<經 id="n1656">LUẬN BẢO HÀNH VƯƠNG CHÁNH HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1656 LUẬN BẢO HÀNH VƯƠNG CHÁNH Hán dịch: Đời Trần Tam Tạng Chân Đế. Phẩm Thứ Nhất: AN LẠC GIẢI THOÁT Giải thoát tất cả chướng Đức viên mãn trang nghiêm Lạy bậc Nhất thiết trí Bạn lành của chúng sinh Chánh pháp quyết định thiện. Đại vương yêu quý pháp, Nên nay Tôi sẽ nói: Nhờ pháp chảy vào bình, Bình như người chứa pháp (Pháp khí) Vậy trước nói nhân lạc (an lạc) Sau luận về giải thoát Chúng sinh an lạc trước Rồi sau được giải thoát Thiện đạo đủ là lạc (an lạc) Giải thoát là hết Hoặc (phiền não) Tóm lược hai nhân này Chỉ là căn tín, trí (Tín căn, Tuệ căn) Do tín, thường trì pháp Do trí hiểu như thật Trong đó trí trên hết Trước nhờ tin phát hành Do sợ tham, sân, si, Mà chẳng thường hoại pháp, Biết đó là có tin. Vui, an lành là khí, Do luôn chọn lựa kỹ Nên nghiệp thân, khẩu, ý Thường lợi ích mình, người Đây là người có trí. Sát sinh, trộm, tà dâm Nói dối, nói hai lưỡi Chửi mắng, chẳng đúng lời Tham, sân và tà kiến Đây gọi là Mười ác Trái lại là Mười thiện Bỏ rượu, thân trong sạch, Không não tâm bố thí, Cúng dường người đáng kính Nói lược pháp nên vậy. Nếu chỉ hành khổ hạnh Trọn chẳng sinh pháp thiện Do lìa trí và bi Nên chỉ có khổ hạnh Chẳng thể trừ tổn hại, Lợi ích cứu giúp người. Thí, giới như đã nói, Là đại lộ chánh pháp. Nếu bỏ, hành tà đạo Tự chuốc khổ, trâu đày. Sinh tử ấy mênh mông, Không cơm, nước, bóng cây Hoặc bị sói ăn thịt Cứ đi hoài trong đó Sát sinh nên yểu mạng Khổ não và bịnh nhiều Vì trộm nên nghèo túng Chiếm đoạt, nên nhiều oán Nói dối bị phỉ báng Hai lưỡi, (nên) xa người thân Ác khẩu, (nên) nghe không ưa Thêu dệt, người ta ghét Tham tổn hại ước mong, Sân hận, thường khiếp sợ Tà kiến sinh thiên chấp Uống rượu, (nên) tâm mê loạn Không bố thí: (nên) nghèo cùng Tà mạng: (nên) bị lừa dối Chẳng kính nên ti tiện Ganh ghét: (nên) không uy đức Thường hận: (nên) mặt mày xấu Chẳng học nên ngu si Báo này trong loài người Trước đã vào đường ác Những tội như sát sinh Quả báo như đã nói. Những nghiệp như vô tham … Đây là tập nhân thiện Làm ác và chịu khổ Đều do tà pháp sinh Mọi an lạc Thiện đạo Đều từ pháp thiện khởi Thường lìa tất cả ác Thường làm tất cả thiện Từ nghiệp thân, khẩu ý, Phải biết hai pháp này Pháp đầu thường ra khỏi Bốn đường như địa ngục Pháp thứ hai thọ nhận Giàu vui, vua trời người Nếu an trụ Phạm thiên Được cái vui cõi ấy. Nói lược tên nhân vui, Và quả vui như thế. Lại nữa pháp giải thoát Vi tế rất khó thấy Phàm phu không từng nghe Nghe ắt sinh hoảng sợ Hiện đời ngã đã không Vị lai không ngã sở Phàm phu nghe liền sợ Người trí dứt hết sợ Thế gian sinh ngã kiến Chấp trói buộc việc, người Phật vì chứng được đạo Thương xót nói họ nghe Ngã, ngã sở có ấy Cả hai đều hư dối Do thấy như thật lý Hai chấp chẳng còn sinh Các ấm, ngã chấp sinh Ngã chấp vốn không thật Nếu chủng tử không thật Mầm ấy làm sao chân Nếu thấy ấm không thật Thì ngã kiến chẳng sinh Do ngã kiến diệt hết Các ấm chẳng sinh nữa Như nhìn vào gương sạch Thấy được khuôn mặt mình Hình ấy tuy thấy được Nhưng vốn không phải thật Ngã kiến cũng như vậy Nhờ ấm được hiển hiện Như thật giữ, chẳng có Giống như bóng trong gương Nếu người chẳng cầm gương Thì không thấy bóng mình Nên nếu phân tích ấm Thì chẳng có ngã kiến Nhân nghe nghóa thế này Nên Phật khiến A nan Liền được mắt thanh tịnh Thường vì người diễn nói Nếu như còn chấp ấm Thì ngã kiến còn hoài Bởi vì có ngã kiến Nên có Nghiệp, Hữu mãi Ba phần vòng sinh tử Không đầu, giữa, cuối chuyển Chẳng khác vòng tròn lửa Sống chết cứ vần xoay Lại tự mình và người Ba đời chẳng thật có Chứng được ngã kiến diệt Và nghiệp báo cũng thế Thấy nhân quả như vậy Sinh và diệt đều hết Nên không chấp thật có Có, không của thế gian Người ngu nghe pháp này Có thể dứt các khổ Do vô trí nên sợ Những nơi không sợ hãi Niết Bàn không như vầy Vì sao ông hoảng sợ? Kỳ thật nó rỗng lặng Vì sao khiến ông sợ? Giải thoát không ngã, ấm Nếu ông ưa pháp này Xả ngã và các ấm Vì sao ông chẳng vui Không chẳng phải Niết bàn Huống gì cho là có Chấp có, không đều tịnh Phật gọi là Niết Bàn Nếu lược nói tà kiến Tức bác không nhân quả Nó khiến phước chẳng có Cõi ác nhân nặng nhất Nếu lược nói chính kiến Tức tin có nhân quả Thường làm phước đức đầy Cõi thiện nhân tối thượng Có trí bặt có, không Vượt khỏi phước chẳng phước Nên lìa đường thiện, ác Phật gọi là giải thoát Nếu thấy Sinh có nhân Người trí xả chấp “Không” Vì thấy Diệt cùng nhân Nên xả bỏ chấp “có” Hai nhân câu sanh trước Thật nghóa thì không nhân Giả danh, không chỗ tựa Nên sinh chẳng phải thật Nếu đây có kia có Như có ngắn và dài Đây sinh nên kia sinh Như đèn có ánh sáng Trước dài, sau thành ngắn Nếu không, chẳng phải tính Do ánh sáng chẳng sinh Đèn cũng chẳng thật có Như vậy, nhân quả sinh Thấy thì, chẳng chấp “không” Thế gian đã tin thật, là do tâm loạn sinh. Thấy diệt, chẳng hư dối thì chứng đắc Chân như Bởi vậy chẳng chấp “có” Chẳng nương hai, giải thoát, Sắc là thấy từ xa Nếu gần rất rõ ràng Bóng nước nếu thật có Sao đến gần không thấy Nếu không có thật trí Liền thấy có thế gian Chứng thật thì chẳng thấy Không tướng, như hươu khát Nhìn dợn nắng tưởng nước Chẳng phải nước, vật thật Như vậy, ấm giống người Chẳng phải người, pháp thật Hươu khát chấp là nước Chạy đến kia để uống. Không mà chấp có nước Người ngu si như đây, Thế gian như hươu khát. Nếu chấp thật có, không Đây chính là vô minh Ngu nên không giải thoát Chấp “không”, đọa đường ác Chấp “có”, sinh nẻo thiện Nếu thường biết như thật, Nương chẳng hai, giải thoát Chẳng ưa chấp có, không Nhờ chọn nghóa chân thật Nếu rơi vào chấp “không” Sao không nói đọa “có” Nếu nói do phá “có” Nghó phải đến đọa “không” Như đây phá chấp “không” Sao chẳng rơi vào “có”? Không nói, làm, khởi tâm Vì nương vào Bồ đề Nếu nói rơi vào “không” Tại sao chẳng rơi “có” Tăng khư, Tỳ Thế sư Ni kiền nói người, ấm Đứng về đời hỏi rằng Nếu nói tội có, không Không thể gọi là pháp Do vì tội có, không Ông phải biết thật sâu Phật dạy rất rõ ràng Hiểu rõ không đến, đi Một niệm cũng chẳng trụ Hiểu được tội ba đời Đời nào là có thật? Hai đời không đến, đi Hiện tại cũng chẳng trụ Đời sinh trụ và diệt Đây nói gì là thật? Nếu thường bị đổi thay Pháp nào niệm chẳng diệt Nếu niệm niệm không diệt Tại sao có đổi thay? Nếu nói niệm niệm diệt Tức tất cả đều diệt Chẳng cùng phải chứng kiến Cả hai đều không đúng Nếu niệm, diệt đều hết Tại sao có vật cũ? Nếu thật niệm không diệt Vật cũ tại sao thành Như sát na sau cùng Khoảng trước đó vẫn có Sát na có ba phần Nên đời, niệm không trụ Một niệm có ba khoảng Phải lựa khoảng mà niệm Ba khoảng trước, giữa, sau Chẳng do tự, tha thành Chẳng phải một, nhiều phần Không phần làm sao có Lìa một, nhiều thì sao? Lìa có, pháp nào không Do diệt và đối trị Nếu nói có thành không Không này và đối trị Pháp nào còn có, không Bởi vậy đời, Niết Bàn Do nghóa chẳng thành có Thế gian có đời sau? Ai hỏi, Phật im lặng Vì Nhất thiết trí tôn (tôn kính) Chỉ người trí biết Phật Do đó pháp sâu xa Chẳng nói hạng không trí (phi pháp khí) Như pháp giải thoát này Sâu xa không nắm được Nhất thiết trí chư Phật Nói pháp không chỗ nương Pháp không nương chấp ấy Vượt hai biên “có, không” Người đời ưa nương, chấp, Do ngu nên sợ mất: Mất tự minh, hoại người Hoảng sợ, không chỗ nương Mong Vua chẳng động tâm Đừng do tự hoại kia. Nay tôi nói chân lý Để ông thành chẳng hoại. Do nương không điên đảo Lìa hai chấp có, không Vượt qua, phước, phi phước Nghóa sâu xa tỏ rõ Chẳng thân kiến, sợ “không” Sẽ nói người và cảnh Bốn đại và không, thức Tụ lại chẳng phải người Lìa, hợp chẳng phải người Tại sao chấp có người Sáu giới chẳng phải người Tụ nên giả không thật Mỗi mỗi cõi đều vậy Do tụ nên chẳng thật Ấm không ngã, ngã sở Lìa ấm, chẳng thấy ngã Nếu củi không bén lửa Nương đâu ấm thành ngã Địa giới chẳng ba đại, Trong địa không có ba Trong ba cũng không địa Lìa nhau thì chẳng thành Địa, thủy, hỏa, phong đại Tự tánh riêng không thành Lìa một, chẳng thành ba Ba lìa một cũng vậy Một ba và ba một Nếu lìa nhau chẳng thành Mỗi mỗi tự chẳng thành Còn lìa thì thế nào? Nếu lìa mà tự thành Lìa củi sao không lửa Động, ngại và tích tụ Nước, gió, đất cũng vậy. Nếu lửa chẳng tự thành Ba làm sao đứng riêng Nghóa duyên sinh ba đại Chống nhau làm sao thành Nếu mỗi đại tự thành Tại sao cùng nhau có? Nếu nó chẳng tự thành Tại sao hợp thành có? Nếu nói chẳng lìa nhau Các đại tự nó thành Chẳng lìa thì chẳng chung Nếu lìa chẳng thành riêng Các đại chẳng tự thành Tại sao tính tướng khác? Tự thành chẳng riêng nhiều Nên tướng là giả danh Sắc, thanh, hương, vị, xúc Lựa chọn nghóa như đại Nhãn, sắc, thức, vô minh Nghiệp sinh chọn cũng vậy Tác giả, nghiệp và sự Hợp thành nhân quả, đời Ngắn, dài, và danh, tưởng Chẳng tưởng chọn cũng vậy. Đất, nước, gió và lửa Ngắn dài cùng nhỏ lớn Nào thiện, ác, thức, trí Trong trí diệt không sót Như Thức xứ vô hình Vô biên, hiện bày khắp Trong đây nào đất, nước… Tất cả đều diệt sạch Ngay trí vô tướng này Ngắn, dài, nghiệp thiện, ác Danh, sắc và các ấm Đều diệt sạch không còn Như đây… đối với thức Do vô minh có trước Từ thức nếu khởi trí Thì sau thức … đều dứt Các pháp đời như thế Lửa thức, đốt cháy củi Do thật lường lửa sáng Thức đời củi cháy hết Do ngu thấy có, không Sau lựa chọn Chân như Tìm có đã không được Thì làm sao được không? Từ không sắc mà thành “Không” chỉ là danh tự Lìa đại, gì là sắc Nên sắc chỉ là danh Thọ, tưởng, hành và thức Tư duy như bốn đại Bốn đại rỗng như ngã Sáu giới chẳng người pháp. ----------------- Phẩm Thứ Hai: TẠP Như lột dần cây chuối Cuối cùng chẳng có gì Dựa sáu giới phân tích Rỗng không cũng như thế Do vậy Phật chính nói Tất cả pháp vô ngã Sáu giới gọi là pháp Nhưng rõ ràng vô ngã. Hai nghóa ngã, vô ngã Thật chẳng nắm bắt được Nên Như Lai ngăn ngừa Hai biên ngã, vô ngã Thấy, nghe, hiểu, biết, nói Phật nêu: đều không thật Hai tướng đối đãi thành Cả hai như thật không. Như thật nắm thế gian Vượt thật cũng vượt giả Thì thế gian nương thật Nên rơi vào “có, không” Nếu pháp chẳng như vậy Thì tại sao Phật nói Hữu biên và vô biên Có hai và không hai. Phật quá khứ vô lượng Nay, sau cũng vô số Nhiều hơn cả chúng sinh Ba đời do Phật hiển Thế gian không lâu dài Đứng về đời mà nói Thế gian vượt có, không Sao Phật nói biên hạn Pháp sâu xa như vậy Chẳng nói phàm phu nghe Nói đời như huyễn hóa Là Phật phương tiện dạy Ví như hình huyễn hóa Sinh diệt vẫn thấy được Hình này và sinh diệt Nghóa thật nắm chẳng có. Thế gian như huyễn hóa Sinh diệt có thể thấy Thế gian và sinh diệt Về thật nghóa đều hư Hình huyễn chẳng hề có Nơi đến và nơi đi Chỉ tâm chúng sinh mê, Do thật có chẳng trụ. Đời vốn vượt ba đời Nếu vậy đời nào thật Lìa ngôn thuyết, có không “Có, không” thật không nghóa Phật dựa nơi Tứ cú Chẳng hề nói thế gian Do có, không đều dối Dối này chẳng hề dối. Tướng bất tịnh thân này Cảnh giới trí thô chứng Thường thường nhìn thấy được Còn chẳng trụ nơi tâm Huống chính pháp vi tế! Sâu xa không chỗ nương Tán tâm làm sao chứng Làm sao vào dễ dàng Nên Phật mới thành đạo Liền muốn nhập Niết Bàn. Do thấy chính pháp này Sâu xa thật khó hiểu. Nếu chẳng hiểu đúng pháp Là làm hại người ngu Do không nắm như vậy Rơi vào hố tà kiến Người biết pháp không rõ Tự cao khinh thường pháp. Hủy báng hoại thân mình Cuối cùng vào Địa ngục Ví như thức ăn ngon Ăn nhiều sẽ nguy hại Nếu như ăn vừa phải Khỏe mạnh, vui, sống lâu Nếu chỉ hiểu chính pháp Gặp khổ cũng như vậy. Nếu thường hiểu như lý An lạc và Bồ đề Người trí đối chính pháp Lìa hủy báng tà chấp Từ chánh trí khởi dụng Nên thành việc như ý Do chẳng hiểu pháp này Con người khởi ngã kiến. Vì thế tạo ba nghiệp Sinh vào đường thiện, ác Cho đến chưa chứng pháp Thường trừ diệt ngã kiến Thường kính, khởi chánh cần Tu giới, thí nhẫn nhục … Làm việc, pháp đứng đầu Rồi đến khoảng giữa, sau. Chân lý không luống dối Nay sau chẳng trầm luân Hiện đời được tiếng thơm Vui, chết không hoảng sợ Đời sau được giàu vui Nên thường cung kính pháp Chỉ pháp là đường chính Nếu thiên hạ ưa pháp. Nhà vua theo lòng dân Nay, sau chẳng bị lừa Dùng tà pháp trị dân Vua bị dân chán ghét Vì thế gian oán ghét Nay, sau chẳng an vui Phép vua lừa dối người Là nạn lớn cõi ác. Trí ác và mạng tà Làm sao gọi là chính Nếu người chuyên lừa người Sao gọi là việc chính Bởi vậy nên muôn đời Thường bị người lừa dối Làm người ta oán, lo Là đánh mất đức mình. Do chỉ biết lợi minh Nên khiến oán, buồn, não Bố thí và ái ngữ Lợi hành và đồng sự Lấy đó mà trị đời Là hoằng dương chính pháp Một lời thật của vua Như muôn dân tin chắc. Trọng vọng ngữ như vầy Đừng để người tin dối Nói thật ý không trái Đẹp lòng thường lợi người Đây gọi là nói thật Trái lại là nói dối Như bỏ tiền và trí Như giấu kín lỗi vua. Như vậy, vua gian lận Hại cả đức độ mình Nếu vua dứt việc xấu Đức cao, người yêu kính Bởi vậy dạy minh quân Nên ưa việc vắng lặng Nhờ trí, vua khó động Tự rõ chẳng tin người. Trọn không bị lừa dối Nên quyết phải tu trí Nương đế bỏ trí tónh Thì vua đủ bốn thiện Như chính pháp bốn đức Trời người đều tán dương Điều phục nói thanh tịnh Do Bi, Trí không nhiễm. Thường ở cùng người trí Trí pháp vua tăng trưởng Thuyết thiện người kháo được Nghe lời thiện cũng khó Người thứ ba tối thắng Thường mau hành giáo thiện Nếu thiện không như ái Biết rồi phải tu mau Như vị thuốc tuy đắng Vì bệnh phải uống vào Ngôi vua thọ, không bịnh Thường nhớ nghó vô thường. Kế sinh tâm chán sợ Sau, chuyên tâm tu tập Thấy nhất định phải chết Chết do ác kiến khổ Người trí hiện tại vui, Nên chẳng tạo tội lỗi Thoạt thấy thì không sợ Thấy rồi sau mới sợ Nếu một niệm tâm an Niệm sau sao chẳng sợ Uống rượu bị người khinh Hư việc hại sức khỏe Si mê tạo tội lỗi Nên người trí bỏ rượu Những thứ vui cờ bạc Sinh tham sân dối lừa Ác khẩu và nói dối Nên cần phải rời xa Dâm dục sinh lỗi lầm Vì nghó thân nữ sạch Tìm xét trong thân nữ Thật chẳng mảy may sạch Miệng chứa đầy đờm dãi Răng, lưỡi dơ, hôi hám. Mũi hôi, nước mũi chảy Mắt ghèn, chảy nước mắt Bụng ruột đầy phẩn tiểu Xương thịt hợp thành hình Người ngu, do không thấy Nên mê đắm thân này Các căn rất ô uế Là nhân thân chán ghét. Trong ấy nếu sinh ái Thì làm sao lìa dục Ví như đồ phẩn tiểu Heo thích đùa trong đó Cửa bất tịnh của thân Đa dục đùa cũng vậy Sở dó cửa này sinh Vì bỏ thân, cõi dơ. Người mê, chấp tà ái Chẳng nhìn lại thân mình Ông tự thấy một phần Nào phẩn tiểu chẳng sạch Tụ lại gọi là thân Vì sao ông ưa đắm. Đỏ, trắng là giống sinh Nước dơ nuôi dưỡng nó. Nếu biết thân chẳng sạch Cớ sao sinh đắm ưa Khối dơ, thật đáng ghét Da bao bọc nước dơ Nếu hay nằm trong đó Thì mê đắm thân nữ Dù đáng ghét, đáng ưa Già suy và trai trẻ. Thân nữ đều chẳng sạch Ông mê đắm chỗ nào? Bày dơ, tụ sắc đẹp Tướng đoan chính, mềm mại Không nên khởi mê đắm Thích thân nữ cũng vậy Trong hôi hám bất tịnh Ngoài túi da bao quanh. Đó là tính thây chết Thấy rồi sao chẳng biết Da chẳng sạch như áo Đâu thể tạm cởi giặt Muôn dơ hợp thành da Tùy thời rửa thành sạch Trong chứa đầy ô uế Ngoài trang sức đáng ghê Thân này đầy thứ uế Ông không gớm vì sao? Nếu ông ghét bất tịnh Tại sao không chán thân Hương thơm đồ ăn, uống Vốn sạch mà thường dơ Nếu ông thảy chán ghét Với ô uế mình, người Tại sao ông không chán Thân mình, người chẳng sạch. Như thân nữ chẳng sạch Thân mình dơ cũng thế Bởi vậy người lìa dục Gọi tướng trong ngoài là Chín cửa chảy đồ dơ Tự thấy, tự tẩy rửa Nếu không biết chẳng sạch Mà nói về ái dục. Hiếm thấy người không biết Không thẹn và khinh người Đối thân rất bất tịnh Nào có lợi cho ông Muôn chúng sinh do đây Vô minh che tâm trí Vì trần dục kết oán Như chó giành phẩn dơ Như ruồi ưa mụt ghẻ Không ghẻ mới an vui Như vậy có dục lạc Người vô dục vui nhất Nếu ông nghó nghóa này Chẳng thể nào lìa dục Do nghó dục thấp hèn Không tạo tội dâm dục. Săn bắn nên yểu mạng Sợ, khổ cùng bức bách Đời sau ắt chịu báo Nên phải hành từ bi Hoặc có người khi thấy Sinh lòng rất khiếp sợ Như phẩn làm dơ thân Sinh ra rắn ác độc. Người này nếu đến đâu Mà chúng sinh an lạc Như mùa hạ đầy mây Nông phu thấy muốn mưa Nên ông xả pháp ác Quyết tâm tu hạnh thiện Mình, người đều chứng được Quả Bồ đề Vô thượng. Nền tảng của Bồ đề Tâm vững như núi chúa Tâm bi khắp mười phương Và trí nương “không hai” Đại Vương ông nghe kỹ Ta sẽ nói ông nghe Cảm ba mươi hai tướng Thường trang nghiêm thân ông Tháp, Thánh, người tôn kính Cúng dường thường hầu cận. Chân tay có Luân tướng Sẽ thành Chuyển Luân Vương Tay chân mềm, uyển chuyển Thân có bảy chỗ cao Do ban thức ăn ngon Làm người khác no đủ Thân ngay thẳng đầy đặn Tay, gót chân tròn dài. Ông sẽ được sống lâu Nhờ thương kẻ tù, chết Đại Vương gìn giữ pháp Khiến thanh tịnh lâu bền Do đó chân bằng phẳng Và sẽ thành Bồ tát Hành bố thí, ái ngữ Lợi hành và đồng sự. Nhờ vậy tay có màng Tám mươi chỉ tay chân Gót chân cao đáng yêu Lông xoay vần hướng lên Do thường không từ bỏ Gốc pháp đã thụ trì Do cung kính lãnh thụ Thấu tỏ và khéo léo. Nên đùi như nai chúa Có trí lớn, thông minh Ta có vật người cần Nay mau chóng ban cho Nhờ vậy cánh tay lớn Được làm vua ở đời Nếu người thân xa nhau Bồ tát khiến hòa hợp. Nhờ vậy tướng âm tàng Thường mặc áo hổ thẹn Thường ban lầu đài, điện Da mịn màng đáng ưa Nên cảm thân sắc trời Trơn, mịn, sáng, rất đẹp Nhờ ban sự che chở Như tôn trọng trưởng thượng. Được chân lông một sợi Lông trắng, mặt đoan nghiêm Thường nói lời ái, thiện Lại thường thuận chính giáo Thân trên như Sư tử Cổ tròn như Cam phù Xem bệnh cho thuốc thang Hoặc cấp người nuôi dưỡng. Nên được tướng nách đầy Muôn mạch có trăm vị Pháp sự của mình, người Thường đứng ra gánh vác Xương đảnh đầu, nhục kế Vuông cao hơn gò má Lúc nào cũng khéo nói Lời êm dịu dễ nghe. Được tám tướng Phạm âm Và tướng lưỡi dài rộng. Đã biết việc có lợi Thường nói cho người nghe Tướng đẹp như Sư tử Mặt vuông thật đáng ưa Do kính trọng người khác Thuận theo, làm lý đúng Răng trắng, đều và khít Chẳng khác ngọc trân châu. Do thường nói lời thật Không nói dối, hai lưỡi Nên đủ bốn mươi răng Bằng, trơn, chắc, sạch trắng Do nhìn thấy chúng sinh Đẹp, không tham, sân, si Nên mắt xanh tròn sáng Khép mở như Ngưu vương Do lược nói như thế Tướng đại nhân và nhân Chuyển Luân Vương, Bồ tát Đẹp diệu đến như vậy Có tám mươi vẻ đẹp Do từ bi sinh ra Đại Vương! Tôi không nói Vì tránh phải dài dòng. Dù các Chuyển Luân Vương Đều có tướng tốt này Sáng sạch và đáng yêu Nhưng trọn không bằng Phật Từ tâm thiện Bồ tát Một niệm sinh một phần Tướng tốt của Luân Vương Còn chưa bằng đấy vậy. Một người muôn ức kiếp Tu, căn lành tăng trưởng Với một tướng lông Phật Còn chưa thể cảm được Chư Phật và Luân Vương Mỗi phần trong các tướng Như đèn đốm mặt trời Sáng, đẹp khác rất xa. --------------- Phẩm Thứ Ba: TƯ LƯƠNG BỒ ĐỀ Chư Phật tướng rất tốt Từ phước khó nghó sinh Nay tôi nói ông nghe Nương A hàm, Đại thừa Tất cả phước Duyên giác Phước Hữu học, Vô học Phước thế gian mười phương Phước thế gian khó lường Phước này gấp mười lần Được một tướng lông Phật Chín vạn chín ngàn lông Mỗi một phước đều vậy Vô lượng phước như vậy Sinh tất cả lông Phật Lại gấp hơn trăm lần Mới thành một tướng tốt. Và nhiều lần như vậy Tướng hảo lần lượt thành Cho đến đủ tám mươi Trang sức một tướng lớn Nhóm phước đức như thế Thường cảm tám mươi tướng Hợp lại trăm dần tăng Cảm Phật một tướng đại Nhiều phước đức như vậy Thường cảm ba mươi tướng Lại tăng gấp trăm lần Được tướng như trăng tròn. Muốn được phước lông trắng Phải gấp ngàn lần nữa Phước này rất khó gặp Tướng Nhục kế trên đỉnh Vô lượng phước như vậy Phương tiện nói hữu lượng Trong tất cả mười phương Nói gấp mười lần đời. Nhân sắc thân chư Phật Còn như đời vô lượng Huống Pháp thân chư Phật Lẽ nào có bến bờ Nhân thế gian tuy nhỏ Mà quả lớn khó lường Nhân Phật đã vô lượng Có thể lường quả chăng. Chư Phật có sắc thân Đều từ phước hạnh khởi Còn Pháp thân chư Phật Do trí tuệ mà thành Do phước tuệ của Phật Là chính nhân Bồ đề Nên mong ông thường hành Hạnh phước tuệ Bồ đề. Thành tựu phước Bồ đề Ông chớ lo chìm đắm. Với A hàm hữu lý Thường khiến tâm tin, an Như mười phương vô biên Không và đất, nước, lửa Các chúng sinh có khổ Nó vô biên cũng vậy. Chúng sinh vô biên này Bồ tát nương Đại bi Từ khổ mà cứu tế Mong họ vào Niết Bàn Do phát tâm kiên cố Đi đứng nằm ngồi biết Có lúc chợt phóng túng Vô lượng phước thường chuyển Phước nhiều như chúng sinh Hằng chuyển không kẽ hở Nhân quả đã tương xứng Nên Bồ đề chẳng khó Thời tiết và chúng sinh Bồ đề và phước đức. Do bốn vô lượng này Bồ tát kiên tâm làm Bồ đề tuy vô lượng Nhân bốn vô lượng trước Tu hai hạnh phước, tuệ Sao bảo là khó được? Tu hai hạnh phước, tuệ Như vậy không bến bờ. Bồ tát thân tâm khổ Nên mau chóng tiêu trừ Nào đường ác, đói, khát Thân khổ, nghiệp ác sinh Bồ tát thường lìa ác Làm thiện, khổ không sinh Nào dục, sân, sợ hãi Tâm khổ do si sinh Do nương trí “không hai” Bồ tát lìa tâm khổ Nếu chút khổ ập đến Khó nhẫn, huống gì nhiều Lúc nào cũng không khổ Có vui, nào khó gì Trọn chẳng có khổ thân Giả nói có tâm khổ. Thương hai khổ thế gian Nên thường ở sinh tử Nhờ đó Bồ đề lớn Người trí, tâm chẳng chìm Vì diệt ác sinh thiện Lúc này liên tục tu Thâm sân và vô minh Mong ông biết xả, lìa. Các thiện như không tham… Cần phải cung kính làm Do tham sinh ngạ quỷ Do sân đọa địa ngục Do si sinh súc sinh Trái đây, vào trời người Bỏ ác và tu thiện Đây là nhân an vui. Nếu là pháp giải thoát Do trí bỏ hai chấp Tượng Phật và tháp miếu Điện đền cùng chùa viện Vật cúng dường tối thắng Ông nên thành tâm dâng Ngồi trên hoa sen báu Sắc đẹp rất nhiệm mầu. Tất cả thứ của báu Ông nên tạo tượng Phật Chính pháp và Thánh chúng Dùng thân mau hộ trì Vàng bạc làm lọng báu Dâng hiến che tháp Phật Vàng bạc muôn hoa báu Ngọc san hô, lưu ly Đế Thích Thanh Đại Thanh Kim cương làm tháp báu. Người thường nói chính pháp Dùng bốn sự cúng dường Pháp như Sáu hòa kính … Phải thường chuyên tu hành Cung kính nghe tôn trưởng Ân cần thờ, hầu hạ Bồ tát phải nên làm Chết rồi vẫn cúng dường. Ở trong chúng ngoại đạo Chẳng nên thân, thờ lạy Đối vô tri tin tà Chớ thờ tri thức ác A Hàm và Luận Phật Ghi chép, đọc tụng, giảng Và ban cấp giấy mực Ông nên tu phước này. Trong nước dựng trường học Nuôi thầy và học só Dựng cơ nghiệp lâu dài Để phước tuệ tăng trưởng Chữa bệnh, xem lịch số Đều là lập ruộng tốt Giúp trẻ già bệnh khổ Có lợi cho nước nhà. Dựng chùa, sửa đường sá Đắp đê, hồ, làm nhà Rồi cung cấp cho họ Đủ gạo, muối, tương, củi Với quốc độ lớn nhỏ Nên dựng chùa, đình, quán Đường xa thiếu nước uống Đào ao giếng cấp nước. Bệnh khổ, nghèo, bơ vơ Kẻ ti tiện, sợ sệt Dùng từ bi thâu nhận Chuyên tâm lo cho họ Cho đồ ăn thức uống Rau trái và thóc gạo Đại chúng và người cầu Chưa cho, đừng dùng trước. Nào giày dép, vải vóc Gương, quạt và kim chỉ Đồ ngủ nghỉ, đơm bắt Để trong chùa, đình, quán Trái cây, rau gạo muối Mật đường, sữa, thuốc men. Phải thường để tâm xét Lo cầu nguyện, thuốc thang. Hương thơm, dầu xoa thân, Đèn đuốc, rau, gạo nếp Thùng, gàu, dao, búa, rìu Nên để trong đình quán Thức ăn và thức uống Lúa gạo, đường, tương, dầu Phải để nơi mát thoáng Hay trong chỗ nước sạch Những nơi có kiến, chuột Nếu có để thức ăn. Phải sai người tin cậy Ngày ngày phân tán đi Trước và sau khi ăn Phải cùng cho quỷ đói Chó chuột, chim và kiến Mong ông thường cho ăn Lúc bệnh dịch, đói khát Hạn hán và cướp bóc. Nước thua phải cứu giúp Mong ông thường thương tưởng Nông dân gặp mất mùa Hãy cấp lương, dụng cụ Tùy lúc mà thu thuế Nặng, nhẹ phải theo mùa Giúp đỡ kẻ nợ, nghèo Ra, vào chớ khinh khi. Đề phòng, chớ ngủ nghỉ Tùy lúc tiếp đãi khách Trong, ngoài nước trộm cắp Phương tiện khiến dứt ngay Phải thường khuyên lái buôn Giữ vật giá thăng bằng Ngồi nơi cao phán việc Phải xét đúng như lý. Những việc lợi muôn dân Thường cung kính tu hành Cần làm gì lợi mình Như ông thường suy nghó Lợi người làm sao thành Ông nên gấp nghó suy Nào đất nước gió lửa Cỏ thuốc và cây hoang. Như thế hoặc tạm thời Chịu người khuyên chẳng ngại Bảy bước chợt khởi tâm Nên bỏ hết của cải Phước đức Bồ tát thành Như hư không khó lượng Đồng nữ sắc nghiêm, đẹp Nhờ bố thí mà có Nên được Đà-la-ni Luôn trì tất cả pháp Yêu, đẹp đủ trang nghiêm. Cùng tất cả vật dụng Cho tám muôn đồng nữ Thuở xưa Phật Thích-ca Quang minh vô số màu Y phục, đồ trang nghiêm Nào hoa hương đều thí Nương bi tuệ mà cầu Nếu người lìa duyên này Với pháp không an lạc Thì nên ban cho họ Đủ rồi, sau đừng cho Độc, cũng phải cho họ Nếu đó thường lợi người. Cam lồ chẳng nên cho Nếu đó tổn hại người Như rắn cắn tay người Phật cũng cho trừ khử Hoặc Phật dạy lợi người Có khi làm bức não Chuyên tâm giữ chính pháp Và người thường nói pháp. Cung kính nghe, thọ trì Hoặc thí pháp kẻ khác Chớ thích người đời khen Thường vui pháp thoát tục Lập đức mình thế nào Với người cũng như vậy Nghe, đừng cho là đủ Phải nghó, tu thật nghóa. Phải báo ơn thầy bạn Cung kính làm, chớ tiếc Chớ đọc luận ngoại, tà Rồi khởi ra tranh luận Chẳng nên khen đức mình Mà nên khen đức người Chớ tìm lỗi người khác Và tâm ác, hai lưỡi. Nếu người khác có lỗi Đúng lý xem, nêu ra Nếu từ lỗi lầm đó Người trí quở trách họ Ta phải lìa lỗi ấy Mà thường cứu giúp họ Họ nhục, mình chớ sân Phải quán ác nghiệp xưa. Không báo ác với người Đời sau không chịu khổ Với người nên làm ơn Đừng mong họ báo đáp Chỉ riêng mình chịu khổ Mong mọi người an vui Nếu mình giàu có lớn Đừng sinh tâm tự cao. Đói khát như ngạ quỷ Cũng đừng sinh bi lụy Giả sử mất ngôi vua Hoặc chết vì nói thật Cũng thường nói lời đó Không lợi thì im lặng Nói sao, làm như vậy Mong ông chăm làm thiện. Nhờ đó tiếng thơm lan Tự nhiên mình vượt trội Cần phải chọn lựa kỹ Sau mới nương lý làm Chớ tin người rồi làm Phải tự rõ thật nghóa Nếu nương lý làm lành Tiếng thơm truyền khắp chốn Vương hầu mãi không dứt Vua càng thêm giàu, vui Duyên chết có trăm thứ Nhân sống lâu không nhiều. Nhân sống, hoặc duyên chết Cần phải thường tu thiện Nếu người thường làm lành Tất sẽ được an lạc Xem mình cũng như người Thiện này vui đầy đủ Người lấy pháp làm tánh Thức ngủ thường an lạc. Trong mộng, thấy việc lành Do tâm không xấu ác Nếu ngươi nuôi cha mẹ Cung phụng bậc tôn trưởng Kính người tốt, bố thí Nhẫn nhục, phước thù thắng Nhỏ nhẹ không hai lưỡi Lời thật cùng an vui. Đây là nhân Đế Thích Hết thọ, nên tu hành Do xưa hành chín pháp Thiên chủ được Đế vị Thời thời ở pháp đường Đến nay vẫn như vậy Một ngày ba bữa thí Thức ngon ban trăm phần. Phước chẳng bằng phần trăm Trong sát na hành từ Trời người đều thương hộ Ngày đêm được an vui Lìa oán giận, độc hại Hiện quả của làm Từ Không công mà được của Đời sau sinh Sắc giới. Được mười công đức Từ Nếu người chưa giải thoát Dạy tất cả chúng sinh Gắng phát tâm Bồ đề Đức Bồ tát như núi Tâm Bồ đề vững chắc Do tin, lìa tám nạn Nhờ giới sinh đường lành. Thường tu Chân như không Được thiện, không phóng dật Không nịnh, được niệm căn Thường nghó được Tuệ căn Cung kính, được nghóa lý Hộ pháp, được Túc mạng Bố thí lắng nghe pháp Hoặc không cản người nghe. Mau được như mình thích Sẽ gặp được chư Phật Không tham, việc làm thành Không lận của cải Tăng Lìa mạn, lên Thượng phẩm Pháp nhẫn, được Tổng trì Do làm năm điều thật Và ban điều không sợ Mắng chửi chẳng làm nhục Nên được sức thắng lớn. Bày đèn nơi tháp miếu Thắp đuốc nơi tối tăm Cúng đèn dầu thắp sáng Nên được Thiên nhãn tịnh Lúc cúng dường chư Phật Mà đánh trống, trổi nhạc Tiếng hay như kèn, đàn Nên được Thiên nhó tịnh. Không xoi mói lỗi người Chẳng chê người thiếu đức Tùy thuận giữ ý họ Nên được Tha tâm trí Nhờ ban bố ghế, xe Chuyên chở giúp người yếu Cung kính bậc Trưởng thượng Nên được Như Ý thông. Khiến người nhớ pháp sự Và nghóa lý chính pháp Hoặc tâm tịnh ban pháp Nên được Túc mạng trí Do biết nghóa chân thật Tính “không” của các pháp Nên được Thông thứ sáu Tức là Lậu tận thông. Tương ưng Bi bình đẳng Nhờ tu trí Như thật Nên tự được thành Phật Thường giải thoát chúng sinh Nhờ vô số nguyện tịnh Nên cõi Phật thanh tịnh Dùng của báu cúng tháp Nên phóng vô biên quang. Như vậy nghiệp và quả Đã biết nghóa tương ưng Nên thường tu lợi tha Tức tự lợi Bồ tát. ---------------------- Phẩm Thứ Tư: CHÍNH GIÁO VƯƠNG Vua làm việc phi pháp Hoặc việc chẳng đạo lý Người thờ vua khen ngợi Nên tốt xấu khó biết Cũng có người thế gian Chẳng thích thiện, khó dạy Huống gì vua nước lớn Thường nghe lời người hiền Ta nay thương xót ông Và thương người thế gian Nên ta khéo dạy ông Thật lợi, nếu chẳng ái. Sống vui và lợi lạc Đều nhờ tâm Từ bi Phật thường dạy đệ tử Nên ta nói ông nghe Nếu nghe những lời thật Nên trụ trong không sân Nếu lấy ắt phải nhận Như sông lấy nước sạch. Nay ta nói lời thiện Nay, sau đều lợi ích Ông biết phải nhận làm Vì mình và thế gian Xưa giúp kẻ nghèo khổ Nên nay được giàu sang Vì tham chẳng biết ơn Không thực hành bố thí Ở đời chuyển lương thực Không thuê, chẳng ai giúp Nhờ bố thí phẩm vật Đời sau được gấp trăm Mong ông phát tâm lớn Thường tạo dựng việc lớn Nếu tâm lớn, việc lớn Là người được quả lớn. Ý nhỏ, lòng hẹp hòi Chưa từng khởi tâm nguyện Tiếng tốt, việc an lành Nên dựa Tam Bảo làm Mong nhà vua xét kỹ Nếu làm việc phi pháp Chết vẫn mang tiếng xấu Do chẳng làm việc tốt. Thường làm việc to lớn Việc Đại nhân ít khi dùng Thường ngăn nguyện kẻ dưới Dùng lệnh thành việc này Không tự tại bỏ vật Để mãi đến sau này Nếu giữ của đúng phép Sẽ gặp việc nghịch ý. Sản nghiệp của Tiên đế Bỏ, giữ, do vua mới Hãy xem ý Tiên đế Ưa pháp hay ưa danh Có của hiện đời vui Bố thí, đời sau vui Nếu không, mất cả hai Chỉ chuốc thêm sầu khổ. Sắp chết muốn bố thí Bề tôi ngăn không cho Ngôi vua hết, bỏ lại Tùy vua mới tiêu xài Nếu bỏ tất cả vật Ông làm sao hoằng pháp Thường trong trạng thái chết Như đèn treo trước gió. Nơi công đức bình đẳng Do Tiên vương lập ra Là miếu đường Thiên thần Mong tu sửa như cũ Không giết, thường làm lành Giữ giới, tạo hòa khí Khéo tăng của, không tranh Gắng sức luôn tu thiện Thanh tịnh, không tích chứa Chẳng bỏ muôn việc khác. Thường làm người đứng đầu Nhận kho công đức kia Mù, bệnh, căn không đủ Đáng thương, không chỗ nương Nơi miếu, không được ngăn Bình đẳng ban thức ăn Người không mong đạo đức Hoặc ở chỗ vua khác. Việc chu cấp cũng vậy Đừng phân biệt đây kia Trong tất cả pháp sự Phải chọn người siêng năng Thông minh, không tham lam Sợ tội, không phạm pháp Tỏ chính luận làm lành Thân ái bốn quán tịnh. Lời hay, chẳng khiếp nhược Thượng căn hay giữ giới Biết ơn, biết người khổ Như lý khéo quyết đoán Tám người cùng nhau làm Vì nước lập tám tòa Nhu hòa và độ lượng Can đảm rất yêu vua. Thật thà, biết dùng của Không phóng túng, làm thiện Việc làm đều nghó kỹ Thường phân thành mười hai Thường hành bốn phương tiện Phải lập làm Đại thần Giữ pháp, giới thanh tịnh Rõ việc, có tài năng. Lại biết giữ của cải Thông hiểu, khéo tính toán Với người và việc khác Sợ tội, thương yêu vua Giàu có, nhiều quyến thuộc Phải lập làm trưởng chức Ngày ngày cần hỏi xem Tất cả tiền thu, nhập. Khi hỏi pháp sự rồi Hoan hỷ, khéo chỉ dạy Vì pháp ở ngôi vua Không cầu danh ô nhiễm Ngôi vua rất có lợi Không có gì hơn đây Đại vương! Ở thế gian Có lắm kẻ tranh đoạt. Về nghóa của ngôi vua Tôi nói, ông nghe kỹ Trưởng lão ở chỗ vua Lớn tuổi hiểu phải trái Sợ ác, thường theo thiện Để họ săn sóc vua Bị tội phải dùng hình Nếu đúng phép gia hình Vua nên ban đại bi Khoan dung, ban ơn cho. Để mọi người lợi lạc Thường phải khởi tâm từ Nếu họ phạm tội nặng Cũng sinh lòng thương xót Ác nặng tâm cực hại Tất nơi ấy hành bi Họ trở thành đáng thương Người chánh hành cảnh bi Nếu người nghèo bị bắt Năm ngày phải thả ra. Người khác chiếu theo phép Đừng nên giam giữ lâu Nếu giam giữ một người Sẽ sinh tâm bắt mãi Chẳng lo đời sống họ Vì vậy ác xoay vần Dù họ chưa được thả Nhưng vẫn thấy an vui. Lo cơm, nước, thuốc thang Mọi nhu cầu cho họ Muốn họ thành người tốt Phải từ bi dạy họ Người tốt xấu như nhau Không do sân, ham muốn Nghó kỹ biết vậy rồi Người không còn phản nghịch. Không giết, bức bách họ Mong vua giúp nước khác Quyến thuộc như oan gia, Vì mình không mắt sáng Thường nghó, không phóng dật Làm mọi việc đúng pháp Ban thưởng và cúng dường Người có công phải hưởng. Như nghó đức hơn thua Báo ơn, thưởng cũng vậy Nhận của người là hoa Ban thưởng cho là quả Vua làm cây nhẫn nhục Dân làm chim đến đậu Vua giữ giới, Bố thí Có uy được lòng người. Ví như viên đường cát Mùi vị cùng trộn lẫn Nếu vua dựa đạo lý Sẽ không hành pháp tà Không nạn, không phi pháp Thân tâm thường an lạc Chẳng nhờ đời trước dẫn Không thể vào vị lai Ngôi vua từ pháp có Chớ vì ngôi phá pháp. Ngôi vua như nghiệp nhà Truyền phải có giá trị Vì chẳng cầu mà được Điều đó ông nhớ nghó. Ngôi vua như nghiệp nhà Truyền phải có giá trị Vì ham muốn, cầu được Phải tu hành điều đó Chuyển Luân Vương được đất Hoặc đủ bốn thiên hạ Chỉ có thân tâm vui Giàu sang đều hư dối. Chỉ đối trị các khổ Thân có được an lạc Tâm vui chỉ là tưởng Do phân biệt mà ra Đối trị khổ là chính Còn phân biệt là phụ Tất cả vui thế gian Giả dối không thật có. Quốc độ và chỗ ở Nào ngôi vị, cộ xe Nào áo quần, vật thực Vợ con cùng voi ngựa Hễ tâm duyên vật nào Thì do nó sinh vui Các cảnh chẳng duyên theo Thành giả dối, vô dụng. Năm căn duyên năm trần Nếu tâm không phân biệt Cho dù thành nơi trần Chẳng do nó sinh vui Ngoài trần căn duyên theo Còn lại không năng sở Nên căn trần còn lại Chân thật không có nghóa. Những thứ trần căn duyên Tâm nhận tướng quá khứ Phân biệt khởi tưởng tịnh Do nó sinh lạc thụ Tâm duyên theo một trần Tâm, trần chẳng cùng đời Lìa tâm chẳng có trần Lìa trần chẳng có tâm. Như cha mẹ là nhân Mới sanh ra con cái Như vậy duyên căn, sắc Nên thức… mới sinh ra Căn trần đời xưa, sau Chẳng thành vì không nghóa Không ra khỏi hai đời Trần căn nay không nghóa Như mắt thấy vòng lửa Do nhãn căn đảo loạn Với trần trong hiện tại Căn duyên trần cũng vậy Năm căn và cảnh giới Là trần của bốn đại Tất cả đại hư dối Trần, căn thì đều có. Đại lìa nhau mà thành Lìa củi phải có lửa Nếu lìa không thể khác Trần cũng giống như vậy Bốn đại hai nghóa dối Nên chẳng thành hòa đồng Đã vốn không hòa đồng Nên, sắc trần không thành. Thức, thụ, tưởng và hành Tất cả thể chẳng thành Chẳng hợp với duyên sinh Chẳng có nên không hợp Như phân biệt hỷ, lạc Duyên khởi đối trị thành Như vậy khổ bị chấp Do vui hết nên thành. Khi vui hòa hợp di Duyên không tướng nên diệt Khi khổ xa lìa tham Từ đó chẳng sinh quán Dựa vào đời mà nói Tâm là người năng kiến Nếu không, lìa sở kiến Thì năng kiến không thành. Quán hạnh thấy thế gian Hư huyễn không có thật Không thủ, không phân biệt Nhập Niết Bàn như lửa Bồ tát thấy như vậy Không thối chuyển Bồ đề Nhờ sức Đại bi dẫn Liên tục đến thành Phật. Các Bồ tát tu đạo Phật diễn nói Đại thừa Kẻ vô trí ganh ghét Bác bỏ không lãnh thọ Chẳng biết công đức mất Khởi tưởng mất công đức Hoặc ganh ghét thắng lợi Nên hủy báng Đại thừa. Nếu biết tội hại người Công đức hay lợi ích Nên nói người phỉ báng Chẳng biết ghen ghét thiện Do chẳng thấy lợi mình Cứ mãi làm lợi người Đức Đại thừa thù thắng Người phỉ báng phải thua. Người tin do cố chấp Chẳng tin do ganh ghét Người tin báng còn diệt Huống gì kẻ giận ghét Như thầy thuốc thường nói Lấy độc để trị độc Khổ diệt, ác cũng mất Lời này quả không sai. Các pháp, tâm làm trước Vì tâm là thượng thủ Dùng khổ diệt ác khác Người tâm thiện không lỗi Khổ đến, nếu có lợi Lấy ngay, huống gì vui Hoặc với mình và người Đây là pháp căn bản. Do hay bỏ vui nhỏ Thấy vui lớn sau này Người trí bỏ vui nhỏ Quán vui lớn về sau Nếu không chịu nghe lời Thầy thuốc trao vui khổ Phạm tội chẳng thể tha Nên lời ông không đúng Hoặc thấy việc chẳng nên Người trí làm theo nghóa. Hoặc cấm, hoặc tạm cho Đâu cũng có nghóa này Uy nghi của Bồ tát Trước Bi, sau thành Trí Đại thừa nói như vậy Vì sao lại phỉ báng? Không biết nên u mê Nghóa rộng sâu thượng thừa Nếu phỉ báng Đại thừa Mình, người thành oan gia Thí giới, Nhẫn, Tinh tiến Định, Trí, Bi là Thể Phật nói pháp Đại thừa Sao bảo là tà thuyết Thí giới thì lợi người Nhẫn, tinh tiến lợi mình. Định tuệ thoát tự, tha Lược thâu nghóa đại thừa Lược nói chính giáo Phật Là giải thoát người, mình Lục độ này quan trọng Tại sao người bác bỏ Phước tuệ là mầm mống Phật nói đạo Bồ đề Đặt tên là Đại thừa Kẻ si, mù chẳng nhận. Như hư không khó lường Phước, tuệ thành cũng vậy Đức chư Phật khó lường Đại thừa, hãy tin nhận Đại đức Xá lợi Phất! Giới Phật chẳng cảnh này Nên đức Phật khó suy Vì sao chẳng tin nhận. Vô sinh của Đại thừa Tiểu thừa bảo không, diệt Vô sinh diệt Nhất thể Nghóa nó đâu chống trái Chân không, đức của Phật Nếu chọn lựa đúng pháp. Giáo pháp Đại Tiểu thừa Người trí đâu tranh biện Phật nói Bất liễu nghóa Hạ căn đâu dễ hiểu Trong Nhất thừa, Tam thừa Hộ trì, đừng tổn hại Dù không tin tội phước Ghét ác, không tin thiện. Dù yêu mến thân mình Cũng đừng chê Đại thừa Hạnh, nguyện của Bồ tát Hồi hướng khắp tất cả Nếu tu theo Tiểu thừa Làm sao thành Bồ tát Tứ y của Bồ tát Không nói Tiểu thừa nghe. Phật đã tu pháp nào Dám nói Tiểu thừa hơn Dựa vào Đế, trợ đạo Phật với họ đồng nhau Nhân tu đã không khác Sao quả lại vượt hơn Hạnh Bồ đề chung riêng Trong Tiểu thừa không nói. Trong Đại thừa nói đủ Nên người trí tin, nhận Như Luận Tỳ-già-la Trước dạy học chữ cái Phật lập giáo như vậy Theo căn tính giáo hóa Có nơi, hoặc nói pháp Khiến họ lìa các khổ. Hoặc thành tựu phước đức Hoặc vì đủ cả hai Hoặc bỏ hai thứ trước Người thấp kém, khiếp sợ Hoặc chỉ trải tâm Bi Khiến người thành Bồ đề Bởi vậy người thông minh Bỏ tâm chê Đại thừa Phải khởi tín, nhận sâu Để chứng Vô đẳng giác Do tín, thọ Đại thừa Và hành giáo Đại thừa. Nên thành Vô thượng đạo Được mọi sự an vui Thí giới và nhẫn nhục Thường nói cho tại gia. Pháp này Bi đứng đầu Mong ông tu thành tánh Do đời không bình đẳng Ngôi vua nếu trái phép Vì tiếng tốt và pháp Xuất gia là hơn hết. Phẩm Thứ Năm: XUẤT GIA CHÍNH HẠNH Người mới tập xuất gia Thành tâm giữ giới cấm Đối với Giới và Luật Cần học nghóa Phá, Lập Kế khởi tâm chính cần Xả bỏ Hoặc thô thiển Cả thảy năm mươi bảy Nghe kỹ, ta sẽ nói. Ngờ là tâm chống trái Hận là gây lỗi người Che tội ác là Bí Và giấu ác bày thiện Khoa trương là Lừa dối Siểm là hay dua nịnh Tật là ghét đức người Lận là sợ phải xả. Không hổ và không thẹn Với mình, người là Sỉ Chẳng nhường, chẳng kính người Lấy cớ động loạn, sân Say là chẳng kể người Phóng dật chẳng tu thiện Mạn gồm có bảy loại Nay ta sẽ lược nói. Nếu người khởi phân biệt Từ thấp xuống thấp nữa Từ thấp bằng và hơn Nói Hoặc này là Mạn Người kém chỉ biết mình Nhưng chẳng bằng người khác Đây gọi là hạ Mạn Do tự hạ thấp mình. Hạ căn khởi tự cao Cho mình bằng người hơn Hoặc nầy gọi cao mạn Do tự cao bằng hơn Hạ căn tự cho mình Hơn hẳn người hơn kia Đây gọi là Quá mạn Như nhọt ung làm mủ Năm loại đều chấp ấm Tự tính “không”, không người Do si nên chấp ngã Đây gọi là Ngã mạn. Thật chưa chứng Thánh đạo Nhưng cho mình đã chứng Và vì tu thiên chấp Đây là tăng thượng mạn Nếu người do làm ác Rồi cho mình hơn hết Lại bác đức người khác Đây gọi là Tà mạn Ta nay không cần nữa Hoặc hay hạ thấp mình Đây cũng là Hạ mạn Duyên tự thể mà khởi Cầu lợi dưỡng, tiếng khen Nên chế phục sáu căn. Che giấu tâm tham dục Đây gọi là cống cao Vì muốn được lợi dưỡng Nên khéo nói với người Hoặc này duyên thế pháp Gọi là lời cảm tạ Muốn được của cải người Nên khen vật này đẹp. Đây gọi là Hiện tướng Thường bày tự tâm mình Vì muốn được chỗ cầu Trước mắt chẳng chê người Đây gọi là chê trách Thường bắt người theo mình Do ham muốn cầu lợi Hoặc đề cao người khác. Đây là lợi cầu lợi Cả năm thuộc Tà mạng Nếu luôn tìm lỗi người Học thuộc làu đủ loại Đây gọi là âm hiểm Tâm hận từ đây sinh Hoảng sợ không an ổn Do vô tri và bệnh. Thô kệch thì đầy dẫy Phỉ báng và biếng trễ Ý nhiễm tham sân si Gọi là chủng chủng tướng Không quán như hiện tại Gọi là chẳng tư duy Biếng nhác việc đáng làm Gọi là không cung kính. Không tôn trọng thầy tổ Gọi là không tôn trọng Trong tâm thì khởi dục Bên ngoài thì chấp chặt Dục kiên cố phát sinh Nặng nhất là chấp khắp Tham muốn của về mình Không thấy đủ là Tham Mê đắm vật người khác Đây là Bất đẳng dục Cảnh ô trược, nữ nhân Muốn lòng tham phi pháp Không đức, bảo có đức Đây gọi là Ác dục Thường cầu lìa biết đủ Đây gọi là Đại dục. Muốn người biết tài mình Đây gọi là Thức dục Chịu khổ chẳng an ổn Đây gọi là Bất nhẫn Với việc chánh, thầy tổ Tà hạnh là không quý Như pháp khéo giảng dạy Khinh mạn là nạn ngữ. Mê đắm những người thân Suy nghó là Thân giác. Do muốn được nơi chốn Suy nghó là Thổ giác Chẳng nghó chết, hoảng sợ Gọi là Bất tử giác Do công đức chân thật Muốn người tôn trong mình. Nghó muốn người ta biết Gọi là Thuận giác giác Do tâm yêu và ghét Nghó lợi mình hại người Theo mình và người khác Đây là Hại tha giác Lo nghó tâm nhiễm ô Không nương là: Bất an. Thân trầm gọi là Cực Trì hoãn là biếng trễ Do theo tâm Hoặc trên, Thân cúi luồn là Tần Thân loạn không kiêng ăn Đây gọi là Thực túy (say ăn) Thân tâm rất hao gầy Đây gọi là Hạ liệt. Tham ái năm thứ trần Đây gọi là Dục lạc Làm tổn hại lòng người Từ chín nhân duyên sinh Lúc nào cùng nghi nan Đây gọi là Sân hận Do thân tâm nặng nề Chẳng làm việc là Nhược. Tâm mê gọi là Thùy Thân tâm động là Động Hối hận với việc ác Sau Ưu là Tiêu nhiên Với Tam Bảo, Tứ đế Do dự gọi là Nghi Nếu Bồ tát xuất gia Phải lìa tướng thô này. Hay tránh được xấu ấy Đức đối trị dễ sinh Các công đức ở đây Bồ tát nên tu tập Bố thí, giới, nhẫn nhục Là Cần, Định, Tuệ, Bi Xả vật mình là Thí Làm lợi người là Giới. Thoát khỏi sân là Nhẫn Nhiếp thiện là Tinh tiến Tâm vắng lặng là Định Tỏ thật nghóa là Trí Với tất cả chúng sinh Thường làm lợi là Bi Thí sinh giàu, giới vui Nhẫn ái siêng mãnh liệt Định tónh, trí giải thoát Bi sinh tất cả lợi Thành tựu bảy pháp này Đều đến được cứu cánh Cảnh giới trí khó nghó Khiến đến được quả Phật Như ở trong Tiểu thừa Nói quả vị Thanh văn Trong Đại thừa cũng vậy Nói mười Địa Bồ tát. Sơ địa là Hoan Hỷ Trong đây hỷ rất hiếm. Do diệt sạch ba kiết Và sinh trong nhà Phật Do quả báo địa này Hiện đời tu Bố thí Trong trăm thế giới Phật Được tự tại chẳng động Các châu như Diêm phù Làm Đại Chuyển Luân Vương. Trong thế gian thường chuyển Bảo Luân và Pháp Luân Hai là Địa Vô Cấu Các nghiệp thân, miệng, ý Mười nghiệp đều thanh tịnh Tự tính được tự tại Do quả báo địa này Hiện tiền giữ giới cấm. Trong ngàn thế giới Phật Được tự tại chẳng động Tiên, người, trời, Đế Thích Thường trừ ái dục trời Thiên ma và ngoại đạo Đều chẳng thể nào động Ba là Địa Minh Diễm Tuệ lặng sinh quang minh. Do Định và Thần thông Nên dục, sân Hoặc diệt Do quả báo địa này Hiện đời tu Nhẫn nhục Trong muôn thế giới Phật Được tự tại chẳng động Làm Dạ Ma, Thiên Đế Diệt tập khí, thân kiến. Tất cả tà sư chấp Hay phá khuông chính giáo Bốn là Địa Thiêu Nhiên Ánh sáng trí phát sinh Quả báo địa này do Hiện đời tu Tinh tiến Thường tu tập Đạo phẩm Vì diệt Hoặc sinh cõi Đâu Suất, Đà Thiên Chủ Trừ kiến giới ngoại đạo Do được sinh tự tại Trong cõi Phật mười phương Đến đi không chướng ngại Còn lại giống Địa trước Năm là Địa Nan Thắng Ma, Nhị thừa chẳng bằng Nghóa nhiệm mầu Thánh Đế Đều chứng đắc, thấy rõ. Quả báo địa này do Hiện đời tu Thiền định Làm Hóa lạc Thiên chủ Hồi nhị thừa hướng Đại Sáu là Địa Hiện Tiền Chính hướng đến pháp Phật Do thường tu Định, Tuệ Chứng đắc diệt viên mãn. Quả báo Địa này do Hiện đời tu Trí tuệ Tha Hóa Tự Tại Thiên Thường dạy Chân, Tục đế Bảy là Địa Viễn Hành Viễn hành thường tương tục Trong đó niệm niệm chứng Không sinh và không diệt. Quả báo địa này do Trí phương tiện hiện tiền Được làm Đại Phạm vương Thường thông Đệ nhất nghóa Chứng thắng trí phương tiện Sáu độ không gián đoạn Làm bậc thầy cao nhất Của Ba thừa, thế tục. Tám là Địa Bất Động Do không lìa Chân quán Không phân biệt, khó bàn Không cảnh thân, miệng ý Quả báo địa này do Hiện đời thường nguyện độ Thắng Biến Quang Phạm Chủ Tự tại trong cõi tịnh. Nhị thừa không sánh kịp Với Chân, Tục, Nhất nghóa Tu cả động và tónh Thường lợi mình, lợi người Chín là địa Thiện Tuệ Ngôi Thái tử Pháp Vương Trong đó Trí tối thắng Do thông đạt bốn Biện. Quả báo địa này do Lực độ thường hiện tiền Làm Phạn Vương Biến Tịnh Biện tài khó sánh kịp Mười là Địa Pháp Vân Thường mưa nước chính pháp Ánh sáng làm nước rưới Nhận ngôi Quán Đảnh Phật. Quả báo địa này do Trí độ thường hiện tiền Làm Phạm Vương Tịnh Cư Thiên chủ Đại Tự Tại Cảnh trí tuệ khó suy Bí mật tàng chư Phật Được đầy đủ tự tại Đời sau bậc Bổ Xứ. Như vậy địa Bồ tát Tôi đã nói đủ mười Phật địa khác Bồ tát Đức thù thắng, khó lường Địa này chỉ lược nói Có mười lực tương ưng Mỗi một lực ở đây Như hư không, khó lường. Như vậy có thể nói Vô lượng đức của Phật Như hư không mười phương Cùng đất, nước, gió, lửa Vô lượng đức của Phật Người khác rất khó tin Nếu chẳng thấy nhân này Khó lường quả như vậy. Nhân và quả ở đây Hiện tiền cúng dường Phật Ngày đêm đủ sáu thời Tụng mười hai bài kệ Chư Phật, Pháp và Tăng Tất cả các Bồ tát Tôi đảnh lễ quy y Cùng chiêm ngưỡng, cung kính. Tôi lìa tất cả ác Thâu giữ hết thảy thiện Các hạnh lành chúng sinh Tùy hỷ và làm theo Đầu mặt lạy chư Phật Chấp tay thỉnh trụ thế Xin Phật chuyển pháp luân Đến tận đời sinh tử. Đức ta từ hạnh này Đã làm và chưa làm Nhân đây mong chúng sinh Đều phát tâm Bồ đề Vượt tất cả chướng nạn Thành tựu căn vô cấu Và đủ cả Tịnh mạng Mong việc tự tại kia. Tất cả đều vô biên Chẳng khác bàn tay báu Tận cùng đời vị lai Mong chúng sinh như vậy Nguyện hết thảy người nữ Đều thành bậc trượng phu Trong bất cứ lúc nào Cũng được thông minh, đủ. Uy đức hình dạng đẹp Tướng tốt, người ưa nhìn Không bệnh, đầy sức lực Nguyện họ được sống lâu Vượt ra các khổ, sợ Cùng quy y Tam Bảo Dùng phương tiện thiện xảo Làm pháp khí pháp Phật Từ bi, vui, hỷ xả Thường ở trong Tứ Phạm Thí, giới, nhẫn, tinh tiến Định, trí mà trang nghiêm. Đầy đủ hạnh Phước, Tuệ Tướng tốt, phóng quang minh Mong họ khó suy lường Hành mười Địa vô ngại Tương ưng với đức này Đức còn lại trang nghiêm. Giải thoát mọi tội lỗi Nguyện ta thương chúng sinh. Viên mãn tất cả thiện Những gì chúng sinh vui Trừ các khổ cho người Nguyện ta thường như vậy Nếu người có sợ hãi Dù lúc nào, ở đâu Do chỉ nghó tên ta Nên thoát tất cả khổ. Kính tin ta và sân Nếu thấy và nhớ nghó Cho đến nghe tên ta Mong họ chứng Bồ đề Nguyện ta được Năm thông Thường ở trong mọi đời Ta mong thường xuất thế Giúp chúng sinh an vui. Nếu họ muốn làm ác Trong tất cả thế giới Nguyện dứt hết ác ấy Khiến họ đều tu thiện Như đất, nước, gió, lửa Thuốc cỏ và cây rừng Nếu họ muốn thụ dụng Ta xin tự nhẫn chịu. Những gì họ ưa thích Như ý được sống lâu Nguyện ta nhớ chúng sinh Hơn vạn lần nhớ mình Mong điều ác họ làm Ta xin chịu quả báo Những việc thiện của ta Hãy để họ hưởng quả. Một người chưa giải thoát Còn sanh trong các đường Ta mong sinh thay họ Không thủ Bồ đề trước Hay tu hành như vậy Thì phước đức tạo ra Trong hằng sa thế giới Chẳng thể nào lường được Phật, Thế Tôn tự nói Nhân khó lường như vậy Cõi chúng sinh vô lượng Mong lợi ích cũng thế Ta lược nói pháp này Khiến làm người, mình lợi Mong ông yêu pháp này Như yêu mến thân mình Nếu người yêu pháp này Là thật yêu thân mình. Nếu ghét điều mình ưa Ghét đó nhờ pháp thành Nên thờ pháp như thân Trọng hành như trọng pháp Như làm việc có tuệ Như việc tuệ có trí Thuận tịnh có trí tuệ Khiến người giảng chính lý. Do khởi ác nghi người Người này hại việc mình Nếu là Thiện tri thức Ông cần phải thân gần Biết đủ, Từ bi, giới Trí tuệ luôn diệt ác Nếu bạn tốt dạy ông Ông cung kính làm theo. Đức trong, ngoài thù thắng Ông tất đến thắng xứ Thật nguyện, nói hòa nhã Tánh vui chẳng thể động Việc thật tăng dua nịnh Mong ông tự đổi thay Đã bỏ, đừng hối tiếc Như lửa tâm tắt lịm. Không lười biếng, trạo cử Không cống cao, bất hòa Mong sáng sạch như trăng Rực rỡ như mặt trời Sâu xa như biển cả Vững chắc như núi cao Xa lìa tất cả quả Dùng muôn đức nghiêm thân. Chúng sinh được thọ dụng Nhất thiết trí của ông Ta chẳng những vì vua Nói những pháp lành ấy Mà còn vì mọi người Muốn tất cả lợi ích Đại vương chính luận này Ông ngày ngày nghe kỹ. Vì để mình và người Được Bồ đề vô thượng Giữ giới, kính trưởng thượng, Nhẫn nhục không ganh ghét Biết đủ, không tham, tiếc Cứu giúp, việc khó, nạn Người thường làm thiện, ác Thâu giữ và chế phục. Hộ trì chính pháp Phật Cầu Bồ đề nên hành. LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 113