<經 id="n1593">LUẬN NHIẾP ĐẠI THỪA <藥>( QUYỂN 1 ~ 3 ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1593 LUẬN NHIẾP ĐẠI THỪA Tác Giả: Vô Trước Bồ-tát Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Chân Đế <卷>QUYỂN 1 <詞>PHẦN I: Y CHỈ THẮNG TƯỚNG PHẨM 1: CHÚNG DANH Nhiếp Đại Thừa Luận tức là A-tỳ-đạt-ma giáo và Đại thừa Tu- đa-la. Trước Phật Thế Tôn, Bồ-tát Ma-ha-tát khéo nhập cú nghóa của Đại thừa, vì muốn hiển thị Đại thừa có công đức thù thắng, dựa vào Đại thừa giáo mà nói những lời như vậy. Chư Phật Thế Tôn có mười tướng thù thắng, gọi là không ai bằng, vượt hơn các giáo khác. Mười tướng thù thắng là: Tướng thù thắng của chổ y chỉ vào tri (Trí) tương ứng. Tướng thù thắng của tri tương ứng. Tướng thù thắng của sự hội nhập tri tương ứng. Tướng thù thắng của sự hội nhập nhân quả. Nhập tướng thù thắng của sự hội nhập nhân quả và sự tu tập sai biệt. Tướng thù thắng của sự nương tựa vào giới mà tu tập sai biệt Tướng thù thắng của sự nương tựa tâm học. Tướng thù thắng của sự nương tựa tuệ học. Tướng thù thắng của quả học tịch diệt. Tướng thù thắng của trí sai biệt. Từ mười nghóa tướng thù thắng này, mà những gì Như Lai nói, vượt hơn các giáo khác. Như vậy giải thích văn cú của Tu-đa-la, làm sáng tỏ lý Đại thừa chính là Phật nói. Lại nữa, trong đây lược giải thích là thế nào? Là nhằm làm sáng lên sự cao vượt của Đại thừa, hơn mọi giáo khác. Hiện tại ở đây sơ lược giải thích mười nghóa này, chỉ có Đại thừa mới có, Tiểu thừa thì không có. Những gì là mười? A-lê-da thức gọi là tướng y chỉ của tri tương ưng. Nói có ba thứ tự tánh: 1.Tánh y tha. 2.Tánh phân biệt. 3.Tánh chân thật tánh, gọi là tướng của tri tương ứng. Nói Duy thức giáo gọi là tướng hội nhập tri tương ứng. Nói sáu Ba- la-mật gọi là tướng hội nhập nhân quả. Nói Bồ-tát mười địa gọi là tướng hội nhập nhân quả tu sai biệt. Nói những giới cấm mà Bồ-tát thọ trì là tướng giới học tu sai biệt. Nói các định Thủ-lăng-già-ma, hư không khí v.v…. gọi là tướng tâm học. Nói Vô phân biệt trí gọi là tướng tuệ học. Nói Vô trụ xứ Niết-bàn gọi là tướng quả Học tịch diệt. Nói ba loại Phật thân là Tự tánh thân, Ứng thân và Hóa thân, gọi là tướng quả Vô phân biệt trí. Như vậy nói mười thứ xứ này chỉ có trong Đại thừa, khác với Tiểu thừa cho nên nói là bậc nhất. Phật Thế Tôn chỉ vì Bồ-tát, nói mười nghóa này. Nương vào Đại thừa mà chư Phật Thế Tôn có mười tướng thù thắng, mà tướng nói ra ấy không tướng nào sánh bằng, vượt hơn các giáo pháp khác. Lại nữa, tại sao mười tướng thù thắng thắng này được nói ra không tướng nào sánh bằng, là có khả năng làm sáng tỏ lý lên Đại thừa. Bởi chính Như Lai thuyết để ngăn Tiểu thừa quyết định đây không phải Đại thừa, và trong Tiểu thừa chưa hề thấy giải thích một nghóa nào theo như trong mười nghóa này mà chỉ thấy giải thích trong Đại thừa. Lại nữa, mười nghóa này có thể dẫn đến Vô thượng Bồ-đề, thành tựu, tùy thuận và không trái nhau, vì các chúng sinh đắc nhất thiết trí, mà nói kệ rằng: Y, tướng của ứng tri (trí) Nhập nhân quả, tu khác Ba học và quả diệt, Nhiếp trí vô thượng thừa. Mười nghóa chỗ khác không, Thấy nhân Bồ-đề này, Đại thừa là Phật nói, Nên nói mười thắng nghóa. Tại sao mười nghóa nói thứ tự như vậy? Bồ-tát sơ học trước phải quán các pháp nhân duyên như thật. Do quán này nên đối với mười hai duyên sinh phải sinh thông tuệ, sau đó đối với pháp duyên sinh phải hiểu rõ thể tướng của nó. Do trí có thể lìa lỗi nhị biên tăng ích tổn giảm. Chánh tu như vậy, phải thông đạt sở duyên các tướng như thật, sau đó từ các chướng phải giải thoát. Kế đó tâm đã thông phải biết thật tướng, các sáu Ba-la-mật trước kia nay thành tựu thêm, khiến cho thanh tịnh không bị thoái lui. Nương vào ý thanh tịnh bên trong, kế đó thanh tịnh bên trong đã thâu gồm các Ba-la-mật. Nương vào mười địa sai biệt, phải tu tùy một trong ba A-tăng-kỳ kiếp. Kế đó ba học của Bồ-tát phải khiến cho viên mãn. Đã viên mãn rồi tức là quả Học, Niết-bàn và Vô Thượng Bồ-đề, sau đó tương ưng chứng đắc. Tu thứ tự mười nghóa như đây đã nói thì, tất cả Đại thừa đều được viên mãn. Đây đầu tiên nói chổ y chỉ của ứng tri (trí) gọi là A-lê-da thức. Dựa vào đâu mà Thế Tôn nói thức này? Và nói thức này vì sao tên là A-lê-da? Dựa trong lược bản kệ A-tỳ-đạt-ma, dức Thế Tôn nói: Giới nầy thời vô thuỷ, Chỉ y chỉ của pháp, Nếu có, các nẻo có Và có đắc Niết-bàn. Trong A-tỳ-đạt-ma lại nói kệ: Giữ, chứa, nương của pháp Tất cả chủng tử thức Gọi là A-lê-da, Ta vì người thù thắng nói. Hai bài kệ A-hàm nầy làm chứng cho thể và danh của thức. Vì sao Phật nói thức nầy gọi là A-lê-da? Tất cả các phẩm pháp có sinh bất tịnh, ẩn tàng trong đó làm quả, thức nầy thì ẩn tàng trong các pháp làm nhân. Lại nữa, các chúng sinh ẩn tàng trong thức nầy là do chấp ngã tướng, nên gọi là A-lê-da thức. A-hàm nói cũng như kệ của Kinh Giải Tiết nói: Chấp trì thức thâm tế, Pháp chủng tử hằng lưu, Với phàm ta không nói, Vật kia chấp làm “ngã”. Vì sao thức nầy còn nói là A-đà-na thức? Vì nó có khả năng nắm giữ tất cả các căn hữu sắc, tất cả sự thọ sinh lấy nó làm y chỉ. Tại sao vậy? Vì các căn hữu sắc là chổ chấp trì của thức, này không hoại, không mất, tương tục cho đến đời sau. Lại nữa, khi chánh thọ sinh, do thứ này có thể sinh thủ ấm, cho nên thân của chúng sinh trong sáu đường đều chấp như vậy. Vì chọn lấy nghóa chấp trì của sự dụng thức nên gọi là A-đà-na. Hoạêc gọi là tâm, như Phật Thế Tôn nói là tâm, ý, thức. Ý có hai thứ: 1. Có thể làm chổ nương tựa thứ đệ duyê cho ý thức sinh, thức diệt trước làm ý, lại vì thức sinh y chỉ làm ý. 2. Ý có nhiễm ô, cùng với bốn phiền não thường tương ưng: 1. Thân kiến. 2. Ngã mạn. 3. Ngã ái. Vô minh. Thức nầy là y chỉ của các thức phiền não. Phiền não thức nầy do một y chỉ sinh, do nhiễm ô thứ hai, là do duyên trần và lần lượt có thể phân biệt, hai thứ nầy gọi là ý. Làm sao biết được có tâm nhiễm ô? Nếu không có tâm nầy thì độc hành vô minh không thể nói có, cùng với năm thức tương tự thì pháp nầy đáng lẽ không có. Tại sao vậy? Vì năm thức nầy cùng một lúc mà có tự y chỉ, là các căn nhãn v.v… Lại nữa, tên ý đáng lẽ không có nghóa. Lại nữa, Vô tưởng định và Diệt tâm định đáng lẽ khác nhau. Tại sao vậy? Vì Vô tưởng định có tâm nhiễm ô, Diệt tâm định được nói rõ thì không phải như vậy. Nếu không như thế thì hai định nầy phải không khác nhau. Lại nữa, trong một thời kỳ của trời Vô tưởng, phải trở thành không lưu chuyển, không mất, không nhiễm ô, trong đó hoặc không có ngã kiến và ngã mạn. Lại nữa, trong mọi lúc khởi ngã chấp khắp trong tâm thiện ác và vô ký. Nếu không như vậy thì chỉ có ác tâm tương ưng với ngã chấp. Ngã và ngã sở hoạt động ở đây, còn trong thiện và vô ký thì nó không hoạt động. Nếu lập hai tâm đồng thời sinh thì không có lỗi này. Nếu lập Tương ưng hành của thức sáu, thì có lỗi này. Không độc hành vô minh, Và tương tự năm thức, Hai định không khác nhau, Tên ý không có nghóa. Vô tưởng không ngã chấp, Một kỳ sinh vô lưu, Trong thiện ác vô ký, Ngã chấp không nên khởi. Lìa tâm nhiễm không có, Hai và ba trái nhau, Không tất cả xứ này, Ngã chấp không được sinh. Chứng kiến nghóa chân thật, Hoặc chướng khiến không khởi, Luôn hành tất cả xứ, Là độc hành Vô minh. Tâm ô nhiễm nầy thuộc tánh vô ký, luôn cùng bốn hoặc tương ưng, ví như hoặc của Sắc giới và Vô sắc giới, là hữu phú vô ký, phiền não của hai cõi nầy là chỗ tàng ẩn của Xa-ma-tha. Tâm nầy hằng sinh không phế bỏ Tầm. Thể thứ ba lìa A-lê-da thức không thể được, cho nên A-lê-da thức thành tựu làm ý. Nương vào ý nầy lấy làm chủng tử thì các thức khác được sinh. Vì sao ý nầy lại nói là tâm? Vì là chổ tụ họp niều loại chủng tử huận tập. Tại sao Thanh-văn thừa không nói tâm tướng nầy và A-lê-da? A-đà-na gọi là vi tế, là chỗ nhiếp của cảnh giới. Tại sao vậy? Vì người Thanh-văn không có địa vị thù thắng để đắc Nhất thiết trí, cho đối với Thanh-văn không nói. Do thành tựu trí, làm cho bản nguyện viên mãn nên không nói đến nó. Chư Bồ-tát tương ưng có Thắng vị để đắc Nhất thiết trí, cho nên Phật vì nói. Tại sao vậy? Vì nếu lìa trí nầy mà đắc Vô thượng Bồ-đề thì không có việc đó. Lại nữa, thức nầy đối với Thanh-văn Thừa do tên gọi khác mà Như Lai đã từng hiển thị. Như Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Trong thế gian hỷ lạc A-lê-da, ái A-lê-da, tập A-lê-da, trước A-lê-da và diệt A-lê-da! Như Lai nói chánh pháp, thế gian ưa nghe, thuộc nhó tác ý muốn biết mà sinh khởi chánh cần, mới được diệt tận A-lê-da, cho đến thọ hành chánh pháp và pháp tương tự của Như Lai. Do Như Lai hiện ở đời là đệ nhất hy hữu bất khả tư nghì pháp, đối với thế gian hiển hiện như Bản thức. Kinh Như Lai Xuất Thế Tứ Chủng Công Đức này, do biệt nghóa đối với Thanh-văn thừa, mà thức nầy đã hiển hiện. Lại nữa, trong A-hàm Ma-ha Tăng-kỳ Bộ, do biệt danh của căn bản thức mà thức nầy hiển hiện, ví như cây nương vào gốc rễ. Di-sa-tắc Bộ cũng lấy biệt danh để nói thức nầy là cùng sinh tử ấm. Tại sao vậy? Hoặc sắc và tâm có khi thấy tương tục và đoạn, nhưng các chủng tử kia trong tâm nầy thì không có đoạn dứt, nên biết đó là y chỉ. A-đà-na, A-lê-da, Chất-đa, Bản thức, cùng sinh tử ấm… do những danh nầy mà thức trong Tiểu thừa chính là đã nói A-lê- da thức, trở thành ví như con đường của vua đi. Lại có các Sư khác chấp tâm, ý, thức ba thứ nầy là tên khác mà nghóa đồng. Điều nầy không đúng. Ýù và thức đã thấy nghóa khác nhau, nên biết nghóa của tâm cũng có khác. Lại có các Sư khác chấp rằng Như Lai nói thế gian hỷ lạc A-lê- da, như trước đã nói, trong đó có năm thủ ấm gọi là A-lê-da. Lại có các sư khác chấp lạc thọ cùng với dục tương ưng gọi là A-lê-da. Lại có Sư khác chấp thân kiến gọi là A-lê-da. Các Sư như vậy là mê A-lê-da, do A-hàm và tu đắc cho nên khởi chấp như vậy. Do tùy theo giáo và hành của Tiểu thừa, chỗ lập nghóa của các Sư đó không đúng đạo lý. Nếu có người không mê A-lê-da thức, phỏng theo các tên trong Tiểu thừa mà thành lập thức này, nghóa của nó tối thắng. Tại sao tối thắng? Nếu chấp thủ ấm gọi là A-lê-da, thì cõi ác tùy trong một đạo hoàn toàn là khổ thọ xứ đối với cõi ác kia mà sinh. Thủ ấm nầy rất là ác nghịch, trong thủ ấm đó hoàn toàn là “phi khả ái”, chúng sinh hỷ lạc trong thủ ấm đó là không xứng đạo lý. Tại sao vậy? Vì chúng sinh trong thủ ấm đó hằng mong thủ ấm đoạn tuyệt không sinh. Nếu là lạc thọ cùng với Dục tương ưng, thì từ định thứ tư cho đến cõi trên đều không có thọ này. Nếu người đã đắc thọ này, do cầu đắc cõi trên thì sinh chán ghét, cho nên chúng sinh hỷ lạc trong đó là không xứng đạo lý. Nếu là thân kiến thì người trong chánh pháp tin ưa vô ngã. Thân kiến không phải là sở ái của họ, trong đó không sinh hỷ lạc, A-lê-da thức nầy tâm chúng sinh chấp làm tự nội ngã. Nếu sinh trong đường khổ thọ hoàn toàn thì nguyện khổ ấm đó vónh viễn diệt không khởi. A-lê-da thức bị ngã ái trói buộc, không hề muốn diệt trừ tự ngã. Từng định thứ tự trở lên, chúng sinh thọ sinh tuy không lạc nhưng có thọ dục lạc, thì tự ngã ái trong A-lê-da thức đuổi theo không rời. Lại nữa, người trong chánh pháp tuy nguyện lạc vô ngã trái nghịch với thân kiến, nhưng trong A-lê-da thức cũng có tự ngã ái, lấy tên A-lê-da an lập, thức nầy là tối thắng cho nên thành lập biệt danh của A-lê-da. ----------------------------- PHẨM 2: TƯỚNG Lại nữa, thành lập thức này, tướng nó làm sao thấy được? Tướng nầy lược nói có ba thứ Lập tự tướng. Lập tướng nhân. Lập tướng quả. Lập tự tướng, là nương vào tập khí của tất cả phẩm pháp bất tịnh, làm cho pháp kia được sinh nhiếp trì khí vật nương tựa của chủng tử, nên gọi đó là tự tướng. Lập tướng nhân, là tất cả chủng tử thức nầy làm cho sinh phẩm pháp bất tịnh, hằng khởi làm nhân, nên gọi đó là tướng nhân. Lập tướng quả, là thức nầy nương theo tập khí từ vô thủy của các thứ phẩm pháp bất tịnh mới được sinh, nên gọi đó là tướng quả. Pháp gì gọi là tập khí? Tên tập khí nầy là muốn làm rõ nghóa gì? Pháp nầy cùng với tập khí kia tương ưng cùng sinh cùng diệt, sau đó biến thành sinh nhân kia, đây tức là chỗ làm rõ nghóa. Ví như đối với mè, dùng hoa để ướp tập, mè cùng với hoa đồng thời sinh diệt, hoa kia luôn luôn sinh làm sinh nhân mùi hương cho mè, nếu người có các hành hữu dục v.v… thì có tập khí của dục, tâm đó cùng với dục đồng sinh đồng diệt, tập khí kia thường sinh làm sinh nhân của tâm biến dị. Nếu người đa văn thì có tập khí của đa văn. Thường suy tư những gì mình nghe, nó sinh diệt với tâm. Những gì mình nghe đó luôn luôn sinh làm sinh nhân của tâm minh liễu. Do huân tập nầy được kiên trụ, cho nên nói người nầy là Năng trì pháp. Đối với A-lê-da thức phải biết đạo lý như vậy. Sự đồng và khác của nhiễm ô chủng tử nầy cùng với A-lê-da thức như thế nào? Không do các vật thể riêng cho nên khác. Như sự hoà hợp nầy tuy khó phân riêng nhưng không phải không khác. A-lê-da thức như vậy mà sinh. Khi huân tập sinh thì có công năng thù thắng khác nhau, nên gọi là tất cả chủng tử. Tại sao A-lê-da thức cùng với nhiễm ô đồng thời làm nhân lẫn nhau? Ví như ánh sáng của ngọn đèn và tim đèn, sinh khởi và đốt cháy đồng thời làm nhân lẫn nhau. Lại nữa, ví như bó lau, cùng lúc nương tựa nhau cho nên đứng được. Phải biết Bản thức cùng với năng huân tập làm nhân lẫn nhau, nghóa đó cũng vậy, như thức làm nhân của pháp nhiễm ô, pháp nhiễm ô làm nhân của thức. Tại sao vậy? Vì lìa hai pháp nầy mà có nhân khác thì không thể có được. Tại sao huân tập chủng không khác không nhiều mà có thể trở thành có khác loại và nhiều loại? Các pháp làm sinh nhân, ví như có nhiều sợi chỉ may áo, áo không có nhiều màu sắc, nếu ngâm vào chậu nhuộm, sau đó trên áo các thứ tướng mạo mới được hiển hiện. Như vậy, khi các thứ pháp của A-lê-da thức được huân tập thì chỉ có một tánh mà không có nhiều loại. Nếu vật nhuộm sinh kết quả hiện tiền, thì có chủng loại tướng mạo không thể tính đếm. Đối với A-lê-da thức hiển thị duyên sinh này, đối với Đại thừa rất vi tế thậm thâm. Nếu lược nói thì có hai thứ duyên Sinh: 1.Phân biệt tự tánh. 2.Phân biệt ái và phi ái. Y chỉ A-lê-da thức mà các pháp sinh khởi, gọi đó là phân biệt tự tánh duyên sinh. Vì phân biệt tự tánh nhân duyên của chủng chủng các pháp, lại có mười hai duyên sinh, gọi đó là ái và phi ái, là đối với thiện đạo ác đạo khởi phân biệt ái và phi ái mà sinh các thứ nhân khác nhau. Nếu người đối với A-lê-da thức mê duyên sinh thứ nhất, thì họ chấp tự tánh là nhân của sinh tử, hoặc chấp nghiệp đời trước, hoặc chấp biến Hóa tự tại, hoặc chấp tám ngã tự tại, hoặc chấp vô nhân. Nếu mê duyên sinh thứ hai, thì họ chấp ngã, tác giả, thọ giả, ví như nhiều người mù bẩm sinh, có người sai bảo những người mù đó sờ voi để chứng biết. Những người mù đó, hoặc có người sờ vòi nó, hoặc có người sờ ngà nó, hoặc có người sờ tai nó, hoặc có người sờ chân nó, hoặc có người sờ đuôi nó, hoặc có người sờ lưng nó… có người hỏi rằng: Voi là tướng gì? Những người mù đáp: Voi như cái cán cày, hoặc nói như cái chày, hoặc nói như cái ky, hoặc nói như cái cối, hoặc nói như cái chổi, hoặc nói như hòn đá núi. Nếu người không hiểu rõ hai thứ duyên sinh thì vô minh sinh ra mù, hoặc nói tự tánh làm nhân, hoặc nói nghiệp đời trước, hoặc nói biến Hóa tự tại, hoặc nói tám ngã tự tại, hoặc nói vô nhân, hoặc nói tác giả và thọ giả. Không hiểu rõ thể tướng và nhân quả tướng của A-lê-da thức, thì giống như những người mù bẩm sinh kia, tạo ra các thứ dị thuyết, như những người mù bẩm sinh kia, không biết thể của voi mà khởi các thứ dị thuyết, hoặc lược nói thể tướng của A-lê-da thức, là quả báo thức, là tất cả chủng tử, do thức nầy thu giữ tất cả thân trong ba cõi, tất cả tứ sinh trong sáu đạo. Để hiển hết nghóa nầy cho nên nói kệ: Ngoại nội không hiểu rõ, Hai tánh chỉ giả danh, Và tất cả chân thật. Chủng tử có sáu thứ, Niệm niệm diệt, câu hữu, Cùng theo đến trị tế, Quyết định, quán nhân duyên, Như dẫn hiển tự quả. Kiên vô ký khả huân, Cùng năng huân tương ưng, Hoặc dị không thể huân, Nói là huân thể tướng, Sáu thức không tương ưng, Ba sai biệt trái nhau, Hai niệm không đồng có, Đời khác lệ cũng vậy, Chủng tử ngoại nội này, Hay sinh và dẫn nhân, Khô chết cũng tương tục, Sau đó mới diệt hết. Ví như ngoại chủng tử, Nội chủng không như vậy. Nghóa nầy lấy hai bài kệ để hiển bày: Ngoại chủng không huân tập, Nội chủng không như vậy, Văn (nghe)… không có huân tập, Quả sinh phi đạo lý. Đã khởi và chưa khởi, Được và mất khác nhau, Do nội ngoại được thành Cho nên nội có huân. Các thức còn lại thì khác với A-lê-da thức, là tất cả sinh xứ và cõi của sinh khởi thức, phải biết đó là Thọ dụng thức. Như kệ trong Trung Biên Luận nói: Một gọi là duyên thức, Hai gọi là thọ thức, Liễu thọ là phân biệt, Khởi hành các tâm pháp”. Hai thức nầy làm nhân lẫn nhau, như kệ trong Đại thừa A-tỳ-đạt- ma nói: Chư pháp trong Tàng thức, Thức trong pháp cũng vậy, Chúng làm nhân cho nhau, Cũng làm quả lẫn nhau. Nếu trong duyên sinh thứ nhất, các pháp và thức làm nhân duyên lẫn nhau, thì trong duyên sinh thứ hai các pháp là duyên gì? Là Tăng Thượng duyên. Lại nữa, mấy duyên có thể sinh ra sáu thức? Có ba duyên, là Tăng thượng duyên, sở duyên duyên và Thứ đệ duyên. Như vậy ba duyên sinh, một là cùng sinh tử duyên sinh, hai là ái tắng đạo duyên sinh và ba là thọ dụng duyên sinh, đều có đủ bốn duyên. --------------------------------- PHẨM 3: DẪN CHỨNG A-lê-da thức nầy đã thành lập, do nhiều tên gọi và thể tướng. Làm sao biết được A-lê-da thức? Vì “nhiều tên gọi” như vậy, cho nên Như Lai nói thể tướng cũng vậy, không nói sinh Khởi thức, nếu lìa danh tướng nầy thì sự lập phẩm bất tịnh và phẩm tịnh của A-lê-da thức đều không thành tựu, phẩm phiền não bất tịnh và phẩm nghiệp bất tịnh, phẩm sinh bất tịnh, phẩm thế gian tịnh, phẩm xuất thế gian tịnh đều không thành tựu. Tại sao phẩm phiền não bất tịnh không thành tựu? Chỗ khởi huân tập chủng tử của căn bản phiền não và thiểu phần phiền não, đối với sáu thức không được thành tựu. Tại sao vậy? Vì hai hoặc lớn và nhỏ của nhãn và dục cùng khởi cùng diệt. Nhãn thức nầy là chỗ huân tập của hoặc thành lập chủng tử, các thức khác thì không như thế, tức nhãn thức đã diệt rồi, hoặc là các thức khác gián đoạn khởi, huân tập và y chỉ huân tập đều không thể có được, nhãn thức đã diệt mất trước đó, hiện tại không có “thể”, hoặc các thức khác chỗ khoảng giữa từ khi đã diệt không có pháp, nên có dục cùng sinh không được thành tựu. Ví như các nghiệp quả báo từ quá khứ đã diệt hết không sinh được. Lại nữa, nhãn thức và dục hoặc đồng thời sinh khởi huân tập thì không thành. Tại sao vậy? Chủng tử nầy không được trụ trong dục, vì dục y chỉ thức. Lại nữa, vì dục tương tục không kiên trụ, nên dục nầy đối với các thức khác cũng không có huân tập. Vì y chỉ riêng khác cho nên chỗ các thức còn lại không cùng lúc khởi đồng thời diệt. Đồng loại với đồng loại không được huân tập lẫn nhau, vì không cùng lúc mà sinh diệt, cho nên nhãn thức không làm chỗ huân tập cho Hoặc lớn và Hoặc nhỏ của dục, cũng không làm chỗ huân tập cho đồng loại thức. Tư lương nhãn thức như vậy, các thức khác cũng phải tư lương như vậy. Lại nữa, nếu chúng sinh từ cõi trời Vô tưởng trở lên bị thoái đọa, thọ sinh xuống cõi dưới, thì có chỗ nhiễm thức ban đầu của Hoặc lớn và Hoặc nhỏ, thức nầy khi sinh thì pháp không có chủng tử. Tại sao vậy? Vì Hoặc nầy huân tập cùng với y chỉ đã diệt mất trong quá khứ không còn sót. Lại nữa, hoặc đối trị thức đã sinh, thì chỗ còn lại là các thức của thế gian đều đã diệt hết. Nếu không có A-lê-da thức thì thức đối trị nầy tồn tại cùng chủng tử của Hoặc lớn và Hoặc nhỏ, nghóa nầy không thành. Tại sao vậy? Vì tự tánh giải thoát, tâm vô lưu và Hoặc, không thể cùng khởi cùng diệt. Lại nữa, sau khi xuất quán chính khởi tâm thế gian, thì các hoặc huân tập lâu đã lui mất. Ý thức hữu lưu không có chủng tử sinh đáng lẽ được thành. Cho nên, lìa A-lê-da thức thì phiền não nhiễm ô không được thành. Lại nữa, nghiệp nhiễm ô tại sao không được thành? Vì nghóa duyên hành sinh thức phần không được thành. Nếu không có nghóa nầy thì duyên “thủ” sinh “hữu” cũng không thành, cho nên nghiệp nhiễm ô không được thành. Lại nữa, tại sao nghóa sinh nhiễm ô nầy không được thành? Vì sự kết sinh không thành. Nếu người đối với địa bất tịnh thoái đọa, tâm chính tại trung ấm khởi thì ý thức nhiễm ô mới được thọ sinh, lúc nầy có thức nhiễm ô diệt trong thức trung ấm, thức nầy gá vào Kha- la-la, trong thai mẹ biến hợp thọ sinh. Nếu chỉ có ý thức biến thành y chỉ của Kha-la-la thì ý thức nầy trong thai mẹ có riêng ý thức khởi. Không có nghóa như đây tức hai thứ ý thức trong thai mẹ nhất thời cùng khởi. Vì không có nghóa này nên ý thức đã biến dị thì không thể thành lập, vì ý thức y chỉ việc không thanh tịnh, duyên cảnh lâu dài nên cảnh sở duyên đó không thể biết. Nếu ý thức đã biến dị, thì lúc đó, ý thức thành Kha- la-la, vì thức nầy làm nương tựa cho chủng tử của tất cả pháp, thức nầy sinh các thức khác, làm chủng tử của tất cả pháp. Nếu ông chấp thức đã biến dị là tất cả chủng tử thức, tức là A-lê-da thức, là ông tự lấy một tên khác thành lập làm ý thức. Nếu ông chấp Năng y chỉ thức là tất cả chủng tử thức, thì thức nầy do y chỉ mà thành nhân của thức khác. Thức được y chỉ này, nếu không phải năng y chỉ của tất cả chủng tử thức, gọi là tất cả chủng tử thức, thì nghóa không thành. Cho nên thức nầy gởi sinh vào sự biến dị thành Kha-la-la, không phải là ý thức, chỉ là quả báo, cũng là tất cả chủng tử, nghóa nầy được thành. Lại nữa, nếu chúng sinh đã gởi sinh, có thể chấp trì các sắc căn khác, lìa quả báo thức thì không thể được. Tại sao vậy? Vì các thức khác quyết định riêng có y chỉ không kiên trụ lâu dài, nếu sắc căn nầy không có chấp trì thức, thì cũng không được thành. Lại nữa, thức nầy và danh sắc nương tựa lẫn nhau. Như bó lau nương nhau mà đứng, thì thức nầy không thành. Lại nữa, nếu lìa quả báo thức, tất cả cầu sinh (Trung ấm) đã sinh thì thức thực của chúng sinh ( Trung ấm) không thành. Tại sao vậy? Nếu lìa thức quả báo thì trong nhãn thức chỉ tùy có một thức, chúng sinh thọ sinh trong tam giới, khởi các sự ăn uống mà không thấy có khả năng. Nếu người từ địa nầy xả mạng, sinh địa tónh lự ở trên do ý thức tán động nhiễm ô, thì nơi thọ sinh kia là thức nhiễm ô tán động. Trong địa tónh lự lìa quả báo thức có các chủng tử khác, thì nghóa nầy không thành. Lại nữa, nếu chúng sinh sinh Vô sắc giới lìa tất cả chủng tử quả báo thức, nếu sinh tâm nhiễm ô và thiện tâm thì không có chủng tử, vì hai thức cùng y chỉ nhiễm ô và thiện đều không được thành. Ở Vô sắc giới, nếu khởi tâm Vô lưu, tâm thế gian khác đã diệt hết, thì phải vứt bỏ đối với đạo này. Nếu chúng sinh sinh trong Phi tưởng phi phi tưởng mà khởi bất dụng xứ tâm và vô lưu tâm, tức là xả bỏ hai xứ. Tại sao vậy? Vì vô lưu tâm là xuất thế tâm, phi tưởng phi phi tưởng đạo không phải là nơi nương tựa của nó, bất dụng xứ đạo cũng không phải nơi nương tựa, thẳng đến Niết-bàn cũng không phải nơi nương tựa. Lại nữa, nếu người đã khởi thiện nghiệp, chính lúc xả thọ mạng lìa A-lê-da thức, hoặc trên đầu hoặc dưới chân thứ tự y chỉ lãnh xúc cảm giác lạnh không nên được thành, cho nên sinh nhiễm ô lìa tất cả chủng tử quả báo thức không thể được lập. Tại sao thế gian tịnh phẩm không thành? Nếu chúng sinh chưa lìa dục của cõi dục, chưa được tâm cõi Sắc thì trước đã khởi thiện tâm cõi dục. Cầu lìa dục của cõi dục, tu hành quán tâm, gia hạnh tâm của cõi dục nầy cùng với tâm cõi sắc không cùng khởi diệt, cho nên không phải sở huân, do đó thiện tâm cõi dục không phải là chủng tử thiện tâm của cõi Sắc. Tâm cõi Sắc, bị ngăn cách vô lượng đời khác và tâm khác, sau đó không thể lập làm chủng tử, thức của tónh lự vì đã không có, cho nên nghóa nầy được thành. Nghóa là tất cả chủng tử quả báo thức của tâm tónh lự, nơi sắc giới, thứ tự tuyền lại lập làm nhân duyên, gia hạnh thiện tâm nầy lập làm Tăng thượng duyên, như vậy trong tất cả địa Ly dục, nghóa đó phải biết. Như vậy nghóa tịnh phẩm của thế gian là lìa tất cả chủng tử quả báo thức thì không thể lập. Tại sao phẩm tịnh xuất thế lìa A-lê-da thức không thể lập? Phật Thế Tôn nói: “Từ chỗ nghe âm thanh của người khác và tự mình tư duy, nhờ hai nhân nầy mà chánh kiến được sinh”. Đây là nghe âm thanh của người khác và chánh tư duy, không thể huân tập nhó thức và ý thức, hoặc cả hai thức. Tại sao vậy? Nếu người như nghe mà hiểu và chánh tư duy pháp, thì lúc đó nhó thức không được sinh, ý thức cũng không được sinh, vì chỗ nghe của các thức tán động phân biệt khác, cho nên cùng với chánh tư duy tương sinh. Ý thức nầy lui diệt đã lâu. Sở huân tập và cộng huân tập của nghe đã không có, tại sao sau khi lấy thức trước làm chủng tử thì thức sau được sinh? Lại nữa, tâm của thế gian cùng với chánh tư duy tương ưng; tâm tịn xuất thế gian cùng với chánh kiến tương ưng, do không cùng lúc sinh diệt với nhau, cho nên tâm thế gian nầy không quan hệ với sở huân của tâm tịnh. Đã không có huân tập thì không nên được thành chủng tử xuất thế. Do đó nếu lìa tất cả thức chủng tử quả báo thì tâm xuất thế thanh tịnh cũng không được thành. Tại sao vậy? Huân tập của văn, tư trong đây không có nghóa. Có thể nhiếp sự huân tập chủng tử xuất thế, tại sao tất cả chủng tử quả báo thức trở thành nhân của phẩm bất tịnh? Nếu có thể làm nhân của sự nhiễm trược đối trị tâm tịnh xuất thế, thì tâm tịnh xuất thế nầy từ trước đến nay chưa từng sinh huân tập. Cho nên quyết định không có huân tập. Nếu không có huân tập thì tâm xuất thế nầy từ nhân nào sinh ra? Nay ông phải đáp rằng, chánh văn huân tập do pháp giới tối thanh tịnh đẳng lưu làm chủng tử nên tâm xuất thế được sinh. Văn tuệ huân tập nầy cùng với A-lê-da thức là đồng tánh hay không đồng tánh? Nếu là đồng tánh thì tại sao A-lê-da thức trở thành thức đối trị chủng tử? Nếu không đồng tánh thì văn, tuệ chủng tử nầy lấy pháp gì làm y chỉ? Đến vô thượng Bồ-đề vị của chư Phật là văn tuệ huân tập sinh tùy tại một y chỉ xứ. Trong đây cộng quả báo thức cùng sinh, ví như nước và sữa, văn huân tập nầy tức không phải bản thức. Đã thành thức đối trị chủng tử nầy, do đó trong đây nương vào hạ phẩm huân tập mà trung phẩm huân tập sinh. Nương vào trung phẩm huân tập mà thượng phẩm huân tập sinh. Tại sao vậy? Vì niệm niệm gia hạnh văn tư, tu là văn huân tập. Nếu hạ trung thượng phẩm thì phải biết là chủng tử của Pháp thân, do đối trị A-lê-da thức sinh, cho nên không nhập vào tánh gồm thâu của A-lê-da. Vì xuất thế tối thanh tịnh pháp giới lưu xuất nên tuy pháp thế gian lại thành tâm xuất thế. Tại sao? Vì tâm thanh tịnh xuất thế của chủng tử nầy khi chưa khởi tất cả thượng tâm, thì hoặc đối trị tất cả ác đạo sinh, đối trị tất cả ác hạnh hủ hoại, đối trị năng dẫn tương tục khiến cho sinh, là xứ tùy thuận gặp và phụng sự chư Phật Bồ-tát. Văn tuệ huân tập nầy tuy là pháp thế gian nhưng là sở đắc của Bồ-tát mới tu quán, phải biết pháp nầy thuộc về pháp thân, còn sở đắc của Thanh-văn Độc giác thì thuộc sự thu nhiếp của thân giải thoát. Văn huân tập nầy không phải A-lê-da thức nhiếp, mà thuộc Pháp thân và Giải thoát thân nhiếp. Như vậy, như vậy, từ hạ trung thượng thứ tự dần tăng. Như vậy, như vậy, quả báo thức thứ tự dần giảm thì y chỉ liền chuyển, nếu y chỉ hoàn toàn chuyển thì có chủng tử thì quả báo thức, tức là không có chủng tử tất cả đều diệt hết. Nếu bản thức cùng với không phải bản thức cùng khởi diệt như nước sữa hoà hợp thì tại sao bản thức diệt mà không phải bản thức không diệt? Như việc uống sữa trong nước của loài ngỗng, cũng như thế gian khi lìa dục, thì huân tập của địa không tónh bị diệt, huân tập địa tónh tăng, nghóa chuyển y của thế gian được thành, chuyển y của xuất thế gian cũng vậy. Nếu người nhập Diệt tâm định, do nói thức chẳng lìa thân, cho nên quả báo thức trong định phải trở thành chẳng lìa thân. Tại sao? Vi Diệt tâm định không phải thức đối trị này. Làm sao biết như thế? Nếu từ định nầy mà xuất thì thức lẽ ra không phải sinh lại nữa. Tại sao? Vì quả báo thức nầy tương tục đã đoạn. Nếu khi lìa thân thác sinh thì không sinh lại được. Hoặc có người nói diệt tâm định có tâm, thì điều mà người ấy nói không thành được tâm. Vì sao? Vì nghóa của định không thành, giải thích tướng và cảnh không thể được, cùng với thiện căn có lỗi tương ưng, cùng với ác và vô ký không tương ưng, có lỗi tưởng và thọ sinh khởi. Đối với ba thứ hoà hợp chắc chắn có xúc. Đối với các định khác thì có công năng, chỉ có định Diệt tưởng là tội lỗi, thiện căn của tác ý, tín… sinh khởi lỗi, bạt trừ năng y lìa sở y không thể được. Có thí dụ, như không phải tất cả hạnh, vì tất cả hạnh không thể như thế. Nếu có ai chấp tâm sắc thứ tự sinh là chủng tử của các pháp, thì chấp nầy không đúng, tại sao, vì đã có lỗi trước, lại có lỗi khác. Lỗi khác, là nếu người từ cõi trời Vô tưởng thoái đọa và ra khỏi định diệt tâm thì, mọi sở chấp trong đây không thành, tối hậu tâm của A-la-hán cũng không thành. Nếu lìa thứ đệ duyên thì chấp nầy không thành. Như vậy nếu lìa tất cả thức chủng tử quả báo thì phẩm tịnh và phẩm bất tịnh đều được thành. Cho nên tâm nầy có nghóa thành tựu, phải tin hiểu dựa vào những gì đã nói ở trước. Lại làm kệ nói: Bồ-tát trong thiện thức, Phải lìa năm thức khác, Vô dư tâm chuyển y, Làm với phương tiện nào. Nếu đối trị chuyển y, Phi diệt nên không thành, Nhân quả không sai biệt, Trong diệt thì có lỗi. Không chủng tử, không pháp, Nếu nhận làm chuyển y, Đối với hai không có Nghóa chuyển y không thành. --------------------------------- PHẨM 4: SAI BIỆT Sai biệt của A-lê-da thức như thế nào? Nếu lược nói thì ba thứ hoặc có bốn thứ khác nhau. Ba thứ, là do ba thứ huân tập khác nhau, là các sai biệt của ngôn thuyết, ngã kiến và hữu phần huân tập. Bốn thứ, là các sai biệt của dẫn sinh, quả báo, duyên tướng, tướng mạo. Dẫn sinh sai biệt, là huân tập mới sinh. Nếu không có dẫn sinh thì duyên hành sinh thức, duyên thủ sinh hữu, nghóa ấy không thành. Quả báo sai biệt, là nương vào hành trong sáu nẻo thì pháp nầy thành thục. Nếu không thế, thì ù thọ sinh đời sau vốn có các pháp sinh khởi, nghóa nầy không thành. Duyên tướng sai biệt là trong duyên nầy có tướng có khả năng khởi ngã chấp. Nếu không có tâm nầy thì trong các tâm khác chấp tướng cảnh của ngã, nghóa nầy không thành. Tướng mạo sai biệt, thức nầy cũng có cộng tướng, có bất cộng tướng, không có chủng tử thọ sinh có chủng tử thọ sinh. Cộng tướng là chủng tử của khí thế giới. Bất cộng tướng là chủng tử nội nhập riêng khác. Lại nữa, cộng tướng, là không có chủng tử thọ sinh. Bất cộng tướng là có chủng tử thọ sinh. Nếu khi đối trị khởi thì cả hai không cùng chung đối trị diệt. Đối với nhận thức của chủng tử cộng tướng thì người khác phân là chánh kiến thanh tịnh mà chấp giữ. Ví như người tu quán hạnh, đối với một vật mà có các thứ nguyện lạc, quán sát đều tùy tâm thành lập. Trong đây nói kệ: Khó diệt và khó hiểu, Nói tên là cộng kết, Người quán hạnh tâm khác Do tướng đại thành ngoài. Người thanh tịnh chưa diệt, Trong đây thấy thanh tịnh, Thành tựu tịnh Phật độ, Do Phật thấy thanh tịnh. Lại có kệ khác: Mọi thứ nguyện và kiến, Quán hạnh có thể thành, Chỉ trong một loại vật, Mà thành tùy ý kia, Các thứ kiến lập thành, Sở thủ chỉ có thức. Sư sai biệt của Bản thức không cùng chung này còn là: Đối với chủng tử thọ sinh có giác (biết) nếu thì chúng sinh thế giới sinh duyên không thành; đối với chủng tử không có thọ sinh của A-lê-da thức cùng chung này, nếu không có thì khí thế giới sinh duyên không thành. Lại nữa, còn tướng thô trọng của thức, và tướng vi tế nhẹ nhàng của thức. Tướng thô trong của thức là chủng tử, hoặc (phiền não) lớn hoặc nhỏ. Tướng vi tế nhẹ nhàng của thức là chủng tử của tất cả pháp thiện hữu lưu. Nếu không có hai tướng nầy thì quả do nghiệp đời trước có các sự y chỉ sai biệt công năng thù thắng và không có công năng thù thắng của nghiệp quả trước, thì sự y chỉ sai biệt của vô năng thắng không được thành. Lại nữa, nay nói đến hai thứ tướng tho và không thọï của bản thức. Tướng thọ nhận tức là quả báo đã thành thục chủng tử của thiện ác. Tướng không thọ, là sự huân tập chủng tử hý luận của danh và ngôn thuyết trải qua thời gian vô lượng, sinh khởi chủng tử. Nếu không có hai tướng nầy thì nghóa có tạo tác khởi và không tạo tác khởi nghiệp thiện và ác cho quả báo, được thọ dụng hết không thành và danh và ngôn mới huân tập sinh được sinh khởi cũng không được thành. Lại nữa, có tướng thí dụ, các thí dụ thức như việc huyễn, nai khát nước, mộng tưởng, mờ tối… thức thứ nhất tương tự như sự này. Nếu không có chủng tử hư vọng phân biệt, thì thức nầy không thành nhân duyên điên đảo. Lại có tướng đầy đủ và tướng không đầy đủ. Nếu đầy đủ trói buộc thì chúng sinh có tướng đủ. Nếu được ly dục thế gian thì có tướng tổn hại, hoặc hàng hữu học Thanh-văn và chư Bồ-tát thì có một phần tướng diệt ly, hoặc A-la- hán, Độc Giác, Như Lai thì có đủ phần tướng diệt ly. Tại sao vậy? Vì A-la-hán và Độc giác thì chỉ diệt hoặc chướng, Như Lai thì diệt hoặc chướng và trí chướng, một cách toàn diện. Nếu không cóhai tướng này thì phiền não thứ tự diệt tận không được thành. Nhân duyên gì quả báo của hai pháp thiện và ác mà Báo thức chỉ là vô phú vô ký? Vì tánh vô ký nầy cùng với hai pháp thiện, ác cùng sinh trái nhau, hai pháp thiện, ác tự trái lẫn nhau. Nếu quả báo thành tánh thiện và ác thì không có phương tiện để giải thoát phiền não, cũng không có phương tiện được khởi thiện và phiền não, đồng thời không có giải thoát và trói buộc. Vì không có hai nghóa nầy cho nên quả báo thức quyết định là tánh vô phú vô ký. ----------------------------------- <詞>PHẦN II: TƯỚNG THÙ THẮNG NÊN BIẾT (Phần 1) Như vậy đã nói về tướng y chỉ thù thắng, vậy thế nào là tướng thù thắng của trí (ứng tri)? Tướng thù thắng, đây là tướng phải biết, tướng nầy có ba thứ: 1.Tánh tướng y tha. 2.Tánh tướng phân biệt. 3.Tánh tướng chân thật. Tánh tướng y tha là lấy bản thức làm chủng tử, chỗ gồm thâu phân biệt, hư vọng của các thức khác nhau. Những gì là khác nhau? Là thân thức, thân giả thức, thọ giả thức, ứng thọ thức, chánh thọ thức, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức, tự tha sai biệt thức, hai nẻo thiện và ác sinh tử thức. Thân thức, thân giả thức, thọ giả thức, ứng thọ thức, chánh thọ thức, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức… các thức như vậy do sự huân tập chủng tử ngôn thuyết mà sinh. Tự tha sai biệt thức, là do huân tập chủng tử ngã kiến mà sinh. Hai nẻo thiện và ác sinh tử thức, là do huân tập chủng tử của hữu phần mà sinh. Do các thức như vậy gồm thâu y tha tánh làm tướng của tất cả giới đạo và phiền não nên hư vọng phân biệt liền được hiển hiện. Sự gồm thâu của các thức hư vọng phân biệt như vậy, thì duy thức làm thể, là không phải có, hư vọng trần hiển hiện làm nơi tựa, đó là tánh tướng y tha. Tánh tướng phân biệt là thật không có trần mà chỉ có thể của thức hiển hiện làm trần, nên nói đó là tánh tướng phân biệt. Tánh tướng chân thật là tánh y tha, do tướng của pháp trần nầy vónh viễn không có nên tánh nầy thật có chẳng phải không, nên gọi đó là chân thật tánh tướng. Do thân thức, thân giả thức, thọ giả thức,tức là phải biết thâu nhiếp sáu nội giới như nhãn v.v… vì ứng thọ thức nên biết là thâu nhiếp sáu ngoại giới như sắc v.v… Đối với chánh thọ thức phải biết là thâu nhiếp sáu thức giới của nhãn v.v… Do các thức như vậy làm gốc cho các thức khác là thức sai biệt này. Như vậy nhiều thức chỉ có thức. Không có pháp trần, thì ví như các mộng trong mộng. Lìa ngoại trần thì hoàn toàn chỉ có thức. Nên biết các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, nhà, rừng, đất, núi… các pháp trần như thật hiển hiện trong mộng đó không có một pháp trần nào là thật có. Do thí dụ như vậy, tất cả trần phải biết chỉ có thức. Do những lời này, phải biết các thí dụ về việc huyễn, nai khát nước, mờ tối… nếu người thức tỉnh thấy thì trần tất cả xứ chỉ có thức. Ví như mộng pháp trần, như người mộng thức tỉnh hiểu rõ mộng pháp trần chỉ có thức. Trong thức tỉnh thì tại sao không như vậy? Không phải không có nghóa này. Nếu người đã đắc chân như trí giác, thì không phải không có giác này, như người còn trong mộng chưa thức dậy thì cái giác nầy không sinh. Nếu người đã tỉnh giác thì mới có giác ngộ này. Như vậy nếu người chưa đắc trí giác chân như thì cũng không có giác ngộ này. Nếu đã đắc trí giác chân như thì chắc chắn có giác ngộ này. Nếu người chưa đắc trí giác chân như thì trong Duy thức vì sao được khởi trí này? Do Thánh giáo và chân lý có thể được so sánh suy lường. Thánh giáo thì như trong Kinh Thập Địa, Phật Thế Tôn nói: “Này Phật Tử! Ba cõi chỉ có thức”. Lại như trong Kinh Giải Tiết nói: “Lúc đó Di-lặc Bồ-tát Ma-ha-tát hỏi Phật Thế Tôn: Bạch Thế Tôn! Sắc tướng nầy là cảnh sở duyên của tâm định tónh, cùng với tâm khác nhau hay là cùng với tâm không khác nhau? Phật Thế Tôn nói: Nầy Di-lặc! Cùng với tâm không khác nhau. Tại sao vậy? Ta nói chỉ có thức, vì cảnh giới sắc tướng nầy là chỗ hiển hiện của thức. Di-lặc Bồ-tát nói: Bạch Thế Tôn! Nếu quyết định cảnh giới sắc tướng cùng với tâm không khác, thì tại sao thức nầy lấy thức nầy làm cảnh? Phật Thế Tôn nói: Nầy Di- lặc! Không có pháp nào có thể nắm lấy các pháp khác. Tuy không thể nắm lấy, nhưng thức nầy như vậy biến sinh hiển hiện như pháp trần”. Ví như nương vào mặt mà thấy mặt, là ta thấy ảnh của ta, ảnh nầy hiển hiện tương tự một mặt khác. Định tâm cũng vậy, hiển hiện tương tự pháp trần tức là định tâm khác. Do A-hàm nầy và nương vào đạo lý nên nghóa “Duy thức” hiển hiện. Tại sao như vậy? Lúc đó người quán hạnh, tâm đang trong quán, hoặc thấy màu xanh vàng… nhập vào khắp sắc tướng, tức là thấy tâm mình mà không thấy cảnh sắc xanh vàng. Do đạo lý nầy nên trong tất cả thức, Bồ-tát đối với Duy thức phải khởi như vậy suy lường và so sánh mà biết. Đối với thức xanh vàng không phải là thức nhớ nghó và duy trì, vì thấy cảnh đang hiện tiền, và lấy hai thứ Văn và Tư để ý thức nhớ nghó, giữ gìn. Thức nầy duyên cảnh quá khứ, tương tự cảnh quá khứ khởi, cho nên được thành nghóa Duy thức. Do đây so sánh biết Bồ-tát nếu chưa đắc trí giác chân như, đối với nghóa Duy thức được sinh hiểu biết nhờ so sánh. Điều nầy là nhiều loại thức trước đã có nói. Ví như về việc huyễn, mộng… trong đó nghóa Duy thức của nhãn thức có thể thành. Thức của nhãn, sắc… có sắc, nghóa Duy thức làm sao thấy được? Các thức nầy do A-hàm và đạo lý như trước phải biết. Nếu Sắc là thức, tại sao hiển hiện tương tự sắc? Tại sao tương tục kiên trụ trước sau tương tự? Ấy là do các điên đảo y chỉ vào phiền não. Nếu không như thế thì đối với phi nghóa, nghóa điên đảo không được thành. Nếu không có nghóa điên đảo thì hai thứ hoặc chướng và trí chướng không được thành. Nếu không có hai chướng thì phẩm thanh tịnh cũng không được thành, cho nên các thức như vậy sinh khởi đáng tin là thật. Trong đây kệ nói: Loạn nhân và loạn thể, Sắc thức, Vô sắc thức, Nếu thức trước không có, Thức sau không được sinh. Tại sao thân thức, thân giả thức, thọ giả thức, ứng thọ thức, chánh thọ thức, đối với tất cả sinh xứ lẫn nhau mật hợp sinh? Vì chỗ hiển thọ sinh đầy đủ. Tại sao thế thức… như trước nói, có các thứ sai biệt sinh? Vô thủy sinh tử tương tục không đoạn dứt, là sự gồm thâu của vô lượng thế giới chúng sinh, chỗ nhiếp của vô lượng khí thế giới, chỗ nhiếp của vô lượng sự tạo tác lẫn nhau hiển thị, chỗ nhiếp của vô lượng nhiếp và thọ dụng sai biệt, chỗ nhiếp của vô lượng thọ dụng nghiệp quả báo yêu, ghét chỗ nhiếp của vô lượng sinh và tử chứng đắc sai biệt. Tại sao chánh biện các thức như vậy? Vì khiến cho thành nghóa Duy thức. Lược nói có ba tướng, các thức thì thành Duy thức, chỉ có thức lượng, ngoại pháp trần thì không có tất cả cho nên chỉ có hai thứ là tướng và kiến là chỗ nhiếp của thức. Do đó chỗ nhiếp của các thứ sinh tướng, nghóa nầy thế nào? Đây là tất cả thức đều không có pháp trần, thành Duy thức thì có tướng và có kiến. Các thức của nhãn… lấy sắc làm tướng, các thức của nhãn… lấy thức làm kiến. Ýthức lấy tất cả nhãn thức cho đến pháp thức làm tướng. Ý thức lấy ý thức làm kiến. Tại sao ý thức như vậy có thể phân biệt? Tương tự tất cả thức pháp trần phân sinh. Trong đây nói Kệ: Nhập duy lượng, duy nhị, Mọi người quán nhiều thứ, Khi thông đạt Duy thức, Và phục lìa thức vị. Các luận sư nói: Ý thức nầy tùy các thứ y chỉ sinh khởi mà được các thứ tên, ví như nghiệp tác ý được tên nghiệp của thân, khẩu. Thức nầy đối với tất cả y chỉ sinh khởi các thứ tướng mạo tựa hai thứ pháp hiển hiện: 1. Tự pháp trần hiển hiện. 2. Tựï phân biệt hiển hiện. Tất cả xứ tự xúc hiển hiện. Nếu tại cõi hữu sắc thì ý thức nương vào thân mà sinh, ví như hữu sắc thì các căn dựa vào thân mà sinh. Trong đây nói kệ nói: Viễn hành và độc hành, Không thân, ở hang trống, Điều phục, khó điều phục, Thì giải thoát ma trói. Như Kinh nói: “Cảnh giới là đối tượng của nhãn… năm căn này, mỗi mỗi cảnh giới, ý thức có thể nắm lấy, ý thức phân biệt làm sinh nhân của nó”. Lại có thuyết khác phân biệt nói: “Trong mười hai nhập, thì sáu tụ thức gọi là ý nhập, là xứ an lập bản thức làm nghóa thức. Trong đây tất cả thức gọi là tướng thức. Ý thức và y chỉ thức phải biết gọi là kiến thức. Tại sao vậy? Vì tướng thức nầy do kiến sinh nhân hiển hiện tự pháp trần tác khởi kiến sinh ra sự y chỉ. Như vậy mà các thức thành lập Duy thức. Tại sao các pháp trần hiện tiền hiển hiện biết chính là không có. Như Phật Thế Tôn nói: “Nếu Bồ-tát tương ưng với bốn pháp, thì có thể tầm có thể nhập tất cả thức không có pháp trần”. Những gì là bốn: Biết trái với thức tướng, ví như ngạ quỷ, súc sinh, nhân, thiên, cảnh giới thì đồng nhưng kiến thức có khác. Do thấy không có cảnh giới thức, ví như trong mộng ảnh pháp trần quá khứ, vị lai. Do biết lìa công dụng không có điên đảo phải thành, ví như trong thật có pháp trần, duyên pháp trần khởi thức, không thành điên đảo, không do công dụng, biết như thật. Do biết nghóa tùy thuận ba tuệ. Tại sao tất cả Thánh nhân nhập quán đắc tâm tự tại? Do nguyện lạc tự tại, như nguyện lạc về pháp trần các thứ hiển hiện. Nếu người quán hạnh đã đắc Xa-ma-tha, tu pháp quán gia hạnh, thì tùy thuận nghóa tư duy hiển hiện. Nếu người đắc Vô phân biệt trí mà chưa xuất Vô phân biệt quán thì tất cả pháp trần không hiển hiện. Do cảnh giới tùy thuận ba thứ tuệ, do dẫn chứng ở trước mà thành tựu nghóa Duy thức tức biết chỉ có thức không có pháp trần. Trong đây có sáu bài kệ làm sáng tỏ lại một lần nữa nghóa trước, kệ nầy sau đến nương vào trí sẽ phân biệt nói rộng, nói về ngạ quỷ, súc sinh, nhân, như vậy…  NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN <卷>QUYỂN 2 <詞>PHẦN II: TƯỚNG THÙ THẮNG NÊN BIẾT (Tiếp Theo) Nếu y chỉ Duy thức tương tự pháp trần hiển hiện thì gọi là y tha tánh. Vậy tại sao thành y tha, nhân duyên gì gọi là y tha? Do từ chủng tử tự huân tập sinh, hệ thuộc nhân duyên không được tự tại. Nếu sinh không có công năng vượt hơn một sát-na được tự trụ thì gọi là y tha. Nếu y tha của phân biệt tánh thật không có tự pháp trần hiển hiện thì tại sao thành phân biệt, nhân duyên gì gọi là phân biệt? Vô lượng tướng mạo ý thức phân biệt, điên đảo sinh nhân cho nên thành phân biệt, không có tự tướng mà chỉ thấy phân biệt, gọi là phân biệt. Nếu tánh chân thật và tánh phân biệt vónh viễn không có sở hữu làm tướng, thì tại sao thành chân thật, nhân duyên gì gọi là chân thật? Do như, đều như cho nên thành chân thật, do thành tựu cảnh giới thanh tịnh, do tối thắng trong tất cả thiện pháp, đối với thắng nghiệp thành tựu cho nên gọi là chân thật. Lại nữa, nếu có phân biệt và sở phân biệt, thì tánh phân biệt được thành. Trong đây pháp gì gọi là phân biệt, pháp gì gọi là sở phân biệt, pháp gì gọi là phân biệt tánh? Ý thức là phân biệt, gồm có đủ ba thứ phân biệt. Tại sao vậy? Thức nầy do huân tập tự ngôn làm chủng tử, và tất cả sự huân tập thức ngôn làm chủng tử, do đó thức nầy sinh. Do vô biên phân biệt, tất cả xứ phân biệt chỉ gọi là phân biệt, nói là phân biệt, vì y tha nầy chỉ là sở phân biệt, là nhân có thể thành y tha tánh làm sở phân biệt. Trong đây gọi là tánh phân biệt. Tại sao phân biệt có thể tính toán? Y tha tánh nầy chỉ giống như tướng của vạn vật, duyên cảnh giới gì, chấp tướng mạo gì, như thế nào quán thấy, như thế nào duyên khởi, như thế nào nói năng, như thế nào tăng ích? Do cảnh giới của danh trong y tha tánh, do chấp vướng tướng, do phán quyết khởi kiến, do giác quán ngôn thuyết duyên khởi, do bốn thứ ngôn thuyết của kiến v.v… thật không có pháp trần mà kế chấp thật có làm tăng ích, do những nhân nầy mà có thể phân biệt. Ba loại tánh nầy như thế nào, cùng với tha là khác không khác? Phi dị, phi bất dị, phải nói như vậy, vì có biệt nghóa y tha tánh gọi là y tha, có biệt nghóa đây là thành phân biệt, có biệt nghóa đây là thành chân thật. Thế nào là biệt nghóa nói đây là y tha? Từ huân tập chủng tử hệ thuộc vào tha. Lại có nghóa gì nói đây là thành phân biệt? Tánh y tha nầy làm nhân phân biệt, là sở phân biệt cho nên thành phân biệt. Lại có nghóa gì nói đây là thành chân thật? Y tha tánh nầy hoặc là thành chân thật, như sở phân biệt thật ra không có như vậy. Lại có nghóa gì mà nói do một thức nầy trở thành tướng mạo của tất cả loại thức, bản thức, thực và các khác thức khác sinh khởi chủng chủng tướng mạo của thức. Lại nhân theo tướng mạo nầy sinh, y tha tánh có mấy thứ? Nếu lược nói thì có hai thứ: 1. Hệ thuộc huân tập chủng tử. 2. Hệ thuộc tịnh phẩm và phẩm bất tịnh của tánh không thành tựu. Cho nên do hai thứ hệ thuộc nầy mà gọi là y tha. Tánh phân biệt cũng có hai thứ: 1.Do phân biệt tự tánh. 2.Do phân biệt sai biệt. Tánh chân thật cũng có hai thứ: 1.Tự tánh thành tựu. 2.Thanh tịnh thành tựu. Lại có phân biệt phân thành bốn thứ: 1.Phân biệt tự tánh. 2.Phân biệt sai biệt. 3.Hữu giác. 4.Vô giác. Hữu giác là có thể phân biệt rõ danh ngôn chúng sinh phân biệt. Vô giác là không thể phân biệt rõ danh ngôn chúng sinh phân biệt. Lại nữa, phân biệt có năm thứ: 1. Nương vào danh để phân biệt nghóa tự tánh, ví dụ danh nầy làm đề mục cho nghóa này. 2. Nương vào nghóa để phân biệt danh tự tánh, ví dụ nghóa nầy thuộc danh này. 3. Nương vào danh để phân biệt danh tự tánh, ví dụ phân biệt mà chưa nhận ra nghóa danh. 4.Nương vào nghóa để phân biệt nghóa tự tánh, ví dụ phân biệt mà chưa nhận ra danh nghóa. 5.Nương vào hai phép để phân biệt hai thứ tự tánh, ví dụ danh nầy thì nghóa này. Nghóa nào hoặc danh nào gồm thâu tất cả phân biệt? Lại có mười thứ: Căn bản phân biệt là căn bản thức. Tướng phân biệt là thức của sắc… Y hiển thị phân biệt là có thức y chỉ thức của nhãn… Tướng biến dị phân biệt là biến dị của lão…, thọ của khổ lạc, hoặc và tà uổng của dục, biến dị của thời tiết, biến dị của địa ngục… Trong cõi dục. Y hiển thị biến dị phân biệt là như điều nói biến dị ở trên mà khởi biến dị phân biệt. Tha dẫn phân biệt là phân biệt nghe loại phi chánh pháp và hai chánh pháp. Bất như lý phân biệt là người ngoại đạo không hai loại chánh pháp. biệt. Như lý phân biệt là chánh nội nhân văn chánh pháp loại phân Quyết phán chấp phân biệt là bất như lý tư duy, chủng loại thân kiến làm căn bản, cùng với sáu mươi hai thứ kiến tương ưng phân biệt. Tán động phân biệt là mười thứ phân biệt của Bồ-tát: 1.Vô hữu tướng tán động. 2.Hữu tướng tán động. 3.Tăng ích tán động. 4.Tổn giảm tán động. 5. Nhất chấp tán động. 6.Dị chấp tán động. 7. Thông tán động. 8.Biệt tán động. 9. Như danh khởi nghóa tán động. 1 0.Như nghóa khởi danh tán động. Để đối trị mười thứ tán động phân biệt này, trong tất cả Bát-nhã Ba-la-mật giáo, Phật Thế Tôn nói: “Vô phân biệt trí có khả năng đối trị mười thứ tán động này, phải biết đầy đủ nghóa của Kinh Bát-nhã Ba-la-mật”. Như Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói: “Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la- mật như thế nào? Xá-lợi-phất! Bồ-tát đó thật có Bồ-tát, là không thấy có Bồ-tát, không thấy danh Bồ-tát, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật, không thấy hành, không thấy bất hành, không thấy sắc, không thấy thọ, tưởng, hành, thức. Tại sao? Vì do tự tánh của sắc là không, không do không không mà thấy sắc không, cũng không phải sắc, khác vô sắc thành không. Sắc tức là không, không tức là sắc. Tại sao? Xá-lợi-phất! Đây chỉ là hữu danh, điều gọi là Sắc là tự tánh, không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Đối với cái giả, đặt tên để phân biệt các pháp, do giả lập khách danh để tùy nói các pháp như như, tùy nói như vậy như vậy sinh khởi chấp trước, như vậy tất cả danh Bồ-tát không thấy. Nếu không thấy thì không sinh chấp trước. Như quán sắc cho đến quán thức, cũng nên quán như vậy. Từ văn cú của Kinh Bát-nhã Ba-la-mật này, phải tùy thuận tư duy mười thứ nghóa phân biệt này. Nếu do biệt ý nầy thì y tha tánh trở thành có ba tánh. Ba tánh đó như thế nào? Tánh có ba thứ khác nhau, không thành xen tạp và không có nghóa xen tạp, do đạo lý nầy mà tánh nầy thành y tha. Nếu không do đây, thì thành phân biệt và chân thật. Do đạo lý nầy mà tánh nầy thành phân biệt, không do đây mà thành y tha và chân thật. Do đạo lý nầy mà tánh nầy thành chân thật. Nếu không do đây thì thành y tha và phân biệt. Làm sao biết được y tha tánh này? Do tánh phân biệt hiển hiện tợ pháp, không cùng với tánh phân biệt đồng thể, chưa đắc danh trước thì đối với nghóa không nên sinh trí, pháp thể cùng với danh là một thì nghóa nầy trái nhau. Do danh là nhiều, nếu danh cùng với nghóa là một thì danh đã là nhiều thì nghóa phải thành nhiều, thể của nghóa nầy trái nhau. Do danh bất định, thể tương tạp thì nghóa nầy trái nhau. Trong đây nói kệ rằng: Trước danh không có trí, Nhiều danh và bất định, Nghóa thành do đồng thể, Thể đa tạp trái nhau. Pháp không hiển tợ hữu, Vô nhiễm mà hữu tịnh, Cho nên ví về việc huyễn, Cũng ví như hư không. Tại sao hiển hiện như vậy mà thật không có? Nhất thiết chủng của y tha tánh không phải không có, nếu không có y tha tánh thì chân thật tánh cũng không, tất cả không có thì không thành. Nếu không có y tha tánh và chân thật tánh thì có lỗi không có nhiễm và thanh tịnh phẩm. Hai phẩm nầy có thể biết chẳng phải không có, cho nên không phải tất cả đều không có. Trong đây nói kệ rằng: Nếu không y tha tánh, Chân thật tánh cũng không, Thì hằng không hai phẩm: Nhiễm ô và thanh tịnh. Chư Phật Thế Tôn trong Đại thừa nói Kinh Tỳ Phật Lược, trong Kinh nầy nói: “Làm sao phải biết tánh phân biệt? Do nói không có phẩm loại mà tánh nầy phải biết. Tại sao phải biết y tha tánh? Do nói về việc huyễn, nai khát nước, mộng tướng, bóng ảnh, tiếng vang trong hang, trăng dưới nước, biến Hóa, các thí dụ như vậy phải biết tánh của nó. Tại sao phải biết chân thật tánh? Do nói bốn thứ pháp thanh tịnh, phải nên biết tánh này. Bốn thứ pháp thanh tịnh là: Pháp nầy xưa nay tự tánh thanh tịnh, là Như như, Không, Thật tế, Vô tướng, Chân thật Pháp giới. Vô cấu thanh tịnh là pháp xuất ly tất cả khách pháp trần chướng bẩn. mật. Chí đắc đạo thanh tịnh là tất cả trợ đạo pháp và các Ba-la- Đạo sinh cảnh giới thanh tịnh là chánh thuyết pháp Đại thừa. Tại sao vậy ? Thuyết nầy là nhân thanh tịnh cho nên không phải phân biệt, pháp giới lưu thanh tịnh cho nên không phải y tha. Do bốn thứ pháp thanh tịnh nầy mà nhiếp hết tất cả pháp thanh tịnh. Trong đây nói kệ rằng: Các huyễn hiển y tha, Thuyết không hiển phân biệt, Nếu thuyết bốn thanh tịnh, Thuyết nầy thuộc chân thật. Thanh tịnh do bản tánh. Vô cấu đạo duyên duyên, Tất cả thanh tịnh pháp, Đều nhiếp các phẩm loại. Nhân gì, duyên gì là Y tha tánh? Như kinh nói mọi việc huyễn, lấy thí dụ làm rõ nó. Đối với Y tha tánh thì trừ hư vọng nghi hoặc của nó. Tại sao tha trong tha tánh sinh hư vọng nghi hoặc? Các thuyết trong y tha tánh có tâm hư vọng nghi hoặc như vậy. Nếu thật không có vật thì tạ sao thành cảnh giới? Để giải quyết cái nghi này, cho nên nói thí dụ về việc huyễn. Nếu không có cảnh giới thì tâm và tâm sở làm sao được sinh? Để giải quyết nghi này, cho nên nói thí dụ nai khát nước. Nếu thật không có pháp trần thì thọ dụng của ái và phi ái làm sao được thành? Để giải quyết nghi nầy, cho nên nói thí dụ tướng trong mộng. Nếu thật không có pháp, thì hai nghiệp thiện và ác, ái quả và phi ái quả làm sao được sinh? Để giải quyết nghi nầy, cho nên nói thí dụ hình ảnh. Nếu thật không có pháp thì tại sao chủng chủng trí được sinh? Để giải quyết nghi nầy, cho nên nói thí dụ ánh sáng và bóng. Nếu thật không có pháp thì tại sao chủng chủng ngôn thuyết khởi? Để giải quyết nghi nầy, cho nên nói thí dụ tiếng vang trong hang động. Nếu thật không có pháp thì làm sao thành duyên cảnh giới định tâm của chân thật pháp? Để giải quyết nghi nầy, cho nên nói thí dụ trăng trong nước. Nếu thật không có pháp thì tại sao chư Bồ-tát do đó mà khởi tâm không điên đảo, vì người khác mà làm sự lợi ích đối với sáu đạo thọ sinh? Để giải quyết nghi này, cho nên nói thí dụ biến Hóa. Trong Kinh Bà-la-môn Vấn nói: “Bạch Thế Tôn! Nương vào nghóa gì mà nói những lời như vậy? Như Lai không thấy sinh tử, không thấy Niết-bàn, trong y tha tánh thì nương tánh phân biệt và nương chân thật tánh. sinh tử làm Niết-bàn nương vào nghóa vô sai biệt”. Tại sao vậy? Vì y tha tánh nầy do một phần phân biệt mà thành sinh tử, do một phần chân thật mà thành Niết-bàn. Trong A-tỳ-đạt-ma Tu-đa-la, Thế Tôn nói pháp có ba phần: phần. Nhiễm ô phần. 2.Thanh tịnh phần. 3.Nhiễm ô và thanh tịnh Nương vào nghóa gì mà nói ba phần này? Trong y tha tánh thì tánh phân biệt là nhiễm ô phần, Chân thật tánh là thanh tịnh phần, y tha tánh là nhiễm ô và thanh tịnh phần. Nương vào nghóa như vậy mà nói ba phần. Trong ba nghóa nầy lấy gì làm thí dụ? Lấy vàng ẩn trong đất là thí dụ, ví như vàng ẩn trong đất, thấy có ba pháp: 1. Địa giới. 2. Vàng. 3. Đất. Đất trong địa giới là chẳng phải có, nhưng hiển hiện vàng là thật có mà không hiển hiện đất nầy. Nếu dùng lửa để thiêu luyện đất thì đất không hiện mà tướng vàng tự hiện, đất của đất giới nầy khi hiển hiện là do tướng hư vọng hiển hiện, khi vàng hiển hiện thì do chân thật tướng hiển hiện, cho nên địa giới có hai phần. Như vậy bản thức, khi nó chưa được thiêu luyện bởi lửa Vô phân biệt trí thì thức nầy do hư vọng tánh phân biệt hiển hiện, không do chân thật tánh hiển hiện. Nếu khi nó bị thiêu luyện bởi lửa của Vô phân biệt trí, thì bản thức nầy do thành tựu tánh chân thật hiển hiện, không do hư vọng tánh phân biệt hiển hiện. Do đó hư vọng tánh phân biệt thức tức là y tha tánh. Điều nầy có hai phần. Ví dụ như vàng ẩn trong tất cả đất. Lại nữa, có chỗ Thế Tôn nói: “Tất cả pháp thường trụ”, có chỗ thì nói: “Tất cả pháp vô thường”, có chỗ nói: “phi thường, phi vô thường”. lấy nghóa gì mà nói là thường ? Y tha tánh nầy là do chân thật tánh phân ra thường trụ, do tánh phân biệt phân ra vô thường, do nhị tánh phân ra phi thường và phi vô thường. Như nương vào nghóa nầy mà nói thường và vô thường không hai. Như vậy nói khổ và lạc không hai, thiện và ác không hai. Không và bất không không hai, hữu ngã và vô ngã không hai, tịnh và bất tịnh không hai, hữu tánh và vô tánh không hai, hữu sinh và vô sinh không hai, hữu diệt và vô diệt không hai, xưa nay tịch tónh và bất tịch tịnh không hai, xưa nay Niết-bàn và phi Niết-bàn không hai, sinh tử và Niết-bàn không hai. Do sai biệt như vậy, chư Phật Như Lai y theo nghóa mà nói lời bí mật, do ba tánh nầy phải tùy theo sự quyết định rõ ràng, thường và vô thường… nên chính là nói giải thích như trước. Trong đây kệ nói: Như pháp thật không có, Như kia chủng chủng hiện, Pháp nầy và phi pháp, Mà nói nghóa không hai. Nương một phần ngôn thuyết, Hoặc hữu hoặc phi hữu, Nương hai phần ngôn thuyết, Phi hữu, phi phi hữu. Như hiển hiện không có, Cho nên nói vónh vô, Như hiển hiện thật có, Cho nên nói phi vô. Do tự thể chẳng có, Vì tự thể không trụ, Nếu như lấy không có, Ba tánh thành vô tánh. Do vô tánh mà thành, Tánh sau y chỉ trước, Bản tịnh vô sinh diệt, Và tự tánh Niết-bàn. Lại nữa, có bốn ý và bốn y, chư Phật Thế Tôn dạy phải tùy theo đó mà quyết liễu, bốn ý là: Ý bình đẳng, ví như có nói: “Ngày xưa trong thời gian đó, ta là Tỳ-bà-thi, thành Phật đã lâu”. Ý khác thời, ví như có nói: “Nếu người tụng trì danh hiệu của Phật Đa Bảo, thì quyết định đối với Vô Thượng Bồ-đề không còn thoái chuyển”. Lại có nói: “Do chỉ phát nguyện đối với cõi Phật an lạc thì được sinh qua cõi đó”. Ý nghóa riêng biệt, ví như có nói: “Phụng sự chư Phật như vậy, nhiều như số cát hết thảy sông Hằng, thì đối với nghóa của pháp Đại thừa được sinh hiểu rõ”. Ý muốn chúng sinh được an vui, ví như Như Lai trước kia làm một người khen ngợi bố thí sau lại huỷ báng, như thí giới và các hạnh tu khác cũng vậy. Đó gọi là bốn loại ý. Bốn y chỉ là: Linh nhập y, ví như trong Đại thừa và Tiểu thừa chư Phật Thế Tôn nói chỗ nhiếp tục đế của hai thứ nhân và pháp. Hai tướng có chung và riêng. Tướng y, ví như tùy trong chỗ thuyết pháp tướng chắc chắn có ba tánh. Đối trị y, trong đây tám vạn bốn ngàn phiền não của chúng sinh nên hạnh đối trị hiển hiện. Phiên y, trong đó do nói biệt nghóa của ngôn từ để hiển thí dụ biệt nghóa. Như kệ nói: A-sa Ly-sa-la Ma-đa-da, Tỳ-bạt-da Tư-giả Tu-hy-la, Ly-thí-na-giả Tăng-kha-lý-đa, La-bát-để Bồ-đề Vật-đa-ma. Nếu người muốn giải thích rộng pháp Đại thừa, thì lược nói do ba tướng và phải nên giải thích như vầy: Rộng giải thích thể tướng của duyên sinh. Rộng giải thích nương vào nhân duyên đã sinh thật tướng của các pháp. Rộng giải thích thành lập chỗ thuyết các nghóa. Rộng giải thích thể tướng của duyên sinh là như ý nghóa của bài kệ trên muốn nói: Chỗ sinh các pháp của huân tập, Như vậy đây tùng theo kia, Quả báo thức và sinh khởi thức, Do nương lẫn nhau mà sinh. Rộng giải thích nương vào nhân duyên đã sinh thật tướng của các pháp, các pháp lấy sinh khởi thức làm tướng, và lấy tướng và kiến thức làm tự tánh. Lại nữa, các pháp lấy y chỉ làm tướng, lấy phân biệt làm tướng và pháp gốc làm tướng. Do ngôn thuyết nầy nên thể tướng của các pháp trong ba tánh được hiển hiện. Như kệ nói rằng: Từ hữu tướng, hữu kiến, Phải biết ba tướng pháp. Tại sao được giải thích pháp tướng nầy là tánh phân biệt? Đối với tánh y tha thật ra không có sở hữu, nhưng tánh đối với tánh chân thật thì trong đó thật có. Do hai nghóa không có và có, chẳng chứng đắc và chứng đắc. Chưa thấy và đã thấy nầy mà chân như đồng thời tự nhiên thành. Tánh phân biệt trong tánh y tha thì không có, tánh chân thật thì có. Hoặc thấy kia không thấy đây, hoặc không thấy kia tức là thấy đây. Như kệ nói: Phân biệt trong y tha, Không những chân thật có, Nên đắc và không đắc, Trong đó đều bình đẳng. Ở đây, giải thích rộng sự thành lập các nghóa đã được nói, ví như văn cú được nói trong phần thứ nhất, do những câu còn lại hiển thị phân biệt, hoặc do công đức y chỉ, hoặc do sự nghóa y chỉ. Công đức y chỉ là rộng nói công đức của Phật Thế Tôn, thật có trí tuệ tối thanh tịnh, không hề có hai hành, lấy pháp vô tướng làm nơi nương tựa thù thắng và ý hành trụ nơi Phật trụ, chí chứng đạt hành vô ngại bình đẳng của chư Phật, cho nên, vô đối chuyển pháp không thể phá, cảnh không thể biến dị không thể tư duy, chỗ thành lập pháp đến ba đời bình đẳng, hiện thân trong tất cả thế giới, trí tuệ vô ngại trong tất cả pháp, tất cả hạnh cùng với trí tuệ tương ưng, đối với trí tuệ vô ngại, không thể phân biệt thân. Trí tuệ mà tất cả Bồ-tát đã thọ, đến vô nhị Phật trụ Ba-la-mật, đến vô sai biệt Như Lai giải thoát, trí cứu cánh đã đắc vô biên Phật địa, lấy bình đẳng pháp giới làm hư không giới thù thắng, tức là tuệ sau cùng thật tối thanh tịnh. Như vậy, câu thứ nhất do các câu khác, thứ tự phải biết phân biệt giải thích. Nếu chánh thuyết pháp nghóa như vậy thì được thành tuệ tối thanh tịnh, trí tuệ của chư Phật Như Lai, đối với tất cả pháp thanh tịnh thì không có pháp nào mà không hiểu rõ. Bản nghóa như vậy phải biết do công đức hai mươi mốt vị Phật gồm thâu. Đối với sở tri thì khởi tất cả công đức của vô chướng hạnh, đối với hữu, vô, vô nhị tướng và chân như tối thanh tịnh khiến cho nhập công đức, không do công dụng, không xả Như Lai sự và công đức Phật trụ. Đối với pháp thân y chỉ và công đức ý sự vô sai biệt, tu tập tất cả công đức đối trị chướng, công đức hàng phục tất cả ngoại đạo, công đức sống trong thế gian phi thế gian pháp đã nhiễm ô, công đức an lập Chánh pháp đó là bốn thứ thiện xảo để đáp câu hỏi công đức. Công đức hiển hiện Ứng Hóa thân trong tất cả thế giới, công đức có khả năng quyết nghi cho người khác, công đức do các thứ hạnh khiến người khác nhập vào, công đức đối với đời vị lai pháp sinh trí, công đức tùy an lạc của chúng sinh mà hiển hiện, công đức có thể hành vô lượng y chỉ Chánh giáo Hóa sự của chúng sinh, công đức bình đẳng pháp thân Ba-la-mật thành tựu, công đức tùy ý chúng sinh mà hiển hiện thuần tịnh Phật độ, đó là công đức của ba thứ Phật thân không lìa và không riêng xứ. Tận cùng của sinh tử có thể sinh tất cả công đức lợi ích an lạc cho chúng sinh. Do công đức vô tận, nương theo sự nghóa y chỉ. Như trong Kinh nói: “Nếu Bồ-tát cùng với ba mươi hai tướng tương ưng thì gọi là Bồ-tát”. Đối với tất cả chúng sinh đem lợi ích an lạc ý tương ưng thì khiến họ nhập ý của Nhất thiết trí trí. Ta nay trong xứ nào mà tương ưng thích hợp với trí như vậy? Do xả tâm kiêu mạn, ý thiện kiên cố, không phải giả bộ xót thương, ý không tham báo ân, đối với người thân hoặc không thân, mà ý bình đẳng thì vónh viễn làm bạn tốt, cho đến Vô dư Niết-bàn xứng với lượng nói bàn cười vui sung sướng, trước hết nói đối với các chúng sinh từ bi không khác, với việc mình làm, không có tâm thoái lui, không có tâm chán mệt nghe nghóa không đầy đủ. Đối với tự mình làm tội thì có thể hiển lỗi của mình. Đối với người khác làm tội thì không trách mắng họ. Trong tất cả oai nghi thì hằng trì tâm Bồ-tát, không cầu quả báo mà hành bố thí, không dính mắc tất cả sự kinh sợ và đạo sinh thọ trì cấm giới. Đối với tất cả chúng sinh nhẫn nhục vô ngại, nhằm dắt dẫn tất cả thiện pháp hành tinh tấn, tu Tam-ma-đề diệt lìa Vô sắc định, cùng với phương tiện tương ưng trí, bốn nhiếp tương ưng phương tiện trong trì giới và phá giới, bạn tốt không hai, tâm cung kính phụng sự thiện tri thức, tâm cung kính nghe pháp, thích trụ nơi A-lan- nhã, đối với hy hữu của thế gian không sinh tâm an lạc, đối với thừa của hạ phẩm không sinh tâm hỷ lạc, đối với Đại thừa giáo thì quán thật công đức, xa lìa bạn ác kính thờ bạn tốt, hằng sửa theo bốn thứ phạm trụ, sửa theo vô lượng tâm thanh tịnh, hằng vận dụng tự tại năm thần thông, hằng y theo trí tuệ. Đối với chúng sinh trụ chánh hạnh và không trụ chánh hạnh, không xả bỏ tâm dẫn dắt đại chúng, hoàn toàn quyết định ngôn thuyết cung kính thật sự thì trước hết là cung kính hạnh, Bồ- tát tâm cùng với các pháp tương ưng như vậy gọi là Bồ-tát. Do văn cú như vậy, nên trước đã nói câu thứ nhất. Giải thích câu thứ nhất, là đối với tất cả chúng sinh luôn có ý lợi ích an lạc, câu văn ý lợi ích an lạc nầy riêng có mười sáu câu văn đã làm rõ nên phải biết. Giải thích mười sáu nghiệp: Phụ phụ hạnh nghiệp hạnh. Vô đảo nghiệp. Tự hành nghiệp không do tha sự. Nghiệp bất khả hoại. Nghiệp vô cầu dục. Nghiệp nầy phải biết có ba câu giải thích: Không tham báo ân. 2. Và 3. Chúng sinh có ân hay vô ân đều không sinh tâm ưa ghét. Nghiệp tùy thuận hành cho đến đời khác mà tùy xứ tương ưng ngôn thuyết. Nghiệp nầy phải biết có hai câu giải thích: Có khổ có vui không hai. Nghiệp chúng sinh bình đẳng. Nghiệp không hèn mọn. Nghiệp không thể khiến cho thoái chuyển. Nghiệp thu nhiếp phương tiện. Nghiệp đối trị chán ghét. Nghiệp nầy phải biết có hai câu giải thích. Nghiệp tư lương vô gián. Nghiệp hạnh tiến thắng vị. Nghiệp nầy phải biết có bảy câu giải thích: Chánh tu gia hạnh và sáu Ba-la-mật. Nghiệp cung kính hành tứ nhiếp pháp thành tựu phương tiện. Nghiệp nầy phải biết có sáu câu giải thích: 1.Thờ thiện tri thức. 2.Nghe chánh pháp. 3.Trụ A-lan-nhã. 4.Xa lìa giác quán tà. 5.Công đức chánh tư duy, có hai câu giải thích. 6. Hiển kính thờ công đức của bạn tốt, có hai câu giải thích. Nghiệp hiển thành tựu. Nghiệp nầy có ba câu giải thích: 1.Trị vô lượng tâm. 2. Đắc thanh tịnh. 3. Oai đức. Nghiệp chứng đắc công đức an lập. Nghiệp nầy phải biết có bốn câu giải thích: 1.Dẫn dắt đại chúng không có tâm nghi ngờ. 2.Lập chánh giáo học xứ. 3. Pháp nhiếp và tài nhiếp. 4. Không có tâm nhiễm ô. Những câu như vậy, phải biết giải thích văn cú của nói thứ nhất. Trong đây nói kệ rằng: Chấp như câu nói trước, Tùy đức cú sai biệt, Chấp như câu nói trước, Do nghóa biệt, cú biệt. -------------------------------- <詞>PHẦN III: TƯỚNG THÙ THẮNG CỦA NHẬP NÊN BIẾT Như vậy đã nói về tướng thù thắng của trí, thế nào là hội nhập vào tướng thù thắng của trí? Sự y chỉ của đa văn đã huân tập, không phải thuộc về của A-lê-da thức, mà như A-lê-da thức thành chủng tử thuộc về chánh tư duy. Cái tướng hiển hiện của nghóa và pháp tương tự được sinh ra, thì ý ngôn phân biệt có kiến phần đã tương tự nắm giữ lấy chủng loại. Người nào có thể hội nhập tướng ưng tri? Sự huân tập đa văn của Đại thừa tương tục đã được thừa sự vô lượng chư Phật ra đời, đã nhập chánh vị của quyết định tin ưa, do khéo thành thục tu tập tăng trưởng thiện căn, cho nên khéo được hai thứ tư lương phước đức trí tuệ. Chư Bồ-tát đối với xứ nào nhập Duy thức quán? Đối với tướng hiển hiện của pháp nghóa tương tự có kiến phần ý ngôn phân biệt là chỗ sinh của pháp tướng Đại thừa, đối với địa nguyện hạnh mà nhập, là tùy theo văn (nghe) mà tín nhạo (tin ưa), vì kiến đạo là như lý mà thông đạt, tu đạo là có khả năng đối trị tất cả chướng. Trong đạo cứu cánh, là lìa khỏi chướng cấu tối thanh tịnh. Tất cả pháp thật ra chỉ có thức. Như nói, tùy nghe mà tin ưa, như lý mà thông đạt, có khả năng đối trị tất cả chướng. Khi lìa khỏi chướng cấu thì được tối thanh tịnh. Làm thế nào được nhập? Do sự gia trì tónh lự của thiện căn và do có ba tướng mài dũa luyện tâm. Do diệt trừ bốn xứ chướng, duyên pháp nghóa làm cảnh, vô gián tu, cung kính tu, Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá-na, không phóng dật, mười phương thế giới không có số lượng, không thể tính đếm suy lường chúng sinh trong cõi người, từng sát-na chứng đắc Vô Thượng Bồ-đề, gọi đó là mài dũa luyện tâm thứ nhất. Từ chánh ý nầy mà bố thí… nên các Ba-la-mật chắc chắn được sinh trưởng, là sự tin ưa của ta đã được kiên trụ. Do chánh ý nầy mà ta tu tập bố thí… các Ba-la-mật tiến tới đắc viên mãn không khó, nên gọi đó là mài dũa luyện tâm thứ hai. Nếu người tương ưng với nhiều thiện pháp, sau khi xả mạng trong tất cả sự thọ sinh thì giàu vui khả ái tự nhiên mà thành. Người đó đắc thiện pháp có ngăn ngại, nghóa nầy cũng phải thành tựu. Làm thế nào ta được viên mãn thiện và vô ngại thiện? Tất cả giàu vui như ý khả ái không thành, gọi đó là mài dũa luyện tâm thứ ba. Trong đây kệ nói: Chúng sinh trong cõi người, Niệm niệm chứng Bồ-đề, Xứ sở quá số lượng, Không có tâm hèn kém. Người thiện tâm tin ưa, Giỏi sinh các độ thí Bồ-tát đắc ý này, Cho nên tu độ thí Nếu khi người thiện chết, Liền được vui giàu lớn, Diệt vị viên tịnh thiện, Nghóa nầy là phải có! Do diệt trừ bốn xứ chướng, do từ bỏ lối suy nghó của Thanh-văn và Độc Giác, nên tà tư duy đã diệt mà sinh lòng tin và biết chắc Đại thừa và tâm quyết định. Diệt tất cả tà ý và nghi là bởi nghe, nghó các pháp. Do từ bỏ tà chấp của ngã và ngã sở cho nên diệt trừ được pháp chấp. Do an lập hiện tiền trụ tất cả Tướng tư duy đều không phân biệt, cho nên có khả năng diệt trừ phân biệt. Trong đó nói kệ rằng: Hiện tại và an trụ, Tất cả tướng tư duy, Người trí không phân biệt, Liền đắc Vô thượng giác. Duyên pháp và nghóa làm cảnh, vậy nhân gì, phương tiện gì được nhập? Do huân tập chủng loại nghe, thuộc chánh tư duy, hiển hiện tựï pháp và nghóa, ý ngôn phân biệt có kiến phần. Do bốn thứ tầm tư, gọi là danh nghóa tự tánh sai biệt giả lập tầm tư. Do bốn thứ Như thật trí, gọi là danh nghóa tự tánh sai biệt, nên bốn thứ như thật trí bất khả đắc. Nếu Bồ-tát đã nhập đã hiểu các nghóa như vậy, thì tu gia hạnh để nhập Duy thức quán. Trong quán này, ý ngôn phân biệt tựa tự ngôn (chữ và lời) và nghóa hiển hiện. Trong đây là tự ngôn (chữ và lời) tướng, chỉ có ý ngôn phân biệt mới được thông đạt như vậy. Nghóa nầy nương vào danh ngôn thì chỉ có ý ngôn phân biệt. Cũng như thông đạt này, danh, nghóa tự tánh, sai biệt nầy chỉ giả thuyết làm lượng cũng như thông đạt nầy. Kế đó trong vị nầy chỉ chứng đắc duy ý ngôn phân biệt, nên người quán hạnh không thấy danh và nghóa, không thấy giả thuyết tự tánh sai biệt. Do thật tướng chẳng có được mà có nghóa tự tánh sai biệt. Đã do bốn thứ tầm tư và bốn thứ Như thật trí, đối với ý ngôn phân biệt hiển hiện tựa danh và nghóa thì được nhập vào Duy thức quán. Trong Duy thức quán thì được nhập pháp gì, pháp như thế nào được nhập? Chỉ nhập hai pháp duy lượng tướng và duy lượng kiến. Mọi thứ tướng mạo danh nghóa, tự tánh sai biệt giả thuyết là tự tánh sai biệt nghóa, sáu thứ tướng không có nghóa, do đây năng thủ và sở thủ không phải nghóa hữu vi, đồng thời hiển hiện tựa mọi thứ tướng mạo và sinh, ví như sợi dây trong tối hiện rõ giống như con rắn, cũng như con rắn trong sợi dây ấy chỉ hư vọng không thật có. Nếu người đã phân biệt rõ nghóa sợi dây nầy thì con rắn thấy trí loạn lúc trước, không duyên cảnh khởi, thì con rắn ấy đã mất, chỉ còn biết sợi dây tồn tại. Trí biết sợi dây nầy nó do vi tế phân tích như hư không không thật cảnh, tại sao vậy? Vì chỉ là tướng của Sắc hương vị xúc, nếu tâm duyên cảnh nầy thì cái biết sợi dây cũng có thể diệt mất. Nếu thấy như vậy đã ẩn mất thì sáu tướng hiển hiện tựa danh và nghóa, pháp trần trí của ý ngôn phân biệt không sinh. Ví như cái biết của con rắn trong nghóa của sáu tướng ẩn mất, thì Duy thức Trí cũng phải có thể ẩn mất, ví như cái biết sợi dây. Do nương vào chân như trí, như vậy Bồ-tát do nhập tựa nghóa mà hiển hiện ý ngôn phân biệt tướng, được nhập tánh phân biệt, do nhập nghóa Duy thức mà được nhập tánh y tha, và làm thế nào được nhập tánh chân thật? Nếu bỏ Duy thức tưởng rồi, thì lúc đó ý ngôn phân biệt trước hết đã nghe pháp huân tập chủng loại Bồ-tát đã liễu biệt và chế phục pháp trần tưởng, tương tự tất cả nghóa hiển hiện, không sinh duyên lại nữa cho nên không được sinh, do đó ý ngôn phân biệt tự Duy thức cũng không được sinh. Do nghóa này, Bồ-tát chỉ trụ vô phân biệt. Trong tất cả nghóa danh do Vô phân biệt trí được chứng được trụ Chân như pháp giới, lúc đó Bồ-tát bình đẳng và bình đẳng, năng duyên sở duyên và Vô phân biệt trí sinh khởi. Do nghóa nầy Bồ-tát được nhập tánh chân thật. Trong đây nói kệ: Pháp nhân và pháp nghóa, Tánh sơ lược, rộng danh, Bất tịnh tịnh cứu cánh, Mười tên cảnh sai biệt. Như vậy Bồ-tát do nhập Duy thức quán, được nhập tướng thù thắng của ứng tri, do nhập tướng nầy mà được nhập sơ Hoan Hỷ địa, khéo thông đạt pháp giới, được sinh vào nhà của mười phương chư Phật Như Lai, được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, được tâm bình đẳng của tất cả Bồ-tát, được tâm bình đẳng của tất cả chư Phật Như Lai, quán nầy gọi là Bồ-tát kiến Đạo. Lại nữa, làm thế nào Bồ-tát nhập Duy thức quán? Do duyên cực thông với pháp làm cảnh xuất thế Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá-na, do Vô phân biệt trí hậu sở đắc mọi thứ tướng thức làm tướng trí để diệt trừ các pháp chủng tử của tất cả hữu nhân trong cộng bản A-lê-da thức để sinh trưởng các pháp chủng tử của năng xúc pháp thân, để chuyển y, để đắc tất cả chánh pháp của Như Lai, để đắc Nhất thiết trí. Nhập Duy thức quán thì Vô phân biệt trí hậu sở đắc trí, đối với bản thức, chỗ sinh Nhất thiết thức và trong tướng của thức tướng do quán tương tự các thí dụ huyễn Hóa… mà tự tánh không điên đảo. Do nghóa này, Bồ-tát như huyễn sư đối với tất cả việc huyễn tự hiểu rõ không điên đảo, trong tất cả tướng nhân duyên và quả, nếu khi chánh thuyết thì thường không có thiên lệch điên đảo. Lúc đó chánh nhập trong Duy thức quán vị, thì có bốn thứ Tam- ma-đề, là bốn thứ thông đạt phần thiện căn y chỉ, Bồ-tát tại sao phải thấy? Do bốn thứ tầm tư, đối với hạ phẩm vô pháp trần quán Nhẫn quang đắc Tam-ma-đề, là Noãn hạnh thông đạt phần thiện căn, y chỉ đối với tối thượng phẩm vô pháp trần quán nhẫn quang tăng Tam-ma- đề, là Đảnh hạnh thông đạt phần thiện căn. Y chỉ đối với bốn thứ Như thật trí, Bồ-tát đã nhập Duy thức quán liễu biệt không có pháp trần, chánh nhập chân nghóa một phần thông hành Tam-ma-đề, là tùy theo phi an lập đế nhẫn, y chỉ sát-na sau của Tam-ma-đề nầy là chế phục xong Duy thức tưởng, chuyển lại gọi là vô gián Tam-ma-đề. Phải biết thế đệ nhất pháp đó y chỉ với bốn thứ Tam-ma-đề, là Bồ-tát nhập phi an lập đế quán phương tiện trước. Nếu Bồ-tát nhập sơ địa như vậy rồi mới đắc kiến đạo, đắc thông đạt nhập Duy thức. Tại sao Bồ-tát tu tập quán hạnh để nhập tu đạo? Như Phật nói rộng, chỗ an lập pháp tướng đối với Bồ-tát mười địa, do gồm thâu tất cả Đại thừa mười hai bộ Kinh của Như Lai đã nói cho nên được hiện tiền, do sửa theo điều đã nói hai cảnh thông và biệt, do sinh khởi duyên cực thông cảnh xuất thế Vô phân biệt trí và Vô phân biệt trí hậu sở đắc Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá-na trí, do trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi đại kiếp nương vào niệm niệm tu tập, do từ trước đến nay chỗ đắc chuyển y, vì đắc tam thân Phật mà tu thêm gia hạnh, là kiến đạo của Thanh-văn và kiến đạo của Bồ-tát. Hai kiến đạo nầy sai biệt như thế nào? Kiến đạo của Thanh-văn và Bồ-tát phải biết có mười một thứ sai biệt, những gì là mười một? Do cảnh giới sai biệt là duyên Đại thừa pháp làm cảnh. Do y chỉ sai biệt là nương vào Đại phước đức trí tuệ tư lương làm y chỉ. Do thông đạt sai biệt là thông đạt hai thứ nhân vô ngã và pháp Vô ngã. Do Niết-bàn sai biệt là nhiếp vô trụ xứ Niết-bàn lấy làm trụ xứ. Do địa sai biệt là nương vào mười địa làm sự xuất ly. Và 7.Do thanh tịnh sai biệt là diệt tập khí của phiền não, và trị tịnh độ làm thanh tịnh. Do đối với tất cả chúng sinh được tâm bình đẳng sai biệt là làm cho thành thục chúng sinh mà không bỏ công đức thiện căn của gia hạnh. Do Thọ sinh sai biệt là sinh vào nhà Như Lai là sinh. Do hiển hiện sai biệt là đối với Phật Tử trong Đại Tập Luận, thường có thể hiển hiện để nhiếp thọ chánh pháp. Do quả sai biệt là pháp mười lực, vô uý, bất cộng của Như Lai và vô lượng công đức sinh làm quả. Trong đây nói hai bài kệ: Danh nghóa khách lẫn nhau, Bồ-tát phải tầm, tư, Phải quán hai duy lượng, Và hai giả thuyết kia. Từ đây sinh thật trí, Lìa (pháp) trần ba phân biệt, Nếu thấy nó phi hữu, Được nhập ba vô tánh. Lại nữa, hai bài kệ của chánh giáo, như Luận Phân biệt quán nói: Bồ-tát tại tónh vị, Quán tâm chỉ là ảnh, Bỏ lìa ngoại trần tướng, Chỉ định, quán, tự tưởng. Bồ-tát trụ nội tâm, Nhập sở thủ phi hữu, Kế quán năng thủ không, Sau xúc hai vô đắc. Lại có Đại thừa Trang nghiêm Kinh Luận đã nói năm bài kệ, làm rõ đạo này: Bồ-tát sinh trưởng phước và tuệ, Hai thứ tư lương vô lượng tế, Nơi pháp tư duy tâm quyết định, Giỏi hiểu nghóa loại, phân biệt nhân. Đã biết nghóa loại chỉ phân biệt, Được trụ tựa nghóa trong Duy thức, Nên người quán hạnh chứng pháp giới, Giỏi lìa hai tướng và không hai. Nếu lìa nơi tâm biết vô dư, Do đây liền thấy tâm chẳng có, Người trí thấy không hai pháp này, Được trụ không hai chân pháp giới. Do người Vô phân biệt trí tuệ, Hằng bình đẳng đi khắp tất cả, Nhuộm áo dầy đặc hơn tụ tánh, Khiến diệt như thuốc hay trừ độc. Phật nói chánh pháp khéo thành lập, An tâm có tướng nơi pháp giới, Đã biết ức niệm chỉ phân biệt, Bờ biển công đức người trí đến. ----------------------------------- <詞>PHẦN IV: TƯỚNG THÙ THẮNG TIẾN VÀO NHÂN QUẢ Như vậy đã nói nhập tướng thù thắng, của ứng tri, thế nào là nhập tướng thù thắng nhân quả của ứng tri? Do sáu Ba-la-mật, là Đà-na, Thi- la, Sằn-đề, Tỳ-lê-da, Trì-ha-na, Bát-la-nhã Ba-la-mật. Tại sao do sáu Ba-la-mật được nhập Duy thức? Lại tại sao sáu Ba-la-mật thành nhập Duy thức quả? Chánh pháp này, bên trong có các Bồ-tát tâm không bị nhiễm vui giàu có, đối với giới luật không có tâm phạm lỗi, đối với khổ thì không có tâm chịu thua, đối với thiện thì tu tâm không lười biếng. Trong nhân tán loạn nầy không trụ dính mắc, thường hành nhất tâm, như lý chọn lựa các pháp được vào Duy thức quán, do y chỉ sáu Ba- la-mật mà Bồ-tát đã nhập Duy thức địa. Kế đó đắc thanh tịnh tin ưa ý thu lấy sáu Ba-la-mật. Cho nên trung gian nầy nếu lìa công dụng gia hạnh của sáu Ba-la-mật thì do tin ưa chánh thuyết nên mến trọng tùy hỷ nguyện được tư duy, hằng thực hành không ngơi nghỉ, mà tu tập sáu Ba-la-mật cứu cánh viên mãn. Trong đây nói kệ: Tu tập tròn pháp thiện, Giỏi đắc lợi nhẫn lẹ, Bồ-tát nơi tự thừa, Thậm thâm nói rộng khắp. Giác chỉ có phân biệt, Đắc trí không vướng đắm, Là tin, ưa thanh tịnh, Gọi thanh tịnh ý địa. Bồ-tát tại pháp lưu, Trước sau thấy chư Phật, Đã biết cận Bồ-đề, Không khó mà dễ đắc. Tại sao Ba-la-mật chỉ có sáu số để an lập? Vì có thể đối trị sáu thứ hoặc chướng. Nó làm căn cứ sinh khởi tất cả Phật pháp, làm nơi tựa tùy thuận thành thục cho tất cả chúng sinh, làm nhân để đối trị tâm không phát hành mà lập hai Ba-la-mật thí và giới. Nhân của tâm không phát khởi thực hiện, là tham nhiễm tài vật và vì gia thất. Nếu đã phát tâm tu hành rồi, vì để đối trị nhân của tâm thoái chuyển và yếu kém mà lập hai Ba-la-mật nhẫn và tinh tấn. Nhân của tâm thoái chuyển và yếu kém là sinh tử với chúng sinh trái nghịch, nếu sự lâu dài thì để trợ giúp cho sự mỏi mệt giải đãi của thiện pháp gia hạnh. Nếu tâm đã khởi phát hành và không lui gót hèn yếu, thì để đối trị nhân của tâm chịu thua tiêu mất mà lập hai Ba-la-mật định tuệ. Nhân của tâm chịu thua tiêu mất là trí tán loạn. Cho nên để đối trị sáu thứ hoặc chướng mà lập Ba-la-mật có sáu pháp để làm căn cứ cho tất cả Phật pháp sinh khởi. Bốn Ba-la-mật trước là nhân không tán loạn, một Ba-la-mật kế đó là thể của không tán loạn, do tựa vào thể nầy mà không tán loạn, có khả năng như thật hiễu rõ chân lý của các pháp, tất cả chánh pháp của Như Lai đều được sinh khởi, cho nên làm căn cứ sinh khởi của tất cả Phật pháp. Lập Ba-la-mật có sáu số, là tùy thuận chổ nương tựa để thành thục cho tất cả chúng sinh. Do Thí Ba-la-mật lợi ích chúng sinh, do Giới Ba-la-mật không tổn não chúng sinh, do Nhẫn Ba-la-mật có thể an nhẫn thọ lãnh sự huỷ nhục của người khác mà không khởi tâm báo oán, do Tinh tấn Ba-la-mật mà sinh thiện căn diệt ác căn, mà tất cả chúng sinh đều được điều phục. Kế đó tâm kia chưa đắc tịch tónh thì khiến cho tịch tónh, đã đắc tịch tónh thì khiến cho giải thoát, cho nên lập hai Ba-la-mật Định và Tuệ. Do sáu độ nầy mà Bồ-tát khéo giáo Hóa chúng sinh, dễ được thành thục, cho nên làm nơi tựa tùy thuận thành thục cho tất cả chúng sinh mà lập Ba-la-mật có sáu số. Do nghóa như vậy cho nên phải biết thành lập Ba-la-mật có sáu số. Tướng của sáu Ba-la-mật nầy làm sao có thể thấy được? Do sáu thứ tối thắng mà tướng chung của sáu Ba-la-mật có sáu thứ: Do y chỉ vô đẳng là y chỉ tâm Vô thượng Bồ-đề mà khởi. Do phẩm loại vô đẳng là mỗi mỗi Ba-la-mật lược nói đều có ba phẩm, Bồ-tát đều tu hành đầy đủ. Do hành sự vô đẳng là sự an lạc, lợi ích tất cả chúng sinh, các độ mà Bồ-tát làm đều vì thành tựu hai sự nầy. Do phương tiện vô đẳng là Vô phân biệt trí mà Bồ-tát làm các độ, đều là thuộc về của Vô phân biệt trí. Do hồi hướng vô đẳng là hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, mà Bồ- tát làm các độ, quyết định chuyển hướng đến quả của Nhất thiết trí. Do thanh tịnh vô đẳng là hoặc chướng và trí chướng đã diệt vónh viễn không còn sót, mà Bồ-tát làm các độ, từng phần trừ hai chướng đó cho đến trừ sạch hết. Thí tức Ba-la-mật, Ba-la-mật tức thí chăng? Có khi thí không phải Ba-la-mật, cũng có khi Ba-la-mật chẳng phải thí, có khi thí cũng là Ba- la-mật, cũng có khi chẳng phải bố thí cũng chẳng phải Ba-la-mật. Như bốn câu (bốn trường hợp) trong bố thí độ, phải biết trong các độ khác cũng có bốn câu (như vừa nêu trên đây). Tại sao nói sáu Ba-la-mật thứ tự như vậy? Vì do các Ba-la-mật trước tùy thuận sinh các Ba-la-mật sau. Lại nữa, các Ba-la-mật trước là sự thanh tịnh của các Ba-la-mật sau. Nương vào nghóa gì mà lập tên sáu độ? Nghóa nầy làm sao có thể thấy được? Vì tối thắng, vì trong thiện căn bố thí của tất cả thế gian, Thanh-văn, Độc giác, không sánh bằng. Vì có khả năng đến bờ giác, cho nên gọi chung là Ba-la-mật. Có khả năng phá diệt các khổ tham tiếc, tật đố, bần cùng, hạ tiện, cho nên gọi là Đà. Lại được làm người chủ giàu có lớn và có khả năng dẫn hành trang phước đức, cho nên gọi là Na. Có khả năng tịch tónh tà giới và ác đạo cho nên gọi là Thi. Lại có khả năng khiến cho đắc thiện đạo và Tam-ma-đề cho nên gọi là La. Có khả năng diệt trừ tâm giận dữ và phẫn hận cho nên gọi là Sằn. Lại có khả năng sinh các sự bình đẳng giữa mình và người cho nên gọi là Đề. Có khả năng diệt trừ lười biếng và các ác pháp cho nên gọi là Tỳ-lê. Lại hành không phóng dật sinh trưởng vô lượng thiện pháp cho nên gọi là Da. Có khả năng diệt trừ tán loạn cho nên gọi là Trì-ha. Có khả năng dẫn tâm khiến cho trụ nội cảnh cho nên gọi là Na. Có khả năng diệt tất cả kiến hành, có khả năng trừ tà trí cho nên gọi là Bát-la. Có khả năng duyên chân tướng tùy theo phẩm loại của nó mà biết tất cả pháp cho nên gọi là Nhã. Làm sao phải biết sự tu tập của các Ba-la-mật? Nếu lược nói thì phải biết tu tập có năm pháp: 1.Phương pháp tu gia hạnh. 2.Tin ưa tu. 3.Tư duy tu. 4.Tu phương tiện thắng trí. 5.Tu đem lợi ích cho người khác. Trong đây bốn pháp trước phải biết, đã nói như trước. Tu đem lợi ích cho người khác, là tâm vô công dụng của chư Phật, không xả Như Lai sự mà tu tập các Ba-la-mật, đến quả vị viên mãn lại càng tu các Ba-la-mật. Lại nữa, Tư duy tu tập, là ái trọng tùy hỷ nguyện đắc tư duy, đã tu sáu ý nhiếp (gồm thâu). Sáu ý là: 1.Ý rộng lớn. 2.Ý liên tục. 3.Ý hoan hỷ. 4.Ý có ân đức. 5.Ý chí lớn. 6. Ý thiện tốt. Ý rộng lớn là nếu Bồ-tát bao nhiêu A-tăng-kỳ kiếp có thể đắc Vô thượng Bồ-đề thì lấy thời như vậy làm mỗi một sát-na. Bồ-tát trong từng sát-na sát-na nầy xả bỏ thân mạng và số thế giới bằng số cát sông Hằng đầy bảy báu trong đó phụng thí cúng dường Như Lai. Từ sơ phát tâm cho đến nhập trụ thanh lương cứu cánh Bồ-đề, Bồ-tát đó bố thí cũng còn chưa đầy đủ. Như vậy nhiều thời sát-na sát-na rực lửa đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, Bồ-tát trong đó đi đứng ngồi nằm hành bốn oai nghi, lìa tất cả vật dụng nuôi sống, tâm trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Tam-ma-đề và Bát-nhã, Bồ-tát hằng hiện tiền tu tập, cho đến nhập trụ thanh lương cứu cánh Bồ-đề, mà ý giới, ý nhẫn của Bồ-tát cũng chưa đầy đủ. Đây là tâm không chán đủ, gọi đó là Bồ-tát với ý rộng lớn. Nếu Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến thành Phật, không xả bỏ tâm không chán đủ, gọi đó là Bồ-tát có ý liên tục. Nếu Bồ-tát do chỗ làm việc lợi ích cho chúng sinh của sáu Ba-la-mật thì thường sinh tâm hoan hỷ vô song. Khi chúng sinh đắc lợi ích thì tâm hoan hỷ đó không gì sánh bằng, gọi đó là Bồ-tát với ý hoan hỷ. Nếu Bồ-tát hành sáu Ba-la-mật lợi ích chúng sinh rồi, thấy chúng sinh đối với ta có đại ân đức, mà không thấy tự thân đối với chúng sinh kia có ân đức, gọi đó là Bồ-tát có ý ân đức. Nếu Bồ-tát từ sáu Ba-la-mật mà sinh công đức thiện căn, thí cho tất cả chúng sinh dùng tâm không vướng mắc mà hồi hướng, vì khiến cho chúng sinh kia đắc quả báo khả ái lớn, gọi đó là Bồ-tát có ý chí rộng lớn. Nếu Bồ-tát đã hành công đức thiện căn của sáu Ba-la-mật, khiến cho tất cả chúng sinh bình đẳng, đều được vì chúng sinh kia mà hồi hướng Vô thượng Bồ- đề, thì gọi đó là Bồ-tát có ý tốt. Do thu gom khả ái trân trọng tư duy của sáu ý trên mà Bồ-tát tu tập. Nếu Bồ-tát tùy hỷ vô lượng Bồ-tát tu gia hạnh, sáu ý đã sinh công đức thiện căn, thì gọi đó là Bồ-tát đã gom tùy hỷ công đức tư duy của sáu ý. Nếu Bồ-tát nguyện tất cả chúng sinh tu hành thâu nhiếp sáu Ba-la-mật của sáu ý và nguyện tự thân tu hành đã gom sáu Ba-la-mật của sáu ý, thì từ tu tập gia hạnh cho đến thành Phật gọi đó là Bồ-tát đã gom nguyện đắc tư duy của sáu ý. Nếu người được nghe Bồ-tát đã gom tư duy tu tập của sáu ý, sinh một niệm tín tâm, thì người đó đắc vô lượng vô biên phước đức và các nghiệp chướng ác hoại diệt không còn. Người chỉ nghe mà còn đắc vô lượng vô biên phước đức, huống gì Bồ-tát tận lực tu hành! Tại sao phải biết sai biệt của các Ba-la-mật? Do mỗi Ba-la-mật đều có ba phẩm, cho nên phải biết sai biệt của nó. Ba phẩm Bố thí là: 1. Pháp thí. 2. Tài thí. 3. Vô uý thí. Ba phẩm Giới là: 1.Thủ hộ giới. 2.Nhiếp thiện pháp giới. 3. Nhiếp lợi chúng sinh giới. Ba phẩm Nhẫn là: 1. Tha hủy nhục nhẫn. 2. An thọ khổ nhẫn. 3. Quán sát pháp nhẫn. Ba phẩm Tinh tấn là: 1. Cần dũng tinh tấn. 2. Gia hạnh tinh tấn. Bất hạ nan hoại vô túc tinh tấn (không thoái lui, không sờn lòng vì thiếu tinh tấn. Ba phẩm Định là: 1. An trụ định. 2. Dẫn thần thông định. 3.Tùy lợi tha định. Ba phẩm Bát-nhã là: 1.Vô phân biệt gia hạnh Bát-nhã. 2.Vô phân biệt Bát-nhã. 3. Vô phân biệt hậu đắc Bát-nhã. Tại sao phải biết nghóa thu nhiếp của các Ba-la-mật? Tất cả thiện pháp đều được nhiếp vào sáu Ba-la-mật, lấy làm tánh các pháp. Tánh đó là quả sở lưu của sáu Ba-la-mật, là chỗ tùy thuận thành tựu của tất cả thiện pháp. Tại sao phải biết chỗ đối trị của các Ba-la-mật? Vì nhiếp tất cả hoặc lấy làm tánh của nó, làm sinh nhân của nó, làm quả sở lưu của nó. Tại sao phải biết công đức của các Ba-la-mật? Nếu Bồ-tát luân chuyển sinh tử, gồm thâu địa vị giàu có lớn, gồm thâu sự sống lớn, gồm thâu quyến thuộc lớn, gồm thâu nghiệp sống lớn (kế sinh nhai) thành tựu, gồm thâu thiểu dục không có bệnh tật phiền não, gồm thâu thông tuệ của tất cả công xảo minh xứ. Như ý không mất sự lợi ích giàu sang an lạc cho chúng sinh và làm đúng đắn, Bồ-tát tu hành công đức sáu độ cho đến nhập trụ thanh lương cứu cánh Bồ-đề, hằng tại như nhau. Tại sao phải biết tướng hiển lẫn nhau của các Ba-la-mật? Thế Tôn hoặc dùng tên bố thí mà nói các Ba-la-mật, hoặc lấy tên giới, hoặc lấy tên Nhẫn, hoặc lấy tên tinh tấn, hoặc lấy tên định, hoặc lấy tên Bát-nhã mà nói các Ba-la-mật. Như Lai vì ý gì mà nói như vậy? Trong Ba-la-mật tu hành phương tiện, thì tất cả Ba-la-mật còn lại đều tụ tập trợ thành. Đây là Như Lai nói ý. Trong đây nói kệ Uất-đà-na: Vị số thứ tự nhau, Là tu sai biệt nhiếp, Đối trị và công đức, Nghóa các độ hiển nhau.  NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN <卷>QUYỂN 3 PHẦN V: TƯỚNG THÙ THẮNG VỀØ TU SAI BIỆT TIẾN VÀO NHÂN QUẢ Như vậy đã nói hội nhập tướng nhân thù thắng. Tại sao phải biết nhập nhân quả tu sai biệt? Do mười thứ Bồ-tát địa, những gì là mười? Hoan hỷ địa. 2. Vô cấu địa. 3. Minh diệm địa. 4. Thiêu nhiên địa. 5. Nan thắng địa. 6.Hiện tiền địa. 7.Viễn hành địa. 8.Bất động địa. Thiện tuệ địa. 1 0. Pháp vân địa. Tại sao phải biết do nghóa nầy thành lập các địa là mười? Để đối trị mười thứ vô minh chướng ngại địa, đối với pháp giới do mười tướng đã đã hiển lộ là có mười thứ vô minh cũng còn làm chướng ở đó. Thế nào có thể làm hiển lộ mười tướng của pháp giới? Đối với Sơ địa thì do nghóa biến khắp tất cả, phải biết pháp giới. Đối với Nhị địa do nghóa tối thắng. Đối với Tam địa do nghóa thắng lưu. Đối với Tứ địa do nghóa không thâu nhiếp. Đối với Ngũ địa do nghóa tương tục không khác. Đối với lục địa do nghóa không nhiễm tịnh. Đối với Thất địa do nghóa chủng chủng pháp giới không riêng khác. Đối với Bát địa do nghóa không tăng giảm. Đối với Cửu địa do nghóa định tự tại y chỉ, do nghóa độ tự tại y chỉ, do nghóa trí tự tại y chỉ. Đối với Thập địa do nghóa nghiệp tự tại y chỉ, do nghóa Đà-ra-ni môn Tam-ma-đề môn tự tại y chỉ, phải biết pháp giới. Trong đây nói kệ: Nghóa biến mãn, tối thắng, Thắng lưu và không nhiếp, Không khác, không nhiễm tịnh, Chủng chủng pháp không khác Không tăng giảm, bốn thứ, Nghóa tự tại y chỉ, Nghiệp tự tại y chỉ, Tổng trì Tam-ma-đề. Như vậy hai bài kệ nương vào Luận Trung Biên phân biệt, phải nên biết rõ. Lại nữa, vô minh nầy phải biết, đối với nhị thừa thì không phải nhiễm ô, còn đối với Bồ-tát là nhiễm ô. Tại sao Sơ địa gọi là hoan hỷ địa? Do ban đầu đắc công năng tự lợi và lợi tha. Tại sao Nhị địa gọi là vô cấu? Vì địa nầy xa lìa các nhơ uế do phạm Bồ-tát giới. Tại sao Tam địa gọi là Minh diệm? Do không thoái chuyển y chỉ Tam-ma-đề và Tam-ma-bạt-đề, y chỉ đại pháp quang minh. Tại sao tứ địa gọi là Thiêu nhiên? Do giúp Bồ-tát pháp đốt cháy tiêu diệt tất cả chướng. Tại sao ngũ địa gọi là nan thắng? Do chân trí và tục trí trái nhau có thể hợp và khó hợp khiến cho tương ưng. Tại sao Lục địa gọi là Hiện tiền? Do y chỉ trí của mười hai duyên sinh, có thể khiến cho Bát-nhã Ba-la-mật trụ hiện tiền. Tại sao Thất địa gọi là Viễn hành? Do có công dụng đi đến bờ giác cuối cùng. Tại sao Bát địa gọi là Bất động? Do tất cả tướng và công dụng của tác ý không thể động được. Tại sao Cửu địa gọi là Thiện tuệ? Do y chỉ trí vô ngại biện tài tối thắng. Tại sao Thập địa gọi là Pháp vân? Do duyên thông với cảnh, biết tất cả pháp tất cả Đà-la-ni và Tam-ma-đề môn để chứa giữ, ví như mây có thể che thô chướng của hư không, có thể viên mãn pháp thân. Tại sao phải biết đắc tướng của các địa? Do bốn thứ tướng: Do đã đắc tướng tín nhạo là đối với mỗi mỗi địa quyết định sinh tín nhạo (tin ưa). Do đã đắc tướng hạnh là đắc cùng với địa tương ưng mười thứ pháp chánh hạnh. Do đã tướng thông đạt là trước tiên đối với sơ địa khi thông đạt pháp giới Chân như, đều có thể thông đạt tất cả địa. Do đã đắc tướng thành tựu là mười địa nầy đều đã đạt đến tu hành cứu cánh. Tại sao phải biết tướng tu của tập địa? Các Bồ-tát trước hết trong từng địa tu tập Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá-na, mỗi mỗi đều có năm tướng tu tập được thành. Những gì là năm tướng? 1. Tập tổng tu. 2. Vô tướng tu. 3. Vô công dụng tu. 4. Xí thạnh tu. Bất tri túc tu. Phải biết các địa đều có năm thứ tu này, năm thứ tu nầy sinh năm pháp làm quả. Những gì là năm pháp? Từng sát-na có khả năng làm hư tất cả y pháp thô trọng. 2.Có khả năng được ra khỏi pháp lạc của nhiều thứ loạn tưởng. 3.Có khả năng thấy tất cả xứ vô lượng tướng quang minh thiện pháp không phân biệt. 4. Như đã phân biệt pháp tướng chuyển đắc thanh tịnh phần hằng tương tục sinh, làm viên mãn pháp thành tựu thân. 5.Trong thượng phẩm chuyển tăng làm nhân duyên tụ tập tối thượng thuộc phẩm thượng. Trong mười địa tu mười Ba-la-mật tùy theo thứ tự mà thành, đối với sáu địa trước thì có sáu Ba-la-mật như thứ tự mà nói. Đối với bốn địa sau thì có bốn Ba-la-mật: Âu-hoà-câu-xá-la Ba-la-mật là chỗ sinh trưởng công đức thiện căn của sáu Ba-la-mật, thí cho tất cả chúng sinh đều khiến cho bình đẳng, vì tất cả chúng sinh mà hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. Ba-ni-tha-na Ba-la-mật là độ nầy có thể dẫn dắt các thứ nguyện. Đối với hoặc của đời vị lai sáu độ sinh duyên khởi. Bà-la Ba-la-mật là do lực tu tập chọn lựa của tư duy chế phục các đối trị của Ba-la-mật, có thể dẫn sáu Ba-la-mật tương tục sinh, không có gián đoạn thiếu sót. Nhã-na Ba-la-mật độ nầy thì có thể thành lập trí của sáu độ trước, có thể dẫn Bồ-tát trong đại tập mà thọ pháp lạc và thành thục chúng sinh. Bốn Ba-la-mật sau phải biết là vô phân biệt hậu trí, nhiếp tất cả Ba-la-mật. Trong tất cả địa tuy không đồng thời tu tập, nhưng đều trải qua sự thâu giữ (nhiếp tàng) của Ba-la-mật, phải biết pháp môn nầy rộng hiển các nghóa. Trong bao lâu tu tập mười địa mà Chánh hạnh được viên mãn? Có năm hạng người, hoặc trong ba A-tăng-kỳ kiếp mà tu hành viên mãn, hoặc bảy A-tăng-kỳ kiếp, hoặc ba mươi ba A-tăng-kỳ kiếp. Thế nào là năm người? Người hành địa hạnh nguyện đã mãn A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất. Người hành hạnh ý thanh tịnh. Người hành hạnh hữu tướng. Người hành hạnh vô tướng, từ Lục địa cho đến Thất địa đã mãn A-tăng-kỳ kiếp thứ hai. Người từ đây về sau tu hạnh vô công dụng cho đến Thập địa, tức đã mãn A-tăng-kỳ kiếp thứ ba. Lại nữa, thế nào là bảy A-tăng-kỳ kiếp? Trước địa (Địa tiền) có ba địa và trong địa có bốn địa. Trước địa có ba địa: 1. Bất định A-tăng-kỳ. 2. Định A-tăng-kỳ. 3. Thọ ký A-tăng-kỳ. Trung địa có bốn địa: 1. Y thật đế A-tăng-kỳ. 2. Y xả A-tăng-kỳ. 3. Y tịch tónh A-tăng- kỳ. 4. Y trí tuệ A-tăng-kỳ. Lại nữa, thế nào là ba mươi ba A-tăng-kỳ? Trong địa phương tiện có ba A-tăng-kỳ: 1. Tín hạnh A-tăng-kỳ. 2. Tinh tấn hạnh A-tăng-kỳ. 3. Thú hướng hạnh A-tăng-kỳ. Trong mười địa, từng địa đều có ba A-tăng-kỳ, là xuất, trụ, nhập. Do A-tăng-kỳ như vậy mà tu hành mười địa được viên mãn. Có thiện căn, nguyện lực, Tâm kiên cố tăng thượng, Ba loại A-tăng-kỳ, Nói chánh hạnh thành tựu. -------------------------------- PHẦN VI: TƯỚNG THÙ THẮNG DỰA VÀO GIỚI HỌC Như vậy đã nói nhập nhân quả tu sai biệt. Tại sao phải biết Giới học sai biệt? Phải biết như trong phẩm Bồ-tát địa chánh thọ Bồ-tát giới nói: “Nếu lược nói do bốn thứ sai biệt, thì phải biết Bồ-tát giới có sai biệt. Những gì là bốn thứ sai biệt? 1.Phẩm loại sai biệt. 2.Cộng, bất cộng học xứ sai biệt. 3.Quảng đại sai biệt. 4.Thậm thâm sai biệt. Phẩm loại sai biệt có ba thứ: 1.Nhiếp chánh hộ giới. 2.Nhiếp thiện pháp giới. Nhiếp chúng sinh lợi ích giới”. Trong đó nhiếp chánh hộ giới, phải biết, là chổ dựa của hai giới kia. Nhiếp thiện pháp giới là chổ dựa cho sinh khởi Phật pháp. Nhiếp chúng sinh lợi ích giới la chổ dựà thành thục chúng sinh. Cộng học xứ giới là Bồ-tát xa lìa tánh tội giới. Bất cộng học giới là Bồ-tát xa lìa sở lập giới để chế tội. Trong giới này, hoặc Thanh-văn là chỗ có tội, Bồ-tát trong đây thì không có tội, hoặc Bồ-tát là chỗ có tội thì Thanh-văn trong đó không có tội. Bồ-tát có trị thân khẩu ý làm giới, Thanh-văn thì chỉ có trị thân khẩu làm giới, do đó Bồ-tát có tâm địa phạm tội, Thanh-văn thì không có sự nầy. Nếu lược nói cả thảy thân khẩu ý nghiệp, có thể sinh lợi ích cho chúng sinh thì không có lỗi. Nghiệp nầy Bồ-tát đều phải thọ học tu hành, nên phải biết cộng bất cộng sai biệt như vậy. Quảng đại sai biệt là phải biết có bốn thứ. Bốn thứ ấy là: 1.Chủng chủng vô lượng học xứ rộng lớn. 2.Năng nhiếp vô lượng phước đức rộng lớn. 3. Thâu nhiếp tất cả lợi ích cho chúng sinh làm ý an lạc rộng lớn. 4. Vô thượng Bồ-đề là nơi y chỉ rộng lớn. Thậm thâm sai biệt, hoặc là Bồ-tát do phương tiện thắng trí hạnh như vậy, mà không có lỗi nhiễm trược sát sinh… mười việc ác, sinh vô lượng phước đức, nhanh chóng đắc quả thù thắng Vô thượng Bồ-đề. Lại nữa, sự làm biến Hóa nghiệp thân và nghiệp khẩu, phải biết đó là giới sâu xa của Bồ-tát. Do giới nầy mà có khi Bồ-tát ở vào chánh vị đại vương, hoặc hiện các thứ bức não chúng sinh để an lập chúng sinh vào giới luật, hoặc hiện các đời sống trước do bức não người khác và bức não oan đối, khiến cho họ thương yêu lẫn nhau an tâm lợi ích, sinh tín tâm cho người khác là trước tiên. Sau đó trong Tam thừa Thánh đạo khiến cho họ thành thục thiện căn, nên gọi đó là giới sâu xa sai biệt của Bồ-tát. Do bốn thứ sai biệt này, phải biết đó là lược nói Bồ-tát thọ trì giới sai biệt. Lại nữa, do bốn thứ sai biệt này, lại có thêm sai biệt Bồ- tát giới sai biệt không thể tính đếm. Như trong Kinh Tỳ-xá-na Cù-sa-tỳ Phật lược nói. --------------------------------- PHẦN VII: TƯỚNG THÙ THẮNG DỰA VÀO TÂM HỌC Như vậy đã nói y Giới Học sai biệt. Tại sao phải biết y Tâm Học sai biệt? Lược nói phải biết do sáu thứ sai biệt. Những gì là sáu thứ? Cảnh sai biệt. 2. Chúng loại sai biệt. 3. Đối trị sai biệt. 4.Tùy dụng sai biệt. 5. Tùy dẫn sai biệt. 6. Do sự sai biệt. Cảnh sai biệt là do lấy pháp Đại thừa làm cảnh mà khởi. Chúng loại sai biệt là Đại thừa quang Tam-ma-đề, Tập phước đức vương Tam-ma-đề, Hiền hộ Tam-ma-đề, Thủ-lăng-già-ma Tam-ma- đề, và thâu nhiếp các loại Tam-ma-đề. Đối trị sai biệt là do lấy cả thảy pháp làm cảnh chung của trí tuệ, dùng phương tiện, như lấy nêm đóng nêm ra, trong bản thức nhổ ra tất cả chướng thô trọng. Tùy dụng sai biệt là đối với hiện đời đã trụ lâu trong an lạc Tam- ma-đề, có thể thọ sinh nơi thù thắng như ý. Tùy dẫn sai biệt là có thể dẫn vô ngại thần thông đối với tất cả thế giới. Do sự sai biệt là linh động phóng quang hiển thị đầy khắp chuyển biến qua lại, rút xa làm gần, chuyển thô làm tế, biến tế thành thô, khiến cho tất cả sắc đều nhập trong thân, tựa như đồng loại của nó nhập vào trong đại tập, hoặc hiển hoặc ẩn, có đủ tám tự tại làm chướng ngại thần lực của người khác, hoặc bố thí cho người khác biện tài và ức niệm hỷ lạc, hoặc phóng quang minh dẫn đủ tướng đại thần thông, có thể dẫn tất cả chánh hạnh khó hành, vì có thể nhiếp mười thứ chánh hạnh khó tu. Những gì là mười thứ khó tu? Tự thọ khó tu là tự thọ thiện nguyện của Bồ-đề. Không thể hồi chuyển khó tu là do sinh tử nhiều khổ, vẫn không để cho thoái chuyển. Không quay lưng với việc khó tu là do chúng sinh làm ác hoàn toàn đối nghịch là khó tu. Hiện tiền khó tu là đối với chúng sinh có oán hiện tiền, vì họ làm tất cả sự lợi ích. Vô nhiễm khó tu là Bồ-tát sinh nơi thế gian mà không bị thế gian pháp nhiễm ô. Tín nhạo khó tu là thực hành đối với Đại thừa không thể cùng tận, có thể tin ưa nghóa rộng lớn thậm thâm. Thông đạt khó tu là có thể thông đạt nhân vô ngã và pháp vô ngã. Tùy giác khó tu là đối với Kinh không rõ nghóa của chư Phật Như Lai rất sâu, có thể như lý mà phán đoán. Không lìa, không nhiễm khó tu là không xả sinh tử, không bị sinh tử làm nhiễm ô. Gia hạnh khó tu là chư Phật Như Lai an trụ trong tất cả chướng giải thoát không tạo công dụng mà có thể hành tất cả sự lợi ích của chúng sinh cho đến cùng tận an vui sinh tử mà tu gia hạnh như vậy. Đối với tùy giác khó tu là chư Phật Như Lai nói Kinh bất liễu nghóa, nghóa đó như thế nào? Là Bồ-tát phải tùy lý mà giác ngộ quán sát, như Kinh nói. Thế nào là Bồ-tát không tổn một vật, không thí một người? Nếu Bồ-tát có thể khéo léo thực hành bố thí cho vô lượng vô số, thì đối với mười phương thế giới tu hành bố thí tương tục sinh khởi. Thế nào là Bồ-tát ưa làm bố thí? Nếu Bồ-tát không ưa làm tất cả bố thí. Thế nào là Bồ-tát hành tín tâm thí? Nếu Bồ-tát không hành tín tâm của chư Phật Như Lai. Thế nào là Bồ-tát phát hành bố thí? Nếu Bồ-tát trong bố thí không sách tấn tự thân. Thế nào là Bồ-tát thường vận hành bố thí tự tại? Nếu khi Bồ-tát không bố thí. Thế nào là Bồ-tát có thể đại hành bố thí? Nếu Bồ-tát đối với thí lìa tưởng Sa-la. Thế nào là Bồ-tát đối với thí thanh tịnh? Nếu Bồ-tát Uất-ba-đề keo kiệt tham đắm. Thế nào là Bồ-tát có thể trụ nơi thí? Nếu Bồ-tát không trụ cứu cánh rốt ráo. Thế nào là Bồ-tát đối với thí tự tại? Nếu Bồ-tát đối với thí không được tự tại. Thế nào là Bồ-tát đối với thí vô tận? Nếu Bồ-tát không trụ trong vô tận, như thí đã trải qua đối với giới cho đến Bát-nhã, như lý phải biết. Lại có Kinh nói: “Thế nào là Bồ-tát hành sát sinh? Nếu Bồ-tát cắt đứt mạng sống nối tiếp của chúng sinh có mạng sống. Thế nào là Bồ-tát đọat cái không phải của kẻ khác cho? Nếu Bồ-tát tự đọat không phải chỗ của người khác cho chúng sinh. Thế nào là Bồ-tát hành tà dâm? Nếu Bồ-tát đối với dục pháp trần khởi tà ý. Thế nào là Bồ-tát có thể nói vọng ngữ? Nếu Bồ-tát là vọng có thể nói là vọng. Thế nào là Bồ-tát hành lưỡng thiệt? Nếu Bồ-tát hằng trụ tối cực không tịch xứ. Thế nào là Bồ-tát trụ Ba-lưu-sư? Nếu Bồ-tát trụ ở bờ kia. Thế nào là Bồ-tát có thể nói lời không tương ưng? Nếu Bồ-tát có thể từng phần phá các pháp tùy loại giải thích. Thế nào là Bồ-tát hành A-tỳ Trì-ha-lâu? Nếu Bồ-tát niệm niệm khiến cho tự thân đắc các định Vô thượng. Thế nào là Bồ-tát khởi tâm giết hại? Nếu Bồ-tát đối với tâm địa tự tha có thể hại các hoặc. Thế nào là Bồ-tát khởi tà kiến? Nếu Bồ-tát khắp tất cả xứ hạnh tà tánh như lý quán sát”. Lại có Kinh nói: “Phật pháp thậm thâm”. Tại sao thậm thâm? Trong luận nầy tự phân biệt rộng, tất cả Phật pháp lấy thường trụ làm tánh, vì pháp thân thường trụ. Tất cả Phật pháp đều lấy đoạn làm tánh, vì tất cả chướng đều đoạn tận. Tất cả Phật pháp đều lấy sinh khởi làm tánh, vì Hóa thân hằng sinh khởi. Tất cả Phật pháp lấy công năng chứng đắc làm tánh, vì công năng chứng đắc cùng đối trị tám vạn bốn ngàn hành phiền não của chúng sinh. Tất cả Phật pháp lấy dục làm tánh, vì chúng sinh có dục bị ái nhiếp khiến cho thành tự thể. Tất cả Phật pháp lấy sân làm tánh, hoặc tất cả Phật pháp lấy si làm tánh… Tất cả Phật pháp lấy pháp phàm phu làm tánh, hoặc tất cả Phật pháp lấy sự không nhiễm trước làm tánh, vì thành tựu chân như thì tất cả chướng không thể nhiễm, tất cả Phật pháp không thể nhiễm trước và chư Phật xuất hiện ra đời, không phải bị nhiễm bởi pháp thế gian, cho nên nói Phật pháp thậm thâm, vì tu hành Ba-la-mật, vì thành thục chúng sinh, vì thanh tịnh Phật độ, vì dẫn dắt tất cả Phật pháp. Phải biết đó là Tam-ma-đề sai biệt của Bồ-tát. ----------------------------------- PHẦN VIII: TƯỚNG THÙ THẮNG DỰA VÀO TUỆ HỌC Như vậy đã nói y Định học sai biệt. Tại sao phải biết y tuệ học sai biệt? Do Vô phân biệt trí y chỉ tự tánh duyên khởi cảnh giới tướng mạo lập cứu nạn nhiếp trì bạn loại, quả báo đẳng lưu xuất ly, công đức cứu cánh hành, thiện gia hạnh Vô phân biệt trí hậu đắc trí, vô phân biệt gia hạnh, vô phân biệt hậu đắc trí để thí dụ nghóa sự tạo tác thậm thâm của oai đức vô công dụng. Do đó mà phải biết y tuệ học sai biệt. Do y tuệ học sai biệt, phải biết Vô phân biệt trí sai biệt. Do tự tánh của Vô phân biệt trí, phải biết lìa năm loại tướng. Năm tướng là: 1.Ly phi tư duy. 2.Ly phi giác quán địa. 3.Ly diệt tưởng thọ định tịch tónh. 4. Ly sắc tự tánh. 5. Đối với chân thật nghóa ly dị phân biệt. Đó là trí do năm tướng đã xa lìa . Trong đây phải biết đó là Vô phân biệt trí. Như đã nói đó là trong tánh của Vô phân biệt trí, cho nên kệ nói: Tự tánh các Bồ-tát, Chỗ lìa của năm tướng, Tánh Vô phân biệt trí, Nơi Chân vô phân biệt. Các Bồ-tát y chỉ, Phi tâm, phi phi tâm, Là Vô phân biệt trí, Phi loại tư, tật đố. Nhân duyên các Bồ-tát, Có nói huân tánh nghe, Là Vô phân biệt trí, Như lý chánh tư duy. Cảnh giới các Bồ-tát, Không thể nói pháp tánh, Là Vô phân biệt trí, Nhị vô ngã chân như. Tướng mạo các Bồ-tát, Ở trong cảnh chân như, Là Vô phân biệt trí, Vô tướng, vô sai biệt. Tương ưng nghóa tự tánh, Sở phân biệt, phi tha, Vì chữ chữ tương tục, Do thành nghóa tương ưng. Ly ngôn thuyết trí tuệ, Nơi sở tri không khởi, Vì ngôn thuyết không đồng, Tất cả không thể nói. Các Bồ-tát nhiếp trì, Là Vô phân biệt trí, Sau nầy được hành trì, Làm sinh trưởng rốt ráo. Bạn loại các Bồ-tát, Nói là hai loại đạo, Là Vô phân biệt trí, Phẩm loại của năm độ. Quả báo các Bồ-tát, Hai viên tụ của Phật, Là Vô phân biệt trí, Do gia hạnh mà đắc. Đẳng lưu quả Bồ-tát, Sinh từ đây về sau, Là Vô phân biệt trí, Do triển chuyển tăng thắng. Các Bồ-tát xuất ly, Vì được thành tương ưng, Là Vô phân biệt trí, Phải biết nơi mười địa. Các Bồ-tát cứu cánh, Do được tịnh ba thân, Là Vô phân biệt trí, Vì tối thắng tự tại. Không nhiễm như hư không Vô phân biệt trí này, Các thứ ác nghiệp nặng, Do chỉ có tin ưa. Thanh tịnh như hư không, Vô phân biệt trí này, Giải thoát tất cả chướng, Do đắc và thành tựu. Như hư không không nhiễm Là Vô phân biệt trí, Nếu xuất hiện nơi đời, Thế pháp không thể nhiễm. Như câm cầu thọ pháp trần, Như câm chánh thọ pháp trần, Như không câm thọ pháp trần, Ba trí ví như vậy. Như ngu cầu thọ pháp trần, Như ngu chánh thọ pháp trần, Như không ngu thọ pháp trần, Ba trí ví như vậy. Như năm cầu thọ pháp trần, Như năm chánh thọ pháp trần, Như không phải năm thọ pháp trần, Ba trí ví như vậy. Như chưa biết cầu biết, Như đọc chánh thọ pháp, Như hiểu thọ nghóa pháp, Thứ tự ví ba trí. Như người đang nhắm mắt, Không phân biệt cũng vậy, Như người đang mở mắt, Hậu đắc trí cũng vậy. Vô phân biệt như không, Vô nhiễm ngại dị biên, Như sắc hiện trong không, Hậu đắc trí cũng vậy. Như trống trời Ma-ni, Vô tư thành tự sự, Như vậy không phân biệt, Nhiều loại Phật sự thành. Chẳng đây, chẳng chẳng đây, Chẳng trí, chẳng chẳng trí, Với cảnh vô sai biệt, Trí là Vô phân biệt. Phật thuyết tất cả pháp, Tự tánh Vô phân biệt, Sở phân biệt không có, Không có Vô phân biệt. Vô phân biệt trong đây có ba thứ: 1.Gia hạnh vô phân biệt. 2.Vô phân biệt trí. 3. Vô phân biệt hậu trí. Gia hạnh vô phân biệt có ba thứ: 1. Nhân duyên. 2. Dẫn thông. 3. Lực niệm huân tập. Tất cả đều sinh khởi sai biệt. Vô phân biệt trí cũng có ba thứ: 1.Tri túc. 2.Không điên đảo không hý luận. 3.Không phân biệt sai biệt. Vô phân biệt trí hậu đắc có năm thứ: 1.Thông đạt. 2.Ức trì. 3. Thành lập. 4.Tương tạp. 5. Như ý. Tất cả đều vì hiển thị sai biệt. Để thành lập Vô phân biệt trí, nên lại nói kệ khác rằng: Ngạ quỷ, súc sinh, nhân, Chư Thiên đồng như vậy, Một cảnh mà tâm khác, Thừa nhận cảnh đó thành. Quá khứ và vị lai, Hai hình ảnh trong mộng, Trí duyên cảnh không có, Vô chuyển nầy làm cảnh. Nếu trần làm thành cảnh, Không, Vô phân biệt trí, Nếu không có Phật quả, Xứ nầy không nên đắc. Bồ-tát đắc tự tại, Do lực của nguyện lạc, Thành tựu như ý địa, Người đắc định cũng vậy. Người thành tựu lựa chọn, Người có trí đắc định, Bên trong pháp tư duy, Như nghóa mà hiển hiện. Khi tu vô phân biệt, Thì các nghóa không hiển, Phải biết không có trần, Do đây mà không biết. Vô phân biệt trí nầy tức là Bát-nhã Ba-la-mật và tên khác mà nghóa thì đồng. Như Kinh nói: “Nếu Bồ-tát trụ Bát-nhã Ba-la-mật, do Phi xứ tu hành có thể tu tập viên mãn các Ba-la-mật khác”. Thế nào là phi xứ tu hành có thể tu tập viên mãn các Ba-la-mật khác? Tức là lìa năm xứ: Lìa ngã chấp của ngoại đạo. Lìa chỗ chưa thấy phân biệt chân thật của Bồ-tát. Lìa chỗ nhị biên của sinh tử và Niết-bàn. Lìa chỉ biết đủ y chỉ diệt hoặc chướng. Lìa trụ Vô dư Niết-bàn không quán sự lợi ích chúng sinh. Trí tuệ của Thanh-văn và trí tuệ của Bồ-tát sai biệt như thế nào? Phải biết do Vô phân biệt trí sai biệt không phân biệt các pháp môn của các ấm. Do không phải một phần sai biệt thông đạt nhị không chân như mà nhập tất cả tướng sở tri, y chỉ tất cả sự lợi ích của chúng sinh. Vì vô trụ sai biệt trụ chỗ không trụ của Niết-bàn, vì hằng sai biệt đối với Vô dư Niết-bàn mà không đọa vào cái đoạn tận rốt ráo. Vì Vô thượng sai biệt nên thật ra không có thừa nào khác thù thắng hơn thừa này, trong đây nói kệ: Do trí năm thắng khác, Nương đại bi tu phước, Phú lạc thế, xuất thế, Nói trí nầy không xa. Hoặc Bồ-tát đối với thế gian thật có cũng lại có thể biết, hoặc Bồ-tát như vậy nương vào tướng công đức hội tụ của giới, định, tuệ, thì phải đạt đến mười thứ tự tại. Đối với tất cả sự lợi tha mà đắc năng lực thù thắng vô song. Tại sao trong thế gian thấy có chúng sinh bị khổ nạn nặng nề? Vì Bồ-tát thấy chúng sinh kia có nghiệp, có thể chiêu cảm khổ báo chướng các quả an vui thù thắng, vì Bồ-tát thấy như vậy: nếu thí cho chúng sinh kia những phương tiện vui thì sẽ chướng ngại sự sinh thiện của nó. Vì Bồ-tát thấy chúng sinh kia không có phương tiện vui nên thường hiện tiền chán ghét sinh tử. Vì Bồ-tát thấy nếu thí cho chúng sinh kia phương tiện vui thì đó là sinh trưởng nhân duyên của pháp ác. Vì Bồ-tát thấy nếu thí cho chúng phương tiện vui đầy đủ thì đó là nhân duyên bức hại vô lượng chúng sinh khác. Cho nên Bồ-tát có khả năng như vậy, thế gian cũng có chúng sinh hiển hiện như vậy. Trong đây nói kệ: Thấy nghiệp chướng ngại thêm, Chán hiện và ghét tăng, Hại tha chúng sinh kia, Không cảm Bồ-tát thí. ------------------------------------ <詞>PHẦN IX: TƯỚNG THÙ THẮNG TỊCH DIỆT THUỘC QUẢ CỦA HỌC Như vậy đã nói nương theo trí tuệ sai biệt. Tại sao phải biết tịch diệt sai biệt? Sự diệt hoặc của các Bồ-tát tức là Vô Trụ xứ Niết-bàn. Tướng nầy như thế nào? Xả ly “hoặc” và không xả ly sinh tử, lấy hai Chuyển y của sở y chỉ làm tướng. Trong đây sinh tử là tánh y tha, lấy một phần phẩm bất tịnh làm thể. Niết-bàn là tánh y tha, lấy một phần phẩm tịnh làm thể. Bản y là có đủ hai phần phẩm tịnh và phẩm bất tịnh, thuộc tánh y tha. Chuyển y là khi đối trị thì chuyển y nầy là tánh y tha. Vì phẩm bất tịnh phần vónh viễn chuyển đổi bản tánh nên phẩm tịnh vónh viễn thành bản tánh. Chuyển y nầy lược nói thì có sáu thứ chuyển: Ích lực tổn năng chuyển là do tùy phẩm vị tin ưa trụ lực huân tập nghe, do phiền não có hổ thẹn hiện hành, tạm hiện hành yếu, hoặc vónh viễn không hiện hành. Thông đạt chuyển là các Bồ-tát đã đăng địa. Do chân thật và hư vọng hiển hiện làm công năng, nên chuyển nầy đạt từ Sơ địa đến Lục địa. Tu tập chuyển, do chưa lìa chướng nhân (chấp người), nên tất cả tướng không hiển hiện chân thật mà hiển hiện chỗ nương tựa. Chuyển nầy từ Thất địa đến Thập địa. Quả viên mãn chuyển do đã lìa chướng nhân nên tất cả không hiển hiện chân như thanh tịnh mà hiển hiện chí đắc, tất cả tướng nương tựa tự tại. Hạ liệt chuyển, do Thanh-văn thông đạt nhân vô ngã, hoàn toàn quay lưng với sinh tử nên vónh viễn xả ly sinh tử. Quảng đại chuyển là do Bồ-tát thông đạt pháp vô ngã nên trong đó quán công đức tịch tónh làm xả và bất xả. Nếu Bồ-tát tại chuyển vị hạ liệt thì có lỗi gì? Vì không quán sự lợi ích của chúng sinh, xa lìa pháp Bồ-tát, cùng với người thuộc thừa dưới đồng được giải thoát, thì đây là lỗi. Các Bồ-tát nếu tại địa vị chuyển rộng lớn thì có công đức gì? Trong pháp sinh tử, do lấy tự chuyển y làm chỗ nương tựa nên đắc các tự tại trong tất cả đạo, có hoàn toàn hiện tất cả thân. Đối với an vui giàu có của thế gian và đối với ba thừa, do các thứ giáo Hóa và phương tiện có khả năng thù thắng có thể an lập chánh giáo nên có công đức của sự chuyển biến rộng lớn. Trong đây nói kệ rằng: Phàm phu bị che chân, Nơi kia bày hư vọng, Nơi Bồ-tát hoàn toàn, Xả hư hiển chân thật. Không hiển hiện, hiển hiện, Hư vọng và chân thật, Là Bồ-tát chuyển y, Vì giải thoát như ý, Nơi sinh tử, Niết-bàn, Nếu trí khởi tất cả, Sinh tử tức Niết-bàn, Không có hai đây, kia. Cho nên nơi sinh tử, Chẳng xả, chẳng chẳng xả, Nơi Niết-bàn cũng vậy, Không đắc, không không đắc. ------------------------------------- <詞>PHẦN X: TƯỚNG THÙ THẮNG SAI BIỆT TRÍ Như vậy đã nói tịch diệt sai biệt. Tại sao phải biết trí sai biệt? Do ba thân Phật, cho nên phải biết trí sai biệt: 1.Tự tánh thân. 2.Thọ dụng thân. 3.Biến Hóa thân. Tự tánh thân trong đây là pháp thân của chư Như Lai. Đối với tất cả pháp tự tại y chỉ. Thọ dụng thân là các quốc độ của chư Phật và chỗ nương tựa hiển hiện của bậc Đại nhân đã tu tập chuyển. Thân nầy lấy pháp thân làm y chỉ, quốc độ của chư Phật thanh tịnh, tức nơi thọ lạc và thọ dụng nhân của pháp Đại thừa. Biến Hóa thân, lấy pháp thân làm y chỉ, từ trụ trời Đâu-suất-đà và chuyển xuống thọ sinh, thọ học, thọ dục pháp trần rồi xuất gia, đến chỗ tu khổ hạnh của ngoại đạo, đắc Vô thượng Bồ-đề, chuyển pháp luân hiển hiện các sự của Đại Bát-nhã. Cả thảy pháp thân của chư Phật Như Lai, tướng đó như thế nào? Nếu nói tóm gọn, phải biết có năm thứ. Trong đây nói kệ Uất-đà-na rằng: Tướng chứng đắc tự tại, Y chỉ và nhiếp trì, Sai biệt đức thậm thâm, Niệm nghiệp rõ Phật thân. Năm tướng là: Pháp thân chuyển y làm tướng. Tất cả chướng và phẩm phần bất tịnh, tánh y tha diệt rồi thì giải thoát tất cả chướng. Được tự tại với mọi pháp, vì tánh y tha của năng sự chuyển y phần tánh thanh tịnh làm tướng. Pháp thiện tịnh làm tướng: Do sáu độ viên mãn nên đối với pháp thân đắc mười thứ khả năng thù thắng tự tại làm tướng. Những gì là mười thứ: 1.Mạng tự tại. 2.Tâm tự tại. 3.Tài vật tự tại ba thứ nầy do bố thí viên mãn mà được thành. 4. Nghiệp tự tại. 5.Sinh tự tại hai thứ nầy do trì giới viên mãn mà được thành. 6. Dục lạc tự tại do nhẫn nhục viên mãn mà được thành. 7. Nguyện tự tại do tinh tấn độ viên mãn mà được thành. 8. Thông tuệ tự tại đây là thuộc về năm thần thông, do thiền định viên mãn mà được thành. 9. Trí tự tại. 1 0. Pháp tự tại hai thứ nầy do Bát-nhã Ba-la-mật viên mãn mà được thành. Vô nhị làm tướng: Do không có tướng không hai, cho nên tất cả pháp không sở hữu tướng “không” không có tướng vô vi… Lại nữa, lấy hữu vi và vô vi làm tướng chủ, không phải chỗ sinh của hoặc nghiệp tập hợp. Do đắc tự tại nên có khả năng hiển bày tướng hữu vi. Lại nữa, lấy một và khác không hai làm tướng. Sự y chỉ của các đức Như Lai không khác, do vô lượng y chỉ có thể chứng tướng nầy. Trong đây nói kệ: Vì ngã chấp không có, Trong đó không nương riêng, Như trước nhiều nương chứng, Giả danh nói không một. Tánh hạnh khác chẳng hư, Viên mãn không có sơ, Không một không có khác, Không nhiều nương chân như. Thường trụ làm tướng. Tướng chân như thanh tịnh, ngày xưa nguyện dẫn thông là tối cùng cực, đáng làm chánh sự vì chưa cứu cánh. Sự không thể nghó bàn làm tướng là chỉ biết trí tự chứng của chân như thanh tịnh, không có thí dụ vì không phải hành xứ của giác quán. Lại nữa, pháp thân nầy chứng đắc như thế nào? Là sở đắc của xúc từ ban sơ, do duyên tướng tạp thuộc pháp Đại thừa làm cảnh. Do đắc Vô phân biệt trí, Vô phân biệt hậu sở đắc trí, năm tướng tu, thành thục tu tập đối với tất cả địa, khéo tập hợp tư lương, nên có thể phá chướng vi tế khó phá. Kim Cương thí dụ Tam-ma-đề, tức là Tam-ma-đề nầy sau khi diệt lìa tất cả chướng, lúc đó do y chỉ chuyển thành chứng đắc. Phải biết pháp thân nầy trong đó đắc tự tại thì có bao nhiêu tự tại? Nếu lược nói thì trong đó đắc tự tại có năm tự tại: Tự tại vì cõi tịnh hiển thị tướng tốt tự thân với âm thanh vô biên không thể thấy biết, vì chuyển sắc ấm làm sở y. Tự tại trụ vào vô lượng an lạc không mất, vì chuyển thọ ấm làm sở y. Tự tại với đầy đủ tất cả danh tự văn cú trong chánh thuyết vì chuyển tưởng chấp ấm tướng sai biệt làm sở y. Tự tại biến Hóa cải đổi và dẫn dắt đại tập thuộc phẩm pháp thiện tịnh thường xuyên, vì chuyển hành ấm làm sở y. Tự tại với trí hiểu biết rõ việc làm và quán sát bình đẳng, vì chuyển thức ấm làm sở y. Pháp thân phải biết là có bao nhiêu pháp y chỉ? Nếu lược nói thì có ba pháp, tức là nhiều loại trụ xứ của chư Phật Như Lai y chỉ. Trong đây nói kệ rằng: Chư Phật Như Lai thọ năm hỷ, Đều do chứng đắc tự cảnh giới, Nhị thừa không hỷ do không chứng, Cầu hỷ thì phải chứng Phật quả. Vô lượng sự tạo tác có thể lập, Do pháp vị tốt muốn được thành, Đắc hỷ tối thắng không có lỗi, Chư Phật hằng thấy bốn vô tận. Sự y chỉ của các thọ dụng thân là thành thục thiện căn của các Bồ- tát. Sự y chỉ của nhiều loại Hóa thân, là phần nhiều thành thục thiện căn của Thanh-văn Độc giác. Phải biết có mấy loại Phật pháp nhiếp pháp thân này? Nếu nói sơ lược thì có sáu thứ: Loại pháp thanh tịnh, vì chuyển A-lê-da thức làm sở y, vì chứng đắc pháp thân. Loại pháp quả báo, vì chuyển căn hữu sắc làm sở y, vì chứng đắc quả báo trí thù thắng. Loại pháp trụ, vì chuyển hành thọ dục trần làm sở y, vì trụ vào trí tuệ vô lượng. Loại pháp tự tại, vì chuyển sự thu nhiếp của nhiều nghiệp tự tại làm sở y, vì đối với tất cả mười phương thế giới không trở ngại trí của sáu thông tự tại. Loại pháp ngôn thuyết, vì chuyển tất cả sự thấy ngôn thuyết, thấy nghe hiểu, biết sở y, vì có thể làm đầy đủ trí chánh thuyết tự tại cho tất cả tâm chúng sinh. Loại pháp bạt tế, vì chuyển ý cứu độ của tất cả tai hoạ tội lỗi làm sở y, vì trí cứu độ tự tại của tất cả tai hoạ tội lỗi của chúng sinh. Như vậy sáu thứ loại pháp nầy đã gồm thâu pháp thân của chư Phật Như Lai. Phải biết pháp thân của chư Phật có thể nói là có sai biệt hay là không có sai biệt? Do y chỉ nghiệp dụng ý không khác nhau, nên phải biết là không có sai biệt. Do các sự của vô lượng chánh giác, phải biết là có sai biệt. Giống như pháp thân, thọ dụng thân cũng vậy, do y chỉ nghiệp không khác nhau thì phải biết là không có sai biệt. Không do y chỉ sai biệt cho nên không có sai biệt, vì vô lượng y chỉ chuyển y, phải biết Hóa thân cũng giống như thọ dụng thân. Pháp thân nầy phải biết cùng với mấy thứ công đức tương ưng? Cùng với bốn thứ vô lượng tuyệt đối thanh tịnh tương ưng, cùng với tám thứ giải thoát, tám thứ chế nhập, mười Nhất thiết nhập, Vô tránh Tam-ma-đề nguyện trí, bốn vô ngại giải sáu thứ thông tuệ, ba mươi hai tướng của bậc đại nhân, tám mươi tướng tốt, bốn loại tất cả tướng thanh tịnh, mười lực, bốn vô uý, bốn vô hộ, ba niệm xứ, bạt trừ tập khí không quên mất pháp đại bi, mười tám pháp bất cộng, tất cả tướng trí tối thắng tương ưng với các pháp. Trong đây nói kệ: Đại bi thương chúng sinh, Ý lìa các ý thắt buộc, Không lìa chúng sinh, Ý lợi lạc đảnh lễ. Giải thoát tất cả chướng, Hàng phục các thế trí, Phải biết trí đầy khắp, Tâm giải thoát đảnh lễ. Các chúng sinh vô dư, Giỏi diệt hết thảy hoặc, Hại hoặc có nhiễm ô, Thường xót thương đảnh lễ. Vô công dụng, vô nhiễm, Vô ngại, hằng tịch tónh, Tất cả nạn chúng sinh, Giải thích ta đảnh lễ. Sở y và năng y, Phải thuyết ngôn và trí, Với năng thuyết vô ngại, Người thuyết ta đảnh lễ. Tùy theo loại âm kia, Đi qua lại xuất ly, Chứng biết các chúng sinh, Chánh giáo Ta đảnh lễ. Các chúng sinh thấy Phật, Tin kính bậc Điều ngự, Do người thấy thường sinh, Tịnh tâm ta đảnh lễ. Nhiếp thọ trụ và xả, Biến Hóa và đổi tánh, Đắc định trí tự tại, Thế Tôn, ta đảnh lễ. Phương tiện quy y tịnh, Trong đó chướng chúng sinh, Nơi Đại thừa xuất ly, Dẹp ma, ta đảnh lễ. Trí diệt và xuất ly, Chướng sự thường hiển thuyết, Với tự tha lợi tha, Xô tà, ta đảnh lễ. Không ngăn không tội lỗi, Vô nhiễm trược, vô trụ, Nơi các pháp không động, Không hý luận đảnh lễ. Chế phục nhiều thuyết khác, Chỗ xa lìa hai hoặc, Không hộ không quên mất, Nhiếp chúng, ta đảnh lễ. Với lợi ích người khác, Tôn chẳng qua chờ thời, Chỗ làm hằng không dối, Không mê, ta đảnh lễ. Với tất cả hạnh trụ, Đều viên mãn trí sự, Biết khắp các thế gian, Thật thể, ta đảnh lễ. Ngày đêm quán sáu thời, Tất cả cõi chúng sinh, Tương ưng cùng đại bi, Ý lợi lạc đảnh lễ. Do hạnh và do đắc, Do trí và do sự, Với tất cả nhị thừa, Vô đẳng, ta đảnh lễ. Do ba thân chí tôn, Đủ tướng Vô Thượng Giác, Người nghi tất cả pháp, Năng trừ, ta đảnh lễ. Không buộc, không lỗi lầm Không thô trược, không trụ Với các pháp không động, Không hý luận đảnh lễ. Pháp thân của chư Phật không những thường cùng với công đức tương ưng như vậy, mà còn tương ưng với các công đức khác. Nghóa là cùng với nghiệp nhân qủa của tự tánh tương ưng, và hành sự công đức tương ưng. Do đó, phải biết pháp thân của chư Phật có công đức Vô thượng. Trong đây nói kệ: Tôn thành tựu Chân như, Tu các địa xuất ly, Đến vị vô đẳng khác, Giải thoát các chúng sinh. Các công đức vô tận, Tương ưng hiện nơi đời, Nơi ba luân dễ hiện, Khó thấy các người trời. Lại nữa, pháp thân của Như Lai rất sâu xa và tuyệt đối sâu xa. Sự sâu xa nầy làm sao có thể thấy? Trong đây nói kệ: Phật vô sinh là sinh, Lấy vô trụ làm trụ, Làm việc vô công dụng, Thực thứ tư nuôi sống. Không khác cũng vô lượng, Vô số lượng một việc, Nghiệp kiên cố, tạm bợ, Vô thượng xứng ba thân. Không pháp nào hiểu được, Không pháp nào chẳng hiểu, Mỗi mỗi niệm vô lượng, Chỗ hiển có, không có. Không dục, không lìa dục, Nương dục được xuất ly, Đã biết dục, không dục, Nên nhập dục, pháp như. Chư Phật vượt năm ấm, Trụ trong các năm ấm, Với ấm chẳng một, khác, Không xả ấm Niết-bàn. Chư Phật sự tương tạp, Cũng như nước biển lớn, Ta đã chính phải làm Không có tư duy đó. Do lỗi tôn không hiện, Như trăng trong chậu vỡ, Đầy khắp các thế gian, Do pháp sáng như trời. Hoặc hiện đắc chánh giác, Hoặc Niết-bàn như lửa, Hai thứ nầy không có, Vì chư Phật thường trụ. Như Lai nơi việc ác, Cõi người và cõi ác, Nơi pháp phi phạm hạnh, Trụ bậc nhất trụ ngã. Phật tất cả xứ hành, Cũng không hành xứ nào! Hiện trong tất cả đời, Phi cảnh giới sáu căn. Các hoặc đã diệt mất, Như chú độc làm hại, Diệt sạch hoặc còn thừa, Phật chứng nhất thiết trí. Các hoặc thành phần giác, Sinh tử làm Niết-bàn, Đắc thành phương tiện lớn, Chư Phật khó nghó bàn. Do nghóa nầy cho nên phải biết mười hai thứ sâu xa: 1. Sự sâu xa của việc sinh không trụ nghiệp. 2. Sự sâu xa an lập số nghiệp. 3. Sự sâu xa về việc đắc chánh giác. 4. Sự sâu xa trong việc lìa dục. 5. Sự sâu xa về việc diệt trừ ấm. 6. Sự thành thục sâu xa. 7.Sự hiển hiện sâu xa. 8.Sự hiển hiện Bồ-đề Niết-bàn sâu xa. 9.Trụ sâu xa. Hiển thị tự thể sâu xa. 1 1. Sự diệt hoặc sâu xa. 1 2. Sự sâu xa không thể nghó bàn. Các Bồ-tát duyên pháp thân mà nhớ niệm Phật, Niệm nầy duyên mấy tướng? Nếu lược nói thì các Bồ-tát nương vào pháp thân tu tập niệm Phật có bảy thứ tướng. Những gì là bảy? Chư Phật đối với tất cả pháp thật tự tại vô song. Như vậy tu tập niệm Phật, đối với tất cả thế giới đắc vô ngại vô biên trí và sáu thần thông. Cho nên trong đây nói kệ: Bị chướng nên không đủ, Tất cả cõi chúng sinh, Trụ trong hai thứ định, Chư Phật không tự tại. Thân của Như Lai thường trụ, vì do chân như không gián đoạn giải thoát tất cả cấu uế. Như Lai không có lỗi vì tất cả hoặc chướng và trí chướng đều vónh viễn xa lìa. Tất cả sự của Như Lai đều do vô công dụng mà thành, không do công dụng hằng khởi chánh sự vónh viễn không xả. Địa vị an vui và giàu có lớn của Như Lai, là lấy sự thanh tịnh tuyệt đối vi diệu của tất cả cõi Phật làm sự an vui và giàu có. Như Lai không có nhiễm trước, xuất hiện nơi thế gian nhưng không bị pháp thế gian làm nhiễm trược, ví như pháp trần không thể làm nhiễm hư không. Như Lai đối với thế gian có dụng sự lớn, do hiện thành Vô thượng Bồ-đề và đại bát Niết-bàn, chúng sinh chưa thành thục thì khiến cho thành thục, chúng sinh đã thành thục thì khiến cho giải thoát. Trong đây nói kệ: Tùy thuộc tâm Như Lai, Đức tròn thường không lỗi, Bố thí vô công dụng, Pháp lạc lớn chúng sinh. Đi khắp không chướng ngại, Bình đẳng lợi nhiều người, Tất cả, tất cả Phật, Người trí duyên niệm nầy. Lại nữa, quốc độ thanh tịnh của chư Phật Như Lai, tướng đó làm sao phải biết? Như trong phần duyên khởi Bồ-tát tạng ở Kinh Ngôn Bách Thiên nói: “Thế Tôn tại nơi bảy báu trang nghiêm quang minh đầy khắp, có thể phóng đại quang minh chiếu khắp vô lượng thế giới vô lượng cõi với trang sức vi diệu, từng thứ đều thành lập ngôi thành lớn, biên giới không thể đo lường, vượt hơn hành xứ của ba giới, ra khỏi pháp thiện xuất thế, chỗ sinh công năng rất thanh tịnh tự tại, Duy thức làm tướng, chỗ trấn giữ của Như Lai là trụ xứ an lạc của Bồ-tát, là chỗ hành của vô lượng Trời, Rồng , Dạ Xoa, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân và Phi nhân, là chỗ trì an lạc, vui vẻ của pháp vị lớn. Lấy tất cả chúng sinh, tất cả sự lợi ích làm dụng, là chỗ lìa của tất cả phiền não tai hoạ, không phải chỗ hành xứ của tất cả ma. Vượt hơn tất cả trang nghiêm là chỗ y xứ trang nghiêm của Như Lai. Hạnh niệm tuệ lớn ra khỏi Đại Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá-na, thừa nương chỗ nhập đại không vô tướng vô nguyện giải thoát môn, là chỗ trang nghiêm của vô lượng công đức tụ họp. Ngài lấy Đại Liên hoa vương làm y chỉ, Như Lai trụ trong lầu gác được trang hoàng bằng báu lớn. Như vậy quốc độ thanh tịnh hiển sắc tướng thanh tịnh tròn đầy, hình mạo, lượng xứ, nhân quả, chủ trợ giúp quyến thuộc trì nghiệp lợi ích không có kinh sợ, trụ xứ và đường đi nương vào cửa y chỉ thanh tịnh”. Do văn cú trước, các thứ viên tịnh như vậy đều được hiển hiện. Lại nữa, thọ dụng tịnh độ thanh tịnh như vậy, là hoàn toàn đều thanh tịnh, hoàn toàn thường an lạc, hoàn toàn không có lỗi, hoàn toàn tự tại. Lại nữa, pháp giới của chư Phật hằng thời phải thấy có năm nghiệp: Lấy sự cứu độ tai hoạ làm nghiệp. Do chỉ hiển hiện các thứ bịnh tật buồn rầu tai hoạ, đui, điếc, điên cuồng có thể trừ diệt. Lấy sự cứu tế ác đạo làm nghiệp là từ cõi ác dẫn dắt an lập đến nơi cõi thiện. Lấy hạnh cứu tế phi phương tiện làm nghiệp: Là lấy gia hạnh phi phương tiện của các ngoại đạo, hàng phục an lập trong chánh giáo của Phật. Lấy hạnh cứu tế thân kiến làm nghiệp: Vì vượt qua ba cõi mà có khả năng hiển bày chỉ dẫn phương tiện của Thánh đạo. Lấy thừa cứu tế làm nghiệp: Các Bồ-tát muốn hành thiên về các thừa khác, Thanh-văn chưa quyết định căn tánh Như Lai có thể an lập họ tu hành pháp Đại thừa. Đối với năm nghiệp như vậy phải biết chư Phật Như Lai đều cùng chung các nghiệp nầy. Trong đây nói kệ: Nhờ nương sự ý và các hạnh, Vì khác mà nghiệp thế gian khác, Năm thứ nầy khác, Phật thì không, Cho nên thế gian đồng một nghiệp. Nếu như thế, không phải chỗ đắc chung của Thanh-văn và Độc Giác, Pháp thân của chư Phật nhiều đức tương ưng như vậy thì chư Phật vì ý gì nói Nhị thừa kia đều nhắm đi tới nhất thừa giống với Phật thừa. Trong đây kệ nói: Thanh-văn chưa định tánh, Và các Bồ-tát khác, Nơi Đại thừa dẫn dắt, Định tánh nói Nhất thừa. Pháp Vô ngã giải thoát, Tánh bình đẳng bất đồng, Đắc hai ý Niết-bàn, Cứu cánh nói Nhất thừa. Ba đời chư Phật nếu cùng chung một pháp thân, tại sao thế gian niệm chư Phật không đồng? Trong đây nói kệ: Ngay trong một cõi không có hai, Đồng thời nhân thành không thể tính, Thành Phật thứ tự là phi lý, Đồng thời nhiều Phật nghóa nầy thành. Tại sao phải biết pháp thân của chư Phật không phải hoàn toàn là Niết-bàn? Trong đây nói kệ: Do lìa tất cả chướng, Phải làm việc chưa xong, Phật hoàn toàn Niết-bàn, Không hoàn toàn Niết-bàn. Tại sao thân thọ dụng không thành thân tự tánh? Do sáu thứ nhân: Do sắc thân và hành thân hiển hiện. Do vô lượng chỗ đại tập sai biệt hiển hiện. Tùy dục lạc kia mà thấy hiển hiện tự tánh không đồng. Do khác biệt mà thấy tự tánh biến động hiển hiện. Bồ-tát, Thanh-văn, chư Thiên… các thứ đại tập khi tương tạp hoà hợp, thì tương tạp hiển hiện. A-lê-da thức và sinh khởi thức thấy chuyển y không phải đạo lý. Do đó thọ dụng thân không có đạo lý để thành thân tự tánh. Tại sao thân biến Hóa không phải thân tự tánh? Do tám thứ nhân: Các Bồ-tát từ lâu xa cho đến nay đắc Tam-ma-đề, không thoái chuyển ở trong trời Đâu-suất-đà và cõi người mà thọ sinh, thì không xứng đạo lý. Các Bồ-tát từ lâu xa đến nay hằng nhớ đến chỗ ở đời trước, nên biết rõ các luận về phương thổ, kế toán số lượng, ấn tướng và công xảo. Nếu trong hành dục pháp trần và thọ dụng dục pháp trần, Bồ-tát không biết thì không đúng đạo lý ! Các Bồ-tát từ lâu xa đến nay đã biết phân biệt giáo pháp tà và chánh nhưng đến chỗ ngoại đạo, thờ phụng ngoại đạo kia làm thầy, thì không đúng đạo lý. Các Bồ-tát từ lâu xa đến nay, đã thông đạt chánh lý của Thánh đạo ba thừa nhưng vì cầu đạo cho nên tu khổ hạnh hư vọng thì không xứng đạo lý. Các Bồ-tát đã xả hằng trăm câu-chi Diêm-phù-đề, nên đối với mỗi xứ mà đắc Vô Thượng Bồ-đề và Chuyển pháp Luân, không xứng đạo lý. Nếu lìa phương tiện hiển Vô Thượng Bồ-đề, chỉ lấy Hóa thân đối với phương khác làm Phật sự. Nếu như thế thì phải từ trên trời Đâu- suất-đà thành Chánh Giác. Nếu không như thế thì tại sao Phật không ở trong tất cả Diêm- phù-đề mà xuất hiện bình đẳng? Không có A-hàm và đạo lý nào có thể làm chứng cho nghóa nầy. Hai Như Lai đồng thời hiện trong một thế giới, thì điều nầy không trái nhau. Nếu thừa nhận Hóa thân trở thành nhiều, thu gom bốn phương thiên hạ vào một thế giới như Chuyển Luân Vương, thì ở một thế giới một chủ hoặc chủ khác cùng sinh, thì không xứng đạo lý. Chư Phật cũng vậy. Trong đây nói kệ nói: Hóa thân Phật vi tế, Nhập thai đều bình đẳng, Vì hiển đủ tướng giác, Thị hiện nơi thế gian. Có sáu thứ nhân, khiến chư Phật Thế Tôn trong Hóa thân không được trụ vónh viễn: Chánh sự cứu cánh: Do đã giải thoát thành thục chúng sinh. Nếu chúng sinh đã được giải thoát thì cầu nhập Niết-bàn. Vì khiến cho chúng sinh kia xả bỏ ý nhập Niết-bàn, nên muốn cầu đắc Phật thân thường trụ. Vì trừ chỗ có tâm khinh mạn kia đối với Phật, vì khiến cho thông đạt pháp Chân như sâu xa và chánh thuyết pháp. Vì khiến cho chúng sinh đối với Phật thân khởi tâm khao khát kính ngưỡng, luôn luôn thấy không chán đủ. Vì khiến cho chúng sinh kia hướng về tự thân khởi tinh tấn cực độ, do trí chánh thuyết là không thể nắm bắt. Vì khiến cho chúng sinh kia mau chóng được đến địa vị thành thục vị, hướng về tự thân không xả gánh vác tinh tấn cực độ. Trong đây nói kệ: Do chánh sự cứu cánh, Vì trừ vui Niết-bàn, Khiến bỏ khinh mạn Phật, Phát khởi tâm khát ngưỡng. Khiến hướng thân tinh tấn, Và mau chóng thành thục, Chư Phật nơi Hóa thân, Không phải hoàn toàn trụ. Vì độ tất cả chúng sinh và do phát nguyện và tu hành, tầm cầu Vô thượng Bồ-đề, nên hoàn toàn nhập Niết-bàn. Việc nầy không xứng đạo lý, vì bản nguyện và tu hành trái nhau không có quả. Lại nữa, thân thọ dụng và thân biến Hóa vô thường, tại sao chư Phật lấy pháp thường trụ làm thân? Do Ứng thân và Hóa thân hằng y chỉ pháp thân, do Ứng thân không xả ly và do Hóa thân luôn khởi hiện, như hằng thọ lạc, như hằng thí thực, nên hai thân thường trụ, phải hiểu biết như vậy. Nếu pháp thân từ vô thủy, không có sai biệt, không có số lượng, vì đắc pháp thân thì không nên không khởi công dụng. Trong đây nói kệ: Chư Phật chứng đắc đồng vô lượng, Nhân đó chúng sinh hoặc xả cần, Chứng đắc luôn luôn không thành nhân, Đoạn trừ chánh nhân, không xứng lý. Luận nầy trong Kinh Tạng Đại thừa A-tỳ-đạt-ma gọi là luận Nhiếp Đại thừa. Chánh thuyết nầy đã xong. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 107