<經 id="n1668">LUẬN THÍCH MA HA DIỄN HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1668 LUẬN THÍCH MA HA DIỄN TỰA Nghe rằng đài gương mặt trăng-châu ngọc mặt trời, ở gần bên cung thiền núi chúa, đi vào theo hai đường, dạo qua trăm cõi nước nhờ vào các pháp quán, thông suốt muôn cõi Phật nêu lên cao nhất hạt minh châu hoan hỷ, nhìn trộm cung điện linh thiêng chốn tịch diệt, dẫn dắt nghe được ở xưa kia, mà vẫn còn không cảm giác được trăm khu vực vónh cửu ấy, sững sờ suy nghó, rồi lúc ấy mới bắt đầu hiểu ra. Trước kia nghe tiếng ca ngợi của ngõ phố, đứng lặng trông chờ sự giáo hóa, trông thấy hình thể hư huyễn của dấu vết, ngước nhìn cõi phong trần phân tán. Sau quả nhiên gặp được kho tàng Ma-ni báu đến tận phía Đông, khác nào nhờ vào châu ngọc của mạng lưới Đà-la-ni, mà được quay về hằng hà sa thế giới, từ trong niềm vui sướng tuyệt vời mà đạt được tâm chăng? Ngồi đài sen nơi Kỳ Viên, bỏ đi để mong làm đài gương rùa vàng bày tỏ, thừa vui mừng từ bên ngoài mà ngước nhìn trước mắt chăng? Chậm rãi hướng về đài cao dần hiện rõ, đừng trở về mà kính trọng ngôi sao sáng ư? Trẫm mới hiểu rằng hoa cỏ tốt tươi nhờ vào khu rừng quý báu của bảy giác, trồng giống hoa sen vào hồ nước châu ngọc của tám đức, lại hoan hỷ hướng về, tức thì khẩn cấp từ nay về sau, lại dùng bánh xe vàng tự đến phương Đông, thích ứng với khu vực của uy môn, bài kệ của Đạo Vương đặt trước tập sách, đài gương châu ngọc trên núi cao đã hạ thấp xuống, đến trước mặt của hằng hà sa thế giới. Văn của Ma Da đã từng ghi, từ đời vị lai có tám vạn bốn ngàn pháp, môn mà lần lượt chuyển đến phương Đông, và quá khứ năm trăm năm mà ngọc châu giác ngộ đến phương Nam rồi, đó là giáo pháp ấy mà. Ở trong Quán Âm cầu xin tay mắt được rảnh rang, mà nhìn chăm chú để tìm tòi giáo môn vượt qua số hằng hà sa, đó là nghóa lý ấy mà. Ở trong kinh Thi Ca La Việt Lục Phương Lễ dựa vào công của mạng lưới ngọc châu, mà chiếu sáng bày rõ nghóa lý nhiều như bụi trần. Dùng đức trong sáng của Thánh giả Mã Minh, biểu hiện đầy đủ cho đương thời. Đại só Long Thọ, là điềm lành của vầng mây kỳ diệu, mở đường cho bốn phương, mênh mông vi vu, tự mình không phải kết thành thệ nguyện ở trong núi rừng, gieo trồng hai nhân ở trong hồ hương, có lẽ nào treo cao ngọc châu phát triển nguồn nước, che kín với Di Lặc về trước, bày bí mật hết sức tin phục, bình thường với Thích Ca về sau ư? Giải thích về Luận Ma-ha-diễn, đây chính là truy tìm kỹ căn nguyên kho tàng bí mật của đại dương tánh của tâm, hết sạch nguồn gốc ngôn từ sâu thẳm của nhân thực hành, lấy vầng sao mà vượt quá ngọc sáng mặt trăng, quân tử chẳng biết chỉ quy đó, dùng hoa gấm mà đến được cương vức mặt trời, so với chủng loại không lường được bến bờ giới hạn, có thể nói là trong một ngọn núi tồn tại hai mặt trăng mặt trời, trong một thế giới có hai vị hoàng đế. Trẫm nghe bản Phạn Văn đó trước kia nằm ở vùng Trung Thiên Trúc, sai người tôn trọng đón về, gần đến ranh giới phương Đông, vào thượng tuần tháng chín năm Tinh Kỷ niên hiệu Hoằng Thỉ thứ ba, ở tại chùa Đại Trang Nghiêm, đích thân được nhuận sắc, cung kính phiên dịch luận này. Người phiên dịch thẳng ra là Tam Tạng Phiệt Đề Ma Đa, người truyền thọ tục ngữ là Lưu Liên Đà…, người cầm bút viết là Tự Hiền Kim…, từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc tròn hai năm sao chép hoàn tất luận văn. Trước mặt hai vầng mặt trăng mặt trời đối diện trọn vẹn, từng mục của chòm sao vốn có dãn bớt, dòng nước của sông ngòi được lắng trong, sóng lớn của biển khơi rào rạt. Trẫm chưa đạt tới chỗ tường tận, có vòng xe vàng ở trên mặt đất, đi vào núi Diệu Cao ở trong bàn tay, tinh tế thay cửa ngõ mừng vui rộng khắp pháp giới, vó đại thay căn nhà thanh tịnh đi vào trong mảy lông Thiếu đi lý này, tuyệt đối không xứng với nghóa lý văn từ của luận, xa rời ví như so với màu sắc của bức tranh. Lời nói thì trẫm chê trách Tịnh Danh, trò chuyện thì trẫm nói ra Thiện Cát. Nhưng lời nói đầu, trú vào lý tuyệt vời mà ngâm nga, ngăn lại từ ngữ sai mà lặng lẽ, phá đổ đài cao quan sát ấy chẳng nơi nào mở rộng như hư không, hủy diệt đài gương vàngngọc ấy không tiên tan dấu tích ngàn năm. Trẫm dùng lời để chỉ trích không thể lạm dụng vầng trăng mà thỉnh cầu văn tự, quay về dựa vào văn tự giả danh, nhất định nói rõ để soạn lời thô lậu, mà viết ra lời tựa như vậy. LUẬN THÍCH MA HA DIỄN Long Thọ Bồ-tát tạo luận. Hán dịch: Đời Diêu Tần, Tam Tạng Phiệt Đề Ma Đa. <卷>QUYỂN 1 Đảnh lễ Giác viên mãn Giác Pháp tạng chứng đắc Và Đại só tạo luận Cùng các chúng Hiền Thánh. Muốn mở cửa Bố thí Tạm hiển hướng quả vị Lợi ích các chúng sanh Báo ân sư muôn một. Luận nêu: Nay soạn ra luận này nhằm giải thích lại về Đại thừa (Ma-ha-diễn), là muốn biểu hiện rõ thể sâu xa khó hiểu và vi diệu vô cùng của bậc thầy mình. Nếu người chưa được chứng đạt đích thực và chưa ra khỏi hạnh tà, thì tối tăm mờ mịt thực sự không nhìn thấy được gì, vì Ma-ha-diễn vượt lên trên cảnh giới của tư duy. Hoặc là muốn khiến cho chúng sanh căn cơ lợi độn, mở ra cánh cửa vào nhanh pháp Phật (giáo lý đốn nhập), chỉ rõ các vị trí tu hành tiệm tiến hướng đến hội nhập chân lý rất sâu xa. Hoặc do bậc thầy dừng lại những điều có hại đối với ý thức, tư tưởng rất là sâu nặng, để đền đáp phần nào đại ân đức của thầy. Hoặc là bí mật quán xét chúng sanh đời vị lai, sẽ nảy sinh rất nhiều sự tranh chấp phá bỏ tông chỉ của luận. Hoặc đích thân lắng nghe tiếp nhận niềm vui trong tâm (A-thế-da). Vì có các nhân duyên như vậy, nên cần phải soạn ra luận này. Đã nói về phần gốc của luận, tiếp đến nói về sự khác biệt của luận. Luận này có bao nhiêu loại, bao nhiêu luận đã thâu gồm, luận Ma-ha-diễn thuộc về loại nào? Tụng nói: Mười vạn chín ngàn bộ Mười luận thâu tóm chung Ma Ha La, Bạt Đề Ô Xá Ma, Xà Tha luận Luận Phiệt Na, Đề Xá A Bộ Đế, Bạt Ma Ô Ha Ma Tăng Na Và Kiện Bà Ma Ca. Luận nói: Tập hợp tất cả các luận thuộc các loại suốt một thế hệ, tổng quát có mười vạn chín ngàn bộ. Các luận như vậy được thâu gồm trong mười bộ lớn. Sao nói là mười bộ? Đó là: Luận Ma Ca La. Luận Bạt Đề. Luận Ô Xá Ma. Luận Xà Tha. Luận Phiệt Na Đề Xá. Luận A Bộ Đế. Luận Bạt Ma. Luận Hô Ha. Luận Ma Tăng Na. Luận Kiện Bà. Đây gọi là mười bộ luận. Luận Ma-ha-diễn thuộc về Luận Như Ý. Bộ luận do Bồ-tát Mã Minh soạn thuật, luận đó kể ra có bao nhiêu văn, bao nhiêu nghóa, là Ma-ha-diễn thuộc về loại nào? Tụng nói: Gồm có một trăm bộ Chín mươi chín loại văn Mười loại nghóa thâu tóm Luận này thuộc sách quý. Luận nói: Các luận do Bồ-tát Mã Minh soạn thuật gồm có một trăm bộ, ở trong một trăm bộ, có chín mươi chín loại thuộc vào luận Hoa Văn, còn lại mười loại luận thâu tóm thuộc vào Nghóa luận. Luận này thuộc vào loại sách quý. Mười loại thâu tóm thuộc Nghóa luận, tên gọi các luận ấy thế nào, luận đó đã khai triển đồng nhất hay biệt lập? Tụng nói: Biến Mãn cùng Quy Chân Trung Tạng cùng Vi Diệu Hợp Nhất và Tam Muội Luận Thanh Tịnh, Bổn Nguyên Luận Huyền Lý, Khởi Tín Kiến lập đồng một tướng. Luận nói: Thế nào là mười loại? Đó là: Luận Nhất Tâm Biến Mãn. Luận Dung Tục Quy Chân. Luận Pháp Giới Trung Tạng. Luận Bí Mật Vi Diệu. Luận Chúng Mạng Hợp Nhất. Luận Tam Muội Chân Chư. Luận Tâm Tánh Thanh Tịnh. Luận Bất Động Bổn Nguyên. Luận Thậm Thâm Huyền Lý. Luận Đại Thừa Khởi Tín. Đây là tên gọi của mười bộ luận. Như vậy mười bộ luận ấy về số lượng khác nhau, nhưng tướng thiết lập là cùng một loại. Đã nói về sự sai biệt của luận, tiếp theo nói về sự sai biệt của tạng. Tạng có bao nhiêu loại, bao nhiêu tạng đã thâu tóm, Luận Ma-ha- diễn thuộc về loại nào? Tụng nói: Hoặc năm mươi mốt tạng Hoặc chỉ mười như kinh Thâu chung vào ba Tạng Luận hoặc chung hoặc riêng. Luận nói: Năm mươi mốt tạng là phân biệt nhân, quả, biểu thị cho công đức để dẫn dắt người thực hành. Trong Kinh Kim Cang nói như vầy: “Đức Phật dạy: Này Phật tử! Ta sẽ vì ông dùng ngôn từ vô ngại, tuyên thuyết khai bày rõ năm mươi tạng về nhân và một tạng về quả”. Do đó, hoặc có mười Tạng. Sao nói là mười Tạng? Đó là: Chỉ thiết lập một tạng thâu tóm toàn bộ các pháp, gọi là Tạng Pháp Giới Pháp Luân. Trong Kinh Viên Mãn (Hoa Nghiêm) nói như vầy: “Tất cả chúng sanh vốn có lời nói, âm thanh, không có loại nào không gồm thâu vào âm thanh pháp luân của Như Lai”. Thiết lập hai tạng thâu tóm toàn bộ các pháp, đó là tạng Thanh văn và tạng Bồ-tát. Trong Kinh Tổng Trì (Đại Thừa Phương Quảng) nói như vầy: “Pháp môn tuy vô biên nhưng không ra ngoài hai Tạng”. Thiết lập ba Tạng thâu tóm toàn bộ các pháp, đó là thêm vào Như Lai tạng. Trong Kinh Quang Minh (Kim Quang Minh) nói như vầy: “Hết thảy chư Phật nhiều hơn số hằng hà sa, chỉ nhằm tuyên thuyết về pháp tạng Thanh văn, pháp tạng Bồ-tát và pháp Như Lai tạng, lại không bỏ sót một đạo lý nào”. Thiết lập bốn tạng thâu tóm toàn bộ các pháp, đó là thêm vào Tạng Bổ Đặc Già La. Trong Kinh Đạo Phẩm nói như vầy: “Này Phật tử! Hãy lắng nghe rõ, Ta sẽ vì ông nói về pháp giải thoát, đó là tạng nhân, tạng nghóa, tạng lễ, tạng trí cho đến tạng tín cùng tạng Thanh văn, tạng Bồ-tát và tạng pháp Đại giác. Nguyên cớ thế nào? Vì để cho những người thực hành dần dần chuyển vận pháp theo thứ tự được thắng lợi”. Thiết lập năm tạng thâu tóm toàn bộ các pháp, đó là thêm vào tạng Thiên. Trong Kinh Thiên Tử nói như vầy: “Đức Phật nói với Da Luận: Không thể dùng ngôn ngữ diễn tả được sự thanh tịnh của báo không, Ta sẽ vì đại chúng tuyên thuyết rộng về phạm vi của tạng Tịnh, tạng Nhân và tạng Nhị thừa cùng pháp tạng Đại giác của hết thảy chư Phật”. Thiết lập sáu tạng thâu tóm toàn bộ các pháp. Đó là thêm vào tạng Nại-lạc-ca. Trong Kinh Bố Úy nói như vầy: “Ta ngồi bất động phân biệt tuyên thuyết về tám vạn bốn ngàn tạng Nại-lạc-ca”. Như trước đã nói về năm loại tạng. Thiết lập bảy tạng thâu tóm toàn bộ các pháp. Đó là thêm vào tạng Ma La Cưu Đa Da. Trong Kinh Ban Mẫu nói như vầy: “Nay Ta dùng lời chân thật vì Ban Mẫu cùng một ức bảy vạn ba ngàn đại chúng, phân biệt tuyên thuyết về năm vạn một ngàn ba trăm lẻ hai loại tạng Quỷ thần”. Như trước đã nói về sáu loại tạng. Thiết lập tám tạng thâu tóm toàn bộ các pháp. Đó là thêm vào tạng Kiện Bà Đà Na Bạt. Trong Kinh Long Vương nói như vầy: “Long vương Nan Đà phát ra tám ngàn câu hỏi, thưa hỏi Đức Như Lai. Đức Phật mở ra mười ức thuộc về tạng Bàng sanh đạo”. Như trước đã nói về bảy loại tạng. Thiết lập chín tạng thâu tóm toàn bộ các pháp. Đó là thêm vào tạng Khí Thế Giới. Trong Kinh Thế Giới nói như vầy: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với Thọ Thần: Lành thay! Lành thay! Như ông đã nói, nếu muốn nghe về điều ấy, nay Ta sẽ vì ông phân biệt diễn giảng nói về tạng Sở y chỉ”. Như trước đã nói về tám loại tạng. Thiết lập mười tạng thâu tóm toàn bộ các pháp. Đó là thêm vào tạng Tạp loạn. Trong Kinh Âm Thanh nói như vầy: “Nay Ta khai bày rõ ràng về tám loại tạng Tạp loạn”. Như trước đã nói về chín loại tạng. Đây gọi là mười tạng. Các tạng như vậy thâu tóm toàn bộ mười ức tám ngàn pháp tạng. Ba tạng căn bản hoặc thâu tóm cả mười tạng. Sao nói là ba tạng? Đó là: Tạng Tố Đát Lãm (tạng Kinh). Tạng Tỳ Nại Da (tạng Luật). Tạng A Tỳ Đạt Ma (tạng Luận). Đây gọi là ba tạng. Luận Ma-ha-diễn hoặc là thâu vào các tạng, hoặc chỉ thâu vào Tạng A Tỳ Đạt Ma. Vì vậy tụng nói “Hoặc chung-hoặc riêng”. Chung nghóa là nối thông toàn bộ, riêng có nghóa là lựa chọn khác biệt. Chủ quản các pháp thực hành đó tùy thuận tiếp nhận không mất, vì lẽ ấy lập tên gọi là Tạng. Đã nói về sự sai biệt của Tạng, tiếp đến nói về sự sai biệt của kinh. Kinh có bao nhiêu số và bao nhiêu đã gồm thâu? Luận Ma-ha- diễn này thì những kinh nào làm nơi nương dựa? Tụng nói: Gồm trăm số Lạc xoa Thâu mười hai bộ kinh Tu-đa-la - Kỳ Dạ Cùng Tỳ Già La Na Già Đà, Ưu Đà Na Cùng với Ni Đà Na Kinh A Ba Đà Na Y Đế Mục Đa Già Xà Đà Già, Phật Lược A Phù Đà, Đạt Ma Kinh Ưu Ba Đề Xá Dựa hoặc chung hoặc riêng. Luận nói: Tập hợp tất cả các kinh thuộc các loại trong một đời Đức Phật thuyết ra có một trăm ức bộ, các kinh như vậy gồm thâu vào mười hai bộ kinh lớn. Những gì là mười hai bộ? Đó là: Tu-đa-la là Khế kinh. Kỳ Dạ là Trùng Tụng. Tỳ Già La Na là Cô Khởi. Già Đà là Phúng Tụng. Ưu Đà Na là Tự Thuyết. Ni Đà Na là Nhân Duyên. A Ba Đà Na là Thí Dụ. Y Đế Mục Đa Già là Bổn Sự. Xà Đà Già là Bổn Sanh. Tỳ Phật Lược là Phương Quảng. A Phù Đà Đạt Ma là Vị Tằng Hữu. Ưu Ba Đề Xá là Luận Nghị. Đây gọi là mười hai bộ. Kinh căn bản làm nơi nương dựa của Luận Ma-ha-diễn, hoặc là chung, hoặc là riêng. Chung nghóa là nối thông toàn bộ, riêng có nghóa là lựa chọn khác biệt. Văn cú trong Luận Ma-ha-diễn thì hẹp và ít là hết sức nhỏ, ít, tại sao đại dương của Khế kinh là vô lượng vô biên lại chung làm chỗ dựa? Vì như Bà Tát Y Già cho phép, như Tiêu Đa La dẫn đưa, vì vậy không có sai lầm gì. Kinh làm chỗ dựa riêng thì số đó có bao nhiêu, tên gọi như thế nào và quyến thuộc của mỗi thứ là bao nhiêu? Tụng nói: Gồm một trăm Khế kinh Như Quang Minh Đại Giác … Năm mươi đầu đều trăm Năm mươi sau đều ngàn. Luận nói: Kinh làm nơi nương dựa riêng của Luận Ma-ha-diễn, gồm có một trăm kinh. Những gì là một trăm? Đó là: Kinh Quang Minh Đại Giác. Kinh Thậm Thâm Thuận Lý. Kinh Kim Cang Tam muội. Kinh Chư Pháp Vô Hành. Kinh Thọ Lâm Thuyết Pháp. Kinh Vô Tận Nhất Địa. Kinh Thanh Tịnh Như Như. Kinh Tự Tánh Tự thể. Kinh Đại Thừa Đồng Tánh. Kinh A-lê-da Thức. Kinh Quả Viên mãn. Kinh Hư Không Đẳng. Kinh Tam Tam muội. Kinh Nhất Tâm Pháp. Kinh Bổn Tánh Trí. Kinh Chân Pháp Giới. Kinh Nhiếp Vô Lượng. Kinh Tối Thượng Cực. Kinh Duy Ma Cật. Kinh Lăng Già Vương. Kinh Trung Thật. Kinh Vô Thỉ. Kinh Thập Nhân. Kinh Luân Chuyển. Kinh Từ Vân. Kinh Khí Tâm. Kinh Vô Vị. Kinh Hiền Thánh. Kinh Ẩn Mật. Kinh Hoa Nghiêm. Kinh Đại Phẩm. Kinh Tịch Diệt. Kinh Thánh Quỹ. Kinh Biến Duyên. Kinh Huân Tập. Kinh Phật Tánh. Kinh Huyền Lý. Kinh Lăng Già. Kinh Bổn Nghiệp. Kinh Uẩn Cao Sơn. Kinh Quy Bổn. Kinh Chân Tu. Kinh Bát Đức. Kinh Phật Tuệ. Kinh Duyên Khởi. Kinh Nhất Thể. Kinh Tự Phật. Kinh Đại Hải. Kinh Vô Tướng. Kinh Biến Chân Như. Kinh Thập Chủng Như Lai tạng. Kinh Tam Thân Bổn Hữu. Kinh Bát thức Thông Đạt Duyên. Kinh Chúng Sanh Thân Đẳng Pháp. Kinh Chư Phật Vô Tận Tạng. Kinh Tán Thán Bất Thiện Phẩm. Kinh Chư Pháp Đồng Nhất Tướng. Kinh Nhất Thể Đại Bi Quán. Kinh Như Như Bổn Trí Tuệ. Kinh Trần Trần Pháp Giới Sát Độ. Kinh Luân Chuyển Bổn Tế. Kinh Pháp Giới Pháp Luân. Kinh Đại Trí Bổn Hữu. Kinh Bình Đẳng Pháp Giới. Kinh Tứ Tướng Thường Trú. Kinh Chân Như Nhất Tướng. Kinh Lưu Chuyển Bất Động. Kinh Tịch Tónh Niết Bàn. Kinh Thông Đạt Âm Thanh. Kinh Như Lai tự tướng. Kinh Phu Nhân. Kinh Pháp Môn. Kinh Bát Dụ. Kinh Trung Tại. Kinh Tổng Trì. Kinh Bất Động. Kinh Lưỡng Trí. Kinh Đạo Trí. Kinh Bổn giác. Kinh Đại Vô Lượng. Kinh Tự Nhiên Bổn Quả. Kinh Thậm Thâm Pháp Tạng. Kinh Nhất Đạo Thanh Tịnh. Kinh Thập Chủng Vọng Tưởng. Kinh Pháp Môn Hiển Liễu. Kinh Cảnh Giới Viên mãn. Kinh Quang Minh Thật Trí. Kinh Nhân Quả Đồng Thể. Kinh Tâm Thần Bất Không. Kinh Chân Trí Vô Sanh Hạnh. Kinh Vô Ngại Giải Thoát. Kinh Tùy Duyên Tăng Trưởng. Kinh Pháp Tánh Thật tế. Kinh Quảng Đại Hư Không. Kinh Bổn Nhân Duyên Khởi. Kinh Chư Pháp Vô Vi. Kinh Bổn Lai Thanh Tịnh. Kinh Tu Hành Đạo Địa. Kinh Bất Tu Cụ Đức. Kinh Ma Ha Tát Vân Nhã. Đây là tên gọi một trăm kinh. Như vậy quyến thuộc của một trăm kinh này, như dưới đây thì năm mươi kinh đầu đều có số trăm, năm mươi kinh sau đều có số ngàn. Nêu lên mục lục của kinh là rõ mạng lưới của luận. Phần sau sẽ tùy văn để mở bày rõ. Đã nói về sự sai biệt của kinh, tiếp theo sẽ nói về người soạn ra luận. Những kinh nêu bày khác nhau, số đó có bao nhiêu, nay Sư Mã Minh thuộc về nơi nào? Tụng nói: Gồm có sáu Mã Minh Khế kinh giới thiệu khác Nhưng thuận căn cơ hợp Không có tướng sai trái. Luận nói: Tập hợp tất cả các kinh trong một đời Đức Thế Tôn thuyết giảng thì có nhiều loại văn khác nhau, tổng quát có sáu loại. Thế nào là sáu loại? Đó là: Trong Kinh Đại Thừa Bổn Pháp nói như vầy: “Đấng Đại Giác vô thượng thuyết về duyên nhập Niết-bàn, Bồ-tát Mã Minh liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu lạy sát chân Phật, chắp tay cung kính, hướng về Đức Thế Tôn nói kệ: Vô Thượng Tôn đầy đủ đại từ Vô biên biển kiếp đủ vạn hạnh Chỉ vì từ bi thương mọi loài Đức Phật tự nói nhập Niết-bàn. Con cùng tất cả các đại chúng Mờ mịt hoang mang, tâm bấn loạn Đầy đủ đại từ Thế Tôn còn Bỏ đàn con đến thế giới khác Huống hồ con từ bi chưa đủ Theo Đức Phật đến thế giới khác. Bấy giờ, Mã Minh nói kệ này xong, nhìn thấy đôi mắt Đức Phật từ từ tự mạng chung”. Trong Kinh Biến Hóa Công Đức nói như vầy: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Mã Minh: Hơn ba trăm năm sau khi Ta diệt độ, ông nên kế thừa tiếp theo Ta, gắng sức dùng các loại pháp phương tiện tạo lợi ích an lạc cho chúng sanh đời vị lai. Nếu như Ta không tiếp thêm sức lực thì ông sẽ không có khả năng thực hiện”. Trong Kinh Ma Ha Ma Da giải thích như vầy: “Sáu trăm năm sau khi Đức Như Lai diệt độ, dấy lên chín mươi sáu loại ngoại đạo, cùng với những kiến giải sai lầm tranh nhau xuất hiện hủy diệt pháp Phật, có một vị Tỳ Kheo tên là Mã Minh, khéo giảng giải về pháp yếu, hàng phục tất cả các đám ngoại đạo”. Trong Kinh Thường Đức Tam Muội giải thích như vầy: “Sau khi Đức Phật diệt độ trong khoảng tám trăm năm, có một người trí tuệ tên là Mã Minh, hoặc là từ nơi chúng ngoại đạo, hoặc là đệ tử nhà Phật, phá trừ các ngoại đạo kiến lập pháp Phật”. Trong Kinh Ma Ni Thanh Tịnh nói như vầy: “Hơn một trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, Đại só Mã Minh xuất hiện giữa thế gian, giữ gìn bảo vệ chánh pháp, dựng lên ngọn cờ Phật giáo”. Trong Kinh Thắng Đảnh Vương nói như vầy: “Như Lai thành đạo ngày thứ mười bảy, có một ngoại đạo tên là Ca La Nặc Cưu Thi Ma, biến hóa thân mình làm Đại Long Vương, hiện rõ tám mươi sáu ngàn đầu với tám mươi sáu ngàn lưỡi, trong một lúc phát khởi tám mươi sáu ngàn tướng trạng khác nhau chất vấn Phật, hỏi Như Lai. Như Lai lập tức trả lời làm ba lớp, giải thích tất cả các vấn nạn kia. Lúc ấy, Long vương lại làm mười lớp (lần) hỏi Phật. Phật làm một trăm lớp (lần) giải đáp. Như vậy hỏi đáp xong, Đức Phật nói với Long vương: Lành thay! Lành thay! Sa-môn Mã Minh, vì nhằm bảo vệ thành lũy giáo pháp, dùng tướng trạng phá hoại để xây dựng pháp Phật, nhẫn nại và cũng chịu khó, luôn tu như vậy, luôn hành như vậy, đừng đi loanh quanh lối nhỏ mà hãy đi khắp tất cả mọi nơi. Thế là Long vương dùng thân hình vốn có của mình xả bỏ tướng trạng súc sanh, đến trước Đấng Vô Thượng thành kính lễ bái và xin phép lui bước, dung mạo hoan hỷ hướng về Đức Thế Tôn, lại nói tụng: Khéo thay, khéo thay lời Phật dạy! Qua sự lắng nghe từ tai con Tự mình giả dối hay chân thật Trong tâm con vô cùng nghi ngờ. Con không phải là thân súc sanh Con không phải là chúng ngoại đạo Để tán thán, hóa làm súc sanh Biến hóa thành hình tướng như vậy. Đức Thế Tôn biết rõ như gương Con ẩn hình ở tại cõi này Xuất hiện nơi các thế giới khác Như lời dạy đi khắp mọi nơi. Bấy giờ, Mã Minh trình bày kệ này xong, như đi vào trong căn nhà vắng lặng nhập thiền định”. Đây gọi là sáu loại. Như vậy các kinh đều nói khác nhau, tùy theo căn cơ hiện tại tiếp nhận không có gì sai trái nhau. Bồ-tát Mã Minh là người đang ở địa nào? Cõi nào? Nguyên nhân gì mà Mã Minh sinh ra? Tụng nói: Vốn là Đức Phật Đại Quang Minh Tức nhân ở trong địa Bất Động Xuất hiện nơi vùng Tây Thiên Trúc Thuận theo quá khứ lập tên gọi. Luận giải thích: Bồ-tát Mã Minh nếu nói về Bổn địa thì chính là Đức Phật có danh hiệu là Đại Quang Minh. Nếu luận về Nhân địa thì chính là Bồ-tát ở trong địa trú thứ tám, sinh ra ở vùng Tây-Thiên Trúc, cha tên là Lư Già, mẹ tên là Cù Na, phát sinh lợi ích như nhau vì cùng chung tâm nguyện. Trong đời quá khứ, có một vị Đại vương tên là Luân Đà, có hàng ngàn loài chim màu trắng đều có tiếng hót rất hay. Nếu chim cất tiếng hót thì phước đức của Đại vương tăng lên, nếu như chim không cất tiếng hót thì phước đức của Đại vương giảm đi. Các loài chim như vậy, nếu thấy ngựa trắng thì cất lên tiếng hót rất hay, nếu lúc không thấy ngựa trắng thì luôn im lặng không hót. Lúc ấy, Đại vương đi khắp nơi cầu tìm ngựa trắng nhưng suốt cả ngày vẫn không tìm được, liền nói như vầy: Nếu như chim hót này thuộc chúng ngoại đạo, thì đều sẽ phá niềm tin, sự tôn trọng duy nhất vào Phật giáo. Hoặc là chim này thuộc đệ tử Phật thì khi hót lên, đều sẽ phá tan sự tôn trọng, tin tưởng duy nhất vào giáo lý ngoại đạo. Khi đó, Bồ-tát dùng sức thần thông, hiện ra một ngàn ngựa trắng hý vang và một ngàn chim trắng cất tiếng hót, tiếp nối phát huy làm hưng thịnh chánh pháp khiến không đoạn dứt, vì vậy Đức Thế Tôn gọi Bồ-tát ấy tên là Mã Minh. Đã nói về những tướng sai khác của người soạn luận. Tiếp theo, nêu nguyên bản để giải thích. Bổn luận. (Luận gốc) nói: Quy mạng khắp mười phương Nghiệp tối thắng, trí khắp Sắc vô ngại tự tại Đại bi cứu thế gian. Luận giải thích: Trong một tụng này có hai phương diện. Sao nói là hai phương diện? Đó là: Tổng quát thâu gồm tất cả chúng sanh. Quay hướng nơi bậc Đại giác viên mãn. Tổng quát thâu gồm tức là: Thâu tóm chung tất cả các mạng căn của hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới. Như trong luận nói “Mạng khắp mười phương”. Quay về hướng đến tức là: Sử dụng những mạng căn như vậy quay trở về hợp với con người đầy đủ đại từ bi. Như trong luận nói “Nghiệp tối thắng trí khắp, Sắc vô ngại tự tại, Đại bi cứu thế gian”. Luận sư nêu ra ngần ấy đức tướng để ca ngợi Đấng Đại Giác, tất cả tướng trạng đó như thế nào? Tụng nói: Gồm tám vạn bốn ngàn Bốn mươi tám thứ đức Đức tối thắng v.v… đều mười Trí vô ngại đều bốn. Và tám vạn bốn ngàn Các sắc tướng khác nhau Công đức tuy vô lượng Không ra ngoài số này. Luận giải thích: Bồ-tát Mã Minh tổng quát đưa ra tám vạn bốn ngàn bốn mươi tám chủng loại công đức, tôn kính ca ngợi bậc Đại Giác vô thượng. Công đức thanh tịnh trong quả Phật vị tròn đầy, tuy có vô lượng vô biên, nhưng chung quy không ra ngoài số lượng này. Vì vậy Bồ-tát Mã Minh đã ca ngợi về tướng chung như thế. Sao nói là tám vạn bốn ngàn công đức? Vì sắc tướng sai biệt nên thành tám vạn bốn ngàn công đức. Sao nói là bốn mươi? Vì hành, nghiệp, tối, thắng mỗi thứ có mười loại công đức nên thành số bốn mươi. Sao nói là tám loại? Vì trí và vô ngại đều có bốn loại nên thành tám loại. Sao nói là mười Tối (bậc nhất)? Đó là: Tối siêu quá, là rời xa địa Nhị thừa. Tối xuất ly, là vónh viễn xa rời biên vực của ba cõi. Tối đối trị, là nhanh chóng đoạn dứt bốn trụ địa. Tối yếm hoạn, là đã vượt qua xóm làng của năm uẩn. Tối ly ái, là vónh viễn lìa xa con đường rẽ vào sáu nẻo. Tối uy đức, là đánh bại làm cho bảy loại quân ma phải rút lui. Tối binh chúng, là tám khu rừng tà vạy đều sạch. Tối trí tuệ kiếm, là quyết chặt đứt chín loại kết buộc. Tối giải thoát, là đoạn trừ mười sợi dây ràng buộc. Tối dũng mãnh, là bẻ gãy, làm cho chín mươi sáu loại ngoại đạo phải khuất phục. Đây gọi là mười loại Tối, ở trong kinh nói là mười loại đệ nhất. Sao nói là mười Thắng? Đó là: Thắng Lực, là đầy đủ mười Lực. Thắng Vô úy, là đầy đủ bốn Vô úy. Thắng Bất cộng, là đầy đủ mười tám pháp Bất cộng thù thắng. Thắng Đạo phẩm, là đầy đủ ba mươi bảy đạo phẩm. Thắng Biến hóa, là đầy đủ trăm ngàn loại biến hóa. Thắng Ngôn âm, là đầy đủ tám mươi tám loại Phạm âm. Thắng Đoan nghiêm, là đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của đấng trượng phu. Thắng Cát tường, là tùy theo cảnh giới và nơi sanh ra tất cả mọi công đức thiện căn đều được lớn lên. Thắng Nan đắc, là bậc tôn kính nhất ở trong ba cõi. Thắng Trú xứ, nơi cung điện mình cư trú dùng chín vạn tám ngàn loại vi diệu viên mãn mà làm cho trang nghiêm. Đây gọi là mười Thắng, ở trong kinh nói là mười loại thù thắng. Sao nói là mười Nghiệp? Đó là: Nghiệp tự nhiên, là những việc làm được tự tại. Nghiệp Bình đẳng, là giáo hóa làm cho lợi ích không có gì sai khác. Nghiệp Tương ưng, là thuận theo căn cơ mà xuất hiện. Nghiệp Cụ túc, là đầy đủ trọn vẹn hai tư lương về phước và trí. Nghiệp Vô tận, là không có giới hạn, thời gian. Nghiệp Đồng sanh, là thuận theo các nẻo cõi mà thọ sanh. Nghiệp Vô trước, là xa rời hệ lụy trần tục giống như hoa sen. Nghiệp Y chỉ, là làm nơi trở về nương tựa giống như mặt đất. Nghiệp Vô yếm, là thâu gồm chúng sanh không tận cùng giống như biển lớn. Nghiệp Thông đạt, là không có chướng ngại giống như hư không. Đây gọi là mười Nghiệp, ở trong kinh nói là mười loại Tác dụng. Sao nói là mười Biến (Hành)? Đó là: Căn biến, là các sắc căn của Phật mỗi một căn-mỗi một sắc đều hiện bày khắp tất cả pháp giới. Thức biến, là các tâm thức của Phật không gì là không thông suốt. hạn. Cảnh giới biến, là trí trọn vẹn đã duyên không phân chia giới Thọ mạng biến, là không thể nghó bàn được. Quyến thuộc biến, là không thể lường tính được. Công đức biến, là tất cả công đức sánh bằng hư không giới. Từ bi biến, là không có sự lựa chọn. Ngôn thuyết biến, là âm thanh của Đức Phật vang lên không đâu là không đến. Chứng biến, là không nơi nào không cùng tận. Vô đẳng biến, là không có gì sánh bằng. Đây gọi là mười Biến, ở trong kinh nói là mười loại châu biến. Sao nói là bốn Trí? Đó là: Trí quang minh vô tận tạng, vì có năng lực sinh ra mười ức một ngàn môn trí tuệ. Trí nhất vị nhất tướng, vì thông suốt hằng sa hết thảy các pháp không có sai biệt. Trí đại bi vô biên, vì thuận theo chúng sanh thực hiện giáo hóa đồng nhất đầy khắp tất cả mọi thế giới ở mười phương. Trí vô vi tịch diệt, vì rời xa tất cả mọi hình thái gây ra nghiệp. Đây gọi là bốn trí, ở trong kinh nói là bốn loại trí viên mãn. Sao nói là bốn Vô ngại? Đó là: Pháp vô ngại, là biết rõ về thật tướng và thật tánh của các pháp. Nghóa vô ngại, là biết rõ về các pháp cùng tướng sai biệt và tướng sanh diệt của các chúng. Từ vô ngại, là không hủy hoại giả danh mà lại nói rõ thật tướng. Lạc thuyết vô ngại, là phát ra lời nói diễn giảng về đại dương kinh pháp theo thứ tự không đoạn tuyệt. Đây gọi là bốn Vô ngại, ở trong kinh nói là bốn loại trí giải thoát. Nói tự tại là chung cho cả phần trên, vì vậy không giải thích riêng, còn danh nghóa của sắc tướng như trong Đại Tổng Trì đã giải thích rõ và rộng. Đã nói về Giác bảo (Phật bảo), tiếp theo nói về Pháp, Tăng. Bổn luận viết: Đến thể tướng thân kia Biển chân như pháp tánh Kho công đức vô lượng Tu hành đúng như thật. Luận giải thích: Trong một tụng này lại có hai phần. Sao nói là hai phần? Đó là: Thể thâu gồm tất cả thân của chúng sanh. Thông hiểu toàn bộ Pháp tạng Tăng già. Thể thâu tóm: Là thâu tóm toàn bộ tất cả các thân vô thường-lưu chuyển-sanh diệt của vô lượng chúng sanh, như trong luận nói “Thể tướng của thân kia”. Thông hiểu toàn bộ: Là do thân tướng của chúng sanh như vậy, thông hiểu toàn bộ các pháp tạng rất sâu xa, và tất cả những người tu hành đúng như thật. Trong luận gốc nói “Biển chân như pháp tánh, kho công đức vô lượng, tu hành đúng như thật”. Nói “vân vân” là ý thông tỏ chung về sự lễ lạy tôn kính. Luận sư dựa vào bao nhiêu Pháp-Tăng mà lễ lạy tôn kính, tướng trạng ấy như thế nào? Tụng nói: Quy chung nơi mười bốn Tăng mười và Pháp bốn Hoặc bao gồm trên dưới Tăng chúng có nhiều loại. Luận giải thích: Bồ-tát Mã Minh quy y chung nơi mười bốn xứ đức, vì Tăng có mười và Pháp có bốn, tất cả đều sai biệt. Sao nói là Tăng có mười? Vì mười Địa sai biệt. Sao nói là Pháp có bốn? Vì Giáo-Lý-Hành-Quả đều sai biệt. Pháp là Giáo pháp, đó gọi là tùy thuận căn cơ như biển cả kinh điển tiếp nhận tất cả chúng sanh. Tánh chân như là Lý pháp, nơi thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp, xa rời cái giả của hư vọng, đoạn tuyệt cái thật của chấp trước. Biển là Quả pháp, đối với quả vị Diệu giác muôn đức viên mãn không có cùng tận, như biển lớn. Công đức vô lượng là Hành pháp, vì sáu độ vạn hạnh, công đức thanh tịnh cùng với quyến thuộc không thể nghó bàn và vượt lên trên mọi số lượng. Như là nói đến mười loại chân như. Thật tu hành nói về mười loại Chánh trí, là chứng lý chân như hướng về trí chân thật xây dựng tên gọi của Tăng. Lý và trí nối thông với nhau, chủ thể và đối tượng bình đẳng một ý vị, vì bình đẳng nên không tranh luận. Vì sao lấy mạng nêu lên mười phương như vậy? Vì muốn biểu hiện rõ mạng căn đã thâu gồm rộng lớn đầy đủ trọn vẹn không có biên vực. Vì sao lấy thân nêu lên tướng ấy? Là muốn biểu hiện rõ bốn tướng đã làm rối loạn tất cả chúng sanh đều thâu tóm được hết, muốn khiến đạt được thân kim cang thường trú bất động. Tại sao tám Thánh không chỉ quy mạng với tự thân, mà chính là chọn lấy chung nơi thân mạng vốn có của tất cả vô lượng chúng sanh để trở về với Tam bảo? Vì biết rõ tất cả chúng sanh đều bình đẳng, bình đẳng chỉ một chân như không có sai khác, thân mạng của chúng sanh và thân mạng của mình cùng một vị một tướng không rời xa nhau. Vì vậy tụng nói là Đẳng, chữ Đẳng nghóa rất sâu xa. Tại sao thâu tóm đạt được vô lượng thân mạng của tất cả chúng sanh, trở về với Tam bảo, thành tựu tướng lễ lạy cung kính (hòa nam)? Do ba đời mười phương hết thảy chư Phật đều rất hoan hỷ, ba đời mười phương hết thảy các vị Bồ-tát đều rất hoan hỷ, ba đời mười phương hết thảy các Pháp tạng luôn được truyền khắp không bao giờ đoạn tuyệt. Bồ-tát Mã Minh chứng đến địa Bất động, công đức nơi các địa dưới đều đã đầy đủ. Tại sao đối với các vị Tăng ở địa dưới thảy đều lễ lạy cung kính? Vì người là chủ thể quay trở về đều không giống với địa mình đạt được. Nếu tự mình quy y thì chỉ nên nói lễ lạy cung kính bậc đã hoàn toàn chứng đắc địa Bất động và hai địa trên. Nếu như vậy tại sao không nói các địa trước? Vì không phải không có người quy y nên không nêu ra riêng, từ trên xuống dưới đã cùng hiển hiện rõ. Lúc Bồ-tát của địa Pháp vân (Địa thứ mười) là người có thể quy y thì nên dựa vào Tăng bậc nào? Hướng về địa Diệu giác có Tăng chân thật nên không có lỗi lầm. Nếu như vậy thì sao không nêu riêng? Vì từ dưới lên trên đã cùng được biểu hiện rõ. Do đó tụng nói “Hoặc bao gồm trên dưới, Tăng chúng có nhiều loại”. Đã nói về Pháp, Tăng, tiếp theo nói về ý nghóa căn bản. Bổn luận nêu: Vì muốn khiến chúng sanh Trừ nghi bỏ chấp tà Khởi chánh tín Đại thừa Dòng Phật không đoạn dứt. Luận giải thích: Trong một tụng này tức có hai phần. Sao nói là hai phần? Đó là: Đoạn dứt mọi chướng ngại ràng buộc. Liên tục được giải thoát. Trong phần đoạn dứt có bốn loại sai biệt. Những gì là bốn loại? Đó là: Phần tín tâm quyết định, làm cho vô lượng hết thảy chúng sanh đoạn trừ tâm nghi hoặc, phát khởi tâm tin bền vững, quyết định hướng về chánh đạo Đại thừa rất sâu xa. Xa rời tâm chán bỏ, vì muốn cho vô lượng hết thảy chúng sanh… rời xa tâm ý chán bỏ, tăng trưởng ý niệm cầu vui, tinh tấn đối với chánh đạo Đại thừa rất sâu xa. Phần đối trị luận tà, để khiến đối trị được chín mươi sáu loại ngoại đạo lớn, cùng với chín mươi ba ngàn ngoại đạo quyến thuộc, bốn loại đại ma cùng ba mươi hai ngàn các ma quyến thuộc, đoạn trừ một trăm bốn mươi sáu ngàn loại luận thuyết thế gian, hướng vào chánh đạo rất sâu của Đại thừa. Phần loại trừ chấp trước, để khiến tất cả mọi phàm phu và các hạng Nhị thừa cùng tất cả Bồ-tát, đoạn trừ năm loại nhân kiến, chứng được năm loại đối trị, đoạn trừ hai loại chấp về Pháp, chứng được hai loại đối trị, hồi hướng về chánh đạo Đại thừa rất sâu xa. Như trong Bản tụng nói “Vì muốn khiến chúng sanh, Đoạn nghi bỏ chấp tà, Khởi chánh tín Đại thừa”. Trong phần liên tục có ba loại sai biệt. Những gì là ba loại? Đó là: Không đoạn mất cửa ngõ vào đại giác, vì muốn tập hợp các nhân thành tựu vạn hạnh, trang nghiêm quả vị Đại Giác, không đoạn dứt dòng dõi Pháp vương Vô thượng. Không đoạn mất kho tàng chánh pháp, làm cho tiếng vang của Phạm âm vi diệu thù thắng được xuất hiện, tuyên bày biển cả của hết thảy kinh giáo, khiến tám mươi bốn ngàn pháp tạng không bị đoạn dứt. Không đoạn mất toàn thể Tăng già, khiến tu tập đại đạo của địa trước địa trên, xây dựng cung điện của pháp giới chân như, trụ giữ Tăng đoàn của hai thời Chánh pháp và Mạt pháp không bị đoạn tuyệt. Như trong Bản tụng nói “Phật chủng không đoạn dứt”. Tụng về chúng sanh nói đến phần hạn là thế nào? Là muốn đối trị, đoạn trừ những gì? Kiến lập Tam bảo không đoạn dứt? Tụng nói: Gồm chung người ba tụ Vì chưa được viên mãn Đối trị bốn loại đoạn Xây dựng ba không dứt. Luận giải thích: Bồ-tát Mã Minh duyên thông với ba tụ làm cảnh giới. Vì sao? Vì chưa chứng được quả viên mãn. Như vậy, ba Tụ có ba loại của nó. Những gì là ba loại? Đó là: Trước Thập Tín gọi là tụ định tà, vì không thể tin vào các loại nghiệp nhân-quả báo. Ba Hiền và mười Thánh gọi là tụ chánh định, vì quyết định an lập vị không thoái chuyển. Mười loại tâm tín gọi là tụ bất định, vì hoặc tiến lên, hoặc lui sụt không quyết định. Trước Thập Tín và mười tâm tín gọi là tụ định tà, vì đều không có thiện căn. Quả vị Đại Giác vô thượng gọi là tụ chánh định, vì đã hoàn toàn đầy đủ. Ba Hiền và mười Thánh gọi là tụ bất định, vì đều chưa đến quả cuối cùng. Trước Thập Tín gọi là tụ định tà, vì không có tâm vui cầu. Mười Thánh gọi là tụ chánh định, vì đã được chứng đạt chân thật. Thập Tín và ba Hiền gọi là tụ bất định, vì chưa thể chính thức chứng đạt. Đây gọi là ba loại. Bồ-tát Mã Minh cần đến chủng loại thứ nhất kia, là muốn đối trị bốn loại đoạn dứt, nghóa của sự xây dựng Tam bảo không đoạn dứt. Những gì là bốn loại? Đó là: Nghi hoặc đoạn, vì tâm do dự không thể quyết định được, nên đoạn mất chủng tử Tam bảo. Yếm xả đoạn, vì tâm tham ái hữu nên không thể vui với pháp, do đó đoạn mất chủng tử Tam bảo. Tà kiến đoạn, vì tâm vọng tưởng nên không thể có chánh kiến, vì thế đoạn mất chủng tử Tam bảo. Định chấp đoạn, vì tâm chấp thật có nên không thể xa rời chấp trước, do vậy đoạn mất chủng tử Tam bảo. Đây gọi là bốn loại đoạn dứt. Đã nói về ý nghóa căn bản của Luận, tiếp theo là triển khai phần thể tổng quát. Bổn Luận nói: Có pháp có thể khởi tín căn của Đại thừa, vì vậy cần phải giới thiệu. Luận giải thích: Trong văn này có hai phần. Những gì là hai phần? Đó là: Môn chủ thể nhập. Môn đối tượng được nhập. Môn chủ thể nhập là đối với lý của đối tượng được nêu giảng khéo hướng vào. Môn đối tượng được nhập là khéo vì pháp kia làm nơi nương dựa. Hữu pháp là nêu tổng quát về mười sáu pháp của môn chủ thể nhập. Có thể khởi tín căn là nêu tổng quát tướng tác nghiệp của môn pháp. Ma-ha-diễn là nêu tổng quát mười sáu thể của pháp được nhập cùng với thể bất nhị của Ma-ha-diễn, tín quyết định để tâm tiến lên, căn sinh trưởng để thực hành pháp. Nếu để đi vào lý thì không ra ngoài hai điểm ấy, nên gọi là tín căn. Lại nữa, Tín gọi là Thập Tín, Căn nghóa là từ trụ Sơ phát phát tâm cho đến địa Pháp Vân. Vì sao? Vì Tín ban đầu không có căn và tiến lùi tùy theo duyên, ví như hoa Ban-đa-già-y-ma. Tín về sau chuyển dần đến kiên cố bất động hơn hẳn, ví như cây Kiện cưu a di lễ. Tín căn có bao nhiêu nghóa, các tướng đó như thế nào? Tụng nói: Đều có mười loại nghóa Là trừng tịnh, hạ chuyển … Luận giải thích: Tín có mười loại nghóa. Thế nào là mười loại? Đó là: Nghóa lắng sạch, là có năng lực làm cho tánh của tâm được thanh tịnh sáng rõ. Nghóa quyết định, là có năng lực làm cho tánh của tâm thuần nhất kiên cố. Nghóa hoan hỷ, là có năng lực khiến đoạn trừ các ưu não. Nghóa không chấp, là có năng lực khiến đoạn trừ tâm lười biếng. Nghóa tùy hỷ, là đối với công hạnh tốt đẹp của người khác luôn phát khởi tâm niệm đồng tình. Nghóa tôn trọng, là đối với những người có đức hạnh không phát sinh ý niệm khinh rẻ. Nghóa tùy thuận, là thuận theo những gì thấy nghe, không hề trái ngược. Nghóa tán thán, là thuận theo công hạnh tốt đẹp ấy mà chân thành ca ngợi. Nghóa bất hoại, là chuyên nhất tâm tư không để cho sai lầm, mất đi. Nghóa ái lạc, là có năng lực làm thành tựu tâm từ bi. Đây gọi là mười nghóa về Tín. Căn có mười loại nghóa. Thế nào là mười loại? Đó là: Nghóa Hạ chuyển, là có năng lực loại trừ tâm kiêu mạn. Nghóa Ẩn mật, là có năng lực giải thích lý lẽ rất sâu xa. Nghóa Xuất sanh, là sinh ra và nuôi lớn rất nhiều những công đức. dứt. Nghóa Kiên cố, là thâu giữ tất cả, không khiến cho thiếu sót. Nghóa Tương tục, là chuyển đổi cùng lớn thêm, không có đoạn Nghóa Xuất ly, là từng địa từng địa chuyển sang tốt đẹp và dần dần xa lìa. Nghóa Tập thành, là tu tập các loại pháp hành trong vô số đạo phẩm. Nghóa Mậu vinh, là dùng các đức hạnh trang nghiêm rất đáng vui mừng yêu thích. Nghóa Cụ túc, là trong quả vị Đẳng giác hoàn toàn đầy đủ nhân hạnh. Nghóa Cao thắng, là ở tại quả vị Diệu Giác thù thắng và rộng lớn nhất không có năng lực nào vượt lên trên được. Đây gọi là mười nghóa về Căn. Các loại sai biệt về chủ thể nhập và đối tượng được nhập, trong phần lập nghóa sẽ nói rõ. Đã nói về thể tổng quát, tiếp theo trình bày về sự kiến lập. Bổn Luận nói: Giải thích có năm phần. Thế nào là năm phần? Một là phần Nhân duyên. Hai là phần Lập nghóa. Ba là phần Giải thích. Bốn là phần Tín tâm tu hành. Năm là phần Lợi ích khuyến tu. Luận giải thích: Tại sao theo thứ tự như thế? Vì giáo pháp nơi xuất hiện pháp vốn như vậy. Nghóa lý này thế nào? Là muốn nói rõ thuốc hay, vị tốt (tối thượng) chính do đối trị bệnh tật chướng ngại mà xuất hiện. Giáo pháp có năng lực cảm hóa, chắc chắn do đối trị căn cơ mà phát khởi, trước bệnh không có thuốc, trước cơ nghi không có giáo pháp. Do đó đầu tiên lập phần Nhân duyên, là muốn nói rõ ngọc quý Như ý tuy chỉ là một, là căn bản của tất cả các thứ báu. Pháp Ma-ha- diễn tuy chỉ là một, nhưng trở thành thể tánh của hằng sa pháp môn, uy thế mạnh mẽ như Đại Long mới tiếp nhận sử dụng được, căn cơ sắc bén như người trí tuệ mới có thể lãnh ngộ. Thứ hai là phần Lập nghóa, là muốn biểu hiện rõ tạng báu Ma-ni tuy đầy đủ vô lượng các loại châu báu, nhưng mở ra hàng ngàn lớp cửa thì mọi loài rồng mới biết rõ. Nguồn gốc của pháp Đại thừa tuy đầy đủ hàng ngàn nghóa lý không giới hạn nhưng lại tách ra giải thích giới thiệu riêng, rộng thì hàng căn cơ chậm lụt mới rõ được. Thứ ba là lập phần Giải Thích, là muốn biểu hiện rõ tuy trong tai mắt thấy nghe pháp thuật lạ kỳ của cơn mưa báu, trong tâm tư hiểu biết rõ đức hạnh trọn vẹn vô tận, mà còn hiện ra tướng lưỡi uy nghiêm, không tranh nhau vẫn tìm được lối vào, khai thông hướng về xưa nay, không tiếp cận hay cách xa Đàn na, đạt được Bảo tạng Như ý không phải bước chân lên cung điện hay đài cao. Tuy trong miệng lưỡi trì tụng từ ngữ tôn kính của giáo nghóa, tâm tư quán sát lý lẽ sâu xa có mở rộng và tóm lược, thường xuyên thực hành thêm nữa thêm vào sự tinh tấn hơn hẳn thì mới ở tòa kim cang. Không khởi niềm tin kiên cố, đạt được Bảo tạng pháp giới mà không có sự giải thích thì do đâu khế hợp được với nghóa lý diệu huyền. Thứ tư là lập phần Tín tâm tu hành, tuy mở ra pháp có rộng, lược, chỉ cho cửa ngõ tiến vào, nhưng hàng chúng sanh khiếp nhược, nghe những pháp môn nêu rộng, không thể tiến vào để tu hành, hàng chúng sanh độn căn nghe những pháp môn nói lược, nhưng không có năng lực hiểu rõ nên tâm sinh chán, xa. Những loại chúng sanh như vậy, nếu gặp được duyên khuyến khích chỉ dẫn, dần dần tiến tu, đầy đủ nhân tố của trăm hạnh đạt, đến kết quả của vạn đức. Nếu không gặp được duyên khuyến khích thúc đẩy thì càng ngày càng lùi lại xa hơn, đem hằng sa phiền não vào nơi vô tánh. Bồ-tát Mã Minh nhìn thấy lợi ích này, nên biểu hiện rõ lợi ích để khuyến khích chỉ dẫn tu hành, do đó, sau cuối lập phần Lợi ích khuyến tu. Có nhân duyên gì mà không thêm không bớt, chỉ lập ra năm phần như vậy? Tụng nói: Thâu nơi Địa Đại Tổng Gồm năm mươi pháp môn Vì vậy không thêm bớt Chỉ kiến lập năm phần. Luận giải thích: Trong mười vạn tụng trong Luận Đại Tổng Địa do Bồ-tát Mã Minh soạn, lập chung năm mươi phần, phán định giải thích về những giáo lý. Nay trong luận này, lập năm phần pháp môn, mỗi pháp môn thâu tóm mười môn kia, vì vậy không thêm không bớt, chỉ lập năm phần. Đó gọi là luận kia kiến lập mười môn để giáo hóa đầy đủ trọn vẹn. Phần Nhân duyên đã thâu tóm mười môn như một trăm sáu mươi pháp Ma-ha-diễn. Phần Lập nghóa đã thâu tóm mười môn như tùy thuận quyết trạch v.v… được an lập. Phần Giải thích đã thâu tóm mười môn như tu tập, quyết định, hướng vào… Phần Tu hành đã thâu tóm mười môn như khuyến thỉnh, quở trách, dẫn dắt và những gì thuộc về phần khuyến tu. Đã nói về phần kiến lập, tiếp theo nói về phần nêu chương và phán thuyết. Bổn Luận nói: Đầu tiên nói về phần Nhân duyên. Hỏi: Có nhân duyên gì khiến tạo luận này? Đáp: Có tám loại nhân duyên. Những gì là tám loại? Đó là: Nhân duyên tổng tướng, nghóa là để khiến cho chúng sanh xa rời tất cả khổ đau-đạt được niềm vui rốt ráo, không phải vì cầu danh lợi và sự cung kính của thế gian. Vì muốn giải thích về nghóa lý căn bản của Như Lai, khiến các chúng sanh hiểu đúng đắn không sai lầm. Vì làm cho chúng sanh thành tựu mọi thiện căn, đối với giáo pháp Đại thừa có thể đảm nhận được mà không thoái lui tâm tín. Vì khiến cho những chúng sanh có thiện căn nhỏ yếu tu tập phát khởi tâm tín. Vì chỉ ra phương tiện làm tiêu tan nghiệp chướng xấu ác, cố gắng bảo vệ tâm ấy rời xa ngu si kiêu mạn, à vượt ra ngoài màng lưới tà vạy. Vì nêu ra phương pháp Chỉ và Quán, đối trị tâm sai lầm của hàng phàm phu, Nhị thừa. Vì nêu ra phương tiện chuyên nhất tâm niệm sanh ở trước Phật, chắc chắn không thoái lui tâm tín. Vì bày tỏ lợi ích để khuyến khích tu hành. Có những nhân duyên như vậy, nên làm ra luận này. Luận giải thích: Trong tám nhân duyên này, một nhân duyên đầu làm nhân duyên chính cho phần Lập nghóa. Hai nhân duyên tiếp theo làm nhân duyên chính cho phần Giải thích. Bốn nhân duyên tiếp theo làm nhân duyên chính cho phần Tín tâm tu hành. Một nhân duyên cuối cùng làm nhân duyên chính cho phần Lợi ích khuyến tu. Trong một nhân duyên đầu thì có bốn phần, trong bảy nhân duyên sau mỗi nhân duyên đều có ba phần. Những gì là bốn phần? Đó là: Phần giáo pháp là chủ thể hóa độ lưu hành xuất hiện. Phần chúng sanh là đối tượng được hóa độ trong giới hạn thích hợp. Phần lưu hành xuất hiện làm sự nghiệp thiện xảo. Phần loại trừ mọi sự tranh luận và phỉ báng. Những gì là ba phần? Đó là ba phần ở trước. Nay sẽ đưa ra tướng, lần lượt giải thích riêng. Nhân duyên Tổng tướng là nêu tổng quát phần giáo pháp là chủ thể hóa độ lưu hành xuất hiện, nghóa là làm nhân duyên chính cho thể chung của tám loại căn bản, nên nói là Nhân duyên tổng. Làm nhân duyên chính cho hai mươi bốn loại tướng phân biệt riêng, nên nói là Nhân duyên tướng. Đối với ba mươi hai loại pháp tướng tổng và biệt này, trong phần Lập nghóa tự chúng nói rõ. “Để khiến cho chúng sanh” là nêu tổng quát phần chúng sanh là đối tượng được hóa độ trong giới hạn thích hợp. Nghóa là thâu tóm mười ức tám vạn sáu ngàn loại chúng sanh thuộc tụ định tà, ba mươi loại chúng sanh thuộc tụ bất định, một trăm hai mươi loại chúng sanh thuộc tụ chánh định. “Xa rời tất cả khổ, đạt niềm vui rốt ráo” là nêu tổng quát phần lưu hành xuất hiện làm sự nghiệp thiện xảo. Nghóa là duyên với ba Tụ làm thành cảnh giới, tuyên thuyết mở bày chỉ rõ về nội dung quan trọng của diệu dháp, nhằm khiến cho hết thảy vô lượng chúng sanh, rời xa nỗi khổ của sanh diệt, của vô thường, đạt được niềm vui căn bản của toàn bộ các tướng. “Không phải vì cầu mong danh lợi và sự cung kính của thế gian”, là nêu tổng quát phần loại trừ mọi sự tranh luận và phỉ báng. Nghóa là chúng sanh ngu muội dấy lên mối nghi ngờ như vầy: Bồ-tát Mã Minh ở địa Bất động chưa đến địa Pháp vân, mà duyên với các vị Bồ-tát ở địa trên, làm thành cảnh giới của đối tượng được hóa độ đó, chỉ biểu hiện sự thù thắng của mình, là cầu mong danh lợi… Có những lời nói giả dối không có nghóa lý thật, lẽ nào Bồ-tát ở địa dưới có thể giáo hóa được Bồ-tát địa trên sao? Do đó Bồ-tát Mã Minh vì loại trừ những nghi ngờ không tin như vậy, tự thông tỏ mà nói: Tôi từ kiếp lâu xa đã thành tựu quả vị Chánh Giác, trợ giúp sự nghiệp giáo hóa làm lợi ích cho chúng sanh, vì viên mãn bổn nguyện nên tạm thời bày tỏ ở phần vị đang tu tập, không phải là nói vì mong cầu danh lợi gì khác mà nêu bày như vậy. Đã nói về Nhân duyên thứ nhất. Nhân duyên thứ hai nói về phần giải thích nghóa lý căn bản của Như Lai, là nêu tổng quát phần giáo pháp là chủ thể hóa độ lưu hành xuất hiện. Nghóa là nhân duyên này có thể làm nhân duyên chính cho sự biểu hiện rõ nghóa chánh đối trị tất cả chấp tà, nên nói là nghóa lý căn bản của Như Lai. Vì sao? Vì hết thảy Như Lai, suốt ba đời khắp mười phương, không một vị Phật nào không thuận theo một tâm căn bản làm thành hai môn bảy loại đối trị để thành tựu Chánh giác. “Khiến cho các chúng sanh” là nêu tổng quát phần chúng sanh là đối tượng được hóa độ trong giới hạn thích hợp. Nghóa là thâu tóm mười ức tám vạn sáu ngàn loại chúng sanh thuộc tụ định tà. “Hiểu đúng không sai lầm” là nêu tổng quát phần nghóa lý lưu hành xuất hiện làm sự nghiệp thiện xảo. Nghóa là duyên theo chúng sanh cuồng loạn thuộc tụ định tà để làm cảnh giới, tuyên thuyết, mở bày, chỉ rõ pháp rất sâu xa biểu hiện rõ ng- hóa chánh để đối trị mọi chấp tà, chấn chỉnh lại sự hiểu sai lạc vô cùng tận, phá vỡ vô số kiến giải trái ngược, đoạn trừ chướng ngại không có lòng tin của hạng xiển đề, làm cho hướng vào Đại thừa của Thập Tín. Đã nói về Nhân duyên thứ hai. Nhân duyên thứ ba làm nhân duyên chính cho sự phân biệt phát khởi hướng về đạo. Đây gọi là phần giáo pháp là chủ thể hóa độ lưu hành xuất hiện. Nghóa là ba loại phát tâm. “Chúng sanh thành tựu thiện căn” là nêu tổng quát phần chúng sanh là đối tượng được hóa độ trong giới hạn thích hợp. Nghóa là thâu gồm các chúng sanh ở vị phẩm thượng của Thập Tín-ba phẩm Thập Giải-ba phẩm Thập Hạnh-ba phẩm Thập Hướng và ba phẩm Thập Địa. “Đối với giáo pháp Đại thừa, có thể đảm nhận không thoái lui tâm tín” là nêu tổng quát phần giáo pháp lưu hành xuất hiện làm sự nghiệp thiện xảo. Nghóa là duyên với hai loại chúng sanh để làm cảnh giới, tuyên thuyết, mở bày, chỉ rõ ba loại phát tâm khiến vượt lên trên tự mình, có thể tiến tới tốt đẹp. Đã nói về Nhân duyên thứ ba. Nhân duyên thứ tư làm nhân duyên chính cho phần Tín tâm tu hành, gồm có bốn loại tín tâm và bốn loại tu hành. Đây gọi là phần giáo pháp là chủ thể hóa độ lưu hành xuất hiện. “Chúng sanh có thiện căn nhỏ, yếu” là nêu tổng quát phần chúng sanh là đối tượng được hóa độ trong giới hạn thích hợp. Nghóa là thâu tóm được chúng sanh phẩm trung ở năm tâm trước vị Thập Tín. Vì đã đạt được năm tâm trước, không phải hoàn toàn không có thiện căn, nên nói là thiện căn nhỏ, yếu. Vì chưa được năm tâm sau nên không thể đầy đủ, không gọi là thành tựu. “Tu tập khiến phát khởi tâm tín” là nêu tổng quát phần lưu hành xuất hiện làm sự nghiệp thiện xảo. Nghóa là có năng lực làm cho thành tựu năm tín tâm sau. Đã nói về Nhân duyên thứ tư. Nhân duyên thứ năm là cuối cùng tiến vào cửa ngõ của phần Tín tâm tu hành. Lại nữa, nếu như có người tuy tín tâm tu hành, cho đến có thể tránh khỏi các chướng ngại, nuôi lớn thêm thiện căn làm nhân duyên chính, gọi là phần giáo pháp là chủ thể hóa độ lưu hành xuất hiện. Chúng sanh trong này thâu tóm được chúng sanh bậc hạ sơ, tâm ở vị Thập tín. Đây gọi là phần chúng sanh là đối tượng được hóa độ trong giới hạn thích hợp. “Tiêu trừ nghiệp chướng xấu ác…” là nêu tổng quát phần lưu hành xuất hiện làm sự nghiệp thiện xảo. Nghóa là nêu ra các phương tiện như lễ bái, sám hối…, để tiêu trừ các loại nghiệp chướng sâu dày. Đã nói về nhân duyên thứ năm. Nhân duyên thứ sáu nói về phương pháp tu tập Chỉ và Quán, là nêu tổng quát phần giáo pháp là chủ thể hóa độ lưu hành xuất hiện. Nghóa là làm nhân duyên chính cho phần tu hành Chỉ và Quán trong phần Tín tâm tu hành. Hàng phàm phu, Nhị thừa là nêu tổng quát phần chúng sanh bậc hạ, có hai tâm ở vị Thập tín. Tụ định tà thâu gồm hết thảy hàng Nhị thừa. “Đối trị tâm lỗi lầm” là nêu tổng quát phần lưu hành xuất hiện làm sự nghiệp thiện xảo. Nghóa là dùng hai luân nối thông với nhau để đối trị mọi sai lầm do kiến chấp của hàng phàm phu, Nhị thừa. Đã nói về nhân duyên thứ sáu. Nhân duyên thứ bảy là cuối cùng của phần Tín tâm tu hành. Lại nữa, chúng sanh mới học pháp này cho đến cuối cùng được sanh ra và an trú trong tụ chánh định, nên làm nhân duyên chính. Đây gọi là phần giáo pháp là chủ thể hóa độ lưu hành xuất hiện. Chúng sanh trong này thâu tóm được bốn tâm trước nơi vị Thập Tín, lại không thể tiến vào trong chúng sanh bậc hạ, nghóa là trú ở thế giới này thành tựu tâm tín hết sức sợ hãi. Đây gọi là phần chúng sanh là đối tượng được hóa độ trong giới hạn thích hợp. “Chắc chắn không thoái lui tâm tín” là nêu tổng quát phần lưu hành xuất hiện làm sự nghiệp thiện xảo. Nghóa là dùng năng lực của duyên thù thắng để an lập trong tụ chánh định. Đã nói về nhân duyên thứ bảy. Nhân duyên thứ tám làm nhân duyên chính cho phần bày tỏ lợi ích để khuyến khích tu hành. Đây gọi là phần giáo pháp là chủ thể hóa độ lưu hành xuất hiện. Chúng sanh trong này thâu tóm mười ức tám vạn sáu ngàn loại các chúng sanh thuộc tụ định tà. Đây gọi là phần chúng sanh được hóa độ trong giới hạn thích hợp. Vì bày tỏ lợi ích để khuyến khích tu hành là nêu tổng quát phần lưu hành xuất hiện làm sự nghiệp thiện xảo. Nghóa là vì nhằm khiến cho niềm vui được tăng thêm nên giảng nói những công đức, biểu hiện rõ những sai lầm tai họa nhằm giác ngộ để lìa bỏ. Đã nói về nhân duyên thứ tám. Tất cả các giáo pháp đều gồm hết vào phần Lập nghóa. Tất cả các căn cơ được hóa độ đều gồm hết vào phần Nhân duyên thứ nhất, tại sao mở ra ba phần để giải thích riêng, lập ra bảy nhân duyên để giải thích phân tán như vậy? Vì muốn biểu hiện rõ sự khác nhau giữa nhanh- chậm-rộng-lược-chung và riêng. Tại sao người hàng Nhị thừa nhận lấy lần nữa về bốn xứ? Do muốn biểu hiện rõ chúng sanh Nhị thừa kém hẹp, phát tâm Bồ-đề hướng về đạo Vô thượng là vô cùng khó khăn và không thể vượt lên trên các loại chúng sanh khác. Tại sao chúng sanh thuộc loại định tà khác chỉ nhận lấy nơi ba xứ? Vì muốn biểu hiện rõ những chúng sanh khác có những lỗi lầm nhưng nhẹ hơn so với hàng Nhị thừa. Tại sao người thuộc loại bất định phân biệt chọn lấy ba phẩm? Do muốn biểu hiện rõ chúng sanh thuộc loại bất định căn tánh mỏng, chậm, tối, phát tâm quyết định hướng về đạo vô thượng, thật sự vô cùng khó để vượt lên trên so với chúng sanh thuộc loại chánh định. Tại sao người thuộc loại chánh định không phân biệt ba phẩm mà nối thông với nhau gồm tất cả? Vì muốn biểu hiện rõ chúng sanh thuộc loại chánh định có những lỗi lầm mà nhẹ hơn so với chúng sanh bất định. Có nhân duyên gì không thêm không bớt mà chỉ lập thành tám loại nhân duyên? Vì sao theo thứ tự như vậy? Tụng nói: Thâu chung Địa Đại Tổng Có tám mươi nhân duyên Tu hành chuyển thù thắng Nên theo thứ tự ấy. Luận nói: Trong mười vạn tụng nơi Luận Đại Tổng Địa do Bồ-tát Mã Minh soạn thuật, toàn bộ lập thành tám mươi nhân duyên để làm duyên do của Luận. Nay trong Luận này, tám loại nhân duyên, mỗi loại thâu tóm mười loại nhân duyên trong Luận kia, nên không thêm không bớt, chỉ lập thành tám loại nhân duyên. Do nghóa này nên nói là như vậy v.v…, chữ v.v… là thâu tóm chung tám mươi nhân duyên ấy. Nhân duyên theo thứ tự thực hành từng pháp như vậy, nghóa là loại trừ chướng ngại không tin của hạng Xiển-đề, đạt được tâm thuộc hàng Thập Tín, loại trừ chướng ngại chấp ngã, đạt được tâm thuộc hàng Thập Trụ, loại trừ chướng ngại sợ khổ đạt được tâm thuộc hàng Thập Hạnh, loại trừ chướng ngại rời bỏ, đạt được tâm thuộc hàng Thập Hồi Hướng, đoạn dứt mười loại chướng ngại của tánh phàm phu v.v… chứng đạt mười loại Địa như Hoan Hỷ v.v… Đã nói về tám nhân duyên. Tiếp theo nói về bốn loại căn. Bổn Luận nêu: Hỏi: Trong Khế kinh có đủ những pháp này, đâu cần phải giới thiệu lại? Đáp: Trong Khế kinh tuy có những pháp này, nhưng vì căn hạnh của chúng sanh không giống nhau, duyên tiếp nhận lý giải sai khác. Điều ấy có nghóa là lúc Đức Như Lai còn ở thế gian thì chúng sanh căn tánh thông lợi, người là chủ thể thuyết giảng có sắc-tâm và nghiệp rất thù thắng, âm thanh trọn vẹn vừa phát ra thì các loài khác nhau đều hiểu được, vì vậy không cần đến Luận. Sau khi Đức Như Lai diệt độ, hoặc có chúng sanh có thể dùng năng lực của mình nghe nhiều, đạt được hiểu biết. Hoặc có chúng sanh cũng dùng năng lực của mình nghe ít mà hiểu biết nhiều. Hoặc có chúng sanh không có năng lực của tự tâm, nhờ vào luận bàn mở rộng mà có thể hiểu biết. Hẳn nhiên cũng có chúng sanh cho luận mở rộng văn nhiều trở thành phiền phức, tâm chỉ thích tổng trì ít văn mà thâu gồm rất nhiều ý nghóa, có thể dẫn đến hiểu biết. Như vậy luận này vì muốn thâu tóm toàn bộ nghóa lý không giới hạn trong giáo pháp sâu rộng của Như Lai, do đó thuận theo giới thiệu luận này. Luận giải thích: Trong văn ở đây có hai phần. Thế nào là hai phần? Đó là: Phần nghi ngờ chất vấn không khác gì những điều đã nói. Phần nêu ra thời gian, phần vị để giải quyết nghi ngờ. Hỏi: Trong Khế kinh có đủ những pháp này, đâu cần phải giới thiệu lại. Đây là phần nghi ngờ chất vấn. Nghóa là trong một trăm Khế kinh như Quang Minh Đại Giác… khai mở rõ tất cả vô lượng Pháp tạng, tùy căn cơ và mức độ thâu tóm đạt được lợi ích không có thiếu sót. Kẻ só bậc trung đâu cần phải nhọc sức làm ra bộ luận này, để truyền lại giáo pháp ấy, càng không có gia tăng tức để hiển bày. Nay soạn ra luận này giới thiệu lại giáo pháp ấy, có thể không cầu mong những điều như danh lợi và sự ca ngợi tán thưởng hay sao? Suy cho cùng là tôn trọng tin tưởng không hết được lý lẽ đó. Đây gọi là phần nghi ngờ chất vấn không khác gì những điều đã nói. Đáp: “Trong Khế kinh tuy có những pháp này, nhưng vì căn hành của chúng sanh không giống nhau, duyên tiếp nhận lý giải sai khác”, là tổng quát đưa ra phần giải quyết nghi ngờ. Điều ấy có nghóa là Bồ-tát Mã Minh tự thông hiểu mà nói, hết thảy giáo lý nơi ba đời chư Phật, tự nhiên thường trú trong một ý vị là bình đẳng, hoàn toàn không có sự di chuyển, không có sanh khởi và hủy diệt, vì vậy tuy đề bảng sai khác, văn chương không giống nhau, nhưng giáo pháp ấy chỉ là một vị, chỉ là bình đẳng. Hoặc không phân chia-hoặc không riêng khác, nhưng căn tánh của chúng sanh sai biệt và nhanh chậm không đồng, tâm hành sai khác và rộng lược khác nhau. Cơ duyên được hóa độ đã khác nhau, thì người là chủ thể hóa độ không thể tự như nhau được, khiến tiếp nhận tên gọi của giáo pháp đều sai khác, khiến lãnh hội nhân duyên của văn nghóa đều riêng. Nghóa là hoặc có chúng sanh dựa vào vị Già Đà Tu Lê Tỳ La của Phật mà được hiểu rõ. Hoặc có chúng sanh dựa vào vị Già Đà Thi Tu Lê Tỳ La của Bồ-tát mới được hiểu rõ, do đó vì hạng người này nên cần phải soạn ra luận. Lại nữa, lúc Như Lai còn ở thế gian thì người là đối tượng được hóa độ thanh tịnh, người là chủ thể hóa độ đầy đủ tám mươi bốn ngàn loại sắc, bốn loại tâm biến trí, mười loại tác nghiệp, mười loại thù thắng, sáu mươi tám Phạm âm trọn vẹn và tám mươi tám diệu âm, phô diễn ngay một lúc không có trước sau, vô lượng vô biên chủng loại sai khác thảy đều hiểu được. Hoặc có chúng sanh nhìn thấy sắc tướng mầu nhiệm của Phật mà được hiểu rõ. Hoặc có chúng sanh tư duy về tâm niệm của Phật mà được hiểu rõ. Hoặc có chúng sanh quán sát mười nghiệp, mười sự thù thắng của Như Lai mà được hiểu rõ. Hoặc có chúng sanh lắng nghe Phạm âm trọn vẹn và âm thanh vi diệu của Phật mà được hiểu rõ. Như vậy, bình đẳng hiểu rõ thông suốt thì không cần đến Luận. Sau khi Đức Phật diệt độ, nguời là đối tượng được hóa độ tạp loạn - người là chủ thể hóa độ thiếu sót, thì cơ duyên của kinh luận khác nhau - căn tánh rộng lược sai khác. Căn tức là bốn loại căn, cơ tức là cơ của ba thừa. Thế nào là bốn loại căn? Đó là: Căn tự lực mở rộng. Căn tự lực tóm lược. Căn không có sức phải dựa vào nơi khác mở rộng. Căn không có sức phải dựa vào nơi khác tóm lược. Trong bốn loại căn tánh như vậy, hai căn đầu là chúng Tu-đa-la (Khế kinh), hai căn sau là chúng Ưu Bà Đề Da (luận nghị). Tại sao trong phần Nhân duyên thì người là đối tượng được hóa độ viên mãn, trong phần Căn tánh thì người là đối tượng được hóa độ lại nhỏ yếu? Vì muốn biểu hiện rõ ý lạc của Tăng đoàn thanh tịnh là không có giới hạn, vì muốn biểu hiện rõ chủng loại chúng sanh tiếp nhận giáo pháp thực hành có giới hạn thích hợp của mình. Vì nhân duyên gì mà xuất hiện hai tầng giáo pháp mở rộng và tóm lược? Tướng trạng đó thế nào? Tụng nói: Vì bổn nguyện hệ thuộc Xuất hiện pháp môn này Khế kinh Lăng Già Vương Giảng giải biểu hiện rõ. Luận nói: Do hệ thuộc với lực của nhân duyên, nên phát sinh ra hai tầng pháp môn rất sâu xa. Vì sao? Vì ở trong Khế kinh đã giải thích biểu thị rõ. Đó là trong Khế kinh Lăng Già Vương giải thích như vầy: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Ta nhớ từ trong vô lượng kiếp quá khứ, hơn năm trăm đời làm người Tiên nhẫn nhục, ở chốn núi rừng chuyên tâm tu hành các pháp thanh tịnh như thực hành hạnh thiểu dục, tri túc, bốn pháp Thánh chủng. Lúc ấy, có một con rắn lớn từ trên đỉnh núi bò xuống, đến gần chỗ Ta, nghe được những điều Ta đọc tụng, bèn gieo mình lễ lạy sám hối. Xong rồi, vùi đầu dưới đất, nghẹn ngào làm văn, nói lời kệ: Làm người Tiên nhẫn nhục Cứ trú tại núi này Ngày sáu thời hành đạo Mà nhất thời nóng giận Vì sức của nhân duyên Nay phải làm thân rắn Thường chịu nhiều đau khổ Nếu sau khi mạng chung Được làm thân con người Con sẽ là đệ tử Theo Ngài để tu hành Những lời Ngài đọc tụng Con luôn đọc tụng Vì vậy bây giờ con Cảm thấy rất hổ thẹn. Nói lời kệ này xong lập tức mạng chung, về sau được làm thân người làm đệ tử của Ta. Bấy giờ, lời phát nguyện cũng hỗ tương hệ thuộc. Nghóa là Ta phát lời nguyện như vầy: Nếu Ta chứng được Đạo Vô thượng, sẽ tuyên thuyết chín mươi Lạc xoa giới thiệu rộng về khế kinh, làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh. Tuyên thuyết Lạc xoa, giới thiệu tóm lược về khế kinh, làm lợi ích an vui cho toàn bộ chúng sanh. Tức là đệ tử của Ta, phát lời nguyện như vầy: Sau khi Thầy diệt độ, con sẽ tạo chín mươi bộ giới thiệu rộng về Ưu Bà Tát Đề Da, làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh. Tạo mười bộ, giới thiệu tóm lược về Ưu Bà Tát Đề Da, làm lợi ích an vui cho toàn bộ chúng sanh. Vì nhân duyên này, nay Ta tuyên thuyết các khế kinh cùng một vị. Vì nhân duyên này, nên sau khi Ta diệt độ, đệ tử của Ta hiện tạo tác luận bàn về giáo pháp”. Đã nói về phần Nhân duyên, tiếp theo nói về phần Lập nghóa. Danh tự pháp môn trong phần Lập nghóa, số đó có bao nhiêu và tướng đó là thế nào? Tụng nói: Có ba mươi ba loại Mười sáu pháp đối tượng hội nhập Mười sáu môn chủ thể hội nhập Và không hai riêng khác. Luận giải thích: Danh số, pháp môn trong phần Lập nghóa, tổng quát có ba mươi ba loại sai biệt. Những gì là ba mươi ba loại sai biệt? Đó là mười sáu pháp căn bản là đối tượng hội nhập và mười sáu môn là chủ thể hội nhập cùng Ma-ha-diễn không hai, tất cả đều sai biệt. Tại sao Ma-ha-diễn trở thành mười sáu loại? Vì trong Ma-ha-diễn căn bản đã chia ra tám loại. Trong ba nghóa lớn của pháp giới nhất tâm đều chia ra hai loại. Tại sao môn chủ thể hội nhập trở thành mười sáu loại? Vì pháp giới Nhất tâm và ba nghóa lớn đều có hai loại, hoặc đều chia ra hai loại môn. Đây gọi là số vốn có. Đã nói về Pháp số, tiếp theo sẽ giải thích riêng. Bổn Luận nói: Ma-ha-diễn là tổng, nêu bày có hai loại. Thế nào là hai loại? Đó là: 1.Pháp. 2.Nghóa. Nói là pháp nghóa là tâm chúng sanh. Tâm ấy thâu gồm tất cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian, dựa vào tâm này hiển bày rõ nghóa lý của Đại thừa (Ma-ha-diễn). Tại sao? Vì tâm này là tướng chân như, do đó bày tỏ thể của Đại thừa. Do tâm này là tướng nhân duyên sanh diệt, nên có thể bày tỏ tướng dụng nơi tự thể của Đại thừa. Nói về nghóa có ba loại. Thế nào là ba loại? Đó là: Thể lớn, là tất cả các pháp đều một chân như bình đẳng không thêm không bớt. Tướng lớn, là Như Lai tạng đầy đủ vô lượng pháp tánh công đức. Dụng lớn, là có năng lực phát sanh tất cả mọi nhân quả thiện của thế gian và xuất thế gian, là đối tượng hành hóa gốc của tất cả chư Phật, tất cả Bồ-tát đều nhờ vào pháp này mà đến được địa Như Lai. Luận giải thích: Trong văn này có ba phần. Thế nào là ba phần? Đó là: Phần tổng thể căn bản của đối tượng hội nhập. Phần biệt tướng của chủ thể nương tựa hướng nhập. Phần thông suốt phép tắc bất động. Hai chủng loại đầu có hai lớp của chủng loại đó, là trú vào tư duy, thuận theo quán xét. Ma-ha-diễn là tổng, tức là phần tổng thể căn bản của đối tượng hội nhập, chính là trong Ma-ha-diễn căn bản có tám loại sai biệt. Thế nào là tám loại? Đó là: Ma-ha-diễn là một thể một tâm. Ma-ha-diễn có ba phần từ một tâm. Ma-ha-diễn có vô lượng vô biên các pháp sai biệt là thể lớn không thêm không bớt. Ma-ha-diễn vắng lặng không tạp loạn chỉ một vị bình đẳng là thể lớn không thêm không bớt. Như Lai tạng gồm đủ công đức là tướng lớn của Ma-ha-diễn. Đầy đủ tánh công đức là tướng lớn của Ma-ha-diễn. Có năng lực phát sanh tất cả nhân quả thế gian là dụng lớn của Ma-ha-diễn. Có năng lực phát sanh tất cả nhân quả tốt đẹp xuất thế gian là dụng lớn của Ma-ha-diễn. Đây gọi là tám loại. Tám loại pháp Ma-ha-diễn như vậy, đều từ chủ thể hội nhập mà kiến lập tên gọi. Nghóa là dùng một thể một tâm làm môn cho pháp Ma-ha-diễn hướng nhập, nên gọi là Ma-ha-diễn một thể một tâm. Cho đến dùng năng lực phát sanh tất cả nhân quả thiện xuất thế gian làm dụng lớn, trở thành môn đã hướng nhập, gọi là có thể phát sanh tất cả nhân quả tốt đẹp xuất thế gian là dụng lớn của Ma- ha-diễn. Ví như Chuyển luân Thánh vương, nghóa là như Luân Vương thuận theo tướng luân (vòng xe) của mình mà kiến lập tên gọi, pháp Ma-ha-diễn cũng lại như vậy, thuận theo tướng môn mà kiến lập tên gọi. Trong kinh Đại Giác giải thích như vầy: “Đức Phật nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Hãy lắng nghe kỹ và cố gắng tư duy, nhớ đến điều ấy! Ta sẽ vì ông phân biệt giải thích, mở ra tám loại thân pháp. Như thế nào là tám loại? Đó là: Thân pháp hướng nhập một thể. Thân pháp cả ba tự hướng nhập. Thân pháp hướng nhập thể lớn của các pháp sai biệt không tăng không giảm. Thân pháp hướng nhập thể lớn của một tướng thuần tịnh, không xen tạp, không tăng giảm . Thân pháp hướng nhập tướng lớn của Như Lai tạng gồm đủ công đức được hiển bày rõ. Thân pháp hướng nhập tướng lớn của tánh công đức viên mãn được hiển bày rõ. Thân pháp hướng nhập dụng lớn xuất sanh nhân quả thế gian tự tại vô ngại. Thân pháp hướng nhập dụng lớn, xuất sanh nhân quả vi diệu xuất thế gian tu tập vô ngại. Đây gọi là tám loại, cho đến nói rộng”. Bồ-tát Mã Minh đích thực thâu tóm văn ấy, vì vậy giải thích Ma- ha-diễn là Tổng. Tổng nói đến trong này, là Tổng thể ở trong hai xứ, nghóa là hướng lên trên và xuống dưới. Trong Luận Đại Tổng Địa chia ra tám mươi môn, giải thích riêng về pháp Ma-ha-diễn căn bản, nay tất cả thâu tóm mười thành một loại, nên chỉ thiết lập tám pháp. Do nơi nghóa nào mà có tám loại nên biết? Biệt tướng của chủ thể hội nhập có tám loại. Tổng thể của đối tượng được hội nhập có tám loại nên biết. Tướng pháp của tám thứ chủ thể hội nhập, đối tượng được hội nhập, hơn kém, rộng hẹp, tướng đó thế nào? Tụng nói: Bình đẳng, một bình đẳng Đều không có sai khác Vì thâu tóm các pháp Cuối cùng không tạp loạn. Luận giải thích: Như vậy, mười sáu pháp tướng của chủ thể hội nhập và đối tượng được hội nhập, đầy khắp mọi nơi, hoàn toàn bình đẳng, một vị, một tướng đều không sai biệt. Vì sao? Vì thâu tóm các pháp hoàn toàn rốt ráo. Nếu như vậy thì gốc, ngọn cùng với chung, riêng, tất cả đều trộn lẫn trở thành tạp loạn chăng? Cuối cùng gốc, ngọn ấy không tạp loạn, môn riêng chung ấy trước sau chẳng phải là không có, nhưng mỗi mỗi thảy đều bằng nhau về lượng, nên nói là bình đẳng, không phải cho là một pháp nên gọi là bình đẳng. Đã nói về lớp thứ nhất. Trong bốn loại pháp thuộc lớp thứ hai đều có đủ ba môn. Thế nào là ba môn? Đó là: Môn quyết định pháp căn bản đã dựa vào. Phần giới hạn thích hợp căn bản đã thâu tóm các pháp nơi ngọn. Phần kiến lập hai loại Ma-ha-diễn. Đã nói pháp nghóa là tâm chúng sanh, tức là phần quyết định pháp căn bản đã dựa vào. Nay cần dựa vào tụng chính về Tổng trì để giải thích rõ. Tướng ấy như thế nào? Tụng nói: Chúng nghóa là bốn chúng Sanh là bốn loại sanh Là một pháp giới tạng Khắp nơi tám xứ kia. Luận nói: Chúng có bốn loại. Thế nào là bốn loại? Đó là: Tất cả chúng Như Lai. Tất cả chúng Bồ-tát. Tất cả chúng Thanh văn. Tất cả chúng Duyên giác. Đây gọi là bốn chúng. Sanh có bốn loại. Thế nào là bốn loại? Đó là: Noãn sanh. Thai sanh. Thấp sanh. Hóa sanh. Đây gọi là bốn sanh. Quá số đếm nên gọi là chúng, thọ sanh nên là sanh, là tâm của một pháp giới. Trong tám xứ kia đầy đủ trọn vẹn cùng khắp, không thể phân tích, không thể chia lìa, chỉ là một thể, chỉ là một tướng. Vì bốn loại chúng thâu gồm hết thảy các Thánh, vì bốn loại sanh thâu tóm tất cả các phàm, Luận sư Mã Minh vì biểu hiện một tâm rộng lớn đầy đủ trọn vẹn, gọi là chúng sanh. Trong kinh Thuận Lý giải thích như vầy: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn phóng ra luồng ánh sáng lớn, biểu hiện thần lực xong, bảo với Phật tử: Hãy lắng nghe kỹ và cố gắng tư duy, nhớ đến điều ấy! Ta sẽ vì các ông phân biệt giải thích về một pháp giới tạng. Này người thiện nam! Một pháp giới tạng nghóa là khắp nơi các chúng Như Lai, các chúng Bồ-tát, các chúng Thanh văn, các chúng Duyên giác và các phàm phu, không nơi nào không thông suốt, không nơi nào không đến được, không nơi nào không ứng hợp, vì vậy gọi là một pháp giới tạng”. Nay thâu tóm văn này nên gọi là chúng sanh. Trong sáu vạn kệ tụng trong Luận Bổn Tạng của Bồ-tát Mã Minh, đã chia ra mười loại môn giải thích riêng giảng rộng. Nay lược thâu tóm nên chỉ nói là chúng sanh. Đã nói về Phần quyết định pháp căn bản dựa vào. Tâm này tức thâu tóm tất cả các pháp thế gian và pháp xuất thế gian, đó chính là phần giới hạn thích hợp của căn bản thâu tóm pháp chi mạt. Tướng đó như thế nào? Tụng nói: Là tâm một pháp giới Thâu chung hai loại môn Thâu tóm thế - xuất thế Tạo pháp giới là pháp. Luận giải thích: Một tâm pháp giới thâu tóm chung tất cả pháp môn sanh diệt, vì vậy gọi là thâu tóm pháp thế gian. Thâu gồm chung tất cả các pháp thuộc về môn Chân như, vì vậy gọi là thâu tóm pháp xuất thế gian, đều làm thành pháp giới nên gọi là pháp. Trong Kinh Tự thể giải thích như vầy: “Quảng Đại Thần Vương tức thâu gồm tất cả các loại vô minh, tất cả các loại pháp nhiễm, tất cả các loại phẩm pháp thanh tịnh. Lại thâu tóm tất cả các pháp thanh tịnh, tất cả các pháp vô ngại, tất cả pháp giải thoát, tất cả pháp lìa dứt, tất cả pháp đầy đủ, tất cả các pháp vắng lặng. Nhưng Quảng Đại Thần Vương không phải là pháp thế gian, không phải là pháp xuất thế gian”. Nay thâu tóm văn này nên gọi là gồm thâu. Trong tám vạn kệ tụng nơi Luận Quy Tông của Bồ-tát Mã Minh, đã chia ra hai mươi môn và giải thích tường tận, trong đây chỉ tóm lược nên như vậy. Đã nói về phần giới hạn thích hợp của căn bản thâu tóm những pháp chi mạt. Dựa vào tâm này biểu hiện rõ về những nghóa lý của Ma- ha-diễn, chính là phần kiến lập hai loại Ma-ha-diễn. Tướng đó như thế nào? Tụng nói: Nêu chung hai thứ môn Nói dựa vào tâm này Nêu chung hai pháp gốc Chỉ rõ Ma-ha-diễn. Luận giải thích: Tổng quát nêu lên hai loại chủ thể hội nhập, nên nói là căn cứ vào tâm này. Tổng quát nêu lên hai loại pháp của đối tượng được hội nhập, nên nói là biểu hiện rõ nghóa lý của Ma-ha-diễn. Sao nói là hai môn? Đó là: Môn tâm Chân như. Môn tâm sanh diệt. Sao nói là hai pháp gốc? Đó là: Ma-ha-diễn của một thể. Ma-ha-diễn của tự thể - tự tướng - tự dụng. Như vậy, hai loại pháp căn bản của đối tượng hội nhập, hoặc thuận theo chủ thể hội nhập mà kiến lập tên gọi, nghóa là dùng thể chân như làm môn của Ma-ha-diễn hướng về hội nhập, nên gọi là thể. Dùng tự tướng nơi tâm của Bổn giác làm môn của Ma-ha-diễn hướng về hội nhập, nên gọi là tự. Vì môn chủ thể hội nhập có hai loại riêng, nên pháp căn bản của đối tượng hội nhập có hai loại cần biết. “Tại sao”: chính là lời thỉnh cầu thưa hỏi, nghóa là do nghóa gì mà trong câu “Dựa vào tâm này” có đủ hai loại môn. Trong câu “Biểu hiện rõ ng- hóa của Ma-ha-diễn” có đủ hai loại pháp căn bản? Đáp: Thiết lập một tâm pháp giới thuộc môn Chân như, chính là biểu hiện rõ một Thể của pháp Ma-ha-diễn. Thiết lập một tâm pháp giới thuộc môn sanh diệt, có thể nêu rõ tự thể - tự tướng - tự dụng nơi pháp Ma-ha-diễn. Vì nghóa này, nên biết đều có đủ hai môn và hai pháp. Trong Kinh Đại Giác giải thích như vầy: “Lại nữa, này Văn-thù- sư-lợi! Có hai loại pháp rất sâu xa vi diệu không thể nghó bàn. Như thế nào là hai pháp? Đó là: Ma-ha-diễn của thể tướng bình đẳng. Ma-ha-diễn của tự tướng tự nhiên. Nếu muốn chứng đắc hai loại pháp này, nên thực hành hai môn. Như thế nào là hai môn? Đó là: Không đoạn - không buộc. Có đoạn - có buộc. Cho đến nói rộng”. Nay thâu tóm văn này thực hiện giải thích như vậy. Trong Luận Đại Tổng Địa chia ra tám loại môn, giải thích rộng và rõ. Đã nói về phần kiến lập hai loại môn Ma- ha-diễn. Trong nghóa của ba đại đều lược bớt hai môn đầu và thiết lập một môn sau. Bồ-tát Mã Minh căn bản hướng về ý lạc, đưa phần sau thâu tóm phần đầu, phần giữa nên như vậy. Lại nữa, so với thứ tự tiếp theo biểu hiện rõ tất cả. Vì tụng hai nghóa trên vốn chuyển dẫn tương ưng đưa đến nghóa này. Thể lớn, là nêu tổng quát hai loại pháp căn bản của đối tượng hội nhập. Sao nói là hai loại? Một là vô lượng vô biên các pháp sai biệt, nhưng Ma-ha-diễn không thêm không bớt. Hai là Ma-ha-diễn vắng lặng không tạp loạn, chỉ một vị bình đẳng, không thêm không bớt. Nghóa là tất cả các pháp Chân như bình đẳng không thêm không bớt, là nêu tổng quát hai loại môn riêng của chủ thể hội nhập. Sao nói là hai loại? Nghóa là như tên gọi của pháp căn bản, môn chủ thể hội nhập cũng như vậy. Tướng lớn, là nêu tổng quát hai loại pháp căn bản của đối tượng hội nhập. Sao nói là hai loại? Một là Ma-ha-diễn của Như Lai tạng có đủ công đức. Hai là Ma-ha-diễn đầy đủ tánh công đức. Nói Như Lai tạng đầy đủ vô lượng tánh công đức, là nêu tổng quát hai loại biệt tướng của chủ thể hội nhập. Sao nói là hai loại? Đó là như tên gọi của pháp căn bản, môn cũng như vậy. Dụng lớn , là nêu tổng quát hai loại pháp căn bản của đối tượng được hội nhập. Sao nói là hai loại? Một là Ma-ha-diễn có năng lực phát sanh tất cả nhân quả thế gian. Hai là Ma-ha-diễn có năng lực phát sanh tất cả nhân quả tốt đẹp của xuất thế gian. Nói Ma-ha-diễn có năng lực phát sanh tất cả nhân quả tốt đẹp của thế gian và xuất thế gian, là nêu tổng quát hai loại môn riêng biệt của chủ thể hội nhập. Sao nói là hai loại? Đó là như tên gọi của pháp căn bản, môn cũng vậy. Ba loại nghóa về lớn phân riêng từng phần để giải thích, như trong phẩm Bổn Địa của Luận Tổng Địa đã giải thích rõ. Tại sao pháp Ma-ha-diễn bất nhị không có nhân duyên? Vì là pháp hết sức vi diệu, sâu xa, là tôn kính bậc nhất, xa rời mọi căn cơ. Vì sao xa rời mọi căn cơ? Vì không có căn cơ, đâu cần phải kiến lập hay không kiến lập. Pháp Ma-ha-diễn này là pháp của chư Phật đạt được chăng? Có năng lực đối với chư Phật, nên chư Phật đạt được hay không? Bồ-tát, Nhị thừa và tất cả phàm phu cũng lại như vậy. Đại dương của tánh đức đầy đủ trọn vẹn là thế. Vì sao? Vì xa rời căn cơ, xa rời giáo thuyết. Do đâu tám loại pháp căn bản bắt đầu từ nhân duyên? Vì ứng với cơ, thuận theo giáo thuyết. Vì sao ứng với cơ? Vì có căn cơ. Như vậy, tám loại pháp căn bản, chư Phật đã đạt được chăng? Chư Phật đã đạt được, đạt được đối với chư Phật hay không? Bồ-tát, Nhị thừa và tất cả phàm phu cũng lại như vậy. Tu hành gieo trồng biển nhân là thế. Vì sao? Vì có căn cơ, vì có giáo thuyết. Tại sao pháp Ma-ha-diễn dựa vào môn Chân như để hướng vào mà chỉ lập tên gọi “Thể”? Tại sao dựa vào môn Chân như để hướng nhập mà pháp Ma-ha-diễn chỉ thiết lập tên gọi của tự mình? Do trong môn Chân như không có tướng khác biểu hiện, trong môn sanh diệt có tướng khác biểu hiện. Tướng khác, nghóa là tất cả các loại pháp thuộc phẩm bất thiện. Tự, nghóa là tất cả các loại pháp thuộc phẩm thanh tịnh. Nếu đối tượng được đối trị không có tướng khác, thì chủ thể đối trị tự nó không có, vì vậy chỉ nói là thể không nói tự. Nếu như đối tượng được đối trị có tướng khác, thì chủ thể đối trị tự nó cũng có, nên gọi là tự không chỉ là thể. Lại nữa, vì muốn biểu hiện rõ thể của một pháp giới là bình đẳng, bình đẳng không có riêng tư của mình, vô lượng tánh đức tự nhiên vốn có, không phải đạt được nhờ năng lực nào khác. Hơn nữa, tùy nghi an lập, vì không có gì là cố định. Tại sao trong phần giải thích riêng về môn, một tâm biệt lập làm thành một, mà ba lớn hợp chung thành một, nhưng giống nhau, đều giải thích về hai loại Ma-ha-diễn? Nghóa về ba lớn phù hợp, mới thuận theo có thể giải thích về hai loại Ma-ha-diễn. Tên gọi của nghóa về lớn chung nơi ba loại, nên hợp làm một nghóa, không có ý hướng gì khác. Nay đã chia ra rõ mười sáu pháp môn, hơn kém, rộng hẹp. Tướng đó thế nào? Tụng nói: Bình đẳng, một bình đẳng Đều không có sai khác Vì thâu tóm các pháp Cuối cùng không tạp loạn. Luận giải thích: Mười sáu pháp môn của chủ thể hội nhập và đối tượng được hội nhập, đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn bình đẳng, hiện bày đủ khắp pháp giới không có sai biệt. Vì sao? Vì đều thâu tóm tất cả các pháp rốt ráo trọn vẹn, nhưng hoàn toàn không xen tạp giữa gốc và ngọn-chủ thể và đối tượng. Đã nói về hai môn tổng - biệt, là đối tượng hành hóa căn bản của hết thảy chư Phật, tất cả Bồ-tát đều nhờ vào pháp này mà đến được địa Như Lai, chính là môn thông suốt phép tắc bất động. Nghóa là số chư Phật đời quá khứ nhiều như vi trần, số chư Phật đời hiện tại nhiều như vi trần, số chư Phật đời vị lai nhiều như vi trần, thảy đều nhờ vào ba mươi hai loại này, an lập phương tiện rất sâu xa, đến được địa thanh tịnh vô thượng. Tất cả Bồ-tát trong ba đời khắp mười phương cũng lại như vậy. Bồ-tát nói đến trong này là chọn lấy chung tất cả chúng sanh trong ba Tụ. Vì sao? Vì không có một chúng sanh nào mà không thông đạt được địa Như Lai.  LUẬN THÍCH MA HA DIỄN <卷>QUYỂN 2 Đã nói về phần lập nghóa, tiếp theo nói về phần giải thích. Danh tự, pháp môn trong phần giải thích, số lượng đó có bao nhiêu, tướng ấy thế nào? Tụng nói: Chỉ có bốn loại pháp Hai mươi chín môn khác Tóm lược không giải thích Trong chín luận đã nêu. Luận giải thích: Trong phần giải thích, chỉ giải thích về bốn pháp. Những pháp môn còn lại tóm lược mà không giải thích riêng biệt. Thế nào là bốn pháp? Đó là: Ma-ha-diễn nhất thể. Ma-ha-diễn tam tự. Môn Chân như. Môn sanh diệt. Tại sao những pháp còn lại đã lược bớt không giải thích riêng? Vì trong chín luận như Luận Nhất Tâm Biến Mãn đã giải thích. Nói Nhất tâm biến mãn trong Luận ấy chỉ giải thích bốn pháp, các pháp môn còn lại thì tóm lược, không giải thích riêng. Thế nào là bốn pháp? Đó là: Ma-ha-diễn của một thể một tâm. Ma-ha-diễn của ba tự thể một tâm. Môn một thể một tâm. Môn ba tự thể một tâm. Trong Luận Dung Tục Quy Chân chỉ giải thích bốn pháp, những pháp môn còn lại lược bớt, không giải thích riêng. Thế nào là bốn pháp? Đó là: Ma-ha-diễn của thể đại là vô lượng vô biên các pháp sai biệt không thêm không bớt. Ma-ha-diễn của thể đại là các pháp tịch tónh không tạp lẫn, một vị bình đẳng không tăng, không giảm. Môn của thể đại là các pháp sai biệt không thêm không bớt. Môn của thể đại là các pháp một vị bình đẳng không thêm không bớt. Trong Luận Pháp Giới Trung Tạng chỉ giải thích bốn pháp, những pháp môn còn lại thì lược bớt, không giải thích riêng. Thế nào là bốn pháp? Đó là: Như Lai tạng gồm đủ công đức là tướng đại của Ma-ha-diễn. Có đầy đủ tánh công đức là tướng đại của Ma-ha-diễn. Như Lai tạng gồm đủ công đức là tướng đại của môn. Có đầy đủ tánh công đức là tướng đại của môn. Trong Luận Bí Mật Vi Diệu chỉ giải thích bốn pháp, những pháp môn còn lại thì lược bớt mà không giải thích riêng. Thế nào là bốn pháp? Đó là: Có năng lực phát sanh tất cả nhân quả tốt đẹp của thế gian là dụng lớn của Ma-ha-diễn. Có năng lực phát sanh tất cả nhân quả tốt đẹp của xuất thế gian là dụng lớn của Ma-ha-diễn. Nhân quả tốt đẹp của thế gian là dụng lớn của môn. Nhân quả tốt đẹp của xuất thế gian là dụng lớn của Môn. Trong Luận Chúng Mạng Hợp Nhất chỉ giải thích bốn pháp, những pháp môn còn lại thì lược bớt mà không giải thích riêng. Thế nào là bốn pháp? Đó là: Vô lượng vô biên các pháp sai biệt không thêm không bớt là Ma-ha-diễn. Tịch tónh không tạp loạn chỉ một vị bình đẳng không thêm không bớt là Ma-ha-diễn. Các pháp sai biệt không thêm không bớt là môn. Một vị bình đẳng không thêm không bớt là môn. Trong Luận Tam Muội Chân Chư chỉ giải thích bốn pháp, những pháp môn còn lại đã lược bớt mà không giải thích riêng. Thế nào là bốn pháp? Đó là: Ma-ha-diễn của Như Lai tạng gồm đủ công đức. Ma-ha-diễn có đầy đủ tánh công đức. Môn Như Lai tạng có đủ công đức. Môn có đầy đủ tánh công đức. Trong Luận Tâm Tánh Thanh Tịnh chỉ giải thích bốn pháp, những pháp môn còn lại thì lược bớt mà không giải thích riêng. Thế nào là bốn pháp? Đó là: Ma-ha-diễn có năng lực phát sanh tất cả nhân quả thế gian. Ma-ha-diễn có năng lực phát sanh tất cả nhân quả tốt đẹp của xuất thế gian. Môn nhân quả thế gian. Môn nhân quả tốt đẹp của xuất thế gian. Trong hai loại Luận Bất Động Bổn Nguyên và Thậm Thâm Huyền Lý chỉ giải thích một pháp, những pháp môn còn lại đã lược bớt, không giải thích riêng. Thế nào là một pháp? Đó gọi là pháp Ma-ha-diễn bất nhị, giải thích rộng ra hay giải thích sơ lược đều khác nhau. Tại sao trong các luận kiến lập môn pháp đều nêu đủ số lượng vốn có, còn trong phần giảng giải rộng về môn đều thiếu đi số lượng đó? Vì muốn biểu hiện rõ pháp thể không phân chia nghóa lý mà môn loại có thể sai khác. Hơn nữa, vì muốn làm cho người học nâng cao năng lực tư duy. Lại nữa, vì nhằm khiến mở bày rõ giáo lý sâu xa và hết sức cao rộng, xuất sanh tâm ca ngợi, tôn trọng. Vả lại, vì muốn biểu hiện rõ pháp môn rộng lớn như hư không, nghóa lý vô cùng vô tận như đại dương trong suốt diệu kỳ, nói năng giảng giải không thể bàn luận hết, tư duy cũng không biết được số lượng đó ra sao. Đã nói về phần số lượng căn bản, tiếp theo sẽ giải thích riêng. Bổn Luận nói: Giải thích có ba loại. Sao nói là ba loại? Đó là: Biểu hiện rõ về nghóa chánh yếu. Đối trị những chấp tà. Phân biệt tướng phát khởi tướng hướng về đạo. Luận giải thích: Ba môn như vậy giải thích số lượng môn lớn của bốn pháp. Bổn Luận nói: Biểu hiện rõ về nghóa chánh yếu, là dựa vào một tâm pháp có hai loại môn. Sao nói là hai loại? Đó là: Môn tâm Chân như. Môn tâm sanh diệt. Hai loại môn này mỗi môn đều thâu tóm tổng quát tất cả các pháp. Nghóa này nói gì? Vì hai môn này không tách rời nhau. Luận giải thích: Chính là phần giải thích tóm lược, trong này có ba môn. Thế nào là ba môn? Đó là: Phần kiến lập bốn loại pháp tướng. Phần pháp môn thâu tóm đầy đủ trọn vẹn. là: Phần phát khởi hỏi, đáp để làm rõ nhân. Dựa vào một tâm pháp có hai loại môn. Sao nói là hai loại? Đó Môn tâm Chân như. Môn tâm sanh diệt, tức là phần kiến lập bốn loại pháp tướng. Tên gọi về hai pháp - hai môn có sai biệt, số lượng đó có bao nhiêu, tướng đó thế nào? Tụng nói: Đều có mười loại tên Khế kinh nói khác nhau Nhưng không có Thể khác Thuận theo thể lập tên. Luận giải thích: Hai pháp - hai môn đều có mười tên gọi, trong các khế kinh phân biệt giải thích khác nhau, nhưng thể của pháp ấy không có sai biệt, tùy theo công năng kia mà lập tên gọi của nó. Mười tên gọi của hai loại pháp căn bản là thế nào? Tụng nói: Tỳ Ma Ha Kiện Na Ma Ha Cưu Thi Đế, Ma Thi Đà Na La Ma Ca La Câu Xá, Tất Tát Y Ni La Bà Già Bà Câu Xá, Tất Đạt Ma Biên Na Hoặc gọi Ma-ha-diễn, Bà Già Xoa La Bà Tất A Tố Ma Lợi. Mười tên gọi như vậy Chung hai loại pháp gốc. Luận giải thích: Hai loại pháp căn bản đều có mười tên gọi. Tên gọi thì chung mà nghóa khác nhau. Sao nói là mười tên gọi? Đó là: Gọi là Quảng Đại Thần Vương. Trong này có hai tên gọi. Thế nào là hai? Một là Cưu Na Da Thần Vương. Hai là Già Tỳ Khư La Thần Vương. Thần Vương thứ nhất ở núi Kim Cang, luôn chỉ sanh ra các loại thần an lành. Thần Vương thứ hai ở trong biển lớn, nối thông khắp nơi, sanh ra tất cả các loại thần chúng an lành và thần chúng tai họa. Quảng Đại Thần Vương của hai loại pháp căn bản cũng lại như vậy. Một là Thể pháp căn bản, hoàn toàn sanh ra pháp Chân như thanh tịnh. Hai là ba tự pháp căn bản, nối thông khắp nơi sanh ra tất cả các loại phẩm pháp thanh tịnh và phẩm pháp nhiễm ô. Trong Kinh Tự Thể giảng giải như vầy: “Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến trước Đức Phật thưa: Thưa Thế Tôn! Hai loại Đại thừa rất sâu xa và hết sức vi diệu, tâm mọi người không biết, không hiểu là đồng nhất hay biệt dị, nên nghi ngờ vô cùng, nếu như thích hợp thì thỉnh cầu Đức Thế Tôn giảng giải lại cho mọi người! Đức Phật thị hiện sắc tướng nói Bồ-tát Văn-thù: Này người thiện nam! Hai pháp như vậy: ví như Kim Cang Thần Vương và Chủ Hải Thần Vương, tướng của họ đều sai khác”. Nghóa là như Kim Cang Thần Vương ở núi Kim Cang, hiện ra các cảnh giới, chỉ hiện rõ ánh sáng vàng chói, không hiện ra ánh sáng nào khác. Kim Cang Thần Vương của Chân như nhất tâm cũng lại như vậy, chỉ có pháp tịnh, không có pháp nào khác. Lại như Kim Cang Thần Vương chỉ sanh ra quyến thuộc thanh tịnh, luôn không sanh ra quyến thuộc tạp loạn. Chân như nhất tâm cũng lại như vậy, chỉ sanh ra pháp thanh tịnh vô cấu. Lại nữa, ví như Chủ Hải Thần Vương ở trong biển lớn, sanh ra các loại quyến thuộc xấu dữ và các loại quyến thuộc thiện diệu. Chủ Hải Thần Vương của một tâm sanh diệt cũng lại như vậy, sanh ra tất cả các pháp thanh tịnh và nhiễm ô. Gọi là Đại Hư Không Vương. Ở đây có hai tên gọi. Thế nào là hai? Một là Không Tự Tại Không Vương. Hai là Sắc Tự Tại Không Vương. Không Vương thứ nhất lấy không dung nạp tiếp nhận trở thành tự tại. Không Vương thứ hai lấy sắc dung nạp tiếp nhận trở thành tự tại. Hai loại pháp căn bản cũng lại như vậy, Không Vương một thể lấy xứ Vô trú để tự tại, Không Vương ba Tự lấy xứ Hữu trú để thành tự tại. Trong Kinh Kim Cang Tam Muội giải thích như vầy: “Nhất tâm như pháp, lý tự thể rỗng lặng không có gì, như Không Vương kia vốn không có trú xứ”. Trong kinh Nhất Địa giải thích như vầy: “Nhất tâm pháp thể, đối với các chướng ngại, không có chướng ngại, khiến trú vào các pháp, ví như Không Vương đối với tất cả các sắc, được tự tại nên dung nạp tiếp nhận đại chủng”. Gọi là Xuất Sanh Long Vương. Trong này có hai tên gọi. Thế nào là hai? Một là Xuất Sanh Quang Minh Long Vương. Hai là Xuất Sanh Phong Thủy Long Vương. Long Vương thứ nhất dùng ánh sáng thanh tịnh làm nơi nương dựa. Long Vương thứ hai dùng đức của gió và nước làm nơi nương dựa. Hai loại pháp căn bản Xuất Sanh Long Vương cũng lại như vậy. Một thể pháp căn bản lấy pháp thuần tịnh làm thể của mình. Ba Tự pháp căn bản lấy pháp nhiễm và tịnh làm đức của mình. Trong kinh Thuận Lý giải thích như vầy: “Pháp căn bản nhất tâm thuần nhất không có xen tạp, ví như Quang Minh Long Vương lấy ánh sáng thanh tịnh làm cung điện, lấy ánh sáng thanh tịnh làm tướng thân mình, lấy ánh sáng thanh tịnh để làm đồ chúng”. Trong kinh Vô Thỉ giải thích như vầy: “Ví như trong biển lớn có Đại Long Vương, tên là Xuất Sanh Phong Thủy, từ trên đỉnh đầu của Long Vương đó sanh ra nước trong veo, từ cuối phần đuôi của Long Vương sanh ra ngọn gió mịt mù, do Long Vương này nên gió nước trong biển lớn luôn nối tiếp nhau không lúc nào ngừng lại. Long Vương của Nhất Tâm cũng lại như vậy, có năng lực sanh ra tất cả các pháp sai biệt và bình đẳng, hết thảy các loại luôn nối tiếp nhau không hề có sự đoạn tuyệt”. Gọi là Như Ý Châu Tạng. Trong này có hai tên gọi. Thế nào là hai? Một là Kim Vương Như Ý. Hai là Mãn Chủ Như Ý. Như Ý thứ nhất chỉ sanh ra kim cang, Như Ý thứ hai sanh ra đầy đủ các vật tốt đẹp và xấu xí. Hai loại pháp căn bản cũng lại như vậy. Như Ý của một Thể chỉ sanh ra pháp thanh tịnh. Như Ý của ba Tự sanh ra tất cả các pháp nhiễm và tịnh. Trong kinh Như Như giải thích như vầy: “Đức Phật nói với Bồ- tát Kim Cang Tạng: Này Phật Tử! Ví như Chim cánh vàng chúa mạng chung, sau đó tim của nó rơi vào biển thành ngọc báu như ý, có năng lực phát sanh cát vàng lợi ích cho Long Vương. Pháp căn bản nhất tâm cũng lại như vậy, có năng lực phát sanh chân lý làm lợi ích đầy đủ và trọn vẹn”. Vì vậy trong kinh Bổn Tánh Trí giải thích như vầy: “Ví như loài quỷ Già Đa Lợi, vì báo ân nên suốt một vạn kiếp, làm ngọc châu như ý tạo lợi ích cho chúng sanh ở biển. Như Ý của Nhất tâm cũng lại như vậy, có năng lực sanh ra và nuôi lớn pháp sanh tử cùng pháp Niết-bàn”. Gọi là Phương Đẳng. Trong này có hai tên gọi. Thế nào là hai? Một là Bạch Hào Phương Đẳng. Hai là Loạn Sắc Phương Đẳng. Trong Phương Đẳng thứ nhất chỉ hiện rõ ở trước hình tượng loài trời. Trong Phương Đẳng thứ hai hiện bày trước tất cả năm đường. Như vậy thân phận hai loại (hào) chúng sanh, biểu hiện hoàn toàn rõ ví như gương sáng. Hai loại pháp căn bản cũng lại như vậy. Trong kinh Nhiếp Vô Lượng giải thích như vầy: “Thanh tịnh pháp giới như Bạch Hào Phương Đẳng (Bạch Tất Tát Y Ni La), vô tận pháp giới như Loạn Sắc Phương Đẳng (Loạn Tất Tát Y Ni La)”. Gọi là Như Lai tạng. Ở đây có hai tên gọi. Thế nào là hai? Một là Như Lai tạng Viễn Chuyển Viễn Phược. Hai là Như Lai tạng Dữ hành, Dữ Tướng. Trong kinh Thật Tế giải thích như vầy: “Này Phật Tử! Như Lai tạng là chỉ có giác ngộ, chỉ có Như Như, xa rời nhân tố lưu chuyển, xa rời sự trói buộc của suy nghó hiểu biết, tuyệt đối trong sáng, vì vậy gọi là Như Lai tạng”. Trong kinh Lăng Già giải thích như vầy: “Như Lai tạng là nhân của thiện và bất thiện, nhận chịu quả khổ hay vui, cùng với nhân thiện, bất thiện đều có, hoặc sanh ra hoặc diệt, giống như người có pháp thuật biến hóa”. Gọi là Nhất Pháp Giới. Trong này có hai tên gọi. Thế nào là hai? Một là Nhất Pháp Giới Thuần Bạch. Hai là Nhất Pháp Giới Vô Tận. Pháp Giới thứ nhất như thời gian kiếp Không. Pháp Giới thứ hai như thời gian kiếp Trụ. Trong kinh Chân Pháp Giới giải thích như vầy: “Chủng loại hư không vô ngại giống như thời gian dài rỗng lặng, chủng loại đầy khắp vô ngại giống như thời gian dài có tồn tại”. Gọi là Ma-ha-diễn, nghóa như trước đã giải thích. Gọi là Trung Thật. Trong này có hai tên gọi. Thế nào là hai? Một là Trung Thật Đẳng Trú. Hai là Trung Thật Biệt Trú. Trung Thật thứ nhất giống như hạt minh châu riêng biệt, Trung Thật thứ hai giống như hạt minh châu thuận theo. Trong kinh Minh Trung Thật giải thích như vầy: “Xa rời các biên là chân tâm, nếu Chân như dựa vào thì như hạt minh châu dị đồng. Nếu sanh diệt dựa vào thì như hạt minh châu đồng dị”. Gọi là Nhất Tâm. Trong này có hai tên gọi. Thế nào là hai? Một là Nhất Tâm Thị Nhất Thị Nhất. Hai là Nhất Tâm Thị Nhất Thiết Thị Nhất Thiết. Nhất Tâm thứ nhất tùy theo những việc làm để thiết lập tên gọi. Nhất Tâm thứ hai tùy theo năng lực làm việc mà thiết lập tên gọi. Trong kinh Nhất Tâm Pháp giải thích như vầy: “Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất đến trước Đức Phật, thưa: Thưa Thế Tôn! Trong kinh Bổn Địa giảng giải như vầy: Thể tánh của tâm ấy chẳng lớn - chẳng nhỏ, chẳng phải pháp - chẳng phải phi pháp, chẳng giống nhau - chẳng sai khác, chẳng phải một - chẳng phải tất cả, là do nhân duyên gì? Hôm nay tự nhiên nói Chân như nhất tâm vì một nhân nên là Nhất tâm, Sanh diệt nhất tâm vì nhiều nhân nên là Nhất tâm, há không phải là Đức Thế Tôn đã trái ngược nhau không có trước sau chăng! Đức Phật dạy: Này người thiện nam! Đừng khởi ý nghó như vậy! Vì sao như thế? Vì tâm pháp chẳng phải là một, vì nhân thực hiện chỉ là một nên tạm gọi là Nhất tâm, tâm pháp chẳng phải là tất cả, vì nhân thực hiện là tất cả nên tạm gọi là tất cả tâm. Nhưng nói một tâm chứ không nói là tất cả các tâm, là tùy theo năng lực thực hiện của tâm để thiết lập tên gọi của nó, cho đến giải thích rộng”. Đây gọi là mười tên gọi. Mười tên gọi như vậy thâu tóm toàn bộ tên gọi nơi tất cả các pháp tạng căn bản của chư Phật. Đã nói về mười loại tên gọi riêng của hai pháp, tiếp theo nói về tên gọi sai biệt của hai Môn. Mười tên gọi của Chân Như, tướng đó thế nào? Tụng nói: Bà Già Bà Câu Xá Kiện Già A Đa Na Tất Bồ Đề Bà Lê Kiện Ha Kiện Bà Na A Đà A Chỉ Ni A Già A Thỉ Da ảy Độ La Nặc Bổ Đế Mạc Hô Kiện Na Địa Ma Ha Tiêu Đà Nhất Bà A Xoa Ni La Mười tên gọi như vậy Chân như không cùng xưng. Luận giải thích: Môn tâm Chân như có mười loại tên gọi. Thế nào là mười loại? Đó là: Gọi là môn Như Lai tạng, vì không hề tạp loạn. Gọi là môn Bình đẳng bất nhị, vì không có sai biệt. Gọi là môn Nhất đạo thanh tịnh, vì không có đường rẽ nào khác. Gọi là môn Bất khởi bất động, vì xa rời tác nghiệp. Gọi là môn Vô đoạn vô phược, vì không có đối trị chướng ngại. Gọi là môn Vô khứ vô lai, vì không có trên dưới. Gọi là môn Xuất thế gian, vì không có bốn tướng. Gọi là môn Tịch diệt tịch tónh, vì không có qua lại. Gọi là môn Đại tổng tướng, vì không có tướng riêng. Gọi là Môn Chân như, vì không có giả dối. Đây gọi là mười tên gọi. Mười tên gọi như vậy, thâu tóm toàn bộ tất cả danh tự - pháp môn - nghóa lý bình đẳng trong tất cả Pháp tạng của chư Phật. Mười tên gọi của môn sanh diệt, tướng đó thế nào? Tụng nói: A-lê-da Kiện Ma Bà Già Bà Câu Xá A Y Bà Na La Kiện Ha Kiện Chỉ Ni Kiện Già Kiện Thỉ Na Xoa Nhẫn Phiệt Na La La Nặc Bổ Đế Ni Xà Phược Đa Niết Bàn A Chỉ Già Na Thi Đa Bạt Đa Kiện Xá Mười tên gọi như vậy Sanh diệt không cùng nêu. Luận giải thích: Môn tâm sanh diệt có mười loại tên gọi. Thế nào là mười loại? Đó là: Gọi là môn Tạng thức, vì thâu giữ tất cả các pháp nhiễm và tịnh. Lai. Gọi là môn Như Lai tạng, vì che giữ thể của Pháp thân Như Gọi là môn Khởi động, vì liên tục tạo ra nghiệp. Gọi là môn Hữu đoạn hữu phược, vì có đối trị chướng ngại. Gọi là môn Hữu khứ hữu lai, vì có trên dưới. Gọi là môn Đa tướng phần dị, vì pháp nhiễm và tịnh nhiều vô số kể. Gọi là môn Thế gian, vì bốn tướng đều chuyển. Gọi là môn Lưu chuyển hoàn diệt, vì có đầy đủ pháp sanh tử và Niết-bàn. Gọi là Tương đãi câu thành, vì không có pháp nào tự riêng nó mà thành. Gọi là môn Sanh diệt, vì biểu lộ tướng vô thường. Đây gọi là mười loại. Mười tên gọi như vậy, thâu tóm toàn bộ các loại danh tự - pháp môn sai biệt trong tất cả các pháp tạng của chư Phật. Đã nói về mười loại tên gọi sai khác của hai Môn, tiếp theo nói về phần tướng đồng - dị. Hai loại pháp căn bản đồng - dị sai biệt, tướng đó thế nào? Tụng nói: Có ba khác - hai giống Đều nương, môn cảnh Đều khắp nơi - tên đồng Đồng tên mà nghóa khác. Luận nói: Hai loại pháp căn bản có ba khác biệt và hai giống nhau. Thế nào là ba khác biệt? Đó là: Nơi nương vào khác biệt, vì tất cả có chỗ dựa là Ma-ha-diễn. Môn khác biệt, vì đều có đủ môn chủ thể hội nhập có sai biệt. Cảnh giới khác biệt, vì đều duyên vào nơi nương tựa của chính nó làm cảnh giới. Đây gọi là ba khác biệt. Thế nào là hai giống nhau? Đó là: Khắp nơi như nhau, vì pháp giới rộng khắp cùng một số lượng. Tên gọi như nhau. Mười loại tên gọi nối thông với hai pháp. Đây gọi là hai giống nhau. Vì sao? Vì cùng chung tên gọi nhưng nghóa khác nhau. Hai loại pháp môn đồng - dị sai biệt, tướng đó thế nào? Tụng nói: Có bảy khác - một giống Người, Pháp, Nương, Thể, Hành Cảnh giới phần vị khác Tên khác, nghóa lý khác. Luận nói: Hai loại môn này có bảy khác biệt và một giống nhau. Thế nào là bảy khác biệt? Đó là: Mọi người khác nhau, vì trong môn Chân như chỉ có người giải thoát thanh tịnh. Trong môn sanh diệt có đầy đủ tất cả chúng sanh thuộc ba Tụ. Pháp môn khác nhau, vì trong môn Chân như chỉ có phẩm pháp luôn thuần khiết. Trong môn sanh diệt có đầy đủ tất cả các pháp nhiễm và tịnh. Nơi nương tựa khác nhau, vì tất cả có nơi nương tựa là Ma-ha- diễn. Thực hành pháp khác nhau, vì trong môn Chân như một tâm một niệm sanh khởi đã bị trói buộc thì không sanh khởi, xem như công hành của mình. Trong môn sanh diệt lấy sanh để diệt sanh - lấy diệt để diệt trừ diệt được xem như công hành của mình. Thể tướng khác nhau, vì môn tâm Chân như cùng với bổn tâm của mình là đồng đẳng. Môn tâm sanh diệt cùng với bổn tâm của mình là sai khác. Trong kinh Lăng Già giải thích như vầy: “Tịch diệt gọi là Nhất tâm, Nhất tâm gọi là Như Lai tạng”. Cảnh giới khác nhau, vì đều duyên với nơi nó nương tựa làm thành cảnh giới. Vị địa khác nhau, vì trong môn Chân như an trú lẫn lộn với nhau, còn trong môn sanh diệt thì an trú qua lại. Đây gọi là bảy khác biệt. Thế nào là một giống nhau? Nghóa là khắp nơi như nhau. Vì sao? Vì khác tên gọi và khác nghóa lý. Địa, vị hai môn trong các kinh nào giải thích biểu hiện rõ, tất cả có bao nhiêu địa, vị? Tụng nói: Khế kinh như Lăng Già… Chân như có một loại Môn sanh diệt có hai Vì trên dưới lẫn lộn. Luận giải thích: Địa, vị nơi hai môn trong các kinh như Lăng Già… giải thích biểu hiện rõ. Nghóa là trong kinh Đại Bổn Lăng Già giải thích như vầy: Hồi hướng tức tâm tín Tâm tín là Phật địa Địa Phật tức mười Địa Mười Địa tức phát tâm. Trong kinh Phân lưu Lăng Già giải thích như vầy: Địa thứ mười là Địa thứ nhất Địa thứ nhất là Địa thứ tám Địa thứ chín là Địa thứ bảy Địa thứ bảy là Địa thứ tám Địa thứ hai là Địa thứ ba Địa thứ tư là Địa thứ năm Địa thứ ba là Địa thứ sáu Tịch diệt phát sanh thứ tự gì? Trong kinh Chân Tu giải thích như vầy: Mẹ một tuổi một lúc Sanh con năm mươi tuổi Con trẻ năm mươi tuổi Mẹ một tuổi mang thai Một tuổi sanh năm mươi Con trai đại trượng phu Hoặc há có như vậy? Hoặc há không như vậy? Các kinh như vậy v.v… đã căn cứ vào tâm, môn Chân như kiến lập vị địa, đối với môn Chân như chỉ có địa, vị trú hoàn toàn tạp loạn không có vị địa nào khác. Do vậy tụng nói là “chỉ có loạn”. Trong các kinh khác nói đủ loại vị địa thứ tự qua lại dựa vào môn sanh diệt mà được an lập, cần phải quán sát kỹ. Đối với môn sanh diệt thì có hai loại vị địa. Thế nào là hai loại? Đó là: Môn Hướng thượng. Môn Hướng hạ. Sanh diệt và Quyết trạch, hai môn như vậy từ đây sẽ nói rõ. Môn tâm sanh diệt từ chánh trí đã chứng tánh thì lý Chân như thuộc về môn nào? Thuộc về môn sanh diệt chứ không phải là môn Chân như, vì phân giới khác biệt. Chân như trong hai môn lại có sai biệt thế nào? Lý của môn Chân như là lý từ nơi lý. Lý của môn sanh diệt là trí từ nơi lý. Vị địa của hai môn vì nghóa gì mà lý đó đều khác biệt? Vì Chân như thì không có chướng ngại còn sanh diệt thì có chướng ngại. Đưa ra một phương diện này để tùy đó quán xét thích hợp. Đã nói về phương diện kiến lập bốn loại pháp tướng, hai phương diện này (chủng môn) đều thâu tóm tổng quát trong giới hạn mỗi loại. Tất cả các pháp chính là phần pháp môn thâu tóm đầy đủ trọn vẹn. Nghóa là dùng môn Chân như thâu tóm tất cả các pháp, nên không một pháp nào không phải là Chân như. Dùng môn sanh diệt thâu tóm tất cả các pháp, vì thế không một pháp nào không phải là Sanh diệt. Nhưng môn Chân như, không thể thâu gồm tất cả các pháp trong môn sanh diệt, còn môn sanh diệt thì không thể nào thâu tóm tất cả các pháp thuộc về môn Chân như. Nhưng nói thâu tóm tổng quát tất cả các pháp, là thâu tóm tổng quát tất cả các pháp Sanh diệt, thâu gồm tổng quát tất cả các pháp Chân như. Vì sao? Vì hai Môn như vậy đều bình đẳng và có những sai biệt của mỗi Môn. Đã nói về phương diện pháp môn thâu gồm đầy đủ trọn vẹn. Nghóa ấy là thế nào? Vì hai Môn này không tách rời nhau, chính là phần phát khởi hỏi đáp để biểu hiện nhân. Nghóa là trực tiếp bày tỏ câu hỏi và trực tiếp giải thích để trả lời. Đã nói về phần giải thích tóm lược, tiếp theo nói về phần giải thích mở rộng. Bổn Luận nói: Tâm chân như chính là Thể của pháp môn nơi tổng tướng lớn của một pháp giới, nghóa là tánh của tâm bất sanh bất diệt, tất cả các pháp chỉ dựa vào niệm vọng mà có sai biệt, nếu xa rời tâm niệm thì không có tướng của tất cả cảnh giới. Vì vậy, tất cả các pháp từ xưa đến nay, xa rời tướng ngôn thuyết, xa rời tướng danh tự, xa rời tướng tâm duyên và hoàn toàn bình đẳng, không có biến đổi, không thể phá hủy, chỉ là một tâm nên gọi là Chân như. Do tất cả ngôn ngữ trình bày đều là giả danh không thật, chỉ tùy theo vọng niệm nên không thể đạt được. Nói là Chân như cũng không hề có tướng, nghóa là đạt tới tột cùng của ngôn ngữ diễn tả, dựa vào ngôn ngữ loại trừ ngôn ngữ. Thể của Chân như này không gì có thể gạt bỏ, vì tất cả các pháp đều là chân thật. Cũng không thể thiết lập, vì tất cả các pháp đều cùng là Như. Nên biết tất cả các pháp, không thể diễn tả và không thể suy nghó được, nên gọi là Chân Như. Hỏi: Nếu nghóa lý như vậy thì các loại chúng sanh làm sao tùy thuận để có thể hội nhập được? Đáp: Nếu như biết tất cả các pháp, tuy không có gì có thể nói mà lại đáng nói, tuy nghó đến cũng không có thể nghó mà có thể nghó được, thì gọi là tùy thuận. Nếu như xa rời diễn tả, suy nghó thì gọi là được hội nhập. Lại nữa, Chân như dựa vào ngôn ngữ diễn tả, phân biệt có hai loại nghóa. Thế nào là hai loại? Đó là: Như thật không, vì năng lực cứu cánh biểu hiện rõ thật. Như thật bất không, vì có tự thể đầy đủ tánh công đức vô lậu. Nói là không, là từ xưa đến nay không tương ưng với tất cả các pháp nhiễm ô, nghóa là xa rời tướng sai biệt của tất cả các pháp, vì không có tâm niệm hư vọng. Nên biết tự tánh của chân như chẳng phải có tướng, chẳng phải là không tướng, phi phi có tướng, phi phi không tướng, chẳng phải có, không cùng là tướng, chẳng phải một tướng, chẳng phải khác tướng, không chẳng phải một tướng, không chẳng phải khác tướng, chẳng phải một và khác đều là tướng, cho đến nói tổng quát, căn cứ vào tất cả chúng sanh mà có tâm vọng, niệm niệm phân biệt đều không tương ưng nên nói là không. Nếu xa rời tâm vọng thì thật sự không có gì là không. Nói là bất không, là vì đã biểu hiện thể của pháp là không mà không có vọng tưởng, chính là chân tâm thường hằng bất biến, đầy đủ các pháp thanh tịnh, gọi là bất không, cũng không có tướng nào có thể giữ lấy, vì xa rời cảnh giới phân biệt chỉ chứng đạt tương ưng. Luận giải thích: Đây chính là phần giải thích mở rộng. Trong này có ba môn. Thế nào là ba môn? Đó là: Môn thể tánh căn bản của Chân Như. Môn phát khởi vấn đáp giải quyết nghi ngờ. Môn nhờ vào diễn tả bày ra tướng Chân như. Trong môn thứ nhất có ba phần. Thế nào là ba phần? Một là phần kiến lập danh tự. Hai là phần giải thích trực tiếp Chân như. Ba là phần giải thích tên gọi. “Tâm chân như chính là thể của pháp môn nơi tổng tướng lớn của một pháp giới”. Đây tức là phần kiến lập danh tự, nghóa là tùy theo công năng mà thiết lập tên gọi. Một tâm chân như, tất cả có mười tên gọi, tại sao loại trừ những tên gọi khác, chỉ thiết lập tên gọi này? Vì tác nghiệp thích hợp, những tên gọi còn lại chắc chắn không phải như vậy nên lược bớt, không thiết lập. Nghóa này là thế nào? Vì một tâm thực hiện nghiệp lớn, pháp làm thành nghiệp tổng quát, giới tạo ra tướng ng- hiệp, nên là pháp môn, môn tức là thể, do đó nói là thể của pháp môn. Các loại biệt tướng theo như trước, nên quán xét. Đã nói về phần kiến lập danh tự. Tiếp đến nói về phần giải thích trực tiếp thể của Chân như. Nói “Tâm tánh bất sanh, bất diệt” là giải thích trực tiếp về môn Chân như, phân biệt với môn sanh diệt. Nghóa là pháp Chân như chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, không có sanh, không có diệt, chẳng phải trú, chẳng phải dị, không có trú, không có dị, không phải như pháp sanh diệt, là sanh, là diệt, có sanh, có diệt, là trú, là dị, có trú, có dị, vì tướng có và không là nguyên cớ của sai biệt. Vả lại, chẳng phải Thị nói là không thể (Bất), chẳng phải nghóa là Phi nên nói là không thể (Bất). Vì sao? Vì pháp Chân như là trăm Phi chẳng phải là Phi, ngàn Thị chẳng phải là Thị, chẳng phải Phi, chẳng phải Thị, đối với cả hai chẳng phải cũng không thể trụ. “Tất cả các pháp chỉ căn cứ vào niệm vọng mà có sai biệt”, là tạm thời mượn cái “có” kia để biểu hiện cái “không có” này. Nghóa là mượn cái Có không thật của môn sanh diệt nêu ra cái Không thật sự của môn Chân như. Nếu xa rời tâm niệm thì không có tướng của tất cả cảnh giới, nếu xa rời nhận thức của mọi hý luận thì không có tất cả các cảnh giới hư vọng. “Vì vậy tất cả các pháp từ xưa đến nay xa rời tướng ngôn thuyết, tướng danh tự, tướng tâm duyên”, là trực tiếp biểu hiện rõ tướng lìa, dứt hẳn của pháp Chân như. Ngôn thuyết - danh tự - tâm lượng, tất cả có số lượng bao nhiêu, tướng đó thế nào? Tụng nói: Ngôn thuyết có năm loại Danh tự có hai loại Tâm lượng có mười thứ Kinh nói có khác nhau. Luận nói: Ngôn thuyết có năm loại. Thế nào là năm loại? Đó là: Ngôn thuyết của tướng. Ngôn thuyết của mộng. Ngôn thuyết vọng chấp. Ngôn thuyết vô thỉ. Ngôn thuyết như nghóa. Trong kinh Lăng Già giải thích như vầy: “Này Đại Tuệ! Ngôn thuyết của tướng đó là chấp trước các tướng sắc, thanh v.v… sanh ra. Này Đại Tuệ! Ngôn thuyết của mộng là nghó đến cảnh giới hư vọng đã thọ dụng trước đây, rồi nương theo cảnh giới mộng ấy, đến khi tỉnh biết là dựa vào cảnh giới hư vọng không thật phát sanh. Này Đại Tuệ! Ngôn thuyết chấp trước là nghó đến các nghiệp đã nghe, đã làm lúc đầu mà phát sanh. Này Đại Tuệ! Ngôn thuyết vô thỉ là từ vô thỉ đến nay chấp trước hý luận, huân tập chủng tử phiền não mà phát sanh”. Trong Kinh Kim Cang Tam Muội giải thích như vầy: “Tôn giả Xá- lợi-phất thưa: Tất cả vạn pháp đều là ngôn ngữ văn tự, tướng của ngôn ngữ văn tự chính không hợp với nghóa lý, vì nghóa lý đúng như thật thì không nói năng diễn tả được. Nay Như Lai làm sao thuyết pháp? Đức Phật nói: Ta thuyết pháp là vì chúng sanh các ông đang phát sinh mà nói, nói về pháp không thể nói được, vì vậy nên nói về điều ấy. Những gì Ta nói là nói về ý nghóa chứ không phải là văn tự, chúng sanh diễn tả là nói về văn tự chứ không phải là ý nghóa. Không phải nói về ý nghóa thì đều trống rỗng chẳng có gì. Lời nói trống rỗng lặng có gì thì không nói gì đến ý nghóa, không nói đến ý nghóa thì đều là vọng ngữ”. Như nghóa ngữ ấy là thật không chẳng không, không thật chẳng thật tách rời đối với hai tướng trung gian và bất trung, pháp của bất trung tách rời đối với ba tướng, vì không thấy xứ sở và Như Như giống như thuyết. Như vậy trong năm loại ngôn thuyết, bốn loại trước vì ngôn thuyết hư vọng nên không thể bàn luận về Chân, một loại ngôn thuyết sau là ngôn thuyết đúng như thật nên được bàn luận đến Chân. Bồ-tát Mã Minh dựa vào bốn loại trước nên nói lìa tướng ngôn thuyết như vậy. Danh có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là danh của tự tự. Hai là danh của tự ảnh. Trong kinh Lăng Già giải thích như vầy: “Này Đại Tuệ! Lại nữa, danh thân nghóa là các chữ thuận theo tên gọi sai khác, từ chữ A cho đến chữ Ha gọi là danh thân”. Trong kinh Đạo Phẩm giải thích như vầy: “Trong gương diễn tả giống nhau gọi là hiển ảnh danh”. Chữ có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là chữ dựa vào âm thanh. Hai là chữ dựa vào hư không. Trong kinh Lăng Già giải thích như vầy: “Này Đại Tuệ! Hơn nữa, tự thân là thanh điệu dài ngắn, âm vận cao thấp gọi là tự thân”. Trong kinh Đại Hải giải thích như vầy: “Đức Phật nói Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Trước kia ông đã hỏi, thế nào gọi là luân tự hư không, ấy là ví như chim bay giữa hư không, lúc vượt quá ánh sáng mặt trời phát ra mười loại hòa thanh, do đó luận tự hư không nên quán tưởng như vậy”. Như thế trong hai loại thì loại đầu của mỗi loại, không thể nào giải thích bày rõ chân lý rất sâu xa, loại sau của mỗi loại có thể giải thích được chân lý ấy. Nay dựa vào loại trước mà Bồ-tát Mã Minh nói: “Lìa tướng danh tự” như vậy. Tâm lượng có mười loại. Thế nào là mười loại? Đó là: Tâm Nhãn thức. Tâm Nhó thức. Tâm Tỷ thức. Tâm Thiệt thức. Tâm Thân thức. Tâm Ý thức. Tâm Mạt na thức. Tâm A-lê-da thức. Tâm Đa nhất thức. Tâm Nhất nhất thức. Trong mười loại như vậy, chín loại tâm đầu không duyên với chân lý, một loại tâm sau cùng có thể duyên với chân lý để làm thành cảnh giới. Nay dựa vào chín loại trước nên nói như vầy: “Lìa tướng tâm duyên”. Trong kinh Bổn Hữu giải thích như vầy: “Chân lý rất sâu xa không phải cảnh giới nào khác, chỉ duyên vào chỗ nương tựa của chính nó làm thành cảnh giới”. “Hoàn toàn bình đẳng, không có biến đổi, không thể phá hủy” là biểu hiện rõ công đức của ba loại lìa xa. Nghóa là tất cả sai biệt dùng bốn loại ngôn thuyết hư vọng làm căn bản để chuyển biến. Chín loại Biến luận - mười loại Dị chấp của tất cả ngoại đạo, chỉ lấy Danh Tự làm căn bản chuyển đổi. Tất cả phiền não hủy hoại, chướng ngại, tất cả phá hoại, chướng ngại của đối tượng nhận thức, chỉ có dùng tâm pháp dựa vào để chuyển hóa. Nhưng trong thể của Chân lìa xa ba tướng nên đầy đủ ba đức. “Chỉ là một tâm nên gọi là Chân Như”, là tổng kết về Thể của Chân Như. “Do tất cả mọi ngôn ngữ diễn tả đều là giả danh không thật, chỉ tùy theo niệm vọng nên không thể đạt được”, là biểu hiện rõ nhân duyên lìa xa ba tướng, nghóa là vì tất cả mọi ngôn thuyết không có thật, tất cả đều là giả danh không thật, tất cả tâm thức chỉ tùy theo niệm vọng nên không thể đạt được. Trong lý chân thật không thể nói năng diễn tả, vì nêu rõ lìa xa ba tướng, do đó tướng hư giả và pháp như thật hết sức trái ngược nhau. Nói Chân như cũng không hề có tướng, là phần thứ hai lấy ngôn ngữ loại trừ lỗi lầm chấp trước. Nghóa là chúng sanh ngu muội dấy lên chấp như vầy: Lìa xa ba tướng đầy đủ trọn vẹn ba đức là lý của thể Chân như, tuy không có tướng giả mà có tướng thật, tự nhiên thường trú quyết định là thật có. Do chấp trước như vậy nên rơi vào chấp thường không biết lúc nào thoát ra được. Vì lý do này để loại trừ cách nhìn như vậy, nên nói Chân như cũng không hề có tướng. Nói “Đạt tới chỗ tột cùng của ngôn thuyết, dùng ngôn ngữ loại trừ ngôn ngữ” là trực tiếp chỉ ra nhân duyên vô tướng của Chân như. Nghóa là mọi ngôn ngữ diễn tả đến mức tột cùng, đối với Chân như lại chẳng thể diễn tả hết. Đã đoạn tuyệt ngôn ngữ diễn tả, há có thể có tướng mà không có ngôn ngữ? Vì thế cần phải nhờ vào ngôn ngữ loại trừ ngôn ngữ, ngay sau đó có thể loại trừ Như Như đúng như diễn tả, đã loại trừ bốn loại ngôn thuyết hư vọng. Trong kinh Đại Bổn Duy Ma Cật giải thích như vầy: “Bấy giờ, Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Cưu Na A Phiệt Đà Đa: Các đại chúng chúng tôi, tất cả mọi người đều tùy theo những niềm vui của mình, diễn tả nói ra tám ngàn pháp cùng một loại hướng về môn Bất nhị, nếu như thích hợp thì Duy Ma Cật vì đại chúng chúng tôi, lìa xa ngôn thuyết để diễn tả ngôn thuyết, không phải bất nhị mà là bất nhị, loại trừ luôn sự gạt bỏ ô nhiễm của giả thuyết. Ngay sau đó, Duy Ma Cật lặng lẽ không nói gì. Lúc ấy, Văn-thù khen ngợi Duy Ma Cật: Lành thay! Lành thay! Như ngôn ngữ diễn tả về Như - như tai nghe theo lý Như. Lành thay! Lành thay! Đây chính là pháp môn bất nhị chân thật, đây chính là pháp môn bất nhị chân thật”. Đã nói giải thích trực tiếp về thể Chân như, tiếp theo nói về phần giải thích tên gọi. “Thể Chân như này không gì có thể gạt bỏ, vì tất cả các pháp đều là chân thật”, là dựa vào Chân để giải thích tên gọi. “Cũng không có thể thiết lập, vì tất cả các pháp đều cùng là Như”, là dựa vào Như để giải thích tên gọi. Văn này trình bày rõ về nghóa lý gì? Đó gọi là biểu hiện rõ không có trí đoạn chứng. Nghóa này là thế nào? Nghóa là đạo đoạn khởi lên tất nhân nơi đối trị chướng ngại, chứ không thể tự khởi. Nhưng trong thể Chân không có pháp nhiễm nào để có thể loại trừ, do đó cũng không có đạo đoạn của chủ thể đối trị. Vì sao? Vì không có một pháp nào không phải là thể của Chân. Vả lại, nếu như trí có chướng ngại, tùy theo tâm cao thấp, thì thích ứng kiến lập tất cả các vị địa, nhưng trong thể của Như không có phần vị nào để có thể kiến lập, nên không hề có phương tiện nào có thể thiết lập. Vì sao? Vì không một pháp nào không phải là thể của Như. “Nên biết tất cả các pháp không thể diễn tả được, không thể suy nghó được, nên gọi là Chân Như”, là tổng kết những gì đã nói ở trên. Đã nói về phần Thể tánh căn bản của Chân như, tiếp theo nói về phần phát khởi vấn đáp giải quyết nghi ngờ. Hỏi: Nếu nghóa lý như vậy thì các loại chúng sanh làm sao tùy thuận để có thể hội nhập được? Tức là sinh nghi dẫn đến chất vấn như vậy. Người chất vấn căn cứ vào những câu nào, phát sinh những nghi ngờ như thế? Đó là căn cứ vào câu “không thể diễn tả, không thể suy nghó được” mà phát sinh nghi ngờ, chất vấn về nghóa tùy thuận. Căn cứ vào câu thứ hai là lấy ngôn ngữ loại trừ lỗi lầm chấp trước, phát sinh nghi ngờ chất vấn về phương diện có thể hội nhập được. Đối với câu Tùy thuận thì dứt khoát là nghi ngờ về nhân, với câu có thể hội nhập được thì dứt khoát là nghi ngờ về quả. Vì sao? Vì ngôn ngữ diễn tả khéo léo là phương tiện tùy thuận để sanh trưởng Văn Tuệ, Văn tạo thành Tuệ là phương tiện tùy thuận để sanh trưởng Tư Tuệ. Tư tạo thành Tuệ là phương tiện tùy thuận để sanh trưởng Tu Tuệ. Tất cả thiện giáo đạt tới chỗ tột cùng của ngôn ngữ diễn tả, thì toàn bộ ba Tuệ ra sức hoàn thành đối với ý niệm về pháp. Nếu không có ngôn ngữ diễn tả thì không có ba Tuệ, nếu không có ba Tuệ thì không có vạn hạnh, mà pháp Chân như không thể diễn tả nên không có ngôn giáo. Không thể suy nghó thì không có ba Tuệ, không có ba Tuệ nên không thể thành tựu vạn hạnh của mười địa. Các loại chúng sanh lấy gì để dựa vào mà dần dần tiến tu? Vì nghi ngờ như vậy nên dẫn đến chất vấn làm sao tùy thuận thực hành nhân nơi chủ thể khởi và có quả đức nơi đối tượng được khởi. Nếu không có nhân phát khởi thì không có chủ thể hội nhập. Nếu không có chủ thể hội nhập thì không thể chứng đắc đối tượng hội nhập. Chủ thể hội nhập gọi là tâm kim cang, đối tượng hội nhập gọi là địa kim cang. Đã không có nhân thì lấy gì làm cách thức để chứng thực hội nhập trong đại dương Nhất thiết chủng trí của Như Lai? Vì nghi ngờ như vậy nên dẫn đến chất vấn: Làm sao có thể hội nhập được? Hai câu hỏi như vậy là căn cứ vào môn sanh diệt mà nghi ngờ về môn Chân như. Nghóa là có chúng sanh dấy lên nghi ngờ như vầy: Nếu như trong môn sanh diệt đoạn trừ tất cả mọi pháp ác, tu tập tất cả các pháp thiện, thì đầy đủ mọi nhân hạnh, quả đức viên mãn. Trong môn Chân như cũng lại như vậy, há môn Chân như “không thể nói” là bỏ pháp khéo gia hạnh, “không thể nghó đến” là bài báng vị địa năm bậc sao? Nay đưa ra ý này khởi sự chất vấn như vậy. Đáp: Nếu nhận thức được tất cả các pháp, tuy nói là không gì có thể nói mà lại đáng nói, tuy nghó đến cũng không có thể nghó được mà có thể nghó được, thì gọi là tùy thuận. Nếu như xa rời nói và suy nghó thì gọi là được hội nhập” tức là như thứ tự ấy để giải quyết hai nghi ngờ kia. Nói tùy thuận thì tự nó có hai loại. Thế nào là hai? Một là tùy thuận sinh diệt. Hai là tùy thuận Chân như. Trong tùy thuận sanh diệt lại có hai loại. Thế nào là hai? Một là tùy thuận hướng thượng. Hai là tùy thuận hướng hạ. Tùy thuận hướng thượng là bắt đầu từ địa Tín cho đến địa kim cang, có năng lực làm phương tiện tùy thuận quả vị Bồ-đề. Tùy thuận hướng hạ là từ địa Tạng tự tánh tịnh diệu cho đến địa Niệm tín thứ nhất, có năng lực làm phương tiện tùy thuận với địa Da Da. Nói tùy thuận hướng thượng, là nhờ vào âm thanh ngôn ngữ diễn tả pháp vô thường sanh trưởng Văn Tuệ về vô thường. Dựa vào Văn tuệ về vô thường sanh trưởng Tư Tuệ về vô thường. Dựa vào Tư tuệ về vô thường sanh trưởng Tu tuệ về vô thường. Dựa vào Tu Tuệ về vô thường sanh trưởng hành đức của vô thường. Đây gọi là hướng thượng. Nói tùy thuận hướng hạ là dựa vào hành đức của thường sanh trưởng Tu Tuệ về thường. Dựa vào Tu Tuệ của thường sanh trưởng Tư Tuệ về thường. Dựa vào Tư Tuệ của thường, sanh trưởng Văn Tuệ về thường. Dựa vào Văn Tuệ của thường sanh trưởng ngôn ngữ diễn tả về thường. Đây gọi là hướng hạ. Hai phương diện như vậy đồng thời đầy đủ không có trước sau, còn các biệt tướng chướng ngại trí, đến văn xứ tự sẽ giải thích rõ. Trong môn Chân như nói như vầy: “Không thể nói” là vì không có âm thanh ngôn ngữ diễn tả về thường và vô thường. “Không thể nghó suy” là vì không có ba Tuệ về thường và vô thường, chứ không phải là không có ngôn ngữ diễn tả và suy niệm của chính nó để dấy lên giải thích: “Không thể nói, không thể nghó suy”. Do nghóa này không thể dùng môn khác vấn nạn môn khác, là cái này có nên cái kia có, cái kia có nên cái này có. Nếu như vậy, trong môn Chân như ngôn ngữ diễn tả và suy niệm thuộc về tướng nào? Nghóa là có ngôn ngữ diễn tả, không phải là âm thanh của thường - không phải là âm thanh của vô thường, là không thể diễn tả mà có thể diễn tả được Như Như đúng như diễn tả. Lại nữa, có suy niệm mà không phải là ba Tuệ về thường, không phải là ba Tuệ về vô thường, nghóa là không thể suy niệm mà có thể suy niệm về ý niệm tịch diệt tịch tónh. Vì sao? Vì trong môn Chân như không hề có gì qua lại mà chỉ trú trong tạp loạn. Thế nào gọi là tùy thuận Chân như? Nghóa là nếu nhận thức được tất cả các pháp tuy có nói, nhưng không có diễn tả nào nói về thường, không có diễn tả nào nói về vô thường, không có diễn tả nào có thể nói, không có diễn tả nào đáng nói. Đây gọi là tùy thuận với âm thanh Chân như. Nếu trái với tướng này thì gọi là điên đảo đối với âm thanh của Chân như. Lại nữa, nếu nhận thức được tất cả các pháp tuy có suy niệm mà không có cái tuệ niệm về thường, không có tuệ niệm về vô thường, không có suy niệm nào có thể suy niệm, không có suy niệm nào đáng suy niệm. Đây gọi là tùy thuận với ý niệm tịch diệt tịch tónh. Nếu trái với tướng này thì gọi là điên đảo đối với ý niệm tịch diệt tịch tónh. Đã nói về phần tướng tùy thuận, tiếp theo giải đáp nghi ngờ về nghóa “Được hội nhập”. Trong này có hai vấn đề. Thế nào là hai? Một là Sanh diệt được hội nhập. Hai là Chân như được hội nhập. Trong phần Sanh diệt được hội nhập lại có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là Được hội nhập hướng thượng. Hai là Được hội nhập hướng hạ. Nói được hội nhập hướng thượng, tức là địa Kim Cang. Nói được hội nhập hướng hạ tức là địa Da Da. Câu: “Cần tùy thuận là phải quán sát kỹ. Chân như được hội nhập” là nương tựa vào tự nó. Vì sao gọi là được hội nhập? Nghóa là an trú lẫn trong nhau. Được hội nhập thế nào? Nghóa là xa rời mọi diễn tả suy niệm. Xa rời diễn tả suy niệm là như thế nào? Nghóa là môn Chân như hoàn toàn chẳng phải là ngôn ngữ diễn tả và cũng đều chẳng phải là suy niệm, vì vậy nói nếu xa rời mọi diễn tả suy niệm thì gọi là được hội nhập, do đó lời chuyển thứ nhất được thành tựu. Lời chuyển thứ hai mối nghi quyết định loại trừ thì nghóa lý được sáng tỏ. Đã nói về phần phát khởi vấn đáp giải quyết nghi ngờ. Tiếp theo nói về phần nhờ vào diễn tả bày ra tướng của Chân như. Trong này có hai Môn. Thế nào là hai? Một là môn Chân như như thật không. Hai là môn Chân như như thật bất không. Như thật không, là trong thể Như Như có hằng hà sa số tất cả các pháp nhiễm, thảy đều trống rỗng không có gì. Như thật bất không, là trong thể Như Như có hằng hà sa số tất cả các pháp tịnh, thảy đều đầy đủ hoàn hảo không hề thiếu gì. Hai môn như vậy thuận theo có đủ tất cả và không tách rời nhau. Đối với điều này phải đọc lời tụng về nghóa lý u huyền. Như tụng ấy nói: Lìa xa ba tướng giả Tròn đầy ba đức thật Vì những nhân duyên ấy Thể chân như kiến lập. Lìa xa tướng bốn câu Viên mãn đức bốn pháp Do nhân duyên như vậy Tướng chân như kiến lập. Tất cả hành sai lầm Ba - bốn tướng làm gốc Tất cả phẩm công đức Ba - bốn đức làm gốc. Những nhân duyên như vậy Không tăng cũng không giảm Chỉ đối số lượng phẩm Tạo an lập như vậy. Nay đọc lời tụng này, cần phải giữ lấy môn Chân như, vì lìa cảnh giới suy niệm chỉ chứng đạt tương ưng, là chứng đạt trong sự an trú lẫn lộn chứ không phải là chứng đạt trên phương diện qua lại. Đã nói về môn tâm Chân như, tiếp đến nói về môn tâm sanh diệt. Bổn Luận nói: Tâm sanh diệt là dựa vào Như Lai tạng nên có tâm sanh diệt. Điều ấy nghóa là bất sanh, bất diệt hòa hợp cùng với sanh diệt, không phải đồng nhất không phải dị biệt, gọi là thức A-lê-da. Thức này có hai loại nghóa, có năng lực thâu gồm tất cả các pháp, có năng lực phát sanh tất cả các pháp. Thế nào là hai loại? Một là nghóa giác. Hai là nghóa bất giác. Luận giải thích: Trong này có hai phương diện. Thế nào là hai? Đó là: Đối tượng được dựa là môn tổng tướng. Chủ thể dựa là môn biệt tướng. Ở đây có hai loại, an trú tư duy, thuận theo quán sát. Nghóa là môn sanh diệt lấy nhất tâm làm nơi nương tựa. Môn sanh diệt thâu tóm nghóa giác và bất giác, vì A-lê-da làm nơi nương tựa. Trước tiên nói về nghóa Giác thứ nhất: Tâm sanh diệt là vì có đề xướng phần trên nên thiết lập phần dưới. Do chủ thể dựa nơi Như Lai tạng thì đối tượng nương dựa nhất tâm, đối tượng nương dựa đó là nhiều hay một tâm cũng gọi là Như Lai tạng. Tức là chữ tâm trên, trở xuống dưới kiến lập tên gọi khác. Có tâm sanh diệt, là pháp môn của chủ thể nương dựa, nghóa là môn sanh diệt. Nay sẽ căn cứ vào kinh hiện bày rõ về môn Như Lai tạng. Môn Như Lai tạng có số lượng bao nhiêu? Nay Như Lai tạng này, nơi nào thâu tóm? Tụng nói: Như Lai tạng có mười Các kinh giải thích khác Như Lai tạng ở đây Hành tướng thâu tóm. Luận nói: Như Lai tạng có mười loại, vì trong các kinh giải thích phân biệt khác nhau. Thế nào là mười loại? Đó là: Như Lai tạng đại tổng trì, vì thâu tóm hết tất cả Như Lai tạng. Trong kinh Chư Phật Vô Tận Tạng giải thích như vầy: “Đức Phật nói với Bồ-tát Văn-thù: Có Như Lai tạng, tên là Đại Bảo Vô Tận Thù Thắng Viên mãn Đà-la-ni, thâu gồm tất cả các Tạng, không gì là không thông suốt - không gì là không thích hợp, viên mãn của sự viên mãn, bình đẳng của sự bình đẳng, tất cả các Như Lai tạng vốn có, không tạng nào là không lấy đây làm căn bản. Tại sao? Vì Như Lai tạng này là Như Lai tạng Vương - Như Lai tạng Chủ, là Như Lai tạng Thiên - Như Lai tạng Địa. Do các nghóa ấy nên gọi là Như Lai tạng Đại Bảo Vô Tận Thù Thắng Viên mãn Đà-la-ni”. Văn kinh này giải thích về nghóa gì? Đó là nói rõ tổng tướng nơi đối tượng nương dựa của tạng Đà-la-ni. Trong các kinh khác thì Như Lai tạng là biệt tướng của chủ thể nương dựa. Dùng nghóa nào mà gọi là Như Lai tạng? Là nghóa thâu giữ. Như Lai tạng xa chuyển xa buộc, do chỉ một thể thanh tịnh, một thể viên mãn. Trong kinh Thật Tế giải thích như vầy: “Này Phật tử! Như Lai tạng chỉ có giác ngộ, chỉ có Như Như, lìa nhân lưu chuyển - lìa sự ràng buộc của suy nghó nhận thức, tất cả đều sáng rõ. Vì vậy gọi là Như Lai tạng”. Văn kinh này giải thích về nghóa gì? Đó là biểu hiện rõ về môn Chân như chỉ một tâm, không có nhân mê lầm - không có nhân giác ngộ, không có quả mê lầm - không có quả giác ngộ, vì một Chân một Như chỉ có thể thanh tịnh tuyệt đối của Như Lai. Do nghóa nào gọi là Như Lai tạng? Nghóa là không hề lẫn tạp. Như Lai tạng cùng hành cùng tướng, Pháp thân Như Lai cùng với sức mạnh của sự lưu chuyển đều khiến được che giữ. Trong kinh Lăng Già giải thích như vầy: “Như Lai tạng làm nhân cho thiện và bất thiện nên cảm thọ khổ hay vui, cùng với nhân đều có hoặc sanh hoặc diệt, giống như người có pháp thuật kỳ ảo”. Văn kinh này trình bày về nghóa gì? Đó là biểu hiện rõ môn sanh diệt chỉ một tâm, đối với mê lầm cho lực, cũng đối với giác ngộ cho lực nảy sinh các pháp sanh tử và Niết-bàn, giống như người không phải là huyễn ảo mà biến hóa kỳ ảo, đối với các sự việc huyễn ảo, thuận theo những thích ứng mà cho lực dụng. Do nghóa nào gọi là Như Lai tạng? Là nghóa khiến được che giấu. Như Lai tạng Chân như chân như, vì chỉ có Như Như. Trong kinh Chân Tu giải thích như vầy: “Như Lai tạng Như lý - Như lý, chẳng kiến lập, chẳng phỉ báng, chẳng phải là thường, chẳng phải là vô thường, chẳng phải là sự chứng đắc của thể trí đích thực, cũng chẳng phải là cảnh giới nơi đối tượng duyên của ý và ý thức. Tại sao? Vì chỉ có lý lý chứ không có điều gì khác”. Văn kinh này trình bày về nghóa gì? Đó là biểu hiện rõ lý tánh Chân như trong môn Chân như, chỉ có lý là lý của tự nó chứ không phải là lý của trí. Do nghóa nào gọi là Như Lai tạng? Là nghóa không có lý tánh khác. Như Lai tạng Sanh diệt, chân như: Là bất sanh bất diệt bị nhiễm do sanh diệt. Trong kinh Lăng Già giải thích như vầy: “Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si không hiểu biết gì, chấp trước các pháp không dừng lại khoảnh khắc nào, thuận theo các tà kiến, nói: Pháp vô lậu cũng không dừng lại trong khoảnh khắc, do đó phá đổ Chân như nơi Như Lai tạng kia. Vả lại, này Đại Tuệ! Như Lai tạng Kim cang là pháp Như Lai chứng đạt, không phải là không dừng lại trong khoảnh khắc. Này Đại Tuệ! Pháp Như Lai chứng đạt nếu không dừng lại trong khoảnh khắc, thì tất cả Thánh nhân không trở thành Thánh nhân được”. Văn kinh này trình bày về nghóa gì? Đó là biểu hiện rõ lý tánh Chân như trong môn sanh diệt, lìa xa tướng của vô thường và là pháp bất sanh bất diệt. Do nghóa nào gọi là Như Lai tạng? Nghóa là vì bị vấy nhiễm. Như Lai tạng không, vì tất cả các không phủ kín Như Lai tạng. Trong kinh Thắng Man giải thích như vầy: “Thưa Thế Tôn! Như Lai tạng không, hoặc xa lìa - hoặc thoát khỏi - hoặc khác biệt với tất cả tạng phiền não”. Văn kinh này trình bày về nghóa gì? Đó là biểu hiện rõ về tất cả các pháp nhiễm trong môn sanh diệt, vì che kín tự tướng nơi Bổn giác và vô lượng tánh công đức. Do nghóa nào mà tất cả các pháp nhiễm gọi chung là không? Đó là vì tất cả các pháp nhiễm đều là huyễn hóa sai biệt, Thể tướng không có thật và tác dụng chẳng rõ nên gọi là không, nhưng có thể che kín Đức chân thật và Thể thực sự của Pháp thân Như Lai, vì vậy gọi là Như Lai tạng. Vì thuận theo năng lực tàng trữ ô nhiễm mà thiết lập tên gọi. Như Lai tạng bất không, vì tất cả bất không bị nhiễm do không. Trong kinh Thắng Man giải thích như vầy: “Thưa Thế Tôn! Như Lai ta- ïng bất không vượt quá hằng sa số pháp Phật không lìa xa - không thoát khỏi - không khác biệt và không nghó bàn được”. Văn kinh này trình bày về nghóa gì? Đó là biểu hiện rõ về tự tướng Bổn giác trong môn sanh diệt, đầy đủ tất cả mọi công đức vượt quá hằng sa số, bị vấy nhiễm do tất cả các pháp nhiễm vượt quá hằng sa số. Do nghóa nào mà tất cả các pháp tịnh gọi chung là bất không? Đó là tác dụng thắng diệu thật sự trong tự thể của tất cả các pháp tịnh, lìa xa hư giả, vượt lên trên mọi giả dối không thật, vì thế gọi là bất không. Bị che lấp do pháp nhiễm nên gọi là Như Lai tạng, đến lúc xuất hiện gọi là Pháp thân, vào lúc khuất kín thì gọi là Như Lai tạng, thuận theo nghóa thanh tịnh được tàng trử mà thiết lập tên gọi đó. Như Lai tạng năng nhiếp, là tịnh tâm của tự tánh trong tạng vô minh, có năng lực thâu gồm tất cả các công đức. Trong kinh Bất Tăng Bất Giảm giải thích như vầy: “Như Lai tạng bản tế tương ưng với thể và pháp thanh tịnh, pháp này là pháp Phật như thật - không hư vọng - không tách rời - không đọa lạc, là trí không thể nghó bàn. Từ vô thỉ đến nay, pháp thể tương ưng và thanh tịnh ấy đã có”. Văn kinh này trình bày về nghóa gì? Đó là biểu hiện rõ tâm thanh tịnh của tự tánh của tất cả các chúng sanh từ vô thỉ đến nay đầy đủ ba trí, trọn vẹn bốn đức và không có thiếu sót. Do nghóa nào gọi là Như Lai tạng? Vì tâm điên đảo không nhận thức rõ được, thuận theo chủ thể và đối tượng thanh tịnh mà thiết lập tên gọi. Như Lai tạng sở nhiếp, tất cả pháp nhiễm tàng trữ trong địa phận của vô minh, đã tách ra và đầy đủ trọn vẹn tánh giác là đối tượng được thâu tóm. Trong kinh Bất Tăng Bất Giảm giải thích như vầy: “Bản tế của Như Lai tạng không tương ưng với thể và pháp phiền não triền là pháp không thanh tịnh. Bản tế của pháp này tách rời, thoát ra không tương ưng, với pháp phiền não triền không thanh tịnh, vì vậy chỉ có trí tuệ Bồ-đề của Như Lai mới có thể đoạn trừ”. Văn kinh này trình bày về nghóa gì? Đó là biểu hiện rõ Thỉ giác tròn đầy của Phật, đoạn trừ tất cả mọi chướng ngại - có đủ Nhất thiết trí, trí sáng tỏ là bên ngoài - chướng ngại tối tăm là bên trong, tất cả pháp nhiễm được trí thâu giữ. Do nghóa nào gọi là Như Lai tạng? Nghóa là thâu giữ. Như Lai tạng ẩn phú, vì pháp thân Như Lai bị phiền não che kín không lộ bày được. Trong kinh Bất Tăng Bất Giảm giải thích như vầy: “Như Lai tạng vào thời gian vị lai luôn bình đẳng cùng với pháp có sự tồn tại, đây là căn bản của tất cả các pháp, đầy đủ tất cả các pháp - vốn có tất cả các pháp, do đó ở trong pháp thế gian không hề tách rời và không thoát ra”. Văn kinh này trình bày về nghóa gì? Đó là biểu hiện rõ thể của nhiều tâm, một tâm, bình đẳng ở pháp giới khắp cả ba đời, hoàn toàn có đầy đủ các pháp nhiễm và tịnh, do đó không nơi nào là không thông suốt - không nơi nào là không đến được. Vả lại, vì biểu hiện tâm thanh tịnh c tự tánh trong môn tùy duyên, bị che giấu, ẩn kín nơi pháp nhiễm nên Pháp thân Như Lai không xuất hiện được. Đây gọi là mười tên gọi. Như vậy trong mười tên Như Lai tạng này, Như Lai tạng hiện nay là thuộc về Như Lai tạng cùng hành cùng tướng. Đã nói về môn Như Lai tạng, tiếp theo nói về môn thức A-lê-da. Đó là bất sanh bất diệt cùng với sanh diệt hòa hợp, chẳng phải đồng nhất, chẳng phải dị biệt, gọi là thức A-lê-da, là lược bớt tên gọi phân biệt, là kiến lập tên gọi đầy đủ, tuy nghóa lý đầy đủ mà ngôn từ chưa đầy đủ. Bất sanh, bất diệt cùng với sanh diệt đã nói trong đây, thì những pháp của mỗi loại là như thế nào và giới hạn thích hợp ra sao? Tụng nêu: Thâu chung pháp vô vi Gọi là không sanh diệt Thâu chung pháp hữu vi Nên gọi là sanh diệt Luận nói: Thâu tóm toàn bộ tất cả các pháp vô vi, vì vậy gọi là bất sanh bất diệt, là tổng tướng của các pháp vô vi bất sanh bất diệt. Thâu tóm toàn bộ tất cả các pháp hữu vi, vì thế gọi là sanh diệt, nên nói sanh diệt là tổng tướng của các pháp hữu vi. Như vậy, hai pháp hữu vi và vô vi, mỗi loại có số lượng bao nhiêu, tên gọi như thế nào? Tụng nói: Vô vi tuy vô lượng Lược nói có bốn loại Là Chân như, Bổn giác Thỉ giác cùng hư không. Hữu vi tuy vô lượng Lược nói có năm thứ Là vô minh căn bản Cùng phẩm của bốn tướng. Luận nói: Pháp vô vi có bốn loại. Thế nào là bốn loại? Đó là: Vô vi của Chân như. Vô vi của Bổn giác. Vô vi của Thỉ giác. Vô vi của Hư không. Đây gọi là bốn loại. Pháp hữu vi có năm loại. Thế nào là năm loại? Đó là: Hữu vi của vô minh căn bản. Hữu vi của tướng sanh. Hữu vi của tướng trụ. Hữu vi của tướng dị. Hữu vi của tướng diệt. Đây gọi là năm loại. Vả lại, bốn pháp vô vi lấy gì làm thể, có tác dụng như thế nào? Tụng nói: là: Dựa vào có hai loại Đó là chung và riêng Như thể, dụng cũng vậy Thuận giải nên quán sát! Luận nói: Vô vi của Chân như có hai chỗ dựa. Thế nào là hai? Đó Chỗ dựa chung là chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, là pháp vốn có trong một tâm lấy đó làm thể. Chỗ dựa riêng, là trong môn sanh diệt thì lý nơi pháp tịch tónh lấy đó làm thể. Vô vi của Bổn giác có hai chỗ dựa. Thế nào là hai? Đó là: Chỗ dựa chung, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, là pháp vốn có trong một tâm và lấy đó làm thể. Chỗ dựa riêng, là trong môn sanh diệt thì trí vốn có tự nhiên và lấy đó làm thể. Vô vi của Thỉ giác có hai chỗ dựa. Thế nào là hai? Đó là: Chỗ dựa chung, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, là pháp vốn có trong một tâm và lấy đó làm thể. Chỗ dựa riêng, là trong môn sanh diệt thì trí khởi lên từ nơi khác và lấy đó làm thể. Vô vi của Hư không có hai chỗ dựa. Thế nào là hai? Đó là: Chỗ dựa chung, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, là pháp vốn có trong một tâm và lấy đó làm thể. Chỗ dựa riêng, là trong môn sanh diệt không hề có sự việc gì và lấy đó làm thể. Đây gọi là hai loại chỗ dựa. Vả lại, vô vi của chân như có hai loại tác dụng. Thế nào là hai loại? Đó là: Dụng chung, là làm cho tất cả các pháp được sanh ra. Dụng riêng, là làm cho không mất tánh của sự bình đẳng. Vô vi của bổn giác có hai loại tác dụng. Thế nào là hai loại? Đó là: là: là: Dụng chung, là không giữ lấy tự tánh. Dụng riêng, là không chuyển biến. Vô vi của Thỉ giác có hai loại tác dụng. Thế nào là hai loại? Đó Dụng chung là thuận theo vọng chuyển. Dụng riêng là đối trị sai lầm của mình. Vô vi của Hư không có hai loại tác dụng. Thế nào là hai loại? Đó Dụng chung là cần muốn có khiến cho có. Dụng riêng là khiến không mất tánh rỗng lặng không có. Đây gọi là hai tác dụng. Chung được nói trong này là nghóa từ nơi khác và riêng là nghóa từ bản thân. Dựa vào hai lời này nên quán sát rộng ra. Các loại biệt tướng đến xứ văn, tự sẽ giải thích, biểu hiện. Năm loại hữu vi lấy gì làm thể, có tác dụng như thế nào? Tụng nói: Dựa đều có hai loại Đó là chung và riêng Như thể - dụng cũng vậy Thuận giải nên quán sát! Luận nói: Hữu vi của vô minh căn bản có hai loại nương dựa. Thế nào là hai loại? Đó là: Dựa chung, là pháp vốn có trong một tâm chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi và lấy đó làm thể. Dựa riêng, là sức mạnh to lớn trú giữ trong môn sanh diệt và lấy đó làm thể. Hữu vi của tướng sanh có hai loại nương dựa. Thế nào là hai loại? Đó là: Dựa chung, là pháp vốn có trong một tâm chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi và lấy đó làm thể. Dựa riêng, là pháp nhiễm phần tế trong môn sanh diệt và lấy đó làm thể. Hữu vi của tướng trụ có hai loại nương dựa. Thế nào là hai loại? Đó là: Dựa chung, là pháp vốn có trong một tâm chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi và lấy đó làm thể. Dựa riêng, là pháp nhiễm phần thô trong môn sanh diệt và lấy đó làm thể. Hữu vi của tướng dị có hai loại nương dựa. Thế nào là hai loại? Đó là: Dựa chung, là pháp vốn có trong một tâm chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi và lấy đó làm thể. Dựa riêng, là pháp nhiễm phần thô trong môn sanh diệt và lấy đó làm thể. Hữu vi của tướng diệt có hai loại nương dựa. Thế nào là hai loại? Đó là: Dựa chung, là pháp vốn có trong một tâm chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi và lấy đó làm thể. Dựa riêng, là pháp nhiễm phần thô trong môn sanh diệt và lấy đó làm thể. Đây gọi là hai loại nương dựa. Lại nữa, vô minh căn bản có hai loại tác dụng. Thế nào là hai loại? Đó là: Dụng chung, là có năng lực nảy sanh tất cả các pháp nhiễm. Dụng riêng, là tùy những nơi đạt đến, tạo những điều chướng ngại. Hữu vi của tướng sanh có hai loại tác dụng. Thế nào là hai loại? Đó là: Dụng chung, là đối với hạng thượng, hạ, trung đều có năng lực của nó. Dụng riêng, là tùy theo những nơi đến, dấy khởi những điều chướng ngại. Như nói về tướng sanh, tướng trú và tướng dị cũng vậy. Hữu vi của tướng diệt có hai loại tác dụng. Thế nào là hai loại? Đó là: Dụng chung, là đối với phần trên và tự bản thân có cùng năng lực của mình. Dụng riêng, là có khả năng gây ra mọi chướng ngại. Đây gọi là hai loại tác dụng. Các loại biệt tướng còn lại tại nơi văn sẽ giải thích, biểu hiện rõ. Do nghóa nào mà giải thích như vậy? Vì tất cả các pháp hữu vi và vô vi, chung lấy một tâm để làm thể của mình, do đó trong các kinh đều giải thích như vậy. Các kinh nào? Đó là kinh Đạo Trí. Giải thích thế nào? Ở trong kinh ấy giải thích: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ở trước Đức Phật thưa: Thưa Thế Tôn! Thức A-lê-da vốn có tất cả các pháp, đầy đủ tất cả các pháp, vô lượng vô biên số vượt quá hằng hà sa, các pháp như vậy lấy gì làm căn bản và phát sanh ở tại nơi nào? Đức Phật dạy: Tất cả các pháp hữu vi và vô vi như vậy, sanh ra từ nơi thù thắng không thể nghó bàn được. Tại sao? Vì ở tại nơi chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, là pháp hữu vi, là pháp vô vi, nhưng có năng lực phát sanh. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại thưa với Đức Phật: Thưa Thế Tôn! Tại sao gọi là nơi chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi? Đức Phật dạy: Nơi chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, nghóa là ngay nơi pháp vốn có trong một tâm nầy, chẳng phải hữu vi nên có năng lực tạo ra hữu vi, chẳng phải vô vi do đó có năng lực làm ra vô vi, vì vậy Ta nói sanh ra từ nơi thù thắng không thể nghó bàn được. Vả lại, này người thiện nam! Ví như thứ dân có hai nơi nương tựa, một là nhà vua, hai là cha mẹ. Tất cả các pháp hữu vi và vô vi cũng lại như vậy, mỗi loại đều có hai nơi nương tựa, đó là dựa vào sự thông đạt và dựa vào các chi phần. Hơn nữa, này người thiện nam! Ví như tất cả các loại cỏ cây có hai nơi nương tựa, một là mặt đất. Hai là hạt giống, tất cả các pháp hữu vi và vô vi cũng lại như vậy, mỗi loại đều có hai nơi nương tựa, đó là dựa vào sự thông đạt và dựa vào các chi phần, cho đến nói rộng”. Cùng hòa hợp, chính là bày rõ sự sai biệt của chủ thể huân tập và đối tượng được huân tập. Bày rõ như thế nào? Đó là biểu hiện rõ các pháp nhiễm và tịnh, có năng lực hay không có năng lực, đều có sự hơn kém lẫn nhau. Nay sẽ làm thành hai Môn để giải thích rõ. Thế nào là hai Môn? Đó là: Môn hạ chuyển. Môn thượng chuyển. Trong môn sanh diệt không ra ngoài hai Môn này, hai Môn như vậy sai biệt thế nào? Tụng nói: Các pháp nhiễm có lực Các pháp tịnh không lực Bỏ gốc, chuyển xuống thấp Gọi là môn hạ chuyển. Các pháp tịnh có lực Các pháp nhiễm không lực Hướng nguồn, chuyển lên trên Gọi là môn thượng chuyển. Luận nói: Vì các pháp nhiễm và tịnh đều có sự hơn kém lẫn nhau, nên hai loại môn chuyển được thành lập. Nay trước tiên sẽ giải thích phần đầu nói về môn hạ chuyển. Vô minh căn bản lấy những pháp thuộc loại nào làm đối tượng huân tập, ở trong thời gian nào tiến hành công việc huân tập? Tụng nói: Sở huân có năm loại Là tâm một pháp giới Cùng bốn loại vô vi Không đầu - chẳng giữa sau Vì chọn lấy đầu - giữa - sau Như khế kinh nói rõ. Luận nói: Vô minh căn bản lấy năm loại pháp để làm đối tượng huân tập. Đó là một pháp giới và bốn vô vi. Huân tập một pháp giới thì tướng ấy như thế nào? Tụng nói: Một loại tâm pháp giới Có hai thứ tự tại Là hữu vi, vô vi Vô minh căn bản này Dựa vào tự tại đầu Thực hiện sự huân tập. Luận nói: Một tâm pháp giới có hai loại tự tại. Thế nào là hai loại? Đó là: Hữu vi tự tại, có thể vì pháp hữu vi làm thành nơi nương dựa. Vô vi tự tại, có thể vì pháp vô vi làm nơi nương dựa. Vô minh căn bản dựa vào hữu vi tự tại, có thể dấy tạo huân tập các pháp, chứ không phải là vô vi tự tại. Trong kinh Trung Thật giải thích như vầy: “Vô minh căn bản huân tập tùy theo giới hạn thích hợp nơi nương dựa của nó, chứ không phải là nơi nương dựa nào khác”. Huân tập pháp Chân như thì tướng đó thế nào? Tụng nói: Pháp chân như vô vi Có hai loại tác dụng Đó là chung và riêng Quyết trạch như trước nói. Vô minh căn bản này Dựa tác dụng thứ nhất Để thực hiện huân tập Vô vi khác cũng vậy. Luận nói: Vô vi của chân như có hai loại tác dụng, đó là chung và riêng, như trước đã nói. Vô minh căn bản dựa vào tác dụng thứ nhất, có thể dấy khởi huân tập các pháp, không phải là tác dụng thứ hai. Như nói về vô vi của chân như, ba pháp vô vi còn lại cũng như vậy, đều dựa vào tác dụng thứ nhất chứ không phải là tác dụng thứ hai. Vô minh căn bản tùy theo lúc dấy khởi huân tập các pháp, chẳng phải là đầu cũng chẳng phải giữa và sau, vì chọn lấy cả đầu - giữa và sau. Trong kinh Bổn Trí giải thích như vầy: “Năng lực mạnh mẽ của vô minh vào lúc dấy khởi huân tập các pháp, thì đầu và giữa - sau đều cùng một lúc chọn lấy, không phải là chọn lấy riêng biệt”. Ở đây đã nói về chủ thể huân tập và đối tượng được huân tập, do nghóa gì gọi đó là huân? Nghóa là có năng lực dẫn dắt pháp ấy, để hợp với tự thể mà không tách rời nhau, cùng tiến hành, cùng chuyển đổi nên gọi là chủ thể huân tập. Lại có năng lực làm cho pháp kia không tạo chướng ngại, như tùy thuận không trái ngược, vì thế gọi là đối tượng được huân tập. Nghóa là năm pháp hữu vi là chủ thể huân tập bốn thứ pháp vô vi và tâm một pháp giới. Đối tượng huân tập là năm pháp thuận theo mà xuất hiện, nhưng cùng với năm chủ thể huân tập có thể hòa hợp qua lại với nhau và cùng chuyển đổi. Vì vậy nói bất sanh bất diệt hòa hợp cùng với sanh diệt. Như pháp vốn có của một tâm hoàn toàn vô minh là chỗ nương dựa, dựa vào hữu vi tự tại làm sự huân tập, bốn tướng hữu vi nên biết như vậy. Như vô minh căn bản dựa vào tác dụng thông đạt của bốn pháp vô vi, có thể thực hiện sự huân tập, bốn tướng hữu vi nên biết như vậy. Những nghóa như thế đến phần tự quyết định chọn lựa thì lý ấy sẽ rõ. “Chẳng phải đồng nhất, chẳng phải khác biệt” chính là mở bày rõ sự sai biệt về đồng nhất hay khác biệt của pháp hữu vi và vô vi. Mở bày rõ thế nào? Đó là vì muốn biểu hiện rõ vô vi tự tại trong tâm một pháp giới. Bốn loại vô vi với những tác dụng riêng biệt, cùng với hữu vi tự tại trong tâm một pháp giới. Bốn loại vô vi với tác dụng thông đạt, lý không như nhau nên gọi là chẳng phải đồng nhất. Vì muốn biểu hiện rõ tiếp nhận năng lực huân tập pháp nhiễm - hữu vi tự tại trong tâm một pháp giới và bốn loại vô vi với tác dụng thông đạt, cùng với năm loại hữu vi có năng lực thực hiện huân tập, lý đó không khác nhau, vì thế gọi là chẳng phải khác. Hơn nữa, pháp tịnh là đối tượng huân tập cùng với pháp nhiễm là chủ thể huân tập, tất cả đều sai biệt nên gọi là chẳng phải đồng nhất. Chủ thể huân tập và đối tượng được huân tập cùng một tâm tạo ra, không có nơi nào khác nên gọi là chẳng phải khác biệt. Gọi là thức A-lê-da, là tổng kết về chữ viên mãn. Đã nói về môn hạ chuyển, tiếp đến nói về môn thượng chuyển. Nếu muốn thành lập môn thượng chuyển này, cần phải căn cứ vào các lời kinh điển. Trong kinh Lăng Già Vương giải thích như vầy: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với đại chúng: Các Phật Tử! Ta nhớ xưa kia, trong lúc đi ra, Ta đến nương nhờ người khác. Trong lúc đi vào, người khác đến nương nhờ Ta”. Văn kinh này trình bày về nghóa gì? Đó là biểu hiện rõ về hai chuyển. Biểu hiện rõ như thế nào? Nghóa là trong lúc đi ra, Ta đến nương nhờ người khác, tức là chuyển hạ. Trong lúc đi vào, người khác đến nương nhờ Ta, tức là chuyển thượng. Nghóa này là thế nào? Ta có nghóa là Phật, là Chân như, Bổn giác, Như Lai tạng. Đến là nghóa của sự tiếp nhận huân tập. “Nương nhờ người khác” là trái với Bổn giác của mình mà dựa vào vô minh của nơi khác. Căn cứ vào văn kinh này, tiến hành giải thích như vậy, nên nói bất sanh bất diệt hòa hợp cùng với sanh diệt, tức là môn hạ chuyển. Nếu muốn thành lập môn thượng chuyển, thì có thể nói sanh diệt hòa hợp cùng với bất sanh bất diệt. Vì nghóa này nên trong Luận Huyền Lý vẫn giữ lại lời nói ấy. Bồ-tát Mã Minh, vốn đề cập đến A Thế Da, so với nghóa kế tiếp thì phân minh, đưa ra một gồm đủ một mà phỏng theo bày tỏ. Vì vậy không có sai lầm thiếu sót. Nghóa của chuyển thượng đối với phần đối trị, lý đó tự sáng tỏ. Đã nói về môn thượng chuyển, tiếp theo nói về phần thâu tóm đầy đủ để an lập. Các thức sai biệt số lượng đó có bao nhiêu, trong những kinh nào giải thích và tất cả có bao nhiêu loại thức? Tụng nói: Mâu Ni Đại Giác Tôn Một đời thuyết Thánh giáo Hợp chung có mười loại Các kinh nói khác nhau. Một loại là đầu tiên Mười loại thành sau cuối Các kinh quy về gốc Giải thích biểu hiện rõ. Luận nói: Tập hợp tất cả khế kinh nêu giảng khác nhau trong các Thánh giáo tuyên thuyết một đời, gồm có mười loại. Nghóa là từ một loại thức cho đến mười loại thức. Thế nào là mười loại kinh sai biệt? Đó là: Thiết lập một loại thức thâu gồm toàn bộ các thức. Trong này có bốn loại. Thế nào là bốn loại? Một là thiết lập hết thảy một tâm thức thâu tóm chung các thức. Đó là dùng một tâm thức hiện hữu khắp hai loại tự tại, không nơi nào là không an lập. Trong kinh Nhất Tâm Pháp Giới giải thích như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nhờ vào sức uy thần của Đức Phật, tức thì thưa Phật: Thưa Thế Tôn! Ngài giải thích về bao nhiêu loại thức, thể tướng như thế nào? Xin hãy vì con mở bày phân biệt rõ! Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Lành thay! Lành thay! Này Văn-thù-sư-lợi! Ông vì các đại chúng nên thưa hỏi việc này, hãy lắng nghe kỹ và cố gắng suy nghó, nhớ rõ điều ấy, Ta sẽ phân biệt giải thích. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa: Lành thay Đức Thế Tôn! Con xin vui muốn được nghe! Đức Phật nói với Văn-thù-sư-lợi: Ta chỉ kiến lập một loại thức, những thức khác chẳng phải kiến lập. Vì sao thế? Vì một loại thức ấy gồm nhiều các loại thức, thức này có nhiều loại lực, có thể làm thành tất cả các loại tên gọi, mà chỉ một thức, hoàn toàn không có pháp khác. Vì vậy Ta nói chỉ kiến lập một loại thức, những thức còn lại không phải kiến lập”. Hai là thiết lập thức A-lê-da thâu tóm toàn bộ các thức. Đó là dùng thức A-lê-da, có đầy đủ nghóa chướng ngại và không chướng ngại, không có nơi chốn nào là không thâu gồm. Trong kinh A Lê Da Thức giải thích như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Quán Tự Tại liền bạch Đức Phật: Thưa Đức Thế Tôn! Thế nào gọi là thông đạt tổng tướng nơi thức? Do nghóa gì gọi là tổng tướng? Đức Phật nói với Bồ-tát Quán Tự Tại: Thông đạt tổng tướng nơi thức ấy chính là thức A-lê-da. Thức này có sự ngăn ngại và không ngăn ngại, vốn có tất cả các pháp và đầy đủ tất cả các pháp, ví như biển cả là tên gọi tổng tướng của mọi sóng nước. Vì nghóa này nên gọi là Tổng tướng”. Ba là thiết lập thức Mạt na thâu tóm toàn bộ các thức. Đó là vì thức Mạt-na có đầy đủ nghóa của mười một loại và không có nghóa lý nào không thâu tóm. Trong kinh Hiển Liễu giải thích như vầy: “Các loại tâm thức tuy có vô lượng, nhưng chỉ do thức Mạt-na chuyển đổi chứ không có pháp nào khác. Vì sao? Vì thức Mạt na này vốn có đủ mười một loại nghóa, không có loại nào không làm được”. Bốn là thiết lập một ý thức thâu tóm chung các thức. Đó là vì ý thức có bảy loại chuyển biến tự tại, tùy theo năng lực thực hiện được sự việc của nó. Trong kinh Thất Hóa giải thích như vầy: “Ví như người có phép thuật biến hóa kỳ ảo chỉ là một người, dùng lực của phép thuật biến hóa hiện ra bảy người, người ngu si trông thấy nói là có bảy người, nhưng người trí tuệ nhìn thấy chỉ có một người chứ không có bảy người nào khác. Như người có phép thuật kỳ ảo ý thức cũng lại như vậy, chỉ một thức có năng lực thực hiện được bảy sự việc, hàng phàm phu trông thấy nói là có bảy sự việc, nhưng người giác ngộ nhìn thấy chỉ có ý thức chứ không có bảy sự việc nào khác”. Đây gọi là bốn Kinh kiến lập cùng một loại thức. Thiết lập hai loại thức thâu tóm toàn bộ các thức. Thế nào là hai loại? Một là thức A-lê-da. Hai là ý thức. Thức A-lê-da là đưa ra tổng quát ba thức: Nghiệp, Chuyển, và Hiện. Ý thức là đưa ra tổng quát bảy loại thức chuyển. Trong kinh Lăng Già giải thích như vầy: “Này Đại Tuệ! Nói rộng có tám loại thức, nói lược thì có hai loại thức. Thế nào là hai loại? Một là thức liễu biệt. Hai là thức phân biệt sự”. Cho đến nói rộng. Thiết lập ba loại thức thâu tóm toàn bộ các thức. Thế nào là ba loại? Một là thức A-lê-da. Hai là Thức Mạt-na. Ba là ý thức. Thức A-lê-da là nêu tổng quát ba tướng của thức. Thức Mạt-na là chỉ thẳng đến ý căn. Ý thức là nêu tổng quát sáu loại chuyển thức. Trong kinh Từ Vân giải thích như vầy: “Lại nữa, này Kính Thủ! Nói rộng có mười loại thức, nói tổng quát có ba loại thức. Thế nào là ba loại? Một là thức tế tướng tánh. Hai là thức căn tướng tánh. Ba là thức phân ly tướng tánh, cho đến nói rộng”. Thiết lập bốn loại thức thâu tóm toàn bộ các thức. Thế nào là bốn loại? Đó là trong ba loại trước thêm vào một tâm thức. Trong Kinh Vô Tướng giải thích như vầy: “Pháp của thức tuy là vô lượng, nhưng không ra ngoài bốn loại thức. Thế nào là bốn loại? Một là thức sở y bổn nhất. Hai là thức năng y trì tạng. Ba là thức ý trì, . Bốn là thức biến phân biệt. Cho đến nói rộng”. Thiết lập năm loại thức thâu tóm toàn bộ các thức. Thế nào là năm loại? Đó là trong bốn loại trước , thêm vào Tùy thuận biến chuyển thức”. Trong kinh Đại Vô Lượng giải thích như vầy: “Lại nữa, có thức, không phải là những thức kia thâu gồm mà hiện bày khắp các thức ấy, đó là thức tùy thuận biến chuyển”. Thiết lập sáu loại thức thâu tóm toàn bộ các thức. Thế nào là sáu loại? Đó là năm thức riêng biệt như nhãn, nhó… và thức thứ sáu là ý thức. Trong Kinh Tứ Thánh Đế giải thích như vầy: “Đức Phật bảo Thọ Vương: Ta vì các chúng sanh căn cơ nhỏ yếu, dùng ý bí mật, khởi xướng lên như vầy: Chỉ có sáu thức chứ không có thức nào khác. Nhưng thật ra thì chủ ý là muốn khiến cho hạng đó biết trong sáu loại thức vốn có tất cả các thức, do đó ở giữa đại chúng nói rõ như vậy”. Thiết lập bảy loại thức thâu tóm toàn bộ các thức. Thế nào là bảy loại? Đó là trong sáu loại trước thêm vào thức Mạt na. Trong Kinh Pháp Môn giải thích như vầy: “Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Pháp của thức có bảy loại. Thế nào là bảy loại? Đó là sáu thức thân và thức Mạt na. Bảy thức như vậy hoặc là chuyển đổi cùng một lúc, hoặc là chuyển đổi có trước sau. Vả lại, thức thứ bảy có năng lực thù thắng, có lúc tạo tác với công dụng chủ quản giữ gìn, có lúc tạo tác dựa vào sự phân biệt”. Thiết lập tám loại thức thâu tóm toàn bộ các thức. Thế nào là tám loại? Đó là trong bảy thức trước thêm vào thức A-lê-da. Trong Kinh Đạo Trí giải thích như vầy: “Tâm vương có tám loại. Thế nào là tám loại? Một là nhãn thức tâm vương, cho đến tám là dị thục báo thức tâm vương. Các loại pháp của thức không ra ngoài số lượng này”. Thiết lập chín loại thức thâu tóm toàn bộ các thức. Thế nào là chín loại? Đó là trong tám loại trước thêm vào thức Am-ma-la. Trong Kinh Kim Cang Tam Muội giải thích như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Vô Trú thưa Đức Phật: Thưa Tôn Giả! Làm sao chuyển đổi có hiệu quả, để chuyển tất cả tình thức của chúng sanh vào trong thức Am-ma-la? Đức Phật dạy: Chư Phật Như Lai thường dùng một thứ giác ngộ để chuyển các thức vào trong thức Am-ma-la”. Thiết lập mười loại thức thâu tóm toàn bộ các thức. Thế nào là mười loại? Đó là trong chín loại trước thêm vào thức Nhất thiết nhất tâm. Trong Kinh Pháp Môn giải thích như vầy: “Tâm lượng tuy là vô lượng nhưng không ra ngoài mười thức,” cho đến nói rộng. Đây là mười loại, các kinh đã giải thích khác nhau. Mười loại như vậy ở trong Bổn Luận thâu tóm thế nào, an lập thế nào? Tụng nói: Nơi Bổn luận tuy rõ Nay lại giải thích nữa Dùng văn tán trong kinh Là nói chung luận này. Luận nói: Ở trong Bổn luận tuy đã giải thích rõ, nhưng nay vì hàng độn căn nên phải giải thích lại, dùng văn Kinh có liên quan đến Luận. Đó là trong Kinh Nhất Tâm Pháp Giới đã kiến lập chung: Tất cả một tâm thức, Luận Ma-ha-diễn thâu tóm một pháp giới, nghóa như trước đã nói. Trong Kinh Thức A-lê-da, đã kiến lập chung thức A-lê-da. Luận Ma-ha-diễn thâu tóm toàn bộ thức A-lê-da. Vì sao? Ở trong Bổn luận giải thích như vầy: “Đó là bất sanh bất diệt hòa hợp với sanh diệt, chẳng phải đồng nhất, chẳng phải khác biệt, nên gọi là thức A-lê-da. Thức này có hai loại nghóa, có năng lực thâu tóm tất cả các pháp và phát sanh tất cả các pháp. Thế nào là hai loại? Một là nghóa giác. Hai là nghóa bất giác”. Trong Kinh Hiển Liễu, đã kiến lập chung thức Đại Mạt-na, Luận Ma-ha-diễn thâu tóm toàn bộ thức Mạt-na. Tại sao? Trong Bổn luận giải thích như vầy: “Vả lại, nhân duyên sanh diệt nghóa là chúng sanh dựa vào sự chuyển đổi của tâm ý, ý thức. Nghóa này là thế nào? Vì dựa vào thức A-lê-da, nói có vô minh, không giác ngộ được, nơi cảnh giới luôn thấy, luôn hiện có và luôn giữ lấy, dấy lên phân biệt liên tục nên nói là ý. Ý này lại có năm tên gọi. Thế nào là năm tên gọi? Một là gọi thức nghiệp, là vì lực của vô minh nên không giác ngộ, do đó tâm biến động. Hai là gọi thức chuyển, vì dựa vào sự biến động của tâm nên luôn thấy có tướng. Ba là gọi thức, đó là luôn hiện bày tất cả các cảnh giới. Giống như gương sáng hiện rõ các cảnh sắc hình tượng. Thức hiện cũng vậy, tùy theo năm trần cảnh hướng đến lập tức hiện rõ không hề có trước sau, trong tất cả mọi lúc tùy ý vận dụng khởi lên và hiện tiền. Bốn là gọi thức trí, là vì phân biệt các pháp nhiễm tịnh. Năm là gọi thức tương tục, vì niệm tương ưng không ngừng lại, cho đến nói rộng”. Trong kinh Thất Hóa đã kiến lập tổng quát cùng một ý thức, Luận Ma- ha-diễn thâu tóm một phần ý thức, nói về tướng tuy thiếu nhưng mật ý thì đầy đủ. Ở trong Bổn luận giải thích như vầy: “Vả lại, nói ý thức, chính là thức tương tục này, dựa vào sự chấp giữ của các hàng phàm phu chuyển sang sâu dày, các loại vọng chấp về ngã và ngã sở, thuận theo việc chạy theo sáu trần mà duyên phân biệt, gọi là ý thức”, cho đến nói rộng. Tất cả các kinh như vậy, tùy theo xứ sở thích hợp nên phối hợp tương xứng như thế. Đã nói về phần thâu tóm đầy đủ để an lập, tiếp theo nói về phần tạng thức phân tích theo tên chữ. Tên gọi sai biệt của thức A-lê-da, số lượng đó có bao nhiêu, ở trong kinh điển giải thích khác nhau và tướng đó thế nào? Nghóa của chữ như thế nào và thuộc về những nơi nào? Tụng nói: Thức A-lê-da có mười Khế kinh giải thích khác Ma Ha Kiện Đát Tiêu Ai Kiện A Thi Già La Bạch Bạch Am Ma La Hắc Bạch Am Ma La Yết La La Kiện Ma Phược Đa Đề Kiện Ma Xa Ha Na Kiện Ma Bà A Xoa Ni La Bạch Bạch Ca Tát La Hắc Bạch Ca Tát la. Mười loại thức như vậy Trong Luận Ma Ha Diễn Giải thích biểu hiện rõ Tùy thuận nên phối hợp. Luận nói: Thức A-lê-da toàn bộ có mười loại. Vì sao? Vì ở trong các kinh đã giải thích phân biệt khác nhau. Thế nào là mười loại? Đó là: Gọi là thức A-lê-da Đại Nhiếp Chủ, đó chính là Đại Tổng Tướng của thức, nghóa như trước đã nói. Gọi là thức A-lê-da vô minh căn bản, đó là vô minh căn bản thiết lập riêng, lấy đó làm thức A-lê-da. Trong Kinh Thập Chủng Tưởng vọng giải thích như vầy: “Thức Sát Xa Chỉ Đa Đề Vương, chính là pháp hư vọng, không thể thấu rõ được thể của một pháp giới, tất cả các pháp nhiễm, thức A-lê-da lấy đó làm căn bản, sanh ra và nuôi lớn thêm, không lúc nào đoạn dứt. Nếu không có thức Đề Vương thì quyến thuộc của phẩm đen tối vónh viễn không có nơi nương tựa, không thể sanh trưởng được. Thức A-lê-da này sẽ thuộc về phần quyết trạch nào?”. Ở trong Bổn luận giải thích như vầy: “Đó là nói về nghóa bất giác, nghóa là không biết đúng như thật pháp Chân như duy nhất, tâm bất giác dấy lên nên có sự phân biệt”, cho đến nói rộng. Gọi là thức A-lê-da thanh tịnh Bổn giác, đó là trí căn bản tự nhiên được thiết lập riêng, lấy đó làm thức A-lê-da. Trong Kinh Bổn Giác giải thích như vầy: “Tự thể thanh tịnh của Phật trong thức A-lê- da, đầy đủ mọi công đức vô lậu và viên mãn, luôn thanh tịnh và luôn quyết định, không có tướng bị huân tập, không có tướng biến dị, thể của trí không biến động có đầy đủ phẩm chất trong sáng (phẩm Bạch), vì vậy gọi là chỉ có một thức thanh tịnh”. Thức A-lê-da này sẽ thuộc về phần quyết trạch nào? Ở trong Bổn luận giải thích như vầy: “Vả lại, thể tướng của giác có bốn loại nghóa về đại, sánh cùng hư không và giống như gương sáng”, cho đến nói rộng. Gọi là thức A-lê-da nhiễm tịnh Bổn giác, đó là trí Đà-la-ni không giữ lấy tự tánh mà thiết lập riêng, lấy đó làm thức A-lê-da. Trong Kinh Bổn Nhân Duyên Khởi giải thích như vầy: “Bấy giờ, Đồng tử Quang Nghiêm liền thưa với Đức Phật: Thưa Tôn giả! Do nhân duyên gì khó vào trong chúng hội, chưa từng có mà dấy lên nói như vậy? Vì tùy theo duyên khác khởi lên trí Đà-la-ni, gọi là thức Lăng Già Vương. Thế nào là Lăng Già Vương? Lấy điều đó để ví dụ bày tỏ duyên khởi của trí Đà- la-ni kia? Tôn giả nói với Đồng tử Quang Nghiêm: Lăng Già Vương này thường ở trong núi Ma-la giữa biển lớn, dẫn theo mười vạn sáu ngàn chúng quỷ thần để làm quyến thuộc. Các quyến thuộc như vậy đều nhờ vào cung điện hóa hiện du hành qua các cõi nước, tất cả đều nhờ vào Lăng Già Vương mới được đến nơi. Nghóa là các chúng quỷ thần cùng nói như vầy: Chúng thần chúng tôi không có uy đức, không có khí lực, đối với những gì đã làm hoàn toàn không có năng lực của mình, nếu như thích hợp mong Đại Vương ban cho năng lực có thể để mọi người chúng tôi thực hiện được. Lăng Già Vương lập tức thuận theo, lúc dó ban cho lực thù thắng, không tách rời nhau mà cùng chuyển dời. Tức Lăng Già Vương tuy không phân thân nhưng có thể hiện hữu khắp nơi trong các thần chúng, đối với tất cả mỗi mỗi người đều khiến đạt được số lượng của toàn thân, ở trong tất cả mọi lúc, ở tại tất cả mọi nơi, cùng nhau chuyển đổi không xa rời. Trí không giữ lấy tự tánh cũng lại như vậy, có thể tiếp nhận vô lượng vô biên phiền não của tất cả pháp nhiễm do chúng quỷ thần huân tập, nhưng không tách rời nhau mà cùng chuyển đổi. Vì nhân duyên này, Ta mới nói là khó vào trong hội chúng như vậy, thuận theo chuyển đổi giác trí gọi là thức Lăng Già Vương”. Thức A-lê-da này sẽ thuộc về phần quyết trạch nào? Ở trong Bổn luận giải thích như vầy: “Tự tánh thanh tịnh của tâm, vì gió Vô minh làm cho lay động, tâm và vô minh hoàn toàn không có hình tướng và không tách rời nhau”. cho đến nói rộng. Gọi là thức A-lê-da nghiệp tướng nghiệp thức. Đó là tướng ng- hiệp cùng với thức nghiệp căn bản, thiết lập riêng để trở thành thức A-lê-da. Trong Kinh Bổn Tánh Trí giải thích như vầy: “Thức A-lê-da không có chủ thể tạo tác phân biệt, không có đối tượng được tạo tác phân biệt, không thể phân tích và không thể cách biệt, chỉ căn cứ vào nghóa rất bền và lưu chuyển kín, nên gọi là Kiện Ma”. Thức A-lê-da này sẽ thuộc phần quyết trạch nào? Ở trong Bổn luận giải thích như vầy: “Vả lại, dựa vào bất giác nên phát sanh ba loại tướng, cùng với bất giác tương ưng không xa rời. Thế nào là ba tướng? Là tướng Vô minh, Nghiệp, vì dựa vào bất giác, tâm biến động nên nói là Nghiệp. Giác thì không biến động, biến động thì có khổ, vì quả không lìa nhân”. Gọi là thức A-lê-da chuyển tướng chuyển thức, đó là năng lực thấy tướng của cảnh giới cùng với chuyển thức, thiết lập riêng để trở thành thức A-lê-da. Trong Kinh Đại Vô Lượng giải thích như vầy: “Thức A-lê-da có cái thấy thì cái thấy chuyển đổi – không có cái thấy thì cái thấy khởi lên”. Thức A-lê-da này sẽ thuộc phần quyết trạch nào? Ở trong Bổn luận giải thích như vầy: “Hai là tướng có thể thấy, vì dựa vào sự biến động nên có thể thấy, không biến động thì không thấy gì”. Gọi là thức A-lê-da hiện tướng hiện thức, đó là tướng của cảnh giới cùng hiện thức, thiết lập riêng để làm thành thức A-lê-da. Trong Kinh Thật Tế giải thích như vầy: “Biệt dị và biệt dị ở địa hiện tiền chuyển đổi, cùng khác biệt và cùng khác biệt đầy đủ hành chuyển, vì vậy gọi là thức A-lê-da. Hơn nữa, thức A-lê-da này thực sự là pháp dị thục vô ký, tướng thanh tịnh nên hoặc gọi là thành thục”. Thức A-lê-da này sẽ thuộc phần quyết trạch nào? Ở trong Bổn luận giải thích như vầy: “Ba là tướng cảnh giới, vì dựa vào chủ thể nhìn thấy, cảnh giới huyễn vọng hiện rõ, do dó lìa cái thấy thì không có cảnh giới”. Gọi là thức A-lê-da thuộc về lý tánh Chân như, đó là chánh trí đã chứng Chân như thanh tịnh, thiết lập riêng để trở thành thức A-lê-da. Trong Kinh Chư Pháp Đồng Thể giải thích như vầy: “Có thức là thức, không phải thức thuộc về thức, đó gọi là thức A-lê-da Như Như”. Thức A-lê-da này sẽ thuộc phần quyết trạch nào? Tức là cảnh của Bát nhã thanh tịnh thuộc về Chân như. Gọi là thức thức A-lê-da, thuộc về Thỉ giác thanh tịnh. Đó là vốn có Bát nhã thuần khiết của Thỉ giác, thiết lập riêng để làm thành thức A-lê-da. Trong Kinh Quả Viên Mãn giải thích như vầy: “Đức Phật nói với Thọ Vương Bồ Đề: Thức A-lê-da Thỉ giác tự nhiên, sẽ luôn không lìa Bổn giác thanh tịnh. Bổn giác thanh tịnh sẽ luôn không lìa thức thanh tịnh của Thỉ giác, thuận theo nơi này mà nơi kia có, thuận theo nơi kia mà nơi này xuất hiện, hoặc là chẳng cùng loại – hoặc chẳng phải khác loại”. Thức A-lê-da này sẽ thuộc phần quyết trạch nào? Ở trong Bổn luận giải thích như vầy: “Nghóa Bổn giác là đối với Thỉ giác mà nói, vì Thỉ giác ấy tức giống như Bổn giác”. Gọi là thức A-lê-da nhiễm tịnh Thỉ giác. Đó là Bát nhã của tùy duyên Thỉ giác, thiết lập riêng để trở thành thức A-lê-da. Trong Kinh Quả Viên Mãn giải thích như vầy: “Lại nữa, này Thọ Vương! Giống như thức thanh tịnh của Thỉ giác và Bổn giác trong sáng, nói về thức A-lê-da Thỉ giác nhiễm hay tịnh, không giữ lấy tự tánh mà duyên vào đó khởi Bổn giác cũng lại như vậy”. Thức A-lê-da này sẽ thuộc phần quyết trạch nào? Ở trong Bổn luận giải thích như vầy: “Nghóa Thỉ giác là dựa vào Bổn giác mà phát sinh Bất giác, dựa vào Bất giác nên nói là có Thỉ giác. Lại vì giác ngộ nguồn gốc của tâm nên gọi là Cứu cánh giác, không giác ngộ gốc tâm nên chẳng phải là Cứu cánh giác”, cho đến nói rộng. Những ý nghóa như vậy đến phần Tự quyết trạch sẽ quảng diễn đầy đủ. Đồng thời, mười loại Mạt-na và sáu loại ý thức, ở trong văn sau theo thứ tự sẽ giải thích, nay chỉ lược nêu. Đã nói về phần Tạng thức phân tích theo tên chữ, phần phân Biệt tướng. Tiếp đến nói về phần Tổng thức thâu gồm và phát sinh đầy đủ trọn vẹn. Thức này có hai loại nghóa, có năng lực thâu tóm tất cả các pháp và có năng lực phát sanh tất cả các pháp. Thế nào là hai nghóa? Một là nghóa Giác. Hai là nghóa Bất giác. Nhưng toàn bộ là biểu hiện rõ về tướng viên mãn thù thắng của Bổn thức. Nghóa này là thế nào? Đó là đầy đủ hai loại viên mãn. Thế nào là hai loại? Một là công đức viên mãn. Hai là lỗi lầm gồm đủ. Công đức viên mãn là câu chữ về nghóa của Giác, vì có năng lực thâu gồm tất cả các công đức vô lượng vô biên, vượt quá hằng hà sa số không rời xa, không gián đoạn, và có năng lực phát sanh tất cả các công đức vô lượng vô biên, vượt quá hằng sa số, không xa rời, không gián đoạn. Lỗi lầm gồm đủ là câu chữ về nghóa của Bất giác, vì có sức thâu tóm tất cả các lỗi lầm vô lượng vô biên, vượt quá hằng sa số hoặc xa rời hoặc thoát khỏi, có sức phát sanh tất cả các lỗi lầm vô lượng vô biên vượt quá hằng sa số hoặc xa rời hoặc thoát khỏi. Như vậy các loại tướng trạng thâu tóm và phát sanh huân tập sai biệt, đến phần Quyết trạch biệt tướng sẽ biểu hiện phân biệt rõ.  <卷>QUYỂN 3 Đã nói về phần tổng thức thâu tóm và phát sinh viên mãn. Tiếp theo nói về phần trình bày phân nhỏ để phân biệt về tổng tướng. Bổn Luận nói: Nói về nghóa của giác, là thể của tâm lìa tướng phân biệt. Lìa tướng phân biệt sánh bằng hư không giới, một tướng pháp giới không đâu là không hiện hữu khắp, chính là Pháp thân bình đẳng của Như Lai. Dựa vào Pháp thân này nên gọi là Bổn giác. Tại sao? Vì nghóa của Bổn giác là đối với Thỉ giác mà nói. Vì Thỉ giác tức đồng với Bổn giác. Nghóa của Thỉ giác ấy dựa vào Bổn giác mà xuất hiện Bất giác, dựa vào Bất giác nên nói là có Thỉ giác. Lại, vì giác ngộ bổn tâm nên gọi là Cứu cánh giác, không giác ngộ về bổn tâm do đó không phải là Cứu cánh giác. Luận giải thích: Ở trong văn này có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần lược nói về an lập Bổn giác. Hai là phần lược nói về an lập Thỉ giác. Trong phần Bổn giác đã có hai vấn đề. Thế nào là hai? Một là về phương diện Bổn giác thanh tịnh. Hai là về phương diện Bổn giác nhiễm tịnh. Trong phần Thỉ giác lại có hai vấn đề. Thế nào là hai? Một là về phương diện Thỉ giác thanh tịnh. Hai là về phương diện Thỉ giác nhiễm tịnh. Thế nào gọi là Bổn giác thanh tịnh? Vì vốn có Pháp thân từ vô thỉ đến nay có đầy đủ các công đức viên mãn vượt quá hằng sa số và luôn trong sáng. Thế nào gọi là Bổn giác nhiễm tịnh? Vì tự tánh thanh tịnh của tâm bị vô minh lôi kéo che chắn, lưu chuyển trong sanh tử không lúc nào đoạn dứt. Thế nào gọi là Thỉ giác thanh tịnh? Đó là tánh trí vô lậu tách rời tất cả vô lượng vô minh, không bị tất cả vô minh lôi kéo che chắn. Thế nào gọi là Thỉ giác nhiễm tịnh? Đó là Thỉ giác Bát nhã bị vô minh lôi kéo che chắn không thể nào xa rời được. Các giác như vậy đều là quyến thuộc của trí, sẽ chứng được lý nào để trở nên thành phần của thể? Đó là lý tánh Chân như và lý hư không. Hai lý như vậy thì mỗi lý có bao nhiêu loại? Mỗi lý có hai loại? Thế nào gọi là hai loại Chân như? Một là Chân như thanh tịnh. Hai là Chân như nhiễm tịnh. Lý của hư không cũng lại như vậy. Thế nào gọi là Chân như thanh tịnh? Đó là hai loại giác thanh tịnh đã chứng Chân như, vì xa rời mọi sự huân tập. Thế nào gọi là Chân như nhiễm tịnh? Đó là Chân như của hai loại Giác nhiễm, tịnh đã chứng, vì không xa rời sự huân tập. Lý của hư không cũng lại như vậy. Do nghóa nào mà tạm gọi là Bổn, Giác? Quan hệ của chữ sai biệt và tướng đó thế nào? Tụng nói: Bổn, Giác đều có mười Thể tuy đồng sự chữ Tất cả đều sai biệt Nghóa các loại căn - kính. Luận nói: Bổn, Giác mỗi loại có mười. Thế nào là mười Bổn? Đó là: Bổn quan hệ với chữ Căn, vốn có Pháp thân có thể khéo an trú và giữ gìn tất cả mọi công đức. Ví như cây có gốc rễ nên có thể khéo giữ chắc tất cả cành lá và hoa quả khiến không thể hỏng mất. Bổn quan hệ với chữ Bổn, vốn có Pháp thân từ vô thỉ đến nay, tánh tự nhiên có chứ không phải bắt đầu phát khởi. Bổn quan hệ với chữ Viễn, vốn có Pháp thân và lúc có công đức thì trùng trùng vô tận không phân chia được giới hạn. Bổn quan hệ với chữ Tự, vốn có Pháp thân và mình tự thành tựu, không phải là ai khác thành tựu cho mình. Bổn quan hệ với chữ Thể, vốn có Pháp thân vì các cành nhánh công đức làm nơi nương tựa. Bổn quan hệ với chữ Tánh, vốn có Pháp thân với nghóa không xoay chuyển, vì luôn kiến lập. Bổn quan hệ với chữ Trú, vốn có Pháp thân an trú ở nơi vô trú không có đi đến. Bổn quan hệ với chữ Thường, vốn có Pháp thân quyết định phù hợp với thực tế không lưu chuyển. Bổn quan hệ với chữ Kiên, vốn có Pháp thân xa rời tướng lay động (gió), kiên cố bất động giống như kim cang. Bổn quan hệ với chữ Tổng, vốn có Pháp thân rộng lớn đầy đủ trọn vẹn, không đâu là không hiện bày khắp và trở thành Thể nối thông với nhau. Đây gọi là mười Bổn. Thế nào là mười Giác? Đó là: Giác quan hệ với chữ Kính, (tấm gương) là tuệ Nhất thiết trí thanh tịnh trong suốt, không hề vướng bụi. Giác quan hệ với chữ Khai, là tuệ Nhất thiết trí thông đạt biểu hiện rõ không có chướng ngại. Giác quan hệ với chữ Nhất, là tuệ Nhất thiết trí độc tôn độc nhất không gì sánh được. Giác quan hệ với chữ Ly, là tuệ Nhất thiết trí có tự tánh giải thoát, tách rời tất cả các loại ràng buộc. Giác quan hệ với chữ Mãn, là tuệ Nhất thiết trí có đầy đủ vô lượng các loại công đức, không có thiếu sót. Giác quan hệ với chữ Chiếu, là tuệ Nhất thiết trí phát ra ánh sáng vó đại, soi chiếu khắp tất cả vô lượng cảnh giới. Giác quan hệ với chữ Sát, (quán sát) là tuệ Nhất thiết trí luôn trong sáng rõ ràng không hề mê loạn. Giác quan hệ với chữ Hiển, là trong thể thanh tịnh của tuệ Nhất thiết trí hiện rõ tất cả các hàng quyến thuộc thanh tịnh. Giác quan hệ với chữ Tri, là tuệ Nhất thiết trí đối với tất cả các pháp không pháp nào không cùng tận. Giác quan hệ với chữ Giác, là công đức vốn có của tuệ Nhất thiết trí chỉ có tuệ giác soi chiếu, không có bất cứ một pháp nào không phải là Giác. Như vậy mười loại nghóa của chữ Bổn, Giác, chỉ dựa vào một loại Pháp thân của Đại Tánh, tùy theo nghóa nên có giải thích khác nhau, căn cứ vào tự thể thì không sai khác. Trong hai loại Bổn, Giác đã nói trong này, xác đáng là Bổn giác nào? Đó là Bổn giác thanh tịnh chứ không phải là Bổn giác nhiễm tịnh. Nghóa của chữ Bổn giác nhiễm tịnh sai biệt và tướng đó thế nào? Tụng nói: Trong Bổn giác nhiễm tịnh Hoặc đều có mười nghóa Trong mười sự nói trước Đều có xa rời tánh. Luận nói: Trong Bổn giác này hoặc là tất cả có mười nghóa. Vì sao? Vì trong mười nghóa ở trước tất cả đều có nghóa “không giữ lấy tự tánh”, còn quan hệ của chữ kết hợp thì theo như trước nên biết. Hai Giác như vậy là giống nhau hay khác nhau? Chẳng phải giống nhau mà giống nhau, chẳng phải khác nhau mà khác nhau, vì nghóa này nên hoặc là giống nhau, hoặc là khác nhau, hoặc chẳng phải là giống nhau, hoặc chẳng phải là khác nhau, do đó đều là nó, đều không phải là nó. Do nghóa nào mà tạm gọi là Thỉ giác, quan hệ của chữ sai biệt và tướng đó thế nào? Tụng nói: Từ vô thỉ đến nay Không lúc nào mê loạn Hôm nay lần đầu giác Nên gọi là Thỉ giác. Luận nói: Thỉ giác Bát nhã từ vô thỉ đến nay, không có lúc nào mê loạn, lúc không mê ấy, bây giờ mới lần đầu giác, nên gọi là Thỉ giác. Như vậy, Thỉ giác nếu trước mê sau mới giác thì chẳng phải là Thỉ giác, nhưng lúc không mê ấy mà lý luôn trước mắt, luôn là ban đầu, nên gọi là Thỉ giác. Như Thỉ giác này trong hai loại Thỉ giác, thích hợp là Giác nào? Đó là Thỉ giác thanh tịnh chứ không phải là Thỉ giác nhiễm tịnh. Quan hệ của chữ Thỉ giác nhiễm tịnh sai biệt ra sao, tướng đó thế nào? Tụng nói: Trí Thỉ giác thanh tịnh Vì không giữ tự tánh Mà bị nhiễm huân tập Nên gọi Giác nhiễm tịnh. Luận nói: Thỉ giác thanh tịnh tuy không có lúc nào mê lầm, nhưng vì không giữ lấy tự tánh nên có thể bị pháp nhiễm huân tập, thuận theo duyên mà lưu chuyển. Do nghóa này nên gọi là Thỉ giác nhiễm tịnh. Vì nghóa nào mà tạm gọi là Chân như, quan hệ của chữ ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Lý thể tánh Chân như Bình đẳng và bình đẳng Không có một, nhiều tướng Nên gọi là Chân như. Luận nói: Lý của tánh Chân như là bình đẳng và hoàn toàn bình đẳng, chỉ đồng một tướng, cũng không có một tướng, cũng không có nhiều tướng. Vì không có một tướng nên xa rời duyên giống nhau, vì không có nhiều tướng nên tách rời duyên khác nhau. Do nghóa này nên gọi là Chân như. Như vậy hai loại trí thanh tịnh của Chân Như tự trong tâm đã chứng đạt. Vả lại, Chân - Như đều có mười nghóa. Thế nào là mười Chân? Đó là: 1. Chân quan hệ với chữ Căn, cho đến thứ mười là Chân quan hệ với chữ Tổng. Như vậy mười Chân với mười loại nghóa của Bổn, tương ưng đều có và không tách rời nhau, vì vậy tên gọi giống nhau để biểu thị. Thế nào là mười Như? Đó là: 1.Như quan hệ với chữ Kính, cho đến thứ mười là Như quan hệ với chữ Giác. Như vậy mười Như với mười loại nghóa về Giác, tương ưng đều có và không tách rời nhau, vì vậy tên gọi giống nhau để biểu thị. Vì sao? Vì mười loại lý của Chân, vốn có Pháp thân và có phương tiện của công đức. Mười loại lý của Như, thì tuệ Nhất thiết trí có phương tiện của giác ngộ. Do nghóa này nên lặp lại ngôn từ bày tỏ như vậy. Ở đây nói đối với hai loại Chân Như thích hợp là Chân Như nào? Đó là Chân Như thanh tịnh chứ không phải là Chân Như nhiễm tịnh. Quan hệ của chữ Chân - Như nhiễm tịnh sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Lý Chân Như thanh tịnh Vì không giữ tự tánh Mà bị nhiễm huân tập Gọi Chân Như nhiễm tịnh. Luận nói: Chân như thanh tịnh từ vô thỉ đến nay, tự tánh thanh tịnh bình đẳng và hoàn toàn bình đẳng, bất sanh bất diệt, cũng không có đi - đến, cũng không có nơi chốn. Nhưng lý tánh của Chân Như không giữ lấy tự tánh nên tùy theo duyên mà biến động lưu chuyển, vì vậy gọi là Chân Như nhiễm tịnh. Như thế hai trí tịnh và nhiễm của Chân Như tự trong tâm đã chứng đạt, tương ưng đều có và không tách rời nhau. Các nghóa như vậy, hãy xem ở trước đã nói so sánh chỗ tương tự cần biết. Do nghóa nào mà tạm gọi là hư không, quan hệ với chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Hư không có mười nghóa Thể tuy đồng với nghóa Vì tất cả sai biệt Là các nghóa vô ngại. Luận nói: Lý về tánh hư không có mười loại nghóa. Thế nào là mười loại? Đó là: Nghóa không chướng ngại, vì trong các sắc pháp không có chướng ngại. Nghóa châu biến, vì không đâu là không đến. Nghóa bình đẳng, vì không lựa chọn gì. Nghóa quảng đại, vì không phân chia giới hạn. Nghóa vô tướng, vì đoạn tuyệt sắc tướng. Nghóa thanh tịnh, vì không vướng trần cấu ô nhiễm. Nghóa bất động, vì không có thời kỳ thành và hoại. Nghóa hữu không, vì diệt trừ hạn lượng của có. Nghóa không không, vì xa rời chấp trước không. Nghóa vô đắc, vì không thể nắm giữ được. Đây gọi là mười nghóa. Như vậy mười sự việc có ý nghóa và tác dụng sai biệt, nếu như dựa vào thể thì không có phân biệt. Hai loại trí thanh tịnh về lý hư không này tự trong tâm đã chứng đạt, tương ưng đều có và không tách rời nhau. Trong hai lý hư không thì hư không nào là thích hợp? Đó là hư không thanh tịnh chứ không phải là hư không nhiễm tịnh. Quan hệ của chữ hư không nhiễm tịnh sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Lý hư không thanh tịnh Vì không giữ tự tánh Bị pháp nhiễm huân tập Gọi hư không nhiễm tịnh. Luận nói: Hư không thanh tịnh vốn có đủ mười đức, cũng không có tướng nhiễm ô - cũng không có tướng thanh tịnh, nhưng tánh hư không chẳng giữ lấy tự tánh, vì thế có thể bị pháp nhiễm huân tập, tùy theo duyên mà biến động lưu chuyển, nên gọi là hư không nhiễm tịnh. Chủ thể huân tập, đối tượng huân tập, kiến lập và phỉ báng cùng các loại phương diện khác, đến phần giải thích mở rộng về lý đó sẽ hiển bày đầy đủ. Đã nói về phần quan hệ của chữ, tiếp theo nói về phần thuận theo giải thích. Nói về nghóa của Giác, chính là câu tổng hợp, từ đây về sau đều là câu phân tích. Tổng là bày tỏ chung về tất cả về Giác. Biệt là tất cả mỗi loại đều nói khác nhau. Ngay trong câu phân tích trước tiên nói về Bổn giác thanh tịnh, Thỉ giác thanh tịnh, tiếp đến nói về Bổn giác nhiễm tịnh, Thỉ giác nhiễm tịnh. Như thứ tự đó nói về tướng có thể thấy, nghóa là tâm thể tách rời tướng niệm, chính là Bổn giác thanh tịnh. Tâm chính là tâm thanh tịnh của tự tánh, thể chính là thể của Pháp thân vốn có. Như vậy tâm thể chính là tên gọi của Bổn giác. Ly tướng niệm chính là biểu hiện rõ về nghóa của thanh tịnh. Điều ấy nghóa là rời xa ý niệm vô minh to lớn nên nói là ly niệm, rời xa bốn loại tướng của vô thường nên nói là ly tướng, vượt qua hằng hà sa quyến thuộc của phiền não. Đây là năm pháp hữu vi và lấy đó làm căn bản, vì vậy nêu lên vốn không có, bày tỏ quyến thuộc đều là không. Xa lìa tướng niệm, tức là người xướng lên Bổn giác thanh tịnh, từ ngữ diễn tả chính là con người. Sánh bằng hư không giới không đâu không đầy khắp, người giác ngộ như vậy khéo chứng lý hư không vốn có đủ nghóa của mười loại công đức. Một tướng pháp giới là như người giác ngộ này đối với Chân như pháp giới đã chứng đạt, cùng nhau hòa hợp, cùng một vị, cùng một tướng chẳng có sai biệt, đó chính là Pháp thân bình đẳng của Như Lai. Khéo chứng đạt lý của hai loại thắng diệu về Giác thanh tịnh, chính là tự tánh, tự thể của Pháp thân Như Lai. Dựa vào Pháp thân này, gọi là Bổn giác, tức vốn có Pháp thân trong đức của tự tánh, làm thành nơi quay về nương tựa, kiến lập gọi là Bổn giác thanh tịnh. Đã nói về Bổn giác thanh tịnh, tiếp theo nói về Thỉ giác thanh tịnh. Tại sao như vậy? Chính là ngôn từ xin thưa hỏi, nghóa là muốn kiến lập Thỉ giác thanh tịnh phải thưa thỉnh như thế. Hỏi về tướng trạng thế nào, nghóa là có chúng sanh chất vấn như vầy: Pháp thân vốn có từ xưa đến nay, có đầy đủ vô lượng tánh công đức, luôn trong sáng, luôn tự tại. Dựa vào nghóa này nên gọi là Bổn giác. Như vậy Bổn giác ở trong thời gian nào, do nhân duyên gì và có đầy đủ tất cả công đức vô lượng gọi là Bổn giác chăng? Nếu nói như vậy, thì Bổn giác này có trí lực vó đại, có thể khéo đoạn trừ tất cả mọi sai lầm. Có đầy đủ các công đức tốt đẹp ấy, chính là Bổn giác này trước mê hoặc sau mới giác ngộ, không phải là Bổn giác sáng rõ. Tức là công đức đoạn này trở về trước là ẩn kín, trở về sau đoạn là lộ rõ thì không phải là tự tánh sáng rõ. Há mê hoặc - giác ngộ - ẩn kín hay lộ rõ, là nghóa vốn có mà được thành lập sao? Nếu nói như vậy thì thường đoạn lại không đoạn được, thường đầy đủ lại không đầy đủ được, vì vậy thuận theo phát sinh Bổn Đoạn - Bổn Đức, nghóa này cũng không thành lập. Không có nghóa lỗi lầm công đức, là tất cả mọi chướng ngại từ xưa đã đoạn xong lại không cần phải đoạn, tất cả mọi công đức từ xưa vốn có đủ càng không cần phải đầy đủ, thì Giác ấy chính là Thỉ giác chứ không phải là Bổn giác. Vì vậy trong Bát nhã Ba-la-mật giải thích như vầy: “Nếu Giác là Thỉ giác, nếu Bất giác tức là Vô minh, nếu tách rời hai loại này thì gọi là Bổn giác”. Do nghóa gì mà có thể giải thích như vậy. Trong đức nơi tự tánh của Pháp thân vốn có, làm thành nơi quay về nương tựa và gọi là Bổn giác, vì thế nói là tại sao. Nghóa về Bổn giác là đối với Thỉ giác mà có, là trực tiếp giải quyết sự nghi ngờ. Nghóa là Đại sư Mã Minh tự thông suốt mà nói: Bổn giác thanh tịnh, từ xưa đến nay không sanh không diệt, không phải kiến lập mà có - không phải phỉ báng mà không có, hoặc chẳng phải sai lầm - hoặc chẳng phải công đức, đạo ngôn ngữ tuyệt - xứ tâm hành diệt, mà lại có ngôn ngữ diễn tả. Vô lượng tánh đức đầy đủ tốt đẹp vượt quá hằng sa số gọi là Bổn giác, nên biết từ vô thỉ đến nay, lại có Thỉ giác thanh tịnh, là do phát khởi trí lực lớn - phát khởi định lực lớn, đối với tất cả mọi lúc - đối với tất cả mọi nơi, luôn đối trị, vượt qua hằng sa số đại dương sai lầm vô lượng vô biên, đầy đủ trọn vẹn vô lượng vô biên công đức thanh tịnh vượt quá hằng sa số. Đối với Thỉ giác thanh tịnh này, nên lập thành tên gọi của Bổn giác thanh tịnh, vì Thỉ giác chính là giống như Bổn giác. Nêu lên những lý do ấy, nói là vì Thỉ giác tự nhiên và Bổn giác kia như nhau, có thể đối với Thỉ giác chỉ ra Bổn giác. Như vậy, có hai Giác huân tập sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Bổn, Thỉ giác thanh tịnh Từ vô thỉ đến giờ Xa lìa tất cả nhiễm Trong sáng như hư không. Thế nên trong môn này Pháp nhiễm không huân tập Pháp tịnh luôn huân tập Chỉ có tự phẩm đức. Luận nói: Hai Giác như vậy không có sai biệt giữa chủ thể huân tập với đối tượng được huân tập, chỉ có công đức chân thật của chính nó. Trong môn này không cần phải kiến lập chủ thể huân tập và đối tượng được huân tập. Nếu là như vậy, ở trong môn này có nghóa gì là huân tập mà cho có huân tập? Pháp nhiễm và pháp tịnh không đối đãi nhau mà thành, đó là ngay nơi này đầy đủ chuyển thành huân tập. Huân tập ấy là thế nào? Đó là hoàn toàn rõ ràng. Trong Kinh Tam Thân Bổn Hữu giải thích như vầy: “Bổn giác vốn có - Thỉ giác vốn có, chỉ có công đức huân tập không có lỗi lầm, công đức huân tập chỉ có chuyển đầy đủ, không có từng phần chuyển đổi theo sự”. Đã nói về Thỉ giác thanh tịnh, tiếp đến nói về hai Giác lìa tánh. Nghóa về Thỉ giác là dựa vào Bổn giác mà có Bất giác, dựa vào Bất giác nên nói là có Thỉ giác, ấy là nêu ra rõ hai loại Bổn - Thỉ lìa tánh. Nói dựa vào Bổn giác mà có Bất giác, chính là Bổn giác xa rời tánh. Dựa vào Bất giác nên nói là có Thỉ giác, chính là Thỉ giác xa rời tánh. Nghóa này là thế nào? Vì Bổn giác Bát nhã không giữ lấy tự tánh, dễ dàng bị pháp nhiễm huân tập, các pháp nhiễm kia khiến có thể dừng lại, chính là nghóa của Bổn giác xa rời tánh. Thỉ giác Bát nhã không giữ lấy tự tánh, dựa vào các pháp nhiễm đến nay mới dấy lên thì bị pháp nhiễm lừa gạt, chính là nghóa của Thỉ giác xa rời tánh. Thỉ giác Bát nhã có năng lực đoạn trừ các chướng ngại để chứng đạt các công đức, vì sao nói là trí của Thị giác bị pháp nhiễm lừa gạt? Vì đối với pháp không có sai lầm thì thiết lập các loại sai lầm để đoạn trừ chướng ngại, đối với pháp không có công đức thì thiết lập các công đức để chứng đạt được lý. Nếu vậy thì Thỉ giác ở trong thời gian nào mới được xa rời niệm vọng? Lúc đạo giải thoát đạt tới tột cùng, mới được xa rời hoàn toàn, vì trong lúc ấy đạt đến nơi không còn niệm. Hai sự việc mãn chuyển và phần chuyển về sau sẽ nói rõ. Đã nói về phần lược nêu an lập hai Giác, tiếp theo nói về phần mở rộng để quyết trạch hai Giác. Bổn Luận nói: Nghóa này là thế nào? Như người phàm phu, vì biết niệm trước khởi dấy là niệm ác, nên có thể ngăn niệm sau khiến niệm ác ấy không nổi lên, tuy lại gọi là Giác mà chính là Bất giác. Như các hàng Nhị thừa quán trí - Bồ-tát mới phát tâm…, giác ngộ đối với niệm khác nhau mà niệm không hề khác tướng. Do xả bỏ tướng chấp trước phân biệt thuộc phần thô, nên gọi là Tương tự giác. Như hàng Bồ-tát pháp thân, giác ngộ đối với niệm, an trú vào niệm không trú vào tướng, vì lìa phân biệt tướng niệm thuộc phần thô, nên gọi là Tùy phần giác. Như Bồ-tát ở địa cuối cùng, đầy đủ mọi phương tiện một niệm tương ưng, biết tâm mới phát khởi mà tâm không có tướng ban đầu, vì tách rời ý niệm vi tế, thấy được tánh của tâm thì tâm lập tức thường trú, đó gọi là Cứu cánh giác. Vì vậy kinh nói: “Nếu chúng sanh nào có thể quán sát vô niệm, tức là hướng về Phật Địa”. Vả lại, tâm khởi lên không có tướng ban đầu có thể biết. Nhưng nói là biết tướng ban đầu, tức nói vô niệm. Vì vậy tất cả chúng sanh không thể gọi là Giác, vì từ xưa đến nay niệm niệm nối tiếp nhau chưa từng tách rời, do đó nói vô minh vô thỉ. Nếu người nào đạt được vô niệm, thì biết rõ tướng tâm là sanh trú dị diệt. Do không có những niệm vọng, nên thật sự không có gì khác với Thỉ giác. Vì bốn tướng cùng lúc mà có, hoàn toàn không tồn tại một mình, xưa nay bình đẳng một tánh giác như nhau. Luận giải thích: Đây chính là phần nói rộng để quyết trạch Thỉ giác. Trong văn này có hai môn. Thế nào là hai môn? Đó là: Môn kiến lập bốn tướng. Môn kiến lập tùy giác. Trong môn bốn tướng tức có bốn loại. Thế nào là bốn loại? Một là bốn tướng lỗi lầm thuộc phần thô trọng. Hai là bốn tướng lỗi lầm thuộc vi tế. Ba là bốn tướng công đức vô thường. Bốn là bốn tướng công đức thường trú. Bốn tướng thuộc phần thô chính là trải qua thời gian dài. Bốn tướng thuộc phần tế tức là chỉ trong thời gian ngắn. Tướng vô thường là lỗi lầm trái với công đức mới bắt đầu. Tướng thường trú là lỗi lầm trái với công đức thường trú phát sinh. Trong môn Tùy giác cũng có hai môn. Thế nào là hai môn? Một là môn Mãn giác. Hai là môn Phần giác. Môn Mãn giác là làm sáng tỏ chỉ một tánh giác. Môn Phần giác là biểu hiện rõ đủ về giác và bất giác. Thế nào gọi là bốn tướng trải qua thời gian dài? Đó là bắt đầu từ địa Thập Tín cho đến lúc đạo giải thoát đạt tới tột cùng, mới hoàn toàn tách rời. Thế nào gọi là bốn tướng chỉ trong thời gian ngắn? Vì nhân duyên phát sinh pháp không vượt qua một sát na. Thế nào gọi là bốn tướng mới bắt đầu khởi? Đó là bắt đầu diệt thì diệt đã diệt - bắt đầu dị thì dị đã dị, bắt đầu trú thì đức đã trú - bắt đầu sanh thì đức đã sanh. Vì vậy giải thích nói là bốn tướng mới bắt đầu, trái với sai lầm nên gọi là công đức, nay mới bắt đầu nên gọi là vô thường. Thế nào gọi là bốn tướng thường trú? Đó là nay mới bắt đầu nhưng đức xưa nay vốn có. Thế nào gọi là một loại giác? Vì giác và bất giác không có hai. Thế nào gọi là giác bất giác? Vì giác hoặc là bị pháp nhiễm huân tập, hoặc là không bị huân tập. Như thứ tự ấy nói về tướng có thể quán sát. Bốn tướng trong này có hai thứ tự. Thế nào gọi là hai thứ tự? Một là theo thứ tự trước sau. Hai là theo thứ tự cùng có. Theo thứ tự trước sau, là trong lúc các tướng kia không có thì chúng có trước sau sai biệt. Theo thứ tự cùng có, là trong lúc có các tướng kia thì chúng trước sau đồng một loạt có. Lúc các tướng kia không có là dựa vào thời gian không liên tục. Thời lúc các tướng kia có là dựa vào thời gian không ổn định. Theo thứ tự cùng có thì tướng đó thế nào? Tụng nói: Tướng sanh trú dị diệt Bốn thứ tướng như vậy Một lúc tức trước sau Không dần chuyển đổi được. Một lúc nên cùng có Trước sau theo thứ tự Cùng lúc thành một tướng Riêng nên thành bốn tướng. Luận nói: Bốn tướng theo thứ tự cùng có: Tướng sanh. Tướng trú. Tướng dị. Tướng diệt. Bốn tướng như vậy hoặc là trong một lúc, hoặc là thứ tự trước sau. Do nghóa nào gọi là trong một lúc? Vì cùng thích hợp với nhau. Do nghóa nào nói là trước sau? Vì thô và tế khác nhau. Không phải dần dần chuyển đổi được, là phân biệt để biểu hiện rõ về nghóa của trong một lúc. Do nghóa nào nói là cùng có? Vì ngay một lúc. Do nghóa nào mà nói là theo thứ tự? Vì có trước sau. Bốn tướng như vậy cùng lúc có nên chỉ là một tướng, phân biệt thô, tế nên thành ra bốn tướng. Cùng một lúc nói đến trong này là ở thời gian nào? Ở vào lúc vô minh căn bản huân tập chân tâm. Ở trong thời gian này bốn tướng phát khởi đầy đủ, không nhận thức được tánh chân thật của tất cả các pháp bao trùm khắp nơi, kiến lập vô lượng phiền não vượt quá hằng sa số, có thể che kín tự tánh thanh tịnh nên tâm không biết bao giờ trở về trạng thái trong sáng ban đầu. Vì vậy nói bốn tướng cùng có trong một lúc. Vì sao gọi là sanh cho đến gọi là diệt, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Trụ địa đại vô minh Thời gian huân Bổn giác Sinh ba loại tướng tế Nên gọi là tướng sanh. Luận nói: Lúc vô minh căn bản xông Bổn giác phát sinh ba loại tướng, nên gọi là tướng sanh. Thế nào là ba tướng? Một là tướng độc lực nghiệp. Hai là tướng độc lực tùy. Ba là tướng câu hợp động. Tướng độc lực nghiệp là không chọn lấy thể của vô minh mà chọn lấy nghiệp của vô minh. Tướng độc lực tùy không chọn lấy thể của Bổn giác mà chọn lấy dụng của Bổn giác. Tướng câu hợp động chọn lấy tướng biến động hòa hợp. Tổng quát đưa ra ba loại này nên gọi là tướng sanh, vì tên gọi của tướng sanh thành lập vào lúc mới sinh. Nghóa của chữ tướng trú ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Tướng trú có bốn loại Tướng chuyển và tướng hiện Tướng trí cùng yương tục Đây là bốn loại tướng. Luận nói: Tướng trú có bốn loại. Thế nào là bốn loại? Một là tướng chuyển. Hai là tướng hiện. Ba là tướng trí. Bốn là tướng tương tục. Đây gọi là bốn loại tướng. Bốn tướng như vậy, vì nghóa nào mà nói là trú? Nghóa về trú nói đến trong này là tùy theo những tương ưng nên sai biệt, nghóa là nếu dựa vào tướng chuyển nói về tướng trú, có thể giữ chắc tâm thức huân tập, nên gọi là tướng trú. Nếu dựa vào tướng hiện nói về tướng trú, có thể giữ chắc sắc tướng huân tập, nên gọi là tướng trú. Nếu dựa vào tướng trí nói về tướng trú, có thể giữ chắc sáu loại dần dần phân biệt trí tương ưng pháp nhiễm, nên gọi là tướng trú. Nếu dựa vào tướng tương tục nói về tướng trú, có thể giữ chắc thức phân biệt sự liên tục nhiễm ô, nên gọi là tướng trú. Đây chính là phần tế chứ không phải là phần thô. Nghóa của chữ tướng dị ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Tướng dị có hai thứ Chấp thủ, chấp danh tự Như vậy hai thứ tướng Chính là hạng người chấp. Luận nói: Tướng dị có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là tướng chấp thủ. Hai là tướng chấp danh tự. Hai tướng như vậy chính là người thuộc hạng chấp. Hai tướng như thế vì nghóa nào gọi là tướng dị? Nếu dựa vào chấp thủ để nói về tướng dị, thì có thể duyên với tất cả vô lượng tướng biệt, tùy theo các tướng đó, thức phân biệt thuộc phần thô, luôn chấp trước, khác với tự nó trở thành riêng nên gọi là tướng dị. Nếu dựa vào danh tự để nói về tướng dị, thì tùy theo tướng, thành lập tên gọi, dựa vào tên gọi đó dấy lên mọi tham trước, nên gọi là tướng dị. Nghóa của chữ tướng diệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Tướng diệt có hai loại Khởi nghiệp và quả báo Tổn hại tâm dị trước Khiến chịu khổ là diệt. Luận nói: Tướng diệt có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là tướng khởi nghiệp. Hai là tướng nghiệp hệ khổ. Hai tướng như vậy hủy hoại vị thế dị biệt trước kia khiến nhận chịu quả khổ của sanh tử, nên gọi là tướng diệt. Vả lại, lúc nhận chịu quả khổ của sanh tử, có năng lực diệt mất tất cả vô lượng thiện phẩm, nên gọi là tướng diệt. Hơn nữa, lúc nghiệp phát khởi thì thiện căn dần của Phật tánh dần mất đi, nên gọi là tướng diệt. Đã nói về cùng lúc có, tiếp theo nói về trước sau. Tướng đó thế nào? Tụng nói: Tướng diệt, dị, trú, sanh Bốn loại tướng như thế Theo trí lực hơn - kém Có tăng - giảm không đồng. Luận nói: Theo thứ tự trước sau thì: Một là tướng diệt. Hai là tướng dị. Ba là tướng trú. Bốn là tướng sanh. Bốn tướng như vậy tùy theo mức độ của trí tuệ mà có sự tăng giảm không như nhau. Nghóa này là thế nào? Vì người ở vị Tín thiếu một mà vốn có ba, người ở vị ba Hiền thiếu hai mà có hai. Ở trong Thập Địa thì Địa thứ chín thiếu ba mà có một, trong Địa thứ mười thiếu một phần thô mà có một phần tế, trong địa Như Lai thì bốn tướng đều không có, nên thanh tịnh rốt ráo. Vì vậy giải thích nói tăng giảm không như nhau. Đã nói về phần kiến lập, tiếp đến nói về phần thuận theo giải thích. Dựa vào bốn tướng kia làm rõ về Giác có sai biệt, tức là có năm vị. Thế nào là năm vị? Đó là: Vị Thập Tín. Vị Ba Hiền. Vị Cửu Địa. Vị Nhân Mãn. Vị Quả Mãn. Trong bốn vị trước, mỗi vị có bốn sự việc. Thế nào là bốn sự? Một là người hướng đến tu hành. Hai là tướng của nhân tu hành. Ba là tướng của nhân quả thực hành. Bốn là tướng đồng thời huân tập và tách rời. Trong vị thứ năm chỉ có ba sự. Thế nào là ba sự? Một là người có năng lực viên mãn. Hai là tướng thực hành đối trị. Ba là tướng viên mãn cứu cánh. Nếu như theo thứ tự giải thích tương ưng với quán thì vị thứ nhất nói như người hàng phàm phu, tức là người hướng đến tu hành, vị ở Thập Tín chưa đạt được bất thối gọi là phàm phu, đã ra khỏi định tà gọi là bậc Giác. Nhận thức được niệm trước dấy lên là ác, tức biểu hiện rõ về tướng của nhân tu hành, nghóa là chưa hội nhập Thập Tín trở về trước, không nhận thức được hai loại tướng diệt là nguồn gốc của sai lầm, tạo ra đủ tất cả nghiệp ác thuộc các loại, khắp nơi nhận chịu tất cả quả khổ vô lượng, mãi luân hồi trong năm đường, bốn loài, không lúc nào dừng lại. Ngày nay nhờ diệu duyên gặp được tri thức, biết đến Thánh pháp và phép tắc trong sáng, có năng lực được đi vào vị Thập Tín, giác ngộ các nghiệp ác là rất sai lầm, biết rõ các khổ quả thật là sự không vui vẻ. Nói nhận thức được niệm trước dấy lên là ác, chính là biểu hiện rõ về nghóa giác ngộ đối với tướng diệt. Do đó có thể ngăn niệm sau khiến nó không khởi lên, tức biểu hiện rõ về tướng của nhân quả thực hành. Nghóa là trong vị này mới bắt đầu khởi đạo đối trị sức lực rất yếu kém nên gọi là cố gắng, phát tâm tiếp tục dấy khởi đạo đối trị chuyển dần sang tự tại. Vả lại, lúc trước không nhận thức được nên luôn tạo nghiệp ác, nay nhận thức rồi nên tâm sinh hổ thẹn không gây ra các nghiệp, tướng diệt xấu xa dừng lại không khởi. Tuy cũng gọi là Giác mà chính là Bất giác, tức biểu hiện rõ tướng đồng thời huân tập và tách rời. Điều âý có nghóa là nhận thức được pháp của tướng diệt thật sự là sai lầm. Chủng loại của tướng diệt ấy không tạo sự diệt, nên nói là huân tập và tách rời khỏi chủng loại của tướng diệt ấy. Từ vô thỉ đến nay không nhận thức được thể tánh thanh tịnh, thật sự là công đức, nên nói là cùng huân tập. Câu chữ trong này lưu chuyển xa thuận theo đến ở Địa thứ mười. Hơn nữa, biểu hiện rõ Giác và Bất giác lại chính là như nhau, tất cả là một vị. Vị thứ hai nói hàng Nhị thừa quán trí và Bồ-tát mới phát tâm, tức là người hướng đến tu hành, vị thuộc về ba Hiền. Ở trong vị này quán nhân không vô lậu, thành tựu tự tại không có nghi ngờ sợ hãi, vì thế lấy Nhị thừa cùng với Bồ-tát trình bày tổng quát. Vả lại, biểu hiện rõ tất cả Nhị thừa thảy đều tu hành đạo Bồ-tát, do đó chứng nhập tự tại trong biển cả của địa Đại giác. Giác ngộ đối với niệm dị, chính là biểu hiện rõ về tướng của nhân tu hành. Nghóa là hai loại tướng khác nhau lại cố gắng cùng nhau, luôn giữ lấy tướng của cảnh giới, phát khởi yêu thích để tìm kiếm tên gọi. Vì phân biệt ngôn từ tướng trạng, nên không thỏa mãn về ngã và ngã sở, chuyển sang mạnh hơn dựa vào duyên suy xét càng tăng thêm suốt ngày không ngừng nghỉ. Ngày nay phát khởi nhân không Bát nhã, kiến lập phương tiện pháp không hiện rõ trước mắt, nhận thức được tâm tịnh của Bổn giác vì giấc ngủ vô minh, mộng thấy ở tại trạng thái khác lạ, dấy lên tất cả chướng ngại, phân biệt tách rời và dần dần cùng với trí rời xa, à tương ưng cùng nhau, từ giấc mộng của niệm kia nên được giác ngộ. Vì vậy giải thích nói là giác ngộ đối với niệm dị. Niệm không có tướng dị, tức là biểu hiện rõ về tướng của nhân quả thực hành, là trong Thỉ giác chánh niệm hai loại tướng dị không hề có. Vì xả bỏ tướng phân biệt chấp trước thuộc phần thô, đó chính là biểu hiện rõ không có duyên theo tướng dị. Nghóa là ý thức có hai phân biệt, lại có thể phân biệt được tất cả các pháp. Thế nào là hai? Một là phân biệt phần thô. Hai là phân biệt phần tế. Thô là khởi lên các tâm tham sân…, vì có thể khéo phân biệt hoàn cảnh trái hay thuận. Tế là pháp chấp phân biệt, vì luôn lưu động tiến vào. Nay đã tách rời được phân biệt phần thô, chứ không phải là phân biệt thuộc phần tế. Phân biệt thuộc phần tế là rất vui mừng được xa rời, nên gọi là Tương tự giác, đó chính là kết thức phần trước, và gồm cả việc biểu hiện rõ về tướng đồng thời huân tập tách rời. Nghóa về tương tự trong này có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là tương tự dị loại. Hai là tương tự đồng loại. Tương tự dị loại là tương tự của Nhị thừa. Tương tự đồng loại là tương tự của Bồ-tát. Nhị thừa nhân không đối chiếu ba Hiền không, làm thành nghóa tương tự. Bồ-tát ba Hiền theo phương tiện pháp không đối chiếu vị tâm trong sáng làm thành nghóa tương tự. Vì vậy, nói tổng quát là Tương tự giác. Vị thứ ba nói là như hàng Bồ-tát pháp thân, hướng đến tu hành tức vị thuộc về chín địa. Bồ-tát chín địa lấy pháp giới Chân như làm thành thân mình, dùng thật trí Bát nhã làm thành tâm mình, hệ lụy cấu trược đã vượt ra - chướng ngại ràng buộc đều đoạn dứt, thanh tịnh sáng ngời, tự tại vô ngại, vì thế gọi là Bồ-tát pháp thân. Giác ngộ đối với niệm trú tức là biểu hiện rõ về tướng của nhân tu hành. Nghóa là bốn loại tướng trú đối với tất cả mọi lúc, có năng lực phát khởi pháp chấp phân biệt, tách rời tánh của Bổn giác, có thể làm cho ngủ quên đi, tâm của Bổn giác ấy mộng thấy ở tại tướng trú, không làm sao tỉnh, sáng được, phải trú lại một cách cuồng loạn. Nay vầng dương của Thỉ giác Bát nhã mọc lên, soi sáng màn đen mê loạn của tướng trú, chánh trí của Thỉ giác không có tánh phân biệt, tướng trú mê loạn lại có tánh phân biệt, vì có - không - giác - loạn hết sức trái ngược nhau, nên không thể cùng thực hành được. Đạo lý như vậy rõ ràng ở trước mắt, do đó giải thích nói là giác ngộ đối với niệm trú. Niệm không có tướng trú, tức là biểu hiện rõ về tướng của nhân quả thực hành. Vì tách rời phân biệt về tướng niệm thuộc phần thô, chính là biểu hiện rõ không duyên theo tướng trú. Nghóa là bốn loại tướng trú so sánh với tướng sanh kia hiện rõ hết sức thô, do đó e rằng thời gian sanh và trú lẫn lộn làm hỗn loạn cho nhau, thực hiện giải thích như vầy: Ngưng tư duy, thuận theo quán. Như vậy bốn loại tướng trú mê loạn, nếu như theo thứ tự, ở trong địa Cực hỷ - địa Quá tam hữu - địa Tịch tónh - địa Thiện tuệ, mỗi địa xa rời một tướng, nên gọi là Tùy phần giác, đó chính là kết thúc phần trước, đồng thời bao gồm việc biểu hiện rõ về tướng cùng lúc huân tập, tách rời, vì tướng sanh đối với niệm vi tế chưa thoát ra được. Vị thứ tư nói như Bồ-tát ở địa cuối cùng, hướng đến tu hành. Trong câu chữ này tự nhiên xuất hiện hai người. Thế nào là hai? Một là người nhân viên mãn. Hai là người có quả viên mãn. Nhân viên mãn là bậc cuối cùng của địa Học. Quả viên mãn là quả vị Vô học đã hoàn toàn đầy đủ. Người trước đối trị với tướng câu hợp động, người sau đối trị với tướng độc lực nghiệp và vô minh căn bản, còn độc lực tùy tướng không phải là pháp đoạn trừ được, nên không có pháp đối trị. Từ đây về sau biểu hiện rõ về hai loại viên mãn. Đầy đủ phương tiện nhất niệm tương ưng, chính là biểu hiện rõ về người có nhân viên mãn, nghóa là trong vị này đã có hai loại định kim cang dụ. Thế nào là hai loại? Một là kim cang phương tiện. Hai là kim cang chánh thể. Hành vô cấu là hai loại Tam-ma-đề kim cang dụ dùng làm tự thể, vì vậy đưa ra đạo để nêu rõ người. Tâm giác mới khởi lên mà tâm không có tướng ban đầu, tức là biểu hiện rõ về người có quả viên mãn. Đại viên cảnh trí rõ ràng hiện ở phía trước, không nơi nào là không thông suốt, không đâu là không cùng tận, pháp giới chung một thể không gì sánh bằng. Tướng động lực nghiệp và vô minh căn bản không thể tự xuất hiện, bình đẳng như hư không và cùng một tướng là vô tướng, nên không có niệm ban đầu. Vì rời xa ý niệm vi tế nên thấy được tánh của tâm thì tâm lập tức thường trú gọi là Cứu cánh giác. Đó chính là biểu hiện rõ về tướng viên mãn của Thỉ giác Bát nhã. Nhưng đạt đến vô sanh giác, nên kinh nói: “Nếu chúng sanh nào có thể quán sát vô niệm, tức là hướng về Phật Địa”, đó chính là dẫn lời trong kinh giúp cho những lời mình đã giải thích. Như vậy văn kinh chứng minh cho nghóa nào? Chứng minh cho quả Phật. Thế nào là chứng? Nghóa là trong quả Phật chứng minh thành tựu lìa xa hai loại ý niệm. Thế nào là hai loại? Một là ý niệm về vô minh căn bản. Hai là ý niệm về tướng nghiệp vi tế. Như vậy hai ý niệm đạt tới cực điểm nơi đạo giải thoát trong một lúc trái ngược lẫn nhau, không thể cùng hiện hành. Vì thế giải thích quả Phật vô niệm. Nếu như không có niệm vọng thì sẽ có niệm gì? Đó gọi là chánh niệm. Thế nào gọi là chánh niệm? Vì tương ưng với mười đức. Thế nào là mười đức? Đó là: Công đức xuất ly, là tách xa tất cả các xứ nạn. Công đức đồng thể, là tất cả mọi pháp nhiễm quy về nơi mình. Công đức thường trú, là tách xa sai lầm mới nảy sanh. Công đức nhất vị, là Thỉ giác viên mãn - Bổn giác không đổi. Công đức câu ly, là xa lìa tất cả các pháp nhiễm tịnh. Công đức hoàn chuyển, là sanh ra ở khắp các nẻo. Công đức vô trú, là đối với tất cả mọi nơi không thuộc về nơi nào. Công đức tu hành, là vì các chúng sanh mà tu vạn hạnh. Công đức viên mãn, là vì các chúng sanh mà thành tựu đạo quả Chánh Giác. Công đức hư không, là các loại công đức đã nói như trước, vì từ xưa đến nay tự tánh đều rỗng lặng chẳng có gì. Đây gọi là mười đức. Như vậy mười đức cùng với giải thoát tột cùng trong sát na đầu tiên, cùng lúc hiện hành - cùng lúc phát khởi không có trước sau, trong một lúc cùng chuyển gọi là chánh niệm. Kinh văn đã dẫn chứng không ra ngoài nghóa này, nên quán sát kỹ! Vả lại, tâm khởi lên không có tướng ban đầu có thể biết, lại nói biết tướng ban đầu, chính có nghóa là vô niệm, là loại bỏ nghi ngờ khiến phát sanh hiểu biết thù thắng. Nghóa là có chúng sanh dấy lên nghi ngờ như vầy: Lúc đạo giải thoát đạt tới tột cùng hội nhập Bổn giác thì mới phát sanh rất là vi tế, biết được là có hay biết được là không có? Nếu biết được là có thì đạo giải thoát tột cùng sẽ không phải là vô niệm, Vì sao? Vì biết có niệm ban đầu. Nếu biết là không có thì đạo giải thoát tột cùng sẽ không thể có được, Vì sao? Vì đã không có ý niệm ban đầu thì đợi ý niệm nào không có mà thiết lập đạo giải thoát là có? Do nghi ngờ như vậy, nay tự thông suốt nói: Tướng của đối tượng nhận thức từ xưa đến nay không hề có tự tánh, trí của chủ thể nhận thức từ xưa đến nay không lúc nào khởi lên. Đã không có tướng của đối tượng giác ngộ thì cũng không có trí của chủ thể giác ngộ, há có thể nói là có tướng ban đầu vi tế mà trí tuệ nhận biết được sao? Nhưng có ngôn ngữ diễn tả nhận biết tướng ban đầu, chính là biểu hiện rõ về đạo lý vô niệm. Vì sao? Vì lý của pháp tánh, tuy không có tướng mới bắt đầu của đối tượng nhận thức, cũng không có trí Thỉ giác của chủ thể nhận thức, có thể thông suốt không có tướng đối tượng nhận thức, và không có trí chủ thể nhận thức, không hề có gì để giác ngộ và tất cả không phải là trống không không có gì. Vì vậy nay tạm thời dựa vào đạo lý này, giải thích như vầy: Biết tướng ban đầu. Do đó tất cả chúng sanh không gọi là Giác, vì từ xưa đến nay niệm niệm tiếp theo nhau chưa hề tách rời ý niệm nên nói là vô minh vô thỉ. Đó chính là thành lập nghóa về vô niệm nói ở trên. Nghóa là từ địa kim cang trở về sau tất cả chúng sanh, ý niệm chưa tách rời được vô minh căn bản và tướng động lực nghiệp, chính là biểu hiện rõ tất cả chúng sanh đều có niệm vọng nên gọi là chúng sanh, hết thảy chư Phật đã đạt đến vô niệm nên xưng là Phật. Từ đây về sau biểu hiện rõ về cảnh giới viên mãn rộng khắp của Thỉ giác. Nghóa là bậc Đại Giác đã đến bờ bên kia, biết hết tất cả vô lượng chúng sanh, chỉ vì một tâm lưu chuyển mà tạo ra bốn tướng. Như Bổn Luận nói: “Nếu người nào đạt đến nơi không còn niệm vọng thì biết rõ tướng tâm là sanh trú dị diệt”. Vì nghóa nào mà biết như vậy? Lúc tự mình đạt đến nơi không còn niệm vọng, thì tất cả các chúng sanh đều được bình đẳng, như Bổn Luận nói: “Vì không còn niệm vọng…”. Vì nghóa nào mà lúc chỉ một hành giả đạt đến nơi không còn niệm vọng, tất cả các chúng sanh đều có thể không còn niệm vọng? Vì mỗi một chúng sanh đều có Bổn giác của mình. Nghóa này là thế nào? Nghóa là một hành giả vào lúc Thỉ giác viên mãn giống như Bổn giác, thì khắp mọi nơi giống như tất cả vô lượng chúng sanh trong tâm của Bổn giác, chứ không phải là Bổn giác riêng mình. Vì sao? Vì tự tánh của Bổn giác đầy khắp các cõi chúng sanh, không nơi nào là không đến được. Bậc Giác Ngộ thanh tịnh vào lúc đạt đến nơi không còn niệm vọng, tất cả chúng sanh đều có thể không còn niệm vọng, vậy thì Bậc Giác Ngộ thanh tịnh vào lúc đoạn sạch vô minh, tất cả chúng sanh cũng có thể đoạn sạch sao? Nếu vậy có sai lầm không? Nếu lúc Thỉ giác đoạn trừ vô minh, thì tất cả chúng sanh đều được đoạn trừ vô minh, tại sao ở trước nói là từ địa kim cang trở về sau tất cả chúng sanh, vì niệm vọng của vô minh căn bản và tướng động lực nghiệp, chưa tách rời được nên không gọi là Giác? Nếu các chúng sanh vì vô minh vô thỉ chưa tách rời ra được, mà cùng với chư Phật như nhau đạt đến nơi không còn niệm vọng, thì các nghóa lý về vô niệm chỉ có ngôn từ diễn tả chứ không có nghóa lý chính xác, há có thể nói là tất cả chúng sanh đều có Bổn giác cũng có Thỉ giác sao? Quyết định để loại trừ chất vấn này sẽ có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là tự nơi tông chỉ quyết định loại trừ. Hai là hướng về nơi khác quyết định loại trừ. Tự nơi tông chỉ quyết định loại trừ, là chánh tông của luận này, vì muốn biểu hiện rõ tất cả chúng sanh cùng chung một tướng liên tục theo nhau không hề sai biệt, do đó có thể nói một người tu hành đến lúc đoạn trừ hoàn toàn vô minh vô thỉ, thì tất cả chúng sanh cũng đoạn trừ hết như nhau. Một người tu hành đến lúc đầy đủ Thỉ giác, thì tất cả chúng sanh cũng được đầy đủ như nhau. Vì vậy trong kinh Tam Thân Bổn Hữu giải thích như vầy: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Ta nhờ vào hai đẳng mà thành tựu Chánh giác. Thế nào là hai đẳng? Một là đoạn đẳng. Hai là đắc đẳng. Nói đoạn đẳng, là lúc đạo giải thoát cao nhất của Ta mới phát khởi, tất cả chúng sanh vốn có vô lượng vô minh vô thỉ, ngay một lúc lập tức quyết định đoạn trừ hoàn toàn. Nói đắc đẳng, là lúc ta mới thành đạo đầy đủ Thỉ giác, tất cả chúng sanh đều được đầy đủ. Đây gọi là hai đẳng”. Hướng về nơi khác quyết định loại trừ, là nêu lên sự viên mãn hướng về các cõi chúng sanh, không có một pháp nào mà không phải là thanh tịnh. Đưa ra các chúng sanh hướng về Đấng Vô Thượng Tôn, đi vào tạng vô minh không có nhận thức, thảy đều thanh tịnh không có chướng ngại. Các nghóa về vô niệm mới được thành lập như vậy. Đi vào tạng vô minh mà không có nhận thức, văn đã nói trên không có trái ngược nhau, đưa ra một khía cạnh này thuận theo quán sát rộng. Từ đây về sau hòa hợp các Thỉ giác khiến đồng với Bổn giác, nghóa là năm mươi mốt phần vị đầy đủ Thỉ giác, thật sự không có khác nhau của sự dần dần chuyển sang thù thắng, cũng không có sự tột cùng viên mãn cứu cánh. Vì sao? Vì tất cả Thỉ giác cùng lúc phát sanh bốn tướng, nhưng được dừng lại đều không tồn tại độc lập, từ xưa đến nay tự tánh viên mãn chỉ một vị là bình đẳng, hợp lại như nhau không có khác ngoài một tướng Giác. Như Bổn Luận nói: “Nhưng thật sự không có khác nhau gì về Thỉ giác, vì bốn tướng cùng lúc mà có đều không tồn tại độc lập, xưa nay bình đẳng cùng một tánh Giác như nhau”. Trong kinh Đại Tổng Trì giải thích như vầy: “Bát nhã của Thỉ giác thuộc loại giác ngộ tướng diệt, trong phần vị có tướng diệt nếu giống nhau thì cùng lúc có, trong lúc không có tướng diệt thì Thỉ giác tùy theo cũng không có. Thỉ giác Bát nhã thuộc loại giác ngộ tướng dị, trong phần vị có tướng dị nếu giống nhau thì cùng lúc có, trong lúc không có tướng dị thì Thỉ giác tùy theo cũng không có. Thỉ giác Bát nhã thuộc loại giác ngộ tướng trú, trong phần vị có tướng trú nếu giống nhau thì cùng lúc có, trong lúc không có tướng trú thì Thỉ giác tùy theo cũng không có. Thỉ giác Bát nhã thuộc loại giác ngộ tướng sanh, trong phần vị có tướng sanh, nếu giống nhau thì cùng lúc có, trong lúc không có tướng sanh thì Thỉ giác tùy theo cũng không có. Vì sao? Vì tất cả Thỉ giác không thể tự khởi lên, phải chờ đợi pháp nhiễm mới có thể khởi lên được, tất cả pháp nhiễm không thể tự diệt, phải cần đến trí lực mới có thể diệt được. Nói rộng cho đến từ xưa tới nay, tất cả pháp nhiễm trống rỗng, không có tự thể, mà Thỉ giác ấy vốn không có mà ở trong đó làm thành giải thoát có, cùng lúc mà chuyển đổi vì vậy không gọi là chánh”. Đã nói về phần nói rộng để quyết trạch Thỉ giác, tiếp theo nói về phần nói rộng để quyết trạch Bổn giác. Bổn Luận nói: “Hơn nữa, Bổn giác tùy theo pháp nhiễm phân biệt phát sinh hai loại tướng, cùng với Bổn giác không tách rời nhau. Thế nào là hai tướng? Một là tướng trí tịnh. Hai là tướng bất tư nghị nghiệp. Tướng trí tịnh nghóa là dựa vào năng lực của pháp huân tập mà tu hành như thực đầy đủ mọi phương tiện, phá bỏ sự hòa hợp của tướng thức, diệt trừ sự tương tục của tướng tâm, biểu hiện rõ trí tuệ thuần tịnh của Pháp thân. Nghóa nầy thế nào? Vì tướng của tất cả tâm thức đều là vô minh, tướng của vô minh không xa rời tánh Giác, không có thể hủy hoại cũng không phải không có thể hủy hoại, như nước giữa biển khơi vì gió mà nổi sóng, tướng của nước và tướng của gió không tách rời nhau, nhưng nước không phải là tánh động, nếu gió ngừng lại thì tướng động lập tức mất hẳn mà tánh ướt không bị tổn hại. Như vậy tâm thanh tịnh trong tự tánh của chúng sanh, bị gió vô minh làm cho biến động, tâm và vô minh hoàn toàn không có hình tướng và không tách rời nhau, nhưng tâm không phải là tánh động, nếu vô minh diệt thì sự tương tục sẽ diệt mà tánh của trí không bị hủy hoại. Tướng bất tư nghị nghiệp là dựa vào trí tịnh, có thể tạo ra tất cả mọi cảnh giới thù thắng vi diệu. Điều đó là tướng của vô lượng công đức luôn không đoạn tuyệt, tùy theo căn cơ của chúng sanh tự nhiên tương ưng, rất nhiều chủng loại ngay lúc ấy được lợi ích”. Luận giải thích: Đây chính là phần nói mở rộng tùy theo pháp nhiễm để quyết trạch Bổn giác. Ở trong văn này đã có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là tánh trí thanh tịnh vốn có. Hai là nghiệp dụng tự tại vô ngại. Trong phần thứ nhất cũng có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là không giữ lấy tự tánh tùy theo duyên. Hai là Đối trị tất cả mọi nghiệp chướng. Trong phần thứ hai lại có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là tùy thuận căn cơ thích đáng. Hai là Bản tánh thường vắng lặng không xao động. Bốn phần như vậy thuận theo giải thích cần phải phù hợp. Bổn giác tùy nhiễm chính là câu giản lược, giản lược vì khác với thanh tịnh Bổn giác trí. Câu này là muốn biểu hiện rõ về nghóa nào? Đó là để biểu hiện rõ về nghóa nhận chịu huân tập, thẳng thắn nói rõ Bổn giác nhận chịu vô minh huân tập mà không giữ lấy tự tánh, tùy duyên vô ngại cùng lúc mà chuyển đổi, vì vậy gọi là Bổn giác tùy nhiễm, ngay cả câu chữ này cũng từ những pháp nhiễm đã tùy thuận lập nên tên gọi. Từ đây về sau trực tiếp biểu hiện có thể tùy theo thể tướng của Bổn giác, phân biệt phát sinh hai loại tướng cùng với Bổn giác không tách rời nhau. Thế nào là hai tướng? Một là tướng trí tịnh. Hai là tướng bất tư nghị nghiệp. Như vậy hai loại tướng thù thắng này, cùng với tánh trí của Bổn giác tùy thuận pháp nhiễm, cùng lưu thông cùng chuyển đổi không tách rời nhau. Hành tướng trí tịnh của Bổn giác như vậy, tướng đó thế nào? Tụng nói: Phá trừ tất cả chướng Hiển bày thân pháp tánh Trí tuệ thật thanh tịnh Gọi là tướng trí tịnh. Luận nói: Đoạn trừ tất cả điều ác, tu dưỡng tất cả điều thiện, công đức đầy đủ, trí tuệ viên mãn, trang nghiêm Pháp thân gọi là tướng trí tịnh. Đoạn trừ tất cả chướng ngại nên cần đến năng lực nào? Cần phải có năng lực đầy đủ. Năng lực đầy đủ thì số lượng đó có bao nhiêu? Có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là pháp lực huân tập đầy đủ lực phương tiện. Hai là tu hành như thực đầy đủ lực phương tiện. Hai loại lực phương tiện như vậy, từ vô thỉ đến nay thường trú tự nhiên chứ không phải là mới bắt đầu. Trong hai loại ấy, dựa vào pháp lực huân tập đầy đủ lực phương tiện, để phá trừ vô minh căn bản và tướng động lực nghiệp, dựa vào tu hành như thực đầy đủ lực phương tiện, để diệt sạch tướng câu hợp nghiệp, tướng năng kiến cho đến tướng hiện, tướng phân biệt trí và tướng tương tục. Phá trừ vô minh căn bản và tướng động lực nghiệp, do đó thể của tự tánh nơi thân hiện bày rõ trước mắt. Diệt sạch các tướng câu hợp cho đến tướng tương tục, nên thật trí Bát nhã thanh tịnh sáng ngời. Như Bổn Luận nói: “Tướng trí tịnh nghóa là dựa vào năng lực của pháp huân tập mà tu hành như thực đầy đủ mọi phương tiện, phá bỏ sự hòa hợp của tướng thức, diệt trừ sự tương tục của tướng tâm, biểu hiện rõ trí tuệ thuần tịnh của Pháp thân”. Tại sao ba Hiền và vị Thập Tín đã bỏ qua không nói rõ? Vì so với thứ tự kế tiếp đã biểu hiện rõ. Tại sao nay trong phần này, đầu tiên đối trị vô minh căn bản, cho đến cuối cùng đối trị tướng diệt? Vì muốn giản lược về Bát nhã của Thỉ giác khác nhau, giác ngộ theo thứ tự. Tại sao Thỉ giác rời bỏ phàm hướng về Thánh? Vì tiếp tục lên cao hơn là theo thứ tự chuyển đổi, Bổn giác tùy thuận pháp nhiễm rời bỏ Thánh hướng về phàm, tiếp tục xuống thấp hơn là theo thứ tự chuyển đổi, vì pháp vốn như vậy. Hai thứ tự chuyển đổi như thế là trong một lúc hay là có trước sau? Quyết định trong một lúc tức không có trước sau. Những nghóa lý như vậy trong kinh nào giải thích biểu hiện rõ? Đó là kinh Chứng Thuyết. Trong kinh ấy giải thích như thế nào? Nghóa là trong kinh Chứng Thuyết giải thích như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Đà-la-ni phát ra mười ngàn câu hỏi thưa hỏi Như Lai. Ngay sau đó, Như Lai liền thực hiện mười vạn câu trả lời giải quyết các nghi ngờ, làm thông suốt mọi câu hỏi của Bồ-tát. Như thứ tự trả lời những câu hỏi kia rồi bảo với Bồ-tát Đà-la-ni: Tại sao Nhân giả không hỏi một sự việc mà cần phải hỏi nhiều sự việc? Thích hợp hơn nữa Phật tử lại hỏi để mở mang, vì lợi mình lợi người nên thưa hỏi Như Lai. Bấy giờ, Bồ-tát Đà-la-ni, liền nhờ vào uy thần của Đức Phật thưa với Đức Phật: Thưa đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì, ở giữa đại chúng nói ra lời như vầy: Phật tử hãy nghe kỹ Ta phàm phu buộc đủ Trải qua tất cả địa Viên mãn biển nhân hành Trang nghiêm quả Đại Giác Ta từ địa thanh tịnh Trải qua tất cả địa Đem hết thảy các hạnh Đạt vị Tín thứ nhất Vào biển tạng vô minh Hai đại sự như vậy Một lúc, chẳng trước sau? Con và tất cả các đại chúng thảy đều hoài nghi là không có thời hạn giải thoát. Nếu như thích hợp thỉnh cầu Thế Tôn vì các Phật tử, tùy nghi khai bày chỉ ra các loại phương tiện! Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tổng Trì: Hãy lắng nghe kỹ và cố gắng tư duy, nhớ đến điều ấy! Ta sẽ vì ông lược nói về điều quan trọng đó! Này người thiện nam! Hai sự việc quan trọng này biểu hiện rõ hai loại Bát nhã của Giác trí. Thế nào là hai loại? Một là Thỉ giác Bát nhã. Hai là Bổn giác Bát nhã. Này người thiện nam! Thỉ giác Bát nhã là từ địa phàm phu có đủ mọi ràng buộc dần dần thoát ra, cho đến địa kim cang viên mãn nhân hạnh phát ra đạo lý cứu cánh, lập tức đoạn trừ vô minh căn bản trú địa, vầng dương giác ngộ soi sáng khắp nơi không đâu là không cùng khắp, vì vậy gọi là Thỉ giác Bát nhã. Này người thiện nam! Bổn giác Bát nhã là từ nơi tánh thanh tịnh dần dần tách xa, cho đến địa Tín - mới phát khởi trí cứu cánh, đoạn trừ phẩm loại tướng diệt vào biển cả vô minh tùy theo duyên biến động mà chuyển hóa, vì vậy gọi là Bổn giác Bát nhã. Bồ-tát Tổng Trì và các đại chúng nghe lời nói này rồi, nhận thức rõ các pháp là tướng như nhau, thể như nhau, cũng không có tướng như nhau, cũng không có Thể như nhau, cũng rỗng lặng không có ngôn từ, rỗng lặng không có ngôn từ cũng rỗng lặng, mà tánh của các pháp cũng là thật tướng, cũng là thường trú, cũng là quyết định, cũng là thật có”. Từ đây xuống dưới là giải thích riêng, tách ra nói rõ về nhân duyên. Nghóa này là thế nào? Chính là câu hỏi tổng quát. “Vì tướng của tất cả tâm thức đều là vô minh”, đó chính là câu trả lời tổng quát. Nghóa là rất nhiều các loại thức hý luận, phát khởi nhiều loại tùy theo các duyên dựa vào, suy nghó nhận biết tất cả vô lượng cảnh giới, mê hoặc theo tướng của tất cả cảnh giới không tách rời được, vì đó đều là trạng thái của vô minh. Chính là thành lập hai nghóa về phá - diệt đã nói trong phần trước. Tại đây tiếp xuống là biểu hiện rõ sự sai biệt giữa đoạn và phi đoạn. Vô minh trong này là xác định có thể đoạn hay là không thể đoạn được? Những nghi ngờ ấy do đâu? Nếu có thể đoạn thì tâm của Bổn giác cũng là có thể đoạn. Tại sao? Vì pháp nhiễm của vô minh và tánh trí của Bổn giác, cùng hiện hành, cùng chuyển vận không xa rời nhau. Ví như người đàn ông ngủ và khi thức, đều hiện hành, đều chuyển vận không thể tách rời nhau. Cũng không thể nói là lúc chém người ấy đang ngủ mà người ấy thức tỉnh không tổn thương, vì là một tương tục. Cũng không thể nói lúc người ấy được thức tỉnh và người ấy đang ngủ là không có gì xảy ra, vì cùng nhau tương tục. Nếu nói là khác nhau thì sai lầm quá mức. Nếu không thể đoạn được tức là tâm của tự tánh thanh tịnh luôn bị vô minh che lấp, luân chuyển trong năm đường không lúc nào thoát ra được. Vì vậy nếu nói không thể đoạn được thì sai lầm cũng lắm. Như vậy thì vô minh cũng có thể đoạn trừ, cũng không thể đoạn trừ. Nghóa này là thế nào? Vì vô minh và Bổn giác có hai nghóa. Thế nào là hai nghóa? Một là nghóa về đồng thể đồng tướng. Hai là nghóa về dị thể dị tướng. Nói về nghóa đồng, là nói về lý của tất cả pháp. Nói về nghóa dị là vì tất cả các pháp đều có công đức hay lầm lỗi tai họa sai biệt của mỗi pháp. Nếu dựa vào phần đầu thì không thể đoạn trừ được, nếu dựa vào phần sau thì cũng có thể đoạn trừ. Trong kinh Chư Pháp Vô Hành giải thích như vầy: Tham dục là Niết-bàn Giận, si cũng như vậy Như thế trong ba sự Có vô lượng Phật đạo Thấy, chẳng thấy một tướng Chấp, không chấp cũng vậy Đây không Phật, không pháp Biết này gọi thế trí. Trong Kinh Bổn Trí giải thích như vầy: Vô minh căn bản tối Lực của nó rất mạnh Hay chướng Nhất thiết trí Khiến không được tự tại. Đoạn cần gươm Bát nhã Trang nghiêm báu công đức Biển vô minh dần cạn Núi Pháp thân lộ bày. Như Bổn Luận nói: “Tướng của vô minh không xa rời tánh Giác, chẳng phải có thể hủy hoại, chẳng phải không thể hủy hoại được”. Từ đây xuống dưới là nói về dụ để biểu hiện rõ. Biển cả là dụ cho thức A-lê-da, thức này có hai loại nghóa, vì rộng lớn tròn đầy giống như biển cả. Nước là dụ cho tâm của Bổn giác, vì tâm của tự tánh thanh tịnh lộ bày rõ trong sáng, giống như nước trong. Gió là dụ cho vô minh căn bản, vì xưa nay không giác ngộ luôn làm cho thức biến động chuyển sang suy nghó nhận biết, giống như gió. Sóng nổi lên là dụ cho các thức hý luận, vì các thức như vậy dời đổi biến động lưu chuyển, qua lại không ổn định giống như sóng biển. Tướng gió tướng nước không tách rời nhau là dụ cho chân vọng trợ giúp lẫn nhau cùng hiện hành, cùng chuyển đổi. Nghóa là tâm của Bổn giác không tự khởi lên, phải nhờ vào lực của vô minh mới có thể khởi. Vô minh căn bản không tự chuyển đổi, cần phải nhờ vào lực của chân tâm mới có thể chuyển đổi, giống như nước không tự làm thành sóng nước, phải nhờ vào lực của gió mới có thể tạo thành sóng. Gió không tự mình hiện rõ tướng động, cần phải dựa vào nước mới có thể hiện rõ. Nhưng nước không phải là tánh động là dụ cho tâm của Bổn giác xa rời tướng hữu vi, nghóa là chân tâm của Bổn giác từ xưa đến nay, tách xa động niệm cởi bỏ mọi ràng buộc, thể tánh thanh tịnh và tướng dụng tự tại, nhưng không giữ lấy tự tánh, tùy theo duyên của vô minh làm thành các loại tướng. Như nước không phải là tánh động nhưng không giữ lấy tự tánh, tùy theo duyên của gió dấy lên các loại sóng. Nếu gió ngừng lại hẳn thì tướng động sẽ mất, là dụ cho vô minh căn bản diệt thì các thức hý luận đều diệt không sót lại gì. Bổn giác đoạn trừ chướng ngại thì trước là đối trị vô minh căn bản, sau là đối trị các thức suy nghó nhận biết vin theo duyên. Tánh ướt không hủy hoại là dụ cho trí của Bổn giác xa rời các pháp đoạn diệt, nghóa là vô minh diệt hết thì các thức không còn. Vì chân tâm của Bổn giác không có hoại diệt, giống như gió kia diệt thì các làn sóng đều ngưng lại mà nước trong sạch chung quy không hề hoại diệt. Từ đây tiếp xuống là biểu hiện rõ về hợp để nói, như thứ tự đó thuận theo phối hợp. Biển cả, gió và nước từ đâu xuất hiện? Đó là từ Long vương sanh khởi. Tất cả từ nơi nào phát sanh? Điều ấy có nghóa là nếu như nước thì từ đỉnh đầu Long vương phát ra, nếu là gió thì từ mút đuôi Long vương sinh ra. Tại sao nước biển bị gió làm cho biến động, tạo thành rất nhiều làn sóng không bao giờ ngừng dứt? Là vì hai sự việc? Thế nào là hai sự việc? Một là vì có đại chủng cùng loại. Hai là vì pháp vốn như vậy. Nghóa này là thế nào? Đó là vì trong Thủy đại cũng có Phong đại, trong Phong đại cũng có Thủy đại, phát sinh lẫn nhau, hòa hợp cùng nhau tạo thành rất nhiều làn sóng, luôn nối tiếp nhau không hề dừng lại. Nếu trong Thủy đại không có Phong đại, thì gió sẽ không thể nào làm cho nước biến động. Nếu trong Phong đại không có Thủy đại, thì nước sẽ không thể nào tùy theo gió chuyển động. Tại sao? Vì bốn Đại chủng cùng phát sanh, cùng chuyển đổi không xa rời nhau, tùy theo một Đại hiển hiện biết rõ, các Đại còn lại không thể phân biệt, là vì tướng trạng thêm bớt lại không như nhau. Lại nữa, từ vô thỉ đến nay do pháp vốn là vậy, thì vô minh và Bổn giác lại cũng như thế. Đại Long vương là dụ cho một tâm pháp, gió là dụ cho vô minh trú địa, từ mút đuôi phát ra là biểu hiện rõ hình tướng xấu kém của pháp này. Nước là dụ cho chân tâm của Bổn giác, từ đỉnh đầu phát ra là biểu hiện rõ hình tướng thắng diệu của pháp ấy. Trong Thủy đại cũng có Phong đại, là dụ cho trong tâm của Bổn giác tự tánh thanh tịnh có vô minh căn bản. Trong Phong đại cũng có Thủy đại, là dụ cho trong vô minh tạng căn bản có Phật tánh của Bổn giác. Chủ ý của luận này nói tướng dị là đầu - tướng đồng là sau, thuận theo giải thích mà quán xét. Trong kinh Chư Phật Vô Tận Tạng giải thích như vầy: “Trong đại dương phiền não có Như Lai viên mãn, tuyên thuyết về lý của thật tướng thường trú. Trong thật tánh của Bổn giác có chúng sanh vô minh, dấy lên vô lượng vô biên làn sóng của phiền não. Việc lớn trong cảnh giới của Phật và Bồ-tát như vậy, không phải là những hạng phàm phu, Nhị thừa có thể biết được”. Đã nói về phần tánh trí thanh tịnh vốn có, tiếp theo nói về phần nghiệp dụng tự tại vô ngại. Đó là trong phần này, tánh trí vốn có lấy làm nơi nương cậy, khởi lên các dụng chuyển hóa, vì tất cả những hành giả tu tập biểu hiện rõ các loại sắc tướng thắng diệu, làm cảnh giới cho nhãn căn. Xuất hiện các loại âm thanh thắng diệu, làm cảnh giới cho nhó căn. Phát khởi các loại hương thơm, làm cảnh giới cho tỷ căn. Hiện bày các loại pháp vị thắng diệu, làm cảnh giới cho thiệt căn. Dấy khởi các loại tiếp xúc của Tam muội thắng diệu, làm cảnh giới cho thân căn. Hiện ra các loại Pháp tạng thâm diệu, làm cảnh giới cho ý căn. Như thứ tự đó, chính là Quang Minh Nhật Nguyệt Bảo Đức Như Lai, Âm Thanh Phạm Hưởng Thanh Tịnh Như Lai, Hương Tích Phần Lưu Viên mãn Như Lai, Nhất Vị Vô Tạp Bình Đẳng Như Lai, Gíác Xúc Phân Minh Hiển Tướng Như Lai, Trí Tuệ Minh Đạt Biến Mãn Như Lai. Thành tựu đầy đủ tùy theo thời gian - tùy theo nơi chốn - tùy theo mức độ của căn cơ, giáo hóa làm lợi ích tự tại vô ngại, một niệm không biến động mà xuyên suốt trong ba đời, một thân không phân biệt mà đầy khắp giữa mười phương để luôn làm mọi Phật sự. Như Bổn Luận nói: “Tướng bất tư nghị nghiệp là dựa vào trí tịnh, có thể tạo ra tất cả mọi cảnh giới thù thắng vi diệu. Điều đó là tướng của vô lượng công đức luôn không đoạn tuyệt, tùy theo căn cơ chúng sanh tự nhiên tương ưng, rất nhiều chủng loại ngay lúc ấy được lợi ích”. Đã nói về phần nói mở rộng Bổn giác tùy nhiễm, tiếp theo nói về phần Bổn giác tánh tịnh. Bổn Luận nói: Lại nữa, thể tướng của giác có bốn loại nghóa về đại, sánh cùng với hư không và giống như gương trong sáng. Thế nào là bốn loại? Một là kính như thật không, rời xa tất cả tướng cảnh giới của tâm và không có pháp nào có thể hiện bày, vì không phải là nghóa của giác tuệ soi chiếu. Hai là kính nhân huân tập, là như thật bất không, tất cả cảnh giới của thế gian đều hiện rõ trong đó, không ra không vào, không mất không hoại, luôn thường trú tại một tâm, vì tất cả các pháp chính là tánh chân thật. Vả lại, tất cả pháp nhiễm vốn không có thể nhiễm được, là thể trí bất động, đầy đủ vô lậu thường huân tập chúng sanh. Ba là kinh pháp xuất ly, là pháp bất không vượt ra ngoài sự ngăn trở của phiền não của trí và xa rời tướng hòa hợp, thuần là trong sáng. Bốn là kinh duyên huân tập, là dựa vào pháp xuất ly, soi chiếu khắp nơi trong tâm chúng sanh khiến tu tập thiện căn, tùy theo ý niệm mà bày tỏ. Luận giải thích: Đây chính là phần nói rộng về Bổn giác tánh tịnh. Trong bốn loại nghóa về đại này, mỗi loại có hai nghóa, cùng với nghóa về đại kia không tách rời nhau. Thế nào là hai nghóa? Một là nghóa sánh bằng hư không. Hai là nghóa đồng với gương sáng. Như Bổn Luận nói: “Lại nữa, thể tướng của giác có bốn loại nghóa về đại, sánh cùng với hư không và giống như gương trong sáng”. Thế nào gọi là kinh như thật không và có hai nghóa thì tướng đó thế nào? Tụng nói: Trong Bổn giác tánh tịnh Lìa mọi nghó biết như Rời xa cảnh vọng thật Chỉ nghóa rời xa không Gương Ma xa phu sa Nêu một bày tỏ một. Luận nói: Trong thể tánh của Bổn giác thanh tịnh, rời xa tất cả mọi suy nghóa nhận biết dựa theo duyên và các thức hý luận, thành tựu nghóa của một vị bình đẳng nên gọi là như. Rời xa các loại tướng phần của mọi cảnh giới hư vọng, thành tựu tướng quyết định chân thật nên gọi là thật. Vì muốn biểu hiện rõ nghóa của sự rời xa nên gọi là không. Kính là tên gọi của dụ. Nhưng kính trong này chính là dụ cho đài gương bằng ngọc quý Ma-xa-phu-sa, chứ không phải các loại đài gương sơn son thếp vàng nào khác lấy làm ví dụ. Tại sao? Vì lấy đài gương bằng ngọc Ma-xa-phu-sa này đặt vào một nơi, trong vị trí phía trước gương ngọc hoặc là tụ tập các loại đá quý, hoặc là tụ tập các loại đồ ăn thức uống, hoặc là tụ tập các loại đồ vật trang nghiêm, hoặc là tụ tập gương ngọc cùng loại, trong gương ngọc ấy không hiện rõ ra hình ảnh nào khác, chỉ hiển bày hoàn toàn rõ ngọc quý cùng loại. Kính như thật không cũng lại như vậy, ở trong đài gương này chỉ an lập tập hợp thành tựu công đức thanh tịnh giống với chủng loại của mình, các pháp lỗi lầm tai họa của rất nhiều chủng loại khác đều rời xa. Như Bổn Luận nói: “Thế nào là bốn loại? Một là kính như thật không, là rời xa tất cả tướng cảnh giới của tâm và không có pháp nào có thể hiện bày”. Tại sao mỗi loại có hai loại nghóa mà chỉ nêu ra nghóa đồng với gương sáng, còn nghóa sánh bằng hư không sao chẳng biểu hiện rõ? Vì đưa ra một nghóa gồm đủ bày tỏ một nghóa. Nếu như vậy thì thế nào gọi là nghóa sánh bằng hư không? Nghóa là như hư không thanh tịnh chẳng nhiễm vướng và bốn chướng vốn không thể che lấp, rộng lớn không giới hạn nên ba đời không thể nào thâu gồm được. Kính như thật không cũng lại như vậy. Vì không phải là nghóa của giác tuệ soi chiếu, tức là biểu hiện rõ rời xa nhân duyên, là như trong đài gương bằng ngọc quý Ma-xa- phu-sa kia, các hình ảnh như đá quý… không hiện ra trước gương, vì các pháp như đá quý… đều là thô lậu uế tạp, trong gương ngọc Bổn giác này, các loại pháp hư vọng không hiện ra ở trước gương. Tất cả pháp nhiễm đều là tướng vô minh bất giác, vì vậy không có nghóa soi chiếu đến. Thế nào gọi là kính nhân huân tập và có hai nghóa thì tướng đó thế nào? Tụng nói: Trí Bổn giác tánh tịnh Ba loại pháp thế gian Thảy đều không lìa bỏ Vì một giác huân tập Trang nghiêm quả Pháp thân Nên gọi nhân huân tập Đài gương hoa Đa-lê Dung nạp cùng mọi nơi. Luận nói: Bổn giác tánh tịnh trong ba thế gian thảy đều không xa rời, huân tập ba thế gian trở thành một tánh giác, trang nghiêm cho một quả vó đại của Pháp thân, vì vậy gọi là kính nhân huân tập. Thế nào gọi là ba loại thế gian? Một là chúng sanh thế gian. Hai là khí thế gian. Ba là trí chánh giác thế gian. Chúng sanh thế gian gọi là cõi của tánh phàm phu. Khí thế gian gọi là thế giới cư trú của chúng sanh. Trí chánh giác thế gian gọi là Phật và các vị Bồ-tát. Đây gọi là ba thế gian. Đài gương trong này gọi là đài gương làm bằng vòng hoa Đa Lê, như lấy vòng hoa Đa Lê, đặt vào một nơi xung quanh tập hợp các vật, tất cả các vật do hoa này huân tập thảy đều sáng sạch, đồng thời các vật sáng sạch trong vòng hoa hiện rõ phía trước thảy đều không sót vật gì. Trong tất cả các vật và các vật hiện rõ ở phía trước hoa lại cũng không sót vật gì. Kính nhân huân tập cũng lại như vậy, huân tập tất cả các pháp trở thành giác thanh tịnh, khiến đều được bình đẳng. Hơn nữa, nghóa về hư không tức có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là nghóa dung nạp. Hai là nghóa khắp nơi như nhau. Nghóa dung nạp là dung nạp các sắc không có chướng ngại. Nghóa khắp nơi như nhau là rất nhiều các loại sắc chỉ cùng chung một loại hư không rộng lớn. Như Bổn Luận nói: “Hai là kính nhân huân tập, gọi là như thật bất không, tất cả cảnh giới thế gian đều hiện rõ trong đó”. Như vậy, Bổn giác từ vô thỉ đến nay rời xa bốn tướng sai lầm, tự tánh thanh tịnh thường trú tại một tâm. Thế nào là bốn tướng? Một là rời xa sai lầm của sự không biến khắp, vì ba loại thế gian không ra ngoài đài gương Bổn giác thanh tịnh, như Bổn Luận nói: “Bất xuất”. Hai là rời xa sai lầm của sự tạp loạn, vì tất cả các pháp không vào trong đài gương Bổn giác thanh tịnh, như Bổn Luận nói: “Bất nhập”. Ba là rời xa sai lầm của sự lo sợ, vì trong đài gương Bổn giác hiện rõ các pháp phía trước, tất cả đều là công đức thanh tịnh của Bổn giác. Như Bổn Luận nói: “Bất thất”. Bốn là rời xa sai lầm của sự vô thường, vì các pháp hiện rõ ở trước đài gương Bổn giác, không có gì là trí không phải thường trú vô vi, như Bổn Luận nói: “Bất hoại”. Rời xa sai lầm về giới hạn và viên mãn thật sự với phần giữa, vì thế nói nhất tâm thường trú. Từ đây xuống dưới là biểu hiện rõ về nhân duyên. Vì nhân duyên gì mà các pháp thuộc nhiều loại ở trong trí của Bổn giác, như Bổn giác xa rời các sai lầm chăng? Do các pháp thuộc nhiều loại hoàn toàn không có pháp nào không phải là thể chân thật, như Bổn Luận nói: Vì tất vả các pháp chính là tánh chân thật. Từ đây tiếp xuống tạo ra duyên để giải quyết nghi ngờ. Nghóa là có chúng sanh dấy lên nghi ngờ như vầy: Trong ba thế gian thì chúng sanh thế gian có đầy đủ toàn bộ pháp nhiễm vô minh, lưu chuyển và biến động không lúc nào ngừng, thế gian như vậy hiện rõ trong Bổn giác thì không thể nào được pháp gọi là Bổn giác thanh tịnh rời xa các sai lầm. Vì nghóa này nên nay thông suốt mà nói, đồng thời tất cả pháp nhiễm vốn không thể nào nhiễm được, thật trí Bát nhã là Thể không biến động, tự tánh thanh tịnh đầy đủ không thiếu, luôn huân tập chúng sanh thế gian khiến cho thường thanh tịnh. Như Bổn Luận nói: “Vả lại, tất cả pháp nhiễm vốn không thể nhiễm được, là trí thể bất động đầy đủ không sót và thường huân tập chúng sanh”. Thế nào gọi là kính pháp xuất ly và có hai nghóa thì tướng đó thế nào? Tụng nói: Pháp như thật bất không Thoát khỏi ba lỗi lầm Đầy đủ ba loại đức Nên gọi pháp xuất ly Gương luyện từ pha lê Nghóa không vượt các sắc. Luận nói: Tánh đức vô lậu, thoát khỏi ba loại sai lầm, viên mãn ba loại công đức, gọi là pháp xuất ly. Thế nào gọi là ba loại sai lầm? Một là phẩm vô minh nhiễm, gọi là phiền não làm chướng ngại. Hai là vô minh căn bản, gọi là chướng ngại của trí. Ba là câu hợp tướng chuyển, gọi là thức hý luận. Đây gọi là ba loại sai lầm. Vì xa rời hoàn toàn ba sai lầm như vậy, nên gọi là xuất ly. Như Bổn Luận nói: “Ba là kính pháp xuất ly, nghóa là pháp bất không vượt ra ngoài sự ngăn trở của phiền não của trí và xa rời tướng hòa hợp”. Thế nào gọi là ba loại công đức? Một là công đức thuần thành tựu. Hai là công đức tịnh thành tựu. Ba là công đức minh thành tựu. Đây gọi là ba loại công đức. Như Bổn Luận nói: “Thuần là thanh tịnh, sáng suốt”. Thoát khỏi sai lầm nào và viên mãn công đức gì? Đó là thoát khỏi sự ngăn trở của phiền não - viên mãn công đức tịnh thành tựu, thoát khỏi sự chướng ngại do trí - viên mãn công đức minh thành tựu, thoát khỏi tướng hòa hợp chuyển biến - viên mãn công đức thuần thành tựu. Tại sao tướng đối đãi với pháp vốn là như vậy? Vì đài gương trong này là ngọc quý pha lê, ví như ngọc quý pha lê chìm sâu trong bùn, tức liền xuất hiện thoát ra khỏi bùn lầy kia, vọt ra ngoài nơi khác cách xa cả dặm, nếu đặt vào trong nước đục thì tự nhiên loại trừ tất cả mọi chất bẩn dồn đến, chỉ có nước trong còn lại trong đó. Nếu đặt vào trong rừng Phước đa già, phát ra mùi thơm ngăn trở mọi mùi hôi thối nơi ấy, cách xa mà trụ. Kính pháp xuất ly cũng lại như vậy. Dụ giải thích trong này là dụ về nghóa thanh tịnh của tự thể, trú vào tư duy thuận theo quán sát. Nghóa sánh bằng hư không là xa rời các sắc, nghóa là như hư không rời xa đại chủng, luôn thanh tịnh. Kính pháp xuất ly cũng lại như vậy. Thế nào gọi là kính duyên huân tập, và có hai nghóa thì tướng đó thế nào? Tụng nói: Nơi vô lượng vô biên Trong duyên các chúng sanh Hiện vô lượng vô biên Ứng, Hóa thân thù thắng. Huân tập tâm chúng sanh Sinh ra các thiện căn Tăng trưởng hai vòng hoa Trang nghiêm quả Pháp thân. Nên gọi duyên huân tập Pha lê trong gương biếc Tùy thuận không thành nghóa Như pháp nên quán sát. Luận nói: Ví như lấy ngọc pha lê đặt vào một nơi, xung quanh tích tập nhiều loại châu ngọc đủ màu, ngọc pha lê hướng vào loại ngọc màu gì thì chuyển đổi màu sắc ngọc ấy ngay lập tức. Kính duyên huân tập cũng lại như vậy. Lại ví như hư không có năng lực tự tại, ở trong tất cả các việc đã tạo tùy thuận thành lập. Kính duyên huân tập cũng lại như vậy, ở trong nẻo hành của tất cả chúng sanh, tùy thuận thích hợp để kiến lập. Như Bổn Luận nói: “Bốn là kính duyên huân tập, nghóa là dựa vào pháp xuất ly, soi chiếu khắp nơi trong tâm chúng sanh khiến tu tập thiện căn, tùy theo ý niệm mà bày tỏ”. Bốn loại nghóa đại của Bổn giác như vậy, khắp trong tất cả phạm vi của chúng sanh, tất cả phạm vi của Nhị thừa, tất cả phạm vi của Bồ- tát, tất cả phạm vi của Như Lai, không nơi nào là không an trú, không nơi nào là không soi chiếu, không nơi nào là không thông suốt, không nơi nào là không đến được, đầy đủ và tốt đẹp trọn vẹn.  <卷>QUYỂN 4 Đã nói về phần Nêu rộng Bổn giác tánh tịnh, tiếp đến nói về phần Vô minh căn bản trú địa. Bổn Luận nói: Nói về nghóa bất giác, tức vì không biết đúng như thật về pháp Chân như đồng nhất, tâm không giác ngộ khởi lên nên sinh niệm đó. Niệm không có tự tướng, không xa rời Bổn giác, giống như người lạc đường dựa vào phương hướng nên không nhận ra, nếu rời bỏ phương hướng thì không có mê lầm nữa. Chúng sanh cũng vậy, dựa vào giác nên mê, nếu lìa xa tánh giác thì không có bất giác. Vì có tâm tưởng vọng không giác ngộ, nên có thể biết danh nghóa để diễn tả về chân giác, nếu lìa xa tâm không giác ngộ thì không có tự tướng chân giác để có thể diễn tả. Luận nói: Ngay trong văn này đưa ra hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần nói khác về tương ưng thích hợp. Hai là phần theo thứ tự giải thích riêng nói rộng. Phần đầu là thế nào? Tụng nói: Đấng Đại Giác Mâu Ni Thánh giáo trong một đời Gồm có sáu loại diễn Là minh, ám, câu, phi Không cùng với đầy đủ Sáu vô minh như vậy Tùy nghóa lập tên khác Thể không hề sai biệt. Luận nói: Tập hợp tất cả các loại thuyết giảng khác nhau trong một đời của Đức Thích Ca Mâu Ni đã nêu bày, gồm có sáu loại. Thế nào là sáu loại? Một là minh vô minh. Hai là ám vô minh. Ba là câu thị vô minh. Bốn là câu phi vô minh. Năm là không vô minh. Sáu là đầy đủ vô minh. Đây gọi là sáu loại. Như vậy, sáu loại này tùy theo nghóa mà lập thành tên gọi, dựa vào thể không có sai khác. Minh vô minh, nghóa chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Rốt ráo hết là vô Thông suốt rõ là minh Vì nhân duyên như vậy Lời chung, ý riêng tỏ. Luận nói: Rốt ráo không còn gì nên gọi là vô, thông suốt rõ nên gọi là minh. Đó là mặt trời Bát nhã tròn đầy soi sáng khắp pháp giới, không một pháp nào mà không sáng tỏ. Vì thế hãy nhận thức vô minh như vậy là lời tổng quát mà ý riêng biệt. Trong Kinh Quang Minh Thật Trí giải thích như vầy: “Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Đức Phật: Thưa Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà ở giữa đại chúng nói lên lời nói như vầy: Nay Ta đã nói trong tất cả kinh pháp, từng chữ từng chữ, từng câu từng câu, thâu gồm toàn bộ hết thảy vô lượng những gì đã giải thích, nhưng vì chúng sanh hạng độn căn, nên dùng các loại ngôn từ diễn tả để bàn luận. Nếu như lời Thế Tôn diễn tả, trước mắt sẽ có lỗi lầm. Tại sao? Vì như chữ vô minh chỉ biểu thị về phẩm loại đen tối, không thể biểu thị cho trí Bát nhã sáng tỏ, cho đến chữ vô thường chỉ biểu thị về tướng sanh diệt, chứ không thể giải thích biểu thị cho pháp vô vi an trú trong lý chân thật. Đức Thế Tôn diễn tả như vậy là như thế nào? Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi- phất: Nay Ta đã nói thật sự không có lỗi lầm. Tại sao? Vì như chữ vô minh không thể nhất định nói là chỉ biểu thị về phẩm loại đen tối, vì năng lực trí tuệ của ông còn cạn hẹp ít thấy ít nghe, do đó dấy lên nghi ngờ như vậy. Vì chữ vô minh này lại thâu tóm hết thảy trí Bát nhã sáng tỏ, đầy đủ trọn vẹn không có thiếu sót. Đó là nghóa cứu cánh, là nghóa châu biến, là nghóa viên mãn, là nghóa bình đẳng, là nghóa vô dư, nói là Vô. Là nghóa thông đạt, là nghóa hiển liễu, là nghóa quán chiếu, là nghóa hiện tiền, là nghóa vô ngại, nói là Minh. Cho đến giải thích rộng”. Vô minh tối tăm, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Tất cả Bát nhã sáng Che ẩn khiến không sanh Ví như vật trong tối Không có điều thù thắng. Luận nói: Vô minh căn bản có năng lực che phủ tất cả trí tuệ tổng trì sáng tỏ, khiến bị ngăn ngại không phát sanh được. Ví như trong bóng tối, đồ vật trang nghiêm tuy có hình dạng thắng diệu, nhưng bị bóng tối làm cho ngăn ngại, không nhìn thấy được sự thù thắng kia, vì vậy gọi là vô minh đen tối. Trong Kinh Viên mãn giải thích như vầy: “Tất cả chúng sanh vốn có đủ ba trí, vì điên đảo nên không hiểu biết, không giác ngộ được”. Câu thị vô minh, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Chỉ một loại vô minh Hoặc cùng sáng hoặc tối Ví như một cảnh tối Hai người đều nhìn khác. Luận nói: Một loại vô minh hoặc là sáng hoặc là tối, ví như một cảnh sắc hai người nhìn thấy khác nhau. Nghóa này là thế nào? Nghóa là giống như Ca-la-cưu-xa-na và người đồng phận trong màn đêm thật tối, cùng ở một nơi, nhìn sắc tối này, nếu là Ca-la-cưu-xa-na thì chỉ thấy màu sắc sáng chói thanh tịnh, nếu là người đồng phần thì chỉ thấy cảnh sắc luôn tối tăm. Câu thị vô minh cũng lại như vậy, chỉ một vô minh và hoặc là trí tuệ sáng ngời hoặc là pháp bất thiện tối tăm, hai trạng thái cùng có trong ấy. Trong Kinh Thậm Thâm Mật Nghiêm giải thích như vầy: “Vô minh căn bản ở trong con người huyễn ảo có năng lực tạo ra bản chất huyễn ảo, ở trong con người đạo đức có năng lực tạo ra bản chất đạo đức, vì vậy không thể chọn lấy một mà phản đối một”. Câu phi vô minh, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Từ vô thỉ đến nay Không có dựa ngôn thuyết Xa mọi chuyển phân biệt Và hoàn toàn rời xa. Luận nói: Nói câu phi là không dựa vào ngôn từ, là xa rời sự chuyển biến của tâm, vì vậy gọi là câu phi vô minh. Trong Kinh Bát Thắng Thiên Tử giải thích như vầy: “Bấy giờ, Thiên tử tên là Quang Minh Tự Tại Hoa Bảo Diệu Luân, nhờ vào thần lực của Phật thưa với Đức Phật: Thưa Thế Tôn! Vô minh có chăng? Đáp: Không phải. Hỏi: Vô minh không có chăng? Đáp: Không phải. Hỏi: Vô minh cũng có cũng không có chăng? Đáp: Không phải. Hỏi: Vô minh không phải có, không phải không có chăng? Đáp: Không phải. Không phải chính là vô minh chăng? Đáp: Không phải. Hỏi: Tại sao như vậy? Đáp: Vì không có điều gì có thể sáng tỏ, do đó nói là vô minh vô thỉ”. Không vô minh, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Không thể dụng là không Như lông rùa, sừng thỏ Đạo lý như vậy rõ Vì vậy nói là minh. Luận nói: Không vô minh, thể và dụng đều rỗng lặng, nên gọi là minh. Ví như lông rùa và sừng thỏ xưa nay không có thật thể, tất cả mọi người thảy đều biết rõ. Trong Kinh Vô Thỉ giải thích như vầy: “Vô minh căn bản không hề có việc gì, chỉ tại tánh biến kế sở chấp”. Đầy đủ vô minh, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Tất cả pháp nhiễm, tịnh Sinh ra, tăng thêm chung Vì nhân duyên như vậy Kiến lập tên đầy đủ. Luận nói: Nói đầy đủ là vô minh căn bản có năng lực phát sanh tất cả các pháp nhiễm và tịnh, khiến tăng thêm, do đó thành lập tên gọi là đầy đủ. Trong Kinh Phật Tánh Giải Thoát giải thích như vầy: “Từ hạt giống vô minh sinh ra cây giác tri, từ cây giác tri sinh ra hoa trí tuệ công đức, từ hai đóa hoa này kết thành quả giải thoát Pháp thân, cho đến nói rộng”. Như vậy, sáu loại vô minh căn bản, ở trong văn của luận giải thích rõ, an lập phù hợp là tạm thời lược nêu. Còn tên gọi của vô minh tối tăm có sai biệt ra sao, tướng đó thế nào, kinh điển giải thích khác nhau và số lượng đó có bao nhiêu? Tụng nói: Gồm có mười loại tên Khế kinh giải thích khác Kiến nhất xứ trú địa Hoặc Báo ân vô tận. Hoặc Vô thỉ hữu chung Hoặc Vô đẳng đẳng sanh Hoặc Sanh đắc, quán mãn Trí ngại cùng Bất giác. Giác liễu và Tử tạng Mười loại tên như thế Tùy nghóa dụng sai biệt Chỉ một vô minh ám. Luận nói: Tập hợp tất cả các loại kinh giáo thuyết ra trong một đời, gồm có mười loại tên gọi. Thế nào là mười loại? Đó là: Kiến nhất xứ trú địa. Báo ân vô tận trú địa. Vô thỉ hữu chung trú địa. Vô đẳng đẳng sanh trú địa. Sanh đắc trú địa. Quán mãn trú địa. Trí ngại trú địa. Bất giác trú địa. Giác liễu trú địa. Tử tạng trú địa. Đây gọi là mười Địa. Mười loại tên gọi như vậy chỉ là một thể, tùy theo nghóa dụng sai khác, nên quán sát kỹ! Kiến nhất xứ trú địa, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Tuệ Bát nhã viên mãn Hiện thấy một pháp giới Thể vô minh tức đoạn Nên gọi Kiến nhất xứ. Luận nói: Từ tâm kim cang trở lại, chưa đầy đủ trí tuệ, phước đức còn thiếu kém, vì thế không đạt được nơi chốn thật sự trong một tâm. Vô minh căn bản hãy còn chưa rời ra, mà lúc theo vạn hạnh đến quả vị, Thỉ giác Bát nhã hiển bày rõ, công đức vốn có đầy đủ viên mãn, ngay lúc ấy thấy pháp giới trong một tâm liền an lập trú xứ, vô minh căn bản lập tức đoạn trừ không còn, vì vậy gọi là Kiến nhất xứ hoặc. Trong Kinh Quang Nghiêm Đồng Tử giải thích như vầy: “Vả lại, có tâm mê vọng (Hoặc) nên hàng Thanh văn, Phật-bích-chi và Bồ-tát Thập Địa vốn không thể đoạn trừ, đó là Kiến nhất xứ vô minh trú địa. Như vậy trú địa chứng đạt pháp giới đồng nhất, chỉ có bậc giác ngộ thanh tịnh mới có năng lực đoạn trừ”. Báo ân vô tận trú địa, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Vô lượng các đức Phật Báo ân của vô minh Hết vị lai không cùng Nên gọi Ân vô tận. Luận nói: Hết thảy chư Phật suốt ba đời khắp mười phương đều trả ân vô minh, hết thời gian vị lai cũng không hề cùng tận. Vì sao? Vì tất cả các bậc Giác ngộ lấy vô minh làm nhân vô vi, trang nghiêm đầy đủ cho quả vị Pháp thân. Trong kinh Bổn Lai Thanh Tịnh giải thích như vầy: “Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: Thưa Đức Thế Tôn! Trong vô số đời kiếp không tiếc thân mạng, đoạn trừ tất cả điều ác, tu dưỡng tất cả mọi điều thiện, nhân thực hành viên mãn trang nghiêm cho đại dương tánh của tâm, hỷ lạc tự tại và tác dụng công đức vô ngại, vì nhân duyên gì mà nói lời như vầy: Ta có nhiều ân đức dùng hết thời gian vị lai cũng không thể báo đền hết được? Đức Phật nói: Ta căn cứ vào vô minh, lấy đó làm bản chất để thành tựu đạo quả Chánh giác, vì vậy Ta nói là có ân đức rất sâu nặng, ở trong vô lượng kiếp báo ân không hết. Do nghóa này mà Vô minh trú địa cũng gọi là Báo ân vô tận trú địa”. Vô thỉ hữu chung trú địa, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Quá khứ không giới hạn Tiến vị lai có tận Vì nhân duyên như vậy Gọi Vô thỉ hữu chung. Luận nói: Vô minh căn bản nếu lùi lại về quá khứ thì không có giới hạn ban đầu, gọi đó là Vô thỉ. Nếu tiến vào vị lai thì chắc chắn có gián đoạn, gọi đó là Hữu chung. Trong Bát Nhã Ba-La-Mật giải thích như vầy: “Trí thanh tịnh của Thỉ giác có bắt đầu mà không có kết thúc, vô minh trú địa không có bắt đầu nhưng có kết thúc”. Vô đẳng đẳng sanh trú địa, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Phiền não thượng vô số Một lúc, không trước sau Sanh ra có đầy đủ Gọi là Vô đẳng đẳng sanh. Luận nói: Vô minh căn bản có lực thù thắng, vượt quá hằng sa số các phiền não phẩm thượng, không có trước sau mà cùng phát sanh trong một lúc, vì vậy gọi là Vô đẳng đẳng sanh. Trong Kinh Tự Thể giải thích như vầy: “Ví như Thiên ma Ba-tuần đối với Tự Tại thiên, sắc tướng, sức lực, thọ mạng, quyến thuộc đều đầy đủ tự tại thù thắng hơn hẳn, đại lực trú địa sanh ra không gì sánh bằng, cũng lại như vậy, thô hay tế - trước và sau đều sanh trưởng ngay một lúc, không có trước sau”. Sanh đắc trú địa, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Sanh là ba loại sanh Đắc là lập thành tựu Vô minh căn bản lập Nên gọi là Sanh đắc. Luận nói: Nói là sanh, nghóa là ba loại tướng sanh. Gọi là đắc có hai nghóa. Thế nào là hai nghóa? Một là nghóa kiến lập. Hai là nghóa thành tựu. Vô minh căn bản có năng lực dễ thành lập ba loại tướng sanh, vì thế gọi là Sanh đắc trú địa. Trong Kinh Thập Chủng Vọng Tưởng giải thích như vầy: “Dựa vào từng chủng tử một chuyển biến phát sanh kiến lập thành tựu trú địa, chứ không phải dựa vào tự thể, nên gọi là Sanh đắc”. Quán Mãn trú địa, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Thể vô minh căn bản Kim cang hoàn không dứt Phải đợi quả viên mãn Nên gọi là Quán mãn. Luận nói: Vô minh căn bản đối với tâm kim cang trở lại vẫn còn tồn tại chứ không phải đã hết, phải đợi lúc địa viên mãn mới vónh viễn đoạn trừ không còn gì, vì vậy gọi là Quán mãn trú địa. Trong Kinh Vô Thượng Bồ Đề giải thích như vầy: “Vô minh căn bản đợi đến lúc đạo quả viên mãn, gọi là Quán mãn, các thức hý luận tùy theo địa dần dần loại trừ, gọi là Quán phần” Trí ngại trú địa, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Ngăn Nhất thiết chủng trí Thông suốt nghịch thế gian Sai lầm trái ngược nặng Nên gọi là Trí ngại. Luận nói: Vô minh căn bản rất tối tăm, Nhất thiết chủng trí hiển lộ rất sáng tỏ, như vậy sáng và tối trái ngược nhau hết sức sâu nặng, vì thế gọi là Trí ngại trú địa. Trong Kinh Thậm Thâm Nhân Duyên giải thích như vầy: “Phiền não sâu dày làm chướng ngại cho trí của chánh thể, trái ngược nhau hết sức nên kiến lập làm chướng ngại. Tuệ Bát nhã cùng với hậu đắc trí bị chướng ngại, trái ngược sâu nặng nên kiến lập làm chướng ngại. Cho đến nói rộng”. Bất giác trú địa, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Từ vô thỉ đến nay Đủ ba thân Bồ-đề Tròn bốn đức Niết-bàn Không thể giác, chẳng giác. Luận nói: Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, ba thân đầy đủ, bốn đức viên mãn, tự tánh thanh tịnh rời xa mọi ràng buộc vướng mắc, nhưng vì vô minh nên không nhận thức được, vì thế gọi là Bất giác trú địa. Trong Kinh Đại Bổn Lăng Già giải thích như vầy: “Bát nhã không có tri thức, các thức hý luận đều là cái biết không đúng nghóa, vô minh căn bản chính là Bất giác. Vì sao như vậy? Vì Bất giác đối với tánh giác, cho đến nói rộng”. Giác liễu trú địa, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Không phải cảnh Thập Địa Cũng không cảnh phàm tiểu Chỉ bậc Đại giác hiểu Nên gọi là Giác liễu. Luận nói: Vô minh căn bản thì hàng Bồ-tát Thập Địa chưa thể dễ biết được điều ấy huống chi là hàng phàm, tiểu? Chỉ bậc Đại giác mới hiểu rõ tận cùng không sót, vì vậy gọi là Giác liễu trú địa. Trong Kinh Bảo Tích giải thích như vầy: “Chỉ có cảnh giới Phật chứ không phải cảnh giới nào khác có thể biết được, nên gọi là Giác liễu vô minh”. Tử tạng trú địa, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Biển lớn tạng vô minh Thâu giữ mọi phiền não Như gieo trồng giữ hạt Nên gọi là Tử tạng. Luận nói: Vô minh vô thỉ thâu giữ phiền não làm cho dừng lại, ví như các loại hạt giống chủ quản sự ẩn kín hay hiện rõ, vì thế gọi là Tử tạng trú địa. Trong Kinh Bổn Nghiệp giải thích như vầy: “Cất giữ các chủng tử đủ loại ví như lưới giăng của cõi trời”. Vì nhân duyên gì đều gọi là Trú địa, nghóa của chữ sai biệt ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Lực vô minh rất lớn Nắm giữ mọi pháp nhiễm Như đất giữ bốn loại Nên gọi tên là Trú địa. Luận nói: Vô minh căn bản có năng lực rất lớn, có thể dễ nắm giữ tất cả mọi pháp nhiễm, ví như mặt đất có năng lực thù thắng nên chủ quản bốn trách nhiệm quan trọng, vì vậy gọi là Trú địa. Thế nào là bốn trách nhiệm? Một là biển lớn. Hai là núi non. Ba là cỏ cây. Bốn là chúng sanh. Đây gọi là bốn trách nhiệm. Trong Kinh Thắng Man giải thích như vầy: “Thưa Đức Thế Tôn! Như vậy thì năng lực của vô minh trú địa, ở trong số bốn trú địa của hữu ái, vô minh trú địa là loại có năng lực lớn nhất”. Cho đến nói rộng… Đã nói về phần tách ra tương ưng thích hợp, tiếp đến nói về phần theo thứ tự giải thích riêng, phân tán. Nói về nghóa Bất giác là nêu tổng quát gốc ngọn của tất cả Bất giác. Từ đây tiếp xuống tiến hành giải thích lược chỉ ra. Đầu tiên giải thích về căn bản Bất giác, tiếp đến giải thích tách ra quyến thuộc của Bất giác, mở rộng về gốc - lược bớt phần ngọn, nên quán sát kỹ. Không biết đúng như thật về pháp Chân như chỉ là một nên tâm Bất giác khởi lên, đó chính là biểu hiện rõ về nhân duyên khởi lên căn bản Bất giác. Căn bản Bất giác vì nhân duyên gì có thể dấy lên mà có? Vì nhân không như thật nên có thể dấy lên mà có. Trong những pháp như thế nào mà lại không như thật? Đó là trong ba pháp mà lại không như thật. Nói về không như thật (bất như), điều ấy có nghóa gì? Đó là nghóa về sự trái ngược. Thế nào là ba pháp? Một là thật sự biết rõ một pháp. Hai là chân như chỉ một pháp. Ba là một tâm một pháp. Đây gọi là ba pháp. Thật sự biết rõ một pháp, nghóa là tất cả các giác chính là trí của chủ thể thông đạt. Chân như chỉ một pháp, nghóa là lý bình đẳng chính là cảnh của đối tượng thông đạt. Một tâm một pháp, nghóa là một pháp giới chính là thể của đối tượng nương dựa. Đối với ba pháp này đều trái ngược do đó vô minh nhất định dấy lên, vì thế nói không biết đúng như thật về pháp Chân như chỉ là một nên tâm Bất giác khởi lên. Ba loại pháp kia chung quy đều giữ lấy trong một không rời bỏ, nên gọi chung là một. Từ đây tiếp xuống là sơ lược chỉ ra quyến thuộc, phát sinh niệm vọng, chính là biểu hiện rõ về sự phân ly của vô minh, nghóa là căn bản đã lập nên tất cả quyến thuộc do đó tất cả đều phải có. Từ đây xuống dưới có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần Quy đức thành huyễn, có lực và không có lực. Hai là Cử vọng hiển chân có lực và không có lực. Quy đức thành huyễn, là tất cả vô minh, nếu chế ngự cho đến căn bản thì không có tự thể tướng chỉ là dựa vào bổn giác mà được thành lập. Ví như người lạc đường do dựa vào đường đi nên không nhận ra, nếu xa rời đường đi thì không có điều gì mê loạn. Như Bổn Luận nói: “Niệm vọng không có tự tướng, không xa rời Bổn giác, giống như người lạc đường dựa vào phương hướng nên không nhận ra, nếu tách rời phương hướng thì không có mê loạn. Chúng sanh cũng vậy, vì dựa vào giác nên mê muội, nếu tách rời tánh giác thì không có gì là Bất giác”. Phần Cử vọng hiển chân, là Pháp thân Bát nhã không thể tự nó hiển lộ được, phải đợi Bất giác sau đó mới có thể tán dương danh nghóa đầy đủ hiện rõ trước mắt. Ví như bậc trượng phu dũng mãnh làm cho quân lính phải khuất phục, sau đó mới có thể đạt được vị trí cao hơn. Như Bổn Luận nói: “Vì có tâm vọng tưởng không giác ngộ, có thể hiểu biết về danh nghóa để diễn tả Chân Giác, nếu lìa tâm Bất giác thì tự tướng chân giác không có có thể diễn tả”. Đã nói về phần Vô minh căn bản trú địa, tiếp đến nói về phần Quyến thuộc của vô minh trú địa. Trong sự quyến trạch này có hai tầng. Thế nào là hai tầng? Một là phần biểu hiện rõ về quyến thuộc vi tế. Hai là phần biểu hiện rõ về quyến thuộc thô trọng. Phần đầu như thế nào? Bổn Luận nói: Lại nữa, dựa vào Bất giác nên phát sanh ba loại tướng, cùng với Bất giác tương ưng không lìa xa. Thế nào là ba tướng? Một là tướng vô minh nghiệp, vì dựa vào Bất giác nên tâm biến động, gọi là nghiệp. Giác thì không biến động, biến động thì có đau khổ, do quả không không lìa xa nhân. Hai là tướng tăng kiến, vì dựa vào biến động nên có thể thấy, không biến động thì không thể thấy. Ba là tướng cảnh giới, vì dựa vào chủ thể thấy nên cảnh giới hư vọng xuất hiện, xa lìa thấy thì không có cảnh giới nào. Luận giải thích: Ngay trong văn này tức có hai tầng. Thế nào là hai tầng? Một là phần nêu tổng quát, lược bày. Hai là phần nêu ra, giải thích cùng thành lập. Phần thứ nhất nói “Dựa vào Bất giác nên phát sanh ba loại tướng cùng với Bất giác tương ưng không lìa xa”, tức là biểu hiện rõ phần tướng của ngọn nhờ vào sức lực của phần thể từ gốc mà được thành lập. Vả lại, phần thể của gốc được các cành nhánh của phần tướng từ ngọn nuôi dưỡng nên có thể tồn tại. Ví như cha và con làm nhân cho nhau mà được thành lập. Vì vậy nói là “tương ưng không lìa xa”. Nếu nói như vậy, thì từ Địa thứ tám trở lên các bậc Bồ-tát ở địa trên sẽ đoạn trừ vô minh giống như địa Diệu giác hay sao? Điều này không phải như vậy, vì tuy Bồ-tát đoạn trừ tướng thuộc phần thô, mà ba tướng vi tế hãy còn chưa đoạn hết. Từ đây xuống dưới giải thích phần thứ hai. Trong ba tướng này thì tướng nghiệp thứ nhất, giữa chủ thể trông thấy và đối tượng được trông thấy không có sai biệt, tâm vương phân biệt pháp không thể phân tích, chỉ căn cứ vào nghóa luôn biến động, ngấm ngầm lưu chuyển nên gọi là nghiệp. Như vậy biến động và lưu chuyển chỉ do Bất giác. Nếu giác thì không biến động mà biến động thì có đau khổ. Vì sao như vậy? Vì quả ban đầu của tướng nghiệp không xa rời nhân ban đầu của vô minh. Như Bổn Luận nói: “Một là tướng vô minh nghiệp, vì dựa vào Bất giác nên tâm biến động, gọi là nghiệp. Giác thì không biến động, biến động thì có đau khổ, vì quả không lìa xa nhân”. Tướng chuyển thứ hai, vì tướng nghiệp niệm vọng là nơi nương cậy, chuyển biến làm duyên chủ động lưu chuyển trở thành tướng rõ ràng. Nếu không có phần vị của tướng nghiệp động niệm, sẽ không có kiến phần của tướng liễu biệt chuyển, dựa vào bên này biến động làm chuyển đổi bên kia nên gọi là tướng chuyển. Như Bổn Luận nói: “Hai là tướng chủ thể nhận thức, vì dựa vào biến động nên có thể thấy, không biến động thì không thể thấy”. Tướng hiện thứ ba, vì dựa vào phân biệt chuyển làm nơi nương cậy, nên cảnh giới hý luận hiển bày đầy đủ trước mắt, tướng phần đã duyên theo trải rộng khắp nơi. Nếu lìa xa phần vị của thức phân biệt kiến, thì không có trần tướng của cảnh giới nơi đối tượng duyên. Dựa vào kiến phần này hiện bày tướng phần kia, ví như dựa vào gương sáng nên hiện rõ các cảnh sắc hình tượng, nên gọi là tướng hiện. Như Bổn Luận nói: “Ba là tướng cảnh giới, vì dựa vào chủ thể thấy nên cảnh giới hư vọng xuất hiện, lìa thấy thì không có cảnh giới nào”. Như vậy, ba tướng tuy khác biệt về tên gọi nhưng cùng chỉ ra thức vốn có, nơi phần Quyết trạch ở trước đã nói rộng. Trong ba tướng này thì tướng thứ nhất là chủ thể và đối tượng cùng chung, thể không sai khác. Tướng thứ hai chỉ có chủ thể trông thấy vì không có đối tượng trông thấy. Tướng thứ ba thì chủ thể cùng đối tượng đều đầy đủ và viên mãn. Vô minh căn bản lại có gì sai khác? Nghi ngờ này do đâu? Vì tự thể của vô minh không rõ. Điều ấy có nghóa là nếu nói tâm thể không biến động, thì ngay lúc này gọi là vô minh, điều ấy không phải như vậy. Vì sao như thế? Vì ba là phần nói về lý do dựa vào Bất giác nên tâm biến động, gọi là nghiệp. Nếu nói không có gì động thì phần vị thức nghiệp chẳng phải vô minh, điều này cũng không phải vậy. Vì sao như thế? Vì phần so sánh nói là do không thông đạt một pháp giới nên tâm không tương ưng, bỗng nhiên niệm vọng khởi lên nên gọi là vô minh. Hai văn về động và khởi đều dựa vào thức nghiệp để giải thích như vậy, chứ không phải là vô minh. Vì sao? Vì chủ thể biến động, chủ thể khởi lên là vô minh căn bản, thuận theo biến động, thuận theo khởi lên chính là thức nghiệp. Vì nghóa này nên không có sai trái lẫn nhau. Nếu vậy thì thể của vô minh căn bản, làm thế nào có thể biến động được tâm thể và làm thế nào có thể khởi lên các niệm vọng? Chỗ này không rõ. Vì Thập Địa không phải là cảnh giới mà ba Hiền không thể suy lường, chỉ có Phật mới hiểu rõ đến cùng nên không thể vọng nói được, nhưng dựa vào kinh giải thích mượn ngôn từ tạm gọi chỉ nói là Bất giác. Có được nhân duyên trong phần Quyết trạch sau sẽ nêu rõ. Tướng nghiệp - niệm vọng vi tế - chủ thể - đối tượng chưa rõ, tướng và cảnh giới không thể phân biệt, vì nhân duyên gì thiết lập tên gọi động để giải thích tướng nghiệp vậy? Điều này lại cũng không thể vọng nói, chỉ dựa vào kinh giải thích mà nói như vầy: Tướng nghiệp và bổn thức, không có chủ thể tạo tác rõ, không có đối tượng tạo tác rõ, không thể phân tích, không thể cách biệt, chỉ căn cứ vào nghóa luôn biến động ngấm ngầm lưu chuyển, nên gọi là Kiện ma. Nếu chúng sanh cần phải dùng các loại ngôn từ phô bày để nói về điều này, thì nói suốt ngày cũng không thể nói rõ hết được. Đã nói về phần biểu hiện rõ về quyến thuộc vi tế, tiếp đến nói về phần biểu hiện rõ về quyến thuộc thô trọng. Bổn Luận nói: Vì có cảnh giới duyên theo nên lại phát sanh sáu loại tướng. Thế nào là sáu loại? Một là tướng trí, vì dựa vào cảnh giới mà tâm khởi lên yêu thích và ghét bỏ. Hai là tướng tương tục, vì dựa vào trí nên sanh ra cảm nhận nỗi khổ và niềm vui, tâm khởi niệm tương ưng không ngừng. Ba là tướng chấp thủ, vì dựa vào duyên tương tục phân biệt cảnh giới, giữ chặt những nỗi buồn vui nên tâm khởi lên chấp trước. Bốn là tướng kế danh tự, vì dựa vào vọng chấp phân biệt đủ loại tướng trạng, danh ngôn không thật. Năm là tướng khởi nghiệp, vì dựa vào tên gọi tìm tên gọi dẫn đến tham đắm tạo ra đủ loại nghiệp. Sáu là tướng nghiệp hệ khổ, vì dựa vào nghiệp nhận chịu quả không thể tự tại được. Luận giải thích: Sáu tướng như vậy đều từ nơi ý thức chứ không phải là thức hay pháp nào khác. Vì sao như vậy? Vì trong Kinh Đại Bổn giải thích như vậy. Phần quyết trạch này là kinh nào giải thích? Đó là Kinh Lăng Già. Nơi kinh ấy sẽ giải thích điều gì? Đó là trong Kinh Phân Lưu Lăng Già giải thích như vầy: Ví như sóng biển lớn Do gió mạnh nên khởi Sóng to vỗ vào bờ Không lúc nào gián đoạn Thường trú biển tạng thức Gió cảnh giới chuyển động Đủ loại sóng các thức Cuộn tung mà chuyển sanh Các loại sắc xanh đỏ Sữa trắng và mật ong Nhiều hoa quả vị nhạt Nhật, nguyệt và ánh sáng Chẳng khác, chẳng không khác Nước biển khởi sóng cuộn Bảy thức cũng như vậy Tâm cùng hòa hợp sanh Như nước biển biến đổi Sóng cuộn chuyển biến theo Bảy thức cũng như vậy Tâm cùng hòa hợp sanh Là từ nơi tạng thức Đủ các thức chuyển tiếp Đó là ý thức kia Tư duy nghóa các tướng Sinh tám tướng không hoại Không có tướng, không tướng. Dựa vào văn kinh này giải thích, phát khởi văn nói về sáu tướng. Nay văn kinh này là trình bày về nghóa gì? Đó là muốn biểu hiện rõ về tự tánh thường trú tại biển cả của hiện thức, bị gió cảnh giới của sáu trần làm cho trôi nổi. Bảy loại chuyển thức lấy thể của hiện thức làm nhân bên trong, lấy cảnh giới sáu trần làm duyên bên ngoài, khiến cho sáu loại tướng thô trọng dấy lên mạnh mẽ. Như kinh nói: Ví như sóng biển lớn Do gió mạnh cuộn lên Sóng to vỗ vào bờ Không lúc nào gián đoạn Thường trú biển tạng thức Gió cảnh giới chuyển động Đủ loại sóng các thức Cuộn tung mà chuyển sanh. Thế nào gọi là gió của cảnh giới, gió ấy hình trạng như thế nào? Đó là các loại màu sắc rõ như xanh vàng đỏ trắng…, có năng lực dấy lên nhãn thức. Các loại châu ngọc như vàng bạc quý… hiện sanh ra nhiều loại âm thanh thù thắng vi diệu, có năng lực dấy lên nhó thức. Các loại mùi thơm ngào ngạt xông ướp khắp nơi như hương thanh đàn…, có năng lực dấy lên tỷ thức. Các loại lụa là mềm mại xúc chạm hòa hợp cùng với các loại vật tốt tạo an lạc, có năng lực dấy lên thân thức. Các mùi vị ngọt nhạt, tùy theo những gì thích hợp với nó phát ra các loại mùi vị, có năng lực dấy lên thiệt thức. Hoa của hiện tại, quả của vị lai là các loại pháp trần, thuận theo làm thành cảnh giới đã duyên vào của thức, có năng lực dấy lên ý thức. Nay trong văn này đưa ra trần chọn lấy thức, nên quán sát kỹ. Thức Mạt-na kia chính là phần vị vi tế của ý thức mà không có Thể riêng biệt. Như vậy sáu trần có thể làm dấy động tâm thể khiến trở thành tán loạn, ví như gió mạnh nên gọi là gió của cảnh giới. Như kinh nói: Các loại sắc xanh đỏ Sữa trắng và mật ong Nhiều hoa quả vị nhạt. Như vậy, bảy thức cùng với tạng thức, giống nhau hay là khác nhau? Chẳng phải giống nhau cũng chẳng phải khác nhau, vì xa rời cả hai bên. Ví như mặt trời và ánh sáng, nước và sóng nước, chẳng phải giống nhau cũng chẳng phải khác nhau. Bảy thức và tạng thức chẳng phải giống nhau, chẳng phải khác nhau, nghóa lý cũng như vậy. Như kinh nói: Nhật, nguyệt và ánh sáng Chẳng khác, chẳng không khác Nước biển khởi sóng cuộn Bảy thức cũng như vậy Tâm cùng hòa hợp sanh. Bảy thức như vậy từ xứ sở nào đến hội nhập trong tạng thức làm thành số của bảy loại, lưu chuyển khởi động không lúc nào gián đoạn? Như vậy, bảy chuyển thức không đến từ bên trong, không đến từ bên ngoài, không đến từ phần giữa, chỉ do thể của tạng thức biến đổi làm thành bảy thức, ví như nước biển khởi biến đổi gây ra sóng cuộn. Như kinh nói: Ví như nước biển biến Vô số sóng cuộn chuyển Bảy thức cũng như vậy Tâm cùng hòa hợp sanh Nghóa là nơi tạng thức Vô số các thức chuyển Là vì ý thức kia Tư duy nghóa các tướng. Như vậy, hiện thức và bảy chuyển thức là tám loại tâm thức, chỉ có tướng của sanh diệt vô thường hay là cũng có tướng Chân thật - tướng Thường trú? Như vậy, tám thức từ vô thỉ đến nay, ba đời không biến động, bốn tướng không dời chuyển, là tướng chân thật thường trú, tự tánh thanh tịnh không thể hủy hoại, đầy đủ viên mãn không có thiếu sót. Tất cả công đức đều như vậy, giống như pháp giới nên không có hai tướng, không có hai tướng do đó chỉ là một tướng, chỉ là một tướng vì vậy cũng là vô tướng, đều vì vô tướng nên vô tướng cũng vô tướng. Như kinh nói: Tướng không hoại có tám Không tướng, cũng không tướng. Kinh Lăng Già này trình bày tất cả bao nhiêu thức? Chính là phát sinh hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần nói lược. Hai là phần nói rộng. Như vậy trong hai phần cả ba bản kinh đều nói khác nhau. Nói khác nhau thế nào? Đó là trong một bản kinh Phân lưu Lăng Già giải thích như vầy: “Này Đại Tuệ! Nói lược có ba loại thức, nói rộng có tám loại thức. Như thế nào là ba loại thức? Đó là thức chân - thức hiện và thức phân biệt sự”. Lại một bản kinh Phân lưu Lăng Già giải thích như vầy: “Này Đại Tuệ! Nói rộng có tám loại thức, nói lược thì có hai loại thức. Thế nào là hai loại thức? Một là thức liễu biệt. Hai là thức phân biệt sự”. Lại một bản kinh Phân lưu Lăng Già giải thích như vầy: “Này Đại Tuệ! Nói lược có bốn loại thức, nói rộng có bảy loại thức. Thế nào là bốn loại thức? Đó là thức nghiệp - thức chuyển - thức hiện và thức phân biệt sự”. Như vậy, cả ba bản kinh dứt khoát là chân thuyết, phải quay về nương theo kinh Lăng Già loại nào đây? Nhân Duyên Lăng Già, Sa La Lăng Già, Bàn Thi Đa Lăng Già…, bao nhiêu loại kinh này chính là ngụy tạo nói ra không thật nên không đáng để nương theo. Nay nên dựa vào một vạn sáu ngàn tụng trong Đại Bổn Lăng Già, ba kinh tuy an lập khác nhau về tướng nhưng kết hợp nhau cùng giải thích, như thứ tự ấy cần phải quán sát kỹ. Trong kinh thứ nhất, thì thứ nhất là thức chân, dứt khoát là vô minh căn bản đã huân tập chân tâm của Bổn giác. Thứ hai là thức hiện, dứt khoát là tướng hiện của thức A-lê-da. Thứ ba là thức phân biệt sự, dứt khoát là ý thức, phần thô là ý thức, phần tế chính là mạt-na. Tại sao kinh này chỉ nói phần tế của ý thức là thức Mạt-na-đà. Thức nghiệp và thức chuyển, trong ba phần tế lại lược bỏ không nêu ra. Chính chỗ này có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần Nêu lên hai biểu hiện ba có đủ số. Hai là phần Dẫn theo trên biểu đạt dưới có đủ số. Phần một nói thế nào? Đó là nêu lên phần thô mạnh để biểu hiện phần tế kém. Nghóa này là thế nào? Vì ở trong ba phần tế thì phần thô là thức hiện, ở trong bảy thức thì mạnh hơn là ý thức. Nêu phần thô là thức hiện để biểu hiện phần tế là thức nghiệp và thức chuyển, vì thế chỉ nói thức hiện. Nêu lên cái mạnh là ý thức để chỉ cái kém là Mạt-na, do đó chỉ nói ý thức. Vì thế ngôn ngữ lược mà nghóa lý đủ, đây gọi là phần Nêu lên hai biểu hiện ba có đủ số. Phần hai nói gì? Đó là trước sau tự nhiên tên gọi đầy đủ. Nghóa này là thế nào? Văn kinh nói là: Các thức có ba loại tướng, đó là tướng chuyển, tướng nghiệp và tướng chân. Thứ nhất là tướng chuyển, chính là ba phần tế thâu tóm được thức chuyển. Thứ hai là tướng nghiệp, tức ba phần tế đã thâu tóm thức nghiệp. Thứ ba là tướng chân, chính là thức Mạt-na được thâu tóm do phần tế của ý thức. Dẫn văn kinh này đạt tới văn sau, tên gọi đầy đủ, nghóa lý trọn vẹn, đây gọi là phần Dẫn theo trên biểu đạt dưới có đủ số. Trong kinh này nói tám loại thức, đó là A-lê-da - Mạt na - ý thức và năm thức thân, đây gọi là tám loại thức. Vì sao trở thành tám loại? Vì trong một ý thức phân ra bảy loại khác nhau. Trong kinh thứ hai thì thứ nhất là thức liễu biệt, dứt khoát là tướng hiện của thức A-lê-da. Thứ hai là thức phân biệt sự, dứt khoát là ý thức, nghóa đã nói như trước, cùng nói là Mạt-na. Trong kinh thứ nhất trên kia gọi là tướng chân, trong kinh thứ hai này gọi là thức trí tướng, là tên gọi khác mà nghóa lý như nhau. Trong phần vị Mạt-na bắt đầu có tuệ tâm sở, phân biệt đối với ngoại trần gọi là thức trí tướng. Như vậy, trí trong cảnh của đối tượng duyên nơi thức khởi lên hiểu rõ về tướng chân thật mà chuyển hóa nên gọi là tướng chân. Tám thức trong này dựa theo trước có thể biết. Trong kinh thứ ba nói đến bốn loại pháp thức, sắc thái của văn rõ nên tạm thời lược bớt không nói. Nói về bảy thức, là Mạt-na và ý thức chung làm một, vì thô và tế tuy có khác nhau nhưng chỉ là một thức. Trong Kinh Pháp Giới Pháp Luân giải thích như vầy: “Ý thức thứ sáu trong lúc phân biệt cảnh giới của sáu trần, chắc chắn dựa vào Mạt na làm gốc của chỗ dựa mới có thể sanh khởi, vì thế ý thức sẽ là chủ thể dựa, thức Mạt-na sẽ là đối tượng được dựa”. Chủ thể và đối tượng ấy không thể cùng là một loại, tại sao nay nói là một thể không khác? Ý kinh phân tách nên không có gì trái ngược nhau. Nghóa là trong kinh ấy đã thiết lập chủng loại khác nhau. Nay trong kinh này thiết lập chủng loại như nhau. Vì văn nào mà hiện tại biết rõ về thức phân biệt sự, không dựa vào Mạt-na nhưng vẫn có thể sanh khởi? Do trong Kinh Lăng Già giải thích rất rõ. Kinh ấy giải thích thế nào? Đó là trong Phân lưu Lăng Già giải thích như vầy: “Này Đại Tuệ! Thức liễu biệt sự và thức phân biệt sự, hai loại thức ấy không có sai biệt, lại luân lưu làm nhân cho nhau”. Lại trong một bản Phân lưu Lăng Già giải thích như vầy: “Này Đại Tuệ! Thức hiện và thức phân biệt sự, hai tướng hoại và bất hoại này liên tiếp chuyển đổi làm nhân cho nhau”. Căn cứ vào văn ấy nên biết rõ về ý thức, chỉ lấy tướng hiện của thức A-lê-da làm đối tượng được dựa bên trong, sanh khởi hay động chuyển không dựa vào Mạt na. Hơn nữa, trong Kinh Đại Bổn Lăng Già nói như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Diệu Nghiêm bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Ý thức tướng thô và ý thức tướng tế lấy gì làm nhân, lấy gì làm duyên mà chuyển đổi liên tục không ngừng? Đức Phật nói: Đúng như vậy! Ý thức thô và tế, lấy thức hiện kính để làm nhân, lấy cảnh giới sáu trần để làm duyên, chuyển đổi liên tục theo nhau”. Do nghóa này mà thức Mạt na thứ bảy duyên với cảnh giới sáu trần. Vì cảnh nơi đối tượng duyên mà nghóa chuyển đã thành lập. Tại sao? Vì trong kệ tụng của kinh giải thích như vầy: “Gió cảnh giới đã động, Sóng bảy thức cuồn nổi”. Vả lại, nếu chúng sanh nào trải qua thức hiện, đó chính là thức Mạt na này, vì thế ý thức lấy đó làm nhân. Lời này không đáng để căn cứ theo sao? Đã nói phần căn bản dựa theo kinh, tiếp đến giải thích văn của luận. Ngay trong văn này tự có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần nêu tổng quát, lược chỉ ra. Hai là phần nêu ra và giải thích đều thành tựu. Vì có duyên vào cảnh giới nên lại phát sanh sáu loại tướng, đó chính là phần một. Văn này là trình bày về nghóa nào? Đó là biểu hiện rõ về sáu loại tướng thô của một ý thức, lấy cảnh giới sáu trần trong thức hiện kính làm duyên phát khởi, lấy thể của thức hiện kính làm nhân dựa vào, nên được sanh trưởng liên tục và chuyển đổi đầy đủ. Nếu như vậy thì tại sao chỉ nói là lấy cảnh giới làm duyên, không nói đến lấy thức vốn có kia làm nhân? Vì nghóa biểu hiện lẫn nhau nên tạm thời lược bớt, chứ lý đó không phải là không có. Nếu vậy thì thức hiện chính là tương ưng với Mạt-na, làm chỗ dựa gần gũi cho ý thức, giống như là ý căn? Giải thích về nghóa này có hai ý. Thế nào là hai ý? Một là ý ngăn trở. Hai là ý cho phép. Ngăn trở là chặn lại chủng loại sai khác. Cho phép là thừa nhận A-lê-da và Mạt-na. Nghi vấn khó xử lý như vậy đến trong phần Quyết trạch Đại Mạt na, lý đó tự nhiên hiển lộ. Từ đây xuống dưới giải thích về phần thứ hai. Trong sáu tướng này thì hai tướng thứ nhất chính là chấp pháp, hai tướng thứ hai chính là chấp ngã, hai tướng thứ ba chính là tướng sai khác của nghiệp nhân quả báo. Vả lại, hai tướng thứ nhất thì hàng Địa thượng đã đoạn trừ, hai tướng thứ hai thì hàng ba Hiền đã đoạn trừ, hai tướng thứ ba thì hàng Thập tín đã rời xa. Hơn nữa, hai tướng đầu là tướng tế, bốn tướng sau đều là tướng thô. Tiếp đến, một tướng đầu là tướng tế, một tướng sau là tướng thô. Lại nữa, sáu tướng đều là tướng thô. Tiếp nữa, sáu tướng đều không có tướng tế cũng không có tướng thô. Như thứ tự đó thuận theo nên tư duy kỹ. Đã nói về phần biểu hiện rõ quyến thuộc thô trọng, tiếp đến nói về phần biểu hiện rõ vô minh có quyết nghi. Bổn Luận nói: Nên biết vô minh có năng lực sanh ra tất cả mọi pháp nhiễm, vì tất cả mọi pháp nhiễm đều là tướng Bất giác. Luận giải thích: Ngay trong văn này tự có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần nêu trực tiếp nhất định có. Hai là phần giải thích về tướng để giải quyết nghi ngờ. Phần một nói gì? Tụng nói: Ví như trông thấy cây Nên biết có chủng tử Thấy các phiền não trên Biết vô minh cũng vậy. Luận giải thích: Ví như người thấy cây rừng thì quyết định là biết rõ có hạt giống của nó, thấy các phiền não thì biết vô minh là có, nghóa lý cũng như vậy. Như Bổn Luận nói: “Nên biết vô minh có năng lực sanh ra tất cả mọi pháp nhiễm”. Phần hai nói gì? Đó là chúng sanh dấy lên nghi ngờ như vầy: Vô minh chỉ có một mà pháp nhiễm thì vô lượng, há một vô minh mà sanh ra mọi phiền não? Do đó khởi lên tâm không tin. Nếu giải quyết nghi ngờ kia phải nói lời này: Ví như hạt giống chỉ có một mà sanh ra vô lượng vô biên tất cả các loại hoa trái cành lá…, vô minh căn bản cũng lại như vậy, chỉ một vô minh mà có năng lực sanh ra tất cả pháp nhiễm của phiền não vô lượng vô biên. Vì sao biết được tất cả mọi phiền não đều do vô minh sanh ra? Vì các pháp nhiễm kia đều là tướng Bất giác. Nếu như đợi đến lời này thì nghi ngờ kia được giải quyết nhanh chóng. Như Bổn Luận nói: “Vì tất cả mọi pháp nhiễm đều là tướng Bất giác”. Từ trước đến nay căn cứ trên vô minh lược giải thích rồi. Từ đây xuống dưới thâu tóm toàn bộ hết thảy các pháp nhiễm - tịnh, lại làm thành hai loại phân biệt giữa đồng và dị, biểu thị chủ ý chân thật của người tạo luận. Tướng đó thế nào? Bổn Luận nói: Vả lại, Giác và Bất giác có hai loại tướng. Thế nào là hai loại? Một là tướng đồng. Hai là tướng dị. Nói về tướng đồng, ví như các loại đồ dùng bằng sành sứ đều cùng chung tánh tướng là vi trần. Như vậy, vô lậu, vô minh và các loại nghiệp huyễn ảo đều cùng chung tánh tướng là Chân như. Vì vậy trong kinh dựa vào nghóa này nói: “Tất cả chúng sanh thường trú xưa nay, hòa nhập với pháp Bồ-đề Niết-bàn, không phải là tướng có thể tu tập, không phải là tướng có thể làm ra, suy cho cùng không có gì đạt được, cũng không có sắc tướng nào có thể trông thấy, mà sắc tướng có thể trông thấy, chỉ là nghiệp huyễn ảo đã tạo ra tùy theo pháp nhiễm, chứ không phải là tánh bất không của trí sắc, vì tướng trí không gì có thể trông thấy”. Nói về tướng dị, ví như các loại đồ dùng bằng sành sứ mỗi loại có hình dạng riêng và hoàn toàn khác nhau. Như vậy, vô lậu, vô minh tùy theo pháp nhiễm huyễn ảo sai biệt nên tánh nhiễm huyễn ảo cũng sai biệt. Luận giải thích: Ngay trong văn này tự có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần tướng đồng. Hai là phần tướng dị. Để trình bày về nghóa nào mà kiến lập phần tướng đồng? Vì muốn biểu hiện rõ tất cả các pháp chỉ có một chân như chứ không có pháp nào khác, là môn Chân như. Để trình bày về nghóa nào mà kiến lập phần tướng dị? Vì muốn biểu hiện rõ chỉ có một Chân như làm nên tất cả các pháp, danh tướng hoàn toàn khác nhau, nghóa - dụng không loại nào giống loại nào, là môn sanh diệt. Hai môn như vậy dựa vào kinh nào để kiến lập? Đó là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi trả lời trong kinh thứ nhất. Trong kinh ấy xác đáng là nói về điều gì? Nghóa là trong kinh ấy nói như vầy: “Đức Phật hỏi Bồ-tát Văn-thù: Ông từ lâu xa đến nay luôn không nghỉ ngơi, đi lại khắp trong cõi nước mười phương thấy điều gì đặc biệt? Bồ-tát Văn-thù trả lời: Con từ lâu xa đến nay không thấy điều gì khác, chỉ thấy bụi đất. Đức Phật lại hỏi: Trong một trăm năm ông ở nhà họ Luân, không trông thấy hình dạng các loại đồ dùng bằng sành sứ chăng? Bồ-tát Văn-thù trả lời: Con chỉ thấy bụi đất chứ không thấy đồ dùng bằng sành sứ. Đức Phật lại nói: Ông thật sự không trông thấy các loại hình dạng như đất nước lửa gió, núi sông cây cối… hay sao? Bồ-tát Văn-thù trả lời: Con thật sự không thấy những hình dạng như thế, chỉ thấy toàn là bụi đất. Như thế, như thế… Đức Thế Tôn hỏi vặn lại, Văn-thù đáp: Đúng như vậy, như vậy… Đến thứ một trăm lần Đức Phật hỏi Văn-thù thấy toàn bụi đất ư? Văn-thù trả lời: Con từ lâu xa đến nay không thấy cát bụi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù: Lành thay! Lành thay! Ông đúng là Đại só, có năng lực hiểu được tướng đồng nhất, có năng lực hiểu được tướng đồng nhất chính là pháp không hề có tướng. Này Văn-thù-sư-lợi! Một bậc Nhân giả như ông không phải chỉ hiểu được như vậy, mà dựa vào môn nhất tướng, tất cả chúng sanh thường trú xưa nay, hội nhập với pháp Bồ-đề Niết-bàn, đạt đến nơi tướng trí không gì có thể thấy”. Bồ-tát Mã Minh dựa vào văn kinh ấy thiết lập môn tướng đồng, nội dung của văn rõ nên không cần phải giải thích lại. Về phần tướng dị, trong kinh ấy nói như sau: “Đức Phật nói với Thân Tử: Ông thấy cõi này là tâm nào thấy? Thân Tử đáp: Con thấy cõi này, thì các loại tướng trạng của núi sông - cây rừng - cát đá - đất đai - mặt trăng - mặt trời - cung điện nhà cửa…, tất cả đều có hình tướng tên gọi sai biệt và không hề giống nhau. Đức Phật nói: Sức trí tuệ của ông hạn kém, tâm có cao thấp, nên thấy khác nhau như vậy, chỉ vì một người như ông, không phải thấy như thế. Tất cả chúng sanh lại cũng như thế, thậm chí các pháp cũng lại như thế, chân - vọng huân tập lẫn nhau, công đức - tội lỗi - hình tướng - tên gọi tất cả đều sai biệt, tùy theo tâm phàm phu đã lập thành danh tướng, có mà chẳng phải là thật, chỉ toàn là pháp huyễn hóa, cho đến nói rộng”. Do dựa vào văn này, thuật ra tìm nghóa thiết lập môn tướng dị, nội dung của văn rõ nên không cần phải giải thích lại. Trong hai môn này vốn giữ lại môn đầu, thuận theo nên tư duy kỹ. Từ trước đến nay giải thích trong phần này đều là câu chữ của tâm sinh diệt. Từ đây về sau giải thích thẳng về nhân duyên. Bổn Luận nói: Lại nữa, nhân duyên sinh diệt, vốn gọi là chúng sanh dựa vào tâm ý và ý thức mà chuyển. Nghóa này là thế nào? Vì dựa vào thức A-lê-da để nói, có vô minh Bất giác dấy lên, chủ động tiếp xúc - chủ động hiện rõ - chủ động chọn lấy cảnh giới khởi lên niệm vọng liên tục không dứt, nên nói là ý. Ý này lại có năm loại tên gọi. Thế nào là năm loại? Đó là: Gọi là thức nghiệp, nghóa là vì năng lực của vô minh nên tâm không giác tỉnh, bị biến động. Gọi là thức chuyển, nghóa là vì dựa vào tâm biến động nên chủ động thấy tướng. Gọi là thức hiện, đó là chủ động hiện ra tất cả cảnh giới, giống như gương sáng hiện rõ đủ mọi hình tượng cảnh sắc. Thức hiện cũng vậy, tùy theo năm trần cảnh hướng đến lập tức hiện rõ không có trước sau, vì tất cả mọi lúc tùy ý vận dụng khởi lên luôn ở phía trước. Gọi là trí thức, nghóa là vì phân biệt rõ pháp nhiễm và pháp tịnh. Gọi là thức tương tục, vì niệm tương ưng không dứt. Luận giải thích: Ngay trong văn này đã có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần thâu gồm nghóa biểu hiện tông chỉ phát sinh kiến giải. Hai là phần thuận theo văn nêu rộng để giải quyết nghi ngờ. Phần một nói gì? Trong phần này nói về nhân duyên và có hai tầng của nó. Thế nào là hai tầng? Một là nhân duyên bất tương ưng sanh diệt. Hai là nhân duyên tương ưng sanh diệt. Nhân duyên tầng thứ nhất thì tướng đó thế nào? Tụng nói: Là vô minh căn bản Là thuận duyên Bổn giác Nhân duyên đều có đủ Là ba bất tương ưng. Đích thực tạo nhân duyên Nhân duyên sanh diệt tế Lại tác ý quán sát Nên xét kỹ nghóa lý. Luận nói: Vô minh căn bản thuận theo duyên Bổn giác, tất cả các nhân duyên có đầy đủ hai nghóa, có thể vì ba loại bất tương ưng nhiễm, đích thực làm thành nhân duyên, vì thế nói là phần nhân duyên vi tế của sanh diệt. Hình tướng đầy đủ trong phần nói chi tiết, lý đó sẽ sáng tỏ. Nhân duyên tầng thứ hai ra sao và tướng đó thế nào? Tụng nói: Tự thể thức hiện kính Tướng cảnh giới sáu trần Là ba loại tương ưng Hay làm thành nhân duyên. Luận nói: Thể của thức hiện kính là cảnh giới sáu trần. Như thứ tự đó, có thể làm thành nhân duyên cho ba loại tương ưng pháp nhiễm, vì thế nói là phần nhân duyên thô trọng của sanh diệt. Trong thể của thức hiện còn có nghóa về duyên, thuận theo nên tư duy xét kỹ. Hơn nữa, lại có hai tầng nhân duyên. Thế nào là hai tầng? Một là nhân duyên bổn biến. Hai là nhân duyên mạt biến. Nói về bổn biến là đưa ra vô minh căn bản và tâm của Bổn giác, hướng vào sáu tướng thô mà có nghóa về nhân duyên. Nói về mạt biến là đưa ra tướng nghiệp và tướng chuyển hướng vào ba loại tương ưng mà có nghóa của nhân duyên. Tiếp tục lại có hai tầng của nhân duyên. Thế nào là hai tầng? Một là nhân duyên thượng hạ. Hai là nhân duyên hạ thượng. Nói về thượng hạ thì vô minh là bắt đầu, quả báo là cuối cùng, xuống thấp nữa thì cùng với năng lực cũng không vượt qua số đó, vì làm thành nhân duyên rồi. Nói là hạ thượng thì quả báo là ban đầu, vô minh là cuối cùng, lên cao hơn nữa cùng với năng lực cũng không vượt qua số đó, nên làm thành nhân duyên. Lại nữa, tất cả các pháp hữu vi sanh diệt không dừng lại trong sát na vì không có nhân và không có duyên. Vả lại, pháp nhân duyên là không không có chủ, thực ra vì tự tánh không thể đạt được. Hơn nữa, “Pháp không thể đạt được” cũng không thể đạt được. Như thứ tự đó, cần phải xem xét tư duy và chọn lựa. Đã nói về phần thâu tóm nghóa, biểu hiện tông chỉ phát sinh kiến giải, tiếp đến nói về phần thuận theo văn nói rộng để giải quyết nghi ngờ. Trong đây có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần nêu tổng quát. Hai là phần giải thích rộng. “Lại nữa, nhân duyên sinh diệt, đó là chúng sinh dựa vào tâm ý và ý thức mà chuyển”, chính là phần thứ nhất. Văn này là trình bày về nghóa nào? Đó là muốn biểu hiện rõ sự sai biệt của chủ thể dựa và đối tượng được dựa. Thế nào là đối tượng được dựa? Đó là tâm của Bổn giác. Thế nào là chủ thể dựa? Đó chính là chúng sanh. Nói chúng sanh là hướng về pháp nào? Đó là ý và ý thức. Tại sao ý và ý thức gọi là chúng sanh? Ý và ý thức là do tất cả pháp nhiễm tập hợp lại phát sanh, nên gọi là chúng sanh, nhưng không có tự thể riêng, chỉ dựa vào tâm làm thể, vì thế nói là dựa vào tâm mà liên tục chuyển. Đã nói về phần nêu tổng quát, tiếp đến nói về phần giải thích rộng. Trong này có hai loại, trước là nói về Mạt na chuyển, sau là nói về ý thức chuyển. Nội dung của văn có thể thấy. Nghóa này nói gì? Đó là hỏi tổng quát về hai chuyển. Từ đây xuống dưới thực hiện giải thích nói chi tiết. Phần ý thức chuyển này dựa vào kinh nào để kiến lập? Đó là Kinh Hiển Liễu. Trong kinh ấy xác đáng là nói về điều gì? Nghóa là trong Kinh Hiển Liễu nói như vầy: “Các loại tâm thức tuy có vô lượng, nhưng chỉ do Mạt-na chuyển đổi chứ không có pháp nào khác. Vì sao? Vì thức Mạt na này vốn có đủ mười một nghóa và không có việc gì không làm được”. Trong kinh ấy lược đi không nói riêng tên gọi của mười một nghóa, vì vậy Luận giả đưa ra đầy đủ tên gọi riêng của mười một loại để biểu hiện rõ. Thế nào gọi là mười một loại tên gọi? Đó là: Vô minh căn bản. Tướng nghiệp. Tướng chuyển. Tướng hiện. Tướng trí. Tướng tương tục. Thức nghiệp. Thức chuyển. Thức hiện. Thức trí. Thức tương tục. Đây gọi là mười một tên gọi. Như Bổn Luận nói: “Vì dựa vào thức A-lê-da để nói, nên có vô minh Bất giác dấy lên, chủ động tiếp xúc - chủ động hiện rõ - chủ động chọn lấy cảnh giới khởi lên niệm vọng liên tục không dứt, nên nói là ý. Ý này lại có năm loại tên gọi, nói rộng cho đến năm - gọi là thức tương tục, vì niệm tương ưng không dứt”. Trong kinh Bổn Địa nói như sau: “Thức Đại Mạt na có mười hai chuyển, tức dựa vào Bổn giác mà làm thành một”. Hai chữ Tướng và Thức sai biệt thế nào, lại thêm số đó mà kiến lập riêng như vậy? Do sai biệt rất lớn. Sai biệt thế nào? Nghóa là tất cả các pháp nhiễm quyến thuộc, tất cả mỗi pháp đều có đủ hai nghóa. Thế nào là hai nghóa? Một là nghóa về thần giải. Hai là nghóa về ám độn. Nghóa về thần giải là căn cứ theo bên lưu chuyển của Bổn giác. Nghóa về ám độn là căn cứ theo bên lưu chuyển của vô minh. Dựa vào nghóa đầu nên kiến lập tên gọi thức, dựa vào nghóa sau nên kiến lập tên gọi tướng. Hai phần sai biệt nên biết. Tại sao như vậy? Vì nói thức, tức hiểu phân biệt nghóa lý nên thuận với Bổn giác. Nói tướng, tức trái với nghóa lý vốn có nên thuận theo vô minh. Vì vậy trong kinh Thường Trú Phật Tánh nói như vầy: “Vì sao có thể biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh? Đáp: Vì tất cả chúng sanh đều có tâm thức, nên biết là có Phật tánh. Tại sao Phật gọi là Giác giả? Vì có năng lực dễ soi chiếu thông suốt tất cả các pháp, trong thân chúng sanh có tâm giác này, nên tất cả chúng sanh có thể sinh thức liễu biệt”. Do nghóa nào mà gọi là ý? Vì có hai nghóa. Thế nào là hai nghóa? Một là nghóa về căn. Hai là nghóa về thân. Nói về nghóa căn là vì nghóa chủ thể sanh khởi. Nói đến nghóa về thân, ấy à nghóa tựa vào nhau dừng lại. Do nghóa nào mà vô minh căn bản và Bổn giác tùy pháp nhiễm đều có đủ nhân duyên? Vì cùng hướng đến với nhau. Nghóa này là thế nào? Nghóa là đưa ra Bổn giác và vô minh cùng hướng về ba thức thì Bổn giác làm nhân - vô minh làm duyên, cùng đưa ra hai trạng thái ấy hướng về nơi ba tướng, thì vô minh làm nhân - Bổn giác làm duyên. Vì sao? Vì gần gũi là nhân - xa hơn là duyên. Vì sao ở trước nói phân biệt tướng trí và tướng tương tục là phần tế của ý thức, nay trong văn này lại nói Mạt-na thâu gồm? Vì muốn thành lập Mạt-na, ý thức, chỉ là một thể chứ không có hai thể riêng. Nếu vậy thì tại sao lược bỏ phần thô không lấy làm Yù? Căn cứ ở sự thực đều là ý, nhưng lý tận cùng nên tạm thời lược bớt, vì vậy kinh nói: “Không có việc gì không làm được”. Nhưng kiến lập riêng về ý thức chuyển, là vì muốn kiến lập pháp môn của chủ thể dựa và đối tượng được dựa, nên đưa ra ba tướng quyết trạch này để Mạt-na thuận theo mở rộng thông suốt. Vả lại, vì muốn biểu hiện rõ thức A-lê-da không nhất định là A-lê-da, Mạt-na không nhất định là Mạt-na, ý thức không nhất định là ý thức. Vì không nhất định nên tạng thức là Mạt-na, Mạt-na là tạng thức, ý thức là tạng thức, tạng thức là ý thức, cũng đều là tạng thức, đều là Mạt-na, đều là ý thức, lại cũng đều là không phải. Như vậy, vì không có nhất định, nên đều là vô thường, vô thường nên chẳng phải là chân thật, chẳng phải là chân thật nên đều là huyễn hóa, vì huyễn hóa nên tự tánh rỗng lặng không có, tự tánh rỗng lặng nên quyết định là tịch diệt, vì tịch diệt nên tịch diệt cũng vắng bặt luôn. Trong Kinh Kim Cang Tam Muội nói như sau: “Bồ-tát Địa Tạng nói: Không thể nghó bàn được! Không thể nghó bàn được! Tụ bảy và năm không sanh ra, tám và sáu vắng lặng hoàn toàn, chín tướng là không. Có không, không có, không không cũng không có. Cả đến văn trước cũng nói: “Đức Phật nói thấy thì vọng”. Tại sao? Vì tất cả vạn vật không có sanh ra, không có tướng trạng, ban đầu không tự đặt ra tên gọi, thảy đều rỗng lặng. Tất cả mọi pháp tướng cũng lại như vậy. Tất cả thân chúng sanh cũng như vậy. Thân hãy còn không có nói gì đến có thấy. Đã nói về phần thuận theo văn nêu chi tiết để giải quyết nghi ngờ, tiếp đến nói về phần Nghiệp dụng tương tục sai biệt. Bổn Luận nói: “Nghiệp thiện ác của vô lượng đời kiếp quá khứ được nắm giữ chắc chắn làm cho không mất, lại có thể thành tựu quả báo khổ vui trong hiện tại và vị lai không hề sai lạc trái ngược. Có thể khiến cho sự việc của hiện tại đã trải qua bỗng nhiên nhớ lại, sự việc của vị lai không hiểu rõ nên suy nghó vọng ảo”. Luận giải thích: Thức tương tục này có ba nghóa. Thế nào là ba nghóa? Một là nghóa thâu tóm trước không mất. Hai là nghóa chiêu cảm quả thành tựu. Ba là nghóa suy nghó vọng ảo duyên theo khắp nơi. Nghóa thứ nhất nói gì? Thức tương tục này có năng lực phát khởi phiền não làm cho nghiệp được thấm ướt, nắm giữ chắc những gì từ quá khứ do vô minh đã khởi lên, tất cả các loại nghiệp thiện và bất thiện có thể khiến tác dụng thực hiện thành tựu mọi quả. Như Bổn Luận nói: “Nghiệp thiện ác của vô lượng đời kiếp quá khứ được nắm giữ chắc khiến không mất”. Nghóa thứ hai nói gì? Thức tương tục này lại có năng lực phát khởi phiền não lớn lên tươi tốt, có thể làm cho nghiệp đã được phân rõ, quyết định quả báo an lập thuộc về nơi thích hợp. Như Bổn Luận nói: “Lại có thể thành tựu quả báo khổ vui trong hiện tại và vị lai không hề sai lạc trái ngược”. Nghóa thứ ba nói gì? Thức tương tục này vin theo duyên chuyển sang phạm vi rộng và phân biệt càng mạnh mẽ hơn. Duyên với cảnh đã biết thì tâm biểu lộ trạng thái vui và không vui, đối với cảnh hiện rõ trước mắt tâm tăng lên cảm giác thích và không thích. Duyên với cảnh chưa biết thì không rõ nhưng lại suy tư vọng huyễn. Như Bổn Luận nói: “Có thể khiến cho sự việc của hiện tại đã trải qua bỗng nhiên nhớ lại, sự việc của vị lai không hiểu rõ lại suy nghó vọng ảo”. Như vậy, thức này sanh tử liên tục khiến không thể đoạn tuyệt, vì thế gọi thức tương tục là theo nghóa ấy. Đã nói về phần nghiệp dụng sai biệt, tiếp đến nói về phần chỉ do tâm xoay chuyển các pháp. Bổn Luận nói: Vì vậy ba cõi không có thật chỉ do tâm tạo ra, lìa tâm thì cảnh giới sáu trần không có. Nghóa này là thế nào? Vì tất cả các pháp đều thuận theo tâm khởi lên niệm vọng sanh ra, tất cả mọi phân biệt chính là phân biệt từ nơi tâm, tâm không trông thấy - tâm không có tướng có thể đạt được. Nên biết tất cả mọi cảnh giới của thế gian, đều dựa vào tâm vọng vô minh của chúng sanh mà được giữ gìn chắc chắn. Vì vậy tất cả các pháp, như hình bóng trong đài gương không thể đạt được, chỉ do tâm hư vọng mà có, vì tâm sanh thì các loại pháp sanh, tâm diệt thì các loại pháp diệt. Luận giải thích: Văn này là trình bày về nghóa nào? Vì muốn biểu hiện rõ về tất cả các pháp chỉ do tâm xoay chuyển biến đổi chứ không có pháp nào khác. Vì sao? Vì tùy theo tâm có hay không có mà các pháp sai biệt có hay không có. Các pháp chỉ do tâm thì tâm này là có sao? Như thế thì tâm và pháp cũng không thể đạt được. Nếu vậy thì chỉ là nghóa về tâm, sao nói là thành lập? Vì đây cũng là tâm. Vì sao biết ngay được? Vì văn kinh nêu rõ. Nói thế là thế nào? Nghóa là trong kinh Phần Lưu Lăng Già giải thích như vầy: “Không có tâm lượng của tâm thì Ta nói là tâm lượng”. Vả lại, căn cứ vào câu “Tâm không thể thủ đắc” nên thành lập nghóa của đại không, căn cứ vào câu “Tâm lượng của không tâm” nên thành lập nghóa của huyễn sai biệt. Hơn nữa, căn cứ vào nghóa của đại không, nên các pháp được thành tựu. Căn cứ vào nghóa của huyễn sai biệt, nên lý về không được hiển lộ. Lại nữa, vì liên quan với nhau nên không xác định hai sự việc, không có hai sự việc nên không thành tựu một sự việc, không có một sự việc nên không thành tựu, cũng không thể thành tựu. Như thứ tự đó nên quán sát kỹ. Đã nói về phần tướng chuyển rộng lớn của Mạt-na, tiếp đến nói về phần tướng chuyển của thức phân biệt sự. Bổn Luận nói: “Lại nữa, nói về ý thức, chính là thức tương tục, dựa vào sự chấp giữ chuyển sang sâu xa của các phàm phu, vọng phân biệt ngã và ngã sở, các loại vọng chấp tùy theo sự vin dựa theo duyên, phân biệt sáu trần, gọi là ý thức, cũng gọi là thức phân ly. Vả lại, gọi là thức phân biệt sự, thì thức này là dựa vào nghóa tăng trưởng phiền não do kiến và ái”. Luận giải thích: Ngay trong văn này tự có bốn phần. Thế nào là bốn phần? Một là phần lựa chọn mượn người cùng phần vị. Hai là phần sanh khởi tướng chuyển thô trọng. Ba là phần kiến lập tên gọi sai biệt. Bốn là phần biểu hiện rõ đối tượng dựa được an lập. Phần lựa chọn mượn người, là đưa ra ba loại phàm phu chọn lấy hàng Thánh nơi Địa thượng. Thế nào là ba loại phàm phu? Một là phàm phu đui điếc không có căn. Hai là phàm phu ngu si tà vạy. Ba là phàm phu khăng khăng cố chấp. Đây gọi là ba loại phàm phu. Như Bổn Luận nói: “Dựa vào các phàm phu”. Phần sanh khởi thô trọng, nếu căn cứ vào các chúng sanh thuộc tụ định tà, thì thường dấy lên thức hý luận phân biệt, chấp giữ tất cả các loại cảnh giới, chuyển đổi liên tục trở thành sâu dày không có giới hạn, không có trước sau, vì thế luôn không đoạn tuyệt. Như Bổn Luận nói: “Chấp giữ chuyển sang sâu xa”. Nếu căn cứ vào các chúng sanh thuộc tụ bất định, tuy giác ngộ tướng diệt chắc chắn là bất thiện khởi lên không tác ý, nhưng vì trí nhân không Bát nhã chưa hiện rõ trước mắt, nên duyên với các cảnh giới và phần thân v.v… toan tính làm ngã và ngã sở, chấp chặt không lìa bỏ. Như Bổn Luận nói: “Vọng chấp ngã và ngã sở”. Nếu căn cứ chúng sanh ở vị ba Hiền, tuy thành tựu tỉnh hẳn giấc mộng tướng dị, mà chân trí pháp không hãy còn chưa hiện rõ trước mắt, vì thế dấy lên các loại đắm chấp kiên cố chấp giữ thật pháp, tùy theo sự việc suy xét không thể nào thông suốt được lý lẽ chính xác về bình đẳng. Như Bổn Luận nói: “Các loại vọng chấp tùy theo sự vin dựa theo duyên, phân biệt sáu trần”. Phần kiến lập tên gọi có ba loại. Thế nào là ba loại? Một là tên gọi dựa vào nơi vi tế. Hai là tên gọi dựa vào nơi thô hiện. Ba là tên gọi thuận theo cảnh giới. Đây gọi là ba loại tên gọi. Tên gọi thứ nhất nói gì? thức này dựa vào Mạt-na vi tế, lấy đó làm căn bản nương dựa mà được an lập nên gọi là ý thức. Như Bổn Luận nói: “Gọi là ý thức”. Tên gọi thứ hai nói gì? thức này dựa vào năm căn là mắt - tai…, lấy đó làm căn bản nương dựa lại để phân biệt năm trần, vì vậy cũng gọi là thức phân ly. Như Bổn Luận nói: “Cũng gọi là thức phân ly”. Tên gọi thứ ba nói gì? thức này hoàn toàn duyên vào cảnh giới của sự mà chuyển sang phân biệt, chưa lấy như lý làm cảnh giới của mình, vì vậy gọi là thức phân biệt sự. Như Bổn Luận nói: “Vả lại, gọi là thức phân biệt sự”. Phần biểu hiện rõ đối tượng được nương dựa, là hai hoặc của kiến và tu huân tập vào thức ban đầu, căn cứ vào lực huân tập ấy kiến lập ý thức thuộc phần thô, vì tăng trưởng liên tục và luôn chuyển đổi nên được giữ gìn chắc chắn. Như Bổn Luận nói: “Thức này là dựa vào nghóa tăng trưởng phiền não do kiến và ái”. Từ trước đến nay là phần quyết trạch về nhân duyên sanh diệt. Từ đây xuống dưới là biểu hiện rõ về tướng thù thắng không thể nghó bàn được của nhân duyên. Bổn Luận nói: Dựa vào vô minh huân tập đã khởi lên thức, không phải hạng phàm phu có thể biết được, cũng không phải trí tuệ của Nhị thừa hiểu được, nghóa là dựa vào hàng Bồ-tát từ mới chánh tín phát tâm quán sát, nếu như chứng Pháp thân thì có thể biết được phần ít, cho đến địa Bồ-tát cuối cùng cũng không có năng lực biết hết được, chỉ có Phật mới hiểu rõ tận cùng. Tại sao? Vì tâm này từ xưa đến nay tự tánh thanh tịnh, nhưng có vô minh, bị vô minh làm cho vấy nhiễm nên có tâm nhiễm, tuy có tâm nhiễm nhưng luôn bất biến, vì thế nghóa này chỉ có Phật mới có năng lực biết rõ. Điều ấy có nghóa là tánh của tâm luôn không có niệm nên gọi là bất biến, vì không thông suốt một pháp giới nên tâm không tương ưng, bỗng nhiên niệm vọng dấy lên nên gọi là vô minh. Tâm nhiễm ấy có sáu loại. Thế nào là sáu loại? Một là nhiễm chấp tương ưng, là dựa vào Nhị thừa giải thoát và địa tín tương ưng mà được lìa xa. Hai là nhiễm bất đoạn tương ưng, là dựa vào địa tín tương ưng tu học các phương tiện, dần dần có thể xả bỏ, đạt được địa tâm tịnh, xa lìa rốt ráo. Ba là nhiễm phân biệt trí tương ưng, là dựa vào địa đầy đủ giới dần dần xa rời, cho đến địa phương tiện vô tướng thì xa lìa rốt ráo. Bốn là nhiễm hiện sắc bất tương ưng, là dựa vào địa sắc tự tại có năng lực xa rời. Năm là nhiễm chủ thể nhận thức tâm bất tương ưng, là dựa vào địa tâm tự tại có năng lực xa rời. Sáu là nhiễm căn bản nghiệp bất tương ưng, là dựa vào địa Bồ-tát cuối cùng được vào địa Như Lai có năng lực xa rời. Không hiểu rõ nghóa lý về pháp giới đồng nhất ấy, là từ địa tín tương ưng quán sát tu học để đoạn trừ, đi vào địa tâm tịnh tùy theo từng phần mà được xa rời, cho đến địa Như Lai mới có năng lực xa rời hoàn toàn. Nói về nghóa tương ưng, đó là tâm pháp và pháp niệm khác nhau, dựa vào sự sai biệt của nhiễm và tịnh mà biết duyên lẫn nhau, đồng với nhau. Nghóa về bất tương ưng, nghóa là ngay nơi tâm không giác ngộ, luôn không có sai khác, nên không giống như biết tướng duyên lẫn nhau. Vả lại, nghóa về tâm nhiễm, gọi là phiền não chướng, vì có năng lực làm cản trở đến trí căn bản của Chân như. Nghóa về vô minh, gọi là trí chướng, vì có năng lực làm cản trở cho trí nghiệp tự nhiên của thế gian. Nghóa này là thế nào? Vì dựa vào tâm nhiễm chấp mà chủ động trông thấy, chủ động hiện rõ, vọng giữ lấy cảnh giới làm trái với tánh bình đẳng? Vì tất cả các pháp luôn vắng lặng không có trạng thái dấy động, thì vô minh không giác ngộ ảo vọng đã trái ngược với pháp, nên không có năng lực biết được các loại thuận theo tất cả mọi cảnh của thế giới. Luận giải thích: Ngay trong văn này vốn có năm phần. Thế nào là năm phần? Một là phần nêu ra con người, biểu hiện rõ sự thù thắng. Hai là biểu hiện rõ về duyên sâu rộng để giải quyết nghi ngờ. Ba là phần nêu ra chướng ngại chỉ rõ đối trị phối hợp xác đáng. Bốn là phần biểu hiện ưng và bất ưng sai biệt. Năm là phần thiết lập hai ngại tách biệt tác dụng của chướng. Đây gọi là năm phần. Trong phần thứ nhất lại có ba người. Thế nào là ba người? Một là người cả phần và mãn đều đoạn tuyệt, là phàm phu định tà và tất cả Nhị thừa, vì ngu si sâu dày, trí tuệ yếu kém. Như Bổn Luận nói: “Dựa vào vô minh huân tập đã khởi lên thức, không phải hạng phàm phu có thể biết được, cũng không phải trí tuệ của Nhị thừa hiểu được”. Hai là người có phần, không có mãn, là người ở địa thứ năm mươi có Bát nhã của Thỉ giác chưa viên mãn. Như Bổn Luận nói: “Nghóa là dựa vào hàng Bồ-tát từ mới chánh tín phát tâm quán sát nếu như chứng pháp thân thì có thể biết được phần ít, cho đến địa Bồ-tát cuối cùng cũng không có năng lực biết hết được”. Ba là người có mãn - không có phần, là đại viên cảnh trí trong quả vị Phật soi chiếu tất cả hiện rõ trước mắt. Như Bổn Luận nói: “Chỉ có Phật mới hiểu rõ tận cùng”. Đã nói về phần nêu ra con người biểu hiện rõ sự thù thắng, tiếp đến nói về phần biểu hiện rõ về duyên sâu rộng để giải quyết nghi ngờ. Trong phần này có hai ý. Thế nào là hai ý? Một là thường - vô thường. Hai là vô thường - thường. Nói về thường - vô thường, là tự tướng của tâm của Bổn giác từ vô thỉ đến nay, quyết định thường trú trong thể tánh bất biến, vì không lúc nào là không phải vô thường, không nơi nào là không phải biến hóa. Như Bổn Luận nói: “Tại sao? Vì tâm này từ xưa đến nay tự tánh thanh tịnh, nhưng có vô minh, bị vô minh làm cho vấy nhiễm nên có tâm nhiễm đó”. Nói về vô thường - thường, là tâm của Bổn giác này từ vô thỉ đến nay, luôn vô thường - luôn biến dị, không lúc nào không phải là thường trú, không nơi nào không phải là bất biến. Như Bổn Luận nói: “Tuy có tâm nhiễm mà luôn bất biến, vì thế nghóa này chỉ có Phật mới có năng lực biết rõ”. Đây là tổng kết về sự thù thắng. Từ đây xuống dưới lại dùng hai câu để giải thích hai câu trên, sắc thái trong văn có thể thấy rõ. Đã nói về phần biểu hiện rõ duyên sâu xa để giải quyết nghi ngờ. Tiếp đến nói về phần nêu ra chướng ngại chỉ rõ đối trị phối hợp xác đáng. Ngay trong phần này đã có hai ý. Thế nào là hai ý? Một là phần vị tùy chuyển để đối trị. Hai là phần vị căn bản đối trị. Phần tùy chuyển để đối trị, là sáu loại thuận theo tướng như thứ tự của nó, phát tâm là đầu, diệu giác là sau mà thuận theo lìa xa. Như Bổn Luận nói: “Tâm nhiễm ấy có sáu loại. Thế nào là sáu loại? Một là nhiễm chấp tương ưng, là dựa vào Nhị thừa giải thoát và địa tín tương ưng mà được lìa xa. Nói rộng cho đến sáu là nhiễm căn bản nghiệp bất tương ưng, là dựa vào địa Bồ-tát cuối cùng được vào địa Như Lai có năng lực xa rời”. Phần căn bản đối trị là đại lực vô minh, cực hỷ là đầu, diệu giác là sau mà thuận theo lìa xa. Như Bổn Luận nói: “Không hiểu rõ nghóa lý về pháp giới đồng nhất ấy, là từ địa Tín tương ưng quán sát tu học để đoạn trừ, đi vào địa tâm tịnh tùy theo từng phần mà được xa rời, cho đến địa Như Lai mới có năng lực xa rời hoàn toàn”. Trong địa Cực hỷ căn bản tùy theo tướng đối trị, hình tướng sẽ sai khác như thế nào? Nghóa là đối tượng đoạn của trí hậu đắc gọi là vô minh và đối tượng đoạn của trí chánh thể gọi là tùy tướng, nên biết như thế. Như nói địa Cực hỷ, trong tất cả các địa cũng lại như vậy. Đã nói về phần nêu ra chướng ngại chỉ rõ đối trị phối hợp xác đáng. Tiếp đến nói về phần biểu hiện ưng và bất ưng sai biệt. Thế nào gọi là nghóa tương ưng? Nói về nghóa tương ưng, đó là phẩm tâm và pháp niệm khác nhau. Thế nào là phẩm tâm? Đó là tâm của Bổn giác tùy theo pháp nhiễm. Thế nào là pháp niệm? Đó là không ngừng dựa vào vô minh sanh trưởng pháp vọng. Do nghóa nào mà gọi là tương ưng? Đó là tướng và lực. Hai pháp như vậy tại sao nói là khác nhau? Vì nguồn gốc đều sai khác. Như Bổn Luận nói: “Nói về nghóa tương ưng, đó là tâm pháp và pháp niệm khác nhau”. Pháp niệm là dựa vào nhiễm, phẩm tâm là dựa vào tịnh. Hai pháp như vậy thảy đều sai biệt, không có giống nhau. Cũng như nước với lửa, tại sao nói thành tựu nghóa tương ưng được? Do biết tướng duyên tướng khế hợp như nhau. Thế nào gọi là biết tướng thích hợp như nhau? Vì phẩm tâm và pháp niệm không tách rời nhau, hòa hợp nhau mà chuyển. Thế nào gọi là tướng duyên thích hợp như nhau? Vì hai phẩm như vậy cùng chung nơi đối tượng duyên. Như Bổn Luận nói: “Dựa vào sự sai biệt của nhiễm và tịnh mà biết duyên lẫn nhau giống với nhau”. Trong Kinh Đại Bổn Kim Cang Tam Muội giải thích như vầy: “Ba loại tương đồng, dị nên trở thành đồng, vì nếu đồng thì không thể đồng được”. Nếu vậy tại sao trong Kinh Bộ Tông lại giải thích như vầy: “Ba loại thô nhiễm có hai nghóa nên chuyển. Thế nào là hai chuyển? Một là trái ngược nhau mà chuyển. Hai là thuận theo nhau mà chuyển”. Cho đến nói rộng, ngược với trên, thuận với dưới mà giải thích như vậy, ý nghóa sâu xa không có sai khác. Nghóa về bất tương ưng và tướng trái ngược nhau, nên quán sát kỹ. Đã nói về phần biểu hiện ưng và bất ưng sai biệt. Tiếp đến nói về phần thiết lập Ngại tách biệt tác dụng của chướng. Phiền não gây nhiều trở ngại khiến tánh biến động phân tán, trí Chân như này không ngừng làm cho tánh vắng lặng trong sáng. Trái ngược nhau như vậy nên thiết lập làm chướng. Như Bổn Luận nói: “Vả lại, nghóa về tâm nhiễm, gọi là phiền não chướng, vì có năng lực làm cản trở đến trí căn bản của Chân như. Trí tuệ ngăn chận tánh tối tăm mù mịt, nghiệp tác trí này là tánh nhanh nhạy sáng suốt. Trái ngược nhau như vậy nên thiết lập làm chướng. Như Bổn Luận nói: “Nghóa về vô minh, gọi là chướng trí, vì có năng lực làm cản trở trí nghiệp tự nhiên của thế gian”. Nghóa này thế nào, phần tiếp xuống biểu hiện rõ về nhân duyên của nó, tùy theo xem xét, suy nghó để chọn. Hai chướng và hai ngại lại có gì khác nhau? Thiết lập phần hai chướng là căn cứ vào luôn đoạn, thiết lập phần hai ngại là căn cứ vào đoạn hay bất đoạn, hãy biết như vậy, hãy quán như vậy! Từ trước đến nay là phần quyết trạch nhân duyên thù thắng. <卷>QUYỂN 5 diệt. Từ đây xuống dưới là biểu hiện rõ về tướng sai biệt của sanh Bổn Luận nói: Lại nữa, phân biệt về tướng sanh diệt có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là thô vì cùng với tâm tương ưng. Hai là tế vì cùng với tâm không tương ưng. Vả lại, cảnh giới của phàm phu là thô ở trong thô, cảnh giới của Bồ-tát là tế ở trong thô và thô ở trong tế, cảnh giới của Phật chính là tế ở trong tế. Hai loại sanh diệt này, dựa vô minh huân tập mà có, đó gọi là dựa vào nhân và dựa vào duyên. Dựa vào nhân là nghóa về Bất giác, dựa vào duyên là nghóa về vọng làm cảnh giới. Nếu nhân diệt thì duyên diệt, nhân diệt nên tâm bất tương ưng diệt, duyên diệt nên tâm tương ưng diệt. Hỏi: Nếu tâm diệt thì tại sao nói là tương tục, nếu tương tục thì tại sao nói là cứu cánh diệt? Đáp: Nói là diệt, chỉ có tướng tâm diệt chứ không phải là thể tâm diệt. Như gió dựa vào nước mà có tướng động, nếu nước không còn thì gió đoạn tuyệt không có nơi nào nương dựa, vì thể không diệt nên tâm được nối tiếp nhau, chỉ có diệt sạch ngu si thì tướng tâm tùy theo sẽ diệt, chứ không phải là tâm trí diệt mất. Luận giải thích: Ngay trong văn này đã có năm phần. Thế nào là năm phần? Một là nêu lên giải thích cùng thành tựu chỉ ra tướng. Hai là phần dẫn tướng thuộc về con người giả định. Ba là phần biểu hiện rõ về chỗ dựa thô tế. Bốn là phần Bổn giác đối trị theo thứ tự. Năm là phần phát khởi hỏi đáp giải quyết nghi. Nói về phần nêu lên giải thích cùng thành tựu chỉ ra tướng, ấy là sanh diệt thuộc phần thô trọng cùng với tâm tương ưng, sanh diệt thuộc phần vi tế cùng với tâm không tương ưng. Thế nào gọi là sanh diệt thô trọng, sẽ tương ưng cùng với thức nào? Đó là thức Mạt-na, cùng với thức phân biệt sự tương ưng như nhau. Thế nào gọi là sanh diệt vi tế, sẽ không tương ưng cùng với thức nào? Đó là thức Mạt-na cùng với ba phần vị của thức này nhưng không thể tương ưng. Bồ-tát Mã Minh dựa vào bản kinh nào mà giải thích như vậy? Đó là kinh Lăng Già. Trong kinh ấy giải thích như thế nào? Nghóa là trong một bản kinh Phân lưu Lăng Già giải thích như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Ma-ha-tát Đại Tuệ bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Các thức có bao nhiêu loại sanh - trú - diệt? Đức Phật bảo Đại Tuệ: Các thức có hai loại sanh, gọi là Lưu chú sanh và Tương sanh. Có hai loại trú, gọi là Lưu chú trú và Tương trú. Có hai loại diệt, gọi là Lưu chú diệt và Tương diệt”. Lại trong một bản kinh Phân lưu Lăng Già nói thế này: “Này Đại Tuệ! Các thức có hai loại diệt. Thế nào là hai loại? Một là Tương diệt. Hai là Tương tục diệt. Có hai loại sanh. Như thế nào là hai loại? Một là Tương sanh. Hai là Tương tục sanh. Có hai loại trú. Như thế nào là hai loại? Một là Tương trú. Hai là Tương tục trú”. Còn trong kinh Đại Bổn Lăng Già nói như sau: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền thưa với Phật: Thưa Thế Tôn! Các pháp của tâm thức có bao nhiêu tướng vô thường? Đức Phật bảo Văn-thù: Nếu thứ nhất có thức vi tế ràng buộc, thì có Thượng phẩm không xa rời sanh diệt. Nếu chuyển phần giữa có thức vi tế ràng buộc, thì có Trung phẩm chẳng xa rời sanh diệt. Nếu chuyển phần xa có thức vi tế ràng buộc, thì có Hạ phẩm chẳng xa rời sanh diệt. Nếu thức thô trược phân biệt khắp nơi, thì có kính phân ly diện chẳng xa rời sanh diệt”. Như vậy, trong ba bản Kinh Lăng Già là trình bày về nghóa gì? Vì muốn biểu hiện rõ về tướng sai biệt của hai loại sinh diệt thô trọng và vi tế, nên ở trong kinh chỉ đưa ra tên gọi mà không nói rõ nghóa lý của tên gọi. Do nghóa này mà Bồ-tát Mã Minh phân biệt phù hợp hay không phù hợp để biểu hiện rõ hai loại sinh diệt thô tế. Như Bổn Luận nói: “Lại nữa, phân biệt về tướng sanh diệt thì có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là thô vì cùng với tâm tương ưng. Hai là vi tế vì cùng với tâm bất tương ưng”. Đã nói về phần nêu lên giải thích cùng thành tựu chỉ ra tướng. Tiếp đến nói về phần dẫn tướng thuộc về con người giả định. Con người giả định trong này có ba loại. Thế nào là ba loại? Một là phàm phu không lui sụt. Hai là bậc thanh tịnh tùy phần. Ba là bậc thanh tịnh hoàn toàn. Đây gọi là ba loại người giả định. Người thứ nhất lấy gì tương ưng để làm thành cảnh giới của mình? Đó là lấy nhiễm chấp tương ưng để làm cảnh giới của mình. Như Bổn Luận nói: “Vả lại, cảnh giới phàm phu là thô ở trong thô”. Người thứ hai dùng nhiễm như thế nào để làm cảnh giới của mình. Đó là hai tương ưng sau và hai bất tương ưng đầu, cùng với một phần của thức nghiệp để làm cảnh giới của mình. Như Bổn Luận nói: “Cảnh giới Phật chính là tế ở trong tế”. Đã nói về phần dẫn tướng thuộc về con người giả định. Tiếp đến nói về phần biểu hiện rõ về chỗ dựa thô tế. Chỗ dựa trong này đã có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là Thông. Hai là Biệt. Thông là hai loại sanh diệt, đều lấy vô minh làm chỗ dựa. Biệt là hai loại sanh diệt như thứ tự đó, tất cả nhân và duyên làm thành chỗ dựa. Như Bổn Luận nói: “ Hai loại sanh diệt này, dựa vào vô minh huân tập mà có, đó gọi là dựa vào nhân và dựa vào duyên. Dựa vào nhân nghóa là về Bất giác, dựa vào duyên là nghóa về vọng làm cảnh giới”. Nay văn trong luận này dựa vào kinh nào mà soạn thuật? Đó là kinh Lăng Già. Trong kinh ấy nói như thế nào? Nghóa là trong kinh Phân lưu Lăng Già giải thích như vầy: “Này Đại Tuệ! Huân tập không thể nghó bàn và biến đổi không thể nghó bàn, là nhân của thức hiện. Giữ lấy các loại trần và huân tập vọng tưởng từ vô thỉ, là nhân của thức phân biệt sự”. Còn trong kinh Đại Bổn Lăng Già nói như sau: “Lại nữa, không xa rời nhân nhiễm là huân tập không thể nghó bàn, cho đến biến đổi có thể nghó bàn và biến đổi không thể nghó bàn. Vả lại, các nhân nhiễm phân ly là các loại gió mạnh, vọng tưởng thức hiện cảnh cho đến nói rộng”. Pháp nào gọi là huân tập thể nghó bàn? Đó gọi là vô minh căn bản. Vì nghóa nào gọi là huân tập không thể nghó bàn? Nghóa là vì rất sâu rộng. Thế nào là rất sâu rộng? Nghóa là từ địa kim cang trở lui lại tất cả chúng sanh không hiểu rõ nơi này, vì vậy gọi là huân tập không thể nghó bàn. Giống như huân tập, biến đổi cũng như vậy, nên trong kinh Đại Bổn giải thích như vầy: “Có thể nghó bàn, không thể nghó bàn, chính người từ địa kim cang trở về trước”. Đã nói về phần biểu hiện rõ chỗ dựa thô tế. Tiếp theo nói về phần Bổn giác đối trị theo thứ tự. Nghóa là trí của Bổn giác và vô minh căn bản là bắt đầu, tướng diệt là cuối cùng. Như thứ tự đó để dần dần đối trị. Nhưng trong này đoạn trừ không xả bỏ vô minh để làm thành sự đoạn trừ, chứ không phải lấy đoạn trừ làm thành đoạn trừ. Nếu vậy thì làm sao nghóa đoạn trừ được thành tựu? Nghóa là đoạn tâm phiền não, vì đoạn trừ nên không khởi lên, do đó gọi là đạo đối trị của Bổn giác theo thứ tự. Như Bổn Luận nói: “Nếu nhân diệt thì duyên diệt, nhân diệt nên tâm bất tương ưng diệt, duyên diệt nên tâm tương ưng diệt”. Đã nói về phần Bổn giác đối trị theo thứ tự. Tiếp đến nói về phần phát khởi hỏi đáp giải quyết nghi ngờ. Ngay trong phần này tự nó có hai ý. Thế nào là hai ý? Một là phần đóng cửa cả hai vấn đề. Hai là khai thông để giải quyết nghi ngờ, nội dung trong văn có thể thấy. Trí của Bổn giác sáng suốt đoạn trừ vô minh căn bản, ba loại nhiễm vi tế vónh viễn diệt trừ không khởi lên, ba loại tâm vi tế đã không còn thì sáu loại tâm thô trược cũng không thể khởi lên. Ba loại tâm tế, sáu loại tâm thô vónh viễn diệt trừ, không khởi lên, thì tánh trí của Bổn giác không thể tự nhiên phát sinh. Tại sao như vậy? Vì ba loại tâm tế, sáu loại tâm thô không phải chỉ là hoàn toàn vô minh mà cũng đều có Bổn giác, chân và vọng hòa hợp gọi là ba tâm tế, sáu tâm thô. Nhưng nếu như nói ba tâm tế, sáu tâm thô diệt, thì Bổn giác cùng diệt chẳng có gì còn lại, há có thể nói tâm của Bổn giác lại cần phải tương tục đến nơi tụ định tà hay sao? Nên có ý hỏi: Nếu tâm diệt thì làm sao tương tục? Đây chính là vấn đề thứ nhất. Nếu như nói Bổn giác là pháp công đức thì pháp chẳng phải là đoạn dứt, luôn tương tục không hề đoạn tuyệt, há có thể nói ba tâm tế, sáu tâm thô vónh viễn diệt trừ không khởi lên? Nên nói: Nếu như tương tục thì tại sao nói là cứu cánh diệt? Đây chính là vấn đề thứ hai. Từ đây xuống dưới là giải thích để xử lý nghi ngờ, nội dung trong văn rõ ràng nên không cần phải giải thích lại. Từ trước đến đây, phần quyết trạch về tướng của sanh diệt đã xong. Từ đây về sau biểu hiện rõ về nghóa nhiễm tịnh huân tập lẫn nhau phát sanh lẫn nhau không thể đoạn tuyệt. Bổn Luận nói: “Lại nữa, có nghóa huân tập của bốn loại pháp, vì vậy pháp nhiễm pháp tịnh dấy lên liên tục. Thế nào là bốn loại? Một là pháp tịnh, gọi là Chân như. Hai là tất cả mọi nhân nhiễm, gọi là Vô minh. Ba là tâm vọng, gọi là thức nghiệp. Bốn là cảnh giới hư vọng, đó là sáu trần. Nghóa về huân tập, giống như áo quần ở thế gian thật sự không có mùi thơm, nếu người ta dùng mùi thơm để huân tập thì sẽ có mùi thơm. Ở đây cũng như vậy, pháp Chân như thanh tịnh thật sự không có tại nhiễm chấp, chỉ vì vô minh huân tập mà phát sanh tướng nhiễm. Pháp ô nhiễm vô minh thật sự không có nghiệp thanh tịnh, nhưng dùng Chân như huân tập nên phát sinh tác dụng thanh tịnh. Sao nói là huân tập dấy lên pháp nhiễm liên tục? Đó là vì dựa vào pháp Chân như nên phát sinh vô minh, vì có nhân của pháp nhiễm vô minh nên lập tức huân tập Chân như, vì huân tập nên lập tức có tâm vọng, vì có tâm vọng nên lập tức huân tập vô minh. Không rõ về pháp Chân như, nên không nhận thức mà niệm vọng dấy lên hiện bày cảnh giới hư vọng. Vì có cảnh giới hư vọng duyên theo pháp nhiễm, nên lập tức huân tập tâm vọng, khiến đắm vào niệm vọng đó tạo ra các loại nghiệp, nhận chịu mọi khổ đau của tất cả thân tâm. Nghóa huân tập từ cảnh giới hư vọng này có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là tăng trưởng niệm huân tập. Hai là tăng trưởng thủ huân tập. Nghóa huân tập tâm vọng có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là thức nghiệp căn bản huân tập, vì luôn nhận chịu khổ sanh diệt của A-la-hán, Phật-bích-chi và tất cả Bồ-tát. Hai là tăng trưởng thức phân biệt sự huân tập, vì luôn nhận chịu nỗi khổ do nghiệp ràng buộc của phàm phu. Nghóa về vô minh huân tập có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là căn bản huân tập, vì theo nghóa có năng lực thành tựu thức nghiệp. Hai là đã dấy lên kiến - ái huân tập, vì theo nghóa có năng lực thành tựu thức phân biệt. Sao nói là huân tập dấy lên pháp tịnh liên tục? Đó là vì có pháp Chân như, có năng lực huân tập vô minh. Do lực nhân duyên huân tập, nên sẽ khiến tâm vọng chán ngán nỗi khổ sanh tử cầu mong niềm vui Niết-bàn. Vì tâm vọng này có nhân duyên chán ngán và mong cầu, nên lập tức huân tập Chân như tự tin vào tánh của mình, biết tâm vộng động, không hề có cảnh giới, tu theo pháp rời xa. Do biết đúng như thật là cảnh giới không hề có, nên các loại phương tiện khởi lên thuận theo hành mà không giữ lấy, không phân biệt, cho đến gắng sức huân tập lâu dài, thì vô minh sẽ bị trừ diệt. Do vô minh diệt nên tâm không có gì dấy lên, vì tâm không dấy lên nên cảnh giới thuận theo diệt. Vì nhân duyên đều diệt hết nên tâm và tướng đều hết, gọi là đạt được Niết-bàn thành tựu nghiệp tự nhiên. Nghóa về tâm vọng huân tập có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là thức phân biệt sự huân tập, là dựa vào các hạng phàm phu, Nhị thừa, chán ngán nỗi khổ sanh tử và tùy theo sức của mình có thể, theo đó dần dần hướng về đạo pháp vô thượng. Hai là ý huân tập, đó là các Bồ-tát phát tâm dũng mãnh nhanh chóng hướng về Niết-bàn. Nghóa về Chân như huân tập có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là tự thể tướng huân tập. Hai là dụng huân tập. Tự thể tướng huân tập, là từ vô thỉ đời kiếp đến nay vốn có đầy đủ pháp vô lậu. Dụng huân tập, là tánh có đầy đủ nghiệp bất tư nghị làm thành cảnh giới. Dựa vào hai nghóa này luôn huân tập, vì có năng lực huân tập nên có thể khiến cho chúng sanh chán ngán nỗi khổ sanh tử cầu mong niềm vui Niết-bàn, tự tin vào bản thân mình có pháp Chân như mà phát tâm tu hành. Hỏi: Nếu là nghóa như vậy thì tất cả chúng sanh biết mình có Chân như và các pháp thanh tịnh đều đang huân tập, tại sao có người tin - có người không tin và sai biệt trước sau không kể xiết? Tất cả đều phải trong một lúc tự biết mình có pháp Chân như, siêng năng tu tập các phương tiện để cùng hội nhập Niết-bàn mới đúng nghóa chăng? Đáp: Chân như vốn có một mà vô minh lại có vô lượng vô biên, từ xưa đến nay tự tánh sai biệt - dày mỏng khác nhau, các phiền não tăng lên vượt quá hằng hà sa số dựa vào vô minh khởi lên sai biệt. Ngã kiến - ngã ái đủ mọi phiền não nhiễm chấp dựa vào vô minh khởi lên sai biệt. Như vậy, chỉ Như Lai là có năng lực biết rõ. Vả lại, pháp của chư Phật đều có nhân có duyên, nhân duyên đầy đủ mới được thành tựu. Như tánh lửa trong gỗ là nhân chính của lửa, nếu người không có kiến thức không nhờ vào phương tiện, mà có thể tự nói cây củi bốc cháy thì điều này không hợp lý. Chúng sanh cũng vậy, tuy có sức mạnh huân tập của nhân chính, nếu không gặp được chư Phật - Bồ-tát cùng các vị thiện trí thức, lấy đó làm duyên mà có thể tự mình đoạn trừ phiền não, hội nhập Niết-bàn thì điều này sẽ không hợp lý! Nếu tuy có sức mạnh của ngoại duyên, mà pháp thanh tịnh bên trong chưa có sức mạnh huân tập, thì cũng không thể nào chán ngán tột cùng nỗi khổ sanh tử mong cầu niềm vui Niết-bàn. Nếu như nhân duyên đầy đủ, thì đó là tự mình có sức mạnh của sự huân tập, lại được chư Phật và các vị Bồ-tát từ bi gia hộ, nên có thể dấy lên tâm chán ngán nỗi khổ, tin có Niết-bàn và nỗ lực tu tập thiện căn. Do sự tu tập thiện căn được thành tựu, vì thế được gặp chư Phật và các bậc Bồ-tát chỉ dạy khiến vui mừng được lợi ích, mới có thể tiến lên hướng đến đạo lý Niết-bàn. Dụng huân tập ấy chính là lực ngoại duyên của chúng sanh. Ngoại duyên như vậy có vô lượng nghóa, lược nói có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là duyên sai biệt. Hai là duyên bình đẳng. Duyên sai biệt, là người này nương theo chư Phật và các vị Bồ-tát, từ lúc mới phát tâm bắt đầu tu đạo cho đến lúc được thành Phật, ở trong thời gian đó hoặc thấy, hoặc nhớ nghó, hoặc làm bà con thân thích cha mẹ anh chị với nhau, hoặc làm tôi tớ phục dịch, hoặc làm bạn bè quen biết, hoặc làm kẻ thù với nhau, hoặc thực hiện bốn sự nhiếp hóa, cho đến tất cả mọi duyên tố đã làm thành vô lượng công hạnh, dùng năng lực huân tập khởi tâm đại bi, có thể làm cho chúng sanh tăng trưởng thiện căn, hoặc thấy hoặc nghe đều được lợi ích. Duyên này có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là duyên gần, vì nhanh chóng được cứu độ. Hai là nhân duyên xa, vì về lâu dài mới được độ thoát. Hai duyên gần xa này phân biệt lại có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là duyên tăng trưởng hành. Hai là duyên nhận được đạo. Duyên bình đẳng, là hết thảy chư Phật và Bồ-tát đều nguyện độ thoát tất cả chúng sanh, tự nhiên huân tập luôn không xả bỏ, vì trí lực cùng một thể, thuận theo mọi sự thấy nghe mà hiện rõ thực hành mọi việc làm, đó gọi là chúng sanh dựa vào Tam muội, mới được bình đẳng thấy chư Phật. Thể dụng huân tập này phân biệt lại có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là chưa được tương ưng, nghóa là phàm phu, Nhị thừa và các vị Bồ-tát mới phát tâm, dùng ý và ý thức huân tập, dựa vào tín lực để tu hành, nhưng chưa đạt được tâm không phân biệt tương ưng cùng với thể, chưa đạt đến sự tu hành nghiệp tự tại tương ưng cùng với dụng. Hai là đã được tương ưng, nghóa là Bồ-tát pháp thân đạt được tâm không phân biệt, tương ưng cùng với trí dụng của chư Phật, chỉ dựa vào pháp lực tự nhiên tu hành, huân tập Chân như diệt trừ vô minh. Vả lại, pháp nhiễm từ vô thỉ đến nay không ngừng huân tập, cho đến sau khi thành Phật thì được ngưng hẳn. Pháp tịnh huân tập thì không có đoạn dứt và tận cùng thời gian vị lai. Nghóa này là thế nào? Vì pháp Chân như luôn huân tập, tâm vọng sẽ diệt trừ mà Pháp thân hiển hiện, khởi lên dụng huân tập nên không có đoạn dứt. Luận giải thích: Ngay trong văn này đã có năm phần. Thế nào là năm phần? Một là nêu tổng quát về cương yếu. Hai là phần lập tên gọi lược chỉ ra. Ba là phần giải thích chung về huân tập. Bốn là phần phân tích nói chi tiết. Năm là phần phân biệt giữa tận và bất tận. Trong phần thứ nhất tự nó có sáu ý. Thế nào là sáu ý? Một là ý đối đãi tác thành lẫn nhau hình như có. Đó là muốn biểu hiện rõ các pháp nhiễm tịnh, thảy đều đối đãi nhau mà được thành lập, vì không có pháp nào chỉ riêng mình được kiến lập. Hai là ý vốn không có tánh, rỗng lặng chẳng phải là có. Đó là muốn biểu hiện rõ những loại tên gọi của các pháp nhiễm tịnh, từ trong căn bản không có tạm thời giả định để kiến lập, vì tất cả đều không phải là tên gọi của chính nó. Ba là ý đối đãi tác thành lẫn nhau biểu hiện về không. Đó là muốn biểu hiện rõ các pháp nhiễm tịnh do quán sát lẫn nhau, nên từ xưa đến nay không hề có tự thể và tự tánh rỗng lặng. Bốn là ý tự nhiên vô ngại như hư không. Đó là muốn biểu hiện rõ tất cả các pháp chẳng phải là có, chẳng phải có nên tự nhiên trở thành rỗng lặng, chẳng phải là ngại, chẳng phải ngại nên luôn làm thành nghóa vô chướng ngại. Năm là ý tự nhiên chẳng phải làm nên chẳng phải tạo ra. Đó là muốn biểu hiện rõ tất cả các pháp, có Phật hay không có Phật vẫn có thể huân tập lẫn nhau phát sanh lẫn nhau không hề đoạn tuyệt, vì pháp vốn như vậy và đạo lý về tánh như thế. Sáu là ý không giữ lấy tự tánh và không có chủ. Đó là muốn biểu hiện rõ tất cả các pháp, làm thành nghóa duyên khởi Đà-la-ni. Tổng quát nêu lên vô lượng nghóa thuộc loại như vậy, nên gọi là phần nêu tổng quát về cương yếu. Như Bổn Luận nói: “Lại nữa, có nghóa huân tập của bốn loại pháp, vì vậy pháp nhiễm pháp tịnh dấy lên liên tục không thể đoạn tuyệt”. Đã nói về phần nêu tổng quát về cương yếu. Tiếp đến nói về phần lập tên gọi lược chỉ rõ. Ở trong phần này có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần pháp tướng tịnh chân. Hai là phần pháp tướng nhiễm vọng. Nói là chân, là tạng trí của Bổn giác tự tánh thanh tịnh. Nói là vọng, là vô minh trong cùng tận tách rời thể tướng. Trong phần nhiễm vọng lại có ba loại. Thế nào là ba loại? Một là vô minh. Hai là thức nghiệp. Ba là cảnh giới. Như vậy có bốn pháp gồm một Chân và ba Vọng, có năng lực tạo thành sự huân tập là số tên gọi căn bản. Nay trong văn này nêu ra một, sau có bao gồm đầy đủ nên quán sát kỹ. Vì sao? Vì tất cả mọi pháp nhiễm đều có đầy đủ sự huân tập. Như Bổn Luận nói: “Thế nào là bốn loại? Một là pháp tịnh, gọi là Chân như. Hai là tất cả mọi nhân nhiễm, gọi là vô minh. Ba là tâm vọng, gọi là thức nghiệp. Bốn là cảnh giới vọng, đó là sáu trần”. Đã nói về phần lập tên gọi lược chỉ rõ. Tiếp đến nói về phần giải thích chung về huân tập. Ở trong phần này có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần khéo thí dụ để so sánh. Hai là phần pháp - dụ kết hợp giải thích để an lập. Phần khéo thí dụ để so sánh, là ví như áo quần từ trước đến nay, cũng không có mùi thơm, cũng không có mùi hôi và luôn không có mùi gì, nhưng nhiều người lúc đi vào rừng Ban đa già da sa xoa đề ô, vì Hội mạt da đề huân tập nên đã có mùi hôi, lúc đi vào rừng Phạm-đàn-chỉ-đa-na, vì Đà-ma-kiện-đa huân tập, do đó có mùi thơm. Như Bổn Luận nói: “Giống như áo quần ở thế gian thật sự không có mùi thơm, nếu người ta dùng mùi thơm để huân tập thì sẽ có mùi thơm”. Phần pháp - dụ kết hợp giải thích để an lập, là đạo lý thắng nghóa cũng lại như vậy. Tự tánh thanh tịnh và tánh đức vô lậu, từ vô thỉ đến nay luôn sáng sạch, cũng không có gì cáu bẩn, cũng không có gì nhiễm ô, nhưng vì vô minh huân tập nên đã có cáu bẩn. Đại dương vô minh từ vô thỉ đến nay luôn đen tối, cũng không có trí sáng, cũng không có phẩm chất sạch, nhưng lấy Bổn giác mà huân tập nên sẽ có tác dụng trong sạch. Nhiễm tịnh như vậy chỉ là giả định mà thiết lập, nhiễm không phải là thật sự nhiễm - tịnh không phải là thật sự tịnh, đều là huyễn hóa, không có tự tánh thật sự. Như Bổn Luận nói: “Ở đây cũng như vậy, pháp thanh tịnh Chân như thật sự không có ở tại nhiễm chấp, chỉ vì vô minh huân tập mà phát sanh tướng nhiễm. Pháp ô nhiễm vô minh thật sự không có nghiệp thanh tịnh, nhưng dùng Chân như huân tập nên phát sinh tác dụng thanh tịnh”. Đã nói về phần giải thích chung về huân tập. Tiếp đến nói về phần phân tích nói chi tiết. Ở trong phần này tức có bốn phần. Thế nào là bốn phần? Một là phần Hắc phẩm có năng lực huân tập lẫn nhau. Hai là phần Bạch phẩm có năng lực huân tập lẫn nhau. Ba là phần phát khởi hỏi đáp giải quyết nghi ngờ. Bốn là phần đưa ra duyên nói rộng để thông suốt. Trong phần thứ nhất lại có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là hỏi tổng quát - trả lời tổng quát để biểu hiện tông chỉ. Hai là quy về tổng làm khác biệt để nói chi tiết. Trong phần thứ hai cũng có hai phần này, nên quán sát kỹ. Trong phần thứ tư tự có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần nêu tổng quát về phép tắc quyết định. Hai là phần nhân duyên đều chỉ ra để phát sanh kiến giải. Như thứ tự đó nói về tướng có thể thấy. “Sao nói là huân tập dấy lên pháp nhiễm liên tục”, chính là hỏi tổng quát, đó là tổng hợp tất cả câu hỏi về nghóa của hết thảy Hắc phẩm huân tập lẫn nhau, phát sanh lẫn nhau không dứt đoạn. Từ đây xuống dưới chính là phần trả lời tổng quát. Ngay trong phần nói về câu trả lời này, từ Tạng tịnh diệu cho đến thô trọng, rời bỏ cội gốc hướng về cành ngọn dần dần chuyển sang hơn hẳn để nói theo thứ tự của nó. Nói thứ tự về tướng nên quán sát kỹ. Vô minh căn bản không thể tự có, phải dựa vào Chân như mới có thể trụ lại chắc chắn được. Vì sao? Vì tánh Chân như giống như hư không, thậm chí cai quản làm chủ thật sự trong chướng và không chướng ngại, làm chỗ nương tựa trở về không hề trở ngại. Như Bổn Luận nói: “Đó là vì dựa vào pháp Chân như nên phát sinh vô minh”. Như vậy, vô minh có nơi chốn của nó, có đủ sức hơn hẳn và công năng tự tại, có năng lực huân tập Chân như khiến cho trở thành vọng pháp, tăng thêm trạng thái không hiểu biết - thêm nhiều tác dụng đen tối và đần độn, ví như cha ái dục sinh ra các con trai - gái. Như Bổn luận nói: “Vì có nhân của pháp nhiễm nơi vô minh nên lập tức huân tập Chân như, vì huân tập nên lập tức có tâm vọng”. Như vậy, thức nghiệp và tâm vọng vi tế, vì vô minh nên từ thể đó phát sinh, trở lại huân tập vô minh có thể làm cho tăng trưởng. Ví như sanh ra con nuôi lớn lên có thể sanh ra cha. Lực huân tập như vậy càng tăng thêm, không thể nào thông suốt nhất tâm viên mãn bình đẳng như lý được, vì thế dấy lên niệm vọng mê hoặc của thức chuyển, sanh ra cảnh giới hư vọng của tướng hiện, khiến cho đại dương sanh tử càng sâu hơn, bến bờ Niết-bàn càng cao lên. Như Bổn Luận nói: “Vì có tâm vọng nên lập tức huân tập vô minh, không rõ về pháp Chân như nên không nhận thức mà niệm vọng dấy lên hiện bày cảnh giới hư vọng”. Như vậy, gió của cảnh giới trở lại huân tập đại dương của thức hiện, dấy lên sóng nước của bảy thức. Các thứ này vui đắm trong cảnh giới của sáu trần, cảnh kia trực tiếp hướng về trước nhãn thức, lần lượt tạo ra các nghiệp bất thiện, nhận chịu đủ tất cả mọi khổ báo, trong vòng xoay của ba cõi tuần hoàn khởi lên giặc bốn độc nhiễu loạn. Như Bổn Luận nói: “Do có cảnh giới hư vọng duyên theo pháp nhiễm, nên lập tức huân tập tâm vọng, khiến đắm vào niệm vọng đó tạo ra các loại nghiệp, nhận chịu mọi khổ đau của tất cả thân tâm”. Đã nói về phần hỏi tổng quát - trả lời tổng quát để biểu hiện tông chỉ. Tiếp đến nói về phần quy về tổng làm thành biệt để nói chi tiết. Ngay trong phần này đã có ba tầng. Thế nào là ba tầng? Một là cảnh giới. Hai là tâm vọng. Ba là vô minh. Đây gọi là ba tầng. Ba loại như vậy, mỗi loại đều có hai nên sẽ thành ra sáu số. Như thứ tự ấy, đầu lấy làm sau - sau lấy làm đầu, lần lượt biểu hiện rõ. Tầng thứ nhất nói gì? Vì cảnh giới hư vọng này có lực huân tập đúng như thực nên tăng thêm niệm chấp pháp, có lực huân tập giống như có, nên lớn thêm niệm chấp nhân. Hai chấp về nhân - pháp dấy lên đủ, thì các loại phiền não nhiều hơn số hằng sa thảy đều phát khởi, vì thế gọi là cảnh giới huân tập. Như Bổn Luận nói: “Nghóa huân tập từ cảnh giới hư vọng này có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là tăng trưởng niệm huân tập. Hai là tăng trưởng thủ huân tập”. Tầng thứ hai nói gì? Nói là thức nghiệp và tâm vọng có lực huân tập của phía trên, đã được rời khỏi hàng Thánh nhân ba thừa, nhưng có thể khiến nhận chịu nỗi khổ vi tế của sanh tử biến dịch. Có lực huân tập của phía dưới, chưa được tách rời địa của tất cả phàm phu nên có thể khiến nhận nỗi khổ thô nặng của sanh tử phần đoạn, vì vậy gọi là tâm vọng huân tập. Như Bổn Luận nói: “Nghóa về tâm vọng huân tập có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là thức nghiệp căn bản huân tập, vì luôn nhận chịu nỗi khổ sanh diệt của A-la-hán, Phật-bích-chi và tất cả Bồ- tát. Hai là tăng trưởng thức phân biệt sự huân tập, vì luôn nhận chịu nỗi khổ do nghiệp ràng buộc của phàm phu”. Tầng thứ ba nói gì? Do vô minh trú địa là từ nơi thể vốn có, có thể huân tập từ đầu đến cuối khiến được thành tựu. Vì thông suốt khắp, có thể huân tập sự thức khiến được thành tựu. Tại sao chỉ nêu ra phần đầu và cuối mà phần trung gian không biểu hiện? Vì có hai ý? Thế nào là hai ý? Một là ý về hữu thành tựu. Hai là ý về không thành tựu. Thế nào gọi là hữu thành tựu? Vì nêu lên các biên “Có”, tức biểu hiện trung gian cũng “có”. Thế nào gọi là ý về không thành tựu? Đó là đưa ra trong đó không có, tức hiển bày các biên đều rỗng lặng. Nghóa sau nói gì? Ở trong kinh giải thích như vậy. Xác đáng là kinh nào? Đó là kinh Huân Tập. Trong kinh ấy giải thích như thế nào? Nghóa là trong kinh Huân Tập giải thích như vầy: “Thức chuyển, thức hiện và thức Mạt-na, không phải là thuận theo vô minh mà được thành tựu. Vì sao? Vì vô minh căn bản chỉ thành tựu ở các biên không phải là thành tựu ở phần giữa”. Nghóa sau trong văn này giải thích thẳng về kinh ấy, vì thế biết rõ ràng là nghóa này được thành tựu. Như Bổn Luận nói: “Nghóa về vô minh huân tập có hai loại? Thế nào là hai loại? Một là căn bản huân tập, vì theo nghóa có năng lực thành tựu thức nghiệp. Hai là đã dấy lên kiến và ái huân tập, vì theo nghóa có năng lực thành tựu thức phân biệt sự”. Đã nói về phần Hắc phẩm có năng lực huân tập lẫn nhau. Tiếp đến nói về phần Bạch phẩm có năng lực huân tập lẫn nhau. “Sao nói là huân tập dấy lên pháp tịnh không đoạn dứt?” chính là câu hỏi tổng quát. Nghóa là tổng hợp tất cả phần hỏi về nghóa của hết thảy Bạch phẩm huân tập lẫn nhau, phát sanh lẫn nhau không dứt đoạn. Từ đây xuống dưới chính là phần trả lời tổng quát. Ngay trong phần trả lời này, tự nó có hai loại huân tập. Thế nào là hai loại? Một là huân tập tự nhiên từ vô thỉ. Hai là huân tập từ lúc mới có sự kiến lập. Huân tập từ vô thỉ, là từ vô thỉ đến nay có hai vị trí của nhân và quả. Huân tập từ lúc bất đầu kiến lập là nhờ năng lực tu hành. Nhân quả vốn có ấy, tướng của nó thế nào? Nghóa là từ vô thỉ đến nay có địa của ba Hiền và mười Thánh, nên có kết quả của ba Thân và bốn Đức. Nhân quả mới bắt đầu ấy tướng của nó thế nào? Vì lúc này tu hành mới nảy sinh mười Địa của vô thỉ, hiện bày nhân quả vốn có. Nhân quả vốn có ấy theo thứ tự như thế nào? Từ vô thỉ đến nay đã có mười loại chân trí của Bổn giác và mười loại pháp giới như thật, nên có năng lực huân tập mười loại Chi mạt vô minh, lại vì có một loại tâm pháp giới có năng lực huân tập vô minh căn bản, nên đây gọi là Bổn địa. Như Bổn Luận nói: “Đó là vì có pháp Chân như, có năng lực huân tập vô minh”. Nhân quả mới bắt đầu huân tập theo thứ tự như thế nào? Đó là tuy chưa đạt được địa Thập Tín, nhưng vì lực huân tập vốn có, thì trong tự tâm chán ngán nỗi khổ sanh tử và mong cầu niềm vui Niết-bàn, dùng năng lực này lập tức huân tập tánh Chân như, tự tin có Phật tánh đi vào địa Thập Tín. Biết tâm là hư vọng đi vào địa Thập Giải. Biết cảnh giới không đi vào địa Thập Hạnh. Tu tập vượt ra hướng về pháp đi vào địa Thập Hướng. Dùng Bát nhã như thật biết cảnh giới không, phát khởi vô lượng phương tiện thực hành thuận theo tánh pháp giới, không giữ lấy Niết-bàn, không nghó đến sanh tử, đi vào địa Cực hỷ cho đến Kim cang. Vì huân tập từ sâu xa, nên phát khởi đạo giải thoát, vô minh lập tức đoạn trừ, gốc rễ dứt hết nên cành ngọn đều không có, gốc và ngọn của Hắc phẩm không có, nên đạt được Pháp thân Niết-bàn, thành tựu nghiệp dụng của Ứng hóa, đây gọi là Thỉ địa. Như Bổn Luận nói: “Vì lực nhân duyên huân tập, nên sẽ khiến tâm vọng chán ngán nỗi khổ sanh tử cầu mong niềm vui Niết-bàn. Vì tâm vọng này có nhân duyên chán ngán và mong cầu, nên lập tức huân tập Chân như tự tin vào tánh của mình, biết tâm vọng động, không hề có cảnh giới, tu theo pháp rời xa. Do biết đúng như thật là cảnh giới không hề có, nên các loại phương tiện khởi lên thuận theo thực hành mà không giữ lấy, không khởi ý niệm, cho đến gắng sức huân tập lâu dài, thì vô minh sẽ bị trừ diệt. Vì vô minh diệt nên tâm không có gì dấy lên, vì tâm không dấy lên nên cảnh giới theo đó diệt. Do nhân duyên đều diệt hết nên tâm và tướng đều hết, gọi là đạt được Niết-bàn thành tựu nghiệp tự nhiên”. Đã nói về phần hỏi tổng quát - trả lời tổng quát để biểu hiện tông chỉ. Tiếp đến nói phần quy về tổng làm khác biệt để nói chi tiết. Trong phần này có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần nhiễm vọng huân tập. Hai là phần pháp tịnh huân tập. Trong phần nhiễm pháp lại có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là loại thô. Hai là loại tế. Nói về phần thô, chính là ý thức. Nói về phần tế, đó là mười một Mạt na. Ý thức huân tập thì tướng đó thế nào? Đó là bốn mươi tâm phàm phu và các hàng Nhị thừa, dùng phần trí của Bổn giác trong ý thức, huân tập phần vô minh ngu si trong ý thức, chán bỏ nỗi khổ sanh tử, vui với niềm vui Niết-bàn, dần dần chuyển sang thù thắng hướng về Phật đạo. Như Bổn Luận nói: “Nghóa về tâm vọng huân tập có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là thức phân biệt sự huân tập, là dựa vào các hạng phàm phu, Nhị thừa, chán ngán nỗi khổ sanh tử và tùy theo sức của mình có thể, theo đó dần dần hướng về đạo pháp vô thượng”. Nghóa về mười một Mạt-na huân tập, tướng đó thế nào? Đó là từ địa hàng Thánh bắt đầu cho đến địa Kim cang, như thứ tự đó, dùng phần thanh tịnh huân tập phần nhiễm ô để chứng nhập với đạo Bồ-đề Vô thượng, vì các vị Bồ-tát đoạn trừ vô minh, nên như Bổn Luận nói: “Hai là ý huân tập, đó là các vị Bồ-tát phát tâm dũng mãnh nhanh chóng hướng về Niết-bàn”. Đã nói về phần nhiễm vọng huân tập, tiếp đến nói về phần pháp tịnh huận tập. Phần này tự có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần nêu tổng quát. Hai là phần giải thích. Phần nêu tổng quát là nêu tổng quát về tên gọi. Như Bổn Luận nói: “Nghóa về Chân như huân tập có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là tự thể tướng huân tập. Hai là dụng huân tập”. Trong phần giải thích tự có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là Pháp thân tự nhiên huân tập. Hai là Ứng hóa luôn huân tập. Nói Pháp thân tự nhiên huân tập, là tánh trí của Bổn giác từ vô thỉ đến nay, có công đức viên mãn và trí tuệ đầy đủ, đương nhiên tự mình tự nhiên dấy lên chứ không có năng lực nào khác. Như Bổn Luận nói: “Tự thể tướng huân tập, là từ vô thỉ đời kiếp đến nay vốn có pháp vô lậu”. Nói về Ứng hóa luôn huân tập, là Bổn giác như vậy phát khởi các loại nghiệp dụng vượt quá hằng sa số vô lượng vô biên không thể nghó bàn, tùy thuận theo giáo hóa các tướng tâm trong tất cả chúng sanh, đoạn trừ mọi nghiệp ác tu dưỡng mọi nghiệp thiện, có đủ nhân của trăm hạnh, tròn đầy kết quả của vạn đức. Như Bổn Luận nói: “Dụng huân tập, là tánh có đầy đủ nghiệp bất tư nghị làm thành cảnh giới”. Hai phần như vậy không tách rời nhau, ở trong tất cả mọi lúc - tất cả mọi nơi, luôn huân tập phát khởi niềm tin, sanh ra kiến giải, kiến lập sự nghiệp tu hành tạo tác không chuyển đổi, đạt đến địa Chánh giác, sau cùng đạt được cảnh giới Chân - Tục khiến không còn chướng ngại. Như Bổn Luận nói: “Dựa vào hai nghóa này luôn huân tập, vì có năng lực huân tập nên có thể khiến cho chúng sanh chán ngán nỗi khổ sanh tử, cầu mong niềm vui Niết-bàn, tự tin vào bản thân mình có pháp Chân như mà phát tâm tu hành”. Căn cứ vào nghóa ấy, nên lý về ba thân vốn có vì thế được biểu hiện rõ. Đã nói về phần Bạch phẩm có năng lực huân tập lẫn nhau. Tiếp đến nói về phần phát khởi hỏi đáp giải quyết nghi ngờ. Phần giải quyết nghi ngờ này nghóa lý rất khó giải thích mà văn giáo lại càng khép kín. Làm giải thích nhưng không nói chi tiết, vì không có người nào quyết định thông suốt mà không thể hiểu rõ. Vì vậy nay lại làm nhiều loại giải thích. Tức là khai thị đầy đủ, nói rõ về tâm của hành giả, như thứ tự ấy tương ưng với hỏi và đáp, nên quán sát kỹ. Tất cả chúng sanh đều có Bổn giác, có nhiều chúng sanh lại không có Bổn giác, đều có lý của nó. Vì sao? Vì đấng Đại Giác Thế Tôn đã nói như vậy. Nghóa này là thế nào? Vì tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay vốn có đủ Bổn giác, từ vô thỉ đến nay không có Bổn giác. Nếu dựa vào nghóa đầu thì tất cả chúng sanh đều có Bổn giác, Bổn giác như vậy chỉ là một thể hiện bày khắp nơi mọi chúng sanh, mỗi một chúng sanh đều có tánh giác sai khác, nhưng tất cả chúng sanh chỉ có một tánh giác chứ không có tánh giác nào sai khác. Nếu vậy thì chúng sanh chỉ là một, Bổn giác sở hữu chỉ là một. Bổn giác sở hữu không phải một, vì luôn có nhiều chúng sanh. Điều này không thể như vậy. Tại sao? Vì ý nghóa sâu xa sai khác, ng- hóa là tâm của Bổn giác, tánh bình đẳng nên không thể khác nhau về chủng loại, tất cả chúng sanh có tánh sai biệt nên không thể như nhau về chủng loại, không thể khác nhau về chủng loại nên chỉ là một, không thể như nhau về chủng loại nên có nhiều. Nếu vậy thì văn này nói làm sao thông suốt? Đó là trong Luận Đại Tông địa Huyền Văn Bổn của Tôn giả Mã Minh giải thích như vầy: Ví như trong hư không Vầng trăng tròn và sáng Chỉ một không hai thể Hiện rõ ngàn vật chứa. Bổn giác cũng như vậy Chỉ một không hai thể Đủ khắp mọi chúng sanh Trong rất nhiều tướng tâm. Ví như một áng mây Che vầng trăng tròn kia Ngàn vật chứa vầng trăng Đều ẩn kín không hiện. Vô minh cũng như vậy Chỉ một thể, không hai Đến khắp nơi chúng sanh Hay tạo sự huân tập. Có hai nghóa nên không có sai lầm trái ngược nhau. Thế nào là hai nghóa? Một là tự tông chỉ quyết định. Hai là dẫn ra để thâu tóm quyết định. Nói về tự tông chỉ quyết định, là biểu hiện rõ về nghóa tương tục đồng nhất. Nói về dẫn ra để thâu tóm quyết định, là biểu hiện rõ về nghóa tương tục sai biệt. Luận Huyền Văn biểu hiện về nghóa thứ nhất, Luận Khởi Tín này là biểu hiện về nghóa thứ hai. Vì nghóa này nên không có gì sai lầm trái ngược nhau. Do vậy trong Địa Luận Hư Không Địa của Tôn Giả Mã Minh nói như vầy: Ví như dùng lá sen Che vật chứa ánh trăng Vật chứa ánh trăng khác Hiện rõ không che lấp. Vô minh cũng như vậy Che người mê lúc giác Người đã giác Bổn giác Quyết không thể che kín. Văn này vì trình bày về nghóa nào? Là muốn biểu hiện rõ về nghóa tương tục sai biệt. Hơn nữa, trong Kinh Văn Thù Sư Lợi Luận Nghị Đệ Nhất Thần Lực Thù Thắng Từ Bi Viên Mãn Hư Không Công Đức có nói như sau: Có vô lượng vô biên Vô minh phiền não chướng Đến khắp thân chúng sanh Hay tạo thành chướng ngại. Văn này là trình bày về nghóa nào? Đó là muốn biểu hiện rõ về nghóa tinh tấn tu hành. Biểu hiện rõ thế nào? Đó là có chúng sanh dấy lên niệm vọng như vầy: Nếu thể của vô minh chỉ là một loại, khắp nơi tất cả các chúng sanh, vô minh chỉ là một mà chúng sanh rất nhiều, thì dễ đoạn trừ được, cần gì phải có dũng khí chịu đựng gian khổ để có thể tu hành? Như thấy các sự tướng ở thế gian, nhiều người làm một việc, không đáng để cho là khó thì không chịu khó tu hành. Vì muốn đối trị hàng chúng sanh ngu si lười biếng như vậy, do đó Như Lai giảng giải nói có vô lượng vô biên vô minh có thể che phủ Phật tánh. Do nghóa này nên nghóa về vô minh chỉ có một được thành lập. Nếu vậy, khi phiền não của một chúng sanh được chết, thì tất cả chúng sanh còn lại cũng thảy đều được chết. Vì sao? Vì chỉ có một vô minh. Nếu lúc một người đoạn trừ mà những người khác không thể đoạn trừ được, thì không thể nói là cùng một vô minh như nhau. Vả lại, có cõi chúng sanh nào có thể đoạn tuyệt mọi sai lầm? Điều này không thể như vậy. Vô minh tuy là một nhưng tương tục sai khác, tướng đó thế nào? Tụng nói: Ví như màn đêm tối Đến khắp mười căn phòng Lúc diệt sạch một phòng Diệt khác không thể nói. Luận nói: Đêm tối tuy chỉ một, nhưng luôn đầy khắp trong mười căn phòng, cũng không thể nói một bóng tối một căn phòng, cũng không thể nói là mười bóng tối mười căn phòng. Ở trong một căn phòng người ta dùng ngọn đèn sáng soi chiếu, bóng tối hết sạch. Ánh sáng trọn vẹn soi chiếu rõ khắp trong một căn phòng, bóng tối hết sạch không còn lại gì, nhưng cũng không thể nói là trong chín phòng kia không còn bóng tối. Bóng tối trong chín căn phòng kia vẫn còn đủ không mất, mà đèn soi chiếu trong một căn phòng và bóng tối không diệt ấy cũng không thể diễn tả. Vô minh phiền não cũng lại như vậy. Nói màn đêm đen tối là dụ cho vô minh. Nói mười căn phòng là dụ cho thân của chúng sanh. Nói ngọn đèn sáng là dụ cho trí tuệ. Vì vậy nên biết: Vô minh tuy như nhau mà tương tục sai khác, do đó đoạn trừ và không đoạn trừ tất cả đều không giống nhau. Nếu lúc một chúng sanh trừ hết phiền não, mà các chúng sanh khác không thể đoạn trừ, là vì trong thân chúng sanh chưa hết phiền não nên Phật tánh của Bổn giác bị vô minh che phủ, Phật tánh của Bổn giác trong thân chúng sanh đã hết phiền não, vô minh bao phủ đã rời xa hết. Xa rời chướng ngại Phật tánh và làm chướng ngại cho Phật tánh, khác nhau một trời một vực, vì sao nay nói cùng Phật tánh như nhau? Do thể đó không phân biệt mà khắp nơi mọi chúng sanh đều có, Phật tánh của Bổn giác sánh bằng cõi hư không, không nơi nào không đầy khắp, không đâu không đến được, không nơi nào không thông suốt, không đâu không hướng về, bình đẳng và hoàn toàn bình đẳng, chỉ một vị một tướng chẳng có gì sai biệt, nhưng trong tạng vô minh Phật tánh của Bổn giác bị pháp nhiễm che phủ ngăn cách, Phật tánh của Bổn giác nơi pháp giới bên ngoài xa rời pháp nhiễm che phủ, là tâm suy nghó nhận biết này đều vin theo duyên ngay lúc đó tùy theo cảnh giới, chứ không phải là tâm thật lý trong tự tánh. Vì vậy nên biết lý của Phật tánh, chỉ là một loại hoàn toàn không có sai biệt. Do đó, trong Luận Đại Tông Địa Huyền Văn Bổn của Tôn giả Mã Minh giải thích như vầy: Trăng hiện trong vật chứa Vật chứa có nước đục Hiện ra nhưng chẳng rõ Vật chứa có nước trong Hiện ra đủ mà rõ Tối sáng tuy không đồng Chỉ một vầng trăng tròn Bổn giác cũng như vậy. Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, đều có Bổn giác không lúc nào tách rời, tại sao chúng sanh có người thành Phật trước, có người thành Phật sau, có người nay sẽ thành Phật, cũng có người thường xuyên thực hành, cũng có người không thực hành được, cũng có người thông minh, cũng có người ám độn, sai biệt vô số kể như vậy? Cùng có một tánh giác và đều trong một lúc phát tâm tu hành đạo vô thượng, nhưng vì Phật tánh của Bổn giác mạnh yếu khác nhau, nên có sai biệt như vậy. Do vô minh phiền não dày mỏng khác nhau, nên có sai biệt như thế. Nếu nói như nghóa đầu thì điều này không như vậy. Vì sao? Vì Bổn giác Phật tánh vốn viên mãn các công đức nhiều hơn số hằng sa không thêm, không bớt. Nếu nói như nghóa sau thì cũng không đúng. Vì sao? Vì nghóa về một địa đoạn trừ không thể thành lập. Các loại như vậy sai biệt vô lượng, đều dựa vào vô minh mà được giữ chắc, ở trong chí lý không liên quan gì. Nếu như thế thì tất cả các hành giả đoạn trừ hết thảy điều ác, tu dưỡng hết thảy điều thiện, vượt lên trên Thập Địa đến địa Vô thượng, viên mãn ba thân đầy đủ bốn đức. Như vậy, hành giả là sáng suốt hay là vô minh? Hành giả như thế là ở phần vị vô minh chứ không phải là phần vị sáng suốt. Nếu vậy thì Bổn giác thanh tịnh từ vô thỉ đến nay, không quán xét tu hành, không phải nhờ vào năng lực nơi khác, tánh đức viên mãn, bổn trí đầy đủ, cũng vượt ra bốn câu, cũng xa rời năm biên, lời nói tự nhiên không thể tự nhiên được, tâm thanh tịnh không thể thanh tịnh được, tuyệt đối xa rời và hoàn toàn xa rời. Bổn xứ như vậy là sáng suốt hay là vô minh? Bổn xứ như vậy thuộc về phạm vi vô minh chứ không phải là phần vị sáng suốt. Nếu thế thì một tâm pháp giới, không phải là “trăm phi”, rời bỏ ngàn điều đúng, không phải đứng giữa điều sai trở thành làm trái lẽ tự nhiên, trái lẽ tự nhiên bàn về sự diễn biến của nước, để quyết định đúng mà đã dừng lại, tùy theo sự suy xét kỹ để tay buông thỏng mà lại chắc chắn. Một tâm như vậy là sáng suốt hay là vô minh? Một tâm như vậy thuộc về phạm vi vô minh chứ không phải là phạm vi sáng suốt. Cả ba loại từ một tâm phát sanh. Pháp Ma-ha-diễn chỉ là một, không thể là một giả có thể đi vào một tâm, không thể là tâm giả có thể đi vào một tâm, thật sự không phải là tên gọi của ngã mà hạng mục đề ra nơi ngã, cũng không phải tự mình xướng lên mà phù hợp ở tự mình như là ngã, lập thành tên mà không phải ngã thật, như là tự nó được xướng lên mà không phải thật sự tự nó. Sâu xa khó hiểu lại khó hiểu, vời vợi mênh mông lại mênh mông. Thắng xứ như vậy là sáng suốt hay là vô minh? Thắng xứ như vậy thuộc về phạm vi vô minh chứ không phải là phần vị sáng suốt. Pháp Ma-ha-diễn bất nhị, chỉ là pháp Ma-ha-diễn bất nhị. Pháp Ma-ha-diễn bất nhị như vậy là sáng suốt hay là vô minh? Đã nói về phần hữu giác, tiếp đến nói về phần vô giác. Tại sao tất cả chúng sanh không có Bổn giác? Do không có Bổn giác. Tại sao không có Bổn giác? Vì không có chúng sanh. Tại sao không có chúng sanh? Vì không hề dựa vào nơi Bổn giác. Dẫn ra hai phần này thuận theo hiểu rộng, như Bổn Luận nói: “Hỏi: Nếu là nghóa như vậy thì tất cả chúng sanh biết mình có Chân như và các pháp thanh tịnh đều đang huân tập. Tại sao có người tin, có người không tin và sai biệt trước sau không kể xiết? Tất cả đều phải trong một lúc tự biết mình có pháp Chân như, thường xuyên tu tập các phương tiện để cùng hội nhập Niết-bàn mới đúng nghóa chăng? Đáp: Chân như vốn có một mà vô minh lại có vô lượng vô biên, từ xưa đến nay tự tánh sai biệt, dày mỏng khác nhau, các phiền não tăng lên vượt quá hằng hà sa số dựa vào vô minh khởi lên sai biệt. Ngã kiến - ngã ái đủ mọi phiền não nhiễm chấp dựa vào vô minh khởi lên sai biệt. Như vậy, tất cả phiền não dựa vào vô minh khởi lên, trước sau với vô lượng sai biệt, chỉ có Như Lai có năng lực biết rõ mà thôi”. Đã nói về phần phát khởi hỏi đáp giải đáp nghi ngờ. Tiếp đến nói về phần đưa ra duyên nói rộng để thông suốt. Chính trong phần này có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần nêu tổng quát về phép tắc quyết định. Hai là phần duyên theo tướng phân tán chỉ rõ phát sanh kiến giải. Đối với phần thứ nhất đã có ba loại. Thế nào là ba loại? Một là nói về thể pháp. Hai là nói về thí dụ. Ba là nói về khế hợp. Vả lại, giáo pháp của chư Phật đều có nhân có duyên, nhân duyên đầy đủ mới được thành tựu, đó chính là nói về pháp. Nghóa là các pháp của Phật phải cần đến nhân duyên chứ không có pháp nào tự nhiên xuất hiện một cách độc lập. Vì sao? Vì pháp vốn như thế. Nói là nhân thì đó là chủng tánh của Bổn giác. Nói là duyên ấy chính là tác dụng sai khác của quyền và thật. Vì hai quan hệ này nên các pháp được thành lập, phải nên quán sát kỹ. Đã nói về phần nêu về pháp, tiếp theo trình bày về phần nói thí dụ. Như tánh lửa trong gỗ là nhân chính của lửa, nếu người không có kiến thức, không nhờ vào phương tiện, mà cây củi có thể tự bốc cháy là điều hoàn toàn vô lý, đó chính là nói thí dụ. Thí dụ trong này có bốn loại. Thế nào là bốn loại? Một là dụ về củi gỗ. Hai là dụ về ngọn lửa. Ba là dụ về con người. Bốn là dụ về đốt cháy. Nói về củi gỗ là dụ cho pháp nhiễm. Nói về ngọn lửa là dụ cho trí tuệ. Nói về con người là dụ cho chúng sanh. Nói về đốt cháy là dụ cho đối trị. Thí dụ thứ nhất ý nói gì? Nói là A-lê-la-đa-yểm-thi, củi gỗ tức có đủ năm sự việc. Thế nào là năm? Một là cội gốc sâu dày chắc chắn không gì có thể vượt qua. Hai là thân cành hoa lá, cho đến quả hạt sanh ra sắc nhọn vô cùng. Ba là mùi hương hết sức khó chịu. Bốn là côn trùng độc hại thích vin vào. Năm là quyến thuộc không cùng tận. Đây gọi là năm sự việc của loại cây này. Pháp nhiễm của vô minh cũng lại như vậy. Vô minh căn bản sâu dày rộng lớn không gì vượt qua được, tất cả các loại bất giác - mê hoặc - sai lầm cành ngọn không gì lường tính được. Thí dụ thứ hai thì ý đó thế nào? Đó là ngọn lửa tàng ẩn thì có bảy sự việc. Thế nào là bảy? Một là nghóa về chết khô, vì có thể làm cho cây khô cho đến chết. Hai là nghóa về sinh ra và lớn lên, vì có thể ngăn cản khí lạnh làm cho lớn lên. Ba là nghóa về không đo lường được, vì không biết nơi nào. Bốn là nghóa về tàng ẩn, vì không thể trông thấy. Năm là nghóa về phát ra rõ, vì phát ra ngọn lửa rất nóng. Sáu là nghóa về thuận theo nảy sinh, vì thuận theo củi gỗ mà có bảy là tùy theo không có nghóa là tùy cây gỗ mà không có. Đây gọi là bảy sự việc của ngọn lửa. Bổn giác Bát-nhã cũng lại như vậy, huân tập pháp nhiễm cho đến lúc diệt hết, nhận chịu sự huân tập mà lưu chuyển, nơi chốn cư trú không nghó bàn được, ẩn tàng bí mật trong tạng vô minh, phát ra rõ đầy đủ không hề sót lại, tùy theo pháp nhiễm có hay không mà Bổn giác có hoặc không. Thí dụ thứ ba thì ý đó thế nào? Đó là con người không có thật, là vì có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là giả như người Bà-la-lợi-đa-đề. Hai là giả như người Na-thi-a-đa-la. Người thứ nhất kia có năm sự việc. Thế nào là năm? Một là biết củi gỗ sinh ra lửa. Hai là biết cọ xát củi gỗ chuyển thành lửa. Ba là biết lúc chậm lúc nhanh. Bốn là biết nơi dừng lại. Năm là biết thứ tự thành tựu. Đây gọi là năm sự việc của người thứ nhất. Nếu người thứ hai không biết những sự việc này thì cuối cùng không có được lửa. Những người tu hành cũng lại như vậy, vì cũng có phương tiện và không có phương tiện. Thí dụ thứ tư thì ý đó thế nào? Đó là ngọn lửa đốt cháy củi gỗ thì có ba sự việc xảy ra. Thế nào là ba sự việc? Một là việc bỏ sắc bén làm đần độn, nghóa là ngọn lửa đốt cháy thì các gai góc sắc nhọn của cây củi không thể làm hại được. Hai là việc bỏ khác nhau làm giống nhau, nghóa là làm cho hết sắc nhọn chính là đã hợp với tro. Ba là việc rời bỏ ngọn trở về gốc, nghóa là tướng trạng như nhau thì địa bình đẳng với nhau. Đây gọi là ba sự việc xảy ra. Đối trị dẫn dắt, theo thứ tự cũng lại như vậy. Nghóa là đoạn trừ chướng ngại, chứng được chân lý, trở về một tâm. Đã trình bày về phần nói thí dụ, tiếp trình bày về phần nói hợp lại. Trong phần nói hợp lại có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là nói tổng quát. Hai là nói tách biệt. Gọi là nói tổng quát, là vì nêu tổng quát lại những gì đã nói. Như Bổn Luận nói: “Chúng sanh cũng vậy”. Gọi là nói tách biệt, là tách biệt những gì đã nói. Trong phần nói tách biệt này có ba phần. Thế nào là ba phần? Một là phần thiếu duyên chỉ có nhân thì không có sức. Hai là thiếu nhân chỉ có duyên thì không có sức. Ba là nhân duyên đầy đủ thì thành tựu trọn vẹn. Thiếu duyên chỉ có nhân thì không có sức, là ví như tuy tánh lửa trong gỗ từ xưa đến nay có lửa tiềm ẩn, nếu không nhờ vào phương tiện thì không thể lấy được lửa. Như vậy, tuy tánh Như Lai trong tạng vô minh, từ xưa đến nay có tâm của tự tánh thanh tịnh, mà không cần dụng công tu hành thì không thể thành Phật được. Như Bổn Luận nói: “Tuy có sức mạnh huân tập của chánh nhân nếu không gặp được chư Phật - Bồ-tát cùng các vị thiện tri thức, lấy đó làm duyên để có thể tự mình đoạn trừ phiền não, hội nhập Niết-bàn thì điều này không hợp lý”. Thiếu nhân chỉ có duyên thì không có sức, là ví như có người tuy đầy đủ mọi phương tiện, mà trong cây củi kia nếu không có tánh lửa thì cuối cùng không có được ngọn lửa. Như vậy, tất cả mọi hành giả tuy có tu hành vô số phương tiện, mà trong tâm chúng sanh nếu không có Phật tánh của Bổn giác, thì cuối cùng không thành Phật được. Như Bổn Luận nói: “Nếu như tuy có sức mạnh của ngoại duyên, mà pháp thanh tịnh bên trong chưa có sức mạnh huân tập, thì cũng không thể nào đạt chán ngán tột cùng nỗi khổ sanh tử, mong cầu niềm vui Niết-bàn”. Nhân duyên đầy đủ thì thành tựu trọn vẹn, là ví như trong cây gỗ có tánh lửa, đủ phương tiện làm ra lửa, thì lửa xuất hiện, đốt tay không còn sót lại gì. Nhân duyên đầy đủ ấy cũng lại như vậy, Phật tánh của Bổn giác có ở bên trong, hợp với bên ngoài có đủ công năng của sự tu hành, nhân của trăm hạnh trọn vẹn, quả của vạn đức đầy đủ, ba trí đều thực hành - bốn đức cùng thông suốt. Như Bổn Luận nói: “Nếu như nhân duyên đầy đủ, thì đó gọi là tự mình có sức mạnh của sự huân tập, lại được chư Phật và các vị Bồ-tát từ bi gia hộ, nên có thể dấy lên tâm chán ngán nỗi khổ, tin có Niết-bàn và nỗ lực tu tập thiện căn, do sự tu tập thiện căn được thành tựu, vì thế được gặp chư Phật và các bậc Bồ-tát chỉ dạy khiến vui mừng được lợi ích, mới có thể tiến lên hướng đến đạo lý Niết-bàn”. Đã nói về phần nêu tổng quát về phép tắc quyết định. Tiếp theo nói về phần duyên theo tướng phân tán chỉ rõ phát sanh kiến giải. Trong phần này có hai cách nói. Thế nào là hai cách? Một là nói tổng quát. Hai là nói tách biệt. Ở trong cách nói tổng quát có hai ý. Thế nào là hai ý? Một là chủ thể duyên. Hai là đối tượng duyên. Nói về chủ thể duyên, đó chính là Ứng hóa thân, vì có năng lực giúp cho chúng sanh tạo tác thành tựu cảnh giới của Bổn giác. Như Bổn Luận nói: “Dụng huân tập ấy”. Nói về đối tượng duyên, đó chính là chúng sanh giới, là những hạng chúng sanh được hết thảy chư Phật giáo hóa. Như Bổn Luận nói: “Chính là lực ngoại duyên của chúng sanh”. Ở trong cách nói tách biệt có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là duyên có chọn lựa. Hai là duyên không chọn lựa. Như Bổn Luận nói: Ngoại duyên như thế có vô lượng nghóa. Lược nêu hai loại: Một là duyên sai biệt. Hai là duyên bình đẳng. Nói là duyên có chọn lựa có hai ý. Thế nào là hai ý? Một là người là chủ thể duyên. Hai là cảnh là đối tượng duyên. Người là chủ thể duyên thì phạm vi phần vị đó thế nào? Đó gọi là phát tâm lấy làm ban đầu của phần vị, địa Như Lai để làm phần vị sau cùng, có năng lực thực hiện duyên này. Cảnh là đối tượng duyên thì phạm vi phần vị đó thế nào? Đó là nối thông giữa hai loại chúng sanh thuộc tụ định tà và tụ bất định, tiếp đến nối thông với tụ chánh định. Như Bổn Luận nói: “Duyên sai biệt, là người này dựa vào chư Phật và các vị Bồ-tát, từ lúc mới phát tâm bắt đầu cầu đạo cho đến lúc được thành Phật, ở trong thời gian đó hoặc thấy, hoặc nhớ nghó, hoặc làm bà con thân thích, cha mẹ anh chị với nhau, hoặc làm tôi tới phục dịch, hoặc làm bạn bè quen biết, hoặc làm kẻ thù với nhau, hoặc thực hiện bốn sự nhiếp hóa, cho đến tất cả mọi duyên tố đã làm thành vô lượng công hạnh, dùng năng lực huân tập khởi tâm đại bi, luôn làm cho chúng sanh tăng trưởng thiện căn, hoặc thấy hoặc nghe đều được lợi ích”. Từ đây xuống dưới là trình bày về sự sai biệt giữa thiện căn đã thành thục và chưa thành thục. Nghóa là có chúng sanh đã thành thục thiện căn, thì thân Ứng hóa liền đúng lúc nhanh chóng khiến được độ thoát. Cũng có chúng sanh chưa thành thục thiện căn, thì thân Ứng hóa thuận theo thời gian lâu dài khiến được độ thoát. Như Bổn Luận nói: “Duyên này có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là duyên gần, vì nhanh chóng được cứu độ. Hai là duyên xa, vì về lâu dài mà được độ thoát”. Từ đây tiếp xuống đối với duyên gần hay xa đều mở ra làm hai duyên, biểu hiện rõ về tướng sai biệt của nhân quả. Thế nào là hai duyên? Một là thêm duyên về nhân. Hai là thêm duyên về quả. Thêm duyên về nhân, là hai loại duyên kia mỗi một loại đều có tăng trưởng về quả viên mãn ở địa Như Lai. Như bản văn nói: “Hai duyên gần - xa này phân biệt lại có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là duyên tăng trưởng hành. Hai là duyên nhận được đạo”. Đã nói về duyên có chọn lựa, tiếp đến nói về duyên không chọn lựa. Ở trong văn này đã có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là Tổng. Hai là Biệt. Trong phần tổng thuyết nói về duyên bình đẳng, là hết thảy chư Phật và Bồ-tát đều nguyện độ thoát tất cả chúng sanh, tự nhiên huân tập luôn không xả bỏ, đó chính là duyên vào từ bi nguyện lực. Điều ấy có nghóa là hết thảy chư Phật, Bồ-tát, đối với tất cả mọi lúc, ở tại tất cả mọi nơi, luôn huân tập thích hợp với tất cả vô lượng các chúng sanh, để có thể làm thành cảnh giới, phát khởi sức lực của thiện căn đang tiềm ẩn luôn không rời bỏ. Do trí lực cùng một thể, thuận theo mọi sự thấy nghe hiện rõ hành mọi việc, ấy chính là hành thật. Đó là Ứng hóa Phật nói ở trước, dùng lực tự tại vô ngại thuận theo chuyển hóa, tùy thời gian - tùy xứ sở - tùy thích hợp - tùy sự việc - tùy ưa thích, thuận theo Như Như, biểu hiện rõ tám loại nghiệp dụng lợi ích, giáo hóa chúng sanh không có chúng sanh nào còn sót. Nói chúng sanh dựa vào Tam-muội mới được bình đẳng thấy chư Phật, đó chính là biểu hiện rõ về cách nhìn đối với chánh pháp của Phật. Nghóa là hết thảy chư Phật xuất hiện giữa cõi chúng sanh, ví như mảy lông ở giữa cái sừng, trùng trùng vô số không thể nói về đời kiếp được. Như vậy, tuy có vô lượng vô biên, nhưng nếu như không tu tập Xa-ma-tha (pháp Chỉ) thì quyết không thấy được Phật. Vì vậy hết thảy các vị Bồ-tát phát tâm rồi tiếp tục dùng lực Tam-muội quán thấy thân pháp tánh của chư Phật, bình đẳng và hoàn toàn bình đẳng không có sai biệt, cùng một Chân như - cùng một Pháp thân, khác nhau chỉ vì thấy mình, chứ Ngã tự nhiên không có sai khác. Vì vậy nói là bình đẳng thấy Phật. Đã nói về phần tổng thuyết, tiếp đến nói về phần biệt thuyết. Ở trong phần này có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là chưa đi vào chánh vị. Hai là đã đi vào chánh vị. Thế nào gọi là chưa đi vào chánh vị? Nghóa là phàm phu Thập Tín - tất cả Nhị thừa - ba Hiền và Bồ-tát…, chưa đạt được trí chánh thể, chưa chứng đến trí hậu đắc, chưa chứng được như lý. Như Bổn Luận nói: “Thể dụng huân tập này phân biệt lại có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là chưa được tương ưng, nghóa là phàm phu, Nhị thừa và các vị Bồ- tát mới phát tâm, dùng ý và ý thức huân tập, dựa vào tín lực để tu hành, nhưng chưa đạt được tâm không phân biệt tương ưng cùng với thể, chưa đạt đến sự tu hành nghiệp tự tại tương ưng cùng với dụng”. Thế nào gọi là đã đi vào chánh vị? Nghóa là hàng Bồ-tát Thập Địa ở trong đạt được chánh Trí, ở ngoài đạt được hậu trí, một phần trí dụng đồng đẳng với Như Lai, chỉ căn cứ vào lực huân tập vốn có tự nhiên tu hành, tăng trưởng Chân như và luôn diệt trừ vô minh. Như Bổn Luận nói: “Hai là đã được tương ưng, nghóa là Bồ-tát pháp thân đạt được sự tu hành nghiệp tự tại tương ưng cùng với trí dụng, chỉ dựa vào pháp lực tự nhiên tu hành, huân tập Chân như diệt trừ vô minh”. Đã nói về phần phân tích nói chi tiết, tiếp đến nói về phần sai khác giữa tận và bất tận. Phần này là trình bày về nghóa gì? Là muốn biểu hiện rõ tất cả pháp vọng trái với đạo lý nên không có bắt đầu mà có kết thúc. Tất cả pháp tịnh khế hợp đạo lý nên có bắt đầu mà không có kết thúc. Vả lại, vì muốn biểu hiện rõ về hai pháp Chân - Vọng, rất trái ngược nhau nên không thể cùng thực hành. Hơn nữa, vì muốn biểu hiện rõ hai pháp Chân - Vọng không hề có sự hơn kém, thể tướng đó như nhau không hề có rộng hẹp nên nghiệp dụng tạo ra đó giống nhau. Như Bổn Luận nói: “Vả lại, pháp nhiễm từ vô thỉ đến nay không ngừng huân tập, cho đến sau khi được thành Phật thì có sự chấm dứt. Pháp tịnh huân tập thì không có gì đoạn dứt và tận cùng thời gian vị lai. Nghóa này là thế nào? Vì pháp Chân như luôn huân tập, tâm vọng sẽ diệt trừ mà Pháp thân hiển lộ sáng rõ, khởi lên dụng huân tập nên không có đoạn dứt”.  <卷>QUYỂN 6 Từ trước đến đây, đã nói về phần quyết trạch nghóa các pháp nhiễm - tịnh huân tập lẫn nhau phát sinh lẫn nhau không hề gián đoạn. Từ đây xuống dưới là phân tích biểu hiện rõ ba loại nghóa về đại trong môn sanh diệt. Bổn Luận nói: Lại nữa, thể tướng của Chân như, hết thảy phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và chư Phật không hề có sự tăng giảm, không phải là thời gian trước sanh ra, không phải là thời gian sau diệt, hoàn toàn thường có, không biến đổi, từ xưa đến nay chỉ là tánh tự nhiên đầy đủ tất cả các công đức. Đó gọi là nghóa của tự thể có đại trí tuệ quang minh, là nghóa của soi sáng khắp pháp giới, là nghóa của bốn đức thường lạc ngã tịnh, là nghóa của thể tánh trong sáng mát mẻ tự tại bất biến, có đầy đủ pháp Phật bất ly, bất đoạn, bất dị, bất tư nghị, vượt quá hằng hà sa số như vậy, cho đến đầy đủ không hề có nghóa nào thiếu sót, nên gọi là Như Lai tạng, cũng gọi là Pháp thân Như Lai. Hỏi: Trước đây nói về Chân như, thể đó bình đẳng xa rời tất cả các tướng, tại sao lại nói thể có các loại công đức như vậy? Đáp: Tuy thật sự có nghóa về các công đức này, nhưng không có tướng trạng sai biệt, bình đẳng cùng một vị và chỉ có một Chân như. Nghóa này là thế nào? Vì không có phân biệt và xa rời tướng trạng phân biệt, vì thế nên không có hại. Lại vì nghóa nào có thể nói là sai biệt? Vì dựa vào tướng sanh diệt của thức nghiệp để chỉ ra. Điều này chỉ ra thế nào? Do tất cả các pháp vốn có chỉ do tâm chứ thật sự không hề do niệm, nhưng có tâm vọng không hiểu biết dấy lên niệm vọng thấy các cảnh giới, nên nói là vô minh. Tánh của tâm không dấy động, chính là nghóa của đại trí tuệ quang minh. Nếu tâm khởi lên cái thấy thì phát sinh tướng không thấy, tánh của tâm xa rời cái thấy chính là nghóa của soi sáng khắp pháp giới. Nếu tâm có biến động thì không phải là sự nhận thức chân thật, không hề có tự tánh, không phải thường, không phải lạc, không phải ngã, không phải tịnh, nóng bức, phiền muộn, suy yếu biến hoại thì không thể tự tại, cho đến có đủ các nghóa của nhiễm vọng nhiều hơn cả số hằng sa. Đối lại nghóa này nên tánh của tâm không có biến động, thì nghóa có các tướng công đức thanh tịnh nhiều hơn số hằng hà sa được hiện rõ. Nếu tâm dấy lên, lại thấy có pháp trước đây có thể nghó đến, thì có những thiếu sót. Pháp thanh tịnh như vậy có vô lượng công đức, chính là một tâm lại không có pháp nơi đối tượng niệm, vì thế đầy đủ, gọi là Pháp thân, Như Lai tạng. Vả lại, dụng của Chân như, đó là hết thảy chư Phật ban đầu ở tại nhân địa, phát tâm đại từ bi tu tập các pháp Ba-la-mật, tiếp nhận giáo hóa chúng sanh, lập nên đại thệ nguyện, mong muốn độ thoát cho tất cả các loài, cũng không hạn định số kiếp tận cùng thời gian vị lai, vì coi tất cả chúng sanh giống như chính bản thân mình, nhưng cũng không giữ lấy sắc tướng của chúng sanh. Ở đây do nghóa gì? Nghóa là biết như thật về tất cả chúng sanh cùng với bản thân mình có Chân như bình đẳng, không có sai khác. Vì có trí đại phương tiện như vậy, trừ diệt vô minh thấy được Pháp thân vốn có, tự nhiên phát sinh các loại tác dụng của nghiệp không thể nghó bàn, cùng với Chân như bình đẳng hiện bày khắp tất cả mọi nơi, nhưng cũng không có tướng dụng nào có thể đạt được. Tại sao? Vì chư Phật Như Lai chỉ là Pháp thân, là thân của tướng trí, là đệ nhất nghóa đế, không hề có cảnh giới của thế tục đế và xa rời mọi sự tạo tác, nhưng tùy theo chúng sanh thấy nghe có được lợi ích nên nói là dụng. Dụng này lại có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là dựa vào thức phân biệt sự, thân Phật mà tâm phàm phu, Nhị thừa nhìn thấy được gọi là ứng thân, vì không biết là từ thức chuyển hiện bày, thấy là đến từ bên ngoài, giữ lấy giới hạn trong phạm vi của sắc tướng nên không thể biết hết được. Hai là dựa vào thức nghiệp, nghóa là các vị Bồ-tát từ mới phát tâm, cho đến Bồ-tát ở địa cuối cùng, thân Phật mà tâm đã nhìn thấy được gọi là Báo thân. Thân này có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp, dựa vào quả vị đã an trú cũng có vô lượng các loại trang nghiêm, tùy theo những nơi thị hiện, lập tức không có giới hạn nào không thể cùng tận, xa rời tướng giới hạn phạm vi, tùy theo những nơi thích ứng, luôn có năng lực giữ gìn chắc chắn, không thể hủy hoại, không thể mất đi. Công đức như vậy đều nhờ vào các Ba-la-mật cùng hành vô lậu huân tập, và thành tựu được sự huân tập không thể nghó bàn, đầy đủ vô lượng tướng trạng an lạc nên nói là Báo. Lại nữa, thân Phật mà phàm phu thấy được ấy là sắc thân thô của Phật, tùy theo sáu đường chúng sanh đều trông thấy không như nhau, rất nhiều chủng loại khác nhau, không phải là tướng tiếp nhận an lạc nên nói là Ứng. Vả lại, thân Phật mà hàng Bồ-tát mới phát tâm nhìn thấy, là vì tin sâu vào pháp Chân như, nhìn thấy phần ít, biết các sự việc về sắc tướng trang nghiêm kia, không đi không đến, xa rời mọi giới hạn phạm vi, chỉ dựa vào tâm hiện rõ mà không xa rời Chân như. Nhưng hàng Bồ-tát này hãy còn tự phân biệt, vì chưa đi vào phần vị Pháp thân. Nếu đạt được tâm thanh tịnh nhìn thấy sắc thân vi diệu thì cái dụng đó chuyển sang thù thắng, cho đến địa Bồ-tát cuối cùng sẽ thấy được sắc thân cứu cánh. Nếu xa rời thức nghiệp thì không có tướng để thấy, vì Pháp thân của chư Phật không có sắc tướng bên này bên kia thay đổi trông thấy lẫn nhau. Hỏi: Nếu Pháp thân của chư Phật xa rời sắc tướng, thì tại sao luôn hiện rõ sắc tướng? Đáp: Chính Pháp thân này là thể của sắc nên luôn hiện rõ nơi Sắc tướng. Điều ấy gọi là từ xưa đến nay sắc và tâm chỉ là một, vì tánh sắc tức là trí, thể của sắc vô hình nói là trí thân, vì tánh trí chính là sắc, nên nói là Pháp thân. Sắc đã hiện rõ khắp tất mọi nơi không hề có phạm vi giới hạn, tùy theo tâm có năng lực hiện bày khắp mười phương thế giới, vô lượng Bồ-tát, vô lượng Báo thân, vô lượng trang nghiêm, tất cả đều sai biệt, đều không có phạm vi giới hạn, nhưng không ngăn ngại nhau. Điều này không phải là tâm thức phân biệt có thể biết được, vì đây chính là nghóa về tác dụng tự tại của Chân như”. Luận giải thích: Ngay trong văn này tự có ba phần. Thế nào là ba phần? Một là phần biểu hiện rõ về nghóa của tự thể đại. Hai là phần biểu hiện rõ về nghóa của tự tướng đại. Ba là phần biểu hiện rõ về nghóa của tự dụng đại. Trong nghóa về Đại thứ nhất có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là năm người bình đẳng. Hai là thời gian không chuyển. Đây gọi là hai phần. Trong nghóa về Đại thứ hai có ba phần. Thế nào là ba phần? Một là công đức viên mãn. Hai là hỏi đáp giải quyết nghi ngờ. Ba là giải thích riêng, nói rộng. Đây gọi là ba phần. Trong nghóa về Đại thứ ba tự có sáu phần. Thế nào là sáu phần? Một là bổn nguyện vô tận. Hai là ly tướng không đắm. Ba là chủ thể - đối tượng bình đẳng. Bốn là vô tướng hiện ứng. Năm là tùy theo thấy thô tế. Sáu là hỏi đáp giải quyết nghi ngờ. Đây gọi là sáu phần. Nay sẽ giải thích như thứ tự đó để nói rõ chi tiết, người thông minh nhanh nhạy hãy xem xét suy nghó để chọn lấy. Hơn nữa, tự thể tướng của Chân như, đó chính là nêu tổng quát hai nghóa về thể - tướng. Từ đây xuống dưới sẽ giải thích riêng để nói chi tiết. Thứ nhất nói về thể đại. Thế nào là năm người bình đẳng? Nghóa là tự thể của Chân như nối thông với năm người, vì bình đẳng hoàn toàn bình đẳng không có sai biệt. Thế nào gọi là năm loại người giả định? Một là phàm phu. Hai là Thanh văn. Ba là Duyên giác. Bốn là Bồ-tát. Năm là Như Lai. Đây gọi là năm người giả định. Năm tên gọi như vậy, con người tất nhiên là có năm mà Chân như đương nhiên chỉ có một. Vì sao? Vì tự thể của Chân như không có tăng giảm, cũng không có lớn - nhỏ, cũng không có bên có - bên không, cũng không có ở giữa - hai bên, cũng không có đi - đến, từ xưa đến nay một tự thành một, như nhau tự làm như nhau, chán khác nhau bỏ phân biệt chỉ có một Chân như. Vì vậy trong Kinh Chư Pháp Chân Như Nhất Tướng Tam Muội giải thích như vầy: “Ví như kim cang làm hình tượng của năm loại, năm người bình đẳng cũng lại như vậy. Vì ở trong các người ấy không có gì tăng giảm”. Như Bổn Luận nói: “Hết thảy phàm phu, Duyên giác, Bồ-tát và chư Phật không hề có sự tăng giảm”. Thế nào gọi là thời gian không chuyển? Nghóa là tự thể của Chân như, tự nhiên thường trú quyết định bất biến, ba đời không biến động, bốn tướng không chuyển dời, tịch diệt lại tịch diệt, chân thật thêm chân thật. Như Bổn Luận nói: “Không phải là thời gian trước sanh ra, không phải là thời gian sau diệt, hoàn toàn thường có không biến đổi”. Đã nói về phần biểu hiện rõ nghóa của tự thể đại. Tiếp theo nói về phần biểu hiện rõ nghóa của tự tướng đại. Phần công đức viên mãn thì tướng đó thế nào? Nghóa là trong chân thể viên mãn tất cả mọi công đức không có gì thiếu sót. Công đức như thế nào? Đó gọi là công đức của sáu loại nghóa về tánh. Thế nào là sáu loại? Một là nghóa về đại trí tuệ quang minh, vì Bổn giác Bát nhã có năng lực loại trừ đêm tối của vô minh, ở trong kinh gọi là nghóa về Quảng đại viên mãn thù thắng bát nhã thật trí quang minh tánh. Hai là nghóa về soi sáng khắp pháp giới, vì Bổn giác Bát nhã soi chiếu đến nguồn gốc của một pháp giới, ở trong kinh gọi là Châu biến thông đạt nhất pháp giới tạng tự nhiên tánh. Ba là nghóa về sự nhận thức chân thật, vì Bổn giác Bát-nhã rời xa sự hiểu biết suy lường giả dối, ở trong kinh gọi là nghóa về Ly vọng tưởng giải quyết định liễu tri thật tế thật tánh tánh. Bốn là nghóa về tự tánh tâm thanh tịnh, vì Bổn giác Bát nhã tự nhiên vốn có vô lượng tánh công đức chứ không phải đạt được nhờ sức lực nơi khác, rời xa trần lụy hợp với sự trung thật, ở trong kinh gọi là nghóa về Bổn hữu minh bạch ly biên trung trung tánh. Năm là nghóa về thường lạc ngã tịnh, vì Bổn giác và Thỉ giác từ vô thỉ đến nay rời xa bốn chướng, viên mãn bốn loại đức tự nhiên, ở trong kinh gọi là nghóa về Như-lai chánh giác tự nhiên tánh đức viễn ly viêm huyễn bất tu hành tánh. Sáu là nghóa về thể tánh trong sáng mát mẻ tự tại bất biến, vì hai loại Bổn giác ví như hai phía Nam - Bắc của đài gương sáng vốn có tùy thuận và trái ngược lẫn nhau, ở trong kinh gọi là nghóa về Cụ túc tùy thuận nghịch vi vô ngại đà la ni toàn biến tánh. Đây gọi là sáu nghóa. Tự thể có đại trí tuệ quang minh, như Bổn Luận nói: “Từ xưa đến nay tánh tự có đầy đủ tất cả công đức. Đó gọi là nghóa của thể tánh trong sáng mát mẻ tự tại bất biến”. Trong Kinh Quảng Đại Viên Mãn Tự Tánh Bổn Đức giải thích như vầy: “Tự tánh công đức, tên gọi của số này có mười bảy loại, ở trong hai loại đầu mỗi loại phân ra hai, ở trong hai loại tiếp theo mỗi loại phân ra ba, ở trong hai loại sau như thứ tự đó phân ra bốn và ba”. Lại nữa, trong Kinh Thanh Tịnh Tâm Địa Vô Cấu Đà La Ni giải thích như vầy:”Tự tánh công đức, tên gọi của số này có hai mươi lăm loại, trong một công đức cuối cùng phân ra mười một loại”. Như vậy, tướng riêng của ba số thế nào? Tên gọi số vốn có trong Luận Ma-ha-diễn của Bồ-tát Mã Minh, vì muốn biểu hiện rõ về tướng tổng trì nên lược bớt tên gọi, mở rộng nghóa lý, nên thâu tóm chi tiết tổng quát lập thành sáu loại. Vả lại, vốn dựa vào bản khác nói về tổng trì. Hơn nữa, số tên gọi nhiều làm cho không phân biệt được đâu là chân thật, vì nghóa này nên tổng quát lập thành sáu loại. Nói là mười bảy loại thì tên gọi thế nào? Đó là: Nghóa về đại trí tuệ. Nghóa về đại quang minh. Nghóa về biến nhất pháp giới. Nghóa về chiếu nhất pháp giới. Nghóa về chân thật. Nghóa về thức. Nghóa về tri. Nghóa về tự tánh. Nghóa về thanh tịnh. Nghóa về tâm. Nghóa về thường. Nghóa về lạc. Nghóa về ngã. Nghóa về tịnh. Nghóa về bất. Nghóa về biến. Nghóa về tự tại. Đây gọi là mười bảy loại. Nói là hai mươi lăm loại thì tên gọi thế nào? Đó là trong công đức có nghóa về Bất ở số trước phân ra tám loại, trong công đức có nghóa về Biến phân ra hai loại. Nói là hai Biến thì một là Thượng lưu chuyển biến. Hai là Hạ lưu chuyển biến. Nói về tám Bất thì như trong Luận Trung Quán nói rõ. Đã nói về phần số lượng công đức có tên gọi. Tiếp theo nói về phần công đức vượt qua số lượng, không tên gọi. Tự tánh công đức trong thể của Bổn giác là vô lượng vô biên, xa rời mọi ngôn từ số lượng, vượt qua mọi tâm hành. Vì nghóa nào mà chỉ đối với số lượng dấy lên phân tích như vậy? Do công đức vốn có tuy không hề có số lượng mà không ra ngoài ba số, vì thế nêu ra số căn bản. Như Bổn Luận nói: “Đầy đủ như vậy vượt quá hằng hà sa số”. Như thế, vô lượng vô biên công đức tất cả đều có thể tướng riêng khác sao? Chỉ một tâm lượng chứ không có thể pháp nào sai khác, chỉ một tâm lượng hoàn toàn không xa rời tâm. Vì sao? Vì tâm pháp tuy là một nhưng lại có hai loại tác dụng tự tại của Đà-la-ni. Thế nào là hai loại? Một là bản thân không xa rời Đà-la-ni tự tại kia. Hai là nơi kia không xa rời Đà-la-ni tự tại của mình. Như Bổn Luận nói: “Bất ly”. Tánh đức như vậy từ vô thỉ đến nay, luôn có một cách kỳ diệu chứ không phải là pháp bị loại trừ. Vì sao? Vì tự tánh chỉ là tự tánh chứ không phải là cùng với tánh khác. Như Bổn Luận nói: “Bất đoạn”. Như vậy, tất cả mọi công đức chỉ có một tự làm thành một, cuối cùng khác với tự mình không thể làm thành một được. Vì sao? Vì đồng một pháp giới. Như Bổn Luận nói: “Bất dị”. Lý sâu xa như vậy thì tâm của tất cả Bồ-tát - tất cả Nhị thừa - tất cả phàm phu không thể tư duy, ngôn từ không thể luận bàn số lượng được, tuyệt vời càng tuyệt vời hơn, xa xăm lại xa xăm hơn. Như Bổn Luận nói: “Bất tư nghị”. Cảnh giới nói năng, suy nghó không phải của ba người, thì của người nào? Chỉ có bậc Đại Giác mới chính là phép tắc mẫu mực cho chính mình. Như Bổn Luận nói: “Pháp Phật”. Vô lượng tánh công đức như vậy, từ địa phàm phu (Cụ phược) cho đến địa Đại giác trí vô thượng, hoàn toàn viên mãn không có thiếu sót. Vì sao? Vì các công đức như thế từ vô thỉ đến nay vốn tự nhiên, chứ không phải mượn sức lực của duyên mà kiến lập. Như Bổn Luận nói: “Cho đến đầy đủ không có nghóa nào thiếu sót, vì thế gọi là Như Lai tạng, cũng gọi là Pháp thân Như Lai”. Đã nói về phần công đức viên mãn, tiếp đến nói về phần hỏi đáp giải quyết nghi ngờ. Ở đây có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần phát khởi lược hỏi để chất vấn. Hai là phần phát khởi trả lời rộng để giải thích. Hỏi là có ý chất vấn về tướng đó thế nào? Nghóa là vì xét kỹ lý lẽ thì văn trình bày trái ngược nhau - trước sau lẫn lộn. Văn trước sau trái ngược nhau thế nào? Đó là trong phần quyết trạch Chân Như giải thích như vầy: “Tâm Chân như, đó chính là thể đại nơi pháp môn tổng tướng của một pháp giới, đó gọi là tâm tánh bất sanh bất diệt, tất cả các pháp chỉ dựa vào niệm vọng mà có sai biệt. Nếu xa rời tâm niệm thì không có tướng của tất cả mọi cảnh giới, vì vậy tất cả các pháp từ xưa đến nay lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, hoàn toàn bình đẳng không có biến dị, không thể hủy hoại, chỉ là một tâm nên gọi là Chân như”. Trong phần quyết trạch về nghóa của tự tướng đại giải thích như vầy: “Từ xưa đến nay tánh tự nhiên đầy đủ tất cả các công đức, điều đó gọi là tự thể có nghóa đại trí tuệ quang minh, là nghóa của tự tánh tâm thanh tịnh, là nghóa của bốn đức thường lạc ngã tịnh, là nghóa của thể tánh trong sáng mát mẻ tự tại bất biến, có đầy đủ pháp Phật bất ly, bất đoạn, bất dị, bất tư nghị, vượt quá hằng hà sa số như vậy, cho đến đầy đủ không có nghóa nào thiếu sót, vì thế gọi là Như Lai tạng, cũng gọi là Pháp thân Như Lai”. Trái ngược nhau như vậy nên lấy đó để chất vấn. Như Bổn Luận nói: “Hỏi: Trước đây nói về Chân như, thể đó bình đẳng xa rời tất cả các tướng, tại sao lại nói thể có các loại công đức như vậy?” Đã nói về phần phát khởi lược hỏi để chất vấn, tiếp theo nói về phần phát khởi trả lời rộng để giải thích. Ở đây tức có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần tổng. Hai là phần biệt. Trong phần tổng lại có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là tổng của Chân như. Hai là tổng của sanh diệt. Như thứ tự đã nói về tướng có thể thấy. Đáp: Tuy thật sự có các nghóa về các công đức này, nhưng không có tướng trạng sai biệt, bình đẳng cùng một vị và chỉ có một Chân như. Đây chính là phần tổng về Chân như, nghóa là tuy trong phần nghóa về tự tướng đại giải thích như vậy, vốn có các loại công đức vượt quá hằng sa số, nhưng là số lượng giới hạn giới hạn nơi môn sanh diệt, chứ không phải là môn Chân như. Trong môn Chân như không có tướng sai biệt, bình đẳng và hoàn toàn bình đẳng cùng một tướng vị như nhau, chỉ có một pháp giới thanh tịnh là Chân như. Do nghóa này nên không hề sai lầm trái ngược nhau. Từ đây xuống dưới đưa ra nguyên nhân đó để giải quyết chấm dứt mọi nghi hoặc. Vì không có phân biệt và lìa tướng phân biệt nên không khác nhau, vì trong môn Chân như chỉ có hoàn toàn như nhau chứ không có phân biệt khác nhau. Từ đây xuống dưới giải thích tổng quát về sanh diệt. Ở trong văn này có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là hỏi. Hai là đáp. Vì có mở rộng và tóm lược, do đó hai tầng hỏi - đáp không giống nhau, cần phải biết. Tầng hỏi - đáp thứ nhất, tướng đó thế nào và lại vì nghóa nào mà được nói là sai biệt, đây chính là câu hỏi mở. Nói là nếu các pháp từ xưa đến nay, bình đẳng và hoàn toàn bình đẳng, cùng một tướng một vị như nhau, chỉ có một chân lý chứ không có hai thể, thì lại có pháp nào không phải là bình đẳng. Dựa vào điều đó để kiến lập sai biệt, tức là đưa ra phần khác nhau để nghi vấn về phần khác nhau. Từ đây xuống dưới là phát khởi trả lời giải thích để giải quyết chấm dứt nghi vấn này, trong văn có thể thấy rõ. “Do dựa vào thức nghiệp mà tướng sanh diệt bày ra”, đó chính là câu trả lời tổng quát. Nghóa là trong môn Chân như không có những pháp nhiễm nhiều vô số kể làm đối tượng được đối trị, không có những pháp tịnh nhiều vô số kể làm chủ thể đối trị để đối nhau về lượng. Nên trong môn Chân như được nói như vầy: “Tất cả pháp bình đẳng, hoàn toàn bình đẳng, một vị một tướng, không có hai thể. Mà vô số, vô biên các pháp nhiễm đối tượng được đối trị, trong môn sanh diệt cùng với các pháp tịnh chủ thể đối trị cũng vô lượng vô biên, vì thế trong môn sanh diệt giải thích như vầy: “Nơi thể của Bổn giác vốn có các loại công đức, vô lượng vô biên vượt quá hằng sa số…” Đây chính là ý về đại. Tiếp theo sẽ giải thích riêng để nói chi tiết. Nói là nương tựa chính là trú địa của vô minh căn bản, là nơi nương tựa của tất cả mọi pháp nhiễm. Nói là nghiệp chính là tướng nghiệp. Nói là thức chính là các thức chuyển v.v… Tướng sanh diệt là tên gọi chung của môn loại. Nói là chỉ ra là biểu hiện rõ trái ngược nhau. Chữ Dó trong này có nghóa từ xa lưu chuyển thuận theo đến với ba chữ, ba pháp như vậy khởi lên công đức, đó chính là nguyên nhân. Đã nói về phần giải thích tóm lược, tiếp theo nói về phần giải thích rộng. Ở trong phần này có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là hỏi. Hai là đáp. Trong này thì hỏi tóm lược mà đáp sẽ mở rộng nên biết. “Ở đây chỉ ra thế nào”, đây chính là lời chất vấn. Nghóa là chất vấn về những lý do của sự việc ấy. Từ đây xuống dưới là trả lời thẳng vào câu hỏi này. Trong phần trả lời giải thích này có ba loại. Thế nào là ba loại? Một là Tự tông chánh lý. Hai là Phi đạo tà hạnh. Ba là Nêu đủ về lượng đối nhau. Đây gọi là ba loại. Như thứ tự đó, giải thích tương ưng quán. Vì tất cả các pháp xưa nay chỉ do tâm chứ thật sự không hề do niệm, đây chính là phần thứ nhất là Tự tông chánh lý. Điều ấy nói lên pháp tánh từ vô thỉ đến nay chỉ là một tâm, không có một pháp nào không phải là tâm. Nhưng vì có tâm vọng không hiểu biết dấy lên niệm vọng thấy các cảnh giới nên nói là vô minh, đây chính là phần thứ hai Phi đạo tà hạnh. Đó là tổng quát đưa ra các trú địa vô minh căn cứ vào phần trên. Từ đây xuống dưới trực tiếp biểu hiện đưa ra đầy đủ sự đối đãi về lượng có sai biệt. Như trên đã nói về sáu tướng công đức trong thể của Bổn giác, tất cả đều cần phải quán sát những sai lầm tai hại nào, lấy đó làm đối đãi kiến lập biểu hiện rõ. Điều ấy có nghóa là vô minh căn bản huân tập đại dương của một tâm, phát khởi các nghiệp cùng đủ loại các thức, che kín ánh sáng của thật trí Bát nhã, tăng thêm bóng tối của sự ngu si mê loạn, tức là phạm vi của vô minh không giác ngộ mà sự sáng suốt tùy theo đó để đối đãi. Tánh của một tâm tịch diệt không dấy lên, chính là an lập công đức về trí tuệ sáng suốt của Bổn giác, kiến lập để biểu hiện rõ. Như Bổn Luận nói: “Tánh của tâm không dấy động, chính là nghóa của đại trí tuệ quang minh. Từ đây xuống dưới là biểu hiện công đức thứ hai, nội dung trong văn có thể thấy rõ. Như vậy, tâm vọng khởi lên thấy trái ngược với cảnh, luôn chỉ chuyển đổi trong cảnh hư vọng, không thế thông suốt được cảnh giới chân thật. Vì sao? Do thật và giả trái ngược nhau nên không thích hợp được. Như Bổn Luận nói: “Nếu tâm khởi lên cái thấy thì phát sinh tướng không thấy”. Từ đây xuống dưới trình bày về nghóa quán sát khắp nơi. Nhưng tâm chân thật thì xa rời cái thấy chuyển đổi nên thông suốt các pháp không đâu không đến được, không có gì không thích hợp, không có gì không tận cùng. Vì sao? Vì trí tuệ chân thật nhìn thấy xa rời cái thấy giới hạn của chủ thể nhận thức và đối tượng được nhận thức. Như Bổn Luận nói: “Tánh của tâm xa rời cái thấy chính là nghóa của soi sáng khắp pháp giới”. Từ đây xuống dưới là trình bày về công đức thứ ba. Đó là nếu tâm có tướng động chuyển, chính là trạng thái của vô minh huân tập. Hư vọng chuyển thành sáng suốt và lấy đó để đối đãi, tánh của tâm vắng lặng hoàn toàn không có náo động, chính trực không có sự hiểu biết điên đảo, chính là sự chiếu rọi của trí thật, tùy thuận đạo lý không trái ngược mà kiến lập biểu hiện rõ. Như Bổn Luận nói: “Nếu tâm có biến động thì không phải là sự nhận thức chân thật”. Từ đây tiếp xuống dưới là biểu hiện công đức thứ tư. Đấy là pháp hư vọng từ vô thỉ đến nay, không có tự thể sáng suốt và lấy đó để đối đãi, kiến lập biểu hiện rõ về tự tánh thanh tịnh vốn có mọi công đức. Như Bổn Luận nói: “Không có tự tánh”. Từ đây xuống dưới là biểu hiện công đức thứ năm. Đó là nói pháp hư vọng bị chuyển đổi do bốn tướng nên chẳng phải là Thường, ba loại khổ cùng biến chuyển nên chẳng phải là Lạc, hai loại tự tại không có nên chẳng phải là Ngã, một đạo lý thanh tịnh không có nên chẳng phải là Tịnh. Bốn loại sai lầm này lấy làm lượng đối đãi, mà kiến lập biểu hiện rõ bốn loại công đức trong thể của Bổn giác. Như Bổn Luận nói: “Không phải Thường - không phải Lạc - không phải Ngã - không phải Tịnh”. Từ đây xuống dưới là biểu hiện công đức thứ sáu. Đó là nói vì pháp hư vọng thiêu cháy tâm chân, nên gọi là nóng bức (Nhiệt). Lại là pháp làm não loạn các chúng sanh, vì thế gọi là phiền muộn (Não). Phá hoại, diệt trừ làm thay đổi tánh đức khiến không thể thực hiện, do đó suy yếu biến dạng. Vì sự này nên tất cả chúng sanh không được tự tại, do đó cũng gọi là không thể tự tại. Cần phải quán sát sự này để làm thành đối đãi, kiến lập biểu hiện rõ công đức trong lành tự tại không thay đổi. Như Bổn Luận nói: “Nóng bức phiền muộn suy yếu biến hoại thì không tự tại”. Từ đây xuống dưới biểu hiện rõ về nghóa của tướng công đức vô biên. Đó là nói nếu pháp nhiễm đã bị đối trị có vô lượng vô số, thì pháp tịnh có năng lực đối trị cũng vô lượng vô biên. Như Bổn Luận nói: “Cho đến có đủ các nghóa của nhiễm vọng không kể xiết, đối lại nghóa này nên tánh của tâm không có biến động, thì nghóa nêu ra rõ là có các tướng công đức thanh tịnh vượt quá hằng sa số”. Từ đây xuống dưới là kết luận về công đức viên mãn. Đó là nói nếu một tâm pháp có tướng động chuyển, lại thấy cảnh phía trước xuất hiện có thể duyên, tức có sai biệt của tâm là chủ thể nhìn thấy và cảnh là đối tượng được nhìn thấy, thì công đức của Bổn giác không thể viên mãn, mà tánh đức vốn có tuy vượt quá hằng sa số, nhưng chỉ là một tâm lượng hoàn toàn không có hai thể. Vì sao? Vì các đức như thế, tất cả mỗi đức đều không phân biệt thể của mỗi loại, đối với một pháp giới thì mức lượng đó như nhau, thế nên công đức tự tánh viên mãn. Trong hai phần vị ràng buộc và giải thoát, luôn đầy đủ gọi là Pháp thân, gọi là Như Lai tạng. Như Bổn Luận nói: “Nếu tâm có dấy lên lại thấy pháp trước đây có thể suy niệm, thì có những thiếu sót. Như vậy pháp thanh tịnh có vô lượng công đức, chính là một tâm lại không có pháp được suy niệm”, vì thế đầy đủ gọi là Pháp thân, Như Lai tạng”. Số lượng nhiễm tịnh quyết trạch bình đẳng dựa vào kinh nào để giải thích vậy? Đó là kinh Văn Thù Sư Lợi Thiện Xảo Phương Tiện Tương Tự Thí Dụ Đại Đà La Ni. Trong kinh ấy giải thích như thế nào? Trong kinh ấy giải thích như sau: “Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi nhờ thần lực của Phật, tức thì nói tụng: Ví như A-chỉ-đa Cây Già-na-thi-đế Quả cây nhiều vô số Biểu thật có mười loại Số lượng pháp nhiễm tịnh Cũng nên như vậy biết Hành giả dựa dụ này Hiểu rõ lý chân - vọng. Nay văn kinh này là trình bày về nghóa gì? Vì muốn chỉ rõ về giả chính là đối đãi thật, chân quyết định nhờ vào pháp vọng, vì không có pháp nào một mình riêng biệt tự tồn tại. Nói là biểu thì dụ cho pháp nào? Đó là dụ cho pháp hư vọng, vì hư vọng giả dối không có thật ví như bên ngoài của quả cây. Nói là thật thì dụ cho pháp nào? Đó là dụ cho pháp chân thật, vì chân thật không có gì giả dối ví như bên trong của quả cây. Thế nào gọi là mười loại đẳng? Đó là: Số đẳng biểu thật, là thích hợp với những số đó. Trần đẳng biểu thật, là ngọn ngành nhỏ phù hợp với những số lượng đó không có sai biệt. Lượng đẳng biểu thật là mức lượng tương ứng hoàn toàn không sai biệt với những mức độ nặng nhẹ. Sắc đẳng biểu thật, là mức lượng xen lẫn cùng với bạch sắc. Hương đẳng biểu thật, là huân tập những hương của nó. Vị đẳng biểu thật, là ăn uống không có sai biệt. Xúc đẳng biểu thật, là thân xúc chạm như nhau không có sai biệt. Bổn đẳng biểu thật, là cùng dựa vào cây cối sinh ra. Câu đẳng biểu thật là nhất thời không có trước sau. Đồng đẳng biểu thật, là cùng chung một vị. Đây gọi là mười đẳng, vì đưa ra thí dụ hợp cùng với pháp giải thích về tướng rõ nên không cần phải giải thích lại. Vả lại, nếu hàng độn căn không thông hiểu sự việc này, dựa vào thí dụ về công đức đen tối sẽ tùy đó biết được ý về đẳng. Đã nói về phần biểu hiện rõ về nghóa của tự tướng đại, tiếp theo nói về phần biểu hiện rõ nghóa của tự dụng đại. Trong này có sáu phần, như thứ tự đó nên quán sát kỹ. Nói về phần bổn nguyện vô tận, là Tăng-na-A-thế-da thanh tịnh, quảng đại viên mãn không biên vực. Nghóa là các Đức Như Lai trong vô lượng vô biên bất khả tư nghị bất khả xưng lượng vi trần số kiếp, dấy lên tâm đại từ bi bao la như số lượng vi trần khắp mười phương thế giới, tu tập nhân đại viên mãn bao la như số lượng vi trần khắp mười phương thế giới, thâu gồm tất cả mọi chúng sanh mênh mông như số lượng vi trần khắp mười phương thế giới, lập đại thệ nguyện nhiều như số vi trần của mười phương thế giới, thành tựu quả vị đại tự tại tuyệt vời như số lượng vi trần khắp mười phương thế giới. Vì sao? Vì nhận thức chính xác như thật về nghóa tương tục đồng nhất không sai khác. Như Bổn Luận nói: “Vả lại, dụng của Chân như, đó là hết thảy chư Phật ban đầu ở tại nhân địa, phát tâm đại từ bi, tu tập các pháp Ba-la-mật, tiếp nhận giáo hóa chúng sanh, lập nên đại thệ nguyện, mong muốn độ thoát cho tất cả các loài, cũng không hạn định số kiếp tận cùng thời gian vị lai, vì coi tất cả chúng sanh giống như chính bản thân mình”. Đã nói về phần bổn nguyện vô tận, tiếp theo nói về phần ly tướng không đắm. Nói về phần ly tướng không đắm, là ở trong những gì đã làm, xa rời những gì đã làm, không sinh ra đắm chấp. Nghóa là các Đức Như Lai tuy phát tâm đại bi vô lượng vô biên thâu tóm hóa độ hết thảy hằng sa chúng sanh, mà các Đức Như Lai không có một Ngài nào lại giữ lấy chúng sanh đã được hóa độ. Vì sao? Vì biết rõ như thật tướng của tất cả chúng sanh cùng với bản thân mình, chỉ có một Chân như - chỉ có một Pháp thân, không có tăng gảim và không hề sai biệt. Như Bổn Luận nói: “Nhưng cũng không giữ lấy sắc tướng chúng sanh. Ở đây do nghóa gì? Nghóa là tướng như thật mà biết tất cả chúng sanh cùng với bản thân mình có Chân như bình đẳng”. Đã nói về phần ly tướng không đắm, tiếp theo nói về phần chủ thể, đối tượng bình đẳng. Nói về phần chủ thể, đối tượng bình đẳng, là vì nhân - pháp - thể - dụng - lý - trí bình đẳng không có sai biệt. Nghóa là ba thân là Pháp - Báo và Hóa thân, cùng với hai lý về thật thật - giả giả, bình đẳng cùng một thể chẳng hề sai biệt. Tự tánh của thân vốn có và thân thị hiện, bình đẳng cùng một thể chẳng hề sai biệt, chánh trí năng chứng và như lý được chứng là một thể bình đẳng không có sai biệt. Do cùng một thể nên không có hai thể, không có hai thể nên cũng không có một thể, không có hai, không có một và cũng không luôn cả không có. Do nghóa này nên bổn tánh tự nhiên có đầy đủ mọi công đức mà không nhờ vào năng lực nào khác. Trong Kinh Thậm Thâm Cực Diệu giải thích như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa Đức Phật: Thưa Thế Tôn! Thế nào gọi là tướng dị dị dị? Thế nào gọi là tướng đồng đồng đồng? Đức Phật nói: Nói là tướng dị dị dị, chính là vô minh. Nói là tướng đồng đồng đồng, chính là pháp trong sáng. Hai pháp như vậy giống như hai sừng của con bò, tướng của đối trị không phải là tiêu tan mà thể giống như hai loại không tuyệt. Vì vậy hai pháp này gọi là chẳng phải quán sát pháp không thật. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền nhờ vào thần lực của Phật, lập tức từ chỗ ngồi đứng lên, thưa Đức Phật: Thưa Thế Tôn! Thế nào gọi là pháp phi quán ngụy, tướng đó có thể nói ra hay là không thể nói ra, lấy gì làm phương pháp tương ưng để nhận biết được? Đức Thế Tôn liền bảo Văn-thù-sư-lợi: Trong tất cả các kinh điển Ta giải thích như vầy: Dị là vô minh - Đồng là pháp trong sáng, vì muốn độ thoát cho hạng phàm phu ngu si mà tạm thời giải thích theo cách ấy. Hôm nay vì ông mà nói chân thật về pháp ấy. Này Văn-thù-sư-lợi! Nói là pháp phi quán ngụy, là Đồng và Dị quy về Đồng, Đồng và Đồng quy về Không, Không và Không quy về Tuyệt, cho đến nói rộng”. Như Bổn Luận nói: “Do có trí phương tiện vó đại như vậy, trừ diệt vô minh thấy được pháp thân vốn có, tự nhiên phát sinh các loại tác dụng của hành nghiệp không thể nghó bàn, thì cùng với Chân như bình đẳng hiện khắp tất cả mọi nơi”. Đã nói về phần chủ thể, đối tượng bình đẳng, tiếp theo nói về phần vô tướng hiện ứng. Nói về phần vô tướng hiện ứng, là tự tánh của thể rỗng lặng không có hình dạng, có năng lực hiện rõ các hình dạng. Ví như sừng thỏ thì thể của nó rỗng lặng không có, dễ có thể sinh ra tất cả các loại sừng. Nghóa là Pháp thân của Phật chỉ là một như nhau, chỉ là vắng lặng hoàn toàn, cũng không phải là một như nhau, cũng không phải là vắng lặng hoàn toàn, xứ tâm hành diệt, đạo ngôn ngữ đoạn, mà diệt diệt đoạn đoạn chỉ là không làm thành không. Vì sao? Vì hết thảy Như Lai chỉ từ nơi tự thân chứ không có thân nào khác, nhưng các chúng sanh thấy nghe được lợi ích, là từ trong tâm lượng thu được lợi ích, vì trong thể của Pháp thân không có quan hệ gì. Như Bổn Luận nói: “Nhưng cũng không có tướng dụng nào có thể đạt được. Tại sao? Vì chư Phật Như Lai chỉ là Pháp thân, là thân của tướng trí, là đệ nhất nghóa đế, không hề có cảnh giới của thế tục đế và xa rời mọi sự tạo tác, nhưng tùy theo chúng sanh thấy nghe có được lợi ích nên nói là dụng”. Đã nói về phần vô tướng hiện ứng, tiếp theo nói về phần tùy thấy thô tế. Ở trong phần này có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần Ứng thân dụng tướng sai biệt. Hai là phần Báo thân dụng tướng sai biệt. Phần đầu nói về gì? Đó là nói hết thảy phàm phu, Nhị thừa, vì không thể hiểu được tông chỉ rất sâu xa của tất cả các pháp, chỉ tùy tùy theo một tâm, dựa vào thức phân biệt sự tưởng vọng khắp nơi, thấy Ứng Hóa thân làm thành sự hiểu biết tùy theo bên ngoài, không thể thông suốt, không có phân chia ranh giới chuyển đổi phân biệt. Như Bổn Luận nói: “Dụng này có hai loại, thế nào là hai loại? Một là dựa vào thức phân biệt sự, thân Phật mà tâm phàm phu, Nhị thừa nhìn thấy được gọi là Ứng thân, vì không biết là từ thức chuyển hiện bày, thấy là đến từ bên ngoài, giữ lấy giới hạn trong phạm vi của sắc tướng nên không thể biết hết được”. Phần tiếp theo nói về gì? Đó là nói từ địa sơ tín giải cho đến địa kim cang, tất cả Bồ-tát thông suốt rõ về tông chỉ rất sâu xa của tất cả các pháp, chỉ tùy theo một tâm, dựa vào thức nghiệp ấy thấy Báo thân Phật, dấy lên sự hiểu biết chỉ do thức, thông suốt y và chánh không hề có giới hạn. Như Bổn Luận nói: “Hai là dựa vào thức nghiệp, nghóa là các vị Bồ-tát từ mới phát tâm, cho đến Bồ-tát ở địa cuối cùng, thân Phật mà tâm đã nhìn thấy gọi là Báo thân. Thân này có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp, dựa vào quả vị đã an trú cũng có vô lượng các loại trang nghiêm, tùy theo những nơi thị hiện, lập tức không có giới hạn nào không thể cùng tận, xa rời tướng giới hạn phạm vi, tùy theo những nơi thích ứng, luôn có năng lực giữ gìn chắc chắn, không thể hủy hoại, không hề mất đi”. Từ đây xuống dưới biểu hiện rõ về tướng sai biệt của Báo thân và Ứng thân. Nói là Báo, là vốn có nhân thắng diệu nhận được kết quả cực lạc, tự nhiên tự tại quyết định an lạc, rời xa tướng khổ đau nên gọi là Báo. Như Bổn Luận nói: “Công đức như vậy đều nhờ vào các Ba-la-mật cùng hạnh vô lậu huân tập, và thành tựu sự huân tập không nghó bàn được, đầy đủ vô lượng tướng trạng an lạc nên gọi là Ứng. Nói là Ứng là tùy thuận theo căn cơ mà không trái nghịch nhau, tùy thời, tùy xứ, tùy nẻo mà xuất hiện, không phải tướng an lạc nên gọi là Ứng. Như Bổn Luận nói: “Nhưng thân Phật mà phàm phu thấy được ấy là Sắc thân thô của Phật, tùy theo sáu đường chúng sanh đều trông thấy không như nhau, rất nhiều chủng loại khác nhau, không phải là sắc thái tiếp nhận an lạc nên nói là Ứng”. Từ đây xuống dưới lại tiếp tục giải thích rõ về những gì đã nói trước đây. Đó gọi là tất cả mọi địa đều thấy thân Phật có tăng giảm sai khác theo địa của mỗi nơi. Nghóa này là thế nào? Nếu các Bồ-tát ở địa ba Hiền, vì tin Chân như, thấy được một phần Báo thân, quán tưởng biết sắc tướng không có giới hạn số lượng, nhưng Bồ-tát này không thể lìa khỏi tâm phân biệt. Vì sao? Vì chưa có thể đi vào phần vị Chân như. Như Bổn Luận nói: “Vả lại, thân Phật mà hàng Bồ-tát mới phát tâm nhìn thấy là vì tin sâu vào pháp Chân như, nhìn thấy phần ít, biết các sự việc về sắc tướng trang nghiêm kia, không đi không đến, xa rời mọi giới hạn phạm vi, chỉ dựa vào tâm hiện rõ mà không xa rời Chân như. Nhưng hàng Bồ-tát này hãy còn tự phân biệt, vì chưa đi vào phần vị Pháp thân”. Nếu các vị Bồ-tát đạt đến Thập Địa, thì như thứ tự đó chuyển thành cứu cánh thù thắng. Như Bổn Luận nói: “Nếu đạt được tâm thanh tịnh nhìn thấy sắc thân vi diệu thì cái dụng đó chuyển sang thù thắng, cho đến địa Bồ-tát cuối cùng sẽ thấy được sắc thân cứu cánh”. Nếu trong quả Phật mà thức nghiệp gieo trồng trước đây không có gì, thì chủ thể nhận thức và đối tượng được nhận thức cũng rỗng lặng chẳng có gì. Vì sao? Vì hết thảy chư Phật duy nhất là Chân như và Chân như - bình đẳng và bình đẳng, Pháp thân và Pháp thân - bình đẳng và bình đẳng, không có bên này - không có bên kia, không có mình - không có người, không có lớn - không có nhỏ, không có cao - không có thấp, không cả không và không cả có, mọi hý luận đều sạch hết, suy nghó nhận biết cũng rỗng lặng, chỉ một Đại không chân như bổn trí, mặc áo Già già lợi sa na đề, ở tại cung Kiện thi đa đà ma, thân tự tánh ngồi chỉ một mình không có hai. Như Bổn Luận nói: “Nếu xa rời thức nghiệp thì không có tướng để thấy, vì Pháp thân chư Phật không có sắc tướng bên này bên kia thay đổi trông thấy lẫn nhau”. Vì sao trong chương Ứng Thân giải thích như vầy: “Dựa vào thức phân biệt sự mà thấy thân Phật”. Trong chương Báo Thân giải thích như vầy: “Dựa vào thức nghiệp mà thấy thân Phật”. Đó là vì muốn biểu hiện rõ tùy theo thức thô hay tế thì thân Phật nhìn thấy sẽ tùy đó mà hiện bày thô hay tế. Đã nói về phần tùy thuận thấy thô tế, tiếp theo nói về phần hỏi đáp giải quyết nghi ngờ. Ở phần này có hai vấn đề. Thế nào là hai? Một là hỏi. Hai là đáp. Trong phần trả lời có năm phần. Thế nào là năm? Một là phần Pháp thân xuất hiện sắc tướng. Hai là phần hiển thị hình tướng trí thân. Ba là phần hiển thị hình tướng Pháp thân. Bốn là phần quảng đại viên mãn không ranh giới. Năm là phần thù thắng không thể nghó bàn. Đây gọi là năm phần, như thứ tự đó nói về tướng có thể quán sát. Hỏi: Ý lạc thì tướng đó thế nào? Điều đó là người hỏi dấy lên nghi ngờ như vầy: Hạn định Pháp thân đó có tự thể chân thật, sâu thẳm bặt dứt suy nghó, vắng lặng đoạn tuyệt tên gọi, thì sắc tướng tác nghiệp do ai mà phát sinh? Trong phần quyết trạch về vô tướng hiện ứng giải thích như vầy: Pháp thân vô tướng có năng lực hiện rõ sắc tướng. Nếu có năng lực xuất hiện các loại sắc tướng, thì không thể nào nói là Pháp thân không tịch xa rời cương vực của cảnh sắc hình tượng. Nghi ngờ như vậy nên phát khởi câu hỏi này. Như Bổn Luận nói: “Hỏi: Nếu Pháp thân chư Phật xa rời sắc tướng, thì tại sao luôn hiện rõ sắc tướng?”. Từ đây xuống dưới chính là giải quyết nghi ngờ này. Nói về phần Pháp thân xuất hiện sắc tướng, là tự tánh Pháp thân có năng lực làm nơi nương dựa cho sắc tướng, do đó dễ xuất hiện sắc tướng mà không có chướng ngại. Vì sao? Vì sắc pháp là chủ thể nương dựa và tâm pháp là đối tượng được nương dựa, từ vô thỉ đến nay bình đẳng và bình đẳng không hề có hai thể, chỉ là một tâm lượng. Như Bổn Luận nói: “Đáp: Chính Pháp thân này là thể của sắc nên luôn hiện rõ nơi sắc tướng. Điều ấy có nghóa là từ xưa đến nay sắc và tâm không thể là hai”. Nói về phần hiển thị hình tướng trí thân, là dùng trí thâu tóm sắc, không có một sắc nào mà không phải là trí, nên gọi là trí thân. Như Bổn Luận nói: “Vì tánh sắc tức là trí, sắc thể vô hình nói là trí thân”. Nói về phần hiển thị hình tướng Pháp thân, là dùng sắc thâu gồm trí, không có một trí nào không phải là Sắc, nên gọi là Pháp thân. Như Bổn Luận nói: “Do trí tánh chính là sắc, nên nói là Pháp thân”. Nói về phần quảng đại viên mãn không ranh giới, thì hai thân như vậy đã hiện rõ sắc tướng, bình đẳng khắp nơi trong tất cả cảnh giới chúng sanh, tất cả cảnh giới phi tình, tất cả cảnh giới hư không, tất cả cảnh giới Niết-bàn, tất cả cảnh giới Như Lai, không nơi nào là không thông suốt, không nơi nào không đến được, không nơi nào không thích hợp, không nơi nào không tụ hội, không nơi nào không dấy lên, cũng không có giới hạn, cũng không có chướng ngại, thuần nhất hoàn toàn không hoàn toàn, không làm hỗn loạn đến nhau. Như Bổn Luận nói: “Sắc đã hiện rõ khắp tất cả mọi nơi không hề có phạm vi giới hạn, tùy theo tâm có năng lực hiện bày khắp mười phương thế giới, vô lượng Bồ-tát - vô lượng Báo thân - vô lượng trang nghiêm, tất cả đều sai biệt, đều không có phạm vi giới hạn, nhưng không ngăn ngại nhau”. Nói về phần thù thắng không thể nghó bàn, thì nghiệp dụng như vậy rất sâu xa hết sức vi diệu độc tôn thù thắng, không phải là khả năng biết được của hàng phàm phu, Nhị thừa. Như Bổn Luận nói: “Điều này không phải là tâm thức phân biệt có thể biết được, vì đây chính là nghóa về tác dụng tự tại của Chân như”. Như vậy, ba loại nghóa rất sâu xa về đại, trong hai loại là Chân như và sanh diệt an lập thế nào? Nghóa là trong môn Chân như thì ba loại nghóa về đại, chỉ có tất cả lập thành một, vì không có song lập. Nếu trong môn sanh diệt thì ba loại nghóa về đại, cả ba loại nghóa về đại có đầy đủ song lập, vì không có trước sau, lấy đó làm sai khác. Vì thế trong Kinh Đại Ấn ĐàLa Võng Thí Dụ giải thích như vầy: “Có nghóa về thể đại mà không có tướng và dụng, có nghóa về tướng đại thì không có thể và dụng, có nghóa về dụng đại thì không có thể và tướng. Như vậy, ba đại có một thứ nhất mà không có một thứ hai. Lại nữa, có nghóa về thể đại thì phải có tướng và dụng, có nghóa về tướng đại thì phải có thể và dụng, có nghóa về dụng đại thì phải có thể và tướng. Như vậy, ba đại thuận theo có một thứ nhất thì có một thứ hai, vì không rời bỏ nhau”. Các loại tướng còn lại từ trong phần quyết trạch kết luận tổng trì sẽ làm sáng tỏ nghóa lý. Đã nói về phần biểu hiện rõ ba loại nghóa về đại, tiếp theo nói về phần môn tự nhập môn phá dị môn. Bổn Luận nói: Lại nữa, biểu hiện rõ là từ môn sanh diệt lập tức đi vào môn Chân như. Đó là suy xét tìm tòi năm sắc ấm và cảnh giới sáu trần của tâm, suy cho cùng là không có niệm vọng, vì tâm không có hình tướng, cầu tìm khắp mười phương rốt cuộc không thể đạt được. Giống như người lạc đường nên nói phía Đông là phía Tây thật ra thì phương hướng không hề chuyển đổi. Chúng sanh cũng như vậy, vì vô minh làm cho mê muội do đó nói tâm là niệm, thật ra thì tâm không hề lay động. Nếu có thể quán sát biết tâm không khởi lên, thì nhất định tùy thuận đi vào môn Chân như. Luận giải thích: Văn luận này bây giờ là trình bày về nghóa gì? Vì muốn biểu hiện rõ về sự đối trị các dị chấp rộng hẹp lớn nhỏ. Sao nói là dị chấp? Đó là có chúng sanh khởi chấp trước như vầy: Một tâm pháp giới là pháp căn bản, cũng rộng cũng lớn, hai môn Chân - Vọng là pháp chi mạt, cũng hẹp cũng nhỏ. Do cần phải đối trị chấp trước này nên tiến hành giải thích như vầy: Môn cũng là đối tượng hội nhập, cùng với lượng căn bản bình đẳng. Vả lại, vì muốn biểu hiện rõ trong môn Chân như, không có tướng sai biệt của pháp hữu vi. Hơn nữa, vì muốn biểu hiện rõ trí không của năm ấm, như ấm đã không thì tự thể rỗng lặng, không có gì. Do chủ thể không và đối tượng không này đều là không, nên được đi vào phần Chân như bình đẳng. Lại nữa, vì muốn biểu hiện rõ về môn sanh diệt là giả mà môn Chân như là thật. Như Bổn Luận nói: “Vả lại, biểu hiện rõ là từ môn sanh diệt lập tức đi vào môn Chân như. Đó là suy xét tìm tòi năm sắc ấm và cảnh giới sáu trần của tâm, suy cho cùng là không có niệm vọng, vì tâm không có hình tướng, cầu tìm khắp mười phương rốt cuộc không thể đạt được”. Do nghóa nào mà trong phần thí dụ, Đông phương dụ cho Giác - Tây phương dụ cho Niệm? Vì muốn biểu hiện rõ Bát nhã của Bổn giác, xuất hiện ánh sáng của trí tuệ thanh tịnh, chiếu soi đêm tối của sanh tử u minh. Ví như vầng mặt trời đã xuất hiện rồi, thì tỏa ra ánh sáng phá tan màn đêm của thế gian. Vô minh trú địa sinh ra các loại pháp nhiễm tùy thuộc, che kín vô lượng ánh sáng trí tuệ thanh tịnh của tánh vô lậu. Ví như vầng mặt trời đã lặn xuống rồi, thì màn đêm bao trùm tất cả làm chướng ngại đến sự phân biệt rõ của mắt thanh tịnh. Như Bổn Luận nói: “Giống như người lạc đường nên nói phía Đông là phía Tây, thật ra thì phương hướng không hề chuyển đổi. Chúng sanh cũng như vậy, vì vô minh làm cho mê muội do đó nói tâm là niệm, thật thì tâm không hề lay động”. Từ đây xuống dưới trình bày về tướng đạt được lợi ích. Nghóa là có chúng sanh biết rõ tâm pháp không hề có chủ thể dấy lên và đối tượng dấy lên tướng sai khác, thì được thành tựu tùy thuận Chân như, lập tức được thành tựu Chân như thì nhất định đi vào, vì không có tùy thuận thì không đi vào được. Như Bổn Luận nói: “Nếu có thể quán sát biết tâm không khởi lên, thì nhất định tùy thuận đi vào môn Chân như”. Đã nói về phần môn tự nhập môn phá dị môn, tiếp theo nói về đối trị chấp tà chánh giải môn. Bổn Luận nói: Đối trị chấp tà, tất cả mọi chấp tà đều dựa vào ngã kiến, nếu xa rời ngã thì không có chấp tà. Ngã kiến này có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là ngã kiến thuộc về người. Hai là ngã kiến thuộc về pháp. Ngã kiến thuộc con người là dựa vào các phàm phu, nói có năm loại. Thế nào là năm loại? Một là nghe kinh giáo nói về Pháp thân Như Lai hoàn toàn vắng lặng giống như hư không, vì không biết điều đó là phá trừ chấp trước, liền nói hư không là tánh Như Lai. Đối trị thế nào? Là trình bày tướng trạng hư không là pháp hư vọng, thể không có, không thật, vì đối với sắc nên có tướng trạng có thể thấy này khiến tâm sanh diệt, mà tất cả sắc pháp xưa nay là tâm, thật sự không có sắc ngoài. Nếu không có sắc thì không có tướng trạng của hư không, đó gọi là tất cả cảnh giới chỉ do tâm vọng khởi mà phát sinh. Nếu tâm xa rời vọng động thì tất cả mọi cảnh giới không còn, chỉ một tâm chân không nơi nào không đầy khắp, đây gọi là nghóa lý của Như Lai tánh trí quảng đại cứu cánh, không phải giống như tướng trạng hư không. Hai là nghe kinh giáo nói các pháp thế gian chung quy thể là không, cho đến pháp Chân như Niết-bàn cũng suy cho cùng là không, từ xưa đến nay tự là không và xa rời tất cả các tướng. Vì không biết đây là phá trừ chấp trước, liền cho rằng tánh của Chân như Niết-bàn chỉ là không. Đối trị thế nào? Là trình bày tự thể của Chân như Pháp thân là bất không, vì có đầy đủ vô lượng tánh công đức. Ba là nghe kinh giáo nói Như Lai tạng không có tăng giảm, thể đầy đủ pháp của tất cả mọi công đức. Vì không hiểu nên chấp: Như Lai tạng có sắc tâm pháp và tự tướng sai biệt. Đối trị thế nào? Vì chỉ dựa vào nghóa Chân như mà nói nên mượn nghóa của pháp nhiễm sanh diệt biểu hiện rõ để nói về sai biệt. Bốn là nghe kinh giáo nói tất cả pháp nhiễm sanh tử của thế gian đều dựa vào Như Lai tạng phát sinh, tất cả các pháp không xa rời Chân như. Do không hiểu nên nói tự thể của Như Lai tạng có đủ tất cả các pháp sanh tử của thế gian. Đối trị thế nào? Vì Như Lai tạng từ xưa đến nay, chỉ có các nghóa Chân như bất ly bất đoạn bất dị và các công đức thanh tịnh vượt quá hằng sa số, vì các pháp nhiễm phiền não vượt quá hằng sa số, chỉ là vọng giả phát sinh chứ tánh tự vốn không có, do đó từ vô thỉ đời kiếp đến nay chưa từng tương ưng với Như Lai tạng. Nếu thể của Như Lai tạng có pháp vọng, khiến cho chứng đắc hội nhập vónh viễn chấm dứt pháp vọng, thì điều này hoàn toàn phi lý. Năm là nghe kinh giáo nói dựa vào Như Lai tạng nên có sanh tử, dựa vào Như Lai tạng nên đạt được Niết-bàn. Do không hiểu nên nói chúng sanh có bắt đầu. Vì thấy có bắt đầu, nên lại nói Niết-bàn Như Lai đã đạt được sẽ có điểm cuối cùng và sẽ trở lại làm chúng sanh. Đối trị thế nào? Vì Như Lai tạng không có đời trước, tướng của vô minh cũng không hề có bắt đầu. Nếu nói ngoài ba cõi lại có chúng sanh mới bắt đầu, chính là kinh điển của ngoại đạo nói. Lại nữa, Như Lai tạng không hề có đời sau, vì tương ưng cùng với Niết-bàn của chư Phật đã đạt được, vì thế sẽ không có đời sau. Ngã kiến thuộc về pháp là dựa vào hàng độn căn của Nhị thừa, Như Lai chỉ nói cho họ về nhân vô ngã và ngôn thuyết không thể rốt ráo, nên họ thấy có pháp sanh diệt của năm ấm, sợ hãi sinh tử mà vọng giữ lấy Niết-bàn. Đối trị thế nào? Vì pháp của năm ấm tự tánh không sanh ra thì sẽ không có diệt Niết-bàn vốn có. Hơn nữa, cuối cùng xa rời chấp vọng, nên biết pháp nhiễm pháp tịnh thảy đều đối đãi lẫn nhau, không có tự tướng nào có thể nói. Vì vậy, tất cả các pháp từ xưa đến nay, chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải có, chẳng phải không, suy cho cùng là không thể diễn tả được tướng trạng, nhưng có ngôn ngữ diễn tả, nên biết là Như Lai đã dùng phương tiện khéo léo, mượn ngôn ngữ diễn tả để dẫn dắt chúng sanh, tông chỉ của Ngài đều là vì chúng sanh xa rời niệm vọng quy về Chân như, do lẽ niệm vọng về tất cả các pháp thì khiến cho tâm sanh diệt không thể hội nhập với trí thật được. Luận giải thích: Ngay trong văn này có bốn phần. Thế nào là bốn phần? Một là phần biểu hiện rõ về căn bản tổng tướng. Hai là phần biểu hiện rõ về nhân kiến đối trị. Ba là phần biểu hiện rõ về pháp kiến đối trị. Bốn là phần biểu hiện rõ về câu phi tuyệt ly. Đây gọi là bốn phần. Nói về phần biểu hiện rõ căn bản tổng tướng, là tất cả đạo tà vô lượng vô biên vượt quá hằng sa số, tất cả định chấp vô lượng vô biên vượt quá hằng sa số, đều lấy ngã kiến làm nơi nương tựa của mình, sinh ra và tăng thêm lại không có gì sót lại, nên làm căn bản của những chấp tà này. Vì vậy trong Kinh Vô Minh Trú địa Vô Biên Tế nói như sau: “Tất cả vô lượng các loại biển luận tà hư vọng lấy núi lớn ngã kiến để dựa vào mà chuyển đổi, ví như tất cả vô lượng vô biên các loại cây cối, các loại cỏ cây, thảy đều lấy núi làm nơi nương tựa mà chuyển đổi”. Như Bổn Luận nói: “Đối trị chấp tà, tất cả mọi chấp tà đều dựa vào ngã kiến, nếu xa rời ngã thì không có chấp tà. Ngã kiến này có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là ngã kiến thuộc về người. Hai là ngã kiến thuộc về pháp”. Đã nói về phần biểu hiện rõ căn bản tổng tướng, tiếp theo nói về phần biểu hiện rõ nhân kiến đối trị. Nói về phần biểu hiện rõ cách đối trị cái thấy thuộc chấp ngã, dứt khoát là vì đối trị cái chấp sai lầm tai hại của tất cả phàm phu thuộc loại tụ định tà và tụ bất định để sanh ra hiểu biết vi diệu, thù thắng. Tướng đối trị chướng ngại riêng biệt về năm loại nhân Kiến, nội dung trong văn rõ nên không cần phải giải thích lại. Vả lại, không có gì là khác lược cả. Như Bổn Luận nói: “Ngã kiến thuộc về con người là dựa vào các phàm phu mà nói có năm loại… cho đến nói rộng. Hơn nữa, Như Lai tạng không hề có đời sau, vì tương ưng cùng với Niết-bàn của chư Phật đã đạt được, vì thế không có đời sau”. Đã nói về phần biểu hiện rõ nhân kiến đối trị, tiếp theo nói về phần biểu hiện rõ pháp kiến đối trị. Nói về phần biểu hiện rõ cách đối trị cái thấy thuộc chấp pháp, là thẳng thắn để đối trị cái chấp sai lầm về thật có của hàng chúng sanh Nhị thừa, khiến có thể thành tựu lý pháp không rộng lớn. Tướng đối trị chướng ngại riêng biệt của hai loại pháp kiến, nội dung trong văn rõ nên không cần phải giải thích lại. Như Bổn Luận nói: “Ngã kiến thuộc về pháp là dựa vào hàng độn căn của Nhị thừa, Như Lai chỉ nói cho họ về nhân vô ngã… cho đến nói rộng, thì sẽ không có diệt, Niết-bàn vốn có”. Đã nói về phần biểu hiện rõ pháp kiến đối trị, tiếp theo nói về phần biểu hiện rõ câu phi tuyệt ly. Nói về phần cả hai đều không phải đoạn tuyệt xa rời, nếu như có chúng sanh nào loại trừ được hai chấp, chứng được hai không, thông suốt các pháp đạo ngôn ngữ đoạn, xứ tâm hành diệt, đoạn trừ lại đoạn trừ, soi chiếu vắng lặng, diệt sạch lại diệt sạch, suy nghó chấm dứt, không có gì đạt được. Như Bổn Luận nói: “Hơn nữa, cuối cùng xa rời chấp vọng, nên biết pháp nhiễm pháp tịnh thảy đều đối đãi lẫn nhau, không có tự tướng nào có thể nói. Vì vậy, tất cả các pháp từ xưa đến nay, chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải có, chẳng phải không, suy cho cùng là không thể diễn tả được tướng trạng… cho đến nói rộng, kKhiến cho tâm sanh diệt không hội nhập với trí thật được”.  <卷>QUYỂN 7 Đã nói về phần đối trị chấp tà chánh giải, tiếp theo nói về phần phân biệt tướng trạng phát khởi hướng đến đạo. Bổn Luận nói: Phân biệt phát khởi hướng đến đạo là nói đạo đã chứng đạt của hết thảy chư Phật, là nghóa lý tất cả Bồ-tát phát tâm tu hành đều hướng về nơi ấy. Lược nói về phát tâm có ba loại. Thế nào là ba loại? Một là phát tâm tín thành tựu. Hai là phát tâm giải hạnh. Ba là phát tâm chứng phát. Phát tâm tín thành tựu là dựa vào hạng người như thế nào, tu tập công hạnh như thế nào, đạt được tín thành tựu để có thể tự mình phát tâm? Đó là căn cứ nơi chúng sanh thuộc loại tụ bất định, vì có sức mạnh huân tập của thiện căn, tin chắc nghiệp quả báo ứng nên có thể khởi mười thiện, chán ngán nỗi khổ sanh tử mong cầu Bồ-đề Vô thượng, được gặp chư Phật thân cận, thừa sự cúng dường tu hành tín tâm, trải qua một vạn kiếp được thành tựu tín tâm. Chư Phật, Bồ-tát dạy dỗ khiến cho phát tâm, hoặc vì tâm đại bi nên có thể tự mình phát tâm. Hoặc vì chánh pháp sắp đến thời kỳ hoại diệt, vì nhân duyên hộ pháp nên có thể tự mình phát tâm. Như vậy, người thành tựu tín tâm thì nhất định phát tâm, đi vào tụ chánh định hoàn toàn không lui sụt, gọi là trú vào chánh nhân tương ưng trong dòng dõi Như Lai. Nếu chúng sanh nào thiện căn yếu kém, từ lâu xa đến nay có phiền não sâu dày, tuy được gặp Phật và cũng được cúng dường, nhưng khởi lên chủng tử hàng trời, người, hoặc khởi lên chủng tử hàng Nhị thừa. Giả sử có người cầu pháp Đại thừa, mà căn thì thuộc loại bất định, hoặc tiến lên hoặc lùi xuống, hoặc có cúng dường chư Phật, chưa trải qua một vạn kiếp, ở trong thời gian đó gặp được duyên cũng có thể phát tâm. Đó gọi là thấy sắc tướng của Phật mà phát tâm, hoặc nhờ vào sự cúng dường chúng Tăng mà phát tâm, hoặc nhờ người hàng Nhị thừa dạy dỗ khiến cho phát tâm, hoặc học theo người khác mà phát tâm. Những hạng phát tâm như vậy đều là bất định, gặp phải nhân duyên xấu có lẽ lập tức lui sụt rơi vào địa Nhị thừa. Vả lại, phát tâm tín thành tựu thì phát những tâm như thế nào? Lược nói có ba loại. Thế nào là ba loại? Một là trực tâm, là chánh niệm về pháp Chân như. Hai là thâm tâm, là thích quy tụ tất cả các hạnh thiện. Ba là tâm đại bi, là mong muốn trừ hết đau khổ cho tất cả chúng sanh. Hỏi: Trên đây nói về tướng pháp giới chỉ một - thể của Phật không hai, tại sao không chỉ niệm Chân như mà lại theo đuổi học tập thực hành các điều thiện? Đáp: Ví như thể tánh của ngọc quý Đại Ma-ni là trong suốt mà lại có chất bẩn của quặng lẫn vào, nếu người tuy nghó đến tánh ngọc quý, nhưng không dùng các loại phương tiện để mài giũa tinh luyện thì cuối cùng không trong suốt được. Như vậy, pháp Chân như của chúng sanh là thể tánh rỗng lặng thanh tịnh, nhưng có vô lượng phiền não cấu nhiễm, nếu có người tuy nghó đến Chân như mà không dụng các loại phương tiện để tu tập thì cũng không thanh tịnh được. Vì cấu bẩn vô lượng vô biên phủ khắp tất cả các pháp, nên tu tập tất cả mọi hạnh thiện để làm đối trị. Nếu có người tu tập thực hành tất cả các pháp thiện, thì tự nhiên trở về thuận theo pháp Chân như. Lược nói về phương tiện thì có bốn loại. Thế nào là bốn loại? Một là phương tiện thực hành căn bản, đó là quán tất cả các pháp tự tánh vô sanh xa rời vọng kiến, không trú vào sanh tử. Quán tất cả các pháp do nhân duyên hòa hợp nghiệp quả không sai sót, khởi lên tâm đại bi tu tập những phước đức, thâu hóa chúng sanh không trú vào Niết-bàn, vì tùy thuận pháp tánh không hề an trú. Hai là phương tiện có năng lực làm cho dừng lại, đó là hổ thẹn hối hận về sai lầm của mình, có năng lực ngăn lại tất cả các pháp ác không để cho tăng thêm vì thuận theo pháp tánh lìa các lỗi lầm. Ba là phương tiện phát khởi thiện căn tăng trưởng. Đó là thường cúng dường lễ bái Tam bảo, tán thán tùy hỷ khuyến thỉnh chư Phật, vì tâm ái kính Tam bảo hết sức thuần hậu, nên niềm tin được tăng thêm, mới có thể lập chí mong cầu đạo vô thượng. Lại nhờ lực Tam bảo gia hộ, nên có năng lực làm cho nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căn không lui sụt, vì tùy thuận pháp tánh xa rời ngu si ám chướng. Bốn là phương tiện đại nguyện bình đẳng, đó gọi là phát nguyện tận cùng thời gian vị lai, hóa độ tất cả chúng sanh khiến không sót chúng sanh nào, tất cả đều làm cho đạt đến Niết-bàn vô dư, vì tùy thuận pháp tánh không có gì đoạn tuyệt. Pháp tánh rộng lớn phủ khắp tất cả chúng sanh bình đẳng không hai, không phân biệt bên này bên kia vì hoàn toàn vắng lặng. Bồ-tát phát ra tâm này, thì được thấy một phần Pháp thân, nhờ thấy được Pháp thân nên thuận theo nguyện lực đó chủ động hiện rõ tám loại lợi ích cho chúng sanh: Tức là từ cung trời Đâu Suất đi xuống, vào thai - ở trong thai - ra đời - xuất gia, Thành đạo, chuyển pháp luân và nhập Niết-bàn. Nhưng Bồ-tát này chưa gọi là Pháp thân, vì từ vô lượng kiếp quá khứ đến nay, nghiệp hữu lậu chưa thể đoạn trừ hoàn toàn, tùy theo nơi sinh ra đó tương ưng với những nỗi khổ vi tế, cũng không phải là nghiệp ràng buộc, mà là có năng lực tự tại của đại nguyện. Như trong kinh hoặc là nói có người thoái đọa vào đường ác, nhưng không phải là thoái đọa thật sự, chỉ vì hàng Bồ- tát mới học chưa đi vào địa chính thức, lại lười nhác nên làm cho sợ hãi khiến sinh ra dũng mãnh hơn. Đồng thời, Bồ-tát này sau khi vừa mới phát tâm đã rời xa tâm ý khiếp nhược, hoàn toàn không sợ rơi vào địa Nhị thừa. Nếu như nghe trải qua vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, chịu khó chịu khổ thực hành khổ hạnh mới đạt được Niết-bàn, mà cũng không hề khiếp nhược, vì tin và biết rõ tất cả các pháp từ xưa đến nay là Niết-bàn tự nhiên. Phát tâm giải hạnh, nên biết là chuyển thành thù thắng, vì Bồ-tát này từ bắt đầu chánh tin đến nay, ở A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất sắp sửa hết, đối với trong pháp Chân như hiểu sâu và ngay lúc đó tiến lên tu pháp ly tướng, vì biết thể tánh của pháp không có gì tham tiếc, nên tùy thuận tu hành Bố thí Ba-la-mật. Vì biết pháp tánh là vô nhiễm và xa rời sai lầm do năm dục, nên tùy thuận tu hành Trì giới Ba-la-mật. Do biết pháp tánh là vô khổ và xa rời sân giận phiền muộn, nên tùy thuận tu hành Nhẫn nhục Ba-la-mật. Vì biết pháp tánh không có tướng thân tâm và xa rời khinh mạn lười nhác, nên tùy thuận tu hành Tinh tấn Ba-la-mật. Do biết pháp tánh luôn ổn định và thể không hỗn loạn, nên tùy thuận tu hành Thiền định Ba-la-mật. Vì biết pháp tánh là thể sáng tỏ xa rời vô minh, nên tùy thuận tu hành Trí tuệ Ba-la-mật. Phát tâm chứng, là từ địa tâm tịnh cho đến địa Bồ-tát cuối cùng chứng được cảnh giới nào? Đó gọi là cảnh giới Chân như. Vì dựa vào thức chuyển nên nói là cảnh giới, nhưng chứng ở đây không hề có cảnh giới, chỉ có trí chân như gọi là Pháp thân. Bồ-tát này ở trong khoảnh khắc, có thể đi đến mười phương không sót một thế giới nào, cúng dường chư Phật và thỉnh cầu chư Phật chuyển pháp luân, chỉ vì giảng dạy khuyên bảo làm lợi ích cho chúng sanh không dựa vào văn tự. Hoặc thị hiện vượt các địa nhanh chóng thành tựu Chánh giác, chỉ vì hạng chúng sanh khiếp nhược. Hoặc nói là Ta ở trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp sẽ thành tựu Phật đạo, chỉ vì hạng chúng sanh lơi lỏng lười nhác. Có năng lực thị hiện vô số phương tiện không thể nghó bàn như vậy, thật ra thì căn cơ chủng tánh của Bồ-tát là bình đẳng, phát tâm là bình đẳng thì chứng đạt cũng bình đẳng, không có pháp nào vượt lên trên. Vì tất cả Bồ-tát đều trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, nhưng tùy theo thế giới chúng sanh không như nhau, tất cả thấy - nghe - căn cơ - ham muốn - tánh chất khác nhau, nên thị hiện công hạnh cũng có những sai biệt. Vả lại, Bồ-tát này phát tâm có ba loại tướng vi tế của tâm. Thế nào là ba loại? Một là tâm chân, vì không có phân biệt. Hai là tâm phương tiện, vì tự nhiên thực hiện khắp nơi làm lợi ích cho chúng sanh. Ba là tâm thức nghiệp, là khởi lên và diệt rất vi tế. Lại công đức của Bồ-tát này thành tựu đầy đủ, đối với chỗ tột cùng của sắc, thì thị hiện thân cao lớn nhất trong tất cả thế gian. Nghóa là dùng một niệm tương ưng với tuệ thì vô minh lập tức không còn, gọi là Nhất thiết chủng trí, tự nhiên phát sinh nghiệp bất tư nghị, có năng lực hiện rõ khắp mười phương làm lợi ích cho chúng sanh. Hỏi: Hư không vô biên nên thế giới vô biên, thế giới vô biên nên chúng sanh vô biên, chúng sanh vô biên nên tâm hành sai biệt cũng lại vô biên, cảnh giới như vậy không thể phân biệt giới hạn, khó biết và khó hiểu vô cùng. Nếu đoạn dứt vô minh thì không có tâm tưởng, làm sao có thể hiểu rõ gọi là Nhất thiết chủng trí? Đáp: Tất cả mọi cảnh giới vốn có từ một tâm xa rời mọi tưởng niệm, vì chúng sanh vọng thấy cảnh giới nên tâm có phân biệt giới hạn. Do vọng dấy lên tưởng niệm không xứng hợp với pháp tánh, do đó không thể biết rõ được. Chư Phật Như Lai xa rời kiến tưởng nhưng không nơi nào không đầy khắp, vì tâm chân thật chính là tánh của các pháp, tự thể soi chiếu lộ rõ tất cả các pháp vọng, có đại trí, dùng vô lượng phương tiện, tùy theo chúng sanh thích ứng được hiểu, đều có thể chỉ ra được tất cả các loại pháp nghóa, vì vậy được gọi là Nhất thiết chủng trí. Lại hỏi: Nếu chư Phật có nghiệp tự nhiên, có năng lực hiện rõ ở tất cả mọi nơi làm lợi ích cho chúng sanh, thì tất cả chúng sanh hoặc trông thấy thân đó, hoặc nhìn thấy thần thông biến hóa, hoặc nghe được giáo thuyết của các Ngài tức không có chúng sanh nào không được lợi ích, tại sao ở thế gian nhiều người không thể nhìn thấy được? Đáp: Pháp thân của chư Phật bình đẳng khắp tất cả mọi nơi không hề có tác ý, nên nói là tự nhiên, chỉ dựa vào tâm chúng sanh mà hiện bày, tâm chúng sanh thì giống chiếc gương, nếu chiếc gương có bụi bặm thì cảnh sắc hình tượng không hiện rõ. Như vậy, tâm chúng sanh nếu có cấu nhiễm thì Pháp thân không thể hiện bày được. Luận giải thích: Ở trong văn này có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần nêu tổng quát, giải thích tổng quát. Hai là phần giải thích tách biệt, nói chi tiết. Trong phần thứ hai có ba phần. Thế nào là ba phần? Một là phần phân tích ra ba loại phát tâm. Hai là phần phát khởi hỏi đáp giải quyết nghi ngờ. Ba là phần căn cứ vào luận phát sinh luận về hỏi đáp. Đây gọi là ba loại, nội dung nói có thể xem thấy. Nói về phần nêu tổng quát, giải thích tổng quát, là vì muốn biểu hiện rõ ngay trong phần phân biệt tướng phát khởi hướng đến đạo. Nghóa là vô lượng, vô biên chư Phật trong ba đời, đã phát thề nguyện - đã thực hành nhân, đã chứng đạt quả - đã giáo hóa đồ chúng số đó nhiều như biển lớn. Vô lượng vô biên hết thảy các chúng Bồ-tát suốt ba đời, đúng như vậy, như như như vậy, theo vết chân trước, thuận theo cùng chuyển. Như thứ tự đó không vượt ra số lượng, không bỏ qua phần vị là nghóa hướng về hội nhập. Lại nữa, vì muốn biểu hiện rõ giống như hết thảy chư Phật không có quy tắc hướng đến, tất cả Bồ-tát ở trong quy phạm không có hướng đến kia bình đẳng thực hành chân thật. Như Bổn Luận nói: “Tướng phân biệt phát khởi hướng đến đạo là nói đạo đã chứng đạt của hết thảy chư Phật, là nghóa lý tất cả Bồ-tát phát tâm tu hành hướng về nơi ấy”. Đã nói về phần nêu tổng quát, giải thích tổng quát, tiếp theo nói về phần giải thích tách biệt, nói chi tiết. Trong phần này có ba phần, như thứ tự đó nên suy nghó xem xét để chọn lựa. Ở trong phần thứ nhất phân tích về ba loại phát tâm đã có ba loại. Thế nào là ba loại? Một là phát tâm tín thành tựu. Hai là phát tâm giải hạnh. Ba là phát tâm chứng. Đó là ba loại. Như Bổn Luận nói: “Lược nói phát tâm có ba loại: Phát tâm tín thành tựu. Phát tâm giải hạnh. Phát tâm chứng”. Căn cứ phần thứ nhất tức có ba phần. Thế nào là ba phần? Một là phần phát khởi câu hỏi mở để nêu tổng quát. Hai là phần biểu hiện rõ trả lời giải thích nói rộng. Ba là phần phát khởi hỏi đáp giải quyết nghi ngờ. Phần thứ nhất và thứ hai có hai loại lặp lại, nên quan sát kỹ. Ở trong phần thứ nhất phát khởi câu hỏi mở để nêu tổng quát có bốn ý. Thế nào là bốn ý? Một là ý giả định, là hỏi về người có khả năng tu tập. Hai là ý về hành tướng, là hỏi về sự tu hành. Ba là ý về tự phân biệt, là hỏi về những thành tựu. Bốn là ý hướng về phía trước, là hỏi về tướng trạng tiến lên được. Như Bổn Luận nói: “Phát tâm tín thành tựu, căn cứ những hạng người nào, tu tập công hạnh như thế nào, đạt được tín thành tựu để có thể tự mình phát tâm?”. Đã nói về phần phát khởi câu hỏi mở để nêu tổng quát, tiếp theo nói về phần biểu hiện rõ trả lời giải thích, nói rộng. Ở đây có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần tùy câu hỏi lần lượt trả lời giải thích. Hai là phần nêu ra chỗ kém, hiển rõ hơn để sanh kiến giải. Trong phần đầu lại chia làm sáu phần. Thế nào là sáu phần? Một là phần biểu hiện rõ giả định về tu hành. Hai là phần tự nhiên vốn có sự huân tập. Ba là phần biểu hiện công năng tu hành. Bốn là thời lượng của tín thành tựu. Năm là chỉ rõ nhân duyên phát tâm. Sáu là phần biểu hiện rõ về chỗ đạt được lợi ích và địa hơn hẳn. Nói về phần biểu hiện rõ giả định về tu hành, nghóa là tuy vô lượng vô biên chúng sanh được giáo hóa, bây giờ trong nơi này lại chọn lấy chúng sanh địa Thập Tín thuộc về tụ bất định. Vì sao? Vì muốn khiến giáo hóa ba loại chúng sanh thuộc tụ bất định, thành tựu đầy đủ mười loại tín tâm, quyết định an lập địa mới phát tâm trú vào Bồ-tát Thập Trụ, trong địa kim cang bất biến. Như Bổn Luận nói: “Đó là căn cứ chúng sanh thuộc tụ bất định”. Nói về phần tự nhiên vốn có sự huân tập, nghóa là trong chúng sanh tương tục như vậy, từ vô thỉ đời kiếp đến nay, luôn có Phật tìm ẩn trong Bổn giác, luôn huân tập thiện căn của chúng sanh khiến tăng trưởng. Như Bổn Luận nói: “Vì có sức mạnh huân tập thiện căn”. Nói về phần biểu hiện rõ công năng tu hành, nghóa là các loại chúng sanh thuộc tụ bất định, tin vào nhân nghiệp quả báo hình như có không, thể rỗng lặng, không có, vì đạo lý của nhân duyên hòa hợp, do đó biết sai lầm của mười nghiệp ác, dấy lên ý nghó không nên tạo ra, quán xét công đức của mười nghiệp thiện, dấy lên ý nghó cần phải thực hiện, chán ngán cảnh giới ràng buộc vướng mắc mong cầu đến cõi giải thoát tự tại, dần dần thoát ra hướng về đạo Bồ-đề. Như Bổn Luận nói: “Tin vào nghiệp quả báo ứng nên có thể dấy khởi mười thiện, chán ngán nỗi khổ sanh tử, mong cầu Bồ-đề Vô thượng, được gặp chư Phật và tự mình được cúng dường tu hành tín tâm”. Nói về phần thời lượng tín tâm thành tựu, nghóa là biểu hiện rõ tín tâm đó thành tựu, thời gian xa gần và tướng trạng khác biệt nhau. Ở trong phần này có mười lăm kinh đề cập nhưng tất cả đều giải thích khác nhau. Thế nào gọi là mười lăm kinh giải thích khác nhau? Đó là: Trong Kinh Nhất Thiết Chư Pháp Nhân Duyên Vô Chủ nói như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền thưa với Đức Phật: Thưa Tôn giả! Từ địa phàm phu ràng buộc đi vào tụ bất định, tất cả hành giả phải trải qua bao nhiêu thời gian, thành tựu đầy đủ mười loại tín tâm, dần dần chuyển sang phần vị cao hơn và chắc chắn không thoái lui? Đức Thế Tôn bảo Văn-thù-sư-lợi: Này người thiện nam! Hãy lắng nghe kỹ và cố gắng suy nghó ghi nhớ điều ấy, Ta sẽ vì ông giải thích nói về phần hạn thời gian để thành tựu được tín tâm. Này người thiện nam! Tất cả hành giả từ địa phàm phu ràng buộc đi vào tụ bất định phải trải qua một vạn ba ngàn kiếp mới xong, thì sẽ thành tựu mười loại tín tâm, quyết định trú vào địa Bồ-tát mới phát tâm”. Trong Kinh Nhiếp Vô Lượng Đại Thừa nói như vầy: “Lại nữa, này Phật tử! Địa tín tạm gọi là Bồ-tát, hạn lượng sáu vạn bốn ngàn kiếp đã đầy đủ, thì sẽ thành tựu mười tâm ái lạc chắc chắn ở địa kim cang”. Trong Kinh Tuệ Minh Đà La Ni nói như sau: “Chúng sanh nơi tụ bất định trải qua hơn tám vạn một ngàn năm mươi kiếp đã hoàn tất, thì thành tựu tín tâm quyết định không thoái lui”. Trong Kinh Pháp Môn Danh Tự nói như vầy: “Lại nữa, hạng phàm phu ở địa tín lạc, trải qua hai vạn sáu ngàn kiếp đã xong, thì tín thành tựu không có thiếu sót”. Trong Kinh Thanh Tịnh Tam muội nói như vầy: “Nếu chúng sanh đi vào nơi khốn khó tu hành tín tâm, chịu dựng trải qua chín vạn kiếp đầy đủ rồi thì tín phẩm được thành tựu”. Trong Kinh Kim Cang Đà La Ni nói như sau: “Tín thành tựu tùy theo thời gian trong bốn vạn tám ngàn sáu mươi kiếp”. Trong Kinh Đại Trí Tuệ Quang Minh nói như vầy: “Lại nữa, này người thiện nam! Nếu chúng sanh nào vì muốn thành tựu công đức thiện cho cha mẹ trời đất, trước mắt trải qua số lượng mười sát na đã xong thì ruộng tín bằng phẳng không có cỏ dại”. Trong Kinh Thật Tướng Bổn Tế Quyết Định Bất Động nói như sau: “Địa tín thành tựu, tín tâm phát khởi trong sát na thứ nhất, mười loại tín tâm đầy đủ viên mãn”. Trong Kinh Văn-thù Sư Lợi Viên mãn Nhân Hải Đại Tổng Trì nói như vầy: “Ba A-tăng-kỳ đại vô lượng kiếp trải qua đã kết thúc, thì địa tín thành lập đầy đủ”. Trong Kinh Thậm Thâm Bồ Đề Nhân Duyên nói như vầy: “Kiến lập địa tín chỉ trong ba vạn kiếp”. Trong Kinh Đại Phương Tiện Trí Thiện Xảo nói như vầy: “Bồ- tát hành tín trong chín ngàn kiếp, quyết định thành tựu tín tâm thanh tịnh suy nghó về cõi Cực Lạc”. Trong Kinh Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu nói như vầy: “Bấy giờ, Đại Bồ-tát Kim Cang Tuệ liền bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Địa ban đầu của chủng tử Bồ-đề Vô thượng, trải qua thời gian bao nhiêu thì quyết định thuần thục, để mầm Bồ-đề sinh ra và tăng trưởng? Đức Phật nói: Nếu để thành tựu địa ban đầu của chủng tử, phải trải qua bảy vạn năm ngàn sáu mươi kiếp, thì địa ban đầu của chủng tử được kiến lập đầy đủ”. Trong Kinh Thọ Ký Bình Đẳng nói như vầy: “Tín tâm thành tựu chẳng phải xa - chẳng phải gần - chẳng phải không - chẳng phải có, chẳng phải cao - chẳng phải thấp - chẳng phải đầu - chẳng phải cuối, chẳng phải đi - chẳng phải đến - chẳng phải lớn - chẳng phải nhỏ, chẳng phải ba đời - chẳng phải không ba đời - chẳng phải vị trí - chẳng phải vị địa, chẳng phải thiện- chẳng phải ác - chẳng phải sai - chẳng phải đúng, đạo ngôn ngữ đoạn - xứ tâm hành diệt, vì vậy gọi là tín tâm chân thật”. Trong Kinh Như Lai tạng Bổn Thức nói như vầy: “Thưa Thế Tôn! Vì sao gọi là quảng đại viên mãn công đức phụ mẫu phẩm tín địa? Đức Phật nói: Thập Tín của Thập Tín - Thập Tín của Thập Giải, Thập Tín của Thập Hạnh - Thập Tín của Thập Hướng, Thập Tín của Thập Địa - Thập Tín của Phật Địa, cho đến địa chủng tử ác của phàm phu ràng buộc và hết thảy Nhị thừa đều là Thập Tín, vô lượng vô biên tất cả các pháp, không có một pháp nào không phải là Thập Tín, vì nghóa này nên gọi là địa Quảng đại viên mãn tín”. Trong Kinh Bồ Tát Anh Lạc Đại Bổn Nghiệp nói như vầy: “Bồ-tát tín tướng ở trong mười ngàn kiếp thực hành mười pháp thiện, quyết định an lập nơi tín thành tựu”. Đây là mười lăm kinh nói khác nhau. Như vậy, các kinh vì nghóa nào mà sai biệt như vậy? Đó là vì tâm chúng sanh có vô lượng vô biên nên tất cả đều sai biệt, tùy theo loại tâm của chúng sanh mà nói về hành tướng của tín khác nhau, hãy xem xét suy nghó để chọn lựa! Nay trong văn này tạm thời dựa vào Kinh Bổn Nghiệp để giải thích. Như Bổn Luận nói: “Trải qua một vạn kiếp được thành tựu tín tâm”. Nói về ph ần biểu hiện rõ nhân duyên phát tâm, nghóa là hành giả đã thành tựu tín tâm, vì muốn phát khởi trú tâm thứ nhất, nên cần đến năng lực của duyên mà phát khởi. Ở trong văn này có ba loại. Thế nào là ba loại? Một là nhân duyên khuyến thỉnh. Hai là nhân duyên cứu độ. Ba là nhân duyên hộ pháp. Nói đến nhân duyên khuyến thỉnh, đó gọi là vô lượng vô biên hết thảy chư Phật và chúng Đại Bồ-tát, xuất hiện các loại giáo pháp kinh điển thắng diệu vô cùng, hành giả ở địa tín khuyến thỉnh các Ngài giáo hóa, để vượt qua địa bất định, quyết định an lập trong khu vực bất động. Như Bổn Luận nói: “Chư Phật, Bồ-tát dạy dỗ khiến cho phát tâm”. Nói đến nhân duyên cứu độ, đó là duyên vào tất cả biển khổ của vô lượng vô biên đủ loại chúng sanh, lấy đó làm nhân phát khởi tâm đại từ bi thanh tịnh rộng lớn và không thoái lui mà vững chắc như kim cang. Như Bổn Luận nói: “Hoặc vì tâm đại bi nên có thể tự mình phát tâm”. Nói đến nhân duyên hộ pháp, đó là lúc giáo pháp của chư Phật sắp hoại diệt thì dùng các loại phương tiện để thích hợp thuận theo mà ứng phó và đảm nhận, bất cứ lúc nào và khắp mọi nơi không tiếc thân mạng, cứu hộ pháp Phật là lực nhân duyên vó đại, tự mình có thể phát khởi tâm chí kim cang không lùi bước, thanh tịnh bao la và tồn tại lâu dài mãi mãi về sau. Như Bổn Luận nói: “Hoặc vì chánh pháp sắp đến thời kỳ hoại diệt, vì nhân duyên hộ pháp nên có thể tự mình phát tâm”. Nói về phần biểu hiện rõ đạt được lợi ích và địa cao hơn, đó gọi là hành giả thành tựu tín được hiểu rõ, tu hành. Có đầy đủ mười tên gọi không có thoái lui. Thế nào là mười tên gọi? Đó là: Gọi là người không có ưu não, vì xa rời tâm sợ hãi trở lại rơi vào địa phàm phu bị phiền não trói buộc. Gọi là người rất giàu sang, vì loại trừ mê loạn của phiền não, cất giữ kết quả của Niết-bàn. Gọi là người có chủng tánh cao đẹp, vì xa rời chủng loại thấp kém của phàm phu, đã đi vào trong chủng tánh cao quý tôn kính của Như Lai. Gọi là người có đầy đủ tay chân, vì cầm bó đuốc Bát nhã đi lại trong nhà pháp giới rộng lớn. Gọi là người làm nước sông lớn, vì không có gì ngăn ngại mà chảy thẳng vào trong đại dương Nhất thiết trí. Gọi là người xây dựng cung điện, vì đã vượt lên trên phạm vi bất định quyết định an trú trong nhà của Như Lai. Gọi là người Phật tử chân thật, vì rời xa thai phàm đã đi vào thai Thánh. Gọi là người có ruộng phước lớn, vì thoát khỏi phiền não chỉ có thanh tịnh. Gọi là người có vô lượng đồ chúng, vì pháp giới chúng sanh đều lấy làm quyến thuộc của mình. Gọi là người không có gì chướng ngại, vì tùy theo tâm mà chuyển hóa. Như Bổn Luận nói: “Như vậy, người thành tựu tín tâm thì nhất định phát tâm, đi vào tụ chánh định hoàn toàn không thoái lui, gọi là trú vào chánh nhân tương ưng trong chủng loại Như Lai”. Đã nói về phần tùy câu hỏi lần lượt trả lời giải thích, tiếp theo nói về phần nêu ra chỗ kém hiển bày chỗ hơn để phát sanh kiến giải. Ở đây có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần nêu ra kém biểu hiện hình tướng xấu kém. Hai là phần nêu ra hơn biểu hiện hình tướng tốt hơn. Nêu ra kém biểu hiện hình tướng xấu kém, nghóa là nói hàng phàm phu phiền não sâu dày, thiện căn mỏng yếu, tuy gặp được nhân duyên của Đại thừa, nhưng lại dấy lên chủng tử thiện căn của Tiểu thừa. Như Bổn Luận nói: “Nếu chúng sanh nào thiện căn yếu kém, từ lâu xa đến nay có lắm phiền não sâu dày, tuy được gặp Phật và cũng được cúng dường, nhưng khởi lên chủng tử hàng trời người, hoặc khởi lên chủng tử hàng Nhị thừa”. Nêu ra hơn biểu hiện hình tướng tốt hơn là nói nếu chúng sanh mong cầu pháp môn vi diệu sâu xa của Đại thừa, cho dù tâm của họ không thể tức liền quyết định được, nhưng gặp nhân duyên thuận thì dường như tiến lên, gặp phải nhân duyên không thuận thì tự nhiên như lùi lại, vì tâm không ổn định. Như Bổn Luận nói: “Giả sử có người cầu pháp Đại thừa, mà căn thì thuộc loại bất định, hoặc tiến lên hoặc lùi xuống”. Nếu như không thể ổn định được, thì làm sao được gọi là người cao quý? Tuy không thể ổn định nhưng vì đã hướng về với pháp rất cao đẹp. Vả lại, hướng về dấy lên chủng tử của hàng trời người và Nhị thừa. Từ đây xuống dưới biểu hiện rõ về thời gian thành tựu tín tâm không hề chắc chắn, như giải thích ý chính của kinh thứ mười bốn trong mười lăm kinh đã nêu. Đó là nếu chúng sanh cúng dường chư Phật, tín tâm thành tựu mà thời gian đó không chắc chắn, hoặc rất lâu xa, hoặc rất gần kề, hoặc ở giữa hạn kỳ xa và gần. Vì sao? Vì tùy theo duyên mà có hay không có phát sanh niềm tin thuần thục. Như Bổn Luận nói: “Hoặc có cúng dường chư Phật, chưa trải qua một vạn kiếp, ở trong thời gian đó gặp được duyên cũng có thể phát tâm”. Từ đây trở xuống là giải thích theo từng duyên riêng, biểu hiện rõ về tướng trạng của nhân duyên phát tâm. Ở trong văn này có bốn loại nhân duyên phát tâm. Thế nào là bốn loại? Một là nhân duyên được gặp Phật, là nhờ thấy được thân tướng trang nghiêm của Như Lai, có thể phát khởi tâm chí rộng lớn. Như Bổn Luận nói: “Đó gọi là thấy sắc tướng của Phật mà phát tâm”. Hai là nhân duyên cúng dường chúng Tăng, dùng các loại vật cúng dường chúng Tăng và nhờ nhân duyên này có thể phát khởi tâm nguyện rộng lớn. Như Bổn Luận nói: “Hoặc nhờ vào sự cúng dường chúng Tăng mà phát tâm”. Ba là nhân duyên hổ thẹn, thấy và nghe người hàng Nhị thừa dạy dỗ giáo pháp sinh ra hổ thẹn cho mình kém cỏi, vì nhân duyên này có thể phát khởi tâm tư rộng lớn. Như Bổn Luận nói: “Hoặc nhờ người hàng Nhị thừa dạy dỗ khiến cho phát tâm”. Bốn là tùy theo các nhân duyên tùy theo tâm người khác và nhờ nhân duyên này có thể phát khởi tâm chí rộng lớn. Như Bổn Luận nói: “Hoặc học theo người khác mà phát tâm”. Từ đây trở xuống là tạo ra nhân duyên đó, biểu hiện rõ hình tướng mười loại tín tâm thuộc tụ bất định, và tổng kết phần giải thích, quyết nghi về Thập Tín đã nói ở trước. Do nghóa gì mà mười loại Tín Phẩm lập xứng tên gọi bất định? Điều ấy có nghóa là nếu gặp được nhân duyên thuận lợi thì tùy theo hướng về đường thiện, nếu gặp phải nhân duyên trái nghịch sẽ thuận theo hướng về đường ác, ví như chiếc lông tùy theo gió thổi chuyển từ Đông qua Tây. Như Bổn Luận nói: “Những hạng phát tâm như vậy đều là bất định, gặp phải nhân duyên xấu có lẽ lập tức thoái lui rơi vào địa Nhị thừa”. Đã nói về hai loại của tầng thứ nhất. Tiếp theo nói về hai loại của tầng thứ hai. Nói: Vả lại, phát tâm tín thành tựu là phát những tâm như thế nào? Đó chính là phần phát khởi câu hỏi mở để nêu tổng quát, nghóa là câu hỏi mở ra tổng quát hỏi về những công hạnh. Lược nói có ba loại, tức là nêu tổng quát và trả lời tổng quát như vậy. Thế nào là ba loại? Chính là tổng quát đưa ra và hỏi tổng quát như vậy. Từ đây trở xuống thẳng thắn trình bày về phần biểu hiện rõ giải thích để trả lời nói rộng. Ở trong phần này có ba loại. Thế nào là ba loại? Một là phương tiện chánh trí. Hai là phước đức đầy đủ. Ba là thành tựu an lạc. Ở trong ba phần này, phần một thông cả hai lợi, phần hai chỉ có tự lợi, phần ba chỉ có lợi tha. Vả lại, phần một và hai chỉ riêng biệt tự lợi, phần ba chỉ riêng một lợi tha. Hơn nữa, cả ba phần đều thông với hai lợi, tất cả mỗi phần đều nêu lên và giải thích đầy đủ, nên xem xét suy nghó để chọn! Nói phương tiện chánh trí là trực tâm, là chánh thể trí có tạo phương tiện. Như Bổn Luận nói: “Một là trực tâm, là chánh niệm về pháp Chân như”. Nói về phần phước đức đầy đủ là thâm tâm, là tất cả công đức có phương tiện an trú. Như Bổn Luận nói: “Hai là thâm tâm, là thích quy tụ tất cả các hạnh thiện”. Nói về thành tựu an lạc là tâm bi, có năng lực dễ cứu độ vô lượng khổ não của tất cả chúng sanh, khiến được an ổn với niềm vui to lớn. Như Bổn Luận nói: “Ba là tâm đại bi, là mong muốn trừ hết mọi đau khổ cho tất cả chúng sanh”. Đã nói về hai loại của tầng thứ hai. Tiếp theo nói về phần phát khởi hỏi đáp giải quyết nghi ngờ. Ở đây có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần chất vấn về trước sau trái ngược nhau. Hai là phần khai thông và giải thích rõ để loại trừ vấn nạn. Nói đến phần chất vấn về trước sau trái ngược nhau, đó là đưa ra hai văn trước sau trái ngược nhau, để chất vấn về tướng trạng sai biệt. Sao nói là trái ngược nhau? Đó là trong văn trước có nói như vầy: “Nói về nghóa giác là tâm thể xa rời tướng niệm, xa rời tướng niệm là đồng với cõi hư không, không nơi nào không đầy khắp, pháp giới cùng một tướng chính là Pháp thân bình đẳng của Như Lai, dựa vào Pháp thân này nên nói là Bổn giác”. Ở trong văn sau có nói như vầy: “Hai là thâm tâm, là thích quy tụ tất cả các hạnh thiện”. Hai văn trước sau trái ngược nhau như vậy, vì thế phát sinh chất vấn về tướng trạng khác nhau đó, hãy xem xét suy nghó để chọn! Như Bổn Luận nói: “Hỏi: Trên đây nói về tướng pháp giới chỉ một - thể của Phật không có hai, tại sao không chỉ là niệm Chân như, mà lại theo đuổi học tập thực hành các điều thiện?”. Đã nói phần chất vấn về trước sau trái ngược nhau. Tiếp theo nói về phần khai thông và giải thích rõ để loại trừ vấn nạn. Ở đây có bảy phần. Thế nào là bảy phần? Đó là: Phần chính thức trả lời quyết đoánvề vấn nạn. Phần tu tập hạnh thiện đạt được lợi ích. Phần tu hành phương tiện thiện xảo. Phần biểu hiện rõ công đức phát tâm. Phần chọn lựa trên dưới để biểu hiện sai khác. Phần liên hệ với văn kinh, giải quyết nghi ngờ. Phần tán thán công đức phát tâm. Ở trong phần một có ba phần. Thế nào là ba phần? Một là phần đưa ra thí dụ khéo léo. Hai là phần hợp lại để nói tương xứng mà an lập. Ba là phần biểu hiện rõ nói về pháp phát sanh kiến giải. Ở trong phần thí dụ có bốn loại. Thế nào là bốn loại? Một là dụ về vật báu. Hai là dụ về tánh thanh tịnh. Ba là dụ về cấu nhiễm. Bốn là dụ cho nhiều người. Nói về dụ cho vật báu, đó chính là ngọc quý Đại Ma-ni. Ngọc quý như vậy có ở nơi nào? Ngọc quý như vậy có trong đá vàng. Ngọc quý như vậy màu sắc đó như thế nào? Màu sắc rất vàng. Hình tướng của thân đó sẽ như thế nào? Giống như một khối vuông vức, không có dài ngắn. Tướng lớn nhỏ trước kia có số lượng thế nào? Đó là một trượng. Như vậy, ngọc quý trong các loại đá vàng thảy đều đầy đủ, không một loại đá vàng nào không có Ma-ni. Tướng dừng lại và an trú đó thứ tự như thế nào? Đó là thứ nhất ngọc báu. Thứ hai vàng ròng. Thứ ba thể của đá. Ngọc Ma-ni này có mức lượng là một trượng, đó là trong các loại đá vàng hoặc có rất nhỏ, hoặc có rất lớn, tất cả đều sai biệt, há có thể nói là khắp tất cả hay sao? Ngọc Ma-ni này có năng lực thù thắng cho dù mức lượng là một trượng, nhưng khắp nơi trong thân lớn, trong thân nhỏ không sót nơi nào và không có chướng ngại. Cũng có thể nói khắp tất cả mọi nơi, vì trong đá kia có vật báu này. Sắc vàng của đá ấy phải nên quán sát kỹ. Đây gọi là dụ về vật báu. Như Bổn Luận nói: “Đáp: Ví như thể tánh của ngọc quý Đại Ma-ni”. Nói về dụ cho tánh thanh tịnh, là ngọc quý như vậy thì thể tánh của nó hết sức trong sáng, tách rời mọi bụi bặm vấy bẩn. Đây gọi là dụ về tánh thanh tịnh. Như Bổn Luận nói: “Thể tánh trong suốt”. Nói về dụ cho cấu nhiễm, là ngọc quý như vậy có thể bị các loại vàng đá làm cho che lấp, không thể hiển bày rõ tướng trạng trong sáng vốn có. Đây gọi là dụ về cấu nhiễm. Như Bổn Luận nói: “Mà lại có chất bẩn của quặng lẫn vào”. Nói về dụ cho nhiều người, là hạng người hết sức nghèo túng, vô cùng lười nhác, không mong cầu vật báu, và người siêng năng thích tìm kiếm vật báu. Đây gọi là dụ về nhiều người. Như Bổn Luận nói: “Nếu người tuy nghó đến tánh ngọc quý, nhưng không dùng các loại phương tiện để mài giũa tinh luyện thì cuối cùng không trong suốt được”. Đã nói về phần đưa ra thí dụ khéo léo. Tiếp đến nói về phần hợp lại để nêu bày mà an lập tương xứng. Trong thí dụ về vật báu nói đến ngọc quý Đại Ma-ni, xác đáng là dụ cho pháp nào? Đó là dụ cho Phật tánh của Bổn giác. Vì sao? Vì Phật tánh của Bổn giác ẩn tàng trong thân tương tục của chúng sanh, tựa như châu ngọc kia. Nói đến đá vàng là dụ cho pháp nào? Dụ cho tất cả chúng sanh tương tục. Vì sao? Vì Phật tánh ẩn tàng trong thân các chúng sanh tựa như đá kia vậy. Nói đến sắc vàng của đá là dụ cho pháp nào? Dụ cho nghóa lý bất biến của Phật tánh ấy. Vì sao? Vì Phật tánh của chân như kiên cố không thay đổi, tựa như vàng ròng. Nói đến giống như một khối vuông vức không dài ngắn là dụ cho pháp nào? Dụ cho pháp Chân như bình đẳng không tăng giảm. Vì sao? Vì pháp Chân như này chỉ một vị là bình đẳng, không có sai biệt, tựa như khối ngọc kia. Nói đến một trượng là dụ cho pháp nào? Dụ cho pháp Chân như đầy đủ viên mãn không có thiếu sót. Vì sao? Vì Pháp thân của Chân như đầy đủ vạn đức không có thiếu sót, tựa như một trượng vuông kia. Nói: Như vậy, ngọc quý trong các loại đá vàng thảy đều đầy đủ, không một loại đá vàng nào mà không có Ma-ni, là dụ cho pháp nào? Dụ cho tánh chân như đầy khắp trong các loại thân của mọi chúng sanh, không chúng sanh nào mà lại không có tánh Chân như của Bổn giác. Vì sao? Vì tánh Chân như này xa rời sai lầm không hiện bày khắp mọi nơi, tựa như ngọc châu kia. Nói thứ nhất là ngọc châu, thứ hai là vàng ròng, thứ ba là thể của đá, là dụ cho pháp nào? Dụ cho pháp đều theo thứ tự dần dần hiện rõ. Vì sao? Vì thuận theo trí của Bổn giác lưu chuyển, lúc kiến lập trong đại dương bốn tướng, như thứ tự đó dần dần hiện bày một cách thô, tựa như ba vị trí kia. Nói ngọc Ma-ni này có năng lực thù thắng cho dù mức lượng là một trượng, nhưng khắp nơi trong thân lớn, trong thân nhỏ không sót nơi nào, là dụ cho pháp nào? Dụ cho Chân như của Bổn giác có nghiệp dụng không thể nghó bàn, khắp trong thân lớn nhỏ như loài muỗi, loài rồng không hề chướng ngại. Vì sao? Do pháp Chân như này là tánh bình đẳng, đầy khắp trong phàm - Thánh tựa như ngọc châu kia. Nói: Ở trong đá kia có vật báu này nên đá có màu sắc vàng rực, là dụ cho pháp nào? Dụ cho mọi chúng sanh đều có Bổn giác và có tướng tâm. Vì sao? Vì tất cả chúng sanh có tâm giác nên có thức liễu biệt tựa như đá kia. Đã nói phần dụ cho vật báu hợp lại nói thuận với nhau. Tiếp đến nói phần dụ cho tánh tịnh hợp lại nói thuận với nhau. Nói: Ngọc quý như vậy thì thể tánh của nó rất trong sáng, tách rời mọi bụi bặm vấy bẩn, là dụ cho pháp nào? Dụ cho tánh tịnh của Bổn giác thanh tịnh trong sáng xa lìa cấu nhiễm. Đã nói phần dụ cho tánh tịnh hợp lại nói thuận với nhau. Tiếp đến nói phần dụ cho cấu nhiễm hợp lại nói thuận với nhau. Nói: Ngọc quý như vậy có thể bị các loại vàng đá làm cho che lấp, không thể hiển bày rõ tướng trạng trong sáng, là dụ cho pháp nào? Dụ cho tự tánh tâm thanh tịnh, bị vô minh làm cho ẩn kín, không thể nào xuất hiện tánh đức vô lậu vốn có. Đã nói phần dụ cho cấu nhiễm hợp lại nói thuận với nhau. Tiếp đến nói phần dụ cho con người hợp lại nói thuận với nhau. Nói đến hai loại người là dụ cho pháp nào? Dụ cho người rất siêng năng và người rất lười nhác trong việc tìm cầu vật báu của pháp Phật. Như Bổn Luận nói: “Chúng sanh như vậy…” Đã nói phần hợp lại để nói mà an lập tương xứng. Tiếp theo nói phần biểu hiện rõ nói về pháp phát sanh kiến giải, hành giả nên xem xét suy nghó để chọn! Nội dung trong văn rõ nên không cần phải giải thích riêng. Như Bổn Luận nói: “Pháp Chân như là thể tánh rỗng lặng trong sáng, nhưng có vô lượng phiền não cấu nhiễm, nếu có người suy nghó đến Chân như, không dùng các loại phương tiện để tu tập thì cũng không trong sáng được. Vì cấu bẩn vô lượng vô biên phủ khắp tất cả các pháp, nên tu tập tất cả mọi hạnh thiện để làm đối trị”. Đã nói phần chính thức trả lời quyết đoán về vấn nạn. Tiếp đến nói phần tu tập hạnh thiện đạt được lợi ích. Nghóa là nếu chúng sanh đoạn trừ tất cả các điều ác - tu dưỡng tất cả mọi điều thiện, tự nhiên tự tại đạt được Tam muội Chân như soi sáng rõ đêm tối vô minh, không có nghi ngờ sợ hãi. Như Bổn Luận nói: “Nếu có người tu tập thực hành tất cả các pháp thiện, thì tự nhiên trở về thuận theo pháp Chân như”. Đã nói phần tu tập hạnh thiện đạt được lợi ích. Tiếp đến nói phần tu hành phương tiện thiện xảo. Ở đây vốn có bốn phần. Thế nào là bốn phần? Một là phần căn bản của tất cả mọi sư tu hành. Hai là phần điều phục nghiệp ác khiến không phát sinh. Ba là phần sinh ra thiện căn làm cho tăng trưởng. Bốn là phần thệ nguyện bình đẳng không giới hạn. Như Bổn Luận nói: “Lược nói về phương tiện thì có bốn loại”. Ở trong phần thứ nhất có hai phần nhỏ. Thế nào là hai phần? Một là phần Bát nhã thành tựu về vô trú. Hai là phần đại bi thành tựu về vô trú. Nói về phần Bát nhã thành tựu vô trú, đó gọi là quán sát tất cả các pháp từ xưa đến nay bất sanh bất diệt, hoàn toàn vắng lặng và không hề có gì, không trú trong sánh tử. Như Bổn Luận nói: “Thế nào là bốn loại? Một là phương tiện thực hành căn bản, đó là quán tất cả các pháp tự tánh vô sanh xa rời vọng kiến, không trú vào sanh tử”. Nói về phần đại bi thành tựu vô trú, đó gọi là quán sát tất cả các pháp do nhân duyên hòa hợp, nhân quả không thể rỗng lặng thì nghiệp báo cũng có, duyên với đại dương vô lượng vô biên cảnh giới chúng sanh, làm nơi tiếp nhận thâu tóm rốt ráo không trú vào Niết-bàn. Như Bổn Luận nói: “Quán tất cả các pháp do nhân duyên hòa hợp nghiệp quả không sai sót, khởi lên tâm đại bi tu tập mọi phước đức, thâu hóa chúng sanh không trú vào Niết-bàn, vì tùy thuận pháp tánh không hề an trú”. Đây chính là nêu ra duyên và kết luận hai loại không trú vào đạo hạnh. Pháp môn tu hành tuy không hề có số lượng, mà không trú vào đạo căn bản nhất đó, vì vậy nói là thực hành phương tiện căn bản. Đã nói phần căn bản của tất cả mọi sự tu hành. Tiếp đến nói phần chế ngự điều phục nghiệp ác khiến không phát sinh. Phần này là trình bày về nghóa gì? Là muốn biểu hiện rõ hành giả nên phát khởi hổ thẹn cùng các tâm thanh tịnh, đề phòng tất cả mọi niệm ác dấy lên, dần dần giảm trừ không để cho tăng thêm. Như Bổn Luận nói: “Hai là phương tiện có năng lực làm cho dừng lại, đó là hổ thẹn hối hận về sai lầm của mình, có năng lực ngăn lại tất cả các pháp ác không để cho tăng thêm, vì tùy thuận pháp tánh xa rời các sai lầm”. Đây chính là tổng kết về duyên ấy. Đã nói phần chế ngự, điều phục nghiệp ác không phát sinh. Tiếp đến nói phần sinh ra thiện căn làm cho tăng trưởng. Phần này là trình bày về nghóa gì? Là muốn biểu hiện rõ hành giả nên cung kính cúng dường tất cả Tam bảo, thường xuyên lễ bái - tán thán - tùy hỷ - khuyến thỉnh chân thành, để cho thiện căn tăng trưởng - nghiệp chướng tiêu trừ, vì chí nguyện cầu đạt vô thượng đại Bồ-đề. Như Bổn Luận nói: “Ba là phương tiện phát khởi tăng thêm thiện căn, đó là thường cúng dường lễ bái Tam bảo, tán thán - tùy hỷ - khuyến thỉnh chư Phật, vì tâm ái kính Tam bảo hết sức thuần hậu, nên niềm tin được tăng thêm, mới có thể lập chí mong cầu đạo vô thượng. Lại nhờ lực Tam bảo gia hộ, nên có năng lực làm làm cho nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căn không thoái lui, vì tùy thuận pháp tánh xa rời ngu si ám chướng”. Đây chính là tổng kết về duyên ấy. Đã nói phần sinh ra thiện căn làm cho tăng trưởng. Tiếp đến nói phần thệ nguyện bình đẳng không giới hạn. Phần này là trình bày về nghóa gì? Là muốn biểu hiện rõ hành giả nên phát khởi thệ nguyện rộng lớn ở trần số thế giới khắp mười phương, tu tập hành nhân bao la ở trần số thế giới khắp mười phương, thâu giữ vô số chúng sanh ở trần số thế giới khắp mười phương, thành tựu kết quả tròn đầy rộng lớn ở trần số thế giới khắp mười phương, tất cả đều đầy đủ không có thiếu sót. Như Bổn Luận nói: “Bốn là phương tiện đại nguyện bình đẳng, đó gọi là phát nguyện tận cùng thời gian vị lai, hóa độ tất cả chúng sanh khiến cho không có chúng sanh nào bỏ sót, tất cả đều khiến đạt đến Niết-bàn vô dư, vì tùy thuận pháp tánh không có đoạn tuyệt”. Đây chính là tổng kết về duyên ấy. Từ đây trở xuống là biểu hiện rõ tùy thuận tướng trạng thù thắng. Vì nghóa gì, trong phần kết của bốn phần đều gọi chung là tùy thuận pháp tánh? Vì muốn biểu hiện rõ pháp tánh như hư không, thể tánh đó rộng lớn tròn đầy không hề có giới hạn, tướng dụng đó vô ngại tự tại không có gì trước sau. Tất cả hành giả tu tập bốn phần kia cũng lại như vậy, lần lượt thuận theo Như Như, vì chủng tử (A-thế-da) đó rộng lớn tròn đầy không có giới hạn. Như Bổn Luận nói: “Pháp tánh rộng lớn phủ khắp tất cả chúng sanh bình đẳng không hai, không phân biệt bên này bên kia vì hoàn toàn vắng lặng”. Đã nói phần tu hành phương tiện thiện xảo. Tiếp đến nói phần biểu hiện rõ công đức phát tâm. Văn này là trình bày về nghóa gì? Là muốn biểu hiện rõ Bồ-tát trú vào mới phát tâm, khởi tâm tùy thuận rộng lớn tròn đầy trong tánh pháp giới, tương tự quán trí thấy thân pháp tánh, thấy thân pháp tánh nên nguyện lực tự tại. Do nguyện lực nên duyên với vô lượng vô biên pháp giới chúng sanh khởi tâm Đại Bi. Do tâm Đại Bi vô cùng sâu rộng, nên xuất hiện tám loại hóa tướng an lạc, tùy thời gian, tùy nơi chốn, tùy điều kiện thích hợp, tùy cơ duyên tiếp nhận, lần lượt thuận theo Như Như tạo lợi ích an lạc. Như Bổn Luận nói: “Bồ- tát phát ra tâm này thì được thấy một phần Pháp thân. Nhờ thấy được Pháp thân nên thuận theo nguyện lực đó chủ động hiện rõ tám loại lợi ích cho chúng sanh. Đó gọi là từ cung trời Đâu Suất đi xuống, vào thai - ở trong thai - ra đời - xuất gia - thành đạo - chuyển pháp luân và nhập Niết-bàn”. Đã nói phần biểu hiện rõ công đức phát tâm. Tiếp đến nói phần chọn lựa trên dưới để biểu hiện sai khác. Ở trong đây có hai phần nhỏ. Thế nào là hai phần? Một là phần chọn lựa khác với địa thượng. Hai là phần chọn lựa khác với phàm phu. Nói về phần chọn lựa khác với địa thượng, nghóa là Bồ-tát trú vào phát tâm, chỉ gọi là thân hình huyễn hóa, chứ không được gọi là Bồ-tát Chân như, Pháp thân. Vì sao? Vì Bồ-tát này còn nghiệp từ vô thỉ sót lại chưa rời xa, tùy theo nơi thọ sanh cùng với khổ vi tế tương ưng không lìa. Bồ-tát địa thượng thì khác với phần vị này. Như Bổn Luận nói: “Nhưng Bồ-tát này chưa gọi là Pháp thân, vì từ vô lượng kiếp quá khứ đến nay, nghiệp hữu lậu chưa thể đoạn trừ hoàn toàn, tùy theo nơi đã sinh ra đó tương ưng với những nỗi khổ vi tế”. Nói về phần chọn lựa khác với phàm phu, đó gọi là Bồ-tát trú vào mới phát tâm, không có tướng trạng trói buộc cùng lúc chuyển đổi ng- hiệp nhân, không có quả báo thọ sanh ràng buộc. Vì sao? Vì phương tiện của đại nguyện chuyển đổi đầy đủ. Như Bổn Luận nói: “Cũng không phải là trói buộc do nghiệp mà là có năng lực tự tại của đại nguyện”. Đã nói phần chọn lựa trên dưới để biểu hiện sai khác. Tiếp đến nói phần liên hệ với kinh văn giải quyết nghi ngờ. Ở trong phần này có năm loại, mỗi loại đều giới thiệu đến kinh. Thế nào là năm loại? Đó là: Trong Kinh Văn-thù Sư Lợi Hoan Hỷ Đà La Ni nói như vầy: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Ngài thường ở giữa đại chúng nói lời như sau: Năm mươi chủng tử tâm trang nghiêm nơi biển quả, là căn bản của nhân tu hành, tất cả mọi hành giả phải trải qua đạo này thành tựu Đẳng Chánh Giác. Như vậy, trong năm mươi chủng tử của tâm, bao nhiêu loại là phần thoái lui, bao nhiêu loại là phần ổn định? Chỉ nguyện xin Thế Tôn giải thích cho con được biết! Đức Thế Tôn bảo Văn-thù-sư-lợi: Hãy lắng nghe kỹ và cố gắng suy nghó đến điều ấy, nay Ta sẽ phân biệt giải thích cho ông hiểu. Này người thiện nam! Mười loại chân địa gọi là Trú địa Kim cang Bát nhã, bốn mươi tâm trước gọi là địa Pha lê châu tùy chuyển hồi hướng, ông nên thuận theo biết như vậy, thuận theo quán như vậy”. Nay văn kinh này là trình bày về nghóa gì? Là muốn biểu hiện rõ hàng Đại só thập địa, đã đến thành chân chứng là địa phận bất thoái. Từ đây trở về trước bốn mươi loại tâm, chưa được chứng trí gọi là địa phận thoái lui. Trong Kinh Bổn giác Đại Bi Tự Nhiên Huân Tập nói như sau: “Lại nữa, này Phật tử! Trước ông đã hỏi tại sao gọi là tướng tiết thối, sự việc này là thù thắng không thể nghó bàn trong chỗ không thể nghó bàn, hạng phàm phu ngu si và các Bồ-tát mới phát tâm vốn không có năng lực biết được. Bấy giờ, Bồ-tát Đại Minh chí tâm khuyến thỉnh, Phật liền bảo với Đại Minh: Này người thiện nam! Nói về tướng tiết thối, nghóa là tâm tín - trụ phát tâm - địa tâm tịnh - tâm kim cang, bốn nơi này đều gọi là thoái phần, tất cả phần trung gian kia đều gọi là bất thoái phần. Vì vậy nói là tướng tiết thối”. Nay văn kinh này là trình bày về nghóa gì? Là muốn biểu hiện rõ đại dương pháp Phật rộng lớn tròn đầy không có giới hạn. Trong Kinh Đại Chứng Đắc Đà La Ni nói như vầy: “Mười loại an tâm quyết định bất thoái không có lý gì thoái thất”. Nay văn kinh này là trình bày về nghóa gì? Là muốn biểu hiện rõ hàng Bồ-tát Thập Trụ, phát khởi thiện căn rộng lớn tùy thuận trong tánh pháp giới, quyết định an trú vào địa kim cang. Trong Kinh Ngũ Minh nói như sau: “Mười loại tâm định chẳng thoái lui - chẳng tiến lên, chẳng đến - chẳng đi, chẳng ra - chẳng vào, vạn đức viên mãn không hề thiếu sót, vì vậy nói là tâm trú tự nhiên”. Nay văn kinh này là trình bày về nghóa gì? Là muốn biểu hiện rõ quả đức trong địa Thập Trụ đã đầy đủ, càng không có gì tiến lên lại không có gì thoái lui, thường trú tự nhiên không thiếu sót điều gì. Trong Kinh Bồ Tát Anh Lạc Đại Bổn Nghiệp nói như vầy: “Này các người thiện nam! Nếu một kiếp, hai kiếp cho đến mười kiếp, tu hành Thập Tín được đi vào Thập Trụ, người này vào lúc ấy bắt đầu từ Trú thứ nhất cho đến trong Trú thứ sáu, nếu như tu Bát nhã Ba-la-mật thứ sáu thì chánh quán hiện ở trước mắt. Lại được chư Phật - Bồ-tát và hàng thiện tri thức bảo vệ, ra đến Trú thứ bảy thường trú không thoái lui. Từ bảy Trú này về trước gọi là phần thoái”. Nay kinh văn này là trình bày về nghóa gì? Là muốn biểu hiện rõ sự khuyến khích thúc đẩy hàng chúng sanh kém lười, để làm cho tâm tăng thêm dũng mãnh. Nay trong luận này tạm thời dựa vào kinh Bổn nghiệp làm cho thông suốt, nên quán sát kỹ! Như Bổn Luận nói: “Trong kinh hoặc nói có người thoái đọa vào đường ác, nhưng không phải là thoái đọa thật sự, chỉ vì hàng Bồ-tát mới học chưa đi vào địa chính thức, lại lười nhác nên khiến sợ hãi sinh ra dũng mãnh hơn”. Đã nói phần liên hệ với kinh văn giải quyết nghi ngờ. Tiếp đến nói phần tán thán công đức phát tâm. Phần này là trình bày về nghóa gì? Là muốn biểu hiện rõ khi Bồ-tát phát tâm thì rời xa hai điều sợ hãi, vì tâm đó đã quyết định không biến động. Thế nào gọi là hai loại sợ hãi? Một là sợ hãi sanh xuống địa dưới, sanh vào đạo thấp kém, lấy làm rất sợ hãi. Hai là sợ hãi sanh ở địa trên, vì nghe đến cảnh giới thù thắng thì tâm tư khiếp nhược hết sức sợ hãi. Xa rời hai nỗi sợ hãi này, vì thế nên gọi là công đức phát tâm. Như Bổn Luận nói: “Đồng thời, Bồ-tát này sau khi vừa mới phát tâm đã rời xa tâm ý khiếp nhược, hoàn toàn không sợ rơi vào địa Nhị thừa.. nếu như nghe trải qua vô lượng vô biên A-tăng- kỳ kiếp, chịu khó chịu khổ thực hành hạnh khổ mới đạt được Niết-bàn, mà cũng không hề khiếp nhược, vì tin và biết rõ tất cả các pháp từ xưa đến nay là Niết-bàn tự nhiên”. Đây chính là tổng kết lại nhân duyên của hai loại công đức. Từ phần trên đến đây là nói về phần quyết trạch của phát tâm tín thành tựu. Từ đây trở xuống là các phần nơi các loại, nội dung trong văn rõ nên không cần phải giải thích lại.  <卷>QUYỂN 8 Đã nói về phần giải thích, tiếp theo nói về phần tín tâm tu hành. Ở đây có bảy phần. Thế nào là bảy phần? Đó là: Phần chủ thể đối trị, đối tượng được đối trị phù hợp với nhau. thối. Phần phân tích phẩm loại tín tâm. Phần tu hành phương tiện thiện xảo. Phần giải thích rộng về cách đối trị ma sự. Phần tán thán công đức Tam-muội. Phần hai luân đủ, thiếu, thêm, bớt. Phần khuyến khích hạng kém hướng về đạt được bất Đây gọi là bảy phần. Phần chủ thể đối trị, đối tượng được đối trị phù hợp với nhau, tướng đó thế nào? Bổn Luận nói: Trong này dựa theo hạng chúng sanh chưa đi vào tụ chánh định để nói về phần tín tâm tu hành. Luận giải thích: Nói là “Trong này dựa theo hạng chúng sanh chưa đi vào tụ chánh định”, chính là đối tượng được đối trị. Đó gọi là cảnh giới của đối tượng được giáo hóa. “Để nói về phần tín tâm tu hành”, chính là chủ thể đối trị. Đó gọi là giáo pháp của chủ thể giáo hóa. Cảnh giới của đối tượng giáo hóa có số lượng thế nào? Đó là thâu tóm chúng sanh của hai tụ. Thế nào là hai tụ? Một là tụ định tà. Hai là tụ bất định. Vì sao? Vì hai loại chúng sanh này đều chưa đi vào trong tụ chánh định. Nói là phù hợp với nhau thì tướng đó thế nào? Đó là vì trong hai loại chúng sanh đều có giáo thuyết phù hợp. Tướng phù hợp thế nào? Đó là muốn che chở cho chúng sanh thuộc định tà nên nói tín tâm, muốn che chở chúng sanh thuộc tụ bất định nên nói về phần tu hành. Tại sao? Vì tiến vào theo thứ tự pháp đó vốn như vậy, nghóa là với người chưa tin thì trước hết phải xây dựng niềm tin, người đã tin vào đó thì không ngừng tu hành. Vả lại, vì lợi ích nối thông với nhau. Đã nói về phần chủ thể đối trị, đối tượng được đối trị phù hợp với nhau. Tiếp đến nói về phần phân tích phẩm loại tín tâm. Bổn Luận nói: Tín tâm như thếnào? Sao nói là tu hành? Lược nói thì tín tâm có bốn loại. Thế nào là bốn loại? Một là tín căn bản, đó gọi là vui trong ý niệm hướng về pháp Chân như. Hai là tín Đức Phật có vô lượng công đức, thường nghó nhớ thân cận cúng dường cung kính để phát khởi thiện căn, vì nguyện cầu đạt được Nhất thiết trí. Ba là tín Pháp có lợi ích to lớn, nên luôn nghó đến tu hành các hạnh Ba-la-mật. Bốn là tín Tăng có năng lực tu hành chính đáng để lợi mình và lợi người, thường thích thân cận các chúng Bồ-tát, vì cầu học hỏi và thực hành đúng như thật”. Luận giải thích: Ở trong văn này có ba phần. Thế nào là ba phần? Một là phần hỏi thẳng vào phẩm loại của tín tâm. Hai là phần hỏi thẳng vào phẩm loại của tu hành. Ba là phần lược trả lời biểu hiện rõ về tín tâm. Nói về phần hỏi thẳng vào phẩm loại của tín tâm, đó gọi là hỏi tổng quát về số lượng của tín tâm. Như Bổn Luận nói: “Tín tâm như thế nào?”. Nói về phần hỏi thẳng vào phẩm loại của tu hành, đó là hỏi tổng quát về mức lượng của sự tu hành. Như Bổn Luận nói: “Sao nói là tu hành?”. Ở trong phần thứ ba có ba phần. Thế nào là ba phần? Một là phần trả lời tổng quát, đó là trả lời tổng quát về những điều đã nói. Như Bổn Luận nói: “Lược nói thì tín tâm có bốn loại”. Hai là nói về phần hỏi tổng quát, đó là hỏi tổng quát về những điều đã nói. Như Bổn Luận nói: “Thế nào là bốn loại?”. Ba là mở rộng trả lời. Trong phần thứ ba này có bốn phần nhỏ. Thế nào là bốn phần nhỏ? Một là phần tín căn bản làm cho tâm bình đẳng. Hai là phần tín Phật vui có công đức. Ba là phần tín Pháp để tinh tấn tu hành. Bốn là tín Tăng làm cho tâm không tranh chấp. Nói về phần tín căn bản làm cho tâm bình đẳng, đó gọi là vui với niềm tin vì pháp từ xưa đến nay là lý chân như, lực vô minh có sai biệt trở thành nhiều loại, tất cả các tâm thảy đều hợp lại thành một khiến cho bình đẳng. Như bản văn nói: “Một là tín căn bản, đó gọi là vui trong ý niệm hướng về pháp Chân như”. Nói về phần tín Phật là vui mừng phát sanh công đức, đó gọi là vui với niềm tin vào Đức Thế Tôn là Đấng Đại Giác Như Lai vô thượng, vui mừng cầu mong hết thảy công đức vốn có vô lượng vô biên. Như Bổn Luận nói: “Hai là tín Đức Phật có vô lượng công đức, thường nghó nhớ thân cận cúng dường cung kính để phát khởi thiện căn, vì nguyện đạt được Nhất thiết trí”. Nói về phần tín Pháp để tinh tấn tu hành, đó gọi là vui với niềm tin vào chư Phật ba đời, là ân cha của mình, là ân mẹ của mình, là ân thầy của mình, không thể thay đổi đi được, không thể sinh ra và diệt, là phép tắc bất động giống như hư không và kim cang, có lợi ích thù thắng không thể nghó bàn trong chỗ không thể nghó bàn, thường hằng chuyển tiếp theo nhau vào tất cả mọi thời gian, đối với tất cả mọi xứ sở, để tu hành tất cả các phẩm trợ đạo. Như Bổn Luận nói, “Ba là tín Pháp có lợi ích to lớn, nên luôn nghó đến để tu hành các hạnh Ba-la-mật”. Nói về phần tín Tăng làm cho tâm không tranh chấp, đó gọi là vui với niềm tin tất cả vô lượng Bồ-tát Tăng chúng lấy hai hạnh thù thắng làm phẩm đức bên trong của mình, hoặc cách xa, hoặc gần kề, tùy theo lúc mình nghe được, tùy theo lúc mình gặp mặt, tùy theo lúc mình suy nghó, hướng đến nơi các vị ấy, chí tâm lắng nghe, tiếp nhận các loại giáo pháp sâu xa, các loại kinh điển thâm diệu, các loại luận thuyết sâu rộng, các loại lý lẽ, các loại sự việc lạ kỳ, không hề đoạn tuyệt. Như Bổn Luận nói: “Bốn là tín Tăng có năng lực tu hành chính đáng để lợi mình và lợi cho người, thường thích thân cận các chúng Bồ-tát, vì cầu học hỏi và thực hành đúng với thật tế”. Đã nói về phần phân tích phẩm loại tín tâm. Tiếp theo nói về phần tu hành phương tiện thiện xảo. Bổn Luận nói: Tu hành có năm cách, có năng lực thành tựu niềm tin này. Thế nào là năm cách? Một là Bố thí. Hai là Trì giới. Ba là Nhẫn nhục. Bốn là Tinh tấn. Năm là Chỉ - Quán. Sao nói là tu hạnh Bố thí? Nếu thấy tất cả những người đến cầu xin, thì của cải vốn có tùy theo khả năng mà giúp cho, để tự xả bỏ tâm tham tiếc làm cho những người kia hoan hỷ. Nếu gặp người đang bị ách nạn nguy hiểm bức bách làm cho sợ hãi, thì tùy bản thân mình có thể đảm nhận giúp cho họ không còn lo sợ. Nếu chúng sanh nào đến cầu giáo pháp, thì tùy bản thân mình có thể lý giải mà phương tiện nói cho họ, không nên tham cầu danh lợi và sự cung kính, chỉ có ý niệm lợi mình và lợi người để hồi hướng Bồ-đề. Sao nói là tu hạnh Trì giới? Đó là không giết hại - không trộm cắp không dâm loạn, không nói hai lưỡi - không nói lời thô ác - không nói dối trá - không nói thêm bớt, rời xa các tâm tham lam - ganh tî - lừa dối dua nịnh - hiểm ác - nóng giận - lý giải tà vạy. Nếu là người xuất gia thì vì phá trừ phiền não, cũng nên rời xa những nơi ồn náo và thường ở nơi vắng lặng, tu tập các hạnh thiểu dục - tri túc - đầu đà…, thậm chí lỗi nhỏ thì tâm cũng sanh ý niệm sợ hãi - hổ thẹn và cố gắng sửa chữa sai lầm, không được coi thường đối với giới cấm Như Lai đã chế định, nên bảo vệ đừng gây ra mọi điều hiềm khích làm cho chúng sanh tưởng vọng gây nên tội lỗi. Sao nói là tu hạnh Nhẫn nhục? Nghóa là phải chịu đựng sự não hại của người khác, tâm không ôm hận trả thù, cũng nên nén chịu đựng đối với các pháp thành công - thất bại - nói xấu - khen tốt - mỉa mai - ca ngợi - đau khổ - vui sướng… Sao nói là tu hạnh Tinh tấn? Đó là đối với những việc thiện thì tâm không lười nhác lùi bước, lập chí kiên cường rời xa tâm ý khiếp nhược, hãy nghó đến quá khứ lâu xa đến nay, nhận chịu nỗi khổ to lớn của tất cả thân tâm một cách oan uổng không có lợi ích. Vì vậy, hãy chịu khó tu mọi công đức để lợi mình lợi người và nhanh chóng xa rời mọi nỗi khổ đau. Vả lại, nếu như người tuy tu hành tín tâm, nhưng vì từ đời trước đến nay có nhiều tội nặng và nghiệp chướng xấu ác, phải bị các loại tà ma quỷ quái làm cho não loạn, hoặc vì các loại công việc thế gian làm hệ lụy, hoặc vì sự phiền muộn do bệnh tật làm cho đau khổ. Có rất nhiều chướng ngại thuộc loại như vậy, vì thế cần phải dũng mãnh tinh tấn, ngày đêm sáu thời lễ lạy chư Phật, thành tâm sám hối khuyến thỉnh tùy hỷ, hồi hướng quả vị Bồ-đề luôn không rời bỏ, để tránh được các chướng nạn và tăng thêm thiện căn. Sao nói là tu hạnh Chỉ Quán? Nói Chỉ, là ngăn lại tướng trạng của tất cả mọi cảnh giới, tùy thuận với nghóa về pháp quán Xa-ma-tha. Nói Quán, là phân biệt tướng trạng của nhân duyên sanh diệt, tùy thuận với nghóa về pháp quán Tỳ-bát-xá-na. Sao nói là tùy thuận? Theo hai nghóa này tu tập dần dần, không tách rời nhau, cùng hiện ở phía trước. Nếu tu pháp Chỉ thì ở nơi yên lặng ngồi ngay ý thẳng, không dựa vào hơi thở, không dựa vào hình sắc, không dựa vào hư không, không dựa vào đất nước lửa gió, cho đến không dựa vào thấy nghe hiểu biết, tất cả các tưởng tùy theo niệm đều trừ bỏ, cũng loại trừ ý tưởng trừ bỏ, vì tất cả các pháp xưa nay là vô tướng, niệm niệm không sanh ra, niệm niệm không diệt, cũng không được theo tâm nghó đến cảnh giới bên ngoài, sau đó dùng tâm loại trừ tâm. Nếu như tâm dong ruổi tản mác thì nên thâu lại cột chặt vào chánh niệm. Chánh niệm này nên biết chỉ do tâm chứ không có cảnh giới nào khác, ngay cả tâm này cũng không có tự tướng, niệm niệm không thể đạt được. Hoặc từ các oai nghi ngồi, đứng, đi lại tiến dừng và trong những việc làm, đối với tất cả mọi lúc thường nghó đến phương tiện tùy thuận quán sát, luyện tập lâu dài trở nên thuần thục thì tâm đó được dừng lại. Vì tâm dừng lại nên tâm sẽ dần dần mạnh mẽ và nhanh nhạy, tùy thuận được đi vào Tam muội Chân chư, hết sức làm cho phiền não phải hàng phục tín tâm tăng lên nhanh chóng thành tựu Bất thoái. Chỉ trừ ra những hạng nghi ngờ mê hoặc không tin và phỉ báng, tội lỗi nghiệp chướng nặng nề - ngã mạn - lười nhác, những người như vậy vốn không thể đi vào được. Hơn nữa, dựa vào Tam-muội này thì biết pháp giới đồng một tướng. Nghóa là Pháp thân của hết thảy chư Phật, cùng với thân chúng sanh bình đẳng không sai khác, gọi là Tam- muội Nhất Hành. Nên biết Chân Như là Tam-muội căn bản, nếu người tu hành, thì dần dần có năng lực phát sinh vô lượng Tam muội”. Luận giải thích: Ở trong văn này đã có năm phần. Thế nào là năm phần? Một là phần nêu tổng quát trả lời những câu hỏi trước đây. Hai là phần thông suốt câu hỏi tổng quát đã nói. Ba là phần trả lời sơ lược kiến lập về môn số. Bốn là phần lược hỏi - trả lời rộng ra để nói chi tiết. Năm là phần ca ngợi Tam muội thù thắng. Nói về phần nêu tổng quát trả lời những câu hỏi trước, đó là trả lời tổng quát câu hỏi trước kia. Như Bổn Luận nói: “Tu hành có năm cách, có năng lực thành tựu niềm tin này”. Nói về phần thông suốt câu hỏi tổng quát đã nói, có nghóa là hỏi tổng quát về những gì đã nói. Như Bổn Luận nói: Thế nào là năm cách? Nói về phần trả lời sơ lược kiến lập về môn số, đó là kiến lập môn số căn bản. Như Bổn Luận nói: “Một là Bố thí. Hai là Trì giới. Ba là Nhẫn nhục. Bốn là Tinh tấn. Năm là Chỉ Quán”. Tại sao theo thứ tự như vậy? Đó là vì tu hành sáu độ theo thứ tự pháp như thế. Tiếp theo, trong phần lược hỏi trả lời rộng ra để nói chi tiết, vốn có năm phần. Vốn có năm phần nên quán sát kỹ. Trong năm loại của phần này, tất cả mỗi loại vốn có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần lược hỏi. Hai là phần trả lời rộng. Như thứ tự đó không lẫn lộn về số lượng, nên xem xét suy nghó để chọn. Thứ nhất trong phần tu hạnh Bố thí, nói sao gọi là tu hạnh Bố thí? Đó chính là phần lược hỏi, nghóa là bắt đầu hỏi, do đó về sau ở trong các phần tiếp thuận theo biết như vậy. Ở trong phần trả lời rộng thì có ba loại thí. Thế nào là ba loại? Một là Tài vật thí. Hai là Tùy ứng thí. Ba là Giáo pháp thí. Nói về Tài vật thí, nghóa là nếu chúng sanh đến nơi cư trú của mình xin những vật mình có, thì không nghi ngờ, tùy thời gian nơi chốn, thảy đều giúp cho không hề tiếc. Vật như thế nào gọi là tài vật? Có bao nhiêu loại đồ vật? Đó là có hai loại tài vật. Thế nào là hai loại? Một là vật bên trong. Hai là vật bên ngoài. Đối với vật bên trong cũng có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là không có hình sắc. Hai là có hình sắc. Nói không có hình sắc, đó là tâm thức. Nói có hình sắc, đó là các căn. Nếu chúng sanh đến nơi mình cư trú cầu xin tâm thức, thì không tiếc rẻ, kịp thời giúp cho để người kia hoan hỷ. Nếu chúng sanh đến nơi mình cư trú, tùy theo những cần thiết cầu xin mình tất cả các căn tốt đẹp có hình sắc, lập tức không tiếc rẻ kịp thời giúp cho để người ấy hoan hỷ. Đây gọi là hai loại tài vật bên trong. Đối với vật bên ngoài cũng có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là có tình thức. Hai là không có tình thức. Nói vật có tình thức, chính là những loại như vợ con - thê thiếp - người hầu… Nói vật không có tình thức, tức là những loại như cung điện - nhà cửa - quần áo - đồ dùng trang nghiêm… Nếu chúng sanh đến nơi mình cư trú cầu xin những vật này, liền sẵn sàng kịp thời giúp đỡ khiến cho người ấy hoan hỷ. Đây gọi là hai loại tài vật bên ngoài. Như Bổn Luận nói: “Nếu thấy tất cả những người đến cầu xin của cải vốn có, tùy theo khả năng mà giúp cho, để tự xả bỏ tâm tham tiếc làm cho những người kia hoan hỷ”. Đã nói về Tài vật thí, tiếp đến nói về Tùy ứng thí. Thế nào gọi là Tùy ứng thí? Đó là hoặc có chúng sanh năm căn bị hỏng mất không thể đầy đủ. Hoặc có chúng sanh gặp nhiều bệnh tật khổ sở không được yên ổn. Hoặc có chúng sanh tâm ý ngu tối không thể nào hiểu rõ, hành giả lúc này làm một người đức hạnh, tùy theo những yêu cầu của họ, tùy theo những gì đảm đương được, tùy theo những gì thích nghi với họ, tùy theo những gì cần thiết cho họ, có thể khéo chọn lựa, có thể dễ phân biệt, trừ bỏ những đau khổ phiền muộn kia khiến cho họ được hoan hỷ. Vì thế nói là Tùy ứng thí. Như Bổn Luận nói: “Nếu gặp người đang bị ách nạn nguy hiểm bức bách khiến sợ hãi, tùy bản thân mình có thể đảm nhận giúp họ không còn lo sợ”. Đã nói về Tùy ứng thí, tiếp đến nói về Giáo pháp thí. Thế nào gọi là Giáo pháp thí? Đó là có chúng sanh hoặc đúng lúc và không đúng lúc, hoặc thân và không thân, hoặc thông suốt và không thông suốt, hoặc ngu tối và không ngu tối, hoặc đàn ông và không phải đàn ông, hoặc đàn bà và không phải đàn bà, hoặc xấu ác và không xấu ác, hoặc loài người và không phải loài người…, những loại như vậy đến nơi mình cư trú, lúc muốn cầu pháp thì lập tức không tiếc, phát khởi tâm đại từ bi rộng lớn tròn đầy vô lượng vô biên, quyết định đoạn trừ nghi ngờ của họ, phân biệt để loại trừ phiền não và từ từ tăng thêm trí tuệ, giữ lấy người ấy không rơi vào đường ác, khiến cho đến được Đại Bồ-đề Vô thượng. Vì vậy nên nói là Giáo pháp thí. Như Bổn Luận nói: “Nếu chúng sanh nào đến cầu giáo pháp, tùy bản thân mình có thể lý giải nên theo phương tiện giảng nói cho họ, không nên tham cầu danh lợi và sự cung kính, chỉ có ý niệm lợi mình và lợi người để hồi hướng Bồ-đề”. Đã nói về phần tu hạnh Bố thí, tiếp đến nói về phần tu hạnh Trì giới. Ở đây có bốn phần. Thế nào là bốn phần? Một là phần kiến lập giới tướng nêu rõ tông chỉ. Hai là phần thành tựu thắng xứ của giới phẩm. Ba là phần hành đầy đủ giới không coi thường. Bốn là phần gìn giữ không để cho phỉ báng. Nói về phần kiến lập giới tướng nêu rõ tông chỉ, có nghóa là kiến lập mười loại giới thanh tịnh để phòng ngừa chuyển biến. Như Bổn Luận nói: “Sao nói là tu hạnh Trì giới? Đó là không giết hại - không trộm cướp - không dâm loạn, không nói hai lưỡi - không nói lời thô ác không nói dối trá - không nói thêm bớt, rời xa các tâm tham lam - ganh tî - lừa dối - dua nịnh - hiểm ác - nóng giận - lý giải tà vạy”. Nói về phần thành tựu thắng xứ của giới phẩm, nghóa là nếu như để đạt đầy đủ giới phẩm, luôn phải xa rời nơi tán loạn hỗn tạp, thường nên tiếp cận nơi vắng lặng tốt đẹp, an trú trong đó không rời bỏ. Như Bổn Luận nói: “Nếu là người xuất gia vì để phá trừ phiền não, cũng nên rời xa những nơi ồn náo và thường ở nơi vắng lặng”. Nói về phần hành đầy đủ giới không coi thường, nghóa là tu hành các loại công hạnh tốt đẹp dấy lên tâm tin tưởng sâu xa, không được khinh thường giới luật thanh tịnh do Đức Như Lai đã chế định. Như Bổn Luận nói: “Tu tập các hạnh thiểu dục - tri túc - đầu đà…, thậm chí lỗi nhỏ thì tâm cũng sanh ý niệm sợ hãi, hổ thẹn và cố gắng sữa chữa sai lầm, không được coi thường đối với giới cấm của Đức Như Lai đã chế định”. Nói về phần gìn giữ không để phỉ báng, nghóa là bảo vệ giữ gìn giới Phật như gìn giữ con ngươi mắt, suốt đời không để vỡ mất hoặc bị hư hỏng. Có đầy đủ mọi lợi ích cho bản thân mình, thì các loại chúng sanh phóng dật hiềm khích, không để cho phát khởi những tưởng vọng và gây ra tội lỗi, đầy đủ mọi lợi ích cho người thì để trang nghiêm tốt đẹp cho đại dương Chánh Giác. Như Bổn Luận nói: “Nên bảo vệ đừng gây ra mọi điều hiềm khích làm cho chúng sanh tưởng vọng gây nên tội lỗi”. Đã nói về phần tu hạnh Trì giới, tiếp đến nói về phần tu hạnh Nhẫn nhục. Trong đây lại có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần biểu hiện rõ lược nêu về nhẫn điều phục ngã. Hai là biểu hiện rõ mở rộng về nhẫn vô ngã. Nói về phần biểu hiện rõ lược nêu về nhẫn điều phục ngã, nghóa là nếu chúng sanh tạo ra cảnh giới xấu ác làm não loạn tâm mình, hành giả lúc ấy tâm chủ động nhẫn chịu không biến động, bức não. Như Bổn Luận nói: “Sao nói là tu hạnh Nhẫn nhục? Đó là phải chịu đựng sự não hại của người khác, tâm không ôm hận trả thù”. Nói về phần biểu hiện rõ mở rộng về nhẫn vô ngã, nghóa là hoặc có chúng sanh, đem đồ ăn thức uống, áo quần vật dụng cùng các loại tài vật, giúp cho mình có được lợi ích hoan lạc. Hoặc có chúng sanh, dùng các loại dao gậy đáng sợ đến nơi mình cư trú, phá hủy mọi thứ và thân mình khiến không tự tại được. Hoặc có chúng sanh, dùng các loại từ ngữ thô bỉ để phỉ báng, mắng nhiếc, chê bai nói xấu về mình hoặc là xa hay là gần. Hoặc có chúng sanh, dùng các loại phẩm đức thuộc bậc chính thức an trú để ca ngợi bản thân mình. Ở trong các loại sự việc như vậy, tâm của hành giả vẫn bình đẳng kiên cố bất động giống như núi Tu Di. Như Bổn Luận nói: “Cũng nên chịu đựng đối với các pháp thành công - thất bại - nói xấu - khen tốt - mỉa mai - ca tụng - đau khổ - vui sướng”. Đã nói về phần tu hạnh Nhẫn nhục, tiếp đến nói về phần tu hạnh Tinh tấn. Ở đây lại có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần nêu tổng quát về tu hành tinh tấn. Nghóa là đối với các loại sự việc tốt đẹp, tâm đó chuyển thành hơn hẳn, thường xuyên ham muốn tinh tấn suốt đời không ngừng. Như Bổn Luận nói: “Sao nói là tu hạnh Tinh tấn? Đó là đối với những việc thiện thì tâm không lười nhác lùi bước, lập chí kiên cường rời xa tâm ý khiếp nhược”. Hai là phần giải thích riêng về tu hành tinh tấn, đây lại chia làm hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần tu hành tinh tấn không trở ngại. Hai là phần tu hành tinh tấn có trở ngại. Nói về phần tu hành tinh tấn không trở ngại, đó là hành giả khởi lên ý niệm như vầy: Mình từ thời vô thỉ quá khứ đến nay, chỉ nhận lấy thân tâm hư vọng giả dối, hoàn toàn không thể nhận lấy được thân tâm kim cang bất hoại, không có nhân duyên gì khác chỉ vì không chịu khó thực hành trong các công hạnh vi diệu. Nếu mình lười nhác không thực hành như trước, thì hướng về đời vị lai, lại cũng nhận chịu thân tâm hư vọng hoàn toàn không có lợi ích gì, không có hạn kỳ thoát ra được. Thân của chính mình còn không thoát ra thì mất hết phần tự lợi, huống hồ là cứu giúp các loại chúng sanh đang còn có nhiều đau khổ để đầy đủ công hạnh lợi tha được sao? Khởi ý niệm này rồi, lập tức phát khởi tâm chí thiết tinh tấn, tu hành nhân hạnh rộng lớn, trang nghiêm quả vị vạn đức, kiến lập công hạnh tự lợi lợi tha không thiếu sót sai lệch. Như Bổn Luận nói: “Hãy nghó đến quá khứ lâu xa đến nay, nhận chịu nỗi khổ to lớn của tất cả thân tâm một cách oan uổng, không có lợi ích. Vì vậy, hãy chịu khó tu mọi công đức để lợi mình lợi người và nhanh chóng xa rời mọi nỗi khổ đau”. Nói về phần tu hành tinh tấn có trở ngại, đó là nếu như chúng sanh, vì có nghiệp chướng từ vô thỉ quá khứ còn lại, bị quân ma, ngoại đạo và quỷ thần xấu ác làm cho não loạn không thể tu hành được. Hoặc có chúng sanh, bị ràng buộc do các công việc hiện tại ở thế gian, hoặc bị sự bức não của tất cả các loại bệnh tật khốn khổ không thể tu hành được… Những chúng sanh thuộc loại như vậy, cho dù tai nghe được phép tắc mẫu mực, lời nói cao quý, trong mắt nhìn thấy văn chương giáo pháp giảng giải về tướng trạng, nhưng không thể nào chuyên cần tu hành để phát sinh tâm chí chán bỏ, mong cầu. Nhưng nếu như tâm chúng sanh đó dũng mãnh tinh tấn, phát khởi các loại phương tiện tốt đẹp, giữ tâm có thể đảm đương được, thì biển khơi nghiệp chướng sẽ dần dần lặng sóng, núi lớn công đức càng ngày càng lộ rõ đỉnh cao, tám ngọn gió không thể lay động, chín phiền não không ràng buộc được. Như Bổn Luận nói: “Vả lại, nếu như có người tuy tu hành tín tâm, nhưng vì từ đời trước đến nay có nhiều tội nặng và nghiệp chướng xấu ác, phải bị các loại tà ma quỷ quái làm cho não loạn, hoặc hệ lụy các loại công việc thế gian, hoặc bị phiền muộn do bệnh tật làm cho đau khổ. Có rất nhiều chướng ngại thuộc loại như vậy, vì thế cần phải dũng mãnh tinh tấn, ngày đêm sáu thời lễ lạy chư Phật, thành tâm sám hối khuyến thỉnh tùy hỷ, hồi hướng quả vị Bồ-đề, luôn không rời bỏ, để tránh được các chướng nạn và tăng thêm thiện căn”. Đã nói về phần tu hạnh Tinh tấn, tiếp đến nói về phần tu hạnh Chỉ Quán. Ở đây có bốn phần. Thế nào là bốn phần? Một là phần nêu tổng quát, giải thích tổng quát về luân chỉ. Hai là phần nêu tổng quát, giải thích tổng quát về Luân quán. Ba là phần giải thích tóm lược, quyết trạch tùy thuận. Bốn là phần giải thích rộng, quyết trạch về Luân chỉ. Phần đầu nói nghóa là ngăn tâm lo nghó hiểu biết, cản trở tư duy tán loạn, an trú vào trong một tánh tịch tónh, không ra ngoài tướng trạng của tất cả mọi cảnh giới, để tùy thuận với định, nêu lên nghóa về quán Đà-a-la. Như Bổn Luận nói: “Sao nói là tu hạnh Chỉ Quán? Nói là Chỉ, là ngăn lại tướng trạng của tất cả mọi cảnh giới, tùy thuận với nghóa về pháp Quán Xa-ma-tha”. Nói đến phần nêu tổng quát, giải thích tổng quát về Luân quán, nghóa là nói rõ sự chọn lựa về đạo lý của nhân duyên, xem xét để phân biệt hình tướng của vô thường, có thể dễ thông suốt, có thể dễ biết tất cả, tùy thuận với Quán nêu lên nghóa về quán Đà-a-la. Như Bổn Luận nói: “Nói là Quán, là phân biệt tướng trạng của nhân duyên sanh diệt, tùy thuận với nghóa về pháp quán Tỳ-bát-xá-na”. Nói đến phần giải thích tóm lược, quyết trạch tùy thuận, đó là định thường xuyên với Quán kia là thuận, Quán thường xuyên trong định kia tức thuận, nên đầy đủ và đầy đủ không xa rời hay chuyển đổi. Như Bổn Luận nói: “Sao nói là tùy thuận? Theo hai nghóa này tu tập dần dần không tách rời nhau, cùng hiện có ở phía trước”. Ở trong phần giải thích rộng, quyết trạch về Luân chỉ có bốn phần. Thế nào là bốn phần? Một là phần thành tựu nhân duyên của Luân chỉ. Hai là phần trực tiếp chỉ ra cách tu hành Luân chỉ. Ba là phần tu hành Luân chỉ được lợi ích. Bốn là phần chọn lựa giới hạn vào và không vào. Ở trong phần thành tựu nhân duyên của Luân chỉ thứ nhất, có mười lăm loại. Thế nào là mười lăm loại? Đó là: Nhân duyên về chỗ ở vắng lặng. Nhân duyên chỉ một mình không chung nhau. Nhân duyên về nơi ở tốt đẹp. Nhân duyên về áo quần đầy đủ. Nhân duyên về đồ ăn thức uống đầy đủ. Nhân duyên hạn định phạm vi giữ gìn thanh tịnh. Nhân duyên nhà cửa phòng ốc có tạo lập. Nhân duyên không phát khởi nói năng chuyện trò. Nhân duyên tạo tượng ngồi. Nhân duyên ngồi nơi chỗ ngồi của mình. Nhân duyên thời hạn ra vào. Nhân duyên về thiện hữu tri thức. Nhân duyên biết rõ tà chánh. Nhân duyên trồng rừng cây thiện. Nhân duyên ghi tạc vòng chữ vào lòng. Đây gọi là mười lăm loại nhân duyên lớn. Nói về nhân duyên chỗ ở vắng lặng, đó là nếu tu tập phương pháp Luân chỉ, nên ở những nơi vắng lặng, u tịch, như núi rừng hang động…, rời xa nơi xóm làng ồn ào náo loạn. Vì sao? Vì giữa chốn tán loạn thì pháp tu Luân chỉ khó thành tựu. Nói về nhân duyển chỉ một mình không chung nhau, đó là nếu tu tập phương pháp Luân chỉ, thì trong một phạm vi có hai người cùng cư trú sẽ không hợp lý. Vì sao? Vì va chạm làm phiền lẫn nhau. Nói về nhân duyên nơi ở tốt đẹp, đó là nếu tu tập phương pháp Luân chỉ, vị trí chỉ có trong phạm vi hai phương Đông và Tây, trong phạm vi phương Nam và Bắc không nên ở. Vì sao? Vì có luân giác phát sinh. Nói về nhân duyên áo quần đầy đủ, đó là nếu tu tập phương pháp Luân chỉ, nhất định phải sử dụng ba loại áo. Thế nào là ba loại? Một là loại màu vàng. Hai là loại màu đỏ. Ba là loại màu trắng. Ba loại áo như thế cùng sử dụng trong một lúc. Vì sao? Vì loài sâu Tỳ-xoa-la không thể vào được. Nói về nhân duyên đồ ăn thức uống đầy đủ, đó là nếu tu tập phương pháp Luân chỉ, nhất định phải sử dụng loại hạt Già-ma-y-đà-da để khô, vì những loại hạt khác đều không thể nào dùng được. Vì sao? Vì hạt Già-ma-y-đà-da ấy có tính tiên. Vả lại, nếu không sử dụng các loại Bà-ni-la, thì thọ dụng thời tiết chỉ có ích từ bên trong, vì không có định. Nói về nhân duyên hạn định phạm vi giữ gìn thanh tịnh, đó là nếu tu tập phương pháp Luân chỉ, cách nhà mình ở trong khoảng một Câu- lô-xáù, tụng một trăm mười biến Đại thần chú. Tướng trạng đó thế nào? Đó chính là tụng chú: Đát điệt tha na la đế, bà xoa ni, a ma da ca đà đế bà bà a a bà bà di đà, xà khư na, ô ha y đà đế, yểm yểm yểm yểm đế, đa bạt đà đà da, ma na thi chỉ đế, xa đà ni phiệt, xoa la ni cưu ha a ha cưu đa thi yểm a đà đà đế, ma ha già da đế, ma ha a già da đế, kiện đa ni, a la a la a la a la a la a la a đế sa bà ha. Nếu tụng chú này xong, thì hạn định phạm vi giữ gìn thanh tịnh. Vì sao? Vì các loại chất độc không thể vào được. Nói về nhân duyên của việc tạo lập nhà cửa phòng ốc, nghóa là nếu vì xây dựng nhà cửa phòng ốc phục vụ cho sự tu tập pháp định, cần phải có đủ mười việc. Thế nào là mười việc? Đó là: Cửa ngõ, chỉ có hướng về phía Đông chứ không phải là hướng khác. Cao thấp, phía Đông cao dần lên và phía Tây thấp dần xuống. Góc vuông, ở giữa một phương cách nhau mỗi phương một trượng. Thứ lớp, là chồng chất mười lớp. Vật sử dụng, chỉ sử dụng năm loại chứ không phải là loại gì khác. Thế nào là năm loại? Một là vàng. Hai là bạc. Ba là đồng. Bốn là sắt. Năm là gỗ tùng. Bậc cửa, ngang bằng với nơi đó không có sai khác. Lớp cửa, là có mười lớp cửa. Chốt cửa, là không có âm thanh phát ra. Tường vách, độ cao một trượng và chồng mười lớp. Ra vào, trong các cửa ấy đều tụng thần chú. Tướng trạng đó thế nào? Nghóa là nếu như mở ra thì tụng chú: Nam ma dạ đế, ma ha cưu tỳ na ha, a la bà đề, đà đà a già độ, bát chỉ a chỉ thi, giá bà ni nặc đế, bà chỉ ma tỳ na, a na thi chỉ ni thi chỉ sa bà ha. Nếu tụng thần chú này một ngàn biến, liền thuận theo lúc, thảy đều thông suốt. Nếu là lúc vào thì tụng chú: Nam mô nam chỉ na, nam mô phiệt thi đà, nam mô nam a đế, nam mô nam a lê na, nam mô kiện đà ni sa bà ha. Nếu tụng thần chú này một ngàn năm trăm biến xong, thì thuận theo lúc đều biết mở đóng. Nói về nhân duyên không phát ra nói năng, chuyện trò, nghóa là nếu vì tu tập phương pháp Luân chỉ, đối với tất cả mọi lúc, đối với tất cả mọi nơi, không phát ra lời nói. Vì sao? Vì thuận theo lời nói mà tâm thức xuất hiện. Nói về nhân duyên tạo tượng ngồi, nghóa là nếu vì tạo ra hình tượng ngồi để tu định, phải có đủ năm việc. Thế nào là năm? Đó là: Về vật dụng để làm, hãy sử dụng gỗ cây tùng. Về độ cao, như một nửa thân mình trở lên không thêm bớt. Về góc cạnh, đối với một phương trung tâm thì các phương cách nhau bốn thước. Về phương hướng, chỉ hướng về phương Đông chứ không phải là phương khác. Về dụng cụ trên chỗ ngồi, chỉ dùng Đà-la-đế màu vàng và các loại ghế ngồi màu vàng. Nói về nhân duyên ngồi nơi chỗ ngồi của mình, nghóa là nếu vì tu tập phương pháp Luân chỉ, cần phải có đủ mười việc để ngồi nơi chỗ ngồi đó. Thế nào là mười việc? Đó là: Về chân ngang nhau, hai ngón tay cái đặt giữa cuối hai đầu gối, hợp với nhau không có sai khác. Về đầu gối ngang nhau, là hai đầu gối giữ cho cân bằng khiến không lệch. Về lưng thẳng, lưng phải thẳng đứng không hề nghiêng lệch và chùn xuống. Về tay chồng lên, hai tay đối nhau, tay phải đặt dưới tay trái đặt trên, tay trái đặt dưới thì tay phải đặt trên, trải qua một ngày rồi thay đổi lẫn nhau mà không quên mất, lại cũng tay đó sắp xếp trên các căn. Về cổ thẳng, bản chất của cổ là ngay thẳng không dao động thì định được kiến lập. Về mặt nhìn thẳng, tướng mạo của mặt không ngước lên không cúi xuống để cân bằng trạng thái. Về miệng, trạng thái của miệng không rộng không hẹp chỉ mở ra bình thường. Về mũi, hơi thở khiến không sai khác, nghịch loạn phải là một nơi thông suốt. Về mắt, mắt vừa phải ngang bằng, thư thái, không hướng lên, không hướng xuống. Về nơi dừng mắt, đặt ánh mắt đó vào trong vòng chữ Đại hư không, luôn không xa rời. Đây gọi là mười điều trong lúc ngồi tu pháp Chỉ. Nói về nhân duyên thời hạn ra vào, nghóa là nếu tu tập phương pháp Luân chỉ, chỉ sử dụng hai thời gian vào giờ Thìn và giờ Ngọ, vì không ra vào trong những thời gian khác với thời gian này. Nói về nhân duyên thiện hữu tri thức, nghóa là nếu vì tu tập phương pháp Luân chỉ, thì làm bạn với người có trí tuệ sâu xa. Nói nhân duyên ấn quyết biết tà chánh, nghóa là nếu vì tu pháp Luân chỉ, thì thuận theo mức lượng hình tượng đó cần phải thủ ấn kim cang, mới biết rõ đâu là tà, đâu là chánh. Trạng thái đó thế nào? Đó là lập tức tụng chú: Đát điệt tha mạn na ô đà đế, bà la chỉ đà ni, giá thi di đa da, yểm a thi đế na sa bà ha. Nếu như tụng thần chú này bốn ngàn sáu trăm năm mươi biến xong, thì trong hình tượng kia xuất hiện hai vòng chữ. Đó là nếu người tà vạy thì đưa ra vòng chữ Tà, nếu là người chánh trực thì đưa ra vòng chữ Chánh, theo đó để phân biệt. Nói về nhân duyên trồng rừng cây thiện, nghóa là nếu như vì người tu tập phương pháp Luân chỉ, thì trong phạm vi phía trước nhà mình ở nên trồng hai loại cây thuộc loại an lành. Thế nào là hai loại? Một là cây tùng. Hai là cây lựu. Nói về nhân duyên ghi tạc vòng chữ vào lòng, nghóa là nếu như vì người tu tập phương pháp Luân chỉ, cần phải ghi tạc vòng chữ vào lòng. Thích hợp ở nơi nào? Đó là nơi tâm tư. Vì nghóa gì cần phải gởi gắm vào vòng chữ này? Nghóa là vòng chữ này hết thảy chư Phật ba đời và vô lượng vô biên các vị Bồ-tát, lấy đó làm sư trưởng đại ân - cha mẹ đại ân - trời đất đại ân - biển cả đại ân. Vì nhân duyên ấy nên là người tu tập pháp Chỉ hãy gởi gắm tâm mình vào vòng chữ này. Như vậy, nhân duyên tuy có vô lượng, nay trong Luận Ma Ha Diễn này, chỉ trình bày nhân duyên thứ nhất, chứ không trình bày các nhân duyên khác, là vì đưa ra nhân duyên đầu là thâu tóm mọi nhân duyên sau. Như Bổn Luận nói: “Nếu tu pháp Chỉ thì ở nơi yên lặng”. Đã nói về phần nhân duyên thành tựu của Luân chỉ, tiếp đến nói về phần trực tiếp chỉ ra cách tu hành Luân chỉ. Trong phần này có bảy phần. Thế nào là bảy phần? Đó là: Phần giữ tâm quyết định, là tâm ấy chắc chắn trong lý chân như bất sanh bất diệt. Như Bổn Luận nói: “Ngồi ngay ý thẳng”. Phần không đắm vào thân thể, vì có thể dễ thông suốt thân này là rỗng lặng chẳng có gì, tự tánh vốn có đó không thể đạt được. Như Bổn Luận nói: “Không dựa vào hơi thở, không dựa vào hình sắc, không dựa vào hư không, không dựa vào đất nước lửa gió”. Phần không đắm vào tâm thức, vì có năng lực dễ thông suốt tâm suy nghó nhận biết, tự tánh rỗng lặng hoàn toàn chẳng hề có gì. Như Bổn Luận nói: “Cho đến không dựa vào thấy nghe hiểu biết, tất cả các tưởng tùy theo niệm đều trừ bỏ, cũng loại trừ luôn ý tưởng”. Từ đây trở xuống là nêu rõ nhân duyên thân tâm đó rỗng lặng không có gì. Như Bổn Luận nói: “Vì tất cả các pháp xưa nay là vô tướng, niệm niệm không sanh ra, niệm niệm không diệt, cũng không được theo tâm nghó đến cảnh giới bên ngoài”. Phần không đắm vào nơi không đắm vào, vì tâm có năng lực loại trừ cũng loại trừ luôn. Như Bổn Luận nói: “Sau đó dùng tâm loại trừ tâm”. Phần tập trung lại thành một, là thâu gồm mọi tâm phân tán dấy động đặt vào trong một tâm. Như Bổn Luận nói: “Nếu như tâm dong ruổi tản mát thì nên thâu lại, cột chặt vào chánh niệm”. Phần biểu hiện rõ chánh niệm, là biểu hiện rõ các pháp chỉ có một tâm. Như Bổn Luận nói: “Chánh niệm này, nên biết chỉ do tâm chứ không có cảnh giới nào khác, ngay cả tâm này cũng không có tự tướng, niệm niệm không thể đạt được”. Phần luôn thực hành không xa rời, vì tâm định như vậy đối với tất cả mọi lúc tất cả mọi nơi, luôn tương tục không rời bỏ. Như Bổn Luận nói: “Nếu từ các oai nghi ngồi, đứng dậy, đi lại, tiến dừng và trong những việc làm, ở tất cả mọi lúc luôn nghó đến phương tiện tùy thuận quán sát”. Đã nói về phần trực tiếp chỉ ra cách tu hành Luân chỉ, tiếp đến nói về phần tu hành Luân chỉ được lợi ích. Đó là nếu người nào có thể tu pháp định này, dần dần chuyển hóa làm cho đại dương phiền não khô cạn, núi lớn nghiệp chướng sụp đổ, đi vào định chân như thông hiểu tất cả các pháp đến nơi không còn thoái lui. Như Bổn Luận nói: “Luyện tập lâu dài trở nên thụần thục thì tâm đó được dừng lại. Vì tâm dừng lại nên dần dần mạnh mẽ và nhanh nhạy, tùy thuận được đi vào Tam muội Chân chư, rốt ráo làm cho phiền não phải hàng phục và tín tâm tăng lên nhanh chóng, thành tựu bất thoái”. Đã nói về phần tu hành Luân chỉ được lợi ích, tiếp đến nói về phần chọn lựa giới hạn vào và không vào. Ở trong phần này có hai ý. Thế nào là hai ý? Một là ý đi vào hướng về. Hai là ý không đi vào. Nói đến ý đi vào hướng về, nghóa là hoặc có chúng sanh hướng về đi vào pháp sâu xa, tâm không hề nghi ngờ. Hoặc có chúng sanh nghe được pháp rất sâu xa, tâm họ quyết định không nảy sinh tâm không tin. Hoặc có chúng sanh nghe được pháp rất sâu xa thì hết sức tôn trọng không nảy sinh tâm phỉ báng. Hoặc có chúng sanh không có nghiệp chướng nặng nề. Hoặc có chúng sanh không có tâm ngã mạn. Hoặc có chúng sanh không có tâm lười nhác. Sáu loại người như vậy, đi vào chủng tánh Phật quyết định không nghi ngờ, gọi là ý đi vào hướng về. Nói đến ý không đi vào, nghóa là nếu chúng sanh trái với sáu loại người này, vónh viễn đoạn tuyệt chủng tử Tam bảo, thì quyết định không nghi ngờ, đó chính là ý không đi vào. Như Bổn Luận nói: “Chỉ trừ những hạng nghi ngờ, mê lầm không tin và phỉ báng, tội lỗi nghiệp chướng nặng nề - ngã mạn lười nhác, những người như vậy vốn không thể đi vào được”. Đã nói về phần lược hỏi - trả lời rộng để nói chi tiết. Tiếp đến nói về phần ca ngợi Tam-muội thù thắng. Ở đây có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần thể rộng lớn vô biên thù thắng. Hai là phần quyến thuộc vô tận thù thắng. Nói đến phần thể rộng lớn vô biên thù thắng ấy, là tu tập Tam-muội này thì thông đạt hết thảy vô lượng các pháp Phật, đồng một thể chung một tướng không có sai biệt. Như Bổn Luận nói: “Hơn nữa, dựa vào Tam muội này thì biết pháp giới đồng một tướng, nghóa là Pháp thân của hết thảy chư Phật, cùng với thân của chúng sanh là bình đẳng không hai, gọi là Tam muội Nhất hành”. Nói đến phần quyến thuộc vô tận thù thắng, đó chính là Tam muội Chân chư này, có năng lực làm gốc rễ đích thực cho vô lượng vô biên Tam muội Kim cang, để luôn sinh ra và lớn lên. Như Bổn Luận nói: “Nên biết Chân như là Tam muội căn bản, nếu người tu hành thì dần dần có năng lực phát sinh vô lượng Tam-muội”.  <卷>QUYỂN 9 Đã nói về phần tu hành phương tiện thiện xảo. Tiếp đến nói về phần giải thích rộng cách đối trị ma sự. Bổn Luận nói: Hoặc có chúng sanh không có sức mạnh của thiện căn, bị các ma, ngoại đạo, quỷ thần làm cho mê hoặc rối rắm, như ở trong chỗ ngồi hiện hình làm cho sợ hãi. Hoặc hiện ra các tướng nam nữ đoan nghiêm đẹp đẽ, nên nghó đến cảnh giới chỉ do tâm thì cảnh sẽ diệt và cuối cùng không bị não loạn. Hoặc hiện ra thân tướng chư Thiên, thân tướng Bồ-tát, cũng hiện làm thân tướng Như Lai đầy đủ mọi vẻ đẹp, hoặc nói các Đà-la-ni, hoặc nói về Bố thí - Trì giới - Nhẫn nhục - Tinh tấn - Thiền định - Trí tuệ, hoặc nói về Bình đẳng - Không - Vô tướng - Vô nguyện - Không oán - Không thân - Không nhân - Không quả, hoàn toàn rỗng lặng là Niết-bàn chân thật. Hoặc khiến cho người biết rõ sự việc của túc mạng quá khứ, cũng biết về sự việc của vị lai, đạt được tha tâm trí và biện tài vô ngại, có thể làm cho chúng sanh tham chấp với những điều kiện danh lợi của thế gian. Lại làm cho con người sinh ra nhiều tâm hay giận hay vui, tính tình không chuẩn mực, bình thường. Hoặc nhiều lòng yêu thương - ngủ nhiều - bệnh lắm, tâm tư uể oải lười biếng. Hoặc đột nhiên nổi lên tinh tấn, sau dừng lại bỏ sanh ra không tin tưởng, nhiều nghi ngờ, lắm suy nghó. Hoặc xả bỏ công hạnh tốt đẹp ban đầu, trở lại tu theo những nghiệp xen tạp. Hoặc dính vào các loại liên quan đến công việc thế gian, cũng có thể làm cho người ta đạt được các Tam-muội, tương tự phần nào và đều là những sự chứng đạt của ngoại đạo chứ không phải là Tam-muội chân thật. Hoặc trở lại khiến cho người ta có thể một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, cho đến bảy ngày, trú trong định có được đồ ăn thức uống thơm ngon tự nhiên, thân tâm vui vẻ thư thái, không đói không khát, làm cho người ta yêu thích tham đắm. Có khi cũng khiến cho người ta ăn không chừng mực nhiều ít thất thường, nhan sắc thay đổi tiều tụy. Do nghóa này, hành giả hãy thường xuyên thuận theo trí tuệ quán sát đừng để cho tâm ấy rơi vào mạng lưới tà vạy, hãy chịu khó nghó đến chánh pháp, không giữ lấy, không đắm vướng thì có thể rời xa những nghiệp chướng này. Nên biết các Tam muội ngoại đạo có được, đều không lìa khỏi tâm kiến ái, ngã mạn, vì tham đắm đối với danh lợi và sự cung kính của thế gian. Tam muội Chân chư thì không trú vào tướng thấy, không trú vào tướng đạt được, thậm chí rời khỏi định cũng không lơi lỏng xem thường, do đó tất cả mọi phiền não dần dần ít lại. Nếu các phàm phu không luyện tập pháp Tam muội này, mà được đi vào chủng tánh Như Lai, thì thật là điều hết sức phi lý. Vì tu theo các Thiền Tam-muội của thế gian, phần lớn dấy lên chấp trước ý vị, đều dựa vào ngã kiến, là thuộc về ba cõi cùng với ngoại đạo như nhau. Nếu như xa rời sự bảo vệ của hàng thiện tri thức, thì sẽ dấy lên cái thấy của ngoại đạo. Luận giải thích: Ở trong phần này tự có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần lược giảng giải, lược chỉ ra Tổng trì. Hai là phần phân tích nói rộng, nêu rộng. Trong phần thứ nhất có năm phần nhỏ. Thế nào là năm phần? Đó là: Phần chúng sanh hơn kém không như nhau. Phần giả người có thể gây ra trở ngại. Phần biểu hiện rõ nghiệp dụng đã gây ra. Phần biểu hiện rõ thực hành pháp đối trị. Phần biểu hiện rõ nhờ lực đối trị đạt được lợi ích. Nói về phần chúng sanh hơn kém không như nhau, là vì hai loại chúng sanh hoàn toàn khác nhau. Thế nào là hai loại? Một là chúng sanh có đầy đủ nhân duyên. Hai là chúng sanh thiếu mất nhân duyên. Chúng sanh đầy đủ là có đủ năm điều kiện. Chúng sanh thiếu mất là thiếu đi bốn điều kiện. Sao nói là có đủ năm điều kiện? Đó là: Có đủ niềm tin, là vui thích sâu xa. Có đủ nhân cách, là có năng lực bảo vệ giữ gìn. Có đủ phương pháp, là năng lực dễ thông suốt phân biệt rõ chánh tà. Có đủ thời gian, là tùy thuận để tiếp thu thích hợp. Có đủ tính chất, vì có chân tánh. Nếu chúng sanh nào có đủ năm điều kiện này thì hoàn toàn không có chướng ngại. Sao nói là thiếu đi bốn điều kiện? Đó là trái ngược lại cùng với bốn loại trước kia. Nếu chúng sanh nào tuy là có chân tánh, nhưng thiếu đi bốn điều kiện ấy thì cuối cùng không xa rời chướng ngại được. Nay trong văn này chọn lấy cái thiếu sót cần phải biết. Như Bổn Luận nói: “Hoặc có chúng sanh không có sức mạnh của thiện căn”. Đã nói về phần chúng sanh hơn kém không như nhau. Tiếp theo nói về phần giả người có thể gây trở ngại. Giả người gây trở ngại cho dù có vô số nhưng không ra ngoài bốn loại. Thế nào là bốn loại? Một là ma. Hai là ngoại đạo. Ba là quỷ. Bốn là thần. Nói về loại ma là bốn loại đại ma và ba vạn hai ngàn chúng ma tùy thuộc. Nói về loại ngoại đạo là chín mươi sáu loại các ngoại đạo lớn và chín vạn ba ngàn ngoại đạo tùy thuộc. Nói về loại quỷ là mười loại quỷ lớn và năm vạn một ngàn ba trăm lẻ hai loại các quỷ tùy thuộc. Nói về loại thần là mười lăm đại thần và năm vạn một ngàn ba trăm ba trăm lẻ hai loại các thần tùy thuộc. Như vậy, tất cả các loại thảy đều ngăn trở làm hỗn loạn chánh giáo khiến hướng về con đường sai trái nên gọi là đạo tà. Danh nghóa của ma và ngoại đạo có sai biệt, xuất hiện trong kinh giải thích rõ, do đó tạm thời lược bớt không giải thích. Sự việc của quỷ và thần, xuất hiện trong kinh nhưng không rõ ràng, nên lại giải thích sơ lược về phần cương yếu. Nói về mười loại quỷ thì tên gọi ra sao? Đó là: Loài quỷ Già-tỳ-đa-đề. Loài quỷ Y-già-la-thi. Loài quỷ Y-đề-già-đế. Loài quỷ Bà-na-kiện-đa. Loài quỷ Nhó-la-nhó-lê-đề. Loài quỷ Ban-ni-đà. Loài quỷ A-a-di. Loài quỷ Xà-khư-bà-ni. Loại quỷ Đa-a-đa-y-đa. Loài quỷ Đôi thích. Đây là mười loại quỷ lớn. Như vậy, hoạt dụng của mười loại quỷ sai khác thế nào? Nếu là quỷ thứ nhất thì hoặc làm ra cảnh ban ngày, hoặc làm ra cảnh ban đêm, hoặc làm ra cảnh mặt trăng, mặt trời và tinh tú, hoặc làm ra cảnh thời tiết, tùy theo sự thích ứng mà biến chuyển. Nếu là quỷ thứ hai thì làm ra cảnh trạng của các loại hương vị - các loại áo quần vật dụng - các loại cỏ cây, tùy theo sự thích ứng mà biến chuyển. Nếu là quỷ thứ ba thì làm ra cảnh giới của đất nước gió lửa, tùy theo sự thích ứng mà biến chuyển. Nếu là quỷ thứ tư thì làm ra cảnh trạng bay vọt lên cao, tùy theo ý muốn không ngăn ngại gì. Nếu là quỷ thứ năm thì làm ra cảnh trạng của các căn thức đóng mở, tùy theo ý muốn không gì ngăn ngại. Nếu là quỷ thứ sáu thì làm ra cảnh giới lục thân quyến thuộc cũng có cũng không có, tùy theo ý muốn không gì ngăn ngại. Nếu là quỷ thứ bảy thì làm ra cảnh tượng già trẻ tùy theo ý muốn không gì ngăn ngại. Nếu là quỷ thứ tám thì làm ra cảnh trạng có trí tuệ hay không có trí tuệ, tùy theo ý muốn không gì ngăn ngại. Nếu là quỷ thứ chín thì làm cho cảnh tượng không có trở thành có, tùy theo ý muốn không gì ngăn ngại. Nếu là quỷ thứ mười thì làm ra cảnh giới của các loại bò cạp ruồi muỗi sâu kiến - rồng cọp sư tử và các loại âm thanh ghê rợn, tùy theo ý muốn không gì ngăn ngại. Đây gọi là là hoạt dụng của mỗi loại. Như vậy, các hoạt dụng của mỗi loại nhờ vào năng lực nào mà được thành tựu? Tất cả nhờ vào ba điều kiện mà được thành tựu. Thế nào là ba điều kiện? Một là bậc thầy. Hai là giáo pháp. Ba là luyện tập. Bậc thầy là người dạy dỗ, giáo pháp là những điều mình học hỏi, luyện tập là sự huân tập nhiều đời trước. Đây gọi là ba điều kiện. Như vậy, mười loại quỷ luôn trong tất cả mọi lúc không tách rời lẫn nhau, cùng hiện hành cùng biến chuyển gây ra những điều trở ngại cơ bản, tên gọi của hoạt dụng thuận theo tăng lên mà kiến lập, như tên gọi thứ nhất. Nói về mười lăm loại đại thần thì tên gọi thế nào? Đó là: Loài thần Phiệt-la-la-kiện-đa-đề. Loài thần A-chỉ-đà-di-lê-ni. Loài thần Bổ-đa-đế-đà-ha-ha-bà. Loài thần Xà-tỳ-ma-chỉ-ni. Loài thần Na-đa-bà-xa. Loài thần Đa-đa-đa-đa-địa-địa. Loài thần A-lý-ma-la. Loài thần Thi-xoa-ni-đế-bà-kiệt-na. Loài thần Ban-di-đà-la-ô-đà-đề. Loài thần Án-án-ngâm-ngâm. Loài thần A-a-ha-đế. Loài thần Tu-lê-di-ni. Loài thần Đầu-đầu-ngưu-đầu. Loài thần Bà-cưu. Loài thần Tinh-mị. Đây gọi là mười lăm đại thần. Mười lăm loại đại thần này thì hoạt dụng của mỗi loại ra sao? Loại thần thứ nhất làm ra cảnh huống thông minh. loại thần thứ hai làm ra cảnh huống ám độn. Loại thần thứ ba làm ra cảnh giới ưa thích có ánh sáng. Loại thần thứ tư làm ra cảnh giới ưa thích không có ánh sáng. Loại thần thứ năm làm ra cảnh tượng trôi nổi tản mác. Loại thần thứ sáu làm ra cảnh tượng chuyên môn chú ý. Loại thần thứ bảy làm ra cảnh giới của ác rỗng lặng, thiện phát sinh. Loại thần thứ tám làm ra cảnh giới của tất cả các bậc giác ngộ. Loại thần thứ chín làm ra cảnh giới mình giác ngộ mà người khác mê hoặc. Loại thần thứ mười làm ra cảnh giới không vốn có sự tu hành. Loại thần thứ mười một làm ra cảnh tượng không, luôn là cái không. Loại thần thứ mười hai làm ra cảnh giới tiến lùi nhanh chóng. Loại thần thứ mười ba làm ra cảnh tượng di chuyển làm thay đổi. Loại thần thứ mười bốn làm ra cảnh tượng bền vững kiên cố. Loại thần thứ mười lăm làm ra cảnh tượng thuận theo thời gian. Như vậy, mười lăm loại Đại thần vương ấy luôn trong tất cả mọi lúc không rời xa nhau, cùng lưu thông cùng xoay chuyển, để gây ra điều chướng ngại làm não loạn hành giả. Ma và ngoại đạo sai biệt thế nào? Nói đến ma là khiến gây ra những việc ác. Nói đến ngoại đạo là làm cho từ bỏ việc thiện. Sai biệt của hai loại nên biết như vậy. Quỷ cùng với thần sai biệt thế nào? Chướng ngại đến thân là quỷ, chướng ngại cho tâm là thần, sai biệt giữa hai loại nên biết rõ như vậy. Bốn loại chướng ngại như thế phải đối trị thế nào? Cách đối trị trong này có bốn loại. Thế nào là bốn loại? Một là tùy thuận chuyển đổi theo để đối trị. Hai là chống lại nhau xa cách nhau để đối trị. Ba là cùng hiện hành để đối trị. Bốn là đều không phải để đối trị. Nói đến tùy thuận chuyển đổi theo để đối trị, tức là đối trị rất tự tại không có ngăn ngại. Đó là nếu ngoại đạo làm những việc rối loạn tâm của hành giả như vậy, thì hành giả lập tức khởi lên ý niệm như sau: Từ vô thỉ đến nay sự việc này như thế và cuối cùng không thể phá bỏ việc đó. Vì sao? Vì những kiến giải như vậy vốn có nơi Bổn giác và phẩm đức thật sự của nó, chứ không phải là sai lầm tai họa. Nếu khởi lên sự hiểu này, thì các loại tà kiến tức khuất phục thuận theo dường như tiêu hết. Vì sao? Vì tùy theo kiến giải ấy có tăng giảm mà tánh đức vô lậu cũng có lớn nhỏ, đây gọi là tùy thuận chuyển đổi theo để đối trị. Nói đến chống lại nhau, xa cách nhau để đối trị, tức là chọn biệt tướng để đối trị, đó là nếu tâm của hành giả bị người ngoài gây ra sự hỗn loạn như vậy, hành giả ấy lập tức tìm phương tiện, trở lại chống trả di chuyển cách, xa trái ngược nhau, xa rời nhau để chọn lọc. Đây gọi là chống lại nhau xa cách nhau để đối trị. Nói đến cùng hiện hành để đối trị, tức là cùng chuyển đổi đầy đủ để đối trị, nghóa là trong một lúc có đầy đủ hai cách đối trị nghịch và thuận, vì không xa rời sự chuyển đổi. Đây gọi là tướng trạng cùng hiện hành để đối trị. Nói đến “đều không phải” để đối trị, tức là cách đối trị không phân biệt gì và không dựa vào đâu, đó là đối với tất cả các pháp không có những phân biệt, không có những suy tính, không có những vướng mắc, không có những mong cầu, tâm tư trong sáng vắng lặng trú vào nơi vô trú. Đây gọi là tướng trạng “đều không phải” để đối trị. Tướng đối trị như vậy, ở trong văn sau nói rõ về tướng, nơi phần quyết trạch này đã lược bớt. Như Bổn Luận nói: “Bị các ma ngoại đạo quỷ thần làm cho mê hoặc hoảng loạn”. Đã nói về phần giả người có thể gây ra trở ngại. Tiếp theo nói về phần biểu hiện rõ nghiệp dụng đã gây ra. Ở trong phần này có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là Tổng. Hai là Biệt. Trong phần Tổng tướng có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần Tổng tướng, nghiệp dụng đã gây ra. Hai là phần thông suốt pháp thực hành đối trị. Phần thứ nhất tướng đó thế nào? Nghóa là như trên đã nói về tất cả các loại tà ma, hiện ra hình dạng nơi sáu đường làm hỗn loạn đến tâm của hành giả. Nay sẽ giải thích nói rõ. Nếu là quỷ và thần thì phần lớn tạo ra bốn cảnh tượng của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A-tu-la để làm rối loạn tâm tư hành giả. Như Bổn Luận nói: “Như ở trong chỗ ngồi hiện hình làm cho sợ hãi”. Nếu là ma thì phần nhiều tạo ra cảnh giới loài trời để làm rối loạn tâm tư hành giả. Như Bổn Luận nói: “Hoặc hiện ra các tướng nam nữ đoan chánh đẹp đẽ”. Nếu là chúng ngoại đạo thì phần nhiều tạo ra tình huống của loài người để làm hỗn loạn tâm tư hành giả. Như Bổn Luận nói: “Các tướng nam nữ”. Nói các tướng ấy, chính là tướng trạng giống như nhau. Đó là tạo ra y báo chánh báo cùng chủng loại để làm hỗn loạn tâm tư của hành giả khiến không tu tập được. Đã nói về phần Tổng tướng nghiệp dụng gây ra. Tiếp đến nói về phần thông suốt pháp thực hành đối trị. Nghóa là có chúng sanh thực hiện quán tưởng như vầy: Tất cả các pháp chỉ do một tâm lượng sanh ra chứ không có pháp nào ngoài tâm. Đã không có pháp ngoài tâm, há pháp trong một tâm cùng với pháp trong một tâm lại làm chướng ngại nhau? Cũng là pháp trong một tâm cùng với pháp trong một tâm tạo ra giải thoát cho nhau hay sao? Không có chướng ngại cũng không có giải thoát. Pháp của một tâm thì một tức là tâm này, tâm chính là một này, không có một ngoài tâm, không có tâm ngoài một, một thâu tóm pháp giới, tâm thâu tóm pháp giới, vô lượng vô biên cảnh giới tưởng vọng, vắng lặng trong suốt không dấy lên mà hợp với trung đạo xa rời tướng. Tất cả các pháp bình đẳng, cùng một vị chung một tướng là vô tướng, làm thành một loại ánh sáng, đại dương tâm địa vónh viễn không còn những làn gió tiếp nhau, và từng ngọn sóng cuối cùng đã dừng lại. Đây gọi là thông suốt tướng trạng đối trị. Vì sao? Vì tất cả hành giả nếu không trở về phương pháp đối trị này, thì không biết lấy cách gì để phá vỡ đạo tà khiến chấp trước sai lầm phải khuất phục. Như Bổn Luận nói: “Nên nghó đến cảnh giới chỉ do tâm thì cảnh sẽ diệt và cuối cùng không bị não loạn”. Đã nói về phần thông suốt pháp thực hành đối trị. Tiếp theo nói về phần Biệt tướng nghiệp dụng đã gây ra. Ở đây có tám phần. Thế nào là tám phần? Đó là: Phần xuất hiện hình tướng con người làm cho tin theo. Phần xuất hiện giảng nói làm hỗn loạn ý thức. Phần đạt được trí biết rõ ba đời làm cho người ta mê hoặc. Phần không xa rời sự ràng buộc của thế gian. Phần tánh của tâm thất thường sinh ra rối loạn. Phần khiến cho đạt được định tà chứ không phải là định chánh. Phần khuyến thỉnh hành giả xa rời tà vạy. Phần chọn lựa thật - giả khiến cho rõ ràng. Như thứ tự đó nói về tướng trạng nên quán sát kỹ. Ở trong phần thứ nhất đã có ba loại người. Thế nào là ba loại? Một là người cõi trời. Hai là người thuộc bậc Bồ-tát. Ba là người thuộc hàng Như Lai. Nếu có người hàng ngoại đạo làm ra ba hình dáng này, sử dụng tất cả bao nhiêu phần? Tất cả có sáu phần. Thế nào là sáu phần? Đó là: Phần tạo ra hình tượng. Phần cúng tế cầu xin. Phần thần chú. Phần tụng kinh. Phần a hô. Phần khuyến thỉnh. Nói về phần tạo ra hình tượng, là thuận theo xứ sở sử dụng hình tượng loại người nào, để làm ra hình tượng loại người đó. Nói về phần cúng tế cầu xin, là dùng các loại đồ ăn thức uống, các loại thân mạng chúng sanh để làm việc cúng tế. Nói về phần thần chú, là thuận theo xứ sở ấy mà đọc tụng Đà-la-ni. Nói về phần tụng kinh, là đọc tụng các kinh như Bát Đà Đa… Nói về phần A-hô, là tùy theo việc đã làm không cần phải nói gì khác, chỉ dấy lên nói là A-hô-a. Nói về phần khuyến thỉnh, là hướng về khuyến thỉnh thần lực từ Đức Thế Tôn. Nói về tạo ra hình tượng thì tướng đó thế nào? Và trong lúc làm hình tượng loài Trời thì phải như thế nào? Nghóa là ở tại đầu - mặt - mắt - tai - mũi - lưỡi - thân - tay và chân, trong chín chỗ này tất cả mỗi chỗ đều tụng mười tám ngàn biến Đà-la-ni để chú nguyện thành lập. Đó là nếu trong lúc làm phần mắt của hình tượng, thì tụng chú: Giá a na thi đế, phiệt ô đa a xác sa a xác xoa sa đế bạt đào đế đa đà đà na, thi sa thi xoa na ô tra ô vận thi, la la la la la la la la la (chín chữ la), nặc nặc nặc nặc nặc nặc nặc nặc nặc (chín chữ nặc), bạt đa bạt đa đế khư chỉ la ca kết na la la khư chỉ na giá thi ha ha đế, gia gia gia gia giá bạt thi, tỳ kiện tỳ kiện thi, na xoa bà bà bà, kiện bạt đế a đa na thi, a đa na thi, bạt đa na thi, bạt đa na thi, ha sa ha y đa lê lê bà lê đế, giá giá giá giá giá, y y y y y, , đa đa đa đa đa, thi thi thi thi, lam lam lam lam đế đế đế đế na thi na a y a y bạt a đế bạt đà đa đề đa đa bạt đa đề sa bà a kha ha. Nếu tụng thần chú này mười tám ngàn biến xong rồi, thì hình tượng của phần mắt thanh tịnh làm thành tựu, nhãn căn rất sinh động lại chuyển sang nhanh nhạy sáng ngời. Nếu là trong lúc tạo tác phần tai của hình tượng, thì tụng chú: Ám ma sa chỉ y na, án ma sa chỉ y đa, bạt đà đà đề ô a ô a na yết la, yết na na na la la na na la, a a a a a a a a a a (mười chữ a), ha ha ha ha ha ha ha ha ha ha (mười chữ ha), giá giá giá giá giá giá giá giá giá giá (mười chữ giá), đà đà đà đà đà đà đà đà đà (chín chữ đà), chỉ chỉ chỉ chỉ chỉ chỉ chỉ chỉ (tám chữ chỉ), đế đế đế đế đế đế đế đế (tám chữ đế), ná ná ná ná ná ná ná (bảy chữ ná), lê lê lê lê lê lê lê (bảy chữ lê), đà dạ đà tha dạ ô đa đề ô đa đề, bạt đà ô đa đề, tỳ lê sa ma a an đà, bà yết na, na na thi sa bà ha a kha. Nếu tụng thần chú này đủ mười tám ngàn biến rồi, thì hình tượng của phần tai thanh tịnh làm thành tựu đầy đủ, lý bắt đầu chuyển động lại chuyển sang sáng tỏ sắc bén. Nếu là trong thời gian tạo tác phần mũi của hình tượng, thì tụng lời chú: Bà chỉ la la đế, a ma di đà thi lam bà a thi đề chỉ ô yết ná thi, hô hô hô hô ha ha tỳ giá kiện na thi đề lâu ma, ma thi ma la ô giá na, tát bà đề lê đế, ô đà ni, kiện thản đa đà tỳ thi na, giá ha di đế a ha a hô, na la na thi chỉ a di lợi bà, xoa xoa xoa xoa xoa xoa xoa xoa xoa xoa (mười chữ xoa), bà xoa a đà đa y na, tư tư tư tư tư tư tư tư tư tư tư tư (mười hai chữ tư), kiện kiện kiện kiện kiện kiện kiện kiện kiện kiện kiện kiện (mười hai chữ kiện), a ha bà bà, bà bà a ha, ha chỉ dạ, ma chỉ dạ đà chỉ dạ a thi đế, kiện bà lê xà xà xà, di di di di, bà bạt thi, thổ thổ sa bà ha a ha. Nếu tụng thần chú này đủ mười tám ngàn biến rồi, thì hình tượng của phần mũi thanh tịnh làm thành tựu, tùy theo động tác dẫn dắt chuyển động càng chuyển sanh nhanh nhạy rõ ràng. Nếu như là trong lúc tạo tác phần lưỡi của hình tượng, thì tụng lời chú này: A ma a y dạ, khư ma thi, đế đề bạt đa đề, a chỉ bà đa đa ma đà đa, a la đế ná ô bà ná ô ná ô thi ô ô, chỉ bạt y thản đề, a chỉ a bối ni tỳ xa ô chỉ na, kết kết kết kết ná thư đế ô thư đế a đa chỉ, bàn đa chỉ, thi ha dạ, ma xà a đa đế kiệt na ha, bà na ha, ô thi đế thi đế, ca tỳ đề na a chỉ đà, ma na thi ma na thi, xà chỉ xà chỉ, tỳ xà chỉ, sa bà ha a ha. Nếu tụng thần chú này đủ mười tám ngàn biến rồi, thì hình tượng của phần lưỡi thanh tịnh được thành tựu đầy đủ, hiểu rõ nghiệp có tác dụng chuyển đổi càng chuyển nhanh nhạy rõ ràng. Nếu như trong lúc tạo tác phần thân của hình tượng thì tụng lời chú: Khư a y đế ca y a ca y, bà bà tỳ bà bà bà bà bà bà đề thư ô ma thư ô, bạt đa a bạt đà bà kiệt ná, ha y ha y ha ha ha ha y, tất ô đế ma na thi, pha tu đế đa khư chỉ di ô đế gia gia, a man ni, bà bà a man ni, xà ha ma xà ha bà đế, kiệt na thi kiệt na thi kiệt na thi, a di đế a di la sa bà, a ha a kha a ha kha. Nếu tụng phần chú này đủ mười tám ngàn biến rồi, thì hình tượng của phần thân thanh tịnh thành tựu đầy đủ, mới làm cho nét mặt thay đổi. Nếu như trong lúc tạo tác phần tay của hình tượng, thì tụng lời chú: Yểm ma ô dạ đế, a dạ a man đa, ô ná bà đế tỳ ná thi, thư chuyển bà, ca sa di ô, ha đà (chữ hán) thi, ma di thi di thi, di thi di thi, chỉ tất đế, bà tỳ ma, a tỳ ma, ha kiện bạt đế, ô đa na, bà đà na sa bà a ha a kha. Nếu tụng thần chú này đủ mười tám ngàn biến rồi, thì hình tượng của phần tay thanh tịnh thành tựu đầy đủ, ngón tay tròn có đủ móng. Nếu như trong lúc tạo tác phần chân của hình tượng, thì tụng lời chú: Kha y dạ, ma y dạ, kiệt la đế, bà la đế, kiện na kiện na cưu na cưu đế, cưu ma bạt đế, a chỉ sa a chỉ bà, ha na ha na sa bà ha, a ha a kha. Nếu tụng thần chú này đủ mười tám ngàn biến, thì hình tượng của phần chân thanh tịnh thành tựu đầy đủ, ngón chân tròn có đủ móng. Nếu như trong lúc tạo tác phần đầu và mặt, như thứ tự đó, hai thần chú đầu thì đầu lấy làm sau, sau lấy làm đầu, thứ tự ngược lại tụng đủ mười tám ngàn biến rồi, thì hình tượng của phần đầu và mặt thanh tịnh thành tựu đầy đủ, các tướng tốt đẹp tuyệt vời đều trọn hiện rõ ra. Nếu các căn đã tạo tác hoàn tất, thì cần phải lần lượt chú nguyện để gởi gắm vào tâm thức, nghóa là nêu lên vòng chữ Kiệt Na La gởi gắm vào trong lòng hình tượng, liền tụng lời chú: Mười tám chữ Phạn đọc là Ô. Mười tám chữ Phạn đọc là Nám. Mười tám chữ Phạn đọc là Ân. Mười tám chữ Phạn đọc là Tập. Nếu tụng thần chú này đủ mười tám ngàn bốn trăm năm mươi biến, thì tâm lượng đầy đủ không có gì là không rõ ràng. Đã nói về phần tạo tác hình tượng. Tiếp đến nói về phần cúng tế cầu nguyện. Để làm thành tựu hình tượng chư Thiên, phần thần chú có đầy đủ không thiếu sót, có gì không đủ lại thêm phần cúng tế? Vì phần thần chú tuy là đầy đủ nhưng mức lượng thời tiết hạn định không tồn tại lâu dài được, chỉ trong vòng bảy ngày chứ không vượt qua số này. Nếu thêm phần cúng tế thì hình tượng đó chắc chắn tồn tại, hoặc là mười bảy ngày, hoặc là một trăm lẻ bảy ngày, thậm chí cả một ngàn ngày. Vì nghóa này nên thêm phần cúng tế cầu đảo. Phần cúng tế cầu đảo ấy có tướng trạng thế nào? Nghóa là tạo hình tượng xong rồi, trong phạm vi phía trước hình tượng đó dùng các loại vật phẩm cúng dường để tiến hành việc cúng tế. Việc cúng tế đã hoàn tất thì nét mặt hình tượng đó sẽ thọ dụng vui vẻ. Thọ dụng đã xong liền nói cho người ta biết: Một ngày hai ngày ba ngày bốn ngày năm ngày sáu ngày bảy ngày cho đến một trăm ngày, cả đến trong thời gian ngàn vạn ức ngày, trú trong thân tâm Ta tùy theo những niềm vui của người, tùy theo những mong cầu của người, luôn thuận theo không trái ngược. Nay lấy điều này làm nội dung quan trọng của pháp tu. Đã nói về phần cúng tế cầu nguyện. Tiếp theo nói về phần thần chú. Hai phần trước đây có lý lẽ viên mãn không hề thiếu sót gì. Vì nghóa gì lại cần đến thần chú? Vì còn có hai điều thiếu sót, là sự trang nghiêm và lui tới. Do nghóa này nên thiết lập phần thần chú. Nếu để thành lập các loại đồ dùng trang nghiêm tốt đẹp của cõi trời, thì tụng lời chú: Án ma đề đế man đa, xà tỳ na, a kha thi, kiện ô ma ca thi đế, di khư thi đà xoa la a ma y ma ma ma dạ ô kha na, ô kha ha ha ha ha ha, ô ha na… (mười một chữ đọc là Tập), bạt a bạt a a a a a a, bạt ma thi, chữ hán… (ba mươi chữ Phạn đọc là Ngân), sa bà ha a ha a kha. Nếu tụng thần chú này đủ hai mươi ba ngàn biến rồi, thì từ lúc đó các loại đồ dùng trang nghiêm thù thắng tuyệt diệu của cõi trời, thảy đều xuất hiện ngay trước mắt không sót thứ gì. Xuất hiện đã hoàn tất, liền thuận theo nơi chốn thích hợp đến trong phần thân thể để trang nghiêm khắp nơi. Nếu để cho việc đi lại không có chướng ngại, nên cần đến những thần chú thuộc loại như thế nào? Nghóa là nếu vì muốn đi lại tự tại, thì tụng lời chú: A bà bà bà bà lê, na la kha la đề cưu na thi, ma kha đà, nam a lê y dạ, a nam a lê y da, a a nam a nam a a a A-lê-da, bà bà a nam a a da, thi na thi na, ma thi na ma thi na đa đà đế, kiệt la kiệt la bà kiệt na, đà đà đế, đa đa đề, thản thản na, sa bà ha a a ha kha. Nếu tụng thần chú này đủ hai mươi mốt ngàn biến rồi, hình tượng đã tạo ra hoặc đi hoặc đến hoặc bay hoặc nhảy, tùy theo thời gian - tùy theo nơi chốn - tùy theo mong cầu - tùy theo ý thích, tự tại đi lại không có chướng ngại. Nay lấy điều này làm nội dung quan trọng cho pháp tu. Đã nói về phần thần chú. Tiếp theo nói về phần tụng kinh. Do nghóa gì mà kiến lập ra phần này? Đó là vì làm cho tăng thêm uy lực công đức. Việc này thế nào? Nghóa là các đệ tử của Phật, trong lúc dùng các loại phương pháp để đối trị, nếu không cần đến phương pháp tụng kinh này thì sức lực khó đối trị được. Nếu như vậy phải tụng những kinh như thế nào? Đó là kinh Bát Đà Đa - kinh Ma Đầu Đà - kinh Bà Ô Xá… Tụng những kinh này để làm phương pháp đối trị, vì nghóa ấy nên thiết lập ra phần tụng kinh. Đã nói về phần tụng kinh. Tiếp theo nói về phần A-hô. Vì nghóa gì mà kiến lập phần này? Đó là sự việc có thể thành tựu cần phải có lời nói giảng giải. Nghóa này là thế nào? Nếu để thành tựu sự việc mà đợi đến ngôn ngữ thừa lại thì không thành tựu được. Nếu lúc sự việc thành tựu dấy lên nói A-Hô-A-Hô như thế thì sẽ thành tựu. Vì sao? Do nội dung nói không giống nhau. Vì nghóa này nên lập ra phần A Hô. Đã nói về phần A Hô. Tiếp theo nói về phần khuyến thỉnh. Do nghóa gì mà kiến lập phần này? Vì thể hiện lễ nghi tôn kính. Nghóa này là thế nào? Vì có những việc làm nương nhờ đến người bậc trên cần phải có sự khuyến thỉnh. Vì nghóa này nên thiết lập ra phần khuyến thỉnh. Đã nói về phần tạo tác hình tượng chư Thiên. Tiếp theo nói về phần tạo tác hình tướng Bồ-tát. Nội dung trong phần này cũng có sáu phần, nhưng sai biệt về phần chung và riêng mà thôi. Chung là phần cúng tế cầu nguyện - phần thần chú - phần A Hô - phần khuyến thỉnh, riêng là phần tạo ra hình tượng và phần tụng kinh. Trong hai tướng trạng riêng thì phần tạo ra hình tượng, tướng đó thế nào? Đó là như trước đã nói, trong chín vị trí đều tụng thần chú để chú tâm cầu nguyện. Tất cả các tướng đó thế nào? Nếu là trong lúc tạo tác phần đầu của hình tượng, thì tụng lời chú: Đa đa đa đa a đa đa đa đế bà bà bà bà y bà bà bà bà đế xoa bà xoa bà di la đế… (tám chữ hán), ma kha đế sa bà ha a a ha kha. Nếu tụng thần thú này đủ tám ngàn bốn trăm năm mươi biến rồi, thì hình tượng phần đầu thành lập đầy đủ. Nếu là trong lúc tạo tác phần mặt của hình tượng, thì tụng lời chú: Thi ná ô bà đế ha ha ha ha y y y y, ma khư dạ, cưu đà thi đà đế, ma kha a ma kha tất ô đế, sa bà ha a a ha kha. Nếu tụng thần chú này đủ ba ngàn bảy trăm biến rồi, thì hình tượng phần mặt thành lập đầy đủ. Nếu là trong lúc tạo tác phần mắt của hình tượng, thì tụng lời chú: Đà bạt thi ná ma ni khư sa thản di đế giá sà đa tỳ tọa lê a ma thi đà ma thi đà ni ca da ca da tăng khư da ha sa ni sa bà ha a a ha kha. Nếu tụng thần thú này đủ tám ngàn bốn trăm năm mươi biến rồi, thì hình tượng phần mắt thành lập đầy đủ. Nếu là trong lúc tạo tác phần tai của hình tượng, thì tụng lời chú: A ma ma y ma ma bà ma ma đa ma ma kiện cưu đề ca cưu đế tỳ na thi ca ca ca ca ca ca sa bà ha a a ha kha. Nếu tụng thần thú này đủ sáu mươi mốt ngàn biến rồi, thì hình tượng phần tai thành lập đầy đủ. Nếu là trong lúc tạo tác phần mũi của hình tượng, thì tụng lời chú: Bà bà bà bà tỳ bà bà bà bà đế kiện na thi sa bà ha a a ha kha. Nếu tụng thần thú này đủ mười tám ngàn biến rồi, thì hình tượng phần mũi thành lập đầy đủ. Nếu là trong lúc tạo tạo phần lưỡi của hình tượng, thì tụng lời chú: (Chữ Phạn) đế (chữ Phạn) đế (chữ Phạn) đế (chữ Phạn) đế na đà na đà ô đề sa bà ha a a ha kha. Nếu tụng thần chú này đủ năm mươi bảy ngàn biến rồi, thì hình tượng phần lưỡi thành lập đầy đủ. Nếu là trong lúc tạo tác phần thân của hình tượng, thì tụng lời chú: Thản tỳ đề thản tỳ đề đa đa thản tỳ đề, na la thi đế sa bà ha a a ha kha. Nếu tụng thần chú này đủ một trăm lẻ bốn ngàn biến rồi, thì hình tượng phần thân thành lập đầy đủ. Nếu là trong lúc tạo phần tay, thì lập tức tụng chú: Tra đề tra đề, nẫm đế nẫm đế, thi đà thi đà, na la na la, sa bà ha a a ha a. Nếu tụng thần chú này đủ tám mươi mốt ngàn biến rồi, thì hình tượng tay thành lập đầy đủ. Nếu là trong lúc tạo tác phần chân của hình tượng, thì tụng lời chú: Đa chi đà, đa chi đà, khư chỉ la ma kha ni tra nam thi la la la la la sa bà ha a a ha a. Nếu tụng thần chú này đủ ba mươi hai ngàn biến rồi, thì hình tượng phần chân thành lập đầy đủ. Tạo tác các căn đã xong, thì cần phải lần lượt chú nguyện để gởi gắm vào tâm thức. Nghóa là nêu lên vòng chữ Kiệt Na La gởi gắm vào trong lòng hình tượng, liền tụng lời chú: (Chữ Phạn)… (mười lăm chữ Phạn), (chữ Phạn)… (mười lăm chữ Phạn), (chữ hán)… (mười lăm chữ Phạn), (chữ Phạn)… (mười lăm chữ Phạn), sa bà ha a a ha kha. Nếu tụng thần chú này hai mươi ba ngàn biến xong rồi, thì tâm thức có đủ không có gì không rõ. Đã nói về phần tạo tác hình tượng. Tiếp theo nói về phần tụng kinh. Tướng trạng đó thế nào? Đó là tụng các kinh như kinh Tỳ Xá Xà Ni - kinh A Khư Đa Đà - kinh Ưu Bà La Nhất Thi - kinh Đề Xoa Khư La … Đã nói về phần tạo tác hình tướng Bồ-tát. Tiếp đến nói về phần tạo tác hình tượng Như Lai. Ở trong phần này cũng có sáu phần, nhưng chung và riêng không như nhau. Riêng đó là phần tạo tác hình tượng, chung là năm phần còn lại. Phần tạo tác hình tượng ấy thì tướng trạng đó thế nào? Nghóa là như trước đã nói, trong chín nơi chú nguyện như thứ tự đó đều thêm vào một câu, nếu như chú nguyện gởi gắm vào tâm thì khác với tất cả. Câu chú đã thêm vào ấy có tướng trạng thế nào? Câu chú nói: Na na a na la bà bà di đa đế cưu xa đà ni ma kha thi tra giá sa xà ni chỉ đà đế nan đa đế như ô đề đà đà đế xoa bà ni. Chú nguyện gởi gắm vào tâm thì tướng trạng đó thế nào? Câu chú nói: (Chữ Phạn)… (mười lăm chữ Phạn), (chữ Phạn)… (mười lăm chữ Phạn), (chữ Phạn)… (mười lăm chữ Phạn), (chữ Phạn)… (mười lăm chữ Phạn). Nếu tụng thần chú này đủ mười tám ngàn biến rồi, thì tâm thức có đủ không gì là không rõ. Đã nói về đối tượng được đối trị, tiếp theo nói về chủ thể đối trị. Nếu như vào những lúc nam nữ cõi trời trông có vẻ như trong suốt lạ kỳ đến nơi của hành giả, tà chánh sai biệt làm sao biết được? Những nghi ngờ này do đâu? Do tâm niệm tạp loạn. Nghóa này là thế nào? Đó là trong kinh Vô Lượng Quang Minh giải thích như vầy: “Nếu người tu hành tâm thanh tịnh, thì vô lượng vô biên các Thiên tử, vô lượng vô biên các Thiên nữ, rải các loại hoa thượng diệu, đốt các loại hương nổi tiếng hiện có, trổi lên các loại âm nhạc bậc nhất, bày ra các loại đồ vật trang nghiêm tốt đẹp lạ kỳ, hình dáng rất đáng yêu và rất vui vẻ đến nơi hành giả để cúng dường”. Vì sao? Vì kính trọng pháp tu. Người hàng ngoại đạo kia cũng hiện ra hình dáng chư Thiên, đến nơi của hành giả, như trước đã nói không có khác nhau, sự sai biệt giữa tà và chánh rất khó có thể biết rõ được. Giải thích mối nghi ngờ này có sáu phần. Thế nào là sáu phần? Đó là: Phần thần chú biết căn hư hoại hay bất hoại. Phần vật dụng trang nghiêm châu ngọc trọn vẹn có hay không có. Phần ánh sáng nơi thân mắt nhìn phù hợp hay không phù hợp. Phần cuối đầu tóc kết lại hay không kết lại. Phần rời bỏ cả hai không có gì chấp giữ. Phần cùng giữ lấy không loại trừ. Nói về phần thần chú biết căn hư hoại hay bất hoại, nghóa là tụng Đà-la-ni chú để đối trị, nếu thật sự là chư Thiên thì hình hài đó không hủy hoại, nếu là hình tướng giả chư Thiên thì hình hài thân tướng sẽ hủy hoại không hề có gì. Lấy điều này để phân biệt tà chánh là vậy. Tụng thần chú thì hình tướng đó có tướng trạng thế nào? Nghóa là có hai ý. Thế nào là hai ý? Một là tụng ngoại chú. Hai là tụng nội chú. Lúc tụng ngoại chú, nếu thật sự là chư Thiên thì tăng giảm không có sai khác, nếu giả mạo hình dáng chư Thiên thì tướng trạng các căn đó dần dần tăng thêm. Tướng tụng thần chú như thứ tự đó không thể vượt quá số lượng, vì tụng bình đẳng như lý, lấy điều đó để phân biệt tà chánh đúng như lý. Nói về nội chú thì tướng trạng đó thế nào? Nghóa là tạm thời chú nguyện vào mắt, thì tụng lời chú: Thản điệt đa ma kha cưu thi đế ca na tỳ chỉ đế di đa ni, tư ô bà, tất đà ni, bà thản xa tỳ, kha na đế a chỉ ni ma chỉ ni, đà đà đế sa bà kha đế, ma kha sa bà ha đế sa bà kha. Nếu tụng thần chú này hai mươi mốt biến thì nhãn căn sẽ hủy hoại không hề có gì. Các nơi còn lại đều có thần chú, nhưng không quan trọng nên lược đi không giải thích. Đã nói về phần thần chú biết căn hư hoại hay bất hoại. Tiếp đến nói về phần vật dụng trang nghiêm có châu ngọc tròn hay không có. Tướng trạng đó thế nào? Đó là nếu như thật sự là chư Thiên thì trong đồ dùng trang nhgiêm của họ có mười viên loại ngọc này nếu chư Thiên giả thì không có. Lấy điều đó để phân biệt được thật giả. Đã nói về phần vật dụng trang nghiêm có châu ngọc tròn hay không có. Tiếp theo nói về phần ánh sáng nơi thân mắt nhìn phù hợp hay không phù hợp. Tướng trạng đó thế nào? Nghóa là tạm thời trong lúc hành giả khép mắt, nếu thật sự là chư Thiên thì ánh sáng nơi thân của họ phù hợp với ánh mắt bên trong, nếu giả mạo hình dáng chư Thiên thì không phù hợp với ánh mắt bên trong. Lấy điều này để phân biệt. Đã nói về phần ánh sáng nơi thân mắt nhìn phù hợp hay không phù hợp. Tiếp theo nói về phần cuối đầu tóc kết lại hay không kết lại. Tướng trạng đó thế nào? Nghóa là xem tướng trạng của đầu tóc, nếu thật sự là chư Thiên thì phần cuối của hai bím tóc kết lại với nhau, nếu giả mạo hình dáng chư Thiên thì phần cuối của hai bím tóc tách rời nhau. Lấy điều này để phân biệt thật giả. Đã nói về phần cuối đầu tóc kết lại hay không kết lại. Tiếp theo nói về phần rời bỏ cả hai không có chấp giữ. Tướng trạng đó thế nào? Nghóa là quán sát nếu thật sự là chư Thiên hay là giả mạo hình dáng chư Thiên, chỉ là từ nơi cảnh giới hiện lượng của tâm vọng, không có gì là chân thật, nên không đắm chấp vào đâu cả. Lấy điều này để đối trị lại tâm vọng phân biệt. Đã nói về phần rời bỏ cả hai không có chấp giữ. Tiếp theo nói về phần cùng giữ lấy không loại trừ. Tướng trạng đó thế nào? Nghóa là quán sát nếu thật sự là chư Thiên hay là giả mạo hình dáng chư Thiên, thì đều là cùng một Chân như và cùng một Pháp thân không có sai biệt, nên không đoạn trừ. Lấy điều này để đối trị tâm vọng phân biệt. Đã nói về phần đối trị để loại trừ hình dạng chư Thiên. Tiếp theo nói về phần đối trị hình tượng Bồ-tát. Ở trong phần này có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần trì tụng thần chú biết rõ tà chánh. Hai là phần trí tuệ quán sát không đắm chấp. Nói về phần trì tụng thần chú thì tướng trạng đó thế nào? Nghóa là tạm thời chú nguyện vào tâm tức thì tụng lời chú: Thản a đa na tỳ đề, ma cưu đế bà thi bà bà ni, tư tất đề, xà na na thi ô ma a chỉ đà a chỉ đà sa bà ha. Nếu tụng thần chú này đủ tám trăm mười biến rồi, thì Bồ-tát kia vắng lặng bất động, ví như gỗ đá. Lấy điều này để đối trị. Trong tất cả các căn và đồ dùng trang nghiêm, đều có những thần chú và nhiều phương pháp, nhưng không quan trọng vì thế lược bớt không nói ra. Đã nói về phần trì tụng thần chú biết rõ tà chánh. Tiếp theo nói về phần trí tuệ quán sát về không và có. Tướng đó thế nào? Nghóa là dùng trí tuệ quán sát về lý không - vô tướng của các pháp, do đó không có chấp trước. Đã nói về phần đối trị hình tượng Bồ-tát, tiếp theo nói về phần đối trị hình tượng Như Lai. Tướng trạng đó thế nào? Ở trong phần này cũng có hai phần, tên gọi như trước đã nói. Nói về phần thần chú thì tướng trạng đó thế nào? Nghóa là tạm thời chú nguyện vào ánh sáng, liền tụng lời chú: Đa điệt thản án na la đế, sầm chỉ la, thi đà ni xà kiện ni bà kiện ni ma na gia, ô bà đế, xà ma la sa bà ha. Nếu tụng thần chú này bốn trăm biến, nếu thật là Như Lai thì ánh sáng nơi thân tướng đó sẽ không giảm bớt, nếu giả mạo hình dạng Như Lai thì ánh sáng nơi thân tướng đó sẽ giảm bớt và ngay lập tức trở thành màu sắc u ám. Lấy điều đó phân biệt được thật giả. Phần thứ hai ấy là quán sát đã nói ở trước nên tư duy kỹ! Có người ngoại đạo, tạo tác tất cả các loại khác nhau về chủng loại, đến nơi hành giả làm cho tâm tư của hành giả hỗn loạn, lúc ấy nên trì tụng những thần chú như thế nào? Nghóa là thần chú đều là chung chứ không phải là riêng. Đó là thần chú Đại Đà-la-ni đã thuyết ra trong kinh Như Lai Tổng Trì Pháp Tạng Nhân Duyên. Trong kinh ấy giảng giải như thế nào? Nghóa là trong kinh ấy giải thích như vầy: “Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi liền thưa với Đức Phật: Thưa Thế Tôn! Tất cả các loại đạo tà tương tự, đi đến trú xứ của hành giả, lúc làm cho tâm hành giả rối loạn, trước mắt cần đến những phương pháp như thế nào để loại trừ? Đức Như Lai liền nói cho Văn-thù-sư-lợi biết: Có pháp môn sâu xa, có năng lực khéo đối trị thông suốt tất cả đạo tà, đó gọi là pháp môn Chư Phật Vô Tận Tạng Vô Ngại Tự Tại Ấn Đà La Cương Tùy Thuận Tùy Chuyển Tổng Trì Đại Đà-la-ni. Này Văn- thù-sư-lợi! Hãy lắng nghe kỹ và cố gắng tư duy, Ta sẽ phân biệt giải thích nói cho ông. Này Văn-thù-sư-lợi! Nói là pháp môn Thông Đạt Vô Ngại Tự Tại Tổng Trì Đại Đà-la-ni, là kho tàng quý báu được hết thảy chư Phật khắp ba đời mười phương luôn tụng trì, là ruộng phước bao la của tất cả Thần Vương và tất cả trời người suốt ba đời mười phương thảy đều lễ lạy cúng dường. Thế là Đức Thế Tôn tức thì tụng thần chú: Đát điệt tha, na la thi, già nặc ô đế giá man đa, sa tỳ đề a ha di đà ni, bà già bà thi đế đà đà ô ma lê xà na phiệt ni đế, già thản ni sa da đa, cưu trí na bà đề bà ha ma, y bà đa ni, tỳ thư ha, ô khư đa đà ni thì tập đề, xoa a da, kiện na thi sa bà ha. Nếu tụng thần chú này đủ tám ngàn bảy trăm năm mươi mốt biến rồi, tùy theo những gì thích ứng thì hết thảy chủng loại tà vạy đều lui mất, không thể nào làm cho phiền muộn hỗn loạn được. Như Bổn Luận nói: “Hoặc hiện ra thân tướng chư Thiên - thân tướng Bồ-tát, cũng hiện làm thân tướng Như Lai đầy đủ mọi vẻ đẹp”. Đã nói về phần xuất hiện hình tướng con người làm cho tin theo. Tiếp đến nói về phần xuất hiện giảng nói làm hỗn loạn tâm thức. Ở trong đây có ba phần. Thế nào là ba phần? Một là phần thuyết ra Đà- la-ni. Hai là phần thuyết về nhân tu hành. Ba là phần thuyết về quả đức tròn đầy. Ba cách giảng nói như vậy đều do người nào thuyết giảng? Đó là nếu thân tướng chư Thiên thì phần nhiều thuyết ra các Đà-la-ni. Nếu thân tướng Bồ-tát thì phần nhiều thuyết về nhân thực hành. Nếu thân tướng Như Lai thì phần nhiều thuyết về quả vị công đức. Vì sao? Vì tất cả đều nói những sự chứng đắc của mình làm cho hành giả tin tưởng. Đã thuyết ra Đà-la-ni thì tướng đó thế nào? Nghóa là liên tục phát ra ánh sáng. Vì thế nếu tụng thần chú này thì sẽ có lợi ích gì? Nghóa là nếu tụng thần chú này thì ánh sáng từ thân mình sẽ nối tiếp thân người khác, vì vậy hình tướng chư Thiên đến trong trú xứ của người tu hành, thuyết ra phần Đà-la-ni này đã hoàn tất, hành giả ấy trước đây không có ánh sáng mà hiện tại có ánh sáng, hết sức hoan hỷ nên dấy lên ý niệm như vầy: Nay mình được nhờ năng lực của sự tu hành, trước mắt phát ra ánh sáng thù thắng như vậy. Do đó, làm hỗn loạn chánh hạnh của mình đi vào lưới tà mạng của ngoại đạo. Do nghóa này mà hình tướng chư Thiên ấy thuyết ra môn Đà-la-ni, liền tụng chú: A cú đa ma ma a bà thi, na khư da, ô bà sa ni đế khư gia, a ha di già đế bát đa bà thi ha, phiệt na cưu phiện đế ca ma lê, di xoa di đát ni đà gia đa đà ni, sa bà ha di bà bà bà bà ha di a đa ni sa bà a ha. Nếu tụng thần chú này đủ năm ngàn ba trăm biến rồi, thì ánh sáng tương tục làm thành một, lúc ấy hành giả lập tức tụng lời chú: Thản điệt đa giá man ni, a bà di đà đế, xoa bạt na ni gia ma ô đề, bà khư na la đế tỳ ha ô bạt bạt na đề, đa phiệt đà a ma la sa bà ha. Nếu tụng thần chú này đủ một trăm biến, thì ánh sáng nơi thân kia cắt đứt không còn tỏa ra, cuối cùng không bị làm cho não loạn. Như Bổn Luận nói: “Hoặc thuyết ra các Đà-la-ni”. Đã nói về phần thuyết ra Đà-la-ni. Tiếp theo nói về phần thuyết về nhân tu hành. Phần nói về nhân tu hành tuy có vô lượng, nhưng không ra ngoài sáu loại Ba-la-mật. Vì vậy, hình tướng kia vì người tu hành nói về sáu loại tư lương, làm cho hành giả ấy rối loạn đi vào mạng lưới tà vạy. Người ngoại đạo kia có lợi ích gì khi dấy lên giảng giải như vậy làm cho hành giả rối loạn? Vì hành giả đang tu tập lúc đó ý niệm vui vẻ, đoạn trừ tất cả mọi điều ác, tu dưỡng tất cả mọi điều thiện, nhân hạnh viên mãn không có thiếu sót. Người ngoại đạo kia thị hiện làm người chung tâm tưởng, để khiến rời bỏ chánh đạo hướng đến tà đạo. Như Bổn Luận nói: “Hoặc nói về Bố thí - Trì giới - Nhẫn nhục - Tinh tấn - Thiền định - Trí tuệ”. Đã nói về phần thuyết về nhân tu hành. Tiếp theo nói về phần thuyết ra quả đức tròn đầy. Phần nói về quả viên mãn tuy có vô lượng, nhưng không ra ngoài cảnh giới Niết-bàn tịch tónh. Vì thế, hình tướng ấy nói về công đức của Niết-bàn cho hành giả đang tu tập nghe, khiến hành giả kia hỗn loạn vướng vào lưới tà vạy. Người ngoại đạo kia có ích lợi gì khi giảng giải làm cho hành giả hỗn loạn như vậy? Vì hành giả ấy đang là nhân tu tập với ý niệm hướng đến sẽ chứng quả, do đó ngoại đạo xuất hiện thuyết về quả đức thù thắng mà hành giả mong cầu, có thể làm cho tâm của hành giả kia yêu thích đắm chấp hướng về tà đạo. Như Bổn Luận nói: “Hoặc nói về Bình đẳng - Không - Vô tướng - Vô nguyện - Không oán - Không thân - Không nhân - Không quả, hoàn toàn rỗng lặng là Niết-bàn chân thật”. Đã nói về phần xuất hiện giảng nói làm hỗn loạn ý thức. Tiếp đến nói về phần đạt được trí biết rõ ba đời làm cho người ta mê hoặc. Như vậy, ba trí đạt được thì tất cả tướng trạng đó thế nào? Điều ấy nghóa là nếu đạt được hai trí thông suốt quá khứ vị lai, thì mức thời gian xa nhất biết về cảnh giới của mình là tám vạn kiếp, thời gian gần nhất thì có năng lực dễ thông suốt mọi việc trải qua trong một đời. Như Bổn Luận nói: “Hoặc khiến người biết rõ sự việc túc mạng quá khứ, cũng biết về sự việc của vị lai”. Nói về đạt được trí hiện tại chính là tha tâm trí, đó là có năng lực hiểu rõ các loại tâm tư của người hiện tại. Như Bổn Luận nói: “Đạt được tha tâm trí”. Đã nói về phần đạt được trí biết rõ ba đời làm cho người ta mê hoặc. Tiếp đến nói về phần không xa rời sự ràng buộc của thế gian. Nghóa là người ngoại đạo làm thành tựu một ức bốn vạn sáu ngàn loại biện giải của các luận thuyết thế gian, và mười vạn tám ngàn loại tài năng của các loại hý luận, ràng buộc chúng sanh dừng lại ở thế gian không thể nào thoát ra được. Như Bổn Luận nói: “Biện tài vô ngại, có thể làm cho chúng sanh tham vướng với những điều kiện danh lợi của thế gian”. Đã nói về phần không xa rời sự ràng buộc của thế gian. Tiếp đến nói về phần tánh của tâm thất thường sinh ra rối loạn. Điều đó nghóa là phá hỏng niềm tin kiên cố, mà có thể làm cho tâm tư trở nên thất thường, bỏ mất bước chân tu hành, đoạn tuyệt con đường của sự hướng về hội nhập, dẫn lối đi vào địa phận đạo tà và vô tánh. Như Bổn Luận nói: “Lại làm cho con người sinh ra nhiều tâm ý hay giận hay vui, tính tình không bình thường theo tiêu chuẩn mình vốn có. Hoặc nhiều lòng tham ái - ngủ nhiều - lắm bệnh, tâm tư uể oải lười biếng. Hoặc đột nhiên nổi lên tinh tấn, sau lại dừng bỏ sanh ra không tin tưởng, nhiều nghi ngờ lắm suy nghó, hoặc xả bỏ công hạnh tốt đẹp ban đầu trở lại tu theo những nghiệp hỗn tạp. Hoặc hệ lụy vào các công việc thế gian”. Đã nói về phần tánh của tâm thất thường sinh ra rối loạn. Tiếp đến nói về phần khiến đạt được định tà chứ không phải là định chánh. Nghóa là người ngoại đạo đoạt được hai mươi mốt loại tà Tam muội, làm hành giả đang tu tập trở nên hỗn loạn vướng vào lưới tà đạo. Như Bổn Luận nói: “Cũng có thể làm cho người ta đạt được các Tam muội, tương tự phần nào và đều là những sự chứng đạt của ngoại đạo chứ không phải là Tam muội chân thật. Hoặc trở lại khiến cho người ta có thể một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, cho đến bảy ngày, trú ở trong định có được đồ ăn thức uống thơm ngon rất tự nhiên, thân tâm vui vẻ, thư thái, không đói không khát, làm cho người ta ăn không chừng mực nhiều ít thất thường, nhan sắc thay đổi, tiều tụy”. Đã nói về phần khiến cho đạt được định tà chứ không phải là định chánh. Tiếp đến nói về phần khuyến thỉnh hành giả xa rời tà vạy. Nói đến phần khuyến thỉnh hành giả xa rời tà vạy ấy là khuyến khích tu dưỡng trí tuệ, khéo léo phân biệt để loại trừ các căn bệnh của ngu si, xua sạch mầm mống sai lầm của các tà luận. Như Bổn Luận nói: “Vì nghóa này, hành giả hãy thường xuyên thuận theo trí tuệ quán sát đừng để cho tâm này rơi vào mạng lứơi tà vạy, hãy chịu khó nghó đến chánh pháp, không giữ lấy, không tham đắm thì có thể rời xa những nghiệp chướng này”. Đã nói về phần khuyến thỉnh hành giả xa rời tà vạy. Tiếp đến nói về phần chọn lựa thật - giả khiến cho rõ ràng. Điều ấy có nghóa là tùy thuận ở trong thế gian thì gọi là Tam muội giả, nếu tùy thuận ở trong xuất thế gian thì gọi là Tam muội thật. Hai loại Tam-muội thuận theo biết rõ như vậy. Như Bổn Luận nói: “Nên biết các Tam-muội mà ngoại đạo có được, đều không lìa khỏi tâm ý của kiến ái ngã mạn, vì tham đắm đối với danh lợi và sự cung kính của thế gian. Tam-muội Chân chư thì không trú vào tướng thấy, không trú vào tướng đạt được, thậm chí rời khỏi định cũng không xem thường, do đó tất cả mọi phiền não dần dần ít lại. Nếu các phàm phu không luyện tập pháp Tam-muội này, được đi vào chủng tánh Như Lai, thì thật là điều hết sức phi lý. Vì tu theo các Thiền Tam-muội của thế gian phần lớn dấy lên chấp trước ý vị, đều dựa vào ngã kiến, là thuộc về ba cõi cùng với ngoại đạo như nhau. Nếu như xa rời sự bảo vệ của hàng thiện tri thức, thì sẽ dấy lên cái thấy của ngoại đạo”. Đã nói về phần giải thích rộng ra cách đối trị ma sự. Tiếp theo nói về phần tán thán công đức của Tam muội. Bổn Luận nói: Lại nữa, người tinh tấn cần mẫn chuyên tâm tu học Tam muội này, thì đời hiện tại sẽ được mười điều lợi ích? Đó là: Xứng đáng được chư Phật, Bồ-tát khắp mười phương luôn hộ niệm. Không bị các loại ma quỷ ác độc có thể làm cho sợ hãi. Không bị sự mê hoặc hỗn loạn của chín mươi lăm loại ngoại đạo và quỷ thần tác động. Rời xa sự phỉ báng đối với giáo pháp rất sâu xa và các nghiệp chướng tội lỗi sâu nặng dần dần tiêu trừ. Diệt sạch tất cả mọi nghi ngờ và các loại giác quán xấu ác. Đối với cảnh giới của Như Lai niềm tin được tăng trưởng kiên cố. Rời xa ưu não, ở trong sanh tử dũng mãnh không sợ hãi. Tâm ý nhu hòa xả bỏ tâm kiêu mạn, không bị người khác làm phiền muộn. Tuy chưa đạt được định, nhưng ở vào tất cả mọi lúc - tất cả mọi cảnh giới, vẫn có thể giảm trừ mọi phiền não không vui với thế gian. Nếu đạt được Tam muội thì không bị ngoại duyên tác động - không bị tất cả mọi thứ âm thanh làm cho lay động kinh hãi. Luận giải thích: Ở trong văn này đã có hai phần. Thế nào là hai phần? Một là phần nêu tổng quát. Hai là phần giảng giải phân tán. Nói về phần nêu tổng quát là nêu tổng quát những điều đã nói. Như Bổn Luận nói: “Lại nữa, người tinh tấn cần mẫn chuyên tâm tu học Tam muội này thì đời hiện tại sẽ được mười điều lợi ích?” Ở trong phần giảng giải phân biệt có mười loại công đức thù thắng, căn cứ vào một pháp định chân thật mà được thành tựu. Thế nào là mười loại? Đó là: Công đức bảo vệ che chở, vì luôn được hết thảy vô lượng vô biên chư Phật, Bồ-tát thương tưởng bảo vệ. Như Bổn Luận nói: “ 1.Xứng đáng được chư Phật, Bồ-tát khắp mười phương luôn hộ niệm”. Công đức làm ma sợ hãi, vì có năng lực dễ làm cho tất cả quân ma phải hàng phục. Như Bổn Luận nói: “ 2. Không bị các loại ma quỷ ác độc có thể làm cho sợ hãi”. Công đức phát ra đạo, vì có năng lực dễ dàng thoát khỏi các loại đạo tà của hết thảy ngoại đạo. Như Bổn Luận nói: “ 3.Không bị sự mê hoặc hỗn loạn của chín mươi lăm loại ngoại đạo và quỷ thần tác động”. Công đức xa rời phỉ báng, vì có năng lực dễ rời xa các tội lỗi thuộc loại phỉ báng Đại thừa. Như Bổn Luận nói: “ 4.Rời xa sự phỉ báng đối với giáo pháp rất sâu xa và các nghiệp chướng tội lỗi sâu nặng dần dần tiêu trừ”. Công đức giải quyết nghi ngờ, vì có năng lực dễ dàng quyết định đoạn trừ những nghi ngờ mê hoặc. Như Bổn Luận nói: “ 5.Diệt sạch tất cả mọi nghi ngờ và các loại giác quán xấu ác”. Công đức tin tưởng sâu rộng, vì đối với cảnh giới thù thắng vi diệu khởi tâm vui mừng tin tưởng càng chuyển sang sâu hơn. Như Bổn Luận nói: “ 6. Đối với cảnh giới của Như Lai niềm tin được tăng trưởng kiên cố”. Công đức dũng mãnh, vì duyên với cảnh giới chúng sanh khởi lên tâm từ bi bao la, quy tụ trở thành vạn hạnh không hề lười nhác uể oải. Như Bổn Luận nói: “ 7. Rời xa ưu não, ở trong sanh tử dũng mãnh không sợ hãi”. Công đức vô ngã, vì có năng lực dễ đoạn trừ tất cả các ý niệm dấy lên ngã mạn, đều là ý niệm thanh tịnh hướng về Phật. Như Bổn Luận nói: “ 8.Tâm tư nhu hòa xả bỏ tâm ý kiêu mạn, không bị người khác làm phiền muộn”. Công đức chán ngán xa rời, ở trong những cảnh giới đối với tất cả mọi lúc, tất cả mọi hoàn cảnh, có năng lực dễ loại trừ làm cho các loại phiền não phải hàng phục, không vui với niềm vui trong biển cả sanh tử của thế gian. Như Bổn Luận nói: “ 9.Tuy chưa đạt được định, nhưng ở vào tất cả mọi lúc, tất cả mọi cảnh giới, vẫn có thể giảm trừ mọi phiền não không vui với thế gian”. Công đức tịch tónh, đối với tất cả các cảnh giới phân tán biến động, tâm tư vẫn an trú trong định không có lay động. Như Bổn Luận nói: “ 1 0.Nếu như đạt được Tam-muội thì không bị ngoại duyên tác động, không bị tất cả mọi thứ âm thanh làm cho lay động kinh hãi”. Như thứ tự ấy không hỗn loạn về số lượng, làm cho mặt sóng của tâm dừng lại, hãy xem xét tư duy và chọn lựa!  <卷>QUYỂN 10 Đã nói về phần tán thán công đức của Tam-muội. Tiếp theo nói về phần hai Luân đủ - thiếu, lợi và hại. Bổn Luận nói: “Lại nữa, nếu người nào chỉ tu tập pháp Chỉ, thì tâm trầm hẳn xuống, hoặc sinh ra lười nhác không thích những điều thiện, rời xa tâm đại bi, vì vậy cần phải tu pháp Quán. Tu tập pháp Quán, là hãy quán xét tất cả các pháp hữu vi ở thế gian, không thể dừng lại lâu dài mà thay đổi hủy hoại trong chốc lát, tất cả mọi tâm hành sanh diệt trong từng niệm, vì thế nên đau khổ. Hãy quán xét các pháp đã nghó đến trong quá khứ không chân thực giống như mộng ảo. Hãy quán xét các pháp hiện tại đang nghó đến giống như là ánh chớp. Hãy quán xét các pháp vị lai sẽ nghó đến giống như là mây trôi bỗng nhiên khởi lên. Hãy quán xét tất cả các thân thể sinh ra ở thế gian thảy đều bất tịnh, đủ loại ô uế, không một thứ nào đáng yêu thích. Như vậy, hướng về suy nghó: Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đời kiếp đến nay, đều do vô minh đã huân tập, nên khiến tâm sanh diệt, đã nhận chịu nỗi khổ to lớn của hết thảy thân tâm, hiện tại đã có vô lượng điều bức bách, đời vị lai đau khổ cũng không có gì giới hạn, khó xả bỏ, khó xa rời, lại không hiểu biết. Chúng sanh như vậy thật là đáng thương! Dấy lên tư duy này, lập tức thuận theo, dũng mãnh xây dựng thệ nguyện vó đại, nguyện làm cho tâm mình xa rời mọi lý do phân biệt, khắp mười phương tu hành tất cả các công đức tốt đẹp, tận cùng thời gian vị lai dùng vô lượng phương tiện, cứu độ hết tất cả chúng sanh đang khổ não, khiến đạt được niềm vui Niết-bàn tịch tónh. Vì phát khởi ý nguyện như vậy, nên đối với tất cả mọi lúc, tất cả mọi nơi và hết thảy mọi nghiệp thiện đều tùy theo bản thân mình có thể luôn tu học không rời bỏ, tâm tư không hề lười nhác. Chỉ trừ lúc ngồi chuyên niệm đối với pháp Chỉ, tất cả thời gian còn lại đều đang quán sát điều gì nên làm và không nên làm, hoặc là đi - đứng - nằm - dậy, đều thuận theo Chỉ Quán đồng thời thực hành. Đó là tuy nghó tự tánh của các pháp không sanh, mà lại ngay nơi ấy nghó đến nhân duyên hòa hợp, các báo ứng khổ - vui của nghiệp thiện - ác không sai sót và không hủy hoại. Tuy nghó đến nhân duyên của nghiệp báo thiện ác, cũng chính là nghó tánh chẳng thể nào đạt được. Nếu tu pháp Chỉ, thì đối trị tâm lý chấp trước thế gian của hạng phàm phu, có thể xả bỏ cách nhìn yếu kém của hàng Nhị thừa. Nếu tu pháp Quán, thì đối trị sai lầm do tâm ý hẹp thấp không phát khởi đại bi của hàng Nhị thừa, tách rời hàng phàm phu không tu dưỡng thiện căn. Do nghóa này mà hai pháp Chỉ - Quán luôn cùng nhau tương trợ để thành tựu, không thể rời xa. Nếu Chỉ - Quán không đầy đủ, thì không có năng lực bước vào lối đi về nguồi cội Bồ-đề”. Luận giải thích: Ở trong văn này có sáu phần. Thế nào là sáu phần? Đó là: Phần nêu ra thiếu Quán thì Luân chỉ sai lạc. Phần biểu hiện rõ về tu hành Luân quán. Phần duyên với giới chúng sanh để lập nguyện. Phần hai Luân cùng chuyển tiếp không xa rời. Phần biểu hiện rõ hai Luân đã đối trị. Phần tổng kết hai Luân cùng chuyển tiếp. Ở trong phần thứ nhất có bốn sai lầm. Thế nào là bốn sai lầm? Một là sai lầm do trầm luân, vì tâm tư mê muội chiếm phần lớn nên không thể nhận thức rõ được, như đi vào trong căn nhà tối mịt của Ma-kiện-ha thi. Như Bổn Luận nói: “Lại nữa, nếu người nào chỉ tu tập pháp Chỉ, thì tâm trầm hẳn xuống”. Hai là sai lầm do không chịu khó, vì tâm tư lười nhác nên không thể tinh tấn nổi, như hạng người A-na-tỳ-đề. Như Bổn Luận nói: “Hoặc sinh ra lười nhác”. Ba là sai lầm do rời bỏ điều thiện, vì tâm tư chuyên nhất không thể phân biệt được điều gì nên làm và điều gì không nên làm, như hạng người Bà-đa-ha-di-thi. Như Bổn Luận nói: “Không thích những điều thiện”. Bốn là sai lầm do xa rời tâm bi, vì tâm tư vắng lặng an nhàn không thể phát khởi tâm đại từ bi, giống như người bị hỏng căn thân đối với những ham muốn tự nhiên trong mình lại không phát ra được. Như Bổn Luận nói: “Rời xa tâm đại bi”. Vì vậy cần phải tu pháp Quán, chính là quán sát cùng chuyển hóa cho nhau. Đã nói về phần nêu ra thiếu Quán thì Luân chỉ sai lạc. Tiếp theo nói về phần biểu hiện rõ tu hành Luân quán. Ở đây có ba phần. Thế nào là ba phần? Một là phần quán về tướng khổ. Hai là phần quán về vô thường. Ba là phần quán về bất tịnh. Trong phần quán về tướng khổ thứ nhất có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là hoại khổ. Hai là hành khổ. Nói về hoại khổ, là tất cả pháp thanh tịnh hữu vi, có thể hoại tất cả các pháp không thanh tịnh, tất cả các pháp không thanh tịnh cũng có thể phá hủy tất cả các pháp thanh tịnh. Lại nữa, hai loại thế gian cũng hủy hoại lẫn nhau. Thế nào là hai loại? Đó là: Thế gian đầy đủ tất cả. Thế gian vọng tưởng hữu vi. Như vậy, pháp của hai loại thế gian, cùng hủy hoại lẫn nhau, vì thế nói là hoại khổ. Nếu tu pháp Quán này thì sẽ được lợi ích gì? Điều đó nghóa là thành tựu một pháp rất sâu xa chỉ một mình tự làm. Như Bổn Luận nói: “Tu tập pháp Quán, là hãy quán xét tất cả các pháp hữu vi ở thế gian, không thể dừng lại lâu dài mà thay đổi hủy hoại trong chốc lát”. Nói về hành khổ, là tất cả mọi tâm hành ở trong từng niệm luôn chuyển biến, sanh ra nhanh và diệt cũng rất nhanh, vì không thể nào từ nơi này đến nơi kia được. Như Bổn Luận nói: “Tất cả mọi tâm hành sanh diệt trong từng niệm vì thế nên đau khổ”. Đã nói về phần quán tướng khổ. Tiếp theo nói đến phần quán vô thường. Trong phần này có ba loại. Thế nào là ba loại? Đó là: Vô thường đã qua, là các pháp quá khứ trước có sau không, ví như giấc mộng lúc ngủ say thì có mà lúc tỉnh giấc thì không có gì. Như Bổn Luận nói: “Hãy quán xét các pháp đã nghó đến trong quá khứ không chân thực giống như mộng ảo”. Vô thường nay đang có, là các pháp hiện tại xưa không có mà nay có, ví như ánh chớp ngay lập tức đã diệt không thể dừng lại lâu được. Như Bổn Luận nói: “Hãy quán xét các pháp hiện tại đang nghó đến giống như là ánh chớp”. Vô thường sẽ có, là các pháp vị lai không có tự tánh bỗng nhiên đến, ví như mây trôi không biết từ đâu có, bỗng nhiên nổi lên khắp nơi. Như Bổn Luận nói: “Hãy quán xét các pháp vị lai sẽ nghó đến giống như là mây trôi bỗng nhiên khởi lên”. Đã nói về phần quán vô thường. Tiếp theo nói đến phần quán bất tịnh là duyên với các thân khởi lên hiểu rõ về bất tịnh, để rời bỏ tâm ý tham dục. Như Bổn Luận nói: “Hãy quán xét tất cả các thân thể sinh ra ở thế gian thảy đều bất tịnh, đủ loại ô uế, không một thứ nào đáng yêu thích”. Đã nói phần biểu hiện rõ về tu hành Luân quán. Tiếp theo nói phần duyên với chúng sanh giới để lập nguyện. Phần này có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là phần duyên với chúng sanh khởi lên tư duy. Hai là phần kiến lập thệ nguyện khắp nơi. Nói về phần duyên với chúng sanh dấy lên tư duy, điều ấy có nghóa là duyên với vô lượng vô biên hết thảy chúng sanh trong ba cõi, khởi lên ý niệm như vầy: Từ vô thỉ đến nay, vì bị vô minh căn bản che phủ, nên đi ngược lại và lìa bỏ Phật tánh thanh tịnh cùng Bổn giác vốn có, không biết đến ngày trở về nguồn cội, vượt ra khỏi vòng vây hãm của vô minh thì thời gian lại càng xa rời. Nếu mình không phát khởi tâm bi, không thâu gồm tiếp nhận họ, thì chỉ còn có cách là vượt qua nhiều kiếp số, mong mỏi đạt được quả vị Chánh giác thì thật sự không có cơ hội đó. Vì thế phát khởi tâm đại bi không giới hạn. Như Bổn Luận nói: “Như vậy hướng về suy nghó: Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đời kiếp đến nay, đều vì vô minh huân tập, nên khiến tâm sanh diệt, đã nhận chịu nỗi khổ to lớn của hết thảy thân tâm, hiện tại đã có vô lượng điều bức bách, đời vị lai đau khổ cũng không có giới hạn, khó xả bỏ khó xa rời lại không hiểu biết, chúng sanh như vậy thật là đáng thương”. Nói về phần kiến lập thệ nguyện khắp nơi, là có nghóa khởi lên tư duy như vậy rồi, lập nên thệ nguyện rộng lớn, phát ra ánh sáng trí tuệ soi chiếu vô lượng vô biên thế giới khắp mười phương, thông hiểu các loại tướng tâm trong vô lượng vô biên cảnh giới ấy, đối trị tất cả các phiền não nghiệp chướng trong vô lượng vô biên thế giới khắp mười phương, viên mãn nhân thực hành trong vô lượng vô biên cảnh giới ấy, tất cả đều khiến không sót lại gì. Như Bổn Luận nói: “Khởi lên tư duy này, lập tức thuận theo, dũng mãnh xây dựng thệ nguyện rộng lớn, nguyện làm cho tâm mình xa rời mọi lý do phân biệt, khắp mười phương tu hành tất cả các công đức tốt đẹp, tận cùng thời gian vị lai dùng vô lượng phương tiện, cứu độ tất cả chúng sanh đang khổ não, khiến đạt được niềm vui Niết-bàn đệ nhất nghóa”. Đã nói phần duyên với chúng sanh giới để lập nguyện. Tiếp theo nói phần hai Luân cùng chuyển tiếp không xa rời. Đó là xây dựng thệ nguyện như vậy rồi, thì không ngừng tu tập tất cả mọi nhân thực hành. Nếu như xây dựng thệ nguyện lớn mà không cần mẫn tu hành, thì không có năng lực trang nghiêm cho quả vị được viên mãn. Nếu là tu hành thì nên như thế nào? Nghóa là có đủ hai Luân khiến không thiên lệch. Có đủ tướng trạng hai Luân trong kinh nào biểu hiện rõ điều này? Đó là kinh Văn-thù Sư Lợi Phát Khởi Thập Vạn Nhất Thiên Chủng Thậm Thâm Quảng Đại Viên mãn Đà La Ni Khai Vấn Vấn Đại Giác Tôn Ích Đại Chúng Hải. Trong kinh ấy giải thích như thế nào? Đó là ở trong kinh ấy nói như sau: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Thế nào gọi là Chỉ Quán cùng thực hành không xa rời nhau? Con và hết thảy đại chúng cùng vô lượng vô biên chúng sanh, thảy đều đi vào đại dương vô minh không sao hiểu biết được, không có năng lực thông suốt, không có năng lực rời xa, nếu như thích hợp nguyện xin Thế Tôn vì chúng con và các nam nữ mê muội mong được nghe và hiển thị rõ. Đức Thế Tôn liền nói cho Văn-thù-sư-lợi biết: Hãy lắng nghe kỹ và cố gắng tư duy! Ta sẽ phân biệt giải thích rõ cho ông. Đức Thế Tôn liền nói tụng: Ví như chim thiếu cánh Và xe chỉ một bánh Người đồng phận một chân Ngựa thiếu một mắt thật nguy Không thể bay cao xa Không chuyển được hàng hóa Đi trên mọi nẻo đường Rơi hố hầm tai họa… Nếu đầy đủ mọi Luân Hành giả thiếu một Luân Nên biết cũng như vậy Thật không có điều này Trong hư không pháp tánh Nương Như lượng trí bay Vào đại dương Pháp tạng Chuyên chở báu nghóa lý Nơi đường phẳng chân như Đi lại thông suốt khắp Hết thảy ma, ngoại đạo Trong hầm sâu tà kiến Không lại rơi xuống hố Thế nên các hành giả Hai Luân chuyển đầy đủ Hoàn toàn không lìa bỏ Nếu có người tu hành Không đủ hai Luân này Cuối cùng không thông suốt Đến địa Vô Thượng Giác. Nay văn kinh này là trình bày về nghóa gì? Đó là biểu hiện rõ tu tập Tam-muội đạt được cảnh giới tịch tónh, tu tập trí tuệ chiếu rọi cảnh giới tán động, ở trong tịch tónh luôn không rời bỏ biến động, ở trong tán loạn bình thường không rời bỏ vắng lặng, lại không tách rời nhau vì luôn cùng thực hành cùng chuyển vận. Lại nữa, vì muốn biểu hiện rõ là tu tập Tam-muội đạt được cảnh giới rỗng lặng không có gì, tu tập trí tuệ soi chiếu cảnh giới đang tồn tại, ở trong rỗng lặng không đắm vào có, ở trong có tồn tại không đắm vào “không có”, có và không cùng soi chiếu - không và có nghiêng về một bên, nhưng không tách rời nhau mà cùng thực hành cùng chuyển vận. Lại nữa, vì muốn biểu hiện rõ tu tập Tam-muội đạt được Lý bình đẳng, tu tập trí tuệ soi chiếu Sự sai biệt, Lý và Sự đạt được cả hai không có lệch về bên nào, lại không tách rời nhau để cùng thực hành cùng chuyển vận. Lại nữa, vì muốn biểu hiện rõ Chỉ đang chờ đợi Quán mới có thể kiến lập, chứ không phải là tự tánh Chỉ, Quán phải cần đến Chỉ mới được kiến lập chứ không phải là tự tánh Quán, vì cũng không có Chỉ cũng không có Quán. Lại nữa, vì muốn biểu hiện rõ Chỉ tức là Quán và Quán tức là Chỉ, vì Chỉ và Quán cùng một thể không có sai biệt. Như thứ tự ấy hãy tư duy kỹ để chọn lựa. Như Bổn Luận nói: “Vì phát khởi ý nguyện như vậy, nên đối với tất cả mọi lúc, tất cả mọi nơi và hết thảy mọi nghiệp thiện đều tùy theo bản thân mình có thể luôn tu học không rời bỏ, tâm tư không hề lười nhác. Chỉ trừ lúc ngồi chuyên niệm đối với pháp Chỉ, tất cả thời gian còn lại đều đang quán sát điều gì nên làm và không nên làm, hoặc là đi - đứng - nằm - dậy, đều thuận theo Chỉ Quán đồng thời thực hành. Đó là tuy nghó tự tánh của các pháp không sanh ra, nhưng lại ngay nơi ấy nghó đến nhân duyên hòa hợp thì các báo ứng khổ - vui của nghiệp thiện - ác không sai sót và không hủy hoại. Tuy nghó đến nhân duyên của nghiệp báo thiện ác, cũng chính là nghó tánh chẳng thể nào đạt được”. Đã nói phần hai Luân cùng chuyển tiếp không xa rời. Tiếp đến nói phần biểu hiện rõ hai Luân đã đối tượng đối trị. Nếu như hành giả tu tập pháp Chỉ, trước mắt phải đối trị sai lầm nào? Nghóa là phải đối trị sai lầm đắm chấp vào “có” của phàm phu, và ưa thích “không” của chúng sanh Nhị thừa, cả hai lỗi này đều dứt hẳn. Như Bổn Luận nói: “Nếu tu pháp Chỉ, thì đối trị tâm ý chấp trước thế gian của hạng phàm phu, có thể xả bỏ cách nhìn yếu kém của hàng Nhị thừa”. Nếu hành giả tu tập pháp Quán, trước mắt phải đối trị sai lầm nào? Nghóa là phải đối trị sai lầm vì thấp kém không cứu giúp chúng sanh đau khổ lại còn rời xa tâm đại bi của chúng sanh Nhị thừa, đối trị tâm ý sai lầm do luôn lười nhác lơi lỏng - không thể tinh tấn - không tu các nghiệp thiện, lại vui với nghiệp ác của hạng chúng sanh phàm phu, tất cả đều xa rời. Như Bổn Luận nói: “Nếu tu pháp Quán, thì đối trị sai lầm do tâm ý hẹp kém không phát khởi đại bi của hạng Nhị thừa, xa rời sự không tu dưỡng thiện căn của phàm phu”. Đã nói phần biểu hiện rõ sự đối trị của hai Luân. Tiếp theo nói phần tổng kết hai Luân cùng chuyển tiếp. Điều đó nghóa là tổng kết về sai lầm lớn của hành giả khi tu tập thiếu một trong hai pháp đã nói như trên. Như Bổn Luận nói: “Vì nghóa này mà hai pháp Chỉ - Quán luôn cùng nhau tương trợ để thành tựu, không thể rời xa. Nếu Chỉ - Quán không đầy đủ, thì không có năng lực bước vào lối đi về nguồn cội Bồ- đề”. Đã nói về phần hai Luân đủ, thiếu, lợi và hại. Tiếp theo nói phần khuyến khích hạng kém hướng về đạt được bất thoái. Bổn Luận nói: “Lại nữa, chúng sanh mới học pháp này, mong cầu niềm tin chính đáng nhưng tâm họ yếu kém, vì ở tại thế giới Ta-bà này, tự sợ mình không thể thường xuyên được gặp chư Phật để gần gũi cúng dường, phụng sự các Ngài, sợ hãi cho tín tâm khó có thể thành tựu, ý của họ muốn rút lui. Nên biết Như Lai có phương tiện thù thắng và luôn thâu gồm bảo vệ tín tâm, nghóa là dùng nhân duyên dốc lòng niệm Phật, tùy ý nguyện được sanh đến cõi Phật ở phương khác, thường được thấy Phật và vónh viễn xa rời nẻo ác. Như trong kinh nói: “Nếu người nào dốc lòng niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc Tây Phương, thiện căn đã tu tập hồi hướng nguyện cầu sanh đến thế giới ấy, liền được sanh đến và luôn được thấy Phật nên suốt đời không có tâm ý rút lui. Nếu quán tưởng Pháp thân Chân như của Đức Phật ấy để thường xuyên chăm chỉ tu tập, thì cuối cùng được sanh đến an trú trong chánh định”. Luận giải thích: Trong văn này có bảy phần. Thế nào là bảy phần? Đó là: Phần biểu hiện rõ về người giả định hướng đến. Phần quy y giáo pháp đã học. Phần chán ngán chốn xấu ác làm cho niềm tin thoái lui. Phần phương tiện thù thắng của Như lai. Nhờ uy lực đạt được xứ sở thắng diệu. Đạt được xứ sở tốt đẹp chắc chắn không thoái lui. Phần dẫn ra kinh chứng minh điều mình đã nói. Nói phần biểu hiện rõ về người giả định hướng đến, đó là biểu hiện rõ về bốn loại tâm trước khi đạt đến địa Thập Tín, lại là chúng sanh loại kém không được thăng tiến. Như Bổn Luận nói: “Lại nữa, chúng sanh…”. Nói đến phần quy y giáo pháp đã học, là chúng sanh loại kém ở địa Thập Tín, quy y giáo pháp Đại thừa rất sâu xa không gì cao hơn, mình mới tu tập học hỏi, đó gọi là bậc Thầy của hết thảy chư Phật, ba đời không biến động, bốn tướng không chuyển dời, thường trú tự nhiên trên con đường thênh thang của Địa tiền và Địa thượng. Như Bổn Luận nói: “Mới học pháp này”. Nói đến phần chán ngán chốn xấu ác khiến cho niềm tin thoái lui, là chúng sanh loại kém ở địa Thập Tín, tuy đích thân lắng nghe và tiếp nhận pháp môn rất sâu xa, nhưng tâm tư căn cơ của họ rất thấp kém, sợ hãi hai việc lớn không có năng lực tiến lên được, vì thế muốn rút lui. Thế nào là hai việc lớn? Một là xứ sở cư trú. Hai là duyên tốt. Nói xứ sở cư trú, chính là thế giới Ta Bà này, xứ sở đã thô ác mà chúng sanh lại ô trược tạp loạn, phát khởi tâm tư thanh tịnh để chịu khó tu hành là điều hết sức khó thực hiện. Vì sao? Vì cảnh giới trái ngược hướng vào trong tâm tư, vào tất cả mọi lúc, ở tất cả mọi nơi luôn hiện rõ trước mắt, trong phương diện tiến tâm, không thể lìa bỏ. Nói về duyên tốt, là y báo và chánh báo ô trược hỗn tạp ở tại thế giới này, hết thảy chư Phật xuất thế rất ít, vô lượng Bồ-tát cảm ứng đến thì thời gian rất xa. Chư Phật, Bồ- tát xuất hiện ở thế gian, tùy thuận vào đài gương của tâm tư tình cảm có trong sáng hay không trong sáng. Do nghóa này nên người tu hành không gặp được duyên tố tốt đẹp, hết sức kinh sợ do đó phát ra ý nghó rút lui thôi. Như Bổn Luận nói: “Mong cầu niềm tin chính đáng nhưng tâm của họ yếu kém, vì ở tại thế giới Ta Bà này, tự sợ mình không thể thường xuyên được gặp chư Phật để gần gũi cúng dường, phụng sự các Ngài, sợ hãi cho tín tâm khó có thể thành tựu, ý của họ muốn rút lui”. Nói đến phần phương tiện thù thắng của Như Lai, nghóa là chư Phật Như Lai có đại phương tiện rất sâu xa kỳ diệu không thể nghó bàn, có năng lực dễ dàng thâu tóm bảo vệ tín tâm của người ấy, do đó chuyển sang tiến lên hơn nữa. Thế nào gọi là phương tiện thù thắng vi diệu? Đó là phương tiện chuyên niệm đến Như Lai. Sao nói là chuyên niệm? Nghóa là chuyên chú tâm ý nghó đến các loại y báo - chánh báo ở cõi thanh tịnh phương khác, ý niệm đó nối tiếp nhau khiến không gián đoạn. Như Bổn Luận nói: “Nên biết Như Lai có phương tiện thù thắng và luôn thâu tóm bảo vệ tín tâm, nghóa là dùng nhân duyên dốc lòng niệm Phật”. Nói đến phần nhờ uy lực đạt được xứ sở thắng diệu, là nhờ vào sức phương tiện không thể nghó bàn của các Đức Như Lai, tùy theo những tâm nguyện của mình lập tức được sanh đến cõi an lạc nhiệm mầu. Như Bổn Luận nói: “Tùy ý nguyện được sanh đến cõi Phật ở phương khác”. Nói đến phần đạt được xứ sở tốt đẹp chắc chắn không thoái lui, là sanh đến cõi kia rồi, mắt được thấy hình dáng Như Lai có đủ tướng tốt, tai được nghe Thánh giả thuyết nêu Phạm âm sâu xa vi diệu, vónh viễn xa rời tên gọi đường ác, từ trong định bất động nên biển tâm lắng trong, thân thể sáng ngời, y báo vi diệu, chánh báo thanh tịnh. Như Bổn Luận nói: “Thường được thấy Phật và vónh viễn xa rời nẻo ác”. Nói đến phần dẫn ra kinh chứng minh điều mình đã nói, nghóa là thâu tóm đầy đủ diễn tả về tướng trạng là từ ngữ xác đáng của bản kinh, là văn bản giải thích giúp cho điều mình đã nói. Kinh văn đã dẫn chứng nói về tướng trạng rất rõ, nên không cần phải giải thích lại. Như Bổn Luận nói: “Như trong kinh nói: Nếu người nào dốc lòng niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc Tây Phương, thiện căn đã tu tập hồi hướng nguyện cầu sanh đến thế giới ấy, liền sanh đến và luôn được thấy Phật quyết không có tâm thoái lui. Nếu quán tưởng Pháp thân Chân như của Đức Phật để thường xuyên chăm chỉ tu tập, thì cuối cùng được sanh đến an trú trong chánh định”. Đã nói về phần tín tâm tu hành, tiếp theo nói về phần lợi ích khuyến tu. Bổn Luận nói: Như vậy, Ma-ha-diễn là kho tàng bí mật của chư Phật, tôi đã giới thiệu tổng quát. Nếu chúng sanh nào hy vọng có thể phát sanh niềm tin chân chính đối với cảnh giới rất sâu xa của Như Lai và rời xa sự phỉ báng, tiến vào con đường Đại thừa, thì trước mắt nắm giữ luận nầy làm tư lương để tu tập, kết quả cuối cùng có thể đạt đến đạo quả vô thượng. Nếu người nào nghe pháp này rồi mà không hề khiếp nhược, nên biết người này nhất định kế thừa dòng dõi của Phật, nhất định nhận được sự thọ ký của chư Phật. Giả sử người nào có năng lực cảm hóa chúng sanh trong khắp Tam thiên đại thiên thế giới, khiến cho tất cả đều thực hành mười nghiệp thiện, không bằng có người ở trong khoảng thời gian một bữa ăn suy nghó đích thực về pháp này, và hơn hẳn công đức của người đã nói ở trước, vì công đức này là không thể nào ví dụ được. Vả lại, nếu người nào tiếp nhận giữ gìn luận này và quán sát tu hành, như trong một ngày một đêm thì công đức có được đã vô lượng vô biên không thể nào diễn tả. Dù cho hết thảy chư Phật khắp mười phương, các Ngài đều từ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp khen ngợi công đức của người đó, cũng không thể nào hết được. Tại sao? Vì công đức của pháp tánh không có cùng tận, nên công đức của người này cũng lại như vậy, không có giới hạn. Trái lại, nếu chúng sanh nào đối với luận này khởi lên hủy báng không tin, thì họ phải nhận tội báo, trải qua vô lượng kiếp chịu nỗi khổ đau vô cùng. Vì vậy nên chúng sanh chỉ thuận theo mà tin tưởng ngưỡng mộ chứ không nên phỉ báng! Vì rất có hại cho mình mà cũng làm hại đến người khác, đoạn tuyệt tất cả mọi chủng tử của Tam bảo. Do hết thảy Như Lai đều dựa vào pháp này để đạt đến Niết-bàn, tất cả Bồ-tát nhờ pháp này để tu hành tiến vào Phật trí. Nên biết các vị Bồ-tát trong quá khứ đã dựa vào pháp này mà thành tựu được niềm tin trong sáng. Các vị Bồ-tát hiện tại đang dựa vào pháp này mà thành tựu được niềm tin trong sáng. Các vị Bồ-tát đời vị lai sẽ dựa vào pháp này mà thành tựu được niềm tin trong sáng, vì vậy nên các chúng sanh hãy chịu khó tu học. Luận giải thích: Ở trong văn này có tám phần. Thế nào là tám phần? Đó là: Phần đưa ra tổng kết những gì đã nói ở trước. Phần đưa ra lợi ích khuyên người khiến cho tu học. Phần biểu hiện công đức Tín xa rời nghi ngờ. Phần so sánh đối chiếu, chỉ ra sự hơn hẳn. Phần đưa ra công đức thọ trì để tán dương. Phần đưa ra tội lỗi phỉ báng làm cho sợ hãi. Phần diễn tả rộng sự thù thắng để xa rời phỉ báng. Phần tổng kết về tu hành để khuyến khích mọi người. Nói về phần đưa ra tổng kết những gì đã nói ở trước, nghóa là dùng một chữ Tổng để tổng kết lại tám loại Ma-ha-diễn. Vì sao? Vì pháp còn lại lược bỏ không kết. Điều đó là đưa ra phần gốc để thâu tóm phần ngọn. Như Bổn Luận nói: “Như vậy, Ma-ha-diễn là kho tàng bí mật của chư Phật, tôi đã giới thiệu tổng quát”. Nói về phần đưa ra lợi ích khuyên người khiến tu học, điều ấy có nghóa là tập họp lại làm thành đại dương của nhân thực hành, trang nghiêm cho quả vị của Pháp thân, tiếp nhận giữ gìn luận này để tư duy về nghóa lý, luôn nối tiếp nhau không đoạn tuyệt. Như Bổn Luận nói: “Nếu chúng sanh nào hy vọng có thể phát sanh niềm tin chân chính đối với cảnh giới rất sâu xa của Như Lai và rời xa sự phỉ báng, tiến vào con đường Đại thừa, thì trước mắt nắm giữ luận này làm tư lương tu tập, kết quả cuối cùng có thể đạt đến đạo quả vô thượng”. Nói về phần biểu hiện công đức tín, xa rời nghi ngờ, nghóa là có chúng sanh nghe được pháp môn rộng lớn cùng cực vi diệu, rất sâu xa của tư tưởng Ma-ha-diễn này rồi, thì trong tâm tư của chúng sanh đó cũng không nghi ngờ sợ hãi, cũng không khiếp nhược yếu kém, cũng không khinh thường, cũng không phỉ báng, mà phát tâm quyết định, phát tâm kiên cố, phát tâm tôn trọng, phát tâm ái tín, nên biết người này là Phật tử chân thật, không mất đi chủng tử của Pháp, không mất đi chủng tử của Tăng, không mất đi chủng tử của Phật, luôn tiếp nối nhau và liên tục chuyển hóa tăng thêm hơn nữa tận cùng thời gian vị lai, cũng được chư Phật đích thân thọ ký, cũng được hết thảy vô lượng Bồ-tát quan tâm bảo vệ dẫn dắt. Như Bổn Luận nói: “Nếu người nào nghe pháp này rồi mà không hề khiếp nhược, nên biết người này nhất định kế thừa dòng dõi của Phật, nhất định nhận được sự thọ ký của chư Phật”. Nói về phần so sánh đối chiếu, chỉ ra sự hơn hẳn, nghóa là nếu như người có năng lực khéo léo thâu phục cảm hóa chúng sanh đầy khắp trong Tam thiên đại thiên thế giới, tất cả không sót một chúng sanh nào và đều khiến cho thực hành mười nghiệp thiện, hoặc có chúng sanh ở trong khoảng thời gian một bữa ăn, đối với giáo pháp rất sâu xa này quán sát suy nghó để thực hành. Nếu so sánh mức lượng công đức của hai người ấy, thì người thứ nhất kia đã đạt được công đức rất là bé nhỏ, ví như hạt cải nghiền ra làm thành một trăm mảnh mà lượng công đức kia chỉ bằng một mảnh, công đức của người thứ hai này đã đạt được hết sức rộng lớn, ví như số lượng cát bụi nghiền ra từ thế giới khắp mười phương. Như Bổn Luận nói: “Giả sử người nào có năng lực cảm hóa chúng sanh trong khắp Tam thiên đại thiên thế giới khiến cho tất cả đều thực hành mười nghiệp thiện, không bằng có người ở trong khoảng thời gian một bữa ăn suy nghó đích thực về pháp này, thì hơn hẳn công đức của người đã nói ở trước, vì công đức này không thể nào ví dụ được”. Nói về phần đưa ra công đức thọ trì để tán dương, nghóa là nếu như người nào tiếp nhận giữ gìn luận này để quán sát về nghóa lýù, hoặc một ngày hoặc một đêm, công đức đã đạt được trong thời gian ấy là vô lượng vô biên, không thể diễn tả hết, không thể suy nghó được. Hoặc là giả sử hết thảy chư Phật trong ba đời khắp mười phương, hoặc là tất cả các vị Bồ-tát trong ba đời khắp mười phương, dùng vô lượng vô biên miệng lưỡi trong mười phương thế giới, tất cả các số lượng đều ở tại vô lượng vô biên thế giới mười phương trong đời kiếp không thể nói được, tán dương công đức vốn có của người đó cũng không thể nào hết. Vì sao? Vì công đức của Chân như Pháp thân, sánh bằng hư không thế giới và không hề có giới hạn, huống hồ là người hàng phàm phu, Nhị thừa có thể xưng tán được sao? Người tiếp nhận giữ gìn trong thời gian không hơn một ngày một đêm, công đức đạt được hãy còn không thể nghó bàn, huống hồ là trong hai ngày - hoặc ba ngày - hoặc bốn ngày, cho đến trăm ngày, tiếp nhận giữ gìn, đọc tụng tư duy quán sát, thì thật là không thể nghó bàn trong cảnh giới không thể nghó bàn, không thể diễn tả trong cảnh giới không thể diễn tả. Như Bổn Luận nói: “Vả lại, nếu người nào tiếp nhận giữ gìn luận này và quán sát tu hành, như trong một ngày một đêm thì công đức có được đã vô lượng vô biên không thể nào diễn tả nổi. Dù cho hết thảy chư Phật khắp mười phương, các Ngài đều từ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp khen ngợi công đức của người đó, cũng không thể nào hết được. Tại sao? Vì công đức pháp tánh không có cùng tận, nên công đức của người này cũng lại như vậy, không có giới hạn”. Nói về phần đưa ra tội lỗi phỉ báng làm cho sợ hãi, nghóa là có chúng sanh đối với giáo pháp trong luận này nảy sinh tâm không tin tưởng - phá bỏ bài báng không thực hành, chúng sanh như vậy đã nhận lấy tội báo, ở trong các đời kiếp không thể nói được và không thể nói hết, nhận chịu nỗi khổ to lớn trong bao nỗi khổ. Như Bổn Luận nói: “Trái lại, nếu chúng sanh nào đối với luận này khởi tâm hủy báng không tin, thì họ sẽ mắc phải tội báo, trải qua vô lượng kiếp nhận chịu nỗi khổ đau vô cùng. Vì vậy nên chúng sanh chỉ thuận theo tin tưởng ngưỡng mộ chứ không nên phỉ báng”. Đây chính là tổng kết về phần quyết trạch và khuyến thỉnh hành giả đã nói ở trước. Từ đây trở xuống là làm thành nhân duyên đó, chỉ ra sai lầm ng- hiêm trọng. Nghóa là trong hệ thống giáo pháp Đại thừa này mà phỉ báng không tin, thì mất đi thiện căn của mình và làm hại đến công đức của người, vì đoạn tuyệt tất cả chủng tử của Tam bảo, không có kỳ hạn nối tiếp. Như Bổn Luận nói: “Do rất có hại cho mình mà cũng làm hại đến người khác, đoạn tuyệt tất cả mọi chủng tử của Tam bảo”. Nói về phần diễn tả rộng ra sự thù thắng để xa rời phỉ báng, nghóa là các Đức Như Lai suốt ba đời khắp mười phương, tất cả các Ngài đều lấy Ma-ha-diễn làm căn bản để thành tựu quả vị Chánh giác. Vô lượng Bồ-tát suốt ba đời khắp mười phương, tất cả các vị đều lấy Ma-ha-diễn làm nền tảng chủ yếu để có đủ đại dương nhân hạnh. Như vậy giáo pháp Ma-ha-diễn rất là quan trọng. Nếu chúng sanh nào nảy sanh tâm không tin tưởng, lại tranh luận phỉ báng, thì chúng sanh như vậy cũng gọi là chặt đứt hết thảy chư Phật, cũng gọi là chặt đứt hết thảy Bồ-tát, cũng gọi là đoạn tuyệt Phật tánh của Bổn giác Như Lai tạng nơi mình. Như Bổn Luận nói: “Vì hết thảy Như Lai đều dựa vào pháp này để đạt đến Niết-bàn, tất cả Bồ-tát nhờ pháp này để tu hành tiến vào Phật trí. Nên biết các vị Bồ-tát trong quá khứ đã dựa vào pháp này mà được thành tựu niềm tin trong sáng. Các vị Bồ-tát hiện tại đang dựa vào pháp này mà được thành tựu niềm tin trong sáng. Các vị Bồ-tát đời vị lai sẽ dựa vào pháp này mà được thành tựu niềm tin trong sáng, vì vậy nên các chúng sanh hãy chịu khó tu học”. Đây chính là tổng kết về phần khuyến khích mọi người tu hành, hãy tư duy kỹ để chọn lựa! Đã nói về phần lợi ích khuyến tu, tiếp theo nói về phần hồi hướng khắp nơi. Bổn Luận nói: Chư Phật, nghóa rộng lớn, thâm diệu Con nay theo phần nói Tổng trì Chuyển công đức này như pháp tánh Lợi khắp tất cả cõi chúng sinh. Luận giải thích: Trong tụng này có ba phần riêng. Thế nào gọi là ba phần riêng? Đó là: Phần tổng kết thâu tóm những điều đã nói ở trước. Phần triển khai công đức khiến được mở rộng. Phần lợi ích cho tất cả chúng sanh khắp nơi. Trong phần thứ nhất có hai loại. Thế nào là hai loại? Một là phần thâu tóm tổng quát tất cả những điều đã nói ở trước. Hai là biểu hiện rõ tướng trạng của chữ Năng thuyết (chủ thể giảng nói). Như thứ tự ấy nên quán sát kỹ. “Chư Phật nghóa rộng lớn thâm diệu”: Chính là phần thâu tóm tổng quát tất cả những điều đã nói ở trước. Đó là thâu gồm tất cả ba mươi ba loại pháp số căn bản. Nghóa này là thế nào? Đó là nói đến chư Phật, chính là giáo pháp Ma-ha-diễn bất nhị. Vì sao? Vì pháp bất nhị này biểu hiện từ công đức thù thắng của chư Phật. Trong kinh Đại Bổn Hoa Nghiêm giải thích như vầy: “Đại dương công đức tròn đầy mênh mông ấy là vẻ đẹp của chư Phật, vì hết thảy chư Phật không thể nào thành tựu đại dương mênh mông tròn đầy những nét xấu kém”. Nếu như vậy, tại sao trong kinh Phân Lưu Hoa Nghiêm lại giải thích như thế này: “Phật Lô Xá Na dùng ba loại thế gian làm thân tâm của mình”. Ba loại thế gian thâu tóm không bỏ sót pháp nào, thân tâm của Phật ấy lại cũng không gì là không thâu tóm được. Phật Lô Xá Na tuy là thâu tóm ba loại thế gian, nhưng thâu cái không thể thâu tóm, vì vậy không có gì sai trái. Nói đến thâm diệu, tức là hai tầng tám loại pháp căn bản của Ma-ha-diễn. Vì nghóa gì mà gọi là thâm diệu? Hai tầng pháp Ma- ha-diễn như vậy, có năng lực tìm được lối vào hướng về nơi tận cùng sâu xa. Do nghóa này nên gọi là thâm diệu. Hãy tư duy kỹ để chọn lựa! Nói đến nghóa rộng lớnchính là hai tầng pháp có năng lực tìm được lối vào. Vì nghóa này nên gọi là nghóa rộng lớn. Như vậy, hai tầng pháp có năng lực tìm được lối vào, tất cả đều có năng lực mở rộng pháp của mình, có năng lực phát triển pháp của mình, có năng lực tiến hành pháp của mình để tạo thành danh nghóa. Do nghóa ấy nên kiến lập tên gọi là nghóa rộng lớn. Đã nói phần tổng quát thâu gồm tất cả những điều đã nói ở trước. Tiếp đến nói về phần biểu hiện rõ tướng trạng của chữ Năng thuyết. Nói “Con nay theo phần nói Tổng trì”, chính là phần biểu hiện rõ tướng trạng của chữ Năng thuyết. Điều đó là dùng chữ tổng để giữ lấy toàn bộ tất cả các loại đã nói, nên trong phần lập nghóa thì Ma-ha-diễn là tổng, chính là điều này. Tại sao chỉ một chữ mà thâu tóm thông suốt các giáo thuyết? Vì muốn biểu hiện rõ bộ luận Ma-ha-diễn là Luận Như Ý. Đã nói phần tổng kết thâu tóm những điều đã nói ở trước. Tiếp theo nói phần triển khai công đức khiến mở rộng. Nói “Chuyển công đức này như pháp tánh”, chính là phần triển khai công đức khiến mở rộng. Đó là công đức của mình đã làm ra hồi hướng khắp ba nơi. Thế nào là ba nơi? Một là Chân như. Hai là Nhất tâm pháp. Ba là Phật tánh của Bổn giác. Do nghóa gì mà hồi hướng khắp ba nơi? Đó là mong muốn công đức mình đã tạo ra khiến được bình đẳng, vì thế hồi hướng đến Chân như. Hoặc vì mong muốn công đức mình đã tạo làm cho rộng lớn vì thế hồi hướng về Nhất tâm. Hoặc vì mong muốn công đức mình đã tạo làm cho rõ, vì thế hồi hướng về Bổn giác. Hãy nhận biết như vậy! Hãy quán tưởng như vậy! Hồi hướng như thế có lợi ích gì? Có rất nhiều lợi ích. Nghóa nầy là thế nào? Ví như lấy một hạt bụi nhỏ đặt vào giữa mặt đất, hạt bụi nhỏ đã đặt vào cùng với mặt đất kia như nhau không có sai biệt. Pháp môn hồi hướng cũng như vậy. Lại nữa, ví như lấy một giọt nước nhỏ vào trong biển lớn, giọt nước đã nhỏ vào cùng với biển lớn kia bình đẳng, không có sai biệt. Pháp môn hồi hướng cũng hoàn toàn như vậy. Lại nữa, ví như đập bỏ một cái gì tồn tại nhỏ bé, thì ngay lập tức cùng với bầu hư không bao la bình đẳng chẳng hề sai biệt. Pháp môn hồi hướng cũng như vậy và luôn như vậy. Đã nói về phần triển khai công đức khiến rộng. Tiếp theo nói về phần lợi ích cho tất cả chúng sanh khắp nơi. Nói “Lợi khắp tất cả cõi chúng sinh”, chính là phần tạo lợi ích cho tất cả chúng sanh khắp nơi. Đó là đề cao công đức rộng lớn viên mãn để làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh khắp nơi. Đại só hoan hỷ dốc hết lòng khuyên nhủ Trong vô lượng vô biên các chúng Phật tử Con đã vượt lên trên chúng sanh ba cõi Vượt qua bốn gốc rễ của dòng tử sanh. Vô số kiếp thứ nhất thô thiển đã hết Tăng kỳ kiếp thứ hai mới vào không có Như thích hợp thì những Phật tử các người Dùng hai tay bên trái bên phải của mình Nâng cao đài gương sáng của bản giải thích Theo dõi diện mạo dong ruổi của bảy thức Trông thấy cáu bẩn của cảnh giới sáu Trần Trừ bỏ sai lầm của pháp chấp nhân ngã. Phật tử các người nếu có thể như vậy Thì ba thân Pháp - Báo - Ứng hóa hiện bày Như dãn bớt chữ Y trước mắt đầy đủ Bốn phẩm đức Thường lạc ngã tịnh diệu kỳ. Như vào hồ A-nậu-đạt có sinh ra Con từ xứ sở Tứ Vương Thiên tự tại Bước xuống đi vào cung điện Đại Long Vương Tùy từng phần nhìn trộm biển lớn các kinh. Toàn bộ có một trăm chữ số Lạc xoa Các kinh như vậy đều là pháp chân thật Nghóa lý sai biệt có vô lượng vô biên Trong phần Lập nghóa của Luận Ma-ha-diễn Nói thâu tóm trọn vẹn an lập đầy đủ Có người thiện nam hay người thiện nữ nào Nếu như tự tay mình nâng quyển luận này Gọi là người nâng kinh trăm số Lạc xoa. Nếu như tự miệng tụng kinh làm bổn phận Gọi là người tụng kinh trăm số Lạc xoa Công đức của người này đã được sanh ra Bằng số vi trần khắp thế giới mười phương. Chư Phật cùng với các chúng đại Bồ-tát Đều hiện ra tướng lưỡi như số vi trần Trong vô lượng vô biên số kiếp như vậy Không ngừng khen ngợi nhưng không sao hết được. Huống hồ là quán sát về nghóa lý đó Tư duy những gì đã giải thích ở văn Có người thiện nam hay người thiện nữ nào Tâm sinh không tin và phỉ báng luận này Tội lỗi nghiệp báo của người ấy phải nhận Bằng số vi trần khắp thế giới mười phương Chư Phật cùng với các chúng đại Bồ-tát Đều hiện ra tướng lưỡi như số vi trần Trong vô lượng vô biên số kiếp như vậy Không ngừng nói tội lỗi nhưng không hết được Người này không nơi nào diệt được tội lỗi Hết thảy chư Phật không làm sao cứu được Vì vậy hành giả trở về với cội nguồn Hãy dựa vào luận này thuận theo tu hành Thật sự không được nảy sanh tâm không tin Phỉ báng giáo pháp Đại thừa rất sâu xa Hãy nguyện cầu lời khuyên này truyền khắp nơi Vượt qua lớp lớp không ranh giới thời gian. 