<經 id="n1655">LUẬN CHỈ QUÁN MÔN TỤNG HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1655 CHỈ QUÁN MÔN LUẬN TỤNG Tạo luận: Bồ-tát Thế Thân. Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp Sư Nghóa Tịnh. Thấy hình tướng người nữ Đoan trang và yêu kiều Người ngu không thấu rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm. Phật nói nào sình trướng Xúc trừ tâm dâm dục Thường theo lời Thế Tôn Được đạo quả thù thắng. Nghe, tư duy tịnh giới Thường tinh tấn tu tập Buộc tâm quán các cảnh Nhân giải thoát là đây. Nếu người có sân nhiễm Thùy miên và hôn trầm Trạo cử cùng nghi hoặc Cả năm, ngăn tu định. Ít nghe, ít ở chúng Ưa thích các việc xấu Ái thân và thọ dụng Cũng thường ngăn tâm định. Tâm loạn có năm duyên Tình (căn) theo cảnh tán loạn Mê đắm và lăng xăng Ngã mạn ưa danh tiếng. Tỳ khưu nương Thánh giáo Có lỗi phải bỏ ngay Khéo giữ trụ tâm duyên Đó là hạnh trước hết. Tiếp nương nơi vắng lặng Đều không ngại khó khăn Sau dứt suy nghó tà Là nghiệp đầu (của) Tỳ kheo. Phải ở rừng gò mả Mặc y phục phấn tảo Thường cầu việc vắng lặng Đoạn trừ tâm nhiễm dâm. Khất thực, thấy người nữ Phải quán là bất tịnh Khép mắt trừ niệm tà Chính tâm nhận thức ăn. Nói nhiều, lo nhiều việc Cần phải mau xa lìa Duyên não loạn bức bách Phải dùng tuệ nhẫn nhục Phải ơ nơi đồng hoang Dưới cây, trong hang núi Lúc quán nên ở đây Vắng lặng mà tu tâm Lúc duyên cảnh tu định Không quá cao, quá thấp Đừng quá xa, quá gần Để tương ưng với cảnh Khéo chọn cảnh sở duyên, Mà quán xét tường tận Lúc nhắm mắt trụ tâm Cũng như mở mắt nhìn Phải nhiếp phục các căn Trụ niệm nội tâm lặng Duyên cảnh trước mắt quán, Niệm niệm cho liên tục Tướng hình mạo chọn đó Mà dụng tâm quán xét Quán thây nữ sình trướng Đáng sợ, thật ghê tởm Giống như nước ao đục Gió thổi làm chao động, Thấy hình bóng của cây Chẳng rõ ràng, chẳng tốt. Nước phiền não như tâm, Bị gió loạn tình thổi Lúc lắng niệm quan sát Tối tăm chẳng thể còn Tâm chìm phải giục tỉnh Nên quán việc thắng diệu Như đỉa hút máu người Dội nước khiến tỉnh lại. Lại phải mau thu giữ, An tâm trong cảnh cũ Khiến ý có khả năng Điều hòa tốt, theo niệm Nếu tâm kia trạo cử Phải nghó, chán việc ác Khiến tâm trụ vắng lặng Như móc buộc đầu voi Lìa hôn trầm, trạo cử, Phải bình đẳng vận tâm Tùy tình mà trụ, xả Đừng để vướng lỗi lầm Từ đó dần được trụ Giữ hình tướng an tâm Thấy rõ hành Trung đạo, Đèn chính niệm thường soi. Lúc này dùng tầm tứ, Lần lượt nên quán sát. Bóng định sẽ được sinh Rõ ràng trụ trước mắt. Rõ sạch chẳng dao động. Như hình đại trượng phu, Nhìn hình này mà quán Đó là tướng sai biệt Tướng này đã sinh rồi Dục, ái liền đoạn dứt Chính là người buộc tâm Tướng phương tiện sơ định Tiếp biết “thể” sân hận Vốn do tham nhiễm khởi Dục, ái đã diệt rồi Sẽ lìa được sân hận Tiếp dùng niệm tinh cần Trừ tâm hôn trầm, ngủ Đã quán tướng sai biệt Nghi tình sẽ dứt ngay Kế phải trừ ố tác, Hạnh thiện (là) đường an ổn. Vắng lặng không chướng ngại Thường đề phòng trạo cử. Phải từ nơi tướng thô Quán xét tướng của nó Ảnh hiện ngay trong tâm Bằng suy tìm tỉ mỉ Thấy sai khác, tâm vui Từ đó được khinh an Kế chứng vui của định Thứ lớp định như vậy Đây là định căn bản, Khéo an được niệm, tâm. Giống như muốn vào làng Và vào được làng ấy. Đã được định căn bản Lại càng phải tu tiếp Chứng tha tâm, túc mạng Thiên nhãn, thiên nhó thông Định lúc này còn tức (suy xét, tìm tòi) Tâm chưa được trụ yên Như nước còn gợn sóng Không phải định địa trên. Tuy đã được sơ định Nhưng còn trụ sở duyên. Kế nương hai tónh lự, Đều dừng hẳn tầm, tứ Dù trụ được chốn này Vẫn còn sóng hỷ trội Lúc vào định thứ ba Tâm này mới trụ yên Do tâm này còn lạc (Thiền chi lạc) Chưa thể khiến niệm trụ, Chứng tónh lự thứ tư Các lỗi mới điều trừ Thối phần, thắng tấn phần Trụ phần, quyết trạch phần Tónh lự bốn loại phần Người tu định phải biết Định nếu thuận phiền não, Đây gọi là thối phần Sau hơn là Thắng phần. Tự trụ là Trụ phần Do trước phân biệt tốt Là nhân quyết trạch đạo Đây quyết định được kia Nên gọi Quyết trạch phần Hiểu rõ tướng vô thường… Và các hành tạo khởi … Nếu người đắc định này Là được đạo phần Noãn v.v… Đối các tướng bầm, trướng… Có rất nhiều cách quán Như Thánh giáo tu hành, Cần phải biết sai biệt. Gió thổi thây chết sình Chảy mủ máu trong huyệt Toàn thân đều ghê tởm Đây là quán sình trướng Chẳng yêu những thân thô Chỉ ham thân mềm mại Với người tâm nhiễm ấy Dạy họ quán như vậy. Nếu ở phần thây chết Ít có mủ trắng chảy Thịt còn lại đều bầm Đây là quán bầm, trướng Thấy sắc mà sinh ái Đây là người mê sắc Dùng bầm trướng đối trị, Khiến họ sinh ghê tởm. Toàn thây đều chảy mủ Đây là tướng mủ chảy Đối trị người ưa mùi, Quán khiến dứt tâm nhiễm Thây chết đứt ngang lưng Đây là tướng đoạn hoại Đối trị yêu toàn thân Phật dùng đấy đối trị. Xương cốt rã bừa bãi Chim rỉa, còn gân tàn Đối trị yêu da thịt Nói rõ tướng bị ăn Xương tay chân, các chi… Đều phân tán mỗi nơi Đối trị tham chi phần Nói quán tướng tạp loạn Tướng đống xương hỗn tạp, Dao gậy, đập xẻ rời Đối trị yêu toàn thân Khiến họ quán tướng này Thây xương bị dao chém Hoặc kích, tên đâm phải Máu chảy khắp cả thân Đây là tướng thân máu Lau sạch, thoa hương thân Thay áo quần mới, đẹp Người nhân đây khởi tham Cho đây làm thuốc quý Ích kỷ yêu giữ cảnh Không cho người ngoài xem, Quán trùng rỉa thây chết, Khiến trừ bỏ niệm ác Xương thịt đều tan rã Chỉ còn xương và răng Với người tham tướng răng khiến quán tướng răng xương Hoặc thấy người vừa chết Thức mất, còn thân tàn Những chúng sinh tham đắm Khiến quán trừ tham dục Phẩn tiểu và đờm dãi tụ hợp cùng thành thân Gồm ba mươi hai vật Túi da, gọi là người Lông tóc và móng răng Tướng trong nào gan ruột Ba trăm xương chống đỡ Chín trăm gân kết đan Chí lỗ chảy nước dơ Ô uế khó nói hết Xét kỹ, thật đáng ghét Người trí chẳng nên gần Quán thân người nữ rồi Cũng lại xét thân mình Nơi ấy nhân tham nhiễm Lý nên thường buộc niệm Chẳng thoát ngục ba cõi Đều do tâm dục nhiễm Do vậy, người trí sáng Phải khéo xét việc này Trải bao khổ địa ngục May mới được làm người Lẽ nào để tâm cuồng Chẳng tu hạnh thù thắng? Dâm tham có nhiều loại Do vì ái khác nhau Hễ quán, đều trừ sạch Gọi là quán xương trắng Gặp hình dung yêu kiều Áo quần đẹp, tham đắm Thuốc nào mà chữa được Không ngoài quán xương trắng Trước từ ngón chân cái Tâm định duyên tướng sưng Nát ra và chảy mủ Da thịt đều thối rữa Rồi quán đến bàn tay Giống như màu cò trắng Nó dần dần sưng tấy Da thịt đều thối rữa Lần lượt quán như vậy Toàn thân, thịt thối rữa Chính niệm thắng giải thành Chỉ quán khung xương ấy. Nếu còn lại miếng thịt Thì gọi là ý loạn Huống gì tâm phóng túng Chạy tìm đến các cảnh Lúc nào cũng buộc niệm Tự biết thường tru ïtốt Dần dần quán người khác đều chung, là khung xương Rộng ra đến biển cả Chỉ đầy là xương trắng Thành tựu định này rồi Xả rộng mà về hẹp Ban đầu xả từ ngoài Đến chỉ còn thân, xương Lại quán đầu ngón chân Thứ lớp mà tâm định Có khi xả từng phần Cho đến xương đỉnh đầu Phải biết tâm sau cùng Thâu giữ giữa chặng mày Nếu tu tập như thế Thường sinh trong Phạm cung Chẳng vào ba cõi ác Sinh về Ngũ Tịnh Cư Người đời mất tâm thiện Trôi lại trong sinh tử Người trí tu tâm định Như cứu lửa cháy thân Muốn xả được các duyên Cần ở nơi rừng vắng Chớ để vô thường bức Chết uổng trong tâm loạn Dùng trí tuệ, tịnh tâm Chết cũng được quả vui. Hoặc không cầu thân sau, Nay, Thắng đạo nên tu. Cạo tóc, mặc ca sa Thích nghi tu Thánh đạo Ngoài ra, việc huyên náo Đều là nhân sinh tử.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 113