<經 id="n1604">LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH <藥>( QUYỂN 1 ~→ 1 3 ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1604 LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH LÝ BÁCH DƯỢC VÂNG LỆNH VUA SOẠN LỜI TỰA Thần được nghe: Đức Thiên Đế thọ lãnh pháp Vô thượng, thật là vận may phước lớn. Luân Vương đến với đạo Chánh chân, đức hợp với trời đất, ấy là bậc Thánh đã đem đạo cả giáo hóa tuyệt hay, làm cho những gì chưa được tốt đều được thông suốt. Bởi lòng chí thành mà được cảm ứng, bởi công đức sâu xa mà ứng hiện điều nầy. Lòng vua hằng trông ngóng về Tây Trúc nên nguồn pháp mới chảy về Đông, như mở ra bức tranh Hồng Phạm, tưởng chừng trong chiêm bao được đón nhận ánh từ sáng chói, tay cầm kinh điển mầu nhiệm. Lời pháp nói ra từ miệng vàng của Phật như sợi tơ óng chuốt, được ghi chép thành từng chương trên lá Bối khô, cất giấu dưới cung rồng, để từ đó lại được đưa lên tôn thờ nơi cao trọng trong hoàng triều. Thuở ấy, giáng sinh nơi Ca-tỳ-la, Phật tổ mở cửa Đại pháp là trao gương sáng không dấu vết, chèo thuyền không qua bên kia bờ giác. Có, không, đều để lại, sinh diệt đều quên xa, rực lên nguồn vui bặt trí, để lại bóng hình ngoài động tịnh. Nhưng rồi bởi đem lợi ích cho người theo hoàn cảnh, nên Phật tổ đã ứng hiện dấu vết cho ai nấy cùng biết, làm vang động địa cầu, khiến cả trời người đều vui sướng, ánh sáng của Phật che khuất trời trăng, cả trăm ức núi Tu-di đều gội nhuần lời giáo hóa, thế giới Tam thiên đều thâu nhiếp thương xót chúng sinh bị kềm kẹp trong ba độc, bị buộc ràng trong năm ấm. Tiếc cho kiếp phù sinh điện chớp, than cho đây quấn thân cây bờ nước, nên tám cửa ải thường rộng mở, chốn tối tăm hằng soi tuệ thức. Ba thừa đường về khuôn mẫu, đưa lòng từ vào nhà mục nát. Rồng chuyển mình, sương mù bao phủ, thần rung động nhà trời phải theo, bởi Đại đạo là tâm. Trông mây pháp mà nhìn phía xa, nghe lời là ngộ đạo. Từ buổi đầu vẫn nương theo tâm thương xót, nên chuyển đến Ba-la-nại, dùng nước trí tưới cây non vườn Lộc, rồi về Kỳ Viên rải pháp mầu cho nhuần nước trí. Rồi theo ánh sáng còn sót lại của mặt trời trí tuệ, giã từ nơi đây, ung dung qua sông Liên mà về với tịch nhiên Song thọ. Rồi Thánh linh ngày càng cao xa, tượng pháp giáo nghóa suy vi. Giáo nghóa Đại thừa các chỗ khác nhau. Nền văn hiến nầy hầu như rơi xuống, bởi nhiều luận thuyết ra đời xuyên tạc, chia ra nhiều mối manh. Đó là ngọn ngành nào phải Chính giáo, lắm phái nhiều dòng. Thiên Thân dù bậc Sơ học mà còn phải lo ngờ vực về miền Tây Hà, Long Thọ dù là bậc cao tột vẫn phải lo than về miền Đông Lỗ. Nay tôi kính mong pháp bảo sáng mãi sự thật vô vi. Cho nên văn kinh chép: “Phật dùng pháp làm thầy, Phật từ pháp sinh ra, Phật nương vào pháp mà an trụ”. Đâu phải ngừng lại ở suy ngẫm chút ít mà thấu được hết tính, đâu phải bấy nhiêu mà tới được chỗ cốt của muôn vật hiện bày mầu nhiệm nầy, hay chú tâm vào hơi thở ra vào không hở để bao gồm nguyên khí mà thôi. Ôi! Trời kia cao lớn biết bao, nắng mưa vẫn xoay bởi công sức của trời, cao đất dày nầy che chở mà núi, đầm thông suốt với khí kia. Do vậy, họ Cơ đã bày tầm vóc Đại thánh bằng cách khen ngợi chỗ sâu kín của kinh Dịch. Ông Khâu Minh đã lấy đức e thẹn của người cùng thời mà kể lại những lời khiêm tốn. Các nhà soạn luận để soi sáng kinh điển cũng cùng noi theo đường hướng cốt yếu kia. Luận Đại thừa Trang Nghiêm Kinh nầy, do Vô Trước biên tập. Sau khi Đức Như lai diệt độ, Bồ-tát Vô Trước với văn chương hàm súc phát sáng lên ba mươi hai tướng sáng tỏ và tinh vi, với tám ngàn ức kết sử tan tác bay theo gió. Từ đó, mở rộng chánh pháp làm đẹp cho kinh ngọc, nói về cội nguồn công đức chân như, làm rực rỡ giai vị Đại Só, phá bỏ chấp trước Tiểu thừa, lập nên giềng mối của Đại thừa với Đại phẩm Bồ-đề của nó là chỗ mầu nhiệm tột cùng. Chuyển tám thức thành bốn trí, từ bốn trí mà phát sinh ba thân. Bộ luận nầy, chưa từng thấy trong các kinh luận đã có, có thể <節>SỐ 1 6 0 4 - LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH, Lời Tựa 495 <大>卐 nói cho biết những gì cần nghe chưa được nghe, cần thấy những gì chưa được thấy. Thánh thượng nhận mạng báu truyền nhanh mà ai nấy đều nhóm họp trước vua, để cùng nhau cúi đầu trước Đấng Thiên Nhân sư, là bậc cao quí, với trí hiểu biết khắp cùng vạn vật. Bồ-tát đã đáp lại cho mệnh số vua người mà soi sáng đạo lý ba minh. Thế nên vua ban ơn rộng khắp bên ngoài mà thần trí vẫn lắng yên bên trong. Nắm đầu mối chính mà sai khiến vạn linh, không trị mà muôn nước chầu về. Vua đã giăng dài sợi tơ óng chuốt của tạo hóa nguyên sơ là đóng mở đến chỗ cuối cùng của kho âm dương, nên vua đã thành công, bốn bề ổn định chế tác lễ nghi âm nhạc và những điệu múa tuyệt vời. Lời nói cảm động khiến hoa cỏ xanh rờn, đấng Di luận là tạo hóa bao đầu, với bờ cõi vững bền, dù giàu sang tột bậc, những khuôn phép cao vời của vận nước vẫn không cùng tận, đạo vua ngày càng rực sáng huy hoàng, chỉ đường cho bao sinh linh. Thế nên tất cả sách Phật, vua cũng ra lệnh phiên dịch hết. Tam tạng pháp sư Ba-la-phả-ca-la-mật-đa (Trung Quốc dịch là Minh Hữu) là dòng Sát-đế-lị, nước Ma-kiệt-đà, Trung ấn Độ. Người đã tới kinh đô đời Đường vào tháng mười hai niên triệu Trinh Quán năm đầu (627 TL) đời Đường. Pháp sư là vị tinh chuyên giới hạnh, siêng năng, tài cao học thức rộng, đạo đức cao siêu gần đến Sơ quả, tài năng lắm vẻ, như bậc Á thánh nối tiếp đời sống rũ sạch bụi trần như Phật-Đồ-Trừng, La-thập, trước kia. Người đến và trở thành khách quí tiêu biểu của Thượng khách quốc gia. Người có lối sống vươn cao của chí khí rộng lớn, như bước lên cõi mầu nhiệm. Lòng vua trân trọng từ đó, vua thường kính lễ. Người có sức nhớ vững chắc sâu rộng đối với những gì nghe thấy, nghiên cứu đến những chỗ sâu sắc, thông suốt những chỗ nhỏ nhiệm tinh tế. Các bậc Đại Đức ở kinh thành không ai chẳng tôn sùng kính phục. Bắt đầu từ niên hiệu Trinh Quán thứ tư, vâng lệnh vua dịch kinh. Vua lại còn ra lịnh cho quan Thượng Thư Tả Bộc xạ Ban quốc công là Phòng Huyền Linh và Tán kị thường thị hành Thái tử là Đỗ Chánh Luận, dòng cùng lựa chọn những vị tài khéo trong Tăng-già như: Nghóa Học Pháp Sư, Tuệ Thừa, Tuệ Lãng, Pháp Thường, Trí Giải, Đàm Tạng, Trí thủ, Đạo Nhạc, Tuệ Minh, Tăng Biện, Tăng Trân, Pháp Sum, Linh Giai, Tuệ Trách, Tuệ Tịnh, Huyền Mô, v.v… cùng nhau ở chùa Thắng Quang làm công việc phiên dịch đầy vinh quang nầy. Vua lại ra lệnh cho Tiêu Cảnh, con trai của Thái Phủ Khanh Lan Lăng, coi về việc sửa chữa biên tập. Tam Tạng Pháp Sư nói: “Các học giả ngoại quốc khi muốn học Đại thừa, Tiểu thừa, đều phải lấy luận nầy làm gốc. Ai không thông suốt luận nầy thì chưa có thể hoằng pháp được. Cho nên suy nghó chuyên tinh, nghiên cứu thêm nữa”. Pháp sư Tuệ Tịnh là bậc thông thái hiểu rộng nhận lệnh của vua mà coi về phần văn chương. Pháp Sư Huyền Mô là người hiểu rành phương ngôn lại kiêm luôn việc giải thích nghóa. Các vị đều hết lòng dịch sang tiếng Trung Quốc. Công việc không chút lầm lẫn, dự kiến công việc hoàn tất vào đầu mùa Xuân niên hiệu Trinh Quán năm thứ bảy. Bộ luận nầy chia thành mười ba quyển, hai mươi bốn phẩm. Lý Bách Dược vâng lệnh vua mà soạn lời tựa nầy. -------------------------- <節>SỐ 1604 LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH Tác giả: Bồ-tát Vô Trước. Hán dịch: Tam Tạng pháp sư, Đời Đường, là Ba-la-phả-mật-đa-la <卷>QUYỂN 1 <詞>Phẩm Thứ 1: DUYÊN KHỞI Kệ rằng: Nghóa trí soạn các nghóa, Câu lời, đều thanh tịnh, Cứu giúp chúng sinh khổ, Lấy từ bi làm tánh, Khéo nói pháp phương tiện, Gọi là tối thượng thừa, Vì phát tâm rộng lớn, Lược dùng năm nghóa hiện. Giải thích: Luận Đại thừa trang nghiêm kinh, ai có công năng trang nghiêm? Đáp: Nghóa trí có thể trang nghiêm. Hỏi: Nghóa trí làm sao trang nghiêm? Đáp: Mở mang các nghóa. Hỏi: Dùng gì để mở mang? Đáp: Dùng lời và câu. Hỏi: Dùng những lời gì và câu gì? Đáp: Dùng lời không nhơ, dùng câu không nhơ. Lời không nhơ là lời có thể đưa đến thành Niết-bàn. Câu không nhơ là câu và chữ tương ưng nhau. Nếu lìa lời và câu thì không sao thấu hiểu các nghóa. Hỏi: Vì sao phải trang nghiêm? Đáp: Vì cứu giúp chúng sinh khổ. Hỏi: Chúng sinh tự khổ, vì sao phải cứu giúp? Đáp: Do Bồ-tát lấy đại bi làm thể nên sinh tâm thương xót. Hỏi: Nếu cứu khổ cho người là trang nghiêm pháp nào? Đáp: Là trang nghiêm pháp phương tiện do đức Như lai khéo nói. Hỏi: Pháp phương tiện nào? Đáp: Đó là pháp của tối thượng thừa. Hỏi: Vì ai mà trang nghêm? Đáp: Vì người phát tâm Đại thừa. Hỏi: Dùng bao nhiêu nghóa để trang nghiêm? Đáp: Lược dùng năm nghóa để chỉ bày. Hỏi: Năm nghóa ấy là gì? Kệ đáp: Như vàng đã thành đồ, Như hoa lúc đang nở, Thí như bữa ăn ngon, Như giải thích văn tự, Thí như mở rương báu, Thảy đều được vui mừng. Năm nghóa pháp trang nghiêm, Vui mừng cũng như vậy. Giải thích: Năm thí dụ trong bài kệ là thí dụ cho năm nghóa trang nghiêm. Cứ theo thứ lớp đó, thì có thể giúp cho người phát tâm Đại thừa tin mà hướng đến, nhận lời dạy bảo, tư duy, tu tập, chứng đắc. Hỏi: Ý nghóa đó thế nào? Đáp: Thí dụ vàng là giúp họ tin vào và hướng đến, làm chuyển tâm họ. Dùng hoa đang nở để thí dụ là giúp họ thọ lãnh giáo pháp, chỉ bày cho họ. Dùng thức ăn để thí dụ là giúp họ tư duy chứng được vị ngọt của giáo pháp. Dùng giải thích văn tự để thí dụ là giúp họ tu tập, không nghó gì khác. Dùng mở rương báu để thí dụ là giúp họ tự giác ngộ, chứng Bồ-đề phần châu báu chân thật. Bởi năm nghóa trên đây mà phân biệt Đại thừa có công năng giúp cho các người cảm thấy vui mừng, ưa thích. Hỏi: nếu tự tính pháp kia vốn đầy đủ công đức thì còn phải trang nghiêm làm gì? Để giải đáp câu hỏi nầy, Kệ rằng: Ví như trang điểm đẹp, Gương soi, sinh vui hơn, Trang nghiêm pháp mầu rồi, Đạt vui mừng bậc nhất. Giải thích: Ví như lấy mỹ phẩm trang điểm cho pho tượng, nhưng nếu soi gương thì thấy vui sướng hơn. Vì sao? Vì có vừa ý, Bồ-tát cũng vậy, trang nghiêm bằng giáo pháp mầu nhiệm, cho tâm mình hòa nhập vào đó thì cảm thấy vui sướng hơn. Vì sao? Vì được nghe giáo pháp. Hỏi: pháp kia có công đức gì mà phải cần đến sự trang nghiêm? Hay gắng gượng bắt người khác phải cung kính, tin nhận? Kệ rằng: Ví như uống thuốc đắng, Hết bệnh thì thấy vui. Dựa văn mà giải nghóa, Khổ vui cũng như vậy. Như thờ vua gian khó, Thờ vua được oai lực. Pháp khó hiểu như vậy, Nhân đó hiểu pháp tài, Như thấy của báu sinh Vô phân biệt không thích. Nghe pháp mầu cũng vậy, Không hiểu cũng không mừng. Giải thích: ba bài kệ trên đây lần lượt chỉ bày pháp mầu có ba công đức: Chỉ rõ công đức dứt trừ các ngăn che. Chỉ rõ công đức do đó mà được tự tại. Chỉ rõ công đức do đó mà được vui mừng. Hỏi: Nghóa nầy thế nào? Đáp: Như uống thuốc đắng, lúc đầu thì đắng, khó uống, nhưng sau khoan khóai vì hết bịnh. Pháp nầy cũng thế, trụ vào văn thì thấy khó, chưa nếm vị ngọt được, nhưng lúc hiểu nghóa mới thấy vui, bệnh ngăn che bị phá hết. Như thờ vua nghiêm khắc, lúc đầu thấy khổ, khó làm vua vừa ý, nhưng sau thì thấy vui do vua ban cho oai thế. Giáo pháp nầy cũng vậy, khi suy nghó thấy khổ, sâu kín khó hiểu, nhưng tư duy hết mức thì thấy vui vì được của báu, bậc Thánh lâu dài. Như thấy của báu, khi chưa nhận ra thì không thích, do cho là vô dụng, nhưng sau khi nhận biết rồi thì rất quý trọng vì biết có dụng. Pháp nầy cũng như vậy, lúc đang tu hành thì không thấy vui, cho là luống vô dụng, nhưng sau khi tu tập đến chỗ sâu, thì thấy vui sâu xa, vì biết công dụng của nó.  <詞>Phẩm Thứ 2: THÀNH LẬP TÔNG Giải thích: Có người nghi pháp Đại thừa nầy chẳng phải do Phật nói. Nếu vậy thì vì sao lại có được những công đức ấy? Nay, tôi phá bỏ tấm lưới ngờ vực, thành lập Đại thừa thật là do Phật nói, bằng bài Kệ sau: thừa: Không nhớ, cũng đồng hành, Không hành cũng thành tựu. Thể, phi thể năng trị, Văn lạ, tám nhân thành. Giải thích: Lược: có tám nhân duyên thành lập giáo pháp Đại Không ghi nhớ. Cùng thực hành. Không thực hành. Thành tựu. Thể. Chẳng phải thể. Năng trị. Văn tự khác nhau. Không ghi nhớ: là pháp trước, Phật sau mới chính thức ra đời. Nếu Đại thừa nầy chẳng phải chánh pháp, thì vì sao từ đầu, Đức Thế Tôn không thọ ký? Ví như pháp vị lai có khác thì Đức Thế Tôn thọ ký ngay. Do vậy, sự không thọ ký ấy, nên biết là Phật nói. Cùng thực hành: thừa Thanh văn và Đại thừa không phải trước, không phải sau, mà là cùng lúc, thì làm sao ông biết giáo pháp Đại thừa nầy hoàn toàn chẳng phải Phật nói? Không thực hành: là vì giáo pháp Đại thừa sâu rộng không phải điều mà người suy tính đắn đo có thể tin được, huống là có thể thực hành. Các bộ luận của ngoại đạo không thể được sâu rộng? Cho nên không thực hành, vì thế biết giáo pháp Đại thừa nầy là Phật nói. Thành tựu: là nếu ông nói: Do người khác đã chứng được Bồ-đề rồi, nói có Đại thừa, chứ không phải đợi đến nay Phật mới nói có giáo pháp Đại thừa. Nếu ông nghó lối chấp ấy, thì trở thành nghóa của tôi rồi. Do người kia chứng Bồ-đề rồi thì cũng chính Đức Phật nói như thế. Thể: là nếu ông nói: Phật khác có tự thể Đại thừa, còn Phật nầy không có tự thể Đại thừa. Nếu ông chấp như vậy thì nó cũng thành ng- hóa của tôi, do tự thể của Đại thừa không có khác mà chỉ là một. Chẳng phải thể: là nếu ông nói: Phật nầy không có tự thể Đại thừa, thì thừa Thanh văn cũng không có tự thể. Nếu ông nói thừa Thanh văn là do Phật nói nên có tự thể, còn Đại thừa vì không phải Phật nói cho nên không có tự thể. Lối chấp ấy quả là một sai lầm lớn. Vì nếu không có Phật thừa mà bảo có Phật ra đời nói thừa Thanh văn, thì lý ấy không đúng. Năng trị: là do nương theo pháp nầy tu hành mà chứng được trí vô phân biệt, do trí vô phân biệt mà các phiền não bị phá tan. Do vậy, nên chẳng được nói là không có Đại thừa. Văn tự khác nhau: là pháp Đại thừa rất sâu, không phải y như văn nghóa. Không nên hoàn toàn chạy theo văn, lấy nghóa, nói rằng không phải Phật nói. Hơn nữa, nếu ông nói: từ buổi đầu không thấy thọ ký Đại thừa, là vì Phật gác qua một bên với tâm vô công dụng. Nếu ông cứ chấp kiểu ấy là không đúng. Kệ rằng: Chư Phật ba nhân duyên, Hiện thấy cũng hộ pháp. Trí Như lai vô ngại, Bỏ qua, không phải vậy. Giải thích: nếu bảo Đại thừa không phải Phật nói đó là một chướng ngại lớn. Chư Phật có ba nhân duyên, không thọ ký là: Do trí vô công dụng hiện diện mãi là mắt thường thấy. Vì thường siêng năng, chân chính giữ gìn chánh pháp. Sức mạnh trí tuệ của Như lai không gì chướng ngại được. Do ba nhân duyên nầy mà ông lại bảo là bỏ qua, không ký là không đúng. Lại nữa, nếu ông nói có tự thể thì tự thể thừa Thanh văn là thể của Đại thừa. Vì sao? Vì thừa nầy chứng Đại Bồ-đề. Nếu ông chấp như thế thì nghóa không đúng. Kệ rằng: Phi toàn phi, không trái, Phi hành, chẳng dạy, trao, Cho nên thừa Thanh văn, Không phải là Đại thừa. Giải thích: có bốn nhân chẳng thể dùng: thừa Thanh văn làm thể của Đại thừa, bởi giáo lý không hoàn toàn, nên chẳng phải không trái nhau. Vì không phải là giáo pháp thực hành, bởi không có trao truyền nên chẳng phải hoàn toàn, nghóa là: thừa Thanh văn không được dạy trao hạnh lợi tha, mà chỉ dạy trao cho họ tự mình chán ngán, xa lìa ham muốn mà giải thoát. Chẳng phải không trái nhau: nếu bảo thừa Thanh văn lấy phương tiện tự lợi để dạy trao cho người khác, tức là đã dạy trao hạnh lợi tha, thì nghóa ấy không đúng. Vì sao? Vì đem tự lợi an ổn cho kẻ khác, nhưng họ cũng phải tự cầu Niết-bàn siêng hành nhiều phương tiện, bởi vậy, không thể dùng công hạnh tự lợi nầy mà chứng Đại Bồ-đề được. Chẳng thực hành là nếu ông nói rằng có thể chứng quả Đại Bồ-đề bằng cách thực hành lâu dài hạnh thừa Thanh văn thì nghóa ấy không đúng, vì chẳng phải phương tiện, vì thừa Thanh văn không phải Đại Bồ- đề. Phương tiện thì không phải vì thực hành lâu năm. Và, không phải bất cứ phương tiện nào cũng có thể chứng quả Đại thừa, khác gì nặn sừng chờ sữa, không thể có được. Chẳng phải là dạy trao như Đại thừa thì không có dạy trao thừa Thanh văn. Cho nên thừa Thanh văn không được gọi là Đại thừa. Hơn nữa, nay tôi sẽ chỉ cho ông rõ về nghóa trái nhau ấy, qua bài Tụng sau: Phát tâm và dạy tráo, Phương tiện và giữ gìn, Thời tiết hạ, thượng thừa, Năm việc đều khác nhau. Giải thích: giữa Đại thừa và thừa Thanh văn, có năm thứ trái nhau: Phát tâm khác nhau. Dạy trao khác nhau. Phương tiện khác nhau. Gìn giữ khác nhau. Thời tiết khác nhau. Phương tiện của thừa Thanh văn là phát tâm, dạy trao, siêng hành phương tiện đều là tự mình chứng được Niết-bàn. Giữ gìn chánh pháp cũng ít, phước trí chứa nhóm nhỏ hẹp. Thời hạn tu tập cũng ít, tối đa chỉ có ba đời, là được giải thoát. Còn Đại thừa thì không như vậy. Những phương tiện phát tâm, dạy trao, siêng tu đều vì lợi kẻ khác, giữ gìn giáo pháp cũng nhiều, phước trí chứa nhóm lớn lao. Thời kỳ tu đạo cũng lâu dài là trải qua ba đại A-tăng-kì kiếp, như vậy là tất cả trái nhau. Vì thế không nên dùng hạnh Tiểu thừa mà đạt quả Đại thừa. Lại nữa, nếu ông nói lời Phật có ba tướng: Chứng nhập Tu-đa-la. Chỉ bày Tì-ni. Chẳng trái với pháp không. Ông dùng cái không tự tính của các pháp mà dạy trao thì trái với ba tướng nói trên, nên chẳng phải Phật nói. Nếu ông chấp như vậy, thì không đúng lý. Kệ rằng: Nhập từ kinh Đại thừa, Hiện tự phiền não diệt, Nghóa sâu xa rộng lớn, Chẳng trái tự pháp không. Giải thích: nay pháp Đại thừa nầy cũng không trái với ba tướng, vì ngộ nhập từ Tu-đa-la Đại thừa hiện từ phiền não Tỳ-ni, do Bồ-tát đã phân biệt là phiền não, vì tính chất sâu rộng, sâu xa, đó là pháp không của Bồ-tát. Chẳng trái với pháp không nầy nên Bồ-tát chứng đại Bồ-đề. Thế nên, Đại thừa nầy không trái với ba tướng. Hơn nữa, trước đây đã nói về việc không thực hành, nay tôi sẽ chỉ bày thêm nghóa nầy để ông tin hiểu nhận lãnh. Kệ rằng: Có nương và bất định, Duyên tục cũng không khắp, Lui khuất người đắn đo, Sao hiểu nghóa Đại thừa? Giải thích: Có năm nhân duyên mà người suy tính đắn đo kia không thể nhập vào cảnh giới Đại thừa là do trí tuệ họ có chỗ nương, bất định, duyên theo thế tục, do không được phổ biến, do lui bước, do khuất phục. Họ có nương nghóa là trí phát sinh nhờ vào chỉ dạy, chứ chẳng phải chứng trí. Bất định là có lúc lại có trí khác phát sinh. Duyên theo tục là suy tính đắn đo Thế đế, không theo kịp Nghóa đệ nhất đế. Không phổ biến là dù bám theo thế tục đế, nhưng hiểu nó rất ít, không hiểu tất cả. Thoái lui, khuất phục là do tranh cãi đến cùng cực thì đành im lặng. Còn Đại thừa thì không chấp chặt vào phần đầu cho đến không bao giờ bị, lui sụt khuất phục. Không lui sụt và chịu khuất phục thì trong vô lượng kinh, có đến hằng trăm, ngàn bài kệ nói pháp Đại thừa. Vì hiểu tận những pháp ấy cho nên tài ăn nói không cùng tận. Cho nên Đại thừa không phải là đối tượng của người suy tính đắn đo. Hỏi: ông nói thừa Thanh văn không phải là phương tiện chứng quả Phật Bồ-đề, nếu vậy thì nghóa ra sao? Kệ rằng: Rộng lớn và sâu xa, Thành thục vô phân biệt, Nói hai phương tiện nầy, Tức là Thừa Vô thượng. Giải thích: Rộng lớn nghóa là các thứ thần thông có được do phương tiện rất siêng năng, giúp cho các người tin hiểu. Sâu xa là trí vô phân biệt. Vì khó thực hành theo thứ lớp một là thành thục chúng sinh, hai là thành thục Phật pháp. Tức nói hai pháp nầy là phương tiện đạt đến Bồ-đề Vô thượng. Hai phương tiện nầy là tự thể của Thừa Vô thượng. Hỏi: Nếu vậy thì có người đâm ra hoảng sợ, lỗi ấy ra sao? Kệ rằng: Không nên sợ mà sợ, Do sợ bị đốt cháy. Sợ hãi dẫn phi phước, Sinh lỗi lầm lâu dài. Giải thích: Nếu người không phải chỗ sợ hãi mà vọng sinh lo sợ thì kẻ ấy rơi vào đường ác bị lửa đốt cháy. Vì sao? Vì sự sợ hãi ấy, đưa đến chứa nhóm thật lớn cái chẳng phải phước. Do lỗi nầy khiến người ấy trải qua nhiều kiếp chịu nhiệt não lớn vô lượng. Hỏi: Ngoài ra, kẻ ấy sinh tâm sợ hãi, còn lí do nào khác nữa không? Kệ rằng: thừa. Phi tính, chẳng bạn pháp, Tuệ ít, sức nhân ít, Sợ pháp sâu mầu nầy, Lui mất đại Bồ-đề. Giải thích: Nếu người sinh tâm sợ hãi là do bốn nhân duyên: Chẳng phải chủng tính, do lìa tính Bồ-tát. Không phải bạn pháp, do lìa thiện trí thức. Sức mạnh trí tuệ ít ỏi do chưa hiểu nổi pháp không của Đại Sức nhân ít ỏi do kiếp trước không gieo trồng gốc lành tự tính Ba-la-mật. Do những nhân duyên ấy, nên chợt sinh lòng sợ hãi đối với pháp sâu xa mầu nhiệm. Do tư tưởng đó nên đối với hai nhóm phước trí của Đại Bồ-đề, đáng lẽ được nhưng lại không được gì cả. Đó gọi là lui sụt. Nay ông nên biết lỗi lui sụt ấy hết sức sâu nặng. Đã nói lỗi sợ hãi và nhân duyên sợ hãi, kế đây là, tôi sẽ nói về nhân duyên không sợ hãi. Kệ rằng: Không khác tức cùng không, Có khác, tức chỗ hiểm, Không dụ nói các thứ, Nói tiếp, nói nhiều môn. Không có, như văn nghóa, Thể Chư Phật sâu xa. Người thông minh chánh quán, Phải biết, không nên sợ. Giải thích: Không khác tức cả hai đều không. Nếu ông nói thừa Thanh văn tức Đại thừa vì thể tính chẳng khác với Đại thừa, nếu vậy thì thừa Thanh văn, Bích Chi Phật thừa lại không có tự thể. Vì sao? Vì được thành Phật. Và, như thế tất cả đều là Phật thừa, thì vì sao lại phải sợ hãi? Có khác tức chỗ hiểm nghóa là nếu ông cho Tiểu thừa có khác với thể của Đại thừa, thì thể nầy là Đạo Nhất thiết trí. Đó là chỗ nguy hiểm bậc nhất, vì rất khó vượt qua. Việc nầy là niềm tin, kính mến thì vì sao lại phải lo sợ? Không thí dụ là trong cùng một lúc, không có hai Đại thừa cùng xuất hiện để so sánh nhau, thì vì sao chỉ sợ một mà lại không sợ hai? Nói các thứ là nay Đại thừa nầy, chẳng phải chỉ nói không, nhưng cũng nói nhóm Đại phước trí. Ông nên hiểu rõ ý đó. Vì sao ông chỉ sợ cái không? Nói tiếp trong các lúc, quyết định tiếp tục nói pháp không, chứ chẳng phải pháp mà ông vừa nghe, thì vì sao lại sợ? Nói nhiều môn là trong kinh nói nhiều môn khác nhau nhằm nói về công dụng quan trọng của Đại thừa, là phá hết các phân biệt để có trí vô phân biệt. Nếu nói những gì khác thì không có công dụng, nghóa là Như lai chỉ nói không, mà không nói như pháp tánh thật tế, v.v… Đã nói có nhiều pháp môn thì vì sao chỉ sợ pháp không? Chẳng phải có như văn nghóa, là giáo pháp Đại thừa sâu rộng không như văn nghóa nói. Thế thì vì sao ông lại theo văn để hiểu nghóa, rồi lại sợ không? Thể Chư Phật sâu xa là Phật tính sâu xa, thật khó nhận biết, nên phải hiểu cho sáng tỏ. Việc ấy vì sao phải lo sợ? Do những nhân duyên như vậy, cho nên người thông minh chánh quán thì, đối với Đại thừa, không nên sợ hãi. Đã nói lý do không nên sợ hãi, kế là, sẽ nói về ai là người có công năng thực hành pháp trí này? Kệ rằng: Theo kế văn, tư, tu, Đắc pháp và đắc tuệ. Trí nầy hành pháp nầy, Chưa được, chớ chẳng hủy. Giải thích: Nếu ai, từ đầu, nương vào bậc thiện tri thức, thì phát sinh nghe đúng, sau đó, đối với cảnh giới chân thật, được phát sinh chính trí. Rồi từ ba công năng ấy, được chứng pháp quả. Sau cùng, từ công năng và pháp quả trên mà phát sinh trí giải thoát. Với trí nầy, người ấy sẽ thâm nhập và thực hành pháp nầy trong thời gian lâu dài. Nếu ông tự xét thấy không có trí nầy, thì không nên nói chắc rằng giáo pháp Đại thừa không phải Phật nói. Đã nói ai là người có công năng thực hành pháp trí nầy, kế là pháp cú trong bài kệ nầy sẽ ngăn được sợ hãi, Kệ rằng: Không hiểu, hiểu không sâu, Sâu, chẳng suy lường hiểu. Hiểu sâu được giải thoát, Các sợ không như thế. Giải thích: Không hiểu, nếu ông nói giáo pháp sâu xa như vậy, không phải là pháp mà tôi có thể hiểu nỗi, nên tôi lo sợ, điều ấy không đúng. Hiểu không sâu, nếu ông nói cái hiểu của Phật cũng không sâu. Nếu Phật hiểu biết sâu, sao ông lại bảo không sâu, rồi sinh tâm lo sợ. Điều ấy không đúng. Hiểu sâu chẳng phải nghó lường mà hiểu: là nếu ông nói vì sao cái hiểu sâu nầy không phải là thuộc lãnh vực suy lường, rồi sinh tâm lo sợ. Điều ấy không đúng. Hiểu sâu được giải thoát là nếu ông nói vì sao chỉ hiểu được nghóa sâu nầy mới có công năng giải thoát, chứ giải thoát không dành cho kẻ suy lường, rồi sinh tâm lo sợ, điều ấy không đúng. Như vậy, đã ngăn dứt sự sợ hãi bằng pháp cú ở trên. Kế là, do không tin nên thành lập Đại thừa, Kệ rằng: Do tin, giới: bạn nhỏ, Không hiểu Đại pháp sâu. Do ông không hiểu rõ, Ta thành Thừa Vô thượng. Giải thích: Do lòng tin nhỏ có nghóa là lòng tin hẹp hòi kém cõi. Lãnh vực nhỏ là hạt giống huân và A-lại-da nhỏ bé. Bạn nhỏ là bạn bè bà con của lòng tin tương tự. Ai có ba việc nhỏ nói trên thì không tin có Đại thừa riêng. Vì không có lòng tin ấy, nên pháp mà ta lập là pháp Vô thượng. Đã nói về việc thành lập Đại thừa. Kế là nói về việc ngăn dứt chê bai Đại thừa. Kệ rằng: Theo nghe mà được giác, Chưa nghe, chớ chê bai. Vô lượng pháp chưa nghe, Người chê thành nghiệp si. Giải thích: Nếu được nghe ít mà ông giác ngộ thì không nên theo sự nghe đó mà sinh tâm nói xấu. Đối với giáo pháp ông chưa nghe, nên không tin, còn có thể được. Vì sao? Vì không chứa nhóm điều lành. Chưa nghe là phải cẩn thận rất lắm, chớ nói xấu chê bai. Nếu ông vô phân biệt rõ mà còn chê bai thì chỉ tăng thêm nghiệp ngu khờ mà thôi, vì ông đã tự phá hoại giáo pháp mà trước đây ông được nghe. Đã ngăn dứt việc chê bai giáo pháp Đại thừa, kế là nói về ngăn dứt việc tà tư. Kệ rằng: Khi theo văn hiểu nghóa, Sư tâm mất chân tuệ, Chê bai coi thường pháp, Do đó, sinh lỗi to. Giải thích: Sư Tâm là chấp chặt tri kiến của mình, đó không phải là người khôn, vì chỉ tìm nghóa có một phía. Mất chân tuệ là cái hiểu chân thật chưa có nên lui sụt. Nói lời gièm chê là nói xấu đối với kẻ nói điều lành. Coi thường pháp là: Ganh ghét người được nghe pháp, do chấp vào việc làm không phước đức ấy nên thân sau chịu quả khổ sâu nặng. Đó gọi là tội lỗi rất lớn. Đã nói về việc ngăn dứt tư duy xấu. Kế là sẽ nói về ý ác, phải ngăn dứt. Kệ rằng: Ý ác, tự tính ác, Không để sinh bất thiện, Huống dời đổi điều thiện, Phải bỏ lỗi to ấy. Giải thích: Ý ác là tâm ganh ghét. Tự tính ác là tâm ấy là tự tính tội. Đối với giáo pháp còn không để sinh lỗi lầm, huống chi trong giáo pháp mà sinh lỗi lầm? Cho nên phải mau dứt bỏ các lỗi ấy. ------------------------------- <詞>Phẩm Thứ 3: QUY Y Giải thích: Như trên đã thành lập Đại thừa, kế là nói nương Đại thừa mà gồm nhiếp qui y vượt trội. Kệ rằng: Người quy y Tam Bảo, Quy Đại thừa, bậc nhất, Phát hăng hái cùng khắp, Được quả không ai bằng. Giải thích: Trong tất cả những quy y Tam bảo thì quy y Đại thừa là bậc nhất, vì sao? Vì tự tính bản đại nghóa vượt trội, bốn Đại nghóa là: Nghóa biết khắp tất cả. Nghóa mạnh mẽ. Nghóa đắc quả. Nghóa không ai bằng. (Nghóa nầy sẽ nói sau) Vì bốn nghóa nầy cho nên đa số rớt lại vì nó khó khăn. Những người muốn quy y thì không có công năng hay có công năng. Ai có công năng nhập vào là người vượt trội. Đã nói quy y vượt trội, sau đây khuyến khích sự quy y vượt trội ấy. Kệ rằng: Khó khởi cũng khó thành, Phải lập chí ý lớn, Vì thành lợi mình, người, Nên quy y cao vượt. Giải thích: Khó khởi là khó khởi chí nguyện vươn cao, bởi nguyện ấy rộng lớn. Khó thành là công hạnh vượt trội, vì phải trải qua vô lượng kiếp. Vì khó khăn như vậy, nên cần phải kích thích một ý chí lớn, vì sao? Vì muốn thành tựu việc lợi tha, tự lợi. Có hạnh và nguyện mới làm lợi ích cho người được, nên hạnh nguyện trở thành tiếng gọi tốt. Tự lợi là đại nghóa, vì đại nghóa là quả của tự thể. Bốn nghóa như trước, đã nói, nay trước nói nghóa khắp tất cả. Kệ rằng: Chúng sinh khắp, nương khắp, Trí khắp, vắng lặng khắp, Đó gọi là trí tuệ, Bốn thứ khắp tất cả. Giải thích: Quy y Đại thừa có bốn thứ khắp tất cả: Chúng sinh trùm khắp tất cả, muốn cứu giúp chúng sinh. Đi trùm khắp tất cả, phải khéo hiểu biết ba thừa. Trí hiểu biết bao trùm tất cả, thông đạt hai vô ngã. Tịch diệt trùm tất cả bởi thể của Niết-bàn sinh tử là một vị, vì vô phân biệt lỗi lầm và công đức. Đã nói nghóa bao trùm tất cả, sau đây sẽ nói về nghóa mạnh mẽ. Kệ rằng: Trông mong Phật Bồ-đề, Không lui hạnh khó làm. Chư Phật bình đẳng giác, Dũng mãnh thắng có ba. Giải thích: Quy y Đại thừa có ba thứ mạnh mẽ vượt trội: 1, Nguyện mạnh mẽ vượt trội. Khi quy y Phật là mong cầu chứng quả Bồ-đề, nên các người đều cảm thấy vui mừng vì nhận biết mình sẽ nhận được công đức cao quý. Công hạnh mạnh mẽ vượt trội. Khi bắt đầu tu là không lui sụt hay bị khuất phục trước những việc khó làm. Quả mạnh mẽ vượt trội, đến khi thành Phật thì giác ngộ ngang với tất cả Phật. Lại nữa, vì sự mạnh mẽ nầy, mà các Phật tử thường được thiện sinh. Kệ rằng: Phát tâm và trí độ, Xếp vào đầy đại bi, Hạt giống và mẹ ruột, Trong thai mẹ nuôi hơn. Giải thích: Bồ-tát sinh tốt đẹp có bốn nghóa: Hạt giống hơn, vì lấy tâm Bồ-đề làm hạt giống. Mẹ ruột hơn: là lấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm mẹ ruột. Thai tạng hơn, lấy hai nhóm phước trí nhóm trì làm thai tạng. Mẹ nuôi hơn: lấy đại bi nuôi lớn làm mẹ nuôi. Lại nữa, thiện sinh, vì mạnh mẽ nên thường được thân tốt đẹp. Kệ rằng: Diệu tướng, thành sinh lực, Vui lớn, phương tiện lớn, Như thế bốn thành tựu, Đó gọi là thân tốt. Giải thích: Bồ-tát có bốn thứ thân thắng: Sắc thắng là được thân thắng tuyệt diệu trang nghiêm và các tướng vua Chuyển luân. Lực thắng: Là được thành thục chúng sinh nhờ sức tự tại. Lạc thắng là chứng vui vô biên vắng lặng thượng phẩm ở cõi nước Phật. Trí thắng cứu tất cả chúng sinh bằng phương tiện hết sức khéo léo. Bốn thành tựu nầy gọi là Phật tử thiện sinh, được gọi là sắc thành tựu, lực thành tựu. Lạc thành tựu, trí thành tựu. Hơn nữa, do đức mạnh mẽ nầy mà được tướng như vương tử. Kệ rằng: Trước trao pháp tự tại, Khéo nói, khéo xếp vào, Do bốn nhân duyên nầy, Hạt giống Phật không dứt. Giải thích: Dòng giống vua không dứt mất do bốn nhân duyên: Lên ngôi nhận chức. Tăng thêm không trái. Có tài phán quyết khéo. Thưởng phạt rõ ràng. Phật tử thiện sinh cũng vậy: Trước hết dạy trao, là tất cả Chư Phật ban cho ánh sáng rực rỡ, giúp nhận chức. Pháp tự tại là trí tuệ tự tại đối với tất cả pháp, không trái với các pháp khác. Năng xảo thuyết là khéo nói pháp trước Phật và chúng sinh. Thiện trị phạt là đối với người học giới phạm lỗi thì trị tội ai có công đức thì được dẫn dắt che chở. Lại nữa, nhờ sức mạnh mẽ nầy mà được tương tự như các quan đại thần. Bài tụng nói: Nhập độ, thấy phần giác, Trì mật lợi chúng sinh. Do bốn nhân duyên nầy, Được giống với Đại thần. Giải thích: Có bốn nhân duyên được công đức: của bậc đại thần Được vào cung cấm của vua. Được thấy đồ quý báu của vua. Giữ kín lời nói kín của vua. Được vua ban thưởng tự tại. Bồ-tát mạnh mẽ cũng vậy: Thường khéo nhập vào các Ba-la-mật. Thường thấy đại Bồ-đề phần quý báu trong các kinh, vì không quên bỏ các pháp. Thường giữ chắc các thân, miệng, ý mật của Như lai. Thường có công năng làm lợi ích cho vô biên chúng sinh. Đã nói nghóa mạnh mẽ rồi, sẽ nói ý nghóa đắc qua. Kệ rằng: Phước đức và tôn trọng, Có vui khổ cũng diệt, Chứng vui chứng, pháp ấm. Hết tập, có diệt xả. Giải thích: Người quy y Đại thừa sẽ chứng được tám quả: Khi tin, hiểu sẽ chứng được nhóm phước đức lớn. Khi phát tâm thì được ba cõi tôn trọng. Khi cố ý sinh về đâu thì nhận được vui trong ba cõi. Khi hiểu rõ mình và người đều bình đẳng như nhau thì diệt được nhóm khổ lớn, cũng diệt được sức gây khổ cho cácchúng sinh. Khi nhập vào vô sinh nhẫn là chứng được vui tối thượng. Khi chứng đắc Bồ-đề thì chứng ngộ bóng che pháp lớn lao. Pháp bóng che là pháp thân. Pháp thân được gọi là to lớn, là cao cả, là thường, là nhóm thiện, được gọi bằng tên lớn là pháp tạng Tu-đa-la vô biên. Nó là trên hết trong các pháp nên gọi là cao cả. Không bao giờ cùng tận nên gọi là thường. Do sức vô úy, các pháp lành nhóm họp về nên gọi là nhóm thiện. Huân tập hết các nhóm, diệt hẳn phiền não, không còn sót. Chứng đắc có diệt, xả. Có xả là không trụ vào sinh tử. Diệt xả là không trụ Niết-bàn. Đã nói về nghóa đắc quả, sau đây nói về nghóa không bằng. Kệ rằng: Đại thể và đại nghóa, Vô biên và vô tận, Do khéo thế, xuất thế, Thành thục thần thông đó. Giải thích: Quy y Đại thừa thì tất cả các gốc lành đều do bốn nhân nầy mà phát khởi; tất cả Thanh văn, Bích-chi Phật đều không sánh bằng. Bốn nhân là: Đại thể; Đại nghóa; Vô biên và Vô tận. Hỏi: Những việc ấy như thế nào? Đáp: Là đại thể, gốc lành thế gian, đã vượt khỏi Nhị thừa Đại nghóa là gốc lành xuất thế gian. Nhị thừa xuất thế chỉ lo tự lợi. Vô biên là gốc lành đã thành thục, có công năng thành thục vô biên chúng sinh. Vô tận là gốc lành thần thông. Đến Niết-bàn vô dư cũng là vô tận. Đã nói ý nghóa cao quý của quy y rồi, ở đây nói tiếp về sự khác nhau của quy y. Kệ rằng: Mong cầu và đại bi, Chủng trí cũng không lui, Ba xuất và hai được, Có sáu thứ khác nhau. Giải thích: Có sáu thứ quy y khác nhau là: Tự tính, Nhân, Quả, Nghiệp, Tương ưng và Phẩm loại. Mong cầu là tự tính, chí tâm cầu thể Phật, lấy đại bi làm nhân, cứu giúp tất cả chúng sinh. Lấy chủng trí làm quả, nên được Bồ-đề Vô thượng. Lấy không thoái lui làm nghiệp, là hạnh lợi tha khó làm bất thoái bất khuất. Tương ưng với xuất ly ba cõi, đầy đủ hạnh xuất ly của ba thừa. Hai chứng đắc là phẩm loại, là được pháp tánh thế tục, được thô tế khác nhau. Đã nói công đức khác nhau, kế là, nói về công hạnh khác nhau. Kệ rằng: Quy y có nghóa lớn, Nhóm công đức thêm lớn, Lòng thương trùm thế gian, Rộng dòng pháp Đại Thánh. Giải thích: Ý nghóa lớn là việc làm lợi ích cho mình và người. Làm lợi ích cho mình làm cho công đức thêm lớn. Lại có nhiều thứ, như suy tính, đếm kể, thời hạn đều là không lường hết. Do không suy tính được, không biết số lượng bao nhiêu, nên lúc nào cũng làm, không có phạm vi, giới hạn. Làm việc đem lợi ích cho người thì tác ý và tâm thương xót bao trùm lên tất cả các chúng sinh. Siêng năng vận dụng rộng rãi phương tiện mở mang truyền bá pháp bậc Đại Thánh. Giáo pháp Đại Thánh là giáo pháp Đại thừa. ----------------------- <詞>Phẩm Thứ 4: CHỦNG TÍNH Giải thích: Đã nói về ý nghóa quy y, kế là nói về chủng tính khác nhau. Kệ rằng: Có thắng tính giống nhau, Lỗi ác và công đức, Dụ cho vàng, của báu, Chín thứ, đều có bốn. Giải thích: Chủng tính có chín thứ khác nhau: Hữu thể, Tối thắng, Tự tính, Tướng mạo, Phẩm loại, Tội ác, Công đức, Thí dụ là vàng, Thí dụ của báu. Chín thứ ấy, mỗi thứ đều có bốn thứ khác nhau, bài kệ nầy nêu chung. Kệ khác sẽ giải thích riêng. Trong đây, trước là phân biệt hữu thể. Kệ rằng: Do cõi và lòng tin, Do việc làm, và quả, Từ bốn khác nhau đó, Nên biết: Có thể tính. Giải thích: Chủng tính hữu thể có bốn thứ khác nhau: Khác nhau về cõi. Khác nhau do lòng tin. Khác nhau do việc làm. Khác nhau do quả. Khác nhau về cõi là chúng sinh có vô lượng cõi khác nhau, như có nhiều cõi mà kinh nói. Do cõi khác nhau như vậy nên có khác nhau về chủng tính của ba Thừa, nên biết. Khác nhau bởi lòng tin là chúng sinh có các thứ lòng tin có thể được, ấy là do sức mạnh của nhân khởi hoặc do sức mạnh của duyên lực nên đối với ba Thừa, chỉ tin theo nhất thừa, chứ chẳng phải tin tất cả. Nếu không có chủng tính khác nhau thì cũng không có lòng tin khác nhau. Khác nhau do việc làm là chúng sinh làm hạnh có thể tiến nhập vào đạo hay không thể tiến nhập vào đạo. Nếu không có chủng tính khác nhau thì việc làm cũng không khác nhau. Khác nhau vì quả là chúng sinh đối với quả Bồ-đề có hạ, trung, thượng, quả có những tương tự. Nếu chủng tính không khác nhau thì quả cũng không khác nhau. Vì bốn chỗ khác nhau nầy, nên biết, chủng tính là có tự thể. Đã nói về chủng tính có tự thể, kế là, nói về chủng tính tối thắng. Kệ rằng: Tịnh minh và gồm khắp, Nghóa lớn cũng vô tận, Do thiện có bốn thắng, Là chủng tính bậc nhất. Giải thích: Có bốn nhân duyên tạo thành chủng tính Bồ-tát được tối thắng là: Do gốc lành trong sáng thanh tịnh. Do gốc lành gôm về hết các thứ. Do gốc lành có ý nghóa lớn. Do gốc lành không cùng tận. Vì sao? Không phải hàng Thanh văn có được gốc lành tươi sáng, trong sạch như vậy. Không phải tất cả Các người, gốc lành của họ có sức xếp vào một cách vô úy, gốc lành của những người khác thì không làm lợi cho kẻ khác. Gốc lành những người khác khi đạt được Niết-bàn thì có hạn lượng. Gốc lành của Bồ-tát không phải như vậy. Vì bốn nhân duyên nầy mà chủng tính của Bồ-tát là tối thắng. Đã nói về chủng tính tối thắng, kế là nói về Tự tính chủng tính. Kệ rằng: Tính chủng và tập chủng, Sở y và năng y, Nên biết hữu pít có, Do công đức nghóa độ. Giải thích: Chủng tính Bồ-tát: có bốn thứ lớp tánh: Tính chủng tự tính. Tập chủng tự tính. Sở y tự tính. Năng y tự tính. Theo thứ lớp của bốn thứ nầy, lại nữa kia có là do thể của nhân có. Nếu thể nhân không có thì thể của quả cũng không có. Hỏi: Nếu vậy sao gọi là tính? Đáp: Công đức có ý nghóa cứu độ. Cứu độ làm phát sinh ý nghóa của công đức. Vì lý ấy nên gọi là tính. Đã nói về tự tính chủng tính, kế là nói về tướng mạo chủng tính. Kệ rằng: Đại bi và đại tin, Đại nhẫn và đại hạnh, Nếu có tướng như thế, Thì gọi tính Bồ-tát. Giải thích: Bồ-tát có bốn thứ tướng mạo của: Tướng đại bi là bởi thương xót chúng sinh đang chịu khổ. Tướng của lòng tin lớn là ham thích tất cả giáo pháp Đại thừa. Tướng đại nhẫn vì có công năng chịu đựng, làm được các việc khó làm. Tướng đại hạnh là vì tự tính gốc lành làm pháp khắp các Ba- la-mật. Đã nói về tướng mạo chủng tính, kế là sẽ nói về phẩm loại chủng tính. Kệ rằng: Quyết định, không quyết định, Không thoái, hoặc thoái lui, Gặp duyên như thứ lớp, Phẩm loại có bốn thứ. Giải thích: Phẩm loại chủng tính Bồ-tát, nói lược có bốn thứ: Quyết định. Không quyết định. Không lui sụt. Lui sụt. Theo thứ lớp, quyết định là gặp duyên không lui sụt. Không quyết định là gặp duyên lui sụt. Đã nói về phẩm loại chủng tính, kế là sẽ nói về lỗi của chủng tính. Kệ rằng: Nên biết, tính Bồ-tát, Nói lược, có bốn lỗi, Quen hoặc và bạn ác, Nghèo khổ, thuộc người khác. Giải thích: Lỗi chủng tính Bồ-tát, nói lược có bốn thứ: Quen mê hoặc, là việc công đức thì không làm mà việc phiền não thì thường làm. Bạn ác là xa lìa thiện trí thức mà chung đụng với hạng tính nết thấp kém nhơ bẩn. Nghèo khổ nghóa là những đồ đạc cần dùng đều thiếu hụt. Thuộc về người khác nghóa là buộc trói vào quyền kẻ khác, mình không được tự tại. Đã nói về lỗi của chủng tính, kế là sẽ nói về công đức của chủng tính. Kệ rằng: Công đức cũng bốn thứ, Dù rơi vào đường ác, Vào chậm nhưng ra mau, Khổ mỏng, lòng thương sâu. Giải thích: Bồ-tát chủng tính dù có những lỗi lầm như trước, hoặc rơi vào đường ác, nên biết, ngay trong đó, Bồ-tát vẫn còn đủ bốn công đức: Đi chậm vào do không phải thường đoạ vào đó. Ra mau, không thể ở lâu. Khổ mỏng do bậc bội nóng bức nhẹ. Lòng thương sâu sắc do thành tựu tâm thương xót chúng sinh. Đã nói công đức của chủng tính, kế là sẽ nói về chủng tính được dụ như vàng, Kệ rằng: Như tính vàng tốt nhất, Phát sinh ra bốn thứ, Các thiện và các trí, Các tịnh và các thông. Giải thích: Có bốn ý nghóa làm cho vàng trở nên đẹp hơn hết: Rất nhiều. Chiếu sáng. Không nhơ bẩn. Mềm mại. Chủng tính Bồ-tát cũng vậy: Làm chỗ nương cho vô lượng gốc lành. Làm chỗ nương cho vô lượng trí tuệ. Làm chỗ nương cho việc làm thanh tịnh các phiền não ngăn lấp, ngăn lấp những hiểu biết. Làm chỗ nương cho tất cả thần thông biến hóa. Đã nói chủng tính của Bồ-tát được thí dụ như tính chất tốt của vàng, kế đến sẽ nói về chủng tính được dụ cho của báu. Kệ rằng: Thí như tính của báu, Nhân của bốn thành tựu, Đại quả và đại trí, Đại định và đại nghóa. Giải thích: Tính chất của Bồ-tát quí giá là chỗ nương cho bốn việc được thành tựu: Làm chỗ nương cho thành tựu chân chính. Làm chỗ nương cho thành tựu về sắc. Làm chỗ nương cho thành tựu về hình. Làm chỗ nương cho thành tựu về lượng. Chủng tính Bồ-tát cũng như vậy: Do nhân đại Bồ-đề. Do nhân đại trí. Do nhân đại định, do tâm an trụ. Do nhân đại nghóa mà thành tựu cho vô biên chúng sinh. Đã phân biệt rộng về tính, kế là phân biệt về vô tính. Kệ rằng: Hoàn toàn làm việc ác, Cắt đứt hết pháp trắng, Không có phần giải thoát, Lành ít cũng vô nhân. Giải thích: Không có pháp nhập Niết-bàn là không có tính, ở đây lược, có hai thứ: Pháp thời biên nhập Niết-bàn. Pháp rốt ráo không có Niết-bàn. Pháp thời biên nhập Niết-bàn có bốn hạng người: Một mực làm việc ác. Dứt các pháp lành. Không có gốc lành cho phần giải thoát. Gốc lành không đầy đủ. Pháp rốt ráo không có Niết-bàn là không có nhân. Tính không nhập Niết-bàn đó có nghóa là chỉ ham sinh tử, không ham Niết-bàn. Đã nói về vô thể tính, kế là nói khiến nhập pháp Đại thừa. Kệ rằng: Giảng rộng pháp, sâu lớn Khiến tin, giúp cực nhẫn, Rốt ráo Đại Bồ-đề, Hai biết, hai tính thắng. Giải thích: Giảng rộng để đi sâu vào pháp Đại thừa là bởi làm lợi cho kẻ khác. Nghóa là người không có trí thì giúp cho họ có lòng tin lớn, khi đã có lòng tin lớn (Đại thừa) thì giúp cho họ có sức chịu đựng rất cao, có thể làm được việc không thoái lui. Đã có sức chịu đựng rộng lớn thì giúp họ thành tựu Bồ-đề Vô thượng. Hai trí (hiểu biết) là phàm phu và Thanh văn, nếu được chứng đắc như hai hạng người kia, thì biết được tính tròn đầy của tự tính thật là cao quý. Hỏi: Thắng là gì? Kệ rằng: Thêm lớn cây Bồ-đề, Sinh vui và diệt khổ, Lợi mình, người là quả, Thắng nầy như gốc lành. Giải thích: Chủng tính như vậy mới có công năng làm cho thêm lớn công đức rất lớn của cây Đại Bồ-đề, có công năng được nguồn vui cho mình, người, đó là quả lớn. Cho nên thể tính nầy là cao vời hơn hết, như gốc cây an lành, Bồ- tát cũng như vậy. <篇> LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH <卷>QUYỂN 2 <詞>Phẩm Thứ 5: PHÁT TÂM Giải thích: Như nói đã phân biệt về chủng tính của Bồ-tát, kế là sẽ nói về tướng phát tâm Bồ-đề của Bồ-tát. Kệ rằng: Mạnh mẽ và phương tiện, Lợi ích và xuất ly, Bốn lớn, ba công đức, Tâm khởi do hai nghóa. Giải thích: Bồ-tát phát tâm có bốn thứ lớn lao: Lớn lao mạnh mẽ, nghóa là lời thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn sâu sắc, làm việc khó làm tùy theo thời gian lâu dài. Lớn lao phương tiện nghóa là mặc áo giáp thệ nguyện rộng lớn mãi mãi bất cứ lúc nào cũng sử dụng phương tiện tinh tấn. Lớn lao lợi ích làm việc lợi ích cho mình và người bất cứ lúc nào. Lớn lao ra khỏi nghóa là cầu quả Bồ-đề Vô thượng. Hơn nữa, bốn thứ lớn lao nầy đã nói về ba thứ công đức. Nguyện một và nguyện hai đã làm chói sáng hình ảnh bậc trượng phu với công đức mà hạnh ấy đã làm. Nguyện thứ ba làm sáng chói công đức của nghóa lớn lao. Nguyện thứ tư nói về công đức hưởng quả. Ba công đức nầy, lấy hai nghóa làm duyên. Gọi là Bồ-đề Vô thượng và tất cả chúng sinh là vì sự suy nghó rồi phát tâm Bồ-đề. Đã nói về tướng phát tâm, kế là, nói về sự khác nhau của sự phát tâm. Kệ rằng: Tín hạnh và nương tịnh, Báo đắc và không chướng, Phát tâm nương các địa, nhau: Có bốn thứ khác nhau. Giải thích: Bồ-tát phát tâm nương vào các địa, có bốn thứ khác Phát tâm tin, hiểu, thực hành làm lợi cho người. Phát tâm nương vào trong sạch là trong bảy địa trước. Phát tâm vì được quả báo nghóa là ba địa sau. Phát tâm vô ngại là ở địa Như lai. Đã nói về sự khác nhau của phát tâm, kế là sẽ giải thích rộng. Hỏi: Sự phát tâm nầy lấy gì làm căn bản? Dựa vào đâu? Tin vào đâu, bởi duyên gì? Trong hoàn cảnh nào? An trụ vào gì? Có những chướng ngại nào? Có những công đức gì? Tự tính là gì? Ra khỏi cái gì? Đâu là chỗ rốt ráo? Kệ rằng: Đại bi, và lợi vật, Đại Pháp nương chủng trí, Ham muốn lớn, giữ Đại (Thừa), Thọ chướng thêm lành, Phước trí và tu độ, Từng địa đều tròn đầy, Gốc đầu đến rốt ráo, Thứ lớp hiểu, nên biết. Giải thích: Bồ-tát phát tâm lấy đại bi làm gốc, nương vào việc làm lợi ích cho các vật, dùng pháp Đại thừa làm niềm tin, lấy chủng trí làm duyên, để mong cầu cho hữu tình. Lấy ham muốn cao cả làm hoàn cảnh để cầu Thừa Vô thượng. Lấy sự giữ gìn Đại thừa làm nơi trụ, an trụ trong giới Bồ-tát, nhận lấy chướng ngại là cái khổ cho phát trụ, ở thừa khác. Lấy tăng thêm điều thiện làm công đức. Lấy phước trí làm tự tính. Lấy tu tập các độ làm ra khỏi. Lấy địa mãn làm chỗ rốt ráo. Ở mỗi địa đều thực hành phương tiện siêng năng tương ưng với mỗi việc làm. Như vậy, đã phân biệt về sự khác nhau của phát tâm, kế là nói về thọ phát tâm thế tục. Kệ rằng: Sức bạn và sức nhân, Sức căn cũng sức nghe, Bốn sức đều hai phát, Không bền bỉ và bền. Giải thích: Do nghe người khác nói pháp, hiểu rõ mà phát tâm thì gọi là nhận phát tâm thế tục. Phát tâm nầy do bốn sức mạnh: Do sức mạnh của bạn bè mà phát tâm, hay được thuận theo thiện tri thức. Vì sức mạnh của nhân mà phát tâm, là bởi nhân phát tâm đã từng phát tâm trong đời trước, lấy đó làm tính chất. Vì sức mạnh của cội gốc mà phát tâm, là quá khứ đã từng làm các gốc lành đầy đủ. Vì sức mạnh của việc nghe pháp mà phát tâm, là từng nghe nhiều, nhiều thời pháp bất cứ đâu mà các người phát tâm Bồ-đề. Lại nữa, về tu tập gốc lành mà trong hiện tại, thọ trì các pháp từng được nghe. Lãi nữa, bốn sức mạnh khiến phát tâm kia, gộp chung thành hai thứ: Phát tâm không bền vững, là phát tâm do sức bạn. Phát tâm bền vững, là phát tâm vì ba năng lực như năng lực của nhân, v.v… Đã nói về phát tâm thế tục. Kế là nói về phát tâm nghóa đệ nhất. Kệ rằng: Gần bậc chánh biến tri, Khéo chứa nhóm phước trí, Vô phân biệt các pháp, Trí chân tối thượng sinh. Giải thích: Phát tâm nghóa đệ nhất nói về ba thứ cao quý: Dạy dỗ cao quý vì được gần gũi bậc chánh biến tri. Tùy thuận cao quý là khéo gom chứa nhóm phước trí. Đắc quả cao quý là vì sinh trí không còn phân biệt. Phát tâm nầy được gọi là địa vui mừng vì sự cao quý của vui mừng. Hỏi: Sự cao quý nầy, lấy gì làm nhân? Kệ rằng: Các pháp và chúng sinh, Việc làm và Phật thể. Bốn thứ bình đẳng nầy, Được vui mừng cao quý. Giải thích: Bốn thứ bình đẳng là: Pháp bình đẳng, là vì thấu hiểu pháp là vô ngã. Chúng sinh bình đẳng, là vì chứng được mình và người đều bình đẳng. Các việc làm đều bình đẳng, vì giúp kẻ khác hết khổ như chính mình đã hết khổ. Thể tính Phật đều bình đẳng, là vì pháp giới và mình đều chẳng khác nhau, quyết chắc có thể thấu biết. Đã nói về nhân cao quý, kế là sẽ nói về sự khác nhau của cao quý. Kệ rằng: Sinh vị và nguyện vị, Vừa mạnh vừa nương tịnh, Khéo khác, và xuất khác, Sáu cao quý cũng thế. Giải thích: Phát tâm nghóa đệ nhất có sáu pháp cao quý là: Vị trí sống thù thắng. Vị trí nguyện thù thắng. Mạnh mẽ thù thắng. Nương vào thanh tịnh thù thắng Thiện xảo thù thắng khác. Xuất ly thù thắng khác. Hỏi: Vì sao gọi sáu pháp nầy là thù thắng? Kệ rằng: thai. Sinh thắng có bốn nghóa Nguyện lớn có mười thứ. Mạnh mẽ thường không lui, Nương tịnh, hai lợi sinh. Xảo tiện, tiến địa khác. Khéo tư duy xuất ly, Sáu đạo lý như thế, Thứ lớp thành sáu thắng. Giải thích: Đời sống cao quý có bốn nghóa là: Hạt giống thù thắng, vì hạt giống tin tưởng vào pháp Đại thừa. Mẹ ruột thù thắng là vì lấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm mẹ. Thai tạng thù thắng là vì lấy thiền định của Đại thừa làm bào Mẹ nuôi thù thắng là vì lấy đại bi, nuôi lớn làm mẹ nuôi nguyện lớn có mười điều: Là mười đại nguyên như kinh Thập Địa nói. Phát nguyện thù thắng nầy thì thường mạnh mẽ không bao giờ lui sụt. Dù phải làm những việc khó làm vẫn không lui sụt. Nương vào thanh tịnh để làm hai việc lợi người: Biết mình gần với quả Bồ-đề. Biết phương tiện lợi tha. Xảo phương tiện để tiến lên các địa khác là phương tiện để tiến lên địa trên. Khéo tư duy việc xuất ly là pháp quán xét đã được lập ra để được an trụ trong các địa. Hỏi: Tư duy là gì? Đáp: Như đã lập ra giới hạn phạm vi mà phân biệt biết, cho nên phân biệt cũng biết được vô phân biệt. Đã nói phát tâm rồi, kế là sẽ nói về thí dụ để nói về sự phát tâm ấy. Kệ rằng: Như đất, như vàng sạch, Như trăng, như lửa cháy, Như kho, như rương báu, Như biển, như kim cương, Như núi, như thuốc chúa, Như bạn, như nhưý, Như nhật, như đẹp vui, Như vua, như kho lẫm, Như đường, như xe đi, Như suối, như tiếng vui, Như nước chảy, như tuyết, Phát tâm dụ như thế. Giải thích: Sự phát âm qua những thí dụ như thế, có nghóa nào tương tự? Đáp: Như đất bao la kia, người mới phát tâm cũng như vậy, vì tất cả Phật pháp có công năng duy trì. Ví như vàng sạch, sự phát tâm cũng tương ưng giống như vậy, không lui sụt thoái chí đối với việc làm lợi ích an vui, cho chúng sinh. Ví như trăng mới mọc, sự siêng năng tương ưng với phát tâm cũng như vậy, bởi pháp lành ngày càng gia tăng. Thí dụ cho lửa cháy thêm là chỗ nương cao nhất tương ưng với sự phát tâm cũng như vậy, thêm củi cho lửa phừng lên, đó là hình ảnh gôm chứa công hạnh, là chỗ nương cao nhất. Thí dụ cho kho tàng lớn, Đàn Ba-la-mật tương ưng với phát tâm cũng như vậy, bởi của cải đem cho khắp cùng không bao giờ hết. Thí dụ rương chứa đồ quý giá là Thi Ba-la-mật tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì công đức pháp bảo đều phát sinh từ đó. Thí dụ như biển cả là Sằn-đề Ba-la-mật tương ưng với phát tâm cũng như vậy, tâm không rung động vì các việc ngang trái xảy ra. Thí dụ như kim cương là Tỳ-lê-da Ba-la-mật tương ưng với phát tâm cũng như vậy, mạnh mẽ vững chắc, không gì làm hư hoại được. Thí dụ như núi chúa là Thiền Ba-la-mật tương ưng với phát tâm cũng như vậy, không có cái gì làm dao động vì nó không rối loạn. Thí như vua thuốc là bởi Bát-nhã Ba-la-mật tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì thuốc nầy có công năng phá hai thứ bệnh trí và mê. Thí dụ như bạn lành là có vô số điều tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì không bao giờ xả bỏ chúng sinh bất cứ lúc nào. Ví như hạt châu như ý là thần thông tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì nó có công năng hiện ra những gì theo ý mình muốn. Thí như mặt trời rực rỡ gom trong ánh sáng của nó tương ưng với phát tâm cũng vậy, như mặt trời nóng làm cho lúa thóc chín, thành thục chúng sinh cũng như vậy. Thí như vẻ đẹp niềm vui là tài năng nói tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì nói pháp dẫn dắt chúng sinh. Thí như quốc vương là năng lực tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì có công năng làm cho chánh đạo không bị hoại nhân. Thí như kho lẫm là nhóm tương ưng với phát tâm cũng như vậy, là nơi gom nhóm phước trí, pháp tài. Thí như đường vua đi là phần giác tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì bậc đại thánh đi trước rồi những ai khác mới nối gót theo sau. Thí dụ như cỗ xe là chỉ quán tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì hai bánh xe chỉ quán lăn đi đầy đủ an vui. Thí dụ như nước suối phun ra là tổng trì tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì nghe dù nhiều những giáo pháp vẫn không bao giờ cùng tận. Thí dụ như tiếng reo mừng là pháp ấn tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì mong cầu giải thoát nên nghe một cách vui thích. Thí như dòng sông là tự tính tương ưng với phát tâm cũng như vậy, là do đạo vô sinh nhẫn tự nhiên tuôn chảy, không do tác ý. Thí như vừng mây lớn là công năng thành thế giới, phương tiện tương ưng với phát tâm cũng như vậy, chỉ bày tám tướng thành đạo giáo hóa chúng sinh. Với hai mươi hai thí dụ như vậy là để thí dụ sự phát tâm kia, như bậc Thánh đã nói rộng trong kinh vô tận tuệ, nên biết. Đã nói thí dụ phát tâm rồi, kế là sẽ nói về lỗi của không phát tâm. Kệ rằng: Tư lợi và được phương (tiện), Hiểu nghóa cũng chứng thật, Như thế bốn thời vui. Tới Niết-bàn buông xả. Giải thích: Bồ-tát có bốn thứ vui: Suy nghó điều lợi ích, an vui là suy nghó thời gian nào làm lợi ích cho chúng sinh. Được phương vui nghóa là cảm thấy vui đến khi chứng được phương tiện thiện xảo. Vui bởi hiểu nghóa, nghóa là thấy vui khi hiểu thấu rõ ý nghóa Đại thừa. Vui chứng ngộ chân thật là vui khi chứng được nhân, pháp đều vô ngã. Nếu ai bỏ chúng sinh mà lo thẳng đến vắng lặng nên biết, người ấy không được bốn thứ vui như vậy của Bồ-tát. Đã quở trách không phát tâm, đối với ai phát tâm nên khen ngợi họ. Kệ rằng: Tối sơ phát đại tâm, Khéo giữ vô biên ác, Thiện tăng và bi tăng, Lạc vui khổ cũng vui. Giải thích: Nếu từ đầu phát tâm Đại Bồ-đề, thì bấy giờ, Bồ-tát nương vào vô số chúng sinh, tức là đã khéo giữ gìn, không gây ra điều ác. Vì vậy, Bồ-tát nầy là người lìa khỏi lo sợ rơi vào đường ác. Lại nữa, thực hành điều thiện và càng thêm lên cho nên đối với vui thường mừng. Tâm thương xót được tăng thêm lên, nên dù gặp cảnh khổ, vẫn thường vui. Do đó, người nầy xa lìa lui sụt đường lành. Đã khen ngợi sự phát tâm, kế là sẽ nói về nhân phát tâm được không khen ngợi. Kệ rằng: Thương kẻ khác hơn mình, Quên mình lợi chúng sinh, Không vìmình, ghét người, Lẽ nào nghiệp bất thiện? Giải thích: Nếu lược chỉ bày nghóa đó thì chính là Bồ-tát yêu thương kẻ khác hơn yêu thương mình, do đó quên thân mạng mình và làm lợi ích cho người khác. Không vì lợi mình mà làm tổn hại người khác. Do vậy, nên Bồ-tát mới có công năng dứt hết nghiệp ác của chúng sinh. Đã nói được không ngợi khen, kế là sẽ nói về được không thoái tâm. Kệ rằng: Quán pháp biết như huyễn, Quán sống như vào vườn, Dù thành hay không thành, Hay khổ, đều không sợ. Giải thích: Bồ-tát quán tất cả pháp, biết chúng như huyễn. Vì vậy, nên lúc đang thành tựu lợi ích cho chúng sinh mà có gặp phiền não đi nữa, vẫn không lo sợ. Bồ-tát quán nơi mình đang sống như vào khu vườn, cho nên đang khi thành tựu lợi ích cho chúng sinh, có gặp phiền não đi nữa, vẫn không hề lo sợ. Nếu một người được như vậy thì còn có ý nghóa gì khiến tâm Bồ-đề lui mất? Lại nữa, Kệ rằng: Tự nghiêm, tự nuôi sống, Khu vườn và vui mừng. Có bốn việc như vậy, Bi chẳng phải thừa khác. Giải thích: Bồ-tát dùng công đức của mình để tự trang nghiêm, nuôi sống mình bằng việc làm lợi ích cho người và sự vui mừng. Lấy tác ý nơi mình ở làm khu vườn. Lấy thần thông biến hóa làm vui chơi. Bốn việc như vừa nói, chỉ Bồ-tát mới có, Nhị thừa không có. Có bốn việc ấy, vì sao Bồ-tát phải lui tâm Bồ-đề? Đã nói tâm không thoái lui. Kế là sẽ nói về ngăn dứt tâm sợ khổ. Kệ rằng: Rất siêng, lợi chúng sinh, Đại bi làm thể tính. Vô gián, như chỗ vui, Lẽ đâu sợ các khổ. Giải thích: Bồ-tát lấy tâm đại bi làm bản thể cho nên rất siêng năng làm lợi ích cho người. Cho nên dù có vào địa ngục A-tỳ đi nữa, vẫn như đi dạo chơi. Do vậy, đối với các khổ khác, Bồ-tát nào có lo sợ? Có phải bởi sợ hãi ấy mà lui mất đạo tâm chăng? Kệ rằng: Đại bi thường trong ý, Khổ người, là khổ mình, Tự nhiên, làm phải làm, Đợi khuyên rất hổ thẹn. Giải thích: Các Bồ-tát lấy đại bi làm mẫu mực thường ở trong tâm, cho nên thấy chúng sinh chịu khổ, Bồ-tát thấy như mình khổ. Do Đạo lý ấy, tự nhiên làm những việc phải làm. Nếu phải chờ bạn khuyến khích mới làm thì Bồ-tát thấy rất xấu hổ. Kệ rằng: Gánh gánh nặng chúng sinh, Làm biếng xấu, không tốt, Cởi trói cho mình, người, Phải tinh tấn gấp trăm. Giải thích: Bồ-tát phát tâm là gánh gánh nặng chúng sinh. Nếu đi chậm rãi thì đó là một điều rất tồi tệ, chẳng phải là chúng sinh đoan chánh thứ nhất. Bồ-tát phải tự nghó: Nếu mình hay người bị trói quá chặt do nhiều thứ, đó là nghiệp mê lầm phát sinh, thì phải tinh tấn gấp trăm lần hơn để cởi những trói buộc ấy. Việc làm nầy của Bồ-tát vượt hơn việc làm của Thanh văn. ---------------------- <詞>Phẩm Thứ 6: NHỊ LỢI Giải thích: Đã nói phát tâm, kế là sẽ nói về nương vào phát tâm ấy mà tùy thuận tu tập đem lợi ích cho mình và cho người. Kệ rằng: Nương Đại (Bồ-đề) làm hạnh lớn, Lần lượt nói quả lớn, Đại thủ (chúng sinh) và đại nhẫn, Đại nghóa, ba sự thành. Giải thích: Nương chỗ lớn lao là nương vào Đại Bồ-đề mà phát tâm. Đại hạnh là phát tâm làm những lợi ích cho mình và cho người. Đại quả giúp các người được Bồ-đề Vô thượng, theo đúng thứ lớp ấy. Đại thủ là khi phát tâm gom hết chúng sinh vào. Đại nhẫn là khi phát tâm làm lợi ích chúng sinh phải chịu đựng tất cả các khổ bao la. Nghóa lớn là khi chứng quả, làm lợi lớn cho tất cả chúng sinh để thành tựu sự nghiệp. Đã nói thứ lớp thực hành công hạnh lợi tha, kế là sẽ nói về sự không khác nhau của lợi mình và lợi người. Kệ rằng: Mình, người, tâm bình đẳng Thương người hơn thương mình, Có tướng hơn như thế, Hai lợi, nào có khác? Giải thích: Bồ-tát chứng được tâm bình đẳng giữa mình và người là lòng tin, là khi phát tâm ở thế tục, hoặc do trí tuệ mà chứng được, là lúc phát tâm nghóa đệ nhất. Dù có tâm nầy, nhưng Bồ-tát thương thân kẻ khác hơn thương thân mình. Đối với người khác, Bồ-tát đã có ý tưởng tốt như vậy, nên không còn mang tư tưởng phân biệt cái gì là lợi mình, cái gì là lợi người, vì đều không còn phân chia ranh giới. Đã nói không khác nhau, kế là sẽ nói về làm lợi cao đẹp cho người. Kệ rằng: Với đời, không nghiệp oán, Lợi người thường tự khổ. Tính bi tự nhiên khởi, Nên, lợi người là hơn. Giải thích: Bồ-tát từ lâu đã cắt đứt hoàn toàn, các nghiệp oán thù với đời, cho nên Bồ-tát làm mãi cho xong việc đem lợi ích cho người, dù thân mình phải chịu nhiều vất vả, cực khổ. Do vậy mà thể Đại bi tự nhiên phát khởi, do lý ấy làm lợi người vẫn là tốt nhất. Hỏi: Thế nào là thuận theo lợi tha như thế? Kệ rằng: Khéo nói khiến quay về, Khiến nhập, giúp điều phục, Khiến thành cũng giúp trụ, Khiến giác ngộ, giải thoát, Gom đức và sanh gia, Được thọ ký, nhận chức, Đến thành trí Như lai, Lợi chúng sinh như thế. Giải thích: Có ba hạng chúng sinh là trụ vào tính dưới, giữa, trên. Theo những nơi mà họ trụ vào ấy, Bồ-tát gom họ về chánh đạo bằng mười ba thứ thuận theo đem lợi ích cho họ là: Nói pháp khéo vì biết theo cách dạy và ghi nhớ chắc. Khiến họ quay về bằng sức mạnh của thần thông. Khiến họ thâm nhập là vì họ đã quay về nên giúp họ có lòng tin, và thọ lãnh chánh giáo. Khiến họ tự điều phục, vì thâm nhập nên họ dứt bỏ ngờ vực. Khiến họ được thành tựu, vì gốc lành họ đã thành thục. Khiến họ được an trụ, vì dạy trao giúp tâm được trụ. Khiến họ giác ngộ, vì được trí tuệ. Khiến họ giải thoát, vì chứng được các công đức cao quý, như thần thông v.v… Chứa nhóm công đức, vì chứa nhóm khắp phước trí. Sinh gia là sinh vào nhà Phật. Được thọ ký là do tám địa được thọ ký. Nhận chức, từ mười địa được nhận chức. Được trí của Như lai, vì đã vào Phật địa. Hỏi: Thuận theo như vậy, được thành lập ra sao? Kệ rằng: Không đảo và tự cao, Không đắm cũng thông đạt, Năng nhẫn và điều thuận, Cách xa cũng không tận, Nên biết tám nghóa nầy, Thành tựu mười ba thứ. Giải thích: Không điên đảo là nếu người đã trụ vào tính, thì theo thứ lớp họ mà Bồ-tát nói pháp, không dạy trao điều dối trá. Không tự cao là khi họ quay về, Bồ-tát không cậy mình có thần thông mà tự cao. Không đắm: là khi họ thâm nhập chánh pháp là thành chúng sinh không còn bị ô nhiễm. Thông đạt là cắt đứt lưới ngờ vực của họ. Có công năng nhẫn nhục là khéo thành thục họ. Điều thuận là thuận theo mà dạy trao, chứ chẳng phải không làm chủ khi dạy trao. Xa (rời) là thuận theo sinh vào nhà Phật, chứ không phải xa lìa, khiến họ có công năng tạo lập công đức. Không cùng tận là Bồ-tát phát nguyện làm lợi ích chúng sinh không bao giờ hết lời nguyện, bất cứ lúc nào. Đó là thành tựu, nên biết. Hỏi: Vì sao sự thuận theo nầy cao vượt khác lạ? Kệ rằng: Thói quen dục đáng sợ, Hữu ái động, nghiêng đổ, Vui cắt đứt phiền não, Đại bi cầu Phật pháp. Giải thích: Thói quen của ham muốn là người trong cõi Dục nầy, đáng sợ là thâm tâm thường mang nhiều thống khổ vì thường hướng đến đường ác. Hữu ái là người cõi Sắc, cõi Vô sắc. Quấy động mà nghiêng đổ là vì vui của họ là không thường còn, nên gây xáo động, vì hành khổ nên bị trái ngược. Ưa vắng lặng là người tự lợi. Dứt trừ phiền não là vì phiền não nắm chắc nên khổ không bao giờ dứt. Muốn lìa khổ, mình phải dứt trừ phiền não, cầu lấy sự vắng lặng. Đại bi làm lợi ích cho người. Cầu Phật pháp là người nầy thường cầu tất cả Phật pháp, nghó đến làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, Kệ rằng: Thế gian tìm tư vui, Không vui thường rất khổ, Bồ-tát siêng vui người, Hai lợi thành vui trên. Giải thích: Kẻ ngu ở đời thường tìm niềm vui cho mình, nhưng không được vui, lại bị rất khổ. Bồ-tát không phải vậy, mà thường làm cho kẻ khác được vui, nên thành tựu hai lợi ích là cho mình và người. Lại được cái vui lớn nhất của Niết-bàn, đây là Bồ-tát thuận theo hay nhất về chỗ khác nhau. Đã nói thuận theo làm lợi cho người, kế là sẽ nói về hồi hướng hạnh nầy cho chúng sinh. Kệ rằng: Căn khác, chỗ ở khác, Làm khác, có hành khác, Hễ là các việc làm, Hướng cho lợi chúng sinh. Giải thích: Từ giác quan như mắt, v.v… Bồ-tát làm các việc các thực hành các oai nghi quen làm, tất cả đều hồi hương làm lợi ích cho chúng sinh. Tất cả việc làm, những việc tương ưng hay những việc tương tự cũng đều hồi hướng hết cho lợi ích chúng sinh, như trong kinh Hạnh Thanh Tịnh có nói rộng. Đã nói tâm hồi hướng, kế là nói về việc ngăn dứt tâm không nhẫn nhục. Kệ rằng: Chúng sinh không tự tại, Thường làm các nghiệp ác, Phải nhẫn nhục thêm bi, Không não, không trái nhau. Giải thích: Chúng sinh bị phiền não quấy phá nên tâm không tự tại. Cho nên gây ra các nghiệp ác. Bằng trí tuệ, Bồ-tát thường nuôi dưỡng nhẫn nhục lớn, tăng lên mãi lòng thương đối với các loài, cho nên Bồ-tát không khởi tâm làm hại chúng sinh, và cũng không làm việc gì thiếu thuận theo. Đã ngăn dứt tâm không nhẫn nhục, kế làm rõ thuận theo lớn. Kệ rằng: Xuất ly cao vắng lặng, Công đức và lợi vật, Thứ lớp nương bốn nghóa, Nói lớn có bốn thứ. Giải thích: Các Bồ-tát có bốn thứ thuận theo lớn: Xuất ly cao quý lớn là ra khỏi ba cõi, năm đường nên gọi là xuất ly thù thắng, như kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa nói: “Này Tu-bồ-đề, nếu sắc là có pháp, chứ chẳng phải không có pháp, ấy là Ma-ha-diễn, không thể xuất ly cao quý tất cả thế gian, người, trời, A-tu-la”. Vắng lặng lớn là do hồi hướng đến Niết-bàn vô trụ xứ. Công đức lớn là hai nhóm phước trí được thêm lớn. Lợi vật lớn là thường nương vào tâm đại bi, không bỏ chúng sinh. <詞>Phẩm Thứ 7: CHÂN THẬT Giải thích: Đã nói thuận theo tu hành, kế là nói tướng nghóa đệ nhất. Kệ rằng: thứ. Chẳng có cũng chẳng không, Chẳng như cũng chẳng khác, Chẳng sinh cũng chẳng diệt, Chẳng thêm cũng chẳng bớt, Chẳng tịnh, chẳng bất tịnh, Năm thứ, không hai tướng, Đó gọi nghóa đệ nhất, Hành giả phải nên biết. Giải thích: Nghóa đệ nhất là không hai. Nó được nói về bằng năm Chẳng có là do phân biệt hai tướng y tha là không. Chẳng không là có tướng chân thật. Chẳng Như là phân biệt hai tướng y tha, không có một thật thể. Chẳng khác là hai thứ ấy không có tự thể khác. Chẳng sinh chẳng diệt là vô vi. Chẳng thêm chẳng bớt là khi khởi niệm chia hai phần nhiễm tịnh là khi diệt thì pháp giới vẫn yên trụ như thế. Chẳng tịnh là tự tính không bị nhuộm bẩn thì đâu cần làm cho nó sạch. Chẳng bất tịnh là khách trần phiền não ra đi. Như vậy, năm thứ ấy không có hai tướng. Đó là tướng của nghóa đệ nhất, nên biết. Đã nói nghóa đệ nhất. Kế là nói việc ngăn dứt ý niệm điên đảo đối với nghóa đệ nhất. Kệ rằng: Chấp ngã chẳng thấy ngã, Vô tướng chẳng vô duyên, Hai vô ngã khác nhau, Giải thoát chỉ hết mê. Giải thích: Chấp ngã chẳng thấy ngã là không có tướng ngã, vì sao? Vì tướng ngã chỉ là phân biệt. Chẳng phải vô duyên là phiền não tập khí khởi lên duyên theo năm thọ ấm. Hai vô ngã khác nhau là hai ngã kiến và năm thọ ấm. Nhưng hai thứ nầy cũng chẳng phải khác mà có tướng ngã. Như vậy, ngã kiến chỉ là mê muội lầm lạc. Thật, không có tướng ngã nào để nắm bắt. Giải thoát chỉ dứt hết mê nghóa là nếu dựa vào thân khởi lên ý niệm giải thoát thì cũng chỉ là dứt hết mê mà thôi. Không còn cái ngã nào khác là giải thoát. Đã nói ngăn dứt kiến chấp sai lầm, kế là quở trách về điên đảo. Kệ rằng: khổ? Vì sao dựa ngã kiến? Không thấy tự tính khổ. Mê khổ và người khổ, Pháp tánh và vô tánh. Giải thích: Thế nào là nương vào ngã kiến, không thấy tự tánh Than ôi thế gian, thế nào là nương? Ngã kiến khởi lên nhiều thứ mê lầm, không thấu biết các hành, thì với tự tánh khổ ấy mà mãi đuổi theo tà vậy. Mê khổ và người hổ, pháp tánh và vô tánh là khổ, nghóa là thọ tiếp xúc với khổ ấy. Khổ nghóa là khổ không dứt, chẳng phải ngã và khổ tương ưng nhau. Gọi là khổ nghóa là khổ bởi mê, không thấu hiểu tự tánh khổ. Khổ do mê cũng do không hiểu vô ngã. Pháp tánh là chỉ có pháp, vì nhân vô ngã. Vô tính là chẳng phải pháp, vì pháp vô ngã. Kệ rằng: Thể duyên khởi là gì? Hiện thấy, sinh dị kiến, Do tối không thấy hữu, Cũng lại không thấy hữu. Giải thích: Thế nào là thể của duyên khởi, từ hiện thấy mà sinh dị kiến? Than ôi! Thế gian làm sao hiện thấy? Các hành đều từ duyên mà sinh ra, nhưng nương vào thế ấy, rồi lại ngang nhiên sinh dị kiến là bảo rằng các căn như mắt v.v… Thể nó chẳng phải duyên mà sinh khởi. Do tối tăm tà vạy nên không thấy hữu. Cũng lại không có mà thấy: nghóa là do vô minh, nên pháp duyên khởi là có mà không thấy hữu. Thể của ngã là không có mà lại thấy có. Hỏi: Nếu vậy thì làm sao được Niết-bàn? Kệ rằng: Sinh tử và Niết-bàn, Không hai, không chút khác, Do khéo trụ vô ngã, Sinh hết được Niết-bàn. Giải thích: Sinh tử và Niết-bàn, không hai, cho đến chúng không chút khác nhau. Vì sao? Vì vô ngã cho nên bình đẳng. Nếu ai khéo trụ vào vô ngã mà tu tập nghiệp lành thì liền hết sinh tử mà chứng Niết- bàn. Như vậy, đã ngăn dứt điên đảo, kế là nói pháp đối trị với sự điên đảo ấy. Kệ rằng: biên. kia. Phước trí không bờ mé, Sinh trưởng đều tròn đầy, Tư pháp quyết định rồi, Thông đạt tính nghóa loại. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nhóm tập đại thứ nhất. Phước và trí không bờ mé là do vô số sự khác nhau và thời tiết vô Sinh trưởng đều tròn đầy là Bồ-tát gom góp đại tụ nầy để đến bờ Pháp tư duy quyết định rồi là nương vào tâm định mà tư duy. Thông đạt tính nghóa loại là hiểu nghóa loại các pháp đã tư duy, đều lấy ý thức và lời nói làm tự tính. Kệ rằng: Đã biết tính nghóa loại, Khéo trụ chỉ tâm sáng, Vì hiện thấy pháp giới, Giải thoát khỏi hai tướng. Giải thích: Bài kệ nầy nói về thông đạt phần vị thứ hai, vì thấu hiểu tất cả nghóa chỉ lấy ý thức lời nói làm tính, nên biết rõ tất cả nghóa đều là ánh sáng của tâm. Bấy giờ, Bồ-tát được gọi là khéo an trụ trong Duy thức. Sau khi từ Duy thức để nhìn thì thấy pháp giới trước mắt mà thấu biết tất cả hai tướng là năng chấp và sở chấp của giải thoát. Kệ rằng: Ngoài tâm không có vật, Vật không, tâm cũng không, Do hiểu cả hai không, Khéo trụ chân pháp giới. Giải thích: Bài kệ nầy nói về vị kiến đạo thứ ba. Như Bồ-tát thấy pháp giới trước mắt, hiểu ngoài tâm không có vật bị chấp. Cái để chấp lấy đã là không, cho nên cũng không có tâm năng chấp. Vì lìa hai tướng năng thủ, sở thủ, nên biết, là đã khéo an trụ vào tự tính pháp giới. Kệ rằng: Sức trí vô phân biệt, Thường bình đẳng trùm khắp, Do phá lỗi thể tụ, Như thuốc trừ được độc. Giải thích: Bài kệ nầy nói về địa vị tu đạo thứ tư. Sau khi Bồ-tát đã nhập vào nghóa trí chuyển y thứ nhất, xong thì dùng trí vô phân biệt làm các việc bình đẳng mãi mãi và làm khắp các nơi. Vì sao? Do đã làm tan hoại chỗ nương của tính y tha vì nó huân tập tướng của khối sai lầm như rừng dày mịt. Hỏi: Sức mạnh của trí tuệ nầy ra sao? Đáp: Ví như thuốc lớn A-già-đa có công năng dứt trừ tất cả thứ độc. Sức mạnh của nó là thế. Kệ rằng: Duyên Phật, khéo thành pháp, Tâm căn an pháp giới, Hiểu niệm chỉ phân biệt, Mau tới biển công đức. Giải thích: Bài kệ nầy nói về Địa vị rốt ráo thứ năm. Duyên Phật, khéo thành tựu pháp là các Bồ-tát đối với Phật, khéo thành lập nhóm chung duyên trong tất cả pháp mầu nhiệm. Duyên nhóm chung là gì? Đáp: Tâm căn an trụ pháp giới, đây là nhập vào nghóa trí thứ nhất một cách sáng tỏ. Do tuệ nầy an trụ pháp giới, nên tâm nầy gọi là căn. Hỏi: Phía sau của tâm căn nầy là thế nào? Đáp: Hiểu biết niệm chỉ là phân biệt, nghóa là phía sau tâm nầy, khởi lên quán sát như quán việc trước. Niệm chuyển biến theo từng nơi. Do vậy, mới biết niệm chỉ là phân biệt, chẳng thật có. Hỏi: Biết như vậy rồi, tiến lên giai vị nào nữa? Đáp: Mau tới bờ mé cuối cùng của biển công đức. Nghóa là biết như vậy rồi là tới biển công đức của quả Phật, sẽ mau đến bờ bên kia. --------------------- <詞>Phẩm Thứ 8: THẦN THÔNG Giải thích: Đã nói nghóa chân thật rồi, kế là nói về tướng thần thông của Bồ-tát. Kệ rằng: Sinh diệt và nói năng, Tâm hành cùng trụ trước, Để dẫn khiến xuất ly, Sáu trí thông tự tại. Giải thích: Sinh diệt là trí cảnh sinh tử, là biết việc sinh tử của chúng sinh. Lời nói là trí cảnh của thiên nhó. Tùy theo lời chúng sinh nói lên đều nghe biết. Tâm hành là trí cảnh của tâm người, có công năng biết được hoạt động trong tâm người và sự khác nhau của nó. Tiên trụ là trí cảnh kiếp trước là biết những gom chứa thiện ác kiếp trước của người. Để dẫn dắt là trí cảnh như ý, là tùy nơi ở chúng sinh mà giáo hóa. Xuất ly là trí cảnh lậu tận, là biết rõ chúng sinh kia có nên xuất ly hay không. Sáu trí như vậy, đối với sáu nghóa khác nhau của thế giới, hiểu biết cùng khắp, không có gì chướng ngại, mà mạnh mẽ tự tại. Đó gọi là tự tính thần thông của Bồ-tát. Đã nói về tự tính ấy, kế là nói về tu tập. Kệ rằng: Thiền cực tịnh thứ tư, Thuộc trí vô phân biệt, Như phương tiện đã lập, Nương đây, các thông tịnh. Giải thích: Như thiền đã nương, như trí đã xếp vào, như phương tiện đã lập, mà Bồ-tát tác ý tu tập là được thần thông tối thượng. Đã nói tu tập thần thông, kế là nói về quả chứng đắc thần thông. Kệ rằng: Ba trụ, trụ vô tỉ, Nơi qua, khéo cúng dường, Khiến họ được thanh tịnh, Là nói quả thần thông. Giải thích: Thần thông có ba thứ quả là: Quả thắng trụ. Trụ nầy, có ba hạng: a. Trụ vào thánh; b. Trụ vào phạm thiên; c. Trụ vào cõi trời, vì đã được Vô thượng, vô tỉ. Quả khéo cúng đường là theo chỗ mình ở mà chúng sinh trong đời cúng đường rộng lớn, long trọng. Quả giúp chúng sinh thanh tịnh là có công năng khiến người cúng đường được thanh tịnh. Hỏi: Thần thông có sáu thứ nghiệp là: Tự nghiệp, tha nghiệp, quang nghiệp, hí nghiệp, hóa nghiệp và tịnh nghiệp. Sáu nghiệp ấy ra sao? Kệ rằng: Việc thành hoại, đời nầy, Coi chúng giống như huyễn, Các việc họ mong muốn, Tự tại tùy ý thành. Giải thích: Nửa trên của bài kệ nầy là chỉ bày tự nghiệp, vì thấy các sinh ra, hoại diệt trong đời nầy, như huyễn hóa, nửa sau của bài kệ là chỉ rõ tha nghiệp, nghóa là những việc đất rung chuyển, phát sáng v.v… Tùy những gì chúng sinh muốn thì hiện cho họ một cách tự tại. Mười thứ lớp tại, như kinh Thập Địa có nói. Kệ rằng: Sáng thần soi đường ác, Khiến tin, sinh đường lành, Oai lực chấn cung trời, Điện động làm ma sợ. Giải thích: Bài kệ nầy nói về ánh sáng nghiệp. Ánh sáng nghiệp có hai thứ: 1.Cứu khổ; 2.Làm cho ma khiếp sợ. Nửa trên của bài kệ nói về việc cứu khổ, nghóa là chiếu xuống đến chúng sinh ở đường ác, khiến họ phát lòng tin được sinh lên đường lành. Nửa dưới của bài kệ là nói về ma khiếp sợ. Nghóa là ánh sáng chiếu tới cõi trời làm cung điện ma rung chuyển, khiến các ma kinh hãi. Kệ rằng: Dạo chơi các Tam-muội, Bậc nhất trong Tăng-già, Thường hiện ba biến hóa, Để lợi ích chúng sinh. Giải thích: Nửa trên của bài kệ là nói về hí nghiệp, là ở trong Phật và Đại chúng mà vui chơi trong định một cách tự tại. Nửa dưới của bài kệ là nói về hóa nghiệp. Hóa nầy có ba thứ: Nghiệp hóa, là với tay nghề tinh xảo có thể biến hóa tự tại. Tùy hóa là theo chúng sinh cầu, đều biến hóa tự tại. Thượng hóa là biến hóa vượt trội như trụ ở cõi trời Đâu-suất… Do ba biến hóa nầy mà thường làm lợi ích cho chúng sinh. Kệ rằng: thứ: Trí lực khắp, tự tại, Tùy muốn hiện cõi nào, Không Phật, giúp nghe Phật. Đưa thẳng có cảnh Phật. Giải thích: Bài kệ là nói về nghiệp thanh tịnh, nghiệp nầy có hai Cõi nước thanh tịnh. Chúng sinh thanh tịnh. Nửa trên của bài kệ là nói về cõi nước thanh tịnh, là đối với thế giới không có Phật, Bồ-tát có công năng giúp họ nghe pháp Phật, phát lòng tin thanh tịnh, như được sinh nơi có Phật. Đã nói về nghiệp dụng, kế là nói về tương ưng. Kệ rằng: Sức thành thục chúng sinh, Điều Chư Phật khen ngợi, Nói ra ai cũng tin, Như vậy tương ưng nhau. Giải thích: Thần thông tương ưng, có ba thứ: Tương ưng với việc thành tựu chúng sinh, như cánh chim mới được thành tựu. Tương ưng với lời khen ngợi là thường được Chư Phật khen ngợi. Tương ưng với sự tin nhận là hễ mình nói ra lời gì cũng được các người tin nhận. Đã nói tương ưng, sau đây nói về an trụ đầy đủ trong thần thông. Kệ rằng: nhau: Sáu trí và ba minh, Tám giải, tám thắng xứ, Mười biến, các Tam-muội, Mạnh mẽ giúp thần thông. Giải thích: Bồ-tát an trụ đầy đủ trong thần thông, có sáu thứ khác Sáu trí. Ba minh. Tám giải thoát. Tám thắng xứ. Mười biến nhập. Các Tam-muội. Sáu nghóa như vậy, là do phân biệt sự khác nhau của thần thông đầy đủ. Đã nói trụ đầy đủ trong thần thông, kế nói khen ngợi thần thông quảng đại. Kệ rằng: Năng an không tự tại, Thường siêng lợi ích vật, Hành có không sợ hãi, Mạnh mẽ như sư tử. Giải thích: Thần thông của Bồ-tát, có ba thứ đại: Tự tại đại, bị chúng sinh do phiền não nên không được tự tại, Bồ-tát có sức mạnh của trí tuệ có công năng tự tại ở bất cứ nơi nào. Vui mừng đại do siêng làm các lợi ích cho chúng sinh nên có một niềm vui hoàn toàn như vậy. Không sợ đại, đi trong ba cõi mạnh mẽ như sư tử. ------------------------ <詞>Phẩm Thứ 9: THÀNH THỤC Giải thích: Đã nói thần thông của các Bồ-tát. Các Bồ-tát làm thế nào để tự thành thục? Kệ rằng: Dục, tín, xả, bi, nhẫn, Đủ niệm, lực, kiên, chi. Nên biết, tự thành thục, Chín ấy đều thượng phẩm. Giải thích: Bồ-tát có chín thứ lớp thành thục: Ham muốn thành thục, vì mong cầu pháp Đại thừa. Lòng tin thành thục, vì nói pháp với tâm thanh tịnh. Buông xả thành thục, vì dứt, lìa phiền não. Tâm thương xót thành thục, vì thương xót chúng sinh. Nhẫn nhục thành thục, vì có công năng làm những việc khó làm. Niệm thành thục, thọ trì tất cả. Sức mạnh thành thục, vì thông đạt tất cả. Vững chắc thành thục, vì ác ma, ngoại đạo, không thể đọa lấy. Bạn hữu thành thục, do phần thiện tròn đầy. Vì chín thứ địa vị tối thượng cùng cực như vậy, nên gọi là thành thục tướng. Chín thứ thành thục nầy, mỗi thứ đều có nhân, có thể, có nghiệp, nay sẽ nói. Kệ rằng: Gần bạn, nghe suy nghó, Mạnh hơn, rốt ráo hơn, Nhiếp pháp, và thọ pháp, Nói dục tướng (thành) thục. Giải thích: Gần gũi bạn lành, lắng nghe chánh pháp, suy nghó như chánh pháp. Từ ba điều ấy, phát sinh tâm ham muốn lớn lao, đó gọi là nhân ham muốn. Thượng đại tinh tấn là tất cả không có nghó bàn, hoàn toàn không nghi ngờ. Đó gọi là thể của ham muốn. Đối với pháp Đại thừa, nơi nào xảy ra tai nạn bất ngờ thì có công năng giữ gìn. Những gì mà Bồ-tát nói để khiến có lòng tin, nhận lãnh thì gọi là nghiệp ham muốn. Kệ rằng: Nhóm phước trí Như lai, Tâm tịnh không thể hoại, Mau thọ quả trí định, Nói tướng tin, thành thục. Giải thích: Tức Bà-già-bà đã nói rộng như thế, đó gọi là nhân của lòng tin. Nó được thanh tịnh, không hư hoại, đó gọi là thể của lòng tin. Được quả trí định gọi là nghiệp của lòng tin. Kệ rằng: Khéo giữ gìn sáu căn, Lìa ác khởi đối trị. Thích tu các pháp lành, Nói xả tướng thành thục. Giải thích: Do nương vào niệm mà khéo giữ gìn sáu căn, gọi là nhân buông xả. Lìa hiểu biết bất thiện, phát khởi đạo Vô gián, gọi là thể của buông xả. Thường thích tu tập pháp lành, gọi là nghiệp của buông xả. Kệ rằng: Thấy các chúng sinh khổ, Thương xót, lìa tâm Tiểu, Được thần đẹp thế gian, Nói tướng bi thành thục. Giải thích: Bồ-tát thấy chúng sinh khổ, gọi là nhân thương xót. Từ đó phát sinh lòng thương vô hạn, xa lìa tâm Tiểu thừa. Đây gọi là thể của tâm xót thuơng. Được tất cả chỗ tốt đẹp của thế gian mà không lui sụt, gọi là nghiệp của tâm thương xót. Kệ rằng: Giữ tính thuờng tu, tập Rất khổ, an nhẫn được, Thường ưa thích thiện căn, Nói tướng nhẫn thành thục. Giải thích: Giữ tính nhẫn nại gọi là cánh cửa thường tu tập thành tính, gọi là nhân của nhẫn nhục, có công năng chịu khổ rất giá rét, đó gọi là thể của nhẫn. Tùy nơi sinh tốt đẹp mà thường tu pháp lành, đó gọi là nghiệp nhẫn. Kệ rằng: Thuận theo báo tịnh thiện,, Nói đi sâu thiện, ác, Năng khởi đại Bát-nhã, Nói tướng niệm thành thục. Giải thích: Được đồ chứa đựng trong sạch, gọi là nhân của niệm. Từ hai nghóa thiện, ác, mà mình nghe, suy nhó, tu tập đến chỗ sâu xa, không quên. Đó gọi là thể của niệm, phát sinh trí Bát-nhã xuất thế, đó gọi là nghiệp của niệm. Kệ rằng: Hai nhóm giới tròn đầy, Quả sinh, nương trên hết, Thế gian được bậc nhất. Nói tướng sức thành tựu. Giải thích: Hạt giống của hai nhóm phước trí đầy khắp, đó gọi là nhân của sức mạnh. Có công năng được nương trên hết, là thể của sức mạnh. Tùy ý thành thục bậc nhất ở thế gian, gọi là sức mạnh của nghiệp. Kệ rằng: Quán sâu lý diệu pháp, Các ma không thể đoạt, Có thể vượt bộ khác, Nói tướng kiên thành thục. Giải thích: Đưa tâm ý quán xét đạo lý của pháp mầu nhiệm, đó gọi là vững chắc. Ác ma Ba-tuần không thể chướng ngại nổi, đó gọi là thể của vững chắc. Có thể gây ra lỗi lầm cho bộ chúng khác, đó gọi là nghiệp kiên cố. Kệ rằng: Tất cả nhóm gốc lành, Phát sinh do nương siêng, Lìa ác, và tu lành, Nói tướng chi thành thục. Giải thích: Nhóm thiện căn thành thục, đó gọi là nhân của chi. Dựa vào nhân nầy, phát sinh siêng năng hơn nữa, đó gọi là thể của chi. Lìa các bất thiện, thích tu thiện vượt cao, đó gọi là nghiệp của chi. Kệ rằng: Chín thứ vật như thế, Tự thục cũng thục người, Thêm thiện, thêm pháp thân, Như thân nhất trên đời. Giải thích: Chín vật như Dục, v.v… có thể làm thành thục, cũng có thể khiến cho người khác được thành thục. Thường tăng thêm tất cả gốc lành và thêm lớn pháp thân. Vì hai thứ tăng thêm nầy mà tương tự như người thân nhất trên đời. Đã nói Bồ-tát tự thành thục kế là nói Bồ-tát thành thục chúng sinh. Kệ rằng: Nhọt chín muồi phải trị, Nấu chín mới ăn được. Chúng sinh thục cũng vậy, Vì hai phần xả dụng. Giải thích: Hai phần là: Phần chướng ngại. Phần trị. Chướng chín muồi thì phải xả, như ung nhọt chín muồi thì phải nặn vỡ ra. Thục chín thì mới dùng, như đồ ăn nấu chín mới ăn. Đó gọi là nương vào thành thục. Đã nói nương vào thành thục, kế là nói thành thục khác nhau. Kệ rằng: Xả, phổ, thắng, tùy, thiện, Đắc, thường, tiệm là tám, Các thành thục như thế, Là nói chủng khác nhau. Giải thích: Có tám thứ tướng làm cho người khác thành thục: Buông xả thành thục, là giúp chúng sinh dứt phiền não. Phổ thành thục là giáo hóa ba thừa. Thắng thành thục vượt qua pháp ngoại đạo. Tùy thành thục là nói ứng cơ. Thiện thành thục là tâm cung kính. Đắc thành thục là giúp chúng sinh không hiểu trái ngược. Thường thành thục là giúp chúng sinh không bao giờ lui sụt. Tiệm thành thục, khiến thứ lớp tăng thêm. Đã nói sự khác nhau của thành thục. Kế là nói thắng tâm thành thục. Kệ rằng: Lợi con, lợi người thân, Lợi mình, ba lợi đẹp. Bồ-tát lợi tất cả, Ba đẹp kia không sánh. Giải thích: Như người đời đem yên vui cho con, cho người thân, cho mình, tâm ấy rất đẹp. Bồ-tát muốn thành thục trùm khắp cho tất cả chúng sinh. Nó vượt khỏi ba tâm kia, không thể sánh bằng, nên gọi là Bồ-tát thành thục cho chúng sinh. Hỏi: Sự tốt đẹp nầy được thành lập ra sao? Kệ rằng: Người đời không thương mình, Huống chi thương người khác. Bồ-tát xả thương mình, Chỉ vì thương người khác. Giải thích: Người đời dù thương yêu mình, nhưng vẫn chưa sống an vui sung sướng, huống chi là thương yêu người khác, làm lợi ích cho họ. Bồ-tát không như vậy, là bỏ đi sự thương yêu mình mà chỉ lo thương yêu người, cho nên Bồ-tát thành thục chúng sinh vượt cao khỏi tình thuơng vị kỷ. Hỏi: Vận dụng tâm vượt hơn nầy để thành thục ra sao? Kệ rằng: Thân, của xả tất cả, Bình đẳng, không nhàm chán, Ai thiếu giúp đầy đủ, An lập vào gốc lành. Giải thích: Bài kệ nầy nói về Đàn Ba-la-mật để thành thục chúng sinh. Có ba thứ Đàn (bố thí): Tư sinh Đàn là tất cả cái gì trong thân và của cải bên ngoài đều đều buông xả. Bình đẳng Đàn là đối việc bố thí bỏ đi ý niệm cao, thấp. Vô yếm Đàn: Mãi hăng hái bố thí, không thấy mệt mỏi. Vì hoàn cảnh mà gom chúng sinh về bằng ba Đàn nầy, cho cả hai đời và trong hiện tại thì giúp họ đầy đủ, và an lập cho họ gốc lành trong đời vị lai. Kệ rằng: Thường với tính và mãn, Tự vui không buông lung. Dẫn họ vào giới đủ, Hai quả thường không hết. Giải thích: Bài kệ nầy nói về Thi Ba-la-mật thành thục chúng sinh. Bồ-tát có năm thứ Thi-la (giới): Thường Thi-la là đời đời thường có Thi-la. Tự tính Thi-la là tâm không dụng công mà vẫn an trụ trong thể chân thật của Thi-la. Tròn đầy Thi-la là sống đầy đủ với mười nghiệp đạo thiện, như kinh Thập Địa nói. Tự ưa Thi-la là ưa thích. Bất buông lung Thi-la là niệm niệm không phạm. Bởi hoàn cảnh mà gom chúng sinh bằng năm Thi-la nầy cho cả hai đời và trong hiện tại thì an lập phẩm giới, và giúp họ nương vào quả báo hai công đức không bao giờ dứt mất ở đời vị lai. Kệ rằng: Không lợi, được tưởng lợi, Tột nhẫn hiểu phương tiện, Khiến họ khởi thuận theo, Và gieo các gốc lành. Giải thích: Bài kệ nầy nói về Sằn-đề (Nhẫn nhục) Ba-la-mật để thành tựu chúng sinh. Nếu ai đem việc không có lợi ích cho Bồ-tát, thì đối với họ, Bồ-tát khởi tâm nhẫn nhục cao tột làm cho họ hiểu lợi ích. Vì sao? Vì theo hoàn cảnh họ gây ra mà ta sống cao hơn nữa về nhẫn nhục Ba-la-mật. Và cũng tùy hoàn cảnh dùng nhẫn gom chúng sinh về trong cả hai đời, trong hiện tại khiến họ quay về chánh đạo, và giúp họ gieo gốc lành đời vị lại. Kệ rằng: Nhiều kiếp tu siêng năng, Tâm không lùi lợi vật, Khiến sinh một niệm lành, Huống muốn vô lượng thiện? Giải thích: Bài kệ nầy nói về Tỳ-lê-gia (Tinh tấn) Ba-la-mật thành thục chúng sinh. Trong ức trăm ngàn kiếp, Bồ-tát thực hành siêng năng trên hết thành thục vô biên chúng sinh, nhưng tâm không lui sụt. Và tùy hoàn cảnh đem tinh tấn gom chúng sinh về trong cả hai đời, và trong hiện tại khiến họ phát sinh một ý niệm lành, huống chi giúp cho họ có vô lượng gốc lành tăng lên mãi trong đời vị lai. Kệ rằng: Được thiền tự tại trên, Lìa nhiễm và kiến, mạn, Hiện tại giúp quy hướng, Vị lại, pháp lành tăng. Giải thích: Bài kệ nầy nói về Thiền Ba-la-mật để thành thục chúng sinh. Bồ-tát được thiền định xa lìa ái, kiến, mạn, v.v… nên được tự tại trên hết. Và tùy hoàn cảnh, lấy đây gom nhiếp chúng sinh về, trong cả hai đời là trong hiện tại thì khiến họ quay về pháp mầu bậc nhất và giúp họ tăng lên mãi gốc lành ở đời vị lai. Kệ rằng: Biết chân và biết ý, Dứt được tất cả nghi, Khiến cung kính chánh pháp, Công đức mình, người mãn. Giải thích: Bài kệ nầy nói về Bát-nhã Ba-la-mật thành thục chúng sinh. Biết chân thật là hiểu pháp không bị trái ngược. Biết ý là vì biết hoạt động trong tâm chúng sinh mà dứt ngờ vực cho họ. Và tùy hoàn cảnh, lấy Bát-nhã nầy mà gom nhiếp chúng sinh về, trong cả hai đời và trong hiện tại thì khiến họ quay về, sinh tâm cung kính pháp sâu xa và giúp công đức tự thân họ và công đức tự thân người đều tròn đầy trong đời vị lai. Kệ rằng: thứ: Đường lành và ba thừa, Đại bi có ba phẩm, Cùng tận mé vị lai, Như thế thục chúng sinh. Giải thích: Bài kệ nầy nói về tướng thành thục lớn lao. Có ba Giai vị lớn lao là cùng cực bốn địa vị mà an lập con đường lành cho cả ba thừa. Phẩm lớn lao rốt ráo đại bi có ba phẩm. Phẩm dưới thuộc địa Tín, hạnh. Phẩm giữa là từ Sơ địa đến địa thứ bảy. Phẩm trên thuộc các địa tám, chín, mười. Thời gian lớn lao là thời gian vô biên đến tận cùng bờ mé vị lai, Bồ-tát vẫn làm lợi ích cho chúng sinh đến đó. Đó gọi là tướng thành thục lớn lao.  LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH <卷>QUYỂN 3 <詞>Phẩm Thứ 10: BỒ-ĐỀ Giải thích: Đã nói về Bồ-tát thành thục chúng sinh rồi. Kế là nói Bồ-tát chứng đắc Nhất Thiết chủng trí. Kệ nêu: Đã làm các việc khó, Đã nhóm các điều lành, Đã vượt các thời gian, Đã dứt các chướng ngại. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nhân tròn đầy của Nhất thiết chủng trí. Tất cả các việc khó đã làm là có tràn đầy công hạnh cho nên có thể làm trăm ngàn việc khó làm, làm nhưng không thấy mỏi mệt. Đã nhóm về các điều lành là đã xếp vào đầy đủ tất cả tự tính gốc lành Ba-la-mật. Đã vượt qua tất cả thời gian là đã trải qua thời gian dài đầy đủ đại kiếp A-tăng-kì. Đã dứt các chướng ngại: Là dứt trừ trọn vẹn tất cả các chướng ngại đối với pháp Đại thừa, nghóa là những chướng ngại nhỏ nhiệm ở các địa. Kệ rằng: Thành tựu Nhất thiết chủng, Đây tức là thân Phật, Như rương báu đã mở, Các báu đều bày ra. Giải thích: Bài kệ nầy nói về quả tròn đầy của Nhất thiết chủng trí, nó có ba nghóa khác nhau: Chí đắc. Tự tính. Thí dụ. Thành tựu Nhất thiết chủng trí: là phân biệt chí đắc, do từ đây trở đi đã thành tựu Nhất thiết chủng trí. Đây tức là thân Phật, nghóa là tự tính phân biệt, là nói Nhất thiết chủng trí là thể của thân Phật. Như rương báu đã mở, các báu đều bày ra nghóa là thí dụ cho các phần Bồ-đề đều hiện ra trước mắt. Đã nói Nhất thiết chủng trí là thân Phật. Kế là nói về không hai tướng. Kệ rằng: Pháp trắng là thân Phật, Chẳng không, cũng chẳng có, Phật là nhân pháp bảo, Pháp là nhân gốc lành. Giải thích: Pháp trắng là thân Phật có nghóa là vì thể của Phật là chuyển tất cả các pháp lành trong sáu Ba-la-mật. Chẳng không cũng chẳng có là thể nầy chẳng phải là không. Vì sao? Vì chân như chẳng khác nhau. Cũng lại chẳng phải có, vì sao? Vì tự tính không thành tựu, đây gọi là không hai tướng. Phật là nhân của pháp bảo nghóa là Phật nói tất cả pháp và sức thần thông của Phật. Pháp là nhân của gốc lành nghóa là chúng sinh là ruộng, gốc lành là lúa thóc. Như vậy, pháp bảo đã giáo hóa ruộng chúng sinh, khiến lúa thóc gốc lành sinh trưởng. Kệ rằng: Đủ pháp cũng lìa pháp, Như kho tàng, như mây, Sinh mưa pháp, mưa pháp, Nên thành dụ như thế. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nghóa trước. Đầy đủ pháp lành, cũng lìa pháp: Là Chư Phật có đủ các pháp lành, lìa tất cả pháp bất thiện. Như kho tàng, như mây là Phật bảo như kho tàng, Pháp bảo như mây Hỏi: Cái ấy, có nghóa gì? Đáp: Sinh ra mưa pháp, mưa pháp nên có thí dụ như vậy. Phật bảo có công năng sinh ra pháp bảo, giống như một kho tàng mênh mông. Pháp bảo có công năng sinh trưởng gốc lành cho các chúng sinh, giống như vầng mây lớn. Đã nói thân Phật là tướng không hai. Kế là nói thân Phật là chỗ quy y Vô thượng. Kệ rằng: Chư Phật thường cứu giúp, Chúng sinh ba nhiễm ô, Các hoặc hành vi ác, Cho đến sinh, già, chết. Giải thích: Bài kệ nầy nói lược ý nghóa của sự cứu giúp. Chư Phật thường cứu giúp nghóa là cứu giúp rốt ráo. Hỏi: Cứu giúp bằng cách nào? Đáp: Cứu giúp chúng sinh ba nhiễm ô là ô nhiễm do phiền não, ô nhiễm do nghiệp, nhiễm do đời sống. Các mê lầm là phiền não nhiễm ô. Các hành vi ác là nghiệp nhiễm ô. Cho đến sinh, già, chết là đời sống ô nhiễm. Hỏi: Vì sao phải cứu giúp? Đáp: Cứu giúp ba thứ ô nhiễm ấy của chúng sinh, không buông xả bất cứ lúc nào. Đó là ý nghóa rốt ráo. Kệ rằng: Các hoạn và đường ác, Thân kiến cũng Tiểu thừa, Các chúng sinh như vậy, Tất cả đều cứu giúp. Giải thích: Bài kệ trên đây là sáng tỏ nghóa lớn của việc cứu giúp. Các họa như chúng sinh đui, điếc, câm, ngọng, điên khùng, thân tàn tật, nhưng do sức mạnh của Phật mà người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm nói được, người khùng trở lại tỉnh biết, người rối loạn được ổn định, người tàn tật được đầy đủ thân thể. Cứu giúp là như vậy. Đường ác là chúng sinh trong địa ngục bị lửa cháy thân, thì cứu giúp họ khỏi khổ, không còn trở vào chốn ấy nữa. Cứu giúp là như vậy. Thân kiến là chúng sinh đắm ngã, giúp họ hiểu được nhân vô ngã, chứng nhập Niết-bàn Nhị thừa. Cứu giúp là như vậy. Tiểu thừa là tính của Nhị thừa. Chúng sinh không nhất định mới dùng phương tiện đắt dẫn vào Đại thừa. Cứu giúp là như vậy. Kệ rằng: Phật là chỗ quy tốt, Không ai sánh, Vô thượng, Như các sợ hãi trước, Ai, Phật cũng cứu thoát. Giải thích: Bài kệ nầy nói về chỗ nương tốt đẹp. Do không có gì dụ cho Phật được, nên không còn ai ở trên Phật. Thế nên, như trước đã nói, chúng sinh ba thứ nhiễm ô và các hoạn nạn khác nhau của chúng sinh, tất cả đều được Phật cứu giúp. Kệ rằng: Thân Chư Phật trọn lành, Hơn tất cả thế gian, Pháp mầu hóa chúng sinh, Để qua biển Đại bi. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nhân cao cả của sự nương. Thân Chư Phật trọn lành, hơn các người ở trên đời, ấy là do tự lợi đến chỗ rốt ráo, do sức mạnh vô úy… Mà tự tính các công đức đều tròn đầy. Pháp mầu giáo hóa chúng sinh, để vượt qua biển Đại bi là: Khéo biết dùng phương tiện mà giáo hóa chúng sinh và từ biển đại bi, vượt qua các thứ, rốt ráo tới được bờ bên kia. Kệ rằng: Tận cùng mé vị lai, Trùm khắp thảy chúng sinh, Thường đem lợi cho họ, Là nói quy y lớn. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nghóa lớn của sự quy y. Có ba ng- hóa: Chỉ rõ thời gian lớn lao đến tận cùng bờ mé sinh tử của tất cả chúng sinh. Cảnh lớn lao, Phật lấy tất cả chúng sinh làm đối tượng giáo hóa. Sự nghiệp lớn lao, bất cứ lúc nào cũng đem lại lợi ích thoát khổ cho chúng sinh, giúp họ ra khỏi các khổ não. Đã nói quy y Vô thượng, ở đây nói tiếp tướng chuyển y của Như lai. Kệ rằng: Hai chướng chủng hằng theo, Diệt các phía, tận cùng. Nên pháp trắng tròn đầy, Chuyển y thành hai đường. Giải thích: Bài kệ nầy nói về sự chuyển y có hai là chứng đắc và lìa bỏ. Hai chướng chủng hằng theo mãi, diệt chúng từ các phía đến tận cùng nghóa là nói rõ phần cần đối trị giờ đã buông xả xa lìa, là hai hạt giống chướng của phiền não và của hiểu biết, từ vô thỉ đến giờ, chúng theo đuổi mãi, giờ đây chúng bị tận diệt hoàn toàn. Những thứ bao gồm trong các địa làm các thứ đều bị cắt đứt hết. Nên pháp trắng tròn đầy, chuyển y thành tựu hai con đường là, đây nói về thành tựu năng trị, nghóa là thể Phật tương ưng với pháp trắng tối thượng tròn đầy. Bấy giờ nương theo đó mà chuyển lên thành tựu hai con đường. Trí đạo xuất thế gian hoàn toàn thanh tịnh. Chứng đắc vô biên cảnh giới trí đạo đã biết, đó gọi là chuyển Kệ rằng: Như lai trụ nơi đó, Không động, như núi chúa, Còn thương người ưa diệt, Huống đắm vào các cõi. Giải thích: Bài kệ nầy nói về sự chuyển y của Như lai là hơn hết trong các chuyển y. Vì sao? Vì Như lai chuyển y, an trụ trong bờ bến vô lậu, như ngọn núi chúa đứng vững trong đất chắc, không bị lay động. Chuyển y như vậy rồi, Như lai còn thương xót khi thấy Thanh văn, Duyên giác là những người ưa thích Niết-bàn. Huống chi vô số chúng sinh sống ở biên địa thấp hèn mắc biết bao khổ não, hữu lậu. Kệ rằng: Lợi tha và Vô thượng, Không chuyển và không sinh, Rộng lớn và không hai, Không trụ cũng bình đẳng, Thù thắng và trao khắp, Là nói Như lai chuyển, Nêu bày mười công đức, Nghóa khác nhau, nên biết. Giải thích: Bài kệ nầy nói về sự chuyển y của Như lai gồm có mười công đức khác nhau: Chuyển có nghóa lợi tha là Như lai đã chuyển y rồi còn làm lợi ích cho kẻ khác. Chuyển Vô thượng là Như lai đã chuyển rồi, thường được tự tại đối với tất cả pháp, vượt hơn lối chuyển của Nhị thừa. Chuyển mà không chuyển là Như lai chuyển y rồi, nhưng đối với các nhân duyên gây ô nhiễm Như lai không thể chuyển nó, mà các nhân ấy phải nương vào những cái khác mà chuyển chúng. Chuyển bất sinh là Như lai đã chuyển y rồi, nên tất cả pháp nhiễm ô hoàn toàn không còn khởi lên nữa. Chuyển một cách rộng lớn là Như lai đã chuyển y rồi, Như lai thị hiện chứng Đại Bồ-đề và nhập Niết-bàn. Chuyển không hai là Như lai chuyển y rồi, thì thấy sinh tử, Niết-bàn không hai. Chuyển không an trụ là Như lai đã chuyển y rồi, Như lai đều không trụ ở hữu vi, hay vô vi. Chuyển bình đẳng là Như lai chuyển y rồi, Như lai cùng giải thoát phiền não ngăn lấp như Thanh văn, Duyên giác. Chuyển cao quý là Như lai chuyển y rồi, tất cả pháp Phật như mười lực, bốn vô úy, chẳng pháp nào sánh bằng. Chuyển dạy trao rộng khắp là Như lai đã chuyển y rồi, Như lai dùng tất cả thừa mà trao dạy trao bảo. Kệ rằng: Như hư không trùm khắp, Phật cũng trùm tất cả, Hư không trùm các sắc, Chư Phật trùm chúng sinh. Giải thích: Bài kệ nầy nói về thể Phật trùm khắp cả như hư không. Hai câu đầu là nói thẳng, hai câu sau là giải thích, thí dụ như hư không bao trùm các nhóm sắc. Thể tính Phật cũng vậy, là bao trùm tất cả nhóm chúng sinh. Nếu trước mắt, chúng sinh không thấy Phật, rồi bảo rằng tự thể Phật không bao trùm, thì nghóa ấy là không đúng, vì chúng sinh chưa thành Phật. Kệ rằng: Như đồ chứa nước bể, Trăng không hiện ra được, Chúng sinh lỗi như thế, Bóng Phật cũng không hiện. Giải thích: Bài kệ nầy nói về thể của Phật dù có trùm khắp, nhưng chúng sinh không thấy, như đồ chứa nước bị bể (nước chảy hết) thì không thấy được bóng mặt trăng. Chúng sinh mắc nhiều lỗi lầm, cho nên không thấy hình Phật. Từ đó, nghóa nầy được thành lập. Kệ rằng: Như tính của đống lửa, Dù cháy hay tắt ngấm, Hóa thân Phật cũng thế, Xuất hiện nhập Niết-bàn. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc Phật giáo hóa khi ẩn khi hiện, như tính lửa có lúc cháy, có lúc tắt. Sự giáo hóa của Chư Phật cũng vậy, có lúc thì hiện ra đời, có lúc thì hiện nhập Niết-bàn. Đã nói chuyển y của Như lai, kế là nói sự nghiệp của Như lai thường vô dụng công. Kệ rằng: Châu như ý, trống trời, Tự nhiên thành việc mình, Phật hóa và Phật nói, Vô tư cũng thế ấy. Giải thích: Bài kệ nầy nói về Phật sự không dụng công, như ngọc báu như ý dù vô tâm, nhưng có công năng làm các thứ biến hóa hiện. Như lai cũng vậy, dù không dụng tâm cho công việc, nhưng tự nhiên có công năng làm phát sinh các thứ biến hóa. Như trống trời dù là vô tâm, nhưng tự nhiên có công năng phát ra nhiều thứ âm thanh, Như lai cũng vậy, dù không dụng tâm cho công việc, nhưng tự nhiên có công năng nói nhiều thứ pháp mầu, Kệ rằng: Nương không, nghiệp không dứt, Nhưng nghiệp có thêm bớt, Nương cảnh việc không dứt, Nhưng sự có sinh, diệt. Giải thích: Bài kệ nầy nói về Phật sự không xen hở. Như người đời nương theo hư không mà họ làm việc không bị đứt quãng, Chư Phật cũng vậy là nương vào cảnh giới vô lậu mà làm Phật sự cũng không đứt quãng. Như người đời nương vào hư không mà làm việc có thêm, có bớt, Chư Phật cũng vậy, là nương vào cảnh giới vô lậu mà làm Phật sự cũng có sinh diệt. Đã nói về tâm không dụng công nhưng vẫn không buông xả Phật sự, kế là, nói pháp giới vô lậu sâu xa. Kệ rằng: Như trước sau cũng vậy, Xa lìa tất cả chướng Chẳng tịnh chẳng bất tịnh, Phật nói gọi là như. Giải thích: Bài kệ nầy nói về tướng thanh tịnh của pháp giới dù trước hay sau cũng vậy. Cái gọi là chẳng tịnh vì tự tính không ô nhiễm. Xa lìa tất cả chướng, gọi là chẳng phải bất tịnh là bởi sau đó khách trần đã ra đi. Chẳng tịnh, chẳng bất tịnh, Phật gọi là như, nghóa là chẳng tịnh, chẳng bất tịnh, đó gọi là tướng pháp giới thanh tịnh. Kệ rằng: Thanh tịnh, không, vô ngã, Phật nói ngã bậc nhất, Bởi Chư Phật ngã tịnh, Nên Phật gọi Đại ngã. Giải thích: Bài kệ nầy nói về tướng của pháp giới Đại ngã. Thanh tịnh không, vô ngã, là cảnh giới vô lậu nầy, lấy vô ngã bậc nhất làm tự tính. Phật nói ngã bậc nhất nghóa là vô ngã bậc nhất nầy gọi là thanh tịnh như. Thanh tịnh như ấy tức tự tính ngã của Chư Phật, bởi ngã của Chư Phật là thanh tịnh. Cho nên Phật gọi đại ngã là bởi ngã nầy của Phật là thanh tịnh tột cùng, vì vậy Phật lấy hiệu đại ngã là bởi nghóa ấy. Chư Phật lập ra ngã bậc nhất trong cảnh giới vô lậu. Đó gọi là tướng của pháp giới đại nga. Kệ rằng: Phi thể, phi phi thể, Như vậy, nói thể Phật, Cho nên soạn luận nầy, Quyết định pháp vô ký. Giải thích: Bài kệ nầy nói về tướng của vô ký pháp giới. Tạo thể là hai tướng nhân, pháp không thể nói. Chẳng phải phi thể là như tướng là thật có. Như vậy nói Phật thể là do nhân duyên nầy, nên nói thể Phật là chẳng phải thể, chẳng phải phi thể. Cho nên soạn luận nầy, quyết định là pháp vô ký nghóa là: Sau khi chết, Như lai còn. Sau khi chết, Như lai không còn. Sau khi chết, Như lai còn và cũng không còn. Sau khi chết, Như lai không còn, chẳng phải không còn. Bốn trường hợp như vậy không thể ký, nên pháp giới là tướng vô ký. Kệ rằng: Như sắt nóng, đã nguội, Như mắt và thuốc chữa, Tâm trí dứt cũng vậy, Không nói có vô thể. Giải thích: Bài kệ nầy nói về tướng giải thoát của pháp giới. Như sắt nóng đã nguội, như mắt và thuốc chữa nghóa là hai vật thể sắt nóng đã nguội và thuốc chữa mắt có thể nói chẳng phải thể, chẳng phải không thể. Vì sao ? Chẳng phải thể nghóa là do nóng và thuốc không có tướng. Chẳng phải vô thể nghóa là do tướng nguội là có thể. Tâm trí dứt cũng vậy, không nói là có thể nghóa là bằng tâm trí mình, Chư Phật cho ham mê là sức nóng, cho vô minh là thuốc chữa. Nếu dứt trừ hai món ấy, thì cũng gọi là chẳng phải tự thể, chẳng phải không có tự thể. Vì sao? Vì chẳng phải thể là do tham và vô minh đã dứt. Chẳng phải không có tự thể nghóa là do tâm tuệ giải thoát là có, nên gọi là tướng giải thoát của pháp giới. Đã nói tướng sâu xa. Kế là nói về nơi chốn của sự sâu xa, Kệ rằng: Vô lậu giới Chư Phật, Chẳng một cũng chẳng nhiều, Do thuận theo thân trước, Chẳng thân như hư không. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nơi chốn sâu xa của pháp giới. Pháp giới vô lậu của Chư Phật chẳng phải một, chẳng phải nhiều. Vì sao ? Chẳng phải một là do thuận theo thân trước. Chẳng phải nhiều là do chẳng phải thân. Vì sao gọi là chẳng phải thân? Đáp: Vì như hư không. Đây gọi là nơi chốn sâu xa của pháp giới. Đã nói nơi sâu xa, kế là nói về nghiệp sâu xa, Kệ rằng: Thí như kho báu lớn, Là chỗ các báu nương, Pháp giới tịnh cũng thế, Là chỗ pháp Phật nương. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nghiệp nương của pháp giới, do pháp giới thanh tịnh là chỗ nương của các Bồ-đề phần quý báu như mười lực, bốn vô úy… Kệ rằng: Như mây giăng kín khắp, Mưa rưới trăm thóc sinh, Pháp giới tịnh cũng vậy, Dòng lành thục chúng sinh. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nghiệp thành thục chúng sinh trong pháp giới, vì từ pháp giới thanh tịnh, dòng gốc lành tuôn chảy để thành thục chúng sinh. Kệ rằng: Như mặt trời, trăng tròn, Vầng sạch sáng tròn đầy, Pháp giới tịnh cũng vậy, Nhóm gốc lành tròn đầy. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nhóm nghiệp của pháp giới đã tới chỗ rốt ráo, gọi là phước trí của pháp giới thanh tịnh. Như vậy, hai nhóm đã tròn đầy. Kệ rằng: Thí như mặt trời mọc, Toả ánh sáng khắp nơi, Pháp giới tịnh cũng vậy, Nói pháp độ chúng sinh. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nghiệp nói chánh pháp trong pháp giới. Kệ rằng: Như mặt trời sáng chiếu, Đồng việc soi thế gian, Pháp giới tịnh cũng vậy, Phật chung việc giáo hóa. Giải thích: Bài kệ nầy nói về những việc mà giáo hóa đã làm trong pháp giới. Thì như nhiều mặt trời, nhiều ánh sáng cùng lúc chan hòa, cùng lúc làm một việc, như chiếu nóng, khô, v.v… Cũng vậy, nhiều Phật, nhiều trí tuệ chan hòa, cùng lúc làm một việc, như biến hóa, v.v… Kệ rằng: Như mặt trời soi sáng, Cùng lúc không giới hạn, Cõi tịnh, ánh Phật chiếu, Hai việc cũng như vậy. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nghiệp vô phân biệt của pháp giới. Như mặt trời chiếu khắp không giới hạn cùng lúc, ánh sáng Phật chiếu khắp không hạn lượng và cùng lúc cũng như vậy. Kệ rằng: Như ánh sáng mặt trời, Có lúc mây che khuất, Trí Phật trong cõi tịnh, Có lúc chúng sinh che. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nghiệp không tạo tác của pháp giới. Như mặt trời bị mây che mất ánh sáng, ánh sáng của Phật bị che khuất vì lỗi lầm của chúng sinh, do quá nhiều năm trược, nên không có việc được làm. Kệ rằng: Như đổ nhiều lượng tro, Nhuộm áo, các màu sắc, Sức hạnh nguyện cõi tịnh, Giải thoát các thứ trí. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nghiệp trí giải thoát của pháp giới. Như nhuộm áo bằng tro đậm, nhưng có chỗ ăn màu, có chỗ không ăn màu. Cõi tịnh của ba thừa cũng như vậy, vì sức mạnh của hạnh nguyện mà Chư Phật giải thoát được các thứ trí, còn Nhị thừa không giải thoát được các trí. Kệ rằng: Cõi vô lậu sâu xa, Ba thứ: Tướng, xứ, nghiệp, Chư Phật nói như vậy, Như nhuộm, vẽ hư không. Giải thích: Bài kệ nầy nói về một lần nữa nghóa sâu xa đã nói ở trước, của ba thứ tướng, xứ, nghiệp sâu xa cõi vô lậu. Cõi vô lậu nầy, Đức Thế Tôn nói lược có ba thứ sâu xa: Tướng sâu xa. Xứ sâu xa. Nghiệp sâu xa. Tướng sâu xa có bốn thứ: Tướng thanh tịnh. Tướng Đại ngã. Tướng vô ký. Tướng giải thoát. Theo thứ lớp, thì bốn bài kệ trước nói về một món là xứ sâu xa. Nghóa là không trụ vào một hay nhiều. Bài kệ thứ năm nói về nghiệp sâu xa có tám thứ: Nghiệp nương vào chân thật. Nghiệp thành thục chúng sinh. Nghiệp tới chỗ rốt ráo. Nghiệp nói chánh pháp. Nghiệp làm việc giáo hóa. Nghiệp không còn phân biệt. Nghiệp của trí không còn tạo tác. Nghiệp của trí giải thoát. Theo thứ lớp ấy, thì tám bài kệ sau có nói rõ. Chư Phật nói như vậy, như nhuộm, vẽ trên hư không là cõi vô lậu nầy, không có hí luận, cũng như hư không, nên sâu xa. Nói nghóa khác nhau của sâu xa như vậy là như nhuộm, vẽ trên hư không. Phải biết nghóa ấy. Kệ rằng: Tất cả không khác nhau, Vì được như thanh tịnh, Nên nói các chúng sinh, Gọi là Như lai tạng. Giải thích: Bài kệ nầy nói về pháp giới là Như lai tạng. Không có sự khác nhau là tất cả chúng sinh, tất cả Chư Phật không có chỗ khác nhau, nên gọi là Như. Được Như thanh tịnh là chứng thanh tịnh như, lấy đó làm tự tính, nên gọi là Như lai. Do nghóa ấy, nên có thể nói tất cả chúng sinh đều gọi là Như lai tạng. Đã nói cõi vô lậu sâu xa. Kế là nói sự biến hóa của Chư Phật. Kệ rằng: Thanh văn và Duyên giác, Bồ-tát và Như lai, Mới dạy, lui thế gian, Đến Phật, lui Bồ-tát. Giải thích: Bài kệ nầy nói về biến hóa tăng thượng. Tất cả biến hóa của thế gian, biến hóa của Thanh văn là có thể thoái lui. Tất cả biến hóa của Thanh văn, biến hóa của Duyên giác có thể thoái lui. Tất cả biến hóa của Duyên giác, biến hóa của Bồ-tát đều có thể thoái lui. Tất cả biến hóa của Bồ-tát, biến hóa của Chư Phật đều có thể thoái lui. Không có sự biến hóa của một người nào có thể làm thoái lui sự biến hóa của Chư Phật, cho nên sự biến hóa của Như lai là đạt được tăng thượng tột cùng. Kệ rằng: Phật biến hóa như vậy, Vô lượng không nghó bàn, Tùy người, tùy thế giới, Tùy lúc, các thứ hiện. Giải thích: Bài kệ nầy nói về sự biến hóa sâu xa. Có hai thứ sâu xa: Vô lượng. Không thể nghó bàn. Hỏi: Việc đó ra sao? Đáp: Tùy trình độ con người, tùy thế giới, tùy lúc mà làm các thứ biến hóa hoặc nhiều hoặc ít các thứ biến hóa. Vô lượng như vậy, cũng là bất tư nghì. Cho nên sự biến hóa của Như lai thật là sâu xa. Từ đó trở xuống là nói về biệt chuyển biến hóa. Kệ rằng: Năm căn chuyển như vậy, Biến hóa được tăng thượng, Các nghóa khắp việc làm, Ngàn hai trăm công đức. Giải thích: Bài kệ nầy nói về sự chuyển của năm căn biến hóa. Biến hóa nầy được hai thứ tăng thượng: Được các nghóa trùm khắp các việc làm, nghóa là mỗi căn đều dùng lẫn cho nhau tất cả cảnh giới. Được một ngàn hai trăm công đức, là mỗi căn đều được một ngàn hai trăm công đức. Kệ rằng: Như vậy, ý căn chuyển, Biến hóa được tăng thượng, Cực tịnh, vô phân biệt, Thường hành theo biến hóa. Giải thích: Bài kệ nầy nói về chuyển ý căn biến hóa. Ý căn là thức nhiễm ô. Do chuyển thức nầy nên chứng được trí vô phân biệt rất thanh tịnh. Trí nầy, theo việc làm với hạnh của mình mà biến hóa tất cả. Kệ rằng: Như thế nghóa chuyển thọ, Biến hóa được tăng thượng, Tịnh độ như ý muốn, Thọ dụng đều hiện ra. Giải thích: Bài kệ nầy nói về chuyển nghóa thọ biến hóa. Nghóa là năm trần, thọ là năm thức. Vì hai thứnầy chuyển mà cõi nước thanh tịnh. Các mong cầu đều hiện trước mặt, tùy ý mà thọ dùng. Kệ rằng: Phân biệt chuyển như vậy, Biến hóa được tăng thượng, Nghiệp mà các trí làm, Thời thường hành vô ngại. Giải thích: Bài kệ nầy nói về chuyển phân biệt biến hóa. Phân biệt là ý thức, vì thức nầy huyển nên các việc mà các trí đã làm được biến hóa bất cứ lúc nào mà không có chướng ngại. Kệ rằng: An lập chuyển như vậy, Biến hóa được tăng thượng, Câu: Trụ Phật bất động, Là không trụ Niết-bàn. Giải thích: Bài kệ nầy nói về chuyển an lập biến hóa. An lập là khí thế giới nầy. Do chuyển an lập nầy cho nên an trụ trong pháp giới vô lậu bất động của Phật. Chứng không nhập Niết-bàn, thường khởi tăng thượng biến hóa. Kệ rằng: Chuyển dục nhiễm như vậy, Biến hóa được tăng thượng, Trụ Phật vui Vô thượng, Thị hiện vợ, bất nhiễm. Giải thích: Bài kệ nầy nói về chuyển dục nhiễm biến hóa. Vì sự chuyển nầy nên được hai thứ biến hóa: Được an vui trú Vô thượng. Được bất nhiễm đối với vợ. Kệ rằng: Chuyển không tưởng như vậy, Biến hóa được tăng thượng, Theo muốn, được tất cả, Đến đâu không chướng ngại. Giải thích: Bài kệ nầy nói về chuyển không tưởng biến hóa. Vì chuyển nầy nên được hai thứ biến hóa: Các mong muốn đều được, vì chứng được hư không tạng. Được đi lại không có gì chướng ngại, vì chứng được hư không giải. Kệ rằng: Vô lượng chuyển như thế, Vô lượng hóa như thế, Việc làm không nghó bàn, Chư Phật nương vô cấu. Giải thích: Bài kệ nầy tổng kết nghóa trước. Vì vô lượng chuyển nên được vô lượng biến hóa. Nghiệp không thể nghó bàn của Chư Phật như thế, vì tất cả đều nương vào cảnh giới vô lậu, nên biết nghóa ấy. Đã nói biến hóa của Chư Phật, kế là nói Chư Phật thành thục chúng sinh. Kệ rằng: Giúp tập cũng khiến lớn, Giúp thục, cũng khiến thoát, Thục và thục không sót, Do thế gian vô tận. Giải thích: Bài kệ nầy nói về thứ lớp nhân của thành thục. Ai chưa gom góp gốc lành thì giúp họ gom góp. Ai đã góp gốc lành thì giúp họ tăng thêm. Gốc lành đã thêm lên thì giúp họ thành thục. Gốc lành đã thành thục thì giúp họ giải thoát, khiến họ được thanh tịnh cùng cực. Chư Phật trong mười phương như vậy đều khéo nói. Thành thục rồi lại thành thục, không nhập Niết-bàn. Vì sao? Vì các thế gian không cùng tận. Kệ rằng: Khó được đã có đủ, Nơi nơi chỗ vật quy, Ít có, chẳng ít có, Bởi được phương tiện khéo. Giải thích: Bài kệ nầy nói về đã thành thục hạnh Bồ-tát, chẳng phải đó là tướng ít có. Khó được đã có đầy đủ, nơi nào cũng làm chỗ qui hướng cho các người, nghóa là công đức tối thượng của Bồ-đề Vô thượng, đây là chưa từng có, nay đã tương ưng đầy đủ. Do sự tương ưng ấy mà làm chỗ nương cho các người trong các thế giới ở mười phương. Ít có, chẳng ít có là không cứ là đâu, đều thành thục chúng sinh như vậy, đó là ít có. Nhưng ít có nầy cũng chẳng phải ít có. Vì sao? vì được phương tiện khéo léo. Phương tiện khéo léo là thuận theo đạo lý, trình độ mà thực hiện hạnh thanh tịnh. Kệ rằng: Chuyển pháp hay pháp chìm, Đắc đạo cũng Niết-bàn, Nơi nơi phương tiện khởi, Chân pháp giới bất động. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nhân thành thục cùng khắp. Chuyển pháp và pháp chìm xuống, đắc đạo cũng Niết-bàn, nghóa là trong một sát-na, nơi nầy thị hiện chuyển vô lượng pháp luân, nơi khác thị hiện chánh pháp tàn rụi. Nơi nầy thị hiện đắc Đại Bồ-đề, nơi khác thị hiện nhập Niết-bàn. Ấy là bởi hành động của chúng sinh khác nhau. Nơi nơi phương tiện khởi, chân pháp giới bất động, nghóa là nếu có chúng sinh đáng nên thành thục thì Như lai từ nơi họ ở mà biến hóa vào những nơi ấy. Nhưng đối với pháp giới vô lậu, Như lai cũng không lay động. Kệ rằng: thục. Không khởi ý phân biệt, Thành thục quá, hiện, vị, Hóa chúng sinh các nơi, Thường thị hiện ba môn. Giải thích: Bài kệ nầy nói về về nhân duyên tự nhiên thành Không khởi ý phân biệt, thành thục quá khứ, hiện tại, vị lai là các Đức Phật không nghó như vầy: Ta đã từng thành thục chúng sinh, ta sẽ thành thục chúng sinh, ta đang thành thục chúng sinh. Vì sao? Vì không còn phân biệt. Giáo hóa chúng sinh các nơi, thường thị hiện ba môn, là dù vô công dụng trong, bất cứ lúc nào, biến trọn các gốc lành thành ba pháp môn mà thành thục chúng sinh khắp các thế giới ở mười phương. Ba môn là giáo pháp của ba thừa. Kệ rằng: Như trời sáng tự nhiên, Chiếu tối, lúa mọc lên, Mặt trời pháp cũng vậy, Diệt mê thục chúng sinh. Giải thích: Bài kệ nầy thí dụ để nói về nghóa tự nhiên. Như mặt trời không siêng sử dụng phương tiện mà tự nhiên phát ra ánh sáng đi các nơi chốn, xua tan bóng tối, làm cho lúa thóc mọc lên, chín tới, Chư Phật cũng vậy, dù không dùng công sức, nhưng ánh sáng mặt trời giáo pháp của Chư Phật vẫn chiếu sáng các nơi, phá tam mê lầm mà thành thục chúng sinh. Kệ rằng: Một đèn, mồi các đèn, Gồm hết sáng vô tận, Một thục hóa nhiều thục, Hóa vô tận cũng thế. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nhân duyên lần lượt thành tựu. Như ánh lửa một ngọn đèn mồi qua nhiều ngọn đèn khác thì ánh đèn rất lớn nầy là xếp vào vô lượng vô số, chỉ từ một ánh đèn, mà không bao giờ hết ánh sáng. Chư Phật cũng vậy, một Đức Phật thành tựu, giáo hóa nhiều người thành tựu. Cái rất lớn nầy đã xếp vào vô lượng vô số chúng sinh, nhưng sức mạnh của sự giáo hóa của Chư Phật cũng không bao giờ hết. Kệ rằng: Biển cả nhận trăm sông, Không chán cũng không tràn, Cõi Phật gom các thiện, Không đầy cũng không thêm. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nhân duyên thành thục không nhàm chán, thí như biển cả xếp vào trăm sông nhưng không bao giờ chán, cũng không bao giờ tràn đầy, do nó có công năng dung chứa. Cõi Phật cũng vậy, vẫn mãi xếp vào vô lượng gốc lành thanh tịnh mà vẫn không đầy đủ, vẫn không tăng thêm là do ít có. Đã nói Chư Phật thành thục chúng sinh. Kế là, nói pháp giới thanh tịnh của Chư Phật. Kệ rằng: Hai chướng đã trừ hẳn, Pháp Như, được thanh tịnh, Các vật và duyên trí, Tự tại cũng không hết. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nghóa của tính pháp giới. Hai chướng đã trừ hẳn, pháp như đạt thanh tịnh là tướng thanh tịnh, thì phiền não che chướng, hiểu biết chướng đều đã bị quét sạch hoàn toàn. Các vật và duyên trí, tự tại cũng không cùng tận, gọi là tướng tự tại, do các vật và duyên trí kia, hai thứ lớp tại mãi vô tận. Kệ rằng: Nhất thiết chủng như trí, Tu nhân tịnh pháp giới, Lợi lạc hóa chúng sinh, Quả nầy cũng vô tận. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nghóa của nhân pháp giới. Nhất thiết chủng như trí, tu nhân tịnh pháp giới là pháp giới thanh tịnh tu tập tất cả chủng như môn trí làm nhân bất cứ lúc nào. Lợi lạc giáo hóa chúng sinh, quả nầy cũng vô tận nghóa là giáo hóa chúng sinh, đem lợi lạc cho các chúng sinh, hai kết qủa đó thường không bao giờ hết. Kệ rằng: Khởi nghiệp thân, miệng, tâm, Hằng thời hóa ba nghiệp, Hai môn, và hai nhóm, Phương tiện đều tròn đầy. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nghóa nghiệp của pháp giới. Phát khởi ba nghiệp thân, miệng, tâm thời thường giáo hóa nghóa là khởi thân nghiệp, khẩu nghiệp, tâm nghiệp bất cứ lúc nào nghóa là bất cứ lúc nào, giáo hóa chúng sinh. Hai pháp môn, hai nhóm, phương tiện đều tròn đầy nghóa là do đầy đủ một môn hai nhóm làm phương tiện. Hai môn là môn Tam-muội, và môn Đà-la-ni. Hai nhóm là nhóm phước, và nhóm trí tuệ. Kệ rằng: Tự tính và pháp thực, Vị biến hóa khác nhau, Do đây pháp giới tịnh, Mà Chư Phật đã nói. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nghóa vị trí của pháp giới. Tự tính và pháp thực, vị biến hóa khác nhau là vị trí khác nhau của tự tính thân, thực thân, hóa thân. Do pháp giới thanh tịnh mà Chư Phật đã nói, là nếu pháp giới không thanh tịnh thì các vị trí nầy sẽ không được thành lập. Đã nói pháp giới thanh tịnh của Chư Phật, kế là nói về ba thân của Chư Phật. Kệ rằng: Tính thân và thực thân, Hóa thân hợp ba, thân Nên biết, thân thứ nhất, Chỗ nương hai thân kia. Giải thích: Tất cả Chư Phật đều có ba thân: Tự tính thân, do tướng chuyển y. Thực thân là do đại tập trong chúng làm pháp thực. Hóa thân do làm việc giáo hóa, đem lợi ích cho chúng sinh. Nên biết, trong ba thân nầy, tự tính thân là chỗ nương cho hai thân là thực thân và hóa thân, do tự tính là căn bản. Kệ rằng: Thực thân đối các cõi, Thọ dụng có khác nhau, Chúng sinh gọi thân nghiệp, Tất cả đều khác nhau. Giải thích: Thực thân là các nghiệp của các thân, các tên gọi, các cõi nước, của đồ chúng, trong tất cả thế giới. Như vậy, các sự thọ dụng không giống nhau. Kệ rằng: Thân nhỏ nhiệm bình đẳng, Họp với thân thọ dụng, Nên biết, thân thọ dụng, Là nhân của hóa thân. Giải thích: Bình đẳng là tự tính thân mà tất cả Chư Phật đều bình đẳng không khác. Nhỏ nhiệm nghóa là do thân nầy khó biết. Thân thọ dụng là do ăn mà sống. Thân nầy và thân bình đẳng hòa hợp nhau, do nương vào đây, thân thọ dụng mới phát sinh. Nên biết, thân thọ dụng lại là nhân của hóa thân. Do muốn thọ dụng nên mới thị hiện ra tất cả. Kệ rằng: Hóa Phật vô lượng hóa, Cho nên gọi hóa thân, Hai thân thành hai lợi, Tất cả thứ kiến lập. Giải thích: Do hóa thân nên Chư Phật hóa ra vô lượng thân khác nhau, vào bất cứ lúc nào. Phật do hóa thân nầy nên gọi là hóa thân. Hai thân là thực thân và hóa thân. Hai lợi là lợi mình, lợi người. Thực thân lấy thành tựu việc tự lợi làm tướng, hóa thân lấy thành tựu lợi người làm tướng. Hai lợi ích như vậy, mà các thứ đều được thành tựu, kế là lập ra thực thân và hóa thân. Kệ rằng: Công xảo và xuất sinh, Đắc đạo, Nhập Niết-bàn, Bày phương tiện lớn ấy, Giúp họ được giải thoát. Giải thích: Lại nữa, hóa thân là giáo hóa tất cả chúng sinh, bất cứ lúc nào, hoặc hiện tay nghề khéo, hoặc hiện ra nhiều thứ, hoặc hiện được đạo Bồ-đề, hoặc hiện nhập Niết-bàn. Thị hiện tất cả các thứ phương tiện lớn lao ấy, đều muốn giúp cho chúng sinh được giải thoát. Đó là thành tựu tướng lợi tha. Kệ rằng: Nên biết, ba thân Phật, Đều thuộc về thân Phật, Chỗ nương tự tha lợi, Đều thị hiện ba thân. Giải thích: Nên biết, ba thân nầy thuộc về tất cả các thân của Chư Phật. Nó làm chỗ nương cho việc thị hiện làm các việc lợi mình, lợi người. Kệ rằng: Do nương tâm nghiệp đó, Ba Phật đều bình đẳng, Tự tính nối không hở, Ba thân Phật thường trụ. Giải thích: Theo thứ lớp ba thân kia, thì tất cả Chư Phật đều bình đẳng, là vì chỗ nương. Tự tính thân của tất cả Chư Phật đều bình đẳng là vì pháp giới không khác nhau, do tâm thực thân của tất cả Chư Phật đều bình đẳng vì tâm Phật không khác nhau, do nghiệp. Hóa thân của tất cả Chư Phật đều bình đẳng là vì cùng làm việc giống nhau. Lại nữa, tất cả Chư Phật đều thường trụ vì tự tính là thường. Tự tính thân của Chư Phật là thường trụ vì nó hoàn toàn vô lậu, vì nó chẳng phải thường còn có xen hở. Tất cả thực thân của Chư Phật là thường trụ vì nói pháp không khi nào dứt, vì nối nhau mà còn mãi. Tất cả hóa thân của Chư Phật là thường trụ, dù có hiện ở đây, diệt nơi kia đi nữa. Đã nói thân Chư Phật, kế là nói trí của Chư Phật. Kệ rằng: Gương bốn trí bất động, Chỗ nương của ba trí, Tám, bảy, năm, sáu thức, Thứ lớp mà chuyển được. Gương bốn trí bất động, ba trí nương vào đó nghóa là tất cả Chư Phật đều có bốn trí: Cảnh trí. Bình đẳng trí. Quán trí. Tác sự trí. Cảnh trí (gương trí) lấy bất động làm tướng, thường làm chỗ nương cho ba trí kia. Vì sao? Ba trí kia động. Thức thứ tám, bảy, sáu, năm thứ lớp mà chuyển được, nghóa là chuyển thức thứ tám thành cảnh trí. Chuyển thức thứ bảy thành bình đẳng trí. Chuyển thức thứ sáu thành quán trí. Chuyển năm thức trước thành tác sự trí. Nên biết nghóa ấy. Kệ rằng: Cảnh trí duyên vô phân, Nối tiếp thường không dứt, Không ngu những gì biết, Các tướng không hiện tiền. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc thức thứ tám chuyển thành cảnh trí. Cảnh trí duyên vô phân biệt là đối với các cảnh giới nó không duyên theo phần đoạn. Nối tiếp thường không dứt, nghóa là nó hiện diện trong bất cứ lúc nào, không bao giờ ngừng dứt. Không ngu những gì biết, là biết hết các cảnh giới, các chướng ngăn hết hẳn. Các tướng không hiện tiền, là lìa khỏi các hành tướng đối với tất cả cảnh giới, duyên theo vô phân biệt. Kệ rằng: Cảnh trí, nhân các trí, Là kho tàng Đại trí, Các thân khác, trí khác, Từ đây hiện bóng hình. Giải thích: Bài kệ nầy nói về công dụng của cảnh trí. Cảnh trí là nhân các trí, là kho tàng Đại trí, nghóa là trí Nhất thiết chủng, trí bình đẳng, đều lấy trí cảnh làm nhân. Cho nên trí nầy được thí dụ là một kho tàng vó đại. Vì nó là kho tàng của các thứ trí. Những thân khác, trí khác đều từ đây hiện bóng là thân khác, là thân thọ dụng, trí khác là trí bình đẳng. Vì bóng hình thân kia, bóng hình trí kia, tất cả đều do trí nầy phát sinh, nên Phật nói trí nầy là cảnh trí. Kệ rằng: Trí bình đẳng chúng sinh, Tu tịnh chứng Bồ-đề, Không trụ ở Niết-bàn, Vì chưa phải rốt ráo. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc thức thứ bảy chuyển thành trí bình đẳng. Trí bình đẳng chúng sinh, tu tịnh chứng Bồ-đề, là khi Bồ-tát chứng pháp hiện tiền thì liền được trí bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Nếu tu tập trí nầy đạt thanh tịnh tối cực tức là được Bồ-đề Vô thượng. Không trụ ở Niết-bàn, vì chưa phải rốt ráo, có nghóa là do chúng sinh là vô tận nên không có chỗ rốt ráo, không rốt ráo cho nên không trụ Niết-bàn. Do nghóa này nên nói là trí bình đẳng. Kệ rằng: Đại từ và đại bi, Đều thường còn, không dứt, Chúng sinh có lòng tin, Hình Phật hiện trước mặt. Giải thích: Bài kệ nầy nói về công dụng của trí bình đẳng. Đại từ, đại bi là hai thứ thường còn, không dứt nghóa là Chư Phật, Như lai thường theo chúng sinh bất cứ lúc nào. Vì sao? Vì đại từ, đại bi không bao giờ hết. Nếu chúng sinh có lòng tin thì hình bóng Phật liền hiện trước mặt nghóa là Phật hiện bóng hình theo những gì mà họ tin tưởng. Vì vậy cho nên có chúng sinh thấy Như lai màu xanh, có chúng sinh thấy Như lai màu vàng. Như vậy, hai trí trước đây chính là pháp thân… Kệ rằng: Thức quán trí nhận biết, Thời thường không chướng ngại, Trí nầy như kho lớn, Tổng trì Tam-muội nương. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc thức thứ sáu chuyển thành quán trí. Đối với tất cả cảnh giới quán trí đã biết thì không có gì chướng ngại nó được. Nó được ví như kho tàng lớn làm chỗ nương cho tất cả môn Đà-la-ni, môn Tam-muội. Vì sao? Do hai môn như vậy, đều phát sinh từ thức nầy. Kệ rằng: Thường ở trong Đại chúng, Các thứ đều thị hiện, Cắt đứt các lưới nghi, Rưới mưa đại pháp khắp. Giải thích: Bài kệ nầy nói về ý nghóa công dụng của quán trí như bài kệ đã nói. Quán trí nầy chính là thực thân. Kệ rằng: Sự trí đối các cõi, Tạo các thứ biến hóa, Vô lượng, không nghó bàn, Cũng vì lợi chúng sinh. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc chuyển năm thức trước thành trí tác sự. Trí tác sự nầy, đối với tất cả thế giới, có công năng làm ra các thứ biến hóa, vô lượng vô biên không thể nghó bàn. Các công dụng của nghiệp như vậy, đều đem lợi ích cho tất cả chúng sinh. Trí tác nầy chính là hóa thân. Kệ rằng: Gom giữ và đẳng tâm. Khai pháp cũng làm việc, Như thế nương bốn nghóa, Thứ lớp bốn trí khởi. Giải thích: Gom giữ là nghe pháp rồi gom giữ thọ trì đẳng tâm là đối với tất cả chúng sinh, được bình đẳng giữa mình và người. Nói pháp là giảng nói chánh pháp. Làm việc là tạo dựng nhiều sự nghiệp giáo hóa. Dựa vào nghóa cảnh trí đệ nhất phát sinh. Dựa vào nghóa thứ hai bình đẳng trí phát sinh. Dựa vào nghóa thứ ba quán trí phát sinh. Dựa vào nghóa thứ tư tác sự trí phát sinh. Kệ rằng: Tính khác và không dối, Tất cả cũng vô thỉ, Không khác, nên không một, Nương đồng nên không nhiều. Giải thích: Bài kệ nầy nói về Chư Phật chẳng phải một chẳng phải nhiều. Chẳng phải một nghóa là vì tính chất khác nhau. Không luống dối là vì tất cả, là vì vô thí, là vì không khác. Tính chất khác nhau là vì vô biên Chư Phật tính đều khác nhau. Thế nên nói chỉ có một Đức Phật và sẽ chứng Bồ-đề thì nghóa ấy không đúng, nên chẳng phải chỉ là một. Không luống dối là nếu nhóm phước trí là trống rỗng thì lẽ ra các Bồ-tát khác, sẽ không chứng Bồ-đề. Vì hai nhóm không luống dối, cho nên nghóa kia không đúng, nên Phật chẳng phải một. Tất cả, là nếu nói chỉ có một Phật thì lẽ ra, Phật không thể đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh, vì Phật lập ra tất cả chúng sinh đều thành Phật, nghóa ấy không đúng, nên Phật chẳng phải một. Vô thỉ là nếu nói, ban đầu chỉ có một Đức Phật, thì Phật lẽ ra thành Phật mà không cần hai nhóm phước và trí. Nghóa ấy không đúng, cho nên Phật chẳng phải một. Không khác là nếu nói có một Phật riêng không cần hai nhóm phước, trí, thì nghóa ấy không đúng, nên Phật chẳng phải một. Không nhiều là vì cùng nương một nơi như nhau, vì pháp thân Chư Phật đều nương vào cảnh giới vô lậu. Đã nói trí của Chư Phật, kế là nói nhập vào phương tiện của Phật. Kệ rằng: Phân biệt nếu thường có, Chân thật mãi không có, Phân biệt nếu mãi không, Thì chân thật thường có. Giải thích: Nếu phân biệt tự tính là thường có thì tự tính chân thật không bao giờ có, vì không thật có. Nếu tự tính của phân biệt là hoàn toàn không thì tự tính của chân thật là thường có, vì có thể nắm bắt được. Kệ rằng: Muốn tu pháp tối thượng, Không thấy tất cả tu, Muốn chứng tối thượng đắc, Không thấy tất cả đắc. Giải thích: Tu pháp tối thượng như thế thì cái tu ấy không thể nắm bắt (bằng ý niệm được). Nếu chứng được tối thượng kia thì sự chứng ấy, là không thật có. Kệ rằng: Tôn trọng và lâu dài, Quán pháp ít có Phật, Duyên đây sớm thành Phật, Cách xa Phật Bồ-đề. Giải thích: Đối với Phật, Thế Tôn, nếu Bồ-tát nào hết lòng tôn trọng và siêng năng mãi mãi, quán pháp chưa từng có của Phật, cứ bám vào quán tâm ấy, tinh tấn mãi mãi và nói: Ta sẽ mau chứng Bồ-đề Vô thượng, thì nên biết, Bồ-tát ấy đã đi hết sức xa đối với Phật Bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-tát kia đã tỏ ra kiêu mạn. Kệ rằng: Quán pháp chỉ phân biệt, Nghóa nầy như trước biết, Bồ-tát vô phân biệt, Nói đó mau thành Phật. Giải thích: Nếu Bồ-tát quán sát tất cả pháp pháp, chỉ do phân biệt, quán sát phân biệt kia cũng vô phân biệt thì đã nhập vào quả vị vô sinh nhẫn. Từ ý nghóa nầy mà nói là được Bồ-đề. Đã nói nhập vào phương tiện của Phật, kế là nói về việc cùng làm của Chư Phật. Kệ rằng: Nên biết, các dòng sông, Phát nguồn khác, sự khác, Nước ít trùng sống ít, Vì chưa ra biển cả. Khi các sông ra biển, Một nương, việc cũng một, Nước lớn, côn trùng nhiều, Cũng lại thường không cạn, Như vậy, các hiểu khác, Ý khác, nghiệp cũng khác, Hiểu kém lợi ích nhỏ, Do chưa nhập thể Phật, Tất cả nhập thể Phật Một hiểu, cũng một ý. Hiểu lớn lợi ích lớn, Nhóm cực cũng vô tận. Giải thích: Nước sông thí dụ cho sự hiểu biết khác nhau của Bồ- tát nương vào chỗ khác dụ cho ý khác nhau của Bồ-tát. Nước biển dụ cho một vị giải thoát của Như lai, cùng nương một nơi dụ cho một ý của tất cả Như lai. Do nước sông khác nhau nên việc sử dụng nước cũng khác nhau. Do nước ít nên côn trùng sống ít. Vì sao? Do chúng chưa chảy hết ra biển như nhau. Các Bồ-tát cũng vậy, do hiểu biết khác nhau nên việc làm cũng khác nhau. do hiểu biết ít, nên làm lợi cho chúng sinh cũng ít. Vì sao? Do chưa nhập vào thể Phật, các nguồn sông nếu chảy hết ra biển thì chúng cùng một chỗ nương, cùng một thể như nhau. Do nước một vị nên công dụng cũng một. Do nước mênh mông nên côn trùng cũng sống thênh thang. Nếu các Bồ-tát nhập vào thể Phật như nhau thì cùng một ý như nhau, tức cùng chung một hiểu biết. Do chung một hiểu biết nên việc làm cũng như nhau. Do hiểu biết sâu rộng nên làm lợi ích cho chúng sinh cũng lớn lao và cùng nhóm cực của chúng sinh cũng không cùng tận. Đã nói thể dụng của Chư Phật, kế là sẽ nói về một bài kệ để khuyến tâm mong cầu. Kệ rằng: Pháp trắng tròn, không sánh, Nhân lợi lạc chúng sinh, Lạc trụ vô tận tạng, Người trí nên cầu phát. Giải thích: Pháp trắng tròn đầy không gì sánh bằng là do Phật đã thành tựu lợi mình. Là nhân đem lại lợi lạc cho chúng sinh là do Phật thành tựu lợi ích cho kẻ khác. Lạc trụ vô tận tạng là do gốc lành của Phật đã hoàn toàn thanh tịnh không chút lỗi lầm, là kho tàng của an vui không cùng tận, không còn gì cao hơn. Người trí nên cầu phát tâm Bồ-đề ai là người có hiểu biết, nên cầu mong được sống yên ổn trong nguồn vui tối thắng đó, mà phát tâm Đại Bồ-đề. <篇> <卷>QUYỂN 4 <詞>Phẩm Thứ 11: NÓI VỀ TÍN Giải thích: Đã nói về phần thuận theo Bồ-đề Vô thượng. Bồ-đề nghóa là lòng tin. Nay sẽ nói về tướng của lòng tin nầy. Kệ nêu: Đã sinh và chưa sinh, Chánh thọ và tự thọ, Tha lực cũng tự lực, Có mê và không mê, Hiện tiền, không hiện tiền, Nghe pháp tìm hiểu nghóa, Mười ba quán sát thảy, Phân biệt nơi tướng tin. Giải thích: Lòng tin có mười ba tướng khác nhau: Lòng tin đã phát sinh, là lòng tin ở quá khứ và hiện tại. Lòng tin chưa phát sinh là lòng tin ở vị lai. Lòng tin vì cảm thọ chân chính là tin ở bên trong. Lòng tin cảm nhận tương tự là lòng tin bên ngoài. Lòng tin vào sức giúp của người là lòng tin thô vì nó phát sinh là nhờ sức khuyến khích của bạn tốt. Lòng tin vào sức mình là lòng tin sâu kín vì nó phát sinh từ sức mạnh của chính mình. Lòng tin mê lầm là tin điều ác vì điên đảo. Lòng tin không mê muội là lòng tin tốt vì không điên đảo. Lòng tin hiện tại là tin gần không bị chướng ngại Lòng tin không hiện tiền là tin xa vì có ngăn dứt. Lòng tin vì nghe chánh pháp gọi là nghe mà tin, là do nghe mà phát sinh tin. Lòng tin vì tìm hiểu nghóa, gọi là tư tín là vì suy tư mà lòng tin phát sinh. Lòng tin vì quán sát gọi là tu tín, là vì tu mà phát sinh. Đã nói tướng khác nhau của lòng tin, kế là nói những thứ khác nhau của lòng tin. Kệ rằng: Bị cướp, đoạn, không đoạn, Có nhiều cũng có ít. Có giấu, không che giấu, Tương ưng, không tương ưng, Có nhóm, không có nhóm, Vào gần, có vào xa, Đây có mười ba nghóa, Phân biệt chủng loại tin. Giải thích: Cũng có mười ba thứ về chủng loại tin khác nhau: Lòng tin có thể bị cướp đoạt, là lòng tin hạ phẩm. Lòng tin có gián đoạn là lòng tin phẩm trung. Lòng tin không bị gián đoạn là lòng tin phẩm thượng. Lòng tin nhiều là lòng tin Đại thừa. Lòng tin ít là lòng tin Tiểu thừa. Lòng tin có che giấu là lòng tin bị chướng ngại nên không thể tiến mạnh lên. Lòng tin không bị che giấu là lòng tin không bị chướng ngại, vì có công năng tiến mạnh hơn. Lòng tin tương ưng là lòng tin tụ tập thuần thục, vì thường thực hành và cung kính thực hành. Lòng tin không tương ưng là lòng tin tu chưa thuần thục, vì lìa xa hai hạnh vừa nói. Lòng tin có chứa nhóm là tin có quả, vì có công năng chứng được Đại Bồ-đề. Lòng tin không có chứa nhóm là lòng tin không có quả, vì không có công năng chứng được Đại Bồ-đề. Lòng tin vào sâu nhất là lòng tin có công dụng, từ Sơ địa đến địa thứ bảy. Lòng tin chứng nhập còn xa là lòng tin cực thanh tịnh, là từ địa thứ tám cho đến Phật địa. Đã nói chủng loại lòng tin, kế là nói những chướng ngại của lòng tin. Kệ rằng: Hay quên và biếng nhác, Làm theo mê, bạn xấu, Thiện kém cõi, nghó tà, Sống buông lung ít học. Nghe mừng và nghó mừng, Nhân định tăng thượng mạn, Nên biết những lỗi ấy, Chướng ngại cho lòng tin. Giải thích: Chướng ngại nghóa là trái nhau. Hay quên là chướng ngại lòng tin đã có. Biếng nhác là chướng ngại lòng tin chưa được phát sinh. Làm theo mê lầm là gây chướng ngại sự lãnh thọ chân chính, lại tin vào sự lãnh thọ tương tự là do trước đã có chấp và năng thọ và sở thọ. Bạn xấu là chướng ngại lòng tin vào người khác, do dùng pháp trái ngược bắt người ta làm theo. Gốc lành kém cõi là chướng ngại lòng tin của sức mình. Nhớ nghó tà vạy là chướng ngại lòng tin không mù quáng. Sống buông lung là chướng ngại lòng tin hiện tại. Nghe ít là chướng ngại lòng tin nghe chánh pháp, do không thấu hiểu khi nghe. Nghe mừng là chướng ngại việc tìm nghóa để tin, do kém suy tư. Suy nghó mà mừng và ngã mạn vì được định là chướng ngại việc suy niệm để tin, do ít tu tập và không quán xét tinh tế. Hỏi: Những chướng ngại nào đã gây chướng ngại cho chủng loại lòng tin? Kệ rằng: Không chán, không tu tập, Có chán, có che giấu, Không ưng và không nhóm, Nên biết, chướng ngại tin. Giải thích: Không tu tập là, làm cho lòng tin có thể bị cướp đoạt, lòng tin do nghe mà bị chướng ngại. Không nhàm chán là chướng ngại lòng tin nhỏ, do không nhàm chán sinh tử. Có nhàm chán là chướng ngại lòng tin lớn, do nhàm chán sinh tử. Có che giấu là chướng ngại lòng tin không che giấu. Không ưng là chướng ngại lòng tin có tương ưng. Không chứa nhóm là chướng ngại lòng tin có chứa nhóm. Đã nói về lòng tin bị chướng ngại. Kế là khen ngợi công đức của lòng tin. Kệ rằng: Tin: Có phước đức lớn, Không ăn năn, cả mừng, Không hoại nhờ vững chắc, Lên vị, và chứng pháp, Lợi mình và lợi người, Cũng được mau thông đạt, Đem các công đức nầy, Khen lợi ích lòng tin. Giải thích: Phước đức lớn là khen ngợi lòng tin hiện tại. Không ăn năn là khen ngợi lòng tin ở quá khứ, vì không đuổi theo sự đổi thay. Cả mừng là khen lòng tin lãnh thọ chân chính và lãnh thọ tương tự vì tương ưng với định. Không hư hoại là khen lòng tin do bạn gây nên không làm hư hoại chánh đạo. Vững chắc là khen lòng tin do sức mạnh của mình không thụt lùi, hay xả nó. Lên vị là khen lòng tin không mù quáng, khen lòng tin hiện tại, khen lòng tin nghe pháp tìm hiểu nghóa, khen lòng tin có quán xét, khen lòng tin có lắng nghe. Đắc pháp là khen lòng tin không bị xen hở. Tự lợi là khen lòng tin chút ít. Lợi người là khen có nhiều lòng tin. Mau thông đạt là khen lòng tin theo pháp trắng, nghóa là lòng tin không bị che đậy, lòng tin tương ưng, lòng tin có chứa nhóm, lòng tin nhập vào chỗ cùng cực, lòng tin chứng nhập mau chóng. Kệ rằng: Như chó, rùa, nô, vua, Thứ lớp dụ bốn tin, Quen dục, quen các định, Người lợi, mình lợi người. Giải thích: Như chó đói chạy kiếm ăn không biết chán, lòng tin của kẻ quen chạy theo ham muốn, cũng giống như vậy, họ tin đủ thứ, bất cứ lúc nào. Như ở dưới nước rùa mù giấu sáu thứ đầu đuôi, và bốn chân. Lòng tin của người quen theo các thứ định của ngoại đạo, cũng giống như vậy, vì họ chỉ biết tu tập định thế gian. Như kẻ tôi tớ thấp hèn sợ chủ, lòng tin của người chỉ biết siêng năng làm lợi cho mình, cũng giống như vậy, vì lo sợ sự sống chết nên họ siêng năng vận dụng nhiều phương tiện. Như vua nước lớn ban chiếu một cách tự tại, lòng tin của người lo làm lợi ích cho kẻ khác cũng giống như vậy, vì tăng mãi lên công việc giáo hóa, không dừng nghỉ. Bồ-tát thấu hiểu các thứ lòng tin, còn phân biệt rộng giúp các người được hiểu. Trong khi đó, họ còn khuyến khích các người phát sinh lòng tin đối với Đại thừa. Đã khen ngợi công đức của lòng tin, kế là ngăn dứt tâm thấp kém. Kệ rằng: Thân người và nơi chốn, Thời tiết đều vô hạn, Được ba nhân Bồ-đề, Chớ sinh tâm thấp hèn. Giải thích: Thân người, nơi chốn, thời tiết đều vô hạn là chứng đạo Bồ-đề Vô thượng do ba nhân duyên không giới hạn: Thân người không giới hạn, do chúng sinh trong cõi người vô hạn. hạn. Nơi chốn không giới hạn, do các thế giới ở mười phương là vô Thời tiết vô hạn do cùng tận bờ mé vị lai, trong từng sát-na là không giới hạn. Được ba nhân Bồ-đề, chớ sinh tâm thấp hèn là do ba nhân không giới hân nầy, cho nên các Bồ-tát không nên thoái chí, sinh tâm thấp hèn đối với Bồ-đề Vô thượng. Đã nói ngăn dứt tâm thấp hèn, kế là sẽ nói về phước đức vượt hơn hết. Kệ rằng: Được phước do thí người, Không do mình thọ dụng, Nói Đại thừa cho người, Không tìm pháp nghóa (cho) mình. Giải thích: Được phước là vì bố thí cho kẻ khác, không phải do mình thọ dụng là như đem thức ăn cho kẻ khác thì được phước lớn, do đó làm lợi cho kẻ khác, chẳng phải mình thọ dụng nên được phước lớn, vì tự lợi. Hỏi: Nếu vậy thì Bồ-tát làm sao được phước? Đáp: Do vì người khác mà nói pháp Đại thừa, chứ không tìm nghóa pháp cho chính mình. Như vậy, do vì kẻ khác mà Bồ-tát nói kinh Đại thừa nên được phước đức lớn, chứ không vì lợi ích riêng mình mà nói kinh Tiểu thừa để có phước lớn. Đã nói phước vượt hơn hết, kế là nói việc chứng quả. Kệ rằng: Đại pháp khởi đại tín, Tin lớn, có ba quả, Tín tăng, và phước tăng, Được thể công đức Phật. Giải thích: Có lòng tin lớn đối với pháp Đại thừa, do lòng tin lớn nên có ba quả là người có trí sinh lòng tin sâu xa đối với pháp Đại thừa bậc Thánh. Do lòng tin sâu xa ấy nên có ba quả. Hỏi: Là những quả nào? Đáp: Lòng tin thêm lớn, và phước thêm lên, được thể công đức của Phật. Nói về là: Được quả của lòng tin rộng lớn, do lòng tin tăng thêm. Được quả phước lớn do phước tăng thêm. Được quả Đại Bồ-đề, do được công đức không ai bằng và đại thể của Phật. ------------------------- <詞>Phẩm Thứ 12: THUẬT CẦU (Phần 1) Giải thích: Như vậy, đã nói về các thứ tin, kế là nói lấy lòng tin cầu học các pháp. Kệ rằng: Ba tạng hoặc gồm hai, Thành ba có chín nhân, Do huân, giác, tịch, thông, Giải thoát việc sinh tử. Giải thích: Ba tạng hoặc gồm hai là: Ba tạng là Tu-đa-la tạng, Tì-ni tạng, và A-tì-đàm tạng. Hoặc hai là ba tạng nầy có thượng thừa và hạ thừa khác nhau. Hơn nữa, đó cũng chỉ cho Thanh văn tạng và Bồ-tát tạng. Hỏi: Ba tạng kia và hai tạng nầy, vì sao gọi là Tạng? Đáp: Do nó gồm thâu, nghóa là gồm tất cả nghóa, nên biết. Hỏi: Vì sao lập ba tạng? Đáp: Có chín nhân duyên lập ba tạng. Lập Tu-đa-la là đối trị với nghi lầm. Nếu trong kinh, ai nghi ngờ chỗ nầy chỗ nọ thì khiến họ được quyết định. Lập tạng Tì-ni là đối trị với việc thọ dụng hai bên, để xa lìa phía hưởng lạc, ngăn dứt tội lỗi trong sự thọ dụng, để xa lìa phía khổ hạnh với sự thọ dụng không phạm tội. Lập A-tì-đàm là đối trị với sự chấp đắm của tâm mình. Luận nầy có công năng chỉ bày ra pháp tướng không điên đảo. Lại nữa, lập Tu-đa-la là nhằm nói về ba học lập Tì-ni để hoàn thành giới học, vì tâm học do trì giới nên tránh khỏi ăn năn. Vì tránh khỏi ăn năn nên theo thứ lớp được định. Lập A-tì-đàm là để hoàn thành tuệ học. Luận nầy có công năng lựa chọn pháp không điên đảo. Lại nữa, thành lập Tu-đa-la là nói pháp và nghóa một cách chân chánh. Lập Tì-ni là nhằm thành tựu pháp và nghóa, vì siêng năng dùng phương tiện diệt phiền não. Thành lập A-tì-đàm là nhằm thông suốt pháp và nghóa, vì biết lựa chọn nhiều thứ, đó là phương tiện. Vì chín nhân duyên nầy, nên lập ba tạng. Hỏi: Công dụng riêng của ba tạng là vậy, còn công dụng chung của chúng ra sao? Đáp: Công dụng chung của ba tạng là huân tập, là tỉnh sáng, là vắng lặng, là thông suốt. Vì thế, giải thoát sinh tử. Đó là đã nói về: Giải thoát sinh tử là dụng chung của ba tạng. Vì nghe giáo pháp mới huân tập, vì suy nghó mới tỉnh giác, do chỉ nên có định. Vì quán xét mà được thấu suốt. Do bốn nghóa nầy nên các việc sinh tử được giải thoát. Kệ rằng: Kinh, luật, A-tì-đàm, Mỗi thứ có bốn nghóa, Hiểu đủ thành chủng trí, Chỉ một kệ lậu tận. Giải thích: Nếu nói lược thì ba tạng mỗi tạng đều có bốn nghóa. Nếu thấu suốt các nghóa ấy thì Bồ-tát thành tựu Nhất thiết chủng trí. Nếu hiểu một câu kệ thì Thanh văn dứt hẳn các lậu. Hỏi: Mỗi tạng có bốn nghóa là sao? Kệ rằng: Chỗ nương cùng với tướng, Do pháp và do nghóa, Bốn thứ nghóa như vậy, Là nghóa Tu-đa-la. Giải thích: Tu-đa-la có bốn nghóa là: y, tướng, pháp, nghóa. Y (nương tựa) là nơi chốn, là người, là dụng. Nghóa là Như lai nói Tu-đa-la là tùy thuộc đất nước nào, Chư Phật nào, chúng sinh nao. Tướng là tướng thế đế và tướng nghóa đệ nhất đế. Pháp là pháp ấm, nhập, giới, duyên sinh, đế lý, ăn uống, v.v… Nghóa là giải thích lý do. Kệ rằng: Do đối và do số, Hàng phục và giải thích, Bốn thứ nghóa như thế, Đó là nghóa Tì-đàm. Giải thích: A-tì-đàm có bốn nghóa là: Đối, Số, Phục, Giải. Đối là pháp hướng tới Niết-bàn, nói về Đế, Bồ-đề phần, môn giải thoát. Số là pháp nối tiếp, nói sắc không khác nhau vô lượng tùng pháp sắc, phi sắc thấy được, không thấy được. Phục là pháp cao tột là trong tranh luận, phán quyết, pháp nghóa đẩy lùi đối phương. Giải là giải thích pháp, nghóa của Tu-đa-la và A-tì-đạt-ma dễ hiểu. Kệ rằng: Tội khởi tịnh và xuất Người chế giải phê phán Bốn nghóa lại bốn nghóa Đó gọi nghóa Tỳ-ni. Giải thích: Tì-ni có hai thứ gồm bốn nghóa, bốn nghóa đầu là: Tội, khởi, tịnh, xuất. Tội là tự tính tội, là tội thuộc năm nhóm. Khởi là tội phạm do nhân duyên, gồm bốn thứ: phạt. phép. Không biết tội mình. Sống buông lung. Phiền não, bịnh tật. Không có lòng cung kính. Tịnh là tội được trong sạch trở lại vì tâm lành, không cần trị Xuất là tội được chỉ bày ra, gồm bảy thứ: Ăn là ngăn dứt hẳn không dám tái phạm. Thuận giáo là cho học Yết-ma trị phạt. Khai hứa là thời gian trước ngăn cấm, thời gian sau lại cho Lại xả là vì hòa họp tăng cho phép người học xả bỏ, nên lúc trước phạm mà giờ đây được thanh tịnh. Chuyển y là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam, nữ chuyển căn bị tội, đuổi ra, không cho ở chung trong chúng. Quán sát chân thật là do quán xét mạnh mẽ pháp ưu đà na. Chứng đắc thể tính là khi kiến đế thì thấy tội nhỏ nhiệm vô thể, vì chứng ngộ pháp không, có được pháp nhó. Lại, bốn thứ nghóa: Người, chế, giải, phán. Người là người phạm tội. Chế là ngăn cấm kẻ phạm tội ấy. Đại sư nhóm chúng, nói lỗi lầm y rồi chế ra việc bắt học đầy đủ. Giải là như pháp đã chế nhưng phân biệt rộng thêm. Phán là định nghóa thế nào là bị tội, thế nào là không bị tội. Phải vâng giữ như vậy. Đã nói về cầu pháp, kế là nói về tìm kiếm duyên. Kệ rằng: Phật nói pháp sở duyên, Nên biết: Trong ngoài đủ, Được hai, không hai nghóa, Hai cũng không thật có. Giải thích: Đức Phật nói pháp sở duyên, nên biết, trong ngoài đầy đủ nghóa là Phật nói tất cả đối tượng có ba thứ là: Trong, ngoài, cả hai. Tự tính năng thù của thân là bên trong. Tự tính sở thủ là bên ngoài thân. Họp hai tự tính đó gọi là cả hai. Được hai, không có hai nghóa, hai duyên cũng không thật có là đối với hai duyên trong, ngoài, theo thứ lớp của nó, được nghóa không hai. Hỏi: Được nghóa không hai là sao? Đáp: Là khi sở thủ và nghóa năng thủ, được gọi là không khác nhau. Hoặc nghóa năng thủ và nghóa sở thủ, được gọi là không khác nhau. Lại nữa, gộp hai nghóa làm một, vì hai duyên trong, ngoài được như như. Thế nên, hai duyên trong, ngoài ấy, không có hai nghóa. Thế nên hai duyên nầy, cũng không thật có. Hỏi: Đã nói có duyên, còn thế nào là được trí? Kệ rằng: Ba duyên được ba trí, Giữ gìn ý, lời cảnh. Hiểu nghóa sáng tỏ rồi, An tâm, chỉ có danh. Giải thích: Ba duyên, như trước đã nói ba cảnh trong, ngoài và cả hai. tuệ. Ba trí là ba tuệ: Văn, tư, tu. Vì nương vào ba duyên nên được ba Hỏi: Được là sao? Đáp: Nếu đối với ba duyên, giữ thanh tịnh, ý nghóa, lời nói, cảnh thì sẽ được văn tuệ. Ý nghóa, lời nói là phân biệt. Thanh tịnh là tin tưởng chắc chắn. Vâng giữ là lựa chọn các thứ tin tưởng. Do công dụng nầy mà được văn tuệ. Nếu phân biệt rõ được ba duyên với ý nghóa của nó thí đã có ánh sáng rồi, tức là được tư tuệ, là biết nghóa và có ánh sáng không khác với ý tưởng và lời nói. Do đây mà được tư tuệ. Nếu đối với ba duyên mà an tâm, biết các thứ chỉ là tên gọi, đó là được tư tuệ. Nghóa là biết nghóa và ánh sáng chỉ là tên gọi, do đó mà được tư tuệ. Như trước đã nói: Hai duyên là không thật có. Cho nên phải biết, ba duyên kia là chỗ nương cho ba tuệ là văn, tư, tu. Đã nói tìm duyên rồi, kế là nói cầu tác ý. Kệ rằng: Đầu tiên gọi chủng tính, Việc làm, và chỗ nương, Tin yên, và muốn sinh, Nương định, cũng nương trí. Biệt duyên các thứ duyên, Thông đạt và tu chủng, Tự tính và công lực, Lãnh thọ và phương tiện, Tự tại, lớn nhỏ thảy, Như vậy có mười tám, Gom hết các tác ý, Hành giả nên siêng tu. Giải thích: Mười tám tác ý là: Tác ý chủng tính. Tác ý việc làm. Tác ý chỗ nương. Tác ý yên ổn về lòng tin. Tác ý ham muốn phát sinh. Tác ý nương vào định. Tác ý nương vào trí. Tác ý biệt duyên. Tác ý thứ duyên. Tác ý thông đạt. Tác ý tu chủng. Tác ý tự tính. Tác ý công lực. Tác ý lãnh thọ. Tác ý phương tiện. Tác ý tự tại. Tác ý việc nhỏ. Tác ý việc lớn. Tác ý chủng tính là vì tính chất cố định vì chủng tính ba thừa, như thừa Thanh văn v.v… Tác ý việc làm là vì tròn đầy hai nhóm phước và trí. Tác ý chỗ nương là vì sự khác nhau về ép ngặt hay không ép ngặt đối với người tại gia hay xuất gia. Tác ý yên ổn lòng tin là tương ưng với niệm Phật. Tác ý ham muốn phát sinh là theo lúc niệm Phật mà lòng tin tương ưng. Tác ý nương vào định là ba thứ có giác, có quán, đẳng trì, tương ưng với Tam-muội. Tác ý nương vào trí là ba phương tiện văn, tư, tu mà thứ lớp phát sinh trí tuệ. Tác ý biệt duyên có năm thứ đối với Tu-đa-la, Ưu-đà-na, Già-đà, A-ba-đà-na: Lãnh thọ. Giữ gìn. Đọc tụng. Tư duy. Giảng nói. Tác ý các thứ duyên là có bảy thứ, danh duyên vào tên gọi, duyên vào câu văn, duyên vào chữ, duyên vào người, duyên vào vô ngã, duyên vào pháp vô ngã, duyên vào sắc, duyên vào vô sắc. Duyên vào sắc là duyên vào thân, duyên vào vô sắc là duyên vào sự lãnh thọ của tâm pháp. Tác ý thông đạt có bốn thứ: Thông đạt sự vật, là biết thể tính của khổ. Thông đạt ý nghóa là biết rõ nghóa của khổ, không, vô thường, vô ngã. Thông đạt quả, nghóa là biết giải thoát. Thông đạt giác ngộ là biết trí tuệ giải thoát. Tác ý tu chủng là tu chủng có bốn thứ và ba mươi bảy thứ. Tu tập bốn thứ tu là: Tu về nhân vô ngã, tu về pháp vô ngã, tu về tri kiến và tu về trí tuệ. Ba mươi bảy thứ tu là bốn thứ tu: Bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã, đó gọi là tu bốn món niệm xứ. Lại nữa, tu tập bốn món là đắc, tập, đoạn, đối trị đó gọi là tu bốn món chánh cần. Lại nữa, do tri túc đối trị với bốn món chướng ngại là tán loạn, nghi, trạo cử, trầm một. Và, bốn món tu: Dục, tấn, niệm, tuệ, đây gọi là bốn món tu thần túc. Lại nữa, trụ tâm là muốn thành tựu việc xuất thế gian nên phát sinh lòng tin, siêng năng không quên, tâm an trụ trong năm pháp tu được lựa chọn, đó gọi là tu năm căn. Lại nữa, năm món tu như vậy có công năng đối trị với năm chướng ngại, đó gọi là sức mạnh. Đó gọi là năm lực. Lại nữa, bảy món tu Bồ-đề là nhớ nghó chân chính, lựa chọn, mạnh mẽ, vui mừng, điều nhu, tâm an trụ bình đẳng, đó gọi là bảy thứ tu phần giác. Lại nữa, do được quyết định nên thành tựu nghiệp trì địa thanh tịnh, do tư duy phân biệt, do khéo vâng giữ ba giới đã thọ từ bậc thánh, do trước đã siêng năng tu tập và đắc đạo, do không quên mất pháp trụ tướng. Do tâm vô tướng an trụ chuyển y. Tám món tu như vậy, gọi là tám món tu phần đạo. Tác ý tự tính, có hai thứ: Xa-ma-tha. Tỳ-bát-xá-na. Hai thứ nầy là tự tính của đạo. Tác ý công lực, có hai thứ: Nhổ bỏ sự huân tập. Nhổ bỏ tướng thấy. Tác ý lãnh thọ là được Chư Phật, Bồ-tát dạy trao tất cả sự phát triển của chánh pháp, đều lãnh thọ vâng giữ. Tác ý phương tiện là khiến cho định hiện hành khắp chốn, thì có năm phương tiện là: Phương tiện hiểu số, là đối với danh từ, câu chữ, số, đều thông hiểu. văn. Phương tiện hiểu đầy đủ, có hai thứ là: Hiểu đầy đủ một phần, đó là các chữ. Hiểu đầy đủ không phải một phần, đó là hiểu danh từ, câu Phương tiện hiểu phân biệt, có hai thứ là: Nương vào danh từ mà phân biệt ý nghóa. Nương vào ý nghóa mà phân biệt danh từ, chứ chẳng phải phân biệt chữ. Phương tiện hiểu theo thứ lớp là trước hiểu danh từ, sau chuyển sang hiểu nghóa. Phương tiện hiểu thông suốt, có mười một thứ là: Thông hiểu khách trần. Thông hiểu cảnh sáng. Thông đạt nghóa không thật có. Thông đạt nghóa không thật có không thật có. Thông đạt pháp giới. Thông đạt nhân vô ngã. Thông đạt pháp vô ngã. Thông đạt tâm thấp kém. Thông đạt tâm cống cao. Thông đạt pháp đã chứng được. Thông đạt pháp được thành lập. - Tác ý tự tại có ba thứ: Mê lầm chướng ngại đã trở nên thanh tịnh. Hai mê lầm chướng ngại hiểu biết, đã trở nên thanh tịnh cùng cực. Công đức thanh tịnh cùng cực. Tác ý việc nhỏ là mới bắt đầu được thanh tịnh. Tác ý việc lớn là hai thứ thanh tịnh sau. Đã nói cầu tác ý, kế là nói cầu nghóa chân thật. Kệ rằng: Lìa hai và mê y, Không nói, không hí luận, Ba ưng và hai tịnh, Hai tịnh ba dụ hiển. Giải thích: Lìa hai và mê y, không nói, không hí luận là trong đây, nên biết, ba tính đều là chân thật. Lìa hai là tính phân biệt và chân thật, vì năng thủ và sở thủ đều là không. Mê y là tính y tha và chân thật do đó khởi lên các phân biệt. Không nói, không hí luận là tính chân thật của chân thật vì tự tính không hí luận, không thể nói năng. Ba ưng và hai thanh tịnh, hai tịnh sáng tỏ vì ba thí dụ là ba ưng là chân thật ban đầu, nên biết, chân thật thứ hai nên dứt, chân thật thứ ba nên thanh tịnh. Hai tịnh là: Tự tính thanh tịnh, vì xưa nay thanh tịnh. Vô cấu thanh tịnh, do lìa xa khách trần. Hai thứ thanh tịnh nầy, có thể nói về bằng ba thứ thí dụ là hư không, vàng và nước. Ba thí dụ như vậy, một là cả ba đều dụ cho tự tính thanh tịnh, như hư không chẳng hạn, chẳng phải không có tự tính thanh tịnh. Hai là cả ba câu đều dụ cho vô cấu thanh tịnh, như hư không chẳng hạn, chẳng phải không xa rời khách trần, nên thanh tịnh. Kệ rằng: Pháp giới và thế gian, Không hề có chút khác, Do chúng sinh ngu tối, Chấp không mà bỏ có. Giải thích: Pháp giới và thế gian, không hề có chút khác là không phải pháp giới và thế gian có chút khác nhau. Vì sao? Vì pháp tánh và các pháp không khác nhau. Do chúng sinh ngu muội quá lắm, chấp cái không, bỏ cái có, vì chúng sinh nhiều ngu si lắm, nên đối với pháp không có thật của thế gian, đúng ra không nên chấp, nhưng lại khởi lên chấp. Còn đối với pháp Như Như có thật, đúng ra không nên buông xả nhưng lại chối từ. Đã nói cầu tìm chân thật, kế là nói về cầu chân thật bằng thí dụ. Kệ rằng: Như nhà ảo thuật kia, Luống dối nói phân biệt, Như các việc huyễn nọ, Nói dụ hai thứ mê. Giải thích: Như nhà ảo thuật, luống dối nói phân biệt là như nhà ảo thuật dựa vào sức mạnh của bùa chú biến ra cây đá để làm mê mẩn kẻ khác, cũng vậy phân biệt trống rỗng, tính y tha cũng vậy. Khởi lên các thứ phân biệt làm nhân cho điên đảo. Như các việc ảo thuật kia mà nói thí dụ cho thứ si mê, thí như huyễn hiện ra các thứ bằng vàng với nhiều tướng mạo. Như vậy, tính phân biệt khởi lên cũng vậy, là năng thủ và sở thủ, hai thứ mê ấy, hiển hiện bất cứ lúc nào. Kệ rằng: Ảo thuật kia vô thể, Được nhập nghóa đệ nhất, Ảo thuật có thể được, Thông đạt thế đế thật. Giải thích: Như trò ảo thuật kia, vì vô thể nên được chứng nghóa đệ nhất, là: Như trò ảo thuật kia có nghóa là việc ảo hóa, không có thật. Đây là dụ cho hai tướng y tha và phân biệt, chúng cũng không có thật thể. Do nguyên lý ấy mà thông đạt nghóa đệ nhất đế. Như ảo thuật có thể có được, thông đạt cái thật của thế gian là, có thể có được là việc ảo, món ảo, thể nó có thể có được. Thí dụ nầy chỉ luống dối phân biệt cũng như vậy, do nguyên lý nầy mà thông đạt thế đế. Kệ rằng: Sự kia là vô thể, Tức chứng cảnh chân thật, Như vậy, vì chuyển y, Liền được nghóa chân thật. Giải thích: Do sự kia vô thể tức chứng được cảnh chân thật là nếu ai biết rõ trò ảo thuật kia là vô thể, thì họ biết được cảnh thật như cây, v.v… Như vậy, do chuyển y, nên liền chứng được nghóa chân thật, là nếu biết hai thứ mê lầm kia là không có thật thể thì Bồ-tát khi chuyển y sẽ chứng được nghóa của thể tính chân thật. Kệ rằng: Nhân của mê vô thể, Hết mê, đi tự tại, Nhân điên đảo vô thể, Vô đảo, chuyển tự tại. Giải thích: Nhân của mê vô thể, hết mê đi tự tại là cây đá ở thế gian dù vô thể, nhưng chúng vẫn là nhân của lầm mê. Nếu ai hết mê thì đi lại tự tại, không nương vào kẻ khác. Nhân của điên đảo vô thể, không đảo, chuyển tự tại, là khi chưa chuyển y, như thế thì dù không tự thể nhưng vẫn là nhân duyên của điên đảo. Nếu khi được chuyển y vì không điên đảo thì bậc Thánh cũng được tự tại, sống theo tự tại. Kệ rằng: Việc nầy chỗ kia có, Kia có thể cũng không, Thể có ấy là không, Cho nên nói là huyễn. Giải thích: Trò huyễn thuật kia vẫn có đấy, nó có thể, cũng không, là việc nầy nói về trò ảo thuật có nhưng chẳng phải có. Vì sao? Vì cái có của nó là vật thể tưởng tượng hư ảo, mà nó hiển hiện ra đấy thôi. Chẳng phải có, là thể thật của nó không thật có. Thể có ấy là không, nên mới có là huyền ảo, nghóa là dù có thể, hay không có thể cả hai đều không. Vì nghóa nầy nên nói trò ấy là ảo thuật. Kệ rằng: Vô thể, phi vô thể, Phi vô thể, tức thể, Vô thể, thể không hai, Cho nên nói là huyễn. Giải thích: Vô thể phi vô thể, phi vô thể tức thể, nghóa là ở đây nói trò ảo thuật kia chẳng phải có mà có, Vì sao? Vì chẳng phải có là vì ảo thuật kia là không có tự thể, vì nó không có thật thể. Mà có, nghóa là trò ảo thuật kia chẳng phải vô thể vì có hình tượng hiện bày ra. Thể vô thể không cả hai, nghóa là vô thể và thể không hai. Vì nghóa nầy cho nên nói trò kia là ảo hóa. Kệ rằng: Nó có hai thứ sáng, Mà không hai thể sáng, Cho nên nói sắc thảy, Có thể tức vô thể. Giải thích: Nói có hai thứ sáng, mà không hai thể sáng nghóa là ở đây làm sáng tỏ, vì phân biệt luống dối thấy có, mà không phải có. Vì sao ? Có là do hiện bày của hai thứ ánh sáng. Chẳng phải có là vì thật thể của nó, không thật có. Cho nên nói sắc, v.v… có tự thể tức không có tự thể, nghóa là do nghóa nầy, nên nói sắc, v.v… có tự thể tức không có tự thể. Kệ rằng: Vô thể phi vô thể, Phi vô thể tức thể, Cho nên nói sắc thảy, Thể vô thể không hai. Giải thích: Vô thể phi vô thể, phi vô thể tức thể, đây là nói do luống dối phân biệt, chẳng phải có nhưng thấy có. Vì sao ? Chẳng phải có là do hai thứ ánh sáng kia không có tự thể vì chúng không có thật thể. Nhưng có, là do hai thứ ánh sáng kia chẳng phải vô thể, vì ánh sáng hiện rõ. Cho nên nói sắc, v.v… là vô thể, thể không hai, là do nghóa nầy, nên nói sắc vô thể và thể không hai. Hỏi: Thể và vô thể sao không một bề nhất định mà lại cho rằng hai thứ đó không khác nhau? Kệ rằng: Có biên là ngăn lập, Không biên là ngăn, Lui Đại về Tiểu diệt, Ngăn kia cũng như vậy. Giải thích: Theo thứ lớp trên thì: Vì ngăn hữu biên. Vì ngăn vô biên. Vì ngăn hướng về Niết-bàn Tiểu thừa. Cho nên không được nói một bề nhất định. Hỏi: Thế nào là ngăn hữu biên? Đáp: Hữu biên là ngăn thành lập. Đây là nói về, do đối với vô thể mới biết là vô thể, nên không thể an lập là có. Hỏi: Ngăn dứt vô biên là sao? Đáp: Ngăn dứt vô biên là ngăn dứt sự chê bai. Điều nầy nói về là do đối với có thể biết thế tục Đế, chẳng nên không chê bai là không. Hỏi: Thế nào là ngăn dứt sự hướng về Niết-bàn Tiểu thừa? Đáp: Nhằm ngăn dứt những người thoái lui Đại thừa, hướng về Niết-bàn của Tiểu thừa như vậy. Đây nói về vô thể và thể không khác nhau. Do vậy, không nên nhàm chán tự thể để nhập Niết-bàn Tiểu thừa. Kệ rằng: Sắc thức là nhân mê, Thức thức là thể mê, Nhân sắc thức là không, Thể thức thức cũng không. Giải thích: Sắc thức là nhân mê, thức thức là thể mê, là người kia mê mờ về cảnh nên gọi là sắc thức. Thể của năng mê đó gọi là phi sắc thức. Sắc thức vô thể, nên thể của thức thức cũng là không, vì sắc thức đã không nên phi sắc thức cũng không. Vì sao? Vì nhân là không, nên quả của nó cũng không. Kệ rằng: Ảo tượng và chấp ảo, Mê nên nói có hai, Như vậy, không có hai, Mà có hai khả đắc. Giải thích: Ảo tượng chấp ảo tượng, mê nên nói có hai, là kẻ ngu mê đối với ảo tượng, chấp lấy ảo tượng. Vì mê mờ cho nên nói có hai việc năng thủ và sở thủ. Như vậy, không hai, mà có hai khả đắc là: Hai việc kia dù là không, nhưng có hai cái có thể có do mê hiển hiện ra. Hỏi: Thí dụ trên đây, là muốn nói về điều gì? Kệ rằng: Cốt tượng, giữ lấy cốt, Quán nên cũng nói hai, Không hai mà nói hai, Khả đắc cũng như vậy. Giải thích: Cốt tượng giữ lấy cốt, quán nên cũng nói hai, là người quán hạnh đối với cốt tượng và duyên lấy cốt vì xem xét mà bảo có hai việc là năng quán và sở quán. Không hai mà nói hai, khả đắc, cũng như vậy, là hai việc kia dù không có, nhưng có hai cái có thể, có là vì quán hiển hiện ra. Hỏi: Quán như vậy rồi thì pháp nào là sở trị, pháp nào là năng trị? Kệ rằng: Nên biết thể sở trị, Pháp đó tướng của mê, Thể vô thể như vậy, Có, chẳng có như huyễn. Giải thích: Nên biết thể sở trị, pháp đó tướng của mê là trong đây nên biết, thể của sở trị là tướng của pháp mê. Tướng của pháp mê là thể như vậy, như vậy. Như vậy, thể vô thể có, chẳng có như huyễn là thể như thế mà nói có vì luống dối phân biệt. Nói không phải có là vì hai thể: Năng thủ và sở thủ, và phi thể chẳng khác nhau. Như vậy, cái có cũng như ảo mà cái không cũng như ảo, nên nói tướng mê của pháp nầy là như ảo. Kệ rằng: Nên biết thể năng trị, Các pháp Niệm, xứ, thảy, Thể như vậy vô tướng, Như huyễn cũng như vậy. Giải thích: Nên biết thể năng trị, các pháp Niệm, xứ, thảy, là trong đây, nên biết: Thể của năng trị tức là các pháp. Các pháp: là pháp Niệm, xứ, v.v… do Phật nói. Thể là như vậy, như vậy, thể như vậy nên không có tướng, như huyễn cũng như vậy là thể kia cũng như huyễn. Vì sao? Vì như kẻ phàm phu mê chấp cho là có thể như vậy, như vậy. Như Chư Phật đã nói các pháp không có thể như vậy, như vậy, thể không có tướng thể. Nhưng Phật, Thế Tôn vẫn thị hiện vào thai, ra thai, vượt thành, xuất gia thành Chánh giác. Như vậy dù vô tướng nhưng vẫn hiển hiện sáng tỏ, cho nên như huyễn. Hỏi: Nếu các pháp cùng là như huyễn thì lấy nghóa nào mà bảo rằng một bên là năng trị và một bên là sở trị? Kệ rằng: Như vua huyễn hùng mạnh, Khiến vua huyễn khác lui, Pháp thanh tịnh như vậy, Năng dứt hết pháp nhiễm. Giải thích: Như vua huyễn hùng mạn, khiến vua huyễn khác rút lui là tịnh pháp năng trị cũng như ông vua huyễn nầy, do có công năng đối trị gia tăng lên mãi đối với pháp ô nhiễm. Các pháp nhiễm ô bị đối trị kia, cũng giống như vua huyễn thuật vì đối với cảnh giới tăng lên mãi. Như vậy, pháp thanh tịnh có công năng khiến pháp nhiễm diệt hết. Như vua huyễn mạnh mẽ có công năng làm các vua huyễn khác phải rút lui. Bồ-tát cũng vậy, biết pháp là như huyễn hóa, Bồ-tát có công năng dùng pháp tịnh đối trị pháp nhiễm ô, cho nên không kiêu ngạo. Hỏi: Đức Thế Tôn chỗ nào cũng nói những thí dụ như: huyễn, như chiêm bao, như nắng chói lòa hiện ra các vật ảo, như hình, như tượng, như tiếng vọng, như trăng dưới nước, như hóa. Như vậy, tám thí dụ ấy, mỗi thí dụ nhằm nói về điều gì? Kệ rằng: Như huyễn đến như hóa, Thứ lớp dụ các hành, Hai, sáu, hai, hai sáu, Một, một, một có ba. Giải thích: Như huyễn đến như hóa thứ lớp dụ là các hành, huyễn là dụ cho sáu nhập bên trong, do ngã không có tự thể, chỉ là thứ ánh sáng nói về thôi. Chiêm bao là thí dụ cho sáu nhập bên ngoài, do sự thọ dụng sáu trần thể là không. Ánh sáng chói lòa là để dụ cho hai pháp tâm và tâm sở, do phát sinh si mê. Hình tượng còn dùng để dụ cho sáu nhập bên trong, do đây là bóng hình của nghiệp đời trước. Bóng còn dùng để dụ cho sáu nhập bên ngoài, do ảnh của nội nhập khiến nội nhập phát sinh tăng lên mãi. Tiếng vang dụ cho pháp được nói, giáo pháp như tiếng vang. Trăng đáy nước dụ cho pháp nương vào định. Định như mặt nước, giáo pháp như mặt trăng. Mặt nước lắng yên, không xáo động, thì giáo pháp liền hiển hiện. Biến hóa là dụ cho hóa thân của Bồ-tát, tùy ý thọ sinh và không bị ô nhiễm do việc mình làm. Hai, sáu, hai, hai mươi sáu, một, một, một có ba nghóa là: Hai sáu nghóa là sáu nhập bên trong và sáu nhập bên ngoài. Hai là hai thí dụ huyễn, mộng. Thí dụ đó nói về tâm và tâm sở. Nó được dụ sáng tỏ do ánh nắng chói lòa (mà mắt thấy các vật hiện ra). Còn hai, sáu là sáu nhập bên trong và sáu nhập bên ngoài, chúng được sáng tỏ bới hai dụ ảnh và tượng. Một, một, một là nói thọ sinh trong pháp Tam-muội. Nó được dụ bằng ba thứ: Tiếng vang, trăng đáy nước và hóa thân. Đã mói xong về nghóa chân thật, kế là nói về cầu trí năng tri. Kệ rằng: Không chân và tựa chân, Chân và tựa chẳng chân, Bốn thứ trí như vậy, Biết được tất cả cảnh. Giải thích: Bất chân và tựa chân, chân và tựa bất chân là không chân thật, là trí phân biệt không chân thật, vì không thuận theo vào trí phân biệt xuất thế gian. Tựa chân là trí phân biệt bất chân, chẳng phải bất chân. Từ thông đạt phần đầu tiên, vì thuận theo vào trí xuất thế gian. Chân: là trí vô phân biệt xuất thế gian, vì chứng chân như. Tựa không chân nghóa là trí vô phân biệt, chẳng phải vô phân biệt, vì trí thế gian có được sau khi xuất thế gian. Bốn thứ trí như vậy, biết được tất cả cảnh là vì đầy đủ bốn trí nầy nên hiểu biết tất cả các cảnh. Đã nói cầu trí, kế là nói về cầu nhiễm ô và thanh tịnh. Kệ rằng: Từ giới và hai sáng, Si và các hoặc khởi, Các phân biệt như thế, Nên xa lìa hai thật. Giải thích: Từ giới và hai sáng, si và các hoặc khởi: là giới có nghóa là từ hạt giống thức A-lê-da. Hai thứ ánh sáng là ánh sáng của năng thủ và ánh sáng của sở thủ. Hai thứ phân biệt nầy phát sinh là vì chúng cộng tác với vô minh và các thứ mê lầm khác. Các thứ phân biệt, cũng xa lìa hai thật là: Hai sự thật là sự thật về sở thủ và sự thật về năng thủ. Hai thứ sự thật đầy ô nhiễm như vậy, phải tìm cách xa lìa. Kệ rằng: Được ba duyên kia rồi, Nên học từ giới, xứ, Hai sáng như vậy diệt, Như chuốt tên, thuộc da. Giải thích: Được ba duyên kia rồi, nên học từ giới, xứ: là ba duyên trong, ngoài và cả hai, như đã nói ở trước. Từ giới nghóa là các thứ phân biệt, nên hiểu như vậy. Xứ là tên gọi nơi chốn. Tên gọi nơi chốn nầy nên an tâm. Nên học là tu tập hai pháp chỉ quán. Hai thứ ánh sáng ấy, nên làm tắt ngấm đi là dụ như chuốt tên, thuộc da, nghóa là hai thứ phân biệt của hai ánh sáng kia tắt rồi, ví như thuộc da cho thật mềm, như chuốt tên phải uốn cho đầu tên thẳng. Việc chuyển y cũng như vậy, nhất nhất phải tu tập chỉ hoặc quán. Khi đạt hai thứ giải thoát tâm và tuệ thì hai thứ ánh sáng kia không phát sinh nữa. Sự thanh tịnh như vậy lẽ ra cầu đến được.  LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH <卷>QUYỂN 5 <詞>Phẩm Thứ 12: THUẬT CẦU (Phần 2) Giải thích: Đã nói về: Cầu nhiễm, tịnh, Sau đây nói về cầu chứng Duy thức. Kệ rằng: Năng thủ và sở thủ, Cả hai, chỉ tâm sáng, Ham sáng và tin sáng, Hai sáng không hai pháp. Giải thích: Năng thủ và sở thủ, cả hai chỉ là tâm sáng, là người cầu Duy thức, nên biết, là hai thứ năng thủ, sở thủ kia đều là ánh sáng tâm. Ham sáng và tin sáng, hai sáng không hai, hai pháp là như ánh sáng của phiền não tham, v.v… và ánh sáng của pháp lành như tin, v.v… Hai ánh sáng như vậy cũng không có hai pháp nhiễm, tịnh. Vì sao? Vì không lìa ánh sáng tâm mà có các pháp nhiễm, tịnh riêng như tham tin, v.v… Thế nên, hai ánh sáng cũng không có hai tướng. Kệ rằng: Các ánh sáng tâm khởi, Các thứ tướng như vậy, Thể sáng đó phi thể, Không được pháp thật kia. Giải thích: Các thứ ánh sáng tâm khởi, với các tướng như vậy là các thứ ánh sáng tâm tức là các sự tướng, phát sinh khác lúc, hoặc cùng lúc. Phát sinh khác lúc là ánh sáng tham, ánh snág sân, v.v … Phát sinh cùng lúc là ánh sáng của lòng tin, của tinh tấn, v.v… Thể của ánh sáng đó phi thể, không nhận được pháp chân thật, là tâm ở vị trí nhiễm, tâm sở ở vị trí tịnh, chỉ có tướng ánh sáng nhưng thể của ánh sáng thì không. Do vậy, Đức Thế Tôn không nói pháp ánh sáng của tâm kia là chân thật, đã nói cầu Duy thức, kế là nói cầu các tướng. Kệ rằng: Sở tướng và năng tướng, Tướng chúng sai khác nhau, Vì lợi ích chúng sinh, Nên Chư Phật thị hiện. Giải thích: Tướng có hai thứ: Sở tướng và năng tướng. Bài kệ trên đây nêu chung, bài kệ dưới đây sẽ giải thích về sự khác nhau giữa các tướng. Kệ rằng: năm: Cộng và tâm và kiến, Và vị và bất chuyển, Nói lược năm sở tướng, Nói rộng thì vô lượng. Giải thích: Cộng, tâm, kiến, vị, không chuyển là sở tướng có Pháp sắc. Pháp tâm. Pháp tâm số. Pháp bất tương ưng. Pháp vô vi. Cộng là pháp sắc. Tâm là pháp thức. Kiến là pháp tâm sở. Vị là pháp bất tương ưng. Không chuyển là pháp vô vi, hư không, v.v… Nói lược có năm sở tướng, nói rộng thì vô lượng: là thức thường hiện lên năm tướng như vậy. Năm sở tướng nầy là Thế Tôn nói lược, nếu nói rộng thì khác nhau vô lượng. Đã nói các tướng của sở tướng, kế là nói các tướng của năng tướng. Kệ rằng: Ý nói và quen sáng, Danh nghóa sáng nương khởi, Phi chân do phân biệt, Đó gọi tướng phân biệt. Giải thích: Năng tướng, nói lược, có ba thứ: Là tướng phân biệt, tướng y tha và tướng chân thật. Bài kệ nầy nói về tướng phân biệt. Tướng nầy, lại có ba thứ: Tướng phân biệt có giác. Tướng phân biệt không giác. Tướng phân biệt về nhân của tướng. Lời nói, ý nghó là nghóa nhận thức (tưởng). Nghóa tức là cảnh của nhận thức. Tưởng là tâm sở, vì nhận thức đối với nghóa có công năng như thế như thế cho nên phát ra lời nói để hiểu. Đó là tướng phân biệt có giác. Quen sáng là: Tập (thói quen) là hạt giống của ý nghó, lời nói. Ánh sáng là hạt giống đó phát sinh trực tiếp với ánh sáng mà chưa thể sinh ra ý nghó lời nói giúp hiểu biết. Đó là tướng phân biệt không có giác. Danh nghóa sáng nương khởi: là nương danh mà nẩy sinh ra nghóa. Ánh sáng nương vào đó sinh ra nghóa. Cảnh giới tên gọi ánh sáng không phải thật mà chỉ phân biệt theo thế gian. Điều gọi là tên gọi và ý nghóa đó là tướng phân biệt của nhân tướng. Ba thứ tướng như thế, đều chẳng phải phân biệt chân thật. Đó gọi là tướng phân biệt. Kệ rằng: Sở thủ và năng thủ, Hai tướng đều ba sáng, Vì vô phân biệt chân, Đó là tướng y tha. Giải thích: Bài kệ nầy nói về tướng y tha. Trong tướng nầy tự nó có tướng sở thủ và tướng năng thủ. Tướng sở thủ có ba ánh sáng là ánh sáng về câu, về nghóa, về bài văn. Tướng năng thủ có ba ánh sáng là ánh sáng về ý, về lãnh thọ, về phân biệt. Ý là ý thích ô nhiễm bất cứ lúc nào. Thọ là năm thức thân. Phân biệt là ý thức. Ba ánh sáng của tướng sở thủ và ba ánh sáng của tướng năng thủ, các ánh sáng như vậy đều phân biệt không chân thật. Đó là tướng y tha. Kệ rằng: Vô thể, thể không hai, Chẳng vắng lặng, vắng lặng, Bởi vì vô phân biệt, Gọi là tướng chân thật. Giải thích: Bài kệ nầy nói về tướng chân thật. Chân thật nghóa là như. Tướng nầy có ba thứ: Tự tướng. Tướng nhiễm, tịnh. Tướng vô phân biệt. Vô thể và thể, không hai là tự tướng chân thật. Vô thể là tất cả các pháp chỉ là phân biệt. Thể lấy vô thể làm thể, không hai là thể và vô thể chẳng khác nhau. Vắng lặng và vắng lặng là tướng nhiễm, tịnh chân thật. Chẳng vắng lặng là do khách trần phiền não. Vắng lặng là do tự tính thanh tịnh. Vì vô phân biệt là tướng vô phân biệt chân thật, cảnh giới đã nói ba thứ năng tướng. Lại nữa, Kệ rằng: Nên biết năm học cảnh, Chánh pháp và chánh ức, Tâm giới, có, chẳng có, Điều năm nói chuyển y. Giải thích: Tướng chủ thể kia có năm thứ học cảnh: Năng trì. Sở trì. Cảnh tượng. Minh ngộ. Chuyển y. Năng trì nghóa là chánh pháp mà Phật đã nói, do pháp nầy giữ gìn năng duyên kia. Sở trì là nhớ nghó chân chánh, do chánh pháp là cái được giữ gìn. Cảnh tượng là cõi tâm, do định mà có được, nên an tâm ở pháp giới, như trước đã nói. Những gì được thấy là tên gọi, tâm định và gương, pháp giới là bóng. Minh ngộ là tuệ xuất thế gian, nên cái gì có thì như thật thấy có, cái gì không có thì như thật thấy không có. Hữu (có) là pháp vô ngã. Chẳng phải có, là năng thủ, sở thủ, ở đây đều nhận thấy rõ. Chuyển y: Kệ rằng: Tánh Thánh chứng bình đẳng, Giải thoát cũng có một Vượt trội có năm nghóa, Không bớt cũng không thêm. Giải thích: Tính thánh chứng bình đẳng giải thoát cũng có một, là tính bậc Thánh là cảnh giới vô lậu. Chứng bình đẳng là các thánh chứng đắc như nhau. Giải thoát cũng có một là Chư Phật, Thánh tính và Thanh văn Duyên giác bình đẳng, vì cùng giải thoát như nhau. Vượt hơn có năm nghóa, không bớt cũng không thêm là dù tính bậc Thánh là bình đẳng, nhưng Chư Phật là tối thắng do tự có năm nghóa: Thanh tịnh thắng, do tập lậu đều đã hết. Phổ biến thắng, do cõi nước đều thanh tịnh. Thân thắng do pháp thân. dứt. Thọ dụng thắng: do chuyển pháp luân nên thọ dụng không Nghiệp thắng do ở cung trời Đâu-suất, thực hiện việc giáo hóa đem lợi ích cho chúng sinh. Không bớt là khi phần nhiễm ô giảm bớt. Không thêm là khi phần tịnh tăng thêm. Năm thứ học địa tương tự nầy là do pháp sở tướng giải thoát kia và ba pháp năng tướng nầy. Đã nói sở tướng, năng tướng, kế là nói về cầu giải thoát. Kệ rằng: Hạt giống như vậy, chuyển, Cú, nghóa, thân quang chuyển, Đó gọi giới vô lậu, Chỗ nương cả ba thừa. Giải thích: Hạt giống như thế chuyển nghóa là vì thức A-lê- da chuyển. Cú nghóa, thân quang đều chuyển là vì thức khác cũng chuyển. Đây gọi là cảnh giới vô lậu là vì đã giải thoát. Chỗ nương cả ba thừa là Thanh văn, Duyên giác, Phật đều nương vào đây. Kệ rằng: Ý, thọ, phân biệt, chuyển, Được bốn thứ lớp tại, Thứ lớp vô phân biệt, Do nghiệp trí cõi nước. Giải thích: Ý, thọ, phân biệt, chuyển được bốn thứ lớp tại, thì ý, thọ, phân biệt, ba ánh sáng như vậy, nếu chuyển thì được bốn tự tại. Hỏi: Là bốn thứ lớp tại gì? Đáp: Theo thứ lớp của trí nghiệp cõi nước vô phân biệt, có bốn là: Được tự tại vô phân biệt. Được tự tại về cõi nước. Được tự tại về trí. Được tự tại về nghiệp. Kệ rằng: Nên biết ba địa sau, Nói có bốn tự tại, Địa bất động có hai, Địa khác đều có một. Giải thích: Nên biết ba địa sau, có bốn tự tại là Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa. Ba địa này thành tựu bốn tự tại. Riêng bất động địa có hai, còn các địa khác kia mỗi địa đều có một. Bất động địa có một là Vô phân biệt tự tại và hai là Sát độ tự tại. Do không công dụng nên Vô phân biệt, do sát độ tự tại nên thanh tịnh. Thiện tuệ địe có thứ ba là Trí tự tại do được các biện tài thù thắng. Pháp vân địa có cái thứ tư là Nghiệp tự tại, do các nghiệp chung không chướng ngại, Kệ rằng: Ba cõi hai vô ngã, Rõ nhập chân Duy thức, Cũng không chỉ sáng Duy thức, Được lìa gọi giải thoát. Giải thích: Lại có pháp môn giải thoát riêng. Ba cõi hai vô ngã, rõ nhập chân Duy thức là vì biết hai vô ngã chỉ là phương tiện, nên Bồ- tát phân biệt nhân và pháp trong ba cõi đều không có tự thể, cho nên là vô ngã. Sau khi biết như vậy, Bồ-tát cũng chẳng phải chỉ một hướng mà cho tất cả đều không có tự thể, vì biết rằng tất cả pháp là chân thật Duy thức. Cũng không có ánh sáng Duy thức, được xa lìa gọi là giải thoát là lúc bấy giờ, Bồ-tát an trụ tâm vào Duy thức, ánh sáng thức cũng không tức là được giải thoát. Vì sao? Vì nhân pháp không thật có, lìa có sở đắc. Kệ rằng: Nhóm năng trì sơ trì, Quán nên chỉ có danh, Quán danh không thấy danh, Không danh được giải thoát. Giải thích: Lại có pháp môn giải thoát riêng: Nhóm năng trì sở trì, năng trì là pháp được nghe, sở trì nhớ nghó chân chính. Nhóm nghóa là phước và trí đầy đủ. Vì nhờ sức mạnh của sự chứa nhóm trước nên mới có sở trì. Vì quán xét nên chỉ có danh, chỉ có ngôn thuyết chứ không có nghóa. Lại nữa, chỉ có tên gọi là Duy thức. Lại nữa, chỉ có tên gọi, chẳng có sắc, bốn ấm. Quán danh không danh, không danh được giải thoát. Lại nữa, quán danh sở quán lại không thấy danh, vì nghóa vô thể. Lại nữa, vì không thấy thức, lại không thấy phi sắc, bốn ấm. Như vậy, tên gọi cũng không tậht có, rời có sở đắc, nên gọi là giải thoát. Kệ rằng: Ngã kiến huân tập tâm, Trôi lăn trong các đường, An tâm trụ ở trong, Ngược dòng là giải thoát. Giải thích: Lại có, pháp môn giải thoát riêng: Ngã kiến huân tập, tâm, trôi lăn trong các đường là có hai thứ ngã kiến lan tràn nên gọi là huân tập. Do nhân huân tập nầy, nên phải trôi lăn trong sinh tử. An tâm trụ ở trong, đi ngược dòng gọi là giải thoát: nếu biết những chỗ duyên vào đều không thật có, nên để an tâm bên trong gom hết về, không cho tán loạn, tức là đi ngược dòng, đó là giải thoát. Đã nói về cầu giải thoát, kế là nói tìm vô tự thể. Kệ rằng: Tự không và thể không, Cùng với thể không trụ, Như chấp vô thể đó, Pháp thành vô tự thể. Giải thích: Tự không và thể không, cùng với thể không trụ, là tự không có, nghóa là các pháp tự nhiên là không, do chúng không tự sinh khởi. Không tự sinh khởi là do lệ thuộc duyên nhân duyên. Thể không nghóa là các pháp đã diệt thì không còn sinh. Cùng với thể không trụ là các pháp hiện tại, từng sát-na, từng sát- na không dừng trụ. Ba thứ nầy, không có tự thể, trùm khắp các tướng hữu vi, nghóa nầy nên biết. Như chấp vô thể: pháp thành vô tự thể là như đã chấp chặt thật là không có tự thể là do tự thể vô thể, như kẻ phàm phu đối với tự thể chấp là thường lạc, ngã, tịnh, như vậy phần vị khác đối với tướng khác cũng lại không có tự thể. Cho nên tất cả các pháp đều thành không có tự thể. Kệ rằng: Vô tự thể nên thành, Trước, nương tựa cho sau, Vô sinh lại vô diệt, Tính Niết-bàn yên tónh. Giải thích: Vô tự thể nên thành, trước nương tựa cho sau, là do cái trước không có tính, nên theo thứ lớp thành lập pháp sau không sinh. Hỏi: Vì sao ? Đáp: Vô sinh lại vô diệt là tính lặng yên xưa giờ của Niết-bàn. Nếu không có tính thì vô sinh. Nếu vô sinh thì vô diệt. Nếu không sinh diệt thì xưa nay vắng lặng, xưa nay vắng lặng là tự tính Niết-bàn. Như vậy, theo thứ lớp cái trước của pháp trước sẽ làm chỗ nương cho các pháp sau. Nghóa nầy được thành. Đã nói cầu vô tự tính, kế là sẽ nói cầu Vô sinh nhẫn. Kệ rằng: Xưa nay và chân thật, Tướng khác và tự tướng, Tự nhiên và không khác, Nhiễm ô khác nhau tám. Giải thích: Có tám pháp không sinh khởi gọi là Vô sinh nhẫn: Xưa nay không sinh khởi, do sinh tử không có nguồn gốc sinh khởi. Chân thật không sinh khởi, do pháp không có trước, sau, khác nhau do pháp sinh trước vốn là không. Tướng khác nhau không sinh khởi, do chẳng phải hạt giống cũ đang ở đó lại được khởi. Tự tướng không sinh khởi do tính phân biệt rốt ráo không sinh khởi. Tự nhiên không sinh, do tự tính của tính y tha không sinh khởi. Không khác nhau, không sinh khởi do tính chân thật không phải có tự thể khác nhau khởi. Nhiễm ô không sinh khởi: vì khi có tận trí, thì các kiến chấp nhiễm ô không còn sinh lại. Khác nhau không sinh khởi do pháp thân Chư Phật chẳng có sinh khởi khác nhau. Tám pháp không sinh khởi nầy được gọi là Vô sinh pháp nhẫn. Đã nói cầu Vô sinh nhẫn, kế là nói cầu nhất thừa. Kệ rằng: Pháp vô ngã giải thoát, Do đồng tính, khác tính, Được hai ý biến hóa, Rốt ráo nói nhất thừa. Giải thích: Trong bài kệ nầy, vì tám ý mà Phật nói nhất thừa: Vì pháp đồng nhau, nghóa là các vị Thanh văn, v.v… không có pháp giới khác, vì chỗ hướng đến là đồng nhau, nên nói Nhất thừa. Vì đồng là vô ngã, nghóa là người Thanh văn, v.v… cùng một thể vô ngã, thú hướng giống nhau, cho nên nói Nhất thừa. Vì cùng giải thoát, nghóa là người Thanh văn, v.v… cùng diệt hoặc chướng, do cùng xuất ly nên nói Nhất thừa. Vì tính chất khác nhau, nghóa là vì chất bất định của ba thừa, nên dẫn dắt họ vào Đại thừa, nên nói Nhất thừa. Các Đức Phật đồng tự ý: nghóa là Chư Phật có ý nghó như vầy: sở đắc của ta là tất cả chúng sinh cũng đồng như ta có được, từ ý nghóa đó, nên nói Nhất thừa. Vì ý định Thanh văn được thành Phật, nghóa là xưa kia khi làm hạnh Đại Bồ-đề, Thanh văn có định thành Phật tính. Bấy giờ, Phật khuyên cố gắng thêm lên, vươn tới chỗ cao hơn, tự biết mình có ý thành Phật. Do người ấy, ý nghó trước sau nối nhau, không khác nhau, nên nói Nhất thừa. Do biến hóa nghóa là Phật thị hiện Thanh văn mà nhập Niết- bàn là do muốn giáo hóa, như Phật tự nói: “Trong vô lượng, vô số kiếp, ta đã vì thừa Thanh văn mà thị hiện Niết-bàn. Vì lìa bỏ phương tiện nầy, ta sẽ không còn phương tiện nào khác để giáo hóa người vốn có căn tính Tiểu thừa, để dẫn vào Đại thừa. Chân lý thật ra chỉ có một, nên ta nói Nhất thừa”. Bởi rốt ráo, nghóa là đạt thể tính Phật, không còn đi đến nơi nào nữa, nên nói Nhất thừa. Như thế, trong kinh chỗ nào cũng, đều lấy tám ý Phật nói Nhất thừa nầy, nhưng cũng chẳng phải không có ba thừa. Hỏi: Nếu vậy thì còn ý nghóa nào khác để đem mỗi ý nghóa của Phật mà nói Nhất thừa? Kệ rằng: Dẫn dắt các Thanh văn, Gom trụ các Bồ-tát, Với hai bất định nầy, Chư Phật nói nhất thừa. Giải thích: Mỗi ý của Phật có hai nghóa: Vì dẫn dắt các Thanh văn. Vì nhiếp trụ các Bồ-tát. Nếu các Thanh văn do tính bất định đối với thừa của mình thì Phật sẽ dìu dắt họ, giúp họ nhập vào Đại thừa, nên nói Nhất thừa. Nếu các Bồ-tát có tính bất định đối với thừa của mình thì Phật gom trụ họ, khiến họ không lui mất Đại thừa, cho nên nói Nhất thừa. Kệ rằng: Thanh văn hai bất định, Thấy nghóa, không thấy nghóa, Thấy nghóa, không cắt ái, Cắt ái cùng nhuyến căn. Giải thích: Thanh văn bất định lại có hai thứ: Thấy nghóa thừa là Thanh văn thấy đế phát tâm Đại thừa. Không thấy nghóa thừa là Thanh văn kia, dù chưa thấy đế vẫn phát tâm Đại thừa. Lại thấy nghóa Có hai thứ: Dứt ái là vì Thanh văn kia đã lìa khỏi ham muốn cõi Dục. Không dứt ái là vì Thanh văn kia chưa lìa khỏi ham muốn cõi Dục. Trong đó, có hai hạng người thấy nghóa, nên biết đầy đủ phẩm nhuyến, vì căn tính chậm lụt. Kệ rằng: Hai hạng đắc đạo thánh, Hồi hướng về các hữu, Hồi hướng không nghó bàn, Tương ưng với hai sinh. Giải thích: Hai hạng người nhận thấy nghóa như vậy, chứng ngộ được đạo thánh, có công năng hồi hướng đạo thánh về các hữu. Hồi hướng như vậy gọi là bất tư nghị sinh, do hồi hướng thánh đạo cho việc sinh nơi nào. Như vậy, hai hạng người tương ưng với hai nơi sinh. Hỏi: Thế nào là hai nơi sinh? Kệ rằng: Nguyện lực và hóa lực, Tùy ý muốn thọ sinh, Nguyện lực không dứt ái, Hóa sinh A-na-hàm. Giải thích: Hai nơi sinh là: Nguyện sinh tự tại. Hóa sinh tự tại. Cách thọ sinh của người trước là chưa lìa dục. Cách sau là của người A-na-hàm. Hỏi: Vì sao hai hạng người nầy được gọi là nhuyến phẩm? Kệ rằng: Do hai ưa Niết-bàn, Tâm thường tự nhàm chán, Cả hai vào đạo chậm, Lâu mới chứng Bồ-đề. Giải thích: Do hai hạng người nầy trước kia đã có tâm ưa thích Niết-bàn, nên thường sinh tâm nhàm chán sinh tử, cho nên nói hạng ấy vào đạo chậm, do họ không công năng mau lẹ chứng Bồ-đề Vô thượng, Kệ rằng: Người việc làm chưa xong, Sinh đời không có Phật, Do tu thiền giáo hóa, Dần được Đại Bồ-đề. Giải thích: Người việc làm chưa xong là chỉ cho người đã thấy đạo, nhưng chưa cắt dứt ái, chưa chứng quả A-la-hán. Người nầy sinh vào cõi nước không có Phật. Sau khi sinh, người ấy siêng tu các thiền định vì mục đích biến hóa. Người ấy nương vào sự biến hóa nầy mà dần dần chứng đắc Bồ-đề Vô thượng. Ba quả vị ấy, Phật đã nói trong kinh Thắng-man: “Thanh văn như vậy, sau đó chứng Duyên giác, cuối cùng được thành Phật”. Trong kinh Đại Thí chép: Hạng trước kiến đế vị. Hạng sinh vào thời không có Phật. Tự mình tu thiền định, bỏ thân nầy rồi thọ hóa thân. Hạng sẽ được Bồ-đề Vô thượng. Đã nói cầu Nhất thừa, kế là nói về cầu minh xứ. Kệ rằng: Bồ-tát tập năm minh, Đều vì cầu chứng trí, Giải, phục, tín, trị, nhiếp, Là năm cầu khác. Giải thích: Bồ-tát tu tập năm minh, đều vì cầu chủng: Minh xứ có năm: Nội minh. Nhân minh. Thanh minh. Y minh. Công xảo minh. Bồ-tát tu tập năm minh nầy, đều vì cầu Nhất thiết chủng trí. Nếu không siêng tu năm minh thì không được Nhất thiết chủng trí. Hỏi: Khác thế nào? Đáp: Có năm ý là giải, phục, tín, trị, nhiếp. Năm ý mong cầu riêng, tu học theo thứ lớp trên. Nội minh là chính mình tìm học, hiểu. Nhân minh là nhằm bẻ gãy lối học cố chấp của ngoại đạo. Thanh minh là giúp người khác có lòng tin để học đạo. Y minh là học những phương dược trị liệu. Công xảo minh là gồm nhiếp tất cả chúng sinh. Đã nói cầu minh xứ, kế là nói cầu nuôi lớn gốc lành. Cái gọi là tác ý đầy đủ các Ba-la-mật. Tác ý nầy có bốn mươi bốn thứ, món thứ nhất gọi là tác ý biết nhân, cho đến món sau cùng là tác ý biết chỗ hơn của ngã. Nay sẽ nói những tác ý đó. Kệ rằng: Biết nhân và niệm nương, Quả chung và tin, hiểu, Bốn ý theo thứ lớp, Tu tập các gốc lành. Giải thích: Bài kệ nầy có bốn thứ tác ý: Tác ý biết nhân. Tác ý ý nghó nương. Tác ý quả chung. Tác ý tín hiểu. Ban đầu, khi mới phát tâm, Bồ-tát an trụ tính mà nghó rằng: “Nay ta tự biết tính Ba-la-mật, biết có thể tăng trưởng”. Đó gọi là Tác ý biết nhân. Kế là nghó: “Nay ta đã phát tâm Đại thừa, chắc chắn sẽ làm tròn đầy các Ba-la-mật”. Vì sao? Vì lấy tâm Đại thừa nầy làm chỗ nương. Đó gọi là tác ý về ý nghó nương. Kế là nghó rằng: “Ta đã phát tâm vì làm lợi ích cho mình và người, nên phải siêng tu các Ba-la-mật”. Quả báo nầy, nếu có tính chất chung thì nhận lãnh, nếu không có tính chất chung thì không nhận lãnh. Đó gọi là tác ý cộng quả. Kế nghó rằng: “Nay ta trong khi tu tập siêng năng làm lợi ích cho mình và người thì phải thông đạt phương tiện chân thật của Niết-bàn. Điều gọi là bất nhiễm ba luân thì Chư Phật quá khứ đã hiểu, Chư Phật vị lai, sẽ hiểu, Chư Phật hiện tại đang hiểu, nay ta hoàn toàn tin hiểu”. Đó gọi là tác ý tín hiểu. Như vậy, sau tác ý đó, tác ý sau nầy nên biết, theo thứ lớp cũng như vậy. Kệ rằng: Đắc hỷ có bốn thứ, Hai ác thông thể lui, Nên biết tùy ý tu, Đây lại có bốn thứ. Giải thích: Bài kệ nầy có ba thứ tác ý: Tác ý được vui mừng. Tác ý không lui sụt. Tác ý thuận theo tu tập. Kế đó, Bồ-tát nghó rằng: “nay ta tin, hiểu các thứ Ba-la-mật, được bốn điều vui mừng, là mừng do ngăn dứt bị cắt đứt, mừng do sự chứa nhóm đã đầy đủ, mừng do đem lợi ích cho mình và cho người và mừng do hai quả y báo”. Đó gọi là tác ý vui mừng. Kế đó, Bồ-tát nghó rằng: “nay ta thành tựu Phật pháp cho mình và người, trong khi tu các Ba-la-mật, dù gặp kẻ hung ác làm những việc trái ý nghịch lòng, gây khốn đốn, nhưng ta không hề sờn lòng”. Đó gọi là tác ý không lui sụt. Kế đó, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta do cầu chứng Bồ-đề Vô thượng đối với các Ba-la-mật, phải phát khởi tu tập bốn thứ thuận theo, đó là phải sám hối các thứ chướng ngại Ba-la-mật, nên hỷ các hạnh Ba-la- mật, nên khuyến thỉnh pháp nghóa sáu Ba-la-mật, nên đem sáu pháp Ba-la-mật mà hồi hướng Bồ-đề Vô thượng”. Đó gọi là tác ý thuận theo tu tập. Kệ rằng: Tịnh tín và lãnh thọ, Ưa nói và mặc giáp, Khởi nguyện cũng hi vọng, Phương tiện lại bảy thứ. Giải thích: Bài kệ nầy nói lại bảy thứ tác ý: Tịnh tín tác ý. Lãnh thọ tác ý. Nhạo thuyết tác ý. Bị giáp tác ý. Khởi nguyện tác ý. Hi vọng tác ý. Phương tiện tác ý. Kế đó, Bồ-tát nghó rằng: “nay ta phải phát khởi lòng tin sâu xa, giữ lấy bằng sức mạnh pháp nghóa các Ba-la-mật”. Đó gọi là tác ý với lòng tin trong sạch. Kế đó, Bồ-tát nghó rằng: “nay ta phải một bề phát tâm mong cầu, không sinh tâm chê bai đối với pháp nghóa các Ba-la-mật. Đó gọi là tác ý lãnh thọ. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta nên đem pháp nghóa các Ba-la-mật mà chỉ bày cho kẻ khác”. Đó gọi là tác ý ưa giảng pháp. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta phải phát tâm thật mạnh mẽ thực hiện đầy đủ các Ba-la-mật”. Đó gọi là tác ý mặc giáp. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta mong muốn gặp được các duyên đầy đủ để thực hiện trọn vẹn các Ba-la-mật”. Đó gọi là tác ý khởi nguyện. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta cầu các duyên thành tựu chân chính”. Đó gọi là tác ý hi vọng. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta dùng phương tiện nghiệp bạn để tư duy các Ba-la-mật”. Đó gọi là tác ý phương tiện. Trong đây, tác ý mặc giáp, tác ý lập nguyện và tác ý hi vọng, sẽ được phân biệt rộng hơn, trong phẩm Giáo Thọ. Kệ rằng: Mạnh mẽ và thương xót, Hai tác ý như vậy, Có khác nhau, nên biết, Mỗi tác ý có bốn. Giải thích: Bài kệ nầy có hai thứ tác ý là: Tác ý mạnh mẽ. Tác ý thương xót. Hai thứ tác ý nầy, mỗi thứ đều có bốn thứ khác nhau. Bồ-tát tư duy phương tiện rồi, kế nghó rằng: “Nay ta phát khởi bốn thứ mạnh mẽ để làm vững chắc thêm, để thành thục chúng sinh, để cúng dường và để gần gũi”. Làm cứng chắc thêm có sáu, tu sáu Ba-la-mật, đó là từ sáu thí cho đến sáu trí. Sáu thí là từ thí thí cho đến thí trí. Sáu thứ như giới, v.v… cũng giống như vậy. Để thành thục chúng sinh là đem các Ba-la-mật, làm phương tiện nhiếp lấy hữu tình và thành thục chúng sinh. Để cúng dường là lấy bố thí làm lợi ích, cúng dường. Lấy giới, v.v… để tu hành cúng dường. Để gần gũi là gần gũi bậc giáo thọ, không làm trái ngược các Ba- la-mật. Đó gọi là mạnh mẽ tác ý. Kế đó, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta phải phát bốn tâm vô lượng đối với các Ba-la-mật trước mắt nên khởi tâm từ, đối với bỏn sẻn, v.v… trước mắt nên khởi tâm bi, đối với các Ba-la-mật hiện đây của kẻ khác, nên khởi tâm hỷ. Khi thấy kẻ khác có lòng tin các Ba-la-mật thì nên khởi tâm vô nhiễm. Đó gọi là tác ý thương xót. Kệ rằng: Có thẹn cũng có ưa, Không dùng tâm khuất phục, Tu trị và khen ngợi, Đây lại có năm thứ. Giải thích: Bài kệ nầy có năm thứ tác ý: Tác ý có hổ thẹn. Tác ý có ưa thích. Tác ý không khuất phục. Tác ý tu tập, đối trị. Tác ý khen ngợi. Kế đó, Bồ-tát nghó rằng: “Đối với các Ba-la-mật, biếng nhác không thực hành và làm việc tà vạy thì phải sinh lòng hổ thẹn sâu xa, nên chuyển sang bố thí, v.v… Nếu không thay đổi thì gọi là tác ý có hổ thẹn. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta đối với cảnh giới Ba-la-mật sở duyên phải giữ vững tâm không cho tán loạn”. Đó gọi là tác ý có ưa thích. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta đối với phương tiện các Ba-la-mật mà lùi sụt, thì ta phải coi việc lùi sụt ấy là kẻ thù. Đó gọi là tác ý không khuất phục. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta đối với các Ba-la-mật, các luận có chỗ tương ưng, ta phải khéo gom góp tu tập để đối trị”. Đó gọi là tác ý tu trị. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta muốn giúp kẻ khác hiểu biết, phải tùy trình độ của họ mà tán dương pháp nghóa các Ba-la-mật”. Đó gọi là tác ý khen ngợi, Kệ rằng: Nương độ chứng Bồ-đề, Không theo Tự Tại thảy, Lỗi lầm và công đức, Hai thứ nầy nên biết. Giải thích: Bài kệ nầy có hai tác ý: Tác ý nương vào sáu độ. Tác ý nên biết. Bồ-tát khen ngợi như trước rồi liền nghó rằng: “Nay ta nương vào các Ba-la-mật để chứng Bồ-đề, chứ không nương theo trời Tự Tại”. Đó gọi là tác ý nương vào sáu độ. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta nên biết các lỗi lầm gây trở ngại cho các Ba-la-mật và các công đức của Ba-la-mật”. Đó gọi là tác ý nên biết, Kệ rằng: Mừng gom và thấy nghóa, Ưa thích cầu bốn thứ, Bình đẳng, vô phân biệt, Hiện trì và đương duyên. Giải thích: Bài kệ nầy có ba thứ tác ý: Tác ý gom góp niềm vui. Tác ý thấy nghóa. Tác ý ưa thích mong cầu. Bồ-tát biết như vậy rồi, nghó rằng: “Ta nên vui mừng gom góp hai nhóm phước trí”. Đó gọi là tác ý gom góp niềm vui. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta thấy tự tính của các Ba-la-mật, có lợi ích chứng được Bồ-đề Vô thượng”. Đó gọi là tác ý thấy nghóa. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta thấy sự lợi ích nầy, nên khởi lên bốn điều mong cầu: Cầu bình đẳng, do tu tập chỉ, quán song song. Cầu không còn phân biệt do ba luân thanh tịnh. Cầu nắm giữ hiện tại, do nắm chắc pháp nghóa để thành tựu các độ. Cầu các duyên cho đời sau, do mong cầu để thành tựu các độ duyên đời sau. Đó gọi là tác ý ham cầu. Kệ rằng: Chấp lấy bảy không có, Bốn thứ tưởng ít có, Trái đây, phi ít có, Tưởng nầy cũng có bốn. Giải thích: Bài kệ nầy có ba thứ tác ý: Tác ý chấp thấy chẳng có. Tác ý tưởng ít có. Tác ý tưởng chẳng ít có. Bồ-tát ưa thích tìm cầu rồi nghó rằng: “Bảy lối chấp chẳng phải có, nay ta nên nhận thức: Chấp chẳng có là có không phải có. Chấp chẳng phải có, lỗi lầm chẳng phải lỗi lầm. Chấp chẳng phải có, công đức chẳng phải công đức. Chấp chẳng phải có, vô thường là thường. Chấp chẳng phải có, không phải vui là cho vui. Chấp chẳng phải có, không phải ngã là cho ngã. Chấp chẳng phải có, vắng lặng cho là không vắng lặng. Để đối trị bảy lối chấp chẳng thật có nầy, Đức Như lai thứ lớp nói Tam-muội ba không, v.v…, và nói bốn pháp Ưu-đà-na. Đó gọi là tác ý chấp thấy chẳng có. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta đối với các Ba-la-mật, nên phát khởi bốn tưởng ít có, nghóa là tưởng lớn lao, tưởng rộng rãi, tưởng không cầu báo ơn, và tưởng không quả báo không nhất định”. Đó gọi là Tác ý tưởng ít có. Kế, Bồ-tát nghó rằng: Cũng có bốn thứ tưởng không ít có trái với bốn ít có nầy, đối với các Ba-la-mật. Đó là nhờ các Ba-la-mật rộng lớn nên có thể được Bồ-đề Vô thượng, có thể an trụ bình đẳng giữa mình và người. Có thể không mong cầu sự cúng dường của tất cả thế gian; Có thể không mong cầu thân mình, của cải của mình nhiều hơn, vượt hơn thế gian. Đó gọi là Tác ý tưởng không ít có. Kệ rằng: Lìa bên chúng sinh đọa, Đại nghóa và chuyển thí, Rốt ráo và không hở, Như vậy lại năm thứ. Giải thích: Bài kệ nầy có năm thứ tác ý: Tác ý lìa bên. Tác ý đại nghóa. Tác ý chuyển thí. Tác ý rốt ráo. Tác ý không xen hở. Kế là Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta nên dùng các Ba-la-mật mà chuyển hóa tất cả chúng sinh”. Đó gọi là tác ý lìa bên. Kế là Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta nên dùng các Ba-la-mật mà làm nhiều lợi ích rộng lớn cho tất cả chúng sinh”. Đó gọi là tác ý đại nghóa. Kế là Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta dùng tất cả công đức của các Ba- la-mật mà bố thí cho tất cả chúng sinh”. Đó gọi là tác ý chuyển thí. Kế Bồ-tát nghó rằng: “Mong cầu tất cả Ba-la-mật của tất cả chúng sinh đạt đến ba chỗ rốt ráo”. Nghóa là địa rốt ráo của Bồ-tát, địa rốt ráo của Như lai, lợi ích rốt ráo của chúng sinh. Đó gọi là tác ý rốt ráo. Kế Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta phải tu tập các Ba-la-mật không xen hở, bất cứ lúc nào”. Đó gọi là tác ý không xen hở. Kệ rằng: Thuộc phương tiện thường tùy, Tâm trụ không điên đảo, Không vui thấy ai lui, Vui thấy ai tiến lên. Giải thích: Bài kệ có ba thứ tác ý: Tác ý tùy nhiếp. Tác ý không vui. Tác ý vui mừng. Kế Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta an trụ tâm không điên đảo đối với những gì mà Phật biết, nên dùng các Ba-la-mật tùy lúc mà nhiếp hóa”. Đó gọi là tác ý tùy nhiếp. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta không thể sinh tâm vui mừng khi thấy người khác lui sụt các Ba-la-mật”. Đó gọi là tác ý không mừng. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta phải vui mừng cầu chúc khi thấy người khác tiến mạnh hơn các Ba-la-mật”. Đó gọi là tác ý vui mừng. Kệ rằng: Dường như không muốn tu, Muốn tu tập chân thật, Không theo và muốn chứng, Có hai thứ muốn được. Giải thích: Bài kệ có bốn thứ tác ý: Tác ý không ham tu. Tác ý muốn tu tập. Tác ý không thuận theo. Tác ý muốn chứng đắc. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta không muốn tu tập các pháp tợ Ba- la-mật”. Đó gọi là tác ý không muốn tu tập. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta phải siêng năng tu tập các Ba-la- mật chân thật”. Đó gọi là tác ý muốn tu tập. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta phải cắt đứt ý tưởng gây chướng ngại các Ba-la-mật”. Đó gọi là tác ý không thuận theo. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta muốn được thọ ký địa vị các Ba- la-mật, muốn được quyết định địa của các Ba-la-mật”. Đó gọi là tác ý muốn được. Kệ rằng: Định làm hạnh vị lai, Thường quán hạnh mãn khác, Tin, hiểu, mình bậc nhất, Biết thể là Vô thượng. Giải thích: Bài kệ trên nêu lên ba thứ tác ý: Tác ý quyết định làm. Tác ý quán xét người khác. Tác ý ta là hơn hết. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Ta thấy các cõi ở đời vị lai, ta chắc chắn dùng phương tiện trí để thực hành các Ba-la-mật”. Đó gọi là tác ý quyết định làm. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta phải xem xét các Ba-la-mật của các Đại Bồ-tát trong mười phương. Trong lúc các vị ấy đã thực hành đầy đủ, ta cũng làm đầy đủ như vậy, do cùng chung một việc làm”. Đó gọi là tác ý quán xét người khác. Kế, Bồ-tát nghó rằng: “Nay ta tin chắc rằng các Ba-la-mật mà ta đã thực hành, so với các việc làm thì nó là bậc nhất. Vì sao? Do ta quán xét thể của Ba-la-mật nầy là Vô thượng”. Đó gọi là tác ý ta hơn hết. Kệ rằng: Dùng các tác ý nầy, Mà tu tập các độ, rằng: Bồ-tát trong Các lúc, Gốc lành được tròn đầy. Giải thích: Bài kệ nầy là tổng kết nghóa trước, nên biết. Đã nói cầu nuôi lớn gốc lành, kế là nói cầu pháp khác nhau. Kệ Cầu pháp là tăng trưởng, Thượng ý và rộng lớn, Có chướng cũng vô chướng, Và dùng các thần thông, Vô thân cũng có thân, Đắc thân và mãn thân, Nhiều mạn và ít mạn, Cho đến do không mạn. Giải thích: Cầu pháp có mười ba thứ khác nhau: Cầu tăng trưởng, nghóa là do nghe chánh pháp mà lòng tin tăng trưởng. Cầu thượng ý: nghóa là thọ dòng pháp bên Phật. Cầu rộng lớn, nghóa là do chứng được thần thông, nên từ xa Bồ- tát vẫn có thể nghe pháp của Chư Phật một cách đầy đủ. Mong cầu có chướng ngại, nghóa là mới tăng trưởng lòng tin. Cầu không có chướng ngại: là cầu ý chí hướng thượng. Cầu thần thông, nghóa là cầu rộng lớn. Cầu không có thân nghóa là do văn, tư, tuệ không có pháp thân. Cầu có thân nghóa là tu tuệ, do có thân do hạt giống học rộng được huân tập. Cầu thân do chứng đắc: nghóa là từ Sơ địa đến địa thứ bảy. Cầu thân tròn đầy, nghóa là các địa tám, chín, mười. Cầu thường ngã mạn, nghóa là tín, hành, địa. Cầu pháp ít ngã mạn: là từ Sơ địa đến địa thứ bảy. Cầu pháp không ngã mạn, là ba địa sau. Đã nói sự khác nhau của cầu pháp, kế là nói nhân duyên cầu pháp, Kệ rằng: Vì sắc vì phi sắc. Vì thông vì chánh pháp. Tướng tốt và hết bệnh Nhân tự tại vô tận. Giải thích: Có bốn nhân duyên cầu pháp: Vì sắc, nghóa là do nhân tướng tốt. Vì không phải sắc, là nhân dứt trừ bệnh phiền não. Vì thần thông, là nhân tự tại. Vì chánh pháp, là do nhân vô tận. Như kinh Phạm Thiên Vương Vấn, chép: Bồ-tát cầu pháp có đầy đủ bốn tưởng: Tưởng giáo pháp như của báu quý già, khó biết ý nghóa. Tưởng như thuốc hay, do có ý nghóa dứt trừ bệnh tật. Tưởng như của cải không bị phân tán. Tưởng như Niết-bàn, do nghóa diệt hết các khổ. Do giáo pháp là nhân của tướng tốt trang nghiêm, nên tưởng như châu báu quý giá. Do giáo pháp là nhân dứt trừ bệnh phiền não, nên tưởng như phương thuốc quý giá. Do giáo pháp là nhân của thần thông tự tại, nên tưởng như của cải. bàn. Do giáo pháp là nhân của chánh pháp vô tận, nên tưởng như Niết- Đã nói nhân duyên cầu pháp, kế là nói về sự phân biệt cầu xa lìa. Kệ rằng: Vô thể, thể thêm bớt, Tướng một khác, tự riêng, Chấp như danh, như nghóa, Phân biệt có mười thứ. Giải thích: Có mười thứ phân biệt là: Phân biệt không tự thể. Phân biệt có tự thể. Phân biệt tăng ích. Phân biệt tổn giảm. Phân biệt tướng một. Phân biệt tướng khác. Phân biệt tự tướng. Phân biệt tướng riêng. Phân biệt như danh phát sinh nghóa. Phân biệt như nghóa khởi danh. Trong kinh Bát-nhã Ba-la-mật, vì muốn Đại Bồ-tát xa lìa mười thứ phân biệt nầy, nên Phật nói mười thứ đối trị. Vì đối trị với phân biệt vô thể nên kinh nói: Có Bồ-tát, có Bồ-tát, v.v… Vì đối trị với phân biệt có thể, nên kinh nói: Không thấy Bồ-tát. Vì đối trị với phân biệt tăng ích, nên kinh nói: Xá-lợi-phất! Tự tính của sắc là không. Vì đối trị với phân biệt tổn giảm, nên kinh nói chẳng phải sắc bị diệt là không. Vì đối trị với phân biệt tướng một, nên kinh nói hoặc sắc, không phải sắc. Vì đối trị với phân tướng khác, nên kinh nói, chân không, chẳng khác với sắc, sắc chẳng khác với chân không, không tức là sắc. Để đối trị với phân biệt tự tướng, nên kinh nói: Sắc nầy chỉ có tên gọi. Để đối trị với phân biệt tướng riêng, nên kinh nói: Sắc bất sinh, bất diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, v.v… Để đối trị với phân biệt như danh phát sinh nghóa, nên kinh nói: Tên gọi như khách đi qua, cho nên chớ chấp vào nghóa theo tên gọi ấy. Để đối trị với phân biệt như nghóa khởi danh, nên kinh nói: Tất cả tên gọi đều không thấy, do đó, không nên chấp vào tên gọi theo nghóa ấy, vì tên gọi đã không thấy. Đã nói phân biệt cầu xa lìa, kế là nói sự lớn lao của việc cầu pháp. Kệ rằng: Bồ-tát mạnh mẽ hơn, Hai cầu được chân thật, Thuận theo các thế gian, Công đức như biển đầy. Giải thích: Cầu pháp có ba thứ lớn lao: Phương tiện lớn, vì tinh tấn hơn hết mà cầu thế đế, Nghóa đệ nhất Đế, vì chân thật, không điên đảo. Làm lợi cho người khác lớn lao, vì làm chỗ nương cho thế gian, dùng Nghóa đệ nhất Đế an trụ chúng sinh. Tự lợi lớn lao, vì đầy đủ công đức như biển.  <卷>QUYỂN 6 <詞>Phẩm Thứ 13: HOẰNG PHÁP Giải thích: Đã nói về cầu pháp, kế là nói nên giảng nói pháp cho người. Kệ nêu: Khó được lại không bền, Thương khổ, hằng vui thí, Huống dùng pháp lợi đời, Tăng trưởng cũng vô tận. Giải thích: Bài kệ nầy, trước ngăn dứt việc keo lận giáo pháp. Khó được lại không bền, nghóa là thân mạng, của cải. Hằng thương chúng sinh khổ, thường vui vẻ bố thí là bất cứ lúc nào Bồ-tát cũng có thể xả bỏ ba thứ pháp không bền chắc để bố thí làm lợi ích cho chúng sinh, do lòng từ bi. Huống chi đem pháp làm lợi thế gian, tăng trưởng cũng vô tận, huống chi pháp Đại thừa mình nghe được không khó mà lại sinh tâm keo lận. Cho nên Bồ-tát phải dùng pháp nầy làm lợi ích rộng rãi cho thế gian. Vì sao? Vì do pháp mình có được sẽ lớn lên mãi, cũng vô tận. Đã ngăn dứt việc keo lận giáo pháp, kế là nói lợi ích của nói pháp. Kệ rằng: Tự chứng, không thể nói, Dẫn vật nói pháp tính, Pháp thân, miệng vắng lặng, Dòng thương như rắn thở. Giải thích: Tự chứng không thể nói, vì dẫn vật nói pháp tính: là Đức Thế tôn không thể nói pháp mà mình tự chứng do không thể nói được, nhưng vì dẫn dắt chúng sinh, nên Đức Thế tôn dùng phương tiện giảng nói pháp tính. Hỏi: Là phương tiện gì? Đáp: Pháp thân, miệng vốn vắng lặng, dòng thương tuôn chảy như rắn thở. Chư Phật dùng pháp tánh làm thân. Lấy vắng lặng làm miệng. Do lìa khỏi hai chướng nên thanh tịnh cực rộng. Do lòng Đại bi tuôn chảy thành giáo cương để dẫn dắt chúng sinh, như con rắn lớn hả miệng khạc nước dãi để hấp dẫn vạn vật, tất cả Chư Phật, cùng lúc đem thân, miệng, lòng đại bi để dẫn dắt chúng sinh, cũng như vậy. Lòng đại bi vô tận do nó là lòng thương rốt ráo. Kệ rằng: Do tu hành đắc quả, Nói tu phi vô nghóa, Chỉ nghe và không nghe, Nói tu là vô lý. Giải thích: Do tu hành mà Phật đắc quả, lời người tu nói không phải vô nghóa là Chư Phật dùng phương tiện để giảng nói pháp mà mình chứng để dìu dắt thế gian. Do công năng thực hành và sức mạnh tu tập một cách tự tại nên đắc quả. Thế nên công phu tu tập của Chư Phật và giáo pháp mà Phật nói, chẳng phải vô nghóa. Chỉ nghe và không nghe mà nói tu hành làvô lý, là nếu vì nghe pháp mà thấy được nghóa chân thật thì sự tu tập ấy không lợi ích. Còn ai không nghe pháp mà vẫn được ngộ nhập do sự tu tập của mình thì việc nói pháp hóa ra vô ích. Đã nói sự lợi ích của nói pháp, kế là nói sự khác nhau của nói pháp. Kệ rằng: Nói A-hàm, nói chứng, Là miệng, thần thông lực, Sức thần thông tướng tốt, Sắc khác và hư không. Giải thích: Các Bồ-tát nói pháp có hai thứ khác nhau: A-hàm nói là dùng sức miệng để nói. Nói chứng đắc nghóa là dùng sức thần thông để nói. Nói pháp bằng sức thần thông lại có nhiều thứ: Hoặc dùng tướng tốt để nói, hay dùng rừng cây để nói, hay dùng nhạc khí để nói, hay nói pháp trên hư không. Đã nói sự khác nhau của nói pháp, kế là nói thành tựu của nói pháp. Kệ rằng: Vô úy, và dứt nghi, Khiến tin, cũng bày thật, Các Bồ-tát như vậy, Nói thành tựu, nên biết. Giải thích: Các Bồ-tát nói pháp được thành tựu, do bốn thứ nghóa: Vô úy. Dứt nghi. Khiến tin. Bày thật. Như kinh Phạm Thiên Vương Vấn nói: “Nếu có đầy đủ bốn pháp thì Bồ-tát có thể mở hội pháp thí rộng lớn”. Bốn pháp là: Gồm nhiếp pháp mầu. Trí tuệ mình phải trong sáng thanh tịnh. Làm nghề nghiệp của bậc trượng phu khéo. Hiển bày pháp ô nhiễm, trong sạch. Trong bốn pháp ấy, thì đa văn là bậc nhất, do đó nên không lo sợ. nghi Công năng thư hai là có trí tuệ lớn, nên mới có công năng dứt Công năng thứ ba là không nương vào danh lợi nên khiến kẻ khác tin nhận lời mình nói. Công năng thứ tư là thông suốt thế tục đế và Nghóa đệ nhất đế cho nên có thể nói về hai thứ chân thật, nghóa là tướng ô nhiễm, chân thật và tướng thanh tịnh chân thật. Kệ rằng: Lời đẹp và lìa say, Chẳng lùi chẳng bất tận, Các thứ và tương ưng, Giúp hiểu, không cầu lợi, Và dạy trao cùng khắp, Lại nói thành tựu nầy. Giải thích: Lời nói tốt đẹp là khi bị người khác nổi giận mắng nhiếc mà mình không đáp trả bằng lời ác. Lìa say sưa: có hai thứ say sưa: Say sưa lời kẻ khác khen ngợi. Say sưa do việc mình làm thành công. Nghóa là của cải, sắc đạo, nhà cửa đều thành tựu tốt đẹp nên sinh tâm yêu thích vui sướng. Phải dẹp bỏ hai sự mê đắm ấy ở trong tâm, tức là xa lìa chúng. Không lui sụt: vì không biếng nhác. Đều hết là do xa lìa pháp bỏn sẻn nên nói được tất cả. Nhiều thứ là do không nói trùng lập. Tương ưng là do không trái với hiện lượng, tỉ lượng. Giúp hiểu rõ câu chữ là do không vì của cải lợi dưỡng mà bắt buộc người tin mình. rằng: Dạy trao cùng khắp là do có đủ ba thừa. Đã nói thành tựu nói pháp, kế là nói về thành tựu lời nói. Kệ Lời không và điều hòa, Khéo léo cũng rõ ràng, Ứng cơ, cũng lìa cầu, Phân lượng và vô tận. Giải thích: Lời không nhỏ là nói cho khắp đồ chúng nghe. Điều hòa là lời nói vui vẻ, vừa ý. Khéo léo là chỉ bày câu chữ sáng tỏ. Sáng tỏ là khiến người hiểu dễ dàng. Theo trình độ là theo trình độ thích ứng mà nói. Không màng lợi là không dựa vào danh lợi để nói pháp. Phân lượng là thích nghe không nhàm chán. Vô tận là không thể cùng tận. Đã nói thành tựu lời nói, sau đây, nói thành tựu chữ. Kệ rằng: Nêu danh và giải nghóa, Tùy thừa cũng mềm mỏng, Dễ hiểu mà ứng cơ, Vì xuất ly thuận theo. Giải thích: Nên tên: là tương ưng với các chữ, câu không trái với thường nghiệm. Giải nghóa là lời giải thích các chữ, các câu không trái với lý. Theo thừa là nương theo chữ, câu, không trái với ba thừa. Mềm mỏng là bỏ qua những câu chữ khó hiểu mà không trái với lời nói. Dễ hiểu là gom các chữ, câu làm cho dễ hiểu nghóa. Ứng cơ là chấm câu chữ, câu cho hợp với sự vật. Xuất ly là không dừng ở các chữ, các câu mà hướng đến Niết- bàn. Thuận theo là vận dụng các chữ, các câu đúng đắn do phải thuận theo theo tám chi đạo bậc Thánh. Kệ rằng: Bồ-tát thành tựu chữ, Như nghóa trước, nên biết, Có sáu mươi âm thanh, Là nói việc Như lai. Giải thích: Như lai có sáu mươi âm thanh, không thể nghó bàn. Như trong kinh Phật bí mật chép: “Vắng lặng tuệ Như lai có đầy đủ sáu mươi thứ tiếng nói, đó là âm thanh nhuần nhuyễn, mềm mại, vừa ý, ý vui mừng thanh tịnh. Nói rộng là như vậy. Trong ấy kể ra: Tiếng nói thấm nhuần chúng sinh có gốc lành có thể nhiếp giữ. Tiếng nói mêm mại người nghe pháp hiện tại có thể tiếp xúc được với niềm vui. Tiếng nói vừa ý do nghóa hay. Tiếng nói vui ý là vì khéo dùng chữ. Tiếng nói trong sạch, có được sau khi thành Vô thượng xuất thế. Tiếng nói không nhơ bẩn là vì nó không tương ưng với các tập khí mê lầm. Tiếng nói ấm sáng là do câu chữ dễ hiểu. Tiếng nói có sức vang động hay vì có đầy đủ công đức, phá tà kiến, ngoại đạo xấu. Tiếng nói thích nghe là do gieo lòng tin và thuận chiều xuất ly sinh tử. Tiếng nói không dứt là do tất cả ngoại đạo không thể dứt được. Tiếng nói điều phục là do nó có công năng đối trị với các phiền não như tham, v.v… Tiếng nói không châm chích là do làm phương tiện chế giới an vui. Tiếng nói không chát chúa là khiến người phạm giới được xuất ly chân chánh. Tiếng nói kheo điều phục là do dạy trao, giáo hóa. Tiếng nói vui tai là do đối trị tâm rối loạn. Tiếng nói dựa vào thân là do có công năng dẫn tới Tam-ma- đề. Tiếng nói làm cho tâm tỏ ngộ là do có công năng dẫn tới Tỳ- bát-xá-na (quán). Tiếng nói khiến tâm vui là do khéo dứt nghi. Tiếng nói làm phát sinh hỉ lạc là do có tính chất quyết định nhổ bỏ tà vạy. Tiếng nói không làm nóng bức là do gây lòng tin, lãnh thọ, không có ăn năn. Tiếng nói có thể khiến giữ chắc trí tuệ là do thành tựu nhân nghe và làm chỗ nương cho trí. Tiếng nói có thể khiến giữ chắc hiểu biết, thành tựu nhân suy nghó và làm chỗ nương cho trí. Tiếng nói không che giấu là do nói pháp một cách không bỏn sẻn. Tiếng nói dễ thương là do khiến đạt được quả lợi ích. Tiếng nói khát ngưỡng là do đã được quả người ta vui sâu xa với nguyện của mình. 2 5. Tiếng nói chỉ dạy là vì nói chánh pháp không thể nghó bàn. Tiếng nói khiến hiểu biết là vì nói chánh pháp khiến suy nghó. dạy. rỗng. Tiếng nói tương ưng là vì không trái với thường nghiệm. Tiếng nói có lợi ích là vì vì thích ứng với giáo pháp đã chỉ Tiếng nói không lặp lại là vì nó không phải lời nói trống Tiếng nói sư tử là vì khiến ngoại đạo run sợ. Tiếng nói voi là vì rung chuyển lớn. Tiếng nói sấm nổ là do vang đến nơi xa. Tiếng nói rồng là vì khiến khiến tin nhận. Tiếng nói Khẩn-na-la là do lời ca hay ho. Tiếng nói Ca-lăng-tần-già là do vần điệu trong sáng. Tiếng nói Phạm Thiên là vì nó lan toả ra thật xa. Tiếng nói chim mạng mạng là vì đầu tiên được tốt lành, tất cả công việc đều thành tựu tốt đẹp. Tiếng nói Thiên Vương là vì không ai dám trái nghịch. Tiếng nói trống trời là vì phá tan ma Sơ thiền. Tiếng nói lìa ngã mạn là vì khen chê vẫn không tự cao. Tiếng nói nhập vào tất cả là vì thâm nhập tất cả thứ tiếng Tỳ- già-la. Tiếng nói xa lìa điều bất chánh là vì nhớ mãi không quên. Tiếng nói đúng thời là vì việc giáo hóa, nên lời nói phát lên bất cứ lúc nào. Tiếng nói không đắm trước vì nó không dựa vào lợi dưỡng. Tiếng nói không sợ hãi, vì là khỏi hổ thẹn. Tiếng nói hoan hỷ, vì nghe không chán. Tiếng nói tùy xả là vì đã tham nhập tất cả sự khéo léo của Minh xứ. sinh. Tiếng nói bạn lành là vì thành tựu lợi ích cho tất cả chúng Tiếng nói thường suôn sẻ là nối nhau không xen hở. Tiếng nói trang sức là do làm các thứ hiển hiện. Tiếng nói đầy đủ là một tiếng nói pháp có vô lượng âm thanh. Tiếng nói khiến căn cơ chúng sinh vui mừng là một lời nói mà hiện ra vô lượng nghóa. Tiếng nói không chê bai mắng nhiếc, là tin tưởng, thuận theo như nghóa đã thành lập. Tiếng nói không thêm, không bớt là nói pháp có chừng mực theo giờ khắc. Tiếng nói không hấp tấp là không nói quá mau. Tiếng nói trùm lên tất cả là do đồ chúng xa gần cùng nương vào đó. Tiếng nói thành tựu tất cả là do đối với pháp nghóa thế gian, dùng dụ nói cho họ hiểu (gồm cả năm mươi chín, sáu mươi). Đã nói thành tựu chữ, sau đây nói về sự lớn lao của việc nói pháp. Kệ rằng: Khai diễn và lập bày Lập ra và nêu chung Nói riêng, và dứt nghi, Rộng, hẹp đều giúp hiểu. Giải thích: Khai diễn là giảng nói, lập bày là những câu. Lập ra là khéo tương ưng. Rạch ròi những điều ấy mới giảng nói. Theo trật tự ấy mà nêu lên cái chung và cái riêng, dứt nghi khiến nghóa gần nghóa xa đều dễ hiểu, khiến người nghe nhận được cái gì chắc chắn đối với pháp mà mình nói. Nói lược là nói một lần. Người căn cơ bén nhạy hiểu mau lẹ. Nói rộng là lặp lại để người chậm lụt có thể hiểu được. Kệ rằng: Người nói pháp được nói, Người nghe, ba nghiệp tịnh, Lại lìa tám lỗi lầm, Người nói tịnh, nên biết. Giải thích: Người nói pháp được nói, người nghe, ba nghiệp tịnh: gồm ba thứ nào? Một là người giảng nói là Phật hay Bồ-tát. Hai là pháp được nói, nói chung là các thứ danh từ, chữ. Ba là người lãnh thọ, nghóa là có người hiểu do nói lược, có người hiểu do nói lặp lại. Lại lìa khỏi tám lỗi lầm, người nói phải thanh tịnh, nên biết là người nói thanh tịnh phải biết lìa khỏi tâm lỗi lầm. Hỏi: Là tám lỗi gì? Kệ rằng: Biếng nhác và không hiểu, Từ chối, không giảng nghóa, Và không dứt trừ nghi, Dứt nghi không vững chắc, Chán lùi và bỏn sẻn (pháp), Tám lỗi lầm như thế, Chư Phật không có nó, Cho nên thành Vô thượng. Giải thích: Tám lỗi là: Biếng nhác. Không hiểu nghóa. Từ chối lời mời. Không giảng rộng nghóa. Không dứt nghi. Dứt nghi không quyết định. Trong tâm có chán nản thoái lui, không phải nói bất cứ lúc nào. Bỏn sẻn pháp, nên không chỉ bày tường tận cho ai. Tất cả Chư Phật đều không mắc phải tám lỗi ấy, nên thành đấng nói pháp Vô thượng. Đã nói sự lớn lao của việc nói pháp, kế đây là là nói về sự thành tựu ý nghóa. Kệ rằng: Pháp nầy tùy thiện lúc, Nhân sinh tin, mừng, giác, Nghóa đúng, và lời hay, Năng mở bốn phạm hạnh. Giải thích: Pháp nầy tùy thiện lúc, là nhân sinh tin, mừng, giác là, thiện lúc thiện nghóa là ban đầu, giữa, sau, đều thiện. Theo thứ lớp ấy, trong khi văn, tư, tu là đã làm nhân cho lòng tin, làm nhân cho vui mừng, làm nhân cho giác ngộ, là do đã dùng tâm định mà quán xét pháp nầy, đạo lý của nó được trí như thật. Nghóa đúng, và lời hay, có công năng mở bốn Phạm hạnh là: Nghóa đúng là nghóa thiện và nghóa mầu nhiệm. Nó tương ưng với thế tục đế và Nghóa đệ nhất đế. Nói hay là khiến dễ nhận, dễ hiểu vì văn nghóa sáng tỏ. Do vậy cho nên có công năng mở ra bốn thứ Phạm hạnh. Hỏi: Là bốn thứ nào? Kệ rằng: Không tương ưng với tha, Dứt hết hoặc ba cõi, Tự tính, và không nhơ, Là bốn việc Phạm hạnh. Giải thích: Bốn Phạm hạnh là: Sống một mình. Đầy đủ. Trong sạch. Trắng. Không tương ưng với tha, ấy là nghóa một mình, vì hạnh nầy, không thể chung sống với ngoại đạo được. Dứt hất hoặc ba cõi: ấy là nghóa đầy đủ hạnh nầy nên đã dứt hết phiền não trong ba cõi. Tự tính nghóa là trong sạch, do hạnh nầy, nên nó là tự tính thanh tịnh vô lậu. Không nhơ bẩn: nghóa là trắng, do hạnh nầy là thân thuộc chủng loại lậu tận, được trong sạch, không chút bợn nhơ. Đã nói nghóa nói pháp được thành tựu, sau đây nói về đề mục của nói pháp. Kệ rằng: Đó là tiết linh nhập, Tiết tướng kiết đối trị, Cùng với tiết bí mật, Đó gọi bốn đề mục. Giải thích: Chư Phật nói pháp không lìa bốn đề mục này: Đề mục khiến người nghe thâm nhập. Đề mục về tướng. Đề mục đối trị. Đề mục bí mật. Hỏi: Bốn đề mục nầy nương vào nghóa nào? Kệ rằng: Thanh văn và tự tính, Dứt lỗi, cũng lời sâu, Thứ lớp nương bốn nghóa, Nói có bốn đề mục. Giải thích: Đề mục khiến người đi sâu vào, nên biết, dạy các Thanh văn nhập vào pháp nghóa mà không lo sợ, như nói sắc là có, v.v… Nên biết, tướng của đề mục đối với sự phân biệt ba tự tính, v.v… Là không có tự thể, nên biết không phát sinh tự tính thanh tịnh, nhờ đó mà nói tất cả pháp. Đề mục đối trị: nên biết, vì đối trị tám thứ chướng ngại, nên phải bắt đầu từ dứt hết các lỗi lầm. Như trong kinh Đại thừa nói: “Thọ trì hai câu kệ, được ngần ấy công đức”. Ấy đều là nói Vì đối trị cả. (Pháp đối trị nầy sẽ được giải thích sau). Đề mục bí mật: Nên biết từ chỗ lời sâu sắc, nói trở lại mới hiểu được nghóa. Như câu kệ trong kinh Đại thừa nói: “Không hiểu một cách chắc chắn vững chắc thì dễ trụ vào điên đảo. Do phiền não quấy nhiễu nên mau chứng Đại Bồ-đề”. Trong đề mục này: Không hiểu vững chắc: không vững chắc là tâm chúng sinh không loạn. Do không rối loạn nên hiểu được bền chắc. Do cái hiểu nầy mới có công năng đạt được Bồ-đề tối thắng. Do rối loạn nên tâm cứ rong ruổi mãi nên không có công năng chứng Bồ-đề. Đó là nghóa của câu thứ nhất. Khéo dựa vào điên đảo thì, điên đảo là chấp cho là thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu ai đang sống trong điên đảo mà lại có thể hiểu là Vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh thì kẻ ấy khéo an trụ không lui sụt, có công năng mau đạt Bồ-đề, trái lại thì không đạt được. Đó là nghóa của câu thứ hai. Câu do phiền não quấy nhiễu là trải qua thời gian dài, siêng tu những hạnh khó làm về khổ hạnh, từ mệt mỏi quá mức mà chứng được Bồ-đề. Trái lại không chứng được, đó là nghóa của câu thứ ba. Đã nói đề mục nói pháp, kế là nói về ý nghóa nói pháp. Kệ rằng: Bình đẳng và nghóa khác, Thời khác, và muốn khác, Nương vào bốn ý nầy, Phật nói pháp, nên biết. Giải thích: Chư Phật nói pháp không lìa bốn ý là: Ý bình đẳng. Ý về nghóa khác nhau. Ý về thời gian khác nhau. Ý về ý muốn khác nhau. Ý bình đẳng nghóa: như Phật nói: “Thuở xưa Phật Tỳ-bà-thi chính là thân ta đây, do pháp thân không khác nhau. Nói theo lối ấy thì gọi là ý bình đẳng. Ý về nghóa khác nhau: như Phật nói: “Do không có tự tính nên tất cả pháp không sinh. Lối nói như vậy, gọi là ý nghóa khác nhau. Ý về thời gian khác nhau: như Phật nói: “Nếu ai nguyện thấy Phật Di-đà thì họ đều được vãng sinh”. Đó là do thời gian khác nhau mà được vãng sinh, cho nên nói như vậy. Nói như vậy gọi là ý về thời gian khác nhau. Ý về ý muốn khác nhau: như kẻ kia có gốc lành như vậy, thì Đức Như lai, có khi khen ngợi, có khi quở trách, là vì người kia có gốc lành ít, mà lại tự cho là đầy đủ rồi. Những lối nói như vậy thì gọi là ý muốn khác nhau. Đã nói về ý nói pháp, kế là nói về những công đức vâng giữ giáo pháp Đại thừa, Kệ rằng: Khinh Phật và khinh pháp, Biếng nhác ít tri túc, Tham lam và kiêu ngạo Ăn năn bất định thảy Tám thứ chướng như thế, Đại thừa nói đối trị, Các chướng như thế, Thì nhập vào chánh pháp. Giải thích: Hai bài kệ nầy nói về công đức dứt chướng của Đại thừa. Có tám thứ chướng là: Chướng khinh Phật. Chướng khinh pháp. Chướng biếng nhác. Chướng ít biết đủ. Chướng vì nghiệp tham. Chướng mạn. Chướng ăn năn. Chướng bất định. Vì đối trị chướng khinh Phật vì, kinh Đại thừa nói: “Phật Tỳ-bà-thi thuở xưa chính là ta ngày nay”. Vì đối trị chướng khinh pháp, nên kinh Đại thừa nói: “Ngay chỗ ở của vô lượng Hằng sa Phật, ta đã tu hạnh Đại thừa, cho đến khi được hiểu”. Vì đối trị chướng biếng nhác, kinh Đại thừa nói: “Nếu có chúng sinh nào nguyện sinh về cõi nước an vui thì tất cả đều được vãng sinh xưng niệm danh hiệu Phật Vô Cấu Nguyệt Quang, chắc chắn được thành Phật”. Vì đối trị chướng ít biết đủ nên kinh Đại thừa nói: “Có chỗ khen ngợi công hạnh bố thí v.v… Có chỗ lại chê bai hạnh bố thí”. Vì đối trị chướng nghiệp tham nên kinh Đại thừa nói: “Cõi nước Chư Phật có nhiều điều rất vui đẹp”. Vì đối trị chướng kiêu căng nên kinh Đại thừa nói: “Có cõi Phật thành tựu tuyệt diệu”. Vì đối trị chướng ăn năn nên kinh Đại thừa nói: “Có chúng sinh nào đó, làm những việc không lợi ích cho Phật và Bồ-tát, nhưng được sinh về đường lành”. Vì đối trị chướng bất định nên kinh Đại thừa nói: “Chư Phật thọ ký cho hàng Thanh văn sẽ thành Phật và nói pháp Nhất thừa cho họ nghe”. Đó gọi là vâng giữ Đại thừa và xa lìa được tám thứ chướng. Kệ rằng: Hoặc văn, hoặc là nghóa, Hai kệ siêng thọ trì, Số công đức có mười, Gọi là trí tuệ sáng, Gốc lành thành tròn đủ, Khi chết, vui ngập tràn, Sinh đâu tùy ý muốn, Trí, niệm sanh cũng thành, Đời đời thường gặp Phật, Nghe pháp được tin, tuệ, Rời xa hai thứ chướng, Mau thành đạo Vô thượng. Giải thích: Bài kệ nầy nói về công đức thọ trì Đại thừa. Nhóm họp công đức, công đức nầy có mười thứ Thành tựu tất cả hạt giống gốc lành, hạt giống tròn đầy nương. Khi sắp lìa đời được vui Vô thượng. Muốn sinh về đâu đều được tùy nguyện. tất cả chỗ sinh được niệm tự tính phát sinh trí tuệ. Sinh nơi nào cũng thường được gặp Phật. Thường ở cạnh Phật để nghe pháp Đại thừa. Thành tựu tín căn tăng thượng. Thành tựu trí tuệ thêm lớn mãi. Được xa rời khỏi hai thứ chướng làm mê lầm trí tuệ. Mau được thành tựu Bồ-đề Vô thượng. Nếu ai siêng năng thọ trì, hiểu văn, nghóa cho đến một câu của tất cả kinh điển Đại thừa, thì được mười thứ công đức như vậy. Nên biết mười thứ công đức trong đây, hai công đức đầu là ở đời hiện tại, còn tám công đức còn lại là ở đời vị lai sẽ nhận được, dần dần gia tăng. Đã nói công đức vâng giữ giáo pháp. Kế là nói công đức nói pháp. Kệ rằng: pháp: Thiện tuệ, không lui sụt, Đại bi, tiếng thơm xa, Khéo léo, nói các pháp, Như Nhật chiếu thế gian. Giải thích: Nếu có đầy đủ năm nhân thì gọi là Bồ-tát khéo nói Không nói trái ngược, do trí tuệ khéo léo. Nói bất cứ lúc nào, vì lòng không lui sụt. Nói không vì mong cầu lợi dưỡng, mà vì lòng đại bi. Nói pháp giúp sinh lòng tin, vì tiếng thơm đồn xa. Nói pháp tùy theo trình độ vì sử dụng phương tiện khôn khéo. Vì năm nhân duyên ấy mà Bồ-tát có công năng khéo nói pháp. Dẫn dắt hầu hết chúng sinh đều cung kính, như mặt trời xuất hiện chiếu sáng cõi thế gian nầy. ------------------------- <詞>Phẩm Thứ 14: TÙY TU Giải thích: Đã nói việc hoằng pháp của Bồ-tát, kế là nói về Bồ- tát tùy pháp mà tu hành. Trong đây, sự thuận theo tu tập, có chia ra biết nghóa và biết pháp, có tùy pháp, có cùng chứng, có thuận theo thực hành. Nay sẽ theo thứ lớp nói về. Kệ rằng: Với hai biết vô ngã, Với ba lìa tà chánh, Bồ-tát hiểu như vậy, Gọi là người biết nghóa. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc biết nghóa của Bồ-tát. Đối với hai cái biết về vô ngã là biết cả hai thứ nhân và pháp đều là vô ngã, là vì biết năng thủ và sở thủ đều vô thể. Đối với ba việc lìa xa tà chánh là: ba là ba thứ Tam-muội, tức là không, vô tướng, vô nguyện. Do Tam-muội không, nên biết vô thể, do hiểu rõ tính chất của phân biệt. Do Tam-muội vô tướng, vô nguyện nên biết không có tự thể, do hiểu rõ tính chất thật của y tha khởi. Lìa tà, chánh, nghóa là ba thứ Tam-muội nầy làm phát sinh trí xuất thế gian cho nên không phải tà vạy. Không chân chính là do còn ở trong thế gian. Bồ-tát hiểu biết như vậy, cho nên gọi là người biết nghóa. Nếu biết nhân và pháp đều là vô ngã thì Bồ-tát có công năng biết ba thứ Tam-muội. Xa lìa ý niệm tà chánh, như vậy gọi là biết nghóa. Kệ rằng: Biết nghóa như vậy rồi, Biết pháp như chiếc bè, Nghe pháp không nên mừng, Xả pháp gọi biết pháp. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc Bồ-tát biết pháp. Bồ-tát sơ học, khi biết nghóa rồi thì kế là biết pháp, nghóa là có thể biết kinh pháp Tu-đa-la. Pháp được dụ như chiếc bè đưa sang sông nên không được chỉ nghe bấy nhiêu rồi sinh vui mừng. Vì sao gọi là pháp cần bỏ? Là vì nó như chiếc bè mà thôi, nên gọi là biết pháp. Kệ rằng: Phàm phu có hai trí, Tức có hai vô ngã, Do thành tựu trí ấy, Như nói tùy pháp hành. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc Bồ-tát thuận theo giáo pháp. Phàm phu có hai thứ trí là: Trí biết nghóa và trí biết pháp. Tức có cả hai vô ngã là do hai trí nầy cho nên cũng thông suốt được hai thứ vô ngã về nhân và pháp là thành tựu trí đó. Như nói Tùy pháp hành nghóa là do thành tựu hai thứ trí ấy vì thế Bồ-tát nên theo những pháp đã nói, thuận theo tu hành nên biết, đó gọi là tùy pháp. Kệ rằng: Khi thành tựu trí đó, Xuất thế gian Vô thượng, Hễ người trụ Sơ địa, Sở đắc đều cùng được. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc Bồ-tát đồng chứng đắc. Khi thành tựu trí đó, xuất thế gian Vô thượng, ấy là do thể của trí đó tối thắng. Sơ địa là hoan hỷ địa. Tất cả công đức mà Bồ-tát có được khi trụ ở hoan hỷ địa, thì người mới nhập địa cũng được công đức như vậy. Kệ rằng: Hoặc mà kiến đạo diệt, Nên biết, hết tất cả, Theo lớp tu địa khác, Dứt hướng cho trí tuệ, Nên biết, trong địa thức, Lập ra vô phân biệt, Thứ lớp sinh không hở, Như thế nói tùy hành. Giải thích: Hai bài kệ nầy nói về việc Bồ-tát tu hành theo giáo pháp. Trong đây nói về địa vị kiến đạo đã dứt hết phiền não là ngay lúc vào Sơ địa, chúng đã bị diệt hết sạch. Còn như tu tập ở các địa khác chỉ là cắt đứt sự che lấp đối với trí tuệ thôi. Nhưng ở các địa, mỗi nơi đều có hai trí: Trí vô phân biệt. Trí địa lập ra. Nếu khi Bồ-tát chánh quán, qua từng sát-na nối tiếp, Bồ-tát đạt được pháp, mà vô phân biệt thì đó gọi là trí vô phân biệt. Sau khi ra khỏi chánh quán, Bồ-tát phân biệt những pháp có được trong chánh quán là như vậy, như vậy gọi là trí địa lập ra. Hai thứ trí nầy không phát sinh cùng lúc. Và, trong khi các pháp khác phát sinh thì hai trí nầy được vận dụng không xen hở để tu hành. Đó gọi là Bồ-tát tùy hành, Bồ-tát có thể tùy hành như vậy, có bốn thứ không buông lung là: Ở cõi nước tốt đẹp. Gặp người lành. Tự chân chính. Có phước đời trước. Bốn pháp như vậy, nay sẽ nói thứ lớp. Kệ rằng: Dễ cầu và khéo giữ, Đường lành cũng bạn lành, Khéo lặng trong cõi đẹp, Bồ-tát sẽ sinh đó. Giải thích: Bài kệ nầy nói rõ về cõi nước tốt đẹp. Có năm nhân duyên khiến cõi nước tốt đẹp: Mong cầu dễ dàng, nghóa là không phải là việc khó đối với bốn việc cúng dường thân. Khéo giữ gìn nghóa là theo luật pháp vua, kẻ hung ác làm trộm cắp thì không được ở trong đất nước. Đất tốt: Nơi chốn mưa gió thuận hòa, không xảy ra bệnh ôn dịch. thức. Bạn lành: Được kết bạn vơi người cùng giới luật, cùng nhận Kheo vắng lặng: Ban ngày không có tiếng ồn ào, ban đêm thì bặt hết các thứ tiếng. Kệ rằng: Học rộng và thấy đế, Khéo nói cũng thương xót, Không sờn (lòng) tướng trượng phu, Bồ-tát nương chỗ đẹp. Giải thích: Bài kệ nầy nói về người lành, người lành có năm nhân duyên là: Học rộng, do học hiểu hết A-hàm. Thấy đế do chứng quả Thánh. Khéo nói pháp do phân biệt được các pháp. Lòng thương xót là do không ham lợi lộc. Không sờn lòng là do không bao giờ thấy mệt mỏi. Kệ rằng: Duyên lành và nhóm lành, Khéo tu và khéo nói, Khéo nêu năm pháp nầy, Đó gọi tự chính thắng. Giải thích: Bài kệ nầy nói về tự chánh. Tự chân chính cũng phải có đủ năm nhân duyên là: pháp. Duyên tốt do dùng pháp mầu làm duyên. Gom chứa các điều lành, đầy đủ phước, trí. Khéo tu do chỉ quán tương ưng tu vào các lúc. Nói pháp khéo do không màng lợi lộc. Giỏi nêu năm pháp nầy do cung kính tu tập tất cả thượng Kệ rằng: An vui và không khó, Không bịnh tật, vắng lặng, Suy nghiêm năm thứ nầy, Đời trước trồng gốc lành. Giải thích: Bài kệ nầy nói về trong phước đời trước. Phước đời trước cũng phải có đủ năm nhân duyên là: An vui. Không khó khăn. Không bệnh. Tam-muội. Trí tuệ. Việc thứ nhất do nhân an trụ nơi cõi nước tốt đẹp. Việc thứ hai do nhân được gặp người lành. Ba việc sau do nhân tự mình chân chính được thành tựu. Đã nói bốn thứ không buông lung, kế là nói phiền não và ra khỏi phiền não. Kệ rằng: Xa lìa khỏi pháp giới, Không có pháp tham riêng, Cho nên Chư Phật nói: Tức tham sinh tham khác. Giải thích: Như trước đây, Phật có dạy: Ta không nói có pháp tham nào khác. Ra khỏi tham, sân, si cũng vậy. Vì lìa pháp giới thì những thứ ấy không có tự thể, riêng cho nên pháp tính của tham v.v… Được gọi là tham, v.v… Nói pháp tính của tham nầy, v.v… Để có thể ra khỏi tham v.v… Nghóa nầy chính là chỗ cốt yếu của kinh. Kệ rằng: Do lìa khỏi pháp tính, Không có các pháp riêng, Cho nên nói như vầy, Phiền não tức Bồ-đề. Giải thích: Như trong kinh nói: “Vô minh và Bồ-đề là đồng nhất”. Đây gọi là pháp tính vô minh mà gọi là Bồ-đề. Nghóa ấy là chỗ cốt yếu của kinh. Kệ rằng: Từ tham khởi chánh tư, Nên giải thoát khỏi tham, Nói biết tham, ra tham, Ra (khỏi) sân, si cũng vậy. Giải thích: Nếu ai lấy tư duy quán chiếu tâm tham, như vậy là biết rõ tâm tham rồi, nên giải thoát khỏi nó, vì vậy nói do biết rõ tham nên mới ra khỏi. Ra khỏi tâm sân, si cũng giống như vậy. Đã nói phiền não và việc ra khỏi chúng. Kế là nói xa lìa tâm Nhị thừa. Kệ rằng: Bồ-tát ở địa ngục, Vì vật, không từ khổ, Bỏ phát tâm nhỏ hẹp, Khổ nầy thật dữ dội. Giải thích: Do tâm từ bi vì chúng sinh mà các Bồ-tát vào Đại địa ngục, không né tránh các khổ sở, dù lớn lao ra sao. Khi phát tâm Tiểu thừa, thì làm mất đi công đức của ba cõi, việc ấy, Bồ-tát mới cho là khổ sâu nặng hơn hết. Hỏi: Nghóa nầy thế nào? Kệ rằng: Dù thường ở địa ngục, Không chướng Đại Bồ-đề, Nếu khởi tâm lợi mình, Là chướng Đại Bồ-đề. Giải thích: Do thương xót chúng sinh, Bồ-tát vào ở lâu trong địa ngục, nhưng vẫn không coi đó là khổ. Vì sao? Do Bồ-tát không bị chướng ngăn đối với Bồ-đề trong sạch rộng khắp của mình. Trái lại, nếu sanh tâm theo thừa khác mà ưa thích Niết-bàn, thì đó mới là khổ lớn lao. Vì sao? Do ý tưởng ưa thích an trụ Niết-bàn là một chướng ngại lớn đối với pháp Đại thừa. Bài kệ nầy nói về ý nghóa của bài kệ trước, nên biết. Đã nói ngăn dứt tâm Nhị thừa, kế là nói về ngăn dứt tâm lo sợ. Kệ rằng: Vô thể, nắm bắt được, Việc nầy giống như huyễn, Tính tinh và không nhơ, Việc nầy như hư không. Giải thích: Vô thể và có thể nắm bắt được, việc nầy giống như trò huyễn nghóa là tất cả các pháp đều không có tự tính, nên bảo là vô thể. Nhưng lại thấy tướng mạo chúng hiển hiện, cho nên nói là có thể nắm bắt được. Hai lối nhận thức nầy, làm cho người phàm phu lo sợ, vậy là không đúng. Vì sao? Vì chúng tự như ảo thuật, vẫn có thể hiển hiện nhìn thấy, nhưng các pháp không có tự thể, có thể được cũng thế. Do vậy không nên sợ hãi chỗ nầy. Tính tịnh và không nhơ, như hư không là pháp giới xưa giờ vẫn thanh tịnh, cho nên nói tính trong sạch. Thời gian sau do lìa khỏi trần lao mà được thanh tịnh, nên nói không nhơ bẩn. Hai nhận thức nầy, làm cho người phàm phu lo sợ, lo sợ nầy không đúng. Vì sao? Vì các pháp tự như hư không. Như bản tính của hư không là thanh tịnh, thời gian sau cũng nói là lìa trần lao mà thanh tịnh. Tính pháp giới thanh tịnh, không nhơ bẩn cũng giống như vậy, cho nên bảo không nên sợ hãi hai chỗ ấy. Lại nữa, có thể dùng bức hoạ để thí dụ, nhằm ngăn dứt hai sợ run sợ vừa nói ấy. Kệ rằng: Cũng như người hoạ só, Phông bằng, vẽ lồi lõm, Tạo phân biệt không thật, Không thật, thấy năng, sở. Giải thích: Như người hoạ só tài ba, trên bức vách bằng phẳng, ông ta vẽ các hình tướng lồi lõm. Thật ra, bức hoạ không có cao thấp nhưng nhìn vào thấy cảnh cao thấp. Sự phân biệt không chính xác cũng giống như vậy. Pháp giới vốn là bình đẳng, là nơi không có hai tướng, nhưng người ta vẫn thấy hai tướng là năng và sở, cho nên không sợ hãi. Trong đây, lại có thí dụ tự như nước, nhằm để can ngăn hai nỗi sợ hãi sau. Kệ rằng: Như nước trong, quấy đục, Gạn, cặn, nước lại trong, Tự tâm tịnh cũng vậy, Chỉ lìa khỏi khách trần. Giải thích: Như nước đang trong, nhưng quậy cáu khởi lên đục. Sau đó, muốn nước trong thì gạn sạch bợn nhơ là được. Bản tính thanh tịnh vốn có, chứ không phải từ ngoài đến, cho nên phương tiện giúp tâm thanh tịnh, cũng như vậy. Bản tính của tâm vốn trong sạch, nhưng bị khách trần nhuộm dơ. Sau đó, muốn thanh tịnh thì chỉ xua tan khách trần là xong. Bản tính thanh tịnh là vốn có, chứ không phải từ ngoài đến, cho nên không nên sơ. Kệ rằng: Đã nói tâm tính tịnh, Nhưng bị khách trần nhiễm, Không lìa tâm chân như, Có tâm tính tịnh riêng. Giải thích: Như tính nước vốn trong, nhưng bị vật nhơ bẩn bên ngoài là gạn đục bỏ đi, như thế, tâm tính vốn thanh tịnh, nhưng bị khách trần phiền não nhiễm dơ. Nghóa nầy đã thành. Từ ý nghóa ấy mà biết không phải lìa khỏi chân tâm mà có một thứ tâm riêng. Nghóa là nương theo tướng khác mà nói tự tính thanh tịnh. Nên biết, trong đây tâm chân như gọi là tâm, tức là nói về tâm nầy, tự tính nó là thanh tịnh. Tâm nầy tức là thức A-ma-la. Đã ngăn dứt tâm lý sợ hãi, sau đây nói về cách ngăn dứt tâm lý tham. Kệ rằng: Do nhớ nghó chúng sinh, Bồ-tát thương tận (tủy), Thường muốn làm lợi họ, Như thương đứa con một. Giải thích: Các Bồ-tát yêu quý tất cả chúng sinh, đó gọi là tham, còn các điều khác, như bài kệ đã nói. Kệ rằng: Do ý lợi chúng sinh, Khởi tham không mắc tội, Giận, trái ý nguyện kia, Giận muốn tổn hại người. Giải thích: Nếu nói do yêu thương muôn loài mà Bồ-tát khởi tâm tham là mắc tội thì điều ấy không đúng. Vì sao? Vì lòng tham nầy thường làm nhân lợi ích cho chúng sinh. Kệ rằng: Như bồ câu với con, Che kín với lòng thương, Ai có lòng thương cũng vậy, Thương chúng sinh cũng vậy. Giải thích: Loài chim bồ câu nặng về tham ái, rất thương nghó đến con, Bồ-tát đối với chúng sinh cũng như vậy, rất thương xót cũng vậy. Kệ rằng: Tâm từ, sân trái nhau, Giận làm khổ càng khổ, Lợi ích trái vô ích, Không sợ trái với sợ. Giải thích: Bồ-tát có lòng thương vô hạn đối với các loài, trái với tâm nổi giận. Do dứt tâm khổ, cho nên nó đi ngược với tâm tạo tác khổ. Do tâm làm lợi ích, trái với tâm không làm lợi ích. Do được tâm vô úy nên khác với tâm lo sợ. Thế nên, dù khởi tâm tham như vậy, Bồ-tát vẫn không mắc tội. Đã ngăn dứt tội tham, kế là nói sự khác nhau của việc tu hành. Kệ rằng: Khéo hành đối sinh tử, Như bệnh uống thuốc đắng, Khéo hành, đối chúng sinh, Như thầy thuốc, gần bệnh, Khéo hành đối tự tâm, Như dạy tớ chưa thành, Khéo hành đối dục trần, Thương gia khéo mua bán. Khéo hành đối ba nghiệp, Như người khéo giặt áo, Khéo hành không não người, Như cha mẹ thương con, Khéo hành đối tu tập, Như giùi lửa, không nghỉ. Khéo hành đối Tam-muội, Như tài, người đáng tin, Khéo hành đối Bát-nhã, Như ảo thuật biết ảo, Ấy gọi các Bồ-tát, Khéo tu các cảnh giới. Giải thích: Có chín việc khác nhau trong công phu tu tập của các Bồ-tát: Ở trong sinh tử, khéo tu hành như người bị bệnh lâu ngày, uống thuốc đắng chát. Uống thuốc là do đuổi bệnh chứ không phải ham mê nó. Bồ-tát cũng vậy, sống kề bên sinh tử là vì suy nghó khuyến khích tiến lên, chứ chẳng đắm nhiễm. Tu hành giỏi đối với chúng sinh như thầy thuốc khéo gần bên người bệnh. Bồ-tát cũng vậy, do có tâm đại bi nên không nỡ bỏ chúng sinh đang chìm trong bệnh khổ phiền não. Khéo tu hành tự tâm thì như ông chủ có hiểu biết, có công năng uốn nắn đứa tớ chưa ngoan. Bồ-tát cũng vậy, là có công năng điều phục người tâm chưa điều phục. Khéo tu hành đối với trần dục là giống như người đi buôn, khéo buôn bán. Bồ-tát cũng vậy, đối với việc bố thí thì cứ thêm mãi của cải bố thí. Khéo tu hành ba nghiệp thì như người thợ giặt khéo, gột trừ hết vết bẩn trên áo quần. Bồ-tát cũng vậy, là tu sửa ba nghiệp khiến cho chúng sinh thanh tịnh. Khéo tu hành, không làm não chúng sinh thì như cha hiền yêu con thơ, dù chúng có dơ bẩn nhưng không gớm ghiếc. Bồ-tát cũng vậy, dù bị chúng sinh làm hại nhưng chưa bao giờ nổi giận gây hại cho họ. Khéo tu tập thì như kéo cây lấy lửa, chưa nóng tới thì không được ngừng. Bồ-tát cũng vậy, tu tập pháp lành không hề cho tâm xen hở. Khéo thực hành Tam-muội thì như đem của cải giao cho người đáng tin cậy giữ gìn thì ngày càng sinh sôi. Bồ-tát cũng vậy, tu tập các định, không rối loạn, không nếm thử, thì công đức ngày càng thêm lên. Khéo thực hành Bát-nhã thì như nhà ảo thuật biết rõ trò ảo thuật là không thật. Bồ-tát cũng vậy, đối với pháp bị quán chiếu, không điên đảo nhìn chúng. Đó gọi là những sự khác nhau trong công phu tu tập của Bồ-tát. Đã nói sự khác nhau của tu hành, kế là nói về ba luân thanh tịnh. Kệ rằng: Mãi siêng đại tinh tấn, Thục hai, khiến thanh tịnh, Tịnh giác, vô phân biệt, Lần hồi chứng Bồ-đề. Giải thích: Thường siêng đại tinh tấn thành thục hai món, khiến thanh tịnh: là Bồ-tát dùng sức siêng năng đại tinh tấn làm lợi mình, lợi người, bới vậy nên chúng sinh và mình đều được thành thục. Đó gọi là thanh tịnh. Tịnh giác vô phân biệt, lần hồi chứng Bồ-đề là: Tịnh giác nghóa là trí pháp vô ngã. Trí nầy vô phân biệt ba luân là người tu, pháp tu, cái được chính tu, cho nên được thanh tịnh. Do thanh tịnh nầy nên lần hồi chứng được Bồ-đề Vô thượng.  <卷>QUYỂN 7 <詞>Phẩm Thứ 15: GIÁO THỌ Giải thích: Đã nói Bồ-tát thuận theo tu tập, kế là nói sự dạy trao của Như lai. Kệ rằng: Tu hết một Tăng-kỳ, Khiến lòng tin thêm lớn, Các lành theo tín, nhóm Cũng đủ như biển đầy. Giải thích: Tu hết một Tăng-kỳ kiếp, khiến lòng tin thêm lớn là nếu công hạnh Bồ-tát được thực hiện cùng một A-tăng-kỳ kiếp, thì lòng đã được nuôi lớn lâu dài ấy mới lên được thượng phẩm. Hỏi: Chỉ riêng lòng tin được thêm lớn không thôi chứ? Đáp: Các điều lành tùy thuộc ở lòng tin gom chứa về cũng như biển cả tràn đầy, nghóa là khi lòng tin tăng lên thì các điều lành cũng nhóm về theo lòng tin, chúng như biển cả tràn đầy, nước lắng trong tròn đầy. Kệ rằng: Nhóm họp phước đức rồi, Phật tử tối sơ tịnh, Cực trí và nhuyến tâm, Siêng tu các chánh hạnh. Giải thích: Nhóm họp phước đức rồi, nghóa nhóm họp thì như trước đã nói. Phật tử tối sơ được thanh tịnh là do thanh tịnh được che chở và đối với pháp Đại thừa, đạt tri kiến ngay thẳng, do tiếp nhận ý nghóa không bị điên đảo. Cực trí là do học rộng mà có. Nhuyến tâm là do lìa khỏi các thứ ngăn che. Siêng tu các hạnh chân chính là do có công năng gánh vác. Kệ rằng: Từ sau nhờ Chư Phật, Mà dạy trao dòng pháp, Trí vắng lặng thêm lớn, Tu tiến pháp Đại thừa. Giải thích: Từ sau nhờ Chư Phật, mà dạy trao dòng pháp, nghóa là các vị Bồ-tát từ đây về sau, nhờ ơn Chư Phật đã đem giáo pháp Tu-đa-la giảng nói cho họ, như nói kinh Thập Địa. Trí vắng lặng thêm lớn, tu tiến giáo pháp Đại thừa là nếu Bồ-tát nầy được dạy trao giáo pháp thì trí Xa-ma-tha ngày càng tăng trưởng. Nhờ thế, có công năng tu khéo pháp Đại thừa rộng lớn. Sau khi được trao truyền rồi, kế là Bồ-tát khởi dạy sáu thứ tâm. Kệ rằng: Tưởng danh và hiểu câu, Nghó nghóa cũng rõ nghóa, Hiểu pháp chung, tìm nghóa, Thứ lớp sinh sáu tâm. Giải thích: Sáu thứ tâm là: Tâm căn bản. Tâm tùy hành. Tâm quán sát. Tâm hiểu tới chỗ thật. Tâm gom nhóm về. Tâm hi vọng. Tưởng danh là tâm căn bản. Trước hết đối với pháp Tu-đa-la, v.v… quán xét hai nghóa có và không, chỉ tưởng danh nhóm họp. Hiểu rõ câu là tâm tùy hành, kế là theo các câu mà quyết chắc sự khác nhau và do theo thứ lớp. Suy nghó ý nghóa, là tâm quán xét, kế là suy nghó chân chính về ý nghóa bên trong kia. Biết rõ nghóa là tâm hiểu chung về tâm, rồi lại quán xét chung về nhóm pháp đã có, tìm nghóa riêng là tâm hi vọng do nghóa cốt yếu kia tìm được vừa ý. Như vậy, phát sinh sáu thứ tâm rồi, kế là phát sinh mười một thứ tác ý. Kệ rằng: Có cầu cũng có quán, Một ý vị ngừng ở đạo, Quán đạo và cả hai, Bỏ hôn trầm, tán loạn, Chánh trụ, không gián đoạn, Trong đó cũng tôn trọng, Để tâm tất cả duyên, Có mười một tác ý. Giải thích: Mười một thứ tác ý là: Tác ý có giác, có quán. Tác ý không giác, có quán. Tác ý không giác, không quán. Tác ý Xa-ma-tha. Tác ý Tỳ-bát-xá-na. Tác ý hai thứ tương ưng nhau. Tác ý khởi tướng. Tác ý nhiếp tướng. Tác ý xả tướng. Tác ý thường tu tập. Tác ý cung kính. Có tìm kiếm là tác ý có giác, có quán. Tác ý nầy dùng ý nghó và lời nói nối nhau mà quán xét các pháp. Có quán, nghóa là tác ý không giác, có quán. Tác ý nầy dù lìa giác nhưng vẫn dùng ý nghó, lời nói nối nhau mà quán xét các pháp. Một ý vị là tác ý không giác, không quán. Tác ý nầy lìa ý nghó và lời nói nối nhau mà quán xét các pháp. Chỉ đạo là tác ý Xa-ma-tha. Tác ý nầy chỉ duyên vào tên gọi các pháp. Quán đạo là tác ý Tỳ-bát-xá-na. Tác ý nầy chỉ duyên vào nghóa các pháp. Cả hai là tác ý hai thứ tương ưng. Tác ý nầy có thể bám vào tên và ý nghóa cùng lúc. Dứt bỏ hôn trầm là tác ý khởi tướng. Nếu tác ý nầy duyên theo tên gọi thì tâm chìm xuống, phải đánh thức nó dậy. Đè bẹp tán loạn là tác ý nhiếp tướng, nếu tác ý nầy duyên vào nghóa thì tâm tán loạn, liền có thể thu nhiếp. Chánh trụ là tác ý tướng xả, tác ý nầy nếu tâm bình đẳng thì có thể trụ ở tâm xả. Vô gián là tác ý hằng tu tập. Tác ý nầy có thể nương vào chánh trụ mà tu tập không bỏ phế. Tôn trọng là tác ý cung kính, có công năng khi tu tập thì tôn trọng danh, nghóa. Mười một thứ tác ý như vậy được nói rồi, lại còn phải tu tập chín thứ trụ tâm. Kệ rằng: Cột duyên mau gom giữ, Nội lược và lạc trụ, Điều chán và dứt loạn, Hoặc khởi diệt, cũng vậy. Các việc làm, tự tại. Bấy giờ, được vô tác, Bồ-tát còn tu tập, Chín trụ tâm như thế. Giải thích: Chín thứ trụ tâm là: Tâm an trụ. Tâm nhiếp trụ. Tâm giải trụ. Tâm chuyển trụ. Tâm phục trụ. Tâm tức trụ. Tâm diệt trụ. Tâm tính trụ. Tâm trì trụ. Chín thứ trụ nầy là phương tiện để dạy trao, nên biết. Cột duyên là tâm an trụ. An âm vào sở duyên, không để lìa. Mau nhiếp giữ là nhiếp trụ tâm. Nếu tâm giác rối loạn thị hãy mau xếp vào giữ chặt. Nội lược là tâm giải trụ. Giác tâm bên ngoài thì rộng mà bên trong thì lược. Lạc trụ là tâm chuyển trụ, do công đức thấy định mà chuyển vào lạc trụ. Bẻ gãy tâm nhàm chán là tâm phục trú là nếu tâm không ưa thích thì phải bẻ gãy nó. Dứt loạn là tâm dừng trụ, khi thấy loạn sai lầm thì phải chấm dứt ngay. Mê lầm khởi lên, liền diệt, cũng như vậy là tâm diệt trụ, như ý nghó lo buồn, tham vừa nổi lên thì liền diệt ngay. Tâm trụ thì các việc làm nhậm vận tự tại là tâm tính trụ, các việc làm nhậm vận mà thành tự tính. Bấy giờ chứng vô tác là tâm trì trụ vì không nhờ tác ý mà được tổng trì. Như vậy, tu tập được tâm trụ rồi. Kế là khiến tâm nầy được mềm mỏng tối thượng. Kệ rằng: Nương dưới, tu tiến lên, Siêng tu định căn bản, Do thông suốt tịnh, thiền, Sẽ thành tâm mềm mỏng. Giải thích: Nương vào phẩm dưới, tu tập tiến lên, siêng tu định căn bản, nghóa là khi Bồ-tát được trụ tâm, nên biết là đã được thân phẩm hạ. Nương tâm là tâm tăng tiến lên, do tinh tấn tăng thêm nên tâm nầy còn tu tập thiền định căn bản. Hỏi: Tu thêm định căn bản thì được công đức gì? Đáp: Do thông suốt thiền, tịnh nên sẽ trở thành tâm mềm mỏng vượt trội. Do muốn thành tựu tâm mềm mỏng hơn hết nên các Bồ-tát phát khởi được nhiều thần thông, nên Bồ-tát tiến tu định căn bản. Hỏi: Khởi hiện thần thông là Bồ-tát định làm gì? Và làm sao thành tựu được tâm mềm mỏng kia. Kệ rằng: Hiện thông dạo các cõi, Thờ phụng các Thế Tôn, Được tâm mềm mỏng nhất, Do cúng dường các Phật. Giải thích: Hiện thần thông dạo các cõi, phụng thờ các Thế Tôn là các vị Bồ-tát muốn đi hết vô lượng thế giới, muốn trải qua vô lượng số kiếp, muốn trải qua vô lượng Chư Phật, muốn vâng giữ cúng dường và được nghe chánh pháp. Do các việc ấy, nên hiện khởi các thần thông. Hỏi: Vì sao Bồ-tát làm những việc ấy? Đáp: Do nhờ tâm mềm mỏng tối thượng nên mới được cúng dường Chư Phật. Vì nhân cúng dường Chư Phật mà lại được thành tựu tâm mềm mỏng cao thượng bậc nhất. Được tâm cao quý như thế rồi, là phải được Chư Phật khen ngợi. Kệ rằng: Khi chưa nhập tâm định, Được năm thứ khen ngợi, Khí thể thành thanh tịnh, Lên được thừa Vô thượng. Giải thích: Khi chưa ngộ nhập tâm định, được năm thứ khen ngợi là Bồ-tát nầy đối với tâm thanh tịnh ở địa trước, thì trước đã được Như lai khen ngợi, bằng năm thứ công đức kia. Hỏi: Lời khen ngợi ấy đối với Bồ-tát có lợi ích gì? Đáp: Do khí thế đã thành thanh tịnh, đủ năng lực, tiến lên được thừa Vô thượng. Bồ-tát nầy, sau khi được Như lai khen ngợi rồi liền thành tựu khí thể thanh tịnh, có khả năng tiến lên thừa Vô thượng. Hỏi: Như lai đã dùng năm công đức để khen ngợi Bồ-tát, vậy năm công đức ấy là gì? Kệ rằng: Niệm niệm tiêu tập khí, Thân nhẹ, tâm nhẹ nhàng, Tròn sáng và thấy tướng, Các pháp thân sạch đầy. Giải thích: Năm công đức là: Tiêu tan tập khí. Thân nhẹ nhàng. Tâm nhẹ nhàng. Tròn sáng. Thấy tướng. Tiêu tan tập khí nghóa là tất cả nhóm tập khí đều tan biến theo từng giây phút trôi qua. Thân nhẹ nhàng là trong thời gian tu tập, thân cảm thấy nhẹ nhàng. Tâm cũng cảm thấy như vậy. Tròn sáng đầy là hiểu trọn vẹn tất cả các thứ Không, lìa phân số. Thấy tướng là thấy tướng vô phân biệt là nhân cho sự thanh tịnh về sau. Các pháp thân sạch đầy là tất cả pháp thân đều ràn đầy, đều thanh tịnh, vì thường thực hiện năm nhân ấy. Hỏi: Lúc nào tràn đầy, lúc nào thanh tịnh? Đáp: Lúc thập địa tròn đầy, khi cõi Phật thanh tịnh. Nên biết, trong năm công đức ấy, ba công đức trước thuộc về phạm vi của Xa-ma-tha (chỉ) hai công đức sau là thuộc phạm vi của Tì- bát-xá-na (quán). Trong suốt thời gian nầy, Bồ-tát đều biết đầy đủ các pháp ở thế gian. Bồ-tát được khen ngợi như vậy, rồi. Kế nêu lên thông đạt phần gốc lành. Kệ rằng: Lúc ấy, Bồ-tát nầy, Thứ lớp được định tâm, Vì chỉ thấy ý, nói, Không thấy tất cả nghóa. Giải thích: Bồ-tát lúc đầu, nầy tâm định, lìa khỏi ý nghó, lời nói, không thấy tướng tự và tướng chung của tất cả nghóa, mà chỉ thấy ý nghó và lời nói. Tri kiến nầy là Bồ-tát đã tới giai vị Noãn. Giai vị nầy gọi là Minh. Như trong kinh Khôi Hà, Phật có nói rõ là thứ sáng suốt nầy, gọi là thấy pháp nhẫn. Kệ rằng: Do pháp sáng thêm lớn, Khởi tinh tấn vững chắc, Khi pháp thêm sáng rồi, Thông đạt chỉ tâm trụ. Giải thích: Trong đây, pháp sáng thêm lớn nên phát khởi tinh tấn vững chắc. An trụ trong pháp sáng nầy, thông đạt chỉ có tâm. Sự thông đạt nầy chính là trụ vào giai vị Đảnh của Bồ-tát. Kệ rằng: Các nghóa đều là sáng, Vì chỉ là duy tâm, Dứt được các chấp loạn, Đó là trụ ngôi Nhẫn. Giải thích: Bồ-tát trong giai đoạn nầy, nếu thấy các nghóa đều là tâm sáng, ngoài tâm sáng ấy, không có thấy cái nào khác riêng. Bấy giờ, các loạn chấp trước đều bị dập tắt. Tri kiến nầy tức là ngôi Nhẫn của Bồ-tát. Kệ rằng: Loạn bị chấp dù dứt, Nhưng vẫn còn năng chấp, Cắt đứt nó mau chứng, Không hở Tam-ma-đề. Giải thích: Trong phần nầy, do cắt đứt năng chấp loạn động, nên Bồ-tát mau chứng ngộ Tam-ma-đề không xen hở. Hỏi: Tam-ma-đề không xen hở nầy có ý nghóa gì? Đáp: Khi chủ thể chấp trước loạn động bị dập tắt thì nhập vào không xen hở, cho nên có tên gọi đó. Nhập vào Tam-ma-đề vô gián nầy tức là Bồ-tát đã được ngôi pháp thứ nhất trên đời (Thế đệ nhất vị). Theo thứ lớp, đã nói về các giai vị như Noãn, v.v… Kế là, nói về phát khởi kiến đạo. Kệ rằng: Lìa khỏi hai chấp, kia Xuất thế gian Vô thượng, Vô phân biệt lìa nhơ, Lúc ấy, được trí nầy. Giải thích: Xa lìa khỏi hai chấp là năng chấp và sở chấp không còn hòa hợp nữa. Xuất thế gian Vô thượng là được thừa Vô thượng. Vô phân biệt là năng chấp và sở chấp không còn nữa. Xua tan nhơ bẩn là vì giai vị Kiến đạo đã dập tắt hết phiền não. Bấy giờ, Bồ-tát được gọi là đắc pháp nhãn thanh tịnh lìa các trần cấu. Kệ rằng: Đây tức là chuyển y, Do đã chứng Sơ địa, Sau, trải vô lượng kiếp, Y tịnh mới tròn đầy. Giải thích: Đây là chuyển y vì chứng Sơ địa. Sự lìa cấu nầy tức là vị chuyển y của Bồ-tát. Vì sao? Vì đã chứng Sơ địa. Hỏi: Phải chuyển y hoàn toàn thanh tịnh? Đáp: Phải trải qua vô lượng kiếp sau nầy, thì chuyển y thanh tịnh mới được tròn đầy. Chứ không phải ở ngay Sơ địa nầy mà được thanh tịnh cùng cực. Vì phải trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, chừng ấy, chuyển y nầy mới được thanh tịnh tròn đầy. Kệ rằng: Lúc ấy thông pháp giới, Tâm tự tha bình đẳng, Có năm thứ bình đẳng, Năm thứ không khác nhau. Giải thích: Bấy giờ sẽ thông đạt cả pháp giới và ta, người, tâm đều bình đẳng là Sơ địa, Bồ-tát đã được thông đạt pháp giới bình đẳng. Từ sự thông đạt nầy, Bồ-tát có thể quán xét thân kẻ khác chính là thân mình, nên được tâm bình đẳng. Hỏi: Lúc ấy, Bồ-tát được mấy thứ tâm bình đẳng? Đáp: Có năm thứ tâm bình đẳng do có năm thứ chẳng khác nhau, năm tâm bình đẳng là: Do vô ngã nên bình đẳng, nghóa là giữa ta và người nối tiếp nhau không hề thấy có ngã trong ấy, không còn khác nhau. Do khổ như nhau nên bình đẳng, nghóa là giữa ta và người nối tiếp nhau có tất cả khổ, do không khác nhau. Các việc làm bình đẳng, nghóa là giữa ta và người nối tiếp nhau cùng làm việc dứt khổ, không còn khác nhau. Do không mong cầu nên bình đẳng: nghóa là giữa ta và người mà các việc làm đều không mong báo đáp, không có khác nhau. Do cùng chứng đắc nên bình đẳng, nghóa là các Bồ-tát khác đã chứng được thì ta cũng được như vậy, không còn khác nhau. Kệ rằng: Các hành luống phân biệt, Trí tịnh không có hai, Giải thoát kiến mà diệt, Nói kiến đạo như vậy. Giải thích: Các hành luống phân biệt, trí thanh tịnh biết không hai là trong đây, đối với các hành trong ba cõi, Bồ-tát chỉ thấy phân biệt không chân thật. Lấy trí thanh tịnh cùng cực mà thấy không có hai kia. Trí thanh tịnh là vì xuất thế gian. Không có hai là do hai thứ chấp đều không có. Chúng không có hai thể tức là pháp giới. Tiêu diệt phiền não do kiến đạo và giải thoát, kiến đạo là vậy nghóa là giai vị kiến đạo giải thoát đã dập tắt hết phiền não. Pháp giới tức là giải thoát. Nếu khi dứt trừ phiền não, thấy được giải thoát thì gọi là Bồ-tát mới được kiến đạo. Kệ rằng: Vô thể và tự thể, Tự tính hợp ba không, Ba không, giải thoát nầy, Đây gọi là giải không. Giải thích: Ba không là: Vô thể không: là tính phân biệt, vì tướng nó là vô thể. Tự thể không, là tính y tha, vì tướng y tha nầy, như phân biệt, là vô thể. Tự tính không, nghóa là tính chân thật, do tự thể là tự thể Không. Bài kệ nầy, nói về Bồ-tát chứng được môn không giải thoát. Kệ rằng: Nên biết duyên vô tướng, Đều hết các phân biệt, Trong dây, duyên vô nguyện, Phân biệt bất chân hết. Giải thích: Nửa trên bài kệ nầy nói về sự chứng đắc môn giải thoát vô tướng. Nửa dưới bài kệ nầy nói về chứng đắc môn giải thoát vô nguyện. Nên biết, trong ấy, Bồ-tát đã có đủ ba cửa giải thoát. Kệ rằng: Pháp chứng đắc lúc ấy, Tất cả Bồ-đề phần. Nên biết Bồ-tát kia, Cùng chứng như kiến đạo. Giải thích: Tất cả Bồ-đề phần là bốn niệm xứ khi chứng kiến đạo, Bồ-tát kia cũng được pháp nầy. Kệ rằng: Giác thế gian chỉ hành, Vô ngã, chỉ kẹt khổ, Vô nghóa, tự ngã diệt, Nghóa lớn nương ngã lớn. Giải thích: Giác ngộ thấy thế gian chỉ có hành, vô ngã, chỉ kẹt vào khổ là Bồ-tát nầy biết rõ các việc trên đời nầy chỉ là các hành, thật sự không có ngã. Do chấp mắc nên chúng sinh mặc vào khổ. Vô nghóa, tự ngã diệt là diệt thân kiến nhơ bẩn. Nghóa lớn là vì làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Ngã lớn là coi thân của tất cả chúng sinh là thân mình. Trong việc nầy, Bồ-tát đã chấm dứt kiến chấp về tự ngã. Nương vào chấp đại ngã mà làm tất cả lợi ích cho chúng sinh thì đó gọi là Đại nghóa nương vào ngã lớn. Kệ rằng: Vô ngã lại thấy ngã, Không khổ cùng cực khổ, Ích họ không cầu báo, Do lợi ích tự ngã. Giải thích: Trong đây, nói vô ngã của Bồ-tát nghóa là không có bản thân, không có nghóa, không thấy ngã kiến. Lại thấy ngã nghóa là chấp lấy cái ngã theo nghóa lớn của thân kẻ khác. Không khổ là chính thân mình không khởi các khổ. Cũng rất khổ là các khổ khởi lên từ thân kẻ khác. Giúp ích chúng sinh không cần đáp ơn là do không mong cầu hi vọng. Vì sao? Vì lợi ích cho mình. Khi các Bồ-tát làm lợi ích cho chúng sinh, chính làm lợi ích cho thân mình, không khác, nên không trông cậy bên ngoài. Kệ rằng: Tâm tự thoát trên hết, Họ trói buộc rộng chắc, Mé khổ không cùng tận, Siêng trừ khổ như vậy. Giải thích: Tự tâm giải thoát là dứt diệt phiền não mà giai vị kiến đạo dứt. Tối thượng là do sự giải thoát nầy là thừa tối thượng. Các trói buộc của chúng sinh là vững chắc, rộng là vì tất cả chúng sinh nối nhau khởi lên phiền não. Bờ mé của khổ là không cùng tận là do thế giới chúng sinh vô biên như hư không. Do vậy phải siêng năng dứt trừ khổ của chúng sinh là như vậy, Bồ-tát phải vì chúng sinh mà dứt trừ khổ não bằng cách làm tới cùng, làm xong rồi lại làm nữa, không có thời giờ nghỉ. Kệ rằng: Khổ mình không tự nhẫn, Làm sao chịu khổ người? Đời nầy, đời cùng tận, Trái kia là Bồ-tát. Giải thích: Một kiếp sống khổ và cùng tận bờ mé của sinh tử của chúng sinh là không thể nghó bàn, về sự khổ ấy, không thể chịu đựng được. Nhưng Bồ-tát vẫn có công năng chịu đựng tất cả khổ, có thể chịu đựng khổ ấy của chúng sinh, cho nên nói trái với việc kia là Bồ-tát. Kệ rằng: Thương các người bình đẳng, Lợi họ không lui sụt, Ít có không ít có, Lợi người là lợi mình. Giải thích: Thương yêu các người bình đẳng, làm lợi ích chúng sinh không lui sụt là Bồ-tát làm lợi cho tất cả chúng sinh với lòng thương yêu bình đẳng, không chút khác nhau. Hoặc mong cầu sự an vui, lợi ích, hoặc chính mình làm an vui lợi ích, hoặc trong lúc cầu lợi ích thì tâm mong cầu ấy không bao giờ lui sụt. Ít có không ít có, do lợi ích người là lợi ích mình, nghóa là do sự không lui sụt nầy vượt cao hơn hết các việc ít có trên đời nầy. Nhưng sự ít có nầy không phải ít có. Vì sao? Vì trong khi chúng sinh được lợi ích thì cũng chính là lúc Bồ-tát được lợi ích. Kệ rằng: Địa khác nói tu đạo, Hai trí siêng tu tập, Kiến tập vô phân biệt, Thanh tịnh và chúng sinh. Giải thích: Các địa khác là chín địa sau. Hỏi: Các đại khác tu tập pháp nào? Đáp: Là hai trí siêng năng tu tập. Hai trí là: Trí vô phân biệt. Trí như đã kiến tập. Trí vô phân biệt là trí xuất thế gian, trí như đã lập ra là trí có sau, khi tu tập trong đời. Hỏi: Hai trí nầy có công năng gì? Đáp: Là pháp thanh tịnh đối với chúng sinh. Trong ấy, trí vô phân biệt là trí thành thục Phật pháp. Đó là công năng của trí nầy. Trí như đã lập ra là trí thành thục chúng sinh. Đó là công năng của nó, Kệ rằng: Tu vị hai Tăng-kỳ, Sau cùng được thọ chức, Nhập định Kim cương kia, Phá hết lối phân biệt. Giải thích: Ngôi tu đạo trải qua hai Tăng-kỳ, sau cùng được nhận chức, nghóa là hai Tăng-kỳ là thứ hai và thứ ba của Đại kiếp A-tăng- kỳ. Tối hậu nghóa là tu tập rốt ráo. Ở giai vị nầy, thọ chức làm phương tiện. biệt. Hỏi: Thọ chức rồi, Bồ-tát còn làm những gì nữa? Đáp: Bồ-tát nhập vào định kim cương kia để phá hết các phân Hỏi: Vì ý nghóa gì mà gọi là định kim cương? Đáp: Do có công năng phá tan tùy miên phân biệt, cho nên định nầy lấy kim cương làm dụ, Kệ rằng: Chuyển y rốt ráo tịnh, Thành tựu nhất thiết chủng, Trụ việc đã làm nầy, Chỉ làm lợi chúng sinh. Giải thích: Chuyển y rốt ráo thanh tịnh là lìa hẳn tất cả các chướng ngại của phiền não và chướng ngại của trí. Thành tựu nhất thiết chủng trí là thành tựu, chứng được Nhất thiết chủng trí vì nó là Vô thượng. Trụ vào đó làm các việc là an trụ ở giai vị nầy cho đến tận cùng bờ mé sinh tử của chúng sinh mà thị hiện thành đạo và hiện Niết-bàn. Hỏi: Thực hiện việc nầy để làm gì? Đáp: Chỉ vì lợi ích chúng sinh. Các việc như thế, là nhằm một bề đem lợi ích cho tất cả chúng sinh. Từ đây trở xuống, nói về nhân duyên dạy trao pháp Đại thừa được nghóa lợi lớn. Kệ rằng: Mâu-ni tôn khó gặp, Thường thấy được nghóa lớn, Bởi nghe pháp vô đẳng, Tịnh tín nuôi dưỡng tâm. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nhân Bồ-tát được dạy trao pháp Đại thừa thường xuyên thấy Phật trước mắt, thường được nghe giáo pháp không gì sánh bằng. Và thường phát sinh lòng tin hết sức sâu xa trong sạch tràn ngập trong tâm. Đó là nói về thời gian đầu được nghóa lợi lớn. Kệ rằng: Nếu đối sự dạy trao, Nếu muốn trụ pháp môn, Như người cứu nạn nguy, Phật khuyên cũng như thế. Giải thích: Đối với sự dạy trao, như muốn an trụ vào đó là như có các Bồ-tát trong khi được dạy trao, đối với pháp môn của Như lai, tâm muốn lạc trụ ở đó. Như kẻ cứu vớt nạn nguy hiểm, Phật khuyến cũng như vậy nghóa là như có kẻ rớt xuống hầm sâu, người có công năng mới túm lấy tóc cột vào bờ cao. Phật khuyên tấn cũng như vậy, là nếu Bồ-tát kia muốn an trụ vào hầm sâu vắng lặng thì Chư Phật, Như lai cũng gắng gượng đặt Bồ-tát ấy vào quả vị Phật trên bờ cao. Bài kệ sau đây nói về chứng đắc nghóa lợi lớn. Kệ rằng: Mắt cực tịnh thế gian, Giác cao vô phân biệt, Như mặt trời xuất hiện, Xua tối, chiếu thế gian. Giải thích: Do khi Bồ-tát thành Phật thì bỏ hẳn lại sau lưng tất cả pháp thế gian, cho nên được pháp nhãn rất trong sạch. Lúc ấy được gọi là chứng được sự giác ngộ vượt bậc vô phân biệt, như mặt trời lớn xuất hiện, xua tan bóng tối, chiếu sáng khắp nơi. Đây là nói về thời kì sau cùng được nghóa lợi lớn. Đã nói về nghóa dạy trao pháp Đại thừa như vậy. Kế là bài kệ tổng kết lại nghóa trước. Kệ rằng: Phật tử khéo nhóm đầy, Thành tựu định rất rộng, Thường được Phật dạy trao, Tận cùng biển công đức. Giải thích: Nghóa của Bài kệ nầy sáng tỏ như lời văn. ----------------------- <詞>Phẩm Thứ16: NGHIỆP BẠN Giải thích: Đã nói về việc Như lai dạy trao pháp Đại thừa rồi, nay sẽ nói về Bồ-tát khởi việc làm, lấy phương tiện làm bạn. Kệ rằng: Ví như đại địa chủng, Giữ gìn bốn thứ vật, Ba thứ nghiệp như vậy, Xây dựng tất cả thiện. Giải thích: Bài kệ nầy nói về phương tiện cho Bồ-tát chứa nhóm những việc làm. Như đại địa chủng, giữ chắc bốn thứ vật, là những thứ nào? Biển cả. Các núi. Các cỏ cây. Chúng sinh. Đó là bốn vật. Ba thứ nghiệp như vậy, xây dựng các pháp lành là bốn vật như biển v.v… Là dụ cho tất cả pháp lành. Như vậy, với ba nghiệp, Bồ-tát có công năng gom nhóm về các pháp lành, như bố thí Ba-la-mật và tất cả pháp Bồ-đề phầân. Kệ rằng: Nghiệp khó làm làm được, Hiện hình vô lượng kiếp, Tự tính, thân, miệng, tâm, Cứu vớt họ không lùi. Giải thích: Bài kệ nầy nói về phương tiện của Bồ-tát làm việc cứu giúp kẻ khác. Nghiệp khó làm, nhưng làm được, hiện hình trong vô lượng kiếp, những việc gì gọi là khó làm? Nghóa là chúng sinh muốn tu theo Tiểu thừa để xuất ly, điều ấy, Bồ-tát thấy rất khổ. Muốn cho họ đổi tâm qua thừa khác, nên Bồ-tát biến ra nhiều thứ thân, trong vô lượng thế giới, trải vô số kiếp, để nhận làm các việc khó làm trải qua thời gian lâu dài vẫn siêng năng gian khổ. Tự tính thân, miệng, tâm, cứu vớt chúng sinh không lui sụt là Bồ- tát muốn cứu vớt chúng sinh, siêng năng gian khổ lâu dài dù ở chốn nào, nhưng tự tính của ba nghiệp không hề lui sụt. Kệ rằng: Như kẻ sợ bốn hại, Tự thân ngăn ngừa kỹ, Bồ-tát sợ Nhị thừa, tát. Giữ nghiệp cũng như thế. Giải thích: Bài kệ nầy nói về phương tiện giữ gìn nghiệp của Bồ- Như kẻ sợ bốn thứ hại, tự thân y phải ngăn ngừa rất kỹ, bốn thứ hại là gì? Chất độc. Quân binh, dao gậy. Đồ ăn có chất độc. Kẻ thù. Đó là bốn thứ hại. Ngăn ngừa rất kỹ là vì lợi ích cho chính mình. Bồ-tát sợ Nhị thừa, giữ nghiệp mình cũng như vậy là bốn thứ độc hại dụ cho các phương tiện nghiệp của người Nhị thừa, Bồ-tát lo sợ phương tiện ấy, nên trong chiều sâu của tâm, Bồ-tát giữ thật kỹ tâm Nhị thừa khởi lên. Vì sao? Vì nó cắt đứt hạt giống Đại thừa, gốc lành Đại thừa nếu chưa sinh thì tâm Nhị thừa kia làm cho không sinh khởi được. Còn nếu đã phát sinh thì bị tâm kia diệt đi, và nó còn chướng ngại lớn đối với quả Chư Phật. Kệ rằng: Người làm, nghiệp việc làm, Ba thứ không phân biệt, Vượt qua biển nghiệp tịnh, Công đức không bờ mé. Giải thích: Bài kệ nầy nói về phương tiện nghiệp thanh tịnh của Bồ-tát. Người làm, nghiệp và việc làm, ba thứ đều vô phân biệt. Ba thứ là gì? Tác giả. Nghiệp. Việc đã làm. Đó gọi là ba thứ. Vô phân biệt vì ba thứ nầy không thật có. Do vậy, ba thứ nầy được thanh tịnh. Do ba thứ thanh tịnh nên nghiệp cũng thanh tịnh. Vượt qua biển nghiệp thanh tịnh, công đức Phật không bờ mé là do đến với nghiệp bờ mé kia. công đức vô biên vì nó không bao giờ cùng tận. ----------------------------- <詞>Phẩm Thứ 17: HÓA ĐỘ (Phần 1) Giải thích: Đã nói phương tiện tạo nghiệp, nghiệp đã nhóm họp các Ba-la-mật. Nay sẽ nói, trước là bài kệ Ưu-đà-na. Kệ rằng: Số, tướng, thứ đệ, tên, Tu tập, sai biệt, nhiếp, Trị chướng, đức sáng nhau, Mười nghóa độ, nên biết. Giải thích: Nên biết, sáu Ba-la-mật có mười nghóa: Chế số. Hiển tướng. Thứ lớp. Giải thích tên gọi. Tu tập. Khác nhau. Thâu nhiếp hành. Trị chướng. Công đức. Soi sáng lẫn nhau. Trong đây, có sáu bài kệ lập ra sáu pháp Ba-la-mật. Số, chỉ có sáu. Kệ rằng: Giúp ống, thân quyến thuộc. Phát khởi đầu bốn thành. Thứ năm bất nhiễm hoặc, Thứ sáu nghiệp không đảo. Giải thích: Bài kệ nầy nói về ba việc gom nhiếp tự lợi, lập Ba-la- mật chỉ có sáu: Tăng tấn. Không ô nhiễm. Không điên đảo. Bốn pháp Ba-la-mật đầu tiên, theo thứ lớp của nó có thể giúp cho bốn việc tăng tiến: Giúp sinh thành tựu, do bố thí. Tự thân thành tựu, do giữ giới. Quyến thuộc thành tựu, do nhẫn nhục. Ai thực hành nhẫn nhục thì được nhiều người yêu mến. Phát khởi thành tựu là do tinh tấn, tất cả sự nghiệp đều do tinh tấn mà thành tựu. Thiền Ba-la-mật thứ năm có công năng khiến cho không bị phiền não nhiễm ô, dẹp bỏ phiền não là sức mạnh nầy. Bát-nhã Ba-la-mật thứ sáu khiến cho nghiệp không điên đảo, và biết một cách đúng như thật về tất cả những gì mình đã làm. Kệ rằng: Bố thí, và không hại, Chịu khổ vì lợi người, Có nhân và tâm trụ, Giải thoát là tự lợi. Giải thích: Bài kệ nầy nói về gồm hai lợi ích của sáu việc. Thành lập Ba-la-mật chỉ có sáu. Ba việc đầu thuộc về lợi người, lập ba pháp Ba-la-mật trước là giúp phát sinh siêng năng chân chính, theo thứ lớp của nó là: Bố thí cho người. Không làm hại. Chịu đựng người hại là thuộc về tự lợi. Do ba việc nầy nên thành lập, ba pháp Ba-la-mật sau, giúp phát sinh siêng năng chân chính. Theo thứ lớp là: Có nhân duyên, dựa vào tinh tấn. Tâm an trụ, tâm không ổn định, khiến cho định lại. Giải thoát là tâm đã định, khiến được giải thoát. Kệ rằng: Không thiếu cũng không hại, Chịu (đựng) bị hại không lui, Hướng về và khéo nói, Lợi người tức lợi mình. Giải thích: Bài kệ nầy nói về sáu việc làm lợi ích cho người, lập ra Ba-la-mật chỉ có sáu. Theo thứ lớp, khi Bồ-tát thực hành sáu Ba-la- mật, thì giúp cho các người đồ ăn dùng không để thiếu thốn. Không gây hại cho người, mà còn chịu đựng kẻ khác hại mình. Giúp việc làm của các người khiến họ không lùi sụt. Dùng sức thần thông khiến họ quay về, khéo nói pháp để dứt nghi ngờ của họ. Bồ-tát làm lợi cho người như vậy chính làm lợi cho mình, việc làm cho người chính là việc làm của mình, nhân nầy mà Bồ-tát chứng Đại Bồ-đề. Kệ rằng: Bất nhiễm và rất kính, Không lùi sụt, có hai, Cũng hai vô phân biệt, Gồm đủ nhân Đại thừa. Giải thích: Bài kệ nầy nói về bốn nhân thuộc về Đại thừa, lập Ba-la-mật chỉ có sáu: Không ô nhiễm. Rất tôn kính. Không lui sụt. Vô phân biệt. Khi Bồ-tát thực hành bố thí thì không tiếc, bất nhiễm của cải. Khi giữ gìn giới cấm thì luôn tỏ lòng tôn kính đối với các học xứ. Khi thực hành nhẫn nhục và tinh tấn thì hai hạnh nầy không lui bước. Chịu đựng các khổ do chúng sinh, phi chúng sinh gây ra, mà không lui sụt. Lúc tinh tấn tu tập và thực hành điều thiện đã được, không lui bước. Khi thực hành thiền định, Bát-nhã, hai hạnh nầy vô phân biệt, do nó thuộc về bình đẳng trong Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na. Bốn nhân trên đây đã xếp vào tất cả nhân của Đại thừa. Kệ rằng: Không chấp và, không loạn, Không xả, cũng tăng tiến, Tịnh hoặc và chướng trí, Đều thuộc về đạo nầy. Giải thích: Bài kệ nầy nói về sáu đạo lý thuộc về Đại thừa, lập Ba-la-mật có sáu. Hỏi: Đạo có nghóa gì? Đáp: Hễ có phương tiện là có đạo. Trong đây bố thí Ba-la-mật, đối với của cải mà không mê đắm là đạo, khi bố thí thì đối với cảnh phải xa lìa không để bị mê đắm. Giữ giới đối với cảnh trần mà không rối loạn là đạo, vì khi cầu thọ giới thì tất cả tâm rối loạn một nơi. Và khi thầy Tỳ-kheo an trụ hộ trì, cầu cảnh giới thì các việc tán loạn không làm lung lay được. Sằn-đề Ba-la-mật đối với các chúng sinh, không buông xả là đạo, do không sinh tâm nhàm chán đối với việc không lợi ích. Tỳ-lê-da Ba-la-mật, trong việc tu lành làm tăng trưởng là đạo, do siêng năng phát sinh khiến tiến lên mãi. Thiền Ba-la-mật làm lắng sạch hết các phiền não chướng ngại là đạo. đạo. Bát-nhã Ba-la-mật làm lắng sạch hết các chướng ngại trí tuệ là Sáu thứ đạo như vậy bao gồm tất cả đạo của Đại thừa. Kệ rằng: Vì xếp vào ba học, Nói độ có sáu thứ, Trước ba, hai trước một, Sau hai, hai, một, ba. Giải thích: Bài kệ nầy nói về là thuộc về ba món tăng thượng học, nên lập Ba-la-mật có sáu. Trong đó, lập ba món Ba-la-mật đầu là xếp vào một giới tăng thượng học đầu. Giới có hai thứ là nhóm và quyến thuộc Thi-la là nhóm, còn đàn và Sằn-đề là quyến thuộc. Vì sao? Vì bố thí cho người xin thì không keo kiệt của cải. Khi giữ đức nhẫn nhục, thì không trả lại khi bị kẻ khác mắng nhiếc, đánh đập. Trong đây, lập ra hai pháp Ba-la-mật sau, theo thứ lớp nó, là gồm trong tâm tuệ, hai tăng thượng học. Trong đó, lập một Ba-la-mật thứ tư. Nên biết, gồm đủ cả bA-tăng thượng học, bới cả ba học đều lấy tính tấn làm giúp đỡ. Đã lập ra sáu Ba-la-mật. Kế sẽ nói về hướng của sáu Ba-la-mật. Kệ rằng: Phân biệt thể sáu độ, Mỗi độ có bốn tướng, Trị chướng hợp với trí, Mãn nguyện thành chúng sinh. Giải thích: Các Bồ-tát tu các pháp Ba-la-mật, mỗi pháp đều có bốn tướng: Trị chướng. Họp trí. Mãn nguyện. Thành thục chúng sinh. Trị chướng nghóa là theo thứ lớp, sáu hạnh như hạnh bố thí, v.v… là để đối trị tâm bỏn sẻn, tâm phá giới, tâm giận dữ, tâm biếng nhác, tâm rối loạn, tâm ngu si. Họp trí nghóa là hoàn toàn đi đôi với trí vô phân biệt, do đã thông đạt pháp vô ngã. Mãn nguyện là theo người xin tiền của mà bố thí cho họ đúng ý muốn của họ. Đối với người cầu giới thì theo ý muốn của họ đem thân miệng ý hộ trì và dạy trao. Còn nhẫn thì đối với kẻ biết ăn năn đem cho họ niềm vui. Còn tinh tấn, đối với người làm nghề nghiệp muốn điều gì thì giúp đỡ cho họ. Còn định đối với người học định tùy theo ý muốn của họ mà dạy pháp. Còn trí tuệ liền những ai có nghi ngờ thì theo ý họ mà dứt nghi ấy. Thành thục chúng sinh là trước lấy bố thí để dẫn dắt, sau đó dùng pháp ba thừa, theo sự mong muốn mà thành thục cho họ. Trước là an lập trong giới, sau dùng ba thừa thành thục cũng giống như vậy. Đã nói về tướng của sáu Ba-la-mật, kế nói thứ lớp của sáu Ba-la- mật. Kệ rằng: Trước sau và trên dưới, Thô, tế, khởi thứ lớp, Nói sáu độ như vậy, Không loạn có ba nhân. Giải thích: Theo thứ lớp sáu Ba-la-mật có ba nhân duyên: Trước sau. Trên dưới. Thô tế. Trước sau nghóa là theo món trước mà món sau phát sinh. Vì sao? Vì không màng đến của cải, chỉ thọ trì giới luật, từ hạnh trì giới mà sinh nhẫn nhục. Có ba nhẫn nhục, tinh tấn phát sinh. Từ tinh tấn mà thiền định phát sinh. Có thiền định thì giữ được pháp chân thật. Trên dưới: trước là dưới, sau là trên. Dưới là bố thí, trên là giữ giới, cho đến dưới là thiền định, trên là trí tuệ. Thô tế: trước là thô, sau là tế. Thô là bố thí, tế là giữ giới, cho đến thô là định, tế là trí tuệ. Thô thì dễ thâm nhập, dễ làm. Tế thì khó thâm nhập khó làm. Đã nói về thứ lớp sáu pháp Ba-la-mật. Kế sẽ giải thích tên gọi sáu Ba-la-mật. Kệ rằng: Trừ nghèo khiến mát mẻ, Phá giận, và lập thiện. Giữ tâm, và biết chân, Là nói nghóa sáu hạnh. Giải thích: Vì có công năng xua đuổi nghèo cùng, nên gọi là thí, cấp cho. Có công năng khiến cho mát mẻ nên gọi là giới. Vì người giữ giới tròn đầy thì dứt được phiền não, nóng bức trong đời sống. Có công năng phá tan cơn giận dữ, nên gọi là Nhẫn. Nhẫn làm cho hết giận dữ. Có công năng xây dựng điều lành nên gọi là Tiến. Xây dựng pháp lành là nhờ sức tính tấn nầy. Có công năng giữ tâm nên gọi là Định, do nó gom giữ ý bên trong. Có công năng hiểu pháp chân thật, nên gọi là tuệ, do nó hiểu thấu Nghóa đệ nhất Đế. Đã giải thích tên gọi sáu pháp Ba-la-mật, kế là nói tu tập sáu pháp Ba-la-mật. Kệ rằng: mật: Vật, suy nghó và tâm, Phương tiện và thế lực, Nên biết, tu sáu hạnh, Nói có năm chỗ nương. Giải thích: Có năm chỗ nương để các Bồ-tát tu sáu pháp Ba-la- Nương vào vật. Nương vào suy nghó. Nương vào tâm. Nương vào phương tiện. Nương vào thế lực. Nương vào vật để tu tập Ba-la-mật, có bốn thứ: Nương vào nhân là nương vào năng lực chủng tánh mà tu tập. Nương vào quả báo là Nương vào sức thành tựu của tự thân mà tu tập. Nương vào nguyện là nương vào sức mạnh của nguyện xưa mà tu tập. Nương vào số là nương vào sức mạnh của trí tuệ mà tu tập. Nương vào suy nghó để tu các Ba-la-mật, cũng có bốn thứ: Suy nghó mà tin là đối với các Ba-la-mật tương ưng với giáo pháp sinh lòng tin. Suy tư mà biết chất là thấy vị ngon công đức trong các Ba-la- mật. Suy tư tùy hỉ đối với tất cả thế giới, tất cả chúng sinh, tất cả Ba- la-mật, đều sinh tâm vui theo. Suy tư hi vọng là đối với mình và người, ở đời vị lai, tất cả Ba- la-mật, tốt đẹp, đều phát sinh tâm hi vọng. Nương vào tâm để tu các Ba-la-mật cũng có sáu thứ: Tâm không nhàm chán. Tâm rộng lớn. Tâm vui cao cả. Tâm thắng lợi. Tâm bất nhiễm. Tâm khéo thanh tịnh. Thế nào là sáu thứ tâm tu tập bố thí? Nếu Bồ-tát đem bảy chất báu đầy khắp thế giới nhiều như cát sông Hằng và tất cả thân mình mà bố thí cho tất cả chúng sinh trong một giây phút, cứ như vậy, cho đến tận cùng thế giới chúng sinh, với ý nguyện thành thục Bồ-đề Vô thượng là do pháp môn Ba-la-mật nầy mà tâm bố thí không nhàm chán. Tướng tâm như vậy, gọi là tâm tu tập bố thí không nhàm chán. Nếu Bồ-tát có tướng bố thí như vậy, từ ban đầu cứ nối tiếp nhau cho đến khi thành Phật, không bị dập tắt hay suy giảm trong giây phút nào, thì tướng tâm ấy gọi là tâm bố thí rộng lớn. Nếu khi bố thí của cải cho kẻ khác để dẫn dắt họ, mà Bồ-tát cảm thấy rất vui mừng, hơn cả sự vui mừng của người nhận thí tiền của, thì tướng tâm như vậy gọi là tu bố thí với tâm vui cao cả. Nếu bố thí của cải cho kẻ khác để dẫn dắt họ, thấy người nhận vật cho thì Bồ-tát nghó rằng: “Có nhiều lợi ích cho ta” chẳng phải ta tự thọ dụng mà được nhiều lợi ích. Vì sao? Vì chỉ có bố thí dẫn dắt kẻ khác mới là nhân chính để ta thành tựu Bồ-đề Vô thượng. Tướng tâm như vậy, được gọi là tu bố thí với tâm vui thắng lợi. Nếu thực hành công hạnh bố thí rộng lớn như vậy, nhưng Bồ-tát không cầu báo đáp, đền ơn, thì tâm như vậy gọi là tu bố thí với tâm bất nhiễm. Nếu thực hành công hạnh bố thí rộng lớn như vậy, có được phước xếp vào, có được quả báo, nhưng Bồ-tát lại nguyện bố thí những món ấy cho tất cả chúng sinh, chứ không phải để mình thọ hưởng và còn hồi hướng, cho tất cả chúng sinh, đến quả Bồ-đề Vô thượng. Tướng tâm như vậy, được gọi là tu bố thí với tâm lành trong sạch. Sao gọi là sáu thứ tâm tu tập giới? Nếu thân Bồ-tát nhiều như số cát sông Hằng mà mỗi thân ấy, có sự sống lâu dài nhiều như số cát sông Hằng. Trong mỗi đời sống lâu như vậy với bao của cải, rồi lửa lớn đốt cháy hết của cải ấy, lan khắp cả Tam thiên đại thiên thế giới, Bồ-tát vận dụng nhiều thân, đi qua nhiều tuổi thọ và ở chỗ đống lửa ấy hiện bốn oai nghi, cứ mỗi sát-na chỉ tu một giới điều, cứ như vậy, cho đến tu hết nhóm giới, cho đến hết cả nhóm trí, có thể chứng Bồ-đề Vô thượng, nhưng tâm tu của Bồ-tát vẫn chưa cho đó là đầy đủ. Tướng tâm như vậy, gọi là tu giới với tâm không biết đủ, không thỏa mãn. Nếu Bồ-tát từ khi mới phát tâm tu giới, cho đến tu trí, cuối cùng ngồi tại đạo tràng, không bao giờ có xen hở thì tướng tâm như vậy, gọi là tu giới với tâm rộng lớn. Nếu khi tu giới để dẫn dắt chúng sinh, mà Bồ-tát thấy vui mừng hơn cả nỗi vui mừng của người được Bồ-tát dìu dắt với biết bao lợi ích thì tướng tâm như vậy, gọi là tu giới với tâm vui mừng cao cả. Nếu khi tu giới để dẫn dắt kẻ khác, mà Bồ-tát thấy họ được lợi ích thì đó là điều có lợi cho ta, chứ chẳng phải ta làm các lợi ích nầy cho mình. Tướng tâm như vậy, gọi là tu giới với tâm thắng lợi. Nếu khi Bồ-tát tu giới, không cầu báo đáp, đền ơn, thì tướng tâm như vậy, gọi là tu giới với tâm bất nhiễm. Nếu Bồ-tát tu rộng về giới mà được sinh nhóm phước, được quả báo, thì cũng nguyện thí cho tất cả chúng sinh, chứ không để mình hưởng. Lại cùng tất cả chúng sinh, mà hồi hướng đến Bồ-đề Vô thượng, tướng tâm như vậy, gọi là tu giới với tâm lành trong sạch. Nương vào phương tiện tu các Ba-la-mật, có ba thứ: Ba thứ tức là ba thứ thanh tịnh. Sự thanh tịnh nầy lấy trí vô phân biệt làm phương tiện. Từ phương tiện nầy, tất cả tác ý đều thành tựu. Nương vào thế lực để tu các Ba-la-mật, cũng có ba thứ: Thế lực của thân. Thế lực của công hạnh. Thế lực của nói pháp. Thế lực của thân là, nên biết tự tính thân của Phật và thân thọ dụng. Thế lực của công hạnh là hóa thân Phật, nên biết. Từ hóa thân nầy hiện tất cả tướng, vì tất cả chúng sinh, thị hiện tất cả hạnh lành. Thế lực của nói pháp nghóa là có công năng giảng nói sáu Ba-la- mật không đuối lý, bất cứ lúc nào.  <卷>QUYỂN 8 <詞>Phẩm Thứ 17: ĐỘ NHIẾP (Phần 2) Giải thích: Đã nói tu tập sáu Ba-la-mật, kế là nói về sự khác nhau giữa sáu Ba-la-mật. Sự khác nhau giữa sáu Ba-la-mật, đều có sáu nghóa: Tự tính. Nhân. Quả. Nghiệp. Tương ưng. Phẩm loại. Kệ rằng: Thí kia và cùng nghó, Hai thành cũng hai nhiếp, Trụ đủ, không bỏn sẻn, Pháp, tài vô úy ba. Giải thích: Bài kệ nầy nói về sáu nghóa của bố thí Ba-la-mật. Thí kia là tự tính thí, là do lấy vật của mình mà đem cho người. Cùng nghó là nhân của bố thí, do gốc lành không tham phát sinh cùng lúc với suy nghó. Hai thành là quả của bố thí, do của cải thành tựu và thân thành tựu. Nói thân thành tựu là gồm năm việc như mạng sống, v.v… Như trong kinh Ngũ Sự nói: “Thí thức ăn, được năm việc”: Được mạng sống. Được nhan sắc. Được sức khỏe. Được niềm vui. Được nói năng kheóo léo. Hai nhiếp hóa là nghiệp của bố thí, do xếp vào đủ cả mình và người và đầy đủ cả đại Bồ-đề. An trụ đủ, không keo kiệt là bố thí tương ưng do đời sống đầy đủ nên trong lòng không còn keo kiệt. Pháp, tài, vô úy là ba, là phẩm loại bố thí. Phẩm loại lại có ba: Pháp thí. Tài thí. Vô úy thí. Người trí nên biết và tu tập sáu nghóa như vậy. Kệ rằng: Sáu chi diệt hữu biên, Đường lành và trì thảy, Phước chứa nhóm đầy đủ, Hai được là hai thứ. Giải thích: Bài kệ nầy nói sáu nghóa của giới Ba-la-mật. Sáu chi là tự tính giới, do an trụ đầy đủ trong giới cho đến thọ học đầy đủ các học. Diệt hữu biên là nhân của giới. Diệt là Niết-bàn, do cầu Niết-bàn là phải đi qua các hữu biên thọ và thực hành giới. Đường lành là quả của giới, đường lành và năm tâm trụ không ăn năn, v.v… nhờ giữ giới mà được. Trì đẳng là nghiệp của giới, giới có ba công năng: Công năng giữ gìn do nó có công năng giữ gìn tất cả các công đức như đất kia. Công năng yên tónh, do nó có công năng dập tắt hết lửa phiền não nóng bức. Không sợ hãi vì nó có công năng không làm phát sinh các sợ hãi, oán ghét, v.v… Các thứ tội có ra là do duyên tác động thì đâu còn sợ phát sinh các tội. Phước chứa nhóm đầy đủ là sự tương ưng của giới do nghiệp thân, miệng, ý đều làm việc lành, bất cứ lúc nào. Hai được là hai thứ phẩm loại của giới, hai được là được thọ và pháp có hành vi ác. Được thọ là xếp vào Ba-la-đề-mộc-xoa. Pháp có được là xếp vào thiền và không lưu hành rộng. Kệ rằng: Không báo, nhẫn trí tính, Đại bi và pháp nương, Năm đức, hai lợi ích, Đầy đủ thắng ba thứ. Giải thích: Bài kệ nầy, nói về sáu nghóa của nhẫn Ba-la-mật. Không trả thù, chịu đựng. Trí tính là tự tính của nhẫn: Không trả thù. Chịu đựng. Trí. Theo thứ lớp thì ba thứ nầy là ba tự tính của nhẫn. Không trả thù là bị kẻ khác hủy nhục, nhưng tự tính là chịu đụng. Chịu đựng là tự tính nhẫn chịu đựng khổ nhẫn. Trí là tự tính nhẫn của pháp quán. Đại bi và pháp nương là nhân của nhẫn. Đại bi là nhân. Pháp nương là nhân. Pháp nương là thọ giới và học rộng. Năm đức là quả của nhẫn, như trong kinh nói: Nhẫn, được năm thứ quả: Ít bị ai ganh ghét. Không phá bỏ ý người khác. Được vui mừng. Lúc sắp chết không ăn năn. Sau khi chết, sinh lên cõi trời. Hai lợi ích là nghiệp của nhẫn, vì ba thứ nhẫn nên có công năng làm hai nghiệp là lợi mình và lợi người, như kệ trong kinh, đã nói: Làm hai nghóa ấy là lợi mình và lợi người. Nếu thấy ai nổi giận thì ta tự dứt giận đối với họ. Đầy đủ tối thắng là sự tương ưng nhẫn, vì nhẫn là việc khó làm nên gọi là tối thắng. Đầy đủ tối thắng nên gọi là tương ưng. Như trong kinh nói: Nhẫn là tối thượng, là khó làm. Ba thứ kia là phẩm loại của nhẫn. Người kia có ba phẩm: Nhẫn khi bị kẻ khác hủy nhục. An nhẫn chịu khổ. Nhẫn pháp quán. Kệ rằng: Mạnh mẽ với điều lành, Có tin, có mong muốn Niệm tăng và đối trị, Đức đủ, bảy thứ kia. Giải thích: Bài kệ nầy, nói về sáu nghóa của tinh tấn Ba-la-mật. Mạnh mẽ với điều lành, với chân chính là tự tính của tinh tấn. Do ngăn dứt mạnh mẽ đối với các nghiệp khác, nên gọi lành. Vì mạnh mẽ dứt trừ lối giải thoát của ngoại đạo, nên gọi là chánh. Có lòng tin, có mong muốn là nhân của tinh tấn. Do lòng tin và mong cầu mà tinh tấn phát sinh. Nhớ nghó tăng lên là quả của tinh tấn. Công đức của niệm định do tinh tấn phát sinh. Đối trị là nghiệp của tinh tấn. Như trong kinh nói: Ai tinh tấn thì kẻ ấy sống an vui, vì không cho điều ác, pháp bất thiện xen vào. Đức đầy đủ là sự tương ưng của tinh tấn, do đủ các công đức như vô tham, v.v… Bảy thứ kia là phẩm loại tinh tấn. Người kia có bảy phẩm loại tinh tấn: Giới học tinh tấn. Học định tinh tấn. Học tuệ tinh tấn. Thân tinh tấn. Tâm tinh tấn. Không hở tinh tấn. Tôn trọng tinh tấn. Kệ rằng: Tâm trụ và niệm, tiến, Sống vui cũng trụ chung. Thượng thủ của các pháp, Ba kia lại có ba. Giải thích: Bài kệ nầy, nói về sáu nghóa của thiền Ba-la-mật. Tâm trụ là tự tính của định, do tâm an trụ bên trong. Niệm tiến tới là nhân của định. Vì có niệm nên không quên duyên. Do nương vào tinh tấn nên thiền định mới phát khởi. Sống an vui là quả của định vì lìa khỏi phương tiện thoái lui, vì lìa nó, nên được quả không dối trá. Trụ chung là nghiệp của định. Thông là năm thần thông. Trụ là ba trụ: Thánh trụ, thiên trụ, phạm trụ. Thiền định có công năng làm thông năm thông, ba trụ đều được an trụ tự tại. Thượng thủ của các pháp là sự tương ưng của định. Như trong kinh nói: Tam-ma-đề là thượng thủ trong các pháp. Ba thứ kia lại có ba là: Phẩm loại định. Người kia có hai thứ ba phẩm: Có giác, có quán; không giác, có quán và không giác, không quán. Đó là ba phẩm. Cùng vui, cùng mừng, cùng xã, đó là ba phẩm. Kệ rằng: Lựa chánh và trì định, Khéo thoát và mạng thuyết. Là đứng đầu các pháp, Kia cũng có ba thứ. Giải thích: Bài kệ nầy, nói về sáu nghóa của Bát-nhã Ba-la-mật. Lựa chính là tự tánh tuệ, vì lìa khỏi tà nghiệp và các nghề mà thế gian biết. Lựa chọn chân chính là pháp xuất thế gian. Trì định là nhân của tuệ. Vì Định được duy trì nên tuệ mới hiểu các pháp như thật. Khéo giải thoát là quả của tuệ, nghóa là khéo giải thoát ngay trong hoàn cảnh ô nhiễm. Vì sao? Vì biết lựa chọn chân chính những gì là thế gian, xuất thế gian, đại xuất thế gian. Nói đời sống, là tuệ nghiệp, vì tuệ mạng và khéo nói về tuệ mạng là biết lựa chọn đúng, Vô thượng chánh trạch (lựa đúng) kia là mạng sống. Khéo nói là nói chính chắn chánh pháp. Đứng đầu các pháp là sự tương ưng của tuệ. Như trong kinh nói: Bát-nhã là pháp cao trong các pháp. Kia cũng có ba phẩm là: Phẩm loại của tuệ. Người kia có ba phẩm lựa chọn là thế gian, xuất thế gian, đại xuất thế gian. Đã nói sự khác nhau giữa sáu Ba-la-mật, kế đây là, là nói về việc xếp vào sáu Ba-la-mật. Kệ rằng: Tất cả pháp trắng sạch, Có loạn, định nên biết, Sáu độ gồm ba đôi, Đều gom hết loại ấy. Giải thích: Tất cả pháp trắng sạch là các pháp hành như bố thí, v.v… nên biết, pháp hành ấy xếp vào ba thứ: Loạn. Định. Có cả hai. Loạn là hai pháp Ba-la-mật trước thuộc về bố thí, giữ giới, là không nhất định. Định là hai pháp Ba-la-mật sau cùng, thuộc về thiền định và định, tuệ chân thật. Có cả hai là hai pháp Ba-la-mật ở giữa nhẫn, tinh tấn, có định, và bất định. Đã nói việc xếp vào sáu Ba-la-mật, kế đây là nói về trị chướng của sáu Ba-la-mật. Kệ rằng: Thí lìa bảy mê đắm, Bảy thứ không mê đắm, Nên biết còn năm độ, Trị chướng đều có bảy. Giải thích: Bố thí lìa bảy thứ mê đắm, nên nói bảy thứ không mê đắm. Bảy thứ mê đắm của bố thí là: Mê đắm của cải. Mê đắm chậm trễ. Chấp đắm một bên. Mê đắm việc trả ơn. Mê đắm quả báo. Mê đắm chướng ngại. Mê đắm tán loạn. Trong đây, mê đắm những chướng ngại đó là lòng tham mà bố thí phải đối trị nó, do lòng tham cứ còn là tùy miên. Mê đắm tán loạn là tán loạn có hai thứ: Do cầu Tiểu thừa mà ý thấp kém tán loạn. Do phân biệt ba thứ nên phân biệt rối mù. Khi thực hành bố thí thì Bồ-tát lìa khỏi bảy thứ mê đắm nầy, cho nên nói bảy thứ không mê đắm. Nên biết năm độ còn lại, cũng đều có bảy thứ chướng ngại cần đối trị như vậy cả. Nên biết, năm Ba-la-mật như giới v.v… đều có bảy thứ mê đắm. Do lìa xa bảy thứ mê đắm nên nói mỗi thứ có bảy thứ không mê đắm. Trong đây có bảy chỗ khác nhau, là bố thí mà không mê đắm của cải là năm Ba-la-mật như giới v.v… Đã lìa khỏi mê đắm thứ nhứt. Gọi là giới, lìa khỏi mê đắm phá giới. Nhẫn, lìa khỏi mê đắm giận dữ. Tinh tấn, lìa khỏi mê đắm biếng nhác. Thiền định, lìa khỏi mê đắm tâm rối loạn. Trí tuệ, lìa khỏi mê đắm ngu si. Giới, lìa khỏi Mê đắm chướng ngại, do những chướng ngại tùy miên kia đều bị dứt trừ hết. Giới, lìa khỏi mê đắm phân biệt là do không còn phân biệt ba thứ kia. Đã nói sáu Ba-la-mật đối trị các chướng ngại, sau đây, là nói công đức của sáu Ba-la-mật. Trong đó, trước nói về công đức làm lợi cho người. Kệ rằng: Hằng coi thường mạng sống, khác. Thương xót không cầu báo, Nhân thí lập Bồ-đề, Trí nhiếp thí không cùng. Giải thích: Bài kệ nầy nói về công đức bố thí làm lợi cho người Luôn coi thường mạng sống là Bồ-tát bố thí thân mạng mình cho những ai cầu xin, bất cứ lúc nào. Thương xót mà không cầu trả ơn là, không mong cầu trả ơn cho đến quả tốt, do Đại bi làm nhân. Nhân thí lập Bồ-đề là nhân thí đã xây dựng ai nấy vào Bồ-đề ba thừa. Trí gom hết các bố thí không cùng tận là bố thí nầy được xếp vào trí vô phân biệt, cho đến Niết-bàn vô dư cho nên phước lợi ích cho tất cả chúng sinh là không bao giờ hết. Kệ rằng: Hằng siêng năng giữ giới, Không chấp giới đường lành, Nhân giới lập Bồ-đề, Trí nhiếp giới không cùng. Giải thích: Bài kệ nầy nói về công đức làm lợi người của giới Ba-la-mật. Hằng siêng năng giữ giới là Bồ-tát có ba nhóm giới là: Giới luật nghi. Giới nhiếp thiện pháp. Giới nhiếp chúng sinh. Thể của giới là dùng ngăn cấm đề phòng. Thể của hai giới sau là siêng năng mạnh mẽ. Bồ-tát thường giữ giới, bất cứ lúc nào. Không chấp giới và đường lành là không chấp vào giới mà mình có được và không mong cầu quả báo tốt. Kệ rằng: Thường chịu đựng chê bai, Lìa cầu, sợ không tài, Từ nhẫn lập Bồ-đề, Trí nhiếp nhẫn vô cùng. Giải thích: Bài kệ nầy nói về công đức lợi người của nhẫn Ba-la- mật. Thường chịu đựng chê bai, bất cứ lúc nào là nếu tất cả chúng sinh làm các việc tổn hại cho Bồ-tát, thì bất cứ lúc nào Bồ-tát cũng có khả năng chịu đựng tất cả. Lìa khỏi mong cầu, sợ hãi, không năng lực là Bồ-tát không mong cầu trả ơn, không mong cầu đường lành, không sợ hãi, chẳng phải không có năng lực. Kệ rằng: Hằng thệ làm siêng năng, Giết giặc (phiền não) là trên hết, Do tấn lập Bồ-đề, Trí nhiếp tấn không cùng. Giải thích: Bài kệ nầy nói về công đức lợi người của tinh tấn Ba- la-mật. Hằng thề nguyện siêng năng là các vị Bồ-tát tu tập tinh tấn không ai sánh bằng, có hai tự tính là: Lấy thệ nguyện rộng làm tự tính. Lấy siêng năng làm phương tiện làm tự tính. Giết giặc phiền não là trên hết là tu tinh tấn, Bồ-tát chỉ nhằm giết giặc phiền não của mình và người, là do cầu được Bồ-đề Vô thượng. Kệ rằng: mật. Thường tu tập các định, Bỏ thiền sinh nơi kém, Nhờ định lập Bồ-đề, Trí nhiếp định không cùng. Giải thích: Bài kệ nầy nói về công đức lợi người của thiền Ba-la- Thường tu tập các định là các vị Bồ-tát nhiếp vô biên Tam-ma-đề mà tu tập. Bỏ thiền, nơi sinh thấp kém là bỏ ý niệm an trụ thiền Vô thượng để sinh vào nơi thấp kém tầm thường. Vì sao? Vì đại bi. Kệ rằng: Thường biết cảnh chân khác, Phật dứt, không mê đắm, Nhờ trí lập Bồ-đề, Bi nhiếp trí vô tận. Giải thích: Bài kệ nầy nói về công đức ợi người của Bát-nhã Ba- la-mật. Thường biết cảnh chân khác là thấu biết tướng bình đẳng của Nghóa đệ nhất đế, là do trí thấy nhân và pháp đều là vô ngã. Cảnh khác nghóa là vô biên, vì tên gọi và hình tướng khác nhau. Phật dứt còn không mê đắm thì Phật dứt là Niết-bàn các Bồ-tát tu Bát-nhã cũng không mê đắm Niết-bàn của Phật, huống chi là mong ở trong sinh tử. Trong đây, năm Ba-la-mật trước, là xếp vào trí vô phân biệt, cho đến Niết-bàn vô dư, công đức vô tận, Bát-nhã Ba-la-mật được xếp vào đại bi, nên mãi mãi không bỏ chúng sinh, nên công đức không bao giờ hết. Sáu bài kệ trên nói riêng về công đức lợi tha rồi. Bài kệ sau đây nói chung nghóa nói ở trước. Kệ rằng: Rộng lớn, không mong cầu, Tối thắng và vô tận, Nên biết, mỗi độ ấy, Đồng có bốn đức. Giải thích: Bốn công đức là: Công đức rộng lớn. Công đức không mong cầu. Công đức tối thắng. Công đức vô tận. Câu một trong sáu bài kệ trước nói về công đức rộng lớn, do Bồ- tát làm lợi ích cho nhiều chúng sinh. Câu kệ thứ hai nói về công đức không mong cầu. Câu kệ thứ ba nói về công đức tối thắng. Câu kệ thứ tư nói về công đức vô tận. Lại nữa, sáu Ba-la-mật còn có công đức thanh tịnh. Kệ rằng: Được thấy và toại nguyện, Đều cầu họp ba mừng, Bồ-tát vui ngược lại, Rất xót thấy lui sụt. Giải thích: Bài kệ nầy nói về công đức thanh tịnh của bố thí Ba- la-mật. Đối với Bồ-tát, nhờ kẻ kia mong cầu mà phát sinh ba niềm vui là: Niềm vui phát sinh khi thấy Bồ-tát. Niềm vui phát sinh khi toại nguyện. Niềm vui phát sinh khi cầu được thấy, khi toại nguyện. Niềm vui mừng ấy không phát sinh khi không nhìn thấy, khi không toại nguyện. Trái lại, bất cứ lúc nào, Bồ-tát cũng thấy ba niềm vui khác với ba niềm vui của người cầu xin kia: Niềm vui phát sinh khi thấy người kia, được vui mừng. Niềm vui phát sinh khi Bồ-tát giúp kẻ kia toại nguyện. Niềm vui phát sinh khi Bồ-tát thấy người kia được nhìn thấy, được toại nguyện. Trong đó, nên biết ba điều vui mừng của kẻ mong cầu kia không bằng ba điều vui mừng của Bồ-tát. Vì sao? Do Bồ-tát có lòng đại bi. Kệ rằng: Tài của mình,quyến thuộc, Thí lòng bi hằng có, Ba hạnh xa lìa ấy, Vì sao không giữ nó? Giải thích: Từ đây trở đi nói về công đức thanh tịnh của giới Ba- la-mật. Bài kệ nầy nói về việc lìa ba hành vi ác của thân. Do tâm đại bi, đối với thân mình, của cải mình, quyến thuộc mình, Bồ-tát còn mãi mãi đem bố thí một cách vui mừng cho kẻ khác, huống nữa làm gắn vào thân kẻ khác, tài sản của kẻ khác, quyến thuộc của kẻ khác? Ba hạnh xa lìa kia làm sao không cố giữ nó? Kệ rằng: Không đoái và bình đẳng, Không sợ cũng thí khắp, Bi tột có nhân gì? Não người mà nói dối? Giải thích: Bài kệ nầy nói rõ việc lìa khỏi hành vi nói dối xấu xa. Nói dối là vì bốn nhân duyên: Vì lợi mình, vì yêu mến thân mạng. Vì lợi người bằng lợi ích mà mình ưa thích. Vì lo sợ, run sợ luật pháp nhà vua. Vì tìm cầu tiền của mà mình cần có. Bồ-tát thì không như vậy, vì: Bồ-tát không đoái hòai không luyến tiếc thân mạng. Các việc làm đều bình đẳng, vì giữ được tâm bình đẳng giữa mình và người. Không lo sợ, vì đã lìa năm sợ hãi. Bố thí rộng khắp, vì đem tất cả vật bố thí cho cả . Đó là việc làm từ tâm thương xót sâu rộng, hằng còn. Đã vì vậy thì Bồ-tát đâu vì cớ gì mà nói dối? Kệ rằng: Làm lợi ích bình đẳng, Đại bi sợ người khổ, Siêng làm thành thục sinh, Rất xa lỗi ba ngữ. Giải thích: Bài kệ nầy nói về lìa hành vi xấu của ba ngữ còn lại. Từ các việc làm hằng đem lợi ích bình đẳng cho tất cả chúng sinh thì há đâu, Bồ-tát lại nói hai lưỡi để phá hoại quyến thuộc của kẻ khác? do lòng đại bi hằng còn, Bồ-tát muốn, dẹp hết các khổ của chúng sinh, Bồ-tát rất lo sợ cho nỗi khổ của kẻ khác, thì lẻ đâu, Bồ-tát lại nói lời ác hiểm để gieo khổ hận cho kẻ khác? Làm việc với siêng năng vô hạn, thường muốn chúng sinh thành thục thì lẻ đâu, Bồ-tát lại nói lời thêu dệt để làm cho người khác không thành thục? Cho nên, Bồ-tát có công năng xa lìa hẳn ba thứ tội lỗi của lời nói. Kệ rằng: Thí khắp và có bi, Pháp duyên khởi rất lành, Vì sao không chịu đựng? Ba phiền não ý địa. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc lìa bỏ ba hành vi ác của tâm. Do bố thí của cải khắp tất cả, nên Bồ-tát lìa khỏi tâm lý phiền não tham lam. Do lòng đại bi nên Bồ-tát đã lìa tâm lý phiền não sân hận. Do đi tới chỗ cùng cực của pháp duyên khởi nên Bồ-tát đã lìa khỏi phiền não tà kiến. Như vậy, Bồ-tát có nhiều cách đối trị với bệnh phá giới khác nhau, nên Bồ-tát được công đức thanh tịnh của giới. Kệ rằng: Tổn hại nghó lợi ích, Việc khổ nghó là vui, Bồ-tát đã như thế, Nhẫn với ai, cái gì. Giải thích: Bài kệ nầy nói về công đức thanh tịnh của nhẫn nhục Ba-la-mật. Đối với kẻ hại mình, Bồ-tát thấy đó là lợi ích nghóa là Bồ-tát thấy mình được lợi ích khi bị người khác gây tổn hại, nên phải nhẫn nhục. Vì sao? Vì đó là nhân đưa đến thành tựu nhẫn nhục. Trong đau khổ, Bồ-tát thấy như vui mừng nghóa là Bồ-tát cảm thấy vui mừng khi gặp việc đau khổ. Vì sao? Vì là nhân thành tựu lợi người. Vì Bồ-tát nảy ý nghó làm lợi ích và nảy ý nghó về khổ nên Bồ-tát biết phải chịu đựng với ai, với việc nào. Kệ rằng: Bồ-tát dứt tưởng người, Thương người hơn thương mình, Việc khó làm của người, Bồ-tát làm, không khó. Giải thích: Bài kệ nầy nói về công đức thanh tịnh của tinh tấn Ba- la-mật. Đối với việc khó làm của người, Bồ-tát siêng năng làm không bỏ. Vì sao? Vì Bồ-tát đã dứt bỏ ý niệm người khác mình, nên Bồ-tát thương yêu các người hơn thương mình bất cứ lúc nào, Bồ-tát siêng năng đối với các người thì Bồ-tát đâu còn thấy việc gì là khó làm, cho nên Bồ-tát được tinh tấn thanh tịnh. Kệ rằng: Vui ít, hai từ vui, Đắm trước, lui hết si, Là nói thiền ba người, Thiền Bồ-tát trái đó. Giải thích: Bài kệ nầy nói về công đức thanh tịnh của thiền Ba- la-mật. Vui ít là thiền thế gian. Hai niệm vui là thiền Thanh văn, thiền của Duyên giác. Mê đắm là thiền thế gian. Họ tham đắm vào kiến chấp của mình. Còn thiền Nhị thừa thì tham mê đắm Niết-bàn. Thoái lui là thiền thế gian. Hết, là thiền Nhị thừa, do chấm hết khi nhập vào Niết-bàn vô dư. Ngu si là những gì tương ưng với ba hạng người tu thiền kia, do có người bị nhiễm ngu si, có khi không bị nhiễm ngu si. Thiền của Bồ-tát trái với thiền của hạng kia. Vì sao? Vì thiền của Bồ-tát vui nhiều, do đem niềm vui ấy cho mình và người, vì không mê đắm, không cố chấp, không bị lui sụt, vô tận, không ngu si. Đó gọi là công đức của thiền thanh tịnh. Kệ rằng: Chạm tối và hai đèn, Ba người trí như vậy, Như mặt trời chiếu sáng, Trí Bồ-tát chẳng sánh. Giải thích: Bài kệ nầy nói về công đức thanh tịnh của Bát-nhã Ba-la-mật. Như ở trong chổ tối dùng tay mò vật, trí phàm phu cũng như vậy. Vì sao? do đối tượng đồ vật được rờ tới rất ít, vì thiếu ánh sáng, vì không thường định. Như hai ngọn đèn chiếu vật trong nhà, trí của Thanh văn, trí của Duyên giác cũng như vậy. Vì sao? Do đối tượng được nhận biết rất ít, do ánh sáng chiếu chậm lụt, do chưa được hoàn toàn thanh tịnh. Như mặt trời chiếu soi các vật, trí của Bồ-tát cũng như vậy. Vì sao? Vì nó trùm khắp hết với sáng tỏ hoàn toàn, với rất thanh tịnh. Như vậy là không còn có gì so sánh nổi. Đó gọi là công đức thanh tịnh của Bát-nhã Bồ-tát. Lại nữa, sau sáu Ba-la-mật còn có tám thứ công đức Vô thượng. Kệ rằng: tử. nhân. Nương, loại, duyên, hồi hướng, Nhân, trí, điền, nương, Tám thứ hơn như vậy, Nghóa Vô thượng nên biết. Giải thích: Tám thứ Vô thượng là: Nương. Loại. Duyên. Hồi hướng. Nhân. Trí. Ruộng. Nương. Hỏi: Vì sao đối với sáu độ, tám thứ nầy gọi là Vô thượng? Đáp: Vì chỗ nương của bố thí là lấy Bồ-tát làm chỗ nương. Bố thí có ba thứ: Bố thí bằng đồ vật vì không màng đến thân mình. Bố thí sự không lo sợ, vì cứu giúp sự sợ hãi trong đường ác, sinh Bố thí bằng nói pháp, là giảng nói giáo pháp Đại thừa. Duyên bố thí là lấy tâm đại bi làm duyên khởi. Hồi hướng bố thí là vì mong cầu đại Bồ-đề. Nhân bố thí là lấy nghiệp bố thí đời trước huân tập hạt giống làm Trí của bố thí là lấy trí vô phân biệt quán xét ba luân là do phân biệt người thí, người nhận và của cho. Ruộng bố thí là có năm hạng người được gọi là ruộng phước: Người ăn xin. Người khổ. Người không chỗ nương. Người có hành vi ác. Người có đức độ. Nên biết, trong đó, người có đức độ được gọi là hơn người, là Vô thượng. Chỗ nương của bố thí là do ba thứ nương: Nương vào tín hướng. Nương vào tư duy. Nương vào Tam-muội. Nương vào tín hướng là như những gì đã nói do lòng tin có suy nghó, trong phân biệt tu tập. Nương vào tư duy là như đã nói trong vị tư duy, tùy hỷ tư duy, hi vọng tư duy, trong phân biệt tu tập. Nương vào Tam-muội là nương vào các định Kim cương tạng như đã nói trong Thế lực của nương tu tập. Do nương vào Đẳng giác Vô thượng cho nên bố thí được Vô thượng. Như tám Vô thượng của bố thí thì tám Vô thượng của năm Ba- la-mật như giới, v.v… Cũng như vậy. Trong đó giới phẩm loại Vô thượng là giới của Bồ-tát. Nhẫn phẩm loại Vô thượng là người đến giết Bồ-tát chính là kẻ thấp hèn, yếu đuối. Tinh tấn phẩm loại Vô thượng là những gì cần phải đối trị, cắt đứt khi tu các Ba-la-mật. Thiền phẩm loại Vô thượng là Tam-ma-đề của Bồ-tát. Trí phẩm loại Vô thượng là duyên vào cảnh như như. Giới .v.v. là do ruộng màu mỡ Vô thượng là pháp Đại thừa. Sáu Vô thượng còn lại như đã nói trong bố thí Vô thượng. Lại nữa, bố thí và tinh tấn còn có công đức khác nhau, không chung. Hỏi: Thế nào gọi là khác nhau của bố thí? Kệ rằng: Thí một giúp họ vui, Tự chịu khổ nhiều kiếp, Còn không màng ái sâu, Huống chi lợi trái kia. Giải thích: Nếu bố thí cho một người được an vui, mà mình phải chịu nhiều khổ não, thì Bồ-tát vẫn làm mà không chút tiếc nuối, ấy là do lòng thương sâu rộng. Lòng thương có tính chất khác nhau huống chi thí cho một chúng sinh khiến họ an vui thì tự thân Bồ-tát trải qua nhiều kiếp vẫn được phước lợi lớn. Kệ rằng: Tùy người xin muốn gì, Bồ-tát cho tất cả, Họ xin là vì thân, Cũng cho đủ lợi họ. Giải thích: Nửa kệ trên đây nói chung là tùy ai xin gì, Bồ-tát cho tất. Nửa kệ dưới giải thích là kẻ xin kia tự lợi nên muốn được tất cả, nên vì lợi tha, Bồ-tát cho đủ cả. Kệ rằng: Xả thân còn không khổ Huống gì tài vật khác? Bởi được vui xuất thế Khởi khổ là vô thượng. Giải thích: Khi xả thân lợi ích chúng sinh là do Bồ-tát không sinh tâm coi đó là khổ. Tâm nầy nói về Bồ-tát là bậc xuất thế gian. Vì sao? Vì được vui. Hỏi: Vui ấy từ đâu có được. Đáp: Từ khởi ý niệm biết khổ mà có được, cho nên khởi ý biết khổ là Bồ-tát Vô thượng, cho nên Bồ-tát ở trên cả xuất thế gian. Kệ rằng: Kẻ xin, được tất cả, Được mừng chẳng rất mừng, Bồ-tát xả tất cả, Vui Bồ-tát lớn nhất. Giải thích: Bất cứ ai xin gì, Bồ-tát cho cả. Cái vui mà người xin có được, không phải là cái vui lớn. Vì sao ? Đáp: Cái vui của Bồ-tát đem cho tất cả của cải thì cái vui ấy mới thật là lớn, nó lấn át cái vui của người được của. Kệ rằng: Kẻ xin, được tất cả, Họ có của chưa phải giàu, Bồ-tát vì xa tất cả, Không của thấy giàu to. Giải thích: Bài kệ nầy nói về sự khác nhau về của cải không bao giờ hết của Bồ-tát. Kệ rằng: Kẻ xin được tất cả, Chẳng tưởng giàu lợi lớn, Bồ-tát xả tất cả, Được nghó giàu lợi lớn. Giải thích: Bài kệ nầy nói về sự khác nhau về lòng đại bi của Bồ- tát. Kệ rằng: Kẻ xin tự do lấy, Như hái trái bên đường, Bồ-tát năng đại xả, Kẻ khác, không làm được. Giải thích: Bài kệ nầy nói về sự khác nhau về lòng vô trước của Bồ-tát. Hỏi: Đã nói về sự khác nhau của công đức bố thí riêng rồi. Còn sự khác nhau về công đức riêng của tinh tấn là sao? Kệ rằng: Nhân cao nương nghiệp chủng, Đối trị thảy khác nhau, Có sáu nghóa như vậy, Nên tinh tấn khác nhau. Giải thích: Tinh tấn có sáu thứ khác nhau: Khác nhau về hơn. Khác nhau về nhân. Khác nhau về chỗ nương. Khác nhau về nghiệp. Khác nhau về giống. Khác nhau về đối trị. Bài kệ nầy nêu chung. Các bài kệ sau sẽ giải thích riêng. Kệ rằng: Pháp trắng tấn là cao, Tấn cũng là thắng nhân, Thâu đạt các pháp lành, Tinh tấn là nương tựa. Giải thích: Bài kệ nầy nói về chỗ nương khác nhau, nhân khác nhau, vượt hơn khác nhau của tinh tấn. Pháp trắng, tinh tấn là trên, nghóa là nó khác nhau tối thắng, là do nó trong thảy pháp lành thì tinh tấn là hơn hết. Tinh tấn cũng là nhân cao hơn hết, nghóa là nói về sự khác nhau của nhân, do nói tinh tấn là nhân Vô thượng. Thâu đạt được các pháp lành, đều là nương tinh tấn, nghóa là nói sự khác nhau của chỗ nương, là do nương vào tinh tấn mà được tất cả các pháp. Kệ rằng: Hiện vui và thế pháp, Xuất thế gian, của cải, Động tónh và giải thoát, Bảy Bồ-đề là nghiệp. Giải thích: Bài kệ nầy nói về nghiệp khác nhau của tinh tấn, nghiệp nầy có bảy thứ khác nhau: Sống an vui trong pháp hiện tại. Được pháp thế gian. Được pháp xuất thế gian. Được của tiền. Được động tịnh. Vì động tónh là pháp thế gian nên không rốt ráo. Được giải thoát, giải thoát nghóa là do dứt chấp thân. Được Bồ-đề, Bồ-đề là đại Bồ-đề. Kệ rằng: Tăng giảm và tăng thêm, Xả chướng cũng nhập chân, Chuyển y và đại lợi, Nói tinh tấn có sáu. Giải thích: Bài kệ nầy nói sự khác nhau giữa các thứ tinh tấn, có sáu thứ khác nhau: Tăng giảm tinh tấn, là bốn chánh cần, hai pháp ác giảm thì hai pháp lành tăng. Tăng thượng tinh tấn, là năm căn nghóa-tăng thượng đối với pháp giải thoát. Xả chướng tinh tấn là năm lực, vì chướng ngại kia không thể chướng ngại được. Nhập chân tinh tấn là bảy phần giác do quả vị kiến đạo đã lập. Chuyển y tinh tấn là Tám phần Thánh đạo do giai vị tu đạo là nhân của chuyển y rốt ráo. Đại lợi tinh tấn là sáu Ba-la-mật, do lợi mình và lợi người. Kệ rằng: kém. Lại có năm khác nhau, Thệ rộng giúp phát hạnh, Không thấp và bất động, Thứ năm, nói không chán. Giải thích: Năm thứ tinh tấn khác nhau là: Hoằng thệ tinh tấn, là muốn phát khởi hạnh tinh tấn. Phát hạnh tinh tấn, là hiện hành các điều lành. Vô hạ tinh tấn là được quả Đại thừa, không có tự thể thấp Bất động tinh tấn là nóng lạnh, khổ không thể làm dao động. Vô yểm tinh tấn là mới được một ít, không cho đó là đủ. Năm thứ nầy, như trong kinh nói: Có tinh tấn thệ nguyện rộng lớn, có tinh tấn hiện khởi, có tinh tấn mạnh mẽ, có tinh tấn vững chắc, có tinh tấn không bỏ đạo. Trong các pháp lành, cứ theo thứ lớp như vậy, nên biết. Kệ rằng: Ba thứ hạ trung thượngï, Là nương ba thừa ấy, Cũng hai giác, hạ, thượng, Vì lợi có Tiểu Đại. Giải thích: Do nương vào người mà tinh tấn có khác nhau. Lại nói ba thứ và hai thứ. Ba thứ là, nương vào người tu ba thừa khác nhau, theo thứ lớp mà họ tinh tấn có hạ, trung, thượng. Hỏi: Vì sao lại có hai thứ? Đáp: Do giác ngộ có bậc hạ thượng. Giác bậc hạ là người tu theo Nhị thừa. Giác bậc trên là người tu theo Đại thừa. Từ thứ lớp ấy mà nói về lợi ích của Tiểu thừa, lợi ích của Đại thừa. Vì sao? Do làm lợi ích cho mình và người. Kệ rằng: Đắm của, đắm phiền não, Đắm nhàm, đắm biết đủ, Bốn đắm không lui sụt, Có bốn pháp đối trị. Giải thích: Bài kệ nầy nói về sự khác nhau của tinh tấn đối trị. Do đối trị bốn thứ mê đắm nên có bốn thứ không lui sụt, nên nói sự khác nhau của bốn thứ đối trị. Hỏi: Thế nghóa là sao? Đáp: Như các việc làm bố thí, do bốn thứ mê đắm làm chướng ngại nên không làm được. Đắm mê vào của cải là bỏn sẻn tài vật. Đắm mê phiền não là tâm ý bị nhiễm trong của cải. Đắm mê chán cao là do ý chí bị lui sụt trong khi bố thí. Đắm mê với biết đủ là bố thí chút ít mà vui mừng cho thế là đủ rồi. Ai thực hành tinh tấn nên đối trị bốn thứ mê đắm đó. Có công năng không lui sụt, cho nên nói có bốn thứ đối trị khác nhau. Đã nói công đức của sáu Ba-la-mật, kế là nói về sự soi sáng cho nhau giữa các Ba-la-mật. Kệ rằng: Nhiếp nhau và sai khác, Nương pháp cũng làm nhân, Sáu độ thành lẫn nhau, Phân biệt tất cả thứ. Giải thích: Sáu tướng Ba-la-mật được thành tựu vì có bốn nghóa: Nhiếp nhau. Khác nhau. Nương pháp. Làm nhân. Nhiếp nhau là vô úy và bố thí thì xếp vào hai độ trì giới và nhẫn nhục, do hai độ nầy có công năng làm người ta không sợ sệt. Pháp thí thì xếp vào hai độ thiền định và trí tuệ, vì hai độ nầy có thể ban cho giáo pháp. Bố thí đủ thì xếp vào một độ tinh tấn, do tinh tấn có công năng làm cả hai việc bố thí. Hỏi: Có mấy thứ xếp vào giới? Đáp: Xếp vào giới nhiếp thiện pháp tất cả việc bố thí. Như vậy, nhẫn v.v… Chúng đều nhiếp nhau như những gì chúng phải làm. Khác nhau là sáu thứ như bố thí, v.v… là sáu thứ thí, nghóa là giới thí, thí và cho đến Bát-nhã thí, vì đối với chúng sinh, phải nối nhau mà lập ra bố thí. Nương vào pháp là tất cả kinh, tất cả bố thí đều có nói nghóa rành mạch. Tất cả ý nghóa bố thí, tất cả kinh đều nói về là chúng gom lẫn vào nhau ở nhiều chỗ, nên biết. Làm nhân nghóa là bố thí là nhân của giới. Vì sao? Vì ai không màng đến của cải thì đều thực hành giới. Giới cũng là nhân của bố thí. Vì sao? Vì Tỳ-kheo khéo thọ giới và hộ trì thì có thể bỏ hết của cải để thọ giới. An trụ trong giới là vì có công năng đầy đủ nhẫn nhục. Lại nữa, thọ giới nhiếp thiện pháp cũng là bố thí. Như vậy, nhẫn đều làm nhân lẫn nhau, như những gì thích ứng với nó. Như vậy là nói xong nghóa sáu Ba-la-mật. Kế là nói về bốn hạnh nhiếp. Kệ rằng: Bố thí giúp ái ngữ, Lợi hành và đồng lợi, Thí bình đẳng kia nói, Lập ra cũng tự hành. Giải thích: Bốn nhiếp pháp là: Bố thí nhiếp. Ái ngữ nhiếp. Lợi hành nhiếp. Đồng lợi nhiếp. Bố thí bình đẳng thuộc về bố thí. Nói pháp là ái ngữ, là nói nghóa sáu Ba-la-mật. Lập ra là lợi hành nhiếp, lập chúng sinh vào trong Ba-la-mật. Tự thực hành là đồng lợi nhiếp, tức do lập ra kẻ khác rồi thì mình cũng thực hành như vậy. Hỏi: Vì sao nói thể của bốn nhiếp này? Đáp: Đây là nói phương tiện nhiếp tha. Kệ rằng: Bốn phương tiện nhiếp tha, Tức là tính bốn nhiếp. Tùy nhiếp cũng nhiếp thủ, Chánh chuyển và tùy chuyển. Giải thích: Bố thí là phương tiện thuận theo gồm thâu vì bố thí của cải là tùy theo thân kẻ khác mà khởi nhiếp. Ái ngữ là phương tiện nhiếp thủ, vì người nghi ngờ, vô tri khiến họ thọ nghóa. Lợi hành là phương tiện chánh chuyển vì hạnh nầy là chuyển các điều thiện. Đồng lợi là phương tiện tùy chuyển vì lời nói, việc làm của Bồ- tát, chúng sinh đều biết cả rồi cho nên điều thiện trước chưa làm Bồ-tát cũng thuận theo làm theo. Hỏi: Nghiệp của bốn nhiếp pháp là gì? Kệ rằng: Khiến thành khí, khiến tin, Khiến làm cũng khiến hiểu, Làm bốn việc như thế, Thứ lớp, nghiệp bốn nhiếp. Giải thích: Bố thí là giúp chúng sinh trở thành đồ đựng chánh pháp, do theo tiền của cho mà họ có thể gánh nổi giáo pháp. Ái ngữ là giúp chúng sinh phát khởi niềm tin pháp, vì ý nghóa của giáo pháp có công năng dứt bỏ các ngờ vực cho họ. Lợi hành là giúp họ phát sinh thực hành giáo pháp vì nương theo đúng như pháp mà làm. Đồng lợi là khiến họ được giải thoát, vì làm việc thanh tịnh trải qua thời gian dài mà được nhiều lợi ích. Đó là nghiệp của bốn pháp nhiếp. Hỏi: Sao Đức Thế Tôn cũng nói hai nhiếp, hai nhiếp đó là gì? Kệ rằng: Bốn thể, nói hai nhiếp, Tài nhiếp và pháp nhiếp, Tài một, pháp có ba, Thứ lớp gom bốn nhiếp. Giải thích: Thể của bốn nhiếp nầy, nơi khác, Thế Tôn nói có hai nhiếp, là tài nhiếp và pháp nhiếp, tức dùng hai nhiếp gom bốn nhiếp. Tài thuộc về một nhiếp đầu, còn pháp thuộc về ba nhiếp sau. Hỏi: Thế nào là ba nhiếp sau? Đáp: Pháp có ba thứ: Pháp sở duyên. Pháp sở hành. Pháp mà mình làm cho thanh tịnh. Theo thứ lớp ấy mà xếp vào ba nhiếp sau, nên biết, rằng: Hạ, trung, thượng khác nhau, Bốn thứ nhiếp như vậy, Gấp bội không, bội có, Cũng thuần hợp ba ích. Giải thích: Có ba thứ khác nhau của bốn thứ nhiếp là hạ, trung, thượng, là do Bồ-tát xếp vào người của ba thừa khác nhau. Từ ba thứ khác nhau nầy, nên thứ lớp lại có ba lợi ích: Gấp bội vô ích. Gấp bội có ích. Thuần có ích. Lợi ích không gấp bội là thuộc về giải hạnh địa của Bồ-tát. Lợi ích gấp bội là thuộc về Bồ-tát nhập đại địa. Thuần có lợi ích là thuộc về Bồ-tát bát địa trở lên, vì Bồ-tát ấy có công năng quyết định khiến chúng sinh được thành tựu. Kệ rằng: Bồ-tát muốn gom chúng, Nương bốn phương tiện nầy, Đại lợi dễ thành công, Được khen ba lợi ích. Giải thích: Nếu Bồ-tát muốn thâu nhận đồ chúng thì phải nương vào bốn nhiếp pháp nầy làm phương tiện. Vì sao? Vì các lợi ích lớn đều thành tựu, vì phương tiện nầy để làm và được ưa thích, vì được Phật khen ngợi. Kệ rằng: Bốn nhiếp ở ba đời, Thường nhiếp hóa chúng sinh, Đạo thành tựu chúng (sinh), Chẳng khác, chỉ bốn nhiếp. Giải thích: Bốn nhiếp nầy được Bồ-tát dùng nhiếp hóa tất cả chúng sinh trong ba đời: Đã nhiếp, hiện nhiếp và sẽ nhiếp. Cho nên, bốn nhiếp pháp là đạo thành thục chúng sinh, chứ không phải đạo nào khác, vì các đạo khác không có công năng. Đã nói riêng sáu độ và bốn nhiếp rồi, kế đây là là tổng kết nghóa đã nói trước bằng một bài kệ: Kệ rằng: Không chấp và vắng lặng, Năng nhẫn giúp ý mạnh, Bất động và lìa tướng, Cũng nhiếp, nhiếp chúng sinh. Giải thích: Ba câu trước trong bài kệ nầy là kết luận nghóa của sáu độ. Một câu chót là kết luận nghóa của bốn nhiếp, về nghóa của bài kệ thì như trước đã giải thích. Bồ-tát dùng sáu độ để thực hành bốn nhiếp, nói về sáu Ba-la-mật, thành tựu lợi mình, lợi người. Sự thành tựu của bốn nhiếp cũng như vậy, cho nên theo thứ lớp ấy, trước nói sáu độ, sau nói nhiếp.  LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH <卷>QUYỂN 9 <詞>Phẩm Thứ 18: CÚNG DƯỜNG Giải thích: Đã nói về các hành do nghiệp gom nhóm, nhưng chưa nói về việc cúng dường Như lai, nay sẽ nói về sự cúng dường. Kệ nêu: Nương vật, duyên, hồi hướng, Nhân, trí, ruộng, nương, Tám cúng dường như thế, Cúng dường các Như lai. Giải thích: Lược nói cúng dường Như lai gồm có tám thứ, tám thứ là: Cúng dường chỗ nương. Cúng dường vật. Cúng dường duyên khởi. Cúng dường hồi hướng. Cúng dường nhân. Cúng dường trí. Cúng dường ruộng. Cúng dường nương tựa. Hỏi: Tám thứ ấy có nghóa gì? Kệ rằng: Hiện tại không hiện tại, Y phục, ăn uống, thảy Khởi tâm thiện tịnh sâu, Do đầy đủ hai nhóm phước trí, Thường nguyện sinh đời Phật, Ba luân vô phân biệt, Thành thục các chúng sinh, Sau cùng mười một thứ. Giải thích: Tám câu trong hai bài kệ trên đây nói về tám nghóa ở trước, nên biết. Hiện tại không hiện tại là nương vào cúng dường, là nương vào Chư Phật hiện tại và quá khứ, vị lai mà cúng dường. Y phục, uống ăn thảy là vật cúng dường, vì cúng dường bằng y phục, v.v… Phát tâm lành thanh tịnh sâu rộng là duyên khởi cúng dường, do đem tâm thanh tịnh tin sâu mà cúng dường. Do đầy đủ hai nhóm là hồi hướng cúng dường do cúng dường bằng hai nhóm phước, trí đầy đủ. Thường nguyện sinh đời gặp Phật là nhân cúng dường vì có nguyện đời trước, mong sinh ra gặp Phật, giúp ta có được lợi ích thiết thực cúng dường. Ba luân vô phân biệt là trí cúng dường. Người cúng dường, vật cúng dường, người nhận cúng dường, cả ba món ấy không thật có. Thành thục các chúng sinh là ruộng cúng dường. Chúng sinh là ruộng, dạy người kia cúng dường là khiến họ gieo trồng gốc lành. Sau cùng là mười một thứ là nương cúng dường. Nương nầy có mười một thứ: Nương vào vật là do căn cứ vào tài vật mà cúng dường. Nương vào tư duy là nương vào vị suy nghó, nương vào vui theo suy nghó, nương vào hi vọng suy nghó. Nương vào lòng tin là do Đại thừa mà phát tâm Bồ-đề. Nương vào nguyện là do phát nguyện rộng lớn. Nương vào lòng bi là do thương xót chúng sinh. Nương vào nhẫn nhục là vì làm việc khó làm. Nương vào hạnh là vì thực hành các Ba-la-mật. Nương vào chánh niệm là vì sống đúng như pháp, không điên đảo. Nương vào chánh kiến là vì thấu hiểu như thật. Nương vào giải thoát là vì Thanh văn đã dứt trừ phiền não. 11 Nương vào chân thật vì được đại Bồ-đề. Hỏi: Chủng loại khác nhau của cúng dường ra sao? Kệ rằng: Nhân quả và trong, ngoài, Thô, tế và lớn, nhỏ, Cũng khác nhau xa gần, Đó gọi cúng dường chủng. Giải thích: Vì các đời khác nhau nên các thứ cúng dường cũng khác nhau. Quá khứ là nhân, hiện tại là quả. Hiện tại là nhân, vị lai là quả. Nhân quả như vậy thì gọi là khứ, lai, kim. Nên biết: Trong là tự mình cúng dường, ngoài là dạy bảo người cúng dường. Thô là lợi ích cúng dường, tế là thuận theo cúng dường. Nhỏ là cúng dường thấp kém. Lớn là cúng dường vượt trội. Có ngạo mạn là thấp kém, không ngạo mạn là cao thượng, do không còn phân biệt ba luân. Xa nghóa là muốn cúng dường thời gian sau. Gần là cúng dường hiện tại. Lại nữa, cúng dường cách đời khác là cúng dường xa. Cúng dường không xen hở là cúng dường gần. Lại nữa, phát nguyện cúng dường ở vị lai là cúng dường xa. Phát nguyện cúng dường hiện tại là cúng dường gần. Hỏi: Cúng dường Như lai phải như thế nào mới được gọi là cúng dường tối thượng? Kệ rằng: Cúng dường các Như lai, Tối thượng do tự ý, Tin, tâm, thông, phương tiện, Hòa họp năm tối thắng. Giải thích: Năm thứ lớp ý cúng dường Như lai, nên biết, cách cúng dường nầy là tối thượng, năm thứ ấy là: Cúng dường bằng lòng tin thanh tịnh. Cúng dường bằng tâm sâu xa. Cúng dường bằng thần thông. Cúng dường bằng phương tiện. Cúng dường bằng sự hòa hợp. Lòng tin thanh tịnh là lòng tin thanh tịnh phát sinh từ chỗ giảng nói pháp Đại thừa để cúng dường. Lòng tin sâu xa có chín thứ: Tâm vị. Tâm tùy hỉ. Tâm hi vọng. Tâm không nhàm chán. Tâm rộng lớn. Tâm vui mừng. Tâm thắng lợi. Tâm vô nhiễm. Tâm sạch lành. Chín thứ tâm nầy như đã nói trong pháp tu Ba-la-mật. Thần thông là nương vào các Tam-ma-đề, hư không tạng v.v… Phương tiện là trí vô phân biệt, thuộc về phương tiện. Hòa họp là tất cả đại Bồ-tát cùng hòa họp một quả và tất cả quả. <詞>Phẩm Thứ 19: GẦN GŨI Giải thích: Đã nói cúng dường Như lai, thế nào là gần gũi thiện tri thức? Kệ rằng: thứ. Như trước cúng dường Phật, Nói lược có tám thứ, Là gần gũi bạn lành, Nên biết tám cũng vậy. Giải thích: Nên biết, gần gũi thiện tri thức cũng y cứ vào tám Hỏi: ý nghóa của tám thứ ấy ra sao? Kệ rằng: Điều tónh trừ, đức tăng, Hữu dũng, A-hàm, phú, Giác chân, khéo nói pháp, Bi sâu, lìa thoái giảm. Giải thích: Bài kệ nầy nói về sự nương gần gũi bậc nhất. Nếu thiện tri thức có đủ mười công đức thì nên gần gũi, mười công đức là: Điều phục. Vắng lặng. Trừ hoặc. Đức hạnh tăng. Có sức mạnh. Kinh phú. Giác chân. Khéo nói. Lòng thương sâu. Lìa lui sụt. Điều phục tương ưng với giới, do căn được điều phục. Vắng lặng là tương ưng với định do thu nhiếp bên trong. Trừ hoặc là lòng tin, ý niệm tương ưng với tuệ, do phiền não bị dứt trừ. Đức hạnh tăng là do giới, định, tuệ đầy đủ, không thiếu giảm. Có sức mạnh là do làm lợi ích cho người, không biết mỏi mệt. Kinh phú là được học rộng. Giác chân là thấu hiểu nghóa chân thật. Khéo nói là do không điên đảo. Lòng thương sâu là do dứt hi vọng. Lìa lui sụt là cung kính nói pháp bất cứ lúc nào. Kệ rằng: Kính, cúng dưỡng, giúp hầu, Thân, tâm cũng tương ưng, Mong vui, biết thì giờ, Nhún nhường làm duyên khởi. Giải thích: Nửa trên bài kệ là nói về vật gần gũi. Nửa dưới bài kệ là nói về duyên khởi gần gũi. Vật gần gũi có ba: Của cải, nghóa là cung kính cúng dường. Thân thể, nghóa là thuận theo giúp đỡ, hầu hạ. Tâm là khi giúp đỡ, hầu hạ thì thân và tâm phải tương ưng nhau. Duyên khởi gần gũi cũng có ba thứ: Mong vui. Biết đúng lúc. Bỏ tâm ngã mạn. Kệ rằng: Do xa lìa tham đắm, Vì cầu hạnh thuận theo, Thuận theo như lời dạy, Khiến người ấy vui mừng. Giải thích: Nửa trên bài kệ nói về hồi hướng gần gũi. Nửa dưới bài kệ nói về nhân gần gũi. Hồi hướng gần gũi là do không phải ham mê lợi dưỡng mà là do thuận theo tu hành. Nhân gần gũi là Bồ-tát tu hành theo những gì được dạy trao vì nhân gần gũi thiện tri thức. Vì sao? Vì sự thuận theo nầy mà Bồ-tát khiến cho vị thiện tri thức kia sinh tâm vui mừng. Kệ rằng: Khéo hiểu rõ ba thừa, Tự nương khiến thành tựu, Thành sinh về tịnh độ, Vì pháp không vì của. Giải thích: Bài kệ nầy nói về ruộng trí nương, có ba thứ gần gũi: Hiểu rõ ba thừa tự mình nương theo cho thành tựu là nói về trí gần gũi. Hiểu rõ ba thừa là do trí. Thành thục chúng sinh và cõi đất sạch là nói về điền gần gũi. Ruộng có hai thứ: Ruộng chúng sinh. Ruộng cõi Phật. Hỏi: Hai món nầy sao gọi là ruộng? Đáp: Do chính mình được nghe pháp, rồi nối nhau mà lập, theo nơi ở cõi nước Phật mà tu nhân thanh tịnh. Vì pháp chứ không phải vì của cải: nói về y chỉ gần gũi. Bồ-tát chỉ đem giáo pháp lợi sinh đầy đủ, làm chỗ nương, cho nên gần gũi thiện tri thức. Không phải lấy của cải đầy đủ làm chỗ nương. Hỏi: Sự khác nhau về gần gũi thiện tri thức ra sao? Kệ rằng: Nhân quả và tùy pháp, Trong, ngoài và thô, tế, Hơn, kém cũng gần, xa, Đó là chủng khác nhau. Giải thích: Nhân quả khác nhau là gần gũi thiện tri thức trong quá khứ làm nhân. Hiện tại gần gũi là quả. Gần gũi trong hiện tại là nhân, gần gũi trong vị lai là quả. Tùy pháp khác nhau là pháp môn mà thiện tri thức truyền bá ra, theo sự khác nhau mà tu tập. Trong, ngoài khác nhau là chính mình gần gũi là trong. Dạy kẻ kẻ khác gần gũi là ngoài. Thô, tế khác nhau: chính mình nghe là thô, suy nghó bên trong là tế. Hơn, kém khác nhau: gần gũi với kẻ kiêu căng là kém. Gần gũi với người không kiêu căng là cao cả. Gần, xa khác nhau là gần gũi ngay trong đời nầy là gần. Gần gũi trong kiếp sau là xa. Lại nữa, gần gũi trong kiếp sau là gần. Gần gũi cách đời là sau xa. Lại nữa, gần gũi không xen hở là gần, gần gũi cách đời là xa. Lại nữa, phát nguyện ở hiện tại là gần gũi, là gần. Phát nguyện ở vị lai là gần gũi xa. Hỏi: Có mấy thứ gần gũi thiện tri thức được gọi là tối thượng? Kệ rằng: Gần gũi bạn lành cao, Năm tự ý, như trước, Tin, tâm, chung phương tiện, Hòa hợp thảy khác nhau. Giải thích: Như việc cúng dường Chư Phật đã nói ở trước, do năm thứ lớp ý nên gọi là tối thắng, là những thứ: Tịnh, tín, thâm tâm, thần thông, phương tiện, hòa họp. Sự tối thắng của gần gũi thiện tri thức cũng giống như vậy. Bởi lòng tin trong sạch là lòng tin phát sinh trong sạch khi ở chỗ đang giảng kinh Đại thừa. Vì lòng tin sâu xa là tâm cũng có chín thứ là vị tâm cho đến thiện tịnh tâm, do gần gũi tu hành. Vì thần thông là nương vào Tam-ma-đề, hư không tạng mà gần gũi. quả. Vì phương tiện là nương vào trí vô phân biệt. Vì hòa hợp là các vị Bồ-tát dùng một quả mà nhập vào tất cả ----------------------- <詞>Phẩm Thứ 20: PHẠM TRỤ rằng: Giải thích: bốn phạm trụ mà Bồ-tát đã tu tập như thế nào? Kệ Phạm trụ có bốn thứ, Mỗi thứ có bốn tướng, Trị chướng và hợp trí, Chuyển cảnh và thành sinh. Giải thích: Phạm trụ là bốn thứ vô lượng từ, bi, hỉ, xả. Nên biết bốn vô lượng của Bồ-tát, mỗi thứ đều có bốn tướng: Trị chướng là những gì phải trị và dứt trừ. Họp trí là do được trí vô phân biệt nên đối trị cao quý. Chuyển cảnh là do duyên chúng sinh, duyên pháp, không duyên. Thành thục chúng sinh là vì có nghiệp cao cả mà thành tựu chúng sinh. Hỏi: Những gì là chúng sinh là chúng sinh duyên? Và về không duyên thì pháp nào là pháp có duyên, vô duyên? Kệ rằng: Vui, khổ, mừng, phiền não, Đó là duyên chúng sinh, Duyên pháp là nói pháp kia, Không duyên tức như kia. Giải thích: Bốn thứ nhóm chúng sinh là chúng sinh duyên: Nhóm chúng sinh cầu vui. Nhóm chúng sinh có khổ. Nhóm chúng sinh đang sống trong vui mừng. Nhóm chúng sinh phiền não. Từ là cho vui cho nhóm chúng sinh đang cầu vui. Bi là nhổ khổ đối với nhóm chúng sinh đang chịu khổ. Hỉ là đối với chúng sinh đang vui sống thì không lìa họ. Xả là đối với nhóm chúng sinh phiền não thì giúp họ lìa khỏi khổ ấy. Đó gọi là chúng sinh duyên, pháp duyên là nói bốn pháp phạm trụ kia, đó gọi là pháp duyên. Vô duyên là như Bồ-tát sử dụng trí vô phân biệt, nên gọi là vô duyên, Kệ rằng: Và vì như nghóa kia, Vị nhẫn được thanh tịnh, Thuộc về nghiệp thân miệng, Cũng hết các phiền não. Giải thích: Bốn thứ hạnh kia, nên biết, lòng từ vô duyên, vì như duyên nên khi chứng được Bát địa Vô sinh nhẫn thì các gốc lành đều tròn đầy, do lòng từ ấy hoàn toàn thanh tịnh. Lòng từ là chỗ nương của hai nghiệp thân, miệng, các phiền não thuộc về nó cũng bị dứt hết. Như nơi mà phiền não dựa là tự thể ý thức bị cắt đứt. Việc cắt đứt nơi dựa buộc ấy, thì trong kinh thường nói. Hỏi: Sự khác nhau của bốn phạm trụ kia ra sao? Kệ rằng: Có động và bất động, Cũng ăn và không ăn, Nên biết bốn phạm trụ, Hạnh như thế khác nhau. Giải thích: Nên biết, bốn phạm trụ, có bốn thứ hạnh khác nhau: Động. Bất động. Ăn. Không ăn. Động là phần vị lui sụt. Bất động là phần trụ và phần thắng. Không thể lui sụt. Ăn là nhiễm ô, vì vướng vào lạc thú ngon ngọt nên mất tâm Đại thừa. Không ăn là bất nhiễm ô. Những hạnh lui sụt đó là sự khác nhau của phạm trụ. Các vị Bồ- tát an trụ bất động và không ăn, chứ chẳng phải trụ trong động và có ăn (nhiễm ). Hỏi: Sự khác nhau của các phạm trụ là gì? Kệ rằng: Sáu trước và hai trước, Địa dưới cũng tâm thấp, Tương tự thảy là thấp, Trái với dưới là trên. Giải thích: Trên dưới khác nhau là tự tính của địa bất định thì sáu phẩm trước là dưới. Hai phẩm trước của tất cả địa định cũng là dưới, nghóa là mỗi phẩm nhuyến nhuyến trung hạ đều địa cũng là dưới. Có nghóa là do các Bồ-tát thuộc bảy địa dưới quán sát địa trên, tâm thấp kém cũng là dưới, nghóa là các Thanh văn. Tương tự cũng là dưới, là Bồ-tát chưa chứng pháp nhẫn Vô sinh. Như đã nói dưới, trái với dưới là trên, nên biết. Hỏi: Bốn phạm trụ nầy có thể chứng bao nhiêu quả? Kệ rằng: Báo sinh vào cõi dục, Nhóm mãn cũng thành sinh, Không lìa và lìa chướng, Đầy đủ năm là quả. Giải thích: Bồ-tát an trụ trong phạm trụ làm nhân, đầy đủ, được năm quả: Sinh trong chúng sinh cõi Dục, quả nầy là quả báo. Hai nhóm phước trí tròn đầy là quả tăng thượng. Thành thục chúng sinh là quả trượng phu. Sinh bất cứ đâu cũng không lìa khỏi phạm trụ là quả chỗ nương. Sinh bất cứ đâu cũng thường lìa khỏi chướng kia, là quả báo lìa tướng. Hỏi: Trong phạm trụ nầy, có những việc nào là tướng của Bồ- tát? Kệ rằng: Nếu gặp duyên chướng nặng, Và tự sống buông lung, Muốn biết tướng của Bồ-tát, Phạm tâm không lui sụt. Giải thích: Nên biết, Bồ-tát có hai việc mà phạm tâm bất động đó là tướng của Bồ-tát: Gặp những nhân duyên chướng nặng, tâm Bồ-tát cũng không bao giờ thay đổi đó là tướng của Bồ-tát. Nếu tự buông lung đi nữa khi chưa cần đối trị thì tâm Bồ-tát vẫn không thay đổi. Đó là tướng của Bồ-tát, huống chi lúc vô lượng hiện tiền ( tức phải đối trị). Hỏi: Chướng ngại phạm trụ là những gì? Kệ rằng: Bốn phạm có, bốn chướng, Là giận, buồn, lo, muốn, Bồ-tát đủ chướng ấy, Phát sinh nhiều lỗi lầm. Giải thích: Những gì mà phạm trụ đối trị là bốn chướng ngại, theo thứ lớp là: Sân. Quấy loạn. Lo. Ham muốn. Do những chướng nầy nên phạm là vô thể. Nếu các chướng ngại ấy còn thì chúng gây ra nhiều lỗi lầm. Hỏi: Nhiều lỗi lầm là sao? Kệ rằng: Các phiền não như vậy, Phát sinh gây ba hại, Hại mình và hại người, Và hại cả Thi-la. Giải thích: Bài kệ nầy nói về ba lỗi lầm tai hại: Một là tự hại, là tự làm khổ cho suy nghó. Hai là hại kẻ khác làm khổ cho kẻ khác phải bận lòng suy nghó. Ba là hại giới luật là cả mình lẫn người đều khổ tâm vì phải suy nghó. Kệ rằng: Có hối cũng mất lợi, Mất hộ, bị thầy bỏ. Trị phạt, tiếng xấu đồn, Như thế sáu quở trách. Giải thích: Bài kệ nầy nói về sáu thứ quở trách lỗi lầm: Tự quở trách bằng suy nghó, ăn năn. Bị người quở trách do mất lợi dưỡng. Bị chư thiên quở trách do mất sự che chở. Bị Đại sư quở trách do bị Đại sư từ bỏ. Bị người phạm hạnh quở trách do bị người trí tuệ phạm hạnh trị phạt đúng pháp. Bị người mười phương quở trách, do tiếng xấu đồn xa. Kệ rằng: Hậu thân đoạ các nạn, Khiến phạm trụ cũng lui, Tâm sở bị đại khổ, Lại nữa sinh ba lỗi. Giải thích: Bài kệ nầy nói về đời sau còn phạm ba lỗi: Rơi vào nhiều tai nạn, do nghiệp ác nầy nên phải chịu quả ác đời sau. Công hạnh bị lui mất, do phạm trụ đã lui mất những cái chưa được, lui mất ngay trong hiện tại cả đến mai sau. Đời sống khổ do pháp tâm sở sinh vào đường ác nên phải chịu nhiều sầu, khổ. Hỏi: Đã nói về lỗi lầm, còn công đức thì sao? Kệ rằng: Người khéo trụ phạm trụ, Lìa khỏi các điều ác, Sinh tử không làm nhơ, Không xả cứu chúng sinh. Giải thích: Ai an trụ phạm trụ thì được hai công đức: Xả phiền não, như trước đã nói phải lìa khỏi các lỗi lầm. Không xả chúng sinh là do thành thục chúng sinh, sinh tử không làm ô nhiễm. Hỏi: Đã nói công đức nầy, làm sao biết là tối tôn, tối thượng. Kệ rằng: Như người có con một, Có đức, rất yêu thương Bồ-tát đối tất cả, Khởi phạm hơn người kia. Giải thích: Thí dụ nầy nói về bốn phạm trụ của Bồ-tát là tối tôn, tối thượng. Hỏi: Lòng đại bi lấy chúng sinh nào làm đối tượng? Kệ rằng: Hừng hực và thắng oán, Khổ bức cũng che tối, Sống nguy, sẽ bị trói, Ăn độc, đi lạc đường, Có kẻ sống trái đạo, Người ốm o, sần sùi, Mười loại chúng sinh đó, Sở duyên tâm đại bi. Giải thích: Tâm đại bi của Bồ-tát, lược lấy mười loại chúng sinh làm cảnh giới: Chúng sinh hừng hực ham muốn, là hạng ham mê dục nhiễm. Chúng sinh thắng được ma oán, nghóa là khi tu hành bị ma làm chướng ngại. Chúng sinh bị khổ bức, là những kẻ ở trong ba đường. Chúng sinh bị dìm trong bóng tối là những kẻ thường làm ác, vì họ không biết nghiệp báo. Chúng sinh ở trong chỗ nguy hiểm là những kẻ không ưa cảnh Niết-bàn, do họ quen sống mãi trong sinh tử nguy hiểm không bao giờ dứt. Chúng sinh bị trói buộc hoàn toàn là ngoại đạo với cố chấp sai lầm. Họ có ý muốn giải thoát nhưng bị trói quá chặt trong các kiến chấp sai lầm. Chúng sinh ăn nhằm thức ăn có độc là những kẻ ăn vị ngon ngọt của định. Như món ăn ngon nọ có lẫn chất độc thì người bị hại. Định thiện cũng vậy. Ham mê dục lạc thì mất đường về. Chúng sinh đi lạc đường là những kẻ kiêu căng bởi họ lầm lẩn đường giải thoát chân thật. Chúng sinh sống trong phi đạo đức là hạng người hạ thừa bất định do lui mất ý chí. Chúng sinh ốm o nhăn nheo là hạng Bồ-tát chưa đầy đủ hai nhóm. Mười loại chúng sinh ấy, là cảnh giới sở duyên của Bồ-tát đại bi. Đã nói cảnh giới đại bi, kế là nói đắc quả của đại bi. Kệ rằng: Chướng dứt và nhân giác, Ban vui, quả đáng yêu, Tự lưu năm chỗ nương, Người ấy, gần với Phật. Giải thích: Dứt trừ chướng ngại là tướng lìa quả do các chướng ngại bị dứt. Nhân giác ngộ là quả tăng thượng, do lợi ích chúng sinh. Ban vui là quả trượng phu, những gì mà trượng phu làm. Quả đáng yêu là quả của quả báo ấy là được quả báo đáng yêu. Tự lưu là nương vào quả, do ban tình thương cao cả cho chúng sinh ở đời vị lai. Như vậy, năm quả ấy, đều nương vào đại bi mà có được. Nên biết, như vậy là Bồ-tát không còn xa cách Phật, Bồ-đề. Đã nói đắc quả đại bi, kế đây là nói đại bi không trụ. Kệ rằng: Khổ sinh tử làm thể, Lấy vô ngã làm tính, Không chán, không buồn rầu, Đại bi giác siêu việt. Giải thích: Tất cả sinh tử đều lấy khổ làm thể, lấy vô ngã làm tính. Đối với khổ, Bồ-tát biết nó chắc thật. Đối với vô ngã chứng được Vô thượng giác. Được tri giác như vậy rồi, nhưng vì lòng đại bi nên không chán lìa sinh tử, là vì giác ngộ siêu việt và cũng không hề bị phiền não gây rối. Thế nên Bồ-tát đạt không trụ Niết-bàn, cũng không trụ sinh tử. Đã nói đại bi không trụ. Kế là nói công đức của đại bi. Kệ rằng: Khi thấy tự tính khổ, Biết khổ, thương kẻ khổ, Cũng biết xả phương tiện, Thường tu, không nhàm chán. Giải thích: Bồ-tát quán xét thế gian khổ, khi thấy tự tính của khổ thì Bồ-tát sinh tâm thương xót các người đang chịu khổ. Bồ-tát dùng phương tiện xa lìa cũng mong cầu hiểu biết như thật. Biết rõ như vậy, Bồ-tát thường tu không nhàm chán, đó gọi là công đức của đại bi. Đã nói công đức của đại bi. Kế là nói sự khác nhau của đại bi. Kệ rằng: Tự tính và lựa chọn, Tập khí trước, chướng dứt, Nên biết, bi Bồ-tát, Có bốn thứ khác nhau. Giải thích: Đại bi nầy, theo thứ lớp có bốn thứ khác nhau: Tự tính, thành tự nhiên. Lựa chọn, vì thấy công đức và lỗi lầm. Tập khí đời trước vì đời trước tu lâu dài. Chướng dứt vì đã lìa ham muốn, các phiền não phải đã dứt rồi, trở nên thanh tịnh. Lại có, sáu thứ khác nhau. Kệ rằng: Chẳng đẳng cũng chẳng thường, Chẳng sâu cũng chẳng thuận, Chẳng đạo, chẳng không đắc, Trái sáu bi như thế. Giải thích: Có sáu thứ khác nhau, trái với bi đại bi, tức là sáu thứ khác nhau của đại bi, là: Bình đẳng. Thường hằng. Rất sâu. Thuận theo. Tịnh đạo. Không thể được. Bình đẳng là đối với cảm thọ do vui buồn v.v…, tất cả các cảm thọ của chúng sinh, Bồ-tát biết hết, đó là khổ. Thường hằng là cho đến Niết-bàn vô dư cũng vô tận. Rất sâu: các Bồ-tát nhập địa thấy mình và người đều bình đẳng. Thuận theo là đối với các khổ não của chúng sinh, Bồ-tát theo chân lý mà cứu giúp. Tịnh đạo là các phiền não phải đối trị, được dứt trừ. Không thể được là khi chứng pháp nhẫn vô sinh, thì các pháp không thật có. cây. Đã nói về về sự khác nhau của đại bi, sau đây nói đại bi như Kệ rằng: Bi, nhẫn, tư, nguyện, sinh, Thành thục, nói thứ lớp, Gốc to đến quả to, Cây bi thành sáu việc. Giải thích: Cây đại bi nầy nên biết do sáu việc mà thành: Đại bi. Nhẫn nhục. Tư duy. Thắng nguyện. Thắng sinh. Thành thục. Những món ấy là sáu vị rễ, thân, cành, lá, hoa trái. Hỏi: Việc ấy như thế nào? Đáp: Cây nầy lấy đại bi làm gốc, lấy nhẫn nhục làm thân, lấy tư duy lợi ích chúng sinh làm nhánh cành. Lấy thắng sinh nguyện làm lá, lấy những gì mình sinh tốt đẹp làm bông. Lấy thành thục chúng sinh làm trái. Hỏi: Vì sao sáu việc nầy diễn biến trước sau như vậy? Kệ rằng: Không bi, thì không nhẫn, Sáu thứ lớp như vậy, Thắng sinh nếu không được, Không thành thục chúng sinh. Giải thích: Nếu không có tâm đại bi thì không thể khởi nhẫn nan hành khổ lớn. Nếu không có nhẫn để làm những việc khó làm của khổ lớn, thì không thể làm phát mạnh lên tư duy đem lợi ích cho chúng sinh. Nếu không có tư duy mạnh mẽ đem lợi ích cho chúng sinh thì không có khởi nguyện sinh về nơi tốt đẹp. Nếu không nguyện sinh về nơi tốt đẹp thì không thể hướng tới nơi sinh tốt đẹp. Nếu không hướng tới chỗ sinh tốt đẹp thì không thể thành thục chúng sinh. Hỏi: Trước sau tương tự như thế thì thành lập tương tự như thế nào? Kệ rằng: Rễ sinh do bi nhuần, Thân trỗi do thích rộng, Niệm chánh là cành lớn, Nguyện nối lá dài lớn, Nội duyên thành các hoa, Ngoại duyên thành các quả, Nên biết gốc bi thảy, Như vậy thứ lớp thành. Giải thích: Trong đây thành lập tương tự là lòng bi lấy chất ướt của từ khiến sinh sôi nảy nở. Người có lòng từ thấy kẻ khác khổ liền sinh tâm bi để cứu khổ, nên lấy bi làm gốc. Nhẫn nhục thí lấy ý niệm vui khiến nó vươn lên. Bồ-tát làm lợi ích cho người nên trong cảnh khổ, Bồ-tát sinh ý tưởng vui. Khi ý tưởng vui đã có thì nó giúp cho nhẫn nhục có bề thế hơn, nên khiến nhẫn nhục được rộng lớn, vì vậy lấy nhẫn làm thân. Suy nghó do chánh niệm nên tư thêm tăng trưởng hơn lên. Do nhẫn đã rộng lớn nên có công năng làm phát sinh chánh niệm cho việc làm lợi ích cho người, nên nói lấy suy nghó làm cành. Nguyện nối nhau khiến cây rưởng thành. Do niệm trước diệt, niệm sau sinh, như lá già rụng để lá non mọc ra, nên lấy nguyện làm lá. Đời sống chắc thật do duyên bên trong. Do chính mình thành thục thì đời sống không luống dối, cho nên lấy đời sống làm hoa. Thành thục là lấy duyên bên ngoài làm hạt. Do thân kẻ khác được thành thục thì lợi ích không luống dối, cho nên lấy thành thục chúng sinh làm trái. Thứ lớp như thế mà thành lập nên biết. Đã nói đại bi như cây to, kế là, khen ngợi công đức đại bi. Kệ rằng: Đại bi làm lợi ích, Đối khác sao không khởi, Trong khổ, sinh vui cao, Sinh vui là do bi. Giải thích: Nghóa nầy, như kệ đã nói Đã khen ngợi công đức của đại bi, kế là nói Đại bi không bị dính mắc. Kệ rằng: Bồ-tát bi tự tại, Vắng lặng còn không trụ, Vui thế gian, thân mạng, Làm sao sinh ái đó? Giải thích: Tất cả các người trên đời đều ưa thích thế gian và mạng sống của thân mình. Tất cả Thanh văn, Duyên giác dù không còn ưa thích thế gian và mạng sống, nhưng họ vẫn còn khởi lên tâm tham đắm vào Niết-bàn. Bồ-tát thì không như vậy, đại bi tự tại, nên Niết-bàn kia mà còn không ham trú vào đó, huống là trụ chấp vào hai thứ yêu mến kia của cõi đời này? Đã nói đại bi không dính mắc. Kế là nói sự yêu mến cao thượng của đại bi. Kệ rằng: Tham ái đều bị chướng, Thương đời cũng là đời, Bồ-tát khởi bi ái, Chướng hết cũng qua đời. Giải thích: Thương mến cao thượng có hai nghóa: Chướng hết. Qua đời. Các tham như thương mến v.v… Thì tự thể nó là chướng. Thể của lòng bi kia đem thực hành giữa đời dù không bị chướng ngại gì nhưng vẫn coi nó là của thế gian. Tự thể tình thương của Bồ-tát đã sạch hết các thứ chướng ngại, vượt cao hơn thế gian, nên là tối thắng. Hỏi: Chướng ngại hết là sao? Kệ rằng: Có khổ và vô trí, Biển cả và bóng tối, Cứu vớt bằng phương tiện, Thế nào chẳng chướng hết? Giải thích: Khổ ba cõi như biển cả, không có trí tuệ là bóng tối. Đại bi làm phương tiện cứu vớt. Lòng thương mến nầy đã dứt hết các chướng ngại. Hỏi: Thế nào là qua đời. Kệ rằng: La-hán và Duyên giác, Không có bi như vậy, Huống có gì hơn đời, Thì sao vượt hơn đời? Giải thích: A-la-hán, Bích-chi Phật còn không có lòng thương mến đại bi, huống chi thế gian khác mà thật có. Nếu vậy thì đâu có gì vượt hơn đời. Đã nói sự thương mến cao thượng của lòng đại bi, kế đây là nói lòng đại bi không nhàm chán. Kệ rằng: Các Bồ-tát giàu được bi, Bỏ khổ mà khởi khổ, Đầu tiên khởi khổ sợ, Khi chứng rất vui mừng. Giải thích: Xả khổ nghóa là Bồ-tát đem lòng đại bi mà xả khổ cho kẻ khác. Rước khổ về mình là xả khổ của kẻ khác rồi thấy mình khổ. Đầu tiên khởi khổ sợ: là hàng Bồ-tát ở địa Tín hành. Hạng nầy khởi khổ sợ là do họ chưa nhận ra lý bình đẳng giữa ta và người, do họ chưa tiếp xúc với cái khổ thật. Sau khi chứng đắc thì rất vui mừng nghóa là khi chứng là hàng Bồ-tát ở tịnh tâm địa. Hạng nầy khởi ý khổ nhưng họ lại an vui, do họ đã hiểu được lý bình đẳng giữa ta và người, do họ đã tiếp xúc với khổ thật. Đã nói lòng đại bi không nhàm chán, kế là nói về cái khổ cao hơn hết của lòng đại bi. Kệ rằng: Bi khổ rất ít có, Khổ hơn tất cả vui, Bi ấy sinh niềm vui, Đó chẳng có gì khác? Giải thích: Nỗi khổ của lòng đại bi rất ít có là từ khổ của người khác mà sinh tâm đại bi. Từ tình thương rộng lớn ấy phải cưu mang mà thấy mình có khổ. Cái lòng bi khổ ấy thì có gì ít có mà vượt hơn nó? Cho nên nó là rất ít có. Nỗi khổ hơn tất cả niềm vui là cái khổ của lòng đại bi nầy. Nó vượt hơn tất cả cái vui của thế gian. Hỏi: Vì sao ? Đáp: Vui nầy phát sinh do lòng đại bi thương xót kẻ khác khổ, các Bồ-tát lại lấy khổ đại bi nầy làm niềm vui, từ đại bi phát sinh khổ ấy. Niềm vui vì làm xong việc ấy còn không có, huống chi là có cài gì khác, là những gì mà niềm vui kia làm được rồi, còn không có, huống chi có cái gì khác trên đời nầy mà thật có đâu? Đã nói về khổ siêu việt của đại bi, kế là nói về bố thí cao tột của lòng đại bi. Kệ rằng: Thí và bi cùng khởi, Năng làm Bồ-tát vui, Được vui trong ba cõi, So đây chẳng một phần. Giải thích: Nếu bố thí và đại bi phát sinh cùng lúc thì nó sẽ làm Bồ-tát vui cao tột. Các thứ vui trong ba cõi, so với cái vui của đại bi bố thí thì nó không được một phần tương tự. Đã nói về về bố thí cao vời của đại bi. Kế là, nói về chịu đựng khổ của lòng đại bi. Kệ rằng: Tự tính khổ sinh tử, Không xả là do bi, Khởi khổ nhân lợi người, Sao lại xả, không tu? Giải thích: Các khổ đều gộp chung trong khổ sinh tử. Các vị Bồ- tát không từ bỏ sinh tử là do lòng đại bi. Bồ-tát phát sinh khổ là do làm lợi ích cho người. Khi Bồ-tát chưa từ bỏ sinh tử là khi mà Bồ-tát vẫn còn chịu các khổ. Đã nói chịu khổ của lòng đại bi, kế đây là là nói về quả của bố thí lòng đại bi. Kệ rằng: Ba quả bi, thí, của Lòng bi thường thêm lớn, Ái sinh và nhiếp sinh, Giúp sinh lại ba vui. Giải thích: Ba quả của lòng đại bi, bố thí, tiền của thường thêm lớn mãi là đại bi của Bồ-tát có thể tăng trưởng ba thứ quả là: Tăng trưởng lòng thương, do công phu tu tập khiến tự thể nó lớn thêm mãi. Tăng trưởng bố thí do lòng thương tự tại làm cho bố thí tăng lên mãi. mãi. Tăng trưởng của cải do bố thí tự tại làm của cải gia tăng thêm Ái sinh và nhiếp sinh: giúp của cải cho chúng sinh, lại có ba niềm vui là từ ba quả lại phát sinh ba niềm vui: Từ nhân bi mà phát sinh thương mến, phát sinh an vui. Từ nhân bố thí mà phát sinh xếp vào, phát sinh an vui. Từ nhân của cải mà phát sinh của cải, phát sinh an vui. Đã nói quả tăng trưởng của đại bi, sau đây là nói về sự khuyến tấn của đại bi. Kệ rằng: Bi phát triển, thí tăng, Thành sinh, vui cũng sinh, Dẫn đến lại đem đi, Đại bi khuyến như thế. Giải thích: Lòng đại bi khuyến tấn Bồ-tát làm sáu thứ công đức, nghóa của đại bi bảo: Bồ-tát các vị hãy tu tập, mình tự giúp lấy mình phát triển lên, các vị không nên màng của cải, khiến bố thí tiến lên mãi, các vị nên dùng bố thí thành thục chúng sinh. Ông nên dùng bố thí làm an vui phát sinh. Nếu ông bố thí, ấy gọi là dắt hai nhóm Bồ-đề, và giúp kẻ khác hướng về mình. Nếu ông bố thí là đem hai nhóm dắt dẫn và khiến kẻ khác nhắm đến đại Bồ-đề. Đã nói về sự khuyến tấn của lòng đại bi, sau đây nói về nguốn vui cao trội của đại bi. Kệ rằng: Người khổ thương kẻ khổ, Không thí làm sao vui? Muốn mình tự được vui, Ban vui cứu khổ người. Giải thích: Người khổ mới có lòng thương kẻ khổ, là do lòng thương mà các Bồ-tát phát sinh các khổ, đó gọi là người khổ. Không thí làm sao vui, nghóa là do lòng đại bi nên Bồ-tát coi khổ của người là khổ của mình. Do vậy, nếu không ban vui cho người khác thì làm sao mình có được niềm vui? Muốn mình tự được vui, thì ban vui và cứu khổ cho người: nghóa là khi Bồ-tát ban vui cho chúng sinh và nhổ khổ cho họ thì Bồ-tát đã tạo niềm vui cho chính mình. Đã nói về về nguồn vui cao vượt của đại bi, kế đây là nói về sự dạy trao của đại bi. Kệ rằng: Bi dạy tự bố thí, Thí người, không cầu mình, Nguyện không nhận báo thí, Mà nguyện bố thí nữa. Giải thích: Bài kệ nầy dạy thực hành bố thí không cầu mong trả ơn. Người có lòng đại bi dạy tự bố thí, bố thí cho người mà không cầu vui cho mình là nghóa của đại bi chỉ bảo: Khi ông thực hành bố thí, thí cho kẻ khác thì chớ cầu vui cho mình. Người khác không có niềm vui thì mình cũng không có niềm vui. Vì sao? Vì niềm vui không khác nhau. Không nhận quả báo của bố thí, mà nguyện đem bố thí nữa là nếu ta bố thí đạt quả thì xin là không nhận. Nếu khi đạt quả thì sẽ đem nó mà bố thí nữa. Kệ rằng: Thí và quả bố thí, Thí trùm khắp tất cả, Chúng sinh vui, ta vui, Cho người, ta không cần. Giải thích: Bài kệ nầy dạy quả của bố thí là thí và quả mà thí có được đều đem thí trùm khắp cho tất cả chúng sinh. Vì sao? Vì người có lòng bi thì lấy cái vui của người làm cái vui của mình. Do vậy, nên tất cả quả bố thí của Bồ-tát đều được bố thí cho tất cả chúng sinh. Đã nói về sự trao truyền của đại bi là như thế. Kệ rằng: Không màng của đem thí, Của nhiều lại nhiều hơn, Không dùng tự đem đến, Lại lần lượt thí hết. Giải thích: Bài kệ nầy dạy bố thí mà không màng đến của cải. Những ai bố thí không màng đến của cải thì người đó không muốn của cải nhưng của cải cứ đến. Đạo lý ấy hết sức rộng, hết sức nhiệm mầu, là vì tâm đại bi. Nếu được của cải như thế, lại đem bố thí nữa, thế là của cải đến rồi lại cứ đến nữa. Bồ-tát thí rồi lại thí nữa. Vì sao? Vì Bồ-tát không tìm cái vui riêng, nên muốn việc bố thí của mình không bao giờ hết. Kệ rằng: Thương là vì đại bi, Thí hết và thường thí, Thực hành thí như vậy, Thận trọng không cầu quả. Giải thích: Bài kệ nầy dạy bố thí không gián đoạn. Kệ rằng: Nếu tu không ưa thí, Thì không có quả, Thí không một sát-na, Do không thích bố thí. Giải thích: Bài kệ nầy chỉ bố thí không nhàm chán. Kệ rằng: Không làm không có quả, Có quả, có người làm, Có lỗi, mong trả ơn, Ta không giống như vậy. Giải thích: Bài kệ nầy dạy bố thí mà không cầu trả ơn. Bồ-tát nói với người thí: “Nếu có ai làm công cho ông thì ông mới trả công (quả) như thế là ông có lỗi vì chờ kẻ ấy trả ơn. Ta thì không như vậy. Ấy là ông không giống ta. Lại nữa, nếu ai làm việc cho ông thì ông chỉ trả công cho người ấy, vậy là ông còn chờ đợi kẻ ấy trả ơn. Ta thì không như vậy, là quả của các việc làm, ta đều ban cho tất cả chúng sinh, như vậy là ông không giống ta”. Đã nói về về chỉ dạy cách bố thí của đại bi. Kế là, nói về hạnh bố thí của đại bi. Kệ rằng: Vô chướng và tịnh cú, Thí người, cũng tự lường, Không cầu, không dính mắc, Đại bi thí như vậy. Giải thích: Không bị chướng ngại là không cướp của cải kẻ khác để làm việc bố thí. Tịnh thí là đem của cải bố thí đúng như pháp, nghóa là không bố thí thức ăn độc, vũ khí, rượu. Bố thí kẻ khác là khi bố thí để nhiếp hóa người thì đặt họ vào việc làm lành. Cũng tự lường là không khiến vì bố thí mà quyến thuộc bị thiếu hụt. Không mong trả ơn là có ở trước mặt người thế tục, hay không, tâm mong cầu, hoặc không cầu xin ra miệng, nhưng hễ thấy họ thiếu thốn là đem cho ngay, ấy là do không hề lựa chọn nơi gieo phước. Không dính mắc là không mong trả ơn, không do quả báo. Kệ rằng: Tận, quảng, thắng, thường vui, Lìa chấp cũng thanh tịnh, Hồi hướng về hai nơi, Bồ-đề và gốc lành. Giải thích: Cùng tận, nghóa là bố thí vật trong, vật ngoài. Rộng nghóa là bố thí nhiều. Cao cả là bố thí vật tốt. Thường là thường bố thí. Vui mừng là bố thí không có giận dữ, nghóa là kẻ đến xin, có khi họ gây hại cho ta, nhưng ta vẫn chịu đựng mà vui vẻ bố thí. Lìa khỏi dính mắc là do không đặt hi vọng vào cái gì, là không mê đắm, như đã nói ở trước. Thanh tịnh là bố thí đúng như pháp, tịnh cú thì như trước đã nói. Hồi hướng công đức về Bồ-đề là hồi hướng về đại Bồ-đề. Hồi hướng về gốc lành là hồi hướng thuận theo căn khí lành. Đã nói hạnh bố thí của đại bi, kế là sẽ nói sự khác nhau về thọ dụng của đại bi. Kệ rằng: Có của tự tiêu dùng, Và dùng thí chúng sinh, Được vui, thí vui cao, Ba vui nuôi lớn tâm. Giải thích: Bồ-tát tự thọ dụng của cải lòng vui mừng, và vui mừng do đem của cải ấy bố thí cho các người . Sánh với các vui bố thí thì hai niềm vui nầy là cao cả. Vì sao? Vì ba niềm vui nầy nuôi dưỡng tâm, ba niềm vui là: Vui bố thí. Vui vì nhiếp hóa chúng sinh. Vui do nhóm Bồ-đề đầy đủ. Đã nói về về thọ dụng khác nhau của đại bi, kế là nói về các độ được tăng trưởng đo đại bi. Kệ rằng: Xan, ác, sân, buông lung, Đắm duyên và chấp tà, Như vậy, sáu tệ xấu, Bi giúp tăng sáu độ. Giải thích: Bỏn sẻn là một chút vật cũng không thể xả. Ác là phá giới, gây rắc rối cho người khác. Sân hận là do mất chút lợi nhỏ mà rất nổi giận. Buông lung là không siêng thực hành các pháp lành. Đắm duyên là bị năm dục làm loạn tâm. Mê đắm tà vạy là ngoại đạo không trí tuệ. Như vậy, sáu thứ tệ xấu là tâm thương xót của đại bi vì họ mà nói ra những lỗi lầm, để giúp cho sáu Ba-la-mật được thêm lớn. Đã nói về về đại bi giúp tăng trưởng các độ. Đại bi nầy từ bốn duyên mà sinh, nên cũng phải nói rõ. Kệ rằng: Khổ, vui, không khổ vui, Sức nhẫn và bạn lành, Tự thể nối lưu chuyển, Nghóa bốn duyên đại bi. Giải thích: Khổ, vui, không khổ vui là nói về chủ thể đối tượng, và cả hai. Ba thọ, ba khổ cùng phát sinh tâm bi. Hỏi: Đã là xả thọ sao còn gọi là khổ? Đáp: Do hành khổ. Sức mạnh nhân là nói về nhân duyên. Bạn lành là nói về duyên phát triển hơn nữa. Tự thể nối nhau lưu chuyển là nói về duyên thứ lớp. Hỏi: Đại bi đã phát sinh như vậy rồi, làm thế nào được bình đẳng? Kệ rằng: Hành tướng và tư duy, Thuận theo và lìa chướng, Không được cũng thanh tịnh, Sáu nghóa bi bình đẳng. Giải thích: Đại bi bình đẳng có sáu thứ: Hành tướng bình đẳng, do ba phần bị cảm thọ của chúng sinh bình đẳng, biết là khổ. Tư duy bình đẳng là do thương xót bình đẳng. Tùy thuận bình đẳng, do cứu vớt bình đẳng. Lìa chướng bình đẳng, do không gây hại bình đẳng. Bất đắc bình đẳng là do ba luân là mình, người, lòng bi đều bình đẳng, không thật có. Thanh tịnh bình đẳng là bình đẳng có được khi vào vô sinh nhẫn nơi tám Địa. Hỏi: Đã nói về về đại bi như thế, nhưng còn bốn phạm trụ thì phải tu tập như thế nào để thành Vô thượng? Kệ rằng: Từ thảy khiến Vô thượng, Tự ý tu cũng năm. Tín, tâm, thông, phương tiện, Hòa hợp như trước nói. Giải thích: Cúng dường Chư Phật, gần gũi bạn lành, như bài kệ trước đã nói, đều do năm thứ lớp ý tu tập mà trở nên Vô thượng. Phạm trụ cũng vậy, do lòng tin thanh tịnh là nơi nói kinh Đại thừa đối với phạm trụ sinh tịnh tín. Do tâm sâu sắc là dùng chín thứ tâm để tu tập phạm trụ. Do thần thông là do nương vào các định hư không mà tu tập. Do phương tiện là thuộc về chỗ nương vào trí vô phân biệt. Do hòa hợp là chứng một quả nhập vào tất cả quả. <篇> LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH <卷>QUYỂN 10 <詞>Phẩm Thứ 21: GIÁC PHẦN (Phần 1) Giải thích: Các Bồ-tát đều có tướng hổ thẹn, nên nói trong đây. Kệ rằng: Trị chướng và hợïp trí, Duyên cảnh cũng thành sinh, Bồ-tát có tướng hổ, Bốn khác nhau như thế. Giải thích: Kệ nầy nói về Bồ-tát có bốn tướng hổ thẹn: Tự tính. Bạn loại. Cảnh giới. Tác nghiệp. Trị chướng là xa lìa tính không hổ thẹn, đó là tự tính của hổ thẹn. Hợp trí là tương ưng với trí vô phân biệt. Trí nầy là loại bạn biết hổ thẹn. Duyên cảnh là Bồ-tát coi một ít chúng sinh không bị chướng làm cảnh đáng hổ thẹn, tức là Thanh văn, Duyên giác. Tiểu là đối với Đại thừa. Vô chướng là phá tan chướng ngại của phiền não. Thành sanh (thành thục chúng sinh) là Bồ-tát có đức hổ thẹn nên lấy việc lập ra chúng sinh làm sự nghiệp của mình. Đó là bốn tướng hổ thẹn. Hỏi: Bồ-tát hổ thẹn đối với việc làm nào? Kệ rằng: Bồ-tát đối sáu độ, Chướng tăng đối trị giảm, Không siêng, cũng siêng hành, Ở đây sinh hổ thẹn. Giải thích: các Bồ-tát rất hổ thẹn đối với bốn việc: Khi có các độ bị chướng tăng thì Bồ-tát rất hổ thẹn. Khi giảm sự đối trị với các chướng thì Bồ-tát rất hổ thẹn. Khi tu tập các độ mà biếng nhác thì Bồ-tát rất hổ thẹn. Khi siêng tu mà phải chịu tác động của các phiền não thì Bồ-tát rất hổ thẹn, đó là các căn thường mở ra chứ không ngăn giữ. Hỏi: Sự khác nhau của sự hổ thẹn của Bồ-tát như thế nào? Kệ rằng: Sáu phẩm và hai phẩm, Bảy địa và Nhị thừa, Cũng tương tự là dưới, Trái lại, nên biết trên. Giải thích: Sáu phẩm là sáu phẩm trước trong địa bất định, mà có hổ thẹn là dưới. Hai phẩm là hai phẩm trước trong địa định mà có hổ thẹn là dưới. Bảy địa là bảy địa trước trong mười địa mà có hổ thẹn là dưới. Nhị thừa là chúng sinh với tâm thấp kém mà có hổ thẹn là dưới, do có tâm tăng thượng mạn. Cũng tương tự là Bồ-tát chưa được pháp Nhẫn vô sinh mà có hổ thẹn cũng là dưới. Trái với hổ thẹn ở địa dưới là hổ thẹn ở các địa trên. Hỏi: Pháp nào có chướng hổ thẹn và chướng ngại đó có mấy lỗi? Kệ rằng: Không hổ, mê không dứt, Ba hại, và sáu quở, Ba khổ: đọa, nạn thoái, Mười hai lỗi, như trước. Giải thích: Không hổ thẹn là Bồ-tát có chướng hổ thẹn. Nếu có chướng nầy thì phiền não không dứt, khi phiền não không dứt thì trước sinh ra ba điều hại: Hại mình: nghóa là không có tư duy chánh đạo do tự mình gây rối. Hại người là giận và xả bỏ vì gây hại cho người. Hỏi: Giận làm hại chúng sinh là đúng, nhưng xả sao lại làm hại chúng sinh? Đáp: Bồ-tát ứng thân giáo hóa chúng sinh, nếu xả (bỏ) mà không giáo hóa thì đó là gây hại. Hại cả hai là phá giới do gây hại cho người, xảy ra ba điều hại rồi thì đối với pháp hiện tại, có sáu điều bị quở trách là nghi ngờ ăn năn, mất lợi, mất ủng hộ, bị ruồng bỏ, bị phạt, tiếng xấu. Theo thứ lớp đó, sẽ bị sáu điều quở trách, nghóa là từ chỗ mình tự quở trách cho đến mười phương các người quở trách. Như vậy về sau còn sinh ra ba lỗi nữa: Rơi vào những chỗ đầy tai nạn. Lui mất pháp lành đã có, chưa có. Từ đó, phải chịu khổ lớn. Đó gọi là không hổ thẹn, nó sinh ra mười hai lầm lỗi. Hỏi: Đã biết chướng và lỗi lầm, nhưng còn công đức của hổ thẹn là gì? Kệ rằng: Tất cả ác nầy thảy, Nếu Bồ-tát có hổ, Tất cả diệt, nên biết, Bởi đã đối trị chúng, Sinh trời, người thông minh, Mau tròn đầy hai nhóm, Thành sinh không lui sụt, Lìa, không lìa là quả. Giải thích: Bài kệ trước nói về công đức hổ thẹn lìa lỗi thì như trước đã nói. Bồ-tát có hổ thẹn, còn tất cả thì không. Bài kệ sau nói có hổ thẹn thì tu tập được công đức, do đã gom chứa đủ năm quả cao tột. Sinh lên trời, người đều thông minh là được quả của quả báo, ng- hóa là thường được thông minh trí tuệ dù sinh lên trời hay sinh vào cõi người. Mau tròn đầy hai nhóm là được quả tăng thượng, là được hai nhóm đại Bồ-đề. Thành thục chúng sinh không lui sụt là được quả trượng phu, do những gì mà trượng phu làm. Lìa là được quả tương ly, vì lìa chướng kia. Không lìa được quả nương tựa thì sinh bất cứ đâu cũng không buông bỏ sự đối trị các chướng kia. Hỏi: Có thí dụ nào nói về công dụng của hổ thẹn? Kệ rằng: Áo trái thì nhơ bẩn, Phàm phu không hổ thẹn, Áo trời lại, không nhơ, Bồ-tát thẹn cũng vậy, Bồ-tát thẹn đầy đủ, Như hư không, chẳng nhơ, Muốn hơn các Bồ-tát, Cũng lấy thẹn trang nghiêm, Như mẹ hiền thương con, Thẹn hộ chúng sinh vậy, Quán giáo hóa chúng sinh, Việc nầy do hổ thẹn. Giải thích: Trong đây, bài kệ thứ nhất nói hổ thẹn như y phục. Vì sao? Vì người có tính hổ thẹn thì lỗi nhơ bẩn không thể làm ô nhiễm. Nửa trên bài kệ thứ hai, nói hổ thẹn như hư không. Vì sao? Vì người có hổ thẹn, dù gặp phải tám pháp thế gian, vẫn không bị ô nhiễm. Nửa sau bài kệ thứ hai, nói hổ thẹn như món đồ dùng để trang sức. Vì sao? Vì người có tính hổ thẹn thì họ khôi ngô tốt đẹp hơn các vị Bồ-tát. Bài kệ thứ ba, nói về hổ thẹn như mẹ hiền. Vì sao? Vì người có tính hổ thẹn che chở tất cả lỗi lầm trong sinh tử như voi, ngựa, lính. Quán sát và giáo hóa chúng sinh đều phát sinh từ đây. Lấy y phục thí dụ là nói hổ thẹn có công năng đối trị các phiền não. Lấy hư không thí dụ là nói hổ thẹn có công năng đối trị tám pháp đắm nhiễm. Lấy đồ trang sức thí dụ nói hổ thẹn có công năng thuận theo đồng hành. sinh. Lấy mẹ hiền thí dụ là nói hổ thẹn có công năng thành thục chúng Hỏi: Bồ-tát thực hành hổ thẹn, có tướng gì? Kệ rằng: Không nhẫn và không làm, Vừa nhẫn, vừa thực hành, Phải biết bốn thứ nầy, Là nói hành hổ thẹn. Giải thích: Bài kệ nầy nói về bốn tướng thực hành hổ thẹn: Không nhẫn. Không thực hành. Nhẫn. Thực hành. Vì sao? Vì ai có hổ thẹn, đối với tất cả lỗi ác, thì có hai tướng trước, là không nhẫn, và không thực hành. Đối với tất cả công đức thì có hai tướng sau, là nhẫn, và thực hành. Hỏi: Vì sao hổ thẹn mà được Vô thượng? Kệ rằng: Dạy tu đối hổ thẹn, Cũng sinh năm tự ý, Bởi pháp tin khác nhau, Vô thượng, trước đã biết. Giải thích: Như trước đã biết, kinh Đại thừa nói: “Lòng tin thanh tịnh phát sinh từ hổ thẹn, vì dùng chín thứ tâm sâu xa để tu tập, vì tu tập các định, như nương hư không,v.v… vì thuộc về trí vô phân biệt, vì một quả nhập vào tất cả quả”. Đã nói Bồ-tát có hổ thẹn, kế đây là, nói về vô úy của Bồ-tát. Kệ rằng: Các vị Bồ-tát không sợ, Thể tướng và khác nhau, Vững chắc và tốt đẹp, Nay lần lượt giải thích. Giải thích: Tinh thần không nao núng của Bồ-tát có bốn nghóa giải thích: Thể tướng. Khác nhau. Vững chắc. Tốt đẹp. Hỏi: Thể tướng là sao? Kệ rằng: Khởi ba tấn, định, tuệ, Siêng hăng hái mạnh mẽ, Là nói tướng không sợ, Cũng sáng tỏ các tên. Giải thích: Tinh tấn, thiền, định, Bát-nhã, ba thứ ấy hiện diện là thể, tướng của không sợ. Siêng năng, hăng hái, vững chí, mạnh mẽ là bốn tính nầy nói về tên gọi không sợ. Hỏi: Trong ba thứ trên, không sợ hãi thuộc vào thứ nào? Kệ rằng: Có các việc làm ra, Hạ, động, ngu thì sợ, Lìa ba quyết định ba, Đó gọi không sợ, an. Giải thích: Đối với các việc làm lợi tha, nếu tâm thấp hèn, xao động, ngu si thì Bồ-tát thấy sợ, vì sao ? Do tâm thấp kém thì không siêng năng tu tập công hạnh mình. Tâm lay động sẽ không an trụ vững chãi trong công hạnh. Tâm ngu si thì không biết ứng dụng phương tiện trong công hạnh. Theo thứ lớp, là dùng ba thứ tinh tấn, thiền định và Bát-nhã để đối trị ba tâm trên. Nếu đạt tính xác quyết thì gọi là vô úy. Hỏi: Quyết định là sao? Đáp: Ba đối trị nầy, nhậm vận, hiện tiền là quyết định. Hỏi: Đã nói về thể, tướng của vô úy, còn sự khác nhau của vô úy thì thế nào? Kệ rằng: Tự tính và đại nguyện, Không đoái hòai, không lui, Nghe sâu cũng năng hóa, Đặt họ bên thân Phật, Cũng hành các khổ hạnh, Không buông xả sinh tử, Sinh tử không thể nhiễm, Là mười chỗ khác nhau. Giải thích: Theo thứ lớp của hai bài kệ nầy mà nói về mười thứ khác nhau của tinh thần không nao núng: Tự tính là vì thành tựu thể tính nên được vô úy. Đại nguyện nghóa là phát tâm Bồ-đề mà được vô úy. Không đoái hòai là khi siêng năng làm lợi mình thì không đoái hòai đến thân mạng mà được vô úy. Không lui sụt là khi siêng năng làm lợi người thì được vô úy, dù việc làm bị chống đối. Nghe sâu xa là khi nghe thật nghóa thì được vô úy. Có công năng giáo hóa là đối với chúng sinh khó giáo dục thì dùng thần thông mà giáo hóa, nên được vô úy. Đặt chúng sinh bên thân Phật là xây dựng Đại Bồ-đề cho chúng sinh, nên được vô úy. Cũng thực hành các khổ hạnh làm các việc khó làm về khổ hạnh, nên được vô úy. Không buông xả sinh tử là có ý sinh về đó, nên được vô úy. Không bị sinh tử là ô nhiễm là sống trong nhiễm mà không bị ô nhiễm, nên được vô úy. Hỏi: Đã nói về về sự khác nhau của vô úy, còn vững chắc là sao? Kệ rằng: Bạn ác và khổ nặng, động: Nghe sâu, không thể lui, Như cánh trùng trước gió, Không động Tu-di, biển. Giải thích: Do ba duyên mà Bồ-tát không sợ hãi, không lay Gặp bạn ác. Gặp khổ nặng. Nghe pháp sâu xa. Ví như con trùng sành có tung cánh lên, nó không thể quét hết nước biển hay làm núi lung lay. Ba duyên kia không thể làm lung lay tâm Bồ-tát cũng giống như vậy. Cho nên Bồ-tát được vững chắc nhờ vô úy. Hỏi: Đã nói về về sự vững chắc, còn về nghóa vượt trội của vô úy thì sao? Kệ rằng: Trong các thuyết không sợ, Vô úy Bồ-tát cao, Tướng lạ, chắc, tốt đẹp, Không giống điều nói kia. Giải thích: Do ba nghóa nói trước thì vô úy của Bồ-tát thật là tốt đẹp cao tột trong các thứ vô úy được nói trên. Đã nói về vô úy của Bồ-tát, kế là nói về không lui sụt của Bồ- tát. Kệ rằng: Các Bồ-tát bất thoái, Phẩm loại có ba việc, Là nghe, tinh tấn, khổ, Hổ, dũng, là chỗ nương. Ham muốn đại Bồ-đề, Là nói tính không lui, Chưa thành, thành cực thành, Ấy địa bày khác nhau. Giải thích: Hai bài kệ nầy nói về phẩm loại không lui sụt là nương vào sự khác nhau của tự tính. Phẩm loại ấy có ba thứ: Nghe pháp không chán nên không lui sụt. Tinh tấn mãi nên không lui sụt. Dù sống trong sinh tử chịu khổ não nhưng không lui sụt. Nơi nương có hai thứ: Biết hổ thẹn. Mạnh mẽ. Ai có hổ thẹn thì không lui sụt. Ai có ý lui sụt thì điều ấy thật đáng xấu hổ. Có dũng cảm thì không lui sụt. Kẻ lui sụt là người không có sức mạnh dũng cảm. Tự tính là ham muốn đại Bồ-đề. Nếu trái lại ham muốn ấy tức là lui sụt. Về khác nhau có ba thứ: Chưa thành là các Bồ-tát ở giai vị Tín, Hạnh không lui sụt. Thành nghóa là các Bồ-tát từ Sơ địa đến bảy điạ không lui sụt. Thành cùng cực là Bồ-tát tám địa trở lên đều không lui sụt. Đã nói về về Bồ-tát không lui sụt, kế là nói về Bồ-tát biết pháp. Kệ rằng: Biết pháp, biết nghiệp pháp, Biết tướng, biết vô tận, Đắc quả và hai môn, Thành sinh cũng trụ pháp. Giải thích: Biết pháp là biết năm minh xứ: Nội minh. Nhân minh. Thanh minh. Y minh. Xảo minh. Biết năm luận ấy gọi là biết pháp. Biết nghiệp pháp là biết lợi mình, lợi người, lấy đó là nghiệp. Biết Nội luận: là tự tu và giảng cho người khác nghe. Biết Nhân luận là bày nghóa mình mà dẹp bỏ nghóa khác. Biết Thanh luận là luyện giọng mình cho thanh tao khiến kẻ khác tin nhận. Biết Y luận để chữa bệnh cho kẻ khác. Biết xảo luận là khiến kẻ khác tin, hiểu. Biết tướng luận là biết năm thứ luận nầy, có được năm nhân là Bồ-tát biết tướng luận là: Nghe được. Giữ được. Tụng được. Nghó được. Thông được. Trước Bồ-tát nghe về luận. Nghe rồi nhớ chắc. Nhớ chắc thì tụng tập. Tụng xong thì suy nghó chân chính. Suy nghó chân chính thì thông đạt. Thông đạt nghóa là biết đây là công đức, đây là lỗi lầm, đây là lời tốt, đây là lời nói ác. Biết vô tận là hiểu biết như vậy, cho đến Niết-bàn vô dư cũng vô tận. Đắc quả là do chính mình biết mình được Nhất thiết chủng trí. Hai môn là: Một Tam-muội, hai môn Đà-la-ni. Biết luận nên Bồ- tát dùng môn Tam-muội mà thành thục chúng sinh, do biết thuận theo mà thu hóa chúng sinh. Lấy môn Đà-la-ni mà thành thục Phật pháp là do thuận theo pháp mà mình có được, đều có thể gìn giữ. Đã nói về Bồ-tát biết pháp, kế là nói về Bồ-tát biết thế gian. Kệ rằng: Biết bằng thân, bằng miệng, Và biết bằng thật đế, Bồ-tát biết thế gian, Tối thắng, không ai hơn. Giải thích: Nhờ vào ba thứ mà Bồ-tát biết thế gian: Thân biết thế gian. Miệng biết thế gian. Nhờ sự thật (đế) mà biết thế gian. Hỏi: Thân biết là thế nào? Miệng biết là thế nào? Kệ rằng: Thân biết là thư nhan, Miệng biết thì lời trước. Nó giúp thành đồ đựng, Tu hành theo chánh pháp. Giải thích: Thư nhan là vẻ mặt hớn hở vui cười. Đây là thân biết thế gian. Lời nói thốt ra trước là lời an ủi, hỏi han, khen ngợi. Đây là miệng biết thế gian. Hỏi: Sự hiểu biết ấy nhằm để làm gì? Đáp: Để giúp thành đồ đựng. Hỏi: Trở thành đồ đựng cái gì? Đáp: Khiến nó trở thành đồ đựng chánh pháp mà thuận theo tu hành. Hỏi: Thế nào là biết sự thật thế gian? Bài kệ trả lời: Biết hai, biết đời sinh, Biết hai, biết đời diệt, Do dứt lại chứng đắc, Biết đế siêng tu hành. Giải thích: Biết hai là biết thế gian sinh khởi, là biết hai đế khổ, tập là biết thế gian thường sinh, do nó sinh và phương tiện sinh. Biết hai là biết thế gian diệt, là biết hai đế diệt và đạo thì biết thế gian có thể diệt, do nó dứt bỏ và phương tiện chấm dứt. Hỏi: Biết sự thật về thế gian để làm gì? Đáp: Để chấm dứt và được trí tuệ chân thật, hiểu sự thật mà siêng năng tu hành, dứt hết các sự thật về khổ tập, được là được sự thật về diệt và đạo. Bởi dứt sự thật về khổ, nhân duyên của khổ, nên Bồ-tát đạt được sự thật về Niết-bàn và con đường dẫn đến đó, cho nên Bồ-tát quán xét các sự thật ấy mà tu trí tuệ đầy đủ. Như vậy là biết thế gian, tức là biết nghiệp của thế gian. Đã nói về Bồ-tát biết thế gian, kế là nói về Bồ-tát tu tập bốn lượng. Kệ rằng: Năng thuyên và ý nghóa, Thấu nghóa cũng không lới, Nên biết bốn thứ nầy, Đó là tướng bốn lượng. Giải thích: Năng thuyên là mười hai bộ kinh mà Như lai nói. Pháp ấy là lượng, chẳng phải con người là lượng. Ý nghóa là lý do trong văn. Nghóa nầy là lượng, chẳng phải lời nói là lượng. Thấu rõ nghóa là những điều thế gian có thể tin và được Phật xác nhận. Thấu rõ nghóa nầy là lượng, chứ chẳng phải không thấu nghóa là lượng. Không dùng lời nói là trí chứng ngộ ra khỏi thế gian. Trí nầy là pháp, chứ không phải thức là lượng. Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói bốn lượng này? Kệ rằng: Chê pháp và chê nghóa, Tà tư và đáng nói, Ngăn dứt bốn việc nầy, Thứ lớp, nói bốn lượng. Giải thích: Nói pháp năng thuyên là lượng là nhằm ngăn dứt việc khinh chê người nói pháp, ý nghóa là lượng là để ngăn dứt chê nghóa trong các câu nói. Thấu rõ nghóa là lượng là để ngăn dứt nói pháp với tư duy tà hiểu sai. Trí là lượng để ngăn dứt những gì có thể nói là trí. Hỏi: Nương vào bốn lượng nầy, có công đức gì? Kệ rằng: Lòng tin, suy nghó trong, Nghe đúng, trí chứng ngộ, Bồ-tát không thể hoại, Nương lượng công đức đó. Giải thích: Nương vào lượng thứ nhất thì không hư hoại lòng tin. Nương vào lượng thứ hai thì không thể hư hoại tư duy chân chính. Nương vào lượng thứ ba thì không thể hư hoại những gì mình nghe chân chính. Nương vào lượng thứ tư thì không thể hư hoại trí thế gian. Đã nói về Bồ-tát tu tập bốn lượng, kế đây là nói về bốn hiểu biết không bị chướng ngại của Bồ-tát. Kệ rằng: Đối môn, tướng, gọi trí, Thông đạt không ai bằng, Đó tức là Bồ-tát, Bốn thứ vô ngại giải. Giải thích: Thứ nhất gọi là biết Trí Môn, là vì có công năng biết nghóa trong tất cả các thứ tên khác nhau. Thứ hai là biết Tướng Trí, là vì có công năng biết nghóa nầy thuộc về tên gọi nầy. Thứ ba là biết Ngôn Trí, là có công năng biết thổ âm từng nơi khác nhau. Thứ tư là biết Trí Trí, là vì có công năng hiểu biết, nói pháp trôi chảy. Biết được bốn thứ trí nầy là vô ngại giải. Kệ rằng: Năng thuyết và sở thuyết, Nói đủ gồm ba việc, Bốn thứ, hai lại hai, Thứ lớp nhân ba việc. Giải thích: Năng nói, sở nói, nói đầy đủ. Ba việc, mỗi việc đều có nhân duyên. Năng nói, có bốn nhân duyên là: Trí giáo thọ. Trí thành thục. Trí nhóm đầy đủ. Trí giúp người giác ngộ. Pháp được nói có hai nhân duyên là: Pháp. Nghóa. Bốn trí có công dụng đối với hai nhân duyên nầy. Nói đầy đủ, có hai nhân duyên là: Lời nói. Trí. Do hai món nầy mới thành tựu nói năng. Kệ rằng: Nêu pháp giải thích pháp, Giúp hiểu, tránh gặn hỏi, Lập ra bốn vô ngại, Nên biết về nghóa ấy. Giải thích: Nêu pháp được gọi là Môn. Giải thích pháp được gọi là Tướng, khiến người hiểu được gọi là Ngôn, tránh gặn hỏi được gọi là Trí. Nên biết, trong đây pháp được nói và nghóa của nó, được gọi là đủ ngôn và trí. Theo thứ lớp mà xây dựng bốn hiểu biết vô ngăn ngại. Hỏi: Thế nào gọi là hiểu biết vô ngại chướng ngại? Nó có nghiệp gì? Kệ rằng: Nội chứng và ngoại giác, Nên gọi vô ngại giải. Dứt được tất cả nghi, Đó là nghiệp của nó. Giải thích: Nửa trên bài kệ nầy là lập danh. Nửa dưới là nói về nghiệp. Tên gọi là do các Bồ-tát ban đầu dùng trí xuất thế gian nội chứng được các pháp đều bình đẳng, hiểu đúng như thật, về sau, dùng trí thế gian hậu đắc mà biết các pháp bên ngoài và những việc khác nhau của pháp môn. Vì lý ấy, nên gọi là vô ngại giải. Nghiệp là từ hiểu biết nầy, mà dứt hết lưới nghi của tất cả chúng sinh. Đó gọi là Nghiệp. Đã nói về bốn vô ngại giải của Bồ-tát, sau đây là nói về hai nhóm công đức của Bồ-tát. Kệ rằng: Phước, trí là hai nhóm, Thắng báo không ô nhiễm, Tất cả các Bồ-tát, Tướng tốt đều như vậy. Giải thích: Phước, trí là hai nhóm hai nhóm là nhóm phước và nhóm trí. Quả báo tốt đẹp vẫn không ô nhiễm là vì Bồ-tát có nhóm phước, nên đạt quả báo tốt đẹp, dù đang ở trong sinh tử. Và do nhóm trí nên được quả báo tốt đẹp kia vẫn không gây ô nhiễm cho tâm, thế nên tướng thù thắng của Bồ-tát là không ai bằng. Hỏi: Hai nhóm ấy phối hợp với sáu độ thì sao? Kệ rằng: Hai độ trước thể phước, Độ thứ sáu là trí, Còn ba, hai nhóm nhân, Năm cũng thành nhóm trí. Giải thích: Hai độ trước là thể của phước là bố thí, thì giới Ba-la- mật là thể của nhóm phước. Độ sáu là trí nghóa là Bát-nhã Ba-la-mật là thể của nhóm trí. Ba độ còn lại là nhân của hai nhóm nầy là nhẫn nhục và tinh tấn, thiền định Ba-la-mật, làm nhân chung cho hai nhóm, vì cả hai đều thực hiện như nhau. Năm độ cũng thành nhóm trí là vì Bát-nhã có thể hồi hướng, tất cả Ba-la-mật đều thành tụ trí cả. Hỏi: Sao gọi là tụ? Nhiệm vụ của nó là gì? Kệ rằng: Chánh tu và thường tu, Giúp thiện gọi là nhóm, Làm lợi mình, lợi người, Thành tựu thì gọi nghiệp. Giải thích: Nửa trên bài kệ là giải thích tên gọi. Nửa dưới bài kệ là nói về nhiệm vụ của nhóm. Tên gọi là Tam bà la, dịch nhóm. Tam là tu tập chân chính, Bà-la là thường tu tập. Vì tu chân chính và tu mãi, pháp lành được tăng thêm lên. Vì nuôi lớn lên nên gọi là nhóm. Nghiệp là vì nhóm nầy mà có thể hoàn thành việc làm lợi mình, lợi người. Đó gọi là Nghiệp, nhiệm vụ. Hỏi: Sự khác nhau giữa hai nhóm là gì? Kệ rằng: Nhập địa, nhập Vô tướng, Và nhập vô công dụng, Thọ chức và rốt ráo, Hai nhóm nhân lẫn nhau. Giải thích: Những khác nhau trong đây là nhóm của Tín, hành địa kia là nhân để nhập địa. Nhóm của sáu địa là nhân để nhập vào vô tướng. Vô tướng là nhóm thuộc về địa thứ bảy, vì tướng của địa nầy không còn khởi. Nhóm của địa thứ bảy là nhân để nhập vô công dụng. Nhóm của địa thứ tám, thứ chín là nhân nhập thọ chức. Nhóm của địa thứ mười là nhân để nhập rốt ráo. Rốt ráo là thuộc về Phật địa. Đã nói công đức hai nhóm của Bồ-tát, sau đây nói về Bồ-tát tu tập bốn niệm xứ. Kệ rằng: Nương và đối trị, Nhập đế và duyên duyên, Tác ý và chí đắc, Thuận theo cũng tùy chuyển, Giác cảnh và thọ sinh, Hạn cực dẫn tối thượng, Thời gian dài, sau chứng, Mười bốn tu cao nhất. Giải thích: Hai bài kệ nầy nói bốn niệm xứ của Bồ-tát, gồm có mười bốn thứ tu tập cao quý: Thắng tu nương tựa. Thắng tu đối trị. Thắng tu nhập đế. Thắng tu duyên duyên. Thắng tu tác ý. Thắng tu chí đắc. Thắng tu Tùy thuận. Thắng tu tùy chuyển. Thắng tu giác cảnh. Thắng tu thọ sinh. Thắng tu hạn cực. Thắng tu tối thượng. Thắng tu trường thời. Thắng tu hậu chứng. Thắng tu y chỉ là nương vào kinh Đại thừa mà phát khởi văn, tư, tu, tuệ làm tự thể. Thắng tu đối trị là có công năng đối trị bốn ý tưởng trái ngược của bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã, vì biết thân và các pháp vô ngã. Thắng tu nhập đế là vì theo thừ lớp, thứ lớp mà đi vào các đế khổ, tập, diệt, đạo. Tự mình hiểu thấu người khác hiểu thấu, như Luận Trung Biên Phân Biệt nói. Thắng tu duyên duyên là duyên vào thân của tất cả chúng sinh làm đối tượng. Thắng tu tác ý là thân v.v…, không thật có. Thắng tu chí đắc là thân là không hợp, không lìa. Thắng tu tùy thuận là có các chướng ngại để đối trị và có công năng đối trị các chướng ngại. Thắng tu tùy chuyển là bốn niệm xứ mà phàm phu, Nhị thừa, tu tập cũng thuộc tùy chuyển làm giáo thọ. Thắng tu giác cảnh là biết thân huyễn như sắc tướng, biết thọ như mộng, đều là tà giác. Biết tâm như hư không vì tự tính thanh tịnh. Biết các pháp như khách, khách nghóa là trói buộc, nhơ bẩn, như hư không bị che phủ vì khói, mây, bụi, sương mù. Thắng tu thọ sinh là có ý sinh vào nơi nào để làm vua Chuyển Luân tối thắng. Thân sinh ở đó, nhưng thân pháp lại không bị nhiễm. Thắng tu hạn cực là tu phẩm hạ của Niệm xứ cũng vượt cao hơn phẩm các của những lối tu khác, vì lợi ích của tự tính. Thắng tu tối thượng là tu tập bốn niệm xứ chung và riêng bằng sự an nhiên, không cần cố gắng gì nữa. Thắng tu trường thời là tu mãi đến Niết-bàn vô dư vẫn không bao giờ hết tu. Thắng tu hậu chứng là từ mười địa cho đến Phật địa đều có thể tu. Đã nói Bồ-tát tu tập bốn niệm xứ, sau đây nói về Bồ-tát tu bốn chánh cần. Kệ rằng: Xả ba và nhập địa, Trụ tịch và đắc ký, Thành thục và thọ chức, Tịnh độ và tròn đầy. Giải thích: Tu tập bốn chánh cần là Bồ-tát đối trị những chướng ngại bốn niệm xứ. Nếu nói rộng về pháp đối trị nầy thì có mười thứ khác nhau, đối trị mười hành chướng ngại là: Hạnh buông xả mê đắm là thọ thân tốt đẹp hữu lậu, nhưng không đắm nhiễm. Hạnh buông xả những tâm lí che khuất nghóa là xa lìa khỏi những tâm lý che chướng. Hạnh buông xuống, nghóa là lìa những Tác ý Nhị thừa. Nhập vào địa hạnh nghóa là nhập vào sáu địa đầu. Hạnh trụ tịch, là nhập vào địa thứ bảy. Hạnh được thọ kí nghóa là nhập vào địa thứ tám. Hạnh thành thục chúng sinh, nghóa là nhập vào địa thứ chín. Hạnh thọ chức: nghóa là nhập vào địa thứ mười. Hạnh tịnh độ nghóa là gồm ba địa thứ tám, chín, mười. Hạnh tròn đầy nghóa là nhập vào Phật địa. Bồ-tát tu tập bốn chánh cần là để đối trị mười hạnh chướng ngại nầy, đó là nói rộng về sự khác nhau. Hỏi: Ý nghóa tu tập mười thứ khác nhau nầy là gì? Kệ rằng: Do dựa ý muốn tu, Nên siêng khởi tinh tấn, Nhiếp tâm và chánh trì, Tu mười trị như vậy. Giải thích: Ý nghóa tu tập là dựa vào ý muốn mà phát sinh siêng năng, dựa vào siêng năng mà tinh tấn nhiếp tâm về chánh trì. Đó là ý nghóa tu tập, trong đó có tu tập bình đẳng, có tu tập tướng mạo, có tu tinh tấn. Tu tập bình đẳng là do chánh cần nên chỉ quán được bình đẳng. Tu có tướng mạo là tu chung ba tướng: Chỉ, cử, xả. Tu tinh tấn là trong khi tu chỉ quán, nhằm dứt trừ hai chướng là trạo cử và hôn trầm mà phát sinh tinh tấn. Hỏi: Khởi lên tinh tấn như thế nào? Đáp: Là nhiếp tâm và chánh trì. Gom tâm là Xa-ma-tha (chỉ). Chánh trì là nếu tâm bình đẳng thì được an trụ như vậy, chánh trì như vậy, dùng ba sự tu tập nầy mà tu mười hạnh trước. Đó gọi là tu chánh cần. Đã nói về Bồ-tát tu tập bốn chánh cần, sau đây là nói về Bồ-tát tu tập bốn thần túc. Kệ rằng: Chia bốn thứ thần túc, Lược dùng ba việc giải, Nương tựa và phương tiện, Cũng thành tựu nên biết. Giải thích: Bài kệ nầy lược dùng ba sự phân biệt bốn thần túc: Nương tựa. Phương tiện. Thành tựu. Hỏi: Thế nào là nương? Bài kệ cho biết: Chỗ thiền định nương tựa, Có bốn túc khác nhau, Một dục, hai tinh tấn, Ba tâm, bốn tư duy. Giải thích: Nên biết, nương vào thiền Ba-la-mật mà có bốn thứ thần túc khác nhau. Hỏi: Thế nào là phương tiện? Kệ rằng: Bắt đầu làm, tùy nhiếp, Trói buộc và đối trị, Tùy kế tám hạnh dứt, Ba, một, hai, hai thành. Giải thích: Bắt đầu làm và tùy nhiếp, trói buộc và đối trị: phương tiện cũng có bốn thứ: Phương tiện bắt đầu làm, Phương tiện tùy nhiếp, Phương tiện trói buộc. Phương tiện đối trị. Hỏi: Trong bốn phương tiện nầy, mỗi phương tiện dùng hạnh gì mà lập nên? Đáp: Theo thứ lớp của tám hạnh dứt trừ là: Ba, một, hai, hai mà thành lập. Tám hạnh trừ phiền não là: Lòng tin. Ham muốn. Siêng năng. Nương tựa. Niệm. Trí. Suy nghó. Xả. Trong tám hạnh nầy, theo thứ lớp, lấy ba hạnh: Lòng tin, ham muốn và siêng năng mà thành lập phương tiện bắt đầu làm. Từ lòng tin mà khởi lên ham muốn, từ ham muốn khởi dậy siêng năng, cứ tuần tự như vậy, lấy một hạnh nương mà thành lập phương tiện tùy nhiếp, do nương dứt thì định sinh. Lấy hai hạnh là niệm và trí mà thành lập phương tiện trói buộc. Do có chánh niệm mà tâm an trụ trong định, không lìa đối tượng. Vì có chánh trí mà tâm lìa sở duyên, sau khi giác ngộ, theo lúc mà nhiếp hóa chúng sinh. Dùng hai hạnh suy nghó, buông xả mà thành lập phương tiện đối trị, dùng suy nghó đối trị sự níu kéo của hôn trầm, dùng tâm xả đối trị sự dao động. Hai hạnh ấy là Vì đối trị các phiền não. Hỏi: Thành thục ra sao? Kệ rằng: Năng kiến và năng thọ, Du hí và du nguyện, Tự tại và đắc pháp, thành tựu sáu thứ nầy. Giải thích: Sáu thứ thành tựu là: Thành tựu năng kiến. Thành tựu năng thọ. Thành tựu du hí. Thành tựu du nguyện. Thành tựu tự tại. Thành tựu đắc pháp. Thành tựu năng kiến là năm thứ mắt: Mắt thịt, mắt trời, mắt tuệ, mắt pháp và mắt Phật. Thành tựu năng thọ là sáu thần thông đều nương vào năm thứ mắt nầy nên có thể dạy trao. Theo thứ lớp của năm thứ mắt thì: Thần thông về thân là đi đến chỗ nầy, chỗ khác. Tai trời thì nghe khắp tiếng để nói pháp cho chúng sinh. Thần thông biết tâm người để cắt đứt những chướng ngại hữu vi, vô vi. Thần thông biết rõ kiếp trước về những việc làm có liên hệ đến quá khứ, giúp chúng sinh biết khiến họ có lòng tin. Thần thông mắt trời là biết người nầy chết đây sinh kia, khiến họ sinh tâm nhàm chán. Thần thông lậu tận vì họ nói pháp, giúp họ được giải thoát. Thành tựu du hí là đây có nhiều thứ, là các định biến hóa, v.v… Thành tựu du nguyện là nhập vào sức mạnh của nguyện mà dạo qua các quả của nguyện, là phóng ánh sáng, phát lên tiếng nói, không thể kể xiết việc nầy. Việc rộng thì như trong kinh Thập Địa nói. Thành tựu tự tại là có mười thứ, như kinh Thập Địa nói. Thành tựu đắc pháp là chứng được lực, vô úy, pháp bất động. Đã nói Bồ-tát tu tập bốn thần túc, kế đây là, là nói về Bồ-tát tu tập năm căn. Kệ rằng: Giác, hành, văn, chỉ quán, Sở duyên căn tín thảy, Căn nghóa phát triển cao, Do thành tựu lợi ích. Giải thích: Tín căn lấy Bồ-đề làm sở duyên. Tấn căn lấy hạnh Bồ-đề làm sở duyên. Niệm căn lấy nghe pháp Đại thừa làm sở duyên. Định căn lấy Xa-ma-tha làm sở duyên. Tuệ căn lấy trí như như thật làm sở duyên. Hỏi: Căn nghóa là gì? Đáp: Lòng tin v.v… Đối với sở duyên của nó cứ tăng lên mãi. Cho nên gọi là cội gốc, vì nó có công năng đem đến lợi ích. Đã nói Bồ-tát tu tập năm căn, kế đây là, là nói Bồ-tát tu tập năm lực. Kệ rằng: Nên biết căn tín thảy, Khi nhập vào Sơ địa, Chướng năm căn như vậy, Năng làm mạnh là lực. Giải thích: Với năm căn, khi nhập vào Sơ địa, có thể sinh ra không tin, biếng nhác, lãng quên, rối loạn, kém cõi, nên nói là sức mạnh để tăng sức. Đã nói Bồ-tát tu tập năm lực, sau đây là nói Bồ-tát tu tập bảy giác phần. Kệ rằng: Bồ-tát nhập Sơ địa, Nêu lập ra giác phần, Các pháp và chúng sinh, Ở đây được bình đẳng. Giải thích: Khi Bồ-tát nhập vào Sơ địa, do tỉnh giác pháp, nên lập ra tỉnh giác từng phần. Hỏi: Giác là gì? Đáp: Đạt được hiểu biết Bình đẳng các pháp và thân mình, người. Như vậy gọi là giác. Theo thứ lớp là đạt pháp vô ngã và nhân vô ngã. Kệ rằng: Như vua Luân vương đi, Bảy báu dẫn đường trước, Bồ-tát hướng Chánh giác, Bảy phần thường tròn đầy. Giải thích: Đây nói về bảy phần giác của Bồ-tát, giống như xe bảy báu của vua Chuyển Thánh. Hỏi: Phần giác nào giống với báu nào? Kệ rằng: Niệm phục ở các cảnh, Trạch pháp phá phân biệt, Tiến nhanh giác vô dư, Nói hỷ sáng khắp thân, Hết che thảnh thơi an, Các việc sinh từ Định, Tùy lúc, ý muốn trụ, Lấy bỏ đều do xả. Giải thích: Thứ nhất là niệm giác phần giống như bảy báu của Luân Vương. Những bờ cõi nào chưa quy hàng thì vua có công năng làm cho quy hàng. Lãnh vực nào chưa quy phục thì Niệm có công năng làm cho quy phục. Thứ hai là Trạch pháp giác phần giống như voi báu có công năng đẩy lùi các nước oán địch. Nó phân biệt kẻ thù lớn, mà phá tan đi. Thứ ba là Tinh tấn giác phần, giống như ngựa báu, có công năng chạy tới tận cùng biên giới xa của đất nước, một cách mau lẹ, như bờ mé tận cùng của chân như, mau lẹ đến cõi giác. Thứ tư là Hỉ giác phần, giống như châu báu. Ánh sáng châu báu như ngọn đuốc chiếu soităm tối, khiến vua hết sức vui mừng. Pháp sáng phá tan bóng tối của tâm, làm vui mừng tràn đầy. Thứ năm là Khinh an giác phần, và bảo nữ. Vua hưởng thọ vui sướng khi xúc chạm mỹ nữ. Trí giải thoát nhẹ nhàng trước các chướng ngại của phiền não, dứt hết các điều ác. Thứ sáu là Định giác phần, và kho tàng của quan Đại thần. Vua có sự cần dùng gì thì đều do các Đại thần chi xuất. Trí có vận dụng điều chi đều do định mà ra. Thứ bảy là xả giác phần, giống như quân só khéo, vua duyệt toàn lính, loại trừ kẻ yếu hèn, chọn lấy những người mạnh, cho theo hầu vua Chuyển Luân, vua đi bất cứ đâu, người hầu vẫn không mỏi mệt. Bồ-tát tu tập là bỏ điều ác, làm điều lành, theo trí vô phân biệt mà sống với hạnh vô công dụng. Đã lập bảy phần giác giống như bảy báu, nhưng nghóa nó thì thế nào? Kệ rằng: Y chỉ và tự tính, Xuất ly và công đức, Thuyết thứ năm bất nhiễm, Phần nầy, có ba thứ. Giải thích: Theo thứ lớp của bảy giác phần thì Niệm là phần nương. Tất cả các việc làm của Bồ-đề phần đều phải nương vào đây. Trạch Pháp là tự tính phần, tất cả Bồ-đề đều lấy đây làm tự thể. Tinh tấn là xuất ly phần do nó có công năng giúp Bồ-tát tới được chỗ rốt ráo. Hỷ là công đức phần do nó có công năng khiến tâm vui vẻ tràn đầy. Ba thứ khinh an, Định, Xả, là phần bất nhiễm, Khinh an là nhân bất nhiễm. Định là chỗ nương của bất nhiễm. Xả là tự tính của bất nhiễm. Đã nói Bồ-tát tu tập bảy phần giác, kế là nói Bồ-tát tu tập tám phần chánh đạo, Kệ rằng: Một chuyển như giác trước, Lập chia hai cũng vậy, Kế ba, ba nghiệp tịnh, Ba sau ba chướng dứt. Giải thích: Phần chuyển thứ nhất, như phần giác nói trước là phần thứ nhất, giác ngộ như thật, như ở giai vị trước, thời gian sau là tùy chuyển, đó gọi là chánh kiến. Lập chia hai cũng vậy, là phần thứ hai những gì tự lập mà hiểu, như ở giai vị trước. Thâm nhập kinh Phật, Chư Phật lập vì kẻ khác mà phân biệt, gọi là chánh tư duy. Kế là ba, ba nghiệp thanh tịnh là ba nghóa kế tức chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Ba nghiệp là ngữ nghiệp, thân nghiệp và ý nghiệp. Như thứ lớp, lấy kế ba gồm thâu ba nghiệp nầy. Ba, ba sau là trừ chướng ngại nghóa là: Ba sau là chánh cần, chánh niệm, và chánh định. Ba chướng là trí chướng, định chướng và tự tại chướng. Theo thứ lớp ấy, dùng ba thứ sau đối trị ba chướng nầy. Do tu chánh cần, thời gian dài không lui sụt cho nên trí chướng dứt. Vì tu chánh niệm nên trạo cử, hôn trầm không có tự thể, cho nên chướng ngại định bị đánh lùi. Do tu chánh định với đức vượt trội đã thành tựu chướng ngại tự tại bị dứt trừ. Như vậy là lập ra tám phần Thánh đạo, nên biết. <篇> <卷>QUYỂN 11 <詞>Phẩm Thứ 21: GIÁC PHẦN (Phần 2) Giải thích: Đã nói Bồ-tát tu tập đạo phần, kế đây là nói Bồ-tát tu tập chỉ quán. Kệ rằng: An tâm vào chánh định, Đây tức gọi là chỉ, Chính trụ, phân biệt pháp, Đó gọi là tướng quán. Giải thích: An tâm vào chánh định, đó gọi là chỉ, nghóa là tâm nương vào chánh định thì không thấy. Tâm đều chánh định thì lập chỉ. Đó gọi là tướng chỉ. An trụ chính, phân biệt pháp, đó gọi là tướng quán, nghóa là nương vào chánh trụ, phân biệt pháp thể, đó gọi là tướng quán. Hỏi: Hai hạnh nầy, tu như thế nào? Kệ rằng: Muốn khắp các công đức, Thì phải tu chỉ quán, Một phần chẳng một phần, Tu có chung và riêng. Giải thích: Muốn có khắp các công đức, thì phải tu chỉ quán, nghóa là nếu ai muốn có tất cả công đức thì người đó phải tu hai hạnh chỉ quán. Như trong kinh, Phật bảo các Tỳ-kheo, nếu có mong cầu điều gì thì làm sao đạt được? Các thầy phải xa lìa ham muốn ác và pháp bất thiện, cho đến nói rộng. Này các thầy, có hai pháp phải tu đó là chỉ và quán. Một phần, chẳng phải một phần là: Một phần là chỉ hoặc quán, chẳng phải một phần nghóa là hợp chung chỉ quán. Hỏi: Vì sao? Đáp: Vì tu tập có lúc tu riêng, có lúc tu song song. Tu riêng là tu một phần, hoặc chỉ hay quán. Tu song song là không phải một phần mà gộp chung cả chỉ quán. Hỏi: Hai chỉ quán nầy có gì khác nhau? Nghiệp của nó ra sao? Kệ rằng: Năng thông và năng xuất, Vô tướng cũng vô vi, Tịnh độ và quả tịnh, Hai thứ đức là nghiệp. Giải thích: Nửa trên bài kệ nầy nói về sự khác nhau. Nửa dưới bài kệ nầy nói nghiệp. Ở ngôi tín hành địa thì tu hai pháp nầy gọi là tu nương. Nếu nhập vào địa Đại thừa thì lại có bốn thứ khác nhau: Tu Năng thông là nhập vào Sơ địa. Tu Năng xuất là nhập vào địa thứ sáu. Địa nầy có phát sinh tướng phương tiện. Tu Vô tướng là nhập vào địa thứ bảy. Tu Vô vi là nhập vào ba địa sau. Tu tập còn dụng công thì gọi là hữu vi. Ba địa sau, tu tập không còn dụng công, nên gọi là vô vi. Đó là năm thứ khác nhau của chỉ quán. Tịnh độ là nương vào ba địa sau mà tu tập Tịnh độ. Quả tịnh độ là tu tập hạnh chuyển y. Cả hai thứ đều trong sạch, đó là nghiệp chỉ quán. Đã nói Bồ-tát tu chỉ quán, kế đây là nói Bồ-tát tu tập năm thứ phương tiện khéo léo. Kệ rằng: Tự thục và thành sinh, Mau đạt quả, tác nghiệp, Đường sinh tử không dứt, Nói đây là năm khéo. Giải thích: Năm thứ xảo phương tiện là: Tự thành thục Phật pháp, dùng trí vô phân biệt làm phương tiện khéo léo. Thành thục chúng sinh, dùng bốn nhiếp pháp làm phương tiện khéo léo. Mau được Bồ-đề, lấy sám hối, tùy hỉ, thỉnh Phật chuyển pháp luân, phát nguyện cao cả làm phương tiện khéo léo. Tác nghiệp thành tựu, dùng hai pháp môn làm phương tiện khéo. Hai pháp môn là môn Đà-la-ni và môn Tam-muội. Hai pháp môn nầy có công năng làm các lợi ích thiết thực cho đời sống chúng sinh. Đường sinh tử không dứt, lấy Niết-bàn vô trụ xứ làm phương tiện khéo léo. Hỏi: Sự khác nhau của phương tiện khéo léo là gì? Kệ rằng: Bồ-tát khéo vô đẳng, Nương các địa khác nhau, Lợi ích mình, và người, Đó được gọi là Nghiệp. Giải thích: Nửa trên bài kệ nói về sự khác nhau của phương tiện khéo léo. Nửa dưới bài kệ nói về nghiệp của phương tiện khéo léo. Khác nhau là năm phương tiện nầy của Bồ-tát không còn gì sánh bằng. Vì sao? Vì trong các địa, nó không phải là pháp mà hàng Nhị thừa dùng được, nên nói là khác nhau. Nghiệp (nhiệm vụ) là có công năng thành tựu tất cả lợi ích cho mình và cho người. Đó gọi là Nghiệp. Đã nói về Bồ-tát tu phương tiện khéo léo. Kế là nói Bồ-tát tu Đà- la-ni. Kệ rằng: Nghiệp báo, và nghe, tập, Cũng lấy định làm nhân, Nương vào ba hạnh ấy, Giữ loại có ba thứ. Giải thích: Phẩm loại Đà-la-ni có ba thứ: Báo đắc, do sức mạnh đời trước mà được Đà-la-ni nầy. Tập đắc là có được Đà-la-ni nầy là nhờ sức nghe nhớ hiện đời. Tu đắc là được Đà-la-ni nầy là do nương vào sức Định. Hỏi: Chúng khác nhau ra sao? Kệ rằng: Hai nhỏ, một là lớn, Thứ lớn lại có ba, Địa trước và địa trên, Do bất tịnh và tịnh. Giải thích: Hai nhỏ, một là lớn: nghóa là trong phẩm loại của ba thứ kia là báo đắc, tập đắc là hạng nhỏ, tu đắc là hạng lớn. Một thứ lớn lại có ba thứ là trong chủng loại lớn ấy, lại còn, có ba thứ là: Nhuyến (hạ), Trung, Thượng, khi Bồ-tát chưa nhập vào địa thì tất cả đều là Nhuyến. Khi Bồ-tát nhập vào địa bất tịnh thì tất cả đều là Trung, nghóa là bảy địa đầu. Khi Bồ-tát nhập tịnh địa thì tất cả đều là Thượng, nghóa là ba địa sau. Hỏi: Nghiệp nó là gì? Kệ rằng: Nên biết các Bồ-tát, Thường nương Đà-la-ni, Nghe pháp và thọ pháp, Tác nghiệp đều như vậy. Giải thích: Nên biết trong đây, các Bồ-tát thường nương vào Đà- la-ni mà mở bày pháp mầu nhiệm và thường thọ trì. Đó là Nghiệp. Đã nói Bồ-tát tu tập Đà-la-ni, kế đây, là nói Bồ-tát lập các lời nguyện. Kệ rằng: Tư, dục chung làm thể, Trí, độc, là nhân đó, Các địa tức là địa, Hai quả, cũng là quả, Nên biết, khác có ba, Các thứ, đại, thanh tịnh, Nghiệp nầy có hai thứ, Là lợi mình, lợi người. Giải thích: Hai bài kệ nầy dùng sáu nghóa để phân biệt các nguyện: Tự tính, Nhân, Địa, Quả, Khác nhau và Nghiệp. Hai tâm lý suy nghó và ham muốn đều tương ưng làm tự tính. Lấy trí làm nhân nên các địa là địa. Hai quả là quả, là quả bây giờ và quả vị lai. Lấy nguyện làm nhân nên tâm toại nguyện. Tâm toại là những gì mà mình mong muốn đều thành tựu hết. Lại nữa, lấy sức mạnh của nguyện mà đi khắp các quả của các nguyện, đó là thân phát ra ánh sáng, miệng nói ra tiếng âm vang, cho đến nói rộng. Khác nhau có ba thứ là: các thứ: nghóa là ở địa tín, hạnh muốn được như thế, như thế. Rộng lớn nghóa là Bồ-tát nhập vào địa có mười đại nguyện. Thanh tịnh, nghóa các địa: sau sau, chuyển chuyển thanh tịnh, cho đến Phật địa cực thanh tịnh. Đó gọi là khác nhau. Hai thứ nghiệp kia là: Tự lợi thành tựu. Lợi người thành tựu. Đó gọi là Nghiệp. Đã nói các nguyện của Bồ-tát, kế đây là nói về Bồ-tát tu tập ba Tam-muội. Kệ rằng: Nên biết hai vô ngã, Hai ngã làm chỗ nương, Hai nương thường vắng lặng, Cảnh sở hành ba định. Giải thích: Ba Tam-muội có ba thứ sở hành là: Nhân pháp. Vô ngã, là sở hành của Tam-muội Không. Hai vô ngã kia là chỗ nương cho hai chấp. Năm thủ uẩn là hoạt động của Tam-muội vô nguyện. Tam-muội ấy nương vào vắng lặng rốt ráo là sở hành của Tam- muội vô tướng. Thế bị ba thứ Tam-muội ấy chấp lấy là ba thứ cảnh giới. Thể của ba thứ Tam-muội chủ thể chấp lấy là ba thứ Tam-muội. Đó gọi là ba thứ Tam-muội. Hỏi: Danh nghóa của ba thứ Tam-muội là gì? Kệ rằng: Định Không, vô phân biệt, Vô nguyện chán, trái sinh, Vô tướng, thường được vui, Nó thường nương vắng lặng. Giải thích: định Không, vô phân biệt: là nghóa của vô phân biệt, là nghóa của Tam-muội Không, không còn phân biệt hai thứ ngã nhân và pháp. Vô nguyện nhàm chán, ngược với phát sinh: Là nghóa của Tam- muội vô nguyện, nhàm chán, đi ngược chỗ nương của chấp ngã. Vô tướng thường được an vui: Vì nó thường nương vào vắng lặng, là nghóa của an vui chứng đắc là nghóa của Tam-muội Vô tướng. Do vui chứng đắc làm chỗ nương nên Tam-muội kia hoàn toàn vắng lặng. Hỏi: Ba thứ Tam-muội nầy sinh khởi ra sao? Kệ rằng: Nên biết và nên dứt, Cho đến phải thân chứng, Thứ lớp định không thảy, Tu tập có ba thứ. Giải thích: Nên biết và nên dứt, cho đến phải thân chứng thì, nên biết là biết hai vô ngã là pháp và nhân. Nên dứt là dứt trừ chỗ nương của hai thứ chấp ấy. Nên chứng là hai thứ vô ngã kia nương vào chỗ vắng lặng rốt ráo. Theo thứ lớp, các thứ định như không tu tập có ba thứ là trong ấy, vì biết hai vô ngã là nhân và pháp, cho nên tu Tam-muội Không. Vì dứt trừ chỗ nương của hai chấp kia, cho nên tu Tam-muội Vô nguyện. Vì muốn chứng tới chỗ rốt ráo vắng lặng là chỗ nương của hai vô ngã kia, cho nên tu Tam-muội Vô tướng. Đã nói về Bồ-tát tu tập ba thứ Tam-muội, kế đây nói về bốn pháp Ưu-đà-na của Bồ-tát. Kệ rằng: Như ba Tam-muội trước, Bốn ấn làm chỗ nương, Bồ-tát nói như thế, Vì lợi ích chúng sinh. Giải thích: Bốn pháp ấn là: Ấn tất cả hành vô thường. Ấn tất cả hành là khổ. Ấn tất cả pháp vô ngã. Ấn Niết-bàn là vắng lặng. Trong đó, nên biết: Ấn vô thường và ấn khổ làm chỗ nương cho Tam-muội Vô nguyện. Ấn vô ngã làm chỗ nương cho Tam-muội không, Ấn Vắng lặng làm nơi nương dựa cho Tam-muội Vô Nguyện. Bồ-tát nói bốn ấn nầy là nương vào ba thứ Tam-muội, đều đem lại lợi ích cho chúng sinh. Hỏi: Những gì là nghóa vô thường cho đến những gì là nghóa vắng lặng? Kệ rằng: Nghóa vô, nghóa phân biệt, Nghóa phân biệt, bất chân, Nghóa dứt các phân biệt, Đó là nghóa bốn ấn. Giải thích: Trong đây, các Bồ-tát cho rằng Không là nghóa của vô thường, do phân biệt tướng rốt ráo là vô thường. Cho phân biệt là nghóa của vô ngã, do biết các tướng thì chỉ nhờ phân biệt. Hai nghóa nầy là phân biệt về tướng, vì nó không có tự thể. Nghóa khổ là do phân biệt không chân thật, do tâm, tâm pháp trong ba cõi đều là thể của khổ. Đây là tướng Y tha. Dứt hết nghóa phân biệt, đó là nghóa của vắng lặng. Đây là tướng chân thật. Lại nữa, nên biết tướng Y Tha còn lấy sự hoại diệt trong từng sát-na để nói về nghóa vô thường. Hỏi: Nghóa hoại diệt trong sát-na là gì? Kệ rằng: Sinh khởi và từ nhân, Trái nhau, cũng không trụ, Vô thể, không tướng định, Xoay mãi, tàn rụi hết, Nhân biến khác cũng quả, Nắm giữ và tăng lên, Tùy tịnh và tùy sinh, Nghóa thành có mười lăm. Giải thích: Hai bài kệ nầy dùng mười lăm ý nghóa để lập nghóa diệt trong từng sát-na: Do khởi. Do nhân. Do trái nhau. Do bất trụ. Do vô thể. Do định tướng. Do tùy chuyển. Do tàn rụi (diệt tận). Do đổi khác. Nhân. Quả. Nắm giữ. Tăng thượng. Tùy tịnh. Tùy sinh. Do mười lăm nghóa nầy mà nghóa về sát-na hoại diệt được thành lập. Thứ nhất: Do sinh khởi nghóa là các hành thường trôi nổi nối nhau nên gọi là sinh khởi. Nếu không có nghóa hoại diệt trong từng sát-na mà các hành vẫn nối nhau trôi nổi gọi là sinh khởi là điều không đúng. Nếu ông nói sự vật tạm thời đứng yên, rồi sau đó, cái trước diệt, cái sau sinh khởi mà bảo là nối nhau thì đó không phải nối nhau, do đã tạm ngừng thì, sau không sinh khởi. Thứ hai: Là do nhân là hễ vật trước tàn rụi, vật sau sinh khởi thì phải dựa vào nhân duyên. Nếu lìa nhân duyên thì nó vô thể. Nếu ông nói vật đó, nhân đầu tiên có thể phát sinh, nhưng sau đó có nhiều quả, thì điều ấy không đúng. Do nhân ban đầu thành tác giả nghiệp rồi, nó liền diệt hết rồi thì làm sao có thể làm nhân cho các quả về sau? Nếu ông nói: Nhân ban đầu phát sinh rồi thì không phát sinh nữa, thì đặt ra nhân ấy để làm gì? Nếu ông nói: Nhân sinh rồi, chưa diệt, sau đó mới diệt, thì nhân ấy, đến lúc sau, ai làm nhân cho nó diệt? Thứ ba: trái nhau, là nếu ông chấp nhân vừa phát sinh, vừa là hoại diệt thì không đúng. Sinh và diệt trái nhau mà lại cùng một nhân, thì không có lý ấy. Như sáng tối không xuất hiện cùng lúc, nóng lạnh không sinh đồng thời. Việc vừa nói ở trên cũng như vậy. Thế nên nhân của sinh, không phải nhân của diệt. Nếu ông chấp: Các hành sinh rồi chẳng phải liền diệt, thì trái với A-hàm và đạo lý. Trái với A-hàm nghóa là Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các hành như huyễn là pháp hoại diệt, là pháp tạm thời, sát-na không trụ”. Trái với đạo lý nghóa là các vị tu hành đối với các hành sinh diệt, suy nghó ý nghóa hoại diệt trong từng sát-na. Nếu không quán chiếu như vậy, khi sắp chết, thấy tướng hoại diệt kia thì không có ý tưởng nhàm chán điều ác, lìa dục mà giải thoát, như vậy thì cũng giống như bao phàm phu khác. Thứ tư: Không trụ là nếu ông nói các hành sinh rồi có trụ, thì các hành tự trụ hay nhờ nhân khác mà trụ? Nếu các hành chính nó tự trụ thì vì sao không trụ mãi? Nếu nhờ nhân khác mà trụ thì sự trụ ấy vô thể, thì làm nhân sao được? Cả hai đều không đúng. Thế nên nghóa hoại diệt trong từng sát-na có giá trị. Thứ năm: Vô thể, nghóa là nếu ông chấp các hành trụ là do không có nhân trụ và nhân hoại diệt thì chưa đến nhân hoại diệt nếu đến, thì sau đó liền diệt, không phải như lửa biến sắt đen là không đúng, vì nhân hoại diệt hoàn toàn là vô thể. Thí dụ về lửa biến sắt, tôi cho là không có việc đó, vì sắt và lửa hợp nhau thành màu đen dường như diệt, còn màu đỏ dường như sinh. Công năng của sinh giống như màu đỏ là công năng của lửa. Thật ra không phải lửa biến sắt đen. Lại như ta nấu nước, nấu cho đến khi cạn nước thì nước không sinh, chẳng phải lửa họp làm mà nước mới vô tự thể. Thứ sáu: Là tướng định, đức Phật nói: “Pháp hữu vi, tướng hữu vi, đều chắc chắn một tướng là vô thường. Nếu ông chấp các hành phát sinh, không phải hoại diệt ngay, đó là pháp hữu vi, có chút thời gian nào đó là chẳng phải vô thường, như vậy là rơi vào không phải một hướng tướng”. Thứ bảy: Tùy chuyển là nếu ông nói các vật mới sinh trong mỗi giây phút làm sao biết được trong khoảng giữa có vật cũ sinh ra? Vậy thì ông nên nói là vì chuyển biến giống nhau nên có được hiểu biết đó. Ví như ánh sáng đèn dường như có sinh nên biết được ánh đèn cũ có sinh, nhưng thật ra, có sự khác nhau, do thể của ánh đèn trước là không. Thứ tám: Diệt tận là nếu ông nói làm sao biết được vật sau không phải là vật trước, thì nên nói do diệt hết, vì nếu có trụ mà không có diệt thì sát-na trước và sát-na sau trụ, không có sự khác nhau giữa chúng. Trong khi đó, nhờ có khác nhau nên ta mới biết được vật sau không phải vật trước. Thứ chín: Biến khác: là nếu ông nói vật mới sinh không phải đổi khác ngay, là không đúng do thể của các hành dù trong, ngoài, phía sau, tất cả đều không thật có, do một vật mới sinh thì nó đã biến dần cho đến sáng tỏ, như khuấy sữa cho đến lúc thành bơ thì hình thức bơ mới hiện ra. Nhưng thể nó đổi khác rất nhỏ nhiệm, khó thấy biết. Do sự chuyển biết từng lúc đền na ná như nhau nên gọi là vật trước. Do vậy, nên ý nghóa hoại diệt trong từng sát-na có giá trị. Thứ mười: Nhân nếu ông chấp nhận tâm sinh diệt từng sát-na thì nhân phát sinh của tâm là mắt, sắc v.v… Các hành cũng diệt theo từng sát-na từ nhân đến quả, vì không thể dùng nhân thường còn được cho nó sinh ra quả vô thường được. Thứ mười một: Quả, mắt kia v.v… Cũng như các hành cũng là quả của tâm, do vậy nên ý nghóa hoại diệt trong từng sát-na có giá trị, do không thể dùng nhân vô thường để cho nó sinh quả thường. Thứ mười hai: Chấp trì, nếu ông nói: Làm sao biết được các hành như mắt, v.v… cũng là quả của tâm, thì ông nên nói là do tâm nắm giữ nên chúng được tăng thêm lên. Thứ mười ba: Tăng thượng, lại Chư Phật nói: “Tâm đem thế gian đi, tâm dẫn thế gian đến, do tâm là tự tại nên thế gian biến chuyển theo. Thức duyên với danh sắc, thuyết nầy cũng như vậy”. Nên biết các hành là quả của tâm. Thứ mười bốn: Tùy tịnh, tịnh là tâm của người thực hành thiền định. Các hành của người ấy đều chuyển biến theo tâm thanh tịnh. Như kinh nói: “Thầy Tỳ-kheo tu thiền có đầy đủ thần thông” nên tâm được tự tại. Nếu muốn biến gỗ thành vàng thì cũng tùy ý. Do vậy mà biết các hành đều là quả của tâm. Thứ mười lăm: Tùy sinh, như kẻ gây ra tội ác thì những gì bên ngoài có được đều thấp kém. Trái lại, ai làm nhiều phước thì những gì bên ngoài mà họ có được đều là tốt đẹp. Do vậy mà biết các hành pháp đều là quả của tâm. Nhân là sát-na mà quả không phải là sát-na thì không có lý ấy, vì nhân tự tại. Như vậy, đã thành lập chung là tất cả các hành pháp trong ngoài đều là sát-na, kế đây là, là thành lập riêng nội pháp là sát-na. Kệ rằng: Mới sinh, nối nhau sinh, Sinh lâu, nương sinh, Sinh biến, sinh chín muồi, Sinh hèn, sinh cao đẹp, Sinh minh, sinh vô minh, Cho đến sinh nơi khác, Sinh chủng, sinh vô chủng, Vậy mười bốn sinh khởi. Giải thích: Hai bài kệ nầy dùng mười bốn thứ sinh khởi thành lập ý nghóa sát-na đối với các hành pháp của hiện tượng bên trong. Mới sinh nghóa là phát sinh do tự thể đầu tiên. Nối nhau sinh là qua sát-na đầu tiên, các sát-na khác tiếp tục sinh. Sinh lâu dài là ăn, ngủ, phạm hạnh thọ dụng chân chính, nuôi dưỡng nên sống. Nương sinh là nhãn thức nương vào các căn như nhãn căn vân vân mà phát sinh tác dụng. Biến đổi sinh là các pháp nhiễm ô như tham, v.v… giúp cho sắc, v.v… Biến chuyển sinh khởi. Sinh do chín muồi là sự sinh khởi từ bào thai, ấu thơ, nhi đồng, thiếu niên, trung niên, già. Sinh tử thấp kém, là đọa vào đường ác. Sinh tốt đẹp là sinh vào đường lành. Sinh sáng tỏ là sinh vào hai cõi Trời, sau cõi Dục và tất cả tầng trời, ở cõi Sắc, cõi Vô sắc. Sinh tối tăm là trừ chỗ sáng vừa nói, sinh vào các nơi khác. Sinh nơi lạ là chết đây sinh nơi khác. Sinh có hạt giống là trừ A-la-hán sinh khởi năm ấm sau cùng. Sinh không có hạt giống là trước trừ năm ấm sau cùng sinh khởi vì hạt giống sinh sau không có. Sinh dường như vậy là người khác nhập vào thiền giải thoát, do sức định tự tại, nên các hành pháp dường như sinh khởi. Hỏi: Do nhân duyên nào mà thành lập mười bốn thứ sinh khởi? Kệ rằng: Nối khác, và dứt khác, Theo thời cũng theo nương, Ngừng lại và trôi qua, Vô trụ không, không chết, Cũng có tùy tướng tâm, Hành giả cần phải biết, Như chín thứ nhân đó, Thành mười bốn khởi trước. Giải thích: Hai bài kệ nầy dùng chín thứ nhân để thành lập mười bốn thứ sinh khởi nói trên. Chín nhân là: Nối khác Dứt khác. Tùy lớn. Tùy nương. Trụ quá. Khứ quá. Vô trụ. Hữu tử. Tùy tâm. Nối khác là nhân nầy thành lập sinh thứ nhất (ở trên). Nếu lúc sinh khởi đầu tiên nầy mà nhân của thể là không khác thì lúc sau, các hành pháp sinh khởi cũng không khác nhau, do nhân thể không khác nhau. Nhưng do có khác nên các hành sát-na sau mới thành. Dứt khác là nhân nầy thành lập nối nhau sinh thứ hai (ở trên). Nếu từng sát-na mà nhân chẳng khác nhau thì sau đó, sự khác nhau của dứt cũng không thật có. Nhưng do dứt có khác nhau, nên ý nghóa về các hành pháp sát-na được thành. Tùy trưởng là nhân nầy thành lập cái sinh trưởng thứ ba (nói trên). Do có công năng giúp cho các hành pháp được tròn đầy cho nên gọi là lớn lên. Nếu không có sát-na mà các hành pháp phát triển lên thì không đúng lý, vì chúng có trụ. Nếu các hành pháp có dừng trụ thì chúng không thể nào dần dần lớn và tròn đầy được, và không thể gọi là lớn mạnh lên. Tùy nương là nhân nầy thành lập sinh khởi do nương thứ tư (nói trên). Nếu chấp năng nương là không dừng trụ, mà sở nương dừng trụ thì không đúng. Ví như kẻ cưỡi ngựa, người đi mà ngựa không đi thì không có việc đó. Như thế, thức nương vào các căn, thức thì có sát-na mà sự nương thì không có sát-na, thì không đúng, cũng như vậy. Trụ quá là nhân nầy thành lập sáu sinh khởi là: Sinh khởi vì biến đổi, sinh khởi vì chín muồi, sinh khởi vì thấp hèn, sinh khởi vì cao đẹp, sinh khởi vì sáng tỏ, và sinh khởi vì tối tăm. Thành lập sinh khởi vì thay đổi, sinh khởi vì chín muồi là nếu chấp các hành pháp lúc mới sinh liền dừng trụ, không diệt thì không đúng, vì không thay đổi, nghóa là biến các sắc như tham, v.v… Là hoàn toàn không thật có. Vì từ đầu mà không thay đổi thì sau, cũng như vậy. Nếu từ đầu không thay đổi mà sau đó có những chín muồi thì cũng không thể có được. Vì từ đầu có biến đổi nên sau đó mới có chín muồi. Thành lập sinh khởi vì thấp kém, sinh khởi vì cao đẹp sát-na cũng như vậy. Nếu chấp các hành pháp được dừng trụ mà lại có thứ lớp thiện ác huân tập với quả của chúng thì không đúng. Vì các hành pháp không trụ nên thứ lớp nối nhau mà mỗi thứ trổ ra quả. Nghóa ấy là đúng. Thành lập sinh khởi sáng tỏ, sinh khởi tối tăm sát- na, cũng giống như vậy. Nếu các hành pháp được dừng trụ thì sinh khởi sáng tỏ, cũng như vậy. Không dừng trụ là có, vì tâm chuyển biến. Sinh khởi tối tăm cũng như vậy, vì thời gian sau không đổi khác. Khứ quá là nhân nầy thành lập sinh khởi khác nơi chốn thứ hai (nói trên). Nếu chấp các hành pháp đi đến nơi khác mà gọi là đi là không đúng. Nay tôi hỏi ông: Các hành pháp đã làm ra là đã sinh khởi, đem chúng đến nơi khác, hay không sinh khởi mà vẫn đem các hành pháp ấy đến nơi khác? Nếu đã sinh khởi rồi mới đem đi thì nơi đây sinh rồi, mà nơi khác không sinh, đây tức là dừng trụ, thế mà lại nói là đi thì ý nghóa đó trái nhau. Nếu không sinh khởi mà đem đi thì đã không sinh khởi, nên xưa giờ, nó không có đi đâu hết, nhưng lại bảo có đi, lời nói đó là vô nghóa. Lại nữa, nếu các hành pháp đã làm ra rồi dừng trụ nơi ấy tức là năng làm và sở đã khiến các hành pháp phải đi, thì điều ấy không đúng, vì hễ dừng trụ thì không đến bất cứ đâu được. Nếu các hành pháp đến nơi chốn khác mới ra tay tạo tác cái phải tạo tác, thì điều ấy không đúng. Không có việc ra đi, từ bỏ nơi nầy mà có các hành pháp đến nơi khác, hay nó trụ ở đây hay trụ nơi khác. Lìa các hành pháp thì hoàn toàn không thể tìm thấy được sự biến dịch, phát sinh… Cho nên, không phải đổi khác mà các hành pháp nối nhau tạo ra bước đi, do tạo tác và bước đi là không thể, nên nghóa sát-na có giá trị. Nếu ông nói: Nếu hoàn toàn không có đi, vì sao thấy người đời đi? Điều ấy, ông nên nói như vầy: Là do nối nhau không xen hở, nên tạm gọi là đi. Thật ra, không có tự thể của việc đi. Nếu ông nói: Do nhân duyên nào mà các hành pháp nối nhau đi? Điều ấy, nên nói như vầy: Do nhân duyên vô lượng, cộng với sức mạnh của tâm tự tại như: oai nghi trong đi, lại v.v… Hay do nghiệp đời trước tự tại, như thân trung ấm đi, lại hay do sức mạnh của tay tự tại bắn tên đi, ném đá đi, hay có chỗ nương tự tại đáp xe, đi thuyền, hay có năng lực sai khiến tự tại như gió thổi các vật bay đi. Có thể tự tại thì như tính của gió là đi ngang, tính của lửa là bốc lên, tính của nước thì chảy xuống. Có sức mạnh tự tại của chú thuật như nương vào chú, nương vào thuốc mà đi qua lưng trời. Có đá nam châm tự tại nên khiến sắt đi. Có sức thần thông tự tại như vận thần thông bay đi. Những việc ấy có vô lượng nhân duyên, có công năng khiến các hành pháp nối nhau, tạm gọi là đi, ý nghóa đó nên biết. Không trụ là nhân nầy thành lập sinh khởi có hạt giống thứ mười hai (nói trên). Nếu các hành pháp được dừng trụ lại thì thời gian khác lại có hạt giống sinh khởi nữa, điều ấy không đúng, do không hề có nhân nào khác. Nếu các hành pháp không dừng trụ mà hạt giống sau lại phát sinh, thì nghóa đó không đúng. Có chết nhân nầy thành lập sinh khởi không hạt giống thứ mười ba (nói trên). Nếu không có sát-na mà có lúc chết để sinh khởi không do hạt giống, thì không đúng. Còn như trước sinh khởi đã có hạt giống về sau, khi chết sinh khởi không có hạt giống. Điều ấy cũng không đúng. Do từng sát-na nhân không có tự thể, nên khi chết, tâm sát-na không thành. Tùy tâm, nhân nầy thành lập sinh khởi dường như có, điều mười bốn (nói trên). Do tâm tự tại từng sát-na nên các hành pháp kia được phát sinh. Nếu không có sát-na mà hiện tượng được sinh khởi thì không có việc đó. Hỏi: Như vậy, thành lập riêng pháp hữu vi sát-na, bên trong rồi. Còn có nhân duyên nào để thành lập các pháp bên ngoài như bốn đại, sáu thứ tạo sắc đều là sát-na chăng? Kệ rằng: Do thấm ướt, khô cạn, Tính động, tăng cũng giảm, Hai khởi và bốn biến, Sức củi hao tổn dần, Cũng nói tùy tâm khởi, Do hỏi gặn, thành lập, Tất cả pháp bên ngoài, Đều là thể sát-na. Giải thích: Hai bài kệ nầy, dùng mười bốn thứ nhân để thành lập ngoài cùng là sát-na. Nước có hai nhân: Thấm ướt. Khô kiệt. Nếu nước không có sát-na thì có lúc tràn đầy, hoặc có lúc khô cạn, những việc ấy, không thể hiển hiện. Nếu có ai hỏi như vầy: Đã không có sát-na thì nước thấm ướt do nhân duyên nào? Lại từ nhân duyên nào đã khô kiệt? Câu hỏi đó, không thể trả lời. Nay, thấy nước có tràn đầy và khô cạn, cho nên biết sát-na là nhân của nước tràn đầy và khô cạn. Gió có ba nhân: Tính chất động. Tăng thạnh. Vận tốc giảm và dứt bặt. Nếu tính của gió là đứng im thì không lúc nào động. Nó sống với vô thể, nên không tăng thạnh, không giảm dứt, vì nó đứng yên. Đất có sáu nhân là hai sinh khởi và bốn biến đổi. Hai sinh khởi là do nước, do gió nên đất mới thành hình. Nghóa là từ khởi thỉ, đất là quả của gió và nước, cho nên biết, đất cũng là sát- na. Bốn biến đổi là do bốn biến đổi mà quả đất nầy mới thành hình: Do nghiệp lực tạo tác: do nghiệp lực chúng sinh có khác nhau. Công sức của con người tạo ra do đào xới đục khoét, v.v… Các sức mạnh lớn đã làm ra, như do lửa, nước, gió… Thời tiết tạo ra là do thời tiết biến đổi xoay chuyển nên nhiều tướng lạ xuất hiện. Nếu không phải sát-na thì bốn việc đổi thay ấy không thành hình do không có tự thể. Như đất đã có sáu nhân biết là sát-na, thì sáu nhân sắc hương vị xúc cũng như vậy. Cho nên chúng cũng là sát-na. Lửa có một nhân, là do sức củi. Do sức củi lửa mới cháy thêm nên lửa phát sinh, thành hình. Do cùng lửa phát sinh nên củi không ở yên, nhưng lửa sau khi đốt hết củi thì nó cũng không đứng yên ở đâu. Nếu lửa không có do củi thì sau đó, không còn củi, lửa đáng lẽ vẫn còn lâu dài. Do nghóa tùy và đồng nên tiếng lửa là còn, nói là tiếng nói sau, chỉ có một nhân, nghóa là yếu mòn dần, như tiếng chuông, sau đó nhỏ dần có thể biết được. Nếu không có sát-na thì sau đó, tiếng nhỏ ấy, không thể có được. Lý pháp nhập sắc chỉ có một nhân là tùy tâm sinh khởi. Như khi thọ giới, tùy tâm hạ, trung, thượng, vì nhẫn phát tâm là sát-na, nên quả của thọ giới cũng là sát-na. Thế nên các pháp sát-na bên ngoài được thành lập, có giá trị. Lại nữa, tất cả đều vì gặn hỏi. Nay tôi hỏi ông: Vì sao ông muốn các hành pháp vô thường mà không muốn chúng sống với sát-na diệt? Nếu ông nói từng sát-na diệt là điều không thể biết thì không đúng. Ví như ngọn đèn, không bị chao động thì sát-na của nó cũng không biết được. Vì sao ông không muốn khiến thể của ngọn đèn không có sát-na? Nếu ông nói thể của ngọn đèn có sát-na nhưng quá nhỏ, cho nên không thấy biết được. Các hành pháp cũng như vậy. Vì sao không muốn nhận các hành pháp có sát-na trong đó? Nếu ông nói ngọn đèn và các hành pháp không giống nhau thì không đúng. Không giống nhau có hai thứ: Tự tính không giống nhau. Thời gian không giống nhau. Nếu tự tính chúng không giống nhau thì thí dụ nầy có giá trị, không phải lấy tự thể để làm thí dụ. Không phải lấy đèn dụ cho đèn, lấy dụ trâu để dụ cho trâu, thì không thành lập được. Nếu thời gian chúng không giống nhau thì thí dụ nầy cũng được thành lập. Do đèn và các hành pháp đều có sát-na giống nhau. Nếu không có thí dụ sát-na thì không thành lập được. Nay tôi lại hỏi ông: Ví như người đậu xe, khi xe dừng bánh thì người ấy có đi hay không? Thưa: Không! Nếu thế thì giác quan nương là đứng yên, còn thức năng y lại đi. Điều ấy không đúng lý. Nếu ông nói rằng: Vì sao hiện giờ, tôi thấy ngọn đèn từng chập tắt dần, nhưng tim đèn thì vẫn đứng yên như thế. Điều ấy nên nói rằng: ông thấy mà chẳng thấy, do tim đèn nối nhau trong từng sát-na, cũng như sinh khởi (trong từng sát-na) nhưng do ông không biết đúng như thật. Nếu ông nói rằng: Vì sao người trên đời không thấy các hành pháp sát-na như ngọn đèn? Điều nầy, ông nên nói: Do các hành pháp là vật trái ngược cho nên nối nhau chuyển biến trong từng sát-na. Điều ấy không thể biết, nhưng thật sự thì mỗi món vẫn sinh khởi khác nhau. Người đời nói rằng vật trước sinh khởi, đó là hiểu biết điên đảo. Nếu không như vậy thì không có ý tưởng điên đảo là đối với vô thường mà cho là thường. Thể của điên đảo nếu không có thì cũng không có nhiễm ô, thì từ đâu mà có giải thoát? Do gặn hỏi nên các hành pháp sát-na được thành lập. Đã thành lập xong nghóa vô thường, kế đây là, thành lập nghóa vô ngã. Hỏi: Con người đây có thể nói là có hay không? Kệ rằng: Người giả, chẳng có thật, Nói thật không thể được, Điên đảo và nhiễm ô, Nhân nhiễm được thành lập. Giải thích: Con người là giả, chẳng phải thật có là có thể nói con người là giả danh, có mà chẳng phải thật thể. Nếu vậy thì không rơi vào lối chấp một chiều, do lìa có và không. Hỏi: Con người là thật có, vì sao biết là nó không? Đáp: thật không không thể nắm bắt, do con người không như sắc v.v… Có thật, có thể nắm bắt, không phải giác tri biết tới được. Hỏi: Con người không phải giác tri biết được thì vì sao Đức Phật lại bảo: Ngã có thể được trong hiện tại? Vậy thì ông nói không thật có là không đúng. Đáp: Ở đây nói nắm bắt được là không phải thật có thể nắm bắt được, là do điên đảo. Đức Phật nói: Vô ngã chấp là ngã, đó gọi là điên đảo. Hỏi: Làm sao biết là điên đảo? Đáp: Do nhiễm ô, thân kiến là nhiễm ô, cái gọi là ngã, ngã sở chấp. Nếu không có điên đảo thì không nhiễm ô. Hỏi: Làm sao biết ngã chấp là nhiễm ô? Đáp: Vì ngã chấp là nhân của nhiễm ô. Vì ngã chấp làm nhân cho nên các nhiễm ô như tham, v.v… vẫn được khởi, v.v… cho nên biết: Ngã chấp là nhiễm ô. Hỏi: Như ông đã thừa nhận rằng năm ấm như sắc, v.v… Nên nói con người là giả có. Vậy thì con người và năm ấm một hay khác? Kệ rằng: Người giả, ấm là thật, Chẳng thể nói một, khác, Nếu nói là một, khác, Thì sinh ra hai lỗi. Giải thích: Người giả và ấm, không thể nói chúng là một, là khác. Nếu nói là một, là khác thì mắc hai lỗi. Hai lỗi là nếu nói người và ấm là một, thì ấm là người, và người là thật. Nếu nói người và ấm là khác nhau, thì ấm dù chẳng phải người, nhưng người cũng chẳng phải thật. Vì lẽ đó, người là đặt ra là có, nên không thể nói là một hay khác. Cho nên đức Như lai ngừng lại ở đó. Luận thành lập để giải thích. Kệ rằng: Nếu chấp người là thật, Một khác có thể nói, Một khác không thể nói, Vì điều ấy vô lý. Giải thích: Nếu ai đi ngược lời dạy của Đại sư mà chấp có người thật, thì con người thật ấy, cùng với ấm là một hay khác? thì có thể bàn đến. Nhưng nếu chấp người và ấm là một hay khác thì không thể bàn nói, do thuyết đó không hợp lý. Nếu ông nói: Con người không thể nói, như lửa và quỷ, chẳng phải khác, chẳng phải không khác thì không đúng. Kệ rằng: Tướng khác người đời thấy, Bậc thánh nói cũng không đúng, Củi, lửa, phi không nói, Có hai có thể được. Giải thích: Tướng khác lạ là lửa, là hoả đại (trong bốn đại) củi là đại khác. Mỗi đại đều có tướng khác nhau. Cho nên lửa và củi khác nhau. Người đời nhìn thấy là người đời thấy củi, không thấy lửa, gọi là lửa có thể đốt cháy gỗ, cũng là lìa củi thấy lửa. Như gió thổi lửa bay đi, cho nên biết lửa và củi khác nhau. Bậc Thánh nói cũng không đúng nghóa là không có chỗ nào mà Phật Thế Tôn nói lửa và củi là một hay khác. Thế nên ông chấp lửa và củi là một hay khác, không thể nói, vì điều ấy không đúng lý. Nếu ông nói không phải bỏ củi thấy lửa, thì gió là củi, là không đúng. Có hai đại có thể có, do hai tướng của lửa và gió khác nhau. Lại nữa. Kệ rằng: Hai có nên thức khởi, Người duyên, là phi nghóa, Tốt diệt, điều xấu sinh, Nói sinh lại phi lý. Giải thích: Nếu có ai chấp con người là có thật, là có việc thấy, việc nghe, cảm giác, hiểu biết, ăn nói, phân biệt, nếu vậy thì khi mắt người đó phát sinh thức, v.v… thì người ấy thành duyên, gọi người là tác giả hay coi người ấy là chủ, thì gọi người là tác giả. Nếu coi người làm duyên thì còn hai cái có, nên thức phát sinh người là duyên thì phi lý, vì con người không có chút năng lực nào có thể thấy khi thức phát sinh tác dụng. Nếu cho con người là chủ thì điều tốt diệt, điều ác sinh mà nói là sinh thì lại phi lý. Nếu người là chủ thì những gì mình yêu mến phát sinh thì lẽ ra những yêu mến ấy là không diệt, không nên để nó diệt. Cái không yêu mến chưa phát sinh, lẽ ra hoàn toàn làm cho chúng không sinh, không nên giúp cho chúng phát sinh ra. Vì vậy cho nên, ông không nên chấp con người là người thấy cho đến hiểu biết hơn nữa. Kệ rằng: Ông chấp người là thật, Nghiệp nào lập nó được? Không thật, gượng là thật, Trái tam Bồ-đề Phật. Giải thích: Nếu người là thật có thì nghiệp gì có thể được thành lập? Hễ cái gì có thật thì phải có sự nghiệp, như mắt, v.v… Tịnh sắc nhờ thấy, mà sự nghiệp chúng được thành lập. Còn con người không có những sự nghiệp như vậy mà vẫn có thể được thành lập, cho nên con người là chẳng thật có. Lại nữa, trong con người không thật có mà ông gượng muốn con người là có thật, như vậy là đi ngược với ba thứ Bồ-đề của Như lai: Bồ-đề sâu xa. Bồ-đề bất cộng. Bồ-đề xuất thế. Nếu chấp con người là thật có thì chẳng phải là Bồ-đề sâu xa, là cùng Bồ-đề với ngoại đạo, là Bồ-đề không tu tập thế gian, cho nên chấp ấy là thế gian đã chấp, là nơi ngoại đạo đắm chấp, là thường huân tập sinh tử. Lại nữa, nếu con người với thấy cho đến biết thì các căn như mắt. v.v… Là có công dụng hay không? Nếu có công dụng thì tự nhiên sinh khởi hay do con người sinh khởi? Người kia có những nghi ngờ gì? Kệ rằng: Nếu cho tự nhiên khởi, Là mắc ba điều lỗi, Nếu lấy người làm duyên, Thì nhãn thảy vô dụng. Giải thích: Nếu nói công dụng của mắt v.v… Là tự nhiên phát sinh, đối với mắt, con người không có sự nghiệp gì, thì mắc vào ba lỗi. Nếu con người làm duyên nên công dụng được phát sinh thì các căn như mắt,v.v… Là hoàn toàn không có công dụng gì. Hỏi: Công dụng tự nhiên sinh khởi, vì sao có ba lỗi? Kệ rằng: Người chẳng phải tác giả, Dụng chẳng thường phát khởi. Khởi chẳng phải nhất thời, Tự khởi thì không đúng. Giải thích: Nếu công dụng của mắt tự nhiên sinh khởi, không đợi người làm, tự nhiên mà khởi thì con người chẳng phải tác giả. Thế thì vì sao nói con người thấy cho đến biết? Đó là lỗi thứ nhất. Nếu công dụng của mắt,v.v… Tự nhiên phát sinh, thì lẽ ra thường phát sinh xuyên, không nên phát sinh bất thường. Đó là lỗi lần thứ hai. Nếu công dụng của mắt v.v… thường phát sinh xuyên thì nên phát sinh cùng lúc mới phải, chứ vì sao lại không phát sinh cùng lúc? Đó là lỗi thứ ba. Do nghóa ấy, nên nếu nói công dụng của mắt tự nhiên phát sinh thì không đúng. Hỏi: Coi con người làm duyên thì có lỗi gì? Kệ rằng: Người trụ, dụng trước không, Người hoại, người diệt mất, Lại có thể thứ ba, Làm duyên không nghóa đó. Giải thích: Nếu nói con người trụ và công dụng làm duyên mà con người đã thường có thì vì sao công dụng lại trước không, sau có? Nên nghóa đó không đúng. Nếu bảo con người hoại diệt làm duyên, mà người hoại là rơi vào vô thường nên điều ấy cũng không đúng. Nếu nói còn có con người thứ ba không trụ, không hoại làm duyên thì không có nghóa đó. Như vậy, y theo lý mà nói con người là thật thì không thể được. Lại nữa. Kệ rằng: Các pháp, ấn vô ngã, Và nói chân thật không, Có ngã, mắc năm lỗi, Thế nên biết vô ngã. Giải thích: Trong Kinh Pháp Ấn, Phật nói: Tất cả pháp là vô ngã. Trong kinh Chân Thật Không, Phật nói: Có nghiệp, có báo nhưng không có tác giả, do bỏ thân trước, nhận thân sau, chỉ là pháp sinh diệt. Trong kinh Tăng Ngũ nói: Nếu chấp có ngã thì mắc năm lỗi: Rơi vào kiến xứ, phát sinh ngã chấp. Mạng sống là kiến chấp. Đồng như ngoại đạo. Tịch hạnh, tà vạy. Đối với pháp không, thì không ham muốn, không tin, không trụ. có. Thánh pháp không được thanh tịnh. Như vậy, theo kinh A-hàm nói: Có người thật, thì cũng không thật Hỏi: Nếu không có người thật thì vì sao trong kinh chỗ nào Đức Thế Tôn cũng nói có người? Là người hiểu biết, gánh vác, xây dựng, thuận theo, tin và làm. Kệ rằng: Bởi y pháp nhiễm tịnh, Vị, đoạn nói có khác, Hành khác, tương tục khác, Không thật, giả nói người. Giải thích: Do căn cứ vào pháp nhiễm ô và pháp thanh tịnh mới có sự khác nhau về vị trí và khác nhau về dứt trừ, cho nên lập ra con người giả có khác nhau. Nếu không có người giả khác nhau thì không thể nói có hành vi khác nhau, và tương tục khác nhau, như trong kinh nói: Các pháp nào gọi là pháp nhiễm ô? Làm sao biết được pháp nào là thanh tịnh? Như trong kinh Phụ Đảm nói: “Vì sao gánh vác là pháp nhiễm ô? Vì sao bỏ gánh xuống là pháp thanh tịnh?”. Nếu không có hành vi khác nhau và nối tiếp khác nhau thì không thể nói hai pháp nầy là sự hiểu biết, sự gánh vác. Pháp phần Bồ-đề có hai vị trí khác nhau, là phương tiện đạo, kiến đạo, tu đạo, và cứu cánh đạo. Nếu không có hành vi khác nhau và tương tục khác nhau thì không thể nói pháp phần Bồ-đề kia là có khác nhau của những người thuận theo, tin và làm v.v… Vì không có người thật nên ước lượng theo pháp khác nhau mà nói là giả có. Từ lý ấy mà biết những gì Phật nói chỉ là nói có người giả. Nếu Phật cố ý không nói người giả mà nói người là thật, thì điều ấy vô dụng, vì nó làm phát sinh chấp ngã về chúng sinh. Kệ rằng: Bởi không khởi ngã kiến, Bởi kiến đã phát sinh, Vô thỉ đã quen rồi, Vô dụng, nên giải thoát. Giải thích: Do không để phát sinh ngã kiến chúng sinh, nên Đức Phật mới nói người là thật có. Chúng sinh phát khởi ngã kiến lâu rồi do không muốn chúng sinh kẹt mãi trong ngã kiến, nên nói người có thật. Từ trước, chúng sinh đã quen với ngã kiến, để giúp cho họ đang vướng mắc trong ngã kiến chúng sinh, được giải thoát nó, cho nên Đức Phật nói người có thật. Tất cả đều vô công dụng nghóa là tất cả đều tự nhiên được giải thoát. Vì thế, nên những ai chưa thấy đế mà vướng mắc trong ngã kiến thì không được giải thoát. Chẳng phải như thể của khổ, trước không thấy, sau mới thấy, con người thì không phải như vậy, không phải trước không thấy, sau mới thấy. Lại nữa, như thể của khổ, trước là không thấy, sau cũng không thấy. Như vậy là không giải thoát. Thể tính của người cũng vậy. Trước đã thấy sau cũng thấy, thì không có giải thoát. Nếu có ngã thật thì phải chắc chắn có cái của ngã. Từ hai chấp ấy phát sinh ngã ái và các phiền não khác, như vậy thì không có giải thoát. Vì thế, nên không có một con người có thật, vì có thật thì ngã kiến và các sai lầm phát sinh mà thôi. Như vậy, là nói riêng về Bồ-đề phần đã xong, kế đây là tổng kết các nghóa trước. Kệ rằng: Công đức hổ thẹn v.v… thảy, Bồ-tát thường đầy đủ, Lợi mình không buông xả, Cũng khiến thành lợi người. Giải thích: Ý nghóa của bài kệ nầy thì trước đây đã nói lược.  LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH <卷>QUYỂN 12 <詞>Phẩm Thứ 22: CÔNG ĐỨC Giải thích: Đã nói các phần giác của Bồ-tát, kế đây là nói về các công đức của Bồ-tát. Kệ nêu: Xả thân, bậc cao quý Nhẫn, siêng tu cũng dài, Không vị, vô phân biệt, Sáu hạnh nói ít có. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc làm ít có của Bồ-tát. Hạnh bố thí, nếu bố thí thân mạng mới là ít có, các bố thí khác là không phải ít có. Trì giới hạnh là có thể từ bỏ địa vị thế gian mà mến mộ đạo cả, xuất gia thì đó là ít có. Ngoài ra là không ít có. Hạnh nhẫn nhục là không còn đoái hòai đến thân mạng, nhẫn nhục đối với chúng sinh thấp kém, thì đó là ít có. Ngoài ra đều không phải ít có. Hạnh tinh tấn: Có thể siêng năng tu tập mãi mãi cho đến tận cùng bờ mé sinh tử mà không bao giờ dừng nghỉ thì đó là ít có. Ngoài ra đều không phải ít có. Hạnh thiền là đối với nguồn vui cao cả của định mà không ham hưởng không ở yên trong đó thì đó là ít có. Ngoài ra đều không phải ít có. Hạnh trí tuệ là có thể phát sinh trí vô phân biệt thì đó là ít có. Ngoài ra đều không phải ít có. Hàng Thanh văn phân biệt được Bốn đế mà có ý nhàm chán xuất ly. Bồ-tát thì không phải như vậy. Đó gọi là sáu hạnh ít có của Bồ-tát, Kệ rằng: Sinh trong nhà Như lai, Được thọ ký, lãnh chức, hoàn. Và chứng được Bồ-đề, Nói bốn quả ít có. Giải thích: Bài kệ nầy nói về quả vị ít có. Bồ-tát có bốn thứ quả Khi nhập vào Sơ địa là nhập vào nhà Như lai, là quả tu đà Sinh vào địa thứ tám và được thọ ký là quả Tư-đà-hàm. Sinh vào địa thứ mười và được thọ chức là quả A nA-hàm. Sinh vào Phật địa là quả A-la-hán. Ba quả trước là Hữu học, quả thứ tư là Vô học. Đã nói quả vị ít có của Bồ-tát, kế là nói về việc không phải ít có của Bồ-tát. Kệ rằng: Lìa dục và được bi, Thắng tu và bình đẳng, Nương đây, tu các độ, Hạnh nầy chẳng ít có. Giải thích: Nếu đã được lìa dục mà Bồ-tát làm việc bố thí thì đó không phải là ít có, do Bồ-tát đã không còn bị nhiễm ở vật, của cải đã từ bỏ dễ dàng. Nếu đã được đại bi mà Bồ-tát trì giới, nhẫn nhục thì đó không phải là ít có. Nếu Bồ-tát đã được tu tập cao vượt, nghóa là ở địa thứ tám do vô công dụng, do vô phân biệt, mà thức hành ba độ sau thì không phải ít có. Nếu Bồ-tát đã chứng được tâm bình đẳng giữa mìng và người khi tu tất cả độ thì cũng không phải bi là ít có. Do khi làm lợi kẻ khác như làm lợi cho mình, mà không có tâm lui sụt. Đã nói về việc không phải ít có của Bồ-tát, kế đây là nói về tâm bình đẳng của Bồ-tát. Kệ rằng: Bồ-tát thương chúng sinh, Khác năm thương (của) chúng sinh. Thương thân, và quyến thuộc, Con, bạn, và thân thuộc. Giải thích: Bài kệ nầy nói Bồ-tát được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Chúng sinh có năm thứ thương với tâm không được bình đẳng là: Thương thân mình. Thương quyến thuộc. Thương con cái mình. Thương bạn bè. Thương người thân. Bởi năm thứ thương yêu không được bình đẳng nầy, nên sự thương yêu chưa đến chỗ rốt ráo, như con người, cũng có lúc làm việc hại mình. Bồ-tát thương yêu chúng sinh với tâm bình đẳng, vì không từ bỏ, không lui sụt. Kệ rằng: Không lệch và không phạm, Nhẫn khắp, sinh thiện, lợi, Thiền cũng vô phân biệt, Sáu độ tâm bình đẳng. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc Bồ-tát thực hành sáu độ với tâm bình đẳng. Không thiên vị nghóa là bố thí với tâm bình đẳng đối với người cầu xin, Bồ-tát không nghiêng về thương hay ghét. Không phạm là trì giới với tâm bình đẳng, cho đến những giới hạnh nhỏ nhiệm vẫn không thiếu sót. Nhẫn khắp là nhẫn nhục với tâm bình đẳng, bao trùm cả chúng sinh cao sang hay thấp kém đều được nhận cả. Phát sinh gốc lành: lợi tha là tinh tấn với tâm bình đẳng, là phát sinh các gốc lành, và phát khởi, siêng làm tất cả các lợi ích cho mình, cho người. Thiền cũng vậy là học định với tâm bình đẳng. Bồ-tát tu định cũng làm phát sinh các gốc lành và phát sinh các lợi ích mà siêng năng tu tập. Vô phân biệt là tu tuệ với tâm bình đẳng. Từ khi mới phát tâm cho đến rốt ráo, các độ sở hành đều là ba luân thanh tịnh. Đó gọi là thực hành các độ với tâm bình đẳng. Đã nói về tâm bình đẳng của Bồ-tát, kế đây nói về việc đem lợi ích cho chúng sinh của Bồ-tát. Kệ rằng: Giúp khí và giữ giới, Nhận ác, giúp làm lành, Nhập pháp cũng dứt nghi, Sáu hạnh lợi chúng sinh. Giải thích: Bài kệ nầy nói Bồ-tát dùng sáu Ba-la-mật làm các lợi ích cho chúng sinh. Giúp chúng sinh có năng lực hiểu pháp và đem việc bố thí lợi ích mà giúp họ tu tập thành tựu, thành đồ đựng pháp tốt. Giữ cấm giới là đem giới cấm làm lợi ích chúng sinh, tùy sức lãnh thọ của họ mà khiến họ giữ gìn. Chịu đựng việc ác và dùng nhẫn nhục làm lợi ích chúng sinh, có công năng chịu đựng các ngang trái do chúng sinh gây cho mình. Giúp làm lành là đem tinh tấn làm lợi ích chúng sinh. Giúp đỡ chúng sinh gây dựng nghiệp lành. Nhập vào chánh pháp là đem thiền định làm lợi ích chúng sinh. Dùng năng lực thần thông khiến chúng sinh bỏ tà, về với chánh đạo. Các nghi ngờ là đem trí tuệ làm lợi ích chúng sinh. Các nghi ngờ dù của phàm hay của thánh cũng đều đứt hết. Đã nói về Bồ-tát dùng sáu độ làm lợi ích chúng sinh, kế đây là nói về Bồ-tát làm bảy việc dường như lợi ích: Lợi ích tương tự như mẹ. Lợi ích tương tự như cha. Lợi ích tương tự như bạn lành. Lợi ích tương tự như bạn đồng hành. Lợi ích tương tự như tôi tớ khỏe mạnh. Lợi ích tương tự như như Xà-lê. Lợi ích tương tự như Hòa-thượng. Hỏi: Lợi ích tương tự như mẹ là sao? Kệ rằng: Tâm bình đẳng cõi Thánh, Lớn lành, ngừa các ác, Truyền dạy bằng học rộng, Năm nhiệp như mẹ hiền. Giải thích: Như người mẹ hiền làm năm việc lợi ích cho con mình: Mang thai. Sinh nở. Nuôi lớn. Ngăn ngừa có hại. Dạy bảo. Bồ-tát làm lợi ích cho chúng sinh bằng năm việc cũng như vậy: Tâm bình đẳng đối với chúng sinh. Đặt chúng sinh vào đất Thánh. Nuôi lớn các gốc lành. Ngăn dứt các việc ác. Truyền dạy bằng cách cho họ học rộng. Đó gọi là năm việc tương tự như năm việc của bà mẹ. Thế nào là lợi ích tương tự như cha? Kệ rằng: Giúp lòng tin, giới, định, Giúp giải thoát, khuyến thỉnh, Cũng là ngăn chướng sau, Năm nghiệp như cha lành. léo. Giải thích: Ví như người cha lành làm năm việc lợi ích cho con: Cho con thân nầy. Dạy con nghề khéo léo. Cưới gả cho con. Nhờ bạn lành dạy bảo. Không mắc nợ ai để sau nầy con khỏi trả. Bồ-tát cũng có năm việc như vậy: Giúp chúng sinh có lòng tin làm hạt giống cho thánh thể. Giúp chúng sinh học giới, định tăng thượng để làm nghề khéo Giúp chúng sinh an vui giải thoát, coi đó là sự cưới gả. Giúp chúng sinh khuyến thỉnh Chư Phật coi đó là bạn lành. Ngăn dứt các chướng ngại coi đó là dứt nợ nần. Đó gọi là năm sự nghiệp tương tự như cha mà Bồ-tát làm. Hỏi: Thế nào là lợi ích tương tự như bạn lành? Kệ rằng: Mật, sâu, và quở phạm, Khen, giữ, và dạy trao, Giúp biết các việc ma, Năm việc như bạn lành. Giải thích: Ví như bạn lành đã làm năm việc lợi ích cho mình là: Dùng lời kín đáo để che chở. Giúp mình dứt bỏ việc ác. Khen ngợi việc làm tốt. Giúp đỡ những việc mình làm. Ngăn dứt quen theo thói xấu. Việc ác có bốn thứ: Săn bắn. Làm việc gian dối, phi nghóa. Ham rượu chè. Ham bài bạc. Năm việc của Bồ-tát cũng như vậy: Ai chưa lãnh hội nổi giáo pháp thì Bồ-tát dùng lời kín đáo sâu xa. Ai phạm giới thì Bồ-tát quở trách đúng như pháp. Ai giữ giới trọn vẹn thì Bồ-tát khéo léo khen ngợi. Ai lo tu hành thì Bồ-tát dạy trao cho mau chứng quả. Đối với việc ma, Bồ-tát giúp chúng sinh biết rõ. Đó gọi là năm việc tương tự như bạn lành của Bồ-tát Hỏi: Thế nào là tương tự đồng lữ đem lợi ích? Kệ rằng: Cho vui và cho lợi, Thường vui, lợi cũng thường, Cho đến không li tán, Năm việc như đồng lữ. Giải thích: Ví như bạn đồng lữ có trí khôn, làm năm việc lợi ích cho mình là: Cho vui. Cho lợi ích. Thường cho vui. Thường cho lợi ích. Không trái lìa. Bồ-tát cũng có năm việc như vậy: Cho chúng sinh niềm vui không trái ngược. Ở đời, thành tựu sự nghiệp gọi là vui. Do đó, được thọ vui. Cho lợi không trái ngược. Thành tựu việc xuất thế gọi là lợi. Do đó là đối trị các phiền não. Ba việc còn lại, có thể hiểu lấy. Đây gọi là việc tương tự như bạn đồng lữ của Bồ-tát. Hỏi: Thế nào là lợi ích tương tự như tôi tớ khỏe mạnh? Kệ rằng: chủ: Thành sinh, mở xuất ly, Nhẫn hại, hai việc thành, Chỉ bày phương tiện khéo, Năm việc như tớ mạnh. Giải thích: Thí như tôi tớ khỏe mạnh làm năm việc lợi ích cho Tận tuî với tất cả công việc. Được tính trung thực, không gian dối. Chịu đựng các việc đánh mắng của chủ. Làm việc kỹ lưỡng tốt đẹp. tát. Biết phương tiện khéo léo. Bồ-tát cũng có năm việc như vậy: Thành thục chúng sinh. Chỉ bày đường chính yếu xuất ly. Chịu đựng các việc ác. Đem vui cho thế gian. Đem đến lợi ích xuất thế gian. Đó gọi là năm sự nghiệp tương tự như tôi tớ khỏe mạnh của Bồ- Hỏi: Thế nào là lợi ích tương tự như xà lê? Kệ rằng: Trao khắp, bày cốt yếu, Mặt thư thái, nói êm, Không mong cầu trả ơn, Năm việc như Xà-lê. Giải thích: Người chứng Vô sinh nhẫn gọi là xà lê. Ví như bậc Xà-lê làm năm việc lợi ích cho đệ tử: Dạy cho đệ tử hiểu các pháp. Dạy cho đệ tử lối tu mau chứng. Thân cảm giác được dung nhan thư thái. Miệng biết được lời ngọt ngào. Tâm không trông mong. Bồ-tát có năm việc cũng như vậy, nên biết. Hỏi: Thế nào là lợi ích như Hòa-thượng? Kệ rằng: Giúp đầy và giải thoát, Dứt chướng, cho vui thế gian, Và cho lợi xuất thế, Năm việc như Hòa-thượng. Giải thích: Ví như Hòa thượng làm năm việc lợi ích cho đệ tử: Hóa độ cho xuất gia. Cho đệ tử được thọ giới. Ngăn cấm các lỗi. Giữ chắc của cải. Dạy trao giáo pháp. Bồ-tát cũng có năm việc như vậy: Giúp chúng sinh làm tròn hai nhóm. Giúp chúng sinh được giải thoát. Giúp chúng sinh dứt hất các chướng. Cho vui thế gian. Cho lợi xuất thế gian. Đó gọi là năm việc làm như Hòa-thượng của Bồ-tát. Đã nói về bảy việc lợi ích tương tự của Bồ-tát, kế đây là là nói về sáu điều trả ơn của chúng sinh. Kệ rằng: Không đắm và không phạm, Biết việc, cũng hạnh lành, Tu sáu độ như vậy, Là đền ơn Bồ-tát. Giải thích: Như Bồ-tát đã làm lợi ích cho chúng sinh, thì chúng sinh báo đền công ơn của Bồ-tát cũng như vậy. Không đắm là bố thí, để đền ơn Bồ-tát. Không phạm: Giữ giới để đền ơn Bồ-tát. Biết việc: là tu nhẫn để đền ơn. Bồ-tát rất quý mến hạnh nhẫn nhục, chúng sinh biết vậy mà làm theo, là đền ơn Bồ-tát. Làm lành: là thực hành ba độ còn lại để trả ơn. Dùng tinh tấn thực hành thiền định, trí tuệ tức là được giải thoát. Ba độ sau gộp chung gọi là hạnh lành. Đã nói về sáu điều mà chúng sinh đền ơn Bồ-tát, kế là nói về năm điều hi vọng của Bồ-tát. Kệ rằng: Sáu thêm và sáu bớt, Thành sinh và tiến địa, Đại giác là năm chỗ, Hi vọng có năm thứ. Giải thích: Các vị Bồ-tát thường phát khởi hi vọng đối với năm chỗ: Hi vọng sáu độ tăng trưởng. Hi vọng sáu tệ tổn giảm. Hi vọng thành thục chúng sinh. Hi vọng tiến lên các địa. Hi vọng Bồ-đề Vô thượng. Đó gọi là năm thứ hi vọng. Đã nói về năm thứ hi vọng của Bồ-tát. Kế là nói bốn thứ quả bất không của Bồ-tát. Kệ rằng: Dứt sợ và phát tâm, Trừ nghi cũng lập hạnh, Bốn việc hóa chúng sinh, Chắc chắn không quả suông. Giải thích: Bốn việc làm lợi ích chúng sinh của Bồ-tát hẳn là quả bất không: Nói pháp sâu xa cho chúng sinh, khiến họ không còn sợ hãi. Giúp họ phát tâm Bồ-đề chắc chắn được quả Phật. Khiến họ dứt nghi không còn nghi lại nữa. Nói pháp sáu độ giúp họ tu tập vững chắc. Đó gọi là bốn nghiệp của quả bất không. Đã nói bốn thứ quả bất không của Bồ-tát, kế là nói về sáu thứ chánh hạnh của Bồ-tát. Kệ rằng: Lìa cầu, lìa thân sau, Khởi khắp các công đức trùm, Tu thiền, xả Vô sắc, Trí họp hạnh phương tiện. Giải thích: Lìa mong cầu là bố thí theo hạnh chân chánh, không đền ơn. Lìa thân sau là giữ giới, nhẫn nhục theo chánh hạnh nên không mong thân sau. Khởi khắp các công đức là: Tinh tấn theo chánh hạnh. Tu thiềnxả cõi Vô sắc là tu thiền định theo chánh hạnh. Trí họp với hạnh phương tiện là: Hạnh Bát-nhã theo chánh hạnh. Ba luân thanh tịnh là Bát-nhã. Hồi hướng là phương tiện. Như Kinh Bảo Tích nói: “Bố thí không cầu đền ơn, nói rộng như vậy”. Đã nói sáu hạnh chánh của Bồ-tát, kế là nói về sáu độ của Bồ-tát có phần tiến và thoái. Kệ rằng: Tham của và phá giới, Biếng nhác, thờ ơ (điều) lành, Ham mùi vị, phân biệt, Là thoái, ngược là tiến. Giải thích: Nhân duyên đưa đến thoái lui là điều mà sáu độ đối trị. Trái lại với những điều bị đối trị ấy là năng đối trị, nên biết, đó là nhân duyên đưa đến tiến lên. Đã nói về sáu độ của Bồ-tát với phần tiến và thoái của nó. Kế là, nói về công đức chân, tợ của sáu độ của Bồ-tát. Kệ rằng: Nhận giả và tướng giả, Vui, siêng năng dối trá, Thân tónh, miệng nói khéo, Là tự, ngược là chân. Giải thích: Chấp nhận giả là dường như bố thí. Nghóa là nói với người xin rằng: ông hãy lấy tất cả mà dùng tùy ý, nhưng khi người ấy đến lấy thì keo kiệt không cho. Tướng giả dối là giống như người giữ giới, nghóa là che giấu các điều xấu, bên ngoài hiện oai nghi tốt đẹp. Vui mừng giả vờ là giống như nhẫn nhục, nghóa là dùng lời ngon ngọt suông, nhưng có âm mưu chờ lúc hại người. Siêng năng giả dối là giống như tinh tấn, nghóa là nói suông rằng: Ta mong cầu được quả Phật, nhưng thật trong lòng thì cầu quả báo thế gian. Thân trầm tónh là giống như thiền định, nghóa là thân, miệng thì tỏ vẻ đoan trang lặng lẽ nhưng biết trong tâm đang bị những điều đen tối quấy động. Miệng ăn nói khéo léo là giống như Bát-nhã, nghóa là với người thì nói rất hay, nhưng chính mình thì không thực hành được điều gì. Đó là sáu điều không chân chính, trái với những điều bất chân ấy tức là chân chính. Đã nói công đức chân, tự của Bồ-tát, kế là nói về Bồ-tát xua tan sáu tệ của chúng sinh. Kệ rằng: Với hạnh sáu độ ấy, Trừ sáu tệ chướng kia, Bồ-tát độ chúng sinh, Mỗi địa đều như vậy. Giải thích: Chúng sinh có sáu tệ, ngăn che sáu Ba-la-mật. Đó là tham lam, bỏn sẻn, phá giới, giận dữ, lười biếng, tâm tán loạn và ngu si. Theo thứ lớp ấy mà Bồ-tát cấp cho chúng sinh những gì cần thiết giúp họ thực hành bố thí, cho đến giúp họ thực hành Bát-nhã, khiến sáu tệ kia bị xua tan hết, tức là cho họ hạnh bố thí cho đến thực hành Bát-nhã. Đã nói về Bồ-tát xua tan sáu tệ của chúng sinh. Kế là, nói về Chư Phật trao thọ ký cho Bồ-tát nhận. Kệ rằng: Thọ ký có hai thứ, Người khác và thời khác, Chuyển ký và đại ký, Món nầy lại có hai. Giải thích: Thọ ký có hai thứ là: Người khác nhau. Thời gian khác nhau. Sự khác nhau về người được thọ ký, có bốn thứ: Người chưa phát tâm được thọ ký, nghóa là vị trí, tính chất họ. Được thọ ký khi đã phát tâm. Thọ ký ở hiện tiền. Thọ ký không hiện tiền. Thọ ký do thời gian khác nhau, có hai thứ: Thọ ký có giới hạn thời gian. Thọ ký trong thời gian không giới hạn. Lại nữa, còn có hai thứ thọ ký: Chuyển thọ ký. Đại thọ ký. Chuyển thọ ký nghóa là thọ ký cho Bồ-tát kia, sau nầy sẽ được gặp Như lai như thế, với hoàn cảnh như thế. Hỏi: Thế nào là đại thọ ký? Kệ rằng: Bát địa, được vô sanh, Dứt mạn, dứt công dụng, Chư Phật và Phật tử, Cùng một thể đồng như. Giải thích: Đại thọ ký là khi ở địa thứ tám, Bồ-tát chứng được vô sinh nhẫn, do chướng ngại đã dứt, nên tự bảo: Ta sẽ thành Phật từ từ, do dứt trừ tất cả tướng phân biệt công dụng, cho nên được cùng một thể với Chư Phật và Bồ-tát. Hỏi: Thế nào là đồng một thể? Đáp: Do không còn thấy sự khác nhau giữa Chư Phật, Chư Bồ-tát và thân mình. Vì sao? Vì đồng nhất như. Kệ rằng: Cõi nước và tên gọi, Hoàn cảnh và tên kiếp, Quyến thuộc và pháp trụ, Ký lại có sáu thứ. Giải thích: Lại có sáu thứ thọ ký: Ở cõi nước như vậy. Có tên gọi như vậy. Trải qua hoàn cảnh như vậy. Có kiếp tên như vậy. Có quyến thuộc như vậy. Chánh pháp còn ở đời trong hoàn cảnh như vậy. Đã nói về việc Chư Phật thọ ký, kế là, nói về sáu thứ quyết định của Bồ-tát. Kệ rằng: Của thành và sinh cao, Không lui và tu tập, Định nghiệp, vô công dụng, Sáu việc chắc chắn thành. Giải thích: Vì sáu độ tăng thượng nên Bồ-tát có được sáu thứ quyết định. Quyết định thí của thành tựu. Vì thí ấy nên Bồ-tát thành tựu của cải, lớn lao. Quyết định nơi sinh tốt đẹp. Vì giữ giới nên thường được sinh vào nơi nào mình thích. Quyết định không lui sụt. Vì chịu đựng các khổ nên không nao núng. Quyết định tu tập. Vì mãi siêng năng nên tu điều lành không bao giờ dừng nghỉ. Quyết định định nghiệp. Vì tu thiền thành tựu nên nghiệp chúng sinh không bao giờ lui sụt. Quyết định vô công dụng. Vì trí được nhẫn vô sinh, vô phân biệt nên an trụ tự tại. Đã nói sáu thứ quyết định của Bồ-tát, kế là nói về sáu điều cần phải làm của Bồ-tát. Kệ rằng: Cúng dường và học giới, Tu bi, siêng làm lành, Lìa ồn, sâu pháp lạc, Là sáu việc phải làm. Giải thích: Các vị Bồ-tát để sáu độ thành tựu, nên trong các địa, phải làm sáu việc: Cần phải cúng dường, đây là thành tựu độ bố thí. Nếu không cúng dường qua thời gian lâu dài thì độ bố thí không tròn đầy. Ý nghóa cúng dường trong phẩm Cúng Dường đã nói. Cần phải học giới, đây là thành tựu độ giới. Nếu không học giới trong thời gian dài thì độ giới không tròn đầy. Cần phải tu tập đại bi, đây là thành tựu độ nhẫn. Nếu không tu nhẫn trong thời gian lâu dài thì đối với những việc không lợi ích thì, nhẫn sẽ không tròn đầy. Cần phải siêng làm điều lành, đây là thành tựu độ tinh tấn. Nếu để tâm buông lung, không tu các pháp độ tinh tấn sẽ không tròn đầy. Cần phải lìa nơi ồn náo, đây là thành tựu độ định. Nếu ở trong xóm làng đầy ồn náo khiến tâm rối loạn thì độ thiền định không tròn đầy. Cần phải ham mê chánh pháp, đây là thành tựu độ trí tuệ. Nếu không nghe pháp của Chư Phật, không biết thỏa mãn, như biển nuốt các dòng sông nhưng không bao giờ tràn đầy thì độ trí tuệ không tròn đầy. Đã nói sáu điều cần phải làm của Bồ-tát, sau đây là nói về sáu điều cần phải thường làm của Bồ-tát. Kệ rằng: Chán trần, và tự tỉnh, Chịu khổ, tu pháp lành, Không vị, vô phân biệt, Sáu hạnh phải làm mãi. Giải thích: Để thành tựu sáu độ, nên Bồ-tát phải thường làm sáu việc: Nhàm chán trần dục, là biết sai lầm của năm dục. Như phân nhơ dù ít vẫn hôi thúi, quả báo bố thí dù nhiều vẫn khổ. Do tâm không bi mê đắm nên có công năng thực hành ba phép bố thí. Nhờ tu mãi hạnh nầy mà đàn độ tròn đầy. Tự tónh, nghóa là sáu thời đêm ngày, thường quán xét những việc làm của ba nghiệp. Biết sai lầm thì sửa đổi. Thường tu tỉnh việc ấy thì độ giới tròn đầy. Chịu đựng khổ nhọc. Nếu có ai đến gây những việc hư hại, thì mình phải biết chịu đựng các khổ về nóng lạnh v.v… Tu tập mãi hành nầy thì độ nhẫn tròn đầy. Tu pháp lành, pháp lành là sáu Ba-la-mật. Đối với các địa tu mãi pháp nầy thì độ tinh tấn tròn đầy. Không ham mê vị là không đắm chìm trong nguồn vui cao thiền định mà thường sinh trở lại trong cõi dục. Tu mãi pháp nầy thì độ thiền định tròn đầy. Vô phân biệt là đối với tướng mạo khác của ba Luân, không khởi phân biệt. Tu mãi pháp nầy thì độ trí tuệ tròn đầy. Đã nói sáu điều mà Bồ-tát phải thường thực hành. Kế là nói về sáu chủng loại vượt bậc của sáu độ của Bồ-tát. Kệ rằng: Pháp thí và thánh giới, Vô sinh khởi Đại thừa, Định, bi, trí như thật, Sáu hạnh nầy vượt cao. Giải thích: Bố thí có nhiều thứ, nhưng bố thí pháp là tối thượng. Giới có nhiều thứ, nhưng giới không sai sót mà bậc Thánh ưa thích, được gọi là tối thượng. Nhẫn có nhiều thứ, nhưng nhẫn vô sinh ở tám địa, được gọi là tối thượng. Tinh tấn có nhiều thứ, nhưng lấy tâm Đại thừa độ giúp chúng sinh khỏi khổ được gọi là tối thượng. Định có nhiều thứ, nhưng thiền định xuất thế thứ tư gộp với đại bi được gọi là tối thượng. Trí tuệ có nhiều, nhưng lấy trí tuệ thông đạt các pháp làm tối thượng. Đã nói chủng loại sáu độ vượt bậc của Bồ-tát. Kế là nói về bốn thứ giả lập ra. Kệ rằng: Lập pháp và lập đế, Lập lý cũng lập thừa, Năm, bảy, bốn ba thứ, Giả lập ra khác nhau. Giải thích: Bốn thứ giả lập ra là: Giả lập ra pháp. Giả lập ra đế. Giả lập ra đạo lý. Giả lập ra thừa. Hỏi: Mỗi thứ ấy còn có bao nhiêu thứ nữa? Đáp: Giả lập ra pháp có năm thứ khác nhau. Giả lập ra đế, có bảy thứ khác nhau. Giả lập ra đạo lý, có bốn thứ khác nhau. Giả lập ra thừa có ba thứ khác nhau. Năm thứ giả lập ra pháp là: Kệ rằng: Đó làm năm minh xứ, Đều chủng loại Đại thừa, Tu-đa, kỳ-dạ thảy, Chủng loại có khác nhau. Giải thích: Giả lập ra pháp có năm thứ: Tức là Năm minh Luận. Năm minh nầy đều là chủng loại khác nhau của Tu-đa-la, Kỳ-dạ, của Đại thừa. Năm Minh xứ, như trong phần phẩm giác đã nói. Giả lập đế, có bảy thứ là. Kệ rằng: Luân chuyển và không tướng, Duy thức và y chỉ, Tà hạnh cũng thanh tịnh, Chánh hạnh như bảy thứ. Giải thích: Bảy thứ khác nhau là bảy thứ như: Như luân chuyển. Như không tướng. Như Duy thức. Như y chỉ. Như tà hạnh. Như thanh tịnh. Như chánh hạnh. Như luân chuyển là sinh tử, tức tâm, tâm pháp của ba cõi. Tâm pháp nầy phát sinh từ phân biệt. Sự phân biệt nầy lại sinh từ nhân duyên, không phát sinh từ nhân của trời Tự Tại cũng không phải sinh không có nhân. Do phân biệt cảnh giới không nên bất cứ lúc nào cũng chỉ có hai tính là y tha, phân biệt luân chuyển. Như không tướng là pháp vô ngã, tất cả các pháp đều lấy cùng một không như làm tướng. Như Duy thức là trí vô phân biệt. Như y chỉ là khổ đế, món nầy có hai thứ: Khí thế gian. Chúng sinh thế gian. Như tà hạnh là tập đế, đây chính là ái. Như thanh tịnh là diệt đế, món nầy có hai thứ: Chướng phiền não thanh tịnh. Chướng trí tuệ thanh tịnh. Như chánh hạnh như là đạo đế. Bảy thứ như thế ấy gọi là giả lập đế. Trong đây nên biết ba thứ như thị, hai tính phân biệt và y tha nghóa là như luân chuyển, như y chỉ, như tà hạnh. Bốn thứ như thị tính chân thật là như không tướng, như Duy thức, như thanh tịnh và như chánh hạnh như. Hai tính y tha, phân biệt thuộc về thế tục đế. Chân tính là thuộc về chân đế. Giả lập ra đạo lý có bốn thứ. Kệ rằng: Quả chánh tư, chánh kiến, Lấy lượng trạch pháp thảy, Cũng nói không nghó bàn, Đạo lý, có bốn thứ. Giải thích: Giả lập ra đạo lý có bốn thứ: Đạo lý đợi nhau. Đạo lý nhân quả. Đạo lý thành tựu. Đạo lý pháp nhiên. Đạo lý đợi nhau, đối đãi nhau là chánh tư duy, vì phải đợi suy nghó chân chánh thì cái thấy đúng (chánh kiến) mới phát sinh để xuất thế gian. Nếu lìa chánh tư duy thì không còn phương tiện nào khác. Đạo lý nhân quả là chánh kiến và quả của nó. Đạo lý thành tựu là dùng hiện lượng v.v… Lựa chọn các pháp. Đạo lý pháp nhiên: cái gọi là chỗ không thể nghó bàn, do pháp đã thành nên đã thành gọi là như. Hỏi: Vì sao chánh tư duy rồi mới phát sinh chánh kiến? Do pháp nầy đã thành tựu nên không còn suy nghó nữa. Hỏi: Vì sao chánh kiến có công năng dứt trừ phiền não và được quả vắng lặng? Do pháp nầy đã thành tựu nên không còn suy nghó nữa. Các nghóa như thế đều là đạo lý pháp nhiên. Bốn thứ như thế gọi là giả lập ra đạo lý. Bài kệ sau đây cho biết về ba thứ giả lập ra thừa: Tâm, thuyết, hành, tụ, quả, Năm có hạ, trung, thượng Nương khác (nhau) ba phẩm nầy, Lập ra có ba thừa. Giải thích: Nương vào năm nghóa của ba phẩm mà lập ra ba thừa. Năm nghóa gồm: Tâm. Thuyết. Hạnh. Nhóm, Quả. Ba phẩm là hạ, trung, thượng. Nếu năm việc nầy của Thanh văn đều thuộc phẩm hạ thì tâm thấp kém là tâm chỉ cầu giải thoát cho mình. Thuyết hạ là nói giáo pháp nhằm lợi mình, hạnh hạ việc làm để lợi mình. Nhóm hạ là phước trí nhỏ hẹp, chỉ trong phạm vi ba đời, quả hạ là chứng quả Thanh văn. Còn Duyên giác thì đủ năm việc nầy đều thuộc phẩm trung, như năm việc nầy đầy đủ của Bồ-tát thì thuộc phẩm thượng. Tâm thượng là bốn thứ tâm ơn, như kinh Kim cương Bát-nhã nói: Thuyết thượng là như tâm ơn kia suy nghó như vậy mà nói pháp. Hạnh thượng là như pháp đã nói như vậy mà làm như vậy. Nhóm thượng làm những việc như thế mà làm thì được nhóm đầy đủ như vậy. Quả thượng là như nhóm đầy đủ kia mà chứng Bồ-đề Vô thượng. Lại nữa, hoặc thừa Thanh văn nghe người nói pháp rồi tự suy ngẫm bên trong, do trí vô phân biệt mà chứng quả. Hoặc thừa Duyên giác tự mình suy ngẫm, không phải nghe người khác nói, dùng trí vô phân biệt mà chứng quả. Hoặc thừa Bồ-tát, không nghe người khác nói, dùng trí vô phân biệt mà chứng quả, ba hạng như vậy gọi là giả lập ra thừa. Đã nói bốn thứ giả lập ra, kế đây là nói Bồ-tát cầu hiểu bốn thứ, Kệ rằng: Tên vật lẫn làm khách, Hai tính đều là giả, Hai khác không thật có, Gọi là bốn nghóa cầu. Giải thích: Bốn điều cần tìm hiểu các pháp của Bồ-tát là: Tìm hiểu tên gọi. Tìm hiểu sự vật. Tìm hiểu tự tính. Tìm hiểu khác nhau. Tìm hiểu tên gọi là suy nghó tên gọi chỉ là khách đối với vật. Tìm hiểu sự vật là suy nghó vật chỉ là khách đối với tên. Tìm hiểu tự tính là suy nghó tự tính của tên gọi và biết tự tính của vật đều là giả. Tìm hiểu sự khác nhau là suy nghó sự khác nhau của tên gọi và sự khác nhau của vật, biết chúng chỉ là không, nên chắc chắn là không thật có. Đã nói về bốn việc tìm hiểu, kế là nói phân biệt biết bốn thứ như thật. Kệ rằng: Chân trí có bốn thứ, Tên thảy không thật có, Hai lợi, nghiệp Đại thừa, Thành tựu trong các địa. Giải thích: Đối với các pháp, các Bồ-tát có bốn thứ biết như thật: Duyên vào tên gọi mà biết như thật. Duyên vào vật mà biết như thật. Duyên vào tự tính mà biết như thật. Duyên vào sự khác nhau mà biết như thật. Hiểu biết như thật là biết tất cả tên gọi đều không thật có. Làm hai lợi ích là nghiệp Đại thừa, thành tựu trong các địa là trong các địa, Bồ-tát khởi lên việc làm lớn lao làm lợi mình và lợi người. Đó gọi là biết nghiệp như thật. Kệ rằng: Trụ trì và thọ dụng, Hạt giống, hợp ba nhân, Nương và tâm, pháp, Hạt giống có trói buộc. Giải thích: Ba nhân là: Nhân trụ trì. Nhân thọ dụng. Nhân hạt giống. Nhân trụ trì là khí thế giới. Nhân thọ dụng là cảnh giới năm dục. Nhân hạt giống là thức A-lê-da. Thức nầy là nhân của hạt giống các pháp trong, ngoài. Ba nhân nầy như sợi dây tức là năng tạo buộc. Hỏi: Sự tạo buộc ấy, là tạo buộc những gì? Đáp: Chỗ nương và tâm pháp, hạt giống cũng bị tạo buộc do ba thứ: Nương. Tâm pháp. Thức A-lê-da. Hỏi: Nương là nương cái gì? Đáp: Là sáu căn, mắt v.v… Hỏi: Thức A-lê-da là những gì? Đáp: Nó là hạt giống của các pháp trong ngoài thuộc ba cõi, trong đây chỉ có thức A-lê-da là thức có thể ràng buộc. Không có nhân ngã có thể buộc được. Đó gọi là biết như thật về sự trói buộc. Kệ rằng: Đặt tướng ở trước tâm, Cho đến trụ tự nhiên, Tất cả đều quán sát, Đến được Đại Bồ-đề. Giải thích: Đặt ở tướng trước tâm là tướng an ổn là phương tiện văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ, do người duyên vào đối tượng mà phân biệt khởi lên. Gọi là tướng an ổn, cho đến an trụ tự nhiên là do tướng kia tự tính nó hiện tiền, không còn phân biệt nên gọi là trụ tự nhiên. Tất cả đều phải quán xét là hai sở duyên kia là thể của đối tượng, vô phân biệt. Dùng phương tiện nầy để đối trị các tướng. Hai đối tượng ấy nên quán xét chúng theo thứ lớp, là trước phải quán xét tướng an ổn, sau quán xét tướng an trụ tự nhiên. Hai phương pháp quán xét nầy đều không phải thể của sở duyên. Sự quán xét ấy hễ khởi bốn thứ trái ngược thì nó bị tiêu diệt theo thứ lớp. Cho đến được đại Bồ-đề là nếu người tu hành chỉ quán xét tướng người thì chỉ được Bồ-đề Thanh văn, Duyên giác. Nếu quán xét tướng của tất cả pháp tức là Bồ-đề Vô thượng. Như thế tùy theo cái gì mình bị trói buộc mà được giải thoát, đó gọi là biết như thật về giải thoát. Hỏi: Giải thoát nầy do đâu mà biết được do đâu mà diệt hết? Kệ rằng: Nếu trí duyên chân như, Xa lìa hai chấp ấy, Cũng biết nhân huân nhóm, Tính y tha sạch làu. Giải thích: Nếu biết đủ ba tính thì dứt sạch hết tính y tha. Nếu trí duyên vào chân như là biết được tính chân thật. Xa lìa hai chấp kia là biết tính phân biệt. Cũng biết nhân của huân nhóm là biết được tính y tha. Tính y tha sạch làu nghóa là vì biết ba tính nên sự huân tập nhóm bị diệt hết. Huân tập nhóm là thức A-lê-da. Hỏi: Sự sạch làu nầy có công đức gì? Kệ rằng: Trí duyên chân như ấy, Quán xét không tướng khác, Có, không có hiện thấy, Tưởng tác tự tại thành. Giải thích: Quán xét không thấy tướng khác là do không nhận thấy có khác nhau biệt tướng và Như. Ở đây là nói sự khác nhau giữa Nhị thừa và Bồ-tát là nhận thấy sự khác nhau của tướng Nhị thừa và tướng Không. Thấy như vậy rồi liền buông xả các tướng. Trong cõi vô tướng, phát sinh tác ý làm duyên nhập vào Tam-muội vô tướng. Bồ-tát thì không như vậy, là ngoài chân như, không thấy có các tướng riêng. Trong cõi vô tướng, cũng thấy là vô tướng, trí Bồ-tát tu tập mỗi thứ tướng tu. Có, chẳng có hiện thấy là: Có tên cảnh giới chân như, chứ không phải có tên tướng mạo trong ấy, là vì hiện thấy. Bởi tưởng nên các việc tự tại thành là muốn trổ phép thần thông hay làm tất cả các việc đều vì tưởng nhớ phân biệt mà thành tựu. Đó là lợi ích của sự nhận biết như thật. Hỏi: Làm thế nào nói về hai cái thấy của phàm phu và Bồ-tát? Kệ rằng: Che thật, thấy không thật, Nên biết là phàm phu, Thấy thật, che không thật, Đó gọi là Bồ-tát. Giải thích: Phàm phu không dụng công thì không thấy chân như. Họ chỉ thấy những cái không chân thật. Bồ-tát không dụng công mà thấy chân như, chẳng thấy cái không chân thật. Hỏi: Đã thấy sự khác nhau giữa phàm phu và Bồ-tát. Thế nào là chuyển y và được giải thoát? Kệ rằng: Không thấy, thấy nên biết, Cảnh không nghóa, có nghóa, Chuyển y và giải thoát, Do đã được tự tại. Giải thích: Cảnh giới vô nghóa là các tướng. Đây là không thấy. Cảnh giới có nghóa là chân như. Đây là thấy, như thế gọi là chuyển y. Thấy cảnh giới chấp là không có tự thể. Và thấy chân như có tự thể. Như thế gọi là giải thoát. Vì sao? Vì được tự tại. Tự tại là theo ý mình chuyển biến tự nhiên, các cảnh giới không hiện hành. Như kinh nói: Có tướng là bị trói buộc. Nếu đã bị trói buộc thì không có giải thoát. Không hiện hành tất cả cảnh giới tức là giải thoát. Hỏi: Thế nào là biết như thật về phương tiện tịnh độ? Kệ rằng: Chúng sinh cùng một chủng, Cảnh, địa đều thấy khắp, Đó là chướng tịnh độ, Nên biết, cũng nên xả. Giải thích: Chúng sinh đồng một chủng loại, cảnh, địa đều thấy cùng khắp là khí thế giới là đại cảnh địa. Tất cả chúng sinh cùng thấy một chủng loại, như nhau nên họ đều nói đây là đại địa. Đó là chướng tịnh độ, nghóa là họ thấy như vậy tức là gây chướng ngại cho phương tiện tịnh độ. Phải biết: Cũng nên xả: là khi biết tưởng ấy là chướng ngại nên Bồ-tát liền siêng năng xả bỏ tưởng ấy. Đó gọi là đối trị. Đã nói g bốn thứ biết như thật của Bồ-tát, kế là nói về năm thứ vô lượng của Bồ-tát. Kệ rằng: Ứng hóa và ứng tịnh, Ứng đắc và ứng thành, Ứng thuyết là năm việc, Bồ-tát năm vô lượng. Giải thích: Năm việc vô lượng là: Việc ứng hóa vô lượng, do xếp vào tất cả chúng sinh giới. Việc ứng tịnh vô lượng, do xếp vào tất cả khí thế giới. Việc ứng đắc vô lượng, do xếp vào tất cả pháp giới. Việc ứng thành vô lượng, do xếp vào tất cả chúng sinh đáng được giáo hóa. Việc ứng thuyết vô lượng, do xếp vào mười hai bộ kinh làm phương tiện giáo hóa chúng sinh. Đã nói về năm thứ vô lượng của Bồ-tát, kế là nói về Bồ-tát nói pháp có tám quả. Kệ rằng: Phát tâm và đắc nhẫn, Tịnh nhãn và lậu hết, Pháp trụ học cùng dứt, Thọ dụng là tám quả. Giải thích: Do siêng năng nói pháp nên Bồ-tát được tám thứ quả: Những người nghe pháp, có người phát tâm Bồ-đề. Có người được vô sinh nhẫn. Có người được mắt pháp trong sạch, vì họ đã lìa khỏi các nhơ bẩn. Đây thuộc về hạ thừa. Có người sạch hết các lậu. Khiến chánh pháp còn lâu dài ở thế gian. Việc nói chánh pháp nầy được nhiều người lần lượt vâng giữ thọ trì. Đối với nghóa chưa học thì giúp họ học nghóa pháp. Những ai chưa dứt ngờ vực thì giúp họ ngờ vực. Hết sạch ngờ vực thì khiến họ sống với chánh pháp, hưởng chất ngọt của đại vui mừng mà không có gì chướng ngại được. Đã nói Bồ-tát nói pháp được tám thứ quả, kế đây là nói bảy ý nghóa lớn của Đại thừa. Kệ rằng: Duyên, hạnh, trí, cần, xảo. Quả, sự đều đầy đủ, Nương bảy nghóa lớn nầy, Mà lập ra Đại thừa. Giải thích: Khi đã đầy đủ bảy nghóa lớn thì gọi là Đại thừa. Duyên lớn, vì lấy Tu-đa-la pháp rộng lớn làm duyên. Hạnh lớn vì việc làm lợi ích cho chính mình và người đầy đủ. Trí lớn, vì thông suốt cùng lúc hai thứ nhân vô ngã, pháp vô ngã. Siêng năng lớn, vì tu hành trải qua ba đại A-tăng-kì kiếp. Xảo lớn, vì không xả sinh tử và không bị nhiễm ô. Quả lớn, vì đạt được sức mạnh của không sợ hãi và pháp bất công. Sự nghiệp lớn: vì thường thị hiện đại Bồ-đề, đại Niết-bàn. Đã nói về bảy ý nghóa lớn của Đại thừa, kế đây là nói về tám pháp nhiếp hóa của Đại thừa. Kệ rằng: Tính, tín, tâm, hạnh, nhập, Thành, tịnh, Bồ-đề cao, Tám thứ việc như vậy, Đều thuộc về Đại thừa. Giải thích: Tám việc vừa nói, là gồm thâu tất cả Đại thừa: Chủng tính, như phẩm Tính đã nói. Tin pháp, như phẩm Tín đã nói. Phát tâm, như phẩm Phát Tâm đã nói. Hạnh, như trong phẩm Hóa Độ đã nói. Nhập đạo, như trong phẩm Giáo Thọ đã nói. Thành thục chúng sinh là bảy địa đầu. Tịnh Phật quốc độ là địa bất thoái thứ tám. Bồ-đề thắng là cõi Phật. Bồ-đề có ba thứ: Bồ-đề của Thanh văn, Bồ-đề của Duyên Giác, Bồ-đề của Phật. Bồ-đề của Phật là rộng lớn là tốt đẹp. Từ cõi Phật nầy, thị hiện Đại Bồ-đề, Đại Niết-bàn. Đã nói tám pháp nhiếp hóa của Đại thừa, kế là nói về năm hạng người khác nhau của Bồ-tát. Kệ rằng: Hạnh Tín và tịnh hạnh, Hạnh Tướng, hạnh vô tướng, Cho đến hạnh vô tác, Nương các địa khác nhau. Giải thích: Bồ-tát có năm loại khác nhau: Người tín hạnh là các địa trước tu tập một A-tăng-kỳ kiếp. Người tu tịnh tâm hành, là người mới nhập Sơ địa. Người hạnh tướng là ở địa thứ hai đến địa thứ sáu. Người hạnh vô tướng, nghóa là ở địa thứ bảy. Người hạnh vô tác là ở ba địa sau. Đã nói năm loại Bồ-tát khác nhau. Kế là nói về các tướng khác nhau của Bồ-tát. Kệ rằng: Không đắm và thanh tịnh, Dẹp giận, nuôi siêng năng, Bất động và thấy thật, Có dục gọi Bồ-tát. Giải thích: Bài kệ nầy dùng pháp môn tự lợi để nói tướng của Bồ- tát. Không đắm là có công năng làm việc bố thí. Không bị vướng mắc các ham muốn. Thanh tịnh là có công năng giữ giới. Dẹp giận thì có công năng nhẫn nhục. Nuôi đức siêng năng thì có thể tinh tấn. Không bị lay động là có thể tu định, thấy chân thật là có thể tu trí. Có dục là có năng lực ưa thích đại Bồ-đề. Thực hành bảy việc nầy, gọi là tướng của Bồ-tát. Kệ rằng: Tùy nhiếp và vô hại, Chịu tổn, nuôi sức dũng, Không buông lung, học rộng, Lợi họ, gọi là Bồ-tát. Giải thích: Bài kệ nầy dùng pháp môn lợi tha để nói về tướng của Bồ-tát. Thuận theo nhiếp hóa là bố thí. Dùng bốn nhiếp pháp mà gom chúng sinh về. Không gây hại là giữ giới. Tự tánh của mình là không gây hại cho ai. Chịu đựng người hại là nhẫn. Kẻ khác đến gây việc ngược ngạo, nhưng đây không có ý trả thù, gây hại họ. Nuôi sức mạnh mẽ là tinh tấn. Cứu giúp chúng sinh trong đau khổ mà không lui sụt. Sống không buông lung là định. Không say đắm chất ngọt thiền định, mà sinh vào cõi thấp. Học rộng là trí tuệ, có công năng dứt hết các lưới nghi ngờ của chúng sinh. Siêng năng làm lợi ích cho kẻ khác như vậy là tướng của Bồ-tát. Kệ rằng: Chán của, và xả dục, Quên oán siêng hành thiện, Tướng khéo, không ác kiến, Nội trụ gọi Bồ-tát. Giải thích: Bài kệ nầy dùng pháp môn trụ công đức để nói về tướng Bồ-tát. Nhàm chán của cải là trụ vào công đức bố thí, biết rõ lỗi của bỏn sẻn của cải sẽ đoạ vào đường ác, đời sau sẽ nghèo túng. Xả bỏ ham muốn là trụ vào công đức giữ giới, nếu mê đắm năm dục thì không có công năng xuất gia thọ trì cấm giới. Quên thù oán là trụ vào công đức nhẫn nhục, nên có ai đến hại mình, nhưng mình không có tâm báo oán. Có tâm báo oán thì như khắc bức hoạ trên đá. Không có lòng báo oán thì như vẽ trên nước. Một đàng sinh vào đường ác, một đàng sinh vào đường lành. Làm lành siêng năng là trụ vào công đức tinh tấn, do hoặc thực hành sáu pháp Ba-la-mật để đem lợi ích cho mình và người. Tướng khéo là trụ vào công đức của thiền định, khéo phân biệt ba thứ tướng: Chỉ, cử, xả. Không có ác kiến là trụ vào công đức của trí tuệ, tất cả các thứ tướng đều không thật có. Yên trụ bên trong là trụ vào công đức của thệ nguyện. Bên trong nghóa là trụ bất động của luận Đại thừa. Kệ rằng: Đủ bi và khởi thẹn, Chịu khổ, và xả vui, Giữ niệm, khéo nhiếp định, Không xả, gọi Bồ-tát. Giải thích: Bài kệ nầy dùng pháp môn bất thoái để nói tướng của Bồ-tát. Đầy đủ lòng thương là bố thí không lui sụt. Thương xót kẻ khổ nên thường bố thí. Sinh tâm hổ thẹn là giữ giới không lui sụt. Bồ-tát nghó rằng đời nầy, đời sau và pháp, con người, cho nên không làm điều sai quấy. Chịu khổ là nhẫn nhục không lui sụt, là chịu đựng tất cả gió mưa nóng rét và các việc do kẻ khác gây hại. Bỏ vui mừng là tinh tấn không lui sụt là do có công năng làm mãi công việc với siêng năng, đem vui cho các người , không màng đến vui thú riêng. Giữ niệm chắc chắn là thiền định không lui sụt là người khéo gom tâm về bằng sức mạnh của niệm. Thiền định khéo là tuệ không lui sụt, trí vô phân biệt có đầy đủ. Không buông lơi là nguyện không lui sụt, là không buông bỏ pháp Đại thừa. Kệ rằng: Trừ khổ không gây khổ, Nhận khổ không sợ khổ, Giải khổ không nghó khổ, Muốn khổ gọi Bồ-tát. Giải thích: Bài kệ nầy dùng pháp môn lìa khổ để nói tướng của Bồ-tát. Trừ khổ là bố thí. Đem vật cho ai là khiến họ hết nghèo cùng. Không gây khổ là giữ giới, do khi sống giữ giới thì mới không gây khổ cho kẻ khác. Nhận khổ là nhẫn nhục, khi làm việc lợi ích cho mình, cho người thì có thể chịu các khổ não. Không run sợ khổ là tinh tấn, khi làm những việc khó làm thì thường không bị lui sụt. Giải thoát khổ là định là khi lìa khỏi ham muốn cõi Dục là giải thoát khổ khổ. Không nghó đến khổ là tuệ, khi ba luân thanh tịnh thì không sinh ra ý niệm phân biệt. Muốn khổ là nguyện là do thu phục, giáo hóa chúng sinh nên an vui trong sinh tử. Kệ rằng: Pháp lạc và pháp tính, Pháp quở, pháp siêng năng, Pháp tự tại, pháp sáng, Hướng pháp, gọi Bồ-tát. Giải thích: Bài kệ nầy dùng pháp môn nhiếp hóa để nói về tướng của Bồ-tát. Pháp lạc là bố thí, dùng các pháp như ái ngữ, v.v… để bố thí. Tự tính các pháp là giới, tự tính là che chở, giữ gìn. Pháp quở trách là nhẫn nhục do pháp nầy chê bai sự giận dữ. Pháp siêng năng là tinh tấn, siêng thực hành pháp Đại thừa. Pháp tự tại là định, do các thiền là tự tại. Pháp sáng tỏ là tuệ, do đầy đủ Bát-nhã Vô thượng. Hướng đến pháp là nguyện, một bề thẳng đến an vui đại Bồ-đề. Hỏi: Thế nào là Pháp? Đáp: Do tất cả Ba-la-mật đều là pháp tùy chuyển. Kệ rằng: Tài, chế, thiện, lạc, hộ, Pháp, thừa nơi bảy ấy, Bảy thứ không buông lung, Đó gọi là Bồ-tát. Giải thích: Bài kệ nầy dùng pháp môn không buông lung để nói tướng của Bồ-tát. Không buông lung của cải do bố thí nầy, không bố thí các của cải không bền chắc, mà là bố thí những thứ thật bền chắc. Chế là không buông lung, đó là vì trì giới, như Phật nói: Việc gì được phép thì làm, việc gì không được phép thì không nên làm. Hộ là không buông lung, là vì nhẫn nhục, giữ gìn tâm niệm mình và người, không gây thiệt hại cho cả hai. Thiện là không buông lung, là vì tinh tấn thường sinh, siêng năng thực hành sáu độ. Vui không buông lung, vì tu các thiền định, được vui định, nhưng không mê đắm cảnh định ấy. Pháp không buông lung, vì pháp nầy có công năng biết pháp đúng như thật. Thừa không buông lung, là do đại nguyện, nên dù ma vương đến phá hoại, nhưng tâm Bồ-đề cũng không lui sụt. Kệ rằng: Không toại, và tội nhỏ, Không nhẫn, lui cũng loạn, tát. lam. Kiến nhỏ, và thừa khác, Bảy thẹn gọi Bồ-tát. Giải thích: Bài kệ nầy dùng môn có hổ thẹn để nói về tướng Bồ- Hổ thẹn vì không toại ý do hổ thẹn cho tính bỏn sẻn, tham Hổ thẹn vì tội nhỏ do thấy tội nhỏ thật đáng ghê sợ. Hổ thẹn vì không nhẫn là hổ thẹn do thiếu nhẫn nhục. Hổ thẹn vì lui sụt là do biếng nhác. Hổ thẹn vì tán loạn là hổ thẹn do lui sụt khi tu định. Hổ thẹn do kiến thức hẹp hòi là hổ thẹn do lối chấp nhỏ hẹp khác, không thông đạt pháp vô ngã. Hổ thẹn do thừa khác, là hổ thẹn vì phát tâm Tiểu thừa, mà bỏ đại Bồ-đề. Kệ rằng: Đời nầy, đời sau, xả, Khởi siêng cũng được thông, Nói bình đẳng, quả lớn, Bảy nhiếp gọi Bồ-tát. Giải thích: Bài kệ nầy dùng pháp môn nhiếp hóa chúng sinh để nói tướng của Bồ-tát. Nhiếp hóa đời nầy: nghóa là dùng bố thí nhiếp hóa chúng sinh hiện tại. Nhiếp hóa đời sau, nghóa là dùng trì giới nhiếp hóa chúng sinh đời vị lai. Do sinh vào nơi tốt đẹp mới có thể nhiếp hóa. Nhiếp hóa bằng xả bỏ nghóa là dùng nhẫn nhục để nhiếp hóa những kẻ có ý não loạn. Nhiếp hóa bằng khởi dậy siêng năng nghóa là tinh tấn nhiếp hóa những kẻ biếng nhác. Nhiếp hóa được thông suốt, nghóa là dùng thiền định gom chúng sinh nơi nầy, sinh nơi kia mà dạy bảo. Nhiếp hóa bằng lời nói bình đẳng, nghóa là dùng trí tuệ thu phục, giáo hóa chúng sinh hạ, trung, thượng. Với tâm bình đẳng nói cho họ nghóa không thêm, bớt. Nhiếp hóa bằng quả lớn lao: nghóa là dùng đại nguyện, khi được thành Phật thì nhiếp hóa hết chúng sinh, không sót một ai. Nghóa các bài kệ nầy đều dùng pháp môn khác lạ để nói sáu độ và đại nguyện. Đó là tướng Bồ-tát, nên biết. Đã nói về tướng khác nhau của Bồ-tát, kế là nói về sự khác nhau của tên gọi Bồ-tát. Kệ rằng: Nên biết: Các Bồ-tát, Cũng gọi Ma-ha-tát, Cũng gọi người có tuệ, Cũng gọi thượng thành tựu, Cũng gọi người hàng phục, Cũng gọi hàng phục trì, Cũng gọi năng hàng phục, Cũng gọi ngã hàng phục, Cũng gọi là mạnh mẽ, Cũng gọi là thượng Thánh, Cũng gọi là Đạo sư, Cũng gọi đại danh xưng, Cũng gọi có lòng bi, Cũng gọi phước đức lớn, Cũng gọi tự tại hành, Cũng gọi người chánh thuyết. Giải thích: Mười sáu tên gọi nầy đều dựa vào nghóa mà lập. Tất cả Bồ-tát đều có tất cả tên trên đây. Nếu có ai nghe tên gọi ấy thì nên biết đó là Bồ-tát. Đã nói về tên gọi khác nhau của Bồ-tát, kế là nói về các nghóa khác nhau của Bồ-tát. Kệ rằng: Thật giác, đại nghóa giác, Tất cả giác, hằng giác, Cùng với phương tiện giác, Năm giác gọi Bồ-tát. Giải thích: Vì có năm điều giác ngộ nên gọi là Bồ-tát: Thật nghóa giác: hiểu biết người, pháp vô ngã. Đại nghóa giác: hiểu thấu nghóa mình và người. Nhất thiết giác: là biết rõ tất cả nghóa. Hằng giác: là hiện tướng nhập Niết-bàn nhưng vẫn biết vô tận. tiện. Phương tiện giác: là biết tùy hoàn cảnh việc mà sử dụng phương Kệ rằng: Tùy ngã và tiểu kiến, Cùng với các thức thân, Cùng với phân biệt dối, Bốn giác gọi Bồ-tát. Giải thích: Lại do bốn thứ giác nầy nên gọi là Bồ-tát: Tùy ngã giác: do biết tâm mình, tâm là thức A-lê-da. Tiểu kiến giác là thấu hiểu ý mình. Ý là bốn hiểu sai lầm, như ngã kiến, v.v… nương vào thức A-lê-da. Thân thức giác do biết rõ các thức là sáu thức thân. Hư phân biệt giác do biết được phân biệt không chân thật, phân biệt không chân thật tức là tâm, ý, thức ở trước. Tất cả Bồ-tát chỉ có biết. Đó là phân biệt không chân thật. Kệ rằng: Vô cảnh và chân nghóa, Vónh vô cũng tròn đầy, Cũng nói không thật cóđắc, Năm giác gọi Bồ-tát. Giải thích: Lại nữa, do năm giác nầy gọi là Bồ-tát: Vô cảnh giác: là hiểu thấu tính y tha. Chân nghóa giác: là hiểu thấu tính chân thật. Vónh vô giác: là hiểu thấu tính phân biệt. Tròn đầy giác: là hiểu thấu tất cả cảnh, tất cả chủng loại. Bất khả đắc giác: là hiểu thấu ba luân thanh tịnh. Ba luân là: Ứng giác là cảnh giới của Bồ-tát. Y giác là thân của Bồ-tát. Giác tính là trí của Bồ-tát. Ba việc nầy không thật có, nên gọi là bất khả đắc giác. Kệ rằng: Thành tựu và nơi chốn, Thai tạng, thứ lớp hiện, Và do dứt nghi sâu, Năm giác gọi Bồ-tát. Giải thích: Lại nữa, do năm giác nầy nên gọi là Bồ-tát: Thành tựu giác là thành quả Phật. Xứ sở giác: là ở cung trời Đâu-suất. Thai tạng giác: là vào thai mẹ. Tùy thứ hiện giác là sinh ra, hưởng dục lạc, xuất gia, tu hành, thành đạo. Đoạn thâm nghi giác là vì chúng sinh mà xoay bánh xe pháp Đại thừa. Kệ rằng: Đắc bất đắc và trụ, Đối ta cũng đối người, Có nói và không nói, Có mạn, dứt kiêu mạn, Chưa thục, đã thành thục, Mười một thứ như thế, Tất cả đều giác biết, Nên gọi là Bồ-tát. Giải thích: Lại, do mười một điều giác nầy nên gọi là Bồ-tát: Đắc bất đắc và trụ là giác như thứ lớp trên từ quá khứ, hiện tại cho đến vị lai. Đối với ta và người là thấu hiểu trong và ngoài. Có nói, không nói là biết thô và tế. Có kiêu mạn, dứt kiêu mạn là thấu biết kém và thấu biết hơn. Chưa thành thục, đã thành thục là thấu biết xa, thấu biết gần. Chưa thành thục là hiểu kẻ kia lâu xa mới có giác, đã thành thục là biết kẻ kia giác gần. <篇> <卷>QUYỂN 13 <詞>Phẩm Thứ 23: HÀNH, TRỤ Giải thích: Đã nói về công đức của Bồ-tát, kế là nói về năm tướng của Bồ-tát. Kệ rằng: Trong tâm có thương xót, Ái ngữ và mạnh mẽ, Dang tay và giải nghóa, Là năm tướng Bồ-tát. Giải thích: Bồ-tát có năm tướng: Tâm thương xót. Lời nói dịu dàng. Mạnh mẽ. Dang rộng hai tay. Giải thích nghóa. Tâm thương xót nghóa là dùng tâm Bồ-đề dìu dắt, đem lại lợi ích cho chúng sinh. Lời nói dịu dàng là giúp các người có lòng tin chân chính đối với pháp Phật. Mạnh mẽ làm những việc khổ nhọc khó làm nhưng tâm không lui sụt. Dang rộng hai tay là dùng của cải để thu phục, giáo hóa. Giải thích nghóa, dùng pháp để giáo hóa. Năm tướng nầy, nên biết: Một tướng đầu là tâm, bốn tướng sau là hạnh. Đã nói về năm tướng của Bồ-tát, kế là nói về vị trí xuất gia và tại gia của Bồ-tát. Kệ rằng: Bồ-tát trong mọi lúc, Thường ở ngôi Luân Vương, Làm lợi ích chúng sinh, Phần tại gia là vậy. Giải thích: Bồ-tát tại gia thường làm Luân Vương, giáo hóa chúng sinh, thực hành mười điều lành, lìa mười điều ác. Đó làm lợi ích. Kệ rằng: Thọ đắc và pháp đắc, Và do thị hiện thành, Ba thứ phần xuất gia, Ở trong tất cả địa. Giải thích: Bồ-tát xuất gia có ba phần: Phần thọ đắc: là được người ủng hộ. Phần pháp đắc: là được che chở không lưu xuất. Phần thị hiện: là biến hóa vừa tạo tác, vừa lãnh thọ. Đắc phần là tín, hạnh, địa. Pháp đắc phần và thị hiện phần là nhập vào đại địa. Kệ rằng: Nên biết phần xuất gia, Đủ vô lượng công đức, So với người tại gia, Xuất gia là tuyệt diệu. Giải thích: So sánh hai phần thì xuất gia là tuyệt diệu, có vô lượng công đức. Đã nói về phần cao quý của xuất gia, kế đây là nói về năm thứ tâm rất rộng lớn của Bồ-tát. Kệ rằng: Ái quả và gốc lành, Muốn chứng được Niết-bàn, Chưa tịnh, tịnh, cực tịnh, Là ở trong các địa. Giải thích: Năm tâm rất lớn là: Tâm vui rất lớn. Tâm làm lợi ích rất lớn. Tâm chưa tịnh rất lớn. Tâm đã thanh tịnh rất lớn. Tâm cực tịnh, rất lớn. Ái quả là tâm vui rất lớn, nó giúp cho tất cả chúng sinh được quả đáng yêu mến đời sau. Gốc lành: là tâm làm lợi ích rất lớn, giúp cho tất cả chúng sinh thực hành các điều lành hiện tại và được Niết-bàn. Chưa tịnh là tâm chưa tịnh rất lớn, tức Bồ-tát ở địa Tín, hạnh. Tịnh là tâm đã tịnh rất lớn là Bồ-tát ở Sơ địa cho đến địa thứ bảy. Cực tịnh là rất tịnh, rất lớn. Tức Bồ-tát ở ba địa sau. Đã nói về năm thứ tâm rất lớn của Bồ-tát, kế đây nói về bốn thứ nhiếp hóa (thu phục giáo hóa) chúng sinh của Bồ-tát. Kệ rằng: Dục lạc và bình đẳng, Tăng thượng và đồ chúng, Bốn tâm ở các địa, Dẫn dắt các chúng sinh. Giải thích: Bốn thứ nhiếp hóa (thu phục giáo hóa) chúng sinh là: Nhiếp hóa tâm dục lạc là dùng tâm Bồ-đề để nhiếp hóa. Nhiếp hóa bằng tâm bình đẳng là vì nhập vào Sơ địa là được tâm nhiếp hóa bình đẳng giữa mình và người. Nhiếp hóa bằng tâm tăng thượng là vì ở giai vị chủ, dùng sức mạnh tự tại mà nhiếp hóa. Nhiếp hóa đồ chúng bằng tâm đồ chúng, là vì đã thu phục giáo hóa thành đệ tử mình. Đã nói về bốn thứ nhiếp hóa chúng sinh của Bồ-tát, kế đây nói về bốn thứ thọ sinh của Bồ-tát. Kệ rằng: Nghiệp lực và nguyện lực, Định lực và thông lực, Nương bốn sức mạnh nầy, Bồ-tát mới thọ sinh. Giải thích: Bốn thứ thọ sinh là: Thọ sinh do sức mạnh của nghiệp. Thọ sinh do sức mạnh của thệ nguyện. Thọ sinh do sức mạnh của định. Thọ sinh do sức mạnh của thần thông. Thọ sinh do sức mạnh của nghiệp: là Bồ-tát ở địa Tín, Hạnh, do sức nghiệp tự tại nên thọ sinh tùy theo chỗ mình ưa thích. Thọ sinh do sức mạnh của thệ nguyện là Bồ-tát nhập vào đại địa nguyện lực tự tại, nhưng do nguyện muốn thành thục chúng sinh cho nên thọ sinh trong loài súc sinh. Thọ sinh do sức mạnh của định là Bồ-tát được định, sức định tự tại, nên xả bỏ cõi trên mà thọ sinh xuống cõi dưới. Thọ sinh do sức mạnh của thần thông, sức thần thông tự tại, nên ở cung trời Đâu suất, nhưng có công năng thị hiện các tướng mà thọ sinh. Đã nói về bốn thứ thọ sinh của Bồ-tát, kế là nói về mười một trụ tướng của Bồ-tát. Kệ rằng: Chứng không, chứng nghiệp quả, Trụ thiền, trụ giác phần, Quán đế, quán duyên khởi, Vô tướng, vô công dụng, Hóa lực, tịnh hai môn, Ấy là Bồ-đề tịnh, Do những lời nói trên, Lập tướng địa, nên biết. Giải thích: Mười một trụ tức là mười một địa. Trụ gọi là địa. Chứng không là nói về tướng Sơ trụ, do thường hay trụ vào nhân vô ngã, pháp vô ngã. Chứng nghiệp quả là nói về tướng trụ thứ hai, vì nghiệp chứng và quả không hư mất. Có công năng hộ trì giới. Trụ thiền là nói về tướng trụ thứ ba, có thể sinh vào cõi dục, nhưng không lui sụt thiền. Trụ giác phần là nói về tướng trụ thứ tư, có thể vào sinh tử nhưng không bỏ mất phần giác ngộ. Quán đế là nói về tướng trụ thứ năm dùng sự sáng suốt giáo hóa phiền não, chỉ duy tâm phiền não, giáo hóa bằng lý vô ngã. Quán duyên khởi là nói về tướng trụ thứ sáu, có công năng không khởi tâm nhiễm, vẫn theo duyên khởi mà thọ sinh. Vô tướng là nói về tướng trụ thứ bảy, là việc làm tuy dụng công, nhưng tham cứu đạo cao hơn một bậc, phần nhiều đều an trụ vô tướng. Vô công dụng là nói về tướng trụ thứ tám, dù đang ở cõi nước thanh tịnh của Phật, không sinh tạo tác nên thường hay trụ trong vô công dụng. Sức mạnh giáo hóa là nói về tướng trụ thứ chín, do có bốn năng lực khéo ăn nói tự tại nên có thể thành thục tất cả chúng sinh. Tịnh hai môn là nói về tướng trụ thứ mười, là môn Tam-muội và môn Đà-la-ni hết sức thanh tịnh. Tịnh Bồ-đề là nói về tướng trụ thứ mười một, do Nhất thiết trí đã dứt hết các chướng ngại. Đã nói mười một tướng trụ của Bồ-tát, kế là nói về nương vào các địa mà đặt tên các Bồ-tát. Kệ rằng: Ba đầu, ba hạnh tịnh, Ba kế, dứt ba mạn, Ba sau giác xả hóa, Địa mười có bốn tên. Giải thích: Trong mười địa, đặt mười tên cho Bồ-tát. Ba địa đầu, ba hạnh thanh tịnh là địa đầu tiên gọi là kiến tịnh do ở địa nầy, Bồ-tát được trí tuệ để đối trị với chấp ngã về người, về pháp. Địa thứ hai gọi là giới tịnh, do Bồ-tát phạm các lỗi cấu uế nhỏ nhiệm, những thứ ấy hoàn toàn vô thể. Địa thứ ba gọi là Định tịnh, là Bồ-tát được không lui sụt các thiền Tam-muội. Ba địa kế dứt trừ ba kiêu mạn là địa thứ tư dứt pháp môn dị mạn, do đối với các pháp nói trong kinh, Bồ-tát phá những ý niệm ngã mạn khác nhau. Địa thứ năm gọi là dứt dị mạn tương tục, do nhập vào mười tâm bình đẳng, nên Bồ-tát đối với tất cả sự tương tục có tâm bình đẳng. Địa thứ sáu là dứt dị mạn tịnh nhiễm, do Bồ-tát coi khách trần phiền não vốn là thể tính chân như, xưa này thanh tịnh, nhiễm là có thể trụ ở pháp duyên khởi, nhưng từ chân như nên không sinh ra kiến chấp công đức giữa pháp đen hay pháp trắng. Ba địa sau pháp hóa với hành xả là: ở địa thứ bảy gọi là đắc giác, do Bồ-tát an trụ trong năng lực vô tướng. Có công năng tu ba mươi bảy giác phần trong từng ý niệm. Địa thứ tám gọi là hành xả, Bồ-tát trụ trong vô công dụng, vô tướng, cũng gọi là tịnh độ, Bồ-tát kết hợp hạnh phương tiện với Bồ-tát ở địa không thoái lui. Địa thứ chín gọi là hóa chúng sinh, do Bồ-tát có công năng thành thục tất cả chúng sinh. Địa thứ mười có bốn tên gọi: Thần thông rộng lớn do Bồ-tát được thần thông rộng lớn. Pháp thân tròn đầy do Bồ-tát có đủ vô lượng môn Tam-muội và môn Đà-la-ni. Năng hiện thân do Bồ-tát trụ ở các cung trời như Đâu-suất, vẫn có thể thị hiện tướng thân. Thọ chức là do Bồ-tát nhận chức từ Chư Phật. Đã nói về căn cứ vào địa mà đặt tên các Bồ-tát, kế là nói về Bồ- tát theo từng địa tu học và quả của tu học ấy. Kệ rằng: Thứ lớp, nương sáu trước, Kiến tính, tu ba học, Thứ lớp nương bốn sau, Đắc quả có bốn thứ. Giải thích: Theo thứ lớp, nương vào sáu, kiến tính trước, tu ba học là Bồ-tát ở Sơ địa thông đạt chân như, ở địa thứ hai, học giới tăng thượng, ở địa thứ ba tâm tăng thượng, ở địa thứ tư, năm, sáu, học tuệ tăng thượng. Tuệ có hai cảnh là: Pháp chân thật, là bốn đế như khổ đế, v.v… Duyên khởi, là quán mười hai nhân duyên theo chiều thuận và chiều ngược. Hai cảnh nầy cũng ở trong các địa thứ hai, thứ ba. Cho nên các địa ấy, cũng lập tuệ tăng thượng. Nhưng trong địa thứ tư là tuệ tăng thượng Bồ-đề phần. Trong địa thứ năm là tuệ tăng thượng đế quán. Trong địa thứ sáu là tuệ tăng thượng duyên khởi quán, cho nên trong ba địa nầy, lập ra tuệ học tăng thượng. Theo thứ lớp, nương vào bốn địa sau, đắc quả có bốn thứ là nương vào địa thứ bảy, vô tướng, hữu công dụng trụ, là quả thứ nhất. Nương vào địa thứ tám, được vô tướng, vô công dụng trụ, là quả thứ hai. Nương vào địa thứ chín, được thành thục chúng sinh là quả thứ ba. Nương vào địa thứ mười, được thành thục hai môn là quả thứ tư. Đã nói về Bồ-tát theo từng địa tu học và quả tu học ấy, kế đây là nói về Bồ-tát theo địa tu học, không lưu xuất năm ấm. Kệ rằng: Kiến tính, tịnh ba thân, Cũng ở sáu địa trước, Địa khác, tịnh còn hai, Xa lìa năm thứ chướng. Giải thích: Sơ địa kiến tính, như trước đã giải thích. Ở địa thứ là hai giới thân thanh tịnh. Ở địa thứ ba là định thân thanh tịnh. Ở địa thứ tư, năm, sáu, là tuệ thân thanh tịnh. Ở bốn địa sau và Phật địa là giải thoát thân, giải thoát tri kiến thân thanh tịnh, vì đã lìa khỏi năm thứ chướng ngại. Năm thứ chướng ngại là: Trong địa thứ bảy, coi sự chấp tướng, vô tri là chướng. Ở địa thứ tám, coi công dụng, vô tri là chướng. Ở địa thứ chín, coi không có công năng giáo hóa, vô tri là chướng. Ở địa thứ mười, coi chưa tịnh hai môn, vô tri là chướng ngại. Ở Phật địa, coi những chướng ngại, vô tri là chướng ngại, nghóa là cái vô tri nầy, có thể chướng cho cảnh giới trí tuệ của Thanh văn, Duyên giác. Trong khi đó Chư Phật biết tất cả cảnh giới, không có chướng ngại, vì đã giải thoát khỏi chướng ngại kia. Đã nói Bồ-tát tùy địa tu học không lưu xuất năm ấm, kế đây là nói về Bồ-tát tùy địa mà thành tựu, chưa thành tựu. Kệ rằng: Chưa thành tựu, thành tựu, Thành lại, chưa thành thành, Như địa lập ra biết, Phân biệt vô phân biệt. Giải thích: Chưa thành tựu, thành tựu nghóa là ở địa Tín, Hạnh là chưa thành tựu. Các địa khác đều gọi là thành tựu. Thành tựu rồi lại có cái cần thành tựu, chưa thành tựu là những thành tựu trong các địa trước, lại có cái cần thành tựu mà chưa thành tựu. Từ địa thứ bảy trở xuống, gọi là chưa thành tựu, vì có công dụng. Địa thứ tám trở lên, gọi là thành tựu do không công dụng. Hỏi: Trước kia nói địa Hoan Hỷ cũng là thành tựu, thì nghóa đó thế nào? Đáp: Theo từng địa mà lập ra hiểu biết phân biệt, vô phân biệt. Ấy là do từ địa mà lập ra hiểu biết chỉ có phân biệt. Còn ở đây phân biệt, cũng vô phân biệt vì chủ thể và đối tượng chấp giữ đều vô thể. Do y theo nghóa nầy mà gọi là thành tựu. Kệ rằng: Nên biết trong các địa, Tu tập và thành tựu, Hai việc không nghó bàn, Do cảnh giới Chư Phật. Giải thích: Trong các địa, Bồ-tát đều có tu tập và thành tựu. Nên biết, trong mỗi địa đều không thể nghó bàn do các Bồ-tát với tự nội chứng của mình mà biết rằng những gì Phật biết, đều không phải cảnh giới của người khác. Đã nói về Bồ-tát theo địa mà thành tựu, chưa thành tựu, kế đây là, nói về mười thứ tướng nhập địa của Bồ-tát. Kệ rằng: Minh tín và không kém, Không khiếp, không đợi chờ, Thông đạt và bình đẳng, Lìa thiên lệch, lìa đắm, Cho đến biết phương tiện, Cũng ở thánh chúng sinh, Như vậy mười thứ tướng, Mỗi địa đều tròn đầy. Giải thích: Bồ-tát nhập địa thì mỗi địa đều có mười tướng, mười tướng gồm: Minh tín. Không kém cõi. Không yếu đuối. Không đợi chờ. Thông đạt. Bình đẳng. Lìa một bên. Lìa đắm. Biết phương tiện. Thánh chúng sinh. Minh tín là ngay nơi địa mình được sáng suốt, còn đối với sự giao tế các pháp thì đều không hiểu biết. Được các địa khác tin. Đối với các địa sau thì sinh mong muốn, ưa thích. Không kém cõi là nghe pháp cao cả nhiệm mầu lòng không sợ hãi. Không yếu đuối là mạnh mẽ làm những việc hết sức gian khổ, khó làm. Không đợi chờ là khởi sự thực hành ở ngay địa mình, không đợi ai dạy bảo. Thông đạt là với phương tiện của địa khác, có công năng thực hiện hạnh bình đẳng, vì chúng sinh cùng một tâm với mình. Lìa một bên là dù nghe tiếng khen hay chê vẫn không thấy cao hay thấp. Lìa đắm là dù được ngôi Luân Vương, vẫn không đắm nhiễm. Biết phương tiện là biết các pháp không thật có, nhờ phương tiện của Phật nên Thánh chúng mới còn. Đồ chúng của Chư Phật hằng sống mãi. Mười tướng nầy, mỗi địa đều có đầy đủ, nên biết. Đã nói về mười tướng Bồ-tát nhập địa, kế đây là nói về mười tướng độ trong địa Bồ-tát. Kệ rằng: Có dục, không sáu chướng, Thứ lớp, không tuệ, loạn, Không trôi cũng không về, Sự bạn và cúng dường, Hồi hướng sinh cõi cao, Tu thiện và thần thông, Kho công đức như vậy, Phật tử mười sáu tướng. Giải thích: Trong các địa, các Bồ-tát chứng mười độ gồm có mười sáu tướng, mười sáu tướng gồm: Có dục lạc, do thực hành các độ. Không bỏn sẻn do lìa các chướng, bố thí. Không trái ngược, là lìa chướng giới. Không giận dữ, do lìa chướng nhẫn. Không biếng nhác, do lìa chướng tinh tấn. Từ bi là do lìa chướng định. Từ bi có công năng cho vui, nhổ gốc khổ. Nó đối trị sự quấy động của giận dữ, vì được định. Không có trí tuệ ác, là do lìa chướng tuệ. Có ba thứ tuệ ác: Phân biệt tự tính, theo nhớ mà phân biệt, phân biệt sáng tỏ. Phân biệt nầy có công năng dứt trừ. Tuệ không bị rối loạn là do xa lìa tâm của thừa khác. Không trôi đi là do tâm không mê đắm vào cái vui cao đẹp của cõi trời, cõi người. Không trở lại, là vì tâm không lui sụt trước không thành tựu cứu khổ và làm những việc khó làm. Phụng sự bạn, là vì nương theo lời Phật dạy, theo thiện tri thức nghe pháp Đại thừa. Cúng dường là cúng dường Tam Bảo. Hồi hướng là vì thiện xảo phương tiện. Nơi sinh tốt đẹp, đây nói về tướng nguyện của Ba-la-mật, lìa nơi có tám nạn, không lìa Chư Phật và Bồ-tát. Tu thiện, đây là nói về tướng của lực Ba-la-mật. Tu các gốc lành không xen hở. Thần thông du hí, đây là nói về tướng của trí Ba-la-mật, là công đức của thần thông du hí Đại thừa. Bồ-tát nếu được tướng nầy thì làm bậc thượng thủ của tất cả chúng sinh, gọi là Phật tử có mười sáu tướng. Đã nói về tướng mười độ trong địa Bồ-tát, kế đây là nói về năm công đức độ của độ Bồ-tát. Kệ rằng: Khi mỗi địa tiến lên, Mỗi độ có năm đức, Hai và hai, và một, Nên biết đều chỉ quán. Giải thích: Khi tiến lên mỗi địa, mỗi độ đều có năm công đức. Đối với mỗi địa, Bồ-tát tu tập từng độ. Đối với mỗi độ đều có đầy đủ năm công đức. Dứt sạch tập khí. Được khen ngợi. Tròn sáng. Tướng khởi. Nhân rộng. Dứt sạch tập khí là trong từng sát-na, dứt trừ khối tập khí trong chuyển y. Được khen, vì lìa xa các thứ tướng mà được pháp lạc. Tròn sáng là biết trùm hết các chủng loại mà không chia đoạn. Tướng khởi là vì nhập địa Đại thừa, sinh tướng vô phân biệt. Nhân rộng là giúp tăng thêm lên mãi khối trí, khối phước của tất cả pháp thân đều được tròn đầy, đều được thanh tịnh. Hai và hai và một nên biết, chỉ quán đều có, trong đây nên biết hai công đức đầu là phần Xa-ma-tha, hai công đức kế là phần Tì-bát- xá-na. Công đức thứ năm là phần có cả chỉ và quán. Đã nói về năm công đức độ của độ Bồ-tát, kế đây là giải thích tên gọi của Bồ-tát trong mười địa. Kệ rằng: Thấy chân, thấy lợi vật, Nơi đây được vui mừng, Khỏi phạm, khỏi tâm khác, Đây gọi, địa Ly cấu, Cầu pháp giữ pháp lực, Làm sáng, gọi là Minh, Củi chướng hoặc chướng trí, Năng đốt là lửa tuệ. Có hai thứ khó lui, Năng lui, gọi Nan thắng. Không trụ hai pháp quán, Hằng hiện, gọi Hiện tiền. Li đạo gần Nhất thừa, Đi xa, gọi Viễn hành. Tưởng tướng, tưởng vô tướng, Không động, gọi bất động. Bốn biện trí sức khéo, Khéo nói gọi Thiện tuệ, Hai môn như mây phủ, Mưa pháp, gọi Pháp Vân. Giải thích: Thấy chân như, thấy lợi vật, nơi đây được gọi vui mừng là ở trong Sơ địa: Ở Sơ địa, Bồ-tát thấy chân như, nghóa là thấy tự lợi, vì từ trước đến giờ chưa từng thấy, bây giờ mới thấy, vì đi gần đến Bồ-đề. Thấy lợi vật là thấy làm lợi cho người, là trong từng sát-na, có thể thành thục cả trăm chúng sinh. Do hai cái thấy nầy mà sinh ra vui mừng, nên gọi là Hoan hỷ địa. Ra khỏi tâm phạm giới, ra khỏi tâm khác, đây gọi là địa li cấu là trong địa thứ hai nầy, Bồ-tát thoát khỏi hai thứ nhơ bẩn: Thoát ly vết nhơ vì phạm giới. Thoát ly tâm nhơ vì sinh ý thừa khác. Do ra khỏi hai sự nhơ ấy nên gọi là Ly cấu địa. Như kinh Thập Địa nói: “Chúng ta do phải chứng đắc, phải thanh tịnh nhất thiết chủng trí, nên chúng ta siêng năng tinh tấn”. Do tìm học và nhớ chắc Phật pháp làm cho sáng lên, nên gọi là Minh. Bồ-tát ở trong ba địa đã chứng được năng lực Tam-muội tự tại, nên đối với vô lượng Phật pháp, có công năng tìm hiểu, có công năng nhớ chắc. Được pháp Đại thừa sáng tỏ, làm sáng tỏ cho các người, có khả năng dùng Phật pháp soi sáng cho mình, cho người, nên gọi là Minh địa. Những củi mê che khuất trí, công năng đốt cháy chúng, đó là lửa tuệ, là Bồ-tát ở địa thứ tư lấy tuệ của Bồ-đề phần làm tự tính của lửa và lấy tự tính của hai hoặc làm củi. Bồ-tát trong địa nầy, có công năng châm lửa tuệ, đốt cháy củi của hai thứ chướng kia, nên gọi là Diệm Tuệ địa. Có hai thứ khó lui sụt, có thể lui sụt nên gọi là Nan thắng, là Bồ- tát ở địa thứ năm, có hai thứ khó: Siêng năng giáo hóa chúng sinh không có tâm bậc bội khó chịu. Chúng sinh không nghe theo sự giáo hóa mà tâm không phiền não, thì thật là khó khăn. Bồ-tát ở địa nầy có công năng đánh lùi hai cái khó đó. Trong sự khó khăn ấy, mà thắng nổi nên gọi là Nan thắng địa. Không trụ hai pháp quán, thường hiện tiền, nên gọi hiện tiền là Bồ-tát ở trong địa thứ sáu nầy, nương vào sức mạnh của Bát-nhã mà có thể trụ vào hai pháp là sinh tử và Niết-bàn. Quán tuệ có thường hiện tiền, nên gọi là Hiện Tiền địa. Li đạo gần đạo Nhất Thừa, đi xa nên gọi Viễn hành là Bồ-tát ở địa thứ bảy nầy, gần với đạo Nhất thừa, nên gọi là Viễn hành. Hỏi: Ai đi xa? Đáp: Công dụng của phương tiện rốt ráo nầy có thể đi xa. Do sự đi xa nầy, nên gọi là Viễn hành địa. Tưởng có tướng, tưởng không có tướng, không lay động, nên gọi địa Bất động là Bồ-tát ở địa thứ tám nầy, có tưởng nghó bằng tướng mạo và tưởng nghó không có tướng mạo mà vẫn có công dụng. Hai tưởng ấy đều không bị lay động. Vì không lay động nên gọi là Bất Động địa. Bốn biện tài, trí lực khéo, nói pháp khéo, nên gọi là Thiện tuệ, là Bồ-tát ở địa thứ chín nầy, có tuệ bốn vô ngại là cao quý: Trong một sát- na, trong Tam thiên thế giới, tất cả trời, người với chủng loại khác nhau, tiếng nói khác nhau, lấy ý nghóa khác nhau mà cùng hỏi, thì Bồ-tát ở địa nầy, có thể dùng một thứ tiếng để trả lời cho tất cả, dứt bỏ hết các nghi ngờ. Do khéo nói như vậy nên gọi là Thiện tuệ địa. Hai pháp môn như mây che kín, rưới xuống mưa pháp, nên gọi Pháp vân là Bồ-tát ở địa thứ mười nầy, bằng môn Tam-muội và môn Đà-la-ni xếp vào tất cả nhân nghe tập huân tập tràn ngập trong thức A-lê-da, như mây nổi đầy khắp không gian. Bồ-tát có công năng đem mây nghe huân tập ấy, vào mỗi sát-na, vào mỗi tướng, vào mỗi hảo, vào mỗi lỗ chân lông, mà trút mưa pháp xuống ngập hết để các người đều được giáo hóa đầy đủ. Vì có thể như mây nhóm, mưa pháp nên gọi là Pháp Vân địa. Hỏi: Đã giải thích tên gọi riêng, còn trụ là sao? Địa là sao? Kệ rằng: Do tập các gốc lành, Lạc trụ, nên gọi trú, Thường thường, cố không sợ, Lại lấy địa làm tên. Giải thích: Do nhóm họp các gốc lành, lạc trụ, nên gọi trụ, là vì thành tựu tất cả gốc lành, nên các vị Bồ-tát lạc trụ ở tất cả địa, bất cứ lúc nào. Thế cho nên các địa gọi là trụ. Thường thường, số lượng, không sợ, lại lấy Địa làm tên gọi là lấy Bộ, Di, Da đặt tên địa. Bộ nghóa là thường thường. Di nghóa là số lượng thật. Da nghóa là không sợ. Các Bồ-tát muốn tiến lên địa trên, thì trong mỗi địa, phải thường dứt bỏ các chướng ngại, thường được nhiều công đức, đó là nghóa thường thường. Địa lấy số mười làm lượng, các Bồ-tát ở trong mỗi địa, biết dứt bỏ bao nhiêu chướng, biết được bao nhiêu công đức. Sự biết không luống dối nầy, gọi là nghóa số thật. Địa trên là chỗ không sợ. Các Bồ-tát lo sợ bị lui sụt trong địa mình, nên siêng năng tạo lập nhiều công đức để mong tiến lên địa trên. Đó gọi là nghóa không sợ. Vì có ba nghóa nầy nên gọi là Địa. Đã nói tên gọi mười địa của Bồ-tát, kế đây là nói về bốn thứ đức khác nhau trong mỗi địa của Bồ-tát. Kệ rằng: Do tín, và do hạnh, nói. Do đạt cũng do thành, Nên biết, các Bồ-tát, Đắc địa có bốn thứ. Giải thích: Bốn thứ đắc địa là: Do lòng tin mà được. Do thực hành mà được. Do thông đạt mà được. Do thành tựu mà được. Do tín, nghóa là dùng lòng tin mà được các địa, như trong Tín địa Do hạnh, là dùng chánh hạnh mà được các địa. Các Bồ-tát có đủ mười thứ chánh hạnh đối với pháp Đại thừa: Viết chép. Cúng dường. Lưu truyền. Nghe thọ. Đọc tụng. Dạy người. Tụng tập. Giải thích. Suy nghó, lựa chọn. Tu tập. Mười chánh hạnh nầy có công năng sinh ra vô lượng công đức, vì hạnh nầy mà được địa nên gọi là hạnh đắc. Thông đạt là thông đạt nghóa đệ nhất đế, cho đến địa thứ bảy, gọi là Thông đạt. Được thành tựu là địa thứ tám, cho đến Phật địa gọi là thành tựu đắc. Đã nói về bốn thứ đắc của địa Bồ-tát, kế đây là nói về bốn thứ tu hành khác nhau của Bồ-tát. Kệ rằng: Các độ, các phần giác, Các thông và các nhiếp, Là Đại cũng là Tiểu, Đều vào, cũng đều thành. Giải thích: Nói chung tất cả hạnh của Bồ-tát không ngoài bốn thứ: Hạnh Ba-la-mật. Hạnh Bồ-đề phần. Hạnh thần thông. Hạnh nhiếp hóa chúng sinh. Nói về thực hành Ba-la-mật là vì muốn chúng sinh tìm về với Đại thừa. Nói về thực hành Bồ-đề phần là vì muốn chúng sinh tìm về với Tiểu thừa. Nói về thần thông hành là khiến hai loại chúng sinh đều được nhập vào Phật pháp. Nói về việc thực hành nhiếp hóa chúng sinh là để khiến hai loại chúng sinh thành thục Phật pháp. ------------------------------ <詞>Phẩm Thứ 24: KÍNH PHẬT Giải thích: Đã nói về hành trụ của Bồ-tát. Kế là nói về công đức lễ Phật. Kệ rằng: Hợp tâm và lìa tâm, Tâm không lìa lợi ích, Thương xót các chúng sinh, Cứu đời, con đảnh lễ. Giải thích: Bài kệ nầy nêu việc kính lạy đức Như lai là bậc vô lượng công đức tối thắng. Gồm hai tâm là tâm từ ban cho niềm vui, tâm bi, nhổ khổ cho chúng sinh. Không lìa tâm là tâm hỉ vì hằng vui mừng, tâm làm lợi ích là tâm xả vì không ô nhiễm. Kệ rằng: Tất cả chướng giải thoát, Hơn tất cả thế gian, Đầy khắp cả các nơi, Tâm thoát, con đảnh lễ. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc kính lạy đức Như lai là bậc công đức cao cả không ai sánh nổi. Có công năng ngăn dứt mê lầm khởi lên là các phiền não chúng sinh chực khởi lên, các việc làm của Như lai đều có công năng khiến chúng chấm dứt. Có công năng trừ dứt những mê lầm ấy là mê lầm kia đã sinh khởi, đức Như lai cũng có thể sinh ra phương tiện đối trị chúng. Nếu đối với kẻ khác, không bị tranh cãi thì họ chỉ có thể khiến cho phiền não không nổi dậy vì kiều kiện của chính họ mà không thể đối trị khi nó khởi lên. Sự không tranh cãi của Như lai không phải như vậy, là chẳng những khiến phiền não không khởi lên mà ngài còn có công năng đối trị nó. Thế mới trở nên cao tột. Đối với các nhiễm ô của chúng sinh, lòng bi cứu vớt, con xin đãnh lễ: là với Tam-muội vô tránh, đức Như lai mở lòng thương không thiên vị đối với tất cả chúng sinh đang mắc nhiễm ô. Cho nên Như lai được gọi là người có lòng bi. Kệ rằng: Vô công dụng, không đắm, Không ngại, thường vắng lặng, Năng giải tất cả nghi, Trí cao, con đảnh lễ. Giải thích: Bài kệ nầy nêu việc kính lạy đức Như lai là bậc công đức về nguyện, trí cao cả. Nguyện trí của Như lai có được là do năm việc cao cả này: Khi khởi thì vô công dụng. Không mê đắm cảnh. Bên trong không chướng ngại. Thường vắng lặng. Có công năng cởi mở các nghi ngờ. Do năm ý nghóa nầy nên Như lai là bậc tối thắng, trong khi hai thứ nguyện và trí của người khác thì chẳng phải vô công dụng mà là do tác ý khởi. Họ chẳng được không chấp trước, do họ phải nhờ định lực và họ cũng không được vô ngại do có chút tri thức thôi. Họ không thường vắng lặng, do định không duy trì mãi, và họ không có công năng cởi mở nghi ngờ, do có vô tri. Kệ rằng: Sở y và năng y, Đối lời và đối trí, Người nói tuệ vô ngại, Khéo nói, con đảnh lễ. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc kính lạy đức Như lai là bậc công đức cao vời không có gì chướng ngại. Ngài nói, có hai thứ là: Điều được nói là pháp và năng nói là nghóa nói, có đủ hai thứ là: Về ngôn từ địa phương, và về trí khéo léo. Đối với việc nói và đối với nói đầy đủ trí tuệ thường vô ngại. Cho nên Như lai cao tột. Nói tức là nói về nghiệp vô ngại, chỉ bày có phương hướng nên gọi là khéo nói. Kệ rằng: Năng đi, và năng nghe, Biết hành biết khứ lai, Khiến họ được xuất ly, Con đảnh lễ Giáo thọ. Giải thích: Bài kệ nầy nói về kính lạy đức Như lai là bậc công đức, thần thông cao cả. Có công năng đến là như ý thông, có công năng lui tới nơi nầy nơi nọ. Có công năng nghe là thiên nhó thông. Có công năng nghe hết các thứ tiếng. Biết các hoạt động là tha tâm thông. Có công năng biết các hoạt động khác nhau trong tâm người khác. Biết đến là túc trụ thông. Nó có công năng biết đời trước, nhân gì mà kẻ kia sinh ra đây. Biết đi là sinh tử thông. Nó có công năng biết từ nhân đời nầy, kẻ kia sẽ sinh về đâu. Khiến họ được xuất ly là lậu tận thông. Nói có công năng nói pháp như thật cho chúng sinh nghe. Kệ rằng: Nếu chúng sinh thấy, Biết chắc là trượng phu, Rất khởi tâm tịnh tín, Phương tiện, con đảnh lễ. Giải thích: Bài kệ nầy nói về kính lạy đức Như lai là bậc công đức tướng tốt cao cả. Nếu tất cả chúng sinh nhìn thấy, thì biết ngay Như lai là bậc trượng phu và họ phát sinh lòng tin với việc làm trong sạch đối với Như lai, vì Như lai có tướng tốt làm phương tiện. Kệ rằng: Thủ, xả, trụ, biến hóa, Định trí được tự tại, Bốn thanh tịnh như vậy, Thế Tôn, con đảnh lễ. Giải thích: Bài kệ nầy nói về kính lạy đức Như lai là bậc công đức thanh tịnh cao cả, có bốn thứ thanh tịnh: Thân thanh tịnh. Duyên thanh tịnh. Tâm thanh tịnh. Trí thanh tịnh. Thủ, xả, trụ: nói về thân thanh tịnh. Đối với đời sống của mình, có công năng tự tại trong việc sống, chết, an trụ. Biến hóa: nói về duyên thanh tịnh. Có công năng tự tại trong việc giáo hóa, chuyển biến hoàn cảnh. Định là nói về tâm thanh tịnh. Có công năng tự tại trong việc xuất nhập các định. Trí là nói về trí thanh tịnh. Có công năng biết tự tại đối với các cảnh không chướng ngại. Kệ rằng: Phương tiện và quy y, Thanh tịnh và xuất ly, Do vậy, phá bốn dối, Hàng ma, con đảnh lễ. Giải thích: Bài kệ nầy nêu lên lạy đức Như lai là bậc công đức có năng lực cao cả. Ma dựa vào bốn việc mà phá chúng sinh, bốn việc ấy là: Dựa vào phương tiện gian dối làm chúng sinh mê lầm. Chúng bảo vui hưởng năm trần dục thì được sinh về đường lành, không rơi vào đường ác. Dựa vào sự nương về làm chúng sinh mê lầm. Chúng bảo trời Tự Tại v.v… Là chỗ nương đúng, còn ngoài ra chỗ khác đều là sai lầm. Dựa vào sự thanh tịnh làm chúng sinh mê lầm. Chúng bảo các thứ định trên đời nầy, chỉ có sự thanh tịnh nầy, còn những cái khác đều không phải thanh tịnh. Dựa vào xuất ly sinh tử làm mê lầm chúng sinh. Chúng bảo đạo quả Tiểu thừa là con đường xuất ly duy nhất, chứ không phải con đường Đại thừa. Nhằm phá bốn việc ma nên Phật đã nói về mười uy lực của mình là: Dùng trí lực thị phi để phá việc thứ nhất của ma, chỉ cho biết do điều lành làm phương tiện mới có thể sinh lên cõi trời, chứ chẳng phải phương tiện ác. Dùng trí lực của nghiệp mình để phá việc thứ hai của ma, chỉ cho biết là do chính nghiệp của mình mà được sinh lên cõi trời, chứ không phải nương vào năng lực của trời Tự Tại v.v… Dùng trí lực của thiền định để phá việc thứ ba của ma, chỉ cho biết là do đầy đủ thiền định giải thoát Tam-muội, Tam-ma-bát-đề. Dùng trí lực của bảy uy lực sau để phá việc thứ tư của ma, chỉ cho biết từ căn cơ thấp từ bỏ nó mà đặt mình lên thượng căn. Kệ rằng: Đối trí, cũng đối dứt, Đối lìa cũng đối chướng, Năng nói lợi mình, người, Tồi tà, con đảnh lễ. Giải thích: Bài kệ nầy nêu lên lạy đức Như lai là bậc công đức vô úy cao cả. Đối với trí là nói vô úy, đối với đoạn là lậu vô úy, đối với lìa bỏ là vô úy hết sạch khổ đạo, đối với chướng ngại nói chướng đạo vô úy. Trong đây, trí và đoạn là nói về công đức lợi mình. Lìa và chướng ngại là nói về công đức lợi người. Nếu ngoại đạo gặn hỏi, chúng bảo: ông Cù-đàm không phải là người có Nhất Thiết Trí, không phải là người diệt sạch hết lậu. Những lời dạy của ông ta không thể dứt khổ, nói chướng ngại không có hai cho đạo. Đức Như lai có công năng dẹp bỏ bốn vấn nạn ấy của chúng, cho nên Như lai là bậc vô úy. Kệ rằng: Trong chúng, sở trị phạt, Chính mình không phòng hộ, Lìa hai nhiễm, trụ chính, Nhiếp sinh, con đảnh lễ. Giải thích: Ở trong chúng sở trị phạt, do mình không tự ngăn ngừa là sự đảnh lễ Như lai nầy là bậc công đức không ngăn ngừa cao cả. Nếu mình có ý thức phòng hộ thì không thể nói bị trừng phạt nhiều. Lìa hai ô nhiễm, an trụ chân chính là lạy đức Như lai là bậc công đức niệm xứ cao cả. Từ bỏ hai nhiễm ô là không còn vui mừng hat lo buồn nữa. Trụ chân chính là không quên mình. Vì có hai công đức cao vời nầy mà Như lai có công năng thâu nhiếp tất cả đồ chúng, coi đó là việc làm của mình. Kệ rằng: Đi, đứng bất cứ đâu, Đều có Nhất Thiết Trí, Do dứt mọi tập khí, Nghóa thật, con đảnh lễ. Giải thích: Bài kệ nầy nói về kính lạy đức Như lai là bậc công đức cao cả dứt tập khí. Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, Như lai tới, lui làm các việc đều có oai nghi và Nhất Thiết Trí, vì Như lai đã dứt hết các tập khí phiền não. Nếu người không có Nhất Thiết Trí thì dù sạch phiền não, nhưng tập khí vẫn còn. Việc tới lui, nếu gặp phải xe chạy mau, ngựa phóng nhanh thì né tránh, bị tổn hại, là vì không có sự hiện diện của Nhất Thiết Trí, oai nghi. Đức Như lai thì không có việc ấy, là vì Như lai có Nhất Thiết Trí chân thật. Kệ rằng: Việc lợi ích chúng sinh, Tùy thời, không quá thời, Việc làm thường không lầm, Không quên, con đảnh lễ. Giải thích: Bài kệ nầy nói về việc kính lạy đức Như lai là bậc công đức cao cả không quên. Làm các việc lợi ích cho chúng sinh, Như lai hằng các chuẩn mực, không vượt quá thời hạn. Đó là việc làm không quên pháp nghiệp. Khi làm các việc, Như lai đều làm chân thật, không dối trá. Đó là tự tính không quên pháp. Kệ rằng: Ngày đêm sáu thời quán, Tất cả cõi chúng sinh, Vì đại bi đầy đủ, Ý lợi, con đảnh lễ. Giải thích: Bài kệ nầy nói về kính lạy đức Như lai là bậc công đức Đại bi cao cả. Trong sáu thời của một ngày đêm, Như lai dùng tâm đại bi quán xét tất cả chúng sinh, biết ai tiến lên, ai lui sụt. Ai chưa nẩy sinh gốc lành thì khiến họ phát khởi. Ai đã khởi gốc lành thì khiến họ tăng thêm lên. Dù mỗi ngày chia ra sáu thời, nhưng bất cứ lúc nào Như lai cũng nói pháp sống động, do Như lai tràn ngập lòng đại bi. Đó là việc làm đại bi. Đối với tất cả chúng sinh, Như lai thường nảy ý làm lợi ích cho họ. Đó là tự tính của Đại bi. Kệ rằng: Do hạnh và do đắc, Do trí và do nghiệp, Đối tất cả Nhị thừa, Tối thượng, con đảnh lễ. Giải thích: Bài kệ nầy nói về kính lạy đức Như lai là bậc công đức bất cộng cao cả. Đức Như lai có mười tám pháp bất cộng: Thân không lỗi. Miệng không lỗi. Ý không lỗi. Không có tưởng khác (là đối với tất cả chúng sinh, bình đẳng). Không có tâm bất định. Cái gì cũng biết, rồi buông xả. Dục không giảm. Tinh tấn không giảm. Niệm không giảm. Tuệ không giảm. Giải thoát không giảm. Giải thoát tri kiến không giảm. Trí hiểu biết quá khứ không bị mê đắm, vô ngại. Trí hiểu biết vị lai không bị mê đắm, vô ngại. Trí hiểu biết hiện tại không bị mê đắm, vô ngại. Thân nghiệp thực hành theo trí tuệ. Khẩu nghiệp thực hành theo trí tuệ. Ý nghiệp theo hoạt động của trí tuệ. Trong đây, do hạnh là thuộc về sáu tiết bất cộng đầu. Do chứng đắc là thuộc tiết thứ hai của bất cộng. Do trí là thuộc tiết thứ ba, ba bất cộng. Do nghiệp là thuộc tiết thứ tư, ba bất cộng. Đối với tất cả chúng sinh thì Thanh văn, Duyên giác là cao. Nhưng với bốn việc bất cộng nầy, Như lai còn cao hơn hai hạng kia, cho nên gọi Như lai là tối thượng. Kệ rằng: Ba thân, đại Bồ-đề, Đắc Nhất Thiết Chủng Trí. Dứt chúng sinh nghi ngờ, Con chí thành đảnh lễ. Giải thích: Bài kệ nầy nói về kính lạy đức Như lai là bậc công đức chủng trí cao cả, ba thân là: Thân tự tính. Thân thọ dụng. Thân biến hóa. Đây nói tự tính chủng trí. Hỏi: Trí nầy hiểu biết tất cả cảnh, còn biết về tất cả chủng loại thì sao? Đáp: Tất cả chúng sinh sinh nghi ở tất cả mọi nơi trí nầy đều có công năng dứt hết. Đây nói về việc làm của chủng trí. Kệ rằng: Không chấp, không lỗi lầm, Vô uế, cũng không dứt, Vô động, không hí luận, Thanh tịnh, con đảnh lễ. Giải thích: Bài kệ nầy nói về kính lạy đức Như lai là bậc công đức độ tràn đầy cao cả. Không mê đắm là không đắm nhiễm của cải. Không lỗi lầm là thân nghiệp hoàn toàn không nhơ bẩn. Không nhơ bẩn là các pháp khổ ở đời không làm đục tâm. Không dừng nghỉ là mới có được điều chứng đắc thì không trụ ngay lúc đó. Không bị lay động là tâm thường vắng lặng, không bị náo loạn. Không hí luận là đối với tất cả pháp, dù có phân biệt, nhưng tất cả không hiện hành. Đức Như lai với sáu hạnh tròn đầy nầy, là hoàn toàn lìa khỏi sáu thứ chướng ngại, nên gọi là thanh tịnh. Kệ rằng: Nghóa thành tựu đệ nhất, Ra khỏi tất cả địa, Được tôn xưng cùng cực, Giải thoát các chúng sinh, Công đức vô tận thảy, Hiện tại đều đầy đủ, Đời thấy, chúng cũng thấy, Không thấy giới trời thảy. Giải thích: Hai bài kệ nầy nói kính lạy đức Như lai Phật là bậc công đức tướng cao cả. Trong đây, nói lược sáu thứ tướng Phật là: Thể, Nhân, Quả, Nghiệp, Tương ưng, Khác nhau. Vì sáu thứ nầy hiện bày mà biết là Phật, cho nên nói tướng Phật. Thành tựu Nghóa đệ nhất, đây là thể của tướng, vì đã thành tựu Nghóa đệ nhất chân như rất thanh tịnh. Ra khỏi tất cả cõi, đây là tướng của nhân, vì đã ra khỏi tất cả địa của Bồ-tát. Đối với chúng sinh, Như lai được tôn kính cùng cực, đó là tướng quả, vì Ngài là bậc nhất trong tất cả muôn loài. Giải thoát các chúng sinh: đây là tướng của nghiệp, vì có công năng giải thoát tất cả chúng sinh. Các công đức như vô tận, v.v… hiện đời đều đầy đủ, là tướng tương ưng. Đời thấy chúng cũng thấy Như lai người trời thì không thấy, đây là tướng khác nhau. Đời thấy là tất cả các thế giới đều thấy. Đây là hóa thân. Các người đều thấy, nghóa là chúng đệ tử Phật đều thấy. Đây là thân thọ dụng, không thấy nghóa là người trời bất cứ lúc nào cũng không thấy. Đó là thân tự tính. Đó là ba thân khác nhau.