<經 id="n1592">LUẬN NHIẾP ĐẠI THỪA HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1592 LUẬN NHIẾP ĐẠI THỪA Tác Giả: A-tăng-già Dịch Phạn-Hán: Đời Hậu Ngụy, Lạc Dương, Phật-đà-phiến-đa <卷>QUYỂN THƯỢNG Trong Kinh Đại Thừa A-tỳ-đàm, đối trước Như Lai vì muốn làm sáng tỏ nghóa lý của Đại thừa, Bồ-tát Thiện Trụ nói: “Đó gọi là nương vào Kinh của Đại thừa, để thuyết minh chư Phật Như Lai có mười loại ngôn ngữ thù thắng nói về mười loại thắng diệu. Những gì là mười? Trí y thắng diệu thắng ngữ. (Lời nói thù thắng vi diệu về chổ nương tựa của trí). Trí tướng thắng diệu thắng ngữ. (Lời nói thù thắng vi diệu về tướng của trí). Nhập trí tướng thắng diệu thắng ngữ. (Lời nói thù thắng vi diệu về hội nhập tướng của trí). Nhập bỉ nhân quả thắng diệu thắng ngữ. (Lời nói thù thắng vi diệu về hội nhập nhân quả của Bồ-tát). Nhập bỉ tu nhân quả thắng diệu thắng ngữ. (Lời nói thù thắng vi diệu về hội nhập tu nhân quả của Bồ-tát). Hoàn bỉ hạnh trung sai biệt tăng thượng giới thắng diệu thắng ngữ. (Lời nói thù thắng vi diệu về sự trở lại nhân quả, tu hành sai biệt với tăng thượng giới). Tăng thượng tâm thắng diệu thắng ngữ. (Lời nói thù thắng vi diệu về tăng thượng tâm). Tăng thượng tuệ thắng diệu thắng ngữ. (Lời nói thù thắng vi diệu về tăng thượng tuệ). Diệt trừ thắng diệu thắng ngữ. (Lời nói thù thắng vi diệu về quả diệt trừ). Trí thắng diệu thắng ngữ. (Lời nói thù thắng vi diệu về quả trí). Như vậy câu kinh này làm sáng tỏ lên, nói Đại thừa là Phật thuyết. Thế nào là làm sáng tỏ lên? Như vậy trong đây nói, thì Kinh của Tiểu thừa không có nói mười câu này, chỉ có trong Đại thừa nói rõ. Như nói: A-lê-da thức đó là lời nói thù thắng vi diệu về chổ nương tựa của trí. Như nói, Duy thức nói có ba loại tánh: 1. Tha tánh. 2.Vọng phân biệt tánh. 3. Thành tựu tánh. Đó là dùng lời nói thù thắng vi diệu về tướng của trí. Lời nói thù thắng vi diệu về hội nhập tướng của trí là nói sáu Ba-la-mật. Lời nói thù thắng vi diệu về hội nhập nhân quả là nói mười địa của Bồ-tát. Lời nói thù thắng vi diệu về Bồ-tát trở lại nhân quả tu hành sai biệt trong nhân quả với tăng thượng giới là nói thọ Bồ-tát giới. Lời nói thù thắng vi diệu về tăng thượng tâm là nói các các Tam muội Thủ Lăng Nghiêm, Hư không v.v… Lời nói thù thắng vi diệu về tăng thượng tuệ là nói Vô phân biệt trí. Lời nói thù thắng vi diệu về quả diệt trừ là nói Vô trú. Niết-bàn. Bời nói thù thắng vi diệu về quả trí là nói ba loại thân Phật: Chân thân, Báo thân và Ứng thân. Như vậy, mười loại nói này không phải giáo lý của Tiểu thừa, mà chỉ có trong Đại thừa được nói rõ, nhấn mạnh và phát triển đến mức thù thắng. Do đó Đức Như Lai dựa vào mười loại này vì các Bồ-tát mà thuyết. Do nghóa đó, nương vào giáo nghóa của Đại thừa. Phải biết Chư Phật Như Lai nói có mười thứ ngôn ngữ thù thắng nói về tướng thắng diệu. Tại sao lại mười tướng thắng diệu này là ngữ ngữ thù thắng của Như Lai? Để hiển rõ Đại thừa là lời Phật thuyết, và ngăn trách Tiểu thừa là chẳng phải Đại thừa, là vì mười loại cú nghóa này không có nói trong Kinh của Tiểu thừa, còn Đại thừa thì có nói. Và mười cú nghóa này có thể khiến cho đắc Đại Bồ-đề, khéo thừa nhận không trái nghịch, là vì đắc trí Nhất thiết trí. Trong đây Kệ nói: Kia dựa Trí tướng, Y (Trí y và Trí tướng) Nhân kia và quả kia, Ba cõi kia sai biệt, Quả kia đến trừ diệt, Trí đến thượng diệu thừa Đến nơi thắng tấn tu. Thuyết đâu chổ khác không hề có Kiến nầy, Thắng Nhân thượng Bồ-đề, Là lời Phật nói trong Đại thừa, Mười câu nói thù thắng trong Kinh này. Vì có nghóa gì mà mười câu này lần lượt nói như vậy? Vì Bồ-tát từ sơ học rồi trước phải nương nhân quả của các pháp, phải đối với nhân duyên để thành tựu phương tiện khéo léo (thiện xảo), và có tương ưng trong các pháp duyên sinh thì hạnh “thiện xảo” mới thành tựu xả ly. Vì hạnh “thiện xảo” rộng khắp, an định lại sự hủy báng chánh pháp, lại vì khéo học như vậy nên Bồ-tát khéo léo trong việc nhận lấy tướng, phải khiến cho chứùng học. Do đó, khiến cho tâm được giải thoát khỏi mọi chướng. Sau đó nhập trí tướng xong thì, trong hạnh tu hành trước phải khiến cho tu đắc sáu Ba-la-mật, thân thanh tịnh đã sâu, là vì chỗ nhiếp của tâm tịnh, sáu Ba-la-mật trong mười địa phân riêng tu hành ba A- tăng-kỳ kiếp, sau đó khiến cho viên mãn ba loại Bồ-tát giới. Đã viên mãn rồi, thì khiến cho chứng quả Niết-bàn và chứng A-nậu-đa-la Tam- miệu-tam-bồ-đề. Đây là mười câu lần lượt nói. Nhưng trong thuyết này đều tóm lược hết tất cả Đại thừa. Trong đây phần đầu là lời nói thù thắng vi diệu về chỗ nương tựa của trí, Như Lai trong Kinh nói: “Là A-lê-da Thức”. Vì có lời nói về A-lê-da thức, nên tạo ngôn thuyết của A-lê-da thức”. Trong kệ của Kinh A-tỳ-đàm Đức Như Lai nói: “Tánh vô thủy đến nay, Chỗ nương của các pháp, Có các đạo sai biệt, Và khiến đắc Niết-bàn”. Trở lại, điều kinh kia đã nói: “Nhà của tất cả pháp, Là Nhất thiết chủng thức, Nên nói là nhà Thức, Bậc thông minh nương theo”. Đây là chứng cứ của Kinh, nhưng tại sao gọi là A-lê-da Thức? Vì có sinh pháp, nương thức đó mà tất cả pháp nhiễm được tạo thành quả. Đối với Thức kia cũng nương vào các thức để tạo nhân, nên nói là A- lê-da Thức. Hoặc chúng sinh nương vào thức kia làm ngã, cho nên gọi là A-lê-da Thức, cũng gọi là A-đà-na Thức. Trong đây có chứng cứ gì? Như trong Kinh Tương tục Giải thoát nói: “A-đà-na Thức rất thâm sâu, Dụ như sóng nước, với các ông! Ta không vì phàm nói pháp này, Chớ chấp thức đó cho là ngã”! Thức kia lấy nghóa gì mà gọi là A-đà-na Thức? Nương vào tất cả sắc căn, và lấy tất cả sự nương tựa thân. Như vậy thức kia nương vào sắc căn v.v… khiến cho chẳng hoại cho đến thân mạng chẳng dứt, tùy thuận nên đời vị lai thọ lấy thân, thức kia có thể sinh bám giữ thân. Do đó thức kia gọi là A-đà-na thức. Cũng gọi là tâm Như Phật đã nói tâm, ý, thức cũng vậy. Trong đây ý có hai thứ nương tựa: Nương vào sự tạo tác duyên gần. Nương vào thức diệt gần. Ý thứ nhất là làm sinh nhân, cho ý thức, ý thứ hai thì xen tạp bốn thứ phiền não, thường cùng chung với thân kiến, ngã mạn, ái thân và vô minh, chúng là đối tượng nhiễm được sinh của sự nương vào thức. Nếu cho là một thức do thân sinh ra, thì ý thứ hai là nghóa thức đối cảnh giới nhiễm. Vì nghóa thức nên chọn nghóa gần và không phân biệt nghóa nên nói hai ý. Trong đây có kệ nói: Tạp nhiễm chướng vô minh, Đồng pháp và năm thức, Tam-muội hoặc thắng sự, Trong thuyết, phải thành hoạn. Vô tưởng mà khởi ngã, Sinh thuận hành vô cùng, Gần thuận khởi ngã tướng, Tất cả là không thành. Lìa nhiễm không việc tâm, Hai, ba thì trái nhau, Kia không có các xứ, Chấp thành nghóa của ngã…. Vì tâm thuận chánh nghóa, Thường thuận không trái nhau, Tất cả là đồng hành, Nói vô minh không lìa. Tâm và thân lìa A-lê-da thức là chỗ khác không có. Do nghóa đó, giải thích thành A-lê-da thức là sự của tâm tùy chủng tử hiện hành. Ý và Ý thức lấy nghóa gì? Là nói các pháp của tâm, là nghóa tụ họp của việc huân tập chủng tử. Phật vì nghóa gì mà nói trong Kinh của Tiểu thừa là tâm, không nói là A-lê-da thức và A-đà-na thức? Là nghóa nhiếp thu trí tuệ sâu xa và vi tế. Các Thanh-văn kia không tu học hành theo trí của bậc Nhất thiết trí, cho nên trong đó nghe giải thích là trí, lại giải thích thành giải thoát mà không nói là trí. Các Bồ-tát vì tu hành theo trí của bậc Nhất thiết trí, nên vì họ mà nói thức này. Nếu không nói nghóa là lìa thức đó, thì không hiểu hành theo trí của bậc Nhất thiết trí thế nào. Nhưng lại có tên khác, Kinh Tiểu thừa nói về thức đó, như trong Tăng Nhất A-hàm nói: Hỷ lạc A-lê-da của thế gian và chấp A-lê-da, chỗ hình thành của A-lê-da, gồm cả cầu A-lê-da, diệt A-lê-da. Khi thuyết pháp, thân cận nghe kỹ khởi tâm tùy thuận, thừa nhận nắm lấy pháp và pháp tiếp theo. Khi Như Lai xuất thế gian, thì thế gian nói đây là pháp hiếm có, như trong Kinh Xuất Tư Ích đức Như Lai đã nói: Vì nghóa này mà các Kinh của Tiểu thừa cũng có nói nhưng khác tên. Nói A-lê-da thức này, trong Kinh Đại Tăng-kỳ, Tăng Nhất A-hàm cũng nói đó là căn bản, như cây nương vào gốc rễ mà trụ, trong Di-sa-tắc Tăng cũng nói, cho đến ấm của thế gian không đoạn, các tên gọi tuy khác nhau nhưng cũng là nói thức đó. Hoặc có sắc trong thời tiết và tâm trong khi đoạn, nhưng không phải A-lê-da thức có nghóa đoạn, vì đó là chủng tử. Vì thế cho nên từ nghóa là chổ nương tựa của trí, sự của A-đà-na thức, sự của tâm, sự của A-lê-da, sự của căn bản thức, cho đến sự ấm của thế gian, tất cả nghóa hiện có đây đều là nói A-lê-da thức kia, khiến cho nghóa càng rộng hơn và rõ ràng hơn, như con đường lớn của vua đi. Ngoài ra còn có người nói: Tâm, ý, thức chỉ có một nghóa mà tên thì khác nhau. Nhưng nói như đây không thành. Vì nghóa trong ý và thức đã có thấy khác nhau. Tâm phóng dật cũng phải có nghóa khác làm thành. Có người khác nói: Trong A-hàm Đức Như Lai nói: Hỷ, lạc A- lê-da thế gian… các câu, nghóa như vậy là nói ngũ ấm là A-lê-da. Hoặc còn nói: Đồng với lạc thọ của tham v.v… là A-lê-da thức. Hoặc nói thân kiến là A-lê-da. Tất cả kiến giải đây đều còn si mê về A-lê-da thức. Hoặc do nghe và giải thích mà nói, nương vào phân biệt an lập của Kinh giáo Tiểu thừa như vậy. Nhưng đối với thức kia thì sự phân biệt an lập này không thành, bởi từ sự ngu si kia đã phân biệt như vậy rồi, thì A-lê-da thức vẫn đặt tên A-lai-da, lại còn tốt hơn thành các thuyết sai biệt như vậy. Thế nào là càng tốt hơn? Như năm ấm, đối với sinh xứ của ác đạo hoàn toàn thọ khổ thành chán ngán. Vì luôn chán ngán sự khổ nên chán ngán sự vui không thành. Như thế, nếu cho A-lê-da thức là năm ấm, thì người kia thường cầu chán lìa khổ, tức đồng với người tham lạc (vui). Hơn nữa, từ bốn thiền trở lên thì không thành chán lìa, vậy là sự y chỉ trong chúng sinh không thành. Nếu nói A-lê-da thức cũng đồng như thân kiến sự chán lìa của người tin vô ngã cũng được thành trong thức này, do đó sự y chỉ không thành đây cũng là kia. Nhưng A-lê-da thức cho đến thừa nhận trong thân thọ lãnh hoàn toàn chỗ phát sanh khổ và khổ ấm cùng cầu giải thoát thì trong A-lê-da thức đều là tướng của tự thân và sự giải thoát không nên có từ cõi thiền thứ tư, cho đến người sinh cõi trên. Vì đây tuy có đồng sự chán lìa tham lạc, nhưng A-lê-da thức khởi ác v.v… tướng ngã. Như vậy những người đồng pháp tin vô ngã, tuy có chán lìa thân kiến nhưng đối với A-lê-da thức lại tạo thành ái tướng tự thân. Như vậy, phân biệt A-lê-da thức rồi chuyển thành trí sáng suốt, thù thắng là A-lê-da, nói giả danh và danh khác để phân biệt sự lập. Tuy nhiên, sự tướng phân biệt của Thức này làm sao biết được? Tóm lược có ba thứ: Tự tướng sai biệt xứ. Nhân sự sai biệt tướng. Quả sai biệt tướng. Nghóa tự tướng của A-lê-da thức, là că cứ vào chổ huân tập tất cả pháp nhiễm tịnh v.v… có nghóa thù thắng giữ chủng tử của việc sanh ra tướng nhân. Nghóa nhân sự sai biệt là trở lại làm nhân ở trong các pháp nhiễm kia… Tất cả chủng tử như vậy của lúc nào việc tạo nhân sinh ra các pháp nhiễm đều hiện thành. Nghóa quả sai biệt là trong A-lê-da thức, là chỗ nương tựa của các pháp nhiễm hiện hữu từ vô thủy đến nay huân tập sinh ra sự quả. Thế nào là tập mà lấy đặt tên tập, huân tập này nói lên nghóa gì? Nương vào pháp nhiễm kia đồng sinh diệt, sự tướng của pháp nhiễm kia sinh hiện hữu. Đây là nói như hoa ướp với mê. Hoặc với mê đồng sinh đồng diệt nên sinh ra sự nhân là hương thơm của mê. Hoặc người nhiều tham dục thì có huân tập tham, có tâm sinh diệt đồng với tham, sân v.v… là tương tự nhân sinh ra. Hoặc người nghe nhiều thì có sự huân tập nghe nhiều, sự nhớ nghó của việc nghe đó đồng sinh diệt trong tâm; sự nói của người kia là tướng của nhân sinh ra. Vì có nghóa huân tập này nên nói người này là pháp khí, là duy trì chánh pháp. Đạo lý huân tập trong A-lê-da thức cũng như vậy. Thế nào là chủng tử các pháp nhiễm v.v… trong A-lê-da thức, là làm phân biệt trụ hay là không phân biệt? Chủng tử kia không phải phân biệt như vật, nhưng trụ xứ của nó không phải là không phân biệt. rõ ràng như vậy A-lê-da thức kia chủng tử của nó sinh ra lực thù thắng, nên gọi là tất cả chủng tử. Tại sao A-lê-da thức đó và các pháp nhiễm đồng thời làm sự nhân lẫn nhau? Đó ví như ngọn đèn và tim đèn, đốt cháy lẫn nhau đồng thời làm nhân lẫn nhau, và như bó lau người dựng nương dựa vào nhau đồng thời không ngã xuống đất, thức này cũng vậy, lẫn nhau làm nhân, phải biết cũng như các pháp nhiễm của A-lê-da thức làm nhân, các pháp nhiễm ô cùng với A-lê-da thức, làm sự của nhân duyên sai biệt như vậy, không thấy có nhân duyên nào khác. Tại sao các thứ huân tập của vô phân biệt lại thành nhân cho các pháp có phân biệt? Đó tức như các thứ màu nhuộm và áo, đã không thấy các thứ màu sắc trên áo, nếu đem áo đó ngâm vào vật nhuộm, lúc đó mới thấy các thứ màu sắc sai biệt, không phải là một khí vật. Như vậy, khi A-lê-da thức chủng chủng huân tập và huân tập, dù không phải các thứ, nhưng có thể khi sinh quả thì đã hướng đến màu sắc và vật dụng, vô lượng chủng chủng tướng hiển hiện mọi sự của các pháp. Duyên khởi nói trên đây là nhân duyên rất vi tế trong Đại thừa. Nhân duyên có hai thứ: Sai biệt về tánh. Sai biệt về quả ái và không ái (không yêu thích). Trong đây sở dó có căn cứ vào A-lê-da thức này sinh các pháp, là chủng chủng tánh của tánh sai biệt và phân biệt hiện duyên là vì có hai hạng người mê mờ nhân duyên A-lê-da thức, người ngu mê nhân duyên thứ nhất (sai biệt về tánh), cho tự tánh là nguyên nhân, cho tạo tác xưa kia là nguyên nhân, cho Tự tại ứng hóa là nguyên nhân, cho tự thân là ngã là nguyên nhân, hoặc cho rằng không có nguyên nhân. Người nhân thứ hai thì so đo tính toán chấp trở lại tự thân làm tác giả, thực giả. Ví như người mù bẩm sinh chưa từng thấy voi, có người bảo họ sờ voi đến dạy sờ voi cho biết. Những người mù bẩm sinh này, hoặc có người sờ vòi voi, hoặc ngà, hoặc tai, hoặc chân, hoặc đuôi, hoặc lưng. Người kia hỏi họ voi có tướng gì? Có người hoặc nói giống như gọng xe, hoặc nói giống như cái chày, hoặc nói giống như cái ky, hoặc nói giống như cối đá, hoặc nói giống như cái chổi, hoặc nói giống như hòn đá núi. Như vậy không người thông đạt, không biết hai thứ nhân duyên này, bị vô minh che lấp, giống như người mù. Hoặc vọng chấp tánh, tạo tác của đời trước, đây Tự tại, tự thân là nhân, hoặc vô nhân, hoặc chấp làm tác giả, thực giả. A-lê-da thức như con voi, chấp tự thể của tánh tướng là không thể biết. Lược nói sự nhân của A-lê-da thức và tánh tất cả chủng tử của báo thức nơi sự quả đã xong. Do đó, trong ba cõi thâu nhiếp tất cả thân và tất cả đạo, (nèo thiện, ác) cho nên nói năm bài Kệ: Trong, ngoài không phân minh, Mà nói sự thuận nhau, Tất cả chân thật kia, Nói là sáu chủng tử. Không, và đồng các đại, Kia cũng nói tùy thuận, Định mà quên các duyên, Và dẫn đến tự quả. Là kiến nhưng vô ký, Hoặc thuận kia không khác Huân kia không phải khác, Nhưng kia là tướng tập. Sáu không có nghóa thuận, Hai thì riêng trái nhau, Các niệm không đồng nhau Sinh các tùy thuận khác. Các chủng tử trong ngoài, Kia nói là sinh nhân, Không tương tục, thủ tận, Mà tự nhiên hoại khắp. Cả thảy sáu thức tùy thuận chuyển, là tất cả thân và chỗ thọ quả báo của thức đó. Phải biết như Trung Biên Phân Biệt. Luận nói: Kệ: Một là thức nhập duyên, Hai là (thức) thọ quả báo, Phân biệt thọ báo ấy, Đồng phát tâm cũng vậy. Các thức đó làm duyên lẫn nhau. Kinh Đại thừa A-tỳ-đàm có nói Tất cả các pháp nương, Như vậy các thức kia, Lẫn nhau làm tất cả, Quả sự và nhân sự. Nếu các thức này lẫn nhau làm nhân duyên quả thì tức là nhân duyên thứ nhất còn nhân duyên thứ hai có duyên gì? Là Tăng thượng duyên. Nhưng sáu thức này có mấy duyên sinh? Tăng thượng duyên, Niệm duyên và Thứ đệ duyên sinh. Ngoài ba duyên này, thế gian là ái và không ái và thọ quả báo là bốn duyên mà thành. Qua phân biệt để thuyết minh giả danh và tướng A-lê-da thức này, lại làm sao biết được chỉ có A-lê-da thức đó là nương theo giả danh mà nói và tướng như vậy, mà không phải sáu thứ thức thuận chuyển. Vì trong đó tách rời (ttung gián) sai biệt như vậy là để xác lập A-lê-da thức. Vì thế, cho nên ngoài A-lê-da thức, thì không thành sự nhiễm tịnh. Sự phiền não và sự nghiệp sinh ra, sự nhiễm ô không thành, sự của thế gian và xuất thế gian tịnh không thành. Tại sao sự nhiễm ô phiền não không thành? Là vì sự huân tập chủng tử của phiền não nhiễm, tác sự không thành như vậy, trong thân sáu thức. Nhãn thức, tham, phiền não sử kia đồng sinh diệt với nhau, nhãn thức được tham phiền não sử huân tập thành chủng tử, như vậy khi nhãn thức diệt mất, các thức khác xen vào thì sự huân tập và chổ dựa huân tập đều không thể có được. Nghóa là đã không có nhãn thức, vì trước diệt rồi cảnh của nhãn trung gian đồng với tham, sự phiền não… sinh không có, do đó quá khứ không thành, như quả báo của nghiệp quá khứ sinh khởi. Nhưng giả sử nhãn thức đã có tham… kia đồng sinh thì sự huân tập cũng không thành. Vì chỗ nương của tham… kia và tham không kiên cố, cũng không phải ở các thức khác vì thể riêng của các thức khác (căn sở y). Lại không có quyết định đồng thời sinh diệt, với các thức, lại cũng không phải tự tánh, bởi các tánh khác có thể có đồng sinh diệt. Vì như vậy, cho nên không phải nhãn thức, tham, phiền não và sử huân tập thành, và cũng không phải thức và sở huân của thức. Nói nhãn thức như vậy thì sáu thức thuận chuyển cũng tùy thuận giải thích. Phải biết như Trời Phi tưởng trở lên chết rồi sinh cõi này thì phiền não nhiễm, cái thức đầu tiên sinh thì thức đó cũng không có chủng tử sinh khởi đồng y chỉ, vì thức kia huân tập đã là quá khứ không còn. Hoặc vì sinh thức đối trị của phiền não, khi tất cả thức thế gian đã diệt hết, nếu trong đó tách rời phiền não và sử chủng tử của A-lê-da thức để trong thức đối trị, thì sẽ không thành đối với các phiền não, vì tánh của thức đối trị là giải thoát không đồng sinh diệt với phiền não. Sau đó, thức thế gian sinh lại, vì diệt đã lâu, không đồng nương vào huân tập kia thì sinh lại đây, lẽ ra phải lìa chủng tử để sinh, tách rời A- lê-da thức. Thế cho nên tách rời A-lê-da thức thì không thành. Tại sao nghiệp nhiễm không thành? Vì nghóa hành duyên thức không thuận. Nếu A-lê-da do thức kia không có thì thủ duyên hữu, cũng không thuận. Tại sao sinh nhiễm không thành? Vì nghóa thọ lấy các thân đời sau không thuận. Do không nhập trong định địa khi chết rồi thì ở tại trung ấm, niệm tạp nhiễm ý thức nắm lấy thân đời sau. Nhưng ý thức tạp nhiễm trong thân trung ấm kia đã diệt mất, thì thức kia thọ lấy Ca-la-la gởi trong bụng mẹ. Nếu chỉ có ý thức nương gởi, khi gởi xong thì thức kia nương vào lực, trong bụng mẹ phải có nương vào thức hành, vì hai thứ ý thức từ thai mẹ phải có. Vì đồng có cho nên không phải chỗ nương gởi ý thức của thức kia, sự của ý thức được thành. Trên lấy tạp nhiễm thân và tùy thuận niệm của ý thức, tuy có thân tạp nhiễm kia, nhưng ý thức nương gá đã thôi nương gá ý thức. Ý thức kia là tất cả chủng tử, vì đang tùy theo thân tạp nhiễm kia mà nương vào để vận hành. Nếu tùy chỗ nương gá của thân tạp nhiễm kia thì ý thức kia là tất cả chủng tử, cho nên chỉ có A-lê-da thức là giả danh sai biệt thì đặt thành nương vào thức như thế! Nhưng nếu nương vào thức đó làm tất cả chủng tử thì thức đó lấy gì để nương sự làm nhân cho thức? Thức đó không phải tất cả chủng tử. Nếu sở y làm sự quả, thì nghóa tất cả chủng tử kia không thành. Do đó giải thích này trở thành: thức nương gá thân tạp nhiễm kia không phải ý thức, mà là “Báo thức.” Là tất cả chủng tử thức. Thọ lấy thân đời sau để nhận lấy các sắc căn khác, thế nào là Báo thức nhận lấy mà không thể có ý và ý thức nêu trên? Vì nhân không kiên cố, thức kia và các thức khác thọ lấy sắc căn, không gì không là sắc để được thành, thức và sắc diệt ấy nương tựa lẫn nhau như nghóa thuận của bó lau mà đướng được, nên cũng không thành. Nếu tách rời “Báo thức”, thì nghóa của sự thức sinh ra các đại và chúng sinh trong ba cõi, thì không từng thấy. Vì sao? Vì sáu thức này diệt thì đại và chúng sinh cũng sẽ diệt theo. Thế cho nên, các sự thức Thực không thành nếu tách rời A-lê-da thức. Tuy nhập sinh định, nhưng vì tạp nhiễm mà không nhập định, ý thức thọ lấy thân đời sau, nhưng thức kia không nhập định tâm, tạp nhiễm trong địa kia, nếu tách rời Báo thức để có chủng tử thì không thành. Nhưng sinh trong cõi Vô sắc, nếu tách rời tất cả chủng tử, báo thức thì cái tâm tạp nhiễm, thiện căn, hiểu biết của cõi ấy là không có chủng tử và không có chỗ nương tựa để được đắc tâm tạp nhiễm thiện căn. Lại ngay cõi Vô sắc kia hiển hiện tâm xuất thế gian, thì các tâm thế gian khác lui mất, hành kia đáng lẽ được sinh trở lại phi hữu tưởng phi vô tưởng, và khi tâm xuất thế gian hiện tiền ở Bất dung xứ (vô sở hữu xứ) thì đáng lẽ được trở lại hai nẻo kia. Phi biết vì tâm xuất thế gian không lấy Phi hữu tưởng, phi vô tưởng làm chổ, cho đến Phi hữu dụng xứ cũng như Niết-bàn làm chổ dựa, mà chỉ dựa vào Báo thức, Nhất thiết chủng tử thức vậy. Lại nữa khi sắp bỏ thân mạng (chết), do nghiệp thiện, bất thiện đã làm, mà các thân xác này chết dần từ trên xuống dưới, hoặc dưới lên trên hủy diệt dữ dội, hoặc nhẹ nhàng mát mẻ, nếu tách rời A-lê-da thức thì sự kiện này không thành, cho đến sự sinh ra tạp nhiễm cũng không thành. Vì sao sự tịnh của thế gian không thành? Như vậy, người lìa các dục, chưa được tâm cõi Sắc, chỉ được tâm thiện cõi Dục. Đối với cõi Dục sinh tâm chán lìa, nhưng là tâm trong cõi Dục, sau đó dụng hành tâm cõi Sắc là không cùng đồng sinh diệt, cõi Dục không huân thì chủng tử cõi sắc không thành, không phải tâm của cõi Sắc. Lại tâm cõi sắc từ vô lượng đời của quá khứ bị xen cách, tâm kia nhập định làm chủng tử thì không thành. Đã không có tâm kia tức giải thích thành tâm kia nhập định và tâm cõi sắc hiện có đó là do Báo thức, Nhất thiết chủng tử thức vốn có từ lâu xoay chuyển lại, sau làm nhân duyên, còn việc khéo thức hành tu tập ngày nay là tăng thượng duyên của tâm kia. Như vậy tất cả chán lìa hành trong địa tùy thuận như nghóa phải biết. Như vậy tách rời Nhất thiết chủng tử thức, Báo thức thì sự tịnh thế gian không thành. Vì sao sự thanh tịnh của xuất thế gian không thành? Như Phật đã dạy: “Bên ngoài nghe thanh âm của người khác để tâm suy lường trong tịch tónh, nhờ việc đó nên được sinh chánh kiến. Vậy cái ý nghó về tiếng được nghe ấy được huân vào nhó thức, hoặc huân vào ý thức, hoặc huân vào cả hai? Khi các pháp kia được nhớ nghó tư duy vắng lặng, thì nhó thức lúc đó không vận hành, ý thức cũng bị xen tạp bởi các thức khác. Nếu khi hành ý niệm tư duy tịch tónh sinh, thì ý thức được sự nghe huân tập do không thường hằng nên đã diệt từ lâu, sự đồng thời huân tập đã trở thành quá khứ thì chỗ nào lại làm chủng tử để sinh lại tâm suy lường vắng lặng, hiện hành sau này? Vả lại, sự suy lường vắng lặng tu hành là tâm thế gian, chánh kiến đồng thuận tâm xuất thế gian. Hoặc có khi tâm thế gian đồng sinh diệt, với tâm thế gian thì tâm xuất thế gian không huân tập. Vì không huân tập cho nên chủng tử kia không thành. Do đó tâm thanh tịnh xuất thế gian tách rời Nhất thiết chủng tử thức, Báo thức thì không thành. Trung gian huân tập đó, thuộc về chủng tử kia thì không thuận. Tại sao tất cả chủng tử cùng với báo thức làm nhân nhiễm ô được thành, chủng tử thuộc tâm xuất thế gian đối trị nhiễm ô không thành? Vì tâm xuất thế gian là chưa hề có, cho nên nhân đối trị kia huân tập cũng vốn không có. Đã không có nhân huân tập thì có chủng tử nào được sinh? Kia lẽ ra nói do pháp giới thiện thanh tịnh tận cùng kia chỉ lấy sự huân tập chủng tử “nghe”mà sinh khởi cái tâm xuất thế gian hiện hữu. Sự huân tập “nghe” kia là tánh của A-lê-da thức hay là không phải tánh của A-lê-da thức? Nếu là tánh của A-lê-da thức thì trong đó làm sao chủng tử đối trị kia được thành? Hoặc không phải tánh như vậy, là do sự huân tập chủng tử “nghe” mà có thì nương vào thân nào có thể thấy được? Chư Phật đắc Bồ-đề rồi, thì huân tập “nghe” vốn có kia tùy thân tâm hiện cùng đồng sự và hành trong “Báo thức”, cũng như nước với sữa, nhưng không phải A-lê-da thức, vì nó là chủng tử đối trị A-lê- da thức. Nương vào sự huân tập nghe ít mà sinh sự huân tập vừa phải, nương vào huân tập vừa phải mà sinh sự huân tập cao và phần nhiều là lấy thuận nghóa Văn, Tư, Tu. Nhưng chủng tử của Văn, Tư, Tu tuy có ba bậc: Ít, vừa và cao nhưng phải biết đó là chủng tử của Pháp thân trái nghịch với A-lê-da thức, không gom thâu thuộc về A-lê-da thức. Vì là sư khí nhân (nhân đẳng lưu) của pháp giới thiện thanh tịnh xuất thế gian, nên tuy thế gian mà làm chủng tử của tâm xuất thế gian. Nhưng chủng tử đó khi chưa đắc tâm xuất thế gian thì hiển hiện khí đối trị phiền não, tùy theo đối trị ác đạo, tiêu diệt, làm tất cả đối trị ác. Lại có khả năng tùy thuận thân cận chư Phật, Bồ-tát tuy các Bồ-tát sơ học trong thế gian nhưng cũng được gôm thâu vào trong Pháp thân, còn các Thanh-văn Duyên-giác chỉ thuộc về giải thoát thân. A-lê-da thức kia và sự huân tập nghe (chánh văn) thuộc về pháp thân và giải thoát thân dàn dần tăng trưởng từ ít, vừa, đến, cao, thì Báo thân thức cũng tuần tự giảm, kém, thân cũng chuyển ra sáng, tất cả thời thân sở y cũng chuyển ra sáng tỏ. Tất cả thời đã chuyển thân rồi, thì tất cả chủng tử của Báo thức kia, thành lìa chủng tử, và tất cả thời đều diệt mất. Sự huân tập nghe lại như thế nào với A-lê-da thức như nước sữa? Nếu như thế thì huân tập nghe không phải A-lê-da thức nhưng đồng sự mà hành tất cả thời. Việc hoại mất A-lê-da thức, còn lại huân tập nghe giống như việc ngỗng uống sữa trong nước. Hoặc nhập chán lìa thế gian, hoặc nhập định Tập diệt, hoặc nhập định Tập tăng trưởng. Như chuyển thân và nhập các định Diệt tận, tuy không vướng ở thức nhưng trong định này chỉ là thức chấp (Dị thục thức) không lìa được thành, không phải định Diệt tận kia do được giữ lấy thức đối trị mà sinh khởi, cũng không phải khởi (xuất) định mà thức kia được sinh lại. Báo thức đã đoạn, thì không được nhận lấy xứ khác để thuận thành. Nếu cho rằng định Diệt tận có tâm, thì tâm đó cũng là tâm thiện và tâm bất thiện, còn tâm vô ký thì không sinh thành và cũng không thành định Diệt tận. Nếu lại nói là các sinh sau tâm và sắc là chủng tử sự sai biệt của các pháp thì trước đó chưa sinh, cũng sẽ không sinh, Sắc và Vô sắc chết rồi và xuất định Diệt tận, điều đó không thành, và tâm sau cuối của A-la-hán cũng không thành, chỉ trừ ra thứ đệ duyên có thể thành. Như vậy nếu tách rời trong (trung gián) Nhất thiết chủng tử, Báo thức thì không có nhiễm, tịnh được thành. Do đó giải thích những sự không thành kia và tùy chỗ tương đương mà nói, trong đó nói kệ: Bồ-tát tịch tịnh tâm, Xa lìa cả năm thức, Lìa khác có chuyển sự Tâm làm sao tạo tác ? Đối trị và hồi chuyển, Vô lượng chủng không thành, Sự phân biệt, nhân quả Tâm kia diệt phải thuận. Lìa chủng tử chẳng sự, Nếu nắm lấy chuyển sự, Cả hai sự không có, Chuyển sự cũng không thành. Các sự như thế nào? Lại nữa, sự sai biệt của A-lê-da thức này lược có ba thứ và bốn thứ. Phải biết, ba thứ sai biệt là ba thứ huân tập sai biệt: Ngôn thuyết huân tập sai biệt. Thân kiến huân tập sai biệt. Nhân duyên huân tập sai biệt. - Bốn thứ huân tập sai biệt: Thủ thời sai biệt. Báo sai biệt. Niệm sự sai biệt. Tướng sai biệt. Trong đây thủ thời sai biệt là các huân tập vốn có được sinh, sự này không có thì hành duyên thức và thủ duyên hữu không thành. Báo sai biệt, là vốn có “hành” và “hữu” làm duyên nên có thọ báo trong các nẻo, sự này không có thì không có chủng tử, các pháp đời sau sinh không thành. Niệm sai biệt, là vốn có ý niệm về tướng ngã. Ý kia không có thì sự chấp thủ nghó về bản thân không thành. Tướng sai biệt, là vốn có tướng đồng và không đồng. Có tướng lìa chủng tử đồng với việc lìa thọ sinh, có tướng chủng tử đồng với thọ sinh. Tướng đồng chủng tử của thọ sinh là khí thế gian hiện hữu bên ngoài (còn gọi là tướng chung). Tướng không đồng (còn gọi là tướng riêng), là các chủng tử nội Nhập hiện có. Chủng tử của tướng chung là không có (tách lìa) thọ, chủng tử của tướng riêng là có thọ sanh. Khi đối trị sinh thì đối với tướng riêng là các chướng bị diệt, còn đối với tướng chung là cái do vọng tưởng phân biệt của người khác chấp cho là thấy thanh tịnh. Ví như người tu hành trong một sự có nhiều loại tin, hoặc như thấy… đều được. Trong đây kệ nói: Khó diệt và chứng phược, Nói đó làm đồng sự, Người hành bị loạn tâm, Tự nghó cảnh trần ngoài. Thanh tịnh, chẳng trái nghịch. Chân thật kiến thanh tịnh, Chư Phật, giới thanh tịnh, Chư Phật kiến thanh tịnh. Lại vốn có những sự khác nhau giữa tướng đồng (chung) và không đồng (riêng), như khi đối trị sinh thuận theo hắng sự thì chủng tử của thọ sinh bị trừ diệt chúng sinh thế gian cũng thành tựu theo, còn chủng tử không phải thọ sinh thì không thành tựu hủy diệt như vậy. Lại có sự khác nhau của tướng thô và tướng nhẹ. Tướng thô là hiện có chủng tử của phiền não và sử, tướng nhẹ là chủng tử của pháp thiện hữu, sự này không có thì báo được tạo, không tạo trong thân ở điều kiện tốt nhất cũng không thành. Lại nữa, có tướng không thọ về thọ. Tướng không thọ (hết), là hết thảy chủng tử thiện và bất thiện đã thành quả báo dị thục. Tưởng thọ (còn) là chủng tử ngôn thuyết, huân tập và chủng tử của vô lượng phân biệt tùy thuận từ trước đến nay. Sự này không có, thì nghóa khi Nghiệp thiện ác tạo và không tạo, được quả báo rồi không còn thọ dụng sẽ không thành và sự ngôn ngữ mới huân tập sinh cũng không thành. Lại có các tướng thí dụ như: Huyễn, ngọn lửa, mộng, mắt bệnh… A-lê-da thức kia lúc đó không có, những tướng kia thế hư vọng phân biệt do chủng tử, tạo ra tướng sự ấy không thành. Lại còn có tướng đồng và khác của sự ràng buộc. Người có đủ ràng buộc, là đồng tướng thế gian. Người lìa dục, là tướng hoại bớt. Các bậc Học, Thanh-văn và chư Bồ-tát, là tướng trừ bỏ phiền não chướng. Chư Như Lai là tướng trừ diệt đầy đủ phiền não chướng và trí chướng. Như thuận theo tướng chủng tử ràng buộc này, thì sự phiền não hủy diệt dần dần không còn. Vì lý do gì Báo thức là vô ký bất định trong quả báo của các pháp thiện bất thiện? Vì Báo thức vô ký như vậy thì không trái nghịc với các pháp thiện và bất thiện. Nếu báo thức là thiện hay bất thiện tức có trái nghịch lẫn nhau, thì hai mặt thuộc phiền não và chuyển phiền não đều không thành. Cho nên Báo thức chỉ có bất định vô ký là. Đã nói về cái nương tựa, của trí (A-lê-da thức) còn tướng như thế nào? Tóm lược có ba loại: Tha tánh tướng. Vọng tưởng phân biệt tướng. Thành tựu tướng. Trong đây Tha tánh tướng là gì? Là các thức thuộc về hư vọng phân biệt, trong chủng tử của thức A-lê-da. Đó là những thức gì? Là thức thân và thức của chủ thể thọ dụng, Thức của đối tượng thọ dụng thức thọ dụng, thức thời gian, thức số mục, thức phương xứ sai biệt dựa vào ý thức, tự tha phân biệt, thức thiện ác sinh diệt. Trong đó thức thân, thức của chủ thể thọ dụng, thức của đối tượng được thọ dụng, thức thọ dụng, thức thời gian, thức số mục, thức phương xứ sai biệt dựa vào ý là do chủng tử của ngữ ngôn huân tập sinh ra. Thức phân biệt tự tha nhân, là nhân của sự huân tập chủng tử thân kiến. Thức sinh tử trong các nẻo thiện ác là do chủng tử của nhân duyên huân tập chủng tử. Các thức này là thuộc về phiền não, tất cả pháp trần và tất cả nẻo thiện ác để biểu hiện cái tha tánh tướng, là hư vọng phân biệt hiện thấy được thành. Sự thành tựu của phân biệt hiện thấy đây là cái thuộc về hư vọng phân biệt vốn có trong các thức này. Cho nên sự Duy Thức là nghóa, không phải có, vọng chấp lấy, và dựa vào đó để thấy gọi là tha tánh tướng. Thế nào là Hư vọng phân biệt tướng? Là như không có pháp trần, chỉ có thức kia khởi tướng pháp trần hiện chấp lấy, gọi là hư vọng phân biệt tướng. Thế nào là Thành tựu tướng? Là nếu trở lại trong tha tánh tướng kia thì tướng trần kia vónh viễn không còn gọi là Thành tựu tướng. Trong đây thức thân và thức của chủ thể thọ dụng, phải biết là sáu nội căn tức nhãn căn v.v… Thức của đối tượng được thọ dụng, là sáu pháp trần bên ngoài: sắc, thanh v.v… Thức có thể thọ dụng, là sáu thức như nhãn thức… Ngoài ra các thức khác sai biệt nên biết. Lại nữa, các thức này chỉ có thức mà không có nghóa thật. Các chỗ khác có thấy gì? Có cái thấy của mộng nên biết, đó gọi là trong mộng lìa trần chỉ có thức, các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, nhà, cửa, rừng, đất, gió, núi, trần, hiện tướng sự như vậy cho nên thấy, nhưng các xứ đó không có nghóa trần có thật như vậy, nên biết người thấy tất cả chỉ là thức, tùy nghóa mà thông đạt, chữ “Đẳng” (vân vân) là nói các thí dụ khác như huyễn sự, nắng chói lóa, nai khát nước, mắt bệnh… nên biết. Nhưng người tỉnh mộng sau đó tất cả cũng là thức như vậy. Tại sao vậy? Như trong mộng chỉ có ý thức sinh. Như vậy khi thức dậy trần kia cũng không hiện “hành”, mà toàn chỉ Duy thức? Khi trí chân thật hiện hành rồi thì cảnh chân thật mới hiện hành. Như người chưa tỉnh mộng làm sao biết sự kia là Duy Thức? Đó là từ A-hàm và trong nghóa giải thích. Trong đó, A-hàm như trong kinh Thập Địa, Phật nói: “Ba cõi đều chỉ do tâm”. Trong kinh Tương Tục Giải Thoát, Bồ-tát Di-lặc hỏi Phật: “Bạch Thế tôn! Hiện có những ảnh tượng được thấy trong cảnh giới Tam-muội kia đối với tâm khác nhau hay là không khác nhau”? Phật nói: “Này Di- lặc! Không khác! Tại sao vậy? Niệm cảnh thấy kia chỉ có thức, Ta nói cái thức thấy ấy chỉ do thức hiện”. Bồ-tát Di-lặc nói: “Bạch Thế Tôn! Nếu hình tượng cảnh giới Tam-muội và trong tâm không khác, thì tại sao dùng tâm mà nhận lấy”? Phật nói: “Này Di-lặc! Không có pháp nào có thể nhận lấy pháp nào, nhưng tâm kia sinh như vậy. Vì sinh như vậy cho nên thấy như vậy. Ví như duyên hình tượng cho nên chỉ thấy hình tượng mà nói mình thấy hình tượng”. Do nghóa đó trung gian không lìa hình tượng kia, trung gian hình tượng kia tương tự thấy. Như vậy sinh tâm đó, như vậy trung gian mà nói thấy. Như thế, A-hàm này đem chứng minh thành nghóa các màu xanh… tùy nơi tâm khi nhập định thấy, biết thì những ảnh tượng được thấy hiện có kia chỉ là trở lại thấy tâm, và màu xanh… tách rời cảnh trần… Như vậy là đã thuận giải thích nghóa. Do đó cho nê, Bồ-tát đối với tất cả thức, nên suy lường cuối cùng nhận lấy chỉ toàn là duy thức. Không có cảnh màu xanh, được thức gìn giữ, nhớ nghó, các đối tượng được thấy, nghe, tư duy, tu tập của Ý niệm trước đây mà tùy theo các sự ấy thứ nhớ lại, cũng như nhớ lại quá khứ. Vì vậy hiện tướng ấy chỉ có thức, hiện lìa cảnh và được lấy thí dụ này làm chứng. Bồ-tát tuy đã chưa được chân trí tỉnh giác, nhưng cũng nên suy lường chỉ có tỉnh giác các sự tùy thuộc mộng này nói chủng chủng các thức, thì thức đó thuận thành duy thức. Các thức của nhãn thức… các thức của nhãn lại có các sắc. Làm sao biết được sự chỉ có thức, vì sắc kia cũng có? Cũng dùng A-hàm và sự giải thích như trước đã nói để đáp. Nếu chỉ có các thức kia tại sao sắc và thể của sự tướng hiện thấy trụ lâu? Vì là nhân dựa ở của hành điên đảo v.v… phiền não tạp nhiễm. Nếu không vậy thì, trần hư vọng không thành. Nếu không vậy, thì các nhiễm sự của phiền não và trí chướng không thành, sự thanh tịnh cũng không thành. Cho nên, như vậy thì mới thuận nghóa thành Duy thức. Trong đây có kệ nói: Vọng niệm và vọng tưởng, Nói là các sắc thức, Và vô phi sắc thức, Không phải pháp nào khác. Tại sao như nói các thức thời gian v.v…? Là vì vận hành không có thời gian định đọat, thế gian lưu chuyển không dứt, là nhân của vô lượng cảnh giới chúng sinh, nhân của vô lượng thế giới Phật, nhân của vô lượng sự được tạo tác cùng với giả danh phân biệt lẫn nhau, nhân của vô lượng sự thâu nhận thọ dụng sai biệt, nhân của vô lượng quả báo sai biệt của nghiệp ái không ái, và thọ dụng sai biệt nhân của vô lượng sinh tử sai biệt. Tại sao các thức này xác lập thành nghóa Duy thức? Lược nói có ba tướng trạng: Nguyên nhân chỉ vì kia không có nghóa (cảnh không thật). Nguyên nhân thức có sự đồng là niệm, kiến (Tướng phần, Kiến phần). Nguyên nhân có nhiều vật, như do thợ vẽ, vẽ ra. Như vậy tất cả các thức kia không có cảnh trần thật, chỉ có đồng kiến, tướng phần như vậy; cái nghó về các sắc của nhãn thức gọi là tướng phần; nhãn thức là Kiến phần cho đến thân thức thấy là kiến phần, xúc thức là tướng phần. Chỉ có ý thức thì lấy tất cả thức như nhãn thức v.v… làm tướng phần, Ý thức đồng là kiến phần. Vì ý thức là chủ thể phân biệt, nên sinh hiện tướng tất cả thức. Trong đây có kệ nói: Chỉ có hai sự kia, Hành giả nhập ý thức, Chỉ nhập tâm kia rồi, Thành tựu do lực ấy. Đây nói: Chỉ có Ý thức sinh các thứ hiện hành mà được tên gọi, cũng như thân khẩu v.v… ngoài ra hiện hành trong tất cả thân thì giống như thầy vẽ. Hai thứ hiện tướng vận hành này chỉ có hiện tướng cánh trần của thức và hiện tướng phân biệt. Tất cả hiện tướng xúc là hiện hành chổ nương tựa thân của sắc trần, còn ý thức kia là hiện hành chổ nương tựa thân của sắc căn. Trong đây kệ nói: Xa cho đến độc hành, Không thân, trong hang. Ai có thể điều phục Cái tâm khó phục này. Ta nói là tịnh hạnh. Như nói các năm căn này thì cảnh giới duyên thọ của ý thức được thành, nhưng ý là nơi tựa của năm căn kia. Lại như nói mười hai nhập, sáu loại thức trong kinh thì sáu thức là ý nhập. Nếu có A-lê-da thức, thì thức trần và thức phân biệt an lập trong đó. Ngoài ra tất cả thức, còn là thức niệm tưởng của A-lê-da, kia chỉ có thức của ý thức là đồng thân với “kiến” phần, nên phải biết. Như vậy chỉ có các thức của niệm tưởng là nhân cho kiến phần sinh khởi, khi như cảnh trần hiện tướng thì đồng là chổ dựa cho kiến phần đã sinh. Như vậy các thức này là sự an trụ của Duy thức thành tựu. Tại sao có thấy trần mà nói thành nghóa không có thật? Như Phật đã nói: Bồ-tát thành tựu bốn pháp, thì tất cả các thức hiểu rõ thông suốt sự không có thật kia: 1.Trí biết tướng thức mâu thuẫn: cũng như ngạ quỷ, súc sinh, người, trời trong cảnh sự đồng nhau, nhưng thấy đã khác nhau. 2. Có thức biết không phải nhớ cảnh, thấy cảnh hiện tiến. Cũng như có các thức biết, nghó hiện tướng trong mộng quá khứ vị lai. Mà không có đối cảnh hiện tiền. 3.Trí đồng thuận với Ý gia hạnh (có dụng công) mà gián cách với sử điên đảo gọi là có niệm pháp trần. Niệm thức đó không điên đảo, lã ra đạt được cái chân trí không dụng công. 4. Được cái biết tùy thuận ba thứ trí. Như vậy chư Bồ-tát và những người đắc thiền định, đạt được uy lực của tâm tự tại nhớ giữ, hiển hiện các sự như vậy, và đắc Xa-ma-tha. Những người tu hành quán pháp thuận, chỉ có nhớ nghó hiện cho đến đắc vô phân biệt trí, ở đây hiển hiện tất cả nghóa (là không thật). Như vậy ba thứ trí này tùy thuận nghóa. Nghóa đó vốn có bốn tướng, giải thích thành nghóa không và có. Nếu là nghóa duy thức ấy thì chổ nương tựa của kiến phần hiện ra là tha tánh tướng là sao? Tha tánh lấy nghóa gì mà nói tha tánh? Vì tự huân tập chủng tử sinh, duyên tha tánh sinh rồi, sát-na sau đó tự nó không có lực trụ lại cho nên nói là tha tánh. Kia là vọng tưởng phân biệt tức không phải tánh, không phải nơi nương tựa, chưa từng có thấy pháp trần, thì vì sao nó là vọng phân biệt? Vì nghóa gì mà tánh đó gọi là vọng phân biệt? Vọng phân biệt vô lượng tướng thì điên đảo tướng sinh khởi. Vọng phân biệt, là không có tự tướng, chỉ có vọng thấy, nên nói là vọng tưởng. Còn tướng thành tựu, (Viên thành thật) thì tướng đó vónh viễn không có tự tánh tướng, vậy tướng đó thành tựu thế nào? Lấy nghóa gì mà nói là thành tựu? Vì nghiệp không lấy (chấp thủ) cho nên nói là thành tựu. Là nghóa duyên niệm thanh tịnh là nhân của tất cả thiện căn vi diệu, cũng là nghóa cao thượng cho nên gọi là thành tựu. Lại có phân biệt và vô phân biệt nói là tánh phân biệt, trong đó phân biệt là gì? Những gì là phân biệt, Những gì là tánh phân biệt? Ýù thức phân biệt là năng phân biệt, nhưng ý thức đó lấy sự huân tập ngữ ngôn của bản thân nó và tất cả thức, mà làm chủng tử. Cho nên nó có vô lượng tướng phân biệt. nó hiện hành tất cả xứ và vọng tưởng phân biệt, nên gọi là phân biệt. Lại nữa, đối với y tha, vọng tưởng nhớ nghó theo nó thành tánh sở hữu. Vọng tưởng về tánh y tha, là vọng tưởng tự tánh còn, nó vọng lấy tướng gì hay nghóa gì thì như trước đã giải thích. Thế nào là vọng phân biệt? Là lấy phân biệt gì? Lấy niệm gì? Lấy niệm chấp gì? Lấy mạn gì? Lấy giả danh gì? Lấy gì an lập danh nghóa? Lấy niệm trong tánh y tha. Niệm đó chấp lấy cái thấy, mà mạn của nó phân biệt khởi khẩu nghiệp. Bốn thứ thấy, nghe, biết, và nhận thức của thế gian, không phải có nghóa mà an lập giả danh có, cho nên là vọng tưởng phân biệt. Ba tánh này là đồng hành, hay biệt hành? Là riêng (biệt hành), không riêng (đồng hành) đều tương ưng nói nghóa của một phía. Do tánh Y tha thành Y tha tánh; cũng chính y tha thành biến kế do nói nghóa của một phía phân biệt; lại chính Y tha là thành tựu tựu tướng là nói nghóa của một phía không còn phâ biệt. Vậy nghóa của một phía do tánh y tha thành y tha tánh là thế nào? Đó huân tập chủng tử của tha tánh sinh ra, nhân tha tánh. Lại biến kế (phân biệt tánh) là vì danh nghóa đó vọng phân biệt như vậy. Vọng phân biệt và các nhân phân biệt có nghóa gì? Vì tùy phân biệt y tha mà vọng phân biệt như vậy. Lại thành tựu tánh là như tánh y tha bị phân biệt và phân biệt kia vónh viễn không có. Tha tướng có mấy thứ? Lược có hai thứ: 1. Chủng tử huân tập sinh. 2. Không nhất định nhiễm hay tịnh. Như vậy hai loại này nói là tha tướng. Tánh vọng phân biệt cũng có hai thứ: 1. Phân biệt về tánh. 2. Phân biệt về sự hơn, kém (sai biệt). Lấy hai thứ này làm phân biệt. Tánh thành tựu cũng có hai thứ: 1. Tánh thành tựu. 2. Tịnh thành tựu. Phân biệt lại có bốn thứ: 1. Phân biệt về tánh 2. Phân biệt về sai biệt. 3. Phân biệt về giác (biết). 4. Phân biệt về bất giác. (không biết) Phân biệt về giác (biết) là hiểu rõ hay (thiện xảo) sự nghóa. Phân biệt về bất giác là không hiểu rõ, hay sự nghóa. Lại có năm thứ: Phân biệt nghóa dựa vào danh, đó gọi là danh này thì có nghóa này. này. Phân biệt danh dựa vào nghóa, đó gọi là nghóa này thì có danh Phân biệt danh dựa vào danh, là không quyết định nghóa mà phân biệt danh. Phân biệt nghóa dựa vào nghóa là chưa quyết định danh mà phân biệt nghóa. Phân biệt cả danh và nghóa là gọi nghóa này như vậy thì thân như vậy, danh cũng như vậy. Lại vì thâu nhiếp tất cả nghóa phân biệt nên có mười thứ phân biệt: thức. Phân biệt căn bản, ấy gọi là A-lê-da thức. Phân biệt tướng, ấy gọi là thức của các sắc. Phân biệt niệm hiện tướng, ấy gọi là thức đồng nương nhãn Phân biệt của niệm biến đổi ấy gọi là lão, lạc thọ, tham… khi bị phiền não của tha tánh chuyển biến, các cõi và Dục giới khác nhau. Phân biệt niệm hiện sự tướng biến đổi ấy gọi là các tướng biến đổi đã nói như vậy, dị tướng đó là chỗ sẽ phân biệt của tha tánh, ấy gọi là không nghe chánh pháp và hết thảy phân biệt của người nghe chánh pháp. Không tịch tịnh tư duy, ấy gọi là không nghe chánh pháp, là các ngoại đạo. Tư duy tịch tịnh ấy gọi là nghe chánh pháp đồng nơi pháp. Phân biệt về đố kî là ý bất chánh suy lường. Phân biệt đồng thuận kia. Là không có tư lương chánh ý, là thân kiến… sáu mươi hai tà kiến. Phân biệt tán động, là mười thứ phân biệt của Bồ-tát: 1.Tán (tán động) phân biệt. 2.Tán phi sự tướng. 3.Tán sự tướng. 4.Tán chánh an. 5.Tán hủy báng. 6.Tán nhất hướng. 7.Tán dị sự. 8.Tán tánh. 9.Tán tùy danh nghóa. 1 0. Tán tùy nghóa danh. Vì đối trị trong mười cú nghóa tán sự này cho nên nói Vô phân biệt trí. Trong tất cả Bát-nhã Ba-la-mật nói đầy đủ về chướng kia và đối trị như vậy, phải biết. Nếu ba thứ tánh này thành tựu do tha tánh tướng trên một phía danh nghóa nào đó, thì tại sao ba thứ tánh không có sai biệt không được thành? Ấy là tùy theo một phía nghóa tha tánh, thì không phải vọng phân biệt và thành tựu. Tùy theo một phía nghóa của phân biệt thì là chẳng phải tha tánh và phải thành tựu. Tùy theo một phía gọi là cái được thành tựu, thì như vậy chẳng phải tha tánh, chẳng phải vọng tưởng. Làm sao biết được? Như tha tánh tướng, vọng phân biệt tánh sự hiển hiện mà không phải thể như vậy? Vì các tên gọi gốc như vậy, tánh rời tuệ (cái biết vọng) và nhân tự diệt. Nhiều danh thì nhiều thân tức nhân sẽ mâu thuẫn; vì danh bất định. Vì thân tướng ô uế thì nhân sẽ mâu thuẫn. Trong đó có kệ: Danh xưa không có tuệ, Nhiều danh và bất định, Trở thành tự nhiều thân, Uế thân là trái nghịch. Biết, thấy các sự pháp, Và thấy các nhiễm, tịnh v.v… Như huyễn phải nên biết, Và cũng như hư không v.v… Lại vì nghóa gì tất cả sự của tha tánh tướng không thành như huyễn, hư không v.v.. mà kệ nói kia? Vì Y tha tánh là không có rồi thành tựu tánh cũng không có như có, vậy tất cả sự không thành. Lại vì tha tánh và tánh thành tựu là không có, thì sự nhiễm và tịnh không có, mà đương nhiên phải thấy nhiễm và tịnh. Cho nên, không phải tất cả đều không có. Trong đây có kệ nói: Tha tánh đã không có, Thì thành tựu đều không Không có sự thời thường Các nhiễm tịnh đều không. Trong giáo lý Đại thừa rộng lớn, chư Phật, Như Lai từng có nói nghóa này. Ở đó nói nên biết về tánh vọng phân biệt là thế nảo? Nghóa là nói có thể biết danh nghóa tùy thuộc kia không có thật. Biết về tha tánh tướng như thế nào? đó là biết nó là huyễn sự, nắng lóa, mộng, gương hình, ánh sáng, tiếng vang, trăng trong nước, ứng Hóa… các thí dụ phải biết. Biết về tánh thành tựu thế nào? Có bốn pháp thứ tịnh, trong đó nói biết bốn thứ pháp tịnh này: Tánh tịnh, ấy gọi là của Chân như, “Không”, Thật tế, Vô tướng. Chân thật nghóa và Pháp giới. Ly cấu tịnh, ấy gọi là lìa tất cả chướng cấu như vậy. Đắc hạnh tịnh, ấy gọi là tất cả pháp phần Bồ-đề và các Ba-la- mật. Sinh nhân niệm tịnh, ấy gọi là thuyết Đại thừa pháp. Vì nhân thanh tịnh kia như vậy cho nên không phải vọng tưởng. Là nhân khí pháp giới thanh tịnh cho nên không phải tha tánh. Như vậy bốn pháp này thâu nhiếp thành tựu tất cả pháp thanh tịnh. Trong đó có kệ nói: Nói huyễn v.v… nên tha sinh (y tha) Vọng kế nói không có (không có thật) Trong bốn thứ tịnh pháp, Nói là chân thật tịnh. Vì bốn thứ: Tánh tịnh, ly cấu tịnh, hạnh tịnh, niệm tịnh, nên gồm thu các pháp thanh tịnh trong bốn thứ này. Lại vì tướng nào nói tha tánh tướng như đã nói trong các thí dụ như huyễn v.v… Do những người khác đối với tha tánh tướng bèn quay trở lại ý chấp vọng điên đảo. Tại sao họ nghi ngờ điên đảo tha tánh tướng? Tức họ nghó thế này: Tại sao nói nghóa không có mà có cảnh giới hiện tại được thành? Vì trừ nghi ngờ quay trở lại nghóa có thật cho nên nói là như huyễn. Tại sao nói nghóa không có mà có nghóa các tâm, tâm sở thuận sinh thành? Vì gạt bỏ nghi này mà nói thí dụ như nắng chói lóa. Tại sao nói nghóa không có này mà có sự thọ ái và không ái? Vì gạt bỏ nghi này cho nên nói thí dụ như mộng. Tại sao nói nghóa không có này mà có nghiệp tịnh và bất tịnh, quả ái và bất ái, sự thuận và bất thuận? Để gạt bỏ nghi kia cho nên nói thí dụ như hình trong gương. Tại sao nói nghóa không có mà có các thứ thức thuận sự? Để gạt bỏ nghi kia cho nên nói thí dụ như ánh sáng. Tại sao nói nghóa không có nghóa này mà có các thứ ngữ ngôn giả danh thuận sự? Để gạt bỏ nghi kia cho nên nói thì dụ như tiếng vang. Tại sao nói nghóa không có này mà thật có thể giữ cảnh giới thuận sự Tam-muội? Để gạt bỏ nghi này cho nên nói thí dụ như trăng trong nước. Tại sao nói nghóa không có này mà có nghóa chư Bồ-tát giữ ý không điên đảo, làm lợi ích cho chúng sinh mà thọ sinh? Để gạt bỏ nghi ý kia cho nên nói thí dụ như ứng Hóa. Có nghóa gì mà như trong kinh Phạm Vương nói: “Như Lai không thấy thế gian, không chứng Niết-bàn”? Vọng phân biệt trong tha tánh tướng và nhân của thành tựu tánh, nói thế gian và Niết-bàn thật ra không có sự gì khác. Như vậy ở phần vọng phân biệt của tha tánh tướng kia cho nên nói là thế gian ở phần thành tựu của Y tha cho nên nói là Niết-bàn. Như trong A-tỳ-đàm Phật nói: “Có hai pháp, là nhiễm phần và tịnh phần”. Hai phần đó có nghóa gì mà nói? Tánh vọng tưởng trong tha tánh là phần phiền não, tánh thành tựu là phần tịnh, trở lại tha tánh là hai phần kia. Vì nghóa này cho nên nói. Trong nghóa này tại sao hiện nói thích dụ vàng quặng mỏ và đất? Đó là vì chúng có ba sự có thể thấy: 1. Địa trần. 2. Đất. 3. Vàng. Trong đó có địa trần (địa giới, quặng mỏ) cho nên thấy đất và thấy có vàng. Nếu khi đưa vào lửa nung đốt thì không thấy đất, chỉ thấy vàng. Địa trần, khi thấy đất thì không phải là thấy đúng, khi thấy vàng thì không phải thấy như thật, cho nên địa trần có hai phần. Cũng vậy khi lửa vô phân biệt trí này tiếp xúc với thức kia rồi, tức là sự tánh thành tựu thấy, cho nên không thấy sự tánh hư vọng phân biệt của thức kia. Lại khi lửa Vô phân biệt trí tiếp xúc với thức, rồi tức là sự tánh thành tựu thật của thức kia cho nên thấy, và vì sự tánh vọng phân biệt cho nên không thấy. Do đó cái vọng thức phân biệt vốn có là phần của tha tánh, tướng được thành. Như trong mỏ vàng có hai thứ là vàng và đất bùn. Đức Như Lai có chổ nói tất cả pháp thường, hoặc nói tất cả pháp vô thường, hoặc nói chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Lấy ý gì mà nói thường? Là tha tánh tướng thành tựu phân biệt cho nên nói thường. Vọng phân biệt cho nên vô thường. Vì đủ hai phần đó cho nên nói chẳng phải thường và chẳng phải vô thường. Do ý đó cho nên nói. Như thường, vô thường và chẳng hai (Bất nhị) cũng như vậy Khổ, vui và chẳng hai, tịnh bất tịnh và chẳng hai, không bất không và chẳng hai, ngã vô ngã và chẳng hai, định, bất định và chẳng hai, tánh vô tánh và chẳng hai, sinh, bất sinh và chẳng hai, diệt, bất diệt và chẳng hai, định vónh viễn, bất định vónh viễn và chẳng hai, tánh diệt tánh bất diệt và chẳng hai, thế gian, Niết-bàn và chẳng hai. Các cú nghóa sai biệt như vậy là tất cả mật ngữ của chư Phật, nên biết tùy thuận theo ba tánh này. Trong các câu nói như thường, vô thường… ở trên thì đâý có kệ nói: Như các pháp vốn không, Như thấy (thì) chẳng phải một Pháp, phi pháp như vậy, Nên nói nghóa không hai. Vì một phần sự kia, Cũng nói gọi là sự, Hai phần không gọi (là) sự, Không phải chân thật sự. Như thấy không phải như có, Cho nên nói là thấy, Như vậy kia cũng thấy, Cho nên nói là không. Vì tự thể, tự không, Trong tự sự không trụ, Chấp thủ gốc cũng không, Cho nên nói vô tánh. Vì vô tánh nên thành, Nghóa nương tựa hướng lên Không sinh cũng không diệt, Tánh tịch diệt vónh viễn. Nhưng có bốn thứ ý sâu xa và có bốn thứ mật ngữ lần lượt mà tất cả chư Phật đã tuyên nói, nên biết thuận giải thích: Ý sâu xa về sự đồng đương của pháp” Nghóa là đức Như Lai ở thời gian vô lượng vô biên xưa kia có danh hiệu là Chánh chân Chánh giác Tỳ-bà-thi. Ý sâu sâu xa về thời gian: Nghóa là hoặc xưng niệm danh hiệu Đa Bảo Như Lai thì liền quyết định đối với A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam- bồ-đề. Như kinh Vô Lượng Thọ nói: “Nếu có chúng sinh nguyện sinh qua thế giới Vô Lượng Thọ thì liền sinh như thế”. Ý sâu xa của việc nghe trong như nghóa Đại thừa. Như trong kinh đã nói: “Cúng dường chư Phật… nhiều như số cát sông Hằng cúng dường thân cận rồi thì được hiểu nghóa Đại thừa như thế”. Ý sâu xa về tùy thuận tâm. Nghóa là hoặc có đối chúng sinh này thì khen ngợi hạnh bố thí, đối chúng sinh khác thì lại lại chê… Nói bố thí như vậy thì trì giới, hoặc đối chúng sinh khác nói là sự tu tập.… Do đó cho nên nói bốn thứ ý sâu xa. Bốn thứ mật ngữ lần lượt là: Khuyến phát lần lượt: Bí mật dẫn chúng sinh hoặc trong Thanh- văn thừa, hoặc trong Đại thừa mà thuận theo Thế tục để nói sự thù thắng của Pháp tánh. Tướng lần lượt: là bí mật nói ba tự tánh tùy trong pháp tướng. Đối trị lần lượt: là bí mật nói hạnh của chúng sinh tùy thuận tám vạn bốn ngàn pháp môn đã nói. Phát nguyện lần lượt là bí mật dùng, lời nói, âm thanh, văn tự, tùy thuận theo ý nghóa đổi khác. Cách nói khác tùy vào đối tượng. Trong đó kệ nói: Phi thật mà làm thật, Khéo trụ trong điên đảo, Vì thiện nhiễm phiền não, Đắc vô tượng Bồ-đề. Ai muốn giải thích kinh Đại thừa, thì người đó phải lấy ba thứ tướng sai biệt để lược làm giải thích: Nói Nhân duyên. Nói sinh các pháp tướng do nhân duyên sinh. Vì nói nghóa được nghe nói. Trong đó nói sự tập họp của nhân duyên, là như nói huân tập ngôn ngữ đã sinh ra pháp. Nơi sinh pháp đó quanh quẩn trong Báo thức và Thuận thức (chuyển thức) duyên lẫn nhau mà sinh. Báo thức kia lại là các pháp tướng phần của Thuận thức, đồng niệm kiến (kiến phần) và đềuu tự tánh là thức. Nhưng tướng nhớ nghó và duy trì, tướng phân biệt và tướng thể pháp kia, là lấy thức tánh này để thị hiện ba thứ tánh tướng được thành. Như nói đồng niệm kiến, thì biết ba tướng ức trì, phân biệt và pháp thể cũng như thế. Tại sao tướng kia lại giải thích tướng phân biệt là trong tha tánh thì không, trong đó thành tựu tánh thì có? Hai thứ có và không đó là khi có giác, và không giác, có thấy và không thấy thật sự đều được đồng thời nghóa là trong tha tánh (Y tha tánh) căn cứ ở hạng phi chúng sinh (Thánh) và chúng sinh mà có phân biệt tánh, thành tựu tánh đồng thời có sự không giác ngộ ở đây, và giác ngộ ở kia. Như nói, phân biệt tánh trong Y tha tánh không có, thì có thành tựu tánh hiện hữu, chỉ là lúc không giác ngộ và giác ngộ được thuyên chuyển. Cho nên hai sự có và không đồng thời là vậy. Lược nói về hai mặt có và không là như vậy. Giải thích về nghóa km nghe nói là câu trước đã nói: những câu còn lại biểu hiện sự phân biệt. Hoặc là công đức tăng thượng, hoặc do nghóa. Công đức tăng thượng là nói công đức của Phật thật là trí tuệ, giác ngộ: hành Bất nhị, pháp vô tướng cứu cánh, sự hiện hành của Phật, đạt được tất cả Phật pháp, đến chổ không còn ngăn ngại, không có chướng ngại không bị thoái chuyển pháp, sự an thụ không thể nghó bàn, thấu suốt ba đời, thân hiện khắp tất cả thế giới; với tất cả pháp, không còn nghi ngại biết tất cả sự thành tựu trí tuệ không nghi ngờ, biết tất cả pháp không có cái biết phân biệt, là trí tuệ được chính thức lãnh thọ của Bồ-tát, hạnh của Phật Bất nhị đạt đến cứu cánh tối thượng, không lìa Như Lai, trí tận giải thoát, đến đến cõi Phật vô biên, thông đạt pháp giới như hư không vô tận. Câu “thật là trí tuệ giác ngộ nơi Phật” thì các câu còn lại là để giải thích. Như vậy thể của khéo thuyết pháp được thành. Thật là trí tuệ giác ngộ hoàn thiện, tức bao gồm mười chín thứ công đức của chư Phật Như Lại: Công đức của sự hoàn toàn không chướng ngại, không vô phân biệt trong trí tuệ. Công đức của pháp thuyết chân như tối thanh tịnh, trong hai tướng có và không. Công đức của việc làm nơi Phật không ngừng nghỉ, một cách tự nhiên (tự tại). Công đức của nghiệp thân tâm trong pháp thân, không vô phân biệt. Công đức của việc đối trị tất cả chướng. Công đức của việc hàng phục hết thảy ngoại đạo. Công đức của việc sống trong Pháp thế gian, mà không nhiễm. Công đức của việc dựng lập chánh pháp. Công đức của việc thọ ký. Công đức của sự thị hiện báo thân, ứng thân, ở hết thảy thế giới. pháp. sinh. Công đức của sự giải quyết mọi nghi ngờ. Công đức của sự hội nhập các loại hạnh. Công đức của việc sinh pháp trí ở vị lai. Công đức của sự thị hiện tùy tâm tin thuận của đối tượng nghe Công đức của vô lượng thân giáo hành nghiệp nơi chúng Công đức của sự thành tựu Ba-la-mật đồng với pháp thân. Công đức của sự thị hiện các thế giới Phật khác nhau tùy sức tìm hiểu. Công đức của ba loại thân Phật thuyết pháp chẳng dứt. Công đức của sự hổ trợ thành tựu tất cả lạc và vô lượng cho tất cả chúng sinh tận cùng thế gian. Nhân đây nói, nên do nghóa tăng thượng như trong kinh đã nói: “Vì Bồ-tát thành tựu ba mươi hai pháp, nên gọi là Bồ-tát giúp cho hỷ lạc trong thâm tâm. 1. Đối với tất cả chúng sinh khiến cho nhập Nhất thiết trí. 2.Diệt trừ ngã mạn xưng là trí của mình. 3 Thâm tâm đôn hậu. 4.Không tạo các tâm ân ái, oán và phi oán. Thân thích vónh viễn tận đến khi tất cả đều đạt được Niết-bàn. Lời nói đúng đẹp, ánh mắt tươi vui trước khi ứng đáp. 6. Không làm cho tâm mọi người tuyệt vọng. 7. Các việc đã hứa thì làm không ngừng nghỉ. 8.Ý không chán, mệt. 9. Nghe nghóa không chán đủ. 1 0.Luôn thấy và lo tội lỗi của mình, không nói và thấy người làm lỗi. 11.Tất cả oai nghi đều hành theo tâm ng- hiệp Bồ-tát. 1 2. Trong bố thí không cầu báo cho nên không chấp trước tu giới hương tới các coi hữu. 1 3.Nhẫn nhục, không san giận đối với tất cả chúng sinh. 1 4. Tụ tập tất cả pháp thiện căn để tinh tấn. 15.Lìa thiền của cõi Vô sắc. 1 6. Thuận với trí phương tiện. 17. Dùng phương tiện của bốn nhiếp pháp. 1 8.Không có hai tâm (tâm bình đẳng) đối với Phá giới trì giới. 1 9. Cần cù nghe diệu pháp. 2 0. Ưa trụ A-lan-nhã. 2 1. Không thích các thứ của thế gian. 2 2. Không mong vui với Tiểu thừa. Đối với Đại thừa thì thấy lợi ích lớn. 2 4. Xa lìa bạn ác 2 5. Thân cận bạn lành. 26.Bốn phạm hạnh thanh tịnh. 2 7.Năm thần thông tự tại vân hảnh. 2 8. Y theo trí. 29. Không xả bỏ chúng sinh trụ hành hữu lậu hoặc không trụ hành hữu lậu. 3 0.Lời nói hoàn toàn quyết định. 3 1.Coi trọng thật ngữ. 3 2. Tâm Bồ-tát làm đầu”. Những câu như vậy, phải biết là chi tiết sai biệt trong câu đầu: giúp cho hỷ lạc trong thâm tâm. Vì đối với tất cả chúng sinh, giúp cho hỷ lạc trong thân tâm nên có mười sáu hành vi tạo tác sự việc sai biệt. Trong đó mười sáu thứ tác sự là: Hằng chuyển hành động tạo tác. Tạo tác không thoái lui. Không ai khuyên mà tự tạo tác. Tạo tác không sân. Tạo tác không mong cầu báo đáp. Có ba câu không mong cầu báo đáp là có ích, vô ích, không sân và vui thích, cho đến đeo đuổi đời sau, tương tự khẩu nghiệp. Bình đẳng bất nhị hành sự trong khổ lạc có hai câu. Làm việc không khiếp nhược. Làm việc không thoái chuyển Làm việc không nhiếp phương tiện. Làm việc trừ chướng hoặc. Tương tục chẳng đoạn tâm niệm mà tạo tác cho chúng sinh. Làm việc đạt đến mức tốt nhất. Có bảy câu về sáu Ba-la-mật chánh tu hành và giữ lấy hành sự chính yếu. Thành tựu thực hiện sự chính yếu. Có sáu câu: thân cận tri thức, nghe chánh pháp, ưa sống nơi Lan-nhã, xả tâm ác, chánh niệm công đức, thuần thục hai câu công đức trong Đại thừa. Có hai câu làm việc thành tựu. Có ba câu được vô lượng lực lợi thanh tịnh và chứng đắc công đức. Khiến cho trụ trong việc tạo tác. Có bốn câu, đem nhiều công đức để trừ nghi, truyền dạy thọ tài pháp, nhiếp thủ tâm, tâm không tạp nhiễm. Phải biết các câu như vậy, là giải thích sai biệt cho câu đầu. Như kinh nói: “Nương vào câu đầu cho nên có những câu sai biệt về công đức, nương vào câu đầu cho nên có những câu sai biệt về nghóa như vậy đã giải thích xong.  NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN <卷>QUYỂN HẠ Nhập trí tướng là sao? Thân của huân tập đa văn, không thuộc về A-lê-da thức, mà vẫn như thành chủng tử của A-lê-da thức là sự gom thu của tư duy tịch tónh, các xứ sự có thể giữ lấy được hiện tướng các nghóa pháp sinh ra, là xứ của ý ngôn có kiến phần. Trong đây, ai là người hội nhập trí tướng? Là thân (Bồ-tát) tương tục đa văn huân tập giáo lý Đại thừa, vô lượng các đời thân cận chư Phật, hoàn toàn tin và nong muốn. Vì khéo tập hợp thiện căn cho nên khéo bổ trợ công đức và trí hành Bồ-tát chỗ nào nhập? Tức trở lại cái pháp nghóa hiện thấy mà ý ngữ xứ hiện tướng nương theo pháp Đại thừa phát sinh. Trong địa tín giải mà kiến đạo hành, Tu đạo hành cho đến hết thảy pháp chỉ có ghi nhận như vậy. Tùy thuận nhân của, tín, nghe như vậy làmm cơ sở phân biệt chứng như vậy, tất cả đối trị chướng và lìa xa chướng như vậy. Theo chỗ nào nhập vào? Theo lực của thiện căn trì giữ do ba thứ tướng tâm chuyển minh, các chỗ trang nghiêm và sự diệt trừ (phiền não), niệm pháp nghóa định tuệ, tất cả thời đều chánh hạnh và không phóng dật. Vô lượng chúng sinh loại, ở các thế giới, trong vô lượng niệm niệm thành A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề, thì ( Ta cũng vậy) đó là tướng thứ nhất tâm chuyển minh. Tâm tùy thuộc các hạnh tu tập hổ trợ các Ba-la-mật như bố thí v.v…, tâm đó đã đắc, cho nên ta không dụng thêm các Ba-la-mật, mà tu đạo có thể thành tựu viên mãn là tướng thứ hai, tâm chuyển minh. Các thiền pháp đã thành tựu rồi, sau khi chết, tìm tất cả sự thân tùy theo chỗ cần thiết. Những người có chướng ngại thiện căn còn được như thế huống chi ta khéo tu thiện căn được không chướng ngại thiện căn, mà không tin được tất cả thần lực hay sao! Đó là tướng thứ ba của tâm chuuyển minh. Trong đây kệ nói: Loài người đắc Bồ-đề, Ở trong mỗi mỗi niệm, Chúng sinh, cõi vô lượng, Đến thời đắc, (ta) sao bỏ? Tùy tâm hành bố thí v.v… Tâm thanh tịnh vô cấu, Kia được tâm chính yếu (Ta) cũng dõng mãnh thành tựu (Bố thí v.v…) Hành thiện, khi chết đi Tùy lực tâm (mà) được quả Họ thiện, còn được quả Ta thiện sao không thành! Xả bỏ tâm của Thanh-văn, Duyên-giác, diệt trừ mọi ý nghó về thừa này. Diệt mọi nghi hoặc có, không trong Đại thừa. Đối với các pháp được nghe, tư duy đều diệt trừ tướng chấp của ngã tướng, ngã, ngã sở. Diệt kiêu mạn với pháp, là đối với tất cả pháp tướng được an trụ trong đó; không nghó đến, không phân biệt, và diệt phân biệt. Trong đó có kệ nói: Trước mắt tùy thuận từ Tướng, niệm tự trụ xứ, Trí tận không phân biệt, Sẽ đắc thượng Bồ-đề. Lấy gì và làm sao để nhập? Lấy nghiệm ý do huân tập nghe và pháp nghóa do tư duy tịch tónh gồm thâu, hiện ra tướng phần và kiến phần của ý ngôn có bốn thứ suy tìm: danh, nghóa sự an lập của tánh, sự thù thắng của tánh. Về sự suy tìm là biết như thật về tánh của danh sự (nghóa), tánh an lập và thù thắng. Biết như thật về chúng mà không là biệt, thấy… Như vậy Bồ-tát chỉ có ghi nhận và nhập vào mà thuận tu, danh nghóa kia hiện thấy ý ngôn, ý ngôn của danh kia chỉ là đang quán sát. Chỗ nương tựa của danh kia tức là nghóa chỉ là đang quán sát ý ngôn. Nhưng danh và tánh an lập, thù thắng chỉ là quán sát, sau đó chỉ có ý ngôn vốn đã không Có danh, nghóa có tánh an lập thù thắng, có tánh thù thắng, tướng của nghóa vốn đã không thấy nên có bốn thứ suy tìm và bốn thứ quán sát. Đã thấy biết rồi thì danh nghóa của nó hiện tướng trong ý ngôn, trong ký sự kia đã nhập rồi thì sẽ hồi nhập Duy thức. Sự ngộ hập Duy Thức này có hai sự tướng và kiến phần, với nhiều sự nhập. Nghóa là ngộ nhập danh tự tánh của danh thù thắng sai biệt của danh; nghóa, tự tánh của nghóa, thù thắng sai biệt của nghóa. Sáu loại này đều vô nghóa không có thật, nhưng chúng đều là những sự vật do năng thủ nên các loại tướng hiện hữu sinh ra không mất. Ví như trong bóng tối thấy dây cho là hiện tướng của rắn, có nghóa là dây và rắn không thật, vì không phải chúng sinh. Như vậy nghóa của biết là không có, trở lại ý biệt rắn thì chỉ trụ nơi ý biết sợi dây. Suy cho cùng các biết về sợi dây cũng chỉ là tướng của sắc, hương, vị, xúc… Trong đó nương vào trí tuệ nhận biết về sợi dây, thì trí tuệ cũng được thành. Như vậy sáu thứ tướng này gọi là hiện tướng trong ý ngôn, như trí tuệ nhận biết thật về sợi dây, và nghóa thật, xứ thật của sáu thứ tướng là trí tuệ ghi nhận, cũng là trí tuệ suy lường nơi thành tựu tánh (viên thành thật tánh). Như vậy, Bồ- tát này ngộ nhập nghóa tướng thuộc hiện tướng của ý ngôn là ngộ nhập tánh phân biệt (Biến kế) thành tựu ngộ nhập ghi nhận vào duy thức là Y tha tánh, vậy thành tựu tánh ngộ nhập thế nào? Nếu quay trở lại tướng Duy thức thì chúng là các ý ngôn; các chủng tử pháp huân tập của nghe lúc đó là phân biệt nghóa tướng; tất cả nghóa hiện tướng sinh của Bồ-tát không có nghóa nào khác được thành. Vì lẽ đó,hiện tướng duy thức cũng không sinh, cho nên Bồ-tát đối với tất cả nghóa vô phân biệt sự gọi là trụ. Đã đối với pháp giới giống như hiện thấy mà tùy trụ. Lúc đó Bồ-tát kia đã đồng niệm, sinh vô phân biệt trí, cho nên Bồ-tát này gọi là nhập thành tựu tánh. Trong đó kệ nói: Pháp, chúng sinh, pháp, nghóa, Nghóa chung riêng, tánh có, Bất tịnh, tịnh, cứu cánh Phân biệt là cảnh giới. Như vậy, trí, của Bồ-tát này và sự ngộ nhập tướng duy thức, gọi là nhập được thành tựu, nhập đó gọi là an trụ ở địa Hoan hỷ, khéo đạt pháp giới, và ở nhà Như Lai, đắc tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, đắc tất cả tâm của Bồ-tát, tức là hành kiến đạo của Bồ-tát đó. Phật do nghóa gì mà ngộ nhập duy thức? Do lìa pháp, niệm về định tuệ trí xuất thế gian kia;lại cái trí nương vào các loại tướng thức vốn có kia là đồng tướng, nên tất cả nhân chủng tử của A-lê-da thức đều diệt, tăng trưởng chủng tử tiếp xúc pháp thân; lại đã chuyển, tất cả Phật pháp tích tập, hội nhập Nhất thiết trí. Nương vào cái trí sở đắc kia, thấy tất cả tướng xứ của A-lê-da thức như huyễn, nên tánh không hành điên đảo. Cho nên Bồ-tát như nhà ảo thuật, đối với việc mình tạo, nghóa tương đồng nhân quả, tuy có ngôn thuyết mà tất cả thời không thành điên đảo. Trong sự ngộ nhập Duy thức thì có nương tựa vào bốn loại thiền tỉnh, và bốn loại pháp hợp tướng làm sao biết? Vì bốn thứ suy tìm cho nên trong sự nhẫn chịu về bốn loại: không phải, không có thân (tự thể), vô ngại (không có thật) và không có đã phát sinh đạt được Tam muội sáng rõ làm chỗ dựa cho tướng Noãn, tam muội sáng rõ tăng trưởng trong sự nhẫn chịu ấy lại là chổ dựa cho tướng hướng lên (Đảnh…). Cái trí biết như thật về bốn loại, ngộ nhập chỉ là trong Duy thức thì dùng tâm quyết định các pháp không thật, sự ngộ nhập trong chân thật này là nương vào thuận đế Nhẫn của tất cả Tam muội. Đừ đây về sau suy lường về tường Duy thức kia, thì Tam muội tiếp theo nương vào cái thấy của thế gian thượng pháp (Thế đệ nhất pháp). Các Tam-muội này phải biết là gần nhập địa. Nhập địa như vậy thì đắc đạo Kiến đế. Bồ-tát ngộ nhập Duy Thức rồi, thì vị tu đạo thực hành thế nào? Tùy sự phân biệt mà nói mười địa, nhiếp tất cả Tu-đa-la hiện sự trụ, lấy tạp niệm xuất thế gian, và dựa vào tạp niệm đó mà đắc định tuệ trí, vô lượng trăm ngàn ức huân tập. Như vậy thân đã chuyển, vì chứng đắc ba thân Phật, cho nên tu hành. Hiện có các pháp chứng đạo của Thanh-văn thì so với các Bồ-tát này, cả hai có gì khác nhau? Trong chứng nhập thù thắng của Thanh- văn, thì Bồ-tát chứng nhập có mười pháp, phải biết là một thứ sự thù thắng: Niệm thù thắng là niệm pháp Đại thừa. Thuần chí thù thắng là công đức lớn hổ trợ, tích tập đến cứu cánh tinh thuần. Chứng thù thắng là chứng đắc pháp, chúng sinh là vô ngả (nhân không, pháp không). Niết-bàn thù thắng là nhiếp thủ Niết-bàn Bất trú (Biết bàn Vô trú). Địa thù thắng là tất cả mười địa của Bồ-tát. Tịnh thù thắng là diệt hết tập khí phiền não, khiến cho cõi Phật thanh tịnh. Tâm ghi nhận thù thắng, là đồng ghi nhận bình đẳng đối với hết thảy chúng sinh, là Hóa độ chúng sinh không đoạn dứt. Sinh thù thắng là sinh vào nhà Như Lai. Thủ sinh thù thắng là trong hội thế giới của Phật, tất cả thời đều được sinh. Quả thù thắng là mười lực, bốn pháp vô uý, mười tám pháp Bất cộng, thành tựu vô lượng công đức của Phật pháp. Trong đó có kệ nói: Làm khách sự lẫn nhau, Sự gọi là sở cầu, Chỉ cầu các sự kia, Phân biệt hai sở an (hai thứ được an lậ) Vì như thật thấy biết, nói: Lìa nghóa ba phân biệt, Thấy đó là phi sự, Không có ba sở chấp. Lại ví như Thuận Phân biệt luận, có kệ nói: Gương hình ý sau đó, Bồ-tát tại các định. Xoay tưởng nghóa kia rồi, Giữ nhớ tưởng tự tâm Trụ trong tâm như vậy, Biết không gì sở thủ Sau đó không năng thủ, Vô phân biệt trí vậy. Lại có thêm kệ chứng đạo, trong Đại Diên Trang Nghiêm luận Bồ-tát trợ tập hạnh, Vô biên công đức, trí Tư duy pháp, quyết định, Ngữ ngôn đạt tận nghóa. Đã biết chánh nghóa rồi, Nói trụ định tâm kia, Vì pháp giới hiện ý, Nên bỏ lìa hai tướng. Lìa tâm không có khác Khéo biết tâm cũng không, Biết cả hai là không, Là chánh trụ pháp giới. Do lực tri không phân (Vô phân biệt trí). Nên đồng thời thường đồng hành, Thân tụ tập hoạn nạn, Như hình mất các độc. Mâu-ni nói thiện pháp, Khéo trụ ý suy lường, Xứ pháp giới căn bản Niệm đến trí hiểu ý, Chỉ là phân biệt chính giữ, Mau đắc nơi công đức. Như vậy nói nhập trí tướng đã xong. Nhân quả kia làm sao biết được? Đó là sáu thứ Ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Tại sao do nhân sáu Ba-la-mật này được thành tựu hội nhập Duy Thức? Tại sao sáu Ba-la-mật thành tựu là quả của sự hội nhập? Trong đó Bồ-tát đối với khí thế gian không nhiễm, đối với bố thí không chấp trước, đối với khổ không sân hận đối với tu không lười biếng. Như vậy các nhân loạn động này không hiện hành. Vì nhân không hiện hành, nên hoàn toàn tư duy tịch tónh các pháp, hội nhập vào Duy thức. Đã nương vào Ba-la-mật và nhập duy thức nên Bồ-tát làm thanh tịnh hóa những gì thuộc về thâm tâm là chứng đắc sáu Ba-la-mật. Do trung gian hành sáu Ba-la-mật thuận theo nói, tin, nên vui cầu tùy hỷ, được lợi thấm nhuần, xa lìa và nhẫn. Tự thân Bồ-tát trong thì sâu xa rộng lới, chỉ là phân biệt, chính là để giác ngộ đạt được. Muốn tin tịnh tâm minh, Vốn hiểu pháp lưu kia, Mười địa gần Bồ-đề, Không tự nhiên mà đắc. Có nghóa gì mà chỉ nói sáu Ba-la-mật? Đối trị chướng sai biệt an lập, là tất cả Phật pháp tập hợp một chỗ và tùy thuận Hóa độ tất cả chúng sinh. Vì đối trị tướng bất động nên nói Đàn Ba-la-mật và Thi-la Ba-la-mật. Tướng bất động, là không vướng chấp thế gian và nhà cửa nương vườn. Vì đối trị tướng động tức quay trở lại nên nói Sằn-đề Ba- la-mật (Nhẫn)và Tỳ-ly-da Ba-la-mật (Tinh tấn) tướng trạng của nguyên nhân quay trở lại (thoái lui) là do hồi hướng, là chúng sinh trong thế gian làm hạnh ác khiến cho Bồ-tát thọ khổ lâu dài, và trong sự tu thiện pháp thì sinh mệt mỏi. Vì đối trị tướng tuy không lui nhưng bị tổn thật, nên nói Xà-na Ba-la-mật (Thiền định) và Bát-nhã Ba-la-mật (*Trí tuệ). Tướng tổn thất, Thất tướng, là tâm loạn động và vô trí. Như vậy do đối trị của sự chướng ngại nên có số sai biệt. Bốn pháp Ba-la-mật trước không có tướng tán động, một Ba-la-mật tiến là thành tựu tướng không tán động lấy tán động làm chỗ nương nên trí tuệ chánh giác pháp như thật tập hợp các Phật pháp. Như vậy vì câu nghóa đây đã tập hợp tất cả Phật pháp, cho nên có số sai biệt chỉ là sáu: Lấy Đàn Ba-la-mật lợi ích chúng sinh, Thi Ba-la-mật không làm ác, Sằn đề xà Tỳ-ly-da Ba-la-mật có thể nhẫn chịu làm hết các sự đến cùng. Từ lợi ích như vậy, Hóa độ chúng sinh, vì Hóa độ cho nên điều phục. Sau đó tâm chưa nhập định thì khiến cho tâm nhập định, tâm đã nhập định thì làm cho đắc giải thoát, niệm niệm khuyến khích để được giải thoát. Như vậy, vì Hóa độ tất cả chúng sinh, các câu nghóa đây đầy đủ cả nên số sai biệt chỉ sáu. Phân biệt như thế. Nhưng tướng của các Ba-la-mật làm sao biết được? Vì có sáu thứ hơn hết nên biết: 1.Chổ dựa hơn hết là nương vào tâm của Bồ-tát. 2. Vì nương vào hơn hết nên hành hóa khắp hơn hết. 3.Ý tăng thượng hơn hết, lấy hóa độ làm hổ trợ an lạc. 4.Phương tiện thiện xảo hơn hết, được nhận vô phân biệt trí. 5.Phát nguyện hơn hết tức phát nguyện chứng quả A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-Bồ-đề. 6. Thanh tịnh hơn hết, sự tu tập không còn hai chướng ngại của phiền não và sở tri. Lại nói về bố thí kia cũng gọi là Ba-la-mật, Ba-la-mật kia cũng là bố thí? Như vậy, có bốn trường hợp (tứ cú). Nghóa là có là thí không phải Ba-la-mật… Trong các Ba-la-mật khác giống như đây đều có bốn câu, nên tùy thuận phải biết. Các Ba-la-mật này lấy nghóa gì ở đây mà nói theo thức tự từng bước như vậy? Do Ba-la-mật trước làm chổ dựa cho Ba-la-mật sau thu- ận theo sinh. Lại với giải thích như trên, làm sao biết? Như trong thiện căn bố thí v.v… Thanh-văn và Duyên-giác thì Ba-la-mật là tăng thượng hơn, đạt đến bờ giác ngộ. Vì nghóa tật đố, xan tham, bần cùng đều bị phá trừ, làm cho đạt được thế lực lớn của công đức nên Bố thí. Vì nghóa trì giới, dứt trừ nên ác, thu hoạch nẻo thiện, và Tam muội. Vì nghóa diệt trừ sân hận nên sống hóa mình như nội người để Nhẫn nhục. Vì nghóa, biếng nhác và các pháp ác bất thiện khiến cho xa lìa, tăng trưởng vô lượng thiện pháp xuất thế cho nên tinh tấn. Vì phá loạn tưởng khiến cho nội tâm an trụ đến sau nên Định. Vì phá tất cả kiến của thiền định diệt trừ vô trí, biết các pháp chân thật chân và tướng sai biệt, nên gọi là trí. Các Ba-la-mật này có sự tu có thể biết như thế nào? Lược có năm thứ sự tu cần phải biết: Tập hạnh nhân hành tu. Tín dục tu ï. Tâm chánh niệm tu. Phương tiện thiện xảo tu. Hành động và nhớ giữ tu. Trong đây có bốn thứ sự như chỗ nói ở trước. Sự nhớ giữ và hành động tu là có chư Phật tự nhiên làm các Phật sự, không dứt không ngơi nghỉ, tu các Ba-la-mật khiến cho viên mãn. Tâm chánh niệm tu là tâm hỷ lạc, tùy hỷ, nhớ nghó v.v… là chỗ thâu nhiếp của sáu thứ tâm: 1. Tâm tu rộng rãi. 2. Tâm không đoạn. 3. Tâm hoan hỷ. 4.Tâm làm lợi ích. 5. Tâm lớn lao. 6. Tâm chân thật. Có các Bồ-tát tùy theo A-tăng-kỳ kiếp đắc A-nậu-đa-la-tam- miệu-tam-Bồ-đề, các thời gian như vậy trong niệm niệm, xả tất cả tự thân và bảy báu như hằng hà sa số, khiến cho bố thí viên mãn chư Phật Như Lai cho đến các vị chưa ngồi ở đạo tràng, mà Bồ-tát hành bố thí, tâm không chán đủ. Lại các thời gian như vậy từng niệm niệm lửa đầy trong ba ngàn đại thiên thế giới, Bồ-tát hiện bốn thứ oai nghi, tuy thiếu tất cả vật dụng nhưng hiện vẫn khởi tâm trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ cho đến ngồi ở đạo tràng. Như vậy Bồ-tát không chán tu các tâm trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, đây là Bồ-tát có tâm rộng lớn. Có các Bồ-tát tâm không chán dủ này cho đến ngồi ở đạo tràng không đoạn và không xả, đó gọi là thân là tâm không đoạn. Hoặc Bồ- tát với tâm hoa hỷ, chỗ làm sáu Ba-la-mật lợi ích chúng sinh của Bồ-tát, không phải chúng sinh kia vì đắc lợi ích này, mà đây là tâm hoan hỷ của Bồ-tát. Hoặc Bồ-tát đó làm lợi ích chúng sinh, đối với sáu Ba-la-mật làm nhiếp thủ lợi ích thấy như chính thân mình, tự thân mình thấy như chúng sinh. Nếu Bồ-tát đó dùng thiện căn của sáu Ba-la-mật, đã tích tập như thế đem hồi hướng phát nguyện khiến cho tất cả chúng sinh đắc quả báo yêu thương, đây là Bồ-tát tâm lớn lao. Hoặc Bồ-tát đó, như Ba-la-mật tu tập thiện căn, cùng với tất cả chúng sinh đồng phát nguyện hồi hướng A-nậu-đa-la tam-miệu-tam- Bồ-đề, đây là tâm chân thật của Bồ-tát. Như vậy do thuộc về sáu thứ tâm, cho nên tu tâm hỷ lạc. Nếu sáu thứ tu tâm hạnh của Bồ-tát kia đối với vô lượng thiện căn của các Bồ- tát khác khiến cho tùy hỷ, thì sáu thứ tâm của Bồ-tát thống nhiếp tâm tùy hỷ khiến tu. Nếu Bồ-tát đối với sự tu sáu Ba-la-mật thuộc về sáu loại tâm hướng đến tất cả chúng sinh luôn mong cầu chi nhận thì không xa lìa sáu Ba-la-mật cho đến ngồi vào đạo tràng. Như vậy, chỗ nhiếp sáu tâm của Bồ-tát là tu tâm nhớ nghó. Nếu sáu tâm này là chỗ nhiếp tâm tu của Bồ-tát ai nghe rồi phát khởi một tâm ưa muốn, công đức đó lường bằng công đức, và tất cả chướng xấu ác tiêu diệt, huống chi là Bồ-tát! Các Ba-la-mật có sai biệt như thế nào? Phải biết mỗi Ba-la-mật có ba tướng. Thí-ba-la-mật có ba tướng là pháp thí, tài thí và vô uý thí. Chỉ (giới) có giới luật nghi, giới nhiếp thiện pháp và giới làm lợi ích chúng sinh. Sằn-đề có nhẫn chịu tác động xấu, nhẫn khổ và nhẫn tư duy về nhập. Tinh tấn có dũng mãnh tinh tấn, hành tinh tấn, không khiếp nhược, không sân hận, tùy hỷ tinh tấn Định có Hiện tướng, nhớ nghó và duy trì. Tuệ có hành phương tiện không phân biệt, không phân biệt và phân biệt, dựa vào đó mà đắc trí. (hậu đắc trí) Tại sao các Ba-la-mật này thâu nhiếp các sự? Nên biết các Ba-la- mật này thâu nhiếp tất cả thiện căn. Vì tướng của nó, tùy thuận của nó và nhân khí của nó. Phải biết các chướng ngại của các Ba-la-mật này, và sự nhiếp phục của tất cả phiền não như thế nào? Là tướng của nó, nhân của nó và quả của nó. Làm sao có thể biết các sự hữu ích của các Ba-la-mật này? Vì khi hiện hành ở thế gian thì làm cho thuộc về thế lực, thuộc về đồng với chúng sinh, thuộc về quyến thuộc, thuộc về các hành sự lớn lao trở thành tốt đẹp, thuộc về giảm bớt cảnh trần, không xúc não, tất cả các luận chú thuật công xảo thuộc về ý vi tế, khiến tăng trưởng điều không tội lỗi, cho đến ngồi vào đạo tràng, tất cả chúng sinh hiển hiện, tất cả nghóa tạo sự, gọi đó là lợi ích của Bồ-tát. Tại sao có thể biết các Ba-la-mật quyết định phân biệt lẫn nhau? Hoặc có nơi tất cả sáu Ba-la-mật bố thí tiếng nói, hoặc có tiếng trì giới, hoặc có tiếng nhẫn nhục, hoặc có tiếng tinh tấn, hoặc có tiếng thiền định, hoặc có tiếng trí tuệ. Trong đây có ý nghóa gì? Trong tất cả hạnh Ba-la-mật thì những thứ đó là đồng trợ giúp, ý đó là như vậy. Đã nói nhập nhân tướng và quả tướng rồi. Làm sao có thể biết các sự tu sai biệt kia? Là mười địa của Bồ-tát. Những gì là mười địa? Đó là Hoan hỷ, Ly cấu, Minh tác, Diệm, Nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ và Pháp vân. Vì sao các địa này có mười sự sai biệt? Phải biết, vì đối trị mười loại chướng vô minh. Như vậy là trong mười thứ tướng trí và pháp giới mười thứ tướng trụ. Thế nào là mười thứ tướng trí pháp giới và nghóa tất cả xứ? Là nghóa đứng đầu trong sơ địa, nghóa đứng đầu về nhân trong địa thứ hai, nghóa không chấp thủ trong địa thứ ba, nghóa thân tâm không sai biệt trong địa thứ tư, nghóa không phiền não và tịnh trong địa thứ năm, nghóa các pháp không sai biệt trong địa thứ sáu, nghóa không thù thắng không hạ liệt trong địa thứ bảy, nghóa tướng thân tự tại và nghóa nương tựa thế giới tự tại trong địa thứ tám, nghóa nương trí tự tại trong địa thứ chín, nghóa nghiệp tự tại và nương Đà-la-ni Tam-muội môn tự tại trong địa thứ mười. Trong đây có kệ nói: Nghóa trên cùng với nghóa nhân trên, Nghóa không thu và thân tương tục, Nghóa không phiền não nhiễm và tịnh, Cho đến nghóa không kém. Nghóa không hơn, không kém Nương đệ tứ tự tại, Vô minh trong pháp giới, Hai loại cho đến mười, Vì mười địa có chướng, Đối trị nói các địa. Nhưng vô minh này thì các Thanh-văn không xen tạp, trong các Bồ-tát thì có xen tạp. Vì sao Sơ địa gọi là Hoan hỷ? Vì sơ địa là mới bắt đầu cho nên tự lợi và lợi tha, có khả năng kham nhẫn nên thành nghóa của công đức. Vì sao địa thứ hai gọi là địa Ly cấu? Là khiến rời xa sự phá giới cấu uế. Vì sao địa thứ ba gọi là Minh? Vì nó làm chỗ nương cho địa bất động Tam-muội Tam-ma-bạt-đề, là chổ dựa của ánh sáng đại pháp. Vì sao địa thứ tư gọi là địa Diệm? Vì phần pháp Bồ-đề thiêu đốt tất cả chướng. Vì sao địa thứ năm gọi là địa Nan thắng? Vì siêu vượt phần Bồ-đề, do trí chân đế và trí thế gian trái nhau hoặc hợp nhau khiến cho tương ưng. Vì sao địa thứ sáu gọi là Hiện tiền? Vì nhân duyên trí nương vào Bát-nhã Ba-la-mật hạnh mà hiện khởi. Vì sao địa thứ bảy gọi là Viễn hành? Vì có công dụng đi đến tất cả. Vì sao địa thứ tám gọi là Bất động? Vì tất cả tướng bất động. Vì sao địa thứ chín gọi là Thiện tuệ? Vì đắc thượng trí với biện tài vô ngại. Vì sao địa thứ mười gọi là Pháp vân? Vì biết tất cả pháp của tạp niệm và tạng của tất cả pháp môn Đà-la-ni Tam-muội như mây, như hư không, khiến phiền não chướng trên diệt mất, và đắc Pháp thân viên mãn. Tại sao các địa này đắc trí? Có bốn thứ tướng: Đắc hành địa, trí thắng giải là đắc tín địa; đắc là đắc thuận địa; đắc mười thứ pháp hành là chứng pháp giới, chứng tất cả địa trong chứng đắc sơ địa; đắt thành tựu là các địa này, tu khắp tất cả. Làm sao có thể biết được sự tu tập của các địa này? Đó là Bồ-tát trong các địa tu Xa-ma-tha Tỳ-bà-xá-na, có năm thứ tướng tu. Những gì là năm thứ, chỗ gọi là: Tạp tu. Vô tướng tu. Vô công dụng tu. Chuyển minh tu. Chuyển chuyển tu. Như vậy Bồ-tát này đối với năm thứ tu đã đắc năm thứ quả, nghóa là trừ tất cả ác, các thứ tưởng của thân lìa pháp ý và được an vui, tất cả xứ vô lượng không làm bạn ở trong tướng, hiện tướng pháp quang minh, biết rõ tướng tịnh phân biệt. Các niệm phân biệt kia đồng hành, làm viên mãn pháp thân và thành tựu nhân trong sự khởi thu nhiếp các địa sau. Lấy mười sự tu Ba-la-mật trong mười địa làm thành, điều này cũng là lẽ nói sáu Ba-la-mật tùy trong sáu Ba-la-mật, có bốn thứ: Phương tiện Ba-la-mật, là chỗ tập hợp thiện căn của sáu Ba-la- mật, tất cả chúng sinh trong đó cùng chung phát nguyện, nguyện hướng đến A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-Bồ-đề mà phát nguyện. Nguyện Ba-la-mật, là các thứ nguyện hiện tướng trong vị lai, Ba-la-mật duyên kéo dẫn đến tương lai. Lực Ba-la-mật, là sức lực có thể tu sáu Ba-la-mật, vì không đoạn mà đồng hành. Trí Ba-la-mật, là trí sai biệt của sáu Ba-la-mật, vì pháp đồng thọ báo Hóa độ chúng sinh. Nhưng bốn Ba-la-mật này, vô phân biệt trí của Bát-nhã Ba-la-mật dựa vào chỗ nhiếp của đắc trí, tuy nhiên tất cả các địa của tất cả Ba-la- mật không phải không tu mà thành chỗ nhiếp tàng của Ba-la-mật. Pháp môn này có bao nhiêu thời mà tu sự của các địa thành tựu viên mãn? Có năm loại chúng sinh, là người tín hành ba A-tăng-kỳ kiếp: Trong A-tăng-kỳ thứ nhất tịnh thâm tâm, hành hạnh vô tướng và hành hạnh hữu tướng, có địa thứ sáu và địa thứ bảy. Trong A-tăng-kỳ thứ hai, không hiện nhân tướng (người), từ đây lên đến địa thứ mười. Trong A- tăng-kỳ thứ ba, là tu đạo thành tựu đầy đủ. Trong đây có kệ nói: Do thượng lực thù thắng, Tâm thắng trí kiên cố, Bồ-tát ba tăng-kỳ, Phát tâm hành tất cả. Như vậy nói tu sai biệt của nhân quả đã xong. Trong đó làm sao có thể biết sự thù thắng của tăng thượng giới? Như trong trì Bồ-tát địa nói, trong phẩm thọ Bồ-tát giới cũng có bốn thứ sự thù thắng phải biết: Sai biệt thù thắng. Đồng bất đồng giới thù thắng. Thượng thù thắng. Thậm thâm thù thắng. Trong đây sai biệt thù thắng, là thọ giới, nhiếp thiện pháp giới và làm lợi ích cho chúng sinh giới. Giới nghi đầu là tạo chổ an trụ của hai giới sau. Giới nhiếp thiện pháp giới là nghóa tập hợp Phật pháp an trụ. Giới làm lợi ích cho chúng sinh, là nghóa giáo Hóa chúng sinh. Phải biết đồng với giới Thanh-văn nghóa là giới trọng, tánh giới của Bồ-tát. Không đồng hành, không đồng giới, là coi trong các giới ngăn giới trọng đồng hành, nhưng trong giới đó tùy chỗ Thanh-văn phạm, còn Bồ-tát không phạm, tùy chỗ Bồ-tát phạm giới thì trong đó Thanh-văn không phạm giới. Bồ-tát đề phòng thân khẩu và tâm, Thanh-văn chỉ đề phòng thân và khẩu, do đó Bồ-tát khởi tâm phạm giới mà không phải các Thanh-văn. Lược nói cả thảy nghiệp ác chúng sinh mà có ích lợi thân khẩu ý. Tất cả Bồ-tát kia, phải hành và trong đó học như vậy về sự thù thắng của pháp cộng và bất cộng (chung và riêng)ï. Phải biết sự thù thắng trên lại có bốn thứ: Vì cao cả cho nên được các thứ vô lượng giới. Vì cao cả cho nên nhiếp thủ vô lượng công đức. Vì cao cả cho nên nhiếp tất cả chúng sinh làm quyến thuộc với tâm hổ trợ lợi ích. Vì cao cả cho nên trụ vào pháp A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam- Bồ-đề. Vì cao cả và đắc vô lượng công đức, mau chóng đắc A-nậu-đa- la Tam-miệu-tam-Bồ-đề. Trong đó, sự sâu xa, là Bồ-tát như vậy có phương tiện thiện xảo, tu hành mười thứ nghiệp sát sinh… là lấy pháp không ác để thành tựu vô lượng công đức, mau chóng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-Bồ-đề. Hoặc ứng Hóa thân nghiệp khẩu nghiệp, đó là giới sâu xa phải biết. Như làm quốc vương trị quốc, tính toán các thứ não sự để dạy bảo chúng sinh, để giáo Hóa chúng sinh mà sắp đặt cõi thiện, hiển thị các thứ sinh phiền não. Đối với các chúng sinh khác thì hiển thị các thứ lợi ích khác, ngoài ra khiến cho tâm phát khởi, đã phát khởi thì trước hết ứng Hóa, ứng Hóa rồi thì tâm hồi hướng. Đây là thù thắng sâu xa về sự của giới Bồ-tát. Như vậy bốn thứ thù thắngï, lược nói Bồ-tát có sự thù thắng của giới cao cả phải biết. Như vậy phân biệt, lại có Bồ-tát sai biệt vô lượng, cũng như trong Tỳ-ni Hưởng Phương Quảng Tu-đa-la. Như vậy nói tăng thượng giới thù thắng sự đã xong. Sự thù thắng của Tăng thượng tâm làm sao biết được? Lược có sáu thứ sai biệt phải biết: Niệm sai biệt. Chủng chủng sai biệt. Nghiệp tác sự sai biệt. Hiện khí sai biệt. Nghiệp sai biệt (thiếu một thứ sai biệt). Vì nhớ nghó pháp Đại thừa, Tam-muội tích tụ tất cả công đức sáng rõ của Đại thừa, nhiều loại Tam-muội vô lượng trong Tam-muội Lăng nghiêm vương hiện bày để giữ gìn và hộ trì. Trí tạp niệm của tất cả pháp hiển thuận tất cả chướng của A-lê-da thức, các kết sử ác khiến cho được trừ. Hành thiền định an vui đã tùy thuận chỗ sinh, xứ sinh, với tất cả thần thông biến không thế giới không chướng ngại, xuất hiện, động phóng quang khắp thấy làm các sự thù thắng, qua lại rộng hẹp, tất cả sắc thân nhập hạnh đồng nhau, lên xuống làm cho người khác tự tại ẩn tàng, thần thông hiện niệm và an vui, phóng quang hiện đại thần thông, nhiếp tất cả hành khổ, hiện mười thứ khổ hạnh, mười thứ khổ là: Thọ nhận khổ hạnh, là Bồ-đề thệ nguyện. Bất thoái khổ hạnh, là đối với các khổ của thế gian không hề thoái chuyển. Không quay lưng với khổ hạnh: Vì tất cả chúng sinh trong ác hạnh và khổ hạnh mà hiển hiện các sự. Hiện khổ hạnh, là làm ác trong chúng sinh, để làm hiển hiện tất cả nghóa lợi ích. Không nhiễm khổ hạnh, là sống với pháp thế gian nhưng không nhiễm nó. Tín khổ hạnh, là đối với Đại thừa tuy không hiểu tất cả đại sự nhưng có lòng tin. Chứng khổ hạnh, là khiến chúng sinh chứng pháp vô ngã. Thuận giác tri khổ hạnh, là mật ngữ mà các đức Như Lai nói rất sâu thuận với giác tri. Không tịch tónh không nhiễm khổ hạnh, là không bỏ thế gian và không nhiễm thế gian. Hành khổ hạnh, là trụ trong sự giải thoát tất cả chướng của chư Như Lai cho đến tận cùng sanh tử. Tự nhiên làm tất cả chúng sinh, tất cả nghóa hạnh có thể được, lại thuận giác tri khổ hạnh. Cả thảy mật ngữ mà chư Phật nói, nếu tùy theo chỗ hiểu biết về mật ngữ, thì tại sao Bồ-tát bố thí được thành? Nếu không có việc bố thí, thì vô lượng thế giới khắp mười phương kia khởi bố thí được thành. Tại sao bố thí mà tâm vui vẻ được thành? Nếu tất cả bố thí không có an lạc vui vẻ, thì vì sao bố thí mà tín tâm được thành? Giả sử tín của chư Như Lai không bỏ, thì vì sao bố thí cùng với ý được thành? Giả sử cùng bố thí cả tự thân, thì vì thích bố thí được thành? Giả sử tất cả thời không có chỗ bố thí, thì vì sao bố thí đại sự? Nếu đối với bố thí không khởi tướng kiên cố, thì vì sao bố thí mà tăng trưởng được thành? Giả sử khởi tâm tật đố, thì vì sao bố thí mà tận ý thành? Giả sử không trụ khi tận pháp, thì vì sao bố thí mà thành tự tại? Tại sao bố thí mà thành vô lượng, nếu không trụ vô tận? Bố thí như vậy, trì giới như vậy cho đến Bát-nhã Ba-la-mật tùy thuận phải biết. Tại sao sát sinh được thành? Là khiến tổn hại sự sinh tử chúng sinh trong thế gian. Tại sao trộm cắp được thành? Là như người chưa cho chúng sinh mà tự lấy. Tại sao dâm dục được thành? Là khiến cho tà dâm mà hành chánh hạnh. Tại sao vọng ngữ được thành? Là khiến như vọng ngữ mà khởi vọng ngữ đểø nói. Tại sao ỷ ngữ thành? Là khiến như thường lấy hạnh “không môn” thực hành. Tại sao ác khẩu được thành? Là khiến đến bờ của trí tuệ. Tại sao lưỡng thiệt được thành? Là khiến cho khéo biết các pháp mà có thể nói ý nghóa. Tại sao tham được thành? Là khiến cho pháp thường và pháp vô thường, pháp thiền định khiến cho đắc mà tu hành. Tại sao sân tâm được thành? Là khiến giữ lấy tất cả phiền não trong tâm. Tại sao tà kiến được thành? Là khiến tất cả xứ cho đến tất cả sự tà kiến như thật, kinh nói rõ Phật pháp sâu xa. Những pháp gì mà nói là sâu xa? Trong đó có thuyết này: “Phật pháp của pháp thường trụ, là nương vào sự thường hằng của pháp thân. Phật pháp của pháp đoạn kiến, là diệt tất cả chướng. Phật pháp của sinh pháp, là có thể sinh ứng thân. Phật pháp của pháp hiểu biết, là tám vạn bốn ngàn hạnh của chúng sinh có đối trị. Phật pháp của pháp có tham, là chúng sinh có tham chấp thủ như chính mình. Như vậy đối với Phật pháp của phápsân, Phật pháp của pháp si, Phật pháp của kiến pháp phàm phu, thì Phật pháp của pháp vô nhiễm, là chân như đã thành tựu tất cả chướng không thể nhiễm. Phật pháp của ly nhiễm pháp, là sinh vào thế gian mà không bị thế gian làm ô nhiễm. Do những nghóa đó cho nên gọi là Phật pháp sâu xa, tu các Ba-la-mật Hóa độ chúng sinh, khiến cho cõi Phật trở nên thanh tịnh. Do hiển hiện tất cả Phật pháp cho nên đối Tam-muội làm công hạnh sai biệt của chư Bồ-tát phải biết. Như vậy đã nói tâm tăng thượng thù thắng. Tuệ tăng thượng thắng làm sao biết được? Tánh xứ, thân xứ, nhân xứ, niệm xứ, tướng xứ, trì xứ, bạn xứ, báo xứ, nhân khí xứ, xuất xứ, tận chí xứ trong vô phân biệt trí, đều dựa vào hạnh vô phân biệt công dụng hạnh kia mà thành. Các đẳng xứ, sai biệt xứ đều dựa vào vô phân biệt mà đắc xứ. Các xứ khác thì trì giữ tự nhiên làm sự xứ và ý xứ sâu xa. Cái biết Tăng thượng thù thắng thuộc trí tuệ Vô phân biệt, trong đó lìa năm thứ tướng: Vô phân biệt tánh trí. Ý ly niệm. Vì quả lìa địa có giác, có quán. Vì lìa định Diệt tưởng thọ và xa lìa tánh sắc. Vì chân thật xả bỏ các loại tướng. Như vậy, vô phân biệt trí kia lìa năm tướng, phải biết đây như đã nói. Trong vô phân biệt trí tánh sai biệt mà an lập, nói kệ: Chư Bồ-tát chân thật, Xa lìa năm thứ tướng, Chỗ vô phân biệt trí, Trong chân các thứ tên. Thân của các Bồ-tát, Thiện tâm chính là tâm, Trong vô phân biệt trí, Thiện tâm chân thật nói. Nhân của các Bồ-tát, Đồng ngôn, văn huân tập, Trong vô phân biệt trí, Ý hành đồng tư duy. Niệm của các Bồ-tát, Pháp không có sự nghóa, Trong vô phân biệt trí, Vô ngã và chân như. Tướng của các Bồ-tát, Đối với chánh niệm xứ, Trong vô phân biệt trí, Trí xứ không có tướng. Tùy thuận nghóa chân thật, Phân biệt không khác nhau, Lẫn nhau cùng tùy thuận, Nghóa đó thành thuận hoà. Lìa trí, vô ngôn thuyết, Trong thuyết có sở hành. Vì thuyết có trái nhau, Thuyết kia không có lời. Trì của các Bồ-tát, Trí đó vô phân biệt, Nhờ đó mà đắc hạnh, Hành đến tăng trưởng xứ. Bạn của các Bồ-tát, Nói là hai thứ hạnh, Trong trí vô phân biệt, Năm tánh Ba-la-mật. Báo của các Bồ-tát, Chư Phật trong hai giới, Nơi vô phân biệt trí, Vì để đắc thuận hành. Nhân của các Bồ-tát, Các nơi sinh thượng thượng, Trong vô phân biệt trí, Thù thắng cho nên nói. Xuất sự các Bồ-tát, Vì để đắc thuận nghóa, Trong vô phân biệt trí, Hiểu biết cả mười địa. Khắp đến các Bồ-tát, Do đắc ba thân tịnh, Trong vô phân biệt trí, Vì đắc thần thông trên. Như hư không không nhiễm Trí kia vô phân biệt, Nhiều ác trên các thứ, Chỉ nói dục là chính. Như hư không không nhiễm, Trí kia vô phân biệt, Xa lìa tất cả chướng, Vì đắc thuận thành tựu, Như hư không không nhiễm Trí kia vô phân biệt, Vì thường hành thế gian, Mà thế pháp không nhiễm. Vì nghóa câm tùy thuận, Nghóa sở giác như câm, Không phải không dụng câm, Nói là ba loại trí. Chỗ dụng thọ như si, Chỗ hiểu biết như si, Sở dụng không như si, Nói là ba chủng trí. Như đạt năm thứ sự, Như ý thức hiểu biết, Nói là ba loại trí. Hiểu thông năm thứ nghóa Không thông luận tu luận, Như thông pháp nghóa hiểu, Như vậy dần dần biết, Biết là hạnh bắt đầu. Như người mắt bị che, Trí kia vô phân biệt, Đắc rồi mới sáng mắt, Trí đó nhờ sở đắc. Trí cũng như hư không, Trí kia vô phân biệt, Xứ đó sắc hiện tướng, Trí kia nhờ sở đắc. Như châu báu, kỹ nhạc, Làm việc vô phân biệt, Như vậy là lìa trụ, Nghiệp chư Phật trang nghiêm, Không phải trí, xứ khác, Có trí và vô trí, Trí kia vô sai biệt, Là trí vô phân biệt. Thể tánh vô phân biệt, Biết rõ tất cả pháp, Phân biệt trong chúng sinh Trí kia vô phân biệt. Trong đó hành công dụng của vô phân biệt có ba thứ: 1. Nhân hiện tướng. 2. Thủ sinh. 3. Sai biệt. Vô phân biệt trí cũng có ba thứ: 1. Ít muốn biết đủ. 2. Không điên đảo. 3. Không phân biệt, không huỷ báng. Dựa vào đắc trí cũng có năm thứ: Chứng đắc. Ức niệm. Sai biệt. Lìa phân biệt thành tựu hiện thời. Giải thích thành nghóa của vô phân biệt trí. Lại nói kệ khác: Ngạ quỷ, súc sinh, nhân, Chư thiên, Như, La-hán, Ýù đồng và sai biệt, Đắc thành các nghóa trần. Quá khứ như các mộng, Không khác cũng có hai, Phi hữu mà khởi niệm, Vì niệm kia thuận nghóa. Nghóa và nghóa thành tựu, Trí kia vô phân biệt, Kia vô là vô Phật, Đắc sự thì không thành. Bồ-tát đắc thần thông, Đó là lấy tín lực, Các địa không như vậy, Tùy thiện mà giác kiến. Thành tựu trí tuệ này, Dũng kiện đắc thiền định, Tất cả pháp chánh y, Và thấy nghóa như vậy. Trong trí hạnh phân biệt, Và hiện tất cả nghóa, Phải biết sự vô nghóa, Ghi nhận vónh viễn hết. Trong Bát-nhã Ba-la-mật, trí vô phân biệt và không hơn kém, như kinh Đại Phẩm nói: “Bồ-tát trụ trong Bát-nhã Ba-la-mật, vì không trụ cho nên có thể tu hành đầy đủ. Bồ-tát đó tại sao vì không trụ mà có thể tu đầy đủ các Ba-la-mật? Vì xả bỏ xứ không, xả ly ngã kiến và xứ kiến của ngoại đạo, xả ly các Bồ-tát chưa chánh đắc chỗ phân biệt vọng niệm, xả ly chỗ nhị biên của thế gian và Niết-bàn, xả ly hỷ chỉ có diệt phiền não chướng, xả ly lợi ích chúng sinh giới xứ, xả ly Vô dư Niết- bàn. Trong Thanh-văn thừa và Bồ-tát thừa có thù thắng gì? Thù thắng sai biệt có năm thứ: Tướng thù thắng Vô phân biệt thù thắng. Chỉ có pháp của ấm mà không có phân biệt. Phi hữu phương thù thắng. Chứng biết tất cả tướng chân chánh và nương vào cõi của tất cả chúng sinh. Không trụ nhân thù thắng. Không trụ Niết-bàn. Vónh viễn thù thắng. Trong giới trụ Vô dư Niết-bàn đến vô lượng và quả thù thắng cao thượng”. Kinh này không có thừa nào mà có sự thù thắng cao thượng. Trong đó có kệ nói: Nghóa của năm thù thắng, Từ bi lấy làm thân, Lực thế gian, xuất thế, Không lâu sẽ được hiện. Hoặc các Bồ-tát thành tựu công đức của giới tăng thượng, tâm tăng thượng, tuệ tăng thượng, như vậy được tự tại đối với việc lợi ích của chúng sinh xứ, nhưng tại sao lại có các chúng sinh, mà còn có khổ trói buộc? Dạy cho chúng sinh kia biết có nghiệp chướng đối nghịch của chúng sinh, các thiện pháp được các Bồ-tát kia trợ giúp đắc thế lực, thị hiện sinh thiện khởi chướng, thị hiện khai mở hiển hiện thì thị hiện thọ lại. Khi thọ dụng thế lực thì thị hiện pháp bất thiện là nhân sự của lợi ích, khi trợ giúp thọ thế lực thì cũng có nhiều chúng sinh khác, thị hiện có chướng nhân mà thấy chúng sinh, và chúng sinh có nhiều sự trói buộc. Trong đó nói kệ: Vì hiện phiền não chướng, Mắt bệnh không thấy đúng, Chúng sinh và Bồ-tát, Không đắc nghóa thế lực. Như vậy, sự thù thắng của tuệ tăng thượng đã nói xong. Sự tịch diệt lại như thế nào? Là sự tịch diệt của Bồ-tát, không nhiễm và không trụ Niết-bàn, tướng kia xả đồng với các phiền não nhiễm ô, không xả thế gian. Trong kệ nói chuyển thân, trong đó thế gian là tha tướng tánh, là phần nhiễm của phiền não, Niết-bàn cũng là phần nhiễm của nó. Thân là hai phần của nó. Tha tướng tánh là chuyển thân trở lại đắc đối trị trong tha tánh tướng của nó, hộ trì trong chuyển phần tịnh ở phần bị nhiễm. Nhưng hồi hướng kia lược có sáu thứ: Làm lợi ích yếu kém hồi hướng lấy tín lực. Trụ vào sự huân tập nghe. Nương vào hành và bất hành có hổ thẹn và phiền não hành. Được chứng hồi nhập địa các Bồ-tát hiện chánh xứ và hiện bất chánh xứ, cho đến của địa thgứ sáu tu chuyển không hiện. Niệm tướng có chướng hiện, khởi khéo tịnh chánh ý, cho đến trong địa thứ mười viên mãn quả hồi hướng hiện vô chướng. Tất cả niệm tướng đắc tất cả tướng niệm, tự tại nhỏ yếu đã hồi hướng Tiểu thừa, vì chứng pháp vô ngã và chúng sinh, hoàn toàn quay lưng với thế gian, hoàn toàn từ bỏ thế gian. Hồi hướng lên các Bồ-tát, chứng pháp vô ngã, trở lại xứ và thấy tịch tónh diệt trừ kết sử phiền não mà không bỏ thế gian. Chư Bồ-tát trong hồi hướng nhỏ yếu có điều lo lắng gì? Là lo lắng xả bỏ quả lợi ích của chúng sinh, vì đã lìa pháp Bồ-tát, lo lắng cùng chung Tiểu thừa đồng giải thoát. Trong hồi hướng hướng thượng Bồ-tát có lợi ích gì? Tự thân và tha thân trong pháp thế gian được tự tại, tất cả đạo và tất cả chúng sinh coi như thân mình, phần nhiều là lấy mọi phương tiện hay khéo trong ba thừa Hóa độ chúng sinh, khiến cho họ trụ. Trong đây nói kệ: Chánh che mê phàm phu, Tất cả hiện bất chánh, Chư Bồ-tát thường chánh, Không mượn tự nhiên hành. Không nói mà nói biết, Phi nghóa và chánh nghóa, Thân kia có chuyển sự, Chánh thuyết mà giải thoát. Thế gian và Niết-bàn, Nếu sinh bậc hiện trí, Lúc đó thế gian kia, Liền nói là Niết-bàn. Chẳng xả, chẳng không xả, Khéo hiểu biết thế gian, Không lợi cũng không suy, Khéo hiểu biết Niết-bàn. Như vậy nói sự tịch diệt thù thắng đã xong. Vậy trí thù thắng làm sao biết được? Vì ba thứ thân Phật cho nên nói sự trí thù thắng: 1. Chân thân. 2. Báo thân. 3. Ứng thân. Trong đó chân thân của chư Phật, là pháp thân nương vào tất cả pháp mà đắc tự tại. Báo thân hoặc lấy chủng chủng pháp thân hiển minh trong chúng hội của chư Phật, làm nơi nương tựa cho thế giới thanh tịnh của Phật, và thọ pháp lạc Đại thừa. Cả thảy nương pháp thân, là từ cõi trời Đâu-suất gởi thân, sinh xuống thế gian, thọ dục, xuất gia, thân cận ngoại đạo, tu khổ hạnh thành đạo, chuyển pháp luân, thị hiện đại Niết-bàn. Trong đó nói kệ: Đắc sự tướng tự tại, Vì để nhiếp thọ thân, Phân biệt đức sâu xa, Tạo sự niệm chư Phật. Pháp thân của chư Phật Như Lai có tướng gì? Lược có năm thứ phải biết. Nhất chuyển thân tướng, là tất cả phiền não chướng trong tha tướng tánh hồi chuyển. Nhất thiết chướng đắc giải thoát. Hiển hiện phần pháp tự tại thanh tịnh nương theo chuyển, vì hồi hướng tha tướng tánh. Thể tướng pháp hiện. là có thể đầy đủ mười pháp Ba-la-mật, đắc mười tự tại. Trong đó mạng tự tại, tâm tự tại và tư dụng tự tại làm đầy đủ Đàn Ba-la-mật. Nghiệp tự tại và sinh tự tại làm đầy đủ Thi-la Ba-la-mật. Tín tự tại làm đầy đủ Sằn-đề Ba-la-mật. Nguyện tự tại làm đầy đủ Tỳ-ly-da Ba-la-mật. Chỗ nhiếp của năm thông và thần thông như ý làm đầy đủ Thiền Ba-la-mật. Trí tự tại và pháp tự tại làm đầy đủ Bát-nhã Ba-la-mật. Tướng “không hai”, sự, chẳng phải sự, là nương vào tất cả pháp phi sự, tướng không hai của pháp Hữu vi, Vô vi. Khi nghiệp phiền não Vô vi có hiện tướng là hiển hiện đắc tự tại. Riêng và chung là một tướng và không phải một tướng. Trong đó tất cả chư Phật không khác thân, vì vô lượng thân tâm thị hiện thành Phật. Trong đây thuyết kệ: Tự xưng là vô ngã, Lìa riêng không có thân, Là thuận trước của kia, Phân biệt được lập tên. Tánh sai biệt không khác, Đầy đủ và vô thuỷ, Không phân biệt một Phật, Hoặc nương lâu nhiều xứ. Tướng thường hằng nương vào tướng thanh tịnh của chân như, lực bản nguyện nắm lấy làm sự bất tận. Tướng không thể nghó bàn trong chân như thanh tịnh kia, chỉ có chỗ chứng biết bên trong, mà thế gian chưa từng có, và không phải cảnh đo lường. Tại sao lại cũng là pháp thân này? Vì quán thấy biết, ban đầu được tạm niệm sự vô phân biệt thuộc Đại thừa, và nhờ đắc trí đó, khéo tu năm loại tướng, mà tất cả thiện trong các địa tập hợp trợ đạo hạnh, thế lực chướng khó diệt bị yếu kém, do đó có thể khiến cho hoại. Như Kim Cương Tam-muội, Tam- muội đó trung gian hoại tất cả chướng. Nương vào thân chuyển kia, đắc có mấy thứ? Vì tự tại cho nên pháp thân được gọi là tự tại, lược nói có năm thứ: Thế giới thân tướng tốt không phân biệt với âm hưởng vô biên không thể lường trong quán đảnh tự tại. Chuyển sắc ấm với hạnh an lạc thượng diệu vô lượng tự tại, vì chuyển về thọ ấm. Thuyết tất cả danh thân, cú thân, văn tự thân tự tại, vì chuyển về tưởng ấm. Nguyện Ứng thân hiển thị và tiếp dẫn đồng thời nhiếp thủ tất cả pháp thiện tự tại, vì chuyển về hành ấm. Như tấm gương quán thấy việc làm với trí nhớ nghó và duy trì tự tại, vì chuyển về thức ấm. Có mấy pháp thân thuộc xứ, ý, thân? Phải biết lược có ba thứ thân: Nương vào nhiều hạnh của thân Phật. Trong đó nói kệ: Đắc năm thứ ái thân, Chư Phật đắc tự kỷ, Lợi ái, sở đắc kia, Đó là nghóa cầu đắc. Sở tác không thể chướng, Pháp vi tế nghóa thông, Đắc hoàn toàn tối ái, Thường không thấy hết Phật. Nương vào nhiều loại báo thân, để Hóa độ các Bồ-tát. Nương vào nhiều loại Ứng thân, phần nhiều dùng để Hóa độ Thanh-văn. pháp: Nhiếp pháp thân có mấy thứ? Phải biết đây là chỗ nhiếp Phật Tịnh chuyển A-lê-da thức đắc pháp thân. Báo, là chuyển sắc căn đắc báo trí. Hạnh, là chuyển hành dục đắc vô lượng trí hạnh. Tự tại, là chuyển chỗ nhiếp tự tại của nhiều thứ nghiệp, đắc thần thông trí tự tại nên đối với tất cả thế gian không có chướng ngại. Giả dụng, là tất cả sự thấy nghe hiểu biết, chuyển giả danh được vui lòng tất cả chúng sinh, vì trí nói tự tại. Khử khiển, là chuyển tất cả sự khó khăn và đắc tất cả sự khó khăn của hết thảy chúng sinh, vì trí khiến diệt trừ tự tại. Như vậy sáu thứ Phật pháp này phải biết là chỗ nhiếp pháp thân của chư Phật. Cả thảy pháp thân này của chư Phật, là tạp hay là không tạp? Vì thân, tâm và nghiệp sai biệt cho nên không tạp, nhìn thấy vô lượng xứ thành Chánh giác cho nên tạp. Như pháp thân, thì báo thân cũng vậy, tâm và nghiệp sai biệt cho nên không tạp, không phải thân sai biệt, vì chuyển vô lượng thân. Ứng thân phải biết cũng như báo thân. Pháp thân có đủ mấy thứ công đức? Phải biết xứ thiện tịnh và bốn thứ vô lượng giải thoát, các xứ biến tịnh có thoái chuyển. Biệt nguyện vô tránh, bốn vô ngại, sáu thần thông, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tất cả bốn loại tướng thanh tịnh, mười lực, bốn vô sở uý, ba pháp bất hộ, bốn niệm xứ, diệt tập không mất pháp, đại bi, mười tám pháp bất cộng và tất cả tướng đầy đủ. Trong đó nói kệ: Nhớ thương các chúng sinh, Thuận lợi và các tâm, Tâm vui đời bất lợi, Quy mạng ích sự kia. Được lìa tất cả chướng, Mâu-ni thoái thế gian, Trí sở tri khắp xứ, Quy mạng tâm giải thoát. Không ngoài các chúng khác Diệt tất cả phiền não, Không tạp diệt phiền não, Quy mạng hữu cao xứ. Tự nhiên không có chướng, Bất thoái thường nhập định, Tất cả trong các khó, Quy mạng năng thích giả. Thân và sở y xứ, Nói trí và người nói, Tâm thường không thoái chuyển, Quy mạng người khéo nói. Đã biết ngữ ngôn kia, Qua lại biết tha tâm, Trong chúng sinh không thật, Quy mạng giáo hối thiện. Khen lấy pháp trượng phu, Tất cả sinh thấy Thánh, Thấy rồi liền sinh kính. Quy mạng người phân biệt. Giữ xứ và thế lực, Ứng thân đều trong nguyện, Tam-muội trí tự tại, Quy mạng đắc bờ kia. Phương tiện quy y tịnh, Khiến lợi các chúng sinh, Lợi xuất thế Đại thừa, Quy mạng hàng phục ma. Trí diệt và xuất sự, Tạo chướng gồm diễn thuyết, Tự tha và ngoại đạo, Quy mạng không thể thoái, Các chúng khéo hay nói Xa lìa hai thứ nhiễm. Vô hộ không thể quên, Quy mạng chúng tương lai. Tu hành tất cả hạnh, Không Thánh nào chẳng biết, Tất cả thời đều biết, Quy mạng chân thật nghóa. Chúng sinh trong sở tác, Thánh thấy không trái nhau, Tác sự không tạm ngừng, Quy mạng người bất vọng. Trong một ngày một đêm, Sáu thời quán chúng sinh, Thành tựu đại từ bi, Quy mạng tâm lợi ích. Hạnh chí và chứng đắc, Trí tuệ gồm các nghiệp, Chư Thanh-văn, Duyên-giác, Quy mạng bậc tối thượng. Tam thân đại Bồ-đề, Đủ đắc tất cả tướng, Tất cả chúng khắp xứ, Quy mạng bậc quyết nghi. Pháp thân của chư Phật thành tựu các công đức như vậy. Lại có công đức của tánh nghiệp nhân quả khác thuận hành, cho nên pháp thân của chư Phật Như Lai phải biết gọi là công đức vô thượng. Trong đó nói kệ: Thành tựu các chân thật, Vượt qua tất cả địa, Đến trên tất cả chúng, Độ thoát tất cả chúng. Đủ vô lượng vô biên, Thế gian thấy công đức, Thế giới không thể thấy, Tất cả các trời, người. Sâu xa lại càng sâu xa. Sự sâu xa của pháp thân chư Phật làm sao biết được? Trong đó kệ nói: Vô sinh sinh chư Phật, Không trụ mà khéo trụ, Tất cả sự tự nhiên, Thực làm bốn thứ thực. Bất phá và vô lượng, Vô lượng đồng một nghiệp, Không thấy và thấy nghiệp, Ba thân chư Phật thành. Không có thành Chánh giác, Chẳng tất cả chẳng Phật, Niệm niệm không thể lường, Chỗ hiển sự phi sự. Không nhiễm và chí nhiễm, Gồm nhiễm có sở y, Chẳng nhiễm, chẳng nhiễm rồi, Nhập pháp thể chân chánh. Chư Phật vượt các ấm, Trụ vào trong chánh ấm, Không tức là, không khác, Khéo diệt trong xả kia. Tất cả là tạp nghiệp, Chỉ lìa nước biển lớn, Làm xong việc, lại làm, Lợi ích tha, không nhớ. Không thấy lỗi chúng sinh, Như trăng trong đồ vỡ, Khắp tất cả thế gian, Pháp kia sáng như trời. Hoặc khi thành Chánh giác, Hoặc Niết-bàn như hoả, Không thời nào không có, Chư Phật thân thường trụ. Chư Phật phi chánh pháp, Cõi người và ác đạo, Trong pháp phi phạm hạnh, Chân thật thân xứ hành. Tất cả xứ hành kia, Và vì vô xứ hành, Thấy trong tất cả thân, Tất cả căn không cảnh. Trừ diệt các phiền não, Như cấm chú, độc dược, Phiền não đến diệt tận, Nhất thiết trí của Phật. Phiền não đến đạo xứ, Chỗ tịch diệt thế gian, Cho nên đại phương tiện, Chư Phật không nghó bàn. Nhưng sự sâu xa này có mười hai thứ phải biết: Sinh thành nghiệp trụ sâu xa. Sai biệt toán số nghiệp sâu xa. Thành Chánh giác sâu xa. Yếm ly sâu xa. Diệt trừ sâu xa. Giáo Hóa sâu xa. Thời hiện sâu xa. Thành Chánh giác thị hiện Niết-bàn sâu xa. Hạnh sâu xa. Thị hiện thân mình sâu xa. Diệt phiền não sâu xa. Bất tư nghì sâu xa. Nghóa pháp thân thì khi các Bồ-tát ức niệm chư Phật thì có sở niệm của những niệm gì? Lược nói các Bồ-tát lấy bảy thứ tướng, tùy niệm chư Phật. Tất cả chư Phật là đắc, thời và pháp tự tại, tu niệm chỗ chư Phật đắc tất cả thần thông không chướng ngại đối với thế giới. Trong đó kệ nói: Trong chướng khuyết thiếu nhân, Khắp trong cõi chúng sinh, Chư Phật vô tự tại, Quyết định hai tùy thuận. Thân thường của chư Như Lai là sự giải thoát cấu uế không gián đoạn của chân như, sự ác của chư Phật Như Lai, rất nhỏ nhiệm là xa lìa trí chướng của tất cả phiền não. Tự nhiên của chư Phật, là tự nhiên làm tất cả Phật sự không ngơi nghỉ. Đại oai thế của chư Phật, là thế giới thanh tịnh của Phật thọ đại oai thế an vui. Vô nhiễm của chư Phật, là thế gian sinh mà tất cả pháp thế gian không thể làm nhiễm ô quí ngài. Đại nghóa của chư Phật Như Lai, là thị hiện thành Chánh giác và Niết-bàn, chúng sinh chưa Hóa độ khiến cho Hóa độ, chúng sinh đã Hóa độ thì khiến cho đắc giải thoát. Trong đó kệ nói: Chỉ tại nơi tâm mình, Chỗ hiển thường thanh tịnh, Không làm đạt đại pháp, Chỗ đắc của báo thân. Không gấp mà năng hành, Hiển hiện kia nhiều đời, Tất cả, tất cả Phật, Bậc trí thì phải nhớ. Thế giới thanh tịnh của chư Phật lại như thế nào? Như trong tự phần Phật vạn kệ Tu-đa-la Bồ-tát nói: “Như Lai rất quang minh, thất bảo trang nghiêm, khắp vô lượng thế giới phóng đại quang minh, trung gian vô lượng trụ xứ phân biệt thiện mà trụ, cảnh giới bất khả sai biệt vượt qua cảnh giới của ba cõi, vượt hơn bậc thiện căn xuất thế gian, chỗ sinh ở xứ, tướng, thức thiện thanh tịnh và tự tại xứ, Như Lai gia trì xứ, đại Bồ-tát trụ xứ, hành xứ của vô lượng trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát- bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân và Phi nhân, sự thấm nhuần của pháp vị lớn an lạc, hiện tất cả chúng sinh, làm tất cả sự xứ, lìa tất cả sự rắc rối của phiền não, lìa tất cả cõi ma, vượt qua tất cả trang nghiêm, Như Lai Trang Nghiêm gia trì xứ, vượt qua chỗ niệm lớn của ý chí xứ, đại Xa-ma-tha Tỳ-bà-xá-na thừa xứ, nhập đại không vô tướng vô nguyện xứ, vô lượng kiếp trang nghiêm đại liên hoa vương xứ. Trong Đại Diệu Đường trụ xứ như thế, là trong thế giới thanh tịnh của chư Phật này thuyết minh sắc, thế giới, hình trạng, thế lực và lượng. Thế lực của thí xứ, thí nhân, thí quả; các thế lực như thế lực bạn, thế lực quyến thuộc, thế lực ích lợi, thế lực tạo nghiệp, thế lực nhuận, thế lực trụ xứ, thế lực hạnh, thế lực thừa, thế lực trì, thế lực môn, thế lực môn và xuất gia, nhưng thế lực sắc trong thế giới thanh tịnh của Phật kia hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn an lạc, hoàn toàn không ác, hoàn toàn tự tại. Nhưng pháp giới của chư Phật kia trong phải biết tất cả thời khởi năm thứ tác sự: Phòng hộ các nạn sự của chúng sinh. Người thấy thì lìa các nạn tác sự của mù, điếc, câm ngọng, điên cuồng. Cứu tế phòng hộ tác sự của các ác ngoại đạo, đối với chỗ bất thiện khiến cho an trụ xứ thiện. Không có phương tiện làm sự phòng hộ cứu nạn, các ngoại đạo không có phương tiện hành giải thoát, thì huỷ hoại khiến cho trụ Phật pháp, gần gũi đồng thấy làm các sự phòng nạn. Vượt qua hạnh trợ đạo của ba cõi cho nên thừa hành các sự phòng nạn, các Bồ-tát trụ thừa khác và các bất định Thanh-văn khiến cho tu hành trụ Đại thừa. Trong năm thứ tác sự này, phải biết tất cả chư Phật đều tác sự (làm việc). Trong đó kệ nói: Do thân tạo tác sự sai biệt, Và nói các hành sự sai biệt, Vì lực sai biệt các thế gian, Không phải không có chư Như Lai. Nếu là không chung Thanh-văn, Duyên-giác đồng với pháp thân của chư Phật thành tựu công đức thế lực như vậy, thì có ý gì mà nói Nhất thừa? Trong đó có kệ nói: Vì riêng thủ Hữu dư, Và riêng trì Hữu dư, Vì người bất định nói, Lý Nhất thừa của Phật. Tin nơi pháp vô ngã, Đồng có tánh sai biệt, Trong thâm tâm ứng Hóa, Các xứ chỉ Nhất thừa. Vì nghóa gì, tất cả chư Phật Như Lai có pháp thân bình đẳng, mà nói có nhiều Phật sự? Trong đó kệ nói: Một cõi không có hai, Thường đồng có tác sự, Vì thứ hành không thuận, Giải thành nhiều Phật sự. Pháp thân chư Phật tại sao không vónh viễn Niết-bàn? Phải biết không phải không vónh viễn Niết-bàn. Trong đó nói kệ: Viễn ly tất cả chướng, Và làm việc không hết, Chư Phật diệt vónh viễn, Cũng không gọi là Diệt. Tại sao Báo thân không gọi đủ là thành tựu Chân thân? Vì có sáu thứ tướng: 1 Thị hiện sắc thân. Phân biệt hiện trong vô lượng thế giới của Phật. Tùy tín hiện. Bất định kiến chân thật khác với các thứ kiến. Hiện đồng sinh sự. Bồ-tát, Thanh-văn, chư Thiên có nhiều cái thấy lẫn lộn và A- lê-da thức chuyển thân hiện. Chỉ thành Báo thân không gọi Chân thân là có nghóa gì? Chỉ là Ứng thân, không gọi là Chân thân, có tám tướng: Chư Bồ-tát thời gian lâu xa đã đắc Tam-muội Bất động. Trong cõi trời Đâu-suất, trong loài người sinh sự không thành. Biết mạng đời trước là sổ sách tính toán ấn định công xảo luận. Thọ dục hạnh trong các sự khác thì vô tri bất thành. Trong việc thuyết pháp bất thiện và thuyết pháp thiện đã biết. Đến thân cận chỗ của ngoại đạo không thành. Khéo hiểu hạnh của ba thừa thì khổ hạnh không thành. Xả trăm ức Diêm-phù-đề thì trong một địa Diêm-phù-đề thành Chánh giác và chuyển Luân không thành. Trung gian thành Chánh giác thị hiện phương tiện, các xứ khác hiện Ứng, Hóa thân làm Phật sự, chỉ có trong trời Đâu-suất thành Chánh giác. Tại sao tất cả không ở tại Diêm-phù-đề thành Chánh giác? Phải biết trong “tri” này không có A-hàm làm chứng, lại không có nghóa khác có thể giải thích được thành, lại không có hai Phật đồng thời hiển hiện trong một thế giới, vì có lỗi trái nhau. Diêm-phù-đề kia phần nhiều Hóa độ nhiếp lấy bốn phương thế gian, và cũng như không có hai Chuyển Luân Thánh Vương đồng thời sinh. Trong đó nói kệ: Chư Phật chưa ứng Hóa, Vì đồng đến nhiều tạng, Tất cả tướng thành giác, Thấy mới có thể hành. Lợi ích sự của tất cả chúng sinh, là tu tập nhiều hạnh của đại Bồ- đề, vónh viễn nhập Niết-bàn không thành nguyện hạnh, tu rỗng rang thì không có Báo. Báo thân và Ứng thân vô thường, tại sao thân của chư Phật là thường? Vì nương vào Pháp thân thường hằng. Đối với nhân thân, Ứng thân và Báo thân thì bất định. Lại nữa, Ứng thân là thị hiện công đức như thường, thọ an lạc và như thế lực thường hằng, là thường sự phải biết. Pháp thân của chư Phật tuy thời vô lượng vô biên, nhưng nghóa xứ của chư Phật thì không có sự tạo tác giả tạm. Trong đó nói kệ: Đức thù thắng của chư Phật, Vô dị và Vô lượng, Chúng sinh do yếu kém, Nhưng đức kia không mất. Đắc pháp đã đắc kia, Tất cả đều vô nhân, Pháp có đoạn diệt kia, Không nên thuận thành tựu.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 107