<經 id="n1552">LUẬN TẠP A TỲ ĐÀ TÂM HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1552 LUẬN TẠP A-TỲ-ĐÀM TÂM Tác giả: Tôn giả Pháp Cứu. Hán dịch: Tam Tạng Tăng già Bạt Ma, người Thiên Trúc, Đời Lưu Tống. <卷>QUYỂN 1 Phẩm MỞ TỰA Các Đại sư thuở xưa Đối với pháp sâu xa Đa văn thấy Thánh tích Đã nói tất cả nghĩa. Tinh tiến phương tiện cầu Chưa từng được phần khác Luận A-tỳ-đàm Tâm Bậc học rộng đã nói. Có khi rất tổng lược Có khi rộng vô lượng Với các thuyết như vậy Không thuận Tu-đa-la. Khéo thuận theo sáng tỏ Chỉ luận này hơn hết Không nương hư không luận Người trí còn không rõ. Quá lược khó rõ biết Quá rộng, khiến thối trí Nay tôi nói vừa chừng Nói rộng nghĩa trang nghiêm. Nói rộng, theo âm Hồ là Tỳ-bà-sa. Vì dùng nhgiã trong Tỳ-bà-sa để trang nghiêm. Nói “vừa chứng” đó là, nói các sự giải thích nghĩa A tỳ đàm Tâm luận của ngài Pháp Thắng thì rộng, lược không đồng. Bản giải thích của chính ngài Pháp Thắng thì quá lược. Còn luận thích với tám ngàn kệ giải thích của Ưu bà phiến đa và một luận sư khác với mười hai ngàn kệ giải thích thì lại quá rộng. Ngài Hòa-tu-bàn-đầu dùng sáu ngàn kệ để giải thích pháp bí mật sâu xa., rộng lớn, không có vương chấp điều gì. Người đối với Tam tạng mà giải thích, thì không dựa vào hư không mà luận. Kỉnh lễ Pháp Thắng tôn Đã nói tôi kính nhận Đạt-ma-đa-la tôi Nói điều chưa từng nói Đệ tử đều khuyến thỉnh Tỳ-đàm Tỳ-bà-sa Chuyên tinh tư duy nghĩa Các Hiền đều nên học chính yếu dễ hiểu rõ Lìa não cứu chúng sinh. Lại nữa, vì hiển hiện pháp thanh tịnh, đối trị phiền não, vì dựa vào A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa là thích đáng nhất, nên Đại đức Pháp Thắng và Đạt-ma-đa-la tôi cùng trang nghiêm chung bộ Tạp A-tỳ-đàm Tâm, lìa các rộng lược, nói nghĩa chân thật. Hỏi: Hãy tạm gác lại nghĩa chân thật, thế nào gọi là A-tỳ-đàm? Sao gọi là Tỳ-bà-sa? Đáp: Đấng Mâu-ni đã thuyết pháp chứa đựng pháp vị, ý nghĩa sâu xa của các đế, đệ nhất nghĩa đế nay nói rõ nghĩa tính chân thật của các đế ấy v.v… gọi là A-tỳ-đàm. Lại có thể hiển hiện về nghĩa của Tu-đa-la, như đèn soi sáng là tính của tuệ căn. Nếu nhận lấy tự tướng thì giác ngộ pháp đó gọi là A-tỳ-đàm. Nếu nhận lấy các thứ là tính của năm ấm, gọi là sự vượt hơn trong các luận, hướng đến giải thoát, gọi là A-tỳ-đàm. Lại nữa, Tỳ-bà-sa là nghĩa của tính chân thật, do Đấng Mâu-ni giảng nói. Sự phân biệt hỏi đáp, nhằm nghiên cứu chỗ chân yếu, thuận theo Tu-đa-la, khai mở niềm vui cho mọi người. Đó là như: tính tướng danh tự, địa, y, hành, duyên, niệm, trí, căn, định, thế, thiện và nghĩa giới học, nghĩa kiến đế đoạn, duyên phương tiện đắc, cũng là lìa dục đắc; khởi sự đầu tiên ở chỗ nào, gồm thâu nhân tương ưng, duyên quả, hữu quả v.v…, vô lượng các thứ nghĩa của các pháp sinh, thuyết có nhiều loại, nhiều thuyết, đó gọi là Luận Tỳ-bà-sa. Như Phật Thế Tôn nói tóm lược về hai trí: Pháp trí và Tỷ trí. Tỳ- bà-sa nói thì vô lượng phân biệt, nghĩa là Pháp trí kia là tính tuệ vô lậu, là tướng của trí. Gọi là Pháp trí tức bắt đầu biết pháp, đó gọi là Pháp trí, ở sáu địa, dựa vào cảnh giới của mười sáu hành nơi cõi Dục, bốn đế, bốn niệm xứ, trí ấn, trí tướng, ba căn, ba tam-muội tương ưng (Ba căn là hỷ, lạc, xả; Ba tam-muội là có giác, có quán, không có giác có quán, không có giác không có quán) ba đời, duyên ba đời và xa lìa đời. Đây là ba thứ duyên thiện (thiện, bất thiện, vô ký) là duyên không trói buộc nơi cõi Dục và không trói buộc, là Học, Vô học duyên ba thứ (Học, Vô học, Phi học phi vô học) là ba loại bất đoạn duyên (kiến đế đoạn, tu đạo đoạn và không đoạn). Duyên danh và duyên nghĩa, phương tiện đắc, lìa dục đắc, từ cõi Dục khởi pháp của pháp giới, nhập, thuộc về hành ấm, pháp giới, ý giới tương ưng với ý thức giới. Tự tính của ba nhân, bốn duyên do ba nhân là chỗ sinh ra. Chỗ sinh của tự tính bốn duyên là bắt đầu sinh quả y vô lậu và quả công dụng. Câu sinh, nghĩa là chỉ có quả công dụng. Có quả, nghĩa là ba quả, hai quả trước và quả giải thoát, không nói quả tăng thượng. Tất cả pháp như thế cần nên biết. Hỏi: Đã biết căn bản của duyên khởi lâu xa, A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa đều nói về pháp đối trị của duyên khởi đó, vì sao nói là nghĩa chân thật? Đáp: Vì biết nghĩa chân thật. Nếu không phân biệt các luận, tất nhiên khó có thể biết rõ. Vì không biết nên thật trí không phát sinh, vì thật trí không phát sinh nên không biết chân thật. Vì không biết chân thật nên không nhận thấy được lỗi ác của các hành phiền não. Vì không thấy lỗi lầm nên rơi vào đường ác. Trái lại là sinh lên cõi trời, giải thoát. Hỏi: Đã nói lý do thuyết minh về sự chân thật, tưởng cũng nên nói về nghĩa chân thật? Đáp: Luận này thù thắng nhất trong các luận chỉ cho chúng ta biết rõ đầy đủ tất cả cảnh giới. Ở luận A-tỳ-đàm thì trí tuệ thêm rộng. Lúc đời năm trược gia tăng, thời, mạng ( kiếp trược, mạng trược) trí tuệ và niệm đều bị tổn giảm, quán sát những việcđối với luận rộng lớn này mà nghe, thọ trì cảm thấy sợ hãi. Vì làm lợi ích cho mình và mọi người nên tôi trong ba thời khéo nói tóm lược về điều chân thật. Vì thương xót ngoại đạo và các sư tà luận, xa cách Pháp chủ của chính luận vượt hơn trước và các Thánh chúng, khắp trong đây, sinh tâm kinh tin, khai phát khiến chúng sinh nhớ nghó đến Phật, Pháp, Tăng, đồng thời mở bày công đức chân thật của Tam bảo, vì thế mới soạn luận nói kệ ấy. -------------------- <詞>Phẩm 1: GIỚI Trước đảnh lễ Tối thắng Lìa não, an nơi giáo Thuyết giảng đều đầy đủ La-hán thấy chân đế. Đảnh lễ: Là khởi tâm thiện, chuyển quả ái, khởi thân kính lễ. Tiền là trước. Sao gọi là trước? nghĩa là tối thắng. Vì thị hiện chỗ cúng dường. Tối thắng có nghĩa gì? Là hàng phục các phiền não nên gọi là Tối thắng. Như kệ đã nói: “Ưu-ba-già nên biết! Như Chư Phật của chúng ta đều đã lìa các lậu, cho nên gọi là Tối thắng”. Lìa phiền não: Là các triền phiền não đốt cháy thân tâm. Qua nhiều kiếp, Đức Thế Tôn đã đem lại sự yên ổn cho chúng sinh. Vì thiêu đốt phiền não hết hẳn nên gọi là lìa phiền não. Vì sự an lạc nên nói phải biết là lìa phiền não, do đấy kế là nói về an giáo. An là an ổn, giáo là ngôn thuyết. Vì lời dạy bảo đem lại sự yên ổn nên gọi là an giáo. Nói tóm tắt, tự yên ổn cho mình đồng thời đem lại sự yên ổn cho người. Lìa phiền não là tự yên ổn, an giáo nghĩa là đem lại sự yên ổn cho người khác. Vì không điên đảo nên biết là an giáo, cho nên kế là nói những gì đã nói đều đầy đủ. Thuyết là ngôn thuyết tức là an giáo. Đầy đủ nghĩa là biện luận thích đáng, sâu xa, mầu nhiệm, biểu hiện rõ sự quyết đoán. Nói không điên đảo là nghĩa đến chỗ chân thật, vì không trái với hai đế, nên nói là đầy đủ. Thế nên lễ pháp ấy được gọi là cúng dường pháp. A-la-hán nghĩa là đến chỗ rốt ráo, pháp tướng đầy đủ. Vì thế kế là nói A-la-hán là ruộng phước chân thật, xứng đáng nhận lãnh sự cúng dường, nên gọi là A-la-hán. Đây là hoàn toàn nói về bậc Vô học. Nói Vô học rồi, kế là nói học kiến chân thật, chân thật nghĩa là bốn Thánh đế không điên đảo, nghĩa là đã học tám nhẫn, tám trí, thấy được chân đế nên gọi là kiến chân thật. Tuy trú nơi kiến đạo chưa chu toàn bốn đế, tất nhiên cần phải kiến, nên cũng gọi là kiến chân thật. Hỏi: Vì sao kính lễ? Đáp: Đấng Mâu-ni biết cả Hai thứ tướng pháp tụ Cũng vì người hiện rõ Nay tôi nói ít phần. Mâu-ni, nghĩa là thân, miệng, ý viên mãn, nên gọi là Mâu-ni. Đều là đấng Nhất Thiết trí đã nói Tu-đa-la, Tỳ-ni và A-tỳ-đàm truyền bá rộng rãi đến nay. Biết nghĩa là thấy biết nghĩa giác. Pháp nghĩa là nắm giữ, vì gìn giữ tự tính nên gọi là Pháp. Vì pháp có tính chứa nhóm nên gọi là pháp tụ. Pháp thiện kia là pháp thiện tụ. Pháp bất thiện, vô ký cũng như thế. Hai thứ này là danh số. Tướng là tướng mạo. Hỏi: Thế nào là hai tướng? Đáp: Tự tướng và cộng tướng. Tự tướng là không chung, tức không phải tướng khác, như tướng trở ngại là sắc, so sánh như vậy. Cộng tướng là chung, tướng chung này và tướng khác, như sắc là vô thường, so sánh như vậy. Hỏi: Nếu tướng ngăn ngại là tự tướng của sắc thì cũng là cộng tướng, vì quán bốn ấm là tự tướng, quán mười thứ sắc là cộng tướng. Như thế tự tướng tức là quán cộng tướng, có hai thứ lớp tướng, cộng tướng là không thành? Đáp: Một là tự, vì ngăn ngại là tướng của sắc, nên gọi là tự tướng của sắc. Vì các sắc khác nhau nên nói là sắc có mười thứ. Ông nói là quán tự tướng, cộng tướng không thành thì không đúng. Vì sao? Vì không hư hoại, như cha con, như trái và hạt giống, như khổ, tập đế, như cho phép, ngăn cấm. Nếu quán tự tướng thì không phải cộng tướng, nếu quán cộng tướng thì không phải tự tướng. Như một người vừa gọi là cha, vừa gọi là con. Vì do có cha nên gọi là con, vì có con nên gọi là cha. Nếu quán cha thì sẽ không quán con. Nếu quán con tất nhiên sẽ không quán cha. Nếu nói không thành thì không đúng. Vì sao? Vì đã thành, đây là nghĩa cha con đã thành. Nếu là thiện hoặc ác, chính kiến, tà kiến trong đó nói rộng, khởi lên nghiệp Vô gián. Nếu không có nghĩa cha, cũng không có tà kiến không cha và chính kiến có cha. Nếu việc này không có thì việc sạch nhơ cũng không có, mà sự sạch nhơ đã không có tất nhiên sự giải thoát cũng không có. Nếu không có nghiệp Vô gián thì cũng không có nhân quả, mà nhân quả đã không có thì tất cả pháp cũng không có, đừng nói là không có lỗi. Thế nên nghĩa cha con được thành thì không thể đã thành lại thành, vì nếu đã thành lại thành thì sẽ vô cùng, cho nên nghĩa tự tướng và cộng tướng được thành. Hỏi: Những pháp Phật nhận biết, Ngài sẽ nói tất cả chăng? Đáp: Không. Hỏi: Vậy Ngài đã nói những gì? Đáp: Cũng vì người khác thị hiện rõ, nay ta nói một phần ít. Thị hiện rõ là khai thị nghĩa. Người khác là người được giáo hóa. Nếu nghĩa lợi ích, thuận theo phạm hạnh, như Khế kinh Thân Thứ Lâm nói: “Hôm nay ta chỉ nói một phần ít trong pháp mà Phật đã vì người khác giảng nói. Chỗ nhận biết của Như lai sâu rộng vô lượng, như Tôn giả Xá-lợi- phất còn không thể nói hết, huống chi là người khác. Hỏi: Đức Thế Tôn đã nói pháp gì? Đáp: Hữu lậu, vô lậu, tất cả như thế. Tất cả hành hữu lậu Lìa ngã lạc thường tịnh Vì không thấy hữu lậu Nên vọng chấp làm Ngã v.v… Các hành hữu lậu này vì không tự tại nên lìa ngã, vì ba khổ thành nên lìa lạc, vì sức của duyên nên lìa thường, vì ở chốn phiền não nên lìa tịnh. Hỏi: Những gì là hành hữu lậu? Đáp: Năm ấm do các phiền não sinh ra. Hỏi: Nếu hành hữu lậu lìa ngã, lạc, thường, tịnh thì tại sao ở trong đó chúng sinh lại thọ nhận? Đáp: Vì không thấy hữu lậu nên vọng thọ chấp ngã, v.v… Đối với hành hữu lậu chúng sinh không biết tướng hữu lậu bèn nhận lãnh là ngã, lạc, thường, tịnh. Vì sự tạo nghiệp đã che lấp nên không biết phi ngã (vô ngã). Vì oai nghi bị che lấp nên không biết là khổ. Vì sự nối tiếp giống nhau đã che lấp nên không biết chẳng phải thường (vô thường). Vì lớp da mỏng che khuất nên không biết là bất tịnh. Vì không nhận biết như vậy nên nhận làm ngã, lạc, thường, tịnh. Hỏi: Tướng nào là hành hữu lậu? Đáp: Nếu các phiền não tăng Là Thánh nói hữu lậu Vì tên hữu lậu kia Người tuệ nói phiền não. Hoặc nương dựa, hoặc duyên theo tăng trưởng các phiền não như thân kiến, v.v… như phẩm Sử nói: Vì các hành kia sinh ra từ lậu, vì sinh ra lậu, vì ở trong lậu, nên nói là hữu lậu. Duyên vô lậu không tăng trưởng, nhuyến trung thượng thì không như vậy. Vì tăng nương dựa, chẳâng phải không tăng, tăng nương dựa, không tăng duyên. Hỏi: Vì sao? Đáp: Vì tên hữu lậu kia Người tuệ nói phiền não. Phiền não nói là lậu, vì tất cả nhập, xứ thường rịn chảy, vì tâm lậu liên tục rỉ chảy, cho nên các hành phiền não tăng nên biết là hữu lậu. Hỏi: Hữu lậu kia còn có tên khác không? Đáp: Cũng gọi là phiền não Thọ ấm và tranh cãi Vì phiền thọ tránh khởi Là các Hiền Thánh nói. Tức hành hữu lậu này gọi là phiền não, thọ lãnh ấm, tranh cãi. Vì sao? Vì lúc thọ nhận phiền não thì sự cạnh tranh sinh khởi, là các Hiền Thánh nói. Các phiền não như thân kiến v.v… làm não hại chúng sinh nên gọi là phiền não. Vì nhận lãnh thân mình nên gọi là thọ. Vì tâm bị nhiễm loạn nên gọi là tránh, tránh có ba thứ: Phiền não tránh, ấm tránh và đấu tránh. Phiền não tránh là một trăm lẻ tám phiền não. Ấm tránh nghĩa là sự chết. Đấu tránh là các thứ đều trái nhau. Nên biết trong đây nói phiền não tránh là các phiền não như thân kiến v.v… sinh ra các hành hữu lậu. Vì từ phiền não nẩy sinh nên nói là phiền não. Vì từ thọ sinh ra nên nói là thọ ấm, từ tránh sinh khởi nên nói là tránh. Đã nói tướng của thọ ấm, nay sẽ nói về tướng ấm. Nếu hành lìa phiền não Cũng giải thoát các lậu Hành và thọ ấm trước Ấm này do Thánh nói. Nếu hành lìa bỏ các phiền não như thân kiến, v.v… và các lậu, phải biết là hành vô lậu. Các hành vô lậu này và thọ ấm đã nói ở trước, đây gọi là tướng ấm. Sự khác nhau giữa ấm và thọ ấm, nghĩa là chuyển biến và không chuyển biến, hợp lại thành ấm, chuyển biến là thọ ấm. Hỏi: Việc này là sao? Đáp: Gọi là sắc, thọ ấm Tưởng, hành cùng với thức Là thứ lớp năm ấm Thuận theo nói thô, tế. Năm ấm này là sắc, thọ, tưởng, hành, thức ấm. Hỏi: Thế nào là sắc ấm? Đáp: Tất cả các sắc quá khứ, vị lai, hiện tại nói rộng như thế. Các sắc ấm đó khởi rồi lại diệt là nói quá khứ, chưa khởi chưa diệt là nói vị lai, đã khởi, chưa diệt là nói hiện tại. Ở thân mình gọi là trong, ở thân người và số phi chúng sinh gọi là ngoài. Lại nữa, về nghĩa trong ngoài như nói nhập, xứ. Thô gọi là có đối, tế gọi là không đối. Nếu nói không thành thì không đúng, vì quán không thành là không đúng. Nếu quán thô thì không phải tế, nhiễm ô gọi là sắc xấu ác, không nhiễm ô gọi là sắc tốt đẹp. Quá khứ, vị lai gọi là xa, hiện tại gọi là gần. nghĩa xa có bốn thứ, như phẩm Hạnh nói. Tất cả thứ đó hoàn toàn là nói lược. Về sắc ấm đây gọi là lược chứ không phải sự lược. Như sắc ấm, thọ, tưởng, hành, thức ấm cũng như vậy. Trong đó có sự khác nhau, nghĩa là thân mình nhận lãnh gọi là bên trong, thân người khác nhận lãnh gọi là bên ngoài. Nội duyên, ngoại duyên, lực phương tiện khởi, lực cảnh giới khởi. Thô là năm thức thân, tế là ý địa. Địa giới nhiễm ô, không nhiễm ô cũng như thế, cho đến thức ấm cũng như vậy, hành là hành ấm. Bên ngoài là số chúng sinh, phi chúng sinh, nên biết. Hỏi: Sắc cho đến thức có tướng gì? Đáp: Tướng ngăn ngại là tướng của sắc. Tùy giác là tướng của thọ, thuận với biết là tướng của tưởng. Sự tạo tác là tướng của hành. Sự phân biệt là tướng của thức. Sắc quá khứ kia tuy không ngại nhưng đã từng chướng ngại. Tuy sắc ở vị lai chưa ngại, nhưng vì sẽ trở ngại, dù mỗi cực vi tuy không ngại nhưng vì nhiều số cực vi tụ tập lại thì trở ngại. Vô tác (vô tác sắc) tuy không ngại nhưng do sắc tạo tác là ngại, nên cực vi kia cũng trở ngại, như cây chao động, bóng cây cũng chao động. Như sắc ấm quá khứ, vị lai, bốn ấm còn lại cũng như vậy. Hỏi: Vì sao trước đây nói sắc ấm cho đến thức ấm? Đáp: Vì thuận theo nói thứ lớp thô tế của năm ấm này. Sắc ấm trong năm ấm kia rất thô, vì năm thức nương dựa, vì cảnh giới sáu thức, nên nói trước. Thọ ấm tuy không phải sắc, vì hành thô nên như nói về sắc, như đầu chân, v.v… của ta thọ nhận sự tùy chuyển, như vậy cho đến thức ấm rất tinh tế cho nên nói sau. Lại nữa, từ lúc không thể biết bổn tế đến nay, nam vì sắc của nữ, nữ vì sắc của nam, vì chỗ nhiễm đắm cho nên nói trước. Vì thích thọ nhận tham, nên khởi sắc dục. Vì tưởng điên đảo nên khởi tham lạc thọ. Vì phiền não nên khởi lên tưởng điên đảo, vì dựa vào ý nên khởi phiền não. Lại nữa, vì quán hai thứ sắc nên nhập vào pháp Phật là cửa ngõ cam lộ, nghĩa là quán bất tịnh và niệm an ban. Quán bất tịnh kia nghĩa là quán sắc tạo. Niệm an-ban nghĩa là quán bốn đại, vì vậy nên trước nói sắc ấm, quán sắc rồi mới nhận lỗi của thọ, thấy được lỗi của thọ thì tưởng không điên đảo, tưởng đã không điên đảo thì phiền não sẽ không hiện hành, phiền não đã không hiện hành tất nhiên tâm có thể nhẫn. Đây là nói thuận với năm ấm. Nay sẽ nói nghịch với năm ấm. Vì sự sống sạch, nhơ đều lấy tâm làm gốc, cho nên trước quán thức ấm. Quán thức ấm rồi, phiền não sẽ mỏng. Phiền não đã mỏng thì khởi lên tưởng pháp. Khởi tưởng pháp thì tham thọ không sinh. Tham thọ không sinh nên quán sắc, cho nên, trước nói sắc ấm cho đến thức ấm. Hỏi: Thế nào là phân biệt nói sắc ấm? Đáp: Mười thứ là sắc nhập Và giả sắc vô tác Phân biệt sắc ấm ấy Lời đấng Mâu-ni nói. Mười thứ gọi sắc nhập: nghĩa là sắc của mắt, tiếng của tai, mùi của mũi, vị của lưỡi, xúc chạm của thân. Giả sắc vô tác là: Như phẩm Nghiệp nói. Các sắc này, mỗi sắc được nói trong sắc ấm. Đã gọi là thức ấm Đây tức là ý nhập Ở trong mười tám giới Cũng lại nói bảy thứ. Nói thức ấm tức là ý nhập, là nói bảy tâm giới trong mười tám giới. Ngoài ra có ba ấm Vô tác, ba vô vi, Đây là nói pháp nhập Cũng gọi là pháp giới. Ba ấm: Thọ ấm, tưởng ấm và hành ấm. Ba tác vô vi vô: Hư không, số diệt, không phải số diệt. Bảy pháp này gọi là pháp nhập, cũng gọi là pháp giới. Hỏi: Vì sao thọ, tưởng được lập riêng là ấm, còn tâm pháp khác lại chỉ được lập một hành ấm? Đáp: Luân chuyển trong sinh tử Phải biết hai căn tránh Cho nên thọ, tưởng riêng Kiến lập làm hai ấm. Vì hai việc nên chúng sinh trôi lăn trong sinh tử, đó là tham lạc thọ và tưởng điên đảo. Vì tham lạc thọ nên hành ái, vì tưởng điên đảo chấp trước nên hành kiến. Hai căn tránh, nghĩa là tập dục ái, Tham dục buộc từ thọ sinh, kiến dục buộc từ tưởng sinh. Thọ tu các thiền, tưởng tu Vô sắc. Lại nữa, tâm pháp hoặc căn, hoặc chẳng phải căn. Căn pháp là thọ, chẳng phải căn pháp là tưởng, thế nên tùy theo nghĩa mà nói. Hỏi: Tất cả năm ấm đều là hành, vì sao nói một hành ấm? Đáp: Dù năm ấm là hành Mà tên một thọ hành Vì pháp hữu vi nhiều Nói hành ấm là đủ. Vì trong hành ấm có nhiều hành: pháp hữu vi như tương ưng, bất tương ưng v.v… Pháp tương ưng nghĩa là tự nguyện, v.v… Pháp bất tương ưng nghĩa là đắc, v.v… Hỏi: Tất cả đều là hành ấm, vì sao Khế kinh nói một tư là hành ấm, không phải pháp khác? Đáp: Vì vượt hơn, vì tăng thượng, vì trước hết, vì tưởng là tướng của hành, tư kia là tính của tác. Nếu có ấm khác thì đều nhập vào năm ấm, nay sẽ nói như thật. Nói rộng các pháp ấm Gồm có tám mươi ngàn, Giới và các ấm khác Đều thuộc về năm ấm. Tám muôn pháp ấm đều thuộc về sắc ấm, vì Phật nói về tính của lời nói. Có thuyết nói: Gọi là tính là thuộc về hành ấm, năm ấm như giới khác v.v… Giới ấm giới đó thuộc về sắc ấm. Định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến đều thuộc về hành ấm. Nếu có tên ấm khác đều thuộc về năm ấm. Hỏi: Giới hạn ngang đâu gọi là pháp ấm? Đáp: Pháp ấm là kinh luận Mỗi pháp nói như vậy Và các hành đối trị Đều gọi số pháp ấm. Có thuyết nói mỗi kinh, luận đều gọi là pháp ấm. Số kinh luận như vậy có đến sáu ngàn. Có thuyết nói: Mỗi xứ ấm là xứ pháp ấm. Lại nói xứ ấm, xứ giới, v.v… đều là số pháp ấm. Nói như vậy nghĩa là chúng sinh có tám muôn hành. Cho nên Đức Thế Tôn tùy theo chỗ hành kia, vì họ nói pháp đối trị, đều là số pháp ấm. Hỏi: Trước ông đã nói mười loại, nghĩa là sắc nhập, cũng là giả sắc vô tác, đó gọi là sắc ấm. Vậy còn những pháp nào là nhập? Đáp: Đó là nhãn, nhó, tỷ, Thiệt, thân cùng với ý Sắc, thanh, hương, vị, xúc Ngoài ra nói pháp nhập. Nhãn nhập kia nghĩa là chỗ nương của nhãn thức, sắc tịnh do bốn đại tạo, không thể thấy, có đối. Nhó, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy. Sự khác nhau nghĩa là tùy theo chỗ nương dựa của thức. Ý nhập là tâm, ý, thức. Danh nghĩa tạo bày ra nghiệp ở đời. Các danh, v.v… kia đã tạo nên sự khác nhau, cần nên biết. Danh gọi là tâm, gọi là ý, gọi là thức. nghĩa: Tập khởi là nghĩa của tâm. Tư lương là nghĩa của ý, phân biệt nhận biết là nghĩa của thức. Nghiệp: Biết xa là tâm, biết trước là ý, nối tiếp sinh ra là thức. Đời: đời quá khứ là ý, đời vị lai là tâm, đời hiện tại là thức. Lập bày: Lập bày ra giới là tâm, lập bày ra nhập là ý, lập bày ra ấm là thức. Lại nữa, phân biệt tham, sân, si, v.v… là cảnh giới vô lượng. Tâm định gọi là không rối loạn, tâm nhiễm ô trái với tâm định này gọi là tán loạn. Tâm tương ưng với lười biếng, gọi là đi xuống, tâm tương ưng với tinh tiến, gọi là đi lên. Vì ít luyện tập tâm tịnh và tâm nhiễm ô, nên gọi là ít. Luyện tập nhiều tâm tịnh gọi là nhiều. Căn ít dễ được ít đối trị, tùy chuyển. Các tâm nhiễm ô gọi là nhỏ, tâm thiện trái với tâm này gọi là lớn. Ở tâm đó, đắc tu tập, không tu tập. Tâm nhiễm ô như vậy gọi là không tu. Tâm thiện trái với tâm này gọi là tu. Tự tính giải thoát và tại giải thoát, ở tâm nhiễm ô kia gọi là không giải thoát, tâm thiện trái với tâm này, gọi là giải thoát. Hoặc có tâm tự tính giải thoát, chẳng phải tại giải thoát, hoặc có tâm tại giải thoát, chẳng phải tự tính giải thoát. Hoặc có tâm tự tính giải thoát, cũng tại giải thoát, hoặc có tâm không phải tự tính giải thoát, cũng chẳng phải tại giải thoát. Tự tính giải thoát chẳng phải tại giải thoát, nghĩa là tâm hữu học vô lậu, tại giải thoát chẳng phải là tự tính giải thoát, tâm vô học hữu lậu này là tự tính giải thoát cũng tại giải thoát, tâm vô học vô lậu này chẳng phải tự tính giải thoát cũng chẳng phải tại giải thoát. Tâm hữu học hữu lậu và tâm phàm phu. Sắc nhập có ba thứ: sắc, xứ, câu (đều cùng cóù). Sắc: sanh, vàng, đỏ, trắng, nói rộng như vậy. Xứ: Là thân làm sắc. Câu (đều cùng có): như tạo ra bức họa, v.v… Thanh nhập có ba thứ, nghĩa là nhân thọ tiếng của bốn đại, nhân không thọ tiếng của bốn đại, nhân đi chung với tiếng. Nhân thọ bốn đại, nghĩa là nhân duyên của cuống họng, môi, lưỡi, phát ra tiếng. Nhân không thọ bốn đại, nghĩa là nhân duyên của gió, chuông, cây, v.v… phát ra tiếng. Nhân đi chung với tiếng, nghĩa là do nhân duyên đánh trống thổi các nhạc cụ phát ra tiếng. Mỗi tiếng đó đều có hai thứ, đó là tiếng vừa ý, không vừa ý. Hương nhập có ba thứ: Hương tốt, hương xấu, hương không phải tốt xấu. Vị nhập có sáu thứ: Cay, chua, ngọt, đắng, mặn, lạt. Hỏi: Nếu lúc nếm vị, vị riêng là thiệt thức, vậy cái giác ở trước có phải là thân thức hay chăng? Đáp: Nếu trước biết nóng lạnh, thì thân thức trước, thiệt thức sau, nếu phân biệt vị cay riêng, v.v… thì thiệt thức có trước, thân thức có sau. Xúc nhập có mười một thứ, đó là bốn đại và bảy thứ sắc tạo. Bảy thứ sắc tạo đó là nhám, trơn, nhẹ, nặng, lạnh, nóng, đói, khát. Nhám là thô cứng, trơn là mềm, nhỏ nhuyễn, nhẹ là không thể cân, nặng là dầy dặn, lạnh là tìm ấm, đói là thèm ăn, khát là muốn uống. Hỏi: Có đại nào tăng nên có nhám, trơn, cho đến đói khát? Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không tăng thêm riêng. Nghiệp báo của người đó trước được quả bốn đại nhám cho đến đói khát. Có thuyết nói: Vì nước, lửa tăng nên trơn láng, vì đất, gió tăng nên nhám rít, vì đất, nước tăng nên nặng, vì gió, lửa tăng nên nhẹ, vì nước, gió tăng nên lạnh, vì gió tăng nên đói, vì lửa tăng nên khát. Hỏi: Có bao nhiêu xúc có thể phát sinh thân thức? Đáp: Có thuyết nói: Từ sự nhám rít cho đến khát, mỗi việc đều có thể sinh khởi. Lại nói, năm xúc có thể khởi bốn đại cùng với chất nhám rít, như vậy cho đến đói khát. Có thuyết nói: Có mười một thứ khởi lên thân thức v.v… vì là cảnh giới của thân thức này nên không có lỗi. Có hai thứ lớp tướng: sự tự tướng và nhập xứ tự tướng. Sự tự tướng là đồng cảnh giới. Nhập xứ tự tướng là cảnh giới của tự tướng. Trong mười một thứ này có hai thứ thuộc về cõi Dục, đói và khát chẳng thuộc cõi Sắc, chín thứ thuộc cõi Dục, cõi Sắc. Chiếc áo của cõi Sắc tuy không thể cân nhưng với cõi khác cũng có thể cân, cũng có thể chứa nhóm, tuy không có tai hại của sự lạnh nóng mà vẫn có sự nuôi lớn, điều hòa. Sự đói khát: Hoặc nói dựa vào quả, vì thức ăn có thể đoạn. Phái A-tỳ-đàm nói: “Sắc báo không thể đoạn, đoạn rồi lại nối tiếp”. Phái Kế Tân nói: “Vì sự đói khát là báo thiện, bất thiện, vì ngăn ngại nên không thể biết. Thức ăn đã tiêu hóa rồi lại còn có thể biết, cho nên người giàu có mà đói khát là báo thiện, còn người nghèo khổ mà đói khát là quả báo bất thiện”. Pháp nhập có bốn thứ sắc vô tác như phẩm Nghiệp chép: Tâm pháp như phẩm Hành nói và tâm bất tương ưng hành như phẩm Tạp nói. Vô vi ở sau phẩm này sẽ nói. Trong nội nhập cảnh giới của nhãn nhập vì thô nên nói trước. Tự tính của sắc nhập trong ngoại nhập vì thô nên nói trước. Vì là cửa vào của khổ, vui, nên nói là xứ nhập. Lại nghĩa sát hại là nghĩa của nhập xứ, tâm, tâm pháp diệt trong xứ nhập này. Hỏi: Nhập xứ và xúc nhập xứ khác nhau ở chỗ nào? Đáp: Xứ xúc nhập tức là xứ nhập, hoặc xứ nhập không phải ngoại nhập của xứ xúc nhập. Nếu nội xứ nhập không có thì xứ nhập này không phải là xứ xúc nhập. Duyên khác không khởi xúc gọi là không phải phần, vì là chỗ trụ của xúc nên gọi là xứ xúc nhập. Xúc không chỉ là xứ nhập, vì là cửa vào của xúc, giống như cửa sổ (Thiên trúc cho là cửa sổ, vì gió thổi vào). Vì là chỗ trú của xúc như Thánh trụ, cũng nên nói là thọ xứ nhập, đã nuôi lớn xúc của tâm, tâm pháp, vì xúc đem đến, xúc chuyển biến, vì sức của xúc hiện ở trước, cho nên gọi là xứ xúc nhập (Thánh trụ, Trung quốc gọi là Thánh trụ biên địa, gọi là chỗ ở của Di-ly-xa). Hỏi: Một thân có mười hai nhập là thế nào? Đáp: Dù ở trong một thân Việc đã làm đều khác Nương tự tính của duyên Mười hai thứ phân biệt. Ở trong một thân có mười hai nhập, chỉ vì mỗi việc đều khác. Nếu việc là nhãn nhập thì việc này cho đến chẳng phải pháp nhập. Nếu sự là pháp nhập thì sự này cho đến chẳng phải nhãn nhập. Hỏi: Những gì là sự nhãn nhập cho đến sự pháp nhập? Đáp: Mắt do thấy sắc là sự, sắc do mắt thấy là sự, như thế cho đến pháp nhập. Ví như một nhà có mười hai người ở làm việc, việc mỗi người đều khác nhau, việc kia cũng giống như vậy. Vả lại, vì chỗ dựa và duyên khác nhau nên nói có mười hai, nghĩa là sáu thức thân có sáu chỗ dựa, sáu duyên. Lại vì tự tính phân biệt nên nói có mười hai, hoặc như tự tính của nhãn cho đến chẳng phải tự tính của pháp, hoặc tự tính của pháp cho đến chẳng phải tự tính của nhãn. Hỏi: Mười hai nhập và phần ít của pháp nhập là sắc, vì sao lại nói riêng một xứ nhập là sắc nhập? Đáp: Dù có rất nhiều sắc Chỉ nói một sắc nhập Nên biết một sắc nhập Là cảnh giới ba mắt. Cảnh giới của ba mắt trong sắc nhập kia gọi là sắc nhập: nhục nhãn, thiên nhãn và Thánh tuệ nhãn. Do sắc thô nên nói có hai mươi loại. Đó là sanh, vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn, ngay, không ngay, vuông, tròn, cao, thấp, mây, khói, bụi, sương mù, ảnh, quang, sáng, tối. Trong tám sự như dài v.v… kia, có chia ra ba thứ, ngoài ra đều vô ký. Hỏi: Tất cả mười hai nhập đều là pháp tính vì sao chỉ nói một pháp nhập? Đáp: Tất cả các pháp kia Dù đều là pháp nhập Trong pháp có rất nhiều Một pháp nhập, không khác. Tất cả pháp kia tuy đều là pháp nhập nhưng chỉ vì có rất nhiều pháp trong một nhập, đó là pháp sắc, pháp Vô Sắc, pháp tương ưng, pháp bất tương ưng, pháp hữu vi, pháp vô vi, thế nên chỉ nói một pháp nhập. Lại nữa, ba tướng hữu vi, pháp tướng đó không trái nhau, vì tướng đó nhập vào pháp nhập, nên chỉ nói một pháp nhập. Vả lại, tất cả các pháp đều dùng danh để hiển hiện, danh đó nhập vào pháp nhập. Pháp là tướng chân thật, nghĩa là môn giải thoát không. Vì pháp trước là pháp giác, là trong không nhập pháp nhập, thân kiến có thể tự giác là không đúng, vì điên đảo chuyển. Pháp là nghĩa đệ nhất, nghĩa là Niết-bàn vắng lặng, là pháp nhập trong pháp nhập. Hỏi: Đức Thế Tôn trong khế kinh nói vô lượng nhập, vì sao chỉ nói mười hai nhập? Đáp: Mười tất cả nhập kia Tám nhập, hai, bốn nhập Và năm giải thoát nhập Đều thuộc về mười hai. Mười trong tất cả nhập, tám nhập trước và tám thắng xứ là tính của căn thiện vô tham, đều xếp vào pháp nhập. Nếu nhận lấy quyến thuộc thì tính của năm ấm đều xếp vào ý nhập, pháp nhập. Mười trong tất cả nhập, hai nhập sau và bốn Vô Sắc nhập là tính của bốn ấm, đều xếp vào ý nhập, pháp nhập. Hai nhập nghĩa là chúng sinh Vô tưởng nhập và chúng sinh phi tưởng nhập. Chúng sinh Vô tưởng nhập là tính của mười nhập, trừ hương vị nhập. Nói bốn Vô Sắc là đã nói phi tưởng nhập, nói năm giải thoát nhập là tính tuệ, quyến thuộc là tính của năm ấm, đều xếp vào ba nhập (thanh nhập, ý nhập, pháp nhập ). Năm giải thoát nhập: Phật nói liền được giải thoát. Nghe xong tư duy đắc. Nhân tự tụng kinh đắc. Nhân người khác nói pháp đắc. Quán nhân duyên đắc. Hỏi: Đã nói mười tám giới là chủng loại có mười tám hay là danh có mười tám? Đáp: Giới chủng nói mười bảy Hoặc nói là mười hai Cảnh giới, y là nương Phân biệt mười tám thứ. Mười tám giới, hoặc mười bảy thứ, hoặc mười hai thứ, nếu nhận lấy ý giới thì mất sáu thức, nếu nhận lấy sáu thức thì mất ý giới. Ví như lấy riêng từng cây thì mất rừng, nếu lấy rừng thì mất cây. Thí dụ ngón tay, nắm tay, v.v… cũng giống như vậy. Nếu lấy ý giới thì mất sáu thức, nếu nhận lấy sáu thức thì mất ý giới. Hỏi: Nếu vậy thì sao lại nói mười tám giới? Đáp: Cảnh giới, nương, người nương Chia ra mười tám thứ. Vì ba việc nên nói mười tám giới, vì nương dựa, vì người nương tựa, vì cảnh giới. Nương tựa là sáu nương dựa: Nhãn giới cho đến ý giới. Nương dựa nghĩa là sáu thức giới, từ nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Cảnh giới nghĩa là sáu ngoại giới. Nếu nói tâm sau cùng của A-la-hán không sinh thức sau, không phải là ý giới, điều này không đúng, vì duyên khác, nên thức sau không nối tiếp, như đất không có hạt giống. Lại nữa, vì xúc nên lập mười tám giới, nhãn xúc có ba nhân duyên sinh, nghĩa là nhãn, sắc, thức. Như vậy cho đến ý, vì đồ dùng, vì thức ăn, vì người ăn. Đồ dùng là nhãn giới. Thức ăn là sắc giới, người ăn là nhãn thức giới. Hỏi: Nên nói hai mươi mốt giới: hai nhãn, hai nhó, hai tỷ là sáu, thiệt giới, thân giới, bảy tâm giới, sáu ngoại giới? Đáp: Hai nhãn nói một giới Vì hai chỉ là một Nhó, tỷ cũng như vậy Hai nói chung một giới Vì khiến thân đoan nghiêm Kia đều không mỗi một. Dù có hai nhãn mà nói một giới, vì chỉ có một, vì cùng một bốn đại tạo, vì có một cái thấy, không phải một mình có hai căn, vì là một thức nương dựa, hai nhãn một thức nương dựa cũng không nên hai căn, vì một thức dựa vào một xứ nhập. Cảnh giới của một nhập cũng đều thọ nhận cảnh giới của một nhập, hai nhãn cùng nhận lấy chung một sắc. Dùng một mắt để thấy sắc thì sẽ không rõ, hai mắt thấy sắc thì rõ hơn. Hai tai, hai mũi thành một giới, cũng nói như mắt. Vì trang nghiêm thân nên có hai mắt, hai tai, hai mũi. Vì kẻ một mắt, người ta không yêu kính, thế nên mắt, v.v… phải có hai, thân lưỡi chỉ có một. Như Phật Thế Tôn dù nói các thứ giới đều xếp vào mười tám giới, nay sẽ nói theo thứ lớp. Nếu có các giới khác Khế kinh của Phật nói Mỗi mỗi tùy tự tính Đều nhập mười tám giới. Nếu Đức Thế Tôn nói giới khác đều xếp vào mười tám giới, vì ba việc: Dựa, người dựa và duyên. Như Đức Thế Tôn nói: “Kiều-thi-ca! Thế gian có các thứ giới, nghĩa là các kiến dùng giới để gọi, kiến đó đều xếp vào pháp giới”. Nếu kiến đó được nói là sáu mươi hai giới, như kinh Đa Giới và Khế kinh khác nói: “Dùng tên giới để nói nghĩa là đều tùy theo nghĩa của kiến kia, đều xếp vào mười tám giới”. Hỏi: Giới, nhập, ấm khác nhau ra sao? Đáp: Giới nói tất cả pháp Pháp tức mười hai nhập Trừ ba pháp vô vi Còn lại là năm ấm. Tất cả pháp gọi là mười tám giới, không lìa chỗ dựa, vì người dựa và duyên. Tất cả pháp tức là nói mười hai nhập. Bảy tâm giới là ý nhập, đây tức là nghĩa khác nhau. Trừ ba pháp vô vi, pháp khác gọi là năm ấm, vì thế lực chứa nhóm. Hỏi: Nếu nói tất cả pháp là giới, giới tức là nhập, trừ ba pháp vô vi gọi là ấm, vì sao Đức Thế Tôn nói có ba thứ? Đáp: Mâu-ni quán chúng sinh Dục, giải, căn không đồng tính hành ngu khác nhau Nên nói ấm, giới, nhập. Ba thứ mong muốn hiểu biết của chúng sinh là quảng, lược, trung. Quảng (rộng) là nói về giới, trung là nói về nhập, lược là nói về ấm. Căn hạ, trung, thượng cũng giống như vậy. Đối với kẻ ỷ tính buông lung thì, vì họ nói giới, nghĩa tính là nghĩa của giới. Cậy vào của cải, kiêu mạn, buông lung thì vì họ nói nhập, nghĩa của môn chuyển vận là nghĩa nhập. Dựa vào thân mạng mà kiêu mạn, buông lung thì nói về ấm, là dùng pháp ấm tử. Đối với người mới bắt đầu tu hành, vì họ nói giới. Với kẻ tu hành ít vì họ nói nhập. Với người đã tu hành vì họ nói ấm. Đối với kẻ ngu về sắc, tâm thì vì họ nói giới, ngu về sắc vì họ nói nhập, ngu về tâm pháp vì họ nói ấm. Hỏi: Ấm, nhập, giới có nghĩa gì? Đáp: Chứa nhóm là nghĩa ấm nghĩa chuyển vận nói nhập nghĩa chủng tính nói giới Ba thứ này khác nhau. Mười một thứ vô lượng như sắc, v.v… nói chung là sắc ấm, như kho tàng, như đoàn quân. Ví như bốn thứ quân, mỗi loại chúng đều khác nhau, gọi là quân chúng. Sắc cũng như vậy, tuy có mười một thứ nhưng đồng một sắc tướng, gọi là sắc ấm, như A-tỳ-đàm nói: “Khéo quán sắc ấm, nghĩa là một cực vi gồm thâu phần ít của một giới, một nhập, một ấm. Không khéo quán nghĩa là nói một cực vi gồm thâu một giới, một nhập, một ấm. Như sắc ấm, thọ, tưởng, hành, thức ấm cũng giống như vậy”. nghĩa môn chuyển vận gọi là nhập, nghĩa là vì có cả khổ vui. nghĩa chủng tính là nói giới, nghĩa là như trong một núi có nhiều tính: tính vàng, tính, bạc v.v… cũng vậy trong một thân có các thứ tính, mỗi tính đều khác nhau, nên nói là mười tám giới. Hỏi: Vì sao nói mười tám giới, mười hai nhập và năm ấm, không thêm, không bớt? Đáp: Cảnh giới nương, người nương, Pháp đo lường thích ứng Thế nên giới, nhập, ấm Không thêm cũng không bớt. Giới đo lường thích ứng, nghĩa là với sáu chỗ dựa, sáu người dựa và sáu duyên. Chỗ dựa kia nếu tăng thì không phải là chỗ dựa, vì không có người dựa. Nếu giảm thì người dựa sẽ không có chỗ nào để nương dựa. Tất cả nhập như vậy cũng đều lấy chỗ dựa và duyên làm đo lường. Vì sao ấm lại nhiễm đắm sắc? Vì nhiễm vướng lạc thọ. Vì sao nhiễm vướng lạc thọ? Vì tưởng điên đảo. Vì sao tưởng điên đảo? Vì tương ưng với phiền não, phiền não nương vào ý, ý tức là dựa vào ý, như chỗ nói ý duyên pháp sinh ý thức. Lìa chỗ dựa này, không có chỗ dựa nào khác, đã nói tự tính của giới, nhập, ấm và nhân duyên, nay sẽ nói rộng về giới. Một khả kiến trong giới Lại nói tất cả giới Vô ký nói tám thứ Còn lại thiện, bất thiện. Một có thể thấy trong giới, nghĩa là sắc giới trong mười tám giới có thể thấy, có thể ngắm, ở chỗ này, ở nơi khác, cho nên có thể thấy. Lại nữa, chỉ cho ta biết về tâm hành của con người nên nói là có thể thấy. Lại nữa, vì tự hiện, nghĩa là mắt thấy được, nên biết có mười bảy, không thể thấy, vì không có tướng kia. Lại nói tất cả giới đều có thể thấy, vì cảnh giới của mắt tuệ, như nói kệ: Tất cả các pháp kia Người tuệ thấy vô ngã. Như A-tỳ-đàm nói: “Người hữu học thấy dấu, vì là thấy dấu ấn của bốn chân đế”. Thế nên, tất cả mười tám giới đều có thể thấy. Vô ký nói là tám thứ, nghĩa là tám giới vô ký, nghĩa là năm tình và hương, vị, xúc. Vì không có quả ưa thích, không ưa thích để ghi nhớ nên nói là vô ký. Mười giới kia có thể ghi nhớ vì thiện và bất thiện. nghĩa là bảy tâm giới của pháp sắc, thanh. Thân hành động thiện là sắc thiện. Thân hành động bất thiện là sắc bất thiện, sắc còn lại là vô ký. Như vậy miệng thốt ra tiếng động tịnh, bảy thức giới của tâm là thiện, tâm tương ưng với vô tàm (không hổ) vô quý (không thẹn) là bất thiện, ngoài ra là pháp giới vô ký. Nếu tâm tương ưng với tâm thì như tâm, nếu không tương ưng như phẩm Tạp nói: Thiện có bốn thứ: tự tính, tương ưng, cộng khởi, đệ nhất nghĩa. Tự tính thiện nghĩa là sự hổ thẹn và ba căn thiện. Pháp tương ưng tức tâm, tâm pháp tương ưng với nó. Cộng khởi tức là nghiệp thân miệng do kia khởi lên và tâm bất tương ưng hành. Đệ nhất nghĩa: Đó là Niết-bàn, đây là bốn thứ thiện. Tự tính bất thiện nghĩa là không hổ, không thẹn, ba căn bất thiện. Pháp tương ưng tức là tâm, tâm pháp tương ưng với điều bất thiện đó. Cộng khởi tức là chỗ khởi ấy của nghiệp thân, miệng và tâm bất tương ưng hành. Đệ nhất nghĩa nghĩa là luân chuyển trong sự nguy hiểm, đều trái nhau, nghĩa là vô ký. Hỏi: Tất cả pháp, nghĩa là mười hai nhập, chính là điều Đức Thế Tôn đã ghi nhận, vì sao lại nói là vô ký? Đáp: Không do hoàn toàn không nói, nên gọi là vô ký. Thiện thì ghi nhận là thiện, bất thiện thì ghi nhận là bất thiện, vì không ghi nhận thiện, bất thiện nên nói là vô ký. Nếu là thời nhân quả thì ghi nhận nhân quả, lúc khác thì vô ký, hoặc có trường hợp không gọi là vô ký, như Khế kinh Ký Luận nói: Tất cả đều sẽ chết Luận này hoàn toàn ghi Tất cả chết lại sinh Đó gọi phân biệt luận. Nếu hỏi sinh thù thắng Đó gọi cật vấn luận Năm ấm chúng sinh khác Đây gọi chỉ ký luận. Hoàn toàn ký luận: Nếu có người hỏi: Tất cả chúng sinh đều chết phải chăng? Nên đáp thẳng rằng: Tất cả chúng sinh đều phải chết. Phân biệt luận giả nói: Nếu có ai hỏi: Tất cả đều sẽ chết, chết rồi lại sanh phải chăng? Nên đáp theo thứ lớp rằng: Người có phiền não thì sau khi chết rồi sẽ sinh lại, người không có phiền não thì chết rồi không sinh lại nữa. Cật vấn ký luận giả nói: Nếu có người hỏi: Đời sống con người có thù thắng không thì nên hỏi ngược lại: Vậy ông từ đâu đến? Hỏi: Nếu họ nói vừa từ cõi trời đến thì nên đáp là thấp kém. Nếu họ nói vừa đến từ cõi ác thì nên đáp là: Vượt hơn. Chỉ ký luận giả nói: Nếu có người hỏi ấm và chúng sinh là khác hay đồng? Thì phải im lặng. Vì sao? Vì lý do không thích hợp. Ví như có người hỏi con của gái bất dục có khéo cung kính không? Vì gái bất dục không có con thì đâu được đáp con của nó có cung kính hay không. Như vậy có ấm mà không có chúng sinh làm sao lại có được sự đồng và khác? Vì không thích ứng nên không đáp. Phái A-tỳ-đàm nói: Hoàn toàn ký luận giả cho là nếu có người hỏi: “Như lai Vô Sở Trước Đẳng chính Giác chẳng? Khéo nói giáo pháp chăng? Đệ tử của Đức Thế Tôn có hướng thiện chăng? Sắc là vô thường, phải chăng thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường? Khéo phân biệt khổ, tập, diệt, đạo chăng?”, nên đáp thẳng rằng vì nghĩa lợi ích. Phân biệt luận giả nói: Nếu họ nói nên vì tôi giảng nói pháp thì nên hỏi pháp có nhiều, hoặc quá khứ, hoặc vi lai, hoặc hiện tại, ông muốn tôi nói pháp nào? Nếu họ nói hãy vì tôi giảng nói pháp quá khứ thì nên hỏi pháp quá khứ cũng nhiều, hoặc sắc ấm, hoặc thọ, tưởng, hành, thức ấm, tôi sẽ vì ông giảng nói pháp nào? Nếu họ nói sắc ấm thì nên hỏi sắc ấm cũng nhiều, hoặc thiện, hoặc bất thiện, vô ký, tôi sẽ vì ông giảng nói pháp nào? Nếu họ nói sắc thiện thì nên hỏi sắc thiện có bảy thứ, từ không sát sinh cho đến không nói lời thêu dệt, tôi sẽ vì ông giảng nói pháp nào? Nếu họ nói không sát sinh thì nên hỏi không giết hại có ba thứ: không tham, không sân, không si, tôi sẽ vì ông giảng nói pháp nào? Nếu họ nói xin giảng nói pháp không tham thì nên hỏi không tham có hai thứ tạo tác và không tạo tác, vậy tôi sẽ vì ông giảng nói pháp nào? Các lối lý luận như vậy gọi là phân biệt ký luận. Cật vấn luận giả nói: Nếu có người hỏi pháp thì nên hỏi vặn lại: Pháp có rất nhiều, ông hỏi về pháp nào? Không vì phân biệt hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại cho đến tạo tác, không tạo tác. Nếu người đó với tâm dịu dàng thì sẽ vì họ phân biệt nói. Nếu họ là kẻ dua nịnh, không ngay thẳng thì nên hỏi ngược lại, để cho họ tự đáp, đó gọi là Luận cật vấn. Chỉ ký luận giả nói: Nếu có người hỏi thế gian là hữu biên, hay thế gian là vô biên? Các câu hỏi như vậy, như hư không, như tràng hoa, không thể ghi nhận thơm hay không thơm, đây gọi là chỉ ký luận. Đã nói về ký, vô ký, nay sẽ nói về mười hai hữu: Mười hai giới có đối Một giới nói phần ít Mười giới, bảy có đối Một phần ít cũng vậy Nói cảnh giới có đối Chướng ngại cùng với duyên. Giới của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và bảy giới tâm, mười hai giới này gọi là có đối. Phần ít trong pháp giới cũng nói là có đối, đó là tâm pháp. Lại nữa, mười sắc giới nói là có đối, bảy tâm giới và phần ít pháp giới cũng nói là có đối. Hỏi: Trong đây, những thứ nào có đối? Đáp: Nói cảnh giới có đối Chướng ngại cùng với duyên. Ba thứ có đối: cảnh giới có đối, chướng ngại có đối và duyên có đối. Cảnh giới có đối như Kinh Thi Thiết đã nói: Mắt đối với sắc cho đến ý đối với pháp. Đã nói ý giới nên biết, là đã nói bảy tâm giới và phần ít pháp giới, cho nên phải biết phần ít một giới của mười hai giới, là có đối, năm giới ngoại và phần ít pháp giới là không có đối. Như các kinh ấy v.v.. nói nếu quán trên đất liền thì không quán dưới nước, nói rộng như vậy. Sự chướng ngại có đối nghĩa là mỗi pháp đều đối nhau, mỗi chỗ đều chướng ngại. Nếu sự chướng ngại đó có một thì sẽ không có trụ thứ hai, vì sự nhóm họp của cực vi, vì sự chướng ngại, vì có thể phân biệt, vì căn cứ vào nơi chốn nên biết. Tám vô đối trong đây nên nói rộng. Duyên có đối nghĩa là tâm, tâm pháp chuyển biến cảnh giới, cho nên nói rằng: Nếu cảnh giới của pháp có đối thì pháp đó sẽ chướng ngại có đối chăng? Nên chia làm bốn trường hợp: . Hoặc cảnh giới có đối, không có chướng ngại có đối, nghĩa là bảy tâm giới và pháp giới tương ưng với tâm. . Hoặc chướng ngại có đối, không phải cảnh giới có đối, nghĩa là năm giới ngoài. . Hoặc cảnh giới cũng chướng ngại có đối, nghĩa là năm giới nội. . Hoặc không phải cảnh giới, cũng không phải chướng ngại có đối, nghĩa là thuộc về pháp nhập, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Nếu cảnh giới của pháp có đối thì pháp đó sẽ duyên có đối chăng? nghĩa là duyên có đối là cảnh giới có đối. Hoặc cảnh giới có đối không phải duyên có đối, nghĩa là năm giới nội. Hữu lậu có mười lăm Hai khác, ba ba hữu Trong cõi dục có bốn Mười một ở hai hữu. Mười lăm giới hoàn toàn hữu lậu, nghĩa là năm giới nội, năm giới ngoại, năm thức giới. Vì lậu sinh ra, vì sinh ra lậu, vì ở nơi lậu, vì khởi lên trong lậu, nên nói là hữu lậu. Như trước kia có sự sợ hãi, vì cùng có với lậu có nên nói là hữu lậu, như thức ăn trộn lẫn thuốc độc. Hai thứ khác là ý giới, pháp giới, ý thức giới. Hai thứ của ba giới này hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, nếu từ hữu lậu sinh ra là hữu lậu, trái lại là vô lậu. Ba ba hữu nghĩa là ý giới, pháp giới và ý thức giới, có thể đắc trong ba hữu là Dục hữu, Sắc hữu, Vô Sắc hữu. Vô lậu là không trói buộc, trong ba cõi trong thân đắc, nhưng không phải là tự tính đắc. Trong cõi Dục có bốn, nghĩa là hương giới, vị giới và thức của cảnh giới này không phải ở cõi Sắc, Vô Sắc, vì đã lìa cách ăn vốc của cõi Dục. Ba nhập là tính chất của cách ăn vốc. Cõi Sắc, Vô Sắc kia lẽ ra cũng không có xúc. Cõi Dục này thì không như vậy, tính xúc nhập có hai thứ: hoặc là tính ăn vốc, hoặc không phải cách ăn vốc, ở cõi Sắc không có tính ăn vốc vì thân vi diệu. Hương, vị hoàn toàn là tính ăn vốc, thế nên cõi kia không có. Vì cảnh giới không có nên thức ở cõi kia cũng không có. Hỏi: Cõi Sắc kia không có hương vị, cũng không có thức của hương vị đó, thì tỷ giới, thiệt giới lẽ ra cũng không có phải chăng? Đáp: Vì đủ các căn, vì các căn thay nhau giữ gìn. Mười một ở hai hữu nghĩa là Dục hữu, Sắc hữu. Năm nội giới, sắc, thanh, xúc giới và cảnh giới thức này. Mười một giới ấy không phải ở cõi Vô Sắc, vì lìa tính sắc. Có giác, có quán năm Ba hành ba, khác không Có duyên phải biết bảy Pháp nhập nói phần ít. Có giác có quán năm: nghĩa là năm thức giới có giác, có quán vì thô, cho đến cõi Phạm Thế, không phải địa trên. Ba hành ba, nghĩa là ba chủng của ba cõi: ý giới, ý thức giới, tâm tương ưng với pháp giới. Cõi Dục và Sơ thiền có giác, có quán. Thiền trung gian không giác, có quán. Địa trên và tất cả pháp giới bất tương ưng, không giác, không quán. Hỏi: Pháp của địa có giác, có quán có bốn thứ: Hoặc có giác, có quán; không giác, có quán; không giác, không quán. Không giác, có quán, chẳng phải không giác, có quán, chẳng phải không giác, không quán. Thế nào là có giác, có quán? Đáp: Cõi Dục và Sơ thiền, các tâm, tâm pháp khác, trừ giác, quán. Hỏi: Thế nào là không giác, có quán? Đáp: Giác. Hỏi: Thế nào là không giác, không quán? Đáp: Sắc, tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Thế nào là không giác, có quán, chẳng phải không giác, có quán, chẳng phải không giác, không quán? Đáp: Quán giác khác không có, nghĩa là chẳng có giác, chẳng có quán, vì không có duyên. Hữu duyên nên biết là nói phần ít của bảy pháp nhập, nghĩa là bảy tâm giới gọi là hữu duyên. Vì có duyên này nên nói là hữu duyên. Như người có con, nói là người đó có con. Phần ít pháp giới có duyên, nghĩa là phần ít tâm pháp không có duyên là không phải tâm pháp, nghĩa là nhãn thức và pháp tương ưng duyên với sắc cho đến thân thức và pháp tương ưng. Xúc duyên với, ý thức và pháp tương ưng duyên với tất cả pháp. Chín không thọ hai khác Vô vi là chung một Toàn bộ là hữu vi Nên biết mười bảy giới. Chín không thọ, nghĩa là chín giới không nhận tên Thọ. Nếu căn số của sắc hiện tại và không lìa căn, nếu căn này bị đoạn hoại, phá vỡ, ép ngặt, thì tâm, tâm pháp thọ sẽ dừng lại ở nơi kia. Nếu khác thì không thọ, nghĩa là chín giới không thọ, bảy tâm giới, thanh giới, pháp giới vì không đoạn hoại. Hai khác: nghĩa là năm giới nội ở hiện tại là thọ, vì biết khởi sự đoạn, v.v… Quá khứ, vị lai là không thọ, vì tâm, tâm pháp không trụ. Nên sắc, hương, vị, xúc nếu hiện tại và không lìa căn là thọ, như tâm, tâm pháp dừng nghỉ trong căn, trong năm giới kia cũng vậy, vì không lìa căn. Vì vô vi chung một, nghĩa là một pháp giới hữu vi, vô vi, trong đó có ba thứ: vì thường còn nên vô vi, vì pháp khác là vô thường, nên hữu vi. Thế nên hữu vi, vô vi chung một. Hoàn toàn là hữu vi, nên biết mười bảy giới, nghĩa là vì mười bảy giới vô thường, vì hoàn toàn hữu vi sinh diệt, vì ba tướng hữu vi đã thành, vì có nhân, vì rơi vào ấm, vì rơi vào thế gian, vì hạ trung, thượng. Trái ngược với trên là vô vi. Có tội và có báo Nhiễm ô và ẩn mất Tu tập thì có mười Có kiến trong một giới Cũng nói có tâm pháp Một giới là thấy tính. Bảy tâm giới, sắc, thanh, pháp giới có hai thứ: hoặc có tội, hoặc không có tội. Nhiễm ô là có tội, không nhiễm ô là không có tội. Như có tội, như không có tội, sự nhiễm ô, ẩn mất cũng như vậy. Năm thức giới, sắc giới, thanh giới thiện, bất thiện là có báo, nếu vô ký là không có báo. Ý giới, ý thức giới, pháp giới, nếu bất thiện, thiện hữu lậu là có báo, nếu vô ký, vô lậu thì không có báo. Hỏi: Vì sao bất thiện, thiện hữu lậu thì có báo, còn vô ký, vô lậu thì không có báo? Đáp: Ví như hạt giống bên ngoài do ba yếu tố hòa hợp mới nẩy mầm, có hạt giống chắc do nước tưới tiêu, do phủ lấp cỏ đất, cộng với công sức, tự tính của nó với mọi công cụ đầy đủ, nên mầm lá mới mọc ra. Dù có hạt giống cứng chắc, nhưng vì không dùng nước để tưới, không dọn cỏ, lấp đất vào và vì các duyên không đủ nên hạt giống sẽ không nẩy mầm, ra lá non. Có hạt giống không chắc, dù có tưới nước, dọn cỏ, lấp đất vào nhưng vì tự tính của hạt giống không chắc thật nên mầm chồi không mọc. Như sự khác nhau nơi ba việc của hạt giống bên ngoài như vậy, nhân bên trong duyên khởi, cũng có ba việc khác nhau. Như hạt giống ban đầu, pháp hữu lậu thiện, bất thiện vững chắc như thế, dùng nước ái tưới, lấy kiết khác để che lấp, do sức tự tính của các duyên nên mầm được mọc lên. Như hạt giống thứ hai như vậy, pháp vô lậu vững chắc không rưới bằng nước ái và kiết khác che lấp, nhưng vì không đủ nhân duyên nên mầm không mọc. Như hạt giống thứ ba, dùng pháp vô ký như vậy tuy có dùng nước ái để tưới, dùng kiết khác để ngăn che nhưng vì tự tính của chúng không thật có nên không nẩy mầm. Tu tập thì có mười, nghĩa là bảy tâm giới, sắc giới, thanh giới thiện là tu, bất thiện, vô ký là không tu, pháp giới thiện, hữu vi là tu, bất thiện, vô ký và thường diệt là không tu. Hỏi: Vì sao bất thiện, vô ký và thường diệt là không tu? Đáp: Vì quả ái nên tu, vì bất thiện, vô ký không có quả ái nên không tu. tính thường diệt là quả, vì sự sinh không nối tiếp nhau nên không tu. Phải biết tám giới không có tội, không có báo, không có nhiễm ô và không có ẩn mất, nên không tu. Trong một giới có kiến, nghĩa là có tám thứ kiến trong pháp giới: năm kiến như thân kiến, v.v… kiến của thế tục, v.v… kiến học, kiến vô học. Vì kiến nghĩa là quán thấy, vì quyết định, vì nhận lãnh vững chắc, vì duyên vào sâu như đêm tối âm u, thấy sắc cấu uế, tuệ thấy pháp cũng như vậy, như đêm tạnh thấy sắc. Sự thấy của thế tục, v.v… cũng giống như thế, như ban ngày râm mát nhìn thấy sắc. Kiến học cũng như vậy. Như nhìn thấy sắc vào ban ngày tạnh ráo, kiến vô học cũng giống như thế. Cũng nói có tâm pháp, nghĩa là pháp giới này có tâm pháp, tức thọ, tưởng, v.v… vì có tâm pháp ấy nên nói có tâm pháp. Nên biết mười bảy giới và phần ít của một giới không phải tâm pháp, vì một giới là tính kiến. Một giới là tính kiến nghĩa là vì nhãn giới có thể ngắm nhìn, nên biết mười sáu giới và phần ít của một giới chẳng phải kiến. Hỏi: Thế nào là thấy? Vì mắt thấy hay vì nhãn thức thấy? Vì tuệ tương ưng với nhãn thức mà thấy, hay vì sự hòa hợp mà thấy? Tất cả những chỗ nghi gì là có lỗi. Vì nếu nói mắt thấy thì tại sao thức khác phát sinh trong cùng một lúc, lại không thấy. Vì sao không đều có được tất cả cảnh giới? Nếu nói nhãn thức thấy thì tướng của thức không phải là tướng của kiến, người không có mắt lẽ ra cũng thấy. Nếu nói vì nhãn thức tương ưng với tuệ nên thấy thì lại do nhó thức tương ưng với tuệ nên nghe chăng? Nếu nói do hòa hợp nên thấy thì điều này không nhất định, vì đôi khi nhãn thức có hai mươi hai pháp, hoặc hai mươi mốt pháp, hoặc mười hai thì sao? Đáp: Tự phần mắt thấy sắc Không phải nhãn thức thấy Không phải tuệ, hòa hợp Vì không thấy sắc ngại. Vì tự phần mắt thấy sắc, cho nên thức khác cùng lúc thì không thấy, vì thức khác đều có cái không, mắt hiện ở trước vì chẳng phải tự phần. Vì lý do này nên không cùng có tất cả cảnh giới. Vì các căn của tự phần, vì không cùng với thức trụ căn, nên gọi là tự phần. Không có hai thức cùng hiện hành chung, không có duyên thứ đệ thứ hai. Hỏi: Nếu mắt lìa không thấy sắc, thì đó là thức thấy chớ không phải mắt thấy, đâu cần dùng đến mắt? Đáp: Thức đã thành mắt kia thì thành mắt kia, không phải phần thì nhân chẳng phải phần, như thọ không lìa tưởng, tưởng không lìa thọ, mắt kia cũng như vậy. Nếu nhãn thức thấy thì cái gì nhận thức? Nếu tuệ thấy thì cái gì biết? Nếu do hòa hợp mà thấy thì việc hòa hợp của các pháp này đều khác nhau, nghĩa đó đã có gián đoạn thì sẽ không có sự hòa hợp. Nếu do hòa hợp mà thấy thì lẽ ra phải có hai quyết định của tự pháp, nghĩa này không đúng. Nếu nhãn thức thấy thì lẽ ra thấy sắc chướng ngại, vì không có đối. Tuệ và hòa hợp cũng giống như vậy. Do nhãn thức không đối nên không nhận thức được sắc chướng ngại, rồi cho rằng không thấy là không đúng, vì cần phân biệt. Phân biệt nghĩa là nên nói vì sao nhãn thức không biết sắc chướng ngại? Nên nói là vì một cảnh giới của mắt chuyển biến, cho nên nhãn thức không biết được sắc chướng ngại, vì mắt có đối, vì có đối nên không thấy sắc chướng ngại, nên nhãn thức không nhận biết. Thức lẽ ra có hai tự tính, hoặc biết hoặc thấy, thức khác cũng như vậy. Vả lại, nếu nhãn thức thấy thì vì sao không nhận biết? Đã biết nhãn thức không biết được sắc chướng ngại, còn phải biết vì một cảnh giới của mắt chuyển biến, lại phải nói là chướng ngại, vì có đối dựa mà nói rằng không biết được sắc chướng ngại là không đúng, vì có đối, không đối và dựa. Nhãn thức có hai thứ dựa mắt và thứ lớp diệt ý. Nếu vì có đối dựa nên không thấy sắc chướng ngại. Nếu không đối dựa, thì lẽ ra phải thấy sắc chướng ngại, nói khác đi là có lỗi. Vì mắt là không cùng dựa, còn ý là cùng dựa mà không thấy sắc chướng ngại thì không đúng. Dựa là đối với tướng: Sắc, v.v… chẳng phải phần, cũng chẳng phải mắt là sắc, nhãn thức là sắc, cũng chẳng phải mắt không có duyên, không có duyên cũng vì chẳng phải mắt không tương ưng với nhau. Những thứ không tương ưng như vậy, v.v… đều có lỗi. Lại nữa, ý cũng biết là không cùng dựa. Nếu nương vào ý mà nhãn thức sinh thì khi chưa từng nương vào ý kia mà thức khác vẫn sinh, vì mỗi tâm luôn chuyển biến nối tiếp nhau. Thế nên ý cũng là không cùng dựa chung, nên kiến và thức không gián cách, vì biết tức là kiến thì không đúng, vì có bốn thứ không hư hoại. Đức Thế Tôn nói bốn thứ: Không hư hoại là kiến, văn, giác, thức. Nếu thức tức là kiến thì chỉ có ba thứ: Văn, giác và thức, kiến tức là thức thì không như vậy. Thế nên phải biết có mắt thấy và tác dụng phân biệt của thức mà kiến lập thành bốn loại thì không đúng, vì nhãn thức không thấy sắc chướng ngại là lỗi mà trước đây đã nói, do thức và kiến có danh nghĩa của chúng đều khác nhau, nhãn quang chiếu gọi là kiến, tâm phân biệt theo gọi là nhận thức. Nếu nói là mắt thấy thì sắc kia lẽ ra phải cân xứng với nhãn lượng, là phạm lỗi tự sinh, vì thức không có hạn lượng. Vì thức không có hạn lượng nên Đức Thế Tôn nói mắt có thấy mà cho thức thấy là không đúng. Vì như nói pháp của ý thức, còn có thức ở trong pháp chăng? Nếu nói pháp của ý thức thì nên biết mắt cũng như vậy. Như Đức Thế Tôn nói: “Này Phạm chí! Mắt là cửa ngõ, vì nó thấy sắc nên cái thấy này có tên khác. Ông đã hiểu sai lời ta nói, vì tâm, tâm pháp đều không có phương hướng, nơi chốn mà lại nói có sự ra vào là không đúng”. Tức Khế kinh kia nói ý là cửa ngõ, vì biết pháp, không còn pháp nào khác trong đó biết pháp. Thế nên trong mắt tức là thấy (Từ câu “nhãn thức không phải thấy” đến đây gồm có bảy chương: Chương một là gạn hỏi, phân tích về không phải. Sáu chương còn lại là biện luận, phân tích, giải thích thức không phải thấy, nhằm hạn chế người lạ nêu lên chấp, sau cùng xem xét sự thật, nhằm bác bỏ sự sai trái để thành lập nghĩa của mình). Số cực vi có mười Chín giới bốn đại tạo Hai giới nói phần ít Nội giới nói mười hai Đây là tính của căn Trong một giới có căn. Số cực vi có mười, nghĩa là mười sắc giới là tụ cực vi, vì có phần, vì ngăn che, vì trở ngại lớn, vì căn cứ nơi chốn. Nên biết tám giới không phải nhóm cực vi. Chín giới bốn đại tạo nghĩa là trừ xúc giới, số còn lại là bốn đại tạo chín sắc giới khác vì nó do bốn đại tạo sinh ra, vì làm nhân cho bốn đại. Bốn đại và năm nhân của các giới này sinh ra: nhân sinh, nhân dựa, nhân kiến lập, nhân dưỡng, nhân trưởng. Hai giới nói phần ít, nghĩa là hai giới sẽ phân biệt là xúc giới và pháp giới, hoặc bốn đại tạo, hoặc không phải bốn đại tạo. Trong xúc giới, tính bốn đại chứ chẳng phải bốn đại tạo, bốn đại tạo của bảy thứ sắc tạo, bốn đại tạo của nghiệp thân, miệng trong pháp giới, còn trong pháp giới khác không phải là bốn đại tạo. Bảy tâm giới không phải là bốn đại tạo, mười một loại, bốn đại nhãn nhập làm chỗ dựa, cho đến pháp nhập làm chỗ dựa, không phải ý nhập. Sắc tạo cũng có mười một loại, từ nhãn nhập cho đến pháp nhập, không phải ý nhập. Hoặc có thuyết nói: Bốn đại, chỗ nương dựa của nhãn nhập, sinh ra nhãn nhập, số còn lại cũng như vậy. Có thuyết nói bốn đại, chỗ nương dựa của nhãn nhập, sinh ra ba nhập là nhãn nhập, thân nhập và xúc nhập. Như vậy cho đến chỗ nương dựa của thiệt nhập. Sự khác nhau trong đây: Từ chỗ nương dựa của thân nhập tự căn, sinh ra hai nhập là thân nhập và xúc nhập, chỗ nương dựa của sắc, thanh, hương, vị nhập cũng như vậy, chỗ nương dựa của xúc nhập chỉ có sinh ra xúc nhập. Lại nữa, tất cả bốn đại sinh ra sắc, thanh. Tất cả sắc của cõi Dục đều không rời hương, vị, chỗ nương dựa của pháp nhập cũng như vậy. Chỗ nương dựa của nhãn nhập sinh ra bảy nhập: nhãn nhập, thân nhập và năm cảnh giới. Như vậy cho đến nơi nương dựa của thiệt nhập, thân nhập sinh ra sáu nhập, trừ bốn căn như: Nhãn, v.v… Chỗ nương dựa của pháp nhập cũng như vậy. Chỗ dựa của sắc nẩy sinh ra năm nhập cho đến chỗ dựa của xúc nhập cũng như thế. Có thuyết nói: Chỗ nương dựa của nhãn nhập sinh ra mười một nhập, cho đến chỗ nương dựa của pháp nhập cũng như vậy. Đối với nhân duyên bốn đại này, phân biệt bốn đại với tướng khác lạ, khởi sắc tạo của tướng khác lạ, nên có bốn trường hợp: 1 . Có bốn đại của tướng đồng, khởi tạo sắc của tướng khác. 2 . Có bốn đại của tướng khác, khởi tạo sắc của tướng đồng. 3 . Có bốn đại của tướng khác, khởi tạo sắc của tướng khác. 4 . Có bốn đại của tướng đồng, khởi tạo sắc của tướng đồng. Thế nào là bốn đại của tướng đồng khởi tạo sắc của tướng khác? nghĩa là bốn đại của tướng xúc sinh khởi mười một thứ tạo sắc. Thế nào là bốn đại của tướng khác khởi tạo sắc của tướng đồng? nghĩa là bốn đại của tướng cứng chắc, ẩm ướt, ấm áp, lay động khởi tạo sắc của tướng xúc. Thế nào là bốn đại của tướng khác khởi tạo sắc của tướng khác? nghĩa là bốn đại của tướng cứng chắc, ẩm ướt, ấm áp, lay động khởi mười một thứ tạo sắc. Thế nào là bốn đại của tướng đồng khởi tạo sắc của tướng đồng? nghĩa là bốn đại của tướng xúc khởi tạo sắc của tướng xúc. Hỏi: Bốn đại và tạo sắc có khác gì nhau không? Đáp: Bốn đại là nhân, tạo sắc là quả. Tướng cứng chắc, ẩm ướt, ấm áp, lay động là bốn đại. Nếu sắc nào nhân bốn đại ra mà không có tướng của bốn đại thì sắc đó là tạo sắc. Lại nữa, sắc không thể thấy là bốn đại, sắc có thể thấy, không thể thấy là tạo sắc. Các thuyết như vậy, v.v… nói nội giới có mười hai, nghĩa là năm giới sắc trong và bảy giới tâm. Mười hai giới này là giới trong, nên biết sáu giới là giới ngoài. Hỏi: Vì pháp nói là trong hay vì con người mà nói là trong? Nếu vì pháp mà nói là trong, thì tất cả pháp sẽ không có tự, nếu vì con người mà nói là trong thì pháp sẽ không có con người? Đáp: Vì pháp nên nói là trong, nhưng không phải tất cả pháp, vì là đối tượng nương dựa của tâm, tâm pháp nên nói là nội, ngoại giới, ý kia cũng nương dựa, cũng là người nương dựa, năm sắc giới kia là chỗ dựa, không phải người nương dựa, tâm pháp tuy là người nương dựa nhưng không phải chỗ dựa. Ngoài ra không phải chỗ dựa cũng không phải người nương dựa. Đây chính là tính của căn, tức là mười hai thuyết căn. Trong một giới có căn nghĩa là mười một pháp trong pháp giới là căn, số còn lại không phải căn. Nên biết năm giới ngoại và phần ít của một giới không phải căn. Phần phần khác mười bảy Một giới nói có phần Mười bảy giới thuộc về Một phần ít ba nghiệp. Phần phần khác mười bảy nghĩa là trừ pháp giới, giới khác nói là có phần và có phần khác. Nhãn giới kia có phần, nghĩa là vì chia ra ba loại đời: Quá khứ đã thấy sắc, hiện tại đang thấy sắc và vị lai sẽ thấy sắc. Có phần khác nghĩa là bốn loại: quá khứ không thấy sắc đã diệt, hiện tại không thấy sắc đang diệt. Đời vị lai có hai thứ: pháp không sinh và pháp sinh. Pháp sinh nghĩa là không thấy sắc sẽ diệt, sắc giới khác cũng như thế. Bảy tâm giới, nếu pháp vị lai bất sinh là Hữu phần, còn lại là có phần. Một giới nói là có phần nghĩa là pháp giới hoàn toàn có phần,chẳng phải có phần khác, vì tất cả pháp giới đều là cảnh giới của ý thức. Nếu nói giới khác thì lẽ ra cũng chẳng phải có phần khác. Việc này không đúng, vì giới kia không do ý thức, nên lập có phần và phần khác, nghĩa là mắt thấy sắc là có phần, không thấy sắc là có phần khác. Sắc mà mắt thấy là có phần, cái không thấy là phần khác. Về sự khác nhau, nghĩa là nếu mắt là một có phần thì tất cả căn khác cũng là có phần. Nếu một phần khác thì tất cả căn khác cũng có phần khác. Nếu sắc mà mắt thấy là có phần, không phải có phần khác, tai, mũi, lưỡi, thân, tiếng, vị, xúc cũng vậy. Đệ nhất nghĩa như nói về mắt, tục số như nói về sắc. Hỏi: Có phải pháp cộng hữu, hoặc có phần, hoặc phần khác chăng? Đáp: Có. Mười sắc nhập hoặc có phần khác. Tướng: Sinh, v.v… của sắc kia là có phần, vì thuộc về pháp giới. Nếu ý pháp bất sinh là khác có phần. Pháp cộng hữu tương ưng với ý kia là có phần, vì thuộc về pháp giới. Hỏi: Có phần và có phần khác có ý nghĩa gì? Đáp: Lúc có phần nói là có phần. Hỏi: Nhãn giới có hai thứ: có nghiệp và phần không có nghiệp. Mắt kia là phần có nghiệp hay ø phần không có nghiệp? Vì phần có nên nói có phần. Một phần không có nghiệp của mắt kia cũng là phần có nghiệp, vì phần có nên cũng nói là có phần, cả hai phần đều được tướng có phần, vậy những số phần nào được gọi là phần? Đáp: Phần không có nghiệp là phần có nghiệp, vì phần có nên nói có phần khác. Vì sao? Vì được có sức của phần nghiệp, như người có con, nghiệp kia cũng như vậy. Mười bảy giới rơi vào thế gian nghĩa là vì mười bảy giới rơi vào việc ba đời nên nói là ba đời, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại. Nếu sinh khởi rồi diệt là quá khứ, nếu chưa sinh khởi là vị lai, đã sinh khởi chưa diệt là hiện tại. Lại nữa, nếu chưa tạo ra thì nói là vị lai, nếu đang tạo ra nói là hiện tại, nếu đã tạo rồi diệt mất thì nói là quá khứ. Một là sẽ phân biệt, nếu pháp giới là hữu vi thì rơi vào ba đời, còn vô vi thì không rơi vào ba đời. Nghiệp là ba cõi có nghiệp, nghĩa là pháp giới sắc thanh. Thân của sắc giới tạo ra nghiệp, sắc giới khác không phải nghiệp. Thanh, khẩu giới tạo ra nghiệp này, thanh khác không phải nghiệp. Thân nghiệp, khẩu nghiệp và tư là nghiệp, pháp giới khác không phải nghiệp. Tướng nghiệp sẽ nói rộng trong phẩm Nghiệp. Phi học phi vô học Phải biết mười lăm giới Kia đều tu đạo đoạn Giới khác đều ba thứ Ở trong ba giới đó Nói trì giới, phạm giới. Phi học, phi vô học phải biết là mười lăm giới, nghĩa là mười sắc giới, năm thức giới là phi học, phi vô học, vì hữu lậu chính là các giới này. Tu đạo dứt trừ vì trí đối trị. Giới khác đều ba thứ nghĩa là ba giới khác: Ý giới, pháp giới, ý thức giới đều có ba thứ: Hoặc Học, hoặc vô học, hoặc phi học, phi vô học, hoặc kiến dứt trừ, tu dứt trừ, hoặc vô học dứt trừ. Ý tương ưng với học là học, nghĩa là khổ pháp nhẫn cho đến ý tương ưng với Tam-muội Kim Cương là Học. Vô học tương ưng với ý là vô học, nghĩa là tận trí, trí vô sinh và vô học đẳng kiến tương ưng với ý là vô học. Phi học phi vô học tương ưng với ý là phi học phi vô học, nghĩa là thiện, nhiễm ô, vô ký. Thiện có ba thứ là: Phương tiện đắc, lìa dục đắc và sinh đắc. Sự nhiễm ô có hai thứ: Bất thiện và vô ký ẩn mất. Vô ký có bốn thứ: Oai nghi, công xảo, sinh báo và biến hóa. Như ý giới, ý thức giới cũng vậy. Pháp giới hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học, phi vô học, nghĩa là nghiệp thân miệng của bậc Hữu học thọ, tưởng, hành ấm là học. Đây tức là vô học, thuộc về pháp giới, Thọ, tưởng hành ấm của nghiệp thân, miệng hữu lậu và vô vi là nghĩa Học, Vô học, phi học, phi vô học (Về nghĩa học, vô học sẽ được nói rộng trong phẩm Nghiệp). Nhẫn đối trị của ba giới này là kiến dứt trừ, trí đối trị là tu dứt trừ, vô lậu là không có dứt trừ (Về nghĩa của kiến dứt trừ, tu dứt trừ sẽ nói rộng trong phẩm Sử). Nói trì giới, phạm giới ở trong ba cõi kia, nghĩa là thân làm điều thiện ở cõi Sắc là trì giới, thân làm việc bất thiện là phạm giới. Thanh giới do miệng làm ra. Pháp giới chỉ là vô tác (Về tướng của trì giới, phạm giới, sẽ nói rộng trong phẩm Nghiệp). Mười bảy, nói có trên Một giới nói hai thứ Quả có quả mười bảy Một ba giác đã nói. Mười bảy nói có trên, nghĩa là trừ pháp giới, mười bảy giới kia có trên, vì hữu vi. Một giới nói hai thứ, nghĩa là pháp giới hoặc có trên, hoặc không có trên, pháp giới hữu vi và hư không chẳng phải thường diệt là có thường diệt trên, vì thiện, vì thường còn nên nói không có trên. Quả có quả mười bảy: nghĩa là trừ pháp giới, mười bảy giới khác là quả có quả, vì là pháp hữu vi, tính yếu kém, vì lần lượt làm nhân lẫn nhau mà sinh ra. Một, ba giác đã nói, nghĩa là pháp giới có ba thứ: hoặc là quả chẳng có quả, hoặc là quả có quả, hoặc chẳng phải quả, chẳng có quả. Quả chẳng phải có quả nghĩa là thường diệt. Quả có quả nghĩa là pháp giới hữu vi. Không phải quả, không phải có quả, nghĩa là hư không chẳng phải thường diệt. Ba cõi ba thứ duyên Một nương dựa cũng vậy Năm, một hoặc phân biệt Duyên khác chỉ nói một. Ba cõi ba thứ duyên, nghĩa là nhãn, nhó và ý thức giới có ba thứ duyên là thiện, bất thiện và vô ký. Năm, một nghĩa là năm thức dựa vào một thứ. Hoặc phân biệt, nghĩa là đều khởi năm căn và thứ đệ diệt ý. Nếu nhận lấy cùng sinh khởi và nương dựa thì một vô ký, vì năm căn chỉ có vô ký. Nếu nhận lấy thứ đệ diệt ý, thì sẽ có ba thứ, vì ý giới là thiện, bất thiện, vô ký. Lại nữa, phần dựa và duyên thứ đệ phần của nhãn thức nên chia ra bốn trường hợp: 1 . Hoặc phần dựa, không phải phần duyên thứ đệ. 2 . Hoặc phần duyên thứ đệ, không phải phần dựa. 3 . Hoặc phần dựa, cũng là phần duyên thứ đệ. 4 . Hoặc không phải phần dựa, không phải phần duyên thứ đệ. Phần dựa, không phải phần duyên thứ đệ, nghĩa là nhãn thức cùng sinh khởi với nhãn căn. Phần duyên thứ đệ, không phải phần dựa nghĩa là tâm pháp thứ đệ diệt kia. Phần dựa cũng là phần duyên thứ đệ nghĩa là thứ đệ diệt ý. Không phải phần dựa, không phải phần duyên thứ đệ, nghĩa là trừ ba trường hợp trên cho đến thân thức dựa cũng như vậy. Hỏi: Ý thức dựa là duyên thứ lớp phải chăng? Đáp: Đúng vậy. hỏi: ý thức dựa là duyên thứ đệ, còn duyên thứ đệ không phải là ý thức dựa chăng? Đáp: ÝÙ thức dựa tương ưng với tâm pháp. Hỏi: Nếu nhãn thức lấy ý giới làm người dựa thì vì sao gọi là nhãn thức mà không gọi là ý thức? Đáp: Vì mắt là pháp bất cộng y, như mầm của hạt giống, như tiếng trống. Mắt là không cùng dựa với nhãn thức, còn ý là dựa chung, vì sáu thức xoay vần nhau sinh duyên thứ lớp. Duyên khác chỉ nói một, nghĩa là tỷ, thiệt, thân thức chỉ duyên vô ký, vì hương, vị, xúc hoàn toàn là vô ký. Ý giới tức sáu thức thân, vì ngoài sáu thức thân này không có thức nào khác nên không nói là pháp giới. Nếu tương ưng với tâm thì nên nói như tâm. Nếu mắt sinh theo thấy Nhó giới sinh theo nghe Ba cõi sinh theo giác Ý giới sinh theo thức. Nếu mắt tùy sinh, gọi là thấy, tai tùy sinh gọi là nghe, ba việc tùy sinh ra gọi là giác, ý tùy sinh ra gọi là thức. Ba giới kia dùng do phương tiện đắc, lìa dục đắc, tu đắc tính thần thông của định quả của bốn chi, năm chi định. Cho nên mắt và tai kia tùy sinh mỗi thứ mà kiến lập riêng. Ba căn còn lại tùy sinh nhưng vì không có tướng phần của chúng nên kiến lập chung một. Hỏi: Giác có nghĩa gì? Đáp: Cảnh giới chỉ vô ký Tâm giác chuyển ở trong Tùy sinh ba thứ thức Đó được gọi là giác. Hương, vị, xúc hoàn toàn vô ký, vì vô ký nên là giác, cho nên tùy theo sinh ba thức gọi là giác. Hai cảnh không thọ gần Cảnh giới xa gần một Một hướng khác thọ gần Chỗ dựa, cảnh giới thảy. Hai cảnh không thọ gần, nghĩa là nhãn thức, nhó thức là cảnh giới không thọ gần, như áp sát mắt vào sắc sẽ không thấy, tai cũng thế, đặt sát gần thì không nghe. Dù ở sâu bên trong nhưng vẫn nghe âm thanh xa từ bên ngoài. Nếu nói là cách xa cũng không thấy, nghe thì bất luận cảnh giới xa hay gần, ý thức cũng đều nhận được hết, trừ chính mình, và những pháp tương ưng cộng hữu, tất cả pháp khác đều thọ nhận. Một hướng khác thọ gần, nghĩa là thọ cảnh giới gần tỷ, thiệt, thân thức nhận cảnh giới gần vì dựa vào duyên vô gián. Chỗ dựa, cảnh giới thảy: nghĩa là tỷ, thiệt, thân thức, ba thức này đều dựa vào cảnh giới, nhận lấy cảnh giới, v.v… Tỷ căn tiếp xúc với mùi hương nhỏ nhặt, đồng đều mới sinh ra thức. Thiệt căn, thân căn nhỏ nhặt cũng như vậy. (nghĩa là ở chỗ căn, trần hoà hợp mới sinh ra thức). Hai giới nói bất định Cảnh một giới cũng vậy Năm giới dựa hoặc chung Một giới dựa nói xa. Hai giới nói bất định, nghĩa là nhãn thức, nhó thức dựa, duyên đều bất định. Nhãn thức giới hoặc chỗ dựa lớn mà duyên nhỏ, như thấy sợi lông, hoặc chỗ dựa nhỏ mà duyên lớn như thấy ngọn núi, hoặc chỗ dựa duyên bằng nhau như thấy quả nho. Nhó thức cũng như thế. Cảnh một giới cũng vậy, nghĩa là cảnh giới của ý thức là cảnh giới bất định, hoặc lớn hoặc nhỏ, vì là cảnh giới của tất cả pháp, vì vô hình, vì lớn nhỏ không thể nói, vì lìa ý giới, sáu thức không có tự thể riêng, nên không nói tâm pháp như nói tâm. Năm giới dựa hoặc chung: nghĩa là năm thức thân, hoặc chung với chỗ dựa, kết hợp nghĩa là năm căn, cách xa nghĩa là ý diệt theo thứ lớp. Một giới dựa nói xa nghĩa là ý thức giới nói là xa, là nói ý diệt theo thứ lớp của giới kia. Mười một giới có hai Sáu, ba, một, bốn thứ Sự và báo trưởng dưỡng Sát-na và dựa chủng. Mười một giới có hai, nghĩa là năm giới nội, thanh giới, năm thức giới có hai thứ. Sáu có ba, nghĩa là sắc, hương, vị, xúc, ý giới, ý thức giới. Sáu giới này có ba thứ. Một có bốn thứ: nghĩa là pháp giới có bốn thứ. Hỏi: Nói chủng loại có hai, ba, bốn là thế nào? Đáp: Sự và báo trưởng dưỡng, sát-na và nương chủng. Nhãn giới kia có hai thứ báo và trưởng dưỡng. Sinh báo kia: nghĩa là quả báo của nghiệp thiện, bất thiện. Ba đường ác là quả của nghiệp bất thiện, người trời là quả của báo thiện. Mắt và các dụng cụ, phạm hạnh, chính thọ được trưởng dưỡng. Vì sự trưởng dưỡng này không có tính chất nương dựa riêng, nên không nói. Sự nương vào sát-na cũng vậy. Như giới mắt, tai, mũi, lưỡi, thân giới cũng vậy. Thanh giới cũng có hai thứ trưởng dưỡng và nương dựa. Hỏi: Vì sao âm thanh không phải báo? Đáp: Vì phương tiện trong hiện tại phát sinh, âÂm thanh là phương tiện hiện tại nẩy sinh, báo nghĩa là nghiệp trước sinh khởi. Âm thanh nghĩa là tùy theo sự ham muốn sinh ra, còn báo chẳng phải tùy theo sự ham muốn sinh ra. Lại nữa, mỗi âm thanh đều có báo nghe, báo không có gián đoạn. Nếu âm thanh là báo, lẽ ra sẽ như sắc, bất cứ lúc nào cũng không đứt, mà âm thanh thì có đứt, cho nên chẳng phải báo. Năm thức giới là báo sinh và chỗ dựa. Sắc, hương, vị, xúc giới có ba thứ là báo, chỗ dựa, trưởng dưỡng. Ba thứ báo của ý giới dựa vào sát-na. Sát-na nghĩa là khổ pháp nhẫn cùng sinh với ý giới. Ý thức giới cũng giống như vậy. Pháp giới có bốn thứ, đó là sát-na, báo, chỗ dựa, sự. Báo kia nghĩa là quả báo của nghiệp thiện, bất thiện. Sát-na nghĩa là quyến thuộc của khổ pháp nhẫn. Chỗ dựa là trừ quyến thuộc của khổ pháp nhẫn, còn lại pháp giới thiện hữu vi, trừ báo, còn lại là pháp giới hữu vi không ẩn một vô ký, pháp giới nhiễm ô. Pháp giới vô vi chỉ có sự. Sinh thân nhãn sắc giới Tự địa và tha địa Nếu nhãn thức kia sinh Tự tha địa cũng vậy. Sinh cõi Dục, thân cõi Dục, mắt cõi Dục, sắc cõi Dục, nhãn thức cõi Dục sinh ra. Như vậy sinh ở địa Sơ thiền, với thân của địa Sơ thiền, mắt của địa Sơ thiền, sắc của địa Sơ thiền, nhãn thức của địa Sơ thiền sinh ra. Đó gọi là tự địa. Tha địa nghĩa là sinh cõi Dục với mắt của địa Sơ thiền thấy sắc cõi Dục. Thân cõi Dục kia và mắt của địa Sơ thiền, sắc cõi Dục sinh nhãn thức của địa Sơ thiền. Thấy Sơ thiền, nghĩa là thân cõi Dục kia, mắt, sắc của địa Sơ thiền sinh nhãn thức địa Sơ thiền. Sinh cõi Dục, mắt của địa Nhị thiền trông thấy sắc cõi Dục, thân cõi Dục kia với mắt của địa Nhị thiền, sắc cõi Dục sinh nhãn thức của địa Sơ thiền. Thấy địa Sơ thiền nghĩa là thân cõi Dục kia với mắt của địa Nhị thiền, sắc của địa Sơ thiền sinh nhãn thức của địa Sơ thiền. Thấy Nhị thiền, nghĩa là thân cõi Dục kia, với mắt, sắc của địa Nhị thiền, nhãn thức của địa Sơ thiền sinh ra. Sinh cõi Dục với mắt của địa Tam thiền thấy sắc cõi Dục. Thân cõi Dục kia với mắt của địa Tam thiền thấy sắc cõi Dục, nhãn thức của địa Sơ thiền sinh ra. Thấy Sơ thiền, nghĩa là thân cõi Dục kia với mắt của địa Tam thiền thấy sắc của địa Sơ thiền sinh nhãn thức của địa Sơ thiền. Thấy Nhị thiền, nghĩa là thân cõi Dục kia với mắt của địa Tam thiền thấy sắc của địa Nhị thiền sinh nhãn thức của địa Sơ thiền. Thấy Tam thiền, nghĩa là thân cõi Dục kia với mắt, sắc của địa Tam thiền sinh nhãn thức của địa Sơ thiền. Sinh cõi Dục, mắt của địa Tứ thiền thấy sắc cõi Dục, thân cõi Dục kia với mắt của địa Tứ thiền trông thấy sắc cõi Dục. Thân cõi Dục kia với mắt của địa Tứ thiền thấy sắc cõi Dục sinh nhãn thức của địa Sơ thiền. Thấy Sơ thiền, nghĩa là thân cõi Dục kia với mắt của địa Tứ thiền thấy sắc của địa Sơ thiền, nhãn thức của địa Sơ thiền sinh ra. Thấy Nhị thiền, nghĩa là thân cõi Dục kia với mắt của địa Tứ thiền không thấy sắc của địa Nhị thiền sinh nhãn thức của địa Sơ thiền. Thấy Tam thiền, nghĩa là thân cõi Dục kia với mắt của địa Tứ thiền thấy sắc của địa Tam thiền sinh nhãn thức của địa Sơ thiền. Thấy Tứ thiền, nghĩa là thân cõi Dục kia với mắt sắc của địa Tứ thiền sinh nhãn thức của địa Sơ thiền. Như nói sinh cõi Dục, cho đến sinh lên đệ Tứ thiền cũng như vậy. Có sự khác nhau nghĩa là mắt của địa dưới không trông thấy sắc của địa trên. Sinh địa trên, địa dưới, mắt không hiện hành ở trước. Nhó giới như trước nói Tỷ, thiệt giới tự địa Thân xúc, tức nói địa Ý thức thì rất nhiều. Nhó giới như trước nói nghĩa là như trước đây đã nói nhãn thức, nhó thức cũng như vậy. Tỷ giới thuyết tự địa nghĩa là sinh cõi Dục, thân cõi Dục, mũi cõi Dục, hương cõi Dục, tỷ thức cõi Dục sinh ra. Thiệt giới cũng như vậy. Thân xúc tức nói địa, nghĩa là vì thân thức có khác nhau: Sinh cõi Dục, thân cõi Dục, xúc cõi Dục sinh thân thức cõi Dục. Sanh Sơ thiền cũng như vậy. Sinh Nhị thiền, thân, xúc của Nhị thiền, sinh thân thức địa Sơ thiền, vì biết xúc của tự địa không phải sinh địa khác. Đệ tam, đệ Tứ thiền cũng như thế. Ý thức thì rất nhiều: hoặc là ý của tự địa, pháp của tự địa, ý thức của tự địa sinh, hoặc tha địa. Hoặc tự địa nghĩa là sinh cõi Dục, ý của cõi Dục, pháp cõi Dục sinh ý thức cõi Dục, cho đến sinh lên Hữu tưởng, Vô tưởng xứ cũng như thế. Tha địa nghĩa là sinh cõi Dục lúc chính thọ, tâm thiện cõi Dục kia theo thứ lớp chính thọ của Sơ thiền, khởi ý cõi Dục kia sinh ý thức của địa Sơ thiền, hoặc lệ thuộc ba cõi, hoặc không lệ thuộc. Tâm thiện cõi Dục theo thứ lớp của Sơ thiền được hiển hiện ở trước. Ý của Sơ thiền kia, ý thức của cõi Dục nảy sinh pháp, hoặc lệ thuộc ba cõi, hoặc không lệ thuộc. Theo thứ lớp Sơ thiền là chính thọ của Nhị thiền. Ý của Sơ thiền kia sinh pháp ý thức của Nhị thiền, hoặc lệ thuộc hoặc không lệ thuộc ba cõi. Như vậy đệ Nhị thiền Sơ thiền, Sơ thiền đệ Nhị thiền, Sơ thiền đệ Tam thiền, đệ Tam thiền Sơ thiền cho đến Hữu tưởng, Vô tưởng xứ, vượt qua theo thứ lớp nghịch thuận nên nói rộng. Có sự khác nhau nghĩa là chính thọ này là ý giới, chính thọ kia là ý thức. Nếu thiền là ý thức, là pháp thì hoặc lệ thuộc cả ba cõi, hoặc không lệ thuộc. Nếu Vô Sắc là ý thức, là pháp hoặc lệ thuộc ba cõi, hoặc không lệ thuộc. Nếu Vô Sắc là ý thức thì pháp kia ở tự địa, địa trên và không lệ thuộc. Lại nữa, chính thọ tịnh theo thứ lớp của Sơ thiền là quả của Sơ thiền cõi Dục và tâm biến hóa hiển hiện ở trước. Ý của Sơ thiền kia sinh ý thức cõi Dục. Pháp là sự biến hóa của cõi Dục, tức là quả của Sơ thiền cõi Dục kia, Sơ thiền theo thứ lớp tịnh, hiển hiện ở trước. Ý của cõi Dục kia sinh pháp ý thức của Sơ thiền, hoặc lệ thuộc ba cõi, hoặc không lệ thuộc cho đến Tứ thiền cũng như vậy. Sinh là chết ở cõi Dục kia, sinh lên địa Sơ thiền, ý của cõi Dục kia sinh pháp ý thức của địa Sơ thiền, hoặc lệ thuộc cõi Sắc, Vô Sắc, hoặc không lệ thuộc. Mất ở địa Sơ thiền, sinh cõi Dục, ý của địa Sơ thiền kia sinh pháp ý thức của cõi Dục, hoặc lệ thuộc ba cõi, hoặc không lệ thuộc, cho đến Hữu tưởng, Vô tưởng xứ cũng như thế. Chết mất là ý thọ sinh, Sinh là ý thức, chỉ vì pháp của ý thức đó ở tự địa, địa trên và không lệ thuộc. Như kia đắc nhãn giới Hoặc kia nương dựa thức Cả hai đắc, không đắc Cũng là sắc và xả. Nếu kia đắc nhãn giới, nghĩa là hoặc nhãn giới không thành tựu, được thành tựu, đều không phải là nhãn thức giới, nghĩa là chết ở cõi Vô Sắc, sinh đệ nhị, đệ tam, đệ Tứ thiền, sinh cõi Dục, dần dần được nhãn căn. Hoặc nhãn kia nương thức, hoặc nhãn thức giới không thành tựu hay được thành tựu, đều không phải nhãn giới, nghĩa là mất ở địa Tam thiền trên, sinh cõi Dục và Sơ thiền. Nếu trụ ngay Sơ thiền, thì nhãn thức kia sẽ hiện tiền. Cả hai đắc, nghĩa là hoặc nhãn và nhãn thức giới đều đắc: mất ở cõi Vô Sắc, sinh cõi Dục và Sơ thiền. Cả hai đều không đắc, nghĩa là chẳng phải nhãn giới không thành tựu, được thành tựu, cũng không phải nhãn thức giới không thành tựu, được thành tựu. nghĩa là sinh cõi Dục không mất nhãn căn và ở trên Phạm thiên. Nếu chết sinh lên Phạm thiên và cõi Dục, đệ nhị, đệ tam, đệ Tứ thiền mất, sinh lên đệ nhị, đệ tam, đệ Tứ thiền. Chết ở Vô Sắc, sinh cõi Vô Sắc, cũng cõi Sắc. nghĩa là nếu cõi Sắc không thành tựu, được thành tựu thì đó chính là nhãn giới không thành tựu, được thành tựu. Hoặc nhãn giới không phải sắc giới, nghĩa là sinh cõi Dục dần dần sẽ được nhãn căn. Nếu sắc giới không thành tựu, được thành tựu là nhãn thức giới kia chăng? Về vấn đề này lẽ ra đặt ra bốn trường hợp: . Sắc giới không thành tựu, được thành tựu, không phải là nhãn thức giới, nghĩa là chết ở cõi Vô Sắc sinh lên cõi Tam thiền. . Nhãn thức giới không thành tựu, được thành tựu không phải sắc, tức là chết ở Tam thiền kia, sinh cõi Dục và Sơ thiền. Nếu trụ ngay thiền đó, nhãn thức sẽ hiện tiền. . Cõi Sắc không thành tựu được thành tựu, cũng là nhãn thức giới, nghĩa là chết ở cõi Vô Sắc, sinh cõi Dục và Sơ thiền. . Không phải sắc giới cũng không phải nhãn thức giới, nghĩa là trừ ngần ấy việc trên. Với xả, nghĩa là như nói đắc, xả cũng nói rộng như thế. Hai thức, thức cõi Sắc Cho đến xúc cũng vậy Với mười ba giới khác Hoàn toàn ý thức duyên. Hai thức thức cõi Sắc nghĩa là: Hai thức thức cõi Sắc, là nhãn thức và ý thức, tự tướng của nhãn thức giới, tự tướng của ý thức giới và cộng tướng cho đến xúc cũng vậy. Hai thức thức của thanh giới là nhó thức và ý thức. Tự tướng của nhó thức giới, tự tướng của ý thức giới và cộng tướng, cho đến hai thức thức của xúc, giới là thân thức và ý thức. Tự tướng của thân thức, tự tướng của ý thức và cộng tướng của ý thức, vì cảnh giới của tự tướng của năm thức thân, vì không tư duy, vì cảnh giới hiện tại vì một niệm. Về mười ba giới khác, hoàn toàn ý thức duyên, nghĩa là năm tướng sắc căn, bảy tâm giới và pháp giới. Mười ba giới này hoàn toàn là ý thức, tự tướng của thức và cộng tướng. Ý thức này có hai thứ duyên hư hoại và duyên không hư hoại. Duyên không hư hoại tức là sự duyên của mười ba giới này. Sự duyên hư hoại, nghĩa là mười ba giới với năm cảnh giới, mỗi giới đều hợp duyên, cho đến duyên chung mười tám giới. Thức tư duy ba thứ Là ý trong dục hữu Phân biệt sắc, Vô Sắc Một chủng nói giới khác. Thức tư duy ba thứ là ý trong dục hữu, nghĩa là ý thức của cõi Dục có ba thứ tư duy: Tư duy tự tính, tư duy tùy ức và tư duy phân biệt. Tư duy tự tính nghĩa là giác. Tư duy tùy ức nghĩa là niệm của ý địa. Tư duy phân biệt nghĩa là tuệ bất định của ý địa. Ba tư duy này là sự tư duy của ý thức cõi Dục. Phân biệt cõi sắc, Vô Sắc nghĩa là ý thức của cõi Sắc, Vô Sắc có ba thứ: địa bất định Sơ thiền, nhập định có hai, bất định có ba, ý thức của ba thiền bất định có hai, trừ tư duy tự tính. Nếu định là một, thì thuộc về tư duy tùy ức. Có thuyết nói cõi Vô Sắc đều là nhất định, nghĩa là cõi Vô Sắc chỉ có một thứ là tư duy tùy ức. Nếu nói có bất định thì định có một, bất định có hai. Một chủng nói giới khác, nghĩa là năm thức thân nói là giới khác chỉ có tư duy tự tính, vì bất lợi. Hỏi: Phân biệt pháp tướng như vậy rồi, thế nào là pháp gồm thâu là tự tính hay tha tính? Đáp: Là tự tính vì sao? Các pháp lìa tha tính Đều an trụ tự tính Nên nói tất cả pháp Đều thuộc về tự tính. Các pháp lìa tha tính nghĩa là nhãn giới lìa mười bảy giới vì tính khác, giới khác cũng như vậy. Không nên nói nếu lìa tính là gồm thâu, vì tướng khác nhau, nên mới nói thuộc về tự tính, không phải tha tính. Mỗi pháp đều tự trụ tính của mình, nghĩa là tất cả tính đều trụ nơi tự tướng, vì tính này chẳng phải tướng khác, mà nên nói nếu trụ là sự gồm thâu, không phải pháp khác. Nói nghĩa gồm thâu là thuộc về tự tính của tất cả pháp, nghĩa là tự tính của tự tính là bất không, chẳng phải khác, như sắc của sắc là bất không. Lại nữa, nói nghĩa giữ gìn nhau là sự gồm nhiếp, như Khế kinh nói: “Như ở giữa lầu quán, các cây đều nương dựa vào nhau để làm cho lầu quán càng thêm tốt đẹp”. Như kinh đã nói như chỉ tơ giữ lấy áo, như then cửa giữ lấy cánh cửa, như búa giữ lấy củi. Hoặc nói phương tiện gồm thâu, như nói trong năm sự gìn giữ này, tuệ là hàng đầu, nghĩa là vì gồm thâu. Hoặc nói thuộc về hòa hợp nghĩa là bốn ï nhiếp sự có thể nhiếp giữ chúng sinh. Hoặc nói tùy thuận nhiếp phục, như Đức Phật nói đẳng kiến, đẳng chí, đẳng phương tiện đều là thân của tuệ. Hoặc nói vì gồm giữ nên gọi là thâu nhiếp, nghĩa là hòa với trên, do thuộc về tài pháp. Trên đây là những lời nói của thế tục, không thuộc về rốt ráo. Tự tính nhiếp tự tính nghĩa là đệ nhất nghĩa rốt ráo, có ba giai đoạn gồm thâu. Giai đoạn nói ở đây là tự tính nhiếp tự tính nhiếp như vậy không bỏ đệ nhất nghĩa. Đã nói tự tính gồm thâu, nhãn giới của mắt gồm thâu một giới, một nhập, một ấm, không gồm thâu mười bảy giới, mười một nhập, năm ấm. Lại nữa, mắt phải gồm thâu mắt phải, mắt trái gồm thâu mắt trái. Mắt có hai thứ trưởng dưỡng và báo. Trưởng dưỡng thâu tóm trưởng dưỡng, báo thâu tóm báo. Báo lại có hai thứ: báo của nghiệp thiện và báo của nghiệp bất thiện. Nghiệp thiện gồm báo của nghiệp thiện. Báo của nghiệp bất thiện gồm báo của nghiệp bất thiện. Báo của nghiệp bất thiện có ba thứ, nghĩa là ba đường ác: Súc sinh gồm thâu súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục cũng như vậy. Báo của nghiệp thiện có hai thứ, nghĩa là người, trời. Người gồm thâu người, trời gồm thâu trời. Quá khứ gồm thâu quá khứ, vị lai, hiện tại cho đến sát-na gồm thâu sát-na. Trong giới nói một giới Ấm nhập cũng như vậy Ấm nhập giới như thế Là gồm tất cả pháp. Một giới là pháp giới, một nhập là ý nhập, một ấm là sắc ấm.  LUẬN TẠP A-TỲ-ĐÀM TÂM <卷>QUYỂN 2 <詞>Phẩm 2: HÀNH Đã nói các pháp trụ tự tướng, nay sẽ nói pháp sinh. Nếu vì các pháp gồm thâu tự tính, nghĩa là cho do tự lực sinh thì không đúng. Vì sao? Rốt ráo không thể sinh Vì dụng lìa đồng bạn Nhờ Năng lực các duyên Các pháp mới được sinh. Rốt ráo không thể sinh, vì dụng lìa đồng bạn, nghĩa là vì tự tính của các hành yếu kém nên không thể tự sinh. Hỏi: Nếu không tự sinh, thì phải làm thế nào để sinh? Đáp: Năng lực tất cả duyên Các pháp mới được sinh. Như người và thuyền nhờ nhau mới được qua bên kia sông. Do sức của tâm, tâm pháp kia lần lượt phát sinh. Thâu nhận cảnh giới cũng như vậy, trước phải nói đến tâm, tâm pháp do bạn sinh ra Nếu lúc tâm kia khởi Tâm này phải cùng có Các nhóm tâm pháp thảy, Và hành bất tương ưng. Các hành lần lượt làm nhân cho nhau sinh ra tâm kia, hoặc nương, hoặc duyên, hoặc sát-na sinh, nhóm tâm pháp v.v… kia sinh. Hỏi: Nhóm tâm pháp, v.v… là thế nào? Đáp: Tưởng, dục và xúc tuệ Niệm, tư, với giải thoát Ức, định cùng với thọ Đây nói nhóm tâm thảy. Tưởng nghĩa là giữ lấy hình tượng, diện mạo của cảnh giới. Dục nghĩa là đối với duyên dục thọ. Xúc nghĩa là nương duyên tâm hòa hợp sinh ra cảnh giới xúc. Tuệ nghĩa là đối với duyên, quyết định xét kỹ. Niệm nghĩa là đối với duyên ghi nhớ không quên. Tư nghĩa là công đức và lỗi ác đều trái nhau, tâm tạo tác chuyển biến. Giải thoát nghĩa là đối với duyên, khởi lên tưởng nhận lấy, hạn lượng của nó, việc ấy phải như vậy. Ức nghĩa là đối với duyên, phát sinh giác ngộ. Định nghĩa là thọ duyên không rối loạn. Thọ nghĩa là tiếp nhận cảnh giới đáng ưa, không đáng ưa, đều trái nhau về thọ nhận cảnh giới. Lúc tất cả tâm sinh Bậc Thánh nói là sinh Đồng chung một duyên hành Cũng lại thường tương ưng. Tất cả tâm thiện, bất thiện, vô ký của mười pháp này đều sinh ra đại địa có thể được, nên nói là địa đại. Đồng chung một duyên hành, nghĩa là tất cả tâm đồng chuyển một duyên, không lìa nhau, không có hai quyết định, cũng lại thường tương ưng, lần lượt cùng có và cùng sinh khởi với chúng, đều thường tương ưng, để làm một việc. Hỏi: Sự tương ưng có nghĩa gì? Đáp: nghĩa bình đẳng là nghĩa tương ưng. Hỏi: Tâm pháp hoặc nhiều, hoặc ít, làm sao nghĩa bình đẳng là nghĩa tương ưng được? Đáp: Vì việc bình đẳng, nếu trong một tâm có một tưởng, hai thọ thì không phải là nghĩa tương ưng, vì một tâm, một tưởng sinh. Tâm pháp khác cũng vậy. Vì lý do này nên nghĩa bình đẳng là nghĩa tương ưng. Lại nữa, các nghĩa bình đẳng về thời, nương dựa, hành, duyên là nghĩa tương ưng. Thời bình đẳng nghĩa là thời gian một sát-na sinh ra. Nương bình đẳng nghĩa là nếu tâm dựa vào mắt sinh tâm thì pháp cũng vậy. Hành bình đẳng nghĩa là nếu tâm hành màu sanh sinh ra thì tâm pháp cũng vậy. Duyên bình đẳng nghĩa là nếu tâm duyên sắc mà sinh thì tâm pháp cũng duyên sắc. Cho nên nói là thường tương ưng. Đã nói tâm pháp có mặt ở tất cả, nay sẽ nói tâm pháp không có mặt ở tất cả. Các căn có hổ thẹn Tín, ỷ, không buông lung. Bất hại, tinh tiến, xả Chung tất cả tâm thiện. Các căn là hai căn thiện: Không tham và không sân. Đối với sự sống và tiền của, vật dụng dứt bỏ tâm tham đắm, gọi là không tham. Đối với số phi chúng sinh và phi chúng sinh, hoại bỏ tâm giận dữ, gọi là không sân. Đối với các lỗi lầm, tự cảm thấy nhàm chán chính mình, gọi là hổ. Đối với mọi lỗi lầm cảm thấy xấu hổ đối với người khác gọi là thẹn. Đối với Tam bảo, bốn đế, tâm được thanh tịnh gọi là Tín. Thân, tâm đều lìa ác gọi là ỷ tức (khinh an). Thực hành phương tiện thiện, tránh xa mọi việc xấu ác, không làm, gọi là không phóng dật. Không lấn áp, bức bách người gọi là không hại. Dứt trừ điều ác đang khởi, chưa khởi, sinh ra điều thiện đang khởi, chưa khởi, muốn dùng phương tiện siêng năng tu không ngừng nghỉ, gọi là tinh tiến. Tâm bình đẳng gọi là xả. Mười pháp thiện này chung cho tất cả tâm thiện. Nếu ý thức tương ưng với năm thức hữu lậu, vô lậu tương ưng với ý thức, thì vì sự tương ưng đó, nên nói là địa đại thiện. Đã nói đại địa thiện, nay sẽ nói về địa đại phiền não. Hiểu tà, nhớ bất chính Trí không thuận, thất niệm Bất tín, biếng nhác, loạn Vô minh, trạo, buông lung. Hiểu biết điên đảo gọi là tà giải, thọ nhận cảnh giới bất chính gọi là nhớ nghó bất chính. Quyết định điên đảo gọi là trí bất thuận. Ghi nhận sai quấy, quên mất gọi là thất niệm. Tâm bất tịnh đối với Tam bảo, bốn đế gọi là bất tín. Không dứt trừ điều ác đang khởi, chưa khởi, không sinh việc thiện đang khởi hay chưa khởi, không siêng năng vận dụng phương tiện gọi là biếng nhác. Bị lôi cuốn do cảnh giới, phân tán theo các duyên gọi là loạn. Mé trước, v.v… không biết gọi là vô minh, tâm chao động không ngừng dừng nghỉ gọi là trạo cử, lìa phương tiện tạo thiện gọi là buông lung. Đại địa phiền não mười Tất cả tâm cấu uế Vô tàm và vô quý Nói đại địa bất thiện. Đại địa phiền não mười, tất cả tâm nhiễm ô, nghĩa là tà giải thoát này gồm có mười pháp, tất cả tâm nhiễm ô đều có, nghĩa là năm thức thân và ý thức địa của cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc. Cho nên nói là địa đại phiền não. Hỏi: Thùy miên cũng đi chung với tất cả tâm nhiễm ô, tại sao không lập nó là đại địa phiền não? Đáp: Vì thuận với chính thọ, nghĩa là chúng sinh thùy miên mau phát ra định, nên không lập. Nếu là đại địa, đại địa phiền não kia nên tạo ra bốn trường hợp: . Hoặc có đại địa không phải là địa đại phiền não, nghĩa là thọ, tưởng, tư, xúc, dục. . Hoặc có đại địa phiền não không phải là đại địa, nghĩa là bất tín, biếng nhác, vô minh, trạo cử, buông lung. . Hoặc đại địa cũng là đại địa phiền não nghĩa là nhớ nghó giải thoát, nhớ nghó định, tuệ. . Hoặc không phải đại địa, không phải địa đại phiền não, tức trừ các trường hợp trên. Đã nói đại địa phiền não, nay sẽ nói đại địa bất thiện. Vô tàm và vô quý Gọi đại địa bất thiện. nghĩa là đối với các lỗi lầm của mình không tự nhàm chán gọi là vô tàm (không hổ). Đối với những điều xấu ác, không hổ thẹn với người, gọi là vô quý (không thẹn). Hai pháp này hoàn toàn bất thiện vì tương ưng với tất cả tâm bất thiện, cho nên xếp vào đại địa bất thiện. Đã nói địa đại bất thiện, nay sẽ nói đại địa tiểu phiền não. Phẫn, hận, cuống, san, tật Não, siểm, phú, cao, hại Các phiền não như vậy Nói là tiểu đại địa. Đối với việc lợi ích, không lợi ích nên làm mà không làm, không nên làm lại làm, giận dữ nối tiếp nhau sinh ra, gọi là phẫn. Đối với việc đáng ham muốn, mà không ham muốn, nên làm lại không làm, không nên làm lại làm, giận nối tiếp nhau sinh ra gọi là hận. Vì khi dễ người kia nên tỏ vẻ kính thờ gọi là cuống. Tiếc nuối của cải, giáo pháp gọi là san. Đối với lợi dưỡng, cung kính, danh dự, công đức của người, tâm không chịu đựng nổi, sanh tâm ganh ghét, gọi là tật. Đối với việc không nên mong muốn lại mong muốn, trái với tâm tư duy, nên nóng nảy, gọi là não. Che giấu tự tính dua mịnh, thuận theo thời, tiện nghi gọïi là siểm. Vì danh lợi nên tự che giấu lỗi ác gọi là phú. Gây trở ngại cho dòng họ người khác bằng của cải giàu có, sắc lực, phạm hạnh, giữ giới, trí tuệ, chính nghiệp, tâm tự thị, gọi là cao. Muốn ép ngặt người gọi là hại. Mười pháp trên đây gọi là đại địa tiểu phiền não vì không có chung, do tu đạo dứt trừ, không phải kiến đạo dứt trừ, ở ý địa không ở năm thức, chẳng phải một tâm cùng sinh. Vì hiện hành đều khác nhau, nghĩa là có một thì không có hai. Hỏi: Đại địa thiện, đại địa phiền não với đại địa bất thiện, đại địa tiểu phiền não khác nhau ở điểm nào? Đáp: Đại địa có bốn loại: thiện, bất thiện, vô ký ẩn mất (hữu phú vô ký) và vô ký không ẩn mất (vô phú vô ký), đại địa thiện chỉ có thiện. Đại địa phiền não có hai thứ: bất thiện và vô ký ẩn mất. Đại địa bất thiện chỉ có bất thiện. Trong đại địa tiểu phiền não thì cuống, siểm, cao có hai loại bất thiện và vô ký ẩn mất, ngoài ra hoàn toàn bất thiện. Trong phẩm tâm bất thiện Tâm pháp hai mươi mốt Dục ba, kiến giảm một Hai kiến trừ ba thứ. Trong phẩm tâm bất thiện, tâm pháp hai mươi mốt: bất thiện nghĩa là phiền não cõi Dục tương ưng, trừ thân kiến, biên kiến, vì chuyển thành quả không ưa thích nên gọi là bất thiện. Bất thiện có tám thứ: tham, sân, mạn, nghi, tà kiến, kiến thủ, giới thủ vô minh bất cộng và tương ưng với bảy thứ đó. Tâm tham, sân, mạn, nghi kia có hai mươi mốt pháp cộng sinh mười địa đại và mười pháp là biếng nhác, vô minh, bất tín, buông lung, trạo cử, thùy miên, giác, quán, không hổ, không thẹn. Dục ba, kiến bớt một, nghĩa là tà kiến, kiến thủ, giới thủ của cõi Dục. Tâm tương ưng với các kiến đó có hai mươi pháp cộng sinh, trừ tuệ. Hai kiến trừ ba thứ, nghĩa là trừ thân kiến, biên kiến của cõi Dục. Tâm tương ưng với các kiến đó có mười tám pháp cộng sinh trừ tuệ và vô tàm vô quý. Các pháp khác như trước đã nói. Trừ không hổ, không thẹn, vì hoàn toàn bất thiện, không có hai tuệ, vì sử, kiến tức là tuệ. Hai mươi hai dục thiện Bất cộng có hai mươi Vô ký nói mười hai Hối miên đều tăng thêm. Dục thiện nghĩa là tâm tịnh của cõi Dục chuyển thành quả ái có ba loại: sinh đắc và văn, tư. Tâm kia có hai mươi hai pháp cùng sinh là mười đại địa, mười thiện đại địa thiện giác, quán. Bất cộng có hai mươi là bất cộng tức tâm kia chỉ có một, phiền não vô minh có hai mươi tâm pháp cộng sinh, trừ một phiền não. Vô ký nói mười hai nghĩa là tâm vô ký không ẩn mất của cõi Dục có bốn loại: Báo sinh, oai nghi, công xảo và tâm biến hóa. Bốn thứ tâm vô ký kia với mười hai tâm pháp cộng sinh mười đại địa giác quán. Hối miên đều tăng thêm, nghĩa là tâm theo đuổi, biến đổi gọi là hối, là thiện, bất thiện, vô ký, là hối tiếc, ghét bỏ trong phẩm tâm kia, ngoài ra như trước đã nói. Phải biết hối có ba thứ thiện, bất thiện và vô ký không ẩn mất, vì không phải tự lực khác. Người của Tỳ-bà-sa nói: Bất dục khiến cho hối có vô ký, vì hối rất nhanh nhẹn, nhạy bén. Miên nghĩa là thân tâm mờ tối, cảnh giới duyên hời hợt gọi là miên. Tất cả năm phẩm tâm cùng sinh kia, tức tâm phẩm đó tăng thêm tùy miên. Nếu hối, miên cùng sinh thì trong ba phẩm sẽ thêm hai. Hỏi: Đây là nói tâm cõi Dục, còn tâm cõi Sắc thế nào? Đáp: Sơ thiền lìa bất thiện Ngoài ra như dục hữu Thiền trung gian trừ giác Với quán trên cũng vậy. Sơ thiền không có bất thiện, ở thiền đó có bốn phẩm tâm: thiện, bất cộng, vô ký ẩn mất và vô ký không ẩn mất. Các phẩm tâm này trừ vô tàm vô quý, các tâm còn lại như đã nói ở cõi Dục. Hai mươi hai phẩm thiện kia, ái, mạn, nghi cùng sinh có mười chín: năm kiến và cùng sinh bất cộng có mười tám, vô ký không ẩn mất có mười hai, vì không hổ, không thẹn hoàn toàn bất thiện. Cõi Sắc, Vô Sắc kia không có hối, miên. Thiền trung gian trừ giác, ngoài ra như đã nói ở Sơ thiền. Đối quán trên, cũng vậy, nghĩa là ở thiền thứ hai, ba, tư và cõi Vô Sắc đều không có quán. Đã nói về tâm, tâm pháp có sức hạn phát sanh, bây giờ sẽ nói về sắc. Cực vi ở bốn căn Mười thứ phải nên biết Thân căn chín, còn tám nghĩa là địa có hương. Cực vi ở bốn căn, mười thứ cần phải biết, nghĩa là bốn căn có mười thứ cực vi cộng sinh bốn đại: Sắc, hương, vị, xúc; Nhãn căn, thân căn, nhó, tỷ, thiệt căn cũng vậy. Thân căn chín: nghĩa là thân căn khác có chín loại, kia chỉ có chủng loại của thân căn, ngoài ra như trước đã nói. Trừ tám nghĩa là lìa bỏ tám thứ cực vi của căn, sắc, hương, vị, xúc. Hỏi: Các cực vi này là nói ở giới nào? Đáp: Cực vi này là nói ở địa có hương. Cực vi trong cõi Dục hợp với hương, hương và vị không lìa nhau, hễ có hương là có vị. Cực vi cõi Sắc vì không có cách ăn vốc, nên lìa hương, vị. Cực vi của bốn căn cõi Sắc có tám thứ. Cực vi của thân căn khác có bảy thứ, cực vi ngoài có sáu thứ. Hỏi: Nếu cực vi của nhãn căn có mười loại thì vì sao không phải mắt tức là sắc mà tức là thứ khác, như vậy thì tính của pháp là tạp loạn, trái với A-tỳ-đàm, vì A-tỳ-đàm nói nhãn căn thuộc về một giới, một nhập, một ấm? Đáp: Có hai thứ cực vi: sự cực vi và tụ cực vi. Sự cực vi nghĩa là cực vi của nhãn căn, tức là cực vi của nhãn căn. Cực vi khác đều nói việc mình, vì là sự cực vi. A-tỳ-đàm nói nhãn căn thuộc về một giới, một nhập, một ấm. Còn tụ cực vi là gồm rất nhiều sự, là tụ cực vi nói ở đây. Vì trụ nơi tự tướng nên pháp tướng không lẫn lộn, như pháp tương ưng với tâm, tướng của chúng đều khác nhau, không bị lẫn lộn. Sự cực vi kia cũng vậy. Cực vi này có bốn nghĩa xa, sẽ nói trong phẩm này. Hỏi: Ở trước đã nói nếu tâm sinh thì tâm pháp cùng sinh và hành bất tương ưng, trong đó đã nói tâm pháp rồi, còn tâm bất tương hành ra sao? Đáp: Tất cả pháp hữu vi Sinh, trụ và dị diệt Pháp này có bốn tướng Lần lượt làm cho nhau. Tất cả pháp hữu vi: sinh, trụ và dị, diệt: nghĩa là tất cả pháp hữu vi có bốn tướng sinh, trụ, dị, diệt. Vì khởi trong đời nên sinh, đã khởi lập việc của mình nên trụ, đã trụ mà uy lực suy yếu nên đổi khác (dị), vì đã đổi khác và hư hoại nên diệt. Tướng này là nói hành bất tương ưng với tâm. Hỏi: Nếu tất cả pháp hữu vi có bốn tướng thì lẽ ra tướng lại có tướng phải chăng? Đáp: Tướng này cũng có bốn tướng, tức tướng này cùng sinh, sinh sinh, trụ trụ, dị dị, diệt diệt. Hỏi: Nếu vậy thì là vô cùng sao? Đáp: Lần lượt làm cho nhau, tùy nhau, lần lượt cho nhau, sinh nhau, chẳng phải không cùng. Sinh trước, sinh ra sinh sinh, sinh sinh sinh ra sinh trước. Như vậy trụ trong trụ trụ, các thứ đều trụ lẫn nhau. Dị dị rồi lại dị, các thứ đều dị lẫn nhau. Diệt, diệt rồi lại diệt, các thứ đều diệt lẫn nhau. Hỏi: Tùy nhau, lần lượt lẫn nhau, làm lẫn nhau thì tướng trước có bao nhiêu pháp? Đáp: Phải biết bốn tướng trước Mỗi tướng đều tám pháp Tướng tùy cũng nên biết Mỗi tướng chỉ một tướng. Bốn tướng trước, mỗi tướng thành tám pháp, nghĩa là sinh trước, trừ tự mình sinh tám pháp, ba tướng có bốn tướng tùy và pháp kia. Trụ: Trừ tám pháp tự mình trụ. Dị: trừ tám pháp dị của mình. Diệt: trừ tám pháp diệt của mình. Ba tướng, bốn tùy tướng và tự tính của pháp đó, vì không tự làm. Tự tính không tự diệt, như đầu ngón tay không tự xúc chạm. Hỏi: Tùy tướng có bao nhiêu pháp? Đáp: Tùy tướng lẽ ra cũng như tướng tướng chỉ có một tướng. Bốn tùy tướng này đều là một pháp. Tùy sinh sinh tiền sinh, tùy trụ trụ và tiền trụ, tùy dị dị tiền dị, tùy diệt diệt tiền diệt. Đã nói các hành lần lượt sinh nhau, như sinh cùng một lúc không loạn, nay sẽ nói. tính tướng khác nói xa Nơi chốn, thời cũng vậy Giới, chủng và đại địa Phân biệt tính các thức. tính tướng khác nói xa, nơi chốn thời cũng vậy. Xa có bốn loại: Dị tính xa, tướng xa, xứ sở xa và thời xa. Hỏi: Những gì là pháp xa? Đáp: Gọi là địa giới và đại địa, phân biệt tính các thức. Dị tính xa kia: nghĩa là như trong một thân, giới thiện, giới ác, vô tác nối nhau sinh ra, dù cùng ở trong một thân, và khởi cùng lúc, đồng là tính vô tác, mà vì các tính đều khác, nên nói là xa. Tướng xa nghĩa là bốn đại chủng lần lượt chuyển biến nuôi dưỡng nhau, cùng ở chung một chỗ, hợp thành một thể, vì mỗi tướng của chúng đều khác nhau, nên nói là xa. Nơi chốn xa, ở Chấn đán, Thiên-trúc dù cùng lúc sinh, hợp thành một thể nhưng vì nơi chốn kia khác nên nói là xa. Thời xa nghĩa là mắt sinh ra nhãn thức, sau mắt đó, vì thời gian sinh trước cách xa thời gian sau nên nói là xa. Đã nói các hành vì sinh cùng lúc mà không loạn, nay sẽ nói các hành từ nhân kia sinh ra. Sở tác, cộng, tự phần Tất cả báo, tương ưng Từ sáu thứ nhân này Chuyển sinh pháp hữu vi. nghĩa là nhân sở tác, nhân cộng hữu, nhân tự phần, nhân nhất thiết biến, nhân tương ưng và nhân báo, sáu nhân này bao gồm tất cả nhân, sáu nhân này sinh ra tất cả hành hữu vi. Đã nói tên của nhân, nay sẽ nói từng tướng của nhân. Giống nhau, không giống nhau Đều trừ bỏ tự tính Tất cả là tác nhân Lúc sinh không chướng ngại. Giống nhau không giống nhau, đều trừ bỏ tự tính, tất cả là tác nhân, nghĩa là nếu pháp giống nhau, không giống nhau, trừ tự tính xoay vần làm nhân, nói là nhân sở tác. Vì sao? Vì lúc sinh, không có chướng ngại, lúc pháp sinh, trừ tự tính, tất cả tính mỗi mỗi tự trụ, các phần khác bình đẳng sinh ra không chướng ngại. Như vì nhân địa, nên tạo ra nghiệp tịnh, bất tịnh, vì nhân không nên được qua lại. Như lúc nhãn thức sinh ra, vì mười bảy giới không chướng ngại nên sinh ra tất cả giới như vậy. Hỏi: Vì sao tự tính không phải là nhân sở tác của tự tính? Đáp: Vì tự tính không tự làm, vì không tự nương dựa, nên tự tính đối với tự tính không nuôi dưỡng, không hao tổn, không thọ nhận, không hại, không nắm giữ, không hư hoại, không thêm không bớt, không thành, không bại, không chướng ngại, đều gọi là nhân sở tác. Vì tự tính đối với tự tính không chướng ngại nên không lập nhân sở tác. Hỏi: Nếu không chướng ngại là nhân sở tác thì vì sao tất cả pháp không sinh và diệt cùng lúc, mà là có lúc sinh rồi diệt, diệt rồi sinh? Đáp: Vì không hòa hợp, nên dù có nhân sở tác, nhưng phải có sự hòa hợp mới sinh, cũng không phải tất cả pháp đều hòa hợp sinh, hòa hợp diệt cùng lúc, cũng không phải một sự hòa hợp mà sinh ra hai quả. Hỏi: Nếu vậy thì có một người giết chúng sinh, chúng sinh khác sẽ không bị chướng ngại, vì sao kẻ giết hại có tội mà không phải chúng sinh khác? Đáp: Vì không có phần tâm ác, lại vì không tạo ra nghiệp, đối với trộm cắp cũng như vậy. Hỏi: Nếu vật bên ngoài là vật sinh ra tăng thượng cho tất cả chúng sinh thì tại sao lại lấy của không cho để mắc tội trộm đối với tất cả chúng sinh? Đáp: Vì không có phần thọ, vì không có quả của công lao người. Nếu tất cả chúng sinh đối với người kia ắt có phần thọ và quả công lao của người kẻ nhận lấy đối với người đó phải là tội trộm. Cũng không phải một vật mà tất cả chúng sinh thọ và quả của công lao người đều có ba loại tăng thượng là: Tự tăng thượng, pháp tăng thượng và thế tăng thượng. Tự tăng thượng là người kia khởi lên cảnh giới phiền não hiện tiền, có thể tự giữ gìn, không bị nghiệp tội, đừng để cho ta phải chịu đau khổ. Pháp tăng thượng là như có người học rộng, khởi lên cảnh giới phiền não, hiển hiện ra trước nhưng vì mục đích bảo vệ pháp nên không gây tội. Thế tăng thượng là như có một vị Đại đức nổi tiếng, vị Đại đức đó khởi lên cảnh giới phiền não, hiện ra ở trước, nhưng vì hộ trì thế gian nên không gây ra tội. Đã nói nhân sở tác, nay sẽ nói: Về nhân cộng hữu Một tính khởi nương dựa Cũng nói không nương dựa Nên biết nhân cộng hữu Thay nhau làm nhân quả. Một tính khởi nương dựa, cũng nói không nương dựa, nên biết nhân cộng hữu, nghĩa là cùng lúc sinh ra tâm, tâm pháp, chuyển biến theo tâm, đạo của tâm bất tương ưng hành cộng định, cộng giới và bốn đại cộng sinh. Các pháp này gọi là nhân cộng hữu, làm nhân quả lẫn nhau, nếu khởi cùng lúc làm quả lẫn nhau là nhân cộng hữu, có mười một nhân, tuy sinh cùng lúc, nhưng người đó không xoay vần làm quả. Nhân tự phần nghĩa là khác thời mà cùng chung một quả. Nhân cộng hữu nghĩa là sức của các hành xoay vần phát sinh cùng lúc, nghĩa là tâm đối với tâm pháp, tùy tâm chuyển và tâm bất tương ưng hành, tùy theo tâm chuyển biến sắc, sắc này cũng do ở tâm. Mắt đối với sự sinh, v.v… sự sinh v.v… đối với mắt và bốn đại chủng sẽ lần lượt là nhân cộng hữu. Vì có đối nên sắc tạo không phải thay nhau làm quả, nên không phải là nhân cộng hữu. Hỏi: Chuyển biến theo nghĩa là gì? Đáp: Nếu có tâm, thì có pháp kia, nghĩa là tâm phẩm hạ thì là hạ, trung thì là trung, thượng thì là thượng, so sánh như vậy, pháp đó có mười tùy chuyển, đó là một khởi, một trụ, một diệt, một quả, một y và một báo. Thiện là thiện, bất thiện là bất thiện, vô ký là vô ký, đều rơi vào sự sinh của một đời. Đã nói mười thứ tùy chuyển, trong đó đạo hữu lậu dứt trừ kiết có tám thứ tùy chuyển, trừ bất thiện, vô ký. Đạo phương tiện của thế tục, đạo giải thoát, đạo thắng tiến và bảy thứ tùy chuyển của tâm hữu lậu thiện khác, trừ bất thiện, vô ký và quả giải thoát. Đạo vô lậu dứt trừ kiết, có bảy loại tùy chuyển, trừ bất thiện, vô ký và báo. Đạo phương tiện vô lậu, đạo giải thoát và đạo thắng tiến có sáu loại tùy chuyển, trừ bất thiện, vô ký, quả giải thoát và báo. Bảy thứ tùy chuyển của tâm bất thiện, trừ thiện, vô ký và quả giải thoát. Tâm vô ký có sáu thứ tùy chuyển, trừ thiện, bất thiện, quả giải thoát và báo. Có khi cộng hữu cũng là nhân cộng hữu, có khi cộng hữu không phải là nhân cộng hữu. Mắt kia đối với tám pháp cộng hữu cũng là nhân cộng hữu, đó là bốn tướng, bốn tùy tướng. Tướng đối với mắt cộng hữu, là nhân cộng hữu, tùy tướng đối với mắt cộng hữu, chẳng phải là nhân cộng hữu, sinh đối với tám pháp cộng hữu, là nhân cộng hữu, trừ tự tính của sinh. Mắt và tùy tướng tướng khác sinh, năm pháp này đối với sinh cộng hữu nhân cộng hữu. Tùy tướng khác là cộng hữu, không phải là nhân cộng hữu. Như thế tùy tướng của tướng khác cũng như vậy, cho đến xúc nhập cũng như thế. Ýù nhập năm mươi tám nhập tướng tùy tướng, tám pháp đối với những thứ khác là cộng hữu khác chẳng phải nhân cộng hữu. Có năm mươi bốn pháp đối với ý nhập cộng hữu là nhân cộng hữu, trừ bốn tùy tướng. Lại nói mười bốn pháp đối với ý nhập cộng hữu là nhân cộng hữu, đó là bốn tướng tâm của mười đại địa, tám mươi bốn pháp cộng hữu khác chẳng phải nhân cộng hữu. Đại địa cũng nói như vậy. Năm mươi tư pháp đối với tâm cộng hữu là nhân cộng hữu, trừ tùy tướng của tâm. Thuyết này là đúng, nếu khác với thuyết này thì trái với phần chúng sự trong A-tỳ-đàm, nên nói như thế, trừ các pháp thân kiến, v.v… sinh, trụ, dị, diệt các khổ đế của sự cấu uế khác. Như vậy tất cả pháp đều phải biết. Đã nói nhân cộng hữu, nay sẽ nói về nhân tự phần. Sinh trước và sinh sau Cũng nói đó chưa sinh Tự địa tương tợ nhân Hoặc nói nơi địa khác. Sinh trước và sinh sau, nghĩa là sinh trước trong quá khứ, đối với sinh sau của quá khứ là nhân tự phần hiện tại. Hỏi: Vì đã sinh, nhân đã sinh, lại còn nhân chưa sinh chăng? Đáp: Cũng nói chưa sinh chưa sinh kia, là vị lai, nhân tiền sinh, hậu sinh như vậy, nên biết quá khứ hiện tại là nhân tự phần của vị lai. Vị lai đối với vị lai không có nhân tự phần, vì không có trước sau. Hỏi: tất cả tiền sinh đối với hậu sinh là chưa sinh nhân tự phần phải không? Đáp: Cõi Dục của tự địa là nhân của cõi Dục, không phải tha địa, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng, là nhân của Phi tưởng Phi phi tưởng địa, chứ không phải tha địa. Vì sao? Vì nhân quả dứt trừ địa. Hỏi: Tất cả tự địa có làm nhân cho tất cả tự địa không? Đáp: Nhân tự phần tương tự, tự địa là nhân tự phần tương tự, chẳng phải không tương tự, như thiện làm nhân cho thiện, cấu uế làm nhân cho cấu uế, vô ký làm nhân cho vô ký. Do tương tợ nối tiếp với pháp tương tự, đó là tập thiện, sinh thiện, tập bất thiện sinh bất thiện, tập công xảo sinh công xảo, tập oai nghi sinh oai nghi, đó là nói nội phần, ngoại phần, tùy chủng sinh cũng như vậy. Hỏi: Hoàn toàn là nhân tự phần của tự địa, có vì tha địa chăng? Đáp: Hoặc nói về tha địa, tha địa phải phân biệt, nếu pháp vô lậu tất cả chín địa xoay vần làm nhân vì lìa ái, vì không rơi vào giới, thì địa dưới sẽ làm nhân cho địa vượt hơn, chứ không phải địa vượt hơn làm nhân cho địa dưới. Hữu lậu nghĩa là vì bị ái ràng buộc, vì rơi vào giới nên chỉ có tự địa. Đã nói các thứ nhân tự phần, nay sẽ nói về pháp thiện không phải nhân của tất cả pháp thiện. Cấu uế có chín thứ Xoay vần làm nhân nhau Do thọ sinh mà được Phương tiện sinh chẳng dưới. Cấu uế có chín thứ, chín thứ cấu uế này là từ phẩm hạ hạ cho đến thượng thượng, sẽ xoay vần làm nhân cho nhau, vì lẽ sự lần lượt tiếp nối nhau hiện tiền và vì mỗi địa kia thọ sinh, vì tất cả đều được ngay lập tức. Hỏi: Chín thứ cấu uế đều xoay vần làm nhân cho nhau, còn thứ khác thì sao? Đáp: nghĩa là do thọ sinh mà được. Nếu vì thọ sinh mà được điều thiện thì điều thiện đó cũng sẽ có chín thứ xoay vần làm nhân cho nhau. Hỏi: Còn về phương tiện sinh thì sao? Đáp: Phương tiện sinh không phải của địa dưới. Nếu phương tiện sinh nghĩa là do văn, tư, và tu mà sinh thì các địa kia đều ngang bằng nhau, và nhân tăng thêm không phải của địa dưới, nghĩa là nhân hạ hạ cho đến nhân thượng thượng. Thượng thượng chỉ có nhân thượng thượng, cho đến không phải là nhân hạ hạ. Lại nữa, văn là nhân của văn, nhân của tư, lại nữa tư là nhân của tư và nhân của tu, chẳng phải làm nhân cho văn, vì văn ở địa dưới. Tu chỉ làm nhân cho tu, chẳng phải làm nhân cho địa dưới. Lại nữa, có bốn loại tu tuệ: Noãn, Đảnh, Nhẫn, Pháp thế đệ nhất. Pháp Noãn kia có bốn thứ nhân, Đảnh có ba, Nhẫn có hai, Thế gian đệ nhất pháp chỉ làm nhân cho thế gian đệ nhất pháp, chứ không phải pháp khác. Đây là nói pháp hữu lậu thiện. Vô ký không ẩn mất có bốn thứ: Sinh báo, oai nghi, công xảo và tâm biến hóa. Sinh báo đó có bốn loại nhân, oai nghi có ba, công xảo có hai, tâm biến hóa chỉ làm nhân cho biến hóa, đây là nói hữu lậu. Pháp vô lậu, nghĩa là khổ pháp nhẫn làm nhân cho khổ pháp nhẫn cho đến làm nhân cho trí vô sinh, trí vô sinh chỉ có nhân của trí vô sinh, chứ không phải nhân khác. Đã nói nhân của tự phần, nghĩa là nhân tự phần này thọ nhận quả và quả, nay sẽ nói. Nhân tự phần như thiện v.v… Nhận quả mà không cho Hoặc cho mà không nhận Hoặc nói chung chẳng chung. Có khi nhân của tự phần thiện thọ nhận quả mà không cho, nên chia làm bốn trường hợp: Tiếp nhận mà không cho, nghĩa là lúc cắt đứt căn thiện, sau cùng được xả. Hoặc cho mà không nhận, nghĩa là lúc căn thiện nối tiếp nhau phát sinh đầu tiên đạt được. Hoặc cùng có, nghĩa là không đoạn căn thiện, trụ tự tính khác. Cùng không, nghĩa là trừ ngần ấy việc trên. Lại nữa, thọ nhận cấu uế mà không cho, nghĩa là lúc sẽ được quả A-la-hán, cấu uế đắc sau cùng xả. Cho mà không thọ nhận, nghĩa là lúc lui sụt quả A-la-hán, lần đầu tiên đắc. Đều cùng có đắc, nghĩa là chưa lìa dục, ngoài ra trụ tự tính khác. Cùng không phải: nghĩa là trừ các trường hợp trên. Đã nói pháp không duyên, có duyên, có thọ nhận mà không cho, nghĩa là theo thứ lớp, dùng tâm thiện, tâm cấu uế và tâm vô ký hiện tiền. Cho mà không thọ nhận nghĩa là tâm cấu uế và vô ký theo thứ lớp cùng tâm thiện hiện tiền. Cùng có tâm thiện thứ lớp cùng tâm thiện hiện tiền. Cùng không: nghĩa là trừ những nghiệp trên, tâm cấu uế và vô ký cũng nói như vậy. Đã nói nhân tự phần, nay sẽ nói: Về nhân nhất thiết biến Khổ, tập ở tự địa Nghi, kiến và vô minh Nói nhân nhất thiết biến Các phiền não khởi trước. Khổ tập ở tự địa, nghi, kiến và vô minh, nói nhân nhất thiết biến: nghĩa là vì nuôi lớn cảnh giới, vì hoàn toàn quyết định, vì hai thứ sử, vì thuộc về tất phiền não khổ, tập đế. Kiến khổ, tập mà dứt trừ, hạt giống phiền não, kiến, nghi, tức là phiền não đó do kiến khổ tập dứt trư, ø tương ưng với vô minh và vô minh bất cộng tương ưng với chính nó. Các sử này vì không siêng năng vận dụng phương tiện cũng sẽ bừng cháy và vì phiền não biến khắp nên nói là nhân nhất thiết biến, vì dứt phân biệt nhận biết, vì phân biệt giới là tự địa, không phải là tha địa. Hỏi: Cái gì là nhân biến, phần nào là nhân biến? Đáp: Các phiền não trước đã khởi, làm nhân nhất thiết biến cho quá khứ, hiện tại, vị lai, làm nhân nhất thiết biến ở hiện tại, vị lai. Hơn nữa các tâm phiền não nối tiếp nhau mà sinh. Như ngã kiến, xét về sự chấp trước này là do sức của kiến sinh khởi, so lường chấp trước này, bài báng về tướng thọ chân đế đệ nhất và thanh tịnh. Đối với đế, sinh ra các lầm lỗi sai khác như do dự, tham, sân, si, mạn v.v… phải biết tất cả nhất thiết biến như vậy, phẩm Nhất Thiết Biến Sử sẽ nói. Đã nói nhân nhất thiết biến, nay sẽ nói: Về nhân tương ưng. Là pháp đồng một hạnh Một nương, cũng một thời Và chuyển một cảnh giới Là nói nhân tương ưng. Tâm chuyển hoặc hành, hoặc dựa nương, hoặc thời gian, hoặc cảnh giới, tức hành ấy, chỗ dựa ấy, thời gian ấy, cảnh giới ấy, thọ… tâm pháp chuyển. Nếu tâm pháp đó chuyển biến thì chính vì tâm đó chuyển tính yếu kém, do sức lần lượt nẩy sinh, như bó lau. Cho nên nói tâm là nhân tương ưng của tâm pháp. Tâm pháp làm nhân cho tâm pháp và tâm là nhân của tâm, chứ không phải tâm làm nhân cho tâm. Vì sao? Vì ba việc, không có một sát-na nào có hai tâm cùng sinh, tâm trước không đợi tâm sau. Tự tính của tất cả các pháp không tự đối nhau. Sắc, tâm bất tương ưng hành không có nhân tương ưng, vì không duyên. Đã nói nhân tương ưng, nay sẽ nói: Về nhân báo. Bất thiện, hữu lậu thiện Là thuộc về ba đời Vì pháp đó có báo Nên gọi là nhân báo. Nếu pháp hữu lậu thiện và bất thiện đều rơi vào hành của ba đời thì quả báo nối tiếp nhau từ đời này sang đời khác trong sinh tử, sinh ra quả báo, như quả thiện đáng yêu, quả bất thiện không đáng yêu. Có khi quả báo nghiệp một nhập sinh ra, gọi là mạng căn, nếu được ý nhập thì hai nhập, nghĩa là ý nhập và pháp nhập. Xúc nhập cũng như vậy, nếu được thân nhập thì thành ba nhập, nghĩa là thân nhập, xúc nhập và pháp nhập. Sắc, hương vị nhập cũng như thế. Nếu được nhãn nhập thì thành bốn nhập, đó là nhãn nhập, thân nhập, xúc nhập, pháp nhập. Nhó, tỷ, thiệt nhập cũng như vậy. Có khi nghiệp báo hoặc năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một nhập, vì các thứ nghiệp nên biết quả báo cũng có nhiều thứ. Như hạt giống bên ngoài, các thứ quả cũng có nhiều thứ, như cây lúa, mía, trái nho v.v… Không phải các thứ nghĩa là như lúa miến, lúa mạch, v.v… nên biết duyên khởi bên trong cũng như vậy. Có khi nghiệp của một đời, báo của ba đời, không có nghiệp của ba đời, báo của một đời. Vì quả không giảm nhân. Như thế nghiệp của một sát-na, là quả của nhiều sát-na, chứ không phải nghiệp của nhiều sát-na mà là quả của một sát-na. Nhân báo của một ấm cõi Dục, được một quả, nghĩa là “đắc”. Nhân báo của hai ấm được một quả, nghĩa là nghiệp thân, nghiệp miệng. Nhân báo của bốn ấm được một quả, đó là tâm, tâm pháp thiện, bất thiện. Nhân báo của một ấm cõi Sắc được một quả, đó là “đắc” và chính thọ vô tưởng. Nhân báo của hai ấm sẽ được một quả, nghĩa là sắc của Sơ thiền. Nhân báo của bốn ấm sẽ được một quả, đó là tâm, tâm pháp thiện không có nghiệp tùy chuyển. Nhân báo của năm ấm sẽ được một quả, nghĩa là tâm, tâm pháp thiện có nghiệp tùy chuyển. Nhân báo một ấm của cõi Vô Sắc sẽ được một quả, đó là “Đắc” và chính thọ Diệt tận. Nhân báo bốn ấm sẽ được một quả, đó là một hạt giống nghiệp, một chủng loại thân của tâm, tâm pháp thiện, không phải nhiều, đó là nghiệp hiện báo v.v… vì mỗi nghiệp đều khác nhau, trái với kinh A-na- luật-đà thì không đúng. Vì kinh ấy ở đầu có nói như vầy: Vì báo của một lần thí cho nên sinh vào nhà thuộc dòng dõi lớn. Vừa mới chào đời là đã biết được đời sống từ kiếp trước. Tự nhận thấy quả của bố thí rồi, lại tăng thêm nghiệp tịnh, thành ra quả báo rộng thêm, cho đến lậu tận, nói là căn bản của báo đó giống như của một hạt giống. Lại còn nói là người kia lúc một lần bố thí có rất nhiều hành, phát nguyện trong một duyên, hoặc nguyện sẽ được sinh lên cõi trời, hoặc nguyện được sinh trong loài người. Đã nói tự tính của nhân là như thế, nay sẽ nói nhân thọ quả và cho quả. Trong năm thế thọ quả Cũng nói hai cho quả Đã hết cho quả một Hai nhân sẽ phân biệt. Trong năm thế thọ quả, nghĩa là hiện tại gọi là năm nhân trung thế (đời giữa), đó là ở đời hiện tại thọ quả hiện tại. Cũng nói hai cho quả: nếu là nhân tương ưng, nhân cộng hữu, thì sẽ cho quả ở đời hiện tại. Nhận quả vào lúc này tức là lúc này sẽ cho quả, nên nói là hai cho quả. Đã hết cho quả một, đã hết gọi là nhân báo quá khứ, sẽ cho quả ở đời quá khứ. Hai nhân cho quả nên phân biệt, nghĩa là nhân tự phần và nhân biến, hoặc ở đời hiện tại cho quả, hoặc là nhân sở tác của đời quá khứ, không nói vì rối loạn. Đã nói nhân thọ quả, cho quả, nay sẽ nói về kiến lập đời. Làm nhân tất cả pháp Hai nhân nói hai đời Còn ba, nói ba đời Tăng y báo, công quả. Làm nhân tất cả pháp, hai nhân nói hai đời, còn ba nói ba đời: nghĩa là tất cả pháp hữu vi, vô vi đều được nói là làm nhân. Nhân tự phần, nhân nhất thiết biến gọi là quá khứ, hiện tại, ba nhân còn lại nói là ba đời. Đã phân biệt các nhân ba đời. Nếu là nhân của quả có quả thì nay sẽ nói công quả tăng, y, báo làm nhân của quả tăng thượng, nhân tự phần, nhân biến có quả y. Nhân báo có quả báo, nhân tương ưng và nhân cộng hữu đều có quả công dụng. Đã phân biệt các nhân, nay sẽ nói các pháp từ nhân sinh. Báo sinh tâm, tâm pháp Cùng với các phiền não Đều từ năm nhân sinh nghĩa ấy cần phải biết. Báo sinh tâm, tâm pháp cùng với các phiền não đều từ năm nhân sinh: nghĩa là báo kia sinh ra tâm, tâm pháp, và tâm, tâm pháp phiền não đều sinh ra từ năm nhân. Báo sinh ra năm nhân của tâm, tâm pháp là: Nhân sở tác, nhân cộng hữu, nhân tự phần, nhân tương ưng và nhân báo. Nhân sở tác, nghĩa là pháp kia lúc sinh, pháp trú tương tợ, không tương tự đều không chướng ngại. Nhân cộng hữu, nghĩa là do sức lần lượt sinh, lần lượt làm bạn, và tâm bất tương ưng hành làm trợ bạn sinh ra. Nhân tự phần, nghĩa là tương ưng với pháp tự phần sinh ra trước kia. Nhân tương ưng, nghĩa là nhân kia đều chuyển biến trong một duyên Nhân báo, nghĩa là pháp thiện, bất thiện kia là quả của nhân báo đó, trừ nhân biến, vì báo vô ký. Tâm, tâm pháp của phiền não trừ nhân báo vì nhiễm ô, sinh ra từ nhân biến, bốn nhân khác như trước đã nói. Nếu bất tương ưng kia Các pháp tương ưng khác Trừ vô lậu đầu tiên Là từ bốn nhân sinh. Sắc báo và tâm bất tương ưng hành sinh ra từ bốn nhân, trừ nhân biến vì là vô ký, trừ nhân tương ưng vì không có duyên. Sắc nhiễm ô và tâm bất tương ưng hành, từ bốn nhân sinh ra, trừ nhân tương ưng vì không có duyên, trừ nhân báo vì nhiễm ô. Các pháp tương ưng khác, trừ vô lậu ban đầu, nghĩa là tâm, tâm pháp, thiện hữu lậu, tâm tâm pháp oai nghi, công xảo biến hóa, trừ khổ pháp nhẫn tương ưng. Các tâm, tâm pháp vô lậu khác từ bốn nhân sinh, trừ nhân biến và nhân báo. Gọi bất tương ưng khác Tự phần nên biết ba Và các tương ưng khác Mới sinh pháp vô lậu. Nói là báo sinh nhiễm ô nếu có nhân tự phần, trừ vô lậu ban đầu, từ ba nhân sinh ra: Nhân sở tác, nhân cộng hữu, nhân tự phần, không phải nhân tương ưng, vì không có duyên, hai nhân trước đã trừ và các pháp tương ưng khác, đầu tiên sinh ra pháp vô lậu, nghĩa là như pháp tương ưng với khổ pháp nhẫn, cũng có ba nhân sinh: nhân sở tác, nhân cộng hữu, và nhân tương ưng, vì không có vô lậu sinh trước nên không có nhân tự phần, cũng không có nhân biến, nhân báo. Trong đó, bất tương ưng Là từ hai nhân sinh, Nếu từ một nhân sinh Nên biết là không có. Trong đó bất tương ưng, là từ hai nhân sinh, nghĩa là sắc, tâm bất tương ưng hành trong phẩm vô lậu ở đầu đều từ hai nhân sinh, là nhân sở tác và nhân cộng hữu. Đã nói tất cả pháp hữu vi, trong đó nói rộng các pháp từ một nhân sinh, tất nhiên là không có. Vì sao? Vì tự tính của pháp hữu vi đó rất yếu kém, cho đến một cực vi sinh ra, cũng trừ chính mình. Các nhân sở tác của tất cả các pháp khác và sinh, trụ, dị, diệt của cộng sinh cũng có nhân cộng hữu. Đó là nói chung về nghĩa bốn loại lược nêu về pháp báo sinh ra pháp nhiễm ô, trừ báo và pháp vô lậu ban đầu. Các pháp không nhiễm ô khác, vô lậu ban đầu ấy, báo sinh tương ưng ấy, bất tương ưng, cho đến pháp vô lậu ban đầu. Báo sinh tương ưng ấy từ năm nhân sinh, trừ nhân biến, báo sinh tương ưng từ bốn nhân sinh, trừ nhân biến, nhân tương ưng. Như tương ưng, bất tương ưng khác nhau là chỉ có trừ nhân báo, từ nhân nhất thiết biến sinh ra, trừ báo và pháp vô lậu ban đầu. Các pháp tương ưng không nhiễm ô khác từ bốn nhân sinh, trừ nhân biến, nhân báo. Pháp bất tương ưng có ba nhân sinh, trừ nhân biến, nhân tương ưng, nhân báo. Pháp tương ưng với vô lậu ban đầu có ba nhân sinh là nhân tương ưng, nhân cộng hữu và nhân sở tác. Pháp bất tương ưng có hai nhân sinh là nhân sở tác và nhân cộng hữu. Đã nói các nhân, như nhân này Đức Thế Tôn vì năng lực giáo hóa và năng lực giác ngộ tướng chân thật của các pháp nên nói là duyên, nay sẽ nói: Thứ đệ cũng duyên duyên Tăng thượng cùng với nhân Pháp từ bốn duyên sinh Lời Thế Tôn đã nói. tính của tất cả pháp là do lực duyên, lực cảnh giới nhiếp thọ sinh ra, vì tính yếu kém nên tất cả sự duyên đều thuộc về bốn duyên. Bốn duyên đó là phương tiện mở bày, dẫn dắt, là duyên thứ đệ, nhận giữ phương tiện, là duyên duyên. Phần không chướng ngại là duyên tăng thượng, phương tiện của pháp hạt giống là duyên nhân. Trừ La-hán tâm sau Các tâm, tâm pháp khác Thường có hành đã sinh Là nói duyên thứ đệ. Trừ tương ưng tâm sau cùng của A-la-hán, các tâm, tâm pháp của quá khứ, hiện tại khác, mỗi thứ đều nối tiếp nhau sinh ra. Vì các tâm đó mỗi mỗi đều nối tiếp nhau sinh không gián đoạn, nên gọi là duyên thứ đệ. Tâm tương ưng sau cùng của A-la-hán kia không phải duyên thứ đệ, vì không có tâm nào khác nối tiếp nhau, do tâm, tâm pháp ở vị lai chưa khởi, không có tâm nào khác tiếp nối nhau, cũng không có duyên thứ đệ, cũng không phải lập phương tiện theo thứ lớp trước sau ở vị lai. Nếu phương tiện lập lần lượt trước sau ở vị là làm hư hoại nghĩa chính tu phương tiện. chính tu phương tiện, tà tu phương tiện, nên tùy theo từng phần thứ lớp nẩy sinh. Hoặc nói theo thứ lớp của nhất tâm mà kiến lập hai tâm thiện và nhiễm ô. Hoặc lúc chính tư duy, tâm thiện sinh ra tâm nhiễm ô chẳng phải thường diệt. Hoặc lúc tư duy tà phương tiện, tâm nhiễm sinh ra tâm thiện chẳng phải thường diệt, như hạt giống vừa là mầm, vừa là cháo nhừ. Nếu mầm hội đủ yếu tố hòa hợp thì sinh ra, còn cháo nhừ thì không nẩy mầm. Nếu cháo nhừ có đủ điều kiện hòa hợp thì cháo nhừ sinh ra, còn mầm mộng thì không sinh. Điều này không đúng. Vì sao? Vì trước đây đã nói là trước sau chẳng có phần, vì tâm sau cùng của A-la-hán là ý giới, nên là duyên thứ đệ, là không đúng, vì khác với duyên phần. Nếu nói tâm sau cùng của A-la-hán không phải là ý thức dựa, cũng gọi là ý giới, vì được tướng nương tựa. Tâm sau cùng của A-la-hán như vậy thường nối tiếp không dứt, cũng gọi là duyên thứ đệ, điều này cũng không hợp lý, vì sao? Vì duyên phần khác lạ, vì tướng nên lập giới. Như không có bộ phận mắt, sẽ không thấy sắc, vì nhãn thức không có cũng gọi là nhãn giới, vì cũng được tướng nương tựa. Tâm sau cùng của A-la-hán như trước đã nói. Duyên là vì nghiệp nên kiến lập tâm sau cùng của A-la-hán làm duyên thứ đệ nơi nghiệp nối tiếp nhau không dứt sinh ra, chẳng phải phần của tâm pháp, cũng nói như vậy. Thường nghĩa là không phải như nhân tự phần, nhân biến. Hỏi: Vì sao sắc và tâm bất tương ưng hành không phải là duyên thứ đệ? Đáp: Vì rối loạn. Không rối loạn, nghĩa là nói sắc, tâm bất tương hành của duyên thứ đệ vì rối loạn nên không phải duyên thứ đệ, vì cùng lúc thiện, bất thiện, vô ký, lậu, vô lậu hiện hành hiện tiền ở giới khác. Ba thứ tư duy của cõi Dục: văn tuệ, tư tuệ, sinh tuệ, không phải tu tuệ, vì bất định. Văn tuệ, tư tuệ của cõi Dục, theo thứ lớp Thánh đạo hiện tiền, ba thứ tư duy Thánh đạo thứ lớp hiện ở trước. Ba thứ tư duy của cõi Sắc: văn tuệ, tu tuệ và sinh tuệ, không phải tư tuệ, vì cõi Sắc là cõi định. Thánh đạo thứ lớp hiện ở trước văn tuệ, tu tuệ ấy, văn tuệ, tu tuệ kia hiện trước Thánh đạo thứ lớp. Cõi Vô Sắc có hai thứ tư duy là tu tuệ và sinh tuệ, Thánh đạo thứ lớp hiện ở trước tu tuệ đó. Theo thứ lớp của Thánh đạo tu tuệ hiện tiền (về nghĩa này sẽ nói rộng trong phẩm Trạch) Hoặc thứ lớp pháp, tâm Chẳng phải tâm vô gián Vô gián chẳng thứ lớp Chung, chẳng chung nên biết. Hoặc thứ lớp tâm, pháp, chẳng phải tâm vô gián, nghĩa là bỏ sát- na của chính thọ đầu, các chính thọ khác nối tiếp nhau trong sát-na và khởi tâm định không gián đoạn, không phải theo thứ lớp. Sát-na chính thọ đầu, sinh, trụ, dị vô thường kia và các tâm nối tiếp nhau. Sinh, trụ, dị, vô thường kia đều chung kia, nghĩa là sát-na chính thọ đầu trừ khởi tâm định, các tâm nối tiếp nhau khác, không chung nghĩa là trừ sát-na chính thọ đầu, sinh, trụ, dị, vô thường kia, các sát-na chính thọ nối tiếp nhau khác, sinh, trụ, dị, vô thường kia. Nếu theo thứ lớp của pháp, tâm, chính thọ kia sẽ không gián đoạn, nên chia làm bốn trường hợp: 1.Hoặc theo thứ lớp pháp, tâm, không phải chính thọ vô gián, nghĩa là sát-na chính thọ đầu trừ khởi lên tâm định, các tâm nối tiếp nhau khác, chính thọ vô gián không phải thứ lớp của tâm, nghĩa là trừ sát-na chính thọ đầu, sinh, trụ, dị, vô thường kia, các chính thọ nối tiếp nhau khác. Sinh, trụ, dị, vô thường kia đều đi chung, nghĩa là trừ sát-na chính thọ đầu, các chính thọ nối tiếp nhau khác và khởi tâm định. Không đi chung nghĩa là sát-na chính thọ ban đầu, sinh, trụ, dị, vô thường kia, trừ khởi tâm định, sinh, trụ, dị, vô thường, các tâm nối tiếp nhau. Sinh, trụ, dị, vô thường kia, chính thọ Diệt tận, vì tâm dẫn dắt tâm tạo tác, vì tâm thứ lớp, tâm trái nhau, không phải duyên thứ đệ của tâm, khởi tâm định ở trước, tuy có định nối tiếp nhau không dứt, nhưng vì chẳng phải tâm, lại dùng tâm làm duyên thứ đệ. Đã nói duyên thứ đệ, nay sẽ nói duyên duyên: Cảnh giới, đối tất cả Tâm và các tâm pháp Thế nên, tất cả pháp Được gọi là duyên duyên. Tất cả pháp là đối tượng mà tâm, tâm pháp duyên lấy, tùy thuộc vào việc của đối tượng đó. nghĩa là nhãn thức và pháp tương ưng cùng lấy sắc làm duyên, cho đến ý thức và pháp tương ưng, dùng tất cả pháp làm duyên. Đối với một sắc, nhãn thức sinh một quyết định nhận biết đều thấy các sắc, điều này không đúng vì nó nhanh chóng, nên không phải nói đều thấy. Đều thấy nghĩa là tăng thượng mạn, như vòng tròn lửa không phải bánh xe mà tưởng tượng là bánh xe lửa, đó là tăng thượng mạn. Nếu không thấy rõ ràng, hoặc rõ ràng sự khác nhau của sắc thì có thể tiếp nhận chung. Như ngắm xem khu rừng rậm, âm thanh, mùi hương, chất vị, sự xúc chạm cũng nên hiểu biết như vậy. Đã nói duyên duyên, nay sẽ nói về duyên tăng thượng: Nếu nhân sở tác kia Đây là duyên tăng thượng Đó gọi là nhân duyên Phải biết nói nhân khác. Trước đây nói nhân sở tác, nên biết tức là duyên tăng thượng, trừ tự tính, vì tất cả tính không chướng ngại. Lúc pháp sinh, tự làm việc của mình, vì vượt hơn nên gọi là duyên tăng thượng. Đã nói duyên tăng thượng, nay sẽ nói duyên nhân. Cái gọi là duyên nhân, nên biết nói nhân khác, trừ nhân sở tác, nhân khác là nói duyên nhân. Đã nói duyên, nay sẽ nói: Về các pháp tùy theo duyên sinh khởi Tâm và các tâm pháp Là từ bốn duyên sinh Hai chính thọ từ ba Là thuyết khác có hai. Tâm và các tâm pháp là từ bốn duyên sinh, nghĩa là tâm, tâm pháp từ bốn duyên sinh, vì mở dẫn ở trước nên sinh, là cảnh giới của duyên thứ đệ, là duyên duyên, trừ tất cả pháp khác của chính nó, là duyên tăng thượng, còn nhân khác thì tùy thuộc vào điều nó thích hợp, nên nói là duyên nhân. Hai chính thọ từ ba: chính thọ vô tưởng, chính thọ Diệt tận đều từ ba duyên sinh. Tâm, tâm pháp trước của hai chính thọ là duyên thứ đệ kia. Pháp thiện sinh trước tự địa và cùng khởi chung bốn tướng ấy là duyên nhân, duyên tăng thượng kia, như trước đã nói. Thuyết khác có hai, trừ định Vô tưởng, định Diệt tận, tâm bất tương ưng hành khác và sắc. Các pháp này có hai duyên sinh, đó là duyên nhân, duyên tăng thượng. Đã nói các pháp từ duyên sinh, nay sẽ nói giới hạn của pháp hữu vi: Giới hạn có ba thứ Danh sắc và thời gian Phần đầu nói một chữ Cực vi sát-na khác. Giới hạn có ba thứ, danh sắc và thời gian, nghĩa là tất cả pháp hữu vi được lập ra ba thứ giới hạn, tùy thuộc vào giới hạn của hữu vi đó, gọi là giới hạn sắc và thời gian. Hỏi: Việc ấy thế nào? Đáp: Phần đầu nói một chữ, cực vi sát-na khác. Với một ít danh, nghĩa là một chữ, gọi cực vi là rất ít, rất ít hơn một chữ nên nói là một chữ, gọi là giới hạn. Một ít sắc, nghĩa là một vật thể cực vi. Nếu trí hành chân thật phân tích tướng của sắc thì sắc đó rất nhỏ hơn một vi, nên nói một vi là sự phân chia giới hạn của sắc. Một ít thời gian, nghĩa là một sát-na, một khoảng thời gian cực ngắn, khoảng trong một ý niệm nên nói sát-na là mức giới hạn thời gian. Sự lường xét về sát-na, có thuyết nói như tráng só đã nhanh chóng trở về trái đất, sau khi trải qua một chuyến quan sát các vì tinh tú. Tráng só đó đã đi qua mỗi vì sao trong một sát-na, và tất cả vì sao đều như vậy. Lại nói như tráng só búng ngón tay trong khoảnh khắc đã trải qua sáu mươi bốn sát-na. Lại nói như tráng só dùng dao bén cắt đứt sợi tơ nhỏ Ca-thi, cắt đứt một sợi tơ trong một sát-na, tất cả sợi tơ đều như vậy. Lại nói Đức Thế Tôn không nói sát-na, như Ngài đã nói Tỳ-kheo nên biết, bốn chàng thiện xạ cầm cung đều bắn, như kia là nói rộng. Đã nói cực vi là như vậy, nay sẽ nói sắc tăng trưởng: Bảy vi thành a-nậu Bảy nậu thành đồng trần Thủy, thố, dương, mao, trần Nên biết từ bảy khởi. Bảy cực vi thành a-nậu, a-nậu đó là sắc rất nhỏ, thiên nhãn có thể thấy và Bồ-tát, vua Chuyển Luân thấy. Bảy a-nậu là lớp đồng thượng trần, bảy đồng thượng trần là một thủy thượng trần, bảy thủy thượng trần là một thố hào thượng trần, bảy thố hào trần là một dương mao thượng trần, bảy dương mao thượng trần là một dương mao thượng trần. Ngưu mao, hộ hướng trần Chấy, rận, mì và gạo Nhỏ, lớn là chuyển tăng Đều khởi từ số bảy. Bảy dương mao trần thành một ngưu mao trần, bảy ngưu mao trần thành nhất hướng du trần, bảy hướng du trần hợp thành một con chấy, bảy con chấy hợp thành một con rận, bảy con rận hợp thànhhạt lúa mì. Bảy lúa, mì như vậy Chuyển tăng thành một lóng (tay) Bề dài hai mươi bốn Gọi là một khuỷu tay. Bảy hạt lúa mì hợp thành một lóng tay, hai mươi bốn lóng tay thành một khuỷu tay. Bốn khuỷu là một cung Năm trăm câu-lũ-xá Cách thôn câu-lũ-xá Đó gọi là chỗ trống. Như vậy cần nên biết số đó tức là số đo ở thân bằng bốn khuỷu thành một cung. Cách thôn năm trăm cung gọïi là chỗ trống, là một câu- lũ-xá của Ma-kiệt-đề, phương Bắc gọi là nửa câu-lũ-xá. Hỏi: Đã biết sát-na cho đến câu-lũ-xá. Tám câu-lũ-xá là một-do- tuần, nên nói là số đo của thân. Vậy lấy gì để làm số đo của thân? Đáp: Số đo ấy tức là số đo của thân, trước đã nói số khuỷu tay và câu-lũ-xá, nên biết tức là số đo của thân. Khuỷu tay của nhân gian kia làm số đo của thân. Người ở cõi Diêm-phù-đề, về chiều dài đo được là ba khuỷu rưỡi tay, hoặc bốn khuỷu tay. Người Phất-bà-đề cao tám khuỷu tay, người Cù-đà-ni mười sáu khuỷu tay, người Uất-đơn-việt cao ba mươi hai khuỷu tay. Trước đây nói câu-lũ-xá là số đo của thân trời. thân của Tứ Thiên vương bằng một phần tư câu-lũ-xá. Tời Thân Tam thập tam cao nữa câu-lũ-xá. Thân Đế-thích bằng một câu-lũ-xá. Thân trời Dạ-ma bằng ba phần tư câu-lũ-xá. Thân của Đâu-suất-đà bằng một câu-lũ-xá, thân trời Tha hóa tự tại cao một câu-lũ-xá rưỡi. Đây là số đo của thân trời cõi Dục. Thân Phạm thiên cõi Sắc cao nửa do-diên. Thân trời Phạm phước lâu cao một do-diên. Thân của trời Đại Phạm cao một do-diên rưỡi. Thân trời Thiểu quang bằng hai do-diên. Thân trời Vô Lượng Quang cao bốn do-diên. Thân trời Quang âm bằng tám do-diên. Thân trời Thiểu Tịnh cao mười sáu do-diên. Thân trời Vô Lượng Tịnh cao ba mươi hai do-diên. Thân trời Biến Tịnh cao sáu bốn do-diên. Thân trời Phước ái cao một trăm hai mươi lăm do-diên. Thân trời Phước Sinh cao hai trăm năm mươi do-diên. Thân trời Quảng quả cao năm trăm do-diên. Thân trời Vô tưởng cũng vậy. Thân trời Vô Hy Vọng cao một ngàn do-diên. Thân trời Vô nhiệt cao hai ngàn do-diên. Thân trời Thiện kiến cao bốn ngàn do-diên. Thân trời Thiện Hiện cao tám ngàn do-diên, thân trời Sắc Cứu Cánh cao một vạn sáu ngàn do-diên. Trên đây là nói số đo chiều cao thân của các tầng trời cõi Sắc. Đây gọi là giới hạn của cõi Sắc. Hỏi: Như ở trước nói giới hạn của thời gian là một sát-na, nay sẽ nói về thời khác. Trăm hai mươi sát-na Gọi là Đát-sát-na Sáu mươi gọi La-bà Ba mươi Ma-hầu-la. Một trăm hai mươi sát-na gọi là một Đát-sát-na, sáu mươi Đát sát- na gọi là một La-bà, tức bảy ngàn hai trăm sát-na, ba mươi La-bà gọi là một Ma-hầu-la đa, tức hai mươi mốt vạn sáu ngàn sát-na. Ba mươi Ma-hầu-la Gọi là một ngày đêm Hoặc ngày đêm cõi Dục Vì kiếp số ở trên. Ba mươi Ma-hầu-la-đa là một ngày, một đêm, có sáu trăm bốn mươi tám vạn sát-na. Đã biết số sát-na trong ngày, đêm, nay sẽ nói về tuỗi thọ. Hoặc ngày, đêm cõi Dục, dùng kiếp số ở trên, nghĩa là tuổi thọ của chúng sinh ở cõi Dục, tức lấy số ngày đêm trên để làm số đo tuổi thọ của cõi Dục. Hoặc số kiếp sống lâu của con người ở cõi Diêm-phù- đề, hoặc vô lượng tuổi, hoặc mười tuổi. Người của cõi Phất-bà-đề sống lâu hai trăm năm mươi tuổi. Người Cù-đà-ni năm trăm tuổi. Người Uất- đơn-việt một ngàn tuổi. Năm mươi năm ở nhân gian bằng một ngày, một đêm trên cõi trời Tứ Thiên vương, tức là lấy ba mươi ngày này làm một tháng, mười hai tháng làm một năm. Số ngày tháng năm là như vậy. Tuổi thọ của trời Tứ Thiên vương là năm trăm năm, ở nhân gian là chín trăm vạn năm, là một ngày, một đêm ở địa ngục Đẳng Hoạt, chính là lấy ba mươi ngày này làm một tháng, mười hai tháng làm một năm. Số của ngày tháng năm là như vầy: Địa ngục Đẳng hoạt sống lâu năm trăm tuổi, bằng một trăm năm ở nhân gian, là một ngày, một đêm ở cõi trời Tam thập tam, với số ngày, tháng, năm là như vầy: Tuổi thọ của cõi trời Tam thập tam được một ngàn tuổi, là ba ức sáu trăm vạn năm ở nhân gian, là một ngày một đêm ở đại địa ngục Hắc thằng, với số ngày, tháng, năm được tính như vầy. Tuổi thọ của đại địa ngục Hắc thằng là một ngàn tuổi, hai trăm năm của nhân gian là một ngày, một đêm ở trên Diệm ma thiên, với số ngày, tháng, năm như vầy. Thọ mạng của trời Diệm ma là hai ngàn tuổi, bằng mười bốn ức bốn trăm vạn năm ở nhân gian, là một ngày đêm ở đại địa ngục Chúng Hợp, với số ngày tháng năm như vầy: Tuổi thọ của đại địa ngục Chúng Hợp là hai ngàn tuổi bằng bốn trăm năm ở nhân gian, là một ngày đêm ở cõi trời Đâu- suất-đà, với số ngày tháng năm như vầy: Trời Đâu-suất-đà sống lâu bốn ngàn tuổi, là năm mươi bảy ức sáu trăm vạn năm ở nhân gian, bằng một ngày một đêm ở địa ngục Hô, với số ngày tháng năm như vầy. Tuổi thọ của địa ngục Hô là bốn ngàn tuổi, tám trăm năm ở nhân gian, là một ngày một đêm ở cõi trời Hóa lạc với số ngày tháng năm như vậy. Tuổi thọ của cõi trời Hóa lạc là tám ngàn tuổi, hai trăm ba mươi ức bốn trăm vạn năm ở nhân gian, là một ngày một đêm ở địa ngục Đại Hô, với số ngày tháng năm như vậy. Tuổi thọ của địa ngục Đại Hô lên đến tám ngàn tuổi, ở nhân gian chỉ có một ngàn sáu trăm năm bằng một ngày đêm ở cõi trời Tha hóa tự tại, với số ngày tháng năm như vậy. Tuổi thọ của trời Tha hóa tự tại là một vạn sáu ngàn tuổi, tương đương với chín trăm hai mươi mốt ức sáu trăm vạn năm, là một ngày một đêm trong đại địa ngục Nhiệt, với số ngày tháng năm như thế. Đại địa ngục Nhiệt sống lâu một vạn sáu ngàn năm. Tuổi thọ của đại địa ngục Chúng nhiệt là nửa kiếp. Đại địa ngục Vô trạch sống lâu một kiếp. Tuổi thọ cao nhất của cõi súc sinh cũng là một kiếp, như Long vương Trì địa. Thọ mạng tối đa của ngạ quỷ là năm trăm năm. Hỏi: Đã nói tuổi thọ của cõi Dục, còn tuổi thọ của cõi trên thế nào? Đáp: Ở cõi trên lấy kiếp số. Như thân Phạm thiên ở cõi Sắc kia, sống lâu nửa kiếp, trời Phạm phước lâu sống lâu một kiếp, tuổi thọ của Đại Phạm thiên là một kiếp rưỡi, trời Thiểu quang hai kiếp, trời Vô lượng quang bốn kiếp, trời Quang âm tám kiếp, trời Thiểu tịnh sống lâu mười sáu kiếp, trời Vô lượng tịnh ba mươi hai kiếp, trời Biến tịnh sáu mươi bốn kiếp, trời Phước ái một trăm hai mươi lăm kiếp, trời Phước sinh hai trăm năm mươi kiếp, trời Quảng quả năm trăm kiếp, trời Vô tưởng cũng như vậy. Trời Vô hy vọng sống lâu một ngàn kiếp, trời Vô nhiệt hai ngàn kiếp, trời Thiện kiến bốn ngàn kiếp, trời Thiện Hiện tám ngàn kiếp, trời Sắc cứu cánh một vạn sáu ngàn kiếp. Không xứ của cõi Vô Sắc sống lâu hai vạn kiếp, Thức xứ bốn vạn kiếp, Vô sở hữu xứ sáu vạn kiếp và Phi tưởng Phi phi tưởng xứ sống lâu đến tám vạn kiếp. Tất cả ba cõi đều có số tuổi thọ trung bình và yểu, chỉ trừ Uất-đơn-việt và Bồ-tát thân sau cùng ở trời Đâu-suất và trời Vô tưởng. Hỏi: Vì sao các pháp này được gọi là hành? Đáp: Nhiều pháp sinh một pháp Một cũng hay sinh nhiều Duyên hành, hành tạo tác Là hành cần nên biết. Không có pháp nào do sức mình sinh ra, vì một pháp phải do sức của nhiều pháp mới được sinh và nhiều pháp cũng do sức của một pháp sinh ra. Tất cả pháp hữu vi đều như thế, cho nên nói là duyên hành, tạo ra hành. Hành này cần nên biết vì duyên hành đó, vì có tạo ra nên nói là duyên hành. Vì hành đã tạo ra, vì tạo nên hành đó nên nói là hành tạo ra.  <卷>QUYỂN 3 <詞>Phẩm 3: NGHIỆP Đã nói các hành lần lượt do năng lực của nhân duyên sinh ra. Các hành đó đã khởi lên các thứ sinh, sự khác nhau của mỗi thứ sinh, hơn hết chỉ có nghiệp. Nay sẽ nói về nghiệp đó. Nghiệp tô điểm thế gian Mỗi đường ở mỗi xứ Nên phải tư duy nghiệp Cầu giải thoát thế gian. Nghiệp tô điểm thế gian, mỗi đường ở mỗi xứ: nghĩa là tất cả mỗi chủng tính của năm đường như vậy sinh ra các thứ nghiệp được tô điểm, rồi lấy nghiệp làm hạt giống. Nghiệp đó có, như vì trồng hạt giống khác nhau, nên mầm không giống nhau. Do đó phải tư duy về nghiệp, cầu xa lìa thế gian được giải thoát. Vì đối với sự thọ sinh, nghiệp hơn tất cả nên người nào muốn quay lưng lại với sinh tử, phải khéo quán sát nghiệp. Hỏi: Nghiệp là gì? Đáp: Thân, miệng, ý nhóm nghiệp Ở chỗ trong các hữu Nghiệp đó là các hành Trang sức các thứ thân. Thân, miệng, ý nhóm, nghiệp ở chỗ trong các hữu: nghĩa là ba nghiệp thân, miệng, ý này sinh ra các thứ quả. Chúng sinh trú trong bổn hữu, có sinh hữu tu tập các nghiệp. Hỏi: Vì sao lập ba nghiệp? Vì tự tính, vì nương tựa hay vì đẳng khởi? Nếu vì tự tính thì phải một nghiệp, đó là ngữ nghiệp. Nếu vì nương tựa thì tất cả đều nương dựa vào thân, cũng có một nghiệp là thân nghiệp. Nếu vì đẳng khởi nghĩa là hết thảy đều từ ý khởi, thì lẽ ra cũng có một nghiệp, đó là ý nghiệp? Đáp: Nghiệp này cũng như vậy, vì ba việc. Tự tính của nghiệp kia là ngữ nghiệp, vì ngữ tức là nghiệp, sự nương dựa chính là thân nghiệp, vì nghiệp dựa vào thân, vì thân tạo ra, vì thân nhóm họp (kết hợp) vì thân vận động. Đẳng khởi, nghĩa là ý nghiệp. Dù thân, miệng, ý nghiệp đã khởi nhưng không cùng có tên chung như nhãn thức. Hỏi: Như đã nói thì nghiệp để làm gì? Đáp: Nghiệp kia là các hành và thọ các thứ thân. Đây là nói quả tăng thượng của tất cả chúng sinh, nghĩa là mọi công cụ bên ngoài gọi là hành, hoặc là hình tướng, thọ mạng v.v… của chúng sinh, đó là nghiệp quả kia (quả của nghiệp thân đó) Hỏi: Nếu các tướng trong, ngoài của thân kia thì tướng này tại sao là các tướng của bốn đại, hay các tướng của sắc tạo, hay là các tướng của nghiệp? Đáp: Cả ba loại đều có nhân sinh, nương nhân mà kiến lập nhân, nhân trưởng nhân dưỡng là các tướng của bốn đại, vì là nhân tự phần, là các thứ tướng của sắc tạo, vì là nhân báo. Các tướng của nghiệp này tuy làø phần ngoài không có nhân báo nhưng chúng sinh tạo ra hành động thiện, sẽ được sắc đẹp, xứ sở đẹp. Ngược lại nếu gây ra hành vi xấu ác thì chắc chắn chúng sẽ mắc phải sắc xấu xí, xứ sở xấu ác, do các thứ nghiệp nên phần trong, ngoài cũng có các thứ nghiệp. Về tướng của nghiệp này nay sẽ nói lược: Thân nghiệp phải biết hai nghĩa là tác, vô tác Khẩu nghiệp cũng như vậy Ý nghiệp nên biết tư. Thân nghiệp phải biết hai, đó là tác, vô tác: Thân nghiệp có hai thứ là tính tác và tính vô tác. Tác là hành động của thân, phương tiện của thân, sự tạo tác của thân. Vô tác là thân động đã diệt, cùng với các thức khác, tính vô tác kia tùy theo đó mà sinh. Như người lãnh thọ giới thiện, tâm nhiễm ô, vô ký sẽ hiện ở trước, rồi giới thiện sinh theo. Như kẻ thọ giới ác với tâm thiện, vô ký, khởi hiện ở trước, giới ác sẽ tùy theo đó mà sinh. Khẩu nghiệp cũng như vậy, nghĩa là khẩu nghiệp có hai thứ là tính tác và tính vô tác như trước đã nói. Ý nghiệp phải biết tư, nghĩa là ý nghiệp là tự tính của tư. Có dục làm cho ý nghiệp thành tính vô tác. Điều này không đúng vì ý chẳng phải tính tác, vì không phải sắc và vì ba loại nên vô tác cũng gọi là không ưa, cũng gọi là lìa, cũng gọi là xả, cũng gọi là bất tác. Vì không có tạo tác nên gọi là vô tác. Nói không phải nghiệp là không đúng. Vì sao? Vì có tạo tác, nếu thiện không làm điều bất thiện, hoặc bất thiện không làm việc thiện, cũng gọi là tác. Như xả giác chi không lấy tên xả, nên xả tu đạo. Vì chấm dứt việc khác nên gọi là xả. Ý nghiệp cũng như vậy. Lại nữa, vì nhân tác, vì quả tác, vì thấy nhân nên nói là quả. Như Đức Thế Tôn nói vì hình chất là sắc, vô tác cũng chẳng phải sắc. Vì do tác là sắc, vô tác kia cũng gọi là sắc, nghiệp đó cũng như vậy. Đã nói năm nghiệp như thế, nay sẽ nói: Về sự khác nhau của các thứ nghiệp, Tác nên biết có ba Thiện, bất thiện, vô ký Ý nghiệp cũng như thế, Còn, không nói vô ký. Tác nên biết có ba loại là thiện, bất thiện, vô ký, nghĩa là thân, miệng tạo ra ba loại thiện, bất thiện, vô ký. Thiện: Hành động thân, miệng với tâm tịnh, như bố thí, giữ giới v.v… v.v… Bất thiện: Hành động thân, miệng với tâm bất thiện như sát sinh, Vô ký: Hành động thân, miệng với tâm vô ký. Ý nghiệp cũng như vậy: Ýù nghiệp cũng có ba thứ: tương ưng với tâm thiện là thiện, tương ưng với tâm bất thiện là bất thiện, tương ưng với tâm vô ký là vô ký. Nghiệp khác không nói vô ký, nghĩa là hai nghiệp còn lại là thân và miệng vô tác, hai thứ thiện, bất thiện kia không có vô ký. Vì sao? Vì tâm vô ký rất yếu kém. Tâm mạnh mẽ, có thể khởi nghiệp thân, miệng. Tâm khác đều cùng với hành nối tiếp nhau sinh, như tay cầm đóa hoa thơm, dù đã vứt đóa hoa rồi nhưng mùi thơm vẫn còn vương trên tay, chứ không phải như cầm cây, đá, v.v… Hỏi: Đã biết năm nghiệp, tư không phải là tính của sắc, đã nói trong đại địa, nghiệp khác có tính gì? Đáp: tính sắc, nhiễm, không nhiễm Không nhiễm ô năm địa Ẩn mất thuộc cõi Sắc Bất thiện ở cõi Dục. Sắc, nghĩa là tất cả thân nghiệp, khẩu nghiệp là tính của sắc, vì là bốn đại, thân ấy tạo tác thể thấy, có đối đãi, khẩu tạo tác không thể thấy, có đối. Vô tác đều không thể thấy, không có đối. Hỏi: Nghiệp thân, nghiệp khẩu có bao nhiêu thứ? Đáp: Nhiễm ô, không nhiễm ô. Sắc kia có hai thứ nhiễm ô, không nhiễm ô. Nhiễm ô do phiền não khởi lên. Phiền não đó có hai thứ: vô ký ẩn mất và bất thiện. Vô ký ẩn mất: Vô báo, không hổ, không thẹn, không tương ưng với một quả phiền não đắm khởi. Bất thiện nghĩa là có báo, không hổ, không thẹn tương ưng với hai quả phiền não đẳng khởi. Không nhiễm ô cũng có hai thứ là thiện và vô ký không ẩn mất. Thiện được quả ái, thiện ấy cũng có hai thứ là hữu lậu và vô lậu (sau phẩm này sẽ nói rộng). Vô ký không ẩn mất, nghĩa là tâm vô ký không ẩn mất đẳng khởi, đó là oai nghi, công xảo, không phải báo sinh ra, tâm mạnh mẽ có thể khởi nghiệp báo của thân, miệng, quả báo sinh tâm yếu kém nên không khởi, cho nên nghiệp thân, miệng không phải là tính của báo. Nếu báo sinh tâm, có thể khởi lên nghiệp thân khẩu nghĩa là ng- hiệp thân, miệng kia cũng ứng với báo này, nhưng không phải như vậy, vì phương tiện hiện tại sinh ra. Nếu báo sinh ra tâm thì không nên gọi là oai nghi, công xảo, cho nên nghiệp thân miệng không phải là báo. Hỏi: Thuộc về địa thứ mấy? Đáp: Năm địa không nhiễm ô, cõi Dục và Tứ thiền, đây là nói chung. Nếu làm điều thiện thì chỉ có đến Sơ thiền, chứ không hướng lên địa trên. Hỏi: Vì sao thân miệng làm điều thiện, chỉ đến Sơ thiền, chứ không hướng lên địa trên? Đáp: Vì tâm thô khởi tạo nghiệp thân miệng, vì tâm đó nhỏ nhặt nên tâm hướng bên ngoài, khởi tạo nghiệp. Vì tâm kia hướng bên trong nên giác quán khởi sự tạo nghiệp, ở địa kia không có. Thiện vô tác nghĩa là năm địa cõi Dục và Tứ thiền có thiền vô tác luật nghi là luật nghi vô lậu. Thân vô ký không ẩn mất tạo ra cũng là năm địa như trước đã nói. Sự sai khác nghĩa là tâm đẳng khởi tạo ra oai nghi, công xảo của cõi Dục. Tâm đẳng khởi tạo ra oai nghi của cõi Sắc, ở cõi Sắc kia không có tâm công xảo. Hỏi: Đã nói địa trên không có tâm khởi tác, thì sao lại có sự tao tác? Đáp: Vì năng lực Sơ thiền kia tâm khởi tác hiện ở trước cho nên khởi. Nếu nói là thiện cũng như vậy thì không đúng, vì sinh lên địa trên, tâm thiện địa dưới không hiện ở trước, vì tâm thiện đó yếu kém. Sự ẩn mất lệ thuộc ở cõi Sắc, nghĩa là nếu nghiệp thân miệng vô ký ẩn mất ở Sơ thiền cõi Sắc, không lên địa trên, vì không khởi lên tâm tạo ra, không sinh ở địa trên, mà tâm nhiễm ở địa dưới hiện tiền, do đã lìa dục, cũng không phải tu đạo cõi Dục dứt trừ phiền não, đẳng khởi nghiệp thân miệng ở cõi Dục, mà tu đạo cõi Dục dứt trừ phiền não, vì hoàn toàn bất thiện, kiến đạo dứt trừ tâm không khởi nghiệp thân miệng sẽ nói sau phẩm này. Bất thiện ở cõi Dục, nghĩa là nếu bất thiện trong nhiễm ô, là ở cõi Dục, không phải cõi Sắc. Vì sao? Vì tâm thiện ở cõi Dục kia dễ được, do chính thọ được nuôi lớn, vì chẳng có không hổ, không thẹn, và vì không có thọ khổ. Bất thiện nghĩa là thọ khổ, thọ báo của quyến thuộc, ở cõi Sắc, Vô Sắc không có, không có nghiệp cõi Sắc và thọ báo cõi Dục, vì khác cõi, vì nhân quả đoạn là cõi. Đã nói tự tính, nay sẽ nói: Về chủng địa của nghiệp thân, miệng là sự khác nhau của luật nghi vô tác. Nếu trụ giới vô tác Nói lược có ba thứ Vô lậu và thiền sinh Nương giới biệt giải thoát. Nếu trụ giới vô tác, nói lược có ba loại, nghĩa là giới vô tác nếu thuộc về luật nghi thì nói lược nên biết có ba loại. Hỏi: Ba loại đó là gì? Đáp: Ba loại đó là vô lậu, thiền sinh nương tựa vào giới biệt giải thoát. Giới vô lậu đó và đạo cùng hành một quả với đạo là thiền của Học, Vô học phát sinh, nghĩa là giới của thiền kia và thiền là cùng thực hành một quả thiền một quả thiền, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng. chính mạng là kiến lập nghiệp thân miệng, vì không có tự thể khác nhau. Nghiệp thân miệng được phát sinh từ vô tham, vô sân và vô si. Vô sân, vô si phát sinh được gọi là chính ngữ, chính nghiệp. Vô tham phát sinh được gọïi là chính mạng. Tuy trong một tâm có ba căn thiện nhưng vì do tăng thượng nên nói như tham, v.v… Hành như gió lay động, thuốc như âm của chữ. Dựa vào giới biệt giải thoát, nghĩa là lãnh thọ Thức-xoa-thi-la giới, tùy chuyển, cũng có luật nghi đoạn, sẽ nói rộng trong phẩm Khế kinh. Hỏi: Những gì của nghiệp thân nghiệp miệng này không chuyển biến theo tâm? Chuyển biến theo tâm là sao? Đáp: Vô tác ở cõi Dục Tạo dựa vào hai hữu Phải biết không cùng tâm Là nói tâm khác cùng. Vô tác cõi Dục không chuyển biến theo tâm, nghĩa là sau khi thọ giới rồi, tâm bất thiện, vô ký cũng chuyển biến theo, cũng không chuyển biến theo với tâm thiện, bất thiện, vô ký, vì tướng khác. Lại nữa, vì che giấu giới ác, vì do tạo tác, do bất định. Sự tạo tác nghĩa là cõi Dục, sắc cũng không chuyển biến theo tâm, vì do thân, vì không phải một quả của tâm. Là tâm khác cùng thuyết nghĩa là luật nghi thiền, luật nghi vô lậu là tâm khác. Luật nghi đó tùy tâm chuyển biến, vì là một quả của tâm, vì do tâm. Đã nói kiến lập nghiệp, thành tựu giới, nay sẽ nói qua bài tụng: Luật nghi giới vô lậu Được đạo thì thành tựu Thiền sinh, nếu đắc thiền Giữ giới sinh cõi Dục. Luật nghi giới vô lậu, được đạo thì thành tựu, được đạo nghĩa là tất cả Thánh đạo, từ khổ pháp nhẫn cho đến trí vô sinh, thành tựu luật nghi vô lậu. Luật nghi vô lậu này ở Lục địa, thiền vị lai, thiền trung gian, bốn thiền căn bản, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm hướng và quả. Thành tựu giới vô lậu của một địa là A-na-hàm hướng, hoặc thành tựu một địa, hoặc sáu địa, quả A-na-hàm, hoặc ba địa cho đến sáu địa, sáu địa A-la-hán. Thiền sinh nếu đắc thiền, nghĩa là nếu được thiền thì thành tựu luật nghi thiền, đó là được không mất, đó cũng là sáu địa. Giữ giới, sinh cõi Dục, nghĩa là nếu người thọ giới thì thành tựu luật nghi biệt giải thoát. Luật nghi này là dành cho người cõi Dục, không phải cõi khác, vì không có phần thọ. Đã nói lược về giới thành tựu, nay sẽ nói: Phân biệt về thế gian. Trụ nơi biệt giải thoát Vô tác ở lúc chuyển Phải biết thường thành tựu Đều không xả quá khứ. Trụ nơi biệt giải thoát, vô tác ở lúc chuyển, phải biết thường thành tựu, nghĩa là luật nghi biệt giải thoát, giới vô tác hiện tại thường thành tựu, mỗi niệm được pháp chưa từng được. Đều không xả quá khứ, nghĩa là trụ luật nghi biệt giải thoát vô tác, nếu diệt mà không xả thì thành tựu quá khứ (về việc xả sẽ được nói sau phẩm này) Nếu có tác ở tác Tức thì lập đời giữa Đã hết mà không xả Phải biết thành quá khứ. Nếu có tác ở tác, tức thì lập đời giữa, đời giữa nghĩa là thân miệng cầu thọ giới ở hiện tại, là bấy giờ thành tựu thân miệng tạo tác ở hiện tại. Đã hết mà không xả, phải biết thành quá khứ, nghĩa là nếu tạo tác hết mà không xả thì bấy giờ thành tựu quá khứ tác, chứ không phải hiện tại, do tạo tác không niệm niệm tiếp nối nhau mà sinh. Nếu được thiền vô tác Thành tựu diệt vị chí Giữa nếu nhập chính thọ Tác cũng như trước nói. Nếu được thiền vô tác, thành tựu diệt vị chí, nghĩa là nếu được thiền thì người đó đã thành tựu luật nghi thiền quá khứ, vị lai. Nếu lần đầu mới được thiền thì thiền đó sẽ diệt trong sinh tử từ vô thỉ thuộc quá khứ, đến nay đều được thiền đó. Giữa nếu nhập chính thọ, nghĩa là như thiền chính thọ hiện tại, vô tác của thiền kia cũng thế, vì tùy tâm phát sinh. Tạo tác như trước đã nói nghĩa là như biệt giải thoát ở trước, lúc tạo tác sự mong cầu đã thành tựu hiện tại. Nếu diệt rồi không xả, bấy giờ đã thành tựu quá khứ chứ không phải thành tựu hiện tại. Người trụ thiền tạo tác cũng như vậy. Hỏi: Nếu sinh cõi Sắc, thì sẽ thành tựu sự tạo tác thế nào? Đáp: Khi Đức Thế Tôn đến cõi Sắc, chư thiên cõi Sắc đều lễ kính, vây quanh bên phải Ngài, cho đến chưa rốt ráo, bấy giờ đã thành tựu việc tạo tác quá khứ. Đều thành tựu nên biết Được đạo hoặc vị chí Đạo trung gian ở tâm Đều không xả đời trước. Đều thành tựu nên biết, được đạo hoặc vị chí, nghĩa là tất cả bậc Thánh trong bất cứ lúc nào cũng đều thành tựu luật nghi vô lậu ở vị lai. Đạo trung gian ở tâm, nghĩa là nếu đạo hiện tại bấy giờ thành tựu luật nghi vô lậu vô tác. Đều không xả đời trước, nghĩa là đời trước là quá khứ. Nếu luật nghi vô tác kia diệt rồi không xả thì thành tựu quá khứ. Nếu tạo nghiệp bất thiện Lập giới thành tựu hai Năng, sở kia ràng buộc Đã hết phải biết hết. Nếu tạo nghiệp bất thiện, lập giới thành tựu hai, nghĩa là trụ thiền biệt giải thoát, phát sinh luật nghi vô lậu. Nếu do sự ràng buộc của phiền não bất thiện tột độ khởi tác, vô tác bất thiện thêm nắm tay thì đó là tạo thành tác, vô tác cho nên thành tựu tác, vô tác. Đây là nói hành bất thiện chưa lìa dục. Hỏi: Lúc nào mới thành tựu? Đáp: Cho đến khi nào phiền não ràng buộc chưa xả, trụ phi luật nghi. Đã hết, phải biết hết, nghĩa là nếu sự ràng buộc của phiền não kia đã dứt hết thì tác, vô tác cũng hết. Nếu trụ bất luật nghi Trong thành tựu vô tác Phải thọ quả bất ái Hoặc lại hết không xả. Nếu trụ bất luật nghi, trong thành tựu vô tác, thọ có thể cảm nhận quả bất ái, trụ bất luật nghi nghĩa là giết mỗ, thái thịt, v. v… bất luật nghi đó bất cứ lúc nào cũng tạo thành bất thiện vô tác trong hiện tại, bất thiện vô tác vì mỗi niệm sinh ra. Hoặc hết không xả nữa: Vô tác bất luật nghi kia diệt không xả thì thành tựu quá khứ. Nếu sát-na trú tác Tức thì nói đời giữa Đã hết mà không xả Thiện trái với ở trên. Nếu trụ tác sát-na, tức thì nói đời giữa, nghĩa là trụ bất luật nghi kia, nghĩa là lúc thọ bất luật nghi, thành tựu việc làm hiện tại. Đã hết mà không xả, nghĩa là tác động bất luật nghi kia đã diệt mà không mất, đó là thành tựu quá khứ, chứ không phải hiện tại, vì không nối tiếp nhau. Thiện trái với bất thiện, nghĩa là như trụ luật nghi thì nói là bất thiện, còn trụ bất luật nghi lại cho là thiện. Nếu đã tạo trong xứ Đây là lập đời giữa Nếu hết mà không xả Hoặc hai cũng lại một. Nếu đã tạo trong xứ, đây là lập đời giữa: Trong xứ nghĩa là không phải luật nghi, không phải bất luật nghi. Nếu lúc tiếp nhận điều thiện, tâm không thuần tịnh thì thành tựu việc làm thiện trong hiện tại. Nếu lúc trụ bất thiện thì phiền não ràng buộc không tột độ, tạo thành việc làm bất thiện hiện tại. Nếu hết mà không xả nghĩa là diệt rồi không xả, thành tựu việc làm quá khứ kia chẳng phải hiện tại, vì không nối tiếp nhau sinh. Hoặc hai nghĩa là nếu nói tâm thuần tịnh thì phiền não bất thiện ràng buộc tột độ, thọ nhận hiện tại, thành tựu tác, và vô tác. Cũng lại một, nghĩa là khởi sát-na thứ hai, chỉ có vô tác hiện tại, hoặc phân biệt quá khứ, hiện tại, hoặc phân biệt thiện, bất thiện cũng vậy. Ẩn mất, không ẩn mất Hai tác đều chẳng hết Và tịnh cùng bất tịnh Tất cả nói vô sinh. Ẩn mất, không ẩn mất hai tác đều chẳng tận, nghĩa là nếu việc làm vô ký ẩn mất và vô ký không ẩn mất đều không thành tựu thì tâm yếu kém quá khứ đẳng khởi, vì thế lực khác không mạnh. Nếu lúc thọ nhận tác động hiện tại thì sẽ thành tựu hiện tại, vì sát-na thành tựu cũng không nói vô tác, vì vô ký không cùng khởi. Và tịnh cùng bất tịnh tất cả nói vô sinh, nghĩa là nếu tác động thiện, bất thiện, vô ký ẩn mất và vô ký không ẩn mất đều không thành tựu, vị lai vì vô trụ, vì chịu sự tác động ở đời vị lai. Hỏi: Những gì là luật nghi, bất luật nghi? Đáp: Chảy rót nối tiếp thành Giới thiện và bất thiện Đối tất cả chúng sinh Luật nghi, bất luật nghi. Luật nghi biệt giải thoát kia, nghĩa là thọ giới đối với tất cả chúng sinh, tất cả thời, giới đều không dứt, hoặc mười hai loại, hoặc hai mươi mốt loại tùy chuyển. Bất luật nghi nghĩa là trụ bất luật nghi, đối với tất cả chúng sinh, bất cứ lúc nào giới ác cũng không dứt. Hỏi: Những gì là trụ bất luật nghi? Đáp: Có mười hai loại trụ bất luật nghi, đó là giết mổ dê, nuôi gà, nuôi heo, bắt chim, bắt cá, thợ săn, làm kẻ trộm, thái thịt làm nem, cai ngục, dùng chú thuật bắt rồng, rắn, hàng chó, rình rập săn thú. giết mổ dê: Là làm thịt dê, đem lòng sát hại, hoặc nuôi, hoặc bán, hay giết hại, đều gọi là giết mổ dê. Nuôi gà, nuôi heo cũng vậy. Bắt chim: Hoặc giết chim để nuôi sống, bắt cá, thợ săn cũng như thế. Làm kẻ trộm: Thường làm việc trộm cướp, sát hại. Thái thịt làm nem: Mục đích giết người để tự nuôi sống. Cai ngục: lấy nghề cai ngục làm kế sinh nhai. Dùng chú thuật bắt rồng rắn: Luyện tập chú thuật bắt rồng rắn, làm trò vui chơi để tự kiếm sống. Giết mổ chó: Chiên-đà-la. Kẻ săn rình rập: Thợ săn của nhà vua. Nếu người giết mổ dê dù không sát hại chúng sinh khác nhưng đối với tất cả chúng sinh đã được bất luật nghi. Tại sao? Vì nếu tất cả chúng sinh giống như dê hiện ở trước mặt, nên tất cả trạng thái đó đều khởi tâm giết hại, vì tất cả chúng sinh có lý làm dê, vì nếu không khởi lý cho là dê thì đối với họ, cũng có tâm địa giết hại nên được bất luật nghi. Như trụ tâm từ, tưởng về lòng nhân rộng khắp, nên biết trụ bất luật nghi khác cũng như vậy. Hoặc là vua, hoặc người coi về hình phạt, hoặc coi về kiện tụng mà có tâm hãm hại, cũng đều rơi vào nghĩa bất luật nghi. Hỏi: Giới hạn được bất luật nghi vào lúc nào? Đáp: Là thọ giới luật nghi Suốt đời hoặc ngày đêm Bất luật nghi suốt đời Hai đều không thọ thêm. Là thọ giới luật nghi, suốt đời hoặc ngày đêm, nghĩa là thọ luật nghi biệt giải thoát có hai thứ: hoặc suốt đời, nghĩa là bảy chúng, bảy chúng là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Ưu- bà-tắc, Ưu-bà-di. Ngày đêm, nghĩa là thọ trai có hai thời gian: Ngày đêm và suốt đời. Hỏi: Còn bất luật nghi là thế nào? Đáp: Bất luật nghi suốt đời, nghĩa là suốt đời bất luật nghi không phải ngày đêm. Hỏi: Vì sao luật nghi thì được ngày đêm chứ không phải bất luật nghi? Đáp: Vì bất luật nghi kia không có tính thọ, không có nói “Tôi thọ bất luật nghi ngày đêm”, nghĩa là vì có thể xấu hổ, chán nản, trong khi thiện luật nghi thì có tính thọ, có thể hân hoan vui mừng. Cả hai đều không thọ thêm, nghĩa là luật nghi, bất luật nghi đều không có thọ nhận thêm, nửa tháng, một tháng hay sáu tháng. Hy vọng thiện ác không rốt ráo xả, giới ngày đêm cũng như vậy, lỗi là không đúng, vì không có tính giới hạn. Hai thứ giới hạn ở trước đã nói. Hỏi: Làm sao được luật nghi biệt giải thoát? Đáp: Thọ giới biệt giải thoát Phải biết do người dạy Tùy tâm hạ, trung, thượng Được ba phẩm luật nghi. Thọ giới biệt giải thoát, phải biết do người dạy: nghĩa là luật nghi biệt giải thoát do người khác dạy bảo, hoặc là chúng, hoặc người, hoặc pháp. Chúng nghĩa là bạch tứ yết-ma thọ giới cụ túc. Người nghĩa là thiện lai. Pháp nghĩa là Đức Phật và năm Tỳ-kheo, v.v… Lại hỏi ưa thích, nghĩa là luật Tu-đà-da, Tỳ-bà-sa nói có mười loại thọ cụ túc, đó là tự khởi, nghĩa là Đức Phật vượt lên trên ly sinh. Nói là năm Tỳ-kheo thiện lai, nghĩa là các sư như Da-xá, v.v… lãnh thọ, đó là Ma ha Ca-diếp Hỏi: Vui thích, nghĩa là Tu-đà-da lãnh thọ pháp trọng, nghĩa là bà Ma ha Ba-xà-ba-đề sai sứ, nghĩa là pháp với năm luật sư, v.v… đó là mười chúng biên địa, đó là ba quy y, ba thuyết ở giữa nước . Hỏi: Những người nào được luật nghi? Đáp: Tùy tâm hạ, trung, thượng được ba phẩm luật nghi. Nếu thọ giới biệt giải thoát với tâm phẩm hạ, người đó sẽ được giới phẩm hạ, vì quả của tâm thuộc phẩm hạ. Nếu hành thiện bằng phương tiện tích cực, cho đến lìa dục của cõi Sắc, Vô Sắc, gieo trồng hạt giống ba thừa, chủng loại chúng sinh nối tiếp nhau thì người đó vẫn còn chuyển theo phẩm hạ. Nếu thọ giới với tâm phẩm trung, sẽ được luật nghi phẩm trung, hoặc thực hành điều thiện bằng phương tiện tích cực, hoặc không xả giới, tạo ra mọi hành vi ác, thì người đó vẫn còn chuyển theo phẩm trung. Nếu thọ giới với tâm tăng thượng sẽ được luật nghi phẩm thượng, cho đến chủng loại nối tiếp nhau, vẫn còn chuyển theo tăng thượng. Hoặc có Tỳ-kheo trẻ tuổi được luật nghi tăng thượng, tuy là A-la-hán, cũng vẫn thành tựu giới tâm phẩm hạ. Có giới biệt giải thoát từ phẩm hạ đến trung, từ phẩm trung đến thượng, nghĩa là trước đem tâm phẩm hạ để thọ luật nghi Ưu-bà-tắc. Kế là với tâm phẩm trung để thọ luật nghi Sa-di. Về sau với tâm phẩm thượng để thọ luật nghi Tỳ-kheo. Từ phẩm trung hạ thượng, từ phẩm thượng hạ trung nghĩa là trụ luật nghi, có người đối với tất cả chúng sinh khởi không phải tất cả chi, không phải tất cả nhân. Có người đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả chi, không phải tất cả nhân, có người đối với hết thảy chúng sinh khởi hết thảy chi, hết thảy nhân. Có người đối với hết thảy chúng sinh, khởi tất cả nhân, không phải tất cả chi, nghĩa là không có. Chúng sinh ấy là loài cựa động. Chi nghĩa là từ không sát sinh, cho đến không nói thêu dệt. Nhân nghĩa là tâm phẩm hạ, trung, thượng. Lại nói vô tham, vô sân, vô si, nghĩa là có người đối với tất cả chúng sinh khởi không phải tất cả chi, chẳng phải tất cả nhân, nghĩa là tâm phẩm hạ thọ giới Ưu-bà-tắc, tâm phẩm hạ thọ giới Sa-di. Có người đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả chi, chẳng phải tất cả nhân, nghĩa là tâm phẩm hạ thọ ba loại giới, hoặc trung, hoặc thượng, hoặc cả hai. Có người đối với hết thảy chúng sinh khởi tất cả chi, tất cả nhân, nghĩa là ba thứ tâm lãnh thọ ba loại giới. Cho nên đối với hết thảy chúng sinh khởi tất cả nhân, chẳng phải tất cả chi, nghĩa là không có. Hoặc dùng tâm phẩm hạ lần đầu để thọ giới một ngày đêm, kế là tâm phẩm trung thọ giới Ưu-bà-tắc, về sau với tâm phẩm thượng thọ giới Sa-di. nghĩa là nói nên đối với hết thảy chúng sinh khởi tất cả nhân, chẳng phải tất cả chi. nghĩa này không đúng vì giới đó là suốt đời, nên nói. Hỏi: Trụ những tâm nào để được luật nghi biệt giải thoát? Đáp: Khởi tâm từ đối với tất cả chúng sinh, nếu nói “Tôi thọ ở đây, không thọ ở kia”, nên không được luật nghi, vì tùy theo tâm ác, như nói “Tôi thọ không săn thú”, vì phần ít là nghiệp thiện, nên không được luật nghi. Vì giới biệt giải thoát khắp tất cả, vì có khả năng, không có khả năng được luật nghi, nếu khác với quan điểm này thì luật nghi lẽ ra có thêm bớt, vì có khả năng là sinh mà không có khả năng ở, không có khả năng là sinh mà có khả năng ở, như vậy có lỗi gì? nghĩa là không phải lúc xả, nên xả. Luật nghi biệt giải thoát phải mau chóng biệt xả nên không lãnh thọ mà vẫn được luật nghi biệt giải thoát. Đối với ấm, giới, nhập hiện tại, được chổ sở đắc của chúng sinh, xứ không phải quá khứ, vị lai, vì rơi vào pháp số. Vì lý do này nên chia làm bốn trường hợp: Có ấm, giới, nhập được luật nghi biệt giải thoát, chẳng phải luật nghi thiền vô lậu, nghĩa là ở hiện tại khởi quyến thuộc trước sau và chế tội. Có ấm, giới, nhập được luật nghi thiền vô lậu, chẳng phải luật nghi biệt giải thoát, nghĩa là quá khứ, vị lai khởi nghiệp đạo căn bản. Có ấm, giới, nhập được luật nghi biệt giải thoát, cũng được luật nghi thiền vô lậu, nghĩa là khởi đạo nghiệp căn bản ở hiện tại. Có ấm, giới, nhập không được luật nghi biệt giải thoát và luật nghi vô lậu thiền, nghĩa là khởi quyến thuộc trước, sau ở quá khứ, vị lai. Được lúc có cỏ tươi và xả khi cỏ khô héo, việc này không đúng vì khởi ở chỗ cỏ mọc, rồi cho có khả năng, không có khả năng, nói như vậy là không đúng, vì tính của chúng sinh trước sau đều đồng còn cỏ tươi v.v… về sau, không phải là tính. A-la-hán bát Niết-bàn của luận này đồng với thuyết này, vì về sau không phải tính, nghĩa này sẽ được nói rộng trong phẩm Trạch. Hỏi: Đã nói luật nghi biệt giải thoát, làm thế nào được luật nghi thiền? Đáp: Được tâm thiện cõi Sắc Được giới luật nghi thiền Đây xả, kia cũng xả Vô lậu có sáu tâm. Được tâm thiện cõi Sắc, được giới luật nghi thiền, nghĩa là nếu người nào được tâm thiện cõi Sắc, người đó sẽ được luật nghi thiền, vì giới thường tùy theo tâm thiện cõi Sắc, trừ sáu tâm: tâm nơi ba thức thân của Sơ thiền, tâm của văn tuệ và tâm khởi tạo nghiệp, tâm lúc sắp chết vì không nhất định, nên giới tâm định thường tùy chuyển theo. Vì tâm của ba thức thân khởi hướng bên ngoài, nên khởi tâm tạo nghiệp cũng như vậy, vì tâm văn tuệ gọi là xứ khởi, do tâm lúc chết yếu kém. Đệ nhị, đệ tam, đệ Tứ thiền có hai tâm bất định, đó là tâm văn tuệ và tâm lúc qua đời. Hỏi: Vì sao cõi Vô Sắc không có giới? Đáp: Vì tính của Vô Sắc kia, giới có nghĩa là sắc, trong đó cõi Vô Sắc, không có tính của bốn đại. Nếu cõi Vô Sắc kia có bốn đại thì phải có giới, nhưng cõi Vô Sắc không có bốn đại. Giới nghĩa là đối trị với giới ác, chẳng phải đối trị với giới ác là giới ở cõi Dục. Cõi Vô Sắc có bốn thứ viễn viễn: Đó lày viễn, hành viễn, duyên viễn và đối trị viễn. Tất cả phẩm tỷ trí của thiền căn bản dù không phải là đối trị đoạn, nhưng có đối trị trì và đối trị viễn phần. Nếu khổ pháp trí, tập pháp trí có đối trị với hư hoại, vì thuộc về thiền căn bản, thiền vị lai có đối trị đoạn. Nếu diệt, đạo pháp trí thuộc về thiền căn bản thì không phải là đối trị với hư hoại vì duyên vô lậu. Hỏi: Thế nào là xả? Đáp: Tâm này xả thì luật nghi kia cũng xả. Nếu mất tâm cõi Sắc, thì luật nghi kia cũng mất, vì do tâm. Hỏi: Làm thế nào được luật nghi vô lậu? Đáp: Vô lậu có sáu tâm, tâm cùng được luật nghi vô lậu của sáu địa. Thiền vị lai cho đến đệ Tứ thiền do sáu địa có kiến đạo, không phải địa trên, vì cảnh giới của địa trên không rộng. Nếu dựa vào thiền vị lai vượt lên trên ly sinh, tu một địa, kiến đạo vô gián đẳng biên, tu nhị địa đẳng trí. nghĩa là thuộc về thiền vị lai và cõi Dục, cho đến dựa vào đệ Tứ thiền, vượt lên ly sinh, tu sáu địa, kiến đạo vô gián đẳng biên, tu đẳng trí của bảy địa. Hỏi: Vì sao cõi Vô Sắc không có kiến đạo? Đáp: Vì không có nhẫn và tính của pháp trí, vì không có căn thiện Câu-xá-la (Câu-xá-la là nói hành nghiệp), vì không có giới, vì không duyên cõi Dục. Hỏi: Giữa luật nghi thiền và luật nghi vô lậu có khác gì nhau không? Đáp: Luật nghi thiền có cấu, luật nghi vô lậu lìa cấu. Lại nói, luật nghi thiền là giới thiền căn bản, luật nghi vô lậu là tất cả giới vô lậu. Vấn đề này nên đề ra bốn trường hợp: Hoặc luật nghi thiền không phải vô lậu, nghĩa là thiền căn bản là giới của thế tục. Luật nghi vô lậu không phải thiền, nghĩa là giới vô lậu của vị lai, thiền trung gian. Cũng luật nghi vô lậu thiền, nghĩa là giới vô lậu của thiền căn bản. Không phải luật nghi vô lậu thiền, nghĩa là giới thế tục của trung gian, thiền vị lai được bốn trường hợp cũng như vậy. Hỏi: Thế nào là được bất luật nghi? Đáp: Nếu tác và thọ việc Mà được bất luật nghi Tùy tâm hạ, trung, thượng Sinh ba phẩm giới ác. Nếu tác và thọ việc mà được bất luật nghi, nghĩa là có hai nhân duyên được bất luật nghi là tác và thọ việc, tác là sinh vào nhà bất luật nghi, cho đến chưa sát sinh, chưa được bất luật nghi, nếu sát sinh thì người đó sẽ được bất luật nghi. Thọ việc: Nếu sinh vào gia đình khác thì người kia sẽ nói như vầy: “Tôi sẽ làm nghề nghiệp này để tự nuôi sống, tức là họ được bất luật nghi”. Hỏi: Vì sao gọi là trụ bất luật nghi? Là vì có hay không có bất luật nghi? Đáp: Có thuyết nói: Không có cũng gọi là trụ bất luật nghi, nghĩa là sinh vào nhà bất luật nghi. tính của họ không nói mà vì chỉ sát sinh nên được tính của thân nghiệp, chứ không có khẩu nghiệp. Phái Tỳ-bà-sa nói nếu luật nghi không đầy đủ thì không gọi là trụ luật nghi. Bất luật nghi cũng như vậy, chỉ vì hy vọng điều ác đầy đủ nên sinh vào nhà bất luật nghi. Tuy tính không nói nhưng vì do ngữ nghĩa của thân biểu thị cho nghĩa nói nên y cứ, người ấy được bất luật nghi. Hỏi: Nếu trụ bất luật nghi mà thọ pháp của luật nghi ngày đêm thì bấy giờ sẽ được luật nghi, xả bất luật nghi. Đến sáng sớm hôm sau, tướng sáng xuất hiện người đó lại xả luật nghi để trở lại được bất luật nghi chăng? Đáp: Có thuyết nói: Được, vì xả bất luật nghi đắc luật nghi, xả luật nghi được bất luật nghi có thuyết nói không được. Vì nếu một chủng loại thân không Sát sinh, cho đến khi chủng loại thân hết, sẽ không được bất luật nghi. Vì vô tác, vô thọ. Xả bất luật nghi, được luật nghi, xả luật nghi được bất luật nghi, cũng chẳng phải bất luật nghi. Hỏi: Thế nào là được bất luật nghi? Đáp: Tùy theo ba phẩm tâm hạ, trung, thượng phát sinh giới ác, nếu ngay từ đầu, dùng tâm phẩm hạ để giết chúng sinh, nếu thọ việc thì người đó sẽ được sát sinh bậc hạ, vô tác và bất luật nghi bậc hạ, nghĩa là đối với hết thảy chúng sinh khác thuộc về được bất luật nghi. Về sau nếu người đó lại dùng tâm trung, thượng để sát sinh, thì họ sẽ được bất luật nghi vô tác sát sinh bậc trung, thượng. Trước đó họ đã được từ bậc trung, thượng khởi, cũng như vậy. Có người trụ bất luật nghi đối với tất cả chúng sinh, khởi lên không phải tất cả chi, không phải tất cả nhân. Có người đối với hết thảy chúng sinh khởi tất cả chi, không phải tất cả nhân. Có người đối với hết thảy chúng sinh khởi không phải tất cả chi, không phải tất cả nhân. Có người đối với hết thảy chúng sinh khởi tất cả nhân, tất cả chi. Có người đối với hết thảy chúng sinh khởi không phải tất cả chi, không phải tất cả nhân. Đó là do triền phược giết chúng sinh, hoặc trung, hoặc thượng mà không tạo ra đạo nghiệp khác. Có người đối với hết thảy chúng sinh khởi tất cả chi, không phải tất cả nhân, nghĩa là dùng triền phược phẩm hạ giết chúng sinh cho đến nói lời thêu dệt, không phải phẩm trung, thượng. Có người đối với hết thảy chúng sinh khởi tất cả nhân, không phải tất cả chi, nghĩa là đem triền bậc hạ, trung, thượng để giết chúng sinh, không phải đạo nghiệp khác. Có người đối với hết thảy chúng sinh khởi tất cả nhân, tất cả chi, nghĩa là dùng triền bậc hạ, trung, thượng để giết chúng sinh cho đến nói lời thêu dệt, người đó nói bất luật nghi bất cụ túc, không gọi là kẻ trụ bất luật nghi, vì người đó nói là sinh khởi đối với tất cả chúng sinh và tất cả chi, mà nhân không nhất định. Hỏi: Các luật nghi được xả vào những thời điểm nào? Đáp: Biệt giải thoát điều phục Được xả vào bốn lúc Nếu xả và qua đời Dứt hai căn thiện sinh. Biệt giải thoát điều phục được xả vào bốn thời điểm, nghĩa là biệt giải thoát điều phục, phải biết xả vào bốn lúc. Hỏi: Bốn lúc nào? Đáp: Nếu xả và qua đời đoạn hai căn thiện sinh, nghĩa là xả chủng loại của thân giới, diệt căn thiện, đoạn hai hình sinh. Phái Trì Luật nói: Lúc pháp mất hết, tất cả thuyết giới, kiết giới, yết-ma đều dứt. Phái A-tỳ-đàm nói: Lúc pháp mất hết, luật nghi đã lãnh thọ trước đây vẫn phát sinh nối tiếp không xả, người chưa từng được luật nghi sẽ không được. Cho nên nói tất cả đều dứt. Có thuyết nói phạm các tội lần đầu, gọi là xả luật nghi, điều này không đúng. Vì nếu người xả luật nghi là đã phạm tội căn bản, đã hoàn tục, nên được xuất gia lại, vì đã xả luật nghi. Đức Phật nói người này không phải Tỳ-kheo, vì không phải Tỳ-kheo đệ nhất nghĩa, thuyết này không có lỗi. Người phạm các tội lần đầu đối với luật nghi biệt giải thoát, là Tỳ-kheo nhưng đối với luật nghi vô lậu thì không phải Tỳ-kheo. Luật nghi suốt đời có bốn lúc xả. Luật nghi trai giới được xả vào lúc tướng sáng xuất hiện, gọi là người trụ luật nghi mà phạm luật nghi, nghĩa là phạm giới này mà không phải xả giới. Nên biết người đó trụ trì giới, phạm giới. Nếu người đó biết ăn năn tức là xả phạm giới, trụ trì giới. Như người giàu mắc nợ, gọi là người giàu, cũng gọi là người mắc nợ. Nếu trả nợ hết rồi thì chỉ gọi là người giàu việc xả giới, trì giới kia cũng như vậy. Là thiền sinh luật nghi Nên biết hai lúc xả Nếu khởi phiền não thối Sinh địa trên, địa dưới. Luật nghi thiền xả vào hai lúc. Hỏi: Xả vào lúc nào? Đáp: Nếu khởi phiền não, thối sinh lên địa trên và địa dưới, nghĩa là lúc lui sụt thiền, xả luật nghi kia, vì thiền và lúc sinh địa trên, địa dưới. Luật nghi giới vô lậu Là nói ba lúc xả Thối và được quả Thánh Căn tăng ích nên biết. Luật nghi vô lậu xả vào ba lúc. Hỏi: Xả vào lúc nào? Đáp: Xả luật nghi vào lúc lui sụt và được căn tăng ích của quả Thánh. Phải biết người lui sụt nghĩa là làm mất công đức thù thắng. Đắc quả, nghĩa là được quả Tu-đà-hoàn, cho đến quả A-la-hán. Căn tăng ích nghĩa là tín, giải thoát, lúc được kiến đáo, giải thoát được bất động. Hỏi: Thế nào là xả bất luật nghi? Đáp: Bốn thời bất luật nghi, Thọ giới và qua đời Mau được các thiền định, Hai căn sinh cũng vậy. Bốn thời xả bất luật nghi: Là lúc thọ giới, lúc xả chủng loại thân, lúc được luật nghi thiền và lúc hai căn sinh. Hỏi: Người trụ bất luật nghi, nếu bỏ dụng cụ sát sinh có gọi là xả bất luật nghi hay không? Đáp: Gọi là đình chỉ nghiệp. Nếu không thọ luật nghi thì không gọi là xả bất luật nghi vì không phải đối trị, như không uống thuốc mà trừ bệnh, vì bệnh thì sinh theo. Hỏi: Đã biết lúc xả luật nghi, bất luật nghi, người lìa bỏ đầy đủ kia đã tạo ra giới thiện, giới ác thì lúc xả thế nào? Đáp: Lỗi người ấy có hạn Và với tâm hy vọng Cũng xả bỏ phương tiện Là nói xả thiện, ác. Người ấy đều lìa bỏ, nghĩa là nếu giới thiện, giới ác đều xả trong ba thời gian, nghĩa là vượt quá thế lực giới hạn, hy vọng dứt. Xả phương tiện, hạn chế thế lực vượt quá, nghĩa là nếu lúc muốn làm việc giới thiện, giới ác thì trước hết phải tạo ra giới hạn, nếu vượt quá giới hạn thì dừng lại, như người thợ gốm, thế vòng quay cùng cực thì dừng lại. Sự hy vọng chấm dứt: nghĩa là người đó nghó rằng: “Sau này mình sẽ không làm nữa”. Xả phương tiện nghĩa là ngưng hành động của thân, miệng. Người ấy đều lìa bỏ nghĩa là làm việc thiện, việc ác, cùng tận chủng loại thân, sự vô tác sinh theo, nghĩa là thề rằng: “Không cúng dường Phật thì không bao giờ ăn trước”. Nếu dùng hương hoa để ca ngợi, kính lễ và những thứ khác, hằng ngày cúng dường, chủng loại thân suốt đời vô tác tùy sinh. Có người thệ rằng: “Không thí cho người khác, ít nhất là một nắm cơm thì không bao giờ ăn trước”. Người đó cũng là chủng loại thân suốt đời, vô tác tùy sinh. Nếu làm việc bố thí có kỳ hạn nhất định, hoặc ngày, hoặc tháng, hoặc năm phát thệ rằng: “Tôi thề làm việc bố thí suốt đời”, liền bỏ ra một ít vật dụng, cho người kia dùng. Chủng loại thân suốt đời kia, vô tác tùy sinh. Hoặc xây tháp, hoặc tăng xá bốn phương, hoặc tăng xá, hoặc phòng riêng, hoặc vườn, nhà, ao tắm, hoặc cầu thuyền, những việc như vậy đều có ba nhân duyên: Vô tác, không đoạn, hoặc hy vọng, hoặc thân, hoặc sự. Giới ác nghĩa là người ác kia cũng thệ rằng: “Hằng ngày tôi sẽ làm những việc không lợi ích, đối với kẻ thù kia”, hoặc bằng một cú đánh, hoặc một lời nói ác, người đó suốt đời không một điều bất thiện nào mà không tùy sinh. Đã nói bỏ nghiệp sắc, nay sẽ nói Vô Sắc. Lúc xả thiện Vô Sắc Dứt thối sinh các địa Cấu uế chỉ lìa dục Nên biết là ý nghiệp. Lúc xả thiện Vô Sắc, dứt thối sinh các địa, nghĩa là nếu pháp thiện hữu lậu vô sắc được xả trong ba thời gian, nghĩa là lúc đoạn căn thiện, lúc thối và lúc sinh các địa. Cấu uế chỉ lìa dục nghĩa là lúc xả pháp cấu uế của Vô Sắc lìa dục, nếu phẩm đối trị này sinh tức là xả phẩm này. Đã nói tự tính của các nghiệp và sự thành tựu. Như nghiệp này, Đức Thế Tôn đã phân biệt các thứ, nay sẽ nói. Nếu nghiệp và quả khổ Nên biết là hành ác Lại có hành ý ác Tham, sân hận, tà kiến. Nếu nghiệp và quả khổ, nên biết là hành ác, nghĩa là nếu vì nghiệp của thân, miệng và tư sinh ra quả báo không yêu thích, nên biết đó là hành ác. Hỏi: Chỉ có hành vi ác này hay sao? Đáp: Còn có hành vi ác của ý nữa chứ, nghĩa là tham, sân, tà kiến, bất thiện tư là hành ác của ý như trước đã nói. Lại có tham, sân, tà kiến. “Là trái hạnh vi mầu Do bậc Tối Thắng nói Nếu tăng thượng trong đây Gọi là mười nghiệp đạo.” Là trái với hạnh mầu, bậc Tối Thắng nói, nghĩa là trái với hành vi ác đều là hành vi mầu, nếu nghiệp thiện của thân đều là hành vi mầu của thân, nếu nghiệp thiện của miệng đều là hành vi mầu của miệng, nếu nghiệp thiện của ý là không tham, không sân, chính kiến đều là hành vi mầu của ý thì nghiệp vô ký ẩn mất, không ẩn mất, vì không có báo nên chẳng phải hành vi ác, chẳng phải hành vi diệu. Nếu vô ký không ẩn mất kia là phương tiện khéo léo, nghĩa là làm như làm, nói như nói, trái với vô ký không ẩn mất này và ẩn mất gọi là chẳng có phương tiện, không khéo léo. Hỏi: Tất cả hành vi thiện, hành vi ác đều thuộc về nghiệp đạo phải chăng? Đáp: Nếu tăng thượng ở trong đó gọi là mười nghiệp đạo. Nghiệp tăng thượng vượt hơn trong các hành vi thiện, hành vi ác này là nghiệp đạo. Hành vi diệu kia tăng là nói nghiệp đạo thiện, hành vi ác tăng thì nói là nghiệp đạo bất thiện. Nếu nói không nhất định thì không đúng, vì nghiệp đạo căn bản phần nhiều tăng thượng, vì rất bức bách, vì rất sợ hãi, vì sự rốt ráo, cho nên nói tăng thượng là nghiệp đạo căn bản. Hỏi: Những gì là nghiệp đạo? Đáp: Từ sát sinh cho đến tà kiến, nay sẽ nói về sát sinh kia. Có tâm muốn sát sinh Sát sinh nghó chúng sinh Đó gọi là sát sinh Trộm, dâm cũng như thế. Có tâm muốn sát sinh, có ý nghó giết chúng sinh, nghĩa là muốn giết chúng sinh khác, chúng sinh định, bất định, khởi tưởng chúng sinh, giết chúng sinh kia gọi là tác, vô tác, hoặc hoàn toàn gọi là vô tác. Thân nghiệp này sát sinh, không phải nghiệp khác, không có tự tại, nghĩa là miệng nói và ý của vị tiên đã ngờ vực mà giết, gọi là tự tính của khẩu nghiệp, ý nghiệp là không đúng, vì tự tính của nghiệp là khác, do sự không rốt ráo. Nếu cho rằng có tâm, không tâm mà giết chúng sinh kia thì lẽ ra cùng mắc phải tội sát, như người chạm phải lửa, ăn nhằm chất độc là không đúng, vì không phải thí dụ. Hoặc tay cầm dao, hoặc tay quăng dao, hoặc có tâm, hoặc không có tâm chạm lửa không bị cháy, nếu chú độc, hoặc uống thuốc tạp độc, hoặc có tâm hoặc vô tâm không chết, sát sinh không như vậy, cho nên không phải thí dụ. Nếu lại cho đối với lửa, thuốc độc, được nhân duyên không bị đốt cháy, không chết mà sát sinh, không được nhân duyên không giết hại thì không đúng, vì được tâm không ác. Như người kia dùng dao, chú thuật, các thứ thuốc, v.v… là nhân duyên không đốt cháy, không chết. Tâm không ác là nhân duyên không giết hại cũng như vậy. Do tâm không ác mà sát sinh thì không phải sát sinh, như cầm dao xúc chạm lửa thì không bị đốt cháy. Hỏi: Vô tâm hãm hại thì chúng sinh có chết không? Đáp: Chết. Tuy sát sinh không mắc phải tội sát, vì không có tâm ác, ép ngặt người khác thì không mắc tội sát, rồi cho việc này không phải người nói là không đúng. Chẳng hạn như không ép ngặt người khác, không dẫn dắt người khác, mà tội, phước lớn mạnh nghĩa là đoạn căn thiện, được tâm từ, cho nên chẳng phải sai quấy. Nói ăn trộm, nghĩa là vật sở hữu của người khác, nghó là vật của người khác, biết người ta không cho mà muốn lấy làm của mình. Có tưởng đó được gọi là tác vô tác, hoặc hoàn toàn gọi là vô tác, là nghiệp trộm của thân. Tà dâm: Đối với người con gái được cha mẹ gìn giữ, nghó là giữ gìn hành dâm đúng đạo, không đúng đạo. Đối với kẻ không có sự bảo hộ, không phải chỗ, không phải lúc, là điều không nên làm mà làm, gọi là tác, vô tác, đây là nghiệp tà dâm của thân. Nói người kia tưởng khác Chia lìa, lời không dịu Nói vô nghĩa không thành Đây là nghiệp đạo miệng. Đối với những việc thấy nghe, v.v… điên đảo, không điên đảo, khởi lên tưởng che giấu, gọi là tác vô tác, hoặc hoàn toàn gọi là vô tác, là nghiệp nói dối của miệng. Hoặc thân cử động, hoặc im lặng, nghĩa là việc bố-tát, đó cũng gọi là nói dối. Nếu nói đó là tính của nghiệp thân, ý thì không đúng, vì tính của nghiệp là khác, vì chấp vào nghiệp thân, nghiệp miệng. Ví như chấp thân, nếu thân cố tạo ra là nghiệp của thân. Ví như mắt nhìn rồi sau đó thân mới tiếp xúc và mới có cảm giác được vật thể đó dài v.v… Ví như lúc thọ giới, miệng nói được thân nghiệp. Ví như lúc thọ giới cụ túc, hoặc im lặng, hoặc vô tâm, được nghiệp của thân. Chia lìa là hoặc hư hoại, hoặc không hư hoại, mà nghó là sắp hư hoại. Nếu đã hư hoại thì không làm cho hòa hợp, gọi là tác, vô tác. Hoặc một bề gọi là vô tác, là lưỡi đôi chiều của khẩu nghiệp. Lời nói không mềm mỏng, nhã nhặn là tâm não loạn, hoặc não, không não, gọi là tác, vô tác, hoặc chỉ gọi là vô tác. Lời nói hung dữ của khẩu nghiệp, lời nói vô nghĩa, không chân thành là với tâm bất thiện, phi nghĩa, không đúng lúc. Lời nói không hợp pháp, tùy nhập vào tất cả hành ác của miệng, như vô minh, tùy phiền não, như âm thanh tùy thuộc vào chữ. Chúng sinh hại lẫn nhau Đó gọi là sân hận Vật người tham, tưởng mình Tà kiến là kiến nào. Chúng sinh hại lẫn nhau, đó gọi là sân hận, nghĩa là tâm hung dữ đối với chúng sinh khác, muốn giết, muốn đánh đập, trái với từ bi, đó gọi là sân hận. Tham vật người, tưởng của mình: nghĩa là có tưởng yêu thích vật của người khác, muốn lấy làm của mình, là tham của tất cả cõi Dục. Tà kiến là kiến gì: nghĩa là đối với việc bố thí, v.v… mà không nhận thấy rõ, gọi là tà kiến. Hỏi: Nghiệp đạo gì, ai rốt ráo? Đáp: Sát sinh và ác khẩu Và nghiệp đạo sân hận Đều do sân hận thành Chỗ chúng sinh khởi lên. Sát sinh, ác khẩu và nghiệp đạo sân hận, đều do sân hận thành, nghĩa là phải biết sát sinh, ác khẩu, sân hận đều từ sân hận thành, lúc rốt ráo ác, cùng khởi với sân hận. Hỏi: Ba nghiệp đạo này sinh ra từ chỗ nào? Đáp: Chỗ chúng sinh khởi lên: Nên biết ba nghiệp đạo này đều khởi lên từ chỗ chúng sinh. Hai nghiệp thân và tham Sự tham dục rốt ráo Đều do tham dục thành Chỗ các vật khởi lên. Hai nghiệp thân và tham, sự tham dục rốt ráo, đều do tham dục thành, nghĩa là trộm, tà dâm và tham, ba nghiệp đạo này phải biết tham là rốt ráo. Hỏi: Ba nghiệp đạo này lại khởi ở chỗ nào? Đáp: Khởi ở chỗ các vật, ba nghiệp đạo này nên biết khởi từ chỗ các vật. Tức có khẩu nghiệp khác Đều do ba chỗ thành Từ chỗ danh khởi lên Do bậc Minh trí nói. Tức có khẩu nghiệp khác, đều do ba chỗ thành, nghĩa là phải biết sự nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời thêu dệt đều từ tham dục, sân hận và ngu si được rốt ráo. Hỏi: Ba thứ đó sinh khởi từ chỗ nào? Đáp: Từ danh xứ, khởi lên, do bậc Minh trí nói. Nên biết ba nghiệp đạo của miệng này đều sinh ra từ danh. Tà kiến khởi danh sắc Cũng từ ngu si thành Tất cả các nghiệp đạo Ba thứ làm phương tiện. Tà kiến khởi danh sắc cũng từ ngu si thành, nghĩa là tà kiến khởi lên từ chỗ danh sắc. Hỏi: Đâu là chỗ rốt ráo của tà kiến này? Đáp: Cũng được thành lập từ ngu si. Nên biết tà kiến này xuất phát từ ngu si rốt ráo. Hỏi: Tất cả phương tiện của nghiệp đạo, như căn bản rốt ráo, hay là có khác? Đáp: Tất cả các nghiệp đạo đều lấy ba thứ làm phương tiện, hết thảy mười nghiệp đạo bất thiện đều là phương tiện của tham dục, sân hận và ngu si. Tham sát là vì mình hoặc vì bạn thân mà giết để lấy da thịt, gân, cốt của mạng sống chúng sinh. Sân hận sát, nghĩa là giết kẻ thù và giết kẻ oán ghét của bạn bè, làm cho họ lo buồn. Ngu si sát, nghĩa là nói việc sát hại các loài sâu độc, v.v… là không có tội, vì chúng hại người, việc giết các cầm thú, v.v… đều không có tội, do chúng là thức ăn của con người. Người nước Ba-tư nói: “Như vì lý do cha, mẹ già nếu gặp phải nhân duyên bệnh truyền nhiễm thì nên giết không có tội”. Tham trộm nghĩa là trộm vật cần dùng của người khác làm của mình, sân trộm nghĩa là hoặc trộm vật của kẻ mình oán ghét, hoặc vật của kẻ oán, người thân làm cho họ lo buồn. Si trộm nghĩa là như Bà-la- môn nói tất cả vật sinh ra trên trái đất đều thí cho Bà-la-môn. Vì Bà-la- môn yếu đuối nên Sát-đế-lợi, v.v… thọ dụng. Thế nên Bà-la-môn nói tự lấy vật dụng của mình là vô tội mà lúc họ lấy lại nghó là vật của người khác nên gọi là trộm. Tham tà dâm, phương tiện tham tâm ở chỗ chúng sinh. Nếu người khác đã nhận lãnh và mình đã nhận. Hoặc vì của cải, lợi dưỡng, không phải phương tiện tham thì sân hận khởi lên, nghĩa là đối với kẻ thù và người, thân đã nhận lãnh. Si tà dâm nghĩa là như nói cầu, thuyền, ruộng hoang, hoa quả, người nữ đi trên đường, tất cả chúng sinh đều nhận dùng chung. Như Bà-la-môn nói “Bà-la-môn lẽ ra có bốn người vợ, Sát- đế-lợi nên có ba, Tỳ-xá nên có hai và Thủ-đà-la chỉ có một”. Nếu khẩu nghiệp khởi tham, nên biết từ tham sinh. Nếu khởi từ sân, nên biết từ sân sinh. Nếu khởi từ si nên biết từ si sinh. Tham nghĩa là nếu theo thứ lớp của tham mà khởi lên thì chính là từ tham sinh ra. Nếu do sân khởi thì từ sân hận sinh. Nếu do ngu si khởi thì từ ngu si sinh. Tà kiến sân hận cũng như vậy. Hỏi: Thế nào là nghiệp đạo nhất định là tác, vô tác hay chẳng phải? Đáp: Nghiệp căn bản vô tác Hoặc lại nói hữu tác Phương tiện trọn thì khác Tham, không tham đẳng khởi. Nghiệp căn bản vô tác, hoặc lại nói hữu tác, nghĩa là bảy nghiệp đạo của tự tính quyết định là vô tác, hoặc làm việc tà dâm nhất định là hữu tác. Do vì tự rốt ráo, chẳng phải nghiệp đạo khác của người là không nhất định. Nếu tự làm thì hữu tác, nếu sai bảo người khác làm thì hoàn toàn vô tác. Hỏi: Có khi nào chẳng phải thân làm mà phạm sát sinh hay không? Đáp: Có, đó là miệng sai bảo. Hỏi: Có khi nào không phải miệng làm mà mắc tội nói dối hay không? Đáp: Có, đó là thân ra dấu. Hỏi: Có khi nào không phải thân, miệng làm mà mắc hai tội hay không? Đáp: Có. Đó là trường hợp vị tiên khởi tâm ác, nghĩa là sự bố-tát. Nếu nghiệp đạo thiện tính sắc của cõi Dục thì nhất định hữu tác và vô tác. Về luật nghi vô lậu thiền chỉ vô tác, không có tác, vì do tâm. Phương tiện nghĩa là hữu tác, nếu tâm thuần tịnh và triền rất nhạy bén mà tạo tác thì có vô tác, nếu tâm không thuần tịnh và triền không nhạy bén tạo tác thì chỉ có tác, không có vô tác. Là hoàn toàn khác hẳn, nghĩa là nghiệp đạo trọn vẹn chỉ có vô tác, tác nghiệp đã dứt. Hỏi: Những gì là phương tiện của nghiệp đạo? Những gì là kết cuộc? Đáp: Phương tiện giết, đó là người giết mổ dê, hoặc bắt trói, hoặc mua, hoặc lôi kéo đến, một lần đánh, hai lần đánh, cho đến mạng sống chưa dứt, đều gọi là phương tiện. Lúc cắt đứt mạng sống trong khoảng sát-na, tác và vô tác là nghiệp đạo căn bản. Về sau cho đến ở chỗ này, thân bất thiện đã tạo tác và không tạo tác, là sau khi sát sinh, cho đến nói lời thêu dệt cũng như vậy, đó gọi là kết cục. Tham, sân, tà kiến không có phương tiện hiện tiền, đây là căn bản khởi. Có thuyết nói tất cả mười nghiệp của nghiệp đạo thân, miệng là phương tiện và kết cuộc. Điều đó thế nào? Như muốn giết chúng sinh kia, giết chúng sinh này là nhân, nhưng về sau khi giết chúng sinh kia rồi, cho sát sinh là để cầu xin sức giúp đỡ cho sự giết chúng sinh kia, hoặc cướp tài sản của người khác nhằm giúp cho việc giết hại. Hoặc dâm với người mà người khác đã yêu, rồi xúi giục họ giết chết sự sống của người kia. Hoặc dù biết người kia vốn là bạn của mình, nhưng hắn ta vẫn tìm cách nói dối, nói lời độc ác, nói lưỡi hai chiều, nói lời thêu dệt, nhằm chia rẽ tình thân của người kia. Hoặc tham tài sản của người bạn kia, hoặc lại giận bạn, hoặc khởi lên tà kiến, nuôi lớn cách thức giết hại rồi về sau giết chết con của bạn kia, lại thông dâm với vợ bạn. Theo thứ lớp, cho đến mười nghiệp đạo bất thiện, nên biết là kết cuộc. Tất cả như vậy đều nên biết. Tham, không tham đẳng khởi: nghĩa là tham, sân, si của nghiệp đạo bất thiện là phương tiện, cũng là chung cuộc. Nghiệp đạo thiện do không tham, không sân hận, không ngu si khởi lên. Bỏ phương tiện của nghiệp đạo bất thiện, tức là phương tiện của nghiệp đạo thiện, bỏ căn bản tức là căn bản, bỏ chung cuộc, tức là chung cuộc. Hỏi: việc này thế nào? Đáp: Như Sa-di thọ giới cụ túc, sau khi vào giới trường đi vòng quanh lễ tăng, để cầu Hòa-thượng truyền trao y bát, bạch một lần yết- ma cho đến hai lần yết-ma, đều là phương tiện. Đến tác bạch yết-ma lần thứ ba trong khoảng sát-na, tác và vô tác của Sa-di kia là nghiệp đạo căn bản. Kế là nói bốn y. Như vậy cho đến thân miệng đã tác và vô tác, đó gọi là chung cuộc. Hỏi: Ở chỗ nào có bao nhiêu nghiệp đạo? Đáp: Địa ngục năm nghiệp đạo Uất-đơn-việt bốn sau Phương khác có đủ mười Và trời, đường ác khác. Địa ngục có năm nghiệp đạo. nghĩa là chúng sinh ở địa ngục có năm đạo nghiệp bất thiện: Miệng nói lời hung dữ, lời thêu dệt, tham, sân, tà kiến. Vì vô tướng sát, nên không có nghiệp đạo sát. Vì không có thọ lãnh của cải, nên không có trộm. Vì không có chấp thọ người nữ, nên không có tà dâm. Vì tưởng khác mà nói, nên gọi là nói dối, vì người kia không có tưởng khác nên không có nói dối. Vì thường lìa bỏ, nên không có lưỡi hai chiều. Vì bị khổ ép ngặt nên có ác khẩu. Vì nói không hợp thời, nên có lời thêu dệt. Tham và tà kiến thành tựu mà không hành. Sân hận thì đều có. Uất-đơn-việt bốn sau: nghĩa là có bốn nghiệp đạo bất thiện sau: Vì tuổi thọ nhất định nên không có sát sinh. Vì không nhận của cải nên không có trộm. Vì không chấp thọ người nữ, nên không có tà dâm. Lúc muốn hành dục, dẫn người nữ nọ đến dưới cội cây, nhánh cây tự động cong xuống che khuất họ. Hành dục xong, họ bỏ đi, nhánh cây trở lại như cũ. Nếu nhánh cây không che khuất họ nữa, họ sẽ đều cảm thấy hổ thẹn rồi chia tay. Vì không có cử chỉ khi dễ người khác nên không có nói dối. Vì thường hòa hợp nên không có nói lưỡi hai chiều, vì mềm mỏng nên không có lời lẽ thô lỗ. Vì có sự khen ngợi nên có lời nói thêu dệt. Dù nghiệp đạo của ý tuy đã thành tựu mà không hoạt động. Phương khác có đủ mười nghiệp, nghĩa là trừ người ở Uất-đơn- việt, còn ba phương khác có mười nghiệp đạo, hoặc không thuộc về bất luật nghi, hoặc lìa thuộc về bất luật nghi. Và trời đường ác khác, nghĩa là súc sinh, ngạ quỷ và trời cõi Dục có mười nghiệp đạo. Lìa bất luật nghi, tuy trời không hại, nhưng trời hại đường khác. Lại nói trời cũng có khi chặt đứt cả tay chân rồi mọc trở lại. Nhưng nếu chặt đứt giữa đầu thì chết, lần lượt cướp đoạt lẫn nhau, cho đến mười nghiệp đạo, tất cả đều có. Trời sắc, Vô Sắc không có nghiệp đạo bất thiện. Hỏi: Nơi nào có bao nhiêu nghiệp đạo thiện? Đáp: Địa ngục, Uất-đơn-việt Có ba nghiệp đạo thiện Đều hiện ở Vô Sắc Thánh kia thành tựu mười. Địa ngục, Uất-đơn-việt có ba nghiệp đạo thiện: nghĩa là địa ngục có vô tham, vô sân, chính kiến. Uất-đơn-việt cũng vậy. Đẳng hiện ở Vô Sắc nghĩa là cõi Vô Sắc tức là hiện ở trước nơi cõi Vô Sắc. Bậc Thánh kia thành tựu mười, nghĩa là bậc Thánh ở cõi Vô Sắc thành tựu mười nghiệp đạo thiện vô lậu. Như thế cũng lại khác Là luật nghi cõi Sắc Súc sinh, ngạ quỷ khác Còn, cũng khác như vậy. Như đây cũng lại khác, là luật nghi cõi Sắc, nghĩa là đủ mười nghiệp đạo thiện, thuộc về luật nghi thiền cõi Sắc, cũng thành tựu, cũng hiện ở trước. Bậc Thánh sinh cõi Sắc kia là có nghiệp đạo vô lậu. Súc sinh, ngạ quỷ khác: nghĩa là súc sinh, ngạ quỷ cũng có mười nghiệp đạo thiện, lìa luật nghi cùng lìa bất luật nghi. Khác như vậy cũng khác nghĩa là Diêm-phù-đề, Phất-bà-đề, Cù- đà-ni, và các tầng trời cõi Dục là nói khác. Cõi đó có mười nghiệp đạo thiện là thuộc về luật nghi, hoặc lìa luật nghi, nghĩa là trời cõi Dục chỉ có luật nghi vô lậu thiền. Hỏi: Có bao nhiêu nghiệp đạo bất thiện chuyển biến cùng lúc với tư? Đáp: Nghiệp đạo bất thiện khởi Một cùng chuyển với tư, Hai, ba cho đến tám Phải biết thứ lớp tăng. Đây là ba nghiệp đạo bất thiện, tự tính của thân này. Mỗi nghiệp đạo đó cùng chuyển với tư, đó là sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Hai cùng chuyển là giết hại chúng sinh khác mà trộm lấy. Ba đều cùng chuyển nghĩa là sai làm hai việc kia rồi tự hành tà dâm, vì hành vi này hoàn toàn do mình, không phải người khác. Nếu chủng loại kia hòa hợp thì tất cả đều rốt ráo. Nghiệp đạo miệng có một đều chuyển, đó là nói thêu dệt, cả hai đều chuyển, đó là bao gồm cả nói dối là nói lời không phải lúc, nói lời thêu dệt, gồm cả muốn nói lời ly biệt, nói lời thêu dệt không đúng lúc, hoặc gồm cả nói lời hung dữ, nói lời thêu dệt không phải lúc. Ba ng- hiệp đều chuyển, nghĩa là gồm thâu muốn nói lời chia rẽ, nói dối, nói lời thêu dệt không phải lúc, gồm ác khẩu, nói lời chia rẽ, nói thêu dệt không phải lúc. Bốn thứ cùng chuyển bao gồm muốn nói lời chia rẽ, nói dối, ác khẩu, nói lời thêu dệt không phải lúc. Nghiệp đạo của ý là mỗi mỗi đều chuyển, vì hành vi riêng, nên không phải là hai nghiệp đạo. Như vậy năm, sáy, bảy, tám nghiệp đạo cùng chuyển, sai người làm sáu thứ kia, tự hành tà dâm, chứ không do người khác. Nếu chủng loại kia hòa hợp thì trong một lúc đều rốt ráo và tham sẽ hiện ở trước. Với tám nghiệp đạo bất thiện như vậy đều cùng chuyển biến với tư. Hỏi: Có bao nhiêu nghiệp đạo thiện được chuyển biến cùng lúc với tư? Đáp: Cái gọi nghiệp đạo thiện Hai, ba cùng với bốn Sáu, bảy, chín với mười Cùng tư chuyển một lúc. Năm thức thân thiện cõi Dục hiện ở trước. Ba thức của địa Sơ thiền và dựa vào tận trí, trí vô sinh cõi Vô Sắc. Hai nghiệp đạo thiện này cùng chuyển với tư, nghĩa là vô tham, vô sân. Ý thức thiện cõi Dục hiện ở trước, với tâm bất định cõi Sắc và cõi Vô Sắc. Lại, dựa vào ba việc chính kiến vô lậu, cõi Vô Sắc, đều cùng chuyển biến với tư. Ưu-bà-tắc và Sa-di nhiễm ô và tâm vô ký thọ luật nghi. Bốn tức năm thức trụ thiện này, sáu tức ý thức trụ thiện này và tâm vô ký, chẳng phải tâm của Tỳ-kheo nhiễm ô. Năm thức trụ thiện của bảy Tỳ-kheo nếu dựa vào thiền tận trí, trí vô sinh đi chung với tâm. Chín, tức ý thức trụ thiện của Tỳ-kheo này và tâm định cõi Sắc, dựa vào chính kiến thiền vô lậu hiện ở trước, mười nghiệp đạo thiện cùng chuyển với tư. Hỏi: Nghiệp đạo nào có bao nhiêu quả? Đáp: Mỗi quả có ba thứ Cái gọi là quả báo Quả nương và tăng thượng Gọi là quả nghiệp đạo. Mỗi nghiệp đạo đều có ba quả, nghĩa là quả báo, quả y và quả tăng thượng. Tu tập nghiệp đạo kia, thường tu tập đọa trong địa ngục là quả báo. Ra khỏi địa ngục sinh lên cõi người, thọ quả giống nhau, nghĩa là kẻ sát sinh thì tuổi thọ ngắn ngủi, kẻ ăn trộm sẽ bị mất hết của cải, kẻ tà dâm, vợ sẽ không trinh tiết, hiền lành, người nói dối sẽ bị mang tiếng xấu chê bai. Kẻ nói lưỡi đôi chiều thì bạn thân họ đều chống đối, tránh xa, kẻ ác khẩu thì thường nghe tiếng xấu, người hay nói thêu dệt, thì lời nói của họ không đúng đắn, kẻ tham thêm tham, người giận dữ giận thêm dữ, kẻ tà kiến càng si mê thêm, đây là quả y. Các quả tăng thượng của nghiệp đạo này là mọi công cụ thô sơ, không sáng sạch, thường gặp phải sương mù, giông bão, bụi nhiễm ô, vẫn đục, hôi hám, bất tịnh, chỗ cư trú đầy quanh co, chông gai, nguy hiểm. Kết quả chắc chắn của hành động châm chích độc ác là sự lung lạc, nhỏ mọn, là nỗi đau khổ to lớn, không có hoa quả. Hỏi: Quả giống nhau thế nào? Đáp: Khổ của đường khổ khác Hại tuổi thọ chết yểu Đồ dùng không sáng sạch, Hoại vật sáng, sạch kia. Khổ của đường khổ khác, nghĩa là sát sinh làm cho người kia chịu nỗi đau khổ, bị khổ của đường ác, là quả giống nhau. Hỏi: Giết những ấm nào? Là sắc ấm hay năm ấm? Đáp: Có thuyết nói là sắc ấm, vì sắc có thể cắt đứt, hư hoại, còn bốn ấm chẳng phải xúc. Có thuyết nói năm ấm, bốn ấm tuy chẳng phải xúc, nhưng vì các ấm đó đều dựa vào sắc ấm mà chuyển biến, nên giết sắc ấm, thì cũng giết các ấm đó, như chiếc bình đã bể thì sữa sẽ chảy hết. Hỏi: Giết vô ký hay giết cả ba thứ? Đáp: Có thuyết nói là vô ký, vì vô ký nhận dao, gậy,ba thứ còn lại không phải xúc. Lại nói tất cả ba thứ như trước đã nói. Hỏi: Giết ấm nào? Quá khứ chăng? Vị lai, hiện tại chăng? Nếu là quá khứ thì ấm kia đã diệt, nếu là vị lai thì ấm kia sẽ không thể được, nếu là hiện tại thì ấm kia không dừng lại trong khoảng sát-na? Đáp: Có thuyết nói đời vị lai, hiện tại thì trụ, ở vị lai hòa hợp. Có thuyết nói là vị lai, hiện tại vì hiện tại tiếp nhận dao gậy, ấm diệt không tiếp nối nhau. Hại tuổi thọ thì chết yểu, nghĩa là kẻ giết hại người kia vì cắt dứt mạng sống của họ nên tuổi thọ ngắn ngủi. Đồ dùng bên ngoài không sáng sạch, vì họ đã phá hoại sự sáng sạch của người kia, nghĩa là kẻ giết hại kia vì đã làm hư hoại vẻ sáng sạch kia nên mọi công cụ đã được đều không sáng sạch, tất cả nghiệp đạo đều tùy thuộc vào sự thích ứng, nên biết. Trộm cắp và tà dâm, dù không làm cho người kia đau khổ, nhưng vì làm hư hoại niềm hy vọng, nếu không chia rẽ, cũng gọi là lưỡi đôi chiều. Dù người kia không gây phiền hà cũng gọi là ác khẩu. Đã nói về nghiệp đạo, nay sẽ nói: Về sự khác nhau của nghiệp đạo, Gọi nghiệp quả hiện pháp Kế thọ nhận sinh quả Quả sau cũng như thế Nên biết mỗi phần định. Ba nghiệp là hiện thọ sinh, thọ hậu thọ. Thọ nghiệp hiện pháp, nghĩa là nếu nghiệp đã gây ra ở đời này, tức là chín muồi ở đời này gọi là hiện thọ, nếu chín muồi ở đời thứ hai gọi là sinh thọ, nếu chín muồi ở đời sau thứ hai, gọi là hậu thọ. Hoặc có sự ham muốn khiến cho bốn nghiệp: Ba nghiệp trước và bất định thọ, ba nghiệp trước không chuyển, bất định thọ là chuyển, chuyển là hộ sự trì giới, v.v… Thí Dụ giả nói: Tất cả nghiệp chuyển cho đến Vô gián. Thuyết đó nói nếu nghiệp vô gián không chuyển thì cũng sẽ không có sự vượt qua đệ nhất hữu. Nếu vượt qua đệ nhất hữu thì nên biết nghiệp vô gián cũng chuyển. Thuyết đó nói nghiệp hiện pháp không hẳn là hiện báo chín muồi, vì nếu chín muồi là thọ hiện pháp chứ không phải pháp khác. Nói như vậy có nghĩa là nói báo hiện pháp của tám nghiệp, hoặc nhất định, hoặc không nhất định, cho đến nghiệp bất định thọ cũng như vậy. Cho nên thuyết đó nói về phần định chín muồi, bất định nên chia ra bốn trường hợp: Hoặc phần định, thuần thục bất định. Hoặc thuần thục phần định, bất định. Hoặc về phần định, thục cũng định. Hoặc không phải là phần định, cũng không phải định chín muồi. Hỏi: Bốn nghiệp này có bao nhiêu thứ chủng loại của một thân? Đáp: Có ba, trừ hiện pháp thọ bốn loại nghiệp chủng của cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc cũng như vậy. Có bốn loại nghiệp chủng bất thiện của địa ngục. Thiện có ba loại, trừ nghiệp hiện thọ, cõi khác đều có bốn loại. Phàm phu sinh cõi Dục, ái dục chưa dứt hết, cõi Dục có bốn thứ chủng loại. Nếu ái dục đã dứt hết thì ái của Phạm thiên chưa dứt hết. Nếu pháp chủng tính bất thoái, nghĩa là cõi Dục có ba thứ chủng loại, trừ sinh thọ. Phạm thiên cũng có ba loại trừ hiện thọ. Nếu pháp chủng tính thoái thì Phạm thiên như trước đã nói. Cõi Dục có bốn thứ nghiệp chủng thiện. Như thế tùy theo nghĩa, của tất cả địa sinh phàm phu, bậc Thánh cũng nói như vậy. Đã nói hiện thọ, v.v… nay sẽ nói về lạc thọ: Nghiệp thiện trong cõi Dục Và ba địa cõi Sắc Nói tên là lạc thọ Đây cũng định, bất định. Nghiệp thiện trong cõi Dục và ba địa cõi Sắc, nói tên là lạc thọ: nghĩa là nghiệp thiện cõi Dục sẽ được lạc thọ và các báo đầy đủ, cõi Sắc cho đến nghiệp của đệ Tam thiền đều được lạc báo. Hỏi: Nghiệp của thiền trung gian được những báo nào? Đáp: Có thuyết nói lạc báo của Sơ thiền, đây không phải là thuyết vì do Tỳ-đàm nói. Hỏi: Hoặc nghiệp được tâm thọ không phải thân chăng? Đáp: Có, nghiệp thiện vô giác. Lại nói nghiệp của thiền trung gian không được thọ báo, vì chỉ có sắc, tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Phần này cũng nhất định chăng? Đáp: Phần này cũng nhất định, không nhất định, hoặc nhất định, hoặc không nhất định, thiện trong bốn địa này đều có lạc báo. Được không khổ không vui Đây nói là thượng thiện Nếu thọ ở báo khổ Là nói nghiệp bất thiện. Được không khổ không vui, đây nói là thượng thiện, nghĩa là nghiệp thiện của địa đệ Tứ thiền và nghiệp thiện của địa Vô Sắc, nói là báo không khổ, không vui, là vì địa đó được thọ không khổ, không vui và chúng cụ. Hỏi: Vì sao địa dưới không có báo không khổ, không vui? Đáp: Có thuyết nói: Vì địa dưới thì thô, còn địa trên thì thọ nhận tinh tế, vì địa dưới không vắng lặng, còn địa trên thì thọ sự vắng lặng. Nếu địa dưới tạo nghiệp thiện vì đều thọ lạc thọ, không có sự mong cầu thọ bất khổ, bất lạc. Tuy không mong cầu báo khổ, nhưng vì do mong cầu niềm vui, nên tạo ra hành vi ác. Cho nên tuy không mong cầu mà vẫn thọ báo khổ. Nếu thọ báo khổ là nói nghiệp bất thiện, thì nghiệp bất thiện được gọi là báo khổ, vì quả của khổ thọ không phải nghiệp thọ báo một mình. Bốn ấm, năm ấm cũng thọ báo, chỉ vì nghiệp vượt hơn nên nói là nghiệp thọ báo, phải biết nghiệp này cũng có nhất định và không nhất định. Hỏi: Có bao nhiêu thứ thọ? Đáp: Cái gọi thọ tự tính Tương ưng với thọ báo Hiện tiền và cảnh giới Là nói năm thứ thọ. Năm thứ thọ, đó là thọ tự tính, thọ tương ưng, thọ báo, thọ hiền tiền và thọ cảnh giới. Thọ tự tính nghĩa là thọ. Thọ tương ưng nghĩa là thọ pháp tương ưng. Thọ báo nghĩa là nghiệp lạc thọ, v.v… Thọ hiện tiền nghĩa là hiện tại thọ. Như kinh Đại Nhân nói: “Nếu lúc lạc thọ biểu hiện ở trước thì hai thọ diệt”. Thọ cảnh giới nghĩa là mắt tiếp xúc sinh ra cảm giác, thọ sắc là nghĩa duyên theo. Trong năm thứ thọ này nên biết là nói thọ báo, chứ chẳng phải thọ khác. Hỏi: Đức Thế Tôn nói bốn nghiệp như hắc báo, v.v… được kiến lập thế nào? Đáp: Có nghiệp thiện cõi Sắc Là bạch có báo bạch Hắc, bạch trong cõi Dục Đều hắc, nói bất tịnh. Có nghiệp thiện cõi Sắc là bạch, có báo bạch, nghĩa là nghiệp thiện cõi Sắc là hoàn toàn không có sân hận, vì lìa hắc. Hỏi: Nghiệp của cõi Vô Sắc vượt hơn, không phải cõi Sắc, vì sao không nói? Đáp: Vì hai báo. Cõi Sắc thọ nhận trung ấm và sinh ấm, cõi Vô Sắc chỉ có sinh ấm. Như vậy cõi Sắc, Vô Sắc có thể thấy, không thể thấy thọ báo có đối không đối. Lại vì hai cõi đó có thọ báo của ba nghiệp, năm ấm, và mười nghiệp đạo thiện, nên nói. Hắc, bạch trong cõi Dục là nghiệp xen lẫn với nghiệp bất thiện cõi Dục, cho nên nói là hắc, bạch. Lại nữa, hai thứ nghiệp trong một thân có thể được, cũng là hai thứ báo, cho nên nói như vậy. Không phải hắc tức là bạch, vì là tướng khác của hắc. Cùng hắc nói bất tịnh, nghĩa là nghiệp bất thiện nói là hắc. Nghiệp đó có báo hắc và nhân của nghiệp đó cấu uế, vì cấu uế nên nói là hắc và vì thô kém đáng nhàm chán, nên nói là báo hắc, chỉ có hắc là thô kém, không phải là thứ hắc của sự cấu uế, vì không nhiễm ô. Nếu có tư hư hoại Các nghiệp đó không sót Đây nói đạo vô ngại, Gọi là nghiệp thứ tư. Nếu đạo có thể diệt ba nghiệp kia thì đạo đó sẽ tương ưng với tư, là nghiệp thứ tư. Vì nghiệp này không nhiễm ô, không hắc, không đáng ưa, không bạch, vì không rơi vào cõi, nên không có báo. Hỏi: Nghiệp nào? Có bao nhiêu tư dứt trừ? Đáp: Nói có mười hai tư Dứt trừ nghiệp báo hắc Bốn tư dứt được bạch Một tư, hai cùng lìa. Nói có mười hai tư, dứt trừ nghiệp báo hắc, nghĩa là mười hai tư dứt trừ nghiệp báo hắc có bốn pháp nhẫn kiến đạo tương ưng với tư, và lìa dục cõi Dục, tám đạo vô ngại tương ưng với tư. Bốn tư dứt được bạch, nghĩa là bốn tư dứt trừ nghiệp bạch, đạo vô ngại thứ chín của Sơ thiền lìa dục tương ưng với tư, cho đến đệ Tứ thiền lìa dục cũng vậy, vì đạo vô ngại dứt trừ pháp hữu lậu thiện sau cùng. Một tư, hai đều lìa, nghĩa là đạo vô ngại thứ chín của cõi Dục lìa dục, tương ưng với tư, làm tiêu diệt nghiệp hắc và nghiệp hắc bạch. Hỏi: Đức Thế Tôn nói sự tà vạy cấu uế. Về việc này thế nào? Đáp: Tà vạy từ dua nịnh Cấu uế sinh từ sân Dục sinh, là vẩn đục Lời Thế Tôn đã nói. Tà vạy khởi từ dua nịnh, nghĩa là sự dua nịnh là nói quanh co. Đối với pháp của tướng tà vạy mà khởi nghiệp gọi là quanh co, vì quả của sự quanh co đó. Sự dua nịnh, nghĩa là vì không ngay thẳng, nên gọi là tà vạy. Vì sự dua nịnh làm trở ngại, khó thoát khỏi sinh tử, khó nhập Niết-bàn, ví như khúc gỗ cong. Cấu uế sinh từ sân hận, nghĩa là hai thứ cấu uế: Cấu uế tự thân và thân người. Sân hận gọi là cấu uế. Đối với pháp của tướng cấu uế mà khởi nghiệp gọi là cấu uế, vì là quả của pháp đó. Dục sinh là vẩn đục, lời Thế Tôn đã nói, Dục là tính nhiễm ô, nên gọi là vẩn đục. Nếu nghiệp tham muốn đã khởi gọi là vẩn đục, vì quả của sự ham muốn giống như quả của nhân đã nói. Hỏi: Có bao nhiêu thứ đẳng khởi? Đáp: Đẳng khởi có hai thứ Nhân và sát-na kia Như trước đã hồi chuyển Nhân này cũng chuyển theo. Đẳng khởi có hai thứ nhân và sát-na kia là có hai thứ nhân đẳng khởi. Đẳng khởi là ta sẽ làm. Việc phải làm. Đẳng khởi của sát-na kia nghĩa là nếu tâm trụ, tạo ra nghiệp kia. Hỏi: Hai đẳng khởi này những gì là chuyển, những gì là tùy chuyển? Đáp: Chuyển là nếu trước đây với nhân đẳng khởi kia gọi là chuyển, về sau thì nói là tùy chuyển, sát-na đẳng khởi kia được nói là tùy chuyển. Hỏi: Trong sáu thức thân, những gì là chuyển, những gì là tùy chuyển? Đáp: Nếu thức tu đạo đoạn Ở ý có hai thứ Năm thứ tâm nói một Ngoài ra nói hữu lậu. Nếu thức tu đạo đoạn, ở ý có hai thứ: nghĩa là tu đạo dứt trừ, ý thức vừa chuyển, vừa tùy chuyển, vì ý thức đó đều có thể khởi nghiệp. Nghiệp đó cũng là thiện, bất thiện, vô ký, nghiệp thiện kia chuyển tức là thiện tùy chuyển. Bất thiện, vô ký cũng như vậy. Vô ký là oai nghi, công xảo. Tâm oai nghi kia chuyển tức là công xảo nọ cũng chuyển theo. Tâm thiện, nhiễm ô, hiện ở trước thì không đúng, vì sinh khởi rất nhanh chóng, như quay thành vòng tròn lửa. Tâm công xảo cũng giống như vậy. Trước đã nói tâm của sinh báo không khởi nghiệp thân miệng. Năm thứ tâm nói một, nghĩa là năm thức thân nói là thọ tự tác tùy chuyển, chẳng phải chuyển, vì không có tư duy. Ngoài ra nói hữu lậu, nghĩa là tâm kiến đạo dứt trừ, nói là ngoài ra. Tâm đó là chuyển, vì nó có thể làm nhân đẳng khởi, nên chẳng phải tùy chuyển. Không do tâm kiến đạo dứt trừ đẳng khởi nghiệp thân, miệng, vì do vi tế, vì hướng về bên trong. Nếu lại là tâm của kiến đạo dứt trừ, đẳng khởi nghiệp thân, miệng thì nghiệp đó là kiến đạo dứt trừ, hay là tu đạo dứt trừ hay cùng có đạo dứt trừ. Nếu nói là kiến đạo dứt trừ, nghĩa là không có sắc kiến đạo dứt trừ, vì minh và vô minh trái nhau. Nếu nói là tu đạo dứt trừ thì pháp của tu đạo dứt trừ mà tâm của kiến đạo dứt trừ đẳng khởi, điều này không thích hợp. Nếu nói là đều cùng có dứt trừ thì hữu, có thể phân tích, việc này cũng không đúng. Vì như khế kinh nói nghiệp thân miệng của người tà kiến, được gọi là kiến. Nghiệp đó cũng được gọi là nhân đẳng khởi. Hỏi: Những gì là tịnh? Đáp: Tất cả hành diệu tịnh Thân miệng vô học mãn Cái gọi ý viên mãn Tức là tâm Vô học. Tất cả hành diệu tịnh, nghĩa là nếu đã có hạnh diệu thì tất cả gọi là tịnh, nếu thân hành diệu thì nói thân tịnh. Cứ như vậy mà so sánh. Hỏi: Pháp hữu lậu có cấu uế, sao lại nói là tịnh? Đáp: Vì trái với phiền não, vì dẫn dắt đến đệ nhất nghĩa tịnh, nên nói là tịnh. Hỏi: Thế nào là mãn? Đáp: Vì thân miệng vô học mãn, vì thân miệng vô học hành diệu, nên gọi là mãn. Cái gọi là ý mãn, chính là tâm Vô học. Tâm vô học nên nói là ý mãn, vì là tướng của Mâu-ni. Hỏi: Vì sao các sắc ấm, thức ấm gọi là mãn, không phải ấm khác? Đáp: Vì có thô, tế. Tâm là đệ nhất nghĩa mãn, vì so sánh nghiệp thân miệng mà biết được sự ngừng dứt thêm rộng lớn. Phiền não nóng bức không gây tổn thương, vì ý, ngữ không hư hoại, cho nên nói là A-la- hán mãn, không phải quả vị khác. Hỏi: Hành diệu và tịnh mãn có gì khác nhau không? Đáp: Vì chỗ tạo tác nên nói là hạnh diệu, vì thanh tịnh nên nói là tịnh, vì Mâu-ni nên nói là viên mãn. Hơn nữa, vì quả ái, nên nói hành diệu, vì lìa phiền não nên nói là tịnh, vì lìa si nên nói là mãn, đã nói nghiệp, nay sẽ nói quả của nghiệp: Nói quả y, tương tự Báo thì không tương tự Tịnh và quả bất tịnh Cho nên gọi là báo. Quả y, nghĩa là thiện sinh thiện. So sánh như vậy nên biết là nói nhân tự phần. Quả báo nghĩa là quả tịnh, bất tịnh như trước đã nói. Nhân báo tương tự với quả, nghĩa là quả y, không tương tự, nghĩa là nhân thiện, bất thiện, quả vô ký. Cái gọi quả giải thoát Nói lìa dục thấy chân Do công lực đạt được Là nói quả công dụng. Cái gọi quả giải thoát, nói lìa dục thấy chân: Quả giải thoát, nghĩa là dứt trừ. Vì công lực đạt được là nói quả công dụng, nghĩa là nếu quả do công lực chiêu cảm nên cùng với dứt trừ là nói quả công dụng. Các pháp các thứ tướng Quả kia chỉ một tướng Là nói quả tăng thượng Trừ pháp trước đã khởi. Nếu các pháp có nhiều tướng giống nhau, không giống nhau, chỉ có một quả, thì đó là quả tăng thượng, là nhân sở tác. Trừ pháp trước đã khởi, nghĩa là trừ đời trước đối với đời sau, không phải là quả. Hỏi: Quả tăng thượng và quả công dụng có khác gì nhau không? Đáp: Công việc làm đã hoàn thành là quả công dụng, thọ dụng là quả tăng thượng, nghĩa là sự gieo trồng sẽ có hai quả: thọ dụng là có quả tăng thượng. Đã nói chung về quả, nay sẽ nói: Về nếu quả đó là nghiệp hữu lậu. Hữu lậu dứt kiết nghiệp Năm quả là quả hữu Đạo vô lậu dứt kiết Đạo đó có bốn quả. Hữu lậu dứt kiết nghiệp có năm quả là quả hữu, nghĩa là đạo dứt kiết của thế tục, nghiệp đó có năm quả. Nghiệp đó về sau sẽ giống nhau và tăng thượng là quả y, báo của nghiệp đó là quả báo. Kiết kia đã dứt trừ là quả giải thoát. Nghiệp kia đã gây ra và dứt trừ là quả công dụng. Trừ chính mình ra, tất cả pháp khác là quả tăng thượng. Đạo vô lậu dứt trừ kiết, nghiệp đó có bốn quả, trừ quả báo, quả khác như trước đã nói. Nghiệp bất thiện bốn quả Cũng thiện hữu lậu khác Vô lậu khác có ba Nghiệp vô ký cũng vậy. Nghiệp bất thiện bốn quả, cũng là thiện hữu lậu khác, nghĩa là nghiệp bất thiện có bốn quả, trừ đạo dứt trừ kiết (kiết do đạo dứt trừ). Các nghiệp hữu lậu thiện khác nghĩa là đạo phương tiện, đạo giải thoát, đạo thắng tấn và văn tư tu tuệ, v.v… Các nghiệp này cũng có bốn quả trừ quả giải thoát. Vô lậu khác có ba, nghiệp vô ký cũng vậy, nghĩa là trừ vô lậu dứt trừ kiết, các nghiệp vô lậu khác và nghiệp vô ký có ba quả, trừ quả báo và quả giải thoát. Bốn, hai và ba quả Ba, bốn cũng lại hai Ba, hai, ba tịnh thảy Đây gọi là nghiệp quả. Nghiệp thiện nghĩa là lấy pháp thiện làm bốn quả, trừ quả báo, lấy bất thiện làm hai quả là quả công dụng và quả tăng thượng, lấy vô ký làm ba quả, trừ quả y và quả giải thoát. Nghiệp bất thiện lấy pháp bất thiện làm ba quả, trừ quả báo, quả giải thoát, lấy pháp vô ký làm bốn quả, trừ quả giải thoát. Nhân tự phần, nhân biến, lấy thân kiến, biên kiến, pháp vô ký của cõi Dục làm quả y, lấy pháp thiện làm hai quả: Quả công dụng và quả tăng thượng. Nghiệp vô ký nghĩa là lấy pháp vô ký làm ba quả: Quả y, quả công dụng và quả tăng thượng, lấy việc thiện làm hai quả: Quả công dụng và quả tăng thượng, lấy pháp bất thiện làm ba quả, trừ quả báo và quả giải thoát. Quá khứ tất cả bốn Trung, vị lai cũng vậy Trung ở trung nói hai Vị sinh, vị sinh ba. Quá khứ tất cả bốn, nghĩa là nghiệp quá khứ lấy tất cả pháp của ba đời làm bốn quả, trừ quả giải thoát, vì không rơi vào đời. Trung vị lai cũng vậy, nghĩa là nghiệp hiện tại dùng pháp vị lai làm bốn quả, như trước đã nói. Trung ở trung nói hai, nghĩa là nghiệp hiện tại dùng pháp hiện tại làm hai quả: Quả công dụng và quả tăng thượng. Vị sinh vị sinh ba: nghĩa là nghiệp vị lai lấy pháp vị lai làm ba quả: Quả báo, quả công dụng và quả tăng thượng. Tự địa, tự địa bốn Hoặc lấy tha địa hai Nếu địa chính tư duy Cũng có quả giải thoát. Tự địa tự địa bốn, nghĩa là nghiệp của địa mình dùng pháp của địa mình làm bốn quả, trừ quả giải thoát. Như lệ thuộc cõi Dục dùng lệ thuộc cõi Dục, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng cũng vậy. Hoặc lấy tha địa hai, nghĩa là nghiệp của tha địa, lấy pháp của tha địa làm hai quả: Quả công dụng và quả tăng thượng. Nếu nghiệp vô lậu lấy vô lậu của địa người khác làm quả y. Nếu là địa chính tư duy, cũng có quả giải thoát, nghĩa là địa định hoặc có quả giải thoát, nghĩa là thuộc về đạo vô ngại. Đều dùng tất cả ba Ba, hai, một lại năm Nói thứ lớp hai, hai Nói là nghiệp học thảy. Nghiệp của học lấy học làm ba quả: Quả y, quả công dụng và quả tăng thượng, lấy vô học làm ba quả cũng như vậy, lấy phi học, phi vô học làm ba quả: Quả giải thoát, quả công dụng và quả tăng thượng. Nghiệp vô học lấy vô học làm ba quả: Quả y, quả công dụng và quả tăng thượng, lấy phi học, phi vô học làm hai quả: quả công dụng và quả tăng thượng, lấy học làm một quả là quả tăng thượng. Nghiệp của Phi học, phi vô học, lấy phi học, phi vô học làm năm quả, lấy học làm hai quả: Quả công dụng và quả tăng thượng, lấy vô học làm hai quả cũng như vậy. Là nói ba, bốn, một Bốn, ba cùng với hai Bốn lại một cũng hai Là nói nghiệp kiến thảy. Nghiệp của kiến đạo dứt trừ, lấy pháp của kiến đạo dứt trừ làm ba quả: quả y, quả công dụng và quả tăng thượng. Lấy pháp của tu đạo dứt trừ làm bốn quả, trừ quả giải thoát. Lấy pháp không có dứt trừ làm một quả là quả tăng thượng. Nghiệp của tu đạo dứt trừ dùng pháp của tu đạo dứt trừ làm bốn quả, trừ quả giải thoát. Lấy pháp không có dứt trừ làm ba quả: quả giải thoát, quả công dụng và quả tăng thượng. Lấy pháp kiến dứt trừ làm hai quả là quả công dụng và quả tăng thượng. Nghiệp không có dứt trừ dùng pháp không có dứt trừ làm bốn quả, trừ quả báo. Lấy pháp kiến dứt trừ làm một quả, là quả tăng thượng. Dùng pháp tu đạo dứt trừ làm hai quả: Là quả công dụng và quả tăng thượng. Đã nói nghiệp có quả, nay sẽ nói bốn đại tạo tác nghiệp thân, miệng: Tự địa nếu có đại Sở y nghiệp thân, miệng Vô lậu tùy sức được Đây tức là quả kia. Tự địa nếu có đại, sở y nghiệp thân miệng, nghĩa là nếu nghiệp thân miệng cõi Dục, tức là bốn đại tạo cõi Dục của nghiệp thân miệng, nghiệp thân miệng địa Sơ thiền cõi Sắc, tức bốn đại Sơ thiền tạo tác, cho đến đệ Tứ thiền cũng như vậy. Do rơi vào cõi, vì sự kết hợp của phiền não, vô lậu tùy theo sức chứng đắc, vô lậu này tức là quả của địa kia, nghĩa là nghiệp thân miệng vô lậu, tùy theo sức đã nương dựa mà được, tức là bốn đại tạo tác của địa Sơ thiền kia. Nếu sinh Sơ thiền chính thọ vô lậu cõi Dục, cho đến nghiệp thân miệng kia của đệ Tứ thiền, tức là bốn đại cõi Dục tạo. Sự sinh của tất cả địa cũng như vậy, vì không rơi vào cõi, vì chẳng phải phiền não kết hợp. Nếu quả Tu-đà- hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và hướng đến phẩm Tỷ trí, Pháp trí trong đạo Ba-la-mật, của Bích-chi-Phật, Phật Thanh văn, dựa vào thân cõi Dục hiện ở trước. Tất cả nghiệp bốn đại cõi Dục tạo tác ấy. Nếu dựa vào thân cõi Sắc hiện ở trước, bốn đại tạo của cõi Sắc, của tất cả nghiệp kia, Hữu học sanh cõi Vô Sắc, nương giới vị lai của năm địa thành tựu. Nếu trước đây địa khi khởi đạo vô lậu, tức dựa vào địa quá khứ kia. Nếu địa đó được qua A-la-hán, địa đó đã xả học giới, được vô học vị lai, dựa vào giới của năm địa. Hỏi: Đức Thế Tôn nói ba chướng. Ba chướng này thế nào? Đáp: Nghiệp vô gián không cứu Sinh rộng các phiền não Đường ác thọ báo ác Chướng ngại cần phải biết. Ba chướng: nghiệp chướng, phiền não chướng và báo chướng, nghĩa là vì chướng ngại Thánh đạo và phương tiện của Thánh đạo nên nói là chướng, trừ ba chướng này, pháp khác tùy là chướng ngại, nhưng năm nhân duyên của ba chướng này rất dễ thấy, dễ biết, đó là xử thú sanh quả. Nghiệp chướng kia là năm nghiệp vô gián. Đó là hại cha, hại mẹ, hại A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu. Nghiệp báo vô gián này phải đọa vào địa ngục. Cho nên nói là Vô gián. Vì có hai nhân duyên nên bị Vô gián, đó là phản bội ơn nghĩa và làm hư hoại ruộng phước. Hại cha mẹ là bội ân, vô gián, còn lại là làm hư hoại ruộng phước vô gián, tội lớn hơn hết đó là phá hoại tăng, kế đến làm thân Phật chảy máu, kế đó là hãm hại A-la-hán, thứ đến hại cha hại mẹ. Về nghĩa này sẽ được nói rộng trong phẩm Tạp. Phiền não chướng nghĩa là phiền não siêng năng và nhạy bén. Có khi chúng sinh có phiền não siêng năng mà không nhạy bén, nên chia làm bốn trường hợp: Siêng năng mà không nhạy bén, nghĩa là phiền não thường hoạt động nhẹ. Nhạy bén mà không siêng năng, nghĩa là phiền não tăng thượng, không thường hoạt động. Vừa siêng năng, vừa nhạy bén, nghĩa là phiền não tăng thượng thường hoạt động. Không siêng năng không nhạy bén, nghĩa là phiền não nhẹ không thường hoạt động, phiền não kia nhẹ mà không nhạy bén. Đây là nói phiền não chướng, vì dựa vào kiết phẩm hạ liền có phẩm trung, dựa vào phẩm trung liền có tăng thêm. Nếu phiền não nhạy bén, không siêng năng thì không phải chướng, vì không thường hoạt động. Nếu cùng có là tất cả ác, không cùng có là tất cả vượt hơn. Phải biết căn thiện cũng như vậy. Vì hoạt động phiền não nên kiến lập chướng, không phải thành tựu, nghĩa là do tất cả chúng sinh đều thành tựu phiền não, tùy thuộc vào điều mà chúng thích hợp. Phiền não chướng kia nghĩa là phải nên biết, hạng huỳnh môn, khí hư, Phú-lan-na, v.v… Lại nói Nan-đà Ương-quật-ma, Uất-tỳ-la-ca-diếp. So sánh như vậy là vì sức nói nên người kia được kiến đế. Xá-lợi- phất, v.v… không phải là cảnh giới của họ. Báo chướng nghĩa là chỗ cõi ác Uất-đơn-việt, trời Vô tưởng. Hỏi: Tại sao chướng này là điều ác rất lớn? Đáp: Gọi là phiền não chướng Là nói ác rất lớn Nghiệp Vô gián là trung Báo chướng thì rất nhẹ. Phiền não chướng là điều ác lớn hơn hết trong ba chướng, kế đến là nghiệp chướng và sau đó là báo chướng vì phiền não chướng có thể chuyển thành nghiệp chướng, nghiệp chướng chuyển thành báo chướng. Lại nói báo chướng là điều ác rất lớn, vì có lúc tất cả nhân có thể chuyển thành quả, có lúc không thể chuyển, việc này không đúng. Vì nhân kia hoặc có phiền não chướng thành tựu, hoặc nghiệp chướng hay báo chướng, hoặc phiền não chướng, nghiệp chướng, hoặc phiền não chướng, báo chướng, không có nghiệp chướng, báo chướng đều cùng thành tựu, vì nhân quả không đi chung. Nghiệp chướng kia thì ở ba phương còn phiền não chướng và báo chướng nọ lại hiện diện ở năm đường. Hỏi: Như vừa nói nghiệp vô gián, tội đó rất lớn là phá hoại Tăng, vậy sự phá hoại Tăng có tính gì? Đáp: Là tính không hòa hợp Nên biết là hoại tăng Vô ký không ẩn mất Là hành bất tương ưng. Tăng hoại, là tính không hòa hợp, vô ký không ẩn mất, thuộc về hành ấm bất tương ưng, tội phá hoại tăng là nói dối. Hỏi: Những ai thành tựu? Đáp: Người hoại chính là Tăng Tội là người hoại tăng Kia thọ báo một kiếp Trong địa ngục Vô Trạch. Hoại đây là Tăng, tội là người hoại Tăng: nghĩa là Tăng thành tựu mà bị phá hoại thì người phá hoại Tăng tạo thành tội. Người đó sẽ phải cảm thọ báo một kiếp trong địa ngục Vô Trạch, nghĩa là tội phá hoại Tăng sẽ phải chịu báo một kiếp trong địa ngục Vô Trạch. Nếu gây ra các hành vi ác khác là gieo trồng nhân báo ở địa ngục khác, địa ngục đó có lẽ là Vô Trạch. Về sau này người đó không thể phá hoại Tăng. Sau khi phá hoại Tăng còn gây ra hành vi ác khác, tất cả tội của họ đều là quả địa ngục Vô trạch. Nếu là kẻ phần nhiều làm hành ác là chỗ thọ thân rộng lớn, hòa dịu thì phần nhiều là cảm nhận mọi đau khổ. Nghiệp Vô gián khác về sau này sẽ không có khả năng phá hoại tăng, nghĩa là kẻ phá hoại tăng, chủ yếu là thuộc dòng họ đoan nghiêm, có giữ giới, học rộng, có tài hùng biện. Phải là con người như vậy mới có thể phá hoại Tăng, vì họ tự xưng mình là Đại sư, cho rằng kẻ phạm giới không phải tăng thượng. Hỏi: Thế nào là phá hoại Tăng? Đáp: Đại sư và đạo này Các Tỳ-kheo nhẫn lạ Phá hoại hòa hợp tăng Gọi là kiến hành tăng. Đại sư và đạo này, các Tỳ-kheo nhẫn lạ, phá hoại hòa hợp Tăng: nghĩa là Tỳ-kheo khởi lên hy vọng rằng: “Đề-bà-đạt-đa là Đại sư của ta, chứ không phải Cù-đàm”. Họ đặt ra năm pháp là đạo, không phải tám chính nên biết là hoại tăng. Lại nói, thọ thể kiến văn cùng với tăng. Hỏi: Những người nào phá Tăng? Đáp: Đó là những người kiến hành tăng thượng, người kiến hành hoại tăng, có hy vọng xấu ác, không phải người có hành động đáng yêu, do hành vi xem thường. Hỏi: Người tại gia phá hoại tăng hay người xuất gia? Đáp: Tỳ-kheo thọ giới cụ túc, Tỳ-kheo phá hoại tăng, chứ không phải kẻ tại gia, không phải Sa-di, không phải Tỳ-kheo-ni. Nếu tâm người đó trụ phá hoại tăng, tức tâm họ là quả, đủ sáu thức thân, mỗi thức thân đều biểu hiện ở trước. Làm hoại tri giác của tăng cũng như vậy. Hỏi: Ở chỗ nào? Có bao nhiêu người phá hoại Tăng, Đáp: Ba phương ít nhất tám Đây là hoại yết-ma Diêm-phù-đề đến chín Đây là hoại pháp luân. Ba phương ít nhất tám, đây là hoại yết-ma, nghĩa là sự phá hoại yết-ma Tăng trong ba thiên hạ. Ít nhất là đến tám, lấy bốn người gọi là Tăng, chứ không phải ba người. Nếu ở trong giới nội cùng một trú xứ mà hai bộ tăng, mỗi bộ đều làm yết-ma riêng, phải biết đó là tăng hoại. Hỏi: Ở nơi nào? Phá hoại pháp luân Gồm bao nhiêu người? Đáp: Diêm-phù-đề đến chín người, đây là sự phá hoại pháp luân, phá hoại pháp luân ở Diêm-phù-đề, chứ không phải chỗ khác, vì ở cõi này có đạo thì cũng có dị đạo. Nếu ở đây có Đại sư, thì sẽ có sư khác. Ít nhất đến chín người, cho đến hai bộ tăng, khác nhau. Có một tăng mà đồng, nghĩa là Tăng giáo huấn, Tăng tùy thuận, nghĩa là bộ Tăng nhằm dạy không hổ, không thẹn, đó là Đề-bà-đạt-đa. Hỏi: Là phá hoại Thánh tăng hay phàm phu tăng? Đáp: Phá hoại phàm phu tăng, chứ không phải bậc Thánh, do nhóm chính định, vì tịnh bất hoại. Lại nói phàm phu đắc nhẫn, cũng không phá hoại, vì đã nhập Thánh tăng quyết định, vì Đức Thế Tôn không phá hoại quyến thuộc. Hỏi: Trú ở đâu thì phần tăng không hoại? Đáp: Không kiết giới trước sau Mâu-ni đã Niết-bàn Khi chưa khởi dứt thịt Không có hai đệ nhất Trong sáu thời gian này Thì không hoại pháp luân. Có sáu thời gian, Tăng không hoại, nghĩa là không kiết giới, về nhân duyên kiết giới ở trước đã nói, cũng không phải trước, cũng không phải sau. Vì tăng trong hai bộ này chỉ là một vị, cũng không phải sau khi Đại sư nhập Niết-bàn, vì không có sư nào khác, cũng không phải lúc chưa khởi giới ác, kiến ác, mà thôi ăn thịt, cũng không phải vì lúc chưa kiến lập cặp thứ nhất, vì tăng phá hoại không trải qua một đêm ở riêng, vì cặp thứ nhất hòa hợp trở lại. Hoặc có người muốn khiến cho bảy nhân duyên không hư hoại, nghĩa là Đại sư ở trong chúng, vì họ không có oai nghiêm, sáng suốt, không phải tất cả chư Phật đều có việc hoại tăng, do hành động. Hỏi: Trong năm nghiệp vô gián này, nghiệp nào là ác nhất? Đáp: Nói dối phá hoại tăng Rất ác trong các nghiệp Tư trong hữu thứ nhất Là quả lớn hơn hết. Nói dối nhằm phá hoại tăng là tội ác hơn hết trong các nghiệp: Phá hoại tăng bằng sự nói dối là điều rất ác, vì chuyển pháp thân, pháp được Phật coi trọng, vì chúng sinh kia mà chuyển phương tiện rộng. Phá hoại tăng là sự gây phiền hà náo loạn đại chúng. Nếu tăng hư hoại chưa vượt lên lìa sinh, không vượt lên lìa sinh, cũng không được quả, cũng không ngồi thiền, học hỏi, phát sinh nghiệp tư duy, không chuyển pháp luân trong thế giới Đại thiên. Nếu tăng hoà hợp trở lại là người chưa vượt lên lìa sinh sẽ vượt lên lìa sinh và đắc quả, lìa dục lậu tận, tọa thiền, học hỏi, phát sinh nghiệp tư duy thì pháp luân lại được chuyển khắp cả thế giới đại thiên. Hỏi: ỞÛ đây nói sự nói dối là tội rất lớn, còn chỗ khác lại nói ý nghiệp và tà kiến là tội rất lớn, vậy có gì khác nhau? Đáp: Sự nói dối là tội rất lớn trong năm tội vô gián, ý nghiệp là nghiệp rất lớn trong ba nghiệp, tà kiến là kiến chấp rất lớn trong năm kiến. Lại nữa, vì báo rất rộng nên sự nói dối là tội rất lớn. Vì nghiệp cố ý gây phiền não đại chúng là tội rất lớn. Vì cắt đứt căn thiện nên tà kiến là tội rất lớn. Hỏi: Những nghiệp nào có quả rất lớn? Đáp: Tư trong đệ nhất hữu, được nói là quả rất lớn, vì tư đó là do quả báo sống lâu đến tám muôn kiếp ở cõi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, nên nói như thế. Quả giải thoát là tam-muội Kim Cương tương ưng với tư rộng lớn, vì sự tư duy đó dứt hẳn tất cả phiền não đắc quả. Lại nói một tư chủng có tám muôn kiếp, nhưng về sau, nhiều tư hoàn thành viên mãn, như người họa só trước hết dùng một màu để phác họa mô hình rồi sau đó mới vẽ các mầu. Lại nói một thời gian chính thọ, một hành, một duyên, nhiều tư được thể hiện ở trước, trong đó hoặc có tư tiếp nhận tuổi thọ đến mười ngàn kiếp, có ba mươi ngàn kiếp, bốn mươi ngàn kiếp tuổi thọ, đây là nói kiếp số lớn.  <卷>QUYỂN 4 <詞>Phẩm 4: SỬ Đã nói rộng về nghiệp, nghiệp ấy giúp cho phiền não được các thứ sinh, không phải lìa phiền não, nay sẽ nói về phiền não: Căn bản tất cả hữu Bạn nghiệp sinh trăm khổ Nghiệp kia có bảy Sử Đức Phật nói, nên nghó. nghĩa là dục hữu, sắc hữu, Vô Sắc hữu, ở đây có bảy sử như tham dục, v.v… làm hạt giống. Do phiền não nên tạo nghiệp, vì nghiệp nên thọ sinh, phiền não đó giúp cho nghiệp sinh ra hằng trăm nỗi đau khổ không lìa bỏ nghiệp. Lúc phiền não chuyển biến tạo tác nên mười việc, đó là phần rễ vững chắc nối tiếp nhau sinh khởi ở nơi ruộng sinh giống nghiệp, quả y tự đủ sự chín muồi, ngu mê nơi các duyên, dẫn thức trôi chảy vượt qua sự trói buộc nhanh chóng nghiệp thiện, không thiện khiến vượt qua giới phương tiện, người trí kia nên biết nghĩa này. Như bảy sử này là chín mươi tám, nay sẽ nói: Phân biệt giới, hành, chủng Nói có chín mươi tám Mười thứ tu đạo diệt Ngoài ra thấy đạo dứt. Phân biệt giới, hành, chủng của bảy sử này là chín mươi tám sử. Trong bảy sử kia sử tham dục chia hạt giống trong chín mươi tám sử làm năm, sử sân cũng như vậy, chia giới, chủng của sử hữu ái thành mười. Phân biệt giới, chủng của sử khinh mạn thành mười lăm, sử vô minh cũng như vậy. Chia hành của kiến sử làm năm, chia hành, chủng thành mười hai, chia giới, hành, chủng thành ba mươi sáu. Chia giới, chủng của nghi sử thành mười hai. Đây là bảy sử phân biệt thành chín mươi tám. Hỏi: Chín mươi tám sử này có bao nhiêu sử do kiến đạo dứt trừ, bao nhiêu sử do tu đạo dứt trừ? Đáp: Có mười thứ do tu đạo diệt, ngoài ra là do kiến đạo dứt trừ. Ái, mạn, vô minh giới phân biệt thành chín, với sân hận là mười. Tám mươi tám sử còn lại là do kiến đạo dứt trừ, sử kia đối với đế, tạm thấy thì dứt trừ, nên nói là kiến đạo. Nếu thường huân tập theo đạo mà được dứt trừ, nên nói là tu đạo. Nếu kiến đạo dứt trừ là nói kiến dứt trừ. Nếu tu đạo dứt trừ, là nói tu dứt trừ. Tâm bất giác, tâm giác chín loại như vậy có một loại, chín loại có chín loại. Phương tiện phá thạch (kiến đạo) đoạn trừ, phương tiện ngẫu ty (tu đạo), chưa thấy quán nhó-diệm, đã thấy quán nhó-diệm. Khi đoạn trừ ấy, tu bốn hành đạo là kiến đạo dứt trừ. Lúc dứt trừ, tu mười sáu hành đạo, là tu đạo dứt trừ. Đối vô sự, đối hữu sự cũng như thế. Đã nói đối trị sử khác nhau, nay sẽ nói về chủng loại khác nhau. Sử có hai mươi tám Là chướng việc kiến khổ Kia phải thấy lúc khổ Hết hẳn không còn sót. Kiến dứt trừ hai mươi tám chướng trong tám mươi tám sử. Vì kiến khổ, nên kiến khổ dứt trừ, về nghĩa dứt trừ sẽ nói đến sau phẩm này. Kiến tập dứt mười chín Phải biết diệt cũng thế Thêm ba kiến đạo dứt Mười nói tu đạo diệt. Kiến tập dứt trừ mười chín sử chướng, vì kiến tập nên kiến tập dứt trừ, phải biết diệt cũng thế. nghĩa là kiến diệt dứt trừ mười chín sử cũng như thế, thêm ba kiến đạo dứt trừ, nghĩa là hai mươi hai sử do kiến đạo dứt trừ. Nói tu đạo diệt mười, mười sử do tu đạo đoạn như trước đã nói, nay sẽ nói: Về sự khác nhau của giới, Đệ nhất phiền não chủng Ở dục phải biết mười Hai thứ, chủng có bảy Tám kiến đạo đoạn khác. Đệ nhất phiền não chủng, ở dục phải biết mười như trước nói đầu tiên kiến khổ dứt trừ phiền não chủng, mười sử kia thuộc cõi Dục. Hai chủng, chủng có bảy, là kiến tập, kiến diệt dứt trừ, mỗi thứ có bảy sử thuộc về cõi Dục. Tám kiến đạo đoạn khác, nghĩa là kiến đạo dứt trừ tám sử thuộc cõi Dục. Cõi Dục cần phải biết Bốn là tu đạo đoạn Nói hai giới trên khác Phải biết đồng đạt được. Cõi Dục cần phải biết, bốn tu đạo dứt trừ, nghĩa là nếu phiền não do tu đạo dứt trừ thì phiền não có bốn thứ thuộc về cõi Dục. Nói cõi Dục có ba mươi sáu sử như thế, ngoài ra hai cõi trên, nghĩa là sáu mươi hai sử còn lại ở cõi Sắc, Vô Sắc. Hỏi: Có bao nhiêu thuộc cõi Sắc, bao nhiêu thuộc cõi Vô Sắc? Đáp: Phải biết đồng đạt được. Ba mươi mốt sử kia thuộc cõi Sắc, ba mươi mốt sử thuộc cõi Vô Sắc. Đã nói sự khác nhau của giới, chủng, nay sẽ nói về tự tướng của sử: Cái gọi hữu thân kiến Thọ biên kiến, tà kiến Hai thủ cần phải biết Năm ấy gọi là kiến. Các hành từ duyên khởi mà không biết là tâm rối loạn, người ngu đối với năm thọ ấm, hoặc tự, hoặc cộng, khởi lên ngã, ngã sở, suy xét như thế rồi chấp trước, đây gọi là thân kiến. Đối với các hành thọ đoạn, thường, suy xét như thế rồi chấp trước, gọi là thọ biên kiến. Không có thí, v.v…, suy xét như thế rồi chấp trước gọi là tà kiến. Đối với pháp hữu lậu, thọ bậc nhất, suy xét thế rồi chấp trước. Vì thủ kiến, v.v…, trừ v.v… nên gọi là kiến thủ kiến. Đối với hành hữu lậu thọ nhận tịnh, v.v… suy xét rồi chấp trước. Vì thủ giới, v.v… trừ, v.v… nên gọi là thủ giới kiến. Vì năm phiền não này quyết đoán nên nói là kiến. Do một tà kiến này quyết đoạn tà, vì hành khác nhau nên nói năm kiến (hai thủ, trong tiếng Phạm, cũng có thể nói là “ma”, cũng có thể nói là thử, đều là nghĩa có trộm lấy, nghĩa lựa chọn. Dù sự thật trái với lý, mà ý vẫn còn cầu tông, nên nói là lựa chọn. Vì đối tượng thọ không phải đạo, nên nói là trộm lấy). Tham dục, nghi, sân hận Mạn, si, nói phi kiến Cảnh giới chuyển khác nhau Kiến lập nhiều thứ tên. Tham dục, nghi, sân hận, mạn, si nói phi kiến, nghĩa là đối với cảnh giới kia ưa đắm, gọi là tham dục. Đối với đế, hoặc gọi là nghi. Chúng sinh không phải chúng sinh số, phẫn nộ, gọi là sân hận. Dòng họ, sắc lực, giàu có, quyền thế, các phương, kỹ thuật, v.v… khởi lên ý tự cao cho kẻ khác là thấp, ngang bằng, gọi là mạn. Ngu đối với đế, gọi là si. Vì năm phiền não này không phải tính tuệ, nên chẳng phải kiến, đây là mười sử. Cảnh giới chuyển khác nhau, kiến lập nhiều thứ tên, nghĩa là các sử này nếu che lấp kiến khổ thì nói là kiến khổ dứt trừ. Che lấp kiến tập, diệt, đạo như thế gọi là kiến đạo dứt trừ. Khổ dưới nói tất cả Hai hành lìa ba kiến Đạo trừ ở hai kiến Cõi trên không hành sân. Khổ dưới nói tất cả: Khổ dưới nghĩa là khổ cõi Dục. Tất cả mười sử kia vì trái với tướng khổ, nên kiến khổ dứt trừ. Hai hành lìa ba kiến: nghĩa là trừ thân kiến, biên kiến, giới thủ, bảy sử còn lại vì trái với kiến tập, diệt nên kiến tập, diệt dứt trừ. Đạo trừ ở hai kiến, nghĩa là trừ thân kiến, biên kiến, tám sử còn lại vì trái với kiến đạo nên kiến đạo dứt trừ. Hỏi: Vì sao thân kiến, biên kiến do kiến khổ dứt trừ, không phải thứ khác? Đáp: Vì chuyển khổ xứ, vì chuyển quả xứ, kiến khổ kia dứt trừ không xa, tùy theo căn. Vì kiến này không tùy thuộc căn, nên lúc mới kiến đế liền dứt trừ. Hỏi: Vì sao giới thủ do kiến khổ, kiến đạo dứt trừ, chứ không phải tập, diệt? Đáp: Vì xứ kia khởi lên dị học, trái với hai đế, không phải tập diệt. Vì chỗ cấu uế, đối với dục của tập đế, vì chỗ tắm gội nên đối với dục của diệt đế. Nếu pháp bên trong thì kiến khổ dứt trừ, pháp bên ngoài thì kiến đạo dứt trừ. Hỏi: Nghi, sử sao không phải do tu đạo dứt trừ? Đáp: Vì đối với việc không thấy nên nghi, vì đối với việc thấy nên dứt trừ. Vì sức khởi kiến nên không có kiến, tu đạo dứt trừ. Cõi trên không hành sân, nghĩa là cõi Sắc, Vô Sắc trừ sân, ngoài ra như nói về cõi Dục. Cõi Sắc kiến khổ dứt trừ chín. Kiến tập, diệt dứt trừ sáu. Kiến đạo dứt trừ bảy, tu đạo dứt trừ ba, Cõi Vô Sắc cũng như thế. Hỏi: Vì sao hai cõi trên không có sân? Đáp: Vì hai cõi kia không có tính của không hổ, không thẹn, san, tật, ưu, khổ. Vì lặng dừng nuôi thân, vì được tâm từ, vì không có tính của chín não, vì lìa tướng không tạo lợi ích và vì lìa toàn bộ bất thiện, vì không có hai quả cho nên không sân hận. Đã nói giới sử được kiến lập, nay sẽ nói về nhất thiết biến: Cùng khắp ở nhân khổ Nghi, kiến và vô minh Là sử nhất thiết chủng Là ở nơi một địa. Kiến khổ, tập dứt trừ nghi, kiến, tương ưng với vô minh và bất cộng. Mười một sử này phải biết là “Nhất thiết biến” của địa khác. Vì cảnh giới rộng. Tự địa duyên với năm thứ sử như thế, nên địa trên không sai khiến địa dưới, vì không phải cảnh giới, vì lìa dục, vì dứt trừ sự nhận biết. Địa dưới cũng không sai khiến địa trên, vì yếu kém, vì không phải bị sự sai khiến, vì dựa vào quả không thể đắc. Phải biết kiến đế dứt trừ là nhân tố của tất cả pháp cấu uế. Pháp đó nên như thế. Vì sao bậc Thánh không khởi, không có chủng của ái, sân hận, triền, mạn hiện ở trước, nên nói không phải phần chuyển? Không có ái: nghĩa là dứt trừ kiến đã được nuôi lớn, tùy theo sự dứt trừ tri kiến khởi, vì dứt trừ kiến kia diệt. Sân triền nghĩa là tà kiến được nuôi lớn, theo tà kiến khởi, vì tà kiến kia diệt. Mạn chủng nghĩa là thân kiến được nuôi lớn, tùy theo thân kiến khởi, vì thân kiến kia diệt. Đã nói nhất thiết biến của tự địa, nay sẽ nói về địa khác: Địa khác là cảnh giới Trừ hai kiến như trước Địa địa chín sử biến Phi tưởng thì không thế. Trước đã nói mười một nhất thiết biến. Trừ thân kiến, biên kiến, chín nhất thiết biến còn lại, từ cõi Dục cho đến Vô Sở Hữu Xứ là nhất thiết biến của địa khác. Tà kiến do kiến khổ ở cõi Dục dứt trừ, hoặc tự, hoặc cộng, vì chê bai quả của cõi Sắc, Vô Sắc. Kiến thủ thọ nhận thứ nhất, giới thủ thọ nhận tịnh, khởi nghi, hoặc vô minh không hiểu rõ, kiến tập dứt trừ tà kiến cõi Dục, hoặc riêng, hoặc chung, chê bai nhân ấm của cõi Sắc, Vô Sắc. Kiến thủ đối với nhân thọ nhận thứ nhất, nghi hoặc vô minh không hiểu rõ, khổ tập dứt trừ tà kiến của Sơ thiền như thế do kiến, hoặc tự, hoặc cộng, chê bai khổ, tập của bảy địa. Nói rộng như thế, cho đến tà kiến của Vô Sở Hữu Xứ do kiến khổ, tập dứt trừ, hoặc tự, hoặc cộng, chê bai khổ, tập của một địa. Nói rộng như thế. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ địa, không có nhất thiết biến của địa khác vì không có địa trên. Giới cũng nói như thế. Cõi Vô Sắc không có nhất thiết biến của cõi khác, vì không có cõi trên. Hỏi: Nhất thiết biến có nghĩa gì? Đáp: nghĩa duyên khắp tất cả hạt giống hữu lậu, là nghĩa của nhất thiết biến. nghĩa duyên lực gìn giữ là nghĩa của nhất thiết biến. Vì tất cả khởi, vì tất cả chúng sinh, vì hết thảy sự việc nên gọi là Nhất thiết biến. Không có phàm phu nào đối với pháp hữu lậu, xưa nay không chấp lấy các hành như ngã, v.v… Hỏi: Vì sao thân kiến, biên kiến được gọi là Nhất thiết biến của tự địa, chứ không phải địa khác? Đáp: Vì kiến hiện cảnh giới, kiến này thấy hiện cảnh giới, không phải địa dưới sinh kiến địa trên, tuy địa trên sinh kiến địa dưới. Ở trước đã nói sử của địa trên không duyên với ái, sân, mạn của địa dưới, vì tự tướng khởi, không duyên với chủng khác, huống gì là duyên nơi địa người khác. Người chưa lìa dục dù ưa địa trên cũng là dục chẳng phải tham. Nếu duyên tà kiến khổ Là trái với kiến khổ Một địa duyên chín địa Duyên tập cũng như thế. Nếu duyên tà kiến khổ, là trái với kiến khổ, một địa duyên chín địa, nghĩa là kiến khổ dứt trừ tà kiến ở cõi Dục, duyên khổ của chín địa. Từ cõi Dục cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, không phải cùng lúc, nghĩa là cõi Dục, không phải cõi Sắc, Vô Sắc. Nếu khác, tức là dứt trừ sự nhận biết hoại và giới hoại. Sơ thiền duyên tám địa, Nhị thiền duyên bảy địa, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng duyên Phi tưởng Phi phi tưởng. Duyên tập cũng giống như thế, nghĩa là như nói kiến khổ dứt trừ tà kiến, kiến tập dứt trừ tà kiến cũng như thế. Hỏi: Vì sao chỉ có sử là nhất thiết biến, còn pháp khác thì sao? Đáp: Nếu sử nhất thiết biến Các hành đồng một quả Phải biết nhất thiết biến Không phải các đắc thảy. Nếu sử nhất thiết biến tương ưng với các pháp như thọ, v.v… và cộng hữu sinh, v.v…, thì đó cũng là nhất thiết biến, vì đồng một quả, vì hòa hợp, vì cùng tùy hành, vì trước sau không có pháp nào không hợp, cho nên gọi là Nhất thiết biến. Vì không phải là tính một qua,û v.v… Đắc không phải là Nhất thiết biến, sử nhất thiết biến, vì ba việc. Năm thứ nhân duyên, năm thứ sử, pháp tương ưng với năm hạt giống, năm loại nhân duyên, không phải năm loại sử vì chẳng phải tính sử. Nhân của năm hạt giống nơi pháp cộng hữu ấy không duyên với năm hạt giống, năm loại không phải sử, cho nên nói: Nếu sử nhất thiết biến, nhân nhất thiết biến thì sẽ tạo ra bốn trường hợp: Sử nhất thiết biến không phải là nhân nhất thiết biến, nghĩa là sử nhất thiết biến ở vị lai. Nhân nhất thiết biến không phải sử nhất thiết biến, nghĩa là sử nhất thiết biến quá khứ, hiện tại tương ưng với pháp cộng hữu. Sử nhất thiết biến, nhân nhất thiết biến, nghĩa là sử nhất thiết biến quá khứ, hiện tại. Không phải sử nhất thiết biến, không phải nhân nhất thiết biến, nghĩa là trừ thuyết trên. Tà kiến tương ưng nghi Và vô minh bất cộng Diệt, đạo mà dứt trừ Phải biết duyên vô lậu. Kiến diệt, kiến đạo dứt trừ tà kiến, nghi tương ưng với vô minh và vô minh bất cộng, phải biết sáu sử này là giới của giới duyên vô lậu. Kiến diệt kia dứt trừ tà kiến, do chê bai diệt. Vô minh, nghi hoặc không hiểu rõ xứ diệt chuyển. Kiến đạo dứt trừ như thế đối với đạo xứ chuyển. Hỏi: Kiến diệt trừ tà kiến là kiến diệt chê bai chăng, hay là không thấy? Nếu thấy thì lẽ ra không chê bai, vì do kiến. Nếu không thấy thì lẽ ra không phải là duyên vô lậu? Đáp: Sự hủy báng chỉ là tà kiến, như người tưởng hữu xứ, chê bai xứ, người tà kiến kia cũng như thế. Hỏi: Như cõi Dục thấy khổ dứt trừ tà kiến, duyên khổ của chín địa, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ duyên một địa, kiến diệt dứt trừ cũng như thế chăng? Đáp: Không như thế. Hỏi: Thế là thế nào? Đáp: Nếu diệt cảnh giới kiến Các hành diệt tự địa Cảnh giới này chẳng khác Diệt tận chẳng phải nhân. Nếu diệt cảnh giới kiến, các hành diệt tự địa, cảnh giới này không khác: nghĩa là kiến diệt dứt trừ tà kiến cõi Dục, duyên các hành cõi Dục mà diệt, không phải Sơ thiền khác. Từ Sơ thiền cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ cũng như thế. Hỏi: Vì sao chẳng phải địa khác? Đáp: Vì Diệt tận không phải nhân. Diệt tận nghĩa là vì vô vi nên không phải nhân lần lượt. Vì không phải là nhân lần lượt, các hành của tự địa diệt là cảnh giới tà kiến, nên không phải pháp khác. Nói trí thiện cũng như thế thì không đúng. Vì sao? Vì chuyển sinh trái nhau. Trí thiện nghĩa là hành đế trái với chuyển sinh, cho nên sự chuyển ấy khác, nhiễm ô cũng khác, vì nhân quả của địa hữu lậu dứt trừ. nghĩa là kiến khổ dứt trừ tà kiến, cũng lấy khổ của tự địa làm cảnh giới là không đúng, vì lần lượt lôi kéo nhau hoặc sinh, hoặc nương, hoặc lập, hoặc nhân vì nhân lần lượt. Hỏi: Kiến đạo dứt trừ tà kiến chuyển thế nào? Như kiến khổ, tập dứt trừ hay như kiến diệt dứt trừ? Đáp: Chuyển khác. Hỏi: Thế là thế nào? Đáp: Nếu cảnh giới kiến đạo Thì kiến kia duyên đạo Lần lượt làm nhân nhau Sáu địa và chín địa. Vì đạo nghĩa là lần lượt làm nhân cho nhau, kiến đạo dứt trừ tà kiến ở cõi Dục, phẩm pháp trí nói tám địa thuộc cõi Sắc, Vô Sắc. Kiến đạo dứt trừ tà kiến duyên chín địa, phẩm tỷ trí, chỉ có pháp trí, tỷ trí lần lượt làm nhân cho nhau. Nếu pháp kia được thấm nhuần do ái cõi Dục, chấp ngã, ngã sở thọ. Các pháp đối trị kia ứng với kiến đạo dứt trừ duyên tà kiến ở cõi Dục, chứ không phải duyên địa khác của phiền não này. Như luận này phần Trí vị tri cũng nói như thế. Hỏi: Pháp trí của diệt, đạo không phải pháp đối trị của cõi Sắc, Vô Sắc ư? Thế nên trí kia ứng với kiến đạo dứt trừ cảnh giới tà kiến của cõi Sắc, Vô Sắc, nếu không phải cảnh giới, cũng không nên nói. Nếu pháp được thấm nhuần do ái của cõi Sắc, Vô Sắc chấp ngã, ngã sở thọ, thì các đối trị kia ứng với kiến đạo dứt trừ duyên tà kiến của cõi Sắc, Vô Sắc? Đáp: Vì đều không hoàn toàn nên không có lỗi, không phải pháp trí hoàn toàn là đối trị của cõi kia. Tuy pháp trí của diệt đạo chẳng phải pháp trí của khổ tập, cũng chẳng phải pháp trí diệt đạo hoàn toàn là đối trị của cõi Sắc, Vô Sắc, chỉ có pháp trí của tu đạo đối trị, chứ không phải kiến đạo, vì kia chẳng phải phần. Thế nên điều ông nói là không đúng. Ví như ý hành của lạc căn (ưu, hỷ, xả ở ý địa, vì do sáu thức nên lập ra mười tám ý hành. Lạc căn cõi Dục không tồn tại ở ý địa, nên không lập ý hành). Hỏi: Vì sao tham, sân, mạn, kiến thủ, giới thủ đều chẳng phải duyên vô lậu? Đáp: Duyên tham không nên trách Không vì chẳng lợi ích Vắng lặng tịnh bậc nhất Kia chẳng duyên vô lậu. Người trí thấy lỗi tham, nếu duyên vô lậu thì đến không thấy lỗi, nếu không thấy lỗi thì cũng không cần dứt trừ. Nếu người muốn đạt Niết-bàn thì dục của pháp thiện này không phải tham ái. Vì không làm lợi ích nên khởi sân. Sự ham muốn kia chẳng phải không lợi ích, vì không vắng lặng nên khởi mạn, nhưng dục kia vắng lặng. Kiến thủ nghĩa là bậc nhất hành chuyển pháp vô lậu đệ nhất. Nếu duyên vô lậu ấy ứng với chính kiến, chứ chẳng phải phiền não, vì không điên đảo. Giới thủ cũng như thế. Hỏi: Các sử sai khiến cái gì? Đáp: Nhất thiết chủng cõi Dục Sử nhất thiết biến sử Duyên trói buộc tự địa Địa trên cũng như thế. Nhất thiết chủng cõi Dục, sử nhất thiết biến sử, duyên trói buộc tự địa, nghĩa là sử nhất thiết biến của cõi Dục duyên năm thứ sử của cõi Dục. Hỏi: Cõi Sắc, Vô Sắc như thế nào? Đáp: Địa trên cũng thế, sử nhất thiết biến của tự địa ở cõi Sắc, Vô Sắc như thế duyên năm thứ sử của tự địa. Là các sử khác ấy Phải biết duyên tự chủng Duyên sử tự cảnh giới Tất cả phẩm sở y. Là các sử khác ấy, phải biết duyên tự chủng, duyên sử tự cảnh giới: nghĩa là không có nhất thiết biến và sử nhất thiết biến khác, vì cảnh giới tự tướng, duyên theo pháp sử tự chủng của phẩm Nhất Thiết sở y, nghĩa là hoặc nhất thiết biến và không nhất thiết biến, hoặc duyên hữu lậu, hoặc duyên vô lậu. Mỗi duyên ấy đều sai khiến pháp tương ưng của tự phẩm. Nếu sử duyên vô lậu Địa khác duyên phiền não Sử tương ưng tự phẩm Vì cảnh giới giải thoát. Nếu sử duyên vô lậu, địa khác duyên phiền não, sử tương ưng tự phẩm, nghĩa là nếu sử duyên vô lậu và tự phẩm duyên địa khác tương ưng với sử, thì chẳng duyên sử, vì sao? Vì cảnh giới giải thoát. Cảnh giới giải thoát của sử này, vì pháp vô lậu giải thoát tất cả phiền não, vì các pháp của địa trên giải thoát phiền não của địa dưới. Hỏi: Mỗi mỗi sử có bao nhiêu sử sai khiến? Đáp: Thân kiến của sử kia Thấy khổ dứt trừ chủng Thấy tập, nhất thiết biến Thấy khổ, khác cũng thế. Thân kiến của sử kia, thấy khổ dứt trừ chủng, thấy tập nhất thiết biến: nghĩa là thân kiến là thấy khổ dứt trừ, bị nhất thiết sử sai khiến, vì tự chủng, và kiến tập dứt trừ chỗ sai khiến của sử nhất thiết biến, vì cảnh giới rộng lớn. Hỏi: Thấy khổ dứt trừ sử khác như thế nào? Đáp: Thấy khổ dứt trừ sử khác cũng như thế. Như nói thân kiến, phải biết thấy khổ dứt trừ sử khác cũng như thế. Như khổ, tập cũng vậy Diệt đạo duyên hữu lậu Hết sử nơi tự chủng Tu đạo dứt cũng thế. Như khổ, tập cũng vậy: nghĩa là như nói thấy khổ dứt trừ, kiến tập dứt trừ cũng như thế. Diệt đạo duyên hữu lậu, hết sử nơi tự chủng, tu đạo dứt trừ cũng như thế: nghĩa là kiến diệt kiến đạo như thế, tu đạo dứt trừ cũng như thế. Sự khác nhau: nghĩa là thấy diệt, thấy đạo dứt sử, tự chủng duyên hữu lậu, sử hết, tự chủng sử và sử nhất thiết biến sai sử, cũng duyên vô lậu tương ưng với sử sai sử. Hỏi: Đã biết sử, chỗ các sử sai sử, các sử của sử, sử nào sai khiến? Cái nào làm duyên cho sử của sử, chẳng phải tương ưng với sử của sử? Cho đến cái nào chẳng phải duyên sử sai khiến, cũng không phải tương ưng với sử của sử? Đáp: Thấy khổ sử tự phẩm Duyên sử và tương ưng Kiến tương ưng vô minh Duyên sử, khác cũng thế. Thân kiến kia, vô minh tương ưng với thân kiến có hai thứ: Sử sử duyên và tương ưng. Thấy khổ dứt trừ sử khác và thấy tập dứt trừ nhất thiết biến duyên sử, chẳng tương ưng với sử, vì phẩm không đồng, sử khác cũng chẳng duyên sử, cũng chẳng tương ưng sử. Thân kiến tương ưng với chẳng phải sử, pháp thân kiến và tương ưng, vô minh tương ưng với sử, cũng duyên với sử, thấy khổ dứt trừ và thấy tập dứt trừ sử nhất thiết biến, duyên sử chẳng tương ưng với sử. Ngoài ra sử cũng chẳng tương ưng, cũng chẳng duyên, như thân kiến. Biên kiến như thế do thấy khổ dứt trừ tà kiến, kiến thủ, giới thủ, nghi, tham, sân, mạn cũng như thế. Thấy khổ dứt trừ vô minh, đối với thấy khổ dứt trừ vô minh và thấy tập dứt trừ nhất thiết biến duyên sử, chứ không phải tương ưng với sử. Ngoài ra kiến khổ dứt trừ sử, vừa là duyên, vừa là tương ưng với sử, ngoài ra cũng chẳng phải duyên, cũng chẳng tương ưng với sử. Như thấy khổ dứt trừ, thấy tập dứt trừ cũng như thế. Kiến diệt, kiến đạo dứt trừ duyên hữu lậu và tu đạo dứt trừ cũng như thế. Sự khác nhau nghĩa là nếu tương ưng với sử có thể được, tức là sử kia tương ưng với sử và duyên sử. Nếu cảnh giới kiến diệt Vô minh cùng sinh kia Các sử nhất thiết biến Duyên hữu lậu trái nhau. Nếu cảnh giới kiến diệt, vô minh cùng sinh kia, nghĩa là kiến diệt dứt trừ tà kiến, tà kiến đó tương ưng với vô minh, tương ưng với sử. Vô minh tà kiến kia tương ưng với sử và pháp tương ưng đó, cả hai đều tương ưng với sử. Hỏi: Sử khác thì thế nào? Đáp: Các sử nhất thiết biến trái với duyên hữu lậu. Nếu nhất thiết biến và chủng do kiến diệt dứt trừ, duyên hữu lậu sử và duyên sử thì chẳng tương ưng sử, cũng chẳng duyên sử. Vì nghĩa này phải biết duyên vô lậu sử khác cũng như thế. Vô minh bất cộng sai khác nghĩa là vô minh kia không có tương ưng với sử của sử. Sử kia và vi nhập Tùy nhập, cũng tùy trục Là từ ba việc khởi Phải biết không dứt thảy. Sử kia và vi nhập, tùy nhập cũng tùy trục, nghĩa là sử kia là tạo tác. Vi nhập là tính, tùy nhập là tương ưng, tùy theo là đắc. Lại nữa, sử như trẻ con bú sữa, vi nhập nghĩa là hành vi tế, tùy nhập nghĩa là như dầu trong cây gai, tùy trục nghĩa là người đi trên không, bóng đi theo dưới nước. Hỏi: Khởi sử kia thế nào? Đáp: Là từ ba sự khởi, phải biết không dứt thảy, vì ba sự nên khởi lên sử tham: Năng lực nhân, năng lực cảnh giới và năng lực phương tiện. Sử tham dục kia không dứt trừ, không biết năng lực của nhân này. Đối tượng duyên của triền tham dục là năng lực cảnh giới. Không chính tư duy là năng lực phương tiện. Đây là nói phiền não đầy đủ nhân duyên, không hẳn phải đủ ba việc, nếu phải đủ ba việc khởi thì không nên lui sụt, phải biết tất cả sử cũng như thế. Hỏi: Các sử là bất thiện hay vô ký? Đáp: Thân kiến thọ biên kiến Vô minh tương ưng kia Vô ký trong cõi Dục Tất cả sắc, Vô Sắc. Thân kiến thọ biên kiến, kia tương ưng vô minh, vô ký trong cõi Dục, nghĩa là thân kiến, biên kiến cõi Dục và tương ưng với vô minh là vô ký. Vì sao? Vì đối với thí, giới, tu không trái nhau. Nếu người chấp ngã mà thực hành bố thí khiến cho đời sau của ta sẽ được vui, cũng như giữ giới, sẽ khiến ta sinh lên cõi trời, cũng như tu đạo khiến ta sẽ được giải thoát. Đoạn diệt kiến nghĩa là thuận với giải thoát. Lại nữa, kiến này vì ngu đối với việc của mình nên khởi, không bị người khác éo ngặt mà khởi. Người chấp ngã kia, mắt thấy sắc nói “Ta thấy, không phải mắt thấy, không do ta thấy sắc ép ngặt người khác, thế nên không phải bất thiện. Ngoài ra phiền não cõi Dục là bất thiện. Tất cả sắc, Vô Sắc nghĩa là sử của cõi Sắc, Vô Sắc tất cả là vô ký, vì chính thọ hư hoại, vì không có tính khổ thọ. Bất thiện nghĩa là báo khổ thọ, cõi Sắc, Vô Sắc kia không có, không phải cõi Sắc, Vô Sắc có báo của cõi Dục vì là quả báo dứt trừ địa. Hỏi: Sử nào chuyển xứ nào? Đáp: Tham dục, sân hận, mạn Quá khứ hoặc duyên khởi Vị lai nói tất cả Hai đời khác đều buộc. Tham dục, sân hận, mạn, quá khứ hoặc duyên khởi, nghĩa là tham, sân, mạn quá khứ là tự tướng phiền não. Không thể khởi tất cả pháp hữu lậu. Người tham không thể không thấy, không nghe, không tư duy cảnh giới, khởi do phương tiện nên bùng cháy, hoặc có khi người ở mắt khởi ái, không phải phần thân khác. Sân, mạn cũng như thế. Vị lai nói tất cả, nghĩa là tham, sân, mạn ở vị lai duyên thuộc về ba đời, tất cả pháp hữu lậu vì duyên ba đời. Hai đời khác đều là duyên ràng buộc, nghĩa là kiến, nghi, vô minh là khác, vì cộng tướng kia khởi. Nếu quá khứ, vị lai thuộc về pháp hữu lậu ba đời, vì sử hiện tại bất định cho nên không nói. Nếu có nghĩa là nếu tự tướng phiền não hiện ở trước, tức hiện tại vị lai kia ràng buộc quá khứ, hoặc ở nơi kia khởi rồi diệt không dứt. Hỏi: Không phải sử quá khứ dứt trừ, tức vị lai kia dứt trừ chăng? Vì sao nói quá khứ khởi rồi diệt không dứt? Đáp: Vì không dùng đẳng chủng nên nói. Có khi chủng trong tăng thượng khởi trước. Chủng kia nếu quá khứ dứt trừ, tức chủng đó ở vị lai sẽ dứt trừ. Vị lai trong sự kia, phiền não ràng buộc nhẹ, cho nên không có lỗi. Nếu cộng tướng phiền não hiện tiền sẽ ràng buộc tất cả pháp hữu lậu của ba đời, đây là nói chung. Nếu phiền não của năm thức thân, thì quá khứ ràng buộc quá khứ, hiện tại buộc ràng hiện tại, vị lai nếu sinh pháp sẽ ràng buộc vị lai, nếu không sinh pháp sẽ buộc ràng sự của ba đời. Nếu ý địa thì quá khứ, vị lai, hiện tại đều ràng buộc sự ba đời. Hỏi: Ràng buộc ra sao? Đáp: Nếu phiền não của nhãn thức thân ràng buộc đối tượng duyên duyên sắc, pháp tương ưng kia tương ưng với sự ràng buộc. Ý nhập, pháp nhập của pháp tương ưng kia, như thế cho đến phiền não thân, thức thân, ràng buộc đối tượng duyên xúc, pháp tương ưng kia tương ưng với ràng buộc. Nếu phiền não của ý địa ràng buộc đối tượng duyên là mười hai nhập, pháp tương ưng kia tương ưng với sự ràng buộc là ý nhập và pháp nhập của pháp tương ưng kia. Bộ Bà-sa kia nói: “Người thành, kiết thành, sự thành”. Phái A-tỳ- đàm nói: “Người không thành, kiết thành, sự thành”. Phái Thí Dụ nói: “Kiết thành, người không thành, sự không thành”. Vì cảnh giới không nhất định có dục hay không có dục, có khi đối với cảnh giới đó, khởi dục, khởi sân, khởi mạn, khởi tật, khởi chán, khởi bi, khởi xả. Đã nói sử do thế gian kiến lập, nay sẽ nói về thứ lớp sử: Phiền não thứ lớp khởi Tự địa nơi tự địa Địa trên cũng sinh dưới Phải biết thứ lớp sinh. Phiền não thứ lớp khởi, tự địa nơi tự địa: nghĩa là tất cả sử của tự địa đối với hết thảy phiền não của tự địa, theo thứ lớp chuyển, mỗi mỗi theo thứ lớp sinh tất cả. Địa trên cũng sinh dưới, phải biết thứ lớp sinh: nghĩa là phiền não của địa trên theo thứ lớp sinh phiền não của địa dưới. Tâm nhiễm ô của địa kia, khi chết khởi trung ấm của địa dưới, sinh ra ấm. Địa Phi tưởng Phi phi tưởng kia theo thứ lớp sinh bát địa, cho đến Phạm Thế theo thứ lớp sinh cõi Dục. Hỏi: Đức Thế Tôn nói các phiền não này là ách, lưu, thủ, thọ lậu buộc, nghĩa ấy thế nào? Đáp: Có ách nổi lưu, thủ Tiết lậu và kiết buộc Do nghĩa đó, nên nói Ách, lưu, thủ lậu buộc. Vì khổ ách nên nói là ách. Ách kia có bốn thứ: ách dục, ách hữu, ách kiến và ách vô minh. Hỏi: Vì sao năm kiến nói là kiến ách, còn vô minh lại lập một ách? Đáp: Vì bình đẳng gánh vác. Hỏi: Vì sao kiết của cõi Sắc, Vô Sắc, trừ kiến vô minh để lập một hữu ách khác? Đáp: Vì đồng là địa chính định và vì vô ký ẩn mất, vì chúng sinh trôi nổi nên nói là lưu. Nó cũng có bốn thứ như nói về ách. Vì thủ hữu nên nói là thủ, vì quá chấp giữ. Thủ kia cũng có bốn thứ: dục thủ, kiến thủ, giới thủ, thuyết ngã thủ. Hỏi: Vì sao vô minh nói là ách, lưu mà không nói là thủ? Đáp: Vì không phải là hành nhanh chóng. nghĩa chấp thọ là nghĩa thủ, là hành nhanh chóng, vô minh kia chẳng phải hành nhanh chóng, vì ngu tối, nên không nói là thủ. Hỏi: Vì sao bốn kiến gọi là kiến thủ, còn một thủ gọi là giới thủ? Đáp: Vì bình đẳng đảm trách. nghĩa là vì giới thủ kia có thể làm bùng cháy nghiệp và vì trái với đạo, vì trong ngoài có thể được. Các nỗi khổ như nhịn ăn, v.v… của ngoại đạo nghó là đạo. Nội đạo dùng y phấn tảo, v.v… nghó là đạo. Hỏi: Vì sao kiết của cõi Sắc, Vô Sắc được gọi là ngã thủ mà chẳng phải cõi Dục? Đáp: Vì nội xứ khởi, kiết cõi Sắc, Vô Sắc vì hướng nội khởi, duyên của chính mình, còn kiết cõi Dục thì vì hướng ngoại khởi, cho nên nói là dục thủ. Vì tất cả xứ nhập là hữu lậu, vì tâm hữu lậu chảy rót liên tục nên nói là lậu, ba thứ kia là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Hỏi: Vì sao nói kiến lưu, kiến ách, không nói kiến lậu? Đáp: Vì nghĩa chảy rịn là nghĩa lậu. Vì kiến này nhanh chóng đối với sự rỉ lậu, không thuận, cho nên đối với thứ khác không nhanh chóng. Đã nói về phiền não tạp. nghĩa trôi nổi là nghĩa của lưu, kiến thuận theo trôi nổi, thế nên kiến lập lưu khổ. nghĩa lệ thuộc là nghĩa ràng buộc. Hỏi: Ách, lưu, thủ, lậu buộc có tính gì? Đáp: Số có hai mươi chín Cũng nói hai mươi tám Ba mươi sáu, mười lăm tính ách, lưu, dục thảy. tính của dục ách kia có hai mươi chín: Tham có năm, sân có năm, mạn có năm, nghi có bốn, triền mười (triền sẽ nói sau phẩm này). Hữu ách có hai mươi tám: ái mười, mạn mười, nghi tám. Kiến ách ba mươi sáu, năm kiến giới, hành, chủng, chia ra ba mươi sáu. Phân biệt giới, chủng vô minh ách có mười lăm. Lưu cũng như thế. Nói ba mươi bốn trước Kế chủng, nói ba mươi Thứ ba là nói sáu Thứ tư, ba mươi tám. tính của dục thủ có ba mươi bốn: Tham có năm, sân có năm, mạn có năm, vô minh có năm, nghi có bốn, triền có mười. Kiến thủ có ba mươi, trừ giới thủ. tính của giới thủ có sáu, giới chủng của giới thủ có chia ra sáu. Nói tính của ngã thủ có ba mươi tám: Ái có mười, mạn có mười, vô minh có mười, nghi có tám. Cõi Sắc, Vô Sắc có hai triền: thùy miên và trạo, chẳng phải giới, chủng phân biệt, vì ở trước đã nói nên trong đây không nói nữa. Nói tính dục lậu kia Phải biết bốn mươi mốt Hữu lậu năm mươi hai Vô minh lậu mười lăm. tính của dục lậu có bốn mươi mốt: Tham có năm, sân có năm, mạn có năm, nghi có bốn, kiến có mười hai, triền có mười. tính hữu lậu có năm mươi hai: Ái có mười, mạn có mười, nghi có tám, kiến có hai mươi bốn. tính của vô minh lậu có mười lăm. Vì nghĩa ách của một trăm lẻ tám phiền não này nên nói là ách, vì nghĩa nổi trôi nên nói là lưu. Vì nghĩa chấp lấy nên nói thủ. Vì nghĩa rỉ chảy nên nói là lậu. Hỏi: Các chủng phiền não khởi ra sao? Đáp: Không biết nên do dự Do dự nên tà kiến Nhân vì tà kiến này Chuyển sinh các thân kiến. Đầu tiên vì vô tri nên khổ bất dục, cho đến đạo bất dục, đó đây gọi là vô minh. Vì vô minh nên do dự là khổ hay chẳng khổ? Cho đến cho đạo là phi đạo chăng? Đây là vô minh chuyển sinh nghi, vì nghi nên mong cầu quyết định. Nếu được chính phương tiện, sinh chính quyết định thì có khổ, tập, diệt, đạo. Nếu tà phương tiện sinh quyết định tà thì sẽ không có khổ, tập, diệt, đạo, là nghi chuyển sinh tà kiến. Nếu không phải khổ này thì là ngã, là tà kiến chuyêån sinh thân kiến. Từ đây khởi biên kiến Giới thủ, giới tưởng thủ Ở đó quyết định rồi, Thứ lớp sinh kiến thủ. Kiến thủ kia đối với ngã chấp biến hoại, thành kiến đoạn. Nếu kiến tương tợ nối tiếp nhau liền thành kiến thường, là thân kiến chuyển sinh biên kiến. Nếu kiến tịnh một bên, là biên kiến chuyển sinh giới thủ. Nếu tịnh đây là bậc nhất, là giới thủ chuyển sinh kiến thủ. Tự kiến thì sinh dục Tha kiến thì khởi sân Tự cao cử là mạn Từ sử chuyển sinh triền. Tự kiến kia sinh nhiễm, tha kiến thì khởi sân, tự cao cử là mạn, từ kiến này khởi tham, sân, mạn, từ sử sinh ra phiền não triền ở trên. Hỏi: Thế nào là đúng. Đáp: Vô tàm và vô quý Thùy, hối, san, tật, trạo Miên, phẫn cùng với phú Là triền phiền não trên. Mười triền, đó là vô tàm, vô quý (không hổ, không thẹn), thùy, hối, san, tật, trạo cử, miên, phẫn, phú. Phẩm Hành Tướng này đã nói đây là sử nương dựa (Nương dựa tiếng Phạm là Nị sơn địa, nghĩa Nị sơn địa nói là tân dịch (thấm ướt), là triền, là tân dịch của sử, như bình tô mật, tân dịch chảy rỉ ra). Hỏi: Triền nào sử nào nương dựa? Đáp: Vô quý, thùy và miên Vô minh dựa ba này Trạo, san và vô tàm Là từ tham dục sinh. Vô quý, thùy và miên, vô minh dựa ba này, nghĩa là vô quý, thùy, miên, phải biết là vô minh nương dựa. Hỏi: Nếu triền kia là vô minh dựa thì tương ưng với vô minh phải không? Đáp: Nếu vô minh dựa tức vô minh tương ưng hoặc vô minh tương ưng không phải vô minh dựa, nghĩa là bảy triền khác là: trạo cử, san, và vô tàm là từ tham dục sinh, nghĩa là triền của trạo cử, san, vô tàm là tham dục dựa. Hỏi: Nếu triền là tham dục dựa tức tương ưng với tham dục đó phải không? Đáp: Có bốn trường hợp: Nương không tương ưng, là triền san. Tương ưng không nương, là vô quý, thùy miên. Vừa nương, vừa tương ưng, là trạo cử và vô tàm. Không phải nương, không phải tương ưng, trừ những thứ trên. Phú triền, hai sử nương Hối thì nhân do dự Phẫn, tật, sân hận nương Do bậc Minh trí nói. Phú triền, hai sử nương: nghĩa là hoặc nói triền, phú là ái nương, vì sức ái nên che giấu. Có thuyết nói là vô minh nương, vì sức của vô tri nên che giấu. Hối thì nhân do dự: Triền hối là nghi nương. Phẫn, tật, sân hận nương, do bậc Minh trí nói, nghĩa là triền phẫn, triền tật là sân hận nương. Hỏi: Phiền não cấu này có sáu là nương nào? Đáp: Trói buộc gấp là nghĩa triền, trói buộc nhẹ là nghĩa cấu, là nghĩa khác nhau giữa mười triền, sáu cấu. Cái gọi phiền não cấu Hại, hận, sân hận dựa Cuống, cao dựa tham dục nghĩa này cần phải biết. Cái gọi là phiền não cấu, hại hận sân hận nương: nghĩa là hại và hận là sân hận nương. Cuống cao, nương tham dục, nghĩa này cần nên biết: nghĩa là cuống, cao cấu là tham dục nương. Cái gọi năm tà kiến Siểm nương do đấy sinh Nói nương quả kiến thủ Là não, cần phải biết. Cái gọi năm tà kiến, siểm nương do đó sinh: nghĩa là năm kiến khởi siểm nương, vì nhanh chóng. Nói nương quả kiến thủ là não cần phải biết, nghĩa là cấu não là kiến thủ nương. Hỏi: Triền nào tương ưng với phiền não nào? Đáp: Tất cả phiền não chung, Nói thùy và trạo cử Vô tàm chung bất thiện Vô quý cũng như thế. Tất cả phiền não kết, nói thùy và trạo cử. nghĩa là hai triền này tương ưng với tất cả phiền não, vì tất cả tâm nhiễm ô không vắng lặng, nên biết là trạo cử. Phiền não hiện ở trước, tâm không có khả năng chịu đựng nên biết đó là thùy. Tuy trạo cử không tương ưng với trạo cử và thùy không tương ưng với thùy, vì tự tính, vì phần ít, nên không nói. Phải biết sử tức phiền não, vì triền kia cùng có với tất cả phiền não. Năm chủng sáu thức thân, bất thiện của ba cõi và vô ký. Vô tàm chung với bất thiện. Vô quý cũng như thế. Hai triền này tương ưng với tất cả sử bất thiện. Tất cả tâm bất thiện hiện ở trước, hủy hoại sự cung kính, không sợ tội, cho nên triền kia nói là năm chủng sáu thức thân, vì bất thiện nên thuộc cõi Dục. Hối ở nơi ý khổ Chỗ tu đạo dứt trừ Miên chỉ ở ý dục Phần khác tự kiến lập. Hối ở nơi ý khổ, nghĩa là hối ở ý địa, vì nhanh chóng, vì buồn rầu khởi, vì tương ưng với ưu, vì thuộc về khổ thọ, nên ở cõi Dục. Hỏi: Hối này địa vị nào dứt trừ? Đáp: Sự dứt trừ của tu đạo, vì sinh trong hành thiện, hành ác, nên tu đạo dứt trừ. Miên chỉ ở ý dục, nghĩa là miên ở ý địa cõi Dục. Lúc ngủ, tất cả phiền não đều hoạt động, cho nên tương ưng với tất cả phiền não cõi Dục. Các phần khác đều tự kiến lập, đó là phiền não thượng của triền khác đều tự kiến lập, đó là phẫn, phú, san, tật không tương ưng với sử khác, trừ vô minh, phải biết hối cũng tự kiến lập. Phiền não khác là hành, chứ không phải tính. Hỏi: Vì sao san, tật được lập trong chín kiết, không phải triền khác? Đáp: Cái gọi sanh và tật Lập riêng lìa cả hai Cho nên hai triền này Lập ở trong chín kiết. Hai triền san, tật vì tự lực khởi, độc lập, hoàn toàn bất thiện, nên lìa cả hai, vì thế nên lập trong chín kiết. Thùy, trạo cử nghĩa là vì tất cả phiền não đều đi chung nên không độc lập, vì bất thiện và vô ký nên không lìa hai. Vì miên cũng tương ưng với sử khác nên không độc lập, vì thiện bất thiện, vô ký nên không lìa hai. Không hổ, không thẹn tuy lìa hai mà không độc lập. Hối tuy độc lập mà không lìa hai, vì thiện, bất thiện. Phẫn và phú tuy được độc lập cũng lìa hai. Hoặc có dục khiến cho tính của sử này, ký kia có tám triền hối, miên. Nếu thiện là nên biết, không phải triền, vì triền hoàn toàn nhiễm ô. Hỏi: Vì sao ái được lập một kiết mà hai sử, hoặc ba, hoặc sáu? Đáp: Vì được một tướng trói buộc, nên lập một kiết. Vì địa chính định, địa bất định nên nói hai sử. Vì giới biệt nên nói ba, vì chỗ nương biệt khác nên nói sáu. Hỏi: Vì sao ba kiến được lập kiến kiết, hai kiến lập thủ kiết khác? Đáp: Vì danh, v.v…, vì sự, v.v… Thân kiến, biên kiến, tà kiến là nữ, gọi là tự tính của mười tám sử, cho nên lập một kiết. Thủ kiết khác là nam, cũng gọi đó là tự tính của mười tám sử, cho nên lập một kiết. Cho nên nói rằng: “ Nếu kiến tương ưng với pháp thì ái kiết ràng buộc, chẳng phải kiến kiết, cũng chẳng phải không là kiến sử của sử. Nếu tập trí sinh, diệt trí chưa sinh thì kiến diệt, kiến đạo dứt trừ. Nếu pháp tương ưng với kiến thủ, giới thủ thì ái kiết buộc ràng, vì ái kiết duyên hữu lậu nên không phải kiến kiết. Vì kiến kiết nhất thiết biến kia dứt trừ, tuy tự chủng của kiến kiết không dứt trừ mà không duyên duyên vô lậu kia, nên chẳng tương ưng với phẩm khác, không phải kiến sử không sai sử, do lấy năm kiến là kiến sử, ba kiến là kiến kiết. Đã nói tự tính của phiền não, nay sẽ nói căn tương ưng: Các sử ở ba cõi Đều tương ưng xả căn Các căn sử tùy địa Tương ưng đến sắc hữu. Các sử ở ba cõi, đều tương ưng xả căn: nghĩa là tất cả sử của ba cõi đều tương ưng xả căn. Vì sao? Vì thuận theo tất cả phiền não cùng với vui, buồn và vì cùng với phiền não chuyển hành, vì tất cả phiền não đều ở trong đó mà dứt. Nếu khác là không lìa phiền não, cho nên xả căn được năm chủng, sáu thức thân ở ba cõi. Tùy địa các căn sử, tương ưng đến sắc hữu, nghĩa là hỷ căn, lạc căn, cho đến Phạm Thế. Các sử kia tương ưng với hỷ căn, lạc căn. Trời Quang âm cũng có hỷ căn, sử của địa này tương ưng với hỷ căn. Trời Biến tịnh có lạc căn, sử của địa đó tương ưng với lạc căn. Trời Quả Thật có một xả căn, các sử của trời kia tương ưng với xả căn, không phải căn khác (ái, v.v… là phiền não vui, sân, si là phiền não buồn, tà kiến là phiền não kết hợp, xả căn đều tương ưng với các tà kiến kia, vì cùng chung một duyên hành). Tà kiến và vô minh Khổ vui trong cõi Dục Sân nhuế, nghi chỉ khổ Ngoài ra hoàn toàn vui. Tà kiến và vô minh, khổ vui trong cõi Dục, nghĩa là tà kiến khởi nghiệp ác thì mừng, nghiệp tịnh thì lo. Vô minh tương ưng với tất cả căn. Sân hận, nghi chỉ khổ: nghĩa là nghi của cõi Dục, vì không quyết định nên không mừng, cho nên tương ưng với khổ thọ. Sơ thiền, Nhị thiền không có căn tính khác, tương ưng với hỷ căn. Hỷ căn của cõi Dục vì thô, chúng sinh không nên khởi mà khởi. Như người nghèo hèn thường đùa giỡn theo việc kia, không nên khởi mà khởi. Nghi của cõi Dục vì vi tế, nên không tương ưng với hỷ căn. Vì hành sân hận, khởi lo buồn, nên tương ưng với khổ thọ. Ngoài ra, hoàn toàn vui, nghĩa là phiền não khác của cõi Dục, vì lạc hành khởi nên tương ưng với lạc thọ. Huân tập hai tương ưng Kiến đoạn chỉ ứng ý Các phiền não cõi Dục Nói tương ưng các căn. Tức huân tập tương ưng: nghĩa là tu đạo dứt trừ phiền não gọi là huân. Thân thọ tương ưng và tâm thọ, hoặc sáu thức thân, năm căn kia tương ưng như chỗ khởi tùy theo nghĩa ấy nói mà khổ căn kia, lạc căn của cõi Dục. Hỷ căn, ưu căn của năm thức thân là xả căn của ý địa. Tất cả thân thọ của sáu thức thân do tu đạo dứt trừ, ý đều có kiến dứt trừ. Chỉ ứng hợp với y: nghĩa là kiến đạo dứt trừ phiền não ở ý địa. Các căn tương ưng với ý thức, không vì tùy theo sự khởi. Các phiền não cõi Dục nói là tương ưng với các căn, đó là nói các phiền não cõi Dục. Địa trên tùy theo căn tương ưng của địa, cũng nói như thế. Hỏi: Các triền tương ưng với căn nào? Đáp: Thùy, trạo cử, vô tàm, vô quý tương ưng với năm căn. Miên tương ưng với ba căn, trừ lạc căn, khổ căn. Phẫn, hối, tật, hận, hại, não, tương ưng với ưu căn và xả căn, ba căn Phú, cuống, siểm ba căn, trừ lạc căn, khổ căn. San tương ưng với hỷ căn và xả căn. Cao ngạo tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn. Vì tự cao thuộc ý địa, hỷ của ba cõi vì hành chuyển. Hỏi: Các sử tương ưng với bao nhiêu thức? Tham dục, sân hận, si Phải biết chung sáu thức Là dục tùy đạo đoạn Địa trên tùy sở đắc. Tham dục, sân hận, si phải biết sáu thức đi chung, nghĩa là tu đạo mà đoạn; dục, sân, vô minh do tu đạo của cõi Dục đoạn tương ưng với sáu thức. Địa trên tùy sở đắc, nghĩa là cõi Sắc, Vô Sắc không có sân nhuế. Ái, vô minh tùy thuộc thân có thức, tức tương ưng với thức thân đó. nghĩa là bốn thức thân của Phạm Thế có thể được, tức hai sử của địa kia tương ưng với bốn thức. Tất cả cõi Vô Sắc Phi sự, mạn, ý địa Phải biết bảy sử kia Quả tự tính và người. Tất cả cõi Vô Sắc, nghĩa là sử của cõi Vô Sắc do kiến đạo dứt trừ và tu đạo dứt trừ. Phi sự mạn ý địa: nghĩa là cõi Dục, cõi sắc do kiến đạo dứt trừ và mạn. Các sử này ở ý địa, tuy Tam thiền trên cũng là ý địa, vì giới phân biệt nên không nói địa. Hỏi: Làm sao biết là sử? Đáp: Phải biết tự tính quả và người của bảy sử kia, vì ba việc cho nên biết là sử. nghĩa là quả tự tính và người. Tự tính của sử kia là sử tham dục, như khởi công sức to lớn. Sử sân hận, như hạt giống đắng. Sử hữu ái, như áo trẻ thơ. Sử mạn, như người kiêu ngạo. Sử vô minh, như người ngu si. Sử kiến như kẻ lạc đường, sử nghi như mê lầm hai đường. Quả nghĩa là hành tập sử tham dục, hành tập nhiều, sinh trong các loài chim uyên ương, chim sẻ, v.v…, tu tập sử sân nhuế, thường tu sinh trong loài mãng xà. Tu tập sử hữu ái, nhiều tu tập sinh cõi Sắc, Vô Sắc. Tu tập sử mạn, thường tu tập sinh trong dòng thấp kém. Sử vô minh sinh trong cảnh tối tăm, nghĩa là trung gian thế giới. Kiến sử sinh vào nhà tà kiến. Sử nghi sinh ở biên địa. Và người: nghĩa là sử tham dục, phải quán như Nan-đà, v.v… Sử sân hận như Ương-quật-ma, v.v… Sử hữu ái như A-tư-đà, A-la-lan, Uất-đầu-lam-tử, v.v… Sử mạn như trẻ con v.v… kiêu ngạo, tự cao. Sử vô minh như Uất-tỳ-la Ca-diếp, v.v… Kiến sử như Tu-na, Sát-đa-la, v.v… Sử nghi như Ma-ha Ca-diếp, v.v… Do ba việc này nên biết sử có thể xa lìa, như biết con đường hiểm trở, đầy dẫy phiền não là sử. Phiền não không đầy dẫy là triền, cho nên triền không lập sử. Phiền não cấu cũng như thế, vì năm việc này đầy đủ nên gọi là phiền não đầy dẫy. Năm việc nghĩa là các kiết, phược, sử, thượng phiền não và triền. Nếu một pháp nào không đủ thì gọi là phiền não không đầy. Đã nói phiền não kiến lập, nay sẽ nói về dứt trừ phiền não: Dứt phiền não cùng lúc Do bậc chính trí nói Như các giải thoát này Cũng chẳng cùng lúc được. Dứt phiền não một lúc, do bậc chính trí nói, nghĩa là các phiền não này dứt ngay, không phải dần dần ø. nghĩa là lúc tự phần đối trị khởi, mà khổ pháp nhẫn khởi, thấy khổ dứt trừ mười sử cõi Dục một cách nhanh chóng, tri nhẫn mau chóng dứt trừ mười tám sử của cõi Sắc và Vô Sắc. Như thế cho đến mười bốn sử do đạo vi tri nhẫn mau chóng dứt trừ. Tu đạo Thánh đạo dần dần khởi, bốn sử thượng thượng mau chóng dứt trừ, cho đến do Thánh đạo thượng thượng khởi, bốn sử tiệm tiệm cũng mau chóng dứt trừ. Tất cả địa cũng như thế. Hỏi: Kiến đạo thì cùng lúc dứt trừ cho nên như the, dùng một thứ đạo dứt trừ chín thứ kiết, tu đạo dứt trừ nghĩa là dùng chín thứ đạo dứt trừ chín loại kiết, làm sao dứt trừ cùng lúc được? Đáp: Tu đạo dứt trừ, nghĩa là nếu loại đối trị này khởi, tức loại này mau chóng dứt trừ, không dần dần, vì đầu tiên đã dứt trừ. Như các giải thoát này cũng không phải cùng lúc mà đắc, nghĩa là các giải thoát đó thường thường đắc, thấy khổ đế dứt trừ của cõi Dục và thấy khổ, tập, diệt dứt trừ của cõi Sắc, Vô Sắc. Sáu thời được, nghĩa là lúc tự phần đối trị và lúc bốn quả Sa-môn, và lúc căn thêm ích, kiến đạo dứt trừ năm thời đắc của cõi Sắc, Vô Sắc do trừ tự phần đối trị, do vì trí mới đắc đạo vị tri, tu đạo dứt trừ năm loại năm thời của cõi Dục, trừ quả Tu-đà-hoàn, ba loại, bốn thời hạ hạ. Chủng loại ba thời, bảy địa cõi Sắc, Vô Sắc và tám loại ba thời của địa Phi tưởng Phi phi tưởng, trừ ba quả Sa-môn trước, loại hạ hạ hai thời là quả A-la-hán và căn tăng ích. Hỏi: Các phiền não được dứt trừ ra sao? Đáp: Là giác đối duyên kia Và nói duyên kia dứt Cũng nói được đối trị Lại còn duyên kia diệt. Bốn việc dứt phiền não, nghĩa là biết duyên, duyên dứt, được đối trị, duyên kia diệt. Biết duyên nghĩa là thấy khổ, kiến tập dứt trừ tự giới duyên và duyên vô lậu. Duyên dứt trừ là kiến diệt, kiến đạo dứt trừ duyên hữu lậu. Được đối trị nghĩa là tu đạo dứt trừ. Duyên kia diệt nghĩa là duyên của tha giới. Lại nữa, có năm việc dứt trừ phiền não, nghĩa là nhân diệt hẳn, được dứt trừ, chuyển y, biết duyên và được đối trị. Đã nói nhân duyên kiến lập dứt trừ phiền não, nay sẽ nói về dứt trừ sự nhận biết: Giải thoát trong cõi Dục Thánh nói bốn đoạn biết Lìa cõi Sắc, Vô Sắc Phải biết năm đoạn biết. Chín đoạn nhận biết là lập dứt phiền não ở cõi Dục. Bốn đoạn nhận biết là lập dứt phiền não ở cõi Sắc, Vô Sắc. Năm đoạn nhận biết là tuy trí biết mà dứt trừ, vì là quả trí, nên nói dứt trừ nhận biết, như quả nghiệp cũng gọi là nghiệp. Khổ, tập, phiền não hết Nói chung một đoạn biết Diệt, đạo dứt đều một Như dục trên cũng ba. Thấy khổ, thấy tập dứt trừ hết phiền não cõi Dục đều lập một đoạn biết. Kiến diệt dứt trừ hai, kiến đạo dứt trừ ba, như thấy khổ, thấy tập dứt trừ cõi Dục, cõi Sắc, Vô Sắc cũng lập một. Thấy diệt dứt trừ hai, thấy đạo dứt trừ ba. (Sẽ nói rộng sau phẩm này) Tu đạo dứt phải biết Mỗi giới đoạn nói một Ba đoạn là quả trí Ngoài ra là quả nhẫn. Tu đạo dứt trừ một, đoạn biết cõi Dục. Cõi Sắc dứt trừ hai, Cõi Vô Sắc dứt trừ ba, ba đoạn này phải biết là quả trí. Hỏi: Vì sao thấy đạo dứt trừ cõi Sắc, Vô Sắc, lập một đoạn nhận biết, tu đạo dứt trừ lập hai? Đáp: Kiến đạo dứt trừ vì đồng đối trị, tu đạo dứt trừ vì không đồng. Hỏi: Đoạn nhận biết khác là quả gì? Đáp: Đoạn nhận biết khác là nói quả nhẫn. Kiến đạo dứt trừ hết sáu đoạn nhận biết, gọi là quả nhẫn, vì nhẫn đối trị. Kiến đạo dứt trừ hết, nếu gọi là quả nhẫn, chẳng phải đoạn nhận biết là không đúng, vì đó là quyến thuộc của nhẫn trí, vì đồng một quả với trí. Thế nên thấy đạo, tu đạo dứt trừ đều cùng được gọi là quả trí. Đã nói đoạn nhận biết là quả trí, nghĩa là hoặc địa, hoặc đạo, hoặc pháp trí, trí vị tri, hoặc là quả của phẩm đồng kia, nay sẽ nói: Sơ địa nói tất cả Thiền năm cũng lại tám Vô Sắc, nói một quả Quả quyến thuộc cũng thế. Sơ địa nói tất ca: nghĩa là vị chí dựa vào đủ chín quả đoạn nhận biết. Vì đối trị ba cõi. Thiền năm cũng lại tám: Là phái A-tỳ-đàm nói: “Thiền căn bản có năm quả đoạn nhận biết là phiền não của cõi Sắc, Vô Sắc được đoạn nhận biết, như trước nói”. Tôn giả Cù-sa nói: “Có tám trừ năm kiết phần dưới đều là đoạn nhận biết là vị chí nương vào quả. Quả ấy muốn cho thấy đế cõi Dục dứt hết, là quả thiền, thiền trung gian, như thuyết thiền, thuyết Vô Sắc nói một quả, nghĩa là ba định Vô Sắc, nói là quả của một đoạn nhận biết, tất cả kiết đều dứt hết. Quả quyến thuộc cũng thế, nghĩa là như quyến thuộc của không xứ cũng nói là quả của một đoạn nhận biết, là ái cõi Sắc đều dứt. Tuy tu đạo dứt hết ở bốn địa, kiến lập đoạn nhận biết, nhưng vì chủng hạ hạ của đệ Tứ thiền đều được gọi là đoạn nhận biết, chế nên nói là quả quyến thuộc của không xứ. Quả đạo thế tục hai Thánh, chín pháp trí ba trí vị tri nói hai Năm, sáu quả phẩm kia. Quả đạo thế tục hai: nghĩa là năm kiết phần dưới hết, và ái sắc hết, là quả của đạo thế tục, nghĩa là bậc Thánh dùng đạo thế tục để dứt trừ kiết của hai cõi. Thánh chín: nghĩa là tất cả chín đoạn nhận biết là quả của Thánh đạo, vì Thánh đạo đối trị hết thảy phiền não. Pháp trí ba, nghĩa là ba đoạn nhận biết là quả của pháp trí. Năm kiết phần dưới hết, ái sắc hết và tất cả kiết hết, là do vì tu đạo pháp trí dứt trừ kiết của ba cõi. Trí vị tri nói hai: Hai là hai đoạn nhận biết, là quả của trí vị tri, ái sắc hết và tất cả kiết hết, là vì quả tu đạo của cõi Sắc, Vô Sắc. Phẩm quả kia năm sáu, nghĩa là phẩm quả pháp trí có sáu đoạn nhận biết. Kiến đạo cõi Dục dứt trừ ba và quả của pháp trí đã nói trước có ba. Phẩm Vị tri trí có năm quả đoạn nhận biết kiến đạo dứt trừ ba của sắc, Vô Sắc và quả vị tri trí đã nói ở trước là hai. Hỏi: Ai thành tựu bao nhiêu đoạn nhận biết? Đáp: Hoặc có các bậc Thánh Chưa thành tựu đoạn biết Thành tựu một, hai, ba Bốn, năm và với sáu. Năm khoảnh tâm của thấy đạo không thành tựu đoạn nhận biết. Tập pháp trí, tập vị tri nhẫn một. Tập vị tri trí, diệt pháp nhẫn hai. Diệt pháp trí, diệt vị tri nhẫn ba. Diệt vị tri trí, đạo pháp nhẫn bốn. Đạo pháp trí, đạo vị tri nhẫn năm. Tu-đà-hoàn sáu. Quả hướng Tư-đà-hàm, nghĩa là nếu tăng gấp bội dục dứt trừ hết sẽ vượt lên lìa sinh, như trước nói. Nếu theo thứ lớp hướng thành tựu sáu, quả Tư-đà-hàm cũng sáu, quả hướng A-na-hàm. Nếu ái cõi Dục hết, vượt lên lìa sinh như trước đã nói. Nếu theo thứ lớp hướng thành tựu sáu, sẽ được quả A-na-hàm một. Kiết phần dưới hết là quả hướng A-la-hán. Nếu ái cõi Sắc chưa hết một, ái cõi Sắc hết hai, quả A-la-hán một. Tất cả kiết hết đều là đoạn biết. Hỏi: Ai xả, bao nhiêu đoạn nhận biết? Đáp: Xả một, hai, năm, sáu Như xả được cũng thế Được quả và độ giới Hai xứ dứt biết tập. Xả một, hai, năm, sáu: nghĩa là quả A-la-hán lui sụt, xả một đoạn nhận biết. Ái cõi Sắc hết, triền của A-na-hàm ở cõi Sắc lui sụt, xả một. Nếu ái sắc chưa hết, triền cõi Dục lui sụt, xả một, ái sắc hết, quả A-na- hàm, triền cõi Dục lui sụt, xả hai, được quả A-la-hán, xả hai. Nếu ái cõi Dục hết, vượt qua A-na-hàm, xả năm, Thứ lớp xả sáu. Hỏi: Ai được bao nhiêu đoạn nhận biết? Đáp: Như xả, được cũng thế, có khi được một đoạn nhận biết. Kiến đạo thứ sáu, thứ tám, thứ mười, thứ mười hai, thứ mười bốn, cho đến tâm của đạo vị tri trí, mỗi mỗi được một, thứ lớp của quả A-na-hàm được một. Năm kiết phần dưới hết là ái cõi Sắc của bậc Thánh hết một. Ái sắc hết, là quả A-la-hán một. Tất cả kiết hết là được hai, nghĩa là A-la-hán, triền của cõi Vô Sắc lui sụt, được sáu, hoặc A-la-hán, hoặc A-na-hàm, triền cõi Dục lui sụt không có được năm. Thế nên trong kinh không có nói. Hỏi: Đoạn nhận biết này sẽ nhóm họp ở xứ nào? Đáp: Đoạn nhận biết sẽ nhóm hợp ở hai xứ: Đắc quả và độ giới. Đoạn nhận biết nhóm hợp ở hai xứ này là quả A-na-hàm, quả A-la-hán, vì đắc quả của xứ đó, tức địa vị độ giới kia, cho nên lúc kiết phần dưới, kiết phần trên đoạn nhận biết sẽ được đạo vị tri trí sinh ra. Sáu thứ dứt trừ tuy là đắc quả, chẳng phải là độ giới, ái cõi Sắc hết, tuy vượt qua giới nhưng chẳng phải đắc quả. Ngoài ra không phải là độ giới, cũng không phải đắc quả, thế nên xứ của các đoạn biết này không gọi là tập. Đã nói kiến lập quả tự tính, thành tựu xả, được tập. Nếu nhân duyên của dứt trừ kia được gọi là đoạn nhận biết, nay sẽ nói: Là hai nhân kia diệt Lìa buộc và độ giới Chứng được vô lậu đắc Và thiếu đệ nhất hữu. Do bốn nhân duyên, hoặc năm dứt trừ kia được đoạn nhận biết, gọi là kiến đạo. Bốn nhân duyên nghĩa là đều là nhân diệt, cùng ly hệ đắc vô lậu, đắc giải thoát. Và thiếu đệ nhất hữu, nghĩa là khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí, và khổ vị tri nhẫn sinh ra, không phải cùng nhân diệt. Tuy kiến khổ dứt trừ nhân diệt, nhưng chẳng phải thấy tập dứt trừ, chính vì nghĩa đó, nên chẳng phải cùng ly hệ. Tuy được vô lậu giải thoát đắc mà chưa khuyết đệ nhất hữu. Một nhân duyên hợp, ba nhân duyên không hợp như thế, khổ vị tri trí, tập pháp nhẫn sinh. Tuy được vô lậu giải thoát đắc và khuyết đệ nhất hữu. Hai nhân khác không đủ, cho nên xứ này không lập đoạn biết. Tập pháp trí sinh, câu nhân diẹät, nghĩa là trước kia kiến khổ dứt trừ nhân diệt, nay kiến tập dứt trừ nhân diệt. Phải biết cũng là cùng ly hệ được vô lậu giải thoát đắc, lúc khổ vị tri trí sinh, đã khuyết đệ nhất hữu, cho nên xứ này kiến lập đoạn tri. Tập vị tri trí sinh đủ tất cả nhân duyên. Cho nên xứ này được kiến lập đoạn biết. Diệt pháp trí thứ ba như thế, diệt vi tri trí thứ tư, đạo pháp trí thứ năm, đạo vi tri trí thứ sáu. Đây là nói thấy đạo. Tu đạo dứt trừ năm nhân duyên: bốn nhân duyên trước và giới dứt trừ hẳn là năm. Tu đạo dứt trừ chín thứ phiền não cõi Dục, thay nhau ràng buộc, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng địa cũng như thế. Một thứ dứt trừ của cõi Dục kia cho đến tám loại, đủ cả hai nhân duyên, nghĩa là được vô lậu giải thoát đắc và khuyết đệ nhất hữu. Ba nhân duyên không đủ, chủng thứ chín diệt, đủ năm nhân duyên. Vì thế nên xứ này được kiến lập đoạn biết. Một chủng đoạn của Sơ thiền, cho đến tám chủng, đủ cả hai nhân duyên, không phải thứ khác, như trước đã nói. Chủng thứ chín dứt trừ, đủ bốn nhân duyên, một nhân duyên không đủ , nghĩa là độ giới. Đệ nhị, đệ Tam thiền và ba Vô Sắc cũng như thế. Đệ Tứ thiền địa cho đến tám chủng đoạn đủ cả hai nhân duyên, không phải thứ khác. Chủng thứ chín đoạn biết đủ năm nhân duyên. Cho nên xứ này được kiến lập đoạn biết. Phi tưởng Phi phi tưởng cũng như thế, chính vì nghĩa này, nên phàm phu lìa dục không lập đoạn biết, vì họ không được vô lậu giải thoát đắc, cũng không khuyết đệ nhất hữu. sinh Đã nói đoạn biết, nay sẽ nói: Về ba thứ cảnh giới, năm thứ ái Cảnh tốt chung, chẳng chung, Hai thứ kia ái sinh Cảnh ác hai cũng thế Một thì cho là xả. Cảnh tốt hợp, chẳng hợp, hai thứ kia ái sinh: Tốt gọi là cảnh giới đáng yêu. Nếu được cảnh giới đó thì không lìa ái sinh. Làm thế nào để cho ta đối với việc này không lìa? Nếu người chưa được thì tưởng được ái sinh làm sao sẽ được? Cảnh ác hai cũng thế: xấu ác là cảnh giới không đáng ưa thích, có hai loại cảnh giới, ái sinh câu: nghĩa là lìa tưởng ái sinh, bất câu: nghĩa là không được tưởng ái sinh ra. Một thì cho là xả, nghĩa là xả là cảnh giới chẳng đáng ưa thích, chẳng phải chẳng đáng ưa thích, hoàn toàn ngu ái sinh. Hỏi: Sử kia có tương ưng với tâm hay không? Đây là chỉ nghi gì? Đây là dị thuyết của hai sư là Tỳ-bà-xà-bà-đề muốn cho không tương ưng, còn Dục-đa-bà-đề thì muốn cho tương ưng, nên ở đây có nghi. Đáp: Tương ưng thế nào? Là tâm sử phiền não Chướng ngại không trái tịnh Tâm diệu thiện khả đắc Phi sử bất tương ưng. Vì sử có hai việc, nên duyên tâm não và tương ưng. Nếu tâm sử bất tương ưng thì không nên ở trong duyên não tâm, vì não tâm kia vô duyên. Tất cả pháp tâm bất tương ưng với tâm, không duyên cũng không tương ưng, vì không phải pháp tương ưng. Tâm bị sử não loạn, như đã nói “Tham dục làm não loạn tâm cho nên tâm không giải thoát”. Do thuyết này nên biết được tâm sử tương ưng. Chướng ngại: Là nếu sử không tương ưng với tâm thì lúc đạo sinh, không nên chướng ngại, không trái với tâm nối tiếp, vì chướng ngại nên chẳng phải không tương ưng. Không trái với tịnh: nghĩa là nếu sử không tương ưng với tâm thì không nên trái với tâm thiện, đều sinh cùng lúc với tâm thiện, không nên gây ra lỗi lầm, vì gây ra lầm lỗi, cho nên chẳng phải không tương ưng. Lại nữa, tâm diệu thiện đạt được, vì trái với công đức nên gọi là sử. Nếu sử không tương ưng với tâm thì vì sử kia thường hoạt động, nên tâm thiện ứng với vô sinh xứ, vì tâm thiện vẫn sinh, nên phải biết chẳng phải không tương ưng. Lại nữa, vì nói về chấp tướng. Thế nào là sử tham? nghĩa là tướng nhiễm đắm. Thế nào là sử sân? nghĩa là tâm pháp não. Thế nào là sử mạn? nghĩa là tâm pháp cống cao. So sánh như thế, cho nên sử, tâm chẳng phải không tương ưng. Nếu nói triền trái với tâm thiện, chẳng phải sử thì không đúng. Vì sao? Vì được tướng của sử, vì tham dục ràng buộc nên gọi là triền tham dục, so sánh như thế, không nói nhân khác nhau, đều là tham dục, mà nói triền tương ưng, sử không tương ưng, là chỉ có ngôn thuyết, hoàn toàn không nói nhân duyên khác nhau. Nếu nói triền lấy sử làm hạt giống thì điều đã nói không thành, vì nhân không tương ưng mà quả tương ưng nên có lỗi, cho nên sử chẳng phải không tương ưng.  <卷>QUYỂN 5 <詞>Phẩm 5: HIỀN THÁNH Đã nói về các phiền não, bây giờ nói về tu hành: Mới đầu gọi thỉ nghiệp Kế là đã tập hành Tư duy người đã độ Phải biết chủng thứ ba. Ba thứ tu hành, nghĩa là thỉ nghiệp, hành đã tu tập và tư duy đã độ. Thỉ nghiệp nghĩa là bất tịnh chuyển, chưa từng được cảnh giới ý giải phần tư duy. Hành đã tu tập, nghĩa là thọ tự tướng, niệm xứ chuyển, chưa từng được căn thiện của phần quyết định. Trên đây phải biết là tư duy đã độ, vì đạo nhất thừa trên đây. Lại nữa, quán bất tịnh cũng có ba loại tu hành, nghĩa là khởi sự từ ngón chân cho đến đỉnh đầu, bỏ đi ý giải tư duy da, máu, thịt. Đây gọi là thỉ nghiệp. Đối với vòng xương này, khởi tưởng không tạo tác, sinh ra cùng khắp đại địa. Lại quán bộ xương khởi tưởng không tạo tác, bộ xương kia sẽ lần lượt đối nhau, với trận gió to thổi đến đập tiêu tan thành đống tuyết. Đây gọi là hành đã tu tập. Lược quán về bộ xương, lại đến thân mình. Nơi đối tượng duyên đó, thanh tịnh vắng lặng, chỉ quán một sắc. Đây gọi là tư duy đã độ. Như vậy cho đến tóm lược cảnh giới, phải biết căn thiện tăng dần, nên biết hết thảy phương tiện căn thiện khác cũng như thế. Đã nói tu hành, nay sẽ nói về pháp khác. Hoặc sợ phiền não này Xa lìa các Hiền Thánh chính cụ túc như thật Phương tiện nên khéo nghe. Hoặc: nghĩa là hoặc chủng, hoặc phương tiện, hoặc phân biệt. Này: nghĩa là thứ lớp chỉ bày phiền não. Phiền não nghĩa là nóng nảy, bứt rứt, cũng lìa tất cả hữu lậu, chỉ vì lỗi phiền não như cơm độc. Thế nên nói lìa phiền não, gốc của mọi sợ hãi, là khởi các thứ nghiệp, các thứ sinh. Xa lìa: nghĩa là thường diệt, diệt. Hiền Thánh nghĩa là nhóm chính định: Bảy người và phàm phu chân thật. chính cụ túc như thật nghĩa là trụ nơi đạo chân thật. Phương tiện nên khéo nghe nghĩa là đạo phương tiện kia phải nhất tâm lắng nghe. Phương tiện là tất cả phương tiện của pháp thiện hướng đến giải thoát, khởi sự thực hành bố thí, v.v… không phải chỉ có đạo. Ba khổ ép ngặt thế gian không thể giác ngộ, vì muốn cho tu định. Bắt đầu phần tự thân Buộc giữ tâm cho định Muốn buộc nơi chân thức Vì tận trí tuệ oán. Thỉ: nghĩa là trước hết, phần tự thân là một chỗ trong thân mình, hoặc giữa hai đầu chân mày, với đốt sống mũi và ngón chân. Buộc giữ nghĩa là an lập trong duyên, khiến cho không tản mát. An lập chỗ nào? nghĩa là nhờ định lực của tự tâm nên khởi trí tuệ. Hỏi: Vì sao phải buộc giữ như thế? Đáp: Muốn buộc giữ ở nơi chân thức là vì tâm trôi lăn không dừng, nên phải buộc giữ trong một duyên. Vì nhất tâm, nên biết chân thật không loạn. Hỏi: Vì sao phải buộc giữ trong một duyên? Đáp: Vì cùng tận trí tuệ oán. Trí tuệ oán nghĩa là các phiền não, các phiền não đó nên dứt trừ, tuy quán thân người khác như quán tử thi. Khế kinh nói vì nhân xa kia, đây nói quán nhân gần. Lại nữa, vì thuận theo tất cả môn độ, nghĩa là quán phần thân xương trắng, thuận theo ba môn độ. Quán tử thi chỉ thuận theo một độ môn bất tịnh. Ba độ môn nghĩa là quán bất tịnh, an-ban niệm và quán giới phương tiện. Người tham dục kia dùng quán bất tịnh để độ. Người tư giác thì dùng an-ban niệm độ. Người kiến hành nghĩa là dùng quán phương tiện giới để độ. Như chỗ thầy truyền trao, tùy sự ưa thích mà tu hành. Quán bất tịnh, niệm an-ban (nói rộng trong phẩm Khế kinh), nay sẽ nói về quán phương tiện giới. Do vậy người ngu không chính tư duy, che lấp tuệ nhãn, không quán pháp duyên khởi chân thật. Đã gieo trồng vô lượng pháp phiền não nghiệp đời trước, chứa nhóm năm ấm, khởi tưởng chứa nhóm, vì ngu hoặc nên trong phần duyên khởi tạo ra các tà kiến trói buộc, chấp ngã tạo tác, v.v… Hoặc lúc tu hành gần thiện tri thức, được nghe chính pháp, khởi chính tư duy rồi, có thể đối với thân mình dùng quán phương tiện giới các thứ lớp tính của thân này, các thứ nghiệp, các thứ tướng nghĩa là sáu giới như địa, v.v… Địa giới kia vì thủy giới thấm nhuần nên không lìa nhau. Vì thủy giới được địa giới gìn giữ nên không chảy tan. Vì hỏa giới thành thục nên không ứ đọng hư hoại. Vì phong giới dao động nên được tăng trưởng. Không giới vì rỗng không nên thức ăn v.v… vào ra. Vì thức giới hòa hợp nên có chỗ tạo tác. Lại quán thân này từ chân đến đầu, đầy dẫy các thứ bất tịnh nhơ nhớp, ghê tởm. Quán sát sắc này cũng như trận gió dữ thổi tan đống cát. Đối với pháp vô sắc, trước sau nối tiếp nhau, quán sát từng phần khác nhau. Người quán như thế, sẽ được hạt giống của môn giải thoát không, đối với sinh tử kia nhàm lìa không ưa, được hạt giống của môn giải thoát vô nguyện, đối với sinh tử không ưa thích rồi hướng thẳng Niết-bàn, được hạt giống của môn giải thoát vô tướng. Nếu ở đây biết được tưởng không tạo tác rồi, quán tất cả hữu vi đều tan hoại, đó gọi là phương tiện giới viên mãn. Hỏi: Quán như thế xong, lại còn gì nữa? Đáp: Phương tiện này ở thân Tướng chân thật quyết định Các thọ và tự tâm Pháp cũng quán như thế. Người tu hành kia quán bất tịnh, niệm an-ban, quán phương tiện giới, mỗi chỗ trụ xong, thân, thọ, tâm, pháp đều quán chân thật. Chân thật nghĩa là không điên đảo. Tướng có hai thứ: Tự tướng và cộng tướng. Sắc tướng là thân, bốn thứ lớp tướng và tướng tùy giác được tạo, là tự tướng của thọ. Thức tướng là tự tướng của tâm. Pháp niệm xứ có nhiều thứ pháp, nhiều loại tướng khác nhau. Tùy tri là tướng tưởng, là tạo tướng của tư, so sánh như thế, về cộng tướng sẽ nói sau. Hỏi: Niệm xứ này như kiến lập địa đại nên nói một, chia ra hữu lậu, vô lậu nên nói là hai. Phân biệt hạ trung thượng nên nói là ba. Tức phân biệt hữu lậu, vô lậu này nên nói là sáu. Phân biệt thân v.v… hữu lậu vô lậu nên nói là tám. Phân biệt chín phẩm nên nói là chín. Phân biệt thân v.v… hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc trong ngoài nên nói là mười hai. Chia ra chín phẩm hữu lậu, vô lậu nên nói là mười tám. Chia ra hạ, trung, thượng của thân hữu lậu, vô lậu phải nói là hai mươi bốn. Phân biệt thân hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc trong ngoài, hoặc nhàm lìa, hoặc không ưa, hoặc quán sát, nên nói là ba mươi sáu. Phân biệt chín phẩm hữu lậu, vô lậu của thân nên nói là bảy mươi hai. Nếu niệm niệm phân biệt, nên nói là vô lượng, vì sao chỉ nói bốn niệm xứ? Đáp: Bốn đảo, bốn niệm, bốn thức trụ và ấm, vì bốn thứ tu đối trị, nên nói bốn thứ pháp tu trị bất tịnh, điên đảo tưởng là tịnh ấy nên nói thân niệm xứ. Đối trị tưởng điên đảo về khổ vui nên nói thọ niệm xứ. Đối trị tưởng về điên đảo vô thường là thường nên nói tâm niệm xứ. Pháp tu trị tưởng vô ngã, điên đảo tưởng là ngã nên nói là pháp niệm xứ. Như thế, các thứ các loại pháp khác tùy chỗ thích ứng nên nói. Hỏi: Niệm xứ này làm sao để tròn đầy? Đáp: Dùng hai nhân duyên tròn đầy, đó là hoại cảnh giới và căn thiện tăng. Hoại cảnh giới nghĩa là dùng sát-na cực vi nơi cảnh giới hư hoại tùy theo nghĩa ấy. Căn thiện tăng nghĩa là nương vào căn thiện trung, dựa vào đó mà được tăng trưởng, đây gọi là đầy đủ. Hỏi: Vì sao trước nói thân niệm xứ, sau đó mới nói pháp niệm xứ? Đáp: Vì khởi tùy thuận. Đức Thế Tôn nói ba thứtùy thuận: Tùy thuận khởi, tùy thuận thuyết và tùy thuận vô gián đẳng. Tùy thuận khởi nghĩa là niệm xứ và thiền. Người tu hành Vô Sắc, trước khởi thân niệm xứ, cho đến sau đó khởi pháp niệm xứ. Vì thế Đức Thế Tôn trước nói thân niệm xứ, sau mới nói về pháp niệm xứ. Phải biết thiền Vô Sắc cũng như thế. Tùy thuận thuyết nghĩa là nhân nơi chính đoạn, như ý túc, căn, lực, giác đạo chi thừa. Một sát-na khởi tinh tiến đủ bốn chính đoạn nên nói dễ. Pháp ác bất thiện đã sinh, phương tiện khiến đoạn, cho đến pháp thiện đã sinh, phương tiện khiến trụ, nói rộng như thế. chính đoạn như vậy vì chỗ tạo tác nên nói là bốn chính đoạn, vì không phải tự tính. Tùy thuận vô gián đẳng nghĩa là nói người tu hành chân đế, trước nhập khổ vô gián đẳng, cho nên nói trước, nói rộng như thế. Hỏi: Vì sao người tu hành trước khởi thân niệm xứ, cho đến pháp niệm xứ? Đáp: Vì thô. Năm ấm thô là sao? Đó là bốn loại và ấm được tạo, cho nên trước quán thọ, tuy không phải sắc nhưng vì hành thô nên kế nói, nghĩa là tay, chân v.v… thọ nhận là tùy chuyển. Tuy tưởng hành ấm thô chẳng phải thức, mà hợp với Niết-bàn, nên đặt ra pháp niệm xứ, nên tưởng ấy rất vi tế, nên trước quán tâm, sau quán pháp. Tuy tất cả đều là pháp, tức đối với pháp tưởng tròn đầy nên kiến lập, thế nên nói một pháp niệm xứ, không phải pháp khác. Như trong phẩm Giới nói pháp nhập, ở đây cũng thế. (Tưởng mãn nghĩa là đối với tiếng là tưởng, đối với nghĩa đó gọi là mãn) Hỏi: Có bao nhiêu niệm xứ? Đáp: Ba thứ nói niệm xứ Tự tính cùng với cộng Cũng gọi đó là duyên Văn tuệ thảy cũng thế. Ba thứ nói niệm xứ, tự tính cùng với cộng, cũng gọi đó là duyên, nghĩa là ba thứ niệm xứ: Tự tính niệm xứ, cộng niệm xứ và duyên niệm xứ. Tự tính niệm xứ nghĩa là nói tuệ không điên đảo. Vì sao? Như nói quán thân thuận với thân, quán nghĩa là tuệ, niệm nghĩa là việc đã làm không quên mất, vì trao duyên, vì trừ lỗi tự tính, nên nói niệm xứ. Cộng niệm xứ nghĩa là cùng một quả pháp với chính tuệ. Như Đức Thế Tôn nói: “Tỳ-kheo là pháp thiện chứa nhóm, nghĩa là bốn niệm xứ. Đây là thuyết đúng. Duyên niệm xứ nghĩa là tất cả pháp như đã nói: “Tỳ-kheo! Tất cả pháp đã nói về bốn niệm xứ, đây là thuyết đúng. vì thâu nhận đầy đủ, vì tóm lược duyên”. Cộng niệm xứ dứt trừ phiền não, không phải pháp khác. Tự tính niệm xứ dù tóm lược cảnh giới, vì vật dụng, không đủ nên thâu nhận đầy đủ đạo dứt trừ phiền não. Duyên niệm xứ tuy bao gồm đông đủ, nhưng vì cảnh giới tản mát khắp, nên tóm lược cảnh giới đạo, dứt trừ phiền não. Hỏi: Chỉ có ba loại niệm xứ này, pháp khác có như thế chăng? Đáp: Văn tuệ v.v… cũng thế, pháp khác cũng có ba loại, đó là văn, tư, tu. Văn nghĩa là thường khởi ở danh, xứ, từ thầy thọ Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm. Tư nghĩa là hoặc tư xứ khởi, hoặc lìa tư. Tu nghĩa là hoàn toàn lìa danh mà khởi, như ba người học bơi: Mới học, học nửa chừng và học giỏi. Người mới học bơi gần bờ, người học nửa chừng, hoặc gần, hoặc xa bờ, người học thành thạo bơi xa bờ. Người thứ nhất ví như văn tuệ, người thứ hai ví như tư tuệ, người thứ ba ví như tu tuệ, tu tuệ có thể dứt trừ phiền não, vì lìa hẳn danh, và vì chính định. Cho hai thứ vô nghĩa là không đúng. Vì sao? Vì hướng về tu tuệ, tu tuệ có đủ bốn niệm xứ: thân, thọ, tâm, pháp. Pháp niệm xứ kia dứt trừ phiền não, chẳng phải thứ khác vì cảnh giới chung, không phải thứ khác, vì cảnh giới sự, vì khởi pháp niệm xứ nên cũng không phải vô nghĩa. Pháp niệm xứ có hai thứ: duyên hoại, duyên không hoại, nếu tuệ duyên sắc là thân niệm xứ, nếu duyên thọ, là thọ niệm xứ, nếu duyên tâm là tâm niệm xứ, nếu duyên tưởng, hành và vô vi là duyên bất hoại. Nay sẽ nói pháp niệm xứ khác: Nhập vào pháp quán chung Đắc pháp tướng chân thật Bốn này là vô thường Không, vô ngã, phi lạc. Nhập vào pháp quán chung, đắc pháp tướng chân thật, nghĩa là người tu hành nhập pháp niệm xứ của duyên không hư hoại. Tu mỗi niệm xứ, quán khắp tự tướng, cộng tướng của tất cả pháp rồi, nhập pháp niệm xứ của duyên hoại. Sắc, thọ duyên niệm xứ, sắc tưởng duyên, sắc hành duyên, sắc thức duyên. Duyên ba, bốn, năm ấm như thế là pháp niệm xứ, thành tất cả thân, thọ, tâm, pháp niệm xứ. Một giác quán chung về độ, đó là thế nào? Bốn pháp này là vô thường, không, vô ngã, phi lạc. Do các hành như vô thường, v.v… quán chung tất cả pháp hữu lậu. Vì pháp kia mỗi niệm diệt, nên vô thường, vì lìa thường, v.v… cho nên không, vì không tự tại nên vô ngã, vì thật sự ép ngặt nên khổ. Từ đây gọi là Noãn Đối pháp giác mà sinh Mười sáu hành cùng khởi Quán sát bốn Thánh đế. Từ đây gọi là Noãn, đối pháp giác mà sinh, nghĩa là người tu hành kia đối với pháp niệm xứ của duyên hoại lần lượt sinh căn thiện, gọi là Noãn. Hỏi: Cảnh giới nào có bao nhiêu hành? Đáp: Mười sáu hành cùng khởi, quán sát bốn Thánh đế, pháp hành của pháp Noãn ấy là mười sáu hành như khổ đế, v.v… Bốn hành của khổ Thánh đế cho đến bốn hành của đạo Thánh đế. Về nghĩa hành, ở phẩm Trí sẽ nói rộng. Pháp Noãn kia sinh, pháp niệm xứ duyên ba đế tu hiện tại, vị lai có bốn. Một hành tu hiện tại ở vị lai có bốn, tự phần chẳng phải không tự phần. Pháp niệm xứ của duyên diệt đế, tu hiện tại tức vị lai này tu, không phải đầu tiên lìa ấm, quán đạo đắc tu duyên ấm. Một hành tu hiện tại, vị lai có bốn, tinh tiến nơi bốn niệm xứ duyên ba đế. Mỗi niệm xứ tu hiện tại, vị lai có bốn. Một hành tu hiện tại, ở vị lai có mười sáu. Tinh tiến nơi pháp niệm xứ tu hiện tại duyên diệt đế, ở vị lai có bốn. Một hành tu hiện tại vị lai có mười sáu, tu căn thiện chưa tăng, tu hành tự phần, tăng căn thiện, tăng tu hiện tại, tu hành tự phần, không tự phần. Pháp Noãn là tuệ tự tại nơi pháp tùy chuyển, là tính của năm ấm. Noãn là sinh ra lửa Thánh trí. Vì Noãn là chủng nên nói pháp noãn. Pháp này tăng trưởng rồi Sinh Đảnh cùng với Nhẫn Được pháp Thế đệ nhất Dựa vào một sát-na. Pháp này tăng trưởng rồi, sinh Đảnh cùng với Nhẫn, nghĩa là người tu hành chính phương tiện, chính ức niệm tăng trưởng, vì được thuận theo đủ mọi dụng cụ của nghiệp thiện nên pháp Noãn được tăng trưởng, kế là sinh căn thiện, gọi là Đảnh. Mười sáu hành duyên bốn hành Thánh đế. Pháp Đảnh kia duyên bốn đế, duyên diệt đế, tiến thêm pháp niệm xứ, tinh tiến hiện tại tu ở vị lai. Có bốn, một hành tu hiện tại, trong vị lai có mười sáu. Bốn niệm xứ, tinh tiến duyên ba đế, mỗi xứ tu hiện tại ở vị lai có bốn. Một hành hiện tại ở vị lai có mười sáu. Căn thiện này cũng là tính của tuệ, pháp tùy chuyển của tính năm ấm. Pháp Đảnh nghĩa là vì ở trên Noãn, nên nói là Đảnh, kém hơn Nhẫn gọi là dưới. Đôi khi Đức Thế Tôn nói: “Tín như vì Ba-la-diên nói”. Hoặc nói tuệ như vì các Tỳ-kheo trẻ tuổi nói việc thọ nhận ở nơi Đảnh này mà lui sụt gọi là Đảnh đọa. Noãn cũng phải có đọa, nhưng không nói. Đảnh đọa nghĩa là do thường ưu não cho nên có, ba xứ khởi đại ưu não, như mất đi của báu lớn. nghĩa là Phi tưởng Phi phi tưởng lìa dục, thối lìa dục của cõi Dục, và pháp Đảnh lui sụt gọi là tính không thành tựu. Người tu hành kia đối với chính phương tiện này thành tựu căn thiện của Đảnh, tăng tiến sinh đế thuận nhẫn, mười sáu hành duyên hành bốn đế, và pháp niệm xứ tinh tiến tu hiện tại, ở vị lai có bốn, một hành tu hiện tại ở vị lai có mười sáu. Nhẫn nghĩa là đối với bốn Thánh đế kham nhẫn dục lạc. Noãn, Đảnh cũng kham nhẫn thì không đúng, vì Nhẫn không lui sụt, vì trái với đường ác, vì gần với Thánh đạo, cho nên nói đế thuận nhẫn, chẳng phải Noãn, Đảnh. Hỏi: Nhẫn tăng trưởng sinh ra căn thiện nào? Đáp: Được pháp Thế đệ nhất dựa vào một sát-na, nghĩa là duyên thứ đệ tăng thượng nhẫn sinh, phàm phu sở đắc căn thiện thù thắng, gọi là pháp đệ nhất thế gian, pháp này cũng là tính năm ấm, vì pháp đó hữu lậu nên gọi Thế gian. Vì vượt hơn Noãn… nên nói là đệ nhất. Pháp này cũng là chỗ tu công đức tối thắng của phàm phu, vì một sát-na không dừng, vì giống với kiến đạo, vì Noãn, Đảnh, Nhẫn nối tiếp nhau. Có thuyết nói: Pháp niệm xứ tu tuệ kia quán chung tất cả, thứ lớp sinh ra phần quyết định thế gian hành căn thiện, căn thiện ấy kiến lập ra chín phẩm. Đó là hạ hạ, hạ trung, hạ thượng, gọi là pháp noãn, hạ trung, trung trung, gọi pháp Đảnh, trung thượng, thượng hạ, thượng trung, gọi là pháp Nhẫn, thượng thượng gọi là pháp đệ nhất thế gian. Nếu quán căn thiện của ấm là vô thường, v.v… gọi là pháp Noãn. Quán công đức của Tam bảo, gọi là pháp Đảnh. Quán sát Thánh đế, gọi pháp Nhẫn. Quán khổ Thánh đế theo thứ lớp Thánh đạo, gọi là pháp đệ nhất thế gian. Người tu hành khi được pháp Noãn rồi, hoặc lui sụt xả, hoặc qua đời xả, hoặc độ giới địa xả, cũng khởi lên nghiệp vô gián đoạn trừ căn thiện, sinh trong đường ác. Vì duyên theo phước này mục đích là đạt được Niết-bàn. Lui sụt pháp Đảnh cũng như thế, chỉ trừ cắt đứt căn thiện, nhẫn thì không lui sụt. Có mạng chung xả và độ giới địa xả, không tạo ra nghiệp vô gián, không đoạn căn thiện, không rơi vào đường ác, vì sức lớn của nhẫn, như sư tử, đầu đàn, các thú đều tránh xa. Sức nhẫn cũng thế, tất cả ác tâm không phải thường diệt, cũng như trú xứ của đại vương, tâm hạnh ác của người, trời đều nhu hòa. Hỏi: Pháp đệ nhất thế gian duyên theo pháp gì? Có bao nhiêu hành? Đáp: Khổ dưới có bốn hành Nói thuộc nương sáu địa Pháp nhẫn cũng như thế Là khác, hoặc nương bảy. Khổ dưới có bốn hành, nghĩa là khổ cõi Dục nói là khổ dưới, khổ ấy là đối tượng duyên của pháp đệ nhất thế gian. Các hành vô thường, khổ, không, vô ngã, chuyển chẳng phải pháp khác, vì giống như kiến đạo. Có hai thứ tu hành: Ái hành và kiến hành. Ái hành có hai thứ là: Ngã mạn hành và tăng giải đãi. Kiến hành cũng có hai thứ: Chấp trước ngã và ngã sở. Ngã mạn nghĩa là tu hành vô thường, pháp đệ nhất thế gian. Tăng giải đãi nghĩa là tu hành khổ. Chấp trước hành ngã nghĩa là tu hành phi ngã. Chấp trước ngã sở nghĩa là tu hành không. Hỏi: Thuộc về bao nhiêu địa? Đáp: Thuộc về sáu địa: Vị lai, trung gian và bốn thiền căn bản, không phải cõi Dục vì vô định, không phải cõi Vô Sắc vì không có kiến đạo. Hỏi: Phần căn thiện quyết định khác thuộc bao nhiêu địa? Đáp: Pháp nhẫn cũng giống như thế. nghĩa là thuộc về sáu địa nhẫn. Như pháp đệ nhất thế gian, nghĩa là pháp khác hoặc nương dựa bảy. Noãn, Đảnh cũng thuộc sáu địa. Tôn giả Cù-sa nói muốn cho cõi Dục cũng có. Hỏi: Đã nói phần quyết định thứ lớp khởi. Thánh đạo thứ lớp khởi ra sao? Đáp: Pháp đệ nhất thế gian Kế sinh khổ pháp nhẫn Nhẫn, kế sinh ra trí Đều quán khổ cõi dưới. Pháp đệ nhất thế gian, kế sinh khổ pháp nhẫn, nghĩa là pháp đệ nhất thế gian theo thứ lớp sinh ra khổ pháp nhẫn. Kiến khổ dứt trừ cõi Dục, đối trị mười sử. Đây là đạo vô ngại vô lậu đầu tiên. Lại nữa, pháp đệ nhất thế gian theo thứ lớp không làm, không hướng, không hành, xả nghiệp tà, đường tà, kiến tà. Nghiệp tà là năm nghiệp Vô gián, đường tà là đường ác. Kiến tà là năm kiến. Lại nữa, pháp đệ nhất thế gian chia ra khổ pháp nhẫn, tạo nên năm thứ định, đó là định địa, định hành, định duyên, định sát-na và định duyên thứ đệ. Định địa: nghĩa là nếu pháp đệ nhất thế gian của địa này, tức là khổ pháp nhẫn của địa ấy. Định hành nghĩa là nếu pháp đệ nhất thế gian của hành này thì chính là khổ pháp nhẫn của hành ấy. Định duyên nghĩa là vì chắc chắn đồng duyên. Định sát-na nghĩa là nếu trái với sát-na này tức là sát-na này sinh. Định duyên thứ lớp nghĩa là pháp đệ nhất thế gian, tất nhiên lần lượt sinh khổ pháp nhẫn, tăng thượng nhẫn, chia làm ba thứ định, trừ sát-na và duyên thứ đệ. Vì vậy nên duyên khổ nhẫn, về sau sẽ được vượt lên ly sinh. Người tu hành kia tư duy khổ ở cõi Dục và khổ của cõi Sắc, Vô Sắc cho đến đối trị hành của cõi Sắc, Vô Sắc, đó gọi là hạ nhẫn. Người kia lại tư duy khổ cõi Dục, cho đến hành đối trị cõi Dục, xả đối trị hành của cõi Sắc, Vô Sắc, đó gọi là trung nhẫn. Người kia quán sát mỗi đế xả trở lại, cho đến khổ cõi Dục nối tiếp tu, sau đó lại xả, tiếp nối cho đến tư duy một sát-na về khổ cõi Dục là tăng thượng nhẫn. Sau đó sinh ra pháp đệ nhất thế gian. Kế là nhẫn sinh ra trí: nghĩa là khổ pháp nhẫn theo thứ lớp sinh khổ pháp trí, tự tính của đạo giải thoát. Hỏi: Trí nhẫn này duyên theo cái gì? Đáp: Đều duyên theo khổ dưới, khổ dưới là khổ cõi Dục. Trí kia đều quán. Là khổ sắc, Vô Sắc Tập, diệt, đạo cũng thế Pháp này vô gián đẳng Là nói mười sáu tâm. Là khổ cõi sắc, Vô Sắc, nghĩa là khổ cõi Sắc, Vô Sắc cũng như thế. Đạo vô ngại của khổ tỷ nhẫn, đạo giải thoát của khổ tỷ trí. Tập, diệt, đạo cũng thế, nghĩa là tập, diệt, đạo đế cũng dùng hai nhẫn làm đạo vô ngại, hai trí làm đạo giải thoát. Pháp vô gián này đẳng là nói mười sáu tâm, nghĩa là mười sáu khoảnh tâm này là pháp vô gián đẳng. Vô gián đẳng là kiến nghĩa, mười lăm tâm khoảnh này là kiến đạo, một tâm sau cùng là tu đạo. Hỏi: Vì sao ba đế nhẫn và trí thuộc về Kiến đạo? Tâm đạo đế tối hậu thuộc về tu đạo. Đáp: Vì tu mười sáu hành đạo, đạo tỷ trí tương ưng với mười sáu hành, chẳng phải kiến đạo tu mười sáu hành, vì đạo tỷ trí nối tiếp nhau, thuộc về đạo quả cho là không ứng hợp thì không đúng. Như tận trí thành thì đạo quả này thành. Nếu đạo quả này không có thì đạo vô học cũng chẳng có phần. Nói lược về ba địa: kiến địa, tu địa, vô học địa. Ở nơi các địa này kiến lập con người, như nghĩa đó nay sẽ nói: Tùy pháp hành, lợi căn Đây ở mười lăm ý Tùy tín hành, độn kiến Phải biết ở giữa trong đó. Tùy pháp hành lợi căn, đây ở mười lăm y: nghĩa là người kiến đạo có mười lăm tâm, nếu thuộc lợi căn thì gọi là Tùy pháp hành. Vì tùy theo pháp hành nên gọi là Tùy pháp hành, vì niềm tin không xuất phát từ người khác. Tùy tín hành độn kiến, phải biết cũng ở giữa, nghĩa là ở hạng người mười lăm tâm này nếu là độn căn, thì nói là Tùy tín hành. Vì tin vào người khác được độ. Người tùy tín hành là ít quán sát, người Tùy pháp hành là thường quán sát. Tùy tín, tùy pháp hành Hoặc có phiền não buộc Cho đến năm thứ đoạn Phải biết hướng quả đầu. Tùy Người tín, Tùy pháp hành này hoặc có phiền não trói buộc, hoặc một, hai, ba, bốn, năm thứ dứt trừ, gọi là quả hướng Tu-đà-hoàn. Vì phiền não phân biệt thượng thượng v.v… nên lập ra chín phẩm. Người kia nếu lúc còn là phàm phu, chưa hề dứt trừ một phẩm phiền não thì gọi là Cụ phược. Nếu dứt trừ một phẩm thì gọi không cụ phược. Nếu dứt trừ năm phẩm thì vượt lên ly sinh, thấy khổ dứt trừ năm phẩm cõi Dục, dứt khổ pháp trí đắc giải thoát chứng, cho đến kiến đạo dứt trừ năm phẩm đoạn đạt đạo pháp trí đắc giải thoát chứng, tu đạo dứt trừ năm phẩm đoạn của quả Tư-đà-hàm, chứng được giải thoát. Sáu tận cho đến tám Là hướng quả thứ hai Lìa dục đến tám địa Đây là hướng thứ ba. Sáu đoạn cho đến tám, là hướng quả thứ hai, nghĩa là người Tùy tín hành, Tùy pháp hành ấy nếu đã dứt trừ sáu, bảy, tám phẩm phiền não thì đây quả hướng gọi là Tư-đà-hàm. Lìa dục đến Bát địa, đây là hướng thứ ba, nghĩa là người Tùy tín hành, Tùy pháp hành này, nếu lìa dục cho đến Vô sở hữu xứ hết, thì họ đều hướng đến quả A-na-hàm. Nếu đến mười sáu tâm Đó gọi là trụ quả Kiến yếu, tín giải thoát Kiến lợi gọi kiến đáo. Nếu đến mười sáu tâm, đó gọi là trụ quả, nghĩa là đến tâm thứ mười sáu gọi là đạo tỷ trí, tương ưng với đạo kia khởi, đều nói là trụ quả, hoặc Tu-đà-hoàn, hoặc Tư-đà-hàm, hoặc A-na-hàm. Kiến yếu, tín giải thoát: nghĩa là nếu người kiến yếu kém nhập kiến đạo, gọi là Tùy tín hành, lúc người tu hành ấy trụ ba quả, gọi là Tín giải thoát. Kiến lợi gọi kiến đáo: nghĩa là nếu người lợi căn nhập kiến đạo thì gọi là Tùy pháp hành, người đó lúc trụ ba quả, gọi là kiến đáo. Tín căn của Kiến đáo vượt hơn Tín giải thoát, chỉ vì tuệ đã huân tập, nên nói là kiến đáo. Phi sự các phiền não Các phiền não dứt hết Cho đến vị tiến hành Đó gọi Tu-đà-hoàn. Nếu kiến đạo dứt trừ hết tám mươi tám kiết thì đây là quả Tu-đà- hoàn, cho đến Vị tiến hành, gọi là trụ quả Tu-đà-hoàn. Nếu phương tiện dứt trừ chủng thượng thượng thì gọi là quả hướng Tư-đà-hàm, tức từ chủng này cho đến dứt năm phẩm, vượt lên ly sinh, đạo tỷ trí khởi gọi là Tu-đà-hoàn, không phải hướng Tư-đà-hàm, vì hướng đến đạo quả kia mà vẫn chưa một niệm hiện ở trước. Hỏi: Dứt trừ rất nhiều phiền não, vì sao Đức Thế Tôn nói là ba kiết hết? Đáp: Mười sử là căn bản. Năm kiến: nghi, ái, sân, mạn, vô minh; Thấy đạo đoạn là sáu (năm kiến và nghi). Kiến đạo kia dứt trừ sáu sử hết hẳn, sáu là ba chuyển và ba tùy chuyển. Thân kiến kia là chuyển, biên kiến là tùy chuyển. Giới thủ là chuyển, kiến thủ là tùy chuyển, nghi là chuyển, tà kiến là tùy chuyển. Đã nói chuyển, phải biết là đã nói tùy chuyển, cho nên Đức Thế Tôn nói ba kiết hết là Tu-đà-hoàn. Hơn nữa, các phiền não này hoặc một thứ, hai thứ, bốn thứ, đã nói thân kiến, phải biết đã nói một thứ, đã nói giới thủ phải biết đã nói hai thứ. Đã nói nghi phải biết đã nói bốn thứ. Nhất thiết biến, không nhất thiết biến, duyên hữu lậu, duyên vô lậu như thế, đều phải biết mọi kiết này đã hết, đã biết, cho đến A-la-hán vẫn còn có tương tợ tùy chuyển. Chưa hết chủng tu đạo Thọ sinh, sinh tử bảy. Phải biết Thế Tôn nói Tu-đà-hoàn viên mãn. Chủng tu đạo của Tu-đà-hoàn kia chưa hết. Cực mãn ấy phải biết là bảy hữu. Bảy lần sinh làm trung ấm, sinh ấm ở nhân gian và các tầng trời cõi Dục. Đây là nói chung bảy hữu, vì không quá bảy, như cây bảy lá. Hỏi: Vì sao nói bảy hữu, không thêm, không bớt? Đáp: Như bị rắn bảy bước cắn. Vì sức bốn đại nên bước đến bảy bước, vì sức độc nên không đến tám. Vì nghiệp lực như thế nên bảy lần sinh, vì đạo lực nên không đến tám. Tu-đà-hoàn kia lúc trụ tăng thượng nhẫn, trừ bảy lần sinh cõi Dục. Ngoài ra tất cả đều sinh, được không phải thường diệt, đến hoàn toàn không hiện ở trước. Nếu nhân gian vượt lên Ly sinh thì nhân gian phải đủ bảy lần sinh trên cõi trời, rồi lại mãn trên trời bảy lần. Thánh đạo trung gian tuy thể hiện ở trước nhưng vì nghiệp lực gìn giữ, nên không nhập Niết-bàn. Hỏi: Nếu mãn bảy lần sinh rồi mà Đức Phật không ra đời, thì vị kia làm sao chứng được quả A-la-hán? Đáp: Có thuyết nói tại gia được quả A-la-hán, được quả rồi không trụ ở nhà. Lại nói chính thân hình người kia tự xuất gia, vì thành tựu tịnh bất hoại, vì hy vọng tròn đầy, vì nhận thấy lỗi của hành vi ác, cho nên pháp Tu-đà-hoàn không đọa vào đường ác. Lại vì sinh trong chủng tính Phật, vì lửa trí sáng sạch, vì thấy lỗi lầm của cảnh giới, vì chỉ, quán đầy đủ, vì được hun đúc do thuốc Thánh đạo, như Thái tử của vua, như người được tăng thêm nội lực, như cá khéo léo. Vì thế nên Tu-đà-hoàn không đọa đường ác. Tuy phàm phu không đọa đường ác nhưng vì ít và bất định, cho nên không nói. Vì trụ nhóm chính định ï, nên nói là định, tất nhiên vì được Niết-bàn nên nói hướng về chính giác. Bảy hữu (như trước đã nói). Trụ là trung ấm. Sinh là sinh ấm cho nên nói trụ sinh. Lại vì không thọ sinh khác nên gọi trụ khổ biên, không hẳn là hết thảy Tu- đà-hoàn đều mãn bảy đời. Nếu dứt ba, bốn thứ Thành tựu đối trị kia Hai đời ba đời khác Đây gọi là Gia gia. Vì ba nhân duyên nên lập Gia gia, nghĩa là phiền não dứt trừ, thành tựu căn và thọ sinh. Phiền não dứt trừ nghĩa là cõi Dục do tu đạo dứt trừ phiền não. Ba phẩm, bốn phẩm dứt trừ, không có năm phẩm dứt trừ gọi là Gia gia. Nếu người dứt trừ được năm phẩm là nhờ uy lực, thì phải dứt sáu phẩm, thành Tư-đà-hàm, chứ không phải do sức của phẩm thứ sáu có thể ngăn trở, khiến không đến quả. Thành tựu căn nghĩa là được các căn vô lậu đối trị. Thọ sinh hoặc là còn thọ cõi Dục nữa, hai đời ba đời khác nghĩa là nếu trong ba nhân duyên, mỗi duyên không đủ thì chẳng phải Gia gia. Có hai thứ Gia gia: Hoặc trời, hoặc người. Thiên gia gia nghĩa là các tầng trời cõi Dục. Hoặc thọ hai đời, ba đời, hoặc thọ một chủng loại thân ở thiên xứ, hoặc hai, hoặc ba lần sinh ở cõi trời. Nhân gia gia nghĩa là thân ở nhân gian, hoặc một thiên hạ, hoặc hai, hoặc ba. Hoặc một nhà, hoặc hai hay ba. Hỏi: Gia gia có nghĩa là gì? Đáp: Từ nhà đến nhà mà nhập Niết-bàn nên gọi là Gia gia. Tu-đà- hoàn vì vượt hơn nên gọi là Gia gia. Sáu phẩm phiền não dứt Kiến đạo dứt tất cả Là nói Tư-đà-hàm Là Vị Tiến hành kia. Nếu tu đạo dứt ba phẩm thượng, ba phẩm trung cõi Dục và thấy đạo dứt trừ tất cả thì hoàn toàn trụ quả Vị Tiến hành, gọi là Tư-đà- hàm. Hỏi: Tư-đà-hàm có nghĩa là gì? Đáp: Ở đây chết đi, sinh lên trời cõi Dục. Một lần đến nhân gian rồi nhập Niết-bàn, gọi là Nhất lai. Nếu phẩm bảy, tám đoạn Thành tựu căn đối trị Phẩm khác thọ một đời Đó gọi một hạt giống. Nếu phẩm bảy phẩm tám của cõi Dục do tu đạo đoạn và kiến đạo dứt trừ tất cả đều được căn đối trị vô lậu kia, một đời khác ở cõi Dục, gọi là một hạt giống. Ba nhân duyên, bất cứ một nhân duyên nào không đủ, thì không phải là một hạt giống. Nếu một hạt giống trời thì thọ một thân trời mà nhập Niết-bàn. Nhân gian cũng thế. Vì hạt giống của một đời khác nên nói là một hạt giống. Hỏi: Vì sao phẩm tám dứt trừ gọi là một hạt giống? Phẩm năm dứt trừ không gọi Gia gia? Đáp: Dù cho phẩm sáu dứt trừ là Gia gia, nghĩa là còn sinh cõi Dục, là nghiệp phiền não của cõi Dục không bị chướng ngại. Vì phẩm chín của một hạt giống đều sinh cõi Sắc, cho nên nghiệp phiền não cõi Dục rất chướng ngại. Vì thế nên nói nghiệp của chúng sinh ở ba chỗ rất gây não loạn ba chỗ ở sau sẽ nói. Một hạt giống là Tư-đà-hàm ở trên. Bất hoàn: Chín phẩm hết Phải biết có nhiều thứ Hoặc năm và bảy, tám Hoặc là nói rất nhiều. Bất hoàn dứt chín phẩm: nghĩa là kiến đạo dứt trừ tất cả và tu đạo cõi Dục dứt trừ chín phẩm kiết hết, nên biết là A-na-hàm. Hỏi: Có ngần ấy phiền não được dứt trừ, vì sao Đức Thế Tôn lại nói năm kiết phần dưới hết là A-na-hàm? Đáp: Một, hai, bốn, năm thứ, như thế tất cả đều thuộc về năm kiết phần dưới, đồng nghĩa với đáng ghét thấp hèn. Lại nữa, có thuyết nói có hai chủng loại dưới: Cõi dưới và chúng sinh dưới. Cõi dưới nghĩa là cõi Dục, chúng sinh dưới là phàm phu, bị tham, sân buộc ràng, cõi dưới nghĩa là vì khó độ, vì bị thân kiến, giới thủ, nghi trói buộc, chúng sinh dưới như lính giữ cửa canh phòng. Bậc Thánh trước hoặc dứt trừ hai kiết, hoặc ba kiết, vì dứt trừ tập nên nói là năm. Không trở lại cõi Dục gọi là A-na-hàm. Điều này cũng có nhiều thứ, hoặc năm và bảy, tám, hoặc lại nói đa số, gọi là A-na-hàm. Năm thứ là trung bát Niết-bàn, sinh bát Niết-bàn, hành bát Niết-bàn, vô hành bát Niết-bàn và thượng lưu bát Niết-bàn. Bảy thứ là: Trung bát Niết-bàn có ba thứ. Như Khế kinh nói trung bát Niết-bàn có ba thứ: Như tấm bình phong nhỏ trước ngọn lửa to. Như tấm phên nhỏ đặt cạnh tấm sắt nóng. Như tấm bình phong bị viên sắt nóng đốt cháy. nghĩa này tức là nghĩa Khế kinh nói. Bốn thứ như ở trước nói tám, năm thứ như trước nói. Lại nữa, hiện pháp bát Niết-bàn, A-na-hàm ở cõi Vô Sắc và bất định. Lại nữa, năm thứ căn của cõi Sắc được kiến lập thì có mười lăm trung bát Niết-bàn thượng, trung, hạ. Cho đến thượng lưu bát Niết-bàn cũng như thế. Địa kiến lập có hai mươi: Sơ thiền có năm, cho đến đệ Tứ thiền cũng có năm, kiến lập chủng tính thì ba mươi. Trung bát Niết-bàn có sáu loại, đó là chủng tính của pháp lui sụt, pháp tư, pháp hộ, pháp trụ, pháp thắng tiến và chủng tính của pháp bất động. Như thế cho đến thượng lưu cũng vậy. Xứ sở kiến lập thì tám mươi, thân trời Phạm có năm. Như thế cho đến trời A-ca-nị-trá. Căn chủng tính kiến lập thì chín mươi. Địa chủng tính kiến lập thì một trăm hai mươi. Kiến lập căn địa chủng tính có ba trăm sáu mươi. tính xứ kiến lập xứ chủng tính là bốn trăm tám mươi, kiến lập căn cứ chủng tính là một ngàn bốn trăm bốn mươi. Ký rằng: Mười lăm có hai mươi Ba mươi và tám mươi Chín mươi, trăm hai mươi Và ba trăm sáu mươi Bốn trăm tám mươi thứ Ngàn bốn trăm bốn mươi Nói rộng lược như thế Nhiếp thọ A-na-hàm Căn, địa và chủng tính Kiến lập rộng xứ sở Tùy phiền não dứt kia, Nay sẽ lần lượt nói. Lại nữa, một A-na-hàm là nói trung bát Niết-bàn, kiến lập căn có ba: địa bốn, chủng tính sáu, xứ sở mười sáu. Chủng tính căn mười tám, địa chủng tính hai mươi bốn. Địa lìa dục ba mươi sáu, căn của địa chủng tính có bảy mươi hai, xứ chủng tính có chín mươi sáu. Địa chủng tính lìa dục có hai trăm mười sáu. Căn xứ chủng tính có hai trăm tám mươi tám, căn địa chủng tính lìa dục có sáu trăm bốn mươi tám, xứ chủng tính lìa dục có tám trăm sáu mươi bốn, kiến lập căn xứ chủng tính lìa dục có hai ngàn năm trăm chín mươi hai. Phải biết là số của trung bát Niết-bàn, cho đến thượng lưu cũng như vậy. Tất cả gồm một vạn hai ngàn chín trăm sáu mươi. Ký chép: Một, ba, bốn và sáu Mười sáu và mười tám Là nói hai mươi bốn Lại nói ba mươi sáu. Bảy mươi có hai thứ Chín mươi có sáu thứ Hai trăm mười sáu thứ Hai trăm tám mươi tám. Sáu trăm bốn mươi tám Tám trăm sáu mươi bốn Và lại nói hai ngàn Năm trăm chín mươi hai. A-na-hàm như vậy, số ấy gấp năm lần (tức là ở trên có hai ngàn năm trăm chín mươi hai, gấp năm là một vạn hai ngàn chín trăm sáu mươi). Đã nói tất cả A-na-hàm, nay sẽ nói tướng của năm A-na-hàm: Hạ phiền não lợi căn Trụ ở một thứ nghiệp Là trung bát Niết-bàn Phân biệt sáu thứ tính. Hạ phiền não lợi căn, trú nơi một thứ nghiệp, là trung bát Niết-bàn: nghĩa là người lợi căn và trung phiền não yếu kém, tác nghiệp trung ấm tăng trưởng, không tác nghiệp sinh ấm, người ấy chết ở cõi dục, trú ở trung ấm cõi sắc, đắc đạo vô lậu, dùng đạo này để xả các kiết khác mà bát Niết-bàn, đó gọi là trung bát Niết-bàn, vì vượt qua nạn cõi Dục nên phải ở trung ấm cõi Dục mà bát Niết-bàn. Nếu muốn cho người bát Niết-bàn, thì người ấy phải dứt hai thứ kiết là bất thiện và vô ký, đắc hoặc hai, hoặc ba quả Sa-môn, vượt ra ba cõi, trung ấm cõi Dục đối với điều ấy là không thể. Nếu chết ở cõi Sắc là thuộc về phẩm thượng lưu. Hỏi: Người này có bao nhiêu chủng tính? Đáp: Chia ra sáu chủng tính, nên biết trung bát Niết-bàn có sáu chủng tính: Thối pháp cho đến Bất động. Nếu nói lợi căn không thối chủng tính là không đúng, vì người ấy cũng kiến lập chín phẩm căn. Phương tiện siêng tinh tiến Tu tập mau tiến đạo Là sinh bát Niết-bàn Kia cũng có hai thuyết. Phương tiện siêng tinh tiến, tu tập mau tiến đạo, là sinh bát Niết- bàn, nghĩa là người sinh bát Niết-bàn tạo nghiệp trung ấm, sinh ấm, khi chết thọ trung ấm và sinh ấm ở các tầng trời cõi Sắc. Người ấy lúc mới sinh khởi đạo hữu hành, đó là phương tiện siêng năng và tiến đạo dứt trừ nhanh chóng các kiết khác. Lúc mới sinh liền bát Niết-bàn nên nói là sinh bát Niết-bàn. Việc ấy cũng có hai thuyết. Có thuyết nói: Lúc mới sinh, liền dứt phiền não, được bát Niết-bàn là không đúng. Có thuyết nói: Vì không xả phần thọ hành, nghĩa là trú đến khi tuổi thọ hết, nghĩa này có lý hơn. Phương tiện siêng thứ ba Xa lìa mau tiến đạo Không siêng cầu thứ tư Ba cùng nói sáu thứ. Phương tiện siêng thứ ba, xa lìa mau tiến đạo: nghĩa là người ấy hành bát Niết-bàn sai khác, không hành mau tiến đạo, ngoài ra như trước đã nói. Danh: Là khởi đạo hữu hành, dứt phiền não khác mà bát Niết-bàn là hữu hành bát Niết-bàn. Lại nữa, nương vào tam-muội duyên vô vi dứt phiền não mà bát Niết-bàn cũng là hữu hành bát Niết- bàn. Không siêng cầu thứ tư nghĩa là vô hành bát Niết-bàn này cũng là không siêng cầu, cũng không hành mau tiến đạo, ngoài ra như trước đã nói. Danh: Là khởi đạo vô hành dứt trừ phiền não khác mà bát Niết- bàn là vô hành bát Niết-bàn. Lại nữa, nương vào tam-muội duyên vô vi đoạn trừ phiền não mà bát Niết-bàn, cũng là vô hành bát Niết-bàn. Ba đều nói sáu loại nghĩa là hành cùng vô hành và sinh bát Niết-bàn. Phải biết đều nói sáu chủng tính. Ba loại này tuy đều là sinh bát Niết-bàn, vì nghĩa sai khác nên nói ba không lỗi. Siêu, bán siêu, xứ xứ Đó gọi là thượng lưu Đây là sáu chủng tính Phải biết tiến, bất tiến. Siêu, bán siêu xứ xứ, đó gọi là thượng lưu: Thượng lưu có hai loại: Hoặc trước đắc huân thiền, hoặc không đắc, trước đắc kia: nghĩa là trước đã huân tu Tam thiền, sau đó lại lui sụt trụ Sơ thiền, tương ưng vị Sơ thiền, khi chết sinh lên cõi Phạm thiên: trường hợp này cũng có ba loại: siêu, bán siêu và qua đời ở tất cả xứ. Siêu nghĩa là sinh ở Sơ thiền cho đến lìa đệ Tam thiền, muốn huân tu tròn đầy, siêu đệ Tứ thiền, ở đó chết đi sinh lên tầng trời A-ca-nị-trá. Bán siêu là chết ở Phạm thiên, hoặc sinh một, hai, ba xứ, sau đó sinh lên cõi trời A-ca-nị-trá. Chết ở tất cả xứ nghĩa là sinh ở một xứ cho đến tầng trời A-ca-nị-trá, trước không được huân tập, nghĩa là không sinh lên tầng trời Tịnh Cư mà sinh ở cõi Vô Sắc, ngoài ra như trước đã nói. Hỏi: nghĩa này có bao nhiêu chủng tính? Đáp: nghĩa này có sáu chủng tính, thượng lưu cũng có sáu chủng tính: từ thối pháp cho đến bất động, đây chẳng phải chủng tính căn mới trú bất động. nghĩa là chủng tính thối pháp lui sụt ở huân tu thiền lui sụt, sau đó đắc kiến đáo. Phải biết tiến chẳng tiến: Thượng lưu nên biết là có tiến chẳng tiến, nên chia làm bốn trường hợp: Nên tiến tu chẳng phải không tiến, nghĩa là trú Phạm thiên cõi Dục. Không tiến, chẳng phải nên tiến, nghĩa là trụ ở tầng trời A-ca- nị-trá. Vừa tiến vừa không tiến, nghĩa là trụ ở cõi trời khác. Chẳng phải tiến, chẳng phải không tiến, nghĩa là không có. Nếu hướng đến cõi Vô Sắc nghĩa là chẳng phải huân tu, cho nên nói sinh lên cõi Vô Sắc. Hỏi: Thế Tôn nói đường của bảy só phu, thế nào là kiến lập đường của bảy só phu? Đáp: Là sinh căn phiền não Thuyết này có ba loại Bất sinh cũng như vậy Cùng hai Thượng lưu một. Bốn nhân duyên của một A-na-hàm nên có bảy thứ kiến lập là căn kiến lập, phiền não kiến lập, sinh bất sinh kiến lập và thượng tiến kiến lập. Sinh: nghĩa là lợi căn ban đầu ở hạ phiền não, trung căn thứ hai của trung phiền não, hạ căn thứ ba của thượng phiền não, như sinh có ba, bất sinh cũng có ba. Thượng lưu nghĩa là nói về thượng tiến, vì phàm phu chuyển hoàn nên chẳng phải thượng lưu. Thượng lưu cõi Vô Sắc có năm việc thù thắng: giới thù thắng, địa thù hắng, chính thọ thù thắng, ấm giảm thù thắng và phiền não đoạn thù thắng. Tuy có năm việc thù thắng nhưng không được huân tu nên không kiến lập só phu thú hướng. Chín phiền não như vậy Ở tại tám địa trên Là hai đạo, diệt kia, Do Đức Thế Tôn nói. Chín phiền não như vậy, ở tại tám địa trên, nghĩa là như tu đạo dứt phiền não cõi Dục có chín phẩm từ hạ hạ cho đến thượng thượng. Tám địa trên cũng như vậy, đó là bốn thiền, bốn Vô Sắc. Kiến đạo khởi ban đầu do một thứ đạo dứt chín thứ phiền não. Hỏi: Nếu phiền não cõi Sắc, Vô Sắc cũng có chín thứ, tại sao không kiến lập người lìa dục? Đáp: Trong một xứ có hai sinh chẳng phải phần. Cõi Dục có cõi trời như vậy, phương như vậy, nhà như vậy, bậc Thánh nhị sinh, chẳng phải bậc Thánh nhị sinh ở cõi Sắc, Vô Sắc. Nhị sinh nghĩa là vô sinh bát Niết-bàn cho đến Thượng lưu, đó là hai đạo diệt. Do Đức Thế Tôn nói, nghĩa là phiền não của ba cõi này phải biết là đạo vô ngại giải thoát diệt. Đạo vô ngại có thể dứt phiền não, đắc đạo giải thoát, chứng đắc giải thoát. Đạo vô ngại dứt phiền não, đạo giải thoát vì không mất chốn tạo tác nên nói là hai đạo diệt. Nếu nói đạo giải thoát đoạn phiền não, thì thế nào là khởi, là chưa khởi? Nếu nói khởi thì lúc tận trí sinh đầu tiên lẽ ra có phiền não, điều này chẳng rốt ráo. Nếu chưa khởi thì không cần đạo vị lai dứt phiền não chăng? Hỏi: Dùng đạo nào để dứt phiền não? Đáp: Đạo hữu cấu, vô cấu Có thể lìa Bát địa Thân chứng trụ thuyết ấy Là đắc chính thọ diệt. Đạo hữu cấu, vô cấu đều có thể lìa tám địa: Hữu cấu là đạo thế tục, vô cấu là Thánh đạo. Trừ địa hữu dư bậc nhất lúc lìa dục, phải biết đạo hữu lậu vô lậu lìa đệ nhất hữu chỉ có vô lậu, vì hữu lậu ở nơi phi phần kia, vì đạo thế tục phan duyên với địa trên. Xa lìa phiền não địa dưới như bắt côn trùng ở lầu gác. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ không có địa trên để để phan duyên dựa và xa lìa kiết. Tự địa bị trói buộc nên không thể lìa kiết của tự địa. Như người bị trói không thể tự mở. Đạo vô ngại của thế tục ấy có ba hành: hoặc thô, hoặc khổ, hoặc thô chướng. Vì hiện ra nên nói là thô, vì ba khổ thành lập nên nói là khổ, vì dễ quán nên nói là thô chướng. Đạo giải thoát cũng có ba hành, đó là chỉ, diệu, xuất. Mỗi hành nơi đạo vô ngại duyên dưới, đạo giải thoát duyên Thánh hạnh trên, về sau sẽ nói rõ. Thân chứng trú thuyết ấy, là đắc chính thọ diệt, nghĩa là trú nơi kiến đạo, tu đạo đoạn của tám địa, kiến đạo đoạn của nhất địa trú ở trong ấy được chính thọ diệt gọi là thân chứng. Cho nên người học đối với hữu thứ nhất mỗi mỗi lìa dục khởi chính thọ diệt. Người ấy hoặc đầy đủ sự ràng buộc của kiết, đắc chính thọ diệt, hoặc đều đắc tám phẩm. Đức Thế Tôn vì độ các chính thọ nên nói là độ tất cả. Phi tưởng Phi phi tưởng tưởng biết diệt thân tác chứng, trú pháp đầy đủ, do Niết-bàn cùng hòa hợp với thân nên nói là thân chứng. chính thọ diệt ở phẩm Định sẽ nói rộng: Kế định Kim Cương dụ Ắt sinh nơi tận trí Ngã sinh tận, sinh ý Ứng cúng lìa các lậu. Kế định Kim Cương dụ, ắt sinh nơi tận trí: nghĩa là đạo vô ngại thứ chín lìa dục của địa Phi tưởng Phi phi tưởng gọi là Tam-ma-đề Kim Cương, không có một vật gì không bị hủy hoại, nên gọi là Kim Cương. nghĩa này sẽ nói rộng trong phẩm Trạch. Định Kim Cương thứ lớp, ắt sinh ra tận trí, hai trí đầu tiên này hoặc khổ tỷ trí, hoặc tập tỷ trí. nghĩa là tận trí kia đã khởi, khởi hành của chính mình. Sinh ý: Ngã sinh tận vì duyên bốn ấm của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ kia là căn bản hữu. Ứng cúng lìa các lậu: Khi tận trí lại sinh thì tất cả hữu lậu đều dứt hết, gọi là Ứng cúng, vì xứng đáng nhận tất cả sự cúng dường. Vì trừ bỏ tất cả phiền não nên càng không ở nơi ruộng hữu, gieo trồng hạt giống thức nữa. Tận trí của A-la-hán bất động thứ lớp khởi trí vô sinh. Tận trí kia trong một sát-na, trí vô sinh hoặc một sát-na, hoặc theo thứ lớp cùng thấy hiện ở trước một sát-na. Hoặc trí vô sinh hiện ở trước thì giải thoát thời và ý nối tiếp nhau. Tận trí hoặc một sát-na, hoặc thứ lớp cùng thấy hiện ở trước một sát-na, hoặc tận trí lại hiện ở trước thì nối tiếp nhau. Hỏi: Có bao nhiêu loại A-la-hán? Đáp: Có sáu loại La-hán Tùy tín hành sinh năm Vị kia được hai trí Phải biết Thời giải thoát. Có sáu loại La-hán, đó là Thối pháp, Pháp tư, Pháp hộ, Pháp trụ, Pháp tất thăng tiến và Pháp bất động. Nếu địa sơ học và phương tiện bất thường, dùng phương tiện không tức thì, đó gọi là thối pháp. Pháp tư cũng như thế, có thể nghó đến thệ nguyện. Pháp hộ nghĩa là phương tiện thường, phương tiện không tức thì, liền dùng để theo giữ gìn nên không lui sụt. Pháp trụ nghĩa là phương tiện tức thì, phương tiện bất thường, không lùi cũng không tiến. Pháp tất thăng tiến nghĩa là phương tiện thường, phương tiện tức khắc thì độn căn, có thể được bất động. Pháp bất động nghĩa là phương tiện thường, tức khắc là lợi căn. Có thuyết nói nếu là người thối pháp, là ắt thối cho đến được thăng tiến, người tất thăng tiến thì sẽ thăng tiến. Thuyết kia nói sáu loại là A-la-hán cõi Dục. Cõi Sắc, Vô Sắc có hai thứ: Pháp trụ và pháp bất động. Có thuyết nói thối pháp không hẳn là thối, nếu người lui sụt thì chỉ có chủng tính này, chẳng có chủng tính khác. Thuyết kia nói ba cõi đều có sáu loại A-la-hán. Tùy tín hành sinh năm, nghĩa là năm loại trước trong sáu loại A-la- hán là chủng tính tín. Tín kia thành tựu hai trí, là tận trí và vô học đẳng kiến. Người kia hoặc vì có lúc lui sụt nên không nói là trí vô sinh. Đức Thế Tôn vì không còn thọ sinh nữa nên tất cả Khế kinh nói không còn thọ thân sau, vì biết như thật. Phải biết thời giải thoát nghĩa là nên biết là thời giải thoát này nương vào tùy thuận thức ăn, y phục, giường nằm, ngọa cụ, xứ sở nói pháp và con người nên căn thiện tăng tiến, không thể tùy theo điều mình muốn tiến hành bất cứ lúc nào, nên nói là Thời giải thoát. Lợi căn, pháp, bất động Là bất thời giải thoát Người kia được ba trí Thành tựu tự giải thoát. Lợi căn, pháp, bất động là bất thời giải thoát: nghĩa là nếu pháp bất động hoàn toàn lợi căn, thì có thể trong tất cả thời, tùy theo điều mình mong muốn, tiến tu nghiệp thiện, không chờ đợi mọi sự đầy đủ nào, là bất thời giải thoát. Người kia được ba trí: nghĩa là người kia thành tựu ba trí: tận trí, trí vô sinh và vô học đẳng kiến, là pháp bất thối. Thành tựu tự giải thoát nghĩa là phải biết người kia giống như mình, gọi là thành tựu giải thoát. Thời ý giải thoát nghĩa là vì thời gian chờ đợi nên thời ý giải thoát thành tựu pháp bất động. Vì bất động, không bị phiền não làm động nên nói bất động, là nghĩa bất thối. Hỏi: Vì sao thời ý giải thoát gọi là ái, chứ chẳng phải bất động? Đáp: Vì thời ý giải thoát kia rất tự giữ gìn, cũng như người chỉ có một mắt nên không tự tại, vì sợ lui sụt. Như mượn vật người khác, vật đó ràng buộc căn thiện lẫn nhau, không phải phần. Bất động giải thoát có căn thiện quan hệ nhau, nghĩa là vì giải thoát kia có Tam-ma-đề khác, cho nên không gọi ái, nghĩa là không không, vô nguyện vô nguyện, vô tác vô tác, dùng định để xả định, gọi là lệ thuộc nhau. Phải biết tuệ giải thoát Không đắc định Diệt tận Nếu đắc định Diệt tận Nên biết câu giải thoát. Phải biết tuệ giải thoát, không đắc định Diệt tận, nghĩa là sáu loại A-la-hán này không được định Diệt tận, là nói tuệ giải thoát, vì tuệ lực khiến giải thoát phiền não chướng nên gọi tuệ giải thoát. Nếu được định Diệt tận, nên biết là câu giải thoát, nghĩa là sáu loại A-la-hán này được định Diệt tận là nói câu giải thoát, do tuệ lực của họ nên lìa phiền não chướng, tâm được giải thoát. Lực chính thọ diệt lìa giải thoát chướng được giải thoát, cho nên gọi là câu giải thoát. Nếu lại là thối pháp, thì tất cả đều giải thoát nên chia làm bốn trường hợp: Thối pháp không phải đều giải thoát: nghĩa là thối pháp không được định Diệt tận. Đều giải thoát chẳng phải thối pháp, nghĩa là năm loại A-la-hán được định Diệt tận. Vừa thối pháp, vừa là câu giải thoát, nghĩa là thối pháp được định Diệt tận. Cũng chẳng phải thối pháp, cũng chẳng phải câu giải thoát: nghĩa là năm loại A-la-hán không được định Diệt tận, cho đến bất động giải thoát cũng như thế. Các căn nói chín thứ Cũng nói chín hạng người Có bảy loại Thanh văn Duyên giác và Như lai. Đây nói chín thứ căn, nghĩa là từ hạ hạ cho đến thượng thượng. Bậc A-la-hán cũng có chín chủng tính, nghĩa là năm chủng tính trước và hai loại bất động, giải thoát. Hoặc nhân thời giải thoát, được bất động, hoặc mới được bất động. Bảy loại Thanh văn này và Duyên giác, Như lai, gọi là chín hạng người. Đã nói căn kiến lập người. Nếu người thành tựu căn, nay sẽ nói: Căn hạ trung, tối hạ Đây là người loại đầu Cho đến tăng thượng thượng Người thứ chín phải biết. Thối pháp kia thành tựu căn hạ hạ, Pháp tư thuộc hạ trung, Pháp hộ là hạ thượng, Pháp trụ thuộc trung hạ, Pháp thắng tấn thuộc trung trung. Chủng tính nhân thời giải thoát thuộc pháp bất động trung thượng, bất động giải thoát ban đầu là thuộc thượng hạ, Duyên giác là thượng trung, Như lai là thượng thượng. Là do chủng tính Học Được quả Vô học kia Hoặc tức chủng tính ấy Hoặc tiến bất thối chuyển. Sáu loại A-la-hán, hoặc do học địa, với chủng tính như thế, được A-la-hán, tức chủng tính A-la-hán kia, hoặc căn tăng ích được bất thối chuyển, vì căn tu tập của chủng tính kia. Thối pháp kia có ba việc sẽ nói sau). Pháp bất động chỉ có một việc, tức trụ bát Niết-bàn, A-la-hán khác có hai việc. Đã nói chủng tính căn bản của A-la-hán, nay sẽ nói: Về căn thắng tấn, Cái gọi ba, bốn, năm Sáu, bảy lần lượt tăng Là các thối pháp thảy Nói năm La-hán thảy. Thối pháp kia có ba việc, đó là thối pháp, trú học, căn thối, pháp hoặc trụ căn thượng thắng tiến của bát Niết-bàn kia. Tư pháp có bốn việc, đó là căn thối trú học, thối tức là trụ nơi căn của thối pháp, hoặc khác tức là nên tiến không thối, vì trước đã nói chủng tính kia bất thối. Trụ nơi căn thối pháp, tức là trụ nơi căn thượng thắng tiến của bát Niết- bàn. Hộ pháp có năm việc, đó là pháp hộ, thối, căn trụ học, căn trú thối pháp, trụ căn trú pháp tư, tức trụ nơi căn thượng tăng tiến của bát Niết-bàn. Pháp trụ có sáu loại, tất thăng tiến có bảy, tùy theo nghĩa mà nói ấy. Đã nói kiến lập tướng của bậc Hiền Thánh, nay sẽ nói: Về kiến lập pháp, Là pháp tùy tín hành Hoặc pháp tùy pháp hành Cùng với đạo kiến đế Đều là đồng một tướng. Pháp Tùy tín hành, pháp Tùy pháp hành và đạo kiến đế, ba loại pháp này đều đồng một tướng. Sự khác nhau nghĩa là người Tùy tín hành là độn căn, người Tùy pháp hành là lợi căn. Ở trong các căn ấy Đó gọi vị tri căn Là pháp hữu học khác Phật nói dó tri căn. Trong đó các căn pháp gọi là vị tri căn, nghĩa là căn thuộc về kiến đế thường có chín pháp: ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn, năm căn như Tín ,v.v… gọi là Vị tri căn. Các căn này Tùy tín hành, Tùy pháp hành mà thành tựu. Danh: Chưa biết sẽ biết, nên nói là vị tri căn. Hỏi: Khổ pháp nhẫn sinh quán năm ấm cõi Dục. Về sau khổ pháp trí sinh không phải ở năm ấm là đã biết hay sẽ biết? Nếu nói chưa biết, sẽ biết thì điều này không đúng. Đáp: Vì nhẫn không phải trí không phải tính của trí nên không có lỗi. Vì nhẫn là kiến, chẳng phải tính của trí, vì trí biết nên chẳng phải không đúng. nghĩa là pháp hữu học khác, Phật nói dó tri căn là trừ pháp học của kiến đạo, còn pháp học khác, tức là chín pháp của số căn này được nói là dó tri căn. Tín căn giải thoát ấy là sự thành tựu của kiến đáo, thân chứng mà thành tựu. Dù đạo tỷ trí sinh ra quán đạo tỷ nhẫn, là vị tri, đương tri, vì ít nên không nói, như một giọt nước biển, một hạt bụi của Tu-di, chỗ ruồi đậu trong hư không. Phải biết pháp vô học Là nói vô tri căn Đắc quả, bỏ đạo trước Do trí vô ngại nói. Phải biết pháp Vô học, là nói vô tri căn, nghĩa là phải biết pháp vô học tức căn này thường có chín pháp, nói là vô tri căn. Tuệ giải thoát của căn này do câu giải thoát thành tựu. Sáu địa, bốn thiền, vị lai, trung gian của kiến đạo kia, không phải là căn thiện phương tiện của địa trên, vì không có và vì không phải cảnh giới rộng. Chín địa của pháp tu đạo học, sáu địa này và tính của bốn ấm, năm ấm của ba Vô Sắc. Được quả xả đạo trước, do Trí vô ngại nói, nghĩa là khi đắc quả, phải biết xả đạo vô lậu trước để được quả Tu-đà-hoàn, xả kiến đạo, được quả Tư-đà-hàm. Nếu trước diệt dục gấp bội hết, cũng xả kiến đạo. Nếu theo thứ lớp: Xả quả Tu-đà-hoàn và Tu-đà-hoàn tiến hướng đạo được quả A-na-hàm. Nếu trước dục ái hết cũng xả kiến đạo. Nếu theo thứ lớp nghĩa là xả quả Tư-đà-hàm và Tư-đà-hàm tiến hướng đạo, được quả A-la-hán thì xả quả A-na-hàm và A-na-hàm tiến hướng đạo. Hỏi: Đức Thế Tôn nói bảy người như Tùy tín hành v.v… được kiến lập thế nào? Đáp: Phương tiện và các căn chính thọ, giải thoát chung Phải biết Hiền Thánh bảy Sự thì nói có sáu. Phương tiện và các căn, chính thọ giải thoát chung, phải biết Hiền Thánh bảy: nghĩa là vì năm nhân duyên nên nói bảy người, gọi là bảy, chứ chẳng phải sự có bảy. Năm nhân duyên là phương tiện, căn, chính thọ, giải thoát và chính thọ giải thoát. Phương tiện nghĩa là Tùy tín hành, Tùy pháp hành. Tùy tín hành nghĩa là vì tín nhiều, nên nói tùy tín hành, trước vì gieo trồng các nghiệp tin người khác nên làm. Khi được đạo rồi, dùng gốc để gọi tên. Tùy pháp hành: Là trước tự mình tư duy để tạo ra các nghiệp. Sau được đạo rồi lấy gốc làm tên. Căn nghĩa là tín giải thoát, kiến đáo. Độn căn nói là tín giải thoát, lợi căn nói là kiến đáo. chính thọ nghĩa là thân chứng. Giải thoát là tuệ giải thoát. chính thọ, giải thoát là câu giải thoát. Về sự nói có sáu nghĩa là các bậc Thánh này có sáu, kiến đạo có hai: Tùy tín hành và Tùy pháp hành. Tu đạo có hai là Tín giải thoát và Kiến đạo. Đạo vô học có hai là Thời giải thoát và Bất thời giải thoát. Người tùy tín hành nên nói là một, nghĩa là vì căn của bảy người nên nói là ba, nghĩa là vì chủng tính của hạ, trung, thượng nên nói năm, nghĩa là thối pháp cho đến đạo tất thăng tiến nên nói mười lăm. Từ trụ khổ pháp nhẫn, cho đến đạo tỷ nhẫn lìa dục, nên nói bảy mươi ba, lìa dục cõi Dục có mười, nghĩa là từ cụ phược cho đến hết chín phẩm. Sơ thiền chín, cho đến Vô sở hữu xứ. Lại nữa, đạo của chủng tính căn dựa vào kiến lập mà tăng, cũng nên nói rộng. Như thế người tùy tín hành có mười bốn vạn bảy nghìn tám trăm hai mươi lăm, thuộc về đạo kia. Một, ba, năm, mười lăm Cùng với bảy mươi ba Là đạo chủng tính căn Lìa phiền não phải biết Gấp ba, kế gấp năm Mười lăm và gấp chín Rất nhiều hạng như thế Chỉ nói Tùy tín hành. Phải biết bậc Thánh khác, tùy theo nghĩa đó cũng nên nói như thế. Hỏi: Như Khế kinh nói tám người như hướng Tu-đà-hoàn, v.v… là thế nào? Đáp: Do vì có năm việc Nói có tên tám người Sự trước, sau đều một Khoảng giữa thì có ba. Bốn hướng, bốn quả này nói là tám người, danh sự có năm. Hướng Tu-đà-hoàn và A-la-hán, đây gọi là một việcï, cũng một Tu-đà-hoàn và hướng Tư-đà-hàm, đây gọi hai việc. Một Tư-đà-hàm và hướng A-na- hàm, A-na-hàm và hướng A-la-hán, cũng như thế. Bốn người trước ấy là thành tựu Thánh đạo của một địa, tức ở đây cũng nói Gia gia và một hạt giống. Hướng quả A-na-hàm hoặc một địa cho đến sáu địa, quả A-na-hàm hoặc ba địa, cho đến sáu địa, hướng A- la-hán hoặc ba địa cho đến chín địa. A-la-hán thành tựu chín địa. Đạo quả Sa-môn kia hư hoại thì địa hư hoại, nên lập ra bốn trường hợp: Đạo hoại, địa không hoại: Là quả Tư-đà-hàm. Địa hoại, không phải đạo hoại, là quả A-la-hán. Đạo hoại, địa hoại: Là quả A-na-hàm. Đạo không hoại, địa không hoại: Là quả Tu-đà-hoàn (xen lẫn hữu lậu, vô lậu gọi là đạo hoại, xen lẫn dựa vào các thiền gọi là địa hoại). Đã hết là giải thoát Được nương vào một quả Thứ chín, không nhiễm ô Diệt tận nên sẽ nói. Đã hết là giải thoát, được nương vào một quả: Các đạo giải thoát trong hướng đạo lúc đắc quả đắc giải thoát. Phiền não phẩm Pháp trí đã dứt hết, được một giải thoát, những phiền não do phẩm tỷ trí dứt hết được hai giải thoát. Vì được đạo không hư hoại nên nói lúc được một quả, nói năm nhân duyên được đạo chưa từng, xả đạo đã từng, đắc ngay tám trí, cùng lúc tu mười sáu hành, được quả của một vị giải thoát. Hỏi: Dứt trừ nhiễm ô trước đã nói, không nhiễm ô làm sao dứt trừ? Đáp: Diệt tận thứ chín không nhiễm ô, nên phải nói. Trước đã nói chín phẩm dứt phiền não quyến thuộc. Không nhiễm ô nghĩa là trụ đạo vô ngại thứ chín, dứt trừ mau chóng, chẳng phải dần dần. Không nhiễm ô nghĩa là thiện thế tục và vô ký không ẩn mất, sắc của năm ấm nhiễm ô cũng do đạo vô ngại thứ chín dứt trừ, vì ít nên không nói. Hỏi: Vì sao dứt trừ chín phẩm phiền não, đạo vô ngại thứ chín không nhiễm ô dứt trừ? Đáp: Vì phiền não trái với Thánh đạo. Thánh đạo trái với phiền não, không nhiễm ô, không trái nhau, cho nên phiền não kia như thế, đạo như thế khởi, tùy chỗ cần dứt trừ, phiền não được dứt trừ. Đạo hạ hạ khởi, phiền não thượng thượng dứt trừ, cho đến đạo thượng thượng khởi, phiền não hạ hạ dứt trừ. Như ánh sáng nhỏ diệt bóng tối thô, nguồn sáng lớn diệt bóng tối nhỏ. Đạo kia cũng như thế, do nhiễm ô nên tự tính dứt trừ không thành tựu, người không cấu uế là xả lỗi phiền não như nạn độc. Vô trước tên giống nhau Kia hay được bất động Chủng tính tín giải thoát Thăng tiến cũng tăng đạo. Vô trước tên giống nhau, có thể được bất động, nghĩa là chẳng phải tất cả A-la-hán đều được bất động, chỉ có danh tương tự công đức là đắc, nghĩa chắc chắn thăng tiến tăng tiến căn trong năm loại kia là đắc, nghĩa là pháp tiến đến tư pháp. Thứ lớp như thế theo thứ lớp đều phải biết. Lại nữa, được bất động có chín đạo vô ngại và chín đạo giải thoát, như được A-la-hán. Chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát thuộc về thời giải thoát. Đạo giải thoát thứ chín thuộc về Bất thời giải thoát. Tất cả quả của đạo kia thuộc về đạo. Đạo phương tiện kia nếu là vô lậu thì thuộc quả đạo, còn nếu là hữu lậu thì không thuộc. Chủng tính tín giải thoát, thăng tiến cũng thăng tiến, nghĩa là tín giải thoát kia, hoặc chủng tính tất thăng tiến có thể đắc kiến đáo, chứ chẳng phải tính khác. Cho nên năm thứ học địa cũng là căn thăng tiến. Đạo thăng tiến nghĩa là căn bùng cháy. Căn thăng tiến nghĩa là tăng thêm trong loài người, chứ không phải đường khác. Thánh đạo tăng chẳng phải đạo thế tục. Học là nương vào thiền, vô học là nương vào thiền và Vô Sắc. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm thì nương vào căn tăng tiến ở vị lai, tức họ xả một địa, được một địa. Nếu A-na-hàm trước nương vào Sơ thiền và quyến thuộc vượt lên ly sinh và theo thứ lớp chưa đắc đệ Nhị thiền. Căn thăng tiến kia sẽ xả quả của ba địa, đắc quả của ba địa, hoặc đắc đệ Nhị thiền chứ không phải đệ Tam thiền. Về sau, sẽ nương vào căn thăng tiến của Sơ thiền, nghĩa là xả quả của ba địa và đạo quả vượt hơn của bốn địa, tức được quả của ba địa. Như thế cho đến đắc Vô sở hữu xứ vô lậu, xả quả của ba địa và xả đạo thắng quả của chín địa, đắc quả của ba địa. Như thế cho đến được Vô sở hữu xứ vô lậu, xả quả ba địa và xả quả địa thù thắng của Chín địa được quả ba địa, nếu cho xả nhiều đạo được ít đạo nên lui sụt thì không đúng. Vì sao? Vì đắc đạo thù thắng, vì ý giải của người đó. Hỏi: Xả đạo, cũng xả đoạn (dứt trừ) chăng? Đáp: Đạo thế tục đoạn là không xả. Nếu mỗi thứ phiền não của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ dứt trừ thì lúc được kiến đáo, Phi tưởng Phi phi tưởng kia sẽ do tu đạo dứt trừ, xả dứt và đối trị, mà không thành tựu phiền não đắc, như lúc phàm phu sinh nơi địa trên. Lại nữa, nếu trước nương vào Sơ thiền, vượt lên ly sinh, về sau nương vào căn tăng tiến của đệ Nhị thiền thì người đó đã xả quả của ba địa và thắng quả đạo thù thắng của bốn địa, được quả của bốn địa. Như thế tất cả địa nên nói rộng. Nếu trụ quả mà căn tăng tiến thì sẽ thuộc về phương tiện vô ngại và đạo quả giải thoát. Nếu trụ căn tăng tiến của thắng quả đạo, nghĩa là hoặc thuộc về đạo phương tiện vô ngại, hoặc thắng đạo quả vượt hơn, hoặc thuộc về đạo quả giải thoát, một đạo phương tiện một đạo vô ngại cũng là một đạo giải thoát. Như thế kiến đạo cũng có sáu chủng tính mà không có căn tăng tiến, vì là đạo nhanh chóng. Phần căn thiện quyết định phần như thế cũng có sáu chủng tính. Người tu hành là căn tăng tiến theo thứ lớp, chỉ có pháp thế gian đệ nhất là không có căn tăng tiến vì do một niệm. Đã nói các căn đủ, nay sẽ nói: Về là học đủ không đủ Hoặc quả hữu học đủ Hoặc căn, hoặc chính thọ Hoặc ba đều cùng đủ Vô học hai cũng thế. Học kia có ba sự đủ, hoặc quả đủ, hoặc căn đủ, hoặc chính thọ đủ. Nếu tín giải thoát A-na-hàm không được định Diệt tận thì chỉ có quả đủ, chẳng phải căn đủ, vì căn yếu kém, không phải chính thọ đủ, không được đủ, vì định Diệt tận. Kiến đáo Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm chỉ có căn đủ, chẳng có quả đủ, chẳng phải chính thọ. Tín giải thoát A-na-hàm, đắc định Diệt tận, quả đủ và chính thọ đủ không phải căn đủ. Kiến đáo A-na-hàm không được định Diệt tận, nghĩa là quả đủ và căn đủ không phải chính thọ đủ. Kiến đáo được định Diệt tận, có ba sự đủ, vô học có hai cũng thế: nghĩa là tất cả quả vô học đều đủ, vì tính quả không hai. Hạ căn tuệ giải thoát, nghĩa là quả đủ, không phải căn đủ. Người lợi căn là quả đủ và căn đủ đều không phải chính thọ đủ. Hạ căn câu giải thoát, nghĩa là quả đủ và chính thọ đủ, không phải căn đủ. Lợi căn nghĩa là ba việc đủ. Hỏi: Ba thứ đủ, đó là khéo quán đế, tại sao quán đế là mau chóng, hay dần dần? Đáp: Kiến lập công đức ác Dần dần thấy chân đế Sức đạo vô ngại được Quả hữu vi, vô vi. Kiến lập công đức ác, dần dần thấy chân đế: nghĩa là vì đối với chân đế này thấy rõ lỗi ác, nên lập khổ đế, tập đế. Vì nhận thấy công đức nên lập diệt đế, đạo đế. Cho nên không phải lúc thấy lỗi ác đồng thời thấy công đức, cũng không phải khi thấy công đức đồng thời thấy lỗi ác, vì thể khác nhau, cũng không phải không thấy đế như thật, gọi là đế vô gián đẳng, cũng không phải một trí quán chung đế, vì đế có nhiều tính, cho thế nên dần dần thấy chân đế. Có thuyết nói hành vô ngã đốn vô gián đẳng. Thuyết kia nói hành vô ngã duyên tất cả pháp như thế lẽ ra vô gián đẳng ngay tức khắc là không đúng. Vì sao? Vì quá nhiều điên đảo, và vì tự tính tương ưng với pháp cộng hữu chẳng phải cảnh giới, vì tướng quả của đế. Vô ngã, v.v… đối với đế này mang rất nhiều tính điên đảo chẳng phải một. Vì vô ngã khởi dứt trừ rất nhiều tự tính của hoặc, cho nên chẳng phải một. Vô gián đẳng dần dần. Vô gián đẳng sẽ nói rộng trong phẩm Trạch. Hỏi: Đế vô gián đẳng được quả Sa-môn, sao lại là quả hữu vi? Đáp: Sức của đạo vô ngại được quả hữu vi lẫn vô vi. Phiền não thường diệt và đạo giải thoát đều có sức của đạo vô ngại đạt được, cho nên đều nói là quả Sa-môn. Phiền não diệt là quả giải thoát và quả công dụng. Đạo giải thoát là quả công dụng và quả y. Hỏi: Vô gián đẳng này có bao nhiêu loại? Đáp: Là ba vô gián đẳng Duyên sự kiến vô gián Phải biết có ba loại Hoặc hai cũng là một. Ba loại vô gián đẳng, đó là duyên vô gián đẳng, sự vô gián đẳng và kiến vô gián đẳng. Tuệ kia là hai loại vô gián đẳng. Duyên vô gián đẳng vì hữu duyên, Sự vô gián đẳng là vì có thể thành sự. Kiến vô gián đẳng là kiến tính. Tuệ tương ưng pháp có hai thứ vô gián đẳng là duyên vô gián đẳng và sự vô gián đẳng, còn pháp cộng hữu kia chỉ có một là sự vô gián đẳng. Khổ nhẫn, khổ trí kia ở nơi khổ đế có ba thứ vô gián đẳng, đối với diệt đế, đạo đế có sự vô gián đẳng, phải biết tập nhẫn, tập trí đối với tập đế cũng như vậy. Diệt nhẫn, diệt trí đối với diệt đế có ba loại vô gián đẳng, đối với khổ, tập, đạo đế có sự vô gián đẳng. Đạo nhẫn đạo trí đối với đạo đế có ba vô gián đẳng, đối với khổ, tập, diệt đế có sự vô gián đẳng. Tu đạo tùy theo nghĩa ấy, phải biết như vầy: Kiến đế vô gián đẳng vì nhân duyên này nên phải biết lần lượt vô gián đẳng.  <卷>QUYỂN 6 <詞>Phẩm 6: TRÍ Đã nói về kiến lập bậc Hiền Thánh, nay sẽ nói về Trí. Nếu tính trí rõ được, Soi sáng tất cả hữu Có, không có Niết-bàn Nay nói các tướng ấy. Nếu: nghĩa là nếu sự kia, Trí là nghĩa quyết định, rõ nghĩa là phân biệt. Soi sáng nghĩa là quán sát. Tất cả hữu là cùng cực mé ba cõi, đó là khổ tập đế. Hữu là tính hữu. Có, không có nghĩa là có tận. Niết-bàn nghĩa là các phiền não diệt, đây là nói diệt đế. Trong các nghĩa kia cũng biểu thị tướng của đạo đế, nghĩa là tự tính, tính tự nhiên, nay nói là chỉ bày tự tính. Hỏi: Những gì là trí? Đáp: Ba trí do Phật nói Giác bậc nhất trên hết Pháp trí và tỷ trí Và đẳng trí thế tục. Ba trí này gồm thâu tất cả trí. Pháp trí: Hoặc cảnh giới trí là trí vô lậu của khổ, tập, diệt, đạo, thuộc cõi Dục. Vì trí này đầu tiên thọ pháp tướng nên nói là pháp trí. Tỷ trí nghĩa là hoặc trí cảnh giới, là trí vô lậu khổ, tập, diệt, đạo của cõi Sắc và Vô Sắc. Nếu pháp trí của hành này chuyển thì hành ấy chuyển theo. Tỷ trí này vì do tỷ loại trí, nên nói là tỷ trí. Đẳng trí là hoặc trí cảnh giới, là trí hữu lậu của tất cả pháp. Đẳng nghĩa là thọ nhiều số loại thế tục: nam, nữ, dài, ngắn, v.v… nên nói đẳng trí. (Đẳng nghĩa là mọi việc nhóm họp). Khổ, tập và diệt, đạo Hai trí từ đế sinh Đó gọi khởi bốn trí Mâu-ni tùy đế nói. Pháp trí, tỷ trí này tùy đế chuyển, Đức Thế Tôn tùy theo âm thanh đế kia mà nói, cảnh giới khổ đế nói là khổ trí, còn cảnh giới tập, diệt, đạo thì nói là đạo trí. Nếu trí quán tha tâm Là nói theo ba này Trí tận, trí vô sinh Cảnh giới ở bốn môn. Nếu trí quán tha tâm, là nói theo ba này, nghĩa là ba trí quán tha tâm, dùng phẩm pháp trí làm cảnh giới, để nói pháp trí, dùng phẩm tỷ trí làm cảnh giới, để nói về tỷ trí, dùng tâm, tâm pháp hữu lậu làm cảnh giới, nói là đẳng trí. Trí tận, trí vô sinh, nghĩa là trí tận, trí vô sinh là hai trí, đó là pháp trí và tỷ trí. Cảnh giới tạo tác của trí kia rốt ráo quyết định chuyển là tận trí, không còn tạo tác nữa. Quyết định chuyển là trí vô sinh. Hỏi: Cảnh giới của đế nào? Đáp: Cảnh giới ở bốn môn, nghĩa là duyên bốn đế kia. Hỏi: Nếu Đức Thế Tôn nói ba trí thì sao lại nói mười? Đáp: Đối trị và phương tiện Tự tính hành, hành duyên Đã làm nhân nuôi lớn Thế nên nói mười trí. Vì bảy nhân duyên nên nói mười trí, nghĩa là đối trị và phương tiện, tự tính hành, hành duyên, đã làm nhân trưởng dưỡng. Đối trị, nghĩa là pháp trí tỷ trí là trí vô lậu. Đối trị cõi Dục, nói là pháp trí, đối trị cõi Sắc, Vô Sắc nói là tỷ trí, pháp trí. Tuy đối trị cõi Sắc, Vô Sắc nhưng chẳng phải tất cả, cũng chẳng phải toàn chủng, cho nên không nói. Phương tiện nghĩa là trí tha tâm cũng trí tâm pháp, chỉ vì phương tiện mà muốn biết tâm kia. Tự tính: nghĩa là đẳng trí thường chấp lấy nhiều số tục, như trước đã nói. Hành: Là khổ trí, tập trí, hai trí này hành duyên hoại không hư hoại, vì một duyên. Hai trí này chung một duyên, cho nên đối với duyên kia, hành vô thường chuyển, khổ trí này, cũng nói là vô thường. Vì trí do khổ tăng thêm rất nhiều sự nhàm chán nên gọi là khổ trí. Kế đó vì bất cộng, nên hành khổ hoàn toàn duyên hữu lậu. Hành vô thường là hoặc duyên ba đế hữu lậu, hoặc duyên vô lậu, hữu lậu. Hành không, vô ngã: nghĩa là hoặc duyên tất cả pháp hữu lậu, hoặc duyên vô lậu hữu lậu. Cho nên khổ trí, hành khổ tạo ra bốn trường hợp: Hoặc khổ trí không phải hành khổ, nghĩa là hành khổ trí, hành khác. Hoặc hành khổ chẳng phải khổ trí, nghĩa là pháp tương ưng của khổ trí. Hoặc khổ trí cũng là hành khổ, nghĩa là hành khổ trí, hành khổ. Hoặc không phải khổ trí, cũng không phải hành khổ, nghĩa là hành khổ trí của các pháp hành tương ưng khác. Như hành, đã hành, sẽ hành cũng như thế. Như hành khổ, vô thường, không, vô ngã cũng như vậy. Như khổ trí mười hai, cho đến đạo trí cũng như thế. Hành duyên nghĩa là các diệt trí, đạo trí. Vì trí kia duyên hành không hư hoại, cũng không bị hư hoại. Đã làm nghĩa là vì việc làm của tận trí đã thực hiện. Nhân trưởng dưỡng nghĩa là trí vô sinh, vì do tất cả trí vô lậu, vì trụ thân bất động. Đã nói nhân duyên kiến lập mười trí. Nay sẽ nói phân biệt thiện v.v… Chín trí chỉ nói thiện, Một trí, ba phân biệt, Một kiến, hai phi kiến Ngoài ra có hai thứ. Chín trí chỉ nói thiện: nghĩa là trừ đẳng trí, còn chín trí khác nói là thiện, vì quả ái. Một trí ba phân biệt: nghĩa là đẳng trí hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Một kiến nghĩa là trí tha tâm, là tính phân biệt của kiến này. Hai phi kiến: Là trí tận, trí vô sinh, vì không phải kiến, không phải tính phân biệt. Ngoài ra có hai thứ, nghĩa là bảy trí khác, hoặc kiến, hoặc chẳng phải kiến, hoặc pháp trí, tỷ trí, trí khổ, tập, diệt, đạo, trí tận, trí vô sinh, trí nào không lệ thuộc là kiến, lệ thuộc thì chẳng phải kiến. Đẳng trí là hoặc kiến, hoặc chẳng phải kiến, năm kiến như chính kiến thế tục, kiến này vì nhanh chóng. Nghi, ái, sân, mạn, vô minh tương ưng với tuệ, chẳng phải kiến. Vì sao? Vì hai sử che lấp. Tuệ tương ưng với vô minh, tuy không có hai sử, một có thể che lấp tột độ, chẳng phải phiền não khác. Vì sao? Vì chẳng phải phương tiện quán sát. Tuệ vô ký không ẩn mất chẳng phải kiến, vì không nhanh chóng. Năm thức tương ưng với tuệ chẳng phải kiến, vì không phải tính suy lường. Học và vô học sáu Hai trí nói vô học Phi Học, Vô học một Phải biết một, ba thứ. Học và Vô học sáu: nghĩa là pháp trí, tỷ trí, trí khổ, tập, diệt, đạo, hoặc Học, hoặc Vô Học. Nếu người Học thì sở đắc là Học, nếu người vô học thì sở đắc là vô Học. Hai trí nói vô học, nghĩa là trí tận, trí vô sinh là vô học, vì lìa phiền não trụ. Phi học, phi vô học một, nghĩa là đẳng trí là phi học, phi vô học, vì hữu lậu. Phải biết một, ba thứ nghĩa là trí tha tâm hoặc Học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học, hoặc chỉ dùng tâm, tâm pháp làm cảnh giới là học, hoặc chỉ lấy tâm, tâm pháp vô học làm cảnh giới là Vô học, hoặc chỉ dùng tâm, tâm pháp hữu lậu làm cảnh giới là phi học, phi vô học. tính tám trí không đoạn Hai trí, hai chủng nói Hữu lậu, vô lậu một Một thì nói hữu lậu. tính tám trí không dứt, nghĩa là trừ trí tha tâm và đẳng trí, tám trí khác không dứt, vì ly cấu. Nói hai trí, hai chủng, nghĩa là trí tha tâm nếu hữu lậu là tu đạo dứt trừ, nếu vô lậu là đẳng trí không dứt trừ, nếu nhẫn đối trị là kiến đạo dứt trừ, nếu trí đối trị là tu đạo dứt trừ. Hữu lậu, vô lậu một, nghĩa là trí tha tâm hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu. Dùng tâm, tâm pháp hữu lậu làm cảnh giới là hữu lậu, dùng tâm, tâm pháp vô lậu làm cảnh giới là vô lậu. Một thì nói hữu lậu, nghĩa là đẳng trí hoàn toàn hữu lậu, vì trú xứ của phiền não. Phải biết tám trí không dứt, nói là vô lậu. Bốn trí duyên hữu vi Duyên hữu thường thì một Hai cảnh giới năm trí Do bậc Minh trí nói. Bốn trí duyên hữu vi: nghĩa là trí tha tâm, khổ, tập, đạo trí duyên hữu vi, vì lấy ấm làm cảnh giới. Duyên hữu thường thì một, nghĩa là diệt trí duyên vô vi, vì dùng Niết-bàn làm cảnh giới. Hai cảnh giới năm trí, nghĩa là pháp trí, tỷ trí, trí tận, trí vô sinh, lấy ba đế làm cảnh giới là duyên hữu vi, lấy diệt đế làm cảnh giới là duyên vô vi. Đẳng trí cũng lấy ba đế làm cảnh giới là duyên hữu vi. Dùng thường diệt và hư không làm cảnh giới là duyên vô vi. Pháp trí cần phải biết Là từ sáu địa khởi Tỷ trí thì chín địa Trí tha tâm ở thiền. Pháp trí cần phải biết, làø từ sáu địa khởi: nghĩa là sáu địa của pháp trí có thể đạt được, vì là tự tính đắc. nghĩa là Tứ thiền, vị lai, trung gian chẳng phải Vô Sắc, vì Vô Sắc không duyên cõi Dục. Tỷ trí thì chín địa, nghĩa là tỷ trí chín địa có thể được, đó là vị lai, trung gian, bốn thiền và ba Vô Sắc. Trí tha tâm ở thiền, nghĩa là thiền căn bản có trí tha tâm là vì quả định của bốn chi, năm chi. Đẳng trí cần phải biết Ở tại mười một địa Đó là các trí khác Phẩm phẩm như trước nói. Đẳng trí cần phải biết, ở tại mười một địa: nghĩa là đẳng trí ở mười một địa, đó là cõi Dục, vị lai, trung gian, bốn thiền, bốn Vô Sắc. Đó là các trí khác, phẩm phẩm như trước nói: nghĩa là trí khổ, tập, diệt, đạo, tận trí, trí vô sinh. Hoặc phẩm pháp trí ở sáu địa như pháp trí, hoặc phẩm tỷ trí ở chín địa như tỷ trí. Nếu nói các niệm xứ Một trí phải biết sau Ba thì nói một trí Bốn kia, minh trí nói. Nếu nói các niệm xứ, một trí phải biết sau: nghĩa là diệt trí là pháp niệm xứ, vì duyên vô vi. Ba thì nói một trí, nghĩa là trí tha tâm, vì duyên tha tâm, tâm pháp, là ba niệm xứ, trừ thân niệm xứ. Bốn còn lại, bậc minh trí nói, nghĩa là tám trí còn lại là bốn niệm xứ, vì duyên năm ấm. Một trí cõi Dục nương Hai cõi nương có một Hai trí ba cõi nương Sáu kia, một hoặc ba. Một trí cõi Dục nương: nghĩa là pháp trí chỉ cõi Dục nương, vì pháp trí tùy sinh, hoặc vì bốn đại tạo cõi Dục. Hai cõi nương có một, nghĩa là trí tha tâm có cõi Dục, cõi Sắc nương vì nương vào sắc. Hai trí ba cõi nương, nghĩa là tỷ trí, đẳng trí ba cõi nương. Sáu kia, một hoặc ba, nghĩa sáu trí như khổ trí, v.v…, hoặc phẩm Pháp trí cõi Dục nương, phẩm tỷ trí ba cõi nương. (Nương là tên khác của thân). Danh thì mười sáu hành Sự, hoặc nói mười sáu Lìa khỏi mười sáu hành Trừ ám phi vô lậu. Danh thì mười sáu hành, đó là vô thường, khổ, không, phi ngã, nhân, tập, hữu, duyên, diệt, chỉ, diệu, đạo, xuất, chính, tích, thừa, vì nắm giữ các duyên, vì vô thường, ép ngặt nên khổ, vì đối trị kiến của ngã sở nên không, vì đối trị với ngã kiến nên phi ngã, vì pháp của hạt giống nên là nhân, vì đẳng khởi nên là tập, vì nối tiếp nhau nên hữu, vì tướng thành thục nên là duyên, vì các ấm tận nên là diệt, vì ba đại dừng nghỉ nên là chỉ, vì lìa não bên trong nên là diệu, vì lìa não ngoài nên là xuất, vì hướng đến nên là đạo, vì xảo tiện nên là chính, vì cùng như vậy nên là tích và vì đạt tới rốt ráo nên là thừa. Lại nữa, vì không phải rốt ráo nên vô thường, vì gánh vác nặng nên khổ, vì bên trong lìa người cho nên không, vì chẳng tự tại nên phi ngã, vì phương tiện đến nên nhân, vì phương tiện xuất sinh nên tập, vì tăng trưởng nên là hữu, vì dựa vào nhau nên là duyên, vì không nối tiếp nhau, lìa tiếp nối nhau nên diệt, vì lìa ba tướng hữu vi nên chỉ, vì thiện vì thường nên là diệu, vì thôi dứt bậc nhất, vì đối trị lìa nẻo tà nên là đạo, vì đối trị với bất chính nên là chính, vì lên thành Niết-bàn nên là tích, vì đối trị tất cả hữu nên là Thừa. Hỏi: Sự có bao nhiêu hành? Đáp: Sự hoặc nói mười sáu, đây gọi là mười sáu hành. Có thuyết nói sự có bảy, đó là hành khổ, gọi là bốn. Sự cũng có bốn, vì đối trị với điên đảo. Tập hành gọïi là bốn, sự có một. Diệt, đạo cũng như thế. Thuyết như thế, gọi là mười sáu sự, cũng là mười sáu thiện. Hỏi: Lìa mười sáu hành, lại có tuệ vô lậu chăng? Đáp: Lìa mười sáu hành, trừ bóng tối, chẳng phải vô lậu. Lìa mười sáu hành, không có tuệ vô lậu. Như khế kinh nói: “Sanh tử của ta đã hết”. Đây cũng là hành sinh khổ v.v… đã hết. Như nói ta chặt gỗ, lấy gì để chặt, đó là búa chặt, ở đây cũng như thế. Hỏi: Các trí này mỗi trí có bao nhiêu hành? Đáp: Hai trí mười sáu hành Pháp trí và tỷ trí Hành như thế hoặc phi Đây gọi là đẳng trí. Hai trí mười sáu hành, pháp trí và tỷ trí, nghĩa là như nói mười sáu hành, tất cả pháp trí, tỷ trí chuyển. Hành hoặc là phi như thế là nói Đẳng trí. Đẳng trí hành, mười sáu hành cũng chẳng phải mười sáu hành. Mười sáu hành là các căn thiện như noãn, v.v… mười sáu hành này và văn, tư, tuệ bất định khác, cũng là phi (không phải) nghĩa là như bệnh, như hành ung nhọt v.v…, đó gọi là phi. Hỏi: Nếu đẳng trí là mười sáu hành thì vì sao không gọi là khổ trí cho đến đạo trí? Đáp: Vì cảnh giới hư hoại, cảnh giới không hư hoại của hành vô lậu, vì duyên biệt đế. Cảnh giới hư hoại của hành hữu lậu, ba đế của hành vô thường, hữu lậu, hành của duyên không, phi ngã, là duyên tất cả pháp. Bốn trí có bốn hành Hành quyết định đã nói Nếu trí biết tha tâm Hành như thế hoặc phi. Bốn trí có bốn hành, hành quyết định đã nói: nghĩa là khổ trí có bốn hành, cho đến đạo trí cũng như thế. Nếu trí biết tha tâm, hành như thế hoặc phi, nghĩa là nếu trí tha tâm vô lậu là bốn hạnh của đạo thì trí hữu lậu chẳng phải là cảnh giới tự tướng. Trí tận, trí vô sinh Lìa hành không, vô ngã Nói có mười bốn hành Tức vì gần với đẳng. Trí tận, trí vô sinh, lìa hành không vô ngã, nói có mười bốn hành: nghĩa là mười bốn hành của trí tận, trí vô sinh, trừ hành không, vô ngã. Hỏi: Vì sao chẳng phải hành không vô ngã? Đáp: nghĩa là vì gần với đẳng. Đệ nhất nghĩa của trí tận, trí vô sinh mà gần với đẳng. Đệ nhất nghĩa của hành không vô ngã, gần với đệ nhất. Hỏi: Các hành kia là ai có thể làm, cũng là điều thực hành của người khác, hay vì những tính nào? Đáp: Tuệ tức hành năng hành Cũng là chỗ hành khác Hữu y khác hai thứ Không nương chỗ hành khác. Là tuệ hành năng hành, cũng là chỗ hành khác, nghĩa là tự tính của tuệ là hành, có thể ở trong phiền não ấy mà hành các hạnh như vô thường, v.v… Tuệ kia cũng là hành nơi chốn hành như vô thường, v.v… Hữu y khác có hai thứ, nghĩa là trừ tuệ, pháp tương ưng khác cũng là chủ thể hành, vì có duyên, cũng là chỗ hành khác, vì đối tượng duyên khác, không phải hành vì chẳng phải tính tuệ. Không nương chỗ hành là hoặc pháp bất tương ưng kia, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành là chỗ hành khác, vì không phải tính của tuệ, không phải chủ thể hành, vì không có duyên. Đã nói kiến lập hành, nay sẽ nói kiến lập đắc. Là sơ tâm vô lậu Hoặc có thành tựu một Hai hoặc thành tựu ba Bốn thời đều tăng một. Là sơ tâm vô lậu, hoặc có khi thành tựu một, nghĩa là tâm khổ pháp nhẫn ban đầu tương ưng, nếu chưa lìa dục thì thành tựu một đẳng trí, nếu lìa dục thì thành tựu trí tha tâm. Hai hoặc thành tựu ba: nghĩa là khổ pháp trí thứ hai tương ưng với tâm, nếu chưa lìa dục thì thành tựu ba trí: khổ trí, pháp trí, đẳng trí. Nếu đã lìa dục thì thành tựu trí tha tâm. Bốn thời đều tăng một, nghĩa là ở vào bốn thời gian trên, mỗi lúc tăng khổ tỷ trí. Nếu chưa lìa dục thì thành tựu bốn trí: Pháp trí, tỷ trí, khổ trí, đẳng trí. Nếu lìa dục thì được trí tha tâm. Tập pháp trí tăng tập trí, diệt, pháp trí tăng thì diệt trí. Đạo pháp trí tăng đạo trí trong đạo trí nhẫn, không đắc trí, vì chẳng phải tính trí. Trí tập, diệt, đạo, tỷ trí không tăng trí vì do khổ tỷ trí mà được tên. Đã nói về thành tựu trí. Nay sẽ nói tu: Nếu được tu về trí Là kiến đạo bậc Thánh Tức tu đương lai kia Các nhẫn cũng như thế. Nếu được tu về trí, là kiến đạo bậc Thánh, tức tu đương lai kia, nghĩa là các trí kiến đạo tu hiện tại, tức tu vị lai kia. nghĩa là khổ pháp trí tu hiện tại, tu khổ, pháp trí tu ở vị lai, chẳng phải nhẫn, chẳng phải trí khác. Như thế cho đến đạo pháp trí, các nhẫn cũng như thế. nghĩa là khổ pháp nhẫn tu hiện tại, tức tu vị lai kia, chẳng phải trí, chẳng phải nhẫn khác, tất cả nhẫn cũng như vậy. Hỏi: Vì sao kiến đạo chỉ tu tự phần, còn tu đạo thì tu tự phần và không phải tự phần chăng? Đáp: Vì tu đạo kia đầu tiên đắc chủng tính, còn kiến đạo thì mới thấy đế, nên chỉ tu phần mình, chẳng phải phần khác. Lại vì đạo không xen lẫn, vì nhanh chóng, vì đạo bất giác. Ở trong ba tâm kia Được tu về đẳng trí Phải biết tâm sau cùng Hoặc tu bảy hoặc sáu. Ở trong ba tâm kia, được tu về đẳng trí, nghĩa là ba tâm vô gián đẳng biên của kiến đạo tu đẳng trí, đó là khổ, tập, diệt tỷ trí. Nếu dựa vào thiền vị lai, vượt lên Ly sinh, người đó tu kiến đạo của một địa, đẳng trí của hai địa, đó là thiền vị lai và cõi Dục. Nếu dựa vào Sơ thiền vượt lên ly sinh thì tu kiến đạo của hai địa, đẳng trí của ba địa, cho đến đệ Tứ thiền tu kiến đạo của sáu địa, đẳng trí của bảy địa. Hỏi: Đạo tỷ trí biên vì sao không tu đẳng trí? Đáp: Vì biên không có phần, vì tu đế vô gián đẳng biên, nên gọi vô gián đẳng biên. Không có khả năng tu tất cả đạo và bờ mé của Phật để biết tất cả khổ, tập, diệt. Hơn nữa, trí thế tục đối với đế kia, vì đã từng là vô gián đẳng, vì tu kiến đạo quyến thuộc đẳng trí của vô gián đẳng biên là kiến đạo quyến thuộc kiến đạo, đạo tỷ trí là tu đạo. Sở dó cõi Vô Sắc không tu là vì không có kiến đạo. Hỏi: Vì sao pháp trí không tu? Đáp: Vì đế vô gián, không rốt ráo. Nếu tu thì lẽ ra nói là trong vô gián đẳng. Nếu người cõi Dục thì tính bốn ấm, vì bất định. Nếu người cõi Sắc thì tính năm ấm, vì là định (có định thì có sắc định, vì cộng sắc. Có sắc ấm là vì có năm ấm). Vì trí tăng nên nói tu đẳng trí. Nếu khổ vô gián đẳng biên thì có bốn việc: Cõi Dục duyên khổ cõi Dục, cõi Sắc duyên khổ cõi Sắc, Vô Sắc, vô gián đẳng biên của tập, diệt cũng như thế. Pháp bất sinh này dựa vào Tùy tín hành, Tùy pháp hành. Tùy tín hành, Tùy pháp hành thành tựu mà không hiện ở trước. Hoặc tu bảy hoặc sáu, phải biết tâm sau cùng, nghĩa là nếu lìa dục được đạo tỷ trí, tu bảy trí ở vị lai, trừ đẳng trí, trí tận, trí vô sinh. Nếu chưa lìa dục thì tu sáu trí, trừ trí tha tâm. Tu đạo đối trị đẳng trí của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, vì chẳng phải đối trị kia nên không tu. Với tu đạo trên kia Mười bảy tâm vô lậu Phải biết tu ở bảy Căn tăng ích hoặc sáu. Với tu đạo trên kia, mười bảy tâm vô lậu, phải biết tu ở bảy, nghĩa là nếu chưa lìa sáu thứ dục, từ quả Tu-đà-hoàn, tiến lên chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát, tu bảy trí. Vì đạo này thuộc về thiền vị lai, không có trí tha tâm, trí tận, trí vô sinh, vì là vô học, nên không tu, còn bảy trí khác thì phải tu. Nếu trí thế tục lìa dục, trí đó hiện tại tu một đẳng trí, vị lai tu bảy. Nếu người vô lậu, là bốn pháp trí, mỗi pháp trí tu hiện tại, vị lai bảy. Căn tăng ích hoặc sáu, nghĩa là tín, giải thoát, cầu kiến đáo. Đạo vô ngại kia tu sáu trí, chẳng phải trí tha tâm, vì trái với đạo vô ngại, không phải đẳng trí, vì kiến đạo, không phải trí tận, trí vô sinh, vì vô học. Nếu chưa lìa dục, đạo giải thoát cũng tu sáu trí này, nếu lìa dục, tu bảy trí, cho nên nói hoặc đạo thăng tiến được bất động, chín đạo vô ngại tu bảy trí, chứ không phải trí tha tâm, vì trái với đạo vô ngại, không phải đẳng trí, không phải đệ nhất hữu, vì đối trị. Không phải trí vô sinh, vì chưa đắc. Tám đạo giải thoát tu tám trí, cũng được trí tha tâm. Đạo giải thoát thứ chín tu mười trí, cho nên nói là “hoặc”. Lúc được quả Bất hoàn Và lìa bảy địa trên, Huân tu các thần thông Giải thoát tu tập tám. Được quả A-na-hàm, sẽ được thiền căn bản nên tu tám trí, trí trừ tận, trí vô sinh và bốn thiền ba Vô Sắc. Bảy địa này lúc lìa dục, chín đạo giải thoát tu tám trí. Nếu đạo thế tục khi lìa dục, đẳng trí hiện tại, tu vị lai tám. Nếu đạo vô lậu lìa dục, tu sáu trí, mỗi trí hiện tại, tu vị lai tám. Sáu trí là khổ tỷ trí, tập, diệt đạo, tỷ trí và diệt, đạo pháp trí. Huân tu thiền một, đạo giải thoát hữu học tu tám trí, vô học tu mười trí. Thần túc, trí tha tâm, túc mạng đều một, đạo giải thoát cũng tu tám trí, vì thuộc về thiền căn bản. Thiên nhãn, thiên nhó, đạo giải thoát vì vô ký nên không tu (ba thông trên lúc được và về sau, khi dụng, đều là đạo giải thoát. Đạo giải thoát đều là thần túc vì hàng phục chúng sinh. Hai thông khác vì chỗ thấy nhỏ, xa, vì nhãn, nhó là không cho nên vô ký). Các đạo vô ngại này Và diệt đệ nhất hữu Tức tám giải thoát kia Phải biết tu có bảy. Đạo vô ngại bảy địa lìa dục và hai đạo vô ngoại của đối tu thiền, học năm đạo vô ngại của các thông (Bảy điạ lìa dục và huân tu, dùng một đẳng trí, một trí vô lậu làm đạo vô ngại hai, vì hai niệm nên nói hai, vì năm thông đều có một đạo vô ngại, nên nói là năm). Tu bảy học trí, trừ trí tha tâm, vì trái với đạo vô ngại. Đệ nhất hữu lìa dục, tám đạo giải thoát tu bảy trí, trừ đẳng trí vì không phải đối trị. Hữu thứ nhất lìa dục Đạo vô ngại tu sáu Thượng thừa cần phải biết Tu tập ở địa dưới. Hữu thứ nhất lìa dục, đạo vô ngại tu sáu: nghĩa là hữu thứ nhất lìa dục, chín đạo vô ngại tu sáu trí, trừ trí tha tâm và đẳng trí, còn tất cả đạo phương tiện hữu lậu, vô lậu đều tu tám trí. Thượng thừa cần phải biết, tu tập ở địa dưới, nghĩa là nếu địa này lìa dục, tức là tu trí vô lậu của địa này và địa dưới, nghĩa là Sơ thiền lìa dục, tức là tu công đức của Sơ thiền và thiền vị lai. Như thế cho đến hữu thứ nhất lìa dục, tu công đức vô lậu của tất cả địa. Pháp đối trị trên gọi là Thượng thừa. Trong sơ tâm Vô học Tu ở tất cả địa Tu tương tợ Vô học Hoặc khổ, tập, tỷ trí. Trong sơ tâm vô học, tu ở tất cả địa, nghĩa là tận trí ban đầu của Vô học, tâm tương ưng với tu công đức của chín địa. Hỏi: Tu những thứ công đức vô học nào? Đáp: nghĩa là tu vô học tương tợ, nếu là người của thối pháp thì tu công đức hạ hạ của chín địa, cho đến tu công đức thượng thượng Như lai địa. Hỏi: Sơ tâm vô học thuộc trí nào? Đáp: Hoặc khổ, tập, tỷ trí, hoặc khổ tỷ trí, hoặc tập tỷ trí, vì sinh duyên. Nên nghó rằng: Sanh tử của ta đã hết. Bốn ấm của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ này, sinh ra duyên sau cùng đã hết, đã nói công đức vô lậu, nay sẽ nói hữu lậu. Tận trí, tâm đều tu Công đức thiện hữu lậu Chín địa đến một địa Thứ lớp tu cũng giảm. Khi đắc quả A-la-hán, hoặc tu công đức thiện hữu lậu của chín địa, cho đến hoặc một địa. Hỏi: Vì sao chín địa cho đến một địa? Đáp: Tức sinh ở cõi Dục Tu hữu lậu chín địa Nếu sinh hữu thứ nhất Thì tu ở một địa Nếu sinh ở cõi Dục Được quả A-la-hán. Chỗ tu căn thiện của chín địa đắc tận trí. Nếu sinh Sơ thiền thì tu tám địa, trừ cõi Dục. Như thế cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, tức là tu căn thiện của địa đó. Hỏi: Vì sao ở xứ này tu căn thiện của ba cõi? Đáp: Vì tất cả sự ràng buộc đều dứt hẳn. Như ba lần buộc, mở, như lực só hàng phục phiền não, mọi người đều khen ngợi. Như vua lên ngôi quán đảnh giải thoát, tất cả đều dâng lên vật báu lạ. Trước kia tuy được công đức của địa dưới, nhưng vì phiền não của địa trên nên ánh sáng trí tuệ không sáng. Được quả A-la-hán, tất cả công đức tăng tu soi sáng, nghĩa tu sẽ nói rộng trong phẩm Trạch. Hỏi: Đức Thế Tôn nói kiến, trí, tuệ là một hay khác? Đáp: Các nhẫn thì phi trí Tận, vô sinh, phi kiến Tất cả Thánh tuệ khác Phải biết ba thứ tính. Các nhẫn thì phi trí: nghĩa là tám vô gián đẳng là nhẫn, chẳng phải trí, vì không quyết định. Đối trị nghi của tự phẩm, vì mắc phải trói buộc, vì nghĩa quyết định là nghĩa trí. Lại nữa, nhẫn nghĩa là hy vọng, cầu trí nghĩa là dứt hy vọng. Lại nữa, nhẫn là kiến, chẳng phải tính trí. Tận, vô sinh chẳng phải kiến, nghĩa là tân trí, trí vô sinh chẳng phải kiến, vì dứt mong cầu, vì trung bình, và vì trái với sinh tử, tất cả Thánh tuệ khác, phải biết ba thứ tính, nghĩa là trừ nhẫn và tận trí, trí vô sinh. Vì chủng tuệ khác có thể tìm cầu, nên là kiến trí quyết định. Hỏi: Pháp nào đúng? Đáp: Tám trí hữu học và đẳng kiến vô học. Nếu trí hữu lậu thiện Ở ý tức là kiến Kiến phiền não là trí Đây và khác nói tuệ. Trí của ý địa thiện hữu lậu có thể tìm cầu, nên là kiến. Có thuyết nói không phải tất cả ý thức tương ưng với trí thiện hữu lậu là thấy tính, nghĩa là vì từ chỗ khởi của thức thân bất tư lương cho nên chẳng phải kiến (năm thức thứ lớp sinh ý thức, đây chẳng phải kiến). Tâm lúc qua đời chẳng phải kiến vì yếu kém. Vì khởi tâm tạo tác, chẳng phải kiến vì hướng đến ra ngoài, như vậy đáng gọi là sơ thuyết (hễ nói đúng lý gọi là như vậy). Phiền não kiến là trí: nghĩa là nếu thấytự tính, đó là thân kiến, v.v… vì từ tư lường sinh ra, nên nói là kiến, cũng nói là trí quyết định. Đây và khác nói tuệ, nghĩa là thuyết này nói hoặc trí, hoặc kiến, và thuyết khác thì chưa nói, nghĩa là ý thức tương ưng với vô ký, ngoại trừ năm kiến, các ý địa khác nhiễm ô và tương ưng với tất cả năm thức. Phải biết tất cả đều là tuệ, nghĩa là thuyết kia chưa nói, nghĩa là nếu vô ký tuệ chẳng phải kiến, vì không nhanh nhẹn. Tuệ công xảo tuy nhanh chóng mà chẳng phải kiến vì gây trở ngại cho sự cầu sinh. Nhiễm ô trước đã nói, tuệ tương ưng với năm thức chẳng phải kiến, vì không phân biệt, vì không nhanh chóng và vì một lần đi qua. Hỏi: Mỗi mỗi trí có bao nhiêu trí duyên? Đáp: Pháp trí và tỷ trí Quán sát ở chín trí Nhân trí và quả trí Cảnh giới ở hai trí. Pháp trí và tỷ trí, quán sát ở chín trí: nghĩa là pháp trí duyên chín trí, trừ tỷ trí. Tỷ trí cũng duyên chín trí, trừ pháp trí. Hỏi: Vì sao không lần lượt duyên nhau? Đáp: Vì cảnh giới dưới trên, pháp trí duyên dưới, còn tỷ trí thì duyên trên, cho nên không lần lượt duyên nhau. Như hai người cùng đứng, một người thì nhìn xuống, còn một người nhìn lên. Vì cách nhìn dưới đất và trên không khác nhau nên học không thấy mặt nhau. Nếu nói không tự duyên như không tự thấy mặt mình thì không đúng, vì nhìn liên tục. Nhân trí và quả trí, cảnh giới ở hai trí, nghĩa là khổ, tập trí duyên hữu lậu. Trí tha tâm, và đẳng trí thuộc về khổ, tập đế. Đạo trí duyên chín trí Trí giải thoát không duyên Tất cả cảnh giới khác Quyết định trí đã nói. Đạo trí duyên chín trí: nghĩa là đạo trí duyên chín trí, trừ đẳng trí, chín trí thuộc về duyên đạo đế. Trí giải thoát không duyên, nghĩa là diệt trí không duyên trí, duyên vô vi. Tất cả cảnh giới khác, quyết định trí đã nói, nghĩa là bốn trí còn lại: Trí tha tâm, đẳng trí, trí tận, trí vô sinh duyên mười trí. Hỏi: Như trước đã nói nếu đối trị cõi Dục là pháp trí, tuy là đối trị với cõi Sắc, cõi Vô Sắc, không phải là tất cả, cũng chẳng phải hoàn toàn, vậy thì những pháp trí nào là đối trị cõi Sắc, Vô Sắc? Đáp: Là diệt và đạo kia Chỗ hành của pháp trí Là đối trị ba cõi Chẳng tỷ trí cõi Dục. Chỗ hành của diệt kia và đạo pháp trí là đối trị ba cõi: nghĩa là có tu đạo diệt pháp trí và đạo pháp trí là đối trị với phiền não của ba cõi do tu đạo dứt trừ. Trí kia nhận thấy nhiều lỗi lầm ở cõi Dục, tư duy hành diệt và đối trị cõi Dục được lìa dục ba cõi. Hỏi: Vì sao không phải là khổ, tập pháp trí? Đáp: Vì dưới kém, trên hơn, quán yếu kém chẳng thể lìa dục ở chỗ vượt hơn. Diệt đạo đều thù thắng, cho nên quán diệt dục của ba cõi này. Lại nữa, nếu duyên cõi Dục, lìa cõi Sắc, Vô Sắc thì đây là sự nhàm chán khác, không ưa thích khác, giải thoát khác, việc này không đúng. Hỏi: Phải chăng tỷ trí lìa cõi Dục? Đáp: Chẳng phải tỷ trí cõi Dục không có tỷ trí, đối trị cõi Dục, vì việc của mình chưa rốt ráo. Như vua dẹp oán thù ngay trong cõi nước của mình, sau đó mới chinh phục nước khác. Pháp trí cũng như thế. Không có tỷ trí trước diệt cõi Sắc, Vô Sắc, về sau diệt cõi Dục. Lại pháp trí là trí rất nhạy bén mà còn diệt bất thiện, huống chi là vô ký. Hỏi: Thần thông có bao nhiêu tính trí? Đáp: Thần túc, thiên nhãn, nhó Là nói một đẳng trí Hoặc sáu trí túc mạng Năm, nói trí tha tâm. Thần túc, thiên nhãn, nhó là nói một đẳng trí: nghĩa là một đẳng trí của thần túc, thiên nhãn, nhó. Trí Vô lậu không dùng hành này. Thần túc là các thứ thị hiện. Thiên nhó thông là tuệ tương ưng với thiên nhó thức. Sinh tử thông là tương ưng với tuệ của thiên nhãn thức. Thần túc thông (phẩm khác sẽ nói). Phương tiện của thiên nhó nhằm tư duy âm thanh lớn. Phương tiện đó càng tăng dần được thiên nhó thanh tịnh tạo thành do bốn đại của cõi Sắc, tùy theo tiếng xa gần tất cả đều nghe. Phương tiện của thiên nhãn tư duy tướng sáng. Phương tiện đó tăng dần đối với mắt tròn khắp, được thiên nhãn thanh tịnh do bốn đại cõi Sắc, Vô Sắc tạo nên, ở nơi một phương thấy khắp mười phương, tất cả đều thấy nhưng chẳng phải cùng lúc. Hoặc sáu trí túc mạng: Tôn giả Cù-sa nói sáu trí không phải trí tha tâm, vì duyên hiện tại, không phải diệt trí, vì duyên vô vi, không phải tận trí, trí vô sinh, vì chẳng phải kiến tính. Thuyết A-tỳ-đàm nói một đẳng trí duyên danh tính, v.v… của chúng sinh. Phương tiện nghĩa là hoặc đối với thân mình, hoặc đối với thân khác. Phương tiện ở chỗ này tức là chỗ này rốt ráo, hoặc lại ở chỗ khác. Thanh văn, Duyên giác từ thân trước bắt đầu cho đến rốt ráo tùy thuộc vào điều mà họ muốn. Chỉ có Đức Như lai tùy ý tự tại, hoặc trước hoặc sau, tùy theo những gì thấy, nghe, đều hoàn toàn nhớ nghó. Năm là nói trí tha tâm, nghĩa là năm trí biết tha tâm, nghĩa là pháp trí biết cảnh giới tự phần tâm, tâm pháp của phẩm tha pháp trí. Tỷ trí cũng như vậy. Đạo trí biết tâm, tâm pháp tha vô lậu khác. Pháp trí phẩm tâm, tâm pháp. Đẳng trí biết tâm, tâm pháp thế tục của người khác, là trí tha tâm có năm. Phương tiện: nghĩa là hoặc từ thân mình, hoặc từ tâm mình, chấp lấy tướng mạo kia. Với tướng như thế, thân có tâm tướng như thế, do phương tiện này mà căn thiện tăng dần, cho đến nhận biết tâm, tâm pháp của người. Đây gọi là thành tựu phương tiện về sắc, và từ tự thân khởi, đến khi thành tựu, không duyên sắc và tự tâm xa lìa hành duyên, biết căn độ, địa độ, nhân độ của trí tha tâm. Không biết căn độ, nghĩa là hạ không biết căn trung, thượng, cho đến địa thiền thứ tư, hạ biết hạ của địa dưới, vô lậu chẳng phải pháp khác. Hữu lậu, nghĩa là biết hữu lậu, không biết vô lậu. Địa độ nghĩa là Sơ thiền không biết Nhị thiền. Nhân độ nghĩa là người hữu học không biết người Vô học. Thế nên tâm, tâm pháp của Phật chẳng phải tất cả cảnh giới của trí tha tâm, tất cả cảnh giới sự của trí tha tâm, cảnh giới của tự tướng, cảnh giới tâm, tâm pháp, cảnh giới hiện tại, cảnh giới tha tâm, trừ kiến đạo vì là tu đạo đắc không, vô tướng, không tương ưng với trí tận và trí vô sinh, không thuộc về đạo lìa vô ngại. Hỏi: Thế nào là thần thông như thuyết mà sinh là khác? Đáp: Hoặc có thuyết nói như thuyết mà sinh. Như Đức Thế Tôn trước nói thần túc, cho nên sinh trước, cho đến đời sau, nói về trí sinh tử, cho nên sinh sau, Tôn giả Cù-sa nói chỗ cõi Dục khởi thần thông, như thuyết mà sinh, nếu ở cõi Sắc thì khác với đây. Người tu hành nghe nói trời cõi Sắc mà không thấy. Vì muốn thấy, nên khởi thiên nhãn. Vì thấy mà không thể đi qua, nên khởi thần túc. Qua mà vì không nghe nói nên khởi thiên nhó. Vì nghe mà không biết tâm làm sao đi qua, cho nên khởi trí tha tâm. Vì biết tha tâm mà không tự biết trước kia mình từ đâu đến nên khởi trí túc mạng. Nói như thế, nghĩa là thần thông không có thứ lớp chính thọ, cũng không vượt qua chính thọ, cũng không thuận với chính thọ, cũng không nghịch với chính thọ. Phải biết thần thông thuộc về đạo Giải thoát, chẳng phải đạo Vô ngại. Hỏi: Lực, vô sở úy, mỗi pháp có bao nhiêu trí tính? Đáp: Trí lực xứ, phi xứ Và vô úy bậc nhất Đây là mười trí Phật Trong đó có sai khác. Trí lực xứ, phi xứ và vô úy bậc nhất, đây là mười trí Phật, nghĩa là lực xứ, phi xứ và vô úy ban đầu. Cảnh giới của mười trí tính này rộng khắp. Hỏi: Lực, vô úy khác là trí tính gì? Đáp: Trong đó có sai khác, là sự sai khác của lực xứ, phi xứ, có lực khác, sự sai khác của vô úy đầu tiên có vô úy khác. Đức Thế Tôn quán người thọ giáo hóa vì hy vọng nên lập ra nhiều thứ. Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn tự nói công đức? Đáp: Vì người cầu Phật đạo, vì người tu tam-muội niệm Phật. Lại nữa, đối với đẳng giải thoát, vì hiện sai khác, vì ưa nói biện tài vô tận, không có đuối lý, không có thiếu sót, cho đến trong việc hàng phục voi say, vẫn có kẻ ngờ vực không biết là do sức của ai? Vì voi kia nên Phật biểu thị năng lực của mình. Lại nữa, vì người thọ hóa, nên nói công đức thật, vì không quá lượng, vì lìa pháp chẳng phải đại nhân. Nghiệp tịnh có quả ái Quả bất tịnh không ái Đây nói là thị xứ Khác thì nói phi xứ Cần phải biết như thế Lực thị xứ, phi xứ. Nghiệp tịnh có quả ái, nghiệp bất tịnh có quả không ái, đây nói là thị xứ, nghĩa là nhân quả quyết định của trí không chướng ngại kia, biết nhân quyết định đây là kia, đó là nghiệp tịnh có quả ái, nghiệp bất tịnh có quả không ái, cũng như nhân quả của hạt giống bên ngoài tùy theo loại. Khác thì nói phi xứ: nghĩa là trái với thị, gọi là phi xứ, cần phải biết như thế. Lực thị xứ, phi xư: nghĩa là nghĩa đẳng khởi dung nạp, là nghĩa thị xứ. Trái với thị, gọi nghĩa phi xứ. Vì không phục, không khuất, không có gì hơn vì không lay động nên nói là lực. Tự tính mười trí kia Ở nơi mười một địa Quyết định nói Như lai Là nương Diêm-phù-đề. Tự tính mười trí kia: nghĩa là như trước nói, vì cảnh giới rộng khắp. Tự tính của mười trí duyên tất cả pháp là mười sáu hành, hoặc lìa hành. Bốn niệm xứ, ba chính thọ tương ưng với ba căn. Đối với mười một địa, nghĩa là cõi Dục, Tứ thiền, vị lai, trung gian, bốn Vô Sắc. Quyết định nói Như lai, nghĩa là kiến lập năng lực của Như lai, chẳng phải Thanh văn, Duyên giác, vì Đức Như lai dứt trừ hai thứ vô tri: nhiễm ô, không nhiễm ô. Thế nên trí Phật không bị phi trí khuất phục là vô học và phi học phi vô học, chẳng phải Thanh văn, Duyên giác hữu học, chỉ trừ nhiễm ô, không trừ bất nhiễm ô. Như lai dứt trừ hai thứ nghi: Nghi sử xứ, nghi phi xứ. Là nương Diêm-phù-đề, nghĩa là thân của Diêm-phù-đề hiện ở trước, không phải ở nơi khác. Vì phương khác không có Phật ra đời. Người Diêm-phù-đề lợi căn, dễ giác ngộ. Thế nên Đức Phật xuất thế tại cõi Diêm-phù-đề, không phải cõi khác. Lực thứ hai, tám trí, Chuyển nghiệp nơi sự kia Và pháp thọ phiền não Ngoài ra như trước nói. Lực thứ hai, tám trí nghĩa là tám trí của trí lực tự nghiệp, trừ diệt trí, đạo trí, vì duyên vô lậu, cho nên nói tám. Hành, hoặc lìa hành, tương ưng với không, vô nguyện. Hỏi: Duyên nào? Đáp: Chuyển nghiệp đối với sự kia và pháp thọ phiền não, sự kia nghĩa là nghiệp quả, nghiệp thân, miệng và tư là nghiệp. Pháp thọ: có bốn pháp thọ: pháp hữu, thọ vui hiện đời, vui đời sau. So sánh như thế, phiền não là nghiệp nhân. Ở đây chuyển, duyên theo đây mà khởi, ngoài ra như trước đã nói, nghĩa là ngoài ra, như nói của lực xứ, phi xứ. Các thiền và bội xả chính thọ Tam-ma-đề Lực thứ ba, hồi chuyển Chín trí, khác như trước. Các thiền và bội xả, chính thọ Tam-ma-đề, lực thứ ba, hồi chuyển: thiền là bốn thiền, bội xả là tám bội xả, chính thọ là định Vô tưởng, định Diệt tận và bốn Vô Sắc. Tam-ma-đề nghĩa là không, vô tướng, vô nguyện. Lực thứ ba nghĩa là đối với thiền này, bội xả chính thọ trong Tam- ma-đề chuyển, duyên theo lực này mà khởi. Hỏi: tính của lực này là gì? Đáp: Là tính chín trí trừ Diệt trí và bốn hành nơi tam-muội Vô tướng, vì duyên vô vi. Còn lại như trước: nghĩa là ngoài ra như thuyết của trí lực tự nghiệp nói. Các căn trên và dưới Lực thứ tư hồi chuyển Thứ năm nói giải lực Thứ sáu duyên theo giới. Các căn trên và dưới, trên là hơn, dưới là kém, căn là chủ, lực thứ tư: nghĩa là các căn lực trên và dưới. Hồi chuyển nghĩa là duyên, đó là duyên ba đế, từ duyên căn phương tiện khởi, nên nói các căn, lực trên dưới như trí tha tâm. Thứ năm nói giải lực: Giải là dục, giải kia cũng có hai thứ: Có hơn, có kém, hơn là thiện, kém là ái dục. Lại nữa, dục đạo và đạo quả là hơn. Sinh tử dục thì kém, dục này cũng duyên ba đế. Vì từ phương tiện dục khởi, nên nói là lực dục. Thứ sáu duyên theo giới, giới nghĩa là tự tính. Có hai thứ như trước nói. Đối với các đường kia Lực thứ bảy hồi chuyển Phải biết đã nói bốn Còn lại như trước nói. Đối với các đường kia, lực thứ bảy hồi chuyển: Thú là con đường, con đường kia cũng có các thứ: hướng địa ngục, cho đến Niết-bàn. Duyên đường kia và đầy đủ nên gọi lực của đường. Phải biết đã nói bốn, còn lại như trước nói, nghĩa là đã nói lực căn, giải, giới, nẻo. Nhân duyên khác phải biết như thuyết thiền bội xả, chính thọ tam-muội nói. Hoặc có thuyết nói đường trí lực là mười trí tính. Biết túc mạng hữu hành Là nói lực thứ tám Là thiền có phiền não Còn lại như trước nói. Biết túc mạng hữu hành là nói lực thứ tám: nghĩa là lực túc ma- ïng, có chốn thọ đời trước, hoặc hành, chỗ thọ, các thứ đều biết. Chốn hành kia là trung ấm. Chốn thọ nghĩa là bổn hữu, do bổn hữu có chỗ thọ, hoặc Sát-lợi, hoặc Bà-la-môn, sự so sánh như thế đều biết là lực túc mạng. Nói một trí, nghĩa là túc mạng. Trí có hai thứ: từng được, nay được, thượng trung, hạ nói ba địa, kiến lập nói bốn, hạ trung thượng từng được, nay được nói sáu địa, từng được, nay được, nói tám. Từ hạ hạ đến thượng thượng, nói chín địa. Và chia ra ha,ï trung, thượng nói mười hai. Hạ hạ v.v… từng được nay được, nói mười tám địa. Hạ trung, thượng từng được, nay được, nói hai mươi bốn địa, hạ hạ… phân biệt nói ba mươi sáu địa, hạ hạ v.v… từng được, nay được, nói bảy mươi hai. Đây là nói chung một túc mạng trí. Nói thiền: Là thiền căn bản, chẳng phải quyến thuộc, chẳng phải Vô Sắc không có thần thông nương vào Tam-ma-đề, bốn chi, năm chi thuộc về Tam-ma-đề chỗ thần thông nương tựa. Chỉ có thiền, không có thứ khác: Nếu dựa vào thiền kia được túc mạng thông thì biết ngay thiền kia và địa dưới. Nếu dựa vào Sơ thiền được thần thông thì biết Sơ thiền và trung gian là đồng một địa. Có phiền não: Như trước nói là đẳng trí, cho nên không có sự vô lậu, là pháp niệm xứ. Ngoài ra thì như trước đã nói, nghĩa là như thuyết trí lực của đường nói. Lực thứ chín phải biết Xa lìa nơi đã duyên Chết đi và thọ sinh Hành nơi số chúng sinh. Lực thứ chín phải biết, xa lìa nơi đã duyên: nghĩa là trí lực sinh tử trừ duyên, ngoài ra như thuyết lực trí túc mạng nói, Thanh văn không phương tiện, thấy một ngàn thế giới, có phương tiện là thấy hai ngàn thế giới. Duyên giác không phương tiện thấy hai ngàn thế giới, phương tiện thấy ba ngàn thế giới. Phật không phương tiện thấy ba ngàn thế giới, phương tiện thấy vô lượng, vô biên ức trăm ngàn ba ngàn thế giới. Hỏi: Duyên gì? Đáp: Chết đi và thọ sinh, hành nơi số chúng sinh. Người kia duyên sắc nhập, như sở thuyết tùy theo nghiệp, thọ pháp như thật trí, phải biết thuyết đó là nói quyến thuộc, trí sinh tử, đây là nội pháp. Lực thứ mười, mười trí Hoặc sáu, tất cả địa Thị hiện lực minh thông Còn lại như trước nói. Lực thứ mười, mười trí, hoặc sáu: Nếu nói sở đắc của người lậu tận, là trí lậu tận, thì thuyết kia nói mười trí tính, nếu vì duyên lậu tận mà được trí lậu tận thì thuyết kia sẽ nói sáu trí, trừ trí tha tâm, khổ, tập, đạo trí. Tất cả địa: nghĩa là trí lậu tận ở mười một địa, vì nhiếp thọ sinh. Thị hiện lực minh thông: nghĩa là trí lậu tận kia gọi là thị hiện, nghĩa là thị hiện răn dạy khiến người kia hoan hỷ. Vì không lay động nên nói là Lực. Vì lìa hẳn vô minh, nên nói là minh. Vì đi suốt qua chủng tính nên nói là Thông. Lực túc mạng trí, lực sinh tử trí là nói lực thông minh, chẳng phải thị hiện. Hỏi: Lực này phi học phi vô học? Vì sao Khế kinh nói ba minh hoàn toàn vô học? Đáp: Vì đắc trong thân vô học, vì dẫn đến đệ nhất nghĩa minh. Hỏi: Vì sao sáu thông, ba thông kiến lập minh, không phải thông khác? Đáp: Vì đối trị ba thứ ngu: Minh thứ nhất diệt ngu về bờ mé trước. Minh thứ hai diệt ngu về bờ mé sau. Minh thứ ba diệt ngu nơi chân đế. Vì dẫn đến ba môn giải thoát, nên hai thông trong sáu thông là thị hiện, chứ không phải minh, nghĩa là hai thần túc, trí tha tâm là hai minh, chứ không phải thị hiện, đó là trí túc mạng và trí sinh tử, lậu tận thông đều có, thiên nhó thông đều không có. Còn lại như trước nói: nghĩa là là nhân duyên như trước nói, đã nói về lực, nay sẽ nói về vô úy. Đầu thì như lực đầu Thứ hai, như thứ mười Hai khác như hai, bảy Gọi là vô úy an. Đầu thì như lực đầu: nghĩa là nói vô úy ban đầu này của đấng chính giác của chúng ta, tức là lực xứ, phi xứ. Thứ hai như thứ mười, nghĩa là nói các lậu ta đã hết, đây là lực lậu tận. Hai khác, như hai bảy gọi là vô úy an: nghĩa là nói ta vì các đệ tử nói pháp chướng đạo. Nói pháp không chướng đạo, nghĩa là không có nỗi sợ này. Đây là trí lực của tự nghiệp. Nói ta vì các đệ tử nói đạo là đạo xuất ly của Hiền Thánh. Nói không xuất ly, nghĩa là không có nỗi sợ này. Phải biết đây là lực hướng về. Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói Khế kinh này? Đáp: Vì chế ngự sự bài báng của Thiện Tinh và Bà-la-bà nên nói Khế kinh này. Thiện tinh nói Sa-môn Cù-đàm không có pháp hơn người. Vì chế ngự việc đó nên Phật nói hai vô úy trước. Ba-la-bà nói pháp của Sa- môn họ Thích ta đều thấy biết. Vì chế ngự điều đó, nên nói hai vô úy sau. Lại nữa, hai vô úy trước là nói tự an, hai vô úy sau là nói an cho người khác. nghĩa không khuất phục là nghĩa vô úy, vì lìa sợ hãi. Hỏi: Lực và vô úy có khác gì nhau không? Đáp: Có thuyết nói không khác nhau. Lại nói trí là lực, trí sáng chiếu khắp là vô úy, an trụ là lực. Dũng mãnh là vô úy, trí vô tận là lực, biện vô tận là vô úy, như thế v.v… Lại nữa, mỗi lực gồm thâu bốn vô úy, mỗi vô úy gồm thâu mười lực. Mười bốn pháp này lại chia làm ba: bất cộng, niệm xứ và Đại Bi, là mười tám pháp bất cộng của Phật. Vì không chung với tất cả Thanh văn, Duyên giác nên gọi bất cộng. Niệm xứ và Đại Bi là tính của tuệ. Hỏi: Địa nào vô tránh? Thế nào là hành? Xứ nào hiện ở trước? Duyên gì? Những người nào khởi? Các tự tính nào? Đáp: Đệ Tứ thiền hữu cấu Vô tránh ba phương nương Duyên dục, chưa sinh não Nương trí tuệ bất động. Đệ Tứ thiền nghĩa là vô tránh ở thiền thứ tư, không phải thiền khác, vì cảnh giới rộng khắp, vì đối với tất cả nương là tối thắng, vì là hữu cấu, lìa hạnh Thánh. Vô tránh nghĩa là trái với phiền não, ba phương nương nghĩa là ba phương hiện ở trước, không phải phương khác. Vì nói do lực khởi lên. Duyên dục chưa sinh não, nghĩa là duyên phiền não vị lai của cõi Dục, đó là tự tướng phiền não tham, sân, si, mạn, không phải tướng chung, tướng chung là cảnh giới rộng khắp, cho nên được bốn niệm xứ tương ưng với xả căn. Nương vào bất động: nghĩa là do thân lìa phiền não mà được, vì sức của tam-muội, chỉ có pháp bất động, nghĩa là chỗ có thể dấy khởi, chứ không phải chi khác. Trí tuệ là tự tính trí tuệ. A-la-hán kia vì không hành năm nhân duyên nên có thể khiến họ không khởi phiền não. Đó là chính oai nghi và chính thuyết phân biệt nên thọ không nên thọ, quán sát trú xứ và quán sát con người. chính oai nghi: nghĩa là thân ngồi thẳng ở một chỗ. Nếu có người đến liền quán tâm họ. Quán sát tâm người kia, có những oai nghi nào khiến không khởi kiết. Nếu ở oai nghi này khiến người ấy không khởi kiết, thì liền trụ vào oai nghi ấy. chính thuyết là, nếu có người đến liền quán sát tâm họ, hoặc nói chung mà người ấy khởi kiết thì không nên nói. Nếu không nói chung mà người ấy khởi kiết thì nên nói. Phân biệt nên thọ, không nên thọ, nghĩa là người khác thí cho các vật, liền quán sát: Nếu thọ của ấy mà người kia khởi kiết thì dù cần cũng không thọ, không thọ mà người ấy khởi kiết dù không cần cũng thọ. Quán sát trú xứ, nghĩa là nếu ở chỗ này mà làm cho người khởi kiết thì cho dù đầy đủ các dụng cụ vẫn bỏ đi. Quán sát con người nghĩa là trước hết quán sát con người, rồi sau mới đi vào thôn. Hoặc nhà, hoặc ngõ hẻm có kẻ khởi kiết thì không vào, làm sao lại tạo ra duyên ác đối với họ. Vì muốn dẫn dắt họ nên nghó rằng “xưa lúc thân tôi phiền não, họ khởi phiền não với tôi nên thọ quả bất ái, huống chi nay lìa dục, tôi sẽ tạo ra phương tiện sao cho họ đối với tôi không khởi phiền não. Đức Phật và các Thanh văn Ba-la-mật v.v… đã được vô tránh viên mãn mà không thường nhập (vì khiến chúng sinh nhân não được độ, nên có lúc không nhập tam-muội Vô Tránh). Cái gọi nguyện trí mầu Xa lìa cảnh giới kia Sau cùng được trí ấy tính tự tại sáu trí. Cái gọi nguyện trí mầu xa lìa cảnh giới kia: nghĩa là nguyện trí mầu nhiệm cũng ở đệ Tứ thiền là hữu lậu nương. Ba phương bất động là được tính trí tuệ duyên tất cả pháp vì cảnh giới rộng khắp. Vô Sắc nương nghĩa là quán hành khác nhau như người làm ruộng, cho nên nói bốn niệm xứ, như vì nguyện trí mà biết nên nói. Nguyện trí muốn biết là nghĩa đó. Sau cùng đắc trí kia: nghĩa là nếu khi khởi trí kia, thì tâm thiện cõi Dục theo thứ lớp, Sơ thiền hiện ở trước. Thứ lớp như thế, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Nghịch với sự thứ lớp như thế thứ lớp cho đến tâm thiện cõi Dục. Lại thuận theo thứ lớp cho đến đệ Tứ thiền hiện tiền. Về sau lại đối với đệ Tứ thiền từ hạ đến trung, từ trung đến tăng. Đệ Tứ thiền đối với tăng thượng kia, về sau khởi nguyện trí. tính tự tại sáu trí: nghĩa là tự tính sáu thứ trí này, đó là ba trí vô ngại, trừ từ vô ngại. Lại nữa, sau trí vô tránh là trí biên và trí diệu nguyện. Trí này khởi vì ba nhân duyên: Vì dẫn dắt người khác. Vì gồm thâu giáo pháp. Vì giác thế gian, an không an. nghĩa biện lậu, vô lậu Đối với tất cả địa Phật nói là phương tiện Còn lại như trước nói. nghĩa biện lậu vô lậu: nghĩa là mười trí tính của biện tài này dùng đệ nhất nghĩa của tất cả pháp. Có thuyết nói sáu trí tính, trừ trí tha tâm, khổ, tập, đạo, trí, dùng tối đệ nhất nghĩa của diệt đế, cho nên nói là duyên hành niệm xứ tam-muội. Đối với tất cả địa, nghĩa là biện này ở mười một địa, vì tự tính đắc. Phật nói là phương tiện: nghĩa biên là dùng lời Phật nói làm phương tiện, nếu trước không có Phật nói thì đã không có người có thể khởi, vì không biết nghĩa. Còn lại như trước nói: nghĩa là pháp khác chưa nói, như nguyện trí nói. Cái gọi là ứng biện Đạo cảnh giới và thuyết Phương tiện nhân minh luận Hoặc ba, khác như trước. Cái gọi là ứng biện, đạo cảnh giới và thuyết: nghĩa là ứng biện duyên đạo và ngôn thuyết, vì thế nên tự tính của chín trí, trừ diệt trí có mười hai hành. Phương tiện nhân minh luận, nghĩa là biện này nếu không dùng nhân minh luận làm phương tiện thì không thể khởi, vì không biết có ứng hay không ứng, cho nên nói A-tỳ-đàm làm phương tiện. Sở dó nhân minh luận không như A-tỳ-đàm là vì trí đầy đủ. Hoặc ba, nghĩa là ba trí tính của biện này: Biện, và nguyện trí, và tối hậu trí, có thuyết nói là biết nghĩa đệ nhất của tất cả pháp. Đệ nhất nghĩa kia cũng là nghĩa biện. Ngoài ra như trước nghĩa là pháp khác chưa nói đến, như nghĩa biện nói. Pháp biện duyên lập bày Ở đủ trong năm địa Dùng số làm phương tiện Khác như vô tránh nói. Pháp biện duyên lập bày: nghĩa là pháp biện duyên, gọi là giới hạn. Ở đủ trong năm địa, nghĩa là cõi Dục và bốn thiền, không phải địa trên, vì cõi Vô Sắc không duyên danh và địa dưới, vì không có phần. Dùng số làm phương tiện nghĩa là pháp biện dùng số luận làm phương tiện. Còn lại như vô tránh nói: nghĩa là pháp còn lại chưa nói đến, như vô tránh ở trước nói. Phương tiện thanh minh luận Đây chính là từ biện Cảnh giới nơi ngôn thuyết Hai địa khác như trước. Phương tiện thanh minh luận, đây chính là từ biện: nghĩa là từ biện dùng thanh minh luận làm phương tiện. Nếu trước không huân tập thanh minh luận thì không thể khởi vì xa lìa hạt giống. Cảnh giới nơi ngôn thuyết: nghĩa là vì biện này duyên ngôn thuyết, cho nên là thân niệm xứ. Hai địa nghĩa là cõi Dục và Sơ thiền, chẳng phải địa trên, vì lìa giác quán. Còn lại như trước nói: nghĩa là ngoài ra như pháp biện nói. Hỏi: Biện là sao? Như nói sinh hay khác? Đáp: Có thuyết nói: Như nói sinh, nghĩa là trước đối với pháp khởi, gọi là phương tiện khéo, vì biết danh, chưa biết nghĩa nên phải theo thứ lớp để khởi nghĩa biện. Vì tuy biết nghĩa nhưng không biết từ, nên theo thứ lớp khởi từ biện. Biết từ biện rồi, vì không thể nói một cách trôi chảy, nên theo thứ lớp ứng biện. Lại nói trước khởi nghĩa biện, vì biết nghĩa không biết danh, nên kế là khởi pháp biện. Vì biết danh không biết từ nên kế là khởi từ biện. Biết từ, không thể nói lưu loát liên tục, nên kế là khởi ứng biện. Ứng biện như trước nói. Lại nói danh tùy thuyết chuyển, cho nên trước khởi từ biện, sau khởi pháp biện. nghĩa dựa vào danh chuyển, nên kế là khởi nghĩa biện. Ba biện này dẫn dắt ứng biện. Hỏi: Biện này thế nào? Là mỗi mỗi biện được chăng? Đáp: Không như thế. Vì nếu được một thì đủ bốn, như bốn Thánh chủng được cùng lúc, đây cũng như thế.  <卷>QUYỂN 7 <詞>Phẩm 7: ĐỊNH Đã nói về Trí, nay sẽ nói về Định. Trí nương vào các định An, bất động mà chuyển Nên phải quán xét định Siêng cầu kiến chân thật. nghĩa quyết định, gọi là trí, chính tính của tâm thiện kia nối tiếp nhau, gọi là Định. nghĩa kiến lập gọi là nương. Nương có hai thứ: Cộng khởi và duyên thứ đệ. Hai thứ kia được gọi là nương, vì nương định mà lập, nên nói là nương. Các trí định có tám thứ: Bốn pháp trí, bốn tỷ trí. An bất động: nghĩa là vì không lay động, nên nói là bất động. Chuyển: nghĩa là nhận lấy duyên. Như chiếc đèn dầu, dựa vào dầu sạch, tim, tránh nơi gió thì ánh sáng rất sáng. Như thế trí nương các định, lìa nơi gió loạn, thì không lay động mà chuyển, cho nên nói là nhân duyên. Định là chỗ dựa của trí (sẽ nói sau). Tư là nghĩa tri kiến. Siêng cầu nghĩa là lúc tìm kiếm dục. Chân thật, nghĩa là không điên đảo, đó là bốn chân đế. Kiến nghĩa là vô gián đẳng, là nói kiến chân thật, vì không lìa định mà khởi thật trí. Hỏi: Có bao nhiêu tam-muội? Đáp: Quyết định nói bốn thiền Cùng với định Vô Sắc Trong đây nói mỗi thứ Vị tịnh và vô lậu. Quyết định nói bốn thiền, cùng với định Vô Sắc: nghĩa là trí quyết định, nói lược có tám thứ. Tam-muội gồm thâu tất cả Tam-muội. Đức Thế Tôn biết sự khác nhau giữa Tam-muội và chính thọ. Tất cả Thanh văn, Duyên giác đều không biết tên Tam-muội kia (như Tu-đa-la nói rộng). Trong đây nói mỗi thứ, vị tịnh và vô lậu: Mỗi Tam-muội nói ba thứ: Vị, tịnh, vô lậu. Thiện hữu lậu là tịnh Vô lậu, lìa cháy rực Vị thì tương ưng ái Trên hết, không vô lậu. Thiện hữu lậu là tịnh: nghĩa là nếu là thiện hữu lậu phải biết đó là tịnh. Hỏi: Thiện hữu lậu là hữu cấu, vì sao nói là tịnh? Đáp: Vì phiền não trái nhau, vì phiền não không xen lẫn, vì vô lậu dẫn đường. Vô lậu lìa cháy rực: nghĩa là lìa cháy rực của phiền não phải biết là vô lậu. Dù vô lậu kia lìa hẳn phiền não, đệ nhất nghĩa tịnh phải biết là khác nhau, cho nên đặt tên. Vị tương ưng với ái, nghĩa là nếu ái tương ưng với định, phải biết là tương ưng với vị. Hỏi: Vì sao ái tương ưng, nói là thiền, chứ không phải phiền não khác? Đáp: Vì giống nhau, nên hoàn toàn huân tập. Duyên là Tam-muội, phiền não khác không có vướng mắc duyên như ái kia: Lại nữa đã nói ái, phải biết đã nói phiền não khác tức là vì phiền não đủ! Trên hết không có vô lậu, nghĩa là những lời nói chung kia, nên nói là mỗi mỗi có ba thứ. Phải biết hữu thứ nhất chỉ có hai thứ: Không có vô lậu, không nhanh nhẹn. Có hai biên, đó là cõi Dục và hữu thứ nhất. Thánh đạo lìa hai biên, gọi là Trung đạo. Lìa căn bản hai hữu cũng như thế. Nếu vướng mắc tương ưng với vị gọi là vị chính thọ. Nếu không vướng mắc vị gọi là chính thọ tịnh, nếu tư duy vô lậu, ác hành như năm ấm vô thường, v.v… của năm ấm phải biết là chính thọ vô lậu. Hỏi: Có bao nhiêu thứ tịnh? Đáp: Tịnh thì có bốn phần Phần lui và phần trụ Phần thắng tiến, quyết định Thuận theo các công đức. Phần thoái là thuận với phiền não. Phần trụ là thuận với địa mình. Phần thắng là thuận với địa trên. Phần quyết định là thuận với Thánh đạo. Lại nữa, phần lui nghĩa là nếu trụ nơi kia thì thoái, phần trụ nghĩa là nếu trụ ở kia thì sẽ không tiến, cũng không lùi. Phần thắng nghĩa là nếu trụ nơi kia thì có thể tiến hơn. Phần quyết định nghĩa là nếu trụ ở kia thì có thể thứ lớp vượt lên ly sinh. Lại nữa, phần lùi nghĩa là bị phiền não lấn át, xen lẫn. Từ thiền theo thứ lớp phiền não hiện ở trước. Theo thứ lớp phiền não, thiền hiện ở trước. Phần trụ nghĩa là thiền kia làm cho nhàm chán hành thô, v.v… của địa dưới, thọ các hành như vắng lặng, v.v… của địa mình. Phần hơn nghĩa là nhàm chán lỗi của địa mình, thọ công đức của địa trên. Phần quyết định nghĩa là Noãn, Đảnh, Nhẫn, pháp Thế đệ nhất, như thiền, Vô Sắc cũng như thế, chỉ trừ công đức của Noãn, v.v… Hỏi: Những gì là tính của thiền? Đáp: Năm chi có giác quán Cũng lại có ba thọ Các thứ và bốn tâm Đây gọi là Sơ thiền. Năm chi là do năm chi mà thành. nghĩa phần là nghĩa chi, như chiếc xe có các phần. nghĩa chúng cụ là nghĩa của chi, như vua thì có tướng só. Chi thì hoặc là khác, hoặc là tức. Nếu là khác thì như sáu chi của Tỳ-đà (Kinh Tứ Tỳ-đà nói: Ức Lực Tỳ-đà. A-tha Tỳ-đà. Da Huấn Tỳ-đà. Tam-ma Tỳ-đà. Tỳ-đà là trí, có sáu chi mà thành: Học, dục, tưởng, từ, ký, duyên lịch). Tỳ-kheo ngũ thắng chi (Tỳ-kheo do năm chi vượt hơn và thành: Tín, bất siểm, bất bệnh, tinh tiến, trí). Hoặc tức: như mười sáu chi tán, tám chi Thánh đạo. Chi kia nghĩa là lúc giác quán hỷ, lạc, nhất tâm chính thọ, trước tâm pháp thôâ tác tưởng, gọi là Giác, tâm pháp thô nối tiếp nhau tùy chuyển, gọi là Quán. Lúc chính thọ tâm vui vẻ, gọi là hỷ. Vì thân, tâm lìa ác nên vui vẻ, gọi là lạc, là lạc do ỷ dứt, chứ chẳng phải thọ lạc. Đối với duyên, tâm, tâm pháp không phân tán, gọi là nhất tâm. Có giác có quán nghĩa là Sơ thiền có giác, có quán. Hỏi: Đã nói năm chi, vì sao còn nói riêng có giác, có quán? Đáp: Chi nghĩa là thiện. Vì cấu uế cũng có giác, có quán nên phải nói riêng. Cũng lại có ba thọ: nghĩa là chi kia có ba thọ: Ba thức thân có lạc căn, ý địa có hỷ căn, bốn thức thân có xả căn. Các thứ: nghĩa là Phạm thiên có các thứ thân, có hơn, có kém, vì sức của giác quán mà sinh, có tôn trưởng, xứ quyến thuộc. Và bốn tâm: nghĩa là chi kia có bốn tâm: Nhãn thức, nhó thức, thân thức, ý thức. Đây nói là Sơ thiền nghĩa là các pháp này gọi là Sơ thiền, vì hơn tất cả phiền não, vì chính quán tất cả cảnh giới, nên gọi là thiền. Thứ hai có bốn chi Các thứ và hai thọ Thứ ba nói năm chi Thiền này cũng hai thọ. Thứ hai có bốn chi: nghĩa là nội tịnh, hỷ, lạc, nhất tâm. Các thứ: nghĩa là không có các thứ thân kia, vì giác quán chẳng có phần, có các thứ tâm, nghĩa là căn bản có hỷ căn. Hỷ dứt rồi, quyến thuộc xả căn hiện ở trước. Xả dứt rồi, lại nhập hỷ căn. Và hai thọ, đó là hỷ căn và xả căn. Các pháp này nói đệ Nhị thiền. Đệ Tam thiền nói năm chi, đó là: niệm, chính tri, lạc, hành, xả (hành xả, hành này, như hạnh thường hành. đây là hành xả, chứ chẳng phải căn xả) và nhất tâm. Niệm: Đối với duyên ghi nhớ không quên. chính tri, nghĩa là lúc chỉ nêu xả, biết phân biệt. Lạc, nghĩa là đối với duyên thuận theo thọ. Hành xả, nghĩa là vì ưa đắm chấp lạc, nên không thọ tìm kiếm khác. Nhất tâm là đối với duyên không phân tán, thiền này cũng có hai thọ. Chi kia cũng có hai thọ: Lạc căn và xả căn. Các pháp này nói đệ Tam thiền. Lìa hơi thở ra vào Đệ tứ có bốn chi Chi nghĩa là nói thiện Theo sự như trước nói. Lìa hơi thở ra vào, đệ tứ có bốn chi: nghĩa là đệ Tứ thiền không có hơi thở ra vào, lỗ chân lông thân chính thọ của thiền kia hợp với bốn đại rất kín. Bốn chi, nghĩa là bất khổ, bất lạc, hành xả, tịnh niệm nhất tâm. Bất khổ, bất lạc: nghĩa là đã lìa khổ, lạc. Hành xả nghĩa là không tìm kiếm việc khác. Tịnh niệm nghĩa là vì hộ căn thiện nên niệm. Vì lìa tám phiền não trên nên tịnh. Tám phiền não trên là: Bốn căn giác quán, hơi thở ra vào, lìa loạn trong ngoài. (nghĩa của loạn, ở phẩm Trạch sẽ nói rộng). Nhất tâm: Là duyên tâm không phân tán. Hỏi: Vì sao Sơ thiền, Nhị thiền không lập chính tri? Đáp: Vì hỷ và giác quán loạn, nên không lập chi chủng, do đó, cũng không lập niệm. Lại không lập hành xả, vì ỷ lạc trái với hành xả (lạc thì động, xả thì vắng lặng). Hỏi: Vì sao đệ Tam thiền không lập bất khổ, bất lạc? Đáp: Vì thuận theo phẩm vô minh, minh trái với vô minh, do nghĩa này, nên đệ Tứ thiền không lập chính tri. Hỏi: Ba thứ thiền như vị tương ưng, v.v… đều thành tựu chi phải không? Đáp: Chi nghĩa là chỉ nói thiện, phải biết thiền thiện tương ưng với chi mà chẳng nhiễm ô. Hỏi: Cấu uế không có ở những thiền nào? Đáp: Sơ thiền không có, vì ly sinh hỷ lạc tương ưng với phiền não. Đệ Nhị thiền không có, vì nội tịnh phiền não trược, loạn. Đệ Tam thiền không có, vì niệm và chính tri bị phiền não lạc làm mê hoặc. Đệ Tứ thiền không có, vì tịnh niệm và hành xả trái với phiền não. Lại nữa, Sơ thiền, Nhị thiền không có cấu uế, vì ỷ lạc hoàn toàn thiện. Tam thiền, Tứ thiền cũng không có, vì hành xả tùy sựnhư trước nói, nghĩa là nếu việc mà thiền kia trước đã nói rồi, thiền khác lại nói nữa, thì không phải là việc tăng ích chưa từng được. Như Sơ thiền, Nhị thiền nói hỷ lạc, phải biết hai chi này chẳng phải bốn, tất cả địa như thế. Hỏi: Thiền này có bao nhiêu chi? Đáp: Chi thiền gọi mười tám Sự thì có mười một Vô Sắc không có chi Quyến thuộc thiền cũng thế. Chi thiền gọi mười tám: nghĩa là chi thiền về tên gọi có mười tám, Sơ thiền có năm chi, đệ Tam thiền cũng thế. Đệ Nhị thiền có bốn chi, đệ Tứ thiền cũng thế. Chi trước đã nói, sự có mười một, nghĩa là Sơ thiền có năm chi, gọi là năm, sự cũng năm. Đệ nhị thêm nội tịnh, đệ tam thêm hành xả, niệm, lạc, chính trí. Đệ tứ thêm bất khổ, bất lạc. Chi Sơ thiền không phải chi Nhị thiền, tạo ra bốn trường hợp: Chi Sơ thiền, không phải chi Nhị thiền, đó nghĩa là giác quán. Đệ nhị chẳng phải sơ, đó nghĩa là nội tịnh. Vừa sơ, vừa đệ nhị, nghĩa là hỷ, lạc, nhất tâm. Chẳng phải sơ, chẳng phải đệ nhị: nghĩa là trừ những gì đã nói ở trên. Như thế, cho đến đệ Tứ thiền, lần lượt nói. Vô Sắc không có chi, quyến thuộc của thiền cũng thế. nghĩa là bốn Vô Sắc và quyến thuộc thiền không lập chi, vì hành khổ. Thiền thuộc về chi là hạnh lạc. Thế nên, nói địa kia là đạo khổ. Nếu địa kia lập chi, lẽ ra tất cả địa đều gọi là đạo lạc! Có giác cũng có quán Là nói thiền vị lai Thiền trung gian có quán Do đấng Minh trí nói. Có giác cũng có quán là nói thiền vị lai. nghĩa là vị chí dựa vào có giác có quán. Vị chí là quyến thuộc Sơ thiền. Thiền trung gian có quán, do đấng Minh trí nói: nghĩa là thiền trung gian chỉ có quán mà không có giác, vì người tu hành chuyển vắng lặng. Hỏi: Vì sao Sơ thiền, Nhị thiền lập trung gian nương, chẳng phải địa trên? Đáp: Vì thiền kia lên xuống đều có thể được, Sơ thiền có giác có quán, Đệ Nhị thiền không có, trung gian kia thì có quán, không có giác, nên lập riêng chỗ dựa. Địa trên, vì không có việc lên xuống này cho nên không lập! Vị lai hoặc hai chủng Là lìa tương ưng vị Thiền trung gian ba thứ Cũng đều nói một thọ. Vị lai hoặc hai chủng, là lìa tương ưng vị. Có thuyết nói: Hai chủng tính của thiền vị lai: Là tịnh và vô lậu, chẳng tương ưng với vị. Dùø thiền kia có vòng ràng buộc liên tục (do sức của ái, khiến thiền vị lai thọ sinh Phạm Thiên, sinh tử nối tiếp nhau do vòng xích ái của Sơ thiền. Trừ ái này, thì hai thủ ấy thành ba). Thiền kia không có ái chính thọ, không trừ ái thọ sinh, nên không có lỗi. Nói như thế, nghĩa là có tương ưng với vị. Thiền trung gian ba thứ: nghĩa là thiền trung gian có ba thứ tính: Vị tương ưng, tịnh, vô lậu. Cũng có tương ưng vị như địa khác. Cũng đều nói một thọ, nghĩa là vị lai và trung gian đều có một thọ đó là xả thọ. Người vị lai, vì còn có sợ hãi, nên không có lạc thọ, do gần cõi Dục. Người tu hành còn có sợ hãi, nên không khởi lạc thọ, vì các việc chưa rốt ráo. Người tu hành hướng về lìa dục, vì chưa được, nên không khởi lạc thọ, thế nên sinh ra ưu. Sự ràng buộc của cõi Dục thì có thừa, ví như người bị trói quá lâu, cũng sinh ra ngờ vực, sợ hãi, nên không khởi lạc thọ! Thiền kia cũng như thế, vì sự vắng lặng kém. Như vị lai, trung gian cũng như thế. Tùy nghĩa đã nói rồi, nay sẽ nói: Về công đức do địa sanh khởi. Tam-ma-đề và thông Vô lượng tất cả xứ Thắng xứ và các trí Bối xả khởi trong đó. Tam-ma-đề kia là ba Tam-ma-đề: không, vô nguyện (vô nguyện lẽ ra nói là vô thật), vô tướng. Vì tâm thiện kia bình đẳng nên nói Tam- ma-đề. Không kia có hai thứ: Hữu lậu và vô lậu. Nếu hữu lậu thì tất cả pháp duyên, vô lậu thì duyên hữu lậu. Không này lại có chín thứ: Nội không. Ngoại không. Nội ngoại không. Hữu vi không. Vô vi không. Hữu vi, vô vi không. Vô sự không. Đệ nhất nghĩa không. Không không. Nội không: Là nội nhập không, tạo ra tư duy vô ngã. Ngoại không, nội ngoại không, hữu vi không, vô vi không, hữu vi vô vi không, cũng như thế. Vô sự không: nghĩa là không có những vật khác. Đệ nhất nghĩa không nghĩa là lúc mắt khởi, không từ đâu đến. Khi diệt, không đi về đâu. So sánh như thế mà nói. Không không, nghĩa là hữu lậu không, đối với vô lậu không, tạo ra tư duy không không. Vô nguyện cũng có hai thứ, là hữu lậu và vô lậu, đều có hai thứ duyên, theo nghĩa đó mà nói. Vô nguyện kia lại có năm thứ, đó là ba thứ như nội, v.v… và vô nguyện, vô tướng hữu vi. Vô nguyện hữu vi: nghĩa là đối với pháp hữu vi, dùng vô nguyện hữu lậu tạo nên tư duy các hành như vô thường, v.v… ngoài ra, như nói về không. Vô tướng có hai thứ: Hữu lậu và vô lậu, lại chia ra bốn thứ, nghĩa là đối với nội nhập, thường diệt, dùng hữu lậu, vô lậu để khởi ra tư duy vô tướng diệt, chỉ diệu, xuất. Như thế ngoại và nội ngoại vô tướng, cũng là vô tướng Tam-ma-đề (phẩm Tu-đa-la sẽ nói rộng, phẩm Trùng Tam- muội phần sẽ nói rộng). Thông: Sáu thông (phẩm Trí đã nói). Hỏi: Nếu tu thần thông tác chứng đạo (Chứng là nghĩa hiển hiện, nghĩa là không mất việc đã làm, thì việc đã làm sẽ hiện rõ). Người kia lúc thành tựu thần thông là khởi, hay không khởi? Đáp: Nếu giải thoát là vô ký, thì Tam-muội kia khởi (Xuất định, gọi là khởi, nếu giải thoát là vô ký, thì xuất Tam-muội! Nếu là thiện, tức Tam-muội). Nếu thiện thì không khởi vô lượng. Hai vô lượng không nhuế, Sau cùng nói không tham Thứ ba nói hỷ căn Căn kia nương cõi Dục. Hai vô lượng không nhuế, nghĩa là Từ và Bi là tính căn thiện vô nhuế, đối trị với sân nhuế. Thị xứ nhuế thì dùng Từ để đối trị, phi xứ nhuế thì lấy Bi đối trị. Lại nữa, vì xả mạng chúng sinh khởi nhuế, thì dùng Từ đối trị. Vì trừng phạt chúng sinh khởi nhuế, dùng Bi đối trị, cho nên người mong cầu công đức, hay khởi vô lượng, chứ không phải tìm kiếmlỗi xấu ác. Người kia, thậm chí có cắt đứt chỗ căn thiện, cũng vẫn cầu công đức, nghĩa là thấy nghiệp vốn tịnh, kẻ tìm kiếm lỗi xấu ác, dẫu có đến chỗ A-la-hán, cũng tìm kiếm lỗi ác, nghĩa là thấy nghiệp vốn bất tịnh. Sau cùng nói vô tham, nghĩa là xả vô lượng là tính của căn thiện vô tham. Cho vô tham không phải đối trị với dục ái và sân nhuế là không đúng. Vì sao? Vì không đúng với vô nhuế. Hỏi: Xả là đối trị với tham dục, quán bất tịnh cũng đối trị tham dục. Vậy tham nào dùng xả để đối trị? Tham nào dùng quán bất tịnh để đối trị? Đáp: Tham sắc dùng quán bất tịnh đối trị, tham dâm dùng xả để đối trị. Thứ ba nói hỷ căn, nghĩa là hỷ vô lượng là tính của hỷ căn. Pháp tùy sinh là tính của năm ấm. Tướng, nghĩa là dùng an làm lợi ích là tướng từ, dứt trừ bất an là tướng bi. Tùy hỷ là tướng hỷ, buông bỏ là tướng xả. Căn kia nương cõi Dục (nương phải cõi khác. Vì sao? Vì lạc chuyển là lợi ích, nghĩa là thấy nỗi khổ của chúng sinh cõi Dục, muốn sao cho họ được vui lợi ích, để bỏ đi nỗi khổ, còn cõi Sắc, cõi Vô Sắc thì không có khổ. Lại nữa, vì đối trị với sân nhuế, nên từ vô lượng: nghĩa là đối trị lỗi của sân nhuế, như nói tu tập từ, phần nhiều tu tập, trừ sân nhuế. Bi trừ hại, hỷ trừ không vui, xả trừ dục ái, sân nhuế. Cõi Sắc, cõi Vô Sắc không có các lỗi này. Hơn nữa, cõi Dục có ba phương, trừ châu Uất- đơn-việt. Hỏi: Vô lượng chính thọ tư duy những gì? Đáp: Chúng sinh lạc, khổ, hỷ Chúng sinh tưởng vô dư Chuyển theo điều họ thích Duyên vô lượng chúng sinh. Đối với chúng sinh kia, muốn cho họ được vui. Tư duy như thế, nhập chính thọ từ, đối với chúng sinh khổ thì than: “Khổ thay! Muốn cho họ thoát khổ”. Tư duy như thế, nhập chính thọ bi. Vui vẻ đối với chúng sinh kia, tư duy như thế, rồi nhập chính thọ hỷ. Nhưng chúng sinh kia không có tưởng khác. Tư duy như thế nhập chính thọ xả. Hỏi: Sức của từ không thể khiến chúng sinh khổ được vui. Vì sao chẳng phải điên đảo? Đáp: Vì thiện, vì hy vọng sanh khởi, vì tương ưng với chính tư duy, và vì trái với sân nhuế. Duyên chúng sinh, nghĩa là duyên chúng sinh cõi Dục. Như đã nói: Nếu tư duy thành tựu trụ khắp cả một phương, thì đây là nói đồ chứa và vật chứa. Vì nghĩa này, nên phải biết vô lượng là vì duyên chúng sinh hữu lậu, duyên chung cùng khắp tất cả chúng sinh là bốn sinh, ngoài bốn sinh này, không còn có chúng sinh nào khác! Lìa dục đắc, phương tiện đắc. Lìa dục đắc nghĩa là lúc lìa dục đắc rồi, về sau mới được phương tiện hiện ở trước. Hỏi: Phương tiện là sao? Đáp: Từ là từ thân thuộc mà khởi, là khi muốn khởi tâm từ, đối với tất cả chúng sinh lập ra ba phẩm: nghĩa là trong thân, oán. Thân lại chia ra phẩm hạ, trung, thượng. Trước hết, đối với phẩm thượng thân, khởi hy vọng chân thật, nghĩa là cha mẹ và bậc tôn trọng khác, cho vì họ từ lâu đã mong mỏi theo thói ác, nên tâm lợi ích không đến, lại thâu giữ tâm tạo ra tưởng lợi ích. Như thế từ thân thượng cho đến thượng oán, được trụ bình đẳng gọi là thành tựu tâm từ chính thọ, bi, hỷ cũng như thế. Xả từ phẩm trung khởi, nói rộng như thế. Danh: nghĩa là duyên vô lượng chúng sinh, nên nói là vô lượng. Thắng xứ nói có tám Ba sắc trước bội xả Và tám nhất thiết xứ tính căn thiện vô tham. Các căn thiện này phải biết là tính vô tham, vì đối trị với tham, là ý giải tư duy hữu lậu. Hỏi: Đây không phải là tính căn thiện vô tham, vì sao lại nói quán, nói tưởng? Như Khế kinh nói: Trong tưởng sắc, ngoài quán sắc, nói rộng như thế. Quán là tuệ, cho nên thắng xứ là tính tuệ (A-tỳ-đàm giải thoát xứ nói: Thắng tri, thắng kiến, kiến tức là tuệ). Bối xả cũng nói quán sắc. Sắc là bối xả ban đầu, cho nên ba bối xả trước là tính tuệ. Tất cả xứ như thế, được nói là địa phổ cập một tưởng, cho nên tất cả xứ là tính của tưởng, mà nói là tính vô tham, thì không đúng? Đáp: tính vô tham của các căn thiện này làm tăng tưởng tuệ. Thuyết kia nói “Kiến” và “Tưởng”, như niệm túc mạng và tưởng sắc vượt hơn, cho nên không có lỗi. Như tùy niệm trí của xứ từng diệt, vì niệm tăng nên nói sự nhớ nghó kia đã từng trải qua vô lượng sự, đó cũng là trí, như tưởng sắc vượt hơn là tính tuệ. Vì tưởng tăng nên nói tưởng sắc vượt hơn. Lại nữa, vì tưởng gần kề, cho nên nói như vậy, nói tưởng không có lỗi. Tuệ tưởng vô tham không lìa nhau: Một y, một hành, một duyên, một quả, một y quả. (Y quả, y này cũng là nghĩa tân nị. Quả tân nị đại khái có ba thứ: Từ nhân biến sinh. Từ nhân tự phần sinh. Từ báo nhân nơi thế lực khác sinh, nghĩa là sát sinh được sống lâu hay chết yểu). Cho nên nói là một. Phải biết nói khác thì làm sao biết được tính vô tham, vì đối trị với tham. Căn thiện đó, nên biết là đối trị tham: Nếu là tính vô si, lẽ ra phải nói là tuệ đối trị si. Dù đối trị với tất cả phiền não, vì si rất gần, nên chẳng phải tham. Nếu tất cả xứ là tự tính của tưởng, thì không phải là đối trị phiền não, vì không quyết định. Cho nên, phải biết căn thiện này là tính vô tham! Nếu nói quyến thuộc kia Thì là tính năm ấm Đây nói ba phương dựa Cảnh giới, sắc cõi Dục. Nếu nói quyến thuộc kia, thì là tính năm ấm: nghĩa là phải biết các căn thiện này và quyến thuộc là tính của năm ấm. Đây nói ba phương dựa, nghĩa là các căn thiện này, thân khởi ở ba phương, trừ châu Uất-đơn-việt, cũng chẳng phải phương nào khác. Vì sao? Vì các căn thiện này đối trị tham dục, chứ không phải cõi Sắc, cõi Vô Sắc có tham dục. Dù châu Uất-đơn-việt có tham dục, nhưng vì sức tuệ kém, cho nên không thể khởi căn thiện này. Các vị trời cõi Dục, dù có tham dục, nhưng vì tham đắm lạc, nên cũng không thể khởi các căn thiện này. Cảnh giới, sắc cõi Dục: nghĩa là các căn thiện này duyên với sắc cõi Dục: Hai bối xả đầu, bốn thắng xứ trước, tạo ra các tướng sanh bầm, v.v… chuyển đối với sắc nhập, chuyển hành bất tịnh, ngoài ra là chuyển hành tịnh, cho nên được làm thân niệm xứ. Hỏi: Vì sao người tu hành kia duyên tướng tịnh của thọ? Đáp: Vì thử nghiệm bất tịnh xem thành hay không thành. Người quán bất tịnh, sinh ra tâm biếng trễ, muốn nhiếp giữ, lại muốn tự quán biết được khả năng của mình, nên nghó rằng: “Dùng quán bất tịnh không khởi phiền não, chưa phải là điều lạ. Quán tịnh mà vẫn không khởi mới là việc lạ”. Lại vì biểu hiện căn thiện còn có chỗ có khả năng chịu đựng. Sau cùng trong bối xả Tâm bất tương ưng hành Là nói hai cõi nương Trước từ cõi Dục khởi. Tâm bất tương ưng hành sau cùng trong bối xả: nghĩa là bối xả của tưởng, thọ diệt là tính của tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Tất cả tâm, tâm pháp diệt, vì sao nói là tưởng, thọ diệt? Đáp: Vì hai sức này, khiến người tu hành, cảm thấy quá mỏi mệt đối với hai cõi. Vì sức của thọ cảm thấy nhọc nhằn đối với thiền. Vì sức của tưởng cảm thấy uể oải đối với Vô Sắc (về nghĩa thọ, tưởng như đã nói trong ấm). Là nói hai cõi nương, nghĩa là thân hiện tiền ở cõi Dục, cõi Sắc, chứ chẳng phải cõi Vô Sắc. Vì sao? Vì chẳng phải tâm. Cõi Dục, cõi Sắc có sắc, cho nên tâm, tâm pháp của người kia diệt, mạng căn dựa vào sắc chuyển, Vô Sắc thì trong Vô Sắc. Nếu người kia, khi chính thọ, tâm, tâm pháp diệt, mạng căn phải cắt đứt, vì không có nơi nương dựa nên chết chẳng phải chính thọ, việc này không đúng! Vì trước từ cõi Dục khởi, chính thọ Diệt tận, trước khởi từ cõi Dục rồi, lui sụt cõi đó, sinh cõi Sắc, lại lìa dục của cõi đó mà hiện ở trước. Hỏi: Vì sao cõi Sắc, cõi Vô Sắc được khởi thiền đầu tiên, mà Vô Sắc chẳng phải chính thọ Diệt tận? Đáp: Vì thiền do ba việc nên khởi, nghĩa là do sức của nhân, sức của nghiệp và sức của pháp phương tiện. Sức của nhân: nghĩa là người kia đã từng khởi gần ở thiền. Sức của nghiệp: nghĩa là đã tạo ra thọ nghiệp và trưởng dưỡng (có bốn pháp thọ nghiệp đã tạo ra mà còn trưởng dưỡng). Sức của pháp phương tiện, nghĩa là như khi kiếp thành bại, ở cõi Vô Sắc sẽ khởi hai việc: Sức của nhân và sức của nghiệp. Không có sức của pháp phương tiện, vì kiếp kia không có thành bại. chính thọ Diệt tận từ sức nói mà khởi. Nói là cõi Dục, nghĩa là Phật và Thanh văn Ba-la-mật nói, cho nên thân cõi Dục kia có thể khởi ngay từ đầu, không phải thân khác. Ở cõi Dục, mỗi lần nhập chính thọ không quá bảy ngày, vì thân đoàn thực. Nếu quá thì khi xuất định sẽ tiêu tan! Cõi Sắc một khi nhập chính thọ thì trải qua kiếp Trụ. Khác thì tính bốn ấm Nói ba cõi nương kia Hoặc cảnh giới Vô Sắc Và do duyên vô lậu. Khác thì tính bốn ấm: nghĩa là công đức khác, là bốn bối xả hai, nhất thiết xứ, tính bốn ấm, trừ sắc ấm, vì cõi kia là Vô Sắc. Nói ba cõi nương kia, nghĩa là công đức của ba cõi này hiện ở trước. Không xứ, không, xứ của bối xả, nhất thiết xứ, đầu tiên từ cõi Dục, cõi Sắc khởi (vì được xả sắc, vì tu không, nên đầu tiên từ sắc xứ khởi). Hoặc cảnh giới Vô Sắc, và do duyên vô lậu: nghĩa là Không xứ, Nhất thiết xứ, không xứ địa duyên nơi bốn ấm. Thức xứ, nhất thiết xứ, thức xứ địa duyên nơi bốn ấm. Bối xả của không xứ duyên nơi bốn Vô Sắc và nhân kia. Cõi kia diệt tất cả phẩm tỷ trí. Bối xả của thức xứ duyên ba Vô Sắc. Còn lại như trên nói. Bối xả của Vô sở hữu xứ duyên hai Vô Sắc. Ngoài ra như trên nói. Bối xả của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ tức duyên địa kia và nhân kia. Cõi kia diệt tất cả phẩm Tỷ trí. Đã nói tự tính của căn thiện, nay sẽ nói: Thành tựu công đức. Phải biết hoặc có thuyết Thành tựu bốn vô lượng Hoặc lại thành tựu ba Bớt đi thì không đúng. Nếu sinh cõi Dục, lìa dục cõi Dục và sinh Sơ thiền, Nhị thiền thì thành tựu bốn vô lượng. Nếu sinh đệ tam, đệ Tứ thiền thì thành tựu ba vô lượng, trừ hỷ. tính của hỷ căn ở sơ, Nhị thiền, chẳng phải địa trên. Bớt đi thì không có. Hoặc một cho đến tám Thành tựu ở bối xả Hoặc bốn cũng lại tám Thành tựu ở thắng xứ. Hoặc một cho đến tám, thành tựu ở bối xả: nghĩa là có khi thành tựu một bối xả, có khi thành tựu cho đến tám. Thành tựu một: nghĩa là nếu sinh ở Biến tịnh, ái kia hết, Quả thật của ái chưa hết. Nếu sinh Thật quả thì đối với ái kia chưa hết. Nếu sinh ở Không xứ thì đối với ái kia chưa hết. Thành tựu hai, nghĩa là nếu sinh cõi Dục và sinh ở Sơ thiền, Nhị thiền, thì đối với ái kia hết, ái của Biến tịnh chưa hết. Nếu sinh ở Tam thiền, Tứ thiền thì ái cõi Sắc hết, ái của Không xứ chưa hết. Nếu sinh ở Không xứ thì ái của Không xứ hết, ái của Thức xứ chưa hết. Nếu sinh lên Thức xứ thì ái cõi đó chưa hết. Thành tựu ba: nghĩa là nếu sinh cõi Dục và Sơ thiền, Nhị thiền, thì ái của cõi trời Biến Tịnh hết, ái của cõi trời Thật Quả chưa hết. Nếu sinh ở Biến Tịnh và Thật Quả, thì ái của Không xứ hết, ái trên chưa hết. Nếu sinh Không xứ, Thức xứ, (vì vô lậu sinh lên cõi trên, không mất dưới. Sinh Thức xứ, thành tựu bối xả của Không xứ, tất cả đều như thế), thì ái của Thức xứ hết, ái trên chưa hết. Nếu sinh lên Vô sở hữu xứ, tức ái của xứ đó chưa hết. Thành tựu bốn: nghĩa là nếu sinh ở cõi Dục và Sơ thiền, Nhị thiền, thì ái cõi Sắc hết, ái của Không xứ chưa hết. Nếu sinh ở Tam thiền, Tứ thiền thì ái của Thức xứ hết, ái trên chưa hết. Nếu sinh ở Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ, thì ái của Vô sở hữu xứ hết. Nếu sinh ở Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thì sẽ không được Tam-muội Diệt tận. Thành tựu năm: nghĩa là nếu sinh ở cõi Dục và Sơ thiền, Nhị thiền, thì ái của Không xứ hết, ái của Thức xứ chưa hết. Nếu sinh ở cõi trời Biến tịnh và cõi trời Quả Thật, thì ái của Vô sở hữu xứ hết, không được Tam-muội Diệt tận. Nếu sinh lên Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thì sẽ được Tam-muội Diệt tận. Thành tựu sáu: nghĩa là nếu sinh ở cõi Dục và Sơ thiền, Nhị thiền, thì ái của Thức xứ hết, ái cõi trên chưa hết. Nếu sinh ở cõi trời Biến Tịnh và Quả Thật thì sẽ được Tam-muội Diệt tận. Thành tựu bảy: nghĩa là nếu sinh ở cõi Dục và Sơ thiền, Nhị thiền, thì ái của Vô sở hữu xứ hết, không được Tam-muội Diệt tận. Thành tựu tám: Nếu sinh ở cõi Dục và Sơ thiền, Nhị thiền, thì sẽ được Tam-muội Diệt tận, đó là nói chung. Nếu bối xả hữu lậu: nghĩa là địa dưới lìa dục, chưa sinh lên địa trên, thì đều thành tựu. Nếu vô lậu thì sinh lên địa trên, cũng thành tựu. Hoặc bốn cũng lại tám, thành tựu ở thắng xứ, có khi thành tựu bốn thắng xứ, hoặc tám. Thành tựu bốn: nghĩa là nếu sinh cõi Dục và Sơ thiền, Nhị thiền, thì với ái của cõi đó hết, ái Biến Tịnh chưa hết. Nếu sinh Biến tịnh, thì ái của cõi đó hết và sinh Quả Thật. Thành tựu tám: nghĩa là nếu sinh ở cõi Dục và Sơ thiền, Nhị thiền, thì ái của Biến Tịnh sẽ hết. Hoặc một cũng lại hai Tám, chín cùng với mười Phải biết tu hành kia Thành tựu nhất thiết xứ. Hoặc có khi thành tựu một nhất thiết xứ, hoặc hai, hoặc tám, hoặc chín, hoặc mười. Thành tựu một: nghĩa là nếu sinh Không xứ, tức ái kia chưa hết và sinh Thức xứ. Thành tựu hai: nghĩa là nếu sinh Không xứ thì ái kia hết. Thành tựu tám: nghĩa là nếu sinh cõi Dục, cõi Sắc, thì ái của Biến Tịnh hết, ái của Quả Thật chưa hết. Thành tựu chín: nghĩa là nếu sinh cõi Dục, cõi Sắc, thì ái của Quả Thật hết, ái của Không xứ chưa hết. Thành tựu mười: nghĩa là nếu sinh cõi Dục, cõi Sắc, thì ái của Không xứ sẽ hết. Đã nói về thành tựu, nay sẽ nói: Về tùy theo công đức của địa, Năm thông ở bốn thiền Căn bổn chẳng địa khác Các trí như trước nói Ba vô lượng, hoặc sáu. Năm thông ở bốn thiền, căn bổn chẳng phải địa khác: nghĩa là bốn căn bổn thiền thành tựu năm thông, chẳng phải địa khác, trừ lậu tận thông. Vì sao? Vì nhiếp thọ chi Tam-ma-đề. Các trí như trước nói: Như phẩm Trí ở trước đã nói, tùy theo địa mà được. Ba vô lượng hoặc sáu: nghĩa là Trừ hỷ, vô lượng khác ở sáu địa: Vị lai, trung gian và bốn thiền căn bản. Hoặc có khi không muốn khiến ở vị lai. Hoặc lại nói Sơ thiền, Nhị thiền không khởi bi, hỷ, vì trái với căn. Hỷ căn là tự tính chuyển thọ hỷ hành. Bi là chuyển hành ưu. Thế nên, hỷ kia không tương ưng, như khổ, tập, nhẫn, trí là không đúng. Vì sao? Vì chuyển hành chân thật. Nếu nói khổ, tập, nhẫn, trí rất nhàm chán mà hành bi tương ưng với hỷ căn cũng như thế, thì thuyết kia có lỗi! Vì hỷ kia tư duy chân thật, vui mừng sinh ra bi, nghĩa là ý giải tư duy! Cho nên có lỗi. Nói như thế: nghĩa là dẫn dắt tư duy chân thật thì không có lỗi. Dù bi không phải tư duy chân thật, mà có thể dẫn dắt tư duy chân thật, cho nên không có lỗi (vì sự vui vẻ dứt được khổ, bi đến chung với hỷ). Hỏi: Bi khác với Đại Bi thế nào? Đáp: Bi là tính vô nhuế. Đại Bi là tính vô si. Lại nữa, bi là chung cả Thanh văn, Duyên giác, còn Đại Bi thì không chung. Lại nữa, bi thì năng bi, bất năng độ. Đại Bi thì năng bi, năng độ. Lại nữa, bi là duyên với chúng sinh khổ, Đại Bi là duyên với chúng sinh ba khổ. Bi duyên thân khổ, Đại Bi duyên khổ của thân tâm. Hỏi: Vì sao gọi là Đại Bi? Đáp: Vì độ chúng sinh có khổ lớn nên gọi là Đại Bi. Vì ban phát rộng lớn nên gọi Đại Bi. Vì nhiếp thọ số lớn chúng sinh, nên gọi Đại Bi. Vì Đại só dấn thân vào nơi hiểm nạn lớn, nên gọi Đại Bi. Bốn thắng xứ trước kia Cùng với hỷ vô lượng Cũng hai bối xả đầu Ở Sơ thiền Nhị thiền. Bốn thắng xứ trước và hỷ v.v…, hai bối xả đầu là ở trong Sơ thiền, Nhị thiền, chẳng phải thiền nào khác. Đệ tam, đệ Tứ thiền dù có bối xả của Sơ, Nhị giống với căn thiện mà không kiến lập. Cho nên, cũng có bốn thắng xứ ban đầu, giống với căn thiện. Như Tu-đa-la nói: Từ cực đến Biến Tịnh, bi cực đến Không xứ, hỷ cực đến Thức xứ, xả cực đến Vô sở hữu xứ. Có thuyết nói: Kinh này dùng tên vô lượng để nói Thánh đạo. Người được giáo hóa kia dùng tên vô lượng để nhập Thánh đạo. Lại nữa, đối trị giác chi kia, lấy tên vô lượng để nói, nghĩa là đệ Tam thiền đối trị giác chi dùng tên từ để nói. Như thế, cho đến Vô sở hữu xứ, đối trị giác chi, dùng tên xả để nói. Lại nữa, lấy tên giống nhau để nói, nghĩa là từ là hành vui, lạc thọ, cho đến đệ Tam thiền. Bi là hành khổ, không xứ, quở trách, chuyển sắc. Hỷ là hành hân duyệt. Thức xứ là trụ duyệt thức. Xả là hành xả, Vô sở hữu xứ là nói xả. Còn có bốn thắng xứ Cùng với một bối xả Cũng tám nhất thiết xứ Là ở thiền trên hết. Tịnh bối xả của bốn thắng xứ sau, tám nhất thiết xứ trước ở đệ Tứ thiền, chứ không phải địa dưới khác. Cũng có khi tịnh bối xả giống với căn thiện mà không kiến lập, vị bất tịnh làm hư hoại. Cũng có bốn thắng xứ sau giống như căn thiện, gọi là chính thọ địa và nhất thiết xứ địa. chính thọ của địa kia ở cõi Dục và bốn thiền. Nhất thiết xứ của địa ở đệ Tứ thiền, chứ chẳng phải thiền khác. Vì sao? Vì lìa tám sự não loạn. Sắc dục, cõi Dục có hai thứ: Thân dục và tâm dục. Vì đối trị dục kia, nên Sơ thiền lập hai bối xả, bốn thắng xứ. Sắc dục của Sơ thiền cũng có hai thứ. Nhị thiền lập hai bối xả, vì Nhị thiền không có hai thứ sắc dục, Tam thiền không lập bối xả, vì vui niềm vui vượt hơn, nên không thể khởi các căn thiện này. Và nhất thiết xứ dùng bối xả kia để nhập thắng xứ, lấy thắng xứ để nhập nhất thiết xứ. Dùng bối xả đầu để nhập hai thắng xứ đầu, từ bối xả thứ hai, để nhập thắng xứ thứ ba, thứ tư. Dùng tịnh bối xả để nhập bốn thắng xứ sau, từ bốn thắng xứ sau lại nhập Nhất thiết xứ. Khác tức gọi bối xả Hai, tất cả cũng thế Diệt tận ở sau cùng Chín địa vô lậu khác. Khác tức gọi bối xa: nghĩa là Trừ Không xứ, chín đạo vô ngoại và tâm qua đời, thiện khác đều gọi là bối xả Không xứ. Đạo vô ngại hướng đến đệ Tứ thiền, tâm qua đời hướng đến sinh cho nên không lập bối xả. Phải biết, Vô Sắc khác cũng như thế. Hai, nhất thiết cũng thế: nghĩa là Không xứ, Thức xứ, Nhất thiết xứ, cũng tức là tên gọi. Hỏi: Vì sao trên Thức xứ không lập Nhất thiết xứ? Đáp: Vì người tu hành trước nhập quán bối xả, không thể tăng thắng. Sau đó nhập thắng xứ không có khả năng quán vô biên ý giải. Về sau, nhập Nhất thiết xứ, quán vô biên ý giải sanh. Như vậy, vàng, đỏ, trắng cũng giống như thế. Tư duy sắc này nương tựa vào đâu? Quán dựa vào đại chủng địa, sau đó, nhập quán ý giải của vô biên địa. Các đại còn lại cũng như thế! Người tu hành kia lại nghó rằng: Thế nào là thăng tiến? Đó là giác biết, tức trước nhập Không xứ, Nhất thiết xứ. Giác biết kia dựa vào đâu mà quán? Dựa vào ý thức. Người kia liền nhập Vô biên thức xứ Nhất thiết xứ. Sự nương dựa này lại không có chỗ nương tựa! Thế nên, trên đó không lập Nhất thiết xứ. Diệt tận ở sau cùng: nghĩa là chính thọ Diệt tận gồm thâu trong hữu bậc nhất. Vì sao? Vì thuận theo tâm diệt, vì thứ lớp nhỏ dần nên dễ diệt. Hỏi: Định Diệt tận không lẽ ra không thuộc về Hữu thứ nhất, Vì sao? Vì như đã nói, độ tất cả Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, tưởng, thọ diệt thành tựu trụ? Đáp: Thuộc về đệ nhất hữu. Vì Đức Thế Tôn đã dùng đệ nhất hữu kia để độ các chính thọ, và vì ái dục nên nói. Người học, vì độ chính thọ trụ, nên nói. Người vô học, vì độ ái dục, nên nói. Lại nữa, độ tất cả Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, đó là nói kiến đạo đoạn. Tưởng thọ diệt, đó là nói là tu đạo đoạn. Như vậy, từng tập, chưa từng tập, cộng, bất cộng, lìa dục đắc và phương tiện đắc, đều nêu biết vì vượt hơn, vì bất cộng, vì giới địa rốt ráo. Hai bối xả nói là thân tác chứng. chính thọ Diệt tận và tâm nhập định là hữu lậu, vì thuận theo tâm diệt. Tâm xuất định hữu lậu, vô lậu. chính thọ kia là phương tiện đắc, không phải lìa dục đắc. Nếu lui sụt, mà lại khởi nữa, thì sẽ được chưa từng được, chứ không phải đã từng được. Chín địa vô lậu khác, nghĩa là nếu công đức vô lậu khác, thì đó là ba Tam-muội lậu tận có ở khắp chín địa, đó là bốn thiền, ba Vô Sắc, vị lai, trung gian. Tam-muội hữu lậu ở mười một địa, đó là chín địa này và cõi Dục, cũng là đệ nhất hữu. Ba bối xả phải biết Hữu lậu và vô lậu Định, trí, chung đã nói Ngoài ra, đều hữu lậu. Ba bối xả phải biết hữu lậu và vô lậu: nghĩa là bối xả của Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ, nên biết hữu lậu cũng vô lậu. Định, trí, chung đã nói: nghĩa là định đã nói ở trước. Các trí, thần thông như phẩm Trí đã nói. Ngoài ra, đều hữu lậu, nghĩa là ba thông khác, vì giống với công xảo, vì thọ tự tướng của sắc, thanh. Vô lượng nghĩa là duyên theo chúng sinh. Ba bối xả ban đầu của Nhất thiết xứ, thắng xứ, vì được tư duy giải, vì chính thọ của đệ nhất hữu không nhạy bén, trái với tâm tướng của thọ, diệt, cho nên đều là hữu lậu. Hỏi: Bối xả, thắng xứ, Nhất thiết xứ, có gì khác nhau không? Đáp: Là bối xả tính kia Năng hơn chỗ sở duyên Vô gián đều đầy khắp Danh như nói được độ. Vì không hướng đến, nên nói là bối xả. Vì vượt hơn kia, nên nói là thắng xứ. Vì xứ vượt hơn, nên Đức Thế Tôn nói là thắng xứ. Dù không phải tất cả người tu hành đều có thể vượt hơn xứ kia, chỉ vì phiền não trong duyên không khởi, cũng gọi là thắng xứ. Vì vô biên ý giải, nên nói Nhất thiết xứ. Lại nữa, căn thiện yếu kém nói là bối xả. Giữa nói là thắng xứ, trên nói là Nhất thiết xứ. Lại nữa, nhân nói bối xả, quả nói Nhất thiết xứ, nhân quả nói thắng xứ. Đã nói tự tính các công đức, thành tựu địa hữu lậu, vô lậu, nay sẽ nói: Về ba thứ thành tựu thiền Vô Sắc, Chưa lìa dục phải biết Thành tựu vị tương ưng Lìa dưới, chưa đến trên Thành tựu các định tịnh. Chưa lìa dục phải biết, thành tựu vị tương ưng: nghĩa là nếu địa kia chưa lìa dục, thành tựu vị tương ưng của địa kia. Lìa dưới chưa đến trên, thành tựu các định tịnh, nghĩa là lìa dục của cõi Dục, chẳng phải Phạm thiên, thành tựu kia là Sơ thiền tịnh và công đức khác của địa Sơ thiền. Người phàm phu, thành tựu tương ưng vị và tịnh, bậc Thánh thành tựu cả ba thứ. Trên trụ, cần phải biết Thành tựu vô lậu dưới Phương tiện sinh công đức Phải biết chẳng lìa dục. Trên trụ cần phải biết, thành tựu vô lậu dưới, nghĩa là bậc Thánh sinh lên Phạm thiên, thành tựu Sơ thiền vô lậu và các công đức của thần thông Tam-muội vô lậu khác. Các công đức hữu lậu thì ràng buộc chỗ sinh. Vô lậu thì không ràng buộc. Cho nên, lìa chỗ sinh là xả công đức hữu lậu, chứ không phải vô lậu. Phải biết: Phương tiện sinh công đức, chớ không phải do người lìa dục. Đã nói lìa dục của địa dưới, thành tựu các công đức. Phải biết được không hiện ra trước. Hiện ra trước, nghĩa là pháp kia không phải được do phương tiện lìa dục, đó là trí của thiên nhãn, thiên nhó, vì tính vô ký này, nên không nhập tương ưng vị tịnh vô lậu. Cho nên, lúc được ba thứ thiền kia, không được tạo phương tiện xong rồi, mới hiện ở trước! Hai trong sáu thông là vô ký, vì thuộc về đạo giải thoát. Bốn thông còn lại là thiện. Hỏi: Công đức mà các phương tiện này được. Những gì là dứt phiền não? Những gì là không dứt phiền não? Đáp: Sơ thiền tịnh, căn bản Cũng đồng một ràng buộc Không thể dứt phiền não Vô lượng cũng lại thế. Sơ thiền tịnh căn bản, cũng đồng một ràng buộc, không thể dứt phiền não: nghĩa là Sơ thiền tịnh căn bản, phiền não của địa mình, vì bị trói do một ràng buộc, nên không thể dứt phiền não. Lúc đạo thế tục của địa khác hiện ở trước, mới có thể lìa bỏ. Như người bị trói không thể tự mở. Thiền kia cũng như thế. Vì vị của địa mình bị nếm, nên không thể lìa bỏ. Như người bạn thân, thì dù kém vẫn không từ bỏ! thiền kia cũng như thế. Nếu các phiền não căn bản đối trị với thiền, phiền não đó sẽ dứt được. Nếu không dứt được, thì chẳng phải đối trị với thiền kia, cho nên thiền vô lậu đối trị phiền não. Hữu lậu là phương tiện đoạn. Như thế cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Vô lượng cũng như thế, nghĩa là vô lượng không dứt phiền não, vì duyên chúng sinh. Pháp tướng, nghĩa là dứt phiền não. Lại nữa, vì thuộc về đạo Giải thoát, thuộc đạo Vô ngại, nên dứt phiền não. Lại nữa, vì duyên hiện tại, nên duyên ba đời, nghĩa là dứt trừ phiền não, do đối trị khoảnh khắc. Trong Tu-đa-la của Đức Thế Tôn nói: Từ dứt sân nhuế, đối trị khoảnh khắc, là kiết tạm dừng nghỉ, như kỳ hạn rộng cho kẻ mắc nợ. Phải biết năm bối xả Cùng với tám thắng xứ Cũng mười Nhất thiết xứ Không thể dứt phiền não. Không xứ, Thức xứ, Nhất thiết xứ và bối xả Phi tưởng Phi phi tưởng, không dứt phiền não là thuộc về căn bản của pháp này, như trước đã nói. Bối xả tưởng, thọ diệt vì trái với tâm, nên không dứt phiền não. Bối xả của sắc, thắng xứ, Nhất thiết xứ cũng không dứt phiền não, vì cảnh giới của tự tướng. Đạo cộng tướng mới dứt phiền não chứ không phải tự tướng. Lại nữa, về tư duy ý giải, tư duy chân thật dứt trừ phiền não, không phải ý giải. Lại nữa, về tư duy giả tưởng thì tư duy không giả tưởng dứt phiền não. Lại nữa, về cảnh giới sự thì tư duy không phải sự, dứt phiền não. Lại nữa, về đạo giải thoát gồm thâu thì thuộc về đạo vô ngại dứt phiền não. Tám vị của hai mươi ba thứ chính thọ tương ưng với tám tịnh, bảy vô lậu. Hỏi: Mỗi tam-muội ấy, có bao nhiêu nhân? Đáp: Cái gọi định vô lậu Mỗi định bảy thứ nhân Nhân tương ưng vị, một Là tịnh kia cũng thế. Cái gọi định vô lậu, mỗi định bảy thứ nhân, nghĩa là Sơ thiền vô lậu xả nhân tự phần, cộng hữu, tương ưng với Sơ thiền vô lậu, đối với nhân tự phần của ba Vô Sắc của ba thiền vô lậu, như thế cho đến Vô sở hữu xứ, đó là nói chung. Đạo thuộc về Sơ thiền có sáu thứ: Tùy tín hành. Tùy pháp hành. Tín giải thoát. Kiến đáo. Thời giải thoát. Bất thời giải thoát. Đạo Tùy tín hành có sáu thứ nhân. Đạo Tùy pháp hành có ba thứ nhân. Đạo Tín giải thoát có bốn thứ nhân. Đạo Kiến đáo có hai thứ nhân. Đạo Thời giải thoát cũng có hai thứ nhân. Đạo Bất thời giải thoát tức là nhân của bất thời giải thoát. Nhân tương ưng vị, một: nghĩa là nhân Sơ thiền tương ưng vị của Sơ thiền tương ưng vị, chứ không phải thiền khác. Nhân của Sơ thiền, vì không giống nhau nên không phải nhân của địa khác, vì nhân quả đoạn. Tương ưng vị kia có năm thứ: Kiến khổ dứt cho đến tu đạo dứt, nhân của kiến khổ đoạn kiến khổ đoạn tất cả như thế. Là tịnh kia cũng thế, nghĩa là nhân Sơ thiền tịnh, là Sơ thiền tịnh, không phải tương ưng vị, không phải vô lậu, vì không giống nhau. Không phải nhân tịnh của địa khác, vì ràng buộc của địa mình. Sơ thiền tịnh có bốn thứ: Phần thối, phần trụ, phần thắng, phần quyết định. Phần thối kia có bốn thứ nhân, phần trụ có ba, phần thắng có hai, phần quyết định chỉ có phần quyết định, không phần khác, vì là kém. Phải biết, địa khác cũng như thế! Hỏi: Mỗi thứ lớp sinh bao nhiêu thứ? Đáp: Vô Sắc, thiền vô lậu Nghịch, thuận vượt thứ lớp Thứ lớp sinh sáu thứ Bảy, tám, chín và mười. Sơ thiền vô lậu theo thứ lớp, sinh sáu thứ: Tịnh của địa mình và đệ nhị, đệ Tam thiền vô lậu cũng như thế! Vô sở hữu xứ vô lậu theo thứ lớp sinh bảy: Địa mình hai, địa trên một, địa dưới bốn. Thứ lớp của đệ Nhị thiền vô lậu sinh tám: Địa mình hai, địa dưới hai, địa trên bốn. Thứ lớp Thức xứ vô lậu sinh chín: Địa mình hai, địa trên ba, địa dưới bốn. Thứ lớp vô lậu khác sinh ra mười, thuộc về phẩm Tỷ trí. Thứ lớp của thiền Vô Sắc hiện ở trước, không phải thuộc phẩm Pháp trí. Phẩm Pháp trí nghĩa là địa dưới dựa vào địa dưới duyên, cho nên, Vô Sắc theo thứ lớp không hiện ở trước. Từ sáu đến mười một Là tịnh thứ lớp sinh Kế sinh, hai đến mười Tương ưng vị chẳng ba. Từ sáu đến mười một, là tịnh thứ lớp sinh, nghĩa là tịnh Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thứ lớp sinh sáu thứ: vị địa mình tương ưng và tịnh. Bốn tịnh của địa dưới và vô lậu không phải tương ưng vị, vì lìa dục. Theo thứ lớp, Sơ thiền tịnh sinh bảy: Địa mình ba, địa trên bốn. tịnh và vô lậu tịnh của Vô sở hữu xứ, thứ lớp sinh tám: Địa mình ba, địa trên một, địa dưới bốn. Thứ lớp tịnh của đệ Nhị thiền sinh chín. Thứ lớp của tịnh Thức xứ sinh mười, mười một khác, đấy nói là phương tiện đắc, lìa dục đắc, chẳng phải sinh đắc! Cho nên, không nói sinh đắc tương ưng vị của địa trên dưới. Thứ lớp tịnh lúc mạng chung, sinh ra hết thảy địa tương ưng vị. Hỏi: Những tịnh nào theo thứ lớp Sơ thiền sinh Thánh đạo? Đáp: Đó là phần quyết định, nếu khác thì không nên lập ra bốn thứ! Kế đến sinh hai đến mười, tương ưng vị chẳng phải ba, nghĩa là thứ lớp của Sơ thiền tương ưng vị sinh hai thứ: Tương ưng vị của địa mình và tịnh, không phải vô lậu, vì trái với phiền não. Không phải địa trên, vì chưa lìa dục. Chẳng phải ba, nghĩa là không sinh ba. Nếu nói ba thì không đúng! Tương ưng vị của đệ Nhị thiền, theo thứ lớp sinh bốn: Địa mình hai trừ vô lậu, địa dưới hai: Tương ưng vị và tịnh sinh đắc, đó là đệ Nhị thiền vì sợ ái nên nương dựa. Sơ thiền tịnh tự giữ gìn, như Tu-đa-la nói: “Thà nương dựa sự nhàm lìa của Sơ thiền, đều tư duy chính thọ, chứ không nương dựa đệ Nhị thiền mà tư duy kém”. Đệ Tam thiền sinh năm: Địa mình hai, đệ Nhị thiền hai, Sơ thiền một. Đệ Tứ thiền tương ưng vị sinh sáu. Không xứ bảy. Thức xứ tám, vô sở hữu xứ chín. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ mười: Tự địa hai. Vô sở hữu xứ hai, tương ưng vị của địa dưới sáu, đó là thọ sinh phiền não. Hỏi: Mỗi duyên có bao nhiêu thứ? Đáp: Tịnh và thiền vô lậu Duyên với tất cả địa, Pháp hữu lậu địa mình Sở duyên tương ưng vị. Tịnh và thiền vô lậu duyên với tất cả địa: nghĩa là tịnh và thiền vô lậu, duyên với tất cả địa, tất cả chúng vì cảnh giới rộng. Phẩm vô lậu Tỷ trí kia duyên tám địa, phẩm Pháp trí duyên một địa. Căn thiện phương tiện duyên bốn đế. Pháp hữu lậu địa mình, đối tượng duyên tương ưng vị, nghĩa là Sơ thiền tương ưng vị duyên tương ưng vị của địa mình và tịnh, chứ không phải địa khác về nghĩa này phẩm Sử đã nói rộng. Không duyên vô lậu và địa khác. Vô Sắc thì không duyên Chủng hữu lậu địa dưới Là thiện hữu căn bản Cấu uế như thiền vị. Vô Sắc thì không duyên hữu lậu chủng của địa dưới. Là thiện, hữu căn bản: nghĩa là căn bản tịnh Vô Sắc và vô lậu, không duyên pháp hữu lậu của địa dưới, vì lìa sắc tướng. Duyên địa mình và địa trên, nên nói là chẳng phải dưới. Phẩm Tỷ trí duyên vô lậu của địa dưới, nên nói không phải chủng hữu lậu, vì thuộc về phương tiện. Đạo vô ngại duyên địa dưới, nên nói là căn bản (Đạo thế tục dứt kiết, đạo vô ngại duyên địa dưới, đạo giải thoát duyên địa trên). Vị tương ưng duyên với địa mình, nên nói là hữu thiện. Cấu uế như thiền vị, nghĩa là như thiền tương ưng vị, duyên vị tương ưng của địa mình. Vô Sắc cũng như thế! Là cõi Sắc hữu dư Các công đức vô lượng Đây là duyên cõi Dục Do bậc Tối thắng nói. Các công đức của bốn vô lượng v.v… duyên cõi Dục như trước đã nói. Trừ thần thông nên nói các công đức vô lượng, v.v… Năm thần thông kia duyên cõi Dục, cõi Sắc. Đó là người Sơ thiền duyên Sơ thiền và cõi Dục, chẳng phải địa trên. Ngoài ra cũng như thế, tùy theo nghĩa kia mà nói. Thiền tịnh có ba thứ: Phiền não huân tập. Đạo huân tập. Bất huân tập. Phiền não huân tập, đó là phần thối (Hữu lậu có tập khí phiền não, nên gọi là phiền não huân tập). Đạo huân tập, nghĩa là đạo đã được huân tập, có nghĩa là huân tu, những cái khác chẳng phải huân tập. Hỏi: Người kia năng huân tập những thiền nào? Đáp: Nếu huân tập các thiền Là dựa đệ Tứ thiền Vì ba địa ái hết Tịnh cư chỉ Quả Thật. Dựa vào đệ Tứ thiền huân tập Sơ thiền. Vì sao? Vì lìa được tám việc não loạn, vì đối với tất cả chỗ nương nhờ là hơn hết! Có năm thứ huân tập: Hạ, trung, thượng, thượng trung, thượng thượng. Năm thứ này sinh năm thứ Tịnh cư. Địa dưới cũng có năm thứ huân tập. Vì đệ Tam thiền ái hết, địa dưới không sinh Tịnh cư, nên chỗ nương dựa kia hoặc khởi, hoặc không khởi, huân tập (khởi, không khởi là xuất định, không xuất định). Phương tiện là do đệ Tứ thiền vô lậu chảy rót đầy đủ chính thọ. Sau đó là hữu lậu, kế là vô lậu, đối với sự chảy rót kia giản lược dần. Cho đến thứ lớp hai sát-na vô lậu, hai sát-na hữu lậu hiện ở trước. Đây là phương tiện huân tập thiền hữu lậu, vô lậu thành. Nếu một sát-na vô lậu, một sát-na hữu lậu, lại một sát-na vô lậu đó, gọi là huân tập thiền thành có mười lăm tâm: Năm tâm hữu lậu, mười tâm vô lậu. Hỏi: Vì sao huân tập thiền? Đáp: Hoặc có niệm chính thọ Hoặc sợ các phiền não Hoặc lại ưa thọ sinh Là đều nói theo nghĩa. Huân tập thiền có ba nhân duyên: Niệm chính thọ nghĩa là người tu hành ưa thích niệm chính thọ, vì được trụ hiện pháp lạc. Sợ phiền não nghĩa là sợ lui sụt. Lạc thọ sinh nghĩa là ưa sinh Tịnh cư. Tín giải thoát kia có ba nhân duyên chính thọ. Kiến đáo có hai: Không sợ phiền não, không thối pháp.. Thời giải thoát cũng có hai: Không ưa sinh, trái với tất cả sinh. Bất thời giải thoát chỉ có một: Ưa thích niệm chính thọ, không sợ phiền não, không thối pháp. Không ưa sinh, vì trái với tất cả sinh. Huân tập thiền, tính năm ấm. Hữu lậu và duyên bốn đế vô lậu. (Dùng vô lậu phân tán hữu lậu, như nghĩa rải hoa ở Chi-đề, gọi là huân tập). Như thế nói rộng, tâm vô lậu huân tập tâm hữu lậu, như rải hoa ở Chi-đề. Hỏi: Đã nói ba thứ chính thọ, làm thế nào được chính thọ đó? Đáp: Lìa dục và thọ sinh Mà có được thiền tịnh Cấu uế, thối và sinh, Vô lậu, chỉ lìa dục. Lìa dục và thọ sinh, mà có được thiền tịnh: nghĩa là hai thời gian của Sơ thiền tịnh, lúc lìa dục cõi Dục và khi ở địa trên mất, sinh Phạm thiên. Hỏi: Khi lui sụt cũng đắc, đó là Sơ thiền lìa dục thối đắc, hay Sơ thiền thối phần căn thiện, vì sao không nói? Đáp: Trong đấy nói tất cả tịnh, là trước không được mà được. Lúc lui sụt, căn thiện của phần thối dù trước không được mà được. Ba thứ khác thì trước đã thành tựu. (Trước mất một, được ba, nay mất ba, được một. Vì không phải trước kia đều không, nên chẳng phải tất cả không được mà được). Cho nên không nói. Từng có Sơ thiền tịnh lìa dục được lìa dục, xả lui sụt và thọ sinh cũng như thế chăng? Đáp: Sơ thiền có phần lui sụt, khi cõi Dục lìa dục thì đắc, lúc Phạm thiên lìa dục thì xả (Lúc Phạm thiên lìa dục, vì được phần vượt hơn, nên xả phần thối ). Lúc Phạm thiên thối lìa dục thì đắc. Khi cõi Dục lui sụt lìa dục thì xả. Lúc địa trên mất, sinh lên Phạm thiên thì được. Khi Phạm thiên mất, sinh cõi Dục thì xả, cho đến Vô sở hữu xứ cũng như thế. Phi tưởng Phi phi tưởng do lìa dục đắc, chẳng phải sinh mà được địa vô thượng. Thối cấu uế và sinh, nghĩa là Sơ thiền tương ưng vị lúc lui sụt: Thì được, đó là Sơ thiền lìa dục cõi Dục và Phạm thiên đẩy lùi triền. Sinh đắc nghĩa mất ở là địa trên, sinh cõi Dục và Phạm thiên như thế, cho đến Vô sở hữu xứ, Phi tưởng Phi phi tưởng chỉ có lui sụt thì được. Vô lậu chỉ lìa dục: nghĩa là Sơ thiền vô lậu lìa dục thì đắc, đó là bậc Thánh lìa dục cõi Dục. Đây là nói người theo thứ lớp. Nếu dựa vào Sơ thiền vượt lên ly sinh, cũng được, cho đến tất cả địa cũng như thế! Hỏi: Các công đức này dứt trừ những phiền não nào? Đáp: Vô lậu dứt phiền não Và chính thọ trung gian Tất cả định trung gian Tương ưng với xả căn. Vô lậu dứt phiền não, nghĩa là tám địa Sơ thiền của căn bản vô lậu đối trị Phiền não, cho đến Vô sở hữu xứ hai địa đối trị phiền não. Và chính thọ trung gian: nghĩa là chính thọ trung gian gọi là đạo phương tiện, đó là dứt trừ phiền não của địa dưới, cho đến chưa lìa dục của địa dưới, không được chính thọ căn bản. Ngoài ra, chẳng phải đối trị. Tất cả định trung gian tương ưng với xả căn, nghĩa là tất cả đạo phương tiện tương ưng với xả căn, vì chưa được, nên không sinh vui vẻ. Hỏi: Như đã nói địa trên không có thân thức, nếu lúc địa trên muốn mắt thấy, tai nghe, thân xúc chạm thì họ làm sao thấy, nghe, xúc? Đáp: Ở Phạm Thế, thức hiện ra trước. Hỏi: Vì sao địa trên không có thức này? Đáp: Ở trước đã nói, vì giác, quán ở địa trên chẳng có phần, nên không có ba thức thân ấy. Địa trên muốn thấy, nghe xúc, thức của Sơ thiền hiện ở trước thì sẽ thấy, nghe xúc, chẳng phải cõi Dục, chẳng phải tu quả. Hỏi: Thành tựu vào lúc nào? Đáp: Theo thức hiện ở trước Địa trên thì thành tựu Xả thì không thành tựu Vì tâm lực yếu kém. Cho đến thức này hiện ở trước, hoặc nhãn thức, hoặc nhó thức, hoặc thân thức thành tựu lúc ấy, thì tâm sẽ yếu kém, vô ký không ẩn mất, cho nên, sát-na thành tựu, từ thức kia khởi rồi không tùy chuyển. Hỏi: Đã biết thiện, cấu uế, lúc chính thọ được và các thức thành tựu, hóa tâm kia làm sao được cùng lúc, và được bao nhiêu tâm? Đáp: Thọ sinh và lìa dục Được là các hóa tâm Hai, ba cùng với bốn Cũng năm, được cùng lúc. Có hai nhân duyên được hóa tâm: Thọ sinh và lìa dục. Hoặc được ngay hai, ba, bốn năm thọ sinh: nghĩa là địa trên mất, sinh Phạm thiên, bấy giờ được hai tâm của Sơ thiền: Cõi Dục và Sơ thiền. Nếu sinh Nhị thiền sẽ được ba tâm: Cõi Dục, Sơ thiền, và địa mình. Sinh Tam thiền được bốn tâm: Địa dưới ba, địa mình một. Nếu sinh Tứ thiền sẽ được năm tâm: địa dưới bốn, địa mình một, đấy là nói thọ sinh đắc. Lìa dục: nghĩa là lìa dục của cõi Dục được hai tâm, như trước nói. Sơ thiền lìa dục được ba tâm, Nhị thiền lìa dục được bốn tâm, Tam thiền lìa dục được năm tâm, cho nên nói: Hoặc một sát-na được hóa tâm mà không dứt, lúc lìa dục cõi Dục, sau cùng là đạo vô ngại, tạo ra bốn trường hợp: Được mà không dứt, đó là địa Sơ thiền, hóa tâm của quả Sơ thiền (khi lìa dục cõi Dục, được hóa tâm của quả Sơ thiền, tâm này bị kiết Sơ thiền ràng buộc nên không dứt ). Dứt mà không được, nghĩa là cõi Dục hóa tâm của quả đệ nhị, đệ tam, đệ Tứ thiền (hóa tâm của ba địa, là pháp cõi Dục, bị phiền não cõi Dục trói buộc. Lìa dục cõi Dục, cắt đứt được trói buộc. Vì Sơ thiền chưa lìa dục, nên không được). Vừa được, vừa dứt, nghĩa là hóa tâm của quả Sơ thiền cõi Dục. Không được, không dứt: nghĩa là các hóa tâm khác, cho đến đệ Tam thiền lìa dục, theo nghĩa đó mà nói. Với mười bốn hóa tâm này, cõi Dục bốn, cõi Sắc mười. Hóa tâm của cõi Dục kia hóa làm các Hóa của cõi Dục. Hóa tâm của cõi Sắc, hóa thành các hóa của cõi Sắc, vì là phần mình. Tám thứ hóa tâm kia, sinh cõi dục hóa, cõi dục hóa, thân mình và thân người, như thế, cõi Sắc sinh cõi Sắc cũng như vậy. Cõi Dục hóa bốn nhập, cõi Sắc hóa hai nhập. Vì sao? Vì không hóa căn, cho nên hóa vô tâm. Mỗi tâm biến hóa hoặc một hoặc nhiều, nhưng chỉ một địa. Trụ thần túc có thể khiến trụ, dù hóa của Niết-bàn là tùy chuyển, như Tôn giả Đà-Phiếu nhập Niết-bàn xong, hóa lửa đốt thân. Tôn giả Đại Ca-diếp, toàn thân trụ lâu. Đức Thế Tôn hóa giáo, hóa phi phần, Phật sự hoàn thành, nên sau khi nhập Niết-bàn không lưu hóa. Hỏi: Vì hóa của tu tuệ cũng sinh tuệ chăng? Đáp: Cũng sinh tuệ (vì lui sụt sinh, được hóa tâm, trước do lìa dục mà được tu tuệ, là tuệ do hóa tâm của thiên ma là sinh ra), như ma hóa thành thân Phật. Ma thiên nữ hóa thân, đi đến chỗ Phật, hoặc hóa ra thức ăn để con người dùng, hoặc hóa người chủ vốn muốn tự nuôi thân, thức ăn kia liền hiện ra, và được tiêu hóa trong thân của hóa chủ! Nếu vốn không muốn nuôi thân, thì thức ăn nọ chỉ gom nhóm ở chỗ người biến hóa. Hỏi: Thành tựu bao nhiêu thứ hóa tâm? Đáp: Hoặc có hai, ba, bốn Năm, bảy cùng với chín Thêm ba, hoặc cũng năm Như thế thành hóa tâm. Nếu sinh cõi Dục, ái dục hết, ái Phạm thiên chưa hết và sinh Phạm thiên, với ái kia chưa hết, là thành tựu hai. Nếu sinh đệ Nhị thiền, đối với ái kia chưa hết, là thành tựu ba. Nếu sinh đệ Tam thiền, đối với ái kia chưa hết, là thành tựu bốn. Nếu sinh ở đệ Tứ thiền là thành tựu năm. Nếu sinh cõi Dục và Phạm thiên, ái của Phạm thiên hết, ái của Nhị thiền chưa hết, thì cũng thành tựu năm. Nếu sinh Nhị thiền, ái Nhị thiền hết, ái của Tam thiền chưa hết, là thành tựu bảy, nói rộng như thế. (Nên nói chín và thêm ba, năm. Ái của đệ Tứ thiền hết, sinh đệ Tam thiền, sinh đệ Nhị thiền, lại thêm ba, sinh Sơ thiền lại thêm năm). Hỏi: Nếu hóa của cõi Dục, quả của Sơ thiền và hóa của địa Sơ thiền, quả của Sơ thiền, có gì khác nhau không? Đáp: Cõi Sắc, vì là cõi vượt hơn cho nên hơn. Và quả đệ Nhị thiền cõi Dục, quả Sơ thiền cõi Sắc, cõi Dục khứ thắng, có khả năng đến Nhị thiền nên nói là khứ thắng, cõi Sắc giới thắng, tất cả hóa đều nói như thế. (Lìa dục được hóa tâm và phương tiện được hóa tâm, đều có mười bốn thứ, lúc địa trên sinh xuống địa dưới, trước là do lìa dục mà được mười bốn thứ).  <卷>QUYỂN 8 <詞>Phẩm 8: TU-ĐA-LA Đã nói về Định, nay sẽ nói: Về Tu-đa-la Bậc Nhất thiết trí nói Diệu nghĩa Tu-đa-la Nay con nói ít phần Tu hành phải khéo nghe. Vì biết tất cả nên nói là Nhất thiết trí, tất cả: Là mười hai nhập, đối với tự tướng, cộng tướng của mười hai nhập tất cả đều biết. Người nói: Là bậc Nhất thiết trí đích thân tự giảngnói. Diệu nghĩa là nghĩa mầu nhiệm về tính rất sâu xa. nghĩa vi diệu này là nói về Tu- đa-la, nên nói là nghĩa mầu Tu-đa-la. Nay tức là luận này. Nói ít phần: Là đấng Mâu-ni nói vô lượng vô biên, nên nói là nói ít. Tu-đa-la: Gồm có năm nghĩa: Sinh ra: Vì sinh ra các nghĩa. Suốt vọt: Vì nghĩa vị vô tận. Hiển bày: Vì chỉ bày các nghĩa. Dây mực: Vì nói về các tà, chính. Kết man, vì xuyên suốt các pháp. Năm nghĩa như thế là nghĩa Tu-đa-la, dù nghĩa không ở lời nói, nhưng nhờ có nói mới biểu hiện rõ ràng, nên nói là nghĩa ngôn thuyết, do nói mà danh chuyển, do danh mà hiển nghĩa. Khéo nghe nghĩa là cần phải một lòng quyết định khéo nghe. Hỏi: Đức Thế Tôn nói thí, giới, tu, mỗi thứ có bao nhiêu loại? Đáp: Tuệ thí, giữ tịnh giới Là đều có bốn thứ Tu thiền thì có hai Đó gọi là công đức. Sợ có ba thứ, muốn có phương tiện khiến độ ba sợ, nên Đức Thế Tôn nói lược ba thứ công đức này. Người kia sợ nghèo nàn thì sợï là phương tiện khiến được độ, cho nên nói thí. Sợ đường ác, thì sợ là phương tiện khiến được độ, cho nên nói giới. Sợ sinh tử, thì sợ là phương tiện khiến được độ, cho nên nói tu. Hỏi: Những gì là tính của thí? Đáp: Vô tham tương ưng tư Đều khởi đồng một quả Chỗ chúng cụ sinh ra Đó chính là tính thí. Căn thiện vô tham tương ưng với tư, từ chỗ vật thí sinh ra và tùy chuyển nghiệp thân, miệng là tự tính thí của năm ấm. Do nói sắc, hương, vị đầy đủ nên nói là tư, nguyện, v.v… chẳng phải là người thí thì không đúng. Vì sao? Vì đối với vật nói là thí, Đức Thế Tôn vì mở tâm thí chủ nên khiến tư, nguyện được vững chắc. Đối với vật nói là thí, tức là từ chỗ vật thí mà sinh ra. Hỏi: Trước kia nói bốn thứ thí. Những gì là chủng thí? Đáp: Cái gọi tự nhiếp thọ Cũng lại nhiếp thọ khác Có khi hai đều nhiếp, Có khi không nhiếp hai. Có khi tự thân nhiếp ên thì, có khi thâu nhiếp người khác nên thí, có khi thâu nhiếp mình và người nên thí, có khi trả ơn, không vì thâu nhiếp mình người nên thí (nghĩa là A-la-hán cúng dường Phật là để trả ơn, chứ không vì mình, vì người), người kia tự thâu nhiếp. Nếu người chưa lìa dục Mà cúng dường chi-đề Và phàm phu lìa dục Gọi vì mình mà thí. Bậc Thánh chưa lìa dục và phàm phu lìa dục, cúng dường chi-đề, thì đó là tự nhiếp mà thí. Vì thí, được quả báo cõi Dục, nghĩa là người chưa lìa dục, sinh cõi Dục. Tuy phàm phu lìa dục, sinh cõi Sắc, cõi Vô Sắc, nhưng về sau trở lại thọ hậu báo của cõi Dục và báo bất định, đây gọi là tự nhiếp thọ mình, không nhiếp thọ người. Vì sao? Vì chi-đề không phải chúng sinh. Lìa dục phi phàm phu Trừ quả hiện pháp kia Thí cho các chúng sinh Đấy gọi là nhiếp tha. Nếu A-la-hán, hoặc A-na-hàm, trừ quả hiện pháp khởi thí, nếu thí khác vì chúng sinh, thì đó là nhiếp người, chẳng phải tự nhiếp, vì A-la- hán chẳng có phần sinh. A-na-hàm tuy thọ sinh ở cõi Sắc, cõi Vô Sắc, nhưng lại không thọ quả thí. Do nhân quả đoạn nên lập ra giới. Chưa lìa dục cõi Dục Phàm phu đã lìa dục Thí cho các chúng sinh Phải biết hai đều nhiếp. nghĩa là bậc Thánh chưa lìa dục và phàm phu lìa dục, thí cho chúng sinh, phải biết cả hai đều gồm nhiếp. Lìa dục phi phàm phu Ngoại trừ quả hiện pháp Cúng dường lên chi-đề Đấy đều không gồm nhiếp. Hoặc A-la-hán, hoặc A-na-hàm, trừ khởi thí quả hiện pháp mà cúng dường chi-đề. Đấy chẳng phải gồm nhiếp mình, cũng không phải gồm nhiếp người, vì A-la-hán vô sinh, A-na-hàm dù có sinh mà cõi Dục không có phần sinh, nên không gồm nhiếp mình. Vì chi-đề chẳng phải chúng sinh, nên không gồm thâu người. A-la-hán kia nghó nhớ ơn xưa, trả ơn Phật, nên dù Phật nhập Niết-bàn vẫn cúng dường chi-đề. Lại nữa, Nếu vì gồm nhiếp người Cúng dường lên chi-đề Vô lượng chúng thấy nghe Đều sinh tâm tùy hỷ. Cúng dường chi-đề, cũng là gồm nhiếp người khác. Dùng cờ phướn, lọng hoa, đốt hương, rải hoa, cúng dường chi-đề, khiến cho vô lượng chúng sinh trông thấy, tùy hỷ làm nhân giải thoát sinh lên cõi trời. Thế nên, Tu-đa-la của Thế Tôn nói: Đối với chỗ chưa từng lập mà kiến lập chi-đề, thì sẽ sinh phước Phạm, vì để gồm nhiếp vô lượng chúng sinh, nên gọi là phước Phạm. Hỏi: Ngang đâu sẽ nói là phước phạm? Đáp: Có người nói: Trừ Bồ-tát gần Phật địa, tất cả các chúng sinh khác có thể sinh ra nghiệp quả tăng thượng giàu to, sức lớn v.v… đó là nghiệp của quả tăng thượng, đó là lượng của phước Phạm. Lại có thuyết nói: Lúc thế giới thành tất cả chúng sinh, khí thế giới sinh ra. Nghiệp đó có khả năng sinh khí thế giới này, gọi là lượng của phước Phạm. Lại nữa, thí này: Là hy vọng kia thảy Bảy thí chẳng gì hơn Tâm trang nghiêm, thứ tám Gọi là thí hơn hết. Đức Thế Tôn nói tám thứ thí, đó là hy vọng thí, bố úy thí, phản báo thí, kỳ báo thí, gia pháp thí, sinh thiên thí, cầu danh thí và vì tâm trang nghiêm, vì điều phục tâm, vì thuận tu hành, vì được nghĩa trên hết nên thí. Hy vọng thí nghĩa là lựa chọn ruộng phước, muốn cầu nhiều quả nên thí cho người đến xin, thí cho người đến xin thì cựu A-tỳ-đàm nói là hy vọng thí. Bố úy thí nghĩa là vừa mới thí mà lại quên mất, nên thí, thấy có tưởng mất, thà cho mà không mất. Phản báo thí: nghĩa là từng được lợi kia, sao không báo đáp. Kỳ báo thí: nghĩa là thí cho người kia, mong được họ đền đáp lại. Gia pháp thí: nghĩa là có thói quen học tập theo người đi trước mà thí, không phải tự tin mà thí. Sinh thiên thí: nghĩa là vì cầu sinh lên cõi trời, nên thí. Cầu danh thí nghĩa là muốn được khen ngợi nên thí. Bảy thứ thí này là thấp kém, không cao thượng! Không cầu sinh tử, mà ưa thí, đó gọi tâm trang nghiêm mà thí, dùng đạo này làm phương tiện thí đó là đệ nhất trong các tài thí, gọi là thượng thí. Đã nói thí, nay sẽ nói quả của thí. Thọ, sắc, lực, an vui Biện tài là năm thứ Báo thí có trăm ngàn, Thí chủ sẽ đạt được. Bố thí như trên nói, có năm thứ, Đức Thế Tôn nói trong Tu-đa-la về đức của năm thí. Ăn để sống, chẳng thể không ăn, cho nên thí tuổi thọ, cho đến biện tài cũng giống như thế. Nhân giống nhau sinh ra quả giống nhau, đó là được sống lâu cho đến báo của biện tài. Gieo trồng giống bên ngoài, tùy từng loại, mà đạt được quả thật. Thí này cũng như thế! Tuổi thọ, đó là cõi người, trời, không phải đường ác, đó là do nhân giữ gìn nên nói thí thọ. Như nói: Lìa sát sinh, tu tập nhiều thì được sống lâu. Đó là do nhân chiêu cảm dẫn dắt cho nên nói. Thí như hai người mẹ: Mẹ đẻ và mẹ nuôi. Người lìa sát sinh như mẹ đẻ, người thí thức ăn như mẹ nuôi. Năm thứ báo, thí cho súc sinh sẽ được phước gấp trăm lần, đó là do người hòa hợp mà được! Nói rộng như thế. Trong kiến đạo dù không ăn mà có thể thọ thí. Đã nói thí và quả, nay sẽ nói: Về “tức thí tức quả”, Từ, vô tránh, diệt định Kiến đạo và vô học Từ chính thọ kia khởi Bố thí được quả ngay. Tam-muội Từ tâm vô tránh, Tam-muội Diệt tận, quả A-la-hán kiến đạo từ đấy mà khởi rồi, nếu có người thí thì được quả ngay. Vì sao? Vì đối với vô lượng chúng sinh, dùng tướng yên ổn làm lợi ích, là lấy lòng từ để hun đúc thân. Từ đây khởi rồi thì người thí sẽ được quả ngay. Tam-muội Vô tránh, khiến cho vô lượng chúng sinh không khởi phiền não, do công đức rộng nhiếp mà huân tập thân, nên từ đấy khởi rồi thì người thí sẽ được quả ngay. Tam-muội Diệt tận, do công đức rộng huân tập thân nên giống với Niết-bàn. Từ đấy khởi rồi, thì bố thí sẽ được quả ngay. Kiến đạo dứt kiết hết hẳn, dùng Thánh đạo để huân tập thân, nên từ đó khởi rồi thì thí sẽ được quả ngay. Tu đạo dứt kiết hết hẳn, thì tâm được tự tại, trụ quả A-la-hán, từ đó khởi rồi thì thí sẽ được quả ngay. Đã nói “Tức quả”, quả lớn, nay sẽ nói. Cha mẹ hoặc người bệnh Cùng với sư nói pháp Các Bồ-tát gần Phật Bố thí được quả lớn. Thí cho năm hạng người này thì được quả lớn. Vì sao? Vì với cha mẹ vì có ơn sinh thân và nuôi lớn, thí sẽ được quả lớn. Với người bệnh không có nơi nương dựa, tâm bi tăng trưởng, thí sẽ được quả lớn, với người nói pháp, pháp thân tăng trưởng, chỉ bảo cho con người biết rõ thiện ác, nên thí sẽ được quả lớn. Với người tiếp cận Phật địa, chứa nhóm công đức, gồm nhiếp rộng chúng sinh, nên thí sẽ được quả lớn. Hỏi: Vì tư, nguyện vượt hơn khiến thí thanh tịnh, hay vì ruộng vượt hơn? Nếu vì tư, nguyện vượt hơn, vì sao Đức Thế Tôn khen ngợi ruộng phước? Nếu vì ruộng phước hơn, tại sao thí một ruộng phước, mà quả không được bằng nhau? Đáp: Vì tư, nguyện vượt hơn, nên thí thanh tịnh, ruộng phước nhờ ở lực, cho nên trước hết nói tư, nguyện và quyến thuộc, gọi là bố thí phước. Dùng tâm thuần tịnh để mong cầu lìa của cải và thân, tùy trí tuệ mà thực hành. Người thí như thế sẽ được quả lớn. Nếu khác, như người kia cầu tiếng khen mà thí cho thì ruộng phước trội hơn, như vậy chẳng phải là bố thí của bậc Đại nhân. Nếu người căn cứ vào sức sinh tội phước của ruộng, thì sẽ không thành sức ruộng phước, đáng lẽ bị nghiệp vô gián mà không được, phải biết là do sức của tư, nguyện. Ruộng phước công đức, có thể khởi tư, nguyện vượt hơn, thế nên Đức Thế Tôn ca ngợi ruộng phước. Hỏi: Đã biết thí cho nuôi lớn sinh thân, vậy thí cho nuôi lớn pháp thân là thế nào? Đáp: Khéo nói các kinh pháp Xa lìa các điên đảo Không chê bai Mâu-ni Đây gọi là pháp thí. Đối với Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm, phân biệt chân thật, không mê đắm danh lợi, gồm nhiếp rộng chúng sinh, đó gọi là pháp thí. Dù người kia không có tưởng mê đắm mà nói điên đảo, chê bai nhân duyên chân thật của Như lai, lại có tưởng khác lạ, phải biết đó là nhân duyên của tâm loạn! Dù thuyết giảng nói không điên đảo, mà tâm đắm nhiễm, như thương nhân kia, vì thế kệ nói “Không biết Mâu-ni nói, như dao lửa chất độc, nơi đây khéo phân biệt, cũng như ăn cam lộ”. Lại nữa, điên đảo có ba: Pháp điên đảo, nhân điên đảo, thời điên đảo. Pháp điên đảo, nghĩa là như có thuyết nói: Tu tập tưởng tịnh, dứt trừ tham dục! Nhân điên đảo, nghĩa là người tham dục, vì tham dục mà nói từ. Thời điên đảo, nghĩa là với người căn cơ chưa thành thục, mà nói chân đế cho họ nghe. So sánh như thế, trái với ở đây thì được gọi là nói pháp không điên đảo. Đã nói pháp thí, nay sẽ nói về thí vô úy. Nói thọ như lìa, thảy An ủi các sợ hãi Gọi là thí vô úy Phá tan nỗi sợ nghèo. Nếu thấy chúng sinh đời này, đời sau đều có sợ hãi, dùng giới lìa thọ, nói bằng tâm từ, an ủi rằng: “Chúng sinh đừng sợ, tôi sẽ làm giúp ông, khiến được vô úy, đó gọi là thí vô úy”. Người sợ hãi kia ví như kẻ nghèo cùng thì sẽ không sợ thiếu của cải nữa. Đối trị chân thật cho người kia, gọi là thí vô úy. Đã nói thí vô úy. Nay sẽ nói về đại thí. Khắp các loài chúng sinh Đều thọ giới luật nghi Công đức thêm rộng chảy Đây mới là thí lớn. Đức Thế Tôn nói: Năm giới là bố thí lớn, vì gồm nhiếp vô biên chúng sinh, vì khởi vô biên lạc. Tài thí thì không thể gồm nhiếp tất cả chúng sinh, chỉ có thọ giới thì mới có thể. thọ trì năm giới rồi, đối với tất cả chúng sinh, suốt đời, trong mỗi niệm được mười hai thứ luật nghi chưa từng được (ba thiện, tức mỗi thiện khởi thân miệng vô tác), giới kia nối tiếp nhau trôi chảy không gián đoạn. Hỏi: Đã biết bốn thứ thí. Bốn thứ giới nói trước thì thế nào? Đáp: Cõi Dục và thiền sinh Luật nghi, giới vô lậu Luật nghi đoạn, từ hai Là nói luật nghi chủng. Bốn thứ luật nghi, đó là: Luật nghi biệt giải thoát, luật nghi thiền, luật nghi vô lậu và luật nghi đoạn. Luật nghi biệt giải thoát, là giới bảy chúng đã thọ. Luật nghi thiền đó là giới hữu lậu tùy sinh. Luật nghi vô lậu đó là giới của học, vô học. Luật nghi đoạn đó là lìa dục cõi Dục, chín đạo vô ngại tùy sinh giới. Hoặc hữu lậu là giới thiền, hoặc vô lậu là giới vô lậu, đây là luật nghi. Phẩm Nghiệp đã nói bốn thứ giới, nay sẽ nói: Bốn thứ khác còn lại. Giới do hy vọng thọ Giới do sợ hãi giữ Có thuận chi Bồ-đề Cùng với giới thanh tịnh. Có bốn thứ giới, đó là giới hy vọng, giới khủng bố, giới thuận giác chi và giới thanh tịnh. Giới hy vọng là giới vì cầu sinh lên cõi trời và cầu những chỗ khác mà giữ giới. Giới khủng bố nghĩa là sợ trách mình, sợ người khác trách, sợ phạt, sợ đường ác, sợ không sống nổi, sợ tiếng xấu nên giữ giới. Giới thuận giác chi là vì tâm trang nghiêm, vì phương tiện đầy đủ, vì cầu nghĩa hơn hết nên giữ giới. Giới thanh tịnh là giới vô lậu, là lìa cấu. Hỏi: Thế nào là trì giới thanh tịnh? Đáp: Căn bản quyến thuộc tịnh Không bị giác làm hoại Thâu nhiếp các chính niệm Thuận theo bát Niết-bàn. Có năm nhân duyên khiến giới thanh tịnh, đó là căn bản tịnh, quyến thuộc tịnh, không bị giác làm hư hoại, nhiếp thọ chính niệm, chính hướng giải thoát. Căn bản tịnh, nghĩa là lìa và vượt nghiệp đạo căn bản. Quyến thuộc tịnh, nghĩa là lìa các phương tiện như sát sinh, v.v… Không bị giác làm loại: nghĩa là lìa ba giác: dục, nhuế, hại, làm não loạn. Nhiếp thọ chính niệm: nghĩa là nhiếp thọ mà niệm Phật, Pháp, Tăng, vì thế nên cũng lìa được các tâm vô ký. chính hướng giải thoát, nghĩa là vì giải thoát nên giữ giới chứ không vì thân, của cải và việc làm khác, cho nên cũng nói là thuận theo giác chi. Năm nhân duyên khiến giới thanh tịnh, Đức Thế Tôn nói là được quả lớn, vì lìa được tất cả não loạn! Hỏi: Đã biết giới là chỗ dựa của tất cả chính hạnh, như bình công đức của người trời. Thế nào là hai thứ tu? Đáp: Thiền Vô Sắc vô lượng Đắc tu và tu tập Bất tịnh, niệm an-ban nghĩa hai tu cũng thế. Công đức của các thiền này v.v… huân tập tâm, như xông áo, như hoa xông ướp sợi gai, như luyện vàng, cho nên nói như vầy: “Tu như xông áo, tu như xông gai, tu như luyện vàng”. Hiện tại nghĩa là tu tập, vị lai là tu đắc. Hiện tại là dụng, vị lai là khởi. Hiện tại làm điều cần làm, vị lai thì sẽ làm. Hiện tại là sinh, vị lai là đắc. Hiện tại là phần hiện tiền, vị lai là phần thành tựu. thiền Vô Sắc vô lượng (phẩm định đã nói rộng). Người quán bất tịnh không có tính tham, vì đối trị tham. Vả lại, vì đối trị bốn thứ tham, nên lại nói bốn thứ, nghĩa là muốn dứt trừ tham oai nghi, nên tu quán tử thi. Muốn dứt trừ tham sắc, nên tu quán màu sanh bầm v.v… Muốn dứt trừ tham, xúc nên bỏ da, thịt, tu quán bộ xương, muốn dứt trừ tham chỗ ở, nên tu quán các đốt xương rã rời. Quán bất tịnh này lại có bốn thứ: Phần thối, phần trụ, phần thắng, phần quyết định. Phần thối nghĩa là trụ kia thì thối. Phần trụ nghĩa là trụ kia thì không tiến, không thối. Phần thắng nghĩa là trụ kia sẽ tiến lên. Phần quyết định nghĩa là trụ kia thì thuận với Thánh đạo. Cõi là cõi Dục, cõi Sắc. Địa là mười địa: Thiền trung gian, bốn thiền căn bản cõi Dục, và bốn quyến thuộc. Chỗ dựa là cõi Dục, Hành giả là phi hành. duyên nghĩa là duyên cõi Dục. Niệm xứ là thân niệm xứ. Trí là đẳng trí. Không phải Tam- muội, vì thọ sinh. Tương ưng với ba căn, rơi vào ba đời. Quá khứ là duyên quá khứ, hiện tại là duyên hiện tại. Vị lai nghĩa là nếu pháp sinh thì duyên vị lai, nếu là pháp không sinh thì duyên ba đời, đó là thiện duyên vô ký, là Phi học phi vô học, duyên Phi học phi vô học, là tu đạo đoạn duyên tu đạo đoạn. Sẽ nói về nghĩa của duyên. Hỏi: Phương tiện đắc hay là lìa dục đắc? Đáp: Vừa là phương tiện đắc, vừa là dục đắc. Nếu lìa dục cõi Dục, được Sơ thiền cho đến lìa dục của Tam thiền, được đệ Tứ thiền, phương tiện sau, hiện ở trước. Hỏi: Quán bất tịnh, phương tiện ra sao? Đáp: Người tu quán bất tịnh kia, vào trong gò mả, phải thật khéo, nhận lấy tướng bất tịnh đó. Nhận lấy tướng đó rồi, trở về chỗ ngồi, rửa chân, ngồi yên, thân, tâm hòa dịu, lìa các “cái”. Nhận lấy duyên bên ngoài, rồi mới đến thân mình, buộc tâm ở xương bàn chân, xương ống quyển, xương bắp vế, xương háng, xương sống, xương hông, xương tay, xương cánh tay, xương chân mày, xương cổ, xương trán, xương răng, xương đầu lâu v.v… Nếu buộc tâm ở giữa hai đầu chân mày, với người ưa quán lược, thì trước hết từ thân niệm xứ mà độ. Nếu người ưa quán rộng thì từ giữa hai đầu chân mày quán đầu lâu, cho đến xương bàn chân. Từ đây một tòa, một phòng, một nhà, một Tăng-già-lam, một thôn làng, một nước. Nếu người chỉ từ tưởng khởi, thì không có việc ấy, nếu kẻ quán cùng khắp đại địa, đến nhãn quang, có thể quán chỗ kia đầy dẫy xương trắng. Nếu có người lại quán lược, thì theo thứ lớp trở lại đến giữa hai đầu chân mày,thứ lớp lại đến buộc tâm ở giữa hai đầu chân mày, đó gọi là pháp quán bất tịnh thành. Hoặc có người quán bất tịnh, duyên ít, chẳng phải tự tại ít, thì có thể tạo ra bốn trường hợp: Duyên ít, chẳng phải tự tại ít: nghĩa là với thân mình thường nhập quán bất tịnh. Tự tại ít, không phải duyên ít: nghĩa là cùng lúc quán bất tịnh đầy dẫy khắp bốn biển, đại địa, không thể thường nhập quán bất tịnh. Duyên ít, tự tại cũng ít: nghĩa là cùng lúc, quán sát thân mình bất tịnh, không thể thường nhập quán bất tịnh. Chẳng phải duyên ít, cũng chẳng phải tự tại ít: nghĩa là bất tịnh đầy dẫy khắp bốn biển, đại địa, nhưng cũng có thể thường nhập quán bất tịnh. Lại nữa, quán bất tịnh, duyên vô lượng chứ chẳng phải tự tại vô lượng, nên chia làm bốn trường hợp: Duyên vô lượng, chẳng phải tự tại vô lượng: nghĩa là bất tịnh đầy dẫy bốn biển, đại địa nhưng không thể thường nhập quán bất tịnh. Tự tại vô lượng, không phải duyên vô lượng: nghĩa là đối với thân mình thường nhập quán bất tịnh. Duyên vô lượng, tự tại cũng vô lượng: nghĩa là bất tịnh đầy dẫy bốn biển, đại địa, nhưng cũng có thể thường nhập quán bất tịnh. Không phải duyên vô lượng, cũng chẳng phải tự tại vô lượng: nghĩa là đối với thân mình, không thể thường nhập quán bất tịnh. Đã nói về quán bất tịnh. Nay sẽ nói niệm an ban (niệm hơi thở). An na, nghĩa là trì lai. Ban-na nghĩa là trì khứ, cũng gọi A-thấp- bà, Sa-bà-thấp, Ba-sa. Niệm là nhớ nghó. Đối với An-na ban-na xét kỹ, buộc niệm, tâm không luống dối, tu tập niệm kia, nên nói là tu. Niệm an ban là tính tuệ. Vì ở phẩm kia niệm tăng, nên nói là niệm an ban. Như niệm xứ, như niệm túc mạng. Sơ khởi: nghĩa là từ chỗ rún trong thai mẹ, đã có nghiệp sinh ra gió khởi, hoặc hướng phía dưới, hoặc hướng lên phía trên. Hướng xuống phía dưới, tạo ra bộ phận thân dưới, các lỗ chân lông. Hướng lên phía trên, tạo nên phần thân trên. Các lỗ chân lông hình thành rồi, hơi thở ra là trước nhất, cho đến khi qua đời, hơi thở ra là sau cùng. chính thọ cũng thế, nghĩa là thở ra là mới nhập định, thở vào là mới xuất định. Sáu nhân duyên được sáu thứ niệm an ban, đó là sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Sổ là người tu hành dùng phương tiện khéo léo buộc niệm, đếm hơi thở ra vào, không có một lần thở ra thở vào nào mà không hay biết. Nếu người tâm loạn, có khi bớt số, có khi thêm số, có khi đếm lộn xộn. Bớt số là lấy hai làm một, thêm số là lấy một làm hai. Đếm lộn xộn, nghĩa là thở ra thì tính vào, thở vào thì tính ra. Tâm không loạn gọi là đếm đều: Năm lần thở ra, năm lần thở vào, đó gọi là mười số. Nếu người tu hành, lúc đếm đến mười, khoảng giữa, tâm loạn, thì đếm lại từ một. Nếu đếm đủ mười xong, nếu loạn, hoặc không loạn, cũng đếm lại từ một. Vì sợ tâm loạn, nên không đếm quá mười, vì sợ tâm không tập trung, nên đếm không ít hơn mười. Ở trên vì không có hay chưa từng đếm, nên tùy. Hơi thở ra vào, đi không có chỗ đi, tùy theo dài hay ngắn? Là khắp thân? Hay ở một chỗ? Vào là xa hay gần? Tới chỗ nào rồi trở lại? Chỉ là tùy theo tâm ưa thích đối với một phần thân, buộc tâm khiến cho trụ ở đó, mà quán sát hơi thở kia, đối với thân là lợi ích hay tổn hại, là lạnh hay là ấm, đều đặn như thế.v.v… Quán nghĩa là tu tập, tích cực tu tập, như tự nhớ tên mình, tùy theo những gì mình muốn mà hiện ở trước. Hoàn nghĩa là nếu dựa vào dục giác thì ít hành, nếu dựa vào người giác xuất ly thì siêng tu. Tịnh, nghĩa là làm tịnh các cái. Người tu hành đối với hơi thở ra vào chỉ tạo nên một tưởng. Quán thân như ống trúc. Quán hơi thở như xỏ ngọc, hơi thở ra vào không lay động. Ở nơi thân, không phát sinh thân thức, đó gọi là thành niệm an ban. Có thuyết cho là cũng khởi thân thức, chỉ không làm tổn thương thân. Lại nữa, người tu hành dùng “Cực vi hoại” đối với hơi thở ra vào, gọi là quán thân. Thọ hơi thở ra vào gọi là thọ tức quán, thọ đó gọi là quán thọ, nhận biết hơi thở ra vào gọi là thức tức quán. Thức kia gọi là quán thức. Tưởng hơi thở ra vào gọi là tưởng tức quán, tưởng đó là quán tưởng (Các cực vi hoại sắc. Sắc hết, diệt hết, sau đó, dùng hỷ và tưởng khởi thức, khiến cho hiện ở trước, bèn quán ngay ba thứ kia, cho là hạt giống phương tiện của ba niệm xứ). Không phải hơi thở vào chưa diệt mà sinh hơi thở ra. Không phải hơi thở ra chưa diệt mà sinh hơi thở vào, đó gọi là nhân nơi an ban hành độ vô thường. Vì hơi thở vào bức bách nên hơi thở ra diệt, đó gọi là hành độ khổ, đó gọi là được hạt giống của phương tiện môn giải thoát vô nguyện. Hơi thở ra vào, sinh, trụ, diệt không tự tại, là gọi nhân hơi thở ra vào, quán hành vô ngã độ. Vì hơi thở ra vào, lìa nhân thường, v.v… kia, là hành độ không, đó gọi là đắc hạt giống của môn phương tiện giải thoát không. Đối với hơi thở ra vào, sinh tâm nhàm chán, hướng đến Niết-bàn, đó gọi là đắc hạt giống của môn phương tiện giải thoát vô tướng. Trong tam-muội, dựa vào hai lớp dịu dàng kia, dựa vào trung tăng, như thế, theo thứ lớp, pháp Noãn, cho đến trí tận, trí vô sinh. Hỏi: Đức Thế Tôn nói giới, giới này thế nào? Đáp: Hai mươi, nói cõi Dục Cõi Sắc hoặc mười sáu Cõi Vô Sắc có bốn Xứ sở, thứ lớp nói. Hai mươi nói cõi Dục: Đó là tám đại địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, bốn châu thiên hạ và sáu tầng trời cõi dục. Hai mươi cõi này là cõi Dục. Các chúng sinh này lấy dục thọ thân các dụng cụ và thứ hai, cho nên nói là cõi Dục. Cõi Sắc hoặc mười sáu, nghĩa là Phạm thân, Phạm-phú-lâu, Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang âm, Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh, Vô ấm, Phước sinh, Quả Thật, Vô Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Kiến, Thiện hiện và Sắc Cứu Cánh. Mười sáu xứ này là cõi Sắc. Hữu dục khiến thành mười bảy: Mười sáu như trước và Đại phạm, chúng sinh kia thọ sắc thân chẳng phải các dụng cụ, chẳng phải thứ hai, cho nên nói là cõi Sắc. Cõi Vô Sắc có bốn, đó là Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ, và Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Chúng sinh của xứ này không thọ sắc thân, lìa sắc dục, nên gọi là cõi Vô Sắc. Hỏi: Vì sao lập ba cõi? Vì ái dứt hay vì xứ sở? Nếu ái dứt thì lẽ ra có chín, nghĩa là ái cõi Dục dứt cõi Dục, như thế từ Sơ thiền cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Nếu vì xứ sở nên lập, thì lẽ ra có bốn mươi như trước nói? Đáp: Vì ái dứt chung nên nói, nghĩa là ái cõi Dục dứt ái cõi Dục, cũng thế ái cõi Sắc dứt ái cõi Sắc, ái cõi Vô Sắc dứt ái cõi Vô Sắc. Vì cõi Dục không nhất định, nên có một sử. Cõi Sắc, cõi Vô Sắc vì nhất định, nên không có một sử. Hỏi: Kiến lập giới (cõi) thế nào? Đáp: Xứ sở theo thứ lớp nói. Có thuyết cho là từ dưới thứ lớp lên trên, dưới hết là địa ngục Vô Trạch, kế đó là địa ngục Đại Nhiệt. Thứ lớp như thế cho đến Sắc Cứu Cánh. Trên Sắc Cứu Cánh lại có địa ngục Vô Trạch, thứ lớp cho đến Sắc Cứu Cánh. Nếu lìa dục của một cõi Dục, thì lìa dục của tất cả cõi Dục. Nếu được thần túc của Sơ thiền, thì có thể đến một cõi Dục và một Phạm Thế. Lại nữa, hữu dục khiến cùng khắp, lập giới một bên. Hỏi: Đức Thế Tôn nói bảy thức trụ, thức trụ này thế nào? Đáp: Đường thiện ở cõi Dục Và ba địa cõi Sắc Ba Vô Sắc cũng thế Đây gọi là thức trụ. Đường thiện cõi Dục, đó là hàng trời và người, ba địa trước của cõi Sắc, ba địa trước của cõi Vô Sắc. Bảy địa này gọi là thức trụ. Chúng sinh có sắc, nghĩa là thành tựu sắc thân. Các thứ thân là các thứ hình. Các thứ tưởng, là tưởng khổ, vui, không khổ, không vui, đó gọi là thức trụ ban đầu. Lại nữa, các thứ thân, như trước nói. Một tưởng, đó là tưởng nhiễm ô. Thân trời Phạm kia, lúc mới sinh, nghó thế rằng: “Ta từ trời Đại Phạm sinh”. Trời Đại Phạm nghó thế này: “Ta có thể sinh ra xứ sở cao, thấp kia và giác, quán thức thân”. Phạm thiên có các thứ thân, đó gọi là thức trụ thứ hai. Một thân là sắc thân, thì gồm hình, vị trí, chất lượng, v.v… Các thứ tưởng là tưởng vui và tưởng không khổ, không vui. Hỷ căn vốn là quyến thuộc của sự nhàm chán, xả căn lại hiện trước mặt sự nhàm chán kia rồi, thì hỷ lại hiện ở trước, đó gọi là thức trụ thứ ba. Một thân, một tưởng: Một thân, như trước đã nói, một tưởng là lạc, đó gọi là thức trụ thứ tư. Chúng sinh ở cõi Vô Sắc, không thành tựu sắc thân, vì đã lìa sắc dục. Độ tất cả tưởng sắc, hành lìa sắc nên nói vì sắc tưởng tương ưng với nhãn thức. Nếu lìa sự ham muốn của Sơ thiền, độ dục, ái hành, lìa dục vọng của đệ Tứ thiền, muốn độ hành sắc hành. Vì nghĩa này, nên nói diệt là tưởng có đối, vì tương ưng với năm thức thân. Không nhớ nghó các thứ tưởng, nghĩa là các thứ tưởng kia, phân tán khắp ở thiền thứ tư, để duyên các thứ nhập. Nếu nhiễm ô là duyên mười nhập, không nhiễm ô thì duyên mười hai nhập, vì đã lìa sự khuấy rối của dục vọng nên nói như thế. Không nhớ nghó vô lượng: Vì hành vô lượng, phương tiện tư duy nhập vào không. chính thọ không, nên nói là không xứ nhập. Không xứ nhập thành tựu, là thành tựu bốn ấm của địa kia, đó gọi là thức trụ thứ năm. Phương tiện tư duy thức nhập thức xứ, đấy gọi là thức trụ thứ sáu. Vì không có phần của hành vô lượng, nên nói là Vô sở hữu xứ, đó gọi là thức trụ thứ bảy. Hỏi: Vì sao lập bảy thức trụ? Đáp: Vì thức ưa trụ ở xứ đó, nên nói là thức trụ. Vì khổ đường ác ép ngặt, nên thức không ưa trụ. Vì trời Tịnh Cư hướng đến Niết-bàn, nên thức không ưa trụ, vì chúng sinh của trời Vô Tưởng không có tâm. Các cõi khác ở Tứ thiền, hoặc vì cầu Vô Sắc, hoặc vì cầu Tịnh Cư, hoặc vì cầu vô tưởng, nên thức không ưa trụ. Vì hữu thứ nhất không nhạy bén, nên thức không ưa trụ. Lại nữa, nếu xứ đó có pháp của thức hư hoại, thì không lập thức trụ. Vì đường ác là căn khổ hư hoại, vì Tam-muội Vô tưởng của đệ Tứ thiền bị hư hoại, vì Tam-muội Diệt tận của hữu thứ nhất bị hư hoại nên không lập thức trụ. Hỏi: Chỗ cư trú của chín loại chúng sinh thì thế nào? Đáp: Vô tưởng, hữu thứ nhất Là nói chúng sinh ở Gọi bốn ấm hữu lậu Là nói bốn thức trụ. Hữu thứ nhất Vô tưởng nói là nơi chúng sinh ở, nghĩa là trước đây đã nói bảy thức trụ và trời Vô tưởng hữu thứ nhất là chín chỗ ở của chúng sinh. Hỏi: Vì sao không nói đường ác là nơi ở của chúng sinh? Đáp: Vì không có phần ưa trụ, vì nhiều đau khổ, nên không ưa trụ, vì trời Tịnh Cư nhanh chóng hướng đến Niết-bàn, nên không ưa trụ. Còn lại đệ Tứ thiền, như trước đã nói. Hỏi: Bốn thức trụ thì thế nào? Đáp: Là bốn ấm hữu lậu tức nói bốn thức trụ, ngoại trừ thức ấm, bốn ấm hữu lậu còn lại được gọi là thức trụ. Có thuyết cho là ấm số chúng sinh, gọi là thức trụ thì không đúng. Vì sao? Vì dựa vào phần nghĩa hành tương ưng duyên, nên gọi là Trụ. Nương: Là duyên sở y của thức, năng duyên chẳng có phần sở duyên, âm Phạm là Hà-ba-tha-da, dịch nghĩa là lưu chú, nghĩa là thọ sanh thai phần nối tiếp quá khứ, vị lai tuy chẳng phải số chúng sinh, cũng có năm nghĩa, cho nên được làm thức trụ. Pháp vô lậu cũng nói thức trụ là không đúng. Vì sao? Vì thức nhiễm ô, bị hư hoại, nên không lập thức trụ, thức ấm không phải thức trụ, nên hai thứ này không có phần, trước sau không đều, không đoái nghó đến tự tính. Thức của phần mình trụ nơi ấm của phần mình, nghĩa là cõi Dục an trụ cõi Dục, so sánh như vậy, không khác cõi, không khác địa, không khác thân. Hỏi: Vì sao tự phần ấm nói là thức trụ, không nói là tự phần? Đáp: Vì tự phần ấm gồm nhiếp thức. Hỏi: Không tự phần tâm ấm và phi tâm ấm sao gọi là thức trụ? Khi tâm của giới khác trụ gọi là chẳng phại tự phần tâm ấm, khi pháp Vô tâm trụ thì gọi là phi tâm ấm. Đáp: Vì có tướng được. Tướng được đó cũng là tướng của thức trụ thành tựu. Nếu tự phần thức kia phát sinh, thì thức đó sẽ chuyển biến theo và thức đó sẽ có nghĩa thức trụ, vì nhân duyên trung gian gây trở ngại nên thức không sinh, chứ chẳng phải thức trụ chẳng có phần! Hỏi: Đức Thế Tôn nói duyên khởi, pháp duyên khởi đó có tướng gì? Đáp: Phiền não sự và nghiệp Phát sinh theo thứ lớp Nên biết là chi hữu Chúng sinh, tất cả sinh. Ba phần chi duyên khởi, đó là: Phiền não, nghiệp và sự. Phiền não, nghiệp và sự này được phát sinh theo thứ lớp của nó, gọi là chi duyên khởi, nên biết chi duyên khởi ấy: Kiến lập các phần này Là chúng sinh thọ sinh Quá hai và chưa sinh Trung gian nói có tám. Lập ra các phần này, gọi là chúng sinh thọ sinh. Đối với ba phần duyên khởi này, nói mười hai chi. Hỏi: Thế là thế nào? Đáp: Quá hai và trung gian chưa sinh, nói là tám. Khi ở đời quá khứ các phần phiền não gọi là vô minh, khi quá khứ sanh thì nghiệp gọi là hành. Hiện tại nối tiếp, gọi là Thức. Sự nối tiếp kéo dài khi sáu nhập chưa đầy đủ, gọi là danh sắc. Khi các căn đầy đủ, gọi là sáu nhập, chưa có khả năng phân biệt được khổ, vui, không khổ, không vui. Căn, trần, thức hợp nhau, gọi là Xúc. Phân biệt được khổ, vui, mà chưa phân biệt được phiền não gọi là Thọ. Ưa thích với cảnh đáng ưa, khó chịu với cảnh không đáng ưa, hoặc rời xa, hoặc hướng đến sự yêu mến, gặp nhau gọi là ái. Hiện tại đầy ắp sự bức rức gọi là thủ. Lại sinh thân sau, nói là hữu. Hiện tại có gieo trồng để sinh ấm ở vị lai, gọi là sinh. Ấm của vị lai đã chín muồi, gọi là lão. Xả bỏ ấm vị lai gọi là Tử. Ba chi hữu, phiền não Hai nghiệp, sự là bảy Bảy thứ là chi trước Năn thứ là chi sau. Ba chi hữu phiền não, hai nghiệp là: Ba chi hữu đó là: Vô minh, ái và thủ là hành của phiền não. Và hai chi hữu là nghiệp, những chi khác là sự. Bảy gọi là chi hữu trước, năm thì là nói phần sau. Có nghĩa là từ vô minh đến thọ là bảy chi, đó gọi là duyên khởi của đời trước, còn năm chi sau là duyên khởi của đời sau. Năm chi trước là quả Hai chi kế là nhân Ba chi sau là nhân Hai chi cuối là quả. Duyên khởi đời trước từ thức, cho đến thọ là quả. Vô minh, hành là nhân, Duyên khởi sau, ba chi trước là nhân, hai chi cuối là quả. Hỏi: Các chi hữu đời trước và đời sau, có xoay vần hợp nhau chăng? Đáp: Được. Việc ấy ra sao? Trước si, sau ái thủ Hành hữu hợp cũng thế Danh sắc, nhập, xúc, thọ Là nói đồng già chất Khi thức mới thọ thân Là ở đời vị lai. Hỏi: Đã biết chi hữu, trước sau xoay vần gồm nhiếp lẫn nhau. Chi hữu đó sinh khởi thế nào? Đáp: Phiền não khởi nghiệp phiền Nghiệp đó chuyển sinh sự Sự cũng sinh ra sự Cũng lại sinh phiền não. Duyên phiền não sinh phiền não: Đó là duyên ái sinh ra thủ. Duyên phiền não sinh ra nghiệp, đó là duyên thủ sinh ra hữu, duyên nghiệp sinh ra sự, đó là duyên hữu sinh ra sinh. Duyên sự sinh ra sự, đó là duyên sinh, sinh ra gìa chết. Duyên sự lại sinh ra phiền não, nghĩa là như trước đã nói: Danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ tức là chi sau của già chết. Vì lý do đó, nên nói duyên thọ sinh ái, cũng nói duyên già chết, sinh ra vô minh, đó gọi là vô thỉ hữu luân. Hỏi: Có bốn thứ duyên khởi. Bốn thứ đó là gì? Đáp: Là chúng nối tiếp chuyển Sát-na và ràng buộc Cùng trước là phần đoạn Đó gọi là duyên khởi. Nối tiếp chuyển là nghĩa vô thỉ. Vì nhân quả lần lượt ràng buộc nhau nên nói là vòng duyên khởi. Cũng như mặt trăng đầy vơi không thể biết. Thế nên, Tu-đa-la nói: Bốn tế của hữu, ái không thể biết! Nên nói điều cần nói, không thể biết cái mình có, có mà chẳng thể biết là không đúng. Vì sao? Vì không có nhân của lời nói. Lời nói không, nghĩa là nếu có người hỏi, tại sao không, tức không thừa nhận nhân của lời nói. Lời nói không thể biết, nghĩa là nếu có người hỏi, vì sao không thể biết, thì đáp vì vô thủy, như trăng đầy vơi không thể biết! Nhân duyên như vậy, là duyên khởi nối tiếp nhau. Như vầng trăng đầy vơi không thể biết, cho nên nói là không thể biết. Trong khoảng một sát-na, tất cả chi hữu đều hiện ở trước mặt, nên nói là sát-na. Như Luận Thức Thân nói: Đối với sự trang nghiêm, vì vô tri, nên khởi lên lòng tham. Vô tri ấy là vô minh, tham ấy là hành. Ở sự biết là thức, thức cùng sinh khởi với bốn ấm kia, gọi là danh sắc. Danh sắc lập ra các căn, là sáu nhập, sáu nhập bị chấp lấy là xúc. Cảm giác có được từ xúc là thọ. Mừng vui do thọ sinh ra là ái. Ái cùng với sinh nối tiếp là thủ. Thọ sinh ra nghiệp đời sau là hữu. Khởi năm ấm của đời sau là sinh. Năm ấm ấy chín muồi là già, từ bỏ năm ấm là tư, vì lần lượt ràng buộc lẫn nhau, nên nói là nhân duyên ràng buộc nối tiếp. Sự lần lượt của căn bản là nghĩa lâu xa, không phải chỉ có mười hai chi, gọi là duyên khởi, hoặc này sinh, hoặc sở sinh, tất cả pháp hữu vi đều nói là duyên khởi. Tôn giả Phú-na-da-xá nói: “Hoặc duyên khởi chẳng phải là đã duyên khởi”. Đó là pháp vị lai. Đã duyên khởi chẳng phải duyên khởi thì đó là năm ấm ở quá khứ và hiện tại của vị A-la-hán qua đời. Duyên khởi rồi duyên khởi: nghĩa là trừ năm ấm quá khứ, hiện tại của vị A-la- hán qua đời. Các pháp quá khứ, hiện tại khác, không phải duyên khởi, không phải đã duyên khởi, đó là pháp vô vi, vì giữa phần đoạn có thể được, nên nói là phần đoạn. Phiền não sinh ra vào đời quá khứ, phân ra, nói là vô minh phần còn lại, như trước đã nói. Hỏi: Đức Thế Tôn nói sinh và đường, thì sinh gồm nhiếp cả đường hay đường gồm nhiếp sinh? Đáp: Sinh nhiếp tất cả đường Chẳng phải đường nhiếp sinh Vì sinh trung ấm tăng Nên biết chẳng thuộc đường. Sinh gồm nhiếp đường không phải đường gồm nhiếp sinh. Hỏi: Vì sao? Đáp: Vì trung ấm trong sinh gia tăng. Trung ấm là thuộc về sinh, không phải thuộc về đường, vì đến, nên nói là thú. Trung ấm, là đi, chẳngg phải đến, cho nên, không phải cõi. Sinh nghĩa là bốn cách sinh: Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh. Cõi Dục có đủ bốn thứ. Cõi Sắc, cõi Vô Sắc hết thảy là hóa sinh. Địa ngục hóa sinh, súc sinh có bốn thứ. Ngạ quỷ hóa sinh cũng có thai sinh. Cõi người có bốn thứ, cõi trời hóa sinh, hóa sinh nhiều nhất, vì hoàn toàn là hai đường, phần ít của ba đường, nên cũng cho đó là hơn hết. Hỏi: Nếu là hơn hết, thì Đức Thế Tôn tại sao không hóa sinh? Đáp: Không cùng thời. Nếu lúc có hóa sinh thì không có Đức Phật ra đời và thời kỳ nào có Phật xuất hiện ở thế gian thì không có người hóa sinh. Lại nữa, vì Nhất thiết thắng, Đức Thế Tôn là chủng tính do Nhất thiết thắng sinh ra nên Ngài là tối thắng đối với tất cả chúng sinh, cũng là để nói pháp cho người tín thọ, cũng là để dứt trừ tính cao ngạo của dòng họ. Đường là năm đường: Địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, người, trời. Vì không có gì đáng vui, nên gọi là địa ngục. Vì thân đi ngang, nên nói là súc sinh. Vì mong cầu từ người khác, nên nói là ngạ quỷ. Vì ý vắng lặng nên nói là con người. Vì sáng suốt, nên nói là trời. Vì có dục, nên A-tu- la và trời đồng ở một đường, thế nên có lời nói ông trước kia là trời. Hỏi: Nếu vậy vì sao họ không kiến đế? Đáp: Vì họ đã bị tính dua nịnh che lấp. Có thuyết cho là ngạ quỷ đại lực, đường trời không nói. Hỏi: Nếu vậy tại sao Trời Đế-thích lại quen gần với họ? Đáp: Vì do tham sắc. Phải gánh vác nhiều là Cưu-bàn-trà, Lặc- xoa, cũng thuộc về đường ngạ quỷ. Khẩn-na-la, Tỳ-xá-già, Hê-lỗ-bà, Ca-xà-la, Phả-cầu-la, thuộc về đường súc sinh. Hỏi: Đức Thế Tôn nói sáu cõi, sáu cõi này thế nào? Đáp: Cái gọi bốn đại chủng Và các thức hữu lậu Cũng tướng trung gian sắc Cõi này là gốc sinh. Cái gọi là bốn đại chủng và các thức hữu lậu, cũng là tướng trung gian của sắc: Đó là năm thức thân của bốn đại và ý thức hữu lậu cũng là trung gian của sắc, là chốn mà mắt thọ nhận là “Số không giới”, đó gọi là sáu giới. Hỏi: Đã nói mười tám giới, vì sao lại còn nói riêng sáu giới? Đáp: Vì sáu giới này là gốc để sinh ra. Giới này còn được gọi là “Số só phu”, vì lập ra căn bản của sự sinh, nên pháp vô lậu không lập trong sáu giới. Bốn đại như đã nói trong phẩm Giới. Hỏi: Đế có tướng gì? Đáp: Là các hành, tính quả Hữu lậu là nói khổ tính nhân chính là tập Diệt đế, các khổ dứt. Là các hành của tính quả, hữu lậu chính là khổ. nghĩa là tất cả hành hữu lậu, vì có nhân và tính ràng buộc nên nói là khổ. tính của nhân chính là nhóm hợp. nghĩa là hành hữu lậu này là tính của nhân, gọi là tập đế. Vì vậy khổ, tập là một vật do nhân quả mà lập ra hai đế. Diệt đế thì các khổ đều dứt hết, tất cả pháp hữu lậu rốt ráo vắng lặng, đó là diệt đế. Nếu các hành vô lậu Đó gọi là đạo đế Vì hai nhân duyên này Thô, tế lần lượt hiện. Nếu các hành vô lậu, đó gọi là đạo đế, nghĩa là hết thảy hành vô lậu, đều gọi là đạo đế, vì có sự trái nhau. Hỏi: Tại sao gọi là đế? Đáp: Vì do hai nhân duyên. Có hai nhân duyên mới được gọi là đế, đó là tự tính không giả dối và kiến. Tự tính đó đã được giác ngộ, không điên đảo. Hư không chẳng thường duyên theo sự vắng lặng, nên dù tự tính không giả dối, nhưng vì vô ký, vì vô lậu, nên không nói là đế! Nếu pháp là khổ, là nhân của khổ, là lìa khổ, là đối trị khổ thì pháp ấy mới được lập đế. Vì pháp kia là vô lậu, không phải khổ, không phải nhân của khổ, vì vô ký nên chẳng phải lìa khổ, vì vô vi nên không phải đối trị khổ. Thế nên nói bốn đế là bệnh, nhân của bệnh, dứt bệnh thì thuốc chữa bệnh, cũng nói như vậy. Hỏi: Thánh đế có nghĩa là gì? Đáp: Thánh đã khởi sự giác ngộ chân thật, đối với các đế này và còn bảo cho người khác biết rõ nữa, nên gọi là Thánh đế. Tướng bức bách này gọi là khổ, tướng sinh gọi là tập, tướng lặng dứt gọi là diệt, tướng ra khỏi gọi là đạo. Hỏi: Đáng lẽ nhân trước, quả sau, tại sao Đức Thế Tôn lại nói quả trước? Đáp: Thô, tế thứ lớp biểu hiện. Mặc dù như vậy nhưng thuận theo vô gián đẳng nên nói quả trước, vì khổ thô to nên trước là vô gián đẳng. So sánh như vậy, diệt tuy là vi tế, nhưng chẳng phải đạo, trước lập bày nói đế cầu diệt, mà thô chẳng phải đạo. Lại nữa, vì nghĩa dễ vượt qua, nên từ thô thứ lớp lập thô, về khổ của cõi Dục, Đức Thế Tôn nói vô gián đẳng trước. Về sau mới nói đến khổ cõi Sắc, cõi Vô Sắc. Nỗi khổ cõi Sắc dù thô, chứ chẳng phải như cõi Vô Sắc là định, bất định, thế nên, có một vô gián đẳng, v.v… Hỏi: Chân đế vô gián đẳng v.v… là thế nào? Là tự tướng hay cộng tướng? Đáp: Vì đế nên là tự tướng, vì ấm nên là cộng tướng. Hỏi: Đức Thế Tôn nói bốn quả Sa-môn có bao nhiêu việc? Đáp: Quả Thánh có sáu việc Hơn hết ở chín địa Thứ ba ở sáu địa Hai quả nương vị lai. Quả Thánh có sáu việc: nghĩa là có sáu việc nói về quả Sa-môn, đó là năm ấm vô lậu và số diệt. Đạo Thánh nói là quả Sa-môn, đạo Thánh đó là quả này. Về quả Sa-môn sẽ nói rộng trong phẩm Trạch. Hỏi: Quả Sa-môn ấy thuộc về địa nào? Đáp: Trên hết là chín địa, quả A-la-hán thuộc chín địa, đó là thiền vị lai, trung gian, bốn thiền căn bản và ba Vô Sắc. Thứ ba ở sáu địa: nghĩa là quả A-na-hàm thuộc về sáu địa, trừ Vô Sắc. Hai quả dựa vào vị lai là quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm còn dựa vào vị lai, vì chưa lìa dục! Hỏi: Đạo có tướng gì? Đáp: Hành pháp tùy tín hành Lìa tướng phiền não chậm Hành pháp tùy pháp hành Lìa tướng phiền não nhanh. Hành pháp tùy tín hành, lìa tướng phiền não chậm, nghĩa là tùy tín hành đã thực hành pháp vô lậu, và thuộc về loại căn mềm yếu, nên biết là chậm chạp. Nếu theo chỗ tiếp nhận của tín hành nên biết, có tín giải thoát, thời giải thoát, cũng tiếp nhận, cùng với căn mềm yếu, hành pháp tùy pháp hành. Lìa tướng phiền não nhanh, nghĩa là tùy pháp hành nên đã thực hành pháp vô lậu và thuộc về loại căn nhạy bén nên biết là đạo nhanh chóng. Nếu tùy theo sự tiếp nhận của pháp hành, nên biết kiến đáo, bất thời giải thoát, cũng tiếp nhận đồng với căn cơ nhạy bén. Trong địa thiền căn bản Nên biết là đạo vui Vì giảm và, khó được Nên biết là nói khổ. Trong địa thiền căn bản, nên biết là đạo yên vui: Pháp của căn cơ yếu nơi địa Tứ thiền căn bản và pháp của căn cơ nhạy bén, được gọi là đạo yên vui, vì chỉ quán, v.v… hành của đạo yên vui nơi địa thiền căn bản kia giảm ít và khó được. Nên biết là nói khổ, nghĩa là căn cứ vào địa khác để nói là đạo khổ, vì giảm ít. Đó là chỉ đạo giảm ít ở thiền trung gian, vị lai, và đạo quán của định Vô Sắc tắt mất, vì phương tiện đó rất khó được, nên nói là khổ, chứ không phải Thánh đạo là tính thọ nhận khổ, cũng chẳng phải tương ưng với khổ thọ. Dù là đạo của khổ dứt hết, nhưng cũng có vô lượng phân biệt. Vì kiến lập địa này và căn nên nói có bốn. Địa của thiền căn bản kia, nếu là căn cơ nhạy bén nói là đạo vui và đạo nhanh. Nếu là cơ căn chậm lụt, thì nói là đạo vui và chẳng phải đạo nhanh. Đạo của địa khác, nếu là căn cơ nhạy bén nói là đạo khổ và đạo nhanh. Nếu là căn cơ chậm lụt nói là đạo khổ và chẳng phải đạo nhanh. Vì thắng tiến nên nói là đạo, vì chính thời giải thoát nên nói là Đạo. Hỏi: Thế nào là tịnh không hư hoại? Đáp: Phật và pháp Thanh văn Giải thoát, cũng nhân khác Tín thanh tịnh, không nhơ Giới Thánh, là quyết định. Đức Phật và pháp của Thanh văn, giải thoát cũng có nhân khác, thanh tịnh, sự tin tưởng không cấu uế: nghĩa là nếu ở chỗ Phật được pháp vô học, khởi niềm tin vô lậu đó gọi là tịnh không hư hoại đối với Phật. Nếu ở trụ xứ của tăng mà thực hành pháp học, vô học rồi khởi lên sự tin tưởng vô lậu, đấy gọi là tịnh không hư hoại đối với Tăng. Nếu đối với Niết-bàn, khởi niềm tin vô lậu, ngoại trừ pháp trước đã nói, đó là đối với khổ đế, tập đế khác và công đức vô lậu của Bồ-tát và công đức vô lậu của Bích-chi-Phật, phát sinh niềm tin vô lậu, đó gọi là pháp duyên không hư hoại, tịnh không hư hoại (vì duyên riêng với pháp bảo, nên nhất định duyên không hư hoại). Nếu đối với pháp của Phật, pháp của Bích-chi-Phật và pháp của Thanh văn, khởi lên niềm tin vô lậu, đó gọi là pháp duyên hư hoại, tịnh không hư hoại (Vì duyên Tam bảo lẫn lộn, nên nói là duyên hư hoại). Giới của Thánh: Giới vô lậu là bốn đại tịnh (Niềm tin là tâm tịnh, giới là bốn đại tịnh). Hỏi: Vì sao vô lậu nói là tịnh không hư hoại? Đáp: Vì đó là quyết định, trí chân thật đều sinh với niềm tin vô lậu. Giới quyết định niềm tin hữu lậu, bị sự không tin làm hư hoại. Giới hữu lậu bị giới ác hủy hoại. Giới vô lậu, qua nhiều đời không hư hoại, do quyết định này nên lập vô lậu là tịnh không hư hoại. (Về nghĩa này, sẽ nói rộng trong phẩm Trạch) Hỏi: Tu định có tướng gì? Đáp: Nếu có thiện, Sơ thiền Gọi là vui hiện pháp Là được trí sinh tử Đó gọi là tri kiến. Nếu Sơ thiền đều có thiện, gọi là niềm vui hiện pháp, nghĩa là tịnh vô lậu, Sơ thiền, trụ an lạc ở hiện pháp, đó gọi là tu định được vui hiện pháp. Nên biết đệ Tứ thiền cũng như vậy. Sơ thiền cũng nói là trụ trong niềm vui của đời sau, nhưng không phải tất cả, vì hoặc là lùi lại, hoặc sinh lên địa trên, hoặc nhập Niết-bàn. Vì niềm vui của đời sau không nhất định, nên Đức Thế Tôn nói là an trụ niềm vui hiện pháp, gọi là được trí sinh tử, ấy gọi là tri kiến, là sinh tử trí thông, gọi là do tu định được. Tri kiến, như nói lực, xứ đều nên biết. Nên biết tuệ phân biệt Phương tiện sinh công đức Kim Cương dụ, Tứ thiền Đó gọi là lậu tận. Nên biết, phương tiện tuệ phân biệt phát sinh công đức, nghĩa là nếu phương tiện phát sinh các công đức, từ pháp thiện muốn được văn, tư, tu thiện của ba cõi và vô lậu thì tất cả pháp thiện này được gọi tên, là tu định được tuệ phân biệt. Tứ thiền của Kim Cương dụ, đó gọi là lậu tận. nghĩa là định Kim Cương dụ được gọi là sự tương ưng của tâm học sau cùng, dựa vào đệ Tứ thiền, đó gọi là tu định được lậu tận. Đây là Đức Thế Tôn đã tự mình nói ái của tất cả Bồ-tát, ở Vô sở hữu xứ của đệ Tứ thiền đều dứt hết, dựa vào đệ Tứ thiền vượt lên ly sinh, cho đến lậu tận. Hỏi: Những gì là tự tính của như ý túc? Đáp: Các pháp hữu vi thiện Từ phương tiện sanh khởi, Phật nói như ý túc Đó cũng nói chính đoạn. Các pháp hữu vi thiện do phương tiện sanh khởi, Đức Phật nói như ý túc: nghĩa là trước đây nói phương tiện đã sinh ra công đức. Tất cả phương tiêän đó là đồ đựng như ý, nên nói là như ý túc. Tâm mình tự tại, phát sinh đủ các thứ công đức nên nói là như ý túc. Vì công đức kia đầy đủ như ý, nên nói là như ý túc. Công cụ của chi túc đều đồng một nghĩa. Hỏi: Việc này ra sao? Đáp: Gọi là Tam-muội, Tam-muội đó lại chia làm bốn thứ tăng thượng. Nếu dục tăng thượng khởi Tam-muội, gọi là dục định. Tâm tinh tiến, tuệ tăng thượng khởi Tam-muội cũng như vậy, vì định kia, trước là dục nên dục tăng thượng. Dục đã sinh rồi, vì muốn được thành tựu, nên tinh tiến tăng thượng. Vận dụng phương tiện tinh tiến rồi, thì thuận theo mong cầu, nên tâm tăng thượng. Đối với dục, tâm tinh tiến hướng đến chân chính, vì như ý túc là rốt ráo, cho nên tuệ tăng thượng. Do vậy, nếu không có tuệ thì mọi thứ dục khác đều mất. Hỏi: Thế nào là như ý? Thế nào là túc? Đáp: Định là như ý, dục v.v… là túc. Dù có các pháp như thọ, v.v… sinh ra, nhưng chỉ giữ lấy sự sinh định này nên gọi là túc. (Về nghĩa này, sẽ nói rộng trong phẩm Tạp). Như ý túc ấy , cũng nói là chính đoạn, nghĩa là chính các công đức này, được nói là chính đoạn, vì ngọn lửa chính trí đốt rụi cỏ phiền não, nên nói là sự đốt cháy chân chính. Vì trí tuệ ấy cũng dứt các phiền não, nên nói là chính đoạn. Hơn nữa, vì dứt trừ phiền não hơn hết, nên nói là chính thắng. Các công đức, các lỗi ác kia, bỏ sự nuôi lớn, hoặc đề phòng, hoặc gia tăng, đều có thể có khả năng, nên nói là chính đoạn. chính đoạn đó, lại chia ra bốn thứ sự, như trong một sát-na, chiếc đèn đã làm nên bốn việc, đó là: Sự đốt cháy tim đèn, dầu cạn, bình đựng dầu nóng lên, bóng tối bị phá tan. Như vậy, trong một sát-na, sự tinh tiến được biểu hiện ở trước mặt, đã làm bốn sự đối trị pháp ác đã sinh v.v…, như Tu-đa-la có nói rộng: Chấm dứt chủng phiền não, căn đạo dứt được phiền não quá khứ, vị lai. Phiền não đã dứt được, là nói quá khứ đã mất, vị lai không khởi. Dù đã dứt tất cả hữu lậu, nhưng vì pháp ác cực ác, trái với Thánh đạo, nên chỉ nói pháp ác cắt đứt sự sanh, vì một quả nên nói là điều ác sinh, hai quả nên nói là bất thiện. Vì đã sinh pháp thiện, an trụ nối tiếp nhau, nên nói là trụ. Vì phẩm hạ trung thượng tăng trưởng, nên nói là lại tu thêm rộng. Dù A-la-hán không có pháp nào bất thiện và đối trị đoạn, mà vẫn có pháp đối trị hư hoại (sự chê bai, quở trách là đối trị hư hoại), đem đối trị để đối trị với phần xa, cũng nói là bốn chính đoạn. Cõi Sắc, cõi Vô Sắc cũng như vậy. Đây nói bốn niệm xứ Bốn Thánh chủng cũng vậy Như tăng thượng kia sinh Là đều nói theo danh. Ở đây nói bốn niệm xứ, nghĩa là trước đã nói về công đức, cũng nói về niệm xứ, đó là thân, thọ, tâm, pháp, trong ngoài đều có tự tướng và cộng tướng, vì thuận theo quán nên nói là niệm xứ, như đã nói trong phẩm Hiền Thánh. Bốn Thánh chủng cũng vậy, công đức nói ở trước, cũng nói bốn hạt giống Thánh, vì bậc Thánh lấy bốn niệm xứ này làm hạt giống, nên nói là Thánh Chủng, vì Thánh đã sinh ra từ bốn niệm xứ đó, nên gọi là Thánh chủng. Hỏi: Thánh chủng có tính chất gì? Đáp: Thánh chủng có tính chất của căn thiện vô tham. Nếu quyến thuộc là tính của năm ấm, thì bốn thứ ái đã nhận lấy pháp đối trị, nên nói là bốn nhân, nương dựa nhau sinh ra nhân của ái. Nhân khất thực, nhân của dụng cụ ngồi nằm, hữu vô hữu sinh ái (không có ái, nghĩa là ái đã đoạn, đã diệt trừ là ba thứ ở trên và ái này. Ái khác, có tên chung là hữu ái). Tùy thuộc vào ái đó, theo thứ lớp đối trị, lập bốn hạt giống Thánh. Vì y phục, sự khất thực bao gồm cả thuốc thang, lại không tất cả, vì không tất cả thời, nên thuốc thang không lập riêng, vì hạt giống Thánh sinh khởi ở cảnh giới hiện tại. Tri túc (sự biết đủ) lập Thánh chủng, không phải là thiểu dục (ít ham muốn) tri túc là khởi hiện ngay ở hiện tại, thiểu dục ở vị lai sinh khởi hiện tại, không lấy một đồng tiền là khó, chẳng phải là hạt giống Thánh của vua Chuyển luân trong vị lai. Đối với người xuất gia có hai điều tốt đẹp, đó là niềm hy vọng và sự thọ dụng, người tại gia, chỉ có mỗi sự hy vọng. Hạt giống, nghĩa là gìn giữ, cho nên luật nghi biệt giải thoát lấy vô tác (không có tạo tác) làm chủng tử Thánh, không phải làm cõi Sắc, Vô Sắc, tuy không có áo, cơm nhưng có chủng tử Thánh, đó là luật nghi vô lậu. Hỏi: Vì sao nói các công đức này là như ý túc, cho đến Thánh chủng? Đáp: Sự phát sinh tăng thượng như vậy là đều theo danh mà nói các công đức ấy. Vì định phát sinh tăng thượng nên nói là như ý túc. Vì tinh tiến phát sinh tăng thượng, nên nói là chính đoạn. Vì niệm sinh khởi tăng thượng nên nói là niệm xứ. Vì tri túc sinh khởi tăng thượng nên nói là Thánh chủng. Hỏi: Đức Thế Tôn nói ba mươi bảy phẩm giác có bao nhiêu chủng tính? Đáp: Tín tịnh, tinh tiến, niệm Trí tuệ và hỷ ỷ Giác phẩm tương ưng xả Tư, giới, Tam-ma-đề. Mười việc như đã nói phần phẩm giác khác đều nhập vào mười việc đó. Thế là thế nào? nghĩa là Tín là tín căn, tín lực. Tinh tiến là chính đoạn, tinh tiến căn, tinh tiến lực, tinh tiến giác chi. chính phương tiện, niệm là niệm căn, niệm lực, niệm giác chi. chính niệm tuệ là niệm xứ, tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp, giác chi, và chính kiến. Hỷ là hỷ giác chi. Ỷ là ỷ giác chi, và xả là xả giác chi. Tư là chính tư duy, giới là chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng. Tam-ma-đề là như ý túc, định căn, định lực, định giác chi, và chính định. Tỳ-bà-sa cho rằng: Giới có hai thứ: Thân nghiệp, khẩu nghiệp không hư hoại, nên nói có mười một sự. Hỏi: Vì sao các pháp này được lập bằng nhiều cách? Đáp: Xứ, phương tiện tự tại Độn và lợi cũng thế Kiến đạo cũng tu đạo Nên nói ba mươi bảy. Xứ là chính duyên, xứ đã được lập nên nói là niệm xứ. Phương tiện nghĩa là chính phương tiện, nên nói là chính đoạn. Tự tại là công đức tự tại, nên nói là như ý túc. Mềm yếu là năm pháp như tín, v.v…, mềm yếu là nói về căn. Và sự nhạy bén cũng vậy: Trong các căn này, nếu tăng thượng là nói lực. Thế nên, nghĩa tăng thượng là nói căn, vì khó điều phục nên nói là lực. Hỏi: Những gì là căn? Thế nào là thứ lớp? Đáp: Tín, tinh tiến, niệm, định, và tuệ là căn. Thứ lớp nghĩa là tin nhân quả, có công năng làm căn bản cho tất cả pháp thiện, nên trước là nói về tín. Vì tin rồi sẽ từ bỏ điều ác, tu việc thiện, nên tinh tiến phương tiện. Dùng phương tiện tinh tiến rồi, tâm thường nhớ nghó cảnh giới. Tâm đã an trụ rồi, thì duyên không tán loạn. Không tán loạn rồi, mới có khả năng quán sát. Lại nữa, quán sát pháp rồi, tâm mới định. tâm đã định, an trụ theo niệm chân chính (chính niệm). An trụ chính niệm xong, chính niệm mới có thể quán sát đúng. Quan sát đúng rồi mới tin nghiệp quả. Đó là nói theo thứ lớp nghịch. Hỏi: Lập năm căn thế nào? Đáp: Vì địa, nên lập ở sơ nghiệp của địa kia. Tín, tu, là nói sự huân tu, là do niềm tin đã un đúc nghiệp ban đầu. Tất cả sự tu dưới đây nên biết như vậy. Vì sự tu dẫn dắt tất cả pháp tốt đẹp. Kiến địa tu tinh tiến, kiến đạo tăng tiến mau chóng. Bạc địa gọi là niệm. Tu niệm trụ, khiến cho tham, sân, si trở nên mỏng yếu. Địa lìa dục gọi là định vì tu định, tu thiền căn bản. Địa vô học gọi là tuệ, tu tuệ lìa hẳn vô minh. Nói về lực, cũng như vậy. Kiến đạo: Là chi kiến đạo, tu kiến đạo tăng tiến rất nhanh chóng. Từ chính kiến cho đến chính định, người tu hành kia hiển bày về tự tướng và cộng tướng của các pháp, nên nói là chính kiến. Suy lường nghĩa chính, nên nói là chính tư duy. Không thuộc tà mạng lìa bốn điều ác của miệng, gọi là chính ngữ. Không thuộc tà mạng và lìa ba nghiệp ác của thân, gọi là chính nghiệp. Tà mạng thường diệt và lìa, nói là chính mạng. Vì có thể thực hiện phương tiện chân chính nên gọi là chính phương tiện. Vì duyên không quên niệm đúng đắn, nên gọi là chính niệm. Vì giữ lấy một tâm niệm đúng đắn, nên gọi là chính định. Theo thứ lớp, như Tu-đa-la nói: chính kiến, nghĩa là chính kiến kia là đạo, cũng là chi đạo. Những cái khác cho là chi đạo thì không phải đạo. Như định là thiền, cũng là chi thiền, những định khác cho là chi thiền, thì chẳng phải thiền. Như nói tám thứ định, cũng như vậy. Tu đạo, là giác chi tu đạo. Tu đạo đã dứt chín phẩm phiền não. Vì đoạn nên được cực giác ngộ, do nghĩa giác nên nói là giác chi. Trạch pháp giác kia là giác, cũng là chi giác. Những cái khác cho là giác chi, thì không phải giác, là theo thứ lớp như Tu-đa-la nói. Hỏi: Vì sao hỷ, ỷ, xả lập giác chi, mà chẳng phải đạo chi? chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, lập đạo chi mà chẳng phải giác chi? Tín đều chẳng phải? Đáp: Vì thuận theo giác, cho đến biết duyên, thường sinh hỷ, cho đến sinh hỷ thường sinh giác, đó là chấm dứt tất cả sự và xả thường sinh giác. Vì không thuận theo tinh tiến, nên chẳng phải đạo chi. Tiến tới là nghĩa đạo. Hỷ là không đi, vì vui với chỗ ở. Vì ỷ, xả hoàn toàn trái với đi, nên không nói là đạo chi. Giới là tiếng nói của đạo luận, nên lập đạo luận, vì không tương ưng với chi nên không phải là giác chi. chính tư duy là vì cố tìm chính kiến cho nên tiến tới đi tới, thuận theo không phải giác, nên lập đạo chi mà không phải giác chi. Tín là mới tập vượt qua, còn giác đạo là đã vượt qua, cho nên đều không lập. Nói ba mươi bảy, nghĩa là mười pháp này đều khác nhau, vì phân biệt sự, nên Đức Thế Tôn nói có ba mươi bảy. sơ nghiệp địa nói là niệm xứ, vì phân biệt tu về thân, v.v… Pháp noãn được gọi là chính phương tiện, vì lửa của Thánh trí sinh ra noãn. Pháp Đảnh gọi là như ý túc, vì được công đức tự tại của pháp Đảnh. Pháp nhẫn được gọi là căn, vì căn đó tinh tiến thêm lên. Pháp thế gian đệ nhất gọi là lực trụ, vì uy lực đó không thể khuất phục. Kiến đạo nói là đạo chi, vì sự tiến đến rất nhanh chóng. Tu đạo được nói là giác chi, vì giác ngộ. Vì thường tăng dần, nên trước là giác chi, kế là đạo chi, từ bốn cho đến tám, đó là các phẩm giác. Nhị thiền, ba mươi sáu Vị lai cũng như vậy Ba, bốn và trung gian Đều là ba mươi lăm. Nhị thiền ba mươi sáu: trừ địa chính tư, vì không có sự tư duy. Vị lai cũng như vậy, nghĩa là thiền vị lai cũng có ba mươi sáu, trừ hỷ, vì khó sanh khởi (Thiền vị lai khó sinh ra hỷ). Ba, bốn và thiền trung gian, đều là ba mươi lăm, nghĩa là đệ Tam thiền, đệ Tứ thiền và thiền trung gian có ba mươi lăm (trừ hỷ) và chính tư duy. Sơ thiền nói tất cả Vô Sắc ba mươi hai Trên hết hai mươi hai Cõi Dục cũng như vậy. Sơ thiền nói tất ca: nghĩa là Sơ thiền có ba mươi bảy phẩm, Vô Sắc có ba mươi hai, nghĩa là ba Vô Sắc có ba mươi hai, trừ hỷ, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng. Trên hết có hai mươi hai, nghĩa là Phi tưởng Phi phi tưởng xứ không có Đạo chi và Giác chi. Dù đạo chi là hữu lậu, nhưng vì nói sau giác chi, nên biết là vô lậu. Cho nên Tu-đa-la nói: Ba mươi bảy phẩm giác hoàn toàn vô lậu. Như Tu-đa-la nói: Tu quán bất tịnh đều niệm giác chi. Người tu quán kia, vì dùng Quán bất tịnh để điều phục tâm mình, sau đó giác chi mới hiện ở trước mặt. Cõi Dục cũng như vậy. Cõi Dục cũng có hai mươi hai. Hỏi: Bốn cách ăn ở địa nào và có tính chất gì? Đáp: Ăn vốc, trong các ăn Cõi Dục nói ba nhập Thức, tư và xúc thực Ăn này là hữu lậu. Ăn vốc trong các cách ăn, cõi Dục nói ba nhập: thứ: Ăn vốc là ba xứ nhập trong cõi Dục, đó là: Hương, vị, xúc. Về sự thì có mười ba, nghĩa là mười một xúc và hương, vị. Tùy theo sự thích hợp, mà họ hoặc dùng cỏ, cây, rễ, trái, hoặc dùng ngũ cốc, nước ép, hoặc dùng mùi hương, hoặc dùng hơi ấm áp, cứ như vậy mà so sánh. Thức tư và xúc thực, ăn này là hữu lậu. nghĩa là, là ba cách ăn hữu lậu thức, tư, xúc, giữ cho sự sống nối tiếp và vì là chiêu cảm hữu, cho nên nói là ăn. Vô lậu xúc v.v… tuy cũng gồm nhiếp để duy trì các căn bốn đại, mà không chiêu hữu, lại dứt hữu, nên không phải ăn. Hỏi: Vì sao sắc chẳng phải ăn? Đáp: Vì sắc thô nên chẳng phải ăn, vì sắc hư hoại nên gọi là ăn. Sắc không thể cực gồm nhiếp cả bốn đại của các căn. nghĩa gồm thâu là nghĩa ăn (Về nghĩa này sẽ nói rộng trong phẩm Trạch). Hỏi: Ba Tam-muội, mỗi Tam-muội có bao nhiêu hành chuyển biến? Đáp: Vô nguyện có mười hành Hai hành là định không Bốn hành, là vô tướng Ấy gọi là Thánh hạnh. Vô nguyện có mười hành: Tam-muội vô nguyện có mười hành chuyển. Đó là: Hành vô thường, hành khổ, bốn hành tập, bốn hành đạo. Hai hành là không định: Là không Tam-muội, hành không và hành vô ngã chuyển. Bốn hành là vô tướng, ấy gọi là Thánh hành, nghĩa là Tam- muội vô tướng có bốn hành chuyển biến của diệt đế (đã nói rộng trong phẩm Định). Hỏi: Bốn điên đảo là gì? Dứt những tính nào? Đáp: Nói bốn điên đảo kia Nên biết thấy khổ dứt Tự tính ba kiến thêm Thấy chân thật, rõ ràng. Nói bốn điên đảo kia, nên biết thấy khổ dứt: nghĩa là tất cả bốn điên đảo, vì không xa tìm căn bản, vì sinh khởi khổ xứ, nên thấy khổ dứt. Tỳ-bà-xà bà-đề muốn cho mười hai thứ điên đảo được gọi là vô thường, nghó ngược lại, tưởng ngược lại, thấy ngược lại v.v.… là thường biết, ngoài ra cũng như vậy. Tám thứ thấy đạo dứt kia: Vô thường, vô ngã có sáu (hai thứ này mỗi thứ đều có tâm, tưởng, kiến, thành sáu). Khổ thấy ngược là có vui, bất tịnh thấy tịnh, đó là bốn thứ ngược. Kiến đạo, tu đạo, dứt khổ và tưởng đảo, tâm đảo về bất tịnh (thấy vui, tịnh, hoàn toàn kiến đế, đoạn tưởng lạc tịnh. Hai kiến đạo tu đạo dứt là do kiến đế, nghĩa là kiến đoạn mà tâm tưởng không hết). Nói như vậy, nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì điên đảo là tính của thấy, vì tưởng, tâm là chỗ loạn của kiến. Nói tưởng tâm là thọ nhận đảo ngượcv.v… Mặc dù cái thấy bi lộn xộn, nhưng vì không phải bị đời ràng buộc, cho nên không nói. Nếu hỏi Tu- đà-hoàn, thế nào là sự đắm nhiễm, nghĩa là vì không dứt phiền não. Như tại gia, Tu-đà-hoàn dứt ngã đảo, cũng giống như khởi kiết của nam, nữ. Tưởng phi pháp, khởi ra kiết về nam, nữ cũng như vậy. Tự tính của ba kiến tăng, kiến chân thật, nghĩa là sự rõ ràng bốn thứ điên đảo này, là tự tính của ba kiến, chỉ nói phần ít. Kiến chân thật mới được kiến lập. Hỏi: Tại sao? Đáp: Vì tăng thêm lên. Nếu kiến kia, kiến lập tăng thêm phần điên đảo, thì đó như là lập ngã kiến trong thân kiến, là điên đảo, không phải là cái thấy của ngã, lập thường kiến trong biên kiến, là điên đảo, không phải đoạn kiến, lập kiến lạc, tịnh trong kiến thủ là điên đảo, không phải pháp nào khác (chấp xấu là tốt, chấp kém là hơn, như vậy, tất cả đều là điên đảo), đều là kiến thủ, chỉ vì nhẹ. Hỏi: Vì sao kiến khác không lập sự điên đảo? Đáp: Vì có ba việc, nên nói là điên đảo. Đó là sự quyết đoán, bịa đặt giả dối, hoàn toàn điên đảo. (Hoàn toàn điên đảo, nghĩa là trái với sự đứng đắn, đổi dưới thành trên). Hết mực điên đảo, nghĩa là tà kiến và biên kiến kia thuộc về đoạn kiến. Dù là quyết đoán và hoàn toàn điên đảo, mà không phải là sự bịa đặt giả dối, vì sinh ra từ sự hư hoại. Giới thủ, dù quyết đoạn và bịa đặt giả dối, nhưng không phải hoàn toàn điên đảo. nghĩa là có ít sự thật, vì khởi từ chỗ thật. A-tỳ-đàm nói: Thân kiến, kiến thủ hoàn toàn điên đảo, vì chứa nhóm lâu sự điên đảo này, từ vô thỉ. Dù phiền não đã dứt, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm còn đắm nhiễm cảnh giới. Hỏi: Đức Thế Tôn nói có nhiều kiến, vậy gồm những kiến nào? Đáp: Gồm năm kiến. Hỏi: Năm kiến là gì? Đáp: Chê bai sự chân thật Kiến này là tà kiến Không thật mà giả đặt Là hai kiến cùng đặt. Chê bai sự chân thật, kiến này là tà kiến: nghĩa là nếu thấy người chê bai sự chân thật, cho là không có (không có, nghĩa là chê bai sự bố thí, giữ giới v.v…) không có khổ ,v.v… gọi là tà kiến. Không thật mà bịa đặt, là hai kiến và trí, nghĩa là đối với ấm là không thật, bịa đặt để dối trá ngã và thuộc về ngã là thân kiến. Bịa đặt giả dối lạc và tịnh là kiến thủ, ở xứ sở không thật khác, mà bịa đặt giả dối những só phu,v.v… tất cả như vậy, là tà trí, chẳng phải kiến. Chẳng phải nhân thấy nhân, Tức nói là giới thủ, Nếu nhiếp thọ biên kiến Nương đoạn diệt cóø thường. Chẳng phải nhân mà thấy nhân, tức nói là giới thủ: nghĩa là đối với cái không có nhân mà thấy có nhân đây là giới thủ. Như vì trời Tự Tại mà tuyệt thực, v.v… để cầu sinh lên cõi trời! Nói về tính có thể nhận biết và só phu mà cho là tính được giải thoát (tính là thế tính, là tính có thể nhận biết thế gian biện sai khác với só phu, được giải thoát). Nếu thâu nhiếp biên kiến, dựa vào sự đoạn diệt, có thường. Nếu giống nhau, nối tiếp nhau che giấu hành vô thường chấp là thường, đó là thường kiến. Không biết phần nhân quả tiếp nối nhau, chấp là đoạn, đó là đoạn kiến. Ngoài trừ năm kiến này, không còn kiến nào khác. Cho nên nói tất cả kiến thuộc về năm kiến. Hỏi: Kiến này, vì sao gọi là đoạn? Đáp: Chê bai và bịa đặt Nhân kiến và hai biên Ở đây các sự chuyển Hoặc thấy đạo là dứt. Chê bai là nói tà kiến, hoặc chê bai khổ, nên biết thấy khổ dứt, vì khởi ở khổ xứ. Kiến tập v.v… cũng như vậy. Như khi kiến diệt đạo đoạn, kiến thủ, giới thủ, ở xứ khác sinh ra, thấy xứ khác dứt. Vì nghĩa này, nên phiền não thường duyên cõi Dục, cũng nói như vậy. Việc không thật mà bịa đặt giả dối, là nói hai kiến, thân kiến kia là xứ khổ nên thấy khổ thì dứt. Kiến thủ, nghĩa là nếu đối với quả không thật mà đặt để sai thì thấy khổ dứt. Nếu ở nhân mà khởi thì thấy tập dứt. Nếu thấy diệt dứt mà khởi thì thấy diệt dứt. Những thấy đạo đã dứt mà khởi cũng như vậy. Chẳng phải tu đoán quyết đoạn. Giới thủ, nghĩa là chẳng phải nhân chấp là nhân. Nếu khởi ở chỗ hữu lậu, thì thấy khổ dứt. Nếu khởi ở chỗ kiến đạo đã dứt, nghĩa là thấy đạo dứt. Đoạn, thường kiến, sinh khởi ở xứ kiến khổ thì thấy khổ dứt. Hỏi: Đức Thế Tôn nói hai mươi hai căn là thế nào? Đáp: Bốn căn như mắt thảy Thân căn có ba thứ Ý căn và mạng căn Đây là căn sinh tử. Nói bốn căn như mắt, v.v…như trong phẩm Giới đã nói, thân căn có ba thứ là thân căn, nam căn, nữ căn. Ý là ý căn, trước đã nói. Vì ý giới tức ý căn và cùng với mạng nghĩa là tuổi thọ được gọi là mạng căn. Là căn sinh tử: nghĩa là các căn sanh tử này, dựa vào đó mà lập căn. Hỏi: Căn có nghĩa gì? Đáp: Tăng thượng là nghĩa căn Năm căn, nói bốn thứ Biết bốn căn còn lại Đều có hai tăng thượng. Tăng thượng là nghĩa của căn: nghĩa là nghĩa của sự tăng thượng kia là nghĩa căn, nghĩa đoan nghiêm là nghĩa của căn, nghĩa hơn là nghĩa của căn. nghĩa trên là nghĩa của căn. nghĩa chủ là nghĩa của căn. Dù tất cả pháp hữu vi đều có sự tăng thượng, nhưng hoặc kém, hoặc hơn, nên biết hơn thì lập căn, như nhân chủ, thiên chủ. Hỏi: nghĩa tăng thượng có mấy thứ? Đáp: Bốn thứ tăng thượng như mắt, v.v… đó là năm căn như mắt v.v… có bốn thứ duyên tăng thượng, gọi đó là khiến thân đoan nghiêm, dẫn dắt, nuôi nấng thân mình, dựa vào thức sinh, sự bất cộng. Nhãn căn kia làm cho thân đoan nghiêm, nghĩa là nếu căn không đủ thì người ta không thích nhìn, hay bị ghét bỏ, không được tăng thượng. Dẫn dắt, nuôi nấng thân mình, nghĩa là nếu mắt thấy sự an ổn nguy khốn, thì sẽ từ bỏ việc nguy khốn, để đến với sự yên ổn, làm cho thân sống lâu. Dựa vào sinh thức, nghĩa là dựa vào mắt phát sinh nhãn thức và pháp tương ưng. Sự không chung, là chỉ mắt thấy sắc, không phải căn khác, nhó căn làm cho thân được đoan nghiêm, nuôi nấng thân mình như trước đã nói. Dựa vào sinh thức, nghĩa là dựa vào tai sinh nhó thức và pháp tương ưng. Sự không chung, nghĩa là tai nghe tiếng, chẳng phải căn khác. Các căn khác khiến thân trang nghiêm, như trước đã nói. Dẫn dắt, nuôi dưỡng thân mình, đó là ba căn thông suốt việc ăn vốc khiến thân trụ lâu. Nương vào mà sinh thức, nghĩa là ba căn này, mỗi căn đầu sinh phần thức của mình. Việc không chung nghĩa là mỗi căn đều hành mỗi cảnh giới, nên biết bốn căn còn lại, mỗi căn đều có hai việc tăng thượng. Nam căn, nữ căn có hai việc duyên tăng thượng cho nên vượt hơn. Đó là tướng riêng, bắt đầu sự khác nhau của chúng sinh. Khi một chúng sinh hai căn sinh ra rồi, thì chúng sinh đều có tướng khác nhau. Lại nữa, về phiền não và thanh tịnh, thì hai căn này đầy đủ, có khả năng làm bất luật nghi, cho đến có thể gây ra năm nghiệp Vô gián, cắt đứt căn thiện. Sự thanh tịnh nghĩa là thọ luật nghi, đắc quả, lìa dục, gieo trồng hạt giống ba thừa. Nếu không có hình, hoặc hai hình, thì không thể khởi thiện ác như vậy. Mạng căn, nghĩa là chủng loại được tiếp nối nhau và gìn giữ. Ý căn là nối tiếp đương lai, có sự tự tại thuận theo chuyển biến. Hữu tương tục, nghĩa như đã nói hương ấm, có hai tâm lần lượt hiện ra trước mặt, hoặc yêu, hoặc giận, đều được tự tại, nghĩa như đã nói ở tâm lôi kéo thế gian, nói rộng như vậy. Thọ hoặc phần phiền não Tín thảy nương thanh tịnh Nếu chín căn vô lậu Ba đây nương theo đạo. Thọ hoặc phần phiền não: nghĩa là các thứ khổ, vui, mừng, lo, xả, thọ, thuận theo phần phiền não, làm duyên tăng thượng, đó là thọ huân các phiền não, vì thọ mê đắm lạc, nên phiền não cũng mê đắm lạc, lại nữa thọ là duyên tăng thượng cho phiền não và thanh tịnh. Ở phần phiền não, như đã nói: Lạc thọ là sử tham, khổ thọ là sử nhuế, xả thọ là sử si. Ở phần thanh tịnh, như đã nói: Vui là nhân định của tâm mình. Tín có khổ, tập, dựa vào sáu pháp xuất ly. Tin xả, hành, v.v…, tín v.v… dựa vào phần thanh tịnh, nghĩa là thuận theo thanh tịnh, nên năm căn gồm tín v.v… tu phần thanh tịnh. Nếu chín căn vô lậu, thì ba căn này nương vào đạo. nghĩa là năm căn như tín, v.v… và hỷ, lạc, xả, ý căn, chín căn này là hữu lậu, vô lậu. Nếu là vô lậu, vì nương nơi đạo mà lập ba căn. Nếu tùy tín hành, Tùy pháp hành thuộc về đạo, là vị tri căn. Nếu tín, giải thoát, kiến đáo đều thuộc về đạo, là dó tri căn. Nếu thuộc về đạo Vô học là vô tri căn. Đã nói về các căn, về nhân duyên khác sẽ nói trong phẩm Trạch. Hỏi: Các căn này thuộc về cõi nào? Đáp: Cõi Dục bốn, thiện tám Căn sắc chủng có bảy Tâm pháp thì có mười Nhất tâm, ba căn hai. Cõi Dục bốn: nghĩa là nam căn, nữ căn, khổ căn, ưu căn đều thuộc về cõi Dục. Ngoài ra, sắc căn và ý căn kia, như phẩm Giới có nói. Như ý căn, tín, v.v… và xả căn cũng vậy. Lạc căn, hỷ căn nếu là hữu lậu thì thuộc về cõi Dục, cõi Sắc, nếu là vô lậu thì không lệ thuộc, về mạng căn sẽ nói trong phẩm Tạp. Riêng ba căn vô lậu, vì không dứt, nên không lệ thuộc. Hỏi: Có bao nhiêu điều thiện? Đáp: thiện có tám, gồm năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu, vì thiện này là quả ái. Mạng căn và các thọ có quả báo sẽ nói, ngoài ra như phẩm Giới nói. Sắc chủng căn có bảy, nghĩa là bảy căn như nhãn căn, v.v… là sắc, những thứ khác chẳng phải sắc. Hỏi: Có bao nhiêu tính tâm? Bao nhiêu pháp của tính tâm? Bao nhiêu chẳng phải tâm, chẳng phải tâm pháp? Đáp: Tâm pháp có mười, là năm căn như tín, v.v… và năm thọ căn. Các căn này là tâm pháp vì tương ưng với tâm. Nhất tâm là ý căn, là tự tính của tâm, vì được tướng của tâm. Tám thứ như mạng căn, v.v… không phải tâm, không phải tâm pháp, vì không có duyên. Ba căn có hai, nghĩa là ba căn vô lậu, có hai thứ là tâm và tâm pháp, vì tính thường nhóm họp. Hỏi: Có bao nhiêu căn có báo? Bao nhiêu căn không có báo? Đáp: Đối với các căn này Một và mười có báo Trong mười hai là báo Mạng căn chỉ là báo. Trong các căn này, một và mười có báo, nghĩa là ưu căn đều có báo, vì là hữu lậu thiện, bất thiện, vì phương tiện hiện tại sinh, không phải báo sinh, không phải oai nghi, không phải sự khéo léo, không phải pháp học tập, cũng không phải vô lậu, vì từ phiền não sinh ra! Ý căn, nếu thiện, bất thiện, hữu lậu là có báo, còn vô lậu, vô ký không có báo. Ba thọ cũng như vậy. Khổ căn thiện, bất thiện là có báo, vô ký không có báo. Năm căn như tín, v.v… nếu hữu lậu là có báo, nếu vô lậu là không có báo. Tám thứ như mạng căn, v.v… là không có báo, vì tính vô ký. Ba vô lậu không có báo. Hỏi: Có bao nhiêu căn là báo? Bao nhiêu căn chẳng phải báo? Đáp: Trong mười hai căn là báo, nghĩa là bảy hữu sắc căn là báo, còn hữu chẳng phải báo, như phẩm Giới đã nói. Ý căn và bốn thọ, hoặc là báo, hoặc chẳng phải báo. Như quả của nghiệp thiện, bất thiện là báo, còn mạng căn chỉ là báo, nghĩa là mạng căn hoàn toàn là báo, hữu dục là dục quả của chính thọ. Hỏi: Lúc mới sinh được bao nhiêu báo của căn? Đáp: Hai hoặc sáu, bảy, tám Lúc mới sinh đã được Phải biết báo cõi Dục Sắc sáu, Vô Sắc một. Hai hoặc sáu, bảy, tám, lúc mới sinh đã được, nên biết đó là báo của cõi Dục. nghĩa là các căn này dần dần sinh, là thai sinh, noãn sinh, thấp sinh. Sự sinh lần đầu đó, trong một sát-na, được hai căn, là thân căn và mạng căn. Ý căn của sát-na kia là cấu uế, chẳng phải không cấu uế, vì tâm tiếp nối thọ sinh, xả căn cũng như vậy. Những căn khác cũng được, nhưng không nói đến, vì chẳng có báo, cho nên nói. Hóa sinh vô hình có sáu, đó là năm sắc căn và mạng căn, một hình có bảy, hai hình có tám, đó là hoàn toàn nói về cõi Dục. Cõi Sắc có sáu, Vô Sắc có một căn, nghĩa là cõi Sắc được sáu căn, vì hoàn toàn là hóa sinh, không có nam căn, nữ căn như trước đã nói, cõi Vô Sắc thì chỉ có một mạng căn. Hỏi: Lúc qua đời, có bao nhiêu căn sẽ được xả sau cùng? Đáp: Bỏ bốn, tám và chín Hoặc loại bỏ ở mười Chết dần hay chết ngay Bỏ thiện, đều thêm năm. Bỏ bốn, tám và chín, hoặc lại bỏ ở mười, chết dần và chết ngay, nghĩa là tâm vô ký chết dần, xả bỏ bốn căn: Thân, ý, mạng và xả. Nếu không có hình, tâm vô ký chết cùng lúc, thì xả tám căn, là năm căn như mắt v.v… ý, mạng và xả căn. với tâm vô ký thì một hình, có chín căn, hai hình có mười căn. Tâm bất thiện cũng vậy. Hỏi: Tâm thiện xả bao nhiêu căn? Đáp: Tâm thiện xảû đều có thêm năm căn. Nếu tâm thiện chết đi đều có thêm năm căn như tín, v.v… là nói người ở cõi Dục mất, lại sinh cõi Dục. Còn người mất ở cõi Dục sinh lên cõi trên, trừ người không có hình, hai hình, vì lìa dục đều cùng không có phần. Ở cõi Sắc, cõi Vô Sắc qua đời, tùy theo căn đã được, nói như vậy là không có sự chết dần, đó là nói các căn hiện ở trước xả, chứ chẳng phải thành tựu xả. Vô ký không ẩn mất nói là được xả. Thiện: nghĩa là ở đây chết đi, thì sinh ở nơi này, nói là hành xa, nếu sinh ở chỗ khác thì được xả. Hỏi: Có bao nhiêu kiến đoạn, bao nhiêu tu đoạn, bao nhiêu không đoạn? Đáp: Hai đoạn, không đoạn, bốn Sáu căn, có hai thứ Ba vô lậu không đoạn Còn lại, tu đạo đoạn. Hai đoạn, không đoạn bốn: nghĩa là ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn có ba thứ: Hoặc kiến đoạn, hoặc tu đoạn, hoặc không đoạn. Tùy tín hành, Tùy pháp hành, đạo đoạn gọi là kiến đoạn. Tín, giải thoát và kiến đáo, đạo đoạn gọi là tu đoạn, Vô lậu gọi là không đoạn. Sáu căn, có hai thứ: Là nói ưu căn do kiến đoạn và tu đoạn. Năm căn như tín, v.v… là tu đoạn và không đoạn, chẳng phải kiến đoạn, vì không nhiễm ô. Ba vô lậu không dứt, vì hoàn toàn vô lậu. Các căn khác là tu đạo đạo, nghĩa là chín căn khác do tu đạo sứt. Tám thứ như mạng căn, v.v… là vô ký không ẩn mất, nên không phải kiến đoạn. Vì rơi vào sự sinh, nên chẳng phải không đoạn. Vì khổ căn tương ưng với năm thức thân, nên chẳng phải kiến đoạn, vì sinh từ phiền não, nên chẳng phải bất đoạn. Hỏi: Nếu thành tựu căn thì thành tựu được bao nhiêu căn? Đáp: Hoặc thành tựu ba, bốn Năm, bảy cùng với tám Mười một và mười ba Là nói thành tựu định. Nếu thành tựu ý căn, thì sẽ thành tựu ba căn: Là ý, mạng, xả. Các căn khác hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu. Các căn mắt, tai, mũi, lưỡi: Nếu sinh cõi Sắc, thì sẽ thành tựu, nếu sinh cõi Dục, được mà không mất thì thành tựu. Nếu sinh cõi Vô Sắc và cõi Dục, ở trong thai dần dần dày ra, các căn chưa đầy đủ, được mà mất là không thành tựu. Thân căn, nếu sinh ở cõi Dục, cõi Sắc, thì sẽ thành tựu, sinh cõi Vô Sắc sẽ không thành tựu. Lạc căn sinh ở cõi trời Biến Tịnh. Nếu từ dưới và là bậc Thánh sinh lên cõi trên, thì sẽ thành tựu. Phàm phu sinh lên cõi trên thì sẽ không thành tựu. Hỷ căn sinh lên cõi trời Quang Âm, tất nhiên là thành tựu. Các căn khác đều nói như lạc căn. Khổ căn sinh cõi Dục, thì sẽ thành tựu, sinh lên cõi trên thì không thành tựu. Ưu căn chưa lìa dục, thì sẽ thành tựu, đã lìa dục thì không thành tựu, năm căn như tín, v.v… không dứt căn thiện, thì sẽ thành tựu, dứt thì không thành tựu. Ba căn vô lậu của bậc Thánh tùy địa, tất nhiên thành tựu, (đó là kiến địa, tu địa, vô học địa) Phàm phu thì không thành tựu. Như ý căn, mạng căn, xả căn cũng như vậy. Nếu thành tựu thân căn, thì sẽ thành tựu bốn căn là thân, ý, mạng, xả. Các căn khác, như trước đã nói. Nếu thành tựu lạc căn, cũng thành tựu bốn căn, là mạng căn, ý căn, lạc căn, xả căn. Nếu thành tựu nhãn căn, thì sẽ thành tựu năm căn là thân căn, ý căn, mạng căn, xả căn và nhãn căn. Nhó căn, tỷ căn, thiệt căn cũng đều như vậy. Nếu thành tựu hỷ căn, cũng thành tựu năm căn là hỷ, lạc, ý, mạng và xả. Nếu thành tựu khổ căn, thì sẽ thành tựu bảy căn là thân, ý, mạng căn và bốn thọ, trừ ưu căn. Nếu thành tựu nam căn, thì sẽ thành tựu tám căn, là bảy căn trước và một hình. Nữ căn cũng như vậy. Nếu thành tựu ưu căn cũng thành tựu tám căn là thân, ý, mạng và năm thọ. Nếu thành tựu tín căn, cũng thành tựu tám căn, đó là năm căn như tín, v.v… và ý, mạng, xả. Các căn tinh tiến, niệm, định, tuệ cũng đều như vậy. Nếu thành tựu dó tri căn thì sẽ thành tựu mười một căn là ý, mạng, hỷ, lạc, xả; năm căn như tín, v.v… và dó tri căn. Vô tri căn cũng như vậy. Nếu thành tựu vị tri căn, thì sẽ thành tựu mười ba căn là thân, ý, mạng, khổ, vui, hỷ, xả, năm căn như tín, v.v… và vị tri căn. Hỏi: Có bao nhiêu căn thì được quả Sa-môn? Đáp: Chín căn được Sơ quả Hoặc được quả thứ hai Là do mười một căn Rốt ráo quả thứ tư. Chín căn được Sơ quả: nghĩa là chín căn thì được quả Tu-đà-hoàn, đó là ý căn, xả căn, năm căn như tín v.v…, vị tri căn và dó tri căn. Vị tri căn thuộc đạo vô ngại, dó tri căn thuộc đạo giải thoát, đều có bảy căn. Hoặc được hai quả Sa-môn, nghĩa là nếu dứt hết gấp bội dục vọng, thì sẽ được quả Tư-đà-hàm. Chín căn như trước đã nói. Nếu ái dục dứt hết sẽ được quả A-na-hàm, cũng chín căn, tám căn như trước đã nói. Ba thọ thì nói theo tác dụng. Nếu theo thứ lớp thì được quả Tư-đà-hàm, đạo thế tục có bảy, là ý căn, xả căn và năm căn như tín, v.v… Đạo vô lậu có tám căn là bảy căn trước và dó tri căn. Theo thứ lớp, được quả A-na-hàm cũng như vậy. Đó là do mười một căn rốt ráo được quả thứ tư, nghĩa là mười một căn thì được quả A-la-hán, là ý căn và ba thọ, năm căn như tín, v.v… dó tri căn, vô tri căn. Dó tri căn là đạo vô ngại. vô tri căn là đạo giải thoát. Hỏi: Các đạo này thế nào là phần định hay dụng định? Nếu là phần định, thì quả A-na-hàm cũng có ba thọ. Nếu là dụng định, thì sẽ không có ba tác dụng này, còn không có được hai thọ hoạt động trong cùng một lúc, làm gì có ba? Đáp: Dụng định là ở thân, chẳng phải ở sát-na, đó là do lạc căn mà được quả A-la-hán. Sau khi thối định rồi, lại được từ hỷ căn. Nếu còn thối định nữa, lại được từ xả căn, mà quả A-na-hàm được là do thọ này. Nếu định mà thối trở lại được là từ thọ này, không phải pháp khác. Hỏi: Tu-đa-la của Thế Tôn nói sáu thức thân. Những gì là cảnh giới thức của các thức này? Đáp: Nếu lấy nghĩa các tướng Cảnh giới năm thứ tâm Nếu nhận lấy các pháp Đây là nói ý thức. Nếu nhận lấy nghĩa của các tướng, cảnh giới của năm thứ tâm, thì năm cảnh giới như sắc, v.v… là đối tượng nhận lấy của năm thức. Nhãn thức nhận lấy sắc, cho đến thân thức nhận lấy xúc, vì tự tướng của thọ và vì cảnh giới hiện tại. Nếu thọ nhận tất cả pháp, thì đây là nói ý thức, nghĩa là ý thức duyên tất cả pháp, vì cảnh giới của cộng tướng, vì tư duy, vì thường nhớ nghó. Về nghĩa này, nói rộng như trong phẩm Giới, đã nói về cảnh giới của thức, nay sẽ nói: Về cảnh giới của trí. Các ấm cõi Dục, sắc Vô Sắc và vô lậu Hữu y, vô y, tám Và hai vô vi kia. Có mười pháp tương ưng, bất tương ưng của cõi Dục. Cõi Sắc, cõi Vô Sắc cũng như vậy. Tương ưng, không tương ưng của hữu vi vô lậu có hai thứ: Vô vi thiện và vô ký. Hỏi: Mười sở tri của pháp trí này, mỗi trí có bao nhiêu pháp làm cảnh giới? Đáp: Năm pháp, cần phải biết Cảnh giới của pháp trí Tỷ trí bảy làm duyên Cảnh giới tha tâm ba. Năm pháp cần phải biết, cảnh giới của pháp trí, đó là pháp tương ưng không tương ưng của cõi Dục và vô vi thiện tương ưng, không tương ưng với vô lậu. Tỷ trí này có bảy làm duyên: nghĩa là cõi Sắc, cõi Vô Sắc tương ưng vô vi thiện, không tương ưng với vô lậu. Cảnh giới của tha tâm có ba, đó là cõi Dục, cõi Sắc và cảnh giới tâm, tâm pháp tương ưng với vô lậu. Hữu lậu nên biết mười Trí nhân, quả có sáu giải thoát một, đạo hai Hai cảnh giới khác chín. Hữu lậu nên biết có mười: nghĩa là hạnh của đẳng trí tất cả có mười pháp, vì cảnh giới rộng, trí nhân quả có sáu, nghĩa là khổ, trí tập trí biết sáu pháp, đó là cảnh giới hữu lậu tương ưng, không tương ưng của ba cõi, vì pháp trí, tỷ trí. Giải thoát một: nghĩa là trí diệt, duyên một pháp. Đó là cảnh giới thường diệt của vô vi thiện. Đạo có hai, nghĩa là đạo trí duyên hai pháp. Đó là cảnh giới học, vô học tương ưng, không tương ưng của hữu vi vô lậu. Hai cảnh giới còn lại thì chín, nghĩa là tận trí, trí vô sinh duyên chín pháp, trừ vô ký, vì vô vi là cảnh giới của bốn đế. Hỏi: Các Sử có những sai khiến gì? Đáp: Các phiền não địa mình Định sử ở địa mình Tự chủng nhất thiết biến Tùy sử ở chủng kia. Phiền não ở địa mình, định sử ở địa mình, nghĩa là phiền não cõi Dục kia, tức là sai khiến các pháp cõi Dục, cho đến đệ nhất hữu, cũng như vậy. Vì thù thắng, vì đối trị nên địa dưới không sai khiến địa trên. Vì thân hành lìa dục, nên phiền não ở địa trên không sai khiến địa dưới. Tự chủng nhất thiết biến, tùy sự sai khiến ở chủng kia, nghĩa là các pháp tự chủng, bị sử tự chủng sai khiến. Nhất thiết biến, cũng sai khiến chủng khác, vì có năm thứ cảnh giới. Nếu định pháp ba cõi Bị Sử ba cõi khiến Sinh hai cõi, nên biết Một cõi cũng như thế. Nếu là pháp ba cõi, bị sử ba cõi sai khiến, nghĩa là năm thứ pháp thuộc về ba cõi bị tất cả sử của ba cõi sai khiến. Như thế, tất cả pháp, đều tùy theo sự thích ứng mà nói. Sinh hai cõi phải biết: nghĩa là pháp thuộc về hai cõi, phiền não của hai cõi, bị sai khiến tùy theo sự thích ứng kia. Đó là giác quán năm thứ của cõi Dục cõi Sắc kia. Cõi Dục, cõi Sắc kia, bị tất cả sử sai khiến, đó gọi là ý căn, năm thứ của ba cõi. Ba cõi kia bị hết thảy sử sai khiến. Cũng vậy, tất cả pháp đều tùy theo sự thích ứng. Một cõi cũng giống như vậy, Nếu nhất định là pháp một cõi, thì bị sử của một cõi đó sai khiến, đó là ưu căn. Năm thứ của cõi Dục, bị tất cả sử của cõi Dục đó sai khiến. Như vậy, tất cả pháp đều tùy theo sự thích ứng. Kinh này do Phật nói tính nó đã rõ ràng Thức, trí và các sử Nên biết là ba môn. Kinh này do Phật nói, ta đã phân biệt đầy đủ, nên dùng ba môn để hiểu. Đó là môn thức, môn trí và môn sử. Như đưa ra tính năm ấm của cõi Dục, do tu đạo dứt, bảy trí biết kia, ngoại trừ tỷ trí, diệt trí, đạo trí, vì cõi Dục nên trừ tỷ trí, vì hữu lậu nên trừ diệt trí, đạo trí. Ba thức biết: Đó là nhãn thức, nhó thức và ý thức. Vì thuộc về bốn nhập, Cõi Dục bị sử nhất thiết biến và tu đạo dứt sai khiến. Giới nghĩa là tám trí tri, trừ trí tha tâm, diệt trí. Ba trí biết đó là nhãn thức, nhó thức, ý thức. Cõi Dục, cõi Sắc, bị sử của nhất thiết biến và tu đạo dứt sai khiến. Tu: Là tính không buông lung, chín trí biết, trừ diệt trí. Ý thức biết ba cõi, bị sử của nhất thiết biến và tu đạo dứt sai khiến. Tất cả Tu-đa-la đều nói như vậy. Tùy theo sự thích ứng. Nếu nói chung về nghĩa, muốn biết về sự gồm nhiếp, phải xét về giới mà kiến lập. Muốn biết môn trí phải xét về đế mà kiến lập. Muốn biết về môn thức, phải xét về nhập mà kiến lập. Và muốn biết về môn sử, phải xét về chủng mà kiến lập. Nói như vậy thì thật dễ hiểu.  <卷>QUYỂN 9 <詞>Phẩm 9: TẠP Đã phân biệt các pháp Mỗi pháp tiếp nối nhau Các tạp nghĩa ở trên Nay sẽ nói sơ lược Đã phân biệt các pháp, mỗi pháp tiếp nối nhau: nghĩa là đã nói đủ các thứ phẩm loại, lần lượt nối tiếp nhau của các pháp, về các tạp nghĩa trên. (nghĩa là quyết định tiếp nối nhau, nên nói là đã nói xong, tức là các tạp nghĩa trên, sẽ nói trong phẩm này), nay sẽ nói sơ lược. Có duyên cũng tương ưng Hữu hành và hữu nương Tâm và các tâm pháp Là nói đồng một nghĩa. Đây là các tâm, tâm pháp, có tên khác nhau, vì có duyên của chúng, nên nói là có duyên. Vì chuyển biến theo cảnh giới, cho nên thời, y, hành duyên sự đều chuyển biến theo, gọi là tương ưng. Hữu hành nghĩa là tuệ, phẩm Trí đã nói. Vì tuệ kia đối với duyên tạo ra hành nên nói là hữu hành. Vì nương vào sự chuyển biến của người khác, nên nói là hữu nương. Từ duyên sinh, cũng nhân Vừa nhân vừa hữu vi Nói xứ cùng với đạo Có quả phải nên biết. Đây là sự khác nhau về danh của các pháp hữu vi. Vì pháp này duyên pháp kia, rồi hòa hợp với nhau mà sinh, nên nói từ duyên sinh. Vì sinh ra pháp khác, nên nói là nhân. Do sức của nhân nên nói là có nhân. Vì do nhân duyên v.v… tạo tác, nên nói là hữu vi. Vì sinh ra lời nói, nên gọi là thuyết xứ. Vì thuộc về đạo của quá khứ, vị lai, hiện tại, nên nói là Đạo. Vì đạo kia có quả, nên nói là có quả. Có tội cũng ẩn mất Nhơ bẩn và thấp hèn Thiện hữu vi nói tập Cũng lại gọi là tu. Có tội cũng ẩn mất, nhơ bẩn và thấp hèn, đây là các tên gọi khác nhau của bất thiện và vô ký ẩn mất. Đi chung với tội nên nói là có tội, là nghĩa đáng chán ghét. Vì bị phiền não che lấp, nên nói là sự ẩn mất, là nghĩa bị lậu che lấp, vì bị phiền não làm cấu uế, nên nói là cấu uế. Vì rất thô bỉ, nên nói là thấp hèn, vì tăm tối, nên nói là đen. Có hai thứ đen: Đen vì cấu uế và đen vì không vừa ý. Ở đây nói thứ đen cấu uế, không nói thứ đen không vừa ý, vì thứ đen không vừa ý cũng có cái đen của quả báo bất thiện. Thiện hữu vi được gọi là tập, cũng gọi là tu đó là các tên gọi khác nhau của pháp thiện hữu vi. Vì thuộc về pháp thiện kia và quả ái, nên nói là thiện. Vì tăng trưởng công đức nên nói là tập và tu. Đó là nói tu đắc và tu tập (sự gần gũi là nghĩa của tập, gieo trồng là nghĩa của tu. Hiện tại gọi là tập, vị lai gọi là tu), nên nói là thiện hữu vi. Đối trị tu là đoạn tu. Tất cả pháp hữu lậu cũng nói là tu. Hỏi: Những gì là tâm bất tương ưng hành? Đáp: Vô tưởng, hai chính thọ Cũng chủng loại chúng sinh Cú, vị với danh thân Mạng căn và pháp đắc. Vô tưởng: Là chúng sinh của Vô tưởng kia thọ sinh, tâm và tâm pháp diệt. Có thuyết nói: chính thọ quả Vô tưởng. Có thuyết cho rằng: Đó là quả quyến thuộc của đệ Tứ thiền. Có thuyết nói: Cho đến có tâm, là quả có tâm, không có tâm, là quả không có tâm. Hỏi: Tâm trước nhiều hay tâm sau nhiều? Đáp: Có thuyết cho là tâm sau nhiều, tâm trước ít, vì muốn nhanh chóng nhập Vô tưởng. Nói như vậy, thì tâm này không nhất định, hoặc tâm trước nhiều, hoặc tâm sau nhiều. Nếu dùng oai nghi này để nhập chính thọ vô tưởng, thì dùng oai nghi này nhập vô tưởng trụ. Từ vô tưởng đó khởi rồi chê bai thừa Niết-bàn, về sau nghiệp báo sẽ thọ sinh cõi Dục và nghiệp báo đó sẽ hết, vì không sinh khởi nghiệp khác. Hai chính thọ; đó là: chính thọ vô tưởng và chính thọ Diệt tận. chính thọ vô tưởng, là ái của Biến tịnh đã hết, ái của cõi trên chưa hết, trước là khởi tưởng xuất ly. Tư duy về tâm, tâm pháp diệt, Từ cõi Dục khởi, không phải cõi khác. Đấy là căn cơ nhạy bén. Phàm phu khởi, chẳng phải bậc Thánh, vì không có bậc Thánh nào đối với hữu lại tạo ra tưởng xuất ly. Phương tiện mà được, không phải lìa dục bất thoái chuyển. Hỏi: chính thọ vô tưởng và vô tưởng, có gì khác nhau? Đáp: chính thọ vô tưởng là nhân, vô tưởng là quả, nhân chính thọ là thiện, quả vô tưởng là vô ký. chính thọ là có báo, vô tưởng là báo, chính thọ có hành, vô tưởng không có hành. chính thọ Diệt tận, nghĩa là lìa sự ham muốn của Vô sở hữu xứ, trước là dứt bỏ tưởng và tư duy về tâm, tâm pháp diệt. Hỏi: chính thọ của vô tưởng này thế nào? Đáp: Tâm, tâm pháp đều diệt, trung gian nối tiếp nhau, tâm bất tương ưng hành lưu chuyển theo và trụ trong các căn bốn đại. Đó là nói chính thọ diệt tận. chính thọ khác như đã nói trong phẩm Định. Chủng loại, nghĩa là sự giống nhau về chi tiết các căn, sự nghiệp, ăn uống của thân chúng sinh. Chủng loại đó có sáu thứ, đó là: Giới chủng loại, thú chủng loại, sinh chủng loại, xứ sở chủng loại, tự thân chủng loại và tính chủng loại. Giới chủng loại: nghĩa là chúng sinh cõi Dục, là chủng loại của chúng sinh cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc cũng như vậy. Thú chủng loại: Là ở đường nào, sinh ra chủng loại của đường đó. Sinh chủng loại, nghĩa là tiếp nhận đời nào thì có chủng loại của đời đó. xứ sở chủng loại, nghĩa là sinh ở bất cứ ngục nào, thì có chủng loại của ngục đó, cho đến đệ nhất hữu cũng như vậy. Tự thân chủng loại, nghĩa là đồng sinh một cõi, một đường, một đời (một đời là một trong bốn cách sinh) mà có các thứ tự thân, ví như các loài chim, so sánh như vậy. tính chủng loại, nghĩa là tính bẩm sinh đồng là tính chủng loại. Nếu sáu chủng loại giống nhau thì đó gọi là chủng loại. Cú là tập họp các danh, vị, rốt ráo làm rõ nghĩa. Vị thân của chữ (Vị là chữ, tiếng Phạm là vị của trung hữu. Tiếng là khuôn phép của chữ, không phải là chữ của hình sắc như chữ ngày nay). Danh là tên các pháp, dùng tên để làm rõ nghĩa, như gọi là nam, nữ. Mạng là sống lâu, nghĩa là ấm, giới, nhập không hư hoại. Hỏi: Hoạt động của mạng và hoạt động của sự sống lâu, có gì khác nhau? Đáp: Có thuyết cho là không có khác nhau, có thuyết cho là quả của nghiệp đời trước gọi là sự sống lâu, quả của tu gọi là mạng. Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn bỏ sự sống lâu của phần thứ năm? Đáp: Vì việc của Phật là làm thiện rốt ráo, những sự khác là rốt ráo của Thanh văn. Hơn nữa, vì an trụ bốn Thánh chủng, vì hữu và mọi công cụ của hữu đều dứt hết, không còn gì. Đắc, nghĩa là được các pháp, được thành tựu, đồng một nghĩa. (sau sẽ nói rộng). Gọi tính phàm phu đó, Và bốn tướng các pháp Chẳng sắc, bất tương ưng Nói là hành hữu vi. tính phàm phu, nghĩa là không được pháp Thánh. Bốn tướng: sinh, trụ, già, vô thường (đã nói trong phẩm Hành). Chẳng phải sắc, nghĩa là các pháp này chẳng phải là tính của sắc, vì nó không phải phần của bốn thứ và sắc tạo nên. Bất tương ưng, là không có duyên. Nói là hành hữu vi, nghĩa là Do cái khác mà làm và làm vì cái khác. Hỏi: Các hành này có bao nhiêu thiện, bao nhiêu bất thiện, bao nhiêu vô ký? Đáp: Hai thiện, năm thứ, ba Nên biết bảy vô ký Hai ở trong cõi Sắc Một ở địa Vô Sắc. Hai thiện, đó là chính thọ vô tưởng và chính thọ Diệt tận, là tính của tu thiện. Năm thứ, ba: nghĩa là đắc, sinh, trụ, già, vô thường là thiện trong thiện, bất thiện trong bất thiện, vô ký trong vô ký, vì sinh, v.v… là một quả với pháp. Đắc: Là chẳng phải không có phần mình. Nên biết bảy vô ký: nghĩa là vô tưởng, chủng, loại, cú, vị, danh, mạng căn, tính của phàm phu. Hỏi: Trong các pháp này, có bao nhiêu pháp thuộc về cõi Dục, bao nhiêu pháp thuộc về cõi Sắc, bao nhiêu pháp thuộc về cõi Vô Sắc? Đáp: Hai pháp ở trong cõi Sắc, đó là trời Vô tưởng, chính thọ vô tưởng thuộc về cõi Sắc, vì trời Vô Tưởng là quả của đệ Tứ thiền, chính thọ vô tưởng thuộc đệ Tứ thiền. Một ở địa Vô Sắc, nghĩa là chính thọ Diệt tận thuộc cõi Vô Sắc, thuộc đệ nhất hữu. Hai cõi nói có ba Ngoài ra ở ba cõi Hữu lậu, vô lậu, năm Còn lại đều hữu lậu. Hai cõi nói có ba, nghĩa là cú, vị, danh thân ở cõi Dục, cõi Sắc, chứ chẳng phải cõi Vô Sắc, vì ở đó không có phần của tiếng nói. Ngoài ra ở ba cõi: nghĩa là chủng loại, đắc, mạng căn, tính phàm phu. Tướng của các đắc ở ba cõi, vì phổ biến. Hỏi: Có bao nhiêu hữu lậu, bao nhiêu vô lậu? Đáp: Hữu lậu, vô lậu có năm, đó là bốn tướng hữu vi ở trong pháp vô lậu, tức là vô lậu. Trong pháp hữu lậu tức là hữu lậu, vì cùng một quả với pháp. Đắc: nghĩa là nếu đắc là hữu vi thì cũng như vậy. Nếu đắc thường diệt, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, vì đều là phàm phu. Nếu đắc chẳng phải thường diệt, mà là hữu lậu, thì là vô ký, do nghĩa này, nói là lệ thuộc, không lệ thuộc. Pháp khác thì dứt hết hữu lậu: Trời Vô tưởng, chính thọ vô tưởng, chính thọ Diệt tận, cú, vị, mạng căn, chủng loại của chúng sinh, gọi là tính phàm phu, hoàn toàn hữu lậu vì thuộc về hữu. Hỏi: Lìa Thánh pháp, gọi là tính phàm phu, thế nào là xả? Thế nào là đoạn? Đáp: Trong tâm vô lậu đầu Nên biết xả không được. Phàm phu trong các cõi Diệt tận khi lìa dục. Nên biết, ngay trong tâm vô lậu ban đầu là không được xả: nghĩa là lúc bậc Thánh mới sinh tâm vô lậu, là xả tính phàm phu. Tâm vô lậu đầu tiên tương ưng với khổ, pháp nhẫn, nên lúc tâm đó sinh, là xả tính phàm phu. Nếu nói khởi rồi mới xả û, thì khi vị ấy trụ ở khổ, pháp nhẫn, lẽ ra chẳng phải bậc Thánh, vì không xả phàm phu, nên nói là lúc sinh, cho nên Phật nói, lúc hai pháp sinh, thì việc ấy rốt ráo. Việc bên trong là quyến thuộc của khổ pháp nhẫn, việc bên ngoài là các thứ ánh sáng. Phàm phu trôi lăn trong các cõi: nghĩa là lúc phàm phu trôi nổi trong các cõi, nếu chết ở địa này, thì xả địa này, nếu sinh địa kia, chính thì được địa kia. Vì vô ký không ẩn mất, vì chằng phải rốt ráo xả, vì không được Thánh pháp. Lìa dục Diệt tận, nghĩa là nếu lìa dục ở địa này, nếu phàm phu và bậc Thánh, bấy giờ, dứt tính phàm phu ở địa này, vì vô ký không ẩn mất. Hỏi: Ba vô vi có tướng gì? Đáp: Dứt phiền não, lìa buộc Đó gọi là thường diệt Không các tướng chướng ngại Đó gọi là hư không. Dứt phiền não lìa buộc, đó gọi là thường diệt, nghĩa là dùng trí tuệ dứt các phiền não như thân kiến, v.v… và quyến thuộc. Được ở đây là được lìa trói buộc. Các lìa trói buộc này gọi là thường diệt. (chủng loại, số lượng của bệnh và thuốc là tương đối). Có thuyết cho: Chỉ có một việc diệt, vì không có phần mình, nên có đa số người được. Nếu ở đây mà được diệt được chứng, tức đây là Niết-bàn. Cho nên, Niết-bàn không chung. Tỳ-bà-sa nói: Ngay sự trói buộc này, tức là đã lìa sự trói buộc. Nếu khác, nghĩa là thấy khổ dứt, kiết chủng đoạn, phiền não khác cũng nên dứt, làm việc tác chứng. Nếu vậy, các pháp đối trị sau này, sẽ trở nên vô dụng, chỉ vì pháp đó chưa rốt ráo, cho nên, các việc đều khác nhau, không có nhân tự phần, nên nói là không có tự phần. Việc không có nhân của tự phần này, cũng không có khổ, pháp nhẫn và quyến thuộc khác, dù không có nhân tự phần, mà vẫn dự vào nhân tự phần khác, vì không có phẩm chất kia, nên nói là phi phẩm. Vì phiền não diệt, nên nói là Niết-bàn. Vì nói vô biên, nên nói là chẳng nói. Vì hơn tất cả pháp, nên nói là tối thắng. Vì quả của trí, nên nói là trí. Vì không gieo trồng, nên nói là vô sinh. Vì ở bên cạnh đạo giải thoát, nên nói là biên. Vì ra khỏi tất cả pháp nên nói là xuất, vì lìa lỗi vô thường nên nói là mầu nhiệm. Không có các tướng chướng ngại, nên nói là hư không, nghĩa là không chướng ngại các thứ sắc, vì có sự đến, đi, v.v… nên nói là hư không. Phái Thí dụ giả nói: Hư không chẳng phải sắc, cũng chẳng phải phi sắc. Nói hư không, nghĩa là nói thuận theo thế gian. Có thuyết nói không phải không có hư không, vì nó chứa cái có. Vì nếu chẳng có hư không, thì không thể chứa cái có, vì chứa cái có, nên có việc hư không. Dựa vào các pháp duyên Hữu, y và cảnh giới Không đủ thì không sinh Đây diệt rõ đúng sai. Tất cả pháp hữu vi đều dựa vào duyên và sức của cảnh giới mà sinh, vì nó yếu kém. Pháp đó không phải phần, cho nên không sinh. Như nhãn thức, dựa vào mắt, sắc, ánh sáng,hư không và sự nhớ nghó của ý thức kia hòa hợp nên sinh. Bất cứ một pháp nào không đủ thì bất sinh. Lúc thức khác hiện ở trước mặt, trong khoảnh một niệm, mắt này diệt, mắt khác sinh. Vì các duyên không đủ, nên nhãn thức không sinh được. Nếu nhãn thức mà phải dựa vào mắt kia mới sinh thì bất sinh. Vì sự nương dựa v.v… đã diệt, nên cuối cùng vẫn bất sinh. Do trước, không có phương tiện mà diệt, nên nói chẳng phải thường diệt. Như nhãn thức, tất cả thân thức cũng đều như vậy. Vả lại, vô lậu là đạo tùy tín hành, do tinh tiến mà được, đạo tùy pháp hành chẳng phải thường diệt. Tất cả đạo, cũng như vậy, tùy theo nghĩa đó, đều phải biết rõ. Hỏi: Nếu đạo thắng tiến này mà đắc, thì vì sao không thuộc về quả đạo? Đáp: Vì có những việc khác, vì dứt trừ phiền não, siêng năng phương tiện nhưng vì không phải là thường diệt, cho nên không thuộc về quả đạo. Hỏi: Tất cả pháp hữu vi, nói nhân cái gì làm nhân cho cái gì? Đáp: Nhân trước dường như tăng Hoặc đều nương dựa sinh Hai nhân và một duyên Hoàn toàn nói đã sinh. Nhân trước, dường như tăng, nghĩa là pháp trước làm nhân của pháp tương tợ sau và tăng nhân chứ chẳng phải nhân kém, nghĩa là lúc tu pháp, hoặc trụ, gia tăng, chứ chẳng giảm, hoặc đều nương vào sinh, đó là nhân tương ưng và nhân cộng hữu. Hai nhân và một duyên, hoàn toàn nói đã sinh, nghĩa là nhân tự phần nói đã sinh, chẳng phải chưa sinh. Cái trước là nhân cho cái sau. Cái chưa sinh thì không có trước sau. Nhân nhất thiết biến cũng như vậy. Duyên thứ đệ cũng nói là đã sinh. Về nghĩa nhân duyên, đã nói trong phẩm Hành. Hỏi: Báo nên nói là số chúng sinh, hay không phải số chúng sinh? Đáp: Báo là số chúng sinh Quả giải thoát hữu vi Có duyên nói câu hành Đó là tướng khác chuyển. Báo là số chúng sinh: nghĩa là báo gọi là nói số chúng sinh, vì không chung, không do mắt của người khác trông thấy, cũng không thành tựu, nghĩa của báo khác cũng như vậy. Mọi vật dụng áo cơm, nên biết là quả tăng thượng, quả công dụng, chẳng phải số chúng sinh, vì cộng. Hỏi: Quả là thế nào? Đáp: Quả giải thoát, hữu vi Tất cả pháp hữu vi Nói quả có nhân sinh Vì là số duyên diệt. Cũng nói quả của đạo, về nghĩa của quả đã nói trong phẩm Nghiệp. Hỏi: Thế nào là tâm, tâm pháp chuyển theo duyên? Đáp: Có duyên gọi là câu hành, nếu có duyên, pháp cùng chuyển biến trong duyên, làm xong một việc. Hỏi: Chuyển biến duyên nào? Đáp: Đó là chuyển ở tướng khác, vì tâm, tâm pháp duyên với pháp khác, chẳng phải tự tính. Vì sao? Vì không có hai quyết định, vì không tự hành động, vì cũng không duyên tương ưng với một hành, một duyên, cũng không duyên cộng hữu, vì đồng một quả. Về nghĩa này, sẽ nói rộng trong phẩm Trạch. Hỏi: Tâm, tâm pháp có phương xứ, hay không có nơi chốn? Đáp: Nhân khắp không phương xứ Lúc sinh, tâm giải thoát Phiền não ở tâm đạo Đến lúc diệt là xả. Nhân khắp không có nơi chốn, nghĩa là nhân khắp của tâm, tâm pháp sinh, đó là nhờ hai mắt sinh một thức. Nhó, tỷ thức cũng giống như vậy. Nếu có nơi chốn, thì lẽ ra chuyển biến chỉ trong một mắt. Nếu vậy, lẽ ra một mắt thấy sắc, không nên cả hai mắt đều thấy sắc. Về nghĩa này, đã nói trong phẩm Giới. Nếu nói có hai thức đều sinh tác dụng, là không đúng. Vì sao? Vì duyên thứ đệ thứ hai chẳng có phần. Một thức trụ ở hai mắt, nhìn thấy sắc, là không đúng, vì không có phần. Nếu một thức trụ trong hai mắt, thì lẽ ra phải có phần sinh. Nếu trụ ở mắt bên trái thì chẳng phải mắt bên phải, vì phương, xứ của chúng khác nhau. Đấy là nói sai, vì cõi Vô Sắc không có chỗ dùng. Nếu lại một thức, trụ trong hai mắt, thì trong thân căn giữa hai mắt đó lã ra cũng sinh tác dụng. Và nếu vậy thì hóa ra nhãn thức tức là thân thức. Nếu trung gian không sinh tác dụng, thì lẽ ra phải cắt đứt thành hai phần, chẳng phải một như trước đã nói, vì không có hai thức cùng sinh. Hỏi: Tâm giải thoát ở đời nào? Đáp: Tâm giải thoát lúc phát sinh, là lúc đạo sinh, là lúc phiền não diệt, cho nên, lúc đạo sinh là tâm giải thoát. Như bờ đê bị rò rỉ, nước ở đó chảy ra trước. Tâm giải thoát kia cũng giống như vậy. Lại có thuyết nói: Hết thảy tâm giải thoát ở vị lai, không phải chỉ có lúc sinh, chỉ vì sự giải thoát ban đầu, nên nói lúc sinh. Hỏi: Lúc đạo sinh có dứt phiền não hay không? Đáp: Phiền não ở ngay trong tâm đạo, cho đến lúc diệt là xả. Lúc đạo diệt, sự diệt phiền não cũng rốt ráo. Lúc sinh là vị lai, làm sao đạo vị lai lại có khả năng rốt ráo công việc. Cho nên nói, lúc đạo vô ngại diệt, là đã dứt phiền não rồi. Hỏi: Hữu ái có bao nhiêu loại? Đáp: Hữu, ái có năm thứ Vô hữu chỉ một tướng Sự ái, phiền não khác Diệt tận là ba cõi. Hữu ái có năm thư: nghĩa là hữu ái tham, với hữu có năm thứ, đó là thấy khổ, tập, diệt, đạo dò tu đạo mà dứt. Do năm hạnh gieo trồng hữu tham. Vô hữu chỉ có một tướng: nghĩa là không có hữu ái, đó là kiến đoạn. Đã đoạn báo của mình, sinh lạc trước, là tu đạo đoạn. Vì sao? Vì kiến tham do thấy đạo dứt. Loại tham này, tùy theo quả báo. Vô thường khởi báo, là do tu đạo dứt, vì vô ký không ẩn mất. Báo, vô thường cũng như vậy, vì đồng một quả với báo cho nên không phải thấy đạo mà dứt. Duyên tham là do tu đạo mà dứt, chẳng phải nhất thiết biến. Tu đạo đoạn này không có hữu ái. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm thì không dứt mà không hành. Vì được đoạn kiến nuôi lớn, cũng như được hối, nghi nuôi lớn. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm cũng không hành. Hỏi: Đức Thế Tôn nói ba cõi: Cõi đoạn, cõi vô dục và cõi diệt. Ba cõi này thế nào? Đáp: Các việc của ái, những phiền não khác và sựÏ diệt tận, là ba cõi. Ái kia đã dứt hết, là cõi không có dục. Các việc đã hết là cõi diệt. Phiền não khác đã hết là cõi đoạn, vì nắm lấy gần để đối trị. Luận giả nói rằng: “Trong Tu-đa-la của Đức Thế Tôn nói: Tất cả hành đều hết, gọi là cõi đoạn, cõi không có dục vọng và cõi diệt, cũng như vậy”. Hỏi: Trong mười hai pháp thiện, bất thiện, vô ký ẩn mất, vô ký không ẩn mất của cõi Dục, cõi Sắc có ba, trừ pháp bất thiện, cõi Vô Sắc có ba cũng như vậy và Học, Vô học. Trong mười hai pháp này, bao nhiêu đắc trong tâm cấu uế, bao nhiêu đắc trong tâm thiện, bao nhiêu đắc trong tâm vô ký? Đáp: Nếu được chín thứ pháp Nên biết tâm cấu uế Tâm thiện được sáu thứ Vô ký tức vô ký. Nếu được chín thứ pháp, nên biết là tâm cấu uế: nghĩa là lúc cõi và địa hoàn lại, cõi Dục, cõi Sắc được bảy tâm, (ở cõi trên mất, sinh lại cõi Sắc, được tâm vô ký của cõi Dục và ba tâm của cõi Sắc), và thiện của cõi Dục. Lúc căn thiện nối tiếp, được thối thời, được cấu uế và tâm học của ba cõi. Ngoài ra không được, đó là pháp thiện, vô ký không ẩn mất của cõi Vô Sắc và vô học. Dù pháp thiện của cõi Vô Sắc, có một ít sự lui sụt được, đó là phần lui sụt, chỉ vì trong phần này có nói, đều không thành tựu mà được. Đó là nói về tắc thông, chứ chẳng phải trong một tâm, của một người mà được chín pháp. Tâm thiện được sáu thứ, nghĩa là trong tâm thiện được sáu tâm: Vô ký không ẩn mất của cõi Dục, thiện và vô ký không ẩn mất của cõi Sắc, thiện học và vô học của cõi Vô Sắc. Các pháp này cũng nói để thông suốt, chẳng phải được cùng lúc. Vô ký tức vô ký, nghĩa là vô ký không ẩn mất, tức được vô ký, không phải pháp nào khác, vì yếu kém. Hỏi: Trong mười pháp phẩm đạo, có bao nhiêu căn tính? Bao nhiêu chẳng phải căn tính? Đáp: Phẩm đạo có sáu pháp Nên biết là căn tính Nếu các pháp tương ưng Đó gọi là tính khác. Phẩm đạo có sáu pháp, nên biết là căn tính: nghĩa là năm căn như tín, v.v… và hỷ giác chi, nên biết là căn tính, vì được tướng của căn, các căn khác chẳng phải căn tính. Hỏi: Pháp tương ưng là tính của mình hay tính của người? Đáp: Các pháp nếu tương ưng là nói vì tha tính. Các pháp tương ưng với tha tính, chẳng phải với tự tính, vì không có một tính, cùng khởi trong hai sát-na, vì trước và sau không hoà hợp, chính nó không tự tương ưng được. Về nghĩa này đã nói trong phẩm Hành. Hỏi: Giải thoát ở đâu? Đáp: Được giải thoát trong duyên Do Đại Tiên nói ra Cũng có dứt mà buộc Kiến đạo và tu đạo. Được giải thoát trong duyên, do Đại Tiên nói ra: Nên biết là được giải thoát trong duyên, không có khả năng giải thoát đối với tương ưng, vì một sát-na, tâm sinh chung với phiền não. Chúng sinh ngu ở trong duyên, liền ở duyên kia khởi giải thoát, bất ngu phiền não. Hỏi: Dứt tức là giải thoát phải chăng? Đáp: Nếu giải thoát tức là dứt, thì cũng có dứt mà ràng buộc. Có một ít dứt mà không phải giải thoát, đó là khổ trí đã sinh mà tập trí chưa sinh. Dứt phiền não do thấy khổ dứt, dứt trừ nhất thiết biến, sử, phược, do thấy tập mà dứt, vì duyên kia chưa dứt và tu đạo một phẩm dứt, tám phẩm khác buộc ràng, cho đến tám phẩm dứt. Vì một sử của phẩm thứ chín buộc ràng, mà tám phẩm kia, trước dứt, sau giải thoát. Phẩm thứ chín này, hễ dứt là giải thoát ngay, tất cả phẩm khác cũng như vậy. Hỏi: Kiến đế như thế nào để được tịnh bất hoại? Đáp: Hai giải ở ba đế Bốn do thấy chính đạo Mà được tịnh bất hoại Tu tập ở hai đời. Hai kiến giải với ba đế, bốn đế, do thấy chính đạo mà được tịnh không hư hoại. Khổ, tập, diệt, vô gián đẳng v.v… được pháp tịnh bất hoại và Thánh giới. Đạo vô gián đẳng v.v… được bốn tịnh bất hoại. Về nghĩa này nói trong phẩm Trạch. Hỏi: Tu trong những đời nào? Đáp: tu tập trong hai đời: hiện tại là tu tập, được hiện ở trước mặt, vị lai là tu đắc, không hiện ở trước mặt, được nối tiếp theo. Quá khứ chẳng phải ø tu, vì không có phần cho nhân hiện tại. Hỏi: Những pháp nào đều chuyển với tâm? Đáp: Tất cả các tâm pháp Đều chuyển chung với tâm Với các tướng tâm này Tướng khác và sở tác. Nói tất cả các tâm pháp, đều chuyển chung với tâm, nghĩa là tất cả tâm pháp đều chuyến chung với tâm, vì đồng một quả với tâm. Cũng như các tướng tâm này, khi tâm này sinh ra các tướng, cũng chuyển chung với tâm, cũng cùng một quả với tâm. Tướng khác, nghĩa là tướng của tâm pháp này cũng chuyển chung với tâm và những việc đã làm gọi là vô tác, vì giới do tâm, cũng chuyển chung với tâm, cũng cùng một quả với tâm. Hỏi: Pháp đoạn là thế nào? Đáp: Pháp đoạn là hữu lậu Người trí cũng vô cấu Vị lai diệt, gọi xa Pháp khác, gọi là gần. Đoạn pháp, là hữu lậu: vì có lỗi. Như chiếc áo có vết nhơ thì giặt, chứ chẳng phải không nhơ. Pháp đoạn kia cũng như vậy. Hỏi: Thế nào là pháp biết? Đáp: Sự hiểu biết cũng không có cấu uế, nếu là pháp hữu lậu, vô lậu, tất cả đều nói biết là tùy theo đó. Vì sao? Vì trừ sự không biết. Hỏi: Thế nào là pháp xa? Đáp: Vì diệt ở vị lai, nên nói là xa. Pháp của quá khứ, vị lai được gọi là xa, vì xa với thức hiện tại. Đây là nói sự cách xa về thời gian. Bốn nghĩa xa đã nói trong phẩm Hành. Cái khác là nói gần, nghĩa là hiện tại thì nói gần, vì có chung với thân thức. Vô vi được gọi là gần, vì không ràng buộc nơi chốn. Tùy các phương kia mà được diệt, vì do đạo chẳng phải thường diệt, vì lìa sự siêng năng mong cầu. Về nghĩa đời, đã nói rộng trong phẩm Giới. Hỏi: Thế nào là pháp định? Đáp: Cái gọi nghiệp Vô gián Và các đạo vô lậu Tuệ, được gọi là định Kiến xứ là hữu lậu. Cái gọi nghiệp vô gián và các đạo vô lậu, tuệ được gọi là định: nghĩa là nghiệp vô gián được gọi là tà định, vì định này dẫn đến địa ngục. Hành vô lậu được gọi là chính định, vì định này hướng đến quả giải thoát, định khác là bất định. Hỏi: Đức Thế Tôn ngồi dưới cội Bồ-đề, lập ba nhóm đối với tất cả chúng sinh: Vì giới hạn của phần chúng sinh mà lập, hay vì giới hạn của phần pháp mà lập? Nếu nói là của phần chúng sinh giới hạn, sao lại không gọi là chúng sinh biên, mà là chúng sinh vô biên? Nếu pháp của phần giới hạn thì Thanh văn lẽ ra cũng lập pháp, sao lại nói là pháp bất cộng của Như lai? Đáp: Có thuyết nói: Phần chúng sinh giới hạn là cộng tướng, không phải tự tướng, đó là nói bốn loại sinh. Ngoại trừ bốn loại sinh này, không còn chúng sinh nào khác. Hỏi: Nếu vậy, Thanh văn lẽ ra cũng lập, do đó Như lai và Thanh văn có gì khác nhau? Đáp: Có khác nhau. Vì Đức Như lai tự lực kiến lập, còn Thanh văn theo Phật để nghe, đấy là sự khác nhau. Có thuyết nói: Đức Như lai kiến lập phần chúng sinh giới hạn, còn Thanh văn Duyên giác lại lập giới hạn của pháp. Đức Thế Tôn lập ba nhóm chúng sinh rồi, nay vì Đại Bi nên vẫn còn luôn đem lại niềm an vui cho chúng sinh suốt ba thời trong ngày đêm, dùng Phật nhãn mà quán sát chúng sinh. Hỏi: Thế nào là kiến xứ? Đáp: Kiến xứ, là hữu lậu. Tất cả pháp hữu lậu đều là kiến xứ, đi chung với kiến cấu uế. Nếu pháp cấu uế, kiến duyên sử và tương ưng với sử, thì pháp đó là kiến xứ. Có thuyết nói: Vì sức duyên với kiến của giới mình, nên pháp hữu lậu được gọi là kiến xứ, chẳng phải duyên sử nào khác và chẳng phải phần nào khác, nói như vậy là tốt đẹp, nghĩa là như ở trước đã nói. Hỏi: Nếu chúng sinh thành tựu căn, chúng sinh đó thành tựu bao nhiêu căn? Đáp: Nói có mười chín căn Là thành tựu rất nhiều Ít nhất thành tựu tám Hiểu rõ căn đã nói. Nói có mười chín căn là thành tựu rất nhiều, nghĩa là bậc Thánh thành tựu nhiều nhất là mười chín căn, đó là đủ các căn chưa lìa dục. Nếu trụ kiến đạo, trừ dó tri căn, vô tri căn và một hình. Nếu trụ tu đạo, trừ vị tri căn, vô tri căn và một hình. Phàm phu không dứt căn thiện, đủ các căn và hai hình, trừ ba căn vô lậu. Ít nhất thành tựu tám đã nói hiểu rõ căn, nghĩa là ít nhất thành tựu tám căn gọi là còn lại (nghĩa là thân căn chết dần dần, có phần ít căn còn lại). Căn thân, căn thiện dần dần dứt, khi qua đời sẽ đọa vào địa ngục Vô Trạch, bị núi lớn ép lại, chỉ có thân căn, mạng căn, ý căn và năm thọ căn. Nếu phàm phu sinh cõi Vô Sắc, thì có ý, mạng, xả và năm căn như tín, v.v… Hỏi: Có bao nhiêu xúc? Đáp: Tăng ngữ và có đối. Trong xứ minh, vô minh Cái gọi là được quả Tức là việc hai đạo. Tăng ngữ (do nhiều danh, nên nói là tăng ngữ) và có đối, trong xứ của minh và vô minh. Tăng ngữ: nghĩa là nếu ý thức thân tương ưng với xúc, duyên tất cả pháp thì gọi là tăng ngữ. Vả lại, vì duyên nhiều danh, nên nói là tăng ngữ. Dù xúc thứ năm cũng duyên nhiều danh, nhưng vì thức kia mới có tên nên không có lỗi. Nếu năm thức thân tương ưng với xúc, dựa vào căn có đối, nên nói là có đối. Vô lậu gọi là minh, vì xúc tương ưng với minh. Sự cấu uế gọi là vô minh, vì xúc do vô minh sinh. Hữu lậu không cấu uế, nói là chẳng minh, chẳng phải vô minh, vì đều không tương ưng với xúc. Năm xúc này, tùy thuận, không tùy thuận, tương ưng y, vì phân biệt, nên nói có mười sáu thứ. Tùy thuận, không tùy thuận được kiến lập, nghĩa là sự ái, sân, tương ưng, xúc tương ưng. Vì phân biệt, nên nói xúc là khổ, vui, không khổ, không vui. Vì dựa vào sự phân biệt, nên nói có xúc của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Hỏi: Được quả là đạo vô ngại hay đạo giải thoát? Đáp: Cái gọi là được quả, nghĩa là việc của hai đạo đều được, đó là đạo vô ngại và đạo giải thoát. Đạo vô ngại dứt phiền não, sẽ được đạo giải thoát, được chứng giải thoát. Lại nói đạo vô ngại được quả, đạo giải thoát bảo vệ những việc mà đạo vô ngại kia đã làm, không để mất mát, nên nói như vậy. Hỏi: Đức Thế Tôn nói nhàm chán rồi lìa dục. Thế nào là nhàm chán, thế nào là lìa dục? Đáp: Nếu trí ở nhân khổ Và nhẫn là nhàm chán Vì lìa được tham dục Nói bốn là lìa dục. Nếu trí ở nhân khổ và nhẫn là sự nhàm chán, nghĩa là duyên khổ trí, tập trí và nhẫn, gọi là nhàm chán, vì duyên là việc đáng nhàm chán, vì khổ, tập đế là chỗ nương dựa của phiền não, hành động ác, nên nói là những việc nhàm chán. Vì lìa được tham dục, nên nói bốn là lìa dục, nghĩa là nếu nhẫn và trí chuyển biến hết cả bốn đế, nói là lìa dục, vì làm hoại tham dục. Dù lìa tất cả phiền não, chỉ cần tham dục là đủ các phiền não, cho nên nói là lìa dục. Chỉ vì ghét mà không thích trái với ác, đó là khác với nhàm chán. Lìa dục là diệt, giải thoát là dứt hết, đấy là điểm khác với lìa dục. Hỏi: A-la-hán trụ tâm nào để nhập Niết-bàn? Đáp: La-hán trụ báo sinh Cùng với tâm oai nghi Vì thuận theo tâm diệt Hướng về bát Niết-bàn. A-la-hán trụ báo sinh và tâm oai nghi mà nhập Niết-bàn. Vì sao? Vì thuận theo tâm diệt. Tâm thiện trụ vững chắc, là không thuận theo tâm diệt. Tâm vô ký yếu kém, vì yếu kém nên thuận theo tâm diệt. Lại nữa, vì ít lỗi nên tâm thiện dựa quả báo, vì quả môn quá sinh. Vô ký chỉ có dựa quả môn, không có báo quả môn. Lại nữa, vì quay lưng lại các đường, nếu hướng về các đường, người đó phải có tâm thiện siêng năng hiện ngay ở trước mặt, không để mình đọa trong đường ác. Thế nên, người đó vì chống chọi với tất cả đường, nên trụ tâm tính thường còn. Có lúc tâm thiện trong phần thân kia trống không như dứt căn thiện, tâm bất thiện cũng trống không như lìa sự ham muốn cõi Dục. Lại nữa: Dần vì lìa sanh tử, nghĩa là ở ngay trong cõi Dục, lìa dục, lìa tâm bất thiện, lìa dục đệ nhất hữu, lìa dục tâm nhiễm ô. tâm vô ký hiện ở trước mặt, lìa tâm thiện, tâm qua đời hiện ở trước mặt, lìa tâm vô ký. Tôn giả nói (đây là Đạt-ma-đa-la lấy truyện cổ tích Đạt-ma-đa-la làm Tôn giả): Siêng năng liên tục, nghĩa là tâm thiện, người đó lúc qua đời không chuyển biến theo. Có thuyết nói: Vì muốn cho địa dưới có quả báo không khổ, không vui, nên người kia nói cõi Dục, cho đến báo sinh của đệ Tứ thiền và tâm oai nghi bát Niết-bàn. Cõi Vô Sắc chỉ có báo sinh, chẳng phải oai nghi, vì sắc không có phần. Có người muốn cho địa dưới không có quả báo không khổ, không vui, nên người đó nói cõi Dục, cho đến đệ Tam thiền, chỉ có an trụ tâm oai nghi, bát Niết-bàn. Ngoài ra như trên đã nói. Hỏi: Có bao nhiêu thứ hữu? Đáp: Sinh hữu và hoại hữu Bổn hữu cũng lại trung Nên biết hai sát-na Một nhiễm ba hữu hai. Sinh hữu và hoại hữu, bổn hữu cũng lại trung: nghĩa là sinh hữu gọi là phần sinh. Vì năm ấm có chung với sinh nên gọi là sinh hữu, là nghĩa của tâm tương tục cùng sinh. Hoại hữu: nghĩa là tử biên, vì năm ấm đi chung với cái chết, nên gọi là tử hữu, nghĩa là không đi chung với tâm. Bổn hữu: nghĩa là trừ năm ấm của phần sanh, phần tử. Hữu trung gian kia, do nghiệp trước đã gieo trồng từ lâu, nên gọi là bổn hữu. Trung hữu, nghĩa là trong khoảng thời gian từ khi chết, cho đến lúc chưa được sinh hữu khác, trong khoảng hướng đến hữu thọ sinh khởi, năm ấm không thuộc về đường nào, vì khởi ở giữa hai bên, nên gọi là Trung hữu. Hỏi: Các hữu này có bao nhiêu sát-na? Trụ được bao lâu? Đáp: Nên biết hai sát-na tử hữu và sinh hữu, đều trong khoảnh khắc sát-na không trụ lâu. Do nghĩa này, nên biết bổn hữu, trung hữu đều trụ lâu. Hỏi: Có bao nhiêu nhiễm ô, bao nhiêu không nhiễm ô? Đáp: Một nhiễm ô, ba hữu có hai, sinh hữu hoàn toàn nhiễm ô. Vì tâm nhiễm ô, nên sự sanh nối tiếp nhau nhiễm ô. Phàm phu ở cõi Dục kia có ba mươi sáu sử, mỗi sử đều khiến sự sanh nối tiếp nhau. Bậc Thánh tu đạo dứt trừ bốn sử mỗi sử cũng như vậy. Phàm phu cõi Sắc có ba mươi mốt sử, mỗi sử đều đều khiến sự sanh nối tiếp nhau. Bậc Thánh có ba sử, cõi Vô Sắc cũng như vậy. Sử khiến cho sự sanh nối tiếp nhau, không phải cấu uế ràng buộc. Hữu khác thì có nhiễm ô, không nhiễm ô. Hỏi: Người tu hành có bao nhiêu thời gian bị nghiệp làm chướng ngại? Đáp: Nếu lìa dục cõi Dục Vượt qua hữu thứ nhất Cùng với khởi pháp nhẫn Rất bị nghiệp chướng ngại. Ba thời gian tu hành ở đây: Nghiệp rất làm chướng ngại, đó là lúc bậc Thánh lìa dục cõi Dục, nghiệp cõi Dục đó, rất làm chướng ngại, nghĩa của lời này là: Nếu ông lìa dục, ta sẽ thọ báo ở đâu? Vì bậc Thánh khi lìa dục cõi Dục, không còn thọ sinh ở cõi Dục, vì đã dứt hết sanh tử. Vì đến lúc chết được quả không lui sụt, nghĩa là khi chứng quả A- la-hán, vị ấy đời sau thọ báo, thì nghiệp rất làm chướng ngại, nghĩa là nói: Ông đã vượt qua hữu thứ nhất, không còn chỗ sinh, ta sẽ thọ báo ở đâu? Đó là lúc trụ ở pháp Đảnh, khởi pháp Nhẫn, vị ấy thọ báo đường ác, do nghiệp rất làm chướng ngại. Khởi pháp nhẫn là lìa hẳn đường ác, ngoài ra như trước đã nói. Hỏi: Việc này có bao nhiêu thứ? Đáp: Nên biết có năm thứ Là tự tính và nhân Ràng buộc, hoặc thâu nhiếp Sự của mọi cảnh giới. Năm thứ sự là: Tự tính sự, nhân sự, hệ sự, thâu nhận sự và cảnh giới sự. Tự tính sự, nghĩa là nếu pháp là tính của mình, do sự mà đặt tên, như nói: Nếu đắc sự, là đã thành tựu sự đó. Nhân sự nghĩa là như đã nói: Thế nào là pháp có sự? Là lời nói có nhân. Hệ sự nghĩa là như nói: Nếu sự này bị ái kiết trói buộc, tức là sự kia bị giận dữ trói buộc chăng? Năm thứ pháp kia đã do sự (năm thứ pháp là năm hành), nên được gọi là nhiếp thọ sự (như là thọ của thọ lấy). Như đã nói, việc nhà, việc ruộng là như vậy. Cảnh giới sự, nghĩa là như nói: Tất cả pháp được trí nhận biết, đều tùy vào sự đó. Nếu là pháp, pháp ấy duyên lấy sự mà đặt tên. Lại có năm thứ sự khác. Nói ấm tức là sự Giới nhập, sự cũng vậy Và sát-na thế gian Đó gọi năm thứ sự. Nếu nói ấm, tức lấy ấm làm sự, không phải lấy thứ nào khác. Như vậy, cho đến nói sát-na, chính là lấy sát-na làm sự, không phải lấy thứ nào khác. Như vậy, nói lược là đồng thật, mà khác tên, đều phải biết. Hỏi: Như phẩm Nghiệp nói năm thứ quả là thế nào? Chỉ có quả này hay còn có quả nào khác nữa chăng? Đáp: Có sự ham muốn, khiến lại có bốn quả. Dục-đa-bà-đề nói An lập và phương tiện Cũng nói hòa hợp, tu Đó gọi là bốn quả. Quả an lập: Là như nước trụ ở phong luân, thủy luân là quả an lập trên phong luân, tất cả đều như vậy. Quả phương tiện, nghĩa là từ phương tiện quán bất tịnh, cho đến khởi trí tận, trí vô sinh. Trí tận, trí vô sinh kia là quả phương tiện của quán bất tịnh. Tất cả phương tiện như vậy (đấy là lấy nhân để tìm quả, hướng đến phương tiện) đều nên biết. Quả hòa hợp: nghĩa là các thứ như: Mắt, màu sắc, ánh sáng, niệm, hòa hợp sinh nhãn thức. Pháp như vậy pháp sinh ra từ hòa hợp, pháp này là quả hòa hợp. Quả tu: nghĩa là sắc giới đạo dục giới hóa, hóa và làm ngôn ngữ cõi Dục. Sự hóa và ngôn ngữ kia, là quả tu đạo của cõi Sắc, tất cả như vậy. Hỏi: Có bao nhiêu thứ thần túc? (tiếng Phạm là túc địa, hoặc nói thần túc, hoặc nói như ý túc, hoặc nói tự tại, hoặc nói phú mãnv.v… đều có nghĩa dịch thoát, không hoàn toàn đúng ý chính). Đáp: Vận thân và ý giải Ý niệm tự tại thông Ý niệm chỉ có Phật Nên biết hai là chung. Ba thứ lớp tại: Là vận thân tự tại, ý giải tự tại và ý niệm tự tại. Vận thân tự tại: nghĩa là cất mình lên hư không như chim bay. Ý giải tự tại, nghĩa là xa mấy cũng cho là gần, trong khoảnh khắc co duỗi cánh tay, đã đến Sắc Cứu Cánh. Ý niệm tự tại: nghĩa là nhãn thức đến với sắc, trong khoảnh khắc ý liền đến. Ý niệm tự tại này, chỉ có Phật, không ai khác có được, vì Nhất thiết trí biết được đến cả bờ giác. Nên biết hai là chung, nghĩa là vận thân tự tại và ý giải tự tại thì Như lai, Duyên giác, Thanh văn đều có, vì là quả của thiền. Hỏi: Tất cả A-na-hàm có nhập vào quả cõi Sắc, cõi Vô Sắc không? Tất cả tín giải thoát có được kiến đáo không? Tất cả pháp lui sụt, đều phải lui sụt chăng? Đáp: Nhập cõi Sắc, Vô Sắc Cũng là căn tăng ích Cùng với Hiền, Thánh thoái Sinh định trung gian không. Bậc Thánh lại thọ sinh: nghĩa là như trước đã nói: Nhân duyên khác, nhất định không. (Thọ sinh trở lại, là nhất định không đến hai cõi trên, cũng là căn không tiến thêm, cũng không lùi xuống). Thọ sinh lại: nghĩa là cõi Dục sau khi được quả, lại sinh cõi Dục. Sự nhàm chán ở trong thai thấy lỗi của hữu, không nhập cõi Sắc, cõi Vô Sắc, vì ở đó, tuổi thọ lâu dài. Vì tu Thánh đạo khá lâu mà căn không thể tiến bộ thêm, vì cõi dưới như bạn thân không thể lìa bỏ. Sự thọ sinh kia cũng như vậy. Tu tập Thánh đạo, sinh ở trung gian, nên không lui sụt. Hỏi: Đức Phật xuất hiện ở thế gian vào thời kỳ nào? Vua Thánh Chuyển luân ra đời vào thời kỳ nào? Bích-chi-Phật ra đời vào thời kỳ nào? Đáp: Kiếp giảm, Phật ra đời Vua Chuyển luân kiếp tăng, Bích-chi-Phật cả hai Như vậy cần phải biết. Vào thời kiếp giảm, Đức Phật xuất hiện ở thế gian, làm thầy thuận giải thoát, nên Đức Phật là sư giải thoát. Đã lìa bỏ sự sống chết, xuất hiện ở thế gian nói pháp. Vào thời kỳ tăng, chúng sinh hướng về sự sống chết, cái thấy chuyển hướng theo sự vui sướng. Nếu bấy giờ, Đức Phật ra đời, thì vô ích, vì chúng sinh không thể bỏ sự sống chết, vì đã quá mê đắm. Thời kỳ kiếp giảm, chúng sinh đã có quay lưng lại cái thấy về sinh tử, phiền não hành vi ác tăng quá nhiều nên có khả năng lìa bỏ sinh tử. Thế nên, cho đến thời kỳ chúng sinh trăm tuổi, thì Đức Phật mới ra đời. Không phải giảm, vì nếu giảm, thì bấy giớ, chúng sinh sẽ sinh lòng tham phi pháp, tham bất chính, tu theo tà pháp, thích sinh lên cõi trời, siêng làm lợi cho phiền não, nên chẳng phải pháp khí thiện. Vua Thánh Chuyển luân, phần đông ra đời vào thời kỳ tăng, có thể dùng mười điều thiện, để kiến lập chúng sinh. Do vậy, trong thời kỳ giảm, Phật không ra đời, vì chúng sinh kia đều hướng về hành vi ác. Thế nên, vào thời kỳ tăng, thì việc giáo hóa rất dễ dàng, vì thời đại thuần hậu. Đầu tiên vào thời kỳ giảm vua Thánh Chuyển luân cũng ra đời, vì đời còn thuần hậu. Bích-chi-Phật ra đời vào cả hai thời kỳ để tu pháp của mình. Hỏi: Đắc là vì có đắc mà được hay là vì không có đắc mà được? Nếu là đắc lại có đắc nữa thì đắc này còn có đắc khác, làm sao chẳng phải không cùng cực. Nếu không có đắc mà được thì đắc này làm sao thành tựu? Đáp: Nếu các pháp kia sinh Hai đắc cùng khởi chung Hai đắc đều sinh ra Biết có đắc mà đắc. Nếu các pháp sinh, tức là pháp kia hai đắc đều cùng đắc và đắc đắc. Vì sức của đắc kia, nên thành tựu pháp và đắc đắc. Vì sức của đắc, nên thành tựu đắc, do đắc và đắc đắc, đều cùng trong một nhất tâm lần lượt đắc nhau. Thế nên, chẳng phải vô cùng. Sắc ấm, hành ấm kia là một đắc, ấm khác cũng như vậy. (đắc đầu tiên có thể được một ấm và được đắc nhỏ) Hữu vi, vô vi là một đắc (đắc đầu tiên có thể được vô vi và được đắc nhỏ). Giới thiện, giới ác của cõi Dục, nếu thuộc về quá khứ là đắc của ba đời, nếu thuộc hiện tại là đắc của hiện tại, vị lai. Nếu thuộc về vị lai tức là đắc vị lai. Việc thiện và bốn ấm cấu uế của cõi Dục. Năm ấm thiện của cõi Sắc và bốn ấm cấu uế. Thiện của cõi Vô Sắc và bốn ấm cấu uế. Năm ấm vô lậu và tâm biến hóa cùng sinh ra bốn ấm. Ba đời thì đắc ba đời, tùy loại mà đắc. Bốn ấm oai nghi, phần nhiều do thế gian đoạn và sát-na đoạn mà đắc. Nếu người tu thiện kia, thì đắc ba đời, sự khéo léo cũng như vậy. Sắc của vô ký và bốn ấm của sinh báo, do thế gian đoạn và sát-na đoạn mà đắc, quá khứ của quá khứ, vị lai của vị lai và hiện tại của hiện tại. Hỏi: Khổ pháp nhẫn có bao nhiêu đắc, cho đến đạo tỷ nhẫn có bao nhiêu đắc? Đáp: Các đắc có mười lăm Đắc ở khổ pháp nhẫn Ngoài ra kiến tăng đạo Nên biết mỗi mỗi giảm. Các đắc có mười lăm đắc ở khổ pháp nhẫn: nghĩa là khổ, pháp nhẫn có mười lăm đắc, kiến đạo có mười lăm tâm, nên tất cả tâm kia, đều được sinh một đắc, sinh chung với nhẫn kia mười bốn đắc sinh sau. Ngoài ra, kiến tăng đạo, nên biết: Mỗi mỗi giảm: nghĩa là kiến đạo gọi là kiến tăng, vì là tuệ tăng thượng. Kiến đạo khác dần dần vượt qua, trong mỗi tâm đắc lần giảm. Khổ pháp trí có mười bốn đắc, một đắc sinh chung, còn mười ba đắc sinh sau, không có sinh trước, vì chưa từng được. (Khổ, pháp trí đều cùng sinh đắc, vì nay mới khởi, không có sinh trước nên chỉ có mười bốn đắc, đắc khác vì không có sinh trước, nên giảm ít dần). Khổ tỷ nhẫn có mười ba đắc, một đắc cùng sinh, còn mười hai đắc sinh sau. Khổ, tỷ trí có mười hai đắc, một đắc cùng sinh, mười một đắc sinh sau, cho đến đạo tỷ nhẫn có một đắc cùng sinh, không có đắc sinh sau, vì kiến đạo rốt ráo, cũng không có sinh trước, vì chưa từng được nhẫn (đã không có khởi sau, lại không có sinh trước, nên chỉ có một). Hỏi: Giải thoát đắc, thuộc về địa nào? Đáp: Nếu ở trong địa kia Đoạn và hoại đối trị Liền thuộc giải thoát đắc Pháp trí, tỷ trí phẩm. Nếu ở trong địa kia đoạn và hoại đối trị, liền thuộc giải thoát đắc: Có thuyết nói: Nếu địa kia dứt đối trị, thì địa đó là giải thoát đắc, tức là gồm nhiếp địa kia, vì đoạn đối trị. Nói như vậy, nghĩa là kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn của cõi Dục là giải thoát đắc, thuộc về thiền vị lai. Sơ thiền địa thuộc về Sơ thiền vị lai và thiền trung gian: Đệ Nhị thiền, thuộc về bốn địa, tức là ba địa trước và đệ Nhị thiền. Đệ Tam thuộc về năm địa, tức là bốn địa trước và đệ Tam thiền. Kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn của đệ Tứ thiền và kiến đạo đoạn của Vô Sắc, thuộc về sáu địa, tức năm địa trước và đệ Tứ thiền. Tu đạo đoạn của không xứ, thuộc về bảy địa, tức sáu địa trước và không xứ. Tu đạo đoạn của thức xứ thuộc về tám địa tức bảy địa trước và thức xứ. Vô sở hữu xứ và tu đạo đoạn giải thoát đắc của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thuộc về chín địa: Vị lai, trung gian, bốn thiền căn bản và ba Vô Sắc. Lại có thuyết nói: Nếu thuộc về địa kia, đoạn đối trị và hoại đối trị, đó là nói kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn của cõi Dục, cõi Sắc. Kiến đạo đoạn giải thoát đắc của cõi Vô Sắc, thuộc về sáu địa. Tu đạo đoạn của cõi Vô Sắc, như trước đã nói. Về pháp trí, tỷ trí phẩm: Lại có thuyết nói: Nếu là phẩm, pháp trí của địa thì kiến đạo, tu đạo đoạn giải thoát đắc của cõi Dục, tức thuộc về địa kia. Nếu là phẩm tỷ trí của địa, thì kiến đạo, tu đạo Đoạn giải thoát đắc của cõi Sắc, cõi Vô Sắc, tức thuộc về địa kia. Đấy là nói giải thoát đắc của cõi Dục thuộc về sáu địa và giải thoát đắc của cõi Sắc, Vô Sắc thuộc về địa. Hỏi: Nếu đạo đều khởi đắc, thì đắc đó có phải là nhân cùng sinh đạo không? (Chỉ trừ nhân đã làm, nhân khác thì hỏi chung). Đáp: Đều khởi đắc với đạo Đều khởi, chẳng phải nhân Đạo chẳng phải nhân kia Khởi sau, hoặc có, không. Đều khởi đắc với đạo, đều khởi chẳng phải nhân (đạo đều cùng khởi vớùi đắc, đã không phải là nhân chung, lại vì không có nhân khác, nên không có nhân), nghĩa là đạo cùng khởi đắc, đạo đó, chẳng phải là nhân của đạo, vì không phải một quả. Không là một quả, thì không có nghĩa của nhân chung. Đạo cũng chẳng phải nhân kia, nghĩa là đắc là đạo đều khởi, cũng không phải nhân của đắc, cũng không phải một quả. Hỏi: Thế nào là đắc khởi sau? Đáp: Đắc khởi sau, hoặc có, không. Trước đạo khởi đối với đắc khởi sau, hoặc có nhân, hoặc không nhân, tương tợ với tăng đạo đắc ở sau, làm nhân cho tương tợ tăng giải thoát đắc, không phải đạo hạ đắc, làm nhân cho đạo giải thoát hạ đắc (vì đây là nhân tự nhiên, nên không làm nhân trung, thượng, không phải là nhân của địa trên, địa dưới). Là khổ, pháp nhẫn có một đắc, đều cùng sinh, đắc đó không phải nhân của nhẫn, nhẫn cũng chẳng phải là nhân của đắc. Khổ pháp trí có ba đắc, đều cùng sinh: Đắc của hai đạo, đắc của một giải thoát. Khổ pháp trí, chẳng phải là nhân của các đắc, các đắc đó, cũng không phải là nhân của khổ pháp trí. Khổ pháp nhẫn kia là nhân của ba đắc. Khổ tỷ nhẫn có bốn đắc đều cùng sinh: Ba đạo đắc, một giải thoát đắc. Khổ tỷ nhẫn không phải là nhân của các đắc kia, các đắc kia, cũng không là nhân của nhẫn. Khổ pháp trí là nhân của ba đắc, không phải khổ pháp nhẫn là nhân của đắc, vì nhẫn yếu kém (Tỷ nhẫn, tỷ trí và giải thoát đắc). Khổ tỷ trí có sáu đắc đều cùng sinh: Bốn đạo đắc, hai giải thoát đắc. Khổ tỷ trí không phải là nhân của các đắc kia, các đắc kia cũng chẳng phải ø nhân của trí. Nhân của ba đắc khổ tỷ nhẫn không phải là nhân của ba đắc, đó gọi là đắc trong pháp trí phẩm, cho đến đạo tỷ nhẫn có hai mươi hai đắc đều cùng sinh, mười lăm đạo đắc và bảy giải thoát đắc: Đạo tỷ nhẫn không phải là nhân của các đắc kia, các đắc kia, cũng không phải là nhân của nhẫn. Đạo, pháp, trí là nhân của ba đắc (Pháp trí tự ở vị lai đắc, giải thoát đắc và tỷ nhẫn đắc, làm nhân tự nhiên. Các đắc dưới vì yếu kém nên chẳng phải nhân), chẳng phải nhân khác. Hỏi: Không không thuộc về hành nào? Tự tính nào? Duyên nào? Địa nào? Đáp: Hành không, trụ có nhơ Đây nói là không không Nói cảnh giới Vô học Ở nơi mười một địa. Hành không sinh rồi, không không mới khởi sau. Hành không là quán năm thạnh ấm không. Không không kia, khởi nơi không tư duy không kia. Như người lúc đốt tử thi, cầm gậy trở qua trở lại, sau đó mới đốt bỏ cây gậy. Hành không kia cũng như vậy. Có cấu uế là nghĩa hữu lậu. Vì ràng buộc Thánh đạo. Không không ràng buộc Thánh đạo, chẳng dùng Thánh đạo ràng buộc Thánh đạo, dùng hành nhàm chán của vô lậu không duyên với vô lậu. Trụ: Là tự tính của tam-muội. Không không: Là ở trong không mà hành nghĩa không. Cảnh giới vô học: Lấy nghĩa vô học làm duyên, đó là hành không vô học là duyên của học kia. Lại nói duyên không hành năm ấm đều cùng sinh. Mười một địa: Vì là hữu lậu, khắp cảnh giới đều không. Mười một địa của không không, từ cõi Dục cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Hỏi: Thế nào là vô nguyện của vô nguyện? Đáp: Thực hành hạnh vô thường Là vô nguyện của vô nguyện Đều ở chỗ bất động Cõi Dục khác: Như trước. Thực hành hạnh vô thường, là vô nguyện vô nguyện: nghĩa là hạnh vô thường tương ưng với vô nguyện. Quán năm thạnh ấm vô thường, với pháp quán đó, khởi vô nguyện vô nguyện. Tư duy vô nguyện vô thường, hành khổ khổ, đó là điên đảo, Thánh đạo không phải tính của khổ, cũng không phải hành của nhân, v.v… vì trái với Thánh đạo (vì vô nguyện vô nguyện trái với Thánh đạo, nên hành không làm nhân, v.v…). Nếu hành làm nhân v.v… thì lẽ ra thuận với Thánh đạo, nhưng hành kia lại ràng buộc Thánh đạo, trái với Thánh đạo, nên cũng không làm hành của đạo, v.v… Vì hành của đạo v.v… thì ưa thích đạo. Đều ở chỗ bất động, nghĩa là trước đây đã nói, không không và vô nguyện vô nguyện. Hai hành này là pháp bất động, A-la- hán nên có khả năng làm tam-muội hiện ở trước mặt, vì có uy lực, vì lìa phiền não. Kiến đáo: nghĩa là dù lợi căn, được Tam-muội tự tại, nhưng vì chưa lìa phiền não. Thời giải thoát tuy lìa phiền não, mà không được Tam-muội tự tại. Vì căn cơ chậm lụt. Bất thời giải thoát, được Tam-muội tự tại, vì là lợi căn, vì đã lìa sự ham muốn của ba cõi, cho nên Tam-muội có thể hiện ở trước, không phải căn nào khác. Cõi Dục, nghĩa là cõi Dục hiện ở trước mặt, phần nhiều nói từ sức mà khởi, chứ không phải pháp nào khác. Là ba phương khác trừ châu Uất-đơn-việt. Ngoài ra như trước đã nói, nghĩa là những việc khác như nói ở không không. Là vô tướng vô tướng Hành kia ở tịch chỉ Hành ở vô ký diệt Còn lại như trước nói. Là vô tướng, vô tướng, hành kia ở tịch chỉ: Vô tướng nghĩa là thường diệt, quán tịch chỉ. Ở đó, về sau khởi hạnh vô tướng vô tướng. nghĩa là nói ông không phải thường diệt, cũng tịch chỉ (định vắng lặng). Hỏi: Pháp quán đó duyên gì? Đáp: Hành ở vô ký, diệt chẳng phải thường diệt, là duyên kia, là vô ký, cũng không khởi, không phải thường diệt, không khởi như trước. Vì nghĩa này, nên không nói diệt hành, vì có hai thứ diệt: Chẳng phải thường diệt và vô thường diệt. Nếu nói là diệt hành, thì không biết là diệt cái gì. Cũng không phải là hành diệu, xuất, vì vô ký chẳng phải diệu, chẳng phải xuất, vì chẳng phải do ba tướng mà thành. Ngoài chỉ ra, như trước đã nói: nghĩa là ngoài ra như thuyết không không. Đã nói. Lại, Tam-muội kia, khi lợi căn sinh tận trí, được phương tiện sau, hiện ở trước. Đức Phật không phương tiện, Bích-chi-Phật ít phương tiện, Thanh văn hoặc trung, hoặc thượng. Không không, vô nguyên vô nguyện, pháp trí, tỷ trí, khổ trí, về sau hiện ở trước. Vô tướng, vô tướng, pháp trí, tỷ trí và diệt trí, về sau đều hiện ở trước. Nếu Tam-muội cõi Dục thuộc về thiền vị lai, thì Thánh đạo về sau mới khởi. Nếu Phi tưởng Phi phi tưởng địa, Vô sở hữu xứ thì Thánh đạo về sau mới khởi, ngoài ra là thứ lớp tự địa. Hỏi: Vượt lên trên Tam-muội, chính thọ thế nào? Đáp: Vượt qua Tam-ma-đề Trên, dưới đến thứ ba Không nhớ nghó tư duy Siêu vượt duyên cũng vậy. Vượt qua Tam-ma-đề, trên dưới đến thứ ba: nghĩa là lúc vượt lên trên Tam-muội. chính thọ theo thứ lớp, vượt Sơ thiền hữu lậu, đệ Nhị thiền hữu lậu hiện ở trước. Theo thứ lớp như vậy, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Sau đó, cũng thứ lớp trở lại cho đến Sơ thiền. Ở các địa này khéo tu tập rồi, khởi Sơ thiền vô lậu, thứ lớp cho đến Vô sở hữu xứ. Lại nữa, theo thứ lớp, trở lại đến Sơ thiền. Ở địa này khéo tu tập rồi, lại khởi chính thọ Sơ thiền hữu lậu, xuất Sơ thiền nhập vào đệ Tam thiền hữu lậu, xuất đệ Tam thiền nhập vào Không xứ, xuất Không xứ nhập Vô sở hữu xứ. Vượt qua ngược lại, cũng như thế. Địa này khéo tu tập rồi, sau đó khởi chính thọ vô lậu vượt qua. Đó gọi là phương tiện siêu việt. Sau đó, có thể Sơ thiền hữu lậu vượt theo thứ lớp, nhập chính thọ vô lậu đệ Tam thiền. Đệ Tam thiền vô lậu, theo thứ lớp Không xứ hữu lậu. Không xứ hữu lậu lần lượt đến Vô sở hữu xứ vô lậu, vượt nghịch cũng như vậy, đó gọi là siêu việt chính thọ thành tựu. Vì cách xa, nên không khởi chính thọ thứ tư. Ba phương bất thời giải thoát có thể khởi, chẳng phải phương nào khác. Vì sao? Vì đã lìa phiền não, vì uy lực của Tam-muội tự tại, như ở trước đã nói. Và không nhớ nghó tư duy về duyên khởi cũng vậy: nghĩa là nếu không cấu uế, mà dứt cảnh giới, thì nhân kia không nhớ nghó tư duy. (cảnh giới có xen hở gọi là đoạn, hoặc có tâm nhiễm, mà duyên cảnh giới đoạn nên nêu ra không nhiễm để phân biệt nhân riêng. Không nhớ nghó tư duy, tự nhiên có thể duyên vượt lên đến Tam thiền), cũng đến đệ Tam thiền, nghĩa là Sơ thiền duyên cõi Dục, lần lượt duyên địa trên, Sơ thiền, Nhị thiền và chính thọ (ở đây làm rõ cảnh giới siêu việt, lời văn, chỉ có lần lượt sắp trước sau, vượt qua trong tam-muội như trên, nên đơn cử cái bắt đầu để làm sáng tỏ cho cái sau cùng), duyên Sơ thiền, lần lượt duyên xuống cõi Dục. Lần lượt duyên lên đệ nhị, đệ Tam thiền. Sơ thiền duyên Nhị thiền, lần lượt duyên xuống cõi Dục và Sơ thiền. Và duyên lên đệ tam, Tứ thiền như thế, tất cả địa đều nên biết. Vô Sắc không duyên địa dưới, như trước đã nói. Dù khổ pháp trí theo trình tự, sinh khổ tỷ nhẫn cho đến duyên đệ nhất hữu, vì ở đây không dứt cảnh giới. (vì nối tiếp nhau không dứt, nên dù xa, mà chẳng phải vượt qua). Tịnh, bội xả lần lượt, duyên tâm tự địa mà khởi, hoặc duyên địa trên, chỉ vì địa đó nhiễm ô. Hỏi: Lời Phật nói, nên nói là thiện hay là vô ký? Đáp: Lời Phật thiện, vô ký Như sơ tâm kia chuyển Rốt ráo cũng như vậy Vô ký hoặc thanh tịnh. Lời Phật thiện, vô ký: nghĩa là điều phục chỗ, phương tiện mà nói là thiện. Như Phật nói: Hết thảy hành vô thường, tất cả pháp vô ngã. Niết-bàn diệt hẳn. So sánh như vậy. Nếu Phật không vận dụng phương tiện, thì gọi là vô ký. Như Phật hỏi: A-nan vì sao cất tiếng lớn trong vườn, so sánh như vậy, như sơ tâm kia chuyển biến rốt ráo cũng giống như vậy. Vô ký hoặc thanh tịnh, nghĩa là Đức Thế Tôn dùng tâm thiện phát ra lời nói, tức là dùng tâm thiện rốt ráo, tâm vô ký phát ra lời nói. Hoặc tâm vô ký rốt ráo, hoặc tâm thiện rốt ráo. Không có tâm thiện phát ra lời nói, tâm vô ký rốt ráo, vì lúc nói, càng tăng thêm không giảm. Hỏi: Thế nào là Thanh văn? Đáp: Thanh văn thì bất định Rốt ráo cùng với chuyển Lúc nói, không lui, giảm Chỉ có Phật Thế Tôn. Thanh văn thì bất định, rốt ráo cùng với chuyển: nghĩa là Thanh văn dùng tâm thiện phát ra lời nói, hoặc tâm thiện rốt ráo, hoặc tâm vô ký rốt ráo. Tâm vô ký phát ra lời nói, hoặc tâm thiện rốt ráo, hoặc tâm vô ký rốt ráo. Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn dùng tâm thiện phát ra lời nói, là tâm thiện rốt ráo? Tâm thiện của Thanh văn phát ra lời nói là tâm vô ký rốt ráo? Đáp: Vì lúc nói, lời nói không lui thì chỉ có Phật, Thế tôn. Phật, Thế Tôn lúc nói không lùi, hàng Thanh văn như Tôn giả Xá-lợi-phất, v.v… lúc nói, vẫn còn lui sụt. Hỏi: Có bao nhiêu nhập sở thiêu? Bao nhiêu nhập năng thiêu? Đáp: Trong các nhập có bốn Bị đốt cũng hay đốt Được xưng cũng hay xưng Đoạn, năng đoạn, không lầm. Trong các nhập có bốn bị đốt, cũng hay đốt: nghĩa là sắc, hương, vị, xúc bị đốt cháy, cũng có khả năng đốt cháy, vì chúng không lìa nhau. Có thuyết nói: Bốn nhập này có thể đốt, vì không lìa nhau. Lại có một nhập có khả năng đốt, đó là hỏa đại, vì được tướng đốt cháy. Được xưng cũng có khả năng xưng: nghĩa là trước đã nói bốn nhập được gọi, cũng có khả năng gọi, vì không lìa nhau. Có thuyết nói: Bốn nhập có khả năng gọi, một thứ được gọi, vì được tướng lặp lại. Đoạn, năng đoạn không lầm: Là nói bốn nhập của ở trước nói được đoạn, cũng cókhả năng đoạn, nên trong đấy không có thuyết sai lầm. Hỏi: Địa, địa giới khác nhau thế nào? Đáp: Địa là sắc, hình, xứ Tướng cứng, nói địa giới Còn hai cũng hai thứ Phong tức phong, hoặc khác. Địa là sắc, hình, xứ: nghĩa là sắc, hình, xứ là địa. Nhãn thức thuộc sắc nhập nên biết được tên của thế gian này. Địa giới, là nói về tướng cứng: nghĩa là tướng cứng là giới của địa. Xúc nhập gồm nhiếp cái biết của thân thức, đấy là đệ nhất nghĩa. Còn hai cũng hai thứ, nghĩa là nước và lửa, cũng có hai thứ: Sắc, hình xứ là nước thì chất ẩm ướt, thấm nhuần, là giới thủy. Sắc, hình xứ là lửa, thì hơi nóng là giới của lửa. Các địa còn lại như trước nói. Phong tức phong, hoặc khác, nghĩa là có thuyết cho phong tức là chủng loại gió, vì lấy phi thế gian để đặt tên. Có thuyết cho đây cũng là thế gian đặt tên, có bụi gió, không có bụi gió, so sánh như vậy. Hỏi: Căn thiện có bao nhiêu loại? Đáp: Phần phước nói một thứ Cùng với phần giải thoát Phần quyết định ở phước Thứ tư lìa các lậu. Phần phước nói một thứ, nghĩa là nếu văn, tư, tuệ ở cõi Dục mà thù thắng tinh tiến, bố thí, trì giới, v.v… đều sinh, được vua Chuyển luân, Đế-thích và các báo thân có sức tự tại to lớn khác ở cõi Dục và các căn thiện thắng tiến của cõi Sắc, cõi Vô Sắc, có khả năng được quả hữu, đó gọi là phần phước. Cùng với phần giải thoát, nghĩa là phần giải thoát cũng là văn, tư, thí, giới, v.v… đều sinh ở cõi Dục, trái với các hữu, hướng về giải thoát, gieo trồng các căn thiện này, nghĩa là khoảng giữa dù dứt căn thiện, vẫn gọi là nghịch lưu. Vì sao? Vì chắc chắn được Niết-bàn. Cho nên có thuyết nói như vầy: “Thà làm Điều-đạt, chứ không làm ngoại đạo Uất-đầu-lam-tử. Điều-đạt dù gây ra ba tội nghịch, cắt đứt các căn thiện, diệt chủng tử thiện, đọa địa ngục Vô gián (A-tỳ-chí: A là Vô, tỳ-chí là Trạch. Gián là hạt giống, vì nhân không có hạt giống thiện, nên quả gọi là không có hạt giống. Hai nghĩa khác như cũ). Tội ở địa ngục hết, sống lâu vạn tuổi trong cõi người, được quả Bích-chi-Phật, được các căn bén nhạy, hơn Tôn giả Xá-lợi-phất v.v… Uất-đầu-lam-tử, dù lìa tám địa, sinh lên đệ nhất hữu, khi báo hết, qua đời, ở cõi đó sẽ sinh làm chồn bay có cánh trong rừng pháp, để tàn hại hết thảy chúng sinh sống dưới nước và trên đất liền, khi chết đọa vào địa ngục Vô gián. Đức Thế Tôn không thọ ký cho giải thoát thời và giải thoát chủng cho những người có tướng xứù ngồi nghe pháp như vậy. Nếu lúc nghe pháp, khóc lóc buồn bã, rơi lệ, rùng mình, thì mới nhận thấy lỗi lầm của sinh tử và lợi ích cao quý của Niết-bàn kính tin chính pháp và người nói pháp. Về phần phước quyết định, nghĩa là quán sát các căn thiện như noãn, v.v… của chân đế, có quyết định đối với đế, có đầy đủ đối với đế, vì thuận theo hướng vềThánh đạo, nên gọi là phần quyết định, như đã nói trong phẩm Hiền Thánh. Đệ Thứ tư lìa các lậu. Căn thiện vô lậu là học, vô học, mà ở trước đã nói. Hỏi: Đối với đường ác, được chẳng phải thường diệt, là thế nào? Đáp: Nên biết bố thí thảy, Chuyển được các đường ác Nhất định cùng với nhẫn Thí thảy đồng hoặc khác. Nên biết bố thí thảy chuyển được các đường ác: nghĩa là nếu có bố thí, thì không đọa đường ác, hoặc nếu có giới, văn, hoặc tư duy, Noãn, hoặc Đảnh, hoặc nếu thấy lỗi sinh tử và lợi ích cao quý của Niết- bàn, trái sinh tử, hướng về Niết-bàn, mà thực hành bố thí. Bố thí như vậy, chuyển được các đường ác. Căn thiện khác cũng như vậy. Bố thí chuyển được các đường ác, mà không phải Đảnh. Nếu cho rằng không như vậy thì không đúng. Vì sao? Vì trái với sinh tử, hoặc có căn thiện chưa được quyết định, mà có thể chán ghét tột độ sinh tử, thì không phải là người được căn thiện quyết định. Lại nữa, sự bố thí rất trái với nghiệp phiền não của đường ác, chẳng phải Đảnh, cho nên không có lỗi. Hỏi: Nếu các căn thiện không nhất định lìa đường ác, thì cái gì là nhất định? Đáp: Nhất định đi chung với nhẫn, xả ngay đường ác, chắc chắn là ở nhẫn. Nhẫn trái với tất cả nghiệp phiền não của đường ác. Bỏ nhẫn: Là nghiệp phiền não của đường ác còn không khởi hiện, huống chi là không bỏ. Thí thảy đồng hoặc khác: Là từ bố thí cho đến Đảnh, có khi lìa đường ác, có khi không lìa, vì không phải tất cả bố thí đều có trái với nghiệp phiền não của đường ác. Căn thiện khác cũng như vậy. Đã nói về nhân duyên chuyển đường ác, nay sẽ nói: Về ý thức không chung (ý thức có sáu việc không chung với năm thức). Khi lìa dục và lùi Thọ sinh cũng chết đi. Đoạn thiện, và nối tiếp Nên biết là ý thức. Sáu việc này là nói trụ ý thức, vì tư duy, vì duyên khắp. Dù Đức Thế Tôn nói là mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, thân xúc chạm mà thối lui, nhưng đó cũng do ý thức hiện ở trước lôi kéo, nên lui sụt. Hỏi: Trụ ở thọ nào mà qua đời và thọ sinh? Đáp: Là tất cả chúng sinh Đều trụ ở xả thọ Qua đời và thọ sinh Vì lẽ không nhanh chóng. Là tất cả chúng sinh đều trụ ở xả thọ, qua đời và thọ sinh. nghĩa là hết thảy chúng sinh đều trụ ở thọ không khổ, không vui, qua đời và thọ sinh. Hỏi: Vì sao? Đáp: Vì không nhanh chóng. Phần sống, phần chết trong tất cả phần, không sáng suốt, không giác ngộ. Vì thọ không khổ, không vui trong các thọ, không nhanh chóng, không sáng suốt, cho nên, tất cả chúng sinh, đều trụ ở thọ không khổ, không vui, qua đời và thọ sinh. Hỏi: Nếu vậy thì thọ không khổ, không vui, lẽ ra không phải làThánh đạo vô lậu nhanh chóng? Đáp: Chẳng phải thọ không khổ, không vui, không có sức của Thánh đạo vô lậu mà có thể khiến cho lanh lợi. Như nước có pha chất cay thì cay, có pha chất đắng thì đắng; Ngọt, chua, mặn, lạt cũng giống như vậy.  <卷>QUYỂN 10 <詞>Phẩm 10: TRẠCH (Phần đầu) Dù đã nói nhiều pháp Quyết định các nghĩa tạp Ở vô lượng xứ kia Cần chọn phần cốt yếu. Mâu-ni nói thấy đạo Nhanh chóng gọi pháp luân Hoặc nói tám chi Học Chuyển đến trong tâm người. Mâu-ni nói thấy đạo, vì nhanh chóng nên gọi pháp luân: nghĩa là vì diệt hai thứ si, nên gọi là Mâu-ni. Vì vắng lặng đầy đủ, nên gọi là Mâu-ni. Nói là hiển bày. Vì sự nhận thấy kia tăng thêm nên nói là thấy đạo. Vì tuệ tăng, vì cầu đạt cảnh giới, vì đến phi phẩm nên nói là Đạo. Nhanh chóng, là sự tinh tiến nhanh chóng. Kiến đạo là đạo nhanh chóng, không khởi định. Một phẩm đạo dứt trừ tức khắc chín phẩm kiết. Vì là pháp, nên gọi là Pháp, vì lìa chúng sinh, bỏ chỗ này đến nơi khác, nên nói là luân, nghĩa là bỏ khổ, đến tập, cho đến bỏ diệt đến đạo. Vì giống như bánh xe, nên gọi là Luân. Như bánh xe, xoay từ dưới lên, hay từ trên xuống. Bánh xe kiến đạo cũng như thế. Nhẫn ở dưới, chuyển đến trí ở trên, rồi lại chuyển đến nhẫn. Lại nữa, vì có nghĩa lên xuống, nên gọi là Luân, như xoay chuyển từ dưới lên, từ trên xuống kiến đạo luân này. Duyên với cõi Dục rồi, duyên lên đệ nhất hữu. Duyên đệ nhất hữu rồi, duyên xuống cõi Dục. Lại nữa, vì hàng phục đế nên nói là Luân, như luân của Thánh vương. Hoặc nói tám chi của Hữu học, chuyển đến nơi tâm người: nghĩa là Tôn giả Cù-sa nói tám chi học, được chuyển đến tâm người, gọi là chuyển pháp luân. Cho nên nói: Như lai chuyển pháp luân nơi trụ xứ của vị tiên thuộc thành Ba-la-nại. Chính vì nghĩa này, nên Đức Như lai khác Bích-chi-Phật, Thanh văn là tự lực chuyển pháp luân. Mặc dù Câu-lân v.v… tự chuyển pháp luân, tự tu đạo, không phải ai khác, nhưng do nhân duyên khai ngộ, nên nói Thế Tôn chuyển pháp luân. Dù khổ pháp nhẫn khởi, rồi chuyển, nhưng chỉ khi đạo tỷ trí khởi mới gọi là chuyển. Vì chỗ đó đủ năm nhân duyên, gọi là bỏ đạo đã từng có, được đạo chưa từng có. Kiết hết thì được nhất vị, liền được tám trí, cùng lúc tu mười sáu hành. Năm vị như Câu-lân, v.v… và tám mươi bốn ngàn vị trời thấy đế. Vì thấy đế trước tiên là Câu-lân v.v… làm nhân duyên. Đức Thế Tôn và Câu-lân khởi tâm thế tục, thần đất biết được, đại lực Tôn Thiên nghe được, hớn hở vui mừng, vì vốn thường bảo vệ, địa thần ở gần lớn tiếng xướng to, thần đất ở cách xa lần lượt tuyên cáo, chứ không phải tự lực họ thấy biết, là vì tâm thường thắng, không phải là cảnh giới của tâm yếu kém. Như vậy trong khoảnh khắc, thiên thần trong hư không lần lượt xướng tiếng, cho đến Phạm thiên, không đến địa trên, vì địa của họ không có nhó thức. Có thuyết nói: Do tiếng Phạn có tên là tiếng của trời A-ca-nị-trá, nên dù mỗi niệm diệt mà vẫn nối tiếp nhau khởi, nên nói là tiếng thấu đến Phạm thiên. Vua Chuyển Luân ra đời, dùng mười nghiệp đạo thiện giáo hóa, dẫn dắt chúng sinh. Do mười nghiệp đạo thiện mà thọ báo cõi Dục. Thế nên, tiếng của vua Chuyển Luân ra đời, tiếng thấu đến trời Tha Hóa Tự Tại. Vì chưa lìa dục, nên không sinh địa lìa dục. Vì Phạm thiên khuyến thỉnh Đức Thế Tôn chuyển pháp luân, nên âm thanh thấu đến Phạm thiên. Vì trời Tịnh Cư khuyến phát thành đạo vô thượng nên âm thanh vang dội đến trời Tịnh Cư. Vì thành tựu nghiệp tiếng gọi, nên âm thanh có giới hạn. Hỏi: Thế nào là Phạm luân? Đáp: Phật nói đạo đầy đủ Rộng lớn gọi Phạm luân Giới hạn đủ các căn, Đối trị phi phạm hạnh. Tất cả tám Thánh đạo, vì cùng nương dựa vào sự rộng lớn nên gọi là Phạm luân. Vì chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng kia không hư hoại, nên gọi là tề (giới hạn ngang bằng). Vì chính kiến, chính tư duy, chính phương tiện đều dựa vào giới mà lập và duyên rộng, nên gọi là bức (căm xe). Vì chính niệm, chính định gồm nhiếp những căm xe chính kiến, chính tư duy, chính phương tiện, nên gọi là võng (vành bánh xe). Phiền não gọi là phi phạm, vì là quả không đáng ưa. Đạo là đối trị phiền não phi phạm, nên gọi là Phạm luân. Đã nói Phạm luân. Tám chi Hiền Thánh thành tựu giới hạn (bổn âm: Ưu-ba-bà-tố, sẽ giải thích sau đây), nay sẽ nói. Gọi Ưu-ba-bà-tố Lúc thọ hai thuyết khác Đầy đủ một ngày đêm Lìa các việc tô điểm. Ưu-ba là gần, Bà-tố là ở. Vì suốt đời ở gần Tam bà-la nên nói là ở gần. Tam là bình đẳng. Bà la là giữ gìn, nghĩa là bình đẳng gìn giữ tất cả chúng sinh (trong tất cả Kinh luận nói luật nghi, đều nghĩa là gìn giữ). Thế nên nói là tùy tất cả chúng sinh, trụ tâm từ, được luật nghi. Nếu người kia nghó rằng: Thọ ở đây, không thọ ở nơi khác thì không được luật nghi, vì tâm bất tịnh nên thọ riêng, không được luật nghi, vì luật nghi lìa sự thêm bớt. Thọ: nghĩa là nhận lấy, vì làm chẳng phải phát tâm mà được. Thời gian: Là nói lúc tướng sáng xuất hiện mới thọ. Người khác, là thọ từ người khác. Là từ chúng sinh, không từ số phi chúng sinh. Vì không nói năng, không phải trẻ thơ, không phải ngủ, không phải si mê, không phải điên cuồng chẳng hiểu trai pháp. Vì đó và đây hòa hợp, nên được thọ. Nếu bị phạm giới và phiền não khởi, người có thể nhận thấy lỗi, thọ nhận từ người đó. Cả hai đều nói: nghĩa là người truyền trao và người thọ, cả hai đều nói để truyền trao. Trước nói thọ: nghĩa là tùy theo đó mà nói. Nếu người truyền trao không nói, thì không thành sự truyền trao. Sự truyền trao không thành thì việc thọ cũng không thành. Nếu người thọ không nói thì không thành thọ. Vì không có thọ mà nói, chứ chẳng phải không nói mà sinh tác nghiệp. Tác nghiệp không sinh thì vô tác cũng bất sinh, vô tác bất sinh thì không có công đức của thức khác cùng sinh. Nếu hai người cùng nói cùng lúc thì cũng không thành thọ, vì không có sự truyền trao. Đầy đủ, nghĩa là tám chi của bậc Thánh thành tựu. Như Tỳ-kheo không đầy đủ luật nghi thì chẳng phải Tỳ-kheo. Tám chi của bậc Thánh cũng như vậy. Một ngày, một đêm: nghĩa là trai của phần thứ ba không có, nên có hai phần trai, như trước đã nói. Luật nghi trai thì được phần trai một ngày đêm, luật nghi khác được phần trai suốt đời. Lìa các việc tô điểm: nghĩa là các thứ chuỗi ngọc, y phục là đồ trang sức đeo mang đều nên bỏ. Dù có trụ oai nghi thọ, thì sự trang sức vẫn bổ túc cho tính buông lung. Điều phục an trụ thì không buông lung. Buông lung là điều không nên làm mà làm. Phá bỏ oai nghi là không cung kính nên không được luật nghi. Lúc là huỳnh môn, thì huỳnh môn không có hình, hai hình đều không sinh luật nghi. Vì sao? Vì tham dục thêm lớn, vì không hổ thẹn tăng. Ở cõi người, họ dựa vào ba phương, không có phương nào khác. Vì tri giác rất nhanh chóng. Về năm thứ nhân duyên thanh tịnh, trong phẩm Tu-đa-la đã nói. Hỏi: Có bao nhiêu trai là chi-thi-la? Bao nhiêu trai là chi không buông lung? Bao nhiêu trai là chi trì? Đáp: Chi-thi-la có bốn Chi không buông thả, hai Ngoài ra là chi trì Chi trai, tuệ đã nói. Bốn trai trước là Chi-thi-la (Thi la, Hán dịch là tu tập, cũng dịch là chính thuận tam-muội, cũng dịch là sự mát mẻ, ngủ yên), xả tính tội là giới tự tính. Không uống rượu là chi không buông lung, uống rượu là đầy dẫy buông lung, vì làm cho tâm quên mất nhớ nghó, cho nên, xa rời những điều ấy, gọi là chi không buông lung. Trai khác là chi trì, nghĩa là thuận theo giới. Có thuyết nói: Tránh ăn phi thời là trai, ngoài ra là chi trai. Có thuyết cho: Tránh ăn phi thời là trai, cũng là chi trai, ngoài ra là chi. Như đẳng kiến là đạo, cũng là chi đạo. Trạch pháp giác là giác, cũng là chi giác. Trai kia cũng như vậy. Nếu nói chín chi thì không đúng. Vì sao? Vì lìa bỏ giường rộng, dùng hoa thơm thoa mình được xếp vào một chi, vì đều là trang sức. Như sự già, chết được xếp vào một chi hữu, vì đều chín muồi. Những chi kia cũng vậy. Hỏi: Lìa bỏ nói lưỡi hai chiều, nói hung dữ, nói thêu dệt v.v… là lìa tính tội, vì sao lại không xếp vào luật nghi trai? Đáp: Vì khó giữ, vì thường tập gần. Đối với người xuất gia còn khó giữ, vì phải thường hành, huống chi người tại gia. Như vậy, điều khó giữ là các oai nghi, trừ không uống rượu. Những già tội khác cũng không xếp vào chi trai. Hỏi: Đã biết là bị giới ác đốt nóng, luật nghi trai là phấn thoa chiên đàn, nay sẽ nói. Vì sao đã có đầy đủ luật nghi Ưu-bà-tắc rồi, sao còn hoài nghi là cùng nhận thấy lỗi lầm đó. Nếu có người không đầy đủ luật nghi Ưu-bà-tắc, làm sao có đầy đủ luật nghi Sa-di để làm Sa-di? Nếu không, vì sao lại nói Ưu-bà-tắc một hành, v.v…, đâu được nói là chẳng phải không có nghĩa? Đáp: Ưu-bà-tắc đủ luật Luật nghi Tỳ-kheo một Do nghĩa thiếu bớt đó Mâu-ni nói ít phần. Ưu-bà-tắc đủ luật, luật nghi Tỳ-kheo một: nghĩa là có một thuyết nói đầy đủ luật nghi Ưu-bà-tắc, gọi là Ưu-bà-tắc, chẳng phải là không đầy đủ Sa-di. Tỳ-kheo cũng như vậy. Như nói: Con tên là… quy y Phật lưỡng túc tôn, quy y Pháp lìa dục tôn, quy y Tăng chư chúng tôn. Con là Ưu-bà-tắc xin chứng biết trọn đời xả bỏ chúng sinh, thọ sự quy y với tâm thanh tịnh. Tác bạch như vậy đến ba lần là được luật nghi Ưu-bà- tắc. Hỏi: Việc trên đây chỉ mới là miệng tác bạch lìa sát sinh, làm sao được những luật nghi khác? Đáp: Nên biết: Vì trừ, v.v… nên nói con suốt đời xả bỏ chúng sinh, v.v… như giới v.v…, lấy trừ, v.v… nên gọi là giới được giữ lấy. Các pháp khác cũng như vậy. Lại nữa, xả bỏ chúng sinh, nghĩa là xả bỏ chúng sinh của chính mình. Từ nay cho đến xả bỏ chúng sinh của chính mình để được thọ giới, không bao giờ hủy phạm. Lại nữa, luật nghi Ba-la-đề-mộc-xoa có được từ nơi chúng sinh, người ấy nói rằng: “Kể từ hôm nay, con không giết hại chúng sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối. Để vâng giữ giới đó, nên không uống rượu. Thế nên, trong tất cả già tội, việc lìa bỏ uống rượu được kiến lập cho luật nghi Ưu-bà-tắc, vì uống rượu là đủ tất cả sự buông luông, khiến mình rất khó gìn giữ những giới điều mình đã thọ. Thế nên, lìa sự dâm người khác, nói hai lưỡi, nói lời hung dữ, nói lời thêu dệt, cũng nói như vầy. Vì bậc Thánh kia đã từng trải nơi sự sống, vẫn còn cố biết mà không nói trái phạm. Nếu nói, người Ưu-bà-tắc không có một hành, v.v… là không đúng. Thật ra, Ưu- bà-tắc có một hành, v.v… được kiến lập. Việc này thế nào? Vì nghĩa kém bớt, nên đấng Mâu-ni chỉ nói phần ít. Đức Phật lấy người giữ giới thiếu để nói là phần ít của Ưu-bà-tắc. Ưu-bà-tắc giữ giới đủ kia, nếu giữ một, không giữ bốn, gọi là một hành. Nếu giữ hai, không giữ ba, gọi là phần ít. Các giới kia cũng như vậy. nghĩa là giới đã được, phải khiến cho biết, vì người khác nói chẳng phải không có nghĩa. Hỏi: Nếu người nào thọ luật nghi Ưu-bà-tắc hồi chín, mười tuổi. Về sau cưới vợ, lấy người cô gái kia làm vợ, trước đó đã quan hệ với cô gái ấy thì có được luật nghi không? Nếu được thì sao không phạm giới? Nếu không được thì đâu được chẳng phải thiểu phần? Đáp: Được chi, chứ không phải được đầy đủ. Không có chỗ dâm người khác, không được lìa chỗ phi phạm hạnh, là ngoài phận sự làm vợ rồi, không khởi sự dâm với người khác. Với những gì không nên làm, cũng như vậy. Ưu-bà-tắc lãnh thọ giới Sa-di, không xả giới Ưu-bà-tắc vẫn được giới Sa-di, vì lấy hơn mà gọi tên, nên không gọi là Ưu-bà-tắc. Nếu lúc Sa-di kia hoàn tục, nói tôi làm Ưu-bà-tắc thì nên chứng biết là Ưu-bà- tắc. Khác đi thì nên lãnh thọ lại luật nghi Ưu-bà-tắc. Tỳ-kheo cũng như vậy. Đã nói luật nghi, nay sẽ nói: So sánh các loại luật nghi Hạnh mầu hai luật nghi Nghiệp đạo, sơ giải thoát Nói nghiệp và thi-la Bảy thứ tên như vậy. Khi tạo ra luật nghi Ba-la-đề-mộc-xoa, tức sát-na đó là vô tác, gồm có bảy tên là luật nghi, luật nghi Ba-la-đề-mộc-xoa, hành diệu, nghiệp đạo, Ba-la-đề-mộc-xoa, nghiệp và thi la. Tất cả bảy thứ trên đều đối trị với giới ác, nên gọi là luật nghi. Vì đề phòng, ngăn giữ giới ác nhập vào bảy chúng, nên gọi là luật nghi Ba-la-đề-mộc-xoa. Đối với tất cả chúng sinh nhờ nó mà được. Làm các điều thiện nên gọi là hành diệu. Vì được quả đáng yêu, vì là đạo tư duy, mong muốn, nên gọi là nghiệp đạo. Vì tư duy, mong muốn đều được chuyển từ đạo kia, vì thuận theo giải thoát của nghiệp đạo ban đầu nên gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa. Vì thuận theo tâm từ của tất cả chúng sinh mà được. Nghiệp: Là làm, vì đã khởi làm. Nói là tư thì không đúng, nói là Ba-la-đề-mộc-xoa, do đó nên biết cũng không phải là ba nghiệp đạo sau. Thi-la là nghĩa thuần thiện, vì khởi tâm không hại. Về sau, các vô tác có năm thứ tên, trừ Ba-la-đề-mộc-xoa và nghiệp đạo. Trừ Ba-la-đề- mộc-xoa là vì chẳng phải trước, trừ nghiệp đạo là vì khởi ở nghiệp, sau khi lo nghó, mong muốn. Đã nói so sánh tên loại của luật nghi, nay sẽ nói “Về thân, nghiệp của thân, thành tựu, không thành tựu”. Thành tựu thân, phi nghiệp Hoặc nói nghiệp phi thân Có khi thân, nghiệp chung Có khi cũng không chung. Thành tựu thân phi nghiệp: nghĩa là có người phàm phu ở trong thai, noãn dưới dạng ca-la-la, màng bao bọc khối thịt bào thai dày chắc. Thân trước tạo rồi, việc xả thân này chưa thành tựu, nên chưa khởi sự làm, không có tâm thô cạn hiện ở trước. Tâm thô cạn hiện ở trước thì có thể khởi thân nghiệp, nhưng tâm vi tế kia hiện ở trước. Như vậy, hướng trong hướng ngoài, việc trong, việc ngoài đều nên biết. Lại nữa, vì khổ gây bức bách trong phần kia, nên không thể chuyển động, làm sao có thể khởi sự làm. Nếu sinh cõi Dục, không trụ luật nghi, cũng chẳng phải ở chỗ không luật nghi, thì thân không có làm. Hoặc ngủ, hoặc điên, hoặc say, không cầu, không có phương tiện xả, (đã nói trong phẩm Nghiệp). Hoặc nói nghiệp phi thân, nghĩa là bậc Thánh sinh cõi Vô Sắc, bậc Thánh đó thành tựu đạo cộng thân nghiệp, chứ chẳng phải thân, vì sắc kia không có phần. Hoặc có thân nghiệp đều đủ: nghĩa là bậc Thánh ở ca-la-la, khối thịt có màng bao bọc dầy, chắc trong thai mẹ. Nếu sinh cõi Dục, ở luật nghi Ba-la-đề-mộc-xoa. Thiền vô lậu, trụ bất luật nghi, không trụ luật nghi, cũng chẳng phải thân không luật nghi mà hữu tác. Hữu tác thì không mất. Nếu sinh cõi Sắc thì các thân này là sắc ở chỗ chúng sinh. Về thân nghiệp, có thuyết cho là luật nghi, hoặc nói bất luật nghi, hoặc không xả tác, hoặc cũng không cùng nói, nghĩa là phàm phu ở cõi Vô Sắc chẳng phải thân, vì không có sắc, vì chẳng phải thân nghiệp phàm phu. Khẩu nghiệp cũng như vậy. Hỏi: Đức Thế Tôn nói bốn thứ nhập thai. Bốn thứ này thế nào? Đáp: Là nhập bất chính tri Trụ thai và xuất thai Cho đến nhập chính tri Trụ xuất cũng như vậy. Chúng sinh ít phước kia, vào thai mẹ, từ tư tưởng điên đảo, chuyển sang sự hiểu biết điên đảo, đó là gió thổi, mưa rơi, lạnh buốt, cực kỳ tăm tối, nhiều thứ âm thanh nhiễu loạn, vào đám hoa, trong rừng hay trong hang cỏ, hang hoa, dưới cây, trong vách tường. Ở trong thai mẹ, cũng tưởng trái ngược và hiểu trái ngược, đối tượng thấy thì như trước đã nói. Lúc ra khỏi thai, cũng có tưởng và hiểu biết điên đảo, về những gì đã thấy như trước. Chúng sinh có nhiều phước thì lúc vào thai được thấy. Nào là vườn, rừng, ao tắm, cung điện, nhà cửa, lầu gác, ngồi kiết già. Ngoài ra như trước đã nói. Đây gọi là sự nhập thai thứ nhất. Nhập thai thứ hai là tự biết mình nhập thai, không tưởng điên đảo, không biết điên đảo, khi trụ và ra khỏi thai thì điên đảo như trước đã nói. Nhập thai thứ ba, nghĩa là tự biết ta đã vào thai như vậy, trụ trong thai như vậy, nhưng lúc ra khỏi thai thì điên đảo, như trước đã nói. Nhập thai thứ tư, nghĩa là tự biết ta đã nhập thai như vậy, lúc trụ thai, tự biết ta trụ trong thai như vậy, lúc xuất thai, cũng tự biết ta đã ra khỏi thai như vậy. Hỏi: Các cách nhập thai này, là nói ở những người nào? Đáp: Người đầu, nghiệp bất tịnh Cũng không mong cầu trí Trong hai đều thành một Thứ tư đều thành tựu. Người thứ nhất kia, là người có nghiệp thiện không thanh tịnh, cũng không mong cầu trí. Người thứ hai có nghiệp thanh tịnh mà không cầu trí. Người thứ ba cầu trí mà nghiệp không thanh tịnh. Người thứ tư đều được thành tựu. Nói người thứ nhất nhập thai là tất cả chúng sinh. Người thứ hai là vua Chuyển luân, người thứ ba là Bích-chi-Phật. Người thứ tư là Đức Như lai. Hỏi: Tu-đà-hoàn có nghiệp bất thiện hay chăng? Nếu có tại sao không đọa đường ác? Nếu không thì lẽ ra lìa dục, mà người lìa dục thì không có vực đó? Đáp: Người trụ ở Sơ quả Một thứ nghiệp: Bất tịnh Mà không đọa đường ác Vì nghiệp không đầy đủ. Tu-đà-hoàn chỉ có tu đạo dứt nghiệp bất tịnh, không có kiến đạo dứt nghiệp, vì sự không có đối nên không đọa đường ác. Ví như chiếc xe có đủ hai bánh mới có thể chuyển vận được, hai bánh bể thì không thể vận chuyển. Tu-đà-hoàn kia cũng như vậy. Ví dụ con chim, cũng thế. Người ngu đọa đường ác chứ chẳng phải người trí. Phàm phu đọa đường ác chứ không phải bậc Thánh. Kẻ phạm giới đọa đường ác chứ không phải người giữ giới. Kẻ có tâm địa độc ác đọa đường ác, chứ chẳng phải tâm thiện, như phẩm Tu-đa-la nói, nay sẽ nói về: Phẩm chọn lựa thức ăn. Bốn cách ăn cõi Dục Bốn đường sinh cũng vậy Ba cách, hai cõi trên Ăn vốc, kia không có. Bốn cách ăn ở cõi Dục: nghĩa là ở cõi Dục có bốn cách ăn. Bốn đường sinh cũng vậy. Trong năm đường với bốn loài sinh, cũng có bốn cách ăn: Nước đồng sôi, những viên sắt nóng trong địa ngục, tuy làm tăng thêm nỗi khổ hư hoại, nhưng vì đói khát, nên gọi là ăn. Và gió lạnh buốt chạm vào thân cũng gọi là ăn. Ba cách ăn ở hai cõi trên thì ăn vốc kia không có ở cõi Sắc, cõi Vô Sắc, vì thân rất nhẹ nhàng, vì không có Sắc. Hỏi: Trong các đường, mỗi đường có thêm những cách ăn nào? Đáp: Ở đường ngạ quỷ kia Thêm cách ăn ý tư Và loài sinh từ trứng Ba Vô Sắc cũng vậy. Thêm cách ăn bằng ý lo nghó của đường ngạ quỷ kia: nghĩa là đường ngạ quỷ, ý tư thực tăng vì ý hoạt động tối đa. Và các loài sinh bằng trứng, nghĩa là loài đó cũng thêm cách ăn bằng ý tư thực, vì loài sinh bằng trứng thường nhớ nghó đến mẹ, nên không thối rữa. Ba Vô Sắc cũng vậy, nghĩa là trừ Phi tưởng Phi phi tưởng, ba Vô Sắc còn lại cũng thêm ý tư thực, vì hoạt động của ý là tối đa. Thai sinh thêm ăn vốc Là nói trong cõi người Địa ngục thêm thức thực Đệ nhất hữu cũng vậy. Thai sinh thêm ăn vốc, là nói trong đường người, nghĩa là ở đường người sinh bằng thai thì thêm việc ăn vốc, nói thêm nhiều, vì ăn vốc là để gìn giữ thân. Địa ngục thì thêm thức thực. Đệ nhất hữu cũng vậy: nghĩa là địa ngục thêm thức thực, vì thức giữ gìn danh sắc. Phi tưởng Phi phi tưởng cũng thêm thức thực, vì thức giữ gìn danh. Trời dục như cõi người Cõi Sắc thêm xúc thực Cùng với đường súc sinh Thấp sinh cũng như vậy. Các tầng trời cõi Dục như cõi người: nghĩa là trời cõi Dục có thêm cách ăn vốc. Cõi Sắc thêm xúc thực: nghĩa là các tầng trời cõi Sắc có thêm xúc thực, vì do tu thiền. Cùng với đường súc sinh, thấp sinh cũng như vậy: nghĩa là trong đường súc sinh, thấp sinh có thêm xúc thực. nghĩa giữ gìn là nghĩa ăn. Như giữ cho chiếc bình được đứng vững không bể. Như vậy, dùng thức ăn để giữ gìn thân, thân sẽ không hư hoại, dẫn dắt đến hữu, nên nói là ăn. Hỏi: Nếu vậy hết thảy pháp hữu lậu đều là ăn, vì dẫn dứt đến hữu? Đáp: Vì tăng thượng nên nói là sức, vì có thể lôi kéo đến hữu nên nói là ăn, vì có hai sự nên gọi là ăn: Trước là phương tiện dẫn dắt, dẫn dắt rồi lại nuôi lớn. Hỏi: Vì sao nói bốn cách ăn? Đáp: Về việc này, không nên hỏi, vì tất cả khó khởi ra, chỉ tùy ở chất lượng mà có sự thích hợp nên nói là bốn. Như cách ăn vốc kia, vì nuôi lớn bốn đại của các căn, nên nói là ăn. Tiếp xúc mà nuôi lớn tâm, tâm pháp nên nói là ăn. Ý tư để nuôi lớn thân ở mai sau nên nói là ăn. thức nuôi lớn danh sắc nên nói là ăn, cho nên nói có bốn cách ăn. Hỏi: Nếu người quy y Phật, Pháp, Tăng (Tam bảo, tiếng Phạm là Phú-hộ. Quy y nghĩa là hướng về, nên mới nói là quy hướng Phật, hay Phú hộ, Pháp, Tăng cũng như vậy) là quy hướng ở đâu? Mỗi Tam bảo đều có hai thứ. Phật có hai thứ thân: Sinh thân và Pháp thân. Pháp cũng có hai thứ: Pháp đệ nhất nghĩa Niết-bàn và tất cả pháp vô ngã. Tăng cũng có hai loại: Đệ nhất nghĩa tăng và đẳng tăng. Vậy quy y những ai? Đáp: Quy y Chư Phật kia Pháp vô học sở đắc. Pháp Niết-bàn, vô thượng Pháp học vô học tăng. Pháp vô học mà Chư Phật thành tựu, gọi là Phật. Quy nghĩa là trở về với pháp vô học mà Phật đã được, gọi là quy Phật. Không trở về với Phật, đã thành tựu các pháp hữu lậu vô tránh, v.v…, vì không giải thoát được tự tính. Vì lý do này, nên biết là cũng trừ sinh thân. Nếu nói: Đối với Như lai, khởi tâm ác, làm bị chân Phật thương chảy máu mà không mắc tội Vô gián là không đúng. Vì sao? Vì khởi tâm ác đối với Phật, nghĩa là đối với người đã được pháp vô học mà khởi tâm độc ác, gây thương tích nơi chân thì mắc phải tội Vô gián. Lại nữa, làm hư hoại Phật, là làm hư hoại công đức vô học mà Phật đã được, làm hư hoại chỗ nương dựa. Chỗ nương dựa đã hư hoại thì người nương dựa cũng hư hoại. Như chiếc bình bể, thì sữa cũng chảy hết. Quy y ái tận gọi là quy Pháp, vì là thiện, vì là thường. Phải biết trừ các pháp khác, vì các pháp khác không phải thiện và thường. Quy y những người đã được pháp học, vô học, gọi là quy Tăng. Không quy Tăng đã thành tựu pháp phi học, phi vô học và sinh thân, vì là hữu lậu. Cũng chẳng phải đẳng tăng, vì có thể hư hoại. Hỏi: Quy y lấy gì làm tự tính? Đáp: Có thuyết nói: Tự tính của khẩu nghiệp, vì lời nói là giả hợp. Lại có thuyết nói: Cũng là tự tính của nghiệp thân, miệng, là tự tính của giới. Hỏi: Quy y có nghĩa gì? Đáp nghĩa che chở là nghĩa của y. nghĩa an ủi là nghĩa của y, do nhân duyên này nên nói là quy y. Thọ nhận môn luật nghi ấy, phẩm Tu- đa-la nói có bốn lời nói trong sạch không hư hoại, phẩm Trạch sẽ nói, nay sẽ nói tiếp. Đạo Duyên giác, Bồ-tát Cùng với ba chân đế Nơi đó tin không cấu Pháp này tịnh bất hoại. Bích-chi-Phật đã được ba căn và quyến thuộc. Tất cả đạo Bồ-tát đã tu hành và khổ, tập, diệt đế, duyên các pháp này, khởi niềm tin vô lậu, đó gọi là pháp duyên không hư hoại. Trong sạch, không hoại và duyên hư hoại, sẽ nói ở sau. Giới thanh tịnh tùy sinh Phật, tăng như nói quy Việc này có hai thứ Nói có bốn thứ danh. Giới thanh tịnh tùy sinh, nghĩa là vô lậu tùy theo nghiệp thân, miệng sinh: Là giới mà bậc Hiền Thánh tôn trọng, đó gọi là giới trong sạch không hư hoại. Phật, Tăng như nói quy: nghĩa là Phật và Tăng, nên biết như nói quy y ở trước. Hiền Thánh kia duyên pháp Phật bằng đức tin vô lậu, là duyên sự trong sạch không hư hoại ở Phật, duyên pháp của tăng với niềm tin vô lậu là sự trong sạch không hư hoại ở tăng. Nếu duyên pháp vô lậu mà Phật đã được và pháp học mà Bồ-tát đã được đó gọi là sự thanh tịnh không hư hoại, đối với pháp duyên hư hoại. Như vậy, duyên pháp của Phật, Bích-chi-Phật, pháp Thanh văn, cho đến tất cả pháp học, vô học, đó cũng gọi là sự trong sạch, không hư hoại, đối với pháp duyên hư hoại. Hỏi: Trong sạch không hư hoại có bao nhiêu việc? Đáp: Việc này có hai thứ, đó là tín và giới. Tín là tâm tịnh, giới là bốn đại tịnh. Nói có bốn thứ danh: nghĩa là vì duyên sự kiến lập có bốn. Vì do tín duyên riêng có ba thứ. Biết tịnh: nghĩa là hoặc biết, hoặc được, hoặc gìn giữ thanh tịnh. Hỏi: Biết những gì? Đáp: Bốn chân đế. Lại có thuyết cho là thanh tịnh không hư hoại, như Trưởng giả Thủ-la. Lại nữa, vì mạnh mẽ nên không dứt. Có người nói là tịnh không hư hoại, như Trưởng giả Y. (Hai vị Trưởng giả này đều được sơ đạo, ma không thể phá hoại, không thể dứt trừ, đều dựa vào mình, tự nói là danh) Hỏi: Thế nào là thứ lớp? Đáp: Phật biết tịnh ở trước, phật là căn bản, cho nên nói. Hỏi: Phật có khả năng gì? Đáp: Giác pháp. Hỏi: Ai gìn giữ pháp? Đáp: Tăng. Hỏi: Tăng kia làm sao được một vị? Đáp: Thánh giới. Lại nữa, người có khả năng nói là Phật. Nói những gì? Nói pháp. Vì ai mà nói? Vì Tăng, Tăng trì pháp gì? Đó là giới. Lại nữa, vị lương y là Phật, thuốc chữa bệnh là pháp, người khám bệnh là tăng, thuốc là giới Thánh, đó gọi là nói theo thứ lớp. Người kia, đối với khổ, tập đế và căn cơ phẩm hạ, có một nhân duyên đối với đạo đế, được trong sạch không hư hoại, đó là đức tin. (Ba căn đối với khổ, tập, đều sinh niềm tin, nhàm chán, đó là căn cơ phẩm hạ, đối với đạo chưa thể yêu thích, chỉ có niềm tin). Người kia đối với diệt đế và căn phẩm trung thượng, đối với đạo đế có hai nhân duyên được trong sạch không hư hoại, là tín và ưa muốn. (Ba căn đối với diệt, đều ưa muốn căn trung thượng, đối với đạo mới có ưa muốn và tín). Phẩm Tu-đa-la nói về quả Sa-môn, sẽ nói rộng trong phẩm Trạch, nay sẽ nói. Cái gọi quả Sa-môn Vô vi cũng hữu vi Quả học hữu vi, ba Quả vô học, thứ tư. Hai quả Sa-môn: hữu vi và vô vi. Quả học hữu vi có ba, quả vô học hữu vi thứ tư. Tất cả vô vi đều là phi học, phi vô học. Tám mươi chín bậc Thánh Quả Sa-môn vô vi Cũng nói ở hữu vi Tất cả đạo Sa-môn. Tám nhẫn của kiến đạo kia là tám trí của Sa-môn, là quả hữu vi của Sa-môn. Tám phiền não bị dứt là quả vô vi của Sa-môn. Tu đạo lìa dục của cõi Dục với chín đạo vô ngại là chín đạo giải thoát của Sa-môn, là quả hữu vi của Sa-môn. Dứt chín thứ phiền não là quả vô vi của Sa- môn. Như vậy, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng lìa dục, đều nên biết. Vì thị hiện rõ, nên Đức Thế Tôn nói bốn quả Sa-môn. Do chỗ này có đủ năm nhân duyên, đó là: Bỏ đạo đã từng được, được đạo chưa từng được, kiết đã hết, được một vị giải thoát, được ngay tám trí, cùng lúc tu mười sáu hành. Do chỗ này mà quyết định và quyết định rốt ráo. Nếu dứt là dứt những gì đã làm và những gì đã làm rốt ráo. Hỏi: Có khi nào trong khoảng một niệm, một trí mà biết tất cả pháp hay không? Đáp: Không. Vì sao? Dù biết tất cả không Mà chẳng biết tất cả Trừ sự tương ưng chung Tự tính cũng như thế. Nếu trí này sinh, biết được tất cả pháp không và vô ngã mà không biết tự tính của mình, không tự ngoảnh lại, như đầu ngón tay không tự xúc chạm, trí này cũng như vậy. Vả lại, vì không có hai quyết định, không có một trí mà có hai quyết định: Tự biết, biết người, cũng không biết được cái chung của pháp tương ưng. Vì một hành, một duyên, nên tất cả pháp của phẩm tương ưng đều đồng hành, đồng duyên, không biết pháp cộng hữu vì một quả nên đồng quyết định chuyển biến. Văn tuệ, tư tuệ của trí này chứ chẳng phải tu tuệ. Vì sao? Vì tu tuệ là duyên phần đoạn, thế nên nói cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc không có văn, tư. Hỏi: Có bao nhiêu thứ đối trị? Đáp: Cái gọi dứt đối trị Hoại trì và viễn phần Bốn thứ này phải biết Gọi là chủng đối trị. Có bốn thứ đối trị: Đoạn đối trị, hoại đối trị, trì đối trị và viễn phần đối trị. Đoạn đối trị: nghĩa là đạo vô ngại vì dứt phiền não mà được. Hoại đối trị, nghĩa là ở trong duyên tạo nên hành vượt hơn, đó là vô thường, khổ, không, phi ngã, v.v… so sánh như vậy. Trì đối trị, nghĩa là cùng đoạn phiền não mà được hợp, đó là đạo giải thoát và về sau, các đạo khác cũng cùng với phiền não được dứt mà được hợp. Viễn phần đối trị, nghĩa là đạo giải thoát đứng đầu. Khổ pháp nhẫn là thấy khổ dứt phiền não, dùng đoạn đối trị và hoại đối trị. Đối với các pháp ràng buộc cõi Dục kia thì dùng hoại đối trị. Nếu ái cõi Dục hết, vượt lên ly sinh khổ pháp nhẫn, cũng là viễn phần đối trị. Như vậy, tất cả đạo đều theo nghĩa đó, đều nên biết. Phẩm tu-Đa-la nói về nghĩa tu, phẩm Trạch nên nói rộng nay sẽ nói. Sơ đắc hoặc tập hành Đối trị và đoạn tu Nên biết bốn thứ này Được gọi là nghĩa tu. Bốn thứ tu: Tu đắc, tu tập hành, tu đối trị và tu đoạn. Tu đắc: nghĩa là mới được cái chưa từng được là công đức hữu vi. Tu tập, nghĩa là đã từng được pháp thiện nối tiếp nhau sinh. Tu đối trị, nghĩa là tu bốn thứ đối trị, gọi là tu đối trị, là đạo đối lại pháp hữu lậu. Tu đoạn nghĩa là dứt trừ phiền não. Tu đạo là nghĩa dứt phiền não (Trên lấy chủ thể trị và đoạn làm tu, nay lấy đối tượng của trị và đoạn làm tu, dựa vào bốn trường hợp sau, có thể biết). Có pháp tu đắc và tu tập, chẳng phải tu đối trị, tu đoạn, nên nêu ra bốn trường hợp: Pháp hữu vi vô lậu. Pháp bất thiện, pháp hữu vi vô ký. Pháp hữu lậu thiện. Pháp vô vi. Có thuyết nói: Có sáu thứ tu: Gồm bốn thứ tu trước và tu phân biệt, tu phòng hộ. Tu phân biệt, nghĩa là như Tu-đa-la nói: Tóc, lông, móng tay, răng trên thân này, so sánh như vậy. Tu phòng hộ, nghĩa là căn như đã nói khéo điều phục sáu căn, nói rộng như vậy. Như thế là tốt đẹp, nghĩa là bốn thứ tu như trước đã nói. Hai thứ tu sau này thuộc về tu đoạn, tu đối trị. Đã nói về tướng quyết định của kiến đạo, tu đạo, nay sẽ nói: Về nghĩa khác nhau của kiến đạo, tu đạo, Phiền não chung ba cõi Nếu hai thứ kiến đoạn Hai đoạn, thì ba thứ Cùng kiến đạo hành trước. Nếu phiền não thuộc ba cõi, kiến đạo đoạn thì đó là năm kiến và nghi. Kiến đạo này và hai thứ hành trước. (Năm kiến, nghi, nhất định trước khi kiến đạo dứt trừ ái mạn, vô minh và kiến đều diệt. Thật ra, dù chưa hết phiền não, mà về danh đều thâu nhiếp, gọi chung là kiến, gọi là hành trước, tu đạo sau, vì không đợi kiến đạo, nên tu đạo hành trước). Hoặc thấy đạo dứt, hoặc thấy đạo, tu đạo dứt. Thế nào là thấy đạo dứt? Nếu kiết trói buộc Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, thì tùy tín hành, tùy pháp hành, vô gián nhẫn đoạn. Sự trói buộc Phi tưởng Phi phi tưởng xứ kia, đó là vì định của địa mà nói. Tùy tín hành, tùy pháp hành, đó là lấy định của người mà nói. Vô gián nhẫn, đó là lấy định đối trị mà nói. Dứt là lấy định về những việc đã làm mà nói. Thế nào là thấy đạo, tu đạo dứt? Đó là nói tám địa. Nếu phàm phu dứt thì tu đạo dứt. Nếu bậc Thánh dứt là thấy đạo dứt. Hỏi: Vì sao phàm phu dứt phiền não, mà hoàn toàn là tu đạo? Đáp: Vì phàm phu không thể xả bỏ phiền não từng phần kiến đoạn như vậy, tu đoạn như vậy. Lại nữa, phàm phu không có khả năng dùng một thứ đạo dứt trừ chín thứ. Nếu năm thứ của ba cõi là ái, mạn, vô minh, thì kiến đạo này đã hành ba thứ trước, hoặc thấy đạo dứt, hoặc tu đạo dứt, hoặc kiến đạo, tu đạo dứt. Nếu phiền não đó không trói buộc Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thì Tùy tín hành, Tùy pháp hành, vô gián nhẫn dứt là thấy đạo dứt trừ. Nếu học kiến tích của chín địa, do tu đạo dứt thì tu đạo dứt. Trong tám địa còn lại, nếu phàm phu dứt là tu đạo dứt, nếu bậc Thánh dứt là thấy đạo dứt. Nếu phiền não cõi Dục Năm hành có hai thứ Vì giới hạn tu kia Nói tu đạo hành trước. Nếu năm hành cõi Dục, tu đạo kia trước hành hai thứ, hoặc tu đạo dứt, hoặc dứt đạo, tu đạo dứt. Nếu học kiến tích tu đạo dứt thì tu đạo dứt. Ngoài ra, nếu phàm phu dứt, thì là tu đạo dứt, nếu bậc Thánh dứt, thì là thấy đạo dứt, vì bậc Thánh kia quyết định dứt trước, cho nên nói là hành trước. Hỏi: Trước đây nói duyên, các duyên này hoạt động vào lúc nào? Đáp: Duyên thứ lớp sở tác Nói lúc pháp kia sinh Duyên nghiệp do duyên tạo Nói khi pháp đó diệt. Duyên thứ lớp sở tác, nói lúc pháp kia sinh: nghĩa là lúc sinh là vị lai, vì đều cùng có chuyển biến. Cũng nên nói lúc chuyển biến là lúc pháp đó sinh. Duyên thứ lớp là tạo nghiệp, cùng với nghĩa xứ nên gọi là duyên thứ đệ. Pháp đó sinh, nghĩa là được chỗ. Nếu nói sắc và tất cả tâm bất tương ưng hành cũng được chỗ mà sinh, nên nói duyên thứ đệ thì không đúng. Phẩm sự hành kia đã nói, duyên nghiệp do duyên tạo, nói khi pháp đó diệt: nghĩa là khi pháp diệt, duyên duyên đã là tạo nghiệp, vì lúc pháp diệt là hiện tại, có thể thâu nhận cảnh giới, chứ chẳng phải vị lai, vì chưa sinh khởi, cũng chẳng phải quá khứ, vì đã diệt. Nghiệp do ba nhân tạo Là lúc pháp kia sinh Do hai nhân tạo tác Nên biết nói lúc diệt. Nghiệp do ba nhân tạo, là lúc pháp kia sinh, nghĩa là lúc pháp sinh, có ba nhân tạo nghiệp, đó là nhân tự phần, nhân nhất thiết biến và nhân báo. Vì sức của nhân tự phần, nên pháp sinh dường như nối tiếp, cho nên lúc pháp sinh, nhân tự phần tạo nghiệp. Nhân nhất thiết biến, nhân báo đều thuận theo để lập pháp sinh. Lúc pháp đó sinh là tạo nghiệp. Vì nói chung, nên nói lúc pháp sinh, ba nhân tạo nghiệp, trừ pháp vô lậu đầu tiên, ngoài ra là thiện, trừ báo, còn lại là vô ký không ẩn mất. Nhân tự phần tạo nghiệp nhiễm ô: nghĩa là nhân tự phần, nhân nhất thiết biến tạo nghiệp. Báo, nghĩa là nhân tự phần và nhân báo tạo nghiệp. Những việc mà hai nhân đã tạo, nên biết là nói lúc diệt, nghĩa là lúc có duyên khi pháp diệt. Nhân tương ưng, nhân cộng hữu tạo nghiệp, vì nghiệp đồng, vì một quả, pháp bất tương ưng, nhân cộng hữu thì không duyên. Duyên tăng thượng, nghĩa là an trụ không chướng ngại, trong bất cứ lúc nào, cho nên không nói, vì không đợi nói. Nhân sở tác cũng như vậy. Hỏi: Đẳng tâm khởi, đẳng tâm trụ, đẳng tâm diệt của tất cả chúng sinh là không đồng nhau phải không? Vì sao hỏi vậy? Vì chúng sinh có thân, hoặc lớn, hoặc nhỏ, có phải vì thân to lớn, thì tâm to lớn, thân nhỏ bé thì tâm nhỏ bé, hay tất cả đều ngang bằng? Hơn nữa, chúng sinh đi đứng chậm nhanh khác nhau, vì đi chậm mà tâm chậm hay nhanh nên tâm nhanh, hay đều bằng nhau? Lại nữa, chúng sinh hoặc có người yên lặng mà tri giác cao như núi. Hoặc có kẻ không đứng yên mà lay động, như bụi bay theo gió. Người tónh lặng mà tâm chậm lụt, người lay động mà tâm nhanh chóng? Hay đều như nhau? Đáp: Tất cả loài chúng sinh Tâm khởi, trụ, diệt thảy Tương ưng tham dục thảy Bất tương ưng cũng vậy. Tất cả loài chúng sinh tâm khởi, trụ, diệt thảy: nghĩa là tâm của tất cả chúng sinh, bình đẳng lúc khởi, trụ, diệt, không nhiều ít. Vì sao? Vì sát-na cũng không có lớn, nhỏ, vì chẳng phải sắc, vì sự khác nhau của bốn đại mà khởi, nên thân có lớn nhỏ. Thân nhẹ thì nhanh chóng, thân nặng nề thì chậm chạp. Vì tâm chuyển biến với nhiều duyên, nên cảm giác lay động. Tâm dừng lại một duyên thì sự nhớ nghó được yên tónh. Pháp tương ưng, không tương ưng với tham dục v.v… cũng như vậy. Nếu tâm có tham, không có tham, tất cả tâm đó đều khởi, đều trụ đều diệt. Vì sát-na, tâm tham không tạo nghiệp nên hiện ra nặng. Tâm không tham tạo nghiệp, nên hiện ra nhẹ, cho đến có giải thoát, không giải thoát đều nên biết. Có tham, không tham, như phẩm Giới đã nói. Hỏi: Đã nói phần có tâm. Tâm của tất cả chúng sinh đều khởi, đều trụ, đều diệt. Còn phần không có tâm thì thế nào? nghĩa là người nhập chính thọ Vô tưởng, Diệt tận, tâm này diệt, tâm của chúng sinh khác khởi, lại từ định biết tâm này sinh, tâm của chúng sinh khác diệt, thế là bình đẳng? Đáp: Nên biết, ở đây nói có tâm là đúng, vì người không có tâm cũng đồng. nghĩa là người nhập chính thọ Vô tưởng, Diệt tận, tâm của chúng sinh khác kia khởi, chính thọ ban đầu này cũng khởi trong sát-na. Lúc giác ngộ từ định, tâm của chúng sinh khác diệt, từ đấy về sau chính thọ cũng diệt. Nếu lúc trụ định, tâm của chúng sinh khác vừa khởi vừa diệt, chính thọ này vừa khởi vừa diệt. Lại có thuyết nói: Tất cả tâm khởi, không hẳn là đồng, vì đôi khi có tâm khởi không diệt, nên chia làm bốn trường hợp: Từ chính thọ Vô tưởng, Diệt tận khởi. Lúc nhập chính thọ. Người có tâm. Lúc trụ chính thọ. Ở đây không có nhỏ, lớn, vì không có hình. Đã nói các tâm khởi diệt, nay sẽ nói: Về nghĩa rộng của tâm. Trong cõi Dục có bốn Sắc, Vô Sắc đều ba Cũng tâm Học, Vô học Nói thứ lớp sinh này. Trong cõi Dục có bốn, cõi Sắc, cõi Vô Sắc mỗi cõi đều có ba, cũng tâm Học, Vô học: nghĩa là có mười hai tâm, đó là: tâm thiện, bất thiện, tâm vô ký ẩn mất, tâm vô ký không ẩn mất ràng buộc cõi Dục. Tâm thiện, tâm vô ký ẩn mất, tâm vô ký không ẩn mất trói buộc cõi Sắc. Cõi Vô Sắc cũng như vậy và tâm Học, tâm Vô học. Hỏi: Mười hai tâm này được kiến lập thế nào? Đáp: kiến lập theo sự ràng buộc hay không ràng buộc về giới, chủng loại trói buộc. Trói buộc và không trói buộc kiến lập hai tâm. Trói buộc, nghĩa là giới chủng phân biệt lập mười tâm, không trói buộc, nghĩa là chủng phân biệt, lập ra hai tâm, cho nên nói là mười hai tâm. Nói theo thứ lớp sinh, nghĩa là các tâm này, mỗi tâm đều sinh theo thứ lớp, nay sẽ nói: Về các tâm. Thiện cõi Dục sinh chín Cũng lại khởi từ tám Hai tâm nhơ sinh bốn Cũng từ mười tâm sinh. Thiện cõi Dục sinh chín: nghĩa là tâm thiện cõi Dục, theo thứ lớp sinh chín tâm. Vì cõi Dục có bốn tự địa. Tâm thiện cõi Sắc, đó là phương tiện ban đầu khi nhập chính thọ, thuận theo tâm thiện kia. Đây là nói chung, không phải tất cả cõi Sắc. Có thuyết nói: Thiền vị lai thâu nhiếp không phải thiền khác. Lại còn cho: Vị lai và Sơ thiền. Lại nói là thiền trung gian. Tôn giả Cù-sa nói: Cho đến đệ Nhị thiền, như khởi vượt chính thọ, từ Sơ thiền khởi, vượt lên đệ Nhị thiền và quyến thuộc, đệ Tam thiền hiện ở trước, thiền này cũng như vậy. Tâm cấu uế của cõi Sắc, đó là lúc thọ sinh, tâm thiện này qua đời, tâm cấu uế kia tiếp nối nhau sinh. Tâm cấu uế của cõi Vô Sắc cũng vậy. Và tâm Học, Vô học thì tâm đó cũng thuận theo. Tâm vô ký không ẩn mất của cõi Sắc, cõi Vô Sắc không theo thứ lớp hiện ở trước, vì tâm ràng buộc địa của nó, thiện của cõi Vô Sắc cũng không hiện ở trước, vì rất trái nhau. Tâm thiện này, cũng từ tám tâm khởi, nghĩa là tâm thiện cõi Dục cũng từ tám tâm sinh theo thứ lớp. Vì cõi Dục có bốn tự địa. Thiện và cấu uế của cõi Sắc, tâm thiện như trước đã nói, còn sự cấu uế đó là phiền não của địa Sơ thiền đã gây bức não, tức phải dựa vào sự đề phòng, gìn giữ của tâm thiện cõi Dục, nên phải từ tâm học, vô học khởi, tâm thiện cõi Dục hiện ở trước. Hai tâm cấu uế sinh bốn, nghĩa là tâm bất thiện cõi Dục và tâm vô ký ẩn mất theo thứ lớp sinh bốn tâm ở cõi mình, không phải địa trên, vì trái nhau. Cũng từ mười tâm sinh, nghĩa là hai thứ tâm nhiễm ô của cõi Dục kia, từ thứ lớp mười tâm sinh, bốn sắc của cõi mình. Cõi Vô Sắc có sáu, đó là lúc thọ sinh. Vô ký kế sinh bảy Cũng lại từ năm khởi Thiện cõi Sắc, mười hai Cũng từ chín tâm sinh. Vô ký kế sinh bảy, nghĩa là theo thứ lớp tâm vô ký không ẩn mất của cõi Dục, thứ lớp sinh bảy tâm và bốn tự giới. Thiện cõi Sắc, đó là tâm biến hóa, theo thứ lớp sinh tâm vô ký ẩn mất, đó là lúc thọ sinh. Cõi Vô Sắc cũng có tâm vô ký ẩn mất, cũng lại từ năm tâm khởi. Tâm vô ký không ẩn mất của cõi Dục, theo thứ lớp từ năm tâm sinh. Bốn tự giới, thiện cõi Sắc, thì theo thứ lớp sinh, đó là tâm biến hóa. Thiện cõi Sắc có mười một, nghĩa là tâm thiện cõi Sắc theo thứ lớp sinh mười một tâm, trừ tâm vô ký không ẩn mất của cõi Vô Sắc. Cũng từ chín tâm sinh: nghĩa là tâm thiện cõi Sắc theo thứ lớp từ chín tâm sinh, trừ hai tâm cấu uế của cõi Dục và tâm vô ký không ẩn mất của cõi Vô Sắc. Tâm cấu cõi Sắc, sáu Cũng từ tám tâm khởi Vô ký kế sinh sáu Từ ba thứ lớp sinh. Tâm cấu uế của cõi Sắc có sáu, nghĩa là tâm vô ký ẩn mất của cõi Sắc, theo thứ lớp sinh sáu tâm: Tự giới ba, cõi Dục ba, trừ tâm vô ký không ẩn mất của cõi Dục. Cũng khởi từ tám tâm, nghĩa là tâm vô ký ẩn mất cõi Sắc, từ thứ lớp của tám tâm sinh, trừ hai tâm cấu uế của cõi Dục và hai tâm vô lậu. Vô ký kế sinh sáu: nghĩa là theo thứ lớp, tâm vô ký không ẩn mất của cõi Sắc, sinh sáu tâm: Tự giới có ba. Cõi Dục có hai cấu uế, và cấu uế cõi Vô Sắc. Theo thứ lớp từ ba tâm sinh, nghĩa là từ ba tâm của Tự giới, thứ lớp sinh. Thiện Vô Sắc sinh chín Cũng từ sáu tâm khởi Tâm cấu uế sinh bảy Kia cũng từ bảy sinh. Tâm thiện cõi Vô Sắc sinh chín: nghĩa là theo thứ lớp của tâm thiện cõi Vô Sắc, sinh chín tâm trừ tâm thiện, tâm vô ký không ẩn mất của cõi Dục và tâm vô ký không ẩn mất của cõi Sắc. Cũng từ sáu tâm khởi: nghĩa là tâm thiện của cõi Vô Sắc, cũng theo thứ lớp từ sáu tâm sinh: Tự giới ba, cõi Sắc có hai tâm vô lậu và thiện. Tâm cấu uế sinh bảy, nghĩa là theo thứ lớp, tâm cấu uế của cõi Vô Sắc sinh bảy tâm: Tự giới ba, tâm thiện và cấu uế, cõi Sắc, hai tâm cấu uế của cõi Dục. Kia cũng từ bảy sinh: nghĩa là tâm vô ký ẩn mất của cõi Vô Sắc, cũng theo thứ lớp từ bảy tâm sinh: Tự giới ba, tâm thiện và tâm vô ký không ẩn mất của cõi Dục và cõi Sắc. Tâm vô ký sinh sáu Cũng lại từ ba khởi Tâm Hữu học sinh năm Cũng từ bốn tâm sinh. Tâm vô ký sinh sáu: nghĩa là theo thứ lớp, tâm vô ký không ẩn mất của cõi Vô Sắc sinh sáu tâm: Tự giới ba, tâm cấu uế cõi dưới ba. Cũng lại từ ba khởi, nghĩa là tâm vô ký không ẩn mất của cõi Vô Sắc, theo thứ lớp từ ba tâm của tự giới sinh, không phải tâm nào khác, vì số của báo. Tâm Hữu học sinh năm: nghĩa là theo thứ lớp, tâm Hữu học sinh ra năm tâm: Hai vô lậu và tâm thiện của ba cõi. Không phải cấu uế, vì tính trái nhau. Chẳng phải vô ký không ẩn mất, vì tính không nhanh nhẹn. Cũng từ bốn tâm sinh: nghĩa là tâm học cũng theo thứ lớp từ bốn tâm sinh: Tức tâm Hữu học và tâm thiện phi vô học của ba cõi, là nhân này, không phải nhân nào khác, như trước đã nói. Tâm Vô học sinh bốn Cũng từ năm tâm sinh Đã nói mười hai tâm Sẽ nói hai mươi tâm. Tâm vô học sinh bốn: nghĩa là theo thứ lớp tâm vô học sinh bốn tâm, tức là tâm Vô học và tâm thiện của ba cõi, phi học là quả, không phải quả nào khác, như trước đã nói. Cũng từ năm tâm sinh: nghĩa là tâm vô học, theo thứ lớp từ năm tâm sinh, gồm hai tâm vô lậu và tâm thiện của ba cõi. Đã nói mười hai tâm, hai mươi tâm nói: Đã nói mười hai tâm, theo thứ lớp sinh, cũng từ mười hai tâm này phân biệt thành hai mươi tâm, nay sẽ nói. Hai thiện, hai cấu uế Báo sinh và oai nghi Công xảo, quả các thiền Tám tâm trong cõi Dục. Tám tâm của cõi Dục, đó là phương tiện sinh tâm thiện và sinh đắc thiện, bất thiện và vô ký ẩn mất, không ẩn mất. Vô ký có bốn thứ: Báo sinh, oai nghi, công xảo và tâm biến hóa. Trừ công xảo bất thiện Còn lại ở cõi Sắc Lìa thiền quả oai nghi Bốn tâm kia, Vô Sắc. Trừ bất thiện công xảo, ngoài ra ở cõi Sắc, nghĩa là cõi Sắc có sáu tâm, trừ bất thiện và công xảo. Ngoài ra, như trước nói. Lìa thiền quả, oai nghi bốn tâm khác ở Vô Sắc, nghĩa là cõi Vô Sắc có bốn tâm, trừ oai nghi và tâm biến hóa. Cõi Sắc, Vô Sắc trừ công xảo, vì không có sự nghiệp, trừ bất thiện vì đã lìa không hổ không thẹn. Cõi Vô Sắc trừ oai nghi, vì không có tới lui, trừ tâm biến hóa, vì không có phần thuộc về chi thiền. Tâm Học và Vô học Đó là thành hai mươi Tâm kia thứ lớp sinh Đều tùy theo nghĩa nói. Tâm Học và Vô học, đó là hai mươi tâm: nghĩa là tâm Học và Vô Học cùng mười tám tâm trước, là thành hai mươi tâm. Phải phân biệt về sự trói buộc, không trói buộc của giới và chủng loại. Sự khác nhau này, trước đây đã nói chung. Thiện và vô ký không ẩn mất (vô phú vô ký), nay cũng phân biệt chủng loại. Tâm kia, thứ lớp sinh, đều tùy theo nghĩa kia mà nói, nay sẽ nói: Về tâm này, lần lượt theo thứ lớp sinh. Dục phương tiện sinh mười Cũng từ tám tâm khởi Sinh đắc, kế sinh chín Cũng từ mười một sinh. Dục phương tiện sinh mười: nghĩa là phương tiện tâm thiện của cõi Dục, lần lượt sinh mười tâm, tự giới bảy, trừ tâm biến hóa, vì thiền tịnh kia theo thứ lớp sinh. Tâm thiện phương tiện cõi Sắc và tâm Học, Vô Học. Cũng từ tám tâm sinh: nghĩa là tâm thiện của phương tiện cõi Dục kia theo thứ lớp từ tám tâm sinh. Tự giới hai tâm thiện và hai tâm cấu uế. Tâm thiện, tâm cấu uế, của phương tiện cõi Sắc và tâm Học, Vô Học. Sinh đắc kế sinh chín: nghĩa là tâm thiện sinh đắc cõi Dục, theo thứ lớp sinh chín tâm: Tự giới có bảy tâm, trừ tâm biến hóa, tâm cấu uế của cõi Sắc và cõi Vô Sắc. Cũng từ mười một tâm sinh, nghĩa là tâm thiện của sinh đắc cõi Dục, từ mười một tâm theo thứ lớp sinh: Tự giới có bảy tâm, như trước đã nói. Tâm thiện, tâm cấu uế, phương tiện của cõi Sắc và tâm Học, Vô Học. Hai cấu uế sinh bảy Cũng từ mười bốn khởi Báo sinh oai nghi tám Cũng từ bảy tâm sinh. Hai cấu uế sinh bảy: nghĩa là bất thiện của cõi Dục và vô ký ẩn mất, tự giới bảy tâm, trừ tâm biến hóa. Cũng từ mười bốn tâm khởi, nghĩa là hai cấu uế này, theo thứ lớp mười bốn tâm sinh, tự giới bảy, trừ tâm biến hóa. Cõi Sắc có bốn thứ, trừ tâm thiện phương tiện và tâm biến hóa. Cõi Vô Sắc có ba, trừ tâm thiện phương tiện. Báo sinh oai nghi tám, nghĩa là báo sinh cõi Dục và oai nghi, theo thứ lớp sinh tám tâm: Tự giới sáu, trừ tâm thiện phương tiện và tâm biến hóa. Tâm cấu uế của cõi Sắc, cõi Vô Sắc. Cũng từ bảy tâm sinh, nghĩa là báo sinh của cõi Dục này và tâm oai nghi cũng từ bảy tâm của tự giới, theo thứ lớp sinh, trừ tâm biến hóa. Tâm công xảo sinh sáu Cũng lại từ bảy khởi Tâm biến hóa sinh hai Cũng là từ hai sinh. Tâm công xảo sinh sáu: nghĩa là tâm công xảo của cõi Dục theo thứ lớp sinh sáu tâm tự giới, trừ tâm thiện phương tiện và tâm biến hóa. Cũng lại từ bảy sinh: nghĩa là tâm kia cũng từ bảy tâm tự giới theo thứ lớp sinh, trừ tâm biến hóa. tâm biến hóa sinh hai, nghĩa là tâm biến hóa cõi Dục theo thứ lớp sinh hai tâm: Tâm biến hóa cõi Dục và tâm thiện phương tiện cõi Sắc. Cũng tức từ hai sinh, cũng tức là từ hai tâm này lần lượt sinh ra. Phương tiện sắc mười hai Cũng từ mười tâm khởi Sinh đắc kế sinh tám Cũng từ năm tâm sinh. Phương tiện sắc mười hai: nghĩa là tâm thiện phương tiện cõi Sắc, theo thứ lớp sinh mười hai tâm: Tự giới sáu, cõi Dục ba, tâm thiện phương tiện, tâm sinh đắc thiện và tâm biến hóa. Tâm thiện phương tiện của cõi Vô Sắc và tâm Học, Vô Học, đều cùng từ mười khởi, nghĩa là tâm thiện, phương tiện cõi Sắc, từ mười tâm theo thứ lớp sinh. Tự giới bốn, trừ oai nghi và báo sinh. Cõi Dục hai: Tâm thiện phương tiện và tâm biến hóa. Cõi Vô Sắc hai: tâm thiện phương tiện, tâm cấu uế, tâm học, vô học. Sinh đắc thứ lớp sinh tám, nghĩa là tâm thiện sinh đắc của cõi Sắc, theo thứ lớp sinh tám tâm: Tự giới năm, trừ tâm biến hóa, hai tâm cấu uế cõi Dục và tâm cấu uế của cõi Vô Sắc. Cũng từ năm tâm sinh, nghĩa là tâm thiện sinh đắc của cõi Sắc, từ năm tâm của tự giới theo thứ lớp sinh, trừ tâm biến hóa. Cấu cõi Sắc sinh chín Cũng từ mười một khởi Tâm oai nghi sinh bảy Từ năm thứ lớp sinh. Cấu uế cõi Sắc sinh chín, nghĩa là tâm cấu uế của cõi Sắc, theo thứ lớp sinh chín tâm: Tự giới năm, trừ tâm biến hóa, cõi Dục bốn: Hai tâm thiện, hai tâm cấu uế. Cũng từ mười một khởi, nghĩa là tâm cấu uế của cõi Sắc, từ mười một tâm, theo thứ lớp sinh: Tự giới năm, trừ tâm biến hóa, cõi Dục ba: Sinh đắc thiện, oai nghi và báo sinh. Cõi Vô Sắc ba, trừ tâm thiện phương tiện. Tâm oai nghi sinh bảy, nghĩa là tâm oai nghi của cõi Sắc, theo thứ lớp sinh bảy tâm: Tự giới bốn, trừ tâm thiện phương tiện và tâm biến hóa. Hai cấu uế là quả của cõi Dục và cấu uế của cõi Vô Sắc. Thứ lớp năm tâm sinh: nghĩa là tâm oai nghi của cõi Sắc, theo thứ lớp, từ năm tâm của tự giới sinh, trừ tâm biến hóa. Nên biết sắc báo sinh Cũng như nói oai nghi Là các quả thiền kia Nên biết như cõi Dục. Nên biết sắc báo sinh, cũng như nói oai nghi: nghĩa là báo sinh tâm ở cõi Sắc, theo thứ lớp sinh bảy tâm. Cũng từ năm tâm sinh, như oai nghi: là các quả thiền kia, nên biết, như cõi Dục, nghĩa là tâm biến hóa của cõi Sắc theo thứ lớp sinh hai tâm, là tâm thiện phương tiện cõi Sắc và tâm biến hóa. Cũng tức là từ hai tâm này mà thứ lớp sinh. Vô Sắc mới sinh bảy Là cũng từ sáu sinh Sinh đắc cũng sinh bảy Nên biết từ bốn khởi. Vô Sắc đầu tiên sinh bảy: nghĩa là tâm thiện phương tiện của cõi Vô Sắc, theo thứ lớp sinh bảy tâm: Tự giới bốn, tâm thiện phương tiện của cõi Sắc, và tâm Học, Vô Học. Là cũng từ sáu tâm sinh, nghĩa là tâm thiện, phương tiện cõi Vô Sắc, theo thứ lớp từ sáu tâm sinh: Tự giới ba, trừ báo sinh, tâm thiện phương tiện cõi Sắc, và tâm Học, Vô Học. Sinh đắc cũng sinh bảy, nghĩa là sinh đắc thiện của cõi Vô Sắc, cũng theo thứ lớp sinh bảy tâm: Tự giới bốn, ba cấu uế của cõi dưới, nên biết từ bốn khởi, nghĩa là theo thứ lớp, từ bốn tâm của tự giới kia sinh. Cấu uế sinh tám tâm Là từ mười tâm khởi Tâm báo sinh ở sáu Là cũng từ bốn sinh. Cấu uế sinh tám tâm: nghĩa là tâm cấu uế của cõi Vô Sắc, theo thứ lớp sinh tám tâm: Tự giới bốn, cõi Dục hai cấu uế, cõi Sắc với tâm thiện phương tiện và tâm cấu uế. Là từ mười tâm khởi: nghĩa là tâm cấu uế của cõi Vô Sắc, từ mười tâm theo thứ lớp sinh: Tự giới bốn, cõi Dục ba: Sinh đắc thiện, oai nghi và báo sinh, cõi Sắc cũng như vậy. Tâm báo sinh ở sáu: nghĩa là tâm báo sinh của cõi Vô Sắc, theo thứ lớp phát sinh sáu tâm: Tự giới ba, trừ tâm thiện phương tiện, địa dưới ba tâm cấu uế. Là cũng từ bốn sinh: nghĩa là tâm báo sinh kia, theo thứ lớp cũng từ bốn tâm của tự giới sinh. Tâm học kế sinh sáu Từ bốn thứ lớp khởi Tâm vô học sinh năm Là cũng từ năm sinh. Tâm học kế sinh sáu: nghĩa là tâm học theo thứ lớp sinh sáu tâm: Tâm thiện phương tiện của ba cõi, sinh đắc thiện của cõi Dục (sinh đắc thiện của cõi Dục, vừa mạnh mẽ vừa nhạy bén, hai cõi kia thì yếu ớt, mà chậm lụt), và tâm Học, Vô Học. Từ bốn thứ lớp khởi, nghĩa là tâm Học theo thứ lớp từ bốn tâm sinh: Gồm tâm thiện phương tiện của ba cõi và tâm Học. Tâm vô học sinh năm, nghĩa là tâm vô học theo thứ lớp sinh năn tâm, gồm tâm thiện phương tiện ba cõi, sinh đắc thiện cõi Dục và tâm Vô học. Là cũng từ năm tâm sinh, nghĩa là tâm thiện phương tiện của ba cõi và tâm Học, Vô Học. Hỏi: Vì sao tâm thiện phương tiện theo thứ lớp sinh các tâm oai nghi, công xảo và báo sinh? Vì sao các tâm này lại không theo thứ lớp sinh tâm thiện phương tiện? Đáp: Vì oai nghi và công xảo là tự ưa chuộng những gì mình đã làm, còn tâm của báo sinh yếu kém, không có tạo tác. nghĩa là tâm oai nghi thì ưa tập oai nghi, cho nên, theo thứ lớp nên sinh khởi tâm thiện phương tiện. Vì tâm xuất ly không siêng năng vận dụng phương tiện, nên tâm thiện phương tiện theo thứ lớp sinh. Tâm oai nghi, tâm công xảo cũng như vậy. Tâm của báo sinh yếu kém, không có tạo tác bổn nghiệp thì đã được gieo trồng, cho nên, người nhập tâm đó, là tâm không thể xuất ly, không siêng năng vận dụng phương tiện, nên phải theo thứ lớp của tâm thiện phương tiện mà sinh khởi. Nếu nói, vì tâm cấu uế ưa đắm say cảnh giới, vì yếu kém, nên không theo thứ lớp cảnh giới của tâm cấu uế mà sinh tâm thiện phương tiện, thì không đúng. Vì sao? Vì cảnh giới không khác, vì thấy lỗi lầm, vì không yếu kém, nên chuyển đổi lỗi ác của cảnh giới đó, chính nơi đó khởi công đức. Cho nên cảnh giới kia không khác với hành kia, vì mỏi mệt nhàm chán phiền não. Chính ở cảnh giới kia, quán sát tập phiền não sinh trưởng đêm dài, vì tâm cấu uế không yếu kém, cho nên, tâm kia, theo thứ lớp sinh tâm thiện phương tiện. Tâm sinh đắc thiện cõi Dục, dù nhanh chóng mà không phải phương tiện, do nhanh chóng, mà từ tâm thiện phương tiện của cõi Sắc kia. Và tâm Học, Vô Học theo thứ lớp sinh vì không phải phương tiện, nên không có khả năng theo thứ lớp sinh các tâm kia. Tâm sinh đắc thiện ở cõi Sắc của các tâm kia không nhanh nhẹn, cũng không phải phương tiện. Vì không nhanh nhẹn nên không từ tâm Học, Vô Học và tâm thiện phương tiện của cõi Vô Sắc theo thứ lớp mà sinh. Vì không phải phương tiện, nên không sinh theo thứ lớp. Các tâm đó, ở cõi Vô Sắc cũng như vậy. Tâm cấu uế của cõi Sắc được sinh theo thứ lớp. Tâm sinh đắc thiện ở cõi Dục thì nhanh chóng. Tâm cấu uế của cõi Vô Sắc không sinh theo thứ lớp. Tâm sinh đắc thiện cõi Sắc thì không nhanh chóng. Hỏi: Thế nào là chính pháp? Đáp: Kinh, Luật, A-tỳ-đàm Đó gọi chính pháp tục Ba mươi bảy phẩm giác Là nói đệ nhất nghĩa. Kinh, Luật, A-tỳ-đàm gọi là chính pháp thế tục, nghĩa là Tu-đa- la, Luật, A-tỳ-đàm, được gọi là chính pháp, vì căn cứ vào danh, xứ mà khởi, như trước đã nói. Ngôn ngữ của Phật, là tự tính của ngôn ngữ. Ngôn ngữ, là dựa vào danh chuyển biến, do chuyển biến đến xứ khác nên gọi là số tục. Vì làm sáng tỏ đệ nhất nghĩa, nên gọi là chính pháp. Vì dùng danh để làm sáng tỏ nghĩa, nên ba mươi bảy phẩm giác gọi là đệ nhất nghĩa. Ba mươi bảy phẩm giác là chính pháp của đệ nhất nghĩa, vì lìa danh mà khởi. Tu tuệ hữu lậu, dù lìa danh chuyển biến, nhưng vì có cấu uế, nên không nói là chính pháp của đệ nhất nghĩa. chính pháp có hai thứ. Hành pháp cũng có hai thứ: Pháp tu và tu. Pháp tu là tụng tập, tu là tu thiền, đó là số thế tục. chính pháp là tu. Pháp là nghĩa trì. chính pháp của đệ nhất nghĩa là tu. Vì vậy nên nói là tu hành. Pháp còn thì chính pháp còn. Người tu hành diệt thì chính pháp diệt. Đức Thế Tôn thường khuyến khích, người tu hành, nên không nói đến phần giới hạn như trước nói. Phẩm Kim Cương Tam-muội, nay sẽ nói. Năm mươi hai và khác Cũng lại nói tám mươi Có thuyết nói mười ba Là Tam-muội Kim Cương. Có thuyết nói: Năm mươi hai Tam-muội Kim Cương, thuộc về thiền vị lai, nếu dựa vào khổ tỷ trí của thiền vị lai thì sẽ được quả A-la- hán. Đối với bốn ấm của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, suy nghó đó là vô thường, khổ, không và phi ngã. Nếu tập tỷ trí mà được, là tư duy mỗi hành trong bốn hành của tập đế. Nếu diệt pháp trí, thì diệt sự trói buộc cõi Dục, tư duy bốn hành của diệt đế. Nếu đạo pháp trí, hành đạo dứt trói buộc của cõi Dục, tư duy bốn hành của đạo đế. Nếu diệt tỷ trí, hoặc tư duy hành diệt trói buộc địa Sơ thiền, hoặc cho đến tư duy hành diệt trói buộc Phi tưởng Phi phi tưởng. Nếu đạo tỷ trí, đối với chín địa đó, thì đạo phẩm tỷ trí tư duy bốn hành, được quả A-la-hán. Trí hành như vậy, duyên phân biệt là năm mươi hai. (Vì khổ khác nên diệt khác, vì tình cách nên quán riêng. Đây là lý do tám địa diệt, có ba mươi hai đạo hành là giống như vậy, thông suốt với địa khác, đồng tính tình vô ngại, nên thông suốt quán. Quán thông suốt chín địa, chỉ có bốn hành kết hợp với mười sáu hành của bốn đế trước là thành năm mươi hai). Như thiền vị lai, cho đến đệ Tứ thiền cũng như vậy. Không xứ có hai mươi tám hành (Khổ, tập của tự địa là tám hành, diệt đế của bốn không là mười sáu hành. Đạo chín địa có bốn hành. Vì diệt ở địa trên ít dần, nên tùy chỗ diệt mà có bốn). Thức xứ có hai mươi bốn hành. Vô sở hữu xứ có hai mươi. Cõi Vô Sắc không có pháp trí. Pháp trí duyên cõi Dục, chẳng phải cõi Vô Sắc duyên hành diệt của địa dưới, khổ của địa dưới chẳng phải cảnh giới, đối trị của địa dưới, lần lượt duyên nhân. Có thuyết nói: Thiền vị lai có tám mươi Tam-muội Kim Cương, sự khác nhau trong đó là nói về đạo tỷ trí. Cũng mỗi mỗi địa duyên đối trị, được quả A-la-hán. (Quán đạo của bảy địa, địa tỷ trí, mỗi địa đều có bốn hành, mỗi hành có hai mươi tám, cộng với năm mươi hai hành trước, thành tám mươi hành). Như thiền vị lai, cho đến đệ Tứ thiền cũng như vậy. Không xứ có bốn mươi hành, Thức xứ có ba mươi hai, Vô sở hữu xứ có hai mươi bốn. Tôn giả Cù-sa nói: Tam-muội Kim Cương thuộc về thiền vị lai. Mười ba kiến đạo, bốn tỷ nhẫn tương ưng với bốn Tam-muội. Tu đạo lìa dục Phi tưởng Phi phi tưởng, chín đạo vô ngại, tương ưng chín Tam- muội. Tất cả những cái đó đối trị với đệ nhất hữu kia. Đạo thế tục nơi Tam-muội Kim Cương chẳng phải cảnh giới, cho đến đệ Tứ thiền cũng như vậy. Không xứ có chín cho đến Vô sở hữu xứ cũng như thế. Hành chủng duyên phân biệt này, thuộc về thiền vị lai thì có đến một ngàn bốn trăm chín mươi hai Tam-muội Kim Cương, cho đến đệ Tứ thiền cũng đều như vậy. Không xứ có bốn trăm sáu mươi tám, Thức xứ có ba trăm hai mươi bốn, Vô sở hữu xứ có hai trăm mười sáu. Hỏi: Thần thông mà Phẩm Trí kia nói. Vậy thần thông đó có phải là tất cả thiện hay không? Đáp: Ba thông thì nói thiện Hai thông là, vô ký Nên biết dựa dục, sắc Thế Tôn nói tính tuệ. Ba thông thì nói thiện; Ba thông gồm thần là trí, trí tha tâm, túc mạng trí, ba thông này gọi là thiện. Vì sao? Vì là quả ái, vì phương tiện tột bậc đã khởi, vì điều phục người khác. Đối với không tin ưa, khiến cho họ tin ưa. Ba thông này, khiến người khác được điều phục nên vui mừng. Tâm vui mừng tương ưng với tuệ là thiện, vì tương ưng với lòng tin. Hai thông khác là vô ký: Đó là thiên nhãn, thiên nhó. Hai thần thông này là vô ký, vì không có quả ái và phương tiện tột bậc. Lại thọ nhận màu sắc, âm thanh mà khởi, cho nên vô ký. Hỏi: Ở chỗ nào hiện ra trước, là những tính nào? Đáp: Nên biết, căn cứ vào dục sắc, Đức Thế Tôn nói tính tuệ. Thần thông này được hiện ở trước nơi cõi Dục, cõi Sắc, chứ không phải ở cõi nào khác. Vì dựa vào sắc, thần thông đó khởi hiện ở cõi Dục trước, về sau ở cõi Sắc mới có thể hiện ở trước. Thần thông đó chẳng phải do nghiệp ban đầu gắng nhận, vì chẳng có phần. Đó là tính của trí tuệ từ sự phân biệt khởi, y cứ vào sự thành tựu, y cứ vào người. (Đấy là giải thích thần thông có tên là mắt, do mắt sinh khởi). Như Luận Thi Thiết nói: Bấy giờ, bốn đại tạo của cõi Sắc, làm cho nhãn xứ được tròn đầy, nên thiên nhãn thanh tịnh, như phẩm Tu-đa-la đã nói. Còn việc các căn có nói rộng trong phẩm Trạch. Nay sẽ nói: Nên biết các căn kia Người tuệ khéo phân biệt Danh có hai mươi hai Về sự nói mười bảy. Đức Phật nói các căn: Danh có hai mươi hai, sự có mười bảy, vì căn nam căn nữ và ba căn vô lậu, không có sự riêng, nên không lập sự, thuộc về căn khác. Căn nam căn nữ rời thân căn thì không còn căn nào khác. Cho nên phải nói căn nam thế nào? Là phần ít của thân căn. Căn nữ cũng như vậy. Lại nữa, vì một thức nương dựa. Nếu thức dựa vào thân căn phát sinh tác dụng, chính là dựa vào căn nam căn nữ cùng sinh với căn mà không có tướng khác. Vì một thức, ba căn vô lậu, chín căn hợp thành. Chín căn là: Ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn và năm căn như tín, v.v… Trong chín căn này, vì phân biệt đạo và người cho nên lập ra ba căn. Phân biệt về đạo, nghĩa là kiến đạo gọi là vị tri căn, tu đạo gọi là dó tri căn, đạo vô học gọi là vô tri căn. Phân biệt về người: nghĩa là tùy tín hành, tùy pháp hành nói là vị tri căn. Tín giải thoát, kiến đáo, thân chứng gọi là dó tri căn. Tuệ giải thoát, câu giải thoát gọi là vô tri căn. Hỏi: Đẳng và đệ nhất nghĩa có tướng gì? Đáp: Nếu lúc phân biệt sự Bỏ danh thì nói đẳng Phân biệt không chỗ xả Đó là đệ nhất nghĩa. Nếu lúc phân biệt sự, xả danh thì gọi là đẳng, nghĩa là nếu lúc phân biệt sự, mà xả danh, thì đó là đẳng sự (Đẳng sự, tiếng Pham là Tam-tỷ-túc-đề, Hán dịch là Đẳng tập, cũng dịch là Đẳng tích tụ. Hội họp có ba, không có gọi là Đẳng tập), không phải đệ nhất nghĩa quyết định sự việc, vì không thể được. Như lúc phân biệt chiếc bình, với sắc, hương, vị, xúc, xả bỏ tên bình, chứ không phải bỏ sắc, hương, vị, xúc mà có tên bình riêng, nên gọi là đẳng Sự. Như vậy, tất cả phân biệt là không có gì để bỏ, đó là đệ nhất nghĩa. nghĩa là nếu lúc phân biệt sự, không bỏ danh, đó là đệ nhất nghĩa, như năm ấm lừng lẫy, gọi là khổ đế. Nếu lúc phân biệt năm ấm, cũng không bỏ tên khổ, vì sắc là khổ, cho đến thức cũng như vậy. Sắc kia lại có mười một thứ, mỗi nhập đều là khổ, cho đến sát-na và lúc phân biệt cực vi cũng không bỏ tên khổ, vì nó có tướng đắc. Như vậy, tất cả như phẩm Tạp nói thì phẩm trung ấm Trạch sẽ nói rộng. Hỏi: Là nhất định hay không nhất định? Đáp: Giới, đường, địa nhất định Năm vô ngại trung ấm Đều gọi là hương thực Cầu hữu thừa ý hành. Giới, đường, địa nhất định, nghĩa là giới, đường, địa của trung ấm không thay đổi, vì trung ấm của cõi Dục sẽ sinh cõi Dục, cõi Sắc sinh cõi Sắc. Như vậy đường địa ngục đọa địa ngục, cho đến đường người sinh làm người. Bốn Thiên vương sinh làm bốn Thiên vương, cho đến cõi trời A-ca-nị-trá cũng như vậy. Trung ấm năm, nghĩa là tính năm ấm của trung ấm, vì có đến đi, chẳng phải lìa sắc mà có đến đi, cho nên ở cõi Dục, cõi Sắc có trung ấm, chứ không phải ở cõi Vô Sắc, vì cõi ấy không có sắc. Không có trở ngại: Vì rất nhỏ nhặt, tất cả hình che lấp đều không thể ngăn ngại, vì sức nghiệp trụ trong thai mẹ. Nếu khác thì không thể trụ thai, gọi là hương thực. Cầu hữu thừa ý hành: nghĩa là vì dùng hương làm thức ăn, nên nói là hương thực. Nếu người nào có phước mỏng, thì ăn các mùi nhơ nhớp. Nếu người có sức mạnh thì ăn các mùi trong sạch. Vì tìm ở sinh hữu nên nói là cầu hữu. Vì từ ý sinh nên nói là nhờ vào ý hành. Các chúng sinh này hoặc do nghiệp sinh, là địa ngục, như đã nói, các chúng sinh đó bị nghiệp ràng buộc, hoặc phiền não sinh, nghĩa là người và trời cõi Dục, hoặc báo sinh, là nói chim bay. Hoặc từ ý sinh, là các vị trời cõi Vô Sắc và người kiếp sơ. Biến hóa và trung ấm ở giữa hai hữu, khởi nẻo xen lẫn, nên nói là trung ấm. Hỏi: Trung ấm trụ trong thời gian bao lâu? Đáp: Bảy ngày, bốn chín ngày, Cho đến khi hòa hợp Hoặc lõa hình ăn hương Các căn đều đầy đủ. Bảy ngày: Có thuyết nói trung ấm trụ bảy ngày, vì thân yếu ớt. Hỏi: Nếu hòa hợp thì nên như vậy. Còn nếu cha mẹ người kia, đều ở chỗ khác nghĩa là người này chết, thì phải làm sao? Đáp: Nên quán nghiệp của chúng sinh này, có chuyển hay không, nếu đối với mẹ có thể chuyển, với cha không thể chuyển, nghĩa là người cha kia, theo người nữ khác, khiến trung ấm được gặp, duyên ở người cha có thể chuyển. Cũng như vậy, nếu cả hai người đều không thể chuyển, thì người này chưa chết mà người kia trước đó đã hòa hợp, thì đó là nói người thường hành dục. Nếu hành dục theo thời tiết, nghĩa là vì nghiệp nhân duyên của chúng sinh kia, khiến họ phi thời cũng hành dục. Có thuyết nói: Hoặc sinh ở chỗ tương tợ, đó là: Nếu lúc sinh được thích ứng với chỗ hành dục mà trung ấm không đến đúng lúc thì sinh ở chỗ thường hành dục tương tự, tùy theo từng loại trung ấm mà nói. Về bốn mươi chín, có thuyết nói: Thân trung ấm trụ trong bốn mươi chín ngày, cho đến lúc nam nữ kia hòa hợp. Có thuyết lại nói: Thân trung ấm không nhất định, cho đến thường ở trong khoảng thời gian chưa hòa hợp. Hỏi: Thân trung ấm có y phục hay không? Đáp: Đôi khi lõa thể. Trung ấm của cõi Sắc có y phục, vì cõi Sắc cộng thêm sự hổ thẹn. Như pháp thân kia không lõa thể, thì sinh thân cũng vậy. Bồ-tát của cõi Dục và trung ấm của Tỳ-kheo-ni Bạch tịnh thì có y phục, còn chúng sinh khác thì không có y phục, vì không có thêm sự hổ thẹn. Hỏi: Trung ấm ăn gì? Đáp: Ăn mùi hương, trung ấm cõi Dục, lấy mùi hương làm thức ăn, ở trước đã nói. Cõi Sắc lìa bỏ cách ăn vốc, vì tham của thân rất nhỏ, nên chỉ có ba cách ăn. Hỏi: Thân trung ấm có đủ các căn không? Đáp: Các căn đều đầy đủ, trung ấm đủ các căn. Vì sao? Vì vì báo của trung ấm thuần hậu. Lại vì chúng sinh thường tìm cầu hữu, nên đối với môn sáu nhập thường tìm cầu hữu. Hỏi: Hình dáng của thân trung ấm ra sao? Đáp: Tùy đi, lượng không định Có khi thấy, không thấy Nhập thì từ môn sinh Hoặc sinh tưởng điên đảo. Tùy di nghĩa là mỗi người có đường đi của mình. Trung ấm địa ngục như thân ở địa ngục, cho đến người, trời như thân của người, trời. Hỏi: Trung ấm đi đứng thế nào, thân lượng ra sao? Đáp: Đi đứng và lượng không nhất định. Trung ấm đi đứng và thân lượng không nhất định. Trung ấm địa ngục, khi đi thì chân hướng thẳng lên trên, đầu chúc xuống dưới. Trung ấm của trời thì đi lên trên như mũi tên bắn vào hư không. Trung ấm khác thì thân nghiêng, đi ngang, như vẽ hình người đang bay. Lượng: Trung ấm cõi Sắc, thì lượng như vốn có. Trung ấm của Bồ-tát cõi Dục, cũng như vốn có, với ba mươi hai tướng trang nghiêm thân, cho nên trung ấm của Bồ-tát, ánh sáng sáng rỡ, soi suốt trăm ức thiên hạ. Nói thân voi trắng đi vào thai mẹ là không đúng, vì Bồ-tát đã lìa súc sinh. Từ chín mươi mốt kiếp đến nay, Bồ-tát đã thường lìa súc sinh. Vì thuận theo sách tướng nên khiến mẹ của Bồ- tát thấy đều mộng như vậy. Thân lượng trung ấm của chúng sinh khác trong cõi Dục như hình đứa trẻ có sự hiểu biết, vì các căn mạnh mẽ, nhạy bén, do tưởng điên đảo lúc vào thai. Hỏi: Trung ấm và trung ấm có thấy nhau không? Đáp: Có khi thấy, có khi không thấy. Hoặc trung ấm lấy trung ấm làm cảnh giới nhưng không nhất thiết. Có thuyết nói: Trung ấm địa ngục thấy trung ấm địa ngục, tất cả đều như vậy. Lại nói trung ấm địa ngục trông thấy trung ấm của địa ngục. Súc sinh thấy cả hai đường. Ngạ quỷ thấy ba đường, người thấy bốn đường, trời thấy năm đường. Mắt của sinh ấm thì không trông thấy. Mắt trời nếu rất trong sạch, thì có thể thấy. Hỏi: Vào thai từ chỗ nào? Đáp: Vào thai từ cửa sinh. Trung ấm kia vào thai từ cửa sinh, cho nên, trẻ con sinh đôi, đứa sinh sau là lớn. Hỏi: Do tưởng gì lúc vào thai? Đáp: Có thể sinh tưởng điên đảo, không phải tất cả chúng sinh đều mang tưởng điên đảo lúc vào thai mẹ, trừ Bồ-tát gần thành Phật. Bồ-tát gần thành Phật kia đối với mẹ, nghó là mẹ, đối với cha, nghó là cha. Còn chúng sinh khác đều tưởng điên đảo lúc vào thai. Nếu là trung ấm nam, thì có tưởng nhiễm đối với mẹ, và tưởng tức giận đối với cha. Trung ấm kia nghó rằng: Nếu không có người nam kia thì ta sẽ giao hội với người nữ này, tưởng tượng thấy người nam kia đi rồi, giao hội với người nữ nọ. Lúc thấy tinh của nam kia vọt ra, cho là của mình, liền cảm thấy vui mừng, vì sinh vui mừng, nên ấm dần dần dày thêm ấm dần dày thêm, rồi quay lưng, ngồi dựa vào phía hông phải của mẹ. Nếu là trung ấm nữ, thì nói ngược lại. Về nhân duyên của trung ấm, sau sẽ nói.  <卷>QUYỂN 11 <詞>Phẩm 10: TRẠCH (Phần cuối) Hỏi: Biết pháp, hiểu pháp, rõ pháp, những việc này thế nào? Đáp: Biết là tất cả pháp Hiểu và rõ cũng vậy Trí và ý thức sáng Đều tùy việc mà nói. Khổ trí kia biết khổ, cho đến đạo trí biết đạo, trí vô lậu duyên phần đoạn. Đẳng trí thiện cũng biết khổ, cho đến số hư không phi số diệt duyên khắp tất cả pháp. Thức cũng biết tất cả pháp. Nhãn thức kia biết sắc, cho đến thân thức biết xúc, vì nhiếp thọ tự tướng. Ý thức biết mắt, sắc và nhãn thức, vì đều duyên khắp tất cả như vậy. Sự sáng suốt cũng làm sáng tỏ tất cả pháp tùy theo việc kia. Khổ nhẫn, khổ trí kia làm sáng tỏ nỗi khổ, cho đến đạo nhẫn, đạo trí làm sáng tỏ đạo, vì duyên phần đoạn. Tuệ hữu lậu thiện cũng làm sáng tỏ, hư không phi số diệt. Hỏi: Kiếp có lỗi thế nào? Đáp: Đao binh, bệnh, đói khát Gọi là lỗi trung kiếp Trừ địa, ba thứ khác Gọi là lỗi đại kiếp. Đao binh, bệnh, đói khát, gọi là lỗi trung kiếp: nghĩa là ba thứ lỗi ở trung kiếp, đó là nạn đao binh, bệnh dịch, đói khát. Kiếp đao binh: Là đến lúc tuổi thọ của con người giảm xuống chỉ còn mười tuổi, là cảnh giới tham lam, thô bạo, độc ác, vận hành các pháp tà, mọi người đều có tâm hãm hại nhau, tay cầm cỏ, cây đều biến thành dao gươm, sát hại lẫn nhau. Thảm trạng như vậy, kéo dài đến bảy ngày. Đó là lỗi đao binh ở trung kiếp. Kiếp bệnh dịch: Cũng xảy ra vào lúc tuổi thọ của con người chỉ có mười, với nhiều bệnh tật, không có bác só, thuốc hay và sự chẩn đoán bệnh. Con người bấy giờ vì phước đức quá mỏng, nên hễ bị bệnh là chết ngay. Tình huống như vậy, kéo dài đến bảy tháng, bảy ngày. Đó là tội lỗi về bệnh dịch của trung kiếp. Kiếp đói khát: Lúc con người cũng sống được mười tuổi, họa đói khát càng tăng thêm, làm cho cơ thể của con người càng yếu đuối. Nạn hạn hán kéo dài khắp thiên hạ, gieo trồng không thu hoạch số lượng gạo không đủ ăn, phải nấu xương người để húp nước. Thảm trạng như vậy, tiếp diễn suốt trong bảy năm, bảy tháng, bảy ngày. Đó là lỗi về đói khát của trung kiếp. Nói như vậy, còn nếu ở vào đời hiện nay, người nào giữ giới không sát sinh, trong một ngày một đêm, thì không bao giờ sinh trong kiếp đao binh kia. Nếu dùng một quả ha-lê-lặc cúng dường ruộng phước tăng, thì không bao giờ sinh trong kiếp bệnh dịch kia. Nếu bố thí cho ruộng phước tăng một bữa ăn thì không bao giờ sinh vừa kiếp đói khát kia. Trên đây là kiếp ác ở cõi Diêm-phù-đề sinh khởi lẫn nhau. Ở phương khác thì có một ít phần giống nhau. Như sinh trong kiếp đao binh ấy, người kia chỉ có thêm sự tức giận, nếu sinh trong kiếp bệnh dịch ấy, người kia chỉ có một ít sức yếu đuối, nếu sinh vào kiếp đói khát, người kia chỉ thêm sự đói khát. Hỏi: Lỗi của đại kiếp là thế nào? Đáp: Trừ địa ra, ba thứ kia gọi là lỗi của đại kiếp. Ba đại chủng, gọi là lỗi của đại kiếp, đó là: lửa, nước, gió, chẳng phải địa chủng. Vì sao? Vì bất lợi. Lợi là làm hoại đại kiếp. Lại nữa, kiếp hoại của địa chủng, nghĩa là kiếp hoại lẽ ra phải đến đệ Tứ thiền mà chưa từng đến đệ Tứ thiền. Hỏi: Vì sao kiếp hoại không đến đệ Tứ thiền? Đáp: Vì trời Tịnh Cư. Trời đó không sinh địa trên, ở ngay địa đó mà nhập Niết-bàn. Cũng không sinh xuống địa dưới, vì địa dưới chẳng phải thường diệt. Nếu kiếp trụ kia trải qua kiếp hoại cũng không đúng, vì sức phước tăng thượng nên sinh vào xứ đó, vì sự rối loạn bên trong không có. Nếu bên trong địa đó có sự khuấy rối, thì bên ngoài sẽ có tai họa. Trong Sơ thiền kia, vì có lửa giác quán khuấy rối, nên bên ngoài bị hỏa tai đốt cháy. Trong đệ Nhị thiền có nước hỷ nhiễu loạn, nên bên ngoài bị thủy tai cuốn trôi. Trong đệ Tam thiền có hơi thở gió ra vào khuấy rối, nên bên ngoài bị phong tai làm tan hoại. Hỏi: Đệ Tứ thiền không hề có sự nhiễu loạn, đâu được không thường còn? Đáp: Vì bị sát-na vô thường hủy hoại. Nói như vậy, nghĩa là địa của đệ Tứ thiền không nhất định nối tiếp nhau, hễ vị trời kia sinh thì cung điện đều có theo. Nếu vị trời ấy qua đời, thì cung điện cũng mất theo. Hỏi: Kiếp nào hết trước nhất? Đáp: Bảy lửa lần lượt qua Sau đến một thủy tai Bốn chín lửa, bảy nước, Lại bảy lửa, gió sau. Bảy lửa lần lượt khởi: nghĩa là kiếp lửa khởi lên trước nhất. Nói như thế này: Nếu kiếp lửa sắp khởi, bấy giờ tuổi thọ của con người là tám vạn tuổi. Người địa ngục chết, không còn sanh lại, nên biết là kiếp hết, cho đến ở địa ngục cũng không có một chúng sinh nào cư trú, đó gọi là kiếp địa ngục hết. Như kiếp địa ngục hết, súc sinh, ngạ quỷ cũng như vậy. Nếu súc sinh hữu dụng đối với người, thì đều tận diệt một lượt với con người. Và lúc ấy, ở Diêm-phù-đề chỉ còn một người, không ai chỉ dạy bèn nhập Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, bèn cất tiếng xướng: Ly sinh hỷ lạc thật là vui sướng, âm thanh như vậy, lần lượt bảo nhau khắp cả Diêm-phù-đề. Các chúng sinh khác cũng không có thầy giáo hóa, đều nhập Sơ thiền, cho đến cả Diêm-phù-đề, không có một chúng sinh nào ở. Đó gọi là hết kiếp Diêm-phù-đề, chỉ trừ châu Uất-đơn-việt, tất cả các đường lành cõi Dục cũng giống như vậy. Ở Châu Uất-đơn-việt chết, không người nào được thiền, vì không có sự lìa dục. Lại nữa, lúc đó, một chúng sinh ở Sơ thiền, không có ai giáo hóa, bèn nhập đệ Nhị thiền. Sau khi xuất thiền, cất tiếng xướng: Định sinh hỷ lạc thật là vui sướng. Âm thanh như vậy vang khắp đến Phạm thiên. Các chúng sinh khác cũng giống như thế. Cho đến Sơ thiền, không có một chúng sinh nào cư ngụ, đó gọi là kiếp của đời chúng sinh hết. Thế giới lúc đó trống rỗng trong một thời gian lâu, mãi cho đến khi bảy mặt trời xuất hiện. Hỏi: Mặt trời xuất hiện từ đâu? Đáp: Có thuyết nói: Lúc kiếp thành, ở sau núi Càn-đà có bảy mặt trời trụ, từ nơi ấy xuất hiện. Có thuyết nói: Một mặt trời chia thành bảy phần. Lại có thuyết nói: Năng lượng của một mặt trời nóng gấp bảy lần. Lại có thuyết nói: Lửa của địa ngục Vô gián tỏa ra. Nói như vậy: nghĩa là vì sức nghiệp của chúng sinh làm cho quả tăng thêm, khí thế giới khởi, nghiệp chúng sinh đó hết, như vậy, sự nhiễu loạn phát sinh cho đến đốt cháy cả trời Phạm, bảy hỏa tai như vậy thứ lớp đi qua. Sau đó, là một thủy tai, nghĩa là bảy hỏa tai xảy ra rồi, sau đó mới là một thủy tai, cho đến làm tan rã đệ Nhị thiền. Hỏi: Nước dâng lên từ đâu? Đáp: Có thuyết nói: Từ ranh giới của đệ Tam thiền nước mưa bị đun nóng. Có thuyết lại nói: Bánh xe nước vọt lên, xảy ra nhiễu loạn như trước đã nói. Bốn chín lửa, bảy nước: nghĩa là bảy hỏa tai theo thứ lớp xảy ra, sau đó là một thủy tai. Như vậy bốn mươi chín lần hỏa tai và bảy lần thủy tai. Lại bảy lửa, gió sau: nghĩa là lại bảy lần hỏa tai, về sau là một phong tai. Thủy tai, phong tai nổi lên, theo thứ lớp từ hỏa tai. Đấy là khéo nói, Tịnh cư thiên sống lâu đến sáu mươi bốn kiếp, mới bị thủy tai làm trôi dạt, cho đến đệ Nhị thiền bị phong tai làm tan hoại. Cho đến đệ Tam thiền, trăm ức bốn thiên hạ hư hoại cùng một lúc. Mười chín trung kiếp thế gian trống rỗng, một trung kiếp khí thế gian tan hoại, một trung kiếp khí thế giới hình thành, mười chín trung kiếp theo thứ lớp an trụ dần. Nếu ở kiếp không trước nhất là ở kiếp trụ sau cùng. Nếu ở kiếp không sau cùng là ở kiếp trụ trước nhất. Hỏi: Thế nào là tâm rối loạn? Đáp: Lầm lẫn, nghiệp báo gốc Sợ hãi và tổn hại Nếu hiểu chi tiết kia Thánh nói nước, lửa, gió. Lầm lẫn nghiệp báo gốc, sợ hãi và tổn hại: nghĩa là bốn nhân duyên làm cho tâm rối loạn, đó là bốn đại loạn, nghiệp báo gốc, sự sợ hãi và gây tổn hại cho thân. Bốn đại rối loạn: nghĩa là ăn uống không thích hợp, nên bốn đại rối loạn. Vì bốn đại rối loạn nên khiến tâm người kia loạn. Nghiệp báo gốc là nghiệp báo là gốc tạo ra tâm tán loạn chín muồi. Hỏi: Việc này ra sao? Đáp: Ưa loan truyền những tai họa suy sụp, làm cho người khác buồn rầu, khổ sở. Hoặc lại mắng rằng: Ông là người ngu si, điên rồ, tâm tán loạn. Hoặc xua đuổi, đàn áp chúng sinh, khiến họ rơi vào chỗ nguy hiểm. Đốt núi, đầm, cho người uống rượu. Hoặc do vọng tưởng nên nói ngược lời Phật. Những nghiệp xấu như thế, dẫn tới hậu quả là tâm loạn. Sự sợ hãi: nghĩa là kinh hoàng sợ hãi khi thấy hình phi nhân đến. Vì sợ hãi nên tâm người kia loạn, gây tổn hại cho thân, tức bị phi nhân đánh. Vì người kia đã dùng vật bất tịnh làm cấu uế chỗ đại chúng hội họp và tháp Phật, Tăng, nên khiến cho phi nhân ở nơi đó giận, mà đánh, cho nên tâm người kia loạn. Đó là nói người phàm phu, bậc Thánh không có hành báo của nghiệp gốc làm tâm loạn. Nếu người nào trước đã gieo trồng nghiệp báo nhất định, thì trước hết thọ báo, sau đó mới vượt lên ly sinh. Nếu kẻ nào gieo trồng nghiệp báo không nhất định, nếu vượt lên ly sinh, thì nghiệp của họ sẽ tiêu mất. Tâm loạn: Là ở cõi Dục. Địa ngục kia không tâm loạn, vì thường loạn. Súc sinh, ngạ quỷ và người thì tâm loạn, trừ châu Uất-đơn-việt, các tầng trời cõi Dục cũng có tâm loạn. Hỏi: Những bậc Thánh nào có tâm loạn? Đáp: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi- Phật. Chỉ có tâm Phật không loạn, tiếng nói không hư hoại, tóc không bạc, mặt không nhăn, không dần dần nhập Niết-bàn. Từ lâu, Đức Thế Tôn đã dứt hết nghiệp nhiễu loạn, vì Phật thực hành hạnh mầu nhiệm. Sự rối loạn là ở ý thức, chứ không phải ở năm thức tâm, vì không phân biệt. Tâm hữu lậu loạn, vô lậu thì không, vì hành chân thật. Thế nên, nếu nói tâm điên loạn là tán loạn chăng? Nên chia làm bốn trường hợp: Trường hợp đầu: Nói điên, là tâm hữu lậu thiện, tâm vô ký không ẩn mất. Trường hợp thứ hai: Nói tự tướng trụ, là tâm cấu uế. Trường hợp thứ ba: Nói người điên, là tâm cấu uế. Trường hợp thứ tư: Nói tự tướng trụ tâm thiện và tâm vô ký không ẩn mất. Hỏi: Những đại nào có thể làm tan rã chi tiết? Đáp: Nếu có thể làm tan rã chi tiết, bậc Thánh nói: Ba đại nước, lửa và gió là có thể làm tan rã chi tiết, chẳng phải địa đại vì bất lợi. Đại lửa làm tan rã chi tiết: nghĩa là lúc chết, đại lửa tăng, đốt cháy khắp gân, đốt gân xong, làm tan rã từng lóng đốt, làm tan rã lóng đốt rồi, không bao lâu sẽ chết. Đại nước làm tan rã chi tiết, nghĩa là lúc từng lóng đốt rời ra, trước hết làm cho gân thối rữa, gân thối rữa rồi, chi tiết khác tiếp tục như trước đã nói. Đại gió làm tan rã chi tiết, nghĩa là làm cho gân nát vụn, gân nát vụn rồi, chi tiết khác tiếp tục như trước nói. chi tiết đã làm tan rã rồi, không quá một ngày đêm sẽ chết,, vì bốn đại rối loạn. Địa ngục không có việc làm tan rã chi tiết, vì các chi tiết thường bị tan rã, nhưng do nghiệp báo, nên không chết. Súc sinh, ngạ quỷ và ba phương đều có sự tan rã chi tiết, trừ châu Uất-đơn-việt, vì không có tội nghiệp. Cõi trời cũng như vậy. Phàm phu, bậc Thánh đều tan rã chi tiết, chỉ trừ Phật. Tội báo nghĩa làm tan rã chi tiết. Phật không có tội báo. Đã nói tách rời chi tiết, nay sẽ nói: Về sự lui sụt. Thối pháp có ba thứ Đắc, vị đắc, tập hành Hoặc một người, một thối Vị đắc thối là hai Là tập hành thối kia Ba Thánh đều cũng vậy. Thối pháp có ba thứ: Đắc thối, vị đắc thối và tập hành thối. Đắc thối, nghĩa là công đức đã được mà gặp phải nhân duyên lui sụt là thối. Vị đắc thối nghĩa là công đức đáng lẽ được, nhưng vì buông lung nên không được. Tập hành thối là công đức đã được, vì có nhân duyên nên không được tập hành. Hỏi: Những người nào thối lui và thối lui việc gì? Đáp: Hoặc một người, một thối lui. Nếu người đắc thối là Thanh văn, thuộc căn cơ chậm lụt, không phải căn cơ nhạy bén. Căn cơ nhạy bén là sức của Tam-muội, nên nói như vậy. Hỏi: Làm sao biết có đắc thối? Đáp: Do nói có hai loại A-la-hán. Đó là Thối pháp và bất thối pháp. Nếu nói thối đạo mà quả không thối là không đúng. Vì sao? Vì đoạn đắc hợp với đạo. Đắc là thuộc đạo đế, thế nên, đạo thối chẳng phải đoạn là không đúng. Nếu nói lìa thì hạt giống phiền não làm sao phát sinh? Nên nói như tâm vô lậu ban đầu, không có nhân trước mà sinh, đạo thối kia cũng như vậy. Lại nữa, vì có phần tự, phần nhân, nên từ nơi không có biên vực sinh tử, phần tự, phần nhân của phiền não sinh ra. Nói phiền não khởi ở ba chỗ là nói sai là không đúng. Vì sao? Vì phiền não khởi là có đầy đủ nên nói là chúng sinh khởi phiền não, phải có đủ ba nhân duyên, đó là: Sức nhân, sức cảnh giới và sức phương tiện. Sử của dục ái kia, chưa đoạn, chưa biết là sức của nhân (đoạn là vô ngại, biết là giải thoát). Triền của dục ái chấp pháp là sức của cảnh giới. Sự tư duy không đúng đắn là sức của phương tiện, là ý của thuyết kia. Nếu theo thuyết kia nói, sự tư duy bất chính, nghĩa là trước kia không có tư duy bất chính thì không khởi. Nếu tư duy bất chính trước kia có thì là không cùng. Lại nữa, tâm thiện, vô ký đã đến mức rốt ráo bất sinh. (Nếu sự tư duy bất chính cứ tiếp nối nhau không cùng thì những niệm khác sẽ không được sinh). Nếu bất sinh thì sự giải thoát cũng không có phần. Đốt cháy các phiền não, không sinh trở lại, như lửa đốt gỗ thành tro, đến cuối cùng, thì tro không còn là gỗ nữa. Cũng vậy, A-la-hán dùng lửa trí để đốt củi phiền não, không lẽ lại là phiền não. Sự bất ưng kia là như vậy. Vì sao? Vì thí dụ không đúng. Sao lại như đốt củi có tro? Nếu như vậy phiền não của A-la-hán có thừa như tro kia chăng? Nếu có thừa, thì không phải là A-la-hán, vì có phiền não. Nếu không có thừa phiền não thì chẳng giống như thí dụ trên. Nhưng chẳng phải Thánh đạo kia như lửa đốt củi. Thánh đạo chỉ bắt đầu khởi sự dứt trừ phiền não, là được giải thoát, được chứng quả. Nếu vị kia lìa Thánh đạo thì cũng xả bỏ giải thoát, bị trói buộc, còn khởi lại. Như các sự lui sụt là trái với kinh nói, nên biết vì nói bất thời giải thoát, nên nói vị đắc thối tức nói hai, nghĩa là nếu vị kia là vị đắc thối thì đó là Thanh văn, Bích-chi-Phật, chứ chẳng phải Phật, vì Phật đã an trụ tối thắng. Thanh văn không được căn cơ tối thắng của Bích-chi-Phật Phật. Bích-chi-Phật không được căn cơ tối thắng của Phật, cho nên mới có vị đắc thối. Nói lược là tất cả chúng sinh tu hành lẽ ra đều được tuệ nhãn của bậc Thánh. Nếu người không tu hành mà nhập danh sắc, đó là Vị đắc thối. Hỏi: Làm sao biết được có Vị đắc thối? Đáp: Vì tin tưởng lời Phật nói. Như Đức Thế Tôn nói: Chư thiên và người đời lui sụt trí tuệ, nghĩa là mê đắm danh sắc, không thấy Thánh đế, nói họï là tập hành thối. Ba Thánh đều cũng như vậy, nghĩa là nếu người tập hành thối, thì đó là ba Thánh: Thanh văn, Bích-chi-Phật và Như lai đều có, do các nhân duyên ở khoảng giữa mà công đức có được, không thể thường hiện ở trước mặt. Hỏi: Làm sao biết có tập hành thối? Đáp: Vì nói tâm, tâm pháp lui sụt. Đức Thế Tôn nói: Bốn thứ tâm, tâm pháp này, được trụ trong hiện pháp an lạc. Ta nói vị kia, mỗi mỗi lui sụt, như Tu-đa-la có nói rộng. Lại có thuyết nói: Ý bất động, thân giải thoát, chứng quả, thành tựu diệu dụng, những thứ đó là không lui sụt. Vì lý do này, nên biết, Đức Thế Tôn cũng có Tập hành thối. Cho nên nói: Đức Thế Tôn phần nhiều là diệu dụng vị chí, chẳng phải địa căn bản. Vì sao? Vì gần cõi Dục. Dù ý bất động, có giải thoát, có tập hành thối, nhưng vì người đã thành tựu tu đắc nên tất cả những thứ kia khi ở hiện tại, đều thường được chuyển theo. Tâm, tâm pháp của người là hiện tại tu, nghĩa là những gì không hiện ở trước đều gọi là thối. Tập hành thối nhiều nhất là Đức Thế Tôn. Vì sao? Vì công đức vô biên. Như vua Thánh Chuyển luân thọ nhận rộng cảnh giới. Lại nói, vì thâu nhiếp người khác, nên gọi là bất động, vì tự nhiếp nên gọi là tâm, tâm pháp. Đức Thế Tôn thường thâu nhiếp người, ít khi tự thâu nhiếp. Như vậy, Đức Thế Tôn là đấng Đại Bi, đại xả. Hỏi: Xứ nào không thối? Đáp: Chư thiên thì bất thối Quả thối không hề chết Cũng không tạo nghiệp ấy Trụ quả mà không làm. Chư thiên thì bất thối: nghĩa là các vị trời không lui sụt, vì trời căn cơ nhạy bén, vì trời là được quả. Người căn cơ bén nhạy thì không thối. Nếu người căn cơ chậm lụt mà được quả, sau đó sinh lên cõi trời cũng không thối. Vì vô sinh. Bậc Thánh vô sinh nên không thối. Việc này trước đây đã nói. Vì thối kia đều không có phần. Đức Thế Tôn nói năm thối đầy đủ, nhiều sự nghiệp. Vì năm thối pháp kia, trời không có cho nên không thối. Do trời không thối, nên biết thối phải ở trong loài người, vì thối đủ có thể được. Quả thối không hề chết, nghĩa là người có quả thối, không bao giờ chết, phải đắc quả lại. Vì sao? Vì sinh ở địa dưới, chẳng phải thường diệt, chẳng phải pháp thường diệt, không còn hiện ở trước, vì pháp bất sinh, vì đạo quyết định và quyết định rốt ráo đều thuộc về quả. Vì chỗ chết đi sống lại của đạo quả, nên người kia được sống lại. Lại vì quả xứ được tự khéo giữ gìn, vì vị trí của quả đủ ba nhân duyên và năm nhân duyên, như trước đã nói. Thối ba quả kia, chẳng phải là quả của Tu-đà-hoàn, vì kiến đạo dứt phiền não chẳng phải là sự đối trị. Thấy đạo dứt phiền não dựa vào chỗ ngã mà chuyển, không có ngã. Tu đạo dứt phiền não là đối sự, tu đạo dứt phiền não là xứ tịnh chuyển. Tu-đà-hoàn kia có tưởng tịnh và tướng bất tịnh. Họ tư duy các hành bất tịnh, họ tư duy tịnh được lìa dục. Đối với cái thấy bất tịnh thì lui sụt, tư duy không có pháp ngã, ngã sở. Đối với phi ngã thì thấy được thối. Lại nữa, quả Tu-đà-hoàn có phương tiện rộng, trước kia đã tu như là thí, giới, v.v… để hướng đến giải thoát, so sánh như vậy. Lại nữa, quả Tu-đà-hoàn do thấy đạo mà được, nên không có kiến đạo thối, vì đạo nhanh chóng, vì nhạy bén, vì đối trị Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Nếu quả A-la-hán, thối đến quả Tu-đà-hoàn, nên biết là thối ba quả. Vì đối trị phiền não được thành tựu, cũng không gây ra các nghiệp. Như A-la-hán kia đã trụ ở quả, nghĩa là nếu người được quả mà không làm, thì người của quả thối đó cũng không làm. Vì sao? Vì được luật nghi không tạo tác, vì Thánh đạo đã diệt trừ hành vi ác, như đã từng uống thuốc. Lại nữa, vì sự hy vọng đầy đủ, A-la-hán kia hy vọng ở quả diệt, vì đối trị hành vi ác. Hỏi: Ngang đâu thì gọi là Bồ-tát? Đáp: Nếu tu các tướng tốt Phương tiện khởi nghiệp kia Từ đó, càng tiến thêm Được gọi là Bồ-tát. Nếu có chúng sinh bố thí một bữa ăn, khởi tâm quyết định, phát tâm không sợ nói rằng: “Ta sẽ thành Phật, có thể khởi báo tướng, tăng trưởng nghiệp kia”, ngang đó gọi là Bồ-tát, vì có thể từ đấy sẽ tạo nghiệp tương tợ nối tiếp. Nếu không được như vậy là chỉ có danh hiệu suông”. Bồ-tát dù có khởi tâm bất thối ngay từ đầu, nhưng đó là Bồ-đề quyết định, chứ chẳng phải thú hướng quyết định (Thú nên nói là đến, đồng với từ ngữ thú hướng), nghĩa là tạo nghiệp báo của tướng rồi thì đều quyết định, cho nên được mang danh hiệu ngang đồng với nghiệp báo của tướng Phật, vì tướng của Phật lìa bốn nhân duyên, đó là lìa đường ác, lìa phi nam, lìa dòng họ thấp hèn, và lìa không căn đủ. Được một nhân duyên, là sinh ra, biết được túc mạng. Do sinh ra biết túc mạng, nên vừa nghe thì thọ trì, quyến thuộc tín thọ, lìa lỗi chúng sinh, vượt qua ba A-tăng-kỳ kiếp, gieo trồng nghiệp báo tướng trong trăm kiếp, trừ Đức Thích Ca Mâu Ni, vì Thích Ca Mâu Ni là Bồ-tát tinh tiến, trừ chín kiếp, còn lại chín mươi mốt kiếp. Có thuyết nói: Hai, ba A-tăng-kỳ, không phải là kiếp A-tăng-kỳ, nói A-tăng-kỳ kiếp sinh A-tăng-kỳ, và hành thiện A-tăng-kỳ. Hỏi: Nghiệp báo của tướng là những tính nào? Đáp: Thân nghiệp, khẩu nghiệp tăng thượng và ý nghiệp. Lại nữa, tính của tư tuệ này chẳng phải văn tuệ, vì yếu kém, cũng chẳng phải tu tuệ, vì cõi Dục không nhất định, là chủng loại của Diêm-phù-đề, chẳng phải phương nào khác, người nam chẳng phải người nữ, Đức Phật ra đời, chẳng phải không ra đời, thấy Phật chẳng phải không thấy Phật, là duyên tạo nghiệp, chẳng phải duyên khác. Có thuyết nói: Một nghó mong, gieo trồng nghiệp ba mươi hai tướng. Về sau, các thứ nghiệp viên mãn. Lại có thuyết nói: Một tâm định, một hành, một duyên phần nhiều là nghó mong hiện ở trước, có nguyện vọng dưới chân được quả trụ an bình, có nguyện cho đến nhục kế, mỗi tướng đó là quyến thuộc của trăm phước. Về số lượng phước, Có thuyết nói: Phước của một vua Thánh Chuyển luân, gọi là lượng của một phước. Lại nói: Phước của một Đế-thích. Có thuyết lại cho: Lúc kiếp thành, nghiệp của tất cả chúng sinh tăng thượng, khí thế giới phát sinh, đó gọi là lượng của phước. Có thuyết nói: Trừ Bồ-tát ở địa gần Phật, còn lại là các phước lạc tự tại của nghiệp chúng sinh, đó gọi là số lượng của một phước. Pháp vô học của Phật là Bồ-đề, gọi là trí tận, trí vô sinh. Tát-đỏa cầu trí này, nên gọi là Bồ-đề. Tát-đỏa được Bồ-đề này là giác ngộ tất cả pháp, nên gọi là Phật. Chỉ có nghiệp báo của tướng, về sau mới được ngôi vua Thánh Chuyển Luân, mà tướng của vua Thánh nên biết là nghiệp báo khác. Hỏi: Có bao nhiêu thứ Tát-bà-đa? Đáp: Một thứ phân biệt khác Có thuyết nói tướng khác Hoặc nói từng phần khác Hoặc lại nói dị khác. Bốn thứ Tát-bà-đa: Một thứ phân biệt khác, nghĩa là thuyết kia nói lúc các pháp tùy theo đời chuyển biến, là phần khác chẳng phải sự khác. Như sữa biến thành lạc, là bỏ chất béo của vị, chứ không bỏ màu sắc. Như món đồ bằng vàng bạc, hư rồi, làm lại món khác, là bỏ hình dáng, không bỏ màu sắc. Pháp từ vị lai đến hiện tại cũng như thế. Nên biết, đây là chuyển biến Tát-bà-đa. Khác tướng: nghĩa là pháp quá khứ kết hợp với tướng quá khứ, không lìa tướng vị lai, hiện tại. Như người đã mê đắm một sắc, thì chẳng phải không mê đắm sắc khác. Pháp quá khứ kia cũng như vậy. Thuyết này có lỗi, vì nếu các pháp của quá khứ, không lìa tướng vị lai, hiện tại thì rốt cuộc chúng sẽ t thành gì? Cũng thành nghĩa hợp. Nếu vậy thì đời rối loạn. Như người mê đắm một sắc, chỉ yêu đắm ở một sắc đó, cũng hoạt động cũng thành tựu, đối với thành tựu khác thì không hoạt động? Cho nên, thuyết kia nói đời rối loạn, thí dụ cũng trái nhau. Từng phần khác, là nói lúc các pháp, tùy theo thế gian chuyển biến, từng phần khác, chẳng phải sự khác. Đó là kiến lập thế gian không rối loạn. Vì sao? Vì nghiệp khác nhau, nghĩa là pháp chưa tạo nghiệp gọi là vị lai, pháp đang tạo nghiệp gọi là hiện tại, tạo nghiệp rồi gọi là quá khứ. Từng phần khác đó, nghĩa là các pháp được nói kia, tùy theo thế gian chuyển biến, trước sau đối đãi nhau, không phải việc khác, cũng chẳng phải phần khác. Như một cô gái, vừa gọi là con gái, vừa gọi là mẹ, vì thời gian trước sau đối đãi nhau, nghĩa là ngắm cô gái thì biết là mẹ, nhìn người mẹ thì biết là con. Đó là kiếp lập thế gian rối loạn, vì một sát-na của đời quá khứ, có ba đời mà nói là: Quán tướng khởi trước gọi là vị lai, quán tướng khởi sau, gọi là hiện tại. Hỏi: Các sư nói đế vô gián đẳng, mỗi đế đều khác. Tát-bà-đa và Bà-ta bộ nói đế vô gián đẳng theo thứ lớp. Đàm Vô Đức v.v…. nói một vô gián đẳng, vậy đâu là sự thật? Đáp: Nay sẽ dùng năm chi để nói như thật. Năm chi là Tông, nhân, dụ, hợp, kết và nghĩa sẽ nói qua kệ sau: Thứ đệ vô gián đẳng Đế trí vì tướng khác Thấy bình không thấy áo Thấy đế kia cũng vậy. Người tu hành trước hết là tu khổ vô gián đẳng, về sau mới đến đạo. Hỏi: Vì sao? Đáp: Vì tướng khác của đế trí. Trí của khổ, tập, diệt, đạo, mỗi trí đều có tướng khác, vì hành khác nhau. Nếu hành là khổ trí, thì hành này chẳng phải là trí khác. Nếu không như thế sẽ không có bốn trí được kiến lập, đế cũng có tướng khác. Nỗi bức bách kia là tướng khổ, sự sinh khởi là tướng tập, sự vắng lặng là tướng diệt, sự ra khỏi là tướng đạo. Chẳng phải trí không khác tướng khác, một vô gián đẳng của đế. Ví như lúc thấy chiếc bình, thì không thấy chiếc áo, vì tướng của bình và áo khác nhau. Vì tướng khác nhau, nên hễ thấy bình thì không thấy áo, thấy áo thì không thấy bình. Việc thấy đế kia cũng như vậy. Đối với tướng khác nhau của đế, lúc thấy khổ không thấy tướng nào khác, tất cả đều như vậy. Cho nên thứ lớp vô gián đẳng, nói là một vô gián đẳng, nghĩa là thuyết kia nói: Một vô gián đẳng đối với đế. Vì sao? Vì tin tưởng ở Thánh Hiền. Như Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo đối với khổ chẳng hoài nghi, tập cũng chẳng nghi, diệt, đạo cũng như thế. Như chiếc đèn, bốn việc đều có tác động: Bình đựng dầu nóng lên, tim cháy, dầu cạn, phá tan bóng tối. Một trí như vậy biết khổ, cho đến tu đạo. Thế nên là một vô gián đẳng. Thuyết ấy nói: Trí đế có tướng khác là không đúng, vì một tướng, tất cả tuệ, một trí tướng đối với cảnh giới của tất cả pháp, làm nên hành vô ngã. Đức Thế Tôn nói: Tất cả pháp là vô ngã, người trí tuệ có thể thấy. Người trí tuệ kia, lúc nhàm chán nỗi khổ, đấy tức là đạo thanh tịnh, về tướng đế, cũng nói như vậy. thí dụ bình, áo có tướng khác, điều này cũng không đúng. Vì sao? Vì vô gián đẳng không có phần của tự tướng và cảnh giới của cộng tướng. Vô gián đẳng chẳng phải tự tướng, đó là tướng hư hoại của năm ấm như sắc v.v… (tướng hư hoại tức là tướng vô thường). Cảnh giới chung là trí của một vô gián đẳng. Nếu khác là tự sinh lỗi lầm. Nói thứ lớp vô gián, nghĩa là ông nói là lời của Hiền Thánh, đó là mật ngữ. Thuyết này có nghĩa khác. Đức Thế Tôn nói: Nếu khổ thì không nghi thì đối với tất cả không nghi, vì hành vi nghi ngờ của người kia, cho nên nói. Nếu khổ kia sinh vô gián đẳng, thì nghi kia đều rốt ráo không hiện hành, vì chẳng phải thường diệt. Vì trừ có thuyết khác, nên Đức Thế Tôn nói trong Kinh Cấp Cô Độc thế này: “Trưởng giả đối với bốn Thánh đế theo thứ lớp không gián đoạn, nói rộng như vậy”. Như chiếc đèn đã nói, nghĩa là chiếc đèn có lỗi là nhiều tính chất, nhiều nghiệp dụng. Tôi không chấp nhận việc chiếc đèn, vì nếu khi phân biệt thì chiếc đèn đã bỏ tên của mình, như trước đã nói. Ánh sáng của đèn kia là thuộc sắc nhập, có công năng phá tan bóng tối, sức nóng của đèn kia thuộc xúc nhập, có thể làm việc khác. Nếu không như vậy thì hoại nghĩa quyết định. Tuệ thì không như vậy. Nếu nói là đồng thì có lỗi, còn nếu nói một tướng thì điều này cũng không đúng, vì hành khác nhau. Hành vô thường khác với trí. Khổ, không, vô ngã, v.v… hành trí cũng đều khác, theo như vậy mà so sánh. Nếu không như thế sẽ không có môn giải thoát. Hành không hư hoại là môn giải thoát (Lìa quán gọi là hoại, ba thoát khác quán nên không hoại). Như ông nói, duyên với tất cả pháp làm nên hành vô ngã, vì quán ngay tất cả pháp. Đó là phần tư duy không nhất định và tư duy định một phần, hành đều duyên riêng mỗi đế, do vậy, không nên nói, người tu hành kia lúc nhàm chán khổ, tức là đạo thanh tịnh. Vì không thể đem hành nhàm chán để duyên với diệt, đạo. Vì diệt đạo là việc đáng ưa chuộng. Tất cả duyên nghĩa là không chung tất cả, vì trái nhau, do hành vô ngã, không tức hành. Vì hành vô ngã này, vì tự tính không tự quán sát, cũng không có hai tính quyết định, cũng không quán tương ưng, vì cùng một hành, một duyên. Cũng không quán chung, có chung, vì một quả, một quyết định. Lại nói: Tất cả hành vô thường, nghĩa là cũng chẳng phải là hành vô thường, vì làm diệt vô gián đẳng. Diệt là thường, nên biết, hành đó cách xa chân đế. Như đã nói, quán chúng sinh này suốt đêm dài sinh tử, đã thành tựu những hành vi ác của thân, miệng, ý, nói chúng sinh này, tức là địa ngục và đường ác khác. Thật ra, chẳng phải người này, tức là địa ngục, vì hướng đến địa ngục, nên nói người đó cũng như vậy. Lại nữa, không vô gián đẳng này, chẳng phải là vô nguyện, vô tướng vì cảnh giới tất cả pháp kia không có, nên chớ nói là có lỗi. Thế nên, hành vô ngã của tất cả pháp, là sự suy nghó không nhất định. Sự suy nghó nhất định là duyên hữu lậu. Nếu không như vậy, là môn giải thoát giảm. Nếu nói tự tướng vô gián đẳng là không có, thì không đúng. Vì sao? Vì là quán. Tự tướng, cộng tướng này gọi là tướng bức bách, là tướng khổ. Vì quán ba đế là tự tướng, vì quán ấm là cộng tướng. Như vậy, tất cả phải biết, đều do quán nên nói là tự tướng, cộng tướng. Nói không như vậy là không đúng. Vì sao? Vì quán không hư hoại như trước đã nói. Thuyết trung ấm ở trước nói, về sau sẽ nói, thì nay nói. Hỏi: Có trung ấm hay không? Đáp: Nên biết có trung ấm Do Đức Thế Tôn nói Như con đường trong xóm Kia đều cùng đi qua. Đây nói có trung ấm. Vì sao? Vì do Đức Thế Tôn nói. Đức Thế Tôn nói: Đường của bảy só phu có trung bát Niết-bàn. Nếu không có trung ấm thì không có trung bát Niết-bàn. Nếu nói có thì trung yếu từ bát Niết-bàn kia, là không đúng, vì trong đường trời không có nói. Tu- đa-la của Đức Thế Tôn nói: Trời Tứ Thiên vương cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, đều không nói có trung yểu, ngoài ra cũng có lỗi, vì nếu nói sinh bát Niết-bàn thì còn có tên là sinh thiên chăng? Như vậy, tất cả A-na-hàm lẽ ra cũng có lỗi là nói như vậy. Thế nên, thuyết kia là thuyết vọng tưởng. Nếu nói trung gian mạng sống lâu là bát Niết-bàn thì không đúng, vì trừ châu Uất-đơn-việt và Bồ-tát ở biên sau, có nhiều chúng sinh không hết tuổi thọ mà đã chết, đó đều là trung bát Niết-bàn chăng? Cho nên, các giả thuyết này đều có lỗi. Hỏi: Việc này thế nào? Đáp: Ví như con đường trong xóm, nối liền từ một xã này đến một xã khác. Như vậy tử ấm sinh ấm, từ tử ấm hướng đến sinh ấm cũng như thế. Như kinh A-thấp-ba-la-diên nói: Nếu từ mỗi chỗ kia đến, nói rộng như thế. Nếu không có trung ấm thì sẽ không có việc tới lui, cho nên phải có trung ấm, nếu nói vì trừ Tu-đa-la là có thuyết khác. Đức Thế Tôn nói Tu-đa-la và kệ: “Năm tội Vô gián đã gây ra thì theo thứ lớp sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián”. Lại nữa, vì Phạm chí mà nói kệ:“Trẻ thành già, bệnh trôi dạt đến chỗ Diêm vương”. Phạm chí không có trụ xứ, cũng không có lương thực, cho nên không có trung ấm, là không đúng. Vì sao? Vì nghiệp của đường không gián đoạn, nên nói Tu-đa-la và kệ là nói: Tạo nghiệp vô gián rồi, thì trước phải chịu báo Vô gián, sau đó mới thọ nghiệp báo khác, cũng phải đọa vào đường địa ngục, không phải đường khác. Hỏi: Như ông giải thích, Đức Thế Tôn nói Tu-đa-la là tạo năm nghiệp vô gián rồi, theo thứ lớp đọa vào địa ngục, phải là năm nghiệp Vô gián mới đọa vào địa ngục hay chỉ hai, ba, bốn nghiệp? Hay còn tội khác đọa vào địa ngục? Đáp: Nên biết kinh này và ý bài kệ. Nếu nói như ảnh, nghĩa là mặt trăng rất xa, ảnh của trăng hiện dưới đáy nước, không phải là mặt trăng kia đi đến trong nước. Như vậy, tử ấm, sinh ấm cũng như ảnh, chúng sinh sinh đâu cần gì đến trung ấm. Điều này cũng không đúng. Vì sao? Vì những điều kia đều có lỗi. Mặt trăng và nước đi chung, tử ấm sinh ấm không đi chung, cho nên có lỗi, dưới chân nhãn thức là tay thân thức, cũng như vậy. Nếu trước kia đã nhận lấy sinh ấm mà bỏ tử ấm như chiết lâu trùng là không đúng. Vì sao? Vì đường không khác và hai thức kết hợp là có lỗi. Vì vậy, nên nói có trung ấm, như đã nói ở bốn thứ Tát-bà-đa. Hỏi: Là có tất cả hữu vi hay là không? Đáp: Nên biết tất cả hữu Chẳng có tất cả tướng Tất cả vô tất cả Không có pháp tướng khác. Hữu này là Tát-bà-đa lập ra. Tất cả là nói mười hai nhập, các nhập đó đều có tự tướng, không phải tướng nào khác, tất cả tướng đã tạo đều khác nhau, tạo nên nghiệp khác nhau, như trước đây đã nói. Tất cả vô tất cả, nghĩa là pháp hữu học trong pháp học, không có pháp vô học. Có pháp vô học trong pháp vô học, cũng không có pháp vô học, như trong hư không chẳng có dấu vết, cứ so sánh như vậy. Hỏi: Ở đây nói là có, vì sao nói không có? Đáp: Không có pháp của tướng khác, như tướng của mắt, là nhãn nhập, không có tướng nhập khác, vì khác nhau. Vì lý do ấy nên nói tất cả pháp đều không lẫn lộn. Tất cả thế gian có Không trái sự thích ứng Do Mâu-ni nói ra Tăng Thanh văn không Phật. Có ba đời Tát-bà-đa, đây là do Tát-bà-đa lập. Hỏi: Vì sao đời hiện tại là do quán quá khứ, vị lai mà lập ra? Đáp: Nếu không có quá khứ, vị lai thì sẽ không có đời hiện tại. Đời hiện tại đã không, thì cũng không có pháp hữu vi, cho nên có ba đời. Đừng nói có lỗi. Nếu nói thời gian lâu xa là quá khứ, sẽ có là vị lai thì chẳng phải là có, chỉ có hiện tại, điều này không đúng. Vì sao? Vì có nghiệp báo. Đức Thế Tôn nói có nghiệp, có báo, chẳng phải nghiệp báo này đều có trong hiện tại. Nếu nghiệp hiện tại, nên biết báo ở vị lai. Nếu chịu báo ở hiện tại, phải biết: Nghiệp đã có trong quá khứ. Nếu nói những lời thế tục thường nói: nghĩa là cũng nói tác giả là không thật có. Nếu cho những lời người thế tục thường nói là có nghiệp, có báo thì điều này cũng không đúng, vì Đức Thế Tôn cũng nói tác giả không thật có, đây cũng là lời của thế tục thường nói hay sao? Do miệng thần đã nói Tu-đa-la đệ nhất nghĩa không, mà ông vọng tưởng nói là ở đây có nên kia có, so sánh như vậy. Phải biết, như ông nói: Thời gian lâu xa là quá khứ, sẽ có là vị lai, thì chẳng phải là có, chỉ hiện tại là có. nghĩa là chớ nên nói, tôi cũng có thể nói, cái hiện tại đối với đã qua là vị lai, đối với sẽ có là quá khứ, thì điều này chẳng phải người trí nói. Như đã nói, nếu không có năm căn như tín v.v… ta nói là chúng phàm phu, nếu người hữu học còn bị phiền não ràng buộc, nên năm căn như Tín, v.v… không hiện ở trước, vì đạo và phiền não không đi chung, cho nên biết có quá khứ, vị lai. Nếu nói khác, thì bậc Thánh lẽ ra là phàm phu. Nếu nói, chứng đắc là tùy theo sinh thì điều này cũng không đúng, không có pháp chứng đắc, vì không có chỗ nương dựa. Thanh văn Tăng không có Phật: nghĩa là Phật không thuộc Tăng Thanh văn. Vì sao? Vì ba ngôi báu không giảm. Nếu Đức Thế Tôn thuộc về Thanh văn thì lẽ ra có hai ngôi báu, chẳng phải ba, vì Phật không có tự thể riêng. Quy y và trong sạch không hư hoại, niệm v.v… cũng như vậy, chớ nói có lỗi, thế nên, Phật không thuộc về Thanh văn tăng. Như Đức Thế Tôn nói Tu-đa-la của “Kiều-đàm-di. Bố thí tăng, cũng chính là cúng dường ta”. Nên biết là nói Tỳ-kheo Tăng, Thánh Tăng, ruộng phước Tăng, Đức Thế Tôn thuộc về ba tăng đó, vì đã phá phiền não, vì là Thánh, vì là ruộng phước đệ nhất nghĩa, chẳng phải Thanh văn Tăng tự giác. Nếu khiến chương cú rộng Chúng sinh rất sợ hãi Tướng sâu không gì hơn Nay ta chỉ nói lược. Nếu nói rộng thì chúng sinh sẽ cảm thấy sợ hãi, nên hôm nay, con không nói rộng. Về các câu trong mỗi chương thật sâu xa. A-tỳ-đàm sáng suốt, thanh tịnh, trí tuệ đã am hiểu. Đối với nghĩa nhiệm mầu, âm thanh của các luận ở đây chỉ nói lược. Các Đại sư thuở xưa Giảng nói vô lượng nghĩa Nay con theo chỗ hiểu Phân biệt nói ít phần. Đối với pháp, Tôn giả Pháp Thắng đã nói, nay tôi xin dùng chút ít trí tuệ để suy nghó so lường gom góp, để tạo lập chương cú, tường thuật lại để giúp tuyên dương giáo pháp của Phật, chẳng phải muốn kiêu mạn, hay cầu được tiếng khen. Như Tôn giả Pháp Thắng đã nói: Nếu sinh các phiền não là Thánh nói, thì đạo hữu lậu diệt, cũng sinh phiền não, mà chẳng thêm hữu lậu, vì phiền não không có. Vô lậu duyên phiền não, chỉ có bớt mà không thêm, như trước đã nói, cho nên tôi nói là thêm. Vô lậu duyên hạ trung thượng không thêm, là không đúng, vì dựa vào thêm. Quyết định biết luận này Chương cú nghĩa mầu nhiệm Đối chúng trí tuệ kia Mạnh mẽ không hề sợ. Đối với nghĩa vị chương, cú của luận này, người trí khéo phân biệt nói, nghĩa là không có tâm khiếp sợ ở trong các chúng trí tuệ, vì khéo hiểu pháp tướng. Nay tôi luận tăng ích Tâm tôi không ham gì Khiến người trí ưa thích Chóng được vui Niết-bàn. Kinh này là nói theo nghĩa rất lược mà sâu rộng, khó có thể thọ trì, như luận về hư không khó có thể biết rõ như trước đã nói, cho nên, bổn luận tăng ích tùy thuận nghĩa của Tu-đa-la, giúp cho chúng ta được hiểu rõ một cách dễ dàng, vì biết nghĩa thì phiền não dứt. -------------------------- <詞>Phẩm 11: LUẬN Đã nói xong phẩm Trạch, nay sẽ nói lược các luận, khiến cho người trí ưa thích. Lìa luật không luật nghi Mà được ở luật nghi Không do kia vượt hơn Người năng quyết định nói. Đáp: Có. Đó là lúc từ cõi Vô Sắc mất, sinh cõi Sắc. Phàm phu ở cõi Vô Sắc, gọi là phi luật nghi, phi bất luật nghi, vì luật nghi thiện ác không có ở cõi Vô Sắc. Lúc từ cõi Vô Sắc kia chết, sinh cõi Sắc thì được luật nghi thiện, vì luật nghi cõi Sắc, đều có chung với tâm, chẳng phải thắng tiến, vì cõi Vô Sắc là cõi thù thắng. Từng được quả Sa-môn Hiền Thánh lìa các lỗi Được pháp thiện hữu vi Không gọi là tu tập. Đáp: Có, đó là Thánh đạo thuộc về quả diệt rồi về sau mới thối. Căn không tiến thêm mà lại được. Căn đó, trước kia thuộc về quả quá khứ, vì đạo trước diệt tiên nên chẳng phải tu, vì nhân của hiện tại không có. Lìa các lỗi: nghĩa là vì chẳng phải thế tục, Hữu vi là chẳng phải vô vi. Thiện nghĩa là vì không phải bất thiện, vô ký. Lúc đạo chưa hưng khởi Xa lìa các lỗi lầm Lúc giải thoát lìa ác Người năng quyết định nói. Đáp: Có, đó là người tu hành trụ Tam-muội Kim Cương, trừ tận trí đầu tiên và các pháp vô học khác, là lúc chưa khởi, vì không hướng đến. Lúc giải thoát: Là khi tất cả đạo vô học giải thoát ngay, thì tận trí đầu tiên phát sinh, lúc phát sinh này là lúc giải thoát. Lìa các lỗi ác: nghĩa là vì chẳng phải hữu lậu. Lại Triền Quang Âm khởi Là tương ưng định kia Sơ thiền thanh tịnh thối Mà được ở thối pháp. Đáp: Có, đó là lúc A-la-hán lui sụt triền đệ Nhị thiền, tận trí đã được, sự lui sụt của Sơ thiền được kết hợp với tận trí. Có lui sụt sự huân tu, vì Sơ thiền kết hợp với đệ Tứ thiền. A-na-hàm cũng vậy. Nói tịnh, nghĩa là làm sáng tỏ chỗ thối, vì chẳng phải vô học. Lại ở đạo kiến đế Được các pháp thiện kia Pháp đó là có duyên Thánh trí không thấy duyên. Đáp: Có nghĩa là đi chung với khổ tỷ trí, đẳng trí của cõi Dục, với khổ tỷ trí đều cùng chung khổ vô gián đẳng v.v… biên tu, cũng không thấy trí kia duyên, vì trí đó duyên cõi Dục, mà khổ tỷ trí không duyên cõi Dục. Tập, diệt vô gián đẳng biên cũng như vậy. Đạo tỷ nhẫn được duyên với trí của ba đế mà không quán đế đó vì trụ cảnh giới khác. Như trụ pháp học được pháp vô học, được pháp vô học chẳng phải pháp học. Như thế, từ phẩm Pháp trí đến phẩm Tỷ trí, phẩm Tỷ trí lại đến phẩm Pháp trí. Về quả tuệ hữu lậu Tuệ vô lậu đã dứt Quả kia do nhân khởi Là tuệ không lìa dục. Đáp: Có. Đó là bậc Thánh lìa dục cõi Dục, chưa lìa dục của Sơ thiền. Tâm biến hóa của quả Sơ thiền ở cõi Dục đã lìa dục, vì ái của cõi Dục đã hết. Tuệ của Sơ thiền chưa lìa dục, vì ái của thiền đó chưa hết, tất cả tâm biến hóa cũng vậy, theo nghĩa đó, trừ quả của địa mình. Lại trụ đạo vô ngại Mà được ở các diệt Phiền não trái nhau này Chẳng phải kiến vô lậu. Đáp: Có. Đó là lúc phàm phu tu thần thông. Đạo vô ngại dứt, phiền não, trái với thần thông mà được các diệt, chẳng phải trái với kiến vô lậu. Vì sao? Vì lúc bậc Thánh lìa dục thì pháp nhẫn được hiện ở trước, vì đắc nhẫn trái với phiền não diệt. Lại các phiền não diệt Người lìa dục đạt được Không dứt các phiền não Mà được sạch không nhơ. Đáp: Có, đó là lúc địa trên chết, sinh Phạm thiên, được phiền não cõi Dục diệt mà không dứt phiền não đó, vì trước đã dứt rồi. Tất cả địa khác cũng như vậy. Địa thanh tịnh không nhơ Chưa từng được mà được Chẳng lìa dục, chẳng thối Không dựa vào kiến đạo. Đáp: Có. Đó là Sơ thiền lìa dục, dựa vào Sơ thiền và quyến thuộc vượt lên ly sinh. Đạo tỷ trí phát sinh, thành tựu quả A-na-hàm của ba địa. Xuất định đó, nhập đệ Nhị thiền, đạt được vô lậu của đệ Nhị thiền. Lúc được vô lậu của thiền đó, chẳng lìa dục, vì trước đã lìa dục, chẳng phải thối vì tinh tiến vượt hơn, chẳng phải kiến đạo, vì thấy đạo rốt ráo. Nên biết địa trên và các căn tăng ích cũng đều như vậy. Là được chưa từng được Mà đạt được vắng lặng, Không xả kia không được Như bâïc Năng tri nói. Đáp: Có. Đó là trừ quyến thuộc khổ pháp mà nhẫn và được, được đạo vô lậu khác, xả vô lậu ban đầu kia. tính của tất cả phàm phu đều không được, những cái khác không xả, vì trước kia đã xả. Nếu thành tựu tám nhẫn Cũng thành tựu bảy trí Các kiến vô lậu này Không thấy vô lậu nào. Đáp: Có. Đó là nói người này trụ đạo tỷ nhẫn, thành tựu tất cả tuệ của kiến đạo, kiến tất cả diệt, tất cả đạo chỉ trừ, quyến thuộc của đạo tỷ nhẫn. Nhẫn kia không thấy tự tính, vì không tự quán sát, không có hai tính, cũng không thấy tương ưng với một hành, một duyên, không thấy có chung một quả, một quyết định. Lại pháp chưa từng được Cảnh giới bên hữu lậu Chỉ có người bất động Năng kích động pháp thiện. Đáp: Có. Đó là nói vô tướng của vô tướng, đối với sự sinh tử vô cùng cực chưa từng được mà được. Vì Thánh đạo vắng lặng, nên nói duyên hữu lậu, chẳng phải thường diệt, nên nói cảnh giới biên, ngoài ra không có, nên nói chỉ có bất động, vì Thánh đạo vắng lặng, nên nói kích động pháp thiện. Đã khởi tuệ vô lậu Người chưa khởi tuệ đó Đời trước, chẳng nhân sau Như bâïc Năng tri nói. Đáp: Có. Đó là sự thêm trước, chẳng phải nhân kém ở sau, vì quả kia tương tợ và thêm. Lại lìa dục sáu địa Thánh cũng đắc quả kia Không được thiền vô lậu Như bâïc Năng tri nói. Đáp: Có. Đó là không xứ lìa dục, dựa vào thiền vị chí, vượt lên ly sinh. Khổ, pháp nhẫn sinh, đạo tỷ trí chưa sinh, vì tám mươi chín quả Sa- môn, nên nói là thành tựu quả của địa kia, vì khổ pháp trí là khổ pháp nhẫn nơi quả dựa và quả công dụng. Phiền não do thấy khổ dứt hết, thấy khổ dứt phiền não, là quả giải thoát và quả công dụng, mà không thành tựu thiền vô lậu, vì chưa được. Lại các pháp vô lậu Mà vì thuộc về quả Người năng sinh pháp kia Không nhập vào cõi đó. Đáp: Có, đó là giới vô lậu, thuộc về cõi vô lậu kia, chẳng thuộc hữu lậu. Giới là do bốn đại tạo nên, vì quả của bốn đại đó. Bốn đại thuộc về giới xúc, vì là cảnh giới của thân thức. Có một đại chủng diệt Ở địa thiền không khởi Hai đại chủng ở trước Như bâïc Năng Tri nói. Đáp: Có. Đó là nói bậc Thánh sinh ở Sơ thiền vô lậu cõi Dục, theo thứ lớp Sơ thiền hữu lậu hiện ở trước. Một chủng bốn đại diệt, đó là bốn đại cõi Dục, do vô lậu chuyển biến theo. Vì nếu sự sinh ở cõi Dục kia, được hiện ở trước, tức là bốn đại tạo địa cõi Dục đó. Hai thứ bốn đại hiện ở trước, nghĩa là cõi Dục và bốn đại của địa Sơ thiền. (Giới chung của đạo, gọi là vô lậu chuyển biến theo. Nếu sinh ở cõi Dục kia, tức là bốn đại tạo cõi Dục đó, nên bốn đại này, đều có sự khởi diệt với vô lậu). Về ba đạo nhân pháp Là ba thứ lớp tính Nói ba thứ một địa Cũng lại ở ba địa. Đáp: Có, đó là tuệ vô học, dùng kiến đạo, tu đạo, đạo vô học kia làm nhân. Trí tận, trí vô sinh, đẳng kiến vô học là tự tính. Vì phần hạ trung, thượng khác nhau, nên nói là ba thứ, vì thuộc về địa vô học nên nói là một địa, có giác có quán đều phân biệt, nên ở ba địa. Từng có hữu lậu thọ Hai thành, một không thành Hai căn, hai thứ thành Đây nói là thân chứng. Đáp: Có, đó là người thân chứng, căn cứ vào Sơ thiền, quyến thuộc của Sơ thiền và căn cơ thắng tiến của đệ Nhị thiền. Địa trên chẳng hiện ở trước, thành tựu khổ căn, lạc căn hữu lậu. Người này trước đây đã được lạc căn vô lậu của địa đệ Tam thiền. Vì chuyển căn, nên xả rồi chưa được trở lại, vì dựa vào căn thắng tiến của địa dưới nên không tu đạo học của địa trên. Như được một ưu căn của quả Học không thành tựu, vì lìa dục. Hỷ căn, xả căn, mỗi căn đều có hai thứ, nghĩa là hữu lậu, vô lậu khởi đều thành tựu, do xả căn thuộc về thiền Vị chí, thiền trung gian, cho nên được xả căn. Hỷ căn thuộc Sơ thiền, Nhị thiền, cho nên được hỷ căn. Phiền não Cửu địa diệt Mà được ở các thiền Không được định Vô Sắc Hoặc lại được sẽ nói. Đáp: Có, đó là A-la-hán có thể được thiền định, chẳng phải Vô Sắc. Các thiền cũng được, cũng hiện ở trước. Người ở cõi Vô Sắc thành tựu mà không hành. Một pháp có nhiều tính Hoặc một, ba, có không Đó là pháp Vô học Sức nhân đã nuôi lớn. Đáp: Có, đó là vô tri căn, vì kiến lập một căn nên nói là một, vì chín căn hòa hợp nên nói là nhiều tính. Do nhiều tính nên nói chẳng phải một. Vì một địa vô học, nên nói một địa, vì giác quán phân biệt nên nói là ba địa. Có: Là có danh. Vô: Là không có việc khác, vì Vô học đắc, nên nói là pháp Vô học, vì ba nhân thành lập, nên nói là nhân nuôi lớn. Về pháp là có phần Cùng kia có phần khác Sinh, trụ, hoại giống nhau Như bâïc Năng Tri nói. Đáp: Có, đó là sắc nhập thì có phần khác. Tướng sắc kia và nhập đều có sinh, trụ, diệt vì chung một quả. Sắc nhập, nghĩa là vì không tạo nghiệp nên nói là có phần khác. Tướng sắc kia, nghĩa là vì thuộc pháp nhập, nên là có nhập. Về các pháp tương ưng Hoặc nói có phần khác Hoặc lại nói có phần Như bậc Năng tri nói. Đáp: Có, đó là pháp bất sinh ở vị lai, ý nhập là có phần khác, vì không tạo nghiệp, tâm pháp khác là có phần, vì thuộc về pháp nhập. Về hai A-na-hàm Sinh chung ở một địa Pháp thứ nhất hoặc thành Cùng được một quả địa. Đáp: Có, đó là một A-na-hàm, dựa vào đệ Nhị thiền, vượt lên ly sinh. A-na-hàm thứ hai dựa vào đệ Tam thiền. A-na-hàm kia chết, đều sinh đệ Tam thiền. Người A-na-hàm kia dựa vào đệ Nhị thiền, vượt lên ly sinh, là vì thiền tăng tiến, bỏ pháp đệ nhất thế gian, tức là dựa vào đệ Tam thiền, nghĩa là thành tựu, không bỏ, các địa trên cũng như vậy. Được một quả địa, đó là thiền vô giác, vô quán. Từng có pháp bất động Đều thọ ở một hữu Một thành tựu chín địa Thiện hữu lậu, một vô. Đáp: Có. nghĩa là một lần sinh cõi Dục, một lần sinh Sơ thiền. Lần sinh cõi Dục, có chín địa, thành tựu pháp hữu lậu. Lần sinh Sơ thiền, có tám địa trừ địa cõi Dục. Tăng và xả, đều thọ một hữu, nên nói là một hữu. Hữu lậu: nghĩa là do vô lậu sinh lên địa trên, thành tựu địa dưới, nên nói là hữu lậu. Từng trụ một sát-na Được, xả ba môn thoát Hoặc lại xả cả hai Một xả lại còn được. Đáp: Có, đó là người sinh cõi Vô Sắc, sẽ được A-la-hán, trụ Tam- muội Kim Cương, được ba môn giải thoát vô học, xả ba môn giải thoát của học, xả định diệt thọ tưởng và Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, xả tất cả phần thối, được tất cả phần thắng tiến. (Vì trong một niệm vừa xả vừa được, nên nói là một niệm. Định diệt thọ tưởng và phi tưởng được đoạn trị. Nói xả hai là xả thối và được, vì thắng tiến nên xả một, được một). Từng thành quả Sa-môn Thành tựu Thánh, phi Thánh Mà không được dứt biết Như bậc Năng tri nói. Đáp: Có, đó là vô gián đẳng, khổ trí sinh, tập trí chưa sinh. Bấy giờ, ở tám mươi chín phần quả Sa-môn thì thành tựu, ở bốn quả Sa-môn thì không thành tựu, cũng không được dứt biết. Độ biển vô thắng kia Sức kém, không kham được Nay con theo khả năng Nói rộng nghĩa sâu xa. Người nghèo cùng thế gian Có thể được giàu có Kẻ ngu không như vậy Cần phương tiện to lớn. Báu thế gian dễ được Báu tuệ thật khó được Cho nên phải siêng học Dần nhập trí sâu xa. Hiểu đúng đường Niết-bàn Lầm nẻo tà sinh tử Tuệ xua tan tối si Như mặt trời trừ tối Vì mong cầu giải thoát Phải siêng tu trí tuệ. Bài kệ trang nghiêm A-tỳ-đàm của Tỳ-kheo Tát-bà-đa là mong sao tất cả chúng sinh, trí tuệ ngày càng thêm, mau được giải thoát.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 98