<經 id="n1636">LUẬN ĐẠI THỪA TẬP BỒ TÁT HỌC HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN Số 1636 LUẬN ĐẠI THỪA TẬP BỒ TÁT HỌC Biên soạn: Pháp Xứng Hán dịch: Pháp Hộ. <卷>QUYỂN 1 <詞>Phẩm 1: TẬP BỐ THÍ HỌC Phần 1 Ta nghe địa ngục rất đáng sợ Nơi thiêu đốt khổ sở vô cùng Do từ xưa chưa có tâm tịch tónh Nên ưa nghe nhiều gần pháp lớn Nghe rồi xa lìa các tội ác Hối lỗi xưa gây, hết không còn Ta chưa từng được lợi tốt lành Trong phần ít ấy bao nhiêu lỗi Bồ-tát diệu, lạc, thắng, vô tận Chỉ Phật chứng đủ lý bình đẳng Pháp bảo hiếm có khó suy tư Nguyện từng sát na nghe ta nói Đã thành chủ nhân của ba cõi Trời rồng tám bộ các quyến thuộc Khát ngưỡng khởi từ tâm chúng sanh Vui vẻ thọ nhận lời an ổn Chánh pháp Như Lai và Phật tử Khéo vào giới Phật đã sanh thân Ta nay tập hiểu lời Đại Tiên Khắp vui chí thành cung kính lễ Ta vốn ngày xưa không chút hiểu Không giáo, không lời, không thiện xảo Cũng không lợi lạc cho chúng sanh Chỉ tự nhất tâm làm bạn pháp Nhưng ý ta vui pháp thanh tịnh Vì muốn nuôi dưỡng các căn lành Chúng ta ví như thấy văn nầy Đối nghóa chưa hiểu nên phải nói. Luận nói: Để thành tựu ý nghóa của bậc só phu thì trong một khoảnh khắc sát na khó mà đạt được đầy đủ. Nếu không suy nghó là nơi yên ổn, thì các hạnh Chánh đẳng nầy phải làm sao có được? Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Thiện Tài đến gặp Bà-la-môn Thắng Nhiệt mà suy nghó: Được làm thân người là khó, giải thoát các chướng nạn là khó, được không chướng nạn là khó, trong khoảnh khắc sát na mà đầy đủ sự thanh tịnh là khó, gặp Phật ra đời là khó, đầy đủ các căn là khó, được nghe pháp Phật là khó, được gặp thiện nhân là khó, được gặp thiện tri thức chân thật là khó, được thọ nhận giáo pháp đúng như lý là khó, được chánh mạng là khó”. Luận nói: Các chánh hạnh nầy đã biết rõ, nếu các bậc Đại só quán sát như vậy. Ý ta đối với người khác đã thoát khỏi khổ sở và sợ hãi, không vui với bản thân mình thì điều ấy thù thắng và vi diệu ra sao? Chỉ có hộ giới mới bạt trừ hết các gốc khổ của tất cả cõi hữu tình, và mong cầu an vui tuyệt diệu thực hành nhân Bồ-đề bền chắc, phát khởi ý kiên cố và không hủy hoại tín căn. Như trong Bảo Quang Minh Đà- la-ni nói kệ: Tin thuận chư Phật và pháp Phật Cũng tin việc Phật tử hành đạo Tin nơi đại Bồ-đề vô thượng Bồ-tát từ tin mới phát tâm Tin là mẹ công đức, dẫn đường Nuôi lớn tất cả pháp tốt lành Đoạn đường lưới nghi, khô dòng ái Tin còn thể hiện hạnh an nhẫn Khiến tâm trong sạch, không ô nhiễm Là gốc cung kính, trừ ngã mạn Tin như trong sạch nắm giữ nhân: Thất Thánh pháp tài, hạnh vô thượng Tin hay hoan hỷ, xả tất cả Do tin, vui nên vào pháp Phật Sanh khởi ra công đức trí tuệ Theo lời Phật nói, đều thông suốt. Tín căn sáng sạch thật bén, nhọn Thật sự, cắt hết gốc phiền não Tín lực kiên cố, không thể phá Chỉ nhất quyết tin công Đức Phật Tin với tương ưng, chẳng tương ưng Sát na đã lìa các nhiễm trước. Tin còn vượt ra các cảnh ma Thể hiện đạo giải thoát trên hết Tin là giống công đức chẳng hư Là năng tăng trưởng mầm Bồ-đề Làm sanh ra trí tuệ thù thắng Các người giác ngộ khắp mười phương Nếu thường tin sâu nơi Phật bảo Trái giới, trái học đều xa lìa Hoặc luôn xa lìa giới học sai Là khen ngợi sâu công Đức Phật Nếu thường tin sâu nơi Pháp bảo Nghe pháp Phật không từng chán đủ Không từng chán đủ nghe pháp ấy Là tin hiểu pháp, chẳng nghó bàn. Nếu thường tin sâu nơi Tăng bảo Đối chúng thanh tịnh không thoái, lười Không thoái, lười ở chúng thanh tịnh Tín lực nầy, không thể lay động Nếu tín lực không thể lay động Thì các căn được tịnh, minh, lợi Nếu các căn được tịnh, minh, lợi Người kia xa lìa các bạn xấu Nếu đã xa lìa các bạn xấu Thì được bạn pháp tốt đón nhận Đã được bạn pháp tốt đón rồi Thì thường tu tập thiện rộng lớn Nếu thường tu tập thiện rộng lớn Thì thành tựu lực nhân Đại thừa Lực nhân Đại thừa đã thành xong Người nầy tín giải thù thắng nhất Nếu được tín giải thù thắng nhất Liền được chư Phật thường hộ niệm Nếu được chư Phật thường hộ niệm Có thể phát khởi tâm Bồ-đề Nếu thường phát khởi tâm Bồ-đề Siêng năng tu công Đức Phật Nếu siêng tu tập công Đức Phật Là được sanh trong nhà Như Lai Nếu sanh sống trong nhà Như Lai Đắm trước và không đều giải thoát Cả hai đều giải thoát được rồi Là tâm thanh tịnh tin rất sâu Nếu tâm tin thanh tịnh rất sâu Thì được quả trên hết, hơn hết Nếu được quả trên hết, hơn hết Thường hành Ba-la-mật nhiệm, sâu Nếu hành Ba-la-mật nhiệm, sâu Thì năng ngộ nhập Ma-ha-diễn Nếu hay ngộ nhập Ma-ha-diễn Thì biết cúng dường Phật như pháp Nếu biết cúng dường Phật như pháp Thì được niệm Phật, tâm không động Nếu được niệm Phật, tâm không động Thì thường quán Phật chẳng nghó bàn Nếu thường quán Phật chẳng nghó bàn Thì Phật không sanh, chẳng hề trụ Nếu Phật không sanh, chẳng hề trụ. Thì biết pháp ấy luôn bất diệt. Luận nói: Trong đây muốn nói công đức của tín căn mới phát khởi rộng lớn vô lượng và quá trình tích tụ công đức ấy chỉ nói sơ lược. Lại nữa, các chúng sanh khác nhau sanh ra nhiều loại thân nên đối với pháp như thật khó tin hiểu. Nếu tâm thanh tịnh sâu xa đã gieo trồng tư lương phước đức thì nhân vào lực của niềm tin nầy mà được an trú trong số kiếp chúng sanh như số vi trần ở mười cõi Phật để thọ nhận các phước báo an lành vi diệu và thù thắng, đối với pháp ấy sẽ sanh tin hiểu, như kệ ở trong Kinh Thập Pháp nói: Tín là thừa tối thắng Chuyên chở thành Chánh giác Cho nên mọi sự tin Người trí nên gần gũi Nếu không có tín căn Không sanh các pháp thiện Giống như hạt giống hư Cũng không sanh mầm mạ. Lại nữa, trong Kinh Đại Thiện Dụ nói: “Bấy giờ, Như Lai bảo A- nan: Đối với niềm tin chánh pháp phải như vậy mà hiểu rõ và phải nên phụng hành theo”. Luận nói: Hành là tin hiểu đối với trong khoảnh khắc sát na mà đạt được tín căn kiên cố. Điều nầy có nghóa là người có tâm Bồ-đề kiên cố có khả năng nhiếp thọ tất cả các phước báo. Như trong Kinh Sư Tử Vương Sở Vấn nói: “Bấy giờ, thái tử Tinh-hạ-na bạch Phật. Thưa Thế Tôn! Làm thế nào để khiến cho chúng sanh ở chỗ mình sanh thường được an vui mà ưa thích nhiếp thọ các pháp? Đức Phật dạy: Nếu người muốn giải thoát các chúng sanh thì phải thường xuyên phát khởi lời khiêm tốn cung kính và một mực khởi tâm Bồ-đề. Nếu làm như thế thì có khả năng đạt được sự vui thích để nhiếp thọ các pháp”. Lại nữa, trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật dạy: “Nầy thiện nam tử! Tâm Bồ-đề tương tự như hạt giống, có khả năng sanh ra tất cả các pháp Phật. Tâm Bồ-đề tương tự như ruộng tốt có thể sanh trưởng các pháp thiện thanh tịnh của chúng sanh. Tâm Bồ-đề giống như đại địa nơi mà tất cả thế gian nương vào để tồn tại. Hơn nữa, tâm Bồ-đề tương tự như bậc từ phụ, đã dạy dỗ, bảo hộ gìn giữ các Bồ-tát, như Tỳ-sa-môn và có khả năng đoạn trừ mọi đau khổ bần cùng như ngọc ma ni thành tựu tất cả các nghóa lợi ích. Tâm Bồ-đề như cái bình tốt viên mãn tất cả các pháp thiện hiếm có, như cái chày kim cương có thể đập nát phiền não, như chánh pháp có khả năng đoạn hết các tác ý sâu thẳm trong tâm, như kiếm bén có thể chặt đứt đầu phiền não. Tâm Bồ-đề như rìu bén cỏ thể chặt hết cây khổ đau, như binh khí tốt có thể phòng ngự và chống lại tất cả các thế lực của tai nạn và khổ sở cùng cực, như cần câu ở trong biển luân hồi vớt hết khổ não cho chúng sanh, như gió lớn có thể nhanh chóng thổi tan tất cả mây chướng ngại bao phủ. Lại nữa, tâm Bồ-đề tương tự như rừng rậm tích chứa các hạnh nguyện của Bồ-tát, như tháp Phật là nơi tôn kính của tất cả hàng trời, người, A-tu-la trong thế gian. Nầy thiện nam tử! Ông nên biết tâm Bồ-đề thành tựu vô lượng công đức thù thắng như thế”. Luận nói: Làm sao biết được các chúng sanh v.v. phát tâm Bồ-đề? Trong đây, dẫn ra lời nói của bậc Thánh chẳng riêng nói ở một kinh. Như trong Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết nói: “Tuy khởi thân kiến như núi Tu Di, vẫn có thể phát khởi tâm lớn Bồ-đề nên sanh vào chỗ pháp Phật”. Lại nữa, trong Kinh Bổ Khuyết trình bày về nghóa của phàm phu Bồ-tát có nói: “Đức Phật bảo: Văn-thù-sư-lợi!Ví như chim non Ca lăng tầng già khi chưa ra khỏi trứng cũng có khả năng tạo ra âm thanh vi diệu. Nầy Văn-thù-sư-lợi! Hàng Bồ-tát nầy cũng lại như vậy. Tuy chưa đoạn trừ ngã kiến, không dứt hết vô minh để ra khỏi ba cõi nhưng đã có thể thiết lập âm pháp vi diệu của chư Phật. Pháp âm ấy chính là âm thanh không, vô tướng, vô nguyện và giải thoát v.v…”. Lại nữa, trong Kinh Tùy Thuyết Chư Pháp nói. Bấy giờ, Bồ-tát Thắng Tuệ ở trong bảo tòa mà nhập Niết bàn. Lúc ấy ngài ở trong thành ấp lớn mà thọ sanh. Bồ-tát đối với tánh không tin hiểu rõ ràng và tạo ra phương cách đối trị”. Hơn nữa, trong Kinh Nhập Định Bất Định Ấn nói: “Đức Phật bảo: Văn-thù- sư-lợi! Tại sao gọi xe dê là hạnh Bồ-tát? Ví như có người muốn vượt qua số thế giới nhiều như vi trần của năm cõi Phật thì người ấy cưỡi xe dê kia tùy theo đường mà đi. Trải qua thời gian lâu xa đi được một trăm du-thiện-na (đơn vị đo chiều dài) thì gặp gió lớn. Do vậy cho nên người kia lại thối chí đi lui tám vạn du-thiện- na. Về sau người ấy ở trong thế giới kia lại cưỡi xe dê đi tiếp cho đến không thể nói, không thể tính kiếp số có thể vượt qua một thế giới có hay không? Văn-thù-sư-lợi nói: Bạch Thế Tôn! Không được. Phật bảo: Nếu người Đại thừa phát tâm Bồ-đề rồi, thì không nên thọ trì đọc tụng giáo nghóa của Thanh văn, hoặc cùng với Thanh văn ở chung và tu tập giáo lý của Thanh văn, hoặc tự thâm tâm mình vì giáo hóa người khác mà ở trong hàng Thanh văn cho đến ngộ hiểu được trí tuệ kia rồi lấy nhân duyên ấy đồng hóa đạo vô thượng thì cũng là thối mất. Bồ-tát đối với sự chứng đắc tuệ căn tuệ nhãn của tâm Bồ-đề mà đắm chìm trong ấy thì cũng bị phá hoại. Văn-thù-sư-lợi! Do đó ta nói đó là Bồ-tát dùng xe dê mà đi”. Luận nói: Nếu Bồ-tát an vui ưa thích tin hiểu tánh không của Đại thừa thì tất nhiên đối sự tin hiểu và thực hiện mà đạt đến chỗ viên mãn, ngôn lượng của bậc thánh nầy chỉ có Bồ-tát tin hiểu và hành trì mới thấy được sự việc như vậy. Như Kinh Bảo Vân nói: “Lấy vô số pháp môn tổng trì Tam-ma-địa, thần thông du hý, trí giải thoát chiếu rõ các pháp vô biên mà bình đẳng siêu thoát tất cả hành báo của phàm phu ngu muội, cho đến đời sau không bị lợi dưỡng ở trong câu chi kiếp thế gian thọ dụng mọi thứ, tâm không phân biệt, như hoa sen tinh khiết thường trang nghiêm đầy đủ. Lại nữa, ở trong vô lượng na-do-tha kiếp thường an trú pháp Đại thừa hiểu rõ nghóa lý thù thắng, tư lương, phước đức và trí tuệ đều không giảm mất. Lại ở trong đó trứớc tiên hiện việc xuất ly, tu tập trăm ngàn pháp môn tương ưng đều đầy đủ cả”. Luận nói: Như thế nào gọi là hiểu rõ nghóa? Nghóa là mới phát tâm Bồ-đề thì nói là trụ vào địa nầy. Nếu không hiểu rõ nghóa thì chỉ là đạt sắc thái ít ỏi trong việc nắm bắt “vô ngại hoặc”. Các lời nói của bậc Thánh nầy nếu ai tin hiểu và thực hành pháp thì rõ hiểu được nghóa của lời nói như trong việc rộng, lược thuyết về sự hiểu rõ tín giải và hành. Lại nữa, trong Kinh Như Lai Bí Mật nói: “Bấy giờ, vua A-xà-thế bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Sao gọi là phát tâm Bồ-đề? Đức Phật đáp: Nầy Đại vương! Tâm Bồ-đề chính là tâm sâu xa, không thoái chuyển. Vua hỏi: Bạch Thế Tôn! Sao gọi là tâm sâu xa không thoái chuyển? Đức Phật đáp: Tâm ấy chính là phát khởi lòng đại bi. Vua hỏi: Bạch Thế Tôn! Sao gọi là hay phát khởi lòng đại bi? Phật đáp: Nghóa là đối với tất cả chúng sanh luôn khởi tâm không chán bỏ. Vua hỏi: Bạch Thế Tôn! Sao gọi là đối với tất cả chúng sanh mà đạt được tâm không chán bỏ? Phật đáp: Nghóa là nếu không chấp trước vào sự an vui của tự thân tức đạt được tâm không chán bỏ”. Luận nói: Trong đây nói tâm Bồ-đề là khuyên phát tâm đại bi, hoan hỷ, và yêu thương cung kính. Nếu không nương vào giáo lý tương ưng của Như Lai thì người ấy không thể xuất ly. Nếu tâm Bồ-đề nầy còn thấy có sự chán bỏ thì không thể gọi là phát tâm Bồ-đề. Như Kinh Thập Pháp nói: “Nầy Thiện nam tử! Nếu các Bồ-tát nương vào thể tánh và phát tâm Bồ-đề thì được gặp Như Lai và giáo hóa chúng Thanh-văn, phát tâm A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam- bồ-đề. Như vậy, gọi là sự hỉ lạc ban đầu để phát tướng tâm Bồ-đề. Nếu nghe nói về Bồ-đề và tâm Bồ-đề rồi tức là đã phát tâm A-nậu-đa-la- tam-miệu-tam-bồ-đề. Đây là sự hỉ lạc thứ hai để phát tướng tâm Bồ-đề. Nếu chúng sanh kia không quay về nương tựa và không cầu thấy được hai điều trên mà trụ trong tâm đại bi cho đến phát tâm A-nậu-đa-la- tam-miệu-tam-bồ-đề thì gọi là sự hỉ lạc thứ ba trong việc phát tướng tâm Bồ-đề. Nếu thấy các tướng viên mãn của Đức Như Lai liền sanh kính trọng, yêu mến cho đến mọi điều tương tự như thế thì gọi là phát tướng tâm Bồ-đề thứ tư”. Lụận: Nên biết tâm Bồ-đề có hai thứ: Nguyện tâm Bồ-đề. Trụ tâm Bồ-đề. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nầy thiện nam tử! Lại có chúng sanh ở trong thế giới mà phát nguyện chứng pháp khó được thuộc tâm A- nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, lại có chúng sanh trụ trong pháp khó được thuộc tâm A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề”. Luận nói: Hai điều trên là nguyện chứng làm Phật, và nguyện trụ lại thọ sanh. Lại nữa, trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Nhân ở nơi một vị Phật nào đó mà phát tâm Bồ-đề”. Vậy tại sao lại tạo ra một ít thiện căn? Như Kinh Hiền Triết nói: “Về thời quá khứ có Đức Phật Tinh Tú Vương ở chỗ Đức Như Lai Thí Âm, khi mới phát tâm Bồ-đề, là người chăn trâu dùng lá cây Đam-bộ-la để cúng dường cho Đức Phật kia. Lại có Đức Phật hiệu Vô Lượng Danh Xưng ở tại chỗ Như Lai Điện Quang, khi mới phát tâm Bồ-đề, là người thợ dệt đã dùng cái áo tốt đẹp nhất cúng dường cho Phật ấy. Lại có Đức Phật hiệu Diệm Quang vốn ở chỗ Đức Như Lai Vô Lượng Quang, lúc mới phát tâm Bồ-đề ở trong thành ấp đã dùng bó đuốc cỏ làm đèn để cúng dường Đức Phật kia. Lại có Đức Phật hịệu Nan Thắng khi mới phát tâm Bồ-đề đã ở chỗ Đức Như Lai Kiên Cố Bộ là người hái củi và dùng tăm xỉa răng để cúng dường Đức Phật kia. Lại có Đức Phật hiệu Công Đức Tràng lúc mới phát tâm Bồ-đề đã ở chỗ Đức Như Lai Diệu Kiết Tường làm vị lương y và dùng quả Am-ma-la cúng dường cho Đức Phật kia”. Luận nói: Sự mới phát tâm Bồ-đề nầy chẳng phải là chỗ hành viên mãn. Sự không chán bỏ nầy cũng có khả năng giải thoát khỏi quá trình luân chuyển mà đạt được vô lượng an vui. Như Kinh Từ Thị Giải Thoát nói: “Nầy Thiện nam tử! Ví như có một loại vật quí gọi là kim cang có thể đoạn trừ tất cả nỗi khổ bần cùng. Tất cả tâm trí nầy cũng lại như vậy có thể đoạn trừ mọi nỗi khổ của luân hồi sanh tử”. Luận nói: Nên biết như vậy, chỉ có phát tâm Bồ-đề nầy mới có khả năng đến gần quả giải thoát được. Lại nữa, Kinh Thiện Gián nói: “Đức Phật bảo: Đại vương! Nếu ông cho rằng trong nhiều việc tạo tác, có khả năng do nhiều người tạo tác là chưa đúng. Nếu trong tất cả hành động của ta thực hiện tất cả hạnh, đem lại lợi ích khắp mọi nơi, thì điều nầy có nghóa là bố thí Ba-la-mật-đa. Như vậy, cho đến trí tuệ Ba- la-mật. Nầy Đại vương! Do đó cho nên ông đối với A-nậu-đa-la-tam- miệu-tam-bồ-đề cũng lại như thế. Nghóa là ưa muốn phát khởi lòng tin thanh tịnh và nguyện lợi tha được thể hiện trong bốn cử chỉ đi, đứng, nằm, ngồi. Hoặc khi tỉnh mộng, hoặc khi ăn uống mà thường đầy đủ tác ý tùy niệm, quán sát chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác và các chúng sanh khác v.v… để tích tập tất cả các thiện căn từ quá khứ đến vị lai nhằm thích ứng tới sự hòa hợp vô tận, và nên tùy hỷ mà tự mình biểu hiện sự vui vẻ trước mắt cho đến biến khắp cõi hư không và cảnh giới Niết bàn cũng tự tùy hỷ. Lại nữa, tùy hỷ thiết lập sự nghiệp cúng dường tất cả chư Phật, Bồ-tát, Duyên giác và chúng Thanh văn rồi bình đẳng hồi hướng đến tất cả chúng sanh cho đến khiến cho tất cả chúng sanh ấy đạt được Nhất thiết trí, đều phổ cập đầy đủ pháp thiện của chư Phật và mỗi ngày ba thời đều hồi hướng đến A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Nầy Đại vương! Ông thực hành đích thực các hạnh như thế, được làm vua thì không mất vương vị, cầu quả Bồ-đề thì cũng được viên mãn. Nói quả báo ấy, nầy Đại vương! Do ông ở thời gian ấy phát tâm Bồ-đề nên nghiệp báo của thiện căn trong vô lượng vô số kiếp thường được sanh thiên, làm Đế Thích thiên, hoặc sanh trong nhân gian được làm vua chúa. Nầy Đại vương! Duy nhất là lực thiện căn phát tâm Bồ-đề, ngoài ra không có nghiệp khác, nên biết, nói tóm lại là viên mãn hoặc chưa viên mãn. Phật nói: Nầy Đại vương! Chỉ duy nhất là phát tâm Bồ-đề vì cứu độ tất cả chúng sanh, vì giải thoát tất cả chúng sanh, vì an ổn tất cả chúng sanh, vì cứu kính khiến cho các chúng sanh đến Niết-bàn, vì được sanh vô lượng vô số các thiện căn. Nầy Đại vương! Lại sao nói là có khả năng nhiều loại tạo tác trong nhiều loại tạo tác?”. Luận nói: Hành tướng của tâm Bồ-đề nầy như kinh nói là duyên khởi của quá khứ và hiện tại. Như vậy nguyện tâm Bồ-đề thì nhập vào địa nào của Bồ-tát mà được giới? Có người nói ở địa thứ chín. Còn trong Kinh Hư không Tạng nói: “Danh văn, lợi dưỡng là nguồn gốc của các tội”. Kinh Thập Địa nói: “Ở trong sơ địa đối với lợi dưỡng kia không có phần nhỏ gần gũi mong cầu. Nếu các chúng sanh đi đến chỗ của ta, tất cả đều được cung cấp nhiều gấp bội”. Luận nói: Như chỗ nói ấy, tức Bồ-tát ở địa Cực hỷ khéo an trú vào pháp tương ưng bất động. Lại nói sanh vào nhà Như Lai quyết định hướng đến thành tựu Đẳng Chánh Giác. Lại nữa, trong Kinh Hư Không Tạng nói: “Trừ người ưa thích Đại thừa ra, Thanh-văn thừa không thể chứng đạt như thế”. Như kinh Tối Thượng Thọ Sở vấn nói: “Sự keo kiệt, ganh ghét pháp thì gọi là trói buộc, thể hiện đầy đủ học xứ nầy thì gọi là địa Cực hỷ, xa lìa ngã tưởng và ngã chấp, sao lại chấp vào tất cả sở dụng. Như nói bố thí đầu và mắt v.v…”. Luận nói: Tất cả các kinh như trên đều cho rằng từ nhập vào Địa trở đi chính là biểu hiện học xứ nầy. Nếu luận chung khắp Bồ-tát thì điều ấy tương ưng trong sự tu tập. Lại nữa, hoặc cấm ngăn không nên thực hành nhanh chóng vì Bồ-tát chưa có khả năng học. Nên biết, hai loại nầy đều khắp các học xứ. Lại nữa, một thứ học đối với sự thành tựu tác dụng không thể học, nên tuy không thể tu tập cũng không có lỗi lầm. Kinh Vô Lượng Ý nói: “Khi thực hiện pháp Bố thí rộng lớn tuy xả bỏ giới thanh tịnh mà không bị biếng trễ do trước chưa nói cũng không thực hiện, như lực thân cận. Lại nữa, Kinh Thập Địa nói: “Giả sử có phạm vào giới tà dục thì hoặc nhiễm ấy cũng nhẹ nhàng do thường vui với tâm Bồ-đề. Nầy Xá-lợi-tử! Nói giới biệt giải thoát của Bồ-tát tức thành tựu bốn pháp. Nghóa là Bồ-tát ở trong sự tu tập đạt được lời nói chân thật. Nầy Xá-lợi-tử! Nếu thiện nam, thiện nữ nào mới phát tâm A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, quyết chí ưa thích chuyên cần cầu pháp thiện, học hỏi nghị luận và giữ gìn giới cấm, thì đối với học xứ của Bồ-tát đều tu tập đầy đủ. Do gần gũi người khác mà giới học như vậy, hoặc có lúc trái khuấy, khinh chê Tôn sư mà sanh hổ thẹn tột bực nên sanh khởi lo sợ. Người kia lại thọ nhận sự tôn trọng, ưu ái, an vui và tròn đầy giới pháp bình đẳng. Bồ-tát nầy đối với các giới học của Đức Phật hiện tiền phát sanh sự ưa muốn chính thức thực hiện, thì được thuận theo riêng trao cho học. Bồ-tát kia hoặc không có thiện tri thức nhưng hướng đến trước chư Phật và Bồ-tát trong hiện tại ở mười phương chuyên niệm thực hành quán sát tùy theo lực mà tương ưng với lượng. Đã chuyên trì giới nầy thì không có lời nói khi dối đối với mười phương chư Phật và Bồ-tát cho đến với các trời người của thế gian v.v… Trong kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: “Bố thí cho ngạ quỷ còn không đọa vào địa ngục huống nữa là cúng dường cho quả vị Bồ-đề Vô thượng. Nên biết không có các chúng sanh ở thế gian khác”. Như kinh Pháp Tập nói: “Nầy thiện nam tử! Bồ-tát nên phải tôn trọng lời chân thật. Tại sao vậy? Nầy thiện nam tử! Vì tích tập lời nói chân thật mà gọi là pháp tập. Nầy thiện nam tử! Sao gọi là thật đế? Nếu Bồ-tát phát tâm A-nậu-đa- la-tam-miệu-tam-bồ-đề cho đến xả bỏ thân mạng cũng không bao giờ bỏ tâm ấy và không bỏ rơi chúng sanh nên gọi là thật đế của Bồ-tát. Nếu Bồ-tát phát tâm A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề rồi nhưng trải qua một thời gian sau lại xả bỏ tâm nầy và bỏ rơi chúng sanh thì Bồ-tát ấy gây nên tội nói dối thật đáng bị quở trách chán ghét”. Lại nữa, trong Kinh Hải Ý Bồ Tát Sở Vấn Tịnh Ấn Pháp Môn nói: “Phật bảo Bồ-tát Hải Ý: Thí như trong thế gian hoặc vua hay quan lại muốn thiết đãi tất cả dân chúng trong các thành ấp nên tập hợp họ để chiêu đãi hoặc thức ăn, nước uống nhưng lại không làm. Đối với dân chúng thì vua quan ấy đã mắc tội nói dối vì dù một ít thức ăn nước uống cũng không có, họ cao giọng quở trách giận dữ bỏ đi. Đức Phật nói Bồ-tát Hải Ý: Bồ-tát kia cũng như thế, đối với chúng sanh chưa độ thì khiến cho được độ chứ không nên chỉ dùng lời nói suông cho đến không khuyên tu đa văn tích tập các phần pháp Bồ-đề, Bồ-tát ấy đã lừa dối chư Thiên và loài người. Như trước Đức Phật nói sẽ bị bậc Thánh quở trách chán ghét. Đối với trí đại trí và vô thượng thắng trí thì khó mà đạt được. Do đó phải biết Bồ-tát không nên lấy lời nói hư vọng lừa dối chư Thiên và loài người. Lại nữa, nầy Hải Ý! Hoặc có người đến khuyến thỉnh sự bố thí pháp để được lợi ích an vui thì Bồ-tát kia nên tùy lời mà nói cho đến xả bỏ tự thân mà tu hạnh Bồ-tát, chứ không bao giờ lừa dối tất cả chúng sanh. Phải nên hiểu rõ như vậy”.  LUẬN ĐẠI THỪA TẬP BỒ TÁT HỌC <卷>QUYỂN 2 <詞>Phẩm 1: TẬP BỐ THÍ HỌC Phần 2 Luận nói: Nên biết chỗ tích tập tự lực là tùy theo tướng ấy mà đối với một con đường lành cũng nên gìn giữ. Như Kinh Địa Tạng Thập Luận nói: “Mười nghiệp thiện như vậy Phật đã tu chứng quả. Nếu không chân thật gìn giữ một con đường nghiệp thiện cho đến khi mạng chung mà tự nói lên: Ta là người hành Đại thừa chân chánh, ta cầu chứng đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, nên biết người ấy mắc tội dối trá và vọng ngữ lớn. Đối với mười phương thế giới chư Phật mà lừa dối và mê hoặc thế gian nói pháp không đoạn kiến ngu si dối trá nên sau khi thân hoại mạng chung sẽ đọa vào đường ác”. Luận nói: Cho đến khi lâm chung, có thể trong khoảnh khắc tu các phẩm pháp thiện thì cũng nên thực hiện. Như kinh Dược Sư Lưu Ly Quang nói: “Nếu thấy chúng sanh có tâm rộng lớn nghe hạnh khổ hạnh của Bồ-tát khó làm và trí thắng diệu cho đến thấu hiểu mà phát khởi dõng mãnh gánh vác trọng trách bảo hộ chúng sanh, đoạn tận căn bản các khổ đau và lễ bái cúng dường, nói tội và tùy hỷ phước, khuyên thỉnh chư Phật trụ lâu ở đời mà thuyết pháp cho đến hồi hướng đến Bồ- đề, khuyến thỉnh thiện tri thức thuyết pháp hoặc tự mình thuyết, nên biết chúng sanh ấy đã hiển thị đạo”. Như kinh Văn Thù Sư Lợi Trang Nghiêm Phật Sát Công Đức nói: “Bạch Thế Tôn! Diệu Cát Tường thuở xưa lúc sanh ra vốn hành nhân duyên phát tâm Bồ-đề, cũng đã phát tâm như thế như chỗ nói của Đức Phật kia cho đến trước hết xa lìa bờ mé luân hồi làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, hành các hạnh như thế. Con ở chỗ Đức Thế Tôn phát tâm Bồ-đề hiện tại khuyến thỉnh khiến cho các thế gian giải thoát khỏi mọi báo khổ bần cùng tâm phẫn hận keo kiệt và ganh ghét. Khi con đắc Bồ-đề thì tất cả những điều ấy không còn hiện khởi. Cho đến thường tu phạm hạnh, giải thoát khỏi mọi tội lỗi. Đối với Phật tùy thuận học hỏi giới luật thanh tịnh, ưa thích tôn trọng đại Bồ-đề, không vội vả thủ chứng cõi sau cùng của con và đối với chúng sanh hiển bày một tướng không khác. Khi ấy, mười phương thế giới chưa nghe tên con mà vô lượng các cõi nước không thể nghó bàn đều được trang nghiêm. Do nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh nên các chỗ tạo tác cũng trở nên thanh tịnh. Lại nữa, trong mọi lúc phải gìn giữ giới luật thanh tịnh, tận cùng cõi sanh tử không còn các tội ác. Hơn nữa, trong kinh A Súc Như Lai Bản Nguyện Thọ Quyết nói: “Đức Phật A Súc kia khi còn làm vị Bồ-tát đã nói như vầy: Nếu ta mọi kiếp sanh ra đời không đi xuất gia thì sẽ lừa dối tất cả chư Phật. Nầy Xá-lợi-phất! Như vậy Bồ-tát đối với Phật A Súc cũng nên thuận theo học hỏi. Nầy Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát đời đời dù sanh ra chỗ nào cũng đi xuất gia, hoặc gặp Như Lai xuất hiện ở đời, hoặc không gặp Như Lai xuất thế thì cũng bỏ nhà xuất gia thọ học như vậy. Tại sao? Nầy Xá-lợi-phất! Vì như Bồ-tát bỏ nhà đi xuất gia là rất tối thượng cho đến đối với quyến thuộc nam nữ không sanh ái trước. Như khi ta sanh ra cũng chẳng có các lỗi lầm. Luận nói: Như trên đã nói, ngưng nói sự việc nầy. Nếu nói tội tướng của thí, giới, đồng nhau và đối với tội tướng tương ưng với các sự việc ấy, thì nên, tự xả bỏ hoặc hành tướng riêng biệt cũng chẳng phải không có tội, vì hành tướng riêng ấy không thể nhiếp thủ. Tuy nhiên Bồ-tát đối với tất cả chúng sanh, giải thoát tất cả khổ não khiến được an vui trong vị lai và làm cho thứ diệu lạc tăng trưởng nhanh chóng. Nếu thân, khẩu, ý không theo phương tiện tinh tấn chuyên cần làm cho chín muồi thì đối với duyên hòa hợp không có niềm vui giáo hóa, hoặc tán diệt cũng không tìm cầu. Phần nhiều và phần ít phiền não không khởi sự đối trị. Đối với nghóa lợi lớn và nghóa lợi nhỏ hoặc chẳng phải nghóa lợi cũng không sanh tổn giảm. Trong một sát na đều xả bỏ tất cả. Thuyết nầy nói tội và lược nói vô tội, nghóa là tự lực có thể đối với sự cảnh giới đều không có quả báo. Hoặc chấp như vậy đối với các học biểu hiện thể tánh của tướng là tội. Nếu tự lực có thể ở trong cảnh giới tương ưng với xứ tội thì điều nầy không có. Nên biết đồng nói tội v.v… đối với tướng giải thoát tức là cái học của Bồ-tát trong thân bình đẳng rộng lớn vô lượng kiếp sau mà nói. Lại nữa, ở đây lựợc nói hai loại tội nầy của Bồ-tát. Như đó thành tựu tương ưng hay chẳng phải tương ưng, có thể làm hay không thể làm đều không kén chọn xả nên là tội. nghóa là nói rốt ráo siêu thoát khỏi sự tìm cầu. Như nô dịch Chiên-đà-la v.v… hiểu sai lầm về nghóa là tội. Vậy tại sao trong kinh Thâm Tâm Giáo Giới lại nói như nhân nơi Từ Thị có bốn loại biện tài, tức lời nói của chư Phật. Sao gọi là bốn? Lựa chọn nghóa lợi ích và kén chọn nghóa không lợi ích Lựa chọn chánh pháp nầy và kén chọn phi pháp kia. Phá trừ phiền não chẳng phải tăng trưởng phiền não Vui thấy công đức của Niết bàn không vui thấy công đức của luân hồi. Trên đây chính là bốn loại biện tài đã lược nói như thế. Tại sao nhân nơi Từ Thị mà nói bốn loại biện tài? Nghóa là thiện nam tín nữ sanh khởi tưởng về chư Phật và tưởng nghị luận nghe pháp thiện. Tại sao? Vì nếu Từ Thị có sự khéo nói tức là ngôn ngữ của chư Phật. Nếu đối với biện tài của Từ Thị mà sanh huỷ báng rằng đó chẳng phải là lời biện tài của chư Phật nên khởi tâm không tôn trọng thì kẻ ác ấy tức đã phỉ báng chỗ thuyết biện tài của chư Phật. Do huỷ hoại pháp thiện nên chiêu cảm quả báo nghiệp tội đọa vào các cõi ác. Luận nói: Lại nữa, do tu tập thiện xảo mà phát khởi sự yêu thích an vui. Trong hành môn nầy tu học có tác dụng rất tối thắng nên phải tu học, hy vọng đạt được quả vị lớn lao. Như kinh Tịch Tónh Quyết Định Thần Biến nói: “Lại nữa, nầy Văn-thù-sư-lợi! Nếu Bồ-tát ở chỗ hằng sa số hết thảy chư Phật là chư Phật có hằng hà sa số cõi Phật. Lại nữa, trong hằng hà sa số kiếp như thế đã dùng ngọc ma ni như ý đầy khắp để bố thí và nếu các Bồ-tát đã nghe pháp tướng như vậy rồi lại nhất tâm suy nghó: Ta phải tu học thì nầy Văn-thù-sư-lợi! So với phước báo vô học trước đây nếu chưa thực hiện thì sự ưa muốn của Bồ-tát học địa nầy phước ấy rất nhiều. Luận nói: Bồ-tát ấy tuy thấy được công đức nầy nhưng chưa nói lên được sự tu tập của mình. Lại như kinh kia nói: “Nầy Văn-thù-sư-lợi! Giả sử giáo hóa chúng sinh nhiều như vi trần trong ba ngàn đại thiên thế giới khiến cho tất cả đều làm vua Diêm-phù, hoặc dùng các âm thanh tán thán, đọc tụng, như thuyết tu hành theo kinh Đại thừa, trong một ngày một đêm có thể cắt tiện thân thể tay chân cho đến chết vẫn một lòng phụng hành, thì nầy Văn-thù-sư-lợi! Do Bồ-tát nầy bố thí với tâm không khiếp nhược, không kinh hãi, không sợ sệt nên hoàn toàn nhất tâm phát khởi tướng gần gũi, không hối, không nghi cũng không phân biệt. đối với chánh pháp tối thượng nầy vị ấy nhiếp thọ tương ưng, ý vui đọc tụng như thuyết tu hành. Nầy Văn-thù-sư-lợi! Tâm Bồ-tát ấy dõng mãnh tức là bố thí dõng mãnh, trì giới dõng mãnh, tinh tấn dõng mãnh, thiền định dõng mãnh, trí tuệ dõng mãnh và tất cả Tam-ma-địa dõng mãnh. Nầy Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát ấy giả sử đối với đám người ác cũng lại không sanh tâm sân hận, tâm nhàm chán và lỗi lầm khác. Nầy Văn- thù-sư-lợi! Bồ-tát ấy như vua Thích, Phạm v.v… không thể lay động”. Luận nói: Nay chính là lúc nên nhất tâm học hỏi và hy vọng quả báo lớn. Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội có kệ nói: Nếu trong hà sa nhiều ức kiếp Cúng dường trăm ức na-do Phật Lòng tin thanh tịnh cúng món ngon Cũng cúng đèn hoa và phan lọng Nếu thời mạt pháp chánh pháp suy Pháp Phật như vậy sắp diệt mất Một ngày một đêm học hạnh ấy So phước trước, phước nầy hơn hẳn. Luận nói: Do đó, nếu nhất tâm khuyên tu theo lời Phật dạy trong kinh thì thành tựu nghóa học của Bồ-tát. Như kinh Bảo Vân nói: “Nầy thiện nam tử! Bồ-tát đối với sở học của mình nên kiên trì giới thanh tịnh, tìm hiểu như thế. Nếu không thì trong giới biệt giải thoát của Bồ- tát, ta làm sao có thể chứng đạt A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề! Lại nữa, làm sao ở trong các kinh pháp Đại thừa của Như Lai để thr thr giảng hạnh và tu tập các sở học của Bồ-tát. Do vậy, ta phải tu tập rộng lớn như thế”. Luận nói: Chúng ta không biết chứ đối với chế chỉ của Bồ-tát được nói rộng rãi nầy là chấp nhận phát khởi sự hiểu biết sai lệch. Lý nầy có gì sai biệt? Vì đối với chỗ tu tập đã hiểu rõ không có sai lầm. Sao gọi là chỗ tu tập? Nghóa là đối với thân có sự thọ dụng thuộc ba đời hành xả thanh tịnh, hộ trì chúng sanh khiến cho tăng trưởng thanh tịnh. Lãnh thọ giới Bồ-tát rồi, nếu Bồ-tát nầy an trú trong chỗ tu tập của mình mà nói là tướng tội. Như kinh Bồ Tát Biệt Giải Thoát nói: “Trong đạo Bồ-tát nhiếp thọ tất cả chúng sanh khiến họ đoạn tận cõi ác. Đạo Bồ-tát kia nhiếp thọ an trú trải qua đầy đủ A-tăng-kỳ kiếp. Chỉ phát khởi tâm an ổn và tâm thân cận”. Bồ-tát phát tâm nầy nên biết, đối với các chúng sanh chỉ một hướng nhiếp thọ nhiều trụ xứ. Như trong luật Văn Thù Thanh Tịnh nói: “Lúc ấy, Văn-thù-sư-lợi bảo Thiên Tịch Âm: Bồ-tát phải có đầy đủ năm thứ vô gián nầy mới mau chứng đắc quả A-nậu-đa- la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Những gì là năm? Bồ-tát tác ý sâu xa kiên cố để cầu đạo vô thượng và phát tâm không rơi vào địa của Thanh văn và Duyên giác. Bồ-tát tự xả bỏ tất cả sở hữu của mình nên dù ở trong sự keo kiệt cũng không bao giờ bị đồng hóa. Bồ-tát thường nghó ta nên cứu độ tất cả chúng sanh nên không hề khởi tâm biếng nhác thoái lui. Bồ-tát hiểu rõ tất cả pháp đều chẳng phải không, chẳng phải có, không sanh không diệt nên không rơi vào các kiến chấp. Bồ-tát đối với pháp trí đều hòa hợp một tướng nên phát tâm ở nơi vô sở trụ. Do vô sở trụ nên đối với các pháp Nhất thiết trí có chỗ chứng đắc. Luận nói: Nghóa là chỗ thọ dụng phước báo của thân không bao giờ đoạn diệt nên đối với việc xả bỏ và hộ trì khiến thanh tịnh tăng trưởng. Như trong Kinh Du Già Quán Tưởng nói: “Bồ-tát xả bỏ nghóa lỗi lầm và khởi quán tưởng lìa tham cũng như quán xả bỏ công đức”. Như kệ trong kinh Nguyệt Đăng Tam Muội nói: Vậy thân không kiên cố Người ngu tâm tạo nghiệp Sao thường trong thọ mạng Sát na như huyễn mộng Tạo ra các nghiệp ác Tội báo thường tùy thích Do nhân vô minh nầy Chết đọa nhiều đường ác. Lại nữa, kinh Vô Lượng Môn Đà-la-ni nói: “Sao gọi chúng sanh vướng vào nhân đấu tranh? Vì tính toán vào tài lợi làm căn bản. Do vậy cần phải xả bỏ. Nếu lìa tham ái tức là chứng đắc Đà-la-ni nầy”. Lại trong kinh Bồ Tát Biệt Giải Thoát nói: Lại nữa, Xá-lợi-phất! Bồ-tát đối với tất cả pháp rất vi tế không hề sanh tưởng khác. Vì sao? Vì sợ chấp trước. Trong kinh Tối Thượng Thọ Sở vấn nói: “Bố thí nghóa là không có các tâm keo kiệt và chấp trước mà thường gìn giữ và hộ trì. Lại nữa, bố thí là đoạn trừ tham ái chấp trước chứ không phải tăng trưởng tham ái. Bố thí thì không có các biến kế, còn chấp trước thì có các biến kế. Bố thí thì không có sự sợ hãi, còn chấp trước thì còn vướng mắc nhiều vào sợ hãi. Bố thí thì trụ vào đạo Bồ-đề còn chấp trước là trụ ở cảnh giới ma đạo. Bố thí là tạo ra tưởng vô tận còn chấp trước thì tạo nên tưởng hữu lậu. Lại nữa, bố thí thì đạt được các diệu lạc còn chấp trước thì thường bị bức bách. Bố thí thì xả ly phiền não còn chấp trước thì làm tăng trưởng phiền não. Hơn nữa, bố thí thì được phước giàu sang, còn chấp trước thì nhận lấy sự nghèo khổ cùng cực. Bố thí thì tạo nên sự nghiệp thiện còn chấp trước thì tạo nên sự nghiệp ác. Bố thí thì chư Phật khen ngợi, còn chấp trước thì kẻ ngu si ca tụng. Cho đến bố thí thì chỗ sanh con của mình không hề khởi luyến trước chẳng phải như chúng sanh khác sanh khởi luyến ái. Nên biết tự tâm có ba loại: Bồ-tát đối với đạo Bồ-đề thường tương ưng với Chánh Đẳng chẳng có tâm phân biệt cao thấp. Bồ-tát đối với đạo Bồ-đề khởi tâm bình đẳng chẳng có tâm phân biệt cao thấp. Bồ-tát đối với đạo Bồ-đề không có nhiều sự tạo tác cũng chẳng phải có các việc thực hiện. Trên đây chính là nói về ba sự tự tâm. Luận nói: Nghóa là đối với con của mình sanh ra, khởi tưởng chẳng phải bạn lành. Đã chẳng phải bạn lành nên không phải bạn của ta. Nếu làm lợi ích tùy theo sự học hỏi về giáo pháp của Phật mà gánh vác trọng trách nên đối với con của mình sanh ra cũng không khởi chấp trước, chẳng phải như đối với chúng sanh khác khởi tâm thương xót. Nên biết đã phát tâm Bồ-đề rồi, như đối với con ta phát sanh lòng thương, tức ta đối với tất cả chúng sanh cũng lại tùy thuận phát khởi lòng thương mến. Như vậy trong tâm quán quán sát ngộ hiểu: Con ta đã không khác đối với tất cả chúng sanh tức là tất cả chúng sanh đều là con ta. Các sở hữu của chúng sanh hoặc mình hoặc người cho đến Cư só, Bồ-tát tại gia đối với tài lợi của mình hoặc chẳng nhiếp thọ cũng chớ đắm trước nhưng không hề lìa pháp. Lại nữa, không nên ưa thích khoái lạc tùy thuận dục nhiễm. Vả lại Bồ-tát tại gia hoặc thấy có người đến xin thì nên tùy thuận vào sự phát tâm dõng mãnh của mình mà cung cấp cho. Lại nghó như vầy: “Tài lợi nầy của ta hoặc xả bỏ hay không xả bỏ thì rồi cũng hoàn toàn diệt mất”. Tại sao khi xả thọ mà đạt được tâm vô dục? Nghóa là ngã và ngã sở đã được nhẫn rốt ráo đối với tài vật đã xả bỏ, xa lìa cái khổ còn thai nghén, ẩn tàng tâm trụ vào chánh niệm vui vẻ, yêu thích không bao giờ sanh khởi tùy chuyển. Hơn nữa, năng xả như vậy tức là đối với vật dụng đã xả và người đến xin nên biết có bốn loại tưởng. Tưởng khiếp nhược cho nên không thể thuần thục thiện căn thuộc chỗ tạo nghiệp trước, và đối với Đại thừa tâm không tự tại nên thấy có thủ xả. Tưởng nếu ngã và ngã sở trú vào lực nhẫn an ổn khiến mình cùng người lành không khởi sanh buồn bực. Tưởng tu hành như vậy, hăng hái như vậy, tinh tấn như vậy để hoàn thiện tất cả chỗ mong cầu của chúng sanh. Bồ-tát tại gia như vậy thường đối với người ăn xin kia nên khởi tưởng hoặc người ấy lại gây nên tăng trưởng lỗi lầm thì Bồ-tát nên phải khéo nói lời yên vui, hoặc người ăn xin ấy không biết ơn, Bồ-tát cũng không khởi tâm keo kiệt ganh ghét mà xem đó là điều vô tội. Đây là Thế Tôn vì các Bồ-tát bậc thấp mà nói. Như trong Bồ Tát Biệt Giải Thoát nói: “Nầy Xá-lợi-phất! Bồ-tát có bốn pháp. Những gì là bốn? Bồ-tát thường xuyên phát khởi tín tâm. Bồ-tát không hề keo kiệt gian tham Bồ-tát không nói hai lưỡi và ganh ghét. Bồ-tát không hề có tâm biếng nhác. Nghóa là nói ta không thể chứng đắc quả A-nậu-đa-la-tam-miệu- tam-bồ-đề. Nầy Xá-lợi-phất! Ta có bốn pháp nầy chỉ có bậc trí kia mới hiểu biết rõ. Nếu người nịnh hót sống tà mạng cầu phi pháp và pháp nhiễm thì thường chú trọng đến tài lợi của thế gian trộm cắp của tín thí. Lại nữa Xá-lợi-phất! Bồ-tát với tâm dõng mãnh cho đến bố thí của cải, đầu mắt, tay chân, thân thể, quyến thuộc, nam nữ, nhà cửa, ruộng vườn, thành ấp v.v… tất cả những sự rất yêu mến đều xả bỏ. Lại như kinh Na La Diên Sở Vấn nói: “Nếu đối với tài lợi mà phát khởi tâm xả thì nên biết về tài lợi mà không hề sanh tâm chấp trước. Tuy nhiên ở đây chỉ xả bỏ mà chưa khởi trí. Nếu ở trong sự nhiếp thọ mà không khởi tâm xả thì đó cũng chẳng phải là nhiếp thọ nên cũng còn khởi chấp trước. Nếu tùy ý người xin mà đối với sự nhiếp thọ, khởi sanh trí thì ở trong quyến thuộc không khởi chấp trước, với sự tôn quý tối thượng cũng không chấp trước, với sự thọ dụng trân bảo cũng không chấp trước. Tuy nhiên, nếu Bồ-tát đối với tài lợi mà không khởi tâm xả bỏ cho đến phần vi tế nhất thì nên biết vẫn còn chấp trước. Lại nữa, thiện nam tử! Bồ-tát nên phát tâm như vậy, phần thân nầy của ta đối với các chúng sanh cũng nên xả bỏ huống gì sở hữu tài vật ngoài thân. Lại nếu đối với mọi nhu cầu của chúng sanh thì Bồ-tát nên thí cho. Nghóa là nếu có người đến xin tay thì cho tay, xin chân thì cho chân, xin mắt thì cho mắt nhẫn đến họ đến xin gan tủy máu thịt và phần thân khác, Bồ-tát cũng phải tùy thuận mà đem cho. Tại sao gọi là tài vật bên ngoài? Nghóa là có kho tàng chứa đựng vật như vàng bạc, trân bảo trang nghiêm thắng diệu, hoặc xe voi, xe ngựa, đất nước, cung điện, thành ấp, xóm làng, dân chúng, nô bộc và quyến thuộc nam nữ, nếu các chúng sanh ưa thích cần dùng đến thì Bồ-tát phải bố thí cho họ mà không tham tiếc. Phải luôn nghó ta nên cấp cho họ mà không sanh tâm buồn bực, thối thất cũng không hy vọng được quả báo tốt và những lời nói nịnh bợ ca thán khác. Lại nữa, sự bố thí nầy của ta là tùy thuận tất cả chúng sanh, thương xót tất cả chúng sanh, làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, nhiếp thọ tất cả chúng sanh, như ta nhiếp thọ chúng sanh biết pháp như vậy thì chứng đạt Bồ-đề, dùng lời chính yếu mà nói lên điều đó. Nầy thiện nam tử! Ví như cây thuốc với gốc, rễ, cành, lá, hoa, quả, võ và hạt của nó đều có giá trị chữa bịnh hoặc toàn phần hoặc một phần tùy theo người hái thuốc mà không sanh phân biệt. Lại nữa, khi đem thuốc ấy chữa hết mọi bịnh khổ cho chúng sanh cũng không phân biệt tính chất thượng, trung và hạ. Nầy thiện nam tử! Bồ-tát cũng như vậy, nên biết phải đối với bốn loài chúng sanh phải tưởng mình như là cây thuốc. Đối với chúng sanh kia Bồ-tát có thể làm lợi ích thường xuyên. Nếu chúng sanh cần tay thì Bồ-tát cho tay, cần chân thì cho chân tùy theo chỗ cần của họ như cây thuốc kia không hề sanh phân biệt.  <卷>QUYỂN 3 <詞>Phẩm 1: TẬP BỐ THÍ HỌC Phần 3 Như kinh Thánh Sở Thuyết Vô Lượng Ý nói: “Bồ-tát phải quán sát tự thân đối với các chúng sanh nên làm thế nào? Nghóa là bốn đại: đất, nước, gió, lửa có nhiều môn, nhiều thứ việc làm, nhiều thứ hệ thuộc, nhiều thứ khí cụ, nhiều thứ thọ dụng, nên phải tùy hành của chúng sanh hoặc nhiều hoặc ít, nhưng thân tứ đại nầy của ta tức chỗ tụ hội của các yếu tố ấy cũng lại như vậy, có nhiều môn, nhiều thứ tạo tác, nhiều thứ hệ thuộc, nhiều thứ khí cụ, nhiều thứ thọ dụng. Đối với các chúng sanh làm chỗ nương dựa lớn ở trong sự quán sát của mình mà làm lợi ích cho chúng sanh. Giả sử thân nầy có khổ thì Bồ-tát cũng không sanh nhàm chán. Luận nói: Về việc xả phước thọ dụng thì như trong Kinh Kim Cang Tràng nói: Bồ-tát dùng nhiều thứ để bố thí cho vô lượng người bần cùng khốn khổ trong mười phương. Người nhận thọ sự bố thí tin tưởng vào việc làm của Bồ-tát, nghe tiếng của Bồ-tát, duyên vào lời nói của Bồ- tát mà luôn luôn đều phải tu tập theo. Tuy nhiên Bồ-tát bố thí trước tiên phải phát thệ nguyện. Do nghe lời nguyện trong tâm Bồ-tát đối với việc xả bỏ tất cả với ý hoan hỷ không nhàm chán mà khiến cho người xin đều được mãn nguyện, tùy vào người đến xin mà phát tâm đa tạ. Như kệ trong kinh nói: Ta nên đến chỗ thí Ngươi biết không thể được Các người từ xa đến Không khổ nhọc hay sao? Như vậy, đối với người đến xin phải nên lễ bái, cung kính, an ủi và tắm rửa thân thể sạch sẽ để thiết sàng tòa rồi theo nhu cầu của họ mà cung cấp đầy đủ, đó là các loại mạt ni xa, các trang sức báu của phụ nữ trong cõi Diêm-phù-đề mà cung cấp tất cả. Hoặc bố thí vàng bạc, xe cộ, người hầu, tùy theo các loại nữ trang thanh tịnh mà đem cho đầy đủ. Hoặc bố thí xe Lưu ly với sự ca vịnh âm nhạc tối thượng đầy đủ như trước. Hoặc bố thí xe Phi-chi-ca với bốn phương diện thuộc các loại báu trang sức của người nữ được thiết lập thật trang nghiêm nhiều màu sắc và hình tượng không thể so sánh được, đồng thời cũng đầy đủ không có thiếu sót. Như trước đã nói, Mạt-ni xa được các thứ lưới báu bao phủ ở trên và dùng voi trắng để kéo và người điều khiển voi trông thật trang nghiêm vô lượng. tướng của bánh xe báu ấy cùng với xe đều rất tương xứng. Lại nữa, ở trong xe có nhiều tòa sư tử được làm bằng bảo vật cho đến thiết lập các phan lọng, bảo cái bằng vật báu che phủ lên trên tòa. Ở trong đó mọi người đều đi nhiễu quanh tháp báu và bốn mặt tháp đều có đủ loại thứ hương thơm xông lên. Dùng hương làm đồ xoa, lấy các thứ hoa thơm ngát tung rãi khắp nơi thật trang nghiêm vi diệu. Lại trong kinh kia nói, vì các chúng sanh nên Bồ-tát xả bỏ thân mình, thừa sự chư Phật mà nhiếp thọ họ. Như hoặc xả bỏ địa vị chuyển luân vương quốc thành cung điện và tất cả những thứ trang sức thắng diệu như vì người đến xin mà Bồ-tát xả bỏ các quyến thuộc nam nữ, thê thiếp, nhà cửa, ruộng vườn. Như vậy Bồ-tát xả bỏ ngay cả việc ăn uống quý ngài cũng vì chúng sanh mà luôn cung cấp đầy đủ. Đối với người bệnh tật, Bồ-tát đều thương tưởng đến mà ban cho mọi thứ cần dùng, như thuốc men, cơm nước, giường chiếu và phòng xá v.v… đối với Phật các ngài đều thừa sự cúng dường vô lượng các thứ báo trang nghiêm và khởi tâm cung kính không thể nghó bàn. Đối với Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác các ngài cũng luôn gần gũi cúng dường, đồng thời chỉ dạy họ phát khởi tâm hy hữu và tâm thanh tịnh. Đối với cha mẹ, A-xà-lê và các Tôn sư khác, mà khởi tâm cung kính, hầu hạ gần gũi, cầu học các tâm. Hoặc bố thí cho các người túng thiếu, khốn khổ, đối với các chúng sanh mà quán sát vô ngại, phát tâm thương xót. Tóm lại, nói: Nếu Bồ- tát vui bố thí xe voi với bảy chi báu thiết lập cao sáu mươi trượng và đầy đủ sáu ngà với mắt mũi thanh tịnh như sắc hoa sen, hình tướng được các thứ báu như vàng bạc v.v… Trang sức trông thật trang nghiêm, mũi thở ra những sắc vàng thù thắng vi diệu, bước đi cả ngàn du thiện na người xem không chán. Hoặc bố thí xe ngựa tùy đi dạo bốn phương nhưng mỗi bước đi đều bình ổn, ngay thẳng thân được sự an ổn với các tôi tớ hầu hạ đem theo thức ăn nước uống đầy đủ như sự trang nghiêm ở cõi trời trăm ngàn thứ báu v.v… hoặc bố thí cho các thiện tri thức, cha mẹ, sư trưởng tôn trọng và tất cả những người khốn khó trong thế gian với tâm không xẻn tiếc cũng không chấp trước. Ngược lại đem lòng đại bi đại xả phát tâm sâu xa thanh tịnh của Bồ-tát khiến phát tâm vô lượng công đức. Cho đến Bồ-tát hoặc bố thí sàng tòa, chỗ ngồi của bậc hiền vương và ngọc phệ lưu ly ở dưới chân ghế báu mà an trí giường sư tử, dây vàng lưới báu khắp mọi nơi rũ xuống mềm mại uyển chuyển với vô lượng trang sức, xông ướp hương thơm vi diệu dùng ngọc ma ni kiến lập đàn tràng cao diệu với vô lượng trăm ngàn sự bền vững vượt qua các thứ báu và dùng các thứ báu vô lượng rũ xuống để trang nghiêm, đồng thời mỗi một mắt lưới đều theo các linh báu. Gió thổi lay động phát ra âm thanh hòa nhã vui tai. Hoặc bố thí tòa ngồi cao lớn chót vót trên cao, có vô số các lọng thượng hạng che khắp mặt đất. tất cả các quốc vương, chủ đại tự tại ngồi rồi làm phép Quán đảnh và ở tòa nầy được chuyển luân vô ngại, dạy các tiểu vương theo đó phụng hành. Như vậy, cho đến Bồ-tát bố thí lọng báu lớn cũng dùng báu lớn trang sức, các cây, linh, dây, lưới… đều bằng báu rũ xuống quá khỏi tại, cổ. Lại nữa, dùng ngọc lưu ly, ma ni v.v… kết thành chuỗi anh lạc vi diệu. Lại trong các lưới như trời Nan di xuất ra âm hưởng vi diệu thanh tịnh hòa nhã được các loại báu cự phách trang nghiêm, số ấy có đến trăm ngàn thứ như chỗ chứa đựng các vật báu. Lại đốt hương vô giá bay khắp nơi như chiên đàn, trầm thủy tỏa ra mùi hương lan đi trăm ngàn do tuần đến khắp cõi nước khác. Lại có bảo cái thanh tịnh như ánh sáng vàng ròng của cõi Diêm-phù cũng dùng vô lượng các loại báu trang nghiêm. Dùng vô số trăm ngàn bảo cái che kín không gian. Dùng tâm bố thí đối với những người đến xin mà tùy theo nhu cầu của họ để cấp cho. Hoặc bố thí pháp chân thực khi chư Phật diệt độ để trang nghiêm tháp miếu. Hoặc đến cầu pháp với Bồ-tát, thiện tri thức và các Pháp sư Bồ-tát sanh trong thời hiện tại. Nếu cha mẹ, tăng bảo phụng hành theo giáo pháp của Phật cho đến tất cả những người đến thọ nhận sự bố thí thì đều lấy thiện căn như vậy mà hồi hướng. Như thời ban đầu ấy khi có các pháp thiện đều phải nên thân cận. Cứ như thế phát nguyện về thiện căn nầy và đối với các thế gian thường được nương ở, đối với pháp thanh tịnh được chánh tự tại. Nếu các chúng sanh có các thiện căn nầy thì tội báo ở địa ngục hoàn toàn được dứt trừ, cho đến cõi súc sanh cũng dứt hết khổ sở. Người kia đối với thiện căn đã hồi hướng thì ta đối với thiện căn cũng lại như vậy. Khi ở trong phòng xá thì nguyện cho các chúng sanh dứt trừ các khổ sở. Khi dang tay cứu vớt người thì nguyện cho chúng sanh dứt trừ các phiền não. Khi gặp sự nương sống nhờ thì nguyện cho chúng sanh lìa khỏi các sự sợ hãi. Nếu khi ra đi thì nguyện cho chúng sanh đến tất cả địa. Nếu khi hướng đến thì nguyện cho chúng sanh đạt được nhẫn rốt ráo. Khi thấy ánh sáng thì nguyện cho chúng sanh đạt được trí tuệ không còn mê mờ. Khi thấy ánh điển chớp thì nguyện cho chúng sanh phá trừ được vô minh ám độn. Khi gặp đèn đuốc thì nguyện cho chúng sanh trụ vào nơi thanh tịnh rốt ráo. Khi gặp sự khỏe mạnh thì nguyện cho chúng sanh đối với pháp không thể nghó bàn vào sâu chánh lý. Khi gặp vị tướng dõng mãnh thì nguyện cho chúng sanh đạt được trí vô ngại. Cho đến lời nói không có hư vọng, với ý sâu xa kiên cố hồi hướng về một cảnh, và tâm hồi hướng, tâm hoan hỷ hồi hướng, tâm tất hoan hỷ hồi hướng, tâm nhu nhuyến hồi hướng, tâm đại từ hồi hướng, tâm vui thích hồi hướng, tâm nhiếp thọ hồi hướng, tâm thủ hộ hồi hướng, tâm an ổn hồi hướng v.v… Lại nữa, với thiện căn nầy của ta nguyện cho tất cả chúng sanh được thành tựu việc hướng đến thanh tịnh, được thành tựu chỗ sanh thanh tịnh, được thành tựu phước tướng thanh tịnh trang nghiêm thân, được thành tựu sự vô tổn hại, được thành tựu sự bố thí rộng lớn, được thành tựu tâm lâu xa, của thành tựu niệm không mất, được thành tựu tuệ giải, được thành tựu giác ngộ vô lượng, được thành tựu thân, ý nghiệp và được tất cả các công đức trang nghiêm tròn đầy. Lại nữa, dùng vô lượng thiện căn cùng các chúng sanh cúng dường chư Phật. Cúng dường xong được không tổn giảm và ở chỗ Phật Thế Tôn sám hối tất cả tội ác, gần gũi bậc Như Lai Ứng cúng Chánh đẳng Chánh giác. Nghe Phật thuyết pháp rồi lìa hẳn các pháp nghi hoặc. Do nghe pháp và thọ trì nên thường xuyên đạt được chánh hạnh đầy đủ. Do cúng dường Như Lai nên thành tựu sự nghiệp, tâm siêng tu tập không có các tội ác. Lại nữa, ta gieo trồng các thiện căn nầy để hoàn toàn xa lìa sự bần cùng và đạt được Thánh tài (bảy pháp của bậc Thánh) thuận theo chư Phật để học được thiện căn thù thắng, có thể thành tựu sự tin hiểu rộng lớn và nhập vào Nhất thiết trí. Đối với thế gian thường quan sát vô ngại đầy đủ công đức trang nghiêm thanh tịnh, nhiếp thọ tất cả công đức, lời nói trang ng- hiêm, thành tựu các căn, mười lực gắn liền với sự tích tập của tâm phân biệt, ở trong mọi cử chỉ không gì không viên mãn. Lại nữa, các Đức Phật đã thành tựu trú xứ diệu lạc nên nguyện cho các chúng sanh cũng đứợc như thế, như trong Lục Thập Hồi Hướng Nghi Quỹ nói: “Nguyện cho hết thảy chúng sanh đạt được trí thực, vật không nên ăn, tâm tự biết hết, quyết định không chọn lựa thức ăn ưa thích, không ăn thịt cho đến không sanh ái dục. Nguyện cho tất cả chúng sanh như mưa xuống đều được một vị pháp. Nguyện cho tất cả chúng sanh đều đạt được vị tối thượng, đối với niềm vui pháp tối thượng an trú đầy đủ, khéo tư duy tất cả pháp của Phật, không sanh chấp tướng, không hoại các thừa như tối thượng thừa, tối thắng thừa, tốc tật thừa, đại lực thừa v.v… Nguyện cho tất cả chúng sanh vui thấy chư Phật không hề nhàm chán. Nguyện cho chúng sanh gặp thiện tri thức được không gián đoạn. Nguyện cho các chúng sanh không thấy thuốc độc. Nguyện cho các chúng sanh dứt trừ phiền não. Nguyện cho các chúng sanh thấy ánh sáng mặt trời thanh tịnh. Nguyện cho các chúng sanh phá tan tối tăm rồi tùy theo sự ưa thích mà nói. Như vậy thân tướng chiếu rõ tự tánh. Nguyện cho các chúng sanh thấy được ánh sáng thù thắng, không thấy các sự não hại mà chỉ có an vui, hiền thiện ưa thích với hy vọng cực hỷ đến chỗ chư Phật. Nguyện cho các chúng sanh đầy đủ hương giới, ở trong giới rốt ráo của Bồ-tát không hề hủy phạm. Nguyện cho các chúng sanh huân tu bố thí, xả bỏ tất cả. Nguyện cho các chúng sanh huân tu nhẫn nhục để được tâm bất động. Nguyện cho các chúng sanh huân tu tinh tấn và mặc áo giáp đại tinh tấn. Nguyện cho các chúng sanh huân tu các tónh lự, nương theo ở trước Phật hiện tại đắc Tam-ma-địa. Nguyện cho các chúng sanh huân tập sự hồi hướng của Bồ-tát. Nguyện cho các chúng sanh huân tu tất cả các pháp thiện, giải thoát tất cả các pháp bất thiện. Nguyện cho các chúng sanh được mọi sự cần dùng như ở cõi trời. Nguyện cho các chúng sanh phát khởi đại trí hạnh và được đầy đủ hành trang của bậc thánh. Nguyện cho chúng sanh dùng tâm Bồ-đề khuyến hóa chúng sanh khác đạt được an lạc vi diệu. Nguyện cho các chúng sanh xa lìa hành khổ luân hồi đạt đến nơi an ổn. Nguyện cho các chúng sanh được an trú vào cõi Phật thanh tịnh và chứng đắc các pháp xúc, nghóa là trụ vào công đức, trụ vào pháp tương ưng, trụ vào cái rộng lớn tối thượng bất động của chư Phật. Nguyện cho các chúng sanh được gần Phật. Nguyện cho các chúng sinh được vô lượng ánh sáng của pháp Phật chiếu đến. Nguyện cho các chúng sanh được ánh sáng vô ngại và hay dùng ánh sáng ấy chiếu khắp các pháp giới. Nguyện cho các chúng sanh được thân an ổn và đắc thân Như Lai. Nguyện cho các chúng sanh như Dược vương, biết phân biệt luận bàn phương thuốc. Nguyện cho các chúng sanh đều giống như thuốc hay không bao giờ gây tổn hại. Nguyện cho các chúng sanh như lương y ở đời chữa lành tất cả bệnh tật, được Nhất thiết trí đạt đến nơi an ổn. Nguyện cho các chúng sanh như vị thuốc hay ở đời thường hay đem tâm sâu xa đâm nghiền giã thuốc để hòa hợp. Nguyện cho các chúng sanh diệt trừ các bệnh tật khổ não. Nguyện cho các chúng sanh được thân thể có sức mạnh lớn. Nguyện cho các chúng sanh phá tan các thế lực của núi Luân vi. Nguyện cho các chúng sanh đạt được thế giới hư không vô hạn lượng với niệm căn rộng lớn, dù ở đời hay xuất thế tất cả chỗ nói đều nhiếp thọ rộng lớn và trì giữ niệm không vọng tưởng. Nguyện cho các chúng sanh được đồ dùng thanh tịnh, thiện, liễu ngộ sự phân biệt thanh tịnh của ba đời chư Phật không hề chấp trước. Nguyện cho sự mong muốn của chúng sanh được hướng đến tất cả các xứ hành ở cõi Phật. Nguyện cho các chúng sanh đối với tất cả chúng sanh khác được tâm không tổn hại. Nguyện cho các chúng sanh trong một sát na tâm đều duyên khắp các pháp giới và đi đến khắp tất cả các pháp giới mà không biết chán, mỏi mệt, nhờ vào sự không chán ghét ấy mà được thân uyển chuyển thông suốt. Nguyện cho các chúng sanh được hạnh diệu lạc cùng với các Bồ-tát đi đến đạo tràng. Nguyện cho các chúng sanh đối với các thiện tri thức và thiện căn, được tâm không xa lìa, biết ân báo ân theo đó mà giữ gìn. Nguyện cho các chúng sanh cùng với thiện tri thức đồng nhất sự lợi lạc. Nguyện cho các chúng sanh với tâm hoan hỷ sâu xa chỉ nhiếp thọ pháp thiện và cùng với thiện tri thức cộng trụ an ổn để tùy tu hạnh phước. Nguyện cho các chúng sanh cùng với thiện tri thức đều có nghiệp báo thiện căn thanh tịnh đồng một đại nguyện. Nguyện cho các chúng sanh trụ vào pháp Đại thừa, vónh viễn xa lìa vô minh sầu khổ và đạt được Nhất thiết trí vô cùng tận. Nguyện cho các chúng sanh được bao phủ bởi các thiện căn sống trong sự thủ hộ của các Đức Như Lai. Nguyện cho các chúng sanh giữ gìn trí đức, giải thoát tất cả các hoặc nhiễm ở thế gian. Nguyện cho các chúng sanh được đầy đủ tất cả các pháp thiện không khởi tán loạn và trong pháp Phật được hạnh bất hoại. Nguyện cho các chúng sanh đem mười lực để phủ lấp tất cả các ấm. Nguyện cho các chúng sanh được tâm sâu xa rộng lớn hiểu biết rốt ráo. Nguyện cho các chúng sanh ngồi tòa sư tử đạt được thần thông của Phật, đối với pháp thế gian phải quán sát như vậy. Lại nữa, trong kinh Hư Không Tạng nói: “Chỗ tích tập thiện căn, pháp trí thiện xảo của ta lúc nào cũng nương vào chúng sanh làm chỗ y cứ”. Luận nói: Xả bỏ sự thọ dụng của quá khứ và vị lai. Như trong kinh Vô Tận Ý nói: “Nếu tâm thiện và tâm sở pháp mỗi niệm đều hướng đến Bồ-đề thì đó là thiện xảo, nếu thiện căn vị lai quyết định đi đến Bồ-đề thì hiện tại đối với sự nghiệp nên khởi tâm thiện đều hồi hướng về A- nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề”. Luận nói: Như vậy, tâm và tâm sở pháp tu tập tin hiểu trọn vẹn tất cả xả thí. Lại nữa, tâm sở hành và thân phương tiện xả bỏ các sự nhiếp thọ. Nói nhiếp thọ nầy chính là giải thoát căn bản khổ đau trong ba cõi. Trong đây, vì đối với chỗ tạo tác trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp nên chiêu cảm vô lượng sự giàu sang và an vui của thế gian và xuất thế gian. Đối với thân tự nhiên thọ dụng như ý muốn. Ta nên dùng lưỡi câu tài lợi cứu vớt tất cả chúng sanh đặt lên bờ giác ngộ. Bồ-tát ở trong đạo Bồ-đề phải hoàn toàn bố thí tất cả, còn các điều khác thì như trong kinh Bảo Vân đã nói. <詞>Phẩm 2: GIỚI HỘ TRÌ CHÁNH PHÁP Phần 1 Luận nói: Người ấy đã xả bỏ thân sao còn gọi là thủ hộ? Lấy sự thọ dụng của mình mà bố thí cho tất cả chúng sanh sao gọi là thọ dụng và những gì gọi là bố thí? Nếu không thọ dụng cũng không thủ hộ thì chỉ là hộ trì tự thân nên phải lấy sự thọ dụng làm lợi ích cho chúng sanh. Trong kinh Bồ Tát Biệt Giải Thoát nói: “Nầy Xá-lợi-tử! Nên biết việc thủ hộ người khác tức là thủ hộ tự thân. Nầy Xá-lợi-tử! Hành tướng như vậy, nếu Bồ-tát thành tựu thủ hộ người khác, giả sử gặp nhân duyên đoạt mạng thì cũng nghó rằng ta đối với nghiệp ấy không nên làm”. Lại như trong kinh Vô Úy Thọ Sở Vấn nói: “Như xe lớn chuyên chở được nhiều dụng cụ nặng nề chỉ có các bậc trí mới hiểu rõ các pháp”. Trong kinh Vô Tận Ý cũng nói như vầy: “Vì hộ trì chúng sanh nên giả thiết thân có vướng vào khổ nạn, Bồ-tát cũng không hề sanh tâm mỏi mệt nhàm chán huống là xả bỏ thiện tri thức”. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Nầy thiện nam tử! Bồ-tát nhờ thiện tri thức mà hộ trì không đọa vào cõi ác, nhờ thiện tri thức mà siêu việt hoàn toàn các học xứ của Bồ-tát, nhờ thiện tri thức giáo hóa mà được xuất ly thế gian, nhờ thiện tri thức mà được gần gũi hạnh không mất của Bồ-tát, nhờ thiện tri thức mà được nhiếp thọ tất cả các hạnh hiếm có của Bồ-tát, nhờ thiện tri thức mà được nương tựa vào đạo chánh giác, diệt trừ hoặc chướng nghiệp để thoát khỏi bờ sanh tử và đến nơi thanh tịnh. Nầy thiện nam tử! Do đó việc gần gũi thừa sự thiện tri thức thì nên khởi tác ý như vậy. Nghóa là tâm như mặt đất có thể dung chứa tất cả mọi thứ nhưng không hề mệt mỏi nhàm chán, tâm như kim cương với chí nguyện không thể hủy hoại, tâm như núi Luân, giả sử gặp các sự khổ não cũng không hề chuyển động, tâm như người nô bộc dù làm các việc nặng nhọc cũng không than vãn nhàm chán, tâm như người làm thuê luôn trừ sạch bụi trần dơ uế mà không hề kiêu mạn, tâm như xe lớn có thể chở nặng đi xa nhưng không đổ ngã, tâm như ngựa tốt không bao giờ trở chứng, tâm như thuyền bè đưa khách qua lại mà không mỏi mệt, tâm như người con hiếu thảo đối với người thân luôn tùy thuận với sắc mặt vui vẻ hòa khí. Lại nữa, thiện nam tử! Nên đối với thân mình khởi tưởng bệnh khổ, đối với thiện tri thức khởi tưởng là thầy thuốc hay, tùy chỗ chỉ dạy mà tạo ra tưởng thuốc tốt, nhờ chỗ tu chánh hạnh mà tạo ra tưởng đoạn trừ bệnh tật. Nầy thiện nam tử! Nên đối với thân mình khởi tưởng sợ hãi, đối với thiện tri thức khởi tưởng dõng mãnh, tùy chỗ chỉ dạy mà tạo ra tưởng có thế lực và tu tập chánh hạnh tạo ra tưởng đoạn tuyệt oán thù. Lại nữa, trong Giải Thoát Quán Ưu-bà-di nói: “Nầy thiện nam tử! Bồ-tát đối với thiện tri thức thì tùy chỗ chỉ dạy nên suy nghó cúng dường các Đức Phật Thế Tôn. Bồ-tát đối với thiện tri thức không hề nói lời trái nghịch, được gần gũi Nhất thiết trí nên đối với thiện tri thức nói lời vô ngại hoặc, được gần gũi thiện tri thức mà không lìa tác ý, chỉ đạt được lợi ích trong hiện tại”. Lại như Thiện Tài đến chỗ Tỳ-kheo Kiên Cố Tràng cúi đầu đảnh lễ rồi đi nhiễu trăm ngàn vòng và đứng qua một bên. Bấy giờ, Tỳ-kheo Kiên Cố Tràng quán sát sự kính lễ, lại quan sát kỹ rồi lại cũng lễ kính lại. Sau khi tư duy quán sát khắp rồi, Tỳ-kheo liền hỏi: “Ông từ nơi nào đến mà hiện tướng như thế? Đối với công đức lợi ích hiện tại muốn niệm kiên cố với vô lượng hạnh nguyện, không xả ý nầy với hy vọng thấy tướng và âm thanh cho đến… làm lễ mà đi ra”. Như vậy, Thiện Tài thấy được Nhất thiết trí bèn khóc rơi hết nước mắt. Sau đó, Thịện Tài đến gặp Tỳ-kheo Hải Vân làm lễ mà ra đi”. Lại nữa, trong kinh Bồ-tát Phân Biệt Giải Thoát nói: “Nầy thiện nam tử! Bồ-tát vui với pháp thiện, ý muốn trân bảo của thế gian cũng đểu xả bỏ, đem thân thừa sự luôn cung kính cung cấp cho người thấp hèn và nói luôn tuân thủ theo giới, đối với Hòa thượng, A-xà-lê luôn sanh tâm tôn trọng cực độ. Tại sao? Vì đoạn triền phược mà cầu pháp như vậy, vì đoạn trừ sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não mà cầu pháp như vậy, vì phát tâm như thật trừ diệt sự khổ sở bần cùng của chúng sanh mà cầu pháp như vậy, vì phát tâm như cây thuốc làm an lạc cho chúng sanh mà cầu pháp như vậy”. Trong kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn nói: “Nầy Trưởng giả! Hoặc chỉ nghe một đến bốn câu kệ của Bồ-tát rồi thọ trì đọc tụng vì người khác mà giảng nói và tích tập các hạnh tương ưng về bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ của Bồ-tát thì người ấy đối với pháp A-xà-lê nên sanh tôn trọng cho đến chỉ dùng một câu văn mà nói kệ tán thán và ở trong một kiếp gần gũi A-xà-lê rồi thừa sự thường hành chánh trực và đem tất cả sự thọ dụng tài lợi để cúng dường, thì nầy Trưởng giả! Người kia đối với A-xà-lê tôn trọng còn chưa viên mãn”. Luận nói: Như thế nào gọi là tôn trọng pháp? Trong kinh Bát Thiên Tụng Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa nói: “Nầy thiện nam tử! Ông đối với thiện tri thức nên phải khởi tâm vui thích tôn trọng. Bấy giờ, Thường Thảm Bồ-tát với hành tướng như vậy tác ý tôn trọng và đi vào trong một thành ấp nói: Ta vì cúng dường Bồ-tát Pháp Thượng nên phải bán thân mạng để thuận theo giữ gìn sự chánh trực. Tuy nhiên ta đêm ngày vì nhân duyên ưa muốn thọ thân sanh tử lưu chuyển các cõi vô lượng vô biên, mà chưa từng vì pháp lợi ích cho chúng sanh. Lúc ấy Bồ-tát Thường Thảm cao giọng xướng lên: “Từ khi nghe người ta nói: Ai có muốn mua người nầy, ai có muốn mua người nầy?”, lúc bấy giờ ma Ba tuần từ chỗ ngồi đứng dậy khiến các Trưởng giả Bà-la-môn không thể nghe điều đó, do vậy ta muốn bán thân cũng không thể được. Người kia đi ngang qua thường không nghe gì cả nên ta tự rơi lệ khóc than mà nói: “Lạ thay! Đối với tài lợi sao mà khó kiếm được như vậy! Ngay cả đem thân ra bán cũng chẳng ai mua”. Khi ấy có vị Thiên chủ tên là Chước- ca-la hiện làm thân Phạm chí đến chỗ Bồ-tát Thường Thảm nói: “Nầy thiện nam! Ông sao ở đây buồn thảm khóc lóc?”. Thường Thảm Bồ-tát nói: “Ta nay ưa thích pháp thiện, muốn vì cúng dường pháp mà thường tự bán thân mình để cầu pháp nhưng chẳng có ai mua”. Bấy giờ Phạm Chí thưa với Bồ-tát: “Ta không cần người mà chẳng có gì làm được chỉ cần thân, tim máu huyết xương tủy của người, ngươi có thể bán được không?”. Lúc ấy Bồ-tát Thường Thảm tự nghó: Ta nay đã được thiện lợi lớn trọn vẹn. Định biết Bát nhã Ba-la-mật-đa phương tiện thiện xảo, thân ta còn bán sao lại mến tiếc gì máu huyết và xương tủy, bèn phát tâm vui nhận, tâm khéo phân biệt, tâm hoan hỷ cực độ mà nói với Phạm chí: “Thân nầy tùy ý ông muốn làm gì thì làm”. Nói rồi Bồ-tát dùng dao bén cắt đứt cánh tay của Bồ-tát khiến cho máu chảy ra và lóc thịt để phá bỏ xương cốt mà đưa. Khi ấy có nữ Trưởng giả đứng trên lầu cao xa trông thấy rõ sự việc nầy liền đến mà nói với Bồ-tát Thường Thảm “Tại sao ông phải làm thân mình khổ sở như vậy?”. Cho đến khi Đồng nữ nghe cúng dường rồi lại nói: Nầy thiện nam tử! Người kia có những công đức thiện lợi gì? Đáp: Nầy Đồng nữ! Thiện nam ấy vì ta mà khéo nói pháp Bát nhã Ba-la-mật phương tiện thiện xảo nên ta mới được pháp học như vậy. Việc học như vậy là vì tạo ra chỗ quy thú cho các chúng sanh”. Lại nữa, Đồng nữ nói với Bồ-tát Thường thảm: “Thiện nam tử! Đối với A- xà-lê nên vì cầu pháp rộng lớn mà được hai nghóa pháp. Ở trong hằng hà sa vô số kiếp mà xả thân nầy cũng chỉ vì cầu pháp rộng lớn như thế. Thiện nam tử! Ta nay có đủ vàng bạc, ngọc lưu ly và các châu báu v.v. Ông nên đem cúng dường Bồ-tát Pháp thượng mà tạo được lợi ích rộng lớn”. Lúc ấy Đồng nữ cùng năm trăm quyến thuộc của mình đều đi đến chỗ Bồ-tát Pháp Thượng. Bấy giờ Pháp Thượng từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào ở trong thất trải qua bảy năm nhập thiền định. Bồ-tát Thường Thảm cũng trong bảy năm ấy không khởi suy nghó muốn tìm, chê bai, tổn hại cũng không đắm trước các thứ ngon vật lạ mà chỉ nhớ nghó đến Pháp Thượng bao giờ xuất định. Cứ như vậy Bồ-tát Thường Thảm đi vào trong các địa phương, ngồi trên pháp tòa mà giải nói pháp ấy và được mọi người rãi muôn thứ hoa và các trân bảo để cúng dường. Lúc ấy, nữ Trưởng giả cùng năm trăm quyến thuộc đối với Thường Thảm cũng thực hành oai nghi tấn chỉ như vậy. Bấy giờ giữa hư không cũng vang lên tiếng báo cho Thường Thảm biết rằng. Trong vòng bảy ngày nữa là Pháp Thượng ra khỏi thiền định và đi đến thành kia để tùy nghi thuyết pháp. Khi ấy Thường Thảm nghe rồi liền sanh tâm vui vẻ cực độ và ý rất phấn khởi, dọn sạch nơi chỗ trang nghiêm. Lúc ấy nữ Trưởng giả cùng năm trăm quyến thuộc ở trước pháp tòa, dùng trí khéo léo và bảy thứ báu để trang hoàng. Kế đến, Thường Thảm ở trong địa phương nghiêm chỉnh quét tưới khắp nơi nhưng cầu nước mà không thể được và chốn ấy có ma Ba Tuần tên là Ẩm Tương đã che lấp hết nước với mục đích khiến cho tâm Bồ-tát sanh khổ não, thoái lui ý đạo, tăng trưởng căn bản bất thiện. Khi ấy Bồ-tát Thường Thảm đã biết ma Ba tuần che lấp hết nước bèn nghó: “Ta nay nên dùng dao cắt thân cho máu chảy ra dưới đất. Vì sao vậy? Vì cõi địa phương nầy lắm bụi trần sợ thân Bồ-tát Pháp Thượng bị dơ bẩn, nên ta phải vì pháp cho dù thân nầy có thể bị hủy nát cũng không lấy gì làm thương tiếc. Lại nữa, ngày xưa ta có nhân duyên qua lại trong vô số cõi luân hồi sanh tử nhưng chưa từng vì pháp để xả thân mạng. Nghó xong Thường Thảm liền dùng dao cắt thân mình khiến cho máu huyết chảy khắp địa phương ấy, các nữ quyến thuộc cũng bắt chước làm theo như vậy. Lúc ấy ma Ba tuần đều không thể ngăn được. Trong kinh Đại Thừa Tứ Pháp nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo: Bồ-tát đoạn tận thọ mạng hình hài của mình cho đến hoặc gặp nhân duyên mất mạng cũng hoàn toàn không bao giờ xa rời thiện tri thức”.  <卷>QUYỂN 4 <詞>Phẩm 2: GIỚI HỘ TRÌ CHÁNH PHÁP Phần 2 Luận nói: Đối với kinh điển nầy, không xa lìa thiện tri thức tức là thủ hộ bản thân mình. Đối với kinh điển nầy trong khoảnh khắc một sát na phải học theo hạnh Bồ-tát. Đối với kinh điển nầy nói thì phải tu tập theo hạnh của Bồ-tát. Đối với sự học của Bồ-tát thì nên chọn lấy lời nói kia, do vậy quán chiếu theo mà không rơi vào tội, đối với chỗ vô trí cũng không ưa thích. Thấy kinh điển nầy phải thường xuyên ưa thích tôn trọng. Thấy kinh điển nầy thì không xa lìa thiện tri thức, vì để hộ trì tất cả các chánh pháp. Như kinh Hải Ý nói: “Nhưng nầy thiện nam tử! Không thể nói là dùng văn tự ngôn ngữ không thể nói lên được pháp vô sanh. Nếu dùng ngôn tự mà nói pháp môn tổng trì thì có điều nầy, đây gọi là hộ trì chánh pháp. Lại nữa, thiện nam tử! Nếu có vị Pháp sư giảng thuyết kinh điển sâu xa rồi theo như thuyết mà tu hành và có người đối với Pháp sư ấy gần gũi tôn trọng thừa sự cung kính, bí mật hộ trì, cúng dường các thức ăn, nước uống, y phục, ngọa cụ và các loại thuốc trị bệnh, hộ trì các phẩm pháp thiện và hộ trì ngôn ngữ. Giả sử có bị hủy báng thì cũng được che chở. Điều nầy gọi là hộ trì chánh pháp. Nầy thiện nam tử! Đối với Bồ-tát không có gì tranh cãi có thể thắng không có pháp thể nói được. Người nầy cùng pháp đều không có chấp thủ. Đây gọi là hộ trì chánh pháp. Lại nữa, thiện nam tử! Đối với tất cả chúng sanh ở trong tuệ giải thoát không thể sanh tổn giảm, không dùng tâm nghó về tài lợi mà bố thí pháp cho người khác thì đây gọi là hộ trì chánh pháp. Lại nữa, nầy thiện nam tử! Hoặc nhân nghe pháp, hoặc nhân thuyết pháp cho đến mỗi bước đi mỗi hơi thở ra vào đều đem tâm chuyên trụ thì gọi là hộ trì chánh pháp. Nầy thiện nam tử! Nói tóm lại, nếu đối với cảnh giới sắc tâm không có các duyên bám víu và chỉ dùng ở một tánh cảnh điều phục hơi thở thì đây gọi là hộ trì chánh pháp. Lại nữa, nầy thiện nam tử! Nếu nói pháp nầy đối với pháp kia có thể chuyển biến thì pháp nầy không có chấp trước, thì đây gọi là hộ trì chánh pháp”. Luận nói: Kinh kia nói về Pháp sư tuy gần gũi thiện tri thức và không xa lìa tướng của thiện tri thức mà nếu không thọ trì chánh pháp thì không phải là thủ hộ, không phải thanh tịnh cũng không tăng trưởng, tức là chẳng phải Bồ-tát quyết định đối với sự hộ trì chánh pháp như vậy. Kinh Sư Tử Hống Thắng Man nói: “Phật bảo Bồ-tát có vô lượng hằng hà sa số vô lượng hạnh nguyện đều nhập vào trong một đại nguyện, đây gọi là hộ trì chánh pháp. Hộ trì chánh pháp là đi vào đại cảnh giới”. Kinh kia lại nói: “Thí như đại lực só chỉ cần động thân là có thể làm cho người khác bị tổn hại. Phật bảo Thắng Man: Hộ trì chánh pháp cũng lại như vậy, khiến cho ma Ba Tuần bị sầu não lớn. Ta không thấy một thứ pháp thiện khác có khả năng khiến ác ma phát khởi sự ưu não nầy. Như vậy, chỉ có cách là hộ trì chánh pháp”. Lại nói, ví như núi chúa Tu di đẹp đẽ tuyệt vời, so với núi Hắc sơn thì nó rất cao lớn. Phật bảo Thắng Man: “Như vậy đối với Đại thừa xả bỏ thân mạng, tài lợi để nhiếp thủ tâm hộ trì chánh pháp hơn hẳn người trụ trong pháp Đại thừa không xả thân mạng để thu nhiếp tất cả pháp thiện”. Như kinh Hải Ý nói: “Hộ trì chánh pháp của Như Lai tức là sự nhiếp thọ trên hết, phước đức trí tuệ của chư Thiên, Long vương, Khẩn-na-la đều có thể thâu nhiếp, cho đến hộ trì chánh pháp của Như Lai thì ngay nơi cõi nước hiện sanh không trải qua sự trống rỗng vô ích, trong tất cả đời sống đều gặp được bậc tôn thắng và gặp rồi liền được tâm thanh tịnh. Do hộ trì chánh pháp của Như Lai mà nhớ được đời trước rồi xuất gia, trong đại pháp của ta khéo làm lợi ích có thể thành tựu các hạnh thanh tịnh chân thật đã tu. Lại nói, hộ trì chánh pháp của Như Lai thì được pháp môn tổng trì và các việc thiện lợi dù trải qua trăm kiếp cũng chẳng thoái thất. Do đầy đủ các biện tài nên thường vô ngại. Hộ trì chánh pháp của Như Lai thì sẽ trở thành Thích phạm hộ đời v.v… hoặc lại đắc địa vị Chuyển luân Thánh vương liền giác ngộ sự yên ổn an vui của Bồ-đề. Người hộ trì chánh pháp của Như Lai thì sẽ đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, đại trí trang nghiêm thân an vui, tùy theo chỗ thấy mà không hề nhàm chán. Người hộ trì chánh pháp của Như Lai thì không xả bỏ tâm Bồ-đề, thường hành Ba-la-mật không có tổn giảm và có khả năng nhiếp thọ nhiều pháp thiện. <詞>Phẩm 3: HỘ PHÁP SƯ Luận nói: Nói về phương tiện thủ hộ thì có ba loại. Nghóa là hộ trì thân và lời nói để tránh xa các tai nạn. Hành giả hộ trì chánh pháp nghóa là phải hộ trì tư duy không khiến cho người khác gây tổn hại để xa lìa tai hại nầy. Như trong kinh Hư Không Tạng bàn về việc hộ trì chánh pháp các Bồ-tát đồng nói kệ: Bậc Lưỡng Túc tối thượng Sau khi diệt độ rồi Thường sanh tâm dõng mãnh Không tiếc thân mạng mình Hộ trì chánh pháp Phật Xả bỏ các lợi dưỡng Và xa lìa quyến thuộc Vì để chứng Phật trí Không bỏ chánh pháp nầy Nếu như bị mắng nhiếc Thậm chí bị chửi rủa Vì hộ trì chánh pháp Chúng con đều nhẫn nhịn Hoặc có người khinh miệt Phỉ báng không khen ngợi Vì hộ trì chánh pháp Chúng con đều phải nhẫn. Lại nữa, tổng tóm lược nói: Vì chúng sanh mạt pháp Con phải giữ chánh pháp Như Tỳ-kheo đời ác Có lực tăng thượng lớn Đối với kinh điển hay Không nghe cũng không đọc Chỉ trọng ý kiến mình Cho kẻ khác là sai. Đối với giáo pháp sâu Thuận với quả giải thoát Trong chánh pháp như vậy Tâm không ưa phân biệt Cho đến thương chúng sanh Hoặc không trụ pháp nầy Vì khởi tâm thương xót Nên được trì kinh nầy Nếu thấy người phá giới Tham trước các lợi dưỡng Con đem tâm thương xót Phương tiện khiến xả bỏ Nếu thấy người ác tâm Luôn hủy báng chánh pháp Con đem tâm từ nhẫn Chánh kiến khiến hoan hỷ Như sức hộ người kia Khéo thành tựu ngữ nghiệp Hoặc có lúc không nói Người kia tự an trụ Sau lấy bốn nhiếp sự Thành thục người như vậy Với người hành tội ác Chỉ dạy khiến hiểu rõ Hoặc bỏ nơi huyên náo An trụ cảnh giới thiện Như nai chúa tự tại Ít muốn và biết đủ. Lai nữa, kệ cũng nói: Nếu vào trong hàng xóm Tâm điều hòa chánh trực Nhiều người cầu nghe pháp Nên thuyết pháp thâm diệu Khiến ở xa nhàn hạ Ưa thích pháp tịch tónh Do trong thiện lợi nầy Mà thường được pháp lạc Nếu các thứ mê lầm Luôn hiện ra trước mắt An trụ trong pháp lạc Nên phải tự quán sát Ta làm thầy thế gian Không nhiễm pháp thế gian Trong các sự khen, chê Như Tu-di chẳng động Các Tỳ-kheo phá giới Nếu đến để hủy báng Nên tự nhẫn việc nầy Chớ giận với người kia Lại trong các pháp nầy Ta nói không sở hữu Đối việc hành chánh pháp Không sanh tưởng báo oán Giả làm tướng Sa-môn Thật không đức Sa-môn Khi nghe pháp cú nầy Đối kinh cũng hủy báng Hoặc chặt đứt mũi tai Và cảm thấy không vui Khi nghe pháp cú nầy Tất phỉ báng chánh pháp Các Tỳ-kheo vị lai Người hộ trì chánh pháp Bị họ làm trở ngại Khiến không nghe pháp nầy Hoặc bị vua bắt giữ Chỉ trích trong đại chúng Con nguyện nương oai Phật Rộng đều nghe pháp nầy Ở đời ác tương lai Thà mất đi thân mạng Cũng hộ trì chánh pháp Làm lợi ích quần sanh. Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng nói như vầy: Nên nhập vào hành xứ Cùng với thân cận xứ Thường xa lìa quốc vương Và các con của vua Đại thần quan Trưởng giả Người hung dữ, đùa giỡn Và bọn Chiên-đà-la Với Phạm chí ngoại đạo Cũng không nên gần gũi Những kẻ tăng thượng mạng Tham chấp nơi Tiểu thừa Các học giả Tam tạng Các Tỳ-kheo phá giới Giả danh A-la-hán Và các Tỳ-kheo ni Những kẻ hay cười giỡn Cùng các Ưu-bà-di Đều chớ có gần gũi Nếu có một số người Đem tâm tốt mà đến Ở chỗ của Bồ-tát Vì lắng nghe Phật đạo Bồ-tát nên phải biết Dùng tâm không sợ hãi Không có mong muốn gì Mà vì họ nói pháp Hoặc gái hóa gái trinh Và hạng người hai căn Chớ có nên gần gũi Để lấy làm thân quen Cho đến người bán thịt Kẻ tự khoe khoang mình Hay người bán nữ sắc Những hạng người như thế Đều chớ có gần gũi Người xem tướng tốt xấu Những kẻ ưa đùa cợt Tất cả dâm nữ thảy Tuyệt đối chớ gần gũi Chớ một mình chỗ vắng Vì người nữ thuyết pháp Nếu như có thuyết pháp Thì không nên cười giỡn. Luận nói: Hơn nữa, nói về nạn nầy tức chính là sự việc ma. Kinh Bát Nhã nói: “Đối với ma Ba tuần, những người trụ Bồ-tát thừa chưa lâu thì tu tập Bát nhã Ba-la-mật-đa, thường khởi thế lực lớn”. Lại nói: “Nầy A-nan-đà! Nếu Bồ-tát khi tu pháp Bát nhã Ba-la-mật thì có ác ma đến chỗ của Bồ-tát gây nhiễu loạn ý và hiện ra sự sợ hãi. Ma hóa ra sấm sét, lửa đốt cả mười phương cõi khiến cho Bồ-tát sợ hãi khiếp nhược, trong một niệm thối thất tâm A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Lại nữa, sai người sao chép cho đến đọc tụng khiến người không thích xả bỏ lợi dưỡng đứng dạy mà đi ra khỏi chỗ ngồi. Tạo sự cuồng loạn đùa giỡn lớn như thế chế nhiễu cực lớn. Hơn nữa, sao chép kinh sách cho đến đọc tụng khởi lên các việc ma nghóa là tìm cầu trong thành ấp, xóm làng có chỗ ở của Hòa thượng, A-xà-lê, cha mẹ, thiện tri thức và những người thân thuộc để tác ý như vậy. Lại khởi tư duy làm giặc cướp các thứ y phục và tài vật. Lại nói Pháp sư thích nói Bát nhã Ba-la-mật- đa sâu rộng liền chép sách cho đến đọc tụng khiến người kia nghe pháp hoặc sanh nhàm chán biếng nhác, đối với Pháp sư khởi điên đảo như vậy rồi thích qua lại chỗ khác nghe kinh pháp của người khác. Lại nói Pháp sư ưa thích người nghe có đại căn khiến người kia nghe pháp mà chỉ có phần ít hy vọng, hoặc nói Pháp sư chỉ thích nói sơ sài khiến người kia nghe pháp liền sanh tâm trách cứ. Tất cả những lời nói như vậy đều là việc ma. Lại nữa, trong kinh Hư Không Tạng nói: “Cho đến thích làm mười nghiệp bất thiện, xả bỏ pháp thiện đều là việc ma”. Kinh Hải Ý nói: “Bạch Thế Tôn! Bồ-tát an trú ở chỗ thanh vắng để tu tập, tuy bỏ tục xuất gia sống đời thiểu dục tri túc nhưng hành diệu lạc, không cần đa văn cũng không hóa độ chúng sanh, đối với chỗ giảng pháp lại không thích lắng nghe, trong đó tùy thích nghi các nghóa quyết định để nói tuy gần gũi mà không hỏi han, đối với chút ít thiện cũng không mong cầu, trụ trong chỗ thanh vắng mà tích tập nhiều hành phiền não, như trong khoảnh khắc, liền từ chỗ ngồi đứng dậy mà không tự hiểu biết cũng không tu sửa việc sai trái phá hoại đạo, không hành tự lợi, lợi tha. Thưa Thế Tôn! Đó gọi là việc ma thứ bảy của Bồ-tát trụ trong chỗ thanh vắng. Bạch Thế Tôn! Lại nữa, Bồ-tát có ác tri thức gần gũi thừa sự, về hình thức thì cũng giống như thiện tri thức không khác, cho đến đoạn Bốn nhiếp sự, đoạn tu nghiệp phước, đoạn sự hộ trì chánh pháp, chỉ tu trí tuệ hẹp hòi ít ham muốn biết đủ và dạy người khác trụ ở chỗ Thanh văn, Duyên giác thì lúc ấy Bồ-tát xa lìa hạnh Đại thừa, Bồ-tát nầy có thể làm trí sự nên ưa cân nhắc suy lường, chỉ tu trí tuệ hẹp hòi”. Như có chỗ nói: “Bồ-tát đối với đạo Bồ-đề phải dõng mãnh tinh tấn không chốc lát biếng nhác thoái lui. Hoặc phải trải qua tám chín kiếp sẽ đắc được A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề nhưng không thể đắc quả Bồ-đề nầy. Bạch Thế Tôn! Bồ-tát ấy dõng mãnh tinh tấn thì đối với sự chấp trước quyết định không có, chỉ trụ chỗ thanh vắng mà chứng được quả nầy. Thế Tôn! Đây gọi là việc ma thứ mười của Bồ-tát đối với thiện tri thức. Nếu người đối với thừa Bồ-tát nầy bị ma chế phục thì duyên pháp khác mà vui thích tu tập. Như tùy vào chỗ gần gũi để tu tập mọi hạnh hạ liệt như vậy nên sanh ra hôn mê, hoàn toàn không biết cũng như dê câm. Điều nầy chính là việc ma thứ mười một. Luận nói: Nếu không học theo Bồ-tát dõng mãnh tinh tấn thì đối với tất cả thời, nơi chốn tu tập cũng như không tu tập v.v… Kinh Bảo Vân nói: “Nghóa là các Bồ-tát đối oai nghi tấn chỉ phải nên phát khởi hành tinh tấn. Nếu thân và tâm không lườI mỏi thì gọi là Bồ-tát tinh tấn rốt ráo. Vì sao ở trong sự tinh tấn nầy mà sanh nhàm chán mỏi mệt? Vì chẳng phải thời tu rốt ráo sự việc lớn nên sanh khiếp nhược, không thành tựu tín giải và khó hành khổ hạnh. Nói bố thí cả thịt của thân mình sao lại phi thời nắm giữ sự thọ dụng nầy để bố thí cho chúng sanh? Do Bồ-tát nầy đối với các chúng sanh, sanh tâm lười biếng mệt mỏi liền gây tổn hoại và bỏ đi sự tích tập chủng tử của tâm Bồ-đề rộng lớn”. Lại như kinh Hư Không Tạng nói: “Phi thời mà cố cầu mong là sự việc của ma. Nghóa là không phải thời mà đối với thân hốt nhiên khởi tâm xả bỏ như vậy. Như trước không tu tập cũng không bố thí chỉ trụ vào niệm nầy mê mờ mà hại thân mình trái với tâm Bồ-đề thuần thục. Do đó xả bỏ các sự việc của tự thân như thịt v.v… nên khéo giữ gìn như khéo hiện ra cây thuốc thọ dụng các loại rễ ở phi thời mà bố thí và nên khéo giữ gìn loại cây thuốc chánh giác cũng như thế”. Luận nói: Đối việc ma mà bình đẳng là khó. Như kinh Bảo Vân nói: “Phật bảo: Thiện nam tử! Sao gọi là lìa các ma sự được thiện không hoại? Nghóa là Bồ-tát nầy trong tất cả thời, xứ trước tiên nên xa lìa các tri thức ác, cũng không có hạng ngang hàng để đến chỗ họ bàn luận chuyện thế tục, gần gũi lợi dưỡng và muốn được cung kính tôn trọng. Như vậy tất cả các thời, xứ phải xa lìa”. Lại nữa, nếu phiền não vi tế có thể chướng đạo Bồ-đề, trong tất cả xứ, thời đều phải xa lìa, khéo biết chỗ đối trị như thế. Trong kinh kia nói: “Tướng của ác tri thức là hủy hoại chánh giới. Đối với ác tri thức nầy phải nên xa lánh. Như vậy, mọi điều gây hủy hoại chánh kiến, chánh hạnh, chánh mạng đều phải nên xa lánh. Đối với những người ưa thích ồn náo, người nhiều biếng nhác, người đắm trước sanh tử, người trái với cửa Bồ-đề, người thích ở nhà với quyến thuộc v. v… đó là những ác tri thức cần phải xa lìa. Nầy thiện nam tử! Tuy thích xa lìa ác tri thức, nhưng không nên khởi tâm ác và gây tổn hại đối với họ. Phải trụ tâm như thế”. Lại nữa, Đức Phật nói: “Ở nơi cõi chúng sanh là phá bỏ sự tích tập hòa hợp nên ta phải xa lánh”. Luận nói: Mất tâm Bồ-đề là nạn. Trong kinh Bảo Tích nói: “Lại nữa, nầy Ca-diếp! Bồ-tát có bốn pháp đánh mất tâm Bồ-đề. Đối với A-xà-lê và các sư trưởng khác không sanh tâm tôn trọng mà lại nói lời khi dối. Đối với chỗ không nghi hối lại khiến người khác nghi hối Đối với người trụ Đại thừa không tán thán mà lại chê trách. Cùng người hành sự mà tâm xảo trá không chánh trực. Lại nữa Ca-diếp! Bồ-tát có bốn pháp mà sanh ra chỗ nào cũng không xa lìa tâm Bồ-đề cho đến ngồi đạo tràng Bồ-đề liên tục hiện tiền. Những gì là bốn? Dù gặp nhân duyên mất mạng cũng không vọng ngữ và gần gũi sự đùa giỡn bất chánh. Cùng người hành sự mà tâm luôn chánh trực, xa lìa lời nói xảo trá. Đối với các Bồ-tát khởi tưởng nghị luận tùy vào bốn phương mà xưng tán công hạnh của họ. Chỉ với mục đích hóa độ chúng sanh chứ không mong cầu gì khác khiến cho tất cả đều trụ vào A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề”. Đức Phật bảo Ca-diếp: “Đây gọi là bốn phép của Bồ-tát”. Trong kinh Sư Tử Hống Sở Vấn nói kệ: Nếu người hành pháp thí Cũng không bị đoạt mất Người ấy nhanh đến được Trong hội của chư Phật Như thái tử Tinh Hạ Đời đời nghó pháp thí Lại đời đời kiếp kiếp Cho đến trong giấc mộng Không xả tâm Bồ-đề Huống hồ khi tỉnh thức. Trong kinh kia lại nói: “Đối với hành xứ nầy, dù ở tại xóm làng, thành ấp, cũng không xả tâm Bồ-đề mà thường giáo hóa khiến cho chúng sanh giác ngộ”. Trong kinh Văn Thù Trang Nghiên Phật Sát Công Đức nói: “Nếu Bồ-tát thành tựu bốn pháp thì không mất bản nguyện, cho đến xa lìa kiêu căng, ngạo mạn, xan tham và ganh ghét, hoặc thấy người khác sống an ổn giàu sang thì sanh tâm vui vẻ vô tận”. Luận nói: Như vậy đối với tâm Bồ-đề mà khai phát khiến tâm không mất. Như kinh Bảo tích nói: “Tất cả oai nghi tấn chỉ đều là sự nghiệp của tâm Bồ-đề. Tâm nầy do tâm Bồ-đề quá khứ tương tục mà hình thành. Lại như trong kinh Nguyệt Đăng Tam Muội nói kệ: Nếu người nhiều nghi hoặc Nên nhận giáo pháp ta Do được tâm sâu nầy Mà lìa nghi hoặc kia. Luận nói: Nếu không thanh lọc rõ ràng thì khó mà xa lìa điều nầy. Kinh Bảo Vân nói: “Bồ-tát phát tâm như vậy dùng sự tinh tấn mà đối trị tâm khiếp nhược thấp kém và biếng nhác. Nếu không như vậy thì việc tu tập khó đạt được Bồ-đề. Như thế phải tích tập trong vô lượng trăm ngàn kiếp như cứu đầu bị cháy mới chứng Bồ-đề, Ta nay nên xả bỏ gánh nặng như vậy. Tại sao Bồ-tát phát khởi lời nói như vậy? Vì ba đời chư Phật đã tinh tấn tu hành trường kỳ mới chứng được quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, ta nay cũng phải trải qua nhiều kiếp hộ trì chánh pháp, tinh tấn tu tập vì chúng sanh mà làm lợi ích mới đạt được A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề”. Luận nói: Lại nói là nạn, Kinh Bảo Tích nói: “Nếu chưa thành thục chúng sanh mà đồng thiện xảo thì đó là sự lầm lẫn của Bồ-tát. Đối với chúng sanh chẳng phải pháp khí mà chỉ bày, dùng giáo pháp rộng sâu của Phật, thì đó là sự sai lầm của Bồ-tát, hoặc đối với chúng sanh có lòng tin hiểu sâu rộng lại chỉ dạy thừa thấp kém, thì đó đều là sai lầm của của Bồ-tát. Luận nói: Không tin hiểu là mạn. Kinh Hộ Quốc nói: “Đối với Phật Pháp Tăng mà không tin hiểu cũng không tin hiểu thực hành hạnh Đầu đà, cũng không hiểu việc tội phước v.v… thì chỉ trụ trong tội lỗi. Do vậy, sau khi chết nếu sanh trong loài người thì nhận chịu báo si ám. Sau đó sanh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ vô cùng”. Luận nói: Vì xa lìa điều nầy, trong kinh Bảo Tích nói: “Nếu người đối pháp sâu xa không chút hiểu biết, không sanh hủy báng, thì Như Lai đã chứng tri như vậy. Lại nói: Nhưng ta không có khả năng hiểu biết mà chỉ tin hiểu tôn trọng vô lượng chư Phật, thì Như Lai sẽ vì chúng sanh nầy mà thuyết chánh giáo”. Luận nói: Nên biết việc xả bỏ thiện mà làm trị sự là nạn. Do vậy trong kinh Bồ Tát Biệt Giải Thoát nói: Việc làm của Tỳ-kheo hành pháp là cúng dường Phật, lắng nghe diệu pháp, gần gũi tri sự”. Luận nói: Hành trì sự kia như trong kinh Bảo Tích nói: “Phật bảo Tỳ-kheo tri sự đối với các chúng Tỳ-kheo nên phải hộ trì tâm ấy, nếu Tỳ-kheo ở chốn thanh vắng thích sống chỗ không tịch thì Tỳ-kheo tri sự kia đối với tất cả thời, xứ không được sai khiến. Lúc ấy, Tỳ-kheo ở chốn thanh vắng nhập chúng tu học mới được phép chỉ bảo, Tỳ-kheo tri sự phải thay thế người ấy làm, hoặc thỉnh riêng Tỳ-kheo thay thế cho Tỳ-kheo sống chốn thanh vắng kia làm. Nếu có Tỳ-kheo đi khất thực thì Tỳ-kheo tri sự phải cung cấp thức ăn ngon. Lại nữa Ca-diếp! Nếu có Tỳ-kheo xa lìa ách nạn, thì Tỳ-kheo tri sự kia phải tùy nhu cầu của Tỳ-kheo ấy mà cung cấp vật thực như ăn uống, y phục, ngọa cụ thuốc men v.v… Nếu Tỳ-kheo xa lìa ách nạn trụ vào một xứ nào đó thì không nên lớn tiếng làm ồn. Tỳ-kheo tri sự kia đối với Tỳ-kheo xa lìa ách nạn phải gần gũi để phòng hộ và tùy vào nhu cầu của vị ấy mà cung cấp các món ăn ngon. Lại nói nếu có Tỳ-kheo đa văn thì phải nên dõng mãnh tinh tấn theo học và thủ hộ. Nếu có Tỳ-kheo thuyết pháp thì nên phải vì pháp trải tòa ngồi lắng nghe ở trong pháp hội hoặc nghị luận chốn đạo tràng thanh tịnh, cho đến phải xướng lên ba lần: “Lành thay!” Chớ không nên vì ỷ lại chỗ vật chất của mình sẵn có mà sanh tưởng tùy tiện. Giả sử có các biện sự cúng dường đợi chúng chấp nhận rồi mới được sử dụng chớ tự ý mình. Cho đến vật của Tăng hiện tiền, vật của Tăng bốn phương cũng không để lẫn lộn với vật của tháp Phật. Phải nên khéo đề phòng các sự lẫn lộn như vậy. Nếu vật của Tăng bốn phương cùng vật của Tăng hiện tiền mà có sự nghi ngờ lạm dụng thì Tỳ-kheo tri sự kia phải thưa trước với chúng rằng vật nầy là sự lợi dưỡng của Tăng nên đem để sửa tháp Phật. Nên xin trước rồi mới làm. Đó là lời Phật dạy. Lại nữa, nầy Ca-diếp! Nếu vật của tháp Phật nhiều thì Tỳ-kheo tri sự không nên đem phân chia cho Tăng bốn phương và Tăng hiện tiền. Vì sao vậy? Vì vật của tháp Phật thì dù là một trong mười phần cũng là của tịnh tín, đâu được lấy nhiều. Vì đó là vật chư Thiên và người đời thường phát khởi tưởng tháp Phật huống hồ là vật báu, đều là châu báu. Nếu lấy y tháp Phật để sửa sang tháp Như Lai thì thà để cho gió mưa làm mục nát, chứ không đổi y nầy để đổi lấy báu vật. Y tháp của Như Lai không ai có thể định giá tốt được, vả lại Phật không hề cần đến! Phật bảo Ca-diếp: Nếu Tỳ-kheo tri sự lấy ác tâm sai bảo Tỳ-kheo giữ giới vì mình mà cung cấp vật dụng thì do tạo ra nghiệp bất thiện mà bị đọa vào địa ngục. Giả sử có được làm người thì cũng chỉ sanh vào dòng mọi rợ nô bộc khổ sở vì tìm cầu tài lợi bị người khác sai khiến, chưởi mắng và đánh đập. Nói tóm lại, hoặc đối với Tỳ-kheo mà chế ra các quy định mới không hợp lý, trách cứ la mắng hay sai khiến phi thời thì Tỳ-kheo tri sự ấy đã tạo căn bất thiện và phải đọa vào địa ngục gọi là Đa đinh, thân chịu trăm ngàn cây đinh găm vào, đồng thời bị lửa thiêu đốt với trăm ngàn đau khổ. Lại nữa, tổng lược nói, lưỡi người kia rộng dài trăm ngàn do tuần và bị trăm ngàn mũi nhọn nóng bức đâm vào khiến cho khó có thể chịu đựng được. Phật bảo: Ca-diếp! Tỳ-kheo tri sự hoặc đến hoặc đi đối với lợi dưỡng của Tăng lại sanh tham luyến chất chứa, hoặc cho đúng thời, phi thời, hoặc cho những người khốn khổ cho đến không cho thì Tỳ-kheo tri sự ấy vì tạo căn bất thiện, nên sau khi chết đọa vào ngạ quỷ ăn toàn phân dơ, bị quỷ lớn cai trị, lúc đầu không được đến gần, đối với phân dơ chỉ đưa mắt nhìn, thọ khổ đói khát trải qua trăm ngàn năm, đối với việc ăn uống không bao giờ có được. Giả sử có được chút ít thì cũng do ác nghiệp ấy mà thức ăn biến thành phẩn dơ. Lại nữa, trong Duyên Khởi Tăng Hộ cũng nói: “Phật bảo Tăng Hộ: Như chỗ ông thấy chẳng phải là tường vách nầy Người ở địa ngục ấy, vào thời Phật Ca-diếp làm người xuất gia nhưng đã phi lý nhổ nước bọt dơ uế vào tường phòng Tăng nên do nghiệp ấy mà thọ khổ lấy thịt làm tường vách bị lửa thiêu đốt cho đến nay vẫn không ngừng. Lại như chỗ ông thấy, thật chẳng phải là cái cột trụ. Người địa ngục ấy trước đây ngang ngược hỷ nước mũi ô uế vào cái cột của , thực ra chẳng phải cây lá hoa quả trong Tăng phòng mà là người địa ngục ấy trước đây ngang ngược đối với cây lá hoa quả của phòng Tăng, một mình ăn trước hoặc đem cho Cư só nên mới thọ nhận quả báo lấy thịt mình làm cây lá v.v. chịu khổ vô cùng cho đến nay vẫn chưa chấm dứt. Như chỗ ông thấy, thật ra chẳng phải là dây tơ. Người địa ngục nầy trước đây tự ý lấy dây tơ của Tăng phòng hoặc đem cho Cư só nên phải thọ nhân quả báo lấy thịt làm thân dây cho đến nay vẫn chưa dứt. Như chỗ ông thấy, thật ra chẳng phải là cái cán chổi. Người địa ngục nầy vào thời Phật Ca-diếp xuất gia làm Sa-di đã dùng tâm bỏn xẻn xua đuổi người khác. Khi có Tỳ-kheo khách đến, Sa-di kia thấy liền quay lưng lại, Tỳ-kheo khách nói: “Trong chúng đây có gì uống không?”. Sa-di kia đáp: “Ông không thấy tôi đang quét dọn đây sao, muốn uống nước cũng không được”. Lúc ấy Tỳ-kheo khách điềm nhiên không hề trách cứ mà ra đi. Do nghiệp báo nầy nên phải thọ khổ với thân làm cây cán chổi chịu đựng trải qua bao kiếp cho đến giờ vẫn chưa dứt. Như chỗ ông thấy, thật ra đây chẳng phải là chày cối. Người địa ngục nầy vào thời Phật Ca-diếp, chỗ để chứa vật có chủ của Tỳ-kheo có một Sa-di giữ việc ghi nhận, vị ấy chính là bậc A-la- hán. Có Tỳ-kheo đến nói với Sa-di là mình cần cái chày. Vị Sa-di kia nói: Thượng tọa đứng đợi một lát, tôi có chút việc bận, sẽ đưa cho Ngài sau. Tỳ-kheo kia nổi cơn giận dữ nói Sa-di: Nếu tôi được cái chày, tôi sẽ ném ông vào cối mà giã, huống gì chỉ là cái chày? Lúc ấy vị Sa-di biết Tỳ-kheo kia vì tâm độc ác phát ra lời hủy mạ như thế, nếu trả lời ngay, chỉ làm tăng thêm lòng giận dữ kia, nên im lặng. Đợi cơn giận của Tỳ kheo kia lắng xuống, bèn đến nói lời sám hối: Đại đức, Thượng tọa vì việc ấy mà phiền não. Tỳ-kheo kia nói: “Ông biết trong giới luật Phật Ca-diếp nầy, ông mới xuất gia làm Sa-di còn ta là Thượng tọa, Tỳ-kheo”. Sa-di nói: Nếu như vậy chúng ta đều bình đẳng xuất gia, nói thế nào là đoạn trừ tất cả phiền não, giải thoát tất cả kiết sử ? Nói lời ác độc tại sao không đối trước mọi người sám hối! Bấy giờ Thượng tọa Tỳ-kheo không thể đối đáp, sân hận vẫn còn, không thể sám hối. Do nghiệp báo nầy mà bị đọa lấy thịt làm chày cối chịu khổ vô cùng cho đến nay vẫn không dứt. Như chỗ ông thấy, thật ra chẳng phải là cái nồi, có Tỳ-kheo đến hỏi: Nồi nầy không dùng chăng? Vì Sa-di đáp: Ngài đợi một lát vì đang nấu thuốc cho Tỳ-kheo bệnh kia. Tỳ-kheo kia không nghe lời nói nầy nên đem tâm sân hận đập nồi bỏ đi. Do nghiệp nầy nên thọ khổ với thân làm nồi thịt cho đến nay vẫn không dứt. Như chỗ ông thấy trung gian hoặc đứt đoạn, chỉ còn dính chút ít. Người địa ngục nầy ngày xưa do làm Tỳ-kheo chủ trì việc lợi dưỡng, vì tâm keo kiệt nên đổi lấy các vật. Vật mùa đông, mùa mưa lẫn lộn nhau mà phân phối. Do nghiệp nầy nên thường chịu khổ đến nay vẫn chưa dứt. <詞>Phẩm 4: KHÔNG Phần 1 Luận nói: Lại nữa, kinh nói nghóa lớn. Như kinh Hư Không Tạng nói: Phật bảo Bồ-tát Di lặc: Vua Quán Đảnh Sát-đế-lợi có năm thứ tội căn bản. Nếu người phạm vào điều nầy thì sẽ hủy hoại tất cả các thiện căn đời trước, hướng đến đường ác và đọa vào chỗ ác, xa lìa niềm vui của trời người v.v… Những gì là năm? Vua Quán đảnh Sát-đế-lợi cố ý lấy vật trong tháp Phật và vật của bốn phương Tăng, hoặc tự mình lấy hoặc bảo người khác lấy, là tội căn bản thứ nhất. Vua Quán đảnh hoặc phỉ báng pháp của Thanh văn, Duyên giác và pháp Đại thừa khiến ẩn mất, gặp trở ngại là tội căn bản thứ hai. Vua Quán đảnh đối với những người nương theo pháp của ta mà xuất gia mặc áo cà sa, cạo bỏ râu tóc, lại đối với bậc hữu học, vô học trì giới hay phá giới mà bức não họ phải bỏ áo cà sa để hoàn tục, hoặc đánh đập giam vào ngục tối, hoặc đoạt mạng căn là tội căn bản thứ ba. Vua Quán đảnh hoặc giết cha mẹ, hoặc giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, đem tâm ác làm thân Phật chảy máu, làm một tội trong năm tội vô gián là tội căn bản thứ tư. Hoặc phỉ báng không có nhân quả, không sợ đời sau, tự mình làm mười nghiệp bất thiện dạy người khác làm mười nghiệp bất thiện và bảo thủ, tức tội căn bản thứ năm. Cho đến nói tổng lược, nếu ưa thích phá hoại đất nước, thành ấp, xóm làng dân chúng thì gọi là tội căn bản. Lại nữa, thiện nam, thiện nữ! Người mới hành trụ Đại thừa có tám thứ tội căn bản. Người mới hành trụ Đại thừa đối với tội căn bản có sai lầm, thiêu hủy các căn lành đời trước, sanh vào ác đạo, đọa vào chỗ ác, xa lìa niềm vui Đại thừa trong cõi trời người v.v… sống sâu trong luân hồi mà xa lánh thiện tri thức. Những gì là tám? Các chúng sanh nầy nhân vì trước kia làm ác mà sanh vào trong đời ác năm hiểm nạn, nhưng do cũng có một ít thiện căn nên gần gũi thiện tri thức được nghe kinh điển sâu xa của Đại thừa. Người kia lấy trí thấp kém phát tâm A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề nên ban đầu hành đạo Bồ-tát nghe nói kinh điển pháp không sâu xa rồi theo như chỗ nghe được mà thọ trì đọc tụng. Do trí nông cạn nên khi được khai thị về văn nghóa xảo diệu và cảnh giới rộng lớn, người ngu kia thường sanh tâm sợ hãi. Do tâm sợ hãi nên liền thối thất tâm A-nậu-đa-la-tam-miệu- tam-bồ-đề, lại phát tâm hành Thanh văn thừa. Đây là tội căn bản thứ nhất khi mới thực hành đạo Bồ-tát. Do phạm tội nên hủy diệt tất cả các thiện căn đã gieo trồng trước kia, hướng đến đường ác, đọa vào chỗ ác, xa lìa sự an vui Đại thừa trong cõi trời, người, hủy hoại tâm Bồ-đề. Do vậy Bồ-tát đối với chí nguyện sâu xa của hữu tình Bổ-đặc-già-la kia trước phải biết tâm sở hành của họ, rồi từ từ vì họ mà thuyết pháp, ví như từ từ đi vào trong biển lớn. Nói tóm lại, Bồ-tát mới tu hành phát ra lời nói như vầy: “ Ông không thể tu tập sáu hạnh Ba-la-mật cũng không thể đắc A-nậu-đa-la- tam-miệu-tam-bồ-đề. Ông nên nhanh chóng phát tâm Thanh văn và Phật-bích-chi thì có thể nhanh chóng xa lìa sanh tử”. Đây là tội căn bản thứ hai khi mới thực hành đạo Bồ-tát.  <卷>QUYỂN 5 <詞>Phẩm 4: KHÔNG Phần 2 Lại nữa, Bồ-tát bắt đầu tu hành nói như vầy: Tại sao ông kiên trì gìn giữ giới và luật nghi? Ông nên nhanh chóng phát tâm A-nậu-đa-la- tam-miệu-tam-bồ-đề, đọc tụng kinh điển Đại thừa. Hoặc như các phiền não và báo bất thiện thuộc thân, khẩu, ý nghiệp vốn đã tích tập thảy đều được thanh tịnh cho đến như nói trước. Đây là tội căn bản thứ ba khi mới thực hành đạo Bồ-tát. Lại nữa, Bồ-tát bắt đầu tu hành phát ra lời nói như vầy: “Thiện nam tử! Nếu hay xa lìa việc nghe, thọ trì, đọc tụng pháp của Thanh văn, cũng không vì người khác nói pháp của Thanh văn vì không đạt được quả báo lớn và không thể vónh viễn đoạn phiền não. Phải nên tin kinh điển Đại thừa, nghe rồi thọ trì đọc tụng và vì người khác mà giảng nói kinh pháp Đại thừa nầy mới có thể khiến sám hối đoạn trừ tất cả tội báo trong đường ác và nhanh chóng đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Theo lời nói của người kia, chấp vào kiến nầy thì cả hai đều đắc tội. Đây là tội căn bản thứ tư khi mới thực hành đạo Bồ-tát. Lại nữa, Bồ-tát khi mới tu hành tạo ra hai thứ lời nói. Như chỗ thấy về kinh điển Đại thừa, vì lợi dưỡng nên rất ca ngợi thọ trì đọc tụng. Nghe nghóa lý rồi lại vì người khác giảng nên nói: “Ta là người tu theo Đại thừa”, tuy nhiên thấy người khác được lợi thì ôm tâm ganh ghét. Lại nữa, đối với sở đắc của người khác hoặc nhiều hoặc ít thường sanh tâm phỉ báng khinh khi và trách mắng. Rồi tự đề cao thân mình, nói là ta được pháp hơn người, đối với pháp Đại thừa có niềm vui vi diệu như thế. Người kia vì tài lợi nên phải mắc tội nặng, hướng đến đường ác và đọa vào chỗ ác. Thí như có người muốn vào biển lớn nên phải tu sửa thuyền bè để đi. Khi sắp đến một bãi châu báu tự người ấy phá bỏ thuyền nên dẫn đến mất mạng. Người mới hành Bồ-tát nầy cũng lại như vậy, muốn vào biển pháp Đại thừa nhưng lại lấy tâm ganh ghét mà tạo nên nhân duyên vọng ngữ nên hủy hoại niềm tin khiến đoạn diệt trí tuệ, Bồ-tát mới tu hành ngu dại thường có tật đố nên mắc phải tội nặng. Đây là tội căn bản thứ năm. Lại nữa, thiện nam tử ! Trong đời vị lai sẽ có người tại gia xuất gia mới hành đạo Bồ-tát, nên đối với các kinh điển Tam muội tổng trì, các đại nhẫn và sự trang nghiêm thuộc về nghóa không sâu xa, có các thiện nhân, Sa-môn và Bồ-tát đối với kinh điển Đại thừa nầy thọ trì đọc tụng và vì người khác giảng nói, nhưng đối với pháp nầy tự cho mình đã chứng đắc, nói là do lòng thương xót nên ta mới vì ông nói. Do vậy ông phải nên tu tập mới chứng được pháp sâu xa mà ta đã thấy biết. Người kia nói lời không thật, chỉ hay đọc tụng pháp sâu xa và vì người khác nói chứ đối với pháp nầy chưa thật sự chứng đắc, chỉ tham cầu lợi dưỡng nên nói dối ta đã chứng pháp mà ba đời chư Phật đã chứng, Bồ-tát Thánh nhân không thể sánh kịp. Người kia mắc tội nặng vì đã lừa dối chư Thiên và loài người. Ngay cả pháp Thanh văn người kia còn chưa chứng đắc, huống hồ chứng được thắng hạnh Đại thừa và A-nậu-đa- la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Thí như có người ở nơi hoang dã dưới cây có quả lớn, bị đói khát bức bách cầu xin uống ăn. Cây quả lớn nầy thực sự có sắc hương vị ngon đều đầy đủ, nhưng người kia lại tự bỏ đi tìm dưới cây độc dược. Khi ăn quả độc dược vào thì người ấy mất mạng. Ta nói người nầy cũng lại như vậy. Ở trong sự khó được làm thân người, được nương vào thiện tri thức, gặp được pháp Đại thừa, nhưng lại tham cầu lợi dưỡng lấy hư đức của mình mà khinh chê người khác. Do hành tướng như vậy nên phạm phải tội nặng. Do phạm tội nặng nên nhất định rơi vào đường ác. Người nầy sẽ bị Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà-la và những người trí xua đuổi không cho đến gần. Đây là tội căn bản thứ sáu của người mới hành đạo Bồ-tát. Lại nữa, Thiện nam tử! Ở đời vị lai vua Sát-đế-lợi có Quốc sư Chiên-đà-la v.v… thật ngu muội mà lại tự cho mình là bậc minh triết rồi khởi lên các sự ngạo mạn, thọ dụng đủ các vật báu và bố thí mưu cầu tu phứớc nghiệp. Cậy vào hành bố thí tăng trưởng thêm ngã mạn mà hướng về vua Sát-đế-lợi nói lên vô lượng tội lỗi của Sa-môn, nương vào thế lực của Vua mà ngang ngược quở mắng đánh đập người trái ý mình. Lúc ấy các Tỳ-kheo bị người kia bức bách nên hoặc vật của tháp Phật, vật của bốn phương Tăng và vật của hiện tiền Tăng đem giao nạp người ấy. các Chiên-đà-la lại lấy đem dâng lên Vua. Như vậy, hai hạng người ấy đều mắc phải tội nặng. Đây là tội căn bản thứ bảy của người mới hành đạo Bồ-tát. Lại nữa, có vua Sát-đế-lợi cùng Chiên-đà-la, Sa-môn lập ra những quy định: Phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp, xả bỏ việc học Khế kinh Tỳ-nại-gia không nói đúng thời và nói khoác lác, xả bỏ tâm đại bi, xả bỏ học xứ Bát-nhã Ba-la-mật-đa, xả bỏ phương tiện khéo léo và đi học các kinh khác. Do xả bỏ hành tướng như vậy, nên người kia dù trước đã tu tập pháp hành Tỳ-kheo mà sanh rất nhiễu loạn. Do nhiễu loạn nên làm tổn hại mạng trí tuệ và xả bỏ thiền chỉ, thiền quán, khuyên thực hành theo sự việc của người khác để đạt được nhiều sở đắc. Lúc ấy, Tỳ-kheo kia không lấy gì để chế phục các kiết phiền não. Lại nữa, các Tỳ-kheo hoặc đối với thời gian ấy xả bỏ hủy hoại tâm sâu xa và giới, kiến, hạnh v.v… mà khởi lên nhiều tội lỗi, thật chẳng phải Sa-môn mà tự nói là Sa-môn, thật chẳng phải phạm hạnh mà tự xưng là phạm hạnh, nói lời khuyến dụ khiến cho Vua, Quan và Đại thần cung kính mà cúng dường. Rồi đến nhà Cư-só nói pháp hạnh Tỳ-kheo có vô lượng tội lỗi khiến cho Vua, Quan và Đại thần lập ra những quy định cấm đoán, hoặc giữ lấy các dụng cụ sinh sống các các Tỳ-kheo hành pháp ưa thọ dụng. Hai hạng như thế đều mắc phải tội nặng. Vì sao? Vì Tỳ-kheo tu phước định là nơi gieo trồng ruộng phước cho quần sanh nhưng nếu cấm đoán không cho họ hành thiện thì là một tổn thất rất lớn. Lại nữa, các Tỳ-kheo hành pháp thiện, là cầu được các pháp môn tam muội tổng trì, đắc các địa chấp trì ứng khí làm ánh sáng cho đời đi qua, khai thị chánh đạo xóa sạch phiền não khiến cho các chúng sanh trụ vào đạo Niết-bàn, nhưng nếu cấm đoán họ thì phải mắc tội nặng. Luận nói: Người kia lại dẫn Khế kinh khác nói: “Nếu các Bồ-tát nghe được tên Bồ-tát Hư Không Tạng rồi thì không còn nghi hoặc, nên sợ đọa địa ngục muốn thấy ngài để sám hối tội nặng kia. Đối với Bồ- tát Hư Không Tạng nên xưng niệm danh hiệu ngài và cung kính lễ bái. Nầy Thiện nam tử ! Như phước lực của Bồ-tát hiện ra bản thân hoặc thân Phạm vương cho đến hoặc hiện ra thân Đồng nam Đồng nữ ở trước người đó v.v… khiến cho các vị mới hành đạo Bồ-tát như từ chỗ ngồi đứng dậy sám hối tất cả tội đã phạm và diễn thuyết phương tiện khéo léo sâu xa về hạnh Đại thừa, cho đến trụ vào bất thối. Lại nữa, tổng lược nói: “Giả sử không hiện ra trước mặt Bồ-tát mới tu hành kia thì ở phương Đông đứng trước Thiên tử A-lỗ-noa đất hương khuyến thỉnh, nói thế nầy : Ngài là Trời A-lỗ-noa có đủ đại bi và đại oai lực với tình thương rộng lớn chiếu khắp cõi Diêm-phù-đề để che chở hộ trì, xin mau chóng tự mình khuyến thỉnh. Bồ-tát Hư Không Tạng phát khởi lời nói bi mẫn để giác ngộ tôi, ở trong mộng phương tiện chỉ bày các tội báo đã phạm tội để dạy tôi sám hối nhằm đạt được phương tiện, trí tuệ của bậc thánh Đại thừa. Trời A-lỗ-noa kia, khi xuất hiện trong cõi Diêm-phù-đề cùng với Bồ-tát Hư Không Tạng đi đến hiện ra sắc tướng của mình ở trong mộng đứng trước người kia, người kia sám hối tội nặng. Các sắc tướng đó là phương tiện trí tuệ lớn, phương tiện tri kiến, phương tiện trí thiện xảo. Bồ-tát kia đạt được Tam-ma-địa gọi là không mất tâm Bồ- đề, nương vào Đại thừa được an trú kiên cố. Luận nói: Hoặc trước có kinh nói: Chân ngôn khuyến thỉnh các sự oai nghi theo phép tắc v.v… tạo nên lời nói không tịch trong chốn rừng sâu vắng lặng. Đốt hương trầm thủy, hương đa-gia-la, hương kiên-hắc biến khắp mười phương để cung kính lễ, rồi chắp tay đọc tụng chân ngôn nầy: “Đát đà tha tô một lý xá ca rô ni cát tả la tả la vó tả la tán tả la ta rô ni cát mâu rô rô mâu la vó nga đà lý mâu tả nhị bột đô phạ ma đa ca rô ni cát tấn đa ma ni bố la cát ca lô ni cát đát lý chuyên Sa-di tát tha ba dã a nghê dã đà lý tát phổ ngung, tát phổ ngung, lô đê vó, vi cát ngung niệt lý cụ chí vó chi cát ngung bố la dã ca lô di cát bố la la diễn đỗ ma na xá tát ly chuyên bát tham tả a thâu, cát nga đê tát chuyên hạ”. Trước nói về nghi thức phép tắc, khi trì chú nầy thì tất cả bệnh khổ, tất cả sự não hại đều bị tiêu diệt và mọi sự mong cầu đều được thành tựu. Luận nói: Nếu là Sát-đế-lợi hoặc là Bồ-tát thì sao gọi là tội xấu ác và phương tiện thù thắng? Hoặc người trì giới sao gọi là tội hay lỗi lầm? Nghóa là đối với người trì giới thì không có lỗi lầm nhưng vì nhiều người khởi lên đả kích nên gọi chấp cái thấy của mình. Do đó lần lượt sanh sợ hãi mà diệt các tội xấu ác. Nếu đối với tánh tội bạt trừ căn bản khổ rốt ráo không tạo tác thì đối với tâm Bồ-đề, giới là điều gìn giữ được, như thật quán sát tư duy liên tục. Cho nên kinh Phương Tiện Thiện Xảo nói: “Thiện nam tử! Bồ-tát đối với giới biệt giải thoát học hỏi Thức- xoa-ma-na trong trăm ngàn kiếp, chỉ ăn rễ cây và quả, giải thoát tất cả các chúng sanh, nhẫn chịu lời nói ác. Nếu đối với hàng Thanh văn, Phật-bích-chi mà phát khởi tác ý tương ưng thì gọi là tội nặng căn bản của Bồ-tát. Thiện nam tử! Người đắc tội căn bản nầy, ví như Thanh văn đối với hữu dư y Niết-Bàn mà không được nhận. Thiện nam tử! Đây chỉ nói tội nầy, tức là đối với Thanh văn, Duyên giác mà không tác ý xuất ly, đối với Niết-bàn Phật lại không kham nhận. Luận nói: Các tội nặng nầy do chấp ngã mà sanh ra. Vậy nắm bắt diệu lạc nghóa ấy thế nào? Trong Nhiếp Luận nói: “Phá hoại vật của Tam bảo hoặc chỉ bằng hạt cải và hủy báng chánh pháp tức phạm hai tội. Đây là lời nói của Mâu ni. Giả sử Tỳ-kheo phá giới, do mặc áo cà sa, hoặc không cho xuất gia, đánh đập tống vào lao ngục, tạo ra năm tội vô gián. Lại nữa, hoặc chấp tà kiến và phá hoại xóm làng gọi là tội căn bản. Như lời nói thù thắng của Bậc Tôn sư: “Chỉ thích đàm luận tánh không nhưng thực ra bản thân không hiểu biết gì cả. giả sử trụ trong Phật trí nhưng không tu đạo Chánh giác, xả bỏ biệt giải thoát mà lại hy vọng nhập vào quả Đại thừa. Lại khiến cho các người học pháp không đoạn tham chấp, thích đến trước người khác xưng tán đức của mình, do khoe khoang trước người khác nên được các thứ lợi dưỡng. Hoặc tà vọng mà nói ta đã được nhẫn sâu xa, hoặc trách mắng Sa-môn, lấy vật của Tam bảo. Do lấy vật như vậy rồi lại xả bỏ Thiền định hay Tỳ-kheo hành pháp và thọ dụng ái dục. Đây gọi là tội căn bản, là nhân đọa vào địa ngục. Lại nữa, Bồ-tát Hư Không Tạng đối trước Phật tuyên nói sám hối việc trong mộng xả bỏ tâm Bồ-đề: Nếu có người đến xin Tham tiếc mà không cho Rồi khởi lên phẫn nộ Đánh đập các chúng sanh Đối người tu thanh tịnh Cũng không hề cung kính Theo người tâm nhiễm dục Phỉ báng cả chánh pháp. Trong kinh Địa Tạng nói: Phật bảo Đại phạm : Nếu người nương vào giáo pháp của ta xuất gia mà lại phạm giới, làm các việc ác, như con ốc sên dơ bẩn, thật chẳng phải Sa-môn mà tự nói là Sa-môn, thật chẳng phải phạm hạnh mà tự nói phạm hạnh thường bị các loại phiền não mạnh hơn làm đảo ngược, bại hoại. Tỳ-kheo như vậy tuy đã phá giới cấm làm các việc ác lại còn vì tất cả trời rồng người v.v… mà khai thị hạnh phước đức, cho nên thiện tri thức nầy tất nhiên chẳng phải pháp khí mà cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, gieo trồng các thiện căn và chỉ dạy cho vô lượng chúng sanh, do gần sanh nẻo thiện hiển thị chánh đạo, cho nên có người nương vào chánh pháp của Ta xuất gia, rồi trì giới, phạm giới, Ta còn không cho Chuyển luân Thánh vương nương tựa chánh pháp thế tục dùng roi đáng vào thân, trói giam vào lao ngục, chặt đứt chân tay, đoạn dứt mạng sống, huống hồ là phi pháp khác. Như vậy, Tỳ- kheo nương vào giáo pháp Tỳ-nại-gia của Ta mà xem như thây chết. Lại nói người kia như con trâu có màu vàng hay như con xạ có hương. Lại nói, nếu nương vào giáo pháp của ta mà xuất gia thì người đó dù pháp khí hay chẳng phải pháp khí cũng không nên não hại. Nếu hủy phạm tức hủy hoại ba đời chư Phật, đắc tội rất nặng, đoạn diệt thiện căn và đọa vào địa ngục Vô gián. Kinh kia nói: Mặc áo cà sa là tướng tràng giải thoát mà các Như Lai đã kiến lập. Bấy giờ lại vô lượng trăm ngàn Thanh-văn và chúng Bồ-tát nghe Phật nói đều sám hối nghiệp chướng của mình đã gây tạo trong quá khứ. Hoặc có vị nói: “Bạch Thế Tôn! Con xưa kia suy lường lời nói của Như Lai và đệ tử Phật, là pháp khí hay chẳng phải pháp khí, tạo nhiều phẫn nộ, chửi rủa, hủy nhục và phỉ báng họ, gây ra nghiệp chướng đọa vào ba đường ác, thọ các khổ não khó mà kham nhẫn được. Do vậy, nay con đối với các nghiệp chướng ấy xin thành tâm sám hối tất cả”. Hoặc có người nói: “Thế Tôn, con nhớ trong quá khứ, đối với lời dạy của Thanh văn và đệ tử Phật suy lường là pháp khí hay chẳng phải pháp khí đều gây nên sợ hãi, dùng lời ác chửi rủa và đánh đập họ”. Lại có người nói: “Con đối với đệ tử Phật đã xâm đoạt y bát, cắt đứt sự thọ dụng của họ”. Lại có người nói: “Con đối với những người xuất gia đã bức bách khiến họ hoàn tục rồi ngang ngược sai khiến họ”. Lại có người nói: “Con đối với đệ tử Phật dù pháp khí hay chẳng phải pháp khí, có tội hay không có tội đều xiềng xích nhốt họ vào lao ngục. Vì nghiệp chướng nầy khiến con trong nhiều kiếp đọa vào các đường ác, thọ nhận mọi thứ khổ khó mà kham nhẫn được. Cho đến thưa Thế Tôn! Đối với nghiệp chướng nầy, nay con xin đều sám hối hết thảy và không dám tạo tác nữa. Vậy xin nguyện Thế Tôn thương xót nhiếp thọ bạt trừ tất cả các tội báo rộng lớn cho chúng con”. Trong Kinh Chướng Ngại Xuất Gia cũng nói: “Nếu người thành tựu bốn pháp “Đại xá” thì ngay nơi chỗ sanh sống cũng mắc phải tai nạn như thế. Nghóa là sanh ra bị mù, ngu si câm ngọng, hoặc sanh vào dòng Chiên-đà-la luôn thích hủy báng không có các thứ diệu lạc và thường làm kẻ tôi tớ hoặc làm người nữ luôn phải đứng quạt hầu hạ, hoặc làm lạc đà, lừa, heo, chó và rắn độc v.v… Những gì là bốn đại xá? Được chư Phật quá khứ đã tạo ra năng lực tăng thượng khiến cho chúng sanh phát tâm xuất ly, tâm xuất gia, tâm Thánh đạo, để làm khỏi chướng ngại các tội báo. Lại nữa, tham đắm tài sản và con cái không tin nghiệp báo, nghóa là ưa thích sự giàu sang, dục lạc và nam nữ thê thiếp nên khó mà xuất gia. Phỉ báng chánh pháp. Hai Sa-môn, Bà-la-môn v.v… Luận nói: Mười nghiệp đạo bất thiện là nạn, có báo cực khổ. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: “Nay lược nói đối với tội sát sanh kia: Ở trong địa ngục, có con chim tên là Hỏa đảnh hành, ở trong lửa nhưng không bị thiêu đốt. Khi nó thấy người trong địa ngục liền sanh vui vẻ, trước hết mổ đầu tội nhân rồi uống máu. Lại có con chim tên Độc lâu hành chỉa mỏ lửa xuống ăn mở và tủy của tội nhân. Lại có con chim tên Thực thiệt chuyên ăn lưỡi của tội nhân rồi khiến cho lưỡi sanh ra lại mềm nhuyễn như lá hoa sen. Như vậy, tùy tưởng tượng mà sanh ra. Lại có con chim tên là Bạt-xỉ, Chấp-yết-hầu, Thực thủ, Thực phế, Thực sanh tạng, Thực bối cốt, Thực ẩn mật, thường mổ rỉa các đốt xương của tội nhân để uống tủy. lại có con chim tên Châm khổng, mỏ của nó nhọn như kim luôn uống máu tội nhân. Lại có các con chim tên Cốt trung trụ, Bạt trảo, Cân mạch, Bạt phát, chỉ ăn toàn lông tóc tội nhân. Như vậy, ở trong A-tỳ địa ngục cách đây ba ngàn do tuần có con chim tên Ác dạ xoa cư ngụ. trải qua trên trăm ngàn năm nó thường hành hạ tội nhân nhận chịu sự khổ não vô cùng”. Kinh kia lại nói: “Tất cả khổ não đều vây quanh người tội. Lại có địa ngục tên là Đọa hiểm ngạn. Nếu có tội nhân đọa vào chỗ nầy mà hy vọng đi nhiễu quan thì liền có mười một đống lửa bao phủ với chỉ một mình không hề có bạn bè mà chỉ nghiệp oan gia đối đầu bủa vây khắp chốn khiến cho tội nhân đi vào địa ngục lớn. Lại đi vào nơi địa ngục Đọa hiểm ngạn. Người kia khi bước chân xuống thì bị đốt cháy khét, khi dở chân lên thì sanh lại bàn chân trở nên mềm nhuyễn, do đó phải chịu thống khổ vô cùng. Như vậy, sợ hãi đến nỗi đầu, mắt, chân, tay và tất cả những phần trên cơ thể đều bị đốt cháy tiêu tan mà lại nói chỗ hiếm có ở đời nên gọi là Đọa hiểm ngạn. Lại nói chỗ bị đọa vì gió nghiệp thổi thân người có tội lên cao ba ngàn do tuần rồi rơi xuống đất. Lại có chim Cưu, Thứu, Diều hâu tranh nhau mổ ăn thân người tội cho đến nghiệp gió thổi người tội lên cao rồi rơi xuống trải qua trăm ngàn năm thọ khổ như vậy”. Kinh kia lại nói: “Có xứ đọa tên Toàn luân với ngàn căm xe thật hiếm có ở đời và có lửa mạnh mẽ đỏ rực cũng như kim cương, cũng không thể hoại được. bánh xe nầy quay rất nhanh cho đến duyên các phần thân đều thiêu đốt tan tành. Nếu tội nhân muốn bước chân đi thì bị đinh sắt đâm chích. Như vậy đi đến núi Huề-cô-tra có con trùng Huề-cô-tra ăn thịt tội nhân kia. Ăn rồi lại sanh ra khiến thân mềm nhũn. Do sự mềm nhũn nầy nên thọ nhận thống khổ. Cứ sanh ra lại bị ăn, ăn rồi lại sanh ra ở trong thân nầy thật là việc hiếm có ở đời. Do ý vui thích tạo nghiệp sát sanh nên phải mắc quả báo như vậy”. Luận nói: Nghiệp không cho mà lấy. nay ta phải nói hạnh nghiệp tạo ác như vậy tất phải sanh vào địa ngục có đủ các vật dụng lớn. Như bánh xe lửa rực cháy, như thành Càn-thát-bà do thô ái nhìn thấy tương tự bởi nghiệp ngu ác nên thấy đó là các thứ châu báu y phục và tài vật. Do nghiệp ngu si nầy ở trong ngọn lửa lớn, tội nhân vội vả nắm lấy vật kia. Do tự nghiệp mình tạo nên có ngọc Ma-la tốt óng ánh rồi nắm lưỡi dao sắt bén mà đi đến trong vòng sắt bị lửa thiêu đốt tất cả các phần thân thể chỉ còn lại xương khô. Do từ trước nay không xả bỏ tài lợi nên thọ nhận khổ nầy. Luận nói: Nghiệp tạo tà hạnh. Ta nay phải nói tội nhân tạo nghiệp nầy đối với sự khổ trước tạm được thoát khỏi. Tuy ác nghiệp ấy vượt qua khỏi sự chịu đựng trong đống lửa lớn nhưng lại đọa vào xứ khác gọi là tà kiến ác. Do nghiệp đã tạo mà thấy có người nữ như trước đã thấy. Người kia thấy rồi liền phát khởi lửa tham dục bèn nhanh chóng đến gần người nữ kia. Do nghiệp mình tạo nên người nữ kia biến thành sắt nóng và giữ lấy tội nhân cắn, nhai, nuốt các phần thân thể cho đến tan tành không còn một mảy may như hạt cải. Cứ ăn rồi lại sanh ra, sanh rồi lại ăn liên tục như vậy. Người kia do lửa tham thiêu đốt nên nhận chịu thống khổ vô cùng khó mà kham nhẫn được. Tuy nhiên do nghiệp cảm nên bị lửa tham dục thiêu đốt mà đối với người nữ ấy, người kia không nhớ đến khổ não. Người nữ ấy đều bằng sắt cứng như kim cương với thân nước đồng sôi nắm lấy tội nhân kia đánh đập rồi rót nước đồng lên khiến cho thân thể nóng bức tiêu tan. Đã tiêu tan rồi sanh ra lại lần lượt như thế tương tự như trên đã nói. Kinh kia lại lược nói kệ: Nữ sắc là gốc tội Hay phá các tài lợi Nếu người thích nữ sắc Làm sao được diệu lạc! Cho đến : Đời nầy và đời sau Lỗi nữ, lỗi đệ nhất Phải xa lìa nữ sắc Thân mới được an ổn. Luận nói: Nghiệp nói dối nay sẽ nói. Trong địa ngục có cai ngục mạnh mẽ tên Diễm-ma-la-tốt chụp lấy tội nhân kia rồi lấy dao khoét miệng kéo lưỡi ra. Tội báo nói dối nầy do lực của ác nghiệp nên lưỡi kéo rộng ra năm trăm du thiện na. Khi tướng lưỡi hiện ra có Diễm-ma- la-tốt tức thì xuất hiện với lưỡi cày sắt nóng đặt trên đó. Do nghiệp đã tạo của mình nên có trăm nghìn lưỡi cày sắt cày vào đầu với ngọn lửa thiêu đốt thật khó thấy ở đời. Lại có con trâu mạnh bạo đi qua lại khắp cái lưỡi mà cày trên đó khiến lưỡi tội nhân máu me chảy ra lai láng. Cày xong lại thu lưỡi vào rồi thè lưỡi ra khiến nó trở nên mềm nhũn. Chẳng khác nào tướng lưỡi trời, than khóc thảm thiết và thọ nhận khổ não vô cùng, trải qua vô lượng trăm ngàn năm khó mà kham nhẫn được. Người địa ngục kia lưỡi tạm thu vào miệng nhưng rất sợ hãi. tướng trạng ác kia nên rảo chạy khắp nơi bèn rơi vào đống lửa lớn hoặc bị thiêu rụi, ở trong chỗ khổ não mà hy vọng mong quay về cầu cứu. Lại có Diễm- ma-la-tốt tay cầm gậy, đao to lớn hiếm có ở đời đánh đập và băm người tội từ đầu đến chân nát nhuyễn như bụi trần. Luận nói: Tội nói hai lưỡi cũng như tội nói dối. Tội nầy khiến người có tội lưỡi lè dài ra ba trăm du-thiện-na và bị Diễm-ma-la-tốt cầm cây đao với ngọn lửa hừng hực cắt đứt lưỡi và bị cáo, chó sói, chồn tùy nơi ăn lưỡi người tội, khiến nhận chịu vô cùng khốn khổ nên khóc la thảm thiết. Cứ thế lưỡi bị cắt rồi sanh ra lại như trên đã nói. Luận nói: Quả báo nói lời ác độc nay sẽ nói đến. Người vướng vào tội nầy thì bị Diễm-ma-la-tốt nắm lấy rồi dùng dao vạch miệng ra để cắt lưỡi, rồi do sự đói khát nên mong được ăn uống thì lại ăn lưỡi và uống máu huyết của mình. Do lực của nghiệp ác nên lưỡi đứt rồi lại sanh trở lại, đau đớn lăn lộn dưới đất khóc la thảm thiết, thần mắt thất tán chịu sự thống khổ cùng cực. Khi ấy bị Diễm-ma-la-tốt mắng chửi, răn bảo: Do thân mình tạo tác thì không thể có ai thay thế cho người được và nói kệ: Lưỡi buông như cung cứng Lời ác tợ tên lửa Nếu người nói lời ác Sau chịu quả báo nầy. Luận nói: Quả báo của lời nói thêu dệt nay sẽ nói. Người mắc tội nầy thì bị Diễm-ma-la-tốt dùng dao cạy miệng ra để đổ nước đồng sôi vào. Trước hết thiêu đốt lưỡi người tội, kế đến thiêu đốt yết hầu, rồi thiêu cháy tâm, can, ruột, thục tạng. Thiêu đốt thục tạng rồi luân chuyển từ dưới lên trên miệng lại. Khi ấy Diễm-ma-la-tốt nói kệ: Trước sau chẳng liên quan Không nghóa không tương ưng Ngươi nói chẳng liên quan Quả kia sẽ thọ nầy Thường không tụng kinh Phật Không thích nói chân thật Kia chẳng còn là lưỡi Khác gì thịt thái nhuyễn. Luận nói: Báo xan tham nay sẽ nói. Người địa ngục kia do nghiệp tự tạo mà trông thấy trong thành ấp đầy đẫy trân bảo của người khác giữ gìn. Người địa ngục kia do nghiệp ác si mê từ trước đến nay, nghóa là tạo nhiều hành động tham lam bất thiện nên đối với quả địa ngục khởi thấy điên đảo. Thấy như vậy rồi liền bị tham chấp sai sử mà cầm lấy dao bén nhanh chóng đến chỗ vật kia, và người địa nguc khác cũng cầm lấy dao bén nhanh chóng đến đó cho nên hai bên thù sát lẫn nhau. Cho đến ăn thịt nhau sạch hết không còn gì chỉ còn xương nên khóc la thảm thiết. Trong đây lược nói kệ: Thấy người khác giàu sang Suy nghó muốn ta được Do tham sanh quả độc Nên nay đọa xứ nầy. Luận nói: Quả báo sân hận nay sẽ nói, do nghiệp sân hận gây nên. Người gây nghiệp nầy thì bị sư tử, rắn, hổ xuất hiện trước mặt khiến cho sợ hãi phải bỏ chạy. Tuy nhiên vì nghiệp bất thiện bủa vây nên không thể nào được thoát khỏi. Do vậy bị ngục tốt cầm lấy và nuốt chững đầu của tội nhân cho đến ăn cả hai nách. Lại nữa, rắn phun ra khí độc giết chết tội nhân rồi ăn nuốt chững lấy. Hổ lại ăn hai vai bị thiêu đốt của tội nhân rồi ăn hai chân và Diễm-ma-la-tốt từ xa bắn tên khiến người tội lăn ra chết. Tội khổ như vậy thật khủng khiếp. Luận nói: Đối với tà kiến thì có vô lượng quả báo nhưng ở đây chỉ lược nói. Nghóa là ở trong địa ngục có mưa kiếm bén nhọn và mưa kim cương, mưa đá v.v… tàn sát phá hoại. Lại có mười một đống lửa, khi tội nhân đói khát thì lửa từ trong miệng phun ra thiêu đốt cả thân mạng. Luận nói: Các loại căn bản dục nầy là tai nạn nên phải sám hối. Lại như kinh nói: “Có địa ngục lớn tên là Đại Ủng. Vì nghiệp gì mà chúng sanh đọa vào chốn ấy? Đó là chẳng phải Sa-môn mà tự xưng là Sa-môn, hoặc nghe người nữ ca múa trang nghiêm đủ thứ âm thanh, tham đắm sâu xa, nông cạn không tỉnh ngộ. Do nghe người nữ ca múa cười đùa nên lậu ró bất tịnh, đọa vào địa ngục “mưa hòn sắt nóng” nghiền nhỏ các phần chân tay nát vụn như bụi trần. Lại mưa lửa nóng thiêu đốt và nung nấu như vậy. Lại nữa, người tội nhớ nghó về người hành dục tà xa xưa thì có địa ngục tên là Bát-nột-ma. Nghóa là do trong mộng nhớ nghó về việc dục nên đọa vào địa ngục ấy chịu sự thiêu đốt nung nấu. Lại có Diễm-ma-la-tốt tay cầm dùi sắt lớn đâm chết người tội. Lại nữa, tuy có tu phạm hạnh nhưng lại hồi hướng nguyện sanh vào ở chốn thiên nữ nên nói có địa ngục tên là Đại-bát-nột-ma. Địa ngục ấy có một cái hồ tên là Hàm hà, luôn trút nước nóng thiêu đốt như nước vàng nấu chảy khiến cho thân thể tiêu tan, lông tóc biến ra như cổ, thịt nhuyễn như bùn, các xương như đá ruột thành như cá v.v… Tội nhân phải ở trong địa ngục nầy trải qua thời gian vô lượng. Lại nữa, tà dục nghóa là có hai người nam hủy hoại chánh hạnh nên có vô lượng tướng trạng. Như kinh kia nói: “Người hủy hoại chánh hạnh như vậy ở trong Hàm hà kia thấy có một người trẻ tuổi đẹp đẻ xuất hiện rồi biến mất ở trong đó. Tội nhân do nghiệp ác đã gây tạo trước kia phát khởi ái lạc tột độ. Bèn vào sông ấy tức thì liền bị ưu khổ trói buộc làm bức bách. Lại nữa, tà dục nói là có quả báo cực ác. Nghóa là đối với bàng sanh mà phát khởi tánh tội lớn. Ở trong địa ngục kia có trâu, nai v.v… bằng sắt nóng với tướng cực kỳ bất thiện. Đối với đạo súc sanh tâm dục của người tội lại ưa gần gũi nên bị ngọn lửa kia thiêu đốt và nung nấu, trải qua trăm ngàn năm không dứt. Lại nữa, do dục tà nên cưỡng bức Tỳ- kheo ni giữ giới thanh tịnh v.v… hủy hoại chánh hạnh và đọa vào địa ngục lớn. Lại nữa, tà hạnh trái đạo mà hành dục. Tự mình muốn xâm hại đến quyến thuộc của người khác, hoặc do ở gần, hoặc xưng thầy dạy mà hủy hoại chánh hạnh nên đọa vào địa ngục lớn chịu khổ não vô lượng như trước đã nói. Kinh Thất Chủng Hiệp Tập nói: “Như vậy Bà-la-môn đối với đồng loại phạm hạnh mà nói rằng: Ta biết người kia cùng với người hàng xóm hai căn đã giao hợp hoặc người hàng xóm kia quan sát kỹ cảnh giới đi, đến, đứng ngồi mà khởi lên ái nhiễm. Điều nầy nói phạm hạnh Bà-la-môn tập hợp, chẳng lìa pháp hòa hợp. Tuy nhiên tu phạm hạnh mà chẳng thanh tịnh, như vậy người hàng xóm kia hoặc cùng đùa giỡn, hoặc ý đắm trước nên nói phạm hạnh mà không thanh tịnh. Như vậy người hàng xóm hưởng thụ ái lạc, có âm thanh ca múa trang nghiêm đầy đủ, đến giữa hai bức tường mà khởi đắm trước nên gọi là hòa hợp. Như vậy trong năm thứ dục lạc, đối với người kia quán sát mà sanh khởi ái trước, rồi hồi hướng phạm hạnh nguyện sanh về cõi trời nên gọi là tập hợp chứ chẳng phải pháp lìa hòa hợp”. Luận nói: Nếu suy nghó như vậy hướng đến cảnh giới ái dục thì gọi là tai nạn. Kinh A Dục nói: “Phật bảo Tỳ-kheo nên phải sợ con đường nầy và đoạn tận tâm dục kia, phải lo âu sợ hãi như bụi cây gai góc ấy. Cả hai con đường nầy đều rất hiểm ác, là chỗ thân cận của người bất thiện kia. Con đường như thế các bậc Chánh só thường xa lánh. Ông chớ có suy nghó chấp trước dù phần ít dục như vậy. Đức Thế Tôn nói đây là nhiều khổ, nhiều nạn và nhiều tội cấu bị chê bai khinh miệt. Phật bảo: Tỳ-kheo! Lại nữa dục nầy giống như trong bệnh ung nhọt bao hàm các độc tố dơ bẩn, như lưỡi câu tài lợi làm gốc của tội lỗi. Dục như mộng mị là pháp không thật, là chết, là không, là vô thường, là lỗi lầm. Tại sao kẻ ngu lại ưa đắm dục nầy? Cho đến như nai bị ràng buộc bao vây, như cá bị lưới bủa, như con phù du bị lửa thiêu đốt, như con khỉ bị phân dơ trói buộc, như sợi chỉ giới buộc các của Bà-la-môn. Nói tóm lại, người tìm cầu dục cũng giống như bầy thú đi suốt đêm để rồi đi vào miệng con sư tử mà không biết hạn lượng, hoặc trâu chết rơi vào miệng cọp mà không biết hạn lượng, như con tôm bơi vào trong miệng rắn mà không biết hạn lượng. Lại nữa, suốt đêm dài gần gũi dục lạc giống như kẻ ăn trộm bị bắt trói chặt đầu mà không biết hạn lượng. Dùng sức mạnh xâm phạm quyến thuộc người khác, phá làng xóm sát hại người dân cho đến bị bắt nhốt, trói chặt đầu mà vẫn không biết hạn lượng, nên phải thọ lấy quả báo cùng cực, khiến máu huyết chảy ra đầm đìa như nước trong bốn biển, vẫn không sánh kịp. Huống hồ thân nầy có nhiều sự hủy nát, gân cốt chia lìa lỗ chân lông bị côn trùng đục khoét, chẳng khác nào bệnh ung nhọt với sự uế tạp đủ mọi mặt. Hơn nữa, thân nầy nhận chịu đủ thứ bệnh khổ, nghóa là mắt tai đều bị bệnh cho đến bệnh tró nhọt lở chảy máu mủ ra ngoài. Kinh kia lại nói: “Thân nầy là khổ não, bị cái già khiến còng lưng và khập khiểng cả hai chân, râu tóc bạc trắng và mặt nhăn nheo, các căn suy tàn, khổ não bủa vây”. Như vậy, thân nầy già cõi suy yếu mục nát, cho đến hủy nát và hôi thúi không thể gần gũi được. Phật bảo Tỳ-kheo: Vậy vì sao đối với dục lạc lại tham ái, trói buộc phiền muộn tham đắm theo đuổi. Nếu sau khi ta diệt độ, chánh pháp sắp mất, thì các ông phải cẩn thận chớ có gần gũi dục. Phải nỗ lực ngay bây giờ chớ đợi đến già chết mới thọ nhận sự giáo huấn của ta. Phật bảo Tỳ-kheo phải nên dừng lại và đoạn diệt tâm dục. Thay vì phi thời cầu dục lạc thì phải đúng thời cầu chánh pháp. Trong kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn nói: “Nên biết phải xa lìa hành tà dục kia, đối với vợ con của mình phải biết đủ rồi, đối với quyến thuộc người khác không nên ưa thích dòm ngó vì đó chỉ là khổ não. Phải nhẫn nhịn và hàng phục tác ý về tướng dục ấy. Nếu khởi ham muốn tìm kiếm thì phải quán pháp bất tịnh. Nếu gần gũi dục lạc, nên biết tự tại trong ý ô nhiễm, luôn xa lìa và thoát ly triền phược, chớ có khởi tâm tham trước. Đối với thân vô thường phải khởi tưởng bất tịnh. Như vậy an trụ niệm như ta đã làm, khởi phân biệt đúng đắn chớ có tham trước dục lạc, huống hồ đối với bất tịnh mà không chịu thấy rõ! Kinh kia lại nói: “Bồ- tát đối với quyến thuộc của mình phải khởi ba thứ tưởng. Những gì là ba? Nghóa là tạm thời cùng vui chơi nhưng không cùng gặp ở đời khác, chỉ đồng ăn uống nhưng đối với nghiệp báo không cùng thọ nhận, chỉ đồng hân hoan vui vẻ mà không cùng khổ não. Cho đến (đối với dục) ba loại nầy là tưởng phá giới, phá định và phá trí tuệ. Lại nữa, có ba loại tưởng nghóa là tưởng kẻ trộm, tưởng oán thù và tưởng cai ngục.  <卷>QUYỂN 6 <詞>Phẩm 4: KHÔNG Phần 3 Cũng Kinh Nguyệt Thượng Đồng nữ Sở Vấn nói: Bấy giờ, Đồng nữ Nguyệt Thượng thấy nhiều người muốn đến gần tức liền trụ giữa hư không cao bảy cây Đa-la và vì các người ấy mà nói kệ: Ông nên quán thân ta Sắc vàng thật sáng diệu Chẳng nhân tâm dục nhiễm Cảm tố chất thanh tịnh Dục sanh nơi cảnh giới Như hầm lửa thiêu đốt Nhẫn điều hòa sáu căn Tịnh tu các phạm hạnh Nếu thấy vợ người khác Đều sanh tưởng mẹ, em Sau được thân đoan chính Người khác thường thích nhìn. Trong chân lông của ta Hương thơm biến khắp chốn Không từ tâm tham nhiễm Huân tu quả thiện nầy Tâm tham vốn không sanh Không dục sao sanh dục? Mâu-ni hiện chứng minh Như thật không hư vọng Ngươi xưa hoặc cha ta Ta hoặc là mẹ ngươi Thay nhau làm cha mẹ Cớ sao sanh dục nhiễm? Ta hoặc thường hại ngươi Người khác lại hại ta Oán bạn thù giết nhau Tình nào sanh dục nhiễm? Đoan chánh chẳng tham được Tham chẳng sanh cõi thiện Tham chẳng nhân xuất ly Cho nên đều xả bỏ. Lại nhân tham dục nầy Nhanh đọa ba đường ác Dạ-xoa, Tỳ-xá-xà Và chúng A-tu-la Với quỷ Cưu-bàn-trà Đều là do tham dục Hoặc mù, điếc, câm, ngọng Thân co quắp xấu xí Các họa hoạn thế gian Đều do hành tham dục. Hoặc được Chuyển luân vương Và chủ trời Đế Thích Phạm vương, Đại tự tại Nhờ rộng tu phạm hạnh Làm cọp, voi, ngựa, trâu Lạc đà, la, heo, chó Chẳng biết được thân sơ Nên thường ham dục nhiễm Sát lợi và vương thần Hoặc Tín só, Trưởng giả Chốn vui sướng giàu sang Nhờ rộng tu phạm hạnh Hoặc bị gông cùm xích Các khổ nạn nước lửa Bị móc mắt cắt tai Và đoạn chặt tay chân Cho đến làm nô bộc Đều do tham dục nầy. Trong Kinh Tử Vương Sở Vấn A Dục nói nghóa kệ: Nói người vướng dục nầy Như ruồi thấy máu mủ Cũng như loài heo, chó v.v… Chạy bám thịt dơ uế Không biết vui người nữ Dong ruổi cũng như vậy Trẻ ngu không hiểu rõ Lưỡi nếm vị dơ bẩn Người ngu thích nữ nhân Đầy đủ các hắc ám Hiện rõ cảnh giới quỷ Chết liền đọa dường ác Làm trùng trong hầm xí Chấp vị sanh tưởng vui Giống như vẽ bánh nấm Trang nghiêm quán tướng ngoài Như xào xạc trong gió Tràn đầy các ô uế Tức ghèn đờm chảy dài Và các thứ bất tịnh Thân như túi dơ bẩn Người ngu cho là đẹp Toàn thân chỉ có xương Được da thịt bao bọc. Chỉ sanh ở một cửa Giống như mụt nhọt lớn Cũng như trong lỗ nhọt Có nhiều các loại trùng Và nhiều thứ bất tịnh Tướng thân cũng như vậy Bụng như cái bao lớn Trong sanh tạng thục tạng Và xương đầu xương sườn Các huyết tuỷ dơ bẩn Có tám vạn loài trùng Núp kín ở trong thân Rơi vào lồng lưới si Nên người ngu không thấy Lại ở trong chín lỗ Chảy bất tịnh, hôi dơ Hoặc nếu thấy, nếu nói Người ngu sanh chấp tướng. Tất cả chỗ ác xấu Do vui, không hiểu biết Nước dãi làm thức ăn Cảnh giới người ngu kia. Mồ hôi nách chảy ra Dơ bẩn thật đáng chán Thích sự đáng chán nầy Như ruồi thấy vết thương Ở trong pháp hèn hạ Ham thích dục kém cỏi Tạo nên nghiệp ác ấy Chết đọa vào đường ác Đọa địa ngục vô gián Thọ các khổ báo lớn Phật nói các người nữ Thối nhất trong các mùi Cho nên tập hợp lại Phá tưởng hạ liệt ấy Lại nếu khởi chấp trước Chỉ người ngu rảo chạy Tạo ra ác nghiệp nầy Nên mắc quả như vậy. Kinh kia lại nói: “Do hành tướng như vậy mà khổ cầu những cần thiết để tự nuôi mạng sống, lại cố chấp trước không xả bỏ. Đến nỗi đói rách bần cùng phải đi xin ăn, bị các người nữ khuất phục, chấp giữ, mê muội, giống như kẻ nô bộc bị người tự do sai khiến. Do đối với người nữ tham vui dưỡng dục nên không thể tu bố thí, trì giới và các phẩm thiện. Lại nữa, bị người nữ mắng chửi, lấn ép, trói buộc. Do tâm chấp trước nên phải chịu nhịn nhục khuất phục. Hoặc đến nhà người nữ hàng xóm dòm ngó dáng mạo thùy mị. Do nhân duyên dục ấy nên tự do qua lại. Phật bảo: Đại vương! Người ham thích ái dục là người không thanh tịnh, là người đối với thế gian tạo nên nhiều sai lầm”. Cho đến trong kệ cũng nói: Đối người nữ giao hợp Thấy làm cùng tùy hỷ Nghe rồi ý ưa xem Người ấy không xuất ly Thân gần các khổ dục Nói đây thật chán khinh Do nghe được pháp ấy Nói đẹp và nói si. Tâm chạy theo người nữ Không khác chuột đuổi mèo. Hoặc nghe lời Phật nói Tạm thời được tỉnh ngộ Sau lại đối tham ấy Như độc Yết-la-la Lại như heo thấy phân Phát sanh niềm ái lạc Chỉ được trong giây lát Rồi chuyển sanh chán sợ Người ngu vướng dục lạc Xa lìa giáo pháp Phật Gần gũi dục hèn kém Chết sẽ đọa đường ác Vui đắm say rượu dục Hủy giới phá tịnh mạng Tạo ra các tội nghiệp Chết sẽ đọa đường ác. Nếu đối chánh pháp nầy Hiểu rỏ các cảnh dục Không khởi tâm phóng dật Thường sanh cõi tịnh thiên Đối Bồ-đề vô thượng Đây không phải khó được. Nếu nghe pháp nầy rồi Sát na được chánh tuệ Ngộ pháp môn xuất gia Xa lìa các việc dục. Luận nói: Lại nói đó là tai nạn. Trong Kinh Tịch Tónh Quyết Định Thần Biến nói: “Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Nếu có người đối với tất cả hữu tình trong cõi Diêm-phù-đề cướp lấy tài bảo thì sẽ hoại mạng căn. Văn-thù-sư-lợi! Nếu Thiện nam Thiện nữ đối với Bồ-tát đoạn một tâm thiện tức liền gần đọa vào cõi Bàng sanh, ở trong thời gian chịu tội đồng đọa lạc như người kia. Nhưng vì đoạn trừ thiện căn nên chịu tội nhiều hơn người trước trải qua vô số kiếp. Vì sao? Vì đoạn diệt thiện căn tức là đoạn diệt sự xuất hiện ở đời của Phật. Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Lại như chủng loại khác đối với Bồ-tát khởi tâm ghen ghét thì do nhân duyên ấy nên biết mắc phải ba loại sợ hãi. Những gì là ba? Sợ hãi đọa vào địa ngục. Sợ hãi sanh vào chỗ tối tăm. Sợ hãi sanh vào nơi biên địa. Kinh kia lại nói: “Nếu được làm người thì lời nói thường không chân thật mà ưa phỉ báng. Lời nói ác sân hận thường gây nhiễu loạn người đời. Rồi sau khi thân hoại mạng chung đọa vào địa ngục lớn sanh ra không có chân và chịu nhận các khổ não, trải qua năm trăm Du-thiện-na bị các côn trùng nhỏ chui vào thân để ăn thịt. Con rắn nầy đáng sợ, có đủ năm ngàn cái đầu. Do tội phỉ báng nên mỗi cái đầu của nó có năm trăm cái lưỡi, mỗi cái lưỡi trong miệng lại xuất ra năm trăm cái cày bằng sắt với ngọn lửa nóng bức thiêu đốt nghiệp tội nói dối nầy phải bị đám lửa lớn nung nấu đốt cháy. Lại nữa, nếu người khởi lời nói bất hòa, bức não Bồ-tát, người ấy cầu đầu thai vào đường súc sanh cũng khó được mà phải đọa vào địa ngục lớn trải qua trăm ngàn kiếp Câu-kỳ-na-do-đa. Khi chết rồi lại làm con rắn độc mang tâm thâm hiểm khiến người sợ hãi và do sự bức não của đói khát nên tạo thêm các nghiệp ác. Giả sử có được ăn uống cũng không no đủ. Sau khi chết, nếu sanh trong loài người cũng bị mù tối không có trí tuệ và ác tâm không dứt, thường nói ác trách mắng và không kính nể thánh hiền. Khi mãn làm người lại đọa vào đường ác, trải qua trăm ngàn kiếp Câu-chi sanh ra không thấy Phật”. Kinh kia lại nói: “Nầy Văn-thù-sư-lợi! Nếu ở chỗ Bồ-tát cho đến khi Bồ-tát phát tâm thanh tịnh trong sáng mà tâm khinh dể thì cho đến nhiều kiếp vẫn ở trong địa ngục lớn như mặc áo giáp bằng đồng. Văn- thù-sư-lợi! Nghiệp Bồ-tát nầy tất không thể đọa lạc trừ tội phỉ báng. Văn-thù-sư-lợi! Thí như kim cương, ngọc, ma ni không có gỗ đá nào phá hoại được. Văn-thù-sư-lợi! Nghiệp Bồ-tát ấy cũng lại như vậy, tất không thể đọa lạc chỉ trừ bị phỉ báng Bồ-tát kia”. Trong Kinh Tín Lực Tài Nhập Ấn cũng nói: Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Nếu có người đối với các chúng sanh trong mười phương thế giới khởi sân nhuế trói buộc thì đọa vào nơi hắc ám. Văn-thù-sư-lợi! Ở chỗ Bồ-tát, xa rời việc đứng trước mặt, co duỗi, chống tay, khởi tâm sân nhuế tức tội ấy còn vượt hơn cả tội trước số A-tăng-kỳ kiếp. Văn-thù-sư-lợi! Lại nếu có người trộm cắp tất cả tài vật ở cõi Diêm-phù-đề, lại có người đối với Bồ-tát mà khởi tâm khinh khi nhục mạ thì tội nầy chịu khổ báo vượt hơn tội trước số A-tăng-kỳ”. Kinh kia lại nói: “Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Nếu có người thiêu hủy hằng hà sa tháp miếu của chư Phật và có người đối với Bồ-tát tin hiểu Đại thừa khởi tâm sân nhuế tăng thêm nhục mạ và hủy báng thì tội nầy phải chịu khổ vượt hơn tội trước số A-tăng-kỳ. Vì sao? Vì các Bồ-tát là cơ sở để sanh ra chư Phật Thế Tôn. Từ các Đức Phật kia mới có tháp miếu đem lại lợi lạc cho chư Thiên v.v… Nếu khinh hủy các Bồ-tát là khinh hủy các Đức Phật. Ngược lại, nếu cung kính các Bồ- tát là cung kính các Đức Phật. Muốn cầu cúng dường tối thượng thì nên phải cúng dường các Bồ-tát. Vì cúng dường các Bồ-tát là cúng dường các Đức Như Lai”. Luận nói: Phước báo cúng dường nầy trong kinh Tịch Tónh Quyết Định Thần Biến nói: “Nếu người hộ pháp và thuyết pháp tức là xa lìa tất cả các đường ác, đạt được quả vị Đế Thích và chủ Phạm-thế, Dạ-ma, Đâu-xuất, Tự-tại-thiên v.v… Về sau sanh trong loài người làm Chuyển luân Thánh vương, Trưởng giả, Cư só v.v… đầy đủ các tài bảo, niệm tuệ, tương ưng và an ổn không sợ”. Luận nói: Những Bồ-tát nào ở trong chỗ nghiệp thiện của Bồ-tát mà khởi tâm ác? Nghóa là hàng dị sanh v.v… Lại như trong kinh Tín Lực Tài Nhập Ấn nói: Văn-thù-sư-lợi! Nếu có người đối với chúng sanh nhiều như vi trần trong tất cả thế giới ngày ngày đem trăm thức ăn uống ngon của trời và y phục của trời mà bố thí trải qua hằng hà sa kiếp và nếu có thiện nam, thiện nữ cúng dường người thành tựu mười nghiệp thiện, bậc Thanh văn, Phật-bích-chi, người nói pháp Đại thừa, người trụ Đại thừa với giới đức tương ưng, biện tài lưu loát cùng người không có trí hý luận, người vì pháp thưa hỏi, nghe thọ đều nên cúng dường thì bao nhiêu tội được tiêu trừ? Phật bảo: Thiện nam tử! Thí như có người đầu ngày đem các trân bảo trong cõi Diêm-phù-đề cúng dường cho đệ tử Phật rồi giữa ngày và cuối ngày cũng làm như vậy trải qua số trăm ngàn năm thì người kia có được phước nhiều không? Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Phước đức của người ấy thật vô lượng vô số không thể tính toán được chỉ có Như Lai mới biết rõ. Phật bảo: Thiện nam tử! Nếu có bậc Sát-đế-lợi chân thiện bố thí như trước đã thì phước ấy có nhiều không? Như vậy, lược nói thì phước ấy vượt qua số phước báo trước vô lượng A-tăng-kỳ. Phật dạy: Năm trăm năm sau người hộ trì chánh pháp khéo tự hộ trì mình, người khác, cõi khác, ở trong giáo pháp của ta người xuất gia làm đệ tử thì dù là pháp khí hay chẳng phải pháp khí mà cắt bỏ râu tóc, mặc áo cà sa đều phải nên khéo hộ trì chớ sanh tâm não hại. Cho đến cõi nước mình hay cõi khác cũng đều được an vui, diệt trừ tất cả tội cấu, chư Thiên, chư tiên tăng thêm lợi ích và giữ gìn tuổi thọ lâu dài, phiền não của người và mình cũng tiêu hết, trụ trong đạo Chánh giác và sáu pháp Ba-la-mật, xa lìa các tội ác. Đối với biển luân hồi không bị chìm đắm lâu nữa, thường xa lìa bạn ác và gần gũi bạn lành, cộng sự với chư Phật và chúng Đại Bồ-tát, thích ở cõi các Đức Phật và chẳng bao lâu nữa sẽ đắc quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề. Bấy giờ, trong tất cả chúng đồng đạo, có một Ưu-bà-tắc trong một ngày có thể cúng dường thức ăn nước uống. Đối với đệ tử Phật cúng dường như vậy nên phước báo hơn trước A-tăng-kỳ số. Văn-thù-sư-lợi! Lại nếu các Ưu-bà-tắc thành tựu mười thiện nghiệp nhiều như số vi trần trong tất cả thế giới ngày ngày lấy trăm vị thức ăn uống và y phục của trời bố thí trải qua hằng hà sa kiếp như vậy, lại có người đối với một Tỳ-kheo, trong một ngày cúng dường thức ăn nước uống thì phước báo nầy vượt qua phước báo trước A-tăng-kỳ số. Trong kinh Nhập Định Bất Định Ấn nói: “Phật bảo Văn-thù-sư- lợi: Giả sử các loài hữu tình trong tất cả thế giới mười phương móc mắt đến mãn một kiếp, lại có Thiện nam tử Thiện nữ nhân đối với loài hữu tình kia khởi tâm thương xót khiến mắt bình phục trở lại mãn một kiếp, và nếu có người ở chỗ Bồ-tát tín giải Đại thừa lấy tâm thanh tịnh mà quán sát thì phước báu nầy vượt qua hơn phước báu trước vô lượng A- tăng-kỳ số. Văn-thù-sư-lợi! Giả sử người nào có khả năng khiến cho tất cả chúng sanh bị trói nhốt trong lao ngục mười phương đều được giải thoát rồi thọ nhận diệu lạc của Chuyển luân Thánh vương và cái vui của Phạm thiên, lại nếu có người ở chỗ Bồ-tát tin hiểu Đại thừa mà lấy tâm thanh tịnh chiêm ngưỡng tán thán thì phước báu nầy hơn phước báu trước vô lượng A-tăng-kỳ số”. Lại nữa, Kinh Địa Tạng nói: Bạch Thế Tôn! Nếu bậc quân vương Sát-đế-lợi, Cư só chân thiện, Bà-la-môn chân thiện v.v… tự hộ trì mình, người khác và cõi khác, đối với đệ tử Phật dù pháp khí hay chẳng phải pháp khí cho đến người cắt tóc xuất gia chỉ mặc một phần nhỏ áo ca sa thì đều nên bảo hộ người ấy. Bấy giờ, Thiên chủ và quyến thuộc cho đến chủ Tất-xá-giá cùng với quyến thuộc đều từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay cung kính bạch Phật: “Thưa Thế Tôn! Nếu đời vị lai cho đến năm trăm năm sau có vua Sát-đế-lợi chân thiện, Cư só chân thiện, Tể quan chân thiện, Sa-môn chân thiện, Bà-la-môn chân thiện v.v… như vậy mà hộ trì chánh pháp, nối dòng Tam bảo thì đều khiến cho được hưng thịnh. Các vua Sát-đế-lợi chân thiện, Cư só chân thiện, Tể quan chân thiện, được sở hữu tất cả quyến thuộc của ta và đối với mười loại thủ hộ đều tăng trưởng”. Những gì là mười? Thọ mạng tăng ích. Rộng trì chánh pháp. Thường không có bệnh não. Có nhiều quyến thuộc. Được no đủ dư dả. Thọ mạng không thiếu. Giàu sang tự tại. Danh xưng nổi tiếng. Làm người bạn tốt. Được trí tuệ đầy đủ. Luận nói: Nên biết phước báu rộng lớn nầy tương tự như nhập vào đất Thánh. Kinh Quán Âm nói: “Người phát tâm Chánh giác khéo làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, nếu chỉ nhiễu quanh bên phải tháp Phật, ta vẫn nói công đức nầy rộng lớn. Phật tử các ông! Nếu có người không yêu thích chư Thiên, xa lìa người thiện thì đó là cảnh giới địa ngục. Điều nầy như trước đã nói”. Luận nói: Chưa có khả năng tiếp nhận sự khai thị của người khác thì tạm dừng ở đây mà phân biệt nhận biết. Kinh Tịnh Chư Nghiệp Chướng nói: “Hễ nói đến chướng ngại tức là nói đến tai nạn. Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Sao gọi là chướng ngại? Tham là chướng ngại, sân là chướng ngại, si là chướng ngại, bố thí là chướng ngại, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ đều là chướng ngại. Vì sao vậy? Kẻ phàm phu ngu si khi bố thí lại keo kiệt mến tiếc không khởi tâm tịnh tín. Do không khởi tâm tịnh tín nên khởi tâm tổn hại. Do tổn hại nên sanh khởi tội hối não mà đọa vào địa ngục lớn. Người trì giới kia lại vì người phá giới mà sanh khởi các sự hủy báng, không khuyên bảo khiến các người ấy nghe lỗi lầm mình rồi không khởi tâm tịnh tín. Do không tin nên liền đọa vào đường ác. Người tu nhẫn nhục kia do nhẫn chịu ngông cuồng xấc láo nên nhẫn mơ hồ tâm vẫn đục. Do nhẫn mơ hồ làm căn bản của phóng dật nên liền đọa vào cõi khổ. Người phát khởi tinh tấn lại khởi tâm ngã mạn nói Tỳ-kheo khác tu hành biếng trễ không xứng với sự cung cấp vật thực của tín thí. Do phát khởi tinh tấn mà khởi ngã mạn nên coi thường người khác. Người tu thiền định do đối với sự tónh lự Tam-ma-đề mà phát khởi tâm yêu thích cho rằng ta đã chứng được hạnh Tam-ma-địa còn các Tỳ-kheo khác hành tán loạn, do đâu mà chứng đắc Phật quả? Nói rộng như ở kinh kia nói”. Trong kinh Tùy Chuyển Chư Pháp nói: “Chỉ dạy Bồ-tát trừ tội nghiệp chướng xa đắc Bồ-đề dạy các uy nghi đạo hạnh mà xa đắc Bồ-đề. Tuy nhiên Bồ-tát kia đối với chỗ sanh phát tưởng hạ liệt của Bồ-tát, tự mình phát khởi tưởng cao lớn nghóa là ta đã phần nào diệt trừ nghiệp chướng Bồ-tát nầy đối với Bồ-tát kia hoặc thuyết giáo khiến trụ vào tưởng của Phật. Bồ- tát đối với chỗ Bồ-tát chớ khởi tâm chỉ trích khiến người kia không bỏ tâm Bồ-đề. Phật bảo: Thiên tử! Bồ-tát như vậy không đoạn thiện căn dù là phần ít như Bồ-tát không hề có hai hành. Giả thiết người không phát tâm Bồ-đề cho đến đối với Bồ-tát sáng suốt còn không khởi lăng mạ huống hồ người có tâm Bồ-đề”. Như kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội nói: “Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý: Sao gọi người chưa phát tâm Bồ-đề cũng được thọ ký? Nếu người sanh vào năm cõi luân hồi hoặc cõi Trời, Người, Bàng sanh, Địa ngục hay cảnh giới Diễm-ma-la mà các căn lanh lợi, tin hiểu rộng lớn thì Như Lai đối với người kia hiểu rõ và khiến cho trải qua trăm ngàn kiếp sẽ phát tâm A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề. Cho đến trăm ngàn A-tăng-kỳ-kiếp như vậy rồi đắc quả Bồ-đề. Phật bảo Kiên Ý: Do vậy nói Bồ-tát nầy tuy là người chưa phát tâm Bồ-đề mà được thọ ký. Bấy giờ, Tôn giả Đại Ca-diếp ở trước bạch Phật: Thế Tôn! Từ đây về sau con phải đối với tất cả chúng sanh khởi tưởng của Phật. Vì sao vậy? Vì chúng con không có trí tuệ, thế nào là chúng sanh thành tựu căn Bồ-đề? Và thế nào không? Thế Tôn! Chúng con không biết hành tướng như vậy. Nếu đối với chúng sanh khởi tưởng hạ liệt thì tự làm tổn thương mình. Phật dạy: Hay thay Ca-diếp! Ông thật khéo léo nói lên lời nầy. Phải lấy nghóa ấy để chánh quán tự tại: Ta đối với giáo pháp như vậy, không vọng xưng tính toán xuất gia, tại gia hay người nam người nữ. Nếu vọng xưng tính toán tức là tự làm tổn thương mình. Chỉ có Như Lai mới thấu triệt tất cả chúng sanh bình đẳng. Nầy Đại Ca- diếp, nếu các Thanh văn và Bồ-tát thì nói phải đối với tất cả chúng sanh khởi tưởng của Thế Tôn”. Luận nói: Bồ-tát đối với các Bổ-đặc-già-la tại sao còn phần ít, không thể hóa độ, không hộ trì thân? Thấy có tướng như vậy vì sự quyết định đắc Bồ-đề Đối với đệ tử Phật kia không có khinh miệt nên thường phải hộ trì. Như kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói kệ: Hoặc có dựng miếu đá Chiên đàn và trầm thủy Gỗ mộc cùng gỗ khác Gạch, ngói, bùn, đất thảy Nếu ở trong đồng trống Dùng đất đắp miếu Phật Cho đến Đồng tử giỡn Dùng cát làm tháp Phật Tất cả người như thế Đều đã thành Phật đạo. Cho đến vẽ tượng Phật Trăm phước tướng trang nghiêm Tự vẽ, sai người vẽ Đều đã thành Phật đạo. Cho đến Đồng tử giỡn Dùng cỏ cây và bút Hoặc ngón tay móng tay Mà vẽ hình tượng Phật Tất cả người như thế Đều đã thành Phật đạo. Nếu người đối tháp miếu Tượng báu hoặc tượng vẽ Dùng hoa hương, phan, lọng Thành kính mà cúng dường Hoặc khiến người trổi nhạc Đánh trống thổi sừng ốc Tiêu, địch, cầm, không hầu Tỳ bà, chụp chả đồng Các tiếng hay như thế Đem hết để cúng dường Hoặc dùng tâm hoan hỷ Ca ngợi công Đức Phật Cho đến một tiếng nhỏ Đều sẽ thành Phật đạo Nếu người tâm tán loạn Cho đến dùng một hoa Cúng dường nơi tượng Phật Liền thấy vô số Phật. Hoặc có người lễ bái Lại nói: Hoặc lại chỉ chắp tay Cho đến giơ một tay Hoặc lại chỉ cúi đầu Để cúng dường tượng Phật Dần thấy vô số Phật. Nếu người tâm tán loạn Đi vào trong tháp miếu Chỉ xưng Nam mô Phật Đều sẽ thành Phật đạo. Đối các Phật quá khứ Hiện đời hoặc vị lai Nếu có nghe pháp nầy Đều sẽ thành Phật đạo. Lại nữa, Kinh Đại Bi nói: “Phật bảo: A-nan! Thí như người đánh cá muốn bắt được cá ở trong ao lớn thì phải móc mồi vào lưỡi câu thật kỹ càng bỏ xuống ao khiến cho cá đớp mồi. Khi cá đớp mồi thì phải biết nó vẫn còn ở trong ao nhưng chẳng bao lâu phải ra khỏi ao. Lại phải biết làm lưỡi câu, cần câu, dây câu kia phải buộc chặt dưới gốc cây trên bờ. Lúc ấy, người câu cá đã đến chỗ ấy tức kiểm lại cần câu mà biết cá đã cắn câu. Nên kéo dây câu lên đặt ở trên bờ rồi theo mong muốn của mình mà sử dụng nó. Phật bảo A-nan: Ta nay cũng lại như vậy, khiến các chúng sanh đối với Phật Thế Tôn tâm sanh tịnh tín gieo trồng các căn bản thiện cho đến chỉ dùng một niệm tín tâm các chúng sanh kia tuy bị ác nghiệp che lấp nên trong một sát-na đọa lạc, nhưng nếu Phật Thế Tôn đối với chúng sanh ấy đem trí Bồ-đề nhiếp thọ các việc ràng buộc thì trong biển luân hồi chúng sanh được an trí vào bờ Niết-bàn”. Luận nói: Do đó chúng sanh đối với Phật phát khởi tưởng kính lễ. Nên biết đây là tác ý kính lễ, người mới phát tâm Bồ-đề phải khởi thân kính lễ. Như Đồng tử Thiện Tài đến chỗ Bồ-tát Bảo Vân mới phát khởi ý đạo Bồ-đề nên đem thân kính lễ, tất cả điều ấy phải nên hiểu rõ. Như trong Kinh Thâm Tâm Giáo Giới nói: “Vì chỗ độ sanh của các Bồ- tát mà cung kính đảnh lễ. Nhưng tại sao nói trong một xứ sở dù lễ hay không lễ cũng không trái ngược nhau? Vì đối với sự lễ kính nầy lần lượt hệ thuộc. Không thể lễ kính như vậy mà không có phước báo, và do đâu chỉ một đảnh lễ mà thấy chư Phật? Nên biết không có điều ấy”. Luận nói: Nói đây là học xứ của Bồ-tát, đây chẳng phải học xứ của Bồ-tát thì đều là hủy báng chánh pháp nên trở thành tai nạn. Trong Kinh Tập Chư Phước Lực Quảng nói: “Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Sao gọi là đối với phần ít pháp của Như Lai nói hoặc khởi tưởng tịnh và tưởng bất tịnh đều là hủy báng chánh pháp? Người hủy báng chánh pháp tức là hủy hoại khinh miệt Pháp Phật Tăng lại ở đây là giải thoát, đây chẳng phải giải thoát đều là phỉ báng chánh pháp. Ta chẳng riêng nói các pháp thuộc Thanh văn thừa, Duyên giác thừa hay thuộc Đại thừa Bồ-tát. Người ngu si kia ở trong chánh pháp nầy của ta tạo nên đủ loại ngôn thuyết mà nói đây là Thanh văn, đây là Duyên giác, đây là Bồ-tát. Do khởi các tưởng như vậy nên hủy báng chánh pháp. Nếu nói đây là học xứ của Bồ-tát, đây chẳng phải học xứ của Bồ-tát là người hủy báng chánh pháp. Nếu nói đây là Pháp sư có biện tài hay không có biện tài cũng gọi hủy báng pháp. Lại nói đây là pháp đây là phi pháp cũng đều gọi là hủy báng pháp. Nếu nói Phật quá khứ xuất hiện ở đời không có pháp tổng trì có thể chứng đắc cũng gọi hủy báng pháp. Nói Pháp sư không có pháp tổng trì là hủy báng pháp. Nói Pháp sư tạo tác lỗi lầm cũng gọi hủy báng pháp. Nói Pháp sư không có đủ biện tài tức hủy báng chánh pháp. Chỉ dạy phóng dật cũng là hủy báng chánh pháp. Chỉ dạy oai nghi đạo hạnh cũng là hủy báng chánh pháp. Dạy giới bất chánh tức là hủy báng chánh pháp. Khuyết giảm biện tài cũng là hủy báng chánh pháp. Đối với pháp sáng rõ mà không hiểu thì cũng hủy báng chánh pháp. Đối với việc trì minh triệu thỉnh không hiểu lời nói ra cũng gọi là hủy báng pháp. Đối với pháp của Như Lai chỉ nắm bắt trên chữ nghóa mà không đi vào sự hiểu ngộ thì đều gọi là hủy báng chánh pháp”.  <卷>QUYỂN 7 <詞>Phẩm 4: KHÔNG Phần 4 Nói Khế kinh nầy trái với Khế kinh khác tức là hủy báng chánh pháp. Nói kệ tụng nầy trái với kệ tụng khác tức là hủy báng chánh pháp. Nếu nói người nào khởi lên tin hiểu, người nào không phát khởi tin hiểu thì đều là hủy báng pháp. Đối với sự nói pháp của Pháp sư mà ý hiểu có sai biệt thì gọi là hủy báng pháp. Nếu tạo ra sự nghiệp nầy lìa mắt xem xét rồi nói lời đùa giỡn thì cũng gọi là hủy báng pháp. Nếu nói đây là có hành pháp, đây là vô hành pháp thì đều là hủy báng pháp. Nếu bảo Phật nầy nói về Tam-muội có giải thoát, Phật kia nói Tam- muội kia có giải thoát cũng là hủy báng pháp. Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Cho đến bám víu vào tất cả sự triển chuyển cũng gọi là hủy báng pháp. Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di v.v… đối với Pháp sư mà nói lên hành tướng như vậy, tư duy như vậy v.v… tất cả đều là hủy báng chánh pháp. Kinh kia lại nói: “Phật bảo: Thiện nam tử! Sau khi Như Lai diệt độ, đối với pháp ta đã nói phải tùy thuận theo sự ưa thích cũng như sự tin hiểu của họ mà giảng nói cho chúng sanh. Ở trong pháp hội kia, nếu có một chúng sanh hoan hỷ khiến lông trên thân dựng đứng, hoặc rơi lệ khóc, nên biết người ấy đã được chư Phật ấn chứng. Kẻ ngu si kia nói đây là Bồ-tát, đây chẳng phải là Bồ-tát, phải biết là lỗi lầm của Bồ-tát. Do vọng ngữ như vậy nên nói ba thừa pháp và đối với giáo pháp của ta nói do đâu mà ngộ hiểu! Cho đến nếu đối với Bồ-tát khởi tâm khinh miệt thì ta nói người nầy sẽ đọa vào địa ngục không có hạn lượng. Vì sao? Nếu Bồ-tát đối với Pháp sư khởi tâm hủy báng tức là xa lìa chư Phật, hủy báng chánh pháp và Tỳ-kheo Tăng. Lại nếu có người khinh chê các Pháp sư, khởi tâm không tôn trọng tức là không tôn trọng Phật Như Lai. Đối với Pháp sư không muốn nhìn thấy tức là không thích nhìn thấy Như Lai. Người đối với Pháp sư mà không khen ngợi tức là không khen ngợi Như Lai, tức là xa lìa Phật. Nếu đối với Bồ-tát mới phát tâm mà khởi ý não hại thì chắc chắn mắc nghiệp báo nặng. Phật bảo: Từ Thị! Nếu đối với sáu pháp Ba-la-mật của ta và hạnh chánh giác của Bồ-tát, người ngu si kia vọng cho rằng chỉ có Bát-nhã ba-la-mật là học xứ của Bồ-tát cần gì phải học các Ba-la-mật khác thì đó là việc sai lầm. Phật bảo: Từ Thị! Ý ông nghó sao? Thuở xưa ta làm Vua Thước Ca Thi, vì cứu thoát mạng sống con cọp con mà bố thí cả tự thân của mình là không có trí tuệ chăng? Từ Thị bạch Phật: Không phải như vậy, thưa Thế Tôn! Phật bảo: Từ Thị! Nếu người tu hạnh Bồ-đề hay sự tương ưng của sáu pháp Ba-la-mật mà phát khởi thiện tâm lại không thành tựu thiện căn chăng? Từ Thị đáp: Không phải vậy, thưa Thế Tôn! Phật bảo: Từ Thị! Ông cũng ở trong sáu mươi kiếp tập hành Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ Ba-la-mật đều được viên mãn. Lại nữa, người ngu kia nói như vậy chỉ có một chánh lý là chỗ hành “tánh không” trong đạo Bồ-đề. Người chánh lý nầy được sự thanh tịnh vốn có v.v… <詞>Phẩm 5: TẬP LY NẠN GIỚI HỌC Phần 1 Luận nói: Ở đây lược nói nạn nầy nên cần phải xa lìa. Kinh Thâm Tâm Giáo Giới nói: “Đối với loại tai nạn như vậy, nghe rồi nên sợ hãi. Người mới hành đạo Bồ-tát theo đó thọ trì, nói lên sự lợi ích mà bạch: Thế Tôn! Con nay đầu tiên đối trước Như Lai thọ trì như vậy. Thế Tôn! Nếu con từ nay đối với Bồ-tát và người được giáo hóa nói lỗi của họ hoặc thật, hoặc không thật, tức là khinh khi và lừa dối bậc Như Lai Chánh Biến Tri. Thế Tôn! Từ nay con đối với Bồ-tát kia và người được giáo hóa mà chê bai khinh miệt hoặc đối với người tại gia hay xuất gia tự do phóng túng thọ nhận năm thứ dục lạc, thấy rồi đối với người kia không sanh tâm tịnh tín và hổ thẹn, lại khởi tâm không kính trọng, không khởi tưởng Phật, thân tâm bức não, hoặc để cho người trí thọ nhận sự bố thí hạ liệt, thấy rồi hoặc không nói lời tốt đẹp, đêm ngày ba thời không quy hướng v.v… tức là khinh khi và lừa dối Như Lai Chánh Biến Tri. Thế Tôn! Từ nay con thọ trì giới cấm, hoặc làm vua nhưng đối với thân mạng, tài vật không xả bỏ và bố thí rồi khinh miệt Thanh văn, Duyên giác và các người được giáo hóa, hoặc nói mình tối thắng còn họ như tâm hành của Chiên-đà-la, tự đề cao thân mình xem nhẹ người khác, hoặc gặp sự đấu tranh mà không sợ chạy xa quá một do tuần hay một trăm do tuần tức là khinh khi và lừa dối Như Lai Chánh Biến Tri. Thế Tôn! Từ nay con gìn giữ giới đầy đủ mà không tu đa văn để phân biệt biết công đức của hạnh đầu đà và hạnh an vui tự thân thuộc các công đức khác sanh ra, che lấp việc thiện của người khác và hiển bày việc ác của người khác tức là khinh khi và dối gạt Như Lai Chánh Biến Tri. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Di Lặc: Nếu có người nam người nữ muốn làm thanh tịnh các nghiệp chướng thì nên phải như Bồ-tát mới phát tâm nầy mà thọ trì như vậy. Lại nữa, trong kinh Tùy Chuyển Chư Pháp nói: “Nếu ai đối với Bồ-tát mà đêm ngày ba thời đầu đảnh kính lễ thì người ấy đối với các hạnh đã hành, cũng chớ dòm ngó soi mói lỗi lầm dù chỉ một phần nhỏ. Giả sử nếu thường thấy người đắm trước năm dục lạc thì cũng chớ có dòm ngó soi mói lỗi lầm ấy. Người tu hành Bồ- đề khi tu vô lượng công đức lợi ích thù thắng thì mới thủ chứng. Do đó, dần dần tu đạo và thành Phật. Nếu tu hành một phần “Phược hạ” thì trải qua vô lượng trăm ngàn câu-thi-na-do-kiếp ở địa ngục lớn như mặc áo giáp đồng”. Kinh kia lại nói: “Thiện nam tử! Hành tướng như vậy tức xa lìa nghiệp tội. Trong tất cả hành của bồ-tát kia đều là hạnh bất nhị. Nên tin hiểu tất cả pháp tu mà phát tâm như vậy. Tuy nhiên, ta đối với tâm người khác hiểu rõ không có chướng nạn mà giáo hóa các chúng sanh thực hiện hạnh như thế. Lại nữa, thiện nam tử! Phải tự tại quán sát tất cả pháp của Như Lai thuyết như thế, tương ưng không có người nào xứng được lượng pháp nầy. Nếu người nào hiểu được pháp của Như Lai nói ra, tức được thấy Như Lai. Thiện nam tử! Người muốn hộ trì thân thì đối với hạnh nầy không nên nghi hoặc, như sự tạo tác của người nào đó không hoại pháp thiện của người khác. Người cầu pháp Phật nên biết phải ở trong đêm ngày lấy pháp mà tư duy để hiểu”. Như kinh Địa Tạng nói: “Bấy giờ, lại có vô lượng trăm ngàn chúng sanh thông tuệ từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính bạch Phật: Đại Đức Thế Tôn! Chúng con nay đối trước Ngài phát nguyện như vầy: Nhẫn đến lưu chuyển lâu xa trong luân hồi sanh tử chưa từng gián đoạn, chúng con cũng thường nguyện không ở địa vị vua chúa, tể quan, phụ tướng, tướng soái, ở thành ấp, xóm làng v.v… cho đến cũng không ở địa vị Thương chủ, Sư trưởng, Cư só, Sa-môn đoán sự hay thân thuộc, phú quý, tôn kính v.v… cho đến chưa từng gián đoạn. Nếu chúng con ở trong các hình tướng như vậy là kẻ có trí ngu ác thì tức đối với sự dạy bảo của Thế Tôn không có khả năng tu tập”. Luận nói: Rộng nói phải lìa xa chướng nạn như vậy. Trong kinh Minh Đăng Tam Muội nói kệ: Trẻ ngu không cung kính Nên biết không có tội Mẹ nó còn dạy: “Con sau nầy phải làm Muốn phần nhỏ nhu cầu Đối ta phải tôn trọng” Nếu vì đạo vô thượng Biếng nhác trong hóa độ Nên hỏi bậc trưởng lão Và Đại đức, Tôn giả Đầu mặt lễ sát chân Vì pháp phải tôn trọng Chớ nhìn lầm lẫn kia Chỉ quán nơi Bồ-đề Thường vui khởi tâm từ Cũng chớ sanh tổn hại Nếu thấy có lầm lẫn Cẩn thận nói lỗi kia Nếu vui nghiệp thiện ấy Cũng đạt được đạo quả Bé con trước tôn túc Mặt như trăng trong sáng Thường yêu thích lời nầy Luôn trừ phục ngã mạn Nếu ăn uống, y phục Vì đây khởi thương xót. Thí người tâm như vậy Tất cả được điều phục Nếu phát tâm Bồ-đề Hoặc không khởi tin kính Kia nên tự phòng hộ Sợ đọa vào đường ác Thấy không thấy vui nhận Tự tịnh tâm tán loạn Tâm chỉ phân biệt tánh Khéo giữ gìn sự nghiệp. Lại nữaHỏi: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lúc ấy, Bồ-tát Từ Thị quán sát công đức phát tâm Bồ-đề của Đồng tử Thiện Tài mà dùng kệ tán thán: Nếu thấy các chúng sanh Bị già, bệnh, khổ bức Và lo sợ sanh tử Phát hạnh lợi đại bi Do thấy đời bức khổ Thường lưu chuyển năm cõi Vì cầu trí lợi bền Phá khổ luân các cõi Nếu thấy người ham vui Hoạn nhiều bụi gai vướng Làm chiếc cày kiên cố Cày sạch đất chúng sanh Si hoại sáng thế gian Và tuệ nhãn chánh đạo Làm thầy dẫn bọn mù Chỉ họ nơi an ổn. Gươm trí dẹp giặc oán Giải thoát ba pháp nhẫn Làm Đạo sư thế gian Khiến xa lìa lo sợ Hoặc như pháp chủ thuyền Khiến vượt đường biển trí Làm Đạo sư ba cõi Đưa đến báu thắng nhẫn Sáng trí, xe nguyện lớn Như Phật nhật xuất hiện Chiếu khắp giới không Soi trừ tối chúng sanh Bánh xe pháp thiện đủ Như vầng trăng Phật hiện Từ định sáng trong xanh. Bình đẳng soi các cõi Lại thêm biển thắng trí Xuất hiện các pháp bảo Hạnh Bồ-đề dần cao Trụ tâm sâu, bền vững Phát tâm như vua rồng Khắp pháp giới hư không Mưa cam lồ, mây pháp Tăng các mầm quả thiện Lại như đốt đèn pháp Với chánh niệm kiên cố Từ ái sáng không nhơ Trừ sạch ba thứ độc. Lại tâm Bồ-đề nầy Thí như bào thai nhi U độc nên mẹ chết Vị Bát-la-kiện-nam Phần Bồ-đề dần sanh Khiến tạng Phật tăng trưởng. Tạng phước đức cũng vậy Được tạng trí thanh tịnh Lại khai mở tạng tuệ Tạng như nguyện xuất sanh Pháp tánh từ bi nầy Giải thoát các chúng sanh Trong thế gian, trời, người Ý tịnh khó đạt được Hiếm có cây quả trí Trồng cây chắc, thâm diệu Các hạnh dần tăng trưởng. Che khắp cả ba cõi Muốn lớn các công đức Thưa hỏi tất cả pháp Đoạn trừ tất cả nghi Cầu các thiện tri thức Muốn diệt ma phiền não Trừ sạch thấy nhiễm trần Giải thoát các chúng sanh Cầu bậc đại trí ấy Muốn trừ sạch cõi ác Hiển thị cõi trời người Mở cửa trí giải thoát An trụ đường công đức. Muốn thoát khổ các cõi Thường đoạn các phiền não Thí an ổn các cõi Gần Phật tử chân thật”. Luận nói: Người dùng ý quán sát để xa lìa chướng nạn như vậy chứ không lấy làm chướng nạn. Trong kinh Thâm Tâm Giáo Giới nói: “Phật bảo: Từ Thị! Đối với Bồ-tát kia và người được giáo hóa ấy phải thành tựu bốn pháp, thì năm trăm năm sau, khi chánh pháp diệt, không bị tổn hại và khinh miệt mà tự nhiên giải thoát. Những gì là bốn? Quán sát sự sai trái của mình Đối với bồ-tát kia và người được giáo hóa không đàm luận sở đoản của người khác. Không hóa độ các nhà tri thức mà xưa kia chẳng phải thân thuộc. Không nói lời ác. Trên đây là bốn pháp như trước đã nói. Lại có bốn loại khác nữa như sau: Xa lìa chúng sanh ít hiểu biết Không tham trước quyến thuộc Thường vui với việc nằm ngồi ở nơi thanh vắng Tự tu tập hạnh thiền định khiến cho tương ưng”. Kinh kia lại nói: “Phật bảo: Từ Thị! Bồ-tát mới phát tâm nầy đạt được tài sức và trí tuệ, xa lìa, lợi dưỡng và danh tiếng. Danh lợi kia là tội lỗi. Đối với lời nói không lợi ích, lời nói thế tục, ngủ nghỉ thế tục, sự nghiệp thế tục, hý luận thế tục phải nên xa lìa vì đó là tội lỗi. Phật bảo: Từ Thị! Nếu Bồ-tát quán sát danh dự lợi dưỡng là chỗ phát sanh tham nhiễm, phá hoại chánh niệm, thì đối với sự được mất chớ khởi niệm cao thấp. Lại nữa, Bồ-tát phải nên quán sát danh dự lợi dưỡng là nơi phát khởi ngu si ám độn tạo ra sự keo kiệt và phát sanh sự lọc lừa ích kỹ, vô tàm vô quý khiến xa lìa bốn thánh chủng. Như chư Phật đã nói. Đối với danh dự lợi dưỡng nên khéo quán sát vì nó khởi lên các thứ kiêu mạn, xem thường Tôn sư, tức là việc của ma khiến hướng đến phóng dật, phá hoại thiện căn như mưa đá và mưa lửa sét đánh. Hơn nữa, người thích danh lợi thường hóa độ các nhà tri thức, ham thích nhiều thứ đến chỗ chẳng phải bà con mà lại khởi phiền não mê mờ che lấp tuệ giác, hướng đến chỗ ái nhiễm, buồn lo gấp bội. Người thích danh dự đánh mất bốn niệm xứ, giảm thiểu pháp thiện, hoại bốn chánh đoạn. Do lợi dưỡng trước sau mà phá hoại thần thông, xa lìa người tốt, gần gũi kẻ ác và thường thích hội họp với quyến thuộc của người khác. Lại nữa, xa lìa vô lượng thiền định, đọa vào địa ngục, cảnh giới Diễm-ma-la và ở trong thai tạng súc sanh. Do vậy nên quán sát danh dự lợi dưỡng như trời làm mưa. Phật bảo: Từ Thị! Danh dự lợi dưỡng kia có các hành tướng như vậy, Bồ-tát phải nên quán sát như thật, do quán sát như thật nên không có chán sợ cũng không sanh hối não. Vì sao? Nếu người đối với hành tướng ấy không có chán sợ thì không mắc lỗi lầm mà chỉ vui trong pháp Phật không hề gián đoạn và đối với người tại gia hay xuất gia tùy theo đó gìn giữ. Nếu trời hoặc người trụ ở tâm thanh tịnh thì được pháp không kinh sợ. Giá như có đọa vào trong tất cả đường ác cũng không bị bức não, xa lìa chú thuật, giải thoát khỏi cảnh giới ma và được không lay động, được nhiều người ái mộ kính ngưỡng, người học trụ định ưa nhìn, đoạn trừ lời nói dối và được chánh trực, nhìn thấy năm thứ dục lạc nầy là tội lỗi, an trú vào dòng Thánh, như thuyết tu hành, các vị tu phạm hạnh ưa nhìn thấy. Nầy Từ Thị! Hành tướng công đức như vậy, người trí đã biết rõ tâm sâu xa của Bồ-tát trụ ở nơi ít ham muốn. Người ưa sự ít ham muốn sức là đã đoạn trừ tất cả danh dự lợi dưỡng”. Luận nói: Đối với lời vô ích nay sẽ nói. Nghóa là xa lìa các lỗi tham độc, ngu si. Người không bám vào lời nói vô ích thì thường nhất tâm quyết định hiểu rõ, nếu như tìm tòi trong các hý luận, trào phúng, những lời vô ích mà vui thích làm theo tức là lỗi lầm, không tu oai nghi và các hạnh vi tế. Nếu lời ưa thích nói vô ích thì tuy không phải là lao ngục bền vững ở đời mà đó chính là thuận theo kẻ ngu si. Nếu nghe Tỳ-kheo nói không như lý phát sanh ưa thích rồi thường tìm cầu tức liền tăng trưởng lỗi lầm như vậy. Do đó phải xả bỏ lời nói không đúng lý và thường biết pháp lạc để khi nhắm mắt xuôi tay tự xả bỏ ngàn thân cầu đạo Bồ-đề, nghe pháp không chán. Nếu có khổ nhọc thì do nghe pháp nên trong tất cả thời xứ đều xa lìa lời nói không như lý và lời nói không ưa thích, đối với pháp lạc tối thượng sanh khởi tưởng khó được nên trải qua vô lượng kiếp sống trong rừng núi mà tu hành. Nên biết đối với công đức lợi ích của người khác chớ tìm tòi sở đoản của họ. Nếu nói ta là tối thượng thù thắng thì chớ có chấp tâm nầy, vì là ngã mạn, là căn bản của sự phóng dật. Đối với Tỳ- kheo thấp kém cũng chớ khinh miệt, phải dần dần giáo hóa vì chẳng phải chỉ một đời mà chứng được Bồ-đề! Luận nói: Đối với lời nói thế tục nay ta phải trình bày rõ. Do người kia nghe lời nói ấy, vui thích say mê khởi tranh cãi nên phạm lỗi lầm không tôn trọng. Do lời nói đó đánh mất chánh niệm và không có chánh trí nên trở thành sai lầm. Do lời nói cống cao bất cần, xa lìa suy nghó khiến tâm hoặc thân không yên ổn nên trở thành tội lỗi. Do lời nói ấy nên kẻ ngu si tự tâm sanh thô tháo, tư duy xằng bậy vào chánh pháp xa lìa chỉ, quán, đó là lỗi lầm. Do lời nói ấy mà đối với các công đức tài lợi, thường khởi yêu thích, phạm lỗi lầm không tôn trọng, không trụ tâm vững chắc, trí tuệ hẹp hòi, kém cỏi, đó là lỗi lầm. Do lời nói ấy nên diệt mất sở tri khiến chư Thiên không sanh vui thích kính trọng, đó là lỗi lầm. Do lời nói ấy nên đối với bậc trí kia và các thân mệnh khác như quyến thuộc v.v… hiện tại không có chút nghóa lợi, đó là lỗi lầm. Do lời nói ấy nên các người ngu kia khi mạng chung lo sầu: “Ta đã tạo tác những gì mà nhận chịu sự khổ não như thế?”, mà giảm mất sở tri không hiểu rõ đó là tội lỗi. Do lời nói ấy mà như động cỏ, nghi cây, không khuôn khổ thì nhất định không sanh khởi thật trí, đó là lỗi lầm. Do lời nói ấy như người ca kỹ ở trong hý trường, riêng nói công cán, tự cho mình là được nên đánh mất sở tri, đó là lỗi lầm. Do lời nói xa lìa “thất thánh tài”, sanh dối trá khinh khi sở đắc của người khác, đó là lỗi lầm. Do lời nói kia mà tư duy nghiên cứu về công việc ưa thích nhưng sanh khiếp nhược và không tự biết sự việc vốn vô thể, đó là lỗi lầm. Cho đến nói không như thật rằng ta vui pháp tối thượng. Nghóa câu nói nầy tư duy trong thời gian lâu xa cũng chưa hiểu được, làm sao nói Ta vui được nghóa của vô lượng câu. Thí như trong vỏ cứng của cây mía có chút vị ngọt. Người ăn vỏ rồi lại không thể cảm nhận được vị ngon ngọt của cây mía. Do vậy, nói rộng thì giống như vỏ của cây mía, chỉ vui với thần biến tư duy lựa chọn nghóa lý, như vị ngọt cây mía bình thường không có làm cho say. Luận nói: Nói về sự đắm trước việc ngủ nghỉ thì như kệ trong kinh kia nói: Nếu ưa thích ngủ nghỉ Tạo ra nhiều loại thấy Kia hay thấy hay nghi Lưới si luôn tăng trưởng Nếu người thích ngủ nghỉ Trí tuệ đều khiếp nhược Mà ở trong hiểu biết Lúc nào cũng giảm mất. Nếu người thích ngủ nghỉ Biếng trễ không trí tuệ Nếu ở trong rừng sâu Cho đến: Cũng chẳng được tiện lợi. Nếu người thích ngủ nghỉ Tức thích dục phi pháp Tâm thiện thường không tăng Do đâu được pháp lạc Nếu người thích ngủ nghỉ Ngu che muốn pháp thiện Hoại công đức pháp thiện Vào khắp các hắc ám. Nếu người thích ngủ nghỉ Đắm trước, không biện tài Thường sanh tâm phóng dật Thân mệt mỏi, triền miên Nếu người ham ngủ nghỉ Ta biết thường biếng nhác Ghét người siêng năng kia Chê người đủ tinh tấn Nếu trừ các khổ ám Tức lìa xa gốc tội Thường gần với chuyên cần Được chư Phật khen ngợi. nói: Luận nói: Sự nghiệp của thế tục nay phải trình bày rõ. Như kệ Thầy dạy nói lời ác Chấp chẳng phải giáo giới Liền hủy phạm giới luật Thích việc sai lầm nầy Thường nghó việc thế tục Luôn vội vàng thực hiện Không tu các thiền định Thích việc lỗi lầm ấy Do tham sống rộng lớn Trói buộc vị trong vị Hạ liệt chẳng biết đủ Thích việc lỗi lầm ấy Đối chúng vui vẻ lớn Gọi diệt các khổ não Cho đến: Như lừa qua đường hiểm Thích việc lỗi lầm ấy. Tâm ấy trong đêm ngày Không vui các công đức Chỉ chuốc lợi ăn mặc. Thích sự lỗi lầm nầy Không ưa lời tương ưng Chỉ thuận không tương ưng Việc làm của thế gian Thích sự lỗi lầm ấy Nói toát yếu như vậy. Bấy giờ, Bồ-tát Từ Thị bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Bồ-tát thiếu trí tuệ, do xả bỏ pháp tối thượng nên giảm mất tuệ tối thắng mà làm việc thấp kém. Phật bảo: Từ Thị! Đúng thế! Đúng thế! Như lời ông nói, Bồ-tát được ít trí tuệ là do xả bỏ pháp vô thượng mà làm việc thấp kém. Phật bảo: Từ Thị! Bồ-tát kia ở trong giáo pháp của Như Lai đã xuất gia nhưng không có thiền định, chánh đoạn và chánh cần, không có đa văn và không nhớ nghó nguyện vọng. Phật bảo: Từ Thị! Bồ-tát quán sát thiền định chánh đoạn biết được lời dạy của Như Lai và biết có tướng Tam-ma-địa tương ưng như thế chớ chẳng phải sự nghiệp lao nhọc của hàng Cư só. Nếu quán sát sự việc ấy không đúng đạo lý thì nên biết Bồ-tát kia phát khởi tâm vui thích sanh tử luân hồi. Đó gọi là công việc tạo tác của thế tục xa lìa pháp tài. Phật bảo: Từ Thị! Đối với việc làm kia, Bồ-tát giả sử có tu sửa tháp bảy báu mãn ba ngàn đại thiên thế giới, Ta đối với người ấy cũng không sanh tâm cung kính, tôn trọng và tán thán. Cho đến khắp cõi Diêm-phù-đề tất cả đều là việc làm Bồ- tát cũng không bằng người dù chỉ một lần đọc tụng kinh điển rồi theo thuyết mà tu hành hạnh phát khởi thừa sự của Bồ-tát. Lại nữa, nếu khắp cõi Diêm-phù-đề, Bồ-tát một lần đọc tụng như thuyết tu hành thì không bằng hành thừa sự mà Bồ-tát ở chỗ an lạc làm. Vì sao? Vì đây là việc khó làm, đó gọi là sự nghiệp trí tuệ, đối với ba đời thì thật là tối thắng, tối thượng và cao cả không ai vượt qua được. Phật bảo: Từ Thị! Do đó, Bồ-tát muốn có được nghóa chuyên cần tinh tấn tương ưng thì phải tu tập trí tuệ thù thắng. Luận nói: Việc hý luận của thế tục, nay phải nói rõ. Người hành hý luận nầy thường phạm sai lầm và mắc chướng nạn như vậy. Nghóa là không thể xa lìa tám thứ nạn kia cũng không thể trong một sát na mà có đầy đủ sự thù thắng để trở thành bậc trí hiểu rõ đúng như thật nhằm xa lìa các sự hý luận. Sự hý luận nầy nhanh chóng trở thành chướng nạn, không nên cộng trú. Thà tội nuôi dưỡng súc sanh, thọ nhận thê thiếp hơn trăm do tuần chứ với sự hý luận của người khác trong một khoảnh khắc không được gần gũi, cũng không cộng trú với dục lợi của công đức xuất gia. Người hay cầu tài lợi tức là tâm ác khởi lên đấu tranh. Nên biết, chớ có làm ruộng kinh doanh, buôn bán. Nếu cầu tài lợi thì trở thành hý luận. Chớ có sở hữu nam nữ, thê thiếp, bạn bè thân thuộc, nô bộc theo kẻ giàu sang mà khởi lên các sự tranh cãi. Đã xuất gia rồi, mặc áo ca-sa thì phải tin thuận sự tịch tónh cho đến tịch tónh cực độ. Lại nữa, phải quán sát gần gũi sự vắng lặng tuyệt đối để xa lìa hý luận nên khởi tâm nhẫn nhục như vậy. Người không xa lìa hý luận thì giống như rắn độc luôn chất chứa tâm xấu ác, về sau đọa vào cảnh giới địa ngục, súc sanh và Diễm-ma-la. Do vậy, chúng ta phải tinh tấn khởi nhẫn như vậy. Người chứng được thừa nầy thì đối với các nghiệp chướng được trừ sạch hoàn toàn và phá tan lực của ma oán. Do đó các bậc trí luôn khởi nhẫn như vậy. Luận nói: Lược nói phải xa lìa chướng nạn như vậy. Phật bảo: Từ Thị! Đối với Bồ-tát thừa, nếu người nam người nữ nào sau năm trăm năm khi chánh pháp diệt, muốn xa lìa chướng nạn để được an vui, giải thoát khỏi nghiệp chướng, diệt trừ hết tội dục thì nên biết chớ có tụ tập nơi thanh vắng, đồng vắng hay trong rừng mà tu hành. Ngược lại đối với chúng sanh hoặc xa lìa, hoặc chỉ xét lỗi bản thân, chẳng cần tìm tòi lỗi của người khác, phải điềm nhiên tin ưa với việc thực hiện trí tuệ Ba-la- mật. Kinh Bảo Vân cũng nói như vầy: “Khi đi khất thực, nếu gặp những sự việc ở các chỗ xấu ác như nhà có nuôi chó dữ, nhà có trâu nghé mới sanh ra cũng phải lánh xa vì sợ khởi tâm phạm tánh thể giới. Đối với súc sanh kia còn phải xa lánh huống hồ là người nam, nữ, đồng nam, Đồng nữ. Tất cả thời xứ ấy đều phải xa lìa”. Luận nói: Nếu người thấy các thứ xấu ác như vậy mà cẩn thận không qua lại dòm ngó thì được xa lìa tội kia. Lại nữa, nói lìa các nạn như vậy v.v… tại sao được quả xa lìa tự lợi mà thành tựu lợi tha? Nên biết phải xa lìa quả bất lợi. Như kinh Nguyệt Đăng nói: “Đó là giới thân. Nghóa là hộ trì tay chân khiến nó không hoạt động hư vọng”. Kinh Thập Pháp nói: “Tay chân động loạn qua lại nhảy nhót thì gọi là nghiệp thân thô nặng”. Luận nói: Bồ-tát thực hiện công hạnh tự lợi và lợi tha tự tại thấu hiểu mà không phân biệt nghiệp khác. Kinh Pháp Tập nói: “Bạch Thế Tôn! Nghiệp thân, khẩu, ý của Bồ-tát đều vì lợi ích của chúng sanh mà khởi tâm đại bi tăng thượng an ủi, khiến thân ý chúng sanh trở nên hân hoan trong tónh lặng. Tâm sâu xa như vậy, suy nghó như vậy của Bồ- tát tùy thuộc tu tập hạnh nào mà thường hành bình đẳng khiến cho các chúng sanh được yên vui an ổn? Nghóa là Bồ-tát quán biết rõ mười hai xứ như hư không, xóm làng và đối với tất cả xứ các ngài đều an vui xả bỏ không bị vướng mắc”.  <卷>QUYỂN 8 <詞>Phẩm 5: TẬP LY NẠN GIỚI HỌC Phần 2 Lại nữa, Kinh Hư Không Tạng nói: “Thí như trên tường có lỗ trống thì âm thanh sẽ lọt vào trong đó. Bồ-tát cũng như vậy, nếu tâm có vọng niệm tức ma liền xâm nhập vào. Do vậy, Bồ-tát thường khiến tâm mình không có vọng niệm. Nếu tâm không có lổ trống vọng niệm tức các tướng đều được viên mãn và đạt được tánh không tròn đầy”. Luận nói: Hơn nữa, người có các tướng tròn đầy tức là thực hiện hạnh Bồ-đề, không hề bỏ tu tập quán chiếu tánh không. Như Kinh Bảo Kế nói: “Lại như Kinh Vô Tận Ý nói: Người muốn khởi tâm đoạn trừ pháp ác bất thiện, mà lại có tâm tán loạn khác nổi dậy thì phải dùng thiền định làm pháp đối trị. Phải biết đây là thiền định để diệt trừ các pháp ác và bất thiện”. <詞>Phẩm 6: HỘ THÂN Phần 1 Luận nói: Nói người xa lìa quả lợi hư vô là do chỗ nào mà thành tựu? Nếu thường thành tựu chánh niệm nầy tức là được xa lìa quả lợi hư vô, không trái với giáo pháp của Như Lai, giữ gìn quả báo tôn trọng chánh niệm, ở trong tự tánh bất động đối với tất cả thân, an trụ vào chánh niệm để làm lợi ích cho chúng sanh, tùy nơi tương ưng mà thực hiện chánh niệm kiên cố, gặp các bậc trí và vui thích việc làm của họ. Chánh niệm bất động thì không ngại thời gian, đích thân hệ thuộc lễ bái, hạn chế ở thân để giải thoát chánh niệm. Đối với bốn oai nghi thường được chánh niệm quán chiếu soi xét. Nên ở trong oai nghi thường bình đẳng chánh trực và giữ gìn đầy đủ lực của chánh niệm, không có tán loạn. Khi khởi lời nói vui cười thì luôn cảnh giác và phòng hộ tay chân, dung mạo luôn đoan chánh hòa nhã đúng lượng và an trú trong chánh niệm bền vững. Nếu nghe người nói thì biết âm thanh kia không có cao thấp mà chỉ toàn là lời nói của chánh niệm. Người học cùng thực hành chánh niệm chớ hành điều khác khiến người khác kinh sợ mà sanh lỗi lầm. Nếu tự tâm vui kính thì khiến người khác trở nên tịnh tín. Và giữ gìn tâm chánh niệm thì giống như voi say, lấy thiền định để chế ngự nó. Đó là chánh niệm. Nếu trụ vào sự quán sát để chiếu rõ tâm mình thì đó là chánh niệm. Đối với sự phú quý giàu sang mà biết cách xả bỏ rồi như lời dạy nhớ nghó giữ gìn trạng thái nhất tâm thì đó là chánh niệm. Người thành tựu chánh niệm như vậy gọi là xa lìa quả lợi hư vô. Lại nữa, nếu trụ trong chánh niệm nầy thì được sự tôn trọng tột đỉnh. Đối với sự tôn trọng kia phải quán sát tất cả sự khinh hủy trước mắt nhằm đối trị sự tự cao khởi lên trong tâm. Khi đã biết rõ tức là hình thành nên sự bình đẳng rộng lớn. Sao gọi là bình đẳng? Trong Kinh Vô Tận Ý nói: “Đó là thiền chỉ. Sao gọi là thiền chỉ vô tận? Nếu tâm không loạn động thì gọi là tịch tónh. Tức giữ gìn căn tánh khiến không cao ngạo, không lay động, mà tuyệt khéo cẩn mật, không sanh, không tạo tác mà chỉ một tánh cảnh, một mình ở nơi thanh vắng mà xa lìa sự ồn náo, thân vui an lạc và tâm không loạn động, ý vui chốn không tịch và không cầu việc ác”. Cho đến gìn giữ oai nghi, biết thời, biết lượng và biết dừng lại khiến dễ nuôi dưỡng và dễ viên mãn v.v… Luận nói: Thế nào đối với sự tôn trọng bình đẳng mà không thể sanh tà kiến về như thật? Nghóa là pháp mà Đức Mâu-ni quá khứ đã thuyết, nếu đối với Tam-ma-hý-đa, nên biết như thật. Như Kinh Pháp Tập nói: “Đối với các đẳng dẫn ở tâm được như thật thấy, đã như thật thấy, tức tâm đại bi của Bồ-tát chuyển ở chúng sanh. Ta đã được môn Tam-ma-địa như thế, đối với tất cả pháp đều như thật thấy, sẽ được thành tựu cho tất cả chúng sanh, dùng tâm đại bi huân Tu giới định tuệ tăng thượng viên mãn, chứng đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, do đó đối với tịnh giới ta khéo an trú bất động, không hề mỏi mệt”. Luận nói: Thiền chỉ nầy đối với mình và người đều bình đẳng tôn quý, siêu vượt vô lượng tội khổ,đạt được vô lượng sự giàu sang và an vui của thế gian và xuất thế gian: ta phải siêng năng tu tập đi đến trong nhà lửa mà mong được nước lạnh mát trong sạch, và được tôn trọng tột bực. Các để tử tu học thường phải trụ hành tướng chánh niệm như vậy. Người gần gũi chánh niệm tức là được xa lìa quả lợi hư vô. Nếu xa lìa quả lợi hư vô tức nạn kia không sanh. Do đó, muốn hộ trì thân thì phải thôi thúc nhớ nghó và thường gần gũi chánh niệm. Kinh Tối Thượng Sở Vấn nói: “Bồ-tát tại gia đối với lúa gạo, mía v.v… rượu và nơi phóng dật không nên tham trước. Tức là không say sưa hôn mê cũng không tham đắm, không loạn động cũng không diệt mất, không cuồng loạn cao ngạo và không chửi bới với lời xấu ác v.v…. Do thân cận trụ ở chánh niệm nên chánh tri”. Lại nữa, kinh kia lại nói: “Bồ-tát xuất gia phải giữ chánh niệm chánh tri để không tán loạn”. Kinh Bảo Kế nói: “Nếu người trụ vào chánh niệm thì tất cả phiền não không sanh khởi. Nếu người trụ chánh niệm thì tất cả ma sự không có cơ hội. Nếu người trụ chánh niệm thì không bị đọa lạc vào đường ác, đường tà. Nếu người trụ chánh niệm thì như dùng khóa đóng chặt cửa lại khiến cho các tâm sở bất thiện không thể xâm nhập vào. Lời nói nầy chính là chánh niệm và chánh tri”. Kinh Bát Nhã Ba-la-mật-Đa nói: “Khi đi biết mình đi, đứng biết mình đứng, ngồi biết mình ngồi, nằm biết mình nằm v.v… biết rõ mọi hoạt động của thân mình như vậy thì gọi là chánh tri. Cho đến đạt được việc không trái ngược vượt khỏi hạnh chánh tri. Nghóa là có thể quán chiếu, không quán chiếu, đắp y, mang bát hoặc uống, hoặc ăn, hoặc ngủ, hoặc thức cùng sự mỏi mệt, lấy, bỏ, co duỗi, đi, lại, đứng, ngồi hoặc nói, im lặng v.v… mỗi mỗi hành động đều trụ vào chỗ an ổn biết rõ như thật”. Luận nói: Giới và định thành tựu cho nhau. Như kinh Nguyệt Đăng Tam muội nói: “Nghóa là công năng của giới nầy vốn thanh tịnh không cấu nhiễm, nhanh chóng đạt được pháp đẳng trì. Nhờ vào định hướng đến nhập vào thì giới tương ưng cũng hướng đến. Nhờ giới chánh niệm chánh tri nên đạt được định. Nhờ vào định nhất tâm nên đạt được giới thanh tịnh. Do vậy, định và giới thường thành tựu cho nhau”. Kinh kia nói: “Trong công năng của thiền định được trụ vô hành cũng chẳng phải vô hành. Do hành tương ưng nên xa lìa cảnh giới vì không có cảnh giới mà không khởi tập nhiễm. Nhờ vậy mà thành tựu sự bí mật hộ trì căn môn”. Luận nói: Điều nầy nhờ vào sự tu tập thành tựu của tâm nên giới và định hai thứ hỗ tương nhau mà tăng trưởng. Vì thế người học hạnh Bồ-tát nầy thường làm lợi ích cho các chúng sanh, nghóa là lấy sự thành tựu của tâm làm căn bản. Kinh Bảo Vân nói: “Đã biết rõ tất cả pháp đều nương vào tâm thì tâm là dẫn đường đi trước nên duyên khắp các pháp. Lại nữa, các tâm quyết định ở thế gian dùng tâm sở duyên mà không thấy, tâm sở ấy tức là khiến cho nghiệp trở nên thanh tịnh. Nếu đã thanh tịnh tức tâm không còn lưu chuyển. Tâm không lưu chuyển tức là tâm như ngọn lửa rực cháy hoặc như dòng nước chảy xiết. Như vậy, có thể quán sát tướng của tâm biến khắp nơi để được trụ vào chánh niệm. Nếu tâm không còn vướng mắc khắp chốn tức tâm được tự tại. Do tự tại nên ở trong tất cả pháp mà được tự tại”. Lại nữa, Kinh Pháp Tập nói: “Nếu có pháp thì pháp ấy không có xứ sở cũng không có phương phần, chính là tự tâm, là chỗ tôn trọng pháp, gọi là pháp. Do vậy, ta đối với tự tâm thì khiêm nhường và cung kính, để kiến lập sự thù thắng vi diệu tuyệt đối. Nên biết phát khởi tự tâm để khéo nhiếp thọ. Vì sao? Vì ở trong tâm hoặc có công đức lỗi lầm hoặc không có công đức lỗi lầm. Bồ-tát kia chính là có hai thứ tâm nầy. Do chỉ cầu thành tựu công đức mà không tạo ra lỗi lầm nên nói tâm như vậy chính là pháp đã tôn kính. Pháp đã tôn kính ấy tức là Bồ-đề. Bạch Thế Tôn! Con đối với pháp nầy khai diễn ra, thành tựu Chánh giác an ổn như vậy”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Đối với tự tâm kiến lập tất cả hạnh của Bồ-tát và kiến lập sự độ thoát tất cả chúng sanh. Nầy thiện nam tử! Ta đối với tự tâm đã trụ như vậy nên biết tự tâm đầy đủ tất cả thiện căn, thuận theo tự tâm mà làm thanh tịnh, địa Pháp Vân ở trong tự tâm kiên cố không có pháp chướng ngại”. Lại như, Thiện Tài chuyên cần tu tinh tấn muốn gặp Ma-da phu nhân nên đến gặp vị thần giữ cổng tên Bảo Nhãn chỉ dạy lợi ích mà nói: “Thiện nam tử! Ông nên giữ gìn cái thành của tâm, nghóa là xua đuổi, rời xa tất cả cảnh giới luân hồi sanh tử. Nên phải trang nghiêm cái thành của tâm, tức là chuyên hướng về mong cầu đạt được mười lực của Như Lai. Phải nên làm thanh tịnh cái thành của tâm, nghóa là phải rốt ráo đoạn trừ tật đố, keo kiệt và luống dối. Nên tăng trưởng cái thành của tâm, nghóa là phải làm tăng trưởng đại hạnh tinh tấn nhằm cầu đạt Nhất thiết trí. Nên phòng hộ cái thành của tâm nghóa là đập tan vòng xoay của ma, chế ngự diệt trừ các ma phiền não và ác tri thức. Nên mở rộng thành của tâm, nghóa là lấy đại từ phổ cập khắp thế gian. Nên che đậy cái thành của tâm, nghóa là dùng pháp rộng lớn che chở, đối trị các pháp bất thiện. Nên bí mật giữ gìn cái thành của tâm, nghóa là ngăn ngừa cái sở hữu trong ngoài của thế gian khiến không cho chúng xâm nhập vào. Nên trang hoàng cái thành của tâm nghóa là phải xua đuổi các pháp bất thiện. Nầy thiện nam tử! Do Bồ-tát được cái thành trì tâm tu tập thanh tịnh như vậy nên có khả năng tích chứa tất cả thiện căn. Vì sao? Vì Bồ-tát có tâm tu thanh tịnh nên không có các chướng ngại. Nghóa là trước mắt không bám trụ vào hoặc duyên thấy Phật hay duyên nghe pháp v.v…”. Luận nói: Do vậy, người học trụ ở Bồ-tát nầy, đối với tâm sở hành đạt được tâm tư duy bất động v.v…. Người đối với ngoại cảnh không lay động và không khởi vọng niệm bất chánh, nghóa là với tâm loạn động kia hoặc đối với cảnh giới khác mà có duyên bám víu thì được thiền định đối trị. Nếu được chánh niệm chánh tri tức đối với ngoại cảnh không hề biến chuyển tâm. Sự tự tại nầy không có duyên nào bám víu. Nhẫn đến Bồ-tát an trú tâm như trước đã nói: Công dụng rộng lớn, khiến cho chúng sanh đạt được lợi ích, giải thoát và tu tập pháp tịch tónh như vậy. Làm sao đạt được tất cả xứ? Do hy vọng từ từ thấm nhuần chứ không cần phải vội vàng cấp bách. Nên Bồ-tát an trú trong hành phước nầy mà không xả bỏ chúng sanh. Chỗ gọi không xả bỏ chúng sanh tức chính là sự tu hành của Bồ-tát. Như kinh Pháp Tập nói: “Bồ-tát Hỷ Kiến bạch Phật: Thế Tôn! Bồ-tát vì có hạnh như vậy nên khi chúng sanh thấy đó liền sanh khởi ý vui vẻ, ưa thích. Tại sao? Thế Tôn! Vì Bồ-tát nầy ngoài việc không có gì tạo tác ra, chỉ là một việc hóa độ tất cả chúng sanh. Thế Tôn! Do vậy gọi là pháp tập của Bồ-tát”. Luận nói: Như vậy lại tạo ra lỗi lầm gì chăng? Vì khinh hủy chư Phật và thế gian nên đọa vào trong địa ngục bị lò lửa thiêu đốt che lấp mầm mống thiện và lửa dữ nung nấu. Do vậy phải cẩn thận chớ có khinh khi hủy hoại. Người tạo ra nghiệp báo nầy như trước đã nói. Kinh Bảo Vân nói: “Khinh hủy giới cấm, không sanh khởi nhất tâm tịnh tín thì xả bỏ các chúng sanh v.v…”. Hơn nữa kinh kia lại nói: “Sao gọi là học xứ của Bồ-tát? Vì các Bồ-tát không hành phi xứ, lời nói đúng đắn biết thời và biết phương hướng. Nếu không như vậy thì không thể khiến chúng sanh phát khởi tịnh tín huống hồ hộ trì các chúng sanh và giữ gìn đạo hạnh oai nghi của bản thân mình để cầu đạt được sự lợi ích, đầy đủ hỷ lạc và điều hòa nhu nhuyến của Bồ-tát ở trong đời nầy đồng thời không có nhiều sự vướng mắc”. Kinh Pháp Tập nói: “Nếu hộ trì giới cấm tức là hộ trì các chúng sanh, phải sợ hãi các phương kia. Nghóa là đối với người nữ thì không nên cùng ở chung nơi kín đáo, người hộ trì thế gian chớ có dung túng cho việc làm đó. Nếu nước hay đất dùng cho việc đại, tiểu tiện, đàm dãi khạc nhổ bất tịnh mà lén đem đổ nơi vắng vẻ. Người có tâm làm lợi ích, hộ trì trời người chớ có dung túng cho việc làm đó”. Vả lại, Kinh Chánh Pháp Niệm xứ nói: “Bồ-tát còn không dùng thức ăn thừa thải cho người. Nếu cố ý phung phí thừa thải thì sẽ đọa vào ngạ quỷ”. Kinh Bồ-tát Biệt Giải Thoát nói: “Phải hướng về sự thanh tịnh không nên vứt bỏ ngay cả cây tăm xỉa răng trước mặt, cũng chớ khạc nhổ đàm dãi trước mắt người khác. Vì như vậy đối với người tôn trọng lễ nghi và hổ thẹn, thấy việc như trên đều trái với phạm hạnh”. Kinh Tất Cánh nói: “Người tu phạm hạnh thấy điều ấy rồi thì luôn tâm niệm sợ mắc phải tội nặng kia”. Lại như kinh ấy nói Bồ-tát không nên lớn tiếng vì cũng là trái với oai nghi phép tắc. Như kinh Phạm thiên Sở Vấn nói: “Nên biết Bồ-tát thí như người vợ mới”. Lại nữa, trong kinh Bồ- Tát Biệt Giải Thoát nói: “Phải xa lìa người thế gian, không nên cùng họ vui làm mọi chuyện. Nghóa là cho đến không ngậm đầy miệng thức ăn uống nhai nuốt kêu thành tiếng, cũng không nên ngồi duỗi chân ra và để lộ cánh tay trên”. Luận nói: Như vậy tự mình phải xa lìa mọi chuyện ấy. Người đã thấy nghe rồi không nên vui giữ gìn. Lại như thế xả bỏ lời nói không vui, cũng không cật vấn, mà suy nghó theo sự hiểu biết đối với nghóa có thể thấy. Kinh Hải Ý nói: “Không nên nói lời yếu kém, không nói lời thô bạo, không nói lời nói nóng giận, phải nói lời chân thật, không nói lời khinh miệt thuận theo tham, không nói lời thấp hèn, không nói lời che giấu, không nói lời họa hại nóng nảy, không nói lời loạn động, không nói lời hý luận, không đối diện nói lời tranh cãi”. Trong kinh Như Lai Bí Mật nói: “Lại nữa, thiện nam tử! Bồ-tát không nói lời yêu đắm, không nói lời bạo ác, không nói lời si loạn, không nói lời ô nhiễm, không nói lời hứa hẹn thiếu sót, không nói lời tự cao, không nói gây ly tán người khác, không nói lời tự tán thán công năng của bản thân, không nói lời phá hoại công năng của người khác, không nói lời không cứu độ, không nói lời tăng thượng mạn”. Kinh Thập Địa cũng nói như vậy. Nếu phát ra lời nói làm vui quyến thuộc của mình và phá quyến thuộc của người khác thì phải đoạn trừ ngay. Bồ-tát nên phát ra lời nói nhu nhuyến hòa thuận với ý vui vẻ, lời nói tốt đẹp dễ thương khiến người khác thích nghe, tâm hành phải phân minh không có sai lệch, khiến người nghe thông đạt, có chỗ nương tựa và được nhiều người yêu mến hoan hỷ, bình đẳng khen ngợi làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh. Đối với quyến thuộc của mình và người ý thường vui vẻ cởi mở diệt trừ ba độc tham, sân, si và tất cả phiền não. Bồ-tát nên đối với các hành tướng như vậy mà phát khởi lời nói. Cho đến khi đối diện trước hết phải khởi sự vui cười hòa thuận nhằm trừ diệt tổn hại”. Kinh Hư Không Tạng nói: “Vì lời nói của bậc tôn trưởng nên nghó suy tường tận, vì người khác nói nên lìa sự che giấu, phải ghi nhận tất cả lời nói như vậy”. Kinh Pháp Tập nói: “Phật bảo Bồ-tát Hư Không Tạng: Bồ-tát không nên phát khởi lời nói khiến người khác khởi sân não, không nên nói lời khiến người khác không có trí tuệ, không nên nói lời khiến người khác không có lợi ích, không nên nói lời khiến người khác phát khởi vô minh, không nên nói lời khiến chúng sanh phát khác khởi tâm không hoan hỷ, nghe chướng tai. Bồ-tát không nên tạo ra những lời nói như vậy”. Kinh Hải Ý nói: “Lược nói, Bồ-tát đối với người khác không sanh tâm vui vẻ hộ trì thì bảo: Lại có một pháp nhiếp thọ Đại thừa, nghóa là tự lầm lẫn thì thường tự quán sát. Đối với các chúng sanh tùy chỗ mà giữ gìn”. Luận nói: Sự hộ trì thân nầy tức là không gây não hại đối với người khác và như vậy người khác cũng không gây não hại mình. Đối với luận nầy tức là tích tập rộng lớn lợi ích của Bồ-tát nên biết phải giữ gìn ý như vậy. Nghóa là an tónh, bất động, tôn trọng, tàm quý và lo ngại đối với sự tịch tónh của người khác, nhất tâm gần gũi và đối với chúng sanh thường tự tại, tịnh tín mọi sự v.v… hoặc biến hoặc hóa thì cũng giữ ý như vậy. Sự hộ trì thân kia sao không có thuốc thang, y phục và hai loại thuốc? Nghóa là thuốc thường thọ dụng và thuốc thang để trị bệnh. Thuốc thường thọ dụng nghóa là như kinh Bảo Vân nói: “ Người đi khất thực nên phân thức ăn có được thành bốn phần. Một phần cho người đồng phạm hạnh. Một phần bố thí cho người cực khổ. Một phần bố thí cho ngạ quỷ và súc sanh. Phần còn lại dành cho mình. Tuy nhiên đối với việc ăn uống chớ có đam mê tham đắm. Cũng không cầu có được nhiều, chỉ cần đủ để nuôi dưỡng sắc lực của bản thân mà thôi. Việc ăn uống ấy cốt để thân không trở nên mỏi mệt không làm thân nặng nề. Vì sao? Vì người kia mỏi mệt thì đối với sự an lạc của phần pháp thiện nầy về sau mới được. Hoặc làm cho thân nặng nề, nhiều ngủ nghỉ. Nên biết người hành khất thực trước mắt thu hoạch được những phần thiện như thế”. Kinh Bảo Tích nói: “Nếu Tỳ-kheo đi khất thực vào trong thành ấp, xóm làng nên phải lấy pháp trang nghiêm mà khất thực. Vì sao? Vì nếu thấy sắc đáng yêu hoặc không đáng yêu, không nên khởi ý thuận hoặc nghịch. Như vậy đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp, đáng yêu hoặc không, khi biết thấy rồi chớ nên khởi ý thuận hay nghịch, phải nhiếp hộ các căn, khiến không bị tán loạn. Trước hết phải quan sát, tìm tòi kỹ lưỡng luôn không bỏ tác ý tư duy theo pháp, không vì thức ăn che lấp tâm mà hành khất thực. Nếu được thức ăn thì không sanh đắm trước. Nếu không được thức ăn thì cũng không khởi tâm sân hận. Nếu đi đến mười nhà, hay hơn mười nhà mà không được thức ăn cũng không khởi tâm buồn rầu”. Ngược lại phải phát tâm như vầy: “Các Trưởng giả và Bà-la-môn nầy do có nhiều việc phải làm nên không rảnh để bố thí thức ăn cho ta. Cho đến có lẽ họ chưa thọ dụng nó huống hồ bố thí cho ta. Như vậy, người đi khất thực chớ sanh tâm ưu não. Lại nữa, khi đi khất thực nếu thấy các chúng sanh hoặc nam hoặc nữ, đồng nam, Đồng nữ cho đến súc sanh thì phải khởi tâm từ bi thương xót. Nếu các chúng sanh thấy việc làm của ta và bố thí thức ăn cho ta thì đều được sanh lên cõi trời. Nếu được thức ăn hoặc ngon hoặc dở cũng phải thọ nhận và quán sát khắp bốn phương sau khi nhận lấy: Trong thành ấp nầy có nhiều người bần cùng, ta nên lấy thức ăn nầy phân chia cho họ. Nếu thấy có người nghèo khổ thì nên đem thức ăn mình có được tùy lượng mà phân chia. Nếu không thấy có người bần cùng ấy thì cũng phát tâm như vậy. Đem chỗ thấu suốt cảnh giới của ta mà quán sát các chúng sanh nên lấy thức ăn ngon có được nầy nguyện xin thí cho tất cả. Sau đó, cầm lấy thức ăn đi đến chỗ thanh vắng, rửa sạch tay chân theo hạnh Sa-môn đầy đủ nghi thức rồi an nhiên tónh toạ trong tư thế kiết già để ăn uống”. Cho đến muốn ăn phải khởi tác ý như vầy: “Trong thân nầy có tám vạn côn trùng cùng được ăn và đều được an ổn. Ta nay lấy thức ăn để nhiếp thọ các côn trùng. Nếu ta chứng được Bồ-đề thì sẽ dùng giáo pháp hóa độ chúng”. Nếu không có đủ thức ăn thì phát tâm như vầy: “Nếu ăn ít thì khiến thân ta nhẹ nhàng được tiện lợi và đoạn trừ các xấu ác để thân tâm trở nên khinh an, đồng thời ít buồn ngủ”. Nếu khất thực được nhiều thức ăn thì ăn đúng mức độ của mình rồi thực hành pháp xả thí. Đối với thức ăn khất thực được nên phát tâm nầy: “Chim thú đang cần thức ăn, ta phải bố thí cho chúng”. Lại nữa, Tỳ-kheo đi khất thực đối với các mùi vị không nên sanh tưởng ngon lành. Cho đến như đứa trẻ Chiên-đà-la, phải nên làm thân tâm thanh tịnh chứ không phải làm tịnh thức ăn. Vì sao vậy? Vì thức ăn dù ngon cách mấy mà ăn rồi thì tất cả đều trở thành dơ bẩn bất tịnh. Do đó, ta nay không nên cầu có được thức ăn ngon. Cho đến không khởi tâm nầy: “Thức ăn nầy do người nam bố thí chứ chẳng phải người nữ. Thức ăn nầy do người nữ bố thí chứ chẳng phải người nam”. Đối với đồng nam Đồng nữ cũng vậy. Lại nói: “Đây là thức ăn ngon chẳng phải thức ăn thô dở”. Nếu đi vào trong làng xóm mà được sự cung kính cúng dường thì biết đó là nhà giàu có mới có nhiều thức ăn ngon như thế. Nếu đồng nam, Đồng nữ cúng dường các thức ăn ngon thì đó chẳng phải là thức ăn của nhà bần tiện. Như vậy chớ khởi tất cả sự tác ý bất thiện. cho đến nếu có chúng sanh chấp vào vị thức ăn mà tạo ra ác nghiệp thì đọa vào địa ngục. Ngược lại, nếu có người sống biết đủ không tham trước thức ăn ngon xả bỏ tế mà nhận thô thì thiệt căn vẫn vui vẻ đầy đủ. Nếu người biết điều tiết trong việc ăn uống thì sau khi chết được sanh lên cõi trời và trong loài người hoặc cõi thiện khác, ăn uống thức ăn ngon ngọt của trời người. Nầy Ca-diếp-ba! Như vậy, Tỳ-kheo đi khất thực nên xa lìa sự đắm trước mùi vị thức ăn và phải điều phục tâm mình. Nếu chỉ ăn đậu chín cũng không sanh tâm buồn rầu. Vì sao? Vì cầu thánh đạo nên lấy đó tạm nuôi sống bản thân mà ăn. Phật bảo: Ca-diếp-ba! Nếu Tỳ-kheo đi khất thực gặp lúc trời mưa nên không thể khất thực được thì phải trang nghiêm tư duy về pháp, lấy từ bi làm thức ăn rồi trụ trong tác ý ấy. Nếu hai hay ba đêm muốn đoạn thực thì nên khởi tưởng nầy: “Cõi Diêm-ma-la kia tất đọa vào ngạ quỷ. Vì tạo ác nên trải qua một trăm năm muốn ăn chút ít đàm dãi còn không được. Ta nay an trú trong giáo pháp sâu xa không nên phát khởi sự thiếu thốn hạ liệt của thân tâm huống hồ lại chuyên cần tu thánh đạo. Ta nay phải nên kham nhẫn sự đói khát như vậy”. Lại lược nói: “Khiến cho người tại gia làm thức ăn thanh tịnh, trải sàng tòa mà ngồi lên đó vì họ để thuyết pháp yếu. Cho đến đối với thức ăn thanh tịnh ấy, khi thọ dụng rồi thì phải từ chỗ ngồi đứng dậy mà ra đi”. Nầy Ca-diếp-ba! Tỳ-kheo hành khất thực không nên tự khoe khoang, dối trá nịnh hót. Sao gọi là dối trá nịnh hót? Nếu đối với người khác mà nói thức ăn nầy thô dở, hoặc không đủ, cho đến nắm giữ các thức ăn ấy, hoặc ăn ít khiến trở nên đói khát v. v… nếu có các hành tướng như vậy thì gọi là dối trá nịnh hót. Các Tỳ-kheo đi khất thực nên phải xả bỏ, sao gọi là chân thật? Nghóa là thức ăn ở trong bát thì dù ngon hoặc dở, bất tịnh hay thanh tịnh thì đều nên phải ăn mà không khởi tâm buồn rầu, chỉ lấy pháp điều phục để nội tâm thanh tịnh và do trụ ở thánh đạo nên được thân mạng linh hoạt. Đối với việc đi khất thực thì như kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn nói: “Nếu người gần gũi người khất thực thì đối với việc tự lợi và lợi tha đều được lợi ích tròn đầy tùy theo chỗ hiểu biết rõ ràng và sự khất thực kia tương ưng với lời nói của Bồ-tát. Như vậy cho đến không vì duy trì thân huyễn nầy mà phải như sự thọ nhận thuốc thang”. Kinh Nhập Lăng già nói: “Đoạn trừ ăn thịt cá nghóa là như nói Bồ-tát trì hạnh đại từ nên đối với tất cả thứ thịt đều không được ăn”. Kinh kia lược nói kệ: Quán chỗ đến của thịt Máu mủ đều bất tịnh Người tu hành tịnh hạnh Phải xa lìa ăn thịt Tất cả thịt và hành Không uống các thứ rượu Hẹ, tỏi, nén cũng vậy Tu hành thường xa lìa Loại giường nằm tốt đẹp Và lìa các dầu thoa Các chúng sanh ở hang Trong đó rất kinh sợ Vì lợi giết chúng sanh Hoặc buôn bán hàng thịt Hai loại tội nghiệp ấy Chết đọa làm chim khiếu. Hơn nữa, tổng lược nói: Mùi hôi thật đáng ghét Thường sanh trong đảo huyền Và làm Chiên-đà-la Hoặc săn bắn mổ giết Sanh làm nữ La-sát Ăn thịt các loài khác Mèo, chồn, Dạ-xoa thảy Người ấy sanh ở đó. Luận nói: Nếu biết đủ thì như phẩm Đoạn Nhục nói: “Để thành tựu lợi ích rộng lớn kia nên nói không có lầm lỗi. Nếu Tỳ-kheo sống trong cõi Diêm-phù-đề khi sắp chết nói lời thiền định để thường khiến cho chúng sanh đoạn trừ việc ăn thịt cũng là chứng được thiền định ấy. Người thường tu đại bi thì không có lỗi lầm”. Kinh Bảo Vân nói: “Nên biết không được ăn thịt tại nơi thanh vắng gò mả mà phải phát khởi tâm lợi ích cho chúng sanh như vậy”. Như thấy trong Tỳ- nại-da nói: “Ăn ba loại thịt thanh tịnh, rốt ráo đều đoạn trừ, mà nhất tâm lìa bỏ để được thanh tịnh các kiến và đoạn trừ ngã mạn. Người thích tu phước thì dần dần phải dạy họ xa lìa việc ăn thịt”. Kinh Nhập Lăng Già nói: “Vì người học kia mà đọc tụng giảng nói rồi dần dần hướng dẫn họ nương tựa bền vững vào chương cú vi diệu của kinh. Người tu hành kia lệ thuộc vào ba thứ: Ta vì người kia nói pháp khiến đoạn trừ tính ưa sát sanh nên gọi là thuốc thường thọ dụng. Còn thuốc trị bệnh như Tỳ-nại-da của Thanh văn nói: Ta vì lợi ích phạm hạnh mà bán y bát đổi lấy cháo để trị bệnh ở thân huống hồ vì cứu độ tất cả chúng sanh. Do vậy, Bồ-tát thấy thân nầy trong khoảnh khắc sát na thành tựu được phước thù thắng nầy. Thế Tôn! Do thấy rõ lợi ích nầy, nên chỉ dùng làm thuốc chữa bệnh thân, đối với người tu hành thì đó là cái thấy thù thắng”. Kinh Bảo Vân nói: “Nếu đoạn trừ ba loại thức ăn thì khi ấy dù chân thật hay không chân thật đối với các hành tướng như vậy vì để trụ thân mạng, chớ giữ chớ ăn. Các thứ như váng sữa, dầu, rễ cây, hoa quả và nhựa cây v.v… nếu có thấy cũng khởi tâm đối trị mà không ăn. Nếu Bồ-tát khi mắc bệnh nặng thì được phép ăn. Nếu tật bệnh quá nặng khiến mạng căn muốn diệt mất thì chớ tạo ác nghiệp mà làm đoạn trừ phần pháp thiện kia. Không nên khởi si hoặc mà đoạn trừ tâm nầy và xem đó như thuốc trừ bệnh”. Kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn nói: “Tham trước vào sự thọ dụng y áo thì sao gọi là Sa-môn? Sa-môn nghóa là phải biết hổ thẹn, dùng y áo che thân chớ để lộ bày thân thể. Người đời, trời, A-tu-la v.v… khởi tưởng như tháp Phật, nên biết giống như giữ gìn tháp Phật. Nếu không khởi tu đối trị, lìa tham nhiễm khiến trở nên thanh tịnh thì tức là tăng trưởng phiền não, áo ca-sa hoại sắc bị lỗi đó. Do không tùy thuận ưa thích tu hành để trang nghiêm pháp phục nên ở trong pháp thiện mà trái lại làm các pháp ác. Áo Ca-sa nầy vì để cầu Thánh đạo, biết cách đối trị nên dù trong khoảng một sát na cũng phải thọ trì ở thân. Kinh Bảo Tích nói: “Phật bảo: Ca-diếp-ba! Nếu chỉ để trang sức cho thân mà không cẩn mật hộ trì thì hủy hoại công đức của Sa-môn. Pháp là áo ca-sa nầy. Tuy giữ gìn thân mà tâm không sanh tôn trọng thì cũng không đem lại lợi ích. Lại nữa, Ca-diếp-ba! Sắc tướng như vậy gọi là tương tợ Sa-môn. Nếu không khởi tâm tôn trọng thì phải đọa vào địa ngục mặc áo sắt nóng, rồi phủ qua đầu, các ứng khí, tọa cụ đều bằng sắt nóng. Tất cả mọi sở hữu thọ dụng cá nhân đều bị lửa dữ thiêu đốt. Sắc tướng tương tợ Sa-môn ấy phải nhận chịu sự khổ sở như vậy”. Kinh Bảo Vân nói: “Nếu Bồ-tát thân bị tật bệnh, cơ thể yếu ốm không thể trụ ở Tăng phòng nên ở chỗ đất trống phát khởi tâm như vầy: Công đức của Phật và tháp Như Lai vì chọn để đối trị phiền não, nên ta nay cũng làm. Còn nếu ở chỗ Tăng phòng để đoạn các phiền não thì đối với Tăng phòng không khởi tâm đắm trước, cũng không thỉnh cầu. Giả sử được người bố thí như vậy thì phải tùy chỗ mà nhận lãnh. Nên biết cũng chớ vì mình mà đòi hỏi cho đầy đủ”. Kinh kia lại nói: “Khi nằm ngủ trải ngọa cụ ra rồi theo nghi thức nằm để hai chân thẳng xếp bên nhau, nghiêng hông về bên phải đồng thời lấy pháp phục che thân và tâm phải chánh niệm chánh tri, khởi tưởng sáng, không đắm vào sự ngủ nghỉ cho là vui, hoặc chấp vào hông nầy hông kia và các phần khác của cơ thể làm niềm vui. Cho đến đối với bốn đại trong thân phải biết cách điều hòa hơi thở. Tất cả thọ dụng ở nơi chốn kia được thiết lập đều phải vì lợi ích chúng sanh. Nếu ta yêu thích thọ dụng thì sanh lỗi lầm chán ngán”. Như kinh Nguyệt Đăng Tam Muội nói: “Nếu được các thức ăn ngon ngọt, mát dịu kia thì đó chẳng phải tương ưng với giải thoát. Nghóa là nếu có được thức ăn ấy phải nghó rằng đó là hệ phược, như con voi nằm xuống chẳng phải đi quanh tháp”. Kinh Bảo Tích nói: “Lại nữa, Thế Tôn! Đây nói về sự thọ dụng của tín thí. Bấy giờ trong chúng có Tỳ-kheo xa lìa ách nạn đối với pháp luật nầy, nghe rồi liền khóc thương xót mà nói: Thế Tôn! Con nay thà chết chứ không đắc quả cũng không thọ dụng thức ăn của tín thí. Phật bảo: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ông đã nói lên hành tướng thanh tịnh như vậy khiến cho người đời sau đối với tội ác sanh xấu hổ và sợ hãi. Phật bảo Ca-diếp-ba! Ta biết tín thí có hai loại gọi là giải thoát. Những gì là hai? Nếu Tỳ-kheo xa lìa ách nạn và Tỳ-kheo khác học theo giáo pháp của Ta mà biết được các hành là vô thường, nhận lãnh các thọ là khổ, tin hiểu các pháp vô ngã mà cầu Niết-bàn tịch tónh thì giả sử có thọ dụng của tín thí bằng núi Tu-di và các vật thí khác cũng được rốt ráo thanh tịnh. Nếu thọ nhận vật của thí chủ và thức ăn của tín thí mà đầy đủ chánh đại quang minh thì được phước lớn. Vì sao? Vì diệt trừ các tăng thượng mạn, keo bẩn, tham lam khiến họ tạo việc phước, đó chính là từ tâm Tam-ma-bát-để. Nếu Tỳ-kheo thọ nhận sự bố thí cơm áo của thí chủ rồi lại suy nghó nhập vô lượng Tam-ma-địa khiến thí chủ kia đối với sự bố thí tạo phước cầu quả báo tốt cũng được vô lượng thì nầy Ca-diếp-ba! Giả sử biển lớn trong ba ngàn đại thiên thế giới có cạn hết nước nhưng sự tu phước ấy không bao giờ cùng tận”.  <卷>QUYỂN 9 <詞>Phẩm 6: HỘ THÂN Phần 2 Như vậy, người đi khất thực đối với vật bố thí nên khởi lên ba niệm trụ. Nghóa là thương các côn trùng ở trong thân mình mà thành tựu lợi ích cho tất cả chúng sanh và nhiếp thọ chánh pháp. Lại phải theo sự giáo hóa của Như Lai mà mọi việc làm đều phải giữ chánh niệm. Ban đầu nên lấy âm thanh của “Chân ngôn” làm cơ sở để thủ hộ và đối với tam muội vương đế lý nói minh chú Mạn-noa-la để làm lợi ích. Nay nói chú: “Na mô tát lý chuyên một đà mạo đề tát chùy nam án vó la nhạ vó la nhạ ma ha chuyên nhó lý tát đa bà la đế bà la đế đát la dó đát la dó vó đà mạt đế tam bán nhạ nhó đa la mạt đế tất đà khất lý đát thuốc tát chuyên ha”. Nếu tụng chú nầy thì đạt được tất cả mạn-noa-la hoặc được tám vạn biến tâm niệm của Như Lai. Sao gọi là tất cả? Nghóa là mạn-noa-la tối thượng trong thế gian và xuất thế gian tất có khả năng thâm nhập. Lại nói chân ngôn: “Ma mạc tất đế lý dã đề vó ca nam đát đà nga đa nam tát lý chuyên bát đế đạt lý ma đa mạt lăng na ha tam ma tam ma tam mãn đa bộ nan đát đa chuyên bát đế xá tát nhó hát la hát la tam ma la tam ma noa vó đôn đa la nga một đà đạt lý ma đế tát la tát la tát ma mạt la hát bà hát bà đát la dã đát la dã nga nga na ma ha chuyên lạc xoa nê nhập chuyên la na bà bôn lý tát chuyên ha”. Nên biết đây là tất cả thân của Như Lai rất là tôn quý không ai có thể sánh bằng. Người bắt đầu tu hành, đối với Phật, chúng sanh, khi tu tập vô lượng pháp môn, thì các ma cùng khởi các sự xấu ác, nên phải dùng sự tối thượng như vậy để gìn giữ. Nghóa là hoặc dùng tay đánh, hoặc dùng tro, hạt cải trắng hay nước sạch v.v… tùy ý mà kiết giới. Lại nữa, nếu có các bệnh tật thì dùng chân ngôn gia trì vào nước thuốc để trị liệu. Hoặc trong rừng, dùng hoa cô-tô-ma đối trước tháp miếu, ảnh tượng và kinh điển của Phật để cúng dường đồng thời quán duyên Phật và Bồ-tát v.v… với tâm ưa làm lợi ích cho tất cả chúng sanh thì bệnh nặng ấy, chắc chắn được Dược-xoa chữa trị mà vì nói pháp giải thoát. Lại nữa, trước hết nên niệm tu tập hạnh Phổ hiền, đối với nghi thức nầy nên phải thuần tín. Nghóa là phải chuyên tâm trì niệm “Tam muội để lý” nầy. Giả sử không tắm gội súc miệng sạch sẽ và không thanh tịnh hoặc ăn cá thịt đều không có lỗi lầm. Tuy nhiên, nếu tác ấn khế hợp với chân ngôn thì không được ăn, không được trái với bản nguyện, cũng không nên cùng người khác đồng nằm chung giường, không nên nhảy nhót. Đối với học hạnh tín giải nầy không có khuynh động cũng chớ nghi hoặc. Nếu trước có phá giới nầy thì nay cũng thành tựu, dù có trí hay không có trí nhất định cũng thành. Lại như có thuyết nói: “Nếu tâm Bồ-đề kiên cố thì đạt được sự chú ý chuyên nhất và xa lìa nghi hoặc nầy đồng thời rốt ráo thành tựu”. Luận nói: Người có tâm Bồ-đề thì kiên cố, nhất định thuyết chân ngôn để làm lợi ích cho các hàng phàm phu v.v… khiến cho tâm không thoái lui, mà tùy thuận theo các địa chưa vào. Nói lên như vậy là muốn đạt được sự trì giữ ánh sáng ban đầu đi vào nơi rất tối tăm, để chiếu soi thật rõ. Lại nếu mong cầu thành tựu thì sao gọi là phước thâm diệu? Vì vui với sự thành tựu nầy tức là xa lìa tâm biếng trễ, như vậy đi vào Thánh địa, tích tập vô lượng phước, siêu vượt các đường ác và không bị chìm đắm. Trước tiên nói phạm lỗi lầm: Hoặc không có chân ngôn mà niệm tụng và không biết văn tự tăng giảm, thì việc nầy không lầm lỗi. Giả thiết nếu có tăng giảm sai, quên thứ tự đều không có lỗi, huống hồ tin vào tâm Bồ-đề xả bỏ tự lợi, sự tạo tác theo tính toán, tìm tòi quán sát mà biến chuyển thì quyết định được thấy chư Phật, Bồ-tát v.v… để đạt đến sự thành tựu nầy thì dùng chân ngôn Chấp kim cang nầy để gìn giữ phòng hộ. Chân ngôn nói: “Na mô tất đế lý dã thể vó ca nam tát đa nga đa nam tát lý chuyên chuyên nhạ la đạt la noãn tán noa tán noa mạt la mạt la chuyên nại la chuyên nại la phiến đa na phiến đa na pha la pha la chuyên la chuyên la ma la noa ma la noa chuyên la chuyên la ma la noa ma la noa chuyên nhạ la nại la tả tát phổ tra la lệ đa thi kha la tam mãn đa chuyên nhạ lýni nhập chuyên la nhập chuyên la na mô tốt đổ a nguyên lỗ nga la xá tát na nam la noa la noa hổ la hổ pha la tát phát chuyên tổ lổ đổ di tát chuyên kha”. Nếu tụng chú nầy thì trong khoảnh khắc một sát-na các thế lực gây chướng ngại như: Tần-na-dạ-ca-đều bỏ chạy tán loạn, các trời, rồng … đều đem thức ăn, y phục, ngọa cụ phụng sự cúng dường. Cho đến gia trì chân ngôn nầy vào nước sạch, hoặc tùy chỗ thấy mà gìn giữ. Lại nữa, đối với tất cả việc làm, nên tụng chú Bất động Tôn Minh Vương Tâm nầy. Chân ngôn nói: “Na mô tam mãn đa chuyên nhạ la noãn đát la tra a mô khiếp tán noa ma kha lỗ sắt noa tát phổ tra dã hồng đát la tra hạ hàm úm mạt lãng nại nỉ đế nha ma lệ nhó tát chuyển hạ”. Nếu khi bắt đầu ăn thì nên tụng chú nầy từ một đến bảy lần rồi mới ăn uống. Đức Phật Dược Vương và chúng Bồ-tát tùy theo chỗ niệm để diệt trừ các loại độc hại. Tụng niệm chân ngôn: “Đát ninh đà y lệ mật đế để lệ mật đế y để lệ mật đế nổ nhị nổ chuyên lê duệ đát lý kế đát lý cát cát la nị ma ma lý nhị ma lý ma la nị cát tất di lý cát tất di la mục cật để a khư nhó a khư na a khư nhó y lệ y lê duệ a kha dó duệ a phiên y duệ vó để tất vó đa đôn nị a na nổ la sất tát chuyên ha”. Lại nữa, nếu nghe được minh chú nầy thì trong bảy năm không bị rắn và trùng độc hại đến thân. Giả thiết nếu rắn độc có đến thì đầu nó sẽ bị vỡ làm bảy phần như nhánh cây hoa lan. Nếu trì chú nầy cho đến khi chết nhất định không bao giờ bị rắn độc xâm phạm đến thân. Nên biết câu chân ngôn nầy chớ có niệm trước con rắn độc.Vì sao vậy? Vì sợ nó chết tức thời. Chân ngôn: “Đát ninh, đà y la tức la tá cô chuyên cô nỉ cô ni để nhó cô lỗ nan nhó cô lỗ ni để bố noa bố ni để bổ lổ noa nhó cô lỗ ni để bố noa bố ni để bổ lổ noa bổ lổ ni để phổ tra la tứ phổ tra trán noa la tứ na bôn la tứ na bôn tra trán noa lạc tứ tát lý ba lạc tứ tát lý ba tra trán noa lạc tứ khát thiết nại lệ vó thỉ thức để thức đa chuyên đa lệ hát la lý hát la lý thiện ni thiện ni đát nỉ đát nỉ đa nị đa nị mạt la mạt la tát phổ tra tát phổ phát tra phát tra tát chuyên tra y để tứ mạc xoa vô cửu ngô khiêm vó ninh diễm la tất đa điểu nại hát lý đa diểm tát lý chuyên phổ đa tam ma bôn nhị tát lý xó đát đà a na đát đà phổ đam tát sam a vó bát lê đam a vó bát lý dã tát đam y nại vó sa ma ni trân bà chuyên đổ năng nhị tra la lam bôn lê đổ a khuất nhó bôn lê đỗ năng nhi tra la lam bôn lê đỗ a khuất nhó bôn lê đỗ nhạ lam bôn lê đổ tát đam phùng bôn lê đỗ cô tra dã bôn lê đổ phổ danh bôn lê đỗ phiên tra bôn lê đỗ tát chuyên”. Lại nữa, nếu bị giặc cướp xâm hại thì phải tụng chú Ma-lợi-chi. Chú: “Đát ninh đà a lý ca tỷ ma lý ca ma lý ca ma tỷ chuyên na ma tỷ át đa lý đa na ma tỷ bát thể nhị la xoa điểu đát ba thể nhị la xoa điểu đát ba thể nhị la xoa nhạ na đô nhị la xoa la nhạ đô nhị lạc xoa tô la đô nhị lạc xoa tinh hạ đô nhị lạc xoa dương khát la đô nhị lạc xoa na bôn đô nhị lạc xoa tát lý ba đô nhị đạt xoa tát lý chuyên đô nhị lạc xoa lạc xoa hàm tát lý chuyen bà duệ tỳ dược tát lý vũ ba nại la mỗi bát tát lý ngô phiên dã tế tỳ dược tát chuyên a úm chuyên để lệ chuyên để lệ tát lý chuyên nạp sắt tra nam ngật lãm ô mãn đà nhị tát chuyên ha na mô la đát na dạ dã na mô ma ma lý tiệt nhó chuyên đa dị ma lý sái nhó chuyên đa dã hột lý nại diễm ma chuyên lý đa duệ xoa nhị đát ninh đà chuyên đa lệ chuyên nại lê chuyên la lệ chuyên la lệ chuyên la ha mục khiết tát lý chuyên nạp sắt tra nam mãn đà mục khan tát chuyên ha”. Do niệm chú nầy nên được phát xuất vô lượng thần lực công đức oai quang. Lại nữa, có năm mươi bảy chữ thuộc về tạng trì minh, đối với sự sợ hãi đều có thể thủ hộ và làm lợi ích. Chú: “Đát ninh đà khát chi mạt na chi cô na chi tra chỉ sá ka chỉ sá la chỉ điểu lổ mạt để lổ lổ mạt để đổ lổ tú lệ nhị lệ tát lý chuyên nhi dã nổ ba nại nga nga na mô tát lý chuyên tam ma tam một đà thuân tất bàn đô di mãn đát la bát nại tát chuyên ha”. Luận nói: Người hộ trì thân nầy tức lấy thuốc thang y phục v.v… mà làm lợi ích cho chúng sanh, trước đã làm như vậy, tức là đã chấp trước vào sự thọ dụng mà khởi tội ô nhiễm. Do đó Bồ-tát đối với các chúng sanh phải xả bỏ tất cả. Lại nữa, nếu không mong cầu vật của người khác thì khi có những sở hữu của riêng mình lại không vui đắm trước, thì chỉ vì ăn uống mà khởi tội ô nhiễm. Tuy không nhớ nghó về ăn uống nhưng đối với sự việc của chúng sanh hoặc không vui thích, nghóa là đối với việc ăn uống nghó là vật của người khác nên không mắc tội ô nhiễm. Tuy nhiên, nếu chỉ làm vì tự lợi thì mắc đủ thứ tội, theo biệt giải thoát là phạm tội Ba-la-di. Lại nữa, nếu nói chỗ thọ dụng nầy tức là vật của một cúng sanh kia làm chủ, chúng sanh nầy làm chủ v.v… thì việc hộ thân như vậy đều là lỗi lầm. Chẳng phải như nô bộc thường phục dịch và chịu sự sai khiến của một người chủ, mà nên vật sở hữu của mình cũng chính là vật sở hữu của người kia. Nhưng Kinh Pháp Tập nói: “Bồ-tát ví như người nô bộc nên phải thay thế tất cả chúng sanh mà tùy nhu cầu của họ để hành sự”. Luận nói: Chẳng phải nói đối với một người chủ, là người kia làm việc lợi tha, giả sử người nô bộc trẻ bị bệnh tật v.v… người chủ không la mắng mà trước hết đem cơm cho ăn để trừ các bệnh não thì không có lỗi chăng? Bồ-tát tu tâp như vậy nếu tạo ra sự thân cận các sở hữu cá nhân thì không biết rõ sự việc nầy. Nếu tâm hiểu rõ hạnh lý thanh tịnh, tu tập pháp xả rộng lớn, như vậy ở lý nầy chớ nên nghi hoặc mà phải xả bỏ tất cả. Như trước Phật nói phải chuẩn bị tâm lý kó càng. Người hộ trì thân nầy làm lợi ích cho chúng sanh phải biết rõ nghóa ấy, phải như lý mà khai thị khiến không quên mất. <詞>Phẩm 7: HỘ THỌ DỤNG PHƯỚC Phần 1 Như vậy nên biết việc hộ thân đã giải thích xong. Còn việc thọ trì sự thọ dụng nay tiếp tục nói. Lại nữa, khởi tâm tu tập và tạo thiện thì ở trong đó phải lấy trí tuệ quan sát. Các học xứ hộ trì sự thọ dụng nầy không phải trở thành chướng nạn. Kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn nói: “Học xứ nầy tức ở trong cái thấy bình đẳng mà khéo tu tập. Nếu khéo tu tập pháp thiện thì có thể quán chân thật mà xả bỏ các thọ dụng”. Luận nói: Pháp Xa-ma-tha nầy dung chứa cả thời gian sau. Tuy nhiên đối vơí lý nầy phải hiểu rõ như thuyết đã nói nhằm đạt được sự thành tựu nầy. Nghóa là phải tiết chế sự thọ dụng, đối vơí sự ấy thành tựu chân thật, thì tự nhiên đối với sự thọ dụng rộng lớn khác, tuy có tổn hại mà năng xả bỏ, ngoài ra không có sự gì khác. Kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn nói: “Đối với thê thiếp nô bộc tạo nghiệp làm người sai khiến, đó chính là đã thọ dụng. Nếu mình hoặc người khác nghe phần pháp Bồ-đề mà đoạn các sự tạo tác nầy, sự việc là có thể xả bỏ hay không thể xả bỏ, ngoài ra không có việc gì khác đối với lợi ích chúng sanh có thể so sánh với việc xả bỏ nầy. Cho đến Bồ-tát vốn rất khéo léo cân nhắc đoạn việc làm ác nầy, có thể xả bỏ hay không thể xả bỏ, ngoài ra không có việc gì khác. Việc nầy phải được sự thành tựu. Còn đối với người nghi ngờ việc nầy thì trong Kinh Biệt Giải Thoát Bồ Tát cũng nói như vầy: “Lại nữa, Xá-lợi-tử! Nếu Bồ-tát xuất gia cầu pháp Bồ-đề phần thì nên biết là nói bố thí. Sao gọi là bố thí? Nghóa là phải dùng sắc thí cho đến pháp thí. Làm pháp thí tức là, Xá-lợi-tử! Nếu Bồ-tát tại gia dùng bảy báu đầy ắp hằng ha sa cõi Phật để cúng dường Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác và nếu Bồ-tát xuất gia chỉ lấy một bài kệ bốn câu rồi như thuyết mà tu hành cho đến vì người mà giảng nói thì phước nầy thù thắng hơn phước kia. Lại nữa, Xá-lợi-tử! Đâu phải các Như Lai nói người xuất gia thì không có tài thí! Nầy Xá-lợi-tử! Nếu đi khất thực được đầy bát hoặc các vật khác thì nên phân chia thực phẩm ấy cho bậc đồng phạm hạnh. Lại nữa, người kia đến xin y hoặc bát thì nên như chỗ Phật nói phải luôn có ba y mà tùy đó để xả cho. Lại nếu thiếu khuyết ba y nầy và vì nương tựa trụ phạm hạnh thanh tịnh thì không nên xả cho. Vì sao? Vì Như Lai hoàn toàn không nói bố thí ba y nầy. Xá-lợi-tử! Khi Bồ-tát xuất gia bố thí ba y cho người xin kia, nhưng không nên thiếu sự thân cận Tôn sư. Lại nữa, Xá-lợi-tử! Bồ-tát xuất gia chỉ nên vì pháp mà thân cận. Người kia có sở cầu Bồ-tát phải biết thâu nhận, chỉ một chúng sanh đủ mà phải làm lợi ích cho nhiều chúng sanh. Do vậy Bồ-tát đối với chúng sanh phải phát khởi tâm sâu xa. Nếu diệt mất lợi ích lớn thì đoạn trừ các việc thiện. Nói như thế tức là trong một sát-na có thể xa lìa các phần pháp thiện lớn lao. Cho đến dù xả bỏ hoặc không xả bỏ”. Như Kinh Hải Ý nói: “Người hành Đại thừa đoạn trừ tất cả tài lợi cho đến ta quyết định nói: Bồ-tát thành tựu, như thế và do đâu hướng vào? Nói rộng như Kinh Tối Thượng Sở Vấn nói”. Luận nói: Nếu nói vì sự tu tập của người khác mà xả bỏ sự việc của mình thì như Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết nói: “Hỏi: Nầy Duy Ma Cật! Đối với sự sanh tử sợ hãi thì phải dựa vào đâu? Đáp: Văn-thù- sư-lợi! Bồ-tát ở trong sanh tử sợ hãi phải nương vào lực công đức của Như Lai. Hỏi: Muốn nương tựa vào lực công đức của Như Lai phải trụ vào đâu? Đáp: Muốn nương tựa vào lực công đức của Như Lai thì phải nương tựa vào tất cả chúng sanh mà trụ ở. Hỏi: Muốn nương tựa vào chỗ trụ của tất cả chúng sanh thì phải nương tựa ở chỗ nào? Đáp: Nên trụ vào sự giải thoát cho tất cả chúng sanh”. Lại nữa, kinh Pháp Tập nói: “Bồ-tát Thương Chủ bạch Phật: Thế Tôn! Nếu Bồ-tát thích muốn Bồ-đề thì trước hết phải vì tất cả chúng sanh, không vì việc bản thân cho đến Thế Tôn. Đây gọi là pháp tập mà quên đi sự việc của cá nhân mình. Đây gọi là pháp tập”. Luận nói: Xả bỏ việc nầy tức thành tự lợi. Hỏi: Vì cớ gì giảm mất sự lợi ích cho chúng sanh? Nghóa là ôm lòng lo sợ, không vì chúng sanh mà gánh vác trọng trách. Do giảm mất nên không quán xét việc lợi ích cho người người khác, mà chỉ ở trong thế gian tu hành tự lợi. Lại có gì sai biệt? Nghóa là hoặc Bồ-tát không xả bỏ đức tự thân để thành tựu pháp thiện của người khác, hoặc sợ ác đạo, tự thọ khổ não, đó là hai loại. Đó là khổ mà ta phải thọ nhận nên không xả, như kinh nói. Hoặc phải nhận tội báo nặng như kinh Bảo Tích nói: “Phật bảo: Ca-diếp-ba! Có bốn thứ pháp gọi là tương tợ với Bồ-tát. Đó là chỉ cầu an tự lợi mà không cứu giúp chúng sanh khổ não v.v…”. Lại kinh Tối Thắng Thượng Thọ Sở Vấn nói: “Nếu nói trước không có ngã chấp thì chính là học xứ của Bồ-tát”. Kinh Pháp Tập nói: “Trưởng lão Tu-bồ-đề nói: Bồ-tát không có gì gọi là phát tâm. Nầy thiện nam tử! Bồ-tát nên trụ như thế nào? Đáp: Nên vì chúng sanh mà không xả chánh hạnh. Hỏi: Sao gọi là vì các chúng sanh mà không lìa chánh hạnh? Đáp: Nghóa là không xả bỏ tâm đại từ và đại bi. Sao gọi là đại từ của Bồ-tát? Đáp: Nghóa là đem thân mạng và các căn bản thiện bố thí cho tất cả chúng sanh mà không mong cầu báo đáp. Lại hỏi: Sao gọi là đại bi của Bồ- tát? Đáp: Nếu Bồ-tát ưa muốn Bồ-đề thì trước hết phải làm lợi ích cho tất cả chúng sanh mà không tự thủ chứng”. Kinh kia lại nói: “Tất cả các học xứ nầy của Bồ-tát lấy đại bi làm căn bản”. Đức Thế Tôn hoàn toàn khiến cho Bồ-tát không đoạn trừ sự lợi tha, tức là nghóa của Bồ- tát. Do vậy chẳng phải quyết định cứu cánh, tức là ở trong đó ta phải quán sát biển phước lớn để bố thí nghóa lợi lớn, chứ chẳng phải quyết định chỉ một hướng trái hại sự sanh diệt. Lại nữa, kinh Quyết Định Tịch Tónh Thần Biến nói: “Xưa kia có một vị Tỳ-kheo trải qua một ngàn năm nhập diệt tận định. Do duyên nầy nên có các Tỳ-kheo đọc tụng kinh điển, cầu hạnh Bồ-tát, tôn trọng pháp và muốn thọ nhận thức ăn của tín thí mà phát tâm như vầy: Ta vì cầu pháp nên lấy thiện căn nầy làm pháp xả thí. Do đó dù có được trăm tiền Ca-la-nổ-câu để vào các sự diệu lạc v.v… thứ tự như trước cũng nói không có lỗi lầm. Hoặc đều nói là vì hộ trì phước mà thọ dụng”. Luận nói: Lại nữa, đối với việc giữ gìn thanh tịnh quả báo tự lợi rộng lớn thì như kinh Na La Diên Sở Vấn nói: “Người giữ gìn giới chẳng phải vì muốn làm vua, chẳng phải vì muốn sanh lên trời, chẳng phải vì làm Thước-ca-la, chẳng phải vì việc thọ dụng, chẳng phải vì giàu sang, chẳng phải vì để hiển thị sắc, chẳng phải vì để được khen ngợi. Cho đến người giữ gìn giới không sợ hãi vào địa ngục hay súc sanh và Diễm-ma- la. Nói chung, người giữ gìn giới, chỉ trừ người trụ vào Phật nhãn, còn lại đều vì tương ưng với ý nghóa làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Các hành tướng như vậy của giới uẩn Bồ-tát được đầy đủ thì mười loại pháp không giảm mất. Những gì là mười? Đó là được làm Chuyển luân vương không giảm mất, cầu Phật Bồ-đề cũng không tạp loạn, đắc Thước-ca-la cũng không giảm mất, nguyện thấy chư Phật được không chướng nạn, làm Phạm Thiên vương cũng không giảm mất, lắng nghe diệu pháp mà không thoái đọa. Cho đến như kinh pháp đã nghe và đọc tụng đầy đủ hạnh Bồ-tát đều không có giảm mất, đối với các pháp thiện không đoạn biện tài và cầu thiền định sâu xa không giảm mất. Nhẫn đến Bồ-tát trụ vào giới uẩn như vậy được sự kính lễ của tất cả mọi loài trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà v.v… thường đến cúng dường ca ngợi cung kính và tán thán. Cũng được vua rồng, A-tu-la vương v.v… tôn trọng, Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư só gần gũi và được các bậc trí khen ngợi, đặc biệt được Phật tán thán, được sự thương yêu của hàng trời, người và tất cả chúng sanh, cho đến không hành bốn thứ hạnh chỉ trừ việc hóa độ chúng sanh. Những gì là bốn? Không hành hạnh vô tướng. Không hành không cõi của chư Phật. Không hành sanh ở nhà tà kiến. Không hành đọa các đường ác. Luận nói: Như trước là vốn xả bỏ lực phiền não và kiêu mạn kia, giữ gìn phước báo cũng lại hành bố thí. Tuy nhiên, đối với phước nầy tự mình không mong cầu báo đáp mà muốn giữ gìn chỉ vì lợi tha, về sau không sanh hối hận. Kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn nói: “Nếu bố thì rồi mà tâm ngay lúc ấy giả sử không sanh hối, nhưng lại đeo đuổi tâm kia đến sau khiến lo buồn, hoặc không lo buồn v.v… đều gọi là hối hận lại tức làm giảm phước báo và khiến tội tăng trưởng. Nếu không phát lồ trước Phật mà che giấu thì ngược lại việc thiện kia trở thành tánh tội. Nếu đối với tội não kia mà biết phát lồ trừ bỏ thì do vậy mà không có tội và được phước báo”. Luận nói: Làm lợi ích chúng sanh là không đem tâm tài lợi mà phát lồ sám hối. Kinh Bảo Vân nói: “Giống như thầy thuốc giỏi tự khen ngợi y đức của mình là không bị sai lầm. Lại nói, muốn giữ gìn phước thì đối với danh dự lợi dưỡng, Bồ-tát thường phải xa lìa, tự đề cao và phải dùng pháp thanh tịnh xả bỏ sự ngu si ám độn”.  <卷>QUYỂN 10 <詞>Phẩm 7: HỘ THỌ DỤNG PHƯỚC Phần 2 Kinh Bảo Tích nói: “Phật bảo Ca-diếp-ba: Nếu Bồ-tát đầy đủ bốn pháp nầy thì pháp thiện chưa sanh sẽ khiến cho hủy mất, pháp thiện đã sanh thì không làm cho tăng trưởng. Những gì là bốn pháp? Đó là: Đối với thế gian đắm sâu quá mạn, khéo cấu tạo ngôn từ, đam mê lợi dưỡng, thích quán xét chủng tánh, không ưa khen ngợi Bồ-tát, đối với Khế kinh chưa nói, chưa nghe nhưng lại thường sanh hủy báng”. Trong Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ nói: “Như vậy, đối với các tóc lông, móng tay, tháp và phần thân của Phật khi thấy rồi phải tịnh tín phát khởi tâm cung kính, phải xem như Đại đức Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni v.v… Từ mặt đất nầy trở xuống bốn vạn tám ngàn du-thiện-na đến cõi Kim luân, Tỳ- kheo ấy có biết bao nhiêu hằng hà sa số gấp cả ngàn lần phước báu của Chuyển luân vương hưởng thụ. Trưởng lão Ưu-ba-ly hướng đến trước Như Lai chắp tay thưa: “Thế Tôn! Nếu chỗ Phật nói là thiện căn của Tỳ-kheo thì quả thật là rộng lớn. Thế Tôn! Làm sao có được thiện căn nầy? Phật dạy: Ông đối với điều nầy còn có thể bị tan diệt. Ưu-ba-ly! Nghóa là nhẫn chịu đối với sự động loạn nầy mà tùy sự thấy kia, như phạm hạnh kia gần gũi phạm hạnh nầy. Ưu-ba-ly! Do thiện căn nầy mà người gần gũi cũng được rộng lớn. Tuy nhiên, ông đối với điều nầy còn có thể bị tan diệt. Ưu-ba-ly! Do đó phải nên học như vậy. Lại như đem củi chất đống lại mà thiêu đốt, tâm có thể không tán hoại, huống hồ là thức thân v.v…”. Kinh Văn-thù Thần Biến nói: “Gọi là đối hại, nghóa là trong trăm kiếp tu tập tích lũy pháp thiện ấy khiến có cái giảm mất nên nói là đối hại”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Rộng cứu độ chúng sanh với diệu đức trong suốt đêm ngày như trước đã nói”. Luận nói: Nếu ở trong thời gian nầy mà phỉ báng nhau thì làm tăng trưởng nguồn gốc bất thiện, làm giảm mất tuổi thọ, sắc lực an ổn đều bị giảm thiểu không có phần ít làm lợi ích và chỉ tìm cầu danh dự lợi dưỡng đồng thời tạo ra sự ngạo mạn”. Kinh Bảo Vân nói: “Phật bảo: Thiện nam tử! Nếu Bồ-tát được vô lượng trân bảo như núi Tu Di hoặc được những vật tệ lậu thì cũng phải nhận lấy các vật ấy. Vì sao? Vì Bồ-tát tư duy như vầy: Do chúng sanh nầy keo bẩn, ganh ghét, tham lam mà luyến tiếc vật của mình và người khác nên thường tranh cãi. Do nhân duyên nầy mà chìm đắm trong biển sanh tử. Ta muốn người kia trong đêm dài có lợi ích an vui nên thọ nhận vật thí của họ. Tuy nhiên hoàn toàn không thể làm sở hữu cho riêng mình, cũng không khởi tâm chấp trước mà chỉ vì cúng dường Phật, Pháp, Tăng cũng lại chuyển bố thí cho tất cả chúng sanh khiến người nghèo khổ được nuôi sống thân mạng, kẻ bố thí được sanh tâm hoan hỷ đầy đủ như thuyết kia và đạt được sự bố thí không kiêu mạn”. Kinh kia lại nói: “Giả sử có người đến vì ca ngợi nhân duyên bố thí, thì người nầy không sanh tâm cao ngạo, cho đến không có kiêu mạn. Lại nếu ca ngợi tán thán ta, thì khi khởi tâm cao ngạo liền diệt ngay không đợi lâu. Lại giả sử ở trong ba thời, xứ ca tụng tán thán thì phải sanh khởi trí nào? Nghóa là biết các pháp vô thường, vô trụ, vô cường, vô lực khiến tâm hạ thấp chớ sanh cao ngạo, cho đến không có kiêu mạn. Như vậy Bồ-tát đối với các việc danh dự, lợi dưỡng, ca tụng, tán thán v.v… đều phải trụ ở chánh niệm”. Kinh kia lại nói: “Giống như gã Chiên-đà-la đi khắp thế gian với ý hạ thấp mà được lìa kiêu mạn, tùy nơi ở mà sanh khởi tưởng xin ăn”. Lại như kinh kia nói: “Thiện nam tử! Thứ nhất là,: Bồ-tát bỏ nhà đi xuất gia bị thân bằng quyến thuộc ruồng bỏ xem như thây chết thì nhờ nhân duyên nầy nên hàng phục được ngã mạn. Thứ hai là, đã hủy bỏ sắc đẹp, mặc áo hoại sắc, dung mạo khác tục vì nhân duyên ấy nên hàng phục được ngã mạn. Thứ ba là, đã cắt bỏ râu, tóc, tay cầm bình bát, đối với người thân hay chẳng thân đều du hành khất thực và nhờ nhân duyên ấy nên hàng phục được ngã mạn. Thứ tư là, như gã Chiên-đà-la, tâm nó hạ thấp mà du hành khất thực và nhờ nhân duyên ấy nên điều phục được ngã mạn. Thứ năm là, do khất thực nên cuộc sống bị lệ thuộc vào người khác và nhờ vậy mà chế phục được ngã mạn. Thứ sáu là, tuy bị người khác chửi mắng là kẻ ăn xin nhưng cũng thọ nhận vật thí ấy và nhờ nhân duyên ấy mà điều phục được ngã mạn. Thứ bảy là, tôn trọng cúng dường A- xà-lê v.v… nhờ nhân duyên nầy mà chế phục được ngã mạn. Thứ tám là, do oai nghi đi đứng chánh trực, an nhiên khiến người phạm hạnh phát khởi tâm hoan hỷ và nhờ nhân duyên nầy mà chế phục được ngã mạn. Thứ chín là, đối với pháp của chư Phật chưa có chứng đắc thì nguyện sẽ chứng đắc và nhờ vậy mà chế phục được ngã mạn. Mười là, đối với sự sân hận phẫn nộ của các hữu tình thường tu hạnh nhẫn nhục nên nhờ vậy mà chế phục được ngã mạn”. Kinh Hải Ý nói: “Nếu Bồ-tát được thân thanh tịnh, đầy đủ tướng mạo trang nghiêm, tay chân mềm mại, thù diệu có thể thành tựu phước sanh thân, các căn không giảm, phần thân viên mãn nhưng đối với hình sắc đẹp đẽ ấy cũng không kiêu hãnh, không lấy thân trang nghiêm ấy mà cầu sự xúc lạc. Đối với sắc tướng của chúng sanh, bấy giờ Bồ-tát vì cầu pháp nên khiêm hạ cung kính”. Kinh kia lại nói: “Thí như biển lớn ở vùng đất thấp, vốn có các con sông và những dòng nước nhỏ nhanh chóng chaỷ vào. Thế Tôn! Bồ-tát với tâm kính trọng tôn sư không cao ngạo cũng lại như vậy. Tất cả pháp môn sâu xa và thiện vi tế đều nhanh chóng nhập vào nhó căn của Bồ-tát. Thế Tôn! Do vậy Bồ-tát thường an trụ chánh niệm. Nếu cao ngạo ngã mạn không tôn trọng sư cũng chẳng cung kính lễ bái thì nên biết Bồ-tát bị ma chế phục”. Lại như phẩm Xuất Thế Gian nói: “Phật nói: Phật tử! Bồ-tát có mười thứ ma sự. Những gì là mười? Đối với Hòa thượng, A-xà-lê, Cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn trụ ở chánh hạnh hướng về chánh đạo mà không khởi tâm tôn trọng. Các Pháp sư thuyết pháp thù thắng, nói pháp rộng lớn, ở trong Đại thừa biết đạo Niết-bàn và Khế kinh khác mà đắc pháp tổng trì không có dừng nghỉ, nhưng đối với Pháp sư lại không khởi tôn trọng, và đối với những gì đã nghe, không khéo léo tu tập. Tuy ở trong pháp hội nghe nói pháp lớn nhưng đối với Pháp sự lại không khen ngợi huống hồ khởi tâm tịnh tín. Thích khởi tâm quá mạn tự chấp vào cái thấy của mình mà khinh miệt người khác, không biết khuyết điểm của mình, tâm không chọn lọc. Thích khởi quá mạn tự mình không hay biết, đối với bậc A-la- hán lại che giấu sự xấu ác, của mình, người ấy thực sự có đức nói không bằng mình, nên mình đáng khen, người ấy không đáng khen. Hiểu rõ là pháp, là luật, là lời Phật dạy, nhưng vì hiềm khích với người kia nên hiềm khích pháp. Do phỉ báng chánh pháp nên thọ trì riêng khác. Tự cầu tòa cao, nghóa là nói: Ta tu hành đạo pháp không thể thuận theo việc gần gũi chấp sự. Đối những bậc tu phạm hạnh với đức độ cao dày sâu xa lại không khởi tâm kính ngưỡng, phụng sự. Dung mạo không hòa nhã, khiêm cung, lại nhiều ủ rũ, lời nói thật thô thiển, tâm suy nghó điều ác. Do tăng thượng mạn nên thích cười chế nhạo, không gần người có đức, không sanh cung kính, cũng không thích hỏi han đâu là điều thiện, đâu là điều bất thiện, hoặc điều gì nên làm và điều gì không nên làm. Lại nữa, phải làm thế nào để trong đêm dài được lợi ích an vui, làm thế nào mà trong đêm dài không được an vui lợi ích. Do si ám mà ương ngạnh, bị mạn chấp giữ, không thể hiểu rõ pháp xuất yếu. Do “mạn” che lấp nên giả sử Phật quá khứ xuất hiện cũng lại xa lìa, hủy hoại thiện căn xưa, không khởi thiện căn mới, rồi tạo ra nhiều sự tranh cãi. Nghóa là trái với pháp hành nầy nên đọa lạc vào tà kiến. Đối với tâm bô-đề, căn lực thánh tài thì không thể đạt được. Do vậy, trong trăm ngàn kiếp thường không gặp Phật huống hồ nghe pháp! Trên đây chính là mười thứ ma sự của Bồ-tát. Phật nói: Phật tử! Bồ-tát xả bỏ mười thứ ma sự nầy thì được mười loại trí nghiệp”. Luận nói: Trong đây, mười trí nghiệp tức là khéo trụ vào sự hóa độ tất cả chúng sanh v.v… Kinh Hộ Quốc nói: “Người kia mắc phải tội ác khinh miệt, ngạo nghễ nên sanh vào chỗ biên địa bần tiện, đui mù, ám độn không có oai đức và luôn gần gũi kẻ ngu muội chấp trước ngã mạn”. Kinh Pháp Tập nói: “Các Bồ-tát muốn duy trì cõi Phật thì phải lấy cõi chúng sanh làm cõi Phật. Do đó, đắc được các pháp Phật và không hoại chánh hạnh. Nghóa là các thiện hạnh ác hạnh đều nương vào chúng sanh mà thuyên chuyển cho nên ác hạnh nương vào tội ác mà khởi lên, thiện hạnh kia nương vào trời, người v.v…”. Kinh Bảo Quang Minh Đà-la-ni nói: “Phật bảo: Phật tử! Bồ-tát mới phát tâm, trước hết phải đối với tất cả chúng sanh phát khởi mười loại tâm. Những gì là mười? Tâm lợi ích Tâm an lạc Tâm thương xót Tâm thấm nhuần Tâm ưa thích Tâm nhiếp thủ Tâm thủ hộ Tâm bình đẳng Tâm trao truyền dạy dỗ Tâm xưng tán Mười loại phát tâm nầy cũng như nhập vào lực tin hiểu kia”. Kinh Tài Ấn nói: “Ta đã trụ vào tất cả chúng sanh làm đệ tử cũng khiến người khác trụ vào tất cả chúng sanh làm đệ tử, đều được sự an ổn. Nói tóm lại, Ta trước đã trụ vào sự cung kính lễ bái cũng giáo hóa tất cả chúng sanh trụ vào sự cung kính lễ bái”. Kinh Duy Ma Cật nói: “Nếu thích nói sự thanh tịnh của thế gian không có tai nạn thì tùy vào chỗ giáo hóa mà điều phục tất cả hữu tình tương lai sanh vào cõi Phật thanh tịnh”. Luận nói: Nếu rửa chân ngồi kiết già trong tư duy thì nên khởi các việc yêu thích, tôn trọng như thế nào? Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bấy giờ, có vị vua tên Pháp Âm Cái ở trong đại chúng ngồi trên tòa sư tử. Lúc ấy,, nhiều người đồng chấp tay đứng trước mặt vua, cung kính đảnh lễ. Khi đó, vua Pháp Âm Cái thấy những người ăn xin liền sanh tâm hoan hỷ lớn, đầy tâm đại bi, giả sử chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới đều làm Chuyển luân vương trải qua vô số kiếp được các diệu lạc vượt xa hơn trước đã nói, cho đến vua trời Tịnh Cư ở trong vô số kiếp thực hành pháp môn giải thoát tịch tónh thì cũng như trước đã nói. Nầy Thiện nam tử! Ví như có người chỉ yêu thích nuôi dưỡng cha mẹ, anh em, chị em, bạn bè, nam nữ quyến thuộc, thê thiếp mà xa nhau quá lâu, sau ở đồng trống bỗng nhiên được gặp, lại hỏi thăm và sanh tâm tôn trọng thương mến, nhìn nhau không hề nhàm chán. Nầy Thiện nam tử! Vua Pháp Âm Cái cũng lại như vậy. Khi thấy người đến cầu xin vua đều rất yêu thích, tâm sanh hỷ lạc mà phát khởi lòng hy hữu tối thượng. Nhẫn đến đối với những người ăn xin vua khởi tưởng như con mình, tưởng cha mẹ mình, tưởng phước điền, tưởng thiện tri thức, tưởng lực kiên cố, tưởng việc khó được, khó làm mà nay làm được, tưởng làm nhiều việc, tưởng thành tựu biện tài tối thượng, tưởng gần trụ đạo Bồ- đề, tưởng A-xà-lê giáo giới. Như có người đến gặp thì biết cách thừa sự căn tánh của chúng sanh mà bình đẳng xả bỏ tất cả không ngăn ngại, ngay cả xả thí thân mình để đáp ứng nhu cầu của họ. Lại nữa, phải chọn nơi để trang nghiêm thanh tịnh xả bỏ sự tự lợi của mình v.v…”. Luận nói: Nếu người chủ tịnh tín thì những người theo người chủ ấy cũng nên tịnh tín. Khiến dạy dỗ họ được đầy đủ các việc lợi ích. Nên tác ý như vầy: Hướng đến thân Tỳ-kheo có tật bệnh nghó: Xưa Phật Thế Tôn vẫ chăm sóc (người bệnh) như Tạp Tụng Luật Tỳ Kheo nói:: “Phật bảo đệ tử: Ông chớ coi thường xả bỏ Tỳ-kheo bệnh nầy, Ta là bậc tôn quý trong chúng Tỳ-kheo còn chăm sóc phục vụ, giặt giũ y áo cho Tỳ- kheo bệnh nầy. Cho đến dọn dẹp các thứ dơ bẩn. Đức Phật nói xong, A- nan-đà liền bạch Phật: Thế Tôn! Xin Ngài chớ nên giặt y cho Tỳ-kheo bệnh nầy khiến làm dơ thân Như Lai. Con sẽ thay thế ngài làm việc ấy. Phật bảo A-nan: Ông nên giặt y cho Tỳ-kheo bệnh nầy còn Như Lai sẽ tự tay múc nước tắm cho ông ta. Bấy giờ, A-nan giặt y áo cho Tỳ-kheo kia, Như Lai tự tay múc nước để tắm gội cho đến tổng lược nói: “Bấy giờ, A-nan như lời của Tỳ-kheo bệnh kia mà nói: “Lành thay! Ông nên đứng dậy! Ta nay dìu ông ra ngoài, ra ngoài rồi đứng yên. Như Lai sẽ tự tay múc nước tắm gội cho ông”. Phật nói kệ bảo A-nan. Ông thừa sự rộng lớn Tế độ sanh hoan hỷ Vì lo khổ tổn hại Xả ly các chúng sanh Như người tịnh tín nầy Thành tựu ruộng phước tốt Sở hữu trong thế gian Chẳng loài chúng sanh khác Thí như bình như ý Muốn chứa sữa rượu ngon Tôn trọng lời trời kia Cho nên sanh cung kính Cũng như phép vợ mới Phục vụ không tạm bỏ Cứu vô lượng chúng sanh Sau sẽ được xuất ly Nếu trước mắt tôn trọng Giữ gìn trên đỉnh đầu Đặt chúng trong búi tóc Nhất tâm nên không động Hoặc đọa ngục A-tỳ Hoặc nay tạo sẽ tạo Các pháp độ rộng lớn Tu hành thiện như thế Tự ngã làm chủ thể Nghóa ngã không thể được Đối kia tạo tác kia Không bị mạn sai sử Hỷ lạc tịnh các căn Khổ nên nhập phiền não Do các căn điềm nhiên Làm phương hóa độ kia Chúng sanh nếu thọ khổ Toàn thân như hầm lửa Đối các ý vui dục Có phương tiện thương xót Thương các người tạo khổ Nên Ta cầu khổ ấy Nếu nhẫn chịu mệt mỏi Như tội phải sám hối Nếu ở chỗ Thế Tôn Đầu chân đều tán hoại Ta xả các thế gian Vì thừa sự Như Lai Ta tạo các chúng sanh Thương xót không nghi hoặc Thấy những người như vậy Do đâu không tôn kính! Ta gần việc Như Lai Chí thành nơi tự lợi Vì trừ khổ thế gian Nên con trì tịnh giới Nếu có người cang cường Phá hoại nơi đại chúng Nguyện thường thấy chúng sanh Khiến không thể tạo tác Lại nếu chúng cang cường Mỗi mỗi như lực vua Huống không oai như vậy Sao dụng hình phạt ác? Nếu gặp kẻ bạo chúa Trị quan và ngục tốt Lực tâm hành thương xót Cứu tế các quần sanh Thì chỗ nào sân nộ? Thà đồng khổ địa ngục! Nếu não bức chúng sanh Tạo đây cũng thọ nhận Đại hỷ chỗ nào thí? Há đạt được chánh giác Nếu chúng sanh vui vẻ Tạo đây cũng thọ nhận Ông sau sẽ làm Phật Độ chúng sanh thoát khổ Sao gọi không ngừng quán? Hiện trụ xưng tán người Thân thanh tịnh trang ngiêm Và tuổi thọ lâu dài Đến đạt nhẫn sanh tử Diệu lạc của luân vương Nếu tâm từ cúng dường Gọi thân chúng sanh lớn Lấy phước báo của Phật Làm thân lớn Như Lai Luận nói: Tu quán tâm từ, là như kinh Nguyệt Đăng nói: “Cho đến cúng dường vô lượng vô số trăm ngàn vạn ức các cõi Phật không thể tính lường, như vậy cũng không bằng đem tâm từ thứ tự cung kính cúng dường thường được xa lìa cao ngạo và tác ý không như lý”. Luận nói: Người nhất tâm hiểu rõ sự việc nầy thì như kinh Bảo Vân nói: “Thiện nam tử! Sao gọi là Bồ-tát không tác ý như lý? Vì Bồ- tát nầy một mình ở xứ nhàn tónh, trụ không tạp loạn và phát tâm như vầy: “Ta nhờ ở xứ nhàn tịnh, trụ chỗ không tạp loạn v.v… nên chỉ có ta mới có thể thuận theo pháp luật của Như Lai. Đây gọi là Bồ-tát không như lý tác ý”. Kinh kia lại nói: “Bồ-tát khi khởi tinh tấn không chống lại sự giáo hối, nghóa là không tự khoe khoang đức của mình, cũng không khinh miệt người khác. Như vậy gọi là phát sanh thiện tuệ. Tuy nhiên, đối với sự tu tập của mình, cũng cầu mong sự giáo huấn của người khác. Như vậy gọi là Bồ-tát được tinh tấn, khiêm nhường”. Luận nói: Đã lược nói sự hộ trì thọ dụng phước rồi, nếu hồi hướng về Bồ-đề thì như kinh Vô Tận Ý nói: “Phật bảo: Xá-lợi-tử! Nếu người dùng chút ít thiện căn hồi hướng về Bồ-đề cho đến ngồi ở Bồ-đề đạo tràng, quyết không tan mất. Thí như một giọt nước rơi vào trong biển lớn cho đến kiếp trụ vô biên cõi vô biên cuối cùng cũng không tan mất”. <詞>Phẩm 8: THANH TỊNH Phần 1 Luận nói: Nói hộ trì thân v.v… có ba loại thanh tịnh nay phải trình bày nghóa nầy. Sao gọi là tự thân thọ dụng thanh tịnh đều được an ổn? Nếu người đối với bản thân biểu hiển sự ăn uống thanh tịnh thì thành tựu chánh đẳng Bồ-đề. Kinh Bí Mật Đại thừa nói: “Bồ-tát ở trong thành ấp lớn, gò mả cao hay đồng trống do vô số trăm nghìn chúng sanh khắp trong đó mà Bồ-tát thị hiện tướng diệt mất và có các chúng sanh bàng sanh thân lớn cho đến khiến chúng ăn thịt mình, do đó khi thân hoại mạng chung được sanh vào cõi trời và cõi thiện khác. Vì nhân duyên nầy nên rốt cuộc nhập Niết-bàn. Đó gọi là nguyện trước cửa Bồ-tát thanh tịnh. Ở trong đêm dài tăm tối nầy vì đáp trả nguyện trước mà Bồ-tát thường làm việc lợi ích cho chúng sanh. Khi lâm chung, khiến chúng ăn thịt mình và do duyên nầy nên được sanh vào cõi trời cho đến rốt sau sẽ vào Niết-bàn. Nghóa là Bồ-tát thành tựu trì giới, thành tựu tư duy, thành tựu mong cầu v.v… các nguyện trước như vậy”. Kinh kia lại nói: “Hiển bày ánh sáng pháp thân là vì làm lợi ích cho chúng sanh. Tịch Tuệ nên biết! Ví như Y vương Hoạt mệnh tích tập đầy đủ các thứ thuốc hay đâm giã, nghiền nhỏ hòa hợp thành hình tướng người nữ đẹp rất đoan chánh, ai thấy cũng sanh tâm ưa thích, khéo an lập thi hành các sự v.v… đi, đứng, nằm, ngồi đều phân biệt rõ ràng. Các quốc vương, vương tử, đại thần, Trưởng giả, Cư só đến gặp Y vương thì được thấy tướng người nữ thù diệu ấy mọi thứ diệu lạc cung cấp hầu hạ. Do cung cấp hầu hạ nên tất cả đều an vui và không còn phiền não. Phật bảo: Tịch Tuệ! Ông nên quan sát Y vương Hoạt mệnh nầy mà gieo trồng các thứ diệu lạc để trừ diệt bệnh tật của thế gian. Nên biết thầy thuốc khác không hề có trí tuệ nầy. Tịch Tuệ! Việc hiển bày ánh sáng pháp thân của Bồ-tát cũng lại như vậy. Cho đến có người nam, người nữ, đồng nam, Đồng nữ và chúng sanh khác bị tham, sân, si thiêu đốt, nung nấu khắp cả thân mà nếu trong khoảnh khắc thấy được Bồ-tát thì tất cả xa lìa sự thiêu đốt của phiền não, thân được nhẹ nhàng. Đây gọi là túc nguyện rất thanh tịnh của Bồ-tát”. Luận nói: Nghóa thân thanh tịnh nầy giống như mầm lúa bị cỏ che lấp không thể phát triển tươi tốt, mầm mống Bồ-đề ấy do phiền não che lấp nên không tăng trưởng thù thắng hoặc không thực hành đối trị, tư duy mong cầu. Đâu thể có giải thoát mà khiến phiền não kia tăng trưởng! Ông nên nhất tâm quán sát thế gian nếu tội nghiệp thanh tịnh tức thân khí được thanh tịnh gọi là chánh giác. Lại nữa nghiệp tội thanh tịnh là như kinh Tứ Pháp nói: “Phật bảo: Từ Thị! Nếu Bồ-tát thành tựu bốn pháp thì trước hết diệt hết sự tích tập tội đã gây tạo lâu nay. Những gì là bốn? Nghóa là hành hối quá, hành đối trị, lực chế chỉ, lực y chỉ. Hành hối quá tức là đối với hành nghiệp bất thiện phải cải hối nhiều. Hành đối trị nghóa là đã tạo nghiệp bất thiện rồi thì nay phải từ bỏ và phải thực hiện các nghiệp thiện để đối trị đồng thời làm các việc lợi ích khác. Lực y chỉ tức nhờ vào sự đọc tụng giới cấm mà được không hủy phạm. Lực y chỉ nghóa là quy y Phật, Pháp, Tăng và không xa lìa tâm Bồ-đề. Do hay y chỉ lực nầy mà nhất định diệt trừ các tội kia v.v… Phật bảo: Từ Thị! Đây gọi là Bồ-tát thành tựu bốn pháp nhằm diệt trừ tất cả tội lỗi đã gây tạo trong quá khứ”.  <卷>QUYỂN 11 <詞>Phẩm 8: THANH TỊNH Phần 2 Luận nói: Lại nữa, nên biết nếu nói về hành hối quá thì như kệ trong kinh Kim Quang Minh nói: Bậc Lưỡng Túc tôn quý Trụ khắp mười phương cõi Đem tâm thương tất cả Con nay phải chứng biết Nếu trước con tạo tác Nghiệp tội rất rộng lớn Nay ở trước mười phương Đều sám hối tất cả Khi chưa biết được Phật Chưa biết rõ cha mẹ Chưa biết rõ thiện ác Con tạo ra tội nầy Tự chấp lấy chủng tộc Và các thứ tài bảo Nhiều năm ngông buông thả Con tạo ra tội nầy Tâm niệm và miệng nói Tạo các thứ nghiệp ác Nói là không thể thấy Con tạo ra tội nầy Ngu si làm điều ác Bị phiền não che tâm Do ám độn vô trí Gần gũi ác tri thức Vui đùa và yêu đắm Hoặc ở trong sầu nhuế Tài vật không biết chán Con tạo ra tội nầy Nghèo cùng và lừa lọc Nên ích kỷ, ghét ganh Không gần gũi Thánh nhân Con tạo ra tội nầy Nhân dục sanh sợ hãi Thường mỗi khi đi đứng Không hề được tự tại. Con tạo ra tội nầy Nhân dục khởi sân nộ Tâm bấn loạn nhiễu động Đói khát bức bách thân Con tạo ra tội nầy Ăn uống và y phục Do nơi ba loại ấy Các kiết não thiêu đốt Con tạo ra tội nầy Nghiệp thân, khẩu và ý Ba loại thường hành ác Đủ các tướng như vậy Nay con đều sám hối Nếu đối với pháp Phật Và các chúng Thanh-văn Không khởi tâm kính trọng Con thảy đều sám hối Lại đối bậc Duyên giác Và các chúng Bồ-tát Không sanh tâm cung kính Con đều xin sám hối Hoặc đối người có đức Các Pháp sư thuyết pháp Không khởi tâm kính theo Con đều xin sám hối Do hủy báng chánh pháp Mà thường sanh vô trí Không kính trọng cha mẹ Con đều xin sám hối Mười phương Phật ba đời Quán sát hộ niệm con Vận tâm từ vô duyên Thương nhận con sám hối Con ở trong trăm kiếp Trước nếu tạo các tội Tâm thường ôm lo, sợ Nguyện xin thường trừ diệt Lại tâm thường khiếp nhược Sợ các ác tội nầy Ở trong bốn oai nghi Chưa từng hưởng an vui Chư Phật đủ đại bi Trừ sợ hãi thế gian Nay nguyện xin nhiếp thọ Giải thoát các sợ hãi Con trước tạo các tội Bày tỏ trước Như Lai Dùng tình thương của Phật Rưới lên phiền não bẩn. Lại các tội ác nầy Tất cả đều sám hối Như các tội đã làm Đều không dám che giấu Nếu các ngiệp chưa tạo Thì không dám tạo nữa Nghiệp thân có ba loại Và bốn loại khẩu nghiệp Cùng ba độc ý nghiệp Tất cả đều sám hối. Luận nói: Nếu Bồ-tát phạm tội thì ước lược có nhẹ có nặng. Kinh Ưu-ba-ly Sở Vấn nói: “Đối với tội căn bản thì so sánh mà nói. Sao gọi là tội nặng? Phật bảo Ưu-ba-ly: Bồ-tát trụ Đại thừa phạm hằng ha số tội tham cùng với một tội sân thì đối với Bồ-tát thừa có sự so sánh. Trong hai tội nầy, sân thuộc về tội nặng. Vì sao? Nầy Ưu-ba-ly! Vì khởi sân tâm tức là xả bỏ chúng sanh. Nhưng khởi tham thì yêu mến và hộ trì chúng sanh. Nếu yêu mến và hộ trì chúng sanh thì không gây phiền não. Chúng sanh ở chỗ Bồ-tát không có các họa bất ngờ và các sự sợ hãi v.v… Nầy Ưu-ba-ly! Do đó, Bồ-tát nếu có phạm tội tham thì gọi là vô tội. Nghóa nầy thế nào? Do yêu mến thủ hộ chúng sanh càng tăng thêm như trước nên Ta nói trong thâm tâm có lòng thương xót nầy. Phật bảo Ưu-ba-ly: Bồ-tát nếu không có phương tiện khéo léo thì sợ phạm vào tội tham. Nếu Bồ-tát có phương tiện khéo léo thì sợ phạm vào tội sân, nhưng không sợ phạm vào tham ái kia. Tại sao? Phương tiện khéo léo là đầy đủ hai thứ từ bi và trí tuệ mà không lìa bỏ chúng sanh. Nếu lìa bỏ chúng sanh tức chỉ có trí tuệ hiểu rõ khổ là không. Hoặc chỉ có từ bi thì chẳng bao lâu sẽ bị đoạn diệt bởi lực phiền não. Kinh Phương Tiện Thiện Xảo nói: “Thiện nam tử! Ví như người trì minh chú bị dây tơ phiền não kia ràng buộc vào trong năm xứ triền phược thì nên dùng chân ngôn để cầu pháp tức liền được siêu thoát. Do thần lực của chân ngôn nên đoạn trừ tất cả pháp trói buộc. Thiện nam tử! Phương tiện khéo léo của Bồ-tát thọ nhận năm thứ dục lạc cũng lại như vậy. Tuy nhiên đối với sự tạo tác không hề gây rối loạn chánh hạnh. Nghóa là chỉ dùng một thứ trí lực biến khắp tâm Nhất thiết trí làm thanh tịnh các dục lạc thì sẽ sanh Phạm thế”. Luận nói: Nghóa sân là thế nào? Tức là bản tánh vốn mang tội lớn. Do phân biệt rộng không sanh, phương tiện thương xót lại hành sân nhuế chẳng làm lợi ích. Sao gọi là tội lỗi? Vì dung nạp sân nhuế nên trưởng dưỡng phiền não và làm giảm mất từ bi. Nếu Bồ-tát đối với chúng sanh làm mất tâm từ bi tức là diệt mất sự lợi ích tương tục rộng lớn cho chúng sanh. Phẩm Thánh Đế nói: “Nếu biết như cha mẹ thấy con liền khởi tâm thương xót. Nghóa là nếu xả bỏ tâm từ lợi ích cho chúng sanh tức Bồ-tát xa lìa hữu trí. Lại nữa, nếu Bồ-tát khuyên hành dục thì giảm mất lợi ích. Do đó nói tham sự xấu ác thì mắc vào hai loạn nan. Nếu tham trước dục thì giống như người không có mắt giết hại cha mẹ. Do vậy, đối với dục thấp kém mà sanh khổ não thì làm tổn giảm quả báo sanh thiên. Lại nữa, người vướng mắc vào dục thì thường hủy hoại giới cấm, xa lìa cõi người. Do đó mong cầu rồi ưa thích, chán bỏ cái khổ của người khác chẳng phải thấy chân thật. Lẽ ra xem khổ não của người khác như khổ não của mình, tuy nhiên vì không thể tự tu tập nên khởi lên hai thứ tội”. Kinh Nguyệt Đăng nói: “Phật bảo A-nan: Giả sử có người từ chân đến đầu đều bị nước đồng sôi nung nấu tụ thành một khối lửa. Lại có người đến nói với ông ta rằng tôi khuyên ông nên cùng hưởng thọ năm thứ dục lạc du hý ca múa… thì theo ý ông nghó sao? Người nầy có thể khiến người kia cùng du hý ca múa về năm thứ dục lạc chăng? A-nan bạch Phật: Không thể được, thưa Thế Tôn! Phật bảo A-nan: Người kia đối với việc du hý ca múa do phân biệt mà khởi lên tham trước rồi khuyên chuyển thân nầy cùng thọ năm thứ dục lạc du hý ca múa. Như Lai không như vậy, thuở xưa khi tu hành Bồ-đề thấy các chúng sanh chịu khổ trong ba đường ác và người bần cùng, tâm không vui vẻ chút nào”. Luận nói: Thế gian có người con sanh ra không thấy cha mẹ ôm lòng thống khổ và có ân lớn nầy. Chỉ thấy vui tự thân hoặc có người thân hoặc không có người thân thương yêu che chở. Người thủ hộ cờ thiện pháp chớ có hành tà dục. Điều nầy đối với chúng sanh hoặc làm lợi ích, hoặc gây tổn hại. Nghóa là nếu bị trói buộc ham thích dục lạc kia thì điều nầy trở nên tội ác. Nếu có đủ chánh hạnh thì làm lợi ích cho chúng sanh. Nếu Tỳ-kheo đi vào hành xứ nên tưởng như mẹ, như em mà cung phụng họ chứ không nên đối với họ như hàng phạm hạnh, thành tựu chúng sanh nên phải xa lìa. Như Kinh Vô Tận Ý nói: “Đúng thời hay phi thời lại xả việc làm ấy, hoặc thấy chúng sanh phải tăng trưởng lợi ích và cũng trụ trong học xứ nầy”. Kinh Phương Tiện Thiện Xảo nói: “Xưa có Phạm chí Quang Minh ở trong bốn vạn hai nghìn năm nghiêm trì phạm hạnh, đi bảy bước rồi phát khởi lòng từ bi. Giả sử có phạm giới cấm mà thọ khổ ở đại ngục cũng không bỏ người kia khiến phải đi đến chết. Thiện nam tử! Phạm chí Quang Minh tức liền nắm tay phải người ấy mà nói: Ta sẽ đáp ứng những gì chị muốn. Thiện nam tử! Người Phạm chí trong diệu dục thâm sâu như vậy đã khởi tâm đại bi nên trong mười ngàn kiếp thọ khổ luân hồi, sau đó lại tu phạm hạnh. Thiện nam tử! Nhờ vào phương tiện khéo léo của Bồ-tát mà được sanh vào Phạm thế”. Kinh kia lại nói: “Nếu có Bồ-tát vì một chúng sanh mà phát khởi thiện căn đối với sắc tướng của họ thì sẽ bị đọa đúng như tội trong trăm ngàn kiếp nhận khổ thiêu đốt của địa ngục. Thưa Thế Tôn! Bồ-tát kia tuy có khởi lên tội nầy nhưng không thọ khổ ở địa ngục. Nghóa là do đối với một chúng sanh cũng không xa lìa thiện căn ấy”. Kinh kia lại nói: “Thiện nam tử! Phương tiện khéo léo nầy của Bồ-tát có tội rất nặng, nếu khi gặp ác tri thức khuyên thành tựu uẩn nầy để thủ chứng Niết-bàn. Tuy nhiên về sau lại không kham chịu mặc áo giáp đồng nầy, thì làm sao hóa độ tất cả chúng sanh. Cho nên ta không khởi tâm nầy mà như người kia luân chuyển hóa độ chúng sanh. Lại nữa, giả thiết nếu có tội nầy thì như pháp kia thực hành khiến không có lỗi lầm. Thiện nam tử! Nếu có Bồ-tát xuất gia phân biệt chỗ tạo bốn trọng tội thì Bồ-tát ấy đầy đủ phương tiện khéo léo nên tùy khởi tội tức sám hối ngay nói là không có tội”. Kinh Bảo Vân nói: “Người tạo tội vô gián nghóa là khiến người khác chết. Trong Luật Thanh-văn gọi đây là tội căn bản. Lại như sát hại nai… mà khởi lòng từ bi thì nói là vô tội. Nếu Bồ-tát khởi tham sanh vào cõi thiện thì không nên có sân nộ, vì tham nầy thì được sửa sang. Như nói Bồ-tát phương tiện khéo léo, thích tạo ra tham ái. Đối với nữ sắc tốt đẹp thường ưa sửa sang và luôn luôn nguyện cầu sanh vào trong thế giới người nữ để chán bỏ tâm tham kia. Xả nữ thân rồi lại được tướng trượng phu thành tựu thân hình to lớn. Phật bảo A-nan: Ông có thấy công đức nầy không? Tại vì chúng sanh khác tuy cũng thực hành như vậy, mà khởi tâm tham mãnh liệt, nhưng cũng xuất ly cảnh khổ được sanh vào cõi trời và người. Cho đến làm Dược Vương Đại só. Sao gọi là Bồ-tát khởi sân? Nghóa là nếu phát khởi phiền não thì làm sao bố thí các thứ diệu lạc v.v… Luận nói: Nếu vì danh tiếng nầy như vậy đối với chúng sanh khác làm phương tiện lợi ích thì giả sử có khởi tham cũng không có tội. Với phương tiện khéo léo nầy. Bồ-tát thường làm lợi ích mà không xả bỏ chúng sanh, rộng như trước nói. Tuy nhiên, chẳng phải đạt được lãnh địa của hành lục độ vi diệu, ở trong đây phải quán sát thật khéo tương ưng cho nên không chứa đựng sân v.v…”. Lại nữa, kinh Ưu-ba-ly Sở Vấn nói: “Phật bảo Xá-lợi-tử, Bồ-tát có hai tội lớn. Những gì là hai? Nghóa là tâm khởi sân và si. Hơn nữa, Xá-lợi-tử! Trước hết nên chí thành sám hối mười tội ác và năm loại lỗi. Cũng nên sám hối việc tay cầm, mắt xem, tâm khó kiềm chế, hoặc đối với một chúng sanh kiêm luôn cả hai thứ khác. Xá-lợi-tử! Lại nói có Bồ-tát tạo đủ năm loại tội nặng vô gián, hoặc khi đối với vợ con người khác đem tâm nhiễm ô hành phi pháp, tay đoạn mạng căn, ăn cắp vật của tháp Phật và vật của bốn phương Tăng. Bấy giờ, Bồ-tát nếu như phạm tội kia thì nên đối trước ba mươi lăm vị Như Lai mà nói: Con nay xin quy y Phật, Pháp, Tăng. Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật Nam mô Kim Cang Tiêu Phục Hoại Tán Phật Nam mô Bảo Diễm Phật Nam mô Long Tự Tại Vương Phật Nam Dõng Mãnh Quân Phật Nam mô Cần Dõng Hỷ Phật Nam mô Bảo Hỏa Phật Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật Nam mô Bất Không Kiến Phật Nam mô Bảo Nguyệt Phật Nam mô Ly Cấu Phật Nam mô Dõng Thí Phật Nam mô Phạm Đức Phật Nam mô Phạm Thí Phật Nam mô Thủy Vương Phật Nam mô Thủy Thiên Phật Nam mô Hiền Kiết Tường Phật Nam mô Chiên Đàn Kiết Tường Phật Nam mô Vô Biên Oai Đức Phật Nam mô Quang Kiết Tường Phật Nam mô Vô Ưu Kiết Tường Phật Nam mô Na La Diên Phật Nam mô Hoa Kiết Tường Phật Nam mô Tịnh Chiếu Minh Du Hý Thần Thông Phật Nam mô Liên Hoa Quang Du Hý Thần Thông Phật Nam mô Tài Kiết Tường Phật Nam mô Niệm Kiết Tường Phật Nam mô Thiện Danh Xưng Kiết Tường Phật Nam mô Nhân Đà La Võng Tràng Vương Phật Nam mô Thiện Du Bộ Kiết Tường Phật Nam mô An Tường Hành Phật Nam mô Thắng Du Bộ Phật Nam mô Phổ Âm Biến Quang Nghiêm Kiết Tường Phật Nam mô Bảo Liên Hoa Thắng Du Bộ Phật Nam mô Thiện Trụ Ta La Thọ Vương Phật Như vậy, đối trước Phật hiện tiền cho đến Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác của tất cả thế giới nguyện Phật Thế Tôn quán sát và hộ niệm: Con ở trong đời nầy hoặc đến đời khác và từ vô thủy đến nay ở trong luân hồi sanh tử tạo nhiều nghiệp chướng hoặc tự mình làm, dạy người khác làm, hay thấy làm mà sanh tâm vui vẻ, hoặc ăn cắp vật trong tháp Phật hay vật của bốn phương Tăng, tạo năm tội vô gián và mười nghiệp ác hoặc tự mình làm, hay thấy người khác làm mà sanh tâm vui thích. Do nghiệp chướng nầy nên phá hủy giới cấm, đọa vào địa ngục hoặc làm bàng sanh, hoặc sanh vào cảnh giới Diễm-ma, hoặc sanh ở biên địa Miệt-lệ-xa và ở cõi trời trường thọ. Giả sử có được làm người thì sáu căn không đủ, tham trước tà kiến và xa lìa Phật xuất thế. Những nghiệp chướng nầy, Phật đã biết như thật, thấy như thật, chứng minh như thật, tính toán chân thật, nói chung đều thấy được tất cả. Nay con xin chí thành sám hối không giám che giấu. Nếu con hủy phạm giới cấm…, nguyện chư Phật Thế Tôn xem xét mà thương xót. Nếu con ở trong đời nầy đến đời sau và vô thỉ đến nay nhận chịu sanh tử luân hồi hoặc rơi vào bàng sanh, hoặc bố thí một bát cơm, hộ trì một tịnh giới, nếu có các thiện căn tu phạm hạnh, hóa độ chúng sanh phát khởi tâm Bồ-đề và vô thượng trí cùng tất cả thiện căn thì như lượng ấy mà hồi hướng đến quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề. Con nay cũng bắt chước như chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai, đều hồi hướng trong tất cả. Nhẫn đến nói kệ: Sám trừ tất cả tội Các phước đều tùy hỷ Và khuyến thỉnh chư Phật Diễn thiết đạo vô thượng Quá khứ và tương lai Hiện trụ trong cõi người Biển công đức vô biên Tất cả đều đảnh lễ. Nầy Xá-lợi-tử! Bồ-tát ấy đối trước ba mươi lăm vị Như Lai đã phát lồ như vậy rồi, các Đức Như Lai tùy thuận biết tác ý, nên tội của Bồ-tát được thanh tinh. Do tội được thanh tịnh nên chư Phật Thế Tôn nầy hiện ra trước mặt Bồ-tát. Như vậy vì lợi ích giải thoát cho chúng sanh mà chư Phật thị hiện các tướng tốt. Do kẻ phàm phu ngu si nầy đối với sự hóa độ cứu giúp nầy liền sanh nghi hoặc, thậm chí tất cả chúng Thanh văn và Duyên giác mà không thể khiến tội làm ác kia trở nên thanh tịnh. Nếu có Bồ-tát trì niệm danh hiệu của các Đức Như Lai nầy, đêm ngày ba thời chuyên thực hành chánh pháp, thì xa lìa tội kia và đắc Tam-ma- địa. Đây gọi là tu hạnh hối quá và đối trị. Luận nói: Nếu đọc tụng kinh điển sâu xa vi diệu thì có thể diệt trừ được tội kia. Kinh Năng Đoạn Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật nói: “Lại nữa, Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam tín nữ thọ trì đọc tụng kinh nầy mà bị người khác xem thường thì biết rằng người ấy kiếp trước đã tạo ra nhiều nghiệp chướng đáng lý phải đọa vào ác đạo nhưng do thấy pháp nầy và nhận được sự xem thường của thế gian mà nghiệp chướng đời trước bị tiêu diệt rồi chứng đắc Bồ-đề của Phật”. Luận nói: Nếu hiểu biết tánh không thì khiến tội ác được thanh tịnh. Như Kinh Như Lai Tạng nói: “Phật bảo Ca-diếp-ba: Có mười nghiệp đạo bất thiện vướng vào tội lỗi lớn: Sát sanh, nghóa là đoạt mạng sống của cha mẹ và bậc Duyên giác. Lấy của không cho, nghóa là ăn cắp vật của Tam bảo Hành tà dục, nghóa là khởi sự nhiễm ô với mẹ và Tỳ-kheo ni Vô học. Vọng ngữ, nghóa là nói: Ta là Như Lai Nói hai lưỡi, nghóa là ở trong Thánh chúng mà nói lời ly gián. Nói lời ác, nghóa là chê mắng Thánh Hiền. Nói lời thêu dệt, nghóa là khéo léo dùng lời phù phiếm làm loạn các pháp dục. Tham, nghóa là đối với tài lợi chánh đáng lại đem tâm xâm đoạt. xót. Sân nghóa là đối với năm tội vô gián không khởi tâm thương Tà kiến, nghóa là tâm bảo thủ chấp chặt nặng nề kiến giải hiểm ác. Nầy Ca-diếp-ba! Nếu một chúng sanh có đầy đủ mười nghiệp đạo bất thiện như vậy thì mắc phải tội nặng. Như Lai vì nhân duyên nầy mà tuyên nói pháp yếu để khiến cho người khác ngộ nhập vào vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả, vô tác và vô thọ đồng thời hiểu rằng đó là hành, là tạo tác, là huyễn hóa. Tuy nhiên, nên biết, các pháp tánh tức là tánh phiền não. Nếu ngộ nhập được tự thể vốn trong sáng của các pháp thì tin hiểu tất cả các pháp đều thanh tịnh. Do vậy, nên ta không nói có chúng sanh đọa vào cõi ác”. Kinh Thanh Tịnh Chư Nghiệp Chướng nói: “Lại nữa, Văn-thù-sư-lợi! Nếu Bồ-tát quán chiếu phi luật là luật tức thấy tội chẳng phải tội. Nếu quán sanh tử là Niết-bàn thì thấy rõ các phiền não là do duyên sanh. Nên biết người như vậy thì có được nghiệp chướng thanh tịnh”. Kinh Để Lý Tam Muội Da Vương nói về hạnh đối trị: “Nếu nhắm mắt quán duyên chư Phật và Bồ-tát rồi đọc tụng thông suốt một trăm chữ minh chú trải qua tám ngàn lần thì khi mở mắt ra sẽ được thấy Phật, Bồ-tát và được lìa tội kia, hoặc đi nhiễu bên phải quanh tháp rồi tụng tám ngàn lần kinh điển thì tùy mỗi lần như vậy mà chư Phật và Bồ-tát hiện ra trước mắt”. Kinh Tôn Na Đa La Ni nói: “Nếu tụng niệm rồi cho đến thấy tướng hảo hiện ra trong mộng thì diệt được tội kia. Nếu mộng thấy Thiên nữ trao cho sữa, lạc, thức ăn thì xa lìa được tội kia, hoặc thấy mặt trời mặt trăng xuất hiện giữa hư không, lửa bốc dữ dội, các loài trâu và các gã đàn ông đen đúa sợ hãi bỏ chạy, hoặc mộng thấy chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni hoặc sữa, cây cối, voi trắng, trâu trắng, núi non, thuyền bè, điện đường và tòa sư tử, lắng nghe diệu pháp thì nên biết tất cả đều là tướng diệt tội”. Phẩm Như Lai Hình Tượng nói về hành đối trị: “Nếu có người xoa đồ bất tịnh vào thân mùi hôi thối đáng ghét rồi dùng nước tẩy sạch và bôi hương thơm lên thì mùi thối kia biến mất. Như vậy, nếu tạo năm tội vô gián đầy đủ biến khắp mười nghiệp đạo bất thiện nhưng tin hiểu Như Lai rồi tạo hình tượng của Ngài thì tội ấy được tiêu trừ. Do không có tội thì trí tuệ thù thắng và đầy đủ tâm Bồ-đề. Do thù thắng mà hoặc được xuất gia kiên trì tịnh giới”. Kinh Hoa Tích Đà-la-ni nói: “Bấy giờ, Đức Như Lai Sư Tử Du Hý thường trụ trong thế gian trải qua trăm ngàn năm để bố thí các thứ diệu lạc. Sau đó, Như Lai kia nhập Niết-bàn và được xây tháp thờ xá-lợi. Nếu có người lấy tâm Bồ-đề đem một cành hoa cúng dường Như Lai kia, rồi chấp tay xưng danh hiệu hoặc rưới nước cho sạch và đem một tràng hoa, đèn đuốc cúng dường, cho đến đi một bước niệm danh hiệu của Ngài thì không còn nghi hoặc. Nếu người nầy trong một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp mà đọa vào ác đạo thì không hề có việc đó”. Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Vương nói: “Nếu người trì giữ năm giới, mười giới Bồ-tát, bốn giới trọng, hai trăm năm mươi giới của Tỳ- kheo, năm trăm giới Tỳ-kheo ni nhưng lại hủy phạm sợ đọa vào đường ác mà nếu chuyên niệm danh hiệu của Đức Như Lai Dược Sư Lưu Ly Quang, cúng dường Ngài thì người ấy quyết định không đọa vào đường ác. Bấy giờ, Thế Tôn bảo A-nan: Nay Ta xưng tán công đức của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là cảnh giới sâu xa của chư Phật như thế, ông không còn nghi hoặc sanh tâm tin thực không? A-nan bạch Phật: Thế Tôn! Con đối với kinh Phật đã nói, không hề sanh nghi hoặc. Vì sao? Vì thân, ngữ, ý của tất cả Như Lai là chỗ tích tập nhiều thiện hạnh thanh tịnh. Thế Tôn! Mặt trăng mặt trời là rất cao xa, ánh ánh sáng chiếu khắp nhưng cũng có thể rơi xuống đất, núi Diệu cao cũng có thể lay động nhưng những lời của chư Phật nói ra trước sau đều không sai khác. Thế Tôn! Nếu có chúng sanh tín căn không đủ, nghe nói cảnh giới sâu xa của chư Phật liền phát khởi nghi hoặc rằng làm sao chỉ niệm danh hiệu một Đức Như Lai mà đạt được công đức thắng lợi như thế! Do không tin nên người kia sanh hủy báng, phải ở trong đêm dài tăm tối mất hết lợi ích. Phật bảo A-nan: Cảnh giới sâu xa của chư Phật rất khó tin hiểu. Nay ông tin hiểu thì nên biết là nhờ vào uy thần của Như Lai thiết lập. Ngoại trừ Bồ-tát một đời nữa làm Phật còn các Thanh-văn, Duyên giác và Bồ-tát chưa đăng địa đều không thể hiểu”. Kinh kia lại nói: “Nếu có thiện nam, thiện nữ, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca trì giữ đầy đủ tám phần trai giới trong suốt một năm hay ba năm thọ nhận học xứ nầy rồi dùng thiện căn ấy nguyện sanh sang cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật Vô Lượng Thọ nhưng nếu được nghe danh hiệu của Phật Dược Sư Lưu Ly thì khi mạng chung người ấy được tám vị Đại Bồ-tát đều dùng thần thông hiện hóa trước mặt thuyết chánh đạo, lại có nhiều thứ sắc hoa hiếm thấy ở đời cùng các hoa sen báu tự nhiên hóa sanh khiến người ấy sanh lên cõi trời. Được chỗ sanh như vậy là nhờ vào thiện căn đời trước. Do đó thật vô cùng tận và cũng không sợ đọa lạc vào đường ác. Sau khi mãn thọ ở cõi trời, người ấy sanh vào ở cõi người làm bậc Chuyển luân vương thống trị bốn châu thiên hạ”.  <卷>QUYỂN 12 <詞>Phẩm 8: THANH TỊNH Phần 3 Như vậy, người ấy cùng với vô lượng trăm vạn ức Bồ-tát trụ ở mười đạo nghiệp thiện. Về sau lại sanh vào giòng dõi Sát-đế-lợi, Bà-la- môn, Trưởng giả với tài vật sung túc kho tàng vật báu vô hạn, sắc tướng đoan nghiêm và quyến thuộc v.v… mọi thứ đều đầy đủ. Kinh kia lại nói: “Nếu có người nữ được nghe danh hiệu của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thọ trì đọc tụng rồi sau sẽ được chuyển thân người nữ”. Kinh Văn Thù Trang Nghiêm Phật Sát Công Đức nói: “Diệu Cát Tường thưa: Con cũng cung kính Bồ-tát Thượng Tuệ, Bồ-tát Quang Tràng, Bồ- tát Như Ý Nguyện, Bồ-tát Tịch Căn. Nếu có người nữ nào thọ trì danh hiệu của bốn vị Bồ-tát nầy thì được chuyển thân nữ, về sau không còn thọ thân nữ nữa”. Luận nói: Hành đối trị như trước đã nói, nay trình bày về lực chế chỉ. Kinh Địa Tạng nói: “Nếu Bồ-tát lìa sát sanh tức là bố thí cho tất cả chúng sanh sự không sầu, không sợ, và không buồn lo kinh hãi. Bồ-tát thường lấy quả báo thiện căn nầy đi vào biển sanh tử luân hồi năm nẻo để giúp hóa độ chúng sanh. Vì sát sanh nên chúng sanh tạo ra tất cả nghiệp chướng của thân, ngữ, ý hoặc tự giết, hoặc bảo người khác giết hay thấy người giết mà sanh tâm vui vẻ. Do đó, Bồ-tát xa lìa vòng sát sanh luẫn quẫn nên tất cả mọi nghiệp chướng bị tiêu diệt cho đến không thọ quả báo. Đối với thân hiện tại được thọ mạng lâu dài khiến chư Thiên và loài người luôn luôn ưa thích. Lại nữa, Thiện nam tử! Nếu Bồ-tát cho đến hết đời xa lìa việc lấy của không cho tức là bố thí cho tất cả chúng sanh sự không lo sợ và không bức xúc, không sanh loạn động. Bồ-tát ấy đối với tài lợi của tự thân thường an vui biết đủ và quyết không mong cầu lấy tài lợi phi pháp. Đồng thời dùng thiện căn nầy làm cơ sở xa lìa trộm cắp, khiến tất cả nghiệp chướng tiêu trừ không còn sót lại và không thọ nhận quả báo ấy. Như vậy, mười đạo nghiệp bất thiện cũng có thể trực tiếp phá hoại sự tu thiện của tự thân”. Kinh Nguyệt Đăng nói: “Nghe sân hận mà tội diệt thì cũng như kẻ ngu phu không thật sân hận mà lại thóa mạ và phỉ báng. An trụ vào pháp nhẫn thì hàng phục hết các tội nghiệp đã tạo trong quá khứ và đối với sự khởi tâm sân của Bồ-tát…”. Luận nói: Về lực chế chỉ như trên đã trình bày nay phải nói về lực y chỉ. Thuyết duyên khởi giải thích “Nếu có thể quy y Phật thì không đọa vào đường ác, xả thân người nầy rồi liền được sanh vào cõi trời. Nếu quy y Pháp, quy y Tăng thì cũng giống như trên đã nói…”. Kinh Từ Thị Giải Thoát nói: “Nếu Bồ-tát làm thanh tịnh các nghiệp chướng, các pháp bất thiện biến khắp cả đại địa nhưng khi kiếp hỏa khởi lên thì tất cả sở hữu đều thiêu đốt hết. Nhẫn đến ví như có người dùng một lượng điểm nước Hát-tra-ca với ngàn lượng sắt để tạo thành vàng ròng thì chẳng phải nhiều lượng sắt kia có khả năng khiến cho giọt nước trở lại thành sắt. Sự phát tâm Nhất thiết trí cũng lại như vậy, dùng một thiện căn để hồi hướng về trí tuệ có thể nhiếp thọ tất cả nghiệp chướng phiền não thành Nhất thiết pháp trí chứ chẳng phải nghiệp phiền não có thể khiến cho Nhất thiết tâm trí trở lại làm phiền não. Nầy Thiện nam tử! Nếu có người cầm một ngọn đuốc đi vào nhà tối tức thời có thể phá tan bóng tối ngàn năm cố hữu. Sự phát khởi tâm nhất trí cũng lại như vậy. Nếu đi vào nhà tâm u ám vô minh của một chúng sanh thì đều có thể phá tan trăm ngàn nghiệp chướng phiền não cố hữu không thể nói hết và phát ra ánh sáng trí tuệ. Thiện nam tử! Như Đại Long Vương trên đầu có chứa ngọc ma ni như ý nên không có oán thù khác làm cho hoảng sợ được. Tâm Bồ-đề nầy cũng lại như vậy. Nếu Bồ-tát có đầy đủ tâm đại bi thì dù có đi vào đường ác cũng không sợ hãi”. Kinh Ưu-ba-ly Sở Vấn nói: “Bồ-tát trụ Đại thừa nầy ở thời gian đầu ngày có phạm tội mà giữa ngày ấy không xa lìa tâm Nhất thiết trí, thì như vậy Bồ-tát được đầy đủ giới uẩn. Nếu giữa ngày có hủy phạm tội mà sau đó cuối ngày không xả bỏ tâm Nhất thiết trí thì Bồ-tát cũng được đầy đủ giới uẩn. Ta phải nói thứ tự như vậy. Phật bảo Ưu-ba-ly: Trụ nơi Đại thừa Bồ-tát nầy hoặc khi xả học xứ giới nhưng đối với Bồ-tát kia chớ có khởi việc ác cũng chớ có tùy chuyển. Nếu lại đối với hàng Thanh-văn kia lần lượt mà nói là có tội hủy phạm. Tuy nhiên, người Thanh-văn nói là mất giới uẩn nên phải biết như vậy cho đến nói rộng”. <詞>Phẩm 9: NHẪN NHỤC Luận nói: Nhẫn nhục nầy chẳng những không xa rời mà còn có nhiều pháp môn chuyển hóa, lại khéo thủ hộ khiến giới uẩn tăng trưởng. Như vậy, xa lìa được nghiệp chướng ràng buộc và phá các kiết phiền não. Cho đến nghe nhẫn mà không thể nhẫn làm giảm mất sự tinh tấn, nên lười biếng thoái lui. Hoặc lại không nghe, không biết phương tiện đẳng trì, do không có phương tiện làm thanh tịnh các phiền não nên lười biếng thoái lui, chỉ vì nghe tu tập rồi mà thực hành còn tạp loạn. Nghóa là chịu khổ chuyên cần đọc tụng ở trong rừng núi sâu, hành giả tạm dừng tạp loạn nhưng tâm không có phương tiện đẳng trì. Sự đình chỉ nầy cũng thuộc về đẳng trì còn không có quả nhỏ, huống hồ làm thanh tịnh các phiền não. Giả sử có tu pháp quán nầy cũng làm mất ít pháp thiện, huống gì nói làm thanh tịnh các phiền não. Kinh Pháp Tập nói: “Bàn về nhẫn nầy thì có ba loại. Đó là: Nhẫn an trụ ở khổ, nhẫn quán sát thật pháp và nhẫn chịu oán thù làm hại. Nhẫn an trụ ở khổ tức đạt được cứu cánh sự đối trị khổ sở và diệt trừ chấp trước ái lạc cùng hai loại phiền não khác tức sân nhuế và lười biếng”. Kinh Nguyệt Đăng nói: “Người chấp trước vào ái lạc cũng không thể xả bỏ khổ”. Kinh Bảo Vân nói: “Nếu dung nạp hoài nghi, ưu, bi, khổ não thì phải trụ vào phương tiện nhẫn mà điều phục”. Kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn nói: “Lại nữa, Trưởng giả Bồ-tát tại gia nên phải xa lìa sự tổn hại không như lý, chớ bám vào tám pháp của thế gian như vợ, nô bộc và các sự thọ dụng tiền tài lúa gạo… cũng không nên lấy sự cao ngạo làm niềm vui. Giả sử gặp phải các điều xấu ác cũng không chịu hạ thấp mình sầu não. Nên quán thế nầy: Các tướng hữu vi, đều là huyễn hóa tạo thành nên khi khởi lên cao ngạo thì liền chấm dứt, diệt trừ tội báo. Nghóa là biết rõ cha mẹ, con cái, nô bộc, thân thuộc, bạn bè… nầy vốn chẳng phải của ta và ta vốn cũng chẳng phải là họ”. Như có kệ nói: Nếu có tập căn bản Do gì khởi sầu não Hoặc không Tập căn bản Sao lại khởi ưu sầu. Gọi là tập căn bản, là vì si, khuể, não, mê man mỏi mệt, lười biếng, hoặc chấp trước sức mạnh khởi lên lỗi lầm lớn, nếu si mê nu- ối tiếc ăn năn thì tuổi thọ thoáng chốc chẳng còn lâu, nên phải xa lìa những việc không ích lợi nầy, đó là việc khó. Luận nói: Sao gọi là xả bỏ sầu não ấy? Nghóa là phải phát khởi tâm xem thường đối với chúng. Kinh Tối Thượng Sở Vấn nói: “Đối với xả ly nầy tức là khiến tâm nhu nhuyến như nhìn thấy sợi tơ mỏng”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nên như vua Thắng Tài, Đồng nữ phát khởi tâm như vậy để diệt trừ các phiền não, dùng tâm “Vô Năng Thắng” để phá hoại các sân nộ, dùng tâm bất động ở trong biển chúng sanh mà không thoái đọa cảnh giới của thâm tâm”. Luận nói: Người tu tập như vậy thì không cho đó là khó. Như có người ngu chấp rằng nếu không cần cù vác cày làm ruộng, săn bắn, chế phục được khổ nhọc mà hy vọng đạt được kết quả vi tế, thì cũng như đối với tâm trần cấu uế không hối não mà lại mong cầu các hành diệu lạc nầy. Niềm vui của các Bồ-tát là làm việc tối thắng để đạt đến quả vô thượng. Lại như các người hèn mọn không có chút lợi ích gì đối với tự thân khó làm mà còn không trừ bỏ, chỉ vì tự trói buộc sự suy nghó, ương bướng nên thọ nhận như quyết hơn thua. Huống gì những thứ nầy từ lâu đã vô ích, chịu nhiều khổ não! Do đâu mà đối với chút ít pháp thiện không thể hy vọng nắm bắt? Các hình phạt ở địa ngục và các giặc hại ở thế gian, cũng như ngục tốt đang cầm giữ tội trọng để xử phạt không bỏ sót. Tùy tội tạo tác mà gặp quả báo thật là thống khổ, não hại chẳng chút oan ức. Cho nên, Bồ-tát ở thời gian lâu xa, không có ràng buộc, cần lao khổ nhẫn phá trừ giặc phiền não hết sạch không còn thiếu sót, ở trong ba cõi đầu đội mũ thù thắng, cầm giữ pháp khí phá tan các ma oán giải cứu chúng sanh bị trói buộc. Do trước có tu tập khắc phục khổ não mà nay được thành tựu. Đối với chúng sanh tu tập khổ tưởng lạc, nghóa là khi các khổ khởi lên thì theo đó mà tu tưởng an vui. Nếu trụ vào tưởng an vui tức có thể thành tựu quả nầy mà đắc thiền định nên gọi là vượt lên trên các pháp lạc. Kinh Phụ Tử Tập Hội nói: “Phật dạy có loại thiền định siêu vượt các pháp lạc. Nếu Bồ-tát được các định nầy thì đối với các cảm thọ sự duyên như là lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ… chẳng phải chỉ một nhân duyên như nó vốn có mà đạt được tưởng an vui. Ví như có người cắt đứt tay chân, tai mũi… rồi ngay chỗ đó tưởng được an vui. Và dùng roi đánh vào thân mình mà tưởng an vui, hoặc bị trói buộc trong lao ngục khổ sở mà tưởng an vui. Nghóa là tưởng có y áo, tưởng có đèn dầu, tưởng có thức ăn… Hoặc tạo mặt cú vọ, tạo mặt sư tử, tạo mặt hung bạo cho đến tạo ra tiền vàng, tạo ra việc ăn uống, dâng rượu v.v… mà tưởng an vui. Hoặc bị móc mắt phá hoại mạng căn gây ra các sự tổn hại và đoạn đầu mà tưởng an vui, tưởng không khổ không vui. Vì sao thế? Vì Bồ-tát nầy có nguyện lực tu tập trong suốt đêm dài sanh tử như vầy: Hoặc ta vì người chạy theo khiến cho được gần diệu lạc, hoặc ta vì người phạm tội thì cũng vì để thừa sự tôn trọng, cung kính cúng dường khiến cho tất cả thời xứ được gần diệu lạc. Hoặc như gặp lời nói ác chê bai hay kẻ dùng dao gây đánh đập đến nỗi hủy hoại mạng căn thì tất cả điều ấy chỉ vì được niềm vui Bồ-đề và thành quả A-nậu-đa- la-tam-miệu-tam-Bồ-đề. Đầy đủ tác ý, sự nghiệp và nguyện lực như vậy, cũng lại đầy đủ tất cả chúng sanh tùy biết tưởng lạc gần gũi tu tập nên đối với nghiệp báo kia có nhiều sự tu chỉnh mà đạt được các pháp lạc thiền định. Nếu khi Bồ-tát chứng đắc cho đến tất cả pháp lạc thiền định thì đạt được tâm bất động khiến các ma sự hoại diệt. Nhờ phương tiện nầy mà viên mãn tất cả pháp xả thí, thành tựu tất cả pháp khổ hạnh khó làm, kiên trụ tất cả pháp nhẫn nhục, sách động tất cả pháp tinh tấn và hỗ trợ tu tập các thiền định trí tuệ nên thường an vui”. Kinh Nguyệt Đăng nói: “Thường vui vẻ tôn trọng và thường trụ chánh giác”. Kinh Vô Tận Ý nói: “Sao gọi là vui vẻ? Nghóa là vui vẻ mà niệm pháp tín thanh tịnh, phát khởi tâm dõng mãnh không sanh biếng nhác, không có các bức xúc, không cầu năm thứ dục lạc, không lìa tất cả pháp lạc. Do tâm kiến lập thân vui, biết vui khởi lên ý an lạc điều hòa, nên mong cầu thân tướng đẹp đẽ trang nghiêm của Như Lai, khéo léo nghe pháp, không hề chán, nương vào thật pháp để thực hành. Nhờ vào pháp mà sanh khởi sự vui thích và tin tưởng thanh tịnh. Tuy nhiên đối với chúng sanh hiểu rõ thì không trở ngại, lấy dục, cần tối thắng mà cầu pháp Phật không bỏ pháp dục, tin hiểu rộng lớn diệu pháp của chư Phật, đã chỉ bày các thừa giải thoát đã phát tâm tối thượng trừ bỏ sự xẻn tiếc. Nếu mới phát tâm bố thí, đang bố thí, bố thí xong phải ba luân thanh tịnh, vui vẻ mà bố thí. Đối với giới luật vi diệu cũng thường thanh tịnh. Do trì giới thanh tịnh thu nhiếp các sự hủy phạm mà siêu vượt sự sợ hãi của các đường ác, hướng về giới cấm của Phật giữ gìn không thiếu sót. Nếu có người khác xấu đến chửi mắng, làm nhục, thì lời nói, đạo tâm không ra sức đáp trả, chỉ vui vẻ, điềm nhiên cố nhẫn chịu chuyển thành ý tôn trọng cho đến không có sự kiêu mạn. Dung mạo thường ôn hòa khiêm cung xa lìa sự cau có. Trước hết dùng lời ái ngữ không có dua nịnh hiểm độc và ý trong sáng không tà vạt, tâm không thô tháo. Thấy người khác hơn mình cũng không tìm cách ức chế, không dò xét và bêu rêu lỗi lầm sai trái của người khác, nên tu pháp hòa kính và đối với chúng Bồ-tát thường cung kính như Phật. Do kính trọng pháp của chư Phật mà tiếc cho thân mạng lỗi lầm, nên đối với các bậc sư trưởng xem như cha mẹ của mình, đối với chúng sanh thì giữ gìn giống như con một. Đối với Hòa thượng, A-xà-lê cung kính tưởng như Phật. Đối với các chánh hạnh thì đều tôn trọng hàng đầu, yêu thích thực hành các pháp Ba-la-mật như mến tiếc tay chân, đối với các sự thuyết pháp xem như báu vật, các lời dạy bảo sống trong chánh pháp như thân cận ngũ dục, đối với hạnh hỷ túc thì xem như không có bệnh não, cầu pháp thắng diệu xem như hy vọng gặp thuốc hay, phải bày tỏ lỗi lầm thì xem như giải bày bệnh cho thầy thuốc. Như vậy, nên điều phục chế ngự các căn khiến chúng không còn lười biếng. Đây gọi là hỷ”. Luận nói: Nói về học xứ trang nghiêm của Bồ-tát thì như kinh Đại Vân nói: “Nếu vui ở địa ngục, bàng sanh thì đối với địa ngục tâm thường định giới. Tuy ở địa ngục mà luôn được tự tại. Lại nữa, thích địa ngục tức đối với địa ngục, tâm sanh yêu đắm và keo kiệt ganh ghét. Khiến cho lửa địa ngục đã cháy càng cháy mạnh hơn”. Luận nói: Bàn về việc an trụ khổ nhẫn thì như kinh Hải Ý nói: “Có ba loại nhẫn. Phật bảo Hải Ý: Bồ-tát như chỗ phát tâm Nhất thiết trí của mình thì hoặc bị phi nhân hủy phạm tịnh giới. Nghóa là các ma, dân ma, thiên ma, quyến thuộc ma dùng sức lực khiến sứ giả của ma cố đến xâm hại kích động, đánh đập… Bồ-tát ở trong lúc ấy phải dùng tâm Bồ-đề kiên cố sâu xa làm pháp khí khiến không phá hoại được, cũng không thể hủy hoại tâm đại bi tinh tấn giải thoát tất cả chúng sanh, cũng không thể hủy hoại làm cho dòng Tam bảo dứt đoạn, cũng không thể hủy hoại các pháp Phật và sự tích tập các gốc thiện tương ưng ở trong đó, cũng không thể hủy hoại sự thành tựu tướng hảo tu tập hành phước, cũng không thể hoại sự tinh tấn dõng mãnh trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, cũng không thể hoại việc cầu tất cả pháp, không tiếc thân mạng, cũng không thể hủy hoại việc độ tất cả chúng sanh và không tham trước lợi lạc bản thân. Nói chung đối với các việc ấy Bồ-tát đều lấy tâm sâu xa tác ý đầy đủ như vậy. Nếu bị sự ác tặc của tất cả chúng sanh hoặc gặp kẻ sân si chửi mắng, đánh đập thì Bồ-tát đều có thể nhẫn thọ. Nếu tất cả chúng sanh đem tâm xấu ác đến não hại bức bách thì Bồ-tát cũng kham nhẫn, không mỏi mệt, nhàm chán mà thoái mất. Ngược lại, Bồ-tát lấy thế lực dõng mãnh tinh tấn để điều phục, trụ trong pháp khổ nhẫn mà khởi tâm nhiếp thọ. Lại nếu có người đem tâm ác đến hoặc đánh đập gây tác hại bức bách thì Bồ-tát đối với tâm như vậy không ra sức đáp trả. Cho đến nếu có người ở trong mười phương thế giới dùng các binh khí truy đuổi người kia đến cùng, đến một địa phương nọ cho đến khi đi đứng nằm ngồi cũng bị truy bắt. Chính ở nơi đây gặp một người phát tâm Bồ-đề, tâm bố thí cho đến tâm trí tuệ, nghe người kia nói mà phát khởi một tâm thiện căn: Ta nên đến địa phương kia cho dù có bị đoạn tiệt thân mình dù rơi lả tả như lá cây hay bất cứ điều gì xảy ra ta cũng đều kham nhẫn. Lại nếu tất cả chúng sanh trong thế gian đều khởi sân nhuế nói lời ác chửi mắng hủy nhục, thậm chí đoạn cắt thân ta ra từng đoạn rã rời như lá cây rơi lã tã thì lúc ấy đối với chúng sanh nầy ta không hề khởi một chút tâm nhiễu động. Vì sao? Vì thân nầy của ta ở trong kiếp quá khứ vô lượng vô số kiếp luân hồi sanh tử chẳng điều gì mà không làm hoặc ở địa ngục, súc sanh, Diễm-ma-la, cho đến nay sanh trong loài người đắm trước việc ăn uống, thọ dụng các dục và nghe điều phi pháp, đồng thời gian khổ tìm cầu sự nuôi dưỡng tà mạng gặp phải nhiều bức bách. Do vậy, đối với thân mạng chưa từng có kết quả lợi ích. Mặc dù có đủ loại hành động mưu tính, nhưng duyên vào chúng chẳng thể được tự lợi, lợi tha. Giả sử lại sống ở rốt cùng của sanh tử khiến các chúng sanh cắt đoạn thân ta thành từng mảnh vụn thì thà thọ khổ ta cũng không bao giờ xả bỏ Nhất thiết trí, lại cũng không bỏ tất cả chúng sanh và sự ham muốn pháp thiện. Vì sao? Vì thân nầy của ta tuy có nhiều thứ bức não khổ thiết hủy hoại, mà so với khổ não trăm lần ngàn lần ở địa ngục cho đến các phần của trường phái Ưu-ba-ni-sát cũng không bằng một phần của nó. Lại nữa, ở trong pháp Phật không xả bỏ tâm đại bi vốn duyên với tất cả chúng sanh. Nếu vì có gì đó mà khởi sân nhuế, ta phải lấy pháp mà đoạn trừ. Sao gọi là pháp? Nghóa là sự ái lạc đối với thân, sự hệ thuộc ở thân, sự chấp trước ở thân. Xả bỏ thân nầy tức là xả bỏ sân nhuế. Phật bảo Hải Ý: Đối với tu pháp như vậy mà thâm nhập vào tức là có khả năng chịu đựng tất cả sự bức não của chúng sanh. Nếu không luyến tiếc thân mình mà có thể xả bỏ, cũng không có ái lạc tức là có thể tu tập bố thí Ba-la-mật. Lại nữa, nếu khi thân muốn hoại diệt và dùng đại từ không xả bỏ chúng sanh tức là có thể tu trì giới Ba-la-mật. Nếu khi thân sắp hoại diệt mà vẫn như nghóa giải thoát để chịu đựng nhẫn thọ, lúc nhẫn phát ra khiến tâm không dao động tức là có thể tu nhẫn nhục Ba-la-mật. Nếu dùng lực chuyên cần dõng mãnh không xả bỏ nhiếp thọ tâm Nhất thiết trí ở trong sanh tử mà phát khởi các thiện hạnh tức là có thể tu tập tinh tấn Ba-la-mật. Nếu khi thân hoại diệt, ở tâm phát hiện Nhất thiết trí không bỏ Bồ-đề, như thật quán sát sự vắng lặng thù thắng thì có thể tu thiền định Ba-la-mật. Nếu khi tâm muốn hoại mà quán sát thân huyễn mộng như cỏ cây, ngói đá… hiểu rõ thân nầy là vô thường, khổ, vô ngã tịch tónh tức như thế quán sát thật đế thân nầy, đây tức có thể tu Thắng tuệ Ba-la-mật. Hơn nữa, giả sử có người đem tâm ác đến giận dữ, hủy nhục mình thì nên nghó rằng người ấy biếng nhác, xa lìa pháp thiện. Ta nay nên phát khởi sự chuyên cần tinh tấn tu tập để gieo trồng các gốc thiện chớ có nhàm chán, bèn nguyện cho người ấy trước ngồi ở đạo tràng rồi cuối cùng Ta mới thành tựu chánh giác”. Nói chung, tất cả chúng sanh ấy gọi là chưa điều phục, chưa tịch tónh, chưa cẩn mật hộ trì nhưng vì làm lợi ích cho họ nên ta phải mặc áo giáp nhẫn nhục để trang nghiêm. Nhẫn đến, ta nương vào pháp nầy để biết rõ sao gọi là sân, sao gọi là không sân, cả hai thứ đều không thể được. Lại nếu sân, chẳng sân hoặc mình hoặc người, sân với người sân đều không thể được. Đã không được gì còn xa lìa cái thấy nầy, đây gọi là nhẫn. Kinh Bát Nhã nói: “Nếu các chúng sanh có tranh chấp thì Bồ-tát nên khởi tâm nầy: Ta phải khuyên họ tránh khỏi. Ta nay đối với sự tranh chấp nầy không gặp trở ngại. Nếu có khởi tranh chấp thì ta nên đối với chúng sanh làm cầu nhẫn hòa. Nếu ta bị người khác đem lời ác chửi mắng hủy nhục thì nên bảo rằng ông tại sao nói lời nầy? Và không nên ra sức đáp trả. Vì chỉ có người ngu si và dê câm mới không khởi lên tranh chấp. Người khác hoặc đem lời ác đến hủy nhục mình thì nên đừng đem tâm gây tổn hại họ mà phải thân gần họ để nói lời pháp thiện, không nên tương tợ người kia khởi lên lỗi xấu nầy. Hơn nữa, nếu ta nghe tội lỗi của người khác thì cũng không làm giống họ. Vì sao? Vì ý của ta không có sân giận. Lại nếu tất cả chúng sanh muốn có các thứ diệu lạc thì ta nên cho họ diệu lạc, cho đến Niết-bàn thành tựu chứng quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề. Tuy nhiên, ta đối với người khác không hề khởi sân nhuế và đối với mình, người cũng không khởi hạnh ngu si mà chỉ tu tập tinh tấn kiên cố. Nhờ vào tinh tiến kiên cố nên dù có thân hoại mạng chung cũng không hề sân giận hiềm khích”. Lại nữa, kinh Bồ Tát Biệt Giải Thoát nói: “Nếu đối với chúng sanh sân nộ thì phải như vậy mà an ủi, thật khéo an ủi an trụ nhẫn nầy được tùy thuận pháp hỷ”.  <卷>QUYỂN 13 <詞>Phẩm 10: TINH TẤN BA LA MẬT Luận nói: Tuy nghe trụ nhẫn như vậy, phát khởi tinh tấn nhưng đối với điều nầy chưa nghe sẽ khởi hủy phạm. Như kệ trong kinh Nguyệt Đăng nói: Trái pháp không hộ giới Thì được bao nhiêu phước Phá giới dẫu đa văn Không thể thoát đường ác! Luận nói: Do nghe đầy đủ mà khả năng thù thắng. Kinh Na La Diên Sở Vấn nói: “Thiện nam tử! Như những gì nghe hiểu mà đạt được tánh tuệ thù thắng. Nhờ việc nghe mà dứt trừ phiền não khiến ma phiền não không có cơ hội khởi lên”. Trong đây trình bày rộng như kinh Tối Thượng Đại Tiên Bổn Khởi nói: “Bồ-tát có đầy đủ tâm sâu xa tôn trọng dục pháp ở trong thế giới khác hiện ra trước chư Phật tùy nơi mà lắng nghe pháp. Nếu Bồ-tát tinh tấn muốn pháp thì ở nơi rừng núi tích chứa pháp tạng và được vô lượng pháp môn kinh điển dễ như trong lòng bàn tay. Lại nữa, các Bồ-tát tinh tấn muốn pháp mà được chư Phật hiện ra trước mắt và chư Thiên v.v… cùng với biện tài của Phật cho đến khi mạng sống sắp hết được Phật Thế Tôn và chư Thiên v.v… làm tăng tuổi thọ và sắc lực tươi tỉnh để mạng sống kéo dài trong ngàn năm vượt ngoài ý mong cầu trước đó. Đồng thời được Phật và chư Thiên gia trì thủ hộ cho đến sống một kiếp. Lại nữa, các Bồ-tát sống tôn trọng pháp thì được Phật Thế Tôn diệt trừ khổ già bệnh chết, được trao cho chánh niệm và thông suốt biện tài. Cho đến được trao cho chánh kiến, tùy theo kiến giải có thể thuyết. Lại nếu Bồ-tát tinh tấn muốn pháp thì không sợ tất cả sự đối địch của người khác v.v… Do đó, đối với tư lương tinh tấn, đa văn và các thiện xảo, Bồ-tát nên khéo tu tập như vậy”. Luận nói: Bồ-tát nghe bao nhiêu loại hành thì mới hiểu nhập Tỳ- nại-da? Kinh Vô Tận Ý nói: “Do nghe tám mươi loại hành mà có thể thâm nhập và tin hiểu. Tám mươi loại hành ấy chính là hành mạnh muốn, hành tâm sâu xa, hành tâm kiên cố, hành tương ưng, hành không cao ngạo, hành không phóng dật, hành cung kính, hành tôn trọng cực độ, hành lìa danh tướng, hành nói lời thiện, hành thừa sự, hành nghe lợi ích, hành tác ý, hành không tán loạn, hành không bám trụ, hành thật tưởng, hành tưởng thuốc thang, hành tiêu trừ tất cả bệnh tật, hành chánh niệm, hành đạt hiểu biết, hành ý vui vẻ, hành ngộ nhập, hành lắng nghe pháp Phật mà không nhàm chán, hành xả rộng lớn, hành hiểu biết rõ mà điều phục, hành gần gũi đa văn, hành an vui chấp nhận sự tạo tác, hành thân dõng mãnh, hành tâm an vui, hành nghe không biếng nhác, hành nghe nghóa lý, hành nghe pháp, hành nghe oai nghi, hành lắng nghe lời nói người khác, hành nghe diệu pháp chưa nghe, hành nghe thần thông, hành không thích thừa khác, hành nghe các pháp Ba-la-mật, hành nghe Bồ-tát tạng, hành nghe nhiếp sự, hành nghe phương tiện khéo léo, hành nghe phạm hạnh, hành nghe chánh niệm chánh trí, hành nghe thiện xảo đã sanh, hành nghe thiện xảo chưa sanh, hành hành quán bất tịnh, hành quán từ bi, hành quán duyên sanh, hành quán vô thường, hành quán khổ, hành quán vô ngã, hành quán tịch diệt, hành quán không, vô tướng, vô nguyện, hành vô tác, hành khéo làm, hành kiến lập chân thật, hành không giảm mất, hành sống một mình, hành giữ gìn tự tâm, hành tinh tấn không biếng nhác, hành quán sát thật các pháp, hành đối trị phiền não, hành mong cầu riêng phần pháp thiện, hành hàng phục phần phiền não của người khác, hành nương tựa thất thánh tài, hành đoạn sự bần cùng, hành tán thán trí các hữu, hành vui mừng gặp bực trí, hành bình đẳng của thánh chúng, hành tịnh tín của bậc phi thánh, hành kiến đế, hành xa lìa tai họa của các uẩn, hành suy lường tội lỗi của pháp hữu vi, hành nương theo nghóa, hành nương theo pháp, hành biết tất cả việc ác, hành lợi ích mình và người, hành tu tập pháp thiện không phát khởi nghiệp khác, hành hướng đến sự thù thắng, hành tất cả pháp Phật vốn đạt được”. Kinh kia lại nói: “Nếu ở trong trợ pháp tương ưng tức đạt được nghiệp trí như vậy. Sao gọi là trợ pháp tương ưng? Nghóa là ít việc, ít cầu mong và thận trọng trong lời nói việc làm. Lại nữa, từ đầu đêm cho đến cuối đêm luôn lắng nghe các pháp thế gian mà thuận theo lý tương ưng, luôn luôn tìm tòi suy tư việc làm lợi ích người khác, tâm không nhiễm ô nhằm trừ hết các ngăn che, chướng ngại. Đối vối sự phạm tội khác dùng trí tuệ để xuất ly mà không khởi việc tạo tác ác và phát khởi tâm hướng đến chánh hạnh kiên cố, thích pháp, kính pháp, vì pháp sâu xa, đầy đủ tinh tấn như cứu đầu cháy, hy vọng trí tuệ đạt đến nơi an nghỉ, không rời giới cấm, không bỏ trọng trách, hướng đến sự thù thắng và xả bỏ sự vô ích, thích một mình ở nơi yên tónh khởi tác ý hiện tiền và thực hành các công đức tháp Phật, gieo trồng chủng tử Thánh, vui mừng biết đủ không tạp loạn, vui thích pháp lạc không nghó đến lời nói của thế gian, cầu pháp xuất thế và thông đạt nghóa lợi không có vọng niệm, tùy thuận chân đạo và biết duyên giữ giới dùng hổ thẹn để trang nghiêm, dùng trí chân thật kiên cố để phá hoại vô trí, lấy tuệ nhãn thù thắng làm sự thanh tịnh vi diệu để hiểu rõ sự ràng buộc của vô minh si ám, hiểu biết rộng lớn không có tà vạy, hiểu biết phân biệt, hiện chứng hiểu biết, không thuận theo người khác mà được, tự giữ gìn công đức của mình và khen ngợi công đức của người khác. Như vậy, nếu khéo tu tập không đọa vào nghiệp báo thì gọi là trí nghiệp thanh tịnh”. Trong văn Bát nhã có nói: “Nên nghe Kinh Luận Phương Quảng như thế nào? Phải nên học như vầy: Chẳng phải nghóa lợi thì nên xa lìa. Như gọi là luận xứ của thế gian: Tiên Bốc luận, Trùng độc luận, Mặc trí luận, Đồng tử hý kịch luận cho đến luận Biệt bộ giải thoát v.v… Tất cả luận như vậy đều hình thành nên sự si ám. Nếu người khéo trụ vào tất cả thừa của Bồ-tát thì đều phải xa lìa các hý luận ấy”. Lại như kinh Vô Tận Ý nói: “Có bốn loại bố thí đối với Pháp sư làm trí tư lương được thành tựu. Sao gọi là bốn? Dùng giấy bút biên chép kinh. Trang hoàng pháp tòa. Cung cấp đủ các thứ như danh văn lợi dưỡng. Vì nhiếp thọ pháp, không đem lời dua nịnh để khen ngợi. Lại có bốn sự hộ trì. 1. Hộ trì tự thân 2.Hộ trì pháp thiện. 3.Hộ trì thế gian. 4.Hộ trì việc lợi ích. Lại có bốn loại trụ làm trí tư lương để được thành tựu. 1.Trụ ở Pháp sư thuyết pháp. 2.Trụ vào Pháp. 3.Trụ ở sự lợi dưỡng. 4.Trụ vào giác ngộ Kinh Hoa Lâu Các nói: “Nếu người đem bảy thứ báu như núi Tu- di cúng dường cho Bồ-tát tại gia thì không bằng lấy một ngàn đồng tiền cúng cho Bồ-tát xuất gia hoặc tin hiểu công đức xuất gia mà bố thí một lóng tay để tu pháp thí khó làm. Nếu tất cả các sở hữu, chỉ trừ xuất gia, có được kết quả lớn ấy thì Như Lai Tối thượng chẳng cần phải nói lý như vậy với tại gia, huống hồ người tại gia vô trí, tâm không đầy đủ pháp thiện”. Kinh Tối Thượng Sở Vấn nói: “Nếu nhất tâm xa lìa sự phạm tội đối với quyến thuộc của người khác thì gọi là vô tội. Người kia nếu không thể xa lìa tánh tội khó điều phục thì đối vối người tại gia kiến lập nên tội nầy”. <詞>Phẩm 11: NÓI VỀ A LAN NHÃ Phần 1 Kinh Tối Thượng Sở Vấn nói: “Nương tựa vào A-lan-nhã rồi sau lại quay về nhà là tánh tội”. Kệ trong kinh Nguyệt Đăng nói: Không khởi vướng dục Xa lìa quyến thuộc Xả bỏ tại gia Được đạo vô thượng Nếu lìa khỏi dục Như tránh hầm lửa Lo sợ ở nhà Xa lìa quyến thuộc Bồ-đề Vô thượng Kia không khó được Chưa có ba đời Chư Phật Như Lai Do thường tại gia Trụ ở địa dục Mà hay đạt được Bồ-đề thắng diệu Xả bỏ vương vị Như bỏ đàm dãi An trú chỗ không Xa lìa các dục Đoạn trừ phiền não Hàng phục ma oán Ly cấu, vô vi Ngộ đạo Bồ-đề Ăn uống, y phục Hoa đẹp hương thơm Mà được thừa sự Bậc thánh trong đời Như xuất gia rồi Phụng hành chánh pháp Nếu có như vậy Người cầu Bồ-đề Khéo lợi chúng sanh Chán việc hữu vi Hướng đến chốn không Dù đi bảy bước Thu được phước báu Tối thắng vô song Hoặc trực tiếp gặp Chẳng chúng đồng phần Ưa ở chúng hội. Mong tài lợi ấy Chúng sanh hành theo Lìa nơi chốn không Là nạn ngu si. Kinh kia lại nói kệ: Trí không tranh với ngu Gay gắt phải nên bỏ Lìa khỏi tâm ác nầy Chớ tranh pháp người ngu Trí không gần với ngu Biết rõ bản tánh ngu Gần nhau lâu ắt khiến Sau sẽ thành oán ghét Trí không bảo thủ ngu Hiểu rõ bản tánh ngu Gọi thể tánh ngu si Tự nên cầu phá hoại Do các phàm phu nầy Đâu có thiện tri thức Nếu pháp cùng ngôn thuyết Không thuận, sân gây tội Pháp ngu nầy rất độc Nên người trí chẳng giữ Pháp ngu cùng người ngu Như phân với bất tịnh Trí lại cùng người trí Như sữa trong bình sữa. Kinh kia lại nói kệ: Thường ở thế gian Xứ vui vô tận Không có ít phần Hoặc vui không vui Chỉ ở suối rừng Tùy được thọ dụng Sa-môn thật vui! Những gì có được Tất cả đều không Không có vướng bận Trói buộc lấy mình Như gió thổi không Như hạnh Độc giác Cho đến thế gian Các sự rất vui Tâm thường như gió Không hề vướng mắc Hoặc vui, không vui Không có tập hợp Nói khổ não nầy Không vui an trú Hoặc nói vui kia Không khổ không trái Vì lìa hai bên Chỉ pháp lạc nầy Khác vui trong đời. Kinh kia lại nói: Khi đã đắc thường Khéo tạo tương ưng Lìa xa các tội Không tranh phần ít Lý tương ưng kia Trụ A-lan-nhã Được công đức nầy Mà thường đạt lấy Không mong hữu vi Không thích thế gian Không tăng hữu lậu Trụ trong rừng núi Được thắng năng nầy Không khởi phần tội Thường vui tịch tónh Thân ngữ ý mật Và hành viễn ly Người trụ “không nhàn” Được nhiều công đức Được chán lìa kia Nhanh ngộ giải thoát Giải thoát tịch tónh. Người ở rừng núi Tức ở giải thoát Nơi A-lan-nhã Được công đức nầy Nương vào suối rừng Mà thường xa lìa Thành ấp xóm làng Vui xa lìa rồi Thường như Độc-giác Không có bạn lữ Chẳng phải đợi lâu Được thù thắng định. Lại nữa, kệ trong kinh Hộ Quốc nói: Xả bỏ tại gia Vô lượng lỗi lầm Cũng thường không thích Lo nghó hiểm, sâu Được vui núi rừng Các căn diệu lạc Công đức tịch tónh Không có nam nữ Vui cười luận nói. Ví có người đến Như hạnh Độc-giác Tâm tịnh không nhơ Không ưa tài lợi Ý không đam mê Luôn luôn muốn ít Thường xa lìa đây Dối cầu cung kính! Kinh Tối Thượng Sở Vấn nói: “Ta không nên tạo ra sự tập hợp của chúng sanh, chẳng phải đối với một chúng sanh mà khởi thiện căn, hoặc do chỗ nghe trước đủ trong một sát na mà đem tâm tham trước tài lợi bất tịnh. Nếu có gặp trời người cũng đều phải xả bỏ”. Kinh Bảo Lâu Các nói: “Phật bảo: Ca-diếp-ba! Thí như có người ở trong vũng nước lớn nhưng lại bị khát nước mà chết. Nầy Ca-diếp-ba! Sa-môn, Bà-la-môn nầy cũng lại như vậy, ở trong nhiều pháp môn thọ trì đọc tụng mà không thể đoạn trừ khát ái, tham, sân, si, ở trong biển pháp lớn lại bị các thứ phiền não khát ái bức bách cho đến chết thì sau sẽ đọa vào đường ác”. Luận nói: Do vậy nên quyết định nương vào A-lan-nhã hoặc nơi tương tự. Lại nữa, kinh Bảo Vân nói: “Nếu trụ ở nơi dễ đi khất thực không gần cũng không xa thành ấp, xóm làng, nơi gần suối, ao hồ để tắm rửa thanh tịnh không dơ bẩn và ít sợ hãi, nơi có lá, hoa quả đều đầy đủ, xa lìa hiễm ác và trụ nơi chỗ hang động hết mực thanh tịnh. Như vậy, Bồ-tát trụ ở chỗ nầy trước hết phải nên đêm ngày sáu thời tự đọc tụng kinh điển tiếng không cao thấp, khéo đóng kín các căn khiến tâm không chạy theo ngoại cảnh. Ở trong tịnh mạng nầy buộc niệm lại một chỗ rồi khéo gìn giữ tướng ấy, không tham đắm sự ngủ nghỉ. Nếu có vua, vương thần, Sát-đế-lợi, Bà-la-môn và các quan khác hoặc người thân thiết đến nơi A-lan-nhã thì Tỳ-kheo kia nói như vầy: Hay thay Đại vương! Như chỗ đã sắp xếp có thể ngồi vào. Nếu khi vua ngồi thì Tỳ- kheo cũng ngồi. Vua không ngồi, Tỳ-kheo cũng không ngồi. Nếu các căn của vua động loạn thì nên nói lời khen ngợi: Đại vương được thiện lợi lớn. Đất nước của vua có nhiều Sa-môn, Bà-la-môn đầy đủ giới đức an trú trong đó, không bị người ác oán tặc gây não hại. Nếu các căn của vua thiện tịnh, có thể kham nhẫn pháp thì hãy thuyết pháp thiện xảo cho vua nghe. Nếu vua không thích pháp thiện xảo thì hãy nói pháp chán lìa. Nếu xét vua không thích pháp chán lìa thì phải nói cho vua biết về Như Lai có đầy đủ từ bi và oai đức. Nếu người đến gặp mình là Sát-đế- lợi, Bà-la-môn và các quan khác thì phải tùy nghi thuyết pháp hóa độ. Nếu những người kia là kẻ đa văn có khả năng nhận lãnh pháp khí thì phải giảng cho họ nghe diệu pháp để hàng phục tâm họ. Những chúng sanh kia do tin ưa pháp nầy mà được vui vẻ lớn”. Kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn nói: “Lại nữa, Trưởng giả! Bồ-tát xuất gia sống ở A-lan-nhã nên quán sát nghóa như vầy: Tại sao ta ở trong A-lan-nhã? Nơi ấy chẳng phải chỉ có tướng Sa-môn mà có nhiều thứ độc hại, chẳng phải quán sát, chẳng phải tónh lặng, chẳng phải luật nghi, chẳng phải tương ưng, chẳng phải chỗ mong muốn cùng ở. Đó là chẳng phải người hay chim thú, đạo tặc, Chiên-đà-la ác xấu cùng ở. Những người kia không đầy đủ công đức của Sa-môn. Bấy giờ, Ta sống chốn A-lan-nhã phải nên làm viên mãn nghóa của Sa-môn. Nầy Trưởng giả! Bồ-tát xuất gia thực hành ở A- lan-nhã phải nên quán sát như vầy: Ta dùng nghóa gì mà đến nơi A-lan- nhã? Ta vì sự sợ hãi nầy. Sao gọi là sợ hãi? Nghóa là sợ hãi nơi huyên náo, sợ hãi tập hợp, sợ tham, sân, si, sợ kiêu mạn, phú hận, sợ ganh ghét và tài lợi, sợ hương sắc vị xúc, sợ ma uẩn, sợ ma phiền não, sợ tử ma, sợ thiên ma, sợ điên đảo vô thường mà cho là thường, sợ vì điên đảo mà cho vô ngã là ngã, sợ vì điên đảo mà cho bất tịnh là tịnh, sợ điên đảo cho chấp khổ là vui, sợ tâm, ý, thức, sợ lìa chướng khởi chướng, sợ thân kiến, sợ ngã và ngã sở, sợ nghi ngờ ba đời, sợ bạn ác, sợ quyến thuộc ác, sợ danh dự lợi dưỡng, sợ không thấy nói thấy, sợ không nghe nói nghe, sợ không biết nói biết, sợ không hiểu nói hiểu, sợ Sa-môn cấu uế, sợ sân nộ hỗ tương nhau, sợ ba cõi, sợ sanh trong các cõi hữu và ba đường ác. Tóm lại, sợ tất cả những tác ý bất thiện. Ta vì sợ hãi các hành tướng ác như vậy nên đến sống ở A-lan-nhã. Nầy Trưởng giả! Bồ-tát xuất gia sống trong A-lan-nhã phải nên học như vậy. Nếu khi cái sợ sanh khởi thì, tất cả đều do ngã chấp mà khởi lên. Nói tóm lại, sống trong A-lan-nhã xa lìa ngã chấp tức là vô ngã, vô ngã sở, vô ngã tướng, vô ngã tưởng, vô ngã ái, vô ngã kiến, không bị ngã trói buộc, không bị ngã toan tính, lìa bỏ ngã, không thể vì thủ hộ tâm như vậy mà trụ ở A- lan-nhã thì điều nầy không có lợi ích. Lại nữa, Trưởng giả! Người trụ ở chỗ thanh tịnh thì không tưởng đến bản thân, không tưởng đến người khác. Nếu đối với các pháp không nói tức ở trong các pháp không có tạp loạn. Nầy Trưởng giả! Thí như chỗ A-lan-nhã có cỏ thuốc, rừng cây không sợ hãi kinh hoàng, cũng không có sợ đến nỗi lông tóc dựng đứng. Bồ-tát xuất gia trụ ở A-lan-nhã cũng lại như vậy. Đối với thân phát khởi tưởng như cỏ thuốc, rừng cây, cầu, tường vách, ngói, đá v.v… Tâm vốn như huyễn thì làm gì có chỗ sanh khởi phân biệt và có sự sợ hãi đến nỗi dựng tóc gáy. Như vậy, tâm sâu xa đối với thân mà quán sát: Thân nầy không có ngã, chúng sanh, thọ giả, dưỡng giả mà do ý sanh khởi nên hư vọng biến khắp. Sự sợ hãi nầy chỉ là giả danh, hư vọng, biến kế nên không cần phân biệt. Như cỏ thuốc, rừng cây ở chốn A-lan-nhã kia không có chủ tể cũng không có sự nhiếp phục. A-lan-nhã nầy không có sự nhiếp thuộc cũng lại như vậy. Đối với tất cả pháp đã biết như vậy rồi thì nên khởi hạnh ấy. Vì sao? Người trụ ở chốn thanh vắng giống như thây chết sình lên không có chủ tể cũng không có sự nhiếp thuộc. Lại nữa, Trưởng giả! Bồ-tát xuất gia giống như trụ ở chốn thanh vắng. Đối với điều nầy đã biết nương vào lời Phật dạy trụ ở A-lan-nhã tức được tròn đầy pháp thiện và gieo trồng thiện căn sâu xa. Sau đó đi đến xóm làng thành ấp, vương cung mà thuyết pháp cho chúng sanh nghe. Lại nữa, Trưởng giả! Bồ-tát xuất gia đọc tụng giảng nói, giải thích nghóa lý kinh điển, đi vào trong chúng kia mà được cung kính, thân gần Hòa thượng, A-xà-lê và bậc Trưởng lão nhưng đối với các tân Tỳ-kheo cũng nên tôn kính mà không lười biếng, thảy đều tự mình sắp xếp việc làm không khiến họ phiền não, cũng chớ khiến họ phải tôn trọng mình. Phải nên quán sát như vậy. Lại nữa, Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác được chư Thiên, loài người, Sa-môn, Bà-la-môn và các chúng sanh tôn trọng cúng dường, thế nên cho đến có các việc làm thảy đều tự mình sắp xếp chu đáo, không mong cầu có người giúp việc. Huống hồ ta nay muốn cầu quả vị vô học như vậy là chính phụng sự cho tất cả chúng sanh! Nếu ta phụng sự người khác với tất cả sự cung cấp, thì các việc làm của ta thảy đều tự thành tựu, không mong cầu sự phụng sự cung cấp nào khác. Vì sao? Nầy Trưởng giả! Vì đây là người tôn trọng phụng sự ở trong pháp công đức của Tỳ-kheo nhận lấy sự hủy phạm. Người tạo ra sự nhận lấy nầy để nhân đó được phụng sự. Ta chớ vì pháp nầy mà tạo ra sự nhận lấy kia”. Kinh kia lại nói: “Lại nữa, Trưởng giả! Pháp Bồ-tát ở A-lan-nhã kia nếu thấy hoặc nghe Hòa thượng, A-xà-lê bị bệnh thì dù xa xôi mấy cũng nên đến hỏi thăm. Nghóa là từ sớm đi đến chỗ kia nên khởi tâm ấy. Giả sử được người khác mời thỉnh đọc tụng giảng thuyết kinh điển và bày trí Tăng phòng như A-lan-nhã để ở thì tâm chớ có chấp trước. Như vậy, trụ trong A-lan-nhã cầu pháp không nhàm chán và đối với tất cả sự việc đều khởi tưởng như đối với chốn thanh vắng.  <卷>QUYỂN 14 <詞>Phẩm 11: NÓI VỀ A-LAN-NHÃ Phần 2 Kinh Bảo Tích nói: “Lại nữa, hạnh A-lan-nhã, nếu có các phàm phu chưa đắc quả mà thấy hổ lang thì chớ có kinh sợ, mà nên phát tâm nầy: Ta đến chỗ A-lan-nhã nầy vốn đã có ý nguyện xả bỏ thân mạng thì chớ nên sợ hãi. Vì khởi tâm từ xa lìa tội lỗi nên không còn sợ hãi nữa. Nếu hổ lang đoạn lấy thân mạng ta, nuốt chửng thân ta thì nên khởi tâm như vầy: Ta được có cơ hội xả bỏ thân không kiên cố mà được thân kiên cố. Nếu chúng không ăn thịt ta thì khởi tâm: Loài hổ lang kia đâu có ưa phạm vào ta. Lại nữa, hạnh A-lan-nhã nếu có phi nhân đến hoặc đẹp hoặc xấu cũng không nên vui thích hoặc gây tổn hại. Nếu trước thấy có Phật hoặc chư Thiên đến chỗ A-lan-nhã nầy hỏi Tỳ-kheo về giáo pháp thì Tỳ-kheo đó phải nương vào khả năng mình tùy sở học mà nói pháp cho chư Thiên. Lại nữa, nếu khi có người hỏi những câu hỏi khó thì Tỳ-kheo ở trong A-lan-nhã hoặc không thể đáp khiến cho người ấy không sanh cung kính thì phải nói lời nầy: Ta nay chưa đạt đến quả vị vô học. Hoặc ta sẽ siêng năng tu theo lời Phật dạy, khi ấy nghe pháp đã hết, có thể thông đạt để giải quyết các nghi vấn. Ta nay chỉ có thể nghe được pháp nầy. Hơn nữa, tổng lược, nếu tu ở A-lan-nhã thì đối với cỏ thuốc, rừng cây còn không chấp trước, huống hồ sao gọi là sanh, sao gọi là diệt? Phải nên quán sát như vầy: Thân nầy không có ngã, không có chủ tể, không có tác giả, không có thọ giả, thì ai sanh ai diệt! Nên biết tất cả các pháp đều không có sanh diệt và thân nầy cũng vậy. Thí như cỏ cây, cầu, tường vách, ngói đá, không có ngã, không có chủ thể, không tác giả, không có thọ giả mà chỉ có nhân duyên hòa hợp sanh ra. Nhưng nếu nhân duyên ly tán thì tất cả hoại diệt. Lại nữa, ở trong nghóa tối thắng không có một pháp được gọi là sanh hay gọi là diệt”. Kinh kia lại nói: “Hơn nữa, hạnh A-lan-nhã nên phát khởi tâm nầy từ ta cho đến chốn A-lan-nhã vốn đơn độc một mình không có bạn lữ. Nếu ta có khởi làm ác hay làm thiện thì bấy giờ chỉ có Thiên, Long, Dược-xoa, Phật v.v… biết được tâm sâu xa ấy và đều vì ta mà chứng minh. Lại nếu sống ở trong A-lan-nhã nầy dùng tâm bất thiện tự do phóng túng thì sẽ tạo ra các lỗi lầm. Nếu đến chốn xa xăm nầy một mình không có bạn lữ không có người thân không ngã không chấp thủ thì phải nên như thật giác tri. Đối với dục tầm, nhuế tầm và hại tầm cùng các pháp bất thiện khác đều phải như thật giác tri. Nếu ta ở trong chốn nầy mà không khác đối với các dục lạc hiện hữu trong những nơi phàm tình huyên náo tức là ta đã lừa dối Thiên, Long, Dược-xoa và chư Phật. Nếu như các tạo tác của ta không bị thiên long, Dược-xoa giải thích thì chư Phật thảy đều hoan hỷ”. <詞>Phẩm 12: TRỊ TÂM Phần 1 Luận nói: Nên ở trong chốn A-lan-nhã nầy mà tu tập thiền định. Như Kinh Bát Nhã nói: “Người tu thiền định Ba-la-mật-đa thì được tâm không loạn động và làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Vì sao? Nếu người với tâm loạn động thì đối với định thế gian còn không thể đạt được huống hồ đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề. Do vậy chỉ có người tu thiền định Ba-la-mật mới khiến tâm bất loạn và chứng quả A- nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề”. Kinh kia lại nói: “Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát mới phát tâm tu tập thiền định Ba-la-mật thì đối với tất cả tướng trí tương ưng mà tác ý tức khéo nhập vào thiền định. Nếu mắt thấy sắc không nắm giữ tướng ấy, thì cũng không chấp thủ sự tốt đẹp của hình hài. Nếu đối với nhãn căn không tu tập chế ngự tức là nương vào tà vọng mà gây tổn não khiến tâm ác bất thiện tùy đó mà lưu chuyển. Người hộ trì nhãn căn tức là chế ngự điều đó khiến nó diệt tận. Như vậy, tai nghe âm thanh, mũi ngưỡi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý nhận biết v.v… tất cả đều không chấp thủ nắm bắt sự tốt đẹp của hình tướng bên ngoài. Nếu đối với ý căn không tu phòng hộ thì các tâm bất thiện và phi pháp theo đó mà lưu chuyển. Người hộ trì ý là chế ngự điều ấy khiến nó đi đến diệt tận tức đi đứng, nằm ngồi, lời nói, im lặng v.v… thảy đều không xa lìa thiền định, được thiền định thì tay chân không dao động miệng không tập nói cũng không đùa giỡn và các căn không tán loạn. Nếu thân và tâm không càn lỗi thì ba nghiệp được thanh tịnh, đối với giáo lý hiển, mật như đạo luật nghi, cho đến hạnh hỷ túc dễ nuôi dưỡng và hoàn mãn, khéo nhập vào hành xứ, xa lìa sự náo động, đối với sự được mất không hề phân biệt cao thấp v.v… Như vậy, đối với sự khổ vui, khen chê hoặc sống lâu, hoặc chết yểu không hề phân biệt cao thấp v.v… bình đẳng không sai khác. Nếu có gặp oán gia hay người thân thì tâm thường an nhiên bất động. Dù gặp bậc thánh hay phàm phu thì việc lắng nghe của người ấy cũng không có tạp nhiễm. Đối với sự vui buồn cũng xem giống như một tướng duy nhất không có cao thấp, bình đẳng không sai biệt, vượt thoát khỏi sự thuận và nghịch. Vì sao? Vì đối với tự tướng không xem giống như không chân thật tức thấy các pháp không sanh không diệt cho đến nói rộng”. Luận nói: Người ưa thích tu tập xa lìa biếng nhác mà người luôn tác ý dứt trừ sự cao cử, lấy hai pháp kia làm cơ sở đối trị. Kệ trong kinh Hộ Quốc nói: Qua vô lượng ức kiếp Nơi có Phật ra đời Do bậc Đại Tiên nầy Khoảnh khắc được lợi ích Xa lìa sự phóng dật Giải thoát các dục nhiễm Pháp hữu vi hư vọng Như thấy trong mộng huyễn Trái lìa, chẳng trụ lâu Các ái cũng không thường Như nỗ lực tìm cầu Các địa Ba-la-mật Cho đến ngộ Bồ-đề Tinh tấn không nghi hoặc. Kệ trong kinh Đại Hý Lạc lại nói: Khổ già bệnh chết Như hầm lửa đốt Ba cõi cháy rực Không chừa một ai Chưa lìa luân chuyển Thường ở ngu ám Như ong bị nhốt Trong cái ống dài Ba cõi vô thường Như người hát kịch Như mây mùa thu Chợt sanh chợt diệt Mạng người biến hoại Còn hơn nước dốc Thật là nhanh chóng Như ánh điện chớp Tại thành cõi trời Khắp ba đường ác Vô minh liền khởi Ái, hữu sanh ra Bị chuyển năm đường Như vòng cối xay Thường thích sắc đẹp Và âm thanh hay Hương vị trong sạch Xúc ưa mịn trơn Tham trước điều nầy Như tù bị trói Như nai mắc lưới Như khỉ bị nhốt Thường nghó lo sợ Tạo tưởng oan gia Người thích dục lạc Thật nhiều ưu não Như dao sắc bén Cũng như thuốc độc Người trí xa lìa Như bỏ bình phân Người ngu đắm trước Làm nhân sợ hãi Làm gốc các khổ Ái, hữu trói buộc Bệnh tưởng già suy. Người thích dục lạc Sợ không quay về Xưa có bậc thánh Biết rõ dục nầy Sợ như hầm lửa Như vũng bùn lớn Như dao dính mật Như lánh kiếm không Lại các bậc trí Biết rõ dục nầy Như bình phân dơ Như đầu rắn độc Như con lừa gỗ Như bôi máu người Như đầu chó chết Như oan gia ác. Lại các thánh trí Biết rõ dục nầy Như trăng trong nước Như tiếng vang núi Như ảnh trong gương Như người hát kịch Như thấy trong mộng. Lại dục lạc nầy Người trí hiểu rõ Như huyễn như lửa Như bọt nước nổi Trụ trong khoảnh khắc Biến kế khởi lên Hư vọng không thật Chỉ nói nhiều năm Giữ gìn sắc tướng Người vui ý nầy Thật hành động ngu! Khi già bệnh đến Hoại khổ lấn át Mất vẻ tươi nhuận Như dòng nước khô Tài lực thịnh vượng Kho tàng chất đầy Người thích điều nầy Thật hành động ngu Hoặc đến tài lợi Sau sớm hủy diệt Xa lìa cõi người Như rừng thanh vắng Thí như hoa, quả, cây Người ưa thích nắm lấy Bần cùng, khi già yếu Chán bỏ như chim yến Sắc tráng kiện, nhiều của Ưa sanh ý vui thích Khi bần cùng già yếu Chán bỏ như thây chết Lại tướng già suy nầy Tuổi cao quá yếu ớt Như lửa của sấm sét Thiêu đốt cây cháy khô Gìa yếu nầy đáng sợ Cũng như nhà mục nát Cho nên bậc Mâu-ni Dạy nhanh cầu xuất ly Lại như rừng Sa-la Bị dây leo bám chặt Như quyến thuộc nam nữ Cây khô nhanh yếu mục Như người bị sa lầy (bùn) Thiếu nhanh nhẹn dõng mãnh Tướng già cũng như thế Không lanh lợi, xốc vác Già biến hình dung xấu Thế lực oai hùng suy Thường tìm thú vui riêng Đến chết không sáng suốt Trăm thứ bệnh não hại Quyết chẳng vui an ổn Tướng ấy ở thế gian Hừng hực, như thú dữ Quán như khổ, lão bệnh Là khổ não thế gian Đều xả, tầm diệu lạc Nói nhanh cầu xuất yếu. Lại như sương và tuyết Hại cỏ cây tươi tốt Bệnh khổ ở thế gian Hoại sắc lực mạng căn. Tích chứa nhiều kho đụn Tìm cầu rất nhiều thứ Thường như người bệnh tật Ưa khởi việc sân nhuế Và oan gia báo hại Thiêu đốt như mặt trời Và đến khi chết rồi Tài, mạng đều tán hoại Như dòng sông không (trở) lại Như cây rơi, lá, quả Như nhánh cây giữa sông Chìm nổi không tự tại. Tùy nghiệp quả khó dừng Riêng đi, không bè bạn Cái pháp tử diệt nầy Lại như cá ma-kiệt Ăn nuốt vô lượng chúng Như kim sí ăn rồng Và chúa thú đánh nhau Như hầm lửa cháy rực Thiêu rụi các cỏ cây. Lại nữa, kinh Giáo Thị Thắng Quân Đại vương nói: “Phật bảo: Đại vương! Ví như bốn phương có bốn ngọn núi mọc lên kiên cố kết nối với nhau như là một, không có chỗ hở cũng không có lỗ nhỏ. Trong đó, thế giới bị đè nén và tất cả mọi thứ đều bị hủy diệt không ai có thể lấy sức lực để chạy thoát và dùng thế lực của bùa chú, tài vật v.v… nhằm khiến nó thoái chuyển. Phật bảo: Đại vương! Ở đời có bốn sự sợ hãi lớn cũng lại như vậy, không ai có thể nhanh chân chạy thoát và dùng thế lực của bùa chú, tài vật v.v… để chuyển biến chúng. Sao gọi là bốn thứ? Đó là suy, già, bệnh và chết. Phật bảo Đại vương: Khi thế lực suy yếu đến thì bức bách sự hưng thạnh. Khi tướng già hiện ra thì làm hư hoại sự khoẻ mạnh. Khi khổ bệnh nhóm họp lại thì bức não sự điều hòa, thuận ý. Khi cái chết thâm nhập đến thì bức não đến thọ mạng. Tại sao lại nói điều nầy? Phật bảo: Đại vương! Cũng như sư tử là chúa của loài thú nên có sắc tướng và sức mạnh đều đầy đủ, móng vuốt, răng đều cứng cáp bén nhọn đi vào trong đàn nai nắm lấy con nai để tùy nghi ăn cho thỏa thích. Con nai kia tuy vùng vẫy nhưng nằm gọn trong miệng thú dữ không thể chạy thoát được. Phật bảo: Đại vương! Mũi tên “chết” bắn vào người cũng lại như vậy, dù cang cường đến đâu người kia cũng không thể chạy thoát được, không quay về, không ai cứu giúp cũng không nơi nương tựa, mỗi mỗi phần chi thể máu thịt khô kiệt, đói khát gây nhiệt não, há miệng thở dốc, tay chân bấn loạn, mọi việc đeo đuổi mong cầu đều không thể được, đàm dãi chảy ra rất dơ dáy, thân thể tanh hôi, mạng sống còn sót lại từ từ hoại diệt. Trung hữu trước mắt tùy theo nghiệp duyên mà khởi, sứ giả Diêm-ma thật đáng sợ, dẫn dắt đi vào trong đêm tối khiến hơi thở ra vào cuối cùng chấm dứt. Chỉ có một mình ra đi chẳng có bạn bè nên vội vã đầu thai qua thế giới khác tức đọa vào đường hiểm ác và nơi hắc ám. Bước vào nơi đồng trống, hướng đến rừng rậm sâu chìm trong biển rất tối tăm, bị gió nghiệp thổi rơi, các nơi hướng đến sâu rộng không hề nhận biết trước. Ngoài ra, không chỗ nương tựa. Phật bảo: Đại vương! Chỉ có pháp và pháp là nơi quy hướng về, là sự cứu vớt, là chỗ nương tựa. Phật bảo: Đại vương! Người hấp thụ pháp thiện nầy giống như kẻ đang bị lạnh được lửa, như kẻ nóng bắt gặp nước mát, như kẻ khát gặp nước trong sạch, như kẻ đói gặp được thức ăn ngon, như kẻ bị bệnh gặp thầy thuốc giỏi, như kẻ sợ hãi gặp được bạn bè giúp sức. Phải biết pháp là nơi quay về nương tựa vững chắc. Phật bảo: Đại vương! Các pháp thiện nầy có thế lực lớn cũng lại như vậy. Nếu người không có quay về nương tựa, thì vì họ làm cho trở về nương tựa. Nếu người không nương tựa thì vì họ làm cho nương tựa. Nầy Đại vương! Do đó nên biết người hiện hữu vô thường và hiện diệt tận. Vì pháp vốn như vậy. Chỉ có chết là đáng sợ. Phật bảo: Đại vương! Chỗ nương tựa của vua đều chẳng phải là pháp thiện. Vì sao? Vì thân nầy từ xưa đến nay được gìn giữ cẩn thận và được trang sức thêm bởi các thứ ăn uống ngon lành, thực phẩm thượng diệu nhưng khi mạng chung lại bị đói khát bức não mà chết. Như vậy thân nầy tuy dùng các thứ tơ lụa mịn màng thượng diệu khả ái nên khiến đi đứng nằm ngồi tùy ý với trang sức nhưng khi chết mùi xấu uế bất tịnh luôn chảy ra. Nầy Đại vương! Lại nữa, thân nầy tuy dùng nhiều thứ hương thơm bôi lên và lấy các hoa đẹp trang sức vô lượng nhưng khi mạng chung không lâu thì mùi hôi thối bốc ra. Lại nữa, được hoàng hậu, phi tần quyến thuộc bao quanh với nhiều kỹ nữ ca múa vui vẻ và các người hầu kề cận khiến ý hòa vui nhưng khi mạng chung lại sanh sợ hãi với các khổ não bủa vây. Phật bảo: Đại vương! Thân nầy tuy ở cung điện, đền đài, lầu gác cửa đóng then cài, xe cộ sang trọng, được trang sức bởi tơ lụa rực rỡ óng ánh, nhiều thứ hương hoa và đèn đuốc sáng tỏ, và có các màn trướng giăng phủ trên sàng tòa, nệm chiếu, đồng thời đốt các thứ danh hương, rãi các thứ hoa thơm, đem các bình báu, lò hương để khắp nơi và dùng ngọc báu vi diệu trang nghiêm đầy đủ vô cùng tốt đẹp nhưng khi mạng chung phải đến nằm ở mã cao khiến thịt, xương, lông, tóc, gân, máu trở nên hôi thối và thây chết ấy nằm trên đất không hay biết gì. Phật bảo: Đại vương! Thân nầy thường ngồi trên xe voi, xe ngựa đánh trống cổ vũ tạo ra âm nhạc lớn, căng phướn lọng bảo cái và cầm lấy quạt hầu với vô lượng tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh dõng mãnh dẫn đường trước sau đồng thời có trăm ngàn quan chức, dân chúng trong các thành ấp chắp tay cung kính nhưng chẳng bao lâu lại trở thành thây chết nằm trên xe khiến mọi người đưa tiễn ra khỏi thành, cha mẹ, thê thiếp, anh em, chị em, nô tỳ, nô bộc là những người đã từng theo hầu, lòng vấn vương sầu não, đầu tóc rối bù, lấy tay đánh vào đầu khóc than thảm thiết. Lúc ấy, đối với ta, không có chỗ cầu cứu, không thân thích, không có chủ, dân chúng trong thành ấp đều thương xót luyến tiếc, đưa ta đến nơi nghóa địa. Hoặc thân ta lại bị chim quạ, diều hâu, cáo, chó sói, chồn lấy làm thức ăn. Nhẫn đến phần xương còn lại được chất củi thiêu đốt hoặc chôn vùi trong đất bị gió táp mưa sa, nát như bụi nhỏ rơi vãi khắp nơi. Phật bảo: Đại vương! Thân nầy là huyễn hóa, cuối cùng rồi cũng hoại diệt. Tất cả các hành đều là vô thường. Nhẫn đến nói rộng như trong kinh”. Luận nói: Tham, sân, si nầy… đều là một nhóm phiền não. Nếu đối trị tu tập thì nhân đó mà được xa lìa. Kinh Bảo Vân nói: “Đối trị tham nghóa là khi duyên tham khởi lên tức đều có thể xa lìa nó. Sao gọi là đối trị tham và khởi duyên đối trị tham? Người tham nếu khéo biết rõ thì khi duyên tham nổi lên phải nên tu pháp quán bất tịnh. Sao gọi là quán bất tịnh? Nghóa là nếu đối với thân, tóc, lông, móng tay, răng, da, máu, thịt, gân, xương, tủy, mỡ màng, mỡ nước, não, mồ hôi, nước mắt, nước mũi, phân, nước tiểu, đàm dãi, cổ họng, tim, phổi, gan, mật, lá lách, thận, sanh tạng thục tạng, thây chết, nước ố rỉ ra, Bồ-tát đối với các vật như thế và khởi tâm quán sát. Người thấp hèn, ngu si, bất thiện biết rõ những thứ ấy còn không tham ái huống hồ các bậc trí! Đây gọi là Bồ-tát tu pháp quán bất tịnh”. Lại như Kinh Bát Nhã nói: “Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ-tát khi tu hành Bát nhã Ba-la-mật-đa phải đối với thân nầy hiểu biết như thật. Nầy Thiện Hiện! Thí như thợ mổ trâu và học trò của ông ta khi giết trâu rồi lại dùng dao sắc bén phân chia con trâu ra làm bốn phần, hoặc ngồi hoặc đứng phải quán sát như thật. Nầy Thiện Hiện! Khi Bồ-tát tu hành Bát nhã Ba-la-mật cũng lại như vậy. Đối với thân tứ đại đất, nước, gió, lửa, Bồ-tát phải quán sát như thật. Nhẫn đến nầy Thiện Hiện! Lại như người cày ruộng hoặc các Trưởng giả, khi mùa vụ hoàn tất họ thu hoạch được nhiều thứ hoa màu như đậu, lúa mạch, lúa nước, bo bo, cây gai, hạt cải… và có người sáng suốt phân biệt rõ chúng. Như biết rõ các thứ hoa màu kia, đây là đậu, lúa, đây là lúa nước, bo bo, đây là cây gai hạt cải… Nầy Thiện Hiện! Bồ-tát khi tu tập Bát nhã Ba-la-mật-đa cũng lại như vậy. Đối với thân nầy từ đầu đến chân, tóc lông, móng tay, răng chứa đầy các thứ bất tịnh. Bồ-tát phải như thật quát sát thân ấy là chỉ có tóc, lông, móng tay, răng, đầu, mắt, mỡ, tủy, gan, mật, lá lách, thận, sanh tạng, thục tạng… toàn là những thứ bất tịnh. Hơn nữa nếu đến nơi gò mả hoang vắng thì quán sát tất cả các thứ tướng trạng hiện ra trước mắt. Nghóa là quát sát thây chết bị bỏ nơi chốn gò mả hoặc trải qua một ngày hai ngày đến năm ngày sình lên ứ đọng rất thối, rồi da bị thủng, thịt rữa ra khiến máu mủ chảy thật tanh hôi. Khi thấy được sự việc nầy, Bồ-tát tư duy: Ta cùng với thân ấy không khác. Và từ đó biết rõ nó là như vậy, bản tánh cũng như vậy, pháp tánh cũng như vậy, chưa từng giải thoát. Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ- tát khi tu hành Bát nhã Ba-la-mật-đa đối với thân bên ngoài phải tùy chỗ mà tu tập quán chiếu. Nhẫn đến quán sát thây chết bị vất bỏ nơi gò mả hoặc trải qua một ngày hai ngày cho đến bảy ngày và bị chim thú, diều hâu, quạ, cáo, chó sói, chồn lấy làm thức ăn. Đồng thời bị nhiều loại trùng kiến… đục khoét. Khi thấy vậy rồi, Bồ-tát tư duy: Ta với thân nầy không có khác nhau. Và từ đó biết rõ pháp cũng như vậy, bản tánh cũng như vậy, pháp tánh cũng như vậy chưa từng giải thoát. Lại nữa, hoặc quán sát thây chết ở nơi gò mả bị giòi rúc rỉa hôi thối bất tịnh liền tư duy: Ta với thân nầy cũng lại như vậy. Các điều còn lại thì đều như trên đã nói. Thậm chí đến những nơi thảm thương quán thây chết bị vức bỏ với thịt nát xương tan, gân chằng chịt và máu mủ chảy ra nhơ nhớp rồi nghó: Ta cùng với thây chết nầy chẳng khác gì. Những điều tương tự thì như trên đã nói. Lại nữa, hướng đến nơi bi thương quát sát thây chết bị vứt bỏ với máu thịt tan biến chỉ còn tướng xương hiện ra và gân ràng rịt mà nghó: Ta cùng với thân nầy không khác. Lại nữa, hướng đến nơi bi thương quán sát thây chết bị vứt bỏ chỉ có các xương tan nát trôi dạt về chỗ khác tức là xương đầu, xương chân, xương lưng, xương vai, xương cổ v.v… và nghó: Ta cùng với thân nầy cũng lại như vậy. Các điều khác thì cũng như trước đã nói. Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ-tát khi tu hạnh Bát nhã Ba-la-mật-đa phải hướng đến nơi thây chết bị vứt bỏ thật bi thương để quán chiếu chỉ có xương bị gió thổi, mưa ngâm khiến trắng toát như ngọc trắng. Do vậy Bồ-tát nghó: Ta cùng với thân nầy cũng giống nhau. Các thứ khác thì như trên đã nói. Nầy Thiện Hện! Bồ-tát khi tu hạnh Bát nhã Ba-la-mật-đa phải hướng đến nơi bi thương quán sát thây chết bị bỏ đi chỉ có xương trải qua nhiều năm biến hoại thành sắc xanh như bụi đất bị đập vụn thành vi trần và nhận thấy: Ta cùng với thân nầy cũng lại như vậy. Từ đó biết rõ nó là như vậy, bản tánh cũng như vậy, pháp tánh cũng như vậy chưa từng giải thoát”. Luận nói: Dùng pháp quán bất tịnh để đối trị tham, dùng quán từ bi để đối trị sân hận, đây chính là sự bình đẳng v.v… Nếu không thích quán chúng sanh mà ở đây đối với sự ăn uống phát khởi ưa thích tức là đối với sự diệu lạc của người khác còn có mong cầu xưng tán không có gì là không yêu thích. Từ, nghóa là độ thoát nhân duyên tham dục, không vướng mắc vào ái nhiễm. Nghóa nầy có ba thứ. Kinh Vô Tận Ý nói: “Bồ-tát mới phát tâm phải tu duyên từ đối với chúng sanh, đã tu tập hành Bồ-tát thì phải tu pháp duyên từ. Nếu đạt Vô sanh pháp nhẫn, Bồ-tát tu vô duyên từ”.  <卷>QUYỂN 15 <詞>Phẩm 12: TRỊ TÂM Phần 2 Lại có duyên Phật, duyên Bồ-tát, duyên Thanh-văn, duyên Độc giác, duyên chúng sanh v.v… Duyên chúng sanh là, trước hết ưa cho chúng sanh sự lợi ích an lạc, lấy ý Thiền định cho chúng sanh tâm từ bi, hoặc có khi làm khách tri thức ở gần, xem xóm làng mình cũng như xóm làng của người khác cho đến một phương nầy giải thoát thì như vậy, dù có duyên vơi muôn phương Phật cũng không nhàm chán. Trong Kim Cang Tràng Hồi Hướng nói: “Tu tập đầy đủ hạnh Bồ-tát, nếu thấy sắc đối trị ái cho đến thanh, hương, vi, xúc, pháp đối trị ái thì không có phạm tội, là thanh tịnh, là thiện, là ánh sáng tối thượng thanh khiết vượt thoát khỏi các diệu lạc khiến phát sanh ý vui thích, khởi tin ưa thanh tịnh, phát khởi dõng mãnh an trụ vào niềm vui vô tận. Đối với tâm phân biệt không sanh phiền não, tâm ý nhu nhuyến, các căn lanh lợi, thường thọ diệu lạc. Như vậy, hồi hướng đến tất cả chư Phật, rồi chuyển hồi hướng trí tuệ Phật mà được đầy đủ các hạnh diệu lạc của Phật không thể nghó bàn. Tuy nhiên, chưa đồng với Phật mà cũng được khéo nhiếp thọ niềm vui thiền định. Nhờ vào lực nầy, nên có thể lần lượt đạt được vô lượng diệu lạc của Phật, đầy đủ vô lượng niềm vui giải thoát của Phật, nhiếp thọ vô lượng niềm vui thần thông của Phật, được khéo nhiếp thọ vô lượng hạnh vui không chấp trước của Phật, được sự tự tại của Phật, như niềm vui vi diệu của trâu chúa bước đến gần xa, nhanh chóng tùy nghi, rốt ráo được vô lượng niềm vui của Phật lực hiểu rõ tất cả sự tịch tónh không sanh không diệt. Đồng thời, ở trong hạnh vô trước mà thường đạt được sự diệu lạc, vô sân tích tập không hai của Như Lai. Đây là Bồ-tát thường dùng thiện căn như vậy, để hồi hướng đến Như Lai, đến Bồ-đề. Nghóa là đối với người ý lạc chưa viên mãn thì hồi hướng viên mãn về Nhất thiết trí, người chưa thanh tịnh thì khiến cho được các Ba-la-mật- đa thanh tịnh sâu xa, người chưa thành tựu biện tài thì khiến cho thành tựu biện tài, giống như kim cang khiến cho tất cả các trí xông pha không lùi bước. Nếu khiến cho tất cả trí xông pha không lùi bước tức là đối với sự diệu lạc của Bồ-đề theo đó mà khinh an. Và ở trong các đường thiện không hề thoái chuyển, bình đẳng an trụ trong tất cả thế gian, viên mãn nguyện lớn và tu tập tất cả hạnh Bồ-tát, biết rõ thần thông và lợi căn của Bồ-tát. Do thiên căn nầy, mà chứng được Nhất thiết trí và lấy nghóa thiện căn như vậy hồi hướng đến dạo Bồ-tát. Lại nữa, nếu có người học giáo pháp Phật, tất cả Thanh văn, Phật-bích-chi v.v… cũng dùng thiện căn như vậy mà hồi hướng. Nếu có chúng sanh ở trong khoảnh khắc nghe âm thanh Phật và Thánh chúng mà khởi tôn trọng tức dùng thiên căn nầy hồi hướng đến A-nậu-đa-la-tam miiêu-tam-Bồ-đề. Đây gọi là hồi hướng niệm Phật viên mãn, hồi hướng niệm pháp phương tiện, hồi hướng tôn trọng thánh chúng, hồi hướng không ngừng thấy Phật, hồi hướng tâm thanh tịnh, hồi hướng thông đạt pháp Phật, hồi hướng tu vô lượng công đức, hồi hướng tất cả thiện căn thần thông thanh tịnh, hồi hướng đoạn trừ nghi hoặc về các pháp. Đây là chỗ hồi hướng của Thanh văn, Phật-bích-chi v.v… học giáo pháp. Lại nữa, Bồ-tát kia cũng dùng thiện căn mà hồi hướng đến tất cả chúng sanh. Tức hồi hướng xa lìa địa ngục, hồi hướng đoạn trừ cõi súc sanh, hồi hướng cho diệu lạc cõi Diêm-ma-la, hồi hướng diệt trừ đọa vào các đường ác, hồi hướng đến chúng sanh kia ưa muốn tăng trưởng Bồ-đề Vô thượng, hồi hướng khiến tâm sâu xa đạt được tâm Nhất thiết trí, hồi hướng đến việc không hủy báng tất cả pháp Phật, hồi hướng đến việc rốt ráo thành tựu địa Nhất thiết trí, hồi hướng rốt ráo chúng sanh thanh tịnh. Dùng vô lượng trí hồi hướng đến tất cả chúng sanh cho đến có được mọi sự ăn uống, y phục, ngọa cụ, thuốc thang, và đối với thân làm việc, đi, đứng, nằm, ngồi mọi thứ tạo tác đều tuân thủ theo đạo luật nghi. Do ở trong đạo luật nghi không khởi sân nhuế, ba nghiệp thân, khẩu, ý luôn làm thiện, các căn cẩn mật mà hoặc tự tăng trưởng, thông suốt mọi sự, ăn uống các vị hoặc khai hoặc hợp, hoặc xem xét hoặc không xem xét, hoặc nằm hoặc thức, đều tự đi đến chỗ đó phụng sự. Bồ-tát đối với Nhất thiết trí duyên bình đẳng tương ưng cũng đều hồi hướng. Dùng tâm Nhất thiết trí kia làm lợi ích cho cả chúng sanh cho đến ý thường cứu giúp bảo hộ tất cả thế gian phát khởi thiện căn, mà xa lìa kiêu mạn, phóng dật. Nói chung, Bồ-tát luôn khiến phiền não không còn tái hiện, được Bồ-tát gìn giữ quyết định chuyên cần cầu đạo Nhất thiết trí, yêu thích gần gũi các bậc trí. Hơn nữa, Bồ-tát hay tụ tập tất cả các thiện căn nên nhanh chóng đạt được các hạnh tương tục viên mãn. Tóm lại, đối với cõi súc sanh kia, Bồ-tát hoặc dùng ít thực phẩm bố thí khiến tất cả được sanh vào cõi lành. Như vậy, chính vì sự hồi hướng làm lợi ích giải thoát cho loài chúng sanh kia. Cõi súc sanh kia chính là biển khổ, chấp khổ, khổ uẩn, thọ khổ, tụ khổ, dòng khổ, biên tế khổ, căn bản khổ, chỗ nương tựa khổ. Bồ-tát đối với chúng sanh kia thường hồi hướng chúng không còn thối đọa. Lại nữa, duyên chúng sanh kia nghóa là đối với chúng sanh hiện tại mà tác ý. Do chỗ tạo thiện căn phát tâm Bồ-đề trước kia mà hồi hướng đến Nhất thiết trí, nên không đọa vào luân hồi, xa lìa hiểm nạn, được diệu lạc của Phật và hiện tại vô ngại, vượt khỏi biển luân hồi, vónh viễn đoạn sự tương tục, luôn luôn chiếu rọi ánh sáng pháp Phật mà phát khởi đại từ”. Như Kinh Tối Thắng Kim Quang Minh, trong tạng từ bi có kệ: Kim Quang minh nầy Trống vàng tối thắng Vang dội tiếng hay Khắp ba ngàn cõi Hay trừ địa ngục Và Diễm-ma-la Cho đến cõi người Bần cùng nghèo khổ Lại trống vàng nầy Diệt trừ tất cả Chướng, não thế gian Cũng nguyện chúng sanh Được dứt sợ hãi Như đấng Mâu-ni Tịch tónh Vô úy (không sợ) Như các thánh nhân Ở biển sanh tử Tu Nhất thiết trí Như chỗ được kia Trí tuệ đẳng trì Và Bồ-đề phần. Biển công đức lớn Lại tiếng trống nầy Nguyện các chúng sanh Được phạm âm kia Như Phật đã chứng Bồ-đề thắng diệu Chuyển pháp luân tịnh Trụ vô số kiếp Thuyết pháp lợi sanh Diệt tham sân si Phiền não các khổ Nếu có chúng sanh Ở nơi đường ác Bị lửa thiêu đốt Thân ngâm đồng sôi Nghe tiếng trống nầy Như lời dạy răn Khiến nương về Phật Lại khiến chúng sanh Được nhớ kiếp xưa Ở trăm ngàn ức Trong câu chi đời Niệm Phật Mâu-ni Nghe pháp sâu xa Lại tiếng trống nầy Thường được gần Phật Tịnh tu thiện hạnh Xa lìa tội ác Cho đến kệ tụng: Lại các cõi nước Tất cả chúng sanh Dứt trừ thế gian Các khổ vốn có Lại nếu chúng sanh Thân phận thấp hèn Các căn khiếm khuyết Nay được các căn Khắp đều viên mãn Nếu người tật bệnh Thân hình yếu đuối Tùy phương họ sống Không chốn nương nhờ Cứu họ khỏi bệnh Đạt được khinh an Căn lực đầy đủ Lại nếu chúng sanh Bị phép vua bắt Sanh nhiều sợ hãi Và những sầu lo Các chúng sanh kia Khổ nạn nếu đến Sự việc rất xấu Trăm loại sợ hãi Đều khiến giải thoát Hoặc bị đánh đập Gông cùm trói buộc Đủ các thứ khổ Bức ngặt thân kia Khiến chịu vô lượng Trăm ngàn các thứ Lo sợ buồn, than Áo não tâm ấy Lao ngục trói buộc Đánh đập khổ sở Tất cả giải thoát Người bị hình phạt Thân mạng sanh sống Các khổ tuy đến Được không lo sợ Lại có chúng sanh Đói khát bức bách Khiến được vị ngon Ăn uống ngon ngọt Người mù được thấy Sắc tướng tốt đẹp Người điếc được nghe Âm thanh vui thích Người bị khỏa thân Được áo mặc tốt Chúng sanh bần cùng Được các vật báu Kho tàng đầy đủ Các báu trang sức Tất cả chúng sanh Được diệu lạc nầy Không một chúng sanh Thọ các khổ báo Các tướng đoan nghiêm Người thấy ưa thích Ăn uống dư giả Phước đức đầy đủ Thường được thọ dụng Vô lượng diệu lạc Tiêu địch không hầu Các âm thanh hay Tùy tâm kia nghó Đúng thời hiện ra Nghó nước liền hiện Ao hồ thanh tịnh Hoa sen sắc vàng Và Ưu-bát-la Che khắp trên đó Tùy tâm niệm kia Đúng thời hiện ra Cho đến kệ nói: Bôi hương rải hoa Hòa hợp hương bột Mỗi ngày ba thời Từ cây mưa xuống Chúng sanh nhận rồi Cùng khởi vui vẻ Cúng dường mười phương Không thể nghó bàn Tất cả Như Lai Bồ-đề diệu pháp Các Đại Bồ-tát Xa lìa trần cấu Các chúng Thanh-văn Được lìa tất cả Chủng tộc thấp hèn Và tám thứ nạn Thường gặp không nạn Bậc vua tối thắng Thường được gần gũi Chư Phật Như Lai Cho đến kệ nói Nguyện các người nữ Được làm thân nam Kiên cường mạnh mẽ Trí tuệ thông lợi Thường xuyên tu hành Các đạo Bồ-đề Sáu Ba-la-mật Thấy mười phương Phật Ở dưới cây báu Ngồi tòa lưu ly Rất vui an ổn Chúng vây cung kính Nghe nói diệu pháp. Luận nói: Ở đây lược nói rõ hạnh từ bi để đối trị sân hận, dùng pháp quán duyên sanh mà đối trị si mê. Do vậy, nay sẽ nói ý nghóa duyên sanh. Kinh Đạ Cán nói: “Sao gọi là pháp duyên sanh hệ thuộc vào nhân? Nghóa là Vô minh duyên Hành cho đến Sanh duyên Lão tử. Nếu không có Vô minh thì biết không có Hành. Nếu không có Sanh thì biết không có Lão tử (già chết ). Nếu Vô minh diệt thì Hành diệt. Như vậy cho đến Sanh diệt, Lão tử diệt. Lại nữa, Vô minh kia không nghó là mình từ Hành khởi lên và Hành cũng không nghó là mình từ Vô minh khởi lên. Như vậy, Sanh cũng không nghó là mình từ Lão tử khởi lên và Lão tử cũng không nghó là mình từ Sanh khởi lên. Nếu thật sự Vô minh khởi Hành khởi, không thể nắm bắt được. Như vậy, cho đến Sanh khởi thì Lão từ khởi cũng không thể nắm bắt được. Nên biết đây là pháp nội nhân duyên sanh hệ thuộc vào nhân. Sao gọi là pháp duyên sanh hệ thuộc vào duyên? Nghóa là các giới: đất, nước, gió, lửa, không, thức v.v… hòa hợp với nhân và hệ thuộc vào duyên. Sao gọi là đất? Là khiến cho thân nầy tụ tập biến chuyển, lấy cứng rắn làm tính chất thì gọi là đất. Nếu khiến thân nhiếp trì tạo tác thì gọi là nước. Nếu khiến thân trở nên ấm áp vơí tính chất hiện tại ăn uống thành thục thì gọi là lửa. Nếu khiến thân tạo nên hơi thở ra vào thì gọi lá gió. Nếu trong thân có chỗ trống thì đó gọi là không, nghóa là danh sắc nầy như cỏ lau giao nhau. Nếu khiến cho năm thức thân tương ưng hệ thuộc vào ý thức hữu lậu thì gọi là thức. Nếu không có duyên nầy thì thân không biến chuyển. Nếu bên trong không thiếu đất, như vậy nước, lửa, gió, không, thức cũng không giảm khuyết, các đại ấy nếu hòa hợp thì thân nhất định biến chuyển. Tuy nhiên giới đất nầy không nghó là mình khiến thân trở nên cứng ma- ïnh, nước cũng không nghó là mình có thể khiến thân nhiếp trì tạo tác, lửa cũng không nghó là mình có thể khiến thân trở nên ấm áp, thành thục đồ ăn uống, gió cũng không nghó là mình có thể khiến thân tạo ra hơi thở ra vào, không cũng không nghó là mình có thể thành tựa các chỗ trống trong thân, thức cũng không nghó là mình làm duyên sanh và nhờ đó thân nhất định được chuyển. Lại nữa, đất nầy không có ngã, không có nhân, không có chúng sanh, không có thọ giả, không có nho đồng, không có ý sanh, chẳng phải nam chẳng phải nữ, cũng chẳng phải phi nam, chẳng phải phi nữ, không có tự tại, không có chủ tể, không có đây, không có kia và không có sở hữu. Như vậy, nước, lửa, gió, không, thức, cũng lại không có ngã, nhân, thọ giả, chúng sanh, không có ý sanh, không có nho đồng, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, chẳng phải phi nam, chẳng phải phi nữ, không có tự tại, không có chủ tể, không đây không kia và không có sở hữu. Lại nữa, vô minh nghóa ấy thế nào? Nghóa là ở trong sáu giới, (đại) nầy khởi tưởng một, tưởng hòa hợp, tưởng kiên cố, tưởng thường, lạc, ngã, tịnh, tưởng chúng sanh, thọ giả, ý sanh, nho đồng, tưởng chủ tể, tự tại v.v… các loại như vậy vô trí nói là vô minh. Do vô minh nầy thật có nên khởi tham, sân si, tức cảnh tham sân si kia gọi là hành. Đối vơí sự việc biểu hiện phân biệt gọi là thức. Thức khi câu sanh cùng bốn thủ uẩn kia gọi là danh sắc. Lại danh sắc nầy nương vào các căn gọi là sáu xứ. Ba thứ hòa hợp gọi là xúc. Do xúc lãnh nạp gọi là thọ. Đắm trước thọ gọi là ái. Do ái sâu rộng gọi là thủ. Thủ lại có khả năng sanh hữu và hữu lại có thể sanh nhân. Do uẩn nầy khởi gọi là sanh, uẩn thành thục gọi là lão. Uẩn diệt gọi là tử. Do si mê, sân nhuế nhiễm trước sợ chết gọi là ưu. Cảm thương than vãn gọi là bi. Năm thức tương ưng không thường lãnh nạp gọi là khổ. Do tác ý hòa hợp rất khổ quyện nhau gọi là não. Như vậy, dẫn sanh tùy phiền nãa v.v… cho đến nói tổng lược”. <卷>QUYỂN 16 <詞>Phẩm 12: TRỊ TÂM Phần 3 Lại nữa, nói về hành chân thật và hành tà vọng, nghóa là Vô minh không có trí tuệ. Do Vô minh mà khởi lên ba loại hành: Phước, phi phước và bất động. Ở đây nói là Vô minh duyên Hành. Lại nữa, hành phước, hành phi phước và hành bất động nầy tùy chỗ chiêu tập của Thức vốn được nói là Hành duyên Thức (Nay nói rõ xứ nầy bao hàm cả có Thức duyên Danh sắc một đoạn ở trong bản Kinh tiếng Phạm đã bị thiếu). Như vậy, danh sắc và danh sắc tăng trưởng ở môn sáu xứ, tạo tác và phát khởi nên nói là Danh sắc duyên sáu xứ. Hơn nữa sáu xứ nầy nương sáu xúc thân chuyển, nên đây nói là Sáu xứ duyên Xúc và Xúc nếu khi sanh khiến thọ khởi lên, nên nói là Xúc duyên Thọ. Nếu thọ nhận vị ngon mà ham vui đắm trước thì gọi là Thọ duyên Ái. Do thích tham đắm mỹ vị, nên nếu ham vui sắc thì khi sắc ly tán lại theo tìm không xả bỏ nên gọi là ái duyên thủ. Như vậy, do tìm cầu khiến khởi lên thân, khẩu, ý, nghiệp của Hữu sau, nên gọi là Thủ duyên Hữu. Nếu nghiệp tạm dứt để thuyên chuyển làm cho uẩn sanh khởi, đây là hữu duyên sanh. Lại nếu sanh đã biến khác đi khiến trở nên chín muồi và đến hoại diệt thì nói là sanh duyên Lão tử. Nhẫn đến trong đây do tự thể thức v.v… làm chủng tử, tự thể nghiệp làm ruộng tốt nên tự thể vô minh, ái… làm phiền não. Do nghiệp phiền não khiến chủng tử thức sanh khởi. Nghóa là nghiệp nầy là ruộng của thức chủng tử, ái là nước tưới mát cho thức chủng tử, vô minh là sự khai phá của thức chủng tử. Tuy nhiên nghiệp không nghó mình là ruộng của thức chủng tử. Ái cũng không nghó mình là nước tưới mát thức chủng tử. Vô minh cũng không nghó mình là sự khai phát của thức chủng tử. Thức chủng tử nầy cũng không nghó mình sanh ra từ các duyên. Nhưng thức chủng tử bám trụ ở mảnh đất nghiệp. Do nước ái thấm nhuần và vô minh tưới mát khiến mầm danh, sắc càng thêm lớn mạnh. Mầm danh sắc nầy chẳng phải tự nó tạo người khác tạo chẳng phải cả hai đều tạo, chẳng phải là chỗ hóa hiện của trời Tự Tại cũng không do thời biến hóa, chẳng phải do một nhân sanh cũng chẳng phải không có nhân sanh, không gì không hệ thuộc ở nhân duyên hòa hợp đắm nhiễm tương thục của cha mẹ. Chủng tử thức nầy ở trong thai mẹ sanh ra mầm danh sắc. Pháp là như vậy, không có chủ thể, không có ngã, không có chấp thủ v.v… như hư không, thể tướng huyễn hóa ấy mà nhân duyên không thể thiếu. Do năm loại duyên nên phát sanh nhãn thức. Sao gọi là năm? Nghóa là khi nhãn thức sanh, nó mượn nhãn và duyên sắc, không, duyên ánh sáng, duyên tác ý… Trong đó, nhãn thức và nhãn làm sở y, sắc làm sở duyên, ánh sáng để soi cho rõ, hư không tạo ra sự vô ngại, đồng thời tác ý là sự đánh thức kia. Nếu thiếu các duyên nầy thì nhãn thức không sanh khởi. Nếu không thiếu xứ nội nhãn căn, không thiếu sắc và không, ánh sáng, tác ý v.v… như thế tất cả chúng hòa hợp, nên có thể sanh nhãn thức. Tuy nhiên, nhãn không nghó là mình cùng nhãn sắc được làm sở y. Sắc cũng không nghó là minh cùng nhãn thức được làm sở duyên. Không cũng không nghó là mình cùng nhãn thức tạo ra sự vô ngại. Ánh sáng cũng không nghó là mình cùng nhãn thức tạo ra sự quán chiếu. Tác ý cũng không nghó là mình cùng nhãn thức tạo nên sự tỉnh thức. Như vậy, nhãn thức không nghó nó từ duyên sanh khởi. Nhưng khi nhãn thức sanh, thực sự là mượn các duyên hòa hợp mà sanh ra. Như vậy thứ tự các căn ấy sanh ra thức nên tùy tương ưng mà nói. Tuy nhiên, không có pháp nào được duy trì từ đời nầy đến đời khác, mà chỉ do nhân duyên nghiệp qủa không thiếu sót kiến lập nên. Ví dụ như không có củi thì không có lửa. Các nghiệp phiền não nầy vốn sanh chủng tử thức cũng lại như vậy. Mọi thứ ấy là nơi phát khởi sự hòa hợp tương tục, để sanh ra mầm danh sắc. Như vậy, pháp vốn không có chủ tể, không có ngã, không có chấp thủ, như hư không v.v… thể tướng huyễn hóa, nhân duyên không thiếu. Nên biết, nội pháp duyên sanh có năm loại. Những gì là năm? Nghóa là bất thường, bất đoạn không chỗ đạt đến, nhân ít qủa nhiều, tương tợ tương tục. Sao gọi là bất thường? Nghóa là nếu uẩn nầy diệt thì uẩn kia sanh chứ chẳng phải chính uẩn nầy diệt là uẩn kia mãi mãi sanh. Đây gọi là bất thường. Lại nữa, không thể diệt ở trong uẩn diệt mà khởi sanh, uẩn cũng chẳng phải bất diệt đối với uẩn diệt nhưng khởi uẩn sanh thí như quyền hành v.v… gọi là bất đoạn. Lại ở trong sanh thân loại chúng sanh khác loại chẳng phải chúng đồng phần sanh uẩn khởi gọi là không có nơi hướng đến. Lại nữa, hôm nay tạo ra ít nghiệp nhân thiện ác nhưng đời vị lai lại nhận lấy nhiều quả báo thì gọi là nhân ít qủa nhiều. Lại nếu đời nay tạo nghiệp thì đời sau phải thọ báo nên gọi là tương tợ tương tục. Phật bảo: Xá-lợi-tử! Duyên sanh nầy dùng chánh tuệ như thực để thường tu vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả. Như không điên đảo tức là không sanh, không diệt không tạo tác, không làm, không chấp đối, không ngại,không sợ, không đoạt lấy, không chuyên cần, không biếng nhác. Phải quán tự tánh ấy không có sự thật bền vững mà như bệnh, như ung nhọt, như đau đớn như họa hại. Đó là tính chất khổ, không, vô thường, vô ngã. Lại nữa phải tùy quán đời trước không lưu chuyển: Ta đã có mặt trong đời quá khứ chăng? Ta là ai ở trong đời quá khứ, đã từng có mặt? Ở trong quá khứ ta đã từng không có mặt chăng? Ta là ai ở trong đời qúa khứ chưa từng có mặt? Lại nữa, ở đời sau không lưu chuyển: Trong đời vị lai sẽ có mặt chăng? Ai là ta, trong đời vị lai sẽ có mặt? Trong đời vị lai ta không hề hiện hữu chăng? Ai là ta không hề có mặt trong đời vị lai? Lại ở trong hiện tại không lưu chuyển: Ta có mặt trong đời nầy chăng? Ai là ta có mặt trong đời hiện tại? Sao gọi là ta có mặt trong hiện tại? Kinh Thập Địa nói: Trong đây, Vô minh, Ái, Thủ chính là phiền não lưu chuyển không dứt, hành, hữu là nghiệp lưu chuyển không dứt, các chi phiền não khác là khổ lưu chuyển không dứt. Lại nói vô minh duyên hành là nói quán sát kiếp trước, thức và thọ là nói quán sát hiện tại, ái và hữu là nói quán sát đời sau. Vì vậy, như trên nói đều là lưu chuyển cho đến như thế: Do hệ thuộc nên nói là bị lưu chuyển. Nếu lìa hệ thuộc thì không còn lưu chuyển. Do hòa hợp nên có lưu chuyển. Nếu lìa hòa hợp thì không còn lưu chuyển. Do đó biết rõ các pháp hữu vi có nhiều lỗi lầm cho nên ta phải đoạn trừ sự hệ thuộc và hòa hợp kia. Tuy nhiên, vì hóa độ tất cả chúng sanh nên hoàn toàn không đoạn các pháp hữu vi. <詞>Phẩm 13: NIỆM XỨ Phần 1 Luận nêu: Nói đến việc đối trị tâm nghiệp tức đã lược nói rõ duyên sanh đối trị si mê. Kế để việc hiểu rõ niệm xứ: Thân bất tịnh nay sẽ nói. Kinh Pháp Tập nói: “Lại nữa, thiện nam tử! Bồ-tát phải trụ thân niệm xứ như vậy. Nghóa là thân nay của ta bàn chân đến ngón chân, gót chân đến mắt cá chân, cẳng chân đến đầu gối, bắp vế, xương đầu gối, eo, xương sống, bụng, xương sườn ruột, ngực, ngón tay, khuỷu tay, cổ tay, vai, cổ, đầu, má, đầu lâu v.v… chỉ là sự tích tập của nghiệp hữu. Do nghiệp nầy tạo tác nên nhiều thứ phiền não, và tùy phiền não khiến có trăm ngàn thứ phân biệt chánh, tà. Thân nầy chỉ có tóc, lông, móng tay, răng, máu, thịt, da, xương, gan, mật, lá lách, thận, tim, phổi, ruột, dạ dày, sanh tạng, thục tạng, mở lá, mở miếng, não, màng, ghèn, nước mắt, nước miếng nước mũi v.v… toàn tích tập nhiều thứ bất tịnh, thế vì sao tạo ra thân nầy? Do thế, quán sát thân nầy, như hư không nên thấy tất cả pháp đều không. Nhờ vào không niệm xứ nên biết rõ thân nầy do hai loại niệm hình thành là lưu tán và bất lưu tán. Thân nầy đến không phải là kiếp trước, ra đi cũng không đến kiếp sau, cũng không trụ giữa khoảng trống của hai bờ mé đó, mà nó hiện hữu từ sự tạo tác hòa hợp điên đảo. Do sự lãnh thọ ấy, nên trong đó nói lấy cư ngụ của thân làm cơ sở. Tuy nhiên, thật sự thân nầy không có chủ để cũng không có nhiếp thuộc, mà chỉ là sự tạo tác trước của khách trần, khiến thân thể, hình mạo, thọ dụng y chỉ được duy trì. Nhưng thân nầy chỉ có tinh huyết cha mẹ hòa hợp bất tịnh, nhơ uế tác động làm tự thể, và ba độc ưu não thường làm giặc sát hại, là pháp tán hoại với hàng trăm, ngàn bệnh não chứa chấp trong đó”. Kinh Bảo Kiết nói: “Thân nầy là vô thường nên không có lâu, sẽ chết và đầu thai vào đời sau”. Khi hiểu rõ điều nầy rồi thì không nên đối với thân mà sanh khỏi tà mạng. Ngược lại, phải dùng thân nầy tu ba loại tịnh thí. Sao gọi là ba loại tịnh thí? Thân tịnh thí. Thọ mạng tịnh thí. Thọ dụng tịnh thí. Thân nầy là vô thường nên phải đi đến tất cả chúng sanh, gần gũi mà thừa sự, xem họ muốn làm gì dù mình hoặc làm nô bộc, hoặc làm đệ tử và phải xa lìa tội lỗi của thân luống dối v.v… Thân nầy là vô thường chỉ có hơi thở ra vào làm nhân thọ mạng nên chớ có tạo tác tội ác. Thân nầy là vô thường nên đối với sự thọ dụng ái lạc không sanh đắm trước mà phải xả bỏ tất cả. Lại nữa, thiện nam tử! Bồ-tát dùng thân quán thân niệm xứ nên quán tự thân và tất cả thân chúng sanh đồng thân Phật, nhờ oai thần Phật gia trì mà được lìa triền phược. Tuy nhiên phải quán tự thân và thân của tất cả chúng sanh cùng thân Như Lai, với pháp tánh vô lậu, không có gì khác biệt, nên biết như vậy. Lại nữa, Kinh Vô Úy Thọ Sở Vấn nói: “Thân nầy của ta chẳng phải là nơi tích tập trước rồi dần dần phá hoại, như vi trần. Chín lổ của ta tuôn chảy ra giống như cửa miệng của mụn nhọt. Lại các lổ chân lông có Phược-la-nhị-ca giống như rắn độc nương tựa để ở. Thân như bọt nổi trên nước có đó liền mất, cũng như ánh sáng mặt trời vốn không có thực thể. Thân như cây chuối không cò lỏi thật. Thân như sự huyễn hóa chịu sự sai khiến của người khác. Thân như bạn ác luôn xảy ra nhiều sự tranh tụng. Thân nầy như tính tình con khỉ luôn bay nhảy nhanh nhẹn. Thân nầy như thù địch, thường rình rập. Thân nầy như giặc cướp thừa cơ hội xảo quyệt tham lam cướp bóc. Thân nầy như tù nhân, thường bị cái chết trói buộc. Thân nầy như oan gia, không thể yêu thích, cũng như kẻ cầm đầu hay đoạt mạng mình. Lại nữa, thân nầy như khoảng không giữa làng xóm không có ngã, như bánh xe của người thợ gốm không bao giờ dừng nghỉ, như bình nhuộm nhơ uế, hoàn toàn bất tịnh, như ung nhọt chỉ chứa sự khổ sở, như nhà mục nát không lâu sẽ bị sụp đổ, như thuyền bị lủng không kham nổi sóng gió, như ngói rã dần dần tan nát. Lại nữa, thân nầy như cây bên bờ sông tất bị dòng nước cuốn trôi, như khách trọ có nhiều khổ nạn, như cái nhà trống vọng chấp có chủ tể, như kẻ trộm rình mò thường sanh bạo ác, cho đến như trẻ thơ ngu si, cần phải gìn giữ”õ. Kinh kia lại nói: “Thân nầy chứa đựng rất nhiều thứ bất tịnh, nhưng do ngã mạn ngu si mà vọng chấp cho đó là thuần khiết trong sáng. Vì thế, người trí luôn quán thân nầy giống như bình chứa đồ dơ bẩn: mắt, mũi, miệng v.v… thường chảy ra nước miếng, ghèn, nước mắt thật dơ uế. Sao gọi đối với thân nầy sanh nhiều tham mạn. Kệ trong kinh kia nói: Như trẻ nhỏ ngu si Rửa than muốn thành trắng Giả sử hết đời nầy Cầu trắng không thể được. Cũng như người vô trí Rửa thân muốn trong sạch Thường xuyên luôn tắm rửa Đến chết cũng không sạch Bồ-tát quán nơi thân Chín lổ của ung nhọt Tám mươi ngàn côn trùng Nương thân để an trú Bồ-tát quán nơi thân Như khắc hình trên gỗ Gân cốt nhờ liên kết Nên biết không chủ tể Bồ-tát quán nơi thân Hoặc thọ ăn uống khác Nên biết đồng chồn chó. Luận nói: Nhờ sự ăn uống trợ giúp để thành tựu hạnh rộng lớn. Như vậy, mọi lúc mọi nơi nên phải biết rõ thọ niệm xứ. Như Kinh Bảo Kiết nói: “Nầy thiện nam tử! Bồ-tát tiếp nhận quán thọ niệm xứ để biết rõ chúng sanh, nương vào đại bi mà được niềm vui như thế. Nếu tất cả chúng sanh không có giải thoát, nên phải tu tập lấy thọ quán thọ niệm xứ: Ta phải mặc áo giáp đại bi để nhiếp thọ điều phục tất cả chúng sanh, lấy niềm vui kia để diệt trừ các khổ não, ta dùng đại bi khiến chúng sanh tham đắm lục dục, biết rõ sự thọ lạc ấy mà xa lìa tham nhiễm. Ta dùng đại bi khiến chúng sanh sân hận biết rõ khổ thọ mà xa lìa tội lỗi. Ta dùng đại bi để khiến chúng sanh si mê biết rõ không khổ không vui mà xả bỏ si ám. Lại nữa, lạc thọ kia không hoại khổ thọ, không giảm không khổ không lạc thọ lìa xa đối trị tức không có vô minh. Nếu không có vô minh, thì sao gọi đó là thọ? Sao nói là biết rõ tất cả vô tthường vô ngã…? Vì lạc thọ vốn mang tính vô thường, khổ thọ lại có tính bức bách, không khổ không lạc thọ mang tính vắng lặng. Do vậy, mà biết rõ hoặc lạc hoặc khổ đều vô thường và vô ngã v.v…”. Kinh Vô Tận Ý nói: “Nếu khi thọ khổ thì phải nghó đến tất cả chúng sanh trong đường ác mà phát tâm đại bi nhằm nhiếp trì sân hận và xa lìa thọ, phân biệt điên đảo”. Lại nữa, kệ trong Kinh Pháp Tập nói: Nói thọ là lãnh nạp Lãnh nạp lại là ai Người thọ xa lìa thọ Sai biệt không thể được Người trí quán nơi thọ Trụ niệm xứ như vậy Tướng kia như Bồ-dề Quang minh khắp tịch tónh.  <卷>QUYỂN 17 <詞>Phẩm 13: NIỆM XỨ Phần 2 Luận nói: Như trên đã nói về thọ niệm xứ. Bây giờ nói rõ về tâm niệm xứ. Kinh Bảo Tích nói: “Phật bảo: Ca-diếp-ba! Đối với tâm nầy hoặc sanh ái lạc hoặc khởi nhàm chán tai họa hoặc có nhiều đắm trước. Đối với ba thời sao gọi là quán tìm? Nếu ở quá khứ thì đã diệt, hiện tại không trụ, tương lai thì chưa đến, chẳng phải ở trong chẳng phải ở ngoài, chẳng phải ở giữa v.v… tất cả đều không thể nắm bắt được. Lại nữa, tâm nầy không thể là sắc thấy, chẳng phải biểu hiện ra, chẳng phải đối trị, chẳng phải quán, chẳng phải chiếu, không trụ, không vướng mắc. Nhưng tâm nầy, tất cả Như Lai còn không hề thấy, chúng sanh khác sao có thể quán? Không có cảnh giới riêng, chỉ có tưởng pháp chuyển biến. Nầy Ca-diếp-ba! Tâm nầy vốn như huyễn, biến kế không thật. Do vốn chấp trước mà các pháp được sanh ra. Tâm như hư không bị các khách trần phiền não và tùy phiền não che lấp, tâm như dòng sông sanh diệt không thể trụ, tâm như đèn sáng do duyên mà khởi lên, tâm như ánh chớp trong khoảnh khắc không trụ lâu, tâm như bạn ác có thể sanh ra các khổ não, tâm như người đánh cá khổ mà tưởng vui, tâm như yêu quỷ thường tạo ra sự quấy nhiễu, tâm như Dạ-xoa chực để ăn tinh khí, tâm như giặc cướp cuồng điên phá hoại các thiện căn, tâm như con ngài thường xem sắc mình, tâm như trống trận chỉ biết thúc dục chiến tranh, tâm như nô tỳ tham ăn đồ dư thừa, tâm như ruồi nhặng luôn tiếp xúc với các thứ dơ dáy tanh hôi, tâm như con heo sống trong chốn bất tịnh mà cho là sạch thơm. Phật bảo: Ca-diếp-ba! Nếu người muốn cầu tâm nầy thì hoàn toàn không thể được. Do không đạt được nên không có chỗ đạt được. Đối với quá khứ, hiện tại, vị lai đều không thể nắm bắt được tức nó có thể siêu vượt lên sự có và chẳng có của ba thời”. Kinh Bảo Kiết nói: “Tâm nầy chẳng phải bên ngoài vốn có nên không thể thấy. Đối với uẩn, xứ, giới cũng không thể thấy. Như vậy tìm cầu tâm không thể thấy được thì do, sở duyên nào mà luôn luôn tâm được khởi lên? Nếu cho rằng từng tâm ấy duyên sự việc như vậy thì sao nói là tâm không thể thấy? Nên biết tâm ấy như dao kiếm sắc bén làm sao có thể tự đoạn mất. Lại nữa, tâm nầy như chỉ thẳng, chỉ làm sao có thể nói. Tâm không thể thấy cũng lại như vậy. Nhẫn đến tâm nầy như người đi xa, thân họ chuyển nhẹ nhàng nhanh chóng như gió đi đến trong cảnh giới như ý muốn không có chướng ngại. Nầy thiện nam tử! Nếu có người đối với sáu cảnh giới xứ nầy hệ thuộc vào mình và người nhưng tâm không ái trước, thân không tán loạn thì tức đã ở trong thiền định, tâm nhất cảnh tánh không có chướng ngại. Đây gọi là tâm niệm xứ”. Lại nữa, Kinh Vô Tận Ý nói: “Lấy hành tương ưng để trang nghiêm tu tập đối với pháp tánh, tâm không giảm mất. Sao gọi là trang nghiêm tâm pháp tánh kia, đồng đối với huyễn hóa? Nghóa là nếu tự bỏ tất cả sở hữu để có thể hồi hướng về tâm pháp tánh kia thì gọi là trang nghiêm thanh tịnh cõi nước của chư Phật. Về pháp niệm xứ thì cũng như thuyết kia nói. Bồ-tát đối với pháp không quán pháp, thì hành trì pháp không thể quán. Nếu chẳng phải pháp Phật, chẳng phải đạo Bồ-đề thì tất cả pháp đều chẳng phải xuất ly. Nếu biết rõ điều nầy rồi thì đạt được tam muội đại bi. Đối với tất cả pháp chẳng có phiền não, chẳng phải không có phiền não tức đạt được tam luân vô tưởng. Vì sao? Vì hiểu rõ tánh các pháp không có hai tướng, các phiền não ấy không có tánh tích tụ, không có tánh tham và không có tánh si. Nếu có thể như vậy mà liễu ngộ Bồ-đề, hiểu thấu tính phiền não tức tính Bồ-đề thì gọi là pháp niệm xứ”. Kinh Bảo Kế nói: “Nầy thịên nam tử! Bồ-tát nên dùng pháp quán pháp niệm xứ. Nếu pháp khởi lên tức gọi là sanh, và nếu pháp hoại tức gọi là diệt. Nghóa là đối với pháp như thế: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, dưỡng giả, só phu, Bổ-đặc-già-la, ý sanh nho đồng, già chết v.v… nếu tập tức tập hành, nếu không tích tập tức không tích tập hành, nếu hành thiện, bất thiện và hành bất động thì chưa có pháp nào lìa khỏi nhân duyên mà sanh khởi. Nhẫn đến đối với pháp xứ nầy quán tìm không xả bỏ Nhất thiết trí tâm Bồ-đề”. Như kinh Đại Hý Lạc nói: “Hành hữu vi nầy chỉ có tâm tạo tác, giống như bình đất vô thường tán hoại. Hành như thành không bị mưa làm tan biến do dùng đất đắp lên không kiên cố nên dần dần diệt mất. Cũng như cát tích tụ bên bờ sông vốn mang tính tạm bợ nên dễ bị cuốn trôi. Hành như ngọn đèn trước gió sanh diệt bất thường, hành như bọt nước không thể tụ tập lâu dài, hành như cây chuối không có thực thể, lại như dùng nắm tay không để dối gạt kẻ ngu. Cho đến hoặc lấy cỏ, dây sắn v.v… xe lại để làm dây cột thì phải dùng con lăn để kéo giãn ra và nó chỉ có một tác dụng duy nhất là để ràng buộc. Tất cả mọi thứ đều nương tựa lẫn nhau mà tụ tập chuyển biến. Do vậy nếu nói có trước có sau đều không thể được. Như người dùi lấy lửa, hai tay cùng với miếng gỗ chuyên cần không ngừng thì lửa khiến sanh các duyên kia nếu lìa, thế lửa theo đó diệt mất. Hành quyết định như thế, đã quyết định xong, hoặc mình hoặc người liền có thể siêu vượt hành đoạn và thường. Như người buôn có trí tuệ ở các đường nguy hiểm mà vốn am hiểu toàn diện nên được thông thoát”. Luận nói: Do sự chiêu tập của nghiệp duyên phiền não v.v… đã hình thành nên uẩn, xứ và giới nên đối với nghóa thù thắng không thể đạt được. <詞>Phẩm 14: TỰ TÁNH THANH TỊNH Phần 1 Luận nói: Trước đã nói niệm xứ. Kế đến giải thích Bổ-đặc-già- la quyết định thành tựu tánh không tương ưng để đoạn trừ các căn bản phiền não và các phiền não khác không thể hành tập trở lại. Kinh Như Lai Bí Mật nói: “Phật bảo: Tịch Tuệ! Ví như có cây tên là Bát-la-xa, nếu chặt đứt gốc nó thí tất cả nhánh lá đều khô héo. Nầy Tịch Tuệ! Ở đây cũng lại như vậy, nếu đoạn trừ thân kiến thì có thể trừ diệt tất cả phiền não”. Luận nói: Việc phân biệt tánh không có vô lượng hình tướng. Như kệ trong Kinh Nguyệt Đăng nói: Nếu người tin hiểu pháp Như Lai Đối giới Phật học không hủy phạm Đều luôn xa lìa các người nữ Biết tự tánh pháp thường không tịch Cứu trừ tất cả sầu, lo, khổ Hoặc cho y dược khiến an ổn Nhanh chóng thành bậc “Lưỡng túc tôn” Biết pháp tự tánh thường không tịch Hoặc đối thân mạng đoạn chi tiết Gậy cây đập đánh không sân, não Lực nhẫn tối thượng trong cõi người Biết pháp tự tánh thường không tịch Nếu trong trăm đời đọa đường ác Thường được nhậm trì tướng vi diệu Cũng lại thấu đạt năm thần thông Mà thường an trú nơi chư Phật. Hơn nữa, Kinh Bát Nhã nói: “Nầy Xá-lợi-tử! Bồ-tát muốn thành tựu thân Phật với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp thì đối với tất cả chúng sanh phải nhớ nghó tâm Bồ-đề không khiến tổn hoại, đối với hạnh Bồ-tát không quên mất, xa lìa ác tri thức và các lầm lỗi, gần gũi tất cả Phật, Bồ-tát và thiện tri thức, vì hàng phục các thiên ma mà làm thanh tịnh các nghiệp chướng, đối với tất cả pháp luôn được vô ngại và phải học hạnh Bát nhã Ba-la-mật-đa. Nầy Xá-lợi-tử! Bồ-tát như vậy phát khởi nhất tâm niệm thảy đều có thể siêu vượt hằng hà sa thế giới ở phương Đông và tất cả phương sở đều tu học Bát nhã Ba-la-mật-đa. Nầy Xá-lợi-tử! Bồ-tát giả thiết trụ trong mười phương cõi nước Phật phải học Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng lại như vậy, cho đến học rộng ra như các pháp vô ngã. Nếu trừ diệt nghiệp chướng ràng buộc tức thấy được tự tánh vô diệt của các pháp”. Kinh Phụ Tử Hợp Tập nói: “Phật bảo Đại vương! Như vậy có sáu giới và sáu xúc xứ, mười tám chỗ quán tìm của ý. Bổ-rô-sa nầy nhờ duyên mà được sanh khởi. Sao gọi là sáu giới? Nghóa là đất, nước, lửa, gió, không, thức. Sao gọi là sáu xúc xứ? Nghóa là nhãn xúc xứ thì thấy sắc, nhó xúc xứ thì được nghe âm thanh, tỷ xúc xứ thì được ngửi mùi hương, thiệt xúc xứ thì nếm được mùi vị, thân xúc xứ thì nhận biết sự va chạm, ý xúc xứ thì nhận biết các pháp. Sao gọi là mười tám chỗ quán tìm của ý? Nghóa là mắt thấy sắc rồi hoặc sanh vui thích hoặc sanh khổ não hoặc trụ nơi xả bỏ. Như vậy sáu căn mỗi mỗi đều duyên với ba sự kia. Đây gọi là mười tám chỗ quán tìm của ý. Nầy Đại vương! Sao gọi là giới đất ở trong? Nghóa là trong thân phát sanh các thứ rít nhám, tóc, lông, móng tay, răng v.v… Nếu giới đất ở trong không sanh tức không có diệt thì không có hành tập. Nầy Đại vương! Nếu khi người nữ đối với thân như vốn tư duy về Bổ-rô-sa, Bổ-rô-sa ấy cũng sanh ái lạc. Do hai hòa hợp mà Yết-la-lam phát sanh. Lại nữa như chỗ tư duy tương tự hòa hợp mà được sanh thì không có điều nầy. Hoặc hai người nữ thì không có điều nầy hai Bổ-rô-sa cũng không có điều nầy. Nếu các người ấy tự tư duy mà được phát sanh thì cũng không có điều nầy vì tự thể không thật, chẳng phải tương ưng. Sao gọi đây là tính cứng rắn? Nầy Đại vương! Tính cứng rắn nầy tương tợ mà lập nên và cuối cùng thân nầy sẽ hoại diệt chỉ có nơi mả cao hoang vắng làm chỗ quy về. Tính cứng rắn ấy từ đâu đến? Cũng chẳng phải ở bốn phương trên dưới mà đi. Nầy Đại vương! Giới đất ở trong nên biết như vậy”.  <卷>QUYỂN 18 <詞>Phẩm 14: TỰ TÁNH THANH TỊNH Phần 2 “Nầy Đại vương! Địa giới bên ngoài nầy mang tính chất cứng rắn. Bấy giờ thế gian bắt đầu kiến lập cung điện của Phạm thiên do các báu lớn tạo thành, lại sanh cung điện của chư Thiên thuộc trời Tha hóa tự tại đều bằng bảy báu. Nầy Đại vương! Nếu không có tính cứng rắn của địa giới sanh thì các cung điện kia do đâu hình thành được, lại thành tựu đại địa với bề dày tám vạn bốn ngàn Du-thiện-na và chiều dài rộng sáu vạn Du-thiện-na, lại sanh núi Luân Vi, núi Đại Luân Vi an trụ kiên cố giống như kim cang. Lại sanh núi Tô-di-lô, núi Canh-kiên-đà, núi Tần- mẫn-đà, núi Y-xá-đà cho đến Hắc sơn! Như vậy ba ngàn đại thiên thế giới đã thứ tự thành lập và an trụ kiên cố. Nếu không có tính cứng rắn của giới địa sanh khởi thì các thứ kia từ chỗ nào sanh. Nầy Đại vương! Lại nữa, thế giới nầy khi muốn hoại diệt thì hoặc bị lửa thiêu, hoặc bị nước cuốn, hoặc bị gió thổi. Nhưng khi đại địa nầy bị lửa thiêu thì giống như dầu tô, lửa cháy nó càng bốc mạnh cho đến cháy rụi không còn thấy nữa. Nếu bị nước cuốn thì như đem muối bỏ vào trong nước, tất nhiên muối sẽ rã ra không tìm thấy. Nếu bị ngọn gió Tỳ-lam thổi mạnh thì ba ngàn đại thiên thế giới tất đều tan nát không còn sót lại thứ gì. Nầy Đại vương! Khi địa giới bên ngoài sanh khởi thì vốn là không, khi diệt cũng không, vì tự tánh không nên không có tướng nam nữ mà chỉ nói chỗ biểu hiện ra của nó. Như vậy, địa giới và tính chất của địa giới đều không thể nắm bắt được mà chỉ có chánh tuệ như thật để biết rõ. Sao gọi là giới nước bên trong? Nghóa là nếu sở hữu trong thân nầy chấp thọ tính ẩm ướt. Điều ấy ra sao? Đó chính là nước dãi, mồ hôi, nước mũi, đàm, mở, mũ, tuỷ, máu, nước tiểu v.v… gọi là nước bên trong. Nầy Đại vương! Nếu bất chợt gặp lại người thân yêu thì nước mắt chảy ra, hoặc bị khổ chèn ép khiến chảy nước mắt hoặc nghe pháp thâm diệu rồi tin tưởng tôn trọng khiến nước mắt chảy ra, hoặc bị gió lạnh thổi vào khiến nước mắt chảy ra. Như vậy, nước từ đâu đến và khi tướng nước khô cạn sẽ đi về đâu? Cho đến thế giới nầy khi tan hoại, khắp nơi nổi lên mây đen dày ba mươi hai lớp che kín ba ngàn đại thiên thế giới rồi làm mưa rơi tầm tả, điểm giọt lớn như chân voi, đêm ngày xối xả tương tục không ngừng. Như vậy, thời phần trải qua năm trung kiếp, nước ấy tích chứa tràn đầy đến cõi Phạm thiên. Nầy Đại vương! Nước lớn nầy từ đâu mà đến? Lại nữa thế giới nầy khi sắp muốn hoại thì có hai mặt trời xuất hiện. Khi hai mặt trời xuất hiện rồi thì nguồn nước sông, suối nhỏ thảy đều khô cạn, khi có ba mặt trời xuất hiện thì ao vô nhiệt não chảy ra bốn con sông cũng đều khô cạn. Khi có bốn mặt trời xuất hiện thì nước trong biển lớn giảm xuống một Du-thiện-na, hoặc hai, hoặc ba cho đến giảm xuống mười Du-thiện-na hoặc hai mươi Du-thiện-na. Rồi thứ tự khô cạn đến tám mươi du-thiện-na. Sau đó có dòng nước khác xuất hiện hoặc sâu bằng một cây đa-la, hoặc sâu đến ngực, hoặc hoặc sâu bằng cổ chân trâu cho đến độ sâu giảm thiểu bằng một lóng tay. Lúc ấy, nước trong biển lớn tất đều khô cạn không còn chút nào. Nầy Đại vương! Tướng nước ấy sanh ra không có nơi đến, diệt không có chỗ đi. Khi sanh nó vốn không, khi diệt nó cũng không, vì tự tánh vốn không chẳng có tướng nam hay nữ mà chỉ có thể nói lên chỗ biểu hiện của nó. Như vậy nước và tính chất của nước đều không thể nắm bắt được. Sao gọi là giới lửa ở trong thân? Vì trong thân chấp có tính chất nóng, ấm. Những thứ ấy là gì? Nghóa là ấm áp, hẩm, nóng, nhấm nuốt, ăn uống thành thục biến hoại khiến an vui vì được no nê thì gọi là lửa ở bên trong. Sao gọi là lửa ở bên ngoài? Nghóa là mình không thể cảm nhận được sự ấm áp, nóng bức khi lửa nầy sanh khởi. Nếu lại có người ở trong đồng trống muốn tìm thấy lửa nên hoặc lấy cỏ, hoặc dùng phân khô, hoặc lấy cây bông đâu-la để mồi lửa. Sau khi có lửa rồi, lại thiêu đốt cỏ cây núi rừng, xóm làng và các nơi khác khiến tất cả đều cháy rụi. Nầy Đại vương! Như vậy, lửa sanh ra không có chỗ đến và khi diệt không có chỗ đi, từ xưa đến nay lìa tự tánh. Sao gọi là gió ở trong thân? Đó là tính chất chuyển động nhẹ nhàng. Điều ấy là gì? Gió ở trong thân nầy hoặc khi lên cao hoặc khi xuống thấp, hoặc trụ nơi bụng, nơi ngực, nơi vai, hoặc phát khởi bệnh sởi, hoặc tụ thành khối, hoặc như dao cắt, hoặc như kim châm, hơi thở ra vào biến khắp cơ thể. Còn gió ở bên ngoài thân nghóa là gió nầy từ bốn phương thổi đến, hoặc nhanh như tên, hoặc sắc như mũi nhọn. Nếu gió khởi lên cuồng bạo thì nó bẻ gãy rừng cây đổ ngã và phá hoại núi đồi. Nếu gió thổi lên nhẹ nhàng thì khiến cho tà áo bay và làm động cây Đa-la. Đây gọi là gió ở bên ngoài thân. Những điều còn lại như trước đã nói rõ. Sao gọi là giới không bên trong thân? Nghóa là trong thân nầy có da, máu thịt v.v… biểu hiện tăng trưởng và xa lìa tính trở ngại. Các thứ ấy là gì? Đó là khoảng trống trong con mắt, lỗ tai, miệng, cổ họng, hoặc khi nuốt thức ăn vào trong tỳ vị thì vẫn có chỗ hở cho hơi thông suốt xuất ra. Nếu khi nghiệp duyên dẫn đến sanh ra sáu xứ thì các xứ đã sanh bao quanh giới không. Tuy nhiên giới không nầy từ đâu đến? Nếu hiển hiện ra bên ngoài thì xa lìa tính trở ngại và được gọi là giới không bên ngoài. Nầy Đại vương! Nếu sắc biến hoại thì tất cả đều không. Vì sao? Vì hư không nầy vốn vô tận, an trụ bất động như Niết-bàn và biến khắp tất cả xứ không có chướng ngại. Nầy Đại vương! Ví như có người ở nơi cao nguyên kia mà đào giếng, hồ thì ý ông nghó sao? Tướng không trong hồ, giếng ấy từ đâu đến?”. Vua đáp: “Không từ đâu đến cả”. Phật bảo: “Đại vương! Giả sử người kia dùng đất lấp giếng lại thì ý ông nghó sao? Khoảng không đó đi về đâu?”. Vua đáp: “Khoảng không ấy không đi về đâu cả. Vì sao? Vì hư không ấy không đi, không đến, không trụ vào tướng nam hay tướng nữ”. “Nầy Đại vương! Hư không bên ngoài xưa nay vốn không biến động. Vì sao? Vì tự tánh viễn ly nên phải dùng trí tuệ như thật mà biết rõ. Lại nữa Đại vương! Sao gọi là thức? Nghóa là nếu nhãn căn làm chủ duyên với hiển sắc, hình sắc và biểu sắc thì gọi là nhãn thức. Nếu sáu căn làm chủ duyên với sáu cảnh, mỗi thứ thiết lập riêng biệt thì gọi là sáu thức. Hơn nữa, thức nầy không vướng mắc vào căn cũng không trụ vào cảnh, chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, chẳng phải ở giữa. Tuy nhiên thức nầy mỗi mỗi đều hiểu rõ các sự việc kia rồi tức liền diệt mất nên nó sanh cũng không có chỗ đến, diệt không có chỗ đi. Nầy Đại vương! Khi thức sanh cũng là không, khi thức diệt cũng là không. Tự tánh ấy vốn không nên không trụ vào tướng nam hay tướng nữ mà chỉ nói chỗ biểu hiện của nó. Như vậy, thức và tính chất của thức đều không thể nắm bắt được mà chỉ dùng chánh tuệ như thật để biết rõ. Nầy Đại vương! Sao gọi là nhãn xứ? Nghóa là bốn đại: đất, nước, gió, lửa tạo ra tịnh sắc. Nếu đất thanh tịnh thì nhãn xứ thanh tịnh. Nếu nước, lửa, gió thanh tịnh thì nhãn xứ thanh tịnh. Vì sao? Do đất thanh tịnh mà nhãn xứ được sanh. Nên biết trong đây không có pháp nào có thể nắm bắt được. Như vậy cho đến do gió thanh tịnh mà nhãn xứ được sanh và trong đó cũng không có pháp nào có thể nắm bắt được. Ví sao vậy? Vì không có chủ tể, không có tạo tác, giống như tự tánh Niết-bàn thanh tịnh. Nầy Đại vương! Như vậy, nhãn xứ nếu tìm cầu thì không thể đạt được. Vì sao? Do đất vốn không nên đất trở nên thanh tịnh, cho đến gió vốn không nên gió cũng trở nên thanh tịnh. Nếu tự tánh các pháp vốn không thì giới kia sao có thanh tịnh, cũng không có phẫn nộ tranh cãi? Dù thanh tịnh hay tranh cãi thì cũng đều không thể nắm bắt được. Lại nữa sắc nào có thể thấy? Nên biết nhãn xứ hoàn toàn không nên tự tánh cũng không. Do vậy trước sau đều không thể nắm bắt được và vị lai cũng không thể nắm bắt. Vì sao? Vì tự tánh lìa tất cả những pháp ấy. Nếu tự tánh không có thì không có tướng nam tướng nữ vậy làm gì có ái lạc! Nếu sanh ái lạc là cảnh giới của ma. Nếu không có ái lạc là cảnh giới của Phật. Vì sao? Vì nếu không có ái tức có thể lìa xa tất cả các pháp. Nầy Đại vương! Sao gọi là nhó xứ? Nghóa là tịnh sắc do bốn đại chủng tạo ra. Đại vương! Các pháp giải thoát hiện ra trước mắt, pháp giới không không thể thiết lập, không thể hiển thị, không thể nhớ nghó riêng biệt, không có chỗ nào hy vọng. Đại vương! Các căn luôn đắm trước cảnh giới. Khi nhãn duyên với sắc thì vướng mắc vào sự ưa thích nên nói sắc là cảnh giới của nhãn. Lại nữa, nhãn căn nầy duyên với cảnh sắc có ba loại tướng hiển hiện xem xét. Với sắc đáng yêu thì khởi tưởng tham. Với sắc không đáng yêu thì khởi tưởng sân. Với sắc không yêu không ghét thì khởi tưởng xả. Như vậy, cho đến ý chấp trước pháp làm cảnh giới của ý. Nếu ý duyên với sắc đáng yêu thì khởi lên chấp trước và sanh ra hành tham. Nếu ý chấp trước sắc không ưa thì sanh ra hành sân. Nếu ý đối với sắc không thích cũng không ghét thì sanh ra hành si. Như vậy, ba loại âm thanh vin vào duyên mà lãnh nạp các tướng theo như trước đã nói. Nầy Đại vương! Nên biết các căn như huyễn, cảnh giới như mộng. Ví như có người nằm ngủ mộng thấy các người nữ với lụa là tươi đẹp cùng nhau vui đùa thì ý ông nghó sao? Khi người ấy tỉnh rồi thì nhớ đến cảnh mộng ấy là có thật chăng?”. Vua đáp: “Không có thật, thưa Thế Tôn”. “Nầy Đại vương! Ý ông nghó sao? Người chấp mộng cho là thật, là bậc trí chăng?”. Vua đáp: “Không, thưa Thế Tôn. Vì sao? Vì những gì thấy trong mộng, các người nữ với lụa là tốt đẹp hoàn toàn không có, huống hồ cùng họ đùa vui. Nên biết người nầy tự chuốc lấy khổ sở chứ việc nhớ nghó về chuyện trong mộng thì không bao giờ nắm bắt được”. Phật bảo: “Đại vương! Đúng vậy! Đúng vậy! Hàng phàm phu ngu si khi mắt thấy sắc rồi tâm sanh yêu thích lại khởi chấp trước nên bị chúng dẫn dắt tạo tác hành nghiệp tham, ba loại nghiệp của thân, bốn thứ nghiệp của miệng và ba thứ nghiệp của ý. Ban đầu tạo tác rồi trong một khoảng khắc bị hoại diệt, không nương tựa vào bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, hay trên, dưới, trung gian mà trụ. Đối với cõi chết, khi mạng căn dứt thì nghiệp báo thảy đều hiện ra trước mắt, giống như khi tỉnh mộng rồi nhớ nghó lại chuyện trong mộng. Nầy Đại vương! Nên biết, thức làm chủ, nghiệp bám víu vào duyên cả hai thứ làm nhân cho nhau. Ban đầu thức sanh khởi hoặc hướng đến địa ngục, hoặc đọa vào cõi bàng sanh hay cảnh giới Diễm-ma-la và A-tu-la hoặc cõi trời, cõi người. Ban đầu thức sanh gọi là thọ nhận báo ấy rồi cùng với tâm phân biệt tương tục tùy chuyển. Về sau thức diệt gọi là uẩn tử. Lúc đầu thức sanh khởi gọi là uẩn sanh. Đại vương nên biết! Không có pháp nào tồn tại từ đời nầy đến đời khác. Vì sao? Vì chúng có tánh sanh diệt. Đại vương! Khi thân thức sanh thì không có chỗ đến, khi thức ấy diệt thì cũng không có chỗ đi. Khi nghiệp kia sanh cũng không chỗ đến, khi diệt cũng không có chỗ đi. Ban đầu khi thức sanh vốn không có chỗ đến, khi diệt cũng không có chỗ đi. Vì sao? Vì tự tánh vốn xa lìa sanh diệt. Như vậy, nếu biết rõ thân thức thì thân thức vốn là không, nghiệp của mình cũng vốn là không, thức ban đầu vốn là không, thức diệt cũng vốn là không, thức sanh cũng vốn là không. Nên phải biết rõ nghiệp trói buộc không có tác giả, thọ giả mà chỉ có sự tưởng tượng. Lại nữa Đại vương! Ví như có người nằm ngủ mộng thấy các oan gia đối đầu rồi cùng nhau khởi tranh cãi thì ông nghó sao? Người ấy khi tỉnh mộng lại cho rằng sự tranh cãi là có thật chăng?”. Vua đáp: “Thưa Thế Tôn! Không thể như vậy”. Phật bảo: “Đại vương! Ý ông nghó sao? Người ấy chấp trong mộng là có thực, là bậc trí chăng?”. Vua đáp: “Thưa Thế Tôn! Không. Vì sao? Vì ở trong mộng vốn không hề có oan gia đối đầu, huống gì lại có sự cùng nhau tranh cãi! Người ấy không nên tự chuốc lấy ưu não vì nó không có thật”. Phật bảo: “Đại vương! Như vậy, phàm phu ngu si khi mắt thấy sắc xấu liền sanh ưu não rồi chán ghét phá hoại và tạo tác lỗi lầm mà hành nghiệp sân. Các điều khác thì như trước đã nói. Lại nữa, Đại vương! Ví như có người ở trong mộng thấy bị Tỳ-xá ngăn cản não hại khiến tâm sanh phiền muộn, si mê sợ hãi thì ý ông nghó sao? Người ấy khi tỉnh mộng nhớ lại chuyện bị yêu quỷ quấy nhiễu là thật chăng?”. Vua đáp: “Thưa Thế Tôn! Không phải như vậy! Vì sao? Vì trong mộng không hề có quỷ quấy nhiễu huống hồ là sự si mê”. Phật bảo: “Đại vương! Như vậy, hàng phàm phu ngu si khi mắt thấy sắc ấy do si mê không biết rõ nên tạo ra hành nghiệp si. Các điều khác thì như trước đã nói. Lại nữa, Đại vương! Ví như có người ở trong mộng được nghe nhiều người trỗi lên các thứ âm nhạc vi diệu như tiếng ca, tiếng không hầu, tiếng đàn, tiếng sáo v.v… thì ông nghó sao? Người ấy khi tỉnh mộng nhớ nghó những thứ đó là thật chăng?”. Vua đáp: “Thưa Thế Tôn! Không phải như vậy”. Phật bảo: “Đại vương! Ý ông nghó sao? Người ấy chấp trong mộng cho là thật là người trí chăng?”. Vua đáp: “Thưa Thế Tôn! Không. Vì sao? Vì ở trong mộng, những người kia còn không có, huống hồ lại có các âm thanh thuộc âm nhạc vi diệu. Người ấy không nên tự chuốc lấy khổ sở vì những điều kia hoàn toàn không có”. Phật bảo: “Đại vương! Như vậy, kẻ phàm phu ngu si khi nghe âm thanh hay rồi sanh ưa thích và sanh chấp trước mà tạo ra hành nghiệp tham. Như vậy, hương v.v… mỗi thứ ba loại quyết định như trước nên biết. Nầy Đại vương! Đối pháp nầy nên khéo tự an ổn ý và nhớ nghó: Ta làm sao ở trong cõi trời, đối với người làm mắt sáng làm đèn đuốc lớn để chiếu soi, làm thuyền trưởng để khiến vượt qua bờ bên kia, làm đại thương chủ dẫn mọi người đến kho báu, người chưa được giải thoát ta khiến họ được giải thoát, người chưa an ổn khiến họ được an ổn, người chưa chứng Niết-bàn khiến họ chứng Niết-bàn. Đại vương nên biết! Các căn vốn như huyễn cảnh giới như mộng, nhưng phàm phu lại đắm trước không có nhàm chán. Vào thời quá khứ, cách đây vô lượng cõi nước, có vị Chuyển luân vương tên là Vô Lượng Xứng với oai đức danh tiếng, giàu sang, tự tại thống trị bốn châu rất là tối thắng, tùy ý muốn mà được thọ dụng, tất cả rừng cây trong nước của vị ấy thường có hoa quả bốn mùa. Lúc ấy, dân chúng trong nước đều an ổn không có phiền não. Lại nữa, trời thường làm mưa với đủ các thứ diệu hương, kim ngân, trân báu đầy đủ và mọi nhu cầu không bao giờ thiếu sót. Nhưng vào một thời, đột nhiên vua tiến thẳng lên trời Đao Lợi gặp chủ Đế Thích đòi chia tòa để ngồi. Do tham dục không nhàm chán nên muốn xâm phạm đến địa vị kia. Tuy nhiên, vua vừa nghó vậy xong liền thoái đọa khiến quần thần chung quanh đều thấy điều đó. Thí như váng sữa bỏ vào trong cát nóng thì nó tồn tại không lâu và sẽ tan biến. Vì vua ấy sắp mạng chung cũng lại như vậy. Bấy giờ, có vị vua tên Tác-ái thấy sự việc nầy rồi liền nói: “Ta nên làm thế nào để nói việc ấy cho tất cả thế gian biết”. Lúc ấy, vua Vô Lượng Xứng nói với Tác Ái: “Ông ở đời vị lai nên nói như vầy: Vua Vô Lượng Xứng kia do tham lam không biết chán nên đã tự chuốc lấy cái chết”. Nầy Đại vương! Các căn vốn như huyễn, cảnh giới như mộng nên phải tự an ổn chớ tin thuận theo. Thân nầy như tự tánh của ánh sáng mặt trời không hề có thật. Tự tánh của sắc, thọ, tưởng, hành, thức không thật, cũng lại như vậy”.  <卷>QUYỂN 19 <詞>Phẩm 14: TỰ TÁNH THANH TỊNH Phần 3 Luận nói: Ở đây nói nương vào nghóa thù thắng của thế tục mà kiến lập nên các pháp. Phải biết như vầy: Nếu khi Thế Tôn dùng Nhất thiết trí quán sát thế gian thì hiện chứng biết rõ nương vào thế tục nói có sáu cõi hoặc trời, người, A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, các chủng tộc trên dưới thọ báo giàu sang, nghèo khổ, thạnh suy, khổ lạc và chê khen, sắc và vô sắc… đều tương sanh. Nếu khi Như Lai xuất hiện ở thế gian thì các chúng sanh… đều được an trú nơi chỗ thiện mà phát khởi tịnh tín, ưa thích nói nghóa thù thắng. Lúc ấy, Như Lai vì lợi ích cho chúng sanh nên theo như sở chứng của mình mà nói: Sự thật của các pháp vốn không có tạo tác, không có phân biệt, không có tri giác, không có hiển thị cũng không có ngôn thuyết. Như vậy, tất cả các pháp đều không. Nếu vậy thì sao Thế Tôn lại nói thọ ký Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng? Ở trong pháp nầy lấy gì làm sắc? Sao gọi là thọ, tưởng, hành, thức mà có thể thọ ký Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng? Do biết rõ sắc vốn không tức Bồ-đề sanh. Cho đến thức vốn không cũng đồng như cách nói ấy. Đối với các pháp đều không hề có chỗ chứng đắc thì sao gọi là Phật? Sao gọi là Bồ-đề? Sao gọi là Bồ-tát? Sao gọi là thọ ký? Nếu sắc là thứ vốn không cho đến thức cũng không thì chỉ nương vào thế tục trong một sát na mà kiến lập nên. Như vậy, ngôn thuyết chỉ là tưởng! Người trí đối với điều nầy chớ có khởi sân hận, phiền não. Như Thế Tôn nói: Thực tế của các pháp rốt ráo vô tận. Trời Hóa lạc kia không hiểu rõ nghóa lý sâu xa nên chấp ngã cho là có cũng không chướng ngại. Thế Tôn lại nói: Các pháp Bồ-đề, tự tánh lìa sanh diệt. Nếu ai hiểu rõ điều ấy tức gần gũi vô lượng Bồ-đề. Vì sao? Vì nếu lìa Bồ-đề thì không có Niết-bàn. Nếu không có vui thích Niết-bàn tức không có sợ hãi luân hồi. Thế Tôn, như chỗ chấp có của trời Hóa lạc, ngã thực chất không thể nắm bắt được, huống hồ có thể có sự thực có thể nắm bắt! Lúc ấy chủ cõi Ta Bà nghe Phật nói rồi, liền sanh lãnh hội và hiểu rõ mà nói kệ: Như người trong mộng bị đói khát Vội ăn trăm vị liệu có no Khi rõ mộng kia tướng vốn không Tự tánh các pháp cũng như vậy Như người khéo nói các ngôn luận Nghe rồi đều sanh sự yêu thích Hoặc nói hoặc thích cả hai không Trong đây không được sanh nghi hoặc Ví như sắt cầm phát âm hay Tiếng kia tự tánh vốn không có Biết rõ uẩn, ái cũng như vậy Diệu tuệ tìm kia không thể được Ví như âm hưởng của ngọc kha Nghe rồi tìm cầu chỗ nào sanh? Tiếng kia xưa nay tự tánh không Tức hiểu các pháp của Đại Tiên Thí như các thức ăn ngon lành Ăn rồi khiến thân được no đủ Như vậy vị thân xưa nay không Tức hiểu các pháp của Đại Tiên Thí như Thiên đế hiện tràng báu Các trời đều thấy sanh ái dục Biết rõ tướng nầy xưa nay không Tức hiểu các pháp của Đại Tiên Thí như có người phân địa giới Gượng gọi thành ấp xưa nay không Cũng biết thành thân tự tánh không Tức hiểu các pháp của Đại Tiên Thí như tập hợp người đánh trống Mọi người nghe rồi sanh vui thích Tiếng kia tự tánh xưa nay không Tức hiểu các pháp của Đại Tiên Lại như đánh trống mượn duyên sanh Nếu không thấm nhuần tiếng vẫn động Tìm cầu tiếng ấy chốn nào đến Tức hiểu các pháp của Đại Tiên Lại như đánh trống xuất âm lớn Kia không nghó ngợi và vang to Như vậy phân biệt xưa nay không Tức hiểu các pháp của Đại Tiên. Luận nói: Ở đây lại nói rõ nghóa trước. Nghóa là nhãn… tự tánh các pháp vốn không có. Nếu các pháp không có thì không thành tựu. Nếu không thành tựu thì không sanh diệt. Nhẫn đến nhãn căn vốn duyên với ba tướng ái, phi ái… đều không thể nắm bắt được, không có ngôn thuyết, cũng không có biểu thị. Ví như dùng tay không nắm chặt lại để vừa gạt trẻ nhỏ, chỉ cuồng ngôn chứ thật ra không có gì trong đó. Cho đến danh lượng cũng không có thật, không thể nắm bắt được. Nghóa không thù thắng nầy quyết định sự không có. Như người ở trong mộng thấy núi lớn hiện ra đè lên mình khiến đứt đầu. Người trí hiểu rồi liền biết rõ tất cả đều do thức sanh khởi nên được giải thoát. Như Đại Thọ Khẩn-na-la Vương hỏi Thế Tôn: “Nếu bảo các pháp thảy đều trống không thì sao Thế Tôn thọ ký cho con? Con cũng không biết tự trụ ở lầu gác không tăng, không giảm cũng không tán hoại, sự thọ dụng vô tận, tướng ấy là thế nào?”. Phật bảo: “Ông phải biết rõ tất cả pháp kia tự tánh thanh tịnh, pháp giới vốn không giống như các cảnh tượng hiện ra trong gương, như tạo bánh xe, tụ tập mà hiển thị. Ta nói tác nghiệp tự tánh cũng lại như vậy. Lại như rừng cây do gió thổi mạnh nên cọ xát với nhau mà sanh ra lửa. Như vậy, tư duy xem lửa ấy từ đâu có? Ta nói tác nghiệp cũng lại như vậy. Như nói ở người sống lâu trăm tuổi thì nên biết không có sự tích tụ tuổi thọ có thể thấy được”. Lại nữa, Kinh Pháp Tập nói: “Nhãn và sắc vốn không có chống đối nhau, nhó và âm thanh cho đến ý và pháp cũng không hề chống đối nhau. Vì sao nói nhãn và sắc không hề chống đối nhau? Vì hai thứ nầy hòa hợp không có trái nghịch nhau. Cho đến ý và pháp hai thứ đều hòa hợp cũng lại như vậy. Nếu không hòa hợp thì ắt có chống đối nhau. Thế Tôn! Pháp không có sai khác nên không có sự chống đối nhau. Các pháp không hai nên mỗi thứ không biết nhau. Do không biết nhau nên không có phân biệt. Nếu lìa phân biệt thì không có sanh diệt, không có tăng giảm, không sanh ái lạc cũng không chán hoạn nạn cũng không trụ luân hồi, không chấp Niết-bàn. Thế Tôn! Nếu đối với các pháp không thích, không chán thì nên biết không có tính nhiễm tịnh v.v… Thế Tôn! Nếu nói ta biết như vậy, ta hiểu như vậy thì đều là chỗ phân biệt hư vọng. Thế Tôn! Nếu lại đối với các pháp của nhãn nầy… khéo hiểu biết rồi thì không nghó: Ta có thể phân biệt. Phải biết người nầy cùng với vạn vật không có sự chống đối nên có thể tùy thuận đạo hạnh Sa-môn, được thấy pháp, được gặp Phật, được thấy chúng sanh, được thấy tánh không. Thế Tôn! Thấy vốn không có chỗ gì thấy tức gọi là các pháp không thấy”. Kinh kia lại nói: “Bồ-tát Vô Sở Phát hỏi: Như như không đối với pháp nói thế nào? Phật bảo! Như như không kia không sanh, không diệt, do vậy các pháp đều không. Bấy giờ, Bồ-tát Vô Sở Phát nói: Do như vậy, như vậy nên Thế Tôn nói tất cả pháp đều không sanh, không diệt. Thế Tôn! Cớ gì lại nói các pháp hữu vi đều có sanh diệt? Nếu như vậy thì tháp miếu của Phật nhất định có sanh diệt! Phật bảo: Nầy thiện nam tử! Như Lai do tâm đại bi vì diệt trừ sự sợ hãi của chúng sanh trong thế gian mà tùy thuận tuyên nói pháp sanh diệt. Chứ thật ra trong đó không có pháp nào có thể nắm bắt được huống hồ có sanh diệt”. Như kinh Bát Nhã nói: “Trưởng lão Tu-bồ-đề! Sao gọi là pháp vô sanh? Tu-bồ-đề đáp: Xá-lợi-tử! Sanh không có gì để sanh nên gọi là pháp vô sanh”. Luận nói: Điều nầy gọi là tích tập phước hạnh thanh tịnh để thành tựu Bồ-đề, lấy tâm từ thanh tịnh duyên với chúng hữu tình, khéo quán sát và nhận biết không có tướng chúng sanh. Nếu lại cúng dường mười phương chư Phật, bậc Lưỡng túc tôn thì xa lìa cấu nhiễm và điều ấy cũng không thể nhận thấy được. Nếu cung cấp, phụng dưỡng tất cả chúng sanh khổ não thì chính là tuân theo lời giáo huấn của bậc Điều ngự. Bậc tôn kính trong cõi người thường đem tâm đại bi để bạt trừ các khổ não cho chúng sanh, khiến họ được an ổn, vui thích, phát sanh trí tuệ thanh tịnh nhằm đoạn trừ phiền não. Đối với chánh lý nầy, họ đã hiểu rõ nên xa lìa nghi hoặc. Như vậy, quả báo cúng dường không khó đạt được. Khi đã hiểu chánh giáo của Đức Phật rồi theo chánh giáo ấy mà quán sát thân, nhớ nghó đến bát chánh đạo, thì đoạn trừ si mê và nhiễm ô. Phải nên xả bỏ tự thân để thừa sự chư Phật, không hy vọng có được diệu lạc của thế gian và các cõi trời mà luôn tu tập ma-tha, Tỳ- bát-sa-na để tịch tónh biến khắp nơi và được xuất ra khỏi đường khổ. Sao gọi là kiến lập các pháp thế tục? Nghóa là ở trong chỗ hư vọng mà biết hòa hợp tương ưng với phàm phu si mê điên đảo. Đối với những kẻ ấy phải tưởng như con mình để dìu dắt họ nương tựa vào chánh pháp, y chỉ thành tựu nhằm nói pháp thắng nghóa không cho họ nghe tức không có tướng cố định nầy vì tất cả pháp vốn không có sanh. Như Kinh Vô Cấu Xứng nói: “Văn-thù-sư-lợi hỏi Duy Ma Cật: Hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc? Đáp: Lấy tướng điên đảo làm gốc. Lại hỏi: Tướng điên đảo lấy gì làm gốc? Đáp: Lấy vô trụ làm gốc. Lại hỏi: Vô trụ lấy gì làm gốc? Đáp: Vô trụ tức là không có gốc. Nầy Văn-thù-sư-lợi! Từ gốc vô trụ tức có thể kiến lập tất cả các pháp”. Lại nữa, Kinh Bát Nhã nói: “Nên phải xả bỏ tại gia, an trú dũng mãnh để đoạn trừ phiền não khiến tâm thanh tịnh, bình đẳng mà tu tập Bát nhã Ba-la-mật-đa”. Kinh Pháp Tập nói: “Người khéo hiểu rõ nghóa không thì tâm không nương tựa vào các thứ sở hữu của thế gian như lợi, suy, xưng, gièm, vui, buồn, khen, chê… Đối với các khổ não không sanh nhàm chán. Đối với các khoái lạc không sanh ái đắm, không bị các pháp thế gian phá hoại. Người khéo hiểu nghóa không tức biết rõ tánh không không thì có pháp nào để nắm bắt hoặc xả bỏ. Nếu không nắm bắt và không xả bỏ tức không có tham trước và nhàm chán. Đây gọi là người khéo thấy nghóa không tức đối với tất cả pháp không có chấp trước. Nếu không có chấp trước tức đối với các pháp không có sự tranh luận”. Luận nói: Ở đây nói rõ trong một sát na tâm được thanh tịnh. Nghóa là do ngã mạn nên khinh bỉ chúng sanh. Nếu biết rõ ngã kiến xưa nay không có, nên nhất tâm chuyên chú để đoạn trừ ngã mạn thì người ấy nhanh chóng được tâm thanh tịnh. Như vậy, quán sát tất cả xứ, chỗ của chúng sanh mà thường vui tôn trọng, xa lìa sự bám víu vào duyên và sự phân biệt mình, người khác, đồng bình đẳng với tất cả không hề trái ngược nhau như thế, việc học hạnh nầy thì không lấy gì làm khó. Ví như ngọc báu như ý là điều ưa thích của con người chứ chẳng phải chỉ riêng mình. Do vậy, đối với người khác phải sanh tôn trọng. Nghóa là do điên đảo phân biệt mà chấp trước nên đối với loài hữu tình sanh khởi keo kiệt hoặc khen chê. Tất cả điều ấy đều do sự trói buộc của ngã mạn. Vì duyên nầy nên sanh khởi khen chê làm tăng trưởng nhiệt não như lửa ngục A-tỳ. Âm thanh ấy vốn không có tâm khen ngợi, sao có tuệ hư vọng nầy sanh khởi ưa thích? Tại sao đối với lời nói của người khác mà sanh thích thú? Vì đối với niềm vui của người khác hoặc sanh khởi chẳng phải của ta. Nên biết, phải thường bình đẳng để tự mình giữ lấy an ổn, tónh lặng. Nếu hiểu rõ sự phân biệt các tướng trói buộc, thoát ly, khen chê v.v… như vậy tức là biết rõ tất cả đều không có quả lợi ích. Lại nữa, đối với tài lợi sanh nhiều niềm vui và não hại là do thói quen tích tập ganh ghét, xảo trá và mong cầu. Nên biết dù thuận hay nghịch đối với tài lợi ấy đều đưa đến tội nặng. Chỉ có thuận theo chánh lý mà khởi đối trị nhằm bạt trừ ngã mạn mới khiến tâm nhanh chóng trở nên thanh tịnh, xa lìa lỗi lầm ngôn ngữ và chuyên vui tịch mặc chỉ trừ sự răn dạy nối tiếp biểu hiện. Hiểu rõ các pháp hư vọng vốn không có thật kiên cố, là gốc sanh các khổ, không thể bám trụ lâu. <詞>Phẩm 15: CHÁNH MẠNG THỌ DỤNG Phần 1 “Lại nữa, Trưởng giả! Nếu là Bồ-tát tại gia thì nên vui với sự thọ dụng chánh mạng bình đẳng xa lìa sự sanh hoạt phi pháp trong đời sống…”. Kinh Bảo Vân nói: “Sao gọi là Bồ-tát đối với sự bố thí không lấy thân nghiệp giả hiện oai nghi? Nếu khi nhấc chân bước đi thì không nên giả bộ nhẹ nhàng khoan thai. Nếu khi hạ chân xuống thì không làm ra vẻ đăm chiêu hiện tướng suy tư. Thế nào là Bồ-tát nói năng không giả bộ, không vì lợi dưỡng? Ngược lại, phải thực sự thể hiện lời nói nhỏ nhẹ, lời nói mềm mỏng, lời nói ưa thích và lời nói tùy thuận. Sao gọi là tâm Bồ-tát không có dối trá không vì lợi dưỡng? Nghóa là lời nói thể hiện tâm ít ham muốn, ít tham cầu và não phiền nóng nảy bên trong. Sao gọi là Bồ-tát hay xả ly, vì lợi dưỡng nên hiện ra dị tướng? Nếu thấy người bố thí quyết không nên tự nói: Ta thiếu y phục, ngoại cụ, thức ăn uống, thuốc trị bịnh, mong thí chủ rũ lòng ân huệ bố thí. Sao gọi là Bồ-tát hay xả ly, vì lợi dưỡng nên nói lời sáo rỗng, kích động? Nếu thấy người bố thí thì không nên nói dối trá: Thí chủ ấy… đem vật như vậy bố thí cho ta, ta dùng vật nầy với mục đích để báo đáp ân của thí chủ. Lại nói: Vì ta thiểu dục, trì giới, đa văn nên người kia bố thí. Ta đã khởi tâm thương xót mà nhiếp thọ phẩm vật đó. Cho đến thân hành ác, vì lợi dưỡng nên bôn ba qua lại nhà thí chủ mà phá giới cấm. Nếu thấy bậc đồng phạm hạnh khác được các lợi dưỡng liền khởi tâm tổn hại thì gọi là Bồ-tát lìa bỏ hiểm nạn mà cầu lợi dưỡng. Sao gọi là Bồ-tát xả ly lợi dưỡng phi pháp? Nghóa là Bồ-tát nầy không toan tính quyền lực mà hành luống dối, tùy theo người khác tin, không nên khởi tâm xâm phạm làm tổn hại. Sao gọi là Bồ-tát xa lìa bất tịnh và lợi dưỡng? Nghóa là Bồ-tát nầy đối với vật thuộc tháp miếu của Phật, vật của Pháp, vật của Tăng chúng không nên lạm dụng. Nếu có dùng được cũng không dám nhận. Sao gọi là Bồ-tát xa lìa việc đắm trước lợi dưỡng? Nghóa là Bồ-tát nầy đối với các vật dụng mình có được thì không nên ôm giữ lấy một mình, không tự khoe khoang giàu có, cũng không tích chứa mà tùy thời đem cúng cho Sa-môn, Bà-la-môn, Phạm chí… hoặc đem cho cha mẹ, thân thuộc, bạn bè, hoặc tự thọ dụng. Và khi thọ dụng thì không nên sanh nhiễm trước. Nếu Bồ-tát lúc ấy không được lợi dưỡng thì tâm không sanh khổ cũng không có nhiệt não. Và nếu thí chủ không bố thí thì Bồ-tát đối với người ấy cũng không sanh tâm sân hận”. Lại nữa, Kinh Vô Tận Ý nói: “Không có chúng sanh nào mà không thể kham nhẫn thọ thí như người kia đã đồng ý đem thí cho. Nếu có người đến xin thì không nên khởi phiền não mà bố thí, không bị người khác bức bách mà bố thí, không mệt mỏi mà bố thí, không sanh dị tướng mà bố thí, không quay mặt đi mà bố thí, không khinh dể mà bố thí, không ruồng bỏ mà bố thí, không bất kính mà bố thí, không phân biệt mà bố thí, phải tự tay mà bố thí phải nương đúng thời mà bố thí, phải bình đẳng mà bố thí, không gây não hại chúng sanh mà bố thí”. Lại như Kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn nói: “Bồ-tát khi hành bố thí Ba-la-mật-đa, nếu có người đến xin vật cần thiết thì phải nương vào việc làm của mình mà cung cấp cho họ. Nếu người thích rượu thì Bồ-tát khiến họ sanh chánh niệm tức là ban đầu nên đem rượu cho họ uống rồi sau đó khuyên họ đoạn trừ rượu. Như vậy, chính là Bồ-tát dùng phương tiện thanh tịnh để nhiếp thọ chúng sanh. Nếu trong tâm người ấy ưa thích uống rượu không dứt thì Bồ-tát dùng lời khuyên bảo, trách cứ các lỗi lầm của rượu cũng như dao kiếm sắt bén nên nhất định phải khuyên họ xa lìa chứ không nên tiếp tục uống. Như vậy, người bố thí tức không phạm phải tội lỗi xấu ác”. Luận nói: Ở đây nói sự thanh tịnh của việc thực hành bố thí để dần dần đi và các lãnh địa giải thoát như trong các kinh khác đã trình bày rõ việc chế và đoạn trừ. Kinh Hư Không Tạng nói: “Đó chính là sự bố thí thanh tịnh của ta, nhân bố thí thanh tịnh, thấy bố thí thanh tịnh, tướng bố thí thanh tịnh, chủng tánh bố thí thanh tịnh, trong sát na quả báo bố thí thanh tịnh, tâm như hư không bố thí thanh tịnh. Cho đến như hư không không có bờ mé, Bồ-tát hành bố thí cũng lại như vậy, thí như hư không thật rộng lớn vô ngại, Bồ-tát hành bố thí hồi hướng rộng lớn cũng lại như vậy. Như hư không không có sắc tướng, Bồ-tát lìa sắc mà hành bố thí cũng lại như vậy. Như hư không không có tưởng, không có tạo tác, không có biểu hiện, không có tướng, Bồ-tát hành bố thí cũng lại như vậy. Như hư không biến khắp các cõi Phật, Bồ-tát lấy đại bi duyên với các hữu tình mà rộng hành bố thí cũng lại như vậy. Như hư không dung chứa tất cả, Bồ-tát hành bố thí thu nhiếp các hữu tình cũng lại như vậy. Cho đến như người biến hóa bố thí cho người biến hóa thì không có thọ dụng cũng không có phân biệt, ý đạt hiểu các pháp không có gì mong cầu, lìa ngã và ngã sở, đạt được được tự tánh thanh tịnh, dùng trí tuệ thù thắng để đoạn trừ các phiền não, dùng trí phương tiện mà không xả bỏ hữu tình. Đây chính là Bồ-tát tu hạnh bố thí Ba-la-mât-đa giống như hư không”.  <卷>QUYỂN 20 <詞>Phẩm 15: CHÁNH MẠNG THỌ DỤNG Phần 2 Luận nói: Lại nói về sự thanh tịnh của giới. Như trong Kinh Hư Không Tạng nói: “Xa lìa tâm Thanh-văn và Phật-bích-chi đối với tâm Bồ-đề không sanh khởi thoái chuyển, lúc ấy giới mới được thanh tịnh. Thiện nam tử! Giống như thể tánh thanh tịnh trong hư không, Bồ-tát giữ giới thanh tịnh cũng như vậy. Hư không nầy vô cấu, Bồ-tát giữ giới cũng vô cấu như vậy. Hư không nầy tịch diệt, Bồ-tát giữ giới cũng tịch diệt như vậy. Hư không nầy vô hoại, Bồ-tát giữ giới cũng vô hoại như vậy. Lại như hư không không có cái gì vượt qua được nó, thì Bồ-tát giữ giới cũng như vậy, trong các chúng hữu tình không ai có thể vượt qua được. Lại như hư không thanh tịnh và bình đẳng, Bồ-tát thực hành hạnh nhẫn nhục ở trong chúng hữu tình nầy cũng bình đẳng và thanh tịnh như vậy. Ví như có người cầm búa bén vào rừng Sa-la chặt hết cành lá, nên biết cây kia không có sân hận, không sanh phân biệt là ai có thể chặt cây, cũng không phân biệt là dùng gì để đoạn (sở đoạn) - Bồ-tát thực hành hạnh nhẫn nhục cũng như vậy. Đó là sự nhẫn nhục tối thượng của Bồ-tát, như hư không vậy”. Trong Kinh Bảo Kế nói: “Thân nầy tinh tấn và thanh tịnh nghóa là thân nầy cũng như bóng và tiếng vang, các ngôn thuyết vốn có tự tánh vô ký, biết rõ tâm nầy rốt ráo không tịch, nên khoát trên mình áo giáp đại bi, hạnh nguyện đầy đủ, tu sâu thiền định, đối với các pháp công đức không khiến cho khuyết giảm, đem tâm Bồ-đề quán sát chúng sanh không khuyết giảm, vui vẻ thực hành bố thí và những phương tiện để bố thí cũng không khuyết giảm, tâm từ bi hỷ xả ngày một thâm sâu không thể khuyết giảm, bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự cũng không khuyết giảm, chánh niện chánh tri cũng không khuyết giảm, bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chánh đạo cũng không khuyết giảm. Cho đến thiền chỉ thiền quán cũng không khuyết giảm, xả bỏ nghiệp chướng phiền não tự tánh không hiểu biết. Tu tập kiểm thúc thân mình không cho phóng túng buông lung. Luôn siêng năng làm các Phật sự để thành thục chúng hữu tình, đều đạt được thanh tịnh mát mẻ, an trụ trong tịch tónh. Thiện nam tử! Đó gọi là hạnh thanh tịnh của Bồ-tát tu thiền Ba-la- mật-đa, như thế cho đến trí tuệ Ba-la-mật-đa cũng nên biết như vậy”. <詞>Phẩm 16: TĂNG TRƯỞNG THẮNG LỰC Phần 1 Luận nói: Nói rõ về ba loại tăng trưởng thắng lực nghóa là đối với các hạnh vốn có, thực hành thường không biết chán, độ khắp tất cả chúng sanh không sanh tâm lười biếng, thoái lui, cầu mong trí tuệ vi diệu của Phật kiên cố và dũng mãnh. Ba việc nầy không phải khả năng của những vị Thanh-văn có thể thực hành. Như kinh Bảo Vân nói: “Vì các chúng sanh tự tánh luôn khiếp nhược, chỉ có những vị Bồ-tát mới hiện rõ việc tăng trưởng ấy”. Trong Kinh Như Lai Bí Mật nói: “Bấy giờ, vua A-xà-thế lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ-tát tu đủ bao nhiêu pháp đạt được lực thù thắng lớn lao như vậy? Phật nói: Đại vương! Bồ-tát tu mười pháp mới đạt được lực thù thắng như thế. Những gì là mười? Một là Bồ-tát thà bỏ thân mạng của mình chứ không bỏ chánh pháp vô thượng. Hai là vì tất cả chúng sanh làm những việc khiêm hạ mà không dấy khởi tâm kiêu mạn. Ba là thương xót những chúng sanh kém cỏi yếu đuối và không nảy sanh tâm làm tổn hại chúng. Bốn là thấy chúng sanh đói khát mà cho chúng những thức ăn ngon ngọt. Năm là thấy chúng sanh sợ sệt mà ban cho chúng sự không sợ. Sáu là thấy chúng sanh bệnh tật mà cho thuốc để cứu giúp chúng. Bảy là thấy chúng sanh nghèo khốn mà ban ơn để chúng được đầy đủ. Tám là nhìn thấy tháp miếu, hình tượng tranh ảnh của Phật đều lau chùi sạch sẽ. Chín là luôn nói lời vui vẻ để an ủi chúng sanh. Mười là nhìn thấy chúng sanh phải gánh vác trọng trách, chịu khốn khổ, não phiền mà vì trút bỏ gánh nặng cho chúng. Nếu Bồ- tát đầy đủ mười pháp như vậy thì mới có được lực tối thắng”. Kinh Hải Ý nói: “Bồ-tát nếu có thể phát khởi sự tinh tấn thường kiên cố siêng năng thực hành, ham thích phát khởi sự tinh tấn không lúc nào ngừng nghỉ, thì các Bồ-tát nầy không gì là khó chứng đắc đạo Bồ- đề Vô thượng”. Vì sao? Kinh Hải Đức lại nói: “Do tinh tấn mà chứng được Bồ-đề. Người lười biếng thì đã xa Bồ-đề, quả Phật lại càng rời xa hơn. Người không lười biếng có thể thực hành bố thí, cho đến người không lười biếng mới có thể tu tập trí tuệ”. Kinh Nguyệt Đăng nói: “Như hoa Ưu-bát-la sanh ra trong nước, phải biết dần dần mà được tăng trưởng. Người tu học phải dần dần tu học các hạnh bố thí v.v…”. Kinh Năng Đoạn Kim Cương nói: “Nếu Bồ-tát khéo trụ hành bố thí, thì phước tụ thu hoạch được không thể nào sánh được”. Lại nữa, kinh Đại Bát Nhã nói: “Nầy Xá-lợi-tử! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu tập Bát nhã Ba-la-mật-đa thì không thể bố thí ít ỏi mà có được quả báo viên mãn lớn lao. Phải bố thí cho tất cả chúng sanh vàng bạc, châu báu, ruộng vườn, nhà cửa v.v… đủ loại cần dùng tùy theo ý thích của chúng. Phải dùng tất cả trí tuệ để làm những phương tiện khéo léo mà hồi hướng cho tất cả chúng sanh trong vô lượng A-tăng-kỳ nầy, phải học Bát nhã Ba-la-mật-đa”. Luận nói: Nói rõ tâm đại bi như hư không hàm chứa tự tánh thanh tịnh thọ nhận những phước đức nhanh chóng tăng trưởng. Nếu không có tâm đại bi thì chẳng phải hạnh của Bồ-tát, đại bi là căn bản thiết lập các thiện. Như vậy tâm sâu xa, kiên cố đại bi luôn hiển hiện ở trước, dũng mãnh tu tập làm những việc thích hợp tương ưng thì có thể đạt được giới thanh tịnh. Cho nên, có bài kệ tụng: Như người giỏi chiến đấu Vững tâm là lợi khí Nếu có chút thoái, lười Thì đối phương bắt lấy. Như Thiện Tài Đồng tử đến chỗ thiện tri thức Thánh Từ, liền nghó: Thân ta trong nhiều đời ở quá khứ không có tâm dũng mãnh không có ý kiên định, không có nhân thanh tịnh nên đã bị luân chuyển, tâm ưa thích trôi dạt trong phân biệt điên đảo, tự mình suy nghó sai lệch, ưa huân tập hạnh dục, chấp giữ sự nghiệp không ích lợi của thế gian, hoặc tự mình vốn được lợi ích, mà khởi tâm không bình đẳng, thảy đều buông bỏ hết. Ngay hiện tại nầy phải khởi tâm thật dũng mãnh, biết phân biệt chọn lọc mà tư duy chân thực, đối với các việc làm của các Bồ-tát phải chánh thực hành, siêng năng tu tập, đối với chúng sanh luôn thăng tiến tâm mình để mang lại nhiều lợi ích. Phát khởi tinh tấn dũng mãnh, làm nhiều lợi ích như chư Phật, trang nghiêm các căn để tăng trưởng nguyện lực, đọc tụng kinh điển, tịnh tâm tin hiểu, nhiếp trì thân tâm, không sanh cao ngạo. Luôn ưa thích ra khỏi biển khổ não, lo buồn, sanh, già bệnh, chết, đời sau ưa thích thực hành các hạnh Bồ-tát thường làm, phải đi thẳng đến tất cả các quốc độ của Phật cung kính học theo những lời dạy của Như Lai, gần gũi cúng dường các Pháp sự khéo thuyết pháp, vui thích tìm tòi các pháp tương ưng với chánh pháp của Phật, phụng sự, cung cấp các thiện tri thức, khai thị diễn thuyết tất cả pháp của chư Phật. Bồ-tát nếu tư duy và quán sát như vậy thì mới tăng trưởng được thân trí nguyện lực, độ thoát tất cả chúng sanh, gieo trồng các gốc công đức. Như Kinh Vô Tận Ý nói: “Bồ-tát chỉ có một điều là dũng mãnh kiên cố đến cùng, vươn đến và giữ gìn A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề. Nỗ lực tự tu không cần cầu đâu khác, lấy áo giáp tinh tấn mà tự trang nghiêm cho chính mình. Như chúng sanh làm tất cả nghiệp thiện, ta cũng như vậy sẽ làm việc đó. Những vị Bồ-tát như tâm ban đầu vốn tu các hạnh ta cũng sẽ thực hành như vậy, bố thí chẳng phải là bạn ta nhưng ta là bạn của bố thí. Trì giới nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ chẳng phải là bạn ta nhưng ta là bạn của chúng. Ba-la-mật không thể sai khiến ta nhưng ta có thể sai khiến các ba-la-mật. Tất cả các thiện căn cũng đều như vậy. Cho đến tòa kim cương ở đạo tràng phá hoại các chúng ma trong khoảng sát-na dùng trí tuệ tương ưng bình đẳng chứng đắc A-nậu-đa-la- tam-miệu-tam-Bồ-đề”. Như trong Kinh Kim Cang Tràng nói: “Giống như mặt trời xuất hiện trên thế gian chỉ có một mình không có bè bạn, trải qua nhiều cảnh giới mà không thoái chuyển. Như đối với người mù bẩm sanh, không sanh lo, chán, đối với vua A-tu-la, không sanh lo chán, đối với thành Càn-thát-bà không sanh lo, chán, ở chỗ xấu ác nhất của Diêm-phù-đề cũng không sanh lo chán, đối với các vi trần cùng khắp thế giới trong bốn thiên hạ nầy cũng không sanh lo, chán, đối với các chướng ngại: mây khói núi cao v.v…. cũng không sanh lo, chán. Các Đại Bồ-tát xuất hiện trên thế gian nầy cũng như vậy, dùng trí vô phân biệt mà chánh niệm liễu tri. Nếu chúng sanh bị tổn hại thì Bồ-tát chịu những tổn hại ấy cho chúng sanh mà tâm không lo, chán và thoái chuyển. Nếu đối với Bồ-tát có thiện căn rộng lớn mà sanh tâm tật đố, Bồ-tát không sanh tâm lo, chán họ và không thoái chuyển. Nếu có chúng sanh do tà kiến mà chìm đắm trong ô nhiễm thì Bồ-tát không lo, chán họ và không có tâm thoái chuyển. Nếu thấy chúng sanh bị sân nhuế trói buộc thì Bồ-tát cũng không thể xa rời họ. Nếu chúng sanh bị ngu si che lấp phiền não nghiệp chướng nặng nề, lại còn phá hoại hết những hạt giống Bồ-đề, tất cả những người trên thế gian nầy đều không thể cứu giúp và che chở được nhưng Bồ-tát lại không sanh tâm khinh mạn đối với họ. Vì sao như vậy? Do vì lòng đại bi của Bồ-tát nên không thấy chúng sanh bị lỗi lầm. Cũng như mặt trời hiện ở thế gian nầy, soi rọi muôn nơi, tất cả đều rõ ràng không chỗ nào u ám. Lại có chúng sanh bị ngu si che lấp, không tin chư Phật, không nghe chánh pháp, không biết chúng Tăng, tự mình tạo tác đủ loại nhân tố khổ đau, hoặc bị đọa lạc trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Bấy giờ thấy chúng sanh đã tạo ra những nghiệp như vậy tâm của Bồ-tát không loạn động, không có chọn lựa và không kinh sợ, phát khởi tâm dũng mãnh kiên cố không thoái chuyển, quyết định thay thế và nhận chịu khổ não cho chúng sanh. Cho đến nạn khổ về sanh già bệnh chết, nạn về tám việc không nhàn rỗi, nạn về luân hồi, nạn về ác kiến, nạn phá hoại pháp thiện, nạn sanh khởi vô trí v.v… ta phải làm cho chúng sanh giải thoát hoàn toàn những nạn ấy. Nếu chúng sanh bị vô minh che lấp, lưới ái lôi kéo, các kết hữu trói buộc, các khổ vây bủa, không sanh khởi hiểu biết, không cầu xuất ly, luôn luôn ôm lòng nghi hoặc, cùng sở nguyện mâu thuẫn, trôi lăn trong biển cả luân hồi. Ta phải an trụ và dùng tất cả trí tuệ để quán sát, khiến cho tất cả chúng sanh đều thành tựu lợi ích và được giải thoát. Chỉ có ta là người mới có thể cứu vớt được chúng sanh. Giả sử tất cả thế gian nầy đều là chúng sanh thọ khổ trong cõi ác dẫy đầy, ta dùng tất cả các thiện căn đã tích tập để hồi hướng bình đẳng cho đến thời gian trải qua những đời sống cuối cùng, tất cả cõi ác đều tiêu sạch hết không còn, mỗi mỗi chúng sanh đều được giải thoát. Nếu có một người chưa thoát ly khổ não thì ta lấy thân mình thay thế để họ được thoát khổ. Đem thân mình chịu toàn bộ sự thống khổ là muốn cho chúng sanh có được an ổn vui tươi. Mỗi mỗi đều an vui, nói lời chân thật, chớ dối trá lẫn nhau, không sanh lòng tổn hại. Ta phải vì tất cả chúng sanh phát khởi tâm Nhất thiết trí xa lìa ngũ dục, đạt đến cảnh giới của Hạnh Bồ-tát, an trụ trong Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. Sở dó như vậy là do chúng sanh chìm đắm trong ngũ dục nên hệ thuộc cảnh giới ma là điều các Phật, Thế Tôn chê trách. Nên biết tham dục là gốc của các khổ. Vì duyên tham dục nên tạo ra tranh tụng, chiến đấu lẫn nhau, khởi ra các phiền não sau sẽ bị đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cho đến đoạn cả nghiệp sanh thiên, xa rời chư Phật, thì do đâu có thể phát khởi trí vô thượng! Các chúng sanh nầy bị chìm đắm trong dục, cháy bừng thiêu đốt tạo vô lượng lỗi lầm. Ta dùng thiện căn bình đẳng hồi hướng làm cho chúng sanh thảy đều được xả ly. Vui thích cầu trí tuệ của chư Phật để được Niết-bàn an vui. Ta vì họ mà làm thầy. Dùng phương tiện trí tuệ khiến chúng sanh đến được bờ kia. Lại như mặt trời chiếu rọi khắp bốn châu, làm cho các cảnh giới hàm linh hiện rõ, hoặc cung điện nhà vua xóm làng thành ấp, dân chúng cùng nhau làm nên sự nghiệp, lúa thóc chín vàng, cỏ cây xanh tốt. Đó là oai đức chiếu rọi muôn phương của mặt trời, trong thế gian nầy, chỉ có một mặt trời không thể có được cái thứ hai. Như vậy, tâm phát khởi lúc ban đầu của những vị Bồ-tát, thấy chúng sanh không thể gieo trồng hạt giống thiện căn liền nghó: Ta phải che chở cứu giúp cho muôn loài chúng sanh, ta phải làm cho tất cả chúng sanh đều được giải thoát, ta phải làm cho chúng sanh đều sáng suốt, ta phải dạy dỗ tất cả chúng sanh, ta phải làm cho tất cả chúng sanh tiến sâu vào sự giải thoát, ta phải nhiếp độ tất cả chúng sanh, ta phải làm cho tất cả chúng sanh đều thuần thục, cùng được an ổn đoạn sạch nghi hoặc. Lại như vầng mặt trời xuất hiện trên thế gian nầy, chiếu sáng cùng khắp không tìm cầu đâu khác. Bồ-tát-ma-ha-tát cũng đều như vậy, Bồ-tát xuất hiện trên cõi đời nầy, nhìn thấy chúng sanh khổ, không đợi thỉnh cầu, mới cứu giúp chở che, không có chút thiện căn nào mà không hồi hướng cho tất cả chúng sanh, vì các chúng sanh mà làm trang nghiêm. Kinh Vô Tận Ý nói: “Bồ-tát không kể số kiếp để cầu Bồ-đề, từ những lúc còn trôi lăn trong sanh tử cho đến ngày nay trải vô lượng kiếp, không thể sánh lường, ở biết bao thời kiếp ấy mà làm trang ng- hiêm cho đến một lần thấy chư Phật liền phát khởi đạo tâm, trải qua chư Phật nhiều như hằng sa mà luôn thừa sự, cúng dường không biếng trễ, mới có thể hiểu rõ tâm sở hành của tất cả chúng sanh, chính gọi là Bồ-tát vô tận trang nghiêm, như là tu tập Bố thí ba-la-mật, Bồ-đề phần mà có thể đầy đủ tướng hảo trang nghiêm”. Kinh Bảo Vân nói: “Bồ-tát thấy chúng sanh đui mù không có tuệ nhãn cang cường khó điều phục được, lại còn phá giới ắt phải bị đọa vào đường ác. Bấy giờ Bồ-tát khởi tâm chán nản sâu sắc muốn xa lìa chúng, cầu sanh Tịnh độ và nguyện rằng, ta không còn nghe tiếng ác”. Nghó như thế xong, rồi lại nghó: “Những chúng sanh nầy ngu si câm ngọng, không cầu về cảnh giới Niết-bàn, không sanh tín tâm, xa rời chư Phật, ta phải điều phục và cứu độ họ. Lúc Bồ-tát phát khởi tâm nầy tất cả Ma cung thảy đều chấn động, chư Phật mười phương đồng thanh tán thán. Vị Bồ-tát nầy không lâu sẽ ngồi ở đạo tràng chứng được A-nậu- đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề”. Luận nói: Từng bước tư duy quán sát như vậy thì sẽ tăng trưởng được vô lượng phước đức, phải giữ tâm ngay thẳng sâu xa, bền vững mà tu tập. Kinh Pháp Tập nói: “Trong pháp Phật tâm ngay thẳng là căn bản nhất. Nếu Bồ-tát mà không có tâm ngay thẳng thì sẽ xa rời tất cả pháp của chư Phật. Nếu tâm được ngay thẳng vững chãi thâm sâu thì đối với pháp vi diệu chưa từng nghe cũng sanh lòng khát vọng đợi chờ. Hoặc ở trong rừng sâu hiểm trở cũng gặp được pháp âm vi diệu mà được liễu sanh thoát tử. Cho nên Bồ-tát cũng thực hành như vậy. Như người có đủ hai chân để đi thì Bồ-tát cũng đủ tâm ngay thẳng thâm sâu như vậy mới có thể thực hành tất cả các pháp của chư Phật. Như người có tấm thân để thừa hưởng thọ mạng thì Bồ-tát cũng có tâm ngay thẳng thân sâu để có được Bồ-đề của chư Phật. Như người có thân mạng để thừa hưởng tài lợi thì Bồ-tát cũng đầy đủ tâm ngay thẳng thâm sâu để có được các thánh tài của chư Phật. Thí như có một cây đuốc sáng rực rỡ, Bồ-tát có được tâm ngay thẳng thâm sâu thì mới có thể hiểu rõ các pháp của chư Phật. Thí như có một đám mây có thể mưa một trận mưa lớn, Bồ-tát có được tâm ngay thẳng thâm sâu mới có thể tuyên thuyết pháp vũ của chư Phật. Cho nên Bồ-tát phải hiểu rõ tâm ngay thẳng thâm sâu đó là thiện căn để tự giữ lấy chính mình. Như một gốc cây thối nát thì không thể sanh ra cành lá hoa quả. Bồ-tát mà không có tâm ngay thẳng thâm sâu thì trong các pháp thiện không thể nào phát sanh và tăng trưởng được, cũng không giữ được Bồ-đề của chư Phật.  <卷>QUYỂN 21 <詞>Phẩm 16: TĂNG TRƯỞNG THẮNG LỰC Phần 2 Luận nói: Thế nào là tâm hiểu biết sâu? Kinh Vô Úy nói: “Lại nữa, tâm nầy là tâm xa lìa khinh khi, dối trá. Tâm xa lìa khinh khi dối trá thì không siểm hại. Tâm không siểm hại thì có thể quyết định. Tâm có thể quyết định thì trừ được dối huyễn. Tâm trừ được dối huyễn thì được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì luôn luôn chánh trực. Tâm luôn luôn chánh trực thì không bị tà vạy. Tâm không tà vạy thì tâm được sáng suốt. Tâm sáng suốt thì khéo giải bày. Tâm khéo giải bày thì có được chân thật. Tâm chân thật thì không bị hủy hoại. Tâm không bị hủy hoại thì được bền vững. Tâm bền vững thì không bị dao động. Tâm không dao động thì luôn luôn cứu vớt chúng sanh. Đó là nói về tâm hiểu biết sâu xa”. Kinh nầy lại nói: “Muốn tu tập tâm thù thắng tối thượng thì phải an trụ trong tịch tónh, lòng từ trùm khắp chúng sanh, đối với người hiền thiện phải cung kính tôn trọng, chăng phải người hiền thiện thì lấy tâm từ mà tế độ họ. Người không có chỗ nương tưa thì cho họ nương tựa. Người bị trôi dạt thì làm hải đảo cho họ. Người không có chủ tể thì làm chủ tể cho họ. Người không có bạn lữ thì làm bạn lữ cùng họ. Người đang bị tà vạy thì làm cho họ được chánh trực. Người cường bạo hung ác thì làm cho họ được nhu hòa thuận thảo. Người nịnh hót thì làm cho họ được trung chánh. Người hư cuống thì làm cho họ thành thật chắc chắn. Người gian xảo thì làm cho họ thuần chất. Người không biết ơn làm cho họ biết ơn. Người khổ não thì làm cho họ được an ổn. Người không có nhiêu ích thì làm cho họ có nhiêu ích. Người ngã mạn thì làm cho họ khiêm hạ. Đối với người hủy báng thì làm cho họ tán thán, ngợi khen. Đối với người bị lầm lẫn thì dạy dỗ vỗ về họ. Đối với người không được giúp đỡ, gìn giữ thì yêu thương gìn giữ họ. Đối với người luôn mâu thuẫn thì không chấp thấy lỗi lầm của họ, đối với các Sư luôn tôn kính khởi hạnh thanh tịnh, tâm phương tiện thiện xảo cung kính, luôn nhớ trì giữ các lời dạy răn không thể nào quên”. Luận nói: Như thế, dần dần tâm tiến sâu vào sự tu tập, thì có thể tăng trưởng lực đại bi thù thắng như hiện trước mắt. Như trong Kinh Pháp Tập nói: “Bấy giờ, Bồ-tát Quán Thế Âm bạch Phật: Thưa Đức Thế Tôn! Bồ-tát tu học không cần nhiều pháp chỉ cần hành trì một pháp cho thật khéo léo thì biết được hết các pháp của Phật. Pháp đó gọi là đại bi. Nếu Bồ-tát thực hành đại bi thì có thể nhiếp thủ tất cả pháp Phật ở trong tay. Thưa Thế Tôn! Giống như Chuyển luân vương thì có luân bảo tùy chỗ vua đến, thảy đều thuận theo. Bồ-tát nếu khởi tâm đại bi thì tất cả pháp của chư Phật tự nhiên đạt được. Thưa Thế Tôn! Giống như mặt trời chiếu sáng thì tất cả giống hữu tình trong thế gian nầy đều làm nên sự nghiệp và được thành tựu. Cũng như vậy, Bồ- tát dùng đại bi mà chiếu rọi vào tất cả các pháp thì Bồ-đề phần dễ dàng tu tập. Thưa Thế Tôn! Các căn lấy ý làm căn bản, thì đều có thể nhận lấy toàn cảnh giới của riêng mình. Bồ-tát an trụ trong đại bi thì tất cả các pháp, Bồ-đề phần mỗi mỗi mà tu tập, như lý mà hành trì. Thưa Thế Tôn! Giống như nương vào mạng căn nầy mà có được các căn khác. Nếu Bồ-tát có đại bi thì có pháp Bồ-đề phần”. Kinh Vô Tận Ý nói: “Như mạng sống của con người lấy hơi thở ra vào để làm nền tảng. Cũng như vậy, việc tu học Đại thừa của Bồ-tát lấy đại bi làm nền tảng. Lại có một vị Trưởng giả, có một người con, ông thương con vô cùng chưa một lần rời con, Bồ-tát lấy lòng đại bi thương xót chúng sanh cũng như vậy”. Luận nói: Đối với chúng sanh nầy phải quán thế nào? Nghóa là dùng Từ tu tập tâm, thương các chúng sanh như con của mình, chúng đã chịu vô lượng khổ não ở đời quá khứ, chìm trong biển lớn bệnh khổ của đời hiện tại, triền miên luân hồi hiểm nạn ở đời vị lai. Như Kinh Thập Địa nói: Chúng sanh ngu si vô trí, đã có vô số thân mạng diệt rồi, hiện tại diệt, đương lai diệt. Đã diệt như thế, mà không nhàm chán thân nầy, lại càng tăng trưởng vận hành trong các khổ, theo dòng sanh tử chẳng chịu lìa ra, không thể buông bỏ, chấp giữ các uẩn… không xa lìa được nọc rắn độc lớn, không quán xét sáu xứ là rỗng không tích tụ, không đoạn trừ ngã và ngã sở, không nhổ được mũi tên tà kiến và ngã mạn, không dập tắt lửa tham sân si, không phá được màn vô minh hắc ám, không thể làm yên sóng lớn, khô dòng ái dục, không cầu mười lực của bậc Thánh đạo sư, vào rừng rậm tà cùng làm bạn với ác ma, luân hồi trong biển ái theo hướng dạt trôi, bị vô minh che lấp. Khổ về bệnh già chết luôn bức bách. Ta nay vì thương xót chúng hữu tình mà cứu giúp che chở họ. Tích lũy vô lượng phước đức để làm tư lương, dùng thiện căn nầy thảy đều khiến chúng sanh được cứu cánh thanh tịnh”. Kinh nầy lại nói: “Các chúng hữu tình chạy theo ngũ dục mà bị luân hồi sanh tử, bị đọa lạc trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Bị ngu si che lấp thiếu đạo sư lớn. Cho đến chìm đắm trôi lăn trong biển ái. Không lúc nào tỉnh giác để tìm cách hủy diệt được tham dục, sân nhuế, tổn hại. Không nhờ đâu được bỏ tập khí tham dục, cố chấp bám víu vào thân kiến xấu ác. Ngã mạn giữa dòng chơ vơ không chỗ để nương cậy. Không thể ra ngoài làng xóm của sáu xứ, không có chút thiện căn nào để vượt qua. Cho nên ta nay đem đại bi lực mà cứu giúp cho chúng sanh, khiến cho họ thoát ly được khổ nạn, xa lìa cấu nhiễm tịch tónh và an trụ ở đảo báu Nhất thiết trí. Các chúng hữu tình đó tùy theo sầu bi khổ ưu não mà bị trói buộc, bị gông cùm trong tham dục không thoát ra được, vô minh cuống siểm ngày càng nhiều bao trùm khắp cả, trong ngục tù tam giới nầy khó mà thoát khỏi. Ta nay khiến cho chúng sanh thoát khỏi, tất cả sợ sệt khổ não hiện tiền. Làm cho chúng không còn chướng ngại để được vui an ổn”. Luận nói: Tâm sâu xa kiên cố đối với chúng sanh khác như vậy, thì có thể tăng trưởng đại bi thực hành hạnh phước. Kinh Tối Thượng nói: “Ngày đêm sáu thời đều mặc áo sạch mới lễ kính chư Phật thường luôn tôn trọng, thứ đến lại tu học theo hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền”. Kinh Tam Tụ nói: “Đầu mặt giáp chân cung kính lễ Phật thì có thể sám hối trừ diệt được tất cả tội cấu. Tam tụ là phước của sám hối, khuyến thỉnh và tùy hỷ”. Trong Kinh Ba La Mật Sở Vấn nói: “Khuyến thỉnh là một lợi ích lớn lao, có thể thoát khỏi lưới ma, ngộ rõ vô thường, lại còn cung kính đảnh lễ tất cả chư Phật”. Kinh Vô Tận Ý nói: “Tự mình sám hối và chỉ bảo người khác sám hối thì có được hạnh phước. Như trong bốn kệ Phổ Hiền Hạnh có nói về tùy hỷ hạnh phước”. Như phẩm Tùy Hỷ trong Kinh Nguyệt Đăng nói: “Ngoài ra trong các kinh đều nói đủ ba loại hạnh phước”. Tiếp đến, nói rộng về hành tướng cúng dường hồi hướng. Như Kinh Bảo Vân nói: “Các Bồ-tát dùng hoa đang tươi và các hương đốt, cây hương chiên đàn, cây kiếp, cây quý báu, cho đến những cây không có chủ, những cây không giữ gìn, ngày đêm sáu thời dốc tâm cúng dường chư Phật và chư Bồ-tát”. Kinh Tam Tam Muội Da nói: “Đất nước ở mười phương thế giới sanh ra trong núi báu, nước sanh ra trong núi báu. Tất cả loại thuốc hay nước thanh tịnh, những thức ăn ngon, những vàng bạc quý báu cho đến những rừng cây rậm rạp, hương vị đất, lúa thơm tự nhiên, những thứ vô cùng ưa thích thọ dụng ở Bắc-cu-lô châu đều do thành tâm cúng dường trong thời gian lâu dài”. Luận nói: Như trên là nói rộng việc thân cận, thừa sự, và cúng dường chư Phật, chư Bồ-tát. Như trên đã nghe rồi dùng tâm rốt ráo để nương vào giáo pháp tu hành phát nguyện hồi hướng. Như trong kinh Phổ Hiền Hạnh, kinh Kiến Kim Cang Tràng, kinh Thập Địa nói: Lại nữa, các Đại Bồ-tát an trụ trong địa Cực hỷ, phát khởi mười thệ nguyện rộng lớn, tức gọi là vâng theo, phụng sự và cúng dường tất cả chư Phật, có thể thành tựu được thắng giải thanh tịnh, hành tướng như thế đến khắp hết hư không giới cùng đồng đẳng pháp tánh, suốt đến tất cả các số kiếp ở đời vị lai, mà có chư Phật xuất hiện ở đời thì đều thực hành cúng dường rộng lớn không bao giờ ngừng nghó. Đó là phát khởi đại nguyện thứ nhất. Vì muốn thọ trì pháp nhãn của chư Phật nói, khéo giữ gìn, bảo vệ chánh pháp của Phật nên khắp hết hư không giới cùng đồng đẳng với pháp tánh, cho đến tất cả các số kiếp ở đời vị lai nhiếp trì chánh pháp không bao giờ ngừng nghó. Đó là phát khởi đại nguyện thứ hai. Vì chư Phật xuất hiện ở đời: Ban đầu Phật an trụ trên cung trời Đâu suất, giáng thần nhập ấm, trụ thai, đản sanh, lớn lên xuất gia tu hành khổ hạnh, ngồi tòa Bồ-đề, hàng phục chúng ma, chuyển vận bánh xe chánh pháp rồi nhập Niết-bàn. Trước hết ta phải tăng thêm hạnh cúng dường chư Phật để cầu mong Phật đồng thời chuyển vận bánh xe chánh pháp ở khắp mọi nơi. Khắp hư không giới cùng đồng đẳng pháp tánh suốt đến tất cả các số kiếp ở đời vị lai mà có chư Phật xuất hiện thế gian con đều thỉnh Phật chuyển vận bánh xe chánh pháp, mà không bao giờ ngừng nghỉ. Đó là phát khởi đại nguyện thứ ba. Vì muốn phát khởi vô lượng hạnh của Bồ-tát và không phân biệt các Ba-la-mật viên mãn thanh tịnh nên đã nhiếp trì tất cả tướng thành, hoại, tướng đồng, dị, tướng tổng, biệt của các địa, dùng như thật trí không điên đảo, hiển thị dạy răn các hạnh Bồ-tát, làm cho tất cả đều được phát tâm. Khắp hư không giới cùng đồng đẳng với pháp tánh cho đến tất cả số kiếp ở đời vị lai, thực hành chánh hạnh không bao giờ ngừng nghỉ. Đó là phát khởi đại nguyện thứ tư. Vì muốn thuần thục các chúng hữu tình, có sắc không sắc, có tưởng không tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng. Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, bị ràng buộc trong ba cõi, sáu đường, bị hệ thuộc ở danh sắc đều khiến cho xa lìa vónh viễn. Tất cả chúng sanh trong sáu đường đều nhập vào pháp tánh của chư Phật. Rốt ráo an trụ trong tất cả các trí tuệ, không còn sót lại khắp hư không giới cùng đồng đẳng với pháp tánh, suốt đến tất cả các số kiếp trong đời vị lai, mà thuần thục các chúng hữu tình không bao giờ ngừng nghỉ. Đó là phát khởi đại nguyện thứ năm. Vì muốn đi vào giải thoát mười phương thế giới hoặc rộng hoặc hẹp, hoặc thô hoặc tế, hoặc bị che lấp hoặc được hiện rõ, tạp loạn mà an trụ. Giống như cái lưới chia ra những giây nhỏ. Phải dùng trí tuệ mới quán xét được việc ấy. Tận hư không giới cùng đồng đẳng với pháp tánh. Cho đến tất cả các số kiếp trong đời vị lai. Tất cả đều đi vào trong thế giới giải thoát như vậy không bao giờ ngừng nghỉ. Đó là phát khởi đại nguyện thứ sáu. Vì muốn quốc độ của chư Phật trang nghiêm, thanh tịnh từ cõi Phật nầy đến cõi Phật kia đều lấy quang minh làm trang sức, xa lìa phiền não trở thành thanh tịnh. Đem trí tuệ rộng lớn đối đãi với hữu tình, làm cho tất cả cùng bước vào cảnh giới rộng lớn của chư Phật. Tùy theo ý vui của chúng hữu tình mà làm cho chúng vui, hiển hiện lòng bình đẳng để chúng được vui. Tận hư không giới cùng đồng đẳng với nhau. Cho đến tất cả các số kiếp trong đời vị lai làm cho tất cả các cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh không bao giờ ngừng nghó. Đó là phát khởi đại nguyện thứ bảy. Vì muốn chúng sanh với các Bồ-tát cùng một ý vui và tích lũy thiện căn, cùng một sở duyên an trụ trong thể tánh bình đẳng thường được gặp chư Phật chư Đại Bồ-tát, tùy theo những ham muốn của chúng sanh, không rời bỏ, thị hiện oai lực của chư Phật để cùng nhau phát tâm, lại có những thần thông không bao giờ thoái chuyển, liền an trụ trong tất cả thế giới của chư Phật, tùy theo đại chúng mà hiện thân hóa độ, vui vẻ tu hành theo chánh hạnh của Bồ-tát, ngộ được diệu pháp Đại thừa không thể nghó bàn. Cho đến tất cả các số kiếp trong đời vị lai cùng các Bồ-tát ngộ nhập Đại thừa không bao giờ ngừng nghỉ. Đó là phát khởi đại nguyện thứ tám. Vì muốn ngự mãi trên xe Đại thừa không thoái chuyển, vận hành các hạnh của Bồ-tát, nên thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp không bị uổng mất. Hoặc mới nhìn thấy việc làm trong pháp Phật rồi liền quyết định, vừa nghe những lời nói rồi liền sanh niềm tin thanh tịnh, có thể khởi chánh trí để đoạn trừ và xa lìa khổ đau mãi mãi. Nguyện cho thân nầy như cây thuốc lớn để cứu những tật khổ. Giống như đem những vật quý báu cứu giúp người nghèo. Dạy dỗ khắp chúng sanh tu hạnh Bồ-tát, cùng tận hư không giới, đồng đẳng với pháp tánh, suốt đến tất cả các số kiếp trong đời vị lai, không uổng phí các hạnh đã làm và không bao giờ ngừng nghỉ. Đó là phát khởi đại nguyện thứ chín. Vì muốn tất cả các thế giới ở mười phương đều chứng được Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, vì muốn giáo hóa tất cả chúng sanh hoặc nhiều, hoặc ít, làm cho chúng hiểu rõ việc giáng sanh, xuất gia, tu chứng thành Chánh đẳng Chánh giác, chuyển đại pháp luân, nhập Niết-bàn, nên hiện rõ trí tuệ oai lực trong cảnh giới của chư Phật, tùy theo ý thích của chúng hữu tình, trong khoảng sát na liền được giác ngộ, độ tận cùng khắp chúng sanh, chân thực hồi hướng, chỉ một Bồ-đề, Niết-bàn rộng lớn, đều dùng nhất tâm tuyên thuyết pháp yếu, làm cho tâm chúng hữu tình vừa ý. Lấy lực thần thông trùm khắp tất cả thế giới nầy, dùng đại trí lực để xây dựng tất cả pháp giới, hiển hiện Niết-bàn rộng lớn mà không dứt hết tất cả hạnh nguyện. Tận hư không giới nầy cùng đồng đẳng với nhau. Cho đến tất cả số kiếp trong đời vị lai thành tựu tâm Bồ-đề nầy không bao giờ ngừng nghỉ. Đó là Bồ-tát dẫn ra nguyện lớn thứ mười. Luận nói: Quán tưởng tâm sâu xa và tinh tấn như vậy, trong tất cả mọi nơi đều được hồi hướng như vậy. Kinh Quán Âm Giải Thoát nói: “Ta đem tất cả thiện căn mà ta đã làm bình đẳng cùng hồi hướng, làm cho tất cả chúng sanh thoát được sự sợ hãi, đọa lạc, thoát ly sự sợ hãi, ân ái của quyến thuộc, làm cho chúng sanh diệt được sợ hãi về ngu si, làm cho chúng sanh đoạn hết sợ hãi về trói buộc, làm cho chúng sanh xa lìa sợ hãi bị đoạn mạng căn, làm cho chúng sanh xa lìa sợ hãi nghèo nàn, làm cho chúng sanh xa lìa sợ hãi thọ yểu, làm cho chúng sanh xa lìa sợ hãi về hủy báng, làm cho chúng sanh xa lìa sợ hãi về luân hồi, làm cho chúng sanh xa lìa sợ hãi oai đức của đại chúng, làm cho chúng sanh xa lìa sợ hãi cái chết, làm cho chúng sanh xa lìa sợ hãi về cõi ác, làm cho chúng sanh xa lìa sợ hãi về hắc ám, làm cho chúng sanh xa lìa sợ hãi về oán ghét gặp gỡ, làm cho chúng sanh xa lìa sợ hãi về thương yêu chia lìa, làm cho chúng sanh xa lìa sợ hãi về ganh ghét, làm cho chúng sanh xa lìa sợ hãi về thân tâm bức bách, làm cho chúng sanh đoạn hết sợ hãi ưu bi khổ não. Lại nói sơ lược về hồi hướng, trong kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện có kệ: Ngài Văn-thù thanh tịnh dũng mãnh Phổ Hiền thù thắng cũng như vậy Hai vị Đại só nói hồi hướng Ta phải thuận theo mà tu học Như Lai trong ba đời mười phương Cũng dạy hồi hướng thanh tịnh vậy Ta nay chứa giữ các thiện căn Đồng hạnh tối thượng với Phổ Hiền. <詞>Phẩm 17: CUNG KÍNH TÁC LỄ Phần 1 Luận nói: Đây lần lượt nói rõ lễ kính chư Phật để tăng trưởng hạnh phước. Nên biết như thế nào? Trong kinh Quán Sát Thế Gian có kệ: Nếu trong một sát-na Làm như Phật đã làm Ta nói được quả báo Xa lìa tám ách nạn Hình sắc rất tốt đẹp Thành tựu tướng trang nghiêm An trụ trong pháp Phật Không còn có lười biếng Người ấy trong hiện tại Thọ dụng đều sung túc Luôn được người kính trọng Không bệnh, thân sáng sạch. Đời sau con Trưởng giả Tôn sùng không cùng tột. Bố thí rất rộng lớn Trân bảo không thiếu thốn Lại làm vua Chuyển luân Thống lónh bốn thiên hạ. Dân chúng đều thuận theo Cả nước đều vui vẻ Oai đức lực đầy đủ Bảy báu đều tuyệt đẹp Trong tất cả các thời Siêng năng và hiến cúng Sanh lên cung Đao lợi Tự tại đảnh Di-lô Làm vua trời Đế Thích Giữ giáo pháp thanh tịnh. Nếu người đối tháp Phật Chắp tay và cung kính Ở trong triệu ức kiếp Thọ phước không cùng tận Lại nữa, đối tháp Phật Phát tâm mà kính lễ. Trải vô lượng ức kiếp Lìa mù mắt, khoèo chân Các thiện căn kiên cố Dũng mãnh và tinh tấn Nhanh chóng được Bồ-đề Đây do lễ tháp Phật Nếu ở trong đời ác Hướng Phật mà quy mạng Thì đã được gần gũi Trăm ngàn ức chư Phật. Người nầy trong thế gian Tối thắng không ai hơn Được thảnh thơi trong đời Đoan chánh không thể sánh. Nếu người lấy tràng hoa Cúng dường nới tháp Phật Người ấy sau khi chết Sanh cõi trời Ba Ba Ngồi trên xe Đại thừa Trang sức bằng trân bảo Trong các lầu, cung điện Thiên nữ thường vây quanh. Ở trong ao thanh tịnh Nước Tám đức đầy tràn Đáy trải bằng cát vàng Bờ ưu ly, pha lê. Thọ khoái lạc thượng hạng Tuệ mạng càng lâu dài Hết ở trên cõi trời Sanh vào nhà giàu sang Trong trăm ngàn ức kiếp Thọ phước đức vô cùng Thường đem tràng hoa đẹp Nơi nơi đều cúng dường Làm Chuyển luân Thánh vương Làm chủ trời Đế Thích Thiên tử Đại tự tại Làm Phạm vương trong đời. Do làm việc bố thí Được công đức như trên Dùng tơ mềm thượng diệu Cúng Phật, Đại đạo sư Người nầy trong thế gian Nghóa lợi đều thành tựu Lại dùng y, chuỗi ngọc Cúng dường nơi tháp Phật Xa lìa hàng hạ tiện Mãi không sanh chỗ đó. Quyến thuộc thường vây quanh Không khổ não biệt ly Thường làm vua nước lớn Được tán thán, cúng dường Hoặc sanh làm trời, rồng. Là người trí thế gian Dũng mãnh và oai lực Phước báu không ai bằng. Nếu dòng dõi trong nước Nơi tháp Phật, Thế Tôn Người nầy dùng ít hương Dù nhỏ như hạt cải Quyết định khởi tín tâm Mà cúng dường cùng khắp Có được nhiều công đức. Nay phải nghe ta nói Xa lìa những cấu uế Giữ vững tâm thanh tịnh Trừ bệnh não sầu bi Dáng mạo thật cao quý Được làm vua Chuyển luân Đủ oai đức, trí lớn. Tùy chỗ vua đã đến Phước lực được thành tựu. Hoặc vua hoặc dân chúng Đều vui thích tôn thờ Dùng y phục thượng hạng Cúng dường nơi tháp Phật Người nầy trong thiên hạ Thân thể thật sáng sạch Áo trời Ca-thi-la Lúc nào cũng hiện rõ Luôn toả ra hương thơm, Người nghe sanh hoan hỷ. Lại lấy vải tơ vàng Dệt thành áo thù thắng Khéo léo cùng bày biện Hình tướng chúng Thầy trò Đời sau sanh cõi trời Sở nguyện đều thành tựu Các trân bảo anh lạc Tùy theo niệm phát sanh. Nếu người lấy phan đẹp Treo ở trên tháp Phật Tùy ý thích người kia Vãng sanh qua cõi Phật Có được sắc thân vàng Các tướng đều tốt đẹp Các món ăn thịnh soạn Hiến cúng thật vui vẻ. Lại lấy dây lụa quý Và các lông tơ quý Đâu-la, Ca-thi-ca Làm phướn cúng dường Phật Người ấy sống trong đời Trong kho đều đầy ắp Lìa quyến thuộc não hại Trí vô biên vững vàng Thân tướng được trang nghiêm Chúng vui thích chiêm ngưỡng. Không bị lửa thiêu đốt Các đao gậy làm hại Nếu thắp ngọn đèn sáng Cúng dường nơi tháp Phật Do làm bố thí ấy Được thọ mạng dài lâu. Tâm thanh tịnh sáng rõ Hình sắc đều viên mãn Người nầy trong đời sau Sanh trong cõi sạch, vàng Tay mầu tỏa ánh sáng Có lực kiên cố lớn Đi khắp trong nhân gian Mà không các sợ hãi. Giả sử qua biết bao Na-do-tha cõi Phật Hạt cải đầy trong đó Số ấy cân lường biết Ta nói phước báo nầy Cùng tận kiếp không hết Nếu làm bảo cái lớn Cúng dường nơi tháp Phật. Người ấy không bao lâu Đầy đủ ba hai tướng. Luôn tỏa ánh sáng mầu Không thể so lường được Ánh sáng thường tỏa chiếu Sáng hơn cả sông vàng Như hoa Câu-tô-ma Nở ra để trang sức Tiếng hay vang cùng khắp. Có thần thông đặc biệt Thọ dụng không giới hạn Được an ổn tối thượng. Thường được trời và người Gần gũi và thừa sự Thiểu dục, đủ oai nghi Giữ vững thanh tịnh giới Tịch tónh ở trong rừng Vui vẻ tu thiền định Trí tuệ không hề giảm Không rời tâm Bồ-đề Tri túc chẳng mong cầu Luôn làm các hạnh từ Nếu người làm âm nhạc Cúng dường đấng Thế Tôn Xa lìa não, phiền ưu Nghe tiếng đều viên mãn Mắt trong sáng, nhìn rõ Chính xác chẳng tạp loạn Tai nghe âm thanh hay Tâm thanh tịnh như vậy Mũi cao và rất thẳng Tướng trang nghiêm đầy đủ Lưỡi thì dài và nhẵn Hồng thắm tợ san hô Âm vang như người trời Nghe khoảng chừng một ức Lìa báo xấu không lưỡi Mãi không sanh loài rắn Thân thù thắng tối thượng Đoan chánh không tà vọng Thường sanh ý thiện tịnh Không có chút gián đoạn Trời, người, rồng hộ vệ Các ma hầu La-già Tùy theo việc thế gian An ủi mà bảo hộ Do làm việc bố thí Được phước báu như trên.  <卷>QUYỂN 22 <詞>Phẩm 17: CUNG KÍNH TÁC LỄ Phần 1 Người nào sau khi Phật diệt độ Thường hay sửa, xây tháp miếu Phật Trăm ngàn ức kiếp na-do-tha Thân tướng uy nghiêm đều đẹp tốt Dùng hương chiên đàn vừa ý nhất Làm nên cung điện và kiệu xe, Tuy được thắng báo không hề đắm Phước nầy do tu sửa tháp Phật. Ở thời chánh pháp Phật sắp hết Không sanh các cõi nước Diêm phù Tùy theo ý thích ở thiên cung Phước nầy do tu sửa tháp Phật Chán ghét ngũ dục các nhiễm cấu An trụ trong giới tịnh thanh lương Rộng theo phạm hạnh không hề sót Phước nầy do tu sửa tháp Phật Sau khi chết rồi được sanh thiên Khoái lạc, đầy đủ không kể xiết Lại còn giáo hóa các Trời, người Phước nầy do xoa hương tháp Phật. Diện mạo đầy đặn thường tươi sáng Ngữ âm điều thiện được dâng trào Ai thấy đều khởi tâm kính mến Phước nầy do xoa hương tháp Phật Xa lìa ác đạo khổ vô biên Thường được thân cận các Như Lai Rộng tu nghiệp thiện, lợi quần sanh Phước nầy do xoa hương tháp Phật Nếu người ở trong khoảng sát-na Thường hay quét bụi, dọn tháp Phật Quả báo người nầy khó tính được Xa lìa tám nạn ở trong đời Mạnh khoẻ, thông tuệ đều sáng suốt Ngũ dục cảnh trần không đeo đuổi Luân hồi mãi mãi được lìa xa Đây do tịnh tâm quét tháp Phật. Đầy đủ giới cấm, không khuyết phạm Nghe pháp vi diệu sanh hoan hỷ Mãi không thoái chuyển tâm Bồ-đề Đây do tịnh tâm quét tháp Phật Người nầy thường ở trong đường ác Được lìa chê, khen các lỗi lầm… Phước tuệ càng tăng tích chứa nhiều Đây do tịnh tâm quét tháp Phật. Lại được các vị ngon quý hiếm Y phục sạch sẽ lại trang nghiêm Các căn tiếp xúc thường vừa ý Đây do tịnh tâm quét tháp Phật Ở trong tháp Phật sanh hoan hỷ Hoa héo phải thay nơi tháp Phật Do nương mười lực bậc đạo sư Ngũ dục, oán hận được xa lìa. Hình nghi đỉnh đạc thật hiếm có Mọi người thích nhìn không chán mắt Vương giả thường sanh tâm ái kính Do thay hoa héo nơi tháp Phật Đầy đủ giới phẩm, hạnh Bồ-tát Diệt trừ tất cả mọi đường ác Ý luôn sáng suốt, lìa si mê Do thay hoa héo nơi tháp Phật. Vứt bỏ phiền não các chướng nhiễm Không còn bệnh khổ, trói buộc nhau Nhẹ nhàng an lạc ở mọi nơi Do thay hoa héo nơi tháp Phật Được thọ đệ nhất thí cõi người Lại được các cúng dường tối thượng Phước tuệ thanh tịnh trang nghiêm thân Do thay hoa héo nơi tháp Phật Nên thay vào tháp bông hoa mới Hoặc Mạn-đa-la, Bát-tất-sa. Do thay hoa mới nơi tháp Phật Người ấy phước báo thật thù thắng. Hoặc người thường ở trong tháp Phật Siêng năng cung kính đảnh lễ Phật Người ấy xưng dương ân Đức Phật Mọi người nhìn thấy phải cúi đầu Các thiên, long, thần, Ma-hầu-la Vua và thần dân đều tin trọng Ví như hoa đẹp giữa trần gian Có thể khéo nói các pháp yếu. Do người kia khéo nói chánh pháp An trú trí Phật, không khuyết giảm Làm cho chúng sanh xa đường ác, Tăng trưởng thắng nghóa trong nhân thiên Phước lực, niệm tuệ đều đầy đủ Quyến thuộc rất nhiều luôn thuận thảo Ta nói người nầy ở thế gian Tùy ý được vui, tâm an ổn Phát âm nhu hòa và tịch tónh Dạy dỗ chúng sanh khiến xuất ly Người ấy giàu vui, sống không nghèo Phước nầy do lễ nơi tháp Phật Thường hành bố thí và ái ngữ Lợi hành, bình đẳng cũng vậy thôi Bị người hủy báng, không sân hận Phước nầy do lễ nơi tháp Phật Hoặc ở trên trời làm Đế Thích Hoặc làm vị vua trong nhân gian. Thảy đều tùy tâm, rất tự tại Phước nầy do lễ nơi tháp Phật. Đối với cảnh dục không đắm nhiễm Xử thế giàu sang, thường biết đủ Mãi mãi không còn đọa cõi ác Phước nầy do lễ nơi tháp Phật. Nói lời thắm đượm nghóa sâu đầy Đều cùng kinh điển khéo tương ưng Ở người thường trong hạng thượng lưu Phước nầy do lễ nơi tháp Phật Nếu dùng tâm thanh tịnh tối thượng Hai tay cầm hoa dâng lên Phật Nên có quả báo được làm vua An trụ lợi ích trong pháp thiện Người nầy ngũ dục thường tỏ rõ Thì bức bách ưu não không còn Thân tướng đoan nghiêm, người thích xem Tự tánh vắng yên không sợ hãi. Lại như, kinh Đại Bi nói: “A-nan! Nếu có chúng sanh trong hiện tại thường cúng dường cho ta thì sau khi ta diệt độ cũng cúng dường xá- lợi của ta dù nhỏ bằng hạt cải, vì ta mà đắp tượng, vẽ hình, làm tháp cho ta. A-nan! Cho đến những việc như vậy, giả sử có người trong một chốc lát phát khởi nhân duyên tín tâm niệm Phật, cầm lấy một bông hoa rơi trong không trung mà đem cúng dường Phật, người ấy được làm vua Chuyển luân, làm chủ trời Đế Thích, làm vua Đại Phạm thiên, liền có thể vượt qua sự vô tri của thời kiếp trước và sự lưu chuyển sanh tử của kiếp vị lai. A-nan! Lại gác việc ấy lại, giả sử có người trong giấc mộng dùng một bông hoa tung lên không trung cúng dường ta thì ta nói người nầy có được thiện căn và phước báu không bờ bến”. Kinh Ma Già La Long Vương Sở Thuyết nói: “Nếu Bồ-tát gần gũi chư Phật thì có được tám pháp tăng thượng. Những gì là tám? Một là giáo hóa chúng sanh thấy được tướng tốt của chư Phật. Hai là đối với Như Lai mà thừa sự cúng dường Ba là trong hội chúng đều tán thán thắng đức của Phật. Bốn là nhớ nghó Như Lai mà đắp tượng vẽ hình. Năm là khuyến hóa chúng sanh không nên xa lìa chân lý nhiệm mầu của chư Phật. Sáu là mọi lúc mọi nơi đều nghe danh hiệu của Phật. Bảy là luôn nguyện vãng sanh qua quốc độ của Phật. Tám là chí không khiếp nhược, vui cầu trí Phật. Đó là tám pháp tăng thượng. Luận nói: Tăng trưởng thù thắng nghóa lợi như thế nào? Đó là đối với Phật phát khởi sự nhận lãnh gần với. Kinh Hoa Nghiêm có kệ: Trong vô lượng ức kiếp Danh Phật thật khó nghe Huống gì được gần gũi! Mãi đoạn các nghi hoặc Như Lai trong thế gian Thông đạt tất cả pháp Khắp sanh phước ba đời Khiến người đều thanh tịnh Như Lai hiện thế gian Là phước lớn trong đời Dẫn dắt khắp hàm thức Khiến tu tập hạnh phước Nếu cúng dường chư Phật Mãi trừ sợ đường ác. Tiêu diệt tất cả khổ Thành tựu thân trí tuệ Nếu thấy bậc Lưỡng túc Phát khởi tâm rộng lớn Người nầy thường gặp Phật Tăng trưởng sức trí tuệ. Kinh nầy lại nói thêm: Như Lai từ bi lớn Xuất hiện trong thế gian Độ khắp các chúng sanh Chuyển xe pháp tối thượng Như Lai vô số kiếp Cần khổ vì chúng sanh Làm sao các thế gian Có thể báo đại ân Thà trong vô số kiếp Thọ các khổ đường ác Quyết không bỏ Như Lai. Mà cầu pháp xuất ly Thà ở trong đường ác Thường nghe danh hiệu Phật Không muốn sanh đường thiện Một chốc không nghe Phật Nguyện ở lâu, cớ gì? Tất cả trong đường ác Nếu thấy được Như Lai Tăng trưởng sức trí tuệ Nếu thấy được chư Phật Diệt trừ tất cả khổ Hội nhập vào Như Lai Trí tuệ lớn vô cùng Nếu thấy được chư Phật Xả ly tất cả chướng Trưởng dưỡng phước vô tận Thành tựu đạo Bồ-đề. Luận nói: Thấy hình tướng của Phật trong chốc lát mà có được phước báu như vậy, huống nữa là đích thân nhìn thấy sắc tướng của Như Lai, tin và thọ trì giáo huấn của Như Lai, phước đức rất nhiều. Kinh Tín Lực Nhập Ấn nói: “Nầy Văn-thù-sư-lợi! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào có thể đối với số Phật-bích-chi nhiều như các vi trần của tất cả thế giới, mỗi ngày cúng hàng trăm món ăn ngon, cùng những y phục tốt đẹp, cúng dường như vậy cho đến hằng sa số kiếp và nầy Văn-thù-sư-lợi! Nếu có một người trong chốc lát chiêm ngưỡng, phụng thờ một hình vẽ tượng Phật và kinh điển, thì phước nầy còn hơn phước ở trên vô lượng, vô số, huống gì chấp tay, cầm một bông hoa, một nén hương cho đến những bột hương hoặc một ngọn đèn mà cúng dường lên chư Phật, phước nầy còn hơn phước trước vô lượng vô số. Luận nói: Nói rõ phương tiện để tăng trưởng công đức. Kinh Bồ Tát Tạng nói: “Nếu tu sửa những tháp Phật lâu cũ sẽ được bốn nguyện lớn thanh tịnh: Một là có sắc tướng tối thượng không ai sánh bằng. Hai là thọ trì kinh điển tinh tấn không lười biếng. Ba là những nơi đã sanh ra luôn thấy được Như Lai. Bốn là đời sau thân tướng đầy đủ tốt đẹp”. Kinh nầy lại nói: “Nếu có người đối với tháp của Như Lai đem những bông hoa thơm, những hương bột quý đến cung kính cúng dường thì được tám thứ không giảm: Một là sắc tướng không giảm. Hai là thọ dụng không giảm. Ba là quyến thuộc không giảm. Bốn là giới phẩm không giảm. Năm là định lực không giảm. Sáu là đa văn không giảm. Bảy là trí tuệ không giảm. Tám là thắng nguyện không giảm”. Kinh Bảo Tích nói: “Giả sử chúng sanh trong ba cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc rất nhiều, ai nấy đều làm tháp miếu Như Lai, số lượng cao rộng như núi Tu-di-lô, trong hằng ha sa số kiếp, dùng đủ các loại thượng diệu mà cúng dường, và có Bồ-tát dùng tất cả tâm trí mang đến cúng dường ở tháp Phật một bông hoa thì có được lượng phước cũng như vậy”. Kinh nầy lại nói: “Giả sử có chúng sanh ở thế giới tam thiên đai thiên nầy, mỗi mỗi đều là Chuyển luân Thánh vương và an trụ trong Đại thừa, và mỗi vị Luân vương lấy nước trong biển lớn làm dầu, lấy núi Di-lô làm tim đèn để cúng dường nơi tháp Phật, và nếu có Bồ-tát xuất gia nào lấy dầu và bột hương se làm đuốc, cầm đến cúng dường tháp miếu của Như Lai thì có được công đức hơn công đức cúng dường đèn trước, trăm phần Ca-la cho đến phần Ô-ba-na-sát-đàm cũng không bằng một phần bố thí ấy. Lại Chuyển luân Thánh vương kia có thể đối với chúng Tỳ-kheo của Phật hiện tại, làm các nhạc cụ dùng để bố thí. Nếu Bồ-tát xuất gia thường đi khất thực được thức ăn, mà tùy theo vị ấy thấy được vị khác mà chia ra cho ăn, thì công đức còn hơn cả công đức ở trên. Lại có, Chuyển luân vương kia chất áo ca-sa nhiều như núi Tu-di có thể đem bố thí cho chúng Tỳ-kheo của Phật hiện tại, và nếu có Bồ-tát xuất gia ngoài ba y còn có những vật lớn khác mà tùy nghi dâng cúng, bố thí chư Phật hiện tiền, các Tỳ-kheo Tăng an trụ ở pháp Đại thừa và tháp của Như Lai, thì phước người ấy gấp bội lần phước bố thí trước. Lại có Chuyển luân Thánh vương, nhất nhất đều dùng các hoa thượng hạng đầy cõi Diêm-phù-đề cúng dường tháp Phật hoặc Bồ-tát xuất gia có thể dùng một bông hoa cúng dường tháp Phật, thì phước nầy thù thắng hơn sự cúng dường trước. Trăm phần Ca-la cho đến phần Ô- ba-ni-sát-đàm cũng không bằng một phần bố thí ấy”. Luận nói: Nói rộng về hành tướng. Như phẩm Siêu Việt nói: “Bồ- tát xuất gia như thế đã biết. Nếu có thể hiện tại cúng dường Như Lai tức liền có được bốn loại công đức hiền thiện. Một là sự cung kính cúng dường tối thượng. Hai là thấy hiểu rồi tùy thuận mà theo học. Ba là kiên cố tâm Bồ-đề rộng lớn. Bốn là tăng trưởng thiện căn trong hiện tại và thấy được ba mươi hai tướng đại trượng phu”. Kinh Hải Ý Bồ Tát Sở Vấn nói: “Nầy Hải Ý! Có ba pháp gọi là cúng dường và thừa sự Như Lai. Thế nào là ba? Một là phát tâm Bồ-đề không thoái chuyển. Hai là có thể nhiếp trì tất cả các chánh pháp. Ba là đối với chúng sanh mà phát khởi đại bi”. Kinh Bảo Vân nói: Người thiện nam! Bồ-tát thành tựu mười pháp, mặc dầu ở trong bào thai cấu uế mà không bị ô nhiễm. Thế nào là mười? Một là dùng tín tâm thanh tịnh mà tạo tượng Như Lai. Hai là sửa sang các tháp cũ của chư Phật. Ba là dùng các hương thơm làm đồ trang sức tháp, tượng. Bốn là dùng các hương thơm, tắm rửa tượng, tháp Phật. Năm là trong tháp Phật nên quét lau sạch sẽ. Sáu là đích thân làm việc hầu hạ cha mẹ sanh ra mình. Bảy là tự thân thường cúng dường Hòa thượng, A-xà-lê. Tám là cúng dường những người cùng phạm hạnh. Chín là thi ân tuệ bố thí mà không mong cầu quả báo. Mười là lấy thiện căn nầy làm cho chúng hữu tình không ô nhiễm khi sanh ra trong bầu thai cấu uế. Người thiện nam! Nếu có đầy đủ mười pháp nầy thì mới có thể phát khởi tâm tùy hỷ sâu xa”. Kinh Bát Nhã nói: “Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát an trụ trong Đại thừa, thì trước cần phải phát tâm tùy hỷ. Bồ-tát có thể thực hành hạnh nầy thì mới an trụ trong Đại thừa không bị thoái chuyển. Phật nói: Kiều-thi-ca! Giả sử có người có thể tính biết số thế giới trong tam thiên đại thiên thế giới nầy, nhưng công đức có được của Bồ-tát phát khởi tâm tùy hỷ nầy thì không thể tính được. Bấy giờ, vua trời Đế Thích bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến chứng được Chánh đẳng Chánh giác mà trong thời gian đó Bồ-tát làm vô lượng thiện căn tùy hỷ, nhưng các Bồ-tát không nghe, không biết, cũng không nhiếp thủ, thì nên biết người nầy bị ma nắm giữ. Phật nói: Kiều-thi-ca! Nếu người thiện nam người thiện nữ nào muốn nhanh chóng chứng được Chánh đẳng Chánh giác như Như Lai đã chứng đây thì phải phát khởi tâm tùy hỷ Đại thừa, tuy nhiên đối với Thanh-văn và Phật-bích-chi thừa cũng chẳng yêu thích, cũng chẳng xả ly mà có thể cùng với thừa ấy, phát khởi tâm tùy hỷ, nên biết người nầy ngay đời sống hiện tại, thường gặp mười điều thiện, có được sự cúng dường, cung kính, tôn trọng và tán thán, đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đã gặp, không có gì không vừa ý, người nầy vónh viễn xa lìa đường ác, sau khi chết sanh lên cõi trời. Vì sao như vậy? Vì người nầy đã làm những điều lợi ích như thế khiến cho các chúng sanh đều được an vui. Và đem thiện căn nầy làm cho vô lượng vô số người phát khởi tâm tùy hỷ, sẽ được A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề”. Kinh nầy lại nói: “Tu-bồ-đề! Giả sử có hằng ha sa số chúng sanh trong thế giới tam thiên đại thiên nầy đều phát tâm A-nậu-đa-la-tam- miệu-tam-Bồ-đề và mỗi một chúng sanh trong hằng hà sa số kiếp tu tập bốn thiền định, an trụ tịch tónh, xa vọng tưởng loạn động, và Bồ-tát Ma- ha-tát tu tập Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể dùng phương tiện thiện xảo nhiếp lấy sự tu tập định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của Phật và giới định tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của thừa Thanh văn, Duyên giác ở ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, các loại thiện căn như vậy đem dồn lại cân nhắc rồi dùng tâm tối thượng, tối cực, tối thắng, tối diệu, vô lượng vô đẳng đẳng đều tùy hỷ. Lại dùng thiện căn tùy hỷ như vậy để hồi hướng A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề, thì nầy Tu-bồ-đề! Phước báo của người nầy có được còn hơn cả công đức của Bồ-tát tu định nói trên, không thể sánh ví không bằng một phần trăm của Ca-la-phần, cho đến một phần trăm của Ô-ba-la-ni-sát-đàm phần”. Luận nói: Đây nói về hạnh hồi hướng đã xong phần công đức khuyên thỉnh, như Kinh Tối Thượng Sở Vấn nói: “Nếu người có thể nhiếp thọ chánh pháp tức là đã hộ trì thọ mệnh của Phật ở vô lượng vô số cõi các Đức Phật”. <詞>Phẩm 18: NIỆM TAM BẢO Phần 1 Luận nói: Nói rõ hạnh hiền thiện, tiếp nói tăng trưởng phước đức. Đây không phải là nhân riêng biệt mà có thể thu hoạch quả. Nghóa là đối với tín tâm thường nên tu tập. Kinh Bí Mật Đại Thừa nói: “Phật nói: Đại vương! Ông nay biết rằng có bốn pháp mà nếu thực hành như lý thì an trụ trong Đại thừa, hướng đến đạo thù thắng có các pháp thiện không bị hoại mất. Những gì là bốn? Một là tin có thể hướng đến đạo tối thắng. Lại sao gọi là tin? Vì có lòng tin nên luôn thuận theo những điều gì mà Thánh không làm thì mình thảy đều không làm. Hai là tôn trọng có thể hướng đến đạo tối thắng. Vì tôn trọng nên các bậc Thánh đã nói ra diệu pháp thì phải lắng nghe và thọ trì một cách chắc thật. Ba là không kiêu mạn có thể hướng đến đạo tối thắng. Vì không kiêu mạn nên đối với tất cả các Thánh chúng đều cung kính, tin tưởng và đảnh lễ. Bốn là tinh tấn có thể hướng đến đạo tối thắng. Vì tinh tấn nên thân tâm đều được nhẹ nhàng, làm tất cả các pháp thiện đều được thành tựu”. Luận nói: Nói rõ tin thường được tu tập như thế. Đây nói rõ về năm căn như Tín v.v… Kinh Vô Tận Ý nói: “Thế nào là ngũ căn? Ngũ căn là Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định căn và Tuệ căn. Thế nào là Tín căn? Tín căn là đối với bốn pháp phải tin sâu và nhận rõ dục lạc: Một là cuộc sống hằng ngày phải thực hành chánh hạnh tin vào nghiệp báo. Do tạo nghiệp mà có kết quả như vậy, phải giữ gìn đến lúc mạng chung không nên tạo ra các tội ác. Hai là tin ưa các hạnh của Bồ-tát đã thực hành, không mong cầu thừa khác không theo những kiến chấp. Ba là đối với thắng nghóa hiểu rõ không có ngã, chúng sanh, thọ giả, Bổ-đặc-già-la…, đối với các pháp không, vô tướng, vô nguyện tin hiểu sâu xa. Bốn là đối với các công đức của Phật như lực, vô úy v.v…. nảy thì quyết định tin trừ bỏ lưới nghi. Đó gọi là tín căn. Thế nào gọi là Tấn căn? Nếu pháp là pháp thuộc tín căn nhưng siêng năng dũng mãnh không bị gián đoạn, thì đó gọi là Tấn căn. Thế nào gọi là Niệm căn? Nếu pháp là pháp do Tấn căn tu tập quyết không thể quên mất, thì đó gọi là Niệm căn. Thế nào gọi là Định căn? Nếu pháp là pháp thuộc Niệm căn nhất tâm bất loạn, thì đó gọi là Định căn. Thế nào gọi là Tuệ căn? Nếu pháp là pháp thuộc Định căn, phải tự nơi mình quán chiếu, không theo lý giải của người khác, thì đó gọi là Tuệ căn. Ngũ căn ấy liên tục phát khởi thì có được tất cả pháp Phật viên mãn”. Luận nói: Lại nói về pháp tín lực thì phải luôn luôn tu tập. Kinh Bảo Kế nói: “Người thiện nam! Thế nào là lực hành thanh tịnh của Bồ-tát? Đó là các căn không có khiếp nhược. Tất cả ác ma không thể làm loạn động. Thanh-văn, Duyên-giác không thể làm thoái chuyển, tất cả phiền não không thể phá hoại, mà kiên cố an trụ trong Đại thừa, bổn nguyện trọn đủ, tâm tịnh dũng mãnh nghiêm mật giữ gìn thân căn được thanh tịnh thù thắng”. Luận nói: Căn, lực như tín v.v… như thế, thường luôn tu tập và tu tập hạnh từ tăng trưởng công đức. Như Kinh Nguyệt Đăng có kệ: Trong na-do-tha ức cõi Phật Có đủ các loại để cúng Phật Đều đem cúng dường các Như Lai Chẳng bằng tu một ít tâm Từ.  <卷>QUYỂN 23 <詞>Phẩm 18: NIỆM TAM BẢO Phần 2 Do tín v.v… nên luôn duyên nghó đến công đức của chư Phật. Như kinh Hộ Quốc Tôn Già Sở Vấn có kệ: Cúi lạy đấng Điều ngự sắc vàng Mặt như trăng sáng không tỳ vết Công đức Thánh trí khó nghó lường Ở trong ba cõi chẳng ai bằng. Búi tóc Mâu-ni màu xanh biếc Cao, đẹp thanh tịnh tợ Tu Di Tướng lông mày trắng soi chiếu khắp Đỉnh đầu của Phật không ai thấy Mắt Như Lai tịnh như sen xanh Như hoa Quân ma và Nguyệt kha Thương yêu quán xem chúng hữu tình Cho nên con nay cúi đầu lễ Tướng lưỡi Như Lai màu tợ đồng Rộng dài khéo phủ che cả mặt Nói pháp cam lộ nhuận quần sanh Cho nên con nay cúi đầu lễ Như Lai bốn mươi răng đều, khít Trắng sạch cứng sắc như kim cương Nói lời chân thật phát hào quang Cho nên con nay cúi đầu lễ Sắc tướng Như Lai thật đặc thù Oai quang chiếu sáng trăm ngàn cõi Thích, phạm hộ thế và các Trời Uy quang tuy có, đều bị át Hai vai Như Lai như nai chúa Lồng ngực rộng thon như sư tử Bước đi thong thả như voi chúa Sơn hà, đại địa đều chấn động Thân tướng Như Lai rất trang nghiêm Kim quang sáng rực bao trùm khắp Ở trong thế gian không ai bằng Chúng sanh thấy Phật không hề chán Như Lai trải qua trăm ngàn kiếp Nhũng gì ái lạc đều bố thí Từ bi thương nghó chúng hữu tình Cho nên con nay cúi đầu lễ Chí Như Lai vui tu các độ: Trì giới, nhẫn nhục và tinh tấn Thiền định, thắng tuệ đều viên minh Cho nên con nay cúi đầu lễ Như Lai rống tiếng sư tử lớn Dũng mãnh phá tan các dị luận Tam độc cấu uế dứt chẳng còn Cho nên con nay cúi đầu lễ Ba nghiệp Mâu-ni vượt ba cõi Giống như hoa sen không dính nước Tiếng mầu nhiệm Ca-lăng-tần-già Cho nên con nay cúi đầu lễ Biết rõ thế gian là huyễn hóa Như kẻ diễn tuồng thay hình sắc Như ánh mặt trời và trong mộng Không ngã, không nhân không thọ giả Pháp vốn không tịch không có sanh Không thể liễu ngộ tùy lưu chuyển Đại từ dẫn dắt khắp quần mê Phương tiện tùy cơ nói chánh pháp Xem xét khổ não ở thế gian Các bệnh như tham… đều được đoạn Như Lai Đại Y vương vô thượng Đối trị từng người khiến giải thoát Chỉ khổ lo buồn sanh, lão, tử Ái biệt ly… cùng các họa hoạn Mâu-ni cứu độ ở thế gian Làm cho chán lìa và đoạn trừ Địa ngục, quỷ, súc cõi hiểm ác Chúng hữu tình theo dòng luân chuyển Thương họ không gần, không thầy dẫn Chỉ chúng ngu kia lên đường chánh Chư Phật quá khứ xuất thế gian Tự tại nói pháp lý nghóa sâu Thế Tôn dạy giống các Ngài dạy Đều khiến chúng sanh chứng đạo Thánh Tiếng Phật vang xa đến Phạm thiên Thông suốt tất cả sanh các thiện Càn-thát-bà và Khẩn-na-la Các tiếng nhạc vang không thể phát Tích chứa nhiều công đức thanh tịnh Diễn thuyết vô biên lời chân thật Trăm ngàn na-do-tha chúng sanh Nghe rồi đều phát ý ba thừa Nếu thường cúng dường đến Như Lai Sẽ đạt được niềm vui thắng diệu Giàu sanh tự tại được người kính Sanh ra đời sau làm đế vương Hoặc làm luân vương trị bốn châu Đầy đủ bảy báu đều khác lạ Thường đem thập thiện lợi chúng sanh Do khởi tịnh nghiệp ở Như Lai Hoặc làm Đao lợi chủ các trời Hoặc Dạ-ma vương Đổ-sử-đa Cho đến Tha hóa Đại Phạm thiên Đều do cúng dường Đức Như Lai Gặp Phật cúng dường như thế rồi Cho đến tin kính pháp được nghe Đều có thể vónh đoạn nhân khổ Chứng được tịch tónh lìa trần cấu Thế Tôn biết rõ đạo phi đạo Mà khéo dừng ác quay về thiện Khiến chúng sanh đạt được an lành Cùng nhau an trú nơi thánh đạo Nếu người cầu phước cúng dường Phật Thường được kho phước thắng vô tận Trong vô lượng kiếp không thể lường Cho đến chứng được quả Bồ-đề Cõi nước vi diệu thắng trang nghiêm Như trời Tha hóa thật đáng yêu Tùy theo nguyện lực sanh vào đó Nghiệp thân, khẩu, ý thường thanh tịnh Những phước báo vi diệu như thế Là do cúng dường nơi Như Lai Người ấy tuy sống ở thế gian Như ở Long cung, Trời thọ vui Danh xưng Như Lai thật rộng lớn Hết thảy quốc độ đều hay biết Thường ở trong vô biên đại chúng Mười phương chư Phật đều xưng tán Lìa hẳn các nhiệt não thế gian Hiện thị đại bi không ai sánh Đấng trung tôn tối thượng tịch tónh Cho nên con nay cúi đầu lễ Con nay đắc được năm thần thông Trụ ở hư không mà tán thán Đảnh lễ đấng đạo sư dõng mãnh Phân biệt các pháp tịnh, không cấu Nay người,trời đều đã tập hợp Xưng dương công đức đấng Thiện thệ Bao la rộng phước rất thắng diệu Cùng với chúng sanh thành Chánh giác Lại như trong kinh Pháp Tập nói: “Lại nữa, nầy thiện nam tử! Chư Phật Thế Tôn đầy đủ đại phước trí để tự trang nghiêm. Lấy đại từ bi làm cảnh sở hành, ở các thế gian làm người cứu hộ, làm đại y vương khéo nhổ các tên độc, thường trụ tịch tónh diệu Tam-ma-địa, không đắm sanh tử, cùng với Niết-bàn, xem các hữu tình cũng như cha mẹ. Với lòng đại từ bình đẳng thương xót tất cả thế gian không có ai hơn. Đem trí tương ưng soi sáng thế gian, đại trí ấy phủ khắp chúng hữu tình, hết thảy mọi người đều ưa vui thừa sự, xa lìa niềm vui cá nhân để tiêu trừ cái khổ cho người, giữ gìn chánh pháp, lấy pháp làm chủ, đắc pháp tự tại. Lấy pháp làm thức ăn, lấy pháp làm diệu dược (thuốc), lấy pháp làm bố thí, hết thảy đều xả bỏ, dùng trí chọn lựa thường không phóng dật, ở nơi hiểm nạn vì làm cầu đường, như đường vua đi bằng phẳng không vật chướng ngại. Cho đến sắc thân thanh tịnh người xem không chán. Chư Phật Thế Tôn có vô lượng công đức như thế ta nên thành tựu các công đức lợi ích kia. Đây gọi là Bồ-tát niệm Phật. Thế nào gọi là niệm pháp? Bồ-tát đã biết chư Phật Thế Tôn có vô lượng vô biên công đức đều từ pháp mà sanh ra, từ pháp mà biến hóa ra, từ pháp mà được, từ pháp mà tăng trưởng, từ pháp mà có, từ pháp mà hiện cảnh giới, theo pháp mà y cứ (chỉ), từ pháp mà thành tựu, cho đến các sự việc khoái lạc của thế gian và xuất thế gian cũng từ pháp mà sanh. Cho nên ta cầu mong quả vui Bồ-đề của chư Phật thì nên tôn trọng pháp. Y vào cảnh giới của pháp, y vào chỗ quy về của pháp, nương vào pháp mà quyết định, nương vào pháp để giữ tâm kiên cố, y vào pháp để mà tu hành. Đây gọi là Bồ-tát niệm Pháp. Lại nữa, Bồ-tát đối với chúng sanh phải bình đẳng mà thuyết pháp, do pháp không có cao thấp, nên ta và pháp tâm đều bình đẳng vậy, lại pháp thì không có diện mạo, nhưng vì chúng sanh nên mới tuyên thuyết, vì pháp không có tướng bè phái, nên ta cùng với pháp kia, tâm đều bình đẳng. Pháp thì không thời tiết, vì chúng sanh nên phải tuyên thuyết vậy, nhưng trong pháp ấy tâm có thể lãnh thọ được nên ta cùng với pháp kia tâm đều bình đẳng chẳng khác. Pháp chẳng phải nơi thù thắng mà vì chúng sanh nên nói, đối với người căn cơ thấp kém thì không nói. Do pháp ấy mọi người đều có thể nhận được, nên ta cùng với pháp kia tâm đều bình đẳng. Pháp chẳng phải thanh tịnh mà vì nói cho mọi người, nhưng không nói cho người bất tịnh. Vì pháp lìa nhiễm ô, nên ta và pháp kia, tâm đều bình đẳng. Lại pháp chẳng phải đối với Thánh nhân mà nói, còn chúng sanh thì không nói. Vì pháp rời các kiến phân biệt nên ta với pháp kia tâm đều bình đẳng vậy. Pháp chẳng phải nói ban ngày mà ban đêm không nói, cũng cũng chẳng phải đêm nói mà ngày chẳng nói. Vì pháp luôn luôn gia công hành trì, nên ta cùng pháp kia, tâm đều bình đẳng. Pháp chẳng phải điều phục cũng không phải trái vượt, vì pháp không có gì để chấp trước, nên ta cùng với pháp, tâm đều bình đẳng. Pháp chẳng phải giảm mất cũng chẳng phải tăng trưởng, vì pháp như hư không nên ta và pháp kia tâm đều bình đẳng. Pháp không chán chúng sanh mà chúng sanh có thể hộ trì pháp, do đó ta và pháp kia tâm đều bình đẳng. Pháp không phải cầu để trở về mà cho thế gian làm chỗ trở về nương tựa, ta cùng với pháp kia tâm đều bình đẳng. Pháp không có tổn hại phiền não, vì pháp lìa các tướng bị hại vậy, nên ta cùng với pháp kia tâm đồng bình đẳng, pháp không có oán thán ghen ghét, vì pháp xa lìa các kiết sử, nên ta cùng pháp ấy tâm đồng bình đẳng. Pháp không sợ sự luân hồi cũng không sợ ưa nơi Niết-bàn, vì pháp không có phân biệt nên ta cùng pháp kia tâm đều bình đẳng. Bồ-tát phải như thế mà luận tập chánh niệm. Đây gọi là niệm Pháp. Sao gọi là niệm Tăng? Trong đây lại nói: Chính là người thuyết pháp, người hành pháp, người tư duy pháp, là người có ruộng phước nơi pháp, người nhậm trì pháp, người y chỉ nơi pháp, là người cúng dường pháp, người thực hành pháp như pháp, là người thể nhập cảnh giới pháp, là người của hành xứ pháp, là người thành tựu pháp, là người có tự tánh chất trực, là người có tự tánh thanh tịnh, là người tùy thuận giáo huấn, là người phát đại từ bi, khéo tuyển trạch cảnh giới trí, là người thường tu tập pháp thanh tịnh. Luận nói: Bồ-tát niệm Tăng như thế, tất đạt được các công đức chân thật của chúng sanh như kinh Vô Cấu Xưng có kệ viết: Hoặc là lão bệnh tử Hoặc là chư chúng sanh Biết rõ như huyễn hóa Thông suốt không còn ngại Hoặc kiếp nầy thiêu rụi Trời đất liền trong sáng Mọi người hay vọng tưởng Soi khiến biết vô thường Vô số ức chúng sanh Đều đến thỉnh Bồ-tát Một thời đến nhà kia Dạy quay về đạo Phật Cấm kinh thư, chú thuật Khéo léo các kỹ nghệ Hết lòng làm việc nầy Nhiêu ích các quần sanh Các đạo pháp thế gian Đều xuất gia trong đó Do giải nghi cho người Mà không đọa tà kiến Hoặc làm nhật nguyệt thiên Phạm vương chư thế giới Hoặc lúc làm đất nước Hoặc lại làm gió lửa Trong đời có bệnh dịch Hiện làm các thảo dược Nếu có người uống thuốc Hết bệnh tiêu các độc Trong đời có đói khát Hiện thân làm thức ăn Trước hết cứu đói khát Rồi lấy pháp dạy người Trong đời có đao binh Vì kia khởi từ bi Dạy các chúng sanh kia Khiến trụ vô tịnh địa Nếu có chiến tranh lớn Làm hai bên ngang sức Bồ-tát hiện oai lực Hàng phục khiến an hòa Trong tất cả quốc độ Chúng sanh ở địa ngục Liền sanh đến cõi kia Thoát khỏi các khổ não Trong tất cả các cõi Chúng sanh ăn nuốt nhau Liền hiện sanh đến kia Làm những việc lợi ích Như thọ dụng ngũ dục Và cũng lại hành thiền Khiến tâm ma mê loạn Không thể nhiễu kẻ kia Trong lửa sanh hoa sen Có thể gọi hy hữu Trong dục mà hành thiền Hy hữu cũng như vậy Hoặc hiện làm dâm nữ Trang điểm các sắc đẹp Trước vì muốn dẫn dụ Sau khiến vào trí Phật Hoặc làm chủ trong ấp Hoặc chỉ đường thương nhân Quốc sư cùng đại thần Vì lợi ích chúng sanh Những chúng sanh bần cùng Hiện làm kho vô tận Vì khuyên dại kẻ kia Khiến phát tâm Bồ-đề Tâm ta tâm kiêu mạn Liền hiện đại lực só Phá dẹp các cống cao Khiến trụ đạo vô thượng Kia có các lo sợ Đứng trước mà an ủi Đầu là ban vô úy Sau khiến phát đạo tâm Hoặc hiện lìa dâm dục Làm tiên chứng năm thông Khai đạo các quần sanh Khiến trụ giới, nhẫn, từ Người muốn được cung phụng Hiện làm kẻ đầy tớ Để vui lòng kẻ kia Bèn phát đại đạo tâm Tùy ước muốn kẻ kia Được vào nơi Phật đạo Dùng sức phương tiện khéo Cấp cho kia thấy đủ Đạo vô thượng như thế Chỗ hành vô bờ bến Trí tuệ trùm các cõi Độ thoát vô lượng chúng Giả như tất cả Phật Trong vô số ức kiếp Tán thán công đức ấy Còn không thể cùng tận. Công đức tu tập cúng dường của Bồ-tát như trong kinh Bảo Quang Minh Đà-la-ni có kệ: Phóng ánh sáng chuỗi ngọc trang nghiêm Biển mây chuỗi ngọc thật vi diệu Chuỗi đẹp như thế biến cùng khắp Cúng dường rộng lớn làm Phật sự Phóng ánh sáng lớn hương trang nghiêm Mỗi mỗi biển mây thơm vi diệu Hương diệu như thế biến cùng khắp Cúng dường rộng rãi làm Phật sự Phóng ánh sáng lớn hoa trang nghiêm Mỗi mỗi biển mây hoa vi diệu Hoa diệu như thế biến khắp nơi Cúng dường rộng rãi làm Phật sự Phóng ánh sáng lớn anh lạc quý Mỗi thứ biển mây anh lạc đẹp Anh lạc như thế biến cùng khắp Cúng dường rộng rãi làm Phật sự Phóng ánh sáng lớn hiện cờ báu Xanh, vàng, đỏ, trắng để trang sức Các thứ báu quý hợp lại thành Dùng để trang nghiệp quốc độ Phật Lưới báu ma ni chiếu lẫn nhau Giăng cờ trong hội làm lọng báu Rủ châu anh lạc nói Phật âm Trang nghiêm mà che trên Như Lai Nơi mỗi Như Lai dâng cúng dường Trong tay dâng cúng đồ trang nghiêm Vô lượng chư Phật cũng như thế Biến hiện tự tại trong thiền định Trí lực thần thông diệu khó lường Rộng làm lợi ích các hàm thức Biến hiện thù thắng trong thiền định Để làm trăm ngàn cửa phương tiện Pháp môn cúng dường chư Như Lai Pháp bố thí khéo bỏ tất cả Đạt nhiều công đức trong pháp trì giới Pháp nhẫn nhục bất động vô tận Khuyên tinh tấn dõng mãnh thực hành An trụ nơi thiền định tịch tónh Thông hiểu nghóa lý, trí thù thắng Tịnh tu phạm hạnh môn thần thông Vui vẻ thực hành tứ nhiếp pháp Tích tập phước trí lợi quần sanh Tứ đế làm duyên sanh giải thoát Tu tập căn lực pháp giải thoát Chứng quả Thanh văn đến giải thoát Quán Duyên giác tiến đến thanh tịnh Tu tập pháp thần biến thượng thừa Hoặc hiện ra vô thượng khổ não Biết rõ vô ngã, vô thọ giả Tu bất tịnh quán lìa tham dục Chứng quả tam muội chân thường lạc Các pháp môn thanh tịnh như thế Bình đẳng khắp với các chúng sanh Cúng dường đắc quả giải thoát kia Hiện ra đủ tướng hợp thời cơ Thần thông thuyết pháp khó nghó bàn Tùy thuận thành tựu chư hữu tình Được sanh an lạc và cung kính Nên nghó xa lìa nhân thế gian Cầu chứng thanh tịnh Tam-ma-địa Nếu gặp đói khát các hoạn nạn Tùy theo nhu cầu mà cung cấp Rộng lòng thương xót chúng hữu tình Lìa xa lo sợ thường an ổn Đem thức ăn, uống thật thượng diệu Các loại y phục các kho tẩm Của cải trong nước có tổn giảm Ở thế gian kia khởi thí lớn Hoặc hiện thân tướng rất thù đặc Mỗi mỗi trang nghiêm đủ oai lực Thoa hương thơm ngát các vòng hoa Sắc tướng cao vời không ai hơn Các oai nghi, hình sắc như thế Mỗi người khi thấy ưa cung phụng Cần tùy phương tiện tuyên pháp âm Khiến cho chúng sanh phát đạo tâm Hoặc hiện tiếng Ca-lăng-tần-già Tiếng Câu-kế-la và tiếng Câu-noa Khẩn-na-la và tiếng trống diệu Đều tuyên nghóa giải thoát Như Lai Phật tuyên pháp ngữ ở thế gian Bốn vạn tám ngàn chân pháp tạng Như thế phân biệt các pháp môn Làm cho chúng sanh tăng lợi ích Tùy cơ thuyết pháp khiến phát tâm Có thể cùng họ đồng tu tập Hoặc hiện chướng nạn các nguy ách Mỗi mỗi bức bách khó chịu đựng Nên dùng tâm đại bi dũng mãnh Thay chúng sanh kia mà chịu khổ Nếu nơi không có pháp giải thoát Không nơi thanh vắng để xuất ly Dùng phước lực vua mà sùng kính Khiếm cho kia phát lòng tịnh kính Nếu ở thế gian tham ái buộc Tức thì siêu vượt nhân thế gian Ở trong cõi dục đoạn trừ hết Đây là chiếu sáng ở thế gian Nếu đã đầy đủ các công đức Đó gọi là đại trượng phu hành pháp Diệu hạnh Mâu-ni cần khéo tu Người ấy được sanh nước Cực lạc Thọ mạng làm giàu không thể tính Niềm vui thắng diệu tiêu nghi hoặc Không còn cảnh sanh, lão, bệnh, khổ Ở trong vô thường được tự tại Phát khởi tham sân các lỗi lầm Hừng hực thiêu đốt không tạm ngừng Bổn tướng như thế hoàn như củ Khuyến hóa chúng sanh khiến giác ngộ Mười lực, bốn vô úy Như Lai Các công đức mười tám bất cộng Ta nay xưng tán nguyện quy y Thường ở thế gian làm lợi ích Cũng giống như những nhà ảo thuật Có thể hiện ra các hình tướng Như Lai xuất hiện ở trên đời Thần thông biến hóa cũng như vậy Dùng các thiện xảo phương tiện khéo Rộng tu nhiêu ích chư hữu tình Thanh tịnh an lạc khó nghó lường Giống hư hoa sen rời nước đục Hoặc hiện nói các lời hý luận Anh lạc trang nghiêm nhảy múa quanh Hãy xem kỹ các thứ tài nghệ Hiện các sắc tướng như ảo hóa Hoặc vì chủ thôn làng tụ lạc Hoặc vì Trưởng giả hoặc thân buôn Hoặc vì phụ tướng đến tể thần Biện luận không hơn bậc đại trí Làm cây đại thọ nơi đồng trống Hoặc làm kho trân bảo vô tận Theo sở cầu được ngọc như ý Ở nơi mê mờ mà dẫn đạo Hoặc hiện ra làm các sự nghiệp Đủ loại sắc màu cùng khéo léo Cạnh tranh buôn bán và trồng trọt Khiến hiểu thế gian khó trường tồn Hiện kẻ oán thân không yêu ghét Hoặc khiến an ổn được kiết tường Suốt thông phương thuốc cứu quần sanh Phương tiện chỉ bày độ Mâu-ni Đều khiến trời người lìa nghi hoặc Khiến cho kẻ xuất gia ngoại đạo Phát tâm quy hướng Nhất thiết trí Các khổ hạnh ngoại đạo như thế Cố chấp giữ không vâng lời Như Lai Lỏa hình lìa nhiễm xưng Sa-môn Mỗi người khéo phụng lời tôn sư Hoặc thường hành trì hạnh xả thân Cho là tối thượng không gì hơn Bện búi tóc, giới Đồng tử Ai cũng hành trì lời thầy dạy Hoặc dùng lửa dữ để nung thân Hoặc giữ giới cấm thờ chó, trâu v.v… Thường mang y phục bằng da nai Mỗi người y theo lời thầy dạy Được trí cõi trời thường an lạc Không thiện không ác cũng không nhân Chỉ ăn cây, quả, uống nước trong Mỗi người khéo vâng lời thầy dạy Hoặc ngồi chòm hỏm đứng một chân Hoặc nằm trên gai hoặc bôi tro Cầm trương khiến tam được an ổn Mỗi người khéo giữ lời thầy dạy Cho đến hết thảy các ngoại đạo Chúng rất bền chí tu khổ hạnh Để khiến vónh đoạn nhân các khổ Trong lòng đều muốn cầu giải thoát Những dự kiến thế gian như thế Đều do nghe theo lời thầy dạy Ta nay vì độ chúng tà kia Khai thị nghóa chân thật Như Lai Hoặc nói câu Đại thừa vi diệu Hoặc nói câu bí mật chân ngôn Hoặc hiện nói thẳng câu tỏ ngộ Hoặc ưa câu nói ở trong không Hoặc dùng câu phân biệt văn tự Câu quyết định diệu nghóa kim cang Dùng trí tuệ dẹp câu dị luận Vứt bỏ câu ngôn luận phi pháp Hoặc chỉ câu minh chú cho người Hoặc hiện câu chư Thiên thắng diệu Câu Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà A-tu-la cùng với Bộ đa Câu Khẩn-na-la, Nga-lỗ-noa Câu của Ma-hầu-la… Mỗi người hiểu được những lời kia Tuyên dương pháp giải thoát Như Lai Do vì được ngộ nghóa chân thật Ở trong pháp Phật tâm quyết định Ngôn từ, trí, cảnh diệu khó lường Đây là Tam-ma-địa tối thượng Do đạt được Tam-ma-địa kia Có thể chiếu khắp ánh sáng tịnh Ánh sáng ấy nhiếp hóa quần sanh Khiến được nhẹ nhàng thường tịch tónh Hoặc phóng ánh sáng tên Thiện kiến Chúng sanh được chiếu mà khởi tin Có thể quan sát nhân các thiện Đầy đủ trí bất không vô thượng Do ánh sánh ấy chiếu khắp cả Được thấy vô biên Phật Pháp Tăng Tháp miếu Như Lai nhiều dấu linh Mỗi mỗi xưng dương dâng cúng dường Lại phóng quang minh tên thắng đăng Ánh sáng ấy không gì sánh kịp Vì muốn nghiêm tịnh ở thế gian Phá các hắc ám nhỏ nhiệm nhất Ánh sáng ấy chiếu chúng sanh rồi Ai nấu cầm đèn để dâng cúng Cúng dường Như Lai chẳng nghó bàn Lại dùng nhiều đèn mà bố thí Hoặc dùng đèn sáp hay đèn dầu Hoặc dùng nhựa thông hoặc tre sậy Đến đèn báu quý các hương thơm Thí rồi nguyện Nhiên Đăng Ký Lại phóng ánh sáng tên Câu Triệu Có thể tập hợp các hữu tình Do đây dạy dỗ chúng mê kia Giải thoát luân hồi biển ái hữu Từ quang như thế đã chiếu rồi Đều khiến chúng sanh được khai ngộ Sẽ khiến lìa hẳn bốn bộc lưu Hiện trừ ưu não thường an lạc  <卷>QUYỂN 24 <詞>Phẩm 18: NIỆM TAM BẢO Phần 3 Người đi trên đường hoặc qua sông Khéo tạo cầu đường và thuyền ghe Rộng vì lợi lạc các chúng sanh Ca ngợi tịch tónh khiến chứng ngộ Phóng ánh sáng lớn trừ khát ái Ánh sáng nầy giác ngộ hàm thức Khiến cho chúng sanh lìa năm dục Chuyên cầu pháp giải thoát thâm diệu Nếu có thể xả ly năm dục Chuyên cầu pháp giải thoát thâm diệu Phật có thể dùng mưa cam lộ Rộng diệt khát ái ở thế gian Tạo thành các giếng, ao, suối, rạch Khuyên cầu đạo Bồ-đề Vô thượng Chê bai năm dục khen thiền định Nên gọi ánh sáng trừ khát ái Phóng ánh sáng lớn tên tác biến Ánh sáng ấy giác ngộ chúng sanh Người được thấy mộ Bồ-đề Phật Phát tâm nguyện chứng trí vô sư Tạo tượng Như Lai đấng đại từ Các tướng trang nghiêm ngồi tào sen Thường khen công đức Phật tối thắng Nên gọi sáng nầy là tác ái Phóng ánh sáng lớn tên hân lạc Ánh sáng nầy giác ngộ chúng sanh Khiến tâm họ ưa thích chư Phật Và ưa thích Pháp, ưa thích Tăng Ở trước Như Lai trong hội Thánh Đạt thành pháp nhẫn vô sanh diệu Khai ngộ chúng sanh không hạn lượng Rộng niệm Tam bảo Phật, Pháp, Tăng Chỉ bày hạnh công đức phát tâm Vì vậy sáng nầy gọi hân lạc Phóng ánh sáng lớn tên phước tụ Ánh sáng nầy giác ngộ chúng sanh Khiến kia tu tập các loại thí Lấy nguyện nầy cầu đạo vô thượng Mở hội thí lớn không giới hạn Hành khất đến xin đều đầy đủ Khiến cho tâm kia không còn thiếu Vì vậy sáng nầy gọi phước tụ Phóng ánh sáng lớn tên cụ trí Ánh sáng nầy giác ngộ chúng sanh Trong một pháp môn ngộ nhiều pháp Thông nhiều pháp môn trong chốc lát Vì các chúng sanh phân biệt thuyết Quyết định hiểu thấu nghóa chân thật Khéo léo nói rộng không tổn diệt Vì vậy sáng nầy gọi cụ trí Phóng ánh sáng lớn tên tuệ đăng Ánh sáng nầy giác ngộ chúng sanh Khiến chúng sanh biết tánh không tịch Hết thảy các pháp không sở hữu Pháp không chủ tể vốn là không Như lửa hư không, trăng trong nước Cũng như mộng mị và ảnh tượng Cho nên sáng nầy gọi tuệ đăng Phóng ánh sáng lớn tên tự tại Ánh sáng nầy giác ngộ chúng sanh Khiến được vô tận Đà-la-ni Đều trì hết thảy Như Lai tạng Cung kính cúng dường người trì pháp Cung cấp hầu hạ như chư Tiên Dùng tất cả pháp cho chúng sanh Nên ánh sáng gọi pháp tự tại Phóng ánh sáng lớn tên cụ xả Ánh sáng nầy giác ngộ chúng keo kiệt Khiến biết giàu có vốn vô thường Ưa vui bố thí không lẫn tiếc Khéo léo đều phục người keo kiệt Biết của như mộng như mây trôi Tăng trưởng bố thí tâm thanh tịnh Nên ánh sáng nầy gọi cụ xả Phóng ánh sáng lớn tên trừ nhiệt Ánh sáng nầy giác ngộ phá giới Rộng khiến an trụ giới thanh tịnh Phát tâm nguyện chứng trí vô sư Khích lệ chúng sanh hay phụng trì Mười nghiệp thiện đạo thường thanh tịnh. Lại khiến phát khởi tâm Bồ-đề Nên ánh sáng nầy gọi trừ nhiệt Phóng ánh sáng lớn tên nhẫn nghiêm Ánh sáng nầy giác ngộ đa sân Khiến trừ phẫn nhuế và ngã mạn Ưa tu nhu hòa cùng nhẫn nhục Chúng sanh bạo ác khóhành nhẫn Vì Bồ-đề nên tâm chẳng động Xưng dương công đức nhẫn tối thượng Cho nên quang ấy gọi nhẫn nghiêm Phóng ánh sáng lớn tên cầu dũng Ánh sáng nầy giác ngộ biếng trễ Khiến họ thường ở trong Tam bảo Cung kính cúng dường không hề chán Nên kia thường ở trong Tam bảo Cung kính cúng dường không hề chán Liền được vượt khỏi bốn cảnh ma Mau thành Bồ-đề Vô thượng Phật Khuyên các chúng sanh phát tinh tấn Đối với Tam bảo dâng cúng dường Chuyên hộ trì khi diệt pháp dục Nên ánh sáng nầy gọi cần dũng. Phóng ánh sáng lớn tên tịch tónh Ánh sáng nầy giác ngộ loạn ý Khiến họ xa lìa tham sân si Tâm không lay động, trụ thiền định Xa lìa tất cả ác tri thức Đàm luận vô nghóa hạnh tạp nhiễm Tán thán thiền định A-lan-nhã Nên ánh sáng nầy tên tịch tónh Phóng ánh sáng lớn tên tuệ nghiêm Ánh sáng nầy giác ngộ ngu mê Khiến họ chứng đế hiểu duyên khởi Các căn trí tuệ đều thông đạt, Nếu chứng Tứ đế thông duyên khởi Các căn trí tuệ đều thông đạt Đắc Tam-ma-địa Nhật đăng Trí tuệ quang minh thành quả Phật Nên xả bỏ quốc gia tài bảo Vì Bồ-đề nên cầu chánh pháp Nghe rồi vì chúng sanh rộng nói Nên ánh sáng nầy tên tuệ nghiêm Phóng ánh sáng lớn tên Phật tuệ Ánh sáng nầy giác ngộ hàm thức Khiến thấy vô lượng trăm ngàn Phật Mỗi Phật ngồi trên tòa sen báu Khen Phật oai đức và giải thoát Nói tự tánh Phật các thầm thông Hiển bày lực Phật diệu khó lường Nên ánh sáng nầy tên Phật tuệ Phóng ánh sáng lớn tên vô úy Ánh sáng nầy chiếu đến trừ sợ Bị phi nhân trói buộc, đánh đập Tất cả tai nạn đều tiêu trừ Ban vô úy cho khắp chúng sanh Nếu gặp não hại đều dứt hết Độ hết thảy các ách nạn khốn cùng Nên ánh sáng nầy tên vô úy Phóng ánh sáng lớn tên an ổn Ánh sáng nầy chiếu trừ tật bệnh Khiến lìa tất cả các thống khổ Đạt được niềm vui định Tam muội Ban thuốc hay để cứu các hoạn Diệu bảo diện mạng hương xoa thân Trong tay hóa hiện thức ăn uống Nên ánh sáng nầy tên an ổn Phóng ánh sáng lớn tên kiến Phật Ánh sáng nầy độ người sắp chết Tùy theo ức niệm thấy Như Lai Mạng chung được sanh về Tịnh độ Thấy người lâm chung khuyên niệm Phật Hoặc bày tôn tượng khuyên chiêm ngưỡng Khiến đối Phật hết lòng quy kính Nên ánh sáng nầy tên kiến Phật Phóng ánh sáng lớn tên Lạc pháp Ánh sáng nầy giác ngộ quần sanh Đối với chánh pháp thường hân lạc Lắng nghe đọc tụng và biên chép Lúc pháp sắp diệt khéo tuyên thuyết Khiến người cầu pháp ý sung mãn Vì pháp ưa vui siêng tu tập Nên ánh sáng nầy tên lạc pháp Phóng ánh sáng lớn tên diệu âm Ánh sáng nầy khai ngộ Bồ-tát Khiến cho âm thanh trong ba cõi Nghe được đều là tiếng Như Lai Dùng âm thanh lớn xưng tán Phật Cùng cúng các chuông và âm nhạc Khiến khắp thế gian nghe tiếng Phật Nên ánh sáng nầy tên diệu âm Phóng ánh sáng lớn tên cam lồ Ánh sáng nầy khai ngộ chúng sanh Lìa bỏ tất cả hạnh phóng dật Tu tập đầy đủ các công đức Gọi pháp hữu vi không an ổn Vô lựơng khổ não đều đầy ắp Thường xưng dương niềm vui tịch diệt Nên ánh sáng nầy tên cam lồ Phóng ánh sáng lớn tên tối thắng Ánh sáng nầy khai ngộ chúng snah Khiến ở chỗ Phật đều nghe thấy Giới định tuệ là pháp tăng thượng Thương ưa xưng tán Đại Mâu-ni Thắng giới thắng định và thắng tuệ Như thế vì cầu đạo vô thượng Nên ánh sáng nầy tên tối thắng Phóng ánh sáng lớn tên bảo nghiêm Ánh sáng nầy khéo ngộ chúng sanh Khiến được bảo tạng không cùng tận Dùng đó cúng dường các Như Lai Vì các báu ấy rất thượng diệu Đem cúng nơi Phật và nơi tháp Lại lấy tình thương giúp kẻ khổ Cho nên đạt được ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên hương nghiêm Ánh sáng nầy giác ngộ chúng sanh Khiến kia nghe thấy lòng ưa mến Quyết sẽ đạt thành công đức Phật Trời người dùng hương để thoa thân Cúng dường tất cả tối thắng chủ Cũng dùng xây tháp và tượng Phật Cho nên đạt đựoc ánh sáng nầy Phóng ánh sáng tên diệu trang nghiêm Tràng phan bảo cái nhiều vô số Đốt hương rải hoa tấu âm nhạc Trong ngoài thành ấp đều đầy đủ Do dùng các âm nhạc vi dịêu Các hương hoa đẹp, cờ, lọng thảy Đủ thứ trang nghiêm cúng dường Phật Vì thế đạt thành ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên nghiêm tịnh Khiến mặt đất phẳng như bàn tay Trang nghiêm tháp Phật và xứ ấy Cho nên thành được ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên đại vân Mưa dày rải khắp nước hương thơm Do dùng nước thơm lau tháp Phật Cho nên thành được ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên nghiêm cụ Khiến người lỏa hình được áo tốt Thân đoan vật đẹp do bố thí Vì thế thành được ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên thượng vị Khéo khiến người đói được vị ngon Dùng thức ăn ngon mà bố thí Do thế đạt đựoc ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên thắng tài Khiến kẻ khốn cùng được kho báu Dùng vô tận vật cúng Tam bảo Vì vậy thành được ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên tịnh nhãn Khiến cho kẻ đui thấy được màu Dùng đèn cúng Phật và tháp Phật Cho nên thành được ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên tịnh nhó Khiến cho kẻ điếc nghe được tiếng Dùng nhạc cúng Phật và tháp Phật Cho nên thành được ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên tịnh tỷ Xưa chưa nghe hương đều được nghe Dùng hương cúng Phật và tháp Phật Cho nên thành được ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên tịnh thiệt Khéo trừ lời thô ác bất thiện Do dùng mỹ âm xưng tán Phật Cho nên thành được ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên tịnh thân Khiến người khuyết tật được đầy đủ Dùng thân lễ Phật và tháp Phật Cho nên thành được ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên tịnh ý Khiến kẻ thất tâm được chánh niệm Do tu Tam muội được tự tại Vì thế mà thành ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên tịnh sắc Tướng tốt khó lường đều được thấy Hoa thơm cúng Phật và tháp Phật Vì vậy nên thành ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên tịnh thanh Quán duyên khởi thanh như tiếng vang Biết rõ tánh thanh xưa nay rỗng Cho nên đạt thành ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên tịnh hương Khiến các mùi hôi đều thanh khiết Nước thơm tắm Phật và tháp Phật Cho nên đạt thành ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên tịnh vị Hay trừ các độc ở trong vị Thường cúng Phật Tăng cùng phụ mẫu Cho nên mới thành ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn tên tịnh xúc Thường khiến cứng cõi thành mềm mại Mác, đónh, kiếm, kích từ không xuống Đều biến thành vòng hoa quý báu Do xưa từng đứng ở đường lớn Xoa hương, rải hoa, trải y phục Kính rước Như Lai đạp lên trên Nên được thành tựu ánh sáng nầy Phóng ánh sáng lớn là tịnh pháp Có thể khiến chân lông trên thân Đều tuyên pháp diệu khó suy lường Người nghe hân hoan mong giải thoát Tự tánh vô sanh do duyên khởi Pháp tánh thường trụ như hư không Biết được thân Phật tức Pháp thân Cho nên thành tựu ánh sáng nầy So sánh các ánh sáng như thế Như số vi trần không thể lường Lưu xuất từ chân lông Đại Tiên Như chỗ gây nghiệp đều sai biệt Ánh sáng từ lỗ chân lông phóng Giống như số vi trần hư không Tất cả chân lông đều cũng thế Đây lực Tam muội của Đại Tiên Như các công đức ngài đã tu Tùy theo túc duyên và phạm hạnh Nay phóng ánh sáng nên như thế Đây là trí tự tại Đại Tiên Xưa kia cùng tu nghiệp thắng phước Thường sanh ái lạc đều tùy hỷ Ngày nay tạo tác cũng như thế Cho nên thành tựu ánh sáng nầy Nếu mình tự tu các phước nghiệp Luôn luôn cúng dường các Đức Phật Lại thường cần cầu công Đức Phật Do đây ánh sáng được khai mở Như kẻ mù không thấy mặt trời Chớ gọi thế gian không mặt trời Những người mắt sáng đều hiểu rõ Y theo công việc mà tạo tác Ánh sáng Đại só cũng như thế Người có trí tuệ đều thấy rõ Phàm phu tà tín người kém hiểu Nơi ánh sáng nầy chẳng thể thấy Ma ni, cung điện cùng xe báu Diệu bảo linh hương cùng ngọc quý Có đủ thắng phước đều tự nhiên Người không có đức chẳng thể an Ánh sáng Đại só cũng như thế Kẻ có trí sâu đều được chiếu Người ngu tê liệt và tà tín Không thể thấy được ánh sáng nầy Nếu biết ánh sáng nầy sai biệt Sanh lòng thanh tịnh tin hiểu sâu Vónh đoạn hết thảy lưới nghi hoặc Mau thành cờ công đức vô thượng Lại hiện Tam-ma-địa tối thượng Quyến thuộc trang nghiêm đều tự tại Trong tất cả quốc độ mười phương Chúng hội Phật tử đều nhiễu quanh Có hoa sen báu sáng trang nghiêm Sánh bằng cõi tam thiên đại thiên Thân kia ngồi ngay đều sung mãn Hiện lực thần thông tam muội nầy Lại có số vi trần mười cõi Trang nghiêm bằng hoa sen báu quý Hết thảy Phật tử trụ trong ấy Là lực oai thần tam muội nầy Đời trước thành tựu nhân duyên lành Tu hành đầy đủ công đức Phật Chỗ chúng hội vây quanh như thế Đều cùng chắp tay xem không chán Trong thân trẻ thơ vào thiền định Thì thân thanh niên từ định dậy Trong thân thanh niên vào thiền định Thì thân tuổi già từ định dậy Trong thân người già vào thiền định Thân Cận sự nữ từ định dậy Thân Cận sự nữ vào thiền định Thân Cận sự nam từ định dậy Thân Cận sự nam vào thiền định Thân Tỳ-kheo ni từ định dậy Thân Tỳ-kheo ni vào thiền định Thân Tỳ-kheo từ thiền định dậy Thân Tỳ-kheo vào thiền định thì Thân học, vô học từ định dậy Thân học, vô học vào thiền định Thân Duyên giác từ thiền định dậy Trên thân Duyên giác vào thiền định Hiện thân Như Lai từ định dậy Trên thân Như Lai vào thiền định Ở thân chư Thiên từ định dậy Trên thân chư Thiên vào thiền định Ở thân rồng lớn từ định dậy Trên thân rồng lớn vào thiền định Ở thân Dạ-xoa từ định dậy Trên thân Dạ-xoa vào thiền định Ở thân Bộ đa từ định dậy Trên thân Bộ đa vào thiền định Trong lỗ chân lông từ định dậy Trong lỗ chân lông vào thiền định Hết thảy chân lông từ định dậy Hết thảy chân lông vào thiền định Một lông đónh đầu từ định dậy Một lông đónh đàu vào thiền định Cả thảy đầu tóc từ định dậy Cả thảy đầu tóc vào thiền định Trong một vi trần từ định dậy Trong một vi trần vào thiền định Hết thảy vi trần từ định dậy Trong tất cả trần vào thiền định Ở cõi kim cương từ định dậy Trong cõi kim cương vào thiền định Nơi báu ma ni từ định dậy Như báu ma ni vào thiền định Trong quang minh Phật từ định dậy Trong quang minh Phật vào thiền định Ở nơi thủy đại từ định dậy Nếu trong thủy đại vào thiền định Ở trong hỏa đại từ định dậy Nếu trong hỏa đại vào thiền định Ở nơi phong đại từ định dậy Nếu trong phong đại vào thiền định Ở nơi địa đại từ định dậy Nếu trong địa đại vào thiền định Trong cung điện trời từ định dậy Nếu trong cung điện vào thiền định Nơi không khởi định tâm chẳng loạn Đó là giải thoát bất tư nghì Công đức tự tại Tam-ma-địa Các Như Lai ở trong mười phương Trong vô lượng kiếp nơi chẳng cùng Hết thảy Như Lai cùng tuyên thuyết Nghiệp báo chúng sanh, rồng biến hóa Chư Phật tự tại đại thần thông Và nhập định lực khó nghó bàn Thanh-văn tâm trụ tám giải thoát Có thể một thân hiện nhiều thân Lại từ nhiều thân thành một thân Ở trong hư không nhập hỏa định Kia không đầy đủ từ bi lớn Không vì chúng sanh cầu Phật đạo Hóa hiện các việc khó lường nầy Huống gì rộng lợi ích chúng sanh Giống như nhật nguyệt trong hư không Ánh sáng chiếu khắp mười phương cõi Nước trong ao hồ và kênh rạch Sông biển các báu đâu chẳng có Sắc tướng Bồ-tát cũng như thế Hiện khắp mười phương khó nghó bàn Đây là lực tự tại tam muội Chỉ có Như Lai mới chứng được Trong biển có thần tên Thiện âm Tiếng ấy hợp với chúng trong biển Có lời nói ấy biền biệt rõ Khiến kia hết thảy đều vui mừng Thần kia có đủ tham, sân, si Còn khéo biện giải các lời nói Huống lại nắm giữ sức tự tại Mà không thể khiến chúng vui sao Giống nhà ảo thuật biết ảo thuật Hiện ra vô số việc tinh xảo Chốc lát hiện ra ngày tháng năm Thành ấp giàu có đại an lạc Ảo thuật gia đủ tham san si Mà khéo dẫn trò vui thế gian Huống người giải thoát, các thiền định Mà không thể khiến chúng sanh vui La-hầu, A-tu-la biến hiện Ngự trong biển cả bờ kim cang Biển nước tuy sâu ẩn nửa thân Đầu cao bằng với núi Tu-di Kia còn tham dục sân nhuế si Còn hiện được đại thần biến nầy Huống người hàng ma đèn chiếu đời Mà không rự tại lực oai thần Trời và Tu-la khi chiến đấu Thần lực Đế thích được tự tại Tùy theo số lượng binh chúng kia Hiện thân cùng khắp kia chẳng thắng Các A-tu-la nghó thế nầy Thích-đề-hoàn-nhân đến chỗ ta Chắc bắt thân ta và trói lại Do đó chúng kia đều lo sợ Hiện thân Đế thích có ngàn mắt Tay cầm kim cang ra khói lửa Mặc giáo cầm trượng rất uy nghiêm Tu-la xa thấy đều lui tránh Vì chúng phước lực có rất ít Mà còn đả phá kẻ thù lớn Huống người cứu độ hết tất cả Công đức lại không tự tại sao? Gió thổi tan mây trừ mưa lớn Nó làm tiêu trừ các khí mây Cũng khéo thành thục các giống ma Lại khéo an lạc các quần sanh Kia không khéo học Ba-la-mật Cũng không khéo học công Đức Phật Còn thành tựu việc bất tư nghì Huống người đủ đầy các nguyện lực. Luận nói: Các sự tạo tác của Bồ-tát vì lợi lạc hết thảy chúng sanh. Từ đây nói riêng về việc tăng trưởng phước nhân như bài kệ trong kinh Bảo Vân nói: Nếu các Bồ-tát Nghiêm trì hương hoa Phụng hiến Như Lai Và tháp miếu Phật Để đem hồi hướng Nguyện cho chúng sanh Lìa các phạm giới Được giới hương Phật Nếu chư Bồ-tát Dùng nước hương sạch Rãi nước quét đường Rồi đem hồi hướng Nguyện cho chúng sanh Lìa oai nghi ác Tu các pháp thiện Trang nghiêm tròn đầy Nếu các Bồ-tát Nghiêm giữ tràng hoa Mà để phụng hiến Rồi đem hồi hướng Nguyện cho chúng sanh Xa lìa phiền não Nếu vào già-lam Phát tâm như vầy: Khiến cho chúng sanh Nhập thành Niết-bàn Khi rời Già-lam Phát tâm như vầy: Nguyện cho chúng sanh Vượt ngục sanh tử Nếu mở cửa nhà Phát tâm như vầy: Nguyện cho chúng sanh Mở cửa thánh trí Nếu đóng cửa lại Phát tâm như vầy: Nguyện cho chúng sanh Đóng kín cửa ác Nếu khi an tọa Phát tâm như vầy: Nguyện cho chúng sanh Ngồi tràng Bồ-đề Khi nằm kiết tường Phát tâm như vầy: Nguyện cho chúng sanh An trụ Niết-bàn Đến khi ngồi dậy Phát tâm như vầy: Nguyện cho chúng sanh Lìa chướng trói, che Nếu đến cầu xí Phát tâm như vầy: Nguyện cho chúng sanh Đến đường giác lớn Khi đại, tiểu tiện Phát tâm như vầy: Nguyện cho chúng sanh Nhổ tên ba độc Nếu khi tắm rửa Phát tâm như vầy: Nguyện cho chúng sanh Tẩy bẩn phiền não Nếu khi rửa tay Phát tâm như vầy: Nguyện cho chúng sanh Lìa nghiệp uế trược Nếu khi rửa chân Phát tâm như vầy: Khiến cho chúng sanh Lìa chướng trần cấu Cầm tăm xỉa răng Phát tâm như vầy: Nguyện cho chúng sanh Lìa hết cấu nhiễm Lại Bồ-tát kia Nếu thân tạo tác Hết thảy nghiệp thiện Đều đem hồi hướng Lợi ích an lạc Tất cả chúng sanh Nếu lễ Như Lai Cùng tháp miếu Phật Phát tâm như vầy Nguyện cho chúng sanh Thường được trời người Đến nơi kính lễ.  <卷>QUYỂN 25 <詞>Phẩm 18: NIỆM TAM BẢO Phần 4 Luận nói: Các Bồ-tát do nhân duyên mà gặp các việc khó khăn, hãy giữ chánh niệm mà đối trị chớ kinh sợ. Như trong kinh Bát Nhã nói: “Nầy Xá-lợi-phất! Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát giả sử ở trong nạn gặp thú dữ chớ có lo âu buồn phiền và cũng chớ có sợ hãi. Vì sao như vậy? Bồ-tát ấy nên suy nghó như thế nầy: Ta nên xả bỏ tất cả để đem lại lợi ích cho chúng sanh, nếu các thú ác muốn ăn nuốt ta, ta nên cho chúng để sớm được viên mãn thí Ba-la-mật. Ta nên nguyện thành tựu quả A-nậu- đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, cả nước thanh tịnh không nghe tên các thứ trùng độc thú ác”. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát ở trong nạn gặp oán tặc chớ có sanh tâm kinh hoảng sợ hãi. Vì sao như thế? Bồ- tát ấy nên biết, cái gì mình có thì đều bị hư tổn, liền nghó thế nầy: “Nếu các oán tặc đến và muốn thứ gì ta nên cho nó, cho đến muốn cướp lấy mạng sống của ta thì ba nghiệp thân, khẩu, ý cũng chớ sân hận, vậy sớm thành tựu giới Ba-la-mật viên mãn, và cũng được đầy đủ nhẫn Ba-la- mật, mong cho ta được thành tựu A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề ở cõi nước thanh tịnh, không nghe tên oán tặc như thế”. Lại nữa, nếu Bồ- tát Ma-ha-tát ở trong nạn thiếu khát chớ có khiếp sợ. Vì sao như thế? Bồ-tát ấy được pháp lợi ích mà không ưu não. Nên nghó thế nầy: “Ta nên vì tất cả chúng sanh tuyên thuyết pháp yếu để dứt trừ khát ái, giả như thân nầy của ta, bị cái khát bức ngặt cho nên chết, thì ở đời sau nên khởi tâm đại bi thương cho những chúng sanh ít phước đức được sanh trở lại ở những nơi không bị cái nạn không có nước, mong cho chúng tu cái hạnh chân chánh để chứng được thắng tuệ. Thành tựu được tinh tấn Ba-la-mật viên mãn, ở trong cảnh giới thanh tịnh không nghe tên thiếu khát như thế trong cõi ấy chúng sanh đầy đủ phước và đức, tự nhiên có nước tám công đức”. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát ở trong nạn mất mùa và đói kém, chớ có sanh lòng sợ sệt. Vì sao thế? Vì các Bồ-tát kia được khoác áo giáp tinh tấn kiên cố không lười biếng. Nên nghó thế nầy: “Nay các chúng sanh nầy bị các khổ đói kém thật đáng thương xót. Ta nguyện khi thành tựu A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, cõi nước không có cái tên đói khát, việc giáo hóa chúng sanh vui vẻ an ổn, giống như những niềm khoái lạc tự nhiên ở trời Đao lợi, tất cả những ước muốn đều tùy tâm mà ứng hiện ra, thọ mạng kiên cố (lâu dài), an trụ tịch tónh. Luận nói: Sự tạo tác như thế có thể làm tăng trưởng các nhân phước đức rộng lớn và đạt được cảnh giới tối thượng. Cũng như trong kinh Thanh tịnh nói: Nếu lấy pháp mà bố thí không sanh lòng muốn đền đáp thì sẽ đạt được phước báo thù thắng. Có thể lấy pháp mà bố thí thì đạt được hai mươi loại công đức nơi từ tâm, một là an trụ chánh niệm, hai là được giác ngộ, ba là được phát tâm hướng đến đạo tối thượng, bốn là nhậm trì các điều lành, năm là tăng trưởng tuệ mạng, sáu là được trí tuệ xuất thế gian, bảy là diệt trừ tội lỗi ở lòng tham, tám là diệt trừ tội lỗi nơi sân hận, chín là diệt trừ tội lỗi nơi sự si mê, mười là yêu ma không quấy nhiễu, mười một được chư Phật gia trì, mười hai chư Thiên thủ hộ cho dung nhan sáng đẹp, mười ba không bị phi nhân, bạn ác quấy nhiễu, mười bốn được thiện hữu tri thức thương mến kính trọng, mười lăm nói lời chân thật, mười sáu tâm không sợ sệt, mười bảy ý tưởng vui vẻ, mười tám tiếng tốt đồn xa, mười chín nhớ kỹ không quên, hai mươi thường an lạc nơi pháp thí. Đây gọi là công đức của từ bi. Lại trong Kinh Bát-Nhã nói: “Lại nữa, nầy A-nan! Nếu có hàng Thanh-văn đem pháp Thanh-văn mà khắp vì tất cả chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới, theo sở chứng của mình mà tuyên thuyết thì sẽ khiến cho chúng sanh đắc quả A-la-hán. A-nan! Nếu Bồ-tát Ma-ha- tát có thể lấy cú nghóa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa khai diễn nơi cho một chúng sanh thì công đức có được sẽ vượt qua công đức của tất cả chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới được chứng A-la- hán ở trước. Lại nữa, các vị A-la-hán kia cũng tích tập các công đức bố thí và trì giới. Ý ông thế nào? Công đức của các A-la-hán ấy có nhiều chăng? A-nan bạch Phật: Rất nhiều, thưa Thế Tôn! Rất nhiều, thưa Thiện Thệ! Phật nói: A-nan! Phước đức ấy tuy nhiều, nhưng Bồ-tát lấy pháp môn tương ưng với Bát nhã Ba-la-mật-đa nầy mà vì người tuyên thuyết thì công đức ấy còn hơn công đức kia. Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát đối với pháp môn thậm thâm Bát nhã Ba-la-mật-đa nầy, có thể trong một ngày vì người khác mà phân biệt giải nói, cho đến trong một thời, một khắc hay chỉ trong chốc lát mà khéo tuyên thuyết thì nầy A-nan! Việc bố thí pháp của Bồ-tát như thế không thể lấy các công đức thiện căn của Thanh-văn, Duyên giác mà so sánh được. Vì sao thế? Bồ-tát Ma-ha-tát nầy đối với A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề được bất thoái chuyển vậy, lại dùng pháp mà bố thí”. Như kinh Diệu Pháp Liên Hoa có kệ: Bồ-tát đến lúc Đi vào tịnh thất Giữ chánh ức niệm Theo nghóa quán pháp Bồ-tát thường vui An ổn thuyết pháp Ở nơi đất sạch Bố thí giường nằm Dùng dầu thoa thân Tắm gội bụi nhơ Mang áo mới sạch Trong ngoài đều nghiêm An ngồi pháp tòa Tùy hỏi mà nói Nếu có Tỳ-kheo Và Tỳ-kheo ni Trừ lòng mệt mỏi Cùng tâm biếng nhác Lìa các ưu não Tâm từ nói pháp Thường nói ngày đêm Giảng đạo vô thượng Dùng các nhân duyên Vô lượng thí dụ Khai thị chúng sanh Hàm linh hoan hỷ Y phục ngọa cụ Ăn uống thuốc men Mà ở trong đó Không cần cầu mong Chỉ trong một niệm Thuyết pháp nhân duyên Nguyện ta thành Phật Chúng sanh cũng thế Liền được lợi lớn An lạc cúng dường. Kinh nầy lại nói: “Vì thuận theo các pháp cho nên không nói nhiều, cũng không nên nói ít, cho đến có người mến pháp nầy cũng không vì người mà nói quá nhiều”. Kinh Nguyệt Đăng có kệ: Nếu có trưởng lão hỏi Muốn ta bố thí pháp Trước nói người ấy rằng Ta học tập không rộng Lại nói lời thế nầy Thế Tôn bậc thông tuệ Có thể trước Đại đức Vui vẻ khéo tuyên thuyết Khi nói chớ vội vả Nên nghó đúng và sai Đã nắm điểm then chốt Không thỉnh cũng tự nói Nếu ở trong đại chúng Thấy những người phá giới Chớ có khen trì giới Nên khen các hạnh thí Nếu có người thiểu dục Cùng trì giới tương ưng Nên khởi lòng đại bi Khen thiểu dục trì giới. Luận nói: Như vị Pháp sư kia nên tắm gội sạch sẽ, mang y phục đẹp, dùng lòng từ mà trang nghiêm thân và vì đại chúng mà thuyết các pháp thí, các yêu ma không thể nhiễu hại được vị Pháp sư ấy. Xem chú Đà-la-ni trong Kinh Hải Ý. Đát ninh tha thiết di thiết ma phược để thiết di la thiết đốt lổ án cô ly ma la nhó đề cát la rị chúc du lý ô, phựơc đề ô hô cát dã đề vó thâu đạ, lý a lê ma la bát na duệ ô khác lý khát lỗ nga la tế bát al tát, hệ mục khế a mục khế thiết duệ đa, tát lý phược đát la nga la hạ mãn đa na ngật lý hệ đa tát lý phược bỉ la bát la phược nễ na vó mục ngật đa ma la cá xá tắc tha tất đa một đạ mẫu nại la tam mẫu nại da đề đa tát lý phược ma la a đô lê đa bát nại bát lý tuất, vó nga tha đề tát lý phượcma la cát lý ma ni. Vị Pháp sư trì tụng chân ngôn nầy ở trên pháp tòa xem trong chúng hội rồi vận lòng từ bi rộng lớn xem mình là Y vương, xem giáo pháp là thuốc quý, còn xem thính chúng nghe pháp trong bốn hội là những bịnh nhân, đối với các Như Lai, khởi tưởng ta là Chánh só, còn đối với chánh pháp nhãn tạng, phải khởi tưởng trụ thế lâu dài. Bấy giờ, trong chu vi khoảng một trăm do tuần, các ma vương thiên chúng đều chẳng thể đến để mà gây nên các việc quấy nhiễu được, giả như các ma vương có đến được nơi pháp hội, thì cũng chẳng gây nên được các chướng nạn Luận viết: Bình đẳng mà bố thí pháp như thế thì có thể tăng trưởng tâm đại Bồ-đề. Như Kinh Bão nói: “Văn-thù-sư-lợi giống như rừng, cây cành lá xanh tươi um tùm, đều do nơi bốn đại mà tăng trưởng. Nầy Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát cũng như thế, dùng các pháp môn để tu tập các thiện căn, tất cả đều quy nhiếp ở nơi tâm Bồ-đề vậy, nơi Nhất thiết trí hồi hướng về đạo Bồ-đề để được tăng trưởng”. Luận viết: Nếu các Bồ-tát đều muốn hiển thị rộng lớn các cảnh giới tu học Phật, thì trước hết phải an trụ vào chánh niệm chánh tri. Như thế mới thành tựu được chánh đoạn và bất phóng dật. Do vì khởi sự ưa thích tinh tấn nên đối với việc ác bất thiện chưa sanh thì giữ không cho sanh, điều ác bất thiện đã sanh rồi thì có thể đoạn tuyệt vónh viễn, khiến cho tâm được thanh tịnh, còn pháp thiện chưa sanh thì khiến cho nó được sanh, pháp thiện đã sanh khiến được tăng trưởng, phải thường an trụ vào bất phóng dật, trong các pháp thiện, pháp nầy là pháp căn bản, như kệ trong Kinh Nguyệt Đăng nói: Như các pháp thiện ta đã nói Gồm giới, văn, xả, và nhẫn nhục Lấy bất phóng dật làm căn bản Là tài sản tối thắng của Phật. Sao gọi là phóng dật? Phóng dật được phát sanh do sự hư vọng mong cầu của các bọn tà giáo và ác bằng hữu. Cũng giống như người bưng thuốc uống cho nhà vua. Người ấy bưng đầy chén thuốc đi trên con đường trơn trợt, nguy hiểm, nên biết người ấy luôn sợ hãi và ưu não, sao lại có sự phóng dật! Lại như kinh Như Lai Bí Mật nói: “Sao gọi là bất phóng dật? Có nghóa là ban đầu khéo điều nhiếp các căn. Như mắt thấy sắc v.v… không thủ tướng mạo, không mê sắc đẹp, như thế cho đến ý pháp cũng như vậy. Biết như thế rồi đều không đắm trước, không sanh ái nhiễm, thường cầu sự xuất ly, khéo tự điều phục tâm của mình, rồi có thể tùy thuận mà nhiếp hộ tâm người khác. Có thể đoạn trừ phiền não nhiễm ái cho người khác. Đây gọi là bất phóng dật. Nếu có người tin và hiểu pháp bất phóng dật, do giữ lòng tin thanh tịnh và tu tập một cách tinh tấn về pháp bất phóng dật thì có thể giữ được chánh niệm chánh tín, và có chánh niệm chánh tri cho nên đối với tất cả các pháp phần Bồ-đề không bị hoại mất. Nếu người nào có đủ lòng tin thanh tịnh, tinh tấn bất phóng dật, tâm giữ chánh niệm, chánh tri thì có thể khuyên người ấy tu tập pháp thậm thâm kiên cố, nếu Bồ-tát khéo liễu tri về pháp thậm thâm kiên cố ấy thì có thể giác ngộ như thật về có, không. Đến như trong thế tục đế cho rằng mắt v.v… đều là “có” (hữu). Kinh kia có kệ nói: Pháp cam lộ thường không phóng dật Lợi chúng sanh phát tâm Bồ-đề Tâm tịch tónh kiên cố cũng thế Căn bản các lạc không chỗ cầu. Luận viết: Nếu có người tu tập các công hạnh tương ưng, thì có thể ở nơi bản thân mình cũng như ở nơi người được tăng trưởng phước đức thù thắng. Tụng nêu: Học bình đẳng ta người Tâm Bồ-đề kiên cố Đối ta thành có người Triển chuyển không thật có Cũng như đứng bờ kia Do đây mà đối đãi Kia vốn đã là không Tánh ta sao lại có Nếu khổ không phòng hộ Thì bị khổ trói buộc Người hành pháp như thế Sao lại không phòng hộ Dấy phân biệt tà vọng Chấp ngã cho là thường Nếu ngã vốn như thế Sao hiện có sanh diệt Kia phân biệt có sanh Thì ai tu phước nghiệp Mưu cầu nơi tài lợi Và thọ các khoái lạc Hiện thấy thân già yếu Không lâu thì hủy hoại Sau sanh làm hài nhi Trẻ thơ đến niên thiếu Trong khoảng một sát na Mau mục nát biến hoại Chỗ nào gọi là tham Móng, tóc đều tan rã Xưa biết nương thai mẹ Sau sanh làm hài nhi Lớn tuổi thân già yếu Rốt cuộc thành tro tàn Tự tánh của thân nầy Do nhân duyên hợp thành Chung quy chẳng mảy trần Hình tượng há dài lâu? Lại đối với thân nầy Không nói nên tự bíêt Luôn thay đổi tướng mạo Xét kó gì là ta? Do nhân duyên hòa hợp Mà ứng hiện ở đời Ở trong chánh pháp Phật Tùy tương ưng sở đoạn Nếu kia không có thức Thì không thể kiến lập Cũng không tham, sân, si Làm sao có công đức? Ngoài chín cõi thế gian Còn gọi có ba cõi Vô thức và sở y Sao hay sanh lạc kia Sở y bất sanh lạc Nên biết từ nhân sanh Nếu lạc sanh nơi y Tướng kia sao lại có Cho nên chánh pháp lý Nói chư hành vô thường Suy xét và tư duy Do nhân duyên hòa hợp Thấy được thân quyến mình Sao gọi là thiện hữu Ở nơi cho tìm cầu Không một hữu vi trần Như đèn cháy hầu hết Dầu kia biết về đâu? Như thế và quán sát Chẳng trụ trong sát na Tụ tập các quyến thuộc Xếp hàng và trang điểm Vọng chấp sanh ngã hữu Vui nơi người khéo biết Đã biết chúng sanh kia Không một sự huân tập Mình, người đã thù diệu Nơi khỗ cũng chẳng được Như thế chẳng tương ưng Ở đâu có ngã kia Hoặc khó dùng sức mình Ở mọi lúc khai thị Chúng sanh trong thế gian Các khổ thường bức bách Nên khởi lòng đại bi Mà thương xót chúng kia Khởi lòng từ quán sát Bình đẳng mà cứu độ Giả sử vào A-tỳ Như vịt bơi hồ sen Vì khiến các hữu tình Thường ở biển hoan hỷ Mình chẳng đắm giải thoát Cứu kia không hề chán Làm lợi ích thế rồi Mà chẳng nên ỷ lại Cũng chẳng sanh mệt nhọc Không mong ở quả báo Nếu mười phương phước tụ Ngã kia hẳn đắc được Chỗ sanh lòng đố kî Người vui như mình vui Nếu lại nơi mình, người Cùng tu tập sám hối Khuyên thỉnh Phật Thế Tôn Cùng phước nghiệp tùy hỷ Như thế mà hồi hướng Bình đẳng không sai biệt Theo phước ấy mà thí Vô tận cõi chúng sanh Bồ-tát hành hạnh ấy Hẳn có nhiều lợi ích Tăng trưởng lòng đại từ Được an ổn tối thượng Được tay kim cương kia Cùng chư Phật Thế Tôn Thường làm việc hộ trì Chúng ma đều kinh sợ Là con đấng pháp vương Chư Thiên đều tán dương Tục và tâm Bồ-đề Vui chơi nơi thắng đạo Chúng sanh khéo tu tập Tiêu trừ khổ mình người Nên ta không chấp trước Hết thảy đều nên xả Nếu người bị ái buộc Thì khổ vô cùng cực Phiền não nương đó sanh Tồn hoại sau hối cãi Nên lửa đốt chúng sanh Hực cháy khắp tất cả Đến như đầu ngón tay Với mình cũng chẳng vui Gợi hết thảy ngã ái Là gốc khổ thứ nhất Nếu không trừ lửa dữ Vì lợi các hàm thức Vui vợ con quyến thuộc Chung cùng đều tổn hại Nghó kỹ do duyên sanh Nơi thân cũng chẳng mến Chúng sanh kẻ trí ngu Cả hai ấy đều xả Biết tõ thân cùng tâm Sát na khởi sai biệt Gọi thường không có thường Lìa cấu vốn vô cấu Tự mình chứng Bồ-đề Kia cũng thành chánh giác Chẳng nghó vì pháp thế Mà lợi ích chúng sanh Thuốc pháp cùng tượng Phật Như thế ta nên thí Dùng tuệ để tuyển trạch Việc làm được tương ưng Giữ gìn tài sản mình Tích tụ rồi tan rã Hoặc thân mình thân người Hoặc khổ ít khổ nhiều Như thế đều khiến đắc Các khoái lạc thượng diệu Chúng sanh trong cảnh dục Phòng hộ sanh phiền não Như rắn ở trong hang Rốt cùng khiến thanh tịnh Giống như ruộng lúa tốt Cho vụ mùa bội thu Khéo trừ các nhiệt não Đầy đủ các phước đức Nếu người không viễn ly Danh lợi và năm dục Lời nói chẳng thành thật Với họ chớ nên giận Họ đã mất tự lợi Không chịu được tức giận Khi ấy đừng sanh giận Lợi người thường không dứt Khéo hành nhẫn chân thật Như xem xạ có hương Vật mình bị người đọat Lại gặp thợ săn hại Dùng phương tiện tư duy Không chủ tể khoái lạc Mình đã chẳng thọ dụng Kia sao không dạy bảo Phật tử kia phải luôn Nhớ nghó trừ phiền não Biết các căn cảnh giới Giống như ung nhọt lớn Thương kẻ kia sân giận Vì lợi ích chỉ bày Tự tánh lìa nhu nhuyến Ở đâu được khổ vui Lại ngũ đại chủng kia Chỉ đó tạm gọi tên Cho đến trong hữu tình Đều thành nơi nghóa lợi Nếu lợi sanh không chán Thì chẳng tạo nghiệp ác Nên ta cần tu tập Sáu cõi không suy não Đến hư không cứu cánh Và tận cõi thế gian Ta làm lợi chúng sanh Khiến trí tâm thuần thục Thân là A-xà-lê Khéo học lìa các khổ Không xét năng lực mình Nơi nào chẳng phòng hộ Nếu tự gây khổ não Nhân nào sanh sợ hãi Theo sở học mà biết Ngã mạn các lỗi lầm Tục cảnh giới đại bi Không tham ưa quả báo Thường phụng sự tu tập Bình đẳng đâu có ngã Kẻ kiến, nghi, cuồng manh Bước đi nhìêu lầm lỗi Hoặc đọa trong đường hiểm Mình, người thường ưa não Vì tìm cầu kẻ kia Cùng nạn mà cứu hộ Hành tương ưng như thế Hẳn được công đức lớn Lỗi lầm ta chẳng ít Sâu rộng như biển lớn Nếu mình người tạo tội Làm sao được giải thoát Nếu kia khéo khuyên bảo Hổ thẹn các lỗi lầm Thường nhận lãnh lời người Hết thảy đều nên học Nghe thù oán sanh lo Cẩn thận chớ khác lời Ta người tâm, mạng đồng Nếu vui thì không thẹn Các phiền não oán địch Ta có thể chiến đấu Nếu nó ở trong tâm Tổn hại không an ổn Quy mạng Quán Tự Tại Đại từ không ai hơn Búi tóc xoắùn xanh biếc Như tóc mượt rủ xuống Ở mười phương quốc độ Ngón tay chảy dòng sữa Cứu địa ngục quỷ súc Luân hồi nhiều đau khổ Đối với chúng sanh lành Cùng nghe tiếng cứu độ Bà tró, A-tu-la Được thoát oán hại kia Rất tối thắng trang nghiêm Ở đời chưa từng thấy Ngu trí, các hữu tình Chiêm phụng đồng hân hoan Lại kính cẩn, tín lễ Đại só Diệu Cát Từong Tập hợp chánh pháp tạng Khéo lợi lạc thế gian Đại Y vương hơn hết Tiêu trừ các độc nạn Ban vui cùng thọ mạng Nên ta nay cúi đầu Vô biên khổ, nhiệt não Hiện dòng suối xanh trong Khiến lòng người vui vẻ Nên trừ các khát ái Thập phương các thế giới Đều hiện kiếp la ba Chúng sanh đủ chỗ cầu Phổ hiện mắt sen xanh Vô lượng chư Bồ-tát Tán thán thân cao lớn Quy mạng ngài Văn-thù Tối thắng vượt hơn hết Hạnh Bồ-tát hy hữu Kết tập có công đức Mình, người phước vô cùng Chân Phật từ Văn-thù Ghi lại chánh pháp nầy Chút phước thiện ta có Vì thương chúng hữu tình Khiến tăng trưởng thắng tuệ Các pháp từ duyên sanh Duyên hết pháp liền diệt Thầy ta Đại Sa-môn Thường nói lời như thế.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 111