bồ-tát bèn được thọ ký thì chư pháp khả thủ. Nếu nói chư pháp bất khả thuyết thì nHiên Đăng Phật chẳng nên thọ ký cho Thích Ca, đã thọ ký cho Thích Ca “Ông vào đời sau sẽ được làm Phật” tức là khả thuyết. Vì thời Hội có mối nghi đó, Phật đằng theo chúng nghi mà hỏi Thiện Cát. Cho nên nói rằng: “Như Lai ở nơi Nhiên Đăng Phật có pháp đắc Bồ-đề không?” Thiện Cát đáp: “Ở chỗ Nhiên Đăng Phật Thật vô sở đắc”, ý nói chẳng thấy Nhơn là Năng Đắc, không có thọ ký đề khả đắc”. Đầy đủ như trong kinh Tịnh Danh (Duy Ma Cật) chương Di lặc thọ ký, vô đắc, vô bất Đắc như vậy mới gọi là Đắc thọ ký. Đắc này thật vô sở đắc. Người phương Bắc nói: gồm có bốn thời thọ ký: 1.Thọ ký khi Tập chủng tính chẳng hiện tiền; 2.Thọ ký khi Đạo chủng tính cũng chẳng hiện tiền; 3.Thọ ký khi Sơ Địa hiện tiền; 4.Thọ ký khi Bát Địa Đại Vô Sanh Nhẫn hiện tiền. Trong văn này nói khi Thích Ca còn là Tập chủng tính Bồ-tát, đã được thọ ký khi chưa đắc Sơ Địa, đã lên vô sanh pháp nhẫn. Nay Phật hỏi Thiện Cát rằng: “Ta vào thời ấy đã chứng Sơ Địa Vô Sanh pháp Nhẫn Tam Bồ-đề ư?”. Thiện Cát đáp rằng: “Như Lai thời ấy chưa đắc Sơ Địa Vô Sanh pháp nhẫn Tam Bồ-đề, cũng chưa đắc Kim Cang về sau thường trú tam Bồ-đề”. Nay nói rằng Luận không có nghóa trên, hơn nữa điều trên chưa thấy kinh nói. Nếu theo nghóa mà suy, về lý thì chẳng thể nào. trong văn này là nói về nghóa vô y vô đắc, phá mối nghi hữu y hữu đắc, thành ý bất khả thủ, bất khả thuyết đã nói ở phần trước, sao lại dùng hành vị cạn sâu giải thích. Vì vậy mà chẳng đúng với nghóa, trong kinh chẳng nói không có Tam Hiền Thập Thánh. Kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng có văn nói về bốn loại thọ ký, chẳng phải là chánh ý trong văn này. “Ư Ý Vân Hà, Trang nghiêm Phật Thổ Bất…” đây là phần hai, biện về nghiêm Thổ, thích thành nghóa trên: Ý đến giống như phần trên. Nếu nói chư pháp bất khả thủ, bất khả thuyết thì sao Bồ-tát lại thủ Tịnh Phật Thổ Hạnh? Để giải thích mối nghi đó, cho nên có đoạn văn này đến. Hỏi: Nhân hạnh thì vô lượng, vì sao trước biện về thọ ký, nay nói về Tịnh Thổ? Đáp: Thọ ký là Bồ-tát tự hạnh, nghiêm Thổ là Hóa Tha Hạnh. Tự Ngộ vô sanh mà được Phật thọ ký, đó là Tự hạnh. Những loài chúng sanh là Bồ-tát Phật Thổ, cho nên hành hạnh Nghiêm thổ, tức là Hóa Tha Hạnh, Hạnh môn tuy nhiều, chẳng ngoài hai thứ này. Vì vậy mà tỏ rõ. Lại nữa, trước là luận về đắc thọ ký, tức là chánh giả, nay là luận về Nghiêm thổ, tức là y Quả. Lại nữa, Bồ-tát sau khi đã đắc Vô Sanh, chẳng còn một việc việc nào khác, duy chỉ thành tựu chúng sanh Tịnh Phật quốc thổ. Cho nên tiếp đó là cú thứ hai đến. Văn cũng có hai phần: 1- vấn. 2- Đáp. Ý của câu hỏi có thể hiểu được. Trong phần đáp có hai phần: 1- Chánh tỏ về sự chơn và ngụy của Nghiêm Thổ. 2- Khuyên Tu Nhân Tịnh Thổ. Nay tức là phần một. Nếu theo thuyết của kinh Đại phẩm thì trong văn này thủy chung viên thành một ý, tức là Bồ-tát lấy Vô Địa trang nghiêm làm trang nghiêm, tuy Đại trang nghiêm mà thật vô trang nghiêm. Nhưng theo giải thích của Luận thì trong văn này nói: “Tu Bồ-đề Ngôn: Bất Dả! Thế Tôn!” Đây là tỏ rằng Như Lai pháp thân thật không có (vô) thất bảo hình tướng trang nghiêm, vì vậy, chẳng nên nói Bồ-tát có thất bảo Tịnh Thổ để có thể thủ lấy. “Như Lai Thuyết Trang nghiêm Phật Thổ”; Người nghi nói rằng: Nếu hình tướng trang nghiêm chẳng phải là chơn thổ thì vì sao Phật lại nói lấy bảy báu làm tịnh thổ, bảo Bồ-tát tu Nhân Tịnh Thổ, thủ quả Tịnh Thổ? Vì vậy mà nay giải thích rằng: Như Lai lấy chánh pháp làm thân, vô thân, phi thân. Do đó vô thổ, nay nói hình tướng là tịnh thổ, đó là vì những người mới bắt đầu hành, khiến họ vứt bỏ sự ô uế của Đất cát mà thủ lấy sự trong sạch của ngọc báu mà thôi, chẳng phải là Đệ nhất nghóa chơn Tịnh Thổ, cho nên nói “Như Lai Trang Nghiêm Phật Thổ Tắc Phi Trang Nghiêm”. “Thị Danh Trang Nghiêm”; Đây là Đệ nhất nghóa chơn thật trang nghiêm, chính là lấy chư pháp thật tướng, không có Đức nào mà chẳng trọn sẳn, không có lụy nào mà chẳng trong sạch, cho nên gọi là “Trang nghiêm”. Làm chỗ ngừng nghó cho bậc chí Nhơn cho nên nọi đó là “Thổ”. “Ưng Như Thị Sanh Tịnh Tâm…”. Đây là phần hai, tỏ về Nhân của Tịnh Thổ. Phần trên đã nói về quả của Thổ thuộc Thế tục biệt tướng, tỏ rõ Đệ Nhật nghóa chơn Tịnh Phật Thổ, cho nên nói về hai Thổ, chơn và ngụy khác nhau, phần nói về Nhân, có sự khác nhau giữa đắc và Thất. Văn chia ra ba phần: 1.Chánh khuyên tu về đắc; 2.Khuyên xả bỏ thất; 3. Trùng khuyên tu về Đắc. Câu “Ưng Như Thị Sanh Thanh TỊnh Tín Tâm”. Đây tức là khuyên tu đắc. “Bất Ưng Trú Thanh Hương Vị Xúc Pháp Sanh Tâm”. Đây là cú thứ hai, khuyên xả bỏ Thất. “Ưng Vô Sở Trú…”. Đây là cú (câu) thứ ba, khuyên tu đắc. “Tu Bồ-đề, Thí Như Nhữu Nhơn, Thân Như Tu Di Sơn Vương…”: Đây là phần hai, nói về quả của Đại thừa, làm chứng cho vô thủ, vô thuyết ở phần trên, thành nghóa của so sánh. Văn này chia ra hai phần: 1. Phật vấn; 2. Thiện Cát đáp. Đây là phần một. Hỏi: Người của Thành Luận giải thích rằng: “Sơn vương rộng lớn là dụ cho Vô tướng Lý rộng lớn”. Đáp: Nay cho rằng chẳng phải vậy! Chẳng những nghóa không có thứ lớp, vừa lại vẫn không có chỗ xuất. Nay y theo luận, phần này sinh khởi cũng vẫn là để giải thích mối nghi ngờ. Nghi rằng: Nếu vô thủ, vô thuyết thì làm sao chư Phật thủ đắc Bồ-đề mà vì người khác thuyết đắc Bồ-đề? Sở dó nêu ra Tu Di Sơn là vì Tu Di là ngọn núi lớn nhất trong mười bảo sơn để ví như Phật là lớn nhất trong mười Địa. “ Tu Di”; tiếng Hán gọi là Diệu Cao Sơn, còn gọi là An Minh Sơn. Phần giải thích này, ý nói rằng: Như Tu Di Sơn tuy lớn nhất trong mười bảo sơn, cũng vô tâm nói lớn. Phật cũng vậy, tuy là lớn nhất trong chúng Thánh, cũng vô tâm nói là lớn, tuy đắc Bồ-đề cũng vô tâm nói đắc. “Phật Thuyết Phi Thân, Thị Danh Đại Thân”. Lại giải thích mối nghi. Nghi rằng: nghe (nói) Tu Di vô tâm nói lớn (không có tâm cho mình là lớn) thì cho rằng Phật ngang hàng với Tu Di, tức đã là Hữu Vi, Hữu Lậu, cho rằng Phật cũng là Hữu Vi, Hữu lậu. vì vậy mà nay giải thích rằng: “Phật thuyết Phi Thân”; tỏ rằng Phật khác với Tu Di, chẳng phải là thân hữu vi hữu lậu, cho nên nói “Phi Thân Thọ Danh Đại Thân”, tức là Thân vô vi vô lậu, mà nói rằng: “Thị Danh Đại Thân”. Hỏi: Ở đây nêu ra vị Phật nào trong ba vị Phật? Đáp: Chánh nêu ra báo Phật, bởi vì Báo Phật chính là tu nhân đã mãn, mà đắc Bồ-đề. Vì pháp Phật là Phật Tính, chưa đắc Bồ-đề, nên chẳng nói pháp Phật. Đắc Báo Phật rồi, mới khởi ứng hóa, cho nên Hóa Phật cũng chẳng đắc Bồ-đề, vì vậy chỉ nêu ra báo Phật. “Tu Bồ-đề, Ư Ý Vân Hà, Như hằng hà Trung, Sở Hữu Sa Số…”. Đây là phần hai, nêu ra Trân bảo nhiều như số cát trong những con sông hằng hà để bố thí, so sánh với trì thuyết bốn câu kệ. Sở dó có đoạn văn này là vì có hai nghóa: Một là phần trên nói Bố Thí ít, tức là châu báu của Tam Thiên thế giới (vì bố thí ít) nên chẳng bằng trì kinh. Nay tỏ rằng Bố Thí nhiều, nghóa là những Hằng Sa Thế giới trân bảo thì đúng phải bằng trì kinh, hơn nữa phần trên chỉ là Bố thí cho chúng sanh, tức là phước điền thua kém. Nay là Hằng Sa trân bảo cúng dường chư Phật, tức là phước Điền thắng hơn thì đúng phải bằng trì kinh. Nay tỏ rõ rằng; tuy Bố thí nhiều, phước Điền thắng hơn nhưng do vì Bố thí (thuộc phạm trù) Hữu sở đắc, nên cũng chẳng bằng trì kinh. Hỏi: Trước nói Đại Thiên để so sánh, đã chẳng bằng trì kinh, vì sao ngay lúc đó chẳng nói Hằng sa trân bảo để so với trì kinh? Đáp: Tăng con số để làm rõ nghóa, từ ít đến nhiều, thật ứng với thứ lớp, chỉ vì phần trên nghe nói Bố thí Đại Thiên trân bảo chẳng bằng trì kinh, thời hội hoặc có người chưa hiểu vì sao chẳng bằng, vẫn còn cho rằng Bát-nhã là khả thủ, khả thuyết, sao lại thọ trì tứ cú mà hơn hẳn bố thí đại thiên trân bảo? Vì thế mà giải thích rộng về mối nghi trên, tỏ rằng: Vì Bát-nhã chẳng phải là khả thủ, khả thuyết, cho nên tứ cú tuy ít, nếu trì nếu thuyết thì phước ắt nhiều. Bố thí tuy nhiều nhưng vì đó là khả thủ, khả thuyết nên phước ấy ắt ít. Giải thích mối nghi trên rồi, mới nói rõ nguyên do thắng hơn, do vậy mới càng so sánh thân. Trong đoạn văn này, chia thành hai phần: 1.tài thí phước nhiều; 2. So Sánh pháp thí. Phần một có hai phần. Hỏi và đáp, tức là hai ý: 1.Số cát nhiều; 2. Phước đức nhiều. Nay dựa theo vấn và đáp theo nhau mà chia ra bốn phần: 1.Nêu số cát để hỏi; 2. Xưng sự việc mà đáp; 3. Nêu tài thí để hỏi; 4.Bố thí phước nhiều. Trong phần một. Hỏi, có ba ý: 1. Nêu một hằng sa làm gốc; 2. Dùng số cát làm số con sông; 3. Dùng ý: Thẳng đáp là “Đa” (nhiều); 2. Theo sau đó là phước đức. “Đản Chư Hằng Hà…”, hiểu rõ nghóa “Đa” (nhiều). Số con sông đã là vô biên, huống nữa là số cát trong số con sông đó thì làm sao mà đếm được. Hỏi: Vì sao trong Phật thường nêu ra Sông hằng để làm dụ. Đáp: 1.Trong bốn con sông, sông Hằng lớn nhất, cát của sông này lại nhiều cho nên nêu ra làm dụ; 2.Ngoại đạo nói rằng; con sông này là sông tốt lành, người vào trong sông tắm rửa, tội lỗi sẽ được trong sạch, cho nên nêu làm dụ; 3. Tên của các con sông khác thường bị thay đổi, tên con sông này đời đời chẳng đổi. Lại nữa, năm nghiệp Thiên trúc ở bên bờ sông này, Phật đệ tử mắt thấy, cho nên nêu ra làm dụ, tại đỉnh núi Hương Sơn có hồ nước A Nậu Liên trì chảy ra bốn con sông, Hằng Hà tức là một trong bốn con sông đó. Có người nói, con sông này dài tám ngàn dặm, chỗ rộng đến bốn mươi dặm, chỗ hẹp thì mười dặm cát trong con sông này rất mịn như bột mì, nước có màu trắng như sửa, nơi sâu ngựa voi qua đều chìm. Tiếp đó là so sánh, văn có thể hiểu. Về tài thí chẳng bằng pháp thí, có đủ nhiều nghóa: Thời pháp thí, người Năng Thí đa phần là Thánh Nhơn Trí Nhơn, còn Tài Thí thì người năng thí chẳng vậy, người ngu không có khả năng thực hành Bố thí pháp, cho nên tài thí thì liệt kém, pháp thí thì thắng hơn. Người thọ nhận pháp thí cũng ắt phải là người trí mới có thể thọ nhận, người ngu và Súc Sanh chẳng thể thọ nhận, do vậy mà nói pháp Thí là thắng hơn. Đắc phước hơn. Tài Thí thì chỉ người Năng Thí được phước, người thọ nhận thí thì chẳng được phước, còn pháp thí thì cả hai người Năng và Sở đều đắc phước, vì vậy mà thắng hơn. Pháp thí thì Năng thí và Sở thí đều đắc mà chẳng thất. Nếu tài Thí người thọ nhận bố thí đắc quả năm sự, người Năng thí thì thất. Tài Thí thì chỉ ích cho Nhục Thân, pháp thí thì ích cho pháp Thân. Pháp thí thì có thể đoạn Hoặc, tài thí chỉ là chế phục tính keo kiết. Pháp thí thì xuất ra Hữu pháp, tài thí thì Hữu Lưu. Tài thí thì quả Hữu tận, pháp thí thì quả vô tận. Tài thì thì chẳng nhất thời đắc, pháp thí thì nhất thời mà đắc. Pháp thí thì đủ cả bốn nhiếp, Tài thí thì chỉ một Nhiếp. Do đó, pháp thí hơn hẳn tài thí. “Phục Thứ, Tùy Thuyết Thị Kinh…”: Phần trên đã nêu ra hai việc tài Thí để so sánh bốn câu kinh, từ đây là phần hai, khen ngợi nơi chốn và người thọ trì kinh. Kinh ở tại nơi nào thì Nơi ấy được tôn quý, ở tại người nào thì người ấy được tôn quý. Văn có bốn phần: 1. Kinh tại nơi nào thì nơi ấy được trọng; 2.tại người nào thì người ấy được tôn; 3.Giải thích về người được tôn; 4. Giải thích về nơi được trọng. “Như Tháp”: Tiếng ngoại quốc là Tháp bà, còn gọi là Chi Đề. Tiếng Hán là phương phần (một phần). Vì tôn trọng pháp thân mà kính tháp, vì trọng kinh này mà cúng dường nơi kinh sở tại. Hỏi: Kinh Đại Phẩm nói: “Trọng mười phương, Xá Lợi là một phần, kinh quyển là một phần. Phật hỏi Thiên Chủ: Trong hai phần, ý thủ lấy phần nào? Đáp: Thà thủ lấy kinh quyển Bát-nhã, vì có thể sinh ra Xá lợi và tất cả Phật pháp”. Nếu vậy, nay sao lại nói là “Như tháp”. Nơi kinh sở tại, nếu nói là “Như tháp” thì quyển Bát-nhã đúng phải như tháp xá lợi. Đáp: theo lý thì đúng thật phải hơn tháp, chỉ vì thế gian kính tháp, cho đó là cực kỳ tôn quý, nên nay chỉ mượn để dụ mà thôi. “Hà Huống Hữu Nhơn…” là phần hai, ở tại người nào thì người ấy được tôn quý. “Đương Tri Thị Nhơn…” là phần bốn, giải thích về nơi được tôn quý. Kinh này là mẹ của chư Phật, sinh ra chư Phật và Tam Thừa Thập Địa. Kinh Đại phẩm nói: Nơi Bát-nhã sở tại, mười phương chư Phật thường tại trong ấy. Vì vậy muốn cúng dường Phật, nên biết cúng dường Bát-nhã. Bát-nhã và Phật, là không hai không khác, vì vậy mà nói “Tức “Cập Tôn Trọng Đệ Tử”; Nơi này có Văn Thù, Phổ Hiền, chẳng phải chỉ có Mục Liên, Xá-lợi-phất. Kinh Đại Phẩm nói: Chư thiên hàng ngày ba thời lễ kính, những ngày lục trai thì lễ kính nhiều hơn. Cho nên nơi kinh sở tại, bốn bề điều khiến cho thanh tịnh sạch sẽ. “Đương Hà Danh Thử Kinh….”: Nếu theo khai thiện thị từ phần trên đến đây đều là nói về Thể của Bát-nhã. Còn chương này thì nói về Danh của Bát-nhã, tức là Danh thuyết. Nay cho rằng Danh thuyết hay Thể thuyết đều chẳng phải là không có nghóa đó, nhưng phần văn này còn thuộc về đoạn so sánh. Trong pần so sánh trên chia ra hai phần: Chánh nêu ra hai loại tài thí để so sánh trên chia ra hai phần: 1.Chánh nêu ra hai loại tài thí để so sánh và khen ngợi; 2. Biện về Danh của kinh. Sở dó biên về tên của kinh là vì phần trên đã nêu ra hai thí để so sánh và khen ngợi; kinh tại nơi nào thì nơi ấy quý, ở tại người nào thì người ấy tôn, thời chúng nghe nói kinh có những thắng đức như vậy đều muốn thọ trì, nhưng chưa biết tên kinh, do vậy mà ở đây biện về Danh vậy. Văn chia hai phần; trước hỏi, sau đáp. Trong phần hỏi có hai phần; Hỏi tên kinh. Hỏi về thọ trì. “Phật Cáo Tu Bồ-đề: Thị Kinh Danh Vi Kim Cang Bát-nhã…” là phần hai, đáp tên kinh, trên kia hỏi về tên kinh và thọ trì, nay trả lời cả hai điều. Chia ra hai phần: 1. Chánh đáp về tên kinh và thọ trì; 2.Giải thích thành ý trả lời câu hỏi. Nay trước tiên là đáp hai vấn đề, chia ra hai phần: 1.Đáp tên kinh; 2.Đáp thọ trì. Nay là phần một, đáp tên kinh: “Kim Cang Bát-nhã”: Bát-nhã chưa từng pháp thí (Dụ), phi thí (dụ) bất thí dụ), giả đặt danh là Thí (dụ), phi pháp, bất pháp, gượng đặt danh là pháp, phi Danh bất danh, gương đặt danh là kinh cang Bát-nhã mà thôi. “Dó Thị Danh Tự…” là đáp trì kinh. “Sở Dó Giả Hà…” là phần hai thích thành ý đáp câu hỏi. Trong phần đáp có ba đoạn: 1. Nêu tên là Kim Cang, tức là nói về cái nghóa cứng bén; 2. Khiển trừ Thể cứng; 3. Khiển trừ Dụng bén, phần trên là đáp về tên, tức là đã nêu ra cái nghóa cứng bén. Đây là phần tiếp theo, tức là khiển trừ thể cứng. Trong phần khiển trừ thể cứng, có hai cú: cú một: “Phật Thuyết Bát-nhã Tức Phi Bát-nhã” là ý nói rằng tâm hành Đoạn, cú thứ hai là “Như Lai Vô Sở Thuyết”, tức là tuyên ngôn ngữ. Hỏi: Câu “Bất khả thủ, bất khả thuyết” ở trên kia đã tỏ là tâm hành đoạn, ngôn ngữ tuyệt, nay vì sao lại còn nói tuyệt nữa? Đáp: Theo luận chia phần này thành hai cú: cú một tỏ rằng dưới có chỗ khác, cú hai tỏ rằng trên có chỗ đồng. Hỏi: Vì sao dưới có chỗ khác, trên có chỗ đồng? Đáp: Dưới đồng với Nhị thừa, trên khác với chư Phật thì Bát-nhã chẳng đủ để tôn kính thọ trì. Do vì dưới khác với Nhị Thừa, trên đồng với chư Phật, cho nên đáng tôn kính. Vì có ý khuyên vật, cho nên nói như thế. Dưới có khác: là vì phần trên đã nêu tên kinh là Kim Cang, nhưng Trí của Nhị Thừa dùng để Đoạn Hoặc cũng gọi tên là Kim Cang, chẳng biết kinh này tên kim cang là loại Kim Cang nào? Do vậy mà giải thích rằng: “Phật Thuyết Bát-nhã”. Đây là Bát-nhã của Phật, Kim Cang của Phật. “Tắc Phi Bát-nhã”, chẳng phải là Trí Huệ của Nhị Thừa, chẳng phải là Trí Huệ của Nhị Thừa, chẳng phải là Kim Cang của Nhị thừa. “Tu Bồ-đề, Ư Ý Vân Hà…”. Người ta nói: phần trước là nói về Đoạn tâm hành. Phần này là nói về tuyệt ngữ ngôn. Nay căn cứ theo luận ý chẳng vậy! Phần văn trên là nói về Dưới có khác. Cú này là nói về trên có chỗ đồng. thời hội nghi rằng: Chỉ có Thích Ca thuyết Bát-nhã này sao? Hay những vị Phật khác cũng thuyết Bát-nhã này sao? Phật điệp theo mối nghi ngờ của thời chúng mà hỏi Thiện Cát: “Như Lai Hữu Sở Thuyết Bất”, câu hỏi này ý hỏi rằng: Thích Ca riêng có thuyết này, những vị Phật khác chẳng thuyết Bát-nhã này sao? Tu Bồ-đề nói: “Như Lai Vô Sở Thuyết”, dây ý nói; không có thuyết riêng lẻ, vẫn đồng với thuyết của mười phương tam thế Phật, lìa khỏi Tam thế Phật thuyết thì không có một thuyết riêng biệt cả, cho nên kinh Đại phẩm, vô tác phẩm nói: “Khi thuyết Bát-nhã này, mười phương mỗi phương đều ngàn Phật hiện, đều htuye6t1 kinh Bát-nhã nà, những người nạn vấn đều tên là Thích Đề Viên Nhân, những người giải thích Bát-nhã đều tên là Tu Bồ- đề. Thiên chủ (hoặc là Thiên chúa) bèn hỏi: Chỉ hiện tại mười phương Phật tác thuyết này, vị lai chư Phật cũng tác thuyết này sao? Phật đáp: đương lai Di Lặc cũng thuyết như vậy”. Mới biết Thấp phương tam thế Phật đồng thuyết như thế. Kinh Đại phẩm là rộng, cho nên rộng nói về đồng, còn kinh này thì văn tóm lược nên lược nói về đồng. sở dó đồng là vì Bát-nhã chỉ là cùng một chánh quán, cùng một chánh Đạo há lại có khác sao? “Tu Bồ-đề, Ư Ý vân Hà…” đây là phần ba, khiển trì về Dụng bén. Bát-nhã đoạn trừ hai Hoặc, giả và thật, đắc hai giải, giả và thật, đó là Dụng của Bát-nhã. Nay tỏ rằng hai cảnh giả và thật đều là không, há lại có hai Hoặc để đoạn, hai giải Năng đoạn,đó là khiển trừ cái Dụng bén Họ nói rằng: trong đoạn này chia làm hai phần: 1. Nói theo quả là không; 2. Từ “Thân Tướng…” nói về chánh quả là không. Trong phần một lại có hai phần: 1. Nêu vi trần để tỏ rằng Thật pháp không; 2.Nêu ra thế giới để tỏ là Giả danh không. Nay y theo luận, đây là phần hai, giải thích để thành so sánh hơn kém. Vì chúng nghi rằng vì sao trì kinh ít mà nay giải thích rằng: Bố thí tuy nhiều nhưng đó là Nhân quả của phiền não trần nhiễm, vẫn trở lại đắc cái quả điên đảo sanh tử. Thí như Đại Thiên thế giới vi trần tuy nhiều nhưng vẫn trở lại thành cái quả thế giới trần thổ, tỏ rằng; bốn câu kinh tuy ít nhưng đó là cái Nhân bất điên đảo, vẫn đắc cái quả bất điên đảo, vì vậy mà trì kinh tuy ít nhưng đắc phước nhiều, bố thí tuy niều mà đắc phước ít. Văn nói: “Chư Vi Trần”; có hai loại vi trần: 1. Vi Trần thuộc về trần nhiễm; 2. Vi trần thành thế giới vô ký. Vì hai loại vi trần này lẫn lộn với nhau nên nay tách biệt chor rõ. “Chư Vi trần” là vi trần thành đất. “Phi Vi trần” là chẳng phải vi trần trần nhiễm. “Thị Danh Vi Trần” là kết, đó là vi trần thành đất. “Như Lai Thuyết Thế Giới…” trên là tỏ về Nhân, đây là biện về quả. Như văn (đã nói). Tiếp đó là nêu ra “Tam Thập Nhị Tướng”; người ta nói: phần trên là y quả không, phần này là chánh quả không. Trong phần y quả không thì có thật và gia. Nay phần chánh quả không thì có vấn và đáp. Nay nói rằng: phần trên đã nói “bất khả dó thân tướng kiến Như Lai” là đã tỏ rõ rằng chánh quả không, phần này còn nói lại làm gì? Căn cứ theo luận thì vẫn còn nằm trong phần giải thích để thành ý so sánh trên, ý nói rằng; chẳng những bố thí nhiều như vi trần mà phước cuãng chẳng bằng trì kinh, ngay cả nghiệp tướng bảo cũng chẳng bằng trì kinh. Trì kinh phước còn hơn cả nghiệp tướng hảo, há lại chẳng hơn bố thí hay sao? Vì vậy mà có đoạn văn này đến, trong phần này, tỏ rõ hai quả hơn kém, tức là hiểu rõ Nhai Nhân hơn kém. Quả pháp thân hơn hẳn quả tướng hảo, tức là Nhân pháp thân hơn hẳn Nhân tướng hảo, vì trì kinh là nhân của pháp thân, cho nên trì kinh phước thắng hơn nghiệp của tướng hảo. “Ư Ý Vân hà, Khả Dó Thân Tướng Kiến Như Lai Bất?”; có thể dùng thân tướng hảo thấy pháp thân hay không? Hỏi như thế. Tu Bồ-đề đáp rằng: “bất Khả Dó Thân Tướng Kiến Như Lai:’ chẳng thể với tướng hảo mà thấy pháp thân. “Như Lai Sở Thuyết Thân Tướng Tắc Phi Thân Tướng”, đây ý nói thân tướng nói đó chẳng phải là pháp thân. “Thị Danh Thân Tướng”; đó là Thân tướng hảo. “Tu Bồ-đề, Dó Hằng Hà Sa Thân Mệnh…”, phần hai, so sánh Nội thí. Trong phần so sánh với ngoại thí ở trên kia thì có hai phần: 1.Xả Tam Thiên thế giới thất bảo; 2. Xả Hằng sa thế giới thất bảo. Nay trong phần so sánh với Nội thí này cũng có hai phần: 1.Xả Hằng Sa thân mệnh; 2.Hàng ngày ba thời Xả hằng Sa thân mệnh để bố thí. Nay là phần một sở dó có phần văn này đến là vì phần trên nói về so sánh với ngoại thí, điều đó chưa đủ mà cho là dể. Nay xả bỏ thân mệnh, mới cho đó là trọng. Lại nữa, trên nói Ngoại thí là so sánh với hạ thí, nay nói nội thí là so sánh Trung Thí. Vì sao biết điều đó? Cuốn Đại Luận chê ngài Ca Chiên Diên cho rằng Nọi Thí là thượng. Nếu là Trì thí thì gọi là Hạ thí. Nội thí thì gọi là Trung thí. Nếu vô y vô đắc để thí thì mới là Thượng thí. Sao ngài lại cho trung là Thượng? Vì vậy mà biết Nội thí là trung thí, từ hạ thí mà so sánh dần cho đến dùng Trung Thí mà so sánh. Văn này chia làm hai phần: 1. Nói về so sánh; 2.Lỉnh giải thích nghi phần một lại chia làm hai phần: 1.Xả hằng Sa thân; 2.So sánh. Đây là phần một, nói rằng: “Xả Hằng Sa Thân”: kiếp sống hiện nay, xả bỏ một thân mệnh để bố thí, kiếp sống sau đó lại xả bỏ một thân một thể bố thí, cứ như thế xả hằng sa thân mệnh bố thí. Trong thọ nhận bố thí, gồm có ba trường hợp: 1. Kẻ thọ nhận bố thí, chỉ cần thân xác, chẳng cần mạng sống. Như chỉ cần ăn thịt. 2.Cần mạng chẳng cần thân xác, như oai gia chỉ muốn được mạng; 3.Thân và mạng (hoặc mệnh) đều cần thông cả hai trường hợp trên. “Nhược Phục Hữu Nhơn…” là phần hai, chánh so sánh. Tri và thuyết đều đắc công đức, như văn. <篇> <卷>QUYỂN 4 “Nhó Thời Tu Bồ-đề Văn Thuyết Thị Kinh….” Là phần lỉnh giải, giải thích mối nghi. Văn chia ra hai phần: 1.Lỉnh giải. 2.Giải thích nghi. Trong phần lỉnh giải, chia ra hai phần: 1. Lỉnh giải; 2. Phật thuật thành phần một. Lỉnh giải, chia thành bốn phần: 1.Tự mình lỉnh giải; 2.Người khác lỉnh giải; 3.Mình lỉnh giải dể; 4. Người lỉnh giải khó. Phần một lại chia làm hai phần: 1. Ngộ giải tướng mạo; 2.Chính nói về lỉnh giải. Phần một, tựa về lỉnh giải tướng mạo có bốn phần: 1.Nêu ra người lỉnh giả; 2.Pháp được lỉnh giải; 3.Chánh nói về lỉnh giải; 4.Lỉnh giải tướng mạo. Hỏi: được ngộ giải thì phải hoan hỷ, sao lại buồn khóc? Đáp: Tướng mạo khi giải ngộ có khác nhau, gồm có ba trường hợp: 1.Đắc giải ngộ bèn hoan hỷ, như kinh pháp Hoa, Xá lợi tử hân hoan vui mừng; 2. Đắc giải ngộ, buồn khóc, như đoạn văn này; 3.Đắc giải ngộ vừa vui mừng vừa buồn khóc, như Thiện tập Vương, buồn vui xen kẻ. Hỷ là vui mừng nay đắc ngộ, bi là buồn than xưa kia mê. Bi và Hỷ kiêm luôn cả hai sự. “Hy Hữu Thế Tôn….” Là phần hai, đắc giải. “Ngã Tòng Tích Lai Sư Đắc Duệ Nhãn Vị Tằng Đắc Văn”: Xưa nay giải thích kinh, trước và sau khác nhau: Một nhà nói: Kinh này có trước kinh Đại phẩm, lấy văn này làm chứng. Đã nói là “chưa từng nghe Bát-nhã”, vì vậy mà biết kinh này có trước kinh Đại Phẩm. Sư thứ hai nói: Kinh này thuyết sau kinh Đại phẩm (kinh Đại Bát-nhã). Đã thuyết sau khi đã thuyết kinh đại phẩm thì vì sao Thiện Cát lại nói “Xưa nay chưa từng được nghe”? Sư kia giải thích rằng: trước kia, trong kinh Đại phẩm, tuy Thiện Cát đã ngộ nhưng người trung căn,hạ căn chưa ngộ, nay đồng với những người chưa ngộ, cho nên nói “chưa từng được nghe”. Vì người Trung, hạ căn nay đắc ngộ nên đồng với sự đắc ngộ của họ. Cho nên nói “ Nay mới được nghe” mà thôi, sự việc này đã nói ở phần trên. Nay khai thêm một ý nữa; phần trên đã so sánh với ngoại thí. Như Lai tự mình khen ngợi kinh, khuyên vật thọ trì. Vì vậy mà thầy và trò cùng nhau khuyên duyên tín ngộ mà thôi. “Nhược Phục Hữu Nhơn Đắc Văn Thị Kinh…” là phần hai. Người khác (tha) đắc giải. “Tắc Sanh Thật Tướng”; Người khác nói rằng: “Thế Đế sanh, Chơn Đế bất sanh”, bèn hỏi rằng: Thật tướng tức là Chơn Đế, đã sanh thật tướng thì sao lại chẳng sanh Chơn Đế? Kia giải thích rằng: chỉ sanh Huệ của Thật tướng mà thôi. Thật tướng chẳng thể sanh, chỉ vì Huệ theo cảnh mà đặt tên gọi là Thật Huệ. Cảnh theo Huệ mà đặt tên. Vì vậy, sanh Huệ nói là Sanh Cảnh mà thôi. Nay nói rằng hai Đế đều sanh và bất sanh, như trong nghóa giải thích, văn ấy tức làm chứng. Có một sư dùng nghóa của Quán phát Trung, Trung phát Quán để chứng tỏ là sanh Thật tướng. Đó là Quán phát Trung; Chánh quán rõ ràng thì Thật tướng hiện tiền. Cho nên gọi là Sanh Thật tướng. Đó là dựa theo mê và ngộ mà nói: Với người mê thì chẳng hiện tiền, gọi đó là Thật tướng đã vậy, Phật tính cũng vậy. Xét cho cùng thì thật tướng chưa từng sanh hay bất sanh. “Thị Thật Tướng Giả Tức Phi Thật Tướng”: Người ta vẫn dùng Nhị Đế để giải thích câu văn này, như Thường Đàn. Theo Luận giải thích: “Thị Thật Tướng”; là chỉ riêng Phật pháp Đại thừa có thật tướng này, cho nên nói là Thật tướng. “Tức Phi Thật Tướng”; Thiên ma, ngoại Đạo không có thật tướng, cho nên nói là Phi Thật Tướng. “Thị Danh Thật Tướng”; Luận kinh có một trường hợp, nói rằng “Thật tướng thật tướng”, câu này chia ra hai Thừa, Thật tướng có hai loại: 1- Đại thừa Thật tướng. 2- Tiểu thừa thật tướng. Nay ở đây là Thật tướng Đại thừa, chẳng phải là Thật tướng Nhị Thừa, cho nên nói “Thật tướng thật tướng”. Trường hợp trước là ngoại thật tướng, trường hợp này là nội thật tướng. Sở dó có hai loại này là vì chỉ Phật pháp mới có Thật tướng và chỉ Đại thừa mới có Thật tướng, sanh ra Huệ của thật tướng nói là Hy hữu mà thôi. “Thế Tôn! Ngã Kim Đắc Văn…” là phần ba, tự ngộ là việc dể. Sở dó dể là vì: 1.Quá khứ đã giao nhân; 2.Hiện tại gặp Phật, có đủ cả Nội Nhân, ngoại duyên nên tín thọ là việc dể. Lại nữa, xét theo phần này; Tu Bồ-đề là Đại A La Hán. Như Kinh Đại Phẩm nói: “Bát-nhã thậm thâm, ai có khả năng tín giải? Đáp: Người chánh kiến đã thành tựu, lậu tận A La Hán có khả năng tín”. Nay Tu Bồ-đề đã là La Hán, cho nên tín giải chẳng khá. Nếu xét theo Bổn thì Tu Bồ-đề nội bí Bồ-tát Hạnh, hoặc có thể là Như Lai cổ xưa đến, thị hiện đồng với chúng mê, cho nên ngội giải là điều dể. “Nhược Đương Lai Thế…” Phần bốn, người ngộ là khó. Sở dó khó là vì sinh ra tai thời Mạt thế năm trăm năm sau. Duệ Pháp Sư nói: tiền năm trăm năm, người đắc đạo thì nhiều, người chẳng đắc đạo thì ít. Hậu năm trăm năm, người chẳng đắc đạo thì nhiều, người đắc đạo thì ít. Tiền Năm trăm năm người tin vô sanh thì nhiều, người chẳng tin thì ít. Hậu năm trăm năm người chẳng tin thì nhiều, người tin là ít. Tiền năm trăm năm gọi là chánh pháp, Hậu năm trăm năm gọi là Tượng pháp, trong thời tượng pháp mà tin, cho nên đó là điều khó. Lại nữa, ý nói thời đại này chúng sanh chẳng gieo nhân lâu dài, chẳng gặp Phật, không có nội Nhân ngoại duyên, trong thời đó mà snah niềm tin thì đó là việc khó. “Hà Dó Cố…” Đây là giải thích ý tin là điều khó. Nếu nói có người Năng tín, có Bát-nhã sở tín thì đó là Nhơn kiến, pháp kiến, chẳng gọi có người Năng tín, có Bát-nhã sở tín thì đó là Nhơn kiến, pháp kiến, chẳng gọi đó là Tín. Tín đó cũng bất ly. Tổ rằng; Nếu chẳng thấy ngã (ta) là năng tín, tức là Nhơn không, tức là không có Nhơn kiến, chẳng thấy Bát-nhã là sở tín, tức là pháp không, tức là không có pháp kiến. “Sở Dó Giả Hà, Ngã Tướng Tức Thị Phi Tướng”, cho nên chẳng thủ những tướng như; Ngã,… phi Hữu Ngã Tướng, do đó chẳng thủ ngã tướng, vì thật vô ngã nên vô sở thủ mà thôi, cho nên nói “ngã tướng tức phi ngã tướng”. Lại nữa, Đạo lý nếu thật có tướng ngã, nhơn thì chẳng thể lìa khỏi. Bởi vì Đạo lý thật không có Tướng ngã, Nhơn, chỉ vì chúng sanh vọng cho đó là có, cho nên ngã tướng có thể ly. Cho nên nói rằng: “Ngã tướng tức thị phi tướng”. Kinh Đại Phẩm nói: Cái mà chúng sanh trước dính vào, nếu nó có một tí nào thật có thì chẳng thể lìa (nó) nổi. Vì chỗ trước dính vào đó là vô (không có) nên có thể lìa nó được”. Người ta nói rằng: chỉ cái Ngã kiến sở vị (cái mà ta cho là Ngã kiến) là Vô mà thôi. Cái tâm năng vì (cái tâm cho rằng) là Hữu (có), nó chẳng vô, như Dương Viên Sở Vị (cái cho là Dương Viêm) là vô, cái Tâm năng vị (cái tâm cho là) là Hữu. Nay nói rằng: cái tâm năng vị là như Sở vị chẳng khác. Nếu theo luận giải thích thì đây là tỏ rằng Nhơn và Pháp cả hai đều không. Phấn trước nói “Vô ngã nhơn tướng”, đó là Nhơn không, phần này nói rằng “ngã tướng tức là phi tướng”, tức là pháp không. Hỏi: Nếu nói đây là nói về pháp không thì đúng phải nói là “pháp tướng tức là phi pháp tướng”, sao lại nói là “ngã tướng tức là phi tướng”? Đáp: Vô ngã có hai loại: 1. Nhơn vô ngã; 2. Pháp vô Ngã. Nay ở đây là pháp vô ngã. “Hà Dó Cố. Ly Nhất Thiết Chư Tướng Tức Danh Chư Phật”. Đây là lặp lại giải thích về nguyên do vô tướng. Nếu có tướng thì Phật đúng phải thấy được, vì ly tất cả chư tướng nên gọi đó là Phật, mới biết chư pháp không có tướng đó. Hỏi: (Hữu) có tất cả tướng tức là Hữu sở đắc, vô (không có) tất cả tướng tức là vô sở Đắc. Vì Hữu sở đắc là sanh tử phàm phu, vô sở đắc thì danh là Niết-bàn, danh là chư Phật. “Phật Cáo Tu Bồ-đề….” Là phần hai, Phật thuật thành. Phần lỉnh giải trên có bốn phần, nay chỉ thuật phần thứ tư, người khác ngộ khó; nói rằng từ vô thủy đến nay quen với Hữu sở đắc đã lâu, ngày xưa lại theo giáo lý Hữu sở đắc của tiểu thừa, nay bỗng nghe Bát-nhã Vô Nhơn Vô pháp, đa phần là sinh ra lòng bố úy sợ hải. Do vậy nay nói rằng người chẳng bố úy sở hải, đó là điều khó. Cái gọi là “bất Kinh bất Bố”; Kinh ngạc sợ hải, gọi đó là “Kinh”, trong lòng khiếp sợ, gọi đó là “Uùy”. Một mực thâm ghét sự việc trước kia, gọi đó là “Bố”. “Như Lai Thuyết Đệ Nhất Ba-la-mật”: họ nói: Bát-nhã là đệ nhất trong lục độ, cho nên nói là “Đệ nhất”. “Tức Phi Đệ Nhất” là Chơn Đế bác (bỏ) đệ nhất. Thị Danh Đệ Nhất” là Thế Đệ Giả danh (mượn danh) nói là Đệ Nhất. Theo luận giải thích: Kinh Bát-nhã này hơn hẳn những Tu Đa La (kinh) khác, cho nên gọi kinh này là “Đệ Nhất Ba Ma Lật”. “Phi Đệ Nhất Ba-la-mật”; là những Tu Đa la (kinh) khác chẳng phải là Đệ nhất, “Thị Danh Đệ Nhất”: trở lại kết luận kinh này là Đệ nhất. Sở dó có đoạn văn này đến là vì có hai nghóa cận và viễn. Cận là thành lời khen “Hy Hữu” trên, vì kinh này là đệ nhất cho nên tin kinh này, đó mới là “Hy hữu” mà thôi. Nếu kinh này chẳng phải là Đệ Nhất thì tin kinh này cũng chẳng đáng để khen là “Hy Hữu”. Viễn là thành những ý trên, phần trên nói rằng Nội thí và ngoại thí chẳng bằng trì bốn câu kinh, do vì kinh này là Đệ nhất pháp trong các kinh. “Tu Bồ-đề, Nhẫn nục…” là phần hai, giải thích niệm nghi. Hỏi: Vì nhân duyên gì, tiếp Bát-nhã lại nói về Nhẫn Nhục? Theo số lục độ, trước sau đều chẳng thứ lớp, nay theo thứ lớp gì mà sinh ra đoạn văn này? Đáp: Khai Thiện giải thích rằng: chia ra ba môn để thuyết về Bát- nhã. Hai môn trước là Thể Môn và Danh Môn đã nói xong, nay theo thứ tự là môn thứ ba, Công Dụng Môn mà nói, nói rằng Bát-nhã công dụng vô cùng; sanh ra chư Phật, bày ra thế gian, đoạn dứt phiền não, lại còn có công dụng thâu nhiếp, công dụng dẫn dắt, công dụng quên vong, nhiều công dụng khác nhau. Nay ở đây nói rằng vong hoài là công dụng của Nhẫn Nhục, nhờ đắc được cái công dụng này mà gặp khổ chẳng lo buồn, gặp Lục chẳng vui mừng, công dụng của nó là cốt yếu, cho nên chỉ riêng nói về nó. Còn giải thích rằng: Nhẫn và Bát-nhã đều là Huệ, đồng một thể với Huệ, cho nên cùng nói về chúng. Nay nói rằng cái ý của vô phương chẳng hại gì nghóa đó. Nếu theo ý của luận, thì đây là do giải thích mối nghi ngờ mà đến. Chúng sở dó nghi ngờ là vì phần trên nói về xả thân mật để so sánh mà sinh ra, phần trên nói rằng: “Xả thân bố thí chẳng bằng trì bốn câu kinh”, nguyên do chẳng bằng là vì xả thân là cái khổ Nhân điên đảo (thuộc phạm trù) Hữu sở đắc, trở lại đắc cái khổ quả (thuộc phạm trù), Hữu sở đắc, do đó chẳng bằng trì kinh. Chúng bèn nghi rằng: Phật vào những kiếp xưa kia tu nhiều thứ khổ hạnh cũng đúng phải là cái Nhân điên đảo thì cũng phải đắc cái quả điên đào, chẳng thể đắc Bồ-đề. Vì vậy nay giải thích rằng: Phật xưa hành khổ hạnh,đó là Vô Sanh Nhẫn tâm, tuy xả thân nhưng chẳng khổ não, chẳng những vô khổ mà lại càng Hữu Lạc, cho nên Luận kệ nói: “Khổ Lạc hữu từ bi, Như thọ khổ hạnh quả”. Vì nhờ tu Vô Sở Đắc Nhẫn, cho nên Đắc Bồ-đề. Cho nên nói: “Như Lai Thuyết Nhẫn Nhọc Ba-la-mật”. “Phi Nhẫn Nhục”; đây là Nhẫn vô sở đắc, chẳng thể đo lường. Cho nên luận nói: “Nhẫn nhục kia, bờ khó lường”. “Hà Dó Cố, Ngã Ư Nhỉ Thời Vô Ngã Tướng”. Câu này do hai nghóa mà đến: 1. Phản giải thích nghóa Vô Sân: Nếu có Ngã tướng thì đúng phải sanh ra Sân, vì không có Ngã tướng thì khiến cho ai sân, kẻ Sân là ai? 2. Nói về nghóa của Vô Nhẫn; tức là bất nhẫn, bất sân, đó là Nhẫn Ba-la-mật. Nếu có người Năng Nhẫn thì đúng phải sanh ra Nhẫn. Nay còn chẳng thấy người Năng Nhẫn thì đâu có tha (người) mà khởi sân họ. Đây là giải thích theo cách khoa tiết. “Ca Lợi Vương”; Dẫn chuyện xưa để làm chướng. Nhân duyên kiếp trước, ca lợi vương tức là bản thân của Trần Như hiện nay. Kiếp trước từng giết hại một Tiên Nhân, Tiên Nhân phát nguyện; ngươi nay vô tội hại ta, khi ta đắc đạo, phải trước độ người”, như văn xuất ở luận Tỳ Bà Sa. “Thị Cố Tu Bồ-đề, Bồ-tát Ưng Ly Nhất Thiết Tướng…”: Sở dó có đoạn văn này là vì để thành nghóa nhẫn nhục trên. Những Bồ-tát vừa mới phát ý, khi đã nghe nói trãi qua nhiều đời nhiều kiếp tu Nhẫn mới đắc Bồ-đề, họ vì đã cho là có thân, tâm hoặc là đã sanh tâm thối chuyển, như Thân Tử (Xá-lợi-phất) sáu mươi kiếp hành hạnh Bồ-tát, về sau nhân vì bố thí con mắt mà thối lui thành Tanh Văn, cho nên nay khuyên rằng: muốn chẳng thối lùi tâm Bồ-đề thì phải ly tất cả tướng, phát tâm Bồ-đề tâm. Hỏi: Từ đầu kinh đến đây có ba chỗ nói về Bất trú, chúng khác nhau ra sao? Đáp: Bất trú thứ nhất là để thành nghóa của Đàn độ (Bố thí Ba-la- mật), khuyên hành Bố thí vô sở đắc. Bất trú thứ hai là để thành nghóa của Nhân Tịnh Thổ; Nếu tâm Hữu trú (có trú, trú vào hữu) thì tâm có uế, tâm uế thì Thổ uế. Vì nhờ tâm vô sở trú, cho nên Tâm Tịnh, tâm tịnh thì Thổ Tịnh. Nay nói Bất Trú là để thành Bồ-đề tâm, khuyên bất trú phát tâm. Nếu tâm Hữu trú thì trái với Chánh Đạo, há lại là Đạo tâm sao? Bồ-đề là Chánh Đạo, nay phát Đạo tâm, nên gọi là Bồ-đề tâm mà thôi. “Nhược Tâm Hữu Trú Tức Vi Phi Trú”; Nếu tâm Hữu trú (trú vào Hữu) tức là trú điên đảo, tức là phi trú, chẳng trú Bát-nhã. Như Kinh Đại Phẩm nói: “Chẳng trú tất cả pháp, tức là trú Bát-nhã, chẳng tin tất cả pháp, đó gọi là tin Bát-nhã, nghóa sanh cũng vậy”. “Thị Cố Phật Thuyết Bồ-tát Tâm Bất Ưng trú…” Trên là khuyê vô trú phát Bồ-đề tâm, đây là khuyên vô trú tu Bồ-tát hạnh, như những lời nói của Thiện tài. Hỏi: Phần đầu của kinh đã nói về phát tâm tu hành. Nay còn nói làm gì nữa? Đáp: Trên kia là lập ra bốn tâm; như Quảng đại tâm,.. gọi đó là phát tâm, dùng cái nghóa của Bất trú để nói về tu hành, ở đây là thông, dùng bất trú mà nói về phát tâm và tu hành, cho nên trước là tách ra mà nói, nay là hợp lại mà nói. Chỉ nêu ra “Bố Thí”, vì Bố thí đứng đầu Lục Độ, lại vì nghóa của Bố thí thì nhiếp cả sáu. “Tu Bồ-đề, Bồ-tát Vi Lợi Ích Nhất Thiết Chúng Sanh”: phần trên đã nói về Vô trú phát tâm, về trú tu hành, người ta bèn cho rằng: Đã vô sở trú thì vì sao phát tâm, vì sao tu hành? Bèn giải thích rằng: Vì lợi ích chúng sanh mà phát tâm tu hành. Lại nữa, vô trú tu hành mới có thể lợi ích chúng sanh. Hữu sở trú tu hành thì chẳng thể lợi mình lợi người. “Như Lai Thuyết Nhất Thiết Chư Tướng…” Đây là vì để thành ý nghóa tu hành và vì chúng sanh ở phần trên. Đã nói là tu hành thì phải có Hạnh để tu, đã nói là lợi ích chúng sanh thì phải có chúng sanh để làm lợi, thì thành ra là Nhơn kiến, pháp kiến. Vì vậy mà nay nói rằng “Như Lai nói tất cả tướng tức phi tất cả tướng”, tuy tu vạn hạnh mà không có hạnh để có thể tu, tuy lợi chúng sanh, thật không có chúng sanh để lợi. Lại còn dẫn lời nói thành thật của Đức Phật; khuyên Bồ-tát như thuyết mà tu hành, Phật nói rằng chúng sanh và pháp đều bất khả đắc, Bồ-tát cũng cần phải như vậy mà học. “Tu Bồ-đề, Như Lai Thị Chơn Ngữ Gia…”; Đoạn văn này có ý gần xa; ý xa là thành nghóa của so sánh hai thí Nội thí và ngoại thí ở phần trên là sao? Phần trước nói tuy xả nội thí và ngoại thí nhưng rốt cuộc vẫn chẳng bằng trì bốn câu kinh, người nghe vậy sinh nghi; chư pháp thật tướng là tuyệt ngôn ngữ, sao danh tự văn cú lại có thể bày tỏ thật tướng? Mà thọ trì bốn câu lại có phước như vậy sao? Vì vậy mà nay giải thích rằng: Thật tướng tuy tuyệt ngôn, ngôn là Nhân của Vô Ngôn, vì là Nhân của vô ngôn nên có thể biểu đạt Vô ngôn, do vậy, thọ trì ngôn này thì công đức vô lượng. Hỏi: Đây là giải thích và ngôn ngữ có khả năng bảy tỏ Đạo, thế nào là giải thích văn năm chữ? Đáp: Vì ngôn ắt có khả năng biểu tỏ đạo, nên Phật nói: là thật do từ khả năng biểu tỏ đạo cho nên thọ trì phước nhiều. Ý gần là phần trên Phật nói “Nhất thiết chư tướng tức là phi tướng”, nói “tất cả chúng sanh tức phi chúng sanh”, khuyên Bồ-tát như thuyết mà hành. Nay giải thích lại guyên do, cần phải tin Phật thuyết, bởi vì lời Phật chẳng hư dối. “Chơn Ngữ”; là y theo chơn đế mà nói ra. “ Thật Ngữ” là y theo Thế Đế mà nói ra. Sở dó nêu ra hai ngữ là vì Như Lai thường y theo hai Đế mà thuyết pháp, điều ác là đồng với chư Phật “Bất Cuống Ngữ”; Phật chẳng lừa dối chúng sanh, Như Đại kinh (Đại phầm) nói: Vì nhân duyên gì mà phải lừa dối, xem chúng sanh như con trai mình sao lại bảo con trai đọa địa ngục? “Bất Dị Ngữ” là để giải thích nghi ngờ mà có câu này, người nghi rằng: Nếu chẳng lừa dối chúng sanh thì vì sao lại cùng một vị Phật mà nói nhiều pháp khác nhau; mới đều thì thuyết Tam thừa là, về sau thì thuyết nhất thừa, cho đến bây giờ thì thuyết là thường, trước kia thì thuyết là vô thường? Vì vậy mà giải thích rằng: Tu có chư thuyết khác nhau nhưng đều vì để cùng thành một Đạo, cho nên chẳng khác nhau. Như kinh nói: “Kẻ trí sẽ chẳng cho rằng ta hai lời, ta cũng chẳng nói hai lời với người ấy”. Kinh Pháp Hoa nói: “Tuy thuyết nhiều thừa khác nhau nhưng đều là cùng một thừa”. Tiếp nữa là căn cứ theo luận giải thích thì chỉ có bốn ngữ, cho nên kệ nói rằng: “Thật trí cập Tiểu thừa, thuyết Ma Ha Diễn pháp, ký ư tam thế sự, thị danh tứ chủng ngữ” (Thật trí đến tiểu thừa, thuyết pháp Ma Ha Diễn, ký về tam thế sự, đó là bốn loại ngữ). Thật trí tức là “Chơn ngữ”; nghóa là thuyết về Phật Bồ-đề. Cập tiểu thừa (đến với Tiểu thừa) thì thuyết về Tứ Đế, đó tức là (thật ngữ”. Thuyết pháp Ma Ha diển (pháp Đại thừa) để thành Bồ-đề, tức đó là “Như Ngữ”. Ký tam thế sự, tức là hợp hai ngữ sau “thật ngữ” và “Như ngữ” thành là “Bất Dị Ngữ”. Bốn ngữ nay bao hàm cả Tiểu thừa và Đại thừa, bao hàm cả lý và sự, bao hàm cả Nhân và Quả. “Chơmn ngữ” là quả, “Như Ngữ” là Nhân, hai ngữ này là Đại thừa, “Thật Ngữ” là tiểu thừa, Ký tam thế là Sự, ba Ngữ là Lý. “Tu Bồ-đề, Như Lai Hữu Sở Đắc Pháp”; Có Văn này đến là vì từ trên đến đây gồm có ba văn dẫn lời Phật để khuyên tin, văn dẫn đầu tiên là “Như Lai thuyết nhất thiết tướng tức phi tướng, Như Lai thuyết nhất thiết chúng sanh tức phi chúng sanh”, đây là khuyên Bồ-tát xả bỏ Nhơn kiến và pháp kiến, khiến tin vào giáo lý vô sở trú. Tiếp đó là dẫn năm ngữ để chứng cho Phật ngữ là chẳng hư dối, khuyên Bồ-tát tin vào giáo (lý) vô sở do Phật đã thuyết. Nay ở đây là văn dẫn thứ ba, pháp mà Phật đã chứng đắc, trở lại khuyên tin vào giáo (lý) vô sở trú, bởi vì chính Phật là người nương theo giáo (lý) vô sở trú mà chứng đắc Bồ-đề, cho nên Bồ-tát cần phải tin vào giáo môn Vô sở trú. Luận kinh có một cú, đó là “Như Lai sở đắc pháp, Như Lai sở thuyết pháp”. Như Lai sở đắc pháp thì đã giải thích như trên. “Như Lai Sở Thuyết Vô Thật Vô Hư”. Ba văn dẫn trên đã khuyên tin, nhưng vì e người độn căn thủ lấy lời nói mà trú, nên nay nói rằng lời của Đức Phật là phi thật phi hư, bởi vì chánh đạo thì tuyệt ngôn ngữ, nếu thủ ngôn thì mất đạo, cho nên nói rằng “Tức phi thật”. Chẳng phải là chẳng nhở ở ngôn ngữ biểu tỏ Đạo, cho nên nói rằng “Tức phi hư”, dụ về ngón tay chỉ mặt trăng, tức là sự việc đó. Đây là xuyên suốt cùng một ý Hóa, há lại chỉ là một chương sao? “Tu Bồ-đề, Như Nhơn Nhập Ám”: Theo cánh chia mười hai phần của Lưu Chi thì phần so sánh trên đã xong, đây là phần Hiển Tính. Nay đưa ra ba điều để bác ý của Lưu Chi: 1. Về phần Hiển Tính; Kinh luận không có văn nói về phần này, cho nên chẳng dùng. 2.Nếu dựa theo Bố thí để nói về đắc và thất mà chia ra thành phần Hiển tính thì phần trên đã nói về tu hành Nhẫn Nhục cũng phải là một phần. 3.Trong phần so sánh Nội thí và Ngoại thí, mối thí đều có hai lớp so sánh, nay trong nội thí chỉ mộ chương là xong, còn một lần so sánh nữa, sao có thể hợp lại lấy phần so sánh sau làm phần Hiển Tính? Nay nói hai ý mà có văn này đến. Do nguyên do gần mà sanh ra đoạn văn này: từ đầu kinh cho đến đây, gồm có ba chỗ khuyên bất trú, xả bỏ trú, chưa biết Trú thì có gì thất (mất, sai lầm); bất trú thì có gì đắc mà khuyên tu bất trú, xả bỏ trú? Vì vậy mà nay là lần giải thích sau cùng về sự đắc và thất đó. Tâm Hữu sở đắc thì giống như bên ngoài không có ánh sáng, bên trong có đen tối, cho nên chẳng thấy chánh Đạo. Tâm vô sở trú thì giống như bên ngoài có ánh sáng, bên trong có con mắt, có thể thấy chánh Đạo. Vì đắc thất này mà có ba đoạn văn khuyên kể trên, y theo giáo Vô Trú thì giống như bên ngoài có ánh sáng, đắc quán giải vô sở trú thì giống như bên trong có con mắt, người như vậy thì thấy chánh Đạo. Sự sai lầm, mất mát của Hữu trú thì ngược lại điều trên, có thể tự hiểu vậy. Theo luận sanh khởi nói rằng: ‘Tất cả mọi nơi, tất cả mọi thời, chơn như đều thường có. Vì sao chúng sanh có người đắc Như, có người chẳng đắc Như?” Luận sư nói rằng: Chơn Như tức là Phật Tính, tất cả phàm Thánh chúng sanh đều có Phật tính, vì sao Thánh thấy mà phàm chẳng thấy? Bèn dùng văn của kinh để giải thích điều đó. Giống như tuy thường có một màu sắc, nếu bên ngoài có ánh sáng, bên trong có con mắt thì thấy màu sắc đó. Không có yếu tố bên ngoài và bên trong này thì chẳng thấy. Tuy thường có Chơn Như, Phật Tính, tâm vô sở trú thì thấy, Hữu sở trú thì chẳng thấy. Lời nói về Hiển Tính chính là ở đó vậy. Nay tỏ rằng ý đó cũng chẳng sai về nghóa. Đại Trí Luận nói: Hoặc gọi là Như, hoặc gọi tên là Thật Tướng, là pháp Tính (hay có người nói là pháp tánh), là Niết-bàn, chỉ tùy theo chúng sanh ngộ hay mê mà có người đắc, có người chẳng đắc. Xét cho cùng thì Phật Tính, Niết-bàn, chưa từng đắc hay thất chưa từng ẩn hay hiển. Hỏi: Theo Luận nói đó la Thấy Như và chẳng thấy Như, hình như điều này là chẳng có thứ tự, tức là đoạn văn này sanh ra một cách trơ trọi sao? Đáp: văn này là tiếp nối phần văn Bố thí đắc thất trên kia mà sanh ra: Hữu trú bố thí thì chẳng thấy Như, vô trú bố thí thì sẽ thấy Như, do vậy, chẳng phải là không có thứ đệ. Chỉ vì người giảng luận chẳng thấy nguyên do gần của nó bèn cho rằng nó sinh ra một cách cô lập, trơ trọi, rồi chia nó thành ra là phần Hiển Tính mà thôi. Sư giảng kinh tuy thấy nguyên do gần của Văn này là sự đắc và thất của hai loại Bố thí, nhưng chẳng thấy nguyên do xa là Nhân thí đắc thất của nó mà nói rằng đều có Phật Tính, vì Hữu phương tiện và vô phương tiện mà có thấy và chẳng thấy khác nhau. Nếu thủ cả hai nghóa gần và xa thì kinh và luận đều thành. “Tu Bồ-đề, Nhược Đương Lai thế…”; có phần này đến là vì trở lại thành cái nghóa bỏ thất theo đắc ở phần trên. Bồ-tát nếu bỏ thất theo đắc thì cần phải thọ trì đọc tụng Bát-nhã. Hỏi: Ở phần Tín Thọ môn đã nói “Nếu sanh một niệm tịnh tín thì được Phật Trí thấy, đắc vô lượng công đức”, này vì sao lại nói lại “được Phật trí thấy, đắc vô lượng công đức”? Đáp: Kinh Bát-nhã này có ba môn nói về công đức: 1.Tự Tín môn; 2. Tự thọ trì đọc tụng, trở lại thuyết cho người khác Môn; 3.Chỉ tự mình thọ trì đọc tụng môn, đầu tiên là nói “Một niềm tín, được Phật trí thấy, đắc vô lượng công đức”, đó là Tự Tín môn nói về công đức. Từ Tam Thiên thất bảo bố thí đều Hằng Sa thân mệnh Bố thí, đó là Tự hạnh, hóa tha môn tỏ về công đức. Nay chương này là nói về thọ trì đọc tụng Tự hạnh môn công đức, cho nên chẳng phải là nói lặp lại. Ba môn này nhiếp tất cả kinh Bát-nhã khi nói về công đức. “Sơ Phật Phần…” là phần hai, công đức so sánh với Ba thời xả thân, phù này chia ra hai phần: 1.So sánh; 2.Khen ngợi, khuyên tu. Trong phần so sánh chia ra hai phần: 1.Chánh nêu ra xả thân; 2.So sánh. khác với phần xả thân ở trên kia, vì có hai nghóa: 1. Bố Thí: Bố thí nhiều; nghóa là hàng ngày ba thời xả thân, đây là “phần đầu ngày” (Nhật sơ phần), “Phần giữa ngày” (Nhật trong phần), “phần cuối ngày” (nhật hậu phần), chẳng phải là ba ngày chia ra thành ba phần; 2.Thời tiết lâu dài; nghóa là vô lượng ngàn vạn ức kiếp thường hành việc xả thân. Tiếp đó là phần so sánh với Bát-nhã, nói rằng Tín, tâm chẳng trái nghịch thì phước đó đã hơn hẳn, huống nữa là tự mình thọ trì đọc tụng, thuyết cho người khác nghe sao? Đây tức là so sánh chuyển cao hơn thì phước của Bát-nhã càng dày hơn. Lại nữa, văn này sở dó đến là vì trong phần Tín thọ môn ở trên, nói thẳng Tín tâm thì được Phật trí thấy, đắc vô lượng công đức, còn chưa so sánh Tín tâm công đức ít hay nhiều, nay muốn so sánh tín tâm công đức ít nhiều nên có văn này đến. Hỏi: Vì sao cần phải so sánh Tín tâm công đức? Đáp: đã dùng ba môn để tỏ về công đức tức là ba môn để nói về so sánh. Phần trên đã có ba chỗ so sánh với tự hạnh công đức môn và hóa tha công đức môn; đó là Tam Thiên Bố thí, Hằng Sa Bố thí, Xả Thân Bố thí, đều là Tự Hạnh Môn và Hóa Tha Môn, còn chưa so sánh với Tín tâm Môn. Cho nên nay nói về điều đó. Hỏi: Vì sao lại còn so sánh với công đức của Tự Tín Môn, nhiều hơn công đức của tự hạnh môn và Hóa Tha môn ở trên hay sao? Đáp: So sánh với công đức của Tự Tín môn còn nhiều như thế, huống chi là Tự Hạnh môn và Hóa Tha môn thì chẳng thể đo lường, cho nên nay ở đây văn nói: Tín tâm chẳng nghịch, phước đó hơn kia, huống nữa là thọ trì đọc tụng, thuyết cho người khác! Đoạn văn này đến là có ý chỉ thâm sâu, người muốn giảng, tụng phải y theo ý đó. “Tu Bồ-đề, Dó Yếu ngôn Chi…” là phần hai, khen ngợi, khuyên tu. Chia văn ra thành bốn phần: 1. Khen ngợi pháp; 2. Khen ngợi Nhơn; 3. Lặp lại khen ngợi pháp; 4. Lặp lại khen ngợi Nhơn. Nay là phần một, khen ngợi pháp, phần so sánh trước đã xong, đã khen ngợi, nay so snah1 xong, cũng khen ngợi. “Như Lai Vi Phát Đại Thừa Giả Thuyết…” là phần hai, khen ngợi Nhơn. Hỏi: Đại thừa và Tối Thượng Thừa khac 1nhau như thế nào? Đáp: Xét chung thì chẳng khác, chỉ là nhiều thứ ca ngợi khác nhau mà thôi. Xét riêng thì Đại thừa có nghóa là bao hàm quảng bác. Tối Thượng Thừa là có nghóa cao tuyệt thủ, siêu xuất nhị thừa. Bao hàm quảng bác là kỳ thủy (nghóa), căn cứ theo Thiển hành nhơn. Tối Thượng thừa là Kỳ Chung (nghóa), căn cứ theo thâm hành nhơn. “Như Lai tất Tri Thị Nhơn”: Hỏi: Trước đây đã có hai chỗ nói về tri kiến (Như Lai biết thấy). Rồi, nay lại còn nói nữa, có gì khác nhau sao? Đáp: “Tri kiến” nói lần thứ nhất là Tự Tín công đức, “Tri Kiến” nói lần thứ hai là tự mình) thọ trì đọc tụng công đức. “Tri kiến” nói lần này là thọ trì rồi lại thuyết cho người khác mà đắc công đức, cho nên ba lần nói về “Tri kiến” là khác nhau. “Ngược Lạc Tiểu Pháp Giả”: Đây là nêu ra thất để tỏ rõ Đắc. Trong phần này nêu ra hai người: “Người vui với tiểu pháp”; đây là Tiểu thừa, “Người trước ngã kiến”; đây là Ngoại đạo. Hai người này chẳng thể nghe và thọ nhận. Người Tiểu thừa sở dó chẳng thể nghe nhận là vì Hữu sở đắc, chẳng tin vô sở đắc. Lại nữa, kinh này nói rằng Như Lai pháp thân thường trú, người tiểu thừa cho rằng Phật vô thường, rốt ráo diệt, cho nên chẳng tin. Cho nên Đại Trí Luận nói: “Năm trăm năm sau, chia ra năm trăm bộ, nghe pháp Đại thừa nói rằng Tất Cánh không, như dao đâm tim”. Duệ pháp sư, Dụ Nghi Luận nói rằng: “ngoại quốc ba mươi sáu nước đều Tiểu Thừa học, chẳng tin Đại thừa”. Hỏi: Tiểu Thừa cũng nói không, Đại thừa cũng nói không, người Tiểu thừa sao lại chẳng tin Đại thừa? Đáp: Đại Luận nói: “Không” có hai loại: 1. Đản không (chỉ là không); 2.Bất Đãn không (chẳng chỉ là không). Tiểu Thừa chỉ đắc Đản không, chẳng đắc bất Đản không. Kinh này nói về Bất Đản không, cho nên chẳng tin không. Lại nữa, người Tiểu thừa chỉ đắc sinh không, chẳng đắc pháp không. Đại trí Luận nó: Sau khi Phật diệt, chia ra làm hai phần: 1. Tin chúng sanh không, chẳng tin pháp không; 2. Tin cả hai đều không. Nay kinh này nói rằng cả hai đều không, cho nên người Tiểu thừa chẳng tin. Còn về Ngoại Đạo trước dính Ngã Kiến nên chẳng tin là điều dể hiểu (chẳng cần giải thích). “Tu Bồ-đề, tại Tại Xứ Xứ…” Đây là phần ba, tán thán lại về pháp. Hỏi: Lần này khen ngợi pháp có khác với với lần đầu không? Đáp: lần đầu là khen thẳng về kinh pháp, lần này là khen chỗ pháp sở tại, cho nên là khác. Hỏi: Phần trên đã khen kinh tại xứ nào thì xứ đó quý, giống như Tháp Miếu, nay vì sao lại còn khen là như Tháp? Đáp: Trước là lược khen, nay là rộng khen. Trước kia trực tiếp nói là như Tháp miếu, cho nên là lược. Nay nói nhiều thứ cúng dường khác nhau cho nên là rộng. Trước là lược khen người, nay là rộng khen người (nhơn). Trước là lược khen xứ, nay là rộng khen xứ. Trước là khen nơi kinh sở tại thì nơi ấy quý, nay là khen chẳng những nơi kinh sở tại thì nơi ấy quý, mà ngay cả người trì kinh này, nơi họ đi đứng ngồi nằm đều như Tháp Miếu, đều nên cung kính cúng dường. Như kinh Pháp Hoa nói: Người trì kinh Pháp Hoa, họ ở tại đâu đều nên tác lễ, ý của luận khi viết ra giải thích này là “Đừng bất tín”. “Phục Thứ, Tu Bồ-đề, Nhược Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn, Thọ Trì Thử Kinh, Nhược Vi Nhơn Khinh Tiện…”. Đây là phần thứ tư, khen lại về người (nhơn). Hỏi: Nay khen người, khác với phần trước sao? Đáp: Trước là dựa theo Đắc Môn mà khen, nay là dựa theo Ly môn mà khen. Làm sao biết được điều đó? Văn trước nói rằng: “trì kinh đắc vô biên công đức”, nay nói rằng: “trì kinh ly khỏi Ác Đạo”, đây tức là Kim Cang đập tan các hoạn nạn, một ý nữa là do giải thích mối nghi mà đến, từ trên đến đây đều nói rằng người trì kinh vô biên công đức, nay thấy người trì kinh bị các chướng ngại như tật bệnh, tù tội đánh đập, chưởi mắng, những việc chẳng như ý? Vì để giải thích mối nghi này mà nói rằng người ấy kiếp trước tạo nghiệp tội phải đọa bát nạn, nhờ lực trì kinh mà kiếp này chia nhẹ. “Ngã Niệm Quá Khứ…” là phần ba, nên Nhân kiếp trước của Thích Ca để so sánh, phần trước Nội thí và Ngoại thí đều nêu ra đời hiện tại, nay nói về Nhân xưa kia, đây là lấy đời quá khứ để so sánh đời hiện tại. Trước là nêu công đức sở Hóa đề so sánh, nay là nêu công đức hóa để so sánh, so sánh như vậy mới đạt tận cụng của sự so sánh. Hỏi: Vì ý gì mà nêu ra công đức năng hóa và sở hóa để so sánh đều chằng bằng trì kinh? Đáp: Đó rốt cuộc vẫn là công đức Hữu sở đắc, chẳng bằng trì kinh. Hỏi: Vì sao biết được đều là nêu ra công đức Hữu sở đắc để so sánh? Đáp: Kinh luận đều có chứng. Khi luận giải thích lần đầu Tam Thiên bố thí thì nói rằng: “Nhị Năng thú Bồ-đề, phước bất thú Bồ-đề” (Nhị đi đến Bồ-đề, phước chẳng đến Bồ-đề). “Nhị: tức là tự mình thọ trì và thuyết cho người khác, hai thứ này có thể thú hướng đến Bồ-đề, phước đức của Bố thí là Hữu lậu, Hữu sở đắc chẳng thể thú hướng đến Bồ-đề. Về kinh chứng; là lấy Nhiên Đăng Phật tiền, bấy giờ là Hữu sở Đắc nên chưa đắc vô snah, cho nên biết là Hữu sở đắc thí. Lại một ý nữa; sở dó nêu ra Nhân xưa kia của Thích Ca để so sánh là vì ba môn công đức, phần trên đã so sánh hai môn công đức rồi, chưa so sánh với công đức tự mình thọ trì đọc tụng, nay khen ngợi, so sánh với công đực tự mình thọ trì đọc tụng, vì vậy mà có đoạn văn này. Hỏi: So với tự mình thọ trì đọc tụng, vì sao công đức chuyển trọng? Đáp: Tự mình thọ trì đọc tụng, phước đã trong như vậy, huống nữa là có đủ cả tự hành và hóa tha thì làm sao đo lường cho nổi! Đây là tỏ rõ sự sâu dày của công đức mà so với tự hạnh, người giảng tụng kinh này cần pải xem kỷ kinh, nếu chẳng vậy thì chẳng giác hiểu. Hỏi: ba môn so sánh công đức, ba môn có gì khác nhau? Đáp: Tự hành môn và Hóa Tha môn thì công đức tức là so sánh, đó là từ Tam thừa đến Hằng Sa thân. Tự tín môn và Tự thọ trì môn, hai môn này trước nói về công đức, sau là so sánh, cho nên văn có Khai và Hợp khác nhau. Hỏi: Ba môn công đức khác nhau ra sao? Đáp: tức là ba phẩm: Sanh Tín tâm la Hạ phẩm. Thọ trì đọc tụng, chẳng thuyết cho người khác là trung phẩm. Thọ trì, thuyết cho người khác, là Thượng phẩm. Thọ trì đọc tụng, chẳng thuyết cho người khc1 là trung phẩm. Thọ trì, thuyết cho người khác, là Thượng phẩm. Lại nữa, hai phẩm đầu là tự hành, phẩm sau là đủ cả Tự và Tha. “Tu Bồ-đề! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn…” chương lớn thứ hai, chương lớn thứ nhất đã nói về so sánh. Nay nói về so sánh chỗ chẳng thể so sánh, đến mức chẳng so sánh nổi, nếu cứ so sánh thì người ta chẳng tin, cho nên nói là “Bất Tư Nghị”. “Nhó Thời, Tu Bồ-đề Bạch Phật …”; Trong hai vòng thuyết pháp, đây là vòng thứ hai. Theo luận sư, mười hai phần thì đây là phần thứ mười, đoạn nghi, nay chẳng dùng, vì sao vậy? Luận nói; từ phần Như lai phi Hữu Vi trở về Hàng phục tâm. Nay là đáp thứ hai, đáp câu hỏi về Bồ-đề tâm. Nay nói rằng trên kia là đã đáp đủ cả bốn câu hỏi xong, sao lại ở đây mới đáp câu hỏi về Bồ-đề tâm? Hơn nữa, đáp trước đáp sau không khác, sao lại trước chẳng phải đáp Bồ-đề tâm, nay mới là đáp? Người ấy thấy gần mà chẳng thấy xá Tiếp nữa, có người nói: trước là nói về Nhân không, nay là nói về quả không. Kia cho rằng tu hành,… là Nhân, trước kia đã nói về Tu Hành không, đó là Nhân không. Bồ-đề là Quả, nay nói rằng: “Thật Vô Bồ-đề khả đắc”, cho nên là Quả không, đó cũng chẳng đúng! Trên đã nói cả Nhân và Quả thâm nghóa, sao có thể nói trên là nói về Nhân không, đây là nói về quả không? Nay nói rằng đây là thuyết vòng thứ hai, do đâu mà biết? Vì bốn câu hỏi trước và sau đều giống nhau, Phật đáp cũng giống nhau, cho nên biết đó là hai vòng thuyết. Hỏi: Hai vòng thuyết có gì khác nhau? Đáp: Vòng trước là rộng thuyết, nay là lược thuyết. Vòng trước là thuyết cho chúng hội trước, vòng sau là thuyết cho chúng hội sau. Cho nên Đại Trí luận giải thích Vô Sanh phẩm nói rằng: “Hỏi: Trước đã thuyết Bát-nhã rồi, nay sao lại còn thuyết lại nữa? Đáp rằng: Trước là tuyết cho chúng đến trước, sau là thuyết cho chúng đến sau”. Như Hồ nước thanh lương, người đến trước uống xong, người đến sau lại uống. Hỏi: Đại kinh nói: Vì chúng sanh đến sau, dùng kệ tụng đề thuyết, nay vì sao chẳng làm kệ? Đáp: Thuyết pháp nhiều Thể, chẳng thể cùng một thế, tự có hội trước thì dùng trường hàng, người đến sau thì dùng kệ, tự có cả hai đều dùng kệ, cả hai đều dùng trường hàng. Như Đại trí Luận nói, tức là làm chứng vậy. Hỏi: nay vì sao chẳng dùng kệ? Đáp: Chư Bát-nhã đa phần chẳng làm kệ, vì kệ xếp chữ có hạn, chẳng thể tỏ hết thâm nghóa. Ý thứ hai nói rằng: Vẫn là cùng một Hội mà có hai vòng thuyết. Vòng đầu là thuyết cho người Lợi căn, người độn căn chưa ngộ, thuyết thêm một lần nữa thành ra là vòng sau. Hỏi: Thuyết trước và trước sau không khác, vì sao thuyết trước là vì người lợi căn, thuyết sau là vì người độn căn? Đáp: Đại ý là như nhau, trong đó chuyển đổi hình thế nên người Độn căn nghe xong vẫn đắc liểu ngộ, cũng như cùng một loại nghóa, dùng từ ngữ này để nói về nó nhưng chẳng hiểu, đổi dùng cách khác giải thích nó thì ngộ hiểu giống như cùng một loại gạo, nấu một món thức ăn thì chẳng ăn được, đổi nấu món khác thì ăn được, tuy đó là sự việc gần, nhưng là đại thể khi Thánh Nhân chế tác. Bát-nhã là cùng một pháp, Phật thuyết nhiều thứ danh từ, tùy lực của chư chúng sanh, vì họ mà đặt chữ khác tức là làm chứng điều trên vậy. Ý tiếp theo là: Vậy trước tận duyên, vòng sau tận quán. Vòng trước tận duyên là: Chính là dạy cho Bồ-tát vô sở đắc phát tâm phá Hữu sở đắc phát tâm, cho đến Vô sở đắc tu hành (tu hành trong phạm trù vô sở đắc) phá Hữu sử đắc tu hành, đó là tận duyên. Nay chương này nói rằng: Không có người phát Bồ-đề tâm, cũng không có người tu hành,đó là Tận quán. Luận nói: Ở trong nội tâm tu hành còn tồn ta là Bồ-tát, đây tức là chướng ở tâm, trái với Đạo bất Trú. Viết ra kinh luận này, há lại nói suông ư! Vì vận duyên cho nên Vô Duyên, vì tận quán nên vô quán. Vô duyên vô quán, chẳng biết lấy gì để đặt tên cho nó, khen ngợi gượng đặt tên là chánh quán. Chánh quán tức là Bát-nhã, tức là kim Cang. Lại nữa, vòng trước chính là nói về Quán hạnh, vòng sau là trừ quán chủ, cho nên Đại Trí Luận khi giải thích tập ưng phẩm nói: “Hỏi rằng: trước đã nói về sinh và pháp cả hai đều không. Nay vì sao lại nói về sinh không? Đáp: Trước là phá hai bệnh sanh và pháp, nói rằng Sanh và pháp cả hai đều không, nay là phá người quán không”. Nếu vô mà luận thì kinh có mười lăm chương, nếu Hữu mà luận thì kinh gồm có mười sáu chương, có thêm một chương Tín Thọ. Hỏi: Thuyết vòng trước đã chia ra ba môn: 1. Bát-nhã Thể Môn; Tín Thọ Môn; 3.Công Đức Môn. Nay vòng sau là hội sau cũng có thể chia ra như vậy được không? Đáp: Theo Luận, kinh cũng có thể chia ra như vậy, môn thứ nhất tức là Bát-nhã Thể Môn, Tín Thọ là môn thứ hai, từ “Tam Thiên Thế Giới Tu Di Sơn thất bảo tụ” trở về sau là công đức môn, nay xét hình thế thì có hơi khác với vòng trước, cho nên chẳng chia ra ba môn, chỉ y theo mười lăm chương liên hoàn tương sinh nhau mà giải thích mối nghi và những câu hỏi, lấy đó làm thứ đệ, chương một chia ra hai phần; trước hỏi, sau đáp, nếu dựa theo Hội sau để xét thù ý hỏi giống với trên: “Xưa nay chia y theo Bát-nhã, chẳng thành phát tâm, tu hành, cho nên nay thỉnh hỏi nghóa của phát tâm, tu hành”. Nếu dựa theo không quán mà xét thì câu hỏi trước là để thành về phát tâm, tu hành. Câu hỏi sau là để mẫn (nhận chìm, dập tắt) phát tâm, tu hành. Hỏi: Câu hỏi trước là để thành về phát tâm, tu hành, câu hỏi sau là để mẫn về phát tâm, tu hành, chúng chẳng trái ngược nhau sao? Đáp: Rốt cuộc cũng để thành cùng một ý mà thôi. Do nhờ mẫn phát tâm mà thành phát tâm vây. Nếu thấy rằng có phát tâm thì chẳng thành phát tâm, do vậy câu hỏi trước đến là để thành phát tâm cũng tức là Mẫn phát tâm. Bây giờ Mẫn phát tâm tức là phát tâm. Trong phần Phật đáp, chia ra hai phần: phần đầu là lặp lại câu hỏi để tỏ rằng phát tâm tức nghóa là Duyên tận. Từ “ Vì cớ sao? Thật không có kẻ phát tâm” là tỏ về tận quán. Hỏi: Câu trả lời của Phật khác với câu trả lời trước như thế nào? Đáp: Trước chỉ là tận Duyên, nay Duyên và Quán đều tận, khác ở chỗ đó. Lại nữa, trước là rộng đáp cả bốn câu hỏi, nay là lược đáp, chỉ đáp về phát tâm, về phát tâm đã vậy, ba câu hỏi kia cũng thế. Vì để tỏ rõ rằng vòng thuyết sau là lược thuyết, một ý nữa rằng khi mới phát tâm thì Duyên và Quán đều dứt, huống nữa là khi tu hánh mà có Hữu sở đắc nữa sao? “Ư Ý Vân Hà? Như Lai Ư Nhiên Đăng Phật Sở…” là chương thứ hai. Luận về sinh khởi, rằng: Nếu đã không có Bồ-tát phát tm6 thì nay đâu có Bồ-tát được thọ ký? Đã có người được thọ ký, ắt có kẻ đã phát tâm. Bởi thọ ký là Quả, phát tâm là Nhẫn, sao thể có quả mà lại không có Nhân? Đây thật ra là để phá Ngã kiến, Nhơn kiến thuộc Hữu sỡ đắc mà thôi. Trước đã phá Nhơn kiến về phát tâm, nay là phá Nhơn kiến về thọ ký. Đoạn văn này có tám Bồ-đề, chia ra làm hai phần: 1.Có năm Bồ- đề, dẫn chuyện thời xưa kia liểu ngộ không có Bồ-tát được thọ ký để giải thích mối nghi ngờ; 2. Có ba Bồ-đề, dẫn chuyện hiện tại Phật quả đắc Bồ-đề để giải thích mối nghi ngờ. Trong phần thứ nhất chia ra ba phần: 1.Phật hỏi; 2.Tu Bồ-đề đáp; 3. Phật thuật thành, phần một và phần hai thì như văn kinh đã nói. Trong phần ba, Phật kể để giải thích, có ba cú Bồ-đề, chia ra làm bốn ý: 1. Nói thẳng rằng; lý thật vô tướng, cho nên là vô sở đắc; 2. Từ câu “Nhược Hữu Pháp …”, đây là phản giải thích…”, nếu Hữu Sở Đắc thì chẳng được thọ ký; 3. Từ “Thật Vô Hữu Pháp …” là thuận giải thích, vì vô sở đắc nên mới được thọ ký; 4.Từ “Hà Dó Cố…” là giải thích nghóa vì vô sở đắc nên mới được thọ ký. Nói rằng: “Vì sao vô sở đắc mới được thọ ký?” Giải thích rằng: “Như Lai Giả, Tức Chư Pháp Như Nghóa”, vì thể Như cho nên gọi là “Như Lai”. Cũng vì thể Như cho nên gọi là “Đắc Ký”, ở trong Như, há lại có pháp để có thể đắc hay sao? Nếu có đắc thì chẳng thể (hội) Như, chẳng thể (hội). Như thì chẳng gọi là Như Lai, củng chẳng được thọ ký. Nghi rằng: Nếu không có Bồ-tát được thọ ký thì hiện nay sao lại có Phật đắc Bồ-đề? Vì hiện nay thật có Phật quả đắc Bồ-đề, tức là Phật có Bồ-tát được thọ ký và phát tâm. Đây thật ra là từng cách một để phá ngã kiến, Nhơn kiến thuộc Hữu Sở Đắc mà thôi, cho nên kinh nói: “Bồ-đề tâm kiến, thọ ký kiến, Phật kiến, Bồ-đề kiến, Đoạn kiến, Thường kiến”, vẫn là cùng một nghó mà thôi câu “Thật không có Phật đắc Bồ-đề”: Khi mới phát Bồ-đề Tâm và khi được thọ ký đã liểu ngộ Vô sở đắc, huống nữa là khi đạt đến Phật quả lại còn có Ngã Nhơn đắc Bồ-đề nữa sao? Câu “Như Lai Sở Đắc Tam Bồ-đề Vô Thật Vô Hư”; trước là phá Hữu kiến, nay là phá vô kiến, tỏ rằng Phật đắc Tam Bồ-đề là lấy vô sở đắc làm đắc, sao lại chẳng đắc? Triệu sư nói: đạo huyền ở tại tuyệt vực, chẳng đắc mà đắc vậy”, tức là nghóa đó. “Vô Thật Vô Hư”; trước là chê trách Hữu kiến, vô kiến, nay cùng hợp lại kết luận là phi Hữu phi vô. Vì không có cái đắc thuộc về Hữu Đắc, cho nên nói là “Vô Thật”, vì chẳng phải không có cái Đắc thuộc vô Đắc, cho nên nói là “Vô Hư”.Ý của luận là vậy. “Thị Cố Như Lai Thuyết Nhất Thiết Pháp Giai Thị Phật Pháp; Đây là thành nghóa phi thật phi hư ở trên, hư dối chẳng có mà thôi. Vì thể (hội) tất cả pháp là Như, cho nên gọi đó là Như Lai, cho nên tất cả pháp Như tức là Như Lai, cho nên nói rằng: “Nhất Thiết Giai Thị Phật Pháp” (tất cả đều là Phật pháp). “Tức Phi Nhất Thiết Pháp”: Tất cả những pháp điên đảo, đó chẳng phải là sở chứng của Như Lai, cho nên nói rằng: “Tức phi nhất thiết pháp”. Vì tất cả Như, đó là Như Lai, cho nên “phi vô”. Vì tất cả điên đảo chẳng phải là Như Lai, cho nên là “Phi Hữu”. Vì vậy mà thành “phi vô phi hữu” ở trên. Đó vẫn là nghóa của Hữu sở vô và vô sở hữu trọng Đại mà thôi, bởi vì vô sở hữu gọi là Đại Niết-bàn, cho nên gọi là “Như Lai”. Hữu Sở Vô là điên đảo sinh tử, cho nên là “Phi Như Lai”. “Thị Danh Nhất Thiết Pháp”; trở lại kết luận “tất cả pháp Như”. Hỏi: Hai câu trên đã đủ, sao lại còn dùng thêm câu sau để kết luận? Đáp: Câu (cú) đầu tỏ thẳng rằng tất cả pháp là Như Lai, hai câu tiếp theo là tách biệt về Hữu và Vô, câu đầu tỏ rằng vô (không có) tất cả mọi điên đảo, câu tiếp tỏ rằng có (Hữu) tất cả pháp Như. Hỏi: Vòng trên nói về Nhiên đăng Phật, và vòng này nói về Nhiên Đăng Phật, có gì khác nhau? Đáp: Trước là do để thành nghóa bất khả thủ, bất khả thuyết mà đến, nay là do để thành nghóa không có Bồ-tát mà đến. Lại nữa, trước là lược nói về nghóa, từ đây về sau tám Bồ-đề là rộng tỏ về nghóa. Theo giải thích của luận, trong phần Phật đáp, kệ của luận nói rằng: “Dó hậu thời thọ ký, Nhiên đăng hành phi thượng”, luận sư giải thích rằng; có bốn thời Nhiên đăng, bốn thời thọ ký, đó là Tập chủng, Tính Chủng, Đạo chủng và Sơ Địa, Nhiên Đăng trước là Thời Tập chủng. Nay đây là Tính chủng và Đạo chủng hai thời Nhiên đăng. Trong đó chỉ là Danh tự thọ ký, chưa đắc chơn vô thọ ký, cho nên nói à “Vô hứu pháp đắc Bồ- đề”. Nếu ở thời này đắc đắc Chơn Vô Sanh ký thì thời Nhiên Đăng sau chẳng còn cho thọ ký nữa, ở đây là giải thích cái Vô sở xuất. Luận nói thằng rằng: “Dó hậu thời thọ ký, Nhiên Đăng hành phi thượng”, lời nói đó tự nó khó hiểu, cũng không có bốn thời thọ ký, bốn thời Nhiên Đăng, hơn nữa dù cho có nghóa như trên thì với văn nghóa, tướng đều chẳng thuận, cho nên ở đây chẳng giải thích thoe nghóa trên. “Thí Như Nhơn Thân Trưởng Đại…”; Chương thứ ba, kinh luận không có phần sinh khởi. Xét đoạn văn này nêu ra Sơn Vương dụ cho pháp Thân để thành nghóa Bồ-đề phi hữu phi vô ở phần trên mà thôi, pháp thân thì không có tất cả hoạn nạn, cho nên là Phi Hữu. Có đủ tất cả công đức, cho nên là phi vô, mà Bồ-đề đã là phi hữu phi vô, nên pháp Thân cũng phi hữu phi vô. Văn có hai phần: 1. Phật nêu ra Đại thân để hỏi, như văn; 2.Tu Bồ-đề đáp rằng: “Như Lai Thuyết Nhơn Thân Trưởng Đại”. luận nói rằng: Phật lấy Chơn Như làm thân. Vì hai nghóa mà gọi là Đại: 1.Khắp tất cả Xứ; 2. Đủ tất cả công đức. Hỏi: Pháp thân vì sao khắp tất cả xứ? Đáp: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Vô tận Bình Đẳng Diệu Pháp giới thảy đều tràn đầy thân Như Lai. Thân Như Lai chưa từng lớn hay nhỏ, khắp hay chẳng khắp. Vì chúng sanh mà khen ngợi đó là Đại mà thôi. “Tức Phi Đại Thân”; vì không có mọi hoạn lụy. Luận nói: Viễn ly phiền não chướng và trí chướng, gọi là “phi thân”. “Thị Danh Đại Thân”; đủ tất cả mọi công đứng. Cú (câu) đầu tỏ thẳng là Đại thân, câu tiếp theo là vì không có hoạn lụy, cho nên là phi Hữu. Câu tiếp theo nữa là vì có chúng đức cho nên là phi vô. Hỏi: Khác với Sơn Vương ở phần trên như thế nào? Đáp: Trước là vì hội trước, sau là vì hội sau. Lại nữa, trên là thành giữa không có thủ thuyết, nay là để thành nghóa Bồ-đề phi hữu phi vô, trên là nói về Báo Phật, nay là nói về pháp thân Phật, trên là người mê hoặc cho rằng khi mới đắc Phật, cho rằng có Bồ-đề để có thể thủ, cho nên đó là Báo Phật. Nay nói thẳng rằng Thể của pháp thân là phi hữu phi vô, cho nên đó là pháp thân. “Bồ-tát Diệc Như Thị…”, đây là chương thứ tư. Về vấn đề nguyên do có đoạn văn này. Luận phần sinh khởi nói: Nếu phần trên đã nói không có Bồ-tát phát tâm, không có được thọ ký, vừa lại không có chủ Phật đắc vô thượng Bồ-đề, Nếu Nhân và Quả đều bất khả đắc thì chúng sanh cũng chẳng nên nhập Niết-bàn, cũng không có những sự việc Tịnh Phật Thổ thì Bồ-tát vì sao lại muốn thành tựu chúng sanh khiến nhập Niết-bàn, tu hạnh Tịnh Thổ? Đáp thật ra là tâm Hữu sở đắc, trãi pháp mà sin ra nghi ngờ, cho nên cũng trãi theo từng pháp mà phá, vì phá chưa xong, cho nên sinh ra chương này. Câu “Bồ-tát cũng như vậy”; đây là Bồ-tát thành tựu chúng sanh, Bồ-tát Tịnh Phật Thổ, cũng như Bồ-tát phát tâm và thọ ký ở phần trên đều bất khả đắc, cho nên nói là “Diệc Như Thị” (cũng như vậy). Đây cũng là trên câu Bồ-đề pháp thân Hữu và Vô, bất khả đắc, cho nên cầu Bồ-tát hữu vô cũng bất khả đắc, cho nên nói rằng “cũng như vậy”. Trong đoạn này có ba cú kinh: 1.Phá Bồ-tát thành tựu chúng sanh. 2. Phá Bồ-tát Tịnh Phật Thổ; 3. Kết nghóa Bồ-tát chơn chánh. Hỏi: Trên đã có hai chỗ nói về Diệt độ chúng sanh, có gì khác với ở đây? Đáp: Kinh đầu tiên đã nói về Diệt độ chúng sanh là để trả lời về Bồ-đề tâm. Tiếp đó vòng thứ hai, đầu tiên là do để trả lời về Mẫn Bồ- đề tâm. Nay ở đây là do vì để phá nghóa Bồ-tát thàn tựu chúng sanh mới có đoạn văn này. Hỏi: Phần trên đã nói về Tịnh Thổ, có gì khác với Tịnh Thổ ở phần này? Đáp: Phần trên là để thành nghóa vô thủ vô thuyết, ở đây là tỏ về Bồ-tát vô (không có) Tịnh Thổ, cho nên khác. “Nhược Bồ-tát Thông Đạt Vô Ngã Pháp Giả”; đây là cú thứ ba, kết danh chánh Bồ-tát, ý của câu văn này có gần có xa, ý gần là từ đầu vòng thứ hai đến đây, nói rằng không có Bồ-tát phát Bồ-đề tâm, không có Bồ-tát được thọ ký, cho đến ở đây nói rằng không có Bồ-tát thành tựu chúng sanh tịnh Phật thổ, người nghe vậy sinh ra nghi ngờ; nếu vậy đúng phải đều không có Bồ-tát. Vì vậy mà giải thích rằng; do bới liểu ngộ không có Bồ-tát nên mới là Bồ-tát, thấy có Bồ-tát thì chẳng phải là Bồ-tát. Ý xa là xuyên suốt cả bộ kinh, kinh này thủy chung đều tỏ rõ rằng không có Bồ-tát, phá cái kiến (chấp) về Ngã và Nhơn, nếu liểu ngộ được không có Bồ-tát, mới là Bồ-tát. Thấy có Bồ-tát, thấy hữu (có) tức là phàm phu, Ngã kiến chẳng phải là Bồ-tát. Hỏi: Người liểu ngộ không có Bồ-tát (vô Bồ-tát), đó là biết không có ngã, Nhị thừa cũng ngộ vô ngã, vì sao chẳng gọi là Bồ-tát? Đáp: Luận nói rằng: ngộ hai loại vô ngã mới gọi là Bồ-tát, Thanh Văn chỉ ngộ Nhơn vô ngã, cho nên chẳng gọi là Bồ-tát. Lại nữa, Bồ-tát biết Ngã và Vô ngã là bất nhị (chẳng hai khác) cho nên gọi là Bồ-tát. Nhị thừa thấy Ngã và Vô ngã là khác nhau, người bị hai kiến đó chẳng phải là Bồ-tát. “Ngũ Nhãn….” Là chương năm, nguyên do có văn này đến, có hai ý: Ý gần là do từ đoạn văn chương bốn trên mà sinh ra, bốn chương trước đều chẳng thấy Bồ-tát, thời hội bèn nghi rằng; Nếu Như Lai nói rằng không có cái bị thấy thì đúng phải không có mắt, nếu có mắt thì vì sao lại chẳng thấy, cho nên nêu ra “ngũ Nhãn” (năm loại mất) để đáp. Nay nói “chẳng thấy”, chẳng phải là không có mắt mà chẳng thấy, năm loại mắt đều thấy rõ ràng nhưng mà không có cái bị thấy. Như kinh Tịnh Danh, chương A Na Luật nói rằng: “Có Phật Thế Tôn đắc Chơn Thiên Nhãn, thường thấy chư pháp, chẳng nhờ vào hai tướng”. Kinh Đại phẩm lại nói rằng: “Năm mắt ta còn chẳng thấy chư pháp, huống nữa là phàm phu không có mất mà nói là đắc Bồ-đề sao? nguyên do xa mà sinh ra; Kinh từ đầu đến đây đều tỏ rằng vô đắc vô kiến, cho nên nay có phần văn này. Lại nữa, trên là phá Hữu kiến, cho nên nói Vô kiến. Nay phá vô kiến, cho nên Hữu kiến chưa từng kiến hay bất kiến. Nghóa của Ngũ nhãn riêng biệt, cần phải giải thích, nhưng nay lại bày tỏ con số và ý. Mà năm nhãn là dựa theo năm loại người mà có năm nhãn, đó là: Người thì có Nhục Nhãn, Thiên thì có Thiên Nhãn, Nhị Thừa Kiến Tứ Đế thì có Huệ Nhãn, Bồ-tát Chiếu Tam Thừa căn tính, thuyết tam thừa pháp, có pháp Nhãn, Phật có Phật Nhãn. Tiếp nữa là dựa theo hai loại người; Người Nhân thì có bốn Nhãn, người quả có một nhãn. Người Nhân có bốn nhãn, như kinh Nhơn Vương tán thán Bồ-tát đắc Tứ nhãn ngũ thông, người quả một nhãn, tức là Phật có Phật nhãn. Tiếp nữa là nói về một người có đủ cả năm nhãn, tức là Phật. Hỏi: Vì sao cụ túc đủ cả ngũ nhãn? Đáp: Đây là tác dụng sai biệt của Vô sai biệt. nói chướng nội Cảnh là nói theo Phật trí, cho nên gọi là Nhục Nhãn, nêu chướng ngoại cảnh là nói theo Phật trí, cho nên gọi là Thiên Nhãn. Dựa theo Nhị Huệ ảnh, gọi là Huệ Nhãn. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Huệ Nhãn thấy chơn cảnh, thấy chơn cảnh gọi là Huệ Nhãn”. Kinh Đại phẩm, trong phẩm Văn Sanh nói; “Huệ Nhãn không có pháp nào chẳng thấy”, lại còn nói rằng “nhưng mà vô sở kiến”. Đại trí Luận nói: “Đủ cả Tổng Tướng Huệ và Biệt Tướng Huệ,. Gọi là Huệ Nhãn”, vì vậy mà biết rằng Huệ Nhãn có đủ cả hai Huệ. Pháp nhãn thì có thể biết được (chẳng cần giải thích thêm). Bốn Nhãn chẳng liểu hiểu, Phật nhãn liểu hiểu, cho nên gọi là Phật Nhãn, cũng thấy Phật Tính cho nên gọi là Phật Nhãn. “Tu Bồ-đề, Hằng Hà Trung Hữu Sa”: Chương này là để thành Ngũ Nhãn. Theo Luận sư sinh khởi đoạn văn này sinh ra là do vì có mối nghi cho rằng; Năm Nhãn thì ít mà cảnh thì nhiều, sao lại, có thể dùng năm nhãn để biết nhiều cảnh? Cảnh đã là nhiều thì đúng phải Nhãn cũng nhiều, nhưng nay thì Nhãn lại ít sao thể biết hết nhiều cảnh? Vì mối nghi đó mà nay nói rằng Nhãn tuy ít nhưng có thể biết khắp tất cả mọi cảnh. Luận không có giải thích như thế, nay ở đây giải thích như thế cũng chẳng hề hấn gì. Chỉ biết rằng trên kia đã nói về Ngũ nhãn, nay ở đây mới xuất ra cảnh sở chiếu. Hỏi: trước kia đã nêu Hằng Hà, nay tỏ Hằng hà, có gì khác nhau không? Đáp: trước kia là để thành so sánh với bốn câu kệ mà nêu Hằng hà, nay là những cảnh do Năm Nhãn soi chiếu mà nêu hằng Hà. Hỏi: Cảnh đã là nhiều, vì sao chỉ nói là tri tâm (biết tâm)? Đáp: Có hai ý: 1.Rộng và lược, trước kia đã nói rằng vì Nhãn (thuộc) Năng chiếu là Rộng, cho nên tỏ đủ cả Năm Nhãn. Nay nói rằng cảnh (thuộc) Sở chiếu là lược, cho nên chỉ nói tâm; 2.tâm không có hình, không có xúc chạm, khó biết nhất. Nay nêu ra cái khó biết của nó còn biết dể để có thể nói. “Như Lai Thuyết Chư Tâm”: Rằng Như Lai thấy tâm tất cả chúng sanh chỉ là Hành trong điên đảo, từ đó là “phi tâm” chẳng hành ở trong chánh quán. “Thị Danh Vi tâm”; kết về tâm điên đảo. “Tam Thế Tâm”; sở dó có đoạn văn nói về tâm trong ba đời (Quá khứ, hiện tại, vị lai) là vì để giải thích, kết thành nghóa của tâm điên đảo. Vì sao gọi là tâm điên đảo? Vì ba thời cầu tâm bất khả đắc, nhưng chúng sanh lại thấy là tâm điên đảo? Vì ba thời cầu tâm bất khả đắc, nhưng chúng sanh lại thấy là có tâm đó là không có (vô) mà cho là có (Hữu), cho nên gọi là Điên đảo. “Tu Bồ-đề, Mãn Tam Thiên Thế Giới Thất Bảo”; có đoạn văn này đến là vì để giải thích mối nghi, nghi rằng phần trên nói rằng Phật biết tâm chúng sanh đều là điên đảo thì tâm điên đảo làm những hành như Bố thí,.. đều là điên đảo, nếu vậy thì đúng phải không có Nhân để thành Phật, đã không có Nhân để thành Phật thì đúng phải không có quả Phật. Vì vậy mà giải thích mối nghi đó rằng; Bố thí,… bằng tâm vô sở đắc tức là Nhân để thành Phật, đã có Nhân Phật thì có quả Phật. Hỏi: Do đâu mà có “bất điên đảo”? Là do từ “Điên đảo” mà đắc “Bất điên đảo” hay là do từ “bất điên đảo” mà đắc “bất điên đảo”, cả hai điều trên đều bị lỗi; nếu do từ “Điên Đảo” mà sinh ra “bất điên đảo” thì “Đảo” là Nhân của “bất Đảo”. Nêu do từ “bất điên đảo” mà sinh ra “bất điên đảo” thì “bất điên đảo” (sẽ bị mắc lỗi) là không có Nhân. Đáp: Kinh Đại Phẩm, Tam Huệ phẩm, Phật đáp câu hỏi đó; “Chẳng” do từ “Hữu Đắc” mà sinh ra “Vô Đắc”, chẳng do từ “Vô Đắc” mà sinh ra “Vô Đắc”, vì “Hữu Đắc” và “Vô Đắc” là bình đẳng, cho nên đó là Vô Sở Đắc”, tức là sự đó vậy. Hỏi: Trên đã nói Tam Thiên Thế giới thất bảo, có gì khác với ở đây. Đáp: Thất bảo trước kia là so sánh với bốn câu kệ, Thất bảo ở đây là Nhân để thành Phật. “Nhược Phước Đức Hữu Thật”; Đây là giải thích mối nghi. Nghi rằng; phần trên là Tam thiên thất bảo, phần này cũng vậy. Vì sao đây lại là Nhân để thành Phật? Vì vậy mà giải thích rằng; Nếu phước đức có thật thì ở đây nói là “Hữu đắc phước đức”, vì phước đức là Vô, nên ở đây nói rằng “Vô Đắc Phước Đức”, cho nên đó là Nhân để thành Phật. “Tu Bồ-đề, Ư Ý Vân Hà, Phật Khả Dó Cụ Túc Sắc Thân…”; là chương thứ sáu. Hỏi: Từ trên đến đây, có ba chỗ nói về Sắc thân, có gì khác nhau? Đáp: là đầu tiên nói về Sắc thân là để tỏ rằng tường hảo thân khác với pháp thân. Tướng Hảo Thân thì có ba tướng. Pháp thân thì không có ba tướng. Lần thứ hai là để thành nghóa về hai Nhân hơn kém; hai quả của hai Thân đã là hơn kém thì hai Nhân của hai thân cũng phải là hơn kém, để thành nghóa so sánh đó mà có đoạn văn lần thứ hai nói về sắc thân. Có đoạn văn lần này là để phá cái thấy (kiến chấp) cho rằng hai thân là cùng một, là khác nhau (nhất và dị). Hai chỗ nói về sắc thân ở phần trên là nói về sự khác nhau giữa hai thân. Suy theo dòng chảy của ngôn ngữ thì ý nói rằng: Tướng Hảo Thân (thuộc Hữu) khác với pháp thân đó, do từ ý nghóa Như Lai bổn tích khác nhau, tam Phật khác nhau. Vì vậy mà chương này là để phá Nhất kiến (cho rằng là hai thân cùng một như nhau) và Dị kiến (cho rằng hai thân là khác nhau). Luận có hai bài kệ; nữa phần trên của bài kệ đều nói rằng; “Pháp thân tất cánh thể, phi bỉ Tướng Hảo thân”, đây tức là phá Nhất kiến về hai thân (cho hai thân là cùng một), ý nói rằng Tướng Hảo Thân thì có tướng tốt, còn pháp thân thì không có tướng tốt, hai thân có khac 1nhau sau lại có thể nói là cùng một? Nữa phần trên của bài kệ sau nói rằng: “Bất ly ư pháp thân, thử nhị phi bất Phật” (chẳng lìa khỏi pháp thân, hai thân đó chẳng thân nào là chẳng phải Phật), đây là phá Dị kiến (kiến chấp cho rằng hai thân kia là khác nhau), đâu có chuyện tách lìa khỏi tướng Hảo Thân mà có riêng một pháp thân khác nhau? Cho nên nói rằng “Hữu Nhị phi bất Phật”. Hỏi: Hai thân nhất định là cùng một (định nhất) hay nhất định là khác nhau (định Dị), phi nhất phi dị sao? Đáp: chư pháp không có tướng nhất định, nhưng lại có đủ cả ba phương tiện; ngày xưa, Đức Phật nói rằng Tướng Hảo Thân cũng sinh diệt, ngũ phần pháp thân cũng sinh diệt, cả hai thân đều cùng là sinh diệt, tức là mang ý nghóa của cùng một (Nhất). Tiếp đến là kinh này, hai chỗ ở phần trên, Đức Phật nói về sự khác nhau giữa hai thân; tướng Hảo Thân thì có sinh diệt, pháp thân vô vi không có sinh diệt, đó nghóa là khác nhau (Dị). Nay ở đây chương này phá cả hai; Nhất và Dị, do vậy, Phật có đủ cả ba loại phương tiện. Hỏi: ngày xưa vì sao Đức Phật thuyết phương tiện “Nhất”, đến nay ở đây vì sao lại thuyết “bất Nhất bất Dị”? Đáp: Ngày xưa (thời Phật mới đắc đạo) vì để phá Thường kiếm mà nói rằng hai thân của Phật đều là sinh diệt vô thường. Cho nên hai thân là Nhất (cùng một), người Nhị Thừa bèn cho rằng là Nhất (cùng một), phần đầu của kinh này nói rằng hai thân sinh và bất sinh là Dị (khác nhau), thời hội bèn cho rằng Tiểu Thừa hai thân là Nhất, Đại thừa hai thân là Dị, cho nên nay phần này phá cả Nhất và Dị. Người được ý thì cả ba đều hội đạo lợi vật, người chẳng đạt thì đều là điên đảo hý luận, phá kiến giải về hai thân là Nhất là Dị đã vậy, phá pháp thân là Hữu sắc, là vô sắc cũng như vậy. Luận nói rằng: nó vừa Vô vừa Hữu, vì pháp thân thì tuyệt tướng nên chẳng thể nói pháp thân có tướng hải. Vì lìa khỏi Thân tướng hảo thì chẳng có một pháp thân nào cả nên chẳng thể nói là pháp thân không có tướng hảo. Cái gọi là “Cụ Túc Sắc Thân”; duy chỉ Phật một người tận cả cái đẹp của hình tướng, cho nên nói là “Cụ Túc”. “Như Lai Thuyết Cụ Túc Tức Phi Cụ Túc”. Đây là phá Nhất kiến (phá cái thấy cho rằng là cùng một), ý rằng sắc thân chẳng phải là pháp thân, sao có thể là cùng một. “Thị Danh Cụ Túc”; đây là phá Dị kiến, đâu có chuyện lìa khỏi Tướng chung và tướng riêng của thân là khác nhau mà thôi. “Ư Ý Vân Hà, Như Lai Hữu Sở Thuyết pháp Bất…” Đây là chương thứ bảy. Vì để phá mối nghi pháp thân có thuyết pháp. Nghi rằng: Nếu Cụ Túc sắc thân chẳng phải là pháp thân, thì sao lại nói Như Lai có chỗ thuyết pháp? Vì vậy mà Phật phá rằng: “Tu Bồ- đề! Ông đừng nói rằng Như Lai pháp thân có sở thuyết, nếu nói Như Lai pháp thân có sở thuyết tức là báng pháp thân. Vì pháp thân phi sắc, cho nên pháp thân phi thuyết. Vì sao lại thuyết một cú này. Vì để phá mối nghi cho rằng pháp thân vô thuyết. Nếu nói rằng pháp thân chẳng thuyết, tướng hảo thân thuyết, điều này cũng chẳng đúng! Phần tên tỏ rằng chẳng thể lìa khỏi tướng Hảo Thân mà có riêng pháp thân, thế rồi bèn cho rằng pháp thân không có tướng hảo. Cũng chẳng thể lìa khởi Tướng hảo thân thuyết mà có pháp thân thuyết, rồi bèn cho rằng pháp Thân không có thuyết. Hỏi: Vì sao biết kinh văn như vậy? Đáp: Kệ của luận nói rằng: “Như Phật, pháp cũng vậy” mới biết nêu Phật để ví cho pháp. “Vô Pháp Khả Thuyết Thị Danh Thuyết Pháp”; đây là phá thêm về mối nghi ngờ; người ta nghe nói pháp thân có thuyết pháp, bèn cho rằng có pháp để thuyết. Vì vậy mà nay giải thích rằng: Tuy vẫn là thuyết pháp nhưng không có pháp để thuyết, giả danh gọi đó là thuyết pháp mà thôi. Trong luận, tiếp theo chương này còn có một chương nói về Tín Thọ. Hỏi: Phần trên đã nói về Tín, nay cũng nói về Tín, hai tín này có gì khác nhau? Đáp: Tín ở phần trên là Tín nhân quả tham nghóa. Tín ở đây là tin rằng Như Lai tuy thuyết nhưng Vô Sở thuyết ở trên. Hỏi: Hạng người nào có thể tin được pháp này? Đáp: Luận kệ nói rằng; “Phi chúng sanh chúng sanh, phi Thánh phi bất Thánh”; người này là phi phàm phu chúng sanh, cho nên nói là “phi chúng sanh”, mà là Thánh Thể chúng sanh, cho nên nói là “Chúng sanh”. Vì phi chúng sanh, cho nên là “Phi Thánh”, đó là Thánh Thể chúng sanh, cho nên nói là “Phi bất Thánh”. Hỏi: Nếu nói rằng phàm phu chẳng tin thì chẳng thể vì phàm phu mà thuyết, Thánh Nhơn tin thì chẳng cần vì thánh nhơn mà thuyết kinh này, nay thuyết kinh này thật là vì hạng người nào mà thuyết? Đáp: Xét theo ý ở đây thì phàm phu có đủ điên đảo, Hữu sở đắc chẳng thể tin hiểu nổi, đây là những chúng sanh quen với quán vô sở đắc mới có thể tin hiểu. Những chúng sanh đó là hạng người mong vọng về Hữu sở đắc, cho nên gọi là “phi chúng sanh”. Vì chưa cụ túc liểu ngộ, nên là “phi bất chúng sanh”. “Ư Ý Vân hà….”; là chương thứ tám. Xét về sinh khởi là do từ chương thứ hai trên mà sinh ra chương này. Kinh chương thứ hai trên nói rằng: “Phật không có Bồ-đề để đắc, nay vì sao lại có cấp bậc, ngôi vị hạnh? Như nói rằng do từ giai vị Thập Tín rồi đạt đến giai Vị Thập trú, từ Thập Trú đạt đến Thập hạnh, từ Thập Hạnh đạt đến Thập Hồi Hướng, Thập Địa. Đã có tiến hạnh cấp bậc thì đúng phải Hữu Sở Đắc. Do Văn gần sinh ra là; Tướng Hảo là xét về Thân nghiệp, vô sở thuyết là biện về khẩu nghiệp, nay phần nay đắc Bồ-đề là nói về ý nghiệp, Phật đã vô sở thuyết thì đúng phải vô sở đắc, nay thật Hữu sở đắc thì đúng phải thật Hữu sở thuyết. Hỏi: Trong vòng đầu đã nói rằng Phật vô sở thuyết, vô đắc Bồ-đề, khác với vòng này ra sao? Đáp: Hai Hội trước và sau là hai duyên lợi và độn, hai nghóa này xuyêt suốt cả mười lăm chương. Nhưng văn phần này và Văn phần trên có khác nhau về khai hợp, có khác nhau về lai ý (ý đến). Khác nhau về lai ý là; vòng trên nói rằng Thích Ca là Hóa Phật, là để phá mối nghi thật thuyết. Nay nói rằng chẳng thể nói rằng pháp thân Hữu thuyết, pháp thân vô thuyết, để phá mối nghi về nghóa của pháp thân Hữu thuyết, pháp thân vô thuyết. Trên là tỏ rằng vô đắc Bồ-đề để phá mối nghi Thật đắc, nay nói rằng Vô Đắc là để phá mối nghi nêu ra Nhân hành cấp bậc, chứng quả thật đắc. Lại nữa, phần trên nói rằng Như Lai Hữu sở thuyết sao? Có Bồ-đề đắc sao? Đó là đắc và thuyết, hợp lại với nhau mà luận. Nay thì khai Đắc và Thuyết ra thành hai chương kinh; chương kinh nói về vô sở thuyết chương kinh này tỏ về vô sở đắc. Văn chia ra ba phần: 1. Phật điệp lại nghi tình, phản vấn ngài Thiện Cát; 2. Ngài Thiện Cát phụng đáp. Tỏ rằng Phật không có tí pháp nào đắc Bồ- đề, nếu có đắc một tí nào thì chẳng đắc đạo; 3.Vì rốt ráo vô đắc, đó mới là đắc đạo mà thôi, về đắc quả, thật không có một pháp nào để có thể đắc, về Hành Nhân; thật không có một hạnh nào để có thể hành, bởi vô sở đắc mới đắc quả, bởi vô sở hành mới hành Nhân. Tiếp nữa, Phật nói về bốn nghóa để giải thích về vô thượng Bồ-đề: 1.Bởi vô sở đắc, cho nên là vô thượng; 2. Vì thể ngộ nghóa pháp giới bình đẳng, cho nên gọi là vô thượng Bồ-đề; 3. Bởi vô Ngã Vô Nhơn nên đắc Bồ-đề; Thể của Bồ-đề kia không có hại loại Ngã, gọi danh là vô thượng. Hai nghóa trên là dựa theo Môn Đắc để giải thích vô Thượng Bồ-đề. Nay là dựa theo Môn Ly để giải thích: Nghóa là Thể của Bồ-đề có Ngã có Nhơn thì chẳng phải là vô thượng. Vì Thể không có Ngã, không có Nhơn, cho nên gọi danh là Vô Thượng Bồ-đề. “Tu Nhất Thiết Thiện Pháp”; ba môn trên là dựa theo quả để giải thích vô thượng, đây là nghóa thứ tư, dựa theo Nhân mà giải thích Vô Thượng: Vì có phương tiện vô thượng, tu tất cả chúng hạnh mãn túc, cho nên là vô thượng. Bồ-tát khác tu Nhân hạnh chẳng mãn túc, cho nên là Phi Vô thượng (chẳng phải vô thượng). “Như Lai Thuyết Thiện Pháp tắc Phi Thiện Pháp”; giảm lược bớt nghóa của tu thiện pháp ở phần trên. Nay ở đây nói về Thiện pháp thuộc vô sở đắc mà thôi. Đắc chẳng phải là Thiện pháp thuộc phạm trù Hữu, cho nên nói là “Tắc Phi Thiện Pháp”. “Thị Danh Thiện Pháp”; trở về kết luận, thủ những Thiện pháp thuộc phạm trù Vô sở đắc. “Tam Thiên Thế Giới Tu Di Thất Bảo…” Đây là chương thứ chín. Hỏi: Vòng trước đã nêu ra nội thí và ngoại thí để so sánh, nay vì sao lại còn nói nữa? Đáp: Phần trên đã nói rằng thuyết vòng trước và vòng sau là vì chúng của hai hội, chẳng nên hỏi. Lại nữa, trước đã nói về Bát-nhã Thể Môn và Tín Thọ Môn, nay thuyết kinh là công đức Môn. Lại nữa, theo luận sinh khởi, do từ văn phần trên “tu tất cả thiện pháp đắc Bồ-đề” mà sinh ra. Nếu nói “Tu Thiện Pháp Đắc Bồ-đề thì thọ trì chương cú kinh này chẳng đắc Bồ-đề. Vì sao? Những người của các Bộ như Tát Bà Đa Bộ,… nói rằng; Danh, tự, cú là pháp vô ký, vì phá mối nghi đó nên trùng nêu ra lại nói rằng; Danh, tự, cú tuy là vô ký nhưng chúng có thể bày tỏ thật tướng, cho nên thọ trì tứ cú, công đức được vô biên. Lại nữa, trong pháp của ông nói chúng là vô ký, trong pháp ta nói rằng đó là Danh, tự, cúi Bát-nhã, há lại là vô ký, vì vậy mà thọ trì bốn câu hơn Đại Thiên rộng thí. Hỏi: Đẳng là phá mối nghi về Vô. Vì sao chẳng nêu ra Hằng Sa Thất Bảo và nêu ra Hằng Sa thân mệnh? Đáp: Tam Thiên Bảo là thứ được nêu ra đầu tiên để so sánh, cho nên nêu ra ở chương đầu. Lại nữa, vì người hội sau cần phải lần lượt so sánh, chẳng thểso sánh đột ngột bỏ qua nói ngay đến Hằng Sa. Lại nữa, Tam thiên tài bảo ở đây khác với ở trên, trên chỉ nói rằng Tam Thiên tài bảo chẳng bằng trì kinh bốn câu. Nay ở đây nói rằng Trăm phần chẳng bằng một. Theo luận kinh có bốn loại vượt trội (thắng). 1.Trăm phần chẳng bằng một, cho đến trăm ngàn phần chẳng bằng một: Đây là con số vượt trội, phước của trì kinh chẳng thể đếm; 2. Ca La phần chẳng bằng một. Đây là lược dụng thắng. Nói rằng lực dụng của kinh hơn hẳn lực dụng khi Bố thí bảy báu; 3. Ưu Bà Ni Sa Đà phần chẳng bằng một. Tiếng Hán gọi là Bất tương tựa số thắng. Đây là số vi tế trong số, cho đến trì kinh số phước đức ít oi chẳng tương tựa với số đó, cho nên nói ta là Số Thắng; 4. Nhân quả thắng: Nhân quả của kinh này hơn hẳn Nhân quả khác. “Tu Bồ-đề, Ư Ý Vân Hà…” Là Kinh chương thứ mười. Về nguyên do có chương này đến. Luận nói rằng: Là do từ “Bồ-đề Vô Cao Hạ” ở trên mà sinh ra. “Vô Cao” tức là chư Phật chẳng cao, Phật chẳng phải là Năng Độ, nếu không có hạ thì chúng sanh chẳng phải là hạ, chẳng xuống độ chúng sanh nhưng Phật là Năng Độ cho nên Phật là cao. Chúng sanh là Sở Độ cho nên chúng sanh là Hạ, chẳng nên “vô cao hạ”. Lại nữa, do từ “Vị Tha Thuyết Tứ Cú” ở trên mà sinh ra; thời hội đã nghe nói “Vì người mà thuyết tứ cú thì công đức vô biên”, bèn cho rằng có chúng sanh để vì, cho nên nay phá điều đó. Phần văn trước là ngăn chặn niệm nghi, tiếp đó “Hà Dó Cố” là giải thích ngăn chặn niệm nghi, cho nên nói rằng “Thật Vô Chúng Sanh Khả Độ, Như Bất Ưng Niệm Phật Độ Chúng Sanh” (Thật không có chúng sanh để độ, ông chẳng nên nghó rằng Phật độ chúng sanh). “Nhược Hữu Chúng Sanh Như Lai Giả”; Đây là phản giải thích; nếu thấy có chúng sanh để có thể độ thì Phật bị lỗi là thủ Ngã. Vì chúng sanh thấy chúng sanh nên chúng sanh danh là chúng sanh, chẳng thể tự mình độ mình thì làm sao độ chúng sanh. Nếu Phật cũng thấy chúng sanh thì Phật cũng danh là chúng sanh, chẳng thể tự độ mình, sao thể độ chúng sanh. Phật nếu thấy chúng sanh, Phật năng độ chúng sanh thì chúng sanh cũng thấy chúng sanh, chúng sanh đúng phải năng độ Phật. Vì mắc lỗi lớn như vậy, cho nên Phật chẳng nên thấy có chúng sanh. “Như Lai Thuyết Hữu Ngã Tắc Phi Hữu Ngã”: Giải thích thêm về mối nghi. Nghi rằng: Nếu không có chúng sanh để có thể độ thì trong miệng Phật sao lại tự xưng là “Ta”(ngã)? Như nói rằng: Ta vốn hành Bồ-tát Đạo,… cho nên biết là có Ngã. Đáp rằng: Như Lai tùy theo tục mà thuyết là có ngã mà thôi: Thật không có Ngã để nói, mà người phàm phu tưởng rằng là có Ngã. Còn nghi ngờ rằng; Nếu không có cái ta thì vì sao thế gian đều nói tôi đến, tôi đi, tôi sinh, tôi chết,…? Bèn giải thích rằng: Đó là người phàm phu ở trong không có Ngã cho rằng là có Ngã mà thôi. Cho nên nói rằng “phàm phu cho là có ngã”. “Phàm Phu, Như Lai Thuyết Phi Phàm Phu”. Luận kinh nói một cách đầy đủ rằng: “Tu Bồ-đề! Phàm Phu Sanh Giả, Như Lai Thuyết Phi Sanh, Thị Danh Mao Đạo Phàm Phu Sanh”, sở dó có lời nói này đến là vì ở trên nói rằng người phàm phu cho là có Ngã, cho nên nay giải thích nghóa phàm phu. Sở dó nói rằng “Phàm phu sanh, Như Lai thuyết phi sanh” là vì chẳng sanh ra Thánh quán, cho nên gọi là “Phi sanh”. Sanh ra tâm phàm phu điên đảo, cho nên đó gọi là “Phàm phu sanh”. Hỏi: Luận kinh vì sao nói “Mao Đạo phàm phu”. Đáp: Vì ngu si chẳng giải hiểu một tí đầu lông Thánh pháp một số người riêng có phàm phu pháp, phàm phu tính. Phàm phu tính là phi sắc, phi tâm, bất tương ưng hành, vô ký pháp. Phàm phu pháp thì thông cả Ngũ ấm, thông cả tam tính. Nghóa của cuốn Thành Luận thì cho rằng không có phàm phu tính, phàm phu pháp riêng lẻ, chỉ là vì không có Vô Lậu Thánh pháp, cho nên gọi danh là phàm phu pháp mà thôi. “Khả Dó Dó Tam Thập Nhị Tướng Quán Như Lai Bất…”. Đây là kinh chương thứ mười một. Nguyên do có ba chương trên, mỗi chương đều có nghóa của nó. Nay chương này lại sinh ra là vì trong chương thứ ba trên tuy phá những kiến cho rằng Như Lai pháp thân là Hữu tướng, là vô tướng, là Nhất, là Dị… nhưng những đệ tử còn bị dính mắc vào mắt, tai, đa phần vẫn nói rằng ba mươi hai tướng là Phật. Rồi trở lại sinh nghi cho rằng tu ba mươi hai tướng nghiệp mới đắc ba mươi hai tướng Thân, có ba mươi hai tướng thân tức là có pháp thân, vì vậy mà biết rằng pháp Thân phải có tướng hảo. Vì để phá mối nghi đó nên mới có chương này sinh ra. Lại nữa, vòng đầu nên hai lỗi để nói về tướng hảo, vòng sau cũng nêu hai lỗi để tỏ về tướng hảo, niềm tin của Hai Hội cũng chẳng thể đánh mất. Lại nữa, tiếp cận với chương trước kia tỏ chung rằng Chánh pháp bình đắng không có cao hạ, chương tiếp theo là tỏ rằng không có chúng sanh để độ để giải thích về “Vô hạ”. Nay ở đây là liểu hiểu Ba mươi hai tướng chẳng phải là Phật, giải thích ý nghóa của “Vô Cao” Kinh chương này gồm có năm cú: 1.Phật Điệp lại nghi tình để hỏi; 2.Tu Bồ-đề đồng với người mê để đáp; 3.Phật nêu ra Luân vương để cùng phá; 4. Tu Bồ-đề ngộ giải; 5. Phật thuyết kệ chê trách. Hỏi: Kinh Quán Phật Tam Muội nói rằng: “Nếu quán Phật sắc thanh thì đều diệt trọng tội:, nay vì sao lại thấy sắc, nghe thanh là hành tà Đạo? Đáp: Nếu đắc phương tiện Dụng của Bát-nhã thì thấy sắc nghe thanh cũng là Phật, phi sắc thanh cũng là Phật, cho đến phi phi sắc thanh cũng là Phật. Nếu chẳng đắn phương tiện Dụng của Bát-nhã thì năm cú đều phi Phật. Cho nên Quán Bát-nhã kệ nói rằng: Nếu người thấy Bát-nhã, ấy ắt đắc giải thoát. Nếu chẳng thấy Bát-nhã, ấy cũng đắc giải thoát. Nếu người thấy Bát-nhã, ấy ắt bị trói buộc, nếu chẳng thấy Bát-nhã, ấy cũng bị trói buộc. “Nhủ Nhược Tác Thị Niệm…”: Kinh chương thứ mười hai sinh ra. Luận về sinh khởi nói rằng: Nếu nói chẳng dùng Sắc tướng hảo để thấy pháp thân thì tu tướng hảo nghiệp chẳng đắc Bồ-đề. Nếu vậy thì đúng phải không có Nhân của phước Đức, không có Quả của phước Đức. Vì để phá mối nghi đó, cho nên nói rằng: “Ông đừng nói không có Nhân phước và quả phước, Phật có hai loại trang nghiêm; Nhân phước đắc quả tướng hảo, đó là phước trang nghiêm. Tu Nhân trí huệ đắc quả trí huệ, đó là Huệ trang nghiêm, Như Lai có đủ cả phước và huệ hai loại trang nghiêm, sao lại không có quả tướng hảo? Ông nếu tác niệm ấy, Phật Bồ-đề tâm thì sẽ nói chư pháp đoạn diệt”. Lại còn nghi rằng: Bồ- tát đắc vô snah nhẫn, đắc trí huệ xuất thế gian, bấy giờ xả Nhục thân, thọ nhận pháp thân thì đúng phải không còn có Nhân phước đức quả phước đức. Vì để phá mối nghi đó mà tỏ rằng Bồ-tát đắc Vô sanh Nhẫn, đắc diệu trí huệ, đắc diệu phước đức, há lại đánh mất Nhân và quả phước đức, đọa vào trong đoạn diệt sao? Hỏi: Trong này nói “phát Bồ-đề tâm”, sao lại giải thích là “Đắc vôï Sanh Nhẫn”? Đáp: Sơ Đắc vô snah nhẫn cũng danh là Sơ phát Bồ-đề tâm. Lại nữa, trong này nói rằng do từ sơ phát tâm chẳng quen tập Đoạn diệt quán, cũng chẳng khởi Thường quán, hậu tâm (những tâm sau đó) đều vậy, cho nên Sơ (mới đầu) và hậu (sau đó) bất nhị (không hai khác). Như nói rằng: “Phát tâm và tất cánh, cả hai chẳng riêng khác”. (Tất cánh có người là sau cùng, rốt cùng). Trước kia nói rằng Phật quả phi Hữu tướng phi vô tướng. Nay ở đây nói rằng Nhân là phi đoạn phi thường. Có thể nói rằng Nhân và quả đều là chánh quán, đều là ly đoạn và thường. Hỏi: Nếu vậy thì Nhân và Quả khác nhau như thế nào? Đáp: Vì Sáng và tối khác nhau, cho nên khai ra Nhân và Quả mà thôi. “Dó Mãn Hằng Hà Sa Thế Giới Thất Bảo Bố Thí”. Hỏi: Ở trên đã so sánh với Hàng sa, sao còn nói lại? Đáp: Vòng trước từ tam Thiên đến Hằng Sa, vòng sau cũng vậy, nghóa của hai hội chẳng bị đánh mất. Lại nữa, lại ý khác nhau; trước là để so với trì bốn câu kinh, nay là để so với Bồ-tát Vô Ngã Nhẫn. Đây là Nhơn Vô Ngã và pháp Vô Ngã, cho nên gọi danh là Vô Ngã Nhẫn. “Bất Thọ Phước Đức”: Vì chẳng thọ hưởng phước đức, thuộc phạm trên Hữu sở đắc, cho nên Bồ-tát này vượt hơn Bồ-tát trên kia. Bồ-tát trước thọ hướng phước đức Hữu sở đắc nên chẳng bằng Bồ-tát sau. Tiếp đó là hỏi và đáp để tác bạch rõ nghóa của bất thọ tham trước? Đáp: Bồ-tát làm phước đức bằng tâm vô thọ, cho nên chẳng sanh tham tâm, đa phần thường phi tác phước đức mà vừa lại chẳng tham. “Nhược Hữu Nhơn Ngôn Như Lai Nhược Lai Nhược Khứ…”: Chương thứ mười ba đến. Luận sinh khởi nói rằng: Bồ-tát đã chẳng thọ nhận phước Đức thì chẳng thọ nhận làm vua loài người, làm vua Trời ở thế gian, thế thì làm sao qua lại lục đạo để lợi ích cho chúng sanh? Vì vậy mà nay giải thích rằng Bồ-tát tuy chẳng thọ nhận quả ở thế gian nhưng hóa thân qua lại lục đạo làm vua người vua trời để lợi ích chúng sanh. Pháp Than thường trú thì không có qua lại khứ lai, đừng thấy Hóa Thân qua lại khứ lai vật mà nói rằng pháp thân cũng có khứ và lai. Đừng thấy pháp thân không có khứ lai, rồi cho rằng sinh thân cũng không có khứ lai. Trong đây chính là tỏ rằng Hóa thân có khứ lai để mối nghi pháp thân có khứ lai. Vì vậy mà nói rằng “Nếu nói Như Lai pháp thân có khứ lai thì chẳng giải hiểu nghóa của pháp thân”. Hỏi: Nếu Hóa Thân có khứ lai, pháp thân không có khứ lai thì vẫn là nghóa của Tòng lai mà thôi? Đáp: Đây là nghóa của Bất Nhị và Nhị, cho nên khai ra hai thân; Vô khứ Lai khứ Lai và Hóa thân, Khứ Lai Vô Khứ Lai là pháp thân, đều là vì vật mà đặt ra tên gọi danh tự mà thôi. Xét cho cùng thì chánh Bát-nhã chưa từng Nhị hay Bất Nhị, khứ lai hay bất khứ lai. “Tu Bồ-đề, Dó Tam Thiên Thế Giới Toái Vi Vi Trần…”: Kinh chương thứ mười bốn. Hỏi: Trước đã nói vi trần, nay lại nói, có gì khác nhau? Đáp: Giải thích có đồng, có dị. Có đồng (giống nhau) là; đồng lấy đó làm thí dụ. Có dị (khác nhau) là: trước nêu ra vi trần (thuộc) Hữu là dụ cho Bố thí (thuộc phạm trù) Hữu Sở đắc do vì để thành cú nghóa so sánh hơn kém mà đến, tỏ rằng Bố thí thuộc phạm trù Hữu Đắc, đó là Nhân của trần nhiễm, trở lại đắc quả trần nhiễm, do vậy chẳng bằng trì bốn câu kinh. Nay ở đây nêu ra dụ vi trần là để phá mối nghi cho rằng pháp thân của mười phương Phật là nhất là Dị. Cũng như Thế giới đập vụn thành vi trần chẳng thể nói chúng cùng ở một (nhất) nhị. Vì tán rời đó cho nên cũng chẳng ở khác nơi (Dị), đã không có thì làm sao có trú? Pháp thân mười phương Phật chẳng thể cùng trú ở một xứ, chẳng thể trú khác xứ, bởi vì chẳng thể trú cùng một xứ, cho nên chẳng phải là hổn lộn thành một pháp thân. Vì chẳng thể trú khác xứ, cho nên chẳng thể mỗi nơi có pháp thân. Vì vậy luận kệ nói rằng: “Ở pháp, giới, xứ này, chẳng Nhất cũng chẳng Dị”, đây là phá hai loại giải hiểu; hoặc nói rằng mười phương Phật bổn thành một pháp thân, hoặc nói rằng mỗi vị Phật đều có một pháp thân. Hỏi: Vì sao nêu dụ vi trần để phá mối nghi pháp thân là Nhất hay là Dị? Đáp: Như vi trần tán diệt, nêu chẳng thể nói là cùng một xứ hay là khác xứ, cũng như vậy mười phương Phật phiền não tận, chẳng thể nói pháp thân cùng trú một xứ hay trú khác xứ. Cho nên luận kệ nói rằng: “Vi trần tan thành bột, thị hiện phiền não tận”. Hỏi: Vì nhân duyên gì mà phá mối nghi pháp thân là nhất hay là Dị? Đáp: Trên nói rằng Hóa thân có khứ lai, pháp thân không có khứ lai. Vì pháp thân không có khứ lai nên thời hội sanh ra nghi ngờ rằng mười Phật pháp thân đồng là không có khứ lai, hay là thành một pháp thân đồng một trú xứ, hay là mỗi một vị Phật đều có một pháp thân ở những xứ khác nhau? Lại nữa, ở trên đã rộng phá kiến chấp hai thân là Nhất là Dị, khiến cho hiểu rõ chánh quả. Nay ở đây là phá kiến chấp về vi trần tụ tán, khiến cho hiểu rõ về y quả. Vì để liểu ngộ nghóa của tất cánh không, chẳng chánh chẳng y, nên có đoạn văn này đến. Trong đoạn văn này, trước tiên là nhắc lại mối nghi kia, rồi nêu ra câu hỏi “Tam Thiên Thế Giới Vi Trần”, muốn nói về nghóa đồng và dị của mười phương tất cả Phật pháp thân. Đáp rằng: “Thân Đa”, là mười phương chư Phật nhiều. “ Thuyết Vi Trần”; là nêu ra vi trần để làm dụ. Vì chỉ là giả danh vi trần, vô sở hữu, cho nên nói là “Phi Vi Trần”. “Thị Danh Vi Trần”; là trở lại kết luận chánh nghóa của giả Danh. “Thế Giới Nhất Hợp Tướng”; Nếu Vi Trần và thế giới cùng đối nhau thì vi trần là dụ cho pháp thân mười phương chẳng cùng một (bất nhất). Thế giới là dụ cho pháp thân mười phương chẳng khác (bất Dị). Nhưng xét theo ý thì dùng vi trần để dụ chung cho cả bất Nhất bất Dị, dùng Thế Giới là để dụ cho bất Nhất. Hỏi: Vi trần trước là thông dụ cho bất nhất bất dị. Sao nay nói Thế giới là dụ riêng cho bất nhất? Đáp: người ta nghe nói pháp thân mười phương đều không có Lai khứ, không có đại tiểu, thì đúng phải là Nhất ( cùng một). Vì đa số đều có mối nghi là cùng một (nhất), cho nên chỉ phá Nhất cùng một. “Nhất Hợp Tướng”: là hợp nhiều vi trần lại với nhau thành thế giới. “Nhất Hợp Tướng, Bất Khả Thuyết”; Thánh nhơn liểu ngộ hợp vô sở hợp, như trong phẩm phá hợp, “Pháp ấy chẳng tự hợp, pháp khác cũng chẳng hợp, pháp hợp và thời hợp, cái Hợp cũng đều Vô”, cho nên không có hợp, chỉ vì phàm phu thấy có thế giới mà khởi tâm tham trước nói là có thế giới mà thôi. “Nhược Nhơn Ngôn Phật Thuyết Ngã Kiến”; đoạn văn này tiếp cận văn trước mà sinh ra, nói rằng sinh ra do vì “Phàm Phu Tham Trước Kỳ Sự”. Phàm phu tham trước là do bởi Ngã kiến. Ngã kiến đã không có thì tham trước do đâu mà có? Lại nữa, ý xa là giải thích cả cuốn kinh, trên kia đâu đâu cũng tán thán khen ngợi vô ngã, vô nhơn, nhưng chỉ vì phàm phu điên đảo khởi Ngã kiến, Nhơn kiến mà thôi. Thời hội bèn nghi rằng: Phật nói phàm phu khởi Ngã kiến, vì vậy mà biết có Ngã kiến để khởi, nếu không có Ngã kiến thì Phật chẳng nên nói là phàm phu khởi Ngã kiến, đây là mối nghi thứ nhất. Lại nữa, người Nhị Thừa nói rằng: trước đã có Ngã kiến rồi đoạn dứt Ngã kiến mới đắc Trí Vô Ngã, đó danh là Đắc Đạo, đây là mối nghi thứ hai. Để phá mối nghi thứ nhất, nói rằng: Nếu người nói “thuyết Ngã kiến thì co Ngã kiến để có thể thuyết” thì chẳng hiểu nghóa Phật đã nói. Vì Phật muốn chứng tỏ rằng Ngã kiến là Vô, cho nên thuyết Ngã kiến mà thôi, chẳng phải là thuyết ngã kiến bèn có Ngã kiến để có thể thuyết. Cho nên bài kệ cuối cùng của cuốn Trung Luận nói: “tất cả chư pháp không, Thế gian những kiến thường,… xứ nào vào thời nào, ai khởi các kiến ấy”? do vậy, chẳng những chánh kiến bất khả đắc, mà ngay cả Tà cũng bất khả đắc. Mới biết cửa Đạo chưa từng tà hay chánh. Kinh này sắp xong. Trên là phá xưa kia (khi Phật mới đắc đạo) chánh kiến thuộc Hữu sở đắc là bất khả đắc. Nay phá tà kiến cũng vô đắc, hiểu rõ chánh Bát-nhã chưa từng tà hay chánh. Tức là trả lời cho người Nhị Thừa cũng chẳng thể nói rằng trước có Ngã kiến, đoạn Ngã kiến rồi mới đắc trí vô ngã. Nay lại tỏ rằng Ngã vốn rốt ráo bất khả đắc thì đoạn dứt cái gì mà nói là vô ngã? “Ưng Như Thị Tri”; trên nói rõ rằng Ngã kiến vốn bổn lai khả đắc, nay nói rằng pháp kiến cũng bổn lai bất khả đắc. Vì vậymà nêu Ngã để so với pháp; mà nói rằng “Nên như vậy tri kiến, tín, giải, chẳng tại pháp tướng”. “Sở Ngôn Pháp Tướng Giả, tắc Phi Pháp Tướng”: Cũng như nghóa về Ngã, “Phật thuyết ngã tức phi Ngã”, thuyết pháp tướng cũng phi pháp tướng. Hỏi: “Như thọ Tri, kiến, tín, giải”, có gì khác nhau? Đáp: Luận kệ nói rằng: Hai trí và Tam Muội; Tri là Trí Thế Đế, kiến là Trí Đệ Nhất nghóa Đế, Tín giải là Tam Muội mà hai trí trên nương vào, y nương vào Tam Muội mà phát sanh hai Trí. Hỏi: Vì sao lại tỏ về Hai trí? Đáp: Bồ-tát liểu Nhơn không và pháp không, cụ túc cả hai trí. Lại nữa, khi mới hành Bồ-tát, chưa đắc vô sanh, liểu ngộ còn cạn, gọi là Trí Thế Đế. Thâm hành Bồ-tát, đắc Vô Sanh Nhẫn liểu ngộ hai không, gọi là Trí Đệ Nhất Nghóa Đế. Tam muội là chỗ nương dựa của hai trí. “Nhược Nhơn Dó Mãn Vô Lượng…” Đây là kinh chương thứ mười lăm. “Như Lai” ở phần trên là nói chung cả hai thân. Thí dụ vi trần là tách riêng pháp thân. Nay kinh chương này là tách riêng Hóa thân. Nghi rằng: Hóa Phật đã có khứ lai, cúng dường Hóa Phật, trì những điều Hóa Phật đã thuyết, sao bằng chơn Phật? Vì vậy mà nay nói rằng nếu người phát tâm ở chỗ hóa Phật, thọ trì bốn câu kệ của Hóa Phật thì công đức hơn hẳn Bố Thí vô lượng A tăng kỳ thế giới thất bảo. Làm thế nào để diễn thuyết cho người khác? Để giải thích nghóa vì người khác mà thuyết. Tỏ rằng phần trên đã mấy lần khuyên người thuyết pháp. Nay kinh sắp xong, chỉ bày phương cách thuyết pháp. “Đương Như Như Nhi Thuyết” (nên Như Như mà thuyết) chữ Như ở sau tức là Như của Như pháp tính, khuyên hành giả (người hành trì) nên Như giống như pháp tính mà thuyết, đừng sanh tâm động niệm. Bài kệ sau tức là tỏ về những từ ngữ thuyết pháp cũng như thuyết mười Dụ cho nên Kinh cư só nói rằng: Thuyết pháp là Vô thuyết Vô thị, thí như Huyển só thuyết pháp cho người huyển (ảo). Thập pháp sư nói rằng: Mười Dụ để dụ cho không, không ắt trì dụ đó. Mượn lời để hội ý, ý tận thì không có chỗ hội, đã ra khỏi lưới võng, trú ở vô sở trú này. Nếu theo luận kinh nói về điều trên; kinh nói: “Làm thế nào vì người diễn thuyết mà chẳng danh là Diễn thuyết, đó gọi là Diễn thuyết”. Đây là giải thích nghóa của Hóa Phật thuyết pháp. Hóa Phật thuyết pháp chẳng tự xưng mình là Hóa, nếu tự xưng là Hóa thì chúng sanh chẳng sanh niềm tin kính. Cho nên nói chẳng danh là thuyết. “Thị Danh Vi Thuyết” chỉ thẳng là Hóa Phật thuyết pháp. Bài kệ “Nhất Thiết Hữu Vi Pháp…” đến, là để giải thích thâm mối nghi, nghi rằng: chư Phật thường vì chúng sanh thuyết, thì vì sao lại nhập Niết-bàn? Vì vậy mà tỏ rõ rằng chư Phật Như Lai chẳng trú Niết-bàn, chẳng trú Hữu vi, do bởi chư Phật vì lợi chúng sanh, hóa thân thuyết pháp, cho nên chẳng trú Niết-bàn. Vì quán Hữu vi như mộng huyển, cho nên chẳng trú thế gian. Luận kinh có chín dụ, nói rằng: tất cả Hữu vi pháp như sao đêm, nhòa mắt, ngọn đèn, huyển áo, sương mai, bọt nước, giấc mộng, điện chớp, mây bay. Như sao đêm: mặt trời chưa mọc thì hữu dụng, mặt trời mọc thì vô dụng. Mặt trời chánh quán chưa mọc thì vọng tâm hữu dụng, mặt trời chánh quán mọc thì vọng tưởng bất khả đắc. Dụ nhòa mắt: như mắt bị nhòa, thấy bầu trời có vòng mao để có thể đắc. Mắt Huệ bị nhòa, không có lục trần mà vọng thấy lục trần. Như ngọn đèn: Là dụ cho Thức pháp năng kiến, như có Dầu, bấc, đồ chứa, cả ba pháp hợp lại mà có, cho nên nó là vô sở hữu, pháp cũng do hòa hợp mà có, cho nên nó cũng là vô sở Hữu, ngọn đèn niệm niệm diệt, thức cũng vậy. Dụ như huyển ảo: cũng như huyển ảo sư, làm ra nhiều thứ vật nhưng vô thật. Chúng sanh nghiệp huyển ảo mà thấy nhiều thứ quốc độ, cũng vô thật. Dụ sương mai: sương chỉ trụ được một thời gian ngắn, Thân xác cũng vậy. Dụ bọt nước: như trời mưa giọt thành bọt nước, trẻ con tưởng đó là hạt ngọc, tâm sanh ra tham dính. Chúng sanh ba thọ cũng vậy, do từ căn, trần, thức sanh cũng chẳng thật. Dụ giấc mộng: Quá khứ pháp giống như đêm qua mơ thấy có, liểu ngộ thì không có. Dụ như Điện chớp: vừa hiện liền diệt, Hiện tại pháp cũng vậy. Dụ mây bay: Bầu trời trong sáng, bỗng nhiên mây sanh khởi, ngay khi ấy liền diệt. Vị lai pháp cũng vậy, hốt nhiên mà khởi ngay khi ấy liền tán diệt. Những điều ủy khúc khó hiểu thì cần phải giảng nói, giải thích. Nay ở đây lược tỏ mà thôi. Phần thứ ba, phần Lưu thông, như văn ý …  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 115