<經 id="n1595a">NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH <藥>( QUYỂN 11 ↘ 1 5 ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1595a NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH Tác giả: Bồ-Tát Thế Thân Hán dịch: Đời nhà Trần, người nước Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Chân Đế <卷>QUYỂN 11 THẮNG TƯỚNG THỨ NĂM (Tiếp Theo) G 2. GIẢI THÍCH NHẬP NHÂN QUẢ TU SAI BIỆT TƯỚNG THÙ THẮNG (Tiếp Theo) CHƯƠNG 5: TU THỜI Luận nói: Mất bao nhiêu thời gian để tu tập mười địa chánh hạnh được viên mãn? Giải thích: Mười địa nầy là Đại địa của Bồ-tát. Thời gian tu hành không thể đồng với Nhị thừa. Vì sao? Không những tự thân được tế độ nhiều, mà phương tiện tu cũng nhiều và các nơi mà mình đến thì hết sau cao xa. Ví như vua đi không thể đồng với người nghèo. Thời gian tu hành của Đại, Tiểu thừa có dài và ngắn. Muốn làm rõ nghóa nầy, cho nên hỏi về thời gian tu hành. Luận nói: Có năm loại người, tu hành viên mãn ba A-tăng-kỳ kiếp, hoặc bảy A-tăng-kỳ kiếp, hoặc ba mươi ba A-tăng-kỳ kiếp. Sao gọi là năm người: 1.Người tu tập ở địa hạnh nguyện, thì mãn một A- tăng-kỳ kiếp. 2. Người thực hành hạnh ý thanh tịnh. 3. Người tu tập ở hạnh hữu tướng. 4.Người thực hành hạnh vô tướng, từ sáu địa đến bảy địa mãn A-tăng-kỳ kiếp thứ hai. 5.Người thực hành vô công dụng hạnh, là từ đây về sau đến mười địa mãn A-tăng-kỳ kiếp thứ ba. Giải thích: Những gì là năm? Có một loại người là người hành hạnh nguyện lạc; có ba loại người là người hành hạnh ý thanh tịnh, người tu hành hạnh hữu tướng và người tu hành hạnh vô tướng. Có một hạng người là người tu vô công dụng hạnh. Đó là năm hạng người. Người hành hạnh nguyện lạc tự có bốn thứ: 1. Thập tín. 2. Thập giải. 3. Thập hạnh. 4. Hồi hướng. Là cho Thánh đạo của Bồ-tát có bốn thứ phương tiện, cho nên có bốn loại người, như Tu-đà-hoàn đạo trước có bốn thứ phương tiện. Bốn loại người nầy gọi là tu hạnh nguyện lạc, trong A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất tu hành được viên mãn. Địa nầy nếu đã viên mãn thì người Quán hành nầy chưa đắc ý thanh tịnh. Vì hạnh chưa chứng chân như, chưa đắc vô phân biệt trí, cho nên vô phân biệt trí tức là hạnh ý thanh tịnh. Lại nữa, cũng đồng với tâm Nhị thừa thì không phải ý thanh tịnh. Lại nữa, chưa đến địa vị bất thoái của Bồ-tát do đó không phải hạnh ý thanh tịnh. Như người Thế đệ nhất chưa đắc tâm vô lưu, nói là không thanh tịnh, chỗ duyên pháp tướng của tâm vô lưu không bị quên mất, không được tên Thọ chánh định, Bồ-tát cũng vậy, chưa nhập sơ địa thì chưa được tên chánh định. Người không có hạnh ý thanh tịnh nầy nếu thấy chân như thì liền nhập địa hạnh ý thanh tịnh. Từ sơ địa đến mười địa đồng được tên nầy. Người tu hạnh ý thanh tịnh tự có bốn thứ: Một loại thứ nhất từ chung mà lập danh, là tu hạnh ý thanh tịnh, ba loại sau từ riêng mà lập danh, là hạnh hữu tướng, hạnh vô tướng và hành vô công dụng hạnh. Người tu hạnh ý thanh tịnh nầy, từ địa thứ sáu trở lại gọi là hành hữu tướng. Hạnh hữu tướng, là cảnh giới tướng có bốn thứ: Có phân biệt tướng. Không phân biệt tướng. Phẩm loại cứu cánh tướng. Sự thành tựu tướng. Có phân biệt tướng, là cảnh đối tượng của định, phân làm cảnh Tỳ-bát-xá-na, hoặc vô phân biệt làm cảnh Xa-ma-tha. Duyên cảnh nầy sinh xả là tướng định. Duyên vô phân biệt của định cảnh mà chân như khởi, gọi là không phân biệt tướng. Phẩm loại cứu cánh tướng là hai thứ tu như lý và như lượng. Sự thành tựu tướng, là Bồ-tát chuyển y trong từng địa, địa thứ bảy là hành vô tướng có công dụng, chỗ thuyết tướng của mười hai bộ pháp môn Như Lai cho đến tướng mười hai duyên sinh, thuần thục tư lương cho nên không duyên tướng pháp môn, thông đạt thẳng đến vị chân như, thông đạt nầy lìa công dụng thì không thành. Nói địa nầy làm hạnh vô tướng có công dụng, là ba loại người thuộc hành ý thanh tịnh, hành hữu tướng và hành vô tướng trong A-tăng-kỳ kiếp thứ hai tu hành được viên mãn. Nếu người nhập địa thứ tám, nhưng hành hữu tướng, hành vô tướng và vô công dụng chưa thành tựu, hoặc địa thứ tám viên mãn, thì đối với hành vô tướng vô công dụng của Bát địa đã thành tựu, đối với vô tướng hạnh của Cửu địa thì vô công dụng chưa được viên mãn. Đến A-tăng-kỳ kiếp thứ ba thì vô tướng vô công dụng nầy mới thành, ví như ba vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm và A-na-hàm chế lập làm năm người. Nếu chỉ có ngôi ba vị thì sao chế lập làm năm người? Do vị sai biệt cho nên thành năm người: Từ phương tiện ban đầu đến Tu-đà-hoàn là người thứ nhất. Gia gia là người thứ hai. Tư-đà-hàm là người thứ ba. Nhất chủng tử là người thứ tư. A-na-hàm là người thứ năm. Bồ-tát vị cũng như vậy, sơ địa làm ngôi thứ nhất, từ địa thứ hai đến địa thứ bảy làm ngôi thứ hai, từ địa thứ tám đến địa thứ mười làm ngôi thứ ba, cũng được chế lập làm năm người: Từ phương tiện đến sơ địa là người thứ nhất. Từ địa thứ hai đến địa thứ tư là người thứ hai. Từ địa thứ năm đến địa thứ sáu là người thứ ba. Địa thứ bảy là người thứ tư. Từ địa thứ tám đến địa thứ mười là người thứ năm. Lại nữa, do đồng với vị và địa của Thanh-văn, phải biết mười hai địa của Bồ-tát thứ tự cũng như vậy: Như Thanh-văn tánh địa, thì Sơ vị của Bồ-tát cũng như thế. Như Thanh-văn tu chánh định vị gia hạnh, là khổ pháp nhẫn bằng với Bồ-tát, thì vị thứ hai cũng như vậy. Như Thanh-văn đã nhập chánh định thì vị thứ ba của Bồ-tát cũng như vậy. Như Thanh-văn đã đắc tín bất hoại trụ ái giới vị của Thánh để trừ các hoặc của địa trên thì vị thứ tư của Bồ-tát cũng như vậy. Như Thanh-văn nương giới học dẫn nhiếp nương tâm học thì vị thứ năm của Bồ-tát cũng như vậy. Như Thanh-văn đã đắc việc nương tuệ học thì vị thứ sáu của Bồ-tát cũng như vậy. Như Thanh-văn đã đắc việc nương tuệ học thì vị thứ bảy của Bồ-tát cũng như vậy. Như Thanh-văn đã đắc việc nương tuệ học thì vị thứ tám của Bồ-tát cũng như vậy. Như Thanh-văn không tư lương trở lại các cảnh giới, là vô tướng Tam-ma-đề gia hạnh thì vị thứ chín của Bồ-tát cũng như vậy. Như Thanh-văn đã thành tựu vô tướng định vị thì vị thứ mười của Bồ-tát cũng như vậy. Như Thanh-văn đã xuất vô tướng Tam-ma-đề trụ vị giải thoát thì vị thứ mười một của Bồ-tát cũng như vậy. Như Thanh-văn trụ đầy đủ tướng A-la-hán thì vị thứ mười hai của Bồ-tát cũng như thế. Năm vị của Bồ-tát nhiếp mười hai người nầy, vị thứ thì nhiếp ba người thứ nhất, thứ hai và thứ ba, vị thứ hai thì nhiếp ba người thứ tư, thứ năm và thứ sáu, vị thứ ba thì nhiếp hai người thứ bảy và thứ tám, vị thứ bốn thì nhiếp một người thứ chín, vị thứ năm thì nhiếp ba người thứ mười, thứ mười một và thứ mười hai. Nếu căn cứ theo năm vị của Thanh-văn thì cũng được nhiếp mười hai người, không khác với các vị nhiếp của Bồ-tát. Luận nói: Lại nữa, thế nào là bảy A-tăng-kỳ kiếp? Giải thích: Vì muốn làm rõ sự chấp riêng của các bộ khác cho nên nói: Lại nữa (phục thứ). Thời của bảy A-tăng-kỳ kiếp cùng với thời ba A-tăng-kỳ kiếp trước là bằng nhau hay có dài ngắn? Đây là chấp bằng với ba A-tăng-kỳ kiếp, nhưng có nghóa riêng mở làm số bảy. A-tăng- kỳ kiếp thứ nhất vượt qua địa nguyện hạnh, đắc hành địa hoan hỷ. A- tăng-kỳ kiếp thứ hai từ hoan hỷ địa vượt qua địa nương giới học và địa nương tâm học mà đắc hành địa thiêu nhiên. Đại kiếp A-tăng-kỳ thứ tư từ thiêu nhiên địa vượt qua địa nương tuệ học địa đắc hành địa viễn hành. Lại nữa, một đại kiếp A-tăng-kỳ gọi là hạnh vô tướng bất định, vượt qua địa vô tướng có công dụng. Lại nữa, một đại kiếp A-tăng-kỳ gọi là hạnh vô tướng định, vượt qua địa vô tướng vô công dụng. Lại nữa, một đại kiếp A-tăng-kỳ gọi là hạnh thù thắng vô tướng, vượt qua địa vô ngại biện. Lại nữa, một đại kiếp A-tăng-kỳ, gọi là tối thắng trụ, vượt qua địa quán đảnh. A-tăng-kỳ có hai thứ: A-tăng-kỳ kiếp. Tại sao vậy? Vì do kiếp nầy ngày, đêm, nửa tháng, một tháng, mùa, hàng năm, các thời gian song song không thể tính đếm, gọi là A-tăng-kỳ kiếp. Kiếp A-tăng-kỳ, Tại sao vậy? Vì Bồ-tát tu hành trong kiếp nầy, nếu lấy kiếp làm lượng, thì kiếp nầy cũng không thể tính đếm, cho nên gọi là kiếp A-tăng-kỳ, do Thời trong Tiền A-tăng-kỳ kiếp không thể tính đếm, nên hậu A-tăng-kỳ kiếp cũng không thể tính đếm. Trải qua bao nhiêu đại kiếp A-tăng-kỳ mới đắc Vô thượng Bồ-đề? Hiện tại quyết định ba đại kiếp A-tăng-kỳ đắc Vô thượng Bồ-đề, không hơn không kém. Nếu Bồ-tát tu hành phẩm chánh cần tối thượng, thì có thể siêu vượt vô số tiểu kiếp, hoặc siêu vô số đại kiếp, nhưng không thể siêu đại vượt kiếp A-tăng-kỳ. Căn cứ theo chỗ trừ ba thứ phiền não ngoài, trong và tâm mà lập A-tăng-kỳ kiếp. A-tăng-kỳ thứ nhất tâm Bồ-tát chưa minh lợi, phương tiện chưa thành, chánh cần cũng còn kém, do đó phải trải qua thời gian một đại kiếp A-tăng-kỳ mới vượt qua địa nguyện hạnh. Công hạnh của vị nầy cùng với thời gian tương phù nhau. Đại kiếp A-tăng-kỳ thứ hai, nếu lấy công hạnh căn cứ theo thời gian thì phải trải qua chín kiếp A-tăng-kỳ, vì dụng tâm của Bồ-tát được minh lợi, phương tiện đã thành và chánh cần cũng thù thắng. Thời gian trải qua tuy ít, nhưng được công hạnh nhiều, công siêu vượt tám đại kiếp A- tăng-kỳ, chỉ trải qua một đại kiếp A-tăng-kỳ thứ hai. Đại kiếp A-tăng- kỳ thứ ba, nếu lấy công hạnh căn cứ theo thời gian, thì phải trải qua hai mươi mốt đại kiếp A-tăng-kỳ. Do trí tuệ phương tiện và chánh cần của Bồ-tát rất thù thắng, nên thời gian trải qua tuy ít, nhưng công hạnh rất nhiều, công siêu vượt hai mươi đại kiếp A-tăng-kỳ, chỉ trải qua một đại kiếp A-tăng-kỳ thứ ba. Luận nói: Địa trước có ba, địa giữa có bốn. Địa trước có ba là: 1. Bất định A-tăng-kỳ. 2. Định A-tăng-kỳ. 3. Thọ ký A-tăng-kỳ. Giải thích: Lại có bộ khác chấp bảy kiếp A-tăng-kỳ làm hạnh có sâu cạn, cảnh thì có chân, tục và đệ nhất nghóa. Địa trước thì trải qua ba kiếp A-tăng-kỳ, duyên ba cảnh nầy mà có ba hạnh: Nương vào cảnh thứ nhất, có pháp trắng và pháp đen xen tạp nhau, gọi là ít phần ít Ba-la-mật. Nương vào cảnh thứ hai, có pháp chẳng đen trắng và pháp trắng xen tạp, gọi là Ba-la-mật. Nương vào cảnh thứ ba, có pháp chẳng phải trắng, chẳng phải đen không có xen tạp, gọi là chân Ba-la-mật. Tức là căn cứ theo ba cảnh nầy mà lập ba A-tăng-kỳ: Bất định A-tăng-kỳ, lấy trắng đen tương tạp cùng với phàm phu không khác nhau. Định A-tăng-kỳ vì pháp vô lưu đã đắc cùng với pháp hữu lưu xen tạp. Pháp vô lưu đã đắc, quyết định do tương tạp cho nên chưa có thể thọ ký. Thọ ký A-tăng-kỳ chỉ là pháp vô lưu không xen tạp các pháp khác, chỉ có pháp vô lưu do đó quyết định không xen tạp các pháp khác cho nên có thể thọ ký, địa trước phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp. Luận nói: Trong đây có bốn là: 1. Y thật đế A-tăng-kỳ. 2. Y xả A-tăng-kỳ. 3. Y tịch tónh A-tăng-kỳ. 4. Y trí tuệ A-tăng-kỳ. Giải thích: Từ sơ địa đến tam địa gọi là nương địa thật đế. Sơ địa phát nguyện, Nhị địa tu mười pháp thiện, tam địa tu tập các định gồm cả nương vào cảnh giới cho nên gọi là nương địa thật đế. Tứ địa đến lục địa gọi là nương địa xả. Tứ địa tu phẩm đạo, ngũ địa quán tứ đế. Lục địa quán mười hai duyên sinh, đều nương vào đạo mà xả hoặc cho nên gọi là nương địa xả. Thất địa và bát địa gọi là nương địa tịch tónh, vì thất địa là vô tướng có công dụng, bát địa là vô tướng vô công dụng, gọi là nương địa tịch tónh. Cửu địa và mười địa gọi là nương địa trí tuệ, vì cửu địa là tự đắc sự hiểu biết thù thắng và thập địa thì khiến cho người khác đắc sự hiểu biết thù thắng, cho nên gọi là nương vào địa trí tuệ. Đế có ba thứ: 1. Thệ đế. 2. Hạnh đế. 3. Tuệ đế. Thệ đế, là từ sơ phát tâm lập thệ vì lợi ích cho người khác. Hạnh đế, là như chỗ lập thệ nguyện tu hành cùng với thệ nguyện tương ưng, là thệ nguyện thật mà hành cũng thật. Tuệ đế, là vì thành tựu hạnh nầy và an lập thệ nguyện trước, trí tuệ trong phương tiện cùng với hạnh thệ nguyện tương ưng, trí tuệ là thù thắng. Ba thứ đế nầy đều là thật, không điên đảo không trái nhau, cho nên gọi là đế. Như sự lập thệ nguyện ngày xưa, nay Bồ-tát làm sự lợi ích cho chúng sinh cho nên nương vào đế mà trụ. Bồ-tát có thể xả chướng của lục độ, cho nên nương vào xả mà trụ. Công đức Lục độ của Bồ-tát tương ưng cho nên nương vào đế tịch tónh mà trụ. Bồ-tát do tự hành lục độ, khéo hiểu phương tiện lợi tha cho nên nương vào đế trí tuệ mà trụ. Tâm của Bồ-tát lập thệ nguyện không trái với mong cầu, chắc chắn đều là bố thí. Do lập thệ nguyện nầy không trái với thệ nguyện cho nên thật có thể bố thí, tùynhững gì mình Bố thí đó đều sinh hoan hỷ, cho nên nương vào đế mà hành bố thí. Bồ-tát có thể xả tài xả quả, cho nên nương vào xả mà hành bố thí. Bồ-tát đối với tài vật, người nhận, trong sự hành bố thí cho đến giảm hết, không sinh tham sân, vô minh, kinh sợ, cho nên nương vào tịch tónh mà hành bố thí. Do vậy Bồ tát như thời, như xứng, như thật mà hành bố thí. Dụng nầy trong ba thí trước là tối thắng, cho nên nương vào trí tuệ mà hành bố thí, như thệ mà mình đã lập ngày xưa không trái thọ giới ở trước, xả ly ác giới, tất cả ác hạnh tịch tónh. Trong đây trí tuệ là tối thắng, cho nên nương vào các đế mà hành giới. Như thệ mà ngày xưa mình đã lập, nó có khả năng nhẫn có xả, phân biệt lỗi giận dữ trên tâm tịch tónh của người khác, thì trí tuệ trong đây là tối thắng, cho nên nương vào đế mà hành nhẫn nhục. Như thệ mà ngày xưa mình đã lập, nó có thể làm sự lợi ích cho người khác, có thể xả ly tâm yếu hèn và pháp ác đều trở nên tịch tónh, thì trí tuệ trong đây là thù thắng, cho nên nương vào đế thực hành tinh tấn. Như thệ mà ngày xưa mình đã lập, nó có thể tư tu sự lợi ích cho chúng sinh, xả ly năm cái, tâm thường tịch tónh, trí tuệ trong đây là tối thắng, cho nên nương vào đế thực hành định. Như thệ mà ngày xưa mình đã lập, thấu suốt phương tiện làm lợi ích cho người khác, xả ly thiên lệch phi phương tiện, vô minh nóng bức đã được tịch tónh, có thể chứng tất cả trí, cho nên nương vào đế thực hành Bát-nhã. Tùy theo cảnh nên biết và thệ nguyện ngày xưa, phải biết là nương vào nghóa đế; xả ly loại dục và hoặc dục, phải biết là nương vào nghóa xả, tất cả tà nghiệp vónh viễn dứt, phải biết là nương vào nghóa tịch tónh, tùygiác và thông đạt, phải biết là nương vào nghóa tuệ. Chỗ nhiếp của ba đế có thể trái với ba lỗi, gọi đó là nương vào đế. Chỗ nhiếp của ba xả có thể trái với ba lỗi gọi đó là nương vào xả. Chỗ nhiếp của ba tịch tónh có thể trái với ba lỗi, gọi đó là nương vào tịch tónh. Chỗ nhiếp của ba tuệ có thể trái với ba lỗi, gọi đó là nương vào trí tuệ. Nương vào đế, nương vào xả, nương vào tịch tónh tuệ, tùy thuận thệ nguyện ngày xưa, không trái nghịch. Nương vào xả nhiếp nương vào đế nương vào tịch tónh Tuệ, có thể xả chỗ đối trị, là tất cả xả quả. Nương vào tịch tónh nhiếp nương vào đế xả tuệ, hoặc và nghiệp nóng bức tịch tónh. Nương vào tuệ nhiếp nương vào đế xả tịch tónh, thì trí tuệ là trước hết. Vì chỗ tùycủa trí tuệ, cho nên sáu Ba-la-mật dựa vào đế mà sinh, chỗ nhiếp của việc nương vào xả, chỗ tăng trưởng của việc nương vào tịch tónh, chỗ tịnh của việc nương vào trí tuệ. Tại sao vậy? Vì nương vào đế là sinh nhân của nó, nương vào xả là nhiếp nhân của nó, nương vào tịch tónh là nhân trưởng thành của nó, nương vào tuệ là tịnh nhân của nó. Pháp thứ nhất thì lấy đế làm chỗ nương tựa. Thệ là lời nói chân thật. Trung lấy xả làm nương tựa. Trước đã lập thệ vì người khác mà có thể xả tự ái sau lấy tịch tónh làm chỗ tựa. Cả thảy tịch tónh làm sau. Sơ, trung, hậu lấy tuệ làm chỗ tựa. Nếu đây có thì kia có. Nếu đây không có thì kia không có. Bốn sự nương tựa cùng với mười địa tương ưng như thế nào? Từ sơ địa đến tam địa thì nương vào đế làm thù thắng. Tại sao vậy? Trong đây Bồ-tát chỉ tu trị quán cảnh chân thật, đối với công hạnh của các phẩm đạo chưa thành. Nương đế nhiếp ba địa, từ tứ địa đến lục địa, nương xả làm thù thắng. Tại sao vậy? Trong đây Bồ-tát chỉ tu trị quán cảnh chân thật, đã thành đối với cảnh thật của tâm vô công dụng, chỉ làm đối trị hoặc thành tựu đạo phẩm. Do tu trị phẩm đạo Quán hành, hạnh quán tứ đế, hạnh quán mười hai duyên sinh, có thể xả tất cả hoặc. Nương xả lại cũng nhiếp hai địa. Thất địa và bát địa nương vào tịch tónh làm thù thắng. Tại sao vậy? Do Bồ-tát đạo đã thành tựu, các hoặc đã diệt nhiều, ẩn nhiều, không thể chạm xúc lại tâm nữa. Hai địa nầy là vô tướng và vô công dụng Quán hành đã thành tựu, Tâm địa chuyển vi tế, an trụ nơi tịch tónh. Nương tịch tónh lại cũng nhiếp hai địa, cửu địa và mười địa nương vào trí tuệ làm thù thắng, một là tự giải thù thắng, hai là tha giải thù thắng, đều có thể tự lợi và lợi tha, chính mình đã vượt qua tịch tónh vị, phần nhiều là hành sự lợi tha. Nếu lìa trí tuệ hạnh, không có riêng phương tiện lợi tha, do hai địa nầy phần nhiều là hành trí tuệ. Trí tuệ lại cũng nhiếp hai địa, vì nghóa nầy mà các bộ khác chấp có bảy A-tăng-kỳ. Luận nói: Lại nữa, thế nào là ba mươi ba A-tăng-kỳ? Giải thích: Có các sư đại thừa, muốn làm rõ hạnh có hạ trung thượng. Muốn làm rõ là đắc hay chưa đắc phương tiện, muốn làm rõ đã đắc không mất phương tiện, muốn làm rõ đã đắc không mất phương tiện tăng thượng, muốn làm rõ nhập trụ xuất ba thứ tự tại, do đó phân A-tăng-kỳ ra làm ba mươi ba lớp. Luận nói: Trong phương tiện địa có ba A-tăng-kỳ: 1. Tín hạnh A- tăng-kỳ. 2. Tinh tấn hạnh A-tăng-kỳ. 3. Thú hướng hạnh A-tăng-kỳ. Giải thích: Địa có hai thứ: Phương tiện địa. Chánh địa. Khi chưa nhập chánh địa, trong phương tiện địa có ba A-tăng-kỳ, trong đây Bồ-tát phụng sự chư Phật, tâm phát nguyện, miệng lập thệ nguyện tin chánh thuyết của Như Lai và tin tu tín căn làm thù thắng của Như Lai. Tại sao vậy? Vì chưa chứng pháp minh, căn cứ theo tu tín căn mà lập một A-tăng-kỳ, gọi là tín hạnh. Nếu Bồ-tát đã chứng pháp minh tín căn chuyển kiên cố thì quyết định biết quả chắc chắn có thể đắc. Trong đây Bồ-tát tinh tấn làm thù thắng. Tại sao vậy? Vì đối với đắc phương tiện thì tâm đã minh liễu, không tiếc vui chán khổ mà tu tinh tấn, căn cứ theo tu tinh tấn mà lập một A-tăng-kỳ, gọi là hành tinh tấn. Nếu Bồ-tát tinh tấn thành tựu thì tâm được thanh tịnh, hoặc chướng đã trừ, trong đây sự nhắm tới của Bồ-tát làm thù thắng. Tại sao vậy? Vì đối với chân như quán, tâm cầu đắc sinh khởi, tương tục không quay lưng từ bỏ, căn cứ theo sự nhắm tới nầy, lại lập một A-tăng-kỳ, gọi là hành thú hướng . Luận nói: Trong mười địa, từng địa mỗi mỗi đều có ba A-tăng-kỳ, là nhập trụ xuất. Giải thích: Vì trừ bì phiền não chướng mà nhập Sơ địa, vì trừ nhục phiền não chướng mà trụ Sơ địa, vì trừ tâm phiền não chướng mà xuất Sơ địa. Tại sao vậy? Trong từng địa, phiền não của Bồ-tát có ba phẩm. Thượng phẩm gọi là Bì, trung phẩm gọi là Nhục, hạ phẩm gọi là tâm. Thượng phẩm là chỗ phá của đạo hạ phẩm, trung phẩm là chỗ phá đạo phẩm trung, hạ phẩm là chỗ phá của đạo phẩm thượng, cho đến mười địa, nghóa của nó cũng vậy, căn cứ theo ba phẩm nầy cho nên lập ba A- tăng-kỳ, do đó các bộ khác chấp có ba mươi ba A-tăng-kỳ. Ba mươi ba A-tăng-kỳ nầy cùng với ba A-tăng-kỳ trước bằng nhau, không có nghóa ngắn dài như trước đã giải thích. Trước nói có ba thứ A-tăng-kỳ kiếp đã xong, Bồ-tát trải qua kiếp như vậy mà tu hành đắc Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát trong vô thủy sinh tử, hằng hành các hạnh thí… hằng phụng sự chư Phật xuất thế, từ thời nào bắt đầu tu hành? Hoặc nói ba A-tăng- kỳ, hoặc nói thất A-tăng-kỳ, hoặc nói ba mươi ba A-tăng-kỳ để làm rõ nghóa nầy. Luận nói: Như vậy A-tăng-kỳ tu hành chánh hạnh của mười địa viên mãn, có nguyện lực của thiện Căn. Giải thích: Bồ-tát có hai thứ lực: Thiện căn lực. Thiện nguyện lực. Thiện căn lực, là mọi cái tán loạn không có khả năng chống lại. Thiện nguyện lực là trong tất cả thời, hằng gặp Phật Bồ-tát là bậc thiện tri thức. Luận nói: Tâm kiên tấn tăng thượng. Giải thích: Do phụng sự thiện tri thức không bỏ tâm Bồ-đề, đời đời và hiện đời tăng trưởng thiện căn, không còn bị giảm mất. Luận nói: Ba thứ A-tăng-kỳ nói chánh hạnh thành tựu. Giải thích: Nếu đủ thiện căn lực và thiện nguyện lực thì tâm kiên tăng thượng có bốn nghóa, lấy thời nầy làm thời bắt đầu của A-tăng-kỳ, các luận Sư thì nói không đồng nhau. Có ba thứ, trải qua thời gian của A-tăng-kỳ như vậy, nói tu chánh hạnh mới được thành tựu. --------------------------------- THẮNG TƯỚNG THỨ SÁU H. GIẢI THÍCH Y GIỚI HỌC TƯỚNG THÙ THẮNG Luận nói: Như vậy đã nói nhập sự tu sai biệt về nhân quả, tại sao phải biết nương vào giới học sai biệt? Giải thích: Trước trong việc nhập tu nhân quả sai biệt, đã căn cứ theo các địa mà thuyết minh tu sai biệt, chưa thuyết minh Bồ-tát nương vào giới và Nhị thừa có sai biệt. Hỏi rằng tại sao phải biết! Luận nói: Phải biết như đối với Bồ-tát địa trong phẩm chánh thọ Bồ-tát giới nói. Giải thích: Địa có hai thứ: Thập địa Kinh. Địa Trì luận. Kinh thập địa, trong phẩm Nhị địa nói rộng về chánh thọ Bồ-tát giới pháp, Luận địa trì trong phẩm Thi-la Ba-la-mật nói rộng về chánh thọ Bồ-tát giới pháp phải biết như vậy. Luận nói: Nếu lược nói do bốn thứ sai biệt, phải biết giới Bồ-tát có sai biệt. Giải thích: Nếu giải thích rộng thì giới có mười một nghóa: 1. Danh. 2.Nghóa. 3. Tướng. 4. Nhân. 5. Quả. 6. Đối trị. 7.Thanh tịnh. 8. Không thanh tịnh. 9. Chứng đắc phương tiện. 10. Lập nạn. 1 1. Cứu nạn. Nếu không nương vào đây để giải thích thì gọi là nói gọn, nếu thuyết minh đủ chín phẩm sai biệt thì là rộng, nếu bốn phẩm sai biệt thì là gọn. Luận nói: Những gì là bốn? 1. Phẩm loại sai biệt. Giải thích: Tất cả Bồ-tát giới, nếu lấy phẩm loại mà nhiếp thì không ngoài ba thứ. Luận nói: 2. Cộng bất cộng học xứ sai biệt. Giải thích: Trong tánh giới gọi là cộng học xứ, trong chế giới gọi là không cộng học xứ. Trong hai thứ nầy, Bồ-tát và Nhị thừa đều có sai biệt. Luận nói: 3. Quảng đại sai biệt. Giải thích: Giới nầy cùng với Nhị thừa hoàn toàn bất đồng. Luận nói: 4. Thậm thâm sai biệt. Giải thích: Như Lai không ở trong Nhị thừa mà nói, cũng không phải điều mà Nhị thừa hành. Luận nói: Phẩm loại sai biệt có ba thứ: 1. Nhiếp chánh hộ giới. Giải thích: Là Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-ni, Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Giới nầy thì bảy chúng trong hai bộ xuất gia và tại gia phải giữ. Luận nói: 2. Nhiếp thiện pháp giới. Giải thích: Từ khi thọ chánh hộ giới, sau đó vì đắc đại Bồ-đề, Bồ- tát sinh trưởng tất cả pháp thiện là văn, tư, tu tuệ và thân, khẩu, ý thiện, cho đến mười Ba-la-mật. Luận nói: 3. Nhiếp chúng sinh lợi ích giới. Giải thích: Lược nói có bốn thứ, là căn tánh của chúng sinh, an lập chúng sinh đối với thiện đạo và ba thừa. Lại có bốn thứ: Bạt trừ bốn đường ác. Bạt trừ và tế độ bất tín và nghi hoặc. 3.Bạt trừ và tế độ sự ghét bỏ chánh giáo. 4. Bạt trừ và tế độ nguyện lạc thừa dưới. Tại sao ba thứ nầy cùng với Nhị thừa có sai biệt? Vì Nhị thừa chỉ có Nhiếp chánh hộ giới, không có hai giới còn lại. Tại sao vậy? Vì Nhị thừa chỉ cầu diệt chướng giải thoát, không cầu diệt chướng ngại Nhất thiết trí. Chỉ cầu tự độ, không cầu độ tha, không thể thành thục Phật pháp và thành thục chúng sinh, Do đó không có nhiếp thiện pháp giới và nhiếp chúng sinh lợi ích giới. Luận nói: Nhiếp chánh hộ giới trong đây, phải biết là hai giới y chỉ. Giải thích: Nếu người không lìa ác, mà có thể sinh thiện, có thể lợi ích chúng sinh, là không thể có việc đó, cho nên chánh hộ giới là chỗ y chỉ của hai giới còn lại. Luận nói: Nhiếp thiện pháp giới là đắc y chỉ Phật pháp sinh khởi. Nhiếp chúng sinh lợi ích giới là thành thục y chỉ của chúng sinh. Giải thích: Nhiếp thiện pháp giới là trước hết nhiếp ba thứ tuệ, văn, tư, tu. Tất cả Phật pháp đều từ đây mà sinh khởi. Tại sao vậy? Vì tất cả Phật pháp đều không xả trí tuệ. Nhiếp chúng sinh giới là bốn nhiếp pháp. Nhiếp thứ nhất khiến cho thành quyến thuộc của mình, lìa ác hướng thiện. Nhiếp thứ hai là chưa phát tâm thì khiến cho phát tâm. Nhiếp thứ ba là đã phát tâm thì khiến cho thành thục. Nhiếp thứ tư là đã thành thục thì khiến cho giải thoát. Ba thứ giới nầy lấy pháp gì làm nhân? Ba căn làm nhân riêng, hai căn làm nhân chung. Ba căn làm nhân riêng là tinh tấn căn làm nhân của giới thứ nhất. Trí căn làm nhân của giới thứ hai, định căn làm nhân của giới thứ ba. Hai căn làm nhân chung, là tín căn và niệm căn làm nhân chung của ba giới. Lại nữa, lấy sáu pháp làm nhân: Y thiện tri thức. Y chánh văn. Y chánh tư. Y tín căn. Y chán ghét sinh tử. Y từ tâm. Lại nữa, có bốn thứ làm nhân: Từ người mà chánh thọ được. Từ ý thanh tịnh mà được. Từ chán sợ đối trị mà được. Từ không phạm giới khởi cung kính ức niệm mà được. Lại nữa, có bốn thứ nhân có thể khiến cho giới Bồ-tát thanh tịnh: Nhân hay lìa phạm giới. Y chỉ đối trị phá giới, là niệm xứ. Y chỉ tịch tónh là không y chỉ sinh nơi thù thắng, mà hồi hướng vì tất cả chúng sinh đắc Niết-bàn. Do đủ mười căn bản thiện, là chỗ thành phương tiện, chỗ tùy thuận phi giác quán, chỗ tổn ức niệm, chỗ nhiếp hồi hướng Phật quả. Ba loại giới nầy lấy pháp nào làm thể? Không khởi não hại ý của người khác, mà sinh thân, khẩu, ý nghiệp thiện làm thể. Lìa chấp làm Loại. Ba thứ giới nầy lấy gì làm dụng? Chánh hộ giới có thể khiến cho tâm an trụ, nhiếp thiện pháp giới có thể thành thục Phật pháp, nhiếp chúng sinh sinh giới có thể thành thục chúng sinh. Tất cả chánh sự của Bồ-tát không ngoài ba thứ dụng nầy. Do tâm được an trụ cho nên không có mệt nhọc và hối hận, có thể thành thục Phật pháp, do thành thục Phật pháp cho nên có thể thành thục chúng sinh. Luận nói: Cộng học xứ giới là Bồ-tát xa lìa giới tánh tội . Giải thích: Sát sinh… gọi là tánh tội. Tánh tội chắc chắn là do phiền não khởi, sau khi nhiễm ô tâm địa thì khởi việc sát sinh… Lại có Chế vô giới, nếu tác khởi nghiệp nầy đều thành tội, gọi là tánh tội. Lại nữa, Như Lai khi chưa xuất thế và sau khi xuất thế chưa chế giới. Nếu người phạm tội nầy thì vua trong thế gian như lý mà trị phạt, ngoại đạo thì vì lìa tội nầy mà lập xuất gia pháp cho nên gọi là tánh tội. Trong tánh tội, Bồ-tát cùng với Nhị thừa đồng lìa cho nên gọi là cộng giới xứ. Luận nói: Bất cộng học xứ giới là Bồ-tát xa lìa chỗ lập giới chế tội. Giải thích: Là lập các chế giới như đào đất, nhổ cỏ… Bồ-tát xa lìa không đồng với Nhị thừa. Tại sao vậy? Luận nói: Trong giới nầy hoặc Thanh-văn là phạm có tội, thì Bồ- tát phạm trong đó không có tội, hoặc Bồ-tát phạm là có tội Thanh-văn trong đó không có tội. Giải thích: Như Lai Chế giới có hai ý: Vì Thanh-văn tự độ cho nên chế giới. Vì Bồ-tát tự độ và độ tha cho nên chế giới. Thanh-văn và Bồ-tát lập ý thọ giới cũng lại như vậy, cho nên hai hạng người nầy trì và Phạm có khác nhau. Như Thanh-văn trong an cư mà ra đi là phạm giới, không ra đi thì không phạm. Bồ-tát thì thấy du hành với chúng sinh có lợi ích, không hành thì phạm giới. Luận nói: Bồ-tát có trị ba phẩm của thân khẩu ý làm giới. Thanh- văn thì chỉ có trị thân Khẩu làm giới. Giải thích: Giới loại không đồng, Bồ-tát giới lấy thiện hạnh của ba nghiệp làm thể, Thanh-văn giới thì lấy thiện hạnh của thân khẩu làm thể. Luận nói: Do đó Bồ-tát có tâm địa phạm tội, Thanh-văn thì không có sự này. Giải thích: Bồ-tát hoặc có bảy thứ giác quán, khởi tâm địa tội của Bồ-tát phạm Bồ-tát giới. Thanh-văn không như vậy. Tướng chung giới của Bồ-tát như thế nào ? Luận nói: Nếu lược nói chỗ có sự của thân, khẩu, ý nghiệp có thể sinh lợi ích của chúng sinh thì không có lỗi. Nghiệp nầy Bồ-tát đều phải thọ học tu hành. Giải thích: Nếu lợi ích và có tội lỗi thì không nên hành. Ví như người nữ nói với Bồ-tát rằng: ông hãy lấy tôi, nếu ông không lấy tôi, có như vậy thì tôi phải chết. Nếu tôi không chết thì ông phải chết. Nếu Bồ-tát tùy theo lời nói đó, người nữ kia không chết, lại không gây việc ác là có lợi ích. Nhưng lấy người nữ thì thành tội cho nên không nên hành. Nếu không có lợi ích mà không có tội cũng không nên hành. Như Nhị thừa không thể lợi tha mà cũng không có tội. Có lợi ích mà không có lỗi là Bồ-tát giới, phải sinh khởi Văn tuệ để thọ, phải sinh Tư tuệ để học, phải sinh tu tuệ để tu hành. Luận nói: Như vậy phải biết cộng và bất cộng giới sai biệt. Giải thích: Như vậy Bồ-tát cùng với Thanh-văn trong tánh giới cũng có sai biệt, tức là chỗ trì của tâm và chỗ trì của phi tâm. Trong chế giới cũng có sai biệt, là lợi tha và không lợi tha, Bồ-tát cùng với Nhị thừa giới có sai biệt. Bồ-tát cùng với Nhị thừa giới lại có sai biệt là sai biệt rộng lớn. Rộng lớn nầy có nghóa gì và lại có mấy thứ? Luận nói: Sai biệt rộng lớn, phải biết có bốn thứ, do bốn thứ rộng lớn. Giải thích: Rộng lớn có bốn nghóa: Nghóa tối thắng, chuyên vì người khác mà không cầu báo ân và quả sinh tử, lại cũng lợi ích vô cùng. Do hai nghóa đó mà gọi là thù thắng. Nghóa vónh viễn, là ba đại kiếp A-tăng-kỳ tu hành. Nghóa viên mãn, là nương vào ba cảnh chân, tục và việc lợi ích cho người khác, sinh phước đức, trí tuệ đầy đủ. Nghóa tự tại là nương vào ánh sáng của Đại thừa mà ba thứ Tam-ma-đề làm lợi ích cho người khác, có thể làm mọi phương tiện. Luận nói: 1. Tất cả vô lượng học xứ rộng lớn. Giải thích: Học xứ của Bồ-tát có hai nghóa: Chủng chủng. Vô lượng. Chủng chủng có nghóa là nhiều, vô lượng có nghóa là lớn. Trong tất cả ác đều lìa, tất cả thiện đều tu tất cả chúng sinh đều được độ, gọi là chủng chủng. Trì ba giới nầy thì thời tiết không có bờ mé, công dụng thì không có dư thừa, cho nên gọi là vô lượng. Luận nói: 2. Năng nhiếp vô lượng phước đức rộng lớn. Giải thích: Lục độ, tứ nhiếp, nhân quả, mỗi mỗi đều có chín phẩm, gọi đó là phước đức vô lượng, như luận Địa Trì nói: Như vậy phước đức vô lượng tụ, đều là sự thu nhiếp giới Bồ-tát. Luận nói: 3. Nhiếp tất cả ý an lạc lợi ích chúng sinh rộng lớn. Giải thích: Khéo dạy chúng sinh khiến cho lìa cõi ác an lập chỗ thiện, gọi là ý lợi ích, công đức nầy đối với chỗ đắc quả báo trong vị lai, nguyện tất cả chúng sinh thọ dụng như ý, gọi là ý an lạc. Lại nữa, đại bi bạt khổ gọi là ý lợi ích, đại từ cùng với lạc gọi là ý an lạc. Lại nữa, vì khiến cho đắc tất cả xuất thế sự cho nên gọi là ý lợi ích, khiến cho đắc thắng sự của thế gian gọi là ý an lạc. Lại nữa, rộng lớn nầy lấy tứ nhiếp làm thể, hai nhiếp trước gọi là ý an lạc, hai nhiếp sau gọi là ý lợi ích. Luận nói: 4. Y chỉ Vô thượng Bồ-đề rộng lớn. Giải thích: Do Bồ-tát giới có ba phẩm và chín phẩm. Giới có thể nhiếp ba thứ công đức thù thắng và chín thứ đức thù thắng của Như Lai. Nhiếp hộ giới làm nhân đoạn đức của Như Lai, nhiếp thiện pháp giới làm nhân trí đức của Như Lai, nhiếp chúng sinh giới làm nhân ân đức của Như Lai. Chín phẩm giới làm nhân chín đức của Như Lai. Đây là như trước nói. Do quả rộng lớn cho nên nhân rộng lớn. Quả rộng lớn có ba nghóa: Do nhân rộng lớn mà sinh, là ba mươi ba đại kiếp A-tăng-kỳ, tu hành mười địa và mười độ làm nhân. Sở đắc rộng lớn, là chỗ nhiếp của Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí, công đức Hằng-hà sa số của Như Lai. Lợi ích rộng lớn là làm lợi ích phàm phu và ba thừa cho đến cùng biên tế của sanh tử. Đây là bốn thứ giới rộng lớn của Bồ-tát, đều là y chỉ của Vô thượng Bồ-đề, chỉ có Bồ-tát mới có thể tu, Nhị thừa đều không có sự nầy, cho nên gọi là sai biệt. Luận nói: Thậm Thâm sai biệt là nếu Bồ-tát do phương tiện thắng trí như vậy, mà hành sát sinh… mười sự, không có lỗi nhiễm trược, sinh vô lượng công đức, mau chóng đắc quả Vô thượng Bồ-đề thù thắng. Giải thích: Nếu Bồ-tát có khả năng hành như đã biết phương tiện thù thắng có thể hành được. Nay làm rõ hai nghóa nầy. Nếu Bồ-tát có thể biết sự như vậy, có người chắc chắn phải làm nghiệp ác không gián, Bồ-tát biết rõ tâm đó, không có phương tiện nào khác để khiến cho lìa hạnh ác nầy, chỉ có đoạn dứt mạng là phương tiện để khiến cho không làm ác nầy, lại biết người nầy khi xả mạng thì chắc chắn sinh vào thiện đạo. Nếu không xả mạng quyết định hành nghiệp nầy sẽ đọa vào nơi cực kỳ hiểm nạn thọ khổ lâu dài. Bồ-tát đã biết sự như vậy, khởi nghó như vậy: Nếu ta làm nghiệp sát sinh nầy thì đọa vào địa ngục, ta nguyện thay người kia thọ khổ báo nầy, sẽ khiến cho người kia trong đời hiện tại thọ ít khổ, trong đời vị lai thọ đại lạc lâu dài. Ví như lương y trị cho người có bệnh, trước hết làm giảm đau, sau đó mới trừ bịnh nặng, chỗ hành của Bồ-tát cũng như vậy, vì đối với Bồ-tát đạo không có phi phước đức, lìa lỗi nhiễm trược. Do đây sinh trưởng vô lượng phước đức, có thể mau chứng Vô thượng Bồ-đề, phương tiện như vậy rất là thậm thâm, hành các hạnh lợi ích cũng lại như vậy. Luận nói: Lại nữa, có chỗ làm biến hóa của nghiệp thân khẩu, phải biết đó là giới thậm thâm của Bồ-tát. Giải thích: Trước là thuyết minh về sự thật không phải hiển thần thông và trí tuệ, sau đây thuyết minh thần thông và trí tuệ không luận về sự thật. Bồ-tát giới có ba phẩm, tức là nghiệp thân, khẩu, ý, trừ ý nghiệp ra vì không có biến hóa, thân khẩu nghiệp có khi là chỗ tạo tác của sự biến hóa, cũng là giới bồ-tát. Giới của thân khẩu nầy hoặc hiện làm thiện hoặc hiện làm ác, hoặc sinh sợ hãi, hoặc sinh hoan hỷ, đều khiến cho chúng sinh xa lìa nơi ác an lập chỗ thiện. Giới nầy khó nghó bàn cho nên nói là thậm thâm. Không phải vốn là sở Tác của thân khẩu thì làm sao thành giới? Vì có thể thành tựu giới sự, khiến cho chúng sinh lìa ác sinh thiện. Lại nữa, sự biến hóa nầy từ ý nghiệp của Bồ-tát sinh khởi, Bồ-tát lấy ý nghiệp để làm giới. Luận nói: Do giới nầy, có khi Bồ-tát chánh ở vào vị đại vương, hoặc hiện các thứ bức não chúng sinh, để an lập chúng sinh trong giới Luật. Giải thích: Chúng sinh có hai thứ, hoặc nên hoan hỷ giáo hoá, ví như hoa Câu-vật-đầu nhân trăng thanh gió mát mà khai nở, hoặc nên bức não mà giáo hóa, ví như liên hoa nhân trời nắng gắt mà khai mở. Bồ-tát cũng như vậy. Như Na-la Vương và thiện Tài Đồng Tử, hoặc hiện sự khả ái, hoặc hiện sự khả uý mà an lập chúng sinh vào xứ thiện. Luận nói: Hoặc hiện mọi thứ bản sinh, do bức não người khác và bức não oan đối, khiến cho người thương mến nhau an tâm lợi ích. Giải thích: Vì hoá độ chúng sinh tà kiến không tin nhân quả, khiến cho họ được được chánh tín lìa ác tu thiện, mà hoá hiện chủng chủng bản sinh, ví như Tỳ-tuân-đà Vương xả bỏ con và Bà-la-môn, đó là bức não. Đứa con nầy là do biến hóa, tại sao vậy? Vì Bồ-tát không có bức não người nầy mà sinh an lạc cho người kia. Lại nữa, như Dược tạng Bồ-tát, khiến cho My-hy-la Vương cùng với Tỳ-đề-ha Vương bức não lẫn nhau, đây cũng là do biến hóa, sau đó đều khiến cho thương mến lẫn nhau an tâm làm lợi ích. Bồ-tát hành sự như vậy có lợi ích gì? Luận nói: Sinh khởi tín tâm cho người khác là trước hết, sau đó trong đạo ba thừa khiến cho thiện căn thành thục. Giải thích: Trước hết khiến cho sinh tín tâm đối với Bồ-tát, sau đó có thể tu hành như Bồ-tát. Thiện căn của ba thừa đều được thành thục. Luận nói: Gọi đó là giới thậm thâm của Bồ-tát sai biệt. Giải thích: Đây là chỗ hành giới của hạnh thật và Hóa thân, không phải điều mà địa dưới có thể làm, không phải chỗ có thể thông đạt của Nhị thừa, gọi là thậm thâm sai biệt. Luận nói: Do bốn thứ sai biệt nầy, phải biết là lược nói thọ trì giới sai biệt của Bồ-tát. Giải thích: Từ pháp khác mà đắc gọi là thọ. Từ ý thanh tịnh mà đắc thì gọi là trì. Lại nữa, mới đắc thì gọi là thọ. Sau khi thọ cho đến thành Phật thì gọi là trì. Lại nữa, tu hành giới pháp thì gọi là thọ, nhớ nghó văn cú thì gọi là trì. Luận nói: Lại nữa, do bốn thứ sai biệt nầy, lại có sai biệt không thể tính đếm. Sai biệt của giới bồ-tát, như trong Kinh Tỳ-na-da Cù-sa Tỳ-phật-lược nói. Giải thích: Từ bốn thứ sai biệt nầy, lại có sai biệt không thể tính đếm. Tại sao vậy? Chỉ có trong phẩm loại sai biệt, lấy một chánh hộ giới nương vào Nhị thừa giáo phân biệt thì thành tám vạn hai ngàn. Nếu lấy giới nầy và hai giới còn lại nương vào Bồ-tát giáo phân biệt thì không thể tính đếm. Trong Kinh Tỳ-na-da Cù-sa Tỳ-phật-lược nói rộng giới bồ-tát có mười vạn thứ sai biệt. ------------------------------------- THẮNG TƯỚNG THỨ BẢY GIẢI THÍCH Y TÂM HỌC XỨ TƯỚNG THÙ THẮNG Luận nói: Như vậy đã nói nương vào giới học sai biệt. Thế nào phải biết nương vào sự sai biệt của tâm? Giải thích: Giới bồ-tát cùng với Nhị thừa giới đã có sai biệt, giới làm y chỉ của định, định nương vào giới được thành. Bồ-tát định cùng với Nhị thừa định cũng phải có sai biệt. Làm thế nào biết được? Luận nói: Lược nói do sáu thứ sai biệt phải biết. Giải thích: Nếu rộng nói thì như chỗ lập Tam-ma-bạt-đề của tạng Đại thừa, thể và loại sai biệt có năm trăm thứ, Tam-ma-bạt-đề mà Luận thanh tịnh đạo lập của Tiểu thừa, thể và loại sai biệt có sáu mươi bảy thứ. Hiện tại lược nói, chỉ thuyết minh sáu thứ sai biệt, phải biết nghóa nầy. Luận nói: Những gì là sáu thứ ? 1.Cảnh sai biệt. 2.Chúng loại sai biệt. 3.Đối trị sai biệt. 4.Tùydụng sai biệt. 5.Tùydẫn sai biệt. 6.Do sự sai biệt. Cảnh sai biệt, là do duyên pháp Đại thừa làm cảnh mà khởi. Giải thích: Sở duyên có ba cảnh: Duyên tất cả cảnh chân như. Duyên tất cả cảnh văn tự và ngôn thuyết. Duyên tất cả cảnh lợi ích của chúng sanh. Ba cảnh nầy gọi là pháp Đại thừa, chỉ là đối tượng của định Bồ- tát, không phải cảnh định của Nhị thừa, cho nên nói sai biệt. Lại có mười hai thứ cảnh như Luận Trung Biên nói: Chỗ thành lập cảnh là nói rằng mười Ba-la-mật là chỗ thành lập mười thứ công đức của chân như. Có khả năng thành lập cảnh, là công đức của mười thứ pháp giới, có thể thành lập mười Ba-la-mật. Cảnh trì là đối tượng pháp môn của Văn tuệ, Văn tuệ có thể đắc thể của A-hàm, tức là nói Văn tuệ làm trì. Cảnh quyết định trì là đối tượng cảnh như lý như lượng của Tư tuệ, Tư tuệ có thể chọn lựa A-hàm và đạo lý, là tuệ thuần thục cho nên gọi là quyết định trì. Cảnh chứng trì là đối tượng của tu tuệ, tu tuệ cùng với đạo lý là một thể cho nên gọi là chứng, có thể nhiếp văn tự và nghóa cho nên gọi là trì. Cảnh thông đạt là chỗ thấy chân như của Sơ địa. Cảnh tương tục là đối tượng chân như của địa thứ hai trở lên, đã thông đạt chân như truyền lưu cho nên gọi là tương tục. Đối tượng của tương tục nầy gọi là cảnh tương tục. Cảnh thắng hạnh là đối tượng của tâm vô tướng và vô công dụng, tức là cảnh của địa thứ tám. Cảnh sinh trí là đối tượng trí tự tại y chỉ chân như của địa thứ chín, đắc bốn vô ngại giải, có thể sinh trí cho người khác. Lại cũng duyên pháp tạng của Như Lai, có thể tự sinh thế trí và xuất thế trí. Cảnh thắng là đối tượng của phẩm trí thượng thượng. Trí nầy không có trí nào trên nữa, tức là cảnh của mười địa, trí nầy lấy mười lực làm thể, trí năng vô biên gọi là lực. Trí nầy căn cứ theo mười cảnh gọi là mười lực. Mười lực nầy có thể thành tựu mười địa của Bồ-tát và chín thứ chánh sự của Như Lai, cho đến vô biên Hóa thân. 11 và 1 2. Cảnh là đối tượng của tất cả trí và tất cả chủng trí, tức là cảnh như lý và như lượng. Mười hai cảnh nầy là chung làm đối tượng của Xa-ma-tha, Tỳ- bát-xá-na, là đối tượng của tất cả định tuệ không ngoài mười hai cảnh nầy. Luận nói: Chúng loại sai biệt. Giải thích: Có bốn thứ Tam-ma-đề, tức là năm trăm định phẩm loại cho nên gọi là chúng loại. Trong Tiểu thừa cho đến chưa nghe tên đó, huống gì có thể tu tập, cho nên nói là sai biệt. Bốn thứ Tam-ma-đề nầy có khả năng phá bốn chướng ngại đức, tức là bốn thứ sinh tử, có thể đắc bốn quả đức. Bốn đức ấy chính là tịnh, ngã, lạc, thường. Lập bốn định nầy làm bốn đức. Luận nói: Đại thừa quang Tam-ma-đề. Giải thích: Đại thừa có ba nghóa: 1. Tánh. 2.Tuỳ. 3. Đắc. Tánh tức là ba vô tánh. Tùytức là chỗ nhiếp của hạnh phước đức và trí tuệ, mười địa và mười Ba-la-mật tùy thuận vô tánh. Đắc tức là chỗ đắc quả bốn đức, định nầy duyên ba nghóa nầy làm cảnh cho nên gọi là Đại thừa. Y chỉ định nầy mà đắc vô phân biệt trí. Do vô phân biệt trí chiếu soi chân như và Phật không khác nhau cho nên gọi là quang. Loại có mười lăm thứ quang công đức thù thắng hơn ánh sáng bên ngoài cho nên gọi là quang. Lại nữa, định nầy có thể phá tập khí ám độn vô minh của Nhất-xiển-đề, là đối trị của mê mờ cho nên gọi là quang. Định nầy duyên chân như thật có và dễ đắc, có vô lượng công đức cho nên có thể phá tập khí của Nhất-xiển-đề, tức là chướng sinh tử phương tiện. Đối với đại tịnh do phá chướng nầy cho nên đắc quả đại tịnh. Luận nói: Tập phước đức vương Tam-ma-đề. Giải thích: Tất cả thiện pháp chỉ trừ Bát-nhã, còn lại những pháp khác đều gọi là phước đức. Phước đức nầy có bốn phẩm, là phàm phu, Nhị thừa và Bồ-tát. Bồ-tát thì do định nầy cho nên đối với bốn thứ phước đức chưa sinh thì có thể sinh, chưa tròn đầy thì có thể tròn đầy, cho nên gọi là tập. Đối với sinh trưởng tròn đầy ba xứ tự tại cho nên gọi là vương, do tự tại cho nên có thể hành thí… mười độ. Viên mãn Bồ-đề tư lương và phước đức, có thể phá tập khí ngã kiến của ngoại đạo, tức là nhân duyên chướng ngại sinh tử đối với đại ngã. Do phá chướng nầy cho nên đắc quả đại ngã. Lại nữa, tất cả thiện pháp nương vào chân như, chân như có thể tập hợp tất cả thiện pháp, gọi chân như là tập phước đức. Định nầy trong chân như đắc tự tại cho nên gọi là vương. Luận nói: Hiền hộ Tam-ma-đề. Giải thích: Hiền có hai nghóa: Có thể trụ an lạc hiện tiền. Có thể dẫn dắt các công đức. Trụ an lạc hiện tiềnï, là định nầy có thể khiến cho thân của Bồ-tát không xả tánh hư không, khỏi phải lìa ba cõi cho nên được trụ an lạc. Dẫn dắt các công đức. Nghóa là có thể dẫn dắt các định không thể tính lường, không phải chỗ nghe biết của Nhị thừa. Nhân theo đây mà mỗi mỗi định đều khởi vô lượng thông tuệ. Do hai nghóa nầy, do đó Bồ-tát có thể lìa tập khí sợ hãi của Thanh-văn, tức là có chướng ngại sanh tử đối với sự an vui lớn lao, do phá chướng nầy cho nên đắc quả an vui lớn lao. Định nầy duyên chân như làm thể của Bồ-tát, không lìa trí mà có thể dẫn các định và thông tuệ, lấy định làm thể. Luận nói: Các Thủ-lăng già-ma Tam-ma-đề. Giải thích: Định nầy là chỗ hành của mười địa Bồ-tát và Phật cho nên được tên nầy. Tại sao vậy? Mười địa Bồ-tát và Phật có bốn thứ công đức thù thắng cho nên gọi là Thủ-lăng: Không sợ hãi, là do đắc tất cả trí. Vô Ngại, là đối với chúng sinh thanh tịnh thấy tự thân vô đẳng. Thấy công đức thật, là hằng tại quán không tán loạn. Có khả năng thù thắng, là có thể phá nạn, phá chướng trụ địa vô minh. Người có đủ bốn đức thì đối với định nầy thì có thể đắc năng hành, cho nên gọi là Già-ma. Định nầy phần nhiều là làm việc lợi ích cho người khác, có thể phá tập khí tự ái của Độc giác, tức là không có chướng sinh tử đối với sự thường hằng cao cả. Do phá chướng nầy cho nên đắc qủa thường hằng cao cả. Chữ “Đẳng (các)” là nêu ra các thứ định. Luận nói: Nhiếp chủng chủng Tam-ma-đề phẩm Loại. Giải thích: Năm trăm định gọi là chủng chủng, đều là phẩm loại của bốn định, đều làm chỗ nhiếp của bốn định. Luận nói: Đối trị sai biệt, là do duyên tất cả pháp làm cảnh trí tuệ chung. Giải thích: Vô phân biệt trí duyên chân như của tất cả pháp hữu vi và pháp vô vi làm chung một cảnh. Trí nầy cùng với cảnh không có phân biệt trở lại. Luận nói: Như lấy phương tiện để nêm theo. Giải thích: Như thế gian muốn chẻ gỗ, trước dùng nêm nhỏ, sau đó dùng nêm to, người tu Quán hành phá phiền não cũng như thế, trước hết dùng đạo kém, sau đó mới dùng đạo thù thắng. Luận nói: Trước bản thức, nhổ ra tất cả chướng thô nặng. Giải thích: Trong bản thức tương tục có chủng tử nhiễm trược của ba phẩm phiền não và nghiệp báo. Đây gọi là tập khí có thể chướng ngại bốn đức. Nhờ định nầy, tập khí nào chưa diệt thì làm cho nó diệt, đã diệt thì khiến cho không sinh. Năng đối trị, sở đối trị và sở đắc của đối trị cùng với Nhị thừa đều bất đồng, cho nên nói sai biệt. Luận nói: Tuy dụng sai biệt, là đối với hiện đời an trụ đã lâu trong hỷ lạc của Tam-ma-đề, thì có thể thọ sinh vào nơi thù thắng như ý. Giải thích: Chủng chủng phương tiện của Bồ-tát trị tâm khiến cho thuần thục, cũng như thợ vàng luyện vàng khiến cho chân thật, đã trị tâm thuần thục rồi thì gọi là tùydụng. Tại sao vậy? Vì do định nầy, Bồ- tát nếu muốn thành thục Phật pháp duyên tất cả cảnh, thì có thể như ý được trụ lâu dài, chưa đắc thì khiến cho đắc. Đã đắc thì khiến cho viên mãn, đã viên mãn thì khiến cho không thoái lui. Trong đời hiện tại có khả năng như vậy. Đối với chỗ thọ trong vị lai có thể làm nhiều sự lợi ích chúng sinh, và gặp Phật ra đời được nghe chánh pháp. Do vậy gọi là được sinh vào nơi thù thắng. Do định nầy mà Bồ-tát đối với nơi thọ sinh thù thắng được ba thứ thủ trụ xả, có thể tùy ý vận dụng không thoái chuyển không cùng tận. Trong Thanh-văn thừa không có định như vậy, cho nên nói sai biệt. Luận nói: Tùydẫn sai biệt nghóa là có thể dẫn thông tuệ vô ngại đối với tất cả thế giới. Giải thích: Bồ-tát có định đại sự nghóa là đối với tất cả sự và tất cả xứ đều không có ngăn ngại. Dẫn có hai nghóa: Năng dẫn là thế lực của định, hoặc tùyngười, hoặc tùycảnh, hoặc tùytu. Nếu người lợi căn thì duyên cảnh vô vi, được ba thứ tự tại nhập trụ xuất. Sở dẫn là chỗ thành sự của định. Động địa phóng quang… Trong sự nàylà thông tuệ thù thắng không thể đọat, mọi sự bày ra đều như tâm. Mê hoặc không thể che kín, nghiệp không thể trở ngại, cho nên gọi là vô ngại dẫn, chỉ có thể mà không có dụng. Dụng tức là sự sai biệt, chỉ có Bồ-tát mới có định nầy, không phải chỗ tu của Nhị thừa cho nên nói sai biệt. Luận nói: Do sự sai biệt. Giải thích: Do sự như vậy, phải biết định của Bồ-tát cùng với định của Nhị thừa có sai biệt. Thế nào là sự ? Luận nói: Khiến cho động. Giải thích: Có thể gây chấn động mười phương thế giới một cách như ý. Luận nói: Phóng quang. Giải thích: Có thể chiếu soi mười phương thế giới một cách như ý. Luận nói: Biến mãn. Giải thích: Phân thân pháp âm rõ ràng và trong sáng là có thể biến khắp mười phương thế giới một cách như ý. Luận nói: Hiển thị. Giải thích: Các chúng sinh khác nương theo thông tuệ của Bồ-tát, có thể thấy vô lượng thế giới và chư Phật Bồ-tát, tùy chỗ đáng thấy thì một cách như ý đều có thể thấy. Luận nói: Chuyển biến. Giải thích: Tánh của bốn đại lẫn nhau khiến cho đổi khác. Luận nói: Qua lại. Giải thích: Trong một sát-na có thể qua lại vô lượng thế giới. Thông tuệ nầy tự nó có ba thứ: Tâm tật thông tuệ, là như đối tượng của tâm ứng niệm thì liền đến. Tương thần thông tuệ nghóa là cũng như chim bay. Biến dị thông tuệ nghóa là rút dài thành ngắn. Luận nói: Rút xa thành gần. Giải thích: Khiến cho xa thành gần không có khoảng giữa. Điều nầy có ba sự là thấy, nghe và làm. Luận nói: Chuyển thô làm tế. Giải thích: Khiến cho vô số thế giới vi tế hơn lân hư. Lân hư nhập lân hư như trước. Luận nói: Biến tế thành thô. Giải thích: Khiến cho một lân hư bao quát vô số thế giới, thế giới như trước. Luận nói: Khiến cho tất cả sắc đều nhập vào thân. Giải thích: Tất cả hy hữu có nhiều chủng sự, đều hiện trong thân. Luận nói: Tợ đồng loại của nó nhập trong đại tập. Giải thích: Như các Bồ-tát đến trời Đao-lợi thì đồng hình sức và lấy âm thanh tiếng nói cõi trời đó, nhập vào đại tập, giáo hoá chúng trời kia. Luận nói: Hoặc hiển hoặc ẩn. Giải thích: Có thể trong chỗ trống không không có gì làm cho hiển hiện một hoặc nhiều thứ, có thể trong có làm cho ẩn tướng một hoặc nhiều. Luận nói: Đủ tám tự tại. Giải thích: Số tám như trước đã nói. Lại như Phật Thế Tôn khiến cho Ma vương tu hành Phật đạo, sau đó thành Phật cũng gọi là tự tại. Luận nói: Ngăn chướng thần lực của người khác. Giải thích: Duyên định lực của Bồ-tát mà khiến cho thông tuệ của người khác không được thành tựu. Luận nói: Hoặc thí Biện Tài cho người khác. Giải thích: Nếu người muốn vấn nạn nhưng ngôn ngữ vụng về, Bồ-tát có thể thí cho người đó được tài biện luận. Luận nói: Và ức niệm. Giải thích: Nếu người tà kiến, thì khiến cho biết mạng sống đời trước mà tự nghiệm nhân quả. Luận nói: Hỷ lạc. Giải thích: Bồ-tát hoặc vào địa ngục, hoặc sinh vào thời đói kém, hoặc ở nơi tật bệnh, như chỗ thọ hỷ lạc của Bồ-tát, khiến cho chúng sinh nầy bình đẳng đều hỷ lạc như vậy, hoặc chỉ cùng với lạc, hoặc trước hết cùng với định, hoặc chính khi nghe pháp, khiến cho sanh hỷ lạc nầy trải qua sáu mươi tiểu kiếp, giống như khoảng sát-na. Luận nói: Hoặc phóng quang minh. Giải thích: Vì dẫn Bồ-tát phương khác đều đến tập hội. Luận nói: Có thể dẫn đầy đủ tướng thông tuệ lớn lao. Giải thích: Như thông tuệ của Thánh Thanh-văn có thể khởi một trăm linh một sự, thông tuệ của Bồ-tát hiện sự thì không thể nói số. Vì muốn làm rõ sự chưa nói cho nên trước hết nêu ra câu tổng quát nầy. Luận nói: Có thể dẫn tất cả chánh hạnh khó hành. Giải thích: Thành tựu tha sự như trước đã nói, dưới đây thuyết minh thêm tự hành của Bồ-tát. Định nầy có thể dẫn chánh hạnh của Bồ-tát, không phải chỗ hành của Nhị thừa. Luận nói: Vì có thể nhiếp mười thứ chánh hạnh khó tu. Giải thích: Mười thứ chánh hạnh nầy là chủng loại của định. Định có thể nhiếp chánh hạnh nầy. Luận nói: Những gì là mười? 1.Tự thọ khó tu, vì tự thọ thiện nguyện Bồ-đề. Giải thích: Nếu nương vào tha mà phát mười nguyện, thì đây không phải là khó hành, vì chưa thành lập. Bồ-tát tự có ba khả năng: Có trí tuệ có thể hiểu phương tiện. Có từ bi có thể nhiếp chúng sinh. Có chánh cần có khả năng viên mãn mười nguyện. Ba thứ khó đắc nầy Bồ-tát có thể đắc là do đủ ba khả năng nầy, không nương vào tha mà Tự có thể phát nguyện. Lại nữa, nếu vì tự thân mà thọ nguyện thiện việc người khác, nguyện nầy không phải khó. Nếu không có nhân duyên, chỉ vì người khác mà thọ, thì đó mới là khó. Luận nói: 2.Không thể hối khó tu, nghóa là do các khổ của sinh tử không khiến cho thoái chuyển. Giải thích: Tám khổ của vô thủy sinh tử, và sau khi phát tâm sẽ thọ tám khổ thời gian lâu dài, không thể trái với từ bi của Bồ-tát, thoái chuyển Bồ-đề hạnh. Rộng nói như luận Địa trì, do đó khó tu. Luận nói: 3. Không quay lưng với khó tu. Nghóa là do chúng sinh làm ác, hoàn toàn đối với ác kia. Giải thích: chúng sinh trong sinh tử hằng khởi hành ác, Bồ-tát không xét lỗi lầm mà giúp họ giải thoát, hằng hướng chúng sinh kia hành thiện, do đó khó tu. Luận nói: 4. Hiện tiền khó tu, nghóa là đối với chúng sinh có oán hiện tiền, làm tất cả sựlợi ích . Giải thích: Nếu chúng sinh đối với Bồ-tát khởi ác nặng nề, thì Bồ- tát đối với chúng sinh đó lấy ân đức lớn báo đáp cho, do đó khó tu. Luận nói: 5. Vô nhiễm khó tu nghóa là Bồ-tát sinh nơi thế gian, không bị pháp thế gian làm nhiễm ô. Giải thích: Bồ-tát do yêu thích cho nên nhập sinh tử. Đã nhập sinh tử rồi, không bị tám pháp của thế gian làm nhiễm ô. Yêu thích mà không nhiễm cho nên khó tu. Luận nói: 6.Tin ưa khó tu là hành đối với Đại thừa không bờ mé, có thể tin ưa nghóa thậm thâm rộng lớn. Giải thích: Vô để có ba nghóa: Giáo khó nghó. 2. Đạo khó hành. 3. Quả khó đắc. Oai đức viên mãn, lý vi tế rộng lớn. Oai đức sâu xa có ba nghóa: Như ý. 2. Thanh tịnh. 3. Vô biến dị lý. Tức là lý của ba vô tánh, đều không phải cảnh giới của các địa dưới, cho nên khó tu. Luận nói: 7. Thông đạt khó tu, nghóa là có thể thông đạt nhân vô ngã và pháp vô ngã. Giải thích: Trước hết đối với mười giải đã thông đạt nhân vô ngã, hiện tại đối với sơ địa thông đạt pháp vô ngã. Hai thứ không nầy lìa tánh có và tánh vô. Nếu có thể thông đạt thì cùng với pháp nầy đồng. Do đó khó tu. Luận nói: 8.Tùygiác khó tu, nghóa là Kinh Bất liễu nghóa của chư Phật Như Lai rất thâm sâu, có thể như lý mà phán. Giải thích: Chánh pháp mà Như Lai nói không ngoài liễu nghóa và bất liễu nghóa. Nếu chúng sinh chỉ có tín căn, chưa có trí căn, Như Lai vì làm thành tín căn đó mà nói Kinh Bất liễu nghóa, như Nhị thừa giáo. Lại muốn phục trừ chúng sinh kiêu mạn mà nói kinh Bất liễu nghóa, nói rộng như trong Luận Thập địa. Vì sinh văn, tư ,tu cho nên nói Kinh Liễu nghóa. Lời trong kinh Bất liễu nghóa thì bí mật, có thể như lý mà phán, do đó khó tu. Luận nói: 9.Không lìa không nhiễm khó tu, nghóa là không bỏ sinh tử nhưng không bị sinh tử nhiễm ô. Giải thích: Do từ bi cho nên không bỏ sinh tử, do Bát-nhã cho nên không bị nhiễm ô. Đối với sinh tử và Niết-bàn không nhiễm không trụ, do đó khó tu. Luận nói: 1 0.Gia hạnh khó tu, nghóa là chư Phật Như Lai trụ trong giải thoát tất cả chướng, không khởi công dụng mà có thể làm tất cả sự lợi ích chúng sinh, cho đến cùng tận sinh tử . Giải thích: Hiển đủ ba thân cho nên nói chư Phật Như Lai. Tất cả chướng, là ba chướng, bốn chướng, ba mươi chướng, Pháp thân đã đắc vô cấu thanh tịnh cho nên trụ trong giải thoát tất cả chướng. Pháp thân thường trụ trong giải thoát, nương vào Pháp thân mà khởi Ứng thân. Đối với tất cả chánh sự và tự nhiên hằng lưu, không khởi công dụng mà nương vào Ứng thân khởi Hóa thân, hành tất cả sự lợi ích chúng sinh, tùycăn tánh mà khiến cho gieo trồng chủng tử thiện cho đến đắc giải thoát. Luận nói: Lạc tu gia hạnh như vậy. Giải thích: Muốn được niềm vui, khởi chánh cần là tu, hằng tu và cung kính tu làm gia hạnh, do đó khó tu. Luận nói: Đối với tùygiác khó tu là chư Phật Như Lai nói Kinh Bất Liễu nghóa. Nghóa đó như thế nào? Bồ-tát phải tùylý mà giác ngộ quán sát. Giải thích: Trong mười thứ khó tu có chín nghóa dễ hiểu, cho nên không giải thích lại. Nghóa thứ tám khó hiểu, Bồ-tát phải tùy theo giác ngộ và quán sát, cần phải dạy thêm về tướng đó. Luận nói: Như Kinh nói: Tại sao Bồ-tát không tổn một vật, không thí một người? Nếu Bồ-tát có thể khéo hành Bố thí vô lượng vô số, đối với mười phương thế giới tu hạnh bố thí, tương tục sinh khởi. Giải thích: Bồ-tát bỏ tự ái, nhiếp tất cả chúng sinh làm tự thể, tất cả hành đạo, tất cả tài vật, đều thuộc chúng sinh. Tiền của không phải chính mình có, dùïng không phải của người khác. Tài vật đó sử dụng đó nào có liên quan đến ta? Nếu có thể vận tâm như vậy thì Bồ-tát có thể hành bố thí. Lại nữa, Bồ-tát bỏ tự ái, nhiếp tất cả chúng sinh làm tự thể thì tất cả chúng sinh hành bố thí, tức là Bồ-tát hành thí do đó Bồ-tát khởi tâm tùyhỷ, đắc phước bố thí vô lượng, cũng là không tổn một vật không thí một người, gọi là có thể khéo hành bố thí. Luận nói: Vì sao Bồ-tát thích làm Bố thí? Nếu Bồ-tát không ưa thích làm tất cả bố thí. Giải thích: Hoặc Bồ-tát không ưa thích làm tùychí thí… Tám loại bố thí, vì nghóa chí chỉ có ưa thích làm tịnh tâm thí của Bồ-tát. Lại nữa, hoặc Bồ-tát không ưa thích tam luân thí dính mắc của thế gian, mà ưa thích làm tam luân thí không dính mắc. Lại nữa, nhiễm trước gọi là ưa thích, hoặc Bồ-tát nhiễm trước nhân của thí, hoặc nhiễm trước quả của thí thì đều gọi là ưa thích hành bố thí. Nếu Bồ-tát không nhiễm trước hành thí thì không gọi là ưa thích hành bố thí. Luận nói: Vì sao Bồ-tát hành tâm tin thí ? Nếu Bồ-tát không hành tín tâm của chư Phật Như Lai. Giải thích: Do Bồ-tát tự chứng thí cho nên hành bố thí, không do tin người khác mà hành bố thí. Tín trước có căn cho nên thành tín. Tín sau không có căn cho nên không thành tín. Luận nói: Vì sao Bồ-tát phát hành bố thí? Nếu trong bố thí Bồ tát không sách tấn tự thân. Giải thích: Nếu bản chất của Bồ-tát có thể hành bố thí thì không có các chướng tham lam keo kiệt, tật đố, không phải sách tấn tự thân mới có thể hành bố thí. Luận nói: Vì sao Bồ-tát hằng du hí bố thí ? Nếu Bồ-tát không có thời bố thí. Giải thích: Bồ-tát phi thời bố thí, không tùymột vật nào để bố thí. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát hay hành bố thí lớn lao? Nếu Bồ-tát đối với bố thí mà lìa Bà-la tưởng. Giải thích: Tên Bà-la làm đề mục có hai nghóa: 1. Mục trinh thật. Mục tán loạn. Trinh thật là lời nói ngay thẳng, Tán loạn là lời nói bí mật. Nếu lấy lời nói thật lìa lời nói ngay thẳng, thì cùng với việc bố thí lớn trái nhau. Nếu lấy lời bí mật lìa tán loạn, thì cùng với việc bố thí lớn phù hợp nhau. Nếu lìa dục của ba cõi, sau đó khi hành bố thí thì gọi là bố thí lớn. Tại sao vậy? Bồ-tát lìa dục hành bố thí, là phàm phu cụ phược hành thí, dù họ hành thí gấp trăm ngàn vạn bội lần cũng không bằng Bồ tát. Nếu bố thí quyết định ngại lẫn nhau thì không gọi là bố thí. Do không ngại nhau cho nên được tên lớn. Luận nói: Vì sao Bồ-tát đối với bố thí thanh tịnh? Nếu Bồ-tát Uất- ba-đề tham lận. Giải thích: Tên Uất-ba-đề làm đề mục có hai nghóa: 1. Mục sinh khởi. 2. Mục bạt căn khí bội. Sinh khởi là lời nói ngay thẳng, Bạt căn khí bội là lời nói mật. Nếu lấy lời ngay sinh khởi tham lận thì cùng với bố thí thanh tịnh trái nhau. Nếu lấy lời bí mật bạt căn khí tham bội lận thì cùng với bố thí thanh tịnh phù hợp nhau. Bạt căn là trừ thân kiến. Căn bản của thân kiến là tham lận. Khí bội là trừ thể của tham lận. Do Bồ-tát có thể đoạn thân kiến, diệt tham lận, thì đối với bố thí được thanh tịnh. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát có khả năng trụ vào pháp bố thí? Nếu Bồ-tát không trụ cứu cánh cuối cùng. Giải thích: Sau cõi cứu cánh có hai nghóa: Thí có sơ, trung và hậu, lấy tối hậu làm cứu cánh sau cùng. Nếu y theo nghóa nầy, không trụ phần tối hậu của bố thí, thì lẽ nào nói rằng có thể trụ nơi thí? Đây là trái nhau. Nếu Hữu dư Niết-bàn gọi là cứu cánh, thì Vô dư Niết-bàn gọi là cứu cánh cuối cùng. Nếu Thanh-văn trụ Vô dư Niết-bàn không khởi tâm trở lại nữa, không có sự lợi ích cho chúng sinh thì không thể trụ nơi bố thí. Nếu Bồ-tát nương vào đại bi, không đồng với Thanh-văn trụ Vô dư Niết-bàn, hằng khởi Lục độ không cùng tận, nếu nương vào nghóa nầy thì cùng với Năng trụ thí phù hợp nhau. Luận nói: Vì sao Bồ-tát đối với thí tự tại? Nếu Bồ-tát đối với bố thí không được tự tại. Giải thích: Nếu Bồ-tát không đắc thí chướng tự tại thì Bồ-tát đối với thí được tự tại. Trước kia khi trong phàm phu, kiến hoặc và tu hoặc không có đạo đối trị, muốn khởi thì liền khởi cho nên được tự tại. Hiện tại khi nhập Thánh vị bị đạo đối trị, Bồ-tát đối với hoặc không được tự tại, nhưng đối với thí được tự tại. Luận nói: Vì sao Bồ-tát đối với thí vô tận? Nếu Bồ-tát không trụ trong vô tận. Giải thích: Vô dư Niết-bàn gọi là vô tận. Bồ-tát không đồng với Thanh-văn nhập vào trong vô tận không có sự lợi ích, do đó Bồ-tát nơi thí được vô tận. Luận nói: Như thí Kinh nói, từ giới cho đến Bát-nhã, như lý nên biết. Giải thích: Như thí Kinh nói thí có lời không hiểu nghóa, nói các độ khác cũng có lời nói không rõ nghóa, đều phải như lý mà phân biệt. Luận nói: Lại có Kinh nói: Thế nào là Bồ-tát hành sát sinh? Nếu Bồ-tát có mạng, chúng sinh đoạn mạng đó tương tục. Giải thích: Nếu có mạng thì biết là có nghiệp. Nếu có nghiệp thì biết là có hoặc, do ba thứ mạng, nghiệp hoặc nầy mà bốn cõi sáu đường tương tục không đoạn. Nếu Bồ-tát tùycăn tánh các chúng sinh đó vì họ nói ba thừa Thánh đạo khiến họ tu hành đoạn ba pháp nầy (mạng, nghiệp, hoặc), đắc quả Vô dư Niết-bàn không tương tục tức là đoạn mạng cho nên gọi là sát sinh. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát đọat không phải cái mà kẻ khác cho? Nếu Bồ-tát tự đọat không phải cái mà kẻ khác cho chúng sinh. Giải thích: Bồ-tát lấy đại bi nhiếp tất cả chúng sinh làm quyến thuộc của mình, khiến cho lìa hiểm nạn sinh tử. Không phải cái được cho bởi những người chủ và cha mẹ của các chúng sinh kia, cho nên gọi là đọat không phải cái mà kẻ khác cho. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát hành tà dâm? Nếu Bồ-tát đối với dục trần khởi tà ý. Giải thích: Ba nghiệp của Bồ-tát cùng với dâm dục trái nhau. Ý biết dâm dục đó là hư vọng không thật, làm gốc cho nhiều ác. Khẩu cũng khởi nói như vậy. Thân không hành dâm dục đó, cũng là tương phản. Tức là đối với dục trần khởi tà ý, cho nên gọi là hành tà dâm. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát hay nói vọng ngữ ? Nếu Bồ-tát y theo vọng đó có thể nói là vọng. Giải thích: Tất cả pháp đều là hư vọng. Nếu Bồ-tát như hư vọng mà nói, thì gọi là hay nói vọng ngữ. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát nói hai lưỡi? Nếu Bồ-tát hằng trụ nơi xứ vắng lặng tuyệt đối không. Giải thích: Nói hai lưỡi khiến cho kia và đây bất hoà. Bồ-tát thì nghó không nói không, khiến cho mình và người không thấy kia đây, huống chi là hoà hợp, cho nên gọi là hành nói hai lưỡi. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát năng trụ Ba-lưu-sư (ác Khẩu)? Nếu Bồ-tát trụ sở tri bỉ ngạn. Giải thích: Nếu nương vào tên trực ngữ Ba-lưu-sư làm đề mục ác khẩu. Người trụ ác khẩu không được người khác thân cận, Bồ-tát trụ sở tri bỉ ngạn tức là lý của ba vô tánh, cũng không được chúng sinh thân cận. Vì lý nầy không phải hành xứ của phàm phu và Nhị thừa, cho nên gọi là hay trụ ác khẩu. Lại nữa, nếu y theo lời bí mật thì Ba-lưu-sư làm đề mục cho bỉ ngạn, tức là lấy lời nói bí mật để làm rõ lời chân thật. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát hay nói lời không tương ưng? Nếu Bồ-tát có thể phân phá các pháp và tùyloại giải thích. Giải thích: Bồ-tát có thể phân phá các pháp, là căn, trần, thức đều không có. Không có nầy không phải quyết định là không, cũng không phải quyết định là có. Có và không đều bất khả đắc, nên gọi là hay nói lời không tương ưng. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát hành A-tỳ-trì-ha-lâu? Nếu Bồ-tát niệm niệm khiến cho tự thân đắc các Vô thượng định. Giải thích: Nếu y theo lời ngay thì tên A-tỳ-trì-ha-lâu làm đề mục cho tham dục. Người hành tham dục thì chắc chắn là ưa thích ngoại trần. Bồ-tát hằng ưa thích khiến cho tự thân đắc định tối thắng, cho nên gọi là hành tham dục. Lại nữa, nếu y theo lời bí mật thì tên A-tỳ-trì-ha-lâu là đề mục cho niệm niệm được định, tức là lấy lời bí mật để làm rõ lời ngay thật. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát khởi tâm ghét hại ? Nếu Bồ-tát đối với tâm địa của mình và người có thể hại các hoặc. Giải thích: Giận dữ lấy ghét hại làm tướng. Bồ-tát khởi ý muốn đoạn tất cả phiền não của mình và người giải thích: Khởi tâm ghét hại. Luận nói: Thế nào là Bồ-tát khởi tà kiến? Nếu Bồ-tát tất cả xứ hành khắp tánh tà, như lý quán sát. Giải thích: Đại thừa lấy hữu phân biệt làm tánh tà. Phân biệt tánh hành khắp đối với tánh y tha thì tức là tánh tà. Nếu lìa phân biệt thì gọi là tánh chân thật của nhân không và pháp không. Tiểu Thừa lấy thân kiến làm tánh tà, nhân theo thân kiến nầy mà sinh các hoặc. Nếu lìa thân kiến thì tất cả tà chấp đều không được khởi, đắc tánh chân thật của nhân không. Bồ-tát có thể như lý quán sát tánh tà nầy, thấy đó là tà cho nên gọi là khởi tà kiến. Luận nói: Lại có Kinh nói Phật pháp thậm thâm. Giải thích: Thứ nhất thuyết minh lục độ, kế đó làm rõ mười ác, dưới đây thuyết minh đạo và đạo quả cho nên nói thậm thâm. Luận nói: Thế nào là thậm thâm? Trong Luận nầy tự phân biệt rộng tất cả Phật pháp, Thường trụ làm tánh, vì pháp thân thường trụ. Giải thích: Pháp thân của chư Phật thường trụ, tất cả Phật pháp đều nương vào pháp thân, lấy pháp thân làm thượng thủ, pháp thân thường trụ làm tánh của tất cả Phật pháp. Luận nói: Tất cả Phật pháp lấy đoạn làm tánh, do tất cả chướng đều đoạn hết. Giải thích: Mỗi mỗi Phật pháp đều không có hoặc chướng và trí chướng, chướng đoạn hết là tánh của tất cả Phật pháp, phiền não hiện tại diệt là đoạn, phiền não vị lai chưa sinh là tận, tức là trí tận vô sinh. Luận nói: Tất cả Phật pháp lấy sinh khởi làm tánh, do Hóa thân hằng sinh khởi. Giải thích: Do bản nguyện từ bi sinh khởi Hóa thân tương tục vô tận, cho nên Hóa thân sinh khởi làm tánh của tất cả Phật pháp. Luận nói: Tất cả Phật pháp lấy năng đắc làm tánh. Năng đắc cùng chung đối trị tám vạn bốn ngàn phiền não hạnh của chúng sinh. Giải thích: Tất cả Phật pháp lấy vô sở đắc làm tánh, đây là chánh thuyết, do ba vô tánh cho nên không thể quyết định nói là có hay không. Tuy lấy vô đắc làm tánh, nhưng cũng có nghóa năng đắc, nếu lìa Phật pháp thì bất năng đắc là chỗ đối trị hoặc của liễu biệt. Bất năng đắc an lập năng đối trị đạo. Luận nói: Tất cả Phật pháp lấy hữu dục làm tánh, vì chúng sinh có dục do ái nhiếp khiến cho thành tự thể. Tất cả Phật pháp lấy sân làm tánh, tất cả Phật pháp lấy si làm tánh, tất cả Phật pháp lấy pháp phàm phu làm tánh. Giải thích: Câu nầy có hai nghóa: Bồ-tát nhiếp tất cả chúng sinh có dục làm tự thể, vì tất cả Phật pháp đều nương vào tự thể nầy. Đại bi làm sự yêu thích. Sự yêu thích tức là dục, Bồ-tát lấy đại bi nhiếp tất cả chúng sinh. Nương vào đại bi mà sinh phước đức và trí tuệ hạnh. Sân, si và pháp phàm phu cũng vậy. Luận nói: Tất cả Phật pháp lấy vô nhiễm trước làm tánh, vì thành tựu chân như, tất cả chướng không thể nhiễm. Giải thích: Đạo đoạn tất cả chướng sau chân như. Tận là vô cấu thanh tịnh cho nên gọi là thành tựu, tất cả chướng không có khả năng nhuộm nhơ, tất cả Phật pháp lấy chân như nầy làm thể tánh. Luận nói: Tất cả Phật pháp không thể nhiễm trước, chư Phật xuất hiện nơi đời, không bị pháp thế gian làm ô nhiễm. Giải thích: Trước thuyết minh cảnh của chân như, ở đây thuyết minh trí của chân như. Chư Phật Bồ-tát lấy chân như trí làm thể, tức là Ứng thân, thể nầy là chỗ làm rõ chân như của Duy thức, không phải căn trần và phân biệt khởi, không phải tám thứ thế pháp, và chỗ khởi của thế pháp là chỗ có thể các hoặc của dục sân nhiễm trước. Tại sao vậy? Là vì đối trị các hoặc nhiễm kia, tu đắc vô phân biệt trí thành tựu, gọi là chư Phật xuất hiện nơi đời. Luận nói: Do đó nói Phật pháp thậm thâm. Giải thích: Câu nầy tổng kết ý trước, chỉ ra khó tư duy khó hành và khó đắc. Do đủ ba nghóa đó cho nên gọi là thậm thâm. Luận nói: Vì tu hành Ba-la-mật, vì thành thục chúng sinh, vì làm cõi Phật thanh tịnh, vì dẫn nhiếp tất cả Phật pháp, nên Tam-ma-đề nghiệp sai biệt của Bồ-tát phải biết. Giải thích: Trong Luận nầy, thuyết minh Tam-ma-đề của Bồ-tát, không riêng nói về sự sai biệt, chỉ nói chung của các nghiệp sai biệt. Chư Bồ-tát tu định có chung và riêng. Chung thì có bốn thứ nầy. Riêng thì có năm trăm thứ. Bốn thứ nầy là nghiệp chung của các định. Tại sao vậy? Vì các Bồ-tát đã tu đắc định. Nương vào định nầy tu hành mười độ. Nương vào định nầy mà thành thục chúng sinh. Thế nào là thành thục chúng sinh? Nương vào định nầy mà khởi thông tuệ, dẫn khiến cho nhập chánh định vị. Lại nữa, nương vào lực của định nầy mà làm thanh tịnh cõi Phật. Tại sao vậy? Vì do tâm tự tại, có thể thành cõi tịnh báu vàng một cách như ý. Lại nữa, định nầy đắc hiện tại trụ an lạc, có thể dẫn dắt thành thục tất cả Phật pháp. Bốn sự nầy là sai biệt nghiệp của tất cả định chung, nên phải như vậy mà biết. NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH <卷>QUYỂN 12 THẮNG TƯỚNG THỨ TÁM GIẢI THÍCH Y TUỆ HỌC SAI BIỆT TƯỚNG THÙ THẮNG Luận nói: Như đây đã nói nương vào định học sai biệt rồi. Tại sao phải biết nương vào tuệ học sai biệt? Giải thích: Định của Bồ-tát và định của Nhị thừa đã có sai biệt. Định làm y chỉ của tuệ. Tuệ nương định mà được thành. Tuệ của Bồ-tát và tuệ của Nhị thừa cũng phải có sai biệt, làm sao biết được? Lấy pháp gì gọi là nương vào trí tuệ? Vô phân biệt trí gọi là nương trí tuệ để học, là sai biệt của vô phân biệt trí, phải biết tức là sai biệt của nương vào tuệ. Vô phân biệt trí nầy có ba thứ: 1.Gia hạnh vô phân biệt trí là trí của tầm tư tức là nhân của đạo. 2. Vô phân biệt trí tức là chánh thể của đạo. 3. Vô phân biệt hậu trí tức là trí xuất quán, là quả của đạo. Ba trí nầy đều là thể của việc nương vào tuệ học. Trí tầm, tư làm việc nương vào tuệ học. Người Quán hành nương vào vô phân biệt trí tương lai mà tu trí phương tiện. Do cầu quả vô phân biệt trí vị lai mà phương tiện hiện đời được thành. Do có thể nương cho nên gọi là nương tuệ học. Lại nữa, trí phương tiện nầy có thể dẫn vô phân biệt trí trong tương lai. Vô phân biệt trí khởi, chắc chắn nương vào phương tiện nầy mà được thành tựu. Do sở y cho nên gọi là nương tuệ học. Chánh thể của đạo là việc nương tuệ học, là nương vào trí trong khởi đang quán, lìa tán động cho nên gọi là bên trong. Trí nầy nương vào quán mà khởi, cho nên gọi là nương tuệ học. Lại nữa, có tự thể là nội. Nhân đã mất mà quả chưa khởi, thể của đạo thể tự tương tục, tức là nói tự thể làm nội. Nương vào tự thể mà khởi, cho nên gọi là nương tuệ học. Trí xuất quán là nương tuệ học, là nương vô phân biệt trí mà thành tựu trí nầy, gọi là nương tuệ học. Tại sao vậy? Khi nhập quán thì đối tượng hậu đắc trí duyên đời nầy. Trong ba trí nầy phải thành lập trí nào? Chỉ phải thành lập vô phân biệt trí, vì nếu thành lập trí nầy tức là thành lập các trí khác. Nếu thành lập trí trước chỉ có làm rõ nghóa của nhân, không hiển nghóa của quả, thì mười chín nghóa sai biệt của tự tánh cũng không thành. Nếu thành lập trí sau, chỉ có làm rõ nghóa của quả, không làm rõ nghóa của nhân, thì mười chín nghóa sai biệt của tự tánh cũng không thành. Tại sao vậy? Vì trí nầy lấy trí tầm, tư làm nhân. Trí nầy là quả của trí tầm tư. Trí nầy là nhân của trí sau. Trí sau là quả của trí nầy. Do trí nầy thành lập thì trí trước và trí sau cũng được thành lập, cho nên chỉ phải thành lập trí nầy. Trong thành lập, trước hết phải nói tự tánh của vô phân biệt trí. Tự tánh tức là thể tướng. Luận nói: Do y chỉ tự tánh của vô phân biệt trí, duyên khởi cảnh giới, tướng mạo, lập cứu nạn. Nhiếp trì loại bạn và quả báo đẳng lưu, lìa khỏi rốt ráo mà hành gia hạnh thiện. Công đức của vô phân biệt trí và hậu đắc trí, công dụng gia hạnh sai biệt của vô phân biệt, vô phân biệt trí và hậu đắc trí, ví như nghóa của oai đức vô công dụng tạo nên sự thậm thâm thì phải biết nương trí tuệ sai biệt. Do tuệ học có sai biệt thì phải biết Vô phân biệt trí có sai biệt. Giải thích: Nói rằng do tự tánh của vô phân biệt trí thì phải biết nương vào trí tuệ sai biệt. Do nương vào trí tuệ có sai biệt nên phải biết vô phân biệt trí sai biệt, là nếu nói thứ tự mười chín nghóa, thì đều phải nói như vậy. Hiện tại sơ lược lại, lấy một nghóa do Vô phân biệt trí để nêu nghóa thứ nhất, kế đó trình bày hết mười chín nghóa. Sau đó tổng quát nói rằng phải biết nương vào trí tuệ học sai biệt. Do nương vào tuệ học có sai biệt thì phải biết vô phân biệt trí sai biệt, vì mười chín nghóa thành lập Vô phân biệt trí. Trí nầy tức là thể của tuệ học. Tuệ học sai biệt tức là trí sai biệt nầy, phải khởi hiểu biết như vậy. Tự tánh của Vô phân biệt trí là thế nào? Luận nói: Tự tánh của vô phân biệt trí, phải biết là lìa năm thứ tướng. Giải thích: Nếu lìa đủ năm tướng tức là Vô phân biệt trí. Nếu không lìa đủ năm tướng tức là không phải Vô phân biệt trí. Luận nói: Năm tướng: 1. Lìa phi tư duy. 2. Lìa phi giác quán địa. Lìa diệt tưởng thọ định tịch tónh. 4. Lìa sắc tự tánh. 5. Đối với nghóa chân thật lìa dị phân biệt. Giải thích: Trí nầy nếu do lìa tư duy thì gọi là Vô phân biệt trí. Ngủ mê, phóng dật, say cuồng đồng lìa. Tư duy phải đắc Vô phân biệt trí, hoặc vượt qua địa giác quán thì gọi là Vô phân biệt trí. Từ định thứ bảy trở lên đã vượt qua địa giác quán, phải đắc Vô phân biệt trí, hoặc nương vào hai nghóa nầy, thì phàm phu phải đắc Vô phân biệt trí, tức là xứ có thể lìa tâm và tâm pháp, phải gọi là Vô phân biệt trí, là định diệt tưởng thọ… Hoặc người trong vị nầy đắc Vô phân biệt trí, thì người nầy không thành trí. Tại sao vậy? Vì đối với các Vị diệt định không có tâm và tâm pháp. Nếu nói như sắc tự tánh thì trí tự tánh cũng vậy. Như sắc đần độn vô tri thì trí nầy phải đần độn vô tri. Nếu đối với nghóa chân thật, do đã phân biệt hiển hiện, thì phân biệt đó phải thành Vô phân biệt trí. Tại sao vậy? Vì phân biệt nầy có khả năng phân biệt nghóa chân thật tức là nghóa chân thật nầy. Luận nói: Là chỗ lìa sự hiểu biết của năm tướng, trong đây phải biết là Vô phân biệt trí. Giải thích: Hoặc trí lìa năm tướng, duyên nghóa chân thật mà khởi, hoặc phân biệt nghóa chân thật không khác. Pháp chân thật nầy chỉ duyên nghóa chân thật. Như nhãn thức không lấy phân biệt làm tánh nên đó là tướng biết không phân biệt trí. Luận nói: Như điều nói trong đây, trong tánh biết không phân biệt mà nói kệ. Giải thích: Trong việc nương vào tuệ học nầy, như trước nói chỗ làm rõ tánh của Vô phân biệt trí; của mười chín nghóa. Lại nói thêm kệ thành lập nghóa nầy. Kệ nầy muốn làm rõ chỗ nào ? Muốn làm rõ Vô phân biệt trí tối thắng, đứng đầu tất cả trong các hạnh tu. Luận nói: Tự tánh của Bồ-tát, Sự lìa của năm tướng, Tánh vô phân biệt trí, Nơi chân Vô phân biệt. Giải thích: Bồ-tát lấy Vô phân biệt trí làm thể, nên Vô phân biệt trí không khác với Bồ-tát. Tự tánh của Vô phân biệt trí tức là tự tánh của Bồ-tát. Vô phân biệt trí lìa năm tướng, tức là Bồ-tát lìa năm tướng. Vì do chân Vô phân biệt lìa năm tướng cho nên được tên Vô phân biệt. Chúng sinh là giả danh, pháp là thật có. Nếu lìa trí nầy, thì không có pháp khác xứng với tên của Bồ-tát. Tận vô sinh trí là Bồ-đề. Chúng sinh nầy lấy Bồ-đề làm thể. Bồ-đề tức là Vô phân biệt trí. Vô phân biệt trí tức là Bồ-đề. Vì muốn làm rõ Vô phân biệt trí tức là Bồ-tát, cho nên nói tự tánh của Bồ-tát lìa năm tướng, không nói Vô phân biệt trí hậu đắc làm lệ như thế. Như vậy đã nói tự tánh của Bồ-tát rồi, do y chỉ nầy tánh đó được sinh. Bây giờ sẽ nói y chỉ nầy. Trước đã nói trí nầy gọi là Vô phân biệt. Trí nầy làm y chỉ thì tâm sinh, hay không làm y chỉ thì tâm sinh? Nếu y chỉ mà tâm sinh thì có thể tư duy cho nên gọi là tâm, vì tư duy tức là phân biệt. Trí nầy nếu nương phân biệt mà sinh, thì không phải là Vô phân biệt. Nếu không y chỉ mà tâm sinh, thì đồng với pháp của các sắc. Lại nữa, không gọi là trí. Muốn làm rõ lìa hai lỗi nầy cho nên nói kệ lần nữa. Luận nói: Chư Bồ-tát y chỉ, Phi tâm, phi phi tâm, Là Vô phân biệt trí, Không tư duy tật loại. Giải thích: Trí nầy không lấy tâm làm y chỉ, vì nó không thể nghó bàn, cũng không lấy phi tâm làm y chỉ. Do lấy tâm loại tật lợi tương tục làm y chỉ, loại tật lợi là chủng tánh của tâm, tức lấy chủng tánh nầy làm y chỉ. Không thể nói phi tâm làm y chỉ. Vì làm rõ nhân duyên sinh khởi trí nầy cho nên nói kệ lần nữa. Luận nói: Nhân duyên chư Bồ-tát, Có huân tập văn ngôn, Là Vô phân biệt trí, Như lý chánh tư duy. Giải thích: Trong bốn duyên trừ ra ba duyên, chỉ lấy nhân duyên. Nhân duyên có tướng gì? Nếu nhân và quả đồng loại thì gọi là nhân duyên. Ví như trước tâm thiện và sau tâm thiện làm nhân, nương vào chỗ nghe pháp âm của người khác, khởi nghe huân tập nhân, sau huân tập nầy sinh chánh tư duy. Chánh tư duy đó từ nghe chánh thuyết của người khác mà khởi cho nên gọi là có ngôn thuyết. Nhân duyên của trí nầy tức là lấy sự huân tập nghe và lời nói, và chánh tư duy làm thể. Do nhân duyên nầy, mà Vô phân biệt trí có lời nói (hữu ngôn), chưa sinh khiến cho sinh, đã sinh khiến cho kiên trụ. Nếu không có sự huân tập nầy thì Vô phân biệt trí không được sinh, cho nên nói đó là nhân duyên. Trí nầy do huân tập cái nghe mà khởi, duyên pháp nào làm cảnh? Luận nói: Cảnh giới của Bồ-tát, Không thể nói pháp tánh, Là Vô phân biệt trí, Chân như hai vô ngã. Giải thích: Kệ trước nói nhân duyên của Bồ-tát. Kệ nầy nói duyên duyên của Bồ-tát. Cảnh giới tức là duyên duyên. Duyên duyên có tướng gì? Hoặc pháp duyên đời nầy, cũng như người gầy yếu do nhờ gậy mà được đi đứng. Hoặc quán pháp nầy mà pháp kia được sinh, thì pháp nầy làm duyên cho pháp kia. Như năm trần sinh năm thức. Cảnh nầy có hai nghóa: 1.Y chỉ duyên duyên. 2.Tỷ độ duyên duyên. Như người nương trên tướng vô thường của tâm, so sánh độ lượng sắc… các pháp khác đều là vô thường. Không thể nói pháp tánh là duyên duyên của Bồ-tát. Tất cả pháp do tánh phân biệt nên không thể nói được. Tại sao vậy? Vì tất cả pháp do tự thể vốn không có, nhưng do tâm phân biệt nên hiển hiện. Tất cả pháp không thể nói có, cũng không thể nói không. Như vậy hiển hiện thì không phải như vậy mà có, cho nên không thể nói có. Như vậy hiển hiện không phải có, không phải không, cho nên không thể nói không. Như pháp sở duyên của thức không phải như vậy mà có, cho nên phân biệt không có thể tướng. Phân biệt đó không có thể tướng, là nên có hay là nên không có? Nếu không có thể không thì thể trở lại có. Nếu có thể không thì không thể nói không. Do nghóa nầy thì pháp tánh căn cứ theo chân và tục đều không thể nói là có hay không. Pháp tánh lấy chân như của hai vô ngã làm thể. Do tánh phân biệt nương vào tánh khác vô pháp và không có nhânnên gọi là hai vô ngã. Vì lìa đoạn kiến mà vô ngã nầy nên chẳng phải không, cho nên gọi là chân như. Chân như nầy là cảnh của Bồ-tát. Tại sao vậy? Vô phân biệt trí đó nếu khởi, thì chắc chắn duyên cảnh nầy mà khởi. Trí nầy thì duyên chân như không thể nói mà khởi. Sự nắm lấy cảnh trí nầy tướng mạo thế nào? Luận nói: Tướng mạo các Bồ-tát, Trong cảnh giới chân như, Là Vô phân biệt trí, Vô tướng, vô sai biệt. Giải thích: Trí đó luôn bình đẳng sinh trong cảnh chân như, không khác và không tướng làm tướng, tức là tướng của nó. Ví như nhãn thức nắm lấy sắc, như các tướng xanh… hiển hiện, không khác với màu xanh. Trí nầy cùng với cảnh chân như cũng vậy. Lại nữa, không đồng nhãn thức và sắc, vì sắc không có thể mà có sắc, nhãn thức thì không có thể mà có sắc. Trí nầy cùng với cảnh chân như tương xứng, không thể nói khác. Nếu tất cả pháp lấy việc không thể nói năng làm tánh, thì pháp nào là bị phân biệt? Luận nói: Nghóa tương ưng tự tánh, Sở phân biệt phi tha. Giải thích: Tất cả ngôn thuyết có ba thứ tương ưng, là niệm niệm luyện tập tương tục thứ tự. Ba tướng nầy không lìa nhau cho nên gọi là tương ưng. Lại nữa, ba pháp hoà hợp có thể làm đề mục cho nghóa cho nên gọi là tương ưng. Tương ưng nầy là nghóa tự tánh. Nghóa nầy tức là bị phân biệt. Nếu lìa nghóa nầy thì không có nghóa nào khác, cho nên tất cả pháp không thể nói năng. Làm sao biết lìa tánh nầy thì không có nghóa khác? Vì để thành lập nghóa nầy cho nên nói như sau. Luận nói: Vì chữ chữ tương tục, Do nghóa tương ưng thành. Giải thích: Chữ chữ tương tục tức là tương ưng thứ nhất. Do tương ưng nầy tức là hai tương ưng kia. Vì đủ ba tương ưng nầy cho nên được làm đề mục cho nghóa. Do tương ưng mà nói nghóa nầy được thành tựu. Ví như nhãn căn… trong ngôn từ tương tục thuyết, chúng sinh chấp lấy làm nghóa cho nên gọi là tương ưng. Nghóa nầy là bị phân biệt, cho nên bị phân biệt chỉ có ngôn thuyết, nghóa cũng chỉ có ngôn thuyết. Nếu tất cả pháp không thể ngôn thuyết, thì nghóa nầy làm sao thành? Luận nói: Trí tuệ lìa ngôn thuyết, Không khởi nơi sở tri. Giải thích: Nếu Người chưa hiểu rõ thì mới có nói, vì trí tuệ không sinh đối với cảnh được nói. Nếu ông cho rằng được nói trí sinh khởi trong ngôn thuyết, thì nghóa nầy không đúng. Tại sao vậy? Luận nói: Nơi lời nói bất đồng, Tất cả không thể nói. Giải thích: Nói năng đó không đồng những gì được nói, vì tướng mạo khác nhau. Ngôn và tướng khác nhau, chỗ nói và tướng khác nhau, cho nên tất cả nói và cái được nói cùng là không thể nói. Pháp nào là chỗ nhiếp trì của Vô phân biệt trí ? Luận nói: Chư Bồ-tát nhiếp trì, Là Vô phân biệt trí, Hậu đắc nầy hành trì, Vì sinh trưởng cứu cánh. Giải thích: Chỗ đắc hậu Vô phân biệt trí, trí đó có thể đắc hai hạnh phước tuệ của Bồ-tát, vì là y chỉ của hai hạnh, trí nầy được sinh trưởng tương tục cho đến cứu cánh. Vô phân biệt hậu trí có thể sinh trưởng chánh hạnh của Bồ-tát, Vô phân biệt hậu trí có thể nhiếp trì, là chỗ nhiếp trì của Bồ-tát. Pháp nào là loại bạn của Vô phân biệt trí? Luận nói: Loại bạn của Bồ-tát, Nói là hai thứ đạo, Là Vô phân biệt trí, Phẩm loại của năm độ. Giải thích: Loại bạn lấy tương trợ làm tướng. Tương trợ cùng chung nhau thành một việc cho nên gọi là tương trợ. Một việc là quả Bồ-đề. Hai thứ đạo là loại bạn của Bồ-tát, tức là đạo tư lương và đạo y chỉ. Thí… bốn Ba-la-mật tức là đạo tư lương, định Ba-la-mật là đạo y chỉ. Tại sao vậy? Vì từ chỗ sinh thiện pháp của bốn Ba-la-mật, thiện pháp nầy do Bát-nhã Ba-la-mật sinh Bát-nhã Ba-la-mật nầy y chỉ nơi định mà sinh, Bát-nhã Ba-la-mật tức là Vô phân biệt trí. Khi chưa đắc Vô thượng đề trong khoảng giữa đó thường hay sinh khởi Vô phân biệt trí, cho đến quả cuối cùng thì lìa, có năm độ hợp lại thành hai đạo. Có thể trợ cho độ thứ sáu, cùng chung thành một quả cuối cùng, gọi là loại bạn. Nếu Vô phân biệt trí nương hai đạo mà thành thì được quả báo gì? Luận nói: Quả báo của Bồ-tát, Nhị viên tụ của Phật, Là Vô phân biệt trí, Do gia hạnh chí đắc. Giải thích: Có cái chỉ có quả không có báo, có cái là quả cũng là báo. Nếu từ nhân sinh chung với dụng thì gọi là quả. Nếu từ nhân sinh riêng với dụng thì gọi là quả báo. Quả nghóa là sinh. Báo nghóa là thành thục. Hóa thân và Ứng thân gọi là hai khối viên mãn của Phật, vì quả báo của Vô phân biệt trí thành thục trong hai khối viên mãn của Phật. Nếu quả trong Vô phân biệt trí gia hạnh sinh khởi, thì quả nầy thuộc Hóa thân. Nếu quả trong Vô phân biệt trí chí đắc mà sinh, thì quả nầy thuộc Ứng thân. Làm sao biết được? Luận nói: Do gia hạnh chí đắc. Giải thích: Trước nói Vô phân biệt có ba thứ: 1.Gia hạnh. 2. Chánh thể. 3.Hậu đắc. Gia hạnh Vô phân biệt cũng tự có hai thứ: 1. Tại địa trước. 2.Tại Đăng địa trở lên. Nếu y chỉ hai xứ gia hạnh thì chỗ đắc quả là Hóa thân. Chánh thể Vô phân biệt, từ sơ địa cho đến Phật quả đều gọi là Chí đắc. Nếu nương vào chánh thể Vô phân biệt thì chỗ đắc quả báo là Ứng thân. Quả của quả báo như thế, quả đẳng lưu như thế nào ? Luận nói: Quả đẳng lưu Bồ-tát, Ở sau đó mà sinh, Là Vô phân biệt trí, Do triển chuyển tăng thắng. Giải thích: Quả hoặc là đẳng nhân hoặc là thắng nhân, thì quả nầy lấy đồng loại làm nhân, gọi đó là quả đẳng lưu. Quả đẳng lưu của Vô phân biệt trí trong hai tụ viên mãn, chuyển sơ địa thành địa thứ hai cho đến chuyển mười địa thành Phật, trong các vị sau đó thì chuyển tăng chuyển thắng. Như sơ địa làm đồng loại nhân của địa thứ hai, thì địa thứ hai là quả đẳng lưu của Sơ địa. Các địa đều như vậy, đối với lợi tha làm tăng, đối với tự lợi làm thắng. Lại nữa, ở địa vị hữu học thì tăng ở địa vị vô học vị thì làm thắng. Vô phân biệt trí xuất ly thì nghóa được thành tựu thế nào? Luận nói: Chư Bồ-tát xuất ly Vì đắc thành tương ưng, Là Vô phân biệt trí, Phải biết trong mười địa. Giải thích: Diệt hoặc nghiệp là xuất, diệt quả báo là ly, tức là hai thứ Niết-bàn Hữu dư và Vô dư. Xuất nghóa là ly, ly nghóa là xuất. Tại sao nói trùng như vậy? Do ly có ba nghóa cho nên đặt trùng tên. 1.Vónh viễn ly. 2.Thượng ly. 3.Quyết định ly. Vô phân biệt trí trong xuất ly cùng với hai nghóa tương ưng: 1. Cùng với đắc tương ưng. 2. Cùng với thành tựu tương ưng. Hai tương ưng nầy phải biết không ngoài mười địa. Sơ địa mới đắc Vô phân biệt trí gọi là đắc tương ưng. Từ sơ địa sau đó cho đến địa thứ mười, trong vô số kiếp tu Vô phân biệt trí cho đến rốt ráo, gọi là thành tựu tương ưng. Vô phân biệt trí nầy dựa vào hai đạo, trong ba A-tăng-kỳ kiếp tu học, lấy pháp gì làm cứu cánh? Luận nói: Chư Bồ-tát cứu cánh, Do đắc ba thân tịnh, Là Vô phân biệt trí, Vì chí thắng tự tại. Giải thích: Cứu cánh có hai thứ: 1.Cứu cánh thanh tịnh. 2.Cứu cánh tự tại. Cứu cánh thanh tịnh là sơ địa vừa mới đắc thanh tịnh, sau đó trong các địa chuyển chuyển thanh tịnh, cho đến địa thứ mười là cứu cánh thanh tịnh, ví như luyện kim, do thanh tịnh nầy mà chỗ đắc ba thân của Bồ-tát sau đó chuyển thanh tịnh. Cứu cánh tự tại, là không những đắc ba thứ thân cứu cánh thanh tịnh. Lại có cứu cánh riêng khác là mười thứ tự tại như nói sau. Mười thứ tự tại nầy sau đó chuyển thù thắng. Hai thứ pháp nầy sau cùng rất thù thắng. Chỗ đắc cứu cánh của Vô phân biệt trí gọi là quả Tăng Thượng. Công đức của Vô phân biệt trí như thế nào? Vô phân biệt có ba thứ: 1. Gia hạnh Vô phân biệt. 2. Căn bản Vô phân biệt. 3.Hậu đắc Vô phân biệt. Tại sao gia hạnh được tên Vô phân biệt? Trước hết Vô phân biệt trí từ người khác mà nghe là chân Bồ-tát. Bồ-tát từ khi chưa chứng chân lý đạo, thì chỉ khởi tâm tín ưa đối với trí nầy. Do y chỉ nơi tâm tín ưa nầy mà sau đó mới được nhập độ. Đây là lý của Vô phân biệt trí nầy. Vô phân biệt trí từ sự tin ưa nầy mà sinh khởi, nên nói tin ưa nầy làm gia hạnh Vô phân biệt, công đức của gia hạnh Vô phân biệt nầy là vô nhiễm. Ví dụ đó như thế nào? Luận nói: Vô nhiễm như hư không, Vô phân biệt trí nầy, Các thứ ác nghiệp nặng, Chỉ có tin ưa nầy. Giải thích: Vô phân biệt trí nầy thanh tịnh không nhiễm, ví như hư không không bị bốn trần làm nhiễm. Pháp nào không thể nhiễm được? Là các thứ ác nghiệp nặng từ thân, khẩu, ý mà sinh, có kiến đạo và tu đạo khác nhau. Có mười ác sai biệt cho nên gọi là các thứ. Phiền não cực nặng làm duyên khởi hằng tạo tác. Nếu khởi tâm vô hối và không có đối trị, thì có loại bạn cho nên gọi là nặng. Do ác nghiệp nầy không thể nhiễm ô, nếu người từ nghe chánh thuyết, thì đối với Vô phân biệt trí mà sinh khởi tin ưa. Do tin ưa nầy mà phá hoại bốn nghiệp ác. Tại sao vậy? Vì ác nghiệp nương vào phi lý mà khởi. Sự tin ưa thì từ lý mà sinh. Nương vào phi lý mà khởi cho nên hư vọng, từ đạo lý mà sinh cho nên thật. Hư vọng không thể đối với thật có, do đó bị phá hoại. Kệ nầy làm rõ gia hạnh Vô phân biệt trí, có thể đối trị bốn nghiệp ác đạo, do cùng với ác nghiệp không xen tạp nhau. Đây tức là công đức của gia hạnh. Công đức của căn bản vô phân biệt trí và thanh tịnh như thế nào? Luận nói: Thanh tịnh như hư không, Vô phân biệt trí nầy, Giải thoát tất cả chướng, Do đắc và thành tựu. Giải thích: Như hư không lìa mây mờ… bốn chướng, thế gian nói đó là thanh tịnh, Vô phân biệt trí thanh tịnh cũng vậy. Lìa pháp nào mà được thanh tịnh? Luận nói: Giải thoát tất cả chướng. Giải thích: Tất cả chướng là ba chướng bên ngoài, bên trong và tâm, hoặc là bốn chướng của công đức thuộc ngoại đạo Nhất-xiển-đề. Thanh-văn và Độc-giác, do giải thoát chướng như vậy cho nên thanh tịnh. Giải thoát nầy do nhân gì được thành? Luận nói: Do đắc và thành tựu. Giải thích: Do cùng với các địa cho đến đức tương ưng, do nhân thành tựu trong địa thứ mười, do quả thành tựu trong cõi Phật, cho nên được giải thoát tất cả chướng. Kệ nầy làm rõ căn bản Vô phân biệt trí, có thể đối trị tất cả chướng, trí nầy tức là công đức căn bản. Công đức của Vô phân biệt hậu đắc trí và vô nhiễm như thế nào? Luận nói: Như hư không vô nhiễm, Là Vô phân biệt trí, Nếu xuất hiện nơi đời, Thế pháp không thể nhiễm. Giải thích: Hư không, nước không thể thấm ướt, lửa không thể đốt cháy, gió không thể lay động, Vô phân biệt trí và vô nhiễm cũng vậy. Vô biến dị cho nên nói vô nhiễm. Tại sao vậy? Vì Bồ-tát nương vào trí nầy mà quán sát sự lợi ích của tất cả chúng sinh. Do sức mạnh của trí nầy mà Bồ-tát khởi tâm nhập ba cõi, hiện mọi thứ về đời sống quá khứ. Tuy sinh trong đời, nhưng không bị tám pháp của thế gian làm đổi khác. Tám pháp là: 1.Đắc. 2.Bất đắc. 3.Hảo danh. 4.Ố danh. 5.Tán. 6.Huỷ. 7. Lạc. 8.Khổ. Do tám pháp nầy mà khởi dục sân. Dục sân không thể biến đổi. Dục sân là căn bản vô minh không thể khiến cho Bồ tát lay động. Tại sao vậy? Vì hư vọng không thể đối với chân thật. Trí nầy từ Vô phân biệt trí sinh khởi cho nên gọi là Vô phân biệt. Kệ nầy vì làm rõ hậu đắc trí có thể thoát khỏi báo chướng. Đối với sinh tử và Niết-bàn là hai xứ không trụ, chỉ vì lợi tha. Trí nầy tức là công đức của hậu đắc trí. Ba thứ Vô phân biệt sai biệt nầy như thế nào? Vì hiển hiện sai biệt nầy khiến cho hiểu không tràn lan, do đó lập thí dụ. Luận nói: Như câm cầu thọ trần, Như câm đang thọ trần, Như không câm thọ trần, Ba trí dụ như vậy. Giải thích: Ví như người câm tìm cầu các trần mà không thể nói được trần, gia hạnh Vô phân biệt cũng vậy. Tầm tư chân như trong đạo phương tiện cũng không thể nói. Ví như người câm đang thọ các trần, tuy đã được trần mà không thể nói được trần. Căn bản Vô phân biệt cũng như thế, đang tại chân như quán, như những gì mình chứng thấy cũng không thể nói được. Ví như người không câm đang thọ các trần, cũng có thể nói được trần, hậu đắc trí cũng vậy. Như chỗ thấy đó có thể lập chánh giáo, vì người khác giải nói. Ban đầu chưa đắc nhưng hướng về đắc ly phân biệt, không có thuyết nhân duyên cho nên không thể nói. Kế đó chính là đắc ly phân biệt, không có thuyết nhân duyên cho nên không thể nói. Sau cùng là đã đắc do Xuất quán, như những gì mình đã thấy trước là có khả năng nói không điên đảo. Kệ nầy hiển hiện ba thứ vô ngôn thuyết và ngôn thuyết khác nhau cho nên có sai biệt. Luận nói: Như ngu cầu thọ trần, Như ngu đang thọ trần, Như chẳng ngu thọ trần, Ba trí dụ như vậy. Giải thích: Chưa hiểu biết vật loại thì gọi đó là ngu. Ngu thí dụ cho thứ tự, thí dụ ba nghóa như trước. Giải thích kệ nầy, hiển hiện vô phân biệt và phân biệt khác nhau cho nên có sai biệt. Vô ngôn thuyết lấy vô phân biệt làm nhân. Do vô phân biệt cho nên vô ngôn thuyết. Ngôn thuyết lấy phân biệt làm nhân. Do có phân biệt cho nên có ngôn thuyết. Ví dụ người ngu tức là làm rõ vô phân biệt. Ba thứ cảnh trí nầy, hư vọng và chân thật thế nào? Luận nói: Như năm thức thọ trần, Như năm thức cầu trần, Chẳng năm thức thọ trần, Ba trí dụ như vậy. Giải thích: Năm là đề mục của vô phân biệt. Nhãn… năm thức, ví dụ như người trong năm thức tìm cầu năm trần, hoặc duyên chân thật, hoặc duyên hư vọng. Ý thức và năm thức gián đoạn mà khởi. Gia hạnh vô phân biệt trí cũng như thế, hoặc chứng một phần làm chân thật, hoặc không chứng làm hư vọng. Ví như người đang trong năm thức, đắc cảnh chân thật vô phân biệt và vô ngôn thuyết. Căn bản vô phân biệt trí cũng vậy. Đắc chân thật cảnh vô phân biệt vô ngôn thuyết, ví như người đang trong ý thức, chỉ duyên chỗ thọ trần trước kia gọi là duyên hư cảnh phân biệt và ngôn thuyết. Vô phân biệt hậu trí cũng vậy, duyên hư cảnh phân biệt và ngôn thuyết. Kệ nầy hiển hiện ba thứ cảnh sở duyên, có chân thật, có hư vọng cho nên có sai biệt. Luận nói: Như chưa biết cầu biết, Như đọc đang thọ pháp, Như hiểu thọ nghóa pháp, Thứ tự dụ ba trí. Giải thích: Ví như người chưa biết văn của luận, chỉ cầu biết văn tự. Gia hạnh vô phân biệt trí cũng như thế, chưa biết chân như, chỉ học phương tiện để thấy chân như, đây là làm rõ sự chưa hiểu. Ví như người đã biết văn tự, nhưng chưa hiểu rõ nghóa của văn tự, đang đọc văn tự, chỉ có thể thọ pháp, chưa có khả năng nhận nghóa. Căn bản của vô phân biệt trí cũng vậy, công dụng tự lợi đã thành, công dụng lợi tha thì chưa có. Đây là làm rõ đã hiểu. Ví như người đã biết văn tự, cũng đã hiểu rõ nghóa, chính đang trong tư duy là người có đủ hai khả năng, là khả năng biết văn tự, cũng có khả năng hiểu rõ nghóa và lấy công dụng làm cứu cánh. Vô phân biệt hậu trí cũng như thế, đã thông đạt Chân như, cũng đã xuất quán, như điều thấy ở trước, giải nói không điên đảo, đây là làm rõ sự hiểu biết đã rốt ráo. Kệ nầy làm rõ công dụng học có khác nhau cho nên có sai biệt. Trước đã thuyết minh ba loại thứ tự, là chưa hiểu biết, đã hiểu biết và hiểu biết rốt ráo. Một loại trước là vô cảnh, hai loại sau là cảnh, là pháp và nghóa. Hai loại cảnh sau, tướng khác nhau thế nào? Luận nói: Như người đang nhắm mắt, Vô phân biệt cũng vậy, Như người đang mở mắt, Hậu đắc trí cũng vậy. Giải thích: Kệ nầy chỉ làm rõ căn bản trí và hậu đắc trí. Do y chỉ bất đồng cho nên có sai biệt. Căn bản trí thì y chỉ phi tâm và phi phi tâm. Hậu đắc trí thì y chỉ tâm. Hai trí đối với cảnh có khác nhau. Căn bản trí không nắm lấy cảnh, vì cảnh và trí không khác nhau. Hậu đắc trí thì nắm lấy cảnh, vì cảnh và trí có khác nhau. Căn bản trí không duyên cảnh như nhắm mắt. Hậu đắc trí duyên cảnh, như mở mắt. Kệ nầy làm rõ sự không nắm bắt cảnh và nắm bắt cảnh có khác nhau cho nên có sai biệt. Oai đức của hai trí nầy sai biệt như thế nào? Luận nói: Vô phân biệt như không, Vô nhiễm ngại, dị, biên, Như sắc hiện trong không, Hậu đắc trí cũng vậy. Giải thích: Ví dụ như hư không có bốn đức: 1.Vô nhiễm. 2.Vô ngại. 3. Vô phân biệt. 4. Vô biên. Căn bản trí cũng vậy, là chỗ không thể nhiễm của tất cả thế gian tám pháp và bảy lưu… Vì trí kia đối trị cho nên nói vô nhiễm. Đối với tất cả cảnh, đều như lý như lượng, vô chướng vô trước cho nên nói vô ngại. Đối với tất cả pháp thì có một vị chân như không biến khắp, cho nên nói vô phân biệt. Lìa tất cả các biên, trung đạo không thể lường, cho nên nói vô biên. Ví như sắc hiển hiện trong hư không. Hư không không thể phân biệt, sắc có thể phân biệt. Hậu đắc trí cũng vậy, nhân không thể phân biệt, nhưng trí nầy có thể phân biệt, nên gọi trí nầy là năng phân biệt, cũng là sở phân biệt. Nếu Phật quả làsự sáng tỏ bởi phân biệt trí lìa phân biệt chúng sinh, thì làm sao lợi ích chúng sinh được? Như lý không điên đảo, để làm rõ sự tạo tác của vô công dụng, cho nên nói thêm kệ. Luận nói: Ví Ma-ni, thiên cổ, Vô tư thành tự sự, Như vậy không phân biệt, Chủng chủng Phật sự thành. Giải thích: Ví như ngọc Như ý không có phân biệt, có khả năng ứng được sự mong cầu của chúng sinh, ví như trống trời (Thiên Cổ) không có người đánh, có thể tùy ý muốn của chúng sinh kia, mà phát ra bốn thứ âm thanh: 1. Oán lai. 2. Oán khứ. 3. Thọ dục. 4. Sinh chán. Chư Phật cũng vậy, tuy đã lìa phân biệt, nhưng có thể khởi mọi thứ lợi ích chúng sinh, sự lợi ích có hai thứ: 1. Hóa thân lợi ích, cũng như ngọc Như ý. 2.Thuyết pháp lợi ích, cũng như đánh trống trời. Nghóa thậm thâm của vô phân biệt trí nầy như thế nào? Căn cứ theo cảnh mà lập nghóathậm thâm. Trí nầy phải duyên theo Tánh y tha của sở phân biệt mà khởi hay là phải duyên cảnh khác mà khởi? Nếu như thế thì có hại gì? Nếu lấy tánh y tha của sở phân biệt làm cảnh, thì trí nầy nghóa vô phân biệt không thành. Nếu duyên cảnh khác mà khởi, thì lìa cảnh nầy là không có cảnh khác, nghóa duyên cảnh khác cũng không thành. Lại nữa, nếu duyên cảnh khác mà khởi, thì nghóa vô sai biệt của cảnh và trí không thành. Luận nói: Chẳng đây, chẳng phải đây Chẳng trí, chẳng phải trí, Với cảnh vô sai biệt, Trí là vô phân biệt. Giải thích: Trí nầy không duyên Y tha tánh làm cảnh. Tại sao vậy? Vì trí nầy không lấy phân biệt làm cảnh, cho nên nói chẳng phải đây. Cũng không duyên cảnh khác. Tại sao vậy? Vì trí nầy chỉ duyên pháp Như của Y tha tánh làm cảnh. Pháp và pháp Như không thể nói là một hay khác, vì chẳng phải cảnh thanh tịnh và cảnh thanh tịnh làm tướng chung và tướng riêng, không phải không duyên thức, cho nên nói chẳng chẳng phải đây. Lại nữa, trí nầy là trí hay không phải trí? Nếu như thế thì có hại gì? Nếu trí làm tánh tại sao không phân biệt? Vì trí là phân biệt tánh, nếu chẳng phải trí làm tánh thì tại sao gọi là trí? Vô phân biệt không phải trí tánh, tại sao nói là vô phân biệt trí? Luận nói: Chẳng trí, chẳng phải trí. Giải thích: Tại sao nói chẳng phải trí? Trong gia hạnh và hậu đắc trí không sinh cho nên nói chẳng phải trí. Nếu như thế tại sao không thành hoặc của chẳng phải trí? Nghóa nầy cũng không thành. Tại sao vậy? Hoặc của chẳng phải trí từ bất chánh tư duy mà sinh, có thể khởi đẳng lưu của dục, đây là từ vô phân biệt gia hạnh trí mà sinh, có thể sinh vô phân biệt hậu đắc trí, cho nên nói chẳng chẳng phải trí. Lại nữa, do trí nầy trong phân biệt không sinh, cho nên nói chẳng phải trí, do trí nầy không ở xứ khác sinh, chỉ trong phân biệt pháp Như mà sinh, cho nên nói chẳng chẳng phải trí. Câu trước của kệ nầy tức là câu sau. Luận nói: Với cảnh vô sai biệt, trí là vô phân biệt. Giải thích: Nếu trí do hai tướng năng thủ và sở thủ sinh khởi hữu phân biệt, thì như gia hạnh trí không gọi là vô phân biệt. Nếu trí cùng với sở thủ không khác, thì hoàn toàn bình đẳng mà khởi, gọi đó là vô phân biệt trí. Trong Kinh khác Phật nói: Tất cả pháp tự tánh vô phân biệt. Vì muốn làm rõ đạo lý nầy cho nên nói thêm kệ. Luận nói: Phật thuyết tất cả pháp, Tự tánh không phân biệt, Sở phân biệt không có, Kia vô vô phân biệt. Giải thích: Tất cả pháp tự tánh vốn kông phân biệt, nghóa nầy làm sao biết được? Để chứng nghóa nầy cho nên lập câu thứ ba, do có thể phân biệt loại thật không có nghóa. Đến pháp chân thật không phân biệt thì có, cho nên nói tất cả pháp tự tánh vô phân biệt. Nếu do sở phân biệt không có, thì tất cả pháp tự tánh vô phân biệt tại sao chúng sinh không được tự tánh giải thoát? Luận nói: Kia vô vô phân biệt. Giải thích: Do các pháp tự tánh vô phân biệt, nên trí như cảnh vô phân biệt. Nếu như thế tại sao không được tự tánh giải thoát? Nếu thật như thế thì các pháp tự tánh vô phân biệt. Trí như cảnh cũng tự tánh vô phân biệt, nhưng không được tự tánh giải thoát. Tu đắc trí thì có thể chứng pháp nầy. Do phi trí chướng cho nên trí không được khởi, chắc chắn phải tu trí diệt chướng mới được giải thoát. Không có nghóa tự tánh giải thoát trong tự tánh vô phân biệt. Nếu khởi phân biệt thì đây là chẳng phải trí, tức là vô minh, là hết thảy vô phân biệt trí trong pháp tự tánh vô phân biệt. Hiện tại sẽ nói sai biệt đó. Luận nói: Trong vô phân biệt nầy có ba loại: 1.Gia hạnh vô phân biệt trí. 2. Vô phân biệt trí. 3. Vô phân biệt hậu trí. Giải thích: Trong tự tánh vô phân biệt, nếu tổng nói có ba loại nầy, thì ba loại nầy tức là hiển đạo, phương tiện đạo và chánh sự đạo cứu cánh, là nhập phương tiện, trụ phương tiện và xuất phương tiện. Nếu căn cứ theo nhân, căn cứ theo người, căn cứ theo sự, nói riêng thì có mười một thứ. Luận nói: Gia hạnh vô phân biệt có ba thứ là nhân duyên, dẫn thông và sổ tập lực, sinh khởi sai biệt. Giải thích: Ba thứ nầy căn cứ theo nhân có sai biệt, gia hạnh vô phân biệt do ba lực làm thành, hoặc do nhân duyên lực, hoặc do dẫn thông lực, hoặc do sổ tập lực. Vì ba lực nầy thành cho nên sinh khởi có sai biệt. Nếu do nhân duyên lực làm thành tức là do tánh lực làm thành. Nếu do dẫn thông lực làm thành tức là túc sinh lực làm thành. Nếu do sổ tạp lực làm thành tức là do tác công lực hiện tại làm thành. Luận nói: Vô phân biệt trí cũng có ba thứ là: 1. Tri túc vô phân biệt sai biệt. 2.Vô điên đảo vô phân biệt sai biệt. 3.Vô hý luận vô phân biệt sai biệt. Giải thích: Ba thứ nầy căn cứ theo Người thì có sai biệt, tức là phàm phu, Nhị thừa và Bồ-tát. Tri túc vô phân biệt, phải biết là do đắc Văn tuệ và Tư tuệ rốt ráo. Do tri túc cho nên vô phân biệt, do đó nói tri túc vô phân biệt. Nếu phàm phu và Bồ-tát đạt đến cứu cánh sự của Văn tuệ và Tư tuệ, có chỗ nên đắc thì đều đã đắc, sinh tri túc tâm cho nên vô phân biệt. Lại nữa, thế gian chúng sinh có tri túc vô phân biệt. Do tri túc nầy, mà chúng sinh kia sinh lên hữu đảnh, trong đó cho là đã xuất ly rốt ráo, vượt khỏi đây không còn có hành xứ nào nữa, khởi tri túc tâm, không tấn tu thêm nữa cho nên vô phân biệt. Vô điên đảo vô phân biệt là Nhị thừa, họ đã thông đạt chân cảnh, vô thường… bốn tướng vô đảo. Do vô thường… bốn tướng vô điên đảo, vónh viễn không phân biệt lại nữa cho nên vô phân biệt. Vô hý luận vô phân biệt là chư Bồ-tát, họ không phân biệt tất cả pháp cho đến không phân biệt Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì Chư pháp vô ngôn thuyết. Trong vô ngôn thuyết mà cưỡng lập ngôn thuyết cho nên gọi là hý luận. Nói năng có bốn thứ là bốn thứ chê cười: 1.Nếu nói có tức là tăng thêm chê cười. 2.Nếu nói không tức là tổn bớt chê cười. 3.Nếu nói cũng có cũng không tức là chê cười lẫn nhau. 4. Nếu nói chẳng phải có chẳng phải không tức là hý luận chê cười. Bồ-tát đắc vô phân biệt trí, không thể dùng ngôn thuyết để làm rõ, gọi đó là vô hý luận vô phân biệt. Tại sao vậy? Vì vượt qua thế gian trí, cũng không phải điều mà trí thế gian biết. Luận nói: Vô phân biệt hậu trí có năm thứ: 1. Thông đạt làm rõ sai biệt. 2. Ức trì làm rõ sai biệt. 3. Thành lập làm rõ sai biệt. 4.Tương tạp làm rõ sai biệt. 5. Như ý làm rõ sai biệt. Giải thích: Năm thứ nầy căn cứ theo sự mà có sai biệt. Hậu đắc trí lấy Năng làm rõ làm tánh, làm rõ trong đây lấy giác liễu làm nghóa. Do trí nầy sau khi thông đạt mà làm rõ các sự như vậy, nói rằng Ta ở trong quán thấy biết các sự như vậy, cho nên gọi là thông đạt hiển thị. Do trí nầy sau khi xuất quán, như chỗ thông đạt mà nhớ chắc không lui mất, cho nên gọi là ức trì hiển thị. Do trí nầy như tự chỗ thông đạt mà có thể lập chánh giáo khiến cho người khác tu hành, cho nên gọi là thành lập hiển thị. Do trí nầy mà Bồ-tát như trước duyên tất cả pháp làm cảnh, là tạp cảnh giới như trước, trí quán sát cảnh nầy. Do quán sát nầy tức là chuyển y cho nên gọi là tương tạp hiển thị. Do trí nầy mà Bồ-tát đã đắc chuyển y, như đều tư duy mong muốn của Bồ-tát, đều như ý thành tựu, là đối với các đại của địa thuỷ… chuyển thành kim, mộc… Cho nên gọi là như ý hiển thị. Luận nói: Vì thành lập vô phân biệt trí, lại nói kệ riêng. Giải thích: Đã nói nghóa sai biệt của vô phân biệt trí, lại muốn thành lập thêm nghóa vô phân biệt, cho nên nói lại kệ. Luận nói: Ngạ quỷ, súc sinh, nhân, Các chư thiên như ứng, Một cảnh tâm khác nhau, Thừa nhận cảnh kia thành. Giải thích: Ví như một con sông, căn cứ theo bốn loại phân biệt của chúng sinh thì trở thành bốn cảnh. Ngạ quỷ thì cho là máu mủ, cá… súc sinh thì cho là trụ xứ, loài người thì cho là nước, chư thiên thì cho là đất. Tùy chỗ phân biệt mà mỗi mỗi đều thành một cảnh. Nếu cảnh là thật thì phải chướng ngại hại nhau, không nên cùng thời cùng xứ cùng thành bốn cảnh, phải biết đều là sự tạo tác của ý thức phân biệt. Nếu ông thừa nhận bốn thức cùng duyên, thức không lìa cảnh, thì ông cũng phải thừa nhận cùng thời cùng xứ cùng có bốn cảnh. Nếu thừa nhận cùng có bốn cảnh, thì phải tin rằng tất cả phân biệt đều không thật có. Nếu không có thật cảnh thì thức phải tự sinh, không phải duyên cảnh mà khởi. Nếu như thế thì chỉ có trong thức, bốn câu vấn nạn lại thành, bốn nghóa thì không thành. Vấn nạn nầy như luận kia giải thích. Có thức không có cảnh, điều nầy có lỗi gì? Vì làm rõ nghóa nầy cho nên nói thêm kệ. Luận nói: Nơi quá khứ, vị lai, Hai hình ảnh trong mộng, Trí duyên không có cảnh, Vô chuyển nầy làm cảnh. Giải thích: Sự của quá khứ và vị lai chỉ có danh mà không có thể. Nếu tâm duyên hai đời nầy thì chỉ có thức mà không có cảnh, đối tượng trong mộng cũng vậy. Hình ảnh có hai thứ: 1. Ảnh trong gương. 2.Ảnh trong định. Chỗ khởi các tướng xanh vàng… trong định tâm, nếu lìa tâm thì không có các sắc tướng nầy, cho nên gọi là ảnh. Nếu tâm duyên hai ảnh thì cũng chỉ có thức mà không có cảnh. Nếu không có bốn cảnh nầy thì thức duyên chỗ nào? Luận nói: Vô chuyển nầy làm cảnh. Giải thích: Ngoại trần xưa nay vốn không có, là thức biến dị, làm ra vì thức duyên ngoại trần nầy làm cảnh, cho nên nói vô chuyển làm cảnh. Nghóa nầy đã lập, không đáng nghi ngờ thêm. Tại sao vậy? Nếu bác không có lý nầy, thì không thành nghóa của Phật vì đã làm rõ nghóa nầy. Do đó nói lại kệ. Luận nói: Nếu trần thành làm cảnh, Không vô phân biệt trí. Giải thích: Nếu trần có thể mà làm nghóa của cảnh được thành thì không có vô phân biệt trí. Tại sao vậy? Vì sở phân biệt cảnh nếu thật có thì Năng phân biệt không trở thành điên đảo, mà vô phân biệt trở thành điên đảo. Nếu như thế thì tất cả phàm phu đều lìa điên đảo, tất cả Thánh nhân đều thành điên đảo, điều nầy có lỗi gì? Luận nói: Nếu không có trí nầy, Thì không có Phật quả, Nếu phải đắc Phật quả, Thì không có việc đó. Giải thích: Vô phân biệt trí là chánh đạo. Nếu nói không có trí nầy mà bảo phải đắc Phật quả là không có việc như vậy. Chấp nầy trái với A-hàm và đạo lý, cho nên phải biết các trần là không có thật thể, có thể phân biệt. Vì không có thật thể, không có thể phân biệt, phân biệt cũng không, cho nên vô phân biệt trí như lý không điên đảo. Lại nữa, có đạo lý khác, làm chứng các trần là không có thật thể, có thể phân biệt. Luận nói: Bồ-tát đắc tự tại, Do lực của nguyện lạc, Thành tựu địa Như ý, Người đắc định cũng vậy. Giải thích: Bồ-tát đối với định đã đắc tự tại nhập trụ xuất, đối với thông tuệ đã đắc tự tại sự thông đạt chế phục đổi khác. Đối với các địa đã đắc mười tự tại, thì Bồ-tát trước hết phát nguyện làm sự lợi ích của chúng sinh. Đắc vô phân biệt trí sau khi xuất quán, tùy ý của Bồ-tát, muốn có làm việc gì thì tất cả đều thành. Hoặc do nguyện hiện tại, hoặc do bản nguyện, lấy nguyện làm nhân, lấy vui làm quả. Trước hết phát nguyện làm sự lợi ích chúng sinh, sau đó tùy chỗ thích muốn của tâm, đều thành, là chuyển biến địa. Nếu Bồ-tát hành nông cạn muốn làm sự lợi ích chúng sinh, thì hiện tại phát nguyện trước hết, phát nguyện xong thì liền nhập chân quán. Sau khi xuất quán thì tùy chỗ thích muốn mới được toại ý. Nếu Bồ-tát hành thâm sâu muốn làm sự lợi ích chúng sinh thì hiện tại không cần phát nguyện, và nhập quán và xuất quán, chỉ do bản nguyện lực, tùy chỗ muốn làm thì tất cả đều thành. Nếu Thanh- văn… đắc chín định tự tại, do các định tự tại nầy mà đắc lục thông tự tại, trong một vật tùylực nguyện lạc, mỗi thứ đều biến khác thành vô lượng thứ, nếu các trần thật có tự tánh thì sự nầy không được thành, ví như nhị không là chỗ không thể biến dị của tất cả tự tại. Tại sao vậy? Vì chân thật. Kệ nầy căn cứ theo ngoại cảnh để hiển hiện các trần không có tự tánh. Trong nội cảnh không có tự tánh, nghóa nầy thế nào? Luận nói: Thành tựu, giản trạch nhân, Hữu trí, đắc định nhân, Bên trong nghó các pháp, Vì hiển hiện như nghóa. Giải thích: Giản trạch tức là Tỳ-bà-xá-na, đắc ba căn vô lưu gọi là thành tựu. Từ Tu-đà-hoàn hướng cho đến A-la-hán quả, gọi là người thành tựu giản trạch. Người có trí là Bồ-tát, muốn làm rõ rằng không lấy văn, tư vị làm người có trí, chỉ lấy tu vị làm người trí, cho nên nói đắc định. Thanh-văn và Bồ-tát khi bên trong suy nghó tất cả pháp, như vậy hai người tư duy pháp của mười hai bộ Kinh, chỗ làm rõ nghóa như vậy như vậy, nghóa đó đối với hai người nầy được hiển hiện. Nếu họ tư duy về nghóa lý của Phật thì nghóa lý của Phật trong mọi thứ pháp đó hiển hiện. Như nghóa lý của Phật hiển hiện, thì sắc… năm ấm và vô thường… Mười tưởng cũng hiển hiện như vậy. Kệ nầy căn cứ theo nội cảnh làm rõ các trần không có tự tánh. Làm sao biết ngoại cảnh và nội cảnh không có tự tánh? Luận nói: Khi vô phân biệt tu, Các nghóa không hiển hiện, Phải biết không có trần, Do đây không có thức. Giải thích: Nếu Bồ-tát trong vô phân biệt mà khởi quán, thì tất cả nghóa hoặc nội hoặc ngoại hoặc nội ngoại đều không hiển hiện lại, cho nên phải biết các trần thật ra đều không có. Nếu không có ngoại trần thì không có nội thức. Tại sao vậy? Vì sở thức đã không có thì năng thức làm sao có được? Nghóa nầy đúng như vậy. Sở thức chẳng có cho nên năng thức cũng chẳng có. Phải biết trong tướng thù thắng đã làm rõ đủ nghóa nầy. Trí nầy cùng với Bát-nhã Ba-la-mật là một hay là khác? Luận nói: Vô phân biệt trí nầy tức là Bát-nhã Ba-la-mật, tên khác nhưng nghóa đồng. Giải thích: Không vì tên bất đồng mà là khác, vì nghóa đồng mà là một, vì một cho nên nói “tức là”. Nếu tên khác với nghóa thì như thế nào là đồng? Như Lai lập pháp căn cứ theo nghóa của tự tánh nhiếp các pháp làm đồng, không lấy danh nhiếp mà làm đồng. Tại sao vậy? Vì danh thì đối với các nơi không đồng, danh là giả lập, làm đề mục cho nghóa, cho nên tùy theo phương sở mà bất đồng. Nghóa thì có tính quyết định cho nên nghóa thì đồng. Hạnh nương vào nghóa mà thành, không nương vào danh mà thành. Làm sao biết nghóa là đồng? Luận nói: Như Kinh nói: Nếu Bồ-tát trụ Bát-nhã Ba-la-mật, do phi xứ tu hành mà có thể viên mãn chỗ tu tập Ba-la-mật. Giải thích: Muốn thành tựu vô phân biệt trí không khác với Bát- nhã Ba-la-mật, cho nên dẫn Kinh Bát-nhã Ba-la-mật làm chứng. Bồ- tát tu Bát-nhã Ba-la-mật không thoái chuyển cho nên gọi là trụ. Lại nữa, Bồ-tát muốn tu các Ba-la-mật khác thì trước hết phải tu Bát-nhã Ba-la-mật làm phương tiện, thì các Ba-la-mật khác trụ trong Bát-nhã Ba-la-mật nầy mà thành tựu, cho nên nói trụ. Bồ-tát trụ trong Bát-nhã Ba-la-mật, lìa năm xứ tu hành các Ba-la-mật khác, trong mỗi mỗi Ba- la-mật trải qua bao nhiêu thời gian tu tập khiến cho được thành tựu cho nên gọi là viên mãn. Luận nói: Thế nào là phi xứ tu hành có thể viên mãn chỗ tu tập các Ba-la-mật khác? Là lìa năm xứ: 1. Lìa ngã chấp xứ của ngoại đạo. Giải thích: Như ngoại đạo trụ Bát-nhã kia mà khởi ngã chấp, cho rằng: Ta nay trụ Bát-nhã. Như vậy Bát-nhã liền thành ngã sở, Chư Bồ- tát trụ Bát-nhã thì không như vậy, cho nên nói lìa ngã kiến chấp xứ, vì không xứng với xứ đó. Luận nói: 2. Lìa phân biệt xứ của Bồ-tát chưa thấy chân như. Giải thích: Như Bồ-tát địa trước chưa thấy chân như, lấy phân biệt và vô phân biệt làm Bát-nhã Ba-la-mật cho rằng đây là Bát-nhã Ba-la-mật. Nếu Bồ-tát đã thấy chân như, thì trong Bát-nhã Ba-la-mật không có phân biệt nầy, cho nên nói lìa phân biệt xứ, vì không xứng với xứ đó. Luận nói: 3. Lìa nhị biên xứ của sinh tử và Niết-bàn. Giải thích: Như phàm phu chúng sinh thì trụ cõi sinh tử, người Thanh-văn thì trụ cõi Niết-bàn, Bồ-tát thì trụ cõi Bát-nhã Ba-la-mật, lìa hai cõi kia, cho nên nói lìa nhị biên xứ, vì không xứng với xứ đó. Luận nói: 4. Lìa tri túc hành xứ chỉ diệt hoặc chướng. Giải thích: Như đối với xứ diệt hoặc chướng Thanh-văn sinh tri túc, đối với các xứ khác không khởi thích muốn trở lại, là xứ diệt của trí chướng, Bồ-tát thì không như vậy, vì diệt trí chướng mà tu học Bát-nhã Ba-la-mật, cho nên nói lìa tri túc hành xứ, vì không xứng với xứ đó. Luận nói: 5.Lìa trụ Vô dư Niết-bàn xứ không quán sự lợi ích chúng sinh. Giải thích: Như Độc giác không quán sự lợi ích của chúng sinh mà trụ Vô dư Niết-bàn, Bồ-tát thì không như vậy, trụ Bát-nhã Ba-la-mật, không bỏ sự lợi ích của chúng sinh, Bát Niết-bàn cũng Hữu Dư cũng Vô Dư, đối với pháp thân là Vô Dư, đối với ức thân và Hóa thân là Hữu Dư, cho nên nói lìa trụ Vô dư Niết-bàn xứ, vì không xứng với xứ đó. Vô phân biệt trí có năm thứ sai biệt, khác với sự lìa năm xứ nói trên: 1.Vô Đảo sai biệt. Đây là vô điên đảo kia thì hữu điên đảo. 2.Vô phân biệt sai biệt, đây thì vô phân biệt kia thì có phân biệt. 3.Vô trụ xứ sai biệt, đây thì vô trụ xứ kia thì hữu trụ xứ. 4.Chánh hạnh sai biệt, đây thì chánh hạnh có thể diệt hai chướng hoặc trí, kia thì chánh hạnh chỉ có thể diệt hoặc chướng. 5.Chí đắc sai biệt, đây thì đắc ba thân thường trụ làm quả, kia thì đắc vónh đoạn Niết-bàn làm quả. Luận nói: Trí tuệ của Thanh-văn cùng với trí tuệ của Bồ-tát sai biệt như thế nào? Giải thích: Đã nói vô phân biệt trí cùng với Bát-nhã Ba-la-mật là một. Hiện tại muốn làm rõ thêm vô phân biệt trí Bát-nhã Ba-la-mật cùng với Nhị thừa trí có sai biệt. Luận nói: Phải biết do vô phân biệt sai biệt. Giải thích: Thanh-văn thì hữu phân biệt, Bồ-tát thì vô phân biệt, phải biết do nghóa nầy cho nên có sai biệt. Luận nói: Không phân riêng các pháp môn của ấm… Giải thích: Thanh-văn do trí tuệ nắm lấy các pháp môn của ấm… làm cảnh, có tướng phân biệt khởi Bồ-tát thì không phân riêng các pháp môn của ấm, vô phân biệt tướng khởi cho nên có sai biệt. Luận nói: Do không phải một phần sai biệt, thông đạt Nhị Không chân như, nhập tất cả tướng sở tri, y chỉ tất cả sự lợi ích của chúng sinh. Giải thích: Phần có hai thứ: 1. Sở tri phần. 2. Lợi ích chúng sinh phần. Trong sở tri phần lại có hai thứ: 1. Nhân không. 2. Pháp không. Trong lợi ích chúng sinh phần cũng có hai thứ: 1. Tự thân. 2. Tha thân. Thanh-văn trong sở tri phần chỉ thông đạt nhân không, chỉ đối với khổ… bốn đế mà sinh trí vô lưu. Trong lợi ích chúng sinh phần thì chỉ nương vào sự lợi ích của tự thân mà phát nguyện tu hành. Trong hai phần nầy, mỗi mỗi đều có một phần. Bồ-tát trong sở tri phần, thông đạt đủ cả hai hai thứ không là nhân và pháp. Đối với tất cả chỗ sinh như lý như lượng trí. Trong lợi ích chúng sinh phần thì nương vào sự lợi ích của tất cả chúng sinh, là tự thân và tha thân mà phát nguyện tu hành. Trong hai phần mỗi mỗi đều có đủ hai phần, hai phần khác với một phần cho nên nói “không phải một phần sai biệt. Luận nói: Do vô trụ sai biệt mà trụ vô trụ xứ Niết-bàn. Giải thích: Thanh-văn trụ thì dính mắc Niết-bàn, như phàm phu trụ thì dính mắc sinh tử, Bồ-tát trụ thì không phải như vậy, thấy sinh tử và Niết-bàn đều là do phân biệt sanh ra. Do đồng vô tướng vô tánh cho nên không trụ hai xứ đó. Luận nói: Do hằng sai biệt đối với Vô dư Niết-bàn không đọa đoạn tận rốt ráo. Giải thích: Hai người đối với Vô dư Niết-bàn có sai biệt, trí tuệ có sai biệt. Nhị thừa đối với Vô dư Niết-bàn không có Ứng thân và Hóa thân, vì không quán sát sự lợi ích của người khác, không có Ứng thân cho nên rơi vào đoạn, không có Hóa thân cho nên rơi vào tận. Bồ-tát đối với Vô dư Niết-bàn hằng khởi hai thân, không có biên tế, huống chi là pháp thân vì tự lợi và lợi tha viên mãn! Có Ứng thân cho nên không rơi vào đoạn, có Hóa thân cho nên không rơi vào tận. Luận nói: Do Vô thượng sai biệt, thật ra không có thừa khác hơn thừa này. Giải thích: Thanh-văn thừa và Độc giác thừa có cái trên nó nên không bằng Đại thừa, cho nên Bồ-tát thừa là vô thượng, (không có cái gì trên nó) không có thừa nào khác thù thắng hơn Đại thừa. Thừa lấy trí làm thể, trong Đại thừa thì trí là thượng thủ. Do năm nghóa nầy cho nên trí của Nhị thừa và trí của Bồ-tát có sai biệt. Luận nói: Trong đây nói kệ. Giải thích: Để nhiếp năm nghóa trước và làm rõ công đức của năm nghóa, cho nên trùng thuyết kệ. Luận nói: Do trí năm thắng khác, Nương đại bi tu phước. Giải thích: Trí tuệ của các Bồ-tát do năm thứ sai biệt cho nên hơn Nhị thừa, không những đối với trí tuệ tối thắng biết đủ (tri túc), lại còn nương trí tuệ tu phước đức. Phước đức tức là năm độ còn lại. Câu nầy làm rõ tự lợi khác hơn (thắng dị) Nhị thừa. Lại có nghóa khác hơn, là vì lợi tha mà nương vào đại bi tu phước tuệ. Phước tuệ tức là năm độ còn lại. Nếu người có đủ hai khả năng nầy thì đắc quả báo gì? Luận nói: Thế xuất thế giàu vui, Quả nầy không phải xa. Giải thích: Làm Chuyển luân vương ở cõi Dục trở lên năm Thiên vương Sắc giới, Phạm vương, cho đến Vô sắc giới định và chỗ riêng đắc thế gian định của Bồ-tát, gọi là thế gian giàu vui. Giải thoát của Nhị thừa và Vô thượng Bồ-đề gọi là xuất thế gian giàu vui. Như vậy quả dễ đắc như ý cho nên không phải xa. Các Bồ-tát đã đạt đến tự tại vô song, hằng hành từ bi đối với chúng sinh bần khổ của thế gian. Do ý nầy không Bồ-tát thí tài vật. Dụng của ý nầy như thế nào? Luận nói: Nếu Bồ-tát đối với thế gian thật hữu cũng lại có thể biết. Giải thích: Đây là làm rõ Bồ-tát có thể và có nhân. Vì có thể cho nên nói thật hữu, vì có nhân cho nên nói có thể biết. Luận nói: Như vậy nếu Bồ-tát nương vào công đức tương ưng của giới học, định học, và tuệ học, đến mười thứ tự tại, đối với tất cả sự lợi tha thì đắc năng thắng vô song. Giải thích: Ba thứ học nhiếp mười độ và tất cả công đức của thế gian cho nên gọi là khối tụ công đức. Nếu Bồ-tát chưa đắc hoặc đắc và đã đắc không mất, thì gọi là tương ưng, tức là nhân viên mãn, đến mười tự tại tức là quả viên mãn. Lợi ích tha sự, hoặc có hai thứ, hoặc có bốn thứ. Hai thứ thì trước là suy tư và sau là hành động. Lại có hai thứ tức là hai thứ vô úy sau. Hoặc có bốn thứ như trước đã nói. Đắc thắng năng vô đẳng như vậy tức là ân đức viên mãn. Trong ba đức nầy, hai đức nhân quả làm rõ tự lợi. Ân đức thì làm rõ lợi tha. Đã nói ba thứ học xong. Vì muốn làm rõ ba đức viên mãn của Bồ-tát cho nên thuyết minh nghóa nầy. gian? Luận nói: Tại sao thấy có chúng sinh gặp khổ nặng trong thế Giải thích: Đây là thành lập vấn nạn tiếp theo. Nếu Bồ-tát có ba đức như vậy đều vì cứu vớt tất cả chúng sinh thì tại sao chúng sinh gặp khổ nạn trong thế gian? Nếu thấy khổ mà không cứu thì không có năng lực. Nếu không có cao vượt thì cũng không có Bồ-tát. Khổ nạn có hai thứ, là nội và ngoại. Nội ngoại hai thứ khổ nầy có nhẹ và nặng. Nếu có thể đối trị được là nhẹ, nếu không thể đối trị được là nặng. Luận nói: Do Bồ-tát thấy chúng sinh kia có nghiệp, có thể chiêu cảm khổ báo chướng hoặc quả an vui thù thắng. Giải thích: Bồ-tát thấy có chúng sinh có nghiệp chướng, cản ngại năng lực cao vượt của Bồ-tát có thể chiêu cảm khổ báo. Đối với chúng sinh kia Bồ-tát có nghiệp trí nầy, tuy ôm giữ khả năng thù thắng nhưng bỏ mà không dùng. Đây là nghiệp lực của Bồ-tát. Ví như dòng sông có tám thứ công đức trong nước, tùychúng sinh uống mà không có người nào ngăn giữ. Ngạ quỷ do nghiệp chướng cho nên không thể được uống. Bồ-tát ví như dòng sông, tài vật ví như nước, chúng sinh có nghiệp chướng cũng như ngạ quỷ do nghiệp chướng mà không thể được thọ dụng tài vật của Bồ-tát. Luận nói: Do Bồ-tát thấy như vậy, nếu thí cho kia dụng cụ vui thích thì chướng ngại sinh thiện. Giải thích: Bồ-tát thấy có chúng sinh không có nghiệp chướng, nếu bần cùng thì có thể sinh trưởng thiện pháp, nếu phú lạc thì phóng dật tạo tội. Bồ-tát nguyện chúng sinh kia đối với đời hiện tại thọ khổ bần cùng, tùy thuận thành tựu sinh khởi thiện pháp, cho nên Bồ-tát không thí cho chúng sinh đó khí cụ an vui. Đây là xứ lực và phi xứ lực của Bồ-tát. Luận nói: Do Bồ-tát thấy chúng sinh kia không có sự an vui mà có thể hiện tiền chán ghét sinh tử. Giải thích: Bồ-tát thấy có chúng sinh do bần cùng khổ, hằng hiện diện tâm chán ghét sinh tử, Bồ-tát nguyện chúng sinh kia không có sự an vui, thành tựu tâm chán ghét tùy thuận thiện hạnh, không thí cho sự an vui. Đây là căn lực, dục lực và tánh lực của Bồ-tát. Luận nói: Do Bồ-tát thấy, nếu thí cho chúng sinh kia sự an vui, thì đó là nhân duyên sinh trưởng của ác pháp. Giải thích: Bồ-tát thấy có chúng sinh cho đến hằng chịu báo bần cùng, trong lúc đó không tăng trưởng ác pháp, thì Bồ-tát muốn rằng họ hằng chịu bần cùng báo, không mong họ trong một sát-na được giàu vui báo mà tạo tác các nhân duyên ác pháp, là tự thương mình ghét người, hai nhân duyên nầy có thể sinh trưởng ác pháp, Bồ-tát nếu cho chúng sinh kia tài vật thì thành tựu ưa ghét của chúng sinh kia, cho nên Bồ-tát không thí cho chúng sinh đó tài vật an vui. Đây là trí lực hành đạo biến khắp của Bồ-tát. Luận nói: Do Bồ-tát thấy, nếu thí cho chúng sinh kia sự an vui, thì đó là nhân duyên bức hại vô lượng chúng sinh khác. Giải thích: Bồ-tát thấy có chúng sinh, nếu được an vui giàu có lớn mà không những chỉ tự tổn hại mình mà còn tổn não vô lượng chúng sinh khác, Bồ-tát mong chúng sinh đó thọ bần cùng khổ, không mong chúng sinh đó do an vui giàu có lớn mà tổn não thân tâm và lấy thiện căn của chúng sinh khác, cho nên Bồ-tát không thí cho chúng sinh đó sự yêu thích. Đây là trí lực hành đạo biến khắp của Bồ-tát. Luận nói: Do đó Bồ-tát không phải không có khả năng thù thắng như vậy, thế gian cũng có chúng sinh hiển hiện như vậy. Giải thích: Khả năng cao vượt nầy có ba thứ, tức là ba đức: 1. Năng đắc nhân: Là ba thứ học xứ. 2. Năng đắc quả là mười thứ tự tại. Năng lợi tha, là biết rõ căn dục tánh của chúng sinh. Nếu thấy thí có lợi ích thì thí. Nếu thấy không thí có lợi ích thì không thí. Bồ-tát lấy lợi ích làm định, không lấy thí và không thí làm định. Do thí không có lợi ích cho nên thế gian có chúng sinh thọ khổ. Luận nói: Trong đây nói kệ. Giải thích: Để nhiếp năm nghóa trước cho nên trùng thuyết kệ. Luận nói: Thấy nghiệp chướng ngại thiện Chán hiện và và ghét thêm, Làm hại chúng sinh kia, Không cảm Bồ-tát thí. Giải thích: Có chúng sinh có nghiệp chướng, không cảm bố thí của Bồ-tát. Có chúng sinh có sự yêu thích thì chướng ngại thiện. Có chúng sinh do bần cùng, tâm chán ghét sinh tử hằng hiện diện. Có chúng sinh có sự yêu thích thì sinh trưởng ác pháp. Có chúng sinh do được an vui giàu có lớn có thể bức hại người khác. Bồ-tát thấy các sự như vậy, muốn khiến cho lìa sự tổn hại mình và người, nên không thí cho những chúng sinh đó sự yêu thích, cho nên chúng sinh đó không cảm được bố thí của Bồ-tát.  <卷>QUYỂN 13 THẮNG TƯỚNG THỨ CHÍN GIẢI THÍCH HỌC QUẢ TƯỚNG THÙ THẮNG Luận nói: Như vậy đã nói nương vào tuệ học sai biệt, tại sao phải biết sự sai biệt của tịch diệt? Giải thích: Bồ-tát đạo và Nhị thừa đạo đã có sai biệt. Do đạo mà được diệt. Diệt của Bồ-tát cùng với diệt của Nhị thừa cũng phải có sai biệt. Làm sao biết được? Luận nói: Các Bồ-tát diệt mê lầm (hoặc) tức là vô trụ xứ Niết- bàn? Giải thích: Nhị thừa và Bồ-tát đồng lấy hoặc diệt làm Diệt đế. Hoặc diệt của Nhị thừa hoàn toàn nghịch với sinh tử hướng tới Niết-bàn, hoặc diệt của Bồ-tát thì không nghịch sinh tử không nghịch Niết-bàn, cho nên khác với Nhị thừa. Diệt nầy của Bồ-tát trong bốn Niết-bàn là vô trụ xứ: 1.Bản Lai thanh tịnh Niết-bàn. 2.Vô trụ xứ Niết-bàn. 3.Hữu dư Niết-bàn. 4. Vô dư Niết-bàn. Bồ-tát không thấy sinh tử và Niết-bàn khác nhau, vì Bát-nhã không trụ sinh tử, do từ bi không trụ Niết-bàn. Nếu phân biệt sinh tử thì trụ sinh tử, nếu phân biệt Niết-bàn thì trụ Niết-bàn. Bồ-tát đắc vô phân biệt trí là không có chỗ phân biệt cho nên không có chỗ trụ. Luận nói: Tướng nầy thế nào? Giải thích: Vô trụ xứ Niết-bàn lấy pháp gì làm tướng? Luận nói: Xả ly hoặc và không xả ly sinh tử, hai chỗ y chỉ, chuyển y làm tướng. Giải thích: Nếu Bồ-tát tại Chuyển y vị, không cùng với các hoặc duyên khởi xứ cho nên gọi là xả ly. Hoặc tại xuất quán vị khởi phân biệt thì gọi là không xả ly sinh tử. Nếu quán thiên lệch trước và sau để thuyết minh hai nghóa nầy, thì cũng được đồng thời có đủ hai nghóa. Nếu quán song song hai nghóa thì tại đồng thời hai nghóa nầy đều lấy tánh y tha làm y chỉ. Vô trụ xứ Niết-bàn lấy chuyển y làm tướng, tức là chuyển hai nhiễm trước. Phàm phu thì dính mắc sinh tử, Nhị thừa thì dính mắc Niết-bàn, Bồ-tát thì đắc vô phân biệt trí, nên thấy sinh tử và Niết-bàn không có sai biệt. Tuy diệt hoặc nhưng không trụ Niết-bàn, tuy khởi phân biệt nhưng không trụ sinh tử, cho nên Niết-bàn nầy lấy chuyển y làm tướng. Chuyển y nầy tức là y chỉ tánh Y tha. Luận nói: Trong đây sinh tử là tánh Y tha, một phần phẩm bất tịnh làm thể, Niết-bàn là tánh Y tha, một phần tịnh phẩm làm thể. Giải thích: Đây là giải thích nghóa của hai chỗ y chỉ. Bản thức gọi là tánh Y tha, bản thức nếu khởi phân biệt thì tức là phẩm Bất tịnh, nên nói một phần nầy làm thể của sinh tử. Như tánh Y tha phân biệt, tánh nầy không có như vậy. Phân biệt không có hết thảy nầy, tức là phẩm tịnh, nương vào một phần nầy làm thể của Niết-bàn. Luận nói: Bản y, là đủ hai phần tánh y tha của tịnh phẩm và bất tịnh phẩm. Giải thích: Tánh phân biệt là sinh tử, tánh chân thật là Niết-bàn, từ xưa đến nay hai phẩm nầy lấy tánh y tha làm y chỉ, tức là nói tánh y tha làm bản Y. Luận nói: Chuyển y, là đối trị khi khởi. Tánh y tha nầy do Phẩm Bất tịnh Phần vónh viễn sửa đổi bản tánh. Do phần phẩm Tịnh vónh viễn thành bản tánh. Giải thích: Chuyển y cũng thuộc tánh Y tha. Đạo ba thừa là đối trị đạo của tánh y tha khi chưa khởi. Như kiến đế… hoặc có thể khởi báo của các nghiệp hoặc trong ác đạo, gọi là phẩm Bất tịnh. Sau khi đạo đã khởi thì phẩm Bất tịnh như vậy diệt mất không sinh lại nữa, cho nên nói vinh viễn sửa đổi bản tánh. Đạo và đạo quả của tánh y tha nầy gọi là phẩm Tịnh. Đạo tức là giới định tuệ. Đạo quả thì có hai thứ là hữu vi và vô vi. Hữu vi tức là giải thoát và giải thoát tri kiến, vô vi là diệt gốc mê lầm và vị lai hoặc không sinh. Khi đạo chưa khởi thì phẩm Tịnh giới định tuệ chưa thành lập, chỉ có bản tánh thanh tịnh. Do đạo khởi cho nên cùng với năm phần pháp thân và vô cấu thanh tịnh tương ưng. Tương ưng như vậy cho đến đắc Phật quả không có đổi khác cho nên nói vónh viễn thành bản tánh. Luận nói: Chuyển y nầy nếu lược nói thì có sáu thứ chuyển. Giải thích: Nếu căn cứ theo đạo ba thừa và đạo quả, nói rộng thì có nhiều nghóa Chuyển y. Hiện tại lược nói cho nên chỉ có sáu thứ. Luận nói: 1. Ích lực, tổn năng chuyển là do tùylãnh vị tin ưa mà trụ vào lực huân tập của việc nghe. Giải thích: Do ba thừa Thánh đạo khởi trong A-lê-da thức nên công năng huân tập nghe liền tăng, gọi là ích lực. Trong A-lê-da thức chỗ có các hoặc huân tập, do đối trị khởi cho nên không có trở lại bản dụng nữa, gọi là tổn năng. Hai sự nầy do ngôi nào nhân nào mà được thành? Nếu người trụ trong lãnh vị nguyện ưa, nghe Như Lai nói chánh giáo sâu xa, thì liền trong đó khởi ba đức tin, nguyện ưa thích tu hành, tùy thuận không trái nghịch. Tổn và ích nầy lấy sự huân tập nghe làm nhân, Văn tuệ và Tư tuệ làm thể của sự huân tập nghe. Do hai thứ tuệ nầy mà sinh tu tuệ. Tu tuệ là lực của sự huân tập nghe. Nếu không có tu tuệ thì bản y không được chuyển. Do lực nầy cho nên nghóa của tổ và ích được thành. Nếu người đã đắc Chuyển y như vậy thì phiền não đối với người nầy như thế nào? Luận nói: Do phiền não có xấu hổ hiện hành hổ thẹn, hiện hành yếu hoặc vónh viễn không hiện hành. Giải thích: Nếu người đã đắc Chuyển y nầy, phiền não nếu khởi thì liền sinh hổ thẹn. Khởi cũng không lâu rồi yếu ớt trở lại, hoặc vónh viễn không khởi. Tại sao vậy? Vì có thể hổ thẹn tự thân, thấy các tội lỗi sâu xa. Luận nói: 2.Thông đạt chuyển, là các Bồ-tát tại Đăng địa, do chân thật và hư vọng hiển hiện làm khả năng. Giải thích: Đắc vô phân biệt trí và chứng chân như cho nên gọi là thông đạt. Do thông đạt nầy có riêng chuyển khác đối với địa trước. Nếu đã Đăng địa, có khi nhập quán, thì thông đạt nầy làm nhân hiển hiện chân thật. Tại sao vậy? Như thông đạt ban đầu thuyết minh chứng chân như, sau đó nhập quán cũng vậy. Có khi xuất quán thì thông đạt nầy làm nhân hiển hiện hư vọng. Tại sao vậy? Vì khi chưa nhập quán, lấy tâm tán loạn để tu hành tự lợi lợi tha trong đời, nay xuất quán thì cũng vậy. Luận nói: Đây là chuyển từ sơ địa đến địa thứ sáu. Giải thích: Trong đây cùng có xuất quán và nhập quán khác nhau, lấy địa thứ sáu làm ngôi vị của nó. Luận nói: 3. Tu tập chuyển là do người chưa lìa chướng, thì nên tất cả tướng không hiển hiện, vì chân thật hiển hiện y. Giải thích: Các vị trước tu tập thì nương vào tướng mà khởi. Vị nầy tu tập thì nương vào vô tướng mà khởi, đã lìa hoặc chướng, tất cả trí chướng thì chưa lìa hết, và chỉ có người hữu học thuộc Đại thừa mới có thể đắc chuyển nầy. Tất cả tướng là tướng là tướng, sinh tướng và chân thật tướng, thể của ba tướng nầy không hiển hiện. Do y chỉ Chuyển y nầy mà được thành, ba vô tướng được hiển hiện, cũng y chỉ Chuyển y nầy mà được hành. Luận nói: Chuyển nầy từ địa thứ bảy đến địa thứ mười. Giải thích: Trong đây cùng tu hạnh vô tướng, lấy địa thứ tư làm ngôi vị của nó. Luận nói: 4. Quả viên mãn chuyển là người đã lìa chướng và tất cả tướng không hiển hiện. Tuy nhiên chân như thanh tịnh hiển hiện, cho đến được nương tất cả tướng tự tại. Giải thích: Ba đức đầy đủ gọi là quả viên mãn, là người đã lìa tất cả chướng, tức là chư Phật có thể đắc từ chuyển nầy. Tất cả tướng không hiển hiện tức là đoạn đức, vì tất cả tướng diệt, chân như thanh tịnh hiển hiện tức là trí đức. Như lý như lượng trí viên mãn đầy đủ Nhất thiết trí và tất cả chủng trí, đến đắc tất cả tướng tự tại, tức là ân đức. Y chỉ chỗ đắc tự tại trong tất cả tướng. Do đắc tự tại nầy mà có thể làm các sự lợi ích chúng sinh một cách như ý. Ba đức đều lấy chuyển nầy làm y chỉ. Luận nói: 5. Hạ liệt chuyển là do Thanh-văn thông đạt nhân vô ngã, hoàn toàn nghịch với sinh tử, vì vónh viễn xả ly sinh tử. Giải thích: Ba nghóa nhân, cảnh và công năng đều hạ liệt là hàng Thanh-văn cho nên nhân hạ liệt, họ chỉ quán nhân vô ngã cho nên cảnh không hạ liệt, tâm cầu lìa khỏi sinh tử, tự ra khỏi ba cõi nhưng chưa đắc cứu cánh. Lại không thể kiêm gồm tế độ chúng sinh cho nên công năng hạ liệt; thân kiến là Thanh-văn hệ phược. Để trừ thân kiến nầy cho nên tu quán nhân vô ngã. Khổ và tập gọi chung là sinh tử. Nếu đắc nhân vô ngã thì có thể nghịch khổ mà xả tập. Luận nói: 6. Rộng lớn chuyển, do Bồ-tát thông đạt pháp vô ngã. Giải thích: Ba nghóa của nhân cảnh và công năng đều là rộng lớn là người Bồ-tát cho nên người rộng lớn. Do quán pháp vô ngã cho nên cảnh rộng lớn. Độ mình và độ người cũng có thể rốt ráo cho nên công năng rộng lớn. Phân biệt là Bồ-tát hệ phược, vì trừ hệ phược nầy cho nên tu pháp quán vô ngã. Pháp vô ngã là gốc, nhân vô ngã là ngọn. Nếu đắc pháp vô ngã thì ắt trước đắc nhân vô ngã, tuy đắc trước hết nhưng cũng chưa thanh tịnh, vì căn bản chưa trừ. Sau khi chứng pháp vô ngã thì mới được thanh tịnh. Cảnh pháp vô ngã hiển hiện bốn đức cho nên quán cảnh nầy thì được lìa tám thứ điên đảo. Luận nói: Trong đây quán công đức tịch tónh. Giải thích: Là trong sinh tử quán pháp vô ngã gọi là công đức tịch tónh. Luận nói: Vì xả và không xả. Giải thích: Đây là hiển công năng quán pháp vô ngã. Trong sinh tử do quán tịch tónh có thể lìa phân biệt không bị hoặc nhiễm cho nên xả phiền não. Do thấy sinh tử tịch tónh cùng với chân như không khác nhau mà không xả sinh tử. Luận nói: Nếu Bồ-tát tại chuyển vị hạ liệt, thì có lỗi gì? Giải thích: Vì muốn chỉ rõ ba lỗi, cho nên đặt ra câu hỏi nầy. Luận nói: Không quán sự lợi ích của chúng sinh. Giải thích: Đây là thuyết minh lỗi ân đức của Bồ-tát. Luận nói: Lỗi lìa pháp Bồ-tát. Giải thích: Như lý như lượng trí và tùy chỗ khởi phước đức của trí gọi là Bồ-tát pháp. Không hành pháp trí tuệ của Bồ-tát là lỗi, xả bỏ pháp phước đức của Bồ-tát là viễn ly. Đây là thuyết minh lỗi trí đức. Luận nói: Cùng với người ở thừa dưới đồng được giải thoát, đây là lỗi. Giải thích: Chỉ diệt hoặc chướng, không diệt trí chướng, đây là thuyết minh lỗi đoạn đức. Luận nói: Chư Bồ-tát nếu tại chuyển vị rộng lớn thì có công đức gì? Giải thích: Muốn làm rõ có ba đức cho nên hỏi câu này? Luận nói: Trong pháp sinh tử do tự chuyển y làm chỗ y mà đắc các tự tại. Giải thích: Đắc vô phân biệt trí, diệt chủng tử của trí chướng, diệt nầy tức là chuyển y, lấy chuyển y nầy làm y chỉ, Bồ-tát trong tất cả pháp đắc mười loại tự tại. Luận nói: Trong tất cả đạo, có thể hiện tất cả thân. Giải thích: Lấy tự tại làm y chỉ. Trong lục đạo tùy theo hình loại đó mà hiện các thứ thân. Luận nói: Đối với sự an vui giàu sang của thế gian và đối với ba thừa, do công năng thù thắng của các thứ phương tiện giáo hoá có thể an lập chúng sinh kia vào chánh giáo. Đây là chuyển công đức rộng lớn. Giải thích: Sự an vui và giàu sang là thiện đạo của ba cõi. Trước hết khiến cho đắc thiện đạo của thế gian, sau đó khiến cho đắc Thánh đạo ba thừa, lấy ba đạo hoá độ khiến cho trụ chánh pháp. Pháp gì làm tự tánh Chuyển y của Đại Bồ-đề? Khác với Nhị thừa là tự tánh của Đại Bồ-đề. Chuyển y nầy phải biết có bốn tướng: Sinh khởi y chỉ làm tướng. 2.Vónh viễn không sinh y chỉ làm tướng. 3.Thành thục sở tri quả y chỉ của tư lương làm tướng. 4.Pháp giới thanh tịnh làm tướng. Sinh khởi y chỉ làm tướng là chỗ nhiếp tương tục của Phật. Y chỉ của đạo xuất thế. Nếu không như thế thì chưa đến Chuyển y nầy Phật Thánh đạo không thành, không xứng đạo lý. Nếu Phật đạo lìa Chuyển y nầy mà thành, thì đáng lẽ nương vào đạo chưa chuyển mà thành trước! Vónh viễn không sinh y chỉ làm tướng là tất cả hoặc và tập khí vónh viễn không sinh y chỉ. Nếu không như thế thì nhân duyên đã tụ tập, chưa đến Chuyển y nầy thì các hoặc và tập khí vónh viễn không sinh không thành và không xứng đạo lý! Thành thục sở tri quả y chỉ của tư lương làm tướng, là thành thục tầm tư và khéo thông đạt sở tri. Sở tri thật tế quả của chân như. Nếu không như thế thì tự tánh của chư Phật phải càng tầm tư thêm nữa, phải càng diệt chướng thêm nữa. Pháp giới thanh tịnh làm tướng là diệt tất cả tướng, là chỗ làm rõ của pháp giới tối thanh tịnh. Nếu không như thế thì tự tánh của chư Phật đáng lẽ phải vô thường, đáng lẽ có thể tư duy tự tánh của Phật là thường trụ, không thể tư duy làm tướng, cũng không thể nói lên được. Luận nói: Trong đây nói kệ. Giải thích: Vì để làm rõ Chuyển y nầy, nói kệ trùng tuyên. Luận nói: Phàm phu che chân thật, Nơi kia làm rõ hư vọng. Giải thích: Vô minh của kiến đế đối với phàm phu che lấp tất cả nhân vô ngã. Chân không đối với phàm phu kia, là tâm họ bị vô minh làm đảo ngược cả, khiến cho thấy các tướng pháp ngã hư vọng, chúng sinh tướng… và tướng sáu trần nhân theo đây hiển hiện lấy vô minh làm y chỉ của nó. Luận nói: Nơi Bồ-tát hoàn toàn, Bỏ hư hiện chân thật. Giải thích: Vô phân biệt trí của Bồ-tát, do diệt vô minh, bỏ tất cả pháp hư vọng, là ngã tướng… hiển hai pháp không chân như. Vô minh sinh khởi là chỗ dựa của phàm phu. Vô minh diệt là chỗ nương của Bồ- tát. Kệ nầy thuyết minh diệt là tướng của Chuyển y. Luận nói: Không hiển hiện, hiển hiện Hư vọng và chân thật. Giải thích: Hư vọng là tánh phân biệt. Phân biệt không khởi thì hư vọng không hiển hiện. Chân thật là ba vô tánh. Vì hư vọng không hiển hiện cho nên chân thật hiển hiện. Luận nói: Chuyển y của Bồ-tát, Vì giải thoát như ý. Giải thích: Không hiển hiện hiển hiện là Chuyển y của Bồ-tát. Chuyển y nầy là giải thoát của Bồ-tát. Đã được giải thoát rồi thì không bị trói buộc lại, làm lợi tha, đi khắp như ý trong lục đạo. Không đồng với giải thoát của Nhị thừa là vónh viễn diệt, không có nghóa lợi tha. Như bị chặt đầu ắt mạng không còn tương tục. Kệ nầy thuyết minh giải thoát khỏi hư vọng và được pháp thân thanh tịnh, hai thứ nầy do vô phân biệt trí được thành, tức là ngay ba đức mà thuyết minh Chuyển y. Luận nói: Niết-bàn nơi sinh tử, Nếu trí khởi bình đẳng. Giải thích: Sinh tử và Niết-bàn đều là sự tạo tác của phân biệt. Đồng một chân như, nếu đắc vô phân biệt trí thì duyên với bình đẳng nầy mà khởi. Luận nói: Sinh tử tức Niết-bàn, Cả hai không kia, đây. Giải thích: Phẩm Bất tịnh gọi là sinh tử, phẩm Tịnh gọi là Niết- bàn. Sinh tử hư vọng không có hai ngã chấp nhân và pháp tức là Niết- bàn. Đắc vô phân biệt trí thấy sinh tử không có gì cả tức là thấy Niết- bàn không có gì cả, cho nên không có kia, đây khác nhau. Nếu đắc trí nầy thì có công năng gì? Luận nói: Cho nên nơi sinh tử, Phi xả, phi phi xả. Giải thích: Tuy quán vô ngã nhưng không lìa sinh tử, là nghóa phi xả. Tuy tại sinh tử nhưng thường quán vô ngã là phi phi xả. Nếu như thế thì Niết-bàn như thế nào? Luận nói: Nơi Niết-bàn cũng vậy, Vô đắc, vô bất đắc. Giải thích: Lìa sinh tử thì không có pháp nào khác để gọi là Niết- bàn, Bồ-tát đã không đắc sinh tử, cũng không đắc Niết-bàn, là nghóa vô đắc. Bồ-tát đối với sinh tử thường quán tịch tónh thắng diệu, là nghóa vô bất đắc. THẮNG TƯỚNG THỨ MƯỜI L 1.GIẢI THÍCH TRÍ SAI BIỆT TƯỚNG THÙ THẮNG Luận nói: Như vậy đã nói Tịch diệt sai biệt, tại sao phải biết trí sai biệt? Giải thích: Trước đã nói sự sai biệt giữa giải thoát của Bồ-tát và giải thoát của Nhị thừa, thì giải thoát tri kiến của Bồ-tát và giải thoát tri kiến của Nhị thừa cũng phải có sai biệt. Làm sao biết được? Luận nói: Do ba thân của Phật, phải biết trí sai biệt. Giải thích: Trí sai biệt là giải thoát tri kiến của Bồ-tát, tức là quả cứu cánh của đạo Bồ-đề. Như quả cứu cánh của Nhị thừa gọi là giải thoát tri kiến. Trong giải thoát tri kiến của Nhị thừa không có ba thân. Trong giải thoát tri kiến của Bồ-tát có ba thân khác nhau. Tại sao vậy? Vì Nhị thừa không thể diệt trí chướng, không có tất cả trí, không đắc pháp thân thanh tịnh viên mãn, không có đại từ bi, không hành việc lợi ích cho người khác, không có Ứng thân và Hóa thân. Bồ-tát thì có đủ hai nghóa nầy cho nên có ba thân, do đó lấy ba thân để làm rõ trí sai biệt. Pháp gì gọi là ba thân? Luận nói: 1. Tự tánh thân. 2. Thọ dụng thân. 3. Biến Hóa thân. Giải thích: Thân lấy y chỉ làm nghóa, do có khả năng trì giữ các pháp, các pháp tùy theo thân cho nên được thành, không tùy thuận thì không thành. Thân là y chỉ của các pháp, ví như thân căn làm y chỉ cho các căn còn lại cho nên được tên là thân. Pháp thân cũng vậy, Ứng thân, Hóa thân là nơi nương tựa của tất cả công đức của Như Lai do đó gọi là thân. Lại nữa, thân lấy thật làm nghóa. Vì không bị phá hoại cho nên gọi là thật. Thân tức là thể. Thể lấy tánh làm nghóa. Tánh nầy trong tất cả vị không biến đổi cho nên gọi là thật. Vì thật cho nên không bị phá hoại. Thân có hai thứ: 1. Tự nhiên đắc. 2. Nhân công đắc. Tự nhiên đắc, là như Kinh nói: Phật ra đời hoặc chưa ra đời, pháp tánh thường như vậy. Đây là tất cả pháp do Nhị không, Bất không. Nhị không do hư vọng nên bất không. Hai pháp nầy đều là tự nhiên đắc, cho nên gọi là tự tánh. Nhân công đắc là thân của lục đạo, do nương vào hoặc mà khởi thiện nghiệp, ác nghiệp và bất động nghiệp. Do nghiệp mà bị bảy thứ quả rồi, nương vào quả mà sinh hoặc, nên gọi đó là sở đắc của nhân công. Thân của Như Lai cũng có hai thứ đắc: 1.Tự tánh đắc là pháp thân. 2. Nhân công đắc, là Ứng thân và Hóa thân. Để làm rõ khác với sở đắc của nhân công cho nên lập thân tự tánh. Do y chỉ tự tánh thân mà khởi hai hạnh phước đức và trí tuệ. Chỗ đắc quả của hai hạnh là cõi Phật thanh tịnh và pháp lạc lớn lao. Do có thể thọ dụng hai quả cho nên gọi là thân thọ dụng. Trong các địa khác tu hành, do sức mạnh của bản nguyện tự tại của Phật mà thức kia tương tự chúng sinh biến dị hiển hiện cho nên gọi là Biến Hóa thân. Luận nói: Tự tánh thân trong đây, là pháp thân của chư Như Lai. Giải thích: Trong ba thân nầy, nếu lấy tự tánh làm pháp thân thì tự tánh có hai thứ định. Như vậy lấy tự tánh nào làm pháp thân? Vì tất cả chướng diệt, tất cả pháp viên mãn, chỉ có Chân như và Chân trí riêng còn lại, gọi là pháp thân. Thân nầy lấy y chỉ làm nghóa, như vậy pháp nào làm y chỉ? Luận nói: Đối với tất cả pháp tự tại làm y chỉ. Giải thích: Tất cả pháp tự tại là mười thứ tự tại. Lại nữa, mười Ba- la-mật trong nhân, tất cả pháp bất cộng trong quả, đều đắc đã không có lỗi, vận dụng như ý cho nên gọi là tự tại. Tự tại không thể tính lường. Tùy theo số lượng của các pháp mà tự tại cũng vậy. Làm sao biết pháp nầy y chỉ pháp thân? Vì không lìa thanh tịnh và viên trí, tức là trí như như. Luận nói: Thọ dụng thân là các cõi của chư Phật, và chỗ hiển hiện y chỉ của Đại nhân Tập Luân. Giải thích: Cõi có nhiều quí báu sai biệt, không thể tính đếm cho nên gọi là chủng chủng, vô lượng cõi báu nầy nương vào Ứng thân của Phật mà được thành. Chư Bồ-tát gọi là Đại nhân tập, là thiện hữu thân cận của Bồ-tát chúng. Chánh văn, chánh tư và chánh tu là thể của luân. Như Thánh Vương Kim Luân có thể từ đây đi đến kia, chưa đắc khiến cho đắc, đã đắc thì khiến cho không mất, có thể bình đẳng đi cõi trên hoặc cõi dưới, đây là dụng của luân, Bồ-tát cũng vậy. Nếu lìa Ứng thân thì cả hai sự đều không thành, cho nên hai sự nầy lấy Ứng thân làm y chỉ, do năng y chỉ được thành cho nên sở y chỉ hiển hiện. Luận nói: Đây là lấy pháp thân làm y chỉ. Giải thích: Pháp thân không có y chỉ, Ứng thân nầy có y chỉ, như trước nói đối với tất cả pháp tự tại y chỉ, đây là thuyết minh Ứng thân y chỉ pháp thân, cho nên hai thân có khác nhau. Luận nói: Cõi thanh tịnh của chư Phật, là nhân thọ lạc thọ dụng của pháp Đại thừa. Giải thích: Bồ-tát trong cõi tịnh của chư Phật, tự nghe thọ pháp Đại thừa, thọ pháp lạc, vì người khác thuyết pháp Đại thừa cũng thọ pháp lạc. Bồ-tát đã thọ dụng đầy đủ hai thứ pháp lạc nầy. Nếu không có Ứng thân thì không có hai thứ thọ dụng pháp lạc nầy, cho nên Ứng thân làm nhân của hai thọ dụng pháp lạc. Lại nữa, giải thích thọ dụng có hai nghóa: 1.Thọ dụng trần, tức là thọ dụng cõi tịnh. 2.Thọ dụng pháp lạc, tức là thọ dụng pháp lạc Đại thừa. Nếu không có Ứng thân thì không có hai thứ thọ dụng nầy, cho nên lấy Ứng thân làm nhân của hai thọ dụng nầy. Tướng khác nhau của Biến Hóa thân, pháp thân và Ứng thân như thế nào? Luận nói: Biến Hóa thân lấy pháp thân làm y chỉ. Giải thích: Pháp thân không có y chỉ. Biến Hóa thân nầy có y chỉ. Như trước nói đối với tất cả tự tại y chỉ, đây là thuyết minh Biến Hóa thân y chỉ pháp thân, cho nên hai thân có khác nhau. Luận nói: Từ khi trụ vào cõi trời Đâu-suất-đà và thọ sinh xuống. Giải thích: Dưới đây thuyết minh thể của Hóa thân khác với Ứng thân. Ứng thân lấy đại trí, đại định, đại bi làm thể. Hóa thân chỉ lấy sắc hình làm thể. Chỗ hiện sắc hình trước hết là trụ trong cõi trời Đâu-suất- đà, sau đó sinh trong nhân loại. Trước hết hai mươi năm thọ sinh thân trung ấm, cho nên nói là lui xuống, sau đó thọ sinh vào nhà Thích-ca. Luận nói: Thọ học, thọ dục trần. Giải thích: Tu tập sáu mươi bốn kỹ năng khéo léo bí mật của vua, rồi đi học cưới vợ đó là thọ dục trần. Luận nói: Xuất gia, đến chỗ tu khổ hạnh của ngoại đạo. Giải thích: Bỏ ngôi vua, đến chỗ của Tiên nhân Uất-đà A-la-la, tu đầy đủ tất cả khổ hạnh của ngoại đạo. Luận nói: Đã làm rõ các sự đắc Vô thượng Bồ-đề, chuyển pháp Luân, Đại Bát Niết-bàn. Giải thích: Sau đó bỏ pháp của ngoại đạo, tu hạnh bất khổ bất lạc, thành vô Đẳng giác, nói ba thừa giáo, sau mới từ bỏ sự giáo hóa, sự biến hóa không phải một, cho đến sau khi diệt độ cũng còn có hình để lại. Làm Phật sự cho nên nói là “các sự”, lấy các sự nầy để làm rõ Hóa thân. Tại sao Phật trước hết trụ tại cõi trời Đâu-suất-đà, sau đó sinh trong nhân loại? Vì muốn làm rõ tự thân là loài trời và loài người. Vì trời người là khí Thánh đạo, muốn thị hiện làm thầy trời người nên nhiếp lợi đồng loại, để đoạn dứt huỷ báng của ngoại đạo. Luận nói: Hết thảy Pháp thân của chư Phật Như Lai, tướng đó thế nào? Giải thích: Vì muốn dẫn tương đương mười nghóa để chứng thành pháp thân, pháp thân nếu thành thì hai thân còn lại cũng thành, cho nên đặt câu hỏi nầy. Luận nói: Nếu lược nói tướng đó thì phải biết có năm thứ. Giải thích: Nếu rộng nói như không sinh diệt có vô lượng tướng. Nay là lược nói cho nên có năm tướng, tức là nghóa của tướng thứ nhất trong mười nghóa. Luận nói: Trong đây nói Uất-đà-na Kệ. Giải thích: Để nhiếp trì nghóa phân tán cho nên nói kệ nầy. Mười nghóa trong đây sau đó thứ tự giải thích. Luận nói: diệt. Tướng chứng đắc tự tại, Y chỉ và nhiếp trì, Đức thậm thâm sai biệt, Niệm nghiệp rõ Phật thân. Năm tướng: Một là pháp thân Chuyển y làm tướng. Giải thích: Pháp thân tức là Chuyển y của Bồ-tát. Luận nói: Tất cả chướng và phần phẩm Bất tịnh, tánh y tha đã Giải thích: Chướng có hai thứ: 1.Chướngï phần đầy đủ. 2.Một phần chướng. Cái chướng nhất thiết trí mà Bồ-tát, đoạn là chung trong ngoài ba cõi, cho nên gọi là phần đầy đủ, tức là tất cả chướng. Các hoặc chướng mà Nhị thừa đoạn là chỉ trong ba cõi, nên gọi là một phần chướng, tức là phần phẩm Bất tịnh. Tất cả đều lấy tánh y tha làm y chỉ. Khi trị đạo khởi thì liền đoạn hai chướng nầy, cho nên nói là “đã diệt”. Luận nói: Giải thoát tất cả chướng. Giải thích: Do hai phần chướng đã diệt một phần của tánh Y tha, giải thoát tất cả chướng. Luận nói: Đối với tất cả thì đắc tự tại làm năng lực. Giải thích: Một phần của tánh y tha nầy, có thể thông đạt tất cả pháp đồng một vô tánh, đã được không mất, cho nên gọi là tự tại. Luận nói: Tánh y tha của phần tánh thanh tịnh, lấy Chuyển y làm tướng. Giải thích: Muốn làm rõ vô phân biệt trí và hậu đắc trí khác, lìa tất cả phân biệt cho nên nói phần tánh thanh tịnh. Vô phân biệt trí nầy lại là một phần của tánh Y tha. Tánh y tha có hai phần, trước thuyết minh diệt chướng để làm rõ cảnh vô phân biệt, sau thuyết minh đối với tất cả pháp đắc tự tại, để làm rõ vô phân biệt trí nầy. Hai phần nầy là Chuyển y. Chuyển y làm tướng của pháp thân. Luận nói: Hai là pháp thiện thanh tịnh làm tướng. Giải thích: Tất cả pháp có hai thứ, một là đen hai là trắng. Đen là đen, Trắng là trắng. Trong thiện tự có bốn thứ, pháp thân là chân thật thiện, nên nói bạch tịnh pháp làm tướng. Luận nói: Do hành lục độ viên mãn, từ pháp thân đến đắc mười thứ tự tại nên lấy khả năng thù thắng làm tướng. Giải thích: Do tu lục độ rốt ráo nên đắc mười tự tại pháp thân, mười tự tại nầy là khả năng thù thắng của pháp thân, tức là lấy pháp thân làm tánh. Do tu lục độ rốt ráo nên đắc mười tự tại, nghóa đó như thế nào ? Luận nói: Những gì là mười? 1. Mạng tự tại. Giải thích: Trong thọ mạng, tu đoản mạng và xả mạng được thành như ý. Luận nói: 2. Tâm tự tại. Giải thích: Thọ sinh đối với sinh tử, không bị sinh tử làm nhiễm ô. Luận nói: 3. Tài vật tự tại. Giải thích: Mười thứ tài vật ăn uống làm đầu, tùythời tùyxứ mà có thể được như ý. Luận nói: Ba thứ nầy là do bố thí viên mãn mà được thành. Giải thích: Nếu người bố thí tất cả xứ, lấy đại bi mà bố thí thì thí được viên mãn. Do hành đại bi làm nhân của thí thì đắc tâm tự tại. Do tất cả xứ làm nhân của bố thí thì đắc mạng tự tại. Do tất cả vật làm nhân của sự bố thí thì đắc tài vật tự tại. Luận nói: 4. Nghiệp tự tại. 5. Sinh tự tại. Hai thứ nầy do giới độ từng phần. Giải thích: Nghiệp làm nhân, sinh làm quả. Hai thứ nầy tương ưng. Do năng lực kềm chế thân khẩu nghiệp cho nên đắc nghiệp tự tại. Cho đến cắt đứt thân tâm ra, vẫn không biến đổi thân, khẩu nghiệp. Do tâm nầy thành cho nên trì giới viên mãn. Do trì giới viên mãn, nếu muốn thọ sinh đời khác, thì như ý dẫn sanh, như ý thì Nghiệp nầy đều khiến cho hiện tiền cho nên gọi là nghiệp tự tại. Do nghiệp tự tại nên sinh trong nghiệp quả cũng được tự tại, tùyloại lục độ mà vãng sinh lợi ích như ý. Nếu xong thì có thể xả như ý. Công năng của hai sự thủ và xả vô ngại, cho nên gọi là sinh tự tại. Luận nói: 6. Dục lạc tự tại, do nhẫn nhục viên mãn được thành. Giải thích: Nhẫn có ba thứ: 1.Nhẫn nhục nhẫn. 2.An thọ nhẫn. 3. Thông đạt nhẫn. Đối với người khác chê cười làm tổn sự, nhưng không sờn, gọi là nhẫn nhục nhẫn. Đối với khổ sự của mình, tâm không biến dị, gọi là an thọ nhẫn. Tâm có năng lực chứng được sáng tỏ đạo lý của chánh pháp thậm thâm, thì gọi là thông đạt nhẫn. Do ba thứ nhẫn nầy mà các pháp đều tùy theo tâm, sau đó trong các pháp tùy chỗ dục lạc như ý được thành. Luận nói: 7. Nguyện tự tại là do tinh tấn viên mãn được thành. Giải thích: Do tinh tấn Ba-la-mật có thể vượt qua tất cả sự phải làm, đối với đời vị lai, tất cả nguyện như ý được thành, cho nên gọi là nguyện tự tại. Luận nói: 8.Thông tuệ tự tại, đây là chỗ nhiếp của năm thông, do định viên mãn được thành. Giải thích: Trong năm thông, chưa đắc, đã đắc và đắc không mất, cho nên gọi là tự tại. Lại nữa, đối với năm thông có thể tự dụng, cũng có khả năng giúp kẻ khác sống như sở dụng của ta, cho nên gọi là tự tại. Do Chư Bồ-tát có thể đắc các định tâm sâu xa của Bồ-tát, tùy sự điều phục, nếu dẫn năm thông xứ đối với tự tha đều thành như ý. Luận nói: 9.Trí tự tại. 10.Pháp tự tại. Hai thứ nầy do Bát-nhã Ba- la-mật viên mãn được thành. Giải thích: Bồ-tát do Bát-nhã Ba-la-mật viên mãn, vì vô phân biệt trí đối với pháp môn của các ấm, tâm thông đạt không còn sót, đắc tất cả chủng trí gọi là trí tự tại. Vì vô phân biệt hậu trí thông đạt tất cả phẩm loại của pháp, đắc tất cả trí, gọi là trí tự tại. Vì vô phân biệt hậu trí như những gì mà mình chứng, vì người khác an lập pháp môn, như lý được thành, gọi là pháp tự tại. Luận nói: Ba là vô nhị làm tướng, do không có hai tướng có và không. Giải thích: Vô nhị là không có hữu và không có vô, hữu là thường, vô là đoạn, không có hữu không có vô tức là bất thường và bất đoạn, lìa Nhị biên. Luận nói: Tất cả Pháp không có gì, không tướng lấy bất vô làm tướng. Giải thích: Giải thích thêm câu trên, tất cả Pháp đều là sự tạo tác của phân biệt, đều là không có gì, tức là tướng của nhị không, vô và hữu không phải không có tướng nhị không, vì vô vô pháp thân tức là nhị không, lấy Vô nhị biên làm tướng của pháp thân. Luận nói: Lại nữa, hữu vi và vô vi không hai làm tướng. Giải thích: Không hai là không có hữu vi và không có vô vi. Tất cả hữu lưu pháp thì chắc chắn lấy hữu vi pháp làm tướng. Tất cả vô lưu pháp có hai thứ, nếu đạo lấy hữu vi làm tướng, thì Trạch diệt lấy vô vi làm tướng, pháp thân cùng với hữu vi và vô vi không phải là một không phải là khác, cho nên không được thiên lệch lấy hữu vi và vô vi làm tướng, vì Chân như là tướng chung của hữu và vô vi, không thể nói là khác, Chân như là cảnh thanh tịnh, hữu vi và vô vi không phải cảnh thanh tịnh, không thể nói là một, pháp thân không có vi, vô vi làm tướng, phi không có vi, vô vi làm tướng. Tại sao vậy? Luận nói: Không phải được sinh bởi hoặc nghiệp tập. Giải thích: Tất cả hữu vi pháp đều từ hoặc nghiệp sinh, pháp thân không từ nghiệp hoặc sinh cho nên không có vi. Luận nói: Do đắc tự tại có thể làm rõ hữu vi tướng. Giải thích: Pháp thân do đắc tự tại, có thể niệm niệm làm rõ hữu vi tướng, là Ứng thân và Hóa thân, cho nên không có vi. Luận nói: Lại nữa, một, khác không hai làm tướng, chư Phật Như Lai y chỉ không khác. Giải thích: Không hai là không phải một, không phải khác, ba đời chư Phật do pháp thân không khác nhau, pháp thân tức là y chỉ cho nên không khác. Luận nói: Do vô lượng y chỉ có thể chứng Pháp thân này. Giải thích: Do Pháp thân nầy vô lượng, nên chư Bồ-tát đã thành thục thiện căn, sự chứng không gián đoạn, cho nên không thể nói một. Nếu một người khác tu hành thì phải nên vô dụng. Luận nói: Trong đây nói kệ. Giải thích: Vì để làm rõ Pháp thân không phải nghóa một và khác, cho nên trùng tuyên nói kệ. Luận nói: Vì ngã chấp không có, Không có chổ tựa riêng. Giải thích: thế gian do tùyngã chấp phân biệt mà chúng sinh y chỉ có sai biệt, đối với Pháp thân có ngã chấp phân biệt, Như Lai y chỉ không có sai biệt. Nếu như thế thì tại sao lập ra có nhiều Phật? Luận nói: Trước nhiều y làm chứng, Giả danh nói không một. Giải thích: Như trước nhân theo địa vô lượng y chỉ làm chứng, nếu mỗi mỗi thân thế gian không có Pháp thân thì Bồ-tát không có chỗ chứng. Do Bồ-tát ai nấy đều nương vào tự thân để chứng Pháp thân nầy, nên căn cứ theo giả danh không thể nói là một. Luận nói: Tánh hạnh dị phi hư, Vì viên mãn không bắt đầu, Vì không một, không khác, Không nương nhiều chân như. Giải thích: Chư Bồ-tát phát tâm nhiều, cho nên gọi là tánh khác. Do tánh khác cho nên gia hạnh cũng khác. Do gia hạnh khác cho nên có công lực. Do có công lực cho nên có thể đắc quả, có nghóa của nhân cho nên không phải hư. Nếu chỉ có một vị Phật, thì chư Bồ-tát tu hành trống rỗng không có sở đắc. Chư Phật làm sự lợi ích cho chúng sinh đều viên mãn cả. Vì an lập chúng sinh kia đối với ba thừa, nếu chư Phật không an lập chúng sinh kia đối với Vô thượng Bồ-đề thì mọi Phật sự đã làm ấy không viên mãn. do sự lợi ích viên mãn cho nên Phật không phải một, như sinh tử không có bắt đầu, vô lượng chư Phật cũng như thế, vô lượng không có bắt đầu. Nếu chỉ có một vị Phật thành, còn Phật trước và Phật sau không thành, thì đối với một vị Phật mà lập thuỷ (bắt đầu) và lập chung (cuối cùng), nghóa thì có thể thành. Do năm nghóa nầy cho nên nhiều không phải là một. Luận nói: Không khác cho nên không nhiều. Giải thích: Y chỉ không khác cho nên chư Phật không nhiều, vì không nhiều cho nên chư Phật không khác. Cái gì làm y chỉ? Luận nói: Nương vào Chân như. Giải thích: Chân như tức là pháp giới thanh tịnh. Pháp giới không khác, cho nên chư Phật y chỉ vô sai biệt. Hai kệ nầy làm rõ pháp thân không có tướng một và khác. Luận nói: Bốn là thường trụ làm tướng, vì tướng Chân như thanh tịnh. Giải thích: Dưới đây dẫn ba chứng cứ để lập nghóa Pháp thân thường trụ. Chân như nếu lìa khỏi tất cả cấu, thì vô cấu thanh tịnh gọi là Phật quả. Chân như nầy thường trụ, chư Phật là chỗ làm rõ của Chân như thanh tịnh, cho nên Pháp thân thường trụ. Luận nói: Trước kia nguyện, dẫn và thông là tối cực. Giải thích: Từ sơ phát tâm cho đến địa thứ tám, trải qua hai mươi bảy đại kiếp A-tăng-kỳ. Trong đó Như Lai nương vào pháp giới mà phát nguyện thành tựu, nguyện nắm giữ nguyện gọi đó là dẫn. Đối với tất cả xứ vô ngại cho nên gọi là thông. Tận cùng bờ mé sinh tử cho nên gọi là tối cực. Do nương vào pháp giới mà khởi nguyện nầy. Pháp giới nếu vô thường thì nguyện có tận. Nguyện đã vô tận cho nên pháp giới thường trụ. Luận nói: Phải khởi chánh sự chưa rốt ráo. Giải thích: Nếu nói chư Phật làm sự lợi ích cho chúng sinh đã xong, thì trước hết là nguyện phải cùng tận. Không thể lấy nguyện để làm chứng pháp thân thường trụ, vì nghóa đó không đúng. Tại sao vậy? Do chánh sự chưa rốt ráo, từ lúc nầy cho đến đời vô cùng, chánh sự vô biên, nếu chúng sinh chưa đắc Phật quả thì đều đắc Phật quả, chưa Niết-bàn thì đều Bát Niết-bàn, chánh sự nầy không dứt, chánh sự do pháp thân thành tựu, chánh sự bất tận cho nên pháp thân thường trụ. Luận nói: Năm là bất khả tư nghì làm tướng, là sở tri của Chân như thanh tịnh tự chứng trí, không có thí dụ, vì không phải hành xứ của giác quán. Giải thích: Pháp thân có ba duyên cho nên bất khả tư nghì: Không phải cảnh giới của ba tuệ cho nên bất khả tư nghì. Không phải hành xứ của giác quán cho nên không phải cảnh của Văn tuệ. Vì không có thí dụ cho nên không phải cảnh của Tư tuệ. Vì là sở tri của tự chứng trí, không phải cảnh tu tuệ của Nhị thừa và thế gian, do đó không thể nghó bàn. Vô phân biệt tối thượng chân thật cho nên không thể nghó bàn. Vô phân biệt là sở tri tự chứng trí của Bồ-tát, không phải cảnh giới phân biệt của phàm phu. Phàm phu như người mù bẩm sinh không thể phân biệt sắc, vì chưa từng thấy Sắc, cũng không phải cảnh giới phân biệt của Nhị thừa, vì cảnh nầy là tối cực không phải chỗ chứng của Nhị thừa, không thể phân biệt. Nhị thừa như trẻ con mới sinh chưa thấy mặt trời, vì các căn còn yếu. Vì tối thượng cho nên không có ví dụ. Pháp thân trong tất cả pháp là tối cực vô đẳng, cho nên không có pháp nào khác có thể làm ví dụ, không phải chỗ có thể biết của người hữu thượng. Chân thật là bất khả ngôn thuyết. Nếu bất khả ngôn thuyết mà chưa từng thấy chân thật thì chúng sinh không thể phân biệt. Tất cả giác quán đều tùyngôn thuyết mà khởi, đã không có ngôn thuyết chủng tử không phải hành xứ của giác quán, do đó không thể nghó bàn. Pháp thân là chứng trí của mà chư Phật biết, nó không nằm trong khả năng phân biệt của người thông tuệ thế gian. Trong thế gian không có vật nào có thể đồng với pháp thân, chỉ do thấy vật nầy đem so sánh với pháp thân, trong pháp thân tất cả tâm hạnh đều dứt bặt, vì cảnh trí không có sai biệt, cho nên không thể nghó bàn. Luận nói: Lại nữa, pháp thân chứng đắc thế nào? Giải thích: Có khi chứng nhưng không đắc, có khi đắc nhưng không chứng, có khi cũng chứng, cũng đắc, có khi không chứng không đắc, hiện tại là muốn làm rõ cũng chứng cũng đắc. Tất cả chúng sinh đang trong sinh tử, không có chúng sinh nào mà xưa nay không có pháp thân. Hằng cùng với pháp thân tương ưng. Tương ưng nầy, pháp từ vô thủy tự nhiên mà thành. Như vậy tương ưng gọi là đắc. Đắc nầy không phải là đắc riêng, không phải chỗ chứng của căn thức, vì để lìa tương ưng đắc cho nên lập ra câu hỏi nầy. Như Kinh nói: Trong khối chúng sinh, không có chúng sinh nào ngoài pháp thân. Cũng như không có một sắc nào ở ngoài hư không. Vì tất cả chúng sinh đều không lìa pháp thân, pháp thân đối với chúng sinh xưa nay là đắc. Nghóa đắc là như vậy, nghóa chứng thì thế nào? Luận nói: Xúc nầy là cái có được từ ban đầu. Giải thích: Vì để làm rõ xúc đắc có bắt đầu, nên do phương tiện thành tựu lợi ích vô cùng, như Nhãn chứng thấy sắc thì ắt có năm nghóa: 1.Có thật cảnh đối với căn. 2.Căn không hoại. 3.Có giác quán. 4.Thức không loạn. 5. Không có các chướng tối tăm. Nếu không đủ năm nghóa nầy thì không thể chứng sắc. Chứng biết pháp thân cũng như thế, ắt phải có đủ năm nghóa. Luận nói: Do duyên xen tạp Đại thừa pháp làm cảnh. Giải thích: Chân như là Đại thừa pháp, là pháp môn Đại thừa mà mười hai bộ Kinh nói đều là làm rõ chung chân như nầy. Tất cả chánh thuyết đối với chân như pháp thì đều đồng nhất vị cho nên gọi là “xen tạp”, như nhiều sông chảy về biển, xen tạp chung làm một vị. Trí và cảnh không sai biệt cho nên nói là “duyên”. Bồ-tát duyên xen tạp chân như pháp trong Đại thừa làm cảnh. Đây là làm rõ thứ nhất cảnh thật có tối thắng. Luận nói: Vô phân biệt trí, vô phân biệt hậu sở đắc trí. Giải thích: Chứng trí lấy vô phân biệt làm tướng. Từ trí nầy đối với cảnh chân như mà khởi, cho nên lìa phân biệt mà thanh tịnh thành chứng trí. Đây là làm rõ thứ hai trí thanh tịnh như căn không hoại. Vô phân biệt hậu sở đắc trí là trợ pháp trước và sau. Do trí nầy mà sau đó được nhập chân quán càng chuyển tăng thắng về sau. Đây là làm rõ thứ ba thuyết minh trợ pháp như giác quán. Nếu có Tỳ-bát-xá-na, không có Xa-ma-tha thì không có nghóa chứng đắc, cho nên cần phải tu Xa-ma-tha. Tu Xa-ma-tha có ba tướng: Đắc nhân. 2. Đắc bạn loại. 3. Đắc công năng. Luận nói: Năm tướng tu thành thục tu tập. Giải thích: Đây là thuyết minh đắc nhân. Năm tu và năm quả sở đắc của năm tu, như trong nhân quả tu sai biệt đã nói, đắc không thoái chuyển gọi là thục, đắc thượng thượng phẩm gọi là thành, niệm niệm quán sát gọi là tu tập. Đây là thuyết minh hai thứ nhân, một là đắc nhân, hai là viên mãn nhân, cho nên gọi là đắc nhân. Luận nói: Đối với tất cả địa khéo tập hợp tư lương. Giải thích: Đây là thuyết minh đắc loại bạn từ sơ địa đến mười địa, tụ tập phước đức trí tuệ hạnh làm tư lương, gọi là đắc loại bạn. Luận nói: Có thể phá chướng khó phá vi tế. Giải thích: Đây là thuyết minh đắc công năng, do hai nghóa trước cho nên có thể phá trí chướng. Phiền não nầy cùng với vô lưu đạo của Nhị thừa cùng khởi cho nên gọi là vi tế. Không phải cái mà Nhị thừa đạo có khả năng phá cho nên gọi là khó phá, đó gọi là đắc công năng. Đây là làm rõ thứ tư đắc định như thức không loạn. Luận nói: Kim cương thí dụ cho Tam-ma-đề. Giải thích: Có bốn nghóa, lấy kim cương để thí dụ cho Tam-ma- đề: 1.Có năng lực phá núi phiền não. 2.Năng dẫn vô dư công đức. 3.Chân thật không thể phá hư. 4.Dụng lợi có thể khiến cho trí tuệ thông đạt tất cả pháp vô ngại. Luận nói: Kế đó sau Tam-ma-đề nầy diệt lìa tất cả chướng. Giải thích: Đắc định mới diệt hết tất cả chướng. Đây là làm rõ thứ năm diệt hoặc như không có các ám chướng. Luận nói: Phải biết lúc đó do y chỉ chuyển thành chứng Đắc. Giải thích: Khi Kim cang tâm diệt gọi là lúc đó. Lúc đó địa thứ mười y chỉ chuyển thành Phật y chỉ, gọi là chứng đắc, phải biết như vậy. Luận nói: Pháp thân nầy có mấy tự tại trong đó đắc tự tại? Giải thích: Muốn làm rõ căn cứ theo năm ấm Chuyển y để làm rõ pháp thân tự tại, cho nên đặt câu hỏi nầy. Luận nói: Nếu lược nói thì có năm tự tại trong đó đắc tự tại. Giải thích: Nếu rộng nói thì có vô lượng tự tại, hiện tại lược nói chỉ thuyết minh năm thứ. Luận nói: 1. Tịnh độ làm rõ tự tại tự thân tướng hảo, vô biên âm, bất khả kiến đảnh. Giải thích: Có thể hiện tịnh độ Phả-lê-kha như ý, tùychúng sinh loại mà hiện thân như ý. Trong đại tập đối với chúng sinh đều không có trái nghịch, lại cũng gọi là điều nầy chúng sinh ưa muốn nhìn; hiện mọi thứ thân, gọi là điều mà chúng sinh ưa muốn nhìn, hiện chủng chủng tướng hảo, pháp âm mà mình nói như ý, vang khắp mười phương thế giới, trong một âm thanh, tùy chỗ thích nghe pháp của các chúng sinh mà mỗi mỗi đều được nghe. Chư phạm thiên khi thấy Phật, thân lượng của Như Lai cao hơn chư thiên kia gấp bội, cho nên không thể thấy Đảnh, đối với các sự nầy đều được như ý, cho nên gọi là tự tại. Tự tại như vậy do nhân gì có thể đắc? Luận nói: Do chuyển sắc ấm làm y. Giải thích: Mỗi mỗi ấm đều có bốn chuyển y như trong diệt sai biệt ở trước đã nói. Sắc thức gọi là sắc ấm, có hình ngại là thể của sắc. Khi khởi đối trị, do một phần phẩm Bất tịnh của phân biệt tánh vónh viễn đắc tương ly, một phần phẩm tịnh hằng đắc tương ưng, tức là sắc ấm chuyển y. Trong chuyển y nầy đắc tự tại của tịnh độ. Luận nói: 2. Không mất, vô lượng đại an lạc trụ tự tại. Giải thích: Không bị các hoặc và tập khí làm nhiễm ô cho nên gọi là không mất. Như Lai an lạc trụ không thể tính đếm, cho nên gọi là vô lượng. Lạc tối thắng vô Đẳng vượt hơn ba cõi cho nên gọi là Đại an lạc trụ. Đối với các sự đều được như ý cho nên gọi là tự tại. Luận nói: Do Chuyển thọ ấm làm Y. Giải thích: Thọ thức gọi là thọ ấm, thể của thọ là nhận cảm giác vui, khổ, do chuyển thọ ấm làm Y mà đắc tự tại nầy. Luận nói: 3.Đầy đủ tất cả danh tự văn cú trong các tụ, chánh thuyết tự tại. Giải thích: Danh tự của tất cả các pháp và văn cú của các ngôn giáo, từ một bài kệ trở đi một chương, một phẩm cho đến một bộ đều gọi là khối, đều có thể biết rõ chánh thuyết như ý, cho nên gọi là tự tại. Luận nói: Do chuyển tưởng ấm chấp tướng sai biệt làm Y. Giải thích: tưởng thức là tưởng ấm, chấp tướng sai biệt là thể của tưởng, do chuyển tưởng ấm làm Y cho nên đắc tự tại nầy. Luận nói: 4.Biến hóa sửa đổi dẫn dắt đại tập, kéo dắt bạch phẩm tịnh tự tại. Giải thích: Chưa có hiện hữu và chia một làm nhiều là biến hóa, chuyển bản tánh của nó là sửa đổi. Chỗ muốn thấy chúng sinh, tùyxa hay gần mà dẫn dắt như ý. Thiên, nhân, dạ-xoa… đến trong đại tập, tùy chỗ thích nghi của chúng sinh kia mà lấy bốn nhiếp để nhiếp hoá. Hữu lưu thiện là trắng. Vô lưu thiện là tịnh, dẫn dắt bạch phẩm tịnh pháp nầy, sinh trong tương tục, đối với các sự nầy đều được như ý cho nên gọi là tự tại. Luận nói: Do chuyển hành ấm làm y. Giải thích: Hành thức là hành ấm, tác ý là thể của hành, do chuyển hành ấm làm y cho nên đắc tự tại. Luận nói: 5. Hiển rõ hồi quán bình đẳng và trí tác sự tự tại. Giải thích: Đối với tất cả pháp Như Lai không có sai lầm, chứng biết cảnh phi hiện tiền như đang đối diện hiện tiền. Ví như người nhớ nghó quen thuộc văn cú, gọi đó là hiển liễu trí. Từ thông đạt chân như đến nay, đối với tất cả chúng sinh mà đắc tâm bình đẳng. Do chứng pháp bình đẳng thanh tịnh, nên gọi đó là trí bình đẳng. Có khả năng thủ trì Tam-ma-đề Đà-la-ni môn, sự muốn nắm lấy pháp trong pháp môn nầy, được như ý vô ngại, ví như tài chủ giữ kho tàng muốn lấy dùng đều vô ngại, gọi đó là trí hồi quán. Do có thể thọ sinh cung trời Đâu-suất- đà và Bát Niết-bàn, để lập vô lưu thiện căn cho Thanh-văn và các địa Bồ-tát dưới, có thể hiển sự của Như Lai đều được như ý, cho nên gọi là tự tại. Luận nói: Do chuyển thức ấm làm y. Giải thích: Các thức là thức ấm. Liễu biệt là thể của thức. Chuyển thức ấm làm y chỉ được tự tại. Luận nói: Pháp thân nầy phải biết là có bao nhiêu pháp y chỉ” ? Giải thích: Muốn làm rõ vô lượng công đức của Như Lai đều từ Pháp thân sinh ra, cho nên lấy Pháp thân làm y chỉ mà đặt câu hỏi nầy. Luận nói: Nếu lược nói thì chỉ có ba thứ. Giải thích: Nếu rộng nói thì có vô lượng pháp y chỉ, nay lược nói chỉ có ba thứ. Luận nói: Mọi trụ xứ y chỉ của chư Phật Như Lai. Giải thích: Trụ có bốn thứ là: 1.Chư thiên trụ. 2.Phạm trụ. 3. Thánh trụ. 4. Phật trụ. Trong các trụ thì các Như Lai phần nhiều là trụ bốn pháp nầy, cho nên nói nghiêng về bốn đắc nầy có hai thứ: 1.Tự tại đắc. 2.Hiện tiền đắc. Đắc thứ nhất là khi thành Phật thì tất cả pháp của Như Lai đều đắc đầy đủ, gọi là đắc tự tại. Đắc thứ hai là tùy chỗ chánh dụng, gọi là đắc hiện tiền. Nếu chứng pháp thân thì tất cả pháp của Như Lai đều tự tại đắc. Pháp thân là trụ y chỉ của các pháp. Tại sao vậy? Vì không lìa pháp thân mà đắc pháp nầy. Luận nói: Trong đây nói kệ” Giải thích: Muốn làm rõ pháp thân làm trụ y chỉ của các pháp, cho nên trùng tuyên kệ. Luận nói: Chư Phật Như Lai nhận năm sự vui mừng. Giải thích: Bồ-tát cũng có năm đức nầy, nhưng chưa viên mãn, chỉ có Phật mới đầy đủ cho nên nói là chư Phật Như Lai. Thể của vui mừng chỉ có một, chỉ lấy không mất tối thắng làm thể. Do chỗ đắc của năm nhân cho nên nói là năm sự mừng. Chư Phật tự đắc giải thoát, dùng Hóa thân giáo hoá hàng Nhị thừa khiến cho được giải thoát. Tại sao Như Lai tự nhận năm sự mừng, còn Nhị thừa thì không được? Luận nói: Đều do chứng đắc cảnh giới tự thân, Nhị thừa không có mừng do không chứng. Giải thích: Do nhân có khác nhau, nên đắc quả khác nhau. Vì chứng cảnh giới tự thân làm nhân, nên lấy năm hỷ làm quả. Cảnh giới là tánh của Như Lai, tức là pháp thân thanh tịnh, là chỗ tự chứng công năng lớn của Như Lai, không do vô nhân, không do tha đắc, cho nên nói chứng cảnh giới tự thân. Do chứng cảnh giới tự thân cho nên đắc quả năm hỷ. Nhị thừa không chứng cảnh giới nầy cho nên không có năm hỷ. Luận nói: Cầu hỷ phải chứng cảnh giới Phật. Giải thích: Nếu người muốn cầu các pháp của năm mừng, thì cần phải tu đạo để chứng pháp thân. Tại sao vậy? Vì quả không lìa nhân mà đắc. Câu kệ nầy làm rõ pháp thân làm y chỉ của năm hỷ. Do chứng pháp thân cho nên đắc năm hỷ, không chứng pháp thân thì không có năm hỷ. Luận nói: Do năng vô lượng tác sự lập, Do pháp mỹ, vị dục, đức thành. Giải thích: Kệ nầy làm rõ do năm nhân cho nên gọi là năm hỷ. Những gì là năm hỷ? Do khả năng tự thân vô lượng cho nên sinh mừng. Tất cả chư Phật đồng giác ngộ pháp thân, tất cả Phật đồng đắc khả năng thù thắng. Khả năng thù thắng của tất cả Phật tức là năng lực thù thắng của một Phật. Năng lực thù thắng của một Phật đồng với năng lực thù thắng của tất cả Phật. Tại sao vậy? Vì chư Phật đồng một pháp thân làm thể. Thể đã là một thì năng lực thù thắng của chư Phật khác cũng tức là năng lực thù thắng của một Phật. Năng lực thù thắng của chư Phật vô lượng thì năng lực thù thắng của một Phật cũng vô lượng, cho nên thắng năng của một Phật đắc bằng với năng lực thù thắng của chư Phật. Pháp thân của chư Phật đồng đắc khả năng thù thắng, do đó mà sinh hỷ. Do chứng thấy cảnh giới tự thân đắc khả năng thù thắng nầy cho nên sinh hỷ. Do tạo tác sự được thiết lập cho nên sinh hỷ. Sự làm lợi ích chúng sinh của một Phật là chánh sự của tất cả Phật, là lợi ích sự của tất cả chúng sinh. Tại sao vậy? Vì chỗ khởi chánh sự của cõi tịnh làm lợi ích cho chúng sinh của tất cả Phật tức là chỗ khởi chánh sự của một Phật. Giả sử chư Phật đều không làm chánh sự, chỗ làm chánh sự của một Phật bằng với chỗ làm chánh sự của chư Phật. Nếu lợi ích một chúng sinh, tức là lợi ích tất cả chúng sinh. Nếu một chúng sinh thành Phật thì chúng sinh nầy có thể giáo hoá tất cả chúng sinh. Như vậy dần dần lợi ích lẫn nhau. Nếu chư Phật đã chứng cảnh giới tự thân thì thành lập chánh sự nầy. Do chứng kiến cảnh giới tự thân làm chánh sự thành lập, nên sinh hỷ. Do mỹ vị của pháp cho nên sinh hỷ. Do khi xưa Như Lai học đủ mười hai bộ Kinh của ba thừa, sau khi thành Phật, xét cả thảy pháp, đều từ pháp thân nầy mà chúng sinh ra chúng đều chứng lại pháp thân nầy. Tất cả pháp môn đều đồng một vị pháp thân. Do thấy các Kinh Tu-đa-la Kỳ-dạ đồng một vị pháp thân, do đó sinh hỷ. Do dục đức thành tựu cho nên sinh hỷ. Sở dục được thành thì công đức cũng thành. Sở dục thành, là như sự tư duy của Phật đều thành tựu, là các sự của cõi tịnh và đại tập. Công đức thành, là mười lực, bốn vô uý… tất cả pháp bất cộng của Như Lai đều viên mãn. Do thấy hai sự thành cho nên sinh hỷ. Luận nói: Đắc hỷ tối thắng không có lỗi. Giải thích: Vượt qua hỷ lạc của ba cõi cho nên gọi là tối thắng. Tất cả hoặc cho đến tập khí đều cùng tận không sót cho nên không có lỗi. Luận nói: Chư Phật hằng thấy bốn vô tận. Giải thích: Lại nữa; 5.Như Lai thấy bốn hỷ trước cho đến tận cùng sinh tử không có diệt tận. Nếu nhập Vô dư Niết-bàn cũng không diệt tận, cho nên sinh hỷ. Hỷ nầy là tướng gì? Một là lấy tối thắng làm tướng vì vượt hơn hỷ của ba cõi và Nhị thừa. Hai là lấy không lỗi làm tướng. Tất cả hoặc cho đến tập khí diệt tận không sót. Đây là làm rõ sự viên mãn tối thắng và thanh tịnh tuyệt đối, cho nên đây tức là sự y chỉ tự lợi thứ nhất. Luận nói: Mọi thứ thọ dụng thân y chỉ, vì thành tựu thiện căn của chư Bồ-tát. Giải thích: Chư Phật Ứng thân vô lượng cho nên nói mọi thứ. Lại nữa, phẩm loại Ứng thân của mỗi vị Phật không thể nói, cho nên nói mọi thứ. Pháp thân làm y chỉ của Ứng thân. Tại sao làm y chỉ? Là vì pháp thân sinh ra Ứng thân nầy, nếu lìa Ứng thân thì thiện căn của Đăng địa Bồ-tát không được thành thục, cho nên cần phải có Ứng thân, Ứng thân do Pháp thân thành lập, pháp thân làm y chỉ của Ứng thân. Đây tức là sự y chỉ tự lợi thứ hai của Bồ-tát. Luận nói: Y chỉ của mọi thứ Hóa thân, vì phần nhiều thành thục Thiện căn của Thanh-văn Độc giác. Giải thích: Pháp thân nầy không những làm y chỉ của Ứng thân, mà cũng là y chỉ của Hóa thân. Tại sao vậy? Nếu lìa Hóa thân mà gieo nguyện xuống chúng sinh, thì thiện căn mà Thanh-văn và Độc giác có, không được thành tựu. Phần nhiều nói làm rõ không những lợi ích Nguyện lạc của Nhị thừa, mà cũng là nhân Hóa thân thành thục thiện căn của Bồ-tát trong địa. Pháp thân làm y chỉ của Hóa thân. Đây tức là sự y chỉ tự lợi thứ ba của Nhị thừa.  NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH <卷>QUYỂN 14 THẮNG TƯỚNG THỨ MƯỜI (Tiếp Theo) L 2. GIẢI THÍCH TRÍ SAI BIỆT TƯỚNG THÙ THẮNG (Tiếp Theo) Luận nói: Có mấy thứ Phật pháp phải biết nhiếp Pháp thân này? Giải thích: Không vì làm rõ nhiếp thể của Pháp thân, cho nên đặt ra câu hỏi nầy, mà vì làm rõ nhiếp Pháp thân chứng đắc cho nên đặt ra câu hỏi nầy. Luận nói: Nếu lược nói có sáu thứ. Giải thích: Nếu rộng nói thì có vô lượng, nhưng nay lược nói cho nên chỉ nói có sáu thứ. Luận nói: 1. Thanh tịnh loại pháp. Giải thích: diệt tận phẩm Bất tịnh chứng đắc Pháp thân, gọi là pháp thanh tịnh. Làm sao đắc pháp thanh tịnh này? Luận nói: Do chuyển A-lê-da thức làm y. Giải thích: Khi đối trị khởi thì lìa một phần phẩm Bất tịnh của Bản thức cùng với một phần phẩm Tịnh tương ưng của bản thức, gọi là chuyển y. Luận nói: Do chứng đắc Pháp thân. Giải thích: Do Chuyển y nầy, sau đạo Kim Cương đắc Pháp thân, ngoài diệt đức ra thì các đức khác gọi là pháp thanh tịnh chứng đắc loại cho nên gọi là loại pháp thanh tịnh. Luận nói: 2. Quả báo loại pháp. Giải thích: Có pháp của Như Lai là quả báo loại, như các trí thấy sắc gọi là pháp quả báo. Làm sao đắc pháp quả báo nầy? Luận nói: Do chuyển căn hữu sắc làm y. Giải thích: Khi đối trị khởi thì diệt năm căn sắc thức của nhãn… gọi là Chuyển y. Luận nói: Do chứng đắc quả báo thắng trí. Giải thích: Do chuyển y nầy, chư Phật đắc quả báo loại trí. Trí nầy trong năm trần chính là năm căn thuộc nơi sinh ra thức của chúng sinh trong mười phương thế giới. Trí nầy khởi trong năm trần cho nên gọi là loại quả báo. Loại pháp quả báo nầy là loại chứng đắc, nên gọi là loại pháp quả báo. Luận nói: 3. Trụ loại pháp. Giải thích: Như Lai chứng đắc khắp tất cả Pháp gọi là trụ pháp. Làm sao đắc trụ pháp nầy? Luận nói: Do chuyển thọ hành dục trần làm y. Giải thích: Khi đối trị khởi, thì diệt thọ hành dục trần thức của thế gian, cho nên gọi là chuyển y. Luận nói: Do vô lượng trí tuệ trụ. Giải thích: Do chuyển y nầy mà Như Lai đắc vô lượng trí, trụ vô lượng cảnh đều không quên mất, trí nầy trong thọ hành dục trần xúc thì có khi bị quên mất. Thức tức là thể của Tứ Bất hộ thể, trụ loại pháp nầy là chứng đắc loại cho nên gọi là trụ loại pháp. Luận nói: 4. Tự trụ loại pháp. Giải thích: Đối với tất cả xứ năng lực thù thắng vô ngại, gọi là pháp tự tại. Làm sao đắc tự tại pháp nầy? Luận nói: Do chuyển nhiều loại nghiệp nên nhiếp tự tại làm y. Giải thích: Trong thế gian có nhiều loại nghề nghiệp, như cấy cày, buôn bán… Hoặc tích tụ tài vật, nhiếp nhiều loại sự nghiệp nầy, khi đối trị khởi thì diệt thức của các nghiệp nầy, cho nên gọi là chuyển y. Luận nói: Do đây mà đối với tất cả mười phương thế giới có sáu thông vô ngại và trí tuệ tự tại. Giải thích: Do chuyển y nầy, đối với mười phương thế giới đắc sáu thông vô ngại và trí tuệ tự tại. Pháp tự tại nầy là loại chứng đắc nên gọi là pháp loại tự tại . Luận nói: 5. Loại pháp ngôn thuyết. Giải thích: Như Lai có pháp bất cộng đắc bốn thứ vô ngại giải. Trong chánh thuyết có đầy đủ năng lực thù thắng, nên gọi là pháp ngôn thuyết. Làm sao đắc pháp ngôn thuyết này? Luận nói: Do chuyển tất cả thấy, nghe, hiểu, biết ngôn thuyết làm Y. Giải thích: Trong thế gian, có bốn thứ ngôn thuyết thấy, nghe, hiểu, biết, nương vào cảnh của sáu thức khởi ý thức phân biệt. Do phân biệt nầy mà sinh bốn thứ ngôn thuyết. Khi đối trị khởi thì diệt thức ngôn thuyết nầy, gọi là chuyển y. Luận nói: Do đây có thể no đủ tất cả tâm chúng sinh, chánh thuyết trí tự tại. Giải thích: Do chuyển y nầy mà Như Lai trong bốn thứ ngôn thuyết đắc pháp bất cộng thuộc bốn vô ngại giải, có thể xứng với căn tánh chúng sinh. Thuyết pháp như ý đều khiến cho đắc quả, vì ngôn thuyết pháp nầy là loại chứng đắc nên gọi là loại pháp ngôn thuyết. Luận nói: 6. Bạt tế loại pháp. Giải thích: Là ý lợi ích an lạc chúng sinh của chư Phật tức là đại bi. Làm sao được cứu vớt này? Luận nói: Do chuyển ý cứu giúp tất cả tai hoạ tội lỗi làm y. Giải thích: Trong thế gian, như sự khởi tai hoạ của vua, Bồ-tát xưa kia do thiện hữu lực, tự thế lực, tài vật lực… cứu giúp tai hoạ tội lỗi của chúng sinh. Khi đối trị khởi, thì diệt thức cứu độ nầy gọi là chuyển y. Luận nói: Tùy tất cả tai hoạ tội lỗi của chúng sinh nầy mà cứu độ nên được trí tự tại. Giải thích: Do Chuyển y nầy mà có thể như ý bạt tế tất cả tai hoạ tội lỗi của chúng sinh, pháp cứu độ nầy là loại chứng đắc, gọi là loại bạt tế . Luận nói: Như vậy chỗ nhiếp của sáu thứ loại pháp, phải biết là Pháp thân của chư Phật Như Lai. Giải thích: Sáu pháp nầy, bốn thứ trước là tự lợi, hai thứ sau là lợi tha. Lợi tha có hai thứ: 1. Vónh lợi. 2. Tạm lợi. Vónh lợi là chân thật. Tạm lợi là giả danh. Hai thứ nầy loại chứng đắc của Pháp thân. Nói nhiếp pháp phải biết như vậy. Luận nói: Pháp thân của chư Phật là có thể nói là khác nhau hay là không khác nhau? Giải thích: Mười phương chư Phật là đồng một Pháp thân hay là có khác? Luận nói: Do y chỉ nghiệp ý dụng không khác, nên biết không sai biệt. Giải thích: Chư Phật đồng lấy Pháp thân làm y chỉ, đối với chúng sinh lợi ích an lạc ý dụng cũng đồng. Trong chúng sinh hiện thành chánh giác cho đến nhập Niết-bàn, thì nghiệp nầy cũng đồng. Do nghóa nầy nên phải biết Pháp thân của chư Phật không có sai biệt. Luận nói: Do vô lượng sự của chánh giác, phải biết có sai biệt. Giải thích: Có chư Phật đối với Pháp thân đã đắc chánh giác cho đến đã nhập Niết-bàn, có chư Phật chứng đắc Chánh Giác, có chư Phật đang đắc chánh giác cho đến nhập Niết-bàn cũng vậy. Như vậy có vô lượng sự trước sau bất đồng, do đó phải biết Pháp thân có sai biệt. Luận nói: Như Pháp thân, Thọ dụng thân cũng như thế. Giải thích: Ứng thân của chư Phật không có sai biệt, có khác nhau như Pháp thân. Luận nói: Do y chỉ nghiệp không khác nhau nên phải biết không có sai biệt. Giải thích: Ứng thân của mười phương chư Phật đồng y chỉ Pháp thân. Vì y chỉ không khác cho nên Ứng thân không có sai biệt. Ứng thân lấy Hóa thân làm nghiệp. Ứng thân của chư Phật đều làm y chỉ của Hóa thân, khởi nghiệp đồng với Hóa thân cho nên không có sai biệt. Luận nói: Không do có thể y chỉ sai biệt cho nên không sai biệt, vì vô lượng y chỉ chuyển y. Giải thích: Vô lượng Bồ-tát tu đạo Chuyển y, như số lượng của Bồ-tát thì Ứng thân cũng vậy, không do y chỉ không sai biệt cho nên nói vô sai biệt. Do thân mỗi mỗi khác nhau, Ứng thân cũng vậy, cho nên có sai biệt. Luận nói: Biến Hóa thân, phải biết như Thọ dụng thân. Giải thích: Do nương Pháp thân, cho nên không có sai biệt. Do nương Ứng thân cho nên có sai biệt. Luận nói: Pháp thân nầy phải biết, cùng với mấy thứ công đức tương ưng? Cùng với bốn thứ vô lượng của bốn pháp thanh tịnh tương ưng, cùng với tám thứ giải thoát, tám thứ chế nhập, tất cả mười nhập, nguyện trí vô tránh Tam-ma-đề, bốn vô ngại giải, sáu thông tuệ, ba mươi hai tướng của bậc đại nhân, tám mươi vẻ đẹp, bốn loại tất cả tướng thanh tịnh, mười lực, bốn pháp vô úy, bốn bất hộ, ba niệm xứ, pháp bạt trừ tập khí mất hết, đại bi mười tám pháp bất cộng, tất cả tướng và trí tối thắng, chư pháp tương ưng. Giải thích: Thân nầy cùng với các pháp công đức tương ưng, cho nên gọi là Pháp thân. Vì muốn làm rõ pháp tương ưng do đó đặt câu hỏi nầy. Luận nói: Trong đây nói kệ. Giải thích: Kệ có hai nghóa: 1.Hiển công đức của Như Lai. 2. Hiển cung kính người có công đức. Luận nói: Nơi chúng sinh đại bi, Lìa các ý trói buộc, Không lìa ý chúng sinh, Ý lợi lạc đảnh lễ. Luận nói: Nơi chúng sinh đại bi. Giải thích: Một bài kệ nầy hiển bốn vô lượng tâm. Câu kệ nầy thuyết minh đại bi. Luận nói: Lìa các ý trói buộc. Giải thích: Câu nầy thuyết minh đại bi lìa ý nhiễm trước và dục lạc của chúng sinh. Luận nói: Không lìa ý chúng sinh. Giải thích: Câu nầy thuyết minh đại hỷ. Chúng sinh nếu đã lìa khổ thọ lạc, thì hằng đối với lạc khởi tâm vui vẻ. Luận nói: Ý lợi lạc đảnh lễ. Giải thích: Câu nầy thuyết minh đại xả. Xả không bạt khổ và lạc ý, thường ôm ý lợi lạc. Lại nữa, xả các tướng oán thân, thường ôm ý lợi lạc bình đẳng. Do có đức nầy, cho nên đảnh lễ. Lại nữa, lìa các ý trói buộc là thuyết minh lìa tâm bi của ngoại đạo và Nhị thừa. Bi tâm của ngoại đạo duyên chúng sinh mà khởi, nên thành trói buộc. Bi tâm của Nhị thừa duyên pháp mà khởi nên thành trói buộc. Đại bi của Như Lai không duyên hai thứ nầy mà khởi cho nên nói là lìa. Đại bi đã như thế, đại từ cũng vậy. Không lìa ý chúng sinh là tuy lìa duyên chúng sinh và pháp, nhưng Như Lai đối với chúng sinh thường không lìa bốn tâm vô lượng. Đối với chúng sinh có khổ thì không lìa ý bạt trừ (nhổ gộc) khổ. Đối với chúng sinh không có vui thì không lìa ban cho ý vui. Đối với chúng sinh đã lìa khổ được vui, thì không lìa ý hoan hỷ. Đối với chúng sinh như vậy mà không lìa ý bình đẳng và lợi lạc. Đảnh lễ, là khiến cho đắc lợi ích xuất thế làm lợi ích, khiến cho đắc lợi ích của thế gian làm lợi lạc. Bốn tâm vô lượng có đủ hai thứ lợi ích. Luận nói: Giải thoát tất cả chướng, Hàng phục các thế trí, Phải biết trí đầy khắp, Tâm giải thoát đảnh lễ. Luận nói: Giải thoát tất cả chướng. Giải thích: Một bài kệ nầy làm rõ ba Đức. Câu thứ nhất nầy thuyết minh tám giải thoát. Tám giải thoát trừ hai thứ chướng: 1.Chướng tu tập. 2. Chướng thắng loại. Tám giải thoát có đủ hai nghóa: 1. Vô lưu. 2.Cứu cánh. Vì vô lưu cho nên trừ chướng tu tập, tức là các hoặc của kiến đế. Vì cứu cánh cho nên trừ chướng thắng loại, tức là tâm hạ liệt (thấp kém). Luận nói: Hàng phục các thế trí. Giải thích: Câu nầy thuyết minh tám thứ chế nhập, là vô lưu không phải cứu cánh, là cứu cánh không phải vô lưu, thuộc tám thứ chế nhập, khác với tám giải thoát. Vì tâm có thể chế phục cảnh, khiến cho cảnh theo tâm, cho nên gọi là hàng phục thế trí, tức là Phật. Luận nói: Phải biết trí đầy khắp. Giải thích: Câu nầy thuyết minh mười thứ tất cả nhập, phải biết là mười cảnh. Trí duyên mười cảnh khắp tất cả xứ cho nên gọi là đầy khắp. Luận nói: Tâm giải thoát đảnh lễ. Giải thích: Tâm đối với ba xứ nầy đều được giải thoát. Luận nói: Các chúng sinh vô dư, Giỏi diệt tất cả hoặc, Hại hoặc có nhiễm ô, Thường lân mẫn đảnh lễ. Luận nói: Các chúng sinh vô dư, giỏi diệt tất cả hoặc” Giải thích: Bài kệ nầy thuyết minh tam muội vô tránh. Phàm có tạo tác thì không khởi tất cả phiền não tranh cãi của chúng sinh. Luận nói: Hại hoặc có nhiễm ô, thường lân mẫn đảnh lễ. Giải thích: Phật có khả năng hại hoặc của chúng sinh. Chúng sinh có nhiễm ô thì Như Lai thường khởi tâm thương xót. Luận nói: Vô công dụng, vô trước, Vô ngại hằng tịch tónh. Giải thích: Nửa bài kệ nầy thuyết minh Nguyện trí. Đối với ba đời tất cả sự cầu muốn biết làm nguyện. Tất cả sự Như Lai chứng biết làm trí. Tu tập thành thục cho nên gọi là Vô công dụng. Hết tập khí cho nên vô trước. Do hai nghóa đều có thể chứng biết đối với cảnh của ba đời. Như lượng có thể chứng biết cho nên gọi là vô ngại. Như Lai hằng không ra khỏi quán cho nên gọi là tịch tónh. Tịch tónh làm rõ Vô công dụng, vô ngại làm rõ vô Trước. Luận nói: Tất cả chúng sinh hỏi, Năng giải ta đảnh lễ. Nơi y và năng y, Phải ngôn thuyết và trí, Nơi năng thuyết vô ngại, Ta đảnh lễ người thuyết. Luận nói: Tất cả chúng sinh hỏi, năng giải ta đảnh lễ. Giải thích: Một nửa bài kệ sau thuyết minh bốn vô ngại giải. Do đủ bốn giải nầy cho nên có thể thích ai nấy hỏi. Luận nói: Nơi y và năng y, phải ngôn thuyết và trí. Giải thích: Sở y là nghóa, năng y là các pháp môn. Phải ngôn thuyết là phương ngôn. Trí là khéo biện luận. Luận nói: Nơi năng thuyết vô ngại. Giải thích: Trong bốn thứ nầy công năng vô ngại, nói cho người khác cũng vô ngại. Luận nói: Ta đảnh lễ người thuyết. Giải thích: Đã lìa hoặc và ái, những gì nói ra không nhơ bẩn, có đức có thể thuyết pháp cho nên gọi là người thuyết. Luận nói: Nhiếp thọ trụ và xả, Biến hóa và đổi tánh. Đắc định, trí tự tại, Ta đảnh lễ Thế Tôn. Giải thích: Kệ nầy thuyết minh sự thông tuệ. Nếu thọ mạng phải hết, thì có thể nhiếp thọ khiến cho lâu dài cho đến tám vạn đại kiếp, và không phải chỉ có tám vạn đại kiếp mà thôi, muốn trụ nhiều kiếp cũng có thể trụ như ý, muốn xả thì cũng có thể xả như ý. Lại nữa, trong các định cũng có ba khả năng (nhiếp trụ xả) nầy. Từ trong một thân phân ra vô lượng thân là biến hóa, chuyển đổi đất thành vàng là đổi tánh. Thông tuệ đều do định thành, như ý vô ngại, cho nên nói đắc định thì trí tự tại. Luận nói: Chúng sinh thấy Thế Tôn, Kính tin là Thắng Só, Do năng sinh thanh tịnh, Ta đảnh lễ tịnh tâm. Giải thích: Một bài kệ nầy thuyết minh chung ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẽ đẹp của Phật. Chúng sinh thấy tướng lớn và tướng nhỏ của Phật, sinh tín tâm và cung kính, gọi Như Lai là bậc Só tối thắng. Tướng nhỏ và lớn của Như Lai có thể sinh tâm thanh tịnh của chúng sinh. Luận nói: Nên tùy tâm loại kia, Hành qua lại xuất ly, Chứng biết các chúng sinh, Ta đảnh lễ Chánh giáo. Giải thích: Kệ nầy thuyết minh bốn thứ tất cả tướng thanh tịnh, tùyhình loại và âm thanh ngôn từ của chúng sinh mà thị hiện. Như chúng sinh kia quá khứ thọ sinh gọi là qua, hiện tại thọ sinh gọi là lại (hoàn). Hành trong hai đời, đắc đạo quả ba thừa gọi là xuất ly. Phật đều chứng biết sự nầy, như sự ứng mà nói Chánh giáo cho họ. Do được bốn thứ thanh tịnh cho nên có khả năng nầy. Luận nói: Phương tiện, quy y, tịnh, Trong đó chướng chúng sinh, Xuất ly nơi Đại thừa, Ta đảnh lễ Tồi ma. Giải thích: Từ lúc xuất gia thọ giới cho đến pháp thế đệ nhất đều gọi là phương tiện. Từ khổ pháp nhẫn cho đến quả thứ hai gọi là quy y, vì đắc bốn niềm tin bất hoại. Quả thứ ba và thứ tư quả gọi là tịnh. Lìa dục cõi Dục cho đến cõi Vô sắc, ma trong đây hay chướng chúng sinh khiến cho không đắc các quả nầy. Nếu trong Đại thừa tu hạnh mười địa, xuất ly ba chướng, thì ma cũng ở trong đó gây chướng ngại. Do Như Lai có đủ mười lực, có thể vì chúng sinh mà hàng phục chúng ma. Luận nói: Trí, diệt và xuất ly, Chướng sự hay hiện thuyết, Nơi tự, tha lưỡng lợi, Ta đảnh lễ hàng tà. Giải thích: Kệ nầy thuyết minh bốn pháp vô úy. Trí tức là Nhất thiết trí vô úy. Diệt tức là lưu tận vô úy. Xuất ly tức là thuyết tận khổ đạo vô úy. Chướng sự tức là thuyết chướng đạo vô úy. Nếu có ngoại đạo vấn nạn Phật, không phải Nhất thiết trí; hoặc nói các lưu chưa hết, hoặc nói thuyết tận khổ đạo của Như Lai, tu pháp đó không thể khiến cho lìa khổ, nói chướng đạo pháp, khởi chướng nầy không hại cho đắc đạo… Như Lai trong đó vô uý, có thể hàng phục tà nạn. Luận nói: Không chế, không tội lỗi, Không nhiễm trược, không trụ, Nơi các pháp không động, Đảnh lễ vô hý luận. Giải thích: Kệ nầy thuyết minh bốn bất hộ. Không có sự cấm ngăn, thân, khẩu, ý mạng tự không có mười tội ác, không những không có tham, sân, tà kiến, phiền não mà tất cả phiền não đều đã diệt tận, không nhiễm các pháp cho nên nói không nhiễm trược không trụ, không khởi ý biết các pháp, biết các pháp, không còn học nghóa nữa, lìa nơi phân biệt, trí tuệ đầy khắp cho nên nói không động. Sai lầm đã trừ cho nên nói vô hý luận. Luận nói: Nơi chúng phục tha thuyết, Chỗ xa lìa hai hoặc, Vô hộ, vô vong thất, Ta đảnh lễ nhiếp chúng. Giải thích: Kệ nầy thuyết minh ba niệm xứ. Nếu có chúng sinh trong đại tập nghe pháp Như Lai nói sinh hủy báng thì như Như Lai cũng không sân. Nếu có thể tin thọ, Như Lai cũng không ưa. Nếu không huỷ báng không tin thọ, Như Lai cũng không bỏ, vì đối với ba lãnh vực nầy Như Lai thường khởi đại bi, lấy lực của phương tiện khéo thuyết chánh pháp khiến cho chúng sinh nhập lý. Trong đại chúng Như Lai có khả năng hàng phục chúng sinh như vậy, vì họ nói chánh pháp và không khởi hai hoặc sân, và dục. Đã không có sân dục thì biết không có vô minh. Không cần giữ gìn tâm cho nên không quên mất. Đại niệm đại bi, thường tự kiên cố cho nên không quên mất, vì đại bi nầy có thể giữ đại chúng. Luận nói: Nơi lợi ích tha sự, Thế Tôn vượt chờ thời, Sở tác hằng không hư, Ta đảnh lễ không mê. Giải thích: Mười phương vô lượng chúng sinh, trong một sát-na phải được lợi ích, Như Lai lấy sức mạnh đại bi, trong một sát-na đều khiến cho được lợi ích, không có bỏ luống qua, cũng không có chúng sinh nào khi đắc đạo mà chưa đến tham dự lợi ích đó, chờ thời đến mới vì họ thuyết pháp. Phàm có chỗ tạo tác thì đều phải ứng thời mới được lợi ích, cho nên việc đã làm không luống uổng. Mê là vô minh. Vô minh là thể của tập khí. Do tập khí hết sạch cho nên lợi ích không hư vọng. Luận nói: Nơi tất cả hạnh trụ, Vô phi viên trí sự, Biết khắp tất cả đời, Ta đảnh lễ thật thể. Giải thích: Kệ nầy thuyết minh không quên mất. Đã thọ sinh và chưa thọ sinh là hành. Chánh thọ sinh là trụ. Sự ba đời của chúng sinh đều là cảnh của trí viên mãn, có thể biết khắp ba đời. Lấy Chân như làm thể cho nên gọi là thật thể. Do trí Viên của thật thể cho nên không quên mất. Lại nữa, Phật tại cõi người tu mười địa làm hạnh, đắc Phật là trụ, trí viên mãn có thể thông đạt được nhân quả tự thân nầy. “Biết khắp tất cả đời” là thuyết minh có thể thông đạt sự ba đời của chúng sinh. Giải thích nầy thông với thuyết minh có thể biết tự mình và người. Luận nói: Ngày đêm sáu thời quán, Tất cả cõi chúng sinh, Tương ưng với đại bi, Ta lễ ý lợi ích. Giải thích: Kệ nầy thuyết minh đại bi. Phật thường quán chúng sinh mà nói sáu thời là vì muốn làm mô phạm để dạy hành đạo. Có hạnh tự lợi và lợi tha, lấy sáu thời tu hạnh lợi tha, sáu thời tu hạnh tự lợi. Cõi chúng sinh tức là tánh chúng sinh. Tánh chúng sinh khác nhau, hoặc nhân ác sinh thiện, hoặc nhân thiện sự sinh thiện, hoặc nhân sự bố uý sinh thiện, hoặc nhân sự hoan hỷ sinh thiện. Đại bi giỏi xứng với tánh nầy mà hoá độ, đều tương ưng với đại bi. Căn và dục lạc cũng như thế. Luận nói: Do hạnh và do đắc, Do trí và do sự, Nơi tất cả Nhị thừa, Ta đảnh lễ vô đẳng. Giải thích: Kệ nầy nói đến mười tám pháp bất cộng. Hạnh là nhân, đắc là quả. Trí là trí như lý như lượng. Sự tức là sự lợi ích chúng sinh. Mười tám pháp bất cộng không ngoài bốn nghóa. Không cùng với Nhị thừa bằng nhau cho nên gọi là bất cộng. Luận nói: Do ba thân chí tôn, Đủ tướng Vô thượng Giác, Tất cả các pháp tha nghi, Ta đảnh lễ năng trừ. Giải thích: Kệ nầy thuyết minh tất cả trí tướng tối thắng. Ba thân tức là ba đức, Pháp thân là Đoạn đức, Ứng thân là Trí đức, Hóa thân là Ân đức. Do ba thân nầy cho nên đầy đủ quả của tướng ba đức. Do đắc Vô thượng giác cho nên rất tối thắng. Trong tất cả pháp chúng sanh sinh nghi, Như Lai đều có thể vì họ mà đoạn trừ. Luận nói: Không hệ, không tội lỗi, Vô sắc trược, vô trụ, Nơi các pháp không động, Đảnh lễ vô hý luận. Giải thích: Kệ nầy làm rõ sáu thứ thanh tịnh của Như Lai: 1.Hoặc chướng thanh tịnh tức là không bị trói buộc, do diệt ba chướng của hoặc. Nghiệp chướng thanh tịnh, là không có tội lỗi, do diệt hai mươi hai nghiệp chướng. 3.Báo chướng thanh tịnh, là không có Thô Trược, do trừ bảy thứ sinh tử. 4. lợi ích thanh tịnh, là vô trụ, do đối với sinh tử và Niết-bàn không có cách trở. 5. Tự tại thanh tịnh, là không động đối với các pháp, không do công dụng, đối với tất cả pháp giỏi hiển hiện như ý. Vô hý luận thanh tịnh, do vượt qua cảnh giới của ngôn ngữ giác quán tư duy. Ba thứ trước là thuyết minh tự lợi, ba thứ sau là thuyết minh lợi tha, cho nên nói đồng nhau là đồng với sáu thứ thanh tịnh nầy. Luận nói: Pháp thân của chư Phật không những thường cùng với các công đức như vậy tương ưng, lại còn tương ưng với các công đức khác. Giải thích: Chỗ thuyết minh công đức ở trước thông với Đại thừa và Tiểu Thừa, đã nói Pháp thân tương ưng với công đức nầy, lại có Đại thừa với công đức không chung tương ưng với Pháp thân. Luận nói: Là tự tánh của nghiệp nhân quả tương ưng, hành sự công đức tương ưng. Giải thích: Trong đây lược nói 6 thứ công đức và Pháp thân tương ưng của Đại thừa. Đó là tự tánh của Pháp thân, nhân của Pháp thân, quả của Pháp thân, nghiệp của Pháp thân, tương ưng của Pháp thân, sinh Khởi của Pháp thân. Luận nói: Cho nên phải biết Pháp thân của chư Phật có vô lượng công đức. Giải thích: Trong Đại thừa và Tiểu thừa không cùng chung với thừa khác cho nên vô thượng. Luận nói: Trong đây nói kệ. Giải thích: Để làm rõ sáu thứ công đức nầy cho nên nói kệ. Luận nói: Thế Tôn thành chân như, Tu các địa xuất ly, Thừa khác không đồng vị, Giải thoát các chúng sinh. Luận nói: Thế Tôn thành chân như. Giải thích: Câu nầy thuyết minh tự tánh của Pháp thân. “Thành tựu chân như” là vô cấu thanh tịnh. Nếu tại trước đạo hoặc giữa đạo, cấu nhiễm chưa hết thì chưa được gọi là thành tựu. Nếu sau đạo cấu nhiễm đã hết cho nên gọi là thành tựu. Chân như nầy làm tự tánh của Pháp thân. Luận nói: Tu các địa xuất ly. Giải thích: Câu nầy thuyết minh nhân của Pháp thân. Tại cõi người tu chân như, chỗ làm rõ mười địa cứu cánh, xuất ly ba phiền não chướng ngoài trong và tâm, tức là trí đoạn hai thứ chuyển y. Do chuyển y nầy mà đắc Pháp thân. Luận nói: Thừa khác không đồng vị. Giải thích: Câu nầy thuyết minh quả của Pháp thân. Nếu chứng quả của Pháp thân thì đắc bốn đức quả Tịnh, Ngã, Lạc, Thường. Tịnh không cùng với Xiển-đề đồng nhau, ngã không cùng với ngoại đạo đồng nhau, lạc không cùng với Thanh-văn đồng nhau, thường không cùng với Độc giác đồng nhau. Luận nói: Giải thoát các chúng sinh. Giải thích: Câu nầy thuyết minh nghiệp của Pháp thân. Nếu đắc quả nầy giải thoát chúng sinh, thì giải thoát của bốn thứ, là an lập thiện đạo và ba thừa. Nghiệp giải thoát phàm phu và người ba thừa. Luận nói: Vô tận các công đức, Tương ưng hiện nơi đời, Nơi tam luân dễ thấy, Khó thấy các nhân, thiên. Luận nói: Vô tận các công đức, tương ưng hiện nơi đời. Giải thích: Hai câu nầy thuyết minh tương ưng của Pháp thân. Vô tận có năm thứ công đức cùng với Pháp thân tương ưng: 1. Thanh tịnh làm Thắng. 2. Tất cả làm thắng. 3. Vô lượng làm thắng. 4. Nan Tư làm thắng. 5.Vô tận làm thắng. Từ sơ địa đến địa thứ bảy, chỗ đối trị tập khí cấu của tật đố… vónh viễn diệt không sinh làm y chỉ. Các đức thanh tịnh làm thắng, cùng với Pháp thân tương ưng. Đối với địa thứ tám, thì vô phân biệt, vô gián khuyết, tự nhiên vô lưu đạo làm y chỉ, chư Phật đối với các công đức của vô lưu giới, tất cả làm thắng, cùng với Pháp thân tương ưng. Đối với địa thứ chín, không thể tính lường Tam-ma-đề Đà-la-ni môn hải, cùng với Pháp thân tương ưng, có thể nhiếp vô lượng pháp trí làm y chỉ. Từ biển nầy sinh mọi thứ công đức đếu lấy vô lượng làm thắng, cùng với Pháp thân tương ưng. Đối với địa thứ mười, hết thảy chỗ bí mật của Như Lai, thì hiện tiền chứng trí làm y chỉ, nan tư làm thắng, cùng với Pháp thân tương ưng. Vô tận tức là thường trụ, vì làm rõ thường trụ cho nên nói “hiện nơi đời”. Bốn công đức trước tuy căn cứ theo các địa để thuyết minh sai biệt của nó, đồng đến cực quả mới cứu cánh, đều tương ưng với Pháp thân. Luận nói: Nơi Tam Luân dễ thấy, khó thấy các trời, người. Giải thích: Hai câu nầy thuyết minh sinh Khởi. Tam Luân tức là ba thân. Ứng thân và Hóa thân trong ba thân thì dễ thấy, Pháp thân thì khó thấy. Lại nữa, Pháp thân đối với công hạnh sâu xa của Bồ-tát và chư Phật thì dễ thấy, đối với bốn loại chúng sinh thì khó thấy: 1.Phàm phu. 2.Thanh-văn. 3.Độc Giác. 4.Bồ-tát mới tu. Như Kinh nói: Như Lai tạng không phải cảnh giới đọa thân kiến của chúng sinh, không phải cảnh giới du hí điên đảo của chúng sinh, không phải cảnh giới tán loạn không của Bồ-tát. Tại sao vậy? Vì người phàm phu đối với các pháp của sắc… không có tánh như vậy, chấp có tánh ngã và ngã sở. Không thể tin ưa sống với Cam-lộ giới khi diệt lìa thân kiến huống nữa là cảnh giới chánh giác Như Lai tạng của chư Phật. Người Nhị thừa thì trong thường trụ tối thắng đáng tu thì lại tu điên đảo thường trụ tướng, du hí vô thường tướng, tu lạc ngã tịnh cũng vậy. Như vậy người Nhị thừa do tu điên đảo mà không thể đắc Pháp thân đạo của chư Phật, vì trong đó du hí, bốn đức tương ưng Pháp thân không phải là cảnh giới của Nhị thừa. Bồ-tát mới tu hành thì mê đạo lý không Như Lai tạng, tin ưa Không giải thoát môn, suy tính chấp cho rằng chấp diệt hữu Vật là không, cho rằng các pháp trước kia là hữu, sau khi đoạn diệt tức là không. Lại có các Bồ-tát, do đắc tướng không, tư duy quyết trạch nghóa không, cho rằng lìa pháp của các sắc thì có riêng vật làm không, Ta nay tu hành để chứng cái không nầy, tương lai chắc chắn sẽ đắc, Như Lai tạng Không có phi vô làm lý, không phải cảnh giới của tâm tán loạn thiên chấp có và không. “Các nhân thiên” tức là bốn loại chúng sinh trước, Pháp thân thì thậm thâm cho nên không phải cảnh giới của nhân, thiên. Sinh khởi, đây là bốn loại chúng sinh mê hoặc hành đối với Pháp thân, có bốn sự nầy. Tự tánh thân trong tam luân, không phải nhân, thiên có thể thấy được. Luận nói: Lại nữa, Pháp thân của Như Lai thậm thâm tối thậm thâm. Giải thích: Vì khó thực hành, khó thông đạt và khó chứng cho nên nói thậm thâm tối thậm thâm. Lại nữa, ngôn thuyết khó thấu suốt cho nên gọi là thậm thâm, nghóa lý sâu không đáy cho nên tối thậm thâm. Lại nữa, văn nghóa khó lường cho nên gọi là thậm thâm, phẩm loại không phải một cho nên gọi là tối thậm thâm. Luận nói: Thậm thâm nầy làm sao thấy được? Giải thích: Lấy tướng gì có thể làm rõ thậm thâm nầy để khiến cho thấy được? Luận nói: Trong đây nói Kệ. Giải thích: Như chỗ làm rõ trong Đại thừa, nghóa thậm thâm của Pháp thân có mười hai thứ, hiện tại dùng kệ để nói nghóa nầy. Luận nói: Phật vô sinh làm sinh, Lấy vô trụ làm trụ, Tác sự vô công dụng Thức thứ tư làm Thực. Luận nói: Phật vô sinh làm sinh. Giải thích: Một bài kệ dưới đây thuyết minh thậm thâm thứ nhất. Trong thậm thâm nầy lại có bốn thứ thậm thâm: 1. Sinh. 2. Bất trụ. 3. Nghiệp. 4. Trụ. Câu nầy thì thuyết minh sinh thậm thâm, chư Phật thọ sinh vô sinh làm tướng. Có mười thứ nhân làm chứng nghóa này: 1.Cùng với vô minh không đồng tướng. 2. Chủng chủng bất đồng. 3. Nhiếp thọ tự tại. 4. Đối với trụ tự tại. 5. Đối với xả tự tại. 6. không có hai tướng. Chỉ có tương tự hiển hiện. 8.đồng thí dụ huyễn hoá. 9.Vô trụ xứ làm trụ xứ. 1 0. Có thể thành tựu đại sự. Luận nói: Lấy vô trụ làm trụ. Giải thích: Câu nầy thuyết minh Bất trụ thậm thâm. Chư Phật đối với sinh tử Niết-bàn đều vô sở trụ, cũng có mười thứ nhân làm chứng nghóa này: 1. Không phải chỗ lìa vónh viễn. 2. Diệt bất tận. 3. Do chư Phật không phải hữu pháp. 4. Do tri không có vi tánh. 5. Vô sở đắc vô phân biệt. 6. Do đã lìa tâm. 7. Do đắc tâm. 8. Do tâm bình đẳng. 9. Trụ nhân bất khả đắc. 1 0. Bất trụ nhân bất khả đắc. Luận nói: Tác sự vô công dụng. Giải thích: Câu nầy thuyết minh nghiệp thậm thâm, cũng có mười thứ nhân làm chứng: 1. Tất cả ngại diệt. 2. Vô y chỉ. 3. Phải khởi vô tư duy. 4. Tác giả bất tác tâm. 5. Nghiệp phi vận động. 6. Vô công dụng đối với không có. 7.Do nguyện đời trước nhanh chóng. 8.Sở tác đã làm xong. 9.Phải làm sự chưa làm xong. 1 0.Do tu thành thục tự tại trong tất cả pháp. Luận nói: Thức thứ tư làm thực. Giải thích: Câu nầy thuyết minh trụ thậm thâm., cũng có mười nhân làm chứng: 1. Hiển thị chư Phật không trợ dưỡngcho tứ thực, để làm rõ tự thân do thực trụ. 2. Vì nuôi lớn thiện căn của chúng sinh. 3. Vì làm rõ đồng với nhân Loại. 4.Vì muốn khiến cho đệ tử như pháp học thọ dụng bốn thứ mạng duyên. 5. Muốn khiến cho người khác học hạnh tri túc. 6.Khiến cho người khác khởi chánh cần phương tiện. 7. Vì thành thục thiện căn cho người khác. 8. Vì muốn làm rõ tự thân vô nhiễm Trước. 9. Vì trị chánh pháp cung kính tâm. 1 0. Vì viên mãn bản nguyện sinh. Nếu Như Lai do những nghóa nầy mà thực, thì trong tứ thực là nghóa nào? Là đệ tứ thực. Tứ thực là: Phi thanh tịnh y chỉ trụ thực: là đoạn thực… tứ thực. Khiến cho cõi Dục chúng sinh thân được trụ tương tục, chúng sinh cõi Dục có đủ kiến phược và tu phược, y chỉ bất thanh tịnh, y chỉ nầy do tứ thực mà được trụ, cho nên gọi là phi thanh tịnh y chỉ trụ thực. Tịnh Bất tịnh y chỉ trụ Thực: là nghiệp thức tiếp xúc với tam thực, khiến cho thân của chúng sinh cõi Sắc và cõi vô sắc được trụ tương tục. Chúng sinh hai cõi nầy đã lìa hoặc của cõi dưới, chưa lìa tự địa và hoặc của Thượng giới, chỗ y chỉ cũng là tịnh và bất tịnh. Y chỉ nầy do tam thực mà được trụ, cho nên gọi là tịnh bất tịnh y chỉ trụ thực. Thanh tịnh y chỉ trụ thực: là đoạn thực… tứ thực, khiến cho thân của Thanh-văn và duyên giác được trụ tương tục. Ba cõi hoặc của người Nhị thừa đã tận, chỗ y chỉ thanh tịnh, y chỉ nầy do tứ thực mà được trụ, cho nên gọi là thanh tịnh y chỉ trụ thực. Năng Hiển y chỉ trụ thực: là đoạn thực… tứ thực đều là thực của chư Phật, tại sao vậy? Vì chư Phật do thực nầy mà làm rõ tự thân được trụ nơi đời, vì sinh trưởng tịnh tín cho thí chủ, làm nhân công đức thiện căn, thực nầy không làm sự ăn uống của Như Lai. Khi Như Lai thực, chư thiên vì thọ thí cho các chúng sinh, là chỗ thừa nhận của Như Lai, chúng sinh do thực nầy sẽ được thành Phật, vì khiến cho chúng sinh được thành Phật, cho nên Như Lai thị hiện dùng tay chạm thức ăn. Các nghóa như vậy đều là thậm thâm. Luận nói: Vô dị cũng vô lượng, Nhất sự vô số lượng, Nghiệp tối kiên bất kiên, Vô thượng xứng ba thân. Luận nói: Vô dị cũng vô lượng. Giải thích: Một bài kệ dưới đây thuyết minh thậm thâm thứ hai. Trong thậm thậm nầy lại có ba thứ thậm thậm: 1.An lập. 2.Số. 3. Nghiệp. Câu nầy là thuyết minh an lập thậm thậm. Pháp thân của chư Phật không có sai biệt cho nên không khác, rất nhiều pháp y chỉ, do chứng đắc Pháp thân mà nhiều vô lượng. Luận nói: Nhất sự vô số lượng. Giải thích: Câu nầy thuyết minh số thậm thậm. Chúng sinh ba thừa không có số lượng, trong đó chỉ có Nhất sự của chư Phật. Luận nói: Nghiệp tối kiên bất kiên, Vô thượng xứng ba thân. Giải thích: Hai câu nầy thuyết minh nghiệp thậm thậm. Chư Phật có ba thân tương ưng, thật thể thường trụ cho nên gọi là vô thượng. Do Ứng thân của Như Lai nghiệp kiên cố không thể chuyển đổi, vì chân Thật, do Hóa thân của Như Lai nghiệp không kiên cố, do quyền biến lấy phương tiện dẫn xuất Nhị thừa, sau đó dùng Ứng thân giáo hoá cho Nhị thừa kia tu Bồ-tát đạo. Luận nói: Không pháp nào năng giác, Không pháp nào chẳng giác, Mỗi mỗi niệm vô lượng, Sở nguyện hữu, bất hữu. Luận nói: Không pháp nào năng giác. Giải thích: Một bài kệ dưới đây thuyết minh thậm thâm thứ ba chánh giác. Nhân pháp cả hai chẳng có. Sở giác đã không nên năng giác cũng không. Luận nói: Không pháp nào chẳng giác. Giải thích: Chư Phật do giả danh cho nên đều là Phật, cho nên không một pháp nào không phải giác. Giác pháp nầy thì thế nào? Luận nói: Mỗi mỗi niệm vô lượng. Giải thích: Mỗi mỗi sát-na, vô lượng chư Phật chánh giác chân như. Nếu như thế thì chư Phật cùng với chân như là một hay khác? Nếu khác thì không có chân như. Luận nói: Chỗ làm rõ có, không có. Giải thích: Tất cả pháp gọi là có, không có là tất cả các pháp không. Chư Phật là chỗ làm rõ của các pháp không, cho nên không thể nói năng giác, cũng không thể nói bất giác. Luận nói: Vô dục, vô ly dục, Y dục đắc xuất ly, Đã biết dục, vô dục, Nên nhập dục pháp Như. Luận nói: Vô dục, vô ly dục. Giải thích: Một bài kệ dưới đây thuyết minh thậm thâm thứ tư ly dục. Do dục không có cho nên Như Lai vô dục. Từ xưa đến nay vô dục cho nên không có lìa dục. Nếu dục là có thì có thể có lìa dục, nhưng dục vốn không nên không ly dục. Luận nói: Y dục đắc xuất ly. Giải thích: Các Bồ-tát vónh viễn trừ thượng tâm dục, chỉ còn sót lại tùy miên dục, chư Bồ-tát được xuất ly thành Phật. Tại sao vậy? Nếu không còn sót lại tùy miên dục thì đồng với Niết-bàn của Nhị thừa. Nếu không trừ thượng tâm dục thì không khác với phàm phu. Như Kinh Vô thượng Y nói: Bồ-tát khởi niệm như vậy: Các hoặc xưa nay vốn không nhập tự tánh thanh tịnh tâm của chúng sinh. Các hoặc chỉ là khách trần, chỗ khởi của tự phân biệt. Ta nay có thể trừ khách trần phiền não cho các chúng sinh, có thể thuyết chánh giáo như lý cho họ. Do niệm nầy mà Bồ-tát không khởi tâm hèn mọn, Bồ-tát do niệm nầy mà đối với chúng sinh sinh quí kính tâm. Chư Bồ-tát lại khởi niệm: Các hoặc vô lực vô năng, tại sao vậy? Các hoặc không có y chỉ chân thật, chỉ có các hoặc hư vọng phân biệt. Sở quán của như lý chánh tư duy không khởi thêm trái nghịch, cho nên chúng ta phải khởi quán như vậy. Do quán nầy mà các hoặc không sinh nhiễm trước nữa. Nếu các hoặc không nhiễm trước trở lại thì đó là tối thiện, không phải là nhiễm trước. Nếu ta ái hoặc nhiễm trước, thì Ta làm sao vì chúng sinh giải trừ phiền não trói buộc, thuyết chánh giáo như lý? Hoặc nầy có thể khiến cho sinh tử tương tục, tương ưng với thiện căn, thành thục chúng sinh, do đó Ta nay phải nhiếp giữ hoặc này. Luận nói: Đã biết dục vô dục, nên nhập dục pháp Như. Giải thích: Bồ-tát thấy dục là phân biệt tánh cho nên dục không có. Dục không có tướng tánh tức là dục pháp chân như. Bồ-tát đã biết dục không có thì được nhập chân như nầy,ra khỏi dục được. Luận nói: Chư Phật quá năm ấm, Trong năm ấm mà trụ, Với ấm phi nhất, dị, Không xả ấm, Niết-bàn. Luận nói: Chư Phật quá năm ấm, trong năm ấm mà trụ. Giải thích: Một bài kệ dưới đây thuyết minh thậm thâm thứ năm diệt ấm. Chư Phật đã vượt qua sắc… năm thủ ấm, do không đắc năm ấm mà trụ trong pháp như của ấm. Luận nói: Với ấm phi nhất dị. Giải thích: Chư Phật đã xả ấm phân biệt, tánh y tha cùng với ấm không phải một, không phải khác. Tại sao vậy? Vì chỗ trụ chân như năm ấm của Phật là phân biệt y tha ấm gia pháp cho nên không khác. Do nghóa nầy tuy là một, không phải không khác, chân như là cảnh giới thanh tịnh, ấm không phải cảnh giới thanh tịnh cho nên chẳng phải một. Luận nói: Không xả ấm, Niết-bàn. Giải thích: Do cùng với chân như của ấm vónh viễn tương ưng, nghóa là không có xả lìa, cho nên Như Lai Bát Niết-bàn tối thắng. Luận nói: Chư Phật sự tương tạp, Cũng như nước biển lớn, Ta đã chính phải làm Sự khác không nghó vậy. Luận nói: Chư Phật sự tương tạp, cũng như nước biển lớn. Giải thích: Một bài kệ dưới đây thuyết minh thậm thâm thứ sáu thành tựu. Chư Phật và chúng sinh cùng đồng lợi ích sự, cũng như nhiều sông chảy vào biển lớn, đồng làm sự thọ dụng của cá rùa… Như vậy chư Phật cùng nhập pháp giới, chân như bình đẳng làm sự lợi ích, thành tựu chúng sinh. Luận nói: Ta đã chính phải làm, sự khác không nghó vậy. Giải thích: Ta đã làm sự lợi ích cho người khác, đang làm và sẽ làm, trong ba đời đều không có khởi ý đắn đo. Tuy không khởi ý nhưng lợi ích sự được thành như pháp. Ví như ngọc Ma-ni Bảo và trống trời, không có khởi ý mà làm thành sự. Luận nói: Do lỗi Tôn không hiện, Như trăng trong chậu vỡ, Đầy khắp các thế gian, Pháp Quang như mặt trời. Luận nói: Do lỗi Tôn không hiện, như trăng trong chậu vỡ. Giải thích: Một bài kệ dưới đây thuyết minh thậm thâm thứ bảy hiển hiện. Chư Phật nơi thế gian không hiển hiện, nhưng thế gian nói thân của chư Phật thường trụ. Nếu thân thường trụ thì tại sao không hiển hiện? Ví như nước trong chậu vỡ không được trụ, do nước không trụ, cho nên trăng thật có không được hiển hiện trong chậu vỡ. Các chúng sinh như vậy không có Xa-ma-tha mềm mại tương tục, chỉ có tội lỗi tương tục, thì đối với thật có chư Phật cũng không hiển hiện. Nước là ví dụ cho tánh Xa-ma-tha mềm mại. Nếu Phật không hiện thì lẽ nào không có Phật hay sao? Luận nói: Đầy khắp các thế gian, pháp Quang như mặt trời. Giải thích: Hoặc chư Phật đối với chỗ thấy của chúng sinh không phải có sai lầm, cũng hằng làm chánh sự của chư Phật, thuyết mười hai bộ Kinh của ba thừa, cũng như ánh sáng, quyết định là chư Phật phải gieo giống thành thục các sự lợi ích giải thoát. Như người mù bẩm sinh trong thế gian, tuy không thấy mặt trời và ánh sáng hằng chiếu soi tất cả sắc tượng, nhưng vì khiến cho người có mắt được thấy. Luận nói: Hoặc hiện đắc chánh giác, Hoặc Niết-bàn như lửa, Hai sự nầy không có, Vì chư Phật thường trụ. Luận nói: Hoặc hiện đắc chánh giác, hoặc Niết-bàn như lửa. Giải thích: Một bài kệ dưới đây thuyết minh thậm thâm thứ tám Bồ-đề Niết-bàn. Chư Phật có nơi hiện đắc chánh giác, có nơi hiện Bát Niết-bàn, ví như tánh lửa, có nơi thì rực cháy, có nơi thì âm ỉ. Chư Phật cũng vậy, có các chúng sinh đã thành thục thì Như Lai đối với chúng sinh đó làm rõ Bát Niết-bàn, đối với chúng sinh chưa thành thục thì hiện đắc chánh giác, để được thành thục và giải thoát, ví như tánh lửa do chủng loại là một, Pháp thân cũng vậy, do tánh chân như là một. Luận nói: Hai sự nầy không có, vì chư Phật thường trụ. Giải thích: Bồ-đề Bát Niết-bàn là hai, chỉ do tâm kẻ khác biến đổi, khiến họ nói có hai thể. Thật ra không có, vì thân của Như Lai thường trụ không có trước và sau. Luận nói: Như Lai nơi ác Sự, Cõi người và ác đạo, Nơi pháp phi phạm hạnh, Trụ đệ nhất, trụ ngã. Giải thích: Một bài kệ nầy thuyết minh thậm thâm thứ chín trụ. Chư Phật Như Lai trụ nơi tối thắng trụ, trụ tối thắng ngã. Chư Phật nếu trụ không lìa hai xứ nầy, thì hoặc là trụ tối thắng trụ, hoặc là trụ tối thắng ngã. Ác sự là tất cả pháp bất thiện, Như Lai đối với pháp bất thiện hằng trụ tối thắng. Tối thắng trụ là định chân không, tức là chỗ trụ của bậc Thánh. Chúng sinh nếu ở trong cõi người, hoặc trong ác đạo, thì Như Lai duyên chúng sinh đó mà trụ. Hoặc do đệ tứ định, tức là chỗ trụ của trời, là tối thắng trụ, hoặc do đại bi tức là phạm trụ, là tối thắng trụ. Đối với pháp phi phạm hạnh là lục trần nhiễm trước, trong đây Phật trụ tối thắng Ngã. Tối thắng ngã tức là pháp giới thanh tịnh, Như Lai hằng quán Lục trần không (trống rỗng) làm cảnh, tức là Phật trụ. Luận nói: Phật hành tất cả xứ, Cũng không hành xứ nào, Nơi tất cả sinh hiện, Phi cảnh giới lục căn. Luận nói: Phật hành tất cả Xứ. Giải thích: Một bài kệ dưới đây thuyết minh thậm thâm thứ mười hiển hiện tự tại thể. Hậu trí của Như Lai trong pháp thiện ác vô ký hằng hành đầy khắp. Luận nói: Cũng không hành xứ nào. Giải thích: Do vô phân biệt trí, lìa cảnh giới của trí thì không thể phân biệt, cho nên không có hành một xứ nào. Lại nữa, do Hóa thân cho nên không có xứ nào mà không hành, do Pháp thân, Ứng thân không có xứ nào để hành. Luận nói: Nơi tất cả sinh hiện, Phi cảnh giới lục căn. Giải thích: Chư Phật Như Lai do Hóa thân, trong tất cả chúng sinh hiển hiện cụ tướng. Chư Phật do Hóa thân, cho đến chúng sinh trong địa ngục cũng thấy, thọ sinh nơi đó để vì hoá độ chúng sinh đó. Do chư Phật không hiện tựa biến hóa tánh, chúng sinh kia tuy thấy nhưng không thể biết rõ, vì cho là đồng loại. Hóa thân của Phật không phải sáu cảnh giới của chúng sinh ở địa ngục. Luận nói: Các hoặc đã phục diệt, Như chỗ hại độc chú, Do hoặc đến, hoặc tận, Phật chứng tất cả trí. Luận nói: Các hoặc đã chế phục, như chỗ hại độc chú. Giải thích: Một bài kệ dưới đây thuyết minh thậm thâm thứ mười một diệt hoặc. Các hoặc là phiền não của kiến đạo và tu đạo. Trong Bồ-tát địa trước hết đã diệt hết, các tâm phiền não khác tuy chưa diệt hết, nhưng do công dụng phục trừ của trí và niệm, ví như có sự hại của nhiều uy lực độc chú không thể khôi phục lại bản năng, tâm mê hoặc cũng như thế. Do sự trì giữ của trí niệm nên hai hoặc nhiễm ô không thể sinh lại. Luận nói: Do hoặc đến, hoặc tận, Phật chứng tất cả trí. Giải thích: Chư Bồ-tát giữ lại tùy miên hoặc để làm trợ đạo phần, khác với Nhị thừa mau chóng Bát Niết-bàn, do sự nầy mà tu đạo rốt ráo, được diệt hết tập khí và chứng viên trí. Luận nói: Đế hoặc thành giác Phần, Sinh tử làm Niết-bàn, Đắc thành đại phương tiện, Nên Phật nan tư nghì. Luận nói: Đế hoặc thành giác phần. Giải thích: Một bài kệ dưới đây thuyết minh thậm thâm thứ mười hai không thể nghó bàn. Do lưu hoặc lại mà được hết hoặc, tập đế của Nhị thừa trở thành giác Phần của Bồ-tát, như giác phần của Nhị thừa có thể diệt tập đế đó, nhưng Bồ-tát dùng Tập đế đó để diệt tâm hoặc, mà thành giác phần. Luận nói: Sinh tử là Niết-bàn. Giải thích: Nếu Tập đế là giác phần thì khổ đế tức là Niết-bàn. Tại sao vậy? Vì Chư Bồ-tát ở tại sinh tử mà không nhiễm ô, khởi hai thứ tự lợi và lợi tha đều được viên mãn, ví như Nhị thừa tại Niết-bàn hữu dư không bị hai hoặc làm nhiễm ô, có thể được tự lợi. Luận nói: Đắc thành đại phương tiện, nên Phật khó nghó bàn. Giải thích: Tại vị nhân đắc đại phương tiện là trí tuệ và đại bi, tại quả vị đắc đại phương tiện là ba thân, Pháp thân là phương tiện tự lợi, hai thân còn lại là phương tiện lợi tha, cho nên Như Lai không thể nghó bàn. Luận nói: Do nghóa nầy cho nên mười hai thứ thậm thâm, phải biết, là sinh bất sinh nghiệp trụ thậm thâm, an lập số nghiệp thậm thâm, chánh giác thậm thâm, ly dục thậm thâm, ấm diệt thậm thâm, thành thục thậm thâm, hiển hiện thậm thâm, Bồ-đề Bát-nhã hiển hiện thậm thâm, trụ thậm thâm, hiển hiện tự thể thậm thâm, diệt hoặc thậm thâm và không thể nghó bàn thậm thâm. Giải thích: Phật có ba thân, nếu chư Bồ-tát niệm Phật thì phải duyên thân nào? Phải duyên Pháp thân. Luận nói: Chư Bồ-tát duyên Pháp thân để niệm Phật, niệm duyên nầy có mấy tướng”? Giải thích: Pháp thân có vô lượng đạo lý sâu xa. Nếu duyên Pháp thân thì duyên mấy tướng? Luận nói: Nếu lược nói Chư Bồ-tát nương vào Pháp thân tu tập niệm Phật thì có bảy thứ tướng. Giải thích: Bảy thứ tướng nầy là chánh dụng của Pháp thân, tức là đức viên mãn của Pháp thân. Để làm rõ niệm Phật tu đức viên mãn nầy, cho nên lược nói bảy Tướng: 1.Đứcviên mãn của chư Phật thuộc tự tâm, do sáu thứ thần thông tự tại. 2. Đức thường trụ nầy là pháp thiện chân thật. 3.Không có sai lầm, diệt hết tập khí. 4.Không tha thiết, không có vô công dụng. 5. Thọ pháp lạc lớn do các độ thanh tịnh. 6.Không khổ, không nạn, không có nhiễm ô. 7. Có sự lợi tha về dụng bình đẳng. Nếu Bồ-tát nhớ niệm bảy thứ đức tròn đầy nầy thì có thể thông đạt Pháp thân. Người cần phải nương vào Pháp thân tu tập niệm Phật để làm rõ học tất cả môn Quán hành, đều duyên chân như được thành. Nếu không duyên chân như thì Quán hành không được thanh tịnh. Luận nói: Những gì là bảy thứ? 1.Chư Phật đối với tất cả pháp tự tại vô song. Giải thích: Ba đời chư Phật đối với cảnh của sáu thần thông tự tại tối thắng, người đồng loại không thể gây chướng ngại, người không đồng loại thì không phải chỗ theo kịp. Trong vị hữu tâm và vô tâm vị hằng không bỏ phế, vì tu tập thành thục, cho nên gọi là tự tại, không phải chỗ đắc của hàng Thanh-văn, Độc giác và Bồ-tát, lại cũng đối với thế gian không thể thí dụ, cho nên gọi là vô song. Luận nói: Tu tập niệm Phật như vậy. Giải thích: Khiến cho niệm nầy cùng Pháp thân thành một cho nên gọi là tu tập. Luận nói: Đối với tất cả thế giới, cho đến đắc trí của sáu thần thông vô ngại và vô biên. Giải thích: Chư Phật thành tựu sáu thần thông, nên đối với mười phương thế giới không có ai có thể cản trở tổn hại, không có giới hạn cùng cực, không đồng với Nhị thừa có ngăn cách và giới, thông tuệ của Như Lai tự tại vô song. Luận nói: Trong đây nói Kệ. Giải thích: Nếu chư Phật đối với tất cả pháp có tự tại vô song, tại sao tất cả chúng sinh đều không nhập Niết-bàn? Để giải thích vấn nạn nầy cho nên nói kệ. Kệ nầy vì làm rõ nhân nầy và do nhân nầy mà không nhập Niết-bàn. Luận nói: Bị chướng nhân không đủ, Tất cả cõi chúng sinh, Trụ trong hai thứ định, Chư Phật không tự tại. Luận nói: Bị chướng nhân không đủ. Giải thích: Tất cả chúng sinh nếu có các chướng của nghiệp chướng, thì chư Phật trong vị nầy không thể khiến cho họ nhập Niết- bàn. Thông tuệ do bị chướng cho nên không đắc tự tại. Nếu chúng sinh không có tánh Niết-bàn thì gọi là nhân không đủ. Chư Phật trong vị nầy không thể khiến họ nhập Niết-bàn, thông tuệ cũng không có tự tại, không có tánh Niết-bàn, tức là do tham trước sinh tử không tin ưa Đại thừa. Luận nói: Tất cả cõi chúng sanh, trụ trong hai thứ định, chư Phật không tự tại. Giải thích: Cõi chúng sanh là bốn đại: Không, thức. Sáu cõi là thật, nương vào sáu cõi nầy giả lập chúng sinh. Chúng sinh là giả danh, có lục đạo sai biệt cho nên nói tất cả. Chúng sinh như vậy hoặc ở trong hai thứ định: 1. Chỗ tạo tác định nghiệp. 2. Quyết định thọ quả báo tạo định nghiệp là sự tạo mười thứ ác của phàm phu. Nghiệp quyết định phải chiêu cảm quả báo của bốn ác đạo. Định quả báo, là độn căn điên cuồng chúng sinh và chính thọ quả báo của bốn ác đạo. Như Lai đối với chúng sinh nầy cũng không có tự tại. Tại sao vậy? Vì không có ngoại duyên. Luận nói: 2. Thân của Như Lai thường trụ. Giải thích: Vì mười thứ nhân cùng chung chứng Pháp thân và nhiều đức thường trụ ba nhân chứng Pháp thân, bảy nhân chứng các thân khác. Ba nhân chứng Pháp thân như trong Luận nói. Luận nói: Do chân như không gián đoạn nên giải thoát tất cả cấu nhiễm. Giải thích: Đây là một trong ba nhân. Chân như là đạo sau chân như. Ngôi vị Vô gián tức là tâm Kim Cương của Phật, có thể diệt trừ vô minh vi tế tối hậu và không có sinh tử của hai đế khổ và tập, cho nên nói giải thoát tất cả cấu nhiễm. Chân như vô cấu thanh tịnh nầy là pháp phường trụ, chư Phật lấy pháp thường trụ làm thân. Do thân nầy thường trụ, nên nương vào thân nầy mà có các đức và các đức cũng thường trụ. Thường trụ nầy lấy tánh chân thật làm tướng. Luận nói: 3.Không lỗi của Như Lai vónh viễn lìa tất cả hoặc chướng và trí chướng. Giải thích: Trong tất cả chúng sinh có lỗi hoặc không lỗi, Như Lai hoàn toàn không lỗi vì nhân duyên của lỗi đã diệt tận, hiện tại đã diệt, vị lai không sinh, cho nên nói vónh viễn lìa. Luận nói: 4. Tất cả sự của Như Lai do vô công dụng mà thành. Giải thích: Tác ý gọi là công dụng. Duyên ba đời dấy khởi là ta đã tạo tác, đang tạo tác và sẽ tạo tác, thì tác ý nầy là vô công dụng. Chỉ do lực của bản nguyện nên việc mà mình muốn làm tự nhiên đều được thành. Luận nói: Không do công dụng, mà hằng khởi chánh sự vónh viễn không xả. Giải thích: Nếu do công dụng mà có chánh sự thì có khởi và không khởi. Vì không do công dụng cho nên hằng khởi. Do bản nguyện vô tận cho nên vónh viễn không xả. Vì chúng sinh bất tận, nên bản nguyện cũng bất tận. Luận nói: 5. Đại phú lạc vị của Như Lai. Giải thích: Giàu có lớn do ngoại tài, an vui do chánh pháp. Luận nói: Tất cả tối vi diệu thanh tịnh của cõi Phật là tướng an vui lạcvà giàu có lớn. Giải thích: Trong cõi tịnh có tám thứ không thể nắm bắt và hai thứ có thể chứng đắc, cho nên gọi là tối vi diệu thanh tịnh. Tám thứ không thể đạt được: 1. Ngoại đạo. 2. Chúng sinh có khổ. 3. Sinh sai biệt của tánh gia phú. 4.Người làm ác. 5.Người phá giới. 6.Ác đạo. 7.Hạ thừa. Chư Bồ-tát hạ ý hạ hạnh. Hai thứ có thể đắc: 1.Phẩm tối thượng, là hành ý của Chư Bồ-tát. 2. Chư Như Lai hiển hiện nơi đời, chỗ trụ là tối ưu thanh tịnh, có thể trụ làm thanh tịnh vi diệu. Luận nói: 6. Sự không nhiễm trước tối thắng của Như Lai. Giải thích: Tâm hoặc trên là nhiễm. Tùy miên là vướng mắc. Lại nữa, căn cứ theo hoặc chướng là nhiễm, trí chướng là vướng mắc. Lại nữa, phiền não có hai tướng: 1.Lấy mừng làm tướng. 2.Lấy lo lắng làm tướng. dục, mạn, kiến… lấy hỷ làm tướng; sân, nghi, vô minh… lấy ưu làm tướng. Hỷ tướng lấy hoặc làm nhiễm, ưu tướng lấy hoặc làm trước. Cả hai hoặc đều diệt tận cho nên nói vô nhiễm trước. Luận nói: Xuất hiện thế gian, không bị tất cả pháp thế gian làm nhiễm thế gian, như bụi không thể nhiễm ô hư không. Giải thích: Nhân theo sự thành lập cho nên gọi là xuất thế. Quả thành cho nên gọi là hiện thế. Lại nữa, tự lợi viên mãn gọi là xuất thế, lợi tha viên mãn gọi là hiện thế. Hoặc là Phật xuất thế nhưng chưa hiện nơi đời, như đã thành đạo nhưng chưa chuyển pháp luân. Nếu chuyển pháp luân thì thế gian mới hiểu rõ Phật là tất cả trí. Là sự hiểu rõ của thế gian cho nên gọi là hiện thế. Như Lai tuy thọ dụng bốn duyên ăn, mặc… là nhằm sinh trưởng thiện căn của chúng sinh, không phải vì nuôi dưỡng tự thân. Trong duyên nầy không sinh ưu hỷ cho nên không làm chỗ nhiễm ô của Thế pháp. Hư không lấy chẳng có làm thể. Thể thì vô ngại cho nên không bị chỗ nhiễm của vật có, Như Lai cũng thế. Luận nói: 7. Như Lai đối với thế gian có dụng việc lớn. Giải thích: Như Lai xuất thế lấy Hóa thân thành đạo, cho đến Niết-bàn gọi là việc lớn, mọi việc làm lợi ích cho chúng sinh gọi là dụng. Luận nói: Do hiện thành Vô thượng Bồ-đề và Đại Bát Niết-bàn nên chúng sinh chưa thành tựu thì khiến cho thành tựu, chúng sinh đã thành tựu thì khiến cho giải thoát. Giải thích: Vì chúng sinh chưa gieo giống và chưa thành thục thì khiến cho gieo giống và thành thục mà hiện thành Bồ-đề. Chúng sinh đã thành thục nhưng chưa giải thoát thì khiến họ giải thoát mà hiện nhập Niết-bàn. Luận nói: Trong đây nói kệ. Giải thích: Trong đây nói hai bài kệ để thuyết minh lại bảy tướng, để làm rõ bảy thứ đức viên mãn của Pháp thân. Luận nói: Tùy thuộc tâm Như Lai, Đức thường đầy không đủ, Vô công dụng. Năng thí, Pháp lạc lớn chúng sinh. Luận nói: Tùy thuộc tâm Như Lai. Giải thích: Đức tròn đầy của chư Phật là sáu thần thông… chỉ thuộc tự tâm, không quan hệ với ngoại duyên. Luận nói: Thường. Giải thích: Viên đức nầy do nương vào Pháp thân chân thật thiện thường trụ làm tánh thì Chúng đức đều Thường. Luận nói: Không lỗi. Giải thích: Do Pháp thân lìa tất cả chướng. Do sở y không lỗi cho nên năng y cũng không lỗi. Luận nói: Vô công dụng. Giải thích: Do tu nhân và bản nguyện thành tựu, nên mọi Phật sự mình làm đều tự nhiên thành. Không khẩn thiết, không khó, cho nên nói Vô công dụng. Luận nói: Năng thí pháp lạc lớn cho chúng sinh. Giải thích: Do đắc cõi tịnh tự tại cho nên có bậc Thánh thọ pháp lớn, được mở rộng hạnh như lý, khiến cho hạnh như lý của người khác cũng được cho nên gọi là pháp lạc. Luận nói: Biến hành không chướng ngại, Bình đẳng lợi nhiều người, Tất cả, tất cả Phật, Người trí duyên niệm nầy. Luận nói: Biến hành không chướng ngại. Giải thích: Đối với tám pháp thế, Hậu trí của Như Lai hằng phân biệt sự nầy. Vì không có tâm ưu phiền và vui vẻ nên trong đó đi khắp vô ngại. Nếu có ngại thì có khổ. Do vô ngại cho nên được an lạc. Chư Phật tuy hành sáu pháp lục độ, nhưng vượt hơn ngôn thuyết nên lìa chấp có và chấp không. Luận nói: Bình đẳng lợi nhiều người. Giải thích: Phàm phu, Nhị thừa, mới hành Bồ-tát và thâm hành Bồ-tát gọi là nhiều người. Như Lai lợi ích bình đẳng, nói đại phú hành đạo thiện, hành an lạc, hành hạnh tự lợi, hành hạnh lợi tha, đồng thời có dụng đại sự. Luận nói: Tất cả tất cả Phật, người trí duyên niệm này. Giải thích: Tất cả, tức là phân ra từng số mục. Người trí là chư Bồ- tát. Chư Bồ-tát duyên bảy tướng nầy tức là niệm tất cả thân Phật. <篇> <卷>QUYỂN 15 THẮNG TƯỚNG THỨ MƯỜI (Tiếp Theo) L 3. GIẢI THÍCH TRÍ SAI BIỆT TƯỚNG THÙ THẮNG (Tiếp Theo) Luận nói: Lại nữa, cõi tịnh thanh tịnh của chư Phật Như Lai, tại sao phải biết? Giải thích: Trong bảy niệm ở trước, thuyết minh sự an vui và giàu có lớn của Như Lai tức là cõi tịnh, trước chỉ nói tám người không thể đắc, hai thứ có thể đắc, nhưng chưa thuyết minh xứ sở của không thể đắc và có thể đắc, hiện tại muốn làm rõ xứ nầy cho nên hỏi tướng của tịnh Độ. Luận nói: Như Kinh Ngôn Bách Thiên trong Bồ-tát Tạng duyên khởi nói. Giải thích: Tổng nêu các Kinh cho nên nói “Như ngôn”. Trong Bồ-tát Tạng có riêng Kinh Tịnh Độ. Kinh có trăm ngàn bài Kệ cho nên gọi là Kinh Bách Thiên. Lại nữa, Kinh Hoa Nghiêm có trăm ngàn bài kệ cho nên gọi là Kinh Bách Thiên, trong duyên khởi của Kinh nầy có nói rộng về tướng của cõi tịnh. Như vậy văn cú của cõi tịnh hiển những công đức gì? Luận nói: Phật Thế Tôn tại nơi bảy báu trang nghiêm, quang minh sáng khắp. Giải thích: 1. Kim. 2. Ngân. 3. Lưu ly. 4. Ma-sa-la. 5.A-du-ma- kiệt-bà. 6.Nhân-đà-ra-ni La. 7. Lô-hi-chi-kha-mục-đa. Mỗi mỗi bảo vật nầy quang minh đều chiếu sáng tất cả xứ. Xứ nầy lấy bảy báu trang nghiêm và Phật trụ trong đó. Luận nói: Có thể phóng quang minh lớn phổ chiếu vô lượng thế giới. Giải thích: Đây là thuyết minh nơi chỗ chiếu sáng của quang minh bảy báu để giải thích nghóa sáng khắp. Hai câu nầy thuyết minh sắc tướng tròn đầy và thanh tịnh. Luận nói: Cõi vô lượng diệu sức, xứ xứ mỗi đều thành lập. Giải thích: Đây là trang nghiêm hy hữu vô đẳng cho nên nói là Diệu sức. Có nhiều thứ trang sức vi diệu cho nên nói vô lượng, đất để du hành làm giới (cõi), đất để ở làm xứ. Mỗi mỗi cõi mỗi mỗi xứ đều trang nghiêm đầy cho nên nói thành lập. Câu nầy thuyết minh hình tướng tròn đầy và thanh tịnh. Luận nói: Đại vực biên tế không thể độ lượng. Giải thích: Đường kính gọi là độ, chu vi gọi là lượng. Chu vi của mỗi mỗi cõi Phật, không phải phàm phu lấy số do-tuần có thể đo lường được. Đây là thuyết minh lượng tròn đầy và thanh tịnh. Luận nói: Ra khỏi hành xứ của ba cõi. Giải thích: Ba cõi lấy tập đế làm hành, ba đế lấy khổ đế làm xứ. Tịnh độ không phải chỗ nhiếp của hai giới khổ và tập, cho nên nói ra khỏi hành xứ của ba cõi. Câu nầy thuyết minh xứ tròn đầy và thanh tịnh. Nếu không phải khổ đế và tập đế nhiếp thì lấy gì làm thể? Luận nói: Chỗ sinh công năng của thiện pháp xuất thế. Giải thích: Thiện của Nhị thừa gọi là xuất thế. Từ địa thứ tám trở lên đến Phật địa gọi là xuất xuất thế. Pháp xuất thế là đối trị của pháp thế gian. Xuất xuất thế pháp là đối trị của pháp xuất thế. Công năng lấy bốn duyên làm tướng. Từ công năng của pháp thiện xuất thế mà sinh khởi cõi Phật nầy, không lấy tập đế làm nhân. Câu nầy thuyết minh nhân tròn đầy và thanh tịnh. Những gì làm pháp thiện xuất xuất thế? Là thiện căn mà vô phân biệt trí và vô phân biệt hậu trí đã sinh gọi là pháp thiện xuất xuất thế. Luận nói: Duy thức tối thanh tịnh tự tại làm tướng. Giải thích: Duy thức trí của Bồ-tát và Như Lai là vô tướng vô công dụng cho nên nói là thanh tịnh, lìa tất cả chướng không có thoái thất cho nên nói tự tại. Duy thức trí nầy làm thể của cõi tịnh, không phải lấy khổ đế làm thể. Câu nầy thuyết minh quả tròn đầy và thanh tịnh. Luận nói: Chỗ trấn của Như Lai. Giải thích: tướng của cõi tịnh như vậy, Như Lai hằng ở trong đó, rất là thượng thủ cho nên nói là trấn. Câu nầy thuyết minh chủ tròn đầy và thanh tịnh. Luận nói: Trụ xứ an lạc của Bồ-tát. Giải thích: Tự thọ hành chánh giáo, dạy người khác thọ hành chánh giáo gọi là an lạc. Bồ-tát nơi tịnh độ trợ Phật trợ đạo. Có đủ hai sự nầy, cho nên gọi là trụ xứ an lạc. Câu nầy thuyết minh trợ tròn đầy và thanh tịnh. Luận nói: Chỗ hành vô lượng của Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân và Phi nhân. Giải thích: Trong tịnh độ thật ra không có những chúng sinh nầy, nhưng muốn khiến cho bất không cho nên Phật hoá ra các tạp loại như vậy. Câu nầy thuyết minh quyến thuộc tròn đầy và thanh tịnh. Nếu có chúng sinh như vậy, thì các Bồ-tát lấy gì cho chúng ăn? Luận nói: Chỗ trì đại pháp vị hỷ lạc. Giải thích: Mười hai bộ Kinh của Đại thừa gọi là Đại pháp, lấy chân như giải thoát làm vị, duyên pháp vị nầy mà sinh hỷ lạc của các Bồ-tát, trưởng dưỡng năm phần Pháp thân của các Bồ-tát. Câu nầy thuyết minh trì Đại thừa. Pháp vị thực nầy khởi những nghiệp gì? Luận nói: Tất cả chúng sinh, tất cả sự lợi ích làm dụng. Giải thích: Phàm phu và ba thừa gọi là hết thảy chúng sinh. Tùy- chúng sinh có thể vì thuyết chánh giáo, khiến cho như nói đó mà tu hành, lìa bốn ác đạo, lìa sinh tử, lìa hành tự ái của Nhị thừa, nên gọi là tất cả lợi ích. Câu nầy thuyết minh nghiệp tròn đầy và thanh tịnh. Nếu Bồ-tát đối với chúng sinh hành các nghiệp như vậy thì năng hành và hành xứ được lợi ích gì? Luận nói: Chỗ lìa tất cả tai hoạ phiền não. Giải thích: Tập đế của ba cõi gọi là tất cả phiền não. Khổ đế của ba cõi gọi là tất cả tai hoạ. Cả hai thứ nầy đều lìa có thể hành hạnh và xứ. Câu nầy thuyết minh sự lợi ích tròn đầy và thanh tịnh. Nếu các pháp như vậy, có các thứ kinh sợ khác hay không? Luận nói: không phải chỗ hành xứ của tất cả ma. Giải thích: Trong tịnh độ không có ấm ma, phiền não ma, tử ma, thiên ma, nên lìa hết thảy sợ hãi. Câu nầy thuyết minh không sợ hãi tròn đầy và thanh tịnh. Nếu trong tịnh độ không có tất cả sợ hãi, thì chỗ thọ dụng pháp của sáu căn đều có đủ hay không? Luận nói: Hơn tất cả trang nghiêm, Như Lai trang nghiêm y xứ. Giải thích: Không phải chỉ có tất cả sự thọ dụng đầy đủ tối thắng vô song, nhưng còn là sự chiêu cảm hành nhân phước đức và trí tuệ viên mãn của Như Lai, thắng báo của Như Lai y chỉ tại xứ nầy do đó mà tối thắng. Câu nầy thuyết minh trụ xứ tròn đầy và thanh tịnh. Trong tịnh độ lấy pháp gì làm đường đi ra vào? Luận nói: Đại niệm tuệ hạnh xuất ly. Giải thích: Chánh pháp của Đại thừa gọi là đại pháp. Trong đại pháp thì Văn tuệ gọi là niệm, Tư tuệ gọi là tuệ, tu tuệ gọi là hạnh. Ba pháp nầy đối với cõi tịnh là đường đi qua lại, cho nên gọi là xuất ly. Câu nầy thuyết minh đường tròn đầy và thanh tịnh. Nếu có đường nầy thì lấy pháp gì để làm xe? Luận nói: Đại Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na làm thừa (xe). Giải thích: Năm trăm định trong Đại thừa gọi là Xa-ma-tha, trí như lý như lượng gọi là Tỳ-bát-xá-na, lấy hai thứ nầy làm cổ xe. Câu nầy thuyết minh cổ xe tròn đầy và thanh tịnh. Nếu có cổ xe nầy, thì từ cửa nào đi vào? Luận nói: Đại không, vô tướng, vô nguyện, giải thoát môn mà vào xứ. Giải thích: Ba giải thoát môn trong Đại thừa, một thể do vô tánh cho nên không. Vì không cho nên vô tướng, vì vô tướng cho nên vô nguyện, hoặc đến môn nầy mà được vào Tịnh độ. Câu nầy thuyết minh môn viên tịnh. Địa luân của thế gian và thế giới nương vào Thuỷ luân, Thuỷ luân nương vào Phong luân, Tịnh độ nương vào pháp nào? Luận nói: Là chỗ vô lượng công đức tụ, trang nghiêm Đại liên hoa vương làm y chỉ. Giải thích: Lấy hoa sen lớn thí dụ chỗ làm rõ pháp giới chân như của Đại thừa. Hoa sen tuy trong bùn nước, nhưng không bị bùn nước làm nhiễm ô. Lại nữa, tánh của hoa sen tự mở ra, là thí dụ cho tự mở ra của tánh Chân như. Chúng sinh nếu chứng tánh nầy thì đều được giác ngộ. Lại nữa, hoa sen là chỗ hút nhụy của bầy ong, thí dụ cho pháp giới chân như là chỗ dụng của Thánh chúng. Lại nữa, hoa sen có bốn đặc tính: Hương. 2.Tịnh. 3.Nhu nhuyễn. 4.Khả ái, để thí dụ cho pháp giới chân như tổng có bốn đức là thường lạc ngã tịnh. Trong nhiều hoa, là tối đại tối thắng cho nên gọi là chúa, để thí dụ cho pháp giới chân như tối thắng trong tất cả pháp. Hoa nầy làm chỗ trang nghiêm của vô lượng sắc tướng công đức tụ, có thể làm chỗ y chỉ của tất cả pháp, để thí dụ pháp giới chân như làm chỗ trang nghiêm của vô lượng công đức xuất thế. Pháp giới chân như có thể làm chỗ y chỉ của tịnh độ. Lại nữa, sự chiêu cảm hoa sen báu của nguyện lực Như Lai trong các hoa là tối đại tối thắng cho nên gọi là chúa. Chỗ trang nghiêm của vô lượng sắc tướng công đức, có thể làm chỗ y chỉ của tịnh độ. Câu nầy thuyết minh y chỉ tròn đầy thanh tịnh. Trong tịnh độ, pháp nào là trụ xứ của Như Lai? Luận nói: Đại bảo trùng các, Như Lai trụ trong đó. Giải thích: Đây là thuyết minh riêng trụ xứ của Như Lai. Như thế gian thọ dụng khí thế giới, có vô lượng lỗi. Nếu thọ dụng tịnh độ thì có công đức gì ? Luận nói: Như vậy tịnh độ thanh tịnh làm rõ sắc tướng tròn đầy thanh tịnh, hình mạo viên mãn thanh tịnh, lượng viên mãn thanh tịnh, xứ viên mãn thanh tịnh, nhân quả viên mãn thanh tịnh, chủ viên mãn thanh tịnh, trợ viên mãn thanh tịnh, quyến thuộc viên mãn thanh tịnh, trì nghiệp tròn đầy thanh tịnh, lợi ích viên mãn thanh tịnh, không sợ hãi viên mãn thanh tịnh, trụ xứ viên mãn thanh tịnh, đường đi tròn đầy thanh tịnh, cổ xe viên mãn thanh tịnh, môn viên mãn thanh tịnh, y chỉ viên mãn thanh tịnh. Do văn cú trước, các thứ viên mãn thanh tịnh như vậy đều được hiển hiện. Lại nữa, thọ dụng như vậy tịnh độ thanh tịnh, hoàn toàn tịnh, hoàn toàn lạc, hoàn toàn không lỗi, hoàn toàn tự tại. Giải thích: Hằng không tạp uế cho nên nói hoàn toàn tịnh. Chỉ thọ diệu lạc không khổ không xả cho nên nói hoàn toàn lạc. Chỉ là toàn thiện không có ác và vô ký cho nên nói hoàn toàn không lỗi, tất cả sự đều không quán ngoại duyên, đều do nội tâm tạo thành cho nên nói hoàn toàn tự tại. Lại nữa, nương vào thanh tịnh lớn lao mà nói hoàn toàn tịnh, nương vào sự an vui lớn mà nói hoàn toàn lạc, nương vào sự tồn tại vó đại mà nói hoàn toàn không mất, nương vào đại ngã mà nói hoàn toàn tự tại. Nếu Bồ-tát niệm phú lạc của Như Lai thì nên như vậy mà biết. Luận nói: Lại nữa, pháp giới của chư Phật hằng thời phải thấy có năm nghiệp. Giải thích: Trong đây phải thuyết minh nghiệp của Pháp thân, nhưng nói “pháp giới của chư Phật” là vì muốn làm rõ Pháp thân hàm chứa năm nghóa của pháp giới cho nên chuyển gọi là pháp giới. năm nghóa: 1. Tánh nghóa, lấy vô nhị ngã làm tánh. Tất cả chúng sinh đều không vượt qua tánh nầy. 2.Nhân nghóa, là các pháp tứ niệm xứ của tất cả Thánh nhân đều duyên pháp nầy mà sinh trưởng. 3. Tạng nghóa, là chỗ ẩn nấp của tất cả pháp hư vọng, không phải chỗ có thể duyên đến của phàm phu và Nhị thừa. 4.Nghóa chân thật, là vượt qua thế gian pháp. Thế gian pháp hoặc tự nhiên mà hoại, hoặc do đối trị mà hoại, nghóa chân thật lìa hai thứ hoại nầy. 5.Thậm thâm nghóa, nếu cùng với nghóa nầy tương ưng thì tự tánh trở thành tịnh thiện, nếu bên ngoài không tương ưng thì tự tánh trở thành chê trách. Do Pháp thân hàm chứa năm nghóa của pháp giới, chư Bồ-tát phải thấy Pháp thân hằng cùng với năm nghiệp tương ưng không có lúc nào tạm lìa. Luận nói: 1.Cứu tại hoạ làm nghiệp. Do chỉ có các tai hoạ tật bệnh phiền não hiện tại đui, điếc, cuồng… có thể diệt trừ. Giải thích: Đây là thuyết minh lực đại bi, nếu là định nghiệp báo của chúng sinh, thì Như Lai trong đó không có tự tại, điều nầy giải thích như trước. Nếu là bất định nghiệp báo, hoặc tội lỗi hiện tại, hoặc có đối trị nghiệp, chúng sinh như vậy nếu đến chỗ Phật, thì tác ý và bất tác ý của Như Lai đều có khả năng khiến họ lìa những tai hoạ nầy. Luận nói: 2. Cứu tế ác đạo làm nghiệp. Từ ác xứ dẫn ra, an lập nơi thiện xứ. Giải thích: Đây là thuyết minh lực chánh hạnh. Tác ý và bất tác ý của Như Lai, nếu tất cả chúng sinh đều đến chỗ Phật thì đều dứt ác hành thiện. Luận nói: 3.Cứu tế hạnh phi phương tiện làm nghiệp. Các gia hạnh phi phương tiện của ngoại đạo, hàng phục và an lập vào chánh giáo của Phật. Giải thích: Đây là thuyết minh oai đức lực. Các ngoại đạo phần nhiều hành phi phương tiện, hoặc thường thấy ngoại đạo phần nhiều hành khổ hạnh vì kế chấp có đời vị lai, hoặc ngoại đạo đoạn kiến phần nhiều hành lạc hạnh vì kế chấp không có đời vị lai, hoặc nghó rằng trời tự tại là đạo, hoặc nghó rằng ngã là đạo, hoặc nghó rằng tự tánh là đạo, hoặc nghó rằng ngã trong tự tánh là đạo. Các thứ tư duy như vậy đều là phi phương tiện hạnh. Như Lai dùng thông tuệ dẫn dắt, hàng phục cống cao ngã mạn đó, dùng ký tâm để dẫn dắt và hàng phục bất tín của họ, dùng chánh giáo dẫn dắt và hàng phục tà kiến của họ. Khi đã hàng phục, thì tùy theo căn tánh của họ mà an lập vào ba thừa chánh giáo. Luận nói: 4.Cứu tế hạnh thân kiến làm nghiệp. Vì vượt qua ba cõi, có thể làm rõ chỉ dẫn phương tiện của Thánh đạo. Giải thích: Đây là thuyết minh lực phương tiện, hết thảy chúng sanh trong ba cõi không có lìa thân kiến. Thân kiến, hoặc là chỗ thành của nhiều vật. Thể thì vô thường cho nên gọi là thân, là chỗ làm thành của năm ấm hoà hợp cho nên gọi là vật. Khi chưa có hữu tồn tại thì đã có diệt, cho nên gọi là vô thường. Ngoại đạo đối với nhiều kế chấp là một, đối với vô thường chấp thường, cho là một là thường là ngã. Vì phá tà kiến cũng chẳng phải một chẳng phải thường nầy cho nên gọi là thân kiến. Nếu lìa thân kiến thì được vượt qua tập ba cõi, vượt qua khổ ba cõi. Nói chánh giáo gọi là hiển. Sanh ba tuệ kia là dẫn đường. Từ khổ pháp nhẫn trở đi cho đến A-la-hán quả thì gọi là Thánh đạo, từ khi xuất gia thọ giới cho đến thế đệ nhất pháp là phương tiện Thánh đạo, hiển thị đạo khiến cho tu phương tiện đắc Thánh đạo, lại Như Lai khiến cho chúng sanh lìa thân kiến ra khỏi ba cõi. Đó chưa phải là chơn thật Thánh đạo, mà chỉ là Thánh đạo phương tiện, trước làm rõ chỉ dẫn khiến cho tu phương tiện Thánh đạo, để làm nhân duyên đắc chân thật Thánh đạo. Luận nói: 5.Cứu Tế thừa làm nghiệp. Chư Bồ-tát muốn hành riêng thừa khác, và Thanh-văn chưa quyết định căn tánh, có thể an lập các vị đó tu hành Đại thừa. Giải thích: Đây là thuyết minh chân thật giáo lực. Thừa thì có nhân và pháp. Nhân thì có người Đại thừa và người Tiểu thừa, pháp thì có phương tiện thừa pháp và chánh thừa pháp, chuyển phương tiện thừa tu trị chánh thừa gọi là cứu tế thừa. Kinh Ma-ha Bát-nhã nói: Thừa có ba nghóa: 1.Tánh nghóa. 2.Hạnh nghóa. 3.Quả nghóa”, là chỗ làm rõ ba vô tánh của Nhị không. Chân như gọi là tánh, do tánh nầy mà tu mười độ mười địa gọi là hạnh. Do tu hạnh nầy mà chứng đắc tứ đức rốt ráo Thường lạc ngã tịnh gọi là quả. Lại nữa, Trung Biên Luận nói thừa có năm nghóa: 1. Xuất ly làm thể, gọi là chân như. 2. Phước tuệ làm nhân có thể dẫn xuất. 3. Chúng sinh làm nhiếp, như căn tánh nhiếp cho nên khiến đến cực quả. 4. Vô thượng Bồ-đề làm quả, hành rốt ráo đến quả nầy. 5. Ba hoặc làm chướng, trừ ba hoặc nầy thì thành bốn nghóa trước. Chư Bồ-tát trong mười tín vị, tu hạnh lớn chưa kiên cố, còn nhiều sự chán sợ sinh tử, tâm từ bi đối với chúng sinh cũng còn mỏng yếu, vui muốn bỏ bản nguyện Đại thừa để tu đạo Tiểu thừa, cho nên nói “muốn hành riêng thừa khác”, Tiểu thừa là nói Thanh-văn, nếu đắc tín… năm căn thì không gọi là định căn, vì chưa đắc Thánh quả. Nếu đắc vị tri dục tri… ba căn thì gọi là định căn, vì đắc Thánh đạo. Nếu đến đảnh vị thì không gọi là định tánh, vì chưa thoát khỏi bốn ác đạo. Nếu đến nhẫn vị thì gọi là định tánh vì đã thoát khỏi bốn ác đạo. Nếu nương Tiểu thừa giải thích, căn tánh chưa quyết định thì có thể chuyển Tiểu thừa thành Đại thừa. Nếu căn tánh đã quyết định thì không thể chuyển được. Thanh-văn như vậy thì không có nghóa chuyển Tiểu thừa thành Đại thừa. Như thế nào mà được nói là Nhất thừa? Hiện tại nương vào Đại thừa giải thích, khi chưa chuyên tu Bồ-tát đạo, thì đều gọi là căn tánh chưa quyết định, tất cả Thanh-văn đều có thể chuyển thành Đại thừa, an lập người Đại thừa và người Tiểu thừa như vậy, để khiến cho tu hành Đại thừa. Luận nói: Trong năm nghiệp như vậy, phải biết chư Phật Như Lai cùng chung nghiệp này. Giải thích: Chúng sinh ở thế gian đối với năm nghiệp thì không đồng. Năm nghiệp của chư Phật thì không có gì mà không đồng nghóa. Luận nói: Trong đây nói kệ. Giải thích: Muốn làm rõ nghiệp của bất đồng chúng sinh, chư Phật thì đồng nghiệp cho nên nói kệ. Luận nói: Nhân, y, sự, ý và các hành, Vì khác nhau mà nghiệp khác nhau. Giải thích: Đây là thuyết minh năm nghiệp bất đồng của chúng sinh: 1. Nhân bất đồng. 2. Y bất đồng. 3. Sự bất đồng. 4. Ýù bất đồng. 5. Hành bất đồng. Nhân bất đồng là như nhân riêng thành địa ngục, nhân riêng thành trời, nhân riêng thành cõi người, ngạ quỷ, súc sinh cũng như thế, do nhân bất đồng cho nên tạo nghiệp bất đồng. Y bất đồng, y tức là thân, do thân bất đồng cho nên tác nghiệp bất đồng. Sự bất đồng như trong cõi người, hoặc mua bán, hoặc cày cấy, hoặc sự thờ vua quan, các sự như vậy bất đồng cho nên nghiệp bất đồng. Y bất đồng là tất cả căn dục tánh của chúng sinh gọi là Y. Tất cả những thứ nầy bất đồng cho nên nghiệp bất đồng. Hành bất đồng, là sắc… năm ấm gọi là các hành, trong sắc ấm như chỗ tạo tác của lửa khác với chỗ tạo tác của nước… chỗ tác của thọ khác với chỗ tạo tác của tưởng… cho nên nghiệp bất đồng. Do năm sự nầy, nên người kia làm không phải sự tạo tác của người nầy. Người ngu và người trí của thế gian đều thừa nhận nghiệp của nó có khác nhau. Luận nói: Năm loại khác nhau, Phật không có, Đưa dẫn thế gian đồng một nghiệp. Giải thích: Năm sự trước đối với chư Phật đều không có. Tại sao vậy? Chư Phật nhân đồng nhau, vì đồng tu hạnh phước đức và trí tuệ. Chư Phật Y đồng nhau, vì đồng một Pháp thân. Sự của Phật đồng nhau, vì đồng có việc tự lợi và lợi tha của chư Phật ý đồng, vì đồng có ý an lạc lợi ích chúng sinh. Chư Phật không có Chư hành nào đồng, vì đồng ra khỏi pháp hữu vi. Do không có năm sự sai biệt nầy cho nên đều đồng một nghiệp. Do đại bi dẫn đường chúng sinh đều hướng đến Niết-bàn cho nên gọi là đưa dẫn thế gian. Luận nói: Nếu như thế thì không phải chỗ đắc chung của Thanh- văn và Độc giác. Như vậy nhiều đức tương ưng với Pháp thân của chư Phật, thì chư Phật lấy ý gì mà nói chúng sinh kia đều nhắm tới Nhất thừa đồng với Phật Thừa”? Giải thích: Nếu chư Phật không có năm sự trước khác nhau, do Pháp thân mà năm sự đều đồng. Người Nhị thừa có năm nghiệp khác nhau, không đắc Pháp thân, không có năm nghiệp đồng nhau, Như Lai vì nghóa gì mà nói người Nhị thừa đồng nhắm tới Nhất thừa đều được thành Phật? Luận nói: Trong đây nói Kệ. Giải thích: Vì làm rõ nói ý Nhất thừa cho nên nói kệ. Kệ trước lấy việc rõ nghóa nói Nhất Thừa, kệ sau lấy nghóa bí mật nói Nhất Thừa. Luận nói: Thanh-văn chưa định tánh, Và chư Bồ-tát khác, Nơi Đại thừa dẫn dắt, Định tánh nói Nhất Thừa. Giải thích: Có các Thanh-văn, đối với căn tánh Tiểu thừa chưa quyết định, muốn dẫn cho tin thọ Đại thừa, nhiếp khiến cho tu hành Đại thừa, tức là chưa đắc thì khiến cho đắc, đã đắc thì giúp cho không thoái chuyển. Tại sao hàng Thanh-văn đó chưa bỏ đạo Tiểu thừa, đối với Đại thừa mà nhập Niết-bàn? Phật vì ý nầy mà Ngài nói Nhất thừa, dẫn dắt khiến cho nhập trụ Đại thừa. Luận nói: Và dẫn dắt các Bồ-tát khác đối với Đại thừa. Giải thích: Có các Bồ-tát đối với căn tánh Đại thừa chưa quyết định, làm sao an lập họ đối với Đại thừa, muốn bỏ Đại thừa, đối với Tiểu thừa mà nhập Niết-bàn? Vì ý nầy cho nên Phật nói Nhất Thừa, dẫn dắt khiến cho nhập trụ Đại thừa. Luận nói: Định tánh nói Nhất thừa. Giải thích: Có các Bồ-tát, đối với Đại thừa căn tánh đã quyết định, không có ý thoái lui, Phật nói vì Bồ-tát nầy nói Nhất thừa. Luận nói: Pháp vô ngã giải thoát, Pháp đồng, tánh bất đồng, Đắc hai ý Niết-bàn, Nói cứu cánh Nhất Thừa. Giải thích: Do pháp, do vô ngã, do giải thoát cho nên nói Nhất thừa. Pháp trong đây tức là chân như. Tất cả ba thừa đều không lìa chân như, là chỗ xứng với thừa pháp của các pháp kia. Do chân như pháp đồng nhau cho nên nói tất cả pháp của Nhất thừa chỉ có pháp không có nhân (người). Nếu người thật không có thì làm sao phân biệt? Người nầy là Thanh-văn, người nầy là Độc giác, người nầy là Bồ-tát? Phân biệt như vậy không đúng đạo lý! Do nghóa vô ngã đồng nhau cho nên nói Nhất thừa. Người ba thừa đồng giải thoát hoặc chướng, như Phật nói giải thoát cùng với giải thoát không có sai biệt. Do nghóa của diệt hoặc đồng nhau cho nên nói ba nghóa của Nhất Thừa. Vì đồng nhau cho nên nói pháp đồng. Luận nói: Tánh bất đồng. Giải thích: Có người Nhị thừa, đối với thừa mình mà căn tánh bất đồng, người nầy tuy cầu Nhị thừa đạo, nhưng chưa đắc Nhị thừa. Do căn tánh Nhị thừa chưa quyết định, có thể chuyển thành căn tánh Đại thừa. Vì hoá độ người nầy cho nên nói Nhất thừa. Luận nói: Đắc hai ý Niết-bàn. Giải thích: Trong hai ý, ý thứ nhất gọi là ý bình đẳng đối với chúng sinh. Các hàng Thanh-văn đối với tất cả chúng sinh khởi ý như vậy, chúng sinh tức là ta, ta tức là chúng sinh. Do ý nầy mà chúng sinh kia đắc chánh giác tức là ta đắc chánh giác, ta đắc chánh giác tức là chúng sinh kia đắc chánh giác, như ta đáng giải thoát tự thân thì cũng đáng như vậy giải thoát giải thoát chúng sinh, vì ý như vậy cho nên nói Nhất Thừa. Ýù thứ hai gọi là ý bình đẳng với pháp, là các hàng Thanh- văn, Như Lai trong Kinh Pháp Hoa, thọ ký cho họ đã đắc Phật ý, chỉ đắc pháp như ý bình đẳng, chưa đắc Pháp thân của Phật. Nếu đắc pháp Như ý bình đẳng nầy thì chúng sinh kia khởi suy nghó thế này: Pháp Như của Như Lai tức là pháp Như của Ta. Do như vậy cho nên nói nhất Thừa. Lại nữa, pháp Hoa trong Đại Tập, có Các Bồ-tát tên đồng Tôn giả Xá- lợi-phất. Các Bồ-tát nầy được ý nầy, Phật vì thọ ký cho nên nói Nhất thừa. Lại nữa, Phật hoá làm Thanh-văn Xá-lợi-phất, vì họ mà thọ ký vì muốn khiến cho Thanh-văn căn tánh đã quyết định càng luyện tập căn tánh thành Bồ-tát. Thanh-văn căn tánh chưa quyết định khiến cho tu thẳng Phật đạo rồi từ Phật đạo mà nhập Niết-bàn. Như Phật nói: Ta nay đã biết rõ trong đời quá khứ, đã từng trải qua vô lượng vô số kiếp nương vào Thanh-văn thừa mà nhập Niết-bàn. Vì muốn chỉ rõ Tiểu thừa không phải là nơi cứu cánh, giúp họ bỏ Tiểu thừa mà cầu Đại thừa, cho nên hiện làm sự này. Do nghóa như vậy cho nên nói Nhất thừa. Luận nói: Nói cứu cánh Nhất thừa. Giải thích: Nếu nghóa thừa chỉ có Nhất thừa là thừa, còn các thứ không phải là thừa, thì nếu vượt qua thừa nầy, vì không có hạnh riêng. Các thừa khác có Thượng thừa được gọi là Phật Thừa. Do nghóa nầy, nếu thừa kia so với thừa nầy, thì thừa nầy vô đẳng, thừa kia diệt mất cho nên gọi là cứu cánh. Do nghóa nầy cho nên nói Nhất thừa. Luận nói: Ba đời chư Phật nếu chung một Pháp thân, thì tại sao số của thế gian đối với Phật bất đồng? Giải thích: chư Phật đã đồng đắc một Pháp thân, tại sao có ba đời? Lại còn có nhiều hơn nữa. Nếu có ba đời và nhiều hơn nữa, thì tại sao nói một? Luận nói: Trong đây nói kệ. Giải thích: Có nhân chứng cho chư Phật hoặc một hoặc nhiều, bây giờ vì muốn làm rõ nghóa nầy cho nên nói kệ. Hoặc một là sao? Luận nói: Vì trong một cõi không có hai, Đồng thời nhân thành không thể lường, Thứ tự thành Phật là phi lý, Một thời nhiều Phật nghóa nầy thành. Giải thích: Một pháp giới bình đẳng, chư Phật là chỗ làm rõ của pháp giới. Do pháp giới là một cho nên chư Phật là một. Kế đó trong một thời đối với một thế giới, không có hai Phật đồng thời xuất hiện cho nên nói hoặc là một. Thế nào hoặc là nhiều? Luận nói: Đồng thời nhân thành không thể lường. Giải thích: Trong một thời có vô số chư Bồ-tát, đồng thời tu hai hạnh phước đức trí tuệ, nhân đã thành thục. Nếu không đồng thời mà đắc quả Vô thượng Bồ-đề thì sự tu hành bị bỏ luống. Vì các Bồ-tát tu nhân, đồng thời thành tựu, đồng thời đắc quả. Trong một thời mà có nhiều Bồ-tát thành Phật thì không thể độ lượng. Nếu nói nhân thì tuy cùng thành, nhưng chắc chắn trước và sau thứ tự thành Phật. Nghóa đó không đúng. Tại sao vậy? Luận nói: Thứ tự thành Phật là phi lý. Giải thích: Các Bồ-tát không khởi nguyện như vậy: Ta đang chờ theo thứ tự thành Phật. Do nguyện cho nên nhân tuy thành tựu nhưng chờ thứ tự. Đã không có nguyện nầy thì tại sao nhân đồng thời thành thục, không đồng thời đắc quả? Tại sao nhiều người đồng thời tu nhân mà không quán thứ tự? Trong khi đắc quả thì quán thứ tự, cho nên nghóa nầy không có lý. Luận nói: Một thời nhiều Phật nghóa nầy thành. Giải thích: Câu nầy thuyết minh trong một thời, thì ở mười phương thế giới có vô lượng Phật đồng thời xuất thế. Nếu có Phật đã trải qua chứng nơi thế gian, chỉ có một Như Lai thì không có nghóa đồng thời xuất thế, tức nghóa đó không đúng. Kinh nói: Vô xứ, vô vị, Phi tiền, Phi hậu thì hai Như Lai A-la-ha Tam-miệu-tam Phật-đà xuất hiện nơi thế gian, có xứ, có vị thì một Như Lai xuất hiện nơi thế gian, ví như hai Chuyển luân vương không, được đồng thời cùng sinh một xứ. Kinh nầy vì đang nói về ba ngàn đại thiên thế giới không có hai Như Lai. Vì đang nói tất cả thế giới không có hai Như Lai, nên phải giải thích tường tận. Kinh nầy nói tất cả thế giới, tại sao vậy? Vì không nên chướng ngại giới hạn khả năng thù thắng của Thế Tôn. Chỉ có một vị Thế Tôn đối với tất cả xứ có năng lực vượt trội hơn hết. Nếu một vị Phật không thể đối với các xứ khác hoá độ chúng sinh thì chư Phật khác cũng phải không thể được. Lại có Kinh nói: Xá-lợi-phất! Nếu có người đến ông hỏi vầy: Đại đức Xá-lợi-phất! Trong lúc nầy có Sa-môn Bà-la-môn, cùng với Sa-môn Cù-đàm luôn bình đẳng đối với Vô thượng Bồ-đề hay không? Ông nghe câu hỏi nầy rồi nên đáp như thế nào? Xá-lợi-phất bạch Phật: Nếu có người đến chỗ của con mà hỏi như vậy, thì con sẽ đáp như thế này: Thiện nam tử! Trong lúc nầy không có Sa-môn Bà-la-môn cùng với Thế Tôn luôn bình đẳng đối với Vô thượng Bồ-đề. Tại sao vậy? Bạch Thế Tôn! Con đã nghe từ miệng an lành của Thế Tôn, từ sở đắc của Thế Tôn, vô xứ, vô vị, vô tiền, vô hậu thì hai Như Lai cùng xuất hiện nơi đời, hữu xứ, hữu vị thì chỉ có một Như Lai xuất hiện nơi đời. Nếu như thế tại sao trong Kinh phạm Vương, Phật nói: Chỉ có trong ba ngàn đại thiên thế giới, Ta tự tại thành tựu. Ngôn giáo như vậy là riêng có mật ý. Nếu Thế Tôn không khởi ý, chỉ có tâm vô công dụng trong tự tánh, đối với ba ngàn đại thiên thế giới, ngôn ngữ quang minh, năm thức… các sự tự nhiên được thành. Nếu tâm có công dụng thì vô biên thế giới là cảnh của Như Lai. Lại nữa, có các bộ khác nói, đối với các thế giới khác riêng có chư Phật xuất thế, tại sao vậy? Vì có vô lượng Bồ-tát đồng thời tu hành lục độ, nhân đã thành thục không thể tính đếm, nhưng không có đạo lý chư Phật trong một xứ, một thời cùng sinh, không có riêng pháp nào có thể chướng ngại Phật kia xuất thế tại xứ khác, cho nên quyết định biết tại thế giới khác, riêng có chư Phật xuất thế. Kinh nầy chứng minh chư Phật không đồng một thời xuất thế, ví như Chuyển luân vương, nay đang biện rõ Kinh nầy. Nếu Kinh nầy nói một thế giới thì một vị Phật xuất thế, thì không hại các xứ khác. Nếu nói tất cả thế giới một vị Phật xuất thế, thì các Chuyển Luân Vương khác nơi thế giới khác không phải được sinh, đã nói Chuyển Luân Vương không đồng thời sinh, ví như chư Phật, ông nếu thừa nhận thế giới khác riêng có Chuyển luân vương thì tại sao không thừa nhận chư Phật không xuất thế tại các thế giới khác? Phật xuất hiện nơi đời là niềm an vui lớn lao, tại sao không thừa nhận nơi nhiều thế giới có nhiều Phật xuất thế? Điều nầy không có lỗi. Thế gian có nhiều chúng sinh cùng với tối thắng lợi ích tương ưng, tại sao đối với một thế giới mà hai vị Phật không đồng thời xuất hiện? Vì vô dụng! Lại nữa, tùynguyện đời trước, cho nên Bồ- tát khi xưa khởi nguyện như vậy: Nguyện Ta đối với thế giới mù tối không có người đưa dắt đến nơi, được thành chánh giác, chiếu ánh sáng dẫn đường cho các chúng sinh ấy. Do nguyện nầy cho nên không có hai Phật đồng thời xuất hiện. Nếu như thế tại sao chỉ nói một Phật, không nói nhiều Phật? Vì khiến cho chúng sinh khởi cực tôn trọng và mau chóng tu hành. Tại sao vậy? Nếu chỉ đối với một Phật thì khởi tâm tôn trọng cực độ, là người khác thì không có đức như vậy, cũng có thể mau chóng tu hành chánh giáo của Như Lai. Tại sao vậy? Vì chư Phật nếu nhập Niết bàn thì chúng ta không có chỗ quy y. Cho nên kệ nói “Một thời nhiều Phật nghóa nầy thành. Luận nói: Làm sao biết được Pháp thân của chư Phật không phải hoàn toàn Niết-bàn, cũng không phải không hoàn toàn Niết-bàn? Giải thích: Có luận sư nói chư Phật Như Lai không vónh viễn nhập Niết bàn. Các bộ Thanh-văn thừa khác nói chư Phật Như Lai vónh viễn nhập Niết bàn. Hai thứ chấp nầy không phải là nói rõ nghóa, mà là chỗ làm rõ của mật ý. Luận nói: Trong đây nói kệ. Giải thích: Vì làm rõ nghóa nầy cho nên nói kệ. Luận nói: Do lìa tất cả chướng, Phải làm chưa rốt ráo, Phật hoàn toàn Niết-bàn, Không hoàn toàn Niết-bàn. Giải thích: Chư Phật đã vónh viễn giải thoát hoặc chướng và trí chướng, cho nên hoàn toàn Niết-bàn. Như Lai phải làm chánh sự chưa rốt ráo, tức là chúng sinh chưa thành thục thì khiến cho thành thục, đã thành thục thì khiến cho giải thoát. Hai sự nầy không thể bỏ phế, cho nên Như Lai hoàn toàn không Niết-bàn. Nếu như Nhị thừa hoàn toàn Niết-bàn thì bản nguyện của Như Lai chỉ có nguyện mà không có quả. Nếu nói rõ nghóa thì phải nói có Niết-bàn, có không có Niết-bàn. Luận nói: Tại sao thân thọ dụng không thành thân tự tánh? Giải thích: Ứng thân không thành Pháp thân là hợp đạo lý. Ứng thân thành Pháp thân là phi đạo lý. Phi nghóa nầy làm sao biết được? Luận nói: Do sáu thứ nhân. Giải thích: Có sáu thứ nhân chứng minh là phi nghóa. Luận nói: 1. Do sắc thân và hành thân hiển hiện. Giải thích: Mười nhập là sắc thân. Thọ… là hành thân. Chư Phật lấy pháp chân như làm thân. Sắc và hành trong Pháp thân là không nắm bắt, Ứng thân thì không như vậy. Nghóa nầy như thế nào? Tất cả trí, đại định, đại bi… là công đức hằng hà sa số của Như Lai, tuy nương vào Pháp thân, nhưng nếu khi hiển hiện thì không lìa Hóa thân. Hóa thân nầy tương tự Phật, khác với tất cả chúng sinh, làm sự tướng của Ứng thân, cho nên sắc và hành đối với Ứng thân là có, đối với Pháp thân thì không có, do đó Ứng thân không thành Pháp thân. Đạo lý đúng trở thành đạo lý sai. Luận nói: 2. Do vô lượng xứ đại tập sai biệt hiển hiện. Giải thích: Ứng thân có sai biệt, là do sự tập hợp của đệ tử Phật có sai biệt. Ứng thân có thể tập hợp chúng đệ tử của chư Bồ-tát, Pháp thân thì không như vậy. Tại sao vậy? Vì thông tuệ lớn có thể tập hợp chúng Bồ-tát. Thông tuệ lớn tức là Ứng thân, có thể thuyết chánh pháp, lập nghóa, giải thích nghi, đây là công dụng của Bát-nhã. Bát-nhã tức là Ứng thân. Ngày đêm sáu thời quán căn tánh của chúng sinh, đến chỗ chúng sinh làm việc lợi ích là công dụng của đại bi. Đại bi tức là Ứng thân. Nếu cho Ứng thân là Pháp thân thì không thể tập hóa Bồ tát. Nếu cho Pháp thân là Ứng thân thì chư Phật không phải thường tru. Do sai biệt nầy hiển hiện cho nên Ứng thân không phải Pháp thân. Luận nói: 3.Tùydục lạc kiến của kia, hiển hiện tự tánh bất đồng. Giải thích: Kia là nói vô lượng Bồ-tát. Dục lạc là quán các đức của Như Lai, chỉ nương vào Ứng thân mà quán. Tùydục lạc đó mà sự thấy nhiều đức hiển hiện không đồng. Như vậy, tự tánh của Ứng thân bất định, vì nhiều chủng loại. Pháp thân không như thế, cho nên Ứng thân không thành Pháp thân. Lại có Kinh khác làm chứng Ứng thân tùy theo dục lạc của chúng sinh mà hiện tướng không đồng. Tại sao vậy? Vì có chúng sinh đối với Ứng thân muốn thấy sắc vàng sắc xanh… và lạc thọ xả thọ… thức và vô thức… các thức bất đồng đều được thành. Kinh làm rõ tự tánh của Ứng thân bất định. Pháp thân thì không như thế, cho nên Ứng thân không thành Pháp thân. Luận nói: 4. Biệt dị biệt dị kiến, tự tánh biến động hiển hiện. Giải thích: Có một chúng sinh, trước thấy tướng dị biệt của Ứng thân nầy hiển hiện, sau đó chúng sinh nầy thấy lại có dị biệt tướng nữa hiển hiện, như một người thấy không đồng, các chúng sinh khác thấy cũng như thế, để thành thục thiện căn cho chúng sinh nầy, trước hết là hiện tướng thô, kế đó hiện tướng trung bình và sau cùng là hiện tướng vi diệu. Ứng thân có tướng biến động đó. Pháp thân thì không như thế, cho nên Ứng thân không thành Pháp thân. Luận nói: 5. Bồ-tát, Thanh-văn, Thiên… khi chủng chủng đại tập xen tạp lẫn nhau hoà hợp thì sự xen lẫn hiển hiện. Giải thích: Ứng thân hằng thời, do nhiều loại vân tập xen lẫn nhau khi nghe pháp của Bồ-tát. Ứng thân có ba thứ tạp lẫn: 1.Tất cả chúng sinh mỗi mỗi đều thấy Phật, đều đối với trước đó, cho nên gọi là tạp lẫn. 2.Tùy vô lượng chúng sinh sắc tướng bất đồng, Phật giống như sắc tướng đó cho nên gọi là tạp lẫn. 3. Tùy chỗ thích nghi của căn tánh chúng sinh, đại trí, đại định và đại bi có vô lựong sự ứng dụng, cho nên gọi là tạp lẫn. Ứng thân có tạp lẫn nầy, Pháp thân thì không như thế. Nếu lấy Pháp thân làm Ứng thân thì Phật không có sự lợi ích cho chúng sinh. Nếu lấy Ứng thân làm Pháp thân thì Phật không có nghóa hiện đời an lạc, vì hằng náo động không tịch tónh, cho nên Ứng thân không thành Pháp thân. Luận nói: 6. A-lê-da thức và sinh khởi thức thấy chuyển y, là phi đạo lý. Giải thích: A-lê-da thức và sinh khởi thức tức là thân thọ dụng. Hai thức nầy chuyển y gọi là Pháp thân. Nếu thân tự tánh tức là thân thọ dụng thì hai thức chuyển y nầy đắc thân gì? Do đây mà phi đạo lý! Vì thân thọ dụng không thành thân tự tánh. Nếu thân thọ dụng là thân tự tánh thì không có các đức của đại trí. Do đều có các đức, cho nên thân tự tánh không thành thân thọ dụng. Luận nói: Cho nên thân thọ dụng không có đạo lý thành thân tự tánh. Giải thích: Do sáu nhân nầy chứng biết nghóa của đạo lý và phi đạo lý. Luận nói: Thế nào là thân biến hóa không thành thân tự tánh? Giải thích: Thân biến hóa không thành Pháp thân là đạo lý đúng. Thân biến hóa thành Pháp thân là đạo lý sai. Nghóa đúng và sai làm sao biết được? Luận nói: Do tám thứ nhân. Giải thích: Có tám thứ nhân làm chứng nghóa đúng và sai. Luận nói: 1.Chư Bồ-tát từ lâu xa đến nay, đắc không thoái chuyển Tam-ma-đề, trong cõi trời Đâu-suất-đà và cõi người thọ sinh. Đạo lý nầy không đúùng”! Giải thích: Bồ-tát từ sơ địa cho đến mười địa trải qua ba mươi đại kiếp A-tăng-kỳ, đắc năm trăm thứ định bất thoái chuyển, lìa dục của ba cõi đã lâu thì không có đạo lý nào mà sinh vào cõi trời, huống chi có đạo lý đối với cõi người. Sinh vào chủng tộc Thích-ca vương để hoá độ chúng sinh hạ phẩm, mà hiện thọ thân người. Thân nầy không có nhân, nhưng đối với thế gian là có cho nên không phải quả báo thân và thân tự tánh, mà chỉ là thân biến hóa. Luận nói: 2.Chư Bồ-tát từ lâu xa đến nay hằng nhớ chỗ ở đời trước. Giải thích: Bồ-tát từ Sơ địa cho đến Thập địa, trong thời gian dài hằng nhớ mạng đời trước, chỗ đắc vô lượng kỹ năng trước kia đều không quên mất. Luận nói: Các sách luận về Phương thổ, kế toán, số lượng, ấn tướng và công xảo, trong hành dục trần và thọ dụng dục trần, nếu Bồ- tát không biết thì không đúng đạo lý”! Giải thích: Có sáu mươi bốn loại sách khác nhau nói về phương thổ; thừa số, trừ số… mười sáu phép tính về số lượng, lìa thừa số, trừ số… mười sáu thứ quán tụ mà biết số nhiều hay ít. Quán tụ thì biết lượng nhiều hay ít. Dùng mộc ấn in lên vật để làm tướng, hoặc tăng hoặc giảm, hoặc thủ giữ hoặc kén chọn. Sáu mươi bốn kỹ năng và mười tám minh xứ, sáu mươi bốn kỹ xảo bí thuật pháp của vua, chưa được khiến cho được, đã được khiến cho tăng trưởng, đã tăng trưởng thì phó chúc cho người thiện. Để hành dục trần, các sự trong lục trần như ca múa, hoà hợp, xiêm y, vui đùa… gọi là thọ dụng dục trần. Bồ-tát từ vô lượng kiếp đến nay, thường nhớ chỗ tu tập tất cả kỹ năng của đời trước đều không quên mất, không có đạo lý nào đối với các sự mà không biết không nhớ. Vì hoá độ chúng sinh mà làm rõ làm người hạ phẩm có thể chuyển thành thượng phẩm, làm rõ tự thân chưa có kỹ năng nầy cần phải tu học, cho nên thân nầy là thân biến hóa, không phải thân tự tánh không phải thân thọ dụng. Luận nói: 3.Chư Bồ-tát từ lâu xa đến nay, đã nhận biết giáo pháp tà chánh, mà còn đi thờ phụng làm thầy ngoại đạo, là không đúng đạo lý. Giải thích: Chư Bồ-tát đối với ba mươi ba đại kiếp A-tăng-kỳ, trong chánh hạnh tu chánh cần, phước đức và trí tuệ đều đã viên mãn, không có đạo lý nào mà đối với tối hậu thân, không hiểu rõ tà thuyết chánh thuyết khác nhau. Nếu không có hiểu biết nầy, khi đắc Phật quả thì hiểu biết pháp nào? Vì muốn hàng phục các ngoại đạo mà hiện làm sự nầy, do đó thân nầy là thân biến hóa, không phải hai thân kia. Luận nói: 4. Chư Bồ-tát từ lâu xa đến nay, đã thông đạt chánh lý của ba thừa của Thánh đạo, vì cầu đạo cho nên tu hạnh khổ hư vọng. Không đúng đạo lý”! Giải thích: Chư Bồ-tát từ ba mươi ba đại kiếp A-tăng-kỳ đến nay, đã thông đạt chánh lý của ba thừa Thánh đạo, lìa chấp đoạn và thường, không tu theo khổ hạnh hoặc ham vui, là chánh lý của Nhị thừa Thánh đạo. Bỏ chấp có chấp không, lìa tất cả phân biệt, tu chánh hạnh cảnh trí vô phân biệt, là chánh lý Thánh đạo của Bồ-tát. Khổ hạnh của ngoại đạo có thể diệt các pháp đã đắc nhưng không thể đắc các pháp chưa đắc, trong hai đời chỉ có tổn hại vô ích cho nên gọi là hư vọng, không có đạo lý nào mà Bồ-tát phải tập hành sự nầy, chỉ vì hoá độ chúng sinh mà làm rõ tu khổ hạnh, vì không có quả báo mà hiện hành sự nầy, do đó thân nầy là thân biến hóa, không phải hai thân kia. Luận nói: 5. Chư Bồ-tát xả năm trăm Câu-chi Diêm-phù-đề, nơi một xứ đắc Vô thượng Bồ-đề và Chuyển Pháp Luân. không đúng đạo lý” ! Giải thích: Khi Bồ-tát tu đạo, đầy khắp vạn ức Diêm-phù-đề thành thục vạn ức Diêm-phù-đề chúng sinh. Khi thành Phật thì phải thọ thân đầy khắp, nhưng quả báo thân chỉ nên có một, không nên có mhiều. Nếu như vậy tại sao không riêng nơi một thắng xứ mà thọ thân? Vì Hóa thân khắp tất cả xứ hành hoá độ, không có đạo lý nào mà xả vạn ức Diêm-phù-đề, để thiên về một Diêm-phù-đề mà thành Phật chuyển pháp luân. Vì hoá độ chúng sinh khiến cho biết Phật xuất thế mà hiện làm sự nầy, cho nên thân nầy là thân biến hóa, không phải hai thân kia. Luận nói: 6.Nếu lìa phương tiện làm rõ Vô thượng Bồ-đề, chỉ lấy Hóa thân đối với phương khác làm Phật sự, nếu như thế thì phải ở trên cõi trời Đâu-suất-đà mà thành chánh giác. Giải thích: Nếu ông chấp chỉ đối với một xứ Diêm-phù-đề đắc Vô thượng Bồ-đề, thì các xứ khác không có phương tiện nhập thai. Nơi xứ khác chỉ cần hiện Hóa thân làm Phật sự, tại sao không chấp như Bồ-tát này? Trên cõi trời Đâu-suất-đà đắc Vô thượng Bồ-đề, đối với các xứ khác hiện Hóa thân làm Phật sự, cho nên thân nầy là thân biến hóa, không phải hai thân kia. Luận nói: 7. Nếu không như thế tại sao Phật trong tất cả Diêm- phù-đề bình đẳng xuất hiện? Nếu không xuất hiện ở phương khác, thì không có A-hàm và đạo lý nào có thể làm chứng cho nghóa này. Giải thích: Nếu không ở trong cõi trời mà đắc Bồ-đề, thì phải đắc khắp tất cả, nhưng Bồ-tát đối với tất cả bốn thiên hạ, không khắp đắc Vô thượng Bồ-đề, chỉ đối với một xứ mà đắc, không có A-hàm và đạo lý nào có thể làm chứng cho nghóa nầy, cho nên thân nầy là thân biến hóa, không phải hai thân kia. Luận nói: 8. Hai Như Lai cùng hiện trong một thế giới, điều nầy không trái nhau, nếu thừa nhận Hóa thân thành nhiều thân. Giải thích: Một Sa-ha thế giới có hai Như Lai cùng xuất hiện, điều nầy cùng với nghóa không trái nhau. Tại sao vậy? Vì thừa nhận Hóa thân thành nhiều thân, nơi nơi có Hóa thân, điều nầy không có gì trở ngại, cho nên thân nầy là thân biến hóa, không phải hai thân kia. Luận nói: Do bốn thiên hạ nhiếp một thế giới, như Chuyển Luân Vương, đối với một thế giới hoặc là một chủ, hoặc là khác chủ đồng thời sinh, không đúng đạo lý ! Chư Phật cũng vậy”! Giải thích: Nhân theo chứng cứ nầy có thể nói có một thế giới như vậy. Trong một trăm Câu-chi thế giới, trong đó không thấy Phật, nếu ông nói như vậy thì trái với Kinh. Có thuyết như vậy là hai Phật không một lúc đồng thời trong tam thiên đại thiên thế giới, ví như Chuyển Luân Vương, trong đây ông phải phán đoán Kinh nầy đồng nghóa với Chuyển Luân Vương, như hai Chuyển Luân Vương trong một thế giới thì không được đồng thời sinh, không hại cho sự cùng sinh của thế giới khác. Hai Như Lai cùng sinh là phi đạo lý, thì nghóa phán đoán cũng vậy! Luận nói: Trong đây nói Kệ. Giải thích: Vì hiển nghóa cụ tướng Vô thượng giác cho nên nói kệ nầy. Luận nói: Phật vi tế Hóa thân, Đa nhập thai bình đẳng, Vì hiển đủ tướng giác, Nơi thế giới thị hiện. Giải thích: Phật trên cõi trời Đâu-suất-đà, giáng hạ thọ thai nơi Diêm-phù-đề, trong lúc đó Như Lai hoá làm tất cả Phật tử, cũng như sự thọ thai của Tôn giả Xá-lợi-phất… Nếu an lập tướng đầy đủ Vô thượng giác kia thì được hiển hiện. Nếu không có thừa dưới và thừa giữa thì không được hiển hiện Phật là Vô Thượng. Nếu không có trí tuệ cạn hẹp của Nhị thừa thì không được hiển Phật là tướng đầy đủ. Vì làm rõ nghóa nầy cho nên Hóa thân xuất hiện nơi đời, chư Phật Như Lai không phải hoàn toàn Niết-bàn. Bây giờ sẽ làm rõ nghóa nầy. Luận nói: Có sáu thứ nhân mà chư Phật Thế Tôn trong Hóa thân không được vónh viễn trụ. Giải thích: Có sáu nhân làm chứng cho Phật cần phải xả Hóa thân. Luận nói: 1.Chánh sự cứu cánh, vì thành thục giải thoát chúng sinh. Giải thích: chánh sự Hóa thân của Như Lai đã rốt ráo, Hóa thân không vónh viễn trụ, thành thục chúng sinh khiến cho được giải thoát, là chánh sự của Hóa thân, chúng sinh đã thành thục giải thoát, cho nên gọi là chánh sự cứu cánh. Luận nói: 2.Nếu đã đắc giải thoát, cầu bát Niết bàn, là khiến cho chúng sinh kia xả bỏ ý bát Niết bàn, muốn cầu đắc thân Phật thường trú. Giải thích: Nếu đã giải thoát các hoặc chướng, cầu Vô Dư Niết- bàn, thì chuyển đổi ý đó, muốn làm rõ Hóa thân không phải thật có cho nên xả Hóa thân, mà làm rõ riêng Pháp thân thường trú là chân thật có, phải chuyển tâm cầu Vô dư Niết-bàn của Tiểu thừa mà cầu Pháp thân thường trú. Hóa thân không vónh viễn trụ. Luận nói: 3.Vì trừ cái tâm khinh mạn của họ đối với Phật, nên giúp họ thông đạt pháp chân như sâu xa và pháp chân chánh. Giải thích: Họ là tất cả chúng sinh, cho rằng Phật có sinh lão bệnh tử không khác mình, cho nên khởi tâm khinh mạn Như Lai. Muốn khiến cho họ biết thân chân thật và thân giả danh của Như Lai, nên biết thân chân thật tức là pháp chân như và thuyết chánh pháp. Pháp chánh thuyết từ chân như pháp lưu xuất gọi là thân chánh thuyết. Hai thân nầy gọi là Pháp thân. Pháp nầy tối thậm thâm khó có thể thông đạt, không phải cảnh giới của người hạ vị. Nếu thông đạt thân nầy thì đối với Như Lai khởi tâm tôn trọng tuyệt đối. Thân giả danh tức là Hóa thân, hiển thân nầy là phân biệt sự tạo tác không phải chân thật có. Hóa thân không trụ vónh viễn. Luận nói: 4. Vì khiến chúng sinh đối với Phật thân khởi tâm khát ngưỡng, thấy luôn không chán đủ. Giải thích: Nếu hằng trụ một Hóa thân thì chúng sinh mới cảm thấy sinh khát ngưỡng, sau đó thì nhạt dần và hết khát ngưỡng. Nếu sắc hình đã cải biến các thứ hy hữu thì chúng sinh luôn luôn cảm thấy càng mới và khát ngưỡng thì không có chán đủ. Hóa thân không vónh viễn trụ. Luận nói: 5. Vì khiến cho họ hướng đến tự thân mà khởi tinh tấn tột đỉnh, do biết người chánh thuyết là bất khả đắc. Giải thích: Nếu Phật hằng trụ Hóa thân, thì chúng sinh không khởi tưởng rằng khó gặp Phật, cho nên Như Lai xả Hóa thân, khiến cho họ biết Phật không trụ lâu ở đời, mà dựng lại siêng năng hết sức, mau gấp độ tự thân không xét đến việc khác. Lại nữa, lấy tự thân làm chứng đúng sai của điều đó, gọi là nhắm vào tự thân, cho nên Hóa thân không trụ vónh viễn. Luận nói: 6.Vì khiến cho họ mau chóng đắc Chí thành thục vị, vì hướng tự thân không xả mà đảm đang tinh tấn tột đỉnh. Giải thích: Trước thuyết minh cho ai chưa tu chánh cần thì khiến họ tu chánh cần. Ở đây thì thuyết minh nếu đã tu chánh cần thì khiến họ không bỏ chánh cần, tu tập định tuệ mau chóng đắc viên mãn, cho nên Hóa thân không vónh viễn trụ. Luận nói: Trong đây nói Kệ. Giải thích: Vì nhiếp sáu nhân trước khiến cho người hay quên dễ được nhớ chắc, cho nên trung thuyết kệ. Luận nói: Do chánh sự cứu cánh, Vì trừ lạc Niết-bàn, Khiến bỏ khinh mạn Phật, Phát khởi tâm khát ngưỡng. Khiến hướng thân tinh tấn, Và vì mau thành thục, Chư Phật nơi Hóa thân, Không phải hoàn toàn trụ. Giải thích: Như Lai không vónh viễn nhập Niết bàn. Bây giờ sẽ làm rõ nghóa nầy. Luận nói: Vì độ tất cả chúng sinh, do phát nguyện và tu hành, tầm cầu Vô thượng Bồ-đề, hoàn toàn nhập Niết bàn. Sự nầy không đúng đạo lý”! Giải thích: Như Lai khi xưa trong địa nguyện lạc, vì độ chúng sinh mà phát các thắng nguyện, cầu Vô thượng Bồ-đề. Trong kiến vị… vì độ chúng sinh mà tu các thắng hạnh, tầm cầu Vô thượng Bồ-đề. Nếu đắc cực quả mà bỏ chúng sinh để nhập Niết bàn thì không đúng đạo lý! Tại sao vậy? Luận nói: Bản nguyện và tu hành, trái nhau không kết quả. Giải thích: Bồ-tát khi xưa vì độ chúng sinh, Phát nguyện và tu hành, khiến cho Ta trong tương lai thường có thể lợi ích tất cả chúng sinh, lợi ích chúng sinh tức là nguyện hạnh quả. Hiện tại đắc quả tối thượng, nếu bỏ chúng sinh để vónh viễn nhập Niết bàn thì trái với bản ý của nguyện tu hành. Nguyện hạnh chỉ có quả tự lợi ích, không có quả lợi tha. Như Lai không vónh viễn nhập Niết bàn, cho nên tương ưng với hữu quả. Luận nói: Lại nữa, thân thọ dụng và thân biến hóa là vô thường. Tại sao chư Phật lấy pháp thường trụ làm thân? Giải thích: Nếu Như Lai không vónh viễn nhập Niết bàn thì Như Lai lấy pháp thường trụ làm thân, thân thọ dụng và thân biến hóa không phải là thường, nếu là thường thì tại sao nói lấy pháp thường trụ làm thân? Luận nói: Do Ứng thân và Hóa thân hằng tựa vào Pháp thân. Giải thích: Pháp thân là gốc của hai thân kia. Gốc đã thường trụ, ngọn nương vào gốc mà hằng tồn tại tương tục, cho nên Ngọn cũng tương tục. Luận nói: Do Ứng thân không lìa bỏ. Giải thích: Như Lai tự viên mãn đức và lợi ích Chư Bồ-tát, hai sự nầy cùng với Như Lai hằng không lìa nha. Hai sự nầy tức là Ứng thân, cho nên phải thường trụ. Luận nói: Do số của Hóa thân khởi hiện. Giải thích: Hóa thân vì độ chúng sinh cho đến cùng tận sinh tử, không có thời gian của một sát-na nào mà không tương tục, thị hiện đắc Vô thượng Bồ-đề và nhập Niết bàn. Tại sao vậy? Vì chỗ độ chúng sinh hằng hữu, đại bi của Như Lai không bỏ phế, cho nên Hóa thân cũng là thường trụ. Luận nói: Như hằng thọ lạc, như hằng thí thực, hai thân Thường trụ phải như vậy mà biết. Giải thích: Vì hiển thị hai thân thường trụ cho nên dẫn hai sự nầy. Như thế gian nói người hằng thọ lạc, người hằng thí thực, không phải hai sự thọ lạc và thí thực liên tục vô gián mà gọi là đó là thường hằng, chỉ do hai nghóa gốc và sự không đoạn mà gọi là thường hằng. Hai thân cũng vậy, do hai nghóa gốc và sự không đoạn gọi là thường trụ. Luận nói: Nếu Pháp thân từ vô thủy không sai biệt, không có số lượng. Giải thích: Nếu Pháp thân vốn có từ vô thủy, thì đối với tất cả chúng sinh không có sai biệt, không thể độ lượng. Chư Phật do Pháp thân đối với tự lợi và lợi tha có đủ năng lực thù thắng. Chúng sinh vì đắc Pháp thân, dùng pháp nào để tinh tấn tu đạo? Luận nói: Vì đắc Pháp thân, không nên không khởi công dụng. Giải thích: Tuy không nên không khởi công dụng như thế, nhưng không có tự nhiên chứng đắc Pháp thân. Luận nói: Trong đây nói Kệ. Giải thích: Vì giải thích vấn nạn nầy, cho nên nói kệ. Luận nói: Chư Phật chứng bình đẳng vô lượng, Là nhân chúng sinh hoặc xả cần, Chứng đắc hằng lúc không thành nhân, Đoạn trừ chánh nhân, không đúng lý”! Chư Phật chứng đắc bình đẳng với vô lượng nhân đó. Giải thích: Phật quá khứ và hiện tại chứng đắc Pháp thân, chứng đắc không có cao thấp cho nên nói bình đẳng. Công đức có được không có giới hạn quyết định cho nên nói vô lượng. Chứng đắc như vậy là nhân chánh cần cầu đắc Pháp thân của chúng sinh. Luận nói: Chúng sinh hoặc nếu bỏ siêng năng. Giải thích: Chứng đắc nầy nếu chúng sinh bỏ nhân của chánh cần, thì như chỗ kế chấp như trước, là không phải tự mình siêng tu, mà do người khác độ giùm. Luận nói: Chứng đắc hằng lúc không thành nhân. Giải thích: Chư Phật chứng đắc Pháp thân thì tất cả là có. Nếu lìa tự mình siêng năng thì sự chứng đắc nầy không thành nhân tự chứng đắc. Tại sao vậy? Nếu là nhân thì từ xưa đến nay không trở lại phàm phu, đều do người khác độ giùm. Đã không có nghóa nầy cho nên tuy có chứng đắc nhưng không thành tự nhân. Luận nói: Đoạn trừ chánh nhân là không đúng đạo lý”! Giải thích: Chánh cần và chứng đắc tương ưng gọi là chánh nhân. Nếu trừ hai thứ nầy thì không đúng đạo lý. Lại nữa, nhân có hai thứ: 1. Phương tiện nhân. 2. Chánh nhân. Chư Phật chứng đắc là phương tiện nhân, vì thuộc người khác. Tự tu chánh cần là chánh nhân, vì nương vào tự thân. Nếu trừ bỏ chánh nhân mà lưu giữ nhân phương tiện, thì việc nầy không đúng đạo lý, vì không thể thành tựu sở nguyện của chính mình. Lại nữa, có Chư Bồ-tát, lấy từ bi trang sức tương tục, đối với chúng sinh khởi tâm niệm thương yêu, đều tưởng như con. Không khởi ý nầy là lợi ích sự của chúng sinh, nguyện cho người khác làm, tự ta không làm mà thường khởi ý đó. Nếu người khác hoặc làm hoặc không làm, thì tự ta chắc chắn phải làm. Nếu chúng sinh không xứng tâm Bồ-tát mà khởi chánh cần thì không được nghóa lợi ích của Bồ-tát, cho nên chánh cần là chánh nhân thứ nhất chứng đắc Pháp thân. Nhân nầy không thể đoạn trừ. Nếu đoạn trừ nhân nầy mà do nơi người khác đắc Pháp thân là sự không có. Luận nói: Trong Kinh A-tỳ-đạt-ma Đại thừa tạng gọi là nhiếp Đại thừa, đây là chánh thuyết cứu cánh. Do nương lời Phật và đạo lý, Nói luận vì tự được thanh tịnh, Vì lợi người trí tín chánh hạnh, Vì lập chánh pháp khiến trụ lâu. Nương chứng ánh sáng trăng bảo điện, Như người mắt sáng thấy nhiều màu, Nương Tam Giải tôn đủ trí bi, Thông đạt luận thuyết cũng như vậy. Hoặc nghóa chân thật xứng pháp cú, Giỏi trừ phiền não trong ngoài tâm, Hiển công đức của Niết-bàn đạo, Thánh ngôn thì đúng, ngoài đều sai. Nếu loạn nhân tâm nói như vậy, Có thể làm rõ Phật Vô thượng sư, Tùy thuận tư lương đạo Niết-bàn, Đầu đội lời nầy như Phật dạy. Đời không người tuệ giỏi hơn Phật, Đủ trí thông chân lý không sót, Là Phật tự hiểu pháp không động, Hoặc trái chánh pháp do Phật dạy. Nếu báng Thánh nhân và chánh pháp, Chỗ tạo kiến chấp mê của người, Trong đời nầy trí lìa ba nhiễm, Như áo nhuộm sạch không cấu bẩn. Trí độn lìa tín và pháp thiện, Pháp họa tà mạn không hết chấp, Tham lợi tà kiến thờ pháp oán, Lìa nguyện thù thắng chê chánh pháp. Nơi lửa rắn oán và sấm sét, Pháp hại đáng sợ, đây không sợ! Lửa rắn… chỉ hại mạng thế gian, Vô gián đáng sợ không do đây. Nếu người niệm niệm thờ bạn ác, Tà kiến, năm nghịch đoạn thiện căn, Nghó nên chóng lìa vô gián khổ, Chê pháp thì nhân nào giải thoát? Cõi báu như biết rõ đức nghiệp, Cú nghóa ta nói là sinh thiện, Nhân theo nguyện nầy thấy Di-đà, Do đắc tịnh nhãn thành chánh giác. Tổng nghóa mười bài kệ như vậy, vì làm rõ tổng nghóa nầy mà trùng thuyết ba bài kệ. Từ đây và vì đây, Do chỗ nói như vậy, Lưu nầy nói bốn kệ, Để hiển năm nghóa trước. Giữ phương tiện tự thân, Cho nên nói hai Kệ, Tổn pháp, nhân nói một, Tổn pháp, quả nói hai. Đến đại tập pháp nhẫn, Chứng Vô thượng Bồ-đề, Lược nói ba pháp nầy, Là trùng thuyết thắng quả. Tam tạng Pháp sư dịch giảng luận xong, nói ba bài kệ này: Nếu suy rõ nghóa luận, Người trí tin Tam bảo, Do hai căn, trí, tín, Được nhập chân như quán. Nên Ta theo bản ký, Dịch giải nhiếp Đại thừa, Phàm công đức có được, Hồi hướng làm ba năng (năng học). Cúng dường Phật, Pháp, Tăng, Hàng phục kẻ tà hành, Cứu bạt các khổ nạn, Nguyện năng nầy vô cùng.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 108