<經 id="n1582">KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI (1) (QUYỂN 1 ↘9) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1582 KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI Hán dịch: Đời Lưu Tống, Tam Tạng Cầu Na Bạt Ma. <卷>QUYỂN 1 <詞>Phẩm 1: ĐỊA BỒ TÁT Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Phật trú tại khu vườn rừng Kỳ Đà – Cấp Cô Độc, nơi Tinh xá Tu-đạt-đa thuộc nước Xá-vệ, cùng với năm trăm đại Tỳ- khưu tăng hội đủ, Bồ-tát gồm một ngàn vị. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo vô lượng chư Đại Bồ-tát: Ai có thể ở trong đời ác về sau nầy thọ trì ủng hộ đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng? Ai có thể ủng hộ giáo pháp? Ai có thể giáo hóa tất cả chúng sinh? Lúc ấy, Bồ-tát Di Lặc liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, gối phải chấm đất, quỳ dài chấp tay bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con có thể ở trong đời ác sau nầy xin thọ trì ủng hộ đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, có thể hộ trì chánh pháp, có thể giáo hóa chúng sinh. Bồ-tát Sư Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con cũng có thể dùng các phương tiện để nhiếp phục, gìn giữ chúng sinh. Bồ-tát Kim Cang thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh sẽ bị đọa vào ba đường ác, con có thể ngăn lại khiến không bị đọa lạc. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh mong cầu điều gì, con đều khiến tất cả được đầy đủ. Bồ-tát Trí Tràng thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể ban trí tuệ lớn cho chúng sinh. Bồ-tát Pháp Tràng thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể đem pháp ban khắp cho chúng sinh. Bồ-tát Nhật Quang thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể ban mọi sự an lạc cho chúng sinh. Bồ-tát Nguyệt Quang thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể giáo hóa tất cả chúng sinh khiến tu tập phước đức. Bồ-tát Thiện Hộ thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể giáo hóa tất cả chúng sinh khiến họ không phóng dật. Bồ-tát Vô Tận Ý thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể giáo hóa tất cả chúng sinh khiến được tri kiến vô tận. Bồ-tát Nguyệt Tử thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể ban sự an lạc vô thượng cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát Thiện Nguyệt thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể ban nhân an lạc cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát Quan Thế Âm thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể cứu hộ cho những chúng sinh sợ hãi. Bồ-tát Đắc Đại Thế thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến cho những người chưa độ đều được độ. Bồ-tát Chúng Thiện thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến người chưa điều phục được điều phục. Bồ-tát Thiện Ý thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh đọa trong đường súc sinh, con có thể giáo hóa khiến họ được điều phục. Bồ-tát Bất Lạc thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể ban trí tuệ cho người ngu. căn. loạn. Bồ-tát Quang Tụ thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến cho kẻ hạ căn có được thượng Bồ-tát Bất Đế thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể chỉ bày chánh đạo cho kẻ cuồng Bồ-tát Lạc Kiến thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể ban vô lượng an lạc cho vô lượng chúng sinh. Bồ-tát Thích Tràng thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến chúng sinh thọ khổ thường nhớ việc khổ. Bồ-tát Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến chúng sinh trong đường ngạ quỷ xa lìa sự khổ về đói khát. Bồ-tát Thánh Quang thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến người chưa điều phục được điều phục. Bồ-tát Duy Ma Cật thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể phá tan tâm nghi ngờ của chúng sinh. Bồ-tát Quang Minh thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể đóng kín cửa ba đường ác. Bồ-tát Kim Cang Công Đức thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến các chúng sinh hiểu biết sai khác thành một sự hiểu biết. Bồ-tát Vô Lượng Hạnh thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể ban đạo vô lậu cho chúng sinh. Bồ-tát Vô Sở Úy thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể phá tan những sự sợ hãi. Bồ-tát Bảo Công Đức thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể hiển bày tạng báu công đức cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát Thiện Ý thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể dùng lời vi diệu hòa nhã để điều phục chúng sinh. Bồ-tát Tịnh Quang thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể đem sự thương yêu nhằm điều phục các chúng sinh. Bồ-tát Bảo Hiền thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến tất cả chúng sinh nhớ đến đời quá khứ. Bồ-tát Cao Quý Đức Quang thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến chúng sinh tinh tấn siêng tu. Bồ-tát Thiện Công Đức thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến những chúng sinh khổ não đều được giải thoát. Bồ-tát Bảo Thủ thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể ban các thứ báu cho vô lượng chúng sinh. sinh. Bồ-tát Ý Châu thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể xua tan sự bần cùng của chúng sinh. Bồ-tát Phá Kiết thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể diệt trừ mọi phiền não của chúng Bồ-tát Kim Quang Minh thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể chỉ bày đạo chân thật cho chúng sinh tà vạy. Bồ-tát Công Đức Sắc thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến chúng sinh ở các thừa đều trụ vào nhất thừa. Bồ-tát Pháp Ý thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến chúng sinh được pháp nhãn. Bồ-tát Kim Cang Tử thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể phá trừ mọi nghiệp ác của chúng sinh. Bồ-tát Pháp Tăng thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể nhiếp phục, giữ gìn chúng sinh đúng như pháp. Bồ-tát Vô Danh thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến tất cả chúng sinh xa lìa ba độc. sinh. Bồ-tát Nguyệt Thắng thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể chỉ bày phương tiện thiện cho chúng Bồ-tát Sư Tử Ý thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể đem pháp thí cho chúng sinh. Bồ-tát Sư Tử Hống thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể phá tan lưới nghi của chúng sinh. Bồ-tát Hương Tượng Vương thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thể ở trong đời ác về sau nầy chỉ bày cho chúng sinh tỉnh mộng khiến trừ hết phiền não. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất suy nghó: “Kỳ thay! Lạ thay! Việc của các Bồ-tát thật không thể nghó bàn”, và bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như có Bồ-tát siêng năng tinh tấn tu tập đầy đủ phương tiện có thể tạo vô số lợi ích cho chúng sinh. Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát Ma-ha-tát như vậy, chúng sinh làm sao từ vị ấy để xin đầu, mắt, tủy, não, máu, thịt, cho đến các thứ cần dùng. Bạch Thế Tôn! Con nay biết chắc chắn người như vậy tức là Bồ- tát Ma-ha-tát. Phật dạy: Lành thay! Lành thay! Nầy Tôn giả Xá-lợi-phất! Thật như lời ông nói, chỉ có các Bồ-tát mới biết Bồ-tát, thật chẳng phải cảnh giới của hàng Thanh văn, Duyên giác đạt đến. Nầy Xá-lợi-phất! Bồ-tát Ma-ha- tát tuy hiện các thứ thần lực của Phật mà trọn không xả bỏ tâm Bồ-tát. Nầy Xá-lợi-phất! Nếu có trưởng giả sinh tâm kiêu mạn, Bồ-tát liền hiện tướng trưởng giả để phá trừ tâm kiêu mạn kia. Cho đến Na- la-diên và người đoan chính có tâm kiêu mạn, Bồ-tát thảy đều hiện các thân ấy để phá bỏ sự kiêu mạn. Nếu chứng đắc Thánh pháp thì dùng Đại thừa để chỉ bày. Vì sao? Vì lìa một pháp giải thoát ấy lại không có giải thoát khác, nên gọi là Như Lai. Nầy Xá-lợi-phất! Bồ-tát tại gia tu tập hai thứ thí: một là pháp thí, hai là tài thí. Bồ-tát xuất gia tu tập bốn thứ thí: một là bút thí, hai là mực thí, ba là kinh thí, bốn là thuyết pháp thí. Bồ-tát xuất gia thành tựu đầy đủ bốn thứ thí nầy rồi, có thể điều phục tâm, phá trừ kiêu mạn và tu tập nhẫn nhục. Nầy Xá-lợi-phất! Bồ-tát xuất gia có đủ nhẫn nhục thì có thể thọ trì giới cấm của Bồ-tát, lại đầy đủ ba thứ bố thí mới có thể thọ trì giới cấm của Bồ-tát: một là thí, hai là đại thí, ba là vô thượng thí. Thí tức là đối với vật lớn bằng bốn thiên hạ còn không sẻn tiếc huống hồ là vật nhỏ. Đại thí là có thể xả bỏ vợ con. Vô thượng thí là xả bỏ đầu, mắt, tủy, não, xương thịt, máu mủ. Bồ-tát đầy đủ ba pháp thí như vậy mới đầy đủ nhẫn nhục, có đủ nhẫn nhục rồi mới có thể thọ trì giới cấm của Bồ-tát. Nầy Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát muốn thọ giới Bồ-tát, trước hết phải điều phục các căn, đối với chốn sinh tham dục không sinh tâm tham dục, ở chỗ sinh sân hận không sinh tâm sân hận ở chỗ sinh ngu si không sinh tâm ngu si, ở chỗ sinh sợ sệt không sinh tâm sợ sệt. Nếu tự biết đầy đủ bốn việc như vậy thì được chư Phật ở mười phương biết đến; người nầy cũng có thể nhận biết được chư Phật ở mười phương. Nầy Xá-lợi-phất! Nếu biết không đủ bốn việc như vậy, thì lúc thọ giới Bồ-tát, người ấy không đắc giới Bồ-tát, cũng là lừa dối chư Phật và chư Bồ-tát hiện tại ở mười phương. Nầy Xá-lợi-phất! Bồ-tát nầy có hai thứ: một là từ nhân duyên sân hận, hai là từ nhân duyên ngu si. Nầy Xá-lợi-phất! Vì sân hận có thể tạo ra nhân duyên của tám địa ngục lớn, do ngu si có thể làm nhân duyên cho các phiền não xấu ác. Vì hai nhân duyên sân hận và ngu si nên có thể hủy hoại giới Bồ-tát. Nầy Xá-lợi-phất! Nếu người muốn thọ trì giới Bồ-tát, trước hết nên xa lìa bốn việc là dục, sân, si và sợ hãi. Trong sáu tháng, ngày đêm một mình ở chỗ vắng lặng sám hối các tội, và xưng: Con tên là… quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, quy y chư Phật và Bồ-tát Tăng hiện tại trong mười phương, quy y Đức Thích Ca Mâu-ni Như Lai, Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng, Nam mô thập phương Phật và Bồ- tát Tăng, Nam mô Thích Ca Mâu-ni Phật, Nam mô Kim Cang Vô Hoại Thân, Nam mô Bảo Quang, Nam mô Vô Lượng Tự Tại Vương, Nam mô Vô Thượng Lâm Vương, Nam mô Vô Thượng Hoan Hỷ, Nam mô Bảo Hỏa, Nam mô Bảo Nguyệt Quang, Nam mô Thanh Tịnh, Nam mô Thủ Cần Tinh Tấn, Nam mô Phạm Đức, Nam mô Thiện Công Đức, Nam mô Chiên Đàn Công Đức, Nam mô Quang Công Đức, Nam mô A Thúc Dà Công Đức, Nam mô Na La Diên Lực, Nam mô Hoa Công Đức, Nam mô Liên Hoa, Nam mô Tài Công Đức, Nam mô Niệm Công Đức, Nam mô Thiện Danh, Nam mô Thích Chủng Vương, Nam mô Vô Thắng, Nam mô Vô Biên Thân Quang, Nam mô Vô Biên Thân, Nam mô Vô Động, Nam mô Đại Sơn Vương. Như vậy, vô lượng chư Phật, Bồ-tát trong thế gian thường trú tại thế, tuyên thuyết pháp giáo hóa, xin nguyện thương xót lưu tâm thấy, nghó. Như con đã tạo các tội ác bất thiện trong vô lượng đời quá khứ và hiện tại, hoặc tự làm, hoặc thấy người khác làm sinh tâm tùy hỷù, hoặc lấy vật của Phật Pháp Tăng, vật của Tăng bốn phương, vật của Tăng hiện tại, hoặc tự lấy hoặc thấy người khác lấy sinh tâm tùy hỷ, hoặc tự tạo tội ngũ nghịch, hoặc thấy người khác tạo sinh tâm tùy hỷ. Do nhân duyên của nghiệp bất thiện nầy mà sẽ bị đọa vào đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hoặc làm người sinh nơi biên địa, hoặc làm thân trời Trường Thọ, hoặc làm người các căn không đủ, gần gũi tà kiến, không gặp Phật xuất thế. Các tội như vậy, ngày nay thành tâm cầu xin sám hối. Như trước Phật Thích Ca hiện tại, Đức Như Lai Thế Tôn với tri kiến chân thật, trí tuệ vô ngại, tịnh nhãn vô chướng, thường vì tất cả chúng sinh mà chứng biết, xin nguyện quán xét tâm thành sám hối của con, từ nay trở đi con không dám tạo tác. Lại nữa, xin chư Phật, Bồ-tát ở mười phương chú tâm lắng nghe: như trong vô lượng đời quá khứ và hiện tại, con có làm việc bố thí cho đến ban cho hàng súc sinh một nắm cơm, bó cỏ, hoặc con trì giới cho đến nhất niệm, các công đức có được như vậy, đều xin hồi hướng nơi Bồ-đề vô thượng, như chư Phật, chư Bồ-tát trong đời quá khứ đã hồi hướng, như chư Phật chư Bồ-tát trong đời vị lai phát nguyện hồi hướng, như chư Phật chư Bồ-tát hiện tại trong mười phương phát nguyện hồi hướng. Nầy Xá-lợi-phất! Bồ-tát chí tâm lễ bái cung kính chư Phật như vậy trong sáu tháng rồi, hoặc đi hoặc đứng hoặc làm hoặc ngồi, thì chư Phật ở mười phương thị hiện trước mặt, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tuy thị hiện tướng tốt trước Bồ-tát như vậy, nhưng ở nơi pháp giới ban đầu không có động chuyển. Vì sao? Vì Đức Như Lai biết rõ chân thật về tâm ấy, chư Phật ở mười phương biết chắc chắn người nầy có thể thọ trì giới cấm của Bồ-tát, và tu tập từ bi có thể phá trừ các ma, chuyển bánh xe chánh pháp, có thể điều phục chúng sinh, tuyên thuyết giáo pháp. Do nghóa này, chư Phật ở mười phương vì Bồ-tát nầy mà thị hiện thân. Nầy Tôn giả Xá-lợi-phất! Như sư tử gầm rống, loài chồn cáo có thể làm được không? Thưa Thế Tôn, không được. Nầy Xá-lợi-phất! Nếu có người không ở chỗ vô lượng Phật trong vô lượng đời quá khứ gieo trồng cội đức, thì có thể thọ trì giới Bồ-tát được không? Thưa Thế Tôn, không được. Nầy Xá-lợi-phất! Như những vật mà voi chúa quý mang vác, loài lừa có thể làm được không? Thưa Thế Tôn, không được. Nầy Xá-lợi-phất! Như ánh sáng của mặt trời mặt trăng, ánh lửa đom đóm có thể sánh kịp chăng? Thưa Thế Tôn, không được. Nầy Xá-lợi-phất! Như chim Cánh vàng bay, loài quạ có thể theo kịp không? Thưa Thế Tôn, không được. Nầy Xá-lợi-phất! Nếu có người ở nơi vô lượng chư Phật trong vô lượng đời gieo trồng cội đức thì người nầy mới có thể thọ giới Bồ-tát, thấy rõ ràng chư Phật ở mười phương. Nầy Xá-lợi-phất! Lúc thọ giới Bồ-tát rồi, nếu có nhân duyên của khách trần phiền não làm cho phạm pháp đáng sám hối, thì nên hướng đến chư Phật sám hối, Bồ-tát trọn đời không được tạo tội ngũ nghịch. Nếu lòng tham chưa dứt cho đến sinh con, thì nên đối trước Phật hiện tại trong mười phương, ngày đêm chí thành cầu xin sám hối đủ trong hai năm. Nếu vì tâm tham mà lấy vật của Phật Pháp Tăng thì ở trước Phật sám hối trong hai năm. Nầy Xá-lợi-phất! Nếu Bồ-tát vì nhân duyên sân hận mà hủy phá giới cấm thì không có điều ấy. Do nhân duyên giận dữ phá hủy giới cấm mà được sám hối cũng không có điều ấy. Bấy giờ, vào sáng sớm, Tôn giả Ưu-ba-ly ra khỏi thiền định, liền đến chỗ Thế Tôn làm lễ, đi nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một bên, bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như trong Giới Kinh nói: “Nếu đệ tử của Như Lai có lòng tin, thì đối với giới đã thọ dù mất mạng cũng không hủy phạm”. Bạch Thế Tôn! Hiện tại nếu Ngài nhập Niết-bàn, con làm sao để phân biệt hiểu biết giới cấm của Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát? Bạch Thế Tôn! Ngài nói con là Tỳ-khưu trì luật bậc nhất, nay con không biết phương tiện của Tỳ ni sẽ nói như thế nào? Hiện nay có nhiều đại Tỳ-khưu Tăng cùng chư Bồ-tát Tăng muốn biết, xin nguyện Như Lai rộng nói đầy đủ. Phật dạy: Lành thay! Lành thay! Nầy Tôn giả Ưu-ba-ly! Hãy chí tâm lắng nghe và khéo suy nghó, nay Ta sẽ vì ông mà giảng nói. Nầy Ưu-ba-ly! Nhân duyên của giới Thanh văn khác, nhân duyên của giới Bồ-tát khác, tâm của giới Thanh văn khác, tâm của giới Bồ- tát khác, trang nghiêm của giới Thanh văn khác, trang nghiêm của giới Bồ-tát khác, phương tiện của giới Thanh văn khác, phương tiện của giới Bồ-tát khác. Nầy Ưu-ba-ly! Giới tịnh của Thanh văn chẳng phải là giới tịnh của Bồ-tát, giới tịnh của Bồ-tát chẳng phải là giới tịnh của Thanh văn. Hàng Thanh văn cho đến một niệm không cầu về Hữu gọi là Thanh văn giới tịnh. Bồ-tát nếu không cầu về Hữu thì gọi là đại phá giới, gọi là giới bất tịnh. Thanh văn cầu về Hữu thì gọi là phá giới, là giới bất tịnh. Nầy Ưu-ba-ly! Bồ-tát Ma-ha-tát trong vô lượng kiếp thường ở nơi Hữu, tâm không sinh hối hận thì gọi là giới tịnh của Bồ-tát, chẳng phải là giới tịnh của Thanh văn. Nầy Ưu-ba-ly! Ông nên thuyết giảng rõ: Giới của Thanh văn gấp, giới của Bồ-tát chậm, giới của Thanh văn bít, giới của Bồ-tát mở, trong giới của Thanh văn nên nói nhân duyên, trong giới của Bồ-tát thì không nên nói. Nầy Ưu-ba-ly! Bồ-tát tùy theo tâm của chúng sinh, chẳng phải là Thanh văn, nên Bồ-tát đối với giới thì chậm mà Thanh văn giữ gìn gấp. Nầy Ưu-ba-ly! Nếu Bồ-tát vào sáng sớm phạm giới, nên niệm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, tự biết tội lỗi, ngày đêm ba thời đều như vậy nên gọi là giới Bồ-tát. Nầy Ưu-ba-ly! Nếu Bồ-tát luôn luôn phạm thì không gọi là phá giới, nếu Thanh văn luôn luôn phạm thì gọi là phá giới, là mất giới, không được đạo quả Sa-môn. Vì sao? Hàng Thanh văn là người phá trừ phiền não, nên phải siêng năng tinh tấn, không được hủy phạm. Nầy Ưu-ba-ly! Bồ-tát nếu ở trong hằng hà sa kiếp thọ năm thứ dục lạc, cũng không gọi là Bồ-tát mất giới cấm, không gọi là phá giới, không gọi là mất giới, không nói là không đắc quả Bồ-đề. Nầy Ưu-ba-ly! Bồ-tát không thể ở trong một đời mà diệt hết các phiền não, phải dùng phương tiện dần dần khiến sạch hết. Nầy Ưu-ba-ly! Đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng cần phải có lực đại trang nghiêm không gì hơn, sau đó mới chứng được, chẳng phải một đời mà đạt được, nên Như Lai không nói Bồ-tát ở trong sinh tử sinh tâm hối hận, cũng không tuyên thuyết vónh viễn đoạn trừ tham ái mà tuyên thuyết pháp hỷ, pháp thâm diệu, pháp không nghi và pháp không. Nghe pháp nầy rồi Bồ-tát vui ở trong sinh tử. Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Phạm có ba thứ: một là tham, hai là sân, ba là si, Bồ-tát phạm điều nào thì gọi là nặng, điều nào thì gọi là nhẹ? Phật dạy: Nầy Ưu-ba-ly! Nếu các Bồ-tát phạm lỗi tham như hằng hà sa, Bồ-tát như vậy không gọi là hủy giới. Nếu phạm một nhân duyên sân thì gọi là hủy giới, là phá giới. Vì sao? Nầy Ưu-ba-ly! Vì tâm sân hận hay xả bỏ chúng sinh, tâm tham ái có thể cứu giúp chúng sinh, nếu ái chúng sinh thì không gọi là phiền não, sân hận xả bỏ chúng sinh thì gọi là phiền não nặng. Nầy Ưu-ba-ly! Cho nên trong kinh Như Lai có dạy, tham kết khó đoạn không gọi là nặng, sân hận dễ đoạn gọi đó là nặng. Nầy Ưu-ba-ly! Khó đoạn chẳng phải là nặng, Bồ-tát thường có điều nặng dễ đoạn, cho đến trong mộng hãy còn không làm. Nầy Ưu-ba-ly! Bồ-tát ngu si không có phương tiên sợ hãi phạm ái, Bồ-tát có trí khéo biết phương tiện, sợ hãi phạm sân, không sợ phạm ái. Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tỳ ni gọi là điều phục, tánh của tất cả các pháp rốt ráo là điều phục, tại sao Như Lai tuyên thuyết Tỳ ni? Phật dạy: Nầy Văn-thù-sư-lợi! Nếu người phàm phu có thể biết các pháp rốt ráo là điều phục, thì Như Lai trọn không tuyên thuyết Tỳ ni. Do vì hàng phàm phu không biết không hiểu, vì thế Như Lai mới giảng nói về Tỳ ni. Nầy Văn-thù-sư-lợi! Ông nay tại sao không thuyết giảng Tỳ ni, Tôn giả Ưu-ba-ly muốn được nghe. Lúc nầy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Tôn giả Ưu-ba-ly: Nầy Tôn giả Ưu-ba-ly! Tất cả các pháp rốt ráo là điều phục, tánh của tất cả các pháp không thể nhiễm ô, tánh của tất cả pháp là không điên đảo, tánh của tất cả pháp là thanh tịnh, tánh của tất cả pháp là không thể tuyên thuyết, tất cả các pháp không có thủ chấp, tất cả các pháp không đi không đến, tất cả các pháp không thể nghó bàn, tất cả các pháp không có chướng ngại, tất cả các pháp vốn không có tánh, tất cả các pháp không hành động, tất cả các pháp không xuất không diệt, tất cả các pháp không có ba đời, tất cả các pháp không có lưới nghi, các pháp như vậy Phật thảy đều biết hết. Tôn giả Ưu-ba-ly thưa: Bạch Thế Tôn! Như lời Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói chẳng phải là thuyết giảng về “Liễu nghóa”. Phật dạy: Nầy Tôn giả Ưu-ba-ly! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thường ưa thuyết giảng về giải thoát như vậy. Tôn giả Ưu-ba-ly thưa: Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là kiêu mạn? Phật dạy: Nếu Bồ-tát nói: Tôi có tâm Bồ-đề, tôi là Bồ-tát thực hành sáu pháp Ba-la-mật, tôi là Bát nhã tu tạo các hạnh, Bồ-đề hành sâu, Thanh văn hành cạn, Bồ-đề hành tịnh, Thanh văn hành bất tịnh, Bồ-đề hành rốt ráo, Thanh văn hành không rốt ráo, nếu có phân biệt là pháp Thanh văn, là pháp Duyên giác, là pháp Bồ-tát, là pháp chư Phật, đây là tịnh, kia là bất tịnh, đây là đạo, kia chẳng phải là đạo, như vậy gọi là Bồ-tát kiêu mạn. <詞>Phẩm 2: TÁNH HẠNH THIỆN CỦA ĐỊA BỒ TÁT Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập Thánh hạnh, hành ở quả thiện, đạo Bồ-đề gồm mười pháp, có thể thâu giữ tất cả pháp thiện. Những gì là mười pháp? Một là chi, hai là dực (giúp đỡ, che chở), ba là tâm tịnh, bốn là hành, năm là hữu, sáu là nhân, bảy là khí, tám là địa, chín là phương tiện, mười là trụ. Thế nào gọi là chi? Nghóa là tánh của Bồ-tát. Tánh của Bồ-tát tức là mới phát tâm và ba mươi bảy phẩm. Vì sao? Bồ-tát Ma-ha-tát phát tâm Bồ-đề, chính là căn bản của tất cả pháp thiện, nên gọi là chi. Nhân nơi phát tâm nầy mà đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nên gọi là nhân. Nhân nơi ban đầu phát tâm quyết định ắt được đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nên gọi là tánh. Bồ-tát Ma-ha-tát nhân nơi ban đầu phát tâm nên được tu hạnh bố thí Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật, Trí tuệ Ba-la-mật, do thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nên có thể tu hạnh trí tuệ trang nghiêm, phước đức trang nghiêm, tu ba mươi bảy pháp trợ đạo, nên Bồ-tát phát tâm Bồ-đề gọi đó là chi. Bồ-tát Ma-ha-tát tùy nơi phát tâm mà thực hành đầy đủ, đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng nên gọi đó là chi. Bồ-tát Ma-ha-tát nếu không có tánh Bồ-tát thì tuy phát tâm siêng tu tinh tấn, trọn không thể chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Cho nên cần biết, chẳng phải nhân nơi phát tâm, siêng tu tinh tấn mà phải có tánh Bồ-tát, vì nghóa nầy nên tánh Bồ-tát gọi là chi. Bồ-tát tuy có tánh Bồ-tát, mà không phát tâm siêng tu tinh tấn, thì không thể nhanh chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Đã có tánh Bồ-tát, lại phải phát tâm Bồ-đề siêng tu tinh tấn, mới có thể nhanh chóng chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Vì nghóa nầy nên tánh Bồ-tát gọi là chi. Lại nữa, chi gọi là nhân, cũng gọi là bậc thang, cũng gọi là tăng trưởng, cũng gọi là trang nghiêm, cũng gọi là nương tựa, cũng gọi là thứ lớp, cũng gọi là tiến tới, cũng gọi là phòng nhà. Vì nghóa nầy nên tánh gọi là chi. Thế nào gọi là tánh? Tánh có hai loại: một là bản tánh, hai là khách tánh. Nói bản tánh, tức là năm ấm, mười tám giới, sáu nhập, lần lượt tương tục vô thỉ vô chung, pháp tánh tự như vậy, đó gọi là bản tánh. Nói khách tánh, nghóa là chỗ tu tập tất cả pháp thiện, được tánh Bồ-tát, đó gọi là khách tánh. Trong kinh nầy lấy hai thứ ấy gọi là tánh. Hai thứ tánh nầy gọi là chi. Lại nữa, tánh cũng gọi là chủng tử, cũng gọi là giới, cũng gọi là tánh. Lại có hai loại: một là tế, hai là thô. Nói tế, tức là không có nhân mà được, không do nhân mà được quả nên gọi là tế. Nói thô, tức là có nhân mà được, từ nhân được quả nên gọi là thô. Bồ-tát Ma-ha-tát đầy đủ hai tánh như vậy, thì hơn tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác, huống hồ là các ngoại đạo. Vì nghóa nầy, nên Bồ-tát Ma-ha-tát được gọi là thắng. Tại sao gọi là thắng? Vì thanh tịnh. Thanh tịnh có hai: một là tịnh trí chướng, hai là tịnh kết chướng. Hàng Thanh văn, Duyên giác tịnh kết chướng nên gọi là tịnh, chẳng phải là tịnh trí chướng. Bồ-tát Ma-ha-tát đầy đủ hai thứ tịnh, vì nghóa nầy nên tánh Bồ-tát được gọi là thắng. Bồ-tát Ma-ha-tát lại có bốn việc hơn cả hàng Thanh văn, Phật- bích-chi: Một là căn thù thắng. Hai là hạnh thù thắng. Ba là phương tiện thù thắng. Bốn là đắc quả thù thắng. Căn thù thắng nghóa là Bồ-tát Ma-ha-tát bản tánh lanh lợi, tánh của Duyên giác trung bình, còn tánh của Thanh văn chậm lụt, nên gọi là căn thù thắng. Hạnh thù thắng nghóa là Thanh văn, Duyên giác vì tự độ nên tu tập pháp thiện. Bồ-tát không vì mình mà chỉ vì chúng sinh nên tu tập pháp thiện, ban các sự vui, từ bi thương xót tất cả, nên gọi là hạnh thù thắng. Phương tiện thù thắng, nghóa là Thanh văn, Duyên giác chỉ có thể hiểu biết về ấm, nhập, giới, không thể hiểu biết mười hai nhân duyên và xứ, chẳng phải xứ. Bồ-tát với phương tiện tức có thể khéo biết tất cả các pháp, nên gọi là phương tiện thù thắng. Quả thù thắng, nghóa là Thanh văn tự chứng đắc Bồ-đề Thanh văn, Duyên giác tự chứng đắc Bồ-đề Duyên giác, Bồ-tát tự chứng đắc Bồ-đề Bồ-tát, nên gọi là quả thù thắng. Tánh Bồ-tát có sáu thứ ấn, do ấn nầy nên tất cả chúng sinh có thể nhận biết đây là Bồ-tát. Những gì là sáu? Đó là Bố thí Ba-la-mật, cho đến Bát nhã Ba-la-mật. Do nghóa nào Bố thí Ba-la-mật được gọi là ấn của tánh Bồ-tát? Do bản tánh của Bồ-tát Ma-ha-tát có thể đạt được tâm xả như vậy. Đối với các tài sản vật dụng hoặc nhiều hoặc ít tâm không tham đắm, lúc muốn thí thì thí, và khi bố thí xong đều sinh hoan hỷ, tùy theo vật được thí, hoặc nhiều hoặc ít tâm không hối tiếc. Nếu khi bố thí ít cũng không xấu hổ, hoặc không có tiền của thì thường khen ngợi sự bố thí. Thấy người keo kiệt thì có thể phá bỏ tâm ấy. Thấy người thực hành bố thí thì tâm sinh vui mừng hớn hở như gặp cha mẹ. Thấy người đến xin thâm tâm tự hoan hỷ. Nếu không có tài sản thì nên dùng thân nghiệp cung cấp cho các bậc trưởng lão, cha mẹ, các sư. Nên dùng lời vui, lời nhẹ nhàng, lời pháp, lời chân chánh, để phá trừ lời nói dối, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói lời vô nghóa của chúng sinh. Nếu có người hỏi còn không nói lỗi tốt, xấu của người khác, huống hồ là không hỏi mà tự nói sao? Nếu có chúng sinh sợ hãi vì nạn giặc cướp, lũ lụt, hỏa hoạn, thì nên cứu giúp. Luôn biết ân, nhớ ân, thọ ân, có thể báo đáp. Nhận sự ký thác của người khác thì không để họ nghi ngờ, nếu là vật báu tâm không tham đắm, đối với vật của mình tâm không sẻn tiếc, thức ăn áo mặc luôn bố thí cho người, có thể điều phục tâm dục, tâm tham rượu, tâm hý luận, ưa tu tập hổ thẹn, tuy được báu lớn mà không sinh vui mừng tham đắm. Đây gọi là ấn của tánh Bồ-tát hành Bố thí Ba-la-mật. Sao gọi là ấn của tánh Bồ Tát thực hành Trì giới Ba-la-mật? Bồ- tát Ma-ha-tát, với tánh của ba nghiệp thân khẩu ý tự thanh tịnh nhu hòa, đối với chúng sinh không khởi tâm ác độc, tâm sân hận. Nếu do nơi khách trần là các phiền não mà tạo ra các tội lỗi, thì khi làm rồi tâm hối hận, sinh xấu hổ, phát lồ sám hối. Đối với chúng sinh khởi tâm thương xót xem như con mình, trọn không dùng tay hoặc gậy hoặc đá đánh đập, tâm thường tìm cầu thiện tri thức chân chánh, chí vui cúng dường các bậc cha mẹ, sư trưởng, trưởng lão, phá bỏ kiêu mạn, ý trước là hỏi thăm. Sau biết ân và nhớ ân. Nếu có người đến xin thì dùng lời nhẹ nhàng an ủi, không dùng huyễn thuật lừa dối chúng sinh, trọn đời không dùng phi pháp để tự nuôi mạng, thường ưa tu tập tất cả công đức, dạy các chúng sinh rộng tu phước nghiệp. Thấy chúng sinh lãnh thọ các khổ, hoặc dứt mạng căn, hoặc bị đánh đập, bị tù tội, đói khát, lạnh nóng, lúc ấy Bồ-tát quán xét chúng sinh thọ khổ cũng như mình không khác. Hộ trì giới luật của Phật cho đến nhỏ nhặt hãy còn không hủy phạm, huống hồ là các tội nặng, có thể dùng mười điều thiện giáo hóa tất cả. Không ưa thấy nghe chúng sinh xấu ác tranh cãi, mắng nhiếc. Ba nghiệp hiện có thường vì chúng sinh, trọn không vì mình. Nếu có chúng sinh đầy đủ giới, nhẫn, tuệ, thì vui cùng đồng hành, đạt tâm nhu hòa, dịu dàng, không có tâm hại, không có tâm bất nhẫn, tâm thường kính trọng các giới hiện có, không lừa dối chúng sinh, không nói hai lưỡi và lời vô nghóa. Tuy không có người hỏi mà hãy còn khen ngợi điều thiện của người, huống hồ là có người hỏi mà không nói lời tôn trọng chân thật sao? Đây gọi là ấn của tánh Bồ-tát hành Trì giới Ba-la-mật. Thế nào gọi là ấn của tánh Bồ-tát thực hành Nhẫn nhục Ba-la- mật? Bồ-tát Ma-ha-tát quán xét các chúng sinh, nếu có người đến đánh đập mình thì không nên tăng lòng xấu ác đáp trả. Vì sao? Vì thân ta chẳng phải là thân. Gọi là thân đó là chân thật. Thân chân thật thì không thể đánh đập. Còn thân nầy của ta là thân hòa hợp, thân hòa hợp gọi là bất tịnh. Ở trong sự hòa hợp thì chỉ phần ít thấy đánh, phần nhiều thì không tổn hại. Phần nhiều đã không tổn hại tại sao không vui? Đối với sự giận dữ, phần ít có giận, phần nhiều không giận. Phần nhiều không giận vì sao gọi là giận? Như thân hòa hợp đánh thân thọ nhận hòa hợp, thì ai đánh, ai thọ. Ví như hai vật chạm nhau phát ra tiếng, nếu ta sân thì chính là tự sân. Vì sao? Vì do nghiệp duyên nên có thân nầy, vì thân nầy nên thọ sự khổ sở ấy. Ví như có đích thì ắt mũi tên sẽ cắm vào. Nếu ta tăng trưởng tâm sân nầy, thì không thể quán xét các pháp thiện ác. Nếu không thể quán xét các pháp thiện, ác, thì nhất định sẽ bị đọa trong ba đường ác. Vì nghóa nầy cho nên khi bị đánh, bị mắng, không nên sinh tâm sân hận đối với người khác. Quán xét như vậy, đó gọi là ấn của tánh Bồ tát thực hành Nhẫn nhục Ba-la-mật. Lại nữa, nếu bị đánh hoặc mắng, nên nghó tưởng người ấy như con, tâm không oán hận. Đây gọi là ấn của tánh Bồ-tát hành Nhẫn nhục Ba-la-mật. Thế nào gọi là ấn của tánh Bồ tát thực hành Tinh tấn Ba-la-mật? Bồ-tát Ma-ha-tát siêng tu tinh tấn, sáng dậy tối nằm, không thích ngủ nghỉ, trọn không quán xét nóng lạnh đói khát mà sợ hãi hay hoan hỷ. Phàm làm các việc thế gian hoặc xuất thế gian, cần làm rốt ráo không nửa chừng bỏ phế, việc nếu chưa xong, trọn không hối hận giữa chừng. Tuy được người khác cung kính cúng dường, nhưng đối với sự tu của mình trọn không ngừng nghỉ, đối với tự thân không khởi tâm khinh thường, nói không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Dù thấy việc khó làm ở thế gian nhưng trọn không thối lui. Đó gọi ấn của tánh Bồ-tát hành Tinh tấn Ba-la-mật. Thế nào gọi là nơi ấn của tánh Bồ-tát thực hành Thiền Ba-la-mật? Bồ-tát Ma-ha-tát chí tâm ưa quán xét thật nghóa của các pháp, ưa ở chỗ vắng lặng, chỗ không người, ưa xa lìa người ác, tăng trưởng pháp thiện, thấy người thích vắng lặng thì hoan hỷ cung kính, tuy có phiền não mà bản tánh nhẹ nhỏ, có được tâm thiện, trọn không bị các giác quán ác phá hoại. Tu tập tâm từ bi, xem oán như con. Nếu thấy chúng sinh thọ khổ não lớn thì sinh tâm từ, tùy theo sức mình mà trừ đoạn giúp, nguyện các chúng sinh đều được an ổn, giả sử thân có thọ khổ cũng không sinh ưu não. Nếu mất thân mạng cho đến của cải, hoặc thân bị trói, bị đánh, bị đuổi, có thể tự hiểu dụ không để mất chánh niệm, sinh tâm buồn khổ. Chuyên tâm nghe pháp, biên chép, thọ trì, đọc tụng, giải nói, nếu người khác quên mất có thể chỉ bày cho họ, do nhân duyên chí tâm như vậy, ở trong đời sau không mất pháp giới. Đây gọi là ấn của tánh Bồ-tát hành Thiền Ba-la-mật. Thế nào là ấn của tánh Bồ-tát thực hành Bát nhã Ba-la-mật nơi? Nghóa là Bồ-tát Ma-ha-tát hiểu biết tất cả các việc của thế gian, biết các phương thuật và ngôn ngữ của các chúng sinh, tuy biết các việc ấy mà tâm không lầm lạc, cũng không phóng dật, không bị ngoại đạo làm mê hoặc, không theo nghóa lý của học thuyết tà kiến. Đấy gọi là ấn của tánh Bồ-tát hành Bát nhã Ba-la-mật. Ta nay sơ lược nói về tướng ấn thô, tướng ấn tế thì chư Phật đều biết. Tánh của Bồ-tát là không thể nghó bàn, thành tựu đầy đủ các việc công đức, chân thật thanh tịnh, đầy đủ pháp tịnh, nên gọi là thượng, cũng gọi là bất động, cũng gọi là Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát không thấy rõ lỗi lầm của pháp ác, thì không được tu tất cả pháp thiện. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc tu thiện bậc thượng, nếu vì nhân duyên của khách trần là phiền não khiến bị rơi vào ba đường ác, vẫn còn hơn chúng sinh trong đường ác. Vì sao? Vì có tánh Bồ-tát, như bị nhân duyên của khách trần là phiền não khiến rơi vào ba đường ác, thì có thể mau chóng phá trừ để ra khỏi. Nếu không ra thì cũng không đồng thọ khổ dữ trong đường ác. Nếu lúc thọ khổ mà đối với chúng sinh vẫn sinh tâm từ bi, do nhân duyên của tánh nên được tâm bi, vì vậy Bồ- tát hơn tất cả chúng sinh trong ba đường ác. Bồ-tát Ma-ha-tát có bốn nhân duyên của phiền não khiến phá bỏ pháp tịnh. Những gì là bốn? Một là thường có lợi nhiều. Hai là vì hai thứ kết mà thân cận bạn ác. Ba là ở nơi chỗ thầy, vua chúa giặc oán, do sinh sợ hãi nên mất tâm thiện dấy khởi phiền não. Bốn là vì thân mạng nên tạo các pháp ác. Do bốn pháp nầy, nên tuy có tánh Bồ-tát Ma-ha-tát mà trọn không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Lại có bốn việc tuy có tánh Bồ-tát Ma-ha-tát, cũng không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Thế nào là bốn? Một là không gặp bạn lành là Phật và Bồ-tát tức là người không thuyết giảng sai nghóa. Hai là tuy gặp bạn lành là Phật và Bồ-tát nhưng hiểu nghóa sai, không học giới cấm của Bồ-tát. Ba là tuy gặp bạn lành là Phật và Bồ-tát, tùy thuận giải nghóa, nhưng không thể học và thọ trì giới cấm của Bồ-tát. Bốn là tuy gặp bạn lành là Phật và Bồ-tát, tùy thuận giải nghóa, học giới của Bồ-tát, nhưng thiện căn chưa thành thục, chưa được trang nghiêm Bồ-đề đầy đủ, vì thế không đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Bồ-tát tuy có tánh Bồ-tát, nhưng không có đầy đủ bốn việc như vậy, thì trọn không chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Nếu có đầy đủ bốn việc như vậy, mà không có tánh Bồ-tát thì cũng không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. ---------------------------- <詞>Phẩm 3: PHÁT TÂM BỒ ĐỀ CỦA ĐỊA BỒ TÁT Bồ-tát Ma-ha-tát lúc ban đầu phát tâm, nên lập chánh nguyện lớn, nói như vầy: Khi tôi chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, phải làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, cần đặt yên mọi chúng sinh trong Đại Niết-bàn, lại phải giáo hóa hết thảy chúng sinh khiến có đầy đủ đại trí Bát nhã, đó gọi là tự lợi lợi tha. Vì thế người ban đầu phát tâm Bồ-đề, gọi là nhân duyên của Bồ-đề, nhân duyên của chúng sinh, nhân duyên của chánh nghóa, nhân duyên của ba mươi bảy pháp trợ đạo, thâu giữ tất cả căn bản pháp thiện, nên Bồ-tát gọi là đại thiện của thiện, chân thật của thật, cũng gọi là thiện căn của tất cả chúng sinh, có thể phá trừ tất cả các thứ xấu ác của ba nghiệp thân khẩu ý. Tất cả thệ nguyện ở thế gian và xuất thế gian không có gì hơn đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, thệ nguyện như vậy là vô thắng, vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát ban đầu phát ba tâm Bồ-đề gồm có năm việc: Một là tánh. Hai là hành. Ba là cảnh giới. Bốn là công đức. Năm là tăng trưởng. Bồ-tát nếu có thể phát tâm Bồ-đề, thì được gọi là Bồ-tát Ma-ha- tát, nhất định chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, tu hạnh Đại thừa, cho nên ban đầu phát tâm Bồ-đề, thì có thể thâu giữ tất cả pháp thiện. Bồ-tát Ma-ha-tát pháp tâm Bồ-đề, tùy sự thực hành mà dần chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nếu không phát tâm thì trọn không thể chứng đắc, cho nên phát tâm là căn bản của đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát thấy chúng sinh khổ, tâm liền sinh thương xót, cho nên Bồ-tát nhân nơi tâm từ bi mà phát tâm cầu đạt đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nhân nơi tâm Bồ-đề mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhân nơi ba mươi bảy phẩm trợ đạo mà chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, cho nên phát tâm gọi là chi. Phát tâm Bồ-đề nên thực hành giới Bồ-tát, vì thế phát tâm là chi của giới Bồ-tát. Vì thế phát tâm gọi là căn, là nhân, là thâu tóm, là quả, cũng gọi là chủng tử Bồ-tát phát tâm lại có hai thứ: Một là rốt ráo. Hai là không rốt ráo. Rốt ráo là cho đến chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng trọn không thoái, mất. Không rốt ráo tức có thoái mất. Thoái có hai thứ: Một là thoái rốt ráo. Hai là thoái không rốt ráo. Thoái mất rốt ráo là trọn không phát tâm đạt đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, không thể tìm cầu tu tập pháp ấy. Thoái mất không rốt ráo là cầu tâm Bồ-đề, tu tập pháp ấy. Tâm Bồ-đề nầy gồm có bốn nhân. Thế nào là bốn? Nếu có thiện nam thiện nữ hoặc thấy hoặc nghe chư Phật, Bồ- tát là không thể nghó bàn, lúc ấy liền sinh tâm cung kính, tin nhận và nghó suy: Việc của Phật, Bồ-tát là không thể nghó bàn. Nếu có thể đạt được việc không thể nghó bàn của chư Phật, Bồ-tát, thì tôi cũng sẽ phát tâm cầu đạt đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Vì thế nên chí tâm nghó đến Bồ-đề, phát tâm Bồ-đề. Lại có người không thấy sự việc không thể nghó bàn của chư Phật, Bồ-tát, chỉ nghe tạng bí mật của chư Phật, Bồ-tát, nghe rồi liền sinh tâm cung kính tin nhận, do được tâm tín nên vì đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng và đại trí mà phát tâm Bồ-đề. Lại có người không thấy sự việc không thể nghó bàn của chư Phật, Bồ-tát, cũng không được nghe pháp, nhưng khi thấy pháp diệt liền suy nghó đến pháp Phật vô thượng, có thể diệt hết vô lượng khổ não và làm lợi ích cho chúng sinh, chỉ có chư Bồ-tát có thể khiến cho pháp Phật ở đời lâu không diệt. Tôi nay cũng sẽ phát tâm Bồ-đề, khiến các chúng sinh xa lìa phiền não cùng những sự khổ lớn, ủng hộ pháp Phật ở đời lâu dài, vì trụ ở đời phát tâm Bồ-đề. Lại có người không thấy pháp Phật diệt, chỉ thấy các chúng sinh trong đời ác, đầy đủ phiền não tham sân si, không biết xấu hổ, chỉ có keo kiệt, ganh ghét, ưu sầu khổ não, biếng nhác, không tin giáo pháp. Thấy như vậy rồi liền suy nghó: Vào thời đại ác, chúng sinh đại ác, không thể tu thiện, thời ác như vậy còn không thể phát tâm Nhị thừa huống là phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Ta nay sẽ phát tâm Bồ-đề, phát tâm nầy rồi sẽ giáo hóa tất cả chúng sinh khiến họ cũng phát tâm cầu đạt đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Cho nên Bồ-tát ở trong đời ác, chúng sinh xấu ác mà phát tâm Bồ-đề. Lại có bốn nhân để phát tâm Bồ-đề: Một là tánh đầy đủ. Hai là bạn lành đầy đủ. Ba là tâm từ đầy đủ. Bốn là đầy đủ Thánh hạnh, quán sinh tử khổ, không sợ Bồ-đề khó hành kho hạnh. Tánh đầy đủ: Nghóa là tánh Bồ-tát tự đầy đủ. Bạn lành đầy đủ gồm có bốn việc: Một là bạn lành đầy đủ căn, đủ trí tuệ lớn, có thể chỉ bày rõ về thiện ác, không thực hành theo đạo tà. Hai là tâm không phóng dật, hay phá trừ phóng dật, đóng cửa đường ác. Ba là tự có thể đầy đủ giới cấm của Bồ-tát, chuyển dạy cho người khác. Bốn là không dùng đạo thấp chuyển đạo cao của người khác, không dùng Tiểu thừa chuyển Đại thừa của người khác, không dùng tu phước chuyển định tuệ của người khác. Đầy đủ tâm tuệ lại có bốn việc: Một là hoặc có thế giới có nơi chốn khổ não. Hoặc có thế giới không có khổ não, không có nơi chốn khổ não, Bồ-tát phát nguyện vãng sinh trong ấy. Hoặc thấy người khác thọ khổ xem như mình thọ khổ, sinh tâm từ bi phá trừ sự khổ ấy. Hai là sinh trong địa ngục, thấy người thọ khổ xem như mình thọ khổ, cũng sinh tâm từ phá trừ các khổ ấy. Ba là sinh trong ngạ quỷ, thấy chúng sinh thọ khổ như mình tự thọ, cũng sinh tâm từ bi phá trừ mọi khổ ấy. Bốn là sinh trong súc sinh, hoặc thấy thọ khổ như thân mình thọ khổ, cũng sinh tâm từ bi đoạn trừ sự khổ ấy. Tâm từ đầy đủ lại có ba bậc là thượng, trung, hạ. Bậc thượng lại có bốn việc: Một là quán sinh tử khổ. Hai là tu tâm từ bi không có bắt đầu hay chấm dứt. Ba là tâm tánh mạnh mẽ. Bốn là được tâm trí tuệ. Lại có bốn việc: Một là không phóng dật. Hai là đầy đủ giới. Ba là hay nhẫn nhục. Bốn là chí tâm chuyên niệm về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Lại có bốn việc: Một là xem hết chúng sinh giống như con một. Hai là không phân biệt kẻ oán, người thân và không oán không thân. Ba là được tâm tin kiên cố. Bốn là tu hành Thánh hạnh. Tu tập tâm từ lại có bốn thứ lực: Một là nội lực. Hai là ngoại lực. Ba là nhân lực. Bốn là lực trang nghiêm. Bồ-tát Ma-ha-tát chí tâm chuyên niệm về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó là nội lực. Vì muốn hóa độ các chúng sinh nên phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó là ngoại lực. Có thể ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp tu tập hạnh thiện, phụng sự chư Phật và chư Bồ-tát, đó là nhân lực. Bồ-tát Ma-ha-tát ưa gần gũi bạn lành, lắng nghe chánh pháp, suy nghó ý nghóa và tu hành đúng như nói, đó là lực trang nghiêm. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát dùng nội lực và ngoại lực mà phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó gọi là tâm chánh, tâm bất động, tâm bất thối, tâm bất chuyển. Nếu dùng ngoại lực và lực trang nghiêm mà phát tâm Bồ-đề, đó gọi là tâm bất chánh, tâm động, tâm thoái mất, tâm chuyển. Tâm chuyển của Bồ-tát có bốn nhân duyên: Một là tánh không đầy đủ. Hai là đầy đủ bạn ác. Ba là đối với chúng sinh không đủ tâm từ. Bốn là không thể quán sát lỗi lầm của sinh tử. Bồ-tát Ma-ha-tát mới phát tâm Bồ-đề gồm có hai việc không thể nghó bàn: Một là đối với các chúng sinh khởi tưởng là quyến thuộc. Hai là không có tưởng về chúng sinh, Bồ-tát thường dùng trí tuệ quán sát, ai là chúng sinh, chúng sinh thuộc về ai. Đó gọi là hai nhân. Hai tâm nầy có thể khiến Bồ-tát không thối chuyển. Ban đầu phát Bồ-đề có hai thứ tâm: Một là ban cho chúng sinh sự an ổn. Hai là ban cho chúng sinh sự an lạc. Dùng các pháp thiện giáo hóa chúng sinh khiến xa lìa pháp ác, đấy gọi là an ổn. Có thể dùng tài vật cung cấp cho chúng sinh khiến họ xa lìa sự bần cùng, như là các thứ như y phục, thức ăn, phòng nhà, thuốc men v.v… Đấy gọi là an lạc. Bồ-tát bất thối có hai thứ tâm: Một là tánh trang nghiêm. Hai là chuyên tâm thọ trì trang nghiêm. Thường suy nghó muốn khiến cho chúng sinh được an lạc. Đấy gọi là tánh trang nghiêm. Trọn không thối chuyển tâm Bồ-đề, nhân sinh tâm nầy nên có thể ban cho tất cả chúng sinh sự an lạc. Đấy gọi là thọ trì trang nghiêm. Bồ-tát bất thối phát sinh phước đức gồm có hai chốn: Một là tâm Bồ-đề. Hai là vì chúng sinh mà thọ nhận khổ. Hai việc như vậy gọi là tụ pháp thiện lớn. Bồ-tát mới phát tâm kiên cố lại có hai việc thù thắng hơn tất cả Thanh văn Duyên giác: Một là nhân thù thắng. Hai là quả thù thắng. Bồ-tát Ma-ha-tát phát tâm Bồ-đề tu các pháp thiện, ấy gọi là nhân. Nhân thực hành pháp thiện mà chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, ấy gọi là quả. Nhân quả như vậy thù thắng hơn tất cả Thanh văn, Duyên giác. Bồ-tát bất thối có hai việc lớn: Một là phát tâm rồi tức vì vô lượng chúng sinh làm ruộng phước. Vì làm các bậc cha mẹ, sư trưởng, Hòa thượng mà sinh lòng thương xót, vì thương xót nên khi đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ nghỉ thường có chư Thiên hộ trì, như Chuyển luân Thánh vương thường được năm trăm quỷ thần áo xanh hộ vệ. Bồ-tát bất thối cũng lại như vậy, vì thương xót nên nếu thọ thân thì không có bệnh khổ. Hai là Bồ-tát phát tâm thường vì sự an vui của chúng sinh, xem chúng sinh như cha mẹ, tất cả chúng sinh ở chỗ Bồ-tát, ba nghiệp thân khẩu ý nhu hòa không có xấu ác. Bồ-tát Ma-ha-tát phát tâm Bồ-đề không mất chánh niệm, đối với các chúng sinh không khởi tâm hại, không ăn thịt, không lừa dối, thường đem pháp thiện giáo hóa chúng sinh, khiến chúng sinh không thọ khổ, không phế bỏ, không ưu sầu, có thể tự điều phục và điều phục người khác, tùy theo chỗ ở của muôn loài đều khiến cho họ tăng trưởng phước nghiệp. Nếu vì nhân duyên của khách trần phiền não mà rơi vào ba đường ác, thì ắt có thể được ra khỏi, tuy đồng thọ khổ mà không sinh tâm độc hại, thấy người khác thọ khổ sinh tâm thương xót. Bồ-tát mới phát tâm Bồ-đề, thành tựu vô lượng công đức như vậy. <詞>Phẩm 4: LỢI ÍCH TRONG NGOÀI CỦA ĐỊA BỒ TÁT Bồ-tát Ma-ha-tát phát tâm Bồ-đề, thế nào gọi là hạnh Bồ-đề? Bồ- tát ở chỗ nầy chỗ kia hoặc học hoặc dạy, đều vì đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nghóa là giữ giới, nghe và suy nghó, đó gọi là hạnh Bồ-đề. Bồ-tát Ma-ha-tát có bảy chỗ học: Một là nghóa nội. Hai là nghóa ngoại. Ba là nghóa chân thật. Bốn là nghóa bất khả tư nghì. Năm là nghóa điều phục chúng sinh. Sáu là nghóa tự thuộc pháp Phật. Bảy là chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Đấy là bảy chỗ học. Thế nào là nghóa nội? Nghóa nội gồm có mười thứ: Một là nghóa chân thật. Hai là nghóa vì người khác (vị tha). Ba là nghóa điều phục. Bốn là nghóa an ổn. Năm là nghóa diệu lạc. Sáu là nghóa nhân. Bảy là nghóa quả. Tám là nghóa hiện tại. Chín là nghóa đời sau. Mười là nghóa rốt ráo. Bồ-tát Ma-ha-tát vì sự việc của người khác đó gọi là nghóa nội. Nghóa chân thật: Tức là biết tánh của phiền não và pháp môn đối trị, đem sự vui của mình ban cho chúng sinh, chí thường tu tập chánh đạo vô thượng. Phàm có chỗ mong cầu đều vì an ổn cho chúng sinh, đã được tài vật tâm không tham tiếc, có thể đem cúng dường Phật, Pháp, chúng Tăng, cha mẹ, sư trưởng, đi xa ngàn vạn dặm để cầu kinh điển Phật và tạng Bồ-tát, đã được pháp rồi liền lưu thông rộng, không sinh tâm che giấu, tuy hiểu nghóa sâu xa mà không sinh tâm kiêu mạn, vì sinh trên trời nên thuyết giảng về lợi ích của trì giới, vì phước báo của Chuyển luân vương mà thuyết giảng công đức bố thí, vì hàng Nhị thừa mà thuyết giảng việc tu tập Tam-muội, vì được quả báo lớn ở thế gian mà dạy cúng dường Phật, Pháp, Tăng bảo, rộng tu phước nghiệp. Vì người tâm tham mà giảng nói việc tham, vì người lừa dối mà nói việc lừa dối, vì người hành phi pháp mà làm kẻ giúp việc, Bồ-tát Ma-ha-tát làm việc nầy rồi, đó gọi là nghóa chân thật. Bồ-tát Ma-ha-tát nếu có tự lợi thì đều vì chúng sinh, đó gọi là nghóa vị tha. Bồ-tát Ma-ha-tát nếu có diễn thuyết thì đều vì nhằm phá trừ các tà kiến. Vì người phá giới, không tin nhân quả, không thấy lỗi lầm, nên nói về các lỗi hủy hoại giới cấm, vì dứt trừ ba đường ác mà diễn nói chánh pháp. Nếu có người thối thiền và pháp thiện, vì nêu bày chỗ bất thối nên vì họ thuyết pháp. Vì muốn làm tăng trưởng các pháp thiện nên vì họ thuyết pháp. Vì muốn khiến chúng sinh được tự tại cho nên nêu giảng pháp. Vì muốn khiến chúng sinh trong mười phương thế giới đạt được thần túc thiện nên thuyết pháp. Đấy gọi là nghóa điều phục. Nghóa nội cũng gọi là nghóa ngoại. Nghóa ngoại cũng gọi là nghóa nội. Nghóa nội nghóa ngoại gọi là nghóa điều phục. Nghóa điều phục cũng gọi là nghóa nội, nghóa ngoại. Như Lai có đủ mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, đại bi, ba niệm xứ, năm trí, Tam-muội. Đó gọi là ng- hóa chân thật. Nghóa chân thật gọi là nghóa nội, nghóa ngoại. Nghóa nội ngoại gồm có hai thứ: Một là tự điều phục. Hai là điều phục kẻ khác. Bồ-tát Ma-ha-tát khéo biết phương tiện, đó gọi là nghóa điều phục. Bồ- tát thực hành tất cả việc thiện, gọi là nghóa điều phục. Tại sao lại gọi là nghóa nội ngoại? Đây gồm có năm việc: Một là làm tịnh ở thân khác. Hai là nuôi lớn pháp thiện khác. Ba là hiện tại tạo lợi ích. Bốn là đời sau tạo lợi ích. Năm là phá trừ phiền não cho người. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát tùy theo chỗ tu thiện hoặc nhiều hoặc ít, đem giáo hóa chúng sinh khiến cùng được như mình, đấy gọi là nghóa điều phục. Bồ-tát Ma-ha-tát đã tự mình an ổn, lại đem sự an ổn của mình ban cho chúng sinh, hoặc thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc nơi dục giới hoặc nơi thiền định. Đấy gọi là nghóa an ổn. Nghóa an ổn cũng gọi là nghóa nội ngoại, cũng gọi là nghóa điều phục, cũng gọi là nghóa chân thật. Nghóa nội ngoại của Bồ-tát Ma-ha-tát, có lúc hiện tại vui chẳng phải đời khác vui, có lúc đời khác vui chẳng phải hiện tại vui, có lúc hiện tại vui đời khác vui, có lúc chẳng phải hiện tại vui chẳng phải đời khác vui. Nghóa nội ngoại lại có bốn thứ: Có người thọ pháp đời hiện tại thọ vui, đời khác thọ khổ. Có người thọ pháp đời hiện tại thọ khổ, đời sau hưởng vui. Có người thọ pháp đời hiện tại hưởng vui, đời sau cũng vui. Có người thọ pháp đời hiện tại thọ khổ, đời sau cũng khổ. Bồ-tát Ma-ha-tát thuyết giảng về Niết-bàn và Đại Niết-bàn, tám Thánh đạo phần, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thuyết giảng về đạo thế gian và xuất thế gian thì gọi là nghóa an ổn. Nghóa an ổn gọi là nghóa nội ngoại, nghóa nội ngoại gọi là nghóa chánh, nghóa chánh gọi là nghóa vô thượng, nghóa vô thắng, nghóa an ổn, nghóa thường lạc. Bồ-tát Ma-ha- tát thọ nhận thường lạc, có thể hành trì nghóa nội, ngoại, nghóa chánh, nghóa điều phục, nghóa an ổn. Thế nào gọi là nghóa diệu lạc(an vui)? Nghóa diệu lạc gồm có năm thứ: Một là lạc nhân. Hai là lạc thọ. Ba là lạc đoạn thọ. Bốn là lạc xa lìa. Năm là lạc Bồ-đề. Thế nào là lạc nhân? Nhân nơi tiếp xúc trong ngoài. Do nhân duyên tiếp xúc nên có thọ lạc. Đó gọi là lạc nhân. Nhân hành pháp thiện nên đời khác được thọ lạc, đó gọi là lạc nhân. Thế nào là lạc thọ? Do nơi nhân duyên mà thân được tăng trưởng, tâm được an ổn, đấy gọi là lạc thọ. Lạc thọ gồm có hai thứ: Một là hữu lậu. Hai là vô lậu. Vô lậu lại có hai: Một là học địa, hai là vô học. Hữu lậu có ba cõi, đó là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Ba cõi có nội ngoại nhập nên có sáu xúc, sáu xúc có hai thứ: một là thân lạc, hai là tâm lạc. Năm thức cùng hiện hành gọi là thân lạc. Ý thức cùng hiện hành gọi là tâm lạc. Tu tập Thánh đạo để đoạn các thọ, đạo đức tăng trưởng không có các thọ, nên gọi là lạc đoạn thọ. Xa lìa phiền não, thân tâm không khổ, gọi là lạc xa lìa. Vì thọ thường lạc nên gọi là lạc Bồ-đề. Hoặc có người nói, định vô tưởng gọi là lạc đoạn. Nghóa nầy không phải như vậy. Vì sao? Vì không đoạn thọ. Lạc xa lìa gồm có bốn thứ: Một là lạc xuất gia. Hai là lạc tịch tónh. Ba là lạc đoạn. Bốn là lạc Bồ-đề. Người ở thế gian phần nhiều có ưu khổ, vónh viễn đoạn trừ khổ ấy nên gọi là lạc xuất gia. Vónh viễn đoạn trừ tham ở dục giới gọi là lạc tịch tónh. Vónh viễn đoạn dứt phiền não gọi là lạc đoạn, thọ nhận thường lạc nên gọi là lạc Bồ-đề. Bồ-tát thường có thể ban vui cho chúng sinh, gọi là lạc Bồ-đề. Bồ-tát Ma-ha-tát tự thọ thường lạc và chuyển thí cho chúng sinh, gọi là lạc Bồ-đề. Tại sao gọi là lạc nhân? Là nhân của lạc nên gọi là lạc nhân, không gọi là lạc thọ. Lạc thọ không gọi là lạc nhân mà gọi là lạc tánh. Lạc đoạn không gọi là lạc nhân, không gọi là lạc thọ, do đoạn nhiều lạc nên gọi là lạc đoạn. Lạc xa lìa không gọi là lạc nhân, không gọi là lạc thọ, không gọi là lạc đoạn, do quán các họa hoạn của sinh tử nên gọi là lạc trí tuệ. Lạc Bồ-đề không gọi là lạc nhân, không gọi là lạc thọ, không gọi là lạc đoạn, không gọi là lạc xa lìa, do vô biên thường nên gọi là lạc Bồ-đề, cũng gọi là lạc vô thắng, gọi là lạc vô biên, gọi là lạc vô thượng, cũng gọi là lạc thường, gọi là lạc tịch tónh. Bồ-tát Ma-ha-tát có thể dùng năm thứ lạc như trên bố thí cho chúng sinh. Đấy gọi là nghóa của nhân. Bồ-tát Ma-ha-tát thường phá trừ các nghiệp ác của chúng sinh, chỉ bày chánh nghiệp, do chánh nghiệp nên chứng đắc đạo vô thượng. Đấy gọi là nghóa của nhân. Bồ-tát Ma- ha-tát vì các chúng sinh nên thọ nhận khổ não lớn, vì thọ khổ nên có thể điều phục chúng sinh, đấy gọi là nghóa của nhân. Bồ-tát Ma-ha-tát quán sát thiện ác, có thể chỉ bày việc thiện ác cho chúng sinh, vì khai thị nên được trí tuệ lớn, do được trí tuệ lớn nên có thể phá trừ ác lớn. Đây là nghóa của nhân. Bồ-tát Ma-ha-tát nhân nơi trí tuệ mà thực hành sáu pháp Ba-la- mật, cho đến chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Đây là nghóa của quả. Bồ-tát Ma-ha-tát vì hủy hoại tâm tham nên có thể ban cho chúng sinh năm thứ lạc, do các chúng sinh được lạc nầy nên gọi là nghóa của quả. Bồ-tát Ma-ha-tát thương xót chúng sinh, muốn khiến cho tất cả đồng thọ lạc như mình. Đấy gọi là nghóa nội ngoại. Ng- hóa nội ngoại gồm có ba thứ. Nhân cũng có ba thứ. Quả cũng có ba thứ: nhân báo quả báo, nhân phước quả phước, nhân trí quả trí. Thế nào gọi là báo? Báo có tám thứ: Một là sống lâu. Hai là căn thân hoàn bị. Ba là được ở dòng tộc lớn. Bốn là được tự tại. Năm là ngôn ngữ vi diệu. Sáu là được thân nam tử. Bảy là được sức lực lớn. Tám là không ai có thể hơn. Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập tâm từ nên được sống lâu. Đây là báo của nhân. Bồ-tát Ma-ha-tát ưa đem y phục, thức ăn, phòng nhà, thuốc men thí cho chúng sinh, vì thế được căn thân hoàn bị. Bồ-tát Ma-ha-tát bỏ tâm kiêu mạn, cung kính cúng dường cha mẹ, sư trưởng và người có đức, vì thế được ở nơi dòng tộc lớn. Bồ-tát Ma-ha-tát theo pháp thực hành, phá bỏ phi pháp, nên được tự tại vô ngại. Bồ-tát luôn chân thật không lừa dối chúng sinh, nên được ngôn ngữ vi diệu. Bồ-tát Ma-ha-tát thường quở trách năm thứ dục, nên được thân nam tử. Bồ-tát Ma-ha-tát thường ưa cúng dường Phật, Pháp, Tăng bảo, nên thân có sức lực lớn. Bồ-tát Ma-ha-tát thường giáo hóa tất cả chúng sinh, cúng dường Tam bảo, nên không ai có thể hơn, đấy gọi là báo của quả. Không hại chúng sinh, thọ mạng được tăng trưởng. Đó gọi là báo của nhân. Ưa đem y phục, thức ăn, phòng nhà, thuốc thang thí cho chúng sinh, cho nên Bồ- tát được căn thân hoàn bị. Có thể phá trừ kiêu mạn hiện có của chúng sinh, cho nên được ở nơi dòng tộc lớn, có thể trừ bỏ sự bần cùng khốn khổ cho chúng sinh, cho nên được tự tại, có thể phá diệt lời nói dối, nói hai lưỡi, nói lời ác và nói lời vô nghóa của chúng sinh cho nên được lời nói vi diệu. Khen ngợi thân nam, chê trách thân nữ, do hai nhân nầy mà được sinh trong loài người, thọ thân nam tử. Lại xa lìa dục phi pháp cho nên được thân nam tử. Bồ-tát Ma-ha-tát đem thức ăn thanh tịnh thí cho chúng sinh, thấy người nguy nạn có thể cứu giúp, cho nên thân có sức lực lớn. Thọ trì chánh pháp, đọc tụng giải nói, cho nên không ai có thể hơn. Đây là tám thứ báo. Tám thứ như vậy nhân nơi ba việc nên được tăng trưởng: Một là tâm tịnh. Hai là trang nghiêm tịnh. Ba là phước điền tịnh. Bồ-tát Ma- ha-tát chí tâm chuyên cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó gọi là tâm tịnh. Cúng dường bạn đồng học, đồng pháp, đồng thầy, tâm sinh hoan hỷ, đó gọi là tâm tịnh. Nếu thấy hoặc nghe đồng học, đồng pháp, đồng thầy tâm sinh hoan hỷ, đó gọi là tâm tịnh. Tu tập pháp trợ đạo Bồ-đề, thường ưa thọ trì, biên chép, đọc tụng tạng pháp Bồ-đề, lại đem pháp nầy chuyển hóa cho chúng sinh, nếu có người không thọ lãnh, tâm không ưu sầu hối hận, cũng không dừng nghỉ. Đấy gọi là trang nghiêm tịnh. Do hai pháp tịnh trên nên gọi là phước điền tịnh. Thế nào là quả báo của Bồ-tát? Bồ-tát sống lâu gọi là quả báo. Tại sao Bồ-tát cầu sự sống lâu? Vì được thọ mạng dài lâu để trải qua vô lượng đời tu pháp thiện làm tự lợi, lợi tha, nên Bồ-tát cầu sự sống lâu. Đây gọi là quả báo. Tại sao Bồ-tát cầu được căn thân hoàn bị? Do Bồ-tát có căn thân hòan bị nầy, chúng sinh cung kính hoan hỷ ưa nhìn, do hoan hỷ cho nên dễ nhận sự giáo hóa, vì thế Bồ-tát cầu căn thân hoàn bị. Đây gọi là quả báo. Tại sao Bồ-tát cầu ở dòng tộc lớn? Vì dòng tộc lớn thường được chúng sinh cung kính, do cung kính nên tin nhận lời dạy, hoặc vì dòng tộc hoặc vì lợi ích, hoặc vì sợ sệt mà thọ nhận lời dạy, vì thế Bồ-tát cầu ở dòng tộc lớn. Đây gọi là quả báo. Tại sao Bồ-tát cầu sự tự tại? Vì được tự tại thì có thể giáo hóa vô lượng chúng sinh, thành tựu đầy đủ Bố thí Ba-la-mật, cho nên Bồ-tát cầu sự tự tại. Đây gọi là quả báo. Tại sao Bồ-tát cầu được lời nói vi diệu? Bồ-tát nói ra lời vi diệu thì chúng sinh ưa nghe, đồng pháp đồng nghóa đồng hành đồng sự, thường có thể giáo hóa khiến được điều phục. Đây gọi là quả báo. Tại sao Bồ-tát cầu thân nam tử? Vì thân nam tử mới là căn, khí tốt chứa tất cả pháp thiện, có khả năng nhẫn chịu các khổ, có thể quán sát pháp giới, ở trong bốn chúng không hề sợ hãi khó khăn, đối với thời với nghóa có thể nhanh chóng hiểu biết, tùy theo chỗ đến không có trở ngại, cho nên Bồ-tát cầu được thân nam tử. Đây gọi là quả báo. Vì sao Bồ-tát cầu có sức lực lớn? Bồ-tát thành tựu lực lớn nầy, thì có thể tu hành tất cả pháp thiện, có thể siêng năng tinh tấn, cứu vớt các khổ não của chúng sinh, cho nên Bồ-tát cầu có sức lực lớn. Đây gọi là quả báo. Tại sao Bồ-tát cầu không ai hơn? Bồ-tát nếu được là người không ai hơn được, thì có thể ban cho tất cả chúng sinh những vật cần dùng, do nhân duyên nầy, có thể khiến chúng sinh ưa thấy, nghe pháp và tin nhận lời dạy, cho nên Bồ-tát cầu được vô thắng. Đây gọi là quả báo. Bồ-tát có đủ tám thứ quả báo nầy thì có thể nuôi lớn pháp Phật vô thượng, đem lợi ích cho chúng sinh, tức thấy Phật đạo như xem quả Am- ma-lặc trong lòng bàn tay. Tuy Bồ-tát thành tựu đầy đủ tám quả báo như vậy, nhưng nếu không thể giáo hóa vô lượng chúng sinh khiến được điều phục, thì không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Nếu giáo hóa khiến chúng sinh được điều phục, mà không đầy đủ tám quả báo như vậy thì cũng không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu đầy đủ tám quả báo như vậy, dùng pháp ba thừa giáo hóa chúng sinh, thì tự chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát sở dó đủ tám quả báo như vậy, là vì muốn giáo hóa điều phục chúng sinh, gọi là nghóa nội ngoại, đủ tám quả báo, gọi là nghóa của quả, nhân báo quả báo cũng gọi là nghóa của quả. Thế nào là phước? Thế nào là trí? Ba thứ Ba-la-mật như Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục gọi là phước đức. Bát nhã Ba-la-mật gọi là Trí tuệ, còn hai thứ Ba-la-mật kia cũng gọi là nhân của phước, cũng gọi là nhân của trí. Nếu siêng năng tinh tấn tu tập thiền định, thành tựu đầy đủ tâm tư,ø bi, hỷ, xả, do lực nhân duyên của bốn tâm nầy nên được tự tại, đấy gọi là nhân của phước. Nếu siêng năng tinh tấn tu tập Tam-muội, quán sát năm ấm, sáu nhập, mười tám giới, quán thật khổ nơi khổ, quán thật tập nơi tập, quán thật diệt nơi diệt, quán thật đạo nơi đạo. Quán thật chẳng phải thật, quán thiện chẳng phải thiện, quán pháp chẳng phải pháp, quán thượng quán hạ, quán trắng quán đen, quán mười hai nhân duyên, đấy gọi là nhân của trí. Nếu siêng năng tinh tấn tu tập nhất tâm, ưa thích bố thí, thích trì giới cấm, thích tu nhẫn nhục, đấy gọi là nhân của phước. Nếu siêng năng tinh tấn tu tập nhất tâm, ưa nghe, thọ trì, biên chép, đọc tụng, tuyên thuyết kinh điển tạng mật của Bồ-tát, do lực của nhân duyên đa văn, nên được trí tuệ lớn, có thể phân biệt pháp giới. Phân biệt pháp giới gọi là quả của trí. Nhân phước của Bồ-tát cũng là nhân cũng là quả. Nhân trí của Bồ-tát cũng là nhân cũng là quả. Nhân phước của Bồ-tát cũng là phước cũng là trí. Nhân trí của Bồ-tát cũng là trí, cũng là phước. Cho nên nhân phước của Bồ-tát gồm có sáu, nhân trí cũng có sáu thứ, đó là sáu pháp Ba-la-mật. Thế nào là nhân phước, nhân trí? Nhân phước, nhân trí gồm có ba thứ: Một là tâm tín. Hai là phát tâm. Ba là gần gũi bạn lành, đây là ba thứ nhân phước. Nhân trí lại có hai thứ: Một là thiện. Hai là bất thiện. Nếu gần gũi bạn ác, tu tập tà đạothực hành bố thí, thiền định, trí tuệ gọi là phước bất thiện; phá trừ phước tuệ bất thiện như vậy gọi là phước thiện. Nếu không có tâm tín và không gần gũi bạn lành, thì trọn không thể đạt được phước đức trí tuệ. Nếu nói xa lìa những việc như vậy mà được phước đức thì không có việc ấy. Đấy gọi là nhân phước đức nhân trí tuệ. Thế nào gọi là quả phước, quả trí? Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu đầy đủ phước đức như vậy, không bị nhiễm ô trong sanh tử, đấy gọi là quả. Bồ-tát thành tựu đầy đủ trí tuệ, xa lìa đạo ác tu tập đạo thiện, đấy gọi là quả. Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu đầy đủ hai việc như vậy, giáo hóa chúng sinh thành tựu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đấy gọi là quả. Bốn tâm vô lượng cũng gọi là quả phước quả trí của Bồ-tát. Bồ-tát Ma-ha-tát có nhân báo hoặc quả báo, đó gọi là phước đức. Nhân phước đức quả phước đức cũng gọi là trí tuệ. Nhân trí tuệ quả trí tuệ. Nếu trong hai pháp nầy mà lìa một pháp thì không chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Đây là nghóa của quả, nghóa của quả gọi là nghóa nội ngoại. Thế nào gọi là nghóa hiện tại? Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát học hết tất cả các việc thế gian, nhận biết hết cho nên được đại tự tại, do được tự tại nên có thể giáo hóa chúng sinh. Chúng sinh lãnh thọ rồi tu tập pháp thiện. Đây gọi là nghóa hiện tại. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát thối thất pháp thiện, tu tập Tam-muội, do tu định nên lại được pháp thiện, đấy gọi là nghóa hiện tại. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát vì khách trần là phiền não nên tạo ra các tội, làm rồi tâm quán xét sâu xa quyết định phải thọ quảliền sinh tâm hối hận xấu hổ mà phá trừ các nghiệp ác, đấy gọi là nghóa hiện tại. Nếu do nhân duyên của nghiệp ác, hoặc bị người khác mắng nhiếc, hoặc sân hận đánh đập, thân chịu các khổ, đây là nghóa hiện tại. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập thiền định, do nhân duyên nầy mà thân thọ an lạc, đây là nghóa hiện tại. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát thân được tự tại trong bốn đức là thường, lạc, ngã, tịnh, đây là nghóa hiện tại. Nếu Bồ-tát Ma- ha-tát tu tám Thánh đạo, do nhân duyên nầy nên đạt được Niết-bàn, đây là nghóa hiện tại. Bồ-tát như vậy chúng sinh cũng như vậy. Thế nào là nghóa đời sau? Vì nhân duyên hiện tại nên thọ thân đời khác, đấy gọi là nghóa đời sau, cũng gọi là nghóa nội ngoại. Thế nào là nghóa rốt ráo? Phước đức trong cõi dục chẳng phải là nghóa rốt ráo, phước đức ở cõi sắc và vô sắc tuy được tự tại nhưng cũng chẳng phải là nghóa rốt ráo. Như các Bồ-tát tu tám Thánh đạo có được Niết-bàn, thân ấy vô ngại không có cùng tận, pháp thiện vô lượng nên gọi là nghóa rốt ráo. Rốt ráo có ba thứ: Một là tánh rốt ráo. Hai là thối chuyển rốt ráo. Ba là báo tận rốt ráo. Không rốt ráo cũng như vậy. Tánh rốt ráo gọi là tánh Niết-bàn, không rốt ráo gọi là pháp hữu vi. Thối chuyển rốt ráo là Thanh văn, Duyên giác tu tám chánh đạo. Bất thối rốt ráo là bất thối chuyển. Báo tận rốt ráo là quả báo phước đức hiện có ở thế gian. Rốt ráo báo bất tận là đạo quả vô thượng. Trên đây là mười nghóa, Bồ-tát Ma-ha-tát thường tu tập giáo hóa chúng sinh, như các Bồ-tát đời quá khứ đã học, hiện tại, vị lai cũng lại như vậy. Nếu Bồ- tát Ma-ha-tát không thể tu học mười pháp trên, thì không thể đạt được giới cấm của Bồ-tát.  <篇>KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI <卷>QUYỂN 2 <詞>Phẩm 5: NGHÓA CHÂN THẬT CỦA ĐỊA BỒ TÁT Thế nào gọi là nghóa chân thật? Nghóa chân thật gồm có hai thứ: Một là pháp tánh. Hai là pháp đẳng. Lại có bốn thứ: Một là lưu hành khắp thế gian. Hai là phương tiện lưu hành khắp. Ba là làm sạch chướng phiền não. Bốn là làm tịnh chướng trí tuệ. Thế nào là lưu hành khắp thế gian? Pháp của thế gian đồng danh hiệu ấy, chúng sinh thấy đất, chân thật là đất trọn không nói là lửa. Lửa chân thật là lửa trọn không nói là đất, cho đến nước, gió, sắc, thanh, hương, vị, xúc, y phục, thức ăn, chuỗi anh lạc, đồ vật, kỹ nhạc, tối, sáng, nam, nữ, phòng nhà, ruộng vườn, khổ, vui. Khổ chân thật là khổ, trọn không nói là vui. Vui chân thật là vui, trọn không nói là khổ. Đây là phải, đây là trái, định và bất định. Tất cả trên thế gian từ xưa đến nay lưu truyền danh, tướng nầy tự nhiên mà biết, không phải từ sự tu tập sau đó mới biết. Đây gọi là nghóa chân thật của thế gian lưu hành rộng khắp. Thế nào gọi là phương tiện lưu hành khắp? Như người trí ở đời, trước tính toán, sau đó mới làm ra kinh sách luận nghị, đấy gọi là phương tiện lưu hành khắp. Thế nào là làm sạch chướng phiền não? Tất cả Thanh văn, Phật- bích-chi, đều dùng trí vô lậu, đạo vô lậu, để phá trừ phiền não, nên được trí vô ngại. Đây gọi là làm sạch chướng phiền não. Vì phá trừ phiền não nên trí được thanh tịnh sáng suốt. Trí tuệ thanh tịnh nên thân tâm vô ngại. Đây gọi là làm tịnh chướng trí tuệ nơi nghóa chân thật. Tại sao lại gọi là chân thật? Chân thật gọi là tứ đế, tức khổ, tập, diệt, đạo. Quán xét bốn đế nầy thì được trí tuệ chân thật, đó gọi là Thanh văn, Phật-bích-chi. Thanh văn, Phật-bích-chi phân quán năm ấm, cho nên lìa ấm đều không thấy ngã, ngã sở. Phân quán mười hai nhân duyên, vì thế lìa ấm không thấy chúng sinh cho đến só phu. Đây gọi là làm tịnh chướng trí tuệ nơi nghóa chân thật. Nếu trí không thể biết cảnh giới thì gọi là trí chướng ngại, nếu có thể phá bỏ chướng, biết cảnh giới thì gọi làm tịnh chướng trí tuệ nơi nghóa chân thật. Nghóa chân thật tức là Phật và Bồ-tát quán sâu tất cả năm ấm, sáu nhập, mười tám giới, quán ngã vô ngã, chúng sinh, chẳng phải là chúng sinh, só phu, chẳng phải là só phu. Đây gọi là làm tịnh chướng trí tuệ. Quán các pháp giới không thể nêu bày, biết đế thế gian cho nên phân biệt pháp giới, biết tánh chân thật của các pháp giới, nên gọi là Tuệ vô thắng. Tuệ vô thắng hay phá diệt tất cả chướng nên gọi là tịnh chướng trí tuệ nơi nghóa chân thật. Nghóa chân thật lại có hai thứ: Một là hữu. Hai là vô. Hữu gọi là thế gian lưu hành khắp, đó là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, đất, nước, gió, lửa, sắc, thanh, hương, vị, xúc, thiện, bất thiện, vô ký, pháp xuất, pháp diệt, pháp từ duyên sinh, quá khứ, hiện tại, vị lai, hữu vi, vô vi, đời nầy, đời khác, mặt trời, mặt trăng, thấy, nghe, hiểu biết, chỗ đạt được giác quán, tu tập, thọ trì, cho đến Niết-bàn. Đây gọi là hữu của thế gian lưu hành. Thế gian hữu đó là pháp tánh. Vô là hữu của thế gian lưu hành khắp, từ sắc cho đến Niết-bàn tánh ấy là không nên gọi là vô. Chúng sinh thấy được nên gọi là hữu. Pháp tánh vốn không nên gọi là vô. Chư Phật Như Lai thuyết giảng về hữu, vô, gọi là chân thật. Chân thật gọi là trung đạo, chẳng phải hữu chẳng phải vô gọi là trung đạo, trung đạo gọi là đạo vô thượng. Trung đạo như vậy, chư Phật Thế Tôn trừ phá chướng ngại, đó gọi là nhất thiết trí. Bồ-tát Ma-ha-tát tuy học trung đạo như vậy mà còn chướng ngại, nên không được là nhất thiết trí. Trí tuệ của Bồ-tát là phương tiện, gọi là nhân của đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Vì sao? Vì Bồ-tát Ma-ha-tát tuy không đầy đủ trí tuệ trung đạo, mà giảng nói về tướng sinh tử cũng có cũng không, cũng là lưu hành rộng khắp pháp Phật vô thượng, tuy ở trong sinh tử mà cũng có thể nhận biết rõ sinh tử là hoạn nạn, tâm không nhàm chán hối hận. Nếu không biết sinh tử là hoạn nạn thì không thể phá trừ phiền não kiết, nếu tâm nhàm chán thì không thể giáo hóa chúng sinh, hộ trì pháp chư Phật, mau đạt được Niết-bàn. Nếu được Niết-bàn thì không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Nếu không thể giáo hóa các chúng sinh thì sao có thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Thế cho nên Bồ-tát ở trong sinh tử tu đạo Bồ-đề, không sợ Niết-bàn, không cầu Niết-bàn. Nếu Bồ-tát sợ Niết-bàn thì không thể chứng đắc đầy đủ đạo Bồ-đề trang nghiêm, cũng không thể vì vô lượng chúng sinh mà khen ngợi Niết-bàn, và đối với cảnh giới Niết-bàn không thể sinh tâm tin, vui, chuyên niệm. Do đấy, Bồ-tát đối với Niết-bàn không sinh tâm sợ hãi. Nếu Bồ-tát ấy cầu Niết-bàn tức có thể đạt được, nếu đạt được thì không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, không thể dùng pháp Phật để giáo hóa chúng sinh. Nếu Bồ-tát không thể quán sâu về lỗi lầm của sinh tử, hoặc sinh tâm nhàm chán, sợ hãi Niết-bàn, hoặc cầu Niết-bàn, đây gọi là Bồ-tát không có phương tiện khéo léo. Nếu Bồ-tát có thể quán sâu về lỗi lầm của sinh tử, vui ở trong ấy, không sợ Niết-bàn, không cầu Niết-bàn, đây gọi là Bồ-tát có phương tiện khéo léo. Phương tiện khéo léo là hiểu về Đệ nhất nghóa Không. Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập “Đệ nhất nghóa Không” như vậy, gọi là đại phương tiện của giới Bồ-tát, là được trí vô thượng của Như Lai. Nếu có tu tập giới Bồ-tát nầy thì được trí chân thật, thấy biết tất cả các pháp là vô ngã, ngã sở, rõ các pháp tánh, nên đối với pháp, tâm không hề tham đắm, cũng nói là Thế đế, Đệ nhất nghóa đế. Thấy tất cả pháp mà tâm bình đẳng, có thể ban sự bố thí lớn, do nhân duyên bố thí nên khéo biết việc thế gian, tuy học việc thế gian mà tâm không nhàm chán hối hận, tức được biết rõ đạt được niệm lực lớn. Tuy biết việc thế gian mà tâm không kiêu mạn, thường chỉ dạy chúng sinh tâm không sẻn tiếc, dùng phương tiện khéo léo chỉ dạy chúng sinh những việc thế gian, khiến cho họ chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Bồ-tát đối với việc thế gian nầy siêng năng tu tập không nhàm chán hối tiếc. Nếu khi thấy chúng sinh chịu khổ nãothì liền được tăng trưởng tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Bồ-tát tăng trưởng pháp thiện như vậy mà tâm không kiêu mạn, đối với chúng sinh, sinh tâm thương xót, Bồ-tát tăng trưởng trí tuệ như vậy, không sinh kiêu mạn, nên có thể phá trừ các tà kiến của chúng sinh. Nếu Bồ-tát đắc Tam-muội thế gian và xuất thế gian, không hiển bày đức của mình khiến người khác cúng dường, không bị pháp thế gian làm cho nhiễm ô, Bồ-tát bấy giờ thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, gọi là giới Bồ-tát. Như Bồ-tát Ma-ha-tát có được pháp thiện, đều đem hồi hướng về đạo Bồ-đề, đó gọi là giới Bồ-tát. Đời quá khứ, Bồ-tát chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đều do thành tựu giới cấm của Bồ-tát, vị lai hiện tại cũng vậy. Bồ-tát Ma-ha-tát thọ trì các pháp Bồ-tát trong ba đời, có thể dùng pháp Phật giáo hóa chúng sinh, chí tâm tu hành đạo Bồ-đề, vì đạo Bồ-đề mà không tiếc thân mạng, không tiếc thân mạng là giới Bồ-tát. Nếu tiếc thân mạng thì trọn không thể đạt được giới cấm của Bồ-tát, cho đến tham tiếc vật nhỏ bằng một tiền, cũng không thể đạt được giới cấm của Bồ-tát. Bồ-tát Ma-ha-tát vì chúng sinh cho nên thọ thân và chứa của cải, nếu đối với hai thứ nầy sinh tâm sẻn tiếc, tức là Bồ-tát giả danh, là Bồ-tát phi nghóa. Nếu Bồ-tát không tiếc thân mạng, tài vật, phải biết đấy là Bồ-tát có thể đem lại lợi ích cho chúng sinh, có thể thực hành nhẫn nhục, có thể phá trừ tâm sân hận ganh ghét, hiểu rõ việc thế gian, khéo biết phương tiện, có thể phá tan tâm nghi của chúng sinh, có thể tự tăng trưởng nhân quả Bồ-đề, khéo điều phục các căn, không bị bốn điên đảo khuấy động, có thể hiểu nghóa thâm diệu của các pháp, có thể hành đầy đủ bốn tâm vô lượng, thành tựu năm thông, bốn trí vô ngại, quán sát rốt ráo mười hai nhân duyên, mau chứng đắc địa Bồ-tát, được thân thường, lạc, ngã, tịnh, được đại tự tại nơi Niết-bàn vô thượng, khéo khai thị phương tiện Niết-bàn. Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu vô lượng công đức như vậy, đều do nhân duyên giới cấm mà được. Bồ- tát Ma-ha-tát thành tựu đầy đủ giới Bồ-tát, có thể làm người giúp việc cho chúng sinh, nếu bị chúng sinh mắng chửi đánh đập thì sinh tâm từ, nếu thấy chúng sinh bị phiền não bức bách nặng nề tức phát tâm thương xót, vì muốn phá diệt phiền não cho chúng sinh, nên nhất tâm luôn suy nghó các phương tiện hay khéo. Đối với chúng sinh tâm không gian trá, tùy theo khả năng mà ban vui cho chúng sinh, không cầu báo ân, cũng không ôm lòng sân hận, vì phá trừ tâm sân hận ưu não của chúng sinh mà suy nghó về phương tiện biết ân và nhớ ân. Nếu người thiếu thốn đến mong cầu, trước tiên ý phải thực hành bố thí, nếu mình có mà không bố thí là không thành tựu giới cấm của Bồ-tát. Người mong cầu đến ba lần mà không bố thí đó là phạm tội nặng, nếu dùng phương tiện lời lẽ hay để an ủi họ, khiến người cầu xin không sinh tâm oán hận, đấy là không phạm. Người mong cầu có hai hạng: Một là nghèo thiếu. Hai là tà kiến. Không bố thí cho người nghèo thì liền đắc tội, không bố thí cho người tà kiến thì không gọi là phạm. Người không phạm thì gọi là hạnh thiện. Bồ-tát hạnh thiện biết rõ pháp giới không thể nêu nói, biết tánh của pháp giới, biết thế gian lưu hành rộng khắp. Thế gian lưu hành rộng khắp tức là sắc, tho, tưởng, hành, thức, cho đến Niết-bàn, tất cả đều không gọi là chân thật. Vì sao? Vì sắc nầy chẳng phải có chẳng phải không, cho đến Niết-bàn cũng chẳng phải có chẳng phải không. Nêu chẳng phải có chẳng phải không thì thế nào là chân thật? Thế nào là chẳng phải có? Chúng sinh điên đảo chấp sắc là ngã, cho đến Niết-bàn cố chấp cho là ngã. Đấy gọi là chẳng có. Thế nào là chẳng phải không? Thế gian lưu hành khắp, không phải lừa dối, có thể tuyên thuyết, đấy là chẳng phải không. Vì thế nên gọi là chẳng phải có chẳng phải không. Nếu chỗ thuyết pháp mà nói có, thì trong một pháp có vô lượng danh, vô lượng danh nên có vô lượng tánh. Vì sao? Vì trong mỗi một pháp có vô lượng danh. Vì sao gọi là vô lượng danh? Như một pháp là sắc mà nói xanh, vàng, cũng nói là trắng, đỏ, dài, ngắn, vuông, tròn, thô, tế, có thể thấy, không thể thấy, có đối không đối, nhám, nặng, nhẹ. Đây gọi là có thể thuyết. Tùy theo chỗ nói có, nên trong một pháp có vô lượng tướng, chỗ có thể tuyên thuyết thật ra không có tánh nhất định, dùng lời nói để lưu hành khắp ở đời, thật sự là không thuyết và có tánh chân thật. Tất cả các pháp cũng lại như vậy. Như trong sắc cho đến Niết-bàn là có thật tánh, không nên nói xanh, vàng, trắng, đỏ, cho đến nặng nhẹ. Nếu không có thật tánh, thì lúc chưa lưu hành khắp làm sao có thể truyền. Do tánh lưu hành khắp là có, lại không có sự bắt đầu, kết thúc, cho nên có thể lưu hành khắp. Nếu lúc chưa có sắc mà có lưu hành khắp, thì do nhân duyên gì, lúc không có sắc không lưu hành khắp! Nếu sự lưu hành khắp ấy có thể làm tánh của sắc, thì tại sao lưu hành khắp không thể làm tánh của vô lượng sắc, cho nên pháp tánh không thể tuyên thuyết. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến Niết-bàn cũng lại như vậy. Có hai hạng người xa lìa pháp Phật, chẳng phải là đệ tử của Phật, mãi mãi mất pháp Phật. Một là nói từ sắc cho đến Niết-bàn có tánh chân thật. Hai là không tin tánh thế gian lưu hành khắp. Hai hạng người như vậy không thể thọ trì giới cấm của Bồ-tát, nếu có lãnh thọ tức không đắc giới, vị thầy ắt có tội. Vì sao không đạt được? Do phỉ báng pháp thật và đắm vào pháp sai, cho nên tuy lãnh thọ mà trọn không đắc giới. Nếu không đắc giới thì không được gọi là đệ tử của Phật, ở trong pháp nầy, vì thế gọi là xa lìa pháp Phật. Giới Bồ-tát chẳng phải do nơi miệng mà được, tâm và miệng hòa hợp sau đó mới được. Như hai hạng người nầy đều không có tâm thật thì làm sao mà đạt được. Nếu ở trong sắc mà vọng sinh chấp trước, thì đối với pháp Phật mãi mãi bị mất. Nếu không tin sắc là lưu hành khắp, đó gọi là hủy báng tất cả pháp, người nầy mãi mãi mất đi pháp Phật. Vì thế, không thể tuyên thuyết hoặc có hoặc không. Vì sao? Như nhân nơi năm ấm tức có ngã, nhân, chúng sinh, só phu, nếu không có năm ấm thì các danh như vậy do đâu mà lưu hành khắp. Sắc cũng như thế, vì có sắc cho nên có vô số các thứ danh tự lưu hành khắp. Pháp chân thật thì không có lưu hành khắp, lìa pháp chân thật cũng không lưu hành khắp. Người ngu si nói các pháp là Không thì mắc tội lớn. Nếu có người nói trong kinh Đại thừa nơi tất cả pháp là Không, cũng mắc tội lớn. Vì không khéo hiểu nghóa của kinh Đại thừa, sinh tâm kiêu mạn nói là ta khéo hiểu, tùy theo tâm vọng tưởng suy nghó, rộng nói cho người cũng mắc tội lớn. Nếu nói tánh của tất cả các pháp là không có làm sao có thể lưu hành khắp ở đời thì cũng mắc tội lớn. Vì sao? Vì đã hủy báng tất cả pháp. Hủy báng tất cả pháp tức là đệ tử của ngoại đạo Phú-lan- na. Phú-lan-na cho tánh của các pháp là không có mà trong pháp Phật thì nói cũng có, cũng không. Nếu có người nói tất cả pháp là “không”, phải biết không nên cùng người nầy ở chung, cùng bàn luận, cùng bố- tát, thuyết giới, nếu cùng ở chung cho đến thuyết giới thì mắc tội lớn. Vì sao? Vì không hiểu nghóa “không”, nên người nầy không thể tự lợi, lợi tha. Do đó, trong kinh Đại thừa nói: “Nếu không hiểu nghóa “không” thì còn thua người ngu si”. Vì sao? Người ngu si nói sắc là ngã, cho đến thức là ngã, có ngã kiến nhưng không hủy hoại pháp Phật. Nếu không hiểu nghóa “không” tức mãi mãi phá hoại pháp Phật, làm cho diệt mất. Người sinh ngã kiến không đến mức rơi vào ba đường ác, người không hiểu nghóa Không mà tuyên thuyết rộng cho mọi người nghe, phải biết người nầy ắt đọa vào ngục A tỳ. Người có ngã kiến nhưng không hủy báng Tam bảo, người vọng nói về “không” tức là phỉ báng Tam bảo. Người nói có ngã mà không lừa dối chúng sinh, không phỉ báng thật tánh, không làm trở ngại pháp tánh, không trở ngại chúng sinh, có thể được giải thoát, không dạy người hủy phá giới cấm. người không hiểu nghóa “không” là phỉ báng tất cả pháp, không hiểu thật tánh, không hiểu pháp tánh, gây trở ngại cho giải thoát, cùng với nhiều chúng sinh làm tri thức ác, tự mình không trì giới lại dạy người phá giới, thường ưa nêu bày không làm, không thọ, khiến nhiều chúng sinh tăng trưởng nhân địa ngục. Vì nghóa nầy, nên gọi là xa lìa pháp Phật vô thượng. Thế nào gọi là không hiểu về nghóa Không? Nếu có Tỳ-khưu, Tỳ- khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, không tin thọ “không”, không hiểu về “không”, không hiểu về pháp, đây gọi là không hiểu về nghóa “Không”. Vì sao? Nói tất cả pháp bản tánh tự là “không”, chẳng có nhân duyên là “không”, nói tất cả pháp cũng không có xứ sở. Nếu không có xứ sở thì sao gọi là không? Đây tức là không hiểu về nghóa “không”. Thế nào gọi là hiểu đúng về nghóa Không? Nếu Tỳ-khưu, Tỳ- khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nói trong tất cả pháp là không có tánh, đó gọi là “không”, pháp cũng chẳng phải “không”. Đấy là hiểu nghóa “không”. Hiểu như vậy là không vướng mắc nơi nghóa, không phỉ báng Tam bảo, đây gọi là hiểu đúng đắn, không có sai lầm. Thế nào là hiểu đúng đắn? Như sắc nói sắc, cho đến Niết-bàn, phân biệt không có các thứ tướng tánh. Đây gọi là sắc “không”. Do sắc chân thật lưu hành khắp ở đời, đó gọi là chẳng “không”. Vì nghóa nầy nên nói một pháp sắc cũng có cũng không. Hiểu hai thứ nầy nên cũng là pháp cũng là không, trọn không ở trong đó mà vọng sinh chấp trước. Đây gọi là hiểu đúng về nghóa không. Cho nên trong kinh Đại thừa nói kệ: Một pháp có nhiều tên Trong pháp thật tức không Do không mất tánh pháp Lưu hành khắp thế gian. Như từ sắc cho đến Niết-bàn có nhiều tên gọi. Sắc không có tự tánh. Không tự tánh thì không có nhiều tên. Có nhiều tên gọi là lưu hành khắp. Vì nghóa nầy cho nên trong Tạp tạng nói: Chư Phật Thế Tôn không vướng mắc ở chỗ lưu hành khắp, hoặc thấy hoặc nghe, suy nghó hiểu biết. như tên sắc cho đến tên Niết-bàn, gọi là lưu hành khắp. Chư Phật Thế Tôn trọn không nói có tánh lưu hành khắp mà sinh nhiễm chấp. Vì sao? Vì hủy hoại điên đảo. Người có nhiễm chấp gọi là điên đảo. Như Lai đã đoạn trừ tất cả ác kiến cho nên không nhiễm chấp, do không thấy, không nói, không nhiễm chấp nên gọi là chánh kiến. Vì thế Như Lai vì Tỳ-khưu Ca-chiên-diên mà nói: - Nầy Ca-chiên-diên! Thế nào, đệ tử của ta không chấp ở địa định, thủy, hỏa, phong, không định, thức định, vô sở hữu định, phi hữu tưởng, phi vô tưởng định, chẳng phải đời nầy, chẳng phải đời sau, chẳng phải trời, chẳng phải trăng, chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng suy nghó, chẳng so lường, chẳng thủ, chẳng đắc, chẳng giác, chẳng quán. Đây gọi là thiền định. Thế nào là Tỳ-khưu không chấp ở địa định? Tỳ-khưu đối với địa không nghó về tướng của địa, cho đến giác quán, không nghó về tướng giác quán. Đây gọi là không chấp nơi địa định, cho đến giác quán cũng lại như vậy. Nếu có Tỳ-khưu tu tập định như thế, tức được chư Thiên, Đế thích, Phạm thiên, cũng như chư Phật, Đại Bồ-tát trong mười phương khen ngợi: Nam mô Đại só! Nam mô Đại só! Và cùng nói: Ta đều không biết ông ở tại định nào, tu tập định nào. Nếu có chấp trước về tướng của địa, danh của địa, phải biết người nầy không gọi là tu pháp “không”. Nếu ở trong sắc mà không chấp trước về danh tướng, đây gọi là tu pháp “không”, vì lưu hành khắp cho nên tuyên thuyết về tướng của địa và danh của địa. Nếu chấp trước nơi tướng sắc cho đến danh của sắc, gọi là tăng trưởng tướng. Nếu hủy hoại tướng sắc cho đến danh của sắc, gọi là phóng xả tướng, không tăng không xả gọi là trung đạo. Tu tập hai tướng như vậy, gọi là Tỳ-khưu tu tập địa định, cho đến giác quán. Nếu có Tỳ-khưu tu định nầy thì gọi là thật tướng, do thật tướng nên Tỳ-khưu đối với pháp không có ngôn thuyết, vì tánh của các pháp là không thể nói, do đó Tỳ-khưu không có ngôn thuyết. Nếu tất cả pháp là không thể nói, tại sao lại nói là “không thể nói”? Nếu không thể nói tại sao được nghe. Nếu không nói, không nghe, làm sao được biết là tất cả các pháp là không thể tuyên thuyết, vì có thể biết cho nên nói, khiến được lưu hành rộng khắp. Người ngu si không biết, không hiểu thế gian lưu hành khắp, ở trong các pháp sinh ra tám thứ sai lầm: Một là tánh sai lầm. Hai là phân biệt sai lầm. Ba là tụ sai lầm. Bốn là ngã sai lầm. Năm là ngã sở sai lầm. Sáu là ái sai lầm. Bảy là bất ái sai lầm. Tám là phi ái phi bất ái sai lầm. Trong tám thứ sai lầm nầy, ba thứ sai lầm trước chính là căn bản của tất cả sai lầm, chấp tánh chấp danh thì không hiểu về lưu hành khắp. Từ đây, lần lượt sinh ra vô lượng sai lầm. Ngã và ngã sở sai lầm gọi là ngã kiến. Ngã kiến lại là căn bản của các kiến, hai thứ sai lầm nầy từ kiêu mạn sinh ra. Cho nên, kiêu mạn là căn bản của các kiến. Ba thứ sai lầm sau cùng là từ tham, sân, si sinh ra. Tám thứ sai lầm ấy thâu giữ tất cả phiền não, kiết sử khiến các chúng sinh luân hồi trong ba cõi. Thế nào gọi là tánh sai lầm? Như sắc tạo tưởng chấp về sắc, cho đến nặng, nhẹ, đều tạo tưởng chấp về nặng nhẹ. Đây gọi là tánh sai lầm. Thế nào là phân biệt sai lầm? Như phân biệt sắc là sắc, là chẳng phải sắc, là có thể thấy, là không thể thấy, là có đối, là không đối. Đây gọi là phân biệt sai lầm. Thế nào là tụ sai lầm? Như ở trong sắc thấy ngã, chúng sinh, só phu, thọ mạng, phòng nhà, bốn chúng, quân binh, y thực, hoa sen, xe cộ, rừng cây tích tụ. Như vậy trong ấy mỗi thứ làm một tướng. Đây gọi là tụ sai lầm. Thế nào là ngã, ngã sở sai lầm? Ở trong hữu lậu mà chấp lấy ngã, ngã sở, ở trong vô lượng đời thường sinh chấp trước nơi ngã, ngã sở. Đây gọi là ngã, ngã sở sai lầm. Thế nào là ái sai lầm? Ở trong vật tịnh mà sinh tâm tham đắm. Đây gọi là ái sai lầm. Thế nào là bất ái sai lầm? Ở trong vật bất tịnh mà sinh tâm sân hận. Đây gọi là bất ái sai lầm. Thế nào là phi ái, phi bất ái sai lầm? Ở trong tất cả vật tịnh và bất tịnh mà sinh tâm tham đắm, sân hận. Đây gọi là phi ái phi bất ái sai lầm. Bồ-tát Ma-ha-tát làm sao có thể biết tám thứ sai lầm nầy? Phải nên suy cầu bốn việc: Một là suy danh. Hai là suy vật. Ba là suy tánh. Bốn là suy phân biệt. Thế nào là suy danh? Bồ-tát Ma-ha-tát chỉ biết danh của danh, không thấy danh vật. Đây gọi là suy cầu về danh. Thế nào là suy vật? Chỉ biết vật nầy, không biết thứ khác. Đây là suy cầu về vật. Thế nào là suy tánh? Biết danh lưu hành khắp, đây gọi là suy cầu về tánh. Thế nào là suy phân biệt? Danh không thấy vật, vật không thấy danh. Đây gọi là suy cầu phân biệt. Bồ-tát Ma-ha-tát tại sao suy cầu về danh: Là nhận biết danh thật của danh cho nên suy cầu về danh. Bồ-tát quán xét kỹ, nếu không có danh của sắc thì do đâu nói sắc, nếu không nói sắc thì làm sao quán sắc, nếu không quán sắc làm sao chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng? Cho nên Bồ-tát suy cầu mà biết danh. Bồ-tát tại sao suy cầu ở vật? Nếu không có vật thì sao có danh nầy, mà danh nầy chẳng phải không thể nói, nếu không thể nói làm sao được biết tánh của các pháp, cho nên Bồ-tát suy cầu ở vật. Bồ-tát tại sao suy cầu ở tánh? Bồ-tát Ma-ha-tát biết tánh sắc cho đến tánh Niết-bàn, biết sắc lưu hành khắp cho đến Niết-bàn lưu hành khắp. Thế nào gọi là biết ở tánh sắc? Biết tánh sắc nầy như hình tượng trong gương, cảnh mộng huyễn hóa, như tiếng vang, như dợn nắng, như trăng trong nước. Đây gọi là suy cầu về tánh. Bồ-tát tại sao suy cầu phân biệt? Bồ-tát Ma-ha-tát nếu phân biệt danh, phân biệt vật, phân biệt tánh, phân biệt pháp, phân biệt phi pháp, phân biệt hữu, vô, thị sắc, phi sắc, có thể thấy, không thể thấy. Đây gọi là phân biệt. Do phân biệt nên chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Vì thế Bồ-tát suy cầu phân biệt. Bồ-tát Ma-ha-tát vì trừ tám thứ sai lầm mà suy cầu bốn việc. Tại sao Bồ-tát phá trừ tám thứ sai lầm nầy? Do nhân duyên của tám thứ sai lầm nầy làm tăng trưởng tà kiến, tăng trưởng tà kiến nên phiền não tăng trưởng; phiền não tăng trưởng nên sinh tử tăng trưởng; sinh tử tăng trưởng nên mười hai nhân duyên tăng trưởng. Nếu Bồ-tát tu tập bốn việc như vậy tức đoạn trừ được tà kiến. Tà kiến đoạn cho nên các phiền não diệt. Phiền não diệt cho nên sinh tử diệt. Sinh tử diệt nên biết mười hai nhân duyên diệt. Biết mười hai nhân duyên diệt nên tu đạo vô thượng. Do tu đạo vô thượng nên chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Vì chứng đắc đạo quả ấy nên có thể phá trừ tám thứ sai lầm của chúng sinh, có thể giáo hóa chúng sinh, biết thế gian lưu hành khắp và thuyết nghóa chân thật. Nếu trừ bỏ tám thứ sai lầm của chúng sinh như vậy, thì gọi là Đại Niết-bàn, có thể được đại tự tại ngay đời nầy, được đại thần thông, được đại phương tiện, được đại thiền định, được đại nhất thiết trí, cầu được xứ không thối, không đọa. Đây gọi là Đại Niết-bàn. Bồ-tát Ma-ha-tát đạt được đại tự tại tức thành tựu năm việc: Một là tâm được vắng lặng. Hai là hiểu biết rõ việc thế gian và xuất thế gian. Ba là vì chúng sinh nên ở trong sinh tử tâm không ưu sầu. Bốn là hiểu biết tạng mật thâm diệu của Như Lai. Năm là tâm Bồ-đề không thể hủy hoại. Tại sao tâm Bồ-tát được vắng lặng? Do có thể phá trừ phiền não hiện tại của chúng sinh nên tâm được vắng lặng, vì điều phục chúng sinh mà chứng đắc pháp Phật. Bồ-tát hiểu biết việc thế gian và xuất thế gian, vì khiến chúng sinh được căn tánh lanh lợi. Bồ-tát ưa ở trong sinh tử, tâm không sầu não, vì muốn hủy hoại tâm nghi của chúng sinh. Bồ-tát thọ trì đọc tụng hiểu biết tạng mật thâm diệu của Như Lai, do có người pháp nói là phi pháp, làm cho pháp Phật bị diệt, làm cấu uế pháp Phật, phạm nói không phạm, lãnh thọ cất chứa tám vật bất tịnh. Vì muốn diệt bỏ các pháp ác như vậy, nên Bồ-tát thọ trì tuyên thuyết giải nghóa bí mật thâm diệu của Như Lai. Tuy nhận biết sách luận vi tế của ngoại đạo và hiểu rõ về nghóa lý, nhưng trọn không hủy hoại tâm Bồ-đề. Năm việc như vậy thâu giữ mọi việc Bồ-đề của Bồ-tát, cũng gọi là năm việc, cũng gọi là năm công đức. Những gì gọi là việc Bồ-đề? Là có thể tự tạo lợi ích, điều phục chúng sinh, thọ trì pháp Phật không phá bỏ giới cấm của Bồ-tát, tâm Bồ-đề trọn không lay động, siêng năng tinh tấn diệt trừ tà kiến, tuyên thuyết đạo ba thừa. Bồ-tát thành tựu năm việc như vậy có ba hạng là thượng, trung và hạ, đầy đủ hai việc thì gọi là hạ, đầy đủ ba việc thì gọi là trung, nếu đủ bốn việc thì gọi là thượng. <詞>Phẩm 6: ĐỊA BỒ TÁT BẤT KHẢ TƯ NGHÌ Thế nào là Bồ-tát Ma-ha-tát bất khả tư nghì? Tức Bồ-tát Ma-ha- tát được Tam-muội tự tại, phát tâm rồi được vô lượng công đức, không tạo tác nghiệp mà được quả báo, không tu Thánh đạo mà được Thánh tâm. Đây gọi là Bồ-tát bất khả tư nghì. Ít tạo nghiệp thiện mà được quả báo lớn, vì Bồ-đề cho nên ở trong vô lượng đời tu các hạnh khổ, Bồ-tát biết thật không có chúng sinh mà có thể siêng tu hạnh khổ, biết việc không làm không thọ mà có thể làm có thể thọ. Đây gọi là Bồ-tát bất khả tư nghì. Bất khả tư nghì gồm có năm lọai: Một là sáu thần thông không thể nghó bàn. Hai là pháp không thể nghó bàn. Ba là cộng sinh không thể nghó bàn. Bốn là bất cộng sinh không thể nghó bàn. Năm là cộng sinh, bất cộng sinh không thể nghó bàn. Thế nào là sáu thần thông? Đó là thần túc thông, thiên nhó thông, thiên nhãn thông, tha tâm thông, túc mạng thông, và lậu tận thông. Đây gọi là sáu thần thông không thể nghó bàn. Thế nào là pháp không thể nghó bàn? Ấy là Bố thí Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la- mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền định Ba-la-mật và Bát nhã Ba-la-mật. Đây gọi là pháp không thể nghó bàn. Thế nào là thần thông? Thần thông có hai thứ: Một là biến. Hai là hóa. Biến tức là chấn động phát ra lửa, thị hiện, ánh sáng, tự chuyển thân mình, hoặc hiện sự đi, đến, hiện các thứ sắc, ẩn hiện giữa đại chúng, ngăn che thần thông của người khác, lời lẽ vô ngại, ban sự an lạc cho người khác, ban sự nhớ nghó cho mọi người, phóng hào quang lớn. Đây gọi là thần thông biến. Thế nào là chấn động? Bồ-tát Ma-ha-tát được Tam-muội tự tại, có thể làm chấn động phòng nhà, xóm làng, thôn ấp, thành quách, quốc độ, từ bốn thiên hạ cho đến ngàn thế giới, hai ngàn thế giới, tam thiên(ba ngàn) đại thiên thế giới, trăm tam thiên đại thiên thế giới, ngàn tam thiên đại thiên thế giới, ngàn vạn tam thiên đại thiên thế giới, cho đến vô lượng vô biên thế giới. Đây gọi là chấn động. Thế nào là phát ra lửa? Tức trên thân phát ra lửa dưới thân phát ra nước, trên thân phát ra nước dưới thân phát ra lửa, hoặc cử thân phát ra lửa tạo ra vô số thứ sắc xanh, vàng, đỏ, tía, trắng, đen pha lê. Đây gọi là phát ra lửa. Thế nào gọi là ánh sáng? Tức thân phát ra ánh sáng đầy khắp một nhà, thôn ấp, xóm làng, cho đến vô lượng vô biên tam thiên đại thiên thế giới. Đây gọi là ánh sáng. Thế nào gọi là thị hiện? Tức chư Phật, Bồ-tát vì độ chúng sinh mà thị hiện các loại địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời, người, Càn-thát- bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, hoặc thị hiện mười phương thế giới với vô lượng vô biên hằng hà sa quốc độ của chư Phật, cùng thân Phật và chư Đại Bồ-tát, nói danh hiệu chư Phật khiến các chúng sinh đều được nghe biết. Đây gọi là thị hiện. Thế nào gọi là chuyển? Tức chư Phật Bồ-tát được Tam-muội tự tại, có thể biến đất thành lửa, biến lửa thành nước, gió cũng như vậy. Biến sắc thành hương, biến hương làm sắc, sắc hương vị xúc biến làm cỏ cây, y phục, thức ăn, anh lạc, khí cụ, lưu ly, chân châu, vàng bạc, núi non, sắc tốt thành xấu, sắc xấu làm tốt. Đây gọi là chuyển. Thế nào là đi, đến? Hoặc ở chỗ Phạm thiên, hoặc từ chỗ Phạm thiên trở về, hoặc ở trên cõi trời A-ca-ni-trá, hoặc từ cõi nầy trở về, hoặc đến các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương phụ và trên dưới, cho đến vô lượng vô biên thế giới cũng đều như vậy. Xa có thể làm gần, gần có thể làm xa, có thể khiến núi Tu-di nhỏ như vi trần, kh- iến vi trần lớn bằng núi Tu-di. Đây gọi là đi đến. Thế nào là các thứ sắc? Hoặc hiện thân mình, hoặc hiện thân nam, nữ, lớn, nhỏ, đầy tớ, cỏ cây, vườn rừng. Đây gọi là các thứ sắc. Thế nào là ẩn, hiển tự tại giữa đại chúng? Tức có thể đem đại chúng vào trong thân mình mà tâm không sợ sệt, thân không trở ngại, các đại chúng nầy không tự biết đi đến chỗ nào. Có lúc đến chúng Bà- la-môn mà hiện thân đồng như vậy: Đồng sắc, đồng y phục, đồng hình thức, không khác với họ, âm thanh cũng không khác, kia nói đây cũng có thể nói, kia không thể nói, đây cũng có thể nói; có thể dùng phương tiện khéo dắt dẫn người ấy, chỉ bày rồi liền mất khiến chúng kia không biết đến từ đâu, mất về đâu, là trời hay người. Như chúng Bà-la-môn, các chúng Sát lợi, chúng Đại hội, chúng Trưởng giả, chúng Tứ thiên vương, chúng Tam thập tam thiên, chúng Dạ ma thiên, chúng ở cõi trời Đâu suất, chúng ở cõi trời Hóa tự tại, chúng ở cõi trời Tha hóa tự tại, chúng Phạm, chúng Phạm sư thiên, chúng Đại Phạm thiên, chúng Thiểu quang thiên, chúng Vô lượng quang thiên, chúng Tịnh quang thiên, chúng Thiểu thiện thiên, chúng Đại thiện thiên, chúng Vô biên thiện thiên, chúng Vô vân thiên, chúng Phước sinh thiên, chúng Quảng quả thiên, chúng Vô nhiệt thiên, chúng Vô cuống thiên, chúng Thiện kiến thiên, chúng Ái kiến thiên, chúng A-ca-ni-trá thiên, tất cả cũng đều như thế. Ở nơi các chúng chư Thiên như vậy, chỉ trong khoảnh khắc mà trăm lần ra trăm lần vào, ngàn lần ra ngàn lần vào, ngàn vạn lần ra ngàn vạn lần vào. Đây gọi là ẩn hiển tự tại giữa đại chúng. Thế nào là ngăn che thần thông của người khác? Trừ Đức Phật Thế Tôn, còn Bồ-tát Ma-ha-tát là đồng hành, đồng tánh, đồng định, Bồ-tát có được thần thông, hơn tất cả thần thông nội ngoại. Đây gọi là ngăn che thần thông khác. Thế nào là lời lẽ vô ngại? Lúc Bồ-tát Ma-ha-tát thuyết pháp, thì lời lẽ vô tận, nghóa vị vô tận, nhạo thuyết vô tận. Đây gọi là lời lẽ vô ngại. Thế nào là ban sự nhớ nghó cho người khác? Lúc Bồ-tát Ma-ha-tát thuyết pháp, có vô lượng chúng sinh trong vô lượng đời bị mất chánh niệm đều khiến nhớ lại. Đây gọi là ban sự nhớ nghó cho người khác. Thế nào là ban sự an lạc cho mọi người? Lúc Bồ-tát Ma-ha-tát thuyết pháp, có thể khiến thân tâm của chúng sinh được an lạc nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng, phá diệt chướng phiền não, người nghe thấy hoan hỉ an lạc như ở thiền thứ ba, các hoạn trong thân bốn đại đồng thời tiêu diệt, các quỷ ác không làm hại. Đây gọi là ban sự an lạc cho mọi người. Thế nào là phóng ra ánh sáng lớn? Bồ-tát Ma-ha-tát phóng ra hào quang lớn chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới, chiếu đến địa ngục phá trừ sự khổ trong ấy, đến cõi trời phóng dật chỉ dạy pháp tu, khiến họ được thân người đi đến chỗ Phật, thỉnh mời vô lượng Bồ-tát trong mười phương tập hợp nơi chỗ Phật, giáo hóa chúng sinh. Đây gọi là phóng ra ánh sáng lớn. Các việc thần thông như vậy, vì tánh chuyển pháp nên gọi là thần thông biến. Thế nào gọi là thần thông hóa? Vật không làm có vật, nên gọi là hóa, hoặc là hóa thân, hoặc hóa hiện âm thanh. Hóa thân tức là hóa tợ như thân mình, hoặc tợ như thân khác, có căn đầy đủ hoặc không đầy đủ. Ngoài ra hóa hiện các thứ như trong phần gọi là chuyển, lại còn hóa làm vô lượng thân. Chư Phật Bồ-tát vì chúng sinh nên hóa làm vô lượng thân, hiện bày khắp vô lượng thế giới, có Phật Bồ-tát hiện biến hóa thân, hoặc là hư huyễn, hoặc là chân thật. Y phục, thức ăn, vàng, bạc, lưu ly, chân châu, pha lê, cũng lại như vậy, vì muốn phá bỏ sự bần cùng khốn khổ cho chúng sinh. Đây gọi là hóa thân. Hóa âm thanh tức là chư Phật, Bồ-tát hóa hiện âm thanh vi diệu, âm thanh mau chóng, âm thanh tốt đẹp, âm thanh về nghóa tự thuyết, âm thanh về nghóa tha thuyết, âm thanh vô nghóa, âm thanh thuyết pháp, âm thanh giáo hóa, các âm thanh nầy có thể phá trừ tâm phóng dật của chúng sinh, nên gọi là hóa thanh. Âm thanh của Phật, Bồ-tát sâu xa như sấm, như tiếng Ca lăng tần già, tiếng người ưa nghe, tiếng hiện hữu khắp, tiếng tư duy, tiếng thấu tỏ, tiếng dễ hiểu, tiếng nghe vui, tiếng không tham đắm, tiếng không quở trách, tiếng vô tận. Bồ-tát Ma-ha-tát có các âm thanh như vậy, tất cả chúng trời, chúng người, chúng Thanh văn, chúng Duyên giác, chúng Bồ-tát hiện có trong tam thiên đại thiên thế giới, hoặc gần hoặc xa, tất cả đều được nghe, trong âm thanh ấy phát ra các pháp làm lợi ích cho chúng sinh. Âm thanh tự hóa là cũng như tự thuyết pháp, vì chúng sinh phóng dật nên nói. Âm thanh Tha hóa tức là hóa thân của Phật, vì người khác mà thuyết pháp, cũng vì chúng sinh phóng dật. Âm thanh nghóa là như hư không phát ra tiếng. Âm thanh thuyết pháp thanh là vì chúng sinh ngu si. Âm thanh giáo hóa tức vì các chúng sinh phóng dật, muốn làm tăng trưởng hạnh không phóng dật. Chư Phật Bồ-tát hóa hiện thần thông như vậy, lần lượt đến vô lượng không thể xưng kể, thần thông biến hóa vô lượng như thế là vì hai việc: Một là muốn khiến chúng sinh có tâm tin hướng đến pháp Phật. Hai là vì thị hiện phước điền vô thượng cho chúng sinh bần cùng khốn khổ. Thế nào là túc mạng trí? Bồ-tát Ma-ha-tát tự biết đời trước cùng những chúng sinh chung ở, chung làm như vậy, tự biết danh tự và danh tự của người, biết chủng tánh của mình và chủng tánh của người, biết việc ăn uống của mình và ăn uống của người, biết khổ vui của mình và khổ vui của người. Bồ-tát tự biết các việc đời trước như thế, cũng có thể giáo hóa người khác khiến họ biết đời trước, tự biết vô lượng việc đời, cũng có thể giáo hóa người khác biết vô lượng việc đời, hoặc thô hoặc tế. Đây gọi là túc mạng trí. Do uy lực của túc mạng trí ấy nên có thể nói về nhân duyên đời trước của Bồ-tát, khiến các chúng sinh hiện tại sinh tâm tín đối với pháp Phật. Nói kinh bản nhân duyên của Bồ-tát như kinh Xà Đà Già, kinh A Phù Đà Na, nói về nhân duyên của nghiệp ác nghiệp thiện, để phá bỏ thường kiến đoạn kiến của chúng sinh. Đây gọi là túc mạng trí của Bồ-tát. Thế nào thiên nhãn thông? Do thiên nhãn của Bồ-tát Ma-ha-tát là hơn nhục nhãn của con người, Bồ-tát thấy rõ chúng sinh chết đây sinh về kia, hoặc sắc thô, hoặc sắc tốt, hoặc đẹp hoặc xấu, thấy rõ nghiệp thiện ác và quả thiện ác của chúng sinh, hoặc già hoặc trẻ, hoặc tự làm hoặc bảo người khác làm, hoặc thô, hoặc tế, hoặc thấy sắc ở cõi trời, người, hoặc sắc ở ba đường ác, cho đến sắc của chúng sinh trong vô lượng mười phương thế giới, vô lượng cõi Phật, thấy rõ lúc chư Phật ở vô lượng mười phương diễn thuyết chánh pháp. Đây gọi thiên nhãn thông. Thế nào gọi là thiên nhó? Âm thanh mà Bồ-tát Ma-ha-tát nghe được, như là tiếng trời, tiếng người, tiếng Thánh, tiếng phi Thánh, tiếng thô, tiếng tế, tiếng hóa hiện, tiếng chân thật, tiếng xa, tiếng gần, tất cả đều nghe hết. Tiếng trời là từ sáu cõi trời nơi Dục giới cho đến cõi trời A-ca-ni- trá, đến mười phương vô lượng thế giới, Bồ-tát nghe hết âm thanh của chư Thiên. Đây gọi là tiếng trời. Tiếng người là mười phương vô lượng thế giới. Tiếng Thánh là chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, vì giáo hóa chúng sinh nên tuyên thuyết pháp Phật, hoặc khen ngợi bố thí, trì giới, nghiệp thiện, phá bỏ nghiệp ác, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh Phật. Đây gọi là tiếng Thánh. Tiếng phi Thánh đó là nói dối, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói lời vô nghóa, trên từ các trời nơi cõi dục, dưới đến ba đường ác, chúng sinh, chư Thiên hiện có trong mười phương, có bốn lời nói ác như vậy. Đó gọi là tiếng phi Thánh. Thế nào là tiếng thô? Tức là tiếng của đại chúng, tiếng của chúng sinh to lớn, tiếng địa ngục, tiếng sấm sét, tiếng loa, tiếng trống. Đây gọi là tiếng thô. Tiếng tế nghóa là tiếng nói trộm, tiếng không hiểu, tiếng nước Đà-tỳ-la, tiếng Túc đặc, tiếng Nguyệt chi, tiếng Đại Tần, tiếng An Tức, tiếng Chân Đan, tiếng Pháp Sa, tiếng Lõa Hình, tiếng Tiên Tỳ, các tiếng nơi biên địa như vậy gọi là tiếng tế. Vì sao? Do nhân duyên ganh ghét và phiền não nên như vậy. Bồ-tát thành tựu thiên nhó như thế, nghe các chúng sinh phát ra âm thanh thiện, khen ngợi cung kính, Bồ-tát giáo hóa khiến trụ trong pháp Phật và sinh tâm tín, rộng phân biệt mười hai bộ kinh và tạng bí mật của Bồ-tát. Nếu nghe tiếng ác thì liền quở trách, nói lỗi của nghiệp ác, khai mở pháp môn đối trị. Đây gọi là thiên nhó thông. Thế nào là tha tâm thông? Bồ-tát biết hết tâm chúng sinh hiện có trong mười phương thế giới, tâm cộng phiền não và tâm bất cộng phiền não, tâm hệ thuộc phiền não và tâm không hệ thuộc, tâm nguyện thiện và tâm nguyện ác, tâm nghi và tâm không nghi, tâm thượng, tâm hạ, tâm tham sân si, tâm dục giới, tâm sắc giới, tâm vô sắc giới, cho đến tâm thọ khổ, vui của tất cả chúng sinh trong đường súc sinh, tâm không khổ không vui. Dùng một tâm mà quán tâm của một chúng sinh, dùng một tâm mà quán tâm của vô lượng chúng sinh. Đây gọi là tha tâm trí thông. Tha tâm trí thông của chư Phật Bồ-tát là biết căn tánh lanh lợi hay chậm lụt của chúng sinh, biết các chủng tánh của chúng sinh, biết chúng sinh nào có tâm thiện liền vì diễn thuyết mười hai bộ kinh và tạng Bồ- tát, biết chúng sinh có tâm ác rồi liền quở trách và nói lỗi của nghiệp ác. Đây gọi là tha tâm trí thông của Bồ-tát. Lậu tận trí thông tức là Bồ-tát Ma-ha-tát vì đoạn trừ phiền não cho nên tu đạo, tự hủy hoại phiền não cho nên tu đạo, vì hủy hoại các phiền não cho chúng sinh nên thuyết pháp, cũng là nhằm phá trừ hữu lậu và kiêu mạn của chúng sinh, phá bỏ phi đạo của chúng sinh. Bồ-tát Ma-ha- tát tuy vì chúng sinh thuyết pháp dứt lậu mà tự mình không dứt hết lậu, tuy chưa dứt sạch tận lậu nhưng không bị cấu nhiễm. Lậu tận thông của Bồ-tát Ma-ha-tát là không thể nghó bàn, tu lậu tận thông là vì giáo hóa chúng sinh, phá trừ kiêu mạn. Đây gọi là lậu tận thông. Thế nào gọi là pháp? Tức là quả của Bố thí Ba-la-mật cho đến Bát nhã Ba-la-mật. Đây gọi là pháp. Sáu thứ quả nầy mỗi thứ có bốn việc: Một là tu tập đạo. Hai là trang nghiêm Bồ-đề. Ba là tự lợi lợi tha. Bốn là đời sau được quả lành lớn. Bồ-tát thực hành bố thí là phá trừ sự tham lam keo kiệt, trang nghiêm đạo Bồ-đề để thâu giữ chúng sinh, vì đạo Bồ-đề mà khiến thực hành bố thí, khi cần thí liền thí, thí rồi sinh hoan hỷ. Đây gọi là tự lợi. Đoạn trừ sự đói khát, nóng lạnh, khổ não, sợ hãi của chúng sinh. Đây gọi là lợi tha. Xả bỏ thân nầy rồi được sự tự tại, tôn quý, nhiều của cải. Đấy gọi là quả lành lớn. Trên đây là bốn việc bố thí của Bồ-tát. Bồ-tát Ma-ha-tát thọ trì giới cấm trừ diệt giới ác, trang nghiêm đạo Bồ-đề để thâu giữ chúng sinh, vì đạo Bồ-đề mà khiến trì giới cấm, xa lìa sợ hãi về phá giới, ngủ yên, thức yên, tâm không hối hận, vui vẻ an lạc. Đây là tự lợi. Đối với chúng sinh không có tâm hại, ban sự vô úy cho chúng sinh. Đây gọi là lợi tha. Trì giới cho nên được sự vui nơi cõi trời, người, được đạo Niết-bàn. Đấy là quả lớn. Trên đây là bốn việc trì giới của Bồ-tát. Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập nhẫn nhục phá bỏ bất nhẫn, trang nghiêm đạo Bồ-đề để thâu giữ chúng sinh, vì đạo Bồ-đề khiến tu nhẫn nhục, hoặc tự mình hoặc người khác xa lìa sợ hãi. Đây là tự lợi lợi tha. Do nhân duyên nhẫn nhục mà không có tâm sân hận, quyến thuộc không ly tán, không có khổ não, tâm không hối hận, xả thân nầy rồi được hưởng sự vui nơi cõi trời người, đắc đạo Niết-bàn. Đấy là quả lớn. Trên đây là bốn việc nhẫn nhục của Bồ-tát. Bồ-tát Ma-ha-tát siêng tu tinh tấn phá trừ biếng trễ, trang nghiêm đạo Bồ-đề để thâu giữ chúng sinh, vì đạo Bồ-đề nên khiến tu tinh tấn, ngủ an, thức an, lìa các phiền não, tăng trưởng pháp thiện, thân được an lạc. Đây gọi là tự lợi. Bồ-tát tinh tấn không đánh đập mắng nhiếc làm não loạn chúng sinh. Đây gọi là lợi tha. Xả thân nầy rồi thọ sự vui ở cõi trời người, thân có lực lớn, được đạo Bồ-đề. Đấy là quả lớn. Trên đây là bốn việc tinh tấn của Bồ-tát. Bồ-tát tu thiền định phá trừ tâm loạn động, trang nghiêm đạo Bồ- đề để thâu giữ chúng sinh, vì đạo Bồ-đề khiến tu thiền định, hiện đời hưởng vui thân tâm tịch tónh. Đây gọi là tự lợi. Vì thân tâm tịch tónh nên không não loạn chúng sinh, đó là lợi tha. Xả thân nầy rồi thọ thân thanh tịnh, an ổn diệu lạc, được đạo Niết-bàn, đó là quả lớn. Trên đây là bốn việc thiền định của Bồ-tát. Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu trí tuệ phá trừ vô minh, trang nghiêm đạo Bồ-đề, dùng bốn nhiếp pháp để thâu giữ chúng sinh, vì đạo Bồ-đề nên tu hành trí tuệ, do biết pháp giới nên thân thọ an lạc, đó là tự lợi. Có thể dùng việc thế gian và xuất thế gian mà giáo hóa chúng sinh, đó là lợi tha. Có thể phá diệt hai chướng phiền não, trí tuệ, đó là quả lớn. Trên đây là bốn việc trí tuệ của Bồ-tát. Thế nào là cộng sinh không thể nghó bàn? Bồ-tát Ma-ha-tát chẳng phải túc mạng trí mà nhớ việc đời trước, quán xét các nghiệp thiện ác của chúng sinh, đồng chịu khổ là vì muốn tạo lợi ích. Bồ-tát Ma-ha-tát ở cõi trời Đâu Suất, thành tựu thọ mạng có ba việc thù thắng: Một là thọ mạng thù thắng. Hai là sắc thù thắng. Ba là danh xưng thù thắng. Lúc ban đầu mới xuống, phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương, tự biết rõ lúc vào thai mẹ, lúc ở trong thai, lúc ra khỏi thai, lúc đi bảy bước đứng giữa mười phương, không người dìu đỡ, tự nói lời: Thân nầy của ta là thân sau cùng. Chư Thiên, quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, dùng các hoa hương, kỹ nhạc, cờ phướn, lọng báu vi diệu mà cúng dường, ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm thân không còn ai hơn, dùng lực từ thiện phá diệt quân ma, mỗi chi tiết trong thân đồng như sức lực lớn của Na la diên, lúc tuổi nhỏ không học việc đời mà có thể biết, lớn lên tự học không thầy mà tự chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, Phạm thiên đến khuyến thỉnh, vì các chúng sinh mà chuyển bánh xe chánh pháp, khi chánh thọ Tam-muội, các thứ âm thanh chấn động đều không thể làm cho động, các loài thú gần gũi thương như cha mẹ, súc sinh dâng thức ăn, biết được tâm Phật, thần mây tuôn mưa xuống tắm gội thân ấy, cây theo cành cong che mát trên thân, khi thành đạo rồi, trong sáu năm ma ác luôn rình tìm hại mà không được, thường ở trong thiền định thành tựu tâm niệm, khéo hiểu biết giác quán khởi, diệt. Đây gọi là Bồ-tát cộng sinh không thể nghó bàn Bất cộng sinh tức là muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh, như người cuồng loạn nhờ thấy Như Lai mà được trở về bản tâm, người mù được mắt, sinh ngược được thuận, người điếc được nghe, người tham sân si được trừ diệt hết. Đây gọi là bất cộng sinh không thể nghó bàn. Lại nữa, cộng sinh là việc làm của Như Lai không thể nghó bàn. Thường nằm nghiêng bên phải như sư tử chúa, dù cỏ hay lá không có loạn động, mặc gió mạnh dữ mà không động y phục, chân bước đi như sư tử vương, như ngỗng chúa trắng, như khi muốn đi trước giở chân phải, chỗ đi đến cao thấp đều bằng phẳng, ăn uống luôn gọn gàng, thuận hợp. Đây gọi là cộng sinh không thể nghó bàn. Lúc Đức Như Lai, Thế Tôn nhập Niết-bàn, đại địa chấn động, phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương cõi, tất cả đều nghe âm thanh của kỹ nhạc. Đây gọi là cộng sinh không thể nghó bàn. Thế nào gọi là cộng? Thanh văn, Duyên giác thì không cùng chung. Không cùng với Thanh văn, Duyên giác gồm có ba: Một là tế. Hai là hành. Ba là cõi. Như Lai biết hết vô lượng phiền não của tất cả chúng sinh và vô lượng cách đối trị, đây gọi là tế. Hành tức là sáu pháp thần thông, sáu pháp Ba-la-mật, pháp tánh tự sinh không thể nghó bàn. Cõi là trí tuệ vô ngại trong tất cả thế gian. Trên đây là cộng sinh bất cộng sinh không thể nghó bàn. Thần thông của Thanh văn bằng hai ngàn thế giới, thần thông của Duyên giác bằng ba ngàn đại thiên thế giới. Chư Phật Bồ-tát thông đạt vô lượng vô biên thế giới. Đó là bất cộng. Cộng là trừ ba việc trên, tất cả pháp còn lại đều gọi là cộng. Cho nên Thanh văn Duyên giác còn bất cộng với chư Phật Bồ- tát, huống là hàng trời, người, phàm phu, ngoại đạo, tà kiến. Sáu pháp Ba-la-mật của Đại Bồ-tát với tánh cộng sinh và bất cộng sinh, là pháp cộng, bất cộng của hàng Thanh văn, Duyên giác. Đây gọi là không thể nghó bàn. <篇>KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI <卷>QUYỂN 3 <詞>Phẩm 7: ĐIỀU PHỤC CỦA ĐỊA BỒ TÁT Thế nào gọi là Bồ-tát điều phục? Điều phục có sáu thứ: Một là tánh điều phục. Hai là chúng sinh điều phục. Ba là hạnh điều phục. Bốn là phương tiện điều phục. Năm là điều phục thành thục. Sáu là ấn thục điều phục. Tánh điều phục nghóa là có chủng tử thiện cho nên tu pháp thiện, do tu pháp thiện mà phá diệt hai thứ chướng là chướng phiền não và chướng trí tuệ. Vì tu pháp thiện nên thân tâm được thanh tịnh, do thân tâm thanh tịnh nên dù gặp bạn lành là chư Phật Bồ-tát hay không gặp cũng có thể phá trừ được hai chướng của phiền não và trí tuệ. Như mụt nhọt đã chín muồi, dù gặp thầy thuốc hay không gặp đều cũng được lành, như đồ bằng đất tùy thời mà dùng, gọi đó là thục. Như quả Am la tùy thời mà ăn, cũng gọi là thục. Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy. Tu tập đạo lành rốt ráo, nhằm chứng đắc đạo quả Bồ- đề vô thượng. Đó gọi là thục, gọi là tánh điều phục. Chúng sinh điều phục gồm có bốn thứ: Một là có tánh Thanh văn đắc đạo Thanh văn. Hai là có tánh Duyên giác đắc đạo Duyên giác. Ba là có tánh Phật đắc đạo Phật. Bốn là có tánh trời người được sự vui nơi cõi trời người. Bốn thứ nầy gọi là chúng sinh điều phục. Hạnh điều phục gồm có sáu thứ: Một là căn điều phục. Hai là thiện căn điều phục. Ba là trí tuệ điều phục. Bốn là hạ điều phục. Năm là trung điều phục. Sáu là thượng điều phục. Căn điều phục tức là do nhân duyên điều phục căn, mà được thân nam tử sống lâu, sắc đẹp, chủng tánh tôn quý, đại lực tự tại, lời lẽ vi diệu không có ai hơn, thành tựu đầy đủ quả báo như vậy, nên có thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, thường vì chúng sinh tu tập khổ hạnh tâm ban đầu ấy không có ưu sầu hối hận. Đây gọi là căn điều phục. Thiện căn điều phục tức là tánh không ưa thích tạo tác nghiệp ác, năm uẩn nhẹ nhàng, các giác quán ác dần dần giảm kém, ưa thọ lời nói thanh tịnh thuần thiện. Đây gọi là thiện căn điều phục. Trí tuệ điều phục tức là Bồ-tát Ma-ha-tát do tu tập trí tuệ nên tâm hành rộng lớn, có thể thọ trì đọc tụng kinh điển, hiểu nghóa thiện ác, tư duy phân biệt rộng vì người nói. Do tu tập trí tuệ nên có thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Nếu có thể đạt đầy đủ căn điều phục, thiện căn điều phục, trí tuệ điều phục, thì có thể diệt sạch hết chướng trí tuệ, nếu đầy đủ căn điều phục thì có thể trừ sạch hết báo chướng, nếu đầy đủ thiện căn điều phục và trí tuệ điều phục, thì có thể diệt sạch hết chướng trí tuệ và chướng phiền não. Hạ điều phục gồm có hai thứ: Một là không ở trong vô lượng đời tu tập pháp thiện. Hai là không ưa suy cầu thiện căn trí tuệ. Đây gọi là hạ điều phục. Trung điều phục tức là ở trong vô lượng đời tu tập pháp thiện, được thiện căn điều phục, nhưng không được trí tuệ. Đây gọi là trung điều phục. Thượng điều phục tức là có đủ ba việc trên gọi là thượng điều phục. Phương tiện điều phục gồm có hai mươi hai thứ: Cõi tăng trưởng. Nhân hiện tại. Vào hàng xuất gia. Mới phát khởi. Chẳng phải mới phát khởi. Tịnh xa. Tịnh gần. Trang nghiêm. Chí tâm. Thí thức ăn. Thí pháp. Vì thị hiện thần thông sinh tâm tín. Vì thuyết pháp được sinh tâm tín. Thuyết tạng pháp thâm diệu, rộng phân biệt pháp Hạ trang nghiêm. Trung trang nghiêm. Thượng trang nghiêm. Nghe pháp. Suy nghó tu tập. Thâu giữ. Quở trách. Không đợi thỉnh thuyết và đợi thỉnh thuyết. Cõi tăng trưởng tức là đầy đủ chủng tử thiện. Do đủ chủng tử thiện cho nên đời khác thiện căn lại được tăng trưởng. Do hiện tại tu tập chủng tử của pháp, nên đời khác chủng tử của pháp lại được tăng trưởng. Đây gọi là cõi tăng trưởng. Nhân hiện tại là trong đời hiện tại thuyết pháp không sai lầm, nghe pháp không sai lầm, như pháp mà thọ trì, do nhân đời trước tăng nhân hiện tại, do nhân hiện tại tăng nhân vị lai, lại nhân hiện tại tăng nhân hiện tại. Đây gọi là nhân hiện tại. Vào hàng xuất gia tức là gần gũi bạn lành là chư Phật Bồ-tát, tâm tín được sinh, do được sinh tâm tín nên lìa bỏ pháp thế gian, thọ trì tu hành pháp xuất thế gian. Pháp xuất thế tức là giới Bồ-tát. Nếu không thể thọ tức là Sa-môn danh tự không gọi là xuất gia, đoạn được pháp dục mới gọi là xuất gia. Không thọ giới Bồ-tát như vậy thì không gọi là rốt ráo đoạn trừ pháp dục. Đoạn tất cả ái thì gọi là xuất gia. Thọ sự vui rốt ráo gọi là xuất gia. Ưa thích hành đạo gọi là xuất gia. Tăng trưởng pháp Phật gọi là xuất gia. Ưa thọ trì giới cấm gọi là xuất gia. Đây gọi là vào hàng xuất gia. Mới phát khởi tức là lúc ban đầu phát tâm không ưa sinh tử. Do không ưa sinh tử nên tâm tín được sinh, tu tập ở đạo làm tăng ích pháp Phật. Đây gọi là mới phát khởi. Chẳng phải mới phát khởi tức là sau khi phát tâm rồi, gần gũi chư Phật và đệ tử Phật, thọ trì giới cấm, đọc tụng, biên chép, rộng vì người nói, cho đến làm tăng trưởng pháp thiện thượng thượng. Đây gọi là chẳng phải mới phát khởi. Tịnh xa tức là không thọ trì giới cấm của Bồ-tát, không thể đọc tụng biên chép giải nói, không nghe lời sư dạy mà lại uể oải biếng nhác, trải qua vô lượng kiếp không thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là tịnh xa. Tịnh gần tức là thọ trì giới cấm, đọc tụng biên chép, vì người giải nói, tùy thuận lời sư dạy, siêng năng tinh tấn, có thể nhanh chóng chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là tịnh gần. Trang nghiêm tức là chí tâm dốc cầu Phật đạo vô thượng, vì đạo Bồ-đề nên trì giới Bồ-tát, vì sợ vua, Sư trưởng, Hòa thượng, vì danh xưng cho nên trì giới Bồ-tát. Đây gọi là trang nghiêm. Chí tâm tức là ở trong pháp Phật chí tâm giữ niệm, không có tâm nghi ngờ, bất nhẫn, hộ trì chánh pháp, dùng tạng Bồ-tát giáo hóa chúng sinh, đối với các bậc Hòa thượng, Trưởng lão cùng người có đức luôn sinh tâm cung kính, cúng dường Tam bảo không có dừng nghỉ, tín sâu Tam bảo thường trụ bất biến. Đây gọi là chí tâm. Thí thức ăn tức là Bồ-tát Ma-ha-tát thấy người đói khát liền bố thí thức ăn, tùy theo chỗ cần mà cung cấp tất cả. Đây gọi là thí thức ăn. Thí pháp tức là Bồ-tát dùng một câu, một bài kệ, cho đến nửa bài kệ, một bộ, một tạng, rộng vì chúng sinh mà thuyết giảng ý nghóa, vì đạo Bồ-đề nên giáo hóa chúng sinh khiến làm việc thiện. Đây là thí pháp. Vì thị hiện thần thông mà sinh tâm tín, tức là Bồ-tát Ma-ha-tát dùng đại thần thông thị hiện cho chúng sinh, vì lòng thương xót, muốn khiến chúng sinh được thanh tịnh, vì biết tâm tín chúng sinh thanh tịnh, vì thấy chúng sinh thanh tịnh trang nghiêm, vì khiến chúng sinh phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là thần thông. Thuyết pháp sinh tâm tín tức là Bồ-tát tự biết chưa có lợi ích, vì lợi tha nên diễn nói chánh pháp, cũng do biết lợi tha nên có thể diệt tội của mình mà diễn thuyết pháp, lại tự biết vì người khác mà thuyết pháp, cũng được tăng trưởng chỗ tu thiện của mình. Đây gọi là thuyết pháp. Thuyết giảng tạng pháp thâm diệu rộng phân biệt pháp: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát dùng diệu lực của phương tiện, có thể vì chúng sinh mà khai thị tạng pháp thâm mật của Như Lai, muốn khiến chúng sinh hiểu ý nghóa ấy, vì tăng trưởng thiện căn cho người có trí nên thuyết giảng nghóa sâu xa. Đây gọi là thuyết giảng tạng pháp thâm diệu rộng phân biệt pháp. Hạ trang nghiêm tức là không thể chí tâm thực hành hạnh vô thượng của Hiền Thánh. Đây gọi là hạ trang nghiêm. Trung trang nghiêm tức là tuy chí tâm tu tập Thánh hạnh mà không thường thực hành. Đây gọi là trung trang nghiêm. Thượng trang nghiêm tức là cũng chí tâm, cũng thường thực hành. Đây là thượng trang nghiêm. Nghe pháp tức là lúc tu pháp Phật vô thượng, chí tâm nghe kỹ mười hai bộ kinh, thọ trì biên chép đọc tụng giảng nói. Đây gọi là nghe pháp. Suy nghó tu tập tức là nghe pháp rồi, thân tâm vắng lặng, suy nghó về ý nghóa nhằm phá trừ tâm nghi, tu tập ba pháp tưởng đó là định, tuệ và xả. Đây gọi là suy nghó tu tập. Thâu giữ tức là vì không có tâm tham nên thuyết pháp cho người, nuôi đệ tử và khéo dạy dỗ, ban cho y bát, bệnh thì cung cấp thuốc men, biết phiền não khởi tùy bệnh mà thuyết pháp. Đây gọi là thâu giữ. Quở trách tức là tự thấy biết phiền não vốn khởi để quở trách thân tâm. Do khởi phiền não thì không thể tự lợi, lợi tha, tội nhẹ thấy trung, tội trung thấy nặng, như người loạn tâm rơi xuống hầm hố, sau khi đã rơi không nên rơi thêm. Nếu khởi phiền não thì phải điều phục, nếu thấy đệ tử khởi phiền não nhỏ thì phải quở trách, không nên nhận sự cúng dường lễ bái của đệ tử nầy, cho đến cành dương, nước tắm, nếu phạm tội lớn thì phải làm pháp yết ma, nếu có quở trách là vì tự lợi, lợi tha. Không đợi thỉnh thuyết tức là vì tự lợi nên thọ trì đoc tụng giải nói nghóa sâu xa, vì phá trừ phiền não của chúng sinh, vì làm tăng trưởng pháp thiện cho chúng sinh nên thuyết pháp, như chỗ thọ trì của mình mà thuyết giảng, như pháp mà trụ. Vì sao? Nếu Bồ-tát không như pháp mà trụ thì chúng sinh sẽ khinh thường mà nói: Ông không thể như pháp mà trụ, làm sao giáo hóa người khác. Nay ông nên đến người khác mà thọ pháp, không thể vì người khác mà thuyết pháp. Đợi thỉnh thuyết tức là trì giới cấm, siêng tu tinh tấn, đầy đủ thiện căn, ưa ở chỗ vắng lặng, thường được tất cả mọi người cung kính, nếu có giảng nói người đều tin nhận, biết nghóa biết lời, thường khéo thuyết pháp. Nếu có Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nói lời: Xin nguyện Đại só vì điều phục chúng sinh mà mở bày môn cam lồ. Đây gọi là đợi thỉnh thuyết. Như vậy hai mươi hai việc thì ai là người điều phục? Đó là sáu hạng Bồ-tát trụ trong sáu địa. Bồ-tát như vậy có thể giáo hóa điều phục chúng sinh. Thế nào là sáu địa? Một là địa chí tâm chuyên niệm hạnh Bồ-đề. Hai là địa tịnh tâm vì đạo Bồ-đề. Ba là địa như pháp trụ. Bốn là địa định. Năm là địa cứu cánh. Sáu là địa thành tựu đạo Bồ-đề. Đây gọi là sáu địa. Vì muốn điều phục chúng sinh vô tánh, nên nói sự vui nơi cõi trời người, khiến được bất thối. Vì chúng sinh có tánh mà thuyết giảng kh- iến được điều phục, tăng trưởng pháp thiện. Đây gọi là điều phục thành thục. Ấn thục điều phục tức là người Thanh văn ở trong vô lượng đời tu tập thiện căn. Đây gọi là ấn thục điều phục bậc hạ. Lại có ấn thục điều phục bậc hạ nghóa là tâm thấp kém, trang nghiêm thấp kém, thiện căn thấp kém, không thể phá trừ quả báo trong ba đường ác, hiện tại không được bốn quả Sa-môn cho đến Niết-bàn. Đây gọi là ấn thục điều phục bậc hạ. Ấn thục điều phục bậc trung tức là được tâm trung, trang nghiêm trung, thiện căn trung, phá trừ ba đường ác, nhưng hiện tại không được bốn quả Sa-môn cho đến Niết-bàn. Đây gọi là ấn thục điều phục bậc trung. Ấn thục điều phục bậc thượng tức là có tâm thượng, trang nghiêm thượng, thiện căn thượng, phá trừ ba đường ác, hiện tại có thể được bốn quả Sa-môn cho đến Niết-bàn. Đây gọi là ấn thục điều phục bậc thượng. Duyên giác cũng có hai việc thù thắng như vậy: Một là tu tập đạo thù thắng. Hai là không thầy mà đắc đạo thù thắng. Bồ-tát Ma-ha-tát trụ nơi địa chuyên niệm hạnh Bồ-đề. Đó gọi là ấn thục điều phục bậc hạ. Trụ ở địa thứ hai gọi là thục bậc trung, trụ ở địa thứ ba gọi là thục bậc thượng. Bồ-tát nơi địa thứ nhất tâm còn yếu kém, trang nghiêm cũng như vậy, rơi vào ba đường ác, tu hành trải qua a-tăng-kỳ đầu, a- tăng-kỳ kiếp thứ nhất chưa thể đầy đủ ba mươi bảy phẩm, thanh tịnh vô thượng, không động. Ấn thục điều phục bậc trung là Bồ-tát có tâm bậc trung, trang ng- hiêm bậc trung, không đọa vào ba đường ác, tu hành trải qua a-tăng-kỳ kiếp thứ hai, tuy được đầy đủ ba mươi bảy phẩm, thanh tịnh, bất động chuyển, mà chưa được đầy đủ ba mươi bảy phẩm tịch tónh tối đại. Đây là ấn thục điều phục bậc trung. Ấn thục điều phục bậc thượng tức là Bồ-tát Ma-ha-tát trụ ở ấn thục điều phục bậc thượng, có tâm thượng, trang nghiêm thượng, không đọa vào ba đường ác, tu hành trải qua a-tăng-kỳ kiếp thứ ba, đầy đủ thanh tịnh, bất động chuyển, được đại tịch tónh nơi ba mươi bảy phẩm, tức là đạo vô thượng của Bồ-tát, gọi là đại tịnh bất động thuần thiện tịch tónh tối đại. Đây gọi là ấn thục điều phục bậc thượng. Ấn thục điều phục bậc hạ có ba thứ là hạ hạ, hạ trung và hạ thượng. Trung thục có ba là trung hạ, trung trung và trung thượng. Thượng thục có ba là thượng hạ, thượng trung và thượng thượng. Bồ Ma-ha-tát đầy đủ các thứ điều phục như vậy, tức có thể tăng trưởng pháp Phật vô thượng, giáo hóa chúng sinh, chế ngự các căn, trí tuệ dũng mãnh, có thể vì chúng sinh mà mở bày ba thừa. ----------------------- <詞>Phẩm 8: BỒ ĐỀ CỦA ĐỊA BỒ TÁT Thế nào gọi là Bồ-đề? Bồ-đề tức là hai thứ giải thoát, hai thứ trí tuệ. Hai thứ giải thoát: Một là giải thoát chướng phiền não. Hai là giải thoát chướng trí. Hai thứ trí tuệ: Một là có thể hủy hoại chướng phiền não. Hai là có thể hủy hoại chướng trí tuệ. Lại nữa, Bồ-đề vô thượng đó là trí tịnh, trí vô ngại, trí nhất thiết, đoạn trừ tất cả tập khí, đoạn trừ tất cả vô minh vô ký. Trí tịnh là đoạn tất cả tập khí, biết tất cả cõi, tất cả pháp, tất cả hành, tất cả thế gian, tất cả thời, tất cả sự đối trị. Cõi có hai thứ: Một là cõi thế gian. Hai là cõi chúng sinh. Pháp cũng có hai thứ: Một là hữu vi. Hai là vô vi. Hành cũng có hai: Một là hoại chướng phiền não. Hai là hoại chướng trí tuệ. Thế gian cũng có hai: Một là trí. Hai là ngu. Thời có ba thứ: Là quá khứ, hiện tại, vị lai. Đối trị có ba thứ: Là quán bất tịnh, quán từ bi, quán mười hai nhân duyên. Đây gọi là tịnh trí. Trí vô ngại là không nhờ vào trang nghiêm, tư duy, nhập định, nhưng có thể thông đạt tất cả cõi, tất cả pháp, tất cả hành, tất cả thế gian, tát cả thời, tất cả sự đối trị. Đây gọi là trí vô ngại. Lại nữa, trí vô ngại nghóa là một trăm bốn mươi pháp bất cộng. Như Lai hiện có Tam- muội vô tránh trí nguyện và bốn trí vô ngại. Đây gọi là trí vô ngại, gọi là Bồ-đề. Thế nào gọi là một trăm bốn mươi pháp bất cộng? Đó là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, bốn hạnh tịnh, mười lực, bốn pháp vô úy, ba niệm xứ, ba thứ bất hộ, đại bi, không quên, đoạn tất cả tập khí, tất cả hạnh nơi trí vô thắng. Đây gọi là một trăm bốn mươi pháp bất cộng. Trong phẩm trụ ở phần sau sẽ nói rộng. Thế nào gọi là Bồ-đề vô thượng? Đầy đủ bảy thứ vô thượng nên gọi là Bồ-đề vô thượng: Một là thân vô thượng. Hai là thọ trì vô thượng. Ba là đầy đủ vô thượng. Bốn là trí tuệ vô thượng. Năm là bất khả tư nghì vô thượng. Sáu là giải thoát vô thượng. Bảy là hành vô thượng. Thân vô thượng tức là thân trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng tốt. Thọ trì vô thượng là chư Phật Bồ-tát tự lợi, lợi tha, có thể ban cho chúng sinh sự an vui ở cõi trời người. Đầy đủ vô thượng là chư Phật Bồ-tát có bốn thứ đầy đủ. Đó là thọ mạng đầy đủ, kiến đầy đủ, giới đầy đủ, hạnh đầy đủ. Trí tuệ vô thượng là bốn thứ vô ngại. Bất khả tư nghì vô thượng là đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Giải thoát vô thượng là Như Lai có thể phá trừ hai thứ chướng của phiền não và trí tuệ. Hành vô thượng là hành Thánh, hành thiên, hành phạm. Hành Thánh tức là ba Tam-muội: không, vô tướng, vô nguyện, định diệt tận. Hành thiên là bốn thiền, bốn định vô sắc. Hành phạm là bốn tâm vô lượng. Ba thứ hành nầy xuất phát từ bốn hành thường ưa tu tập của Phật. Thế nào gọi là bốn? Hành Thánh có hai: Một là Tam-muội Không. Hai là định diệt tận. Hành thiên có một là đệ tứ thiền. Hành phạm cũng có một, đó là đại bi. Như Lai dùng nhân duyên đại bi nầy, ngày đêm sáu thời thường quán sát chúng sinh, ai không có thiện căn thì ban cho chủng tử, ai có thiện căn rồi thì khiến cho tăng trưởng, cho đến người chưa phát tâm thì khiến cho phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng. Như Lai dùng thân vô thượng nầy nên gọi là đại trượng phu. Thọ trì vô thượng nên gọi là đại bi. Đầy đủ vô thượng nên gọi là đến bờ kia. Trí tuệ vô thượng nên gọi là nhất thiết trí. Bất khả tư nghì vô thượng nên gọi là A la ha. Giải thoát vô thượng nên gọi là đại Niết-bàn. Hành vô thượng nên gọi là Tam miệu tam Phật đà (Chánh đẳng Chánh giác). Do nghóa nầy nên Như Lai đầy đủ mười danh hiệu, đó là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Do không có giả dối nên gọi là Như Lai, có ruộng phước tốt nên gọi là Ứng Cúng, do biết pháp giới nên gọi là Chánh Biến Tri, đầy đủ ba minh nên gọi là Minh Hạnh Túc, không còn trở lại nên gọi là Thiện Thệ, biết hai thế gian nên gọi là Thế Gian Giải, một là thế gian quốc độ, hai là thế gian chúng sinh. Có thể điều phục thân tâm xấu của chúng sinh nên gọi là Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu. Có thể vì chúng sinh mà làm mắt sáng, khiến chúng sinh hiểu biết đúng về chánh pháp, chánh nghóa, quy kính chân chánh, vì các chúng sinh rộng nói ý nghóa, có thể phá trừ tất cả sự khổ, phiền não, có thể phá tan tâm nghi của chúng sinh, khai thị các pháp ý nghóa sâu xa, làm căn bản cho tất cả pháp thiện, cho nên gọi là bậc thầy của trời người. Biết pháp tụ thiện, pháp tụ bất thiện, pháp tụ phi thiện phi bất thiện. Đây gọi là Phật. Do phá trừ ma Ba-tuần, nên có thân Như Lai khó được, gọi là Bà Già Bà (Thế Tôn). Trong vô lượng kiếp không có một vị Phật ra đời, nên gọi là khó được, vô lượng thế giới có vô lượng Phật, mười phương thế giới có vô lượng Bồ-tát, đồng thời, đồng nguyện tu tập trang nghiêm, đồng thời đều phát tâm Bồ-đề, một thời, một ngày, một tháng, một năm, đồng bố thí, đồng trì giới, đồng nhẫn nhục, đồng tinh tấn, đồng thiền định, đồng trí tuệ. Vì ý nghóa nầy nên mười phương thế giới có vô lượng vô biên cõi Phật, trong một cõi trọn không có hai vị Phật đồng thời ra đời. Nếu không có mười phương vô lượng thế giới, thì vô lượng vô biên Bồ-tát đồng tu hạnh thiện như vậy không có quả chăng? Vì nghóa nầy nên có mười phương vô lượng vô biên thế giới của chư Phật. Vì sao? Trong một cõi không có hai vị Phật. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc ban đầu phát tâm nói: Chỉ một người là ta có thể khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh đoạn trừ phiền não khổ, nhập vào Niết-bàn. Do nguyện lực nầy nên được quả báo, Như Lai có thể vì ba ngàn đại thiên vô lượng thế giới, thuyết pháp giáo hóa điều phục chúng sinh, cho nên một cõi không có hai vị Phật ra đời. Nếu trong một cõi có hai vị Phật ra đời, thì chúng sinh không thể ưa tu pháp thiện, không sinh ý tưởng cung kính khó gặp. Nếu chỉ thấy một Đức Phật thì sinh tâm không thể nghó bàn. Hoặc Phật Niết-bàn, chúng ta sẽ cùng thời tu thiện, siêng năng tinh tấn xa lìa sinh tử, sinh tâm cung kính và ý tưởng khó gặp, tu tập bố thí cho đến tu tập trí tuệ Ba-la-mật, vì thế một cõi không có hai vị Phật ra đời. Mười phương chư Phật chỉ trừ bốn việc, ngoài ra tất cả đều bình đẳng không hai: Một là thọ. Hai là tánh. Ba là danh. Bốn là thân. Bồ-tát trọn không dùng thân người nữ mà chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Vì sao? Một là vì Bồ-tát Ma-ha-tát vào thời a-tăng-kỳ kiếp đầu tiên đã đoạn thân nữ. Do thân người nữ có nhiều tham dục nên không thể chứng đắc đạo quả ấy. Hai là vì trí tuệ nêu bày cũng như trí tuệ ác, không thể chứng đắc đạo chánh đẳng chánh giác vô thượng. Bồ-đề tức là không thể nghó bàn. Vì sao? Là chỗ không thể chứng đắc của hàng Thanh văn, Phật-Bích-chi, cho nên Bồ-đề vô thượng là chỗ thành tựu của vô lượng công đức. -------------------- <詞>Phẩm 9: LỰC TÁNH BỒ ĐỀ CỦA ĐỊA BỒ TÁT Bồ-tát Ma-ha-tát muốn học giới Bồ-tát, thì phải tu tín giải (tin hiểu), thường ưa cầu pháp, thường ưa thuyết pháp. Thấy người trì pháp thì sinh tâm cúng dường, như pháp mà trụ, dạy dỗ đệ tử trụ trong chánh pháp, khéo biết phương tiện nơi ba nghiệp thân khẩu ý. Thế nào là Bồ-tát tu tập tín giải? Tin hiểu Tam bảo và công đức của Tam bảo, tin Phật, Bồ-tát không thể nghó bàn, tin nghóa chân thật, tin có nhân quả, tin các chúng sinh có các thứ nghiệp và các nghiệp quả, biết phương tiện thiện và phi phương tiện, tự tin sẽ chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng tự biết đắc nghóa. Nghóa tức là Bồ-đề vô thượng, trí Bồ-đề, phương tiện Bồ-đề. Phương tiện tức giới Bồ-tát cho đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Giới Bồ-tát là khi nghe thuyết pháp tâm nhẫn tin thọ, đó là mười hai bộ kinh. Đây gọi là giới Bồ-tát. Học giới Bồ-tát tức phải tu hai việc: Một là tâm từ. Hai là tâm tín, Bồ-tát tu tập hai pháp như vậy được tâm tín giải. Cầu pháp là cầu việc gì? Tại sao cầu? Cầu thế nào? Cầu tức là cầu tạng Bồ-tát, tạng Thanh văn, tất cả luận thế gian, tất cả việc thế gian. Tạng Bồ-tát tức là Phương quảng, tức là một trong mười hai bộ kinh. Mười một bộ còn lại thì gọi là tạng Thanh văn. Luận thế gian có ba thứ: Một là Nhân luận. Hai là Thanh luận. Ba là Y phương luận. Tất cả việc đời, là như vàng báu, nghề nghiệp, tất cả phương thu- ật. Phương thuật có năm thứ: Một là nội thuật. Hai là nhân thuật. Ba là thanh thuật. Bốn là thuật biết nhân bệnh, trị bệnh. Năm là biết tất cả việc làm. Bồ-tát Ma-ha-tát thường cầu năm phương thuật như vậy. Nội thuật tức là mười hai bộ kinh. Bồ-tát Ma-ha-tát vì hai việc nên cầu mười hai bộ kinh: Một là biết nhân quả. Hai là tạo nghiệp không mất, không làm, không thọ. Cầu Nhân luận là vì hai việc: Một là vì biết lỗi của ngoại đạo. Hai là vì phá trừ các luận sư ngoại đạo. Cầu Thanh luận cũng vì hai việc: Một là vì hiểu tất cả nghóa của pháp giới. Hai là vì biện chính tất cả âm thanh ngôn ngữ. Cầu thuật trị bệnh là vì bốn việc: Một là biết tướng trạng của bệnh. Hai là biết nhân duyên của bệnh. Ba là biết bệnh để trừ khiến lành. Bốn là biết sau khi bệnh lành, không còn khởi lại. Cầu mười hai bộ kinh là vì biết nhân quả. Tất cả pháp có mười thứ nhân. Nêu rõ về nhân đích thực, cùng thâu tóm tất cả nhân, hoặc sinh tử, hoặc giải thoát, hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc nội, hoặc ngoại, hoặc chúng sinh, hoặc phi chúng sinh. Thế nào là mười thứ nhân? Một là lưu bố nhân. Hai là tùng nhân. Ba là tác nhân. Bốn là nhiếp nhân. Năm là nhân tăng trưởng. Sáu là nhân chuyển. Bảy là nhân bất cộng. Tám là nhân cộng. Chín là nhân hại. Mười là nhân bất hại. Nhân lưu bố tức là nhân của các pháp, gọi là đạt được thể tướng. Do đạt được thể tướng nên có thể tuyên thuyết. Đây gọi là nhân lưu bố. Như nhân nơi tay mà lấy, nhân nơi chân mà bước đi, nhân nơi thân mà có đi đứng nằm ngồi. Đấy gọi là Tùng nhân (nhân thuận theo). Từ chủng tử mà được quả, đây gọi là tác nhân. Lìa chủng tử, từ những thứ khác mà được quả, đây gọi là Nhiếp nhân (nhân thâu tóm). Hạt giống diệt thì mầm sinh, từ mầm mà được quả, đây gọi là nhân tăng trưởng. Từ hạt giống sinh ra lúa, nhân nơi lúa mà sinh ra hạt giống, đây gọi là nhân chuyển. Tùy chỗ gieo trồng mà được quả, đây gọi là nhân bất cộng. Như đất nước gió lửa gọi là nhân cộng. Phạm bốn giới trọng, làm hại pháp thiện, đây gọi là nhân hại, như không phạm thì gọi là nhân bất hại. Nhân hại có năm thứ: Một là thanh hại. Hai là sinh hại. Ba là bất cộng trụ hại. Bốn là oán hại. Năm là định hại. Thanh hại: cũng như luận thế gian ban đầu có tốt đẹp, sau là nói bất thiện. Lại nữa, hại như nói tất cả các pháp là vô thường, cũng như hư không. Nói tất cả thường, nghóa là sinh già chết. Đây gọi là thanh hại. Sinh hại như nói không nhân mà có thể sinh ra quả, hoặc có nhân mà không quả. Bất cộng trụ hại cũng như sáng, tối, tham, sân, khổ, vui. Oán hại là như rắn, sói, ngựa, trâu, mèo, chuột. Định hại như là quán bất tịnh trừ tham, tâm từ trừ sân, tâm bi trừ hại, tám Thánh đạo phần trừ tất cả kiết sử. Lại có hai nhân: Một là nhân chân thật. Hai là nhân phương tiện. Nhân chân thật tức là chủng tử, nhân phương tiện như là các duyên bên ngoài. Nhân phương tiện có bốn thứ duyên: Một là duyên nhân. Hai là duyên thứ lớp. Ba là duyên duyên. Bốn là duyên tăng thượng. Duyên nhân là các pháp sinh ra nhân. Duyên tăng thượng nghóa là nhân phương tiện. Duyên thứ lớp, duyên duyên nghóa là tâm, tâm số pháp. Đây là bốn duyên. Mười nhân như trên đây làm sao để phát sinh tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, làm sao để đoạn sinh tử, thế nào là không đoạn sinh tử? Như trong thế gian các hạt giống, vì làm tăng trưởng thọ mạng mà có các danh. Đó gọi là đại mạch, tiểu mạch, đại đậu, tiểu đậu, hồ ma… Đây gọi là nhân lưu bố. Do đói khát không có khí lực, vì trừ họa cho thân nầy có được lực nên cầu đại mạch, tiểu mạch, cho đến hồ ma… Do thức ăn ngon mà tâm sinh tham đắm, do sinh tâm tham đắm nên dùng phương tiện để tìm cầu, đây gọi là nhân tùng. Như hạt giống kia sinh ra quả tương tợ, đây gọi là nhân tác. Như đất, nước, gió lửa, đất phân, công người…, đây gọi là nhân nhiếp (nhân thâu tóm). Từ hạt giống tăng trưởng cho đến quả, đây gọi là nhân tăng trưởng. Như hạt giống sinh ra quả, từ quả lại sinh ra nhân, đây gọi là nhân chuyển. Như lúa sinh ra lúa, đậu sinh ra đậu, đây gọi là nhân bất cộng. Như lìa hạt giống rồi, từ các thứ khác mà sinh ra quả, nên gọi là nhân cộng. Như hạt giống gặp phải mưa đá, lửa cháy, chim ăn, đây gọi là nhân hại. Không bị mưa đá, lửa thiêu, chim ăn, gọi là nhân bất hại. Mười nhân như vậy, sinh ra pháp thế gian và xuất thế gian. Lại diễn nói về danh tướng hiện có của mười hai nhân duyên: Nghóa là do vô minh duyên hành, do hành duyên thức, do thức duyên danh sắc, do danh sắc duyên sáu nhập, do sáu nhập duyên xúc, do xúc duyên thọ, do thọ duyên ái, do ái duyên thủ, do thủ duyên hữu, do hữu duyên sinh, do sinh duyên lão, tử, ưu bi khổ não, các khổ tụ tập. Đây gọi là nhân lưu bố. Vô minh duyên hành cho đến sinh duyên lão tử, vì tham sân si nên không dứt mười hai nhân duyên, đây gọi là nhân tùng. Hiện tại ái thủ, vị lai là vô minh, đây gọi là nhân tác. Hiện tại hữu, vị lai hành, đó gọi là nhân tác. Hiện tại thức, vị lai là sinh, đó gọi là nhân tác. Hiện tại danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ, vị lai sinh, lão tử. Đó gọi là nhân tác. Không gần bạn lành, không ưa nghe pháp, không suy nghó nghóa, không trụ như pháp, do bốn việc nầy mà thâu giữ vô minh cho đến sinh, lão, tử, đó gọi là nhân thâu giữ. Do nghiệp ác mà tăng trưởng vô minh, cho đến lão tử, đó gọi là nhân tăng trưởng. Vô minh có ba hạng là thượng, trung, hạ. Hạ làm nhân cho trung, trung làm nhân cho thượng, cho đến lão tử, đây gọi là nhân chuyển. Có vô minh rơi vào địa ngục, có vô minh rơi vào ngạ quỷ, có vô minh rơi vào súc sinh, đây gọi là nhân bất cộng. Tất cả chúng sinh bình đẳng cùng có mười hai nhân duyên, đây gọi là nhân cộng. Do nhân duyên vô minh nên không đầy đủ tánh, không cùng Như Lai sinh chung một nước, xa lìa bạn lành, không được nghe pháp, không suy nghó ng- hóa, không trụ như pháp, không được tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đây gọi là nhân hại. Do trừ vô minh nên tánh được đầy đủ, do tánh đầy đủ nên được cùng Như Lai sinh chung một nước, gần gũi bạn lành, được nghe chánh pháp, suy nghó chánh nghóa, như pháp mà trụ, tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đây gọi là nhân bất hại. Do nghóa nầy nên mười thứ nhân ấy sinh ra pháp thế gian. Thế nào là mười nhân sinh ra pháp xuất thế gian? Nếu thuyết danh tướng của ba mươi bảy phẩm trợ đạo, danh tướng của Bồ-đề, cho đến danh tướng của Niết-bàn, gọi là nhân lưu bố. Nhân nơi bốn niệm xứ mà đắc bốn chánh cần, nhân bốn chánh cần mà đắc bốn như ý túc, nhân bốn như ý túc mà đắc năm căn, nhân năm căn mà đắc năm lực, nhân năm lực mà đắc bảy giác chi, nhân bảy giác chi mà đắc tám chánh đạo, nhân tám chánh đạo mà đắc Niết-bàn, đây gọi là nhân tùng. Do vô minh diệt nên các hành diệt, do hành diệt nên thức diệt, do thức diệt nên danh sắc diệt, do danh sắc diệt nên lục nhập diệt, do lục nhập diệt nên xúc diệt, do xúc diệt nên thọ diệt, do thọ diệt nên ái diệt, do ái diệt nên thủ diệt, do thủ diệt nên hữu diệt, do hữu diệt nên sinh diệt, do sinh diệt nên lão tử diệt, do lão tử diệt nên được Niết-bàn, đây gọi là nhân tùng. Do tánh đầy đủ nên tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, do tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo nên được Niết-bàn, đây gọi là nhân tùng. Do tánh đầy đủ cho đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo, có thể sinh ra Bồ-đề, đây gọi là nhân tác. Gần gũi bạn lành, chí tâm nghe pháp, suy nghó ý nghóa, như pháp mà trụ, điều phục các căn, tu tám chánh đạo đây gọi là nhân nhiếp (gồm thâu). Ba mươi bảy phẩm trợ đạo có thể làm hai thứ nhân cho Niết-bàn, đây gọi là nhân chuyển. Đầy đủ tánh Thanh văn đắc quả Thanh văn. Đầy đủ tánh Duyên giác, đầy đủ Phật tánh nên đắc đạo vô thượng, đây gọi là nhân bất cộng. Ba hạng như vậy cùng tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đây gọi là nhân cộng. Do tánh không đầy đủ nên sinh về nơi tám nạn, không nghe pháp Phật, đây gọi là nhân hại. Phá bỏ nhân hại nên được nghe chánh pháp, đây gọi là nhân bất hại. Do nhân duyên tu tập tám chánh đạo nên được Bồ-đề Thanh văn, Bồ-đề Duyên giác, Bồ-đề Phật, đây gọi là nhân tăng trưởng. Mười thứ nhân nầy phát sinh pháp thế gian và xuất thế gian. Hai pháp nầy mỗi pháp có ba đời, đó là quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu nói lìa mười nhân nầy mà lại có nhân thì không có việc ấy. Thế nào gọi là quả? Quả có năm thứ: Một là quả báo. Hai là quả dư. Ba là quả giải thoát. Bốn là quả hiện tại. Năm là quả tăng thượng. Do pháp bất thiện nên bị quả báo trong ba đường ác. Do pháp thiện hữu lậu mà được quả báo sinh nơi cõi trời người. Đây gọi là quả báo. Do tạo ác nên ưa làm nghiệp ác, do tu thiện nên ưa tu nghiệp thiện, đây gọi là quả dư. Tu tám chánh đạo xa lìa phiền não, đây gọi là quả giải thoát, phàm phu tu đạo tuy lìa phiền não nhưng không gọi là quả giải thoát. Vì sao? Vì chẳng phải rốt ráo. Như trong hiện tại con người dùng các thứ phương tiện và sức lực để được tiền tài, đây gọi là quả hiện tại. Nhãn căn, nhãn thức, cho đến ý căn, ý thức, đây gọi là quả tăng thượng. Bồ- tát Ma-ha-tát do biết nhân quả, tăng trưởng tác lực, tu tập ở đạo, biết không làm, không thọ, làm không mất quả, Bồ-tát Ma-ha-tát do biết nhân quả nên cầu mười hai bộ kinh, thọ trì đọc tụng biên chép giải nói, được nghiệp lực thứ hai. Nếu có Bồ-tát không tin nghiệp nhân quả của chúng sinh, thì trọn không thể đạt được giới Bồ-tát. Tại sao Bồ-tát cầu mười hai bộ kinh? Bồ-tát chí tâm niệm giới Bồ-tát, siêng năng cầu pháp Phật, cho đến một câu, một kệ, một nghóa, nếu thấy có người thuyết pháp, liền sinh tâm cung kính ưa nghe, không khinh chê người thuyết pháp, chí tâm cung kính như nghe lời Phật. Nếu người thuyết pháp keo kiệt đối với pháp, không chịu bố thí, nên dùng tiền tài cho đến thân mạng phụng sự dâng hiến. Nếu có Bồ-tát có thể làm như vậy, thì gọi là Bồ-tát nghóa. Nếu Bồ-tát có thể chí tâm nghe thọ, cho đến một câu, một bài kệ, một ý nghóa, thì phiền não nhiều như ba cõi đều được tiêu tan, đủ giới Bồ-tát. Lúc Bồ-tát chí tâm cầu lời Phật, vì khát ngưỡng pháp mà không tiếc thân mạng, dẫu đạp trên sắt nóng lửa dữ mà không cho đó là họa, Bồ-tát Ma-ha-tát vì một câu kệ mà còn không tiếc thân mạng, huống gì là mười hai bộ kinh, vì một câu kệ mà không tiếc thân mạng, huống gì là các tài sản vật dụng. Do nghe pháp mà thân được an lạc, sinh tâm tín sâu, được tâm nhu hòa, trực tâm chánh kiến. Thấy người thuyết pháp như thấy cha mẹ, tâm không kiêu mạn, vì chúng sinh nên chí tâm nghe pháp trọn không vì mình, vì tăng trưởng thiện căn của chúng sinh nên nghe, thọ chánh pháp, không vì lợi dưỡng. Vì chúng sinh nên thọ giới Bồ-tát, không vì tự lợi, vì chánh pháp nên không sợ nạn vua quan, đói khát, lạnh nóng, hổ lang, thú dữ, giặc cướp. Trước tự điều phục phiền não nơi các căn, sau đó nghe pháp, không nghe pháp trái thời, cung kính người thuyết pháp, tôn trọng giáo pháp. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ giới Bồ-tát. Thế nào là Bồ-tát chí tâm nghe pháp? Nghe pháp có bốn: Một là chí tâm. Hai là nhất tâm. Ba là nhất thiết tâm. Bốn là thiện tâm. Đây gọi là Bồ-tát siêng cầu mười hai bộ kinh. Tại sao Bồ-tát cầu mười hai bộ kinh? Vì muốn lưu hành khắp chánh pháp của chư Phật, vì muốn làm tăng trưởng pháp của chư Phật, vì muốn thế gian tin pháp Phật, vì khiến cho vô lượng chúng sinh đều đạt được đạo quả Bồ-đề vô thượng, nên Bồ-tát cầu mười hai bộ kinh. Tại sao Bồ-tát cầu ở Nhân luận? Vì biết các tội lỗi của nhân luận, vì phá trừ luận tà ác của ngoại đạo, vì mở rộng phương tiện điều phục chúng sinh, vì muốn phân biệt ngữ nghóa của Như Lai và ngữ nghóa của thế gian, cho nên Bồ-tát cầu ở Nhân luận. Tại sao Bồ-tát cầu ở Thanh luận? Vì khiến cho lời lẽ thanh tịnh trang nghiêm, lời nói không tịnh, không thể tuyên thuyết về nghóa sáng rõ, vì muốn hiểu biết tất cả nghóa, bỏ lời bất chánh, bỏ tâm kiêu mạn, trừ diệt tà kiến, vì biết phương tiện để điều phục chúng sinh, nên Bồ-tát cầu ở Thanh luận. Tại sao Bồ-tát cầu các y phương? Vì khiến chúng sinh xa lìa bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh, vì lòng thương xót, vì nhằm điều phục chúng sinh, vì sinh tâm tín, sinh tâm hoan hỷ, cho nên Bồ-tát cầu các phương thuốc. Tại sao Bồ-tát cầu phương thuật ở thế gian? Vì có được tiền tài tạo lợi ích cho chúng sinh, vì các chúng sinh sinh tâm tín, vì biết việc đời và phá bỏ kiêu mạn, vì điều phục chúng sinh, và phá các ám chướng của tất cả pháp. Nếu có Bồ-tát không cầu năm việc như vậy, thì trọn không thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, thành nhất thiết trí. Vì chứng đắc đạo quả ấy cho nên cầu năm việc. Bồ-tát thành tựu giới Bồ- tát, nên vì chúng sinh thuyết giảng, thuyết việc gì, thuyết thế nào, tại sao thuyết? Thuyết việc gì tức là thuyết mười hai bộ kinh. Thuyết thế nào là thành tựu năm việc. Vì sao thuyết? Tức vì thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Thuyết có hai việc: Một là thuyết thứ lớp. Hai là thuyết thanh tịnh. Thuyết theo thứ lớp tức ban đầu thuyết bố thí, thứ đến thuyết giới cấm, sau đó thuyết sự vui nơi cõi trời, kế đến thuyết Tam-muội, kế đến thuyết thọ trì mười hai bộ kinh, suy nghó ý nghóa, như pháp mà trụ. Đây gọi là thuyết theo thứ lớp. Thuyết thanh tịnh nghóa là người ở chỗ cao, mình ở chỗ thấp, không nên thuyết pháp, ngoại trừ người kia bệnh còn người với tâm không tin, thì không nên thuyết pháp. Người không nhàm chán sinh tử không nên vì họ thuyết pháp. Người đứng trước mặt mình không nên vì họ thuyết pháp. Người che đầu không nên vì họ thuyết pháp. Người tìm tòi lỗi không nên vì họ thuyết pháp. Ngoài ra đều như trong kinh Ba-la-đề-mộc-xoa đã thuyết giảng. Vì sao? Vì chư Phật Bồ-tát là pháp cung kính. Nếu người thuyết pháp tôn trọng giáo pháp thì người nghe cũng sinh tâm cung kính, chí tâm lắng nghe, không sinh tâm kiêu mạn, khinh lờn. Đây gọi là thuyết thanh tịnh. Thuyết thứ lớp tức là ban đầu thuyết mười hai bộ kinh, thứ đến thuyết tất cả chúng sinh, vì hủy hoại tâm keo kiệt pháp nên không kiêu mạn, hoặc có một câu một kệ, cho đến nửa bài kệ, hoặc từ, hoặc nghóa, hoặc thuyết pháp, thuyết nghóa và thuyết pháp nghóa, chỉ bày lợi ích, hoặc có lúc quở trách, hoặc có lúc nói thẳng, hoặc có lúc ví dụ, tùy theo chỗ thích ứng mà thuyết, hoặc thuyết dễ hiểu, hoặc thuyết dễ thâm nhập, tùy chỗ ưa thích mà thuyết. Đây gọi là Bồ-tát thuyết thứ lớp. Thuyết thanh tịnh tức là Bồ-tát Ma-ha-tát đối với sự oán, ghét, không oán ghét tu tập tâm từ, được tâm từ rồi, dùng các phương tiện thuyết pháp cho người phóng dật và chúng sinh xấu ác, cho đến người bần cùng và người hưởng vui tâm sinh kiêu mạn, dùng phương tiện chỉ bày và vì họ mà thuyết pháp không vì sự khen mình chê người hoặc danh dự lợi dưỡng uống ăn của bản thân màthuyết pháp. Đây gọi là Bồ-tát thuyết pháp thanh tịnh. Như pháp mà trụ, nghóa là ba nghiệp thân khẩu ý tu tập pháp thiện, suy nghó chân chính về ý nghóa. Đây gọi là như pháp mà trụ. Thế nào gọi là Bồ-tát suy nghó về ý nghóa? Bồ-tát điều phục ba nghiệp thân khẩu ý, ưa ở chỗ vắng lặng, hoặc tự thọ trì, hoặc nghe nơi người khác, suy nghó về nghóa đúng, không suy nghó nghóa sai, chí tâm suy nghó về nghóa chân thật, vì đạo Bồ-đề mà chuyên tâm suy nghó y theo nghóa thật, không dựa vào văn tự suy nghó phân biệt đây là lời Phật, đây chẳng phải lời Phật. Xả bỏ tâm tán loạn lo sợ, suy nghó điều trái, tùy theo chỗ nghe mà suy nghó nghóa, không theo lời nói người khác, tuy không hiểu nghóa mà trọn không nói lời trái. Vì sao? Vì đây là cảnh giới của chư Phật. Bồ-tát Ma-ha-tát dựa nơi nghóa không dựa nơi văn tự, có thể biết nghóa thâm diệu của Như Lai, biết pháp, phi pháp không gì có thể động chuyển. Như vậy Bồ-tát chưa được nhẫn nay đã được nhẫn, chưa được Tam-muội nay được Tam-muội. Đây gọi là Bồ- tát như pháp mà trụ. Thế nào gọi là tu tập? Tu tập có bốn thứ: Một là Xá-ma-tha (chỉ). Hai là Tỳ-bà-xá-na (quán). Ba là tu tập ái lạc. Bốn là tùy chỗ tu tập ưa trụ trong ấy. Xá-ma-tha (chỉ) tức là Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập bốn thiền, bốn định vô sắc, chuyên tâm nơi định có thể phá bỏ năm uẩn, do trụ nơi định nên hiểu hành chân thật, có thể lìa tất cả các giác quán xấu ác, tâm không loạn, có thể suy nghó về ý nghóa pháp giới trong ngoài, tùy thuận theo pháp tướng, tâm tâm số pháp an trụ nơi một duyên, đây gọi là Xá-ma- tha. Tỳ-bà-xá-na (quán) tức là tu Xá-ma-tha, có thể quán sát pháp giới, phân biệt pháp tướng, mong cầu pháp thiện xa lìa pháp ác, trí tuệ chánh kiến không điên đảo, khéo hiểu ở nghóa. Đây gọi là Tỳ-bà-xá-na. Tu tập ái lạc là chí tâm tu tập hai pháp như trên. Chí tâm tu là thường không phóng dật. Đây gọi là tu tập ái lạc. Ưa trụ trong chỗ tu tập tức là lúc tu Xá-ma-tha và Tỳ-bà-xá-na, không nhờ phương tiện, tùy ý mà trụ. Đây gọi là ưa trụ trong tu tập. Bồ-tát Ma-ha-tát thường tu hai pháp, cũng gọi là ưa trụ, cũng gọi là thanh tịnh, cũng gọi là thân tâm vắng lặng, cũng gọi là trí rộng lớn. Bồ-tát Ma-ha-tát tu hai pháp nầy, được chỗ căn bản của đạo quả Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát thành tựu giới Bồ-tát đắc hai pháp nầy, đó gọi là tu tập. Thế nào là giáo? Giáo có tám thứ. Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu Tam-muội, muốn giáo hóa chúng sinh trước phải nhập định hoặc cùng ở chung, sau đó mới có thể dùng tám pháp giáo hóa. Một là biết tâm. Hai là biết căn. Ba là thiện căn. Bốn là phiền não. Năm là đối trị. Đối trị thì người có tâm tham tức dạy pháp quán bất tịnh. Sáu là người có tâm sân dạy tu quán từ bi. Bảy là người có tâm si dạy pháp quán nhân duyên. Tám là các giác quán xấu ác dạy họ tập đếm hơi thở. Đây gọi là tám pháp, dùng các phương tiện như vậy mà giáo hóa chúng sinh, phá tâm đoạn kiến, thường kiến mà nói trung đạo, thật không tưởng tác mà tác tưởng tác, chân thật không đắc mà tác tưởng đắc, chân thật không xúc mà tác tưởng xúc, chân thật không chứng mà tác tưởng chứng. Tám việc trên có thể phá trừ vọng tưởng, kiêu mạn như vậy. Lại có ba việc: Một là tâm nếu không trụ có thể khiến trụ nơi duyên. Hai là trụ rồi có thể quán chánh pháp. Ba là biết phương tiện hay. Nếu biết phương tiện hay, hoặc biết tâm chúng sinh, căn, thiện căn, cho đến phiền não, do đấy có thể khiến tâm tán loạn trụ ở trong duyên, phá trừ đoạn kiến và thường kiến mà thuyết pháp. Đây gọi là có thể quán chánh pháp. Do phá tâm tham nên thuyết quán bất tịnh. Do phá tâm sân hận nên thuyết quán từ bi. Do phá ngu si nên thuyết quán nhân duyên. Do phá giác quán ác nên thuyết đếm hơi thở. Đây gọi là biết phương tiện hay. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát tự ở chỗ Phật hoặc chỗ Bồ-tát mà tu tám việc nầy, lại dùng pháp ấy giáo hóa chúng sinh, đây gọi là Bồ-tát Ma- ha-tát làm thanh tịnh tám thứ diệu lực. Những gì là tám? Một là lực biết các thiền định giải thoát. Hai là lực biết căn. Ba là lực giải. Bốn là lực thế giới. Năm là lực biết đến chỗ đạo. Sáu là lực của trí túc mạng. Bảy là lực của trí sinh tử. Tám là lực của trí lậu tận. Lại nữa, giáo hóa có năm thứ: Một là giáo hóa khiến xa lìa ác. Hai là giáo hóa tu pháp thiện. Ba là giáo hóa người phạm giới phát lồ sám hối. Bốn là giáo hóa làm ức niệm yết ma. Năm là giáo hóa người không nhận lời dạy làm yết ma tẫn xuất. Bồ-tát Ma-ha-tát dùng năm việc nầy giáo hóa chúng sinh, vì tâm thương xót, vì tâm thanh tịnh. Bồ-tát Ma-ha-tát nếu dùng tâm sân giáo hóa chúng sinh, thì không thể chứng đắc giới Bồ-tát. Người lãnh thọ lời dạy nên như pháp mà thọ, phải cung kính chí tâm cúng dường tôn trọng như cha mẹ, như Phật Bồ-tát. Vì sao? Vì như pháp thọ nhận lời dạy, có thể mau chứng đắc Bồ-đề Thanh văn, Bồ-đề Duyên giác, đắc Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là Bồ-tát giáo hóa. Phương tiện hay tức là thân khẩu ý nghiệp của tất cả Bồ-tát Ma- ha-tát, đều vì nhằm điều phục tất cả chúng sinh. Đây gọi là phương tiện hay. Phương tiện hay có bốn thứ: Một là bố thí. Hai là lời nói nhẹ nhàng. Ba là tạo lợi ích. Bốn là đồng nghóa. Bồ-tát Ma-ha-tát có thể bố thí cho chúng sinh y phục, thức ăn, phòng nhà, ngọa cụ, thuốc thang, người lãnh thọ rồi sinh tâm thương mến đối với Bồ-tát, chí tâm nghe dạy, nghe rồi thọ trì, vì thọ trì nên Bồ-tát dùng lời nhẹ nhàng khen ngợi. Do khen ngợi nên người lãnh thọ hoan hỷ, do hoan hỷ nên có thể hủy hoại tâm ác, thọ trì pháp thiện, do hoại tâm ác nên Bồ-tát lại nói: Ta đã đầy đủ tín, giới, văn, bố thí, trí tuệ. Ông cũng sẽ đầy đủ. Nếu Bồ-tát không đủ năm việc nầy, thì không thể giáo hóa tất cả chúng sinh. Chúng sinh cũng nói: Nếu Bồ-tát tự không đầy đủ, làm sao dạy người khác khiến họ đẩy đủ? Cho nên, Bồ-tát đầy đủ năm việc, tức gọi là Bồ-tát dùng phương tiện giáo hóa chúng sinh. Phương tiện tức là khéo điều phục, khéo điều phục là không xả bỏ, không thối, không chuyển. Đây gọi là phương tiện hay. <篇>KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI <卷>QUYỂN 4 <詞>Phẩm 10: BỐ THÍ CỦA ĐỊA BỒ TÁT Bồ-tát Ma-ha-tát cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng, trang nghiêm đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Đó là Bố thí Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền định Ba-la-mật, Trí tuệ Ba-la-mật. Thế nào gọi là Bồ-tát bố thí Ba-la-mật? Bồ-tát bố thí có chín thứ: Một là tánh thí. Hai là tất cả thí. Ba là nan thí. Bốn là tất cả tự thí. Năm là người thiện thí. Sáu là tất cả hành thí. Bảy là vì trừ thí. Tám là tự lợi, lợi tha thí. Chín là tịch tónh thí. Tánh thí tức là tự lợi lợi tha, mình và người đều lợi, bên trong phát tâm thiện, thân khẩu ý nghiệp thiện, đối với tài vật tâm không tham tiếc. Đó gọi là thí. Bồ-tát thực hành bố thí, trì giới, tinh tấn, tin mười hai bộ kinh, tin nhân tin quả, tùy vật chúng sinh mong cầu tâm không sẻn tiếc, dùng thân khẩu ý nghiệp như vậy bố thí tài sản vật dụng, năm việc như vậy tức là năm ấm. Đây gọi là tánh thí. Thế nào gọi là tất cả thí? Tất cả thí có hai thứ: Một là vật bên trong. Hai là vật bên ngoài. Bồ-tát Ma-ha-tát ở trong vô lượng đời vì bố thí chúng sinh mà thọ thân ấm ấy. Đây gọi là vật bên trong. Bồ-tát Ma- ha-tát vì loài quỷ ăn đồ vứt bỏ, tự ăn rồi nhả ra bố thí cho loài quỷ. Đây gọi là vật bên trong. Không phải hai việc nầy thì gọi là bố thí bên ngoài. Bồ-tát Ma-ha-tát xả thân bố thí gồm hai việc: Một là Bồ-tát không được tự tại. Hai là thuộc người khác. Có người cầu mà không bố thí thì không thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là Bồ-tát không được tự tại. Thuộc người khác tức là Bồ-tát Ma-ha-tát vì đạo Bồ-đề, nên thân thuộc về chúng sinh; như người thế gian, vì thức ăn y phục mà làm nô bộc cho người khác. Bồ-tát Ma-ha-tát đối trong tự thân không được tự tại. Tất cả chúng sinh đối với thân, đầu, mắt, tủy não, tay chân của Bồ- tát, tùy ý lấy dùng mà được tự tại. Bố thí bên ngoài có hai việc: Một là vì lợi ích cho chúng sinh. Hai là tâm không tham tiếc. Bồ-tát Ma-ha-tát đối với hai việc bố thí trong ngoài nầy, có bố thí và không bố thí. Bồ-tát Ma-ha-tát quán sát các chúng sinh sau khi thọ thí rồi không được lợi lạc thì không thực hành bố thí, nếu sau khi thọ thí đạt được lợi lạc thì liền thực hành bố thí. Nếu Bồ-tát biết do dùng thân bố thí khiến chúng sinh thọ khổ bị trở ngại nơi việc thực hành pháp thiện, và biết rõ người cầu phi pháp thì cũng không nên bố thí. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát thấy trăm ngàn vạn ức chúng sinh vì nhân duyên phi pháp mà cầu chẳng được, thì dẫu tan thân mất mạng cũng không vì việc nầy mà thực hành bố thí. Người cầu phi pháp đó là giết hại, trộm cắp, lừa dối. Như vậy gọi là không bố thí. Lại có trường hợp không thí. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát tự biết thân mình có thể làm nhiều lợi ích, nếu có vô lượng chúng sinh đến cầu thì không nên bố thí mà cũng gọi là thí. Vì sao? Vì có tâm tịnh. Nếu biết là ma và quyến thuộc của ma thì không nên bố thí. Nếu có người bị ma làm mê loạn, lúc đến dốc cầu cũng không nên bố thí. Như có người bị ma làm mê hoặc não loạn, đến van nài cầu xin cũng không nên bố thí. Đây gọi là không thí bên trong. Không thí bên ngoài tức là lửa, độc, dao, rượu có thể làm nhân duyên ác cho chúng sinh, nên Bồ-tát trọn không dùng những thứ nầy bố thí cho chúng sinh, nếu có thể làm việc lợi ích thì dùng để bố thí. Bồ-tát Ma-ha-tát trọn không vì người mà tạo nghiệp ác, nếu biết có người sau khi thọ thí rồi ắt làm việc ác thì cũng không bố thí cho họ. Đây cũng gọi là thí. Vì sao? Vì tâm tịnh. Tay tuy không thí mà tâm đã xả. Vì sao? Vì Bồ-tát biết nhất định người nầy sau khi thọ thí, ắt tạo vô lượng nghiệp ác, đọa vào ba đường ác, nên không bố thí. Nếu Bồ-tát biết người thọ được vật tâm sinh hoan hỷ, nhưng biết họ không tránh khỏi sự khổ trong ba đường ác, thì cũng không nên bố thí. Bồ-tát Ma-ha-tát trọn không dạy người giăng bẫy, săn bắn, cũng không dạy người phụng sự Bà Tẩu thiên. Tự mình không giết dê để cúng tế thiên thần, cũng không dạy người giết dê cúng tế trời, không dùng lưới bẫy bố thí cho người đến cầu. Tất cả sự đánh đập mắng nhiếc, gông cùm đều không bố thí cho người. Nếu có người khốn khổ bần cùng sầu não, muốn tự giết mình, đến cầu dao, rựa, cũng không nên bố thí, cũng không dạy người nhảy từ non cao xuống vực thẳm, hoặc nhảy vào lửa để mất thân mạng. Nếu có người bệnh đến cầu xin thuốc, nếu là thuốc cấm thì không thí cho họ. Người tham ăn khi thấy họ no rồi cũng không nên bố thí. Đây gọi là không bố thí. Bồ-tát Ma-ha-tát không đem cha mẹ, Sư trưởng mà bố thí. Nếu là quốc vương không nên tự tiện lấy vợ con của họ để bố thí cho người, chỉ trừ trong thành ấp, thôn xóm, quốc độ, nếu là vợ con của mình, cho đến đầy tớ, quyến thuộc, trước nên dùng lời nhẹ nhàng an ủi, khuyên nhủ, nhưng tâm họ không chịu thì cũng không nên lấy đem bố thí. Giả sử họ ưng chịu thì cũng không nên thí cho người ác, La-sát, quỷ ác, hạng Chiên-đà-la. Tuy dùng thành ấp, thôn xóm, quốc độ bố thí cho người, nhưng trọn không bố thí cho người bạo ác, cũng không lén lấy của cải hiện có của cha mẹ, sư trưởng, vợ con, tôi tớ, người hầu mà bố thí cho người. Bồ-tát không dùng phi pháp cầu tài sản vật dụng để bố thí. Lúc thực hành bố thí, không sân hận, đánh đập, mắng nhiếc quyến thuộc của mình, nên dùng lời thiện dạy dỗ khiến họ hoan hỷ, nói rõ phước báo như vậy ngươi cũng có phần. Bồ-tát hành bố thí thì tâm bình đẳng, không xét ruộng phước và chẳng phải ruộng phước, không xét oán thân, chủng tánh tôn quý hay thấp kém, vật đã hứa cho trọn không hối hận, vật hứa cho nhiều trọn không lấy bớt, trước hứa đồ tốt sau không dùng đồ xấu để cho, tuy hứa cho đồ xấu hoặc ít, có thể cho nhiều, cho đồ tốt. Bồ-tát lúc hành thí không có tâm chẳng vui, sân hận tán loạn, thí rồi trọn không tính toán việc báo ân đối với người thọ thí. Lúc bố thí không vì người thọ là tôn quý mà cung kính tay dâng, người thọ là thấp kém cũng không quăng ném để cho. Nếu người thọ đánh mắng hoặc cướp đoạt, Bồ-tát trọn không vì vậy mà sinh sân hận, chỉ trách phiền não, không trách người nầy, đối với người ấy nên sinh tâm thương xót, trọn không suy nghó nhân sự thí nầy mà ta sẽ chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, không nghó nhân bố thí nầy cũng có thể trang nghiêm Bồ-đề. Không vì cầu quả mà thực hành bố thí, tất cả chỗ thí đều hồi hướng về đạo quả Bồ-đề vô thượng. Không vì người khác dạy nên thực hành bố thí, không vì nghe có quả báo của bố thí mà thực hành bố thí. Như trong kinh nói, thí thức ăn được sức lực, thí y phục được sắc đẹp, thí xe cộ được sự vui, thí đèn được mắt sáng, thí phòng nhà được vật tùy ý, trọn không mong đạt các quả như vậy mà thực hành bố thí, chỉ vì thương xót mà thực hành bố thí, vì phá trừ sự bần cùng nên thực hành bố thí, vì điều phục chúng sinh đạt được đạo quả giác ngộ tột bậc nên thực hành bố thí, không bố thí vật phi thí. Phi thí là không dùng thức ăn thừa để bố thí cho Thánh nhân, nếu chẳng phải Thánh nhân, không cầu thì không bố thí, không đem thức ăn thừa bố thí cho cha mẹ, sư trưởng và người có đức, nếu họ dốc cầu thì nên bố thí, trọn không dùng các thứ thức ăn có lẫn đờm dãi, mồ hôi, phân dơ mà bố thí, không đem thức ăn ô uế mà bố thí cho người. Phàm khi bố thí thức ăn hoặc nhiều hoặc ít, trước nói sau thí không nói không thí, người không ăn hành không dùng thức ăn có hành bố thí, người không ăn thịt không dùng thức ăn có thịt bố thí, người không uống rượu không dùng thức ăn có rượu bố thí, nếu có rượu thơm cũng không dùng để bố thí. Đây gọi là vật bất tịnh không nên dùng bố thí. Bồ-tát Ma-ha-tát khi thấy người đến cầu xin liền bố thí, trọn không vì việc bố thí để sai khiến họ, không vì sự vui nơi cõi trời mà bố thí, không vì danh xưng mà bố thí, không cầu báo ân mà bố thí, không vì cầu thân làm Chuyển luân Thánh vương mà bố thí, không vì cầu thân Ma thiên, Phạm thiên mà bố thí, không vì quốc vương trưởng giả cung kính cúng dường tôn trọng mà bố thí, có ít vật còn bố thí, huống là có nhiều. Không vì lừa dối mà hành bố thí, không vì phá hoại quyến thuộc người khác thành quyến thuộc mình, cho đến xóm làng, thành ấp, quốc độ mà thực hành bố thí. Bồ-tát khi hành bố thí tay dâng bậc thượng tòa, cho đến các vị Sa-di và người trì giới, hủy giới, tâm không mệt mỏi. Lúc Bồ-tát bố thí trọn không trách mắng người xin, không vì kiêu mạn mà bố thí. Bồ-tát Ma-ha-tát đối với tất cả vật thường sinh tâm xả, nếu có cất chứa vật đều vì chúng sinh, nếu biết Bồ-tát đã xả vật mà mình có phần trong ấy, tự lấy phần của mình thì không có tội. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc thấy người đến cầu xin, tâm sinh hoan hỷ, như người bệnh nặng gặp thầy thuốc hay, tùy theo chỗ họ cần mà cho. Ba thời hoan hỷ, đó là chưa thí, lúc thí và thí rồi. Bồ-tát lúc thí thường phát tâm nầy: Giả sử trong một lúc có người giàu và nghèo đến xin, Bồ-tát nên tự suy nghó, nếu vật có nhiều nên bố thí cho cả hai, như vật có ít thì trước cứu người bần khổ. Làm được nguyện nầy ấy là nhân của đạo quả Bồ-đề vô thượng. Keo kiệt có ba hạng là thượng, trung, hạ. Bồ-tát Ma-ha-tát trước phá trừ bậc hạ, do phá bậc hạ thì có thể phá trừ hai bậc trung và thượng, đã tự phá trừ rồi lại vì chúng sinh mà nói pháp phá bỏ tham lam keo kiệt, do thuyết pháp mà chúng sinh được lợi. Lại nữa, Bồ-tát đối với người không cầu xin gắng dùng vật bố thí, nếu không có tài vật, nên dùng phương tiện, sức lực tìm cầu mà bố thí, nếu không có của cải nên dùng pháp thí để giáo hóa chúng sinh: Nay ông tại sao không thực hành bố thí. Thấy người thực hành bố thí tâm sinh hoan hỷ, dùng thân lực giúp đỡ họ, nếu không có của cải nên dùng trí tuệ chỉ bày thiện ác cho chúng sinh. Lại nữa, Bồ-tát không dùng kinh sách chân chánh bố thí cho người tà kiến, không vì sự sống mà bày bán kinh luật, như có người đọc tụng thì nên tặng cho họ, nếu keo kiệt không cho đây gọi là bỏn sẻn về pháp. Nếu có thể thuyết pháp nhưng không vì họ mà thuyết giảng, cũng gọi là bỏn sẻn về pháp. Nếu ta không thể đem pháp bố thí cho người, làm sao phá trừ phiền não cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát trọn không thể nói: “Nay ta không có của cải thì không thể thực hành bố thí”, cũng không vì thế mà sân hận sầu não, nung đốt tâm mình; nên dùng phương tiện khéo léo an ủi người cầu xin: Nay ta chưa có nên không vừa ý. Vì sao? Vì từ lúc ban đầu phát tâm tự nói sẽ bố thí cho tất cả chúng sinh. Lại nữa, Bồ-tát nghe có người cầu thí đến, tức liền nghênh đón, vì họ mà thí giường tòa, lúc gặp rồi trước dùng lời nhỏ nhẹ thăm hỏi, tùy theo vật họ cần mà cung cấp đầy đủ. Bồ-tát Ma-ha-tát ban đầu phát tâm tự nói: Những vật nay ta hiện có sẽ thí cho mười phương chư Phật Bồ-tát và các chúng sinh. Ví như đệ tử dùng y bát dâng lên cho thầy, tuy thầy không nhận mà đệ tử nầy được phước vô lượng. Bồ-tát cũng như vậy. Vật hiện có đem dâng cho chư Phật Bồ-tát, tuy chư Phật Bồ-tát không thọ nhận mà cũng khiến người thí được vô lượng phước, thường theo Bồ-tát như hằng hà sa. Bồ-tát Ma-ha-tát xem của cải của mình như chỗ gởi của mười phương chư Phật Bồ-tát, biết Phật Bồ-tát đối với vật nầy tâm không tham tiếc, cho nên Bồ-tát tự tại tùy ý bố thí cho chúng sinh. Cũng lại quán sát người không nên bố thí, nên can ngăn khuyến dụ, như vật nầy chẳng phải vật của ta, chính là vật hiện có của chư Phật Bồ-tát, dùng lời nhẹ nhàng khuyên bảo khiến người cầu xin không sân hận, vì thế Bồ-tát thành tựu đầy đủ tài thí và pháp thí. Đủ hai pháp thí rồi, biết tánh, biết nhân, biết quả, biết phân biệt. Nếu Bồ-tát bố thí cho người oán ghét, là nhân duyên của từ, nếu bố thí cho người khổ là nhân duyên của bi, nếu bố thí cho người có đức là nhân duyên của hỷ, nếu bố thí cho quyến thuộc, anh em, tôi tớ, là nhân duyên của xả. Đây gọi là nhân nơi trí tuệ thí. Lại nữa, Bồ-tát biết hại tâm bố thí có bốn việc: Một là từ vô lượng đời đến nay không thực hành bố thí. Hai là của cải ít. Ba là tham đắm vật tốt. Bốn là không cầu quả báo lành ở đời sau. Bồ-tát Ma-ha-tát thấy người đến cầu, dẫu có nhiều của cải mà không phát tâm thí. Đây gọi là Bồ-tát trong vô lượng đời không thực hành tâm thí. Lúc nầy, Bồ-tát nên dùng trí lực tự suy nghó: Ta vì từ vô lượng kiếp về trước không thực hành bố thí nên không phát tâm liền. Nay ta có nhiều tài vật và có người đến xin, nếu lại không bố thí thì đời vị lai sẽ tăng trưởng tâm keo kiệt, trọn không tùy thuận, không tu tâm thí. Lại nữa, Bồ-tát thấy người đến xin, vì của cải ít mà không phát tâm thí, Bồ-tát nên dùng trí tuệ lực mà tự suy nghó: Ta vì nhân duyên của vô lượng nghiệp ác, trong vô lượng đời thân thuộc về người khác, chịu khổ não, đói khát, lạnh nóng, không thể tạo lợi ích cho vô lượng chúng sinh, vì duyên nghiệp nầy khiến thân ít của cải, nay nếu không bố thí thì đời sau lại tăng trưởng sự bần cùng khốn khổ. Nay ta nên dùng vật nầy bố thí cho người, tuy phải nghèo khổ nhưng không đến nỗi bị khổ như ba đường ác. Suy nghó như vậy, có thể trừ bỏ tâm keo kiệt vì của cải ít. Lại nữa, Bồ-tát thấy người đến cầu xin, đối với vật tốt sinh tâm tham đắm, không phát tâm thí. Lúc ấy, Bồ-tát nên dùng trí tuệ mà tự suy nghó: Ta đối với vật vô thường mà nghó là thường, trong chỗ vô ngã mà nghó là có ngã, nếu ta không bố thí thì sẽ tăng trưởng tâm tham đắm, đấy là ta điên đảo, nên Bồ-tát có thể phá tan tâm tham đắm vật tốt. Lại nữa, Bồ- tát không cầu quả báo nên không thực hành bố thí. Lúc ấy, Bồ-tát nên tự suy nghó: Tất cả các pháp là vô thường không định, nếu là thường là định thì không cần bố thí. Vì sao? Vì không có nhân quả, do vô thường nên ắt có nhân quả, nay nếu không thí thì làm sao được đạo quả Bồ-đề. Cho nên, Bồ-tát có thể phá trừ tâm không cầu quả báo mà thực hành bố thí. Bồ-tát Ma-ha-tát biết rõ bốn sự điên đảo, pháp không có nhất định, không có tướng thường, nên có thể phá trừ bốn tâm ác oán. Lại nữa, Bồ-tát trong thân vắng lặng, chí tâm tự suy nghó: Giả sử ta có của cải, sẽ đem cúng dường chư Phật Bồ-tát, hoặc cúng dường tháp Tăng. Đây gọi là trí tuệ bố thí của Bồ-tát. Có của cải hoặc không cũng thường suy nghó như vậy. Pháp thí cũng như vậy. Đây gọi là tất cả thí. Thế nào là Bồ-tát nan thí có thể thí? Bồ-tát Ma-ha-tát nếu có ít của cải thường đem bố thí, đây gọi là nan thí. Đối với vật mà tâm quý trọng tham đắm, trong vô lượng đời siêng năng mong cầu mà có, hoặc tổn hao sức lực phương tiện lớn lao mà được, dùng những vật như vậy bố thí cho người, đây gọi là nan thí. Thế nào là tất cả tự thí? Bồ-tát Ma- ha-tát hoặc tự mình bố thí, hoặc giáo hóa cha mẹ, anh em, quyến thuộc, vợ con, tôi tớ, khiến họ thực hành bố thí. Đây gọi là tất cả tự thí. Thế nào là người thiện thí? Nếu thiện nam dùng tâm thiện bố thí, tâm tín thí, chí tâm thí, tự tay thí, thí đúng thời, thí như pháp đắc tài. Đây gọi là người thiện thí. Thế nào là Bồ-tát tất cả hành thí? Do không cầu quả báo, thì gọi là tất cả hành thí. Thường thí cũng gọi là tất cả hành thí. Phước điền thí gọi là tất cả hành thí. Không quán phước điền và phi phước điền thí, gọi là tất cả hành thí. Không quán thời và phi thời, gọi là tất cả hành thí. Không quán tài vật là có thể thí hay không thể thí. Đây gọi là tất cả hành thí. Thế nào là Bồ-tát vì diệt trừ cho nên thí? Nếu có chúng sinh đói khát khổ não, vì trừ việc nầy mà hành bố thí. Nếu lạnh thì thí áo, cầu xe thí xe, cầu anh lạc thí anh lạc, cho đến hương thoa, hương bột, tạp hoa, đèn đuốc, phòng nhà, mền nệm, thuốc thang, cũng lại như vậy. Đây gọi là vì dứt trừ nên thí. Thế nào gọi là tự lợi lợi tha thí? Bồ-tát Ma-ha-tát nếu dùng tài thí, pháp thí bố thí cho người, có thể vì thân mình và thân chúng sinh mà làm hai đời vui, thường ban sự vui vô úy cho chúng sinh. Nếu gặp thú dữ như hổ lang, sư tử, các thứ lũ lụt, hỏa hoạn, nạn vua, giặc cướp, đều có thể cứu giúp. Đây gọi là vô úy thí. Bồ-tát Ma-ha-tát dùng pháp bố thí, phàm có tuyên thuyết đều không điên đảo. Đây gọi là pháp thí. Có thể khéo dạy bảo tất cả chúng sinh, đây gọi là pháp thí tịnh. Bồ-tát thí của cải tức tạo lợi ích trong hiện tại, thực hành pháp thí thì có thể tạo lợi ích cho hiện tại, và đời khác. Lại có tài thí, hoặc vì chúng sinh nên chịu sự khổ nơi hiện tại. Pháp thí không như vậy, vì có thể làm an vui cho đời nầy đời sau. Tài thí là bất tịnh, pháp thí là thanh tịnh gọi là vô biên, tài thí dễ đạt, pháp thí khó đạt. Đây gọi là tự lợi lợi tha thí. Thế nào gọi là tịch tónh thí? Tịch tónh thí có mười thứ: Một là thí vô ngại. Hai là thí không sai lầm. Ba là thí phi trang nghiêm. Bốn là thí không có tâm tự cao. Năm là thí không có tâm tham đắm. Sáu là thí không xấu hổ. Bảy là thí không ưu sầu. Tám là thí, không thấp kém. Chín là thí không cầu báo ân. Mười là thí không cầu quả báo. Thí vô ngại tức là Bồ-tát Ma-ha-tát khi thực hành bố thí, không bị tất cả công việc đời làm cho trở ngại. Tuy biết người cầu tâm không áy náy, nhưng nên mau đáp ứng chỗ cầu của họ. Đây gọi là thí vô ngại. Thí không sai lầm tức Bồ-tát Ma-ha-tát trọn không nghó bố thí có quả báo, không có quả báo thiện ác, cũng không nói sát sinh hành thí mà được quả báo thiện như thuyết của Bà Tẩu. Do nhân duyên thí không tham đắm, mà được sự an vui ở thế gian và đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là thí không sai lầm. Thí phi trang nghiêm tức là Bồ-tát Ma-ha-tát trọn không chứa vật vì trang nghiêm tốt mà hành bố thí, tùy chỗ bố thí trọn không cất chứa. Vì sao? Bồ-tát biết rõ thân mạng và của cải là vô thường khó giữ, gặp người đến cầu thường bố thí, trọn không nói đợi ta trang nghiêm rồi sau đó mới cho. Vì sao? Vì trang nghiêm thí thì không gọi là Bồ-tát trang nghiêm đạo quả Bồ-đề vô thượng. Nếu đợi trang nghiêm thí thì khiến chúng sinh chịu khổ não rồi. Thí tâm không tự cao tức là Bồ-tát Ma-ha-tát thấy người đến cầu, sinh tâm nhún nhường, không tự khen ngợi ta là thí chủ, không cầu báo ân, không vì hơn người, vì danh xưng mà hành bố thí. Đây là thí tâm không tự cao. Thí tâm không tham đắm tức là Bồ-tát Ma-ha-tát không đắm nơi danh xưng. Bồ-tát quán xét danh xưng như hư không, như gió không vướng mắc, nếu cầu danh mà thí thì không thể chứng đắc đạo quả Bồ- đề vô thượng cho nên Bồ-tát cầu đạo quả giác ngộ ấy thì không cần danh xưng. Đây là thí tâm không tham đắm. Thí không xấu hổ tức là khi thực hành bố thí, luôn luôn hoan hỷ. Đây là thí không xấu hổ. Thí không ưu sầu tức là Bồ-tát Ma-ha-tát dùng vật quý trọng bố thí rồi tâm không hối hận. Đây gọi là thí không ưu sầu. Thí không thấp kém tức là Bồ-tát quán xét tất cả chúng sinh, tâm ấy bình đẳng, thảy đều vui vẻ nhìn ngắm. Đây gọi là thí không thấp kém. Thí không cầu báo ân tức vì lòng thương xót nên tu tập từ bi, ban sự an vui, không cầu sự đền đáp. Đây gọi là thí không cầu báo ân. Thí không cầu quả báo tức là Bồ-tát Ma-ha-tát lúc thực hành bố thí, không cầu thân Chuyển luân Thánh vương, hoặc ở cõi trời ba mươi ba, Ma thiên, Phạm thiên, của cải tự tại. Vì sao? Vì Bồ-tát quán xét các pháp hữu vi đều không bền chắc như là cây chuối, nên lúc bố thí không cầu quả báo. Đây gọi là thí không cầu quả báo. Mười việc như vậy có thể khiến Bồ-tát thành tựu đầy đủ bố thí Ba-la-mật, chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. ------------------------ <詞>Phẩm 11: TRÌ GIỚI CỦA ĐỊA BỒ TÁT Thế nào gọi là giới của Bồ-tát Ma-ha-tát? Giới có chín thứ: Một là giới tự tánh. Hai là giới tất cả. Ba là giới nan. Bốn là giới tất cả tự. Năm là giới thiện nhân. Sáu là giới tất cả hạnh. Bảy là giới trừ. Tám là giới tự lợi lợi tha. Chín là giới tịch tónh. Giới tự tánh tức là Bồ-tát Ma-ha-tát đầy đủ giới tự tánh, có bốn công đức: Một là dùng tâm thanh tịnh thọ lãnh từ người khác. Hai là tâm không thanh tịnh hủy giới đã thọ. Ba là nên chí tâm hổ thẹn sám hối. Bốn là sám hối rồi chuyên tâm không dám phạm lại. Bồ-tát Ma-ha-tát từ người khác lãnh thọ giới, sinh tâm hổ thẹn, do tâm hổ thẹn nên hộ trì không phạm, nếu tâm không tịnh hủy giới đã thọ, do tâm hổ thẹn nên không dám che giấu dù là một đêm. Bồ-tát phạm giới trải qua một đêm, nếu muốn sám hối, không nên sám hối một lần phạm, mà phải suy nghó về việc phạm vô lượng lần mà sám hối. Vì sao? Vì nếu phạm nhiều mà sám hối một lần thì không gọi là sám hối, người thọ nhận có tội. Lúc Bồ-tát thọ trì giới từ người khác gồm có bốn việc: Một là xấu hổ. Hai là chí tâm kiên trì. Bồ-tát Ma-ha-tát chí tâm trì giới, trọn không sinh tâm hủy phạm. Ba là thọ rồi nhất tâm thọ trì. Bốn là tịnh tâm hộ trì. Bồ-tát đầy đủ bốn công đức giới có thể làm bốn việc: Một là không phạm. Hai là nếu phạm liền sám hối. Ba là tâm sinh hổ thẹn. Bốn là không sinh hối hận. Đây gọi là giới tánh. Giới tánh của Bồ-tát gọi là giới chân thật, gọi là giới tự lợi lợi tha, gọi là giới lợi ích cho chúng sinh, gọi là nghóa giới lợi ích cho chúng sinh, gọi là giới tăng trưởng trời người, gọi là giới vô lượng công đức. Bồ-tát thành tựu giới như vậy, sinh tâm thương xót thì có thể giáo hóa vô lượng chúng sinh. Bồ-tát nếu vì khách trần phiền não mà không sám hối, nên thường vì người khen ngợi trì giới, quở trách phá giới, nói tội lỗi hủy phạm giới cấm, nếu có thể như vậy tuy gọi là hủy giới mà tội lỗi nhẹ, cũng có thể chứng đắc trọn vẹn đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là giới tự tánh. Giới tất cả tức là những giới người tại gia và xuất gia đều thọ trì. Có ba thứ: Một là giới. Hai là giới thọ pháp thiện. Ba là vì lợi ích cho chúng sinh nên hành giới. Thế nào gọi là giới? Giới có bảy lọai, là Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Thức-xoa-ma-ni, Sa-di, Sa-di ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Bồ-tát Ma-ha-tát nếu muốn thọ trì giới Bồ-tát, trước phải tịnh tâm thọ bảy thứ giới, nghóa là tịnh tâm hướng đến giới Bồ-tát, như người thế gian muốn thỉnh đại vương, trước phải quét dọn phòng nhà, chỗ ở. Bảy thứ giới nầy là chỗ thọ trì của người tại gia và xuất gia. Giới Bồ-tát cũng lại như vậy, đều là người tại gia và xuất gia hành thọ. Đây gọi là giới. Thế nào là giới thọ pháp thiện? Giới pháp thiện tức là Bồ-tát Ma- ha-tát không có bảy lọai giới trên, vì Bồ-đề nên tu mười pháp thiện nơi thân khẩu ý nghiệp. Đây gọi là giới thọ pháp thiện. Thân khẩu ý tức là Bồ-tát Ma-ha-tát trụ vào giới địa rồi, đọc tụng biên chép, phân biệt giải nói, suy nghó tu tập hai pháp chỉ và quán, cung kính cúng dường tôn trọng tán thán các bậc sư trưởng, Hòa thượng, trưởng lão có đức, luôn luôn cung kính hầu hạ, hoặc bệnh, hoặc già, hoặc đi giữa đường mệt mỏi, phải liền thay thế mang y bát, nếu thấy thuyết pháp thì tán thán: Lành thay! Thấy người trì giới hết sức ủng hộ, khen ngợi giới pháp, nguyện các chúng sinh đều trì tịnh giới. Thấy người phá giới sinh tâm thương xót, khéo dùng lời quở trách và dạy họ sám hối. Các việc thiện do thân khẩu ý làm, đều phát thệ nguyện hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề vô thượng. Lúc thân khẩu ý còn có khí lực, siêng năng cúng dường Phật Pháp Tăng bảo. Vì tăng pháp thiện nên siêng tu tinh tấn. Vì đạt được tất cả pháp thiện nên tu bất phóng dật. Thường phải chí tâm niệm giới, hộ giới, điều phục các căn, ăn uống biết đủ, không ưa ngủ nghỉ, đầu đêm cuối đêm đọc tụng kinh điển, nhớ nghó về Tam bảo, gần gũi bạn lành, ưa nghe lời dạy, tự xét lỗi mình, biết rồi sám hối, tâm sinh hổ thẹn, chí tâm nhớ nghó không còn hủy phạm, hướng đến Phật Pháp Tăng, đồng sư, đồng pháp, đồng giới, đồng học, phát lồ sám hối. Đây gọi là giới thọ pháp thiện. Vì tạo lợi ích cho chúng sinh mà thực hành giới có mười một thứ. Nếu có chúng sinh muốn tu pháp thiện, tức đến khuyến khích cùng làm bạn, cùng làm nghiệp thiện, có người chăm sóc bệnh cũng đến khuyến khích cùng làm bạn. Nếu có chúng sinh muốn hiểu ý nghóa của pháp thế gian và xuất thế gian tức dùng phương tiện vì họ mà giải thuyết, có chỗ thọ ân luôn nghó nhớ báo đáp. Báo đáp đó là kiên trì giới cấm, đọc tụng, biên chép mười hai bộ kinh, suy nghó về nghóa chánh, phân biệt giải thuyết, có thể cứu giúp các sự sợ hãi của chúng sinh. Đó là sợ hãi về sư tử, hổ lang, lũ lụt, giặc cướp, nạn vua, ủng hộ chúng sinh khiến được xa lìa các thứ sợ hãi như vậy. Nếu có chúng sinh chết mất thân thuộc, hao tổn của cải, do ái biệt ly nên tâm sinh sầu khổ, có thể vì họ thuyết pháp khiến lìa khổ não. Nếu có chúng sinh bần cùng khốn khổ, tức có thể bố thí của cải mà họ cần dùng. Vì duy trì pháp nên nuôi dạy đệ tử, không vì danh lợi. Vì giữ gìn pháp nên qua lại nơi bốn chúng, cùng chung giảng luận không vì lợi dưỡng. Vì giữ gìn pháp nên gần gũi các hàng quốc vương, đại thần, trưởng giả, không vì lợi dưỡng, không vì đàn việt cung phụng mà thân khẩu nghiệp tạo tác phi pháp. Không được phi thời qua lại nhà người. Tại gia xuất gia đều có phi thời. Phi thời tức là lúc tham, lúc sân, lúc si, lúc gió to mưa lớn, lúc cưới hỏi, lúc yến tiệc, trừ những phi thời trên thì gọi là thời. Tùy theo công đức pháp thiện mà mình có được, đều đem chuyển dạy cho tất cả chúng sinh, tâm không tham tiếc. Thấy người hủy giới sinh tâm thương xót, dùng tâm thanh tịnh và lời tốt đẹp mà dạy bảo, cũng như cha mẹ dạy dỗ các con: Điều ngươi đã phạm thì nên phát lồ, như pháp sám hối, nếu họ không nghe thì không nên cung cấp, hầu hạ như trước, lại nên tùy việc mà nêu ra khiển trách, nếu vẫn không nghe nghư cũ thì phải đuổi ra khỏi trụ xứ, vì muốn pháp Phật được tăng trưởng nên làm vậy. Nếu không dạy bảo, trách phạt, đuổi ra, mà lại cùng ở chung, đây gọi là phá giới, là chẳng phải Sa-môn, chẳng phải là phạm hạnh. Trong pháp Phật gọi kẻ xấu là Chiên-đà-la, là kẻ giết mổ súc vật. Hạng Chiên-đà-la và kẻ giết mổ súc vật, tuy làm việc ác nhưng không phá hoại chánh pháp của Như Lai, không nhất định bị đọa trong ba đường ác. Làm thầy không thể dạy dỗ đệ tử, tức là phá hoại pháp Phật, nhất định bị đọa trong địa ngục. Vì danh tiếng mà nuôi chứa đồ chúng, đây gọi là tà kiến, gọi là đệ tử ma, không nuôi đệ tử thì không thể hủy hoại chánh pháp của Như Lai, nuôi đệ tử xấu tức phá hoại pháp Phật, do phá hoại pháp Phật nên gọi là đệ tử ma. Vì lợi dưỡng nên nuôi chứa đồ chúng, đây gọi là tà kiến. Nếu có thần túc thông, tha tâm thông và túc mạng thông, sau đó mới có thể dùng giới Bồ-tát giáo hóa người khác. Người nầy có thể nuôi chứa đệ tử xấu. Vì sao? Vì biết phương tiện. Do biết phương tiện nên phá trừ pháp ác, khai thị pháp thiện. Nếu có Tỳ-khưu không đủ ba ba trí tuệ như vậy, mà nói ta đủ ba thứ trí tuệ, có thể nuôi chứa đệ tử xấu, phải biết người nầy là phạm tội nặng, nếu lìa việc ấy thì gọi là giới lợi tha. Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu giới, giới thiện, giới lợi ích cho mọi người như vậy, gọi là giới tốt, giới thâu giữ tất cả, gọi là giới đến bờ giải thoát, là giới giải thoát, là giới vô thượng, là giới không nhân quả, là giới thường lạc ngã tịnh, là giới cứu cánh vô biên, là giới tất cả phương tiện hay. Nếu Bồ-tát có thể chí tâm nhớ nghó về giới Bồ-tát, thì hơn tất cả Thanh văn Duyên giác. Nếu có thể đầy đủ giới Bồ-tát, cũng hơn cả Bồ-tát sáu địa. Nếu có Bồ-tát xả bỏ quả vị Chuyển luân vương, xuất gia học đạo thọ giới giải thoát, xả bỏ năm thứ dục như bỏ đờm dãi, không nhớ, không cầu, không sinh hối tiếc, cho đến sự vui năm dục ở cõi trời cũng lại như vậy. Không vì thọ hoan lạc nơi cõi trời, người nên thọ trì giới cấm, quán xét năm thứ dục lạc như lửa lớn, rắn độc, như ba đường ác, được người khác cúng dường xem như thức ăn nhổ ra, tâm không dám tham đắm. Người thế gian nếu vì thọ vui nơi cõi trời người, hoặc vì danh dự lợi dưỡng mà thọ trì giới cấm, phải biết người nầy không phải là đắc giới. Người thành tựu giới hoặc ở trong Tăng chúng, hoặc ở nơi vắng lặng. Đây gọi là tịch tónh. Không thể giáo hóa chúng sinh nên không thể hộ trì giáo pháp, vì tiếc thân mạng nên không thể hộ trì giáo pháp, vì tham lợi dưỡng nên không thể hộ trì giáo pháp, vì oán hiềm nên không thể hộ trì giáo pháp, vì sợ hãi nên không thể hộ trì giáo pháp, vì kiêu mạn nên không thể hộ trì giáo pháp, vì không ưa pháp nên không thể hộ trì giáo pháp, vì không có tâm thương xót nên không thể hộ trì giáo pháp, vì không sợ xấu hổ nên không thể hộ trì giáo pháp. Đây gọi là phá giới, gọi là không tịch tónh. Nếu người đối với giới sinh tâm biết đủ, phải biết người nầy không gọi là trì giới. Biết nhân nơi giới nên được vô lượng Tam-muội của chư Bồ-tát, nếu không có giới thì không tăng trưởng vô lượng Tam-muội, vì Tam-muội nên hộ trì giới cấm. Bồ-tát hộ trì giới Bồ-tát, thà mất thân mạng chứ trọn không nghe lời phi pháp hoặc cùng ở với người ác, không nhớ không khởi các giác quán ác. Nếu có khởi tâm liền hối hận quở trách, sám hối. Khi ở trong chúng nếu nghe lời nói ác, việc ác, pháp ác, nghóa ác, tức liền đứng dậy đi, nếu sức mình có thể ngăn được, nhưng không dạy dỗ, quở trách, mà bỏ đi, đây gọi là phạm. Nếu sức mình không thể ngăn cản mà ở lại nghe thì cũng gọi là phạm. Nếu tâm không nghe thì gọi là trì giới, nếu tâm lắng nghe thì gọi là phá giới, hoặc ưa nghe cũng gọi là phá giới, không ưa nghe thì gọi là trì giới, sinh tâm hối hận thì gọi là trì giới, tâm không hối hận thì gọi là phá giới. Bồ-tát thọ trì giới Bồ-tát, trọn không tự nghó giới ta thọ là từ Hòa thượng mà đắc, tự nghó chính là từ thập phương chư Phật Bồ-tát mà thọ. Nếu ta từ Hòa thượng thọ đắc giới, thì không gọi là giới Bồ-tát, nếu từ thập phương chư Phật Bồ-tát thọ đắc giới, chính gọi là giới Bồ-tát. Bồ-tát Ma-ha-tát nếu phân biệt mười tám bộ Tăng thì không gọi là đắc giới Bồ-tát, nếu có thể bình đẳng xem tất cả đều là đệ tử của chư Phật Bồ-tát ở mười phương thì gọi là đắc giới Bồ-tát. Nếu xem tất cả đều là đệ tử của chư Phật Bồ-tát ở mười phương trụ ở đại địa, vì nhân duyên trụ nơi đại địa nên đều chứng đắc đạo quả Bồ đề vô thượng. Cõi chúng sinh không thể nghó bàn, pháp giới chúng sinh không thể nghó bàn, tánh chúng sinh không thể nghó bàn, giới chúng sinh không thể nghó bàn, ta chưa chứng đắc nhất thiết trí, tại sao phân biệt mười tám bộ Tăng? Nếu ta phân biệt thì không thể đắc giới tất cả, giới vô ngại, giới vô thượng, do có thể quán như vậy cho nên đắc giới Bồ-tát, như đời quá khứ Bồ- tát đã chứng đắc giới cấm. Nếu Bồ-tát có thể quán như vậy, thì được vô lượng vô biên phước đức, có thể biết tâm của Phật và Bồ-tát trong mười phương, cũng biết người đầy đủ giới Bồ-tát sẽ chứng đắc đạo vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát quán xét chư Phật và Bồ-tát trong quá khứ, lúc chưa thành tựu đạo vô thượng, đầy đủ phiền não học giới Bồ-tát, đầy đủ thành rồi đắc đạo vô thượng. Nay thân nầy của ta cũng là chúng sinh, cũng có năm ấm, cũng có phiền não, cũng thọ giới Bồ-tát, tu tập đạo Bồ-đề, cũng sẽ chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Ta cũng có thể điều phục nghiệp ác của thân khẩu ý, ắt cũng sẽ chứng đắc đạo quả ấy. Bồ-tát thọ trì giới Bồ-tát, chí tâm chuyên niệm tự xét lỗi mình, không thưa điều xấu của người, thấy người làm ác tâm không sân hận, thấy người phá giới tâm sinh thương xót, không có sân, não. Bồ-tát thọ trì giới Bồ-tát, nếu bị người ác dùng dao gậy đánh đập hoặc dùng lời ác chửi mắng, đối với người nầy không nên khởi tâm ác hoặc nói lời thô sẽ báo thù. Bồ-tát nếu học giới Bồ-tát có năm việc không phóng dật: Một là xét mình phạm tội nên như pháp sám hối. Hai là xét đáng phạm tội nên như pháp sám hối. Ba là xét hiện phạm tội nên như pháp sám hối. Bốn là chí tâm kiên trì không nghó tưởng phạm. Năm là phạm rồi nên chí tâm sám hối. Bồ-tát thọ trì giới Bồ-tát, nếu có công đức thì nên che giấu, các tội đã phạm phải nên phát lồ, ít muốn biết đủ, gắng nhẫn các khổ, thường ưa vắng lặng, tâm không hối hận, không tự cao, không khinh suất, tu hạnh tịch diệt và hạnh vi tế, phá bỏ tà mạng, Bồ-tát thành tựu pháp như vậy, gọi là Bồ-tát an trụ trong giới Bồ-tát. Bồ-tát thọ và học giới Bồ-tát, không nhớ sự vui năm dục trong quá khứ, không cầu sự vui năm dục đời vị lai, tâm không tham đắm với năm dục hiện tại, thường ưa tịch tónh, phá bỏ giác quán ác, thành tựu đầy đủ hạnh không phóng dật, không dám khinh chê tất cả chúng sinh, thành tựu nhẫn nhục đầy đủ tâm tịnh. Người học tịnh giới không tiếc thân mạng, không tiếc của cải, khéo biết nhân duyên của phiền não phá giới, hay khéo điều phục nhân duyên phiền não phá giới, điều phục tâm sân hận, có thể điều phục tâm não hại của chúng sinh, hiểu rõ sự điên đảo, biết nhân quả thiện, do biết nhân quả thiện nên siêng năng gắng cầu, phá trừ bất tín, nhân quả bất thiện, quán tất cả pháp không có tướng thường, ngã, không có tướng lạc, tịnh, phá trừ bốn thứ điên đảo: vô thường cho là thường, vô lạc cho là lạc, vô ngã cho là ngã, bất tịnh cho là tịnh của chúng sinh, tu học giới thiện, tu tập nhân bố thí, nhân trì giới, nhân nhẫn nhục, nhân tinh tấn, nhân thiền định, nhân Bát nhã. Bồ-tát thọ trì giới vì tạo lợi ích cho mọi người nên giáo hóa chúng sinh khiến làm nghiệp thiện, cùng làm bạn với người tu thiện, thường dạy chúng sinh cúng dường Tam bảo. Nếu thấy ly biệt thì dùng phương tiện hay khiến được hòa hợp trở lại. Thấy người bệnh khổ tự thân cung cấp, hầu hạ. Thấy người mù lòa cung cấp vật cần dùng như y phục, thức ăn, chỉ bày đường đi, khéo vì họ thuyết pháp, gặp người bị điếc thì vạch đất chỉ bày nghóa, gặp người bị què thì bố thí xe cộ, nếu không có xe cộ thì tự thân cõng vác. Thấy người vì tham mà thọ khổ, có thể thuyết pháp khiến họ trừ khổ. Đối với sân hận, ngu si cũng lại như vậy. Gặp người đi đường mệt nhọc thay họ mang vác, bố thí thức ăn, mền nệm, các thứ cần dùng. Lại có chúng sinh ưa tạo nghiệp tội, Bồ-tát thấy rồi nên khéo thuyết pháp, lời thiện nghóa thiện, lời hợp nghóa hợp, lời nghóa lần lượt tăng trưởng pháp thiện, thuyết nghóa đầy đủ. Vì muốn trang nghiêm đạo Bồ-đề nên dùng phương tiện hay dạy phá điều ác. Vì người tham lam keo kiệt dạy pháp phá tham lam keo kiệt, tăng trưởng pháp thiện và phá trừ tranh chấp nơi các tài vật. Nếu có chúng sinh không tin pháp Phật, khéo thuyết pháp khiến họ sinh tâm tín. Vì nhằm phá diệt phiền não nghiệp ác nơi chúng sinh, muốn được tám chánh đạo cho nên thuyết pháp. Lại nữa, Bồ-tát học giới Bồ-tát nên phát thệ nguyện lớn, vì phá các tà ác kiến của chúng sinh, vì biết ân báo ân, nên dùng lời nhẹ nhàng thăm hỏi cúng dường sư trưởng, trưởng lão có đức, có thể phá trừ sự sợ hãi ưu sầu, đó là sợ hãi về sư tử, hổ lang, nước lửa, nạn vua, giặc cướp. Nếu có chúng sinh chết mất cha mẹ, anh em, quyến thuộc, vợ con, tôi tớ, hao tổn của cải, thân ái biệt ly, có thể dùng phương tiện thích ứng thuyết pháp diệt trừ khổ não, thường bố thí vật cần dùng cho chúng sinh như y phục, thức ăn, phòng nhà, mền nệm, thuốc thang, hương hoa, anh lạc, đèn đuốc. Nếu Bồ-tát thọ trì giới Bồ-tát, nuôi chứa đệ tử mà không khéo dạy dỗ, thuyết pháp chỉ bày khiến điều phục tham sân si, cũng không thể cung cấp y phục thức ăn phòng nhà thuốc thang, không thể vì đệ tử mà cầu đàn việt tốt, nếu vì đàn việt thuyết giảng pháp yếu, có được của cải không thể phân chia bình đẳng, phải biết người nầy vì danh tiếng mà nuôi chứa đệ tử, không phải vì pháp. Nếu có thể tùy thời dạy dỗ nói pháp, vì tánh, vì lực, vì tạng Bồ-tát, vì muốn đầy đủ giới Bồ-tát mà tu tám chánh đạo, chứng đắc đạo quả bồ đề vô thượng, đây đúng là Bồ-tát nuôi chứa đệ tử không vì danh tiếng. Bồ-tát thọ học giới Bồ-tát, trước phải quán xét tánh giới chúng sinh, sau đó cùng ở để chuyển tánh giới, thuyết pháp thích ứng, tùy ý cùng đi, khiến họ điều phục không tạo ng- hiệp ác, có thể phá trừ pháp ác, tăng trưởng pháp thiện, có thể ban cho các vật cần dùng. Thấy người làm ác sinh tâm thương xót, thấy người không nghe lời dạy sinh tâm buồn khổ, đối với các nghiệp ác mình làm tâm không ưu sầu, thấy người tạo tác sinh tâm thương xót. Vì sao? Bồ-tát đối với thân khẩu ý ác của mình, có thể nhanh chóng điều phục, mở tâm sám hối, vì có lực nhân duyên của đại trí. Bồ-tát vì người khác cũng lại tạo tác nghiệp ác nơi thân khẩu, vì muốn điều phục nghiệp ác của họ, tùy theo tâm người mà Bồ-tát có lúc hiện thọ sự hoan lạc, vì để điều phục người khác. Bồ-tát ma-ha-tát vì mọi người nên không sớm chứng đắc đạo quả Bồ đề vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát tuy tùy thuận chúng sinh mà không khinh không chê, không đánh không mắng, không nói việc ác, không khen đức của mình để tự cao. Người không gần gũi chẳng phải là không gần gũi, tuy gần gũi mà phi thời thì không làm. Thấy người khác sinh tham đắm không nên nói lỗi họ, thấy người không tham ái thì không khen ngợi. Chưa biết căn tánh của người thì không thuyết giảng nghóa sâu xa, không nên theo người khác cầu xin, tuy được thí nhiều nên sinh tâm biết đủ, tâm không ưa thọ nhận mọi người cúng dường, thường ưa xả bỏ của cải, cung cấp cho mọi người, thường ưa khen ngợi người khác làm thiện. Thấy người phạm giới thì không vì họ nói giới. Thấy người không có tâm tín thì không khen ngợi sự tín. Thấy người có tâm tham thì không khen ngợi bố thí. Người không ưa đọc tụng thì không tán thán việc đa văn. Thấy người si ám không khen ngợi trí tuệ. Nếu vì người phạm giới mà khen ngợi giới, thì khiến họ không ưa không vui, sinh tâm xấu hổ sân hận. Vì sân hận nên đối với pháp Phật và người thuyết pháp sinh tâm đại ác, do tâm đại ác nên tăng trưởng nhân địa ngục. Bồ-tát Ma- ha-tát nếu làm như vậy, tức là ban cho chúng sinh nhân duyên địa ngục, không gọi là Bồ-tát. Người tùy ý thuyết pháp, cho đến đối với người ngu si, tự khen trí tuệ cũng lại như vậy. Nếu như Bồ-tát có thần thông lớn, mới có thể vì người không tin mà thuyết giới Bồ-tát. Vì sao? Vì người nầy có thể dùng lực thần thông, chỉ bày cho người kia thấy địa ngục nóng, địa ngục lạnh, địa ngục nhỏ, lại nói: Nay ngươi tại sao không tin lời ta, xem quả ác nầy do người tạo tác, nên chịu khổ nơi địa ngục. Nếu ngươi lại không tin nơi giới Bồ-tát, thì sẽ chịu quả ác như vậy. Người không tin thấy việc nầy rồi, trong lòng sợ hãi liền sinh tâm tín. Lại có Bồ-tát vì người không tin, dùng lực thần thông hiện hình La-sát mà nói: Nay ta đi tìm những người không tin để đoạn mạng sống của họ, nếu có người tin ta sẽ hộ niệm, người không tin khi thấy nghe việc như vậy rồi liền sinh tâm sợ hãi, do sợ hãi nên tin giới Bồ-tát. Lại dùng thần lực hiện hình thần Mật Tích cầm chày kim cang mà nói: Nếu có người không tin giới Bồ-tát, ta sẽ đập vỡ đầu người ấy làm bảy phần. Người không tin khi thấy nghe như vậy liền sinh sợ hãi, do sợ hãi nên sinh lòng tin. Lại dùng thần lực làm thành các thân, hoặc làm một thân, hoặc làm nhiều thân, hoặc làm thân rừng cây sông núi, hoặc thân vô ngại, thân lớn thân nhỏ, thân phát ra nước lửa. Người kia không tin thấy rồi liền hỏi những việc như vậy đều là quả gì? Đáp: Đây là quả của giới Bồ-tát. Người kia nghe rồi sinh tâm tín đối với giới Bồ-tát. Nếu không có thần thông mà thuyết giới Bồ-tát cho người không tin tức mắc vô lượng tội. Vô lượng tội tức là chịu khổ trong vô lượng đời. Đây gọi là vô lượng, tuy có tội ngũ nghịch nhưng chưa đủ để ví dụ. Vì sao? Vì tội ngũ nghịch có thể dời chuyển, như vua A-xà-thế. Còn tội không tin kia thì không thể chuyển, tội ngũ nghịch nặng trong một đời, tội không tin thì chịu khổ trong vô lượng đời, cho nên nói là không thể ví dụ. Nếu lấy vật của Phật, của Pháp, của Tăng, của Tăng hiện tiền, tội báo như vậy cũng không thể ví dụ. Vì sao? Tội báo như vậy chỉ nặng trong một đời, tội không tin thì đến vô lượng đời. Như mười hằng hà sa chúng sinh phát tâm Bồ-đề, giả sử có người khiến hằng hà sa chúng sinh như vậy thối tâm Bồ-đề, dạy cho họ tà kiến, tội báo như vậy cùng với tội không tin là bằng nhau, không sai khác. Lại khiến hằng hà sa chúng sinh như vậy đều trụ ở năm địa, giả sử có người đoạt hết mắt của họ, tội báo nầy cũng như tội báo không tin. Nếu lại có người phá hoại tất cả tháp miếu của chư Phật, giết hại tất cả đệ tử của chư Phật, thiêu đốt tất cả kinh điển của chư Phật, tội báo như vậy cũng như tội báo thuyết giới Bồ-tát cho người không tin. Vì sao? Từ nhân mà sinh ra địa ngục, từ nhân mà vào Niết-bàn, nhân do người thuyết nên có vô lượng khổ, vì thế, người thuyết mắc vô lượng tội. Tuy biết vô lượng chúng sinh trong đại chúng có thể tạo nghiệp thiện nơi cõi trời, người và phát tâm tín, nhưng ở trong chúng ấy có một người không tin thì cũng không thể thuyết giới Bồ-tát. Đây gọi là giới thiện của Bồ- tát tạo lợi ích cho chúng sinh. <篇>KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI <卷>QUYỂN 5 <詞>Phẩm 12: NHẪN NHỤC CỦA ĐỊA BỒ TÁT Thế nào là tánh nhẫn của Bồ-tát Ma-ha-tát? Do lực của trí tuệ nên có thể gắng chịu các việc khổ não. Tất cả nhẫn, hết thảy mọi nhẫn do có thương xót mà đạt được tâm từ. Tánh nhẫn có hai hạng: Một là xuất gia. Hai là tại gia. Tại gia và xuất gia đều có ba thứ: Một là có thể nhẫn chịu những sự đánh đập chửi mắngv.v…của chúng sinh. Hai là có thể nhẫn chịu tất cả các khổ. Ba là nhẫn vui pháp thiện. Có thể nhẫn chịu mọi sự đánh đập chửi mắng của chúng sinh: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát lúc bị đánh đập chửi mắng liền suy nghó: Do thân nầy của ta tạo các nghiệp ác, nên nay tự chịu quả báo, tại sao đối với những người kia sinh tâm sân hận? Ta cũng không cầu có phiền não khổ nầy, nay nếu không nhẫn thì sau sẽ tăng thêm nhiều. Không nhẫn nhục là nhân của phiền não khổ, ta thọ thân nầy và các phiền não, chẳng phải lỗi của chúng sinh mà đó là lỗi của ta. Nếu có việc ác thật không ưa nhận, thì hoặc nay không nhẫn thì đó là tự tạo tác, nếu tự tạo tác thì phải tự thọ tánh khổ của sinh tử. Nếu thân thọ khổ tại sao không nhẫn. Hàng Thanh văn, Duyên giác vì tự lợi mà hãy còn tu nhẫn nhục, huống là ta nay muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh mà không nhẫn nhục sao? Nếu ta không nhẫn thì không được đầy đủ giới Bồ-tát, tu tám chánh đạo, chứng đắc đạo vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc suy nghó như vậy nên tu năm thứ nhẫn: Một là đối với kẻ oán người thân, hoặc không oán thân, tu hạnh nhẫn nhục. Hai là đối với ba hạng người thượng, trung và hạ, tu hạnh nhẫn nhục. Ba là đối với người thọ khổ, vui, không khổ không vui, tu tập nhẫn nhục. Bốn là đối với người có phước đức, không có phước đức, chẳng có chẳng không, tu tập nhẫn nhục. Năm là ở trong tất cả người ác, tu tập nhẫn nhục. Bồ-tát thành tựu năm thứ nhẫn như vậy thì tu tập năm thứ tưởng: Một là tưởng chúng sinh. Hai là tưởng pháp. Ba là tưởng vô thường. Bốn là tưởng khổ. Năm là tưởng vô ngã, vô ngã sở. Nếu Bồ-tát bị người ác đánh, làm sao có thể tưởng là thân thuộc. Bồ-tát quán xét kỹ, thời quá khứ lưu chuyển trong sinh tử, không có chúng sinh nào mà chẳng phải là cha mẹ, sư trưởng, Hòa thượng, quyến thuộc, thân tộc đáng cho ta cung kính cúng dường. Lúc quán xét như vậy thì tưởng oán ghét diệt, tưởng thân thuộc sinh, do tưởng thân thuộc sinh nên có thể tu tập nhẫn nhục. Lúc nầy tức thành tựu tưởng chúng sinh. Tưởng pháp tức là Bồ-tát quán sát kỹ, chúng sinh gọi là pháp giới, là hữu vi, là pháp hữu vi. Nếu là pháp giới thì đối với pháp giới ai đánh ai sân, không có ngã, ngã sở, thọ mạng, só phu. Lúc dùng trí tuệ tác quán tưởng nầy, thì diệt tưởng chúng sinh mà thành tựu tưởng pháp. Tưởng vô thường tức là Bồ-tát suy nghó tất cả chúng sinh, tất cả pháp hữu vi hữu lậu đều là vô thường. Nếu đã vô thường thì có ai đánh, có ai thọ? Nếu bị đánh mắng cho đến thọ khổ thì tạm thời dừng lại, tức không thể nói các pháp vô thường. Nếu là thường thì ai đánh ai thọ? Trong thường và vô thường đều không phải là hai, đều không tạo tác, thọ nhận, hãy còn không nên sinh tâm ác nhỏ, có gì là đánh mắng? Cho nên Bồ-tát phá bỏ tưởng thường tu tưởng vô thường, do có thể tu tập tưởng vô thường nên thành tựu tâm nhẫn, vì thành tựu tâm nhẫn nên tu tập đạo Bồ-đề, cho đến chứng đắc đạo quả Bồ đề vô thượng. Thế nào là Bồ-tát tu tập tưởng khổ? Bồ-tát Ma-ha-tát quán xét kỹ: Hoặc chúng sinh trong dục giới được đại tự tại, giàu có nhiều của báu như Chuyển luân Thánh vương, còn có ba sự khổ huống chi là người khác. Ba thứ khổ là biến khổ, sinh tử khổ, khổ khổ. Lúc tác quán tưởng nầy, vì chúng sinh có ba thứ khổ nên ta không sân, nếu ta sân hận thì sao có thể cứu vớt ba sự khổ ấy cho chúng sinh? Nếu ta sân tức là làm tăng trưởng ba khổ của chúng sinh. Khi tác quán tưởng nầy thì tưởng vui diệt, tưởng khổ sinh, vì nhân duyên tu tập tưởng khổ nên có thể tu tám chánh đạo, chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Thế nào là Bồ-tát tu tập tưởng vô ngã, vô ngã sở? Bồ-tát quán xét kỹ, có các ngoại đạo nói ngã là thường, nếu ngã là thường thì chúng sinh không có ngã. Vì sao? Vì chúng sinh tức là năm ấm, năm ấm thì vô thường. Nếu không có ngã thì sao có ngã sở, cho nên không có ngã, không có ngã sở. Bồ-tát lại quán xét, ngã tức là tâm Bồ-đề. Bồ-tát lúc ban đầu phát tâm Bồ-đề, ở trong chúng sinh có được một thứ tâm, đây gọi là ngã sở. Nếu ta đối với chúng sinh kia có tâm sân hận, làm sao được gọi là có ngã, có ngã sở? Nếu ta tăng trưởng tâm sân hận, thì không thể độ thoát tất cả chúng sinh. Lúc quán như vậy, là thành tựu nhẫn nhục, tăng trưởng tâm vô ngã, vô ngã sở, được tưởng vô ngã, dùng nhân duyên nầy tu tám chánh đạo, chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Thế nào là Bồ-tát có thể nhẫn nhục nơi các khổ bị chúng sinh đánh đập chửi mắng? Lúc nầy Bồ-tát nên quán xét: Vào đời quá khứ ta vì năm dục nên chịu đủ các khổ. Tại gia làm các việc cày cấy, gieo trồng, thọ nhận vô số các sự khổ nhọc. Hoặc phụng sự quốc vương, hoặc ở chợ mua bán chịu nhiều sự khổ. Lúc ấy, tuy ta chịu các khổ lớn như vậy mà không tạo được lợi ích. Nay nếu ta vì độ chúng sinh mà chịu các khổ não tức tạo được lợi ích, nếu được lợi ích lớn thì chịu vô lượng khổ cũng không đáng kể. Khi phát nguyện nầy, tức Bồ-tát có thể gắng nhẫn chịu các khổ. Thọ khổ gọi là tất cả khổ, tất cả khổ gồm có tám thứ: Một là y khổ. Hai là thế pháp khổ. Ba là oai nghi khổ. Bốn là nhiếp pháp khổ. Năm là khất thực khổ. Sáu là tinh tấn khổ. Bảy là làm lợi chúng sinh khổ. Tám là làm việc khổ. Y khổ còn gọi là tứ y khổ. Nếu Tỳ-khưu thọ tứ y rồi, được xuất gia thọ giới, được gọi là cụ túc Tỳ-khưu. Nếu thiếu thốn y áo, thức ăn, ngọa cụ, thuốc thang, không sinh tâm sầu khổ, không sinh hối hận, do có thể tu tập tâm hoại khổ, nên tu tám chánh đạo, chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là y khổ. Thế pháp khổ có chín thứ: Một là khổ cầu bất đắc. Hai là khổ tiếng xấu. Ba là khổ hiện đối pháp ác. Bốn là khổ khổ. Năm là khổ mất mát. Sáu là khổ vật dụng hết. Bảy là khổ già, tám là khổ bệnh, chín là khổ chết. Đây gọi là thế pháp khổ. Lúc Bồ-tát thọ chín thứ khổ nầy, không sinh sầu não, tâm không hối hận, không phế bỏ tâm Bồ-đề vô thượng. Do không hối hận nên Bồ-đề tăng trưởng, do tăng trưởng Bồ-đề nên chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Oai nghi khổ là bốn oai nghi của thân: đi, đứng, nằm, ngồi. Bồ-tát hoặc đi hoặc ngồi, đêm ngày thường điều phục tâm của nghiệp ác, nhẫn chịu đi khổ ngồi khổ, phi thời không nằm, phi thời không đứng, trong ngoài chỗ ở hoặc giường, hoặc đất, hoặc cỏ, hoặc lá, bốn chỗ như vậy thường nghó đến việc cúng dường Phật, Pháp, Tăng bảo, khen ngợi kinh pháp, thọ trì giới cấm, trì pháp vô thượng, rộng vì người nói, suy nghó chánh nghóa, như pháp mà trụ, phân biệt pháp giới, tu chỉ quán. Lúc Bồ-tát tu tập pháp như vậy, nếu có các khổ đều vui vẻ thọ nhận. Đây gọi là oai nghi khổ. Nhiếp pháp khổ có bảy thứ: Một là thân xả bỏ đồ trang sức. Hai là cạo bỏ râu tóc. Ba là mặc y cắt rọc. Bốn là tất cả việc đời không được tự tại, mạng thuộc người khác. Năm là xin ăn tự nuôi mạng. Sáu là xa lìa nghiệp sinh sống, ít muốn biết đủ. Bảy là xả bỏ thân tộc, các sự vui của năm dục. Đây gọi là nhiếp pháp khổ. Khất thực khổ là những vật cung cấp cho thân như y phục, thức ăn, phòng nhà, mền nệm, thuốc thang, tất cả đều xin ở người khác, không có được thì không sầu não, khi được nên biết đủ, cho đến hết đời nhẫn chịu không hưởng sự vui của năm dục. Đây gọi là khất thực khổ. Tinh tấn khổ tức là Bồ-tát siêng năng cúng dường Tam bảo, thọ trì đọc tụng kinh tạng Bồ-tát, biên chép giải nói, suy nghó ý nghóa, đêm ngày không phế bỏ, tinh tấn tu tập Thánh đạo, do tinh tấn nên gắng nhẫn chịu các khổ. Đây gọi là tinh tấn khổ. Làm lợi ích cho chúng sinh khổ, tức mười một việc lợi ích trong ngoài như trên đã nói. Đây gọi là làm lợi ích cho chúng sinh khổ. Làm việc khổ, tức là nung bát, may y, giặt rửa, chúng Tăng sai sử, cung cấp sư trưởng, vì cúng dường mà lau dọn tháp Phật, vì pháp thiện nên trọn không ngơi nghỉ, vì cầu đạt Bồ-đề vô thượng mà nhẫn chịu các khổ. Đây gọi là làm việc khổ. Nhẫn ưa pháp thiện khổ có tám thứ nhẫn: Nhẫn thọ công đức hiện có của Tam bảo. Nhẫn đối với Phật, Bồ-tát không thể nghó bàn. Nhân nhẫn. Quả nhẫn. Phương tiện thiện nhẫn. Tánh Phật Bồ-tát lại có hai nhẫn: Một là nhẫn cứu cánh. Hai là nhẫn tịnh trí tuệ. Đây gọi là pháp nhẫn. Thế nào gọi là Bồ-tát nhẫn việc khó? Nhẫn việc khó có ba thứ: Một là có vô lượng chúng sinh đánh mắng Bồ-tát mà Bồ-tát có thể nhẫn. Hai là Bồ-tát có lực tự tại, nên dù bị đánh mắng mà nhẫn chịu, không báo oán. Ba là Bồ-tát ở nơi chủng tộc tôn quý có thể nhẫn đối với hàng thấp kém. Thế nào là tất cả tự nhẫn? Bồ-tát Ma-ha-tát ở nơi kẻ oán người thân, hoặc chẳng phải oán thân mà nhẫn với đủ các bậc hạ nhẫn, trung nhẫn, thượng nhẫn. Đây gọi là tất cả tự nhẫn. Thiện nhân nhẫn có năm thứ công đức biết nhẫn: Một là không chấp tâm ác, tâm sân. Hai là hủy hoại tâm ngăn trở. Ba là tâm không sầu não. Bốn là khi chết không hối hận. Năm là chết rồi hưởng sự vui nơi cõi trời người. Bồ-tát quán xét nhẫn có công đức như vậy, giáo hóa chúng sinh khiến thực hành nhẫn, tự mình tu nhẫn cũng được tăng trưởng, khen ngợi nhẫn nhục, thấy người hành nhẫn tức cung kính tôn trọng tán thán lễ bái. Đây gọi là thiện nhân nhẫn. Tất cả hành nhẫn tức là Bồ-tát Ma-ha-tát quán sát không nhẫn nhục tức có lỗi ác. Tại sao gọi là quả báo ác? Tức có thể rơi vào ba đường ác. Vì sợ đường ác nên tu hạnh nhẫn nhục, vì thương xót cho nên nhẫn, vì tu từ bi cho nên nhẫn, vì tâm nhu hòa thuận hợp cho nên nhẫn, chí tâm vì cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng cho nên nhẫn, đầy đủ nhẫn nhục Ba-la-mật cho nên nhẫn, vì xuất gia cho nên nhẫn, vì thọ giới cho nên nhẫn, vì đầy đủ tánh cho nên nhẫn, vì muốn vô lượng đời tu tập nhẫn cho nên nhẫn, vì được tánh nhẫn cho nên nhẫn, vì đạt được không tham ái, vô sân cho nên nhẫn, vì thấy pháp giới cho nên nhẫn, nơi tất cả thời nhẫn, nơi tất cả quốc độ nhẫn, tất cả tâm nhẫn. Đây gọi là tất cả hành nhẫn. Trừ nhẫn tức là có người bần cùng đến Bồ-tát cầu xin vật cần dùng, lại có người ác cũng đến cầu xin, lại có người phá giới cũng đến cầu xin. Vì phá trừ tâm ác nên tu tập tâm nhẫn, vì phá trừ khổ cho nên bố thí việc vui. Đây gọi là trừ nhẫn. Tự lợi lợi tha nhẫn tức là Bồ-tát nhẫn chịu mọi sự đói khát, lạnh nóng, gió mưa, thú dữ, mà trọn không phóng dật, sinh tử thọ khổ thương xót chúng sinh. Bồ-tát Ma-ha-tát đạt được các nhẫn như vậy, hiện tại tăng trưởng tất cả pháp thiện, xa lìa phiền não, đời sau có được vô lượng quả lành, có thể điều phục tâm ác của chúng sinh. Do điều phục tâm ác nên tất cả phiền não không thể tùy tiện khởi, hiện tại an lạc sau được quả lành. Đây gọi là tự lợi lợi tha nhẫn. Tịch tónh nhẫn tức là Bồ-tát nếu bị các chúng sinh ác đánh mắng, mà trọn không sinh tâm ác với họ, không nghó tưởng oán mà nghó bạn lành, nếu không có các người ác như vậy, làm sao pháp thiện của ta được tăng trưởng. Thấy có người đánh mắng thì dùng lời nhẹ nhàng khuyến dụ, do tu tập từ bi nên có thể phá diệt phiền não hiện có trong dục giới. Bồ-tát đầy đủ mười pháp nhẫn như trên, có thể tu tám chánh đạo và chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. -------------------- <詞>Phẩm 13: TINH TẤN CỦA ĐỊA BỒ TÁT Thế nào gọi là tánh tinh tấn của Bồ-tát? Tánh tinh tấn tức là tâm siêng năng tinh tấn, vì thâu giữ pháp thiện, vì lợi chúng sinh, vì khiến chúng sinh chứng đắc đạo vô thượng, vì phá trừ điên đảo, vì tánh tinh tấn cho nên ba nghiệp thân khẩu ý được thiện. Đây gọi là tánh tinh tấn. Tất cả tinh tấn có hai hạng: Một là thế gian. Hai là xuất thế gian. Lại có hai hạng: Một là tại gia. Hai là xuất gia. Lại có ba thứ: Một là trang nghiêm. Hai là thâu giữ pháp thiện. Ba là làm lợi ích cho chúng sinh. Trang nghiêm tức Bồ-tát Ma-ha-tát lúc ban đầu phát tâm, siêng năng tinh tấn trang nghiêm và nguyện: Nếu ta có thể khiến một người giải thoát, thì sẽ ở trong địa ngục chịu đại khổ não nơi vô lượng kiếp, thọ khổ não rồi sau đó mới chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đắc Bồ-đề rồi cho đến có thể khiến một người được giải thoát, cũng sẽ chịu khổ trong địa ngục tâm không ngơi nghỉ. Đây gọi là trang nghiêm. Bồ-tát đầy đủ trang nghiêm tinh tấn, hơn tất cả công đức hàng Thanh văn Duyên giác có được, không thể tính đếm. Vì sao? Vì muốn tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh nên chịu đại khổ não. Nếu vì một chúng sinh, nên phải chịu khổ não lớn, hãy còn đạt được vô lượng vô biên công đức, huống chi là vì tất cả chúng sinh? Đây gọi là Bồ-tát trang nghiêm tinh tấn thâu giữ pháp thiện. Chuyên cần tinh tấn, như là tu Bố thí Ba- la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền định Ba-la-mật, Trí tuệ Ba-la-mật, tất cả đều chuyên cần tinh tấn. Gọi là bất động, tức tất cả phiền não, tất cả nghiệp ác, tất cả tà kiến, tất cả khổ não không làm lay động, cũng gọi là kiên cố, do dũng mãnh trang nghiêm. Lại gọi là nhất thiết, vì biết phương thuật thế gian và pháp xuất thế, lại gọi là phương tiện đầy đủ, do nhân duyên tu tập đạo chân thật. Lại gọi là chân thật, do được nghóa chân thật. Lại gọi là rộng, do trong tất cả thời không có ngơi nghỉ. Lại gọi là điều phục, do chuyên cần tinh tấn không sinh kiêu mạn. Bảy việc như vậy làm tăng trưởng pháp thiện. Đây gọi là tinh tấn thâu giữ pháp thiện. Do chuyên cần tinh tấn, nên đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Pháp chuyên cần tinh tấn: đối với các chốn đều hướng đến pháp Bồ-đề, nhân duyên gần nầy là vô thượng, vô thắng, nên trong kinh Như Lai dạy: “A-nan! Siêng năng tinh tấn thì mau chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng”. Siêng năng tinh tấn tạo lợi ích cho chúng sinh gồm có mười một thứ, như trong phần giới đã nói. Tinh tấn khó tức là Bồ-tát Ma-ha-tát không nghó tưởng đến y phục, không nghó tưởng đến thức ăn, không nghó tưởng đến ngọa cụ, không tưởng đến ngã, không tưởng đến ngã sở, không nghó tưởng pháp, không nghó tưởng đạo, không nghó tưởng Bồ-đề, cũng vì Bồ-đề mà siêng năng tinh tấn. Đây gọi là tinh tấn khó. Đối với tất cả thời, tất cả quốc độ, tất cả tâm, đều siêng năng tinh tấn, không gấp, không chậm, quân bình thực hành. Đây gọi là tinh tấn khó. Tinh tấn khó có hai thứ nhân: Một là bi. Hai là tuệ. Tất cả tự tinh tấn gồm có bốn thứ: Một là xa lìa pháp ác. Hai là tăng trưởng pháp thiện. Ba là vun đắp pháp thiện. Bốn là tăng trưởng trí tuệ. Xa lìa pháp ác tức là Bồ-tát Ma-ha-tát siêng năng tinh tấn, pháp ác chưa sinh thì siêng năng làm phương tiện khiến nó không sinh. Tăng trưởng pháp thiện tức là pháp thiện đã sinh thì tìm phương tiện khiến được tăng rộng. Vun đắp pháp thiện tức là siêng tu nhân duyên ba ng- hiệp thân khẩu ý, chí tâm thọ trì pháp thiện. Tăng trưởng trí tuệ tức là Bồ-tát chuyên cần tu tinh tấn đa văn, tu định, tăng trưởng trí tuệ. Đây gọi là tất cả tự tinh tấn. Thiện nhân tinh tấn tức là Bồ-tát vì pháp thiện, lúc siêng năng tinh tấn dẫu đốt thân đầu không cho là nóng. Khi Bồ-tát tu pháp thiện siêng năng tinh tấn hãy còn tự không biết lửa nóng nơi địa ngục, huống gì là lửa thế gian. Bồ-tát tinh tấn không nhiều không ít, bình đẳng thực hành, tăng trưởng tinh tấn khéo điều phục. Vì sao? Do tâm thanh tịnh, tâm không ngơi nghỉ, không hối hận, được lợi ích lớn, không có điên đảo, rốt ráo có thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là thiện nhân tinh tấn. Tất cả hành tinh tấn tức là thường siêng năng tinh tấn, chí tâm tinh tấn, trí tuệ tinh tấn, bất đoạn tinh tấn, trang nghiêm tinh tấn, nhẫn khổ tinh tấn, bất động tinh tấn, bất thời tinh tấn, tinh tấn không hề chán đủ. Bồ-tát thành tựu tất cả hành tinh tấn gọi là đại lực, thường siêng năng tinh tấn, an trụ chỗ thiện, kiên cố trang nghiêm, không dừng không nghỉ việc đạt được pháp thiện. Bồ-tát Ma-ha-tát muốn tâm tinh tấn nên cầu Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát chí tâm muốn tinh tấn, nên tăng trưởng tâm Bồ-đề. Bồ-tát Ma-ha-tát với tâm phương tiện tinh tấn, thì các phiền não không làm nhiễm ô tâm, dùng thân làm pháp khí để thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát hành tinh tấn thù thắng, là đối với pháp thiện luôn dốc tinh tấn hành trì như lửa đốt thân đầu không được cứu hộ. Như vậy Bồ-tát hơn tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác. Bồ-tát Ma-ha-tát cầu tinh tấn, tức cầu các phương thuật nơi pháp thế gian và xuất thế gian. Bồ-tát Ma-ha-tát học tinh tấn, tức mau được pháp thế gian và xuất thế gian. Bồ-tát Ma-ha-tát hành tinh tấn tạo lợi ích cho mọi người. Có mười một thứ như trong phần giới đã nói. Tinh tấn dứt trừ và tinh tấn tự lợi lợi tha, như trong phần nhẫn đã nói. Tinh tấn tịch tónh tức là có mười thứ: Một là thích nghi. Hai là tu tập. Ba là không động. Bốn là kiên trì. Năm là tất cả thời. Sáu là duyên nơi ba tướng. Bảy là xả. Tám là không tán loạn. Chín là điều phục. Mười là hướng đến Bồ-đề. Nếu Bồ-tát khởi các thứ phiền não, vì trừ bệnh cho nên tùy theo đấy mà đối trị. Như tham dục khởi thì quán tướng bất tịnh, sân hận khởi thì tu tâm từ bi, ngu si khởi thì quán mười hai nhân duyên, tư giác khởi thì quán pháp đếm hơi thở, vì phá bỏ kiêu mạn nên quán cõi chúng sinh. Đây gọi là tinh tấn thích nghi. Bồ-tát tinh tấn không có bắt đầu và kết thúc, trong vô lượng đời thường được thành tựu. Đây gọi là tu tập tinh tấn. Bồ-tát tinh tấn thường siêng năng tu tập như lúc ban đầu. Đây gọi là bất động tinh tấn. Do trong tất cả thời luôn siêng năng tinh tấn, nên gọi là bất động. Bồ-tát Ma-ha-tát có thể thường gần gũi các bậc sư trưởng, trưởng lão có đức mà tu học đa văn, hoặc tu Tam-muội suy nghó nghóa lý, siêng năng tinh tấn tùy thuận lắng nghe. Đây gọi là kiên trì tinh tấn. Bồ-tát Ma-ha-tát tâm không điên đảo, lúc nên tu chỉ thì tu chỉ, lúc nên tu quán thì tu quán, lúc nên tu xả thì tu xả. Đây gọi là tất cả thời tinh tấn. Bồ-tát khéo biết định tuệ xả luôn luôn tu tập ba tướng, đó là tướng nhập, tướng trụ, tướng khởi, không mất chánh niệm, chí tâm tinh tấn. Đây gọi là duyên ba tướng tinh tấn. Bồ-tát nếu nghe chư Phật Bồ-tát do siêng năng tinh tấn nên không thể nghó bàn, nghe rồi trong tâm không tự khinh, không sầu não, không biết đủ. Đây gọi là xả tinh tấn. Bồ-tát Ma-ha-tát luôn luôn điều phục các căn các nhập, ăn uống biết đủ, đầu đêm cuối đêm đều bớt ngủ nghỉ, chí tâm không tán loạn, không có phóng dật, suy cầu trang nghiêm, phát khởi tinh tấn, tu nghóa chân thật, tâm không điên đảo, tùy thuận tu đạo. Đây gọi là tinh tấn không tán loạn. Bồ-tát tinh tấn không gấp, không chậm, mọi việc quân bình mà thực hành. Đây gọi là tinh tấn điều phục. Tất cả tinh tấn của Bồ-tát đều đem hồi hướng nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát tu tánh tinh tấn cho đến tinh tấn tịch tónh, đều vì đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là tất cả tinh tấn đều đem hồi hướng nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đời quá khứ chư Bồ-tát hành trì tinh tấn, đều vì đạo quả Bồ-đề vô thượng, đời vị lai chư Bồ-tát hành trì tinh tấn, cũng vì đạo quả Bồ-đề vô thượng, đời hiện tại chư Bồ-tát chí tâm không phóng dật mà hành trì tinh tấn, cũng vì đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là tinh tấn hướng đến Bồ-đề. ------------------------ <詞>Phẩm 14: THIỀN ĐỊNH CỦA ĐỊA BỒ TÁT Thế nào là tánh thiền của Bồ-tát Ma-ha-tát? Bồ-tát hoặc nghe tạng pháp của Bồ-tát, hoặc suy nghó nghóa về thiền thế gian và xuất thế gian, chí tâm một chỗ, trí định phân đều tu tập ở đạo. Đây gọi là tánh thiền. Tất cả thiền có hai thứ: Một là thế gian. Hai là xuất thế gian. Hai thứ nầy lại có ba hạng: Một là nhập thiền hiện tại hưởng vui. Hai là nhập thiền tăng trưởng Bồ-đề. Ba là nhập thiền tạo lợi ích cho chúng sinh. Hiện tại hưởng vui là Bồ-tát Ma-ha-tát phá trừ các lưới nghi, thân tâm vắng lặng, thọ sự vui xa lìa, phá trừ kiêu mạn, không tham đắm vị, lìa tất cả tướng. Đây gọi là nhập thiền hiện tại thọ lạc. Nhập thiền tăng trưởng Bồ-đề tức là Bồ-tát Ma-ha-tát hành thiền định có các thứ duyên, không thể suy nghó, không thể tính kể, không có hạn lượng, thâu gồm tánh của mười lực, đắc vô số các pháp Tam-muội. Tam-muội như vậy, tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác còn không biết tên, huống chi là có thể tu tập. Lại có cộng pháp, đó là tám thắng xứ, mười nhất thiết xứ, bốn trí vô ngại, trí nguyện, trí vô tránh, trí đảnh. Do tăng trưởng cộng pháp như vậy, nên gọi là nhập thiền tăng trưởng Bồ-đề. Nhập thiền tạo lợi ích cho chúng sinh gồm có mười một thứ, như trong phần giới đã nói. Bồ-tát Ma-ha-tát tu đầy đủ mười một thứ thiền như vậy, có thể giáo hóa chúng sinh phá bỏ phiền não khổ, tu tập pháp thiện, tu các thứ trí tuệ, biết ân báo ân, có thể cứu các khổ não của chúng sinh, có thể bố thí các vật chúng sinh cần, khéo biết phương tiện, giỏi nuôi đệ tử, có thể khiến đệ tử tùy ý thực hành. Các thiền như vậy gọi là tất cả thiền. Thiền khó gồm có ba thứ: Một là Bồ-tát Ma-ha-tát khi nhập thiền định, những diệu lạc tiếp nhận lúc ấy hơn tất cả mọi diệu lạc nơi thế gian và xuất thế gian nhưng vì chúng sinh nên xả thiền định ưa thọ thân nơi dục giới. Hai là Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập thiền định, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ không thể nghó bàn, không thể tính kể, tu tập Tam-muội, tất cả Thanh văn, Duyên giác không thể biết cảnh giới hội nhập của Bồ- tát. Ba là Bồ-tát Ma-ha-tát do nhân duyên thiền mà chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là thiền khó. Tất cả tự thiền có bốn thứ: Một là cùng giác quán. Hai là cùng vui. Ba là cùng thích. Bốn là cùng xả. Đây gọi là tất cả tự thiền. Thiện nhân thiền có năm thứ: Một là không ái. Hai là cùng từ. Ba là cùng bi. Bốn là cùng hỷ. Năm là cùng xả. Đây gọi là thiện nhân thiền. Tất cả hành thiền có mười ba thứ: Một là thiện vô ký. Hai là thần túc. Ba là hướng đến chỉ. Bốn là hướng đến quán. Năm là tự lợi. Sáu là lợi tha. Bảy là được năm thần thông nơi công đức thiền. Tám là nhân duyên của ngôn từ. Chín là nhân duyên nghóa. Mười là nhân duyên của tướng chỉ. Mười một là nhân duyên của tướng quán. Mười hai là nhân duyên của tướng xả. Mười ba là nhân duyên của hành hiện tại thọ vui. Đây gọi là tất cả hành thiền. Thiền dứt trừ có tám thứ: Một là Bồ-tát lúc nhập Tam-muội, có thể trừ diệt các khổ độc của chúng sinh. Đó là gió bão, mưa đá, bệnh nhiệt, bệnh quỷ. Đây gọi là thiền. Hai là nếu nhập Tam-muội, có thể trị các khổ do bốn đại không hòa hợp trong thân của chúng sinh. Đây gọi là thiền. Ba là nếu nhập Tam-muội, có thể bố thí mưa cam lồ trong đời bị nạn mất mùa đói kém. Đây gọi là thiền. Bốn là nếu nhập Tam-muội, có thể khiến chúng sinh xa lìa sự sợ hãi, đó là sợ người, sợ quỷ, sợ nước, sợ đất. Đây gọi là thiền. Năm là nếu nhập Tam-muội, có thể bố thí thức ăn hoặc các vật cần dùng cho chúng sinh đói khát nơi đồng trống vắng. Đây gọi là thiền. Sáu là nếu nhập Tam-muội, có thể bố thí các vật cần dùng cho người bần cùng khốn khổ. Đây gọi là thiền. Bảy là nếu nhập Tam-muội, có thể phá trừ mười thứ phóng dật của chúng sinh. Đây gọi là thiền. Tám là nếu nhập Tam-muội, có thể phá trừ các lưới nghi của chúng sinh. Đây gọi là thiền. Tám thứ trên đây gọi là thiền dứt trừ. Thiền tự lợi lợi tha có chín thứ: Một là do nhập thiền được thần túc thông nên điều phục chúng sinh. Hai là do nhập thiền được tha tâm thông nên điều phục chúng sinh. Ba là do nhập thiền, thuyết chân thật nên điều phục chúng sinh. Bốn là nhập thiền vì chúng sinh ác nên chỉ bày địa ngục khổ. Năm là nhập thiền khiến người câm được nói. Sáu là nhập thiền khiến người mất niệm có niệm. Bảy là nhập thiền tùy thuận giải nói về mười hai bộ kinh và tạng pháp của Bồ-tát, làm cho giáo pháp ở đời lâu dài. Tám là nhập thiền có thể dạy chúng sinh các sự việc ở đời, như sách vở toán số, đọc tụng, các ngành nghề v.v… Chín là nhập thiền vì phóng ra ánh sáng lớn, phá trừ khổ não của chúng sinh trong ba đường ác. Đây gọi là thiền tự lợi lợi tha. Thiền tịch tónh có mười thứ: Một là pháp thế gian tịch tónh thanh tịnh. Hai là pháp xuất thế gian tịch tónh thanh tịnh. Ba là phương tiện tịch tónh thanh tịnh. Bốn là căn bản tịch tónh thanh tịnh. Năm là tịch tónh thanh tịnh. Sáu là nhập tịch tónh thanh tịnh. Bảy là trụ tịch tónh thanh tịnh. Tám là khởi tịch tónh thanh tịnh. Chín là tịch tónh tự tại thanh tịnh. Mười là tịch tónh làm sạch hai chướng của phiền não và trí tuệ. Mười thứ tịch tónh thanh tịnh như vậy, gọi là thiền tịch tónh, Bồ-tát tu tập mười thứ như vậy, thành tựu vô lượng vô biên công đức, vì nhằm đạt quả Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát trong đời quá khứ hiện tại vị lai đều tu thiền nầy mà chứng đắc đạo quả Bồ đề vô thượng. ------------------------ <詞>Phẩm 15: TRÍ TUỆ CỦA ĐỊA BỒ TÁT Thế nào là tánh tuệ của Bồ-tát? Dùng nhất thiết trí phân biệt pháp giới. Đây gọi là tánh tuệ. Lại nữa, khéo học năm thứ phương thuật, đó là nội phương thuật, nhân luận, thanh luận, y phương luận, tất cả việc đời. Đây gọi là tánh tuệ. Tất cả tuệ có hai thứ: Một là thế gian. Hai là xuất thế gian. Hai thứ nầy lại có ba loại: Một là biết như thật đúng như thật, tức biết năm thứ thuật, biết ba tụ của chúng sinh, biết phương tiện lợi ích cho chúng sinh, biết pháp giới không thể nêu bày, biết bốn chân đế vô ngã vô ngã sở, ở nơi các pháp giới không có giác quán, quán các pháp giới tâm luôn bình đẳng, không xả, không đắm, không thường, không đoạn, thuyết ở trung đạo. Đây gọi là trí tuệ. Hai là biết việc thế gian và pháp xuất thế gian, vì cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là trí tuệ. Ba là quán sâu về pháp giới, phân biệt diễn nói, vì tạo lợi ích cho chúng sinh. Đây gọi là trí tuệ, gọi là tất cả tuệ. Tuệ khó có mười một thứ, như trong phần giới đã nói. Vì điều phục chúng sinh nên khéo biết tâm. Đây gọi là tuệ khó. Biết tất cả pháp giới không có chướng ngại. Đây gọi là tuệ khó. Vì các chúng sinh nên thuyết giảng về pháp giới. Đây gọi là tuệ khó. Khéo biết không có ngã và ngã sở. Đây gọi là tuệ khó. Tất cả tự tuệ tức là nếu có thể thọ trì đọc tụng giải nói pháp tạng của Thanh văn, của Bồ-tát, thì được tu trí. Nhân tu trí nên được lực trí tuệ, nhân nơi lực trí tuệ mà biết điều có thể tu không thể tu, có thể làm, không thể làm, chí tâm quán sát vô lượng việc. Đây gọi là tất cả tự tuệ. Thiện nhân tuệ có năm thứ: Một là nhân nghe chánh pháp nên chứng đắc. Hai là nhân suy nghó về chánh pháp nên chứng đắc. Ba là nhân tự lợi lợi tha nên chứng đắc. Bốn là nhân thấy chỗ pháp không điên đảo nên chứng đắc. Năm là nhân phá trừ phiền não nên chứng đắc. Lại có năm thứ: Một là có thể biết nghóa thâm diệu vi tế. Hai là tu tập thiền định biết pháp giới. Ba là cộng tuệ trang nghiêm nên đạt được trí tuệ. Bốn là từ Phật Bồ-tát đi đến. Năm là có đầy đủ tâm vắng lặng cho đến tâm rốt ráo. Đây gọi là thiện nhân tuệ. Tất cả hành tuệ có mười ba thứ: Một là trí khổ. Hai là trí tập. Ba là trí diệt. Bốn là trí đạo. Năm là trí tận. Sáu là trí không sinh. Bảy là trí pháp. Tám là trí so sánh. Chín là trí thế gian. Mười là trí thông. Mười một là trí nhân. Mười hai là trí lực. Mười ba là trí trí của tâm ban đầu. Đây gọi là tất cả hành tuệ. Tuệ dứt trừ tức là trí vô ngại, trí thế gian, trí xuất thế gian, phá trừ tất cả tối tăm. Đây gọi là tuệ dứt trừ. Tuệ tự lợi lợi tha, như trong năm thứ phương thuật đã nói ở phần đầu. Do nhân duyên của năm phương thuật nầy mà chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là tuệ tự lợi lợi tha. Tuệ tịch tónh tức là vì chân thật cho nên tu tập, vì chúng sinh cho nên tu tập, vì chứng đắc nghóa cho nên tu tập, vì biết nhân quả cho nên tu tập, vì phá trừ điên đảo cho nên tu tập, vì khéo biết phương tiện cho nên tu tập, vì biết việc làm và không làm cho nên tu tập, vì chứng đắc rốt ráo cho nên tu tập. Đây gọi là tuệ tịch tónh. Bồ-tát đầy đủ mười tuệ như vậy, nên gọi là trí tuệ, cũng gọi là rốt ráo, cũng gọi là chân thật, cũng gọi là vô lượng tuệ. Do nhân duyên của vô lượng tuệ nầy, nên Bồ- tát đầy đủ Bát nhã Ba-la-mật. Do đầy đủ Bát nhã Ba-la-mật, nên chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Như trong kinh Phật có nói Bát nhã đầy đủ và Bát nhã không đầy đủ, phải biết mười thứ từ tánh cho đến tịch tónh, hoặc nói một Ba-la-mật, hoặc nói hai, ba, bốn, năm, sáu, nếu nói một thì thâu gồm cả sáu, cho đến nói sáu cũng thâu gồm cả sáu. Nếu có chúng sinh nghe một hai danh tự trong mười thứ trên, tin thọ phụng trì đọc tụng biên chép, phân biệt giải nói giáo hóa chúng sinh, cuối cùng sẽ thành tựu đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. --------------------------- <詞>Phẩm 16: LỜI NHU HÒA CỦA ĐỊA BỒ TÁT Thế nào là tánh lời nhu hòa của Bồ-tát? Bồ-tát Ma-ha-tát nói lời hoan hỷ, nói lời ưa nghe, nói lời đúng pháp, lời đúng nghóa, lời lợi ích cho chúng sinh. Đây gọi là tánh của lời nhu hòa. Tất cả lời nhu hòa là Bồ-tát Ma-ha-tát nếu gặp người ban đầu chưa quen biết, thấy rồi dùng lời nhu hòa cùng nói chuyện. Nếu thấy người đoan nghiêm có đức hơn mình, không ôm lòng ganh ghét, phá bỏ kiêu mạn, cung kính thăm hỏi: Thân được an chăng, đi đường mệt mỏi chăng, có khổ não không. Có người tốt đến thăm, nên sắp đặt giường tòa, cung cấp thức ăn uống. Tùy ý chúng sinh, Bồ-tát trọn không vì chúng sinh mà nói lời thô ác, như giết chết, phá hoại, cướp đoạt. Chỉ nói lời lành, như con ngươi lớn rồi nay đã thành hôn, tài sản có đủ, lúa gạo dồi dào, trí tuệ thành tựu, tin bố thí, trì giới, tinh tấn, học rộng nghe nhiều. Bồ-tát đầy đủ pháp ngữ như vậy là vì tạo lợi ích cho chúng sinh, nên gọi là tất cả lời nhu hòa. Phân tích lời nhu hòa có hai thứ: Một là tùy thế gian. Hai là tùy xuất thế gian. Thế gian có hai: Một là hạ thế. Hai là thượng thế. Xuất thế gian có hai: Một là chánh pháp tự lợi xuất thế. Hai là chánh pháp lợi tha xuất thế. Bồ-tát Ma-ha-tát vì pháp hạ thế, thượng thế mà nói lời nhu hòa, vì tự lợi lợi tha xuất thế gian mà nói lời nhu hòa. Đây là phân tích lời nhu hòa. Lời nhu hòa khó hành tức là nếu có chúng sinh đến hại Bồ-tát, Bồ-tát quán tưởng chúng sinh như con một, chí tâm nói lời nhu hòa. Hại Bồ-tát tức là đánh đập, chửi mắng, cướp đoạt. Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát thường vì người si mà thuyết pháp bằng lời nhu hòa, thân khẩu ý nghiệp phần nhiều chịu các khổ, tuy chịu khổ lớn mà lại tiếp tục dạy dỗ: Ngươi nên siêng học sau sẽ được như ta. Đây gọi là lời nhu hòa khó hành. Lại nữa, Bồ-tát thấy có người sân, người ganh ghét, người bủn xỉn, không nghe lời sư dạy, lừa dối sư trưởng, cha mẹ cùng bậc có đức, ác hại, theo tà kiến hoặc đám Chiên-đà-la, Bồ-tát cùng họ nói lời nhu hòa mà không sinh tâm ác. Đây gọi là lời nhu hòa khó hành. Tất cả tự nói lời nhu hòa có bốn thứ: Một là vì phá trừ nhân duyên của phiền não nên nói lời nhu hòa. Hai là vì nhân duyên sinh nhân, thiên nên nói lời nhu hòa. Ba là vì nhân duyên tăng trưởng pháp thiện nên nói lời nhu hòa. Bốn là vì nhân duyên nói về Bồ-đề trang nghiêm nên nói nhu hòa. Lại có bốn thứ: Một là nói bốn chân đế khiến những người kia được hiểu. Hai là phá trừ điên đảo. Ba là phá bỏ phóng dật. Bốn là phá trừ tâm nghi. Đây gọi là tất cả tự nói lời nhu hòa. Thiện nhân nói lời nhu hòa tức là Bồ-tát Ma-ha-tát lúc giáo hóa chúng sinh, vì có nhân duyên cho nên thuyết pháp. Đó là vì nhân duyên giảng giải cho nên thuyết pháp. Vì nhân duyên trang nghiêm Bồ-đề cho nên thuyết pháp. Vì nhân duyên hiện thần túc cho nên thuyết pháp. Vì nhân duyên trì giới cho nên thuyết pháp. Vì thế các pháp từ duyên cho nên sinh, từ duyên cho nên diệt. Đây gọi là thiện nhân nói lời nhu hòa. Tất cả thực hành nói lời nhu hòa, là nếu khi thuyết pháp có điều đáng nghe, có điều đáng ngăn lại, Bồ-tát dùng lời nhu hòa, tùy thuận pháp tánh mà thuyết giảng câu chữ không đảo lộn. Có người sợ hãi tức dùng lời nhu hòa khiến trừ sợ hãi. Có người cầu xin cũng dùng lời nhu hòa đồng ý và ban cho họ. Đây gọi là tất cả thực hành nói lời nhu hòa. Trừ dứt nên nói lời nhu hòa, tức vì xa lìa lời nói ác, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời vô nghóa. Thấy tức nói thấy, nghe thì nói nghe, biết thì nói biết, hiểu thì nói hiểu, không thấy không nghe không biết không hiểu cũng lại như vậy. Đây gọi là vì trừ dứt nên nói lời nhu hòa. Tự lợi lợi tha nói lời nhu hòa tức là nếu thấy người chịu khổ, vì họ mà nói lời nhu hòa. Hoặc dùng lời nhu hòa giáo hóa chúng sinh, hoặc dùng lời nhu hòa dạy dỗ chúng sinh, hoặc dùng lời nhu hòa dạy cho chánh kiến, hoặc dùng lời nhu hòa thuyết giảng chánh pháp, hoặc dùng lời nhu hòa dạy thực hành bố thí, hoặc dùng lời nhu hòa dạy về chánh mạng. Đây gọi là tự lợi lợi tha nói lời nhu hòa. Tịch tónh nói lời nhu hòa có hai mươi thứ, như nơi phần đầu phẩm tánh lực đã nói. Tánh lợi tha tức là Bồ-tát Ma-ha-tát vì dạy dỗ mọi người, nên phân biệt giới nghóa, thuyết giảng nghóa trụ như pháp, vì thương xót chúng sinh mà tu tập tâm từ bi, chí tâm giáo hóa điều phục chúng sinh. Đây gọi là tánh lợi tha. Tất cả lợi tha tức là chúng sinh chưa thành thục khiến được giải thoát, được vui trong hiện tại và đời sau, dạy họ xuất gia tức là đời sau vui. Thuyết pháp khiến phá kiết sử nơi dục giới tức là hiện tại vui đời sau vui. Vì phá trừ các phiền não nơi dục giới, nên thân tâm vắng lặng, do thâm tâm vắng lặng nên hưởng an vui. Đây gọi là tất cả lợi tha. Lợi tha khó hành có ba thứ: Một là nếu có chúng sinh chưa gieo thiện căn, chưa có nhân lành nên khó giáo hóa. Đây gọi là lợi tha khó hành. Hai là có chúng sinh tiền của nhiều, uy lực tự tại, nhưng tâm tham lam bủn xỉn nên khó giáo hóa. Vì sao? Vì do phóng dật. Đây gọi là lợi tha khó hành. Ba là có hạng ngoại đạo tà kiến khó có thể giáo hóa. Vì sao? Do họ cuồng si. Có thể giáo hóa như vậy đạt được lợi ích. Đây gọi là lợi tha khó hành. Tất cả tự lợi lợi tha có bốn thứ: Một là người chưa tin dạy họ khiến sinh tin. Hai là người chưa có giới dạy họ khiến trì giới. Ba là người tham lam bủn sỉn dạy họ hành bố thí. Bốn là người ngu si thì dạy họ khiến được trí tuệ. Đây gọi là tất cả tự lợi lợi tha. Thiện nhân lợi tha tức là Bồ-tát Ma-ha-tát giáo hóa chúng sinh, khiến biết chân thật, biết thời, biết nghóa, biết lời nhu hòa, giáo hóa tu từ bi. Đây gọi là thiện nhân lợi tha. Tất cả hành lợi tha, tức là Bồ-tát Ma-ha-tát thấy các chúng sinh đáng được khen ngợi, thì dùng lời nói hay để khen ngợi, người đáng quở trách thì dùng lời thiện để quở trách. Nếu có chúng sinh đối với chánh pháp của Phật phát tâm tin tưởng, thì có thể điều phục họ, người chưa nhập pháp Phật thì dạy họ khiến nhập, đã nhập rồi tức vì họ thuyết giảng chánh pháp, khiến thiện căn luôn được tăng trưởng, điều phục an trí ở trong ba thừa, căn tánh đã thành thục tức thuyết giảng về giải tho- át. Người ưa Thanh văn thì dạy khiến phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng, người chưa có trang nghiêm thiện tức dạy khiến trang nghiêm, người không có tánh định tức dạy khiến định tâm tánh. Đây gọi là tất cả hành lợi tha. Lợi tha dứt trừ tức là nếu có chúng sinh không biết xấu hổ thì dạy họ khiến xấu hổ, người thô lỗ dạy họ khiến tu tâm, vì người hay ganh ghét mà trừ bỏ tâm ganh ghét, vì người bủn xỉn mà trừ bỏ tâm bủn xỉn, vì người có tâm nghi mà phá bỏ lưới nghi. Đây gọi là lợi tha dứt trừ. Tự lợi lợi tha là Bồ-tát Ma-ha-tát thường dùng mười điều thiện giáo hóa chúng sinh. Đây gọi là tự lợi lợi tha. Lợi tha tịch tónh có mười thứ: Nội tịch tónh có năm thứ, ngoại tịch tónh cũng có năm thứ. Năm thứ nội tịch tónh: Một là tịnh. Hai là bất chuyển. Ba là lần lượt. Bốn là hiện hữu khắp. Năm là tùy thuận pháp thiện. Tịnh tức là Bồ-tát không dùng pháp ác, pháp bất tịnh, pháp bất thiện để giáo hóa chúng sinh. Đây gọi là tịnh. Bất chuyển tức là Bồ-tát ở trong giải thoát không nói phi giải thoát, trong pháp thanh tịnh không nói bất tịnh, trong pháp không điên đảo không nói là điên đảo. Đây gọi là bất chuyển. Đối với phi giải thoát không nói là giải thoát, trong pháp bất tịnh không nói là thanh tịnh, trong pháp điên đảo không nói là chẳng điên đảo. Đây gọi là bất chuyển. Lần lượt tức là Bồ-tát thấy có người si liền thuyết nghóa cạn và dễ để điều phục họ. Người căn cơ trung bình thì thuyết pháp bậc trung. Người căn tánh lanh lợi thì thuyết pháp bậc thượng, trước nói bố thí, sau nói trì giới, sau nữa nói trí tuệ. Đây gọi là lần lượt. Hiện hữu khắp tức là Bồ-tát lúc thuyết pháp không quán sát dòng tộc của chúng sinh là sang hay hèn, tùy sức tùy trí mà vì chúng thuyết pháp khiến được an lạc. Đây gọi là hiện hữu khắp. Tùy thuận pháp thiện, tức là quán sát chúng sinh đắc pháp thượng, hoặc trung, hoặc hạ tùy đó thuyết pháp. Đây gọi là tùy thuận pháp thiện. Ngoại tịch tónh cũng có năm thứ: Một là Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập vô lượng tâm từ bi là vì chúng sinh. Hai là vì chúng sinh mà chịu vô lượng khổ. Ba là vì tạo lợi ích cho các chúng sinh mà có được sự vui thấy lớn. Bốn là đắc đại tự tại vẫn gắn bó với chúng sinh, như kẻ nô bộc. Năm là Bồ-tát có đầy đủ oai đức lớn, luôn khiêm nhường như kẻ Chiên-đà-la. Trên đây là lợi tha nội ngoại tịch tónh. Thế nào gọi là Bồ-tát Ma-ha-tát đồng lợi? Bồ-tát Ma-ha-tát đã tự thành tựu đầy đủ pháp thiện, lại dùng pháp nầy chuyển khuyến khích chúng sinh. Đây gọi là Bồ-tát đồng lợi. Bồ-tát Ma-ha-tát vì đồng hành nên giáo hóa chúng sinh, chúng sinh thọ pháp thiện rồi tâm giữ kiên cố không thể lay động. Vì sao? Chúng sinh biết chắc Bồ-tát thành tựu pháp thiện nầy, đã chuyển qua khuyến khích cho mình, vì muốn khiến ta có sự an lạc. Nếu tu pháp thiện mà được việc ác, Bồ-tát Ma-ha-tát trọn không tự tu để khuyên dạy ta. Lúc Bồ-tát khuyến hóa vô lượng chúng sinh đồng lợi như mình, không một ai có thể nói Bồ-tát tự không thành tựu mà khuyến hóa cho người, cũng không ai nói ông tự không thiện làm sao khuyên người khác thực hành pháp thiện. Lại nữa, Bồ-tát có lúc tự thành tựu mà không thể khuyến hóa người khác, có lúc tự thành tựu mà có thể khuyến hóa người khác, có lúc tự không thành tựu mà có thể khuyến hóa người khác, có lúc tự không thành tựu cũng không khuyến hóa người khác. Tự thành tựu mà không khuyến hóa người tức là đồng thầy, đồng học, đồng pháp, đồng đức, mà không hiển bày công đức của mình. Đây gọi là tự thành tựu mà không khuyến hóa người. Tự mình không thành tựu mà có thể khuyến hóa người, tức là Bồ-tát thấy chúng sinh ác làm pháp ác, như đám Chiên-đà-la cho đến súc sinh, vì nhằm điều phục nên thọ thân như họ, đồng làm việc, vì muốn phá bỏ nghiệp ác. Đây gọi là tự không thành tựu mà có thể khuyến hóa người. Tự thành tựu màø có thể khuyến hóa người, tức là Bồ-tát Ma-ha-tát tự thành tựu pháp thiện, cũng khuyến hóa người khác khiến thành tựu pháp thiện, phá trừ tâm kiêu mạn, tâm khinh khi, tâm chuyển đổi. Đây gọi là tự thành tựu mà có thể khuyến hóa người. Tự không thành tựu mà không khuyến hóa người, tức là Bồ-tát nếu tự mình phóng dật, không thể giáo hóa và điều phục chúng sinh. Bồ-tát Ma-ha-tát dùng sáu pháp Ba-la-mật tự trang nghiêm thân, dùng bốn nhiếp pháp trang nghiêm chúng sinh. Bồ-tát Ma-ha-tát dùng sáu pháp Ba-la-mật tự điều phục tâm mình, dùng bốn nhiếp pháp để điều phục tâm chúng sinh, do thân khẩu ý thanh tịnh nên Bồ-đề pháp số tịnh, do tự thân thanh tịnh nên tâm chúng sinh tịnh, do thành tựu thân tâm thiện, nên gọi là vô thượng, vô thắng, vô cộng. Dùng vô thượng, vô thắng, vô cộng nầy giáo hóa chúng sinh. Đây gọi là đồng lợi. Bồ-tát Ma-ha-tát đối với các chúng sinh, hoặc thời hoặc vật, đều không phân biệt. Đối với chúng sinh không có phân biệt, tức là Bồ-tát vì chúng sinh mà thực hành bố thí Ba-la-mật cho đến Bát nhã Ba-la-mật, vì cầu các pháp thiện. Đối với thời không phân biệt tức là Bồ-tát Ma-ha-tát ở trong tất cả thời đều vì chúng sinh mà siêng năng tinh tấn cầu pháp thiện. Đối với vật không phân biệt tức là Bồ-tát Ma-ha-tát vì chúng sinh nên thọ chứa tạp vật, nhưng đối với vật nầy tâm không tham đắm. Do ba nhân duyên không phân biệt ấy nên chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát ưa tu tập tất cả thiện, tâm không hối hận, do nhân duyên tu tập nên có thể phá trừ các pháp tà, ác kiến của chúng sinh. Từ chỗ tu học thiện căn tăng trưởng, chí tâm quán sát công đức hành thiện, tất cả tà kiến không thể làm trở ngại, trọn không cầu thân Chuyển luân vương, thân Đế thích, thân Phạm thiên, không cầu báo ân, lợi dưỡng, danh tiếng, sống lâu. Bồ-tát tu tập các pháp như vậy, thì được đầy đủ pháp Bố thí Ba-la-mật cho đến Bát nhã Ba-la-mật. Đây gọi là đồng lợi. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc tu tập đồng lợi, tâm không lay động, thanh tịnh, vắng lặng, sáng suốt không tối, Bồ-tát Ma-ha-tát trụ địa tịnh tâm, thành tựu đầy đủ pháp thiện vô thượng, pháp thiện quang minh. Pháp thiện quang minh tức là Bồ-tát Ma-ha-tát thực hành pháp thiện, tất cả không ai có thể phá hủy. Bồ-tát Ma-ha-tát tâm không lay động, tức là tu tập pháp thiện không có chuyển động, đêm ngày tăng trưởng. Pháp thiện tịch tónh tức là Bồ-tát chứng đắc Tam-muội tịch tónh đồng như Phật, gần gũi Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát do nhân duyên của tất cả thí, giới, bốn nhiếp pháp, mà được thân kim cang, được pháp thân. Bồ-tát Ma-ha-tát do nhân duyên bố thí trì giới khó hành, mà được quả công đức vi diệu không thể nghó bàn của Như Lai. Do nhân duyên tất cả tự bố thí, tất cả tự trì giới, mà được quả báo hàng trời người cúng dường. Do nhân duyên thiện nhân trì giới, thiện nhân bố thí mà ở trong chúng sinh là hơn hết. Do nhân duyên của tất cả hành bố thí, trì giới, mà được thân Như Lai gồm ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Do nhân duyên bố thí trì giới dứt trừ, nên được ngồi nơi đạo tràng, dưới cội Bồ-đề, Ma vương và quyến thuộc không thể phá hoại. Do nhân duyên của bố thí tự lợi lợi tha và trì giới tự lợi lợi tha, nên được giải thoát thường lạc của Như Lai. Do nhân duyên của bố thí tịch tónh, trì giới tịch tónh, nên được bốn quả tịch tónh, đó là thân tịch tónh, duyên tịch tónh, tâm tịch tónh, trí tịch tónh, mười lực, bốn thứ vô úy, đại bi, ba niệm xứ, năm trí Tam-muội, vì chúng sinh nên có mười tám pháp bất cộng, vì trí tuệ lanh lợi nên có vô lượng pháp bất cộng. <篇>KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI <卷>QUYỂN 6 <詞>Phẩm 17: CÚNG DƯỜNG TAM BẢO CỦA ĐỊA BỒ TÁT Thế nào gọi là Bồ-tát Ma-ha-tát cúng dường Như Lai? Cúng dường Như Lai gồm có mười việc: Một là cúng dường sắc thân. Hai là cúng dường tháp. Ba là cúng dường hiện thấy. Bốn là cúng dường không hiện thấy. Năm là tự cúng dường. Sáu là tha cúng dường. Bảy là cúng dường lợi ích. Tám là cúng dường tối thắng. Chín là cúng dường thanh tịnh. Mười là cúng dường thọ trì. Cúng dường sắc thân, nghóa là Bồ-tát Ma-ha-tát khi gặp sắc thân của Phật liền cúng dường. Đây gọi là cúng dường sắc thân. Cúng dường tháp tức là Bồ-tát Ma-ha-tát vì Như Lai cho nên tạo tháp miếu, hình tượng, khám thất, sửa sang tháp đã cũ mục, hư hoại, nếu thấy tháp mới tức dùng hoa hương cúng dường. Đây gọi là cúng dường tháp. Cúng dường hiện thấy nghóa là Bồ-tát Ma-ha-tát lúc gặp hình tượng Như Lai, thấy vật nầy cũng như thấy mười phương chư Phật. Đây gọi là cúng dường hiện thấy. Cúng dường không hiện thấy nghóa là Bồ-tát Ma-ha-tát cúng dường chư Phật hiện tại và tháp miếu Phật, thì được tâm tin hiểu. Nay ta hiện tại làm việc cúng dường nầy, tức cũng được cúng dường Phật trong đời quá khứ và vị lai. Vì sao? Vì tất cả Như Lai đồng một pháp tánh, cho nên được cúng dường chư Phật đời qúa khứ và vị lai. Như ta cúng dường tháp Phật hiện tại, tức cũng được cúng dường tháp Phật đời quá khứ và vị lai. Vì sao? Các tháp như vậy là đồng một pháp tánh. Nếu cúng dường một vị Phật tức đã cúng dường chư Phật ở mười phương. Nếu cúng dường một tháp tức đã cúng dường tháp Phật trong mười phương. Tạo lập khám thất, sửa sang tháp cũ, cúng dường tháp, cũng lại như vậy. Đây gọi là cúng dường không hiện thấy. Lại nữa, nếu không gặp Phật, không thấy tháp Phật, nhưng trong tâm tưởng niệm: Đây là Như Lai, đây là tháp Phật, tất cả Phật, tất cả tháp, tất cả hang, tất cả tượng cũng lại như vậy. Đây cũng gọi là cúng dường không hiện thấy. Lại nữa, nếu sau khi Phật, Bồ-tát Niết-bàn, vì Như Lai nên tạo lập tháp miếu, tạo lập khám thất, hoặc một hoặc hai, cho đến vô lượng, tùy lực mà làm. Đây gọi là cúng dường không hiện thấy. Quả báo phước đức vô lượng như vậy, thâu giữ vô lượng quả phước đức phạm Bồ-tát Ma-ha-tát do nhân duyên nầy mà trong vô lượng kiếp không rơi vào đường ác, cũng có thể trang nghiêm đạo Bồ-đề. Bồ-tát Ma-ha-tát không hiện thấy Tam bảo mà thiết lập cúng dường, hơn tất cả sự cúng dường hiện thấy, không thể lường, không thể so sánh, quả báo có được nhiều vô lượng không thể nói hết. Người ngu si, sau khi thấy Phật, tháp mà thiết lập cúng dường. Người trí tuệ tuy không hiện thấy mà cũng cúng dường. Đây gọi là cúng dường không hiện thấy. Tự cúng dường tức là Bồ-tát Ma-ha-tát nếu cúng dường Phật và tháp của Phật, tự tay làm lấy không sai người khác làm. Đây gọi là tự cúng dường. Tha cúng dường tức là khi muốn cúng dường Phật và tháp Phật, tụ tập nhiều người cùng làm, chẳng phải riêng mình tự làm. Nhiều người như là cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, tôi tớ, hoặc quốc vương, đại thần, Bà-la-môn, trưởng giả, hàng xóm, tri thức, người trong, người ngoài, nam nữ, giàu hèn, thọ khổ, thọ vui, hoặc Hòa thượng, hoặc đồng sư, đồng Hòa thượng, đồng ở, đồng học, đồng quốc độ, đồng tên, đồng họ, cho đến người tà kiến và hạng Chiên-đà-la. Đây gọi là tha cúng dường. Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát giàu có, tự tại, vì tâm từ bi nên bố thí cho chúng sinh, lúc bố thí tự nguyện: Chúng sinh nghèo khổ là do thiếu phước đức, nay thọ thí rồi ta sẽ khuyên bảo khiến cúng dường Tam bảo. Do nhân duyên cúng dường Tam bảo nầy mà phá trừ sự bần cùng, được nhiều phước đức. Phát nguyện xong rồi bố thí cho chúng sinh, bố thí rồi dạy dỗ khiến họ cúng dường Tam bảo. Đây gọi là tha cúng dường. Cúng dường lợi ích tức là Bồ-tát đối với Phật và tháp Phật, phụng cúng y phục, thức ăn, ngọa cụ, thuốc thang, phòng xá, cung kính lễ bái, lại dùng đủ các thứ hoa, hương thoa, hương bột, cờ phướn, lọng báu, đèn đuốc mà cúng dường, lại khen ngợi công đức vô lượng của Như Lai, năm vóc gieo xuống đất, đi nhiễu ba vòng cho đến vô lượng vòng, lại phụng cúng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, anh lạc, chuông, linh, cho đến một tiền, một sợi chỉ, một hạt gạo. Đây gọi là Bồ-tát cúng dường lợi ích. Cúng dường tối thắng tức là Bồ-tát đối với Phật và tháp Phật mà thiết lập cúng dường, cúng dường lợi ích, cúng dường thường hằng, dùng vật tốt cúng dường, cúng dường hiện thấy, cúng dường không hiện thấy, tự cúng dường, tha cúng dường, chí tâm cúng dường, hỷ tâm cúng dường, hỷ tâm nhẫn lạc cúng dường Tam bảo. Đem các thứ cúng dường như vậy hồi hướng về đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là cúng dường tối thắng. Cúng dường thanh tịnh tức là đối với Phật và tháp Phật, tự tay cúng dường, không có tâm kiêu mạn, xem thường, khiến người khác làm việc không có phóng dật, siêng năng tinh tấn chí tâm thanh tịnh, chẳng phải vì quốc vương sinh kính tín, chẳng vì chỗ cúng dường của quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư só, chẳng phải tự khoe công đức của mình mà cúng dường. Khi làm hình tượng không dùng các thứ hồ giao, dầu tô bôi phết lên, không đốt hương keo, hương xông mà cúng dường, các thứ hoa phả ca cũng không cúng dường, tất cả hoa có mùi hôi dù có sắc đẹp cũng không cúng dường. Không cúng dường các thứ như vậy, gọi là cúng dường thanh tịnh. Cúng dường thọ trì tức là đối với Phật và tháp của Phật, tự mình xuất tiền tài hoặc xin từ người khác, hoặc làm tượng, hoặc làm tháp, hoặc một, hoặc hai, cho đến trăm ngàn, vô lượng vạn ức. Trong mỗi mỗi tháp, trước mỗi mỗi tượng đều cung kính lễ bái, dùng hoa hương, kỹ nhạc, đèn đuốc, anh lạc, cờ phướn, lọng báu mà cúng dường, cũng vì nhân duyên cúng dường nầy cho nên cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng, cầu ở Phật đạo. Vì sao? Vì Bồ-tát Ma-ha-tát trụ nơi địa bất thối, Bồ-tát trụ nơi địa bất thối nầy rồi, ở cõi của chư Phật thọ thân vô ngại. Bồ-tát Ma-ha-tát không tự xuất tiền tài, không cầu tiền tài ở người khác, mà lập thệï nguyện: Như có chúng sinh trong cõi Diêm-phù-đề, có thể cúng dường Phật Pháp Tăng bảo, từ bốn thiên hạ cho đến ba ngàn đại thiên thế giới, chúng sinh hiện có trong mười phương vô lượng vô biên thế giới, dùng bậc thượng trung hạ mà cúng dường Tam bảo, ta sẽ chí tâm tùy hỷ. Lại thệ nguyện: Dùng nhân duyên nầy khiến các chúng sinh đều được thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là Bồ-tát trang ng- hiêm đạo Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là làm việc cúng dường như pháp. Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập tâm từ, tâm bi hỷ xả cũng lại như vậy. Tất cả hữu vi, vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh, quán sâu công đức vi diệu của Niết-bàn, niệm Phật Pháp Tăng, niệm thí, giới, thiên cho đến không thấy trong pháp giới có phần nhỏ nào có thể nêu bày chí tâm thực hành sáu pháp Ba-la-mật, dùng bốn nhiếp pháp để thâu giữ chúng sinh. Đây gọi là làm việc cúng dường như pháp. Nếu có Tỳ-khưu thường ưa cung kính, cúng dường tháp vàng, tượng vàng, tháp bạc, tượng bạc, hoặc tháp tượng bằng pha lê, chân châu, xa cừ, mã não, ngọc bích, không ưa thích cung kính cúng dường tháp tượng bằng đất, hoặc gỗ, phải biết người nầy không gọi là cúng dường như pháp. Cúng dường như pháp ấy gọi là cúng dường vô thượng, cúng dường vô thắng, cúng dường tối thắng, cúng dường như vậy là hơn tất cả sự cúng dường, có thể đạt được quả vô lượng không gì hơn. Bồ-tát Ma-ha-tát cúng dường Tam bảo vì sáu việc: Một là vì phước điền vô thắng. Hai là vì biết ân báo ân. Ba là vì hơn tất cả loài một chân, hai chân, nhiều chân, không chân. Bốn là vì khó gặp như hoa Ưu-đàm-bát. Năm là vì không có Hòa thượng mà tự nhiên chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Sáu là vì có thể khiến chúng sinh được sự an vui thế gian và xuất thế gian. Bồ-tát lúc muốn thọ giới Bồ-tát, phải quán xét Hòa thượng có đầy đủ tám pháp mới theo thọ giới: Một là đầy đủ giới Ưu-bà-tắc, Sa-di, Tỳ- khưu. Hai là có thể nhận sự cúng dường. Ba là khéo quán sát tướng mạo trì giới hoặc hủy giới. Bốn là đắc chỉ và quán. Năm là tâm từ thương xót tất cả. Sáu là có thể xả sự vui của mình để bố thí cho chúng sinh. Bảy là không sợ hãi. Tám là không thuyết phi pháp, không nghe phi pháp. Nghe thuyết phi pháp thì quở trách can ngăn, có thể nhẫn chịu tất cả sự hủy nhục, đánh mắng, não hại cùng những người tham sân si, hủy giới, biếng nhác, ở trong chúng thuyết pháp không từ mệt nhọc, không giải nghóa sai, cũng không nói lầm, lời nói luôn nhẹ nhàng không thô tháo, thường nhớ chúng sinh muốn khiến đạt được an lạc, có nghi liền thỉnh hỏi, không khởi tâm sỉ nhục, khéo biết phương tiện để giáo hóa, biết đối trị phiền não của các chúng sinh, đối với chúng sinh tâm luôn bình đẳng, không có phân biệt sang hèn, cao thấp, sáu căn đầy đủ, oai nghi đónh đạc, không tin lời dua nịnh, hành tịnh hạnh nghiêm nhặt, không tự khoe khoang, khinh chê người khác, không vì lợi dưỡng mà hiện sự dối trá bên ngoài, xả bỏ tâm tham lam, ganh ghét, bủn xỉn, nếu tự có lợi trước nhường cho người, trong tâm thường nhất không phóng dật, thấy người được lợi hoan hỷ như mình được, ít muốn biết đủ, chỉ chứa sáu vật, ngoài sáu vật ra nếu có liền tùy theo mà bố thí; thường khuyên người phạm giới nên phát lồ, chỉ bày ức niệm, khéo biết pháp sám hối, khéo nuôi dưỡng người có bệnh khổ, trọn không tuyên thuyết tạng pháp Thanh văn và lỗi của tạng Bồ-tát. Nếu có đầy đủ những pháp như trên, mới có thể nhận làm Hòa thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát đã thọ giới rồi, nếu Hòa thượng bệnh nên cung cấp hầu hạ như lúc không bệnh, nên theo lời dạy mà làm việc, nên sinh tâm thành thật cung kính, nghinh đón lễ bái đứng hầu hai bên, phụng dâng y phục, thức ăn, ngọa cụ, thuốc thang, tùy thuận pháp ngữ, tùy pháp mà làm không có động chuyển, tùy chỗ phạm tội mà nói thành thật. Như lúc nghe pháp nên tạo tưởng như Phật, tưởng Pháp, tưởng Tỳ-khưu Tăng, tưởng về sự khó được, tưởng nhãn, tưởng nhân của đại trí, tưởng về ánh sáng lớn, tưởng đạt được đại quả báo, tưởng về nhân của đạo vô thượng là đại Niết-bàn, tưởng đạt được thường lạc, tưởng chứng đắc chỉ quán. Các tưởng như vậy tức là tưởng pháp chân thật. Đây gọi là đầy đủ công đức nghe pháp. Lại nữa, lúc nghe pháp nên chí tâm nghe, tâm tín nghe, không nên nghó nay ta không cần theo người phá giới nầy, ấy là chủng tánh thấp kém, căn không đầy đủ; không nên hỏi pháp này, vì không chánh ngữ, vì căn tánh xấu. Nên lìa niệm như vậy mà nghe pháp. Bồ-tát Ma-ha-tát thọ giới Bồ-tát có hai hạng: Một là trí. Hai là ngu. Nếu có sự suy nghó như trên thì gọi là ngu si, không tăng pháp thiện, không được đại trí. Bồ-tát tu tập bốn tâm vô lượng là từ bi hỷ xả. Bốn tâm vô lượng có ba hạng: Một là duyên chúng sinh. Hai là duyên pháp. Ba là không duyên. Duyên chúng sinh tức là Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập tâm từ, quán sát hết thảy ba tụ chúng sinh: Một là thọ vui. Hai là thọ khổ. Ba là thọ không khổ không vui. Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập tâm từ, quán người thọ vui khiến được tăng trưởng, quán chúng sinh thọ khổ thì diệt khổ sinh vui, quán người không khổ không vui thì đoạn trừ khổ vui khiến được Niết-bàn. Đây gọi là duyên chúng sinh. Duyên pháp tức là Bồ-tát Ma-ha-tát chỉ quán tướng pháp, không quán tướng chúng sinh. Nếu ta tu Từ không có chúng sinh, chỉ được lìa khổ, ai được thọ vui? Đây gọi là duyên pháp. Không duyên tức là xả bỏ tướng chúng sinh, cho đến tướng pháp mà tăng trưởng tâm từ. Đây gọi là không duyên. Ba tâm vô lượng là bi, hỷ, xả cũng lại như vậy, Bồ-tát Ma-ha-tát nếu nhân chúng sinh mà tu vô lượng tâm, phải biết tâm nầy không khác ngoại đạo, cũng cùng tâm với Thanh văn, Duyên giác. Bồ-tát Ma-ha-tát hợp bốn tâm vô lượng tức là Bi, cho nên Bồ-tát được gọi là Đại bi. Bồ-tát quán sát chúng sinh thọ khổ có một trăm mười thứ, vì trừ những thứ khổ nầy nên tu tập Đại bi. Những gì là một trăm mười thứ? Một thứ là sinh khổ. Lại có hai thứ: Một là cầu không được nên khổ. Hai là cầu được rồi mất nên khổ. Lại có ba thứ: Một là khổ khổ. Hai là hành khổ. Ba là hoại khổ. Lại có bốn thứ: Một là ái biệt ly khổ. Hai là oán gặp nhau khổ. Ba là chết khổ. Bốn là năm ấm không dứt nên khổ. Lại có năm thứ: Một là nhân duyên tham dục khổ. Hai là nhân duyên sân hận khổ. Ba là nhân duyên ngủ nghỉ khổ. Bốn là nhân duyên tán loạn khổ. Năm là nhân duyên nghi ngờ khổ. Lại có sáu thứ: Một là nhân đường ác khổ. Hai là quả đường ác khổ. Ba là cầu nhiều khổ. Bốn là giữ gìn khổ. Năm là không biết nhàm chán nên khổ. Sáu là mất mát khổ. Lại có bảy thứ: Một là sinh khổ. Hai là già khổ. Ba là bệnh khổ. Bốn là chết khổ. Năm là ái biệt ly khổ. Sáu là oán gặp nhau khổ. Bảy là cầu không được nên khổ. Lại có tám thứ: Một là lạnh khổ. Hai là nóng khổ. Ba là đói khổ. Bốn là khát khổ. Năm là không được tự tại khổ. Sáu là tự làm khổ như Ni-kiền-tử. Bảy là người khác làm khổ, như việc vua… Tám là mất oai nghi khổ. Lại có chín thứ: Một là thân bần cùng khổ. Hai là người khác bần cùng khổ. Ba là thân ái hoại khổ. Bốn là mất của cải khổ. Năm là bệnh khổ. Sáu là phá giới khổ. Bảy là tà kiến khổ. Tám là hiện tại khổ. Chín là đời sau khổ. Lại có mười thứ: Một là có thức ăn không có đồ đựng khổ. Hai là bước đi không có xe khổ. Ba là cầu các anh lạc hoa hương không được nên khổ. Bốn là cầu tìm kỹ nhạc vui chơi không được nên khổ. Năm là cầu ánh sáng không được nên khổ. Sáu là cầu người phục dịch không được nên khổ. Bảy là cầu thức ăn không được nên khổ. Tám là cầu y phục không được nên khổ. Chín là có được không dùng nên khổ. Mười là thấy người đến xin mà khổ. Lại có chín thứ: Một là tất cả khổ. Hai là khổ lớn. Ba là tất cả tự khổ. Bốn là không như pháp trụ khổ. Năm là chuyển khổ. Sáu là không được tự tại khổ. Bảy là hại khổ. Tám là đuổi theo khổ. Chín là tất cả hành khổ. Tất cả khổ tức là do tạo nhân đời trước nên hiện tại khổ. Khổ lớn tức là các chúng sinh thọ khổ nơi địa ngục trong vô lượng đời. Tất cả tự khổ tức là sự khổ trong đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời người. Không như pháp trụ khổ tức là bàn mưu muốn hại người mà không thành tựu, trở lại rước họa vào thân, như tham ăn uống sau thọ khổ lớn. Như nghó đến tham dục, sân hận, ngu si nên khổ. Hoặc nhân nơi nghiệp ác của thân khẩu ý mà thọ khổ, hoặc nhân hủy giới thọ sự ưu khổ. Chuyển khổ tức hiện tại làm thân vua, đời khác chuyển làm thân tôi tớ, hoặc hiện tại làm cha mẹ, anh em, vợ con, đời khác là oán ghét khổ, hoặc đời nầy giàu có đời sau chịu bần cùng khốn khổ. Không được tự tại khổ tức như muốn được sống lâu, muốn được xinh đẹp, muốn được giàu có, muốn được mạnh khỏe, muốn được trí tuệ, muốn trừ oán địch, nhưng tất cả không được như ý nên khổ. Hại khổ tức như người trong thế gian cầu hết sự bần cùng nhưng không được nên khổ, người xuất gia cầu phá bỏ phiền não nhưng không thể nên khổ, hoặc gặp nạn khổ, binh đao khởi khổ, đi giữa đồng trống khổ, bị cắt tay chân khổ, bị trói buộc giam cầm khổ, bị đuổi ra ngoài khổ. Tất cả hành khổ tức là nhân nơi khổ thọ khổ, lìa sự vui thọ khổ, tất cả các thọ chưa đoạn nên khổ, không thể xuất gia nên khổ, không thể tịch tónh khổ, không được Bồ-đề khổ, sinh nhiều tư giác khổ, phàm phu khổ, bốn đại khổ, ba cõi khổ, phiền não khổ. Đây gọi là một trăm mười sự khổ. Bồ-tát quán sát các sự khổ như vậy nên tăng trưởng tâm đại bi. Khổ lớn như thế do mười tám thứ mà tăng trưởng: Một là ngu si khổ. Hai là thọ quả báo khổ. Ba là hành khổ. Bốn là thường khổ. Năm là sinh khổ. Sáu là tự tạo tác khổ. Bảy là tha tạo tác khổ. Tám là phá giới khổ. Chín là tà kiến khổ. Mười là đời quá khứ khổ. Mười một là đại khổ. Mười hai là địa ngục khổ. Mười ba là trời người khổ. Mười bốn là chuyển khổ. Mười lăm là thọ khổ. Mười sáu là không biết nên khổ. Mười bảy là tăng trưởng khổ. Mười tám là biếng nhác khổ. Bồ-tát thường dùng bốn nhân duyên gọi là đại bi: Một là quán sát nhân duyên của chúng sinh thọ khổ sâu xa khó giải. Hai là tu tập trong vô lượng đời. Ba là chí tâm tu tập. Bốn là chí tâm đối với chúng sinh không tiếc thân mạng. Do bốn nhân duyên nầy, có thể vì chúng sinh lao nhọc thọ khổ nơi thân, nên Bồ-tát gọi là tịnh đại bi. Tịnh đại bi gọi là địa Như Lai. Bồ-tát Ma-ha-tát quán sát một trăm mười việc ấy, tất cả Bồ-tát đều tu tập, vì chúng sinh nên tăng trưởng tâm đại bi. Như vậy Bồ-tát có thể quán chúng sinh và dùng pháp tướng mà sinh tâm đại bi. Không thể quán sát tướng vô duyên mà sinh tâm đại bi, như thế không được gọi là đại bi. Như Lai có thể đầy đủ ba thứ như thế nên gọi là đại bi. Bồ-tát tu tập đại bi mà được thân tâm tịch tónh, do nhân duyên thân tâm tịch tónh nên có thể phá trừ phiền não hiện có của chúng sinh, trụ ở địa tịnh, đối với chúng sinh luôn thương mến như con. Do nhân duyên đại bi, nên vì các chúng sinh mà siêng tu khổ hạnh, tâm không hối hận. Như đạo Thanh văn lúc ngộ Tứ đế thọ sự vui vô lậu. Bồ-tát tu tập tâm bi cũng lại như vậy, Bồ-tát tu tập tâm bi là chỉ vì chúng sinh không vì thân mình. Do nhân duyên tu tập bi mà Bồ-tát không tiếc thân mạng và của cải bên ngoài. Do nhân duyên tu bi mà xả thân thọ thân, trọn không hủy phạm giới cấm của Như Lai, Tam-muội khó được tức có thể được, vì thế trong kinh Phật dạy: Đạo quả Bồ-đề vô thượng của Bồ-tát trụ tại chỗ nào? Phải nói là trụ ở đại bi, nhiều vô lượng vô biên không thể xưng kể, nên gọi là đại bi. Bồ-tát tu tập tâm vô lượng nầy, được sự vui hiện tại, có thể khiến chúng sinh xa lìa khổ não, đạt được vô lượng công đức vô thượng, trang nghiêm đạo quả Bồ-đề vô thượng. ---------------------- <詞>Phẩm 18: BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO CỦA ĐỊA BỒ TÁT Thế nào gọi là Bồ-tát Ma-ha-tát hổ thẹn? Hổ thẹn có hai thứ: Một là tánh. Hai là nhân duyên. Tánh tức là Bồ-tát Ma-ha-tát tự biết chỗ làm là phi pháp, sợ hãi quả báo ác nên sinh tâm hổ thẹn. Nhân duyên tức là Bồ-tát đối với việc tự làm ác, sợ mọi người biết nên sinh lòng hổ thẹn. Tánh hổ thẹn tức chẳng phải nhân duyên mà được, như tánh Bồ- tát. Bồ-tát tu hổ thẹn là từ nhân duyên mà được, như tám chánh đạo. Hổ thẹn có bốn thứ: Một là không nên làm mà làm nên sinh hổ thẹn. Hai là việc nên làm mà không làm nên sinh hổ thẹn. Ba là tâm tự sinh nghi nên sinh hổ thẹn. Bốn là đối với tội che giấu sợ người khác biết nên sinh hổ thẹn. Thế nào gọi là Bồ-đề tát đỏa? Tát đỏa gọi là dũng mãnh không sợ hãi. Tánh của Bồ-tát có lực mạnh. Do tánh mạnh nên có thể điều phục phiền não không tùy theo tâm, có thể nhẫn chịu các khổ, các sự sợ hãi, tuy có sợ hãi nhưng không lay động. Bồ-tát hiện có pháp thiện trang nghiêm, gọi là tánh dũng mãnh, nên gọi là Bồ-đề Tát đỏa. Tánh dũng mãnh của Bồ-tát có năm nhân duyên: Một là các thứ sinh tử khổ. Hai là chúng sinh làm các thứ nghiệp ác. Ba là ở trong vô lượng đời vì lợi ích của chúng sinh mà thọ vô lượng khổ. Bốn là chí tâm kiên trì giới cấm của Bồ-tát. Năm là chí tâm nghe thọ pháp sâu xa. Bồ-tát Ma-ha-tát có năm nhân duyên, vì các chúng sinh chịu khổ lớn, tâm không sầu não: Một là do có sức mạnh lớn. Hai là tu tập không ưu sầu. Ba là dũng mãnh tinh tấn, có phương tiện tốt. Bốn là trí tuệ dũng mãnh. Năm là chuyên niệm tu tâm bi. Tại sao Bồ-tát hiểu biết sách vở thế gian? Bồ-tát khéo biết về phương thuật ở thế gian, biết chữ biết câu, biết lời biết nghóa, tâm miệng hòa hợp, chuyên ý thọ trì. Đây gọi là Bồ-tát biết pháp biết nghóa, do biết pháp biết nghóa nên có thể vì mọi người thuyết giảng. Do nhân duyên thuyết giảng nên pháp trí nghóa trí đều được tăng trưởng. Đây gọi là văn tuệ tư tuệ. Do nhân duyên văn tuệ tư tuệ nên pháp trợ Bồ-đề được tăng trưởng. Thế nào gọi là Bồ-tát biết thế gian? Thế gian có hai thứ: Một là thế gian của chúng sinh. Hai là khí thế gian. Bồ-tát Ma-ha-tát quán xét thế gian của chúng sinh, cho nên kinh nói: Hành khổ nơi thế gian thọ ở sinh tử. Không biết sinh tử không được giải thoát. Như Lai khéo biết về thế gian của chúng sinh, nên kinh nói: Chúng sinh có năm trược: Một là mạng trược. Hai là chúng sinh trược. Ba là phiền não trược. Bốn là kiến trược. Năm là kiếp trược. Như nay mạng người sống không đủ trăm năm. Đây gọi là mạng trược. Như nay chúng sinh không thể hiếu dưỡng đối với cha mẹ, các bậc sư trưởng, Hòa thượng, Sa-môn, phạm hạnh, không theo nghóa mà làm, không sợ quả báo nơi hiện tại và đời vị lai, không ưa bố thí, không thích phước đức, không ưa thọ trai trì giới tinh tấn. Đây gọi là chúng sinh trược. Như chúng sinh do phiền não mà giết hại cha mẹ, đối với cha mẹ anh chị em, thân thuộc cưỡng làm chuyện phi pháp, vì cùng chúng sinh làm nhân duyên ác, nên cất chứa cung nỏ dao gậy giáo mác, có nhiều chúng sinh nói dối, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói lời vô nghóa, như vậy các điều ác vô lượng, lúc phiền não bất thiện khởi lên. Đây gọi là phiền não trược. Như nay chúng sinh phi pháp thấy là pháp, pháp thấy là phi pháp, phi pháp nói pháp, pháp nói phi pháp, vì vậy nên phá hoại chánh pháp, làm tăng trưởng tà pháp, vô lượng chúng sinh tu tập tà kiến. Đây gọi là kiến trựơc. Như vào thời ác, chúng sinh ác, có ba thứ nội ác kiếp khởi: Một là nội kiếp đói kém. Hai là nội kiếp bệnh dịch. Ba là nội kiếp binh đao. Đây gọi là kiếp trược. Trên đây là nói về Bồ-tát biết thế gian của chúng sinh. Lại nữa, Bồ-tát biết khí thế gian, tức là Bồ-tát khéo biết nhân duyên thành hoại của khí thế gian. Cho nên kinh nói: Nầy Ca-chiên- diên! Như Lai khéo biết thế gian, biết thế gian nhân, biết thế gian diệt, biết thế gian đạo, biết thế gian mùi vị, biết thế gian khổ, biết thế gian giải thoát. Nầy Ca-chiên-diên! Sáu nhập, năm ấm, và bốn đại gọi là thân người, do thân người tùy thế gian tác tướng nên gọi đó là ngã, gọi là chúng sinh, gọi là thọ mạng, gọi là só phu, gọi là A, B, danh tự như vậy tánh không chân thật, nhân nơi phiền não nên chúng sinh nói ta thấy ta nghe, ta biết, thấy nghe biết cũng không chân thật. Lưu hành khắp các danh tánh, thức ăn, thọ khổ, thọ vui, sống lâu, chết sớm như vậy, đây gọi là lưu hành khắp. Lưu hành khắp thì gọi là tướng, không gọi là chân thật. Như Lai khéo biết thế gian chúng sinh và khí thế gian, nên gọi là Như Lai khéo biết về thế gian. Bồ-tát nếu thấy người hơn mình về tuổi tác, phước đức, nên cung kính thăm hỏi, sắp đặt giường tòa, hoặc thấy người có tuổi và phước đức bằng mình, trước thăm hỏi bằng lời khiêm nhường, chắp tay cùng ngồi, không sinh tâm kiêu mạn, nghó ta hơn người kia. Nếu thấy người có tuổi tác và phước đức nhỏ hơn mình, cũng thăm hỏi và khuyến khích họ, về phước đức, dạy thực hành pháp thiện, tâm không khinh chê, giả sử họ có tội, trọn không chỉ trích, tùy theo vật cần dùng để cung cấp. Bồ-tát đối với chúng sinh hạng thượng, trung, hạ đều dùng lời nhẹ nhàng, đem pháp thiện mà giáo hóa, dùng thức ăn, dùng pháp mà thâu giữ, thân khẩu ý nghiệp suy nghó thiện đều hồi hướng cho chúng sinh, thường nghó như vầy: Nguyện ta và các chúng sinh không tạo nhân duyên ác, đối với chúng sinh không khởi tưởng oán, thường nghó là thân thuộc, không có tâm sân hận. Giả sử có người sân thì không để bụng, nếu bị đánh đập phải quán xét pháp giới, thân khẩu ý nghiệp thường tự thận trọng. Đầy đủ mười bốn việc: Đó là sáu phương tiện, bốn tri thức ác, bốn tri thức thiện. Như kinh Thiện Sinh chép: Thường có thể tạo lợi ích cho đời nầy đời sau, có thể cầu của cải, được rồi có thể giữ gìn, cuộc sống đầy đủ, có thể làm việc phước đức, không tham lam, không bủn xỉn, không làm huyễn thuật mê hoặc người đời, trì giới biết xấu hổ, có người giao phó việc không để họ sinh nghi, thấy chúng sinh như thấy chân thật, thường gần bạn lành, trị nước an dân, khuyên dùng mười điều thiện, thấy thì nói thấy, nghe thì nói nghe, biết thì nói biết, hiểu thì nói hiểu, cho nên Bồ-tát gọi là hiểu biết về thế gian. Thế nào gọi là Bồ-tát học tứ y? Bồ-tát y nơi nghóa không y nơi chữ. Bồ-tát nghe pháp không vì y nơi chữ, chỉ vì y nơi nghóa. Bồ-tát Ma- ha-tát y pháp không y người. Nghóa là biết pháp và phi pháp, biết pháp như vậy là do Phật thuyết, hoặc trưởng lão thuyết, hoặc chúng Tăng thuyết, nếu là phi pháp, tuy nghe Phật thuyết nhưng tâm không sinh tin. Lại có pháp chẳng phải Phật thuyết, chẳng phải trưởng lão hay chúng Tăng thuyết, tuy vậy nhưng đây là pháp tướng thì nghe rồi tin thọ. Bồ- tát Ma-ha-tát y kinh liễu nghóa, không y nơi kinh không liễu nghóa. Y kinh liễu nghóa là không thể động không thể chuyển. Kinh liễu nghóa là không sinh tâm nghi. Bồ-tát nếu đối với kinh liễu nghóa mà sinh tâm nghi thì có thể lay chuyển. Bồ-tát y trí không y thức. Vì sao? Người tu trí tuệ gọi là trí tịnh, cho nên Bồ-tát hiểu nghóa sâu xa, nếu đối với nghóa sâu xa chưa được hiểu, cũng trọn không sinh phỉ báng. Đây gọi là Bồ- tát thành tựu bốn thứ y. Bồ-tát thành tựu bốn thứ y như vậy, hiểu biết rõ về đạo thế gian và xuất thế gian. Bồ-tát lại có bốn đạo, do bốn đạo nên biết tất cả giới, được trí vô ngại. Bốn đạo tức bốn trí vô ngại. Biết tất cả pháp giới, gọi là pháp trí vô ngại. Nếu biết tất cả pháp tánh trí vô ngại không có trí điên đảo, gọi là nghóa trí vô ngại. Bồ-tát nếu biết danh tự của tất cả các pháp, gọi là từ trí vô ngại, Bồ-tát nếu biết tất cả pháp giới, tất cả danh tự pháp, tất cả nghóa pháp nói không cùng tận, thì gọi là nhạo thuyết trí vô ngại trí. Bồ-tát đầy đủ bốn trí vô ngại, biết phương tiện của năm ấm, sáu nhập, mười tám giới, phương tiện mười hai nhân duyên, phương tiện thị xứ phi xứ, Bồ-tát đầy đủ bốn trí vô ngại, tự biết rõ ràng đạo Bồ-đề, lại có thể vì người mà phân biệt thuyết giảng. Thế nào gọi là trang nghiêm Bồ-đề? Trang nghiêm Bồ-đề có hai thứ: Một là công đức trang nghiêm. Hai là trí tuệ trang nghiêm, như trong phẩm tự lợi lợi tha đã nói. Nếu Bồ-tát vào a-tăng-kỳ kiếp đầu tu tập hai thứ trang nghiêm như vậy, gọi là hạ trang nghiêm, nếu vào a-tăng-kỳ kiếp thứ hai tu tập, gọi là trung trang nghiêm, vào a-tăng-kỳ kiếp thứ ba tu tập, gọi là thượng trang nghiêm. Thế nào Bồ-tát tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo? Bồ-tát đầy đủ bốn trí vô ngại, được trí phương tiện, do trí phương tiện nên tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo, cũng chưa được chứng đạo quả Bồ-đề vô thượng, cũng biết phẩm tu đạo của hàng Nhị thừa, biết hàng Nhị thừa như trong phẩm đầu đã thuyết. Thế nào gọi là biết Bồ-tát tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo? Bồ- tát quán thân tuần tự thân quán, lúc quán như vậy không đắm vào tướng thân, không nghó tướng không, cũng biết thân nầy là không thể nêu bày. Đây gọi là quán thân đệ nhất nghóa. Vì lưu hành khắp nên gọi tên là thân. Ngoài thân ra ba mươi sáu phẩm còn lại cũng như vậy. Bồ-tát Ma- ha-tát lúc quán thân nầy không nghó khổ, không nghó tập, không nghó diệt, không nghó đạo là nhân duyên của diệt. Vì sao? Vì pháp giới là không thể nêu bày. Nếu Bồ-tát có thể biết khổ tập diệt đạo như thế, tức gọi là tu tập ba mươi bảy phẩm đệ nhất nghóa, vì lưu hành khắp cho nên nói khổ tập diệt đạo. Nếu Bồ-tát biết không dùng giác quán để quán xét ba mươi bảy phẩm, thì gọi là chỉ. Nếu Bồ-tát biết pháp giới là chân thật, không thể nêu bày, đây gọi là quán. Xa-ma-tha của Bồ-tát có bốn thứ: Một là Xa-ma-tha đệ nhất nghóa. Hai là Xa-ma-tha kỳ hạn. Ba là Xa-ma-tha chân thật. Bốn là Xa-ma-tha lìa phiền não oán, Bồ-tát đầy đủ bốn thứ Xa-ma-tha, biết tất cả pháp giới, vì nhằm đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát tu Tỳ-bà-xá-na (quán) có bốn thứ: Một là cùng thực hành với bốn thứ Xa-ma-tha. Hai là xa lìa điên đảo. Ba là phân biệt vô lượng pháp giới. Bốn là biết pháp giới vô ngại, Bồ-tát tu tập bốn thứ Tỳ-bà-xá-na nầy, vì cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng. Thế nào gọi là Bồ-tát Ma-ha-tát có phương tiện khéo léo? Phương tiện khéo léo có mười hai thứ: Nội sáu thứ và Ngoại sáu thứ. Sáu thứ nội, nghóa là Bồ-tát thường khởi tâm đại bi đối với tất cả chúng sinh, hiểu rõ chân thật tất cả các hành, thường ưa buộc niệm nơi đạo quả Bồ- đề vô thượng, ưa chuyển sinh tử cho chúng sinh, chân thật biết phiền não, không hoại phiền não, vì đạo quả Bồ-đề vô thượng mà siêng tu tinh tấn. Đây gọi là nội phương tiện. Sáu thứ phương tiện ngoại, nghóa là có thể khiến người bố thí ít đạt được vô lượng phước. Người có công đức hay khiến cho tăng trưởng. Người chưa thuần thục hay khiến cho thuần thục. Người được thuần thục hay khiến được giải thoát. Người phá hoại pháp Phật có thể khiến sinh tâm tin. Người có tin rồi hay khiến tăng trưởng. Đây gọi là ngoại phương tiện. Thế nào gọi là bố thí ít mà được vô lượng phước? Như có chúng sinh ở chỗ Bồ-tát nghe thuyết pháp rồi, đem một ít thức ăn bố thí cho chó đói, vật thí đã ít mà ruộng phước lại mỏng, do có thể hồi hướng về đạo Bồ-đề, nên có được phước báo không thể xưng kể. Có công đức khiến được tăng trưởng, tức nếu có chúng sinh thọ tám phần trai giới, Bồ-tát lại vì họ mà phân biệt giải nói, dạy họ hồi hướng nơi đạo Bồ-đề vô thượng. Nếu có chúng sinh đắm sâu nơi tà kiến, một tháng không ăn, ngày đoạn tối ăn, Bồ-tát liền vì họ tuyên giảng chánh pháp, phá trừ tâm tà, dạy họ thọ trì tám phần trai giới. Nếu có chúng sinh muốn cầu giải thoát mà không biết phương tiện, Bồ-tát vì họ mà thuyết giảng về thật nghóa trung đạo, lìa nhị biên. Nếu có chúng sinh muốn được thân cõi trời mà nhảy xuống vực sâu hoặc nhảy vào lửa, Bồ-tát vì họ nên phá trừ sự khổ như vậy, vì họ nói về trì giới, hiện đời hưởng vui, đời sau được thân cõi trời. Nếu có chúng sinh vì tịch tónh, mà đọc tụng giải nói bốn luận Tỳ đà, Bồ-tát liền dùng mười hai bộ kinh dạy họ khiến phân biệt suy nghó về ý nghóa. Lại nữa, Bồ-tát dùng hương hoa thượng diệu hiện có trên thế gian cúng dường Tam bảo, cũng nên dạy chúng sinh khiến biết cúng dường, tự hướng đến vô lượng chư Phật trong mười phương mà phát nguyện cúng dường, cũng dạy chúng sinh hướng đến chư Phật ở mười phương và phát nguyện cúng dường. Lại nữa, Bồ-tát thường tu niệm Phật cho đến niệm thiên, cũng dạy chúng sinh khiến tu sáu niệm. Lại nữa, Bồ-tát có nghiệp thiện về thân khẩu, hoặc nhiều hoặc ít đều thí cho chúng sinh, cũng dùng pháp nầy giáo hóa chúng sinh. Lại nữa, Bồ-tát thường phát nguyện: Tất cả chúng sinh hiện có việc khổ, đều tập hợp nơi thân ta, chớ khiến người khác chịu, cũng dùng pháp nầy chuyển dạy cho chúng sinh. Lại nữa, Bồ-tát nếu có tội trong đời quá khứ cùng hiện tại, đều hướng tới chư Phật ở mười phương mà sám hối, cũng dùng pháp nầy dạy chúng sinh thực hành. Lại nữa, Bồ-tát từ có thể tu tập bốn tâm vô lượng, cũng dạy chúng sinh thực hành bốn tâm vô lượng, người có công đức hay khiến cho tăng trưởng, người phá hoại pháp Phật hay khiến họ sinh tín, đã sinh tín rồi hay khiến cho tăng trưởng, người chưa thành thục khiến cho thành thục, đã thành thục rồi hay khiến được giải thoát. Bồ-tát Ma-ha-tát vì bốn pháp nầy mà tu tập sáu việc: Một là tùy người. Hai là không chướng ngại. Ba là không lay động. Bốn là tâm tương trợ. Năm là báo ân. Sáu là thanh tịnh. Tùy theo người khác, nghóa là Bồ-tát trước dùng lời nhẹ nhàng tùy theo tâm họ mà nói, tùy theo sức lực của thân khẩu ý mà bố thí, khiến người kia cung kính sinh tâm hoan hỷ, sinh tâm ưa nghe pháp, rồi sau đó mới thuyết giảng, tùy theo căn cơ thượng trung hạ của chúng sinh mà thuyết pháp dễ hiểu, thuyết đúng thời, thuyết theo thứ lớp, thuyết không điên đảo, thuyết lợi ích, thuyết thương xót. Nếu cần thần thông cảm ứng để hóa độ thì vì họ mà thị hiện thần thông, tóm lược có thể nói rộng, rộng có thể nói lược, có thể phá trừ lưới nghi, ban cho họ sự nhớ nghó, có thể mở rộng chỗ phân biệt, chỗ xuất định nhập định. Nếu có chúng sinh không hiểu nghóa “không” thâm diệu của Như Lai, tức liền vì họ khai thị phân biệt diễn nói. Nếu có chúng sinh phỉ báng kinh điển Phương đẳng Đại thừa, tức vì họ thuyết pháp khiến được điều phục. Nếu có chúng sinh nói: “Như Lai tuyên thuyết không có tất cả pháp, không có tất cả vật, tất cả các pháp không sinh không diệt, giống như hư không, như huyễn, như mộng, như sóng nắng, như thành Càn- thát-bà, như trăng trong nước, như tiếng vang”, do không hiểu nhân duyên pháp tánh nên sinh sự sợ hãi, do sợ hãi nên sinh phỉ báng, nói chẳng phải kinh Phật, là thuyết của tà kiến. Bồ-tát Ma-ha-tát với phương tiện khéo léo, dần dần vì họ khai thị nghóa kinh, tùy ý mà nói chẳng phải không có tất cả pháp, do tất cả pháp không thể tuyên thuyết, nên gọi là pháp không. Vì không thể tuyên thuyết tánh không thật có, nên gọi là không có vật. Như ban đầu không có bất khả thuyết, không có tánh bất khả thuyết, làm sao có thể nói có sinh có diệt, nên nói là không sinh không diệt, nếu không sinh diệt tức gọi là hư không. Như trong hư không có vô lượng sắc, có vô lượng nghiệp, các sắc các nghiệp không có chướng ngại, đó gọi là đi đứng, co, duỗi, cúi, ngưỡng. Nếu không có các sắc, các nghiệp như vậy, gọi là hư không, thì hư không không thể tuyên thuyết. Nếu nhân hư không có các sắc các nghiệp có thể tuyên thuyết, thì không được nói tánh của hư không không thể tuyên thuyết. Nếu hư không kia không thể tuyên thuyết, thì các sắc các nghiệp làm sao có thể tuyên thuyết? Bồ-tát Ma-ha-tát được Thánh trí rồi, mới biết pháp giới không thể tuyên thuyết. Lúc ấy, Bồ-tát phá trừ tướng tà, nói tất cả pháp là có, tất cả pháp là có thể giảng nói. Bồ-tát ban đầu dùng Thánh trí như vậy dạy cho chúng sinh, chúng sinh đạt được rồi tự thấy pháp tánh, không thể tuyên thuyết, giống như hư không, cho nên Như Lai nói tất cả pháp đồng như hư không, như huyễn mộng, tánh tướng chẳng phải có chẳng phải không. Thánh nhân cũng nói chẳng phải là có chẳng phải là không. Huyễn nếu là định có, thì do nhân duyên gì mà có, lúc thấy có, lúc không? Nếu định là không, thì tại sao khiến người thấy vô số các thứ tướng. Pháp của thật không, thì không nên sinh tướng. Tất cả pháp giới cũng lại như vậy. Đối với phàm phu nói có danh tướng, do có danh tướng nên không thể nói là không. Tánh của đệ nhất nghóa do không thể tuyên thuyết nên không được nói là có. Cho nên pháp giới như huyễn có hai. Vì thế Bồ-tát đối với các pháp giới, không lấy không bỏ, không tăng không giảm, thật thì biết thật cũng nói là thật. Đây gọi là Bồ-tát khéo tùy theo phương tiện. Không có chướng ngại, tức là Bồ-tát Ma-ha-tát thấy người đến cầu xin, nên nói: Thiện nam! Nay nếu ngươi có thể cúng dường Tam bảo, cha mẹ, sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, thì những vật cần dùng như y phục, thức ăn, giường tòa, thuốc thang, hoa hương, anh lạc, cờ phướn, lọng báu, kỹ nhạc, ruộng vườn, phòng xá, tôi tớ, xe cộ, tiền tài, ta đều đem cho ngươi. Nếu có chúng sinh sợ hãi ưu sầu, Bồ-tát nên nói: Nay nếu ngươi có thể cúng dường Tam bảo, cho đến Bà-la-môn, ta sẽ cung cấp cho ngươi y phục, thức ăn, cho đến tất cả các vật cần dùng, cũng sẽ cứu giúp việc ưu sầu lo sợ cho ngươi. Nếu có người bệnh cũng lại nói: Nay nếu ngươi có thể cúng dường Tam bảo cho đến Bà-la-môn, ta sẽ vì ngươi mà tìm cầu thuốc hay, chăm sóc bệnh tốt, cho đến các vật cần dùng khiến ngươi hết bệnh. Như vậy chúng sinh nếu có thể tin thọ lời Bồ-tát dạy, Bồ-tát sẽ làm các thứ phương tiện khiến được như ý. Nếu không tin thọ, lúc ấy Bồ-tát sẽ tu tâm xả. Nếu có tin thọ cúng dường Tam bảo, cha mẹ, sư trưởng, trì giới, tinh tấn, điều phục khiến chứng đắc đạo quả giác ngộ vô thượng. Nếu trước tin thọ lời dạy sau không nghe, Bồ-tát vì lòng thương xót nên hiện sự nổi giận, quở trách, chẳng phải thật có tâm ác, hoặc không bố thí vật thật chẳng phải hiềm hận, mà vì điều phục. Đây gọi là không chướng ngại không lay động. Tâm tương tợ tức là Bồ-tát nếu được thân tự tại, như vua, đại thần có nhiều quyến thuộc, trước xướng: Như trong phần đất của ta và người trong nhà, nếu có ai không cúng dường Tam bảo, cha mẹ, sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc hủy giới, biếng nhác, ta sẽ không cho y phục, thức ăn, hoặc đánh mắng, bắt giam vào lao ngục, hoặc giết hoặc đuổi, giao phó cho đại thần khiến giám sát, biết ai trì giới, biết ai hủy giới, ai có thể cúng dường cha mẹ, Tam bảo, ai không cúng dường cha mẹ, Tam bảo. Bấy giờ, các chúng sinh vì lo sợ, cho nên xa lìa các điều ác, tu tập pháp thiện, tương tợ như tâm của Bồ-tát. Đây gọi là phương tiện tương tợ. Báo ân tức là Bồ-tát thọ nhận y phục, thức ăn, ngọa cụ, thuốc thang, phòng xá của đàn việt, hoặc nhiều hoặc ít. Hoặc gặp sợ hãi có người giải nguy, hoặc gặp bệnh khổ có người trị liệu, hoặc nghe thuyết pháp phá trừ tâm nghi. Bồ-tát Ma-ha-tát vì nhớ đến ân, tức đều dạy họ thực hành pháp thiện. Đây gọi là báo ân. Bồ-tát thuyết pháp chúng sinh nghe rồi, tức có thể cúng dường Tam bảo, cha mẹ, sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, trì giới tinh tấn. Đây gọi là báo ân tịch tónh. Bồ-tát Ma-ha- tát an trụ trong địa Bồ-đề rốt ráo, tu tập đạo Bồ-đề tịch tónh, sinh nơi cõi trời Đâu Suất, phải biết không bao lâu sẽ hạ sinh nơi cõi Diêm-phù-đề và chứng đắc đạo quả Bồ đề vô thượng. Chúng sinh nghe pháp rồi đều phát nguyện: Như vậy lúc Bồ-tát thành Phật, chúng ta sẽ ở trong pháp Phật ấy mà xuất gia học đạo. Bấy giờ, Bồ-tát hạ sinh cõi Diêm-phù- đề, thác sinh ở nhà Sát-lợi, Bà-la-môn, vì chúng sinh nên xả bỏ sự vui năm dục, xuất gia học đạo tu hành khổ hạnh, vì khổ hạnh mà sinh tâm cung kính, phá bỏ tâm khổ, tu hạnh khổ rồi chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, phá bỏ tâm Bồ-đề Thanh văn, Duyên giác. Đã thành đạo rồi mặc nhiên mà trụ, Đế thích Phạm thiên cùng đến khuyến thỉnh. Phạm thiên nêu bày thưa thỉnh, vì khiến cho chúng sinh sinh tâm tôn trọng đối với chánh pháp. Bấy giờ, Thế Tôn liền dùng Phật nhãn quán sát chúng sinh, rồi sau mới thuyết pháp. Dùng Phật nhãn quán sát, là vì phá tên gọi xấu ác, như có chúng sinh nói: Như Lai chỉ vì Phạm vương khuyến thỉnh, chẳng phải vì thương xót. Như dùng Phật nhãn quán ở chúng sinh mà chuyển pháp luân, vì phá trừ các thứ luân tà ác của chúng sinh. Chuyển pháp luân rồi tập họp chúng chế giới, vì khiến cho chúng sinh được giải thoát. Đây gọi là phương tiện tịch tónh của Bồ-tát, vì khiến chúng sinh đạt được tâm tín. Người chưa vào pháp Phật khiến được vào, chúng sinh chưa thành thục khiến được thành thục, đã thành thục rồi khiến được giải thoát. <篇>KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI <卷>QUYỂN 7 <詞>Phẩm 19: PHÁP SỐ TRỢ BỒ ĐỀ CỦA ĐỊA BỒ TÁT Thế nào là Đà-la-ni của Bồ-tát Ma-ha-tát? Đà-la-ni có bốn thứ: Một là pháp Đà-la-ni. Hai là nghóa Đà-la-ni. Ba là lời Đà-la-ni. Bốn là nhẫn Đà-la-ni. Pháp Đà-la-ni tức là tâm Bồ-tát đạt được sự nhớ nghó, do niệm lực nên được đại trí tuệ, do lực của đại trí tuệ nên biết các pháp giới, ngôn từ câu chữ, kiên tâm thọ trì, trải qua vô lượng đời không có quên mất. Nghóa Đà-la-ni tức là như pháp Đà-la-ni, tùy thuận giải nghóa, ở trong vô lượng đời thọ trì không quên. Lời Đà-la-ni tức là Bồ-tát Ma-ha-tát vì phá trừ các ác của chúng sinh, nên thọ trì thần chú, đọc tụng thông lợi, đem lại lợi ích cho chúng sinh. Vì chú thuật nên thọ trì năm pháp: Một là không ăn thịt. Hai là không uống rượu. Ba là không ăn năm thứ cay nồng. Bốn là không dâm dục. Năm là không ở trong nhà bất tịnh mà ăn uống. Bồ-tát đầy đủ năm thứ như vậy, có thể làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh, các quỷ thần ác, các độc, các bệnh, không gì mà không trị được. Nhẫn Đà-la-ni tức là Bồ-tát Ma-ha-tát do lực của trí tuệ, tâm ưa vắng lặng, không cùng mọi người ở chung, im lặng không nói, ở một mình không có bạn, ăn uống biết đủ, tọa thiền tư duy đêm không ngủ nghỉ. Bấy giời Phật liền dùng chú Đà-la-ni dạy cho khiến tụng: Ất trí, mật trí, ký trí tỳ, sằn đề, bát đàn na, sa ha. Lúc ấy, Bồ-tát thọ nhận từ Phật rồi, thân tâm quán sát biết chữ không có nghóa, do vô nghóa nên không có nghóa ngữ, nếu không có nghóa ngữ thì lời cũng vô nghóa, pháp cũng vô nghóa, do vô nghóa nên tất cả pháp đều không thể diễn nói. Nghóa tức là nghóa của tất cả các pháp vô nghóa. Do nhẫn lực nên có thể biết rõ bốn thứ Đà-la-ni. Do biết rõ nên được đầy đủ nhẫn Đà-la-ni, do đầy đủ nhẫn Đà-la-ni nên không lâu sẽ chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát vào a-tăng-kỳ kiếp thứ nhất lúc tu tập hạnh, đắc hai Đà-la-ni là pháp và nghóa, nhân nơi pháp và nghóa Đà-la-ni ấy mà tu tập Tam-muội. Nhân tu tập Tam-muội phát thệ nguyện, nên được hai Đà-la-ni là lời và nhẫn. Bồ-tát nếu có thể tu tập bốn việc đắc bốn thứ Đà-la-ni: Một là không tham năm dục. Hai là không sinh tâm đố kî đối với chúng sinh. Ba là có thể bố thí bố thí rồi không hối hận. Bốn là ưa nghe chánh pháp, thọ trì đọc tụng, biên chép giải nói pháp tạng Bồ-tát. Bồ-tát phát đại thệ nguyện gồm có năm thứ: Một là phát tâm phát nguyện. Hai là có phát nguyện. Ba là hành phát nguyện. Bốn là thiện phát nguyện. Năm là đại phát nguyện. Lúc ban đầu phát tâm Bồ-đề gọi là phát tâm phát nguyện. Vì lợi ích cho chúng sinh sinh nơi cõi trời người, nên gọi là có phát nguyện. Vì chúng sinh mà tu vô lượng tâm nên gọi là hành phát nguyện. Tu tập tất cả pháp thiện của Bồ-tát gọi là thiện phát nguyện, không tiếc thân mạng, hộ trì chánh pháp gọi là đại phát nguyện. Bồ-tát nếu dùng mười thứ cúng dường Phật Pháp Tăng bảo, hộ trì chánh pháp, thấy người trì pháp thì cung kính cúng dường. Đây gọi là đại thệ nguyện. Bồ-tát Ma- ha-tát sinh nơi cõi trời Đâu suất cho đến Đại Niết-bàn. Đây gọi là đại thệ nguyện. Bồ-tát Ma-ha-tát từ ban đầu phát tâm cho đến chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là đại thệ nguyện. Bồ-tát Ma-ha-tát vì độ chúng sinh mà có mặt khắp các cõi, tùy loại thọ thân. Đây gọi là đại thệ nguyện. Bồ-tát Ma-ha-tát thường dùng Bồ-tát pháp tạng, Bồ-tát luận tạng Đại thừa để giáo hóa chúng sinh. Đây gọi là đại thệ nguyện. Bồ-tát Ma-ha-tát phàm có diễn thuyết đều vì lợi ích, người không có thiện căn khiến được sinh thiện căn. Đây gọi là đại thệ nguyện. Thế nào gọi là Bồ-tát Ma-ha-tát tu Tam-muội Không? Bồ-tát quán sâu về tánh của tất cả các pháp có thể thuyết. Tánh có thể thuyết nầy không có ở trong tánh không thể thuyết giảng cho nên gọi là Tam-muội Không. Thế nào gọi là Tam-muội vô nguyện? Bồ-tát Ma-ha-tát do tất cả pháp có thể tuyên thuyết nên có ngã và ngã sở. Có ngã và ngã sở nên gọi là khổ. Bồ-tát Ma-ha-tát phá bỏ tưởng tà, biết tất cả pháp không thể tuyên thuyết, cho nên không chấp trước nơi ngã và ngã sở, không có ngã và ngã sở nên không nguyện cầu, vì thế gọi là Tam-muội vô nguyện. Thế nào gọi là Tam-muội vô tướng? Bồ-tát Ma-ha-tát biết tất cả pháp là không thể tuyên thuyết. Do không thể tuyên thuyết nên không có tướng của tất cả phiền não. Vì không có tướng nên gọi là tịch tónh. Vì tu tập tịch tónh nên gọi là Tam-muội vô tướng. Tại sao Như Lai thuyết ba Tam-muội? Tất cả các pháp gồm có hai thứ: Một là có của hữu vi. Hai là có của vô vi. Có của hữu vi nghóa là ngã và ngã sở. Có của vô vi nghóa là Niết-bàn. Có của hữu vi tức là Bồ- tát Ma-ha-tát quán tất cả khổ, không sinh nguyện cầu. Đây gọi là Tam- muội vô nguyện. Có của vô vi tức là Niết-bàn. Bồ-tát Ma-ha-tát ở trong Niết-bàn không sinh tưởng vui. Đây gọi là Tam-muội vô tướng. Vô vi là cũng có cũng không, nên Bồ-tát chẳng phải nguyện, chẳng phải không nguyện. Bồ-tát Ma-ha-tát thấy có có, thấy không không, trong có thì không không, trong không thì không có. Đây gọi là Không. Bồ-tát lúc ấy tu Tam-muội Không, được trí chân thật. Tam-muội như vậy Thanh văn, Duyên giác cũng tu cũng học, mà không thể thuyết, tất cả các pháp không thể tuyên thuyết. Chư Phật Bồ-tát vì khiến cho chúng sinh được tịch tónh nên thuyết giảng bốn pháp nầy. Tất cả các pháp hữu vi là vô thường, khổ, không, vô ngã, Niết-bàn tịch tónh, chư Phật Bồ-tát vì các chúng sinh mà thuyết giảng bốn pháp nầy, phải biết là đã thuyết giảng về tất cả pháp giới, các pháp căn bản. Đây gọi là Ưu đà na. Ưu đà na nghóa là thời quá khứ vô lượng tất cả Phật cũng nói như vậy, có thể tăng trưởng pháp thiện, gọi là Ưu đà na. Tại sao Bồ-tát thấy pháp hữu vi đều là vô thường? Bồ-tát Ma-ha- tát biết pháp hữu vi có thể thuyết về vô thường, cho nên tất cả hữu vi là vô thường. Biết các pháp tánh trong nghóa chân thật, không có nhân quả, nên không thể tuyên thuyết, vì thế tác tướng nói tất cả pháp đều là sinh diệt. Vì hữu vi của quá khứ cũng sinh cũng diệt nên pháp của quá khứ không thấy có nhân, không thấy có tánh. Do không thấy nhân và tánh nên nói pháp của quá khứ đều là vô thường. Pháp hiện tại biết sinh mà không biết diệt. Pháp của hiện tại không thấy nhân mà thấy quả, thấy tánh. Do không diệt nên biết tánh không biết nhân. Pháp hữu vi vị lai không thấy sinh diệt, cho nên biết nhân, không biết quả, không biết tánh. Do chưa sinh nên Bồ-tát biết nhân mà không biết tánh. Bấy giờ quán sát ba đời, trong mỗi mỗi niệm có ba tướng, nếu qua một niệm thì có bốn tướng. Pháp trước đã diệt, lần lượt sinh ra pháp tương tợ. Đây gọi là sinh. Sinh rồi làm việc, đây gọi là trụ. Trước diệt pháp tướng, pháp diệt rồi thấy tương tợ, đây gọi là già. Sinh rồi không trụ đến nơi hai niệm, đây gọi là hoại. Bồ-tát thấy một thứ pháp tướng hữu vi, như sinh, trụ, lão, cũng lại như vậy, chỉ có tướng hoại là khác. Vì sao? Vì không cùng ba tướng kia trụ. Như vậy bốn tướng thấy có hai thứ: Một là có. Hai là không. Có là ba tướng, không là tướng thứ tư. Bồ-tát thấy pháp hữu vi, không thấy sinh, không thấy trụ, không thấy già, không thấy hoại. Vì sao? Vì sinh, trụ, già, hoại, không có tánh chân thật. Bồ-tát Ma-ha-tát thấy sắc pháp sinh, sắc pháp trụ, sắc pháp già, sắc pháp hoại, không thấy sinh, trụ, già, hoại. Bồ-tát Ma-ha-tát do phương tiện quán, nên không thấy bốn tướng. Phương tiện quán tức là Bồ-tát quán. Nếu lìa sắc pháp riêng có sinh, thì lúc sắc pháp sinh, sinh cũng nên sinh. Nếu như vậy thì tất cả các pháp đều nên có hai thứ sinh: Một là sắc sinh. Hai là sinh sinh. Hai thứ sinh như vậy hoặc tức là pháp, hoặc lìa pháp. Nếu không lìa thì không có sinh. Nếu nói lìa pháp riêng có sinh, nghóa nầy không đúng. Nếu không lìa thì lúc ấy sắc không có sinh, do nhân duyên sinh nên sinh, trụ, già, hoại cũng như vậy. Nếu hoại tự tánh có, phải biết hoại nầy cũng sinh cũng hoại. Nếu hoại sinh, nên biết tất cả pháp hữu vi đều không có diệt. Lúc nhập định diệt, tâm tâm số pháp thường nên sinh trở lại, lúc sắc pháp diệt cũng nên sinh lại. Vì sao? Vì hoại nầy sinh, nên các pháp đều là thường, vì Bồ-tát lìa sắc pháp rồi không thấy bốn tướng, biết tánh của pháp hữu vi là vô thường, nên cũng thường tuyên thuyết hữu vi là vô thường. Bồ-tát quán thấy pháp hữu vi có ba thứ khổ, đó là khổ khổ, hành khổ, hoại khổ, cho nên Đức Như Lai nói pháp hữu vi tất cả là khổ. Tại sao Bồ-tát thấy pháp hữu vi là vô ngã? Vô ngã có hai thứ: Một là chúng sinh vô ngã. Hai là pháp vô ngã. Chúng sinh vô ngã tức chúng sinh chẳng phải là pháp có, chẳng phải là pháp không, chẳng phải là pháp lìa có, không. Đây gọi là chúng sinh vô ngã. Pháp vô ngã tức là tất cả các pháp có thể tuyên thuyết, tánh có thể tuyên thuyết là không, cho nên gọi là pháp vô ngã. Có hai thứ vô ngã như vậy, vì thế Như Lai nói tất cả pháp hữu vi là vô ngã. Như vậy hữu vi đoạn nhân hiện tại, làm chướng ngại nhân vị lai. Đây gọi là Niết-bàn, do không có phiền não kết nên gọi là tịch tónh. Nếu Bồ-tát dùng tâm bất tịnh quán về Niết-bàn, hàng Thanh văn chưa được đạo quả mà quán về Niết-bàn thì đây đều là chưa thật biết tánh của Niết-bàn, cũng như tướng của Niết-bàn. Ví như đại vương vì các người con mà làm voi, ngựa, nai, thỏ, bằng gỗ, các con cũng đối với các tượng giả nầy tưởng là chân thật. Có lúc vua khen ngợi voi ngựa nầy, các con cũng khen voi ngựa mình, sau đó ra khỏi nhà và thấy voi ngựa thật liền sinh tâm xấu hổ, nghó: Tại sao chúng ta đối với voi ngựa giả nầy mà tưởng là chân thật? Tại sao đối với vật đồng tên đồng tướng nầy mà tưởng là thật. Như Lai cũng nói, tâm Bồ-tát không thanh tịnh, Thanh văn chưa chứng đạo quả, ở trong nhà sinh tử, Như Lai vì họ mà thuyết giảng Niết-bàn tịch tónh, Bồ-tát, Thanh văn nghe rồi cũng sinh ý tưởng là Niết-bàn chân thật, nhưng thật không thể biết Niết-bàn chân thật. Lúc nghe Phật nói, sinh tâm tác tưởng nói là Niết-bàn, sau khi tu tập tám chánh đạo rồi, được trí tuệ thanh tịnh, ra khỏi nhà sinh tử, lúc ấy mới thật biết tánh của Niết-bàn và sinh tâm xấu hổ, nghó: Tại sao chúng ta đối với chỗ không phải Niết-bàn mà sinh ý tưởng Niết-bàn. Ví như người bệnh đến chỗ thầy thuốc, bấy giờ thầy thuốc vì chữa bệnh nên tùy bệnh cho thuốc, người bệnh được thuốc tâm sinh hoan hỷ, nghó tưởng thuốc nầy là hay nhất và liền uống vào, sau khi uống rồi tuy đã lành nhưng lại phát sinh bệnh khác. Bấy giờ thầy thuốc bỏ thuốc cũ, ban cho thuốc khác, người bệnh nói: Đại sư! Thuốc trước kia là tốt, có thể trị bệnh, chẳng phải là thuốc nầy, tuy thầy thuốc nói đây là thuốc tốt, mà người bệnh vẫn không chịu tin. Bấy giờ người bệnh uống thuốc bệnh lành, mới chịu tin và sinh tâm xấu hổ. Lúc Phật thuyết pháp cũng lại như vậy, chúng sinh nghe rồi trừ được ít phiền não, liền sinh ý tưởng là chân thật, sau đó lại khởi phiền não nói Phật là vô thường, Như Lai vì họ mà thuyết pháp thâm diệu, tuy nghe mà vẫn không sinh tin, lấy pháp trước kia làm thật. Nếu Bồ-tát được đạo thanh tịnh, lúc ấy mới sinh tâm xấu hổ, biết Như Lai là thường, tại sao ta nói Như Lai là vô thường, cho nên Như Lai nói tất cả pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã, Niết-bàn tịch tónh. --------------------- <詞>Phẩm 20: CÔNG ĐỨC CỦA ĐỊA BỒ TÁT Bồ-tát Ma-ha-tát tu hạnh Bồ-đề có năm việc không thể nghó bàn: Một là thương xót tất cả chúng sinh. Hai là vì lợi ích cho chúng sinh nên thọ khổ sinh tử. Ba là dùng phương tiện hay để điều phục chúng sinh. Bốn là phát tâm muốn biết nghóa khó thâm diệu. Năm là muốn nhận biết thần túc không thể nghó bàn. Năm pháp như vậy không cùng chung với tất cả chúng sinh, nên gọi là không thể nghó bàn. Bồ-tát Ma-ha-tát lại có năm việc không thể nghó bàn: Bồ-tát Ma-ha-tát vì tạo lợi ích cho các chúng sinh nên thọ nhân khổ, vì thọ nhân khổ nên được thọ an lạc, do thọ an lạc nên thành tựu đầy đủ pháp không thể nghó bàn. Lại nữa, Bồ-tát quán sinh tử là hoạn nạn, Niết-bàn là tịch tónh, vì chúng sinh nên không ưa chứng đắc Niết-bàn mà lại lưu chuyển trong sinh tử. Đây gọi là thọ lạc. Do thọ lạc nên thành tựu đầy đủ pháp không thể nghó bàn. Lại nữa, Bồ-tát ưa ở chỗ vắng lặng yên ổn, vì các chúng sinh mà diễn thuyết chánh pháp. Đây gọi là thọ lạc. Do thọ lạc nên thành tựu đầy đủ pháp không thể nghó bàn. Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát vì chúng sinh nên thực hành sáu pháp Ba-la-mật cũng không mong cầu quả báu của sáu pháp Ba la mật. Đây gọi là thọ lạc. Do thọ lạc nên thành tựu đầy đủ pháp không thể nghó bàn. Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát mưu toan sự nghiệp cho người như làm việc cho mình, tâm tùy thuận vui vẻ không từ lao khổ. Đây gọi là thọ lạc. Do thọ lạc nên thành tựu đầy đủ pháp không thể nghó bàn. Trên đây là năm việc làm, đạt được pháp không thể nghó bàn của Bồ-tát. Bồ-tát lại có năm việc đối với chúng sinh tâm luôn bình đẳng: Một là lúc ban đầu phát tâm Bồ-đề, khắp vì tất cả, chẳng phải vì một người. Đây gọi là bình đẳng. Hai là Bồ-tát lúc tu tập đại bi, khắp vì tất cả, chẳng phải vì một người. Đây gọi là bình đẳng. Ba là lúc Bồ-tát tu tập một loại địa, khắp vì tất cả, chẳng phải vì một người. Đây gọi là bình đẳng. Bốn là Bồ-tát quán khắp mười hai nhân duyên, tất cả là có. Đây gọi là bình đẳng. Năm là Bồ-tát lúc cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng, khắp vì tất cả, chẳng phải vì một người. Đây gọi là bình đẳng. Bồ-tát Ma-ha-tát lại có năm việc làm lợi ích cho chúng sinh: Một là dạy tu chánh mạng. Hai là dạy tập phương tiện của việc đời. Ba là thấy người nghèo khó tìm phương tiện dạy họ khiến phá trừ nghèo khổ. Bốn là vì người thượng thiện mà thuyết giảng đạo chân thật. Năm là vì người của ba thừa mà thuyết giảng pháp ba thừa. Đây gọi là năm sự lợi ích. Chúng sinh có năm pháp để báo ân Bồ-tát: Một là thọ trì pháp thiện và tất cả giới cấm. Hai là người bần cùng thọ nhận lời dạy rồi y theo đấy thực hành, phá trừ sự bần cùng. Ba là cúng dường Tam bảo. Bốn là ở chỗ Bồ-tát nghe pháp rồi thọ trì, đọc tụng, biên chép, phân biệt giải nói, chuyển dạy cho người khác. Năm là thấy người thọ trì liền cung kính cúng dường. Bồ-tát Ma-ha-tát thực hành đạo Bồ-đề, chí tâm lập nguyện thường cầu năm việc: Một là thường nguyện thế gian có Phật ra đời. Hai là thường nguyện đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Ba là thường nguyện tìm cầu pháp tạng và luận tạng của Bồ-tát. Bốn là thường nguyện sẽ được giải thoát. Năm là thường nguyện quyến thuộc thành tựu. Bồ-tát lại có năm việc làm lợi ích cho các chúng sinh, như trong năm phẩm tự lợi lợi tha đã nói. Bồ-tát lại có năm việc mau chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng: Một là hộ trì chánh pháp. Hai là tu hành hạnh thiện. Ba là có lực trí tuệ. Bốn là chuyên tâm tịch tónh. Năm là nhất định đạt được tánh Bồ-tát. Hộ trì chánh pháp tức là Bồ-tát hộ trì đầy đủ Đà-la-ni, từ người khác nghe pháp mau được hiểu rõ. Lại nữa, Bồ-tát đầy đủ hộ niệm, do hộ niệm nên thọ pháp không quên. Lại nữa, Bồ-tát đầy đủ hộ trì trí tuệ, do hộ trì trí tuệ nên phân biệt pháp giới. Lại nữa, Bồ-tát đầy đủ tâm hộ trì điều phục các căn. Lại nữa, Bồ-tát đầy đủ hộ trì tha tâm, tùy người mà thực hành. Đây gọi là hộ pháp tu hành hạnh thiện. Bồ-tát đối với pháp thuận giải thuận thuyết, thường tu pháp thiện, bốn tâm vô lượng, nguyện hồi hướng nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là hạnh thiện. Lực trí tuệ tức là Bồ-tát Ma-ha-tát từ lúc ban đầu phát tâm cho đến chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là lực trí tuệ. Chuyên tâm tịch tónh tức là Bồ-tát Ma-ha-tát dùng mười pháp thanh tịnh cúng dường Như Lai. Đây gọi là tịch tónh. Nhất định chứng đắc tánh Bồ-tát tức là Bồ-tát trụ nơi một loại địa, không có thối chuyển. Đây gọi là nhất định chứng đắc tánh Bồ-tát. Bồ-tát Ma-ha-tát có năm việc khiến cho pháp thiện tổn giảm: Một là không thể cúng dường đối với pháp và người thuyết pháp. Hai là phóng dật biếng nhác. Ba là ưa dấy khởi phiền não, tâm động không yên. Bốn là đối với Bồ-tát đồng hạng tâm sinh kiêu mạn. Năm là đối với tạng Bồ-tát lại giải nghóa điên đảo. Bồ-tát có năm việc làm cho pháp thiện tăng trưởng: Một là cúng dường đối với pháp và người thuyết pháp. Hai là thâu nhiếp tâm hành tinh tấn. Ba là có khởi phiền não, tâm dốc trừ diệt. Bốn là đối với Bồ- tát đồng hạng tâm sinh cung kính. Năm là đối với tạng Bồ-tát luôn tùy thuận giải nghóa. Có năm việc thật chẳng phải là Bồ-tát, giả danh Bồ-tát, thật chẳng phải Sa-môn, giả danh bậc phạm hạnh, không đắc giới Bồ-tát, không cùng ở chung: Một là tánh ác. Hai là hộ trì người hủy giới. Ba là không được thiền định mà hiển bày tướng được thiền. Bốn là tự nuôi sống bằng tà mạng. Năm là thấy người có trí sinh tâm ganh ghét, phỉ báng. Có năm việc đúng thật là Bồ-tát, thật gọi là Sa-môn, thật gọi là bậc phạm hạnh, đắc giới Bồ-tát, được cùng ở chung: Một là tánh thiện điều hòa. Hai là đối trị người hủy giới. Ba là thật đắc thiền định, không hiện bày tướng. Bốn là tự sống bằng chánh mạng. Năm là thấy người có trí sinh tâm hoan hỷ, khen ngợi. Bồ-tát Ma-ha-tát giáo hóa chúng sinh có mười điều: Một là vì phá trừ pháp ác. Hai là vì biết pháp giới. Ba là không tái phạm. Bốn là phạm rồi xấu hổ sám hối. Năm là điều phục các căn. Sáu là không phóng dật. Bảy là xa lìa tri thức ác. Tám là ở chỗ vắng lặng. Chín là xa lìa phiền não. Mười là được giải thoát. Thọ ký cho Bồ-tát có sáu việc: Một là định có tánh Bồ-tát mà chưa phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Hai là chưa có tánh Bồ-tát mà phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng. Ba là có tánh Bồ-tát và phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng. Bốn là ở trong vô lượng đời vì Bồ-đề mà tu hành hạnh thiện. Năm là quyết định chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng mà không nói thời định. Sáu là nhất định chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, cũng nói thời định. Có ba việc Bồ-tát quyết định chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng: Một là định có tánh. Hai là được tâm bất thối. Ba là phàm làm việc đều vì chúng sinh nên sinh khởi chủng tử của pháp thiện, Bồ-tát do ba việc nầy nhất định được Phật thọ ký. Bồ-tát Ma-ha-tát nếu tạo đủ năm việc thì không chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng: Một là không phát tâm Bồ-đề. Hai là không có tâm thương xót. Ba là không siêng năng tinh tấn. Bốn là không kính trọng giới. Năm là không biết tất cả việc ở thế gian. Bồ-tát nếu có đủ năm việc như vậy, thì không chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Nếu nói có năm pháp như vậy mà vẫn chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, thật không có việc ấy. Có năm việc Bồ-tát thường tu tập: Một là không phóng dật. Hai là vì phá bỏ sự bần cùng khốn khổ cho chúng sinh. Ba là cúng dường Tam bảo. Bốn là chí tâm trì giới có phạm liền hiểu biết. Năm là làm được việc thiện đều hồi hướng nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát có mười pháp hơn tất cả pháp: Một là tánh Bồ- tát hơn tất cả tánh. Hai là ban đầu phát tâm Bồ-đề hơn tất cả sự phát tâm ở thế gian và xuất thế gian. Ba là Tinh tấn Ba-la-mật và Trí tuệ Ba-la-mật hơn tất cả các thứ Ba-la-mật. Bốn là dùng lời nhu hòa thâu nhiếp các pháp hơn cả các sự thâu nhiếp khác. Năm là Như Lai hơn tất cả chúng sinh. Sáu là tâm bi hơn tất cả tâm vô lượng. Bảy là chỗ tu tứ thiền hơn tất cả thiền. Tám là Tam-muội Không hơn tất cả Tam-muội. Chín là định diệt tận hơn tất cả định diệt. Mười là phương tiện thanh tịnh hơn tất cả phương tiện. Có bốn việc chỉ có Phật và Bồ-tát mới có thể lưu hành khắp không phải sa môn, bà la môn, thiên ma, phạm v.v… có thể lưu hành khắp. Nếu từ Phật nghe thì có thể lưu hành khắp: Một là pháp lưu hành khắp. Hai là thật lưu hành khắp. Ba là phương tiện lưu hành khắp. Bốn là thừa lưu hành khắp. Pháp lưu hành khắp tức là lần lượt diễn nói mười hai bộ kinh. Thật lưu hành khắp có một thứ, đó là không vọng ngữ. Lại có hai thứ là Thế đế và Đệ nhất nghóa đế. Lại có ba thứ là tướng thật, khẩu thật, và hành thật. Lại có bốn thứ, đó là khổ, tập, diệt, đạo. Lại có năm thứ: Một là nhân thật. Hai là quả thật. Ba là trí thật. Bốn là biết cảnh giới thật. Năm là vô thượng thật. Lại có sáu thứ: Một là thật thật. Hai là hư vọng thật. Ba là trí thật. Bốn là xa lìa thật. Năm là chứng thật. Sáu là tu thật. Lại có bảy thứ: Một là ái thật. Hai là khổ thật. Ba là giải thoát thật. Bốn là pháp thật. Năm là hiểu thật. Sáu là Thánh thật. Bảy là phi Thánh thật. Lại có tám thứ: Một là hành khổ thật. Hai là khổ khổ thật. Ba là sinh khổ thật. Bốn là diệt thật. Năm là phiền não thật. Sáu là giải thoát thật. Bảy là hạnh thiện thật. Tám là quả thiện thật. Lại có chín thứ: Một là vô thường thật. Hai là khổ thật. Ba là bất tịnh thật. Bốn là Không thật. Năm là vô ngã thật. Sáu là hữu ái thật. Bảy là đoạn ái thật. Tám là đoạn phương tiện hai ái thật. Chín là hữu dư Niết-bàn thật. Lại có mười thứ: Một là chẳng phải phần mà gắng làm khổ thật. Hai là bần cùng khổ thật. Ba là bốn đại không điều hòa khổ thật. Bốn là ái biệt ly khổ thật. Năm là oán ghét gặp nhau khổ thật. Sáu là nghiệp thật. Bảy là quả báo thật. Tám là phiền não thật. Chín là khéo tư duy thật. Mười là chánh kiến thật. Mười thứ trên đây gọi là thật lưu hành khắp. Phương tiện lưu hành khắp tức như trong phẩm phương tiện thuyết. Thừa lưu hành khắp tức là thừa Thanh văn, thừa Duyên giác, thừa Bồ-tát và Phật thừa. Bồ-tát Ma-ha-tát quán tất cả phương tiện có năm thứ vô lượng: Một là cõi chúng sinh vô lượng. Hai là thế giới vô lượng. Ba là pháp giới vô lượng. Bốn là cảnh giới điều phục vô lượng. Năm là phương tiện điều phục vô lượng. Cõi chúng sinh tức có sáu mươi mốt thứ. Bồ-tát trụ ở địa hỷ, quán cõi chúng sinh chuyển làm vô lượng. Thế giới vô lượng nghóa là có vô lượng tên gọi về thế giới, như thế giới nầy gọi là Ta bà, Phạm thiên gọi là chủ Ta bà. Pháp vô lượng tức là thiện, bất thiện, và vô ký, chuyển làm vô lượng. Điều phục vô lượng: Có một thứ đó là điều phục. Lại có hai thứ là đầy đủ phiền não và không đầy đủ phiền não. Lại có ba thứ là căn cơ bậc thượng, trung và hạ. Lại có bốn thứ là Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Phệ-xá và Thủ-đà-la. Lại có năm thứ là nhiều sân, nhiều tham, nhiều si, nhiều mạn, nhiều giác quán ác. Lại có sáu thứ: xuất gia, tại gia, chưa thành thục, đã thành thục, chưa giải thoát, đã giải thoát. Lại có bảy thứ: Một là nghe rồi liền hiểu. Hai là do thí dụ mà được hiểu. Ba là một câu hiểu một câu. Bốn là một chữ hiểu một chữ. Năm là hiện tại thành thục. Sáu là đời sau thành thục. Bảy là tùy nhân duyên mà thành thục. Lại có tám thứ, đó là tám bộ chủng. Lại có chín thứ: Một là Như Lai điều phục. Hai là Thanh văn điều phục. Ba là Duyên giác điều phục. Bốn là Bồ-tát điều phục. Năm là khó điều phục. Sáu là dễ điều phục. Bảy là lời nhu hòa điều phục. Tám là quở trách điều phục. Chín là dùng lời nhu hòa quở trách điều phục. Lại có mười thứ: Một là địa ngục. Hai là ngạ quỷ. Ba là súc sinh. Bốn là trời thuộc dục giới, cõi người. Năm là trung ấm. Sáu là sắc. Bảy là vô sắc. Tám là tưởng. Chín là vô tưởng. Mười là phi tưởng, phi phi tưởng. Trên đây là năm mươi lăm thứ quán tác vô lượng. Chúng sinh giới và điều phục giới có gì khác nhau? Chúng sinh giới hoàn toàn không phân biệt có tánh hay không tánh. Điều phục giới thì phân biệt có tánh và không tánh. Phương tiện điều phục vô lượng tức như trong phẩm đầu đã thuyết, nên Bồ-tát có năm thứ vô lượng nầy thâu lấy tất cả phương tiện. Bồ-tát Ma-ha-tát muốn nhận biết chân thật phải cầu bốn việc: Một là suy cầu nơi vật. Hai là suy cầu nơi tên. Ba là suy cầu nơi tánh. Bốn là suy cầu phân biệt. Bốn việc như vậy cũng như trước đã nói. Chư Phật Bồ-tát vì chúng sinh thuyết pháp có năm việc: Một là lúc thuyết giảng liền tỏ ngộ bốn đế. Hai là lúc thuyết giảng tức được giải thoát. Ba là lúc thuyết giảng tức được phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng. Bốn là lúc thuyết giảng được nhẫn nhục của Bồ-tát. Năm là chúng sinh nghe rồi thì thọ trì, đọc tụng biên chép giải nói, hộ trì chánh pháp. Đây gọi là chư Phật Bồ-tát vì chúng sinh thuyết pháp, được công đức lớn không thể nghó bàn. Thế nào gọi là Đại thừa? Có bảy việc lớn nên gọi là Đại thừa: Một là pháp lớn, tức pháp của Bồ-tát ở trong mười hai bộ kinh là tối đại tối thượng nên gọi là Phương đẳng. Hai là tâm lớn, nghóa là phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng. Ba là hiểu biết lớn, nghóa là tạng Bồ-tát, kinh Phương đẳng. Bốn là thanh tịnh lớn, tức Bồ-tát phát tâm rồi tâm ấy thanh tịnh, cho đến chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Năm là trang nghiêm lớn, tức là Bồ-tát đầy đủ công đức trang nghiêm, trí tuệ trang nghiêm, chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Sáu là thời gian lớn, tức là Bồ-tát Ma-ha-tát vì Bồ-đề vô thượng, trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp tu hành khổ hạnh. Bảy là đầy đủ lớn, tức là Bồ-tát đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp để tự trang nghiêm, chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Pháp lớn, tâm lớn, hiểu biết lớn, thanh tịnh lớn, trang nghiêm lớn, thời gian lớn, sáu thứ lớn như vậy gọi là nhân, đầy đủ lớn gọi là quả. Có tám pháp có thể thâu tóm tất cả Đại thừa: Một là diễn nói pháp tạng Bồ-tát. Hai là thuyết giảng nghóa của tạng Bồ-tát. Ba là nói về chư Phật Bồ-tát không thể nghó bàn trong tạng Bồ-tát. Bốn là suy nghó ý nghóa trong ấy. Năm là tu tập ý nghóa, sáu được đầy đủ nghóa. Bảy là được quả tu tập. Tám là hiểu nghóa sâu xa. Bồ-tát Ma-ha-tát học tám pháp như vậy, chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát tu học Bồ-đề của Bồ-tát gồm có mười thứ: Một là tánh trụ. Hai là nhập. Ba là tâm bất tịnh. Bốn là tâm tịnh. Năm là không thành thục. Sáu là thành thục. Bảy là không định. Tám là định. Chín là một đời chứng đắc. Mười là hiện thân đạt được tánh định. Tâm tịnh học các pháp, đây gọi là trụ. Phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng gọi là nhập, người nhập chưa đắc địa tịnh nên gọi là bất tịnh, đắc địa tịnh rồi thì gọi là tịnh. Người tịnh lúc chưa nhập địa rốt ráo thì gọi là chưa thành thục, nhập địa rốt ráo rồi thì gọi là thành thục. Người thành thục chưa nhập định địa nên gọi là bất định, nhập rồi thì gọi là định. Thành thục có hai thứ: Một là một đời chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Hai là hiện thân chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Mười thứ như vậy, Bồ-tát Ma-ha-tát có thể thọ giới Bồ-tát, thực hành giới Bồ-tát, mười thứ nầy Bồ-tát thâu nhiếp tất cả Bồ-tát. Nếu có thể chí tâm thọ trì, tu hành giới Bồ-tát thì gọi là Bồ-tát, gọi là Ma-ha-tát, gọi là người trí, gọi là dũng mãnh, gọi là vô thượng, gọi là Phật tử, gọi là Phật trì, gọi là đại thắng, gọi là Phật giới, gọi là vô úy, gọi là đại Thánh, gọi là Thương chủ, gọi là thuyền trưởng, gọi là đại danh xưng, gọi là thương xót, gọi là đại công đức, gọi là tự tại, gọi là pháp trì. Đây là không thể nghó bàn, gọi là có thể nhận biết về vô lượng thế giới trong mười phương, như xem quả A-ma-lặc trong lòng bàn tay. Nếu có người nói: Ta là Bồ-tát, không thọ giới Bồ-tát, không thể chí tâm thực hành giới Bồ-tát, nhưng sinh tâm tín, phải biết là Bồ-tát sắp chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Nếu có người nói ta là Bồ-tát, không thể chí tâm thọ trì giới Bồ-tát, nhưng tâm không sinh tín. Đây gọi là Bồ-tát danh tự, thật lâu mới chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Nếu có người nói ta là Bồ-tát, thọ trì giới Bồ-tát, chí tâm tu hành, tin giới Bồ-tát. Đây gọi là vào trong mười thứ của Bồ-tát, không lâu nhất định sẽ chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Nếu có người nói ta là Bồ-tát, thọ giới Bồ-tát, hủy giới đã thọ, tâm không sinh tín. Đây gọi là Bồ-tát Chiên-đà-la, không gọi là Bồ-tát, không gọi là nghóa Bồ-tát.  <詞>Phẩm 1: TƯỚNG CỦA BỒ TÁT NHƯ PHÁP TRỤ Bồ-tát chân thật có năm thứ tướng, do đầy đủ năm thứ tướng, nên gọi là Bồ-tát chân thật: Một là tâm thương xót. Hai là lời nhu hòa. Ba là dũng mãnh. Bốn là không tham. Năm là giải nói nghóa sâu. Năm pháp như vậy có năm thứ trí: Một là tánh. Hai là nhân duyên. Ba là quả công đức. Bốn là thứ lớp. Năm là thâu giữ. Tánh thương xót có hai thứ: Một là chí tâm. Hai là như pháp. Chí tâm tức là bố thí các sự an ổn. Đây gọi là tánh. Như pháp tức là Bồ-tát Ma-ha-tát đem sự vui như mình để bố thí chúng sinh. Đây gọi là như pháp. Tánh nhu hòa tức là lời nói hoan hỷ, xa lìa lời ác, nói lời lợi ích. Đây gọi là tánh nhu hòa. Tánh dũng mãnh tức là tâm không sợ hãi, quả cảm dũng mãnh, có thể phá bỏ sự sợ hãi cho chúng sinh. Đây gọi là tánh mạnh mẽ.. Tánh không tham tức là tất cả thí, thí thanh tịnh, thí rồi không hối hận. Đây gọi là tánh không tham. Tánh giải nói nghóa sâu tức là bốn trí vô ngại. Thương xót gồm có năm nhân duyên: Một là chúng sinh thọ khổ. Hai là chúng sinh làm ác. Ba là chúng sinh phóng dật. Bốn là chúng sinh tà kiến. Năm là chúng sinh ưa phiền não. Chúng sinh thọ khổ tức là thường chịu khổ não, cho đến không có một niệm vui vẻ. Đây gọi là thọ khổ. Lại có chúng sinh tuy không thọ khổ, nhưng tạo mười nghiệp ác nơi thân khẩu ý. Đây gọi là chúng sinh làm ác. Lại có chúng sinh không tạo nghiệp ác, không chịu khổ não, nhưng tham đắm năm dục, say mê chơi bời, tham ái bản thân không tu pháp thiện. Đây gọi là phóng dật. Lại có chúng sinh không thọ khổ não, không tạo nghiệp ác, cũng không phóng dật, vì cầu giải thoát nhưng chẳng phải nhân lại thấy nhân, chẳng phải quả lại thấy quả, đây gọi là tà kiến, như hàng ngoại đạo. Lại có chúng sinh không thọ khổ não, không tạo nghiệp ác, cũng không phóng dật, cũng không tà kiến, nhưng có nhiều phiền não ngăn che nên không tu tập pháp thiện. Trên đây là năm nhân duyên khiến Bồ-tát thương xót. Do nhân duyên nầy mà tâm thương xót được tăng trưởng. Nhu hòa gồm có năm nhân duyên: Một là lời hỏi thăm thiện. Hai là lời vui thiện. Ba là lời vô úy thiện. Bốn là lời thanh tịnh thiện. Năm là lời giáo hóa thiện. Năm nhân duyên nầy gọi là lời nhu hòa như trong phẩm bốn nhiếp đã nói. Dũng mãnh gồm có năm nhân duyên, như trong phẩm ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề đã nói. Không tham gồm có năm nhân duyên: Một là bố thí không phân biệt. Hai là hoan hỷ bố thí. Ba là chí tâm bố thí. Bốn là thanh tịnh bố thí. Năm là như pháp đạt được tài thí. Đây gọi là năm nhân duyên không tham, như trong phẩm bố thí đã thuyết. Thuyết giảng nghóa sâu xa có năm nhân duyên: Một là thuyết giảng nghóa sâu xa của kinh, giải nói về nghóa Không, ba đời, trung ấm, thối, bất thối, ngã và ngã sở, Phật tánh, tánh Bồ-tát, Như Lai, Niết-bàn, ba thừa, sắc, tạo sắc, mười hai nhân duyên. Đây gọi là nghóa của kinh. Hai là có thể thuyết giảng nghóa Tỳ ni: Tức là luật, đây là phạm, đây là không phạm, đây có thể sám hối, đây không thể sám hối, đây là nhẹ, đây là nặng, tánh nầy nặng, ngăn che là nặng. Đó gọi là thuyết giảng nghóa sâu xa về luật. Ba là thuyết giảng nghóa về luận. Đức Phật lúc ấy vì chúng sinh cho nên nói là phạm. Vì người khác phạm nên nói nhẹ làm nặng, nói nặng làm nhẹ. Vì khiến một người được sám hối, cho đến trong đại chúng được sám hối. Đây gọi là thuyết giảng nghóa sâu xa về luận. Bốn là hay tự giải nói về nghóa chánh. Năm là có thể biết danh tự của các pháp. Quả công đức thương xót: Tức là Bồ-tát thực hành tâm từ là vì chúng sinh, vì phá trừ tâm ác nên tu tập tâm từ, hay làm lợi ích cho chúng sinh tâm không hối hận. Do thường tu tập nên hiện được đời vui, vì thế Như Lai thuyết giảng quả công đức của từ, độc không thể hại, dao không thể làm tổn thương, ngủ không có mộng ác, được chư Thiên ủng hộ, xả thân nầy rồi được sinh nơi cõi sơ thiền. Đây gọi là quả công đức thương xót. Quả công đức nhu hòa: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát tu lời nhu hòa, có thể phá trừ bốn lỗi ác về miệng trong hiện tại. Lời nhu hòa nầy tự lợi lợi tha, hay khiến chúng sinh thích thú ưa nghe. Đây gọi là quả công đức nhu hòa. Quả công đức dũng mãnh: Tức là Bồ-tát hay phá trừ mọi sự biếng nhác trong hiện tại, hưởng sự hoan hỷ, vui ở tịch tónh, hộ trì giới cấm, tâm không hối hận, tự mình tu nhẫn nhục, dạy người tu nhẫn nhục, tu các hạnh khổ, trang nghiêm Bồ-đề, tâm không thối chuyển. Đây gọi là quả công đức dũng mãnh. Quả công đức không tham và quả công đức giải nói nghóa sâu xa tức như trên đã nói. Thứ lớp tức là Bồ-tát Ma-ha-tát trước tu tâm từ, vì điều phục chúng sinh, tiếp theo nói lời nhu hòa, vì phá dứt nghiệp ác. Thấy các chúng sinh thọ nghiệp ác, tâm không sợ hãi, sinh ý tưởng cứu hộ, gọi là dũng mãnh. Vì điều phục chúng sinh cho nên thực hành bố thí. Kế đến nói không tham và giải nói về nghóa sâu xa, Bồ-tát Ma-ha-tát tùy theo năm tướng mà thâu tóm sáu pháp Ba-la-mật. Tướng thương xót tức thâu tóm Thiền Ba-la-mật. Lời nhu hòa tức thâu tóm Trì giới Ba-la-mật, Bát nhã Ba-la-mật. Tướng dũng mãnh tức thâu tóm Tinh tấn Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Bát nhã Ba-la-mật; Tướng không tham thâu tóm Bố thí Ba-la-mật. Thuyết giảng nghóa sâu xa thâu tóm Bát nhã Ba-la-mật và Bố thí Ba-la-mật. -------------------- <詞>Phẩm 2: THIỀN CỦA NHƯ PHÁP TRỤ Bồ-tát Ma-ha-tát hoặc tại gia hoặc xuất gia, đều có bốn pháp có khả năng tu học tức chứng đắc hành nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng là phương tiện nghiệp thiện, thương xót chúng sinh. Phương tiện nghiệp thiện tức là Bố thí Ba-la-mật nên tu hạnh thiện, hạnh chuyên tâm, hạnh thường, hạnh tịnh. Hạnh thiện tức là Bồ- tát nếu có tài vật bố thí cho người đến xin, không quán có ân và không ân, không quán phước điền và không phước điền, tuy có trời, người, Sa-môn, Bà-la-môn, nhưng đều không thể làm trở ngại tâm bố thí của Bồ-tát. Đây gọi là hạnh thiện. Hạnh chuyên tâm tức là Bồ-tát lúc bố thí có người đến cầu xin, xả bỏ nội vật, ngoại vật, tất cả vật thí cùng tâm không có tham tiếc. Đây gọi là chuyên tâm thí. Hạnh thường tức Bồ-tát lúc bố thí có người đến xin, không quán thời và phi thời, tùy vật có mà bố thí. Đây gọi là hạnh thường. Hạnh tịnh tức là Bồ-tát lúc bố thí có người đến xin không vì danh tiếng mà bố thí, không vì sự vui nơi cõi trời mà bố thí, như trong phẩm bố thí đã nói. Đây gọi là hạnh tịnh. Như bố thí có bốn việc là hạnh thiện, hạnh chuyên tâm, hạnh thường, và hạnh tịnh, thì Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba- la-mật, Thiền định Ba-la-mật, Bát nhã Ba-la-mật cũng có bốn việc như vậy. Thế nào là phương tiện thiện của Bồ-tát? Nếu có người sinh tâm muốn phá pháp Phật, vì điều phục họ nên thực hành phương tiện thiện. Muốn khiến người thuộc căn cơ bậc trung nhập pháp Phật nên thực hành phương tiện thiện, tuy nhập mà chưa thành thục, vì khiến thành thục nên thực hành phương tiện thiện. Đã thành thục rồi, vì khiến được giải thoát nên thực hành phương tiện thiện. Bồ-tát vì thuyết giảng về y phương thuật của thế gian và các luận mà thực hành phương tiện thiện. Vì muốn chí tâm thọ trì giới Bồ-tát, kiên trì không hủy phạm, nên thực hành phương tiện thiện. Phương tiện thiện nguyện, phương tiện Thanh văn thừa, phương tiện Duyên giác thừa, phương tiện Đại thừa, mười phương tiện trên đây có thể làm năm việc: Bốn phương tiện đầu là vì lợi ích cho chúng sinh mà thực hành, phương tiện về phương thuật thế gian là để phá luận tà. Bồ-tát thọ trì giới Bồ-tát trọn không hủy phạm, nếu có phạm liền sám hối. Phương tiện thiện phát nguyện là tùy theo chỗ cầu mà có thể được. Phương tiện của hàng tam thừa là tùy theo căn cơ mà thuyết pháp, nên Bồ-tát có mười phương tiện như vậy để có thể làm năm việc, do năm việc nên nhất định đầy đủ, có thể đạt được tất cả việc ở thế gian, hoặc hiện tại hoặc đời sau. Thế nào là Bồ-tát làm lợi ích cho người? Tức như trong phẩm bốn nhiếp đã nêu. Thế nào là Bồ-tát thiện phát nguyện? Tức là Bồ-tát làm tất cả nghiệp thiện, hoặc quá khứ, hiện tại, vị lai đều không cầu quả báo, chỉ cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là thiện phát nguyện. Đức Như Lai nếu vì hàng xuất gia hoặc tại gia thuyết giới, tất cả đều thâu lấy bốn việc như thế. Nếu Bồ-tát xuất gia hoặc tại gia, hoặc quá khứ, hiện tại, vị lai, mà thọ trì giới Bồ-tát, thì đều chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát xuất gia hơn Bồ-tát tại gia. Vì sao? Vì Bồ-tát xuất gia có được tất cả giới Bồ-tát. Bồ-tát tại gia không được tất cả giới Bồ-tát. Bồ-tát xuất gia có thể thực hành phạm hạnh vắng lặng thanh tịnh, Bồ-tát tại gia không thể tu hành phạm hạnh tịch tónh. Bồ tát xuất gia có thể thực hành ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Bồ-tát tại gia không thể thực hành ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Bồ-tát xuất gia giải nói tất cả việc thế gian. Bồ-tát tại gia bị công việc thế gian ràng buộc. <篇>KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI <卷>QUYỂN 8 <詞>Phẩm 3: TÂM ĐỊNH CỦA NHƯ PHÁP TRỤ Bồ-tát Ma-ha-tát thương xót chúng sinh có bảy việc: Một là không sợ sệt. Hai là chân thật. Ba là không ưu sầu. Bốn là không cầu. Năm là không tham ái. Sáu là rộng lớn. Bảy là bình đẳng. Bồ-tát Ma-ha-tát thương xót chúng sinh, không có sợ sệt, tu ba nghiệp thiện, vì phá trừ các nghiệp ác của chúng sinh. Đây gọi là không sợ. Bồ-tát Ma-ha-tát thương xót chúng sinh, chẳng phải là phiền não ái, chẳng phải pháp trụ, chẳng phải luật trụ, không giáo hóa nơi chẳng phải chỗ. Đây gọi là chân thật. Bồ-tát Ma-ha-tát vì lòng thương xót, vì các chúng sinh mà siêng tu khổ hạnh, tâm không lo buồn, hối hận. Đây gọi là không sầu. Tất cả chúng sinh không cầu Bồ-tát, mà các Bồ-tát tự tu tâm từ. Đây gọi là không cầu. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc khởi tâm thương xót, đối với các chúng sinh không có tâm tham. Người không có tâm tham thì không cầu báo ân và quả của tâm từ. Đây gọi là không tham ái. Bồ-tát lúc tu tâm từ nếu có chúng sinh đánh mắng não hại, trọn không xả bỏ tâm từ. Đây gọi là rộng lớn. Bồ-tát tu tâm từ không vì một người, mà khắp vì vô lượng vô biên chúng sinh trong vô lượng pháp giới. Đây gọi là bình đẳng. Bồ-tát đầy đủ bảy pháp như trên, gọi là Bồ-tát chí tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh gồm có mười lăm thứ: Một là tịnh vô thượng. Hai là tịnh như pháp. Ba là tịnh Ba-la-mật. Bốn là tịnh chân thật nghóa. Năm là tịnh bất khả tư nghì. Sáu là tịnh an ổn. Bảy là tịnh lạc. Tám là tịnh không phóng dật. Chín là tịnh kiên cố. Mười là tịnh không lừa dối. Mười một là tịnh bất tịnh. Mười hai là tịnh tịnh. Mười ba là tịnh thiện. Mười bốn là tịnh điều phục. Mười lăm là tịnh tánh. Bồ-tát Ma-ha-tát chí tâm chuyên tâm niệm Phật Pháp Tăng bảo. Đây gọi là tịnh vô thượng. Bồ-tát thọ trì giới Bồ-tát, chí tâm ủng hộ không khiến hủy phạm. Đây gọi là tịnh như pháp. Bồ-tát Ma-ha-tát chí tâm hành đầy đủ năm pháp Ba-la-mật. Đây gọi là tịnh Ba-la-mật. Bồ-tát chí tâm hiểu biết pháp giới không có ngã, không có ngã sở, vì lưu hành khắp nên gọi là só phu. Thông đạt rõ ràng nghóa sâu xa của mười hai bộ kinh, nghóa sâu xa tức là đệ nhất nghóa đế, đệ nhất nghóa đế gọi là tịnh chân thật nghóa. Chư Phật Bồ-tát không thể nghó bàn, từ lúc ban đầu xuất thế cho đến Niết-bàn. Đây gọi là tịnh bất khả tư nghì. Bồ-tát chí tâm tu tập tâm bi, thí khắp sự an lạc cho tất cả chúng sinh. Đây gọi là tịnh an ổn. Bồ-tát Ma-ha-tát vì chúng sinh khổ mà tu tập tâm từ, vì muốn khiến cho chúng sinh được an vui. Đây gọi là tịnh lạc. Bồ-tát Ma-ha-tát vì các chúng sinh mà tu tập từ bi, không cầu tâm tham, không cầu tâm báo ân, cũng không dạy chúng sinh làm các việc ác. Đây gọi là tịnh bất phóng dật. Bồ-tát Ma-ha-tát vì đạo quả Bồ-đề vô thượng, tâm vững chắc không thể hủy hoại. Đây gọi là tịnh kiên cố. Bồ-tát Ma-ha-tát ở trong vô lượng đời chí tâm tu tập hạnh thiện Bồ-đề. Bồ-đề như vậy và đạo Bồ-đề không có hư vọng. Đây gọi là tịnh không hư vọng. Bồ-tát Ma-ha-tát chưa được địa giải. Đây gọi là tịnh bất tịnh. Bồ-tát Ma-ha-tát trụ ở địa tịnh cho đến địa rốt ráo. Đây gọi là tịnh tịnh. Bồ-tát Ma-ha-tát trụ ở địa rốt ráo, tu bố thí Ba-la-mật. Đây gọi là tịnh thiện. Bồ-tát Ma-ha-tát do được địa tịnh cho nên điều phục tâm. Đây gọi là tịnh điều phục. Bồ-tát Ma-ha-tát trụ ở địa tịnh và địa rốt ráo. Đây gọi là tịnh tánh. Tịnh tánh tức là không nhờ vào sự tu tập sau mới thanh tịnh, mà tánh vốn tự như vậy. Thân tâm thanh tịnh nên gọi là tánh tịnh. Bồ-tát đạt đầy đủ mười lăm pháp nầy thì có thể làm mười việc: 1. Bồ-tát nhân ở nơi tịnh vô thượng nên có thể cúng dường Tam bảo. Cúng dường Tam bảo tức là làm trang nghiêm tất cả phần căn bản của đạo Bồ-đề. 2.Bồ-tát nhân ở thọ trì tịnh, tức có thể thọ trì giới Bồ-tát cho đến xả thân thọ thân trọn không hủy phạm, nếu thất niệm và phạm tức thời sám hối. 3.Bồ-tát nhân ở tịnh Ba-la-mật mà thường tu tập tất cả pháp thiện, không có phóng dật. 4. Bồ-tát nhân ở tịnh chân thật nghóa, tuy có phiền não, vì chúng sinh nên lưu chuyển trong sinh tử, nhưng trọn không quên mất tâm Niết-bàn. 5. Bồ-tát nhân nơi tịnh bất khả tư nghì mà khiến vô lượng chúng sinh ở trong pháp Phật được đại tâm tín, tu tập đạo quả. 6. Bồ-tát nhân nơi tịnh an ổn và tịnh lạc, tịnh bất phóng dật, mà thành tựu đầy đủ việc tạo lợi ích cho các chúng sinh, tâm không sầu não hối hận. 7.Bồ-tát nhân nơi tịnh kiên cố mà siêng tu tinh tấn, phá sự biếng trễ, thành tựu không phóng dật. 8. Bồ-tát nhân nơi tịnh không hư vọng mà chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, tăng trưởng pháp thiện, tu hành không nhàm chán. 9.Bồ-tát nhân nơi tịnh điều phục và tịnh tánh, có thể dùng đạo quả Bồ-đề vô thượng giáo hóa chúng sinh, có thể dùng sự an ổn bố thí cho hàng trời người và tất cả chúng sinh. 10.Tánh tịnh của Bồ-tát là thâu tóm cả ba tịnh, đó là tịnh bất tịnh, tịnh tịnh và tịnh thiện. Chư Phật và Bồ-tát đời quá khứ hiện tại vị lai, chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, đã đạt, nay đạt, sẽ đạt, đều do mười lăm pháp tịnh nầy mà được. Nếu có người nói: Bồ-tát lìa mười lăm pháp tịnh nầy mà vẫn chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, thật không có việc ấy. -------------------------- <詞>Phẩm 4: SINH ĐỊA BỒ ĐỀ CỦA NHƯ PHÁP TRỤ Bồ-tát Ma-ha-tát có tánh đầy đủ, giới đầy đủ. Bồ-tát học giới đầy đủ, Bồ-tát tướng đầy đủ, Bồ-tát thành tựu trang nghiêm đầy đủ. Mười lăm pháp tịnh tâm làm thanh tịnh thân khẩu ý nghiệp. Bồ-tát có mười hai hạnh thâu giữ mười hai công hạnh của tất cả Bồ-tát. Hạnh của Như Lai chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng rồi nên gọi là hạnh vô thắng. Thế nào gọi là mười hai hạnh của Bồ-tát? Một là tánh hạnh. Hai là giải hạnh. Ba là hỷ hạnh. Bốn là giới hạnh. Năm là tuệ hạnh. Tuệ hạnh có ba thứ: một là cộng trợ Bồ-đề hạnh, hai là cộng đế hạnh, ba là cộng mười hai nhân duyên hạnh. Bồ-tát Ma-ha-tát dùng sự thấy biết như thật để thấy pháp như thật, nếu không thấy như thật thì lưu chuyển trong sinh tử. Nếu thấy được như thật thì đoạn được các khổ, cho nên trí tuệ của Bồ-tát có ba thứ. Đây gọi là tuệ hạnh. Sáu là hành hạnh. Bảy là vô tướng hạnh. Tám là bất lậu hạnh. Chín là vô hành hạnh. Mười là vô ngại hạnh. Mười một là Bồ-đề hạnh. Mười hai là đầy đủ hạnh. Đây gọi là mười hai hạnh. Nếu Bồ-tát thực hành mười hai hạnh nầy, thì có thể thâu giữ tất cả các hạnh. Hạnh của Như Lai là hơn tất cả hạnh, cho nên gọi là hạnh vô thắng. Tánh hạnh tức là Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập các công đức pháp thiện của bồ tát đầy đủ, do tu tập các pháp thiện nên thường ưa pháp thiện, thọ trì tất cả chủng tử của pháp Phật, tự biết thân mình có chủng tử Phật, phá trừ phiền não thô. Đây gọi là tánh hạnh. Bồ-tát đầy đủ tánh hạnh nầy, trọn không thể khởi phiền não sâu nặng, hoặc tội ngũ nghịch và Nhất xiển đề. Đây gọi là tánh hạnh. Giải hạnh tức là Bồ-tát Ma-ha-tát phát tâm Bồ-đề mà tu tập các hạnh. Đây gọi là giải hạnh. Lúc Bồ-tát thực hành tánh hạnh thì gọi là hạnh Bồ-tát. Mười hai hạnh và nhân của Như Lai hạnh, tuy là nhân của các hạnh, nhưng cũng chưa được hạnh dị biệt, huống chi hạnh Như Lai cũng chưa được nhân, cũng chưa được quả, cũng chưa được tịnh, nếu được một hạnh thì gọi là giải hạnh, do đó gọi là thực hành hạnh Như Lai. Cũng chưa được hạnh Như Lai, chưa tịnh hạnh Như Lai. Đây gọi là đắc giải hạnh tịnh. Giải hạnh do tịnh giải hành nên đắc hỷ hạnh, tịnh hỷ hạnh. Hỷ hạnh tịnh nên đắc giới hạnh tịnh, giới hạnh. Như vậy cho đến mười hai hạnh. Đây gọi là hạnh Bồ-tát. Đầy đủ tịnh hạnh của Bồ-tát, rồi sẽ được tịnh hạnh của Như Lai, hạnh của Như Lai. Hỷ hạnh tức là Bồ-tát chí tâm tịnh tâm Bồ-đề. Đây là hỷ hạnh. Giới hạnh tức là Bồ-tát trước làm tịnh tánh trọng, không hủy giá trọng. Do giới tịnh nên tu tập thiền thế gian. Đây là Tuệ hạnh. Nương vào đạo thế gian mà nhập bốn chân đế, tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây gọi là hạnh cộng trợ Bồ-đề. Tu trợ Bồ-đề thật thấy bốn đế, gọi là hạnh cộng đế. Hạnh cộng mười hai nhân duyên là quán sát bốn đế thấy tất cả khổ từ nhân duyên sinh, từ nhân duyên diệt. Đây gọi là hạnh cộng mười hai nhân duyên. Hành hạnh tức là vì trợ Bồ-đề nên siêng tu tinh tấn. Hạnh vô tướng tức là tuy không thấy tướng chúng sinh và tướng Bồ-đề, nhưng tu Bồ-đề mãi không dừng nghỉ. Hạnh bất lậu tức là vì trợ Bồ-đề mà kiên trì giới cấm, không có hủy phạm, không gián đoạn. Đây là hạnh bất lậu. Hạnh vô hành tức là chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng rồi, vì điều phục chúng sinh mà thực hành, không phải vì hạnh Bồ-đề. Hạnh Bồ-đề tức là tu tập hạnh vô tướng. Đây gọi là hạnh Bồ-đề. Hạnh không phân biệt pháp giới gọi là hạnh Bồ-đề. Hạnh vô ngại tức là tu tập pháp giới không phân biệt, vì vô lượng chúng sinh mà diễn thuyết chánh pháp, khiến tu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng. Hoặc một đời, hoặc hiện thân. Đây gọi là hạnh vô thượng. Thực hành hạnh vô thượng, lần lượt chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng rồi, làm tất cả Phật sự. Đây gọi là hạnh Như Lai. Bồ-tát Ma-ha-tát đầy đủ tánh hạnh. quyết định đắc mười hai hạnh. Bồ-tát Ma-ha-tát đầy đủ giải hạnh đoạn tướng lậu thô. Bồ-tát Ma-ha-tát đầy đủ hỷ hạnh. không thối chuyển, cũng như hoan hỷ mà thực hành cho đến hạnh Bồ-tát cũng như vậy. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc thực hành tánh hạnh, không thấy tướng mạo của tất cả các pháp, cho đến hạnh Bồ-tát cũng lại như vậy. Bồ-tát lúc thực hành tánh hạnh, không cầu pháp thiện và quả của pháp thiện, cho đến hạnh Bồ-tát cũng lại như vậy. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc thực hành tánh hạnh được lực đại trí, cho đến hạnh Bồ-tát cũng lại như vậy. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc thực hành tánh hạnh, đoạn năm sự sợ hãi: Một là sợ không sống được. Hai là sợ tên gọi xấu ác. Ba là sợ chết. Bốn là sợ đường ác. Năm là sợ đại chúng. Luôn luôn còn có nghiệp ác của thân khẩu ý, luôn luôn sinh niệm tham ở năm dục, đối với tài vật của mình luôn sinh tâm bỏn sẻn, luôn luôn tùy người không tự quyết định. Hoặc có lúc không thể quán xét Phật Pháp Tăng thật và không thật, như chư Phật Bồ-tát không thể nghó bàn, không cầu nhân, không cầu quả, không cầu nhiều, không cầu ít, đối với chỗ chứng đắc và không chứng đắc không sinh tâm buồn hoặc vui. Luôn thực hành hạnh phi phương tiện, không thực hành hạnh phương tiện, ít có văn tuệ, luôn luôn quên mất, trí tuệ không lanh lợi, ít niệm về đạo quả Bồ-đề vô thượng, không siêng năng tinh tấn, không được tâm tin hiểu sâu xa, lúc thấy sắc thanh, hương, vị, xúc, tâm sinh điên đảo, xả thân đến đời khác quên hẳn chánh niệm. Hoặc lúc được trí tuệ, hoặc lúc mất trí tuệ, không thể khéo biết phương tiện tùy nghi để điều phục chúng sinh. Hoặc lúc thuyết pháp không thể khéo hiểu văn chữ, câu, nghóa. Người nghe hoặc lãnh thọ hoặc không lãnh thọ như ở chỗ tối bắn người hoặc trúng hoặc không. Phát tâm Bồ-đề hoặc thoái chuyển hoặc không thoái chuyển, hoặc hủy giới Bồ-tát đã thọ, hoặc muốn tự vui không vì chúng sinh, hoặc quán xét Bồ-tát hiện có quả báo và qủa phước đức. Lúc nghe pháp thâm diệu hoặc kinh sợ, hoặc hoan hỷ, hoặc tin sâu, hoặc sinh nghi. Không thể tu tập tâm từ bi, ít ban vui cho kẻ khác, sinh hoan hỷ với tâm biết đủ. Không có tướng Bồ-tát, không có sự trang nghiêm của Bồ-tát, tự thấy thân mình cách đạo vô thượng quá xa không thể đến, tâm niệm đại Niết-bàn, không biết tên của pháp trợ Bồ-đề. Các tướng như vậy gọi là Bồ-tát tánh hạnh. Bồ-tát giải hạnh có ba thứ nhẫn, đó là bậc hạ, trung và thượng. Lúc được hạ nhẫn thì các tướng như vậy là bậc hạ. Khi được trung nhẫn thì các tướng như vậy là bậc trung. Lúc được thượng nhẫn thì các tướng như vậy là bậc thượng. Khi được hỷ hạnh thì đoạn tướng như vậy toàn bộ là thiện. Do đầy đủ pháp thiện như thế nên gọi là tâm tịnh. Bồ-tát giải hạnh tuy có ba nhẫn như thế nhưng tâm không thanh tịnh. Vì sao? Lúc thực hành ba nhẫn có thượng, trung, hạ nên không thanh tịnh. Khi trụ ở hỷ hạnh thảy đều đoạn các ác, cho nên thanh tịnh. Lại lúc trụ nơi hỷ hạnh, phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng, tùy thuận lời nói của người, lại tự suy nghó, do hai nhân duyên nầy mà tâm ấy kiên cố. Đây gọi là nguyện tịnh, lìa pháp thế gian được quả xuất thế, phá diệt khổ của chúng sinh, hơn cả phát nguyện của Thanh văn, Duyên giác. Bồ-tát Ma-ha-tát phát nguyện trong một niệm, có thể được vô lượng vô biên phước đức. Nguyện như vậy là không động, không cùng tận, không thối, không chuyển, tăng trưởng mạnh mẽ, rốt ráo có thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là phát nguyện chân thật. Nguyện chân thật của Bồ-tát có bốn việc: Một là ai phát đạo tâm. Hai là nhân đâu mà phát tâm. Ba là phát tâm là những tánh gì. Bốn là phát tâm có công đức gì. Lúc phát tâm có bốn việc quán xét ấy. Ai phát đạo tâm, tức là thành tựu giải hạnh, đầy đủ công đức thiện, khéo thực hành đạo Bồ-đề, như vậy là khiến chúng sinh phát tâm Bồ- đề. Do đâu mà phát tâm, tức là đầy đủ trang nghiêm đạo Bồ-đề, tạo lợi ích cho các chúng sinh, tu hạnh vô lượng của quả Bồ-đề vô thượng thành tựu đầy đủ tất cả pháp Phật, tất cả hạnh Phật. Đây gọi là nhân duyên. Do nhân duyên nầy nên phát tâm Bồ-đề. Tất cả phát tâm làm trang nghiêm Bồ-đề. Tất cả sự tu hành Bồ-đề, tùy nơi nhất thiết trí và tất cả Phật sự mà xa lìa phàm phu, Bồ-tát danh tự lìa địa phàm phu, nhập địa quyết định, phát sinh chủng tánh Phật, được gọi là con Phật, quyết định chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, được tâm đại hỷ, xa lìa tâm tham, tâm ganh ghét, tâm sân hận, vì mọi người mà diễn nói đạo Bồ-đề, đầy đủ sự trang nghiêm của tất cả pháp Phật, Phật sự, Phật hạnh, đạt được tâm hỷ, thọ vui tịch tónh, xa lìa phiền não thân tâm an lạc, thành tựu đầy đủ pháp thiện thanh tịnh, gần gũi đạo quả Bồ-đề vô thượng. Chí tâm tịnh tâm vì hướng tới hạnh Bồ-tát, lìa tất cả sợ hãi được tâm đại hỷ, phát tâm Bồ-đề thâm sâu xa lìa năm thứ sợ hãi, tu tập tướng vô ngã, hiểu rõ không có ngã, không có ngã sở. Do quán không có ngã và ngã sở nên không tham ở thân, vì thế xa lìa được sự sợ hãi không thể sống. Không cầu vật khác dù chỉ một tiền, thường phát nguyện: Làm sao phải khiến cho các chúng sinh ấy được lợi ích lớn, cho nên lìa được sự sợ hãi tên xấu ác, xa lìa ngã kiến. Do xa lìa ngã kiến nên không thấy có ngã, vì thế lìa được sợ hãi về sự chết. Chí tâm hiểu biết, ta xả thân rồi thường cùng chư Phật Bồ-tát đồng hành, vì thế lìa được sự sợ hãi về cõi ác. Ta nay chí tâm cầu pháp xuất thế, cho nên lìa được sự sợ hãi đại chúng. Bồ-tát xa lìa những thứ sợ hãi như vậy rồi, cũng được xa lìa việc sợ nghe nghóa thâm diệu, lìa tất cả tâm ác, não hại, kiêu mạn lìa tâm hỷ thế gian, được tâm thanh tịnh, được tâm bất hoại, được tâm rộng lớn, được tâm bất cộng. Được những tâm như vậy nên siêng tu hành tinh tấn, chí tâm niệm nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng. Do chí tâm tín niệm nên tinh tấn tu tập pháp trợ Bồ-đề, đây là hạnh hỷ. Do trụ nơi hạnh hỷ nên tâm được thanh tịnh, do tâm thanh tịnh nên thường niệm cúng dường Như Lai, thường niệm hộ pháp, niệm pháp tăng trưởng, hết lòng chuyên niệm để điều phục chúng sinh, trụ nơi thế giới Phật, gần gũi chư Phật, một lòng nghe pháp, làm thanh tịnh quốc độ Phật, thường niệm gần gũi cùng Phật, Bồ-tát, thiện tri thức, thực hành vì tạo lợi ích cho chúng sinh chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng làm Phật sự. Lúc chưa chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng thường phát nguyện ấy. Đây gọi là đại nguyện. Như vậy vô lượng trăm ngàn nguyện, gọi là nguyện thiện. Phát nguyện nầy rồi tinh tấn tu tập trong đời hiện tại, vì làm tịnh hạnh hỷ nên tu tập mười pháp, tin tưởng tất cả pháp phật. Do mười hai nhân duyên nên chúng sinh thọ khổ, vì muốn chúng sinh khổ được giải thoát nên tu tập tâm bi, vì ban cho chúng sinh sự an lạc nên tu tập tâm từ, vì phá khổ não cho chúng sinh nên không tiếc thân mạng, do không tiếc thân mạng nên xả nội vật, ngoại vật, vì tạo lợi ích cho chúng sinh mà thọ khổ không hối hận, do tâm không hối hận nên có thể biết tất cả phương thuật kiến thức thế gian, do biết mọi việc thế gian nên có thể biết chúng sinh khác nhau giữa các bậc thượng, trung và hạ, tùy thượng trung hạ mà hiện bày đầy đủ sự hổ thẹn. Tu việc như vậy tâm không thối chuyển, được lực dũng mãnh, thọ nhận của cải của người, có thể dùng để cúng dường Phật Pháp Tăng bảo. Đây gọi là mười pháp, gồm: Một là tín. Hai là bi. Ba là từ. Bốn là thí. Năm là không ưu sầu. Sáu là hiểu biết sách vở thế gian. Bảy là tùy thuận thế gian. Tám là hổ với mình. Chín là thẹn với người. Mười là dũng mãnh. Bồ-tát Ma-ha-tát tu mười pháp nầy, vì trì giới, thực hành ở chín pháp, quán sát đạo quả, công đức hoặc lỗi lầm, biết rồi thì có thể tu tập đạo, chí tâm thọ trì tất cả hạnh, chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, có thể độ chúng sinh trong biển sinh tử, có thể dạy chúng sinh thực hành pháp thiện. Lúc ấy, Bồ-tát trụ nơi hạnh hỷ, thấy vô lượng Phật, như chỗ thấy nghe được nói đến trong tạng Bồ-tát. Lại biết mười phương vô lượng thế giới có vô lượng tên gọi, có vô lượng Phật, biết rồi chí tâm cầu thấy, có thể thấy. Đây gọi là nguyện thiện. Lại phát nguyện: Nguyên tôi thường sinh về thế giới của chư Phật, tùy nguyện vãng sinh. Đây gọi là nguyện thiện. Do được vãng sinh về thế giới chư Phật, tùy lực cúng dường Phật Pháp Tăng bảo, nghe pháp thọ trì, như pháp mà trụ, có tu pháp thiện, tất cả đều hồi hướng nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng. Dùng bốn nhiếp pháp để thâu giữ chúng sinh, cho nên pháp thiện được tăng trưởng mạnh mẽ. Cúng dường Tam bảo thâu giữ chúng sinh, ở trong vô lượng kiếp làm thanh tịnh thân tâm, như luyện vàng nhiều lần thì sắc càng sáng hơn. Tâm của Bồ-tát cũng lại như vậy, do tâm thanh tịnh nên pháp thiện được tịnh. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc thọ thân người, làm Chuyển luân vương chủ bốn thiên hạ, tùy ý tự tại, xa lìa tham lam bỏn xẻn, cũng phá trừ tham lam keo kiệt hiện có của chúng sinh, dùng bốn nhiếp pháp để thâu giữ chúng sinh, làm được pháp thiện hoặc nhiều hoặc ít, đều đem hồi hướng nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng, nguyện cho tất cả chúng sinh đều được lợi ích của đạo vô thượng. Lúc ấy, Bồ-tát siêng năng tinh tấn xả tục vì đạo, ở trong một niệm có thể đầy đủ trăm thứ Tam-muội, trong một niệm thấy trăm thế giới Phật, cũng biết chỗ thực hành của trăm vị Phật, cũng có thể làm chấn động thế giới của trăm vị Phật, thân ấy có thể đi qua trăm thế giới Phật, ánh sáng chiếu đầy khắp trăm thế giới Phật, thần thông có thể biến một thân làm trăm, hóa thành trăm chúng sinh, hiểu biết việc khứ lai của mỗi chúng sinh trong trăm kiếp, thâm nhập nơi trăm pháp môn ấm, nhập, giới, mỗi thứ biết trăm số có thể chỉ bày cho trăm người lấy làm quyến thuộc đều được thần thông. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc trụ ở hạnh hỷ, có thể hiện bày những thần thông như vậy, do nguyện lực nên Bồ-tát phát nguyện không thể nghó bàn. Bồ-tát thực hành hỷ hạnh có sáu thứ phát tâm: Một là phát nguyện thiện siêng năng tinh tấn. Hai là hạnh tịnh. Ba là vì đạt được hạnh dị biệt. Bốn là làm tịnh thiện căn. Năm là vì thiện hiện có. Sáu là không thể nghó bàn. Hạnh hỷ tức như địa hoan hỷ trong mười trụ đã nói. Vì lợi tha nên gọi là địa, vì tự lợi nên gọi là hạnh. Giới hạnh nơi Bồ-tát có những tướng gì? Tất cả công đức của bồ tát hỷ hạnh hiện có thì Bồ-tát giới hạnh đều đạt đầy đủ. Có mười thứ tâm tịnh: Một là tâm tịnh cung kính phụng sự các Hòa thượng, Trưởng lão có đức, không hề sinh tâm giả dối khinh khi. Hai là tâm tịnh thấy Bồ-tát đồng pháp thì thăm hỏi với lời nhẹ nhàng. Ba là tâm tịnh chiến thắng tất cả phiền não của nghiệp ma. Bốn là tâm tịnh thấy tất cả hạnh có nhiều lỗi lầm. Năm là tâm tịnh thấy công đức của Niết-bàn. Sáu là tâm tịnh tu tập tất cả pháp trợ Bồ-đề. Bảy là tâm tịnh vì trợ Bồ-đề mà tu tập tịch tónh. Tám là tâm tịnh không bị thế gian làm nhiễm ô. Chín là tâm tịnh lìa thừa Thanh văn, ưa nghó đến Đại thừa. Mười là tâm tịnh thường nghó lợi ích cho hết thảy chúng sinh. Do đầy đủ mười tâm tịnh nầy nên gọi là địa của giới. địa của hạnh giới khi thực hành thì đầy đủ giới tánh, cùng với giới tà nghiệp không thọ không niệm, không sinh hoan hỷ, không hủy giới khinh, huống là giới bậc trung bậc thượng. Đầy đủ mười pháp thiện, biết thiện và bất thiện, nghiệp thiện, nghiệp ác, cõi thiện cõi ác, đây là thừa, đây chẳng phải thừa, hoặc nhân hoặc quả, đều biết rõ ràng. Do biết rõ ràng nên tự thực hành mười điều thiện, lại dạy chúng sinh khiến thực hành mười điều thiện. Nếu thấy các chúng sinh nhân nghiệp ác mà thọ khổ, tức sinh tâm thương xót tu tập đại bi, phá trừ sự khổ mà chúng sinh đã thọ. Bồ-tát thực hành giới hạnh thân tịch tónh, tâm tịch tónh, thân tâm tịch tónh như vàng ròng được thuốc Ca tư bà, đưa vào lửa thì sáng, Bồ-tát có tâm thiện, tu tập pháp thiện cũng lại như vậy. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc trụ ở giới hạnh, hoặc sinh nơi thế gian làm Chuyển luân vương, cai trị bốn thiên hạ, có thể chuyển nghiệp ác, hủy giới của chúng sinh, an trí chúng sinh trong pháp thiện. Ngoài ra, như ban đầu đã nói, cũng như địa ly cấu nơi mười trụ đã nêu bày. Xa lìa tất cả cấu uế hủy giới, cho nên gọi là địa ly cấu. Dạy giới Bồ-tát nên gọi là giới hạnh, địa tịnh và giới hạnh ý nghóa không sai khác. Bồ-tát Tuệ hạnh có những tướng gì? Bồ-tát thực hành Tuệ hạnh được mười tâm tịnh, thường quán như vầy: Mười tâm tịnh của ta là không thối chuyển. Ta đối với tất cả pháp hữu lậu tâm không ưa thích. Ta đối với pháp hữu lậu tâm ưa thích tu tập pháp môn đối trị, đối với pháp đối trị không có thối chuyển, tất cả hữu lậu, phiền não, nghiệp ma đều không thể hơn, do tu tập nên không sinh tâm xả, ta ưa thích hạnh của Phật, Bồ-tát, vì Bồ-đề Phật mà tu khổ hạnh, không sinh nhàm chán, hối hận. Ta nay chí tâm chuyên niệm Đại thừa, thường muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát Tuệ hạnh quán xét tất cả hành có vô lượng khổ, thực hành quán xét xong rồi không nhiễm các hành, quán xét công đức của Phật cho đến vô lượng phước hạnh của trí tuệ, chí tâm niệm Phật, và những công đức của Phật, đạt được tâm tín lớn, vì phá trừ mọi khổ não của chúng sinh. Tu tập tâm bi, khéo suy nghó phương tiện, vì muốn khiến cho chúng sinh được giải thoát, vì giải thoát nên quán xét pháp môn đối trị, do được đối trị nên quán Tam-muội thiện, ưa nghe kinh điển nơi pháp tạng của Bồ-tát. Đã được nghe rồi siêng tu tinh tấn, vì nghe pháp nên không tiếc thân mạng. Có được của cải trong, ngoài đều cúng dường cha mẹ, Hòa thượng, sư trưởng, vì các chúng sinh mà thọ nhiều khổ não, nếu được nghe pháp tạng của Bồ-tát một chữ, một câu, một bài kệ, một ý nghóa, trong tâm hoan hỷ, hơn được châu báu đầy cả ba ngàn đại thiên thế giới, hơn được thân Đế thích, Thiên ma, Phạm thiên, Chuyển luân vương. Hoặc nghe nói: Ta có một câu, một chữ, một bài kệ, một ý nghóa, là do Phật nói, nếu có thể chịu khổ nhảy vào hầm lửa lớn thì ta sẽ trao cho ông. Bồ-tát nghe rồi hoan hỷ lãnh thọ, liền nói: Giả sử lửa lớn đầy cả ba ngàn đại thiên thế giới, nơi vô lượng kiếp còn chịu ở trong ấy, huống là lửa nhỏ. Lúc nầy Bồ-tát vì siêng tu tinh tấn nên suy nghó như vậy, nếu được nghóa chân thật thì có thể đem lại lợi ích, pháp Phật vô thượng chẳng phải do một câu chữ mà có thể đạt lợi ích. Vì hiểu nghóa chân thật nên tu tập bốn thiền, bốn định vô sắc, bốn tâm vô lượng và năm thần thông. Do tu định nên nguyện sinh nơi cõi dục, tu trợ Bồ-đề tạo lợi ích cho chúng sinh, tuy sinh ở cõi dục mà không có kiết sử ở cõi dục, trước đoạn tham dục, sân hận, ngu si, giống như vàng ròng qua nhiều lần luyện, trọn không tổn giảm. Do tu thiện căn tịnh nên được thân Đế thích thù thắng, vì người ưa dục mà hoại trừ tham dục, khiến được suy nghó các pháp thiện, vì khiến chúng sinh biết chân thật về giới hành, giới chúng sinh, vì chúng sinh khổ nên khiến được giải thoát, biết phương tiện khéo léo. Vì cúng dường cha mẹ, Hòa thượng, sư trưởng, vì khiến cho chúng sinh được như pháp mà trụ, vì được thiền định, Tam- muội thiện, thần thông, như trong địa Minh nơi mười trụ đã nói. Tuệ hạnh cũng lại như vậy. Bồ tát thực hành hạnh trợ Bồ-đề có những tướng gì? Bồ-tát Tuệ hạnh có mười pháp như trước đã nói. Trụ pháp như vậy tâm không thể hoại, tu tập trí tuệ, có thể vì chúng sinh mà diễn thuyết chánh pháp khiến được thành thục. Người đã thành thục thì khiến được giải thoát, phát sinh chủng tử Phật. Do tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo và phương tiện khéo léo nên xa lìa ngã kiến, cho đến đoạn kiến chấp, đoạn các phiền não, được tâm nhẫn, tâm nhu hòa, tâm thiện, tâm vô lượng hạnh, biết ân và báo ân, đầy đủ vô lượng pháp thiện thanh tịnh, siêng năng tinh tấn tu tất cả nghiệp thiện, hiểu biết pháp giới và giới chúng sinh, tất cả người ác, ma và quyến thuộc của ma không thể dời chuyển hoặc ngăn trở tâm ấy. Ví như người thợ làm anh lạc bằng vàng, vì khiến chúng sinh được sự an vui, pháp thiện của Bồ-tát cũng lại như vậy, không bi hàng Thanh văn, Duyên giác làm lay động, sinh nơi cõi trời Dạ ma, phá trừ các ngã kiến của chúng sinh. Đây là hạnh trợ Bồ-đề của Bồ-tát. Vì muốn tu tập trí tuệ thông lợi, nên tu ba mươi bảy phẩm trợ Bồ-đề, phá trừ tất cả kiến chấp, tất cả lậu, ngăn tất cả nghiệp, tăng trưởng pháp thiện nên khiến được địa thanh tịnh. Bồ-tát tu tập hạnh trợ Bồ-đề, như nơi địa Diệm tuệ trong mười trụ đã nói. Tự lợi gọi là địa, lợi tha gọi là hạnh. Bồ tát thực hành hạnh đế trước được mười pháp thanh tịnh, do thanh tịnh nên gọi là hạnh cộng đế. Bồ tát thực hành hạnh đế thấy vô lượng thế giới, vô lượng chư Phật, quán bốn chân đế có mười hạnh. Như nói khổ thì tại sao nói, do nhân duyên gì nói, nói thế nào, ai nói ra, như vậy tất cả có thể biết chân thật. Tập, diệt, đạo cũng như vậy. Lúc quán tưởng tức biết phương tiện chắc thật, quán công đức và tai họa của tất cả khổ, tất cả đế. Vì các chúng sinh nên tăng trưởng tâm bi, biết nghiệp của chúng sinh trong đời quá khứ, vị lai, hiểu rõ Đế thế gian và pháp tà, vì người theo pháp tà mà nói pháp giải thoát; biết việc trang nghiêm, đầy đủ tâm niệm, đầy đủ tâm tuệ, biết các thứ phương tiện để điều phục chúng sinh, hiểu rõ tất cả phương thuật ở thế gian, vì hóa độ chúng sinh mà phá trừ các khổ, vì chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, có thể ban cho chúng sinh những vật cần dùng, có thể phá bỏ sự bần cùng khốn khổ cho chúng sinh, biết xứ và phi xứ, phá dẹp tà kiến, không nghe giải nghóa sai lầm về tạng Bồ-tát, ngoài ra như trên đã nói. Ví như các châu báu như vàng ròng v.v… giá trị vô lượng, Bồ-tát Ma-ha-tát cũng lại như vậy, có được pháp thiện tức hơn tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát hạ địa. Hạnh tuệ nơi Bồ-tát như ánh sáng mặt trời, mặt trăng không gì có thể ngăn che, gió lớn không thể lay động. Bồ-tát Ma-ha- tát có trí tuệ cũng lại như vậy. Tất cả Thanh văn, Phật-bích-chi không thể lay động, cũng không bị pháp thế gian hủy hoại. Sau khi xả thân, sinh về cõi trời Đâu Suất, được đại tự tại, phá tan pháp tà, thành tựu vô lượng phước đức đầy đủ. Như vậy, Bồ-tát có trí tuệ, vì trừ sạch mọi phiền não cho chúng sinh, vì biết chân đế nên dùng phương tiện thuyết giảng, vì quán sinh tử có sự khổ lớn, vì muốn làm tăng trưởng tâm đại từ bi, vì muốn đầy đủ công đức trí tuệ trang nghiêm, vì phát nguyện thiện, vì khiến tâm niệm, tâm thí, tâm tuệ đều được dần tăng trưởng, vì muốn suy nghó về các pháp thiện, vì muốn điều phục các chúng sinh, vì chỉ dạy phương tiện nơi pháp thế gian và xuất thế gian nên làm thanh tịnh thiện căn. Ngoài ra như nơi địa Nan thắng trong mười trụ đã nói. Hành đế cũng như vậy không có sai khác. bồ tát thực hành hạnh cộng mười hai nhân duyên như trước đã nói. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc trụ nơi hạnh cộng mười hai nhân duyên, quán xét tướng đệ nhất nghóa của tất cả pháp. Tướng đệ nhất nghóa tức là các pháp vô tướng, tất cả các pháp không thể thuyết gọi là vô tướng. Vô tướng là không có tướng sinh diệt, cho nên các pháp không sinh không diệt. Do không sinh diệt nên thấy vô sinh bình đẳng, vô thỉ chung bình đẳng, hữu vô bình đẳng, không thủ không xả bình đẳng, như huyễn bình đẳng, vô tánh bình đẳng, chẳng có chẳng không bình đẳng. Bồ-tát trụ nơi các bình đẳng nầy rồi tăng trưởng đại bi, chí tâm chuyên niệm pháp Bồ-đề, hiểu biết chỗ sinh diệt của thế gian, biết mười hai nhân duyên, biết pháp từ duyên sinh, biết từ mười hai nhân duyên phát sinh ba môn giải thoát, đó là không, vô tướng và nguyện. Do tu tập ba môn giải thoát nên vónh viễn đoạn trừ tướng ngã, ngã sở, tướng làm, tướng thọ nhận. Đây gọi là đệ nhất nghóa. Vì chúng sinh nên tư duy chân thật, phiền não do nhân duyên hòa hợp nên không bền chắc. Nhân duyên hòa hợp không bền chắc, nên các pháp hữu vi là giả hợp, cho nên không có ngã và ngã sở, tạo thành vô lượng các khổ. Ta có thể phá tan pháp hữu vi, tuy có thể phá tan mà không nên diệt bỏ vónh viễn. Ta ủng hộ hữu vi là vì chúng sinh. Lúc quán tưởng như vậy, tức được hạnh tuệ vô ngại. Do biết hạnh trí tuệ vô ngại, nên đối với tất cả hành trong thế gian không có trở ngại, do được hạnh trí tuệ vô ngại, nên gọi là thâu giữ nhẫn địa thứ bảy, tu trợ Bồ-đề cùng hành hữu vi, không ưa vónh viễn đoạn diệt pháp hữu vi. Tuy không hoàn toàn trừ diệt mà không nhiễm chấp. Lúc Bồ-tát tu phương tiện nầy, tức được vạn môn Tam-muội Không, như vạn môn Không, vô tướng, vô nguyện cũng lại như vậy. Do tu ba vạn môn Tam-muội ấy nên tất cả tà kiến, ngoại đạo, hàng Nhị thừa, các ma và quyến thuộc của ma, đều không thể dời chuyển làm nghiêng động hoặc ngăn trở. Cũng như Đế thích, Chuyển luân Thánh vương, đội mũ bằng vàng cùng các thứ báu, chư Thiên cùng người đời đều ưa nhìn, trí tuệ của Bồ-tát cũng lại như vậy, cũng được chư Phật và các Bồ-tát ưa nhìn ngắm, như ánh sáng mặt trời mặt trăng hơn hẳn trong tất cả ánh sáng. Bồ-tát Ma-ha-tát trụ nơi hạnh mười hai nhân duyên, vì khiến chúng sinh thấy pháp bình đẳng, vì biết mười hai nhân duyên nên được giải thoát, nên được ba môn giải thoát, phá trừ tất cả các tướng tà, do phương tiện giáo hóa chuyển sinh tử, nên được trí tuệ vô ngại, do được hạnh trí tuệ vô ngại, nên được vô lượng môn Tam- muội. Do không hủy hoại, không lay động, nên pháp thiện tăng trưởng, các hữu thanh tịnh, ngoài ra như trong địa Hiện tiền thuộc mười trụ đã nói, không có sai khác. Bồ tát thực hành Hành hạnh có những tướng gì? Bồ-tát lúc được hạnh trợ Bồ-đề đầy đủ nên có được vô lượng Tam-muội, có thứ cộng thế gian bất cộng thế gian, do đầy đủ nên nhập nơi hạnh thứ bảy. Lúc ấy, Bồ-tát ở trong pháp thế gian, được đại tự tại, chí tâm niệm từ bi về tâm từ, công đức trang nghiêm, Bồ-đề trang nghiêm đều được tăng trưởng, pháp trợ Bồ-đề mà Bồ-tát có được, tức không cùng chung với Thanh văn Duyên giác, biết pháp giới, giới chúng sinh, giới thế gian, biết thân tâm Phật, lúc ấy đầy đủ công đức như vậy, biết cảnh giới Phật, không tướng, không nghiệp, không có giác tri, thấy vô lượng cõi Phật, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, đối với tất cả hành không hề mất tâm đạo. Bấy giờ, Bồ-tát trong mỗi mỗi niệm tăng trưởng tất cả mười Ba-la-mật, thành tựu đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. Bồ-tát lúc trụ nơi ha- ïnh hỷ phát nguyện tạo nhân duyên. Lúc trụ nơi hạnh thứ hai xa lìa tất cả nhân duyên hủy giới. Khi trụ nơi hạnh thứ ba nguyện thiện tăng trưởng, được pháp quang minh. Khi trụ nơi hạnh thứ tư lìa tất cả nhân duyên chướng ngại đạo. Lúc trụ nơi hạnh thứ năm lìa chướng ngại nơi việc học của thế gian. Lúc trụ nơi hạnh thứ sáu được vào nghóa thâm diệu, khiến bảy pháp nầy tăng trưởng, hướng đến tất cả pháp Phật, tăng trưởng đầy đủ pháp trợ Bồ-đề, nên Bồ-tát lần lượt sẽ được hạnh tịnh thứ tám. Do tịnh rốt ráo nên gọi là hạnh tịnh. Bảy hạnh có xen tạp nên không gọi là hạnh tịnh. Khi trụ ở hạnh nầy, đoạn trừ các phiền não, cũng không cùng chung, lại không gọi là lìa. Phiền não không khởi nên không gọi là cùng chung. Do chưa đắc quả vị Phật nên không gọi là lìa. Ba nghiệp thanh tịnh, hiểu biết tất cả thuật phương tiện ở thế gian, có thể làm thầy của hàng trời người trong ba ngàn đại thiên thế giới, chỉ trừ hàng tám địa còn các chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới tâm không thể sánh bằng. Cũng trừ hàng tám địa ngoài ra Bồ tát này tự tại ra vào vô lượng pháp môn, mãi xa lìa nẻo hành của Thanh văn Duyên giác. Đây gọi là nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, cũng tu tập đạo không có nhàm chán, có thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, vì chúng sinh nên thuyết giảng pháp hữu vi, lìa tất cả tướng mạo của thân khẩu ý, được pháp nhẫn không sinh không diệt sâu xa. Lúc thực hành sáu hạnh, nhập định diệt tận, nay trong hạnh nầy tuy niệm niêm diệt mà không giữ lấy Niết-bàn. Đây gọi là không thể nghó bàn, tuy cùng chung hành của tất cả chúng sinh và hành Bồ-đề, nhưng không bị pháp thế gian làm nhiễm ô. Ngoài ra như trên đã nói. Tu ba môn giải thoát, điều phục chúng sinh, không khiến trụ nơi Thanh văn Duyên giác, điều phục chúng sinh lìa năm thứ dục, đoạn các tà kiến, lúc tu tập như vậy tức pháp thiện tăng trưởng, không thể hủy hoại hay làm dời chuyển tâm ấy. Ví như vàng ròng tô điểm cho các báu giá trị vô lượng, công đức của Bồ-tát cũng lại như vậy, vô lượng vô biên không thể tính kể. Lại như ánh sáng mặt trời, tất cả chúng sinh đều không thể nghó bàn. Ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát cũng lại như vậy. Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập hạnh nầy, vì khiến chúng sinh được vô lượng ức Tam-muội, phá trừ tất cả tâm chấp giữ tướng, được phương tiện thiện xảo và tu tập đạo, thấy thế giới Phật và được giải thoát, có thể hội nhập các pháp môn thâm diệu, được đầy đủ pháp trợ Bồ-đề, vónh viễn đọan trừ pháp tịnh và bất tịnh, làm viên mãn đạo Bồ-đề trang nghiêm, thanh tịnh tâm nghiệp, hiểu biết tất cả phương thuật thế gian nên được vô lượng pháp môn và các Tam-muội, không cùng đồng hành với Thanh văn Duyên giác. Ngoài ra như nơi địa Viễn hành trong mười trụ đã nói. Địa Viễn hành và hành hạnh không có sai khác. Bồ tát thực hành hạnh vô tướng có những tướng gì? Bồ-tát Ma-ha- tát lúc trụ nơi hạnh thứ nhất, có được mười pháp hạnh, biết các nghóa pháp, và biết ba đời không sinh không diệt, quá khứ không sinh, vị lai không diệt, hiện tại không tướng, do không nhân duyên nên không sinh không diệt, do đó tướng đệ nhất nghóa là không thể tuyên thuyết, không thể thuyết pháp, nhưng có thể lưu hành khắp. Tuy có thể lưu hành khắp mà thật không tánh, do tánh vô tướng nên không nhân không quả, nhưng không thể thuyết tánh, không thể thuyết không. Vì sao? Vì có thể thuyết. Nếu có thể thuyết tánh tức là có tướng. Đây gọi là tướng tà. Nếu là có vật mà không thể thuyết, tức là không có sự khác nhau nơi đầu, giữa, cuối, cho nên trong tất cả thời, phiền não không hành, nhập chánh pháp giới, không có tư duy, tâm được bình đẳng xa lìa lưới nghi. Đầy đủ mười thứ trí như vậy là đã nhập vào hành thứ tám. Bồ-tát Ma- ha-tát lúc trụ ở hành nầy, tức được pháp nhẫn vô sinh tịch tónh. Lại có bốn điều dốc cầu tất cả pháp, có bốn chân trí biết tất cả pháp. Do cầu, biết nên có thể đoạn tất cả các tà nghiệp, do đoạn các tà nghiệp nên thấy phiền não không sinh trở lại. Vì sao? Là do thuộc về quá khứ. Lại thấy tất cả phiền não không diệt. Vì sao? Vì không sinh nhân. Hiện tại không khởi các phiền não kiết, do không có nhân tập. Bốn điều dốc cầu như trong phẩm chân thật đã nói. Bốn trí chân thật như trong phần giải hạnh đã nêu. Hạnh nầy gọi là pháp nhẫn tịch tónh, nên Bồ-tát được nhẫn vô sinh, do được nhẫn vô sinh nên được hạnh Bồ-tát thâm diệu. Lúc trụ nơi hạnh sâu xa tức thực hành hạnh vô tướng, nếu có lỗi lầm và tướng vi tế, nay đều được xa lìa, nên hạnh nầy gọi là tịch tónh. Trụ nơi hạnh sâu xa rồi ưa trụ nơi dòng chảy của pháp, vô lượng chư Phật khuyên phát an ủi. Do khuyên phát nên khởi nhập pháp môn, do đắc pháp môn nên đạt được mười tâm tự tại. Do được tự tại nên muốn trụ gần lâu, tùy ý liền được, muốn nhập định nào tùy ý tức nhập, muốn thực hành gì tức tùy ý tu hành, ở trong một niệm tùy chỗ cần dùng vật liền có được. Nếu muốn hiểu rõ phương tiện của thế gian tức có thể hiểu. Muốn sinh về các cõi, tùy ý vãng sinh, muốn thị hiện thần thông tùy ý liền hiện, muốn lập thệ nguyện tùy ý liền được, muốn tạo các pháp quán tùy ý thành tựu, muốn biết pháp giới tức có thể biết, muốn biết văn tự, câu chữ, chỗ đúng pháp hoặc chỗ phi pháp, tùy ý tức có thể nhận biết. Đây gọi là công đức của tám hạnh tự tại, ở trong mỗi niệm thường thấy chư Phật, ngoài ra như trên đã nói. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc trụ ở hành nầy, vì phá trừ tướng chấp trước của chúng sinh, vì thấy chân thật đệ nhất nghóa, nên được tuệ chân thật, được nhẫn vô sinh tịch tónh, biết hạnh sâu xa, trụ ở dòng pháp, vào cửa pháp Phật, vào pháp môn bất khả tư nghì, ở trong pháp Phật tâm không thể hoại, không lay động, được vô lượng thần túc, được mười thứ tự tại, nên được mười thứ công đức tự tại, thiện căn tịch tónh, ở nơi tất cả cõi tự tại vãng sinh. Ngoài ra như trong địa Bất động thuộc mười trụ đã nói. Bồ tát thực hành hạnh bốn vô ngại có những tướng gì? Bồ-tát Ma- ha-tát thực hành hạnh thâm diệu không có nhàm chán, tu tuệ vô thượng, đầy đủ tất cả pháp, vì chúng sinh mà thuyết giảng về pháp giới đã được biết rõ. Pháp giới tức là phiền não cấu và tịnh, ai cấu, ai tịnh, đều biết rõ ràng, thuyết giảng tất cả pháp như vậy gọi là đại pháp sư, gọi là thành tựu vô lượng Đà-la-ni, biết phương tiện thuyết về từ, nghóa vô tận, thọ pháp, trì pháp, tùy theo niệm của chúng sinh mà nêu giảng, phi thời thì không thuyết, tùy chỗ ưa thích mà thuyết giảng. Đây gọi là hạnh bốn trí vô ngại của Bồ-tát. Bồ-tát Ma-ha-tát trụ ở hạnh nầy, vì các chúng sinh mà hội nhập tịch tónh, vì các chúng sinh mà nhận biết pháp giới, làm các bậc đại pháp sư bất khả tư nghì của các chúng sinh, vì tăng trưởng pháp thiện, nói rộng như trong địa Thiện tuệ thuộc mười trụ đã nêu. Vì nhằm ban cho chúng sinh sự vui vẻ an ổn. Bồ-tát Ma-ha-tát trụ trong hạnh vô ngại, so với ý nghóa trong địa Thiện tuệ không có sai khác. Bồ tát trụ nơi hạnh Bồ-tát có những tướng gì? Bồ-tát Ma-ha-tát làm thanh tịnh hạnh vô ngại, muốn làm Pháp vương nên nhập Tam- muội tịnh, muốn đầy đủ Nhất thiết trí, sau cùng chứng đắc pháp môn Tam-muội đồng như chư Phật, thực hành tất cả hạnh, biết tất cả pháp, biết phương tiện giải thoát, biết chốn thực hành của Phật, biết vô lượng môn Đà-la-ni giải thoát, biết ức niệm lớn, biết đại thần thông, thiện căn tịch tónh, biết làm thanh tịnh các hữu, phần còn lại như trong địa Pháp vân thuộc mười trụ đã nói. Đầy đủ sự trang nghiêm của Bồ-tát, hạnh Bồ-tát, đạo Bồ-đề nơi địa Pháp vân. Cùng với chư Phật đắc Bồ-đề rồi, ban cho chúng sinh vô lượng mưa pháp, mưa pháp như vậy có thể xua tan tất cả bụi bặm của phiền não, phát sinh hạt giống thiện, mầm thiện, thiện căn tăng trưởng thành thục, cho nên địa nầy có tên là Pháp vân. Vì nghóa ấy nên gọi là hạnh Bồ-tát. Nếu nói công đức của địa sau thì địa trước không có. Tu mỗi mỗi hạnh cần trải qua vô lượng na-do- tha kiếp mới có thể đầy đủ ba a-tăng-kỳ đại kiếp mới đạt được tất cả hạnh. A-tăng-kỳ đại kiếp thứ nhất được hạnh giải. Qua hạnh giải rồi, đại a-tăng-kỳ kiếp thứ hai được hạnh hỷ, lúc được hạnh hỷ cũng được hành hạnh vô tướng. Qua hạnh vô tướng rồi, a-tăng-kỳ đại kiếp thứ ba được hạnh vô hành vô tướng, gọi là Bồ-tát được hạnh quyết định. Qua hạnh vô hành vô tướng, được hạnh trí vô ngại. Qua hạnh trí vô ngại thì được hạnh Bồ-tát. A-tăng-kỳ kiếp có hai loại: Một là đại kiếp không thể tính kể gọi là a-tăng-kỳ. Hai là trung kiếp không thể tính kể gọi là a-tăng-kỳ. Bồ-tát tu hạnh tức là đại kiếp a-tăng-kỳ. Nếu có Bồ-tát siêng tu tinh tấn có thể chuyển vô lượng trung kiếp, nhưng không thể chuyển đại kiếp. Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập hạnh như vậy có thể phá diệt chướng phiền não và chướng trí tuệ. Lúc thực hành vô tướng, đoạn trừ tất cả tướng phiền não, hạnh sau thì vónh viễn đoạn trừ tập khí. Đây gọi là hạnh Như Lai. Chướng trí tuệ có ba: Một là phần da. Hai là phần thịt. Ba là phần xương. Lúc được hạnh hỷ đã đoạn trừ phần da của chướng. Khi đạt được hạnh vô tướng có thể đoạn trừ phần thịt của chướng. Lúc được hạnh Như Lai tức có thể đoạn trừ phần xương của chướng. Đầy đủ các hạnh như vậy tức được mười một thứ tịnh: Hạnh thứ nhất đạt được tánh tịnh. Hạnh thứ hai đạt được giải tịnh. Hạnh thứ ba đạt được tâm tịnh. Hạnh thứ tư đạt được giới tịnh. Hạnh thứ năm đạt được nguyện tịnh. Hạnh thứ sáu, thứ bảy, thứ tám đạt được trí trang nghiêm tịnh. Hạnh thứ chín đạt được đầy đủ Bồ-đề trang nghiêm tịnh. Hạnh thứ mười đạt được chân thật trí tịnh. Hạnh thứ mười một đạt được trí vô ngại tịnh. Hạnh thứ mười hai đạt được nhất thiết trí tịnh. Hạnh thứ mười ba đạt được tập khí tịnh. Hạnh thứ nhất và thứ hai nghe tạng Bồ-tát liền được tâm tin. Hạnh thứ ba chí tâm lập nguyện tu tập các hạnh khác. Hạnh thứ tư, thứ năm và thứ sáu hiểu biết pháp tướng. Hạnh thứ bảy cho đến hạnh thứ mười ba là hành nhân quả rốt ráo của tất cả hạnh tịch tónh. Hàng Thanh văn cũng có mười hai thứ hạnh: Hạnh thứ nhất có tánh Thanh văn. Hạnh thứ hai là được đệ nhất pháp của thế gian. Hạnh thứ ba là đắc khổ pháp nhẫn. Hạnh thứ tư là được bốn tâm tin, giới được thanh tịnh. Hạnh thứ năm là pháp như giới trụ được tăng trưởng. Nếu quán bốn đế tức gọi là hạnh thứ sáu, thứ bảy, thứ tám. Hạnh thứ chín là tu tập Tam-muội vô tướng. Hạnh thứ mười là thành tựu đầy đủ ba Tam-muội. Hạnh thứ mười một là đạt được giải thoát. Hạnh thứ mười hai là đắc quả A-la-hán.  <詞>Phẩm 1: SINH CỦA ĐỊA RỐT RÁO Sinh hữu của Bồ-tát có năm thứ nhất thiết là nhất thiết hạnh, nhất thiết Bồ-tát tịnh, vì khiến cho chúng sinh được an ổn vui vẻ. Một là xa lìa khổ hữu. Hai là tùy tâm hành hữu. Ba là thắng hữu. Bốn là tự tại hữu. Năm là Bồ-tát hậu hữu. Xa lìa khổ hữu tức là Bồ-tát nếu thấy chúng sinh đói khát khổ não, mất mùa gặp nạn, lúc ấy Bồ-tát dùng nguyện lực thọ thân làm cá lớn vô lượng do tuần để bố thí cho chúng sinh. Chúng sinh ăn rồi, đói khát được trừ, do nguyện lực nên thân dần tăng lớn. Nếu có tất cả chúng sinh trong đời ác, bị bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh đồng thời phát ra, lúc ấy Bồ-tát dùng đại nguyện lực làm vị thầy thuốc lớn, có thể khiến chúng sinh xa lìa bệnh khổ. Nếu gặp đời ác binh đao cùng khởi, chúng sinh đều sợ hãi, hoặc vua chúa tranh giành đất đai không biết chán đủ, lúc ấy Bồ-tát làm vị đại Pháp vương có uy lực lớn, bèn dùng phương tiện khéo léo làm cho hai bên hòa hợp, dùng lời nói hòa nhã phá trừ tâm ác, không đánh, không phạt, không bắt, không giam, không đoạn mạng căn, không cướp của cải, xem tất cả chúng sinh như con một, gia tâm thương xót. Nếu có người tà kiến, vì cúng tế trời đất mà tạo nghiệp tà, Bồ-tát vì nhằm phá trừ tà kiến như thế mà thị hiện thọ thân quỷ, hoặc hiện trong mộng bảo: Nay ngươi không nên giết trâu dê để cúng tế. Như vậy, Bồ-tát vì phá trừ khổ não cho chúng sinh mà thị hiện thọ các hữu. Đây gọi là xa lìa khổ hữu. Tùy tâm hành hữu, tức là Bồ-tát Ma-ha-tát dùng nguyện lực thị hiện thọ thân các loài súc sinh, vì phá diệt các nghiệp ác của súc sinh nên làm thân quỷ ác, làm thân người ác, hoặc làm thân Bà-la-môn tà kiến, hoặc thị hiện thân tham năm dục, trước tùy theo tâm thị hiện thọ các hữu, vì khiến chúng sinh xa lìa các nghiệp ác, tuy thọ thân ác mà không tạo nghiệp ác, hoặc thấy người làm ác mà mình trọn không làm, chúng sinh thấy rồi cũng bắt chước không làm, dùng phương tiện hay để phá trừ các nghiệp ác hiện có của chúng sinh. Đây gọi là tùy tâm hành hữu. Thắng hữu tức là Bồ-tát lúc sinh ra đã hơn hẳn các chúng sinh, hoặc về chủng tộc, hoặc sắc lực, hoặc mạng, hoặc quả báo, về quả báo như trong phẩm tự lợi, lợi tha đã nói. Đây gọi là thắng hữu. Tự tại hữu tức là tu tập hạnh hỷ cho đến mười hai hạnh. Lúc ấy Bồ-tát thị hiện thọ thân, gọi là tự tại. Tự tại tức là nguyện lực, từ tánh địa cho đến mười hai hạnh, thọ thân Chuyển luân vương, hoặc thân trời Tự Tại, cho đến thân trời A-ca-ni-trá, vượt qua tất cả hữu nơi cõi trời A- ca-ni-trá, ở trong các hữu được thân vô thượng, do nguyện lực và nghiệp lực. Đây gọi là tự tại hữu. Bồ-tát hậu hữu tức thân sau cùng của Bồ-tát, gọi là Bồ-tát hậu hữu, thành tựu đầy đủ trang nghiêm Bồ-đề, hoặc sinh ở dòng Bà-la- môn, hoặc dòng Sát đế lợi, chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, làm tất cả Phật sự. Đây gọi là Bồ-tát hậu hữu. Đời quá khứ, Bồ-tát Ma-ha-tát cũng thọ năm hữu như vậy. Các Bồ-tát thời hiện tại, vị lai cũng lại như vậy. Nhân năm hữu nầy mà chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Nếu có Bồ-tát tu hành thị hiện thọ năm hữu nầy, tức chứng đắc đạo quả Bồ- đề vô thượng. <篇>KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI <卷>QUYỂN 9 <詞>Phẩm 2: THÂU GIỮ CỦA ĐỊA RỐT RÁO Bồ-tát Ma-ha-tát lúc tu tất cả hạnh có sáu việc để khéo thâu giữ chúng sinh: Một là chí tâm thâu giữ. Hai là tăng ích thâu giữ. Ba là thâu giữ chọn lấy. Bốn là cứu cánh thâu giữ. Năm là thâu giữ không rốt ráo. Sáu là hậu thâu giữ. Bồ-tát Ma-ha-tát vào lúc ban đầu phát tâm, thâu giữ chúng sinh như cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, chí tâm nhớ nghó tạo phương tiện thâu giữ, làm sao có thể ban cho chúng sinh sự an lạc? Lúc phát nguyện ấy thì tùy lực mà ban cho. Đây gọi là Bồ-tát chí tâm thâu giữ. Bồ-tát Ma-ha-tát tuy có tâm thù thắng đối với cha mẹ và anh em, vợ con, quyến thuộc, nhưng tâm thù thắng không kiêu mạn, mà còn gia tăng sự cúng dường. Nếu làm quốc vương nói với quyến thuộc cũng lại như thế. Tăng ích tức là phá trừ pháp ác, dạy cho pháp thiện, tùy thời lễ bái khen ngợi, cúng dường y phục, thức ăn và những vật cần dùng, biết ân báo ân, thăm bệnh cho thuốc, đối với tôi tớ không nghó là hạ tiện mà nghó như anh em. Nếu thấy người có tội thường dùng lời nhẹ nhàng khuyên bảo, không nói lời ác. Nếu làm quốc vương, đối với quyến thuộc không tăng thêm sự đau khổ, không đoạn mạng căn của họ, xa lìa hình phạt, dùng chánh pháp trị nước. Đối với nước khác không sinh tâm tham lam chiếm đoạt, bảo hộ muôn dân, xem như con một, nếu có của cải thì cùng hưởng chung với quyến thuộc, lời nói thành thật dịu dàng không nói lời thô xa lìa bỏn sẻn. Đây gọi là Bồ-tát tăng ích thâu giữ. Bồ-tát Ma-ha-tát thâu giữ chúng sinh có hai nhân duyên: Một là tài thí. Hai là pháp thí. Do tài thí mà phá bỏ sự bần cùng. Do pháp thí mà phá trừ tà kiến. Đối với các chúng sinh luôn giữ tâm bình đẳng, không bỏn sẻn, không kiêu mạn, không cầu báo ân, không cầu cúng dường. Nếu có người cầu phước đến cúng dường thì cũng không ngăn cấm, vì muốn họ được tăng trưởng phước đức trang nghiêm. Nếu có người tu tập pháp thiện, trì giới tinh tấn, nên thân cận cúng dường, vì họ mà làm việc hỗ trợ. Có người không hiểu nghóa nên vì họ mà giải nghóa. Người đã hiểu rồi cũng giảng nói khiến được tăng trưởng. Có người nghi ngờ nên thuyết giảng nghóa sâu xa khiến trừ lưới nghi. Có người phạm tội dùng phương tiện hay dạy họ sám hối, có lúc quở trách có lúc khen ngợi. Thấy người bệnh khổ thì đến chăm sóc không bỏ, khéo dùng phương tiện khiến trừ khổ hoạn. Nếu thấy chúng sinh sắc tướng, tinh tấn ý niệm trí tuệ thấp kém, thì tâm không khinh mạn mà tùy thời vì thuyết giảng về nhân duyên chánh tâm, thấy người sầu khổ nên thuyết pháp an ủi. Luôn khéo tự suy nghó, không tin theo lời người khác, không gì có thể làm cho loạn động. Nếu có lợi dưỡng nên hưởng chung với mọi người, tu tập tâm bi, thành tựu đầy đủ. Hoặc thấy người sống theo chánh mạng thì nên đến thăm viếng hỏi han, xa lìa tâm ác, thường tu pháp thiện, trọn không phóng dật, lìa bỏ biếng nhác, thường phát nguyện: Làm sao để phước đức của ta ngang bằng tất cả. Bồ-tát Ma-ha-tát chẳng phải tất cả thời thực hành thâu giữ chọn lấy. Lúc có lợi ích mới thâu giữ. Đây gọi là Bồ-tát thâu giữ chọn lấy. Như có chúng sinh căn tánh ám độn, thiện căn khó thành thục thì thâu giữ lâu xa. Vì sao? Vì cuối cùng sẽ có tâm thanh tịnh. Nếu người có căn tánh trung bình, thành thục trung bình, thì không lâu xa. Vì sao? Vì không bao lâu sẽ được tâm tịnh. Nếu người căn tánh lanh lợi, dễ thành thục, thì Bồ-tát liền giúp họ thành thục, thanh tịnh, điều phục. Đây gọi là Bồ-tát hậu hữu thâu giữ. Bồ-tát dùng sáu thứ thâu giữ trên để thâu giữ giáo hóa tất cả chúng sinh trong ba đời. Bồ-tát trong đời quá khứ, hiện tại, vị lai giáo hóa chúng sinh, đều không xa lìa sáu pháp thâu giữ ấy. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc thâu giữ chúng sinh có mười hai việc khó: Một là Bồ-tát Ma-ha-tát biết không có ngã, không có ngã sở, không có chúng sinh, nhưng vì chúng sinh nên tu tập khổ hạnh. Hai là vì điều phục người khác nên có quở trách, cũng tự hộ giới không khiến hủy phạm. Ba là vật có thì ít mà người xin thì nhiều. Bốn là Bồ-tát chỉ một thân mà thuộc về nhiều người, luôn đi lại cung cấp. Năm là đồng thọ thân phóng dật như chư Thiên, nhưng trong tâm không có phóng dật. Sáu là thường vì tất cả chúng sinh mà làm tôi tớ, tự giữ giới cấm không có hủy phạm. Bảy là cùng ở chung với các người ác, đủ tham dục, sân hận, ngu si bỏn sẻn, dối gạt, gian trá, nhưng không làm theo họ. Tám là hiểu biết sinh tử có nhiều khổ hoạn mà không xả bỏ. Chín là có tất cả phiền não sinh tử khổ hoạn, lúc xả mạng căn tâm chưa thanh tịnh. Tuy chưa thanh tịnh mà không mất chánh niệm. Mười là chưa được tâm tịnh, nhưng có thể đem của cải của mình yêu mến, cả vợ con, quyến thuộc để bố thí cho người. Mười một là tâm chúng sinh khác biệt, cảnh giới không đồng, hoặc lúc nói nhẹ nhàng hoặc lúc xả bỏ. Mười hai là trọn không phóng dật, không đoạn dứt phiền não. Bồ-tát Ma-ha-tát đối với chúng sinh không phân biệt hơn kém, hoặc lúc xem nhẹ, hoặc lúc coi trọng, hoặc quán cảnh giới, hoặc thời lập nguyện, hoặc không phóng dật, hoặc tu trí tuệ, hoặc nói nhẹ nhàng, hoặc lúc quở trách, hoặc lúc xả bỏ, hoặc siêng năng tinh tấn, hoặc thời biếng nhác, hoặc làm phương tiện. Bồ-tát Ma-ha-tát thực hành như vậy, đối với mười hai chỗ khó trên, tâm không ưu sầu, hối hận, tức đã có thể tự lợi, lại có thể lợi tha. -------------------- <詞>Phẩm 3: CỨU CÁNH CỦA ĐỊA RỐT RÁO Bồ-tát Ma-ha-tát tu mười hai hạnh có bảy địa, sáu thứ là Địa Bồ- tát, còn một địa là Thanh văn và Bồ-tát cùng chung. Một là địa tánh. Hai là địa giải. Ba là địa tâm tịnh. Bốn là địa trì. Năm là địa định. Sáu là địa định hạnh. Bảy là địa rốt ráo. Trên đây là bảy địa. Hạnh tánh, hạnh giải mỗi thứ là một địa. Hạnh hỷ gọi là địa tâm tịnh. Hạnh giới, hạnh tuệ và hạnh vô tướng hợp làm địa trì. Hạnh vô hành, vô tướng gọi là địa định, hạnh trí vô ngại gọi là địa định hạnh. Hạnh Như Lai gọi là địa rốt ráo. Địa rốt ráo thì phần sau sẽ nói rộng. Bồ-tát lúc từ hạ địa nhập vào địa tâm tịnh, làm sao có thể đoạn trừ sự khổ trong ba đường ác? Bồ-tát tu tập thiền thế tục hữu lậu, tu tập thiền đó rồi thì được thiền thanh tịnh của thế gian, sau đấy tức được địa giải, trang nghiêm Bồ-đề, tu tập một trăm mười thứ tâm bi, do tu tâm bi nên ở trong chúng sinh có được tâm bi, vì đạt được tâm bi nên thích ba đường ác như nhà của mình. Bồ-tát tự quán xét trụ trong ba đường ác, lúc trang nghiêm Bồ-đề vì chúng sinh nên thọ đại khổ não, khéo lập đại nguyện: Như ta tâm tịnh và có uy lực, nguyện cho các chúng sinh đang chịu khổ não đều tụ tập nơi thân ta, do lực của nguyện thiện nên thân tâm xa lìa tập khí phiền não, do xa lìa tập khí nên chuyển thân bốn đại. Bốn đại đã chuyển, vì thiền thanh tịnh của thế gian nên không dẫn đến ba đường ác. Vì thế Bồ-tát đoạn khổ trong ba đường ác, qua địa giải rồi nhập ở địa tịnh, các công đức khác như nơi mười tâm tịnh trong phẩm hạnh đã nói rõ. Mười pháp tịnh nầy có mười thứ đối trị: Một là tâm không làm. Hai là tâm không phát khởi. Ba là tâm không thọ giới Bồ-tát. Bốn là tâm bất tín. Năm là tâm ác. Sáu là tâm không tu tập bi. Bảy là tâm sân. Tám là tâm ưu sầu hối hận. Chín là tâm không từ. Mười là tâm phóng dật. Đó là nói về thô tháo, tham tiếc thân mạng, không tùy thuận thế gian, biếng nhác trể nãi, không có hổ thẹn, bị khổ não bức thân, nghi ngờ, khiếp nhược, không thể cúng dường Phật Pháp Tăng bảo. Như vậy là các pháp bất tịnh cần đối trị. Trong mười pháp tịnh, ba pháp đầu là làm thanh tịnh tâm, bảy pháp sau là làm tịnh nơi sự trang nghiêm. Bồ-tát Ma-ha-tát tin ở Bồ-đề và đạo Bồ-đề, do tin nơi đạo Bồ-đề nên thấy chúng sinh khổ liền sinh tâm đại bi, vì khởi tâm từ bi nên phát nguyện: Nguyện ta cứu giúp các khổ như vậy. Do lòng thương xót nên xả thân bố thí không có tham tiếc, vì đem lợi ích cho chúng sinh nên tâm không ưu sầu hối hận. Do tâm không hối hận nên biết các thứ phương thuật thế gian, do biết các thứ phương thuật thế gian nên khéo biết thời tiết, tùy thuận tâm ý của chúng sinh, do biết thời tiết nên gọi là biết thế gian. Vì có trí lực nên khi các khách trần phiền não tìm đến đều sinh tâm xấu hổ, do xấu hổ nên khiến phiền não không được mặc sức thao túng. Đây gọi là dũng mãnh. Do dũng mãnh nên không có phóng dật, do không có phóng dật nên tu tập pháp thiện, do tu tập pháp thiện nên thọ giới Bồ-tát, do thọ giới Bồ-tát nên cúng dường Tam bảo, do cúng dườmg Tam bảo nên trong tâm thanh tịnh. Đây gọi là địa tịnh. ---------------------- <詞>Phẩm 4: HẠNH CỦA ĐỊA RỐT RÁO Bồ-tát Ma-ha-tát trụ ở địa giải cho đến địa Bồ-tát gồm có bốn hạnh: Một là hạnh Ba-la-mật. Hai là hạnh Bồ-đề. Ba là hạnh thần thông. Bốn là hạnh thành thục chúng sinh. Hạnh Ba-la-mật tức là sáu pháp Ba-la-mật như trước đã nói, cùng thêm Phương tiện Ba-la-mật, Nguyện Ba-la-mật, Lực Ba-la-mật và Trí Ba-la-mật. Mười thứ Ba-la-mật như vậy gọi là hạnh Ba-la-mật. Phương tiện thiện có mười hai thứ, như trước đã nói. Đây gọi là Phương tiện Ba- la-mật. Mười lực trang nghiêm thanh tịnh gọi là Lực Ba-la-mật. Biết tất cả pháp, xứ và phi xứ, gọi là Trí Ba-la-mật. Biết đế thế gian cũng gọi là Trí Ba-la-mật. Biết đế đệ nhất nghóa gọi là Bát nhã Ba-la-mật. Lại nữa, trí vô lượng gọi là Phương tiện Ba-la-mật. Trí cầu thắng gọi là Nguyện Ba-la-mật. Không bị chướng ngại do bốn ma gọi là Lực Ba-la-mật. Có thể nhận biết tánh chân thật của các pháp nên gọi là Trí Ba-la-mật. Bốn niệm xứ cho đến tám chánh đạo, bốn cầu, bốn chân trí như trước đã nói. Đây gọi là thần thông của hạnh Bồ-đề, như trong phẩm Bất khả tư nghì đã nêu. Sáu pháp thần thông như trước đã thuyết giảng. Đây gọi là hạnh thần thông. Hai thứ vô lượng là vô lượng điều phục và vô lượng phương tiện như trước đã nói. Đây gọi là hạnh thành thục. Bồ-tát Ma-ha-tát có bốn hạnh như vậy nên thâu giữ tất cả các ha- ïnh. Bồ-tát Ma-ha-tát trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, đầy đủ rốt ráo các pháp thiện thanh tịnh, hơn hẳn các hàng Thanh văn, Duyên giác, thâu giữ trọn vẹn đạo quả Bồ-đề, do rốt ráo nên có thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, nên gọi là mười Ba-la-mật. Nếu nói về thứ lớp tức có ba việc: Một là đối trị. Hai là sinh. Ba là đắc quả. Đối lại với pháp thiện có sáu việc: Một là xan tham. Hai là nghiệp ác. Ba là tâm sân. Bốn là biếng nhác. Năm là tán loạn. Sáu là ngu si. Do nhân duyên của sáu pháp nầy nên không thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Vì muốn phá trừ sáu pháp ấy nên thuyết giảng sáu pháp Ba-la-mật, từ Bố thí Ba-la-mật cho đến Trí tuệ Ba-la-mật. Sáu Ba-la-mật trước tức gồm thâu bốn Ba-la-mật sau. Đấy gọi là đối trị. Sinh tức là Bồ-tát Ma-ha-tát xả bỏ tất cả vật ở thế gian, xuất gia tu đạo. Đây là Bố thí Ba-la-mật. Đã xuất gia rồi thì thọ giới Bồ-tát. Đấy gọi là Trì giới Ba-la-mật. Do hộ giới nên dù bị đánh mắng cũng cam chịu, không báo thù. Đấy là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Giới đã thanh tịnh thì siêng tu pháp thiện. Đấy là Tinh tấn Ba-la-mật. Do tinh tấn nên điều phục được năm căn. Đấy là Thiền Ba-la-mật. Năm căn đã điều phục, nên biết rõ pháp giới chân thật. Đấy là Trí tuệ Ba-la-mật. Trên đây tức là sinh. Quả báo tức là hiện tại Bồ-tát tu các pháp thiện như bố thí v.v…, nếu xả thân mình, bên ngoài được nhiều tài vật, bên trong đầy đủ năm thứ. Năm thứ đầy đủ nghóa là sinh vào cõi trời người có thọ mạng, sắc đẹp, sức mạnh, an lạc và biện tài. Đây là quả báo của bố thí. Do nhân duyên bố thí mà tu tập pháp thiện, tâm không ganh ghét, nhẫn nhục đối với các thứ tội lỗi. Đây là đầy đủ quả báo thứ hai. Do nhân duyên bố thí nên làm việc thế gian và xuất thế gian, tâm không nhàm chán hối hận. Đây là quả báo thứ ba. Do nhân duyên bố thí nên tâm được nhu hòa không có tán loạn. Đây là quả báo thứ tư. Do nhân duyên bố thí nên hiểu rõ đây là ruộng phước, đây chẳng phải là ruộng phước, biết đây đáng bố thí, đây không đáng bố thí, khéo biết phương tiện cầu tài vật, giữ tài vật. Đây là quả báo thứ năm. Bốn Ba-la-mật sau thâu giữ sáu Ba-la-mật trước có ba giới: Một là giới tùy giới. Hai là giới tùy tâm. Ba là giới tùy trí. Bồ-tát trì giới Ba-la-mật gọi là giới tùy giới. Thiền Ba-la- mật gọi là giới tùy tâm. Trí tuệ Ba-la-mật gọi là giới tùy trí. Xa lìa ba thứ giới nầy thì không có giới Bồ-tát. Bồ-tát có ba giới nầy thâu giữ tất cả giới. Lại có bốn việc tạo lợi ích cho chúng sinh: Một là ở nơi Bồ-đề tu tập pháp thiện. Hai là dùng trí chân thật biết nghóa các pháp. Ba là tăng trưởng pháp thiện. Bốn là thành tựu căn tánh của chúng sinh. Bốn việc như vậy, Bồ-tát có thể làm lợi ích cho chúng sinh. Nếu nói xa lìa bốn việc ấy mà có thể tạo lợi ích cho chúng sinh, thật không có điều ấy. --------------------- <詞>Phẩm 5: BA MƯƠI HAI TƯỚNG TỐT TÁM MƯƠI VẺ ĐẸP CỦA ĐỊA RỐT RÁO Mười ba hạnh Như Lai, gọi là Phật địa rốt ráo. Phật địa có một trăm bốn mươi pháp bất cộng, đó là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, bốn nhất thiết hạnh tịnh, mười lực, bốn vô sở úy, ba niệm xứ, ba bất hộ, đại bi, thường không quyên mất, đoạn tập khí phiền não, nhất thiết trí. Đây gọi là một trăm bốn mươi pháp bất cộng. Ba mươi hai tướng tốt gồm có: Dưới bàn chân bằng phẳng. Dưới bàn chân có xoáy tròn như bánh xe ngàn căm. Ngón tay thon dài. Ngón chân đầy đặn. Trong kẻ tay, kẽ chân có da mỏng như lưới. Tay chân mềm mại. Bắp chân như tướng nai chúa. Nam căn ẩn kín. Đứng thẳng tay dài quá gối. Mu bàn chân nổi cao đầy đặn. Thân đầy đặn như cây Ni câu đà. Lông ở thân mượt mà. Mỗi lỗ chân lông đều xoay bên phải. Thân có sắc vàng. Quanh mình có hào quang chiếu ra một trượng. Da thịt mềm mại không dính bụi bặm. Hai chân, hai tay, hai vai và đỉnh đầu đều đầy đặn. Thân như sư tử. Hai nách đều đặn. Thân thể ngay ngắn. Hai vai tròn, cân phân. Miệng có bốn mươi cái răng. Răng khít không thưa. Răng màu sắc trắng. Hai má cao đầy đặn như sư tử. Nước bọt trong miệng thơm. Trên đỉnh đầu có thịt nhô cao. Lưỡi dài rộng. Âm thanh vang như giọng Phạm thiên. Mắt màu xanh biếc. Mắt như trâu chúa. Có lông trắng giữa chặng mày. Tám mươi vẻ đẹp: Hai mươi ngón tay chân là hai mươi vẻ đẹp. Tay chân trong ngoài tám chỗ bằng phẳng đầy đặn. Gót chân, đầu gối, bắp chân sáu chỗ tốt đẹp. Tay có ba tụ. Hai vai, hai khuỷu tay và hai cổ tay là sáu chỗ đầy đặn. Hai bên eo là hai chỗ đẹp. Mã tàng và hai bắp tay là ba chỗ đẹp. Eo, rốn, hai sườn, hai nách, hai ngực là tám chỗ đẹp. Bụng, ngực, cổ, cộng chung là sáu mươi chỗ đẹp. Răng trên dưới, môi miệng trên dưới, hai má, hai tai, hai mắt, hai mũi, dưới cằm, trên trán, đầu tròn đầy. Trên đây là tám mươi vẻ đẹp. Bồ-tát Ma-ha-tát trụ ở địa tịnh rồi, do nghiệp lực nên tuy được tám mươi vẻ đẹp như vậy mà vẫn chưa sáng, tịnh. Lúc thành đạo bên gốc cây mới được sáng suốt, thanh tịnh. Lúc chưa thanh tịnh, sáng suốt hoàn toàn gọi là hạnh địa Bồ-tát. Trang nghiêm Bồ-đề có hai thứ: Một là gần. Hai là xa. Xa tức chưa được quả báo của ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, nếu được thì gọi là gần. Nói ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, là nhằm khiến cho chúng sinh tạo nghiệp thiện. Chúng sinh tạo các nghiệp ác, do nghiệp ác nên có quả báo xấu, vì thế Như Lai nói ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, các thứ nghiệp thiện, các thứ quả thiện, chúng sinh nghe rồi tức phá trừ được những nghiệp ác. Bồ-tát chí tâm tu trì tịnh giới nên có tướng dưới bàn chân bằng phẳng. Cúng dường cha mẹ, Hòa thượng, sư trưởng và người có đức, do nhân duyên nầy nên được tướng dưới bàn chân có xoáy tròn như bánh xe. Đối với chúng sinh không sinh tâm hại, không có ý tưởng cướp đoạt, nếu thấy cha mẹ, sư trưởng, Hòa thượng và người có đức thì nghinh đón, sắp đặt giường tòa, cung kính lễ bái, phá trừ kiêu mạn, do nhân duyên nầy nên có tướng ngón tay thon dài. Đầy đủ ba hạnh trên nên có tướng gót chân đầy đặn. Dùng bốn nhiếp pháp thâu giữ chúng sinh, do nhân duyên nầy nên được tướng kẽ tay kẽ chân có màng như lưới. Vì ưa thích dùng dầu tô tắm rửa cha mẹ, Hòa thượng, sư trưởng và người có đức, do nhân duyên nầy nên tay chân được mềm mại. Do nhân duyên tu tập pháp thiện không biết chán đủ nên có tướng bắp chân như nai chúa. Do nhân duyên nghe pháp hoan hỷ, vì người diễn nói nên có tướng nam căn không hiện. Ba nghiệp thanh tịnh, nuôi bệnh cho thuốc, phá trừ kiêu mạn, ăn uống biết đủ, do nhân duyên ấy nên có tướng đứng thẳng tay dài quá gối. Thấy người phân ly khéo nói cho hòa hợp, tự tu pháp hổ thẹn, cũng dạy người tu, do nhân duyên ấy nên có tướng mu bàn chân nổi cao đầy đặn. Tự thanh tịnh ba nghiệp, cũng dạy người thanh tịnh, nếu có chúng sinh bị bệnh trong người, thì có thể trị liệu, do nhân duyên ấy nên có tướng thân đầy đặn. Nghe pháp hoan hỷ, ưa vì người thuyết, do nhân duyên nầy nên có tướng lông trên thân toát ra màu xanh. Suy nghó ý nghóa sâu xa của các pháp, ưa tu pháp thiện, cúng dường cha mẹ, Hòa thượng, sư trưởng và người có đức, như đi giữa đường dọn dẹp gai góc hoặc vật bất tịnh nơi tháp của Phật, Tăng, do nhân duyên ấy nên có tướng lông trên thân quay về bên phải. Do nhân duyên dùng thức ăn và anh lạc bố thí cho người, trừ bỏ tâm sân mà có được hai tướng: Một là thân sắc vàng. Hai là quanh mình thường có hào quang. Do nghiệp duyên nầy mà thân mềm mại, bụi bặm không dính. Thường ban cho chúng sinh những vật cần dùng, do nhân duyên ấy nên có tướng bảy chỗ đều đặn. Tự phá kiêu mạn, điều phục tâm tánh, tùy tâm chúng sinh, như pháp thực hành, vì trừ bất thiện, nên dạy pháp thiện, do nhân duyên nầy mà thân có tướng như sư tử, có tướng hai vai đầy đặn, hai nách bằng phẳng. Do nghiệp duyên gì mà có tướng ngón tay mềm mại? Tức do nghiệp duyên nầy mà có tướng thân thể ngay ngắn. Xa lìa nghiệp hai lưỡi cùng tranh cãi, do nhân duyên ấy mà có tướng bốn mươi cái răng, răng đều và bằng phẳng. Tu từ bi nơi cõi dục, do nhân duyên ấy mà có tướng răng màu sắc trắng. Thấy người đến xin hoan hỷ nghinh đón, do nhân duyên ấy mà có tướng hai má cao đầy đặn. Xem chúng sinh bình đẳng như con một, do nhân duyên ấy mà được tướng bọt trong miệng có mùi thơm. Thường ban cho chúng sinh pháp vị vô thượng, thấy có người quên ban cho sự nhớ nghó, tự nghó năm giới và chuyển dạy cho mọi người, tu tập tâm bi hay thí pháp lớn. Do nhân duyên nầy mà được tướng trên đỉnh đầu có thịt nhô cao, có tướng lưỡi dài rộng. Nói lời thật, lời hoan hỷ, lời pháp, lời nhẹ nhàng, phi thời tức không nói. Do nhân duyên nầy nên có âm thanh như giọng Phạm thiên. Tu tập tâm bi, xem các chúng sinh giống như cha mẹ, do nhân duyên nầy mà mà được tướng: Một là mắt màu xanh biếc. Hai là mắt như trâu chúa. Thấy người có đức liền khen ngợi tán thán, do nhân duyên nầy mà có tướng lông trắng giữa chặng mày. Ba mươi hai tướng, tuy mỗi mỗi đều nói về từng nhân duyên, nhưng nhân duyên chính là trì giới, tinh tấn. Vì sao? Nếu không trì giới, siêng tu tinh tấn thì thân người còn không có được, huống là ba mươi hai tướng? Tướng không thấy đảnh và tướng nhục kế là như nhau không sai khác. Lại nữa, phàm làm việc, tâm định không hối hận, do nhân duyên nầy mà có tướng dưới chân bằng phẳng. Hoặc chí tâm làm, do nhân duyên nầy mà được tướng dưới bàn chân có xoáy tròn như bánh xe. Tướng thứ hai, thứ ba: kẽ tay, kẽ chân có màng mỏng. Bảy chỗ đều đầy đặn, mềm mại, hai vai tròn đầy, thân cao thẳng, lưỡi dài rộng. Hoặc mình thường làm, do nhân duyên nầy mà có tướng tay thon dài, đứng thẳng tay dài quá gối, ánh sáng chiếu xa một tầm, răng khít, không thưa thớt. Hoặc thanh tịnh mà làm, do nhân duyên nầy mà có các tướng khác. Lại nữa, đối với chúng sinh luôn sinh tâm thuần thiện, do nhân duyên nầy nên có tướng tay chân mềm mại, thân thể trơn láng, bụi bặm không dính. Lần lượt tu tập, theo thời tiết tu tập, do nhân duyên ấy mà có tướng thứ hai, thứ ba, thứ tư. Ưa tu pháp thiện tâm không hối hận, do nhân duyên nầy mà được thân sắc vàng, thường có hào quang, răng màu sắc trắng, có lông trắng giữa chặng mày. Hoặc được khen ngợi không sinh kiêu mạn, che giấu điều tốt không để người biết, do nhân duyên ấy mà có tướng nam căn ẩn kín. Chỗ tu pháp thiện đều hồi hướng đến đạo Bồ-đề, do nhân duyên nầy mà có tướng lông trên thân đều toát ra màu xanh, lông đều xoay về bên phải, miệng có bốn mươi cái răng, nước bọt có mùi thơm. Do nhân duyên siêng tu tinh tấn mà có tướng hai má cao đầy đặn, thân như sư tử. Do nhân duyên chí tâm thương mến chúng sinh như con một, nên có tướng răng bằng và khít, măt màu xanh biếc và như mắt trâu chúa. Do nhân duyên tu tập pháp thiện không biết chán đủ mà có các tướng khác. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc trụ ở hạnh tánh, tu nghiệp ba mươi hai tướng. Lúc trụ ở hạnh tịnh tuy có ba mươi hai tướng như vậy, mà tướng không đầy đủ, nên chưa được thanh tịnh sáng suốt. Khi trụ ở mười ba hạnh mới được hiển bày sáng rõ, đầy đủ tất cả pháp Phật. Tuy vô lượng tướng mà không đồng với chúng sinh, có bậc thượng, trung, hạ không thể nghó bàn, nên Phật thuyết ba mươi hai tướng, tất cả chúng sinh hiện có công đức, hòa hợp tu tập, chính là cùng với tướng một lông trên thân của Như Lai bằng nhau. Hết thảy lỗ chân lông hiện có công đức hòa hợp tụ tập thành một tướng tốt, tập hợp công đức hiện có của các tướng tốt, tăng đến trăm lần mới thành một tướng, chỉ trừ tướng lông trắng giữa chặng mày và tướng không thấy đảnh. Tập hợp tất cả các tướng còn lại, tăng đến ngàn lần thành ra hai tướng. tập hợp các công đức hiện có của ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp, tăng đến ngàn vạn ức lần mới thành âm thanh sâu xa của Như Lai. Âm thanh ấy vang đến vô lượng vô biên thế giới của chư Phật. Như Lai thành tựu vô lượng vô biên công đức như vậy, do nghóa nầy nên Như Lai Thế Tôn gọi là vô thượng, pháp thực hành gọi là hạnh vô thượng, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp có ba thứ vô lượng: Một là ba kiếp vô lượng. Hai là tu thiện vô lượng. Ba là lợi ích cho chúng sinh vô lượng. Cho nên nói Như Lai thành tựu vô lượng công đức. ----------------------- <詞>Phẩm 6: TRỤ CỦA ĐỊA RỐT RÁO Bồ-tát có bốn thứ thanh tịnh: Môt là thân tịnh. Hai là duyên tịnh. Ba là tâm tịnh. Bốn là trí tịnh. Vónh viễn đoạn trừ tập khí được pháp khí thanh tịnh, thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng, thân được tự tại, sinh diệt tùy ý. Đây gọi là thân tịnh. Thần thông tự tại gọi là duyên tịnh. Tu tập pháp thiện, tâm lìa phiền não gọi là tâm tịnh. Biết tất cả các pháp không có trở ngại, được trí tự tại, biết tất cả các pháp hành. Đây gọi là trí tịnh. Bồ-tát do bốn pháp thanh tịnh nầy mà được mười lực: Một là trí lực biết chỗ hợp lý và không. Hai là trí lực biết nghiệp báo. Ba là trí lực biết các thiền định giải thoát. Bốn là trí lực biết các căn chúng sinh lợi hoặc độn. Năm là trí lực biết mọi hiểu biết của chúng sinh. Sáu là trí lực biết cảnh giới của chúng sinh. Bảy là trí lực biết các đạo, người tu hành đạt đến. Tám là trí lực biết đời quá khứ. Chín là trí lực biết vận dụng thiên nhãn nhìn thấy sinh tử và nghiệp thiện ác của chúng sinh. Mười là trí lực dứt hết các lậu. Lời nói của Như Lai là chân thật không hai, nên gọi là Đa đà a già độ (Như Lai). Nếu nói về quả thiện và quả bất thiện, nhân duyên chân thật, thể chân thật, tánh chân thật, trụ chân thật, sinh chân thật, đây là chỗ có đạo lý (Thị xứ). Quả thiện và bất thiện, chẳng phải nhân làm nhân. Đây gọi là chỗ không đạo lý (Phi xứ). Trí phá trừ kiêu mạn gọi là trí chân thật, gọi là nhất thiết trí, gọi là trí vô ngại, gọi là trí tịnh, gọi là trí lìa mạn. Tính theo thứ lớp nên gọi là đệ nhất lực. Không gì hơn nên gọi là hạnh nhất thiết. Tạo lợi ích cho chúng sinh phá trừ các ma nên gọi là lực. Chân thật trang nghiêm được tự tại nên gọi là đầy đủ. Có thể phá trừ tất cả sự sợ hãi nên gọi là Niết-bàn. Nhân nơi tám chánh đạo, nhân phá các khổ nên gọi là vô thượng. Như pháp mà trụ nên gọi là chân thật. Tự mình được pháp thanh tịnh, thương xót chúng sinh diễn nói giáo pháp, nên gọi là Phạm luân. Phạm luân gọi là Như Lai. Như Lai gọi là trong mát, gọi là giới. Thọ trì tịnh giới, như giới mà thuyết. Đây gọi là thanh tịnh. Thuyết đúng, thuyết thật, vì lợi ích mà thuyết, thuyết rộng lớn, thuyết vô ngại, thuyết hết thảy, thuyết rốt ráo, thuyết vô thượng, thuyết vô lậu, thuyết vô vi, thuyết ngoại, thuyết hiện tiền. Đây gọi là tiếng gầm của đại sư tử. Thuyết phương tiện thiện, thuyết nhân chân thật, do nhân duyên chân thật nên được quả chân thật, đó là quả báo ở cõi trời người và vô thượng. Do quả báo vô thượng nên gọi là vô thượng. Nếu tạo nghiệp rồi tăng trưởng được quả, gọi là quá khứ. Có tạo nghiệp rồi chưa thọ quả báo cũng gọi là quá khứ. Chưa tạo tác nghiệp muốn tạo tác, chưa được quả báo muốn được. Đây gọi là vị lai. Đã tạo nghiệp rồi, chưa được quả báo, nghiệp thọ rồi diệt quá khứ, đây gọi là hiện tại. Nghiệp quá khứ, hiện tại, vị lai có ba thứ: Nghóa là quả của thân, khẩu ý. Chỗ nào tạo tác nghiệp thiện của thân, khẩu ý thì nơi ấy đắc quả. Chỗ nào tạo tác nghiệp ác của thân, khẩu ý thì xứ ấy đắc quả. Đây gọi là thị xứ. Nghiệp của thuần thiện không có quả ác. Đây gọi là phi xứ. Nghiệp ác bất thiện, không có quả thiện. Đây gọi là phi xứ. Nghiệp ở cõi người, không thọ quả báo ở địa ngục. Đây gọi là phi xứ. Nghiệp ở địa ngục không thọ quả báo ở cõi người. Đây gọi là phi xứ. Chỉ trừ có thể tu giới tâm, tuệ nơi thân khiến quả báo của địa ngục ở trong cõi người được thọ nhẹ. Do tương tợ nên gọi là quả báo địa ngục. Trong cõi người thọ quả báo nhẹ nên gọi là quả báo của cõi người. Đây gọi là thị xứ phi xứ. Bốn thiền, tám giải thoát, các pháp như vậy tự tại tu đắc. Do tự tại nên Như Lai thường ở nơi Tam-muội thuyết pháp. Phạm thiên vương chỉ nghe âm thanh không thấy hình tướng. Như vậy, các thiền định giải thoát có hai thứ phiền não: Một là chưa được mà lo rầu muốn được. Hai là đã được rồi mà lo rầu thoái mất. Như Lai đã đoạn được hai thứ phiền não nầy, nên được đại tự tại. Biết tất cả tâm tưởng của các chúng sinh, tuy hiểu rõ mà tâm không tham đắm, không sinh mừng vui. Tu tập đầy đủ, muốn đắc liền đắc, đắc rồi không thối thất, cho nên gọi là lực của thiền định giải thoát thứ ba. Biết tín, tấn, niệm, định, tuệ có bậc thượng, trung, hạ. Từ nghe mà sinh, từ chánh tư duy mà sinh. Đây gọi là lực căn. Biết thượng, trung, hạ dục, đây gọi là lực hiểu. Biết các thứ tánh, tánh Thanh văn, tánh Duyên giác, tánh Như Lai, tánh chúng sinh tham, cho đến tám vạn bốn ngàn tánh phiền não. Đây gọi là lực thứ năm. Biết nhân nơi phiền não có được các thân nơi thế giới. Đây gọi là lực thứ sáu. Biết mỗi phiền não đều có cách để đối trị, biết tất cả hữu cũng đều có đối trị, biết phá trừ tất cả kiến ác tà. Đây gọi là lực của chỗ đạt đạo. Hiểu rõ bốn phương với vô số các loại chúng sinh, các thứ danh tự. Chúng sinh quá khứ nghó nhớ tám việc: Một là danh. Hai là sinh. Ba là tánh. Bốn là thức ăn. Năm là thọ khổ vui. Sáu là thọ mạng. Bảy là trụ. Tám là mạng chung. Lại nghó nhớ sáu việc: Một là danh tự. Hai là chủng tộc như Sát lợi… Ba là cha mẹ thân tộc. Bốn là thức ăn. Năm là giàu nghèo. Sáu là sống lâu hoặc chết sớm. Đây gọi là lực thứ tám. Cõi trời thực hành gọi là bốn thiền, do đắc quả bốn thiền nên gọi là thiên nhãn. Đầy đủ quả thuần thiện nên gọi là thanh tịnh. Mắt thấy không đồng nên gọi là vượt quá thiên nhãn. Cũng có thiên nhãn dục giới, tuy tên đồng, nhưng do bất tịnh nên không gọi là thiên nhãn. Người có thiên nhãn nhận biết thấy chúng sinh đọa, người đọa gọi là trời, lại có người đọa gọi là người chết. Sinh thì gọi là trung ấm. Trung ấm có hai thứ: Một là thiện. Hai là bất thiện. Trung ấm bất thiện màu sắc như áo lông đen, vào lúc đêm tối chỉ có mắt thanh tịnh mới thấy. Thiên nhãn thanh tịnh thấy sắc trung ấm cũng lại như vậy. Trung ấm thiện màu sắc như áo mới xứ Ba-la-nại, vào lúc trăng sáng mắt thanh tịnh mới thấy. Thiên nhãn thanh tịnh thấy sắc trung ấm cũng lại như vậy. Sắc đen gọi là chúng sinh hangï thấp, do nhân duyên tạo nghiệp thân, khẩu, ý ác nên gọi là hạ hành, do nhân duyên tạo nghiệp thân, khẩu, ý thiện nên gọi là hạng cao. Nghiệp ác gọi là tà kiến. Tà kiến có hai loại: Một là có thể chuyển. Hai là không thể chuyển. Phỉ báng nhân quả, nói không có Thánh nhân, gọi là không thể chuyển. Không phải nhân thấy nhân, không phải quả thấy quả, gọi là có thể chuyển. Cho nên nghiệp ác gọi là tà kiến, nghiệp thiện gọi là chánh kiến. Không phỉ báng bốn đế, tin nghiệp thiện ác, quả báo chân thật, cho nên nghiệp thiện gọi là chánh kiến. Do nhân duyên nghiệp ác nên chết đọa vào địa ngục, thọ quả báo không vui, nên gọi là điạ ngục. Phóng dật tạo nghiệp ác, ắt dẫn đến địa ngục. Thấy rõ nhân quả nên gọi là thiên nhãn. Do nhân duyên nghiệp thiện nên không vào đường ác, thọ quả báo vui, thọ thân trời người. Do chánh kiến nên được sinh cõi thiện, sinh về cõi thiện gọi là trời, người, thấy được rõ ràng nên gọi là thiên nhãn. Thế nào là cõi thiện? Do nhân duyên thiện mà được quả thiện. Đây gọi là cõi thiện. Trên đây gọi là lực thứ chín. Do nhân duyên tu giới tâm tuệ nơi thân, đoạn tất cả lậu, vì đoạn trừ lậu nên được thân giới tâm tuệ vô lậu. Thân giới tâm tuệ vô lậu có hai thứ: Kiến đạo và tu đạo. Do hai thứ nầy nên tâm được giải thoát, tuệ được giải thoát. Tâm và tuệ được giải thoát nên có thể thị hiện thần thông, giáo hóa chúng sinh. Đây gọi là lực thứ mười. Bồ-tát có mười lực tức: Biết tánh, biết phân biệt, biết tự tướng, cộng tướng, bất cộng tướng, biết bình đẳng, biết nghiệp, biết thứ lớp, biết thắng và chẳng thắng. Bồ-tát có thể biết bảy việc như vậy. Biết tánh tức là tánh của mười lực là tánh của năm căn, do tuệ nhiều nên gọi là tánh trí, cho nên nói trí xứ phi xứ, không nói tín xứ phi xứ, cho đến dứt hết lậu cũng lại như vậy. Phân biệt gồm có ba thứ: Một là phân biệt thời. Hai là phân biệt hành. Ba là phân biệt tự tướng, cộng tướng. Mười lực có thể biết tất cả thời, đó là quá khứ, hiện tai, vị lai. Đây gọi là phân biệt thời. Mười lực có thể biết tất cả cách đối trị vô lượng phiền não trong mười phương thế giới. Đây gọi là phân biệt hạnh. Mười lực có thể biết tất cả sắc tướng. Đây gọi là tự tướng. Biết sắc là vô thường, cho đến tất cả pháp là vô thường. Đấy gọi là cộng tướng. Đây gọi là phân biệt tự tướng cộng tướng. Bất cộng nghóa là mười lực không cùng chung với tất cả hàng Thanh văn Duyên giác. Chư Phật ở mười phương đồng được mười lực. Đây gọi là bình đẳng. Biết nghiệp tức là lực của xứ và phi xứ. Nhân thật biết nhân, quả thật biết quả, tức là lực thứ hai. Như Lai biết rõ quả báo nơi nghiệp của mình, cũng biết nghiệp quả của chúng sinh. Nhân nơi lực thiền định giải thoát nên Như Lai được ba thứ thị hiện có thể điều phục chúng sinh. Nhân biết căn lực nên hiểu biết căn tánh thượng, trung, hạ, của chúng sinh, vì biết căn nên tùy căn mà thuyết pháp. Nhân hiểu rõ lực nên Như Lai hiểu biết tánh thiện tánh ác của tất cả chúng sinh, vì trừ tánh ác nên dạy cho tánh thiện. Nhân biết lực thế giới lực nên Như Lai thường thực hành pháp thế gian, nhưng không bị pháp thế gian làm nhiễm ô. Do biết thế giới nên biết cảnh giới của chúng sinh, do biết giới chúng sinh nên tùy căn, tùy tâm, tùy phiền não mà thuyết pháp. Thế nào là Như Lai ban đầu dạy chúng sinh khiến nhập pháp Phật? Nếu Như Lai ban đầu dạy Thanh văn, Bồ-tát nhập pháp Phật thì nói lời: Nầy thiện nam! Ông nên tu tập, ưa thích vắng lặng, ở một mình chỗ yên tónh. Lúc mới sinh ông, cha mẹ vì ông mà đặt tên gọi, cho đến chư Phật, Hòa thượng đặt cho tên gọi, phải chí tâm quán xét. Như tên nầy của mình là do cha mẹ, Hòa thượng đặt ra. Đối với sáu nhập trong ngoài có hay không có? Thiện nam! Nếu lìa sáu nhập trong ngoài mà không thấy có, lúc nầy ông sẽ được trí chân thật. Biết tên gọi ấy là hư giả không thật, pháp cũng không thật, tên cũng không thật, tên và pháp đã không thật thì sao đối với điều ấy sinh khởi kiêu mạn. Thiện nam! Vào lúc nầy, ông nên quán sát mắt và tên gọi của mắt. Mắt có hai thứ: Một là tên gọi. Hai là lưu hành khắp. Tên của mắt chẳng phải mắt, tướng của mắt chẳng phải mắt, nếu có một vật gọi là mắt thì vật nầy cũng không có. Nếu thật có mắt thì tên cũng nên thật có. Nếu là chân thật thì lúc chúng sinh sinh ra sự hiểu biết không cần dạy bảo, vật chưa thấy không cần dạy mà có thể biết. Do nghóa nầy nên biết tên cũng không thật, vật cũng không thật. Nhãn thức cũng như vậy. Lúc quan sát như thế thì đoạn trừ được tham đắm nơi các nhập trong ngoài. Do đoạn trừ tham trong ngoài nên đoạn tướng của tất cả các pháp. Do đoạn trừ tướng của tất cả các pháp nên biết chân thật tánh của tất cả pháp. Tánh của tất cả pháp nghóa là không chân thật, không có tướng mạo. Nầy thiện nam! Lúc quán sát như vậy, nếu muốn được nhất thiết trí, muốn được đại từ đại bi, muốn được sơ thiền cho đến phi tưởng phi phi tưởng, muốn được hạnh tánh cho đến hạnh Như Lai, muốn được địa Bồ-tát với sáu thông cho đến đạo quả Bồ-đề vô thượng, tất cả đều có thể đạt được. Đây gọi là lực thứ sáu. Nhân nơi trí lực đến xứ đạo mà biết đạo chân thật, đạo không chân thật, phá tan đạo không chân thật, chỉ bày đạo chân thật. Nhân nơi trí lực biết đời quá khứ nên biết thọ các khổ, biết mình không ưa sinh tử, cũng dạy chúng sinh không ưa sinh tử, phá trừ thường kiến. Nhân nơi trí lực vận dụng thiên nhãn mà thọ ký cho người, dứt trừ đoạn kiến. Nhân nơi trí lực lậu tận mà Như Lai tự biết mình được giải thoát, có thể phá trừ kiến chấp của chúng sinh, thấy chẳng phải là Như Lai mà cho là Như Lai thật, thấy chẳng phải Sa-môn mà nói thật là Sa-môn, chẳng phải người phạm hạnh mà nói là thật phạm hạnh. Lúc Như Lai chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, được mười lực ấy thì cùng lúc mà chứng đắc. Tại sao nói có thứ lớp? Lúc Như Lai chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, ban đầu quán xét nhân quả nên ban đầu gọi là lực xứ phi xứ. Như vậy, nhân quả ai làm, ai thọ. Đây gọi là nghiệp lực. Do phá trừ ng- hiệp nên tu tập thiền định. Vì biết chúng sinh ai có thể tu tập, ai không thể tu tập nên quán xét các căn. Căn cơ có ba hạng thượng, trung, hạ. Đây gọi là tánh chúng sinh, là lực thứ năm. Do biết tánh nên biết tâm tịnh và bất tịnh. Đây gọi là thế giới. Muốn biết nhân duyên tâm tịnh và bất tịnh nên biết đến xứ đạo. Đạo như vậy là đoạn trừ thường kiến và đoạn kiến. Đây gọi là lực túc mạng, lực thiên nhãn. Do đoạn trừ thường kiến và đoạn kiến nên các lậu vónh viễn hết sạch. Đây gọi là lực lậu tận, là thứ lớp. Lại có thứ lớp: Lúc Như Lai chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, trước hết quán xét thị xứ phi xứ, thứ đến quán xét nghiệp thế gian. Do phá bỏ nghiệp thế gian nên quán xét thiền định giải thoát, và quán xét chúng sinh có thể tu đạo hoặc không thể. Thứ đến dùng thiên nhãn thấy căn tánh lợi hoặc độn của các chúng sinh, là nhằm muốn nhận biết. Ngoài ra như trước đã nói. Lại có thứ lớp: Lúc Như Lai chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, quán xét về thị xứ phi xứ của mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên do đâu mà có, cho nên quán xét nghiệp. Các nghiệp của chúng sinh hoặc có thọ báo hoặc không thọ báo. Dùng thiên nhãn quán xét những gì? Vì chúng sinh cho nên quán xét pháp giới. Đây gọi là giải. Pháp giới và thế giới không có sai khác. Muốn biết người khó điều phục và dễ điều phục, nên biết về thọ mạng đời trước. Vì biết người thọ nhận lời dạy hoặc không thọ nhận, nên biết căn tánh lợi và độn, biết rồi nên thuyết giảng tám chánh đạo, gọi là “đến xứ đạo”. Do lực đạo nên đoạn trừ được các phiền não. Đây gọi là lực lậu tận. Lực thị xứ phi xứ và lực nghiệp có gì sai khác? Nghiệp thiện, nghiệp ác biết rõ quả thiện cho đến quả ác. Đây gọi là lực thị xứ phi xứ. Tạo tác nhất định có thọ nhận, không làm thì không thọ nhận. Đây gọi là biết lực nghiệp. Vì muốn điều phục nghiệp bất thiện cho nên tu tập thiền định. Điều phục có hai thứ: Một là tín. Hai là bất tín. Cho nên quán xét căn tín tâm có hai loại: Một là tin Tam bảo. Hai là tin trời Ma-hê-thủ-la. Đây gọi là giải thoát, có ba hạng thượng, trung, hạ, nên gọi là lực thế giới. Biết thế giới rồi thuyết về đạo thế gian, đạo Thanh văn, đạo Duyên giác, đạo Bồ-tát, đạo Phật. Đây gọi là trí lực biết “đến xứ đạo”. Quán xét nhân thiện, nhân ác, nghiệp nặng, nghiệp nhẹ của chúng sinh. Đây gọi là trí lực túc mạng. Nhân biết như vậy nên đoạn trừ thường kiến đoạn kiến. Đây gọi là thiên nhãn. Do thấy chân thật nên các lậu vónh viễn đoạn hết. Đây gọi là lực lậu tận. Tánh của mười lực đều là tánh trí không có sai khác, do duyên nơi cảnh giới nên nói có sai khác. Bốn vô sở úy như thường nói. Như Lai vì chúng sinh nên nói bốn việc: Một là giải thoát nơi pháp bất cộng của Thanh văn. Hai là Thanh văn cộng giải thoát. Ba là giải thoát chúng sinh khổ. Bốn là vì chúng sinh nên đoạn khổ đạt giải thoát, thuyết giảng pháp đối trị. Thanh văn bất cộng: Nghóa là chỗ hiểu biết của ngã. Nếu nói có pháp mà ông không biết: Ta cũng không thấy Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc người, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm thiên, như pháp mà nói là không biết không thấy. Do không thấy, nên không sinh xấu hổ, sợ sệt, nói lậu của ta đã hết, hoặc nói không hết. Không thấy Sa-môn cho đến ma, phạm, như thật mà nói, lậu của ông chưa hết, do không thấy nên không sinh xấu hổ, sợ sệt, nói ta đã đắc đạo. Nếu nói đạo nầy chẳng phải rốt ráo: Ta cũng không thấy có các Sa-môn cho đến ma phạm, như thật mà nói, ông chưa đắc đạo, chẳng phải là rốt ráo. Do không thấy nên không sinh xấu hổ, sợ sệt, ta nói là chướng ngại đạo. Nếu nói không chướng, ta cũng không thấy có các Sa-môn cho đến ma phạm, như thật mà nói, thuyết chướng chẳng phải chướng. Do không thấy nên không sinh xấu hổ, sợ sệt. Phật thuyết giảng đạo là vì các Bồ-tát và các Thanh văn. Sau khi Phật Niết-bàn, lúc kết tập kinh tạng, trong tạng Thanh văn đã loại trừ tên Bồ-tát, trong tạng Bồ-tát để tên Bồ-tát. Cho nên kinh Phương Đẳng gọi là tạng Bồ-tát. Thanh văn bất cộng nghóa là ba niệm xứ của Như Lai. Như Lai thuyết pháp, chí tâm nghe nhận, tâm được hoan hỷ, thọ các an lạc, như pháp mà trụ. Không trái với giáo pháp Phật Phật cũng không vui, tu tập tâm xả không mất chánh niệm, cũng không phóng dật. Như Lai thuyết pháp, có người không tin nhận, trái lời Phật dạy, Phật cũng không sân, không có sầu não. Tu tập tâm xả không mất chánh niệm, cũng không phóng dật, Như Lai thuyết pháp, hoặc có người nghe, hoặc có kẻ không nghe. Có người nghe cũng không vui, không nghe cũng không sầu, vẫn tu tập tâm xả, không mất chánh niệm, cũng không phóng dật. Trên đây gọi là ba niệm xứ. Lại có điều không cùng chung với Thanh văn, đó là ba thứ bất hộ. Như Lai không hộ mạng thân khẩu. Có A-la-hán nghiệp vô ký, nghóa là tâm mất niệm. Nghiệp vô ký gọi là Đột-kiết-la (Ác tác). Như Lai đã đoạn tất cả nghiệp vô ký. Vì sao? Do thường tu chánh niệm. Cho nên Như Lai tùy tâm mà thuyết giảng nói lời quở trách quyến thuộc. Đó là xua trừ lời nói thô, tâm không sợ khó. Vì sao? Do mạng thân khẩu thanh tịnh. Lại có điều không cùng chung với Thanh văn. Đó là đại bi, như trước đã nói. Như Lai làm việc gì, làm chỗ nào, do nhân duyên gì làm, làm thế nào, làm lúc nào? Các việc như vậy đều có thể biết như thật. Đây gọi là tâm niệm. Như Lai biết rõ về việc gì, đó là tất cả hạnh. Làm chỗ nào, đó là tất cả thế giới. Do nhân duyên gì làm, đó là điều phục chúng sinh. Làm thế nào, đó là phương tiện thiện. Làm vào lúc nào, đó là tất cả thời. Cho nên Như Lai thường tu tâm chánh niệm. Đức Như Lai Thế Tôn hoặc động, hoặc tónh, hoặc nói, hoặc làm, hoặc đi, hoặc đứng, trong tất cả thời đều không có tập khí phiền não, cho nên nói Như Lai vónh viễn đoạn trừ tập khí phiền não. A-la-hán thì không như vậy, cho nên Như Lai không cùng chung với Thanh văn. Như Lai hiểu biết rõ về ba thứ pháp tụ: Một là tụ của nghóa được lợi ích. Hai là tụ của nghóa chẳng lợi ích. Ba là tụ của nghóa chẳng lợi ích chẳng phải không lợi ích. Như Lai biết rõ ba tụ như vậy, cho nên nói Như Lai đắc Nhất thiết trí. Như vậy một trăm bốn mươi pháp bất cộng không cùng chung với hàng Thanh văn, Duyên giác, cho nên gọi là Thanh văn bất cộng. Bồ-tát lúc thực hành có được ba mươi hai tương tốt, tám mươi vẻ đẹp, nhưng không tịnh minh (thanh tịnh, sáng suốt), khi ngồi nơi gốc cây không có thầy mà tự tu tập ba mươi bảy phẩm mới được tịnh minh. Học địa Bồ-tát, được Tam-muội kim cang rồi, niệm thứ hai tiếp theo chứng đắc mười lực, tất cả pháp Phật, cho đến tất cả trí tịnh. Do chứng đắc như thế nên gọi là Nhất thiết trí, trí vô ngại, trí vô chướng, trí tịnh, trí tịch tónh, trí thanh tịnh, trí đầy đủ. Đây gọi là địa rốt ráo. Vượt qua tất cả hạnh Bồ-tát, địa Bồ-tát, vào địa Như Lai, hạnh Như Lai được thân vô thượng, chuyển thân Bồ-tát, vónh viễn đoạn trừ tập khí, trụ nơi địa rốt ráo. Bồ-tát Ma-ha-tát thấy pháp Phật như thấy gạo trong lúa, Như Lai Thế Tôn đều không như vậy, nên gọi là tịnh. Bồ-tát trụ nơi địa rốt ráo thấy pháp Phật như ở xa nhìn sắc, chư Phật thấy pháp như ở gần nhìn sắc. Bồ-tát nơi địa rốt ráo thấy pháp Phật như ở nơi tối nhìn sắc, chư Phật thấy pháp như ban ngày nhìn sắc. Bồ-tát rốt ráo như chưa ra khỏi thai, chư Phật Thế Tôn như đã ra khỏi thai. Bồ-tát rốt ráo như chỗ thấy trong mộng, chư Phật Thế Tôn như tỉnh thấy vật. Bồ-tát rốt ráo như đèn không sáng, chư Phật Thế Tôn như đèn sáng rực. Bồ-tát chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng rồi, có thể ở nơi tất cả chư Phật, Thế Tôn mà làm Phật sự. Làm Phật sự gồm có chín việc, mỗi mỗi việc đều tạo lợi ích lớn cho vô lượng chúng sinh. Một là tự mình làm việc của bậc đại trượng phu, có thể khiến chúng sinh tin nơi việc trượng phu. Hai là dùng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm nơi thân tướng, vì lợi ích cho chúng sinh mà phá trừ lưới nghi. Ba là Như Lai đầy đủ mười lực, do đầy đủ mười lực nên có thể đem lại lợi ích cho chúng sinh. Nếu có người hỏi thế nào là lực, thì có thể khéo giải thích, phá trừ tâm nghi, điều phục chúng sinh, dứt bỏ tà kiến. Bốn là Như Lai đầy đủ bốn vô sở úy, đó là tin Tam bảo, điều phục chúng sinh, phá tà kiến là tiếng gầm của đại sư tử. Năm là Như Lai đầy đủ ba niệm xứ, như thuyết mà làm, như việc làm mà thuyết, phá các phiền não, có thể nuôi dưỡng đồ chúng, có thể giáo hóa chúng sinh. Sáu là Như Lai đầy đủ ba pháp Bất hộ, vì tạo lợi ích cho chúng sinh, vì nhằm điều phục chúng sinh, đêm ngày thường dùng Phật nhãn quán sát chúng sinh. Bảy là Như Lai đầy đủ đại bi, vì đầy đủ nhẫn nhục Ba-la-mật, vì khiến chúng sinh lìa các khổ não, ban cho chúng sinh sự an lạc. Tám là Như Lai đầy đủ không có sai lầm, không mất chánh niệm, cho nên không có thầy, vẫn như pháp mà trụ, như pháp mà hành, làm lợi ích cho chúng sinh khiến họ được điều phục, phá trừ các thứ phóng dật của chúng sinh. Chín là Như Lai vónh viễn đoạn hết tập khí phiền não, biết nghóa pháp, phi nghóa pháp, phi nghóa phi phi nghóa pháp. Vì thế Như Lai thuyết giảng về nghóa pháp, lìa phi nghóa pháp và phi nghóa phi phi nghóa pháp, tức Như Lai đầy đủ một trăm bốn mươi pháp bất cộng. Chín việc như vậy tức có thể làm Phật sự. Đây gọi là hạnh Như Lai, gọi là địa Như Lai, gọi là địa rốt ráo của Như Lai. Vì sao? Vì hạnh Như Lai, địa Như Lai, địa rốt ráo của Như Lai, ở trong vô lượng ức na-do-tha kiếp thọ giới Bồ-tát, tu hạnh Bồ-tát, Bồ-tát rốt ráo có thể dạy vô lượng vô biên chúng sinh trụ nơi địa rốt ráo. Tất cả pháp Phật của Như Lai đều vì chúng sinh không vì tự mình, pháp của Thanh văn Duyên giác chỉ vì tự lợi, ít có lợi tha, cho nên hàng Nhị thừa không có pháp bất cộng. Pháp Phật vô thượng trọn không tương tợ như pháp của Thanh văn, Duyên giác, đại bi không sai lầm khi đoạn trừ tập khí. Nhất thiết trí, năm trí, Tam-muội, Như Lai đầy đủ tất cả pháp bất cộng, cho nên gọi là vô thượng. Kinh nầy diễn nói về giới Bồ-tát, quả của đạo Bồ-tát, giới Bồ- tát, hạnh của tất cả Bồ-tát, hành quả nơi giới của tất cả Bồ-tát, do đó gọi là địa Bồ-tát. Tạng Bồ-tát, luận Bồ-tát, thâu giữ tất cả kinh điển Đại thừa, kinh trí vô ngại. Nếu là trời hoặc người, hoặc Sa-môn, Bà-la-môn tin kinh điển nầy, hoặc thọ trì, nghe giảng, đọc tụng, biên chép, rộng nói, tu tập, phân biệt ý nghóa, thấy người thọ trì liền cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán, dùng hoa hương, đèn đuốc, kỹ nhạc mà cúng dường, phải biết người ấy thường được chư Phật mười phương hộ niệm, xưng nói danh tự, có được vô lượng nhóm công đức. Vì sao? Bồ-tát do nhân duyên giới mà chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, do thọ trì đọc tụng, biên chép, giải nói giới Bồ-tát, mà chánh pháp của Như Lai được ở đời lâu, không diệt, các Tỳ-khưu ác dần được tổn giảm. Nếu không có giới Bồ-tát, thì các Tỳ-khưu ác sẽ dần tăng mạnh, chánh pháp của Như Lai không bao lâu sẽ tàn diệt. Bấy giờ, Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Kinh nầy gọi là kinh gì? Phật dạy: Nầy Tôn giả Ưu-ba-ly! Đây gọi là Thiện giới, gọi là Địa Bồ-tát, gọi là Tỳ-ni (Luật) Ma-di (Luận) của Bồ-tát, gọi là Như Lai tạng, gọi là căn bản của tất cả pháp thiện, gọi là nhân an lạc, gọi là các tụ Ba- la-mật. Tôn giả Ưu-ba-ly nghe Phật giảng nói xong liền hoan hỷ lễ bái, đi nhiễu quanh Phật rồi cáo lui. LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 106