<經 id="n1554">LUẬN NHẬP A TỲ ĐẠT MA HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1554 LUẬN NHẬP A TỲ ĐẠT MA Tác giả: A-la-hán Tắc-Kiến-Đà-La. Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng. Đời Đường vâng chiếu dịch. <卷>QUYỂN THƯỢNG Kính lạy Nhất thiết trí Mặt trời Phật không nhơ Lời sáng mở người trời Nẻo ác che bản tâm Và các lý đối pháp Dứt trừ tướng ngu si Con đảnh lễ như thế Nhất Thiết trí nói Tạng, Tuệ kém tối vọng ngữ Ngăn lấp lời Phật dạy Chiếu soi do đèn sáng Kính lạy bậc thắp đèn. Người có trí tuệ thông minh có thể thọ trì các nghĩa văn giáo huấn tôn quý của đấng Mâu-ni nhưng do câu nệ sự nghiệp nên chưa được bất thối. Người có trí tuệ kém cỏi, nghe danh, nghĩa trong pháp đối trị quá phức tạp như rừng rậm, rồi sinh ra nỗi sợ hãi. Nhưng người ấy thường có tâm tìm tòi, hiểu biết rõ ràng. Vì muốn cho người đó đối với vị trí sâu thẳm trong biển pháp tướng của A-tỳ-đạt-ma, được vui thích dễ vào, nên tôi soạn luận này. Nói là Tông Thiện Thệ có tám cú nghĩa: Sắc. Thọ. Tưởng. Hành. Thức. Hư không. Trạch diệt. Phi trạch diệt. Đây là gồm chung tất cả nghĩa. Sắc có hai thứ: Đại chủng và Sắc được tạo đại chủng có bốn thứ: Đất, nước, lửa, gió. Giới có thể giữ gìn tướng riêng, tướng chung, hoặc các sắc được tạo, nên gọi là giới. Bốn đại chủng này, như thứ lớp của chúng, lấy chất cứng, ẩm ướt, ấm áp, lay động làm tự tính, dùng sự gìn giữ, thâu tóm, thành thục, tăng trưởng làm nghiệp. Vì chủng loại to lớn nên gọi là Đại chủng. Do đó hư không chẳng phải thuộc về Đại chủng. Vì có thể sinh ra quả của mình, gọi là nghĩa chủng, vì sắc được tạo ra cùng khắp, nên gọi là Đại. Như vậy đại chủng chỉ có bốn thứ. Hơn nữa, vì không có công dụng khác, vì không có khả năng kham nhận, như chân giường. Sắc được tạo ra có mười một thứ: Mắt. Tai. Mũi. Lưỡi. Thân. Sắc. Âm thanh. Mùi hương. Vị. Một phần xúc. Sắc Vô biểu. Vì ở đại chủng có, nên gọi là được tạo ra, tức là nghĩa nương tựa đại chủng để khởi. Mắt trong đây, nghĩa là chỗ nương tựa của nhãn thức, vì việc thấy sắc là dùng tịnh sắc làm thể. Tai, mũi, lưỡi, thân y theo đây nên nói. Sắc có hai thứ: Hiển sắc và hình sắc. Như Đức Thế Tôn nói: “Hiển ác thì hình ác”. Hiển sắc ở đây có mười hai thứ: xanh, vàng, đỏ, trắng, khói, bụi, sương mù, ảnh quang, ánh sáng và bóng tối. Hình sắc có tám thứ: Dài, ngắn, vuông, tròn, cao, thấp, ngay, không ngay. Sương mù nói ở đây là hơi của đất, nước. Ánh nắng mặt trời gọi là ánh sáng. Mặt trăng, tinh tú, lửa, thuốc, ngọc báu, ánh chớp, v.v… các thứ ánh sáng ấy gọi là sáng. Che khuất ánh nắng mặt trời, ánh sáng sinh ở trong đó. Sắc khác có thể trông thấy, gọi là ảnh. Trái với ảnh này, gọi là bóng tối. Vuông là giới vuông, tròn là vòng tròn, bằng v.v… gọi là ngay, hình không bằng thẳng gọi là không ngay. Vì các màu sắc khác rất dễ hiểu, nên ở đây không giải thích. Hai mươi hai thứ này đều là cảnh riêng của nhãn thức, và dẫn riêng ý thức để phân biệt cảnh. Âm thanh có hai thứ: Có chấp thọ và không chấp thọ, Đại chủng làm nhân có khác nhau, nên rơi vào tự thể, gọi là có chấp thọ, là nghĩa có giác biết. Trái với nghĩa này gọi là không chấp thọ. Cái được sinh trước gọi là có chấp thọ. Đại chủng làm nhân, nghĩa là âm thanh của lời nói, tay chân, v.v… Về sau mới sinh gọi là không chấp thọ. Đại chủng làm nhân, nghĩa là âm thanh của gió, rừng cây, v.v… Ở đây, tiếng hữu tình, tiếng phi hữu tình có bốn loại khác nhau: Tiếng nói trong tiếng trước kia gọi là tiếng hữu tình. Âm thanh khác gọi là tiếng phi hữu tình, tiếng nói nơi lời giáo hóa trong tiếng sau này, được gọi là tiếng hữu tình, tiếng khác gọi là tiếng phi hữu tình. Trong ấy, lại có tám thứ tiếng vừa ý và không vừa ý. Tám thứ như vậy đều là cảnh riêng của nhó thức và ý thức được dẫn kèm để rõ biết. Mùi hương có ba thứ: Mùi hương thơm. Mùi hương hôi. Mùi hương không thơm không hôi. nghĩa là có thể nuôi lớn đại chủng của các căn, gọi là mùi hương thơm, nếu gây nên sự tổn hại đại chủng của các căn gọi là mùi hương hôi. Nếu đều trái với cả hai thứ trên gọi là mùi hương thơm không hôi. Ba thứ như vậy đều là cảnh phân biệt của tỷ thức và ý thức rõ biết. Vị có sáu thứ khác nhau: ngọt, chua, mặn, cay, đắng, lạt. Sáu thứ như vậy đều là cảnh phân biệt của thiệt thức và ý thức rõ biết. Một phần xúc có bảy thứ: tính chất trơn, nhám, nặng, nhẹ và lạnh, đói, khát. Mềm gọi là trơn, là nghĩa của ý xúc. Thô cứng gọi là nhám. Có thể cân đo gọi là nặng, trái lại là nhẹ. Do bị ép ngặt muốn ấm gọi là lạnh. Nhân muốn ăn gọi là đói, nhân muốn uống gọi là khát, những thứ này đều từ nhân mà đặt tên quả, nên nói như thế. Như nói: v.v… “Chư Phật xuất hiện v.v…”. Vì nước, lửa trong nhóm đại chủng tăng nên có tính trơn. Vì đất, gió tăng nên có tính nhám. Vì đất nước tăng nên có tính nặng. Vì lửa, gió tăng nên có tính nhẹ. Vì nước, gió tăng nên có tính lạnh. Vì gió tăng nên có cảm giác đói. Vì lửa tăng nên có cảm giác khát. Sắc Vô biểu: nghĩa là vì có thể tự biểu lộ sự chuyển biến khác nhau của các tâm, tâm sở, nên gọi là biểu. Vì đồng loại với sự chuyển biến của tâm, tâm sở kia mà không thể biểu hiện, nên gọi là vô biểu. Đấy là do ở sự giống nhau nên lập ra giới hạn, như đối với Sát-đế-lợi v.v… nói là không phải Bà-la-môn, v.v… Tướng vô biểu: nghĩa là do tâm biểu lộ sự khác nhau của đại chủng. Vào lúc ngủ, thức, tâm tán loạn, hay không tán loạn, và ở phần vị vô tâm có sắc thiện, bất thiện, chuyển biến nối tiếp nhau, không thể chất chứa, là có thể kiến lập nhân của Bí-sô, v.v… là tướng vô biểu. Nếu không có tướng vô biểu này, thì không nên kiến lập có Bí-sô, v.v… như Đức Thế Tôn nói: “Dựa vào nghiệp phước mà phước thường hằng kia tăng trưởng”. Như vậy, vô biểu gồm có ba thứ: luật nghi, bất luật nghi, đều thuộc về trái nhau. Luật nghi có ba thứ: Biệt giải thoát, tónh lự và luật nghi vô lậu. Luật nghi biệt giải thoát lại có tám thứ: Luật nghi Bí-sô. Luật nghi Bí-sô-ni. Luật nghi cần sách (Sa-di). Luật nghi chính học. Luật nghi Cần sách nữ (Sa-di-ni). Luật nghi Cận sự nam. Luật nghi Cận sự nữ. Luật nghi cận trụ. Tám thứ như vậy chỉ thuộc cõi Dục. Luật nghi Tónh lự, nghĩa là Tam-ma-địa của cõi Sắc, chuyển biến theo sắc. Luật nghi này chỉ thuộc cõi Sắc. Luật nghi vô lậu, nghĩa là Tam-ma-địa vô lậu chuyển biến theo sắc, luật nghi này không lệ thuộc ba cõi. Bất luật nghi, nghĩa là kẻ giết mổ thợ săn, bắt chim cá, trộm cướp, giữ ngục, trói rồng, nấu chó, đặt bẫy, làm nem thịt thái. Vô biểu sắc bất thiện trong các thân này được nối tiếp chuyển biến. Phi luật nghi, phi bất luật nghi, nghĩa là xây dựng Tỳ-ha-la, Tốt- đổ-ba, Tăng-già-la-ma v.v… và lễ tháp miếu, đốt hương, rải hoa, tán, tụng, chú nguyện v.v… đồng thời đánh đập, v.v… khởi ra các thứ vô biểu sắc thiện, bất thiện nối tiếp chuyển biến. Cũng có vô biểu chỉ trong một sát-na. Vì dựa vào chủng loại chung nên nói là nối tiếp nhau. Luật nghi biệt giải thoát do thệ nguyện lãnh thọ bảy luật nghi trước, cho đến khi qua đời, thọ luật nghi thứ tám trong một ngày, đêm, lại xả bảy thứ luật nghi trước do bốn duyên: Vì xả giới mình đã học. Vì qua đời. Vì đoạn căn thiện. Vì sinh hai hình. Luật nghi thứ tám, tức do bốn duyên trước và xả do đêm đã tàn mà xả. Luật nghi tónh lự do được tâm thiện cõi Sắc nên được. Vì bỏ tâm thiện cõi Sắc nên xả. Vì thuộc về tâm người kia, nên luật nghi vô lậu được xả cũng vậy. Vì tùy tâm vô lậu mà được xả, được bất luật nghi do tạo ra và lãnh thọ. Do bốn duyên nên xả bất luật nghi: Vì thọ luật nghi. Vì qua đời. Vì sinh hai hình. Pháp như thế mà được. Vô biểu trong xứ tâm thiện của cõi Sắc, hoặc vì làm ra mà được, là tâm tịnh ân cần, phiền não mạnh mẽ, nhạy bén, lễ tán tháp miếu và đánh đập, v.v… Hoặc vì lãnh thọ mà được, nghĩa là nghó rằng: “Nếu không được Đức Phật tạo ra Mạn-đồ-la thì trọn sẽ không ăn trước”. Lời nguyện ấy hoặc do xả mà được, nghĩa là xây cất chùa, tăng xá, tọa cụ, vườn rừng, bố thí cho Bí-sô, v.v… Xả vô biểu này là do tâm cùng khởi và việc đã làm vì đều có tâm dứt trừ. Vô biểu như vậy và như trước đã nói năm căn như nhãn, v.v… chỉ là cảnh của ý thức đã biệt rõ. Ngang đây được gọi là nghĩa câu sắc ban đầu, nhưng các pháp tướng tóm tắt có ba thứ: Tự cộng tướng. Phần cộng tướng. Biến cộng tướng Tự cộng tướng: nghĩa là như vì biến đổi, hư hoại, hoặc bị đổi thay, trở ngại, nên nói tên là sắc. Như vậy, tức là nói nghĩa có thể gây khổ não, hư hoại. Như đấng Pháp Vương nói: “Bí-sô nên biết! Do sự đổi thay, hư hoại, nên gọi là sắc thủ uẩn”. Cái gì có thể đổi thay, hư hoại ? Là vì tay tiếp xúc, tức là sự đổi thay hư hoại, cho đến nói rộng. Như vì có thể đi nhanh, nên gọi là ngựa. Vì có thể đi chậm, nên nói là bò, v.v… Phần cộng tướng: nghĩa là như tính phi thường và tính khổ v.v… Biến cộng tướng: Như tính phi ngã và tính không, v.v… Do khuôn khổ này đối với tất cả pháp, nên biết là ba tướng. nghĩa câu Thọ: nghĩa là ba thứ nhận lãnh: Vui. Khổ. Không khổ không vui. Đây tức là sự nhận lãnh ba thứ nghĩa tùy theo sự tiếp xúc, từ sự xúc chạm sinh ra ưa thích, không ưa thích hoặc không phải cả hai. Vì phần vị của thân tâm, sinh ra hai sự tiếp xúc khác nhau, mà đối với cảnh sinh ra vui, buồn, không phải cả hai làm tướng hay làm nhân cho ai, nên gọi là thọ. Như Đức Thế Tôn nói: “Xúc duyên thọ, thọ duyên ái”. Thọ này lại tùy theo sự khác nhau của thức mà có sáu như nhãn tiếp xúc phát sinh thọ, cho đến ý tiếp xúc sinh ra thọ. Năm thức đều sinh gọi là thân thọ. Ý thức đều sinh gọi là tâm thọ. Do căn khác nhau nên kiến lập năm thứ: Lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn. Các thân thọ nhận sự vui vẻ và tâm tónh lự thứ ba. Thọ nhận sự vui vẻ gọi là lạc căn. Sự vui vẻ là thuộc về nghĩa lợi ích. Các thân nhận sự không vui, gọi là khổ căn. Sự không vui là nghĩa tổn não, trừ tónh lự thứ ba. Tâm khác nhận niềm vui, gọi là hỷ căn. Các tâm nhận sự không vui gọi là ưu căn. Các thân và tâm nhận không phải vui, không phải chẳng vui, gọi là xả căn. Phân biệt rộng về căn này, như chỗ nói về căn v.v… Tưởng nghĩa câu, nghĩa là có thể đã hợp danh nghĩa của tướng để hiểu, tức là đối với các màu sắc xanh, vàng, dài, ngắn.v.v.. tiếng ốc, tiếng trống v.v… mùi hương trầm, xạ hương v.v.. vị mặn, đắng v.v.. sự tiếp xúc vật cứng, mềm v.v… pháp tướng của nam, nữ v.v.. gọi là trong nghĩa giả hợp mà hiểu. Vì là nhân của tâm, tứ nên gọi là tưởng, tưởng này tùy theo thức có sáu thứ riêng như thọ. Sự khác nhau lớn nhỏ của vô lượng có ba thứ: nghĩa là vì duyên cảnh ít, nên gọi là tưởng nhỏ. Vì duyên các cảnh pháp lớn, mầu nhiệm, cao siêu, v.v… nên gọi là tưởng lớn. Tùy theo không vô biên xứ, v.v… gọi là tưởng vô lượng, hoặc tùy theo ba cõi mà đặt ba tên này. Hành có hai thứ: Hành tương ưng và hành bất tương ưng. Hành tương ưng nghĩa là tư, xúc, dục, tác ý, thắng giải, niệm, định, tuệ, tầm, tứ, tín, tinh tiến, tàm, quý, , khinh an, bất hại, xả, hận, yểm, bất tín, biếng nhác, không buông lung, căn thiện, căn bất thiện, căn vô ký, kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não, triền, lậu, ách, bộc lưu, thủ, thân hệ cái (cái lệ thuộc thân) và trí nhẫn, v.v… Các pháp tâm sở này đều đối với tâm có đủ năm nghĩa: Chỗ dựa, đối tượng duyên, hành tướng, thời gian và sự… nên gọi là tương ưng. Trái với tương ưng này, gọi là bất tương ưng, nghĩa là đắc, phi đắc, định Vô tưởng, định Diệt tận, Vô tưởng sự, mạng căn, chúng đồng phần, sinh, trụ, già, vô thường, danh thân, cú thân, văn thân… Như vậy, hành tương ưng, bất tương ưng, gọi chung là hành uẩn. Vì vậy, nên đấng Đại Tiên nói: “Hành uẩn như thân cây chuối”. Tư, là có thể khiến tâm tạo tác, tức là ý nghiệp, cũng là nghĩa làm cho tâm vận động, vì tư này khác với thiện, bất thiện, vô ký, có ba thứ khác nhau. Xúc là căn, cảnh, thức hòa hợp phát sinh khiến tâm tiếp xúc với cảnh, lấy khả năng nuôi sống tâm làm tướng, có ba thứ thuận lạc thọ v.v… khác nhau. Dục, nghĩa là mong cầu, làm sự nghiệp thuận theo, tinh tiến, có nghĩa là ta phải làm sự nghiệp như thế. Tác ý, nghĩa là có thể khiến tâm cảnh giác, tức là nghĩa dẫn tâm hướng đến cảnh, cũng là sự ghi nhớ, gìn giữ, đã từng là cảnh của thọ v.v… Cảnh này có ba thứ: Là học, vô học, phi học phi vô học. Tác ý vô lậu trong bảy thân hữu học, gọi là Học. Tác ý vô lậu trong thân A-la- hán, gọi là Vô học. Tác ý tất cả hữu lậu đều gọi là Phi học phi vô học. Thắng giải, nghĩa là có thể chấp nhận đối với cảnh, tức là nghĩa có thể giúp cho tâm không khiếp sợ, yếu đuối đối với cảnh sở duyên. Niệm: Khiến tâm ghi nhớ rõ cảnh tượng, tức là không quên, nghĩa là đã tạo ra các sự nghiệp chính đáng. Định: Khiến tâm chuyên chú một cảnh, tức là chế ngự tâm như vượn, khỉ, chỉ có nghĩa chuyển ở một cảnh. Phái Tỳ-bà-sa nói như vầy: “Như con rắn ở trong ống, di chuyển không cong. Nếu tâm ở trong định, sẽ chuyển ngay thẳng”. Tuệ: Đối với pháp hay chọn lựa, tức là tương ưng với sự thâu nhận, thành tựu các quả nhân duyên. Trong tám thứ pháp tự tướng, cộng tướng, tùy theo ở sự thích hợp mà lấy sự quán sát làm nghĩa. Tầm: nghĩa là đối với cảnh, khiến tâm thô tháo làm tướng, cũng gọi là sự phân biệt tư duy thuộc về gió tưởng, chuyển biến thô động, pháp này chính là nhân chuyển biến của năm thức. Tứ: nghĩa là đối với cảnh, khiến tâm nhỏ nhặt làm tướng. Pháp này chính là nhân thuận theo ý thức chuyển biến ở cảnh. Tín là khiến tâm lắng sạch đối với cảnh, tức đối với tướng nhân quả của Tam bảo thuộc về sự chấp nhận hiện tiền trong tính có, v.v… nên gọi là tín. Điều này có thể loại trừ pháp cấu uế của tâm, như bỏ phèn lóng xuống ao, sẽ làm cho nước đục nhơ trở thành lắng trong. Cũng vậy bỏ phèn tín vào ao tâm, mọi thứ nhơ đục của tâm đều được loại bỏ ngay. Tin Phật chứng Bồ-đề, tin Pháp thì khéo nói, tin tăng có đủ diệu hạnh. Cũng tin tưởng hết thảy ngoại đạo đều bị mê mờ. Pháp tính duyên khởi là sự nghiệp của niềm tin. Tinh tiến, nghĩa là đối với pháp thiện, bất thiện, lấy sự mạnh mẽ vượt lên trong sự sinh diệt làm tính, tức là kẻ đang chìm đắm trong vũng bùn sinh, tử thì dốc tâm, cố sức sao cho mình nhanh chóng được ra khỏi. Tàm, nghĩa là thuận theo pháp bạch của chính lý, tăng thượng mà nảy sinh tính tự tại của tâm đẳng lưu trái với ái. Do uy lực này, đối với các công đức và người có đức độ, cung kính mà trụ. Quý, nghĩa là tu tập công đức làm trước nhất, trái với đẳng lưu si, quở trách pháp yếu kém. Do uy lực này nên sợ tội lỗi. Không buông lung nghĩa là tu các pháp thiện. Trái với hại, buông lung, gìn giữ tâm tính. Tâm tính kham nhận gọi là khinh an. Trái với hại, hôn trầm, thuận theo pháp thiện. Tâm tính thiện vững chắc, gọi là không hại. Do uy lực này, nên không gây tổn não cho người khác. Hay trái với việc ưa làm tổn hại người khác, tâm tính bình đẳng, gọi là xả. Vì xả bỏ phi lý và hướng đến chân lý. Do uy lực này khiến tâm đối với chính lý và phi lý, không hướng, không bỏ, bình đẳng mà trụ, như cầm cán cân. Hận: Là vui thích ở phẩm Hoàn diệt, thấy công đức rồi khiến tâm hân hoan, mến mộ, thuận theo tu thiện, vì có tâm này nên sự ưa thích Niết bàn tương ưng với tâm này, gọi là Hận tác ý. Yểm: nghĩa là nhàm chán các thứ tai hại đối với phẩm lưu chuyển. Thấy lỗi lầm rồi, khiến tâm chán lìa, thuận theo lìa nhiễm. Vì nhờ có tâm này, nên nhàm chán sinh tử xấu ác, tương ưng với tâm ấy, gọi là Yểm tác ý. Tâm không lắng sạch, gọi là Bất tín, như trước đã nói, là trái với tín. Tâm không mạnh mẽ, gọi là biếng nhác, trái với tinh tiến đã nói ở trước. Không tu pháp thiện, gọi là buông lung, trái với tính không buông lung đã nói ở trước, tức là nghĩa không thể gìn giữ tâm. Ba thứ như bất tín v.v… đã nói, như vậy không lập tùy miên và triền cấu, vì lỗi lầm nhẹ, vì dễ trừ bỏ. Căn thiện có ba thứ: Vô tham là trái với pháp tham, vô sân là trái với pháp sân, vô si là trái với pháp si, tức là lấy trí tuệ làm tự tính như trước đã nói. Ba pháp này là tự tính của thiện, cũng có thể là cội rễ sinh ra pháp thiện khác, nên gọi là căn thiện. nghĩa yên ổn là nghĩa thiện, vì có thể dẫn đến thân sau khả ái và mầm mống của sự giải thoát, hoặc là đã tập học, trở thành nghĩa phương tiện khéo léo, là nghĩa thiện. Do pháp thiện này có thể làm xong hình tượng của sắc mầu nhiệm. Như họa só tô màu bức tranh vẽ, tạo ra ra bức tượng với màu sắc tươi đẹp, thế gian đều khen là khéo léo. Căn bất thiện có ba thứ, tức là ba thứ tham, sân, si mà ở trước đối trị. Tham là năm bộ tham cõi Dục. Sân là năm bộ sân. Si là ba mươi bốn vô minh của cõi Dục, trừ hữu thân kiến và vô minh tương ưng với biên chấp kiến. Ba pháp như vậy là tự tính của bất thiện, cũng có thể là cội rễ nảy sinh các bất thiện khác, gọi là căn bất thiện. nghĩa không yên ổn, là nghĩa bất thiện, vì có thể dẫn đến phi ái, mầm mống của các hữu. Hoặc chưa tập học, không phải là nghĩa phương tiện khéo léo, đó là nghĩa bất thiện. Do bất thiện này có thể phân biệt sắc tượng xấu, như họa só tạo ra bức tranh không đẹp, nên gọi là không thiện. Căn vô ký có bốn thứ: Ái, kiến, mạn, vô minh. Ái: Cõi Sắc, Vô Sắc đều có năm bộ tham. Kiến: Cõi Sắc, Vô Sắc đều có mười hai kiến và cõi Dục hữu thân kiến, biên chấp kiến. Mạn: Cõi Sắc, Vô Sắc đều có năm bộ mạn. Vô minh: Tất cả vô minh của cõi Sắc, cõi Vô Sắc và cõi Dục, có thân kiến và biên chấp kiến tương ưng với vô minh. Bốn căn vô ký này là tự mình đã thừa nhận. Người tu tónh lự vì có ba hạng khác nhau: Hạng người yêu thích tónh lự cõi trên. Hạng người đã thấy tónh lự cõi trên. Hạng người kiêu mạn đối với tónh lự cõi trên. Ba hạng người này đều do năng lực vô minh khởi lên. Phái Tỳ-bà- sa lập căn vô ký chỉ có ba thứ: Vô ký ái, vô minh, tuệ. Sự nghi ngờ trụ không vững chắc, tính khinh mạn, tự cao, vì không phải pháp căn, nên đối với nghĩa thiện, bất thiện đều không ghi nhận, nên gọi là vô ký. Lại vì không thể ghi nhớ của ái, phi ái, nên gọi là vô ký, vì không thể chiêu cảm quả dị thục. tính vô ký này cũng có thể sinh ra pháp nhiễm vô ký khác, hoặc các pháp vô ký, nên gọi là căn vô ký Kiết có chín thứ: Kiết ái, kiết sân, kiết mạn, kiết vô minh, kiết kiến, kiết thủ, kiết nghi, kiết san và kiết tật. Kiết ái, nghĩa là sự tham của ba cõi là tướng đắm nhiễm như keo sơn nên gọi là ái. Vì ái chính là kiết, nên gọi là kiết ái. Kiết sân, nghĩa là năm bộ sân. Đối với niềm vui của hữu tình v.v… bị tổn hại, với tướng không lợi ích, như hạt giống cay đắng, cho nên gọi là sân. Vì sân chính là kiết, nên gọi là kiết sân. Kiết mạn, nghĩa là sự kiêu mạn của ba cõi. Vì mình khác với đức độ của người khác, nên sinh tâm khinh rẻ, ý đây gọi là mạn, như kẻ kiêu ngạo, lấn át, khinh miệt người khác. Mạn này lại có bảy thứ: Mạn. Quá mạn. Mạn quá mạn. Ngã mạn. Tăng thượng mạn. Ty mạn. Tà mạn. nghĩa là nhân những việc về dòng họ, tài sản, địa vị, sắc lực, giữ giới, học rộng, nghề nghiệp, nên đối với người yếu kém thì cho là mình hơn, hoặc đối với kẻ ngang bằng mình thì cho mình là ngang bằng. Do quan niệm này, nên làm cho tâm cao cử, gọi là mạn. Nếu đối với người ngang bằng với mình mà cho là mình hơn, hoặc đối với những kẻ giỏi hơn mình, mình lại cho là bằng họ. Do quan niệm này khiến tâm cao cử gọi là Quá mạn. Nếu đối với người hơn mình mà cho là mình hơn. Do ý nghó này nên làm cho tâm tự cao, cử gọi là Mạn quá mạn. Nếu đối với năm thủ uẩn chấp ngã và ngã sở, do sự chấp này khiến tâm cao cử gọi là ngã mạn. Nếu chưa chứng được các đức thù thắng trong quả Dự-lưu mà cho mình đã chứng được, do đó khiến cho tâm cao cử gọi là tăng thượng mạn. Nếu cho mình là phần tử kém cỏi trong phần đông dòng họ đều vượt hơn, do đó đã khiến tâm cao cử gọi là Ty mạn. Nếu thật sự không có đức mà cho mình có đức, do đấy khiến tâm cao cử gọi là tà mạn. Bảy sự khinh mạn như thế, gọi chung là kiết mạn Kiết vô minh: nghĩa là ba cõi không biết, lấy sự không hiểu rõ làm tướng, như kẻ đui mù. Vì trái với ánh sáng, nên gọi là vô minh. Lời ngăn cấm này là dựa vào nghĩa đối trị, như không phải bạn thân, lời nói không thật v.v…, tức là nói kẻ thù, lời nói dối trá, v.v…Vì vô minh tức là kiết, nên gọi là kiết vô minh. Kiết kiến: Là ba kiến, tức hữu thân kiến, biên chấp kiến và tà kiến. Không có ngã, ngã sở trong năm thủ uẩn mà chấp là thật có tướng của ngã, ngã sở, tuệ nhiễm ô này gọi là hữu thân kiến. Vì thân là nghĩa nhóm họp, vì có mà là thân, nên gọi là hữu thân, tức năm thủ uẩn. Ở ngay thân này khởi lên kiến chấp, gọi là hữu thân kiến, tức năm thủ uẩn không phải đoạn, không phải thường, qua đó lại chấp có hai tướng đoạn, thường. Tuệ nhiễm ô này gọi là biên chấp kiến, vì chấp cả hai bên. Nếu quyết định chấp không có nghiệp, không có quả của nghiệp, không có sự giải thoát, không có ai được đạo giải thoát, bác bỏ không có sự thật thì tuệ nhiễm ô này gọi là tà kiến. Ba kiến như vậy gọi là kiết kiến. Kiết thủ, nghĩa là hai thủ, tức kiến thủ, giới cấm thủ. nghĩa là ba kiến trước và năm thủ uẩn. Thật sự không phải là mình hơn mà chấp cho là hơn. Tuệ nhiễm ô này gọi là kiến thủ, thủ là nghĩa tìm tòi và chấp khư khư. Giới: Xa lìa các thứ phá giới cấm ác, nghĩa là thọ trì các giới của quạ, gà, nai, chó, hoặc lõa thể, nhổ tóc, bỏ ăn, nằm trên tro. Hoặc vọng chấp sinh phước, diệt tội, hoặc thường tắm gội dưới ao. Hoặc ăn rễ, trái cây, cỏ, rau cải, vật thuốc để tự nuôi sống. Hoặc bôi tro vào mình, để búi tóc trên đầu v.v… đều gọi là cấm. Cả hai thứ này đều không phải là đạo thanh tịnh mà vọng chấp là đạo thanh tịnh. Tuệ nhiễm ô này gọi là giới cấm thủ. Các Bà-la-môn có người học rộng, phần đông chấp pháp này cho là đạo tịnh mà họ không thể rốt ráo thanh tịnh. Hai thủ như vậy, gọi là kiết thủ. Kiết nghi: Khiến tâm do dự đối với bốn Thánh đế, như đến khoảng đường rẽ, thấy một người đang bó cỏ một cách rụt rè không quyết định. Như vậy, vì đối với khổ, tâm sinh ra do dự, không biết là phải hay quấy, cho đến nói rộng. Vì nghi tức là kiết, nên gọi là kiết nghi. Kiết tật: Thấy người khác hơn mình khiến tâm bất nhẫn, cho là đối với người khác được sự cung kính, cúng dường, tài sản, địa vị, sự học rộng và pháp vượt hơn khác, nảy sinh lòng ganh ghét không nhịn. vì sự ganh tị tức là kiết, nên gọi là kiết tật. Kiết san: nghĩa là đối với tài pháp của mình, khiến tâm bỏn sẻn, luyến tiếc, cho vật của ta, đừng đến với người, vì sự keo kiệt tức là kiết, nên gọi là kiết san. nghĩa kiết là nghĩa ràng buộc. Như Đức Thế Tôn nói: “Không phải mắt buộc lấy sắc, không phải sắc buộc lấy mắt. Trong việc này, lòng tham dục được gọi là kiết. Như không phải trâu đen buộc với trâu trắng, cũng không phải trâu trắng buộc với trâu đen, cho đến nói rộng”. Kiết đã nói ở trước cũng tức là sự ràng buộc, vì chính nghĩa kiết là nghĩa buộc ràng. Tuy nhiên trong khế kinh lại nói có ba sự trói buộc: Tham trói buộc: nghĩa là tất cả tham, như nói về tướng của kiết ái. Sự giận dữ trói buộc: Tất cả giận, như nói về tướng của kiết giận. Sự ngu si trói buộc: nghĩa là tất cả sự ngu si, như nói về tướng của kiết vô minh Tùy miên có bảy thứ: Dục tham. Sân. Hữu tham. Mạn. Vô minh. Kiến. Nghi. Về tướng riêng của bảy tùy miên này đã nói trong kiết. Nhưng nên dựa vào bộ riêng biệt của hành tướng giới. Sự phân biệt bảy thứ tùy miên như vậy, nghĩa là vì tham các dục, nên gọi là dục tham. Vì dục tham này tức là tùy miên, nên gọi là tùy miên dục tham. Tùy miên dục tham này chỉ có năm bộ cõi Dục có năm thứ, đều gọi là kiến khổ dứt trừ, cho đến tu đạo dứt trừ. Tùy miên sân cũng chỉ có năm bộ của cõi Dục là năm thứ. Hữu tham tùy miên chỉ có cõi Sắc, Vô Sắc, mỗi cõi đều có năm bộ là mười thứ. Vì sự chuyển biến bên trong, vì ngăn che tưởng giải thoát của tónh lự Vô Sắc, nên tham của hai cõi là hữu tham. Tùy miên mạn chung có ở cả ba cõi, mỗi cõi có năm bộ thành mười lăm thứ, tùy miên vô minh cũng vậy. Tùy miên kiến có ở cả ba cõi, mỗi cõi có mười hai thứ thành ra ba mươi sáu thứ. nghĩa là cõi Dục kiến khổ dứt trừ, đủ năm kiến, kiến tập, diệt dứt trừ chỉ có hai là tà kiến và kiến thủ. Kiến đạo dứt trừ chỉ có ba thứ là tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tổng cộng là mười hai thứ. Hai cõi trên cũng vậy là ba mươi sáu thứ. Tùy miên nghi chung có ở cõi ba cõi, mỗi cõi đều có bốn bộ, thành mười hai thứ, là kiến khổ, tập, diệt, đạo dứt trừ. Dục tham trong đây và tùy miên sân chỉ có bộ riêng, không có hành tướng riêng của cõi. Tùy miên hữu tham, nghi, mạn, vô minh có giới, bộ riêng, không có hành tướng riêng, tùy miên kiến có đủ bộ, hành tướng, giới riêng. Hành tướng riêng nghĩa là ngã và ngã sở. Sự chuyển biến của hành tướng, nghĩa là hữu thân kiến. Sự chuyển biến của hành tướng đoạn, thường gọi là biên chấp kiến, không có hành tướng chuyển biến, gọi là Tà kiến. Hành tướng chuyển biến vượt hơn, gọi là kiến thủ, chuyển biến của hành tướng tịnh, gọi là giới cấm thủ. nghĩa vi tế là nghĩa tùy miên, vì lúc nó hiện khởi rất khó hay biết. Hoặc theo nghĩa trói buộc là nghĩa tùy miên, tức là tùy theo sự tiếp nối nhau của thân tâm mà chuyển biến. Như người đi trên hư không, bóng của họ sẽ đi theo dưới nước. Hoặc nghĩa theo đuổi là nghĩa tùy miên, như dầu trong hạt vừng, chất nhờn trong nắm tay. Hoặc nghĩa tùy tăng là nghĩa tùy miên. nghĩa là đối với năm thủ uẩn, vì tương ưng với đối tượng duyên mà tùy tăng. Nói tùy tăng, có nghĩa tùy theo đối tượng duyên và môn tương ưng mà tăng trưởng. Bảy thứ tùy miên như vậy đều do sự khác nhau của bộ, của hành tướng giới, nên thành chín mươi tám tùy miên. nghĩa là cõi Dục kiến khổ dứt trừ mười tùy miên, tức hữu thân kiến, biên chấp kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, nghi, tham, sân, mạn, vô minh. Kiến tập dứt trừ có bảy tùy miên, trừ hữu thân kiến, biên chấp kiến, giới cấm thủ, trong mười tùy miên trước, kiến diệt dứt trừ có bảy tùy miên cũng vậy. Kiến đạo dứt trừ có tám tùy miên, nghĩa là tức bảy tùy miên ở trước cộng thêm giới cấm thủ. Tu dứt trừ có bốn tùy miên, đó là tham, sân, mạn, vô minh. Như vậy, ở cõi Dục có ba mươi sáu tùy miên, cõi Sắc có ba mươi mốt tùy miên. nghĩa là trừ năm bộ sân trong ba mươi sáu tùy miên của cõi Dục. Cõi Vô Sắc cũng vậy, nên có chín mươi tám tùy miên, trong đó tám mươi tám thứ do kiến dứt trừ, mười thứ do tu dứt trừ. Có ba mươi ba tùy miên là biến hành. nghĩa là các kiến nghi do Kiến khổ, tập dứt trừ trong mỗi giới, và vô minh bất cộng tương ưng với tùy miên đó. Số tùy miên còn lại đều không phải là biến hành. Mười tám tùy miên là duyên vô lậu. nghĩa là mỗi giới, kiến diệt, đạo dứt trừ tà kiến, nghi và vô minh bất cộng tương ưng với nó. Vì mười tám thứ này duyên diệt, đạo, nên gọi là duyên vô lậu, ngoài ra đều duyên hữu lậu. Duyên hữu lậu trong đây, nghĩa là do tương ưng với đối tượng duyên cho nên tùy tăng. Duyên vô lậu chỉ ở nhóm mình, vì tương ưng, nên tùy tăng. Có chín thứ là duyên vô vi, nghĩa là trong mỗi cõi, kiến diệt dứt trừ tà kiến nghi và vô minh bất cộng tương ưng với nó. Vì duyên diệt đế, nên gọi là duyên vô vi. Ngoài ra, đều là duyên hữu vi. Mười thứ tùy miên theo thứ lớp sinh ra, nghĩa là trước đây do vô minh nên không hiểu rõ đế lý. nghĩa là đối với khổ không ham muốn, cho đến đối với Đạo cũng không mong muốn. Vì không hiểu nên sinh nghi ngờ. nghĩa là vừa nghe hai phẩm tà, chính là ôm lòng nghi, do dự là khổ hay không phải khổ, cho đến là đạo hay không phải đạo. Từ sự do dự này dẫn sinh tà kiến, nghĩa là gặp phải bạn ác, do nghe, nghó quấy, nên sinh ra quyết định tà, không có bố thí, không có ưa thích, không có cúng tế, cho đến nói rộng. Từ tà kiến này sinh ra hữu thân kiến, đó là bác bỏ không có lý khổ trong thủ uẩn, rồi chấp là có ngã, hoặc có ngã sở. Từ thân kiến, biên chấp kiến sinh ra, nghĩa là chấp ngã có đoạn, có thường biên. Từ biên chấp kiến, giới cấm thủ nảy sinh, cho là lối chấp một bên này là năng tịnh. Từ giới cấm thủ nảy sinh kiến thủ, cho là năng tịnh, vì là hơn hết. Từ kiến thủ kế dẫn sinh tham, cho là vì đó sinh ra yêu tiếc sâu nặng trong kiến chấp của mình. Từ lòng tham này, kế là dẫn sinh ra mạn. nghĩa là yêu đắm trong kiến chấp sâu đậm của mình rồi, tỏ thái độ ỷ thị, tự cao, lấn hiếp người khác. Từ mạn này sau đó dẫn sinh nóng giận. nghĩa là cậy vào kiến chấp của mình, lòng không thể chịu được cho nên ganh ghét. Hoặc trong phần vị thủ, xả kiến chấp của mình mà khởi ra ganh ghét, nên mười thứ tùy miên theo thứ lớp như vậy. Do ba nhân duyên mà khởi các phiền não: Vì chưa dứt trừ tùy miên. Vì tác ý phi lý. Vì cảnh giới hiện ở trước. Do ba sức của cảnh giới gia hạnh mà phiền não biểu hiện ở trước, đó là nói đủ. nghĩa là cũng có trường hợp chỉ dựa vào sức của cảnh giới mà khởi phiền não rối loạn, gây nên nỗi bứt rứt thân tâm liên tục, nên gọi là phiền não, phiền não tức tùy miên. Tùy phiền não: Chính các phiền não cũng gọi là tùy phiền não, lại còn có tùy phiền não, nghĩa là tâm sở nhiễm ô thuộc về tất cả hành uẩn khác, cùng với các phiền não đều thuộc về uẩn. Ở đây là thế nào? nghĩa là đã có vô lượng thứ, như: Cuống, kiêu, hại, não, hận, siểm v.v… như Thánh giáo nói: “Cuống là mê hoặc người”. Kiêu là đắm nhiễm tất cả sắc lực của tự thân nên về dòng họ tịnh giới, học rộng, biện tài, khôn khéo của mình rồi, khiến tâm kiêu ngạo, buông lung bất kể người khác. Hại: Làm bức bách người khác. Do đó có những hành động đánh, mắng v.v… Não: Chấp chặt mọi việc có tội, do đó không chịu nghe lời can ngăn đúng. Hận: Trong việc mình duyên, sinh ra tức giận, thường tầm, tứ, kết oán không bỏ. Siểm: nghĩa là tâm cong vạy. Sáu thứ như vậy đều sinh ra từ phiền não với tướng cấu uế, thô bỉ, gọi là phiền não cấu. Trong sáu thứ phiền não cấu uế này, hai thứ cuống, kiêu là đẳng lưu của tham, v.v… vì thuộc loại tham. Hai thứ hại và hận là đẳng lưu của sân, vì thuộc loại sân. Vết nhơ của não, tức là đẳng lưu kiến thủ. Vì chấp kiến thức của mình là hơn người nên gây não loạn mình và người. Vết nhơ của siểm là đẳng lưu của các kiến, vì các kiến gia tăng là đa số dua nịnh, như nói: “Sự dua nịnh tà vạy là các ác kiến”. Những vết nhơ này và triền, các nhiễm ô khác thuộc về hành uẩn. Các tâm sở pháp vì từ phiền não sinh, nên gọi là tùy phiền não. Triền có mười thứ: Hôn trầm, thùy miên, trạo cử, ác tác, tật, san, vô tàm, vô quý, phẫn, phú. Thân, tâm nối tiếp nhau, không có tính chất kham nhậm, gọi là hôn trầm. nghĩa là mờ tối nặng nề, không thể gánh vác được việc gì. Thân tâm nối tiếp nhau làm cho tâm tối tăm, yếu ớt, gọi là thùy miên. Sự thùy miên này được gọi là triền, vì chỉ dựa vào sự nhiễm ô. Trạo cử: Khiến tâm không vắng lặng, của nó là ác tác, gọi là ác tác. Có tâm sở riêng duyên ác nảy sinh, đặt tên là ác tác. nghĩa là ăn năn, thể của quả giả đặt tên nhân. Như duyên với hư không, gọi là duyên không, bất tịnh gọi là bất tịnh. Thế gian cũng lấy xứ sở để nói: “Dựa nơi xứ, như nói: Tất cả thôn, ấp, đến v.v…”. Ở đây được đặt tên triền, cũng chỉ dựa vào nhiễm mà có hai tướng là tật và san, như đã nói qua trong kiết. Đối với các công đức và người có đức, khiến tâm không cung kính, gọi là vô tàm (không hổ), tức là pháp trái lại với cung kính. Không hề cảm thấy sợ hãi đối với các tội, gọi là vô quý (không thẹn) có thể chiêu cảm đường ác, bị người thiện quở trách, gọi là tội. Trừ sân và hại, đối với tình, phi tình, khiến tâm nổi cơn giận dữ, gọi là phẫn. Che giấu tội mình, gọi là phú. Mười điều này ràng buộc thân, tâm nối tiếp nhau, nên gọi là triền. Hôn trầm, thùy miên, vô quý trong đây là đẳng lưu của vô minh. Ác tác là đẳng lưu nghi. Vô tàm, san, trạo cử đều là đẳng lưu của tham. Tật, phẫn là đẳng lưu của sân. Phú là đẳng lưu của tham và vô minh. Hành tướng của pháp tâm sở rất nhỏ nhặt. Sự phân biệt của mỗi hành tướng nối tiếp nhau còn khó khăn, huống chi trong một sát-na cùng có, mà người trí rất tinh tế, kín đáo, dựa vào lời Phật đã nói, quán sự khác nhau của quả, biết tính nó khác, vì các người học mà tuyên nói không điên đảo. Kẻ có trí tuệ yếu kém, các sự chưa chính mình làm việc giải thích không điên đảo về lời Phật nói, nên tâm họ bị mê lầm, rồi bài bác, hoặc nói chỉ có ba thứ, hoặc là hoàn toàn không có. Lậu có ba thứ: Dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Phiền não và triền của cõi Dục, trừ vô minh, gọi là dục lậu. Có bốn mươi mốt vật là ba mươi mốt tùy miên và mười triền. Phiền não và triền của cõi Sắc, cõi Vô Sắc, ngoại trừ vô minh, gọi là hữu lậu. Có năm mươi bốn vật là ở cõi trên, mỗi cõi có hai mươi sáu tùy miên và hôn trầm, trạo cử, vì đồng là vô ký, vì chuyển biến bên trong và vì dựa vào địa định. Hai cõi được lập chung một tên hữu lậu, vô minh ba cõi gọi là Vô minh lậu, có mười lăm vật. Vì vô minh là gốc của các hữu, lập riêng lậu v.v… để lại cho hữu tình trụ ba cõi lâu dài. Vì ngăn trở hướng đến sự giải thoát, nên gọi là lậu. Hoặc làm cho lưu chuyển từ trời Hữu Đảnh đến ngục Vô gián, nên gọi là lậu. Hoặc hữu lậu kia tiếp nối với sáu thứ ung nhọt tiết ra không cùng, nên gọi là lậu. Bộc lưu có bốn thứ: Dục, hữu, kiến, vô minh. Bộc lưu trừ kiến trong dục lậu, gọi là Dục bộc lưu. Có hai mươi chín vật, trừ kiến trong hữu lậu, gọi là bộc lưu, có ba mươi vật, các kiến của ba cõi, gọi là bộc lưu kiến. Có ba mươi sáu vật, vô minh bất cộng tương ưng với ba cõi, gọi là bộc lưu vô minh. Có mười lăm vật làm trôi nổi, cướp đi sự tốt đẹp của tất cả hữu tình, nên gọi là như thác nước (bộc lưu). Ách có bốn thứ, như thuyết nói về bộc lưu. Hòa hợp hữu tình, khiến chịu đau khổ ở các đường, các sanh, các địa, nên gọi là ách. nghĩa là hòa hợp, khiến cảm nhận mọi thứ thọ khổ nhẹ, nặng.  LUẬN NHẬP A TỲ ĐẠT MA <卷>QUYỂN HẠ Thủ có bốn thứ: Thủ dục, thủ kiến, giới cấm thủ và ngã ngữ thủ. Tức dục bộc lưu thêm vô minh, gọi là dục thủ. Có ba mươi bốn vật là tham, sân, mạn, vô minh, mỗi thứ đều có năm loại, Nghi có bốn, triền có mười, hữu bộc lưu thêm vô minh, gọi là ngã ngữ thủ. Có bốn mươi vật là tham, mạn, vô minh, mỗi thứ có mười loại, Nghi có tám thứ và hôn trầm, trạo cử, trừ giới cấm thủ trong các kiến, số còn lại gọi là kiến thủ. Có năm mươi vật: Giới cấm thủ, gọi là giới cấm thủ, có sáu vật. Do đó, riêng làm oán của Thánh đạo, vì dối gạt cả hai chúng tại gia, xuất gia. Đó là lập riêng thủ trong năm kiến. nghĩa là chúng tại gia do sự dối gạt này, nên chấp rằng tự nhịn đói, chỉ hớp không khí và từ đỉnh núi cao gieo mình xuống vực thẳm v.v… là đạo trời. Các chúng xuất gia do sự mê hoặc lừa dối này mà cho bỏ cảnh đáng yêu, thọ công đức đỗ- đa (đầu-đà) là đạo thanh tịnh. nghĩa củi là nghĩa của thủ, có thể khiến lửa nghiệp đốt cháy nối tiếp nhau mà sinh trưởng. Như vì có củi, nên lửa mới được cháy bùng. Như vậy, vì có phiền não, nên nghiệp của hữu tình mới được sinh trưởng. Lại, nghĩa mạnh mẽ, nhạy bén là nghĩa của thủ, hoặc nghĩa ràng buộc bên trong là nghĩa của thủ, như con tằm ở trong kén tự ràng buộc mình rồi chết. Như vậy hữu tình bị bốn thủ buộc ràng, trôi lăn trong sự sống chết, đánh mất tuệ mạng. Sự trói buộc thân có bốn thứ: nghĩa là tham dục trói buộc thân, giận dữ trói buộc thân, giới cấm thủ trói buộc thân, chấp thân này có thật trói buộc thân. Năm bộ tham của cõi Dục, gọi là sự trói buộc thân ban đầu. Năm bộ sân, gọi là sự trói buộc thân thứ hai. Sáu giới cấm thủ, gọi là sự trói buộc thân thứ ba. Mười hai kiến thủ, gọi là sự trói buộc thân thứ tư. Các thứ triền ràng buộc hữu tình, vì tự trói buộc lấy mình, nên gọi là trói buộc thân. Những thứ này đều có nghĩa trói buộc thân hữu tình. Cái có năm thứ: cái dục tham, cái sân hận, cái hôn trầm thùy miên, cái trạo cử ác tác, cái nghi. Năm bộ tham của cõi Dục, gọi là cái ban đầu. Năm bộ sân, gọi là cái thứ hai. Hôn trầm và thùy miên bất thiện của cõi Dục, gọi là cái thứ ba. Trạo cử và ác tác bất thiện, gọi là cái thứ tư. Bốn bộ nghi của cõi Dục, gọi là cái thứ năm. Do ngăn che Thánh đạo và lìa nhiễm cõi Dục và hai thứ căn thiện gia hạnh này, nên gọi là cái. Trước đây đã nói các giới, các đường, các sinh, các địa chịu khổ, nên nói. Thế nào là sinh về giới đường? Giới địa có ba thứ: Là cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc. Cõi Dục có hai mươi xứ, đó là tám địa ngục lớn: Đẳng hoạt. Hắc thằng. Chúng hợp. Hào kiếu. Đại hào kiếu. Viêm nhiệt. Đại viêm nhiệt. Vô gián cùng Bàng sinh, cõi quỷ là mười. Người có bốn châu: Châu Thiệm-bộ. Châu Thắng-thân. Châu Ngưu-hóa. Châu Câu-lô. Có sáu trời Dục: Trời Tứ đại vương chúng. Trời Tam Thập Tam. Trời Dạ-ma. Trời Đỗ-sử-đa. Trời Lạc-biến-hóa. Trời Tha-hóa-tự-tại. Kết hợp là hai mươi xứ. Cõi Sắc có mười sáu xứ: Sơ Tónh lự có hai xứ: Là trời Phạm Chúng và trời Phạm Phụ. Đệ nhị tónh lự có ba tầng trời: Trời Thiểu Quang. Trời Vô Lượng Quang. Trời Cực Quang Tịnh. tám. Đệ tam Tónh lự có ba tầng trời: Trời Thiểu Tịnh. Trời Vô Lượng Tịnh. Trời Biến Tịnh. Đệ tứ Tónh lự có tám tầng trời: Trời Vô Vân. Trời Phước Sinh. Quảng Quả thiên. Trời Vô Phiền. Trời Vô Nhiệt. Trời Thiện Hiện. Trời Thiện Kiến. Trời Sắc Cứu Cánh. Kết hợp là mười sáu xứ. Vì Đại Phạm, Vô tưởng không có chỗ riêng, nên không phải mười Cõi Vô Sắc dù không có chỗ trên, dưới mà vẫn có bốn chỗ sinh khác nhau: Không vô biên xứ. Thức vô biên xứ. Vô sở hữu xứ. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Thú (đường) có năm thứ: Nại-lạc-ca. Bàng sinh. Cõi quỷ. Trời. Người. Sinh có bốn thứ: Noãn sinh, Thai sinh, Thấp sinh, Hóa sinh. Địa có mười một thứ: Tónh lự cõi Dục, Vị chí, Trung gian ở cõi Dục, bốn Tónh lự, bốn Vô Sắc là mười một địa. Cõi Dục và Hữu đảnh hoàn toàn hữu lậu, chín địa kia có cả hữu lậu và vô lậu. Giới, thú, sinh nói ở trước hoàn toàn là hữu lậu. Trí có mười thứ: Pháp trí, loại trí, trí thế tục, trí tha tâm, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí và trí vô sinh. Các hành của cõi Dục và nhân của các hành đó diệt, đạo Gia hạnh, đạo thắng tiến, đạo Vô gián, đạo Giải thoát và trí vô lậu đã có trong địa Pháp trí, gọi là Pháp trí. Từ vô thỉ đến nay, thường ôm ấp chấp ngã, nay vì mở ra thấy pháp, nên gọi là Pháp trí. Các hành của cõi Sắc, Vô Sắc và nhân của các hành đó diệt, đạo Gia hạnh, Vô gián, Giải thoát, thắng tiến và trí vô lậu đã có trong địa loại trí, gọi là loại trí. Vì tùy theo pháp trí nẩy sinh nên gọi là loại trí. Các tuệ hữu lậu gọi là trí thế tục. Trí này phần nhiều phân biệt sự chuyển của thế tục, như bình, y v.v…, nên gọi là trí thế tục. Trí thế tục này có hai thứ là nhiễm ô, không nhiễm ô. Nhiễm ô lại có hai thứ là kiến tính và phi kiến tính. Kiến tính có năm loại: Hữu thân kiến, biên chấp kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ. Phi kiến tính: Là tuệ tương ưng với nghi, tham, sân, mạn, vô minh, phẫn, hại, v.v… Không nhiễm ô cũng có hai thứ: Thiện. Vô phú vô ký. Vô phú vô ký nghĩa là không phải kiến, vì không suy luận, cân nhắc là tuệ và trí. Thiện: Như năm thức đều có, cũng không phải kiến mà là tuệ và trí. Nếu ý thức đều có là chính kiến thế tục, vừa là tuệ, vừa là trí. Các định phát sinh trí, có thể biết rõ sự trói buộc của cõi Dục, cõi Sắc ở người khác. Một phần vô lậu hiện tại, giống như tâm, tâm sở pháp gọi là trí tha tâm. Trí này có hai thứ: Hữu lậu. Vô lậu. Hữu lậu có thể biết rõ pháp tâm, tâm sở thuộc về cõi Dục, cõi Sắc khác. Vô lậu có hai thứ: Pháp trí phẩm. Loại trí phẩm. Pháp trí phẩm: Biết pháp tâm, tâm sở của phẩm pháp trí. Loại trí phẩm biết pháp tâm, tâm sở của phẩm loại trí. Trí này không biết sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành và quá khứ, vị lai thuộc về cõi Vô Sắc. Tất cả tâm, tâm sở thù thắng của Bổ-đặc-già-la nơi địa căn đều không thể biết. Ở phần quả của năm thủ uẩn, có trí vô lậu, tạo nên hành tướng phân biệt vô thường, khổ, không, vô ngã, gọi là khồ trí. Về phần nhân của năm thủ uẩn, có trí vô lậu, với hành tướng quán sát tập làm nhân sinh ra duyên, gọi là tập trí. Ở diệt kia có trí vô lậu, tạo nên hành tướng phân biệt của diệt, tịnh, diệu, ly gọi là diệt trí. Đối trị ở nơi kia được đạo Niết bàn, có trí vô lậu với hành tướng phân biệt của đạo, như hành, chuyển gọi là đạo trí. Có trí vô lậu suy nghó: “Khổ ta đã biết, tập ta đã đoạn, diệt ta đã chứng, đạo ta đã tu”. Hết thảy hành tướng đều chuyển, gọi là tận trí. Có trí vô lậu suy nghó: “Khổ ta đã biết, không còn biết nữa, cho đến đạo ta đã tu, không còn tu nữa, hành tướng vô sinh chuyển gọi là trí vô sinh. Hai trí sau này vì không suy luận đắn đo, nên không phải là tính kiến. Trí tha tâm chỉ là kiến tính. Sáu trí khác có cả kiến tính và phi kiến tính. Trí thế tục chỉ có hữu lậu. Trí tha tâm có cả hữu lậu, vô lậu. Tám trí khác chỉ là vô lậu. Diệt trí chỉ duyên vô vi. Trí tha tâm, khổ, tập, đạo chỉ duyên hữu vi. Năm trí còn lại duyên cả hữu vi và vô vi. Khổ trí, tập trí chỉ duyên hữu lậu. Diệt trí, đạo trí chỉ duyên vô lậu. Sáu trí còn lại duyên cả hữu lậu và vô lậu. Pháp trí ở sáu địa, đó là bốn Tónh lự, thiền Vị chí và Trung gian. Loại trí ở chín địa, đó là sáu địa trước và ba Vô Sắc dưới. Trí tha tâm ở bốn địa là bốn tónh lự. Trí thế tục ở tất cả địa. Pháp trí phẩm và sáu trí còn lại là ở sáu địa, loại trí phẩm thì ở chín địa. Nhẫn có tám thứ: Pháp trí nhẫn khổ, tập, diệt, đạo và loại trí nhẫn khổ, tập, diệt, đạo. Tám trí này có thể dẫn sinh trí quyết định và tuệ thù thắng. Do nhẫn có thể đạt được lý bốn Thánh đế như khổ v.v… nên gọi là Nhẫn. Trong các nhẫn, tám trí này chỉ là quán sát pháp nhẫn, là kiến và tuệ, không phải tự tính của trí. nghĩa quyết định là nghĩa của trí. Ý ưa tìm tòi, ý lạc của tám trí này chưa dứt. Vì chưa thể xem xét, quyết đoán, nên không gọi là trí. Khổ pháp trí nhẫn và mười tùy miên do kiến khổ dứt trừ ở cõi Dục đều được trừ diệt. Khổ pháp trí đều sinh với sự dứt trừ kia. Nhẫn là đạo Vô gián, trí là đạo Giải thoát. Đối trị với mười thứ tùy miên ở cõi Dục do kiến khổ dứt trừ. Như có hai người: một người ở trong nhà đuổi giặc ra, còn một người thì đóng cửa lại không cho chúng vào nữa. Khổ loại trí nhẫn và mười tám thứ tùy miên của cõi Sắc, cõi Vô Sắc do kiến khổ dứt trừ đều được cùng diệt. Khổ loại trí và sự dứt trừ kia được sinh chung với trí khác, như trước đã nói. Bốn tâm như vậy, có thể hiện quán khổ đế ở ba cõi. Ở tập, diệt, đạo đều có bốn tâm, nên biết cũng vậy. Mười sáu tâm này có thể hiện quán bốn đế ở ba cõi, dứt trừ tám mươi tám kiết do kiến dứt trừ mà được quả Dự lưu. Mười thứ tùy miên khác do tu đạo dứt trừ. nghĩa là cõi Dục có bốn thứ, cõi Sắc, Vô Sắc, mỗi cõi đều có ba thứ, nên thành ra mười thứ. Bốn thứ của cõi Dục ví như bó cỏ lau được chia đều thành chín phần, là từ thượng thượng cho đến hạ hạ. Đạo đối trị vô gián, giải thoát kia cũng có chín phẩm. Đó là đạo của phẩm hạ hạ, có thể đối trị tùy miên của phẩm thượng thượng, cho đến đạo của phẩm thượng thượng có thể đối trị tùy miên của phẩm hạ hạ. Lúc sáu phẩm tùy miên dứt hết là được quả Nhất lai. Lúc chín phẩm tùy miên dứt hết thì được quả Bất- hoàn. Như cõi Dục có bốn thứ được chia đều thành chín phần, cũng có Vô gián, giải thoát của chín phẩm có thể là đạo Đối trị. Cõi Sắc, Vô Sắc đều có bốn địa, chủ thể đối trị, đối tượng được đối trị trong mỗi địa đều có chín phẩm, nên biết cũng vậy. Lần lượt dứt trừ tùy miên của tám địa kia, cho đến khi dứt hết phẩm hạ hạ của Hữu đảnh, được quả A-la-hán. Ở giữa bốn quả đã có các đạo và kiến đạo trước kia, gọi là bốn hướng. Tùy theo ở quả nào trước gọi là hướng của quả đó. Như vậy có tám Bổ-đặc-già-la là hành bốn hướng và trụ bốn quả. Quả hướng như vậy là do phần riêng của chủng tính mà chia làm sáu thứ là chủng tính của phàm phu, căn cơ châm hụt, nhạy bén. Nếu nhập mười lăm tâm của Kiến đạo gọi là Tùy tín hành và Tùy pháp hành, tức hai thứ này đến quả vị tu đạo, là từ tâm thứ mười sáu cho đến định Kim Cương dụ, gọi là Tín thắng giải và được gọi là Kiến chí, nghĩa là hai thứ này đến quả vị vô học. Từ tận trí ban đầu, cho đến tâm sau cùng, gọi là Thời giải thoát và Bất thời giải thoát, v.v… đó là những chủng loại khác nhau của tâm sở mà có vô lượng thứ. Vì dựa vào tâm mà có, nên gọi là pháp tâm sở, cũng như ngã sở. Tâm sở như vậy gọi là hành tương ưng. Hành bất tương ưng trái với hành tương ưng này, nghĩa là các đắc v.v… Đắc là xưng gọi có pháp, tức pháp của nhân có ba thứ: Tịnh. Bất tịnh. Vô ký. Tịnh là tín, v.v…, bất tịnh là tham, v.v…, vô ký, tâm biến hóa v.v… Nếu thành lập pháp này, gọi là pháp có, nghĩa là xưng gọi pháp này là nhân nhất định, gọi là đắc được thành tựu. Nếu không có đắc thì lúc các phiền não như tham v.v… hiện khởi ở trước, người hữu học đã không có tâm vô lậu nên không phải bậc Thánh. Nếu phàm phu khởi tâm thiện, vô ký, thì bấy giờ nên gọi là người đã lìa nhiễm! Vả lại, các bậc Thánh với các phàm phu đều không có đắc của Niết-bàn. Vì giống nhau nên đều gọi là phàm phu, hoặc đều gọi là bậc Thánh! Như đấng Pháp Vương nói: “Vì khởi đầu được thành tựu mười pháp vô học, nên gọi là bậc Thánh, dứt hẳn năm chi”, cho đến nói rộng. Lại nữa, Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô nên biết! Nếu có ai thành tựu pháp thiện, bất thiện, ta nhận thấy các loài hữu tình như vậy, pháp thiện, bất thiện trong tâm họ nối tiếp nhau sẽ được tăng trưởng vô biên”. Ngài nói rằng: “Bí-sô các thầy không nên so sánh, cân nhắc sự hơn, kém của hữu tình. Không nên vọng chấp về chất lượng của đức Bổ-đặc-già-la là cạn, sâu”, cho đến nói rộng. Vì vậy, nên biết ngoài pháp thì nhất định có đắc thật. Đắc này có hai thứ: Chưa được, đã mất nay được. Được rồi không mất, nay thành tựu. Nên biết, không phải đắc là trái với đây. Vì có đắc, phi đắc trong pháp nào, tức đối với sự nối tiếp nhau của mình và trong hai diệt, có đắc, phi đắc, không phải là sự nối tiếp của người khác. Vì không có pháp thành tựu ở thân người khác, không phải là chẳng nối tiếp nhau, vì không có thành tựu pháp phi tình, cũng chẳng phải hư không, vì không có ai thành tựu hư không, vì cái đắc kia đã không có thì phi đắc cũng không có. Đắc có ba thứ: Như bóng theo hình. Như bò đầu đàn dẫn đi trước mà đắc. Như nghé con theo sau mà đắc. Pháp đắc thứ nhất, phần nhiều như pháp vô phú vô ký. Pháp đắc thứ hai, phần nhiều là như lúc qua đời ở địa trên, sinh xuất cõi Dục, lúc kiết phát sinh, đắc pháp thiện của cõi Dục, pháp đắc thứ ba, phần nhiều như văn, tư, tạo thành tuệ, v.v… trừ những pháp đắc khác cùng sinh. Trong đây, nên tóm tắt Tỳ-bà-sa, nghĩa là sắc thiện, bất thiện thuộc cõi Dục, không có đắc của đời trước, chỉ có đắc cùng sinh và theo sau, trừ sự thông minh của mắt, tai và tâm năng biến hóa, đồng thời ngoại trừ phần ít, nếu là đường oai nghi, hoặc xứ công xảo, người thường xuyên tập luyện. Tất cả pháp vô phú vô ký khác và Biểu sắc của hữu phú vô ký chỉ có đắc cùng sinh. Vì uy lực yếu kém, nên không có đắc trước, sau. Các pháp khác, mỗi pháp đều có đắc trước sau và cùng sinh. Đắc của pháp thiện chỉ là thiện, đắc của pháp bất thiện chỉ là bất thiện. Đắc của pháp vô ký chỉ là vô ký. Đắc của pháp cõi Dục chỉ là cõi Dục. Đắc của pháp cõi Sắc chỉ là cõi Sắc. Đắc của pháp cõi Vô Sắc chỉ là cõi Vô Sắc. Đắc của pháp vô lậu chung cho cả ba cõi và vô lậu. Pháp vô lậu, nghĩa là đạo đế, ba vô vi đều không bị ràng buộc. Đắc của đạo đế chỉ là vô lậu. Đắc của Phi trạch diệt chung cả ba cõi. Đắc của trạch diệt tức là đạo lực của cõi Sắc, Vô Sắc khởi lên, tức là liền theo cõi đó. Đạo lực vô lậu khởi lên là vô lậu. Đắc của pháp vô lậu nói chung có bốn thứ: Đắc của pháp học chỉ có học, đắc của pháp vô học chỉ có vô học, đắc của pháp phi học phi vô học có ba thứ: Pháp phi học phi vô học, nghĩa là các hữu lậu và hữu lậu vô vi và đắc của phi trạch diệt chỉ có phi học phi vô học. Đắc của trạch diệt do sức của đạo học khởi, chỉ là học - sức của đạo vô học khởi, chỉ là vô học. Sức của đạo thế gian khởi chỉ là phi học phi vô học. Đắc của pháp do kiến dứt trừ, chỉ là kiến dứt trừ. Đắc của pháp do tu dứt trừ, chỉ là tu dứt trừ. Đắc của pháp phi sở đoạn có hai thứ: tu sở đoạn và phi sở đoạn. Pháp phi sở đoạn, nghĩa là đạo đế và vô vi. Đắc của đạo đế chỉ là phi sở đoạn. Đắc của phi trạch diệt chỉ do tu dứt trừ, vì không nhiễm ô. Vì là hữu lậu, nên đắc của trạch diệt, khi sức của đạo thế gian khởi chỉ là tu đạo đoạn. Sức của đạo vô lậu khởi, chỉ là phi sở đoạn. Tất cả phi đắc đều chỉ thuộc về tính vô phú vô ký, không phải như đắc trước đây có nghĩa khác nhau. Nhưng pháp quá khứ, vị lai, mỗi pháp đều có phi đắc của ba đời. Pháp hiện tại không có hiện tại là phi đắc, vì tính của đắc và phi đắc trái nhau. Không có pháp hiện tại có thể thành tựu vì không thành tựu. Nhưng có phi đắc của quá khứ, vị lai. Cõi Dục, Sắc, Vô Sắc và pháp vô lậu, mỗi pháp vô lậu đều có phi đắc của ba cõi. Không có phi đắc là vô lậu. nghĩa là trong phi đắc có tính phàm phu. Như nói: Thế nào là tính của phàm phu? nghĩa là không được Thánh pháp. Không được là tên khác của phi đắc. Vả lại, vì các phi đắc chỉ là tính vô ký, nên không phải vô lậu. Đã lìa nhiễm của đệ tam tónh lự, chưa xa lìa nhiễm của đệ Tứ tónh lự, nên tâm, tâm sở của địa đệ Tứ Tónh lự diệt. Có pháp bất tương ưng gọi là định Vô tưởng. Dù diệt tất cả pháp tâm, tâm sở mà vẫn khởi định này. Vì chuyên trừ tưởng, nên gọi là Vô tưởng, như trí tha tâm. Định Vô tưởng này là thiện, thuộc về đệ Tứ tónh lự, vì chỉ có chẳng phải Thánh. Trong sự nối tiếp nhau đã khởi sự cầu tưởng giải thoát, vì khởi hiện định này. Bậc Thánh đối với định ấy, như tưởng cõi ác, tâm nhàm chán lìa bỏ thật sâu xa. Ở đây, chỉ có thuận thọ định, nghĩa là thuận theo thứ lớp sinh ra đời sống kế tiếp là gia hạnh đắc, không phải diệt định lìa nhiễm đắc: nghĩa là đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ. Pháp tâm, tâm sở của Hữu đảnh diệt. Có pháp bất tương ưng làm cho đại chủng bình đẳng nối tiếp nhau, nên gọi là định diệt. Đó là thuộc về gia hạnh thiện của địa Hữu đảnh. Hoặc thuận theo thứ lớp sinh thọ, hoặc thuận theo hậu sinh thọ, hoặc thuận theo thọ bất định. Khởi định này rồi, chưa được dị thục là nhập Niết bàn, nên là thọ bất định. Định này có thể cảm nhận dị thục bốn uẩn trong địa Hữu đảnh, vì cõi kia không có. Bậc Thánh có thể khởi hiện không phải các phàm phu, vì do sức của Thánh đạo khởi định ấy. Bậc Thánh vì được hiện pháp lạc trụ, nên khởi định này. Phàm phu đối với định ấy rất sợ đoạn diệt. Vì không có sức của Thánh đạo, nên không thể khởi. Đối với định này, bậc Thánh do gia hạnh đắc, không phải lìa nhiễm đắc. Chỉ có Phật Thế Tôn đối với định diệt này gọi là lìa nhiễm đắc. Lúc tận trí ban đầu đã có định này có thể khởi hiện tự tại, nên gọi là đắc. Công đức của Chư Phật không do gia hạnh mà, vì hễ muốn thì liền khởi hiện ở trước. Nếu sinh trong trời hữu tình Vô tưởng, pháp có thể khiến tâm, tâm sở diệt gọi là sự Vô tưởng, là vật thực có, là vì quả dị thục của định Vô tưởng. Đó gọi là dị thục sinh, thuộc về tính vô ký, tức là có chỗ vượt hơn trong cõi trời Quảng Quả. Như tónh lự trung gian, gọi là trời Vô Tình, lúc sinh, lúc chết đều có tâm tưởng. Vì trung gian không có, nên đặt tên Vô tưởng. Lúc người kia sắp chết, như ngủ lâu vừa tỉnh giấc, trở lại khởi lên tâm tưởng. Khởi rồi không bao lâu thì qua đời, sinh ở cõi Dục. Người sắp sinh cõi Dục kia sẽ có thuận hậu thứ họ của cõi Dục, vì nghiệp quyết định, như người sắp sinh ở châu Câu-lô ở phía Bắc kia rất có thể chiêu cảm nghiệp sinh lên cõi trời. Nghiệp trước kia đã dẫn phát nhân của sáu xứ nối tiếp nhau không dứt. Dựa vào nghiệp nhân đó, đặt ra bốn thứ sinh trong năm đường, đó là mạng căn. Vì cũng gọi là tuổi thọ, nên Đối pháp nói: Thế nào là mạng căn? nghĩa là tuổi thọ của ba cõi. Tuổi thọ này có thật thể, có thể duy trì thức, noãn, như già-tha nói: Thọ, noãn cùng với thức Lúc ba pháp bỏ thân. Thân bỏ cứng đờ ra Như cây không biết gì. Khế kinh cũng nói: “Tiếp nhận dị thục rồi, gọi là Na-lạc-ca, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, nên biết cũng thế. Nếu mạng căn khác, sẽ không có pháp riêng mà là thuộc về căn tính ở khắp cả ba cõi. Trong một thời kỳ nối tiếp nhau không gián đoạn, có thể dựa vào sự đặt ra bốn loại sinh, năm đường sinh cõi Vô Sắc, khởi từ tâm thiện nhiễm ô của địa trên, hoặc khi khởi tâm vô lậu của địa dưới, dựa vào sự lập bày nào mà hóa sinh cõi trời? Lúc khởi thiện nhiễm, lẽ ra gọi là chết. Nếu khởi vô ký, lẽ ra gọi là sanh. Bác bỏ không có mạng căn sẽ có lỗi lớn này! Các loại hữu tình đồng làm sự nghiệp, đồng là nhân của sự ưa muốn, nên gọi là Chúng đồng phần. Chúng đồng phần này có hai thứ: Không khác. Có khác. Không khác, nghĩa là các hữu tình đều có ngã ái, đồng nhờ vào thức ăn, ưa muốn giống nhau. Nhân bình đẳng này được gọi là chúng đồng phần. Trong mỗi thân đều có một riêng, có khác nhau, nghĩa là sự của các cõi hữu tình, ở giới, địa, đường sinh, chủng tính nam, nữ, cận sự, Bí-sô, Học, Vô Học, v.v… Trong mỗi thân đều có nghiệp đồng sự, nhân nhất định của lạc dục gọi là chúng đồng phần. Nếu không có chúng đồng phần này thì Thánh không phải Thánh, đồng như tiếng nói của thế tục lẽ ra đều lẫn lộn! Các tính phàm phu với đồng phần phàm phu có gì khác nhau không? Vì đồng nhân ưa muốn, v.v… nên gọi phàm phu kia là đồng phần. tính của phàm phu, nghĩa là phàm phu có thể làm tất cả nhân vô nghĩa lợi. Như Khế kinh nói: “Bí-sô nên biết! Ta nói ngu phu phàm phu ít học không có chút nghiệp ác, bất thiện, vì họ không thể gây tạo”. Lại Đức Thế Tôn nói: “Nếu đến trong cõi người sẽ được đồng phần của người, không phải tính của phàm phu, thì khi chết, sống sẽ có nghĩa được xả. Vì vậy, tính của phàm phu khác với đồng phần”. Lúc các pháp sinh là đã có lực của nhân bên trong, khiến pháp đó được công năng riêng. Chính nhân bên trong này gọi là tướng sinh. nghĩa là nhân của pháp sinh, gồm có hai thứ: Trong. Ngoài. Trong là tướng sinh, ngoài là sáu nhân, hoặc là tính của bốn duyên. Vì nếu không có tướng sinh thì các pháp hữu vi lẽ ra đều như hư không, v.v… dù có đủ nhân duyên bên ngoài, cũng không có nghĩa sinh. Hoặc hư không, v.v… lẽ ra cũng có nghĩa có thể sinh, trở thành tính hữu vi, là có lỗi lớn. Do đó nên biết, có tướng sinh riêng, có thể dẫn sinh quả riêng. Nhân tạm thời trụ nói là trụ tướng. nghĩa là lúc tạm trú, pháp hữu vi đều có thế lực, có công năng dẫn đến quả riêng, khiến cho tạm thời trụ, đây là dẫn quả riêng, thế lực nội nhân gọi là tướng trụ. Nếu không có tướng trụ, thì các pháp hữu vi trong lúc tạm trú, lẽ ra cũng không thể dẫn đến quả riêng. Do vậy nên biết có tướng trụ riêng. Già, nghĩa là sự hao mòn, yếu kém, công năng dẫn đến quả khiến cho sự già kia không thể còn dẫn đến quả riêng. nghĩa là pháp hữu vi nếu không có tưởng đổi khác thì công năng của sự suy yếu, sẽ phải do duyên nào mà không thể dẫn đến quả riêng, rồi lại không dẫn nữa? Đã dẫn rồi, lại dẫn nữa, lẽ ra sẽ trở thành lỗi vô cùng! Và nếu vậy, lẽ ra lại không phải là tính chất của sát-na. Chính vì lý do này, nên biết phải có riêng tướng đổi khác. Vô thường, nghĩa là công năng gây tổn hại cho mình, khiến pháp hiện tại nhập nhân quá khứ. nghĩa là có pháp riêng gọi là tướng diệt, khiến từ hiện tại rơi vào quá khứ. Nếu không có vô thường này, thì pháp lẽ ra sẽ không diệt. Hoặc hư không v.v… cũng có nghĩa diệt. Tướng hữu vi của bốn hữu vi ấy, nếu có bốn tướng hữu vi này gọi là hữu vi, chẳng phải hư không, v.v… Nhưng Đức Thế Tôn nói: “Có tướng hữu vi của ba hữu vi”. Sự sinh khởi của hữu vi cũng có thể biết rõ, tận và trụ, dị cũng có thể biết rõ. Vì được hóa ra sinh, nhàm chán hữu vi, như nói dị cùng với sự tốt lành chung khởi. Hai tướng trụ, dị hợp lại gọi là một. Thế nên, nhất định có bốn tướng hữu vi, chẳng phải tức “Sở tướng” (Đối tượng tướng) là thể của pháp hữu vi. Vì nếu có “Sở tướng” hữu vi là thể, tất nhiên như thể của “Sở tướng” và “Năng tướng” (chủ thể tướng) là một, “Năng tướng” lẽ ra cũng lần lượt không khác. Nếu vậy, thì khi các pháp diệt lẽ ra nên sinh, lúc sinh lẽ ra diệt, hoặc hoàn toàn bất sinh. Bốn tướng gốc này vì là hữu vi, như pháp “sở tướng” có bốn tướng theo, đó là sinh sinh, cho đến diệt diệt, nhưng chẳng phải vô cùng, vì bốn tướng gốc này mỗi tướng đều có tám pháp tùy tướng. Vì chỉ có thể mỗi tướng sinh một, nghĩa là lúc pháp sinh và chín pháp tự thể của nó đều khởi. Tự thể là một tướng và tám tùy tướng. Sinh trong tướng gốc, ngoại trừ tự thể của nó, sinh ra tám pháp kia. Trong tùy tướng sinh trong chín pháp, chỉ có sinh ra từ sự sinh gốc, vì thế lực yếu kém. Tướng trụ, dị, diệt, nên biết cũng vậy. Tướng gốc dựa vào pháp, tùy tướng dựa vào tướng. Vì pháp nhân tướng, nên được có tác dụng. Tướng nhân tùy tướng mà được có tác dụng. Tác dụng là sao? nghĩa là sinh, trụ, dị, diệt. Sở sinh, v.v… (đối tượng sinh) nghĩa là vì công năng dẫn sinh quả, nên thể của pháp hữu vi dù luôn luôn có mà dụng không phải thường. Chỉ tạm nhờ sức của nhân trong, ngoài của bốn tướng này mà tác dụng đươc hoàn thành, nên gọi là danh thân, cú thân. Văn thân v.v… nghĩa là dựa vào ngôn ngữ mà sinh như trí kèm theo nghĩa ảnh tượng mà hiện. Có thể giải thích (năng thuyên) về nghĩa của mình, gọi là. Cú văn, tức là mục khác của tưởng chướng tự. Như nhãn thức, v.v… dựa vào mắt, v.v… mà sinh, là của nghĩa kèm sắc v.v… mà ảnh tượng khởi hiện, có thể phân biệt rõ sinh, v.v của cảnh mình cũng vậy. Không phải tức tiếng nói có thể giải thích được nghĩa, chớ nói lửa là bị cháy ở miệng, trình bày trực tiếp nghĩa đó. Vì cần phải dựa vào lời nói, thì danh từ lửa, v.v mới phát sinh, vì danh từ lửa, v.v giải thích rõ ràng về nghĩa của lửa, v.v… Chữ thuyên, nghĩa là có thể làm rõ nghĩa làm nẩy sinh sự hiểu biết của người khác, không phải kết hợp với nghĩa, vì tiếng có chất ngại. Các Ký luận giả chấp tiếng là thường còn. Vì lý không thành, không nên lìa ba thứ: Danh, cú, văn này mà để chấp là có pháp nào có thể nói rõ nghĩa. Nhưng sự giống nhau của bốn thứ pháp là đồng một tướng: Âm thanh. Danh. nghĩa. Trí. Trong đây, danh là tưởng như sắc v.v… Cú là rốt ráo nghĩa năng thuyên. Như nói: Bài tụng: “Các điều ác đừng làm, v.v…”. Thế gian cũng nói: “Đề-bà-đạt-đa lùa bò trắng đến, vắt lấy hết sữa, v.v…”. Văn, tức là hợp nhất các chữ lại v.v. Ba thứ này đều khác, tập hợp đồng loại, nói là thân. Như Đại Tiên nói: “Bí-sô nên biết! Như Lai xuất hiện ở thế gian là có danh thân, cú thân và văn thân, có thể biết rõ, nghĩa là ý gọi uẩn, xứ, giới của đế thật. Pháp duyên khởi, v.v của quả Sa-môn là danh, cú, văn thân”. Lại, Đức Thế Tôn nói: “Như Lai đã được danh, cú, văn thân kia”. nghĩa là ý nói Như Lai được những pháp danh, cú, văn thân, v.v… kia không chung với Phật pháp. Trong đây, giải thích khác về cú, nghĩa của các hành giống như đây nên biết. Cú nghĩa của thức: Phân biệt cảnh sự như sắc,v.v… gọi là thức, tức trong sáu thứ cảnh như sắc, v.v… do sự giúp đỡ của nhãn căn v.v mà khởi tác dụng hiện tại. Chỉ có phân biệt chung về sự cảnh của sắc v.v, gọi là thức. Nếu có thể phân biệt tướng khác nhau, thì gọi là các pháp tâm sở như thọ, v.v… Thức không có tác dụng đó, chỉ làm nơi nương tựa. Tác dụng của thức chỉ có một khoảng sát-na ngay trong đời hiện tại, có thể phân biệt rõ ràng. Thức này vừa gọi là ý, vừa gọi là tâm, cũng là đặt ra bổn sự của hữu tình, có tác dụng phân biệt rõ về các cảnh sắc, v.v… Do căn cảnh riêng, nên lập ra sáu thức, đó là nhãn thức cho đến ý thức. Trong kinh, Đức Phật tự nói tướng của thức kia, nghĩa là vì có thể phân biệt rõ, nên lập tên thức. Do vậy, nên biết, sự phân biệt rõ là tướng. Trước đây ở phần suy chọn tướng hữu vi đã có nói về nhân của pháp sinh, gồm có hai thứ: Trong. Ngoài. Trong là tướng sinh, ngoài là sáu nhân. Hoặc là tính của bốn duyên, nay nên suy nghó lựa chọn: Nhân duyên là sao? Nhân có sáu thứ: Nhân tương ưng. Nhân câu hữu. Nhân đồng loại. Nhân biến hành. Nhân dị thục. Nhân năng tác. Pháp Tâm, tâm sở lần lượt tương ưng nhau, đồng nhận lấy một cảnh, gọi là nhân tương ưng. Như tâm và thọ v.v… thọ v.v… và thọ v.v. Thọ v.v… lại với tâm đều bỏ đi tự tính của mình. Các pháp hữu vi lại làm quả lẫn nhau, hoặc đồng một quả, gọi là nhân câu hữu, như các đại chủng, sở tướng năng tướng. Tâm, tâm chuyển biến theo, lại đối lẫn nhau. Hai nhân riêng: Như các người đi buôn, nhờ ra sức hỗ trợ lẫn nhau, nên họ có thể vượt qua chặng đường nguy hiểm, đó là nhân câu hữu. Các thức uống ăn lần lượt đồng nghĩa, là nhân tương ưng. Tâm chuyển biến theo, nghĩa là các tâm sở và các tónh lự, luật nghi vô lậu, các tướng hữu vi, vì những pháp đó đều có với tâm, rơi vào một đời, một khởi, một trụ, một diệt, một quả, một đẳng lưu, một dị thục, đồng nhân thiện, bất thiện, vô ký. Do mười nhân này nên gọi là tâm tùy chuyển. Các pháp của đời trước thuộc bộ mình, địa mình, như pháp hạt giống tương tợ với pháp sau là nhân đồng loại. Các pháp biến hành của đời trước kia thuộc địa mình, cùng đi với pháp nhiễm ở đời sau, là nhân biến hành. Tất cả pháp bất thiện, thiện hữu lậu đều làm nhân dị thục cho dị thục của mình. Lúc các pháp sinh, ngoại trừ tự tính của chúng, lấy tất cả pháp làm nhân năng tác, hoặc chỉ có, vô chướng ngại, hoặc vì có thể sinh. Sáu nhân như vậy, đều lấy tất cả hữu vi làm quả. Vì do đó sinh ra, nghĩa là nhân tương ưng nên câu hữu được quả Só dụng. Do uy lực này, nên quả kia được sinh, đó gọi là só dụng, đó gọi là quả. Nhân đồng loại, biến hành được quả Đẳng lưu. Vì quả giống với nhân, nên gọi là đẳng. Vì từ nhân sinh, lại nói là lưu. Quả tức đẳng lưu, nên gọi là quả Đẳng lưu. Nhân dị thục được quả Dị thục, vì quả không giống nhân nên nói là dị thục. nghĩa là vì thành thục, có thể thọ dụng, quả tức dị thục, gọi là quả dị thục, chỉ thuộc về số hữu hình. tính vô phú vô ký có thể làm nhân được quả tăng thượng. Do sức tăng thượng này mà quả kia mới được phát sinh như nhãn căn, v.v đối với nhãn thức, v.v… và nông phu đối với việc cày cấy v.v… Do tăng thượng trước, pháp sau mới được sinh, quả tăng thượng gọi là quả Tăng thượng. Trạch diệt vô vi, gọi là quả Ly hệ. Quả này do đạo mà được, chứ không phải do đạo quả sinh tức lìa sự lệ thuộc, gọi là quả Ly hệ. Duyên có bốn thứ: Nhân duyên, duyên đẳng vô gián, duyên sở duyên và duyên tăng thượng. Ngoài nhân năng tác, năm nhân khác gọi là Nhân duyên. Pháp tâm, tâm sở trong quá khứ, hiện tại, trừ tâm sau cùng, v.v… của A-la-hán, gọi là duyên đẳng vô gián. Tất cả pháp gọi là duyên sở duyên. tính của nhân năng tác, gọi là duyên tăng thượng. Dung chứa vật có trở ngại là tướng hư không. Nhờ sức tăng thượng này mà vật kia mới được sinh, vì có khả năng dung nạp là tính hư không. Nếu không có tính chất này của hư không thì mọi vật có thể có trở ngại, lẽ ra không được phát sinh, vì không có chỗ chứa. Như Đức Thế Tôn nói: Phạm chí nên biết! Gió dựa vào hư không. Bà-La-môn nói: Hư không dựa vào đâu? Đức Phật lại bảo: Ông hỏi phi lý. Vì hư không Vô Sắc, vô kiến, vô đối thì sẽ dựa vào chỗ nào? Nhưng có hư không sáng rõ, có thể hiểu được, cho nên biết là thật có hư không vô vi. Vì nếu không có tự thể của hư không này thì gió sẽ dựa vào đâu mà trụ! Nói Vô Sắc v.v là nói dựa vào đâu? Nhân có sáng suốt thì phân biệt rõ những thứ nào? Biết rõ về lông rùa, v.v… vì không có gì để so sánh. Các khổ dứt hẳn, gọi là trạch diệt. Các khổ là sao? Là các sự sống, chết. Như Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô nên biết! Nếu các hữu sinh, thì nói là khổ. Các hữu là tên khác của sự sống, chết. Nếu hữu bất sinh, gọi là khổ dứt hẳn. Như đê ngăn nước, như vách chắn gió, khiến cho khổ bất sinh, gọi là trạch diệt. Trạch nghĩa là lựa chọn, tức là tuệ thiện vượt hơn, thường phân biệt bốn Thánh đế. Vì sự khổ được diệt, nên đặt tên trạch diệt. Trạch diệt này tùy theo thể của đối tượng đoạn có vô lượng, vì lượng pháp bị đoạn là vô biên. Nếu thể là một thì đạo ban đầu đã được tu các đạo sau sẽ trở nên vô dụng. Nếu nói lần đầu tiên chúng phần ít không phải toàn phần, thì một thể diệt, lẽ ra sẽ có nhiều phần, một thể có nhiều phần là trái với lý. Tùy theo pháp hữu lậu mà có ngần ấy số lượng. Trạch diệt vô vi, nên biết cũng vậy”. Thuyết này là tốt, vì thích hợp với chính lý. Ở đây tùy theo đạo mà lập riêng tám mươi chín thứ. Tùy theo biến tri dứt trừ mà có chín thứ. Nếu tùy theo năm bộ mà lập có năm thứ. Lại nữa, tùy theo quả khác nhau mà lập chung bốn thứ. nghĩa là Dự lưu v.v… Do đoạn, lìa cõi diệt, lập riêng ba thứ. Do dứt trừ khổ, tập và hữu dư y, vô dư y khác nhau mà lập chung hai thứ. Y theo sự dứt trừ sinh tử, được lập chung là một. Như vậy, Trạch diệt có nhiều tên khác nhau, nghĩa là tận, ly, diệt, Niết-bàn, v.v… Như Nhân kinh nói: “Bí-sô nên biết! Bốn uẩn Vô Sắc và nhãn sắc, v.v… gọi chung là con người. Trong đó giả tưởng nói tên là hữu tình, cũng gọi là ý sinh cũng gọi là người, Ma-nạp-bà, v.v… Trong đây, tự cho mắt, v.v… của họ là thấy sắc, v.v… rồi phát sinh các thứ ngôn luận thế tục. nghĩa là Tôn giả này có danh như vậy, dòng họ như vậy, cho đến nói rộng”. Bí-sô nên biết! Điều ấy chỉ có tưởng, chỉ có lời nói, các pháp như vậy, đều là vô thường. Pháp hữu vì duyên sinh do vô thường này nên khổ, nghĩa là lúc sinh khổ rồi trụ, v.v… cũng khổ. Các khổ này dứt hẳn không sót, ngoại trừ từ bỏ sự đổi thay, loại trừ, đều dứt lìa hẳn nhiễm, diệt, vắng lặng, ẩn mất. Pháp khác không khởi nối tiếp nữa, gọi là không sinh. Đấy là phép mầu nhiệm yên tónh cùng cực, nghĩa là tất cả sự nương dựa, ngoại trừ bỏ hết ái, lìa diệt Niết bàn. Đã nói tất tất cả sự nương tựa trừ bỏ, nghĩa là trong diệt này, vì được sự diệt này là đã vónh viễn lìa pháp nhiễm, nên gọi là lìa. Chứng diệt này rồi, mọi khổ đều dứt hết, nên gọi là diệt. Chứng diệt này xong, tất cả lửa tai họa phiền não đều tắt mất, nên gọi là Niết-bàn. Phi trạch diệt, nghĩa là có pháp riêng hoàn toàn chướng ngại sự sinh của pháp vị lai, chỉ do thiếu duyên không phải do lựa chọn mà được. Như mắt với ý lúc chuyên chú vào một sắc, sẽ loại trừ các sắc, tiếng, hương, vị, xúc v.v… khác. Năm thức thân v.v… khi duyên cảnh giới đó cũng thế. Do được sự diệt này có thể vónh viễn bị ngăn cách hẳn, trụ đời vị lai là hoàn toàn không sinh. Duyên thiếu cũng do uy lực diệt này, nên phi trạch diệt quyết định thật có. Như Đức Thế Tôn nói: “Nếu bấy giờ lạc thọ biểu hiện trước, hiện tiền thì hai thọ kia liền diệt”. Nói sự diệt đó nghĩa là ngoại trừ sự diệt này là gì? Nhất định không phải vô thường và trạch diệt lại nữa. Khế kinh nói: “Bí-sô nên biết! Nếu được Dự lưu thì đã hết địa ngục, đã hết cõi Quỷ và đã hết Bàng sinh. Nói dứt hết ở đấy là phi trạch diệt. Lúc ấy, pháp dị thục chưa được, vì trạch diệt là nghiệp ban đầu. nghĩa là ưa thích, siêng học, tránh các vấn đáp, tóm tắt tạo ra luận này. Các người chưa biết khắp tướng thân mật của A-tỳ-đạt-ma, theo ý mình, gom góp các tụ hý luận đặt để ở trước, rồi câu kết với tà mạn, muốn chê bai nhau. Chính họ đã chê bai chính giáo mà Đức Phật đã nói. Như Đức Thế Tôn nói: “Có hai hạng người chê bai chính giáo của Phật: Không tin, sinh ra sự oán ghét. Dù tin mà vẫn thọ trì điều ác”.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 98