<經 id="n1544">LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHÁT TRÍ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1544 LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHÁT TRÍ Tác giả: Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử. Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng <卷>QUYỂN 1 <章>Chương 1: TẠP UẨN <詞>Phẩm 1: BÀN VỀ PHÁP THẾ ĐỆ NHẤT Pháp thế đệ nhất cùng bảy loại, Đảnh có hai-Noãn và thân kiến, Mười một kiến thâu nhiếp-đoạn trừ, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Thế nào là pháp Thế đệ nhất? Đáp: Nếu tâm-tâm sở pháp là đẳng vô gián, nhập chính tính ly sinh, thì đó gọi là pháp Thế đệ nhất. Có thuyết nói: Nếu năm căn là đẳng vô gián, nhập chính tính ly sinh, thì đó gọi là pháp Thế đệ nhất. Ở trong nghĩa này, nếu tâm-tâm sở pháp là đẳng vô gián, nhập chính tính ly sinh thì gọi là pháp Thế đệ nhất. Hỏi: Tại sao gọi là pháp Thế đệ nhất? Đáp: Tâm-tâm sở pháp như thế, đối với pháp thế gian khác, là tốt đẹp nhất, là cao quý nhất, là tuyệt vời nhất, cho nên gọi là pháp Thế đệ nhất. Lại nữa, tâm-tâm sở pháp như thế, là đẳng vô gián, bỏ tính phàm phu được tính Thánh, bỏ tính tà, được tính chính, có năng lực nhập chính tính ly sinh, cho nên gọi là pháp Thế đệ nhất. Hỏi: Pháp Thế đệ nhất nên nói là hệ thuộc cõi Dục, hệ thuộc cõi Sắc, hay hệ thuộc cõi Vô sắc? Đáp: Nên nói là hệ thuộc cõi Sắc. Vì sao pháp này không nên nói là hệ thuộc cõi Dục? Bởi vì không phải đạo của cõi Dục, để có thể đoạn trừ cái (Những thứ ngăn che), chế ngự triền (Những thứ ràng buộc), khiến cho triền cái cõi Dục không còn hiện khởi, mà chính là đạo của cõi Sắc có thể đoạn trừ cái, chế ngự triền, khiến cho triền cõi Dục không còn hiện khởi. Nếu dùng đạo cõi Dục, có thể đoạn trừ cái, chế ngự triền, thì trước mắt triền cõi Dục không còn hiện khởi. Như vậy, pháp Thế đệ nhất nên nói là hệ thuộc cõi Dục, nhưng không phải là đạo nơi cõi Dục có khả năng đoạn trừ cái, chế ngự triền, khiến cho triền cõi Dục không hiện khởi, mà chính là đạo của cõi Sắc có năng lực đoạn trừ cái, chế ngự triền, khiến cho triền cõi Dục không còn hiện khởi, vì vậy pháp Thế đệ nhất không nên nói là hệ thuộc cõi Dục. Vì sao pháp này không nên nói là hệ thuộc cõi Vô sắc? Bởi vì nhập chính tính ly sinh, trước tiên hiện quán khổ của cõi Dục là khổ, sau đó kết hợp hiện quán nỗi khổ của cõi Sắc-Vô sắc là khổ thánh đạo dấy khởi. Trước là biện minh về sự của cõi Dục, sau kết hợp biện minh về sự của cõi Sắc-Vô sắc. Nếu nhập chính tính ly sinh, thì trước hết hiện quán khổ của cõi Vô sắc là khổ, sau kết hợp hiện quán khổ của cõi Dục-cõi Sắc là khổ thánh đạo dấy khởi. Trước là biện minh về sự của cõi Vô sắc, sau kết hợp biện minh về sự của cõi Dục-Sắc. Như vậy, pháp Thế đệ nhất cho nên nói là hệ thuộc cõi Vô sắc. Tuy nhiên, nhập chính tính ly sinh, trước là hiện quán khổ của cõi Dục là khổ, sau hợp lại hiện quán khổ của cõi Sắc-Vô sắc là khổ thánh đạo dấy khởi. Trước là biện minh về sự của cõi Dục, sau hợp lại biện minh về sự của cõi Sắc-Vô sắc. Vì vậy pháp Thế đệ nhất không nên nói là hệ thuộc cõi Vô sắc. Lại nữa, nhập định vô sắc, trừ bỏ tưởng sắc, không loại trừ tưởng sắc mà có thể biết cõi Dục; nếu duyên pháp này, dấy khởi khổ pháp trí nhẫn, thì duyên pháp này dấy khởi pháp Thế đệ nhất. Hỏi: Pháp Thế đệ nhất nên nói là có tầm-có tứ, không có tầm-chỉ có tứ, không có tầm-không có tứ chăng? Đáp: Nên nói hoặc có tầm-có tứ; hoặc không có tầm-chỉ chỉ có tứ, hoặc không có tầm-không có tứ. Thế nào là có tầm-có tứ? Nếu dựa vào Tam-ma-địa có tầm-có tứ, nhập chính tính ly sinh, thì lúc ấy đạt được pháp Thế đệ nhất. Thế nào là không có tầm-chỉ có tứ? Nếu dựa vào Tam-ma-địa không có tầm-chỉ có tứ, nhập chính tính ly sinh, thì lúc ấy đạt được pháp Thế đệ nhất. Thế nào là không có tầm-không có tứ? Nếu dựa vào Tam-ma-địa không có tầm-không có tứ, nhập chính tính ly sinh, thì lúc ấy đạt được pháp Thế đệ nhất. Hỏi: Pháp Thế đệ nhất cho nên nói tương là ưng với lạc căn, tương ưng với hỷ căn, hay tương ưng với xả căn? Đáp: Cho nên nói hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ căn, hoặc tương ưng với xả căn. Thế nào là tương ưng với lạc căn? Nếu dựa vào tónh lự thứ ba, nhập chính tính ly sinh, thì lúc ấy đạt được pháp Thế đệ nhất. Thế nào là tương ưng với hỷ căn? Nếu dựa vào tónh lự sơ, nhị, nhập chính tính ly sinh, thì lúc ấy đạt được pháp Thế đệ nhất. Thế nào là tương ưng với xả căn? Nếu dựa vào tónh lự thứ tư, nhập chính tính ly sinh, thì lúc ấy đạt được pháp Thế đệ nhất. Hỏi: Pháp Thế đệ nhất cho nên nói là một tâm hay nhiều tâm? Đáp: Cho nên nói là một tâm. Vì sao pháp này không phải là nhiều tâm? Từ tâm-tâm sở pháp này, liên tục không khởi tâm thế gian nào khác, chỉ có khởi tâm xuất thế. Nếu lúc ấy khởi tâm thế gian khác thì đó là thua kém, là bằng nhau, hay là hơn hẳn? Nếu tâm đang thua kém, thì lúc ấy không thể nào nhập chính tính ly sinh. Vì sao? Vì không phải dùng đạo lui sụt mà có thể nhập chính tính ly sinh. Nếu tâm đang bằng nhau, thì cũng không thể nhập chính tính ly sinh. Vì sao? Vì trước kia đã dùng đạo loại này, cho nên không thể nào nhập chính tính ly sinh. Nếu tâm đang hơn hẳn, thì trước tiên không phải là pháp Thế đệ nhất, sau mới là pháp Thế đệ nhất. Hỏi: Pháp Thế đệ nhất cho nên nói lui sụt hay không lui sụt? Đáp: Nên nói là không lui sụt. Vì sao pháp này nhất định không lui sụt? Bởi vì pháp Thế đệ nhất là tùy thuận đế, hướng tới đế, sắp nhập đế, ở giữa nơi này nơi kia không cho phép có thể dấy khởi tâm không tương tự, khiến cho không thể nào nhập hiện quán Thánh đế. Ví như tráng só lội qua sông, vượt qua hang, vượt qua núi, băng qua vách núi, trung gian không có thể quay trở lại, thân tráng só kia trở về đến chỗ cũ, hoặc đi tới chỗ khác, trước đã phát khởi mạnh mẽ, thân đi chưa đến chỗ hướng tới, thì nhất định không dừng lại. Pháp Thế đệ nhất cũng lại như thế, tùy thuận đế, hướng tới đế, sắp nhập đế, ở giữa nơi này nơi kia không cho phép có thể dấy khởi tâm không tương tự, khiến cho không thể nào nhập hiện quán Thánh đế. Như châu Thiệm-bộ có năm dòng sông lớn: Căng-già. (Sông Hằng) Diêm-mẫu-na. Tát-lạc-du. A-thị-la-phiệt-để. Mạc-hê. Năm con sông như thế, xuôi dòng về biển cả, hướng đến biển cả, sắp hòa vào biển cả, trong giai đoạn ấy không có năng lực nào xoay chuyển, dòng chảy kia trở về đến chỗ cũ, hoặc hướng đến chỗ khác, dòng chảy ấy quyết định luôn luôn chảy hòa vào biển cả. Pháp Thế đệ nhất cũng lại như thế, tùy thuận đế, hướng tới đế, sắp nhập đế, ở giữa nơi này nơi kia không cho phép có thể dấy khởi tâm không tương tự, khiến cho không thể nào nhập hiện quán Thánh đế. Lại nữa, pháp Thế đệ nhất cùng với khổ pháp trí nhẫn, làm thành Đẳng vô gián duyên, không có một pháp nào nhanh chóng quay lại, vượt qua tâm, để có thể vào lúc bấy giờ có năng lực làm chướng ngại, khiến cho không thể nào nhập hiện quán Thánh đế. Vì vậy pháp này nhất định không lui sụt. Hỏi: Thế nào là Đảnh? Đáp: Đối với Phật-Pháp-Tăng, sinh niềm tin nhỏ bé, như Đức Thế Tôn đã vì Ma Ba La Diễn Noa Ma Nạp Bà mà thuyết kệ: Nếu như đối với Phật-Pháp-Tăng, Sinh khởi niềm tin dù nhỏ bé, Cần phải biết rằng Nho đồng ấy, Gọi là đã đạt được pháp Đảnh. Hỏi: Thế nào là Đảnh đọa? Đáp: Như có một loại thân cận bậc thiện só (Thiện tri thức), lắng nghe chính pháp, tác ý như lý, tin pháp Bồ-đề của Phật, là Tăng khéo giảng nói, tu diệu hạnh, sắc vô thường, thọ-tưởng-hành-thức vô thường, khéo thiết lập khổ đế, khéo thiết lập tập-diệt-đạo đế. Người ấy, ở vào lúc khác, không thân cận bậc thiện só, không lắng nghe chính pháp, tác ý không như lý, đối với mình có được niềm tin thế tục, mà lui sụt, hủy hoại, chuyển đổi mất đi, cho nên gọi là Đảnh đọa. Như Phật, liền vì Ba La Diễn Noa Ma Nạp Bà mà thuyết kệ: Nếu người đối với pháp như vậy, Mà lui sụt mất đi ba pháp, Ta nói rằng những loại như thế, Nên biết tên gọi là Đảnh đọa. Hỏi: Thế nào là Noãn? Đáp: Nếu ở trong Tỳ-nại-da chính pháp, có một chút tín thọ, như Đức Thế Tôn đã vì hai Bí-sô Mã Sư-Tỉnh Tú mà nói: Hai người ngu này xa rời chính pháp và Tỳ-nại-da của Ta. Ví như đại địa cách xa hư không, hai người ngu này ở trong Tỳ-nại-da chính pháp của Ta, không có phần ít pháp Noãn nào. Hỏi: Hai mươi câu về Tát-ca-da-kiến này, có bao nhiêu là ngã kiến, bao nhiêu là ngã sở kiến? Đáp: Có năm ngã kiến: Đẳng tùy quán sắc là ngã, thọ-tưởng- hành-thức là ngã. Mười lăm ngã sở kiến: Đẳng tùy quán ngã có sắc, sắc là ngã sở, ngã ở trong sắc. Ngã có thọ-tưởng-hành-thức; thọ-tưởng-hành-thức là ngã sở, ngã ở trong thọ, tưởng, hành thức. Hỏi: Nếu như không phải thường mà thấy là thường thì đối với năm kiến, thuộc về kiến nào? Do kiến nào đoạn? Đáp: Biên chấp kiến thuộc về thường kiến, do kiến khổ mà đoạn. Hỏi: Nếu như thường mà thấy không phải là thường thì đối với năm kiến thuộc về kiến nào? Do kiến nào đoạn? Đáp: Thuộc về tà kiến, do kiến diệt đoạn trừ. Hỏi: Nếu như thấy khổ-vui thì đối với năm kiến thuộc về kiến nào? Do kiến nào đoạn? Đáp: Lấy pháp kém cho là hơn, thuộc về kiến thủ, do kiến khổ đoạn trừ. Hỏi: Nếu như thấy vui-khổ thì đối với năm kiến, thuộc về kiến nào, do kiến nào đoạn? Đáp: Thuộc về tà kiến, do kiến diệt đoạn trừ. Hỏi: Nếu như bất tịnh mà thấy là tịnh thì đối với năm kiến, thuộc về kiến nào? Do kiến nào đoạn? Đáp: Lấy pháp kém cho là hơn, thuộc về kiến thủ, do kiến khổ đoạn trừ. Hỏi: Nếu như tịnh mà thấy là bất tịnh thì đối với năm kiến, thuộc về kiến nào, do kiến nào đoạn? Đáp: Thuộc về tà kiến. Kiến này có hai loại: Nếu cho diệt là bất tịnh thì do kiến diệt mà đoạn, nếu cho đạo là bất tịnh, thì do kiến đạo mà đoạn. Hỏi: Nếu như không có ngã mà thấy có ngã thì đối với năm kiến, thuộc về kiến nào? Do kiến nào đoạn? Đáp: Thuộc về hữu thân kiến, do kiến khổ đoạn trừ. Hỏi: Nếu như không phải nhân mà thấy là nhân thì đối với năm kiến, thuộc về kiến nào? Do kiến nào đoạn? Đáp: Không phải nhân mà nói là nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ đoạn trừ. Hỏi: Nếu như là nhân mà thấy không phải nhân thì đối với năm kiến thuộc về kiến nào? Do kiến nào đoạn? Đáp: Thuộc về tà kiến, do kiến tập đoạn trừ. Hỏi: Nếu như có mà thấy là không có thì đối với năm kiến, thuộc về kiến nào? Do kiến nào đoạn? Đáp: Thuộc về tà kiến. Kiến này có bốn loại: Nếu nói là không có khổ, thì do kiến khổ đoạn trừ. Nếu nói là không có tập, thì do kiến tập đoạn trừ. Nếu nói là không có diệt, thì do kiến diệt đoạn trừ. Nếu nói là không có đạo, thì do kiến đạo đoạn trừ. Hỏi: Nếu như không có mà thấy có thì đối với năm kiến thuộc về kiến nào? Do kiến nào đoạn? Đáp: Đây không phải là kiến mà chính là tà trí. ---------------- <詞>Phẩm 2: BÀN VỀ TRÍ Một trí nhận biết và nhân duyên, Hai tâm nghó nhớ và thờ cúng, Ba căn sử dụng thuộc quá khứ, Nghi cùng với Danh-Cú-Văn thân. Phật quở trách đệ tử-sáu nhân, Tâm tùy miên cho đến đoạn trừ, Dựa vào cảnh đoạn trừ các thức, nghĩa chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Có thể có một trí mà biết tất cả pháp chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Nếu trí này sinh ra tất cả pháp không có ngã, thì trí này không biết điều gì? Đáp: Không biết tự tính, và trí này tương ưng với các pháp cùng có. Hỏi: Có thể có một thức mà nhận biết tất cả pháp chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Nếu thức này sinh ra tất cả pháp không có ngã, thì thức này không nhận biết điều gì? Đáp: Không nhận biết tự tính, và thức này tương ưng với các pháp cùng có. Hỏi: Có thể có hai tâm lần lượt là nhân cho nhau chăng? Đáp: Không có. Vì sao? Vì không có một Bổ-đặc-già-la nào, không phải trước - không phải sau mà hai tâm cùng sinh, cũng không phải tâm sau là nhân cho tâm trước. Hỏi: Có thể có hai tâm lần lượt làm duyên cho nhau chăng? Đáp: Có. Như có tâm khởi lên mà không có tâm vị lai, ngay nơi tư duy này khởi lên tâm thứ hai. Như có tâm khởi lên mà có tâm vị lai, ngay nơi tư duy này khởi lên tâm thứ hai. Như có tâm khởi lên mà, không có tâm đạo vị lai, ngay nơi tư duy này khởi lên tâm lên thứ hai. Như có tâm khởi lên mà có tâm đạo vị lai, ngay nơi tư duy tâm này khởi tâm thứ hai. Như có hai người biết tâm người khác, thì hai tâm ấy lần lượt duyên nhau. Hỏi: Vì sao không có một Bổ-đặc-già-la, không phải trước-không phải sau mà hai tâm cùng sinh? Đáp: Vì không có đẳng vô gián duyên thứ hai, vì mỗi một tâm của hữu tình chuyển biến nối tiếp nhau, cho nên Bổ-đặc-già-la đã không thể có được. Hỏi: Vả lại theo lý thì không có tâm trước hướng về tâm sau, vì sao có thể nhớ lại những việc đã làm trước kia? Đáp: Hữu tình đối với pháp, do sức mạnh của tập quán, được trí đồng phần như thế, tùy thuộc vào sự việc đã từng trải qua, cho nên có khả năng biết như thế. Như có hai người chế tạo ra chữ in, có kỹ năng hiểu rõ kiểu chữ in mà mình và người khác đã chế tạo ra, mặc dù hai người kia không qua lại với nhau để hỏi: Ông đã chế tạo kiểu chữ này ra sao?. Cũng không trả lời nhau: Tôi đã chế tạo chữ này như thế. Nhưng hai người kia do sức mạnh của tập quán, cho nên được trí đồng phần như thế, có kỹ năng hiểu rõ mẫu chữ in mà mình và người khác đã chế tạo. Hữu tình cũng như vậy, do sức mạnh của tập quán, đạt được trí đồng phần như thế, tùy thuộc vào sự việc đã từng trải qua nên có khả năng nhận biết như vậy. Lại, như có hai người biết tâm người khác, biết tâm của nhau, mặc dù hai người đó không qua lại với nhau, để hỏi xem: Làm sao ông biết được tâm của tôi?. Cũng không trả lời nhau: Tôi đã biết như thế về tâm ông. Nhưng hai người kia do sức mạnh của tập quán, cho nên được trí đồng phần như thế, biết tâm của nhau. Hữu tình cũng như vậy, do sức mạnh của tập quán, cho nên được trí đồng phần như thế, tùy thuộc vào sự việc đã từng trải qua, có khả năng nhận biết như vậy. Lại nữa, tất cả tâm-tâm sở pháp, đối với pháp đã duyên, nhất định an trụ vào pháp đã duyên, lại dùng ý tiếp làm sức mạnh của nhân, cố gắng nghó nhớ, cho thì không quên. Hỏi: Vì sao hữu tình quên mà lại nhớ? Đáp: Đồng phần của hữu tình lúc chuyển biến nối tiếp nhau, đối với pháp có khả năng dấy khởi trí và kiến hệ thuộc nhau, lại dùng ý tiếp nhận làm sức mạnh của nhân, cố gắng nghó nhớ thường không quên. Hỏi: Vì sao hữu tình nhớ mà lại quên? Đáp: Dị phần của hữu tình, lúc chuyển biến nối tiếp nhau, đối với pháp không dấy khởi trí và kiến hệ thuộc nhau, lại dùng ý tiếp nhận làm sức mạnh của nhân, sự nghó nhớ kém thì quên mất. Hỏi: Vì sao cúng tế thì ngạ quỷ đến, không phải là loài khác? Đáp: Loài ngạ quỷ kia, theo pháp như vậy được nơi chốn quan hệ như thế, sinh ra phần của mình. Như vậy hễ có thờ cúng thì đến chứ không phải loài khác. Như các loài chim thiên nga, hồng nhạn, khổng tước, anh vũ, xá lợi, mạng mạng v.v…, dù như ý tự tại tung cánh bay vào hư không, nhưng thần lực, oai đức không lớn hơn con người. Tuy nhiên loài súc sinh kia, theo pháp như vậy được nơi chốn quan hệ như thế, sinh ra phần của mình, có công năng vỗ cánh bay lượn giữa hư không. Loài quỷ cũng như vậy, do sức mạnh của pháp như vậy, nơi nào có thờ, cúng thì hiện đến, loài khác không như thế. Lại như một loại Na-lạc-ca, có khả năng nhớ lại đời trước, cũng biết tâm người khác. Một loại bàng sinh, một loại ngạ quỷ, có khả năng nhớ lại đời trước, cũng biết được tâm người khác, và dấy lên khói lửa, gây mây, nổi mưa, làm ra lạnh nóng v.v… Mặc dù chúng có khả năng gây ra sự việc như thế, nhưng mà thần lực oai đức thì không lớn hơn con người. Tuy nhiên, các loại ấy theo pháp như vậy tự nhiên được nơi chốn quan hệ như thế, sinh ra phần của mình, có khả năng gây ra sự việc ấy. Loài quỷ cũng thế, do sức mạnh của pháp như vậy hễ có thờ cúng thì hiện đến, loài khác thì không như vậy. Lại nữa, có người suốt trong cuộc đời dấy lên mong muốn như vậy, ái lạc như vậy: Ta sẽ cưới vợ, cưới vợ cho con, cưới vợ cho cháu khiến sinh con, cháu, nối dòng kế tục không dứt. Ta mạng chung rồi, nếu sinh vào loài quỷ, chúng sẽ nghó nhớ đến ta, nên sẽ thờ cúng ta. Do người kia luôn có dục lạc này suốt trong cuộc đời vì thế hễ có cúng tế thì hiện đến chứ không phải loài khác. Hỏi: Nên nói là một mắt trông thấy sắc hay là hai mắt trông thấy sắc? Đáp: Nên nói là hai mắt trông thấy sắc. Bởi vì sao? Vì nếu nhắm một mắt, khởi lên thức bất tịnh, thì khi mở hai mắt khởi lên thức tịnh. Giả sử nhắm một mắt, khởi lên thức như thế, khi mở cả hai mắt, cũng khởi lên thức này, thì không nên nói là hai mắt trông thấy sắc. Tuy nhiên nhắm một mắt, khởi lên thức bất tịnh, khi mở hai mắt, liền khởi lên thức tịnh vì vậy, phải nói là hai mắt trông thấy sắc. Như nhắm mắt, che phủ-gây tổn hại-phá hoại cũng thế. Như mắt trông thấy sắc; tai nghe tiếng, mũi ngửi hương cũng như vậy. Hỏi: Các quá khứ thì tất cả quá khứ không hiện ra chăng? Đáp: Cho nên làm thành bốn cây để biện giải: Có quá khứ mà không phải là không hiện. nghĩa là như Tôn giả Ô-đà-di nói: Tất cả kiết sử của quá khứ, Đến từ rừng lại rời xa rừng, Vui thoát ra ngoài các dục lạc, Như vàng ròng hiện trên đỉnh núi. Có không hiện mà không phải là quá khứ. nghĩa là như có một người hoặc dùng thần thông, hoặc dùng chú thuật, hoặc dùng vật thuốc, hoặc từ nơi sinh như thế mà được trí, có chỗ ẩn mất khiến không hiện rõ ra. Có quá khứ cũng không hiện. nghĩa là tất cả các hành đã khởi thì cùng khởi, đã sinh, cùng sinh, đã chuyển và đang chuyển, đã tập-đã hiện, đã quá khứ-đã tận diệt-đã lìa xa biến đổi, là quá khứ-phần của quá khứ, thuộc về đời quá khứ. Có mà không phải quá khứ-cũng không phải là không hiện. nghĩa là trừ ra các tướng trước đây. Hỏi: Các quá khứ thì tất cả quá khứ là tận cùng chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có quá khứ mà không phải tận cùng. nghĩa là như Tôn giả Ô- đà-di nói: Tất cả kiết sử của quá khứ, cho đến nói rộng ra. Có tận cùng mà không phải là quá khứ. nghĩa là như Đức Phật nói: Đây là đệ tử bậc Thánh đã hết địa ngục, đã hết bàng sinh, đã hết ngạ quỷ, đã hết mọi hầm hố nguy hiểm của đường ác. Có quá khứ mà cũng tận cùng. nghĩa là tất cả các hành đã khởi thì cùng khởi, cho đến nói rộng ra. Có mà không phải quá khứ, cũng không phải tận cùng. nghĩa là trừ ra các tướng trước đây. Lại nữa, nếu dựa vào kiết đoạn mà nói thì: Có kiết quá khứ mà không phải tận cùng. nghĩa là kiết quá khứ chưa đoạn- chưa biết khắp, chưa diệt-chưa biến đổi. Có kiết tận cùng mà không phải là quá khứ. nghĩa là kiết vị lai đã đoạn-đã biết khắp, đã diệt-đã biến đổi. Có kiết quá khứ mà cũng tận cùng. nghĩa là kiết quá khứ đã đoạn-đã biết khắp, đã diệt-biến đổi. Có kiết không phải quá khứ mà cũng không phải tận cùng. nghĩa là kiết vị lai, chưa đoạn-chưa biết khắp, chưa diệt-chưa biến đổi, và kiết hiện tại. Hỏi: Các quá khứ thì tất cả quá khứ là diệt chăng? Đáp: Cho nên làm thành bốn câu để biện giải: Có quá khứ mà không phải là diệt. nghĩa là như Tôn giả Ô-đà- di nói: Tất cả kiết của quá khứ, cho đến nói rộng ra. Có diệt mà không phải là quá khứ. nghĩa là dựa vào con đường nhỏ, mái nhà nhỏ, đồ đựng nhỏ, mắt nhỏ của thế tục, nói là diệt con đường, cho đến diệt mắt. Có quá khứ mà cũng là diệt. nghĩa là tất cả các hành đã khởi thì cùng khởi, cho đến nói rộng ra. Có mà không phải là quá khứ cũng không phải là diệt. nghĩa là trừ ra các tướng trước đây. Lại nữa, nếu dựa vào kiết đoạn mà nói thì: Có kiết quá khứ mà không phải là diệt. nghĩa là kiết quá khứ, chưa đoạn-chưa biết khắp, chưa diệt-chưa biến đổi. Có kiết diệt, không phải là quá khứ. nghĩa là kiết vị lai, đã đoạn-đã biết khắp, đã diệt-đã biến đổi. Có kiết quá khứ màcũng là diệt. nghĩa là kiết quá khứ, đã đoạn-đã biết khắp, đã diệt-đã biến đổi. Có kiết không phải là quá khứ mà cũng không phải là diệt. nghĩa là kiết vị lai, chưa đoạn-chưa biết khắp, chưa diệt-chưa biến đổi, và kiết hiện tại. Hỏi: Nếu đối với khổ, mà sinh nghi: Đây đúng là khổ chăng? Đây không phải là khổ chăng? Cho nên nói là một tâm hay là nhiều tâm? Đáp: Cho nên nói là nhiều tâm. Nói rằng đây đúng là khổ chăng, là một tâm. Đây không phải là khổ chăng, là tâm thứ hai. Đối với Tập- Diệt-Đạo, sinh nghi cũng như thế. Hỏi: Có thể có một tâm, có nghi cũng không có nghi chăng? Đáp: Không có. Vì sao thế? Vì đối với Khổ đế, nếu nói đây đúng là khổ chăng? Thì tâm này có nghi. Nếu nói đây là khổ, thì tâm này không có nghi. Nếu nói đây không phải là khổ chăng? Thì tâm này có nghi. Nếu nói đây không phải là khổ, thì tâm này không có nghi. Đối với Tập-Diệt- Đạo cho nên biết cũng như vậy. Hỏi: Thế nào là nhiều Danh thân? Đáp: nghĩa là nhiều danh hiệu, dị ngữ, tăng ngữ, tưởng cùng tưởng, dựa vào mà thiết lập. Đó gọi là nhiều Danh thân. Hỏi: Thế nào là nhiều Cú thân? Đáp: Các câu có thể đầy đủ hay chưa đầy đủ mà kết hợp với nhau nghĩa ở trong đó. Đó gọi là nhiều Cú thân. Như Đức Thế Tôn dạy: Đừng làm mọi điều ác, Hãy làm những điều thiện, Tự thanh tịnh tâm ý, Là lời chư Phật dạy. Với bốn câu như thế, đều có thể đầy đủ hay chưa đầy đủ mà nghĩa kết hợp với nhau ở trong đó. Đó gọi là nhiều Cú thân. Hỏi: Thế nào là nhiều Văn thân? Đáp: Là các nhóm chữ. Đó gọi là nhiều Văn thân. Như Đức Thế Tôn nói: Muốn làm thành bản tụng, Văn chính là nhiều chữ, Tụng dựa vào danh từ, Và người làm ra tụng. Như Phật Thế Tôn quở trách các đệ tử, gọi là người ngu si. Điều này có nghĩa gì? Đáp: Đây là lời quở trách, nghĩa là Phật Thế Tôn quở trách đệ tử, gọi là người ngu si. Như cha mẹ dạy dỗ và thầy quỹ phạm hiện nay, nếu có con cái hay đệ tử ở gần bên cạnh gây ra các lỗi lầm, thì quở trách rằng: Ông là kẻ ngu si, không sáng suốt, không tốt. Đức Thế Tôn cũng vậy, quở trách các đệ tử, gọi là người ngu si. Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn quở trách các đệ tử mà gọi là người ngu si? Đáp: Bởi vì các đệ tử ấy đối với lời răn dạy của Đức Thế Tôn đã truyền trao, không theo đúng nghĩa thực hành, không tùy thuận, không nối tiếp. Hơn nữa, họ đối với Thánh giáo đã làm những việc ngu si, trống rỗng, mà không có kết quả, không có ý vị vượt ra vươn lên, không có thắng lợi, trái lời Phật dạy. Đối với các học xứ, không có năng lựa tiếp nhận để học, cho nên Đức Phật quở trách họ là người ngu si. Có sáu nhân, nghĩa là nhân tương ưng cho đến nhân năng tác. Hỏi: Thế nào là nhân tương ưng? Đáp: Thọ và pháp tương ưng với thọ, là nhân tương ưng. Pháp tương ưng với thọ và thọ, là nhân tương ưng. Tưởng-tư-xúc-tác ý-dục, thắng giải-niệm-tam-ma-địa- tuệ, cùng pháp tương ưng với tuệ, là nhân tương ưng. Pháp tương ưng của tuệ cùng tuệ là nhân tương ưng. Đó gọi là nhân tương ưng. Hỏi: Thế nào là nhân câu hữu? Đáp: Tâm cùng với tâm sở pháp, là nhân câu hữu. Tâm sở pháp cùng với tâm, là nhân câu hữu. Tâm cùng với tùy tâm mà chuyển thân nghiệp-ngữ nghiệp là nhân câu hữu. Tâm cùng với tùy tâm mà chuyển bất tương ưng hành, là nhân câu hữu. Tùy tâm mà chuyển bất tương ưng hành cùng với tâm, là nhân câu hữu. Lại nữa, bốn đại chủng câu sinh lần lượt làm nhân câu hữu. Đó gọi là nhân câu hữu. Hỏi: Thế nào là nhân đồng loại? Đáp: Căn thiện đời trước, với căn thiện của cõi mình ở đời sau và pháp tương ưng, là nhân đồng loại. Căn thiện quá khứ, với căn thiện của cõi mình ở hiện tại-vị lai và pháp tương ưng, là nhân đồng loại. Căn thiện hiện tại với căn thiện của cõi mình ở vị lai và pháp tương ưng là nhân đồng loại . Như căn thiện; căn bất thiện và vô ký cũng vậy. Sai biệt là trong bất thiện trừ ra cõi của mình. Đó gọi là nhân đồng loại. Hỏi: Thế nào là nhân biến hành? Đáp: Tùy miên biến hành của đời trước do kiến khổ đoạn, cùng với tùy miên của cõi mình ở đời sau do kiến tập-diệt-đạo-tu đoạn và pháp tương ưng, là nhân biến hành. Tùy miên biến hành của quá khứ do kiến khổ đoạn, cùng với tùy miên của cõi mình ở hiện tại-vị lai do kiến tập-diệt-đạo-tu đoạn và pháp tương ưng là nhân biến hành. Tùy miên biến hành của hiện tại do kiến khổ đoạn , cùng với tùy miên của cõi mình ở vị lai do kiến tập-diệt-đạo-tu đoạn và pháp tương ưng, là nhân biến hành. Như kiến khổ đoạn, kiến tập đoạn cũng vậy. Đó gọi là nhân biến hành. Hỏi: Thế nào là nhân dị thục? Đáp: Các tâm-tâm sở pháp tiếp nhận sắc dị thục cùng tâm-tâm sở pháp và tâm bất tương ưng hành. Tâm-tâm sở pháp này, cùng với dị thục kia, là nhân dị thục. Lại nữa, các nghiệp thân-ngữ tiếp nhận sắc dị thục cùng tâm-tâm sở pháp và tâm bất tương ưng hành. Nghiệp thân- ngữ này cùng với dị thục kia, là nhân dị thục. Lại nữa, các tâm bất tương ưng hành thọ nhận sắc dị thục cùng tâm-tâm sở pháp và tâm bất tương ưng hành. Tâm bất tương ưng hành này cùng với dị thục kia, là nhân dị thục. Đó gọi là nhân dị thục. Hỏi: Thế nào là nhân năng tác? Đáp: Mắt và sắc là duyên sinh ra nhãn thức. Nhãn thức này dùng mắt và sắc kia, pháp tương ưng với mắt mà sắc kia, pháp câu hữu của mắt và sắc kia, cùng nhó thanh và nhó thức, tỷ hương và tỷ thức, lưỡi, thiệt vị và thức, thân xúc và thân thức ý và pháp - ý thức, có sắc-không sắc, có kiến-không có kiến, có đối-không có đối, hữu lậu-vô lậu, hữu vi-vô vi v.v…, tất cả pháp như thế là nhân năng tác, trừ ra tự tính của chúng. Như nhãn thức; nhó-tỷ-thiệt-thân-ý thức cũng vậy. Đó gọi là nhân năng tác. Hỏi: Các tâm bởi vì tùy miên, cho nên gọi là tâm có tùy miên. Tùy miên kia là tùy tăng đối với tâm này chăng? Đáp: Hoặc tùy tăng, hoặc không tùy tăng. Thế nào là tùy tăng? nghĩa là tùy miên kia tương ưng với tâm này chưa đoạn và duyên với tâm này. Thế nào là không tùy tăng? nghĩa là tùy miên kia tương ưng với tâm này đã đoạn. Hỏi: Giả sử tùy miên tùy tăng đối với tâm-tâm này chỉ do tùy miên kia, cho nên gọi là tâm có tùy miên chăng? Đáp: Hoặc do tùy miên kia chứ không phải pháp khác, hoặc do tùy miên kia và pháp khác. Thế nào là do tùy miên kia chứ không phải pháp khác? nghĩa là tâm này chưa đoạn. Thế nào là do tùy miên kia và pháp khác? nghĩa là khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh. Nếu tâm do kiến khổ mà đoạn, do kiến tập đoạn, là duyên của tùy miên, thì các tâm do tùy miên, cho nên gọi là tâm có tùy miên. Hỏi: Tùy miên kia đối với tâm này là nên đoạn chăng? Đáp: Hoặc nên đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là nên đoạn? nghĩa là tùy miên kia duyên nơi tâm này. Thế nào là không nên đoạn? nghĩa là tùy miên kia tương ưng vào tâm này. Hỏi: Các tùy miên dựa vào pháp nào mà đoạn? Đáp: Dựa vào pháp đã duyên. Hỏi: Ông nói tùy miên, dựa vào pháp đã duyên mà đoạn chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu vậy, thì các tùy miên do kiến diệt-đạo mà đoạn, tùy miên ấy duyên hữu lậu dựa vào pháp nào mà đoạn? Nếu nói pháp này đoạn thì pháp kia đoạn đều không hợp lý? Đáp: Do kiến diệt-đạo mà đoạn tùy miên duyên vô lậu, dựa vào pháp đã duyên cho nên đoạn, bởi vì pháp này đoạn cho nên tùy miên cũng đoạn. Hỏi: Nếu tùy miên đối với tâm nên đoạn, thì tâm này chỉ vì do tùy miên cho nên gọi là tâm có tùy miên chăng? Đáp: Hoặc do tùy miên chứ không phải pháp khác, hoặc do tùy miên và pháp khác. Thế nào là do tùy miên chứ không phải pháp khác? nghĩa là tâm không ô nhiễm do tu mà đoạn. Thế nào là do tùy miên kia và pháp khác? nghĩa là tâm ô nhiễm. Hỏi: Thế nào là dựa vào cảnh mà đoạn thức? Đáp: Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, nếu tâm do kiến tập mà đoạn, duyên vào kiến khổ mà đoạn, thì đó gọi là dựa vào cảnh mà đoạn thức. Hỏi: Đối với thức này có bao nhiêu tùy miên tùy tăng? Đáp: Có mười chín. Hỏi: Cùng một tâm chăng? Đáp: Không như vậy. nghĩa là chưa lìa dục nhiễm, khổ pháp trí đã sinh, tập pháp trí chưa sinh, nếu tâm cõi Dục do kiến tập mà đoạn duyên vào kiến khổ đoạn, thì đó là dựa vào cảnh mà đoạn thức. Cõi Dục do kiếm tập mà đoạn bảy tùy miên tùy tăng, đã lìa dục nhiễm mà chưa lìa sắc nhiễm, khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh. Nếu tâm cõi Sắc do kiến tập mà đoạn, duyên vào kiến khổ đoạn, thì đó là dựa vào cảnh mà đoạn thức. Cõi Sắc do kiến tập mà đoạn sáu tùy miên tùy tăng, đã lìa sắc nhiễm, khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh. Nếu tâm cõi Vô sắc do kiến tập mà đoạn duyên vào kiến khổ đoạn, thì đó là dựa vào cảnh mà đoạn thức. Cõi Vô sắc do kiến tập mà đoạn trừ sáu tùy miên tùy tăng. ------------------ <詞>Phẩm 3: NÓI VỀ BỔ ĐẶC GIÀ LA Duyên khởi-duyên dựa vào hơi thở, Tâm dựa vào không còn có ái, Tâm giải thoát dựa vào giới-tưởng, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Một Bổ-đặc-già-la, đối với mười hai chi duyên khởi của đời này, có bao nhiêu quá khứ-vị lai-hiện tại? Đáp: Hai quá khứ là vô minh-hành; hai vị lai là sinh-lão tử; tám hiện tại là thức- danh sắc-sáu xứ-xúc- thọ-ái-thủ-hữu. Như Đức Thế Tôn đã nói: Vô minh duyên hành, thủ duyên hữu. Hỏi: Thế nào là vô minh duyên hành? Đáp: Vô minh duyên hành. Đây là thể hiện rõ nghiệp hạnh đã tạo tác tăng lên trong những đời kiếp trước đây, nay phải có quả dị thục và đã tiếp nhận quả dị thục. Hỏi: Thế nào là thủ duyên hữu? Đáp: Thủ duyên hữu đây là thể hiện rõ nghiệp hạnh tạo tác tăng lên trong đời hiện tại, phải có quả dị thục sẽ tiếp nhận.. Hỏi: Vô minh duyên hành và thủ duyên hữu khác nhau thế nào? Đáp: Vô minh duyên hành, nghĩa nói rộng như trước. Nghiệp duyên này như Đức Thế Tôn nói: Một phiền não, nghĩa là vô minh. Thủ duyên hữu, nghĩa nói rộng như trước. Nghiệp duyên này như Đức Thế Tôn nói: Tất cả phiền não, nghĩa là các thủ. Đó gọi là khác nhau giữa hai điều này. Hỏi: Có thể có hành duyên với vô minh mà không duyên với minh chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có hành duyên với minh mà không duyên với vô minh chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có hành duyên với vô minh, cũng duyên với minh chăng? Đáp: Có. Hỏi: Có thể có hành không duyên với vô minh mà cũng không duyên với minh chăng? Đáp: Không có. Vì sao như vậy? Bởi vì không có một hữu tình nào, từ lâu xa đến nay, không đối với Thánh đạo, hủy báng nói rằng không phải là đạo. Trước kia đã hủy báng đạo rồi, thời gian sau hữu tình ấy tạo tác tăng trưởng, cảm đến nghiệp đại địa. Hoặc vào thời gian sau tạo tác tăng trưởng, cảm đến nghiệp tiểu vương. Hoặc vào thời gian sau tạo tác tăng trưởng, cảm đến nghiệp đại vương. Hoặc vào thời gian sau tạo tác tăng trưởng, cảm đến nghiệp Chuyển luân vương. Do nhân này và duyên này, do Thánh đạo kia, lần lượt cảm được đại địa, có được thành ấp thôn xóm, nhân và phi nhân, súc vật-thóc lúa- cỏ thuốc-cây cối- rừng rậm, tăng trưởng tốt tươi. Bốn duyên của tâm trước như thế, đối với tâm sau chỉ là một duyên tăng thượng. Lại nữa, hoặc dựa vào nhân duyên mà nói về phương diện này: Hỏi: Có thể có hành với duyên vô minh mà không duyên với minh chăng? Đáp: Có. nghĩa là vô minh dị thục và hành nhiễm ô. Hỏi: Có thể có hành duyên với minh mà không duyên với vô minh chăng? Đáp: Có. nghĩa là trừ ra minh đầu tiên, còn lại các hành vô lậu khác. Hỏi: Có thể có hành duyên với vô minh mà cũng duyên với minh chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có hành không duyên với vô minh mà cũng không duyên với minh chăng? Đáp: Có. nghĩa là trừ vô minh dị thục, còn lại các hành vô phú vô ký khác và hành hữu lậu thiện của minh đầu tiên. Hỏi: Hơi thở ra thở vào, nên nói là dựa vào thân mà chuyển hay dựa vào tâm mà chuyển? Đáp: Cho nên nói cũng dựa vào thân mà chuyển, cũng dựa vào tâm mà chuyển, như nhưng điều kiện thích hợp. Nếu hơi thở ra vào chỉ dựa vào thân mà chuyển, không dựa vào tâm mà chuyển, thì ở bậc định vô tưởng mà định diệt tận, hơi thở ra vào cũng phải chuyển biến. Nếu hơi thở ra vào chỉ dựa vào tâm mà chuyển, không dựa vào thân mà chuyển, thì hơi thở ra vào của hữu tình cõi Vô sắc cũng phải chuyển biến. Nếu hơi thở ra vào chỉ dựa vào thân và tâm mà chuyển biến, không như điều kiện thích hợp, thì Yết-lạt-lam, Át-bộ-đàm, Bế-thi, Kiện-nam ở trong trứng và trong thai mẹ, các căn chưa đầy đủ, chưa thành thục, và ở tónh lự thứ tư, hơi thở ra vào cũng phải chuyển biến. Hỏi: Vì hơi thở ra vào cũng dựa vào thân mà chuyển, cũng dựa vào tâm mà chuyển, như những điều kiện thích hợp, vì vậy dưới từ địa ngục vô gián, trên đến cõi trời Biến tịnh, các căn của hữu tình trong đó đã đầy đủ, thành thục, hơi thở ra vào dựa vào thân và tâm mà chuyển biến. Hỏi: Như tâm của hữu tình có sắc nối tiếp nhau, dựa vào thân mà chuyển biến, tâm của hữu tình vô sắc nối tiếp nhau thì dựa vào đâu mà chuyển? Đáp: Dựa vào mạng căn có tính chất đồng phần và các pháp tương tự như thế. Hỏi: Tâm bất tương ưng hành không có ái, cho nên nói là do kiến đoạn hay tu đoạn? Đáp: Cho nên nói do tu đoạn. Có thuyết nói: Không có ái, hoặc do kiến đoạn, hoặc do tu đoạn. Hỏi: Thế nào là do kiến đoạn? Đáp: nghĩa là đối với pháp do kiến đoạn, không có mà lại tham. Hỏi: Thế nào là do tu đoạn? Đáp: nghĩa là đối với pháp do tu đoạn, không có mà lại tham. Ở trong nghĩa này không có ái, chỉ nên nói do tu đoạn. Hỏi: Ông đã nói: Không có ái, chỉ do tu đoạn. Vậy những người Dự lưu chưa đoạn ái này chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Ý ông muốn gì? Những người Dự lưu vì khởi tâm như thế này: Nếu sau khi ta chết thì đoạn hoại không có, há không yên vui chăng? Đáp: Không như vậy. Hãy nghe tôi trình bày: Nếu không có ái, thì chỉ do tu đoạn. Những người Dự lưu khi chưa đoạn ái này thì nên nói người Dự lưu khởi lên tâm niệm như thế này: Nếu sau khi ta chết thì đoạn hoại không có, há không yên vui hay sao? Nếu người Dự lưu không khởi tâm như vậy: Nếu sau khi ta chết thì đoạn, hoại không có, há không yên vui hay sao? Thì không nên nói là không có ái chỉ do tu đoạn. Những người Dự lưu khi chưa đoạn ái này, nói như thế đều không hợp lý. Hỏi: Các ông cũng nói rằng: Ái dị thục của địa ngục-bàng sinh- ngạ quỷ, chỉ do tu đoạn. Những người Dự lưu chưa đoạn ái này chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Ý ông muốn gì? Những người Dự lưu vì khởi tâm như thế này: Ta sẽ làm Long vương Ai-la-phiệt-noa, Long vương Thiện trú, Quỷ vương Diệm-ma, thống lãnh các hữu tình của cõi quỷ chăng? Đáp: Không như vậy. Hãy nghe tôi trình bày: Nếu Ái dị thục của địa ngục-bàng sinh-ngạ quỷ, chỉ do tu đoạn, mà những người Dự lưu khi chưa đoạn ái này, thì nên nói người Dự lưu khởi tâm như vậy: Ta sẽ làm Long vương Ai-la-phiệt-noa, cho đến nói rộng. Nếu người Dự lưu không khởi tâm như vậy: Ta sẽ làm Long vương Ai-la-phiệt-noa, cho đến nói rộng, thì không nên nói rằng: Ái dị thục của địa ngục-bàng sinh-ngạ quỷ, chỉ do tu đoạn. Những người Dự lưu chưa đoạn ái này, mà nói như thế, đều không hợp lý. Các ông cũng nói rằng: Vì bị ràng buộc do các triền, cho nên hại mạng cha mẹ, triền này chỉ do tu đoạn. Những người Dự lưu chưa đoạn triền này chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Ý ông muốn gì? Những người Dự lưu vì khởi triền như thế cho nên hại mạng cha mẹ chăng? Đáp: Không như vậy. Hãy nghe tôi nói: Nếu bị triền ràng buộc, cho nên đã hại mạng cha mẹ, thì triền này chỉ do tu đoạn. Những người Dự lưu chưa đoạn triền này, thì nên nói: Người Dự lưu vì đã khởi triền như thế, cho nên hại mạng cha mẹ. Nếu người Dự lưu không khởi triền như thế, mà hại mạng cha mẹ, thì không nên nói: Vì bị các triền ràng buộc, cho nên hại mạng cha mẹ. Triền này chỉ do tu đoạn, những người Dự lưu chưa đoạn triền ấy, mà nói như thế đều không hợp lý. Các ông cũng nói rằng: Đối với pháp do tu đoạn, không có mà tham, nhưng tham này chỉ do tu đoạn. Vậy thì người Dự lưu chưa đoạn tham ấy chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Ý ông muốn gì? Những người Dự lưu vì duyên vào tham này mà khởi ái chăng? Đáp: Không như vậy. Hãy nghe tôi nói: Nếu đối với pháp do tu đoạn, không có mà tham, thì tham ấy chỉ do tu đoạn. Những người Dự lưu chưa đoạn tham này, thì nên nói người Dự lưu duyên vào tham này mà khởi ái. Nếu người Dự lưu không duyên vào tham này mà khởi ái, thì không nên nói đối với pháp do tu đoạn, không có mà tham, thì tham này chỉ do tu đoạn. Những người Dự lưu chưa đoạn tham ấy, mà nói như thế đều không hợp lý. Thuyết kia đã hợp lý, thì thuyết này cũng cho nên như thế. Hỏi: Không-có là gọi cho pháp gì? Đáp: Ba cõi vô thường, như Đức Thế Tôn đã nói: Tâm giải thoát tham-giận-si. Hỏi: Như thế nào là tâm được giải thoát? Tâm Ccó tham-giận-si chăng? Hay tâm lìa tham-giận-si chăng? Đáp: Tâm lìa tham-giận-si là được giải thoát. Có thuyết nói: Tâm tương ưng với tham-giận-si thì được giải thoát. Người kia không nên dấy lên nói như thế. Vì sao? Vì không phải tâm này tương hợp với tham-giận-si, tương ưng xen tạp nhau, mà vì tham-giận-si chưa dứt trừ, cho nên tâm không giải thoát. Tham-giận-si được đoạn trừ thì tâm liền giải thoát. Đức Thế Tôn cũng nói: Bí-sô nên biết! Vầng mặt trời, mặt trăng này bị ngăn che do năm thứ che lấp, cho nên không sáng-không chiếu rọi, không rộng-không sạch. Những gì là năm? Mây. Khói. Bụi. Sương mù. Tay của A-tố-lạc Át-la-hô. Như vầng mặt trời, mặt trăng không phải cùng với năm thứ che lấp tương hợp, tương ưng xen tạp nhau, mà vì sự che lấp kia chưa lìa, cho nên vầng mặt trời, mặt trăng này không sáng, không soi, không rộng, không sạch. Các thứ che lấp kia, nếu lìa thì vầng mặt trời, mặt trăng này sẽ chiếu-sáng, rộng và sạch. Như thế, không phải tâm này phù hợp với tham-giận-si, tương ưng lẫn lộn nhau, mà do tham-giận-si chưa đoạn, cho nên tâm không giải thoát. Tham-giận-si nếu đoạn thì tâm liền giải thoát. Hỏi: Như thế nào là tâm giải thoát? Ở quá khứ chăng? Hay ở vị lai, hay ở hiện tại? Đáp: Khi tâm vô học vị lai sinh ra thì giải thoát tất cả mà chướng ngại. Hỏi: Sự việc ấy như thế nào? Đáp: Như định kim cang dụ của đạo vô gián sắp diệt, tận trí của đạo giải thoát sắp sinh. Nếu định kim cang dụ của đạo vô gián đang diệt, thì tận trí của đạo giải thoát đang sinh. Bấy giờ gọi là lúc tâm vô học vị lai, sinh ra thì giải thoát tất cả mọi chướng ngại. Hỏi: Tâm chưa giải thoát nên nói là giải thoát, hay tâm đã giải thoát nên nói là giải thoát? Đáp: Tâm đã giải thoát nên nói là giải thoát. Nếu đã giải thoát thì không nên nói là giải thoát. Nếu giải thoát thì không cho nên nói đã giải thoát. Vì tâm đã giải thoát mà nói giải thoát thì không hợp với chính lý. Nay cần phải hỏi người kia, như Đức Thế Tôn nói: Nếu đoạn ái không sót lại gì, Như hoa sen mọc giữa nước bùn, Tỳ kheo rời bỏ cả hai bên, Như rắn già lột da thay vỏ. Hỏi: Ông thừa nhận thuyết này là thuyết tốt đẹp chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Ý ông thế nào? Vì đã bỏ (xả) thì nói bỏ, hay vì chưa bỏ mà nói bỏ chăng? Đáp: Đã bỏ thì nói bỏ. Hãy nghe tôi nói: Nếu đã bỏ thì không cho nên nói bỏ. Nếu bỏ thì không cho nên nói đã bỏ. Vì đã bỏ mà nói bỏ, thì không hợp với chính lý. Lại như Đức Thế Tôn nói: Đoạn mạn tự mình dễ dàng định, Tâm thiện rời bỏ hết tất cả, Một mình vắng lặng không buông thả, Vượt dòng sinh tử đến Niết-bàn. Hỏi: Ông thừa nhận thuyết này là thuyết tốt đẹp chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Ý ông thế nào? Vì đã đến thì nói đến, hay vì chưa đến mà nói đến chăng? Đáp: Đã đến thì nói đến. Hãy nghe tôi nói: Nếu đã đến thì không cho nên nói đến. Nếu đến thì không cho nên nói đã đến. Vì đã đến mà nói đến, thì không hợp với chính lý. Thuyết kia đã hợp lý, thì thuyết này cũng phải như thế. Nên đối với Khế kinh, trí phải phân biệt nghĩa, như Đức Thế Tôn nói: Thú tập trung về rừng, Chim bay giữa trời cao, Thánh quay về Niết-bàn, Pháp thì cứ phân biệt. Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Dựa vào nhàm chán mà lìa nhiễm, dựa vào lìa nhiễm mà được giải thoát, dựa vào giải thoát mà được Niết-bàn. Hỏi: Thế nào là nhàm chán? Đáp: Nếu đối với các hành vô học mà nhàm chán trái ngược, thì đó gọi là nhàm chán. Hỏi: Thế nào là dựa vào vào nhàm chán mà lìa nhiễm? Đáp: Nếu nhàm chán tương ưng với căn thiện vô tham-vô đẳng tham, vô sân-vô đẳng sân, vô si, vô đẳng si, thì đó gọi là dựa vào nhàm chán mà lìa nhiễm. Hỏi: Thế nào là dựa vào lìa nhiễm mà được giải thoát? Đáp: Nếu lìa nhiễm tương ưng với tâm, đã thắng giải, đang thắng giải và sẽ thắng giải, thì đó gọi là dựa vào lìa nhiễm mà được giải thoát. Hỏi: Thế nào là dựa vào giải thoát mà được Niết-bàn? Đáp: Nếu tham vónh viễn đoạn, sân vónh viễn đoạn, si vónh viễn đoạn, tất cả phiền não vónh viễn đoạn trừ, thì đó gọi là dựa vào giải thoát mà được Niết-bàn. Như Đức Thế Tôn nói: Có ba cảnh giới là cảnh giới đoạn, cảnh giới lìa, cảnh giới diệt. Hỏi: Thế nào là cảnh giới đoạn? Đáp: Trừ bỏ kiết ái thì kiết khác đoạn, gọi là cảnh giới đoạn. Hỏi: Thế nào là cảnh giới lìa? Đáp: Kiết ái đoạn, gọi là cảnh giới lìa. Hỏi: Thế nào là cảnh giới diệt? Đáp: Các pháp thuận với kiết còn lại được đoạn trừ, gọi là cảnh giới diệt. Hỏi: Các cảnh giới đoạn là cảnh giới lìa chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Giả sử cảnh giới lìa là cảnh giới đoạn chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các cảnh giới đoạn là cảnh giới diệt chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Giả sử cảnh giới diệt là cảnh giới đoạn chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các cảnh giới lìa là cảnh giới diệt chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Giả sử cảnh giới diệt là cảnh giới lìa chăng? Đáp: Đúng vậy. Như Đức Thế Tôn nói có ba tưởng, nghĩa là tưởng đoạn, tưởng lìa, tưởng diệt. Hỏi: Thế nào là tưởng đoạn? Đáp: Trừ bỏ kiết ái thì kiết còn lại đoạn hết các tưởng rời xa, gọi là tưởng đoạn. Hỏi: Thế nào là tưởng lìa? Đáp: Kiết ái đoạn thì các tưởng rời xa, gọi là tưởng lìa. Hỏi: Thế nào là tưởng diệt? Đáp: Các pháp thuận với kiết còn lại đoạn hết các tưởng rời xa, gọi là tưởng diệt. LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHÁT TRÍ <卷>QUYỂN 2 <章>Chương 1: TẠP UẨN <詞>Phẩm 4: BÀN VỀ ÁI KÍNH Ái kính-cúng dường-lực và diệt, Niết-bàn-năm uẩn và cứu cánh, Thủ-biết tất cả-ba quy y, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Thế nào là ái? Đáp: Các ái-đẳng ái, hỷ, đẳng hỷ-lạc-đẳng lạc, đó gọi là ái. Hỏi: Thế nào là kính? Đáp: Có kính và có tính kính, có tự tại và có tính tự tại. Đối với người tự tại, có chuyển đổi sợ hãi đó gọi là kính. Hỏi: Thế nào là ái kính? Đáp: Như có một người đối với Phật-Pháp-Tăng, bậc Thân giáo- Quỹ phạm và người khác, tùy thuận một người có trí, tôn trọng người đồng phạm hạnh, với tâm vui vẻ yêu mến, cung kính mà trú. Nếu ở chỗ này có ái và kính, thì gọi là ái kính. Hỏi: Thế nào là cúng dường? Đáp: Sự cúng dường này có hai loại: Cúng dường của cải. Cúng dường pháp. Hỏi: Thế nào là cung kính? Đáp: Có cung kính và có tính cung kính, có tự tại và có tính tự tại. Đối với người tự tại, có chuyển đổi sợ hãi, đó gọi là cung kính. Hỏi: Thế nào là cung kính cúng dường? Đáp: Như có một người, đối với Phật-Pháp-Tăng, bậc Thân giáo- Quỹ phạm và người khác, tùy thuộc một người có trí, tôn trọng người đồng phạm hạnh, thể hiện cúng dường cung kính, mà trú. Nếu ở chỗ này có cúng dường và cung kính, thì gọi là cung kính cúng dường. Hỏi: Thế nào là thân có sức mạnh Đáp: Những thân dũng mãnh, tráng kiện, nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, có năng lực làm mọi công việc. Đó gọi là sức mạnh của thân. Hỏi: Thế nào là thân yếu kém? Đáp: Những thân không dũng mãnh, không cường tráng, không nhẹ nhàng, không nhanh nhẹn, không có năng lực làm xong công việc. Đó gọi là thân yếu kém. Hỏi: Thân mạnh mẽ và thân yếu kém, có bao nhiêu xứ thâu nhiếp? Bao nhiêu thức nhận biết? Đáp: Một xứ thâu nhiếp, đó là xúc xứ. Hai thức nhận biết là thân thức và ý thức. Như lúc hai lực só giao đấu với nhau, cổ tay vừa giao tiếp, thì nhận biết sức lực mạnh yếu của nhau. Lại như người mạnh nắm lấy kẻ yếu giữ chặt, sự hơn kém của thể lực nhận biết lẫn nhau cũng như vậy. Hỏi: Thế nào là trạch diệt? Đáp: Các diệt đều là xa lìa trói buộc. Hỏi: Thế nào là phi trạch diệt? Đáp: Các diệt không phải xa lìa trói buộc. Hỏi: Thế nào là vô thường diệt? Đáp: Các hành phân tán hư hoại, ẩn mất và giảm sút đó gọi là vô thường diệt. Hỏi: Phi trạch diệt với vô thường diệt có gì sai biệt? Đáp: Phi trạch diệt thì không dựa vào sức lựa chọn, giải thoát các loại ma sự- bệnh tật-tai họa-sầu não, thực hành pháp khổ của đời, không phải đối với tham dục mà điều phục đoạn trừ để vượt qua. Vô thường diệt là các hành phân tán hư hoại, ẩn mất và giảm sút. Đó gọi là sự sai biệt giữa hai thứ diệt. Như Khế kinh nói: Có hai cõi Niết-bàn, nghĩa là cõi Niết-bàn hữu dư y và cõi Niết-bàn vô dư y. Hỏi: Thế nào là cõi Niết-bàn hữu dư y? Đáp: Nếu các lậu của A-la-hán vónh viễn không còn, mạng sống còn tồn tại, sắc tạo của đại chủng nối tiếp nhau chưa đoạn. Dựa vào năm căn của thân-tâm chuyển biến tương tục, là còn có chỗ dựa, các kiết vónh viễn không còn đạt được xúc chứng, gọi là cõi Niết-bàn hữu dư y. Hỏi: Thế nào là cõi Niết-bàn vô dư y? Đáp: Tức là các lậu của A-la-hán vónh viễn không còn, mạng sống đã diệt, sắc tạo của đại chủng nối tiếp nhau đã đoạn. Dựa vào năm căn của thân-tâm không chuyển biến nữa, là không còn chỗ dựa, các kiết vónh viễn không, gọi là cõi Niết-bàn vô dư y. Hỏi: Niết-bàn nên nói là học-vô học, hay phi học phi vô học? Đáp: Niết-bàn nên nói là phi học phi vô học. Có thuyết nói: Niết-bàn có học, có vô học, có phi học phi vô học. Hỏi: Thế nào là học? Đáp: Học nghĩa là học được các kiết đoạn, đạt được chứng. Hỏi: Thế nào là vô học? Đáp: Vô học nghĩa là vô học cần phải đoạn trừ các kiết, đạt được xúc chứng. Hỏi: Thế nào là phi học phi vô học? Đáp: nghĩa là hữu lậu đoạn trừ được các kiết, đạt được xúc chứng. Hỏi: Ở trong nghĩa này, Niết-bàn chỉ nên nói là phi học phi vô học, nhưng mà ông nói Niết-bàn là có học, có vô học, có phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Ý ông thế nào? Trước kia dùng đạo thế tục, vónh viễn đoạn trừ được tham dục-giận dữ phi học phi vô học xa lìa được trói buộc nhưng đối với bốn đế, chưa đạt được hiện quán, tu tập hiện quán đạt được hiện quán rồi, chứng quả Bất hoàn, chuyển thành học chăng? Đáp: Đúng vậy. Lại nữa, ý ông thế nào? Trước kia dùng đạo thế tục, vónh viễn đoạn trừ được tham dục-sân hận, phi học phi vô học xa lìa được trói buộc. Về sau, khi chứng quả Bất hoàn, thì xa lìa trói buộc ấy nên chuyển thành học. Nếu sự xa lìa trói buộc ấy vào lúc này chuyển thành học, thì trước kia phải là thể thường còn của học nên khi chưa chứng quả Bất hoàn, chưa đạt được hữu học, mà đã gọi là học, thì không hợp với chính lý. Hỏi: Yù ông thế nào? A-la-hán hướng đến học đoạn trừ các kiết, chứng quả A-la-hán, quả học đó chuyển thành vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Lại nữa, ý ông thế nào? A-la-hán hướng đến học đoạn trừ các kiết, khi chứng quả A-la-hán, thì đoạn trừ kiết ấy thuận theo chuyển thành vô học. Nếu đoạn trừ kiết ấy vào lúc này, trở thành vô học, thì trước đó, phải là thể thường còn của vô học. Khi chưa chứng quả A-la-hán, không đạt được vô học, mà đã gọi là vô học, thì không hợp với chính lý. Hỏi: Yù ông thế nào? Các bậc A-la-hán vô học đoạn trừ các kiết, khi giảm sút quả A-la-hán, thì vô học chuyển thành học chăng? Đáp: Đúng vậy. Lại nữa, ý ông thế nào? Các bậc A-la-hán vô học đoạn trừ các kiết, khi giảm sút quả A-la-hán, thì các bậc A-la-hán vô học đoạn trừ kiết thuận theo chuyển thành học. Nếu đoạn trừ kiết ấy vào lúc này chuyển thành học, thì trước kia phải là thể thường còn của học chưa giảm sút quả A-la-hán, không đạt đến hữu học, mà đã gọi là học thì không hợp với chính lý. Lại nữa, Niết-bàn không phải trước là phi học phi vô học; sau chuyển thành học, trước là học, sau chuyển thành vô học; trước là vô học, sau lại chuyển thành học. Lại nữa, Niết-bàn không phải là có học, có vô học, có phi học phi vô học. Nếu như thế thì trở thành các pháp có hai phần, vì không quyết định cho nên có tạp loạn, thế thì không nên thiết lập tính-tướng quyết định của các pháp. Đức Phật cũng không thuyết minh Niết-bàn có tính học, tính vô học. Bởi vì Niết-bàn luôn luôn là các pháp quyết định phi học phi vô học, không có tạp loạn, luôn luôn trú vào tự tính, không bỏ tự tính, Niết-bàn là thường trụ, không có biến dịch. Vì thế, Niết-bàn chỉ nên nói là phi học phi vô học. Như Khế kinh nêu: A-la-hán thành tựu uẩn giới, uẩn định, uẩn tuệ, uẩn giải thoát, uẩn giải thoát tri kiến vô học. Hỏi: Thế nào là uẩn giới vô học? Đáp: Luật nghi của thân, luật nghi của ngữ, mạng thanh tịnh vô học. Hỏi: Thế nào là uẩn định vô học? Đáp: Tam-ma-địa vô học, nghĩa là Không-Vô tướng-Vô nguyện. Hỏi: Thế nào là uẩn tuệ vô học? Đáp: Trí chính kiến vô học. Hỏi: Thế nào là uẩn giải thoát vô học? Đáp: Tác ý vô học tương ưng với tâm, đã thắng giải, hiện đang thắng giải, sẽ thắng giải. Hỏi: Thế nào là uẩn giải thoát tri kiến vô học? Đáp: Tận trí và vô sinh trí. Hỏi: Uẩn tuệ vô học với uẩn giải thoát tri kiến vô học có gì sai biệt? Đáp: Khổ-tập trí vô học là uẩn tuệ vô học, diệt-đạo trí vô học là uẩn giải thoát tri kiến vô học. Lại nữa, khổ-tập-diệt trívô học là uẩn tuệ vô học. Đạo trí vô học là uẩn giải thoát tri kiến vô học. Lại nữa, khổ- tập-đạo trí vô học là uẩn tuệ vô học, diệt trí vô học là uẩn giải thoát tri kiến vô học. Đó gọi là sự sai biệt. Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Chỉ có một cứu cánh, không có cứu cánh nào khác. Trong này thì pháp nào gọi là cứu cánh? Đáp: Đức Thế Tôn có lúc đối với đạo thuyết về âm thanh cứu cánh, có lúc đối với đoạn thuyết về âm thanh cứu cánh. Đối với đạo, thuyết về âm thanh cứu cánh, như Đức Thế Tôn dạy: dạy: Một hạng người thông minh kiêu mạn, Không thể nào biết được cứu cánh, Vì thế người ấy không chứng đạo, Không khéo léo điều phục mà chết. Đối với đoạn thuyết về âm thanh cứu cánh, như Đức Thế Tôn Người đã đạt đến nơi cứu cánh, Không sợ hãi nghi ngờ hối hận, Vónh viễn rút ra mũi tên Hữu, Người ấy trú vào thân sau cuối. Đây chính là cứu cánh bậc nhất, Dấu tích của tónh lặng vô thượng, Dấu tích của thanh tịnh bất tử, Bởi vì các tướng đều xóa sạch. Lại như Khế kinh nói: Có một Phạm chí, tên Số Mục-liên, đi đến chỗ Phật, thưa hỏi Đức Phật: Kiều-đáp-ma tôn quý đã giáo huấn, truyền trao, răn dạy các Bí-sô v.v… Họ tiếp nhận giáo huấn rồi, đều có khả năng chứng được cõi Niết-bàn cứu cánh cao nhất không? Đức Thế Tôn bảo: Sự việc này không nhất định, cùng loại thì có thể chứng, không cùng loại thì không thể. Như Khế kinh nói: Phật bảo Bí-sô, có các ngoại đạo mặc dù cùng thiết lập đoạn trừ biết về các thủ, nhưng họ không có khả năng thiết lập đầy đủ, nghĩa là chỉ thiết lập đoạn trừ biết về dục thủ-kiến thủ-giới thủ-phi ngã ngữ thủ. Sự việc này có nghĩa gì? Có thuyết nói: Đây là Đức Thế Tôn thuyết pháp một cách tự nhiên, ngoại đạo kia không nên tạo ra thuyết này. Vì sao? Vì Đức Thế Tôn thuyết pháp, không phải hoàn toàn không có nhân, hoặc chỉ một ít nhân. Lại có thuyết nói: Lời nói ấy chứng tỏ ngoại đạo kia có đoạn phần ít, họ không nên nói như thế. Vì sao? Vì phàm phu cũng có khả năng đoạn trừ phần ít, vì ngã ngữ thủ. Tuy nhiên, Phật Thế Tôn đã vì các hàng trời-người và vô lượng đại chúng, thuyết giảng rộng về pháp yếu, khai thị không có trái ngược, khiến cho tùy loại đều được hiểu rõ. Có các ngoại đạo trộm nghe Đức Phật thuyết giảng các tên gọi về uẩn-giới-xứ- cái-niệm trụ, cho đến giác chi, hoặc có đầy đủ, hoặc không đầy đủ. Các ngoại đạo này nếu có nghe được tên gọi về dục thủ, bèn nói thế này: Ta cũng thiết lập đoạn biết về dục thủ. Nếu có người nghe được tên gọi về kiến thủ, liền nói thế này: Ta cũng thiết lập đoạn trừ biết kiến thủ. Nếu có người nghe được tên gọi về giới thủ liền nói thế này: Ta cũng thiết lập đoạn trừ biết về giới thủ. Như nhiều Bí-sô tập họp tại một chỗ, có các ngoại đạo đến nói thế này: Như Kiều-đáp-ma đã vì các đệ tử tuyên thuyết về pháp yếu, nghĩa là nói thế này: Bí-sô các ông nên đoạn trừ năm cái (ngăn che), Nnăm cái như vậy luôn luôn làm nhiễm ô tâm, khiến cho sức tuệ yếu kém, gây tổn hại phần giác, chướng ngại cho Niết-bàn. Đối với bốn niệm trụ nên khéo trụ tâm, đối với bảy giác chi phải siêng năng tu tập. Chúng tôi cũng có thể vì các đệ tử nói về pháp yếu này, thì pháp yếu Kiều-đáp-ma đã nói cùng với pháp yếu tôi nói đâu có khác biệt, mà sao các ông chỉ quay về với ông ấy vậy? Nhưng ngoại đạo kia, hãy còn không thể nào nhận biết về danh, tướng của năm cái, huống hồ có khả năng hiểu rõ ràng, trụ vào bốn niệm trụ, tu bảy giác chi? Như vậy vì nghe trộm lời Phật nói, nên đã tạo ra thuyết này; thiết lập đoạn trừ thủ, nên biết cũng như vậy. Lại, như ngoại đạo Ma-kiện-địa-ca không hiểu rõ thân mình là chỗ tích tập mọi thứ bệnh, sát na không dừng lại, chỉ có khổ-không-vô ngã, đi đến chỗ Phật, vỗ bụng mà nói: Nay thân này của tôi đã không có các bệnh tật, nên biết tức là Niết-bàn cứu cánh. Ngoại đạo kia hãy còn không biết danh tướng của không có bệnh, huống hồ có thể hiểu rõ ràng Niết-bàn cứu cánh. Nhưng vì nghe trộm lời Phật nói, nên đã tạo ra thuyết này, thiết lập đoạn trừ thủ, nên biết cũng như thế. Hỏi: Vì sao ngoại đạo chỉ có thiết lập đoạn trừ biết về ba thủ chứ không phải là ngã ngữ thủ? Đáp: Ngoại đạo kia trong đêm dài sinh tử, chấp có chân thật về ngã và hữu tình, thọ mạng, sinh ra, khả năng nuôi dưỡng, Bổ-đặc-già- la, ngoại đạo kia đã chấp là có chân thật. Hỏi: Chúng tôi thà rằng thiết lập đoạn trừ ngã ngữ thủ, nói cùng thiết lập đoạn trừ biết về các thủ. Lời nói này có nghĩa gì? Đáp: Là Phật, Thế Tôn tùy thuận ngôn thuyết của ngoại đạo, như Đức Thế Tôn nói: Các ngoại đạo kia thiết lập thật có hữu tình đoạn hoại. Nhưng dựa vào thắng nghĩa, thì không thật sự có hữu tình, chỉ tùy thuận lời nói của ngoại đạo mà tạo ra thuyết này, nghĩa này cũng như thế, nên không hề có lỗi. Như Khế kinh nói: Có hai biết khắp đó là trí biết khắp và đoạn biết khắp. Hỏi: Thế nào là trí biết khắp? Đáp: Các trí kiến sáng suốt, giác ngộ về hiện quán, đó gọi là Trí biết khắp. Hỏi: Thế nào là đoạn biết khắp? Đáp: Các tham vónh viễn đoạn trừ, giận-si vónh viễn đoạn trừ, hết thảy phiền não vónh viễn đoạn trừ, đó gọi là Đoạn biết khắp. Đức Thế Tôn có lúc đối với trí thuyết về âm thanh biết khắp, có lúc đối với đoạn, thuyết về âm thanh biết khắp. Đối với trí thuyết về âm thanh biết khắp, như kệ nói: Nho đồng tài đức luôn vắng lặng, Có thể lợi ích các thế gian, Có trí luôn luôn biết tất cả, Tham ái nảy sinh mọi khổ đau. Có trí lời nói theo việc làm, Không thực hiện không cần phải nói, Người trí thuận theo biết tất cả, Có lời nói mà không tạo tác. Đối với đoạn, thuyết về âm thanh biết khắp, như Khế kinh nói: Phật bảo Bí-sô: Ta sẽ vì các ông nói về những pháp biết khắp, tự tính biết khắp. Có thể biết , là những pháp biết khắp, gọi là năng thủ uẩn. Tự tính biết khắp, nghĩa là tham vónh viễn đoạn, giận-si vónh viễn đoạn, tất cả phiền não vónh viễn đoạn. Có thể biết khắp, nghĩa là bậc A-la-hán, các lậu vónh viễn không còn, không chấp Như Lai sau khi mất có những thân vị lai, không thuận theo pháp thọ ký. Hỏi: Quy y Phật, là quy y chốn nào? Đáp: Nếu pháp thật có, hiện có tưởng, bình đẳng tưởng, thiết lập ra ngôn thuyết, gọi là Phật-đà. Quy y hết thảy pháp vô học thành tựu quả vị Bồ đề, gọi là quy y Phật. Hỏi: Quy y Pháp, là quy y chốn nào? Đáp: Nếu pháp thật có, hiện có tưởng, tưởng bình đẳng, thiết lập ra ngôn thuyết, gọi là Đạt ma. Quy y như vậy thì ái tận lìa diệt là Niết- bàn, gọi là quy y Pháp. Hỏi: Quy y Tăng, là quy y chốn nào? Đáp: Nếu pháp thật có, hiện có tưởng, tưởng bình đẳng, thiết lập ra ngôn thuyết, gọi là Tăng già. Quy y tất cả pháp học và vô học trở thành Tăng già ấy, gọi là quy y Tăng. ----------------- <詞>Phẩm 5: BÀN VỀ VÔ TÀM Tâm-hai căn thiện và bất thiện, Trạo-hối-hôn trầm-thụy miên-mộng, Cái-vô minh-tùy miên-bất cọng, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Thế nào là vô tàm (Không hổ)? Đáp: Những loại không có hổ thẹn-không có gì hổ thẹn-không có hổ thẹn gì khác. Không có xấu hổ-không có gì xấu hổ-không có xấu hổ gì khác. Không có kính trọng, không có tính kính trọng, không có tự tại, không có tính tự tại. Đối với người tự tại, không chuyển biến sợ hãi. Đó gọi là vô tàm. Hỏi: Thế nào là vô quý (Không thẹn)? Đáp: những loại không có xấu hổ không có gì xấu hổ-không có xấu hổ gì khác. Không có nhục nhã-không có gì nhục nhã-không có nhục nhã gì khác. Ở trong các tội, không hề sợ hãi không thấy sợ hãi. Đó gọi là vô quý. Hỏi: Có sai biệt gì giữa vô tàm và vô quý? Đáp: Đối với người tự tại, không có chuyển biến sợ hãi, là vô tàm. Ở trong các tội, không cảm thấy sợ hãi là vô quý. Sai biệt là như thế. Hỏi: Thế nào là tàm? Đáp: Các thứ có hổ thẹn, có đối tượng được hổ, có hổ khác. Có xấu hổ, có đối tượng được xấu hổ, có xấu hổ khác. Có kính trọng, có tính kính trọng, có tự tại, có tính tự tại. Đối với người tự tại, có chuyển biến sợ hãi. Đó gọi là tàm. Hỏi: Thế nào là quý? Đáp: Những loại có xấu hổ-có những điều xấu hổ-có xấu hổ khác nhau. Có nhục nhã-có những điều nhục nhã- có nhục nhã khác nhau. Ở trong các tội, có sợ hãi, cảm thấy hết sức sợ hãi. Đó gọi là quý. Hỏi: Tàm và quý có gì sai biệt? Đáp: Đối với người tự tại, có chuyển biến sợ hãi là tàm. Ở trong các tội, cảm thấy sợ hãi hết sức, là quý. Sai biệt là như thế. Hỏi: Thế nào là căn bất thiện tăng thượng? Đáp: Các căn bất thiện, có thể đoạn trừ căn thiện và khi lìa xa dục nhiễm thì đầu tiên là rời bỏ căn bất thiện. Hỏi: Thế nào là căn bất thiện cùng hiện hành vi tế? Đáp: Các căn bất thiện, khi lìa xa dục nhiễm thì rời bỏ sau cùng, bởi vì rời bỏ dục nhiễm cho nên gọi là xa lìa dục nhiễm. Hỏi: Thế nào là căn thiện tăng thượng của cõi Dục? Đáp: Khi Bồ-tát nhập chính tính ly sinh, là đạt được trí thế tục hiện quán biên của cõi Dục; và khi Như Lai đạt được tận trí, là đạt được căn thiện vô tham, vô sân, vô si của cõi Dục. Hỏi: Thế nào là căn thiện cùng hiện hành vi tế? Đáp: Khi đoạn căn thiện, thì rời bỏ sau cùng, bởi vì rời bỏ căn thiện cho nên gọi là đoạn căn thiện. Hỏi: Các tâm quá khứ thì tâm đó có biến đổi hư hoại chăng? Đáp: Các tâm quá khứ thì tâm ấy đều biến đổi, hư hoại. Có tâm biến đổi hư hoại mà tâm ấy không phải quá khứ, nghĩa là tâm tương ưng với tham-giận ở hiện tại và vị lai. Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô các ông! Giả như bị giặc oán cưa xẻ thân mình, hoặc các chi tiết nơi thân, các ông ở vào tình trạng đó, tâm chớ biến đổi hư hoại, cũng nên phòng giữ miệng chớ thốt ra lời nói hung dữ. Nếu tâm biến đổi hư hoại và thốt ra lời nói ác, thì đối với điều mình đã mong cầu, sẽ gặp rất nhiều chướng ngại. Lại như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô các ông! Ở trong cảnh dục tuyệt vời, không nên khởi tâm biến đổi hư hoại. Hỏi: Các tâm nhiễm trước thì tâm ấy là biến đổi hư hoại chăng? Đáp: Các tâm nhiễm trước thì tâm ấy đều biến đổi hư hoại. Có tâm biến đổi hư hoại mà tâm ấy không phải là nhiễm trước, nghĩa là tâm không tương ưng với tham quá khứ, và tâm tương ưng với sân hiện tại-vị lai. Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô các ông! Giả như bị giặc oán… nói rộng cho đến… đối với điều mình đã mong cầu, sẽ gặp rất nhiều chướng ngại. Hỏi: Thế nào là trạo cử? Đáp: Các tâm không tónh lặng, không dừng lại, khinh suất, dao động, vội vã, tâm ý bồn chồn, tính tán động. Đó gọi là trạo cử. Hỏi: Thế nào là ố tác? Đáp: Các tâm nóng nảy, cháy bỏng, áo não, biến đổi, ghét việc đã làm, tâm theo đuổi, tính ăn năn. Đó gọi là ố tác. Hỏi: Các tâm có trạo cử thì tâm ấy tương ưng với ố tác chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có tâm có trạo cử mà không tương ưng với ố tác. nghĩa là không có tâm ố tác, có tính hấp tấp vội vàng. Có tâm có ố tác mà không tương ưng với trạo cử. nghĩa là không có tâm nhiễm ô, có tính ăn năn, hối tiếc. Có tâm có trạo cử mà cũng tương ưng với ố tác. nghĩa là tâm nhiễm ô, có tính ăn năn hối tiếc. Có tâm không có trạo cử mà cũng không tương ưng với ố tác. nghĩa là trừ các tướng ở trước. Hỏi: Thế nào là hôn trầm? Đáp: Những tính nặng nề của thân-tâm, thân không điều hòa nhu thuận, tâm không điều hòa, nhu thuận; thân-tâm mụ mẫm, rối loạn, phiền muộn; tâm mờ mịt, tính nặng nề. Đó gọi là hôn trầm. Hỏi: Thế nào là thụy miên? Đáp: Các tâm ham ngủ nghỉ mờ mịt yếu đuối mà chuyển đổi, tâm tính mê muội sơ suất. Đó gọi là thụy miên. Hỏi: Các tâm có hôn trầm thì tâm đó tương ưng với thụy miên chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có tâm có hôn trầm mà không tương ưng với thụy miên. nghĩa là không có tâm thụy miên mà có tính hôn trầm. Có tâm có thụy miên mà không tương ưng với hôn trầm. nghĩa là không có tâm nhiễm ô mà có tính thụy miên. Có tâm có hôn trầm mà cũng tương ưng với thụy miên. nghĩa là tâm nhiễm ô có tính thụy miên. Có tâm không có hôn trầm mà cũng không tương ưng với thụy miên. nghĩa là trừ các tướng ở trước. Hỏi: Thụy miên nên nói là thiện, bất thiện hay vô ký? Đáp: Thụy miên nên nói hoặc là thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Thế nào là thiện? nghĩa là tâm thiện nơi thụy miên mờ tối suy yếu mà chuyển, tâm tính mê muội sơ suất. Thế nào là bất thiện? nghĩa là tâm bất thiện nơi thụy miên, mờ tối suy yếu mà chuyển, tâm, tính mê muội sơ suất. Thế nào là vô ký? nghĩa là tâm vô ký nơi thụy miên mờ tối, suy yếu mà chuyển, tâm, tính mê muội sơ suất. Hỏi: Trong mộng nên nói là phước tăng trưởng, không phải phước tăng trưởng, hay không phải phước cũng không phải không cóphước tăng trưởng? Đáp: Trong mộng nên nói hoặc là phước tăng trưởng, hoặc không phải phước tăng trưởng, hoặc không phải phước cũng không phải không có phước tăng trưởng. Thế nào là phước tăng trưởng? nghĩa là như có bố thí, làm phước, thọ trì trai giới ở trong mộng, hoặc hành động khác, thuận theo một phước chuyển biến nối tiếp nhau. Thế nào là không phải phước tăng trưởng? Như trong mộng có hại sinh mạng, không cho mà lấy, vì dục mà tà hạnh, cố tình nói dối, uống các thứ rượu, hoặc phạm vào giới khác, thuận theo một điều không phải phước chuyển biến nối tiếp nhau. Thế nào là không phải phước cũng không phải không có phước tăng trưởng? Như trong mộng, có điều không phải phước, chẳng phải không có phước chuyển biến nối tiếp nhau. Hỏi: Mộng gọi cho pháp gì? Đáp: Đối với lúc thụy miên (ngủ), tâm-tâm sở pháp, chuyển biến theo những pháp đã duyên. Người kia, sau khi thức giấc tùy thuộc vào sự ghi nhớ, có thể nói cho người khác biết mình đã mộng thấy những sự việc như thế, như thế. Đó gọi là mộng. Như Khế kinh nói: Có năm cái (ngăn che). Thế thì năm Cái thâu tóm các Cái, hay các Cái thâu tóm năm Cái? Đáp: Các Cái thâu tóm năm Cái chứ không phải năm Cái thâu tóm các Cái. Hỏi: Không thâu tóm những gì? Đáp: nghĩa là Cái vô minh. Như Đức Thế Tôn nói: Cái vô minh đã che kín mít, Kiết ái đã trói buộc mọi nơi, Ngu và trí đều cảm nhận được, Như vậy là thân có nhận biết. Hỏi: Các Cái thì đó là che phải chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có Cái mà không phải là che lấp. nghĩa là năm Cái quá khứ-vị lai. Có che lấp mà không phải là Cái. nghĩa là trừ ra năm Cái, còn lại các phiền não khác hiện ở trước mắt. Có Cái cũng là che lấp. nghĩa là năm cái tùy thuộc một pháp hiện ở trước mắt. Không phải Cái cũng không phải che lấp. nghĩa là trừ cái tướng ở trước. Hỏi: Các tùy miên vô minh hệ thuộc cõi Dục, tất cả tùy miên, vô minh đó đều bất thiện chăng? Đáp: Các tùy miên vô minh bất thiện đều hệ thuộc cõi Dục. Có tùy miên vô minh hệ thuộc cõi Dục mà không phải bất thiện. nghĩa là có thân kiến, biên chấp kiến tương ưng với vô minh hệ thuộc cõi Dục. Hỏi: Các tùy miên vô minh hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc, tất cả tùy miên, vô minh đó đều vô ký chăng? Đáp: Các tùy miên vô minh hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc, đều là vô ký. Có tùy miên, vô minh vô ký nhưng không hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc, không phải vô ký. nghĩa là có thân kiến, biên chấp kiến hệ thuộc cõi Dục tương ưng với vô minh. Hỏi: Các tùy miên vô minh do kiến khổ-tập mà đoạn đều là biến hành chăng? Đáp: Các tùy miên vô minh biến hành này đều do kiến khổ-tập mà đoạn. Có tùy miên, vô minh do kiến khổ-tập đoạn nhưng không phải là biến hành, nghĩa là pháp do kiến khổ-tập đoạn trừ không phải là biến hành. Hỏi: Vô minh tương ưng với tùy miên, các tùy miên vô minh do kiến diệt-đạo đoạn, tùy miên vô minh đó đều không phải là biến hành chăng? Đáp: Các tùy miên vô minh do kiến diệt-đạo mà đoạn đều không phải là biến hành. Có tùy miên, vô minh không phải là biến hành cũng không phải do kiến diệt-đạo mà đoạn, nghĩa là tùy miên tương ưng với vô minh, không phải là biến hành do kiến khổ-tập mà đoạn. Hỏi: Thế nào là tùy miên vô minh bất cọng? Đáp: Các vô minh không hiểu rõ về khổ, không hiểu rõ về tập- diệt-đạo. Hỏi: Thế nào là triền, trạo cử bất cọng? Đáp: Không có triền, trạo cử bất cọng. ----------------- <詞>Phẩm 6: BÀN VỀ TƯỚNG Ba-ba tướng và khác nhau, Lão-tử-vô thường-nghiệp lực mạnh, Ba tướng cùng trong một sát na, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Pháp sắc sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là sắc hay không phải sắc? Đáp: Nên nói không phải là sắc. Hỏi: Pháp không phải là sắc sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là sắc hay không phải sắc? Đáp: Nên nói không phải là sắc. Hỏi: Pháp có thấy sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là có thấy hay không có thấy? Đáp: Nên nói là không có thấy. Hỏi: Pháp không có thấy sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là có thấy, hay không có thấy? Đáp: Nên nói là không có kiến. Hỏi: Pháp có đối sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là có đối hay không có đối? Đáp: Nên nói là không có đối. Hỏi: Pháp không có đối sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là có đối hay không có đối? Đáp: Nên nói là không có đối. Hỏi: Pháp hữa lậu sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là hữu lậu hay vô lậu? Đáp: Nên nói là hữa lậu. Hỏi: Pháp vô lậu sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là vô lậu hay hữu lậu? Đáp: Nên nói là vô lậu. Hỏi: Pháp hữu vi sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là hữu vi hay là vô vi? Đáp: Nên nói là hữu vi. Hỏi: Pháp vô vi sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là vô vi, hay là hữu vi? Đáp: Nên nói là pháp vô vi, không có sinh-trụ-lão-vô thường. Hỏi: Pháp quá khứ sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là quá khứ, hay vị lai-hiện tại? Đáp: Nên nói là quá khứ. Hỏi: Pháp vị lai sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là vị lai, hay quá khứ-hiện tại? Đáp: Nên nói là vị lai. Hỏi: Pháp hiện tại sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là hiện tại, hay quá khứ-vị lai? Đáp: Nên nói là hiện tại. Hỏi: Pháp thiện sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là thiện, hay bất thiện-vô ký? Đáp: Nên nói là thiện. Hỏi: Pháp bất thiện sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là bất thiện, hay thiện-vô ký? Đáp: Nên nói là bất thiện. Hỏi: Pháp vô ký sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là vô ký, hay thiện-bất thiện? Đáp: Nên nói là vô ký. Hỏi: Pháp hệ thuộc cõi Dục sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là hệ thuộc cõi Dục, hay hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc? Đáp: Nên nói là hệ thuộc cõi Dục. Hỏi: Pháp hệ thuộc cõi Sắc sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là hệ thuộc cõi Sắc, hay hệ thuộc cõi Dục, Vô sắc? Đáp: Nên nói là hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Pháp hệ thuộc cõi Vô sắc sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là hệ thuộc cõi Vô sắc, hay hệ thuộc cõi Dục, Sắc? Đáp: Nên nói là hệ thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Pháp học sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là học hay là vô học-phi học phi vô học? Đáp: Nên nói là học. Hỏi: Pháp vô học sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là vô học hay là học-phi học phi vô học? Đáp: Nên nói là vô học. Hỏi: Pháp phi học phi vô học sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là phi học phi vô học hay là học-vô học? Đáp: Nên nói là phi học phi vô học. Hỏi: Pháp do kiến mà đoạn sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là do kiến đoạn, do tu đoạn hay không đoạn? Đáp: Nên nói là do kiến đoạn. Hỏi: Pháp do tu mà đoạn sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là do tu đoạn, do kiến đoạn hay không đoạn? Đáp: Nên nói là do tu đoạn. Hỏi: Pháp không đoạn sinh-trụ-lão-vô thường, nên nói là không đoạn hay tu đoạn kiến đoạn? Đáp: Nên nói là không đoạn. Hỏi: Thế nào là lão (già)? Đáp: Các hành hướng đến tướng mạo trái với sự biến chuyển của dị thục. Đó gọi là lão (già). Hỏi: Thế nào là tử (chết)? Đáp: Tất cả hữu tình từ chúng đồng phần của mình mà dời đổi, hư mất, xả bỏ thọ mạng, mạng căn tàn lụi, diệt bỏ các uẩn, thân tiêu tan. Đó gọi là tử. Hỏi: Thế nào là vô thường? Đáp: Các hành tan hoại, sụp đổ, suy tàn, giảm sút. Đó gọi là vô thường. Hỏi: Tử và vô thường có gì sai biệt? Đáp: Mọi cái chết là vô thường. Có cái vô thường nhưng không phải là tử, nghĩa là trừ ra tử còn lại các hành diệt. Hỏi: Lực của nghiệp mạnh hay là lực của vô thường mạnh? Đáp: Lực của nghiệp mạnh chứ không phải lực của vô thường mạnh. Có thuyết nói: “Lực của vô thường mạnh chứ không phải lực của nghiệp Vì sao? Vì nghiệp cũng là vô thường”. Ở trong nghĩa này, lực của nghiệp mạnh chứ không phải lực của vô thường. Vì sao? Vì nghiệp có khả năng tiêu diệt hành của ba đời, còn vô thường chỉ tiêu diệt hành trong hiện tại. Như Đức Thế Tôn đã nói: Có ba tướng hữu vi của các pháp hữu vi, lúc pháp hữu vi dấy khởi cũng có thể biết rõ về tận và trụ-dị, cũng có thể biết rõ trong một sát na. Hỏi: Thế nào là khởi? Đáp: Là sinh. Hỏi: Thế nào là tận? Đáp: Là vô thường. Hỏi: Thế nào là trụ-dị? Đáp: Là lão. ----------------- <詞>Phẩm 7: BÀN VỀ nghĩa VÔ Không ý nghĩa-nghó đến vô tướng, Biết pháp luân-các lậu không còn, Nhiều ham muốn-biết đủ-vừa lòng, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Như Đức Thế Tôn nói: Tu những phương pháp khổ hạnh khác, Nên biết đều không có ý nghĩa, Không đạt được lợi ích an vui, Như khua mái chèo thuyền trên đất. Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói như thế này: Tu những pháp khổ hạnh đều không có ý nghĩa gì cả? Đáp: Hành kia hướng tới cái chết, gần cái chết và đến cái chết, không phải là tu khổ hạnh như thế thì có thể vượt lên trên cái cái chết được. Lại như Đức Thế Tôn nói: Ngồi kiết già, thân trang nghiêm nguyện chính đáng, trú trong ý niệm trước mặt. Hỏi: Sao gọi là trú trong ý niệm trước mặt? Đáp: Người tu hạnh quán, buộc sự nghó nhớ giữa chân mày, hoặc quán thi thể bầm đen hoặc quán thi thể sình trướng, hoặc quán máu mủ nát rữa, hoặc quán nứt rã hư hoại, hoặc quán màu đỏ khác lạ, hoặc quán bị chim thú ăn thịt, hoặc quán thân hình phân tán rời ra, hoặc quán xương trắng, hoặc quán khung xương còn lại. Những cách quán này gọi là trú trong ý niệm trước mặt. Lại như Đức Thế Tôn nói: Đại Mục-kiền-liên! Phạm thiên Để-sa không nói về trụ vô tướng thứ sáu ấy chăng? Hỏi: Sao gọi là trụ vô tướng thứ sáu ấy? Đáp: Tùy tín hành-tùy pháp hành, gọi là trụ vô tướng thứ sáu. Vì sao? Vì hai pháp này là vô tướng cho nên không thể an lập, không thể nêu bày ở chỗ này hay chỗ khác, hoặc Khổ pháp trí nhẫn, hoặc Khổ pháp trí, nói rộng cho đến hoặc Đạo loại trí nhẫn, vì vô tướng này không thể an lập, không thể nêu bày ở đây-ở kia, cho nên gọi là trụ vô tướng thứ sáu. Như Khế kinh nói: “Phật chuyển pháp luân, các Bí-sô như Kiều- trần-na v.v… thấy pháp, các Địa thần, Dược-xoa cất tiếng bày tỏ khắp nơi: Nay, ở vườn nai của Tiên nhân Bà-la-nê-tư, Đức Thế Tôn ba lần chuyển pháp luân, đủ mười hai tướng. Hỏi: Có phải Địa thần kia có hiểu biết đúng đắn kiến, biết Phật chuyển pháp luân, Bí-sô thấy pháp hay không? Đáp: Không phải. Hỏi: Địa thần kia làm sao biết? Đáp: Vì tin Đức Thế Tôn, tức là Phật khởi tâm thế tục: Ta chuyển pháp luân, Bí-sô thấy pháp. Vì vậy mà biết điều ấy. Hoặc Phật bảo người khác: Ta chuyển pháp luân, Bí-sô thấy pháp. Do đó Địa thần kia đã nghe được. Hoặc từ Đại đức- Thiên tiên mà nghe, hoặc các Tôn giả như Kiều-trần-na kia khởi tâm thế tục: Phật chuyển pháp luân, chúng ta thấy pháp. Vì vậy mà Địa thần kia biết được. Hoặc các vị ấy bảo với người khác, cho nên Địa thần đã nghe được. Lại như Khế kinh nói: “Có các Bí-sô đạt được A-la-hán, các lậu đã tận, chư Thiên cõi trời Ba Mươi Ba thường vân tập trong Thiện pháp đường, ca ngợi nói rõ ở nơi ấy, hoặc đệ tử kia cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục cà sa, chính tín xuất gia, siêng tu Thánh đạo, các lậu đã tận, chứng được tâm vô lậu, tuệ giải thoát, ở trong hiện pháp, có năng lực tự thông đạt, trụ chứng đầy đủ. Lại tự biết rõ: Đời sống của mình đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã hoàn thành, không còn thọ thân đời sau”. Hỏi: Vì chư Thiên kia có hiểu biết đúng đắn kiến, biết các Bí-sô đạt được A-la-hán, các lậu đã tận chăng? Đáp: Không phải. Hỏi: Làm sao họ biết? Đáp: Vì tin ở Đức Thế Tôn, tức là Đức Phật khởi tâm thế tục: Các Bí-sô này đạt được A-la-hán, các lậu đã tận. Vì vậy, chư Thiên kia biết. Hoặc là Phật bảo với người khác: Các Bí-sô này đạt được A-la-hán, các lậu đã tận. Vì vậy chư Thiên kia nghe được. Hoặc từ Đại đức-Thiên tiên mà nghe. Hoặc Tôn giả kia đã khởi tâm thế tục: Ta đã sạch hết lậu đạt được quả A-la-hán! Vì vậy, chư Thiên kia biết. Hoặc các vị kia nói với người khác, khiến chư Thiên được nghe. Như Khế kinh nói: “Ở nước Ma-yết-đà, các quan phụ tá hoặc là hóa pháp điều phục, hoặc là pháp tùy pháp hành”. Hỏi: Sao các quan kia gọi là hóa pháp điều phục, là pháp tùy pháp hành? Đáp: Nếu ở trong cõi trời mà thấy pháp, thì gọi là hóa pháp điều phục. Nếu ở cõi người mà thấy pháp thì gọi là pháp tùy pháp hành. Lại nữa, nếu người không vâng giữ giới mà thấy pháp, thì gọi là hóa pháp điều phục. Nếu thọ trì giới mà thấy pháp thì gọi là pháp tùy pháp hành. Hỏi: Thế nào là nhiều ham muốn? Đáp: Mọi ham muốn đã ham muốn và đang ham muốn, đó gọi là nhiều ham muốn. Hỏi: Thế nào là không biết đủ (hỷ túc)? Đáp: Những điều không vui, không cùng vui, không vui khắp, không ngừng vui, không đáng vui. Đó gọi là không biết đủ. Hỏi: Nhiều ham muốn và không biết đủ có sai biệt gì? Đáp: Đối với lúc chưa đạt được sắc-thanh-hương-vị-xúc đáng yêu, áo quần-ăn uống-giường ghế-thuốc thang, và những đồ dùng cung cấp cho cuộc sống, cùng các phương tiện để mong cầu, tìm tòi, đòi hỏi, tư duy, mến mộ. Đó gọi là nhiều ham muốn. Đối với đồ dùng cung cấp cho cuộc sống, đã được sắc-thanh- hương-vị-xúc đáng yêu, áo quần-ăn uống-giường ghế-thuốc thang, và những đồ dùng cung cấp cho cuộc sống, lại còn hy vọng nữa nhiều dục- ham muốn-ưa thích-mong cầu nhiều hơn. Đó gọi là không biết đủ. Sự sai biệt là như thế. Hỏi: Thế nào là ít ham muốn? Đáp: Mọi điều không ham muốn-không ngừng ham muốn-không đáng ham muốn. Đó gọi là ít ham muốn. Hỏi: Thế nào là biết đủ? Đáp: Những niềm vui, vui bình đẳng, vui khắp nơi-đã vui và đang vui. Đó gọi là biết đủ. Hỏi: Ít ham muốn và biết đủ có sai biệt gì? Đáp: Đối với lúc chưa đạt được sắc-thanh-hương-vị-xúc đáng yêu, áo quần-ăn uống-giường ghế-thuốc thang, và những đồ dùng cung cấp cho cuộc sống, cũng không hy vọng, không mong cầu, không tìm kiếm, không đòi hỏi, không nghó cách, không tạo phương tiện. Đó gọi là ít ham muốn. Đối với lúc đã được có sắc-thanh-hương-vị-xúc đáng yêu, áo quần- ăn uống-giường ghế-thuốc thang, và những đồ dùng cung cấp cho cuộc sống, cũng không tiếp tục hy vọng, không tiếp tục mong muốn, không tiếp tục ưa thích, không tiếp tục theo đuổi. Đó gọi là biết đủ. Sự sai biệt là như thế. Hỏi: Thế nào là khó thỏa mãn? Đáp: Những người chú trọng đến ăn uống, ăn nhiều-ăn lắm vẫn không đủ, không phải một ít mà có thể cứu giúp. Đó gọi là khó thỏa mãn. Hỏi: Thế nào là khó nuôi nấng? Đáp: Những người ham ăn uống, rất ham ăn uống, ưa nhai nuốt, thích nếm-mút, lựa chọn mà ăn, lựa chọn mà ăn uống, không phải là người có thể cứu giúp. Đó gọi là khó nuôi nấng. Hỏi: Khó thỏa mãn và khó nuôi nấng có gì sai biệt? Đáp: Tức là như trước đã nói. Đó gọi là sự sai biệt. Hỏi: Thế nào là dễ thỏa mãn? Đáp: Những người không chú trọng đến ăn uống, không tham ăn nhiều, không ăn thô lỗ, ít mà vẫn có thể cứu giúp được. Đó gọi là dễ thỏa mãn. Hỏi: Thế nào là dễ nuôi nấng? Đáp: Những người không tham ăn uống, không đắm trong ăn uống, không thích nếm thử, không lựa chọn mà ăn uống tùy thuận, đi đến đâu cũng có thể cứu giúp được. Đó gọi là dễ nuôi nấng. Hỏi: Dễ thỏa mãn và dễ nuôi nấng có sai biệt gì? Đáp: Tức là như trước đã nói. Đó gọi là sự sai biệt. ------------------ <詞>Phẩm 8: BÀN VỀ TƯ Tư-tầm-trạo cử đều khác nhau, Ngu si-hiểu biết-kiêu mạn-hại, Nhiều hạnh-căn tính và các tà, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Thế nào là tư? Đáp: Đối với những điều tư duy-tư duy bình đẳng-tư duy tăng lên, tính tư duy-chủng loại tư duy, tâm hành ý nghiệp. Đó gọi là tư. Hỏi: Thế nào là lự? Đáp: Đối với những điều suy nghó-suy nghó bình đẳng-suy nghó tăng lên, tùy theo mức độ tính toán quán sát. Đó gọi là lự. Hỏi: Tư và lự có khác biệt gì? Đáp: Tư là nghiệp, lự là tuệ. Đó gọi là sự sai biệt. Hỏi: Thế nào là tầm? Đáp: Những tâm tìm tòi phân biệt biểu hiện rõ ràng, suy tính quán sát phương pháp tạo thành, tính phân biêt-chủng loại phân biệt. Đó gọi là tầm. Hỏi: Thế nào là tứ? Đáp: Những tâm tìm tòi suy xét, vừa hành động vừa chuyển đổi, vừa lưu chuyển vừa tùy thuộc. Đó gọi là tứ. Hỏi: Tầm và tứ có sai biệt gì? Đáp: tính thô của tâm gọi là tầm, tính vi tế của tâm gọi là tứ. Đó gọi là sự sai biệt. Hỏi: Thế nào là trạo cử? Đáp: Những tâm không vắng lặng, không dừng lại, dao động không ngừng vội vã hấp tấp tâm tính tán động. Đó gọi là trạo cử. Hỏi: Thế nào là tâm loạn? Đáp: Những tâm tán loạn trôi nổi bềnh bồng không dừng lại, tính không phải ở một cảnh. Đó gọi là tâm loạn. Hỏi: Trạo cử với tâm loạn có sai biệt gì? Đáp: Tướng không tónh lặng gọi là trạo cử, tướng không phải ở một cảnh gọi là tâm loạn. Đó gọi là sự sai biệt. Hỏi: Thế nào là vô minh? Đáp: Không có trí nhận thức đối với ba cõi. Hỏi: Thế nào là không biết đúng? Đáp: Tuệ bị dẫn dắt theo phi lý. Hỏi: Ông nói không biết đúng là tuệ bị dẫn dắt phi lý chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Ý ông thế nào? Đối với người có hiểu biết đúng đắn mà nói dối, họ đều lạc mất ý niệm không hiểu biết đúng đắn mà nói dối chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nhưng ý ông thế nào? Không có biết đúng đắn mà nói dối chăng? Đáp: Không phải như thế, nên nghe tôi nói: Nếu nói không hiểu biết đúng đắn là tuệ bị dẫn dắt phi lý thì đối với người có hiểu biết đúng đắn mà nói dối, đều vì lạc mất ý niệm, không biết đúng đắn mà nên nói dối thì nên nói là không có hiểu biết đúng đắn mà nói dối. Nếu không nói là không có hiểu biết đúng đắn mà nói dối, thì không nên nói là không hiểu biết đúng đắn là tuệ bị dẫn dắt phi lý. Những người có hiểu biết đúng đắn mà nói dối, những người ấy đều vì lạc mất ý niệm không biết đúng đắn không hiểu biết đúng đắn mà nói dối. Dấy lên nói như thế, đều không hợp lý. Nên hỏi vặn về điều ấy. Các vô minh đều tương ưng với hiểu biết đúng đắn chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Ý ông thế nào? Những người có hiểu biết đúng đắn mà nói dối, đều hướng đến vô minh, bị vô minh ràng buộc, vì lạc mất ý niệm không hiểu biết đúng đắn mà nói dối chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nhưng ý ông thế nào? Không có hiểu biết đúng đắn mà nói dối chăng? Đáp: Không phải như vậy. Ông hãy nghe tôi nói: Nếu nói tất cả vô minh đều tương ưng với không hiểu biết đúng đắn, thì những người có hiểu biết đúng đắn mà nói dối, đều thuộc về vô minh, bị vô minh ràng buộc. Vì lạc mất ý niệm, không hiểu biết đúng đắn, mà nói dối thì nên nói là không có hiểu biết đúng đắn mà nói dối. Nếu không nói là không có hiểu biết đúng đắn mà nói dối, thì không nên nói là tất cả vô minh đều tương ưng với không hiểu biết đúng đắn. Những người có hiểu biết đúng đắn mà nói dối, thì đều hướng đến vô minh, bị ràng buộc do vô minh, vì lạc mất ý niệm không hiểu biết đúng đắn mà nói dối. Dấy lên nói như thế, cũng không hợp lý. Hỏi: Thế nào là kiêu? Đáp: Những tâm lý kiêu hãnh, mê say, rất buồn bực khó chịu, tâm kiêu ngạo buông thả, tự chấp lấy. Đó gọi là kiêu. Hỏi: Thế nào là mạn? Đáp: Những tâm lý ngạo mạn-đã ngạo mạn-đang ngạo mạn, tâm ỷ lại và tự chấp lấy. Đó gọi là mạn. Hỏi: Kiêu với mạn có gì sai biệt? Đáp: Nếu không trái với người khác, mà chấp vào pháp mình, tâm với tướng ngạo nghễ phóng dật, gọi là kiêu. Nếu trái với người khác, tướng cậy thế vào mình, gọi là mạn. Đó gọi là sự sai biệt. Hỏi: Nếu khởi tăng thượng mạn, ta thấy khổ là khổ, hoặc thấy tập là tập, thì mạn này duyên vào gì? Đáp: Như có người thân cận bậc thiện só, lắng nghe chính pháp, tác ý như lý, do nhân duyên này đạt được đế thuận với pháp nhẫn. Khổ hiện quán biên, là đối với khổ nhẫn, vui hiểu rõ là khổ. Tập hiện quán biên, là đối với tập nhẫn, vui hiểu rõ là tập. Người ấy do nhẫn này cho nên tác ý gìn giữ, hoặc do trung gian không tác ý, cho nên kiến nghi không hiện hành. Giả như hiện hành mà không biết thì dấy lên ý niệm này: Ta đối với khổ thấy là khổ, hoặc đối với tập thấy là tập. Do đó khởi mạn, đã mạn và đang mạn, tâm ỷ lại và tự chấp lấy, gọi là tăng thượng mạn. Mạn này chính là duyên khổ, hoặc chính là duyên và tập. Hỏi: Nếu khởi tăng thượng mạn; ta thấy diệt là diệt, hoặc thấy đạo là đạo, thì mạn này duyên vào chỗ nào? Đáp: Như có người thân cận bậc thiện só, lắng nghe chính pháp, tác ý như lý, do nhân duyên ấy đạt được đế thuận với pháp nhẫn. Diệt hiện quán biên, là đối với diệt, nhẫn vui hiểu rõ là diệt. Đạo hiện quán biên, là đối với đạo, nhẫn vui hiểu rõ là đạo. Người kia do nhẫn này, cho nên tác ý gìn giữ, hoặc do trung gian không tác ý cho nên kiến-nghi không hiện hành. Giả như hiện hành mà không biết, liền dấy lên ý niệm này: Ta đối với diệt thấy là diệt, hoặc đối với đạo thấy là đạo. Vì vậy khởi mạn, đã mạn, và đang mạn, tâm ỷ lại và tự chấp lấy, gọi là tăng thượng mạn. Mạn này chính là duyên nơi tâm-tâm sở pháp kia. Hỏi: Nếu khởi tăng thượng mạn; sự sinh của ta đã hết thì mạn này duyên vào gì? Đáp: Như có một người dấy lên nghó rằng: Đây là đạo, đây là hành, ta dựa vào đạo này, hành này, đã biết tất cả khổ, đã vónh viễn đoạn tập, đã chứng diệt, đã tu đạo, sự sinh của ta đã hết. Vì thế khởi mạn, đã ngạo mạn, và đang ngạo mạn, tâm ỷ lại và tự chấp lấy, gọi là tăng thượng mạn. Mạn này chính là duyên vào sinh. Hỏi: Nếu khởi tăng thượng mạn; phạm hạnh ta đã lập, thì mạn này duyên vào gì? Đáp: Như có người dấy lên nghó rằng: Đây là đạo, đây là hành, ta dựa vào đạo này, hành này, đã biết tất cả khổ, đã vónh viễn đoạn tập, đã chứng diệt, đã tu đạo, phạm hạnh ta đã lập. Vì vậy mà khởi mạn, đã ngạo mạn, và đang ngạo mạn, tâm ỷ lại và tự chấp lấy, gọi là tăng thượng mạn. Mạn này chính là duyên vào tâm-tâm sở pháp kia. Hỏi: Nếu khởi tăng thượng mạn; việc cần làm ta đã làm xong, thì mạn này duyên vào pháp nào? Đáp: Như có một người dấy lên nghó rằng: Đây là đạo, đây là hành, ta dựa vào đạo này, hành này, đã biết tất cả khổ, đã vónh viễn đoạn tập, đã chứng diệt, đã tu đạo. Ta đã đoạn trừ tùy miên, đã dứt mọi phiền não, đã rời bỏ kiết, đã không còn lậu, việc đã làm xong. Vì vậy mà khởi mạn, đã ngạo mạn, và đang ngạo mạn, tâm ỷ lại và tự chấp lấy, gọi là tăng thượng mạn. Mạn này chính là duyên nơi tâm-tâm sở pháp kia. Hỏi: Nếu khởi tăng thượng mạn, ta không thọ nhận thân sau, thì mạn này duyên vào pháp nào? Đáp: Như có một người dấy lên nghó rằng: Đây là đạo, đây là hành, ta dựa vào đạo này, hành này, đã biết tất cả khổ, đã vónh viễn đoạn tập, đã chứng diệt, đã tu đạo. Sự sinh của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc đã làm xong, không thọ nhận thân sau. Vì thế khởi mạn, đã ngạo mạn, và đang ngạo mạn, tâm ỷ lại và tự chấp lấy, gọi là tăng thượng mạn. Mạn này chính là duyên vào hữu. Hỏi: Thế nào là tự cho thấp kém mà khởi mạn? Đáp: Như có một người thấy người khác hơn hẳn mình về dòng họ, chủng tính, của cải, địa vị, tài năng và ruộng vườn v.v… mà dấy lên nghó rằng: Người kia hơn ta một ít, ta chỉ thua họ một ít. Nhưng thật sự thua kém người khác nhiều gấp trăm ngàn lần. Vì thế khởi mạn, đã ngạo mạn, và đang ngạo mạn, tâm ỷ lại và tự chấp lấy. Đó gọi là tự cho thấp kém mà khởi mạn. Như Khế kinh nói: Nếu dấy khởi tầm dục-tầm giận dữ, tầm hại, hoặc hại mình-hại người khác, hoặc cùng tổn hại. Hỏi: Thế nào là tầm dục hại mình? Đáp: Như có một người vì khởi tham nên bị ràng buộc, thân tâm vất vả, thân tâm nung đốt, thân tâm nóng bức, thân tâm cháy bỏng. Lại bởi vì duyên này, cho nên nhận chịu các quả dị thục không ái, không vui, không mừng, không hài lòng trong cõi sinh tử. Tự hại mình là như thế. Hỏi: Thế nào là tầm dục hại người khác? Đáp: Như có một người vì khởi tham nên bị ràng buộc ngắm nhìn vợ người khác, chồng người ta thấy rồi, tâm sinh giận dữ, oán hận buồn rầu. Như thế là hại người khác. Hỏi: Thế nào là tầm dục cả hai tổn cùng hại? Đáp: Như có một người vì khởi tham nên bị ràng buộc, chiếm đoạt làm nhục vợ người khác, chồng người ta biết rồi bắt trói lại, đánh đập vợ mình và người kia, cả hai đều bị đoạn mạng, hoặc đoạt lấy của báu. Như thế là cả hai cùng tổn hại. Hỏi: Thế nào là tầm giận dữ tự hại? Đáp: Có người vì khởi sân giận nên bị ràng buộc, thân tâm vất vả, thân tâm nung đốt, thân tâm nóng bức, thân tâm cháy bỏng. Lại bởi vì duyên này cho nên phải nhận chịu các quả dị thục không ái, không vui, không mừng, không vừa lòng trong cõi sinh tử. Tự hại mình là như thế. Hỏi: Thế nào là tầm giận dữ hại người khác? Đáp: Như có một người vì dấy lên sân giận nên bị ràng buộc, làm hại mạng người khác. Như thế là hại người khác. Hỏi: Thế nào là tầm giận dữ cả hai cùng tổn hại? Đáp: Như có một người vì dấy lên sân giận nên bị ràng buộc làm hại mạng người khác, cũng lại bị người khác làm hại mạng mình. Như thế là cả hai cùng tổn hại. Hỏi: Thế nào là tầm hại hại mình? Đáp: Như có một người vì dấy lên sự tổn hại nên bị ràng buộc, thân tâm vất vả, thân tâm nung đốt, thân tâm nóng bức, thân tâm cháy bỏng. Lại bởi vì duyên này cho nên phải nhận chịu các quả dị thục không ái, không vui, không mừng, không vừa lòng trong cõi sinh tử. Hại mình là như thế. Hỏi: Thế nào là tầm hại làm hại người khác? Đáp: Như có một người vì dấy lên sự tổn hại nên bị ràng buộc, đánh đập bức hiếp người khác. Như thế là hại người khác. Hỏi: Thế nào là tầm hại cả hai cùng tổn hại? Đáp: Như có một người vì dấy lên sự tổn hại nên bị ràng buộc, đánh đập bức hiếp người khác, cũng lại bị người khác bức hiếp, đánh đập. Như thế là cả hai cùng tổn hại. Hỏi: Trí nhiều hay là cảnh nhiều? Đáp: Cảnh nhiều chứ không phải trí. Vì sao? Vì trí cũng là cảnh. Hỏi: Trí nhiều hay là thức nhiều? Đáp: Thức nhiều chứ không phải trí. Vì sao? Vì các trí đều tương ưng với thức, không phải các thức đều tương ưng với trí. Nhẫn tương ưng với thức, chứ không tương ưng với trí. Hỏi: Hạnh hữu lậu nhiều hay hạnh vô lậu nhiều? Đáp: Hạnh hữu lậu nhiều chứ không phải hạnh vô lậu. Vì sao? Vì hạnh hữu lậu thâu tóm mười xứ và phần ít hai xứ, hạnh vô lậu chỉ thâu tóm phần ít của hai xứ. Hỏi: Thế nào là hạnh viên mãn? Đáp: Thân luật nghi-ngữ luật nghi vô học, mạng thanh tịnh. Hỏi: Thế nào là hộ viên mãn? Đáp: Luật nghi của căn vô học. Hỏi: Thế nào là tính phàm phu? Đáp: Nếu đối với pháp Thánh, noãn Thánh, kiến Thánh, nhẫn Thánh, dục Thánh, tuệ Thánh, những điều đó không đạt được-đã không đạt được-sẽ không đạt được, đó gọi tính phàm phu. Hỏi: tính phàm phu này nên nói là thiện-bất thiện, hay là vô ký? Đáp: Nên nói là vô ký. Hỏi: Vì sao tính phàm phu không phải là thiện? Đáp: Pháp thiện, hoặc do gia hạnh cho nên đạt được, hoặc do duyên khác cho nên đạt được, không thiết lập gia hạnh để mong cầu làm phàm phu. Lại nữa, khi đoạn căn thiện thì pháp thiện đều xả, đạt được tính chẳng thành tựu của các pháp thiện. Nếu tính phàm phu là tính thiện, thì người đoạn căn thiện sẽ không phải là phàm phu. Hỏi: Vì sao tính phàm phu không phải là bất thiện? Đáp: Vì khi xa lìa dục nhiễm thì pháp bất thiện đều bỏ, đạt được tính chẳng thành tựu của pháp bất thiện. Nếu tính phàm phu là bất thiện, thì các phàm phu đã lìa dục nhiễm, sẽ không phải là phàm phu. Hỏi: tính phàm phu này nên nói là hệ thuộc cõi Dục, hệ thuộc cõi Sắc hay hệ thuộc cõi Vô sắc? Đáp: Nên nói hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc hệ thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Vì sao tính phàm phu không phải chỉ hệ thuộc cõi Dục? Đáp: Khi mất ở cõi Dục sinh vào cõi Vô sắc, thì pháp của cõi Dục đều bỏ, đạt được tính chẳng thành tựu của pháp cõi Dục. Nếu tính phàm phu chỉ hệ thuộc cõi Dục ấy, thì các phàm phu mất ở cõi Dục sinh vào cõi Vô sắc, sẽ không phải là phàm phu. Hỏi: Vì sao tính phàm phu không phải chỉ hệ thuộc cõi Sắc? Đáp: Khi mất ở cõi Sắc sinh cõi Vô sắc, pháp cõi Sắc đều bỏ, đạt được pháp cõi Sắc với tính chẳng thể thành tựu. Nếu tính phàm phu chỉ hệ thuộc cõi Sắc, thì các phàm phu mất ở cõi Sắc sinh vào cõi Vô sắc, sẽ không phải là phàm phu. Hỏi: Vì sao tính phàm phu không chỉ hệ thuộc cõi Vô sắc? Đáp: Nhập chính tính ly sinh, trước tiện hiện quán khổ cõi Dục, sau kết hợp hiện quán khổ cõi Sắc-Vô sắc. Thánh đạo dấy khởi trước tiện lo liệu xong sự cõi Dục, sau kết hợp lo liệu xong sự cõi Sắc-Vô sắc. Vì vậy tính phàm phu không chỉ hệ thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: tính phàm phu này nên nói là do kiến đoạn, hay là do tu đoạn? Đáp: Nên nói là do tu đoạn. Hỏi: Vì sao tính phàm phu không phải do kiến đoạn? Đáp: Pháp do kiến đoạn đều nhiễm ô, mà tính phàm phu không nhiễm ô. Lại, pháp Thế đệ nhất đang diệt, khổ pháp trí nhẫn đang sinh. Bấy giờ, bỏ tính phàm phu của ba cõi, đạt được tính chẳng thành tựu kia, không phải là vào lúc ấy mà pháp do kiến đoạn có xả bỏ. Hỏi: tính phàm phu gọi là pháp gì? Đáp: Ba cõi không nhiễm ô, tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Các pháp tương ưng với tà kiến, pháp đó tương ưng với tà tư duy chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có pháp tương ưng với tà kiến nhưng không phải là tà tư duy. nghĩa là tà tư duy tương ưng với tà kiến, và tà tư duy khác không tương ưng với pháp tương ưng của tà kiến. Có pháp tương ưng với tà tư duy nhưng không phải là tà kiến. nghĩa là tà tư duy tương ưng với tà kiến, và tà kiến còn lại không tương ưng với pháp tương ưng của tà tư duy. Có pháp tương ưng với tà kiến mà cũng là tà tư duy. nghĩa là trừ ra tà kiến tương ưng với tà tư duy, và trừ ra tà tư duy tương ưng với tà kiến, còn lại các tà kiến và tà tư duy tương ưng với pháp. Có pháp không tương ưng với tà kiến mà cũng không phải là tà tư duy. nghĩa là tà kiến không tương ưng với tà tư duy, tà tư duy không tương ưng với tà kiến, và còn lại các tâm-tâm sở pháp và sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Các pháp tương ưng với tà kiến, pháp đó tương ưng với tà tinh tiến chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có pháp tương ưng với tà kiến, nhưng không phải là tà tinh tiến. nghĩa là tà kiến tương ưng với tà tinh tiến. Có pháp tương ưng với tà tinh tiến nhưng không phải là tà kiến. nghĩa là tà kiến và tà kiến khác không tương ưng với pháp tương ưng của tà tinh tiến. Có pháp tương ưng với tà kiến mà cũng là tà tinh tiến. nghĩa là trừ ra tà kiến tương ưng với tà tinh tiến, còn lại các pháp tương ưng với tà kiến khác. Có pháp không tương ưng với tà kiến mà cũng không phải là tà tinh tiến. nghĩa là tà kiến không tương ưng với tà tinh tiến, và còn lại các tâm-tâm sở pháp cùng sắc vô vi-tâm bất tương ưng hành. Như dùng tà kiến đối với tà tinh tiến, dùng tà kiến đối với tà niệm- tà định cũng thế. Như dùng tà kiến đối với tà tinh tiến, tà niệm-tà định, dùng tà tư duy đối với tà tinh tiến-tà niệm-tà định cũng thế. Hỏi: Các pháp tương ưng với tà tinh tiến, pháp đó tương ưng với tà niệm chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có pháp tương ưng với tà tinh tiến mà không phải là tà niệm, gọi là tà niệm. Có pháp tương ưng với tà niệm mà không phải là tà tinh tiến, gọi là tà tinh tiến. Có pháp tương ưng với tà tinh tiến mà cũng phải là tà niệm, nghĩa là pháp tương ưng với tà niệm và tà tinh tiến. Có pháp không tương ưng với tà tinh tiến, cũng không phải là tà niệm. nghĩa là còn lại các tâm-tâm sở pháp và sắc-vô vi-tâm bất tương ưng hành. Như dùng tà tinh tiến đối với tà niệm, dùng tà tinh tiến đối với tà định cũng thế. Như dùng tà tinh tiến đối với tà niệm, tà định, dùng tà niệm đối với tà định cũng vậy.  <卷>QUYỂN 3 <章>Chương 2: KIẾT UẨN <詞>Phẩm 1: BÀN VỀ PHÁP BẤT THIỆN nghi. Ba kiết cùng các tính-dị thục Đoạn-kiến-hữu hệ thuộc vào căn, Là thuộc về đầy đủ thành duyên, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Có ba kiết, gọi là kiết hữu thân kiến, kiết giới cấm thủ và kiết Ba căn bất thiện là căn bất thiện tham, căn bất thiện sân và căn bất thiện si. Ba lậu là dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Bốn bộc lưu là bộc lưu dục, bộc lưu hữu, bộc lưu kiến và bộc lưu vô minh. Bốn ách là ách dục, ách hữu, ách kiến và ách vô minh. Bốn thủ là dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã ngữ thủ. Bốn trói buộc thân là tham dục trói buộc thân, giận dữ trói buộc thân, giới cấm thủ trói buộc thân và chấp thật hữu thân này trói buộc thân. Năm cái là cái tham dục, cái giận dữ, cái hôn trầm-thụy miên, cái trạo cữ ố tác và cái nghi. Năm kiết là kiết tham, kiết giận, kiết mạn, kiết ganh tị và kiết keo kiệt. Năm kiết thuận phần dưới là kiết tham dục thuận phần dưới, kiết giận dữ thuận phần dưới, kiết hữu thân kiến thuận phần dưới và kiết giới cấm thủ thuận phần dưới, kiết nghi thuận phần dưới. Năm kiết thuận phần trên là kiết tham sắc thuận phần trên, kiết tham vô sắc thuận phần trên, kiết trạo cử thuận phần trên, kiết mạn thuận phần trên, kiết vô minh thuận phần trên. Năm kiến là hữu thân kiến, biên chấp kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ. Sáu ái thân là ái thân do mắt tiếp xúc sinh ra, ái thân do tai-mũi- lưỡi-thân-ý chạm xúc sinh ra. Bảy tùy miên là tùy miên dục tham, tùy miên giận dữ, tùy miên hữu tham, tùy miên mạn, tùy miên vô minh, tùy miên kiến và tùy miên nghi. Chín kiết, là kiết ái, kiết giận dữ, kiết mạn, kiết vô minh, kiết kiến, kiết thủ, kiết nghi, kiết ganh tị và kiết keo kiệt. Chín mươi tám tùy miên là ba mươi sáu tùy miên hệ thuộc cõi Dục. Hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc đều có ba mươi mốt tùy miên. Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu bất thiện, bao nhiêu vô ký? Đáp: Trong ba kiết là một vô ký, hai cần phân biệt; đó là kiết nghi và kiết giới cấm thủ, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Ở cõi Dục là bất thiện, ở cõi Sắc-Vô sắc là vô ký. Ba căn bất thiện chỉ là bất thiện. Trong ba lậu là một vô ký, hai cần phân biệt; đó là dục lậu, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Vô tàm-vô quý và tương ưng với chúng, là bất thiện. Pháp còn lại là vô ký. Vô minh lậu hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Tương ưng với vô tàm-vô quý là bất thiện, pháp còn lại là vô ký. Trong bốn bộc lưu có một vô ký, ba cần phân biệt; đó bộc lưu dục, hoặc bất thiện, hoặc vô ký, vô tàm-vô quý và pháp tương ưng với chúng đều là bất thiện, pháp còn lại là vô ký. Bộc lưu kiến hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ba kiến thuộc cõi Dục là bất thiện. Hai kiến thuộc cõi Dục, năm kiến thuộc cõi Sắc-Vô sắc là vô ký. Bộc lưu vô minh hoặc bất thiện, hoặc vô ký, tương ưng với vô tàm-vô quý là bất thiện, pháp còn lại là vô ký. Như bốn bộc lưu, bốn ách cũng vậy. Trong bốn thủ có một vô ký, ba cần phân biệt đó là dục thủ bất thiện, hoặc vô ký. Vô tàm-vô quý và tương ưng với chúng là bất thiện, pháp còn lại là vô ký. Kiến thủ hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Hai kiến thuộc cõi Dục là bất thiện. Hai kiến thuộc cõi Dục, bốn kiến thuộc cõi Sắc-Vô sắc là vô ký. Giới cấm thủ hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Thuộc cõi Dục là bất thiện, thuộc cõi Sắc -Vô sắc là vô ký. Trong bốn trói buộc thân có hai bất thiện, hai cần phân biệt; đó là giới cấm thủ, sự trói buộc thân vì chấp thật hữu thân, ở cõi Dục là bất thiện, thuộc cõi Sắc -Vô sắc là vô ký. Năm cái chỉ là bất thiện. Trong năm kiết có ba bất thiện, hai cần phân biệt; đó là kiết tham-kiết mạn, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở cõi Dục là bất thiện, thuộc ở cõi Sắc-Vô sắc là vô ký. Năm kiết thuận phần dưới có hai bất thiện, một vô ký, hai cần phân biệt; đó là kiết giới cấm thủ-kiết nghi, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở cõi Dục là bất thiện. Ở cõi Sắc -Vô sắc là vô ký. Năm kiết thuận phần trên chỉ là vô ký. Trong năm kiến có hai là vô ký, ba cần phân biệt; đó là tà kiến, kiến thủ, kiến giới cấm thủ, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở cõi Dục là bất thiện, thuộc cõi Sắc -Vô sắc là vô ký. Hai bất thiện trong sáu ái thân có hai bất thiện, bốn cần phân biệt đó là ái thân sinh ra do mắt-tai-thân tiếp xúc, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở cõi Dục là bất thiện, ở cõi Phạm thế là vô ký. Ý tiếp xúc sinh ra ái thân, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở cõi Dục là bất thiện, ở cõi Sắc- Vô sắc là vô ký. Trong bảy tùy miên có hai bất thiện, một vô ký, bốn cần phân biệt; đó là tùy miên mạn-nghi, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở cõi Dục là bất thiện, ở cõi Sắc-Vô sắc là vô ký. Tùy miên vô minh hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Tương ưng với vô tàm-vô quý là bất thiện, pháp còn lại là vô ký. Tùy miên kiến, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ba kiến thuộc cõi Dục là bất thiện. Hai kiến thuộc cõi Dục, năm kiến thuộc cõi Sắc -Vô sắc là vô ký. Trong chín kiết có ba bất thiện, sáu cần phân biệt; đó là kiết ái-mạn-thủ-nghi, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở cõi Dục là bất thiện, ở cõi Sắc -Vô sắc là vô ký. Kiết vô minh hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Tương ưng với vô tàm- vô quý là bất thiện, pháp còn lại là vô ký. Kiết kiến hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Một kiến thuộc cõi Dục là bất thiện, hai kiến thuộc cõi Dục, ba kiến thuộc cõi Sắc -Vô sắc là vô ký. Trong chín mươi tám tùy miên có ba mươi ba bất thiện, sáu mươi bốn vô ký, một cần phân biệt; đó là tùy miên vô minh, thuộc cõi Dục do kiến khổ mà đoạn, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Tương ưng với vô tàm- vô quý là bất thiện, pháp còn lại là vô ký. Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, bao nhiêu là có dị thục, bao nhiêu là không có dị thục? Đáp: Các bất thiện thì có dị thục, các vô ký thì không có dị thục. Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu do kiến mà đoạn, bao nhiêu do tu mà đoạn? Đáp: Trong ba kiết thì kiết hữu thân kiến, kiến là hành đi trước, có hai trường hợp: Hoặc do kiến mà đoạn, hoặc do kiến tu mà đoạn. Nếu hữu thân kiến hệ thuộc Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tùy tín-tùy pháp hành, hiện quán biên khổ nhẫn đoạn thì do kiến mà đoạn. Ngoài ra, nếu phàm phu đoạn do tu mà đoạn, thì đệ tử của Thế Tôn đoạn do kiến mà đoạn. Như kiết hữu thân kiến-kiết hữu thân kiến trong năm kiết thuận phần dưới, hữu thân kiến, biên chấp kiến trong năm kiến cũng vậy. Kiết giới cấm thủ-kiết nghi-kiến là hành đi trước, có hai trường hợp: Hoặc do kiến mà đoạn, hoặc do kiến tu đoạn. Nếu giới cấm thủ- nghi hệ thuộc Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thì tùy tín-tùy pháp hành, hiện quán biên và các nhẫn đoạn, là do kiến mà đoạn. Ngoài ra nếu phàm phu đoạn do tu mà đoạn, thì đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn do kiến mà đoạn. Như kiết giới cấm thủ-kiết nghi; bộc lưu kiến và ách kiến trong bốn bộc lưu-bốn ách; kiến thủ-giới cấm thủ trong bốn thủ; giới cấm thủ-trói buộc vì chấp thật có thân này trong bốn trói buộc thân; kiết giới cấm thủ và kiết nghi trong năm kiết thuận phần dưới; tà kiến-kiến thủ và giới cấm thủ trong năm kiến; kiến-nghi tùy miên trong bảy tùy miên; kiến-thủ và nghi trong chín kiết, cũng như vậy. Căn bất thiện tham, lấy tu làm hạnh dẫn đầu, có hai trường hợp: Hoặc do tu mà đoạn, hoặc do kiến tu mà đoạn. Nếu căn bất thiện tham, học kiến tích các trí đoạn do tu mà đoạn. Ngoài ra, nếu phàm phu đoạn do tu mà đoạn, thì đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn, là do kiến mà đoạn. Như căn bất thiện tham, căn bất thiện sân-si; dục lậu trong ba lậu, dục ách-dục bộc lưu trong bốn bộc lưu và bốn ách; dục thủ trong bốn thủ; tham sục-sân giận trói buộc thân trong bốn trói buộc thân; trừ ra ố tác- nghi còn lại các cái trong năm cái; kiết. Kiết giận dữ trong năm kiết; kiết tham dục-giận dữ, trong năm kiết thuận phần dưới; tùy miên tham dục, tùy miên giận dữ trong bảy tùy miên, kiết giận dữ trong chín kiết, cũng như vậy. Hữu lậu-vô minh lậu, kiến là hành dẫn đầu, có ba trường hợp: Hoặc do kiến mà đoạn, hoặc do tu mà đoạn, hoặc do kiến- tu mà đoạn. Nếu hữu lậu-vô minh lậu hệ thuộc Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tùy tín-tùy pháp hành, hiện quán biên các nhẫn đoạn, thì do kiến mà đoạn. Nếu hữu lậu-vô minh lậu, học kiến tích các trí đoạn, thì do tu mà đoạn. Ngoài ra, nếu phàm phu đoạn thì do tu mà đoạn, đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn thì do kiến mà đoạn. Như hữu lậu-vô minh lậu, hữu-vô minh bộc lưu-ách trong bốn bộc lưu-bốn ách ngã ngữ thủ trong bốn thủ, kiết tham-mạn trong năm kiết; ý tiếp xúc sinh ra ái thân trong sáu ái thân; tùy miên hữu tham-mạn-vô minh, trong bảy tùy miên; kiết ái mạn-vô minh trong chín kiết, cũng như vậy. Cái ố tác do tu mà đoạn. Như cái ố tác; kiết ganh tị-kiết keo kiệt trong năm kiết; năm kiết thuận phần trên, năm ái thân trước trong sáu ái thân; kiết ganh tị-kiết keo kiệt trong chín kiết, cũng như vậy. Cái nghi, nếu phàm phu đoạn thì do tu mà đoạn, đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn thì do kiến mà đoạn. Trong chín mươi tám tùy miên có hai mươi tám loại do kiến mà đoạn, mười loại do tu đoạn; số tùy miên còn lại, nếu là phàm phu đoạn thì do tu mà đoạn, đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn thì do kiến mà đoạn. Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu loại do kiến khổ mà đoạn, cho đến có bao nhiêu loại do tu mà đoạn? Đáp: Trong ba kiết thì kiết hữu thân kiến do kiến khổ mà đoạn. Như kiết hữu thân kiến; kiết hữu thân kiến trong năm kiết thuận phần dưới. Hữu thân kiến và biên chấp kiến trong năm kiến, cũng như vậy. Kiết giới cấm thủ có hai loại: Hoặc do kiến khổ mà đoạn, hoặc do kiến đạo mà đoạn. Như kiết giới cấm thủ; giới cấm thủ trong bốn thủ; giới cấm thủ trói buộc thân trong bốn trói buộc thân; kiết giới cấm thủ trong năm kiết thuận phần dưới; giới cấm thủ trong năm kiến cũng như vậy. Kiết nghi có bốn loại: Hoặc do kiến khổ mà đoạn, cho đến hoặc do kiến đạo mà đoạn. Như kiết nghi; ách-bộc lưu kiến trong bốn ách và bốn bộc lưu; kiến thủ trong bốn thủ; cái nghi trong năm cái; trói buộc thân do chấp thân này thật có trong bốn trói buộc thân, kiết nghi trong năm kiết thuận phần dưới, tà kiến, kiến thủ trong năm kiến, tùy miên nghi-kiến trong bảy tùy miên; kiết nghi-kiết kiến- thủ trong chín kiết cũng như vậy. Ba căn bất thiện có năm loại: Hoặc do kiến khổ mà đoạn, cho đến hoặc do tu mà đoạn. Như ba căn bất thiện; ba lậu và trừ ra kiến còn lại các bộc ách trong bốn bộc lưu-bốn ách; dục thủ ngã ngữ thủ trong bốn thủ, trói buộc thân do tham dục, giận dữ trong bốn trói buộc thân; trừ ra ố tác-nghi còn lại các cái trong năm cái; kiết tham-giận-mạn trong năm kiết; kiết tham dục-giận dữ trong năm kiết thuận phần dưới; ý tiếp xúc sinh ra ái thân trong sáu ái thân; trừ ra kiến-nghi còn lại các tùy miên trong bảy tùy miên; kiết vô minh-ái-giận dữ-mạn trong chín kiết, cũng như vậy. Cái ố tác do tu mà đoạn. Như cái ố tác, kiết ganh tị-kiết keo kiệt trong năm kiết; năm kiết thuận phần trên, năm ái thân trước trong sáu ái thân, kiết ganh tị-kiết keo kiệt trong chín kiết, cũng như vậy. Trong chín mươi tám tùy miên có hai mươi tám loại do kiến khổ mà đoạn, mười chín loại do kiến tập mà đoạn, mười chín loại do kiến diệt mà đoạn, hai mươi hai loại do kiến đạo mà đoạn, mười loại do tu mà đoạn. Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu kiến, bao nhiêu phi kiến? Đáp: Trong ba kiết có hai kiến, một phi kiến. Ba căn bất thiện đều là phi kiến. Trong ba lậu có một phi kiến, hai loại cần phân biệt, đó là dục lậu: Hoặc kiến, hoặc phi kiến. Năm kiến thuộc cõi Dục là kiến, còn lại là phi kiến. Hữu lậu hoặc kiến, hoặc phi kiến. Năm kiến của cõi Sắc-Vô sắc là kiến, còn lại là phi kiến. Trong bốn bộc lưu và bốn ách có một kiến, ba phi kiến. Trong bốn thứ và bốn trói buộc thân đều có hai kiến, hai phi kiến. Năm cái và năm kiết đều là phi kiến. Trong năm kiết thuận phần dưới có hai kiến, ba phi kiến. Năm kiết thuận phần trên đều là phi kiến. Năm kiến đều là kiến. Sáu ái thân đều là phi kiến. Trong bảy tùy miên có một kiến và sáu phi kiến. Trong chín kiến có hai kiến và bảy phi kiến. Trong chín mươi tám tùy miên có ba mươi sáu loại là kiến, sáu mươi hai loại là phi kiến. Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, bao nhiêu loại có tầm-có tứ? Bao nhiêu loại không có tầm, chỉ có tứ? Bao nhiêu loại không có tầm-không có tứ? Đáp: Ba kiết hệ thuộc ba loại. Ba căn bất thiện và dục lậu là có tầm có tứ. Hữu lậu-vô minh lậu, trừ ra dục bộc lưu ách-thủ, còn lại các bộc-ách-thủ hệ thuộc ba loại. Dục bộc lưu-ách và dục thủ là có tầm-có tứ. Ba thủ còn lại cùng ba trói buộc thân là có tầm có tứ. Hai trói buộc thân còn lại hệ thuộc ba loại. Năm cái và ba kiết có tầm-có tứ. Hai kiết còn lại và ba kiết thuận phần dưới hệ thuộc ba loại. Hai kiết thuận phần dưới còn lại có tầm-có tứ. Trong năm kiết thuận phần trên; tham vô sắc là không có tầm-không có tứ. Bốn kiết thuận phần trên còn lại, cùng với năm kiến gồm đủ ba loại. Năm ái thân trước và tùy miên tham dục-giận dữ thì có tầm-có tứ. Ái thân thứ sáu và năm tùy miên còn lại gồm đủ ba loại. Kiết giận dữ, kiết ganh tị-kiết keo kiệt trong chín kiết là có tầm-có tứ. Sáu kiết còn lại hệ thuộc ba loại. Trong chín mươi tám loại tùy miên; ba mươi sáu thứ thuộc cõi Dục là có tầm-có tứ. Ba mươi mốt loại thuộc cõi Sắc hệ thuộc ba loại. Ba mươi mốt loại thuộc cõi Vô sắc thì không có tầm- không có tứ. Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu tương ưng với lạc căn, bao nhiêu tương ưng với khổ căn-hỷ căn-ưu căn-xả căn? Đáp: Trong ba kiết, kiết hữu thân kiến và kiết giới cấm thủ tương ưng với ba căn, trừ khổ căn-ưu căn. Kiết nghi tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Căn bất thiện tham tương ưng với ba căn, trừ khổ căn-ưu căn. Căn bất thiện sân tương ưng với ba căn, trừ lạc căn-hỷ căn. Trong ba căn bất thiện, căn bất thiện si và dục lậu, vô minh lậu tương ưng với năm căn; hữu lậu tương ưng với ba căn trừ khổ căn-ưu căn. Trong bốn bộc lưu-bốn ách, dục và vô minh bộc lưu-ách tương ưng với năm căn. Ách-bộc lưu hữu tương ưng với ba căn, trừ khổ căn-ưu căn. Ách-bộc lưu kiến tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Dục thủ trong bốn thủ tương ưng với năm căn. Kiến thủ tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Giới cấm thủ và ngã ngữ thủ tương ưng với ba căn, trừ khổ căn-ưu căn. Trói buộc thân do giận dữ tương ưng với ba căn, trừ lạc căn-hỷ căn. Ba trói buộc thân còn lại và cái tham dục tương ưng với ba căn, trừ khổ căn-ưu căn. Cái giận dữ tương ưng với ba căn, trừ lạc căn-hỷ căn. Cái hôn trầm- trạo cử tương ưng với năm căn. Cái thụy miên tương ưng với ba căn, trừ lạc căn-khổ căn. Cái nghi-ố tác tương ưng với hai căn, là ưu căn và xả căn. Kiết tham-mạn trong năm kiết tương ưng với ba căn, trừ khổ căn- ưu căn. Kiết giận dữ tương ưng với ba căn, trừ lạc căn-hỷ căn. Kiết ganh tị tương ưng với hai căn là ưu căn-xả căn. Kiết keo kiệt tương ưng với hai căn, là hỷ căn và xả căn. Kiết giận dữ trong năm kiết thuận phần dưới tương ưng với ba căn, trừ lạc căn-hỷ căn. Kiết nghi tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Ba kiết còn lại tương ưng với ba căn, trừ khổ căn-ưu căn. Kiết tham vô sắc trong năm kiết thuận phần trên tương ưng với một căn là xả căn. Bốn kiết còn lại và bốn kiến tương ưng với ba căn, trừ khổ căn-ưu căn. Tà kiến tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Năm ái thân trước trong sáu ái thân tương ưng với hai căn, là lạc căn và xả căn. Ái thân thứ sáu và tùy miên dục-hữu tham-mạn tương ưng với ba căn, trừ khổ căn-ưu căn. Tùy miên giận dữ tương ưng với ba căn, trừ lạc căn-hỷ căn. Tùy miên nghi-kiến tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Tùy miên vô minh tương ưng với năm căn. Kiết ái, mạn, thủ trong chín kiết tương ưng với ba căn, trừ khổ căn-ưu căn. Kiết giận dữ tương ưng với ba căn, trừ lạc căn-hỷ căn. Kiết vô minh tương ưng với năm căn. Kiết nghi-kiến, tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Kiết ganh tị tương ưng với hai căn, là ưu căn và xả căn. Kiết keo kiệt tương ưng với hai căn, là hỷ căn và xả căn. Trong chín mươi tám tùy miên bốn kiến mạn của cõi Dục và tham do kiến mà đoạn tương ưng với hai căn, là hỷ căn và xả căn. Nghi và giận dữ, do kiến mà đoạn, tương ưng với hai căn, là ưu căn và xả căn. Tà kiến và vô minh, do kiến mà đoạn, tương ưng với ba căn, trừ lạc căn-khổ căn. Tham do tu mà đoạn tương ưng với ba căn, trừ khổ căn-ưu căn. Sân tương ưng với ba căn, trừ lạc căn-hỷ căn. Vô minh tương ưng với năm căn. Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Sắc tương ưng với ba căn, trừ ưu căn-khổ căn. Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Vô sắc tương ưng với một căn là xả căn. Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu loại hệ thuộc cõi Dục, bao nhiêu loại hệ thuộc cõi Sắc, bao nhiêu loại hệ thuộc cõi Vô sắc? Đáp: Ba kiết hệ thuộc ba cõi. Ba căn bất thiện và dục lậu hệ thuộc cõi Dục. Hữu lậu có hai cõi, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc hệ thuộc cõi Vô sắc. Vô minh lậu hệ thuộc ba cõi. Dục bộc lưu-ách và dục thủ hệ thuộc cõi Dục. Hữu bộc lưu-ách và ngã ngữ thủ hệ thuộc hai cõi; hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc hệ thuộc cõi Vô sắc. Ách-bộc lưu còn lại và hai thủ còn lại hệ thuộc ba cõi. Tham dục-giận dữ trong bốn thứ trói buộc thân và năm cái hệ thuộc cõi Dục. Hai thứ trói buộc thân còn lại hệ thuộc ba cõi. Tham-mạn trong năm kiết và ba kiết thuận phần dưới hệ thuộc ba cõi. Ba kiết còn lại và tham dục-giận dữ trong kiết thuận phần dưới hệ thuộc cõi Dục. Tham sắc trong năm kiết thuận phần trên hệ thuộc cõi Sắc, tham vô sắc hệ thuộc cõi Vô sắc. Ba kiết còn lại hệ thuộc hai cõi; hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc hệ thuộc cõi Vô sắc. Năm kiến và ái thân thứ sáu hệ thuộc ba cõi. Ái thân sinh ra do sự tiếp xúc của mắt-tai-thân hệ thuộc hai cõi; hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc. Sự tiếp xúc của mũi-lưỡi sinh ra ái thân hệ thuộc cõi Dục. Dục tham-giận dữ trong bảy tùy miên hệ thuộc cõi Dục. Hữu tham hệ thuộc hai cõi; hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc hệ thuộc cõi Vô sắc. Các tùy miên còn lại hệ thuộc ba cõi. Kiến giận dữ, kiết ganh tị-kiết keo kiệt trong chín kiết hệ thuộc cõi Dục. Các kiết còn lại hệ thuộc ba cõi. Trong chín mươi tám tùy miên ba mươi sáu loại hệ thuộc cõi Dục, ba mươi mốt loại hệ thuộc cõi Sắc, ba mươi mốt loại hệ thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Các kiết rơi vào cõi Dục thì kiết đó thuộc về cõi Dục chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có kiết rơi vào cõi Dục thì kiết đó không thuộc về cõi Dục. Ng- hóa là bị triền ràng buộc, mất ở cõi Sắc, trung hữu cõi Dục dấy khởi ác ma ở cõi Phạm thế, vì bị triền ràng buộc, nên trách chống Như Lai. Có kiết ở cõi Dục, kiết đó không rơi vào cõi Dục. nghĩa là bị triền ràng buộc, mất ở cõi Dục, trung hữu cõi sắc dấy lên và trụ vào cõi Dục, kiết của cõi Sắc-Vô sắc hiện ở trước mắt. Có kiết rơi vào cõi Dục mà kiết ấy cũng ở cõi Dục. nghĩa là bị triền ràng buộc, mất ở cõi Dục, khởi hữu, sinh hữu thuộc cõi Dục và trụ về cõi Dục, kiết của cõi Dục hiện ở trước mắt. Có kiết không rơi vào cõi Dục mà kiết đó cũng không thuộc về cõi Dục. nghĩa là bị triền ràng buộc, mất ở cõi Sắc, sinh hữu-trung hữu cõi sắc dấy lên; mất ở cõi sắc sinh vào cõi Vô sắc, ở cõi Vô sắc mất, sinh vào cõi Vô sắc; mất ở cõi Vô sắc, sinh vào cõi Sắc và trụ vào cõi Sắc, kiết của cõi Sắc-Vô sắc hiện ở trước mắt. Trụ vào cõi Vô sắc, kiết của cõi Vô sắc hiện ở trước mắt. Hỏi: Các kiết rơi vào cõi Sắc thì kiết đó thuộc về cõi Sắc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có kiết rơi vào cõi Sắc mà kiết đó không thuộc về cõi Sắc. nghĩa là bị triền ràng buộc, mất ở cõi Dục, trung hữu cõi Sắc dấy khởi và trụ vào cõi Dục, kiết của cõi Sắc hiện ở trước mắt. Có kiết thuộc ở cõi Sắc mà kiết ấy không rơi vào cõi Sắc. nghĩa là bị triền ràng buộc, mất ở cõi Sắc, trung hữu cõi Dục dấy khởi và ác ma ở cõi Phạm thế, vì bị triền ràng buộc, nên trách chống Như Lai, và trụ vào cõi Sắc, kiết của cõi Vô sắc hiện ở trước trước. Có kiết rơi vào cõi Sắc mà kiết ấy cũng thuộc về cõi Sắc. nghĩa là bị triền ràng buộc, mất ở cõi Sắc, trung hữu và sinh hữu cõi Sắc dấy khởi trụ vào cõi Sắc, kiết của cõi Sắc hiện ở trước mắt. Có kiết không rơi vào cõi Sắc mà cũng không thuộc về cõi Sắc. nghĩa là bị triền ràng buộc, mất ở cõi Dục, trung hữu và sinh hữu cõi Dục dấy khởi, mất ở cõi Dục, sinh vào cõi Vô sắc, mất ở cõi Vô sắc, sinh vào cõi Vô sắc, mất vào cõi Vô sắc, sinh vào cõi Dục, và trụ ở cõi Dục, kiết của cõi Dục-vô sắc hiện ở trước mắt, trụ vào cõi Vô sắc thì kiết cõi Vô sắc hiện ở trước mắt. Hỏi: Các kiết rơi vào cõi Vô sắc thì kiết đó thuộc về cõi Vô sắc chăng? Đáp: Các kiết thuộc về cõi Vô sắc thì kiết ấy rơi vào cõi Vô sắc. Có kiết rơi vào cõi Vô sắc mà kiết đó không thuộc về cõi Vô sắc. nghĩa là trụ vào cõi Dục-Sắc mà kiết cõi Vô sắc hiện ở trước mắt. Hỏi: Các kiết không rơi vào cõi Dục thì kiết đó không thuộc về cõi Dục chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Ngược lại với điều đã trình bày trên, nên nhận biết. Hỏi: Các kiết không rơi vào cõi Sắc thì kiết đó không thuộc về cõi Sắc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Ngược lại với điều đã trình bày trên, nên nhận biết. Hỏi: Các kiết không rơi vào cõi Vô sắc thì kiết đó không thuộc về thuộc cõi Vô sắc chăng? Đáp: Đúng thế. Có kiết không thuộc về cõi Vô sắc mà kiết ấy đều rơi vào cõi Vô sắc. nghĩa là trụ vào cõi Dục, cõi Sắc, kiết của cõi Vô sắc hiện ở trước mắt. Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn đầy đủ các kiến mà các sắc chưa đoạn thì bị sắc kia trói buộc chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Giả sử bị sắc trói buộc thì sắc đó chưa đoạn chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Các thọ-tưởng-hành-thức chưa đoạn thì bị thọ-tưởng-hành- thức ấy trói buộc chăng? Đáp: Đúng thế. Có thọ-tưởng-hành-thức trói buộc, nhưng thọ- tưởng-hành-thức ấy không phải là chưa đoạn, gọi là gia gia, hoặc nhất lai, hoặc nhất gian. Cõi Dục do tu mà đoạn kiết thuộc phẩm trung thượng, đã đoạn biết khắp, nhưng thọ-tưởng-hành-thức tương ưng kia thuộc về kiết phẩm hạ. Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn đầy đủ các kiến mà các sắc đã đoạn thì sắc ấy lìa xa trói buộc chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Giả sử sắc lìa xa trói buộc thì sắc đó đã đoạn chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Các thọ-tưởng-hành-thức đã đoạn, thì thọ-tưởng-hành-thức ấy lìa xa trói buộc chăng? Đáp: Các thọ-tưởng-hành-thức lìa xa trói buộc, thì thọ-tưởng- hành-thức ấy đã đoạn. Có thọ-tưởng-hành-thức đã đoạn mà không phải là lìa xa trói buộc, gọi là gia gia, hoặc nhất lai, hoặc nhất gian. Cõi Dục do tu mà đoạn kiết thuộc phẩm trung-thượng, đã đoạn biết khắp, nhưng thọ-tưởng-hành-thức tương ưng kia thuộc về kiết phẩm hạ. Hỏi: Có năm Bổ-đặc-già-la; đó là tùy tín hành, tùy pháp hành, tín thắng giải, kiến chí, thân chứng. Năm Bổ-đặc-già-la này, đối với ba kiết, cho đến chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Đáp: Tùy tín hành, đối với ba kiết, khổ loại trí chưa và đã sinh đều thành tựu; khổ loại trí đã sinh có hai thành tựu, một không thành tựu. Đối với ba căn bất thiện, chưa lìa dục nhiễm đều thành tựu, đã lìa dục nhiễm đều không thành tựu. Đối với ba lậu, chưa lìa dục nhiễm đều thành tựu, đã lìa dục nhiễm có hai thành tựu, một không thành tựu. Đối với bốn ách-bộc lưu, thủ, chưa lìa dục nhiễm thì đều thành tựu, đã lìa dục nhiễm có ba thành tựu, một không thành tựu. Đối với bốn sự trói buộc thân, chưa lìa dục nhiễm đều thành tựu, đã lìa dục nhiễm có hai thành tựu, hai không thành tựu. Đối với năm cái, chưa lìa dục nhiễm, đạo pháp trí chưa và đã sinh đều thành tựu, đạo pháp trí đã sinh có bốn thành tựu, một không thành tựu. Đã lìa dục nhiễm đều không thành tựu. Đối với năm kiết, chưa lìa dục nhiễm đều thành tựu, đã lìa dục nhiễm có hai thành tựu, ba không thành tựu. Đối với năm kiết thuận phần dưới, chưa lìa dục nhiễm, khổ loại trí chưa và đã sinh đều thành tựu, khổ loại trí đã sinh có bốn thành tựu, một không thành tựu. Đã lìa dục nhiễm, khổ loại trí chưa và đã sinh có ba thành tựu, hai không thành tựu, khổ loại trí đã sinh có hai thành tựu, ba không thành tựu. Đối với năm kiết thuận phần trên, chưa lìa sắc nhiễm đều thành tựu. Đã lìa sắc nhiễm có bốn thành tựu, một không thành tựu. Đối với năm kiến, khổ loại trí chưa và đã sinh thì đều thành tựu, khổ loại trí đã sinh ba thành tựu, hai không thành tựu. Đối với sáu ái thân, chưa lìa dục nhiễm đều thành tựu; đã lìa dục nhiễm mà chưa lìa xa nhiễm của cõi Phạm thế có bốn thành tựu, hai không thành tựu; đã lìa xa nhiễm của cõi Phạm thế, thì có một thành tựu, năm không thành tựu. Đối với bảy tùy miên, chưa lìa dục nhiễm đều thành tựu, đã lìa dục nhiễm thì có năm thành tựu, hai không thành tựu. Đối với chín kiết, chưa lìa dục nhiễm đều thành tựu, đã lìa dục nhiễm thì có sáu thành tựu, ba không thành tựu. Đối với chín mươi tám tùy miên chưa lìa dục nhiễm, khổ pháp trí chưa và đã sinh đều thành tựu; khổ pháp trí đã sinh, khổ loại trí chưa và đã sinh, do kiến khổ mà đoạn thuộc cõi Dục đều không thành tựu, còn lại đều thành tựu. Khổ loại trí đã sinh mà tập pháp trí chưa và đã sinh, do kiến khổ mà đoạn thuộc ba cõi đều không thành tựu, còn lại đều thành tựu. Tập pháp trí đã sinh mà tập loại trí chưa và đã sinh, do kiến khổ mà đoạn thuộc ba cõi, và do kiến tập mà đoạn thuộc cõi Dục đều không thành tựu, còn lại đều thành tựu. Tập loại trí đã sinh, diệt pháp trí chưa và đã sinh, do kiến khổ-tập mà đoạn thuộc ba cõi đều không thành tựu, còn lại thì đều thành tựu. Diệt pháp trí đã sinh, diệt loại trí chưa và đã sinh, do kiến khổ-tập mà đoạn thuộc ba cõi và do kiến diệt mà đoạn thuộc cõi Dục đều không thành tựu, còn lại đều thành tựu. Diệt loại trí đã sinh, đạo pháp trí chưa và đã sinh, do kiến khổ-tập- diệt mà đoạn thuộc ba cõi đều không thành tựu, còn lại đều thành tựu. Đạo pháp trí đã sinh, do kiến khổ-tập-diệt mà đoạn nơi ba cõi, và do kiến đạo mà mà đoạn thuộc cõi Dục đều không thành tựu, còn lại đều thành tựu. Đã lìa dục nhiễm, chưa lìa sắc nhiễm, khổ loại trí chưa và đã sinh, thuộc cõi Dục tất cả không thành tựu, còn lại đều thành tựu. Khổ loại trí đã sinh mà tập loại trí chưa và đã sinh, tất cả thuộc cõi Dục và do kiến khổ mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc đều không thành tựu, còn lại đều thành tựu. Tập loại trí đã sinh, diệt loại trí chưa và đã sinh, tất cả thuộc cõi Dục và do kiến khổ-tập mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc đều không thành tựu, còn lại đều thành tựu. Diệt loại trí đã sinh, tất cả thuộc cõi Dục, do kiến khổ-tập-diệt, đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc đều không thành tựu, còn lại đều thành tựu. Đã lìa sắc nhiễm, khổ loại trí chưa và đã sinh, tất cả thuộc cõi Dục, Sắc đều không thành tựu, còn lại đều thành tựu. Diệt loại trí đã sinh mà tập loại trí chưa và đã sinh, tất cả thuộc cõi Dục và cõi Sắc-Vô sắc do kiến khổ mà đoạn đều không thành tựu, còn lại đều thành tựu. Tập loại trí đã sinh, diệt loại trí chưa và đã sinh, hết thảy thuộc cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc do kiến khổ-tập mà đoạn không thành tựu, còn lại đều thành tựu. Diệt loại trí đã sinh, hết thảy thuộc cõi Dục-cõi Sắc và cõi Vô sắc do kiến khổ-tập-diệt mà đoạn không thành tựu, còn lại đều thành tựu. Như tùy tín hành, tùy pháp hành cũng vậy. Tín thắng giải đối với ba kiết đều không thành tựu. Đối với ba căn bất thiện, chưa lìa dục nhiễm đều thành tựu, đã lìa dục nhiễm thì đều không thành tựu. Đối với ba lậu, chưa lìa dục nhiễm đều thành tựu, đã lìa dục nhiễm thì có hai thành tựu, một không thành tựu. Đối với bốn ách-bộc lưu, chưa lìa dục nhiễm có ba thành tựu, một không thành tựu; đã lìa dục nhiễm có hai thành tựu, hai không thành tựu. Đối với bốn thủ, chưa lìa dục nhiễm có hai thành tựu, hai không thành tựu; đã lìa dục nhiễm có một thành tựu, ba không thành tựu. Đối với bốn sự trói buộc thân, chưa lìa dục nhiễm có hai thành tựu, hai không thành tựu; đã lìa dục nhiễm đều không thành tựu. Đối với năm cái, chưa lìa dục nhiễm có bốn thành tựu, một không thành tựu; đã lìa dục nhiễm đều không thành tựu. Đối với năm kiết, chưa lìa dục nhiễm đều thành tựu, đã lìa dục nhiễm có hai thành tựu, ba không thành tựu. Đối với năm kiết thuận phần dưới, chưa lìa dục nhiễm có hai thành tựu, ba không thành tựu; đã lìa dục nhiễm đều không thành tựu. Đối với năm kiết thuận phần trên, chưa lìa sắc nhiễm đều thành tựu, đã lìa sắc nhiễm có bốn thành tựu, một không thành tựu. Đối với năm kiến đều không thành tựu. Đối với sáu ái thân, chưa lìa dục nhiễm đều thành tựu, đã lìa dục nhiễm, nhưng chưa lìa xa nhiễm của cõi Phạm thế thì có bốn thành tựu, hai không thành tựu. Đã lìa nhiễm của cõi Phạm thế thì có một thành tựu, năm không thành tựu. Đối với với bảy tùy miên, chưa lìa dục nhiễm có năm thành tựu, hai không thành tựu; đã lìa dục nhiễm có ba thành tựu, bốn không thành tựu. Đối với chín kiết, chưa lìa dục nhiễm có sáu thành tựu, ba không thành tựu; đã lìa dục nhiễm có ba thành tựu, sáu không thành tựu. Đối với chín mươi tám tùy miên, chưa lìa dục nhiễm thì có mười thành tựu, tám mươi tám không thành tựu. Đã lìa dục nhiễm, nhưng chưa lìa sắc nhiễm thì có sáu thành tựu, chín mươi hai không thành tựu. Đã lìa sắc nhiễm thì có ba thành tựu, chín mươi lăm không thành tựu. Như Tín thắng giải, Kiến chí cũng vậy. Thân chứng đối với ba kiết và ba căn bất thiện đều không thành tựu. tựu. Đối với ba lậu thì có hai thành tựu, một không thành tựu. Đối với bốn ách-bộc lưu thì có hai thành tựu, hai không thành Đối với bốn thủ thì có một thành tựu, ba không thành tựu. Đối với bốn sự trói buộc thân và năm cái đều không thành tựu. Đối với năm kiết thì có hai thành tựu, ba không thành tựu. Đối với năm kiết thuận phần dưới đều không thành tựu. Đối với năm kiết thuận phần trên thì có bốn thành tựu, một không thành tựu. Đối với năm kiến đều không thành tựu. Đối với sáu ái thân thì có một thành tựu, năm không thành tựu. Đối với bảy tùy miên thì có ba thành tựu, bốn không thành tựu. Đối với chín kiết thì có ba thành tựu, sáu không thành tựu. Đối với chín mươi tám tùy miên thì có ba thành tựu, chín mươi lăm không thành tựu. Hỏi: Hữu thân kiến với hữu thân kiến có bao nhiêu duyên? Hữu thân kiến với giới cấm thủ, cho đến tùy miên vô minh thuộc cõi Vô sắc do tu mà đoạn có bao nhiêu duyên? Cho đến tùy miên vô minh thuộc cõi Vô sắc do tu mà đoạn cùng với tùy miên vô minh thuộc cõi Vô sắc do tu mà đoạn, có bao nhiêu duyên? Tùy miên vô minh thuộc cõi Vô sắc do tu mà đoạn, cùng với hữu thân kiến, cho đến, cho đến tùy miên mạn thuộc cõi Vô sắc do tu mà đoạn có bao nhiêu duyên? Đáp: Hữu thân kiến với hữu thân kiến hoặc là bốn-ba-hai-một duyên. Thế nào là bốn? Như hữu thân kiến vô gián, khởi lên hữu thân kiến, tức là tư duy thuộc đời trước đó cùng với đời sau là bốn duyên. Thế nào là ba? Như hữu thân kiến vô gián, khởi lên hữu thân kiến, không tư duy về đời trước đó cùng với đời sau là ba duyên, trừ ra sở duyên. Hoặc hữu thân kiến vô gián khởi lên tâm khác, về sau khởi lên hữu thân kiến, tức là tư duy hữu về đời trước đó cùng với đời sau là ba duyên, trừ đẳng vô gián. Thế nào là hai? Như hữu thân kiến vô gián khởi lên tâm khác, về sau khởi lên hữu thân kiến, không tư duy hữu về đời trước đó cùng với đời sau là hai duyên, gọi là nhân tăng thượng. Thế nào là một? Như hữu thân kiến của đời sau, với hữu thân kiến của đời trước, nếu làm thành sở duyên là sở duyên tăng thượng, không làm thành sở duyên thì chỉ một tăng thượng. Hữu thân kiến vị lai với hữu thân kiến quá khứ-hiện tại, nếu làm thành sở được duyên là sở duyên tăng thượng, nếu không làm thành sở duyên thì chỉ một tăng thượng. Hữu thân kiến vị lai, hiện tại với hữu thân kiến quá khứ, nếu làm thành sở duyên là sở duyên tăng thượng, không làm thành sở duyên thì chỉ một tăng thượng. Hữu thân kiến thuộc cõi Dục với hữu thân kiến của cõi Sắc-Vô sắc là một tăng thượng. Hữu thân kiến thuộc cõi Sắc-Vô sắc với hữu thân kiến thuộc cõi Dục, nếu làm thành đẳng vô gián là đẳng vô gián tăng thượng, nếu không làm thành đẳng vô gián thì chỉ một tăng thượng. Hữu thân kiến thuộc cõi Sắc với hữu thân kiến thuộc cõi Vô sắc là một tăng thượng. Hữu thân kiến thuộc cõi Vô sắc với hữu thân kiến thuộc cõi Sắc, nếu làm thành đẳng vô gián là đẳng vô gián tăng thượng, không làm thành đẳng vô gián thì chỉ một tăng thượng. Như hữu thân kiến với hữu thân kiến; nên biết; hữu thân kiến cùng với tất cả không phải biến hành khác; tất cả không phải biến hành khác cùng với tất cả không phải biến hành, tất cả biến hành cùng với tất cả không phải biến hành cũng vậy. Hữu thân kiến với giới cấm thủ hoặc là bốn-ba-hai-một duyên. Thế nào là bốn? Như hữu thân kiến vô gián khởi lên giới cấm thủ, tức là tư duy về đời trước đó với đời sau là bốn duyên. Thế nào là ba? Hữu thân kiến vô gián khởi lên giới cấm thủ, không tư duy về đời trước đó và đời sau là ba duyên, trừ ra sở duyên. Hoặc hữu thân kiến vô gián khởi lên tâm khác, về sau khởi lên giới cấm thủ, tức là tư duy về đời trước kia với đời sau là ba duyên, trừ đẳng vô gián. Thế nào là hai? Như hữu thân kiến vô gián khởi lên tâm khác, về sau khởi lên giới cấm thủ, không tư duy về đời trước kia với đời sau là hai duyên, gọi là nhân tăng thượng. Thế nào là một? Về sau hữu thân kiến thuộc đời sau với giới cấm thủ thuộc đời trước, nếu làm thành sở duyên là sở duyên tăng thượng, không làm thành sở duyên thì chỉ một tăng thượng. Hữu thân kiến vị lai với giới cấm thủ của quá khứ-hiện tại, nếu làm thành sở duyên là sở duyên tăng thượng, không làm thành sở duyên thì chỉ một tăng thượng. Hữu thân kiến vị lai-hiện tại với giới cấm thủ của quá khứ, nếu làm thành sở duyên là sở duyên tăng thượng, không làm thành sở duyên thì chỉ một tăng thượng. Hữu thân kiến thuộc cõi Dục với giới cấm thủ thuộc cõi Sắc-Vô sắc, là một tăng thượng. Hữu thân kiến của cõi Sắc-Vô sắc với giới cấm thủ thuộc cõi Dục, nếu làm thành sở duyên không phải đẳng vô gián là sở duyên tăng thượng; nếu làm thành đẳng vô gián chứ không phải sở duyên,là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng. Nếu làm thành đẳng vô gián và sở duyên, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng, không làm thành đẳng vô gián và sở duyên thì chỉ một tăng thượng. Hữu thân kiến thuộc cõi Sắc cùng với giới cấm thủ của cõi Vô sắc là một tăng thượng. Hữu thân kiến thuộc cõi Vô sắc với giới cấm thủ thuộc cõi Sắc, nếu tạo sở duyên không phải đẳng vô gián, là sở duyên tăng thượng. Nếu làm thành đẳng vô gián chứ không phải sở duyên là đẳng vô gián tăng thượng. Nếu làm thành đẳng vô gián và sở duyên, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng, nếu không làm thành đẳng vô gián và sở duyên là một tăng thượng. Như hữu thân kiến cùng với giới cấm thủ, nên biết hữu thân kiến với tất cả biến hành khác; tất cả biến hành cùng với tất cả biến hành; tất cả chẳng phải biến hành khác với tất cả biến hành cũng vậy. ----------------- <詞>Phẩm 2: BÀN VỀ NHẤT HÀNH, Phần 1 Kiết, một hành trải qua sáu loại, Bảy tiểu-bảy đại thuộc về hữu, Dựa vào đạo biết khắp tất cả, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Có chín kiết, là kiết ái cho đến kiết keo kiệt. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết giận dữ trói buộc chăng? Đáp: Nếu đối với sự việc này, có kiết giận dữ trói buộc, thì chắc chắn có kiết ái trói buộc. Hoặc có kiết ái trói buộc mà không có kiết giận dữ trói buộc, nghĩa là đối với pháp cõi Sắc-Vô sắc có kiết ái chưa đoạn. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết mạn trói buộc chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Giả sử có kiết mạn trói buộc thì cũng có kiết ái trói buộc chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết vô minh trói buộc chăng? Đáp: Nếu đối với sự việc này có kiết ái trói buộc, thì chắc chắn có kiết vô minh trói buộc. Hoặc có kiết vô minh trói buộc mà không có kiết ái trói buộc, nghĩa là khổ trí đã sinh mà tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ mà đoạn, có kiết vô minh do kiến tập mà đoạn nhưng chưa đoạn. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết kiến trói buộc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Hoặc có kiết ái trói buộc mà không có kiết kiến trói buộc. nghĩa là tập trí đã sinh mà diệt trí chưa sinh, đối với pháp không tương ưng với kiết kiến do kiến diệt-đạo mà đoạn và đối với pháp do tu mà đoạn. Có kiết ái chưa đoạn, diệt trí đã sinh mà đạo trí chưa sinh, đối với pháp không tương ưng với kiết kiến do kiến đạo mà đoạn và đối với pháp do tu mà đoạn. Có kiết ái chưa đoạn, đệ tử của Đức Thế Tôn có đủ các kiến đối với pháp do tu mà đoạn, có kiết ái chưa đoạn. Hoặc có kiết kiến trói buộc mà không có kiết ái trói buộc. nghĩa là khổ trí đã sinh mà tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ mà đoạn, có kiết kiến do kiến tập mà đoạn còn chưa đoạn. Hoặc có hai kiết đều trói buộc. Đó là có đủ ràng buộc đối với pháp do kiến - tu mà đoạn, có hai kiết trói buộc. Khổ trí đã sinh mà tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến tập-diệt-đạo- tu mà đoạn có hai kiết trói buộc. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp tương ưng với kiết kiến do kiến diệt-đạo mà đoạn, có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp tương ưng với kiết kiến do kiến đạo mà đoạn, có hai kiết trói buộc. Hoặc có hai kiết đều không trói buộc. nghĩa là tập trí đã sinh mà diệt trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ- tập mà đoạn không có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh mà đạo trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ-tập-diệt mà đoạn, không có hai kiết trói buộc. Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ, đối với pháp do kiến mà đoạn, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa dục nhiễm, đối với pháp thuộc cõi Dục không có hai kiết trói buộc. Đã lìa sắc nhiễm, đối với pháp thuộc cõi Dục, Sắc, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa nhiễm vô sắc, đối với pháp của ba cõi không có hai kiết trói buộc. Như đối với kiết kiến, đối với kiết nghi cũng vậy. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết thủ trói buộc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Hoặc có kiết ái trói buộc mà không có kiết thủ trói buộc. nghĩa là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do tu mà đoạn có kiết ái chưa đoạn. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do tu mà đoạn có kiết ái chưa đoạn. Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ đối với pháp do tu mà đoạn, có kiết ái chưa đoạn. Hoặc có kiết thủ trói buộc mà không có kiết ái trói buộc, nghĩa là khổ trí đã sinh mà tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ mà đoạn, có kiết thủ do kiến tập mà đoạn còn chưa đoạn. Hoặc có hai kiết đều trói buộc. Đó là vốn có trói buộc đối với pháp do kiến tu mà đoạn có hai kiết trói buộc. Khổ trí đã sinh mà tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến tập-diệt-đạo, tu mà đoạn, có hai kiết trói buộc. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do kiến diệt- đạo mà đoạn, có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do kiến đạo mà đoạn, có hai kiết trói buộc. Hoặc có hai kiết đều không trói buộc: Tức là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ-tập mà đoạn không có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ-tập-diệt mà đoạn, không có hai kiết trói buộc. Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ đối với pháp do kiến mà đoạn, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa dục nhiễm, đối với pháp thuộc cõi Dục không có hai kiết trói buộc. Đã lìa sắc nhiễm, đối với pháp của thuộc Dục-Sắc, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa vô sắc nhiễm, đối với pháp của ba cõi, không có hai kiết trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết ganh tị trói buộc chăng? Đáp: Nếu đối với sự việc này, có kiết ganh tị trói buộc, chắc chắn có kiết ái trói buộc. Hoặc có kiết ái trói buộc mà không có kiết ganh tị trói buộc. nghĩa là đối với pháp do kiến mà đoạn thuộc cõi Dục, và đối với pháp thuộc cõi Sắc-Vô sắc, có kiết ái chưa đoạn. Như đối với kiết ganh tị, đối với kiết keo kiệt cũng vậy. Như kiết ái đối với một hành dấy khởi sau đó, kiết mạn đối với một hành dấy khởi sau đó, cũng vậy. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết giận dữ trói buộc thì cũng có kiết mạn trói buộc chăng? Đáp: Nếu đối với sự việc này, có kiết giận dữ trói buộc, chắc chắn có kiết mạn trói buộc. Hoặc có kiết mạn trói buộc mà không có kiết giận dữ trói buộc. nghĩa là đối với pháp thuộc cõi Sắc-Vô sắc, có kiết mạn chưa đoạn. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết giận dữ trói buộc thì cũng có kiết vô minh trói buộc chăng? Đáp: Nếu đối với sự việc này, có kiết giận dữ trói buộc, chắc chắn có kiết vô minh trói buộc. Hoặc có kiết vô minh trói buộc mà không có kiết giận dữ trói buộc. nghĩa là chưa xa lìa dục nhiễm, khổ trí đã sinh mà tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ mà đoạn thuộc cõi Dục, có kiết vô minh do kiến tập mà đoạn còn chưa đoạn. Đối với pháp của cõi Sắc-Vô sắc, có kiết vô minh chưa đoạn. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết giận dữ trói buộc thì cũng có kiết kiến trói buộc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Hoặc có kiết giận dữ trói buộc mà không có kiết kiến trói buộc. nghĩa là chưa xa lìa dục nhiễm, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh. Đối với pháp không tương ưng với kiết kiến do kiến diệt-đạo mà đoạn thuộc cõi Dục và đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có kiết giận dữ chưa đoạn. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp không tương ưng với kiết kiến do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Dục, và đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có kiết giận dữ chưa đoạn. Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ chưa lìa dục nhiễm, đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có kiết giận dữ chưa đoạn. Hoặc có kiết kiến trói buộc mà không có kiết giận dữ trói buộc. nghĩa là chưa lìa dục nhiễm, khổ trí đã sinh mà tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ mà đoạn thuộc cõi Dục, có kiết kiến do kiến tập mà đoạn còn chưa đoạn. Đối với pháp thuộc cõi Sắc -Vô sắc, có kiết kiến chưa đoạn. Hoặc có hai kiết đều trói buộc. Gọi là vốn có trói buộc. Đối với pháp do kiến tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có hai kiết trói buộc. Chưa lìa dục nhiễm, khổ trí đã sinh mà tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến, tập, diệt-đạo tu mà đoạn của cõi Dục, có hai kiết trói buộc. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp tương ưng với kiết kiến do kiến diệt-đạo mà đoạn thuộc cõi Dục, có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp tương ưng với kiết kiến do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Dục, có hai kiết trói buộc. Hoặc có hai kiết đều không trói buộc. nghĩa là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ, tập mà đoạn và đối với pháp không tương ưng với kiết kiến do kiến diệt-đạo mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc, cùng với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc, không có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ-tập-diệt đoạn và đối với pháp không tương ưng với kiết kiến do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc cùng với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc, không có hai kiết trói buộc. Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ chưa lìa dục nhiễm, đối với pháp do kiến mà đoạn và đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa dục nhiễm, đối với pháp thuộc cõi Dục không có hai kiết trói buộc. Đã lìa sắc nhiễm, đối với pháp thuộc cõi Dục, Sắc không có hai kiết trói buộc. Đã lìa vô sắc nhiễm, đối với pháp của ba cõi không có hai kiết trói buộc. Như đối với kiết kiến, đối với kiết nghi cũng vậy. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết giận dữ trói buộc thì cũng có kiết thủ trói buộc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Hoặc có kiết giận dữ trói buộc mà không có kiết thủ trói buộc. nghĩa là chưa lìa dục nhiễm, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có kiết giận dữ chưa đoạn. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có kiết giận dữ chưa đoạn. Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ chưa lìa dục nhiễm, đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục có kiết giận dữ chưa đoạn. Hoặc có kiết thủ trói buộc mà không có kiết giận dữ trói buộc. Gọi là chưa lìa dục nhiễm, khổ trí đã sinh mà tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ mà đoạn thuộc cõi Dục, có kiết thủ do kiến tập mà đoạn còn chưa đoạn. Đối với pháp thuộc cõi Sắc-Vô sắc, có kiết thủ chưa đoạn. Hoặc có hai kiết đều trói buộc, gọi là vốn có trói buộc. Đối với pháp do kiến tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có hai kiết trói buộc. Chưa lìa dục nhiễm, khổ trí đã sinh mà tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến tập-diệt-đạo mà đoạn thuộc cõi Dục có hai kiết trói buộc. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do kiến diệt-đạo mà đoạn thuộc cõi Dục có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Dục, có hai kiết trói buộc. Hoặc có hai kiết đều không trói buộc. nghĩa là chưa lìa dục nhiễm, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ, tập mà đoạn và đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc, không có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ-tập-diệt mà đoạn, và đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc, không có hai kiết trói buộc. Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ chưa lìa dục nhiễm, đối với pháp do kiến mà đoạn và đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa dục nhiễm, đối với pháp thuộc cõi Dục-Sắc, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa sắc nhiễm, đối với pháp thuộc cõi Dục, Sắc, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa nhiễm vô sắc, đối với pháp của ba cõi, không có hai kiết trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết giận dữ trói buộc thì cũng có kiết ganh tị trói buộc chăng? Đáp: Nếu đối với sự việc này, có kiết ganh tị trói buộc, chắc chắn có kiết giận dữ trói buộc. Hoặc có kiết giận dữ trói buộc mà không có kiết ganh tị trói buộc, nghĩa là đối với pháp do kiến mà đoạn thuộc cõi Dục, có kiết giận dữ chưa đoạn. Như đối với kiết ganh tị, đối với kiết keo kiệt cũng vậy.  <卷>QUYỂN 4 <章>Chương 2: KIẾT UẨN <詞>Phẩm 2: BÀN VỀ NHẤT HÀNH, Phần 2 Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết vô minh trói buộc thì cũng có kiết kiến trói buộc chăng? Đáp: Đối với sự việc này, có kiết kiến trói buộc, chắc chắn có kiết vô minh trói buộc. Hoặc có kiết vô minh trói buộc mà không có kiết kiến trói buộc. nghĩa là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp không tương ưng với kiết kiến, do kiến diệt-đạo mà đoạn, và đối với pháp do tu mà đoạn, có kiết vô minh chưa đoạn. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp không tương ưng với kiết kiến do kiến đạo mà đoạn, và đối với pháp do tu mà đoạn, có kiết vô minh chưa đoạn. Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ, đối với pháp do tu mà đoạn, có kiết vô minh chưa đoạn. Như đối với kiết kiến, đối với kiết nghi cũng vậy. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết vô minh trói buộc thì cũng có kiết thủ trói buộc chăng? Đáp: Đối với sự việc này, có kiết thủ trói buộc, chắc chắn có kiết vô minh trói buộc. Hoặc có kiết vô minh trói buộc mà không có kiết thủ trói buộc. nghĩa là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do tu mà đoạn có kiết vô minh chưa đoạn. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do tu mà đoạn, có kiết vô minh chưa đoạn. Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ đối với pháp do tu mà đoạn, có kiết vô minh chưa đoạn. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết vô minh trói buộc thì cũng có kiết ganh tị trói buộc chăng? Đáp: Đối với sự việc này, có kiết ganh tị trói buộc, chắc chắn có kiết vô minh trói buộc. Hoặc có kiết vô minh trói buộc mà không có kiết ganh tị trói buộc. nghĩa là đối với pháp do kiến mà đoạn ở cõi Dục và pháp thuộc cõi Sắc-Vô sắc, có kiết vô minh chưa đoạn. Như đối với kiết ganh tị, đối với kiết keo kiệt cũng vậy. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết kiến trói buộc thì cũng có kiết thủ trói buộc chăng? Đáp: Nếu đối với sự việc này, có kiết kiến trói buộc, chắc chắn có kiết thủ trói buộc. Hoặc có kiết thủ trói buộc mà không có kiết kiến trói buộc. nghĩa là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp không tương ưng với kiết kiến, do kiến diệt-đạo mà đoạn, có kiết thủ chưa đoạn. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp không tương ưng với kiết kiến do kiến đạo mà đoạn, có kiết thủ chưa đoạn. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết kiến trói buộc thì cũng có kiết nghi trói buộc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Hoặc có kiết kiến trói buộc mà không có kiết nghi trói buộc , là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp tương ưng với kiết kiến do kiến diệt-đạo mà đoạn, có kiết kiến chưa đoạn. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp tương ưng với kiết kiến do kiến đạo mà đoạn, có kiết kiến chưa đoạn. Hoặc có kiết nghi trói buộc mà không có kiết kiến trói buộc, là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp tương ưng của kiết nghi do kiến diệt-đạo mà đoạn, có kiết nghi chưa đoạn. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp tương ưng của kiết nghi do kiến đạo mà đoạn, có kiết nghi chưa đoạn. Hoặc có hai kiết đều trói buộc, là vốn có trói buộc, đối với pháp do kiến tu mà đoạn, có hai kiết trói buộc. Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ-tập-diệt-đạo tu mà đoạn, có hai kiết trói buộc. Hoặc có hai kiết đều không có trói buộc, là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ-tập mà đoạn, và đối với pháp không tương ưng với kiết kiến và kiết nghi do kiến diệt-đạo mà đoạn, cùng với pháp do tu mà đoạn không có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ-tập-diệt đoạn, và đối với pháp không tương ưng với hai kiết kiến-nghi do kiến đạo mà đoạn, cùng với pháp do tu mà đoạn, không có hai kiết trói buộc, đủ thấy đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ đối với pháp do kiến, tu mà đoạn không có hai kiết trói buộc. Đã lìa dục nhiễm, đối với pháp thuộc cõi Dục, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa sắc nhiễm, đối với pháp thuộc cõi Dục-Sắc, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa vô sắc nhiễm, đối với pháp của ba cõi, không có hai kiết trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết kiến trói buộc thì cũng có kiết ganh tị trói buộc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Hoặc có kiết kiến trói buộc mà không có kiết ganh tị trói buộc. nghĩa là đối với pháp do kiến mà đoạn thuộc cõi Dục, và đối với pháp thuộc cõi Sắc-Vô sắc, có kiết kiến chưa đoạn. Hoặc có kiết ganh tị trói buộc mà không có kiết kiến trói buộc. nghĩa là chưa lìa dục nhiễm, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có kiết ganh tị chưa đoạn. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có kiết ganh tị chưa đoạn. Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầu đủ chưa lìa dục nhiễm, đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có kiết ganh tị chưa đoạn. Hoặc có hai kiết đều trói buộc. Đó là vốn có trói buộc, đối với pháp do tu mà đoạn ở cõi Dục có hai kiết trói buộc. Chưa lìa dục nhiễm, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có hai kiết trói buộc. Hoặc có hai kiết đều không trói buộc. nghĩa là chưa lìa dục nhiễm, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ- tập mà đoạn, và đối với pháp không tương ưng với kiết kiến do kiến diệt-đạo mà đoạn, cùng với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc, không có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ-tập-diệt mà đoạn, và đối với pháp không tương ưng với kiết kiến do kiến đạo mà đoạn cùng với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc, không có hai kiết trói buộc, đủ thấy đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ chưa lìa dục nhiễm, đối với pháp do kiến mà đoạn, và đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa dục nhiễm, đối với pháp thuộc cõi Dục, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa sắc nhiễm, đối với pháp thuộc cõi Dục-Sắc, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa vô sắc nhiễm, đối với pháp của ba cõi, không có hai kiết trói buộc. Như đối với kiết ganh tị, đối với kiết keo kiệt cũng vậy. Như kiết kiến đối với một hành dấy khởi sau đó, kiết nghi đối với một hành dấy khởi sau đó, cũng vậy. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết thủ trói buộc thì cũng có kiết nghi trói buộc chăng? Đáp: Đối với sự việc này, có kiết nghi trói buộc, chắc chắn có kiết thủ trói buộc. Hoặc có kiết thủ trói buộc mà không có kiết nghi trói buộc. nghĩa là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp không tương ưng với kiết nghi, do kiến diệt-đạo mà đoạn, có kiết thủ chưa đoạn. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp không tương ưng với kiết nghi do kiến đạo mà đoạn, có kiết thủ chưa đoạn. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết thủ trói buộc thì cũng có kiết ganh tị trói buộc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Hoặc có kiết thủ trói buộc mà không có kiết ganh tị trói buộc. nghĩa là đối với pháp do kiến mà đoạn thuộc cõi Dục, và pháp thuộc cõi Sắc-Vô sắc, có kiết thủ chưa đoạn. Hoặc có kiết ganh tị trói buộc mà không có kiết thủ trói buộc. nghĩa là chưa lìa dục nhiễm, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có kiết ganh tị chưa dứt trừ. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có kiết ganh tị chưa đoạn. Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ chưa lìa dục nhiễm, đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục có kiết ganh tị chưa đoạn. Hoặc có hai kiết đều trói buộc. Gọi là vốn có trói buộc, đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục có hai kiết trói buộc, chưa lìa dục nhiễm, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có hai kiết trói buộc. Hoặc có hai kiết đều không trói buộc. nghĩa là chưa lìa dục nhiễm, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ-tập mà đoạn và đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc, không có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ-tập-diệt mà đoạn và đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc, không có hai kiết trói buộc, đủ thấy đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ chưa lìa dục nhiễm, đối với pháp do kiến mà đoạn, và đối với pháp do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc-Vô sắc, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa dục nhiễm, đối với pháp thuộc cõi Dục không có hai kiết trói buộc. Đã lìa sắc nhiễm, đối với pháp thuộc cõi Dục-Sắc không có hai kiết trói buộc. Đã lìa vô sắc nhiễm, đối với pháp của ba cõi, không có hai kiết trói buộc. Như đối với kiết ganh tị, đối với kiết keo kiệt cũng vậy. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ganh tị trói buộc thì cũng có kiết keo kiệt trói buộc chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Giả sử có kiết keo kiệt trói buộc, lại có kiết ganh tị trói buộc chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc cũng có kiết ái vị lai chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Giả sử có kiết ái vị lai, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh mà chưa đoạn thì trói buộc. Nếu trước kia chưa sinh, giả sử sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc cũng có kiết ái hiện tại chăng? Đáp: Như hiện còn trước. Hỏi: Giả sử có kiết ái hiện tại lại có kiết ái quá khứ chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh mà chưa đoạn thì trói buộc. Nếu trước kia chưa sinh, giả sử sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái vị lai trói buộc cũng có kiết ái hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện còn trước mắt. Hỏi: Giả sử có kiết ái hiện tại, lại có kiết ái vị lai chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu đối với sự việc này có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết ái vị lai-hiện tại chăng? Đáp: Kiết ái vị lai tất nhiên sẽ trói buộc. Hiện tại thì nếu hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết ái vị lai-hiện tại, lại có kiết ái quá khứ chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh mà chưa đoạn thì trói buộc. Nếu trước kia chưa sinh, giả sử sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này có kiết ái vị lai trói buộc, cũng có kiết ái quá khứ-hiện tại chăng? Đáp: Hoặc có vị lai mà không có quá khứ-hiện tại, nghĩa là đối với sự việc này, kiết ái chưa đoạn, mà trước kia chưa sinh, giả sử sinh rồi đoạn chứ không hiện còn trước mắt. Hoặc có vị lai và quá khứ, không có hiện tại, nghĩa là đối với sự việc này có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn, không hiện còn trước mắt. Hoặc có vị lai và hiện tại mà không có quá khứ, nghĩa là đối với sự việc này có kiết ái hiện còn trước mắt, mà trước kia chưa sinh, giả sử sinh rồi đoạn. Hoặc có vị lai và quá khứ-hiện tại, nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn, cũng hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết ái quá khứ-hiện tại, lại có kiết ái vị lai chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái hiện tại trói buộc, cũng có kiết ái quá khứ-vị lai chăng? Đáp: Vị lai tất nhiên sẽ trói buộc, quá khứ nếu kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn thì có trói buộc, nếu kiết ái trước kia chưa sinh, giả sử kiết ái sinh rồi đoạn thì không còn trói buộc. Hỏi: Nếu có kiết ái quá khứ-vị lai, lại có kiết ái hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện còn trước mắt. Như kiết ái trải quá sáu thứ; nên biết kiết giận dữ, kiêu mạn, ganh tị, keo kiệt, phi biến hành, kiết vô minh trải qua sáu thứ cũng như vậy. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết kiến quá khứ trói buộc cũng có kiết kiến vị lai chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu có vị lai thì lại có quá khứ chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết kiến quá khứ trói buộc, cũng có kiết kiến hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết kiến hiện tại trói buộc, lại có kiết kiến quá khứ chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết kiến vị lai trói buộc cũng có kiết kiến hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết kiến hiện tại, lại có kiết kiến vị lai chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết kiến quá khứ trói buộc, cũng có kiết kiến vị lai-hiện tại chăng? Đáp: Vị lai tất nhiên sẽ, hiện tại thì nếu hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết kiến vị lai-hiện tại, thì có kiết kiến quá khứ chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết kiến vị lai trói buộc, cũng có kiết kiến quá khứ-hiện tại chăng? Đáp: Quá khứ tất nhiên trói buộc, hiện tại nếu hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết kiến quá khứ-hiện tại, có kiết kiến vị lai chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết kiến hiện tại, thì cũng có kiết kiến quá khứ-vị lai chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu có kiết kiến quá khứ-vị lai, có kiết kiến hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Nếu hiện còn trước mắt. Như kiết kiến trải qua sáu thứ; nên biết, kiết thủ-nghi-biến hành-vô minh trải quá sáu thứ cũng vậy. Hỏi: Nếu đối với sự việc này có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết giận dữ quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh mà chưa đoạn thì trói buộc. Nếu trước kia chưa sinh, giả sử sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu có kiết giận dữ quá khứ trói buộc, có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc. Nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết giận dữ vị lai trói buộc chăng? Đáp: Nếu chưa đoạn. Hỏi: Nếu có kiết giận dữ vị lai trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc. Nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết giận dữ hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Nếu hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết giận dữ hiện tại trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc. Nếu trước kia chưa sinh, giả sử sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết giận dữ quá khứ-hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc chứ không có kiết giận dữ quá khứ-hiện tại trói buộc. nghĩa là đối với sự việc này có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn, không có kiết giận dữ trước kia đã sinh, giả sử sinh rồi đoạn chứ không hiện còn trước mắt. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc và có kiết giận quá khứ đã trói buộc mà không có hiện tại. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái-kiết giận dữ trước kia đã sinh chưa đoạn chứ không có kiết giận dữ hiện còn trước mắt. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc và có kiết giận dữ hiện tại đang trói buộc mà không có quá khứ, nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn, có kiết giận dữ hiện còn trước mắt, mà trước đó chưa sinh, giả sử sinh rồi đoạn. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc, và có kiết giận dữ quá khứ-hiện tại trói buộc, nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái kiết giận dữ trước kia đã sinh chưa đoạn, và có kiết giận dữ hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết giận dữ hiện tại, quá khứ trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc. Nếu trước kia chưa sinh, giả sử sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết giận dữ hiện tại-vị lai trói buộc chăng? Đáp: Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc chứ không có kiết giận dữ hiện tại-vị lai trói buộc. nghĩa là đối với pháp thuộc cõi Sắc-Vô sắc, có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn. Hoặc có kiết ái quá khứ đã trói buộc và có kiết giận dữ vị lai trói buộc chứ không có hiện tại. nghĩa là đối với sự việc này có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn, và có kiết giận dữ chưa đoạn mà không hiện còn trước mắt. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết giận dữ hiện tại-vị lai trói buộc, nghĩa là đối với sự việc này có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn, và có kiết giận dữ hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết giận dữ hiện tại-vị lai trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc. Nếu trước kia chưa sinh, giả sử sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết giận dữ quá khứ-vị lai trói buộc chăng? Đáp: Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc chứ không có kiết giận dữ quá khứ-vị lai trói buộc. nghĩa là đối với pháp thuộc cõi Sắc-Vô sắc, có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc và có kiết giận dữ vị lai sẽ trói buộc chứ không có quá khứ. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn, và có kiết giận dữ chưa đoạn mà không có kiết giận dữ trước kia đã sinh, giả sử sinh rồi đoạn. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết giận dữ quá khứ-vị lai trói buộc, nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái-kiết giận dữ trước kia đã sinh chưa đoạn. Hỏi: Nếu có kiết giận dữ quá khứ-vị lai trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc. Nếu trước đó chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết giận dữ quá khứ-vị lai-hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc mà không có kiết giận dữ quá khứ-vị lai-hiện tại trói buộc. nghĩa là đối với pháp thuộc cõi Sắc- Vô sắc, có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc và có kiết giận dữ vị lai trói buộc chứ không có quá khứ-hiện tại. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn, và có kiết giận dữ chưa đoạn, mà trước đây chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn chứ không hiện còn trước mắt. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc và có kiết giận dữ vị lai-hiện tại chứ không có quá khứ. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn, và có kiết giận dữ hiện ở trước mắt, mà trước kia chưa sinh, giả sử sinh rồi đoạn. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc, và có kiết giận dữ quá khứ-vị lai trói buộc chứ không có hiện tại, nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái-kiết giận dữ trước kia đã sinh chưa đoạn, không có kiết giận dữ hiện còn trước mắt. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết giận dữ quá khứ-vị lai-hiện tại trói buộc. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái-kiết giận dữ trước kia đã sinh chưa đoạn, và có kiết giận dữ hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết giận dữ quá khứ-vị lai-hiện tại trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc. Nếu trước kia chưa sinh, giả sử sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Như đối với kiết giận dữ, đối với kiết ganh tị-kiết keo kiệt cũng vậy. Sự sai biệt: Đối với pháp do kiến mà đoạn thuộc cõi Dục và đối với pháp thuộc cõi Sắc-Vô sắc, có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn chứ không có kiết ganh tị-kiết keo kiệt quá khứ-vị lai-hiện tại. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết mạn quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc, nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu có kiết mạn quá khứ trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc, nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết mạn vị lai trói buộc chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu có kiết mạn vị lai trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc; nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết mạn hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Nếu hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết mạn hiện tại trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc; nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết mạn quá khứ-hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc chứ không có kiết mạn quá khứ-hiện tại trói buộc. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn chứ không có kiết mạn trước kia đã sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn chứ không hiện còn trước mắt. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc và đã có kiết mạn quá khứ trói buộc chứ không có hiện tại. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái-kiết mạn trước kia đã sinh chưa đoạn, không có kiết mạn hiện còn trước mắt. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc, và có kiết mạn hiện tại trói buộc chứ không có quá khứ. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn và có kiết mạn hiện ở trước mắt mà trước đó chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc, và cũng có kiết mạn quá khứ-hiện tại trói buộc. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái-kiết mạn trước kia đã sinh chưa đoạn và có kiết mạn hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết mạn quá khứ-hiện tại trói buộc, cũng có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc, nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, chắc chắn có kiết mạn vị lai-hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Vị lai tất nhiên sẽ trói buộc, hiện tại thì như hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết mạn vị lai-hiện tại trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc; nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết mạn quá khứ-vị lai trói buộc chăng? Đáp: Vị lai tất nhiên sẽ trói buộc, quá khứ nếu trước đã sinh chưa đoạn thì trói buộc, nếu trước đó chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu có kiết mạn quá khứ-vị lai trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu kiết ái trước đó đã sinh chưa đoạn thì trói buộc; nếu trước đó chưa sinh, giả sử sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết mạn quá khứ-vị lai-hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc và có kiết mạn vị lai trói buộc chứ không có quá khứ-hiện tại. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn, không có kiết mạn trước kia đã sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn chứ không hiện còn trước mắt. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc và có kiết mạn quá khứ-vị lai trói buộc mà không có hiện tại. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái-kiết mạn trước kia đã sinh chưa đoạn, chứ không có kiết mạn hiện còn trước mắt. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc và có kiết mạn vị lai-hiện tại trói buộc chứ không có quá khứ. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn, và có kiết mạn hiện còn trước mắt mà không có trước kia đã sinh, giả sử sinh rồi đoạn. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết mạn quá khứ-vị lai-hiện tại trói buộc. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái-kiết mạn trước kia đã sinh chưa đoạn, và có kiết mạn hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết mạn quá khứ-vị lai-hiện tại trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc; nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết vô minh quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu có kiết vô minh quá khứ trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc; nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết vô minh vị lai trói buộc chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu có kiết vô minh vị lai trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu kiết ái trước đó đã sinh chưa đoạn thì trói buộc; nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết vô minh hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Nếu hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết vô minh hiện tại trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc, nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết vô minh quá khứ-hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Quá khứ chắc chắn trói buộc, hiện tại thì nếu hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết vô minh quá khứ-hiện tại trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc, nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết vô minh vị lai-hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Vị lai tất nhiên trói buộc, hiện tại thì như hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết vô minh vị lai-hiện tại trói buộc, cũng có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn thì trói buộc, nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết vô minh quá khứ-vị lai, trói buộc chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Nếu có kiết vô minh quá khứ-vị lai trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước đó kiết ái đã sinh chưa đoạn thì trói buộc, nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết vô minh quá khứ-vị lai-hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Quá khứ-vị lai tất nhiên trói buộc, hiện tại thì nếu hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết vô minh quá khứ-vị lai-hiện tại trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước đó kiết ái đã sinh chưa đoạn thì trói buộc; nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết kiến quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu kiết kiến chưa đoạn. Hỏi: Nếu có kiết kiến quá khứ trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước đó kiết ái đã sinh chưa đoạn thì trói buộc; nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết kiến vị lai trói buộc chăng? Đáp: Nếu chưa đoạn. Hỏi: Nếu có kiết kiến vị lai trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước đó kiết ái đã sinh chưa đoạn thì trói buộc; nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết kiến hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Nếu hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết kiến hiện tại trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước đó kiết ái đã sinh chưa đoạn thì trói buộc, nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết kiến quá khứ-hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc chứ không có kiết kiến quá khứ-hiện tại. nghĩa là đối với sự việc này có kiết ái trước đã sinh chưa đoạn, nhưng kiết kiến đã đoạn. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc và có kiết kiến quá khứ trói buộc mà không có kiết kiến hiện tại. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái trước đã sinh chưa đoạn, và có kiết kiến chưa đoạn, mà không hiện còn trước mắt. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết kiến hiện tại, quá khứ trói buộc. nghĩa là đối với sự việc này có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn, cũng có kiết kiến hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết kiến quá khứ-hiện tại trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước đó kiết ái đã sinh chưa đoạn thì trói buộc, nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết kiến hiện tại-vị lai trói buộc chăng? Đáp: Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc mà không có kiết kiến hiện tại-vị lai trói buộc. nghĩa là đối với sự việc này có kiết ái trước đó đã sinh chưa đoạn, mà kiết kiến đã đoạn. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc và có kiết kiến vị lai trói buộc chứ không có kiết kiến hiện tại. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái trước đó đã sinh chưa đoạn, và có kiết kiến chưa đoạn mà không hiện còn trước mắt. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc, và cũng có kiết kiến hiện tại-vị lai trói buộc. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái trước đó đã sinh chưa đoạn, và có kiết kiến hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu đã có kiết kiến hiện tại-vị lai trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước đó kiết ái đã sinh chưa đoạn thì trói buộc, nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết kiến quá khứ-vị lai trói buộc chăng? Đáp: Nếu chưa đoạn. Hỏi: Nếu có kiết kiến quá khứ-vị lai trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước đó kiết ái đã sinh chưa đoạn thì trói buộc, nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Hỏi: Nếu đối với sự việc này, có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết kiến quá khứ-vị lai-hiện tại trói buộc chăng? Đáp: Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc chứ không có kiết kiến quá khứ-vị lai-hiện tại trói buộc. nghĩa là đối với sự việc này, có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn, mà kiết kiến đã đoạn. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc và có kiết kiến quá khứ-vị lai trói buộc chứ không có kiết kiến hiện tại. nghĩa là đối với sự việc này có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn và có kiết kiến chưa đoạn mà không hiện còn trước mắt. Hoặc có kiết ái quá khứ trói buộc, cũng có kiết kiến quá khứ-vị lai-hiện tại trói buộc. nghĩa là đối với sự việc này có kiết ái trước kia đã sinh chưa đoạn, và cũng có kiết kiến hiện còn trước mắt. Hỏi: Nếu có kiết kiến quá khứ-vị lai-hiện tại trói buộc, lại có kiết ái quá khứ trói buộc chăng? Đáp: Nếu trước đó kiết ái đã sinh chưa đoạn thì trói buộc, nếu trước kia chưa sinh, giả sử đã sinh rồi đoạn thì không trói buộc. Như đối với kiết kiến, đối với kiết thủ, kiết nghi cũng vậy. Như kiết ái đối với bảy tiểu dấy khởi sau đó, cho đến kiết ganh tị đối với kiết keo kiệt, tùy theo những pháp thích hợp, bảy tiểu dấy khởi bảy cũng vậy. Như bảy tiểu, bảy đại cũng thế. Sự sai biệt: Dùng hai đối một, cho đến dùng tám đối một. Như quá khứ thì ái đều là kiết đứng đầu có bảy, cho đến quá khứ-vị lai-hiện tại thì ái đều là kiết đứng đầu cũng đều có bảy. Như thế nên biết, có bảy thuộc về bảy câu. Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, ở trong chín mươi tám tùy miên, mỗi mỗi tùy miên thâu tóm bao nhiêu tùy miên? Đáp: Tất cả nên phân biệt. nghĩa là trong ba kiết có kiết thân kiến thâu tóm ba, kiết giới cấm thủ thâu tóm sáu, kiết nghi thâu tóm mười hai tùy miên. Căn bất thiện tham, giận trong ba căn bất thiện, mỗi căn đều thâu tóm năm, căn bất thiện si thâu tóm bốn và phần ít của một tùy miện. Trong ba lậu: Dục lậu thâu tóm ba mươi mốt. Hữu lậu thâu tóm năm mươi hai, vô minh lậu thâu tóm mười lăm. Trong bốn bộc lưu thì bộc lưu dục thâu tóm mười chín bộc lưu hữu thâu tóm hai mươi tám, bộc lưu kiến thâu tóm ba mươi sáu, bộc lưu vô minh thâu tóm mười lăm. Như bốn bộc lưu, bốn ách cũng vậy. Trong bốn thủ thì dục thủ thâu tóm hai mươi bốn, kiết thủ thâu tóm ba mươi, giới cấm thủ thâu tóm sáu, ngã ngữ thủ thâu tóm ba mươi tám. Trong bốn trói buộc thân thì tham dục, giận dữ, trói buộc thân đều thâu tóm năm, giới cấm thủ trói buộc thân, thâu tóm sáu, chấp thật hữu thân này trói buộc thân thâu tóm mười hai. Trong năm cái, thì cái tham dục, giận dữ mỗi cái đều thâu tóm năm, cái nghi thâu tóm bốn, cái còn lại không thâu tóm gì. Trong năm kiết thì kiết tham, mạn , mỗi kiết thâu tóm mười lăm, kiết giận thâu tóm năm, kiết ganh tị-kiết keo kiệt không thâu tóm gì. Trong năm kiết thuận phần dưới thì kiết tham dục, giận dữ , mỗi kiết đều thâu tóm năm. Kiết hữu thân kiến thâu tóm ba, kiết giới cấm thủ thâu tóm sáu, kiết nghi thâu tóm mười hai tùy miên. Trong năm kiết thuận phần trên thì kiết tham sắc thâu tóm phần ít của một, kiết tham vô sắc thâu tóm phần ít của một, kiết trạo cử không thâu tóm loại nào cả, kiết mạn thâu tóm phần ít của hai tùy miên, kiết vô minh thâu tóm phần ít của hai. Trong năm kiến hữu thân kiến-biên chấp kiến , mỗi kiến đều thâu tóm ba, tà kiến-kiến thủ, mỗi kiến đều thâu tóm mười hai, giới cấm thủ thâu tóm sáu tùy miên. Trong sáu ái thân thì sự chạm xúc của mắt-tai-thân sinh ra ái thân , mỗi ái thân đều thâu tóm phần ít của hai. Ái thân sinh ra do sự chạm xúc của mũi, lưỡi, đều thâu tóm phần ít của một tùy miên. Sự chạm xúc của ý, sinh ra ái thân, thâu tóm mười ba, và phần ít của hai tùy miên. Trong bảy tùy miên thì tùy miên tham dục-giận dữ, mỗi tùy miên đều thâu tóm năm, tùy miên hữu tham thâu tóm mười, tùy miên vô minh-mạn đều thâu tóm mười lăm tùy miên, tùy miên kiến thâu tóm ba mươi sáu, tùy miên nghi thâu tóm mười hai. Trong chín kiết thì kiết ái- mạn-vô minh đều thâu tóm mười lăm, kiết giận dữ thâu tóm năm, kiết kiến-thủ đều thâu tóm mười tám, kiết nghi thâu tóm mười hai, kiết ganh tị-kiết keo kiệt không thâu tóm gì. Trong chín mươi tám tùy miên thì hữu thân kiến thuộc cõi Dục thâu tóm hữu thân kiến thuộc cõi Dục, cho đến vô minh do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, thâu tóm vô minh do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên thì trước thâu tóm sau hay sau thâu tóm trước? Đáp: Ba kiết-ba căn bất thiện không thâu tóm lẫn nhau. Ba kiết- ba lậu, ba kiết, và phần ít của hai lậu thâu tóm lẫn nhau, còn lại không thâu tóm lẫn nhau. Ba kiết-bốn bộc lưu, ba kiết, và phần ít của ba bộc lưu thâu tóm lẫn nhau, còn lại không thâu tóm lẫn nhau. Như đối với bốn bộc lưu, đối với bốn ách cũng vậy. Ba kiết-bốn thủ, ba kiết thâu tóm một thủ, phần ít của ba thủ thâu tóm lẫn nhau, còn lại không thâu tóm lẫn nhau. Ba kiết-bốn trói buộc thân, một kiết và một trói buộc thân, thâu tóm lẫn nhau, còn lại không thâu tóm lẫn nhau. Ba kiết-năm cái, một cái, phần ít của một kiết, thâu tóm lẫn nhau, còn lại không thâu tóm lẫn nhau. Ba kiết và năm kiết cùng không thâu tóm lẫn nhau. Ba kiết-năm kiết thuận phần dưới, ba kiết và ba kiết thuận phần dưới, thâu tóm lẫn nhau, còn lại không thâu tóm lẫn nhau. Ba kiết-năm kiết thuận phần trên, không thâu tóm lẫn nhau. Ba kiết-năm kiến, hai kiết và hai kiến, thâu tóm lẫn nhau, còn lại không thâu tóm lẫn nhau. Ba kiết-sáu ái thân không thâu tóm lẫn nhau. Ba kiết-bảy tùy miên, ba kiết và phần ít của một tùy miên thâu tóm lẫn nhau, còn lại không thâu tóm lẫn nhau. Ba kiết-chín kiết-ba kiết và một kiết cùng phần ít của hai, kiết thâu tóm lẫn nhau, còn lại không thâu tóm lẫn nhau. Ba kiết-chín mươi tám tùy miên, ba kiết và hai mươi mốt tùy miên thâu tóm lẫn nhau, còn lại không thâu tóm lẫn nhau. Như thế cho đến chín kiết-chín mươi tám tùy miên, bảy kiết-chín mươi tám tùy miên thâu tóm lẫn nhau, còn lại không thâu tóm lẫn nhau. Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu loại làm cho dục hữu nối tiếp nhau, bao nhiêu loại làm cho sắc hữu nối tiếp nhau, bao nhiêu loại làm cho vô sắc hữu nối tiếp nhau? Đáp: Tất cả nên phân biệt. nghĩa là ba kiết khiến cho ba hữu nối tiếp nhau. Ba căn bất thiện và dục lậu khiến cho dục hữu nối tiếp nhau. Hữu lậu khiến cho Sắc-Vô sắc, hữu nối tiếp nhau. Vô minh lậu khiến cho ba hữu nối tiếp nhau. Trong bốn ách-bộc lưu thì ách, bộc-lưu dục khiến cho dục hữu nối tiếp nhau. Ách-bộc lưu hữu khiến cho Sắc-Vô sắc, hữu nối tiếp nhau. Ách-bộc lưu kiến vô minh khiến cho ba hữu nối tiếp nhau. Trong bốn thủ thì dục thủ, khiến cho dục hữu nối tiếp nhau. Kiến, giới cấm thủ khiến cho ba hữu nối tiếp nhau. Ngã ngữ thủ khiến cho Sắc-Vô sắc, hữu nối tiếp nhau. Trong bốn thứ trói buộc thân, hai trói buộc đầu khiến cho dục hữu nối tiếp nhau, hai trói buộc sau khiến cho ba hữu nối tiếp nhau. Năm cái, khiến cho dục hữu nối tiếp nhau. Trong năm kiết thì kiết tham, mạn khiến cho ba hữu nối tiếp nhau, ba kiết còn lại khiến cho dục hữu nối tiếp nhau. Hai kiết đầu trong năm kiết thuận phần dưới, khiến cho dục hữu nối tiếp nhau, ba kiết sau khiến cho ba hữu nối tiếp nhau. Tham sắc trong năm kiết thuận phần trên khiến cho sắc hữu nối tiếp nhau, tham vô sắc khiến cho vô sắc hữu nối tiếp nhau, ba kiết còn lại khiến khiến cho Sắc-Vô sắc, hữu nối tiếp nhau. Năm kiến khiến cho ba hữu nối tiếp nhau. Trong sáu ái thân thì sự chạm xúc của mắt-tai-thân sinh ra ái thân, khiến cho Dục-Sắc hữu nối tiếp nhau. Xúc chạm của mũi, lưỡi sinh ra ái thân, khiến cho dục hữu nối tiếp nhau. Xúc chạm của ý sinh ra ái thân khiến cho ba hữu nối tiếp nhau. Dục-tham-giận dữ trong bảy tùy miên, khiến cho dục hữu nối tiếp nhau. Hữu tham khiến cho Sắc-Vô sắc, hữu nối tiếp nhau. Bốn tùy miên còn lại khiến cho ba hữu nối tiếp nhau. Kiết giận dữ-kiết ganh tị-kiết keo kiệt trong chín kiết, khiến cho dục hữu nối tiếp nhau. Sáu kiết còn lại khiến cho ba hữu nối tiếp nhau. Ba mươi sáu thứ thuộc cõi Dục trong chín mươi tám tùy miên, khiến cho dục hữu nối tiếp nhau. Ba mươi mốt thứ nơi thuộc Sắc, khiến cho sắc hữu nối tiếp nhau. Ba mươi mốt thứ nơi thuộc Vô sắc, khiến cho vô sắc hữu nối tiếp nhau, Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên dựa vào định nào mà diệt? Đáp: Ba kiết hoặc dựa vào bốn, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Ba căn bất thiện và dục lậu, dựa vào vị chí mà diệt; hữu lậu-vô minh lậu, hoặc dựa vào bảy, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Trong bốn bộc lưu-ách thì dục bộc lưu-ách dựa vào vị chí mà diệt; hữu-vô minh bộc lưu-ách, hoặc dựa vào bảy, hoặc dựa vào vị chí mà diệt; kiến ách-bộc lưu, hoặc dựa vào bốn, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Dục thủ trong bốn thủ, dựa vào vị chí mà diệt; kiến thủ-giới cấm thủ, hoặc dựa vào bốn, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Ngã ngữ thủ, hoặc dựa vào bảy, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Hai trói buộc đầu trong bốn trói buộc thân dựa vào vị chí mà diệt, hai trói buộc sau, hoặc dựa vào bốn, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Năm cái dựa vào vị chí mà diệt. Kiết tham-mạn trong năm kiết, hoặc dựa vào bảy, hoặc dựa vào vị chí mà diệt; ba kiết còn lại dựa vào vị chí mà diệt. Hai kiết đầu trong năm kiết thuận phần dưới, dựa vào vị chí mà diệt; ba kiết sau, hoặc dựa vào bốn, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Tham sắc trong năm kiết thuận phần trên, hoặc dựa vào bốn, hoặc dựa vào vị chí mà diệt; bốn kiết còn lại, hoặc dựa vào bảy, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Năm kiến, hoặc dựa vào bốn, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Ái thân sinh ra do sự chạm xúc của mũi-lưỡi trong sáu ái thân, dựa vào vị chí mà diệt; ái thân sinh ra do sự chạm xúc của mắt-tai-thân, hoặc dựa vào sơ thiền, hoặc dựa vào vị chí mà diệt; ái thân do xúc chạm của ý sinh ra, hoặc dựa vào bảy, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Dục tham, giận dữ trong bảy tùy miên, dựa vào vị chí mà diệt; vô minh- mạn-hữu tham, hoặc dựa vào bảy, hoặc dựa vào vị chí mà diệt; kiến-nghi-hoặc dựa vào bốn, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Vô minh-ái-mạn trong chín kiết, hoặc dựa vào bảy, hoặc dựa vào vị chí mà diệt; kiết giận dữ-kiết ganh tị-kiết keo kiệt, dựa vào vị chí mà diệt; kiết thủ, kiết nghi, hoặc dựa vào bốn, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Ba mươi sáu thứ thuộc cõi Dục trong chín mươi tám tùy miên, dựa vào vị chí mà diệt; ba mươi mốt thứ thuộc cõi Sắc và do kiến mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, hoặc dựa vào bốn, hoặc dựa vào vị chí mà diệt; do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, hoặc dựa vào bảy, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Hỏi: Các kiết quá khứ thì các kiết đó đã trói buộc chăng? Đáp: Các kiết quá khứ thì các kiết đó đã trói buộc. Có kiết đã trói buộc mà kiết ấy chẳng phải là quá khứ. nghĩa là kiết vị lai-hiện tại đã trói buộc. Hỏi: Các kiết vị lai thì kiết đó sẽ trói buộc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có kiết vị lai mà kiết đó không phải là sẽ trói buộc, nghĩa là kiết vị lai đã đoạn, đã biết khắp, đã diệt, đã loại bỏ, nhất định không được thoái lui. Có kiết sẽ trói buộc mà kiết ấy không phải vị lai, nghĩa là kiết quá khứ đã đoạn, đã biết khắp, đã diệt, đã loại bỏ, nhất định sẽ thoái lui. Có kiết vị lai mà kiết đó cũng sẽ trói buộc, nghĩa là kiết vị lai đã đoạn, đã biết khắp, đã diệt, đã loại bỏ, nhất định sẽ thoái lui. Có kiết không phải vị lai mà kiết ấy cũng không phải là sẽ trói buộc, nghĩa là kiết quá khứ đã đoạn, đã biết khắp, đã diệt, đã loại bỏ, nhất định không được thoái lui, và kiết hiện tại. Hỏi: Các kiết hiện tại thì các kiết đó đang trói buộc chăng? Đáp: Các kiết hiện tại mà kiết đó đang trói buộc. Có kiết đang trói buộc mà kiết đó không phải là hiện tại. nghĩa là kiết quá khứ-vị lai đang trói buộc. Hỏi: Đối với người vận dụng đạo này để đoạn hết kiết cõi Dục, khi đạo này lui sụt, họ vẫn bị kiết kia trói buộc hay không? Đáp: Vẫn bị kiết kia trói buộc. Hỏi: Đối với người vận dụng đạo này để đoạn hết kiết thuộc cõi Sắc-Vô sắc, khi đạo này lui sụt, họ vẫn bị kiết kia trói buộc hay không? Đáp: Vẫn bị kiết kia trói buộc. Có chín sự biết khắp, nghĩa là cõi Dục do kiến khổ-tập mà đoạn hết kiết là sự biết khắp thứ nhất. Do kiến khổ-tập mà đoạn hết kiết thuộc cõi Sắc-Vô sắc, là biết khắp thứ hai. Cõi Dục do kiến diệt đoạn hết kiết là biết sự khắp thứ ba. Cõi Sắc-Vô sắc, do kiến diệt đoạn hết kiết là sự biết khắp thứ tư. Cõi Dục do kiến đạo mà đoạn hết kiết là sự biết khắp thứ năm. Cõi Sắc-Vô sắc, do kiến đạo mà đoạn hết kiết là sự biết khắp thứ sáu. Năm kiết thuận phần dưới không dòn, là sự biết khắp thứ bảy. Kiết ái của sắc không còn là sự biết khắp thứ tám. Tất cả kiết không còn là sự biết khắp thứ chín. Hỏi: Là chín sự biết khắp thâu tóm tất cả mọi sự biết khắp, hay tất cả mọi sự biết khắp thâu tóm chín mọi sự biết khắp? Đáp: Tất cả thâu tóm chín, chứ không phải chín thâu tóm tất cả. Hỏi: Không thâu tóm những gì? Đáp: nghĩa là khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh do kiến khổ mà đoạn hết kiết của ba cõi, không phải thuộc về chín loại. Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ chưa lìa dục nhiễm, kiết hết do tu mà đoạn thuộc cõi Dục, không phải thuộc về chín loại. Đã lìa dục nhiễm, chưa xa lìa sắc nhiễm, kiết hết do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc, không phải thuộc về chín loại. Đã lìa sắc nhiễm, nhưng chưa lìa vô sắc nhiễm, kiết hết do tu mà đoạn thuộc cõi vô Sắc, không phải thuộc về chín loại. Có tám Bổ-đặc-già-la: Hướng Dự lưu. Quả Dự lưu. Hướng Nhất lai. Quả Nhất lai. Hướng Bất hoàn. Quả Bất hoàn. Hướng A-la-hán. Quả A-la-hán. Đó là tám Bổ-đặc-già-la. Hỏi: Đối với chín sự biết khắp có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Đáp: Hướng Dự lưu hoặc không thành tựu, hoặc thành tựu một- hai-ba-bốn-năm, nghĩa là phần vị khổ pháp trí nhẫn, cho đến phần vị tập pháp trí nhẫn là không thành tựu. Phần vị tập pháp trí-tập loại trí nhẫn là thành tựu một. Phần vị tập loại trí-diệt pháp trí nhẫn là thành tựu hai. Phần vị diệt pháp trí-diệt loại trí nhẫn là thành tựu ba. Phần vị diệt loại trí-đạo pháp trí nhẫn là thành tựu bốn. Phần vị đạo pháp trí-đạo loại trí nhẫn là thành tựu năm. Quả Dự lưu thành tựu sáu. Hướng Nhất lai nếu tăng thêm là lìa dục nhiễm. Nhập chính tính ly sinh thì giống như hướng Dự lưu. Nếu từ quả Dự lưu, hướng tới quả Nhất lai, cùng với quả Nhất lai thì thành tựu sáu. Hướng Bất hoàn nếu đã lìa dục nhiễm, nhập chính tính ly sinh thì như hướng Dự lưu. Nếu từ quả Nhất lai, hướng đến quả Bất hoàn, thì thành tựu sáu. Quả Bất hoàn là thành tựu một, nghĩa là đã dứt hết năm kiết thuận phần dưới. Hướng A-la-hán, hoặc thành tựu một, hoặc thành tựu hai, nghĩa là chưa lìa sắc nhiễm, thì thành tựu một, đã lìa sắc nhiễm thì thành tựu hai. Quả A-la-hán thành tựu một, nghĩa là tất cả kiết không còn.  <卷>QUYỂN 5 <章>Chương 2: KIẾT UẨN <詞>Phẩm 3: BÀN VỀ HỮU TÌNH Trói buộc nhanh-chậm, lìa trói buộc, Quả thâu nhiếp bảy-thành tựu ba, Mất đi và sinh ra không sáu loại, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Ba cõi, mỗi cõi đều có hai bộ kiết, gọi là do kiến-tu mà đoạn. Hỏi: Đối với hai bộ kiết do kiến-tu mà đoạn thuộc cõi Dục, có thể có thể có tức khắc bị trói buộc chăng? Đáp: Có. nghĩa là phàm phu đã lìa dục nhiễm, từ lúc lìa dục nhiễm mà lui sụt và mất ở cõi Sắc -Vô sắc, đến lúc sinh thuộc cõi Dục. Hỏi: Có thể có tức khắc lìa sự trói buộc chăng? Đáp: Có. nghĩa là lúc phàm phu lìa dục nhiễm. Hỏi: Có thể có dần dần bị trói buộc chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có dần dần lìa trói buộc chăng? Đáp: Có. nghĩa là đệ tử của Đức Thế Tôn, trước đã lìa kiết do kiến kia mà đoạn, sau lìa kiết do tu kia mà đoạn. Hỏi: Đối với hai bộ kiết do kiến-tu mà đoạn thuộc cõi Sắc, có thể có tức khắc bị trói buộc chăng? Đáp: Có. nghĩa là phàm phu đã lìa sắc nhiễm, từ khi lìa sắc nhiễm mà lui sụt và mất ở cõi Vô sắc, đến lúc sinh thuộc cõi Sắc-Dục. Hỏi: Có thể có lìa tức khắc lìa sự trói buộc chăng? Đáp: Có. nghĩa là lúc phàm phu lìa sắc nhiễm. Hỏi: Có thể có dần dần bị trói buộc chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có dần dần lìa trói buộc chăng? Đáp: Có. nghĩa là đệ tử của Đức Thế Tôn, trước đã lìa kiết do kiến kia mà đoạn, sau lìa kiết do tu kia mà đoạn. Hỏi: Đối với hai bộ kiết do kiến-tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, có thể có tức khắc bị trói buộc chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có tức khắc lìa trói buộc chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có dần dần bị trói buộc chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có dần dần lìa trói buộc chăng? Đáp: Có. nghĩa là đệ tử của Đức Thế Tôn, trước đã lìa kiết do kiến kia mà đoạn, sau lìa kiết do tu kia mà đoạn. Hỏi: Kiết hết do kiến mà đoạn thuộc cõi Dục là thuộc về quả nào? nào? nào? nào? nào? Đáp: Bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Kiết hết do tu mà đoạn thuộc cõi Dục là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả A-la-hán và Bất hoàn, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Kiết hết do kiến mà đoạn thuộc cõi Sắc là thuộc về quả Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Kiết trừ hết do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc là thuộc về quả Đáp: Thuộc về quả A-la-hán, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Kiết hết do kiến mà đoạn thuộc cõi Vô sắc là thuộc về quả Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn. Hỏi: Kiết hết do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc là thuộc về quả Đáp: Thuộc về quả A-la-hán. Có năm bộ kiết, gọi là kiết do kiến khổ mà đoạn cho đến kiết do tu mà đoạn. Hỏi: Kiết hết do kiến khổ mà đoạn là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Kiết hết do kiến tập mà đoạn là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Kiết hết do kiến diệt mà đoạn là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Kiết hết do kiến đạo đoạn là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn. Hỏi: Kiết trừ hết do tu mà đoạn là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả A-la-hán. Có chín bộ kiết, nghĩa là kiết do khổ pháp trí mà đoạn, cho đến kiết do tu mà đoạn. Hỏi: Kiết hết do khổ pháp trí mà đoạn là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Kiết hết do khổ loại trí cho đến đạo pháp trí mà đoạn là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Kiết hết do đạo loại trí đoạn là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn. Hỏi: Kiết hết do tu mà đoạn là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả A-la-hán. Có mười lăm bộ kiết, nghĩa là ba cõi, mỗi cõi đều có năm bộ. Kiết do kiến khổ mà đoạn, cho đến kiết do tu mà đoạn. Hỏi: Kiết hết do kiến khổ-tập-diệt-đạo mà đoạn thuộc cõi Dục là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Kiết hết do tu mà đoạn thuộc cõi Dục là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Bất hoàn, A-la-hán và hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Kiến hết do kiến khổ-tập-diệt-đạo mà đoạn thuộc cõi Sắc là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Kiết hết do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả A-la-hán, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Kiết hết do kiến khổ-tập-diệt-đạo mà đoạn thuộc cõi Vô sắc là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Kiết hết do kiến đạo đoạn thuộc cõi Vô sắc là thuộc về quả nào? nào? Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn. Hỏi: Kiết hết do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc là thuộc về quả Đáp: Thuộc về quả A-la-hán. Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, mỗi một tùy miên trừ hết là thuộc về quả nào? Đáp: Trong ba kiết hữu thân kiết trừ hết là thuộc về bốn quả Sa- môn, hoặc Vô xứ sở. Như hữu thân kiết trừ hết trong ba kiết; nên biết. Hữu thân kiết trừ hết trong năm kiết thuận phần dưới, hữu thân kiến- biên chấp kiết trừ hết trong năm kiến cũng vậy. Giới cấm thủ-nghi trừ hết, thuộc về bốn quả Sa-môn. Như trong ba kiết giới cấm thủ-nghi trừ hết, nên biết, ách-bộc hữu kiến trong bốn ách-bộc lưu, kiến thủ-giới cấm thủ trong bốn thủ, giới cảm thủ-chấp thật có thân này trói buộc trong bốn thứ trói buộc thân, giới cấm thủ-nghi trong năm kiết thuận phần dưới, tà kiến-kiến thủ và giới cấm thủ trong năm kiến, kiến và nghi tùy miên trong bảy tùy miên, kiến-thủ và nghi kiết trong chín kiết, trừ hết cũng như vậy. Ba căn bất thiện trừ hết thuộc về quả Bất hoàn mà A-la-hán, hoặc Vô xứ sở. Như ba căn bất thiện trừ hết; nên biết dục lậu trong ba lậu, ách-bộc lưu dục trong bốn ách-bộc lưu, dục thủ trong bốn thủ, tham dục-giận dữ trong bốn thứ trói buộc thân, bốn cái trước trong năm cái, kiết giận dữ-kiết ganh tị-kiết keo kiệt trong năm kiết, tham dục-giận dữ trong năm kiết thuận phần dưới, mũi, lưỡi chạm xúc sinh ra ái thân trong sáu ái thân, dục tham-giận dữ trong bảy tùy miên, kiết giận dữ- kiết ganh tị-kiết keo kiệt tận trong chín kiết, trừ hết cũng như vậy. Hữu lậu-vô minh trừ hết thuộc về quả A-la-hán. Như hữu lậu-vô minh trừ hết, nên biết hữu-vô minh ách và bộc lưu trong bốn ách-bộc lưu, ngã ngữ thủ trong bốn thủ, kiết tham-mạn trong năm kiết, trừ ra tham sắc còn lại bốn kiết trong năm kiết thuận phần trên, ý xúc chạm sinh ra ái thân trong sáu ái thân, hữu tham-vô minh-mạn trong bảy tùy miên, kiết ái- mạn-vô minh trong chín kiết, trừ hết cũng như vậy. Cái nghi trừ hết thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ sở. Tham sắc thuộc kiết thuận phần trên trừ hết, thuộc về quả A-la-hán, hoặc Vô xứ sở. Như tham sắc thuộc kiết thuận phần trên trừ hết, nên biết sự chạm xúc của mắt-tai-thân sinh ra ái thân trừ hết, cũng vậy. Trong chín mươi tám tùy miên, tùy miên, do kiến khổ-tập-diệt-đạo mà đoạn thuộc cõi Dục trừ hết, thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ sở; tùy miên, do tu mà đoạn thuộc cõi Dục thuộc về quả A-la-hán và Bất hoàn, hoặc Vô xứ sở; tùy miên do kiến khổ-tập-diệt-đạo mà đoạn thuộc cõi Sắc trừ hết, thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ sở; tùy miên, do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc trừ hết, thuộc về quả A-la-hán, hoặc Vô xứ sở; tùy miên do kiến khổ, tập, diệt mà đoạn thuộc cõi Vô sắc trừ hết, thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ sở; tùy miên, do kiến đạo đoạn thuộc cõi Vô sắc trừ hết, thuộc về bốn quả Sa-môn; tùy miên, do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc trừ hết thuộc về quả A-la-hán. Hỏi: Trong hướng Dự lưu, các kiết trừ hết thuộc về quả nào? Đáp: Vô xứ sở. Hỏi: Các kiết trừ hết trong quả Dự lưu thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Dự lưu. Hỏi: Các kiết trừ hết trong hướng Nhất lai thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Dự lưu, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Các kiết trừ hết trong quả Nhất lai thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Nhất lai. Hỏi: Các kiết trừ hết trong hướng Bất hoàn thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Nhất lai, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Các kiết trừ hết trong quả Bất hoàn thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Bất hoàn. Hỏi: Các kiết trừ hết trong hướng A-la-hán thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Bất hoàn, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Các kiết trừ hết trong quả A-la-hán thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả A-la-hán. Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy đầy đủ mà chưa lìa dục nhiễm. Các kiết trừ hết do tu mà đoạn thuộc cõi Dục là thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Nhất lai, hoặc Vô xứ sở. Hỏi: Đã lìa dục nhiễm, chưa lìa sắc nhiễm, các kiết trừ hết do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc, thuộc về quả nào? Đáp: Vô xứ sở. Hỏi: Đã lìa sắc nhiễm, chưa lìa nhiễm vô sắc, các kiết trừ hết do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc là thuộc về quả nào? Đáp: Vô xứ sở. Hỏi: Những người Dự lưu đã thành tựu pháp học thì pháp này thuộc về quả Dự lưu chăng? Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về quả Dự lưu. Thế nào là thuộc về quả Dự lưu? Quả Dự lưu hữu vi đã đạt được không mất. Thế nào là không thuộc về quả Dự lưu? Những người Dự lưu đã đạt được căn vô lậu thắng tiến cùng pháp hữu vi. Hỏi: Nếu pháp thuộc về quả Dự lưu thì pháp này là pháp học chăng? Đáp: Hoặc học, hoặc phi học phi vô học. Thế nào là học? Là quả Dự lưu hữu vi. Thế nào là phi học phi vô học? Là quả Dự lưu vô vi. Hỏi: Những người Nhất lai đã thành tựu pháp học, pháp này thuộc về quả Nhất lai chăng? Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về quả Nhất lai. Thế nào là thuộc về quả Nhất lai? Quả Nhất lai hữu vi đã đạt được không mất. Thế nào là không thuộc về quả Nhất lai? Những người Nhất lai đã đạt được căn vô lậu thắng tiến, cùng pháp hữu vi. Hỏi: Nếu pháp thuộc về quả Nhất lai thì pháp này là pháp học chăng? Đáp: Hoặc học, hoặc phi học phi vô học. Thế nào là học? Quả Nhất lai hữu vi. Thế nào là phi học phi vô học? Quả Nhất lai vô vi. Hỏi: Những người Bất hoàn đã thành tựu pháp học thì pháp này thuộc về quả Bất hoàn chăng? Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về quả Bất hoàn. Thế nào là thuộc về quả Bất hoàn? Quả Bất hoàn hữu vi đã đạt được không mất. Thế nào là không thuộc về quả Bất hoàn? Những người Bất hoàn đã đạt được căn vô lậu thắng tận cùng pháp hữu vi. Hỏi: Già sử pháp thuộc về quả Bất hoàn thì pháp này là pháp học chăng? Đáp: Hoặc học, hoặc phi học phi vô học. Thế nào là học? Quả Bất hoàn hữu vi. Thế nào là phi học phi vô học? Quả Bất hoàn vô vi. Hỏi: Các A-la-hán đã thành tựu pháp vô học thì pháp này thuộc về quả A-la-hán chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Già sử pháp thuộc về quả A-la-hán thì pháp này là pháp vô học chăng? Đáp: Hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học. Thế nào là vô học? Quả A-la-hán hữu vi. Thế nào là phi học phi vô học? Quả A-la-hán vô vi. Hỏi: Những người Dự lưu đã thành tựu pháp vô lậu thì pháp này thuộc về quả Dự lưu chăng? Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về. Thế nào là thuộc về? Quả Dự lưu vô vi-hữu vi đã đạt được không mất. Thế nào là không thuộc về? Những người Dự lưu đã đạt được căn vô lậu thắng tiến cùng pháp hữu vi, và các kiết trừ hết do họ đã chứng và phi trạch diệt người Dự lưu đã thành tựu. Hỏi: Già sử pháp thuộc về quả Dự lưu thì pháp này là pháp vô lậu chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Những người Nhất lai đã thành tựu pháp vô lậu, thì pháp này thuộc về quả Nhất lai chăng? Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về. Thế nào là thuộc về? Quả Nhất lai vô vi-hữu vi, đã đạt được, không mất. Thế nào là không thuộc về? Những người Nhất lai đã đạt được căn vô lậu thắng tiến cùng các pháp hữu vi, và các kiết trừ hết do họ đã chứng, cùng phi trạch diệt mà người nhất lai đã thành tựu. Hỏi: Già sử pháp thuộc về quả Nhất lai thì pháp này là pháp vô lậu chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Những người Bất hoàn đã thành tựu pháp vô lậu, thì pháp này thuộc về quả Bất hoàn chăng? Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về. Thế nào là thuộc về? Quả Bất hoàn vô vi-hữu vi, đã đạt được, không mất. Thế nào là không thuộc về? Những người Bất hoàn đã đạt được căn vô lậu thắng tiến cùng các pháp hữu vi, các kiết trừ hết do họ đã chứng và phi trạch diệt mà người Bất hoàn đã thành tựu. Hỏi: Già sử pháp thuộc về quả Bất hoàn thì pháp này là pháp vô lậu chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Các A-la-hán đã thành tựu pháp vô lậu thì pháp này thuộc về quả A-la-hán chăng? Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về. Thế nào là thuộc về? Quả A-la-hán vô vi-hữu vi đã đạt được không mất. tựu. Thế nào là không thuộc về? Phi trạch diệt mà A-la-hán đã thành Hỏi: Già sử pháp thuộc về quả A-la-hán, thì pháp này là pháp vô lậu chăng? Đáp: Đúng thế. Hỏi: Các pháp mà người Dự lưu thành tựu thì pháp ấy thuộc về quả Dự lưu chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có pháp do người Dự lưu thành tựu mà không phải thuộc về quả Dự lưu, nghĩa là người Dự lưu đã đạt được căn vô lậu thắng tiến cùng pháp hữu vi, cho đến các kiết trừ hết do người Dự lưu đã chứng, và pháp hữu lậu phi trạch diệt mà ngừơi Dự lưu đã thành tựu. Có pháp thuộc về quả Dự lưu mà không do người Dự lưu thành tựu, nghĩa là quả Dự lưu chưa đạt được đã mất. Có pháp do người Dự lưu thành tựu, cũng thuộc về quả Dự lưu nghĩa là quả Dự lưu đã đạt được không mất. Có pháp không do người Dự lưu thành tựu cũng không thuộc về là quả Dự lưu, nghĩa là trừ các tướng ở trước. Hỏi: Các pháp do người Nhất lai thành tựu thì pháp ấy thuộc về quả Nhất lai chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có pháp do người Nhất lai thành tựu mà không thuộc về quả Nhất lai, nghĩa là người Nhất lai đã đạt được căn vô lậu thắng tiến cùng pháp hữu vi, cho đến các kiết trừ hết mà họ đã chứng và pháp hữu lậu phi trạch diệt ma người Nhất lai đã thành tựu. Có pháp thuộc về quả Nhất lai, mà không do người Nhất lai thành tựu, nghĩa là quả Nhất lai chưa đạt được đã mất. Có pháp do người Nhất lai thành tựu, cũng là quả Nhất lai, ng- hóa là quả Nhất lai đã đạt được, không mất. Có pháp chẳng phải do người Nhất lai thành tựu cũng chẳng phải thuộc về cuả Nhất lai, nghĩa là trừ tướng ở trước. Hỏi: Các pháp do người Bất hoàn thành tựu thì pháp ấy thuộc về quả Bất hoàn chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có pháp do người Bất hoàn thành tựu mà không thuộc về quả Bất hoàn, nghĩa là người Bất hoàn đã đạt được căn vô lậu thắng tiến cùng pháp hữu vi, cho đến kiết trừ hết mà họ đã chứng và pháp hữu lậu phi trạch diệt mà người bất hoàn đã thành tựu. Có pháp là quả Bất hoàn mà do người Bất hoàn thành tựu, nghĩa là quả Bất hoàn chưa đạt được đã mất. Có pháp do người Bất hoàn thành tựu cũng thuộc về quả Bất hoàn, nghĩa là quả Bất hoàn đã đạt được không mất. Có pháp không do người Bất hoàn thành tựu cũng không thuộc về quả Bất hoàn, nghĩa là trừ các tướng ở trước. Hỏi: Các pháp do người A-la-hán thành tựu thì pháp ấy là quả A- la-hán chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có pháp do A-la-hán thành tựu mà không thuộc về quả A-la- hán, nghĩa là A-la-hán thành tựu pháp hữu lậu phi trạch diệt. Có pháp thuộc về quả A-la-hán mà không phải là A-la-hán thành tựu, nghĩa là quả A-la-hán chưa đạt, đã mất. Có pháp do A-la-hán thành tựu mà cũng thuộc về quả A-la-hán, nghĩa là quả A-la-hán đã đạt được không mất. Có pháp không do người A-la-hán mà thành tựu cũng không thuộc về quả A-la-hán, nghĩa là trừ các tướng ở trước. Hỏi: Những người ở cõi Dục mất đi và sinh ra, đều thọ nhận dục hữu chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có người ở cõi Dục mất đi và sinh ra mà không thọ nhận dục hữu, nghĩa là mất đi ở cõi Dục, khởi lên Trung hữu cõi Sắc. Có người thọ nhận dục hữu mà không phải ở cõi Dục mất đi và sinh ra, nghĩa là mất đi ở cõi Sắc, khởi lên Trung hữu cõi Dục. Có người ở cõi Dục mất đi và sinh ra cũng thọ nhận dục hữu, nghĩa là ở cõi dục mất đi, khởi lên Trung hữu và Sinh hữu của cõi Dục. Có người không ở cõi Dục mất đi và sinh ra cũng không thọ nhận dục hữu, nghĩa là mất đi ở cõi Sắc, sinh ra thuộc cõi Vô sắc; ở cõi Vô sắc mất đi, sinh ra ở cõi Vô sắc-Sắc. Hỏi: Những người ở cõi Sắc mất đi và sinh ra đều thọ nhận sắc hữu chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có người ở cõi Sắc mất đi và sinh ra mà không thọ nhận sắc hữu, nghĩa là ở cõi Sắc mất đi, khởi lên Trung hữu của cõi Dục. Có người thọ nhận sắc hữu mà không phải ở cõi Sắc mất đi và sinh ra, nghĩa là ở cõi Dục mất đi, khởi lên Trung hữu và Sinh hữu của cõi Sắc. Có người ở cõi Sắc mất đi và sinh ra cũng thọ nhận sắc hữu, nghĩa là ở cõi Sắc mất đi, khởi lên Trung hữu và Sinh hữu của cõi Sắc. Có người không ở tại cõi Sắc mất và đi-sinh ra cũng không thọ nhận sắc hữu, nghĩa là mất đi ở cõi Dục, sinh ra thuộc cõi Dục và ở cõi Vô sắc. Thuộc cõi Vô sắc mất đi và sinh ra ở cõi Vô sắc và cõi Dục. Hỏi: Những người ở cõi Vô sắc mất đi và sinh ra đều thọ nhận vô sắc hữu chăng? Đáp: Những người ở cõi Vô sắc mất đi và sinh ra đều thọ nhận vô sắc hữu. Có người thọ nhận vô sắc hữu, nhưng không phải ở cõi Vô sắc mất đi mà sinh ra ở cõi Vô sắc sinh ra. nghĩa là ở cõi Dục và cõi Sắc mất đi, sinh ra ở cõi Vô sắc. Hỏi: Những người ở cõi Dục mất đi và sinh ra có bao nhiêu loại? Đáp: Có bốn, nghĩa là hàng phàm phu, bậc Thánh ở cõi Dục và cõi Sắc. Hỏi: Những người ở cõi Sắc mất đi và sinh ra có bao nhiêu loại? Đáp: Có ba, nghĩa là hàng phàm phu ở cõi Dục, hàng phàm phu và bậc Thánh ở cõi Sắc. Hỏi: Những người ở cõi Vô sắc mất đi và sinh ra có bao nhiêu loại? Đáp: Có hai, nghĩa là hàng phàm phu, bậc Thánh ở cõi Vô sắc. Hỏi: Những người không phải ở cõi Dục mất đi và sinh ra đều không họ nhận dục hữu chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có người không phải ở cõi Dục mất đi và sinh ra không phải là không thọ nhận dục hữu, nghĩa là ở cõi Sắc mất đi, khởi lên Trung hữu cõi Dục. Có người không thọ nhận dục hữu mà không phải là không ở cõi Dục mất đi mà sinh ra, nghĩa là ở cõi Dục mất đi, khởi lên Trung hữu của cõi Sắc. Có người không phải ở cõi Dục mất đi và sinh ra cũng không thọ nhận dục hữu, nghĩa là ở cõi Sắc mất đi, sinh ra ở cõi Sắc và cõi Vô sắc, ở cõi Vô sắc mất đi, sinh ra ở cõi Vô sắc và cõi Sắc. Có người không phải là không ở cõi Dục mất đi và sinh ra cũng không phải là không thọ nhận dục hữu, nghĩa là ở cõi Dục mất đi, khởi lên Trung hữu và Sinh hữu của cõi Dục. Hỏi: Những người không phải ở cõi Sắc mất đi và sinh ra đều không thọ nhận sắc hữu chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để biện giải: Có người không phải ở cõi Sắc mất đi và sinh ra mà không phải là không thọ nhận sắc hữu, nghĩa là ở cõi Dục mất đi, khởi lên Trung hữu của cõi Sắc. Có người không phải là thọ nhận sắc hữu mà không phải là không ở cõi Sắc mất đi và sinh ra, nghĩa là ở cõi Sắc mất đi, khởi lên Trung hữu của cõi Dục. Có người không phải ở cõi Sắc mất đi và sinh ra cũng không thọ nhận sắc hữu, nghĩa là ở cõi Dục mất đi, sinh ra ở cõi Dục-cõi Vô sắc; ở cõi Vô sắc mất đi, sinh ra ở cõi Vô sắc và cõi Dục. Có người không phải là không ở cõi Sắc mất đi và sinh ra cũng không phải là không thọ nhận sắc hữu, nghĩa là ở cõi Sắc mất đi, khởi lên Trung hữu và Sinh hữu của cõi Sắc. Hỏi: Những người không phải ở cõi Vô sắc mất đi và sinh ra đều không thọ nhận vô sắc hữu chăng? Đáp: Những người không phải ở cõi Vô sắc mất đi và sinh ra đều không thọ nhận vô sắc hữu. Có người không thọ nhận vô sắc hữu mà không phải là không ở cõi Vô sắc mất đi, cũng không phải ở cõi Vô sắc sinh ra, nghĩa là ở cõi Vô sắc mất đi, sinh ra ở cõi Dục và cõi Sắc. Hỏi: Những người không phải ở cõi Dục mất đi và sinh ra có bao nhiêu loại? Đáp: Có năm, nghĩa là hàng phàm phu ở cõi Dục, hàng phàm phu ở cõi Sắc-Vô sắc, bậc Thánh ở cõi Sắc và Vô sắc. Hỏi: Những người không phải ở cõi Sắc mất đi và sinh ra có bao nhiêu loại? Đáp: Có sáu, nghĩa là hàng phàm phu ở ba cõi. Bậc Thánh ở ba cõi. Hỏi: Những người không phải ở cõi Vô sắc mất đi và sinh ra có bao nhiêu loại? Đáp: Có bốn, nghĩa là hàng phàm phu ở cõi Dục- cõi Sắc, bậc Thánh ở cõi Dục- cõi Sắc. Hỏi: Có thể có người ở cõi Dục mất đi mà không sinh ở cõi Dục chăng? Đáp: Có. nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-cõi Sắc, sinh ở cõi Vô sắc, hoặc bát Niết bàn. Hỏi: Có thể có người ở cõi Dục mất đi mà không sinh ở cõi Sắc chăng? Đáp: Có. nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-cõi Sắc, sinh ở cõi Vô sắc, hoặc bát Niết bàn. Hỏi: Có thể có người ở cõi Dục mất đi mà không sinh ở cõi Vô sắc chăng? Đáp: Có. nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-cõi Sắc, hoặc bát Niết bàn. Hỏi: Có thể có người ở cõi Sắc mất đi mà không sinh ở cõi Sắc chăng? Đáp: Có. nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-cõi Sắc, sinh ở cõi Vô sắc, hoặc bát Niết bàn. Hỏi: Có thể có người ở cõi Sắc mất đi mà không sinh thuộc cõi Dục chăng? Đáp: Có. nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-cõi Sắc, sinh ở cõi Vô sắc, hoặc bát Niết bàn. Hỏi: Có thể có người ở cõi Sắc mất đi mà không sinh ở cõi Vô sắc chăng? Đáp: Có. nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-cõi Sắc, hoặc bát Niết bàn. Hỏi: Có thể có người ở cõi Vô sắc mất đi mà không sinh ở cõi Vô sắc chăng? Đáp: Có. nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-cõi Sắc, hoặc bát Niết bàn. Hỏi: Có thể có người ở cõi Vô sắc mất đi mà không sinh ở cõi Dục chăng? Đáp: Có. nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-cõi Sắc, sinh ở cõi Vô sắc, hoặc bát Niết bàn. Hỏi: Có thể có người ở cõi Vô sắc mất đi mà không sinh ở cõi Sắc chăng? Đáp: Có. nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-cõi Sắc, sinh ở cõi Vô sắc, hoặc bát Niết bàn. Hỏi: Những người ở cõi Dục mất đi mà không sinh thuộc cõi Dục, có bao nhiêu loại? Đáp: Có sáu, nghĩa là hàng phàm phu nơi ba cõi, bậc Thánh ở ba cõi. Hỏi: Những người ở cõi Dục mất đi mà không sinh ở cõi Sắc, có bao nhiêu loại? Đáp: Có sáu. Tức hàng phàm phu nơi ba cõi. Bậc Thánh nơi ba cõi. Hỏi: Những người ở cõi Dục mất đi mà không sinh ở cõi Vô sắc, có bao nhiêu loại? Đáp: Có bốn. Tức hàng phàm phu ở cõi Dục-cõi Sắc. Bậc Thánh ở cõi Dục-cõi Sắc. Hỏi: Những người ở cõi Sắc mất đi mà không sinh ở cõi Sắc, có bao nhiêu loại? Đáp: Có năm, nghĩa là hàng phàm phu thuộc cõi Dục-cõi Sắc vàVô sắc, bậc Thánh ở cõi Sắc-Vô sắc. Hỏi: Những người ở cõi Sắc mất đi mà không sinh ở cõi Dục, có bao nhiêu loại? Đáp: Có năm, nghĩa là hàng phàm phu ở cõi Dục-cõi Sắc và Vô sắc, bậc Thánh ở cõi Sắc-Vô sắc. Hỏi: Những người ở cõi Sắc mất đi mà không sinh thuộc cõi Vô sắc, có bao nhiêu loại? Đáp: Có ba, nghĩa là phàm phu thuộc cõi Dục, Thánh giả, phàm phu ở cõi Sắc. Hỏi: Những người ở cõi Vô sắc mất đi mà không sinh ở cõi Vô sắc, có bao nhiêu loại? Đáp: Có hai, nghĩa là phàm phu thuộc cõi Dục-Sắc. Hỏi: Những người ở cõi Vô sắc mất đi mà không sinh ở cõi Dục, có bao nhiêu loại? Đáp: Có bốn, nghĩa là Thánh giả và phàm phu ở cõi Vô sắc, phàm phu ở cõi Dục-Sắc, có bao nhiêu loại? Hỏi: Có bao nhiêu loại người mất đi ở cõi Vô sắc, không sinh thuộc cõi Sắc? Đáp: Có bốn, nghĩa là Thánh giả và phàm phu ở cõi Vô sắc, phàm phu ở cõi Dục-Sắc. Hỏi: Có thể có người ở cõi Dục mất đi mà không sinh ở ba cõi chăng? Đáp: Có, nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-Sắc, hoặc bát Niết-bàn. Hỏi: Có thể có người ở cõi Sắc mất đi mà không sinh ở ba cõi chăng? Đáp: Có, nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-Sắc, hoặc bát Niết-bàn. Hỏi: Có thể có người ở cõi Vô sắc mất đi mà không sinh ở ba cõi chăng? Đáp: Có, nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-Sắc, hoặc bát Niết-bàn. Hỏi: Có bao nhiêu loại người mất ở cõi Dục mà không sinh nơi ba cõi? Đáp: Có bốn, đó là Thánh giả và phàm phu ở cõi Dục-Sắc. Hỏi: Có bao nhiêu loại người mất ở cõi Sắc, không sinh ở ba cõi? Đáp: Có ba, đó là phàm phu ở cõi Dục, Thánh giả mà phàm phu ở cõi Sắc. Hỏi: Có bao nhiêu loại người mất ở cõi Vô sắc mà không sinh nơi ba cõi? Đáp: Có hai, đó là phàm phu ở cõi Dục-Sắc. Hỏi: Có thể có người chưa lìa dục nhiễm mà mạng chung không sinh ở cõi Dục chăng? Đáp: Có nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục. Hỏi: Có thể có người chưa lìa sắc nhiễm mà mạng chung không sinh ở cõi Dục-Sắc chăng? Đáp: Có, nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-Sắc. Hỏi: Có thể có người chưa lìa nhiễm vô sắc mà mạng chung không sinh ở ba cõi chăng? Đáp: Có, nghĩa là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-Sắc. Hỏi: Có bao nhiêu loại người chưa lìa dục nhiễm mà mạng chung không sinh ở cõi Dục? Đáp: Có hai, đó là Thánh giả và phàm phu ở cõi Dục. Hỏi: Có bao nhiêu loại người chưa lìa sắc nhiễm mà mạng chung không sinh ở cõi Dục-Sắc? Đáp: Có bốn, đó là Thánh giả và phàm phu ở cõi Dục-Sắc. Hỏi: Có bao nhiêu loại chưa lìa vô sắc nhiễm mà mạng chung không sinh nơi ba cõi? Đáp: Có bốn, đó là hàng phàm phu ở hai cõi Dục-Sắc, bậc Thánh ở hai cõi Dục-Sắc. Hỏi: Thánh giả và phàm phu ở cõi Dục, có bao nhiêu tùy miên tùy tăng, bao nhiêu kiết trói buộc? Đáp: Phàm phu có chín mươi tám tùy miên tùy tăng, chín kiết trói buộc. Thánh giả có mười tùy miên tùy tăng, sáu kiết trói buộc. Hỏi: Thánh giả, phàm phu thuộc cõi Sắc, có bao nhiêu tùy miên tùy tăng, bao nhiêu kiết trói buộc? Đáp: Phàm phu có sáu mươi hai tùy miên tùy tăng, sáu kiết trói buộc. Thánh giả có sáu tùy miên tùy tăng, ba kiết trói buộc. Hỏi: Thánh giả, phàm phu thuộc cõi Vô sắc, có bao nhiêu tùy miên tùy tăng, bao nhiêu kiết trói buộc? Đáp: Phàm phu có ba mươi mốt tùy miên tùy tăng, sáu kiết trói buộc. Thánh giả có ba tùy miên tùy tăng, ba kiết trói buộc. ----------------- <詞>Phẩm 4: BÀN VỀ MƯỜI MÔN, Phần 1 Bốn mươi hai tùy miên tùy tăng, Hai duyên phát sinh không gián đoạn, Căn thành tựu không biết tác chứng, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hai mươi hai căn, mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, năm thủ uẩn, sáu giới; pháp hữu sắc-vô sắc; pháp hữu kiến-vô kiến; pháp hữu đối-vô đối; pháp hữu lậu-vô lậu; pháp hữu vi-vô vi; pháp quá khứ-vị lai-hiện tại; pháp thiện-bất thiện, vô ký; pháp hệ thuộc cõi Dục-cõi Sắc-Vô sắc; pháp học-vô học-phi học phi vô học; pháp do kiến mà đoạn, tu mà đoạn, không có đoạn. Bốn đế, bốn tónh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, mười biến xứ, tám trí, ba Tam-ma-địa, ba lớp Tam-ma-địa, ba kiết, ba căn bất thiện, ba lậu, bốn bộc lưu, bốn ách, bốn thủ, bốn sự trói buộc của thân, năm cái, năm kiết, năm kiết thuận phần dưới, năm kiết thuận phần trên, năm kiến, sáu ái thân, bảy tùy miên, chín kiết, chín mươi tám tùy miên. Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh thuộc cõi Vô sắc do tu mà đoạn. Hỏi: Trong chín mươi tám tùy miên, mỗi một tùy miên có bao nhiêu tùy miên tùy tăng? Đáp: Nhãn căn là biến hành thuộc cõi Dục-Sắc và tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn. Nhó-tỷ-thiệt-thân căn cũng vậy. Nữ căn là biến hành thuộc cõi Dục và tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn. Nam căn, khổ căn cũng vậy. Mạng căn là biến hành của ba cõi và tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn. Năm căn như tín v. v… cũng vậy. Tất cả ý căn tùy miên tùy tăng , xả căn cũng vậy. Lạc căn thuộc cõi Sắc, tất cả biến hành thuộc cõi Dục và tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn. Hỷ căn thuộc cõi Sắc, tất cả thuộc cõi Dục, trừ vô lậu duyên với nghi, và căn ấy tương ưng với vô minh, còn lại tất cả là tùy miên tùy tăng, ưu căn là tất cả tùy miên tùy tăng thuộc cõi Dục. Ba căn vô lậu không có tùy miên tùy tăng. Nhãn-nhó-tỷ-thiệt-thân, sắc, thanh, xúc, nhãn, nhó, thân, thức giới là biến hành thuộc cõi Dục-Sắc và tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn. Nhãn-nhó-tỷ-thiệt-thân, sắc-thanh-xúc-xứ, sắc uẩn, sắc thủ uẩn-năm giới trước, pháp có sắc, có kiến, có đối cũng vậy. Hương-vị-tỷ-thiệt thức giới là biến hành thuộc cõi Dục, và tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn. Hương-vị xứ cũng vậy. Ý pháp-ý thức giới là tất cả tùy miên tùy tăng, ý pháp xứ-bốn uẩn sau-thức giới bốn thủ uẩn sau, vô sắc-vô kiến-vô đối pháp hữu lậu-hữu vi, pháp quá khứ-vị lai-hiện tại, phi học phi vô học cũng vậy. Pháp vô lậu-vô vi không có tùy miên tùy tăng. Pháp học-vô học và không có đoạn cũng vậy. Pháp thiện và tu mà đoạn, biến hành thuộc ba cõi và tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn, pháp bất thiện và pháp hệ thuộc cõi Dục, tất cả là tùy miên tùy tăng thuộc cõi Dục, pháp vô ký và tất cả thuộc cõi Sắc- Vô sắc, hai bộ thuộc cõi Dục và biến hành do kiến tập mà đoạn là tùy miên tùy tăng, pháp hệ thuộc cõi Sắc, tất cả tùy miên tùy tăng thuộc cõi Sắc, pháp hệ thuộc cõi Vô sắc, tất cả là tùy miên tùy tăng thuộc cõi Vô sắc. Pháp do kiến mà đoạn, tất cả là tùy miên tùy tăng do kiến mà đoạn. Tất cả tùy miên tùy tăng của khổ-tập đế-diệt. Đạo đế không có tùy miên tùy tăng. Pháp loại khổ-tập-diệt-đạo trí, ba Tam-ma-địa cũng như vậy. Tất cả là tùy miên tùy tăng thuộc bốn tónh lự cõi Sắc, biến hành thuộc bốn vô lượng cõi Sắc, và tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn. Ba giải thoát trước, tám thắng xứ, tám biến xứ trước, tha tâm trí cũng vậy. Bốn vô sắc thuộc cõi Vô sắc tất cả là tùy miên tùy tăng, năm giải thoát sau, hai biến xứ sau là biến hành thuộc cõi vô sắc, và tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn. Trí thế tục, trừ vô lậu duyên với kiến, còn lại tất cả là tùy miên tùy tăng. Ba lớp Tam-ma-địa là biến hành của ba cõi và tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn. Kiết hữu thân kiến, tất cả do kiến khổ mà đoạn, và tùy miên tùy tăng, biến hành, do kiến tập mà đoạn kiết hữu thân kiến thuận phần dưới, hữu thân kiến và biên chấp kiến cũng vậy. Kiết giới cấm thủ do kiến khổ mà đoạn tất cả và biến hành do kiến tập mà đoạn, do kiến đạo mà đoạn duyên hữu lậu, tùy miên tùy tăng thuộc giới cấm thủ, và giới cấm thủ. Thân hệ thuộc-kiết thuận phần dưới, giới cấm thủ cũng vậy. Kiết nghi, do kiến mà đoạn duyên hữu lậu và nghi tương ưng với vô minh duyên vô lậu. Nghi thuộc tùy miên tùy tăng, kiết thuận phần dưới, tùy miên nghi, kiết nghi cũng vậy. Căn bất thiện tham-giận, duyên hữu lậu tùy miên tùy tăng thuộc cõi Dục, hai thứ trói buộc thân trước, hai cái trước, kiết sân, hai kiết trước thuộc kiết thuận phần dưới, hai tùy miên trước, kiết giận dữ cũng vậy. Căn bất thiện si thuộc cõi Dục, trừ vô minh duyên vô lậu, còn lại tất cả tùy miên tùy tăng. Dục lậu thuộc cõi Dục là tất cả tùy miên tùy tăng. Dục bộc lưu- ách thủ, cái, hôn trầm, thụy miên, trạo cử cũng vậy. Tất cả tùy miên tùy tăng thuộc cõi Vô sắc, sắc hữu lậu, hữu bộc- lưu ách, ngã ngữ thủ cũng vậy. Vô minh lậu trừ vô minh duyên vô lậu , còn lại tất cả tùy miên tùy tăng, ách-bộc lưu vô minh, tùy miên vô minh, kiết vô minh cũng như vậy. Kiến bộc lựu-ách do kiến mà đoạn duyên hữu lậu, và kiến tương ưng với vô minh duyên vô lậu, tùy miên tùy tăng. Kiến thủ-tà kiến-tùy miên kiến và kiết kiến cũng vậy. Sự trói buộc do chấp thật có thân này, do kiến mà đoạn, tùy miên, tùy tăng, tùy tăng tùy miên kiến thủ, kiết thủ cũng vậy. Cái ố tác là biến hành thuộc cõi Dục và kiết ganh tị-kiết keo kiệt thuộc tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn. Mũi-lưỡi xúc chạm sinh ái thân, kiết ganh tị-kiết keo kiệt cũng vậy. Cái nghi thuộc cõi Dục do kiến mà đoạn duyên hữu lậu, và nghi tương ưng với vô minh duyên vô lậu, tùy miên tùy tăng. Kiết tham-mạn duyên hữu lậu thuộc ba cõi là tùy miên tùy tăng; ý xúc chạm sinh ra ái thân, tùy miên mạn, kiết ái-mạn cũng vậy. Tham sắc là biến hành thuộc cõi Sắc và tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn. Tham vô sắc là biến hành thuộc cõi Vô sắc và tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn. Ba kiết thuận phần trên ở phía sau là biến hành thuộc cõi Sắc-Vô sắc, và tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn. Mắt-tai-thân xúc chạm sinh ra ái thân là biến hành thuộc cõi Dục-Sắc, và tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn. Tùy miên hữu tham là tùy miên tùy tăng duyên hữu lậu thuộc cõi Sắc-vô sắc. Tùy miên thuộc cõi Dục do kiến khổ mà đoạn, tất cả do kiến khổ mà đoạn thuộc cõi Dục và tùy miên tùy tăng của biến hành do kiến tập mà đoạn. Tùy miên thuộc cõi Dục do kiến tập mà đoạn, tất cả do kiến tập mà đoạn thuộc cõi Dục, và tùy miên tùy tăng của biến hành do kiến khổ mà đoạn. Tùy miên thuộc cõi Dục do kiến diệt mà đoạn, kiến diệt mà đoạn thuộc cõi Dục trừ vô minh bất cộng duyên vô lậu, còn lại tất cả tùy miên tùy tăng và biến hành. Tùy miên thuộc cõi Dục do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Dục, trừ vô minh bất cọng duyên vô lậu, còn lại tất cả tùy miên tùy tăng và biến hành. Tùy miên thuộc cõi Dục do tu mà đoạn. Tất cả do tu mà đoạn thuộc cõi Dục và tùy miên tùy tăng của biến hành. Năm bộ tùy miên tùy thuộc cõi Sắc-Vô sắc, nói rộng cũng vậy. Sự sai biệt là nói theo cảnh giới của mình. Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc duyên thức và duyên duyên thức. Đáp: Nhãn căn duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục-Sắc, biến hành thuộc cõi Vô sắc, và do tu mà đoạn; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc ba cõi. Nhó-tỷ-thiệt-thân căn cũng vậy. Nữ căn duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, biến hành thuộc cõi Sắc, và do tu mà đoạn; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục, ba bộ thuộc cõi Sắc, biến hành thuộc cõi Vô sắc, và do tu mà đoạn. Nam căn và khổ căn cũng vậy. Mạng căn duyên thức, có ba bộ thuộc ba cõi; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc ba cõi. Ý căn duyên thức và duyên duyên thức, duyên với hữu vi. Xả căn cũng vậy. Lạc căn duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục, cõi Sắc duyên với hữu vi, hai bộ thuộc cõi Vô sắc, cùng với biến hành; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục-cõi Vô sắc, cõi Sắc duyên với hữu vi. Hỷ căn duyên thức, có duyên hữu vi thuộc cõi Dục-cõi Sắc, hai bộ thuộc cõi Vô sắc, và biến hành; duyên duyên thức, có duyên hữu vi thuộc cõi Dục-cõi sắc, bốn bộ thuộc cõi Vô sắc. Ưu căn duyên thức, có duyên hữu lậu thuộc cõi Dục, biến hành thuộc cõi Sắc, và do tu mà đoạn; duyên duyên thức, có duyên hữu vi thuộc cõi Dục, ba bộ thuộc cõi Sắc, biến hành thuộc cõi Vô sắc, và do tu mà đoạn. Năm căn là tín…, duyên thức và duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc ba cõi. Ba căn vô lậu duyên thức, có hai bộ thuộc ba cõi, cùng với biến hành; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc ba cõi. Nhãn-nhó-tỷ-thiệt-thân-sắc-thanh-xúc giới duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục-cõi Sắc, biến hành thuộc cõi Vô sắc, và do tu mà đoạn; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc ba cõi. Nhãn-nhó-tỷ-thiệt-thân-sắc-thanh-xúc xứ, sắc thủ uẩn, năm giới trước, pháp hữu tiến-hữu đối cũng vậy. Hương-vị-tỷ-thiệt-thân giới duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, biến hành thuộc cõi Sắc, cùng với do tu mà đoạn, duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục, ba bộ thuộc cõi Sắc, biến hành thuộc cõi Vô sắc, và do tu mà đoạn. Hương-vị xứ cũng vậy. Nhãn-nhó-thân thức giới duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục-cõi Sắc; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục-cõi Sắc, hai bộ thuộc cõi Vô sắc, cùng với biến hành. Ý giới-ý thức giới, duyên thức và duyên duyên thức, có duyên hữu vi. vậy. Ý xứ, bốn uẩn sau, pháp hữu vi, pháp quá khứ-vị lai-hiện tại cũng Pháp giới duyên thức, có tất cả thuộc ba cõi, duyên duyên thức, có duyên hữu vi. Pháp xứ, pháp vô sắc-vô kiến-vô đối-thiện cũng vậy. Sắc uẩn duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục-cõi Sắc, hai bộ thuộc cõi Vô sắc, và biến hành; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc ba cõi. Pháp hữu sắc cũng vậy. Bốn thủ uẩn sau duyên thức, có duyên hữu lậu; duyên duyên thức, có duyên hữu vi. Thức giới, pháp hữu lậu, pháp do kiến mà đoạn cũng vậy. Pháp vô lậu duyên thức, có ba bộ thuộc ba cõi, cùng với biến hành; duyên duyên thức, có duyên hữu vi. Pháp vô đoạn cũng vậy. Pháp vô vi duyên thức, có hai bộ thuộc ba cõi, cùng với biến hành, duyên duyên thức, có duyên hữu vi pháp bất thiện duyên thức, có duyên hữu lậu thuộc cõi Dục, biến hành thuộc cõi Sắc, và do tu mà đoạn; duyên duyên thức, có duyên hữu vi thuộc cõi Dục, ba bộ thuộc cõi Sắc, biến hành thuộc cõi vô sắc, và do tu mà đoạn. Pháp hệ thuộc cõi Dục cũng vậy. Pháp vô ký duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục có duyên hữu lậu thuộc cõi Sắc-vô sắc; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục, có duyên hữu vi thuộc cõi Sắc-vô Sắc. Pháp hệ thuộc cõi Sắc duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, có duyên hữu lậu thuộc cõi Sắc, biến hành thuộc cõi Vô sắc, và do tu mà đoạn; duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, duyên hữu vi thuộc cõi Sắc, bốn bộ thuộc cõi Vô sắc. Pháp hệ thuộc cõi Vô sắc duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục-cõi Sắc, duyên hữu lậu thuộc cõi vô sắc, duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, bốn bộ thuộc cõi Sắc, duyên hữu vi thuộc cõi vô sắc. Pháp học và vô học duyên thức, có hai bộ thuộc ba cõi, cùng với biến hành, duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc ba cõi. Pháp phi học phi vô học duyên thức, có bốn bộ thuộc ba cõi, và duyên hữu lậu do kiến đạo mà đoạn; duyên duyên thức, có duyên hữu vi. Pháp do tu mà đoạn duyên thức, có ba bộ thuộc ba cõi; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc ba cõi. Khổ-tập đế duyên thức, có duyên hữu lậu; duyên duyên thức, có duyên hữu vi. Thế tục trí cũng vậy. Diệt đế duyên thức, có hai bộ thuộc ba cõi, cùng với biến hành; duyên duyên thức, có duyên hữu vi. Đạo đế duyên thức, có hai bộ thuộc ba cõi, cùng với biến hành; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc ba cõi. Khổ-tập-diệt-đạo trí, và ba Tam-ma-địa cũng vậy. Bốn tónh lự duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục, duyên hữu vi thuộc cõi Sắc, hai bộ thuộc cõi Vô sắc, và biến hành; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục-cõi Sắc, duyên hữu vi thuộc cõi Sắc. Từ-Bi-Xả vô lượng duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục-cõi Sắc, biến hành thuộc cõi Vô sắc, và do tu mà đoạn, duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, bốn bộ thuộc cõi Sắc-Vô sắc. Tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước cũng như vậy. Hỷ Vô lượng duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục-cõi Sắc; duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, bốn bộ thuộc cõi Sắc, hai bộ thuộc cõi Vô sắc, cùng với biến hành. Hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước cũng như vậy. Ba vô sắc trước duyên thức và duyên duyên thức, cùng có ba bộ thuộc cõi Dục, bốn bộ thuộc cõi Sắc, duyên hữu vi thuộc cõi Vô sắc. Phi tưởng phi phi tưởng xứ duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục-cõi Sắc, duyên hữu lậu thuộc cõi vô sắc; duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, bốn bộ thuộc cõi Sắc, duyên hữu vi thuộc cõi Vô sắc. không-Thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ-giải thoát duyên thức và duyên duyên thức, cùng có ba bộ thuộc, bốn bộ thuộc cõi Sắc-Vô sắc. Hai giải thoát sau và hai biến xứ sau duyên thức, có ba bộ thuộc ba cõi, duyên duyên thức; có ba bộ thuộc cõi Dục, bốn bộ thuộc cõi Sắc-vô sắc. Pháp trí duyên thức, có hai bộ thuộc cõi Dục cùng với biến hành, biến hành thuộc cõi Sắc và do tu mà đoạn; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục, ba bộ thuộc cõi Sắc, biến hành thuộc cõi vô sắc, và do tu mà đoạn. Loại trí duyên thức, có hai bộ và biến hành thuộc cõi Sắc-Vô sắc, biến hành thuộc cõi Dục và do tu mà đoạn; duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, bốn bộ thuộc cõi sắc-Vô sắc. Tha tâm trí duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục-cõi Sắc, hai bộ thuộc cõi Vô sắc, cùng với biến hành; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc ba cõi. Ba lớp Tam-ma-địa duyên thức, có ba bộ thuộc ba cõi; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc ba cõi. Kiết hữu thân kiến duyên thức, có ba bộ thuộc ba cõi;duyên duyên thức, có bốn bộ ba cõi. Kiết giới cấm thủ duyên thức, có ba bộ thuộc ba cõi, và duyên hữu lậu do kiến đạo mà đoạn; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc ba cõi. Giới cấm thủ và giới cấm thủ trói buộc thân, kiết giới cấm thủ thuận phần dưới, giới cấm thủ cũng như vậy. Kiết nghi duyên thức, duyên với hữu lậu; duyên duyên thức, duyên với hữu vi. Vô minh lậu-bộc lưu-ách-kiến thủ-chấpp thật có thân này trói buộc thân, kiết tham-mạn, kiết nghi thuận phần dưới, tà kiến-kiến thủ, ý xúc chạm sinh ra ái thân, tùy miên mạn-vô minh-kiến-nghi, kiết ái- mạn-vô minh-kiến-thủ-nghi cũng như vậy. Ba căn bất thiện và dục lậu duyên thức, duyên với hữu lậu thuộc cõi Dục, biến hành thuộc cõi sắc và do tu mà đoạn; duyên duyên thức, duyên với hữu vi thuộc cõi Dục, ba bộ thuộc cõi sắc, biến hành và do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc. Dục bộc lưu-ách-thủ, hai trói buộc thân trước, trừ ra ố tác còn lại các cái, kiết sân giận hai kiết trước trong kiết thuận phần dưới, tùy miên dục tham-sân giận và kiết giận dữ cũng như vậy. Hữu lậu duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, duyên hữu lậu thuộc cõi Sắc-Vô sắc; duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, duyên hữu vi thuộc cõi Sắc-Vô sắc. Hưu bộc lưu-ách, ngã ngữ thủ, tùy miên hữu tham cũng như vậy. Cái ố tác duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, biến hành và do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc, duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục, ba bộ thuộc cõi Sắc, biến hành và do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc. Kiết ganh tî-keo kiệt, mũi-lưỡi xúc chạm sinh ra ái thân, kiết ganh tî-keo kiệt cũng như vậy. Kiết tham sắc thuận phần trên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục- cõi Sắc, biến hành cho đến do tù mà đoạn thuộc cõi Vô sắc; duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, bốn bộ thuộc cõi Sắc-Vô sắc. Bốn kiết sau trong kiết thuận phần trên duyên thức, có ba bộ thuộc ba cõi; duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, bốn bộ thuộc cõi Sắc-vô sắc. Nhãn-nhó-thân xúc chạm sinh ra ái thân duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục-cõi sắc; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục-cõi Sắc, biến hành cho đến do tu mà đoạn thuộc cõi vô sắc. Tùy miên do kiến khổ-tập và tu mà đoạn thuộc cõi Dục duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, biến hành và do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục, ba bộ thuộc cõi Sắc, biến hành và do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc. Tùy miên do kiến diệt mà đoạn cõi Dục duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục và duyên hữu lậu do kiến diệt mà đoạn, biến hành và do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc; duyên duyên thức, duyên với hữu vi thuộc cõi Dục, ba bộ thuộc cõi Sắc, biến hành và do tu mà đoạn thuộc cõi vô sắc. Tùy miên do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Dục, có ba bộ thuộc cõi Dục và duyên hữu lậu do kiến đạo mà đoạn, biến hành và do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc; duyên duyên thức, có bốn bộ thuộc cõi Dục, ba bộ thuộc cõi Sắc, biến hành và do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc. Tùy miên do kiến khổ-tập và tu mà đoạn thuộc cõi Sắc duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục-Sắc, biến hành và do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc; duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, bốn bộ thuộc cõi Sắc-Vô sắc. Tùy miên do kiến diệt mà đoạn thuộc cõi Sắc duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục-Sắc, và duyên hữu lậu do kiến diệt mà đoạn thuộc cõi sắc, biến hành và do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc; duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, duyên hữu vi thuộc cõi Sắc, bốn bộ thuộc cõi Vô sắc. Tùy miên do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Sắc duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục-Sắc, và duyên hữu lậu do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi sắc, biến hành và do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc; duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, bốn bộ thuộc cõi Sắc-vô sắc. Tùy miên do kiến khổ-tập và tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc duyên thức, có ba bộ thuộc ba cõi; duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, bốn bộ thuộc cõi Sắc-vô sắc. Tùy miên do kiến diệt mà đoạn thuộc cõi Vô sắc duyên thức, có ba bộ thuộc ba cõi, và duyên hữu lậu do kiến diệt mà đoạn thuộc cõi Vô sắc; duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, bốn bộ thuộc cõi Sắc, duyên hữu vi thuộc cõi Vô sắc. Tùy miên do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Vô sắc duyên thức, có ba bộ thuộc ba cõi, và duyên hữu lậu do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Vô sắc; duyên duyên thức, có ba bộ thuộc cõi Dục, có bốn bộ thuộc cõi Sắc-Vô sắc. <卷>QUYỂN 6 <章>Chương 2: KIẾT UẨN <詞>Phẩm 4: BÀN VỀ MƯỜI MÔN, Phần 2 Hỏi: Ý căn cho đến tùy miên vô minh do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, ở trong mười lăm bộ tâm của ba cõi, mỗi một đẳng vô gián sinh bao nhiêu tâm? Đáp: Đẳng vô gián thuộc ý căn sinh mười lăm tâm; xả và năm căn như tín v.v… cũng vậy. Đẳng vô gián thuộc lạc căn sinh mười một tâm. Đẳng vô gián thuộc khổ căn sinh năm tâm; ưu căn cũng thế. Đẳng vô gián thuộc hỷ căn sinh mười tâm. Đẳng vô gián thuộc vị tri căn-đương tri căn không sinh tâm. Đẳng vô gián thuộc dó tri căn-cụ tri căn sinh ba tâm. Đẳng vô gián thuộc nhãn-nhó-thân, thức giới sinh mười tâm. Đẳng vô gián thuộc tỷ-thiệt thức giới sinh năm tâm; pháp bất thiện cũng như vậy. Đẳng vô gián thuộc ý pháp, ý thức giới sinh mười lăm tâm. Ý pháp xứ bốn uẩn sau, bốn thủ uẩn sau, thức giới, vô sắc, vô kiến, không có đối, pháp hữu vi-hữu lậu, hiện tại-thiện-vô ký, phi học phi vô học, hệ thuộc ba cõi, pháp do kiến- tu mà đoạn cũng như vậy. Đẳng vô gián thuộc pháp vô lậu sinh ba tâm; pháp học-vô học, không có đoạn cũng vậy. Đẳng vô gián thuộc pháp quá khứ sinh hai tâm, pháp vị lai không sinh tâm. Đẳng vô gián thuộc khổ-tập đế sinh mười lăm tâm. Bốn tónh lự, bốn vô sắc, thế tục trí cũng vậy. Đẳng vô gián thuộc đạo đế sinh ba tâm. Loại, khổ-tập-diệt-đạo trí, ba Tam-ma-địa cũng vậy. Đẳng vô gián thuộc bốn vô lượng sinh sáu tâm. Giải thoát thứ nhất-thứ hai-thứ tư-thứ năm, bốn thắng xứ trước, tha tâm trí cũng vậy. Đẳng vô gián thuộc giải thoát thứ ba-thứ sáu-thứ bảy sinh năm tâm. Bốn thắng xứ sau, mười biến xứ cũng vậy. Giải thoát thứ tám không sinh tâm. Đẳng vô gián thuộc pháp trí sinh hai tâm. Đẳng vô gián thuộc ba kiết sinh mười lăm tâm. Hữu vô minh lậu, hữu-kiến-vô minh bộc lưu-ách, ba thủ sau, kiết tham, mạn, hai trói buộc thân sau, ba kiết sau trong kiết thuận phần dưới, bốn kiết sau trong kiết thuận phần trên, năm kiến, ý xúc sinh ra ái thân, năm tùy miên sau, sáu kiết như ái… cũng vậy. Đẳng vô gián thuộc ba căn bất thiện và dục lậu sinh năm tâm. Dục bộc lưu-ách-thủ, thủ, năm cái, hai trói buộc thân trước, kiết giận-kiết ganh tị-kiết keo kiệt, hai kiết trước trong kiết thuận phần dưới, mũi-lưỡi xúc chạm sinh ra ái thân, tùy miên dục tham-giận dữ, kiết ganh tî-kiết keo kiệt cũng vậy. Đẳng vô gián thuộc tham sắc-vô sắc trong năm kiết thuận phần trên sinh hai tâm. Đẳng vô gián thuộc ba kiết sau trong kiết thuận phần trên sinh ba tâm. Mắt-tai-thân chạm xúc sinh ra ái thân cũng vậy. Đẳng vô gián thuộc ba mươi sáu tùy miên của cõi Dục sinh năm tâm. tâm. Đẳng vô gián thuộc ba mươi mốt tùy miên của cõi Sắc sinh mười Đẳng vô gián thuộc ba mươi mốt tùy miên của cõi Vô sắc sinh mười lăm tâm. Hỏi: Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, mỗi mỗi tùy miên đã tăng, nên nói có tầm-có tứ, không có tầm-chỉ có tứ, hay không có tầm-không có tứ? Đáp: Nên nói nhãn căn đã tăng tùy miên có đủ ba. Tai-mũi-lưỡi- thân mạng- ý lạc-hỷ-năm căn như tín v.v… đã tăng tùy miên cũng vậy. Nữ căn đã tăng tùy miên có tầm-có tứ. Khổ, ưu, nam căn đã tăng tùy miên cũng vậy. Nhãn-nhó-tỷ-thiệt-thân-sắc-thanh-xúc-ý thức giới đã tăng tùy miên có đủ ba. Nhãn-nhó-tỷ-thiệt-thân-sắc-thanh-xúc-ý-pháp xứ, năm uẩn, năm thủ uẩn, sáu giới hữu sắc-vô sắc- hữu kiến-vô kiến, hữu đối-vô đối, pháp hữu lậu-hữu vi, quá khứ, vị lai-hiện tại, thiện-vô ký, hệ thuộc nơi cõi Sắc, phi học phi vô học, pháp do kiến, tu mà đoạn, tùy miên đã tăng cũng như thế. Hương-vị-tỷ-thiệt thức giới đã tăng tùy miên có tầm-có tứ. Hương- vị xứ, bất thiện, pháp hệ thuộc cõi Dục đã tăng tùy miên cũng vậy. Nhãn-nhó-thân thức giới đã tăng tùy miên, hoặc có tầm-có tứ, hoặc không có tầm-chỉ có tứ. Pháp hệ thuộc cõi Vô sắc đã tăng tùy miên không có tầm không có tứ. Khổ-tập đế đã tăng tùy miên đủ cả ba. Bốn vô lượng, giải thoát thứ nhất-thứ hai, bốn thắng xứ trước, tha tâm, thế tục trí, ba lớp Tam-ma-địa, đã tăng tùy miên cũng như vậy. Sơ tónh lự đã tăng tùy miên hoặc có tầm-có tứ, hoặc không có tầm- chỉ có tứ. Ba tónh lự sau đã tăng tùy miên không có tầm-không có tứ. Bốn vô sắc, sáu giải thoát sau, bốn thắng xứ sau, mười biến xứ đã tăng tùy miên cũng như vậy. Ba kiết đã tăng tùy miên đủ cả ba. Hữu vô minh lậu, ba lưu-ách- thủ sau, thủ kiết tham-mạn, hai trói buộc nơi thân sau, ba kiết sau trong kiết thuận phần dưới, trừ tham vô sắc còn lại bốn kiết trong kiết thuận phần trên, năm kiến, ái thân thứ sáu, năm tùy miên sau, sáu kiết như ái, đã tăng tùy miên cũng như vậy. Ba căn bất thiện đã tăng tùy miên có tầm-có tứ. Dục lậu-bộc lưu- ách-thủ, hai trói buộc thân trước, năm cái, kiết giận-ganh tị-keo kiệt, hai kiết trước trong kiết thuận phần dưới, mũi, lưỡi xúc chạm sinh ra ái thân, tùy miên đầu tiên-thứ hai, kiết giận dữ-kiết ganh tị-kiết keo kiệt đã tăng tùy miên cũng vậy. Tham vô sắc đã tăng tùy miên không có tầm-không có tứ. nhãn- nhó-thân xúc chạm sinh ra ái thân đã tăng tùy miên, hoặc có tầm-có tứ, hoặc không có tầm-chỉ có tứ. Ba mươi sáu tùy miên thuộc cõi Dục đã tăng tùy miên có tầm-có tứ. Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Sắc đã tăng tùy miên đủ cả ba. Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Vô sắc đã tăng tùy miên không có tầm-không có tứ. Hỏi: Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, một một tùy miên đã tăng, nên nói tương ưng với lạc căn-khổ căn-hỷ căn-ưu căn- xả căn chăng? Đáp: Nên nói nhãn căn đã tăng tùy miên tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Nhó, tỷ-thiệt-thân-mạng-lạc-xả căn, năm căn như tín v.v…, đã tăng tùy miên cũng vậy. Nữ căn đã tăng tùy miên tương ưng với ba căn, trừ lạc căn-khổ căn. Hỷ-ưu-nam căn đã tăng tùy miên cũng như vậy. Ý căn đã tăng tùy miên tương ưng với năm căn. Khổ căn đã tăng tùy miên tương ưng với bốn căn, trừ lạc căn. Nhãn-nhó-tỷ-thiệt, thân và ý thức giới đã tăng tùy miên tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Pháp do kiến mà đoạn thuộc nhãn-nhó-tỷ- thiệt, thân xứ đã tăng tùy miên cũng như vậy. Sắc-thanh-hương-vị-xúc, nhãn-nhó-tỷ-thiệt, thân thức, ý-pháp, giới đã tăng tùy miên tương ưng với năm căn. Sắc-thanh-hương-vị-xúc, ý-pháp xứ, năm uẩn, năm thủ uẩn, sáu giới hữu sắc, vô sắc, hữu kiến, vô kiến, hữu đối, vô đối, pháp hữu lậu-hữu vi, pháp quá khứ-vi lai-hiện- tại, thiện-bất thiện-vô ký, hệ thuộc nơi cõi Dục, pháp do tu mà đoạn, phi học phi vô học, đã tăng tùy miên cũng như vậy. Pháp hệ thuộc cõi Sắc đã tăng tùy miên tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn. Pháp hệ thuộc cõi Vô sắc đã tăng tùy miên tương ưng với xả căn. Khổ-tập đế đã tăng tùy miên tương ưng với năm căn. Thế tục trí đã tăng tùy miên cũng vậy. Sơ tónh lự đã tăng tùy miên tương ưng với ba căn, trừ khổ căn-ưu căn. Từ-bi-xả vô lượng , tha tâm trí đã tăng tùy miên cũng vậy. Tónh lự thứ hai đã tăng tùy miên tương ưng với hỷ căn-xả căn. Hỷ vô lượng, giải thoát đầu tiên, thứ hai, bốn thắng xứ trước đã tăng tùy miên cũng vậy. Tónh lự thứ ba đã tăng tùy miên tương ưng với lạc căn-xả căn. Tónh lự thứ tư đã tăng tùy miên tương ưng với xả căn. Bốn vô sắc, sáu giải thoát sau, bốn thắng xứ sau, mười biến xứ đã tăng tùy miên cũng vậy. Ba lớp Tam-ma-địa tăng tùy miên được tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Ba kiết đã tăng tùy miên tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Căn bất thiện tham, kiến bộc lưu-ách-thủ, giới cấm thủ, tham dục, giới cấm thủ, và chấp thật có thân này trói buộc thân, cái tham dục, kiết tham-mạn, tham dục-hữu thân kiến-giới cấm thủ, nghi, trong kiết thuận phần dưới, năm kiến, sáu ái thân, tùy miên dục tham-mạn-kiến-nghi, kiết ái-mạn-kiến-thủ-nghi, đã tăng tùy miên cũng vậy. Căn bất thiện sân đã tăng tùy miên tương ưng với bốn căn, trừ lạc căn. Cái giận dữ, giận dữ trói buộc thân, kiết giận dữ, kiết giận dữ trong năm kiết thuận phần dưới, tùy miên giận dữ, kiết giận dữ, đã tăng tùy miên cũng vậy. Căn bất thiện si đã tăng tùy miên tương ưng với năm căn. Dục vô minh lậu-bộc lưu-ách, dục thủ, cái hôn trầm-trạo cử, tùy miên-kiết vô minh, đã tăng tùy miên cũng vậy. Hữu lậu đã tăng tùy miên tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn. Hữu lưu-ách dục thủ, ngã ngữ thủ, tham sắc-trạo cử-mạn-vô minh trong kiết thuận phần trên, tùy miên hữu tham, đã tăng tùy miên cũng vậy. Cái thụy miên, cái ố tác-cái nghi đã tăng tùy miên tương ưng với ba căn, trừ lạc căn-khổ căn. Kiết ganh tị-keo kiệt và kiết ganh tị-keo kiệt trong chín kiết đã tăng tùy miên cũng vậy. Tham vô sắc đã tăng tùy miên tương ưng với xả căn, cõi Dục do kiến mà đoạn tất cả và tùy miên mạn do tu mà đoạn, đã tăng tùy miên tương ưng với ba căn, trừ lạc căn, khổ căn. Tùy miên tham do tu mà đoạn thuộc cõi Dục đã tăng tùy miên tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Tùy miên giận do tu mà đoạn thuộc cõi Dục đã tăng tùy miên tương ưng với bốn căn, trừ lạc căn. Tùy miên vô minh do tu mà đoạn thuộc cõi Dục đã tăng tùy miên tương ưng với năm căn. Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Sắc đã tăng tùy miên tương ưng với ba căn, trừ khổ căn-ưu căn. Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Vô sắc đã tăng tùy miên tương ưng với xả căn. Hỏi: Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, loại nào thành tựu, loại nào không thành tựu? Đáp: Nhãn căn thuộc cõi Sắc và cõi Dục đã được không mất thì thành tựu, thuộc cõi Vô sắc và cõi Dục chưa được đã mất thì không thành tựu. Nhó, tỷ-thiệt căn cũng vậy. Thân căn thuộc cõi Dục-Sắc thì thành tựu, thuộc cõi Vô sắc thì không thành tựu. Nữ, nam căn thuộc cõi Dục đã được không mất thì thành tựu, thuộc cõi Sắc-vô sắc và cõi Dục chưa được đã mất thì không thành tựu. Mạng- ý-xả căn thì tất cả hữu tình đều thành tựu. Lạc căn, từ cõi Biến tịnh trở xuống và Thánh giả sinh cõi trên thì thành tựu, phàm phu sinh cõi trên thì không thành tựu. Khổ căn thuộc cõi Dục thì thành tựu, thuộc cõi Sắc-Vô sắc thì không thành tựu. Hỷ căn từ cõi Cực quang tịnh trở xuống và Thánh giả sinh cõi trên thì thành tựu, phàm phu sinh cõi trên thì không thành tựu. Ưu căn chưa lìa dục nhiễm thì thành tựu, đã lìa dục nhiễm thì không thành tựu. Năm căn như tín v.v…, không đoạn căn thiện thì thành tựu, đã đoạn căn thiện thì không thành tựu. Ba căn vô lậu đã được không mất thì thành tựu, chưa được đã mất thì không thành tựu. Nhãn-nhó-tỷ-thiệt, giới cõi Sắc và cõi Dục đã được không mất thì thành tựu. Cõi Vô sắc và cõi Dục chưa được đã mất thì không thành tựu. Nhãn-nhó-tỷ-thiệt-xứ cũng vậy. Thân-sắc-thanh-xúc giới, thuộc cõi Dục-Sắc thì thành tựu, thuộc cõi Vô sắc thì không thành tựu. Thân-sắc-thanh-xúc xứ sắc thủ uẩn, năm giới trước, pháp hữu kiến-hữu đối, pháp hệ thuộc cõi Dục-Sắc cũng vậy. Hương-vị- tỷ-thiệt thức giới thuộc cõi Dục thì thành tựu, cõi Sắc-Vô sắc thì không thành tựu; hương-vị xứ cũng vậy. Nhãn-nhó-thân thức giới, từ cõi Phạm thế trở xuống và sinh cõi trên ba tónh lự hiện ở trước mắt mắt thì thành tựu, không hiện ở trước mắt mắt và thuộc cõi Vô sắc thì không thành tựu. Ý-pháp-ý thức giới thuộc tất cả hữu tình đều thành tựu. Ý-pháp xứ, bốn uẩn sau, bốn thủ uẩn, thức giới vô sắc-vô kiến-vô đối, pháp hữu lậu-vô lậu-hữu vi-vô vi, pháp quá khứ-vi lai-hiện-tại, vô ký-pháp hệ thuộc cõi Vô sắc, phi học phi vô học, pháp do tu mà đoạn-không có đoạn cũng vậy. Sắc uẩn thuộc cõi Dục-Sắc và Thánh giả thuộc cõi Vô sắc thì thành tựu, phàm phu thuộc cõi Vô sắc thì không thành tựu. Pháp hữu sắc cũng vậy. Pháp thiện không đoạn căn thiện thì thành tựu, đã đoạn căn thiện thì không thành tựu. Pháp bất thiện chưa lìa dục nhiễm thì thành tựu, đã lìa dục nhiễm thì không thành tựu. Pháp học-vô học đã được không mất thì thành tựu, chưa được đã mất thì không thành tựu. Pháp do kiến đoạn, đạo loại trí chưa sinh thì thành tựu, đã sinh thì không thành tựu. Khổ-tập đế thì tất cả hữu tình đều thành tựu; Phi tưởng phi phi tưởng xứ và thế tục trí cũng vậy. Diệt đế đã được không mất thì thành tựu, chưa được đã mất thì không thành tựu. Bốn vô lượng, tám giải thoát, tám thắng xứ, mười biến xứ, tha tâm trí cũng như vậy. Đạo đế đã được thì thành tựu, chưa được thì không thành tựu. Pháp-loại-khổ-tập-diệt-đạo trí, ba Tam-ma-địa, ba lớp Tam-ma-địa cũng vậy. Sơ tónh lự từ cõi Phạm thế trở xuống và Thánh giả sinh cõi trên thì thành tựu, phàm phu sinh cõi trên thì không thành tựu. Tónh lự thứ hai từ cõi Cực quang tịnh trở xuống và Thánh giả sinh cõi trên thì thành tựu, phàm phu sinh cõi trên thì không thành tựu. Tónh lự thứ ba từ cõi Biến tịnh trở xuống và Thánh giả sinh cõi trên thì thành tựu, phàm phu sinh cõi trên thì không thành tựu. Tónh lự thứ tư từ cõi Quảng quả trở xuống và Thánh giả sinh cõi trên thì thành tựu, phàm phu sinh cõi trên thì không thành tựu. Không vô biên xứ từ Không vô biên xứ trở xuống và Thánh giả sinh cõi trên thì thành tựu, phàm phu sinh cõi trên thì không thành tựu. Thức vô biên xứ từ Thức vô biên xứ trở xuống và Thánh giả sinh cõi trên thì thành tựu, phàm phu sinh cõi trên thì không thành tựu. Vô sở hữu xứ từ Vô sở hữu xứ trở xuống và Thánh giả sinh cõi trên thì thành tựu, phàm phu sinh cõi trên thì không thành tựu. Kiết hữu thân kiến, khổ loại trí chưa sinh thì thành tựu, đã sinh thì không thành tựu. Hữu thân kiến trong kiết thuận phần dưới, hữu thân kiến-biên chấp kiến cũng vậy. Kiết giới cấm thủ-kiết nghi, đạo loại trí chưa sinh thì thành tựu, đã sinh thì không thành tựu. Kiến, bộc lưu-ách-thủ, giới cấm thủ, hai trói buộc thân sau trong bốn giới cấm thủ-nghi trong kiết thuận phần dưới, ba kiến sau, tùy miên kiến, nghi, kiết kiến-thủ-nghi cũng vậy. Ba căn bất thiện chưa lìa dục nhiễm thì thành tựu, đã lìa dục nhiễm thì không thành tựu. Dục lậu-bộc lưu-ách-thủ, hai trói buộc thân trước trong bốn, bốn cái trước, kiết giận-ganh tị-keo kiệt, hai kiết trước trong kiết thuận phần dưới, mũi-lưỡi-xúc chạm, sinh ra ái thân, tùy miên dục tham-giận dữ, kiết giận dữ-ganh tị-keo kiệt cũng vậy. Có vô minh lậu chưa lìa vô sắc nhiễm thì thành tựu, đã lìa vô sắc nhiễm thì không thành tựu. Hữu-vô minh bộc lưu-ách, ngã ngữ thủ, kiết tham, mạn, bốn kiết sau trong kiết thuận phần trên, ý xúc sinh ái thân, tùy miên hữu tham- mạn-vô minh, kiết vô minh, ái, mạn cũng vậy. Cái nghi chưa lìa dục nhiễm, phàm phu và Thánh giả chưa lìa dục nhiễm, đạo pháp trí chưa sinh thì thành tựu. Thánh giả và phàm phu đã lìa dục nhiễm và Thánh giả chưa lìa dục nhiễm, đạo pháp trí đã sinh thì không thành tựu. Tham sắc trong kiết thuận phần trên chưa lìa sắc nhiễm thì thành tựu, đã lìa sắc nhiễm thì không thành tựu. Nhãn-nhó-thân xúc chạm đã sinh ái thân chưa lìa nhiễm thuộc cõi Phạm thế thì thành tựu, đã lìa nhiễm nơi cõi Phạm thế thì không thành tựu. Tùy miên do kiến khổ mà đoạn thuộc cõi Dục, phàm phu chưa lìa dục nhiễm và Thánh giả chưa lìa dục nhiễm, khổ pháp trí chưa sinh thì thành tựu. Thánh giả- phàm phu đã lìa dục nhiễm và Thánh giả chưa lìa dục nhiễm, khổ pháp trí đã sinh thì không thành tựu. Tùy miên do kiến tập mà đoạn thuộc cõi Dục, phàm phu chưa lìa dục nhiễm và Thánh giả chưa lìa dục nhiễm, tập pháp trí chưa sinh thì thành tựu. Thánh giả-phàm phu đã lìa dục nhiễm và Thánh giả chưa lìa dục nhiễm, tập pháp trí đã sinh thì không thành tựu. Tùy miên do kiến diệt mà đoạn thuộc cõi Dục, phàm phu chưa lìa dục nhiễm và Thánh giả chưa lìa dục nhiễm, diệt pháp trí chưa sinh thì thành tựu, Thánh giả-phàm phu đã lìa dục nhiễm và Thánh giả chưa lìa dục nhiễm, diệt pháp trí đã sinh thì không thành tựu. Tùy miên do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Dục, phàm phu chưa lìa dục nhiễm và Thánh giả chưa lìa dục nhiễm, đạo pháp trí chưa sinh thì thành tựu. Thánh giả-phàm phu đã lìa dục nhiễm và Thánh giả chưa lìa dục nhiễm, đạo pháp trí đã sinh thì không thành tựu. Tùy miên do tu mà đoạn thuộc cõi Dục, phàm phu chưa lìa dục nhiễm thì thành tựu, đã lìa dục nhiễm thì không thành tựu. Tùy miên do kiến khổ mà đoạn thuộc cõi Sắc, phàm phu chưa lìa sắc nhiễm và Thánh giả chưa lìa sắc nhiễm, khổ trí chưa sinh thì thành tựu, Thánh giả-phàm phu đã lìa sắc nhiễm và Thánh giả chưa lìa sắc nhiễm, khổ loại trí đã sinh thì không thành tựu. Tùy miên do kiến tập mà đoạn thuộc cõi Sắc, phàm phu chưa lìa sắc nhiễm và Thánh giả chưa lìa sắc nhiễm, tập loại trí chưa sinh thì thành tựu. Thánh giả-phàm phu đã lìa sắc nhiễm và Thánh giả chưa lìa sắc nhiễm, tập loại trí đã sinh thì không thành tựu. Tùy miên do kiến diệt mà đoạn thuộc cõi Sắc, phàm phu chưa lìa sắc nhiễm và Thánh giả chưa lìa sắc nhiễm, diệt loại trí chưa sinh thì thành tựu. Thánh giả-phàm phu đã lìa sắc nhiễm và Thánh giả chưa lìa sắc nhiễm, diệt loại trí đã sinh thì thành tựu. Tùy miên do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Sắc, phàm phu chưa lìa sắc nhiễm và Thánh giả chưa lìa sắc nhiễm, đạo loại trí chưa sinh thì thành tựu, Thánh giả-phàm phu đã lìa sắc nhiễm và Thánh giả chưa lìa sắc nhiễm, đạo loại trí đã sinh thì không thành tựu. Tùy miên do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc, chưa lìa sắc nhiễm thì thành tựu, đã lìa sắc nhiễm thì không thành tựu. Tùy miên, do kiến mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, khổ loại trí chưa sinh thì thành tựu, đã sinh thì không thành tựu. Tùy miên, do kiến tập mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, tập loại trí chưa sinh thì thành tựu, đã sinh thì không thành tựu. Tùy miên, do kiến diệt mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, diệt loại trí chưa sinh thì thành tựu, đã sinh thì không thành tựu. Tùy miên do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, đạo loại trí chưa sinh thì thành tựu, đã sinh thì không thành tựu. Tùy miên do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc chưa lìa vô sắc nhiễm thì thành tựu, đã lìa vô sắc nhiễm thì không thành tựu. Hỏi: Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, lúc tất cả được biết khắp, ở trong chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu tùy miên được biết khắp? Ở trong chín kiết, có bao nhiêu kiết hết? Đáp: Khi nhãn căn được biết khắp thì ái sắc hết, phàm phu có ba mươi mốt tùy miên, được biết khắp không có kiết hết. Thánh giả có ba tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Nhó-tỷ-thiệt thân căn cũng vậy. Nữ, nam căn khi được biết khắp thì ái dục hết. Phàm phu có ba mươi sáu tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Thánh giả có bốn tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Khổ, ưu căn cũng vậy. Mạng căn khi được biết khắp thì ái vô sắc hết, ba tùy miên được biết khắp thì ba kiết hết. Ý-xa và năm căn như tín v.v… cũng vậy. Lạc căn khi được biết khắp thì ái thuộc cõi Biến tịnh hết, tức lạc căn được biết khắp, không có kiết hết. Hỷ căn khi được biết khắp thì ái thuộc cõi Cực quang tịnh hết, tức là hỷ căn được biết khắp, không có kiết hết. Nhãn-nhó-tỷ-thiệt-thân-sắc-thanh-xúc giới khi được biết khắp thì ái sắc hết. phàm phu có ba mươi mốt tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Thánh giả có ba tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Nhãn-nhó-tỷ-thiệt, thân, sắc, thanh, xúc xứ, sắc uẩn, sắc thủ uẩn, năm giới trước hữu sắc-hữu kiến, pháp hữu đối, pháp hệ thuộc cõi Sắc, cũng vậy. Hương-vị-tỷ-thiệt thức giới, khi được biết khắp thì ái dục hết. Phàm phu có ba mươi sáu tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Thánh giả có bốn tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Hương-vị xứ , bất thiện, pháp hệ thuộc thuộc cõi Dục cũng vậy. Nhãn-nhó-thân thức giới khi được biết khắp thì ái cõi Phạm thế hết, tức là nhãn-nhó-thân thức giới được biết khắp, không có kiết hết. Ýù-pháp-ý thức giới khi được biết khắp, thì ái vô sắc hết; ba tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Ýù-pháp xứ, bốn uẩn sau, bốn thủ uẩn-thức giới, vô sắc-vô kiến-vô đối, pháp hữu lậu-hữu vi, quá khứ-vi lai-hiện tại, thiện, vô ký, pháp hệ thuộc cõi Sắc pháp, phi học phi vô học, pháp do tu mà đoạn cũng vậy. Pháp do kiến mà đoạn khi được biết khắp, người chưa lìa ái sắc, đạo loại trí hiện ở trước mắt mắt, mười bốn tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Người đã lìa ái sắc, đạo loại trí hiện ở trước mắt mắt, bảy tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Khổ-tập đế khi được biết khắp thì ái vô sắc hết, ba tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hai giải thoát sau, thế tục trí , ba lớp Tam-ma-địa cũng vậy. Sơ tónh lự khi được biết khắp thì ái thuộc cõi Phạm thế hết, tức là sơ tónh lự được biết khắp, không có kiết hết. Tónh lự thứ hai khi được biết khắp thì ái cõi Cực quang tịnh hết, tức là tónh lự thứ hai được biết khắp, không có kiết hết. Hỷ vô lượng , giải thoát đầu tiên-thứ hai, bốn thắng xứ trước cũng vậy. Tónh lự thứ ba khi được biết khắp thì ái cõi Biến tịnh hết, tức là tónh lự thứ ba được biết khắp không có kiết hết. Tónh lự thứ tư khi được biết khắp thì ái sắc hết. Phàm phu có ba mươi mốt tùy miên được biết khắp, không có kiết hết, Thánh giả có ba tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Ba vô lượng, tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước, tha tâm trí cũng vậy. Không vô biên xứ khi được biết khắp thì ái của Không vô biên xứ hết, tức Không vô biên xứ được biết khắp, không có kiết hết. Không vô biên xứ, giải thoát biến xứ cũng vậy. Thức vô biên xứ khi được biết khắp thì ái. Thức vô biên xứ hết, tức là Thức vô biên xứ được biết khắp, không có kiết hết. Thức vô biên xứ, giải thoát biến xứ cũng vậy. Vô sở hữu xứ khi được biết khắp thì ái của Vô sở hữu xứ hết, tức là Vô sở hữu xứ được biết khắp, không có kiết hết. Vô sở hữu xứ giải thoát cũng vậy. Kiết thân kiến khi được biết khắp, khổ loại trí hiện ở trước mắt, người chưa lìa sắc nhiễm, có mười tám tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Người đã lìa sắc nhiễm có chín tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Kiết hữu thân kiến trong kiết thuận phần dưới, hữu thân kiến-biên chấp kiến cũng vậy. Kiết giới cấm thủ, kiết nghi khi được biết khắp, đạo loại trí hiện ở trước mắt, người chưa lìa sắc nhiễm, có mười bốn tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Người đã lìa sắc nhiễm, có bảy tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Kiến bộc lưu-ách-thủ, giới cấm thủ hai thứ sau trong bốn trói buộc, hai kiết sau trong kiết thuận phần dưới, ba kiến sau, tùy miên kiến-nghi, liết kiến-thủ nghi cũng vậy. Ba căn bất thiện và dục lậu khi được biết khắp thì ái dục hết, phàm phu có ba mươi sáu tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Thánh giả có bốn tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Dục bộc lưu-ách-thủ, hai thứ trước trong bốn trói buộc thân, bốn cái trước, kiết giận-ganh tị-keo kiệt, hai kiết trước trong kiết thuận phần dưới, mũi-lưỡi xúc chạm sinh ra ái thân, tùy miên tham dục-giận dữ, kiết giận-ganh tị-keo kiệt cũng vậy. Hữu lậu, vô minh lậu khi được biết khắp thì ái vô sắc hết, ba tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Hữu-vô minh bộc lưu-ách, ngã ngữ thủ, kiết tham-mạn, bốn kiết sau trong kiết thuận phần trên, ý xúc sinh ra ái thân, tùy miên hữu tham-mạn-vô minh, kiết vô minh-ái-mạn cũng vậy. Cái nghi khi được biết khắp thì ái dục của phàm phu hết, ba mươi sáu tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Thánh giả lúc đạo pháp trí hiện ở trước mắt, tám tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Khi tham sắc được biết khắp thì ái sắc hết, phàm phu có ba mươi mốt tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Thánh giả có ba tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Mắt-tai-thân xúc chạm sinh ra ái thân khi được biết khắp thì ái cõi Phạm thế hết, tức là ba ái thân được biết khắp, không có kiết hết. Tùy miên do kiến khổ mà đoạn thuộc cõi Dục, khi được biết khắp thì ái dục của phàm phu hết, ba mươi sáu tùy miên thuộc cõi Dục được biết khắp, ba kiết hết. Thánh giả lúc khổ pháp trí hiện ở trước mắt, mười tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Tùy miên do kiến tập mà đoạn thuộc cõi Dục, khi được biết khắp thì ái dục của phàm phu hết, ba mươi sáu tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Thánh giả lúc tập trí hiện ở trước mắt, bảy tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Tùy miên do kiến diệt mà đoạn thuộc cõi Dục, khi được biết khắp thì ái dục của phàm phu hết, ba mươi sáu tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Thánh giải lúc diệt pháp trí hiện ở trước mắt, bảy tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Tùy miên do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Dục, khi được biết khắp thì ái dục của phàm phu hết, ba mươi sáu tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Thánh giải lúc đạo pháp trí hiện ở trước mắt, tám tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Tùy miên do tu mà đoạn thuộc cõi Dục khi được biết khắp thì thí ái dục của phàm phu hết, ba mươi sáu tùy miên được biết khắp, ba kiết hết; Thánh giải có bốn tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Tùy miên do kiến khổ mà đoạn thuộc cõi Sắc khi được biết khắp thì ái sắc của phàm phu hết, ba mươi mốt tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Thánh giải lúc khổ loại trí hiện ở trước mắt. Mười tám tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Tùy miên do kiến tập mà đoạn thuộc cõi Sắc khi được biết khắp thì ái sắc của phàm phu hết, ba mươi mốt tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Thánh giải lúc tập loại trí hiện ở trước mắt, mười tám tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Tùy miên do kiến diệt mà đoạn thuộc cõi Sắc khi được biết khắp thì ái sắc của phàm phu hết, ba mươi mốt tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Thánh giải lúc diệt loại trí hiện ở trước mắt, mười hai tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Tùy miên do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Sắc, khi được biết khắp thì ái sắc của phàm phu hết, ba mươi mốt tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Thánh giải lúc đạo loại trí hiện ở trước mắt, mười bốn tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Tùy miên do tu mà đoạn thuộc cõi Sắc khi được biết khắp thì ái sắc của phàm phu hết, có ba mươi mốt tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Thánh giải có ba tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Tùy miên do kiến khổ mà đoạn thuộc cõi Vô sắc khi được biết khắp, khổ loại trí hiện ở trước mắt, người chưa lìa sắc nhiễm, có mười tám tùy miên được biết khắp, không có kiết hết; người đã lìa sắc nhiễm, có chín tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Tùy miên do kiến tập mà đoạn thuộc cõi Vô sắc khi được biết khắp, tập loại trí hiện ở trước mắt, người chưa lìa sắc nhiễm, có mười hai tùy miên được biết khắp, không có kiết hết; người đã lìa sắc nhễim, có sáu tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Tùy miên do kiến diệt mà đoạn thuộc cõi Vô sắc khi được biết khắp, diệt loại trí hiện ở trước mắt, người chưa lìa sắc nhiễm có mười hai tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Người đã lìa sắc nhiễm có sáu tùy miên được biết khắp, không có kiết hết. Tùy miên do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Vô sắc khi được biết khắp, đạo loại trí hiện ở trước mắt, người chưa lìa sắc nhiễm, có mười bốn tùy miên được biết khắp, ba kiết hết; người đã lìa sắc nhiễm, có bảy tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Tùy miên do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, khi được biết khắp thì ái vô sắc hết; ba tùy miên được biết khắp, ba kiết hết. Hỏi: Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, khi tất cả diệt tác chứng, ở trong chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu tùy miên diệt tác chứng? Ở trong chín kiết, có bao nhiêu kiết hết? Đáp: Khi nhãn căn diệt tác chứng, thì ái sắc hết. Phàm phu có ba mươi mốt tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Thánh giả có ba tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Nhó-tỷ-thiệt, thân căn cũng như vậy. Khi nữ, nam căn diệt tác chứng thì ái dục hết. Phàm phu có ba mươi sáu tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Thánh giả được quả Bất hoàn có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến A-la- hán có chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Khổ căn- ưu căn cũng vậy. Khi mạng căn diệt tác chứng, được quả A-la-hán, chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Ý, xả và năm căn như tín v.v… cũng vậy. Khi lạc căn diệt tác chứng, ái biến tịnh hết, tức là lạc căn diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến A-la-hán, có chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Lúc hỷ căn diệt tác chứng, ái thuộc cõi Cực quang tịnh hết, tức là hỷ căn diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả A-la-hán, có chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Nhãn-nhó-tỷ-thiệt-thân-sắc-thanh-xúc giới, khi diệt tác chứng thì ái sắc hết. Phàm phu có ba mươi mốt tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Thánh giải có ba tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến A-la-hán, có chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng chín kiết hết. Nhãn-nhó-tỷ-thiệt-thân-sắc-thanh-xúc-xứ, sắc uẩn, sắc thủ uẩn, năm giới trước, pháp hữu sắc-hữu kiến-hữu đối, pháp hệ thuộc nơi cõi Sắc cũng vậy. Hương, vị, tỷ-thiệt thức giới, khi diệt tác chứng thì ái dục hết. Phàm phu có ba mươi sáu tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Thánh giả được quả Bất hoàn, có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến A-la-hán, có chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Hương-vị xứ, pháp bất thiện, pháp hệ thuộc nơi cõi Dục cũng vậy. Nhãn-nhó-thân thức giới khi diệt tác chứng, ái của cõi Phạm thế hết, tức là ba giới diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến A-la-hán, có chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Ý-pháp-ý thức giới khi diệt tác chứng, được quả A-la-hán, có chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Ý-pháp xứ, bốn uẩn sau, bốn thủ uẩn, thức giới, vô sắc-vô kiến-vô đối, pháp hữu lậu-hữu vi, quá khứ-vi lai-hiện tại, thiện-vô ký-pháp phi học phi vô học, hệ thuộc nơi cõi Vô sắc, pháp do tu mà đoạn cũng vậy. Pháp do kiến đoạn khi diệt tác chứng được quả Dự lưu, có tám mươi chín tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn, có chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán, chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Lúc khổ-tập-diệt tác chứng, được quả A-la-hán, chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hai giải thoát sau, thế tục trí, ba lớp Tam-ma-địa cũng vậy. Lúc sơ tónh lự diệt tác chứng, ái thuộc cõi Phạm thế hết, tức là sơ tónh lự diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Khi tónh lự thứ hai diệt tác chứng, ái thuộc cõi Cực quang tịnh hết, là tức tónh lự thứ hai diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Hỷ vô lượng , giải thoát đầu tiên-thứ hai, bốn thắng xứ trước cũng vậy. Tónh lự thứ ba khi diệt tác chứng, ái thuộc cõi Biến tịnh hết, tức là tónh lự thứ ba, diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Khi tónh lự thứ tư diệt tác chứng, ái sắc hết. Phàm phu có ba mươi mốt tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Thánh giả có ba tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Ba vô lượng, tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước, tha tâm trí cũng vậy. Không vô biên xứ khi diệt tác chứng, ái thuộc Không vô biên xứ hết, tức là diệt tác chứng kia không có kiết hết. Đến A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên, diệt tác chứng, chín kiết hết. Không vô biên xứ, giải thoát biếân xứ cũng vậy. Thức vô biên xứ khi diệt tác chứng, ái thuộc thức vô biên xứ hết, tức là diệt tác chứng kia không có kiết hết. Đến A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Thức vô biên xứ, giải thoát biến xứ cũng vậy. Vô sở hữu xứ khi diệt tác chứng, ái thuộc Vô sở hữu xứ hết, tức là diệt tác chứng kia không có kiết hết. Đến A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Vô sở hữu xứ giải thoát cũng vậy. Kiết hữu thân kiến khi diệt tác chứng, khổ loại trí hiện ở trước mắt, có mười tám tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả Dự lưu, có tám mươi tám tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Hữu thân kiến trong kiết thuận phần dưới, hữu thân kiến-biên chấp kiến cũng vậy. Kiết nghi-giới cấm thủ khi diệt tác chứng được quả Dự lưu, có tám mươi tám tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Khi đến quả Bất hoàn, có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Kiến bộc lưu-ách-thủ, giới cấm thủ, giới cấm thủ hai thứ sau trong bốn trói buộc thân, giới cấm thủ-nghi trong kiết thuận phần dưới, ba kiến sau, tùy miên nghi-kiến, kiết kiến-thủ-nghi cũng vậy. Ba căn bất thiện và dục lậu khi diệt tác chứng, ái dục phàm phu hết, có ba mươi sáu tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết, Thánh giả được quả Bất hoàn có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Dục bộc lưu-ách-thủ hai thứ trước trong bốn trói buộc thân, kiết giận dữ-ganh tị-keo kiệt, bốn cái trước, hai kiết trước trong kiết thuận phần dưới, mũi-lưỡi xúc chạm sinh ra ái thân, tùy miên tham dục-giận dữ, kiết giận dữ-ganh tị-keo kiệt cũng vậy. Hữu lậu-vô minh lậu khi diệt tác chứng, được quả A-la-hán, chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Hữu-vô minh bộc lưu- ách, ngã ngữ thủ, kiết tham, mạn, bốn kiết sau trong kiết thuận phần trên, ý xúc sinh ra ái thân, tùy miên vô minh-hữu tham-mạn-kiết vô minh ái, mạn cũng vậy. Khi cái nghi diệt tác chứng, thì ái dục của phàm phu hết có, ba mươi sáu tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Thánh giải lúc đạo pháp trí hiện ở trước mắt, có tám tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả Dự lưu, có tám mươi tám tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn, có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Khi tham sắc diệt tác chứng thì ái sắc hết. Phàm phu có ba mươi mốt tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Thánh giải với ba tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Mắt-tai-thân xúc chạm sinh ra ái thân, khi diệt tác chứng, ái thuộc cõi Phạm thế hết, tức thì ba ái thân diệt tác chứng không có kiết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Tùy miên do kiến khổ mà đoạn thuộc cõi Dục khi diệt tác chứng, ái dục của phàm phu hết, ba mươi sáu tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Thánh giải lúc khổ pháp trí hiện ở trước mắt có mười tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả Dự lưu có tám mươi tám tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Tùy miên do kiến tập mà đoạn thuộc cõi Dục, khi diệt tác chứng thì ái dục của phàm phu hết, có ba mươi sáu tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Thánh giải lúc tập pháp trí hiện ở trước mắt, có bảy tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả Dự lưu có tám mươi tám tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết tập. Tùy miên là đối tượng mà đoạn của kiến diệt nơi do kiến diệt mà đoạn thuộc cõi Dục, khi diệt tác chứng, ái dục của phàm phu hết, có ba mươi sáu tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Thánh giả lúc diệt pháp trí hiện ở trước mắt. Bảy tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả Dự lưu với tám mươi tám tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn với chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Tùy miên do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Dục khi diệt tác chứng, ái dục của phàm phu hết có, ba mươi sáu tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Thánh giải lúc đạo pháp trí hiện ở trước mắt, có tám tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả Dự lưu có tám mươi tám tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Tùy miên do tu mà đoạn thuộc cõi Dục khi diệt tác chứng, ái dục của phàm phu hết, có ba mươi sáu tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Thánh giả được quả Bất hoàn, có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Tùy miên do kiến khổ mà đoạn thuộc cõi Sắc, khi diệt tác chứng, ái sắc của phàm phu hết, có ba mươi mốt tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Thánh giải lúc khổ loại trí hiện ở trước mắt, có mười tám tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả Dự lưu có tám mươi tám tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Tùy miên do kiến tập mà đoạn thuộc cõi Sắc khi diệt tác chứng, ái sắc của phàm phu hết, có ba mươi mốt tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết, Thánh giải lúc tập loại trí hiện ở trước mắt, có mười hai tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả Dự lưu với tám mươi tám diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Tùy miên do kiến diệt mà đoạn thuộc cõi Sắc, khi diệt tác chứng, ái sắc của phàm phu hết, có ba mươi mốt tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Thánh giải lúc diệt loại trí hiện ở trước mắt, có mười hai tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả Dự lưu có tám mươi tám tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Tùy miên do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Sắc, khi diệt tác chứng, ái sắc của phàm phu hết, có ba mươi mốt tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Thánh giả được quả Dự lưu, có tám mươi tám tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Tùy miên do tu mà đoạn nơi cõi Sắc khi diệt tác chứng, ái sắc hết. Phàm phu có ba mươi mốt tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Thánh giải có ba tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Tùy miên do kiến khổ mà đoạn thuộc cõi Vô sắc khi diệt tác chứng, khổ loại trí hiện ở trước mắt, có mười tám tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả Dự lưu với tám mươi tám tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn, có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Tùy miên do kiến tập mà đoạn thuộc cõi Vô sắc khi diệt tác chứng, tập loại trí hiện ở trước mắt, có mười hai tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả Dự lưu với tám mươi tám tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Tùy miên do kiến diệt mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, khi diệt tác chứng thì diệt loại trí hiện ở trước mắt, có mười hai tùy miên diệt tác chứng, không có kiết hết. Đến quả Dự lưu có tám mươi tám tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Tùy miên do kiến đạo mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, khi diệt tác chứng được quả Dự lưu, có tám mươi tám tùy miên diệt tác chứng, ba kiết hết. Đến quả Nhất lai cũng vậy. Đến quả Bất hoàn có chín mươi hai tùy miên diệt tác chứng, sáu kiết hết. Đến quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết. Tùy miên do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc khi diệt tác chứng, được quả A-la-hán thì chín mươi tám tùy miên diệt tác chứng, chín kiết hết.  <卷>QUYỂN 7 <章>Chương 3: TRÍ UẨN <詞>Phẩm 1: BÀN VỀ GIÁC CHI Tám chi học - mười chi vô học Kiến và giác chi-đạo có ba, Thế tục-vô lậu-kiến và trí, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Như Đức Thế Tôn nói: “Kiến học tích thành tựu tám chi học”. Hỏi: Thành tựu tám chi học có bao nhiêu quá khứ, bao nhiêu vị lai, bao nhiêu hiện tại? Đáp: Nếu dựa vào có tầm-có tứ, kiến học đầu tiên hiện ở trước mắt, thì quá khứ không có, vị lai-hiện tại có tám, kiến học kia diệt rồi không mất. Nếu lại dựa vào định có tầm-có tứ, kiến học hiện ở trước mắt, thì quá khứ-vị lai-hiện tại có tám, kiến học kia diệt rồi không mất. Nếu dựa vào không có tầm-không có tứ, kiến học hiện ở trước mắt, thì quá khứ-vị lai có tám, hiện tại có bảy, kiến học kia diệt rồi không mất. Nếu dựa vào định vô sắc, kiến học hiện ở trước mắt, thì quá khứ-vị lai có tám, hiện tại có bốn, kiến học kia diệt rồi không mất. Nếu nhập diệt định, hoặc tâm thế tục hiện ở trước mắt, thì quá khứ-vị lai có tám, hiện tại không có. Nếu dựa vào không có tầm-không có tứ, kiến học đầu tiên hiện ở trước mắt, thì quá khứ không có, vị lai có tám, hiện tại có bảy, kiến học kia diệt rồi không mất. Nếu lại dựa vào định không có tầm-không có tứ, kiến học hiện ở trước mắt, thì quá khứ-hiện tại có bảy, vị lai có tám, kiến học kia diệt rồi không mất. Nếu dựa vào vô sắc, kiến học hiện ở trước mắt, thì quá khứ có bảy, vị lai có tám, hiện tại có bốn, kiến học kia diệt rồi không mất. Nếu nhập diệt định, hoặc tâm thế tục hiện ở trước mắt, thì quá khứ có bảy, vị lai có tám, hiện tại không có, kiến học kia diệt rồi không mất. Nếu dựa vào định có tầm-có tứ, kiến học hiện ở trước mắt, thì quá khứ có bảy, vị lai-hiện tại có tám, kiến học kia diệt rồi không mất. Nếu dựa vào vô sắc, kiến học hiện ở trước mắt, thì quá khứ không có, vị lai có tám, hiện tại có bốn, kiến học kia diệt rồi không mất. Nếu lại dựa vào định vô sắc, kiến học hiện ở trước mắt, thì quá khứ-hiện tại có bốn, vị lai có tám, kiến học kia diệt rồi không mất. Nếu nhập diệt định, hoặc tâm thế tục hiện ở trước mắt, thì quá khứ bốn, vị lai có tám, hiện tại không có, kiến học kia diệt rồi không mất. Nếu dựa vào có tầm-có tứ, kiến học hiện ở trước mắt, thì quá khứ bốn, vị lai-hiện tại có tám, kiến học kia diệt rồi không mất. Nếu dựa vào định không có tầm-không có tứ, kiến học hiện ở trước mắt, thì quá khứ bốn, vị lai có tám, hiện tại có bảy, kiến học kia diệt rồi không mất. Như Đức Thế Tôn nói: “A-la-hán lậu tận, thành tựu mười chi vô học”. Hỏi: Vô học ấy thành tựu có bao nhiêu quá khứ, bao nhiêu vị lai, bao nhiêu hiện tại? Đáp: Nếu dựa vào định có tầm-có tứ, trí vô học đầu tiên hiện ở trước mắt, thì quá khứ không có, vị lai có mười, hiện tại có chín, vô học kia diệt rồi không mất. Nếu lại dựa vào có tầm-có tứ, trí vô học được hiện ở trước mắt, thì quá khứ-hiện tại có chín, vị lai có mười, trí vô học kia diệt rồi không mất. Nếu dựa vào định không có tầm-không có tứ, trí vô học hiện ở trước mắt, thì quá khứ có chín, vị lai có mười, hiện tại có tám, trí vô học kia diệt rồi không mất. Nếu dựa vào vô sắc, trí vô học hiện ở trước mắt, thì quá khứ có chín, vị lai có mười, hiện tại có năm, trí vô học kia diệt rồi không mất. Nếu nhập diệt định, hoặc tâm thế tục hiện ở trước mắt, thì quá khứ có chín, vị lai có mười, hiện tại không có, trí vô học kia diệt rồi không mất. Nếu dựa vào định có tầm-có tứ, trí kiến vô học đầu tiên hiện ở trước mắt, thì quá khứ-hiện tại có chín, vị lai có mười, trí đó diệt rồi không mất. Nếu lại dựa vào có tầm-có tứ, vô học hoặc trí hoặc kiến hiện ở trước mắt, thì quá khứ-vị lai có mười, hiện tại có chín, trí kiến vô học đó diệt rồi không mất. Nếu dựa vào định không có tầm-không có tứ, vô học hoặc trí hoặc kiến hiện ở trước mắt, thì quá khứ-vị lai có mười, hiện tại có tám, trí đó diệt rồi không mất. Nếu dựa vào định vô sắc, vô học hoặc trí hoặc kiến hiện ở trước mắt, thì quá khứ-vị lai có mười, hiện tại có năm, trí kiến kia diệt rồi không mất. Nếu nhập diệt định, hoặc tâm thế tục hiện ở trước mắt, thì quá khứ-vị lai có mười, hiện tại không có. Nếu dựa vào không có tầm-không có tứ, trí vô học đầu tiên hiện ở trước mắt, thì quá khứ không có, vị lai có mười, hiện tại có tám, trí vô học kia diệt rồi không mất. Nếu lại dựa vào định không có tầm-không có tứ, trí vô học hiện ở trước mắt, thì quá khứ-hiện tại có tám, vị lai có mười, trí đó diệt rồi không mất. Nếu dựa vào vô sắc, trí vô học hiện ở trước mắt, thì quá khứ tám, vị lai có mười, hiện tại có năm, trí đó diệt rồi không mất. Nếu nhập diệt định, hoặc tâm thế tục hiện ở trước mắt, thì quá khứ tám, vị lai có mười, hiện tại không có, tâm đó diệt rồi không mất. Nếu dựa vào định có tầm-có tứ, trí vô học được hiện ở trước mắt, thì quá khứ tám, vị lai có mười, hiện tại có chín, trí đó diệt rồi không mất. Nếu dựa vào không có tầm-không có tứ, kiến vô học đầu tiên được hiện ở trước mắt, thì quá khứ-hiện tại có tám, vị lai có mười, kiến vô học ấy diệt rồi không mất. Nếu lại dựa vào định không có tầm-không có tứ, vô học hoặc trí hoặc kiến hiện ở trước mắt, thì quá khứ có chín, vị lai có mười, hiện tại có tám, trí kiến vô học đó diệt rồi không mất. Nếu dựa vào vô sắc, vô học hoặc trí hoặc kiến hiện ở trước mắt, thì quá khứ có chín, vị lai có mười, hiện tại có năm, trí kiến vô học đó diệt rồi không mất. Nếu nhập diệt định, hoặc tâm thế tục hiện ở trước mắt, thì quá khứ có chín, vị lai có mười, hiện tại không có, tâm đó diệt rồi không mất. Nếu dựa vào định có tầm-có tứ, vô học hoặc trí hoặc kiến hiện ở trước mắt, thì quá khứ-hiện tại có chín, vị lai có mười. Nếu dựa vào vô sắc, trí vô học đầu tiên hiện ở trước mắt, thì quá khứ không có, vị lai có mười, hiện tại có năm, trí đó diệt rồi không mất. Nếu lại dựa vào định vô sắc, trí vô học hiện ở trước mắt, thì quá khứ-hiện tại có năm, vị lai có mười, trí đó diệt rồi không mất. Nếu nhập diệt định, hoặc tâm thế tục hiện ở trước mắt, thì quá khứ có năm, vị lai có mười, hiện tại không có, tâm đó diệt rồi không mất. Nếu dựa vào có tầm-có tứ, trí vô học hiện ở trước mắt, thì quá khứ có năm, vị lai có mười, hiện tại có chín, trí đó diệt rồi không mất. Nếu dựa vào định không có tầm-không có tứ, trí vô học sẽ hiện ở trước mắt, thì quá khứ có năm, vị lai có mười, hiện tại có tám, trí đó diệt rồi không mất. Nếu dựa vào vô sắc, kiến vô học đầu tiên sẽ hiện ở trước mắt, thì quá khứ-hiện tại có năm, vị lai có mười, kiến đó diệt rồi không mất. Nếu lại dựa vào định vô sắc, vô học hoặc trí hoặc kiến hiện ở trước mắt, thì quá khứ có sáu, vị lai có mười, hiện tại có năm, vô học, trí kiến đó diệt rồi không mất. Nếu nhập diệt định, hoặc tâm thế tục hiện ở trước mắt, thì quá khứ có sáu, vị lai có mười, hiện tại không có, tâm đó diệt rồi không mất. Nếu dựa vào định có tầm-có tứ, vô học hoặc trí hoặc kiến hiện ở trước mắt, thì quá khứ có sáu, vị lai có mười, hiện tại có chín, trí kiến vô học, đó diệt rồi không mất. Nếu dựa vào định không có tầm-không có tứ, vô học hoặc trí hoặc kiến hiện ở trước mắt, thì quá khứ có sáu, vị lai có mười, hiện tại có tám. Hỏi: Thế nào là kiến? Đáp: Là năm kiến thuộc nhãn căn, chính kiến của thế tục, kiến học, vô học. Hỏi: Thế nào là trí? Đáp: Tuệ tương ưng với năm thức, trừ nhẫn vô lậu, còn lại tuệ tương ưng với ý thức. Hỏi: Thế nào là tuệ? Đáp: Sáu thức tương ưng với tuệ. Hỏi: Các kiến là trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có kiến không phải trí, nghĩa là nhãn căn và nhẫn vô lậu. Có trí không phải kiến, nghĩa là năm thức thân tương ưng với tuệ, tận-vô sinh trí, trừ ra năm kiến cùng với chính kiến thế tục, còn lại tuệ hữu lậu tương ưng với ý thức. Có kiến cũng là trí, nghĩa là năm kiến, chính kiến thế tục, trừ nhẫn vô lậu và tận-vô sinh trí, còn lại tuệ vô lậu. Không phải kiến cũng không phải trí, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Các kiến là tuệ chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có kiến không phải tuệ, nghĩa là nhãn căn. Có tuệ không phải kiến, nghĩa là tuệ tương ưng với năm thức thân, tận-vô sinh trí, trừ ra năm kiến và chính kiến thế tục, còn lại tuệ hữu lậu tương ưng với ý thức khác. Có kiến cũøng là tuệ, nghĩa là trừ ra tận-vô sinh trí, còn lại tuệ vô lậu và năm kiến, chính kiến thế tục. Không phải kiến cũng không phải tuệ, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Các trí là tuệ chăng? Đáp: Các trí đều là tuệ. Có tuệ không phải trí, nghĩa là nhẫn vô lậu. lậu. Hỏi: Kiến thuộc về trí hay trí thuộc về kiến? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có kiến không phải thuộc về trí, nghĩa là nhãn căn và nhẫn vô Có trí không phải thuộc về kiến, nghĩa là tuệ tương ưng với năm thức thân, tận-vô sinh trí, trừ ra năm kiến và chính kiến thế tục, còn lại tuệ hữu lậu tương ưng với ý thức. Có kiến cũng thuộc về trí, nghĩa là năm kiến, chính kiến thế tục, trừ ra nhẫn vô lậu và tận-vô sinh trí, còn lại tuệ vô lậu. Không phải kiến, cũng không phải thuộc về trí, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Kiến thuộc về tuệ hay tuệ thuộc về kiến? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có kiến không phải thuộc về tuệ, nghĩa là nhãn căn. Có tuệ không phải thuộc về kiến, nghĩa là tuệ tương ưng với năm thức thân, tận-vô sinh trí, trừ ra năm kiến và chính kiến thế tục, còn lại tuệ hữu lậu tương ưng với ý thức. Có kiến cũøng thuộc về tuệ, nghĩa là trừ ra tận-vô sinh trí, còn lại tuệ vô lậu khác và năm kiến, chính kiến thế tục. Không phải kiến, cũng không phải thuộc về tuệ, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Trí thâu tóm tuệ hay tuệ thâu tóm trí? Đáp: Tuệ thâu tóm trí chứ không phải trí thâu tóm tuệ. Không thâu tóm những gì? nghĩa là nhẫn vô lậu. Hỏi: Các kiến thành tựu thì đó là trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các kiến thành tựu thì đó là kiến chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các kiến thành tựu thì đó là tuệ chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tuệ thì thành tựu kiến chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các trí thành tựu thì đó là tuệ chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tuệ thì thành tựu trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các kiến đã đoạn, đã biến khắp thì đó là trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu trí đã đoạn, đã biến khắp thì đó là kiến chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các kiến đã đoạn, đã biến khắp thì đó là tuệ chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu tuệ đã đoạn, đã biến khắp thì đó là kiến chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các trí đã đoạn, đã biến khắp thì đó là tuệ chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu tuệ đã đoạn, đã biến khắp thì đó là trí kia chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các chính kiến là Trạch pháp giác chi không? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có chính kiến không phải Trạch pháp giác chi, nghĩa là chính kiến thế tục. Có Trạch pháp giác chi không phải chính kiến, nghĩa là tận-vô sinh trí. Có chính kiến cũng là Trạch pháp giác chi, nghĩa là trừ ra tận- vô sinh trí, tuệ vô lậu. Không phải chính kiến cũng không phải Trạch pháp giác chi, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Các chính trí là Trạch pháp giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có chính trí không phải Trạch pháp giác chi, nghĩa là chính trí thế tục. Có Trạch pháp giác chi không phải chính trí, nghĩa là nhẫn vô lậu. Có chính trí cũng là Trạch pháp giác chi, nghĩa là trừ ra nhẫn vô lậu, còn lại tuệ vô lậu. Không phải chính trí cũng không phải Trạch pháp giác chi, nghĩa là trừ ra tướng trước. Hỏi: Bảy giác chi, tám đạo chi, khi mỗi mỗi chi hiện ở trước mắt, thì có có bao nhiêu giác chi, bao nhiêu đạo chi hiện ở trước mắt? Đáp: Nếu dựa vào vị chí định, lúc Niệm giác chi hiện ở trước mắt, có sáu giác chi học, tám đạo chi hiện ở trước mắt, có sáu giác chi vô học, chín đạo chi hiện ở trước mắt. Nếu dựa vào sơ tónh lự, thì lúc Niệm giác chi hiện ở trước mắt, có bảy giác chi học, tám đạo chi hiện ở trước mắt, và bảy giác chi vô học, chín đạo chi hiện ở trước mắt. Nếu dựa vào ở trung gian tónh lự thì lúc Niệm giác chi hiện ở trước mắt, có sáu giác chi học, bảy đạo chi hiện ở trước mắt, và sáu giác chi vô học, tám đạo chi hiện ở trước mắt. Dựa vào tónh lự thứ ba-thứ tư cũng vậy. Nếu dựa vào tónh lự thứ hai, lúc Niệm giác chi hiện ở trước mắt, có bảy giác chi học, bảy đạo chi hiện ở trước mắt, và bảy giác chi vô học, tám đạo chi hiện ở trước mắt. Nếu dựa vào định vô sắc, lúc Niệm giác chi hiện ở trước mắt, có sáu giác chi học, bốn đạo chi hiện ở trước mắt, và sáu giác chi vô học, năm đạo chi hiện ở trước mắt. Trạch pháp giác chi-Tinh tiến-Khinh an- định-Xả, giác chi chính kiến-chính tinh tiến-chính niệm-chính định đạo chi, cũng vậy. Nếu dựa vào sơ tónh lự, lúc Hỷ giác chi hiện ở trước mắt, thì có bảy giác chi học, tám đạo chi hiện ở trước mắt, và bảy giác chi vô học, chín đạo chi hiện ở trước mắt. Nếu dựa vào tónh lự thứ hai, thì khi Hỷ giác chi hiện ở trước mắt, và bảy giác chi học, bảy đạo chi hiện ở trước mắt, thì bảy giác chi vô học, tám đạo chi hiện ở trước mắt. Nếu dựa vào vị chí, thì khi chính tư duy hiện ở trước mắt, và sáu giác chi học, tám đạo chi hiện ở trước mắt, thì sáu giác chi vô học, chín đạo chi hiện ở trước mắt. Nếu dựa vào sơ tónh lự thì khi chính tư duy hiện ở trước mắt, có bảy giác chi học, tám đạo chi hiện ở trước mắt, và bảy giác chi vô học, chín đạo chi hiện ở trước mắt. Nếu dựa vào vị chí định, khi chính ngữ hiện ở trước mắt, thì có sáu giác chi học, tám đạo chi hiện ở trước mắt, và sáu giác chi vô học, chín đạo chi hiện ở trước mắt. Nếu dựa vào sơ tónh lự, khi chính ngữ hiện ở trước mắt, thì có bảy giác chi học, tám đạo chi hiện ở trước mắt, thì bảy giác chi vô học, chín đạo chi hiện ở trước mắt. Nếu dựa vào trung gian tónh lự, khi chính ngữ hiện ở trước mắt, thì có sáu giác chi học, bảy đạo chi hiện ở trước mắt, và sáu giác chi vô học, tám đạo chi hiện ở trước mắt. Dựa vào tónh lự thứ ba-thứ tư cũng vậy. Nếu dựa vào tónh lự thứ hai, khi chính ngữ hiện ở trước mắt, thì có bảy giác chi học, bảy đạo chi hiện ở trước mắt, và bảy giác chi vô học, tám đạo chi hiện ở trước mắt. chính nghiệp_chính mạng cũng như vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Niệm giác chi, thì pháp đó tương ưng với Trạch pháp giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với Niệm mà không tương ưng với Trạch pháp, nghĩa là Trạch pháp giác chi. Có pháp tương ưng với Trạch pháp mà không tương ưng với Niệm, nghĩa là Niệm giác chi. Có pháp tương ưng với Niệm cũng tương ưng với Trạch pháp, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với Niệm cũng không tương ưng với Trạch pháp, nghĩa là các tâm-tâm sở pháp khác, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với Trạch pháp giác chi, đối với Tinh tiến- Khinh an-định-Xả giác chi-chính tinh tiến-chính định cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Niệm giác chi, thì pháp đó tương ưng với Hỷ giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với Niệm mà không tương ưng với Hỷ, nghĩa là Hỷ giác chi và Hỷ không tương ưng với pháp tương ưng của Niệm giác chi. Có pháp tương ưng với Hỷ mà không tương ưng với Niệm, nghĩa là Hỷ giác chi tương ưng với Niệm. Có pháp tương ưng với Niệm cũng tương ưng với Hỷ, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với Niệm cũng không tương ưng với Hỷ, nghĩa là Hỷ không tương ưng với Niệm giác chi và các tâm-tâm sở pháp, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với Hỷ giác chi, đối với chính kiến-chính tư duy cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Niệm giác chi, thì pháp đó tương ưng với chính niệm chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với chính niệm, thì pháp đó tương ưng với Niệm giác chi chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Trạch pháp giác chi, thì pháp đó tương ưng với Tinh tiến giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với Trạch pháp mà không tương ưng với Tinh tiến, nghĩa là Tinh tiến giác chi. Có pháp tương ưng với Tinh tiến mà không tương ưng với Trạch pháp, nghĩa là Trạch pháp giác chi. Có pháp tương ưng với Trạch pháp cũng tương ưng với Tinh tiến, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với Trạch pháp cũng không tương ưng với Tinh tiến, nghĩa là các tâm-tâm sở pháp, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với Tinh tiến giác chi, đối với giác chi Khinh an- Định-Xả, chính tinh tiến, chính niệm-chính định cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Trạch pháp giác chi, thì pháp đó tương ưng với Hỷ giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với Trạch pháp mà không tương ưng với Hỷ, nghĩa là Hỷ giác chi và Hỷ không tương ưng với pháp tương ưng của Trạch pháp giác chi. Có pháp tương ưng với Hỷ mà không tương ưng với Trạch pháp, nghĩa là Hỷ giác chi tương ưng với Trạch pháp. Có pháp tương ưng với Trạch pháp cũng tương ưng với Hỷ, ng- hóa là hai pháp tương ưng . Có pháp không tương ưng với Trạch pháp, cũng không tương ưng với Hỷ, nghĩa là hỷ không tương ưng với Trạch pháp giác chi, và các tâm-tâm sở pháp khác, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với Hỷ giác chi, đối với chính tư duy cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Trạch pháp giác chi, thì pháp đó tương ưng với chính kiến chăng? Đáp: Các pháp tương ưng với chính kiến thì cũng tương ưng với Trạch pháp giác chi. Có pháp tương ưng với Trạch pháp mà không tương ưng với chính kiến, nghĩa là chính kiến vốn không thâu tóm pháp tương ưng với Trạch pháp giác chi. Hỏi: Các pháp tương ưng với Tinh tiến giác chi, thì pháp đó tương ưng với Hỷ giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với Tinh tiến mà không tương ưng với hỷ, nghĩa là Hỷ giác chi và Hỷ không tương ưng với pháp tương ưng của Tinh tiến giác chi. Có pháp tương ưng với Hỷ mà không tương ưng với Tinh tiến, nghĩa là Hỷ giác chi tương ưng với Tinh tiến. Có pháp tương ưng với Tinh tiến cũng tương ưng với Hỷ, nghĩa là hai pháp tương ưng . Có pháp không tương ưng với Tinh tiến, cũng không tương ưng với Hỷ, nghĩa là Hỷ không tương ưng với Tinh tiến giác chi và các tâm- tâm sở pháp, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với Hỷ giác chi, đối với chính kiến-chính tư duy cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Tinh tiến giác chi, thì pháp đó tương ưng với Khinh an giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với Tinh tiến mà không tương ưng với Khinh an, nghĩa là Khinh an giác chi. Có pháp tương ưng với Khinh an mà không tương ưng với Tinh tiến, nghĩa là Tinh tiến giác chi. Có pháp tương ưng với Tinh tiến cũng tương ưng với Khinh an, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với Tinh tiến, cũng không tương ưng với Khinh an, nghĩa là các tâm-tâm sở pháp, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với Khinh an giác chi, đối với Định-Xả giác chi, chính niệm-chính định cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Tinh tiến giác chi, thì pháp đó tương ưng với chính tinh tiến chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu pháp tương ưng với chính tinh tiến, thì pháp ấy tương ưng với Tinh tiến giác chi chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Hỷ giác chi, thì pháp đó tương ưng với Khinh an giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với Hỷ mà không tương ưng với Khinh an, nghĩa là Hỷ tương ưng với Khinh an giác chi. Có pháp tương ưng với Khinh an mà không tương ưng với Hỷ, nghĩa là Hỷ giác chi và Hỷ không tương ưng với pháp tương ưng của Khinh an giác chi. Có pháp tương ưng với Hỷ cũng tương ưng với Khinh an, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với Hỷ cũng không tương ưng với Khinh an, nghĩa là Hỷ không tương ưng với Khinh an giác chi và các tâm-tâm sở pháp, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với Khinh an giác chi, đối với Định-Xả giác chi, chính tinh tiến, chính niệm- chính định cũng thế. Hỏi: Các pháp tương ưng với Hỷ giác chi, thì pháp đó tương ưng với chính kiến chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với Hỷ mà không tương ưng với chính kiến, nghĩa là Hỷ giác chi tương ưng với chính kiến và chính kiến không tương ưng với pháp tương ưng của Hỷ giác chi. Có pháp tương ưng với chính kiến mà không tương ưng với Hỷ, nghĩa là chính kiến tương ưng với Hỷ giác chi và Hỷ giác chi không tương ưng với pháp tương ưng của chính kiến. Có pháp tương ưng với Hỷ cũng tương ưng với chính kiến, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với Hỷ cũng không tương ưng với chính kiến, nghĩa là Hỷ giác chi không tương ưng với chính kiến, chính kiến không tương ưng với Hỷ giác chi, và các tâm-tâm sở pháp, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với chính kiến, đối với chính tư duy cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Khinh an giác chi, thì pháp đó cũng tương ưng với Định giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với Khinh an mà không tương ưng với Định, nghĩa là Định giác chi. Có pháp tương ưng với Định, không tương ưng với Khinh an, nghĩa là Khinh an giác chi. Có pháp tương ưng với Khinh an cũng tương ưng với Định, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với Khinh an cũng không tương ưng với định, nghĩa là các tâm-tâm sở pháp khác, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với Định giác chi, đối với Xả giác chi, chính tinh tiến-chính niệm-chính định cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Khinh an giác chi, thì pháp đó tương ưng với chính kiến chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với Khinh an mà không tương ưng với chính kiến, nghĩa là chính kiến, và chính kiến không tương ưng với pháp tương ưng của Khinh an giác chi. Có pháp tương ưng với chính kiến mà không tương ưng với Khinh an, nghĩa là chính kiến tương ưng với Khinh an giác chi Có pháp tương ưng với Khinh an cũng tương ưng với chính kiến, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với Khinh an cũng không tương ưng với chính kiến, nghĩa là chính kiến không tương ưng với Khinh an giác chi và các tâm-tâm sở pháp, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với chính kiến, đối với chính tư duy cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Định giác chi, thì pháp đó cũng tương ưng với Xả giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với Định mà không tương ưng với Xả, nghĩa là Xả giác chi. Có pháp tương ưng với Xả mà không tương ưng với Định, nghĩa là Định giác chi. Có pháp tương ưng với Định mà cũng tương ưng với Xả, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với Định cũng không tương ưng với Xả, nghĩa là các tâm-tâm sở pháp, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với Xả giác chi, đối với chính tinh tiến, chính niệm cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Định giác chi, thì pháp đó tương ưng với chính kiến chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với Định mà không tương ưng với chính kiến, nghĩa là chính kiến và chính kiến không tương ưng với pháp tương ưng của Định giác chi. Có pháp tương ưng với chính kiến mà không tương ưng với Định, nghĩa là chính kiến tương ưng với Định giác chi. Có pháp tương ưng với Định cũng tương ưng với chính kiến, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với Định cũng không tương ưng với chính kiến, nghĩa là chính kiến không tương ưng với Định giác chi và các tâm-tâm sở pháp, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với chính kiến, đối với chính tư duy cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Định giác chi, thì pháp đó tương ưng với chính định chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu pháp tương ưng với chính định, thì pháp đó tương ưng với Định giác chi chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Xả giác chi, thì pháp đó tương ưng với chính kiến chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với Xả mà không tương ưng với chính kiến, nghĩa là Xả chính kiến và chính kiến không tương ưng với pháp tương ưng của Xả giác chi. Có pháp tương ưng với chính kiến mà không tương ưng với Xả, nghĩa là chính kiến tương ưng với Xả giác chi. Có pháp tương ưng với Xả cũng tương ưng với chính kiến, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với Xả cũng không tương ưng với chính kiến, nghĩa là chính kiến không tương ưng với Xả giác chi và các tâm-tâm sở pháp, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với chính kiến, đối với chính tư duy cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Xả giác chi, thì pháp đó tương ưng với chính tinh tiến chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với Xả mà không tương ưng với chính tinh tiến, nghĩa là chính tinh tiến. Có pháp tương ưng với chính tinh tiến mà không tương ưng với Xả, nghĩa là Xả giác chi. Có pháp tương ưng với Xả cũng tương ưng với chính tinh tiến, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với xả, cũng không tương ưng với chính tinh tiến, nghĩa là các tâm-tâm sở pháp, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với chính tinh tiến, đối với chính niệm-chính định cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với chính kiến, thì pháp đó tương ưng với chính tư duy chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với chính kiến mà không tương ưng với chính tư duy, nghĩa là chính kiến tương ưng với chính tư duy, chính tư duy không tương ưng với pháp tương ưng của chính kiến. Có pháp tương ưng với chính tư duy mà không tương ưng với chính kiến, nghĩa là chính tư duy tương ưng với chính kiến, và chính kiến không tương ưng với pháp tương ưng của chính tư duy. Có pháp tương ưng với chính kiến cũng tương ưng với chính tư duy, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với chính kiến cũng không tương ưng với chính tư duy, nghĩa là chính kiến không tương ưng với chính tư duy và chính tư duy không tương ưng với chính kiến và các tâm- tâm sở pháp khác, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Các pháp tương ưng với chính kiến, thì pháp đó tương ưng với chính tinh tiến chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với chính kiến mà không tương ưng với chính tinh tiến, nghĩa là chính kiến tương ưng với chính tinh tiến và chính tinh tiến không tương ưng với với pháp tương ưng của chính kiến. Có pháp tương ưng với chính tinh tiến mà không tương ưng với chính kiến, nghĩa là chính tinh tiến tương ưng với chính kiến và chính kiến không tương ưng với pháp tương ưng của chính tinh tiến. Có pháp tương ưng với chính kiến cũng tương ưng với chính tinh tiến, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với chính kiến cũng không tương ưng với chính tinh tiến, nghĩa là chính kiến không tương ưng với chính tinh tiến và các tâm-tâm sở pháp khác, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với chính tinh tiến, đối với chính niệm-chính định cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với chính tư duy, thì pháp đó tương ưng với chính tinh tiến chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với chính tư duy mà không tương ưng với chính tinh tiến, nghĩa là chính tư duy tương ưng với chính tinh tiến. Có pháp tương ưng với chính tinh tiến mà không tương ưng với chính tư duy, nghĩa là chính tư duy và chính tư duy không tương ưng với pháp tương ưng của chính tinh tiến. Có pháp tương ưng với chính tư duy cũng tương ưng với chính tinh tiến, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với chính tư duy cũng không tương ưng với chính tinh tiến, nghĩa là chính tư duy không tương ưng với chính tinh tiến và các tâm-tâm sở pháp khác, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với chính tinh tiến, đối với chính niệm-chính định cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với chính tinh tiến, thì pháp đó tương ưng với chính niệm chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với chính tinh tiến mà không tương ưng với chính niệm, nghĩa là chính niệm. Có pháp tương ưng với chính niệm mà không tương ưng với chính tinh tiến, nghĩa là chính tinh tiến. Có pháp tương ưng với chính tinh tiến cũng tương ưng với chính niệm, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với chính tinh tiến cũng không tương ưng với chính niệm, nghĩa là các tâm-tâm sở pháp khác, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như đối với chính niệm, đối với chính định cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với chính niệm, thì pháp đó tương ưng với chính định chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với chính niệm mà không tương ưng với chính định, nghĩa là chính định. Có pháp tương ưng với chính định mà không tương ưng với chính niệm, nghĩa là chính niệm. Có pháp tương ưng với chính niệm cũng tương ưng với chính định, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với chính niệm cũng không tương ưng với chính định, nghĩa là các tâm-tâm sở pháp khác, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Thế nào là chính kiến thế tục? Đáp: Ý thức tương ưng với tuệ hữu lậu thiện. Hỏi: Thế nào là chính trí thế tục? Đáp: Năm thức tương ưng với tuệ thiện, và ý thức tương ưng với tuệ hữu lậu thiện. Hỏi: Các chính kiến thế tục, là chính trí thế tục chăng? Đáp: Các chính kiến thế tục cũng là chính trí thế tục. Có chính trí thế tục, không phải chính kiến thế tục, nghĩa là năm thức tương ưng với tuệ thiện. Hỏi: chính kiến thế tục thâu tóm chính trí thế tục, hay chính trí thế tục thâu tóm chính kiến thế tục? Đáp: chính trí thế tục thâu tóm chính kiến thế tục mà không phải là chính kiến thế tục thâu tóm chính trí thế tục. Hỏi: Không thâu tóm những gì? Đáp: nghĩa là năm thức tương ưng với tuệ thiện. Hỏi: Những chính kiến thế tục thành tựu thì đó là chính trí thế tục chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu thành tựu chính trí thế tục thì thành tựu chính kiến thế tục chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các chính kiến thế tục đã đoạn, đã biết khắp thì đó là chính trí thế tục chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu chính trí thế tục đã đoạn, đã biết khắp thì đó là chính kiến thế tục chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Thế nào là kiến vô lậu? Đáp: Trừ ra tận-vô sinh trí, còn lại tuệ vô lậu. Hỏi: Thế nào là trí vô lậu? Đáp: Trừ nhẫn vô lậu, còn lại tuệ vô lậu. Hỏi: Các kiến vô lậu là trí vô lậu chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: trí. Có kiến vô lậu mà không phải trí vô lậu, nghĩa là nhẫn vô lậu. Có trí vô lậu mà không phải kiến vô lậu, nghĩa là tận-vô sinh Có kiến vô lậu cũng là trí vô lậu, nghĩa là trừ ra nhẫn vô lậu và tận-vô sinh trí, còn lại tuệ vô lậu. Không phải kiến vô lậu cũng không phải trí vô lậu, nghĩa là trừ ra tướng trước. Hỏi: Kiến vô lậu thâu tóm trí vô lậu, hay trí vô lậu thâu tóm kiến vô lậu? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có kiến vô lậu không phải thuộc về trí vô lậu, nghĩa là nhẫn vô lậu. Có trí vô lậu không phải thuộc về kiến vô lậu, nghĩa là tận-vô sinh trí. Có kiến vô lậu cũng thuộc về trí vô lậu, nghĩa là trừ ra nhẫn vô lậu, và tận-vô sinh trí, còn lại tuệ vô lậu. Không phải kiến vô lậu cũng không phải thuộ về trí vô lậu, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Những kiến vô lậu thành tựu thì đó là trí vô lậu chăng? Đáp: Thành tựu trí vô lậu cũng là thành tựu kiến vô lậu. Có kiến vô lậu thành tựu mà không phải là trí vô lậu, nghĩa là khổ pháp trí nhẫn hiện ở trước mắt. ------------------- <詞>Phẩm 2: BÀN VỀ NĂM LOẠI Tà-chính-kiến-trí gồm năm loại, Tuệ sai lạc-học gồm ba loại, Phạm-nhẫn và năm loại ác kiến, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Thế nào là tà kiến? Đáp: Nếu không an lập, thì năm kiến đều gọi là tà kiến. Nếu an lập thì chỉ có những kiến về không có bố thí, không có yêu thích, không có thờ cúng, không có hành tuyệt diệu, không có hành xấu xa không có hành tuyệt diệu-xấu xa và những nghiệp quả dị thục, gọi là tà kiến. Hỏi: Thế nào là tà trí? Đáp: Sáu thức tương ưng với tuệ ô nhiễm. Hỏi: Các tà kiến là tà trí chăng? Đáp: Các tà kiến là tà trí. Có tà trí không phải tà kiến, nghĩa là năm thức tương ưng với tuệ ô nhiễm và trừ năm kiến, còn lại ý thức tương ưng với tuệ ô nhiễm. Hỏi: Tà kiến thâu tóm tà trí, hay tà trí thâu tóm tà kiến? Đáp: Tà trí thâu tóm tà kiến, không phải tà kiến thâu tóm tà trí. Hỏi: Không thâu tóm những gì? Đáp: nghĩa là năm thức khác tương ưng với tuệ ô nhiễm, và trừ ra năm kiến, còn lại ý thức tương ưng với tuệ ô nhiễm. Hỏi: Các tà kiến thành tựu thì đó là trí chăng? Đáp: Các tà kiến thành tựu cũng là tà trí. Có tà trí thành tựu nhưng không phải là tà kiến, nghĩa là kiến học tích. Hỏi: Các tà kiến đã đoạn, đã biến khắp thì đó là tà trí chăng? Đáp: Các tà trí đã đoạn, đã biết khắp cũng là tà kiến. Có tà kiến đã đoạn, đã biết khắp nhưng không phải là tà trí, nghĩa là kiến học tích. Hỏi: Thế nào là chính kiến? Đáp: Tận-vô sinh trí vốn không thâu tóm tuệ thiện tương ưng với ý thức. Hỏi: Thế nào là chính trí? Đáp: Năm thức tương ưng với tuệ thiện và nhẫn vô lậu mà không thâu tóm tuệ thiện tương ưng với ý thức. Hỏi: Các chính kiến là chính trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có chính kiến không là phải chính trí, nghĩa là nhẫn vô lậu. Có chính trí không phải là chính kiến, nghĩa là năm thức tương ưng với tuệ thiện và tận-vô sinh trí. Có chính kiến cũng là chính trí, nghĩa là nhẫn vô lậu, và tận- vô sinh trí vốn không thâu tóm tuệ thiện tương ưng với ý thức. Không phải chính kiến cũng không phải là chính trí, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: chính kiến thâu tóm chính trí hay chính trí thâu tóm chính kiến? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có chính kiến không phải thuộc về chính trí, nghĩa là nhẫn vô lậu. Có chính trí không phải thuộc về chính kiến, nghĩa là năm thức tương ưng với tuệ thiện và tận-vô sinh trí. Có chính kiến cũng thuộc về chính trí, nghĩa là nhẫn vô lậu, tận-vô sinh trí vốn không thâu tóm tuệ thiện tương ưng với ý thức. Không phải chính kiến cũng không phải thuộc về chính trí, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Các chính kiến thành tựu thì đó là trí chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu thành tựu chính trí thì đó là chính kiến chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các chính kiến đã đoạn, đã biến khắp thì đó là chính trí chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu chính trí đã đoạn, đã biến khắp thì đó là chính kiến chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các tuệ sai lạc đều là kiết chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tuệ sai lạc không phải là kiết, nghĩa là trừ ra hai kiết, còn lại tuệ ô nhiễm. Có kiết không phải là tuệ sai lạc, nghĩa là bảy kiết. Có tuệ sai lạc cũng là kiết, nghĩa là hai kiết. Không phải tuệ sai lạc, cũng không phải là kiết, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Thế nào là kiến học? Đáp: Tuệ học. Hỏi: Thế nào là trí học? Đáp: Tám trí học. Hỏi: Thế nào là tuệ học? Đáp: Kiến học, và trí học, gọi chung là tuệ học. Hỏi: Các kiến học là trí học chăng? Đáp: Các trí học cũng là kiến học. Có kiến học không phải là trí học, nghĩa là nhẫn vô lậu. Hỏi: Các kiến học là tuệ học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu tuệ học thì đó là kiến học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các trí học là tuệ học chăng? Đáp: Các trí học cũng là tuệ học, có tuệ. Học không phải là trí học, nghĩa là nhẫn vô lậu. Hỏi: Kiến học thâu tóm trí học hay trí học thâu tóm kiến học? Đáp: Kiến học thâu tóm trí học, không phải trí học thâu tóm kiến học. học. Hỏi: Không thâu tóm những gì? Đáp: nghĩa là nhẫn vô lậu. Hỏi: Kiến học thâu tóm tuệ học, hay tuệ học thâu tóm kiến học? Đáp: Lần lượt thâu tóm lẫn nhau. Hỏi: Trí học thâu tóm tuệ học hay tuệ học thâu tóm trí học? Đáp: Tuệ học thâu tóm trí học, không phải trí học thâu tóm tuệ Hỏi: Không thâu tóm những gì? Đáp: nghĩa là nhẫn vô lậu. Hỏi: Các kiến học thành tựu thì đó là trí học chăng? Đáp: Các trí học thành tựu đó cũng là kiến học. Có kiến học thành tựu nhưng không phải là trí học thành tựu , nghĩa là lúc khổ pháp trí nhẫn hiện ở trước mắt. Hỏi: Các kiến học thành tựu thì đó là tuệ học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tuệ học thì đó là kiến học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các trí học thành tựu thì đó là tuệ học chăng? Đáp: Các trí học thành tựu, đó cũng là tuệ học. Có tuệ học thành tựu nhưng không phải là trí học, nghĩa là lúc khổ pháp trí nhẫn hiện ở trước mắt. Hỏi: Thế nào là kiến vô học? Đáp: Tận-vô sinh trí vốn không thâu tóm tuệ vô học. Hỏi: Thế nào là trí vô học? Đáp: Tám trí vô học. Hỏi: Thế nào là tuệ vô học? Đáp: Kiến vô học và trí vô học, gọi chung là tuệ vô học. Hỏi: Các kiến vô học là trí vô học chăng? Đáp: Các kiến vô học cũng là trí vô học. Có trí vô học không phải là kiến vô học, nghĩa là tận-vô sinh trí. Hỏi: Các kiến vô học thì đó là tuệ vô học chăng? Đáp: Các kiến vô học cũng là tuệ vô học. Có tuệ vô học không phải là kiến vô học, nghĩa là tận-vô sinh trí. Hỏi: Các trí vô học là tuệ vô học chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu tuệ vô học là trí vô học chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Kiến vô học thâu tóm trí vô học, hay trí vô học thâu tóm kiến vô học? Đáp: Trí vô học thâu tóm kiến vô học, không phải kiến vô học thâu tóm trí vô học. Hỏi: Không thâu tóm những gì? Đáp: nghĩa là tận-vô sinh trí. Hỏi: Kiến vô học thâu tóm tuệ vô học hay tuệ vô học thâu tóm kiến vô học? Đáp: Tuệ vô học thâu tóm kiến vô học, không phải kiến vô học thâu tóm tuệ vô học. Hỏi: Không thâu tóm những gì? Đáp: nghĩa là tận-vô sinh trí. Hỏi: Trí vô học thâu tóm tuệ vô học hay tuệ vô học thâu tóm trí vô học? Đáp: Lần lượt thâu tóm lẫn nhau. Hỏi: Các kiến vô học thành tựu thì đó là trí vô học chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu trí vô học thì đó là kiến vô học chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các kiến vô học thành tựu thì đó là tuệ vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tuệ vô học, thì đó là kiến vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. lậu. lậu. Hỏi: Các trí vô học thành tựu thì đó là tuệ vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tuệ vô học, thì đó là trí vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Thế nào là kiến phi học phi vô học? Đáp: Năm kiến của nhãn căn và chính kiến thế tục. Hỏi: Thế nào là trí phi học phi vô học? Đáp: Năm thức tương ưng với tuệ, và ý thức tương ưng với tuệ hữu Hỏi: Thế nào là tuệ phi học phi vô học? Đáp: Năm thức tương ưng với tuệ, và ý thức tương ưng với tuệ hữu Hỏi: Các kiến phi học phi vô học là trí phi học phi vô học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có kiến phi học phi vô học mà không phải là trí phi học phi vô học, nghĩa là nhãn căn. Có trí phi học phi vô học mà không phải là kiến phi học phi vô học, nghĩa là năm thức tương ưng với tuệ, và trừ ra năm kiến-chính kiến thế tục, còn lại ý thức tương ưng với tuệ hữu lậu. Có kiến phi học phi vô học cũng là trí phi học phi vô học, nghĩa là năm kiến và chính kiến thế tục. Không phải là kiến phi học phi vô học cũng không phải là trí phi học phi vô học, nghĩa là trừ ra các tướng trước. Hỏi: Các kiến phi học phi vô học là tuệ phi học phi vô học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có kiến phi học phi vô học mà không phải là tuệ phi học phi vô học, nghĩa là nhãn căn. Có tuệ phi học phi vô học mà không phải là kiến phi học phi vô học, nghĩa là năm thức tương ưng với tuệ và trừ năm kiến, chính kiến thế tục, còn lại ý thức tương ưng với tuệ hữu lậu. Có kiến phi học phi vô học cũng là tuệ phi học phi vô học, nghĩa là năm kiến và chính kiến thế tục. Không phải là kiến phi học phi vô học cũng không phải là tuệ phi học phi vô học, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Các trí phi học phi vô học thó đó là tuệ phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu tuệ phi học phi vô học là trí phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Kiến phi học phi vô học thâu tóm trí phi học phi vô học, hay trí phi học phi vô học thâu tóm kiến phi học phi vô học? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có kiến phi học phi vô học mà không thuộc về trí phi học phi vô học, nghĩa là nhãn căn. Có trí phi học phi vô học mà không thuộc về kiến phi học phi vô học, nghĩa là năm thức tương ưng với tuệ, và trừ năm kiến, chính kiến thế tục, còn lại ý thức tương ưng với tuệ hữu lậu. Có kiến phi học phi vô học cũng thuộc về trí phi học phi vô học, nghĩa là năm kiến và chính kiến thế tục. Không phải kiến phi học phi vô học cũng không thuộc về trí phi học phi vô học, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Kiến phi học phi vô học thâu tóm tuệ phi học phi vô học, hay tuệ phi học phi vô học thâu tóm kiến phi học phi vô học? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có kiến phi học phi vô học mà không phải thuộc về tuệ phi học phi vô học, nghĩa là nhãn căn. Có tuệ phi học phi vô học mà không phải thuộc về kiến phi học phi vô học, nghĩa là năm thức tương ưng với tuệ, và trừ ra năm kiến, chính kiến thế tục, còn lại ý thức tương ưng với tuệ hữu lậu. Có kiến phi học phi vô học cũng thuộc về tuệ phi học phi vô học, nghĩa là năm kiến và chính kiến thế tục. Không phải là kiến phi học phi vô học cũng không thuộc về tuệ phi học phi vô học, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Trí phi học phi vô học thâu tóm tuệ phi học phi vô học hay tuệ phi học phi vô học thâu tóm trí phi học phi vô học? Đáp: Lần lượt thâu tóm lẫn nhau. Hỏi: Thành tựu kiến phi học phi vô học là thành tựu thì đó là trí phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu thành tựu trí phi học phi vô học thì đó là kiến phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các kiến phi học phi vô học thành tựu thì đó là tuệ phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tuệ phi học phi vô học thì đó là kiến phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các trí phi học phi vô học thành tựu thì đó là tuệ phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tuệ phi học phi vô học thì đó là trí phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các kiến phi học phi vô học đã đoạn, đã biến khắp thì đó là trí phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu trí phi học phi vô học đã đoạn, đã biến khắp thì đó là kiến phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các kiến phi học phi vô học đã đoạn, đã biến khắp thì đó là tuệ phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu tuệ phi học phi vô học đã đoạn, đã biến khắp thì đó là kiến phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Các trí phi học phi vô học đã đoạn, đã biến khắp thì đó là tuệ phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Hỏi: Nếu tuệ phi học phi vô học đã đoạn, đã biến khắp thì đó là trí phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng vậy. Như Đại Phạm thiên nói: “Ta là Phạm, là Đại Phạm, được tự tại. Ở thế gian, ta có khả năng tạo tác, biến hóa, có khả năng xuất sinh, là cha của thế gian kia”. Đối với năm kiến thì kiến này thuộc về kiến nào? Kiến đế nào mà đoạn kiến này vậy? Đáp: Ta là Phạm, là Đại Phạm, được tự tại; nghĩa là lấy pháp thấp kém làm hơn hẳn, thuộc về kiến thủ, do kiến khổ mà đoạn. Ta đối với thế gian, có khả năng tạo tác biến hóa, có khả năng xuất sinh, là cha của thế gian kia; nghĩa là không phải nhân mà chấp làm nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn. Hỏi: Như Phạm chúng thiên nói Đúng vậy này: “Đây là Phạm, là Đại Phạm, được tự tại, đối với thế gian này có khả năng tạo tác biến hóa, có khả năng xuất sinh, là cha của chúng ta”. Kiến này đối với năm kiến, thuộc về kiến nào, kiến đế nào mà đoạn kiến này? Đáp: Đây là Phạm, là Đại Phạm, được tự tại, nghĩa là lấy pháp thấp kém làm hơn hẳn, thuộc về kiến thủ, do kiến khổ mà đoạn. Đối với thế gian này có khả năng tạo, tác biến hóa, có khả năng xuất sinh là cha của chúng ta, nghĩa là không phải nhân mà chấp làm nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn. Hỏi: Dấy lên các kiến này: Ta chịu đựng tất cả. Kiến này đối với năm kiến thuộc về kiến nào, kiến đế nào mà đoạn kiến này? Đáp: Thuộc về thường kiến trong biên chấp kiến, do kiến khổ mà đoạn. Hỏi: Dấy khởi kiến này: Ta không chịu đựng tất cả. Kiến này đối với năm kiến, thuộc về kiến nào, kiến đế nào mà đoạn kiến này? Đáp: Thuộc về đoạn kiến trong biên chấp kiến, do kiến khổ mà đoạn. Hỏi: Dấy khởi kiến này: Ta chịu đựng một phần, không chịu đựng một phần. kiến này đối với năm kiến thuộc về kiến nào, kiến đế nào mà đoạn kiến này? Đáp: Chịu đựng một phần, nghĩa là thuộc về thường kiến trong biên chấp kiến; không chịu đựng một phần thuộc về đoạn kiến trong biên chấp kiến, đều do kiến khổ mà đoạn. Hỏi: Dấy khởi kiến này: Có A-la-hán bị thiên ma quấy nhiễu, sai lầm thiếu sót bất tịnh. Kiến này đối với năm kiến thuộc kiến nào, kiến đế nào mà đoạn kiến này? Đáp: Không phải nhân mà chấp là nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn. Hỏi: Dấy khởi kiến này: Có A-la-hán đối với tự giải thoát, còn có điều không biết. Kiến này đối với năm kiến thuộc về kiến nào, kiến đế nào mà đoạn kiến ấy? Đáp: Trí kiến vô lậu của các A-la-hán, thuộc về tà kiến, do kiến đạo mà đoạn. Hỏi: Dấy khởi kiến này: Có A-la-hán đối với tự giải thoát, còn có điều nghi hoặc. Kiến này đối với năm kiến thuộc về kiến nào? Kiến đế nào mà đoạn kiến ấy? Đáp: Các A-la-hán vượt qua sự nghi hoặc, thuộc về tà kiến, do kiến đạo mà đoạn. Hỏi: Dấy khởi kiến này: Có A-la-hán chỉ do người khác hóa độ. Kiến này đối với năm kiến thuộc về kiến nào? Kiến đế nào mà đoạn kiến ấy? Đáp: Các A-la-hán không có chướng ngại, không có trái ngược, tuệ nhãn hiện lượng, thân chứng tự tại, thuộc về tà kiến, do kiến đạo mà đoạn. Hỏi: Dấy khởi kiến này: Đạo và chi đạo, khổ nói là đã gây ra. Kiến này đối với năm kiến thuộc về kiến nào, kiến đế nào mà đoạn kiến ấy? Đáp: Không phải nhân mà chấp là nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn.  <卷>QUYỂN 8 <章>Chương 3: TRÍ UẨN <詞>Phẩm 3: BÀN VỀ THA TÂM TRÍ Hai loại trí-hai loại giải thoát, Trí minh và ba pháp chứng tịnh, Điên đảo cùng với trì và tu, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Thế nào là tha tâm trí? Đáp: Nếu trí do tu mà thành tựu, là quả của tu tập, dựa vào sự tu tập, đã được không mất, có năng lực biết được tâm-tâm sở pháp thuộc cõi Dục-Sắc đang nối tiếp nhau trong hiện tại của người khác, hoặc là tâm-tâm sở pháp vô lậu, đó gọi là tha tâm trí. Hỏi: Thế nào là túc trụ tùy niệm trí? Đáp: Nếu trí do tu mà thành tựu, là quả của tu tập, dựa vào sự tu tập, đã được không mất, có năng lực tùy theo sự hồi ức biết tất cả các tướng trạng và mọi nương tựa của những đời trước, đó gọi là túc trụ tùy niệm trí. Hỏi: Các tha tâm trí, đều biết được tâm-tâm sở pháp hiện tại của người khác chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tha tâm trí mà không phải là biết được tâm-tâm sở pháp hiện tại của người khác, nghĩa là tha tâm trí thuộc quá khứ-vị lai. Có trí biết được tâm-tâm sở pháp hiện tại của người khác mà không phải là tha tâm trí, nghĩa là như có một người, hoặc nhìn thấy tướng mạo, hoặc nghe tiếng nói, hoặc có thể như vậy ở nơi sinh ra đạt được trí, có năng lực biết được tâm-tâm sở pháp hiện tại của người khác. Có tha tâm trí cũng là trí biết được tâm-tâm sở pháp hiện tại của người khác, nghĩa là như trí do tu mà thành tựu, là quả của tu tập, dựa vào sự tu tập, đã được không mất, có năng lực biết được tâm-tâm sở pháp thuộc cõi Dục-Sắc đang nối tiếp nhau trong hiện tại của người khác, hoặc là tâm-tâm sở pháp vô lậu. Có trí không phải là tha tâm trí cũng không phải là trí biết được tâm-tâm sở pháp hiện tại của người khác, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Các trí túc trụ tùy niệm, đều đang nhớ biết các sự việc ở đời trước chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có trí túc trụ tùy niệm mà không phải là đang nhớ biết các sự việc ở đời trước, nghĩa là trí túc trụ tùy niệm thuộc quá khứ-vị lai. Có trí đang nhớ biết các sự việc ở đời trước mà không phải là trí túc trụ tùy niệm, nghĩa là như có một người, đạt được trí từ tính nhớ nghó sinh ra, hoặc có thể như vậy ở nơi sinh ra đạt được trí, có năng lực đang nhớ biết những sự việc ở đời trước. Có trí túc trụ tùy niệm cũng là trí đang nhớ biết những sự việc ở đời trước, nghĩa là như trí do tu mà thành tựu, là quả của tu tập, dựa vào sự tu tập, đã được không mất, có năng lực đang nhớ biết tất cả các tướng trạng và mọi nơi nương tựa của những đời trước. Có trí không phải trí túc trụ tùy niệm cũng không phải là trí đang nhớ biết những sự việc ở đời trước, nghĩa là trừ các tướng trước? Hỏi: Các trí túc trụ tùy niệm đều biết tâm nối tiếp nhau nơi uẩn- xứ-giới quá khứ của người khác chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có trí túc trụ tùy niệm mà không phải là biết tâm nối tiếp nhau thuộc uẩn-xứ-giới quá khứ của người khác, nghĩa là như trí do tu mà thành tựu, là quả của tu tập, dựa vào sự tu tập, đã được không mất, biết tâm nối tiếp nhau thuộc Uẩn-Xứ-Giới quá khứ từ nhiều đời trước. Có biết tâm nối tiếp nhau thuộc uẩn-xứ-giới quá khứ của người khác mà không phải là trí túc trụ tùy niệm, nghĩa là nếu trí do tu mà thành tựu, là quả của tu tập, dựa vào sự tu tập đã được không mất, biết tâm nối tiếp nhau thuộc uẩn-xứ-giới quá khứ trong đời này của người khác. Có trí túc trụ tùy niệm cũng là trí biết tâm nối tiếp nhau thuộc uẩn-xứ-giới quá khứ của người khác, nghĩa là nếu trí do tu mà thành tựu, là quả của tu tập, dựa vào sự tu tập đã được không mất, biết tâm nối tiếp nhau thuộc uẩn-xứ-giới quá khứ từ nhiều đời trước của người khác. Có trí không phải là trí túc trụ tùy niệm, cũng không phải là trí biết tâm nối tiếp nhau thuộc uẩn-xứ-giới quá khứ của người khác, nghĩa là như trí do tu mà thành là quả tu tập, dựa vào sự tu tập, đã được không mất biết tâm nối tiếp nhau thuộc uẩn-xứ-giới quá khứ trong đời này của mình. Hỏi: Thế nào là tâm ái lúc giải thoát? Đáp: Tận trí của lúc A-la-hán giải thoát, hoặc tâm tương ưng với chính kiến vô học, đạt được thắng giải, đã thắng giải, đang thắng giải. Hỏi: Thế nào là tâm bất động giải thoát? Đáp: Tận trí-vô sinh trí của A-la-hán trong pháp bất động, hoặc tâm tương ưng với chính kiến vô học, đạt được thắng giải, đã thắng giải, đang thắng giải. Hỏi: Các tâm ái lúc giải thoát đều tương ưng với tận trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tâm ái lúc giải thoát không phải tương ưng với tận trí, nghĩa là tâm tương ưng với chính kiến vô học của A-la-hán khi giải thoát, đạt được thắng giải, đã thắng giải, đang thắng giải. Có tận trí tương ưng mà không phải là tâm ái lúc giải thoát, nghĩa là tâm tương ưng với tập trí của A-la-hán trong pháp bất động, đạt được thắng giải, đã thắng giải, đang thắng giải. Có tâm ái lúc giải thoát cũng tương ưng với tận trí, nghĩa là tâm tương ưng với tận trí của A-la-hán lúc giải thoát, đạt được thắng giải, đã thắng giải, đang thắng giải. Có tâm không phải là tâm ái lúc giải thoát, cũng không phải là tâm tương ưng với tận trí, nghĩa là vô sinh trí nơi A-la-hán trong pháp bất động, hoặc tâm tương ưng với chính kiến vô học, đạt được thắng giải, đã thắng giải, đang thắng giải. Hỏi: Các tâm bất động giải thoát đều tương ưng với vô sinh trí chăng? Đáp: Các tâm tương ưng với vô sinh trí đều là tâm bất động giải thoát. Có tâm bất động giải thoát mà không tương ưng với vô sinh trí, nghĩa là tận trí của A-la-hán trong pháp bất động, hoặc tâm tương ưng với chính kiến vô học, đạt được thắng giải, đã thắng giải, đang thắng giải. Hỏi: Vì sao khi tâm giải thoát gọi là ái? Đáp: Lúc A-la-hán giải thoát, luôn luôn đối với pháp này, thiết tha giữ gìn, yêu quý cất giữ cẩn thận, đừng làm cho mình gặp duyên giảm sút pháp này, như người một mắt, tự mình và bạn thân thiết tha giữ gìn, yêu quý cất giữ cẩn thận, không để gặp phải các duyên lạnh nóng-bụi bặm, làm cho một mắt này, lại phải hư hoại. Pháp giải thoát của A-la- hán cũng như thế, cho nên gọi là ái. Hỏi: Thế nào là minh học? Đáp: Tuệ học. Hỏi: Thế nào là trí học? Đáp: Tám trí học. Hỏi: Thế nào là minh vô học? Đáp: Tuệ vô học. Hỏi: Thế nào là trí vô học? Đáp: Tám trí vô học. Hỏi: Lúc hiện quán đế, bắt đầu từ tâm mà được chứng tịnh, Phật- Pháp hay Tăng? Đáp: Lúc hiện quán khổ-tập-diệt, đầu tiên là đối với pháp mà được chứng tịnh. Lúc hiện quán đạo, đầu tiên là đối với Phật-Pháp- Tăng mà được chứng tịnh. Hỏi: Những người Dự lưu đối với bốn điên đảo có bao nhiêu đã đoạn, bao nhiêu chưa đoạn? Đáp: Tất cả đã đoạn. Hỏi: Những người Dự lưu thành tựu, đối với ba Tam-ma-địa: Không-Vô nguyện-Vô tướng, có bao nhiêu quá khứ-vị lai-hiện tại? Đáp: Tất cả là vị lai, quá khứ nếu đã diệt mà không mất, hiện tại nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Các đạo quá khứ đều đã tu, đã ngừng chăng? Đáp: Các đạo quá khứ đều đã tu, đã ngừng. Có đạo đã tu, đã ngừng nhưng không phải là quá khứ, nghĩa là đạo vị lai đã tu, đã ngừng. Hỏi: Các đạo vị lai đều chưa tu mà đã ngừng chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có đạo vị lai không phải chưa tu mà đã ngừng, nghĩa là đạo vị lai đã tu, đã ngừng. Có đạo chưa tu mà đã ngừng nhưng không phải là vị lai, nghĩa là chưa từng đạt được đạo lần đầu tiên hiện ở trước mắt. Có đạo vị lai cũng chưa tu mà đã ngừng, nghĩa là đạo vị lai chưa tu đã ngừng. Có đạo không phải vị lai, cũng không phải chưa tu mà đã ngừng, nghĩa là đạo quá khứ và đạo đã từng đạt được, đang hiện ở trước mắt. Hỏi: Các đạo hiện tại đều là đang tu chăng? Đáp: Các đạo hiện tại đều là đang tu. Có đạo đang tu mà không phải là hiện tại, nghĩa là đạo chưa từng đạt được, đầu tiên hiện ở trước mắt, mà chủng loại của đạo ấy được tu tập ở vị lai. ----------------- <詞>Phẩm 4: BÀN VỀ TU TRÍ, Phần 1 Tám trí thâu nhiếp thành tựu tu, Duyên với nhau-duyên đoạn-tác chứng, Trí biết-tưởng và bảy xứ thiện, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Có tám trí, đó là pháp trí cho đến đạo trí. Hỏi: Thế nào là pháp trí? Đáp: Đối với các hành thuộc cõi Dục, các hành là nhân, các hành là diệt, các hành là đạo có thể đoạn là trí vô lậu vốn có. Lại đối với pháp trí và cảnh giới của pháp trí, là trí vô lậu vốn có. Đó gọi là pháp trí. Hỏi: Thế nào là loại trí? Đáp: Đối với các hành thuộc cõi Sắc-Vô sắc, các hành là nhân, các hành là diệt, các hành là đạo có thể đoạn là trí vô lậu vốn có. Lại đối với loại trí và cảnh giới của loại trí, là trí vô lậu vốn có. Đó gọi là loại trí. Hỏi: Thế nào là tha tâm trí? Đáp: Nếu trí là quả của sự tu tập biết tâm-tâm sở pháp hiện tại của người khác. Hỏi: Thế nào là thế tục trí? Đáp: Tuệ hữu lậu của ba cõi. Hỏi: Thế nào là khổ trí? Đáp: Đối với các hành, trí chuyển hành tướng tạo thành khổ-vô thường-không-vô ngã. Hỏi: Thế nào là tập trí? Đáp: Đối với các hành, trí chuyển hành tướng của nhân tạo thành nhân-tập-sinh-duyên Hỏi: Thế nào là diệt trí? Đáp: Đối với các hành, trí chuyển hành tướng của diệt tạo thành diệt-tónh-diệu-ly. Hỏi: Thế nào là đạo trí? Đáp: Đối với các hành, trí chuyển hành tướng của đạo đối trị tạo thành đạo- như-hành-xuất. Hỏi: Pháp trí cho đến đạo trí, ở trong tám trí, mỗi một trí thâu tóm bao nhiêu trí? Đáp: Pháp trí thâu tóm pháp trí và phần ít của năm trí, nghĩa là tha tâm trí, khổ-tập-diệt-đạo trí. Loại trí thâu tóm loại trí và phần ít của năm trí, nghĩa là tha tâm trí, khổ-tập-diệt-đạo trí. Tha tâm trí thâu tóm tha tâm trí và phần ít của bốn trí, nghĩa là pháp trí, loại trí, đạo trí, thế tục trí. Thế tục trí thâu tóm thế tục trí và phần ít của tha tâm trí. Khổ trí thâu tóm khổ trí và phần ít của hai trí, nghĩa là pháp trí, loại trí. Tập trí thâu tóm tập trí và phần ít của hai trí, nghĩa là pháp-loại trí. Diệt trí thâu tóm diệt trí và phần ít của hai trí, đó là pháp-loại trí. Đạo trí thâu tóm đạo trí và phần ít của ba trí, đó là pháp-loại-tha tâm trí. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí thì đối với tám trí này, có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Đáp: Hoặc ba-bốn-năm-sáu-bảy-tám. nghĩa là lúc có khổ pháp trí-khổ loại trí nhẫn không có tha tâm trí thì thành tựu ba, có tha tâm trí thì thành tựu bốn. Khi có khổ loại trí tập pháp trí nhẫn không có tha tâm trí thì thành tựu bốn, có tha tâm trí thì thành tựu năm. Tập pháp trí cho đến lúc diệt pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu năm, có tha tâm trí thì thành tựu sáu. Diệt pháp trí cho đến lúc đạo pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu sáu, có tha tâm trí thì thành tựu bảy. Đạo pháp trí cho đến lúc đạo loại trí, không có tha tâm trí thì thành tựu bảy, có tha tâm trí thì thành tựu tám. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí thì đối với tám trí này, có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Đáp: Hoặc bốn-năm-sáu-bảy-tám. nghĩa là khi có khổ loại trí-tập pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu bốn, có tha tâm trí thì thành tựu năm. Tập pháp trí cho đến lúc diệt pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu năm, có tha tâm trí thì thành tựu sáu. Diệt pháp trí cho đến lúc đạo pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu sáu, có tha tâm trí thì thành tựu bảy. Đạo pháp trí cho đến lúc đạo loại trí, không có tha tâm trí thì thành tựu bảy, có tha tâm trí thì thành tựu tám. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí thì đối với tám trí này, có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Đáp: Hoặc hai-bốn-năm-sáu-bảy-tám. nghĩa là phàm phu và Thánh giả, khi có khổ pháp trí nhẫn thì thành tựu hai. Khi có khổ pháp trí-thể loại trí nhẫn thì thành tựu bốn. Khi có khổ loại trí tập pháp trí nhẫn thì thành tựu năm. Tập pháp trí cho đến lúc diệt pháp trí nhẫn thì thành tựu sáu. Diệt pháp trí cho đến lúc đạo pháp trí nhẫn thì thành tựu bảy. Đạo pháp trí cho đến lúc đạo loại trí thì thành tựu tám. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí thì đối với tám trí này, có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Đáp: Hoặc một-hai-ba-bốn-năm-sáu-bảy-tám. nghĩa là phàm phu và Thánh giả, lúc có khổ pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu một, có tha tâm trí thì thành tựu hai. Lúc có khổ pháp trí-khổ loại trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu ba, có tha tâm trí thì thành tựu bốn. Lúc có khổ loại trí tập pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu bốn, có tha tâm trí thì thành tựu năm. Lúc có tập pháp trí cho đến lúc diệt pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu năm, có tha tâm trí thì thành tựu sáu. Lúc có diệt pháp trí cho đến lúc đạo pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu sáu, có tha tâm trí thì thành tựu bảy. Lúc có đạo pháp trí cho đến lúc đạo loại trí, không có tha tâm trí thì thành tựu bảy, có tha tâm trí thì thành tựu tám. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí thì đối với tám trí này, có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Đáp: Hoặc ba-bốn-năm-sáu-bảy-tám, nghĩa là vào thời điểm khổ pháp trí-khổ loại trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu ba, có tha tâm trí thì thành tựu bốn. Lúc có khổ loại trí-tập pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu bốn, có tha tâm trí thì thành tựu năm. Lúc có tập pháp trí cho đến lúc diệt pháp trí, không có tha tâm trí thì thành tựu năm, có tha tâm trí thì thành tựu sáu. Lúc có diệt pháp trí cho đến lúc đạo pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu sáu, có tha tâm trí thì thành tựu bảy. Lúc có đạo pháp trí cho đến lúc đạo loại trí, không có tha tâm trí thì thành tựu bảy, có tha tâm trí thì thành tựu tám. Hỏi: Nếu thành tựu tập trí thì đối với tám trí này, có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Đáp: Hoặc năm-sáu-bảy-tám. nghĩa là Tập pháp trí cho đến lúc diệt pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu năm, có tha tâm trí thì thành tựu sáu. Diệt pháp trí cho đến lúc đạo pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu sáu, có tha tâm trí thì thành tựu bảy. Đạo pháp trí cho đến lúc đạo loại trí, không có tha tâm trí thì thành tựu bảy, có tha tâm trí thì thành tựu tám. Hỏi: Nếu thành tựu diệt trí thì đối với tám trí này, có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Đáp: Hoặc sáu-bảy-tám. nghĩa là Diệt pháp trí cho đến lúc đạo pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì thành tựu sáu, có tha tâm trí thì thành tựu bảy. Đạo pháp trí cho đến lúc đạo loại trí, không có tha tâm trí thì thành tựu bảy, có tha tâm trí thì thành tựu tám. Hỏi: Nếu thành tựu đạo trí thì đối với tám trí này, có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Đáp: Hoặc bảy-tám. nghĩa là không có tha tâm trí thì thành tựu bảy, có tha tâm trí thì thành tựu tám. Hỏi: Nếu tu pháp trí thì cũng tu loại trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu pháp trí mà không phải là loại trí, nghĩa là lúc khổ-tập- diệt-đạo pháp trí nhập hiện quán; lúc ấy A-la-hán học kiến tích đã đạt được pháp trí hiện ở trước mắt. Có tu loại trí mà không phải là pháp trí, nghĩa là lúc khổ-tập- diệt loại trí nhập hiện quán; lúc ấy A-la-hán học kiến tích đã đạt được loại trí hiện ở trước mắt. Có tu pháp trí cũng là loại trí, nghĩa là lúc đạo loại trí nhập hiện quán; lúc ấy A-la-hán học kiến tích chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy có thể tu cả hai trí. Không phải là tu pháp trí cũng không phải là loại trí, nghĩa là lúc A-la-hán học kiến tích đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, nếu đạt chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này cả hai loại trí không tu. Lúc ấy tất cả phàm phu với tâm ô nhiễm, tâm vô ký, vô tưởng định , diệt tận định, Vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu pháp trí thì cũng tu tha tâm trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu pháp trí mà không phải là tha tâm trí, nghĩa là lúc khổ- tập-diệt-đạo pháp trí nhập hiện quán, nhưng chưa lìa dục nhiễm; lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích đã đạt được pháp trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tha tâm trí; chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không tu tha tâm trí; chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu pháp trí chứ không phải tha tâm trí. Có tu tha tâm trí mà không phải là pháp trí, nghĩa là lúc phàm phu đã đạt được hoặc chưa đạt được tha tâm trí hiện ở trước mắt, lúc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tha tâm trí; A-la-hán học kiến tích đã đạt được tha tâm trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là pháp trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là đã lìa dục nhiễm, lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích đạt được pháp trí hiện ở trước mắt, lúc ấy là tha tâm trí; chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tha tâm trí chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy có thể cùng tu cả hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-tập-diệt loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là pháp trí và tha tâm trí được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải lúc tha tâm trí chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy hai trí cùng không tu. Lúc phàm phu không tu tha tâm trí, lúc ấy tất cả tâm ô nhiễm-tâm vô ký, vô tưởng đụnh-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu pháp trí thì cũng là tu thế tục trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu pháp trí mà không phải là thế tục trí, nghĩa là lúc khổ_ tập_diệt_đạo pháp trí và đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được pháp trí hiện ở trước mắt, mà chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không tu thế tục trí. Có tu thế tục trí mà không phải là pháp trí, nghĩa là lúc các phàm phu đã đạt được hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc khổ_tập_diệt loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc ấy đã được thế tục trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không tu pháp trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là A-la-hán học kiến tích, chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu thế tục trí, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt , lúc ấy tu pháp trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là A-la-hán học kiến tích đã đạt được trí vô lậu hiện ở, trước mắt, lúc ấy không phải là pháp trí; lúc ấy tất cả là tâm ô nhiễm-tâm vô ký, vô tưởng định-diệt tận định vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu pháp trí thì cũng là tu khổ trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu pháp trí mà không phải là khổ trí, nghĩa là lúc tập-diệt- đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được pháp trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải khổ trí. Có tu khổ trí mà không phải là pháp trí, nghĩa là lúc khổ loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích đã đạt được khổ trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là pháp trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc khổ pháp trí và đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được khổ pháp trí hiện ở trước mắt, lúc chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt và chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy có thể cùng tu hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là khi tập-diệt loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là pháp-khổ trí; lúc đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này không tu pháp- khổ trí; lúc ấy tất cả tâm ô nhiễm-tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu pháp trí thì cũng tu tập trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu pháp trí mà không phải là tu tập trí, nghĩa là lúc khổ - diệt đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được pháp trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tập trí. Có tu tập trí mà không phải là pháp trí, nghĩa là lúc tập loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được tập trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là pháp trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc tập pháp trí-đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được tập pháp trí hiện ở trước mắt, khi chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, khi tu pháp và tập trí. Có hai đều không tu, nghĩa là lúc khổ_diệt loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là pháp tập trí; đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu pháp-tập trí lúc này, tất cả là tâm ô nhiễm, tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô tưởng định- diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu pháp trí thì cũng tu diệt trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu pháp trí mà không phải là diệt trí, nghĩa là lúc khổ-tập- đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được pháp trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là diệt trí. Có tu diệt trí mà không phải là pháp trí, nghĩa là lúc diệt loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được diệt trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải pháp trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc diệt pháp trí và đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã được diệt pháp trí hiện ở trước mắt, lúc chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này có thể cùng tu cả hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-tập loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải pháp diệt trí. Đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, và chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này hai trí cùng không tu, lúc ấy tất cả là tâm ô nhiễm, tâm vô ký của phàm phu, cho đến tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu pháp trí thì cũng tu đạo trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu pháp trí mà không phải là đạo trí, nghĩa là lúc khổ-tập- diệt pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được pháp trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là đạo trí. Có tu đạo trí mà không phải là pháp trí, nghĩa là A-la-hán học kiến tích, đã đạt được đạo trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là pháp trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc đạo pháp trí và đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được đạo pháp trí hiện ở trước mắt, lúc chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt mà chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này có thể tu cả hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-tập-diệt loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc này không phải là pháp đạo trí, lúc đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt lúc ấy hai trí đều không tu, lúc này tất cả là tâm ô nhiễm-tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô tưởng-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu loại trí thì cũng tu tha tâm trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu loại trí mà không phải là tha tâm trí, nghĩa là lúc khổ-tập- diệt loại trí nhập hiện quán, nhưng chưa lìa dục nhiễm, lúc này là đạo loại trí; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được loại trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tha tâm trí; chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không tu tha tâm trí; chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu loại trí chứ không phải là tha tâm trí. Có tu tha tâm trí mà không phải là loại trí, nghĩa là lúc phàm phu đã đạt được, hoặc chưa đạt được tha tâm trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tha tâm trí. A-la-hán học kiến tích, đã đạt được tha tâm trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải loại trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là đã lìa dục nhiễm, lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được loại trí hiện ở trước mắt lúc ấy là tha tâm trí; chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tha tâm trí, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trí đều cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-tập-diệt-đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là loại trí, và tha tâm trí; đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tha tâm trí; chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy hai trí cùng không tu, lúc này phàm phu không tu tha tâm trí, tất cả là tâm ô nhiễm, tâm vô ký cho đến vô lậu của định vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu loại trí thì cũng tu thế tục trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu loại trí mà không phải là thế tục trí, nghĩa là lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được loại trí hiện ở trước mắt, mà chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không tu thế tục trí. Có tu thế tục trí không phải loại trí, nghĩa là phàm phu đã đạt được, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, A-la-hán học kiến tích, lúc đã được thế tục trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, khi không tu loại trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc khổ-tập-diệt loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, khi tu thế tục trí, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc tu loại trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-tập-diệt-đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là loại trí; lúc này tất cả là tâm ô nhiễm, tâm vô ký, cho đến vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thêin và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu loại trí thì cũng tu khổ trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu loại trí mà không phải là khổ trí, nghĩa là lúc tập-diệt loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được loại trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải mà khổ trí. Có tu khổ trí mà không phải là loại trí, nghĩa là lúc khổ pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được khổ trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là loại trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc khổ-đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được khổ loại trí hiện ở trước mắt, lúc ấy chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, và chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này có thể cùng tu cả hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc tập-diệt-đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải loại khổ trí, đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này hai trí cùng không tu; lúc ấy tất cả là tâm ô nhiễm, tâm vô ký của phàm phu cho đến vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu loại trí thì cũng là tu tập trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu loại trí mà không phải là tập trí, nghĩa là lúc khổ-diệt loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được loại trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải tập trí. Có tu tập trí mà không phải là loại trí, nghĩa là lúc tập pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được tập trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải loại trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc tập-đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được tập loại trí hiện ở trước mắt, lúc chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này có thể cùng tu cả hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-diệt, đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là loại tập-trí, đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này hai trí cùng không tu; lúc ấy tất cả là tâm ô nhiễm-tâm vô ký cho đến vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu loại trí thì cũng tu diệt trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu loại trí mà không phải là diệt trí, nghĩa là lúc khổ-tập loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được loại trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là diệt trí. Có tu diệt trí mà không phải là loại trí, nghĩa là lúc diệt pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được diệt trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải loại trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc diệt-đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được diệt loại trí hiện ở trước mắt, lúc chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này có thể cùng tu cả hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-tập-đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải loại diệt trí, đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy hai trí cùng không tu; lúc này tất cả là tâm ô nhiễm, tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô lậu của định vô tưởng, định diệt, nơi cõi Vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu Hỏi: Nếu tu loại trí thì cũng là tu đạo trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu loại trí mà không phải là đạo trí, nghĩa là lúc khổ-tập-diệt loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được loại trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải đạo trí. Có tu đạo trí mà không phải là loại trí, nghĩa là lúc đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã được đạo trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là loại trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A- la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được đạo loại trí hiện ở trước mắt, lúc chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này có thể cùng tu cả hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-tập-diệt pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là đạo trí, loại trí, đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này cả hai trí cùng không tu, lúc ấy cả là tâm ô nhiễm-tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu tha tâm trí thì cũng tu thế tục trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu tha tâm trí mà không phải là thế tục trí, nghĩa là đã lìa dục nhiễm, lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được tha tâm trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải thế tục trí, khi chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tha tâm trí chứ không phải là thế tục trí. Có tu thế tục trí mà không phải là tha tâm trí, nghĩa là không có tha tâm trí, lúc phàm phu đã đạt được hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt. Có tha tâm trí phàm phu đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tha tâm trí, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không tu tha tâm trí. Lúc khổ-tập-diệt loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tha tâm trí; chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, khi không tu tha tâm trí; chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu thế tục trí mà không phải là tha tâm trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc phàm phu đã đạt được hoặc chưa đạt được tha tâm trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tha tâm trí. A-la-hán học kiến tích, đã đạt được tha tâm trí và thế tục trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tha tâm trí; chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy có thể cùng tu cả hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-tập-diệt-đạo pháp trí nhập hiện quán, nhưng chưa lìa dục nhiễm; lúc đạo loại trí nhập hiện quán, là A-la-hán học kiến tích đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc này không phải là tha tâm trí; chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy hai trí cùng không tu, lúc này tất cả là tâm ô nhiễm, tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô tưởng định-diệt tận định vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu tha tâm trí thì cũng tu khổ trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu tha tâm trí mà không phải là khổ trí, nghĩa là lúc phàm phu đã đạt được hoặc chưa đạt được tha tâm trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tha tâm trí, A-la-hán học kiến tích đã đạt được tha tâm trí hiện ở trước mắt. Có tu khổ trí mà không phải là tha tâm trí, nghĩa là lúc khổ-pháp loại trí nhập hiện quán, nhưng chưa lìa dục nhiễm; lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được khổ trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không tu tha tâm trí; mà chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu khổ trí, chứ không phải là tha tâm trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là đã lìa dục nhiễm, lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tha tâm trí; chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy có thể cùng tu cả hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc tập-diệt-pháp-loại trí và đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích đã được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tha tâm trí và khổ trí; đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này không phải là tha tâm trí; chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này cả hai trí không tu. Lúc phàm phu không tu tha tâm trí, tất cả là tâm ô nhiễm, tâm vô ký vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu tha tâm trí thì cũng tu tập trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu tha tâm trí mà không phải là tập trí, nghĩa là lúc phàm phu đã được hoặc chưa đạt được tha tâm trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này tu tha tâm trí. A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được tha tâm trí hiện ở trước mắt. Có tu tập trí mà không phải là tha tâm trí, nghĩa là lúc tập-pháp loại trí nhập hiện quán, nhưng chưa lìa dục nhiễm, lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được tập trí hiện ở trước mắt, mà chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không tu tha tâm trí; chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tập trí chứ không phải là tha tâm trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là đã lìa dục nhiễm, lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tha tâm trí; chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy có thể cùng tu cả hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-diệt-pháp loại trí và đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích đã được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tha tâm trí, tập trí, đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tha tâm trí; chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này hai trí cùng không tu. Lúc phàm phu không tu tha tâm trí, thì lúc ấy tất cả là tâm ô nhiễm-tâm vô ký, cho đến vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu tha tâm trí thì cũng tu diệt trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu tha tâm trí mà không phải là diệt trí, nghĩa là lúc phàm phu đã đạt được hoặc chưa đạt được tha tâm trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tha tâm trí; A-la-hán học kiến tích đã đạt được tha tâm trí hiện ở trước mắt. Có tu diệt trí mà không phải là tha tâm trí, nghĩa là lúc diệt- pháp loại trí nhập hiện quán, nhưng chưa lìa dục nhiễm; lúc đạo loại trí nhập hiện quán, A-la-hán học kiến tích đã đạt được diệt trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không tu tha tâm trí; mà chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, khi tu diệt trí chứ không phải là tha tâm trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là đã lìa dục nhiễm, lúc đạo loại trí nhập hiện quán, A-la-hán học kiến tích chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tha tâm trí, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, có khả năng đều cùng tu cả hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-tập-pháp loại trí và đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tha tâm trí; và diệt trí; đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tha tâm trí chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy hai trí cùng không tu. Lúc không tu tha tâm trí, thì tất cả là tâm ô nhiễm-tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu tha tâm trí thì cũng tu đạo trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu tha tâm trí mà không phải là đạo trí, nghĩa là lúc phàm phu đã đạt được hoặc chưa đạt được tha tâm trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tha tâm trí; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được tha tâm trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là đạo trí. Có tu đạo trí mà không phải là tha tâm trí, nghĩa là lúc đạo pháp trí nhập hiện quán, nhưng chưa lìa dục nhiễm, lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích đã đạt được đạo trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tha tâm trí; chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không tu tha tâm trí; chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu đạo trí chứ không phải tha tâm trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là đã lìa dục nhiễm, lúc đạo loại trí nhập hiện quán, A-la-hán học kiến tích, đã đạt được tha tâm trí và đạo trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tha tâm trí; chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này có thể cùng tu cả hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-tập-diệt-pháp-loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích đã được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tha tâm trí và đạo trí, đã được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tha tâm trí; chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy hai trí cùng không tu, lúc không tu tha tâm trí thì tất cả là tâm ô nhiễm, tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu thế tục trí thì cũng là tu khổ trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu thế tục trí mà không phải là khổ trí, nghĩa là lúc phàm phu đã đạt được hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc tập diệt loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không tu khổ trí. Có tu khổ trí mà không phải là thế tục trí, nghĩa là lúc khổ pháp trí và đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được khổ trí hiện ở trước mắt, mà chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không tu thế tục trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc khổ loại trí nhập hiện quán; A- la-hán học kiến tích chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu thế tục trí, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu khổ trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc tập-diệt-đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là khổ trí. Lúc ấy tất cả là tâm ô nhiễm, tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu thế tục trí thì cũng là tu tập trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu thế tục trí mà không phải là tập trí, nghĩa là lúc phàm phu đã đạt được hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc khổ- diệt, loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không tu tập trí. Có tu tập trí mà không phải là thế tục trí, nghĩa là lúc tập pháp trí và đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được tập trí hiện ở trước mắt; chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu thế tục trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc tập loại trí nhập hiện quán; A-la- hán học kiến tích, chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu thế tục trí, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu tập trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ diệt đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tập trí. Lúc ấy tất cả là tâm ô nhiễm, tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu thế tục trí thì cũng là tu diệt trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu thế tục trí mà không phải là diệt trí, nghĩa là lúc phàm phu đã đạt được hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc khổ-tập loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy không tu diệt trí. Có tu diệt trí mà không phải là thế tục trí, nghĩa là lúc diệt pháp trí và đạo loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích đã đạt được diệt trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu thế tục trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc diệt loại trí nhập hiện quán; A- la-hán học kiến tích, chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu thế tục trí, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu diệt trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-tập-đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải diệt trí. Lúc ấy tất cả là tâm ô nhiễm, tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu thế tục trí thì cũng tu đạo trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu thế tục trí mà không phải là đạo trí, nghĩa là lúc phàm phu đã được hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc khổ-tập- diệt, loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạtđược thế tục trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu đạo trí. Có tu đạo trí mà không phải là thế tục trí, nghĩa là lúc đạo-pháp- loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được đạo trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu thế tục trí. Có hai trí cùng tu, nghĩa là A-la-hán học kiến tích đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy tu thế tục trí, khi chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy tu đạo trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-tập-diệt pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc này không phải là đạo trí. Tất cả lúc ấy là tâm ô nhiễm-tâm vô ký của phàm phu cho đến vô tưởng định-diệt tận định, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu.  <卷>QUYỂN 9 <章>Chương 3: TRÍ UẨN <詞>Phẩm 4: BÀN VỀ TU TRÍ, Phần 2 Hỏi: Nếu tu khổ trí thì cũng là tu tập trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu khổ trí màkhông phải tập trí, thì nghĩa là lúc khổ pháp- loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được khổ trí hiện ở trước mắt. Có tu tập trí mà không phải khổ trí, nghĩa là lúc tập pháp-loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được tập trí hiện ở trước mắt. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A-la- hán học kiến tích, lúc chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này có thể cùng tu cả hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc diệt pháp-loại trí và đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là khổ-tập trí, lúc đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, hay chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này hai trí cùng không tu. Tất cả lúc ấy là tâm ô nhiễm-tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô tưởng định-diệt tận dịnh, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu khổ trí thì cũng tu diệt trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu khổ trí mà không phải là diệt trí, nghĩa là lúc khổ pháp- loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được khổ trí hiện ở trước mắt. Có tu diệt trí mà không phải là khổ trí, nghĩa là lúc diệt pháp- loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, llúc đã đạt được diệt trí hiện ở trước mắt. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A- la-hán học kiến tích, lúc chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này có thể cùng tu. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc tập pháp-loại trí và đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là khổ diệt trí; llúc đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này hai trí cùng không có tu. Tất cả là tâm ô nhiễm-tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô tưởng định-diệt tận dịnh, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu khổ trí thì cũng là tu đạo trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu khổ trí mà không phải là đạo trí, nghĩa là lúc khổ pháp- loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được khổ trí hiện ở trước mắt. Có tu đạo trí mà không phải là khổ trí, nghĩa là lúc đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, llúc đã đạt được đạo trí hiện ở trước mắt. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A- la-hán học kiến tích, lúc chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này có thể cùng tu cả hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc tập-diệt-pháp-loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là khổ-đạo trí, lúc đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy hai trí cùng không tu; tất cả lúc ấy là tâm ô nhiễm-tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô tưởng định-diệt tận dịnh, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu tập trí thì cũng là tu diệt trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu tập trí mà không phải là diệt trí, nghĩa là lúc tập pháp-loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, llúc đã đạt được tập trí hiện ở trước mắt. Có tu diệt trí mà không phải là tập trí, nghĩa là lúc diệt pháp- loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, llúc đã đạt được diệt trí hiện ở trước mắt. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A-la- hán học kiến tích, lúc chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này có thể cùng tu hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ pháp-loại trí và đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích lúc đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tập-diệt trí; lúc đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, hay chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, khi đều cùng không tu; tất cả lúc ấy là tâm ô nhiễm-tâm vô ký của phàm phu, và vô tưởng định-diệt tận dịnh, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu tập trí thì cũng tu đạo trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu tập trí mà không phải đạo trí, nghĩa là lúc tập pháp-loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được tập trí hiện ở trước mắt. Có tu đạo trí mà không phải tập trí, nghĩa là lúc đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được đạo trí hiện ở trước mắt. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A-la- hán học kiến tích, lúc chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này có thể cùng tu hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ-diệt pháp-loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là tập-đạo trí, lúc đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc ấy hai trí cùng không tu, tất cả lúc ấy là tâm ô nhiễm_tâm vô ký của phàm phu, cho đến vô tưởng định-diệt tận dịnh, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Nếu tu diệt trí thì cũng tu đạo trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu diệt trí mà không phải là đạo trí, nghĩa là lúc diệt pháp- loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được diệt trí hiện ở trước mắt. Có tu đạo trí mà không phải là diệt trí, nghĩa là lúc đạo pháp trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được đạo trí hiện ở trước mắt. Có hai trí cùng tu, nghĩa là lúc đạo loại trí nhập hiện quán; A- la-hán học kiến tích, lúc chưa đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, hay chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, có khả năng đều cùng tu hai trí. Có hai trí cùng không tu, nghĩa là lúc khổ tập pháp-loại trí nhập hiện quán; A-la-hán học kiến tích, lúc đã đạt được trí vô lậu hiện ở trước mắt, lúc ấy không phải là diệt-đạo trí; lúc đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, hay chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, lúc này hai trí cùng không tu; tất cả lúc ấy là tâm ô nhiễm_tâm vô ký của phàm phu cho đến vô tưởng định-diệt tận dịnh, vô tưởng thiên và nhẫn vô lậu. Hỏi: Pháp trí cho đến đạo trí, ở trong tám trí, mỗi một trí duyên bao nhiêu trí? Đáp: Pháp trí duyên bảy trí, trừ ra loại trí. Loại trí duyên bảy trí, trừ ra pháp trí. Tha tâm trí và thế tục trí đều cùng duyên tám trí. Khổ trí và tập trí đều duyên hai trí, đó là tha tâm trí và thế tục trí nào. Diệt trí không duyên trí. Đạo trí duyên bảy trí, trừ ra thế tục trí. Hỏi: Pháp trí cho đến đạo trí, trí này và trí kia hướng về nhau là bao nhiêu duyên? Đáp: Pháp trí và pháp trí là bốn duyên; pháp trí và loại trí là ba duyên, trừ ra sở duyên; pháp trí và tha tâm trí là bốn duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm nhân đẳng vô gián thì không phải là sở duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm sở duyên thì không phải là nhân đẳng vô gián; pháp trí và thế tục trí là ba duyên, trừ ra nhân; pháp trí và khổ-tập-diệt trí là ba duyên, trừ ra sở duyên; pháp trí và đạo trí là bốn duyên. Loại trí và loại trí là bốn duyên; loại trí và tha tâm trí là bốn duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm nhân đẳng vô gián thì không phải là sở duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm sở duyên thì phải là nhân đẳng vô gián; loại trí và thế tục là ba duyên; trừ ra nhân; loại trí và khổ-tập- diệt trí là ba duyên, trừ ra sở duyên; loại trí và đạo trí là bốn duyên; loại trí và pháp trí là ba duyên, trừ ra sở duyên. Tha tâm trí và tha tâm trí là bốn duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm nhân đẳng vô gián thì không phải là sở duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm sở duyên thì không phải là nhân đẳng vô gián; tha tâm trí và thế tục trí là bốn duyên; tha tâm trí và khổ trí-tập trí là bốn duyên, nếu cùng với khổ trí-tập trí làm nhân thì không phải sở duyên, nếu cùng với khổ trí-tập trí làm sở duyên thì không phải là nhân; tha tâm trí và diệt trí là ba duyên, trừ ra sở duyên; tha tâm trí và đạo trí-pháp trí-loại trí là bốn duyên. Thế tục trí và thế tục trí là bốn duyên; thế tục trí và khổ trí-tập trí là ba duyên, trừ ra nhân; thế tục và diệt trí-đạo trí là hai duyên, đó là tăng thượng và đẳng vô gián; thế tục trí và pháp trí-loại trí là ba duyên, trừ ra nhân; thế tục trí và tha tâm trí là bốn duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm nhân đẳng vô gián thì không phải là sở duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm sở duyên thì không phải là nhân đẳng vô gián. Khổ trí và khổ trí, cho đến tập trí-diệt trí là ba duyên, trừ ra sở duyên; khổ trí và đạo trí-pháp trí-loại trí là bốn duyên; khổ trí và tha tâm trí là bốn duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm nhân đẳng vô gián thì không phải là sở duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm sở duyên thì không phải là nhân đẳng vô gián; khổ trí và thế tục trí là ba duyên, trừ ra nhân. Tập trí và tập trí, cùng diệt trí là ba duyên, trừ ra sở duyên, tập trí và đạo trí-pháp trí loại trí là bốn duyên; tập trí và tha tâm trí là bốn duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm nhân đẳng vô gián thì không phải là sở duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm sở duyên thì không phải là nhân đẳng vô gián; tập trí và thế tục trí là ba duyên, trừ ra nhân; tập trí và khổ trí là ba duyên, trừ ra sở duyên. Diệt trí và diệt trí là ba duyên, trừ ra sở duyên; diệt trí và đạo trí- pháp trí-loại trí là bốn duyên; diệt trí và tha tâm trí là bốn duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm nhân đẳng vô gián thì không phải là sở duyên nếu cùng với tha tâm trí làm sở duyên thì không phải là nhân đẳng vô gián; diệt trí và thế tục trí là ba duyên, trừ ra nhân; diệt trí và khổ trí-tập trí là ba duyên, trừ ra sở duyên. Đạo trí và đạo trí, cùng pháp trí-loại trí là bốn duyên; đạo trí và tha trí là bốn duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm nhân đẳng vô gián thì không phải là sở duyên, nếu cùng với tha tâm trí làm sở duyên thì không phải là nhân đẳng vô gián; đạo trí và thế tục trí là ba duyên, trừ ra nhân; đạo trí và khổ trí-tập trí-diệt trí là ba duyên, trừ ra sở duyên. Hỏi: Các kiết hệ thuộc cõi Dục, kiết đó do pháp trí đoạn chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có kiết hệ thuộc cõi Dục mà không do pháp trí đoạn, nghĩa là kiết thuộc cõi Dục, hoặc do nhẫn đoạn, hoặc do trí khác đoạn, hoặc là không đoạn. Có kiết do pháp trí đoạn mà không phải là hệ thuộc cõi Dục, nghĩa là kiết thuộc cõi Sắc-Vô sắc do pháp trí đoạn. Có kiết hệ thuộc cõi Dục mà cũng do pháp trí đoạn, nghĩa là kiết thuộc cõi Dục do pháp trí đoạn. Có kiết không phải hệ thuộc cõi Dục cũng không do pháp trí đoạn, nghĩa là kiết thuộc cõi Sắc-Vô sắc, hoặc do nhẫn đoạn, hoặc do trí khác đoạn, hoặc là không đoạn. Hỏi: Các kiết hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc, kiết ấy do loại trí đoạn chăng? Đáp: Các kiết do loại trí đoạn, kiết đó hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc. Có kiết hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc mà không do loại trí đoạn, nghĩa là kiết thuộc cõi Sắc-Vô sắc, hoặc do nhẫn đoạn, hoặc do trí khác đoạn, hoặc là không đoạn. Hỏi: Các kiết do kiến khổ mà đoạn thì kiết đó do khổ trí mà đoạn chăng? Đáp: Các kiết do kiến khổ mà đoạn thì kiết đó không do khổ trí đoạn, hoặc do nhẫn đoạn, hoặc do trí khác đoạn, hoặc là không đoạn. Hỏi: Nếu kiết do khổ trí đoạn thì kiết đó do kiến khổ mà đoạn chăng? Đáp: Các kiết do khổ trí đoạn, sự trói buộc của kiết đó không do kiến khổ mà đoạn, là do kiến tu mà đoạn. Hỏi: Các kiết do kiến tập-diệt-đạo mà đoạn, kiết đó do tập-diệt- đạo trí đoạn chăng? Đáp: Các kiết do kiến tập diệt-đạo mà đoạn, kiết đó không do tập-diệt-đạo trí đoạn, hoặc nhẫn đoạn, hoặc do trí khác đoạn, hoặc là không đoạn. Hỏi: Nếu kiết do tập-diệt-đạo trí đoạn thì kiết đó do kiến tập diệt- đạo mà đoạn chăng? Đáp: Các kiết do tập-diệt-đạo trí đoạn, kiết đó không do kiến tập- diệt-đạo mà đoạn, là do tu mà đoạn. Hỏi: Các kiết do pháp trí đoạn, kiết đó diệt do pháp trí tác chứng chăng? Đáp: Các kiết do pháp trí đoạn, kiết đó diệt do pháp trí tác chứng. Có kiết diệt do pháp trí tác chứng mà kiết đó không do pháp trí đoạn, nghĩa là hoặc do nhẫn đoạn, hoặc do trí khác đoạn, kiết đó diệt do pháp trí tác chứng. Hỏi: Các kiết do loại trí đoạn, kiết đó diệt do loại trí tác chứng chăng? Đáp: Các kiết do loại trí đoạn, kiết đó diệt do loại trí tác chứng. Có kiết diệt do loại trí tác chứng mà kiết đó không do loại trí đoạn, nghĩa là hoặc do nhẫn đoạn, hoặc do trí khác đoạn, kiết đó diệt do loại trí tác chứng. Hỏi: Các kiết do khổ trí đoạn, kiết đó diệt do khổ trí tác chứng chăng? Đáp: Các kiết do khổ trí đoạn, kiết đó diệt do khổ trí tác chứng. Có kiết diệt do khổ trí tác chứng mà kiết đó không do khổ trí đoạn, nghĩa là hoặc do nhẫn đoạn, hoặc do trí khác đoạn, kiết đó diệt do khổ trí tác chứng. Hỏi: Các kiết do tập diệt-đạo trí đoạn, kiết đó diệt do tập diệt-đạo trí tác chứng chăng? Đáp: Các kiết do tập diệt-đạo trí đoạn, kiết đó diệt do tập diệt-đạo trí tác chứng. Có kiết diệt do tập-diệt-đạo trí tác chứng mà kiết đó không do tập diệt-đạo trí đoạn, nghĩa là hoặc do nhẫn đoạn, hoặc trí khác đoạn, kiết đó diệt do tập diệt-đạo trí tác chứng. Hỏi: Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh do tu mà đoạn thuộc cõi Vô sắc, ở trong mười trí có bao nhiêu trí biết? Đáp: Nhãn căn có bảy trí biết, trừ ra tha tâm-diệt-đạo trí. Nhó-tỷ- thiệt-thân, mạng căn cũng vậy. Nữ căn có sáu trí biết, trừ ra loại, tha tâm-diệt-đạo trí. Nam căn cũng vậy. Ý căn có chín trí biết, trừ ra diệt trí. Lạc-hỷ-xả, năm căn như tín… cũng vậy. Khổ căn có bảy trí biết, trừ ra loại-diệt-đạo trí. Ưu căn cũng vậy. Ba căn vô lậu có bảy trí biết, trừ ra khổ-tập-diệt trí. Nhãn-nhó-tỷ- thiệt-thân, sắc, thanh-xúc giới có bảy trí biết, trừ ra tha tâm-diệt-đạo trí. Nhãn-nhó-tỷ-thiệt-thân, sắc-thanh-xúc xứ-sắc thủ uẩn, năm giới trước, pháp hữu kiến, hữu đối cũng vậy. Hương, vị giới có sáu trí biết, trừ ra loại-tha tâm-diệt-đạo trí. Hương-vị-xứ cũng vậy. Nhãn-nhó-thân thức giới có tám trí biết, trừ ra diệt-đạo trí. Bốn thủ uẩn sau, thức giới, pháp hữu lậu, vô ký, pháp do kiến tu đoạn cũng vậy. Tỷ-thiệt-thức giới có bảy trí biết, trừ ra loại, diệt-đạo trí. Bất thiện, pháp hệ thuộc cõi Dục cũng vậy. Ý giới-ý thức giới có chín trí biết, trừ ra diệt trí. Ý xứ, bốn uẩn sau pháp hữu vi, pháp quá khứ-vị lai-hiện tại cũng vậy. Pháp giới có mười trí biết; pháp xứ và pháp vô sắc-vô kiến-vô đối cùng pháp thiện cũng vậy. Sắc uẩn có tám trí biết, trừ ra tha tâm-diệt trí. Pháp có sắc cũng vậy. Pháp vô lậu có tám trí biết, trừ ra khổ-tập trí. Pháp không có đoạn cũng vậy. Pháp vô vi có sáu trí biết, trừ ra tha tâm- khổ-tập-đạo trí. Pháp hệ thuộc cõi Sắc có bảy trí biết, trừ ra pháp-diệt-đạo trí. Pháp hệ thuộc cõi Vô sắc có sáu trí biết, trừ ra pháp-tha tâm-diệt- đạo trí. Pháp học, vô học có bảy trí biết, trừ ra khổ-tập-diệt trí. Pháp phi học phi vô học, có chín trí biết, trừ ra đạo trí. Khổ-tập đế có tám trí biết, trừ ra diệt-đạo trí. Thế tục trí, ba lớp Tam-ma-địa cũng vậy. Diệt đế có sáu trí biết, trừ ra tha tâm-khổ-tập, đạo trí. Đạo đế có bảy trí biết, trừ ra khổ-tập-diệt trí. Khổ-tập-diệt-đạo trí, ba Tam-ma-địa cũng vậy. Bốn tónh lự có chín trí biết, trừ ra diệt trí. Tha tâm trí cũng vậy. Bốn vô lượng có bảy trí biết, trừ ra pháp-diệt-đạo trí. Ba giải thoát đầu, tám thắng xứ, tám biến xứ trước cũng vậy. Ba vô sắc sau có bảy trí biết, trừ ra pháp-tha tâm-diệt trí. Giải thoát thứ tư-thứ năm-thứ sáu cũng vậy. Vô sắc thứ tư có sáu trí biết, trừ ra pháp-tha tâm-diệt-đạo trí. Giải thoát thứ bảy- thứ tám hai biến xứ sau cũng vậy. Pháp trí có sáu trí biết, trừ ra loại-khổ-tập-diệt trí. Loại trí có sáu trí biết, trừ ra pháp-khổ-tập-diệt trí. Ba kiết có tám trí biết, trừ ra diệt-đạo trí. Vô minh lậu, kiến-vô minh bộc lưu-ách, kiến giới cấm thủ, hai trói buộc thân sau trong bốn trói buộc thân, kiết tham-mạn, ba kiết sau trong năm kiết thuận phần dưới, năm kiến, nhẫn-nhó-thân-ý xúc sinh ra ái thân bốn tùy miên sau trong bảy tùy miên, kiết ái-mạn-vô minh-kiến-thủ-nghi cũng như vậy. Ba căn bất thiện có bảy trí biết, trừ ra ba loại-diệt-đạo trí. Dục lậu- bộc lưu-ách-thủ, hai trói buộc thân trước trong bốn trói buộc thân, năm cái, kiết giận dữ-ganh tî-keo kiệt, hai kiết trước trong năm kiết thuận phần dưới, tỷ-thiệt xúc sinh ra ái thân, tùy miên dục tham-giận dữ, kiết giận dữ-ganh tî-keo kiệt cũng như vậy. Hữu lậu có bảy trí biết, trừ ra pháp-diệt-đạo trí. Hữu bộc lưu-ách, ngã ngữ thủ, trừ ra tham vô sắc còn lại bốn kiết thuận phần trên, tùy miên hữu tham cũng như vậy. Hữu lậu có bảy trí biết, trừ ra pháp-diệt-đạo trí. Ách bộc lưu hữu, ngã ngữ thủ, trừ ra tham vô sắc, bốn ách còn lại, kiết thuận phần trên, tùy miên hữu tham cũng vậy. Tham vô sắc có sáu trí biết, trừ ra pháp, tha tâm-diệt-đạo trí. Ba mươi sáu tùy miên thuộc cõi Dục có bảy trí biết, trừ ra loại, diệt-đạo trí. Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Sắc có bảy trí biết, trừ ra pháp- diệt-đạo trí. Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Vô sắc có sáu trí biết, trừ ra pháp- tha tâm-diệt-đạo trí. Hỏi: Như nói rõ về tưởng vô thường, hoặc là tập, hoặc là tu, hoặc nhiều điều thực hành, có công năng loại trừ ra tất cả tham dục-tham sắc-tham vô sắc, trạo cử, ngã mạn, vô minh. Tưởng này nên nói có bao nhiêu tương ưng? Đáp: Nên nói, có năng lực loại trừ tham dục thì tương ưng với pháp trí, khổ trí. Có năng lực loại trừ tham Sắc-Vô sắc thì tương ưng với loại trí, khổ trí. Có năng lực loại trừ trạo cử, ngã mạn, vô minh thì tương ưng với pháp trí-loại trí và khổ trí. Hỏi: Tưởng này nên nói có tầm có tứ, không có tầm-chỉ có từ hay không có tầm, không có tứ chăng? Đáp: Nên nói, có năng lực loại trừ tham dục, là có tầm-có tứ. Có năng lực loại trừ tham Sắc-Vô sắc, trạo cử- mạn-vô minh, là hoặc có tầm-có tứ, hoặc không có tầm chỉ có tứ, hoặc không có tầm, không có tứ. Hỏi: Tưởng này nên nói có bao nhiêu căn tương ưng? Đáp: Nên nói, có năng lực loại trừ tham sắc, tham vô sắc, trạo cử- mạn-vô minh thì tương ưng với lạc-hỷ-xả căn. Có năng lực loại trừ tham dục thì tương ưng với xả căn. Hỏi: Tưởng này nên nói Không, Vô nguyện, Vô tướng đều cùng có chăng? Đáp: Nên nói Vô nguyện đều cùng có. Hỏi: Tưởng này nên nói duyên hệ thuộc cõi nào? Đáp: Nên nó, có năng lực loại trừ tham dục thì duyên hệ thuộc cõi Dục. Có năng lực loại trừ tham sắc thì duyên hệ thuộc cõi Sắc. Có năng lực loại trừ tham vô sắc thì duyên hệ thuộc cõi Vô sắc. Có năng lực loại trừ ra trạo cử-mạn-vô minh thì duyên hệ thuộc nơi ba cõi. Như nói về bảy xứ thiện- quán ba nghĩa, năng lực ở trong pháp Tỳ-nại-da này, nhanh chóng trừ hết các lậu. Hỏi: Thế nào là bảy? Đáp: nghĩa là biết như thật về sắc, sắc tập, sắc diệt, hướng đến hành sắc diệt, sắc vị, sắc hoạn, sắc xuất. Biết như thật về thọ-tưởng-hành-thức có bảy thứ (tập-diệt, vị, hoạn, xuất v.v…) cũng vậy. Hỏi: Trí này nên nói là pháp trí cho đến đạo trí chăng? Đáp: Nên nói, biết như thật về sắc là bốn trí, đó là pháp-loại-thế tục-khổ trí. Biết như thật về sắc tập là bốn trí, tức là pháp-loại-thế tục-tập trí. trí Biết như thệt về sắc diệt là bốn trí, đó là pháp-loại-thế tục-diệt Biết như thật về hướng đến hành sắc diệt là bốn trí, tức là pháp- loại-thế tục-đạo trí. Biết như thật về sắc vị là bốn trí, đó là pháp-loại-thế tục-tập trí. Biết như thật về sắc hoạn là bốn trí, đó là pháp-loại-thế tục-khổ trí. trí. Biết như thật về sắc xuất là bốn trí, đó là pháp-loại-thế tục-diệt Biết như thật về thọ-tưởng-hành-thức có bảy thứ cũng vậy. Hỏi: Sắc cho đến thức diệt, sắc cho đến thức xuất có gì sai biệt? Đáp: Nếu do ái này, các sắc tập khởi lên, ái kia đoạn thì gọi là sắc diệt. Nếu các ái khác duyên vào sắc rộng thêm, ái kia đoạn thì gọi là sắc xuất. Lại nữa, nếu do nghiệp phiền não này, các sắc tập khởi, khởi lên, ái kia đoạn thì gọi là sắc dịêt. Nếu nghiệp phiền não còn lại, duyên vào sắc nhiều lên ái kia đoạn thì gọi là sắc xuất. Vả lại, nếu do ái này và nghiệp phiền não, các sắc tập khởi lên, ái kia đoạn thì gọi là sắc diệt. Nếu các ái khác và nghiệp phiền não duyên vào sắc rộng thêm, thì việc đoạn ái kia gọi là sắc xuất. Thọ-tưởng-hành-thức với diệt, xuất cũng vậy. Đó gọi là sự sai biệt. ----------------- <詞>Phẩm 5: BÀN VỀ BẢY THÁNH, Phần 1 Bảy Thánh đối với năm phẩm đức, Hai thành tựu có ba hiện tại, Sự tương ưng đối với bốn môn, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Tùy tín hành cho đến câu giải thoát, đối với tám trí này có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Đáp: Tùy tín hành đối với tám trí, hoặc thành tựu một-hai-ba-bốn- năm-sáu-bảy-tám. nghĩa là lúc khổ-pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí là một, có tha tâm trí là hai. Lúc khổ pháp trí và khổ loại trí nhẫn, không có tha tâm trí là ba, có tha tâm trí là bốn. Lúc khổ loại trí tập pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí là bốn, có tha tâm trí là năm. Lúc tập pháp trí cho đến diệt pháp trí nhẫn , không có tha tâm trí là năm, có tha tâm trí là sáu. Lúc diệt pháp trí cho đến đạo pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí là sáu, có tha tâm trí là bảy. Lúc đạo pháp trí đạo và loại trí nhẫn, không có tha tâm trí là bảy, có tha tâm trí là tám. Tùy pháp hành cũng vậy. Tín thắng giải đới với tám trí, hoặc thành tựu bảy, tám, tức là không có tha tâm trí là bảy, có tha tâm trí là tám. Kiến chí cũng vậy. Thân chứng, tuệ giải thoát, câu giải thoát, đối với tám trí đều thành tựu. Hỏi: Tùy tín hành cho đến câu giải thoát, đối với tám trí thành tựu bao nhiêu quá khứ-vị lai-hiện tại? Đáp: Tùy tín hành đối với tám trí, lúc khổ-pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có một, hiện tại không có; có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có hai, hiện tại không có. Lúc khổ pháp trí , không có tha tâm trí thì quá khứ có một, vị lai có ba, hiện tại có hai, có tha tâm trí thì quá khứ có hai, vị lai có bốn, hiện tại có hai. Lúc khổ-loại trí nhẫn, không có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có ba, hiện tại không có; có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có bốn, hiện tại không có. Lúc khổ-loại trí không hợp nhận, không có tha tâm trí thì quá khứ có ba, vị lai có bốn, hiện tại có hai, có tha tâm trí thì quá khứ có bốn, vị lai có năm, hiện tại có hai. Lúc tập-pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có bốn, hiện tại không có; có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có năm, hiện tại không có. Lúc tập pháp trí, không có tha tâm trí thì quá khứ có bốn, vị lai có năm, hiện tại có hai, có tha tâm trí thì quá khứ có năm, vị lai có sáu, hiện tại có hai. Lúc tập-loại trí nhẫn, không có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có năm, hiện tại không có; có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có sáu, hiện tại không có. Lúc tập loại trí không hợp nhận, không có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có năm, hiện tại có hai, có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có sáu, hiện tại có hai. Lúc diệt-pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có năm, hiện tại không có; có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có sáu, hiện tại không có. Lúc diệt pháp trí không hợp nhận, không có tha tâm trí thì quá khứ có năm, vị lai có sáu, hiện tại có hai, có tha tâm trí thì quá khứ có sáu, vị lai có bảy, hiện tại có hai. Lúc diệt-loại trí nhẫn, không có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có sáu, hiện tại không có; có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có bảy, hiện tại không có. Lúc diệt loại trí không hợp nhận, không có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có sáu, hiện tại có hai, có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có bảy, hiện tại có hai. Lúc đạo-pháp trí nhẫn, không có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có sáu, hiện tại không có; có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có bảy, hiện tại không có. Lúc đạo-pháp trí không hợp nhận, không có tha tâm trí thì quá khứ có sáu, vị lai có bảy, hiện tại có hai, có tha tâm trí thì quá khứ có bảy, vị lai có tám, hiện tại có hai. Lúc đạo-loại trí nhẫn, không có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có bảy, hiện tại không có; có tha tâm trí thì quá khứ-vị lai có tám, hiện tại không có. Tùy pháp hành cũng vậy. Tín thắng giải đối với tám trí không có tha tâm trí thì vị lai có bảy, có tha tâm trí thì vị lai có tám, quá khứ nếu đã diệt mà không mất, hiện tại nếu hiện ở trước mắt. Kiến chí cũng vậy. Thân chứng, tuệ giải thoát, câu giải thoát đối với tám trí, đều là vị lai có tám, quá khứ nếu đã diệt, không mất, hiện tại nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Tùy tín hành cho đến câu giải thoát, pháp trí cho đến đạo trí, lúc hiện ở trước mắt có bao nhiêu trí hiện ở trước mắt? Đáp: Tùy tín hành lúc pháp trí hiện ở trước mắt có hai trí hiện ở trước mắt, đó là pháp-khổ trí là hai, pháp-tập trí là hai, pháp-diệt trí là hai, pháp-đạo trí là hai. Lúc loại trí hiện ở trước mắt có hai trí hiện ở trước mắt, đó là loại- khổ trí là hai, loại, tập trí hai, loại, diệt trí hai. Lúc khổ trí hiện ở trước mắt có hai trí hiện ở trước mắt, đó là khổ- pháp trí là hai, khổ-loại trí là hai. Lúc tập trí hiện ở trước mắt, có hai trí hiện ở trước mắt, đó là tập- pháp trí là hai, tập-loại trí là hai. Lúc diệt trí hiện ở trước mắt có hai trí hiện ở trước mắt, đó là diệt- pháp trí là hai, diệt-loại trí là hai. Lúc đạo trí hiện ở trước mắt có hai trí hiện ở trước mắt, đó là đạo- pháp trí là hai. Tùy pháp hành cũng như vậy. Lúc đối với tín thắng giải, pháp trí hiện ở trước mắt, hoặc có hai- ba trí hiện ở trước mắt, đó là pháp-khổ trí là hai, pháp-tập trí hai, pháp- diệt trí hai, pháp-đạo trí, không phải tha tâm trí là hai, pháp-đạo trí và tha tâm trí ba. Lúc loại trí hiện ở trước mắt, hoặc có hai-ba trí hiện ở trước mắt, đó là loại-khổ trí là hai, loại-tập trí hai, loại-diệt trí hai, loại-đạo trí, không phải tha tâm trí là hai, loại-đạo trí và tha tâm trí là ba. Khi tha tâm trí hiện ở trước mắt, hoặc có hai-ba trí hiện ở trước mắt, nghĩa là tha tâm trí, thế tục trí là hai, tha tâm, đạo-pháp trí là ba, tha tâm-đạo-loại trí là ba. Lúc thế tục trí hiện ở trước mắt, hoặc một, hai trí hiện ở trước mắt, đó là thế tục trí, không có tha tâm trí một, thế tục trí có tha tâm trí là hai. Lúc khổ trí hiện ở trước mắt có hai trí hiện ở trước mắt, đó là khổ- pháp trí là hai, khổ-loại trí là hai. Lúc tập trí hiện ở trước mắt, có hai trí hiện ở trước mắt, đó là tập- pháp trí là hai, tập-loại trí là hai. Lúc diệt trí hiện ở trước mắt có hai trí hiện ở trước mắt, nghĩa là diệt-pháp trí là hai, diệt-loại trí là hai. Lúc đạo trí hiện ở trước mắt, hoặc có hai, ba trí hiện ở trước mắt, đó là đạo-pháp trí không có tha tâm trí là hai, đạo-pháp trí có tha tâm trí ba; đạo-loại trí, không có tha tâm trí là hai, đạo-loại trí có tha tâm trí là ba. Kiến chí và thân chứng cũng như vậy. Lúc đối với tuệ giải thoát, pháp trí hiện ở trước mắt, hoặc có hai- ba trí hiện ở trước mắt, đó là pháp-khổ trí có phải tận-vô sinh trí là hai, pháp-khổ trí, tận-vô sinh trí là ba; pháp-tập trí không có tận-vô sinh trí là hai, pháp-tập trí có tận-vô sinh trí là ba; pháp-diệt trí, không có tận- vô sinh trí là hai, pháp-diệt trí, tận-vô sinh trí là ba; pháp-đạo trí, không có tận-vô sinh trí, tha tâm trí là hai, pháp-đạo trí có tận-vô sinh trí, hoặc tha tâm trí ba. Lúc loại trí hiện ở trước mắt, hoặc có hai-ba trí hiện ở trước mắt, loại-khổ trí, không có tận-vô sinh trí là hai, loại-khổ trí, tận-vô sinh trí là ba. Loại, tập trí, không có tận-vô sinh trí là hai, loại, tập trí có tận-vô sinh trí là ba. Loại, diệt trí, không có tận-vô sinh trí là hai, loại, diệt trí có tận-vô sinh trí là ba. Loại, đạo trí, không có tận-vô sinh trí, tha tâm trí là hai, loại, đạo trí có tận-vô sinh trí, hoặc tha tâm trí ba. Lúc tha tâm trí hiện ở trước mắt, hoặc có hai-ba trí hiện ở trước mắt. Tha tâm trí, thế tục trí hai, tha tâm trí, đạo trí, pháp trí ba; tha tâm trí-đạo-loại trí là ba. Lúc thế tục trí hiện ở trước mắt, hoặc có một-hai trí hiện ở trước mắt. Thế tục trí không có tha tâm trí một; thế tục trí có tha tâm trí là hai. Lúc khổ trí hiện ở trước mắt, hoặc có hai-ba trí hiện ở trước mắt. Khổ-pháp trí, không có tận-vô sinh trí là hai, khổ-pháp trí có tận-vô sinh trí là ba. Khổ-loại trí, không có tận-vô sinh trí là hai, khổ-loại trí, tận-vô sinh trí là ba. Lúc tập trí hiện ở trước mắt, hoặc có hai-ba trí hiện ở trước mắt. Tập-pháp trí không có tận-vô sinh trí là hai, tập-pháp trí có tận-vô sinh trí là ba, tập-loại trí, không có tận-vô sinh trí là hai, tập-loại trí, tận-vô sinh trí là ba. Lúc diệt trí hiện ở trước mắt, hoặc có hai-ba trí hiện ở trước mắt. Diệt-pháp trí, không có tận-vô sinh trí là hai, diệt-pháp trí, tận-vô sinh trí là ba, diệt-loại trí, không có tận-vô sinh trí là hai, diệt-loại trí có tận- vô sinh trí là ba. Lúc đạo trí hiện ở trước mắt, hoặc có hai-ba trí hiện ở trước mắt. Đạo-pháp trí, không có tận-vô sinh trí-tha tâm trí là hai, đạo-pháp trí có tận-vô sinh trí, hoặc tha tâm trí ba; đạo-loại trí không có tận-vô sinh trí- tha tâm trí là hai, đạo-loại trí, có tận-vô sinh trí, hoặc tha tâm trí ba. Câu giải thoát cũng như vậy. Hỏi: Tùy tín hành cho đến câu giải thoát, đối với ba Tam-ma-địa, có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Đáp: Tùy tín hành đối với ba Tam-ma-địa, diệt-pháp trí nhẫn chưa sinh thì thành tựu hai, đã sinh thì thành tựu ba. Tùy pháp hành cũng vậy. Tín thắng giải cho đến câu giải thoát, đối với ba Tam-ma-địa đều thành tựu. Hỏi: Tùy tín hành cho đến câu giải thoát, đối với ba Tam-ma-địa thành tựu bao có nhiêu quá khứ-vị lai-hiện tại? Đáp: Tùy tín hành đối với ba Tam-ma-địa nếu dựa vào không, nhập chính tính ly sinh, lúc khổ pháp trí nhẫn thì quá khứ không có, vị lai có hai, hiện tại có một. Khổ pháp trí khi tập pháp trí nhẫn thì quá khứ có một, vị lai có hai, hiện tại có một. Tập pháp trí cho đến lúc tập loại trí thì quá khứ-vị lai có hai, hiện tại có một. Diệt pháp trí cho đến lúc thì quá khứ có hai, vị lai có ba, hiện tại có một. Diệt pháp trí cho đến lúc đạo loại trí thì quá khứ-vị lai có ba, hiện tại có một. Nếu dựa vào Vô nguyện, nhập chính tính ly sinh thì lúc khổ pháp trí nhẫn quá khứ không có, vị lai có hai, hiện tại có một. Khổ pháp trí cho đến lúc tập loại trí thì quá khứ có một, vị lai có hai, hiện tại có một. Lúc diệt pháp trí nhẫn thì quá khứ có một, vị lai có ba, hiện tại có một. Diệt pháp trí cho đến lúc đạo loại trí thì quá khứ có hai, vị lai có ba, hiện tại có một. Tùy pháp hành cũng như vậy. Tín thắng giải cho đến câu giải thoát, đối với ba Tam-ma-địa, đều là vị lai ba, quá khứ nếu đã diệt không mất, hiện tại nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Tùy tín hành cho đến câu giải thoát, lúc Tam-ma-địa Không, Vô nguyện, vô tướng, hiện ở trước mắt, có bao nhiêu trí hiện ở trước mắt. Đáp: Tùy tín hành lúc Tam-ma-địa Không hiện ở trước mắt, hoặc hai, hoặc không có trí hiện ở trước mắt, nghĩa là khổ-pháp trí là hai, khổ-loại trí là hai, lúc hai nhẫn không có. Lúc Tam-ma-địa Vô nguyện hiện ở trước mắt, hoặc có hai, hoặc không có, nghĩa là khổ-pháp trí là hai, khổ-loại trí là hai, tập-pháp trí là hai, tập-loại trí là hai, đạo-pháp trí là hai, lúc sáu nhẫn là không có. Lúc Tam-ma-địa Vô tướng hiện ở trước mắt, hoặc có hai, hoặc không có, nghĩa là diệt-pháp trí là hai, diệt-loại trí là hai, lúc hai nhẫn không có. Tùy pháp hành cũng như vậy. Tín thắng giải lúc Tam-ma-địa không hiện ở trước mắt, có hai trí hiện ở trước mắt, nghĩa là khổ-pháp trí là hai, khổ-loại trí là hai. Lúc Tam-ma-địa Vô nguyện hiện ở trước mắt, hoặc hai, hoặc ba trí, nghĩa là khổ-pháp trí là hai, khổ-loại trí là hai, tập-pháp trí là hai, tập-loại trí là hai, đạo-pháp trí, không phải tha tâm trí là hai, đạo-pháp trí, tha tâm trí ba; đạo-loại trí, không có tha tâm trí là hai, đạo-loại trí, tha tâm trí ba. Lúc Tam-ma-địa vô tướng hiện ở trước mắt, có hai trí hiện ở trước mắt, nghĩa là diệt-pháp trí là hai, diệt-loại trí là hai. Kiến chí và thân chứng cũng vậy. Tuệ giải thoát lúc Tam-ma-địa Không hiện ở trước mắt, có hai trí hiện ở trước mắt, đó là khổ-pháp trí là hai, khổ-loại trí là hai. Lúc Tam-ma-địa Vô nguyện hiện ở trước mắt, hoặc hai, hoặc ba trí hiện ở trước mắt, nghĩa là khổ-pháp trí, không có tận-vô sinh trí là hai, khổ-pháp trí, tận-vô sinh trí là ba, khổ-loại trí, không có tận-vô sinh trí là hai, khổ-loại trí, tận-vô sinh trí là ba. Tập-pháp trí, không có tận- vô sinh trí là hai, tập-pháp trí, tận-vô sinh trí là ba. Tập-loại trí, không có tận-vô sinh trí là hai, tập-loại trí, tận-vô sinh trí là ba. Đạo-pháp trí, không có tận-vô sinh trí, tha tâm trí là hai, đạo-pháp trí, tận-vô sinh trí, hoặc tha tâm trí ba, đạo-loại trí, không có tận-vô sinh trí, tha tâm trí là hai, đạo-loại trí, tận-vô sinh trí, hoặc tha tâm trí ba. Lúc Tam-ma-địa Vô tướng hiện ở trước mắt, hoặc hai, hoặc ba trí hiện ở trước mắt, nghĩa là diệt-pháp trí không có tận-vô sinh trí là hai, diệt-pháp trí, tận-vô sinh trí là ba. Diệt-loại trí, không có tận-vô sinh trí là hai, diệt-loại trí, tận-vô sinh trí là ba. Câu giải thoát cũng vậy. Hỏi: Tùy tín hành cho đến câu giải thoát, lúc ba căn vô lậu, bảy giác chi, tám đạo chi, thuận theo thích hợp hiện ở trước mắt, có bao nhiêu trí hiện ở trước mắt? Đáp: Tùy tín hành khi vị tri, đương tri căn hiện ở trước mắt, hoặc có hai, hoặc không có trí hiện ở trước mắt, nghĩa là khổ-pháp trí là hai, khổ-loại trí là hai, tập-pháp trí là hai, tập-loại trí là hai, diệt-pháp trí là hai, diệt-loại trí là hai, đạo-pháp trí là hai, lúc tám nhẫn là không có. Bảy giác chi và tám đạo chi, lúc hiện ở trước mắt cũng vậy. Như tùy tín hành, tùy pháp hành cũng vậy. Tín thắng giải lúc dó tri căn hiện ở trước mắt, hoặc có hai, hoặc ba trí hiện ở trước mắt, nghĩa là khổ-pháp trí là hai, khổ-loại trí là hai, tập-pháp trí là hai, tập-loại trí là hai, diệt-pháp trí là hai, diệt-loại trí là hai, đạo-pháp trí, không có tha tâm trí là hai, đạo-pháp trí có tha tâm trí là ba; đạo-loại trí, không có tha tâm trí là hai, đạo-loại trí có tha tâm trí là ba. Lúc bảy giác chi và tám đạo lúc chi hiện ở trước mắt cũng vậy. Như tín thắng giải, kiến chí và thân chứng cũng vậy. Tuệ giải thoát lúc cụ tri căn hiện ở trước mắt, hoặc hai, hoặc ba trí hiện ở trước mắt, nghĩa là khổ-pháp trí, không có tận-vô sinh trí là hai, khổ-pháp trí, tận-vô sinh trí là ba; khổ-loại trí, không có tận-vô sinh trí là hai, khổ-loại trí, tận-vô sinh trí là ba. Tập-pháp trí, không có tận-vô sinh trí là hai, tập-pháp trí, tận-vô sinh trí là ba; tập-loại trí, không có tận-vô sinh trí là hai, tập-loại trí, tận-vô sinh trí là ba. Diệt-pháp trí, không có tận-vô sinh trí là hai, diệt-pháp trí, tận-vô sinh trí là ba; diệt- loại trí, không có tận-vô sinh trí là hai, diệt-loại trí, tận-vô sinh trí là ba. Đạo-pháp trí không có tận-vô sinh trí, tha tâm trí là hai, đạo-pháp trí, tận-vô sinh trí, hoặc tha tâm trí ba. Đạo-loại trí không có tận-vô sinh trí, tha tâm trí là hai, đạo-loại trí, tận-vô sinh trí, không phải tha tâm trí ba; đạo-loại trí, tha tâm trí, không có tận-vô sinh trí là ba. Bảy giác chi và bảy đạo chi cũng vậy. Lúc chính kiến hiện ở trước mắt, hoặc có hai, hoặc ba trí hiện ở trước mắt. Khổ-pháp trí là hai, khổ-loại trí là hai, tập-pháp trí là hai, tập-loại trí là hai, diệt-pháp trí là hai, diệt-loại trí là hai, đạo-pháp trí, không có tha tâm trí là hai, đạo-pháp trí, tha tâm trí ba; đạo-loại trí, không phải tha tâm trí là hai, đạo-loại trí có tha tâm trí ba. Như tuệ giải thoát, câu giải thoát cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với pháp trí, thì pháp đó tương ưng với loại trí chăng? Đáp: Không phải như thế. Hỏi: Nếu các pháp tương ưng với loại trí, thì pháp đó tương ưng với pháp trí chăng? Đáp: Không phải như thế. Đối với thế tục trí cũng như vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với pháp trí, thì pháp đó tương ưng với tha tâm trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với pháp trí mà không phải là tha tâm trí, nghĩa là tha tâm vốn không thuộc về pháp tương ưng với pháp trí. Có pháp tương ưng với tha tâm trí mà không phải pháp trí, nghĩa là pháp trí vốn không thuộc về pháp tương ưng với tha tâm trí. Có pháp tương ưng với pháp trí, cũng tương ưng với tha tâm trí, nghĩa là pháp trí thâu nhiếp pháp tương ưng với tha tâm trí. Có pháp không tương ưng với pháp trí, cũng không tương ưng với tha tâm trí, đó là pháp trí không thâu nhiếp tha tâm trí, và tha tâm trí không thâu nhiếp pháp trí. Pháp trí và tha tâm trí không tương ưng với các tâm, tâm sở pháp cùng sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với khổ-tập-diệt-đạo trí và chính kiến cũng như vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với pháp trí, thì pháp đó tương ưng với Tam-ma-địa Không chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với pháp trí mà Không phải là Không, đó là pháp trí tương ưng với Không và Không chẳng tương ưng với pháp tương ưng của pháp trí. Có pháp tương ưng với Không mà không phải là pháp trí, nghĩa là Không tương ưng với pháp trí và pháp trí không tương ưng với pháp tương ưng của Không. Có pháp tương ưng với pháp trí, cũng tương ưng với không, ng- hóa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với pháp trí, cũng không tương ưng với Không, đó là pháp trí không tương ưng với Không, và Không cũng không tương ưng với pháp trí. Pháp trí và Không không thâu nhiếp, không tương ưng với các tâm, tâm sở pháp cùng sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với Vô nguyện, Vô tướng, Hỷ giác chi, chính tư duy cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với pháp trí, thì pháp đó tương ưng với vị tri, đương tri căn chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với pháp trí mà không phải là vị tri-đương tri căn, nghĩa là vi tri-đương tri căn vốn không thuộc về pháp tương ưng với pháp trí. Có pháp tương ưng với vị tri, đương tri căn mà không phải là pháp trí, đó là vị tri-đương tri căn đã thâu nhiếp pháp trí, và pháp trí không thâu nhiếp, không tương ưng với pháp tương ưng của vị tri-đương tri căn. Có pháp tương ưng với pháp trí cũng tương ưng với vị tri-đương tri căn, nghĩa là vi tri-đương tri căn đã thâu nhiếp pháp tương ưng với pháp trí. Có pháp không tương ưng với pháp trí, cũng không tương ưng với vị tri-đương tri căn, vị tri-đương tri căn vốn không thâu nhiếp pháp trí, và pháp trí cùng vị tri-đương tri căn không thâu nhiếp không tương ưng với, các tâm-tâm sở pháp, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với dó tri căn và cụ tri căn cũng như vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với pháp trí, thì pháp đó tương ưng với Niệm giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với pháp trí, không phải Niệm giác chi, nghĩa là pháp trí tương ưng với Niệm giác chi. Có pháp tương ưng với Niệm giác chi mà không phải pháp trí, đó là pháp trí và pháp trí không tương ưng với pháp tương ưng của Niệm giác chi. Có pháp tương ưng với pháp trí, cũng tương ưng với Niệm giác chi, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với pháp trí, cũng không tương ưng với Niệm giác chi, đó là pháp trí không tương ưng với Niệm giác chi và các tâm-tâm sở pháp cùng sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với Tinh tiến-Khinh an-Định-xả, giác tri chính tinh tiến-chính niệm- chính định cũng như vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với pháp trí, thì pháp đó tương ưng với Trạch pháp giác chi chăng? Đáp: Các pháp tương ưng với pháp trí, cũng tương ưng với Trạch pháp giác chi . Có pháp tương ưng với Trạch pháp giác chi mà không tương ưng với pháp trí, đó là pháp trí không thâu nhiếp pháp tương ưng với Trạch pháp giác chi. Như pháp trí đối với phần sau, loại trí đối với phần sau cũng vậy.  <卷>QUYỂN 10 <章>Chương 3: TRÍ UẨN <詞>Phẩm 5: BÀN VỀ BẢY THÁNH, Phần 2 Hỏi: Các pháp tương ưng với tha tâm trí, thì pháp đó tương ưng với thế tục trí chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với tha tâm trí không tương ưng với thế tục trí, nghĩa là thế tục trí không thâu nhiếp pháp tương ưng của tha tâm trí. Có pháp tương ưng với thế tục trí mà không tương ưng với tha tâm trí, nghĩa là tha tâm trí không thâu nhiếp pháp tương ưng của thế tục trí. Có pháp tương ưng với tha tâm trí cũng tương ưng với thế tục trí, nghĩa là tha tâm trí đã thâu nhiếp pháp tương ưng với thế tục trí. Có pháp không tương ưng với tha tâm trí cũng không tương ưng với thế tục trí, nghĩa là tha tâm trí, thế tục trí không tương ưng. Tha tâm trí, và thế tục trí không thâu nhiếp, không tương ưng với các tâm-tâm sở pháp cùng sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với đạo trí, Trãch pháp giác tri, chính kiến cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với tha tâm trí, thì pháp đó tương ưng với khổ trí chăng? Đáp: Không phải như thế. Hỏi: Nếu các pháp tương ưng với khổ trí, thì pháp đó tương ưng với tha tâm trí chăng? Đáp: Không phải như thế. Đối với tập, diệt trí, Tam-ma-địa Không, Vô tướng, vị tri-đương tri căn cũng như vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với tha tâm trí, thì pháp đó tương ưng với Tam-ma-địa Vô nguyện chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với tha tâm trí mà không tương ưng với Vô nguyện, nghĩa là tha tâm trí tương ưng với Vô nguyện, và Vô nguyện không tương ưng với pháp tương ưng của tha tâm trí. Có pháp tương ưng với Vô nguyện, không tương ưng với tha tâm trí, nghĩa là Vô nguyện tương ưng với tha tâm trí và tha tâm trí không tương ưng với pháp tương ưng của Vô nguyện. Có pháp tương ưng với tha tâm trí cũng tương ưng với Vô nguyện, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với tha tâm trí cũng không tương ưng với Vô nguyện, nghĩa là tha tâm trí không tương ưng với Vô nguyện, Vô nguyện không tương ưng với tha tâm trí, và các tâm-tâm sở pháp cùng sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với Niệm-Tinh tiến-Hỷ-Khinh an-Định-Xả giác chi và chính tư duy, chính tinh tiến, chính niệm, chính định cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với tha tâm trí, thì pháp đó tương ưng với dó tri căn chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với tha tâm trí mà không tương ưng với dó tri căn, dó tri căn không thâu nhiếp pháp tương ưng của tha tâm trí. Có pháp tương ưng với dó tri căn mà không tương ưng với tha tâm trí, nghĩa là dó tri căn thâu nhiếp tha tâm trí, và tha tâm trí không thâu nhiếp không tương ưng với pháp tương ưng của dó tri căn Có pháp tương ưng với tha tâm trí cũng tương ưng với dó tri căn, nghĩa là dó tri căn thâu nhiếp pháp tương ưng với tha tâm trí. Có pháp không tương ưng với tha tâm trí cũng không tương ưng với dó tri căn, nghĩa là dó tri căn không tương ưng với tha tâm trí, và tha tâm trí-dó tri căn không thâu nhiếp, không thâu nhiếp các tâm-tâm sở pháp cùng sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với cụ tri căn cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với thế tục trí, thì pháp đó tương ưng với khổ trí cho đến tương ưng với chính định chăng? Đáp: Không phải như thế. Hỏi: Nếu các pháp tương ưng với khổ trí cho đến tương ưng với chính định, thì pháp đó tương ưng với thế tục trí chăng? Đáp: Không phải như thế. Hỏi: Các pháp tương ưng với khổ trí, thì pháp đó tương ưng với tập trí chăng? Đáp: Không phải như thế. Hỏi: Nếu pháp tương ưng với tập trí, thì pháp đó tương ưng với khổ trí chăng? Đáp: Không phải như thế. Đối với diệt-đạo trí, Tam-ma-địa Vô tướng cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với khổ trí, thì pháp đó tương ưng với Tam-ma-địa không chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với khổ trí mà không tương ưng với Tam- ma-địa Không, nghĩa là khổ trí tương ưng với Không, và Không không tương ưng với pháp tương ưng của khổ trí. Có pháp tương ưng với Tam-ma-địa Không, không tương ưng với khổ trí, nghĩa là Không tương ưng với khổ trí, và khổ trí không tương ưng với pháp tương ưng của không. Có pháp tương ưng với khổ trí cũng tương ưng với Không, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với khổ trí cũng không tương ưng với Không, nghĩa là khổ trí không tương ưng với Không, Không không tương ưng với khổ trí, và các tâm-tâm sở pháp cùng sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với Vô nguyện cũng vậy. Đối với ba căn vô lâu- bảy giác chi và tám đạo chi, như pháp trí đã nói. Hỏi: Các pháp tương ưng với tập trí, thì pháp đó tương ưng với diệt trí chăng? Đáp: Không phải như thế. Hỏi: Nếu pháp tương ưng với diệt trí, thì pháp đó tương ưng với tập trí chăng? Đáp: Không phải như thế. Đối với đạo trí, Tam-ma-địa Không, Vô tướng cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với tập trí, thì pháp đó tương ưng với Tam-ma-địa Vô nguyện chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với tập trí mà không tương ưng với Vô nguyện, nghĩa là tập trí tương ưng với Vô nguyện. Có pháp tương ưng với Vô nguyện mà không tương ưng với tập trí, nghĩa là tập trí và tập trí không tương ưng với pháp tương ưng của Vô nguyện. Có pháp tương ưng với tập trí cũng tương ưng với Vô nguyện, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với tập trí cũng không tương ưng với Vô nguyện, nghĩa là tập trí không tương ưng với Vô nguyện, các tâm- tâm sở pháp cùng sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với ba căn vô lậu, bảy giác chi, tám chi đạo, như nói về pháp trí. Hỏi: Các pháp tương ưng với diệt trí, thì pháp đó tương ưng với đạo trí chăng? Đáp: Không phải như thế. Hỏi: Nếu pháp tương ưng với đạo trí, thì pháp đó tương ưng với diệt trí chăng? Đáp: Không phải như thế. Đối với Tam-ma-địa không, Vô nguyện cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với diệt trí, thì pháp đó tương ưng với Tam-ma-địa Vô tướng chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với diệt trí mà không tương ưng với Vô tướng, nghĩa là diệt trí tương ưng với Vô tướng. Có pháp tương ưng với Tam-ma-địa Vô tướng, không tương ưng với diệt trí, nghĩa là diệt trí và diệt trí không tương ưng với pháp tương ưng của Vô tướng. Có pháp tương ưng với diệt trí cũng tương ưng với Vô tướng, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với diệt trí cũng không tương ưng với Vô tướng, nghĩa là diệt trí không tương ưng với Vô tướng, và các tâm- tâm sở pháp cùng sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với ba căn vô lậu, bảy giác chi, tám chi đạo, như pháp trí đã nói. Hỏi: Các pháp tương ưng với đạo trí, thì pháp đó tương ưng với Tam-ma-địa Không chăng? Đáp: Không phải như thế. Hỏi: Nếu pháp tương ưng với Tam-ma-địa Không, thì pháp đó tương ưng với đạo trí chăng? Đáp: Không phải như thế. Đối với Tam-ma-địa Vô tướng cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với đạo trí, thì pháp đó tương ưng với Tam-ma-địa Vô nguyện chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với đạo trí mà không tương ưng với Vô nguyện, nghĩa là đạo trí tương ưng với Vô nguyện. Có pháp tương ưng với Vô nguyện mà không tương ưng với đạo trí, nghĩa là đạo trí và đạo trí không tương ưng với pháp tương ưng của Vô nguyện. Có pháp tương ưng với đạo trí cũng tương ưng với Vô nguyện, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với đạo trí cũng không tương ưng với Vô nguyện, nghĩa là đạo trí không tương ưng với Vô nguyện, và các tâm-tâm sở cùng sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với ba căn vô lậu, bảy giác chi, tám chi đạo, như nói về pháp trí. Hỏi: Các pháp tương ưng với Tam-ma-địa không, thì pháp đó tương ưng với Tam-ma-địa Vô nguyện chăng? Đáp: Không phải như thế. Hỏi: Nếu pháp tương ưng với Tam-ma-địa Vô nguyện, thì pháp đó tương ưng với Tam-ma-địa Không chăng? Đáp: Không phải như thế. Đối với Tam-ma-địa Vô tướng cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Tam-ma-địa Không, thì pháp đó tương ưng với vị tri-đương tri căn chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với không mà không tương ưng với vị tri- đương tri căn, nghĩa là vị tri-đương tri căn thâu nhiếp pháp tương ưng của không. Có pháp tương ưng với vị tri-đương tri căn mà không tương ưng với Không, nghĩa là vị tri-đương tri căn thâu nhiếp không và không không thâu nhiếp, không tương ưng với pháp tương ưng của vị tri-đương tri căn. Có pháp tương ưng với không cũng tương ưng với vị tri-đương tri căn, nghĩa là vị tri-đương tri căn thâu nhiếp pháp tương ưng với không. Có pháp không tương ưng với Không, cũng không tương ưng với vị tri-đương tri căn, nghĩa là vị tri-đương tri căn không thâu nhiếp Không và không-vị tri-đương tri căn không thâu nhiếp, không tương ưng với các tâm-tâm sở cùng sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với dó tri căn, cụ tri căn cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Tam-ma-địa Không, thì pháp đó tương ưng với Niệm giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với không, không tương ưng với Niệm giác chi, nghĩa là Niệm giác chi tương ưng với không. Có pháp tương ưng với Niệm giác chi mà không tương ưng với Không, nghĩa là Không và không không tương ưng với pháp tương ưng của Niệm giác chi. Có pháp tương ưng với không, cũng tương ưng với Niệm giác chi, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với không cũng không tương ưng với Niệm giác chi, nghĩa là không không tương ưng với Niệm giác chi, Niệm và các tâm-tâm sở cùng sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với Trạch pháp-Tinh tiến- Khinh an-Xả giác chi và chính kiến-chính tinh tiến-chính niệm cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Tam-ma-địa không, thì pháp đó tương ưng với Hỷ giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với không mà không tương ưng với Hỷ giác chi, nghĩa là không tương ưng với Hỷ giác chi, và Hỷ giác chi không tương ưng với pháp tương ưng của Không. Có pháp tương ưng với Hỷ giác chi mà không tương ưng với Không, nghĩa là Hỷ giác chi tương ưng với Không, và Không không tương ưng với pháp tương ưng của Hỷ giác chi. Có pháp tương ưng với không, cũng tương ưng với Hỷ giác chi, nghĩa là hai pháp tương ưng. Có pháp không tương ưng với Không cũng không tương ưng với Hỷ giác chi, nghĩa là không không tương ưng với Hỷ giác chi, Hỷ giác chi không tương ưng với Không, và các tâm-tâm sở cùng sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với chính tư duy cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với Tam-ma-địa Không, thì pháp đó tương ưng với Định giác chi chăng? Đáp: Các pháp tương ưng với không, thì pháp đó cũng tương ưng với Định giác chi. Có pháp tương ưng với Định giác chi, không tương ưng với Không, nghĩa là không không thâu nhiếp pháp tương ưng của Định giác chi. Đối với chính định cũng vậy. Như Không đối với phần sau, Vô nguyện và Vô tướng đối với phần sau cũng như vậy. Có sự sai biệt là như không đối với Hỷ giác chi, chính tư duy, Vô nguyện và Vô tướng đối với Hỷ giác chi, chính kiến, chính tư duy cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với vị tri-đương tri căn, thì pháp đó tương ưng với dó tri căn chăng? Đáp: Không phải như thế. Hỏi: Nếu các pháp tương ưng với dó tri căn, thì pháp đó tương ưng với vị tri-đương tri căn chăng? Đáp: Không phải như thế. Đối với cụ tri căn cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với vị tri-đương tri căn, thì pháp đó tương ưng với Niệm giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với vị tri-đương tri căn mà không tương ưng với Niệm giác chi, nghĩa là vị tri-đương tri căn thâu nhiếp và Niệm giác chi. Có pháp tương ưng với Niệm giác chi mà không tương ưng với vị tri-đương tri căn, nghĩa là vị tri-đương tri căn không thâu nhiếp pháp tương ưng của Niệm giác chi. Có pháp tương ưng với vị tri-đương tri căn cũng tương ưng với Niệm giác chi, nghĩa là vị tri-đương tri căn thâu nhiếp pháp tương ưng với Niệm giác chi. Có pháp không tương ưng với vị tri-đương tri căn, cũng không tương ưng với Niệm giác chi, nghĩa là Niệm vị tri-đương tri căn không thâu nhiếp Niệm giác chi, và các tâm-tâm sở cùng sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với Trạch pháp-Tinh tiến-Định giác chi-chính kiến-chính tinh tiến-chính niệm-chính định cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với vị tri-đương tri căn, thì pháp đó tương ưng với Hỷ giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với vị tri-đương tri căn mà không tương ưng với Hỷ giác chi, nghĩa là vị tri-đương tri căn thâu nhiếp Hỷ giác chi và Hỷ giác chi không thâu nhiếp tương ưng với pháp tương ưng của vị tri- đương tri căn. Có pháp tương ưng với Hỷ giác chi, không tương ưng với vị tri- đương tri căn, nghĩa là vị tri-đương tri căn không thâu nhiếp pháp tương ưng của Hỷ giác chi. Có pháp tương ưng với vị tri-đương tri căn, cũng tương ưng với Hỷ giác chi, nghĩa là vị tri-đương tri căn thâu nhiếp pháp tương ưng với Hỷ giác chi. Có pháp không tương ưng với vị tri-đương tri căn, cũng không tương ưng với Hỷ giác chi, nghĩa là vị tri-đượng tri căn không thâu nhiếp Hỷ giác chi, và Hỷ giác chi-vị tri-đương tri căn không thâu nhiếp, không tương ưng với các tâm-tâm sở cùng sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Các pháp tương ưng với vị tri-đương tri căn, thì pháp đó tương ưng với Khinh an giác chi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với vị tri-đương tri căn, không tương ưng với Khinh an giác chi, nghĩa là vị tri-đượng tri căn tương ưng với Khinh an giác chi. Có pháp tương ưng với Khinh an giác chi mà không tương ưng với vị tri-đương tri căn, nghĩa là vị tri-đương tri căn không thâu nhiếp pháp tương ưng của Khinh an giác chi. Có pháp tương ưng với vị tri-đương tri căn cũng tương ưng với Khinh an giác chi, nghĩa là vị tri-đương tri căn tương ưng với pháp tương ưng của Khinh an giác chi. Có pháp không tương ưng với vị tri-đương tri căn cũng không tương ưng với Khinh an giác chi, nghĩa là vị tri-đương tri căn không tương ưng với Khinh an giác chi và các tâm-tâm sở cùng sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đối với Xả giác chi cũng vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với vị tri-đương tri căn, thì pháp đó tương ưng với chính tư duy chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với vị tri-đương tri căn mà không tương ưng với chính tư duy, nghĩa là vị tri-đương tri căn tương ưng với chính tư duy, và chính tư duy không tương ưng với pháp tương ưng của vị tri- đương tri căn. Có pháp tương ưng với chính tư duy mà không tương ưng với vị tri-đương tri căn, nghĩa là vị tri-đương tri căn không tương ưng với pháp tương ưng của chính tư duy. Có pháp tương ưng với vị tri-đương tri căn, cũng tương ưng với chính tư duy, nghĩa vị tri-đương tri căn tương ưng với pháp tương của chính tư duy. Có pháp không tương ưng với vị tri-đương tri căn cũng không tương ưng với chính tư duy, nghĩa là vị tri-đương tri căn không tương ưng với chính tư duy và các tâm-tâm sở cùng sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như vị tri-đương tri căn đối với phần sau, dó tri, cụ tri căn đối với phần sau cũng vậy. Có sự sai biệt là cụ tri căn đối với chính kiến, Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với cụ tri căn, không tương ưng với chính kiến, nghĩa là chính kiến thuộc về cụ tri căn và chính kiến không thâu nhiếp, không tương ưng với pháp tương ưng của cụ tri căn. Có pháp tương ưng với chính kiến mà không tương ưng với cụ tri căn, nghĩa là cụ tri căn không thâu nhiếp pháp tương ưng của chính kiến. Có pháp tương ưng với cụ tri căn, cũng tương ưng với chính kiến, nghĩa là pháp tương ưng của chính kiến thuộc về cụ tri căn. Có pháp không tương ưng với cụ tri căn, cũng không tương ưng với chính kiến, nghĩa là cụ tri căn không thâu nhiếp chính kiến và các tâm-tâm sở cùng sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Niệm giác chi cho đến chính niệm đối với phần sau, nói rộng như phần bàn về giác chi. Như nói: “Bí-sô! Ta sẽ vì ông nói về bốn mươi bốn sự trí, ông nên lắng nghe, cố gắng suy tư tìm hiểu”. Hỏi: Thế nào là bốn mươi bốn sự trí? Đáp: nghĩa là trí biết lão tử, trí biết lão tử tập, trí biết lão tử diệt, trí biết hướng lão tử diệt hành. Như thế, trí biết sinh hữu-thủ-ái-thọ-xúc-sáu xứ-danh sắc-thức- hành. Trí biết hành tập, trí biết hành diệt, trí biết hướng hành diệt hành. Đó gọi là bốn mươi bốn sự trí. Hỏi: Trí biết lão tử cùng với bốn mươi bốn sự trí trong này, nên nói pháp trí, cho đến đạo trí chăng? Đáp: Nên nói trí biết lão tử là bốn trí, nghĩa là pháp, loại, thế tục, khổ trí. Trí biết lão tử tập là bốn trí, nghĩa là pháp-loại-thế tục-tập trí. Trí biết lão tử diệt là bốn trí, nghĩa là pháp-loại-thế tục-diệt trí. Trí biết hướng lão tử diệt hành là bốn trí, nghĩa là pháp-loại-thế tục-đạo trí. Sinh cho đến hành, mỗi chi có bốn trí cũng vậy. Như nói: “Bí-sô! Ta sẽ vì ông nói về bảy mươi bảy sự trí, ông nên quán chân thật, tác ý cho thật tốt đẹp”. Hỏi: Thế nào là bảy mươi bảy sự trí? Đáp: nghĩa là trí biết sinh duyên lão tử. Trí biết đều là sinh duyên lão tử. Trí biết quá khứ sinh duyên lão tử. Trí biết quá khứ sinh đều là sinh duyên lão tử. Trí biết vị lai sinh duyên lão tử. Trí biết vị lai sinh đều là sinh duyên lão tử. Và pháp trụ trí biết tất cả sự nầy là hữu vi, vô thường, do tâm tạo ra, thuận theo duyên sinh-pháp tận-pháp giảm-pháp lìa-pháp diệt. Như thế, trí biết hữu-thủ-ái-thọ-xúc-sáu xứ-danh sắc-thức-hành. Trí biết vô minh duyên hành. Trí biết đều là vô minh duyên hành. Trí biết quá khứ vô minh duyên hành. Trí biết quá khứ đều là vô minh duyên hành. Trí biết vị lai vô minh duyên hành. Trí biết đều là vị lai vô minh duyên hành. Và trí pháp trụ biết tất cả sự nầy là hữu vi, vô thường, do tâm tạo ra, thuận theo duyên sinh pháp tận-pháp giảm- pháp lìa-pháp diệt. Hỏi: Trí biết sinh duyên lão tử cùng bảy mươi bảy sự trí trong này, nên nói là pháp trí cho đến đạo trí chăng? Đáp: Nên nói sáu trí trước là trí biết sinh duyên lão tử…, đều là bốn trí, nghĩa là pháp-loại-thế tục-tập trí. Trí pháp trụ thứ bảy, là một thế tục trí. Như bảy trí biết sinh duyên lão tử, cho đến bảy trí biết vô minh duyên hành cũng vậy. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí thì đó là loại trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí thì đó là pháp trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí thì đó là tha tâm trí chăng? Đáp: Nếu đạt được không mất. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí thì đó là pháp trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí thì đó là thế tục trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí thì đó là pháp trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí thì đó là khổ trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí thì đó là pháp trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí thì đó là tập trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu tập trí thì đó là pháp trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí thì đó là diệt trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu diệt trí thì đó là pháp trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí thì đó là đạo trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu đạo trí thì đó là pháp trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí thì đó là tha tâm trí chăng? Đáp: Nếu đạt được không mất. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí thì đó là loại trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí thì đó là thế tục trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí thì đó là loại trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí thì đó là khổ trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí thì đó là loại trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí thì đó là tập trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu tập trí thì đó là loại trí chăng? Đáp: Nếu như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí thì đó là diệt trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu diệt trí thì đó là loại trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí thì đó là đạo trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu đạo trí thì đó là loại trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí thì đó là thế tục trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí thì đó là tha tâm trí chăng? Đáp: Nếu đạt được không mất. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí thì đó là khổ trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí thì đó là tha tâm trí chăng? Đáp: Nếu đạt được không mất. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí thì đó là tập trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu tập trí thì đó là tha tâm trí chăng? Đáp: Nếu đạt được không mất. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí thì đó là diệt trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu diệt trí thì đó là tha tâm trí chăng? Đáp: Nếu đạt được không mất. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí thì đó là đạo trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu đạo trí thì đó là tha tâm trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí thì đó là khổ trí chăng? Đáp: Nếu được không mất. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí thì đó là thế tục trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí thì đó là tập trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu tập trí thì đó là thế tục trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí thì đó là diệt trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu diệt trí thì đó là thế tục trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí thì đó là đạo trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu đạo trí thì đó là thế tục trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí thì đó là tập trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu tập trí thì đó là khổ trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí thì đó là diệt trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu diệt trí thì đó là khổ trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí thì đó là đạo trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu đạo trí thì đó là khổ trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tập trí thì đó là diệt trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu diệt trí thì đó là tập trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tập trí thì đó là đạo trí chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu đạo trí thì đó là tập trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu diệt trí thì đó là đạo trí chăng? Đáp: Có thể được. Hỏi: Nếu thành tựu đạo trí thì đó là diệt trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu vị lai thì đó là quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất, thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt mắt. Hỏi: Nếu thành tựu hiện tại thì đó là quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì đó là. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất, thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí vị lai thì đó là hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu hiện tại thì đó là vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là vị lai-hiện tại chăng? Đáp: Vị lai thì nhất định thành tựu, hiện tại nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu vị lai-hiện tại thì đó là quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí vị lai thì đó là hiện tại-quá khứ chăng? Đáp: Có vị lai mà không phải quá khứ-hiện tại, nghĩa là pháp trí đã đạt được chưa diệt, giả sử diệt rồi mất, không hiện ở trước mắt. Có vị lai và quá khứ mà không phải hiện tại, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, không hiện ở trước mắt. Có vị lai và hiện tại mà không phải quá khứ, nghĩa là pháp trí hiện ở trước mắt kia chưa diệt, giả sử diệt rồi mất. Có vị lai và quá khứ-hiện tại, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất và cũng hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu quá khứ-hiện tại thì đó là vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí hiện tại thì đó là quá khứ-vị lai chăng? Đáp: Vị lai nhất định thành tựu, quá khứ nếu đã diệt không mất thì thành tựu, nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu quá khứ-vị lai thì đó là hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Như pháp trí, trải qua sáu loại, khổ- tập-diệt-đạo cũng vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí quá khứ thì đó là vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu vị lai thì đó là quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí quá khứ, thì đó là hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu hiện tại thì đó là quá khứ chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí vị lai thì đó là hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu hiện tại thì đó là vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí quá khứ thì đó là vị lai-hiện tại chăng? Đáp: Vị lai nhất định thành tựu, hiện tại nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu vị lai-hiện tại thì đó là quá khứ chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí vị lai thì đó là quá khứ-hiện tại chăng? Đáp: Có vị lai mà không phải hiện tại-quá khứ, nghĩa là tha tâm trí đã được không mất và chưa diệt, giả sử diệt rồi mất chứ không hiện ở trước mắt. Có vị lai và quá khứ mà không phải hiện tại, nghĩa là tha tâm trí đã diệt không mất chứ không hiện ở trước mắt. Có vị lai và quá khứ là hiện tại, nghĩa là tha tâm trí hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu quá khứ-hiện tại thì đó là vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí hiện tại thì đó là quá khứ-vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu quá khứ-vị lai thì đó là hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí quá khứ thì đó là vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu vị lai thì đó là quá khứ chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí quá khứ thì đó là hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu hiện tại thì đó là quá khứ chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí vị lai thì đó là hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu hiện tại thì đó là vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí quá khứ thì đó là hiện tại-vị lai chăng? Đáp: Vị lai nhất định thành tựu, hiện tại nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu hiện tại-vị lai thì đó là quá khứ chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí vị lai thì đó là quá khứ-hiện tại chăng? Đáp: Quá khứ nhất định thành tựu, hiện tại nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu quá khứ-hiện tại thì đó là vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí hiện tại thì đó là quá khứ-vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu quá khứ-vị lai thì đó là hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là loại trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí quá khứ thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là loại trí vị lai chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là loại trí hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí hiện tại thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt, không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là loại trí quá khứ-hiện tại chăng? Đáp: Có pháp trí quá khứ mà không phải loại trí quá khứ-hiện tại, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, loại trí chưa diệt, giả sử diệt rồi mất chứ không hiện ở trước mắt. Có pháp trí quá khứ và loại trí quá khứ mà không phải là hiện tại nghĩa là pháp, loại trí đã diệt không mất, loại trí không hiện ở trước mắt. Có pháp trí quá khứ và loại trí hiện tại chứ không phải là quá khứ, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, loại trí hiện ở trước mắt chưa diệt, giả sử diệt rồi mất. Có pháp trí quá khứ và loại trí quá khứ-hiện tại, nghĩa là pháp, loại trí đã diệt không mất, loại trí hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí quá khứ-hiện tại thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là loại trí hiện tại-vị lai chăng? Đáp: Có pháp trí quá khứ mà không phải là loại trí hiện tại-vị lai, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, chưa đạt được loại trí. Có pháp trí quá khứ và loại trí vị lai mà không phải hiện tại, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, đã đạt được loại trí mà không hiện ở trước mắt. Có pháp trí quá khứ và loại trí hiện tại-vị lai, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, loại trí hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí hiện tại-vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là loại trí quá khứ-vị lai chăng? Đáp: Có pháp trí quá khứ mà không phải loại trí quá khứ-vị lai, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, chưa đạt được loại trí. Có pháp trí quá khứ và loại trí vị lai, không phải quá khứ, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, đã đạt được loại trí chưa diệt, giả sử diệt rồi mất. Có pháp trí quá khứ và loại trí quá khứ-vị lai, nghĩa là pháp, loại trí đã diệt không mất. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí quá khứ-vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là loại trí quá khứ-hiện tại-vị lai chăng? Đáp: Có pháp trí quá khứ mà không phải loại trí quá khứ-hiện tại-vị lai, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, chưa đạt được loại trí. Có pháp trí quá khứ và loại trí vị lai mà không phải quá khứ-hiện tại, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, đã đạt được loại trí mà chưa diệt, giả sử diệt rồi mất chứ không hiện ở trước mắt. Có pháp trí quá khứ và loại trí hiện tại-vị lai, không phải quá khứ, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, loại trí hiện ở trước mắt, chưa diệt, giả sử diệt rồi mất. Có pháp trí quá khứ và loại trí quá khứ-vị lai mà không phải là hiện tại, nghĩa là pháp, loại trí đã diệt không mất, loại trí không hiện ở trước mắt. Có pháp trí quá khứ và loại trí quá khứ-hiện tại-vị lai, nghĩa là pháp, loại trí diệt không mất, loại trí hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu loại trí quá khứ-hiện tại-vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Như đối với loại trí làm thành bảy tiểu. Đối với tập-diệt-đạo trí cũng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là tha tâm trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí quá khứ thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là tha tâm trí vị lai chăng? Đáp: Nếu đạt được không mất. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là tha tâm trí hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí hiện tại thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là tha tâm trí quá khứ- hiện tại chăng? Đáp: Có pháp trí quá khứ mà không phải tha tâm trí quá khứ-hiện tại, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, tha tâm trí chưa diệt, giả sử diệt rồi mất không hiện ở trước mắt. Có pháp trí quá khứ và tha tâm trí quá khứ mà không phải là hiện tại, nghĩa là pháp trí, tha tâm trí đã diệt không mất, tha tâm trí không hiện ở trước mắt. Có pháp trí quá khứ và tha tâm trí quá khứ-hiện tại, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, tha tâm trí hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí quá khứ-hiện tại thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là tha tâm trí hiện tại-vị lai chăng? Đáp: Có pháp trí quá khứ mà không phải là tha tâm trí hiện tại-vị lai, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, chưa được tha tâm trí, giả sử đã được rồi mất. Có pháp trí quá khứ và tha tâm trí vị lai mà không phải hiện tại, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, tha tâm trí đã được không mất mà không hiện ở trước mắt. Có pháp trí quá khứ và tha tâm trí hiện tại-vị lai, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, tha tâm trí hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí hiện tại-vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là tha tâm trí quá khứ- vị lai chăng? Đáp: Có pháp trí quá khứ mà không phải là tha tâm trí quá khứ-vị lai, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, chưa được tha tâm trí, giả sử được rồi mất. Có pháp trí quá khứ và tha tâm trí vị lai mà không phải là quá khứ, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, tha tâm trí đạt được không mất, chưa diệt nếu diệt đã mất. Có pháp trí quá khứ và tha tâm trí quá khứ-vị lai, nghĩa là pháp trí và tha tâm trí đã diệt không mất. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí quá khứ-vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là tha tâm trí quá khứ- hiện tại-vị lai chăng? Đáp: Có pháp trí quá khứ mà không phải là tha tâm trí quá khứ- hiện tại-vị lai, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, chưa được tha tâm trí, giả sử được mà đã mất. Có pháp trí quá khứ và tha tâm trí vị lai mà không phải là quá khứ-hiện tại, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, tha tâm trí đã đạt được không mất, chưa diệt nếu diệt đã mất, không hiện ở trước mắt. Có pháp trí quá khứ và tha tâm trí quá khứ-vị lai mà không phải là hiện tại, nghĩa là pháp trí và tha tâm trí đã diệt không mất, tha tâm trí không hiện ở trước mắt. Có pháp trí quá khứ và tha tâm trí quá khứ-hiện tại-vị lai, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, tha tâm trí hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu tha tâm trí quá khứ-hiện tại-vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là thế tục trí quá khứ chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí quá khứ thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là thế tục trí vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí vị lai, thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là thế tục trí hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí hiện tại, thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là thế tục trí quá khứ- hiện tại chăng? Đáp: Quá khứ nhất định thành tựu, hiện tại nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí quá khứ-hiện tại thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu quá khứ đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là thế tục trí hiện tại-vị lai chăng? Đáp: Vị lai nhất định thành tựu, hiện tại nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí hiện tại-vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là thế tục trí quá khứ-vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí quá khứ-vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là thế tục trí quá khứ- hiện tại-vị lai? Đáp: Quá khứ-vị lai nhất định thành tựu, hiện tại nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu thế tục trí quá khứ-hiện tại-vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là khổ trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí quá khứ thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là khổ trí vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là khổ trí hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí hiện tại thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là khổ trí quá khứ-hiện tại chăng? Đáp: Có pháp trí quá khứ mà không phải là khổ trí quá khứ-hiện tại, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, khổ trí chưa diệt, giả sử diệt rồi mất chứ không hiện ở trước mắt. Có pháp trí quá khứ và khổ trí quá khứ mà không phải là hiện tại, nghĩa là pháp trí, khổ trí đã diệt không mất, khổ trí không hiện ở trước mắt. Có pháp trí quá khứ và khổ khổ trí hiện tại mà không phải là quá khứ, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, khổ trí hiện ở trước mắt, chưa diệt, giả sử diệt rồi mất. Có pháp trí quá khứ và khổ trí quá khứ-hiện tại, nghĩa là khổ trí và pháp trí đã diệt không mất, khổ trí hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí quá khứ-hiện tại thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là khổ trí hiện tại-vị lai chăng? Đáp: Vị lai nhất định thành tựu, hiện tại nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí hiện tại-vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là khổ trí quá khứ-vị lai chăng? Đáp: Vị lai nhất định thành tựu. Quá khứ nếu đã diệt không mất thì thành tựu, nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí quá khứ-vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí quá khứ thì đó là khổ trí quá khứ-hiện tại-vị lai chăng? Đáp: Có pháp trí quá khứ và khổ trí vị lai mà không phải là quá khứ-hiện tại, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, khổ trí chưa diệt, giả sử diệt rồi mất chứ không hiện ở trước mắt. Có pháp trí quá khứ và khổ trí hiện tại-vị lai, không phải là quá khứ, nghĩa là pháp trí đã diệt không mất, khổ trí hiện ở trước mắt, chưa diệt, giả sử diệt rồi mất. Có pháp trí quá khứ và khổ trí quá khứ-vị lai mà không phải là hiện tại, nghĩa là pháp trí và khổ trí đã diệt không mất, khổ trí không hiện ở trước mắt. Có pháp trí quá khứ và khổ trí quá khứ-hiện tại-vị lai, nghĩa là pháp trí và khổ trí đã diệt không mất, khổ trí hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu khổ trí quá khứ-hiện tại-vị lai thì đó là pháp trí quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu. Nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Như pháp trí đối với phần sau, làm thành bảy phần nhỏ, cho đến diệt trí đối với đạo trí, tùy theo những sự thích hợp, làm thành bảy phần nhỏ cũng như vậy. Như bảy phần nhỏ, bảy phần lớn cũng như vậy. Sự sai biệt là dùng hai hoặc nhiều đối với một, hoặc dùng một đối chiếu với hai hoặc nhiều, như quá khứ là đầu tiên có bảy, vị lai cho đến quá khứ-vị lai-hiện tại là đầu tiên cũng đều có bảy, như vậy, nên biết.  <卷>QUYỂN 11 <章>Chương 4: NGHIỆP UẨN <詞>Phẩm 1: BÀN VỀ HÀNH ÁC Ba hành cùng đối ba căn, Cho đến đối với người nghiệp đạo, Ba nghiệp đối với mười nghiệp đạo, Chín môn nghiệp thâu nhiếp lẫn nhau, Thân-tâm-thọ đều có bốn câu, Ba chướng thế ấy như thế nào, Thế nào là tội lớn-quả lớn, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Ba hành ác, ba căn bất thiện, ba hành ác thâu nhiếp ba căn bất thiện, hay là ba căn bất thiện thâu nhiếp ba hành ác? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có hành ác mà không phải là căn bất thiện, nghĩa là hành ác của thân-ngữ, tà kiến, tư duy bất thiện. Có căn bất thiện mà không phải là hành ác, nghĩa là căn bất thiện si. Có hành ác cũng là căn bất thiện, nghĩa là tham dục-giận dữ. Không phải hành ác cũng không phải căn bất thiện, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Ba diệu hạnh, ba căn thiện, ba diệu hạnh thâu nhiếp ba căn thiện, hay là ba căn thiện thâu nhiếp ba diệu hạnh? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có diệu hạnh mà không phải là căn thiện, nghĩa là diệu hạnh của thân-ngữ và tư duy thiện. Có căn thiện mà không phải là diệu hạnh, nghĩa là chính kiến không thâu nhiếp căn thiện vô si. Có diệu hạnh cũng là căn thiện, nghĩa là vô tham-vô sân và chính kiến. Không phải diệu hạnh, cũng không phải căn thiện, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Ba hành ác và mười nghiệp đạo bất thiện, ba thâu nhiếp mười, hay mười thâu nhiếp ba? Đáp: Ba thâu nhiếp mười, không phải mười thâu nhiếp ba. Không thâu nhiếp những gì? nghĩa là trừ ra nghiệp đạo đã thâu nhiếp hành ác của thân ngữ ý, còn lại những hành ác của thân-ngữ-ý. Hỏi: Ba diệu hạnh và mười nghiệp đạo thiện, ba thâu nhiếp mười, hay là mười thâu nhiếp ba? Đáp: Ba thâu nhiếp mười chứ không phải mười thâu nhiếp ba. Không thâu nhiếp những gì? nghĩa là trừ ra nghiệp đạo đã thâu nhiếp diệu hạnh của thân-ngữ-ý, còn lại những diệu hạnh của thân-ngữ-ý. Hỏi: Ba nghiệp và mười nghiệp đạo, ba nghiệp thâu nhiếp mười nghiệp đạo, hay là mười nghiệp đạo thâu nhiếp ba nghiệp? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có nghiệp mà không phải nghiệp đạo, đó là nghiệp đạo không thâu nhiếp nghiệp thân-ngữ và ý. Có nghiệp đạo, không phải nghiệp, nghĩa là ba nghiệp đạo sau. Có nghiệp cũng là nghiệp đạo, nghĩa là bảy nghiệp đạo trước. Không phải nghiệp, cũng không phải nghiệp đạo, nghĩa là trừ các tướng trước. Ba nghiệp, là nghiệp của thân-ngữ-ý. Bốn nghiệp, là nghiệp dị thục đen - đen, nghiệp dị thục trắng - trắng, nghiệp dị thục đen trắng đen trắng, nghiệp không có dị thục không phải là đen không phải là trắng mà có khả năng trừ hết các nghiệp. Hỏi: Ba nghiệp thâu nhiếp bốn nghiệp, hay là bốn nghiệp thâu nhiếp ba nghiệp? Đáp: Ba thâu nhiếp bốn, không phải là bốn thâu nhiếp ba. Không thâu nhiếp những gì? nghĩa là trừ ra khả năng đoạn trừ các nghiệp tư duy học, còn lại các nghiệp vô lậu, nghiệp thiện hệ thuộc cõi Vô sắc, và tất cả các nghiệp vô ký. Ba nghiệp là nghiệp của thân-ngữ-ý. Lại có ba nghiệp, là nghiệp thuận theo pháp hiện tại mà thọ, nghiệp thuận theo đời kế tiếp mà thọ, nghiệp thuận theo đời sau tiếp mới thọ. Hỏi: Ba nghiệp trước thâu nhiếp ba nghiệp sau, hay là ba nghiệp sau thâu nhiếp ba nghiệp trước? Đáp: Ba nghiệp trước thâu nhiếp ba nghiệp sau, không phải ba nghiệp sau thâu nhiếp ba nghiệp trước. Không thâu nhiếp những gì? Đó là nghiệp bất định, nghiệp vô ký, nghiệp vô lậu. Ba nghiệp là nghiệp của thân-ngữ-ý. Lại có ba nghiệp, là nghiệp thuận lạc thọ, nghiệp thuận khổ thọ, nghiệp thuận bất khổ bất lạc thọ. Hỏi: Ba nghiệp trước thâu nhiếp ba nghiệp sau, hay là ba nghiệp sau thâu nhiếp ba nghiệp trước? Đáp: Ba nghiệp trước thâu nhiếp ba nghiệp sau, không phải ba nghiệp sau thâu nhiếp ba nghiệp trước. Không thâu nhiếp những gì? Đó là nghiệp vô ký, nghiệp vô lậu. Ba nghiệp là nghiệp của thân-ngữ-ý. Lại có ba nghiệp, là nghiệp quá khứ-hiện tại-vị lai. Lại có ba nghiệp, là nghiệp thiện-bất thiện, vô ký. Lại có ba nghiệp, là nghiệp học-vô học-phi học phi vô học. Lại có ba nghiệp, là nghiệp do kiến đoạn, tu đoạn-do không-có đoạn. Hỏi: Ba nghiệp trước thâu nhiếp ba nghiệp sau, hay là ba nghiệp sau thâu nhiếp ba nghiệp trước? Đáp: Tùy thuộc vào sự việc của nghiệp mà lần lượt thâu nhiếp nhau. Ba nghiệp là nghiệp của thân-ngữ-ý. Lại có ba nghiệp, là nghiệp hệ thuộc cõi Dục-Sắc-Vô sắc. Hỏi: Ba nghiệp trước thâu nhiếp ba nghiệp sau, hay là ba nghiệp sau thâu nhiếp ba nghiệp trước? Đáp: Ba nghiệp trước thâu nhiếp ba nghiệp sau, không phải ba nghiệp sau thâu nhiếp ba nghiệp trước. Không thâu nhiếp những gì? Đó là nghiệp vô lậu. Bốn nghiệp như trước đã trình bày. Ba nghiệp là nghiệp thuận theo pháp hiện tại mà thọ, nghiệp thuận theo đời kế tiếp mà thọ, nghiệp thuận theo đời sau tiếp mới thọ. Hỏi: Bốn nghiệp thâu nhiếp ba nghiệp, hay là ba nghiệp thâu nhiếp bốn nghiệp? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có bốn nghiệp mà không phải ba nghiệp, nghĩa là có thể đoạn các nghiệp tư duy học, nghiệp bất định thiện-bất thiện hệ thuộc cõi Dục và nghiệp bất định thiện hệ thuộc cõi Sắc. Có ba nghiệp mà không phải bốn nghiệp, đó là quyết quyết định-thiện hệ thuộc cõi Vô sắc. Có bốn nghiệp cũng là ba nghiệp, là nghiệp định thiện-bất thiện hệ thuộc cõi Dục và nghiệp quyết định thiện hệ thuộc cõi Sắc. Không phải bốn nghiệp cũng không phải ba nghiệp, nghĩa là trừ ra khả năng đoạn các nghiệp tư duy học, còn lại nghiệp vô lậu, nghiệp bất định-thiện hệ thuộc cõi Vô sắc và nghiệp vô ký. Bốn nghiệp như trước đã trình bày. Ba nghiệp, là nghiệp thuận lạc thọ, nghiệp thuận khổ thọ, nghiệp thuận bất khổ bất lạc thọ. Hỏi: Bốn nghiệp thâu nhiếp ba nghiệp, hay là ba nghiệp thâu nhiếp bốn nghiệp? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có bốn nghiệp mà không phải ba nghiệp, nghĩa là có thể đoạn các nghiệp tư duy học. Có ba nghiệp mà không phải bốn nghiệp, đó là nghiệp thiện hệ thuộc cõi Vô sắc. Có bốn nghiệp cũng là ba nghiệp, là nghiệp thiện-bất thiện hệ thuộc cõi Dục và nghiệp thiện hệ thuộc cõi Sắc. Không có bốn nghiệp cũng không phải ba nghiệp, nghĩa là trừ ra khả năng đoạn các nghiệp tư duy học, còn lại nghiệp vô lậu và ng- hiệp vô ký. Bốn nghiệp như trước đã trình bày. Ba nghiệp, là nghiệp quá khứ- hiện tại-vị lai. Lại có ba nghiệp, là nghiệp thiện-bất thiện, vô ký. Lại có ba nghiệp, là nghiệp học-vô học-phi học phi vô học. Lại nữa, có ba nghiệp, là nghiệp do kiến đoạn-do tu đoạn-không có đoạn. Hỏi: Bốn nghiệp thâu nhiếp ba nghiệp, hay là ba nghiệp thâu nhiếp bốn nghiệp? Đáp: Ba nghiệp thâu nhiếp bốn nghiệp, không phải bốn nghiệp thâu nhiếp ba nghiệp. Không thâu nhiếp những gì? nghĩa là trừ ra khả năng đoạn các nghiệp tư duy học, còn lại nghiệp vô lậu, nghiệp thiện hệ thuộc cõi Vô sắc và nghiệp vô ký. Bốn nghiệp như trước đã trình bày. Ba nghiệp, là nghiệp hệ thuộc cõi Dục-Sắc-Vô sắc. Hỏi: Bốn nghiệp thâu nhiếp ba nghiệp, hay là ba nghiệp thâu nhiếp bốn nghiệp? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có bốn nghiệp mà không phải ba nghiệp, nghĩa là có thể đoạn các nghiệp tư duy học. Có ba nghiệp mà không phải bốn nghiệp, đó là nghiệp thiện hệ thuộc cõi Vô sắc và nghiệp vô ký. Có bốn nghiệp cũng là ba nghiệp, là nghiệp thiện-bất thiện hệ thuộc cõi Dục và nghiệp thiện hệ thuộc cõi Sắc. Không phải bốn nghiệp cũng không phải ba nghiệp, nghĩa là trừ ra khả năng đoạn các nghiệp tư duy học, còn lại nghiệp vô lậu. Ba nghiệp, là nghiệp thuận theo pháp hiện tại mà thọ nghiệp theo đời kế tiếp mà thọ, nghiệp thuận theo đời sau tiếp mới thọ. Lại có ba nghiệp, là nghiệp thuận lạc thọ, nghiệp thuận khổ thọ, nghiệp thuận bất khổ bất lạc thọ. Hỏi: Ba nghiệp trước thâu nhiếp ba nghiệp sau, hay là ba nghiệp sau thâu nhiếp ba nghiệp trước? Đáp: Ba nghiệp sau thâu nhiếp ba nghiệp trước, không phải ba nghiệp trước thâu nhiếp ba nghiệp sau. Không thâu nhiếp những gì? Đó là nghiệp bất định. Ba nghiệp, là nghiệp thuận theo pháp hiện tại mà thọ, nghiệp thuận theo đời kế tiếp mà thọ, nghiệp thuận theo đời sau tiếp mới thọ. Lại có ba nghiệp, là nghiệp quá khứ-hiện tại-vị lai. Lại có ba nghiệp, là nghiệp thiện-bất thiện, vô ký. Lại có ba nghiệp, là nghiệp học-vô học-phi học phi vô học. Lại có ba nghiệp, là nghiệp do kiến đoạn-do tu đoạn-không có đoạn. Hỏi: Là trước thâu nhiếp sau, hay là sau thâu nhiếp trước? Đáp: Sau thâu nhiếp trước, không phải trước thâu nhiếp sau. Không thâu nhiếp những gì? Đó là nghiệp bất định, nghiệp vô ký, nghiệp vô lậu. Ba nghiệp, là nghiệp thuận theo pháp hiện tại mà thọ, nghiệp thuận theo đời kế tiếp mà thọ, nghiệp thuận theo đời sau tiếp mới thọ. Lại có ba nghiệp, là nghiệp hệ thuộc cõi Dục-Sắc-Vô sắc. Hỏi: Ba nghiệp trước thâu nhiếp ba nghiệp sau, hay là ba nghiệp sau thâu nhiếp ba nghiệp trước? Đáp: Ba nghiệp sau thâu nhiếp ba nghiệp trước, không phải ba nghiệp trước thâu nhiếp ba nghiệp sau. Không thâu nhiếp những gì? Đó là nghiệp bất định, nghiệp vô ký. Ba nghiệp, là nghiệp thuận lạc thọ, nghiệp thuận khổ thọ, nghiệp thuận bất khổ bất lạc thọ. Lại có ba nghiệp, là nghiệp quá khứ-hiện tại-vị lai. Lại có ba nghiệp, là nghiệp thiện-bất thiện, vô ký. Lại có ba nghiệp, là nghiệp học-vô học-phi học phi vô học. Lại có ba nghiệp, là nghiệp do kiến đoạn-do tu đoạn-không có đoạn. Hỏi: Là trước thâu nhiếp sau, hay là sau thâu nhiếp trước? Đáp: Sau thâu nhiếp trước, không phải trước thâu nhiếp sau. Không thâu nhiếp những gì? Đó là nghiệp vô ký, nghiệp vô lậu. Ba nghiệp, là nghiệp thuận lạc thọ, nghiệp thuận khổ thọ, nghiệp thuận bất khổ bất lạc thọ. Lại có ba nghiệp là nghiệp hệ thuộc cõi Dục- Sắc-Vô sắc. Hỏi: Nghiệp trước thâu nhiếp sau, hay sau thâu nhiếp trước? Đáp: Sau thâu nhiếp trước, phải trước thâu nhiếp sau. Không thâu nhiếp những gì? nghĩa là nghiệp vô ký. Ba nghiệp, là nghiệp quá khứ-hiện tại-vị lai. Lại có ba nghiệp, là nghiệp thiện-bất thiện, vô ký. Lại có ba nghiệp, là nghiệp học-vô học-phi học phi vô học. Lại có ba nghiệp, là nghiệp do kiến đoạn-do tu đoạn-không có đoạn. Hỏi: Là trước thâu nhiếp sau, hay là sau thâu nhiếp trước? Đáp: Tùy thuộc vào sự việc của nghiệp mà lần lượt thâu nhiếp nhau. Ba nghiệp, là nghiệp quá khứ-hiện tại-vị lai. Lại có ba nghiệp, là nghiệp hệ thuộc cõi Dục-Sắc-Vô sắc. Hỏi: Là trước thâu nhiếp sau, hay là sau thâu nhiếp trước? Đáp: Là trước thâu nhiếp sau, không phải sau thâu nhiếp trước. Không thâu nhiếp những gì? Đó là nghiệp vô lậu. Ba nghiệp, là nghiệp thiện-bất thiện, vô ký. Lại có ba nghiệp, là nghiệp học-vô học-phi học phi vô học. Lại nữa, có ba nghiệp, là nghiệp do kiến đoạn-do tu đoạn-không có đoạn. Hỏi: Là trước thâu nhiếp sau, hay là sau thâu nhiếp trước? Đáp: Tùy thuộc vào sự việc của nghiệp kia, lần lượt thâu nhiếp nhau. Ba nghiệp, là nghiệp thiện-bất thiện, vô ký. Lại có ba nghiệp, là nghiệp hệ thuộc cõi Dục-Sắc-Vô sắc. Hỏi: Là trước thâu nhiếp sau, hay là sau thâu nhiếp trước? Đáp: Là trước thâu nhiếp sau, không phải sau thâu nhiếp trước. Không thâu nhiếp những gì? Đó là nghiệp vô lậu. Ba nghiệp là nghiệp thiện-bất thiện-vô ký. Lại có ba nghiệp hệ thuộc cõi Dục-Vô sắc. Hỏi: Là nghiệp trước thâu nhiếp sau, hay là sau thâu nhiếp trước? Đáp: Trước thâu nhiếp sau, không phải sau thâu nhiếp trước. Không thâu nhiếp những gì? Đó là nghiệp vô lậu. Ba nghiệp, là nghiệp học-vô học-phi học phi vô học. Lại có ba nghiệp, là nghiệp do kiến đoạn-do tu đoạn-không có đoạn. Hỏi: Là trước thâu nhiếp sau, hay là sau thâu nhiếp trước? Đáp: Tùy thuộc vào sự việc của nghiệp mà lần lượt thâu nhiếp nhau. Ba nghiệp là nghiệp hệ thuộc cõi Dục-Sắc-Vô sắc. Lại có ba nghiệp là nghiệp học-vô học-phi học phi vô học. Lại có ba nghiệp là nghiệp do kiến đoạn-do tu đoạn-không có đoạn. Hỏi: Là nghiệp trước thâu nhiếp sau, hay là sau thâu nhiếp trước? Đáp: Sau thâu nhiếp trước, không phải trước thâu nhiếp sau. Không thâu nhiếp những gì? Đó là nghiệp vô lậu. Ba nghiệp, là nghiệp học-vô học-phi học phi vô học. Lại có ba nghiệp, là nghiệp hệ thuộc cõi Dục-Sắc-Vô sắc. Hỏi: Là trước thâu nhiếp sau hay sau thâu nhiếp trước? Đáp: Là sau thâu nhiếp trước, không phải trước thâu nhiếp sau. Không thâu nhiếp những gì? Đó là nghiệp vô lậu. Hỏi: Có thể có nghiệp cảm thân thọ mà không phải là tâm chăng? Đáp: Có, đó là nghiệp bất thiện. Hỏi: Có thể có nghiệp cảm tâm thọ mà không phải là thân chăng? Đáp: Có, đó là nghiệp thiện vô ký. Có thể có nghiệp cảm thân tâm thọ chăng? Đáp: Có đó là nghiệp thiện-hữu ký. Hỏi: Có thể có nghiệp không cảm thân-tâm thọ mà cảm dị thục chăng? Đáp: Có, đó là các nghiệp cảm dị thục của sắc tâm bất tương ưng hành. Như nói có ba chướng, là phiền não chướng, nghiệp chướng, dị thục chướng. Hỏi: Thế nào là phiền não chướng? Đáp: nghĩa là như có một bản tính đầy đủ phiền não tham-giận-si bùng cháy. Bởi vì như vậy cho nên khó sống, chán việc khó, khó có thể dạy bảo, khó có thể khai ngộ, khó có thể lìa bỏ, khó có thể giải thoát được. Hỏi: Thế nào là nghiệp chướng? Đáp: nghĩa là năm nghiệp vô gián. Hỏi: Thế nào là dị thục chướng? Đáp: nghĩa là các xứ hữu tình, Na-lạc-ca, bàng sinh, cõi quỷ, châu Bắc Câu-lô, xứ Vô tưởng thiên. Hỏi: Trong ba hành ác, hành nào là tội lớn nhất? Đáp: Đó là tội phá Tăng, nói lời lừa dối. Nghiệp này có thể nhận lấy quả dị thục đau khổ trong tất cả các địa ngục vô gián qua vô lượng đời kiếp Hỏi: Trong ba diệu hạnh, diệu hạnh nào là quả lớn nhất? Đáp: nghĩa là tư duy trong đẳng chí của Hữu thứ nhất. Nghiệp này có thể nhận lấy quả báo sống lâu tám vạn kiếp của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. ------------------- <詞>Phẩm 2: BÀN VỀ TÀ NGỮ Ba tà-ba chính giống và khác, Ba hành ác là cong-bẩn-đục, Diệu-tịnh-mặc thâu nhiếp lẫn nhau, Phi lý dẫn dắt cùng sáu câu, Nghiệp cảm được quả trải ba đời, Quả dị thục gồm có tám câu, Năm nghiệp chẳng trước cũng chẳng sau, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Các tà ngữ thì đó là tà mạng chăng? Nếu là tà mạng thì đó là tà ngữ chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tà ngữ mà không phải tà mạng, nghĩa là trừ ra tham đã khởi bốn hành ác của ngữ, còn lại các hành ác của ngữ. Có tà mạng mà không phải tà ngữ, nghĩa là tham đã khởi ba hành ác của thân. Có tà ngữ cũng là tà mạng, nghĩa là tham đã khởi bốn hành ác của ngữ. Không phải tà ngữ, cũng không phải tà mạng, nghĩa là trừ ra tham đã khởi ba hành ác của thân, còn lại các hành ác của thân. Hỏi: Các tà nghiệp thì đó là tà mạng chăng? Nếu là tà mạng thì đó là tà nghiệp chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tà nghiệp mà không phải tà mạng, nghĩa là trừ ra tham đã khởi ba hành ác của thân, các hành ác của thân. Có tà mạng mà không phải tà nghiệp, nghĩa là tham đã khởi bốn hành ác của ngữ. Có tà nghiệp cũng là tà mạng, nghĩa là tham đã khởi ba hành ác của thân. Không phải tà nghiệp cũng không phải tà mạng, nghĩa là trừ ra tham đã khởi bốn hành ác của ngữ, còn lại các hành ác của ngữ. Hỏi: Các chính ngữ thì đó là chính mạng chăng? Nếu là chính mạng thì đó là chính ngữ chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có chính ngữ mà không phải chính mạng, nghĩa là trừ vô tham đã khởi bốn diệu hạnh của ngữ, còn lại các diệu hạnh của ngữ. Có chính mạng mà không phải chính ngữ, nghĩa là vô tham đã khởi ba diệu hạnh của thân. Có chính ngữ cũng là chính mạng, nghĩa là vô tham đã khởi bốn diệu hạnh của ngữ. Không phải chính ngữ, cũng không phải chính mạng, nghĩa là trừ vô tham đã khởi ba diệu hạnh của thân, còn lại các diệu hạnh của thân. Hỏi: Các chính nghiệp là chính mạng, hay chính mạng là chính nghiệp? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có chính nghiệp, không phải chính mạng, nghĩa là trừ vô tham đã khởi ba diệu hạnh của thân, còn lại các diệu hạnh của thân. Có chính mạng, không phải chính nghiệp, nghĩa là vô tham đã khởi bốn diệu hạnh của ngữ. Có chính nghiệp, cũng có chính mạng, nghĩa là vô tham đã khởi ba diệu hạnh của thân. Không phải chính nghiệp, cũng không phải chính mạng, nghĩa là trừ vô tham đã khởi bốn diệu hạnh của ngữ, còn lại các diệu hạnh của ngữ. Ba sự cong vạy-nhơ bẩn-vẩn đục của ba hành ác, nghĩa là thân cong vạy-thân nhơ bẩn-thân vẩn đục; ngữ cong vạy-ngữ nhơ bẩn-ngữ vẩn đục; ý cong vạy, ý nhơ bẩn, ý vẩn đục. Hỏi: Thế nào là ba cong vạy? Đáp: nghĩa là sự dua nịnh đã khởi ba nghiệp thân-ngữ-ý. Hỏi: Thế nào là ba nhơ bẩn? Đáp: nghĩa là sự giận dữ đã khởi ba nghiệp thân-ngữ-ý. Hỏi: Thế nào là ba vẩn đục? Đáp: nghĩa là tham đã khởi ba nghiệp thân-ngữ-ý. Hỏi: Ba hành ác thâu nhiếp ba cong vạy-nhơ bẩn-vẩn đục; hay là ba sự cong vạy-nhơ bẩn-vẩn đục thâu nhiếp ba hành ác? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có hành ác mà không phải là cong vạy-nhơ bẩn-vẩn đục, nghĩa là trừ ra sự dua nịnh-giận-tham, đã khởi hành ác của thân-ngữ-ý thuộc cõi Dục, còn lại các hành ác của thân-ngữ-ý. Có sự cong vạy-nhơ bẩn-vẩn đục mà không phải là hành ác, nghĩa là sự dua nịnh-tham của sơ tónh lự đã khởi nghiệp của thân-ngữ-ý và còn lại tham thuộc đã khởi ý nghiệp cõi Sắc-Vô sắc. Có hành ác cũng là sự cong vạy-nhơ bẩn-vẩn đục, nghĩa là tham-giận-dua nịnh thuộc cõi Dục đã khởi hành ác nơi thân-ngữ-ý. Không phải hành ác cũng không phải sự cong vạy-nhơ bẩn-vẩn đục, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Ba diệu hạnh, ba thanh tịnh, nghĩa là thân-ngữ-ý thanh tịnh. Diệu hạnh thâu nhiếp thanh tịnh, hay là thanh tịnh thâu nhiếp diệu hạnh? Đáp: Tùy thuộc vào sự việc của nghiệp mà lần lượt thâu nhiếp nhau. Hỏi: Ba diệu hạnh, ba tónh lặng, nghĩa là trạng thái tónh lặng của thân-ngữ-ý. Diệu hạnh thâu nhiếp tónh lặng, hay là tónh lặng thâu nhiếp diệu hạnh? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có diệu hạnh mà không phải tónh lặng, nghĩa là trừ ra diệu hạnh của thân-ngữ vô học, còn lại các diệu hạnh của thân-ngữ và tất cả diệu hạnh của ý. Có tónh lặng mà không phải diệu hạnh, nghĩa là tâm vô học. Có diệu hạnh cũng là tónh lặng, nghĩa là diệu hạnh của thân-ngữ vô học. Không phải diệu hạnh, cũng không phải tónh lặng, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Ba thanh tịnh, ba tónh lặng. Thanh tịnh thâu nhiếp tónh lặng, hay là tónh lặng thâu nhiếp thanh tịnh? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thanh tịnh mà không phải tónh lặng, nghĩa là trừ ra thân-ngữ vô học thanh tịnh, là các thân-ngữ thanh tịnh khác và tất cả ý thanh tịnh. tịnh. Có tónh lặng mà không phải thanh tịnh, nghĩa là tâm vô học. Có thanh tịnh cũng có tónh lặng, nghĩa là thân-ngữ vô học thanh Không phải thanh tịnh, cũng không phải tónh lặng, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Các hành ác của thân, hành ấy đều do phi lý mà dẫn dắt thân nghiệp chăng? Nếu do phi lý mà dẫn dắt thân nghiệp thì thân nghiệp đó đều là hành ác của thân chăng? Đáp: Các hành ác của thân thì hành ấy đều do phi lý, mà dẫn dắt thân nghiệp. Có thân nghiệp bị dẫn dắt do sự phi lý mà không phải là hành ác của thân, nghĩa là thân nghiệp hữu phú vô ký và thân nghiệp vô phú vô ký phi lý dẫn dắt. Hỏi: Các hành ác của ngữ thì hành ấy đều do phi lý mà dẫn dắt ngữ nghiệp chăng? Nếu do phi lý mà dẫn dắt ngữ nghiệp, thì ngữ nghiệp ấy đều là hành ác của ngữ? Đáp: Các hành ác của ngữ thì hành ấy đều do phi lý, mà dẫn dắt ngữ nghiệp. Có ngữ nghiệp do phi lý dẫn dắt mà không phải là hành ác của ngữ, nghĩa là ngữ nghiệp hữu phú vô ký và ngữ nghiệp bị dẫn dắt bởi sự phi lý vô phú vô ký. Hỏi: Các hành ác của ý thì hành ấy đều do phi lý mà dẫn dắt ý nghiệp chăng? Nếu do phi lý mà dẫn dắt ý nghiệp, thì ý nghiệp ấy đều là hành ác của ý chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có hành ác của ý mà không phải do sự phi lý đã dẫn dắt ý nghiệp, nghĩa là tham dục-giận dữ-tà kiến. Có sự phi lý đã dẫn dắt ý nghiệp mà không phải là hành ác của ý, nghĩa là ý nghiệp hữu phú vô ký và bị dẫn dắt bởi sự phi lý vô phú vô ký ý nghiệp. Có hành ác của ý cũng do sự phi lý đã dẫn dắt ý nghiệp, nghĩa là ý nghiệp bất thiện. Không phải hành ác của ý, cũng không phải do sự phi lý đã dẫn dắt ý nghiệp, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Các diệu hạnh của thân thì diệu hạnh ấy đều do như lý mà dẫn dắt thân nghiệp chăng? Nếu do như lý mà dẫn dắt thân nghiệp thì thân nghiệp ấy đều là diệu hạnh của thân chăng? Đáp: Các diệu hạnh của thân đều do như lý mà dẫn dắt thân nghiệp. Có như lý đã dẫn dắt thân nghiệp mà không phải là diệu hạnh của thân, nghĩa là thân nghiệp được dẫn dắt do như lý vô phú, vô ký. Hỏi: Các diệu hạnh của ngữ thì diệu hạnh ấy đều do như lý đã dẫn dắt ngữ nghiệp chăng? Nếu do như lý mà dẫn sinh ngữ nghiệp, thì ngữ nghiệp ấy đều là diệu hạnh của ngữ chăng? Đáp: Các diệu hạnh của ngữ thì diệu hạnh ấy đều do như lý mà dẫn dắt ngữ nghiệp. Có như lý đã dẫn dắt ngữ nghiệp mà không phải là diệu hạnh của ngữ, nghĩa là như lý vô phú, vô ký đã dẫn dắt ngữ nghiệp. Hỏi: Các diệu hạnh của ý, diệu hạnh ấy đều như lý đã dẫn dắt ý nghiệp? Hay là như lý đã dẫn dắt ý nghiệp, nên ý nghiệp ấy đều là diệu hạnh của ý? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có diệu hạnh của ý mà không phải là do như lý đã dẫn dắt ý nghiệp, nghĩa là vô tham-vô sân-chính kiến. Có như lý đã dẫn dắt ý nghiệp mà không phải là diệu hạnh của ý, nghĩa là như lý vô phú vô ký đã dẫn dắt ý nghiệp. Có diệu hạnh của ý, cũng do như lý mà dẫn dắt ý nghiệp, nghĩa là ý nghiệp thiện. Không phải diệu hạnh của ý, cũng không phải do như lý mà dẫn dắt ý nghiệp, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Các pháp do nghiệp đạt được, pháp đó nên nói là thiện-bất thiện-vô ký chăng? Đáp: Dựa vào ở quả dị thục thì các pháp do nghiệp đạt được, pháp đó là vô ký, nhất định dấy lên nói như vậy là dựa vào quả dị thục. Hỏi: Các pháp do nghiệp đạt được, pháp đó là vô ký chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Vì mong muốn điều gì mà Đức Như Lai dùng tâm thiện nói pháp với âm vi diệu, âm tốt lành, âm hòa nhã, âm vừa ý? Ngữ này là thiện chăng? Đáp: Đúng như vậy. Nếu dấy lên nói rằng: Dựa vào quả dị thục, các pháp do nghiệp đạt được, pháp đó là vô ký, thì không nên nói Đức Như Lai dùng tâm thiện nói pháp với âm vi diệu tốt lành, âm hòa nhã, âm vừa ý, ngữ này là thiện. Dấy lên nói như vậy thì là không hợp với đạo lý. Nếu dấy lên nói rằng: Như lai dùng tâm thiện, nói pháp với âm vi diệu, âm tốt lành, âm hòa nhã, âm vừa ý, ngữ này là thiện, thì không nên nói dựa vào quả dị thục, các pháp đều do nghiệp đạt được, pháp đó là vô ký. Nếu dấy lên nói như thế thì không hợp lý. Nên dấy lên nói rằng: Bồ tát trong nhiều đời xa xưa đã tạo tác tăng trưởng, cảm nghiệp đại tông diệp (Tông tộc lớn) của quả dị thục. Do nhân duyên này, lần lượt sinh ra đại chủng vi diệu nơi yết hầu của Như lai. Từ yết hầu này luôn luôn phát ra âm thanh ngôn ngữ vi diệu, mà âm thanh không phải là dị thục”. Hỏi: Các nghiệp quá khứ thì quả đó là quá khứ chăng? Đáp: Quả đó hoặc là quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại. Hỏi: Các nghiệp vị lai, thì quả đó là vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các nghiệp hiện tại, thì quả đó là hiện tại chăng? Đáp: Quả đó hoặc là hiện tại, hoặc vị lai. Hỏi: Có thể có thân nghiệp cảm quả dị thục mà ngữ nghiệp và ý nghiệp không như vậy chăng? Đáp: Có. Như thân không giữ gìn mà giữ gìn ngữ, vào vào lúc ấy người kia có tâm thiện, hoặc tâm vô ký. Lại như giữ gìn thân mà không giữ gìn ngữ vào vào lúc ấy người kia có tâm bất thiện, hoặc tâm vô ký. Hỏi: Có thể có như ngữ nghiệp cảm quả dị thục mà thân nghiệp và ý nghiệp không như vậy chăng? Đáp: Có. Như giữ gìn thân mà không giữ gìn ngữ, vào vào lúc ấy người kia có tâm thiện, hoặc tâm vô ký. Ở đây nói ngược lại, cũng như vậy. Hỏi: Có thể có như ý nghiệp cảm quả dị thục mà thân nghiệp và ngữ nghiệp không như vậy chăng? Đáp: Có. Như gìn giữ thân và gìn giữ ngữ, vào vào lúc ấy người kia có tâm bất thiện. Như thân không giữ gìn, ngữ không gìn giữ, bấy giờ, người kia có tâm thiện. Hỏi: Có thể có như thân nghiệp và ngữ nghiệp cảm quả dị thục mà ý nghiệp không như vậy chăng? Đáp: Có. Như thân không giữ gìn, ngữ không giữ gìn vào vào lúc ấy người kia có tâm thiện, hoặc tâm vô ký. Như gìn giữ thân, gìn giữ ngữ, vào vào lúc ấy người kia có tâm bất thiện, hoặc tâm vô ký. Hỏi: Có thể có như thân nghiệp và ý nghiệp cảm quả dị thục mà ngữ nghiệp không như vậy chăng? Đáp: Có. Như thân không giữ gìn mà ngữ giữ gìn, vào lúc ấy người kia có tâm bất thiện. Như gìn giữ thân mà không gìn giữ ngữ, vào lúc ấy người kia có tâm thiện. Hỏi: Có thể có như ngữ nghiệp-ý nghiệp cảm quả dị thục mà thân nghiệp không như vậy chăng? Đáp: Có. Như gìn giữ thân mà không gìn giữ ngữ, vào lúc ấy người kia có tâm bất thiện. Như không giữ gìn thân mà giữ gìn ngữ, bấy giờ người kia có tâm thiện. Hỏi: Có thể có như thân nghiệp và ngữ nghiệp cảm quả dị thục mà ý nghiệp cũng như vậy chăng? Đáp: Có. Như không giữ gìn thân, không giữ gìn ngữ, vào lúc ấy người kia có tâm bất thiện. Như gìn giữ thân, gìn giữ ngữ, vào lúc ấy người kia có tâm thiện. Hỏi: Có thể có không phải là nghiệp thân-ngữ-ý cảm dị thục mà cảm quả dị thục chăng? Đáp: Có, nghĩa là tâm bất tương ưng hành cảm quả dị thục, sắc, tâm-tâm sở pháp thuộc tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Có thể có ba nghiệp như thuận theo pháp hiện tại mà thọ…, thọ nhận quả dị thục không phải trước, không phải sau chăng? Đáp: Có, nghĩa là thuận theo sắc thọ nghiệp trong pháp hiện tại, thuận theo tâm-tâm sở pháp thọ nghiệp ở đời kế tiếp, thuận theo tâm bất tương ưng hành thọ nghệip ở đời sau tiếp. Lại thuận theo tâm bất tương ưng hành thọ nghệip trong pháp hiện tại, thuận theo sắc thọ nghiệp ở đời kế tiếp, thuận theo tâm-tâm sở pháp thọ nghiệp ở đời sau tiếp. Lại, thuận theo tâm-tâm sở pháp thọ nghiệp trong pháp hiện tại, thuận theo tâm bất tương ưng hành thọ nghiệp ở đời kế tiếp, thuận theo sắc thọ nghiệp ở đời sau tiếp. Hỏi: Có thể ba nghiệp như thuận lạc thọ…, thọ nhận quả dị thục không phải trước, không phải sau chăng? Đáp: Có, nghĩa là thuận theo sắc là nghiệp lạc thọ, thuận theo tâm-tâm sở pháp là nghiệp khổ thọ, thuận theo tâm bất tương ưng hành là nghiệp bất khổ bất lạc thọ. Lại thuận theo tâm bất tương ưng hành là nghiệp lạc thọ, thuận theo sắc là nghiệp khổ thọ, thuận theo tâm-tâm sở pháp là nghiệp bất khổ bất lạc thọ. Lại nữa, thuận theo tâm-tâm sở pháp của nghiệp lạc thọ, thuận theo tâm bất tương ưng hành là nghiệp khổ thọ, thuận theo sắc là nghiệp bất khổ bất lạc thọ. Hỏi: Có thể có nghiệp của ba cõi thọ nhận quả dị thục không phải trước, không phải sau chăng? Đáp: Có, nghĩa là sắc cảm nghiệp hệ thuộc cõi Dục, tâm-tâm sở pháp cảm nghiệp hệ thuộc cõi Sắc, tâm bất tương ưng hành của nghiệp hệ thuộc cõi Vô sắc. Lại tâm bất tương ưng hành cảm nghiệp hệ thuộc cõi Dục, sắc của nghiệp hệ thuộc cõi Sắc, tâm-tâm sở pháp cảm nghiệp hệ thuộc cõi Vô sắc. Lại nữa, tâm-tâm sở pháp cảm nghiệp hệ thuộc cõi Dục, tâm bất tương ưng hành cảm nghiệp hệ thuộc cõi Sắc, sắc cảm nghiệp hệ thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Có thể có nghiệp thiện và bất thiện thọ nhận quả dị thục không phải trước, không phải sau chăng? Đáp: Có, nghĩa là sắc của nghiệp thiện, tâm bất tương ưng hành, tâm-tâm sở pháp của nghiệp bất thiện. Lại, tâm-tâm sở pháp và tâm bất tương ưng hành của nghiệp thiện, sắc nghiệp bất thiện, của . Hỏi: Có thể có nghiệp do kiến-tu mà đoạn thọ nhận quả dị thục không phải trước, không phải sau chăng? Đáp: Có, nghĩa là sắc của nghiệp do kiến mà đoạn, tâm-tâm sở pháp và tâm bất tương ưng hành của nghiệp do tu mà đoạn. Lại tâm-tâm sở pháp và tâm bất tương ưng hành của nghiệp do kiến mà đoạn, sắc của nghiệp do tu mà đoạn. <詞>Phẩm 3: BÀN VỀ HẠI Bốn loại làm hại đến sinh mạng, Hai dị thục và hai phòng hộ, Thân hành và nghiệp đã thành tựu, Quả dị thục đạp nhiễm lẫn nhau. Bất thiện cùng với những điên đảo, Hệ thuộc-không hệ thuộc thành tựu, Nơi chốn mạng chung và thọ sanh, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Có thể Có thể có đã hại sinh mạng mà nghiệp sát sinh chưa diệt chăng? Đáp: Có, nếu đã đoạn mạng người khác, thì gia hạnh của người đó chưa dứt. Hỏi: Có thể có chưa hại sinh mạng mà nghiệp sát sinh đã diệt rồi chăng? Đáp: Có, như chưa đoạn mạng người khác, mà gia hạnh của người ấy đã dứt. Hỏi: Có thể có đã hại sinh mạng mà nghiệp sát sinh đã diệt chăng? Đáp: Có, như đã đoạn mạng người khác, thì gia hạnh của người đó đã thôi dứt. Hỏi: Có thể có chưa hại sinh mạng mà nghiệp sát sinh chưa diệt chăng? Đáp: Có, như chưa đoạn mạng người khác mà nghiệp gia hạnh của người ấy chưa dứt. Hỏi: Có thể có chưa hại sinh mạng mà nghiệp sát sinh chưa diệt. Dị thục của nghiệp này nhất định sinh vào địa ngục chăng? Đáp: Có, như gây ra nghiệp vô gián, lúc gia hạnh thì mạng chung. Hỏi: Có thể có nghiệp bất thiện thuận theo khổ thọ, dị thục chưa thành thục, không phải là không thọ quả dị thục đầu tiên mà khởi tâm ô nhiễm chăng? Đáp: Có, như tạo tác tăng trưởng nghiệp vô gián xong, nghiệp này đầu tiên thọ báo trong địa ngục kia, có quả dị thục sinh khởi. Hỏi: Có thể có cố ý lo nghó sau khi hại sinh mạng, không chịu xa lìa mà đối với tất cả hữu tình có thể phòng hộ chăng? Đáp: Có, như khởi lên gia hạnh sát hại, làm cho người kia phải chết mà trung gian chứng được kiến giải về pháp tính. Hỏi: Nếu đối với tất cả hữu tình có thể phòng hộ, thì người kia đối với tất cả hữu tình chấp nhận xa lìa chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Đối với tất cả hữu tình được phòng hộ mà không tiếp nhận xa lìa, như không tiếp nhận học xứ mà chứng được kiến giải về pháp tính. Đối với tất cả hữu tình tiếp nhận xa lìa mà không được phòng hộ, như thọ học xứ mà phạm vào xa lìa. Đối với tất cả hữu tình được phòng hộ, cũng tiếp nhận xa lìa, như thọ học xứ mà không phạm vào xa lìa. Không phải đối với tất cả hữu tình được phòng hộ cũng không phải tiếp nhận xa lìa, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Nếu thành tựu thân thì đó là thành tựu thân nghiệp chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu thân mà không phải là thân nghiệp, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc những phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh cõi Dục, trụ nơi không luật nghi, không phải là không luật nghi, cũng không có thân biểu, giả sử có mà mất. Có thành tựu thân nghiệp mà không phải là thân, nghĩa là Thánh giả sinh thuộc cõi Vô sắc. Có thành tựu thân, cũng là thân nghiệp, nghĩa là Thánh giả ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi hoặc trụ nơi không có luật nghi và hoặc trụ nơi không phải luật nghi, không phải là không luật nghi, đều hiện có thân biểu, hoặc trước đã có mà không mất, hoặc sinh thuộc cõi Sắc. Không thành tựu thân, cũng không phải là thân nghiệp, nghĩa là phàm phu sinh thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân, thì đó là thành tựu ngữ nghiệp chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Nếu thành tựu thân mà không phải là ngữ nghiệp, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc các phàm phu ở trong thai tạng, nếu sinh thuộc cõi Dục, thì sẽ trụ nơi phi luật nghi, không phải là không luật nghi, đều không có ngữ biểu, giả sử có mà mất. Có thành tựu ngữ nghiệp mà không phải là thân, nghĩa là các Thánh giả sinh thuộc cõi Vô sắc. Có thành tựu thân cũng là ngữ nghiệp, nghĩa là các Thánh giả ở trong thai tạng, hoặc sinh thuộc cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không có luật nghi, hoặc trụ nơi không phải luật nghi, không phải là không luật nghi, đều hiện có ngữ biểu, hoặc trước có mà không mất, hoặc sinh thuộc cõi Sắc. Phải là thân, cũng phải là ngữ nghiệp, nghĩa là các phàm phu sinh thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân, thì đó là thành tựu ý nghiệp chăng? Đáp: Nếu thành tựu thân, thì lúc ấy nhất định thành tựu ý nghiệp. Có thành tựu ý nghiệp mà không phải là thân, nghĩa là sinh thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân thì đó là thành tựu thân nghiệp, ngữ nghiệp chăng? Đáp: Có thành tựu thân mà không phải là thân nghiệp-ngữ nghiệp, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh thuộc cõi Dục, trụ nơi chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, không có thân ngữ biểu, giả sử có mà mất. Có thành tựu thân và thân nghiệp mà không phải là ngữ nghiệp, nghĩa là sinh thuộc cõi Dục, trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, đều hiện có thân biểu, hoặc trước có mà không mất, không có ngữ biểu, giả sử có mà mất. Có thành tựu thân và ngữ nghiệp mà không phải là thân nghiệp, nghĩa là sinh thuộc cõi Dục, trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, hiện có ngữ biểu, hoặc trước có mà không mất; không có thân biểu, giả sử có mà mất. Có thành tựu thân, và thân nghiệp-ngữ nghiệp, nghĩa là Thánh giả ở trong thai tạng, hoặc sinh thuộc cõi Dục trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi và trụ nơi chẳng phảiluật nghi, chẳng phải là không luật nghi, đều hiện có thân-ngữ biểu, hoặc trước có mà không mất, hoặc sinh thuộc cõi Sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân nghiệp-ngữ nghiệp, thì lúc ấy thành tựu thân chăng? Đáp: Hoặc thành tựu, hoặc phải là . Thế nào là thành tựu? nghĩa là như trước đã nói. Thế nào là phải là ? nghĩa là Thánh giả sinh thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân, thì lúc ấy thành tựu thân nghiệp-ý nghiệp chăng? Đáp: Có thành tựu thân và ý nghiệp mà không phải thân nghiệp, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh thuộc cõi Dục, trụ nơi chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, không có thân biểu, giả sử có mà mất. Có thành tựu thân và thân nghiệp-ý nghiệp, nghĩa là Thánh giả ở trong thai tạng, hoặc sinh thuộc cõi Dục trụ nơi luật nghi, hoặc nơi không luật nghi, hoặc trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, hiện có thân biểu, hoặc trước có mà không mất; sinh thuộc cõi Sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân nghiệp-ý nghiệp, thì lúc ấy thành tựu thân chăng? Đáp: Hoặc thành tựu, hoặc phải là . Thế nào là thành tựu? nghĩa là như trước đã nói. Thế nào là phải là ? nghĩa là Thánh giả sinh thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân, thì lúc ấy thành tựu ngữ nghiệp-ý nghiệp chăng? Đáp: Có thành tựu thân và ý nghiệp, không phải ngữ nghiệp, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc các phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, không có ngữ biểu, giả sử có mà mất. Có thành tựu thân và ngữ nghiệp-ý nghiệp, nghĩa là Thánh giả ở trong thai tạng, hoặc sinh thuộc cõi Dục thì sẽ trụ nơi luật nghi, không luật nghi, hoặc trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, đều hiện có ngữ biểu, hoặc trước đã có không mất; hoặc sinh thuộc cõi Sắc. Hỏi: Nếu thành tựu ngữ nghiệp-ý nghiệp, thì lúc ấy thành tựu thân chăng? Đáp: Hoặc thành tựu, hoặc phải là . Thế nào là thành tựu? nghĩa là như trước đã nói. Thế nào là phải là ? nghĩa là Thánh giả sinh thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân, thì lúc ấy thành tựu thân nghiệp-ngữ nghiệp-ý nghiệp chăng? Đáp: Có thành tựu thân và ý nghiệp mà không phải là thân nghiệp- ngữ nghiệp, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc các phàm phu trú trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trú nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, không có thân-ngữ biểu, giả sử có mà mất. Có thành tựu thân và thân nghiệp-ý nghiệp mà không phải là ngữ nghiệp, nghĩa là sinh thuộc cõi Dục, trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, đều hiện có thân biểu, hoặc trước có mà không mất, không có ngữ biểu, giả sử có mà mất. Có thành tựu thân và ngữ nghiệp-ý nghiệp mà không phải là thân nghiệp, nghĩa là sinh thuộc cõi Dục, trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, hiện có ngữ biểu, hoặc trước có mà không mất, không có thân biểu, giả sử có mà mất. Có thành tựu thân và thân nghiệp-ngữ nghiệp-ý nghiệp, nghĩa là các Thánh giả ở trong thai tạng, hoặc sinh thuộc cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi, hoặc trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, đều hiện có thân-ngữ biểu, hoặc trước có mà không mất, nếu sinh thuộc cõi Sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân nghiệp, ngữ nghiệp-ý nghiệp, thì lúc ấy thành tựu thân chăng? Đáp: Hoặc thành tựu, hoặc phải là , cũng như trước đây đã nói. Hỏi: Nếu thành tựu thân nghiệp, thì lúc ấy thành tựu ngữ nghiệp chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu thân nghiệp mà không phải là ngữ nghiệp, nghĩa là sinh thuộc cõi Dục, trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, đều hiện có thân biểu, hoặc trước đã có không mất, không có ngữ biểu, giả sử có mà mất. Có thành tựu ngữ nghiệp, phải là thân nghiệp, nghĩa là sinh thuộc cõi Dục, trụ nơi chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, hiện có ngữ biểu, hoặc trước đã có không mất, không có thân biểu, giả sử có mà mất. Có thành tựu thân nghiệp cũng là ngữ nghiệp, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh thuộc cõi Dục, trụï nơi luật nghi, hoặc không luật nghi, cũng trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, đều hiện có thân-ngữ biểu, hoặc trước đã có không mất, nếu sinh thuộc cõi Sắc. Phải là thân nghiệp cũng phải là ngữ nghiệp, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh thuộc cõi Dục trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, không có thân- ngữ biểu, giả sử có rồi mất, hoặc phàm phu sinh thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân nghiệp, thì lúc ấy thành tựu ý nghiệp chăng? Đáp: Nếu thành tựu thân nghiệp, thì lúc ấy thành tựu ý nghiệp. Có thành tựu ý nghiệp mà phải là thân nghiệp, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh thuộc cõi Dục trụ nơi chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, không có thân biểu, giả sử có mà mất, hoặc phàm phu sinh cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân nghiệp, thì lúc ấy thành tựu ngữ nghiệp-ý nghiệp chăng? Đáp: Có thành tựu thân nghiệp và ý nghiệp mà phải là ngữ nghiệp, nghĩa là sinh thuộc cõi Dục, trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, hiện có thân biểu, hoặc trước đã có mà mất, không có ngữ biểu, giả sử có mà mất. Có thành tựu thân nghiệp và ngữ nghiệp-ý nghiệp, nghĩa là Thánh giả ở trong thai tạng, hoặc sinh thuộc cõi Dục trụ nơi luật nghi hay không luật nghi, cũng trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu, hoặc trước đã có không mất, hoặc sinh thuộc cõi Sắc, hoặc Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu ngữ nghiệp-ý nghiệp, thì lúc ấy thành tựu thân nghiệp chăng? Đáp: Hoặc thành tựu, hoặc phải là . Thế nào là thành tựu? nghĩa là như trước đã nói. Thế nào là phải là ? nghĩa là sinh thuộc cõi Dục, trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, hiện có ngữ biểu, hoặc trước kia đã có không mất, không có thân biểu, giả sử có mà mất. Hỏi: Nếu thành tựu ngữ nghiệp, thì lúc ấy thành tựu ý nghiệp chăng? Đáp: Đối với thành tựu ngữ nghiệp, lúc ấy thành tựu ý nghiệp. Có thành tựu ý nghiệp mà không phải là ngữ nghiệp, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc các phàm phu ở trong thai tạng, nếu sinh thuộc cõi Dục trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, không có ngữ biểu, giả sử đã có rồi mất, hoặc phàm phu sinh thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu nghiệp chưa lìa nhiễm, thì nghiệp dị thục kia chưa lìa nhiễm chăng? Đáp: Các nghiệp chưa lìa nhiễm, thì nghiệp dị thục kia chắc chắn chưa lìa nhiễm. Hoặc có dị thục chưa lìa nhiễm mà nghiệp kia đã lìa nhiễm, nghĩa là người Dự lưu do kiến mà đoạn, nghiệp đã nhiễm mà dị thục kia chưa lìa nhiễm. Hỏi: Nếu nghiệp đã lìa nhiễm, thì nghiệp dị thục kia đã lìa nhiễm chăng? Đáp: Các nghiệp dị thục đã lìa nhiễm, thì nghiệp kia chắc chắn đã lìa nhiễm. Hoặc có nghiệp đã lìa nhiễm mà nghiệp dị thục kia chưa lìa nhiễm, nghĩa là người Dự lưu do kiến mà đoạn, nghiệp đã lìa nhiễm mà dị thục kia chưa lìa nhiễm. Hỏi: Nếu nghiệp có quả, thì nghiệp kia đều có dị thục chăng? Đáp: Các nghiệp có dị thục thì nghiệp đó đều có quả. Hoặc có nghiệp có quả mà nghiệp ấy không có dị thục, đó là nghiệp vô ký, nghiệp vô lậu. Hỏi: Nếu nghiệp không có quả, thì nghiệp kia đều không có dị thục chăng? Đáp: Không có nghiệp nào không có qua. Hoặc có nghiệp không có dị thục, đó là nghiệp vô ký, nghiệp vô lậu. Hỏi: Nếu nghiệp bất thiện, thì nghiệp đó đều điên đảo chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có nghiệp bất thiện mà nghiệp ấy không phải là điên đảo, nghĩa là như có một người khởi đủ kiến về nhân quả, khởi kiến điên đảo như thế, lập luận như thế này: “Có nghiệp, nghiệp quả dị thục mà được hiện hành ác của thân-ngữ-ý”. Lại, như có một người đối với thấy mà có tưởng không thấy, đối với nghe-hiểu-biết, có tưởng không nghe- hiểu-biết. Người kia che giấu tưởng này, nhẫn này, kiến dục này nói: “Tôi thấy-nghe-hiểu-biết”. Hoặc đối với không thấy mà có tưởng thấy, đối với không nghe-hiểu-biết, có tưởng nghe-hiểu-biết, người ấy che giấu tưởng này, nhẫn này, kiến-dục này, nói: Tôi không thấy, không nghe-hiểu-biết. Có nghiệp điên đảo, nghiệp ấy không phải là bất thiện, nghĩa là như có một người khởi kiến này, lập luận như thế này: “Không có nghiệp, không có nghiệp quả dị thục, mà thực hành diệu hạnh của thân-ngữ-ý”. Lại như có một người đối với thấy mà có tưởng không thấy, đối với nghe-hiểu-biết, có tưởng không nghe-hiểu-biết, người ấy không che giấu tưởng này, nhẫn-kiến-dục này, nói: “Tôi không thấy, không nghe- hiểu-biết”. Hoặc đối với không thấy, có tưởng thấy, đối với không nghe- hiểu-biết, có tưởng nghe-hiểu-biết, người ấy không che giấu tưởng này, nhẫn này, dục này, nói: “Tôi thấy-nghe-hiểu-biết”. Có nghiệp quả bất thiện mà cũng điên đảo, nghĩa là như có một người khởi kiến này, lập luận như thế này: “Không có nghiệp, không có quả nghiệp dị thục”. Lại, thực hiện hành ác thân-ngữ-ý. Lại như có một người đối với thấy mà có tưởng thấy, đối với nghe-hiểu-biết, mà có tưởng nghe, giác biết, người ấy che giấu tưởng này, nhẫn này, kiến, dục này, nói: “Tôi không thấy, không nghe, giác biết”. Hoặc đối với không thấy, mà có tưởng không thấy, đối với không nghe-hiểu-biết mà có tưởng không nghe-hiểu-biết, người ấy che giấu tưởng này, nhẫn này, kiến, dục này, nói: “Tôi thấy, tôi nghe-hiểu- biết”. Có nghiệp không phải bất thiện cũng không phải điên đảo, nghĩa là như có một người khởi kiến này, lập luận như thế này: “Có nghiệp, có nghiệp quả dị thục”. Lại thực hành diệu hạnh của thân-ngữ-ý. Lại, như có một người đối với thấy, có tưởng thấy, đối với nghe- hiểu-biết, có tưởng nghe, giác biết, người ấy không che giấu tưởng này, nhẫn này, dục này, nói: “Tôi thấy-nghe-hiểu-biết. Hoặc đối với không thấy có tưởng không thấy, đối với không nghe-hiểu-biết, có tưởng không nghe-hiểu-biết mà người ấy không che giấu tưởng này, nhẫn, dục này, nói: “Tôi không thấy, không nghe, giác biết”. Hỏi: Nếu nghiệp thiện, thì nghiệp đó không điên đảo chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Câu thứ hai trước đây, làm câu thứ nhất của phần này. Câu thứ nhất trước đây, làm câu thứ hai của phần này. Câu thứ tư trước đây, làm câu thứ ba của phần này. Câu thứ ba trước đây, làm câu thứ tư của phần này. Rộng ra như trước đã nói. Hỏi: Nếu thành tựu nghiệp bất thiện, thì lúc ấy thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc chăng? Đáp: Nếu thành tựu nghiệp bất thiện, thì lúc ấy nhất định sẽ thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc. Có thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc mà không phải là nghiệp bất thiện, nghĩa là sinh thuộc cõi Dục, đã lìa nhiễm cõi Dục; hoặc sinh thuộc cõi Sắc. Hỏi: Nếu thành tựu nghiệp thiện hệ thuộc cõi Dục, thì lúc ấy thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc chăng? Đáp: Nếu thành tựu nghiệp thiện hệ thuộc cõi Dục, người kia nhất định thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc. Có thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc mà không phải là nghiệp thiện hệ thuộc cõi Dục, nghĩa là Bổ-đặc-già-la đoạn căn thiện, hoặc sinh thuộc cõi Sắc. Hỏi: Nếu thành tựu nghiệp thiện hệ thuộc cõi Dục, thì lúc ấy thành tựu nghiệp thiện hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu nghiệp thiện hệ thuộc cõi Dục mà không phải nghiệp thiện hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc, nghĩa là sinh thuộc cõi Dục, không đoạn căn thiện, chưa đạt được tâm thiện thuộc cõi Sắc. Có thành tựu nghiệp thiện hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc, không phải nghiệp thiện hệ thuộc cõi Dục, nghĩa là sinh thuộc cõi Sắc, được tâm thiện thuộc cõi Vô sắc. Có thành tựu nghiệp thiện hệ thuộc cõi Dục, cũng thành tựu nghiệp thiện hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc, nghĩa là sinh thuộc cõi Dục, đạt được tâm thiện thuộc cõi Vô sắc. Không phải thành tựu nghiệp thiện hệ thuộc cõi Dục, cũng không phải thành tựu nghiệp thiện hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc, nghĩa là Bổ-đặc-già-la đoạn căn thiện. Hỏi: Nếu thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Dục, thì lúc ấy thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Sắc chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Sắc, thì lúc ấy thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Dục chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Dục, thì lúc ấy thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Vô sắc chăng? Đáp: Đối với việc thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Dục, người kia nhất định sẽ thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Vô sắc. Có thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Vô sắc, không phải nghiệp hệ thuộc cõi Dục, nghĩa là Bổ-đặc-già-la sinh thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Dục, thì lúc ấy thành tựu nghiệp không hệ thuộc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Dục, không phải nghiệp không hệ thuộc, nghĩa là phàm phu sinh thuộc cõi Dục và cõi Sắc. Có thành tựu nghiệp không hệ thuộc mà không phải nghiệp hệ thuộc cõi Dục, nghĩa là Thánh giả sinh thuộc cõi Vô sắc. Có thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Dục mà cũng thành tựu nghiệp không hệ thuộc, nghĩa là Thánh giả sinh thuộc cõi Dục, Sắc. Phải là nghiệp hệ thuộc cõi Dục, cũng phải là nghiệp không hệ thuộc, nghĩa là phàm phu sinh thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Sắc, thì lúc ấy thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Vô sắc chăng? Đáp: Đối với việc thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Sắc, người kia nhất định thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Vô sắc. Có thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Vô sắc, không phải là nghiệp hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là các hữu tình sinh thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Sắc, thì lúc ấy thành tựu nghiệp không hệ thuộc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Sắc mà không phải là nghiệp không hệ thuộc, nghĩa là phàm phu sinh thuộc cõi Dục-Sắc. Có thành tựu nghiệp không hệ thuộc mà không phải là nghiệp hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là Thánh giả sinh thuộc cõi Vô sắc. Có thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Sắc mà cũng thành tựu nghiệp không hệ thuộc, nghĩa là Thánh giả sinh thuộc cõi Dục, Sắc. Phải là nghiệp hệ thuộc cõi Sắc, cũng không thành tựu nghiệp không hệ thuộc, nghĩa là phàm phu sinh thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Vô sắc, thì lúc ấy thành tựu nghiệp không hệ thuộc chăng? Đáp: Đối với việc thành tựu nghiệp không hệ thuộc, người kia nhất định thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Vô sắc. Có thành tựu nghiệp hệ thuộc cõi Vô sắc mà không phải là nghiệp không hệ thuộc, nghĩa là các phàm phu. Hỏi: Nếu thành tựu nghiệp không hệ thuộc và hệ thuộc cõi Dục- cõi Sắc-cõi Vô sắc, thì người kia mạng chung sẽ sinh vào xứ nào? Đáp: Hoặc sinh vào cõi Dục, hoặc sinh vào cõi Sắc, hoặc sinh vào cõi Vô sắc, hoặc không có nơi sinh.  <卷>QUYỂN 12 <章>Chương 4: NGHIỆP UẨN <詞>Phẩm 4: BÀN VỀ BIỂU, VÔ BIỂU Biểu-vô biểu có chung và riêng, Bốn tính thành tựu qua ba đời, Nghiệp-quả-giới cùng với đúng-sai, Hữu lậu cùng với cả tâm tuệ, Chung và riêng tu với không tu, Giới loại thành tựu qua ba đời, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu thân biểu mà không phải vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, hiện có thân biểu, không đạt được vô biểu này, hoặc trước đã có biểu này mà không mất, không đạt được vô biểu này. Có thành tựu thân vô biểu mà không phải là biểu này, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng; hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, không có thân biểu, giả sử có rồi mất. Nếu sinh vào cõi Sắc, không có thân biểu, giả sử có rồi mất; hoặc Thánh giả sinh vào cõi Vô sắc. Có thành tựu thân biểu, cũng thành tựu vô biểu này nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, hiện có thân biểu, cũng đạt được vô biểu này, hoặc trước kia đã có biểu này mà không mất, cũng đạt được vô biểu này. Hoặc trú vào luật nghi biệt giải thoát, hoặc trú vào không có luật nghi, hoặc trú vào chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, hiện có thân biểu, cũng đạt được vô biểu này; hoặc trước có biểu này không mất, cũng đạt được vô biểu này. Nếu sanh vào cõi Sắc, hiện có thân biểu, hoặc trước có biểu này không mất. Không thành tựu thân biểu, cũng không phải là vô biểu này, nghĩa là trụ trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai; hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, không có thân biểu, giả sử có rồi mất; hoặc phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu thiện, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu thân biểu thiện mà không phải là vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không có luật nghi và chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, hiện có thân biểu thiện, không đạt được vô biểu này, hoặc trước đã có biểu này không mất, không đạt được vô biểu này. Có thành tựu thân vô biểu, thiện mà không phải là biểu này, nghĩa là Thánh giả ở trong thai tạng; hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, không có thân biểu thiện, giả sử có rồi mất; hoặc sinh nơi cõi Sắc không có thân biểu thiện, giả sử có rồi mất; hoặc Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Có thành tựu thân biểu thiện cũng là vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, hiện có thân biểu thiện, cũng đạt được vô biểu này. Hoặc trước kia đã có biểu này không mất, cũng đạt được vô biểu này. Hoặc trụ nơi luật nghi biệt giải thoát, Hoặc trụ nơi không luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện có thân biểu thiện, cũng đạt được vô biểu này, hoặc trước đã có biểu này không mất, cũng đạt được vô biểu này; hoặc sinh nơi cõi Sắc hiện có thân biểu thiện, hoặc trước đã có biểu này không mất. Không thành tựu thân biểu thiện, cũng không phải là vô biểu này, nghĩa là trụ trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai; hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi không có luật nghi và chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, không có thân biểu thiện, giả sử có rồi mất; hoặc phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu bất thiện, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Có thành tựu thân vô biểu bất thiện, thì lúc ấy thành tựu biểu này. Có thành tựu thân biểu bất thiện, không phải là vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi và chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, hiện có thân biểu bất thiện, không đạt được vô biểu này, hoặc trước đã có biểu này không mất, không đạt được vô biểu này. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu hữu phú, vô ký, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Không có thành tựu thân vô biểu hữu phú vô ký mà có thành tựu biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, hiện có thân biểu hữu phú, vô ký. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu vô phú, vô ký, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Không có thành tựu thân vô biểu vô phú vô ký mà có thành tựu biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục-Sắc, hiện có thân biểu vô phú vô ký. Hỏi: Nếu thành tựu thân vô biểu quá khứ, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu thân biểu quá khứ mà không phải là vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, trước đã có thân biểu không mất, không đạt được vô biểu này. Có thành tựu thân vô biểu quá khứ mà không phải là biểu này, nghĩa là Thánh giả ở bào thai; hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, trước không có thân biểu, giả sử có rồi mất. Hoặc sinh nơi cõi Sắc, trước không có thân biểu, giả sử có rồi mất; hoặc Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Có thành tựu thân biểu quá khứ cũng là vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, trước đã có thân biểu không mất, cũng đạt được vô biểu này. Hoặc trụ nơi luật nghi biệt giải thoát, hoặc trụ nơi không có luật nghi, hoặc trụ nơi chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, trước đã có thân biểu không mất, cũng đạt được vô biểu này; hoặc sinh nơi cõi Sắc, thì trước đã có thân biểu không mất. Không thành tựu thân biểu quá khứ, cũng không phải là vô biểu này, nghĩa là trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở bào thai; hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi chẳng phải là luật nghi, không phải không luật nghi, trước không có thân biểu, giả sử có rồi mất, hoặc A-la-hán và phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu thiện quá khứ, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu thân biểu thiện quá khứ mà không phải là vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi và trụ nơi chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, trước đã có thân biểu thiện không mất, không đạt được vô biểu này. Có thành tựu thân vô biểu thiện quá khứ mà không phải là biểu này, nghĩa là Thánh giả ở bào thai, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, trước không có thân biểu thiện, giả sử có rồi mất. Hoặc sinh nơi cõi Sắc, trước không có thân biểu thiện, giả sử có rồi mất, hoặc Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Có thành tựu thân biểu thiện quá khứ cũng là vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, trước đã có thân biểu thiện không mất, cũng đạt được vô biểu này. Hoặc trụ nơi luật nghi biệt giải thoát, hoặc trụ nơi không luật nghi, hoặc trụ nơi chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, trước đã có thân biểu thiện không mất, cũng đạt được vô biểu này. Hoặc sinh nơi cõi Sắc, thì trước đã có thân biểu thiện không mất. Không thành tựu thân biểu thiện quá khứ, cũng không phải là vô biểu này, nghĩa là trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở bào thai; hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi không có luật nghi, và nơi chẳng phải luật nghi chẳng phải là không luật nghi, trước đã không có thân biểu thiện, giả sử có rồi mất; hoặc A-la-hán và phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu bất thiện quá khứ, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Thành tựu thân biểu bất thiện quá khứ, thì lúc ấy thành tựu biểu này. Có thành tựu thân biểu bất thiện quá khứ mà không phải là vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, và nơi chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, trước đã có thân biểu bất thiện quá khứ không mất, không đạt được vô biểu này. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu hữu phú, vô ký quá khứ, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Không có thành tựu thân biểu hữu phú, vô ký quá khứ và vô biểu. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu vô phú, vô ký quá khứ, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Không có thành tựu thân biểu vô phú, vô ký quá khứ và vô biểu này. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu vị lai, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Không có thành tựu thân biểu vị lai mà có thành tựu vô biểu này, nghĩa là Thánh giả ở bào thai, hoặc sinh nơi cõi Dục rồi, đạt được tâm thiện thuộc cõi Sắc, hoặc sinh nơi cõi Sắc; hoặc Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu thiện vị lai, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Không có thành tựu thân biểu thiện vị lai mà có thành tựu vô biểu này, nghĩa là Thánh giả ở bào thai, hoặc sinh nơi cõi Dục rồi, đạt được tâm thiện nơi cõi Sắc, hoặc sinh thuộc cõi Sắc, hoặc Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu bất thiện ở vị lai, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Không có thành tựu thân biểu bất thiện vị lai và vô biểu. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu hữu phú, vô ký vị lai, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Không có thành tựu thân biểu hữu phú, vô ký vị lai và vô biểu này. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu vô phú, vô ký vị lai, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Không có thành tựu thân biểu vô phú, vô ký vị lai và vô biểu này. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu ở hiện tại, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu thân biểu hiện tại mà không phải là vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, hiện có thân biểu, không đạt được vô biểu này, giả sử trước đã có thân biểu không mất mà không đạt được vô biểu này. Hoặc đã trụ nơi không phải luật nghi, không phải là không luật nghi, hiện có thân biểu, không đạt được vô biểu này, giả sử trước đã có thân biểu không mất, mà không đạt được vô biểu này, hoặc sinh nơi cõi Sắc hiện có thân biểu. Có thành tựu thân vô biểu hiện tại mà không phải là biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, đang trong định giả sử không ở trong định, hiện không có thân biểu, trước đã có thân biểu không mất, đạt được vô biểu này. Hoặc trụ nơi luật nghi biệt giải thoát và không luật nghi hiện không có thân biểu. Hoặc trụ nơi chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi hiện không có thân biểu, trước đã có thân biểu không mất, đạt được vô biểu này, hoặc sinh nơi cõi Sắc, đang trong định. Có thành tựu thân biểu hiện tại cũng là vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, hiện có thân biểu, đạt được vô biểu này, hoặc trước đã có thân biểu không mất, đạt được vô biểu này. Hoặc trụ nơi luật nghi biệt giải thoát và không luật nghi, thì hiện đang có thân biểu. Hoặc trụ nơi chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, thì hiện có thân biểu, được vô biểu này, hoặc trước đã có thân biểu không mất, được vô biểu này. Không thành tựu thân biểu hiện tại cũng không phải là vô biểu này, nghĩa là trong vỏ trứng và trụ trong thai tạng. Hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, không ở trong định, hiện không có thân biểu, giả sử trước đã có thân biểu không mất mà không đạt được vô biểu này. Hoặc trụ nơi chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, hiện không có thân biểu, giả sử trước đã có thân biểu không mất, mà vẫn không đạt được vô biểu này; hoặc sinh nơi cõi Sắc, không ở trong định, hiện không có thân biểu, hoặc sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu thiện hiện tại, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu thân biểu thiện hiện tại mà không phải là vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, hiện có thân biểu thiện, không đạt được vô biểu này, giả sử trước đã có thân biểu thiện không mất mà không đạt được vô biểu này. Hoặc trụ nơi không luật nghi và nơi không phải luật nghi, không phải không luật nghi, hiện có thân biểu thiện, không đạt được vô biểu này, giả sử trước đã có thân biểu thiện không mất, mà không đạt được vô biểu này, hoặc sinh nơi cõi Sắc hiện có thân biểu thiện. Có thành tựu thân vô biểu hiện tại mà không phải là biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, đang trong định, giả sử không ở trong định, hiện không có thân biểu thiện, trước đó có thân biểu thiện không mất, đạt được vô biểu này. Hoặc trụ nơi luật nghi biệt giải thoát và không luật nghi, hiện không có thân biểu thiện. Hoặc trụ nơi chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi hiện không có thân biểu thiện, trước đã có thân biểu thiện không mất, mà đạt được vô biểu này, hoặc sinh nơi cõi Sắc, đang ở trong định. Có thành tựu thân biểu thiện hiện tại, cũng là vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, hiện có thân biểu thiện, cũng đạt được vô biểu này, hoặc trước đã có thân biểu thiện không mất, đạt được vô biểu này. Hoặc trụ nơi luật nghi biệt giải thoát và không luật nghi, hiện đang có thân biểu thiện. Hoặc trụ nơi chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, thì hiện có thân biểu thiện, cũng đạt được vô biểu này; hoặc trước đã có thân biểu thiện không mất, đạt được vô biểu này. Không thành tựu thân biểu thiện hiện tại, cũng không phải là vô biểu này, nghĩa là trong vỏ trứng và trụ trong thai tạng. Hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, không đạt được luật nghi biệt giải thoát, không ở trong định, hiện không có thân biểu thiện, giả sử trước đã có thân biểu thiện không mất mà không đạt được vô biểu này. Hoặc trụ nơi không luật nghi và nơi chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi, hiện không có thân biểu thiện, giả sử trước đã có thân biểu thiện không mất, mà vẫn không đạt được vô biểu này. Hoặc sinh nơi cõi Sắc, không ở trong định, hiện không có thân biểu thiện, hoặc sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu bất thiện hiện tại, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu thân biểu bất thiện hiện tại, không phải là vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, và không phải luật nghi, không phải là không luật nghi, hiện có thân biểu bất thiện, không đạt được vô biểu này, giả sử trước đã có thân biểu bất thiện không mất mà không đạt được vô biểu này. Có thành tựu thân vô biểu bất thiện hiện tại mà không phải là biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi, hiện không có thân biểu bất thiện. Hoặc trụ nơi luật nghi và chẳng phải luật nghi, chẳng phải là không luật nghi thì hiện không có thân biểu bất thiện, trước đã có thân biểu bất thiện không mất, mà đạt được vô biểu này. Có thành tựu thân biểu bất thiện hiện tại, cũng là vô biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện có thân biểu bất thiện, cũng đạt được vô biểu này, hoặc trước đã có thân biểu bất thiện không mất, đạt được vô biểu này. Hoặc trụ nơi không luật nghi hiện có thân biểu bất thiện. Không thành tựu thân biểu bất thiện hiện tại, cũng không phải là vô biểu này, nghĩa là trong vỏ trứng hoặc trụ trong thai tạng. Hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện tại không có thân biểu bất thiện, giả sử trước đã có thân biểu bất thiện không mất mà vẫn không đạt được vô biểu này, hoặc sinh nơi cõi Sắc-Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu hữu phú, vô ký hiện tại, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Không có thành tựu thân vô biểu hữu phú, vô ký hiện tại. Có thành tựu biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Vô sắc, hiện có thân biểu hữu phú, vô ký. Hỏi: Nếu thành tựu thân biểu vô phú, vô ký hiện tại, thì lúc ấy thành tựu vô biểu này chăng? Đáp: Không có thành tựu thân vô biểu vô phú, vô ký hiện tại. Có thành tựu biểu này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục-Sắc, hiện có thân biểu vô phú, vô ký. Như trình bày rộng về biểu-vô biểu của thân. Như vậy biểu- vô biểu của ngữ, trình bày rộng cũng đúng như vậy. Hỏi: Nếu nghiệp hệ thuộc cõi Dục, thì nghiệp quả đó hệ thuộc cõi Dục chăng? Đáp: Các nghiệp thuộc về nơi cõi Dục, nghiệp quả ấy cũng vậy. Có thể có nghiệp quả hệ thuộc nơi cõi Dục, mà không phải là nghiệp kia, nghĩa là do đạo cõi Sắc, làm thay đổi cõi Dục, phát ra ngôn ngữ cõi Dục. Hỏi: Nếu nghiệp hệ thuộc cõi Sắc, thì nghiệp quả đó hệ thuộc cõi Sắc chăng? Đáp: Các nghiệp quả thuộc về nơi cõi Sắc, nghiệp ấy cũng vậy. Có thể có nghiệp hệ thuộc nơi cõi Sắc, không phải là nghiệp quả kia, nghĩa là do đạo cõi Sắc, làm thay đổi cõi Dục phát ra ngôn ngữ cõi Dục và do đạo cõi Sắc, chứng các kiết đoạn. Hỏi: Nếu nghiệp hệ thuộc cõi Vô sắc, thì nghiệp quả đó hệ thuộc cõi Vô sắc chăng? Đáp: Các nghiệp quả thuộc về nơi cõi Vô sắc, nghiệp ấy cũng vậy. Có thể có nghiệp hệ thuộc nơi cõi Vô sắc, không phải nghiệp quả kia, nghĩa là do đạo nơi cõi Vô sắc chứng các kiết đoạn. Hỏi: Nếu nghiệp không hệ thuộc, thì nghiệp quả đó không hệ thuộc chăng? Đáp: Các nghiệp không hệ thuộc, nghiệp quả đó cũng vậy. Có thể có nghiệp quả không hệ thuộc, không phải nghiệp kia, nghĩa là do đạo của cõi Sắc-Vô sắc, chứng các kiết đoạn. Hỏi: Nếu nghiệp không phải hệ thuộc nơi cõi Dục, thì nghiệp quả đó không hệ thuộc cõi Dục chăng? Đáp: Các nghiệp quả không hệ thuộc cõi Dục, nghiệp ấy cũng vậy. Có thể có nghiệp không phải hệ thuộc cõi Dục mà không phải là nghiệp quả của cõi Dục, nghĩa là do đạo cõi Sắc, làm thay đổi cõi Dục phát ra ngôn ngữ cõi Dục. Hỏi: Nếu nghiệp không hệ thuộc nơi cõi Sắc, thì nghiệp quả đó không hệ thuộc cõi Sắc chăng? Đáp: Các nghiệp không hệ thuộc cõi Sắc, nghiệp quả ấy cũng vậy. Có thể có nghiệp quả không hệ thuộc cõi Sắc mà không phải là nghiệp của cõi Sắc, nghĩa là do đạo cõi Sắc, làm thay đổi cõi Dục, phát ra ngôn ngữ cõi Dục, và do đạo nơi cõi Sắc chứng các kiết đoạn. Hỏi: Nếu nghiệp không hệ thuộc cõi Vô sắc, thì nghiệp quả đó không phải hệ thuộc cõi Vô sắc chăng? Đáp: Các nghiệp không hệ thuộc cõi Vô sắc, nghiệp quả ấy cũng vậy. Có thể có nghiệp quả không hệ thuộc cõi Vô sắc cũng không phải là nghiệp của cõi Vô sắc, nghĩa là do đạo cõi Vô sắc, chứng các kiết đoạn. Hỏi: Nếu nghiệp không phải không hệ thuộc, thì nghiệp quả đó không phải là không hệ thuộc chăng? Đáp: Các nghiệp quả không phải là không hệ thuộc, nghiệp đó cũng vậy. Có thể có nghiệp không phải là không hệ thuộc, cũng không phải là nghiệp quả kia, nghĩa là do đạo của cõi Sắc-Vô sắc, chứng các kiết đoạn. Hỏi: Có thể có nghiệp hữu lậu mà có quả là hữu lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là quả dị thục đẳng lưu. Hỏi: Có thể có nghiệp hữu lậu mà có quả là vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là quả ly hệ. Hỏi: Có thể có nghiệp hữu lậu mà có quả là hữu lậu-vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là quả ly hệ thuộc dị thục đẳng lưu. Hỏi: Có thể có nghiệp vô lậu mà có quả là vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là quả ly hệ đẳng lưu. Hỏi: Có thể có nghiệp vô lậu mà có quả là hữu lậu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có nghiệp vô lậu mà có quả là vô lậu, hữu lậu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có nghiệp hữu lậu-vô lậu mà có quả là hữu lậu-vô lậu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có nghiệp hữu lậu-vô lậu mà có quả là hữu lậu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có nghiệp hữu lậu-vô lậu mà có quả là vô lậu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có nghiệp học mà có quả là học chăng? Đáp: Có, nghĩa là quả đẳng lưu. Hỏi: Có thể có nghiệp học mà có quả là vô học chăng? Đáp: Có, nghĩa là quả đẳng lưu. Hỏi: Có thể có nghiệp học mà có quả là phi học phi vô học chăng? Đáp: Có, nghĩa là quả lìa sự hệ thuộc. Hỏi: Có thể có nghiệp vô học mà có quả là vô học chăng? Đáp: Có, nghĩa là quả đẳng lưu. Hỏi: Có thể có nghiệp vô học mà có quả là học chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có nghiệp vô học mà có quả là phi học phi vô học chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có nghiệp phi học phi vô học mà có quả là phi học phi vô học chăng? Đáp: Có, nghĩa là quả ly hệ thuộc dị thục đẳng lưu. Hỏi: Có thể có nghiệp phi học phi vô học mà có quả là học chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có nghiệp phi học phi vô học, mà có quả là vô học chăng? Đáp: Không có. Như Đức Thế Tôn nói: “Không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu tuệ”. Hỏi: Thế nào là không tu thân? Đáp: Nếu đối với thân chưa lìa tham dục, thêm nhiều khao khát vui thích, còn đạo vô gián có năng lực trừ tham sắc, mà người kia đối với đạo này lại không tu-không an. Hỏi: Thế nào là không tu giới? Đáp: Nếu đối với giới mà chưa lìa tham; nói rộng ra như thân. Hỏi: Thế nào là không tu tâm? Đáp: Nếu đối với tâm chưa lìa tham dục, thêm nhiều khao khát vui thích, còn tạo vô gián có năng lực trừ hết tham vô sắc, mà người kia đối với đạo này lại không tu-không an. Hỏi: Thế nào là không tu tuệ? Đáp: Nếu đối với tuệ mà chưa lìa tham, nói rộng như tâm. Hỏi: Nếu không tu thân thì lúc ấy không tu giới chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu không tu giới thì lúc ấy không tu thân chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu không tu thân thì lúc ấy không tu tâm chăng? Đáp: Đối với không tu thân, thì lúc ấy không tu tâm. Có lúc không tu tâm mà không phải là không tu thân, nghĩa là đã lìa sắc nhiễm, chưa lìa vô sắc nhiễm. Hỏi: Nếu không tu thân thì lúc ấy không tu tuệ chăng? Đáp: Đối với không tu thân, thì lúc ấy không tu tuệ. Có lúc không tu tuệ mà không phải là không tu thân, nghĩa là đã lìa sắc nhiễm, chưa lìa vô sắc nhiễm. Hỏi: Nếu không tu giới thì lúc ấy không tu tâm chăng? Đáp: Đối với không tu giới, thì lúc ấy không tu tâm. Có lúc không tu tâm mà không phải là không tu giới, nghĩa là đã lìa sắc nhiễm, chưa lìa vô sắc nhiễm. Hỏi: Nếu không tu giới thì lúc ấy không tu tuệ chăng? Đáp: Đối với không tu giới, thì lúc ấy không tu tuệ. Có lúc không tu tuệ mà không phải là không tu giới, nghĩa là đã lìa sắc nhiễm, chưa lìa vô sắc nhiễm. Hỏi: Nếu không tu tâm thì lúc ấy không tu tuệ chăng? Đáp: Đúng như vậy. Nếu không tu tuệ thì lúc ấy không tu tâm chăng? Đáp: Đúng như vậy. Như Đức Thế Tôn nói: “Tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ”. Hỏi: Thế nào là tu thân? Đáp: Nếu đối với thân đã lìa tham dục, lìa tăng thêm khao khát vui thú, còn đạo vô gián có năng lực trừ hết tham sắc, thì người kia đối với đạo này đã tu và đã an. Hỏi: Thế nào là tu giới? Đáp: Nếu đối với giới thì đã lìa tham; nói rộng ra như thân. Hỏi: Thế nào là tu tâm? Đáp: Nếu đối với tâm, đã lìa tham dục, lìa tăng thêm khao khát vui thú, còn đạo vô gián có năng lực trừ hết tham vô sắc, thì người kia đối với đạo này đã tu và đã an. Hỏi: Thế nào là tu tuệ? Đáp: Nếu đối với tuệ thì đã lìa tham, nói rộng ra như tâm. Hỏi: Nếu tu thân thì lúc ấy có tu giới chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu tu giới thì lúc ấy có tu thân chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu tu thân thì lúc ấy có tu tâm chăng? Đáp: Đối với tu tâm, thì lúc ấy có tu thân. Có lúc tu thân mà không phải là tu tâm, nghĩa là đã lìa sắc nhiễm, chưa lìa vô sắc nhiễm. Hỏi: Nếu tu thân thì lúc ấy có tu tuệ chăng? Đáp: Đối với tu tuệ, thì lúc ấy có tu thân. Có lúc tu thân mà không phải là tu tuệ, nghĩa là đã lìa sắc nhiễm, chưa lìa vô sắc nhiễm. Hỏi: Nếu tu giới thì lúc ấy tu tâm chăng? Đáp: Đối với tu tâm, thì lúc ấy có tu giới. Có lúc tu giới mà không phải là tu tâm, nghĩa là đã lìa sắc nhiễm, chưa lìa vô sắc nhiễm. Hỏi: Nếu tu giới thì lúc ấy tu tuệ chăng? Đáp: Đối với tu tuệ, thì lúc ấy có tu giới. Có lúc tu giới mà không phải là tu tuệ, nghĩa là đã lìa sắc nhiễm, chưa lìa vô sắc nhiễm. Hỏi: Nếu tu tâm thì lúc ấy tu tuệ chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu tu tuệ thì lúc ấy tu tâm chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu giới quá khứ, thì đó là thành tựu giới loại này ở hiện tại-vị lai chăng? Đáp: Có thành tựu giới quá khứ mà không phải là giới loại này ở hiện tại-vị lai, nghĩa là giới biểu đã diệt không mất, giới loại này không hiện ở trước mắt. Thành tựu giới quá khứ và vị lai mà không phải là hiện tại, nghĩa là giới vô lậu thuộc tónh lự đã diệt không mất, giới loại này không hiện ở trước mắt. Thành tựu giới quá khứ và hiện tại mà không phải là vị lai, nghĩa là giới biểu đã diệt không mất, giới loại này hiện ở trước mắt. Thành tựu giới quá khứ và hiện tại-vị lai, nghĩa là giới vô lậu thuộc tónh lự đã diệt không mất, giới loại này hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu giới vị lai, thì đó là thành tựu giới loại này ở quá khứ-hiện tại chăng? Đáp: Có thành tựu giới vị lai mà không phải là giới loại này ở quá khứ-hiện tại, nghĩa là A-la-hán sinh nơi cõi Vô sắc. Thành tựu giới vị lai và quá khứ mà không phải là hiện tại, nghĩa là giới vô lậu thuộc tónh lự đã diệt không mất, giới loại này không hiện ở trước mắt. Thành tựu giới vị lai và hiện tại mà không phải là quá khứ, nghĩa là giới vô lậu mới hiện ở trước mắt. Thành tựu giới vị lai và quá khứ-hiện tại, nghĩa là giới vô lậu thuộc tónh lự đã diệt không mất, giới loại này hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu giới hiện tại, thì đó là thành tựu giới loại này trong quá khứ, vị lai chăng? Đáp: Có thành tựu giới hiện tại mà không phải là giới loại này thuộc quá khứ, vị lai, nghĩa là giới biểu mới hiện ở trước mắt. Thành tựu giới hiện tại và quá khứ mà không phải là vị lai, nghĩa là giới biểu đã diệt không mất, giới loại này hiện ở trước mắt. Thành tựu giới hiện tại và vị lai mà không phải là quá khứ, nghĩa là giới vô lậu mới hiện ở trước mắt. Thành tựu giới hiện tại và quá khứ-vị lai, nghĩa là giới vô lậu thuộc tónh lự đã diệt không mất, giới loại này hiện ở trước mắt. ---------------- <詞>Phẩm 5: BÀN VỀ TỰ NGHIỆP nghĩa tự nghiệp thành tựu thế gian, Đối với dị thục thành rơi rụng, Trí tìm cách hại giữ và bỏ, Tâm loạn ràng buộc lời Phật dạy, Thư-số-toán-ấn cùng với thi, Thuộc về kỹ nghệ của thế gian, Thành tựu các giới học-vô học, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Thế nào là tự nghiệp? Đáp: Nếu nghiệp đã được, nay có dị thục và dị thục của nghiệp đã sinh đang thọ. Hỏi: Tự nghiệp là nghĩa gì? Đáp: Là nghĩa đạt được quả của mình, đẳng lưu của mình, dị thục của mình. Vả lại nghiệp này đã chiêu cảm dị thục, đối với tự mình nối tiếp nhau hiện rõ dị thục chứ không phải nơi khác; đối với tự mình nối tiếp nhau, dưỡng thuận theo dưỡng, dục thuận theo dục, hộ thuận theo hộ, chuyển thuận theo chuyển, ích thuận theo ích, cho nên gọi là tự nghiệp. Hỏi: Nếu nghiệp là tự nghiệp, thì nghiệp này nên nói là quá khứ- hiện tại hay vị lai chăng? Đáp: Nghiệp này nên nói là quá khứ. Hỏi: Nếu nghiệp là tự nghiệp, thì nghiệp này thành tựu chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có nghiệp là tự nghiệp mà nghiệp này không thành tựu, nghĩa là nghiệp đã đạt được, nay có dị thục và nghiệp của dị thục đã đang chính thọ, nghiệp này đã mất. Có nghiệp thành tựu mà nghiệp này, không phải là tự nghiệp, nghĩa là nghiệp không phải đã được, nay có dị thục, và nghiệp dị thục mà không phải là đã sinh đang thọ, nghiệp này không mất. Có nghiệp là tự nghiệp mà nghiệp này cũng thành tựu, nghĩa là nghiệp đã đạt được, nay có dị thục và nghiệp dị thục đã sinh đang thọ, nghiệp này không mất. Có nghiệp không phải là tự nghiệp mà nghiệp này cũng không thành tựu, nghĩa là nghiệp không phải đã đạt được, nay có dị thục và nghiệp dị thục mà không phải là đã sinh đang thọ, nghiệp này đã mất, không phải là cũng có, thì bốn câu biện giải ngược lại với trước, nên biết. Hỏi: Nếu nghiệp là tự nghiệp, thì nghiệp này nhất định sẽ thọ dị thục chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có nghiệp là tự nghiệp mà nghiệp này nhất định sẽ không thọ dị thục, nghĩa là nghiệp đã được, nay, có dị thục, và nghiệp dị thục đã sinh đang thọ, dị thục của nghiệp này đến phần vị sau cùng. Có nghiệp nhất định sẽ thọ dị thục mà nghiệp này không phải là tự nghiệp, nghĩa là nghiệp không phải đã được, nay có dị thục, và nghiệp dị thục không phải là đã sinh đang thọ, dị thục của nghiệp này chưa thành thục. Có nghiệp là tự nghiệp mà nghiệp này nhất dị thục của nghiệp này không định sẽ thọ dị thục, nghĩa là nghiệp đã được, nay có dị thục và nghiệp dị thục đã sinh đang thọ, đến phần vị sau cùng. Có nghiệp là tự không phải nghiệp mà nghiệp này nhất định sẽ không thọ dị thục, nghĩa là nghiệp không phải đã được, nay có dị thục và nghiệp dị thục không phải là đã sinh đang thọ, nghiệp dị thục này đã thành thục. Không phải là cũng có, thì bốn câu biện giải ngược lại với trước, nên biết. Phủ nhận (Phi) cũng có bốn luận chứng trái với trước, nên nói rộng. Hỏi: Nếu nghiệp thành tựu thì nghiệp này nhất định sẽ thọ dị thục chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có nghiệp thành tựu mà nghiệp này nhất định sẽ không thọ dị thục, nghĩa là dị thục của nghiệp thiện-bất thiện-hữu lậu thuộc quá khứ đã thành thục, nghiệp này không mất. Hoặc là nghiệp thiện-bất thiện-hữu lậu thuộc vị lai đã được, nhưng nhất định không sinh. Hoặc là nghiệp vô ký vô lậu đã thành tựu. Có nghiệp nhất định sẽ thọ dị thục mà nghiệp này không thành tựu, nghĩa là dị thục của nghiệp thiện-bất thiện-hữu lậu thuộc quá khứ chưa thành thục, nghiệp này đã mất. Hoặc là nghiệp bất thiện-thiện- hữu lậu thuộc vị lai không đạt được, mà nhất định sẽ sinh. Có nghiệp thành tựu mà nghiệp này nhất định sẽ thọ dị thục, nghĩa là dị thục của nghiệp thiện-bất thiện-hữu lậu thuộc quá khứ chưa thành thục, nghiệp này không mất. Hoặc là nghiệp thiện-bất thiện-hữu lậu thuộc vị lai đã được, cũng nhất định sẽ sinh; hoặc là nghiệp thiện- bất thiện-hữu lậu thuộc hiện tại. Có nghiệp không thành tựu mà nghiệp này nhất định sẽ không thọ dị thục, nghĩa là dị thục của nghiệp thiện-bất thiện-hữu lậu thuộc quá khứ đã thành thục, nghiệp này đã mất. Hoặc là nghiệp thiện-bất thiện-hữu lậu thuộc vị lai không đạt được, cũng nhất định chẳng sinh. Hoặc là nghiệp vô ký vô lậu không thành tựu. Không phải là cũng có, thì bốn câu biện giải ngược lại với trước, nên biết. Hỏi: Nếu người Dự lưu có nghiệp bất thiện có thể thuận với khổ thọ, dị thục chưa thành thục; lúc dị thục kia đã thành thục, phải đọa vào cõi ác. Vì đạo nào ngăn cản mà không đọa? Đáp: Do hai bộ kiết hệ thuộc, các hữu tình làm cho đọa vào cõi ác, nghĩa là kiết do kiến mà đoạn, do tu mà đoạn. Những người Dự lưu dù chưa vónh viễn đoạn kiết do tu đoạn, mà đã vónh viễn đoạn kiết do kiến đoạn, thiếu một tư lương cho nên không đọa cõi ác. Như chiếc xe đủ hai bánh thì có công dụng vận tải, như chim có hai cánh thì tự mình bay giữa hư không, thiếu một thì không như vậy; người Dự lưu cũng đúng như vậy. Như Đức Thế Tôn nói: “Đệ tử bậc Thánh của Ta nên tự xét kỹ, ghi nhận đã trừ hết mọi thứ hiểm nguy của ba cõi ác là địa ngục-bàng sinh-ngạ quỷ”. Hỏi: Những người Dự lưu vì có hiện trí nên có thể tự mình thẩm tra, biết rõ đã dứt hết mọi nguy hiểm nơi ba cõi ác là địa ngục-bàng sinh-ngạ quỷ mà tự mình ghi nhận chăng? Đáp: Không thể nào. Hỏi: Nếu vậy thì người Dự lưu tại sao biết được? Đáp: Vì tin lời Phật dạy, nghĩa là Đức Thế Tôn dạy: “Nếu có các đệ tử bậc Thánh học đa văn luôn luôn có thể thuận theo quán sát, nhận thấy trong tự thân, có bốn chứng tịnh hiện ở trước mắt, thì nên tự mình xét kỹ, ghi nhận là đã trừ hết mọi hầm hố hiểm nguy của ba cõi ác địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ”. Vả lại, người Dự lưu đã đạt được bốn trí, nghĩa là khổ-tập-diệt-đạo trí , chưa đạt được tận trí-vô sinh trí. Như Đức Thế Tôn dạy: “Do học mưu hại, Na-già-quán sát kỹ càng sau bảy ngày nữa, nhà Kiều-tát-la chắc chắn bị diệt hết”. Hỏi: Thế nào là học mưu hại? Đáp: Như người hữu học chưa lìa dục nhiễm, khi bị người khác làm hại, liền dấy lên ý nghó: “Nên khiến cho suy sụp hủy hoại, như mẹ mất đi con yêu”. Lại như người học đã lìa dục nhiễm, khi bị người khác làm hại, từ lìa dục bị lui sụt, dấy lên ý nghó rằng: Nên làm cho suy sụp hủy hoại, như mẹ mất đi con yêu quý”. Hỏi: Những cái học mưu hại, quả nhất định thành tựu chăng? Đáp: Điều này không quyết định. Nếu các hữu tình tạo tác tăng trưởng uy thế to lớn, nghiệp dị thục hiện ở trước mắt, thì quả không thành tựu. Hỏi: Thế nào là Bí-sô lưu lại hành sống lâu? Đáp: nghĩa là A-la-hán thành tựu thần thông, tâm được tự tại, hoặc đối với chúng Tăng, hoặc người khác dùng y bát giúp cho; hoặc vì thuận theo lời dạy của một Sa-môn duyên vào đồ vật bố thí. Thí xong, phát nguyện, tức thì tiến vào cảnh giới tận cùng thuộc tónh lự thứ tư. Từ định đứng dậy tâm nghó, miệng nói: Nếu mình có năng lực cảm được nghiệp dị thục giàu có, thì nguyện chuyển quả này dẫn đến quả dị thục sống lâu”. Lúc ấy, A-la-hán có năng lực dẫn đến nghiệp dị thục giàu có, thì chuyển đổi có năng lực dẫn đến quả dị thục sống lâu. Hỏi: Thế nào là Bí-sô xả bỏ hành sống lâu? Đáp: nghĩa là A-la-hán thành tựu thần thông, tâm được tự tại, bố thí như trước, thí xong phát nguyện, liền tiến vào cảnh giới tận cùng thuộc tónh lự thứ tư. Từ định đứng lên, tâm nghó, miệng nói: “Nếu mình có năng lực cảm được nghiệp dị thục sống lâu, thì nguyện chuyển quả này dẫn đến quả dị thục giàu có. Lúc ấy, A-la-hán có năng lực dẫn đến nghiệp dị thục sống lâu, thì chuyển đổi có năng lực dẫn đến quả dị thục giàu có. Hỏi: Thế nào là tâm cuồng loạn? Đáp: nghĩa là do thế lực của bốn duyên bức bách, làm cho tâm cuồng loạn. Do hàng phi nhân hiện rõ hình tướng xấu ác, gặp rồi, cảm thấy sợ hãi, khiến cho tâm cuồng loạn. Do hàng phi nhân phẫn nộ, đánh đập, thân thể bị bức bách do chịu đựng đau khổ, khiến cho tâm cuồng loạn. Do đại chủng trái ngược với nhau làm cho tâm cuồng loạn. Do nghiệp dị thục trước kia, khiến cho tâm cuồng loạn. Hỏi: Triền nào tương ưng với pháp thì đều là bất thiện chăng? Đáp: Vô tàm-vô quý. Hỏi: Phật giảng dạy đúng như vậy nào? Đáp: nghĩa là ngữ lộ-ngữ âm-ngữ nghiệp-ngữ biểu của Đức Phật thuyết giảng-bình luận-khuyên nhắc, đó gọi là Đức Phật giảng dạy- giáo hóa. Hỏi: Lời giáo huấn của Đức Phật, nên nói là thiện hay là vô ký? Đáp: Hoặc thiện, hoặc vô ký. Thế nào là thiện? nghĩa là tâm thiện của Đức Phật đã phát ra ngữ ngôn, cho đến ngữ biểu. Thế nào là vô ký? nghĩa là tâm vô ký của Phật đã phát ra ngữ ngôn, cho đến ngữ biểu. Hỏi: Lời giáo huấn của Đức Phật được gọi là pháp nào? Đáp: Danh thân-Cú thân-Văn thân, sắp xếp thuận theo thứ tự, bố trí hài hòa thuận theo thứ tự, kết hợp với nhau thuận theo thứ tự. Hỏi: Khế kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Già tha, Tự thuyết, Nhân duyên, Thí dụ, Bổn sự, Bổn sinh, Phương quang, Pháp hy hữu, Luận nghị được gọi là pháp nào? Đáp: Danh thân-Cú thân-Văn thân, sắp xếp thuận theo thứ tự, bố trí hài hòa thuận theo thứ tự, kết hợp với nhau thuận theo thứ tự. Hỏi: Thư là gọi cho pháp nào? Đáp: Như lý chuyển biến thuộc thân nghiệp và thân nghiệp ấy đã dựa vào các trí phương tiện khéo léo. Hỏi: Số là gọi cho pháp nào? Đáp: Như lý chuyển biến thuộc ý nghiệp và ý nghiệp ấy đã dựa vào các trí phương tiện khéo léo. Hỏi: Toán là gọi cho pháp nào? Đáp: Như lý chuyển biến thuộc ngữ nghiệp và ngữ nghiệp ấy đã dựa vào các trí phương tiện khéo léo. Hỏi: Ấn là gọi cho pháp nào? Đáp: Như lý chuyển biến thuộc thân nghiệp và thân nghiệp ấy đã dựa vào các trí phương tiện khéo léo. Hỏi: Thi là gọi cho pháp nào? Đáp: Như lý chuyển biến thuộc ngữ nghiệp và ngữ nghiệp ấy đã dựa vào các trí phương tiện khéo léo. Hỏi: Đối với tất cả các loại việc làm tinh xảo của thế gian là gọi cho pháp nào? Đáp: Tuệ là sự tạo tác đầu tiên đối với tất cả các loại việc làm tinh xảo và tuệ ấy đã dựa vào các trí phương tiện khéo léo. Hỏi: Nếu thành tựu giới học, thì lúc ấy thành tựu giới phi học phi vô học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu giới học mà không phải là giới phi học phi vô học, nghĩa là người học sinh nơi cõi Vô sắc. Có thành tựu giới phi học phi vô học mà không phải là giới học, nghĩa là A-la-hán và các phàm phu sinh nơi cõi Dục-sắc. Có thành tựu giới học mà cũng là giới phi học phi vô học, nghĩa là người học sinh nơi cõi Dục-sắc. Không thành tựu giới học, cũng không phải là giới phi học phi vô học, nghĩa là A-la-hán và các phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu giới vô học, thì lúc ấy thành tựu giới phi học phi vô học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu giới vô học mà không phải là giới phi học phi vô học, nghĩa là A-la-hán sinh nơi cõi Vô sắc. Có thành tựu giới phi học phi vô học mà không phải là giới vô học, nghĩa là những người học và các phàm phu sinh nơi cõi Dục-sắc. Có thành tựu giới vô học mà cũng là giới phi học phi vô học, nghĩa là A-la-hán sinh nơi cõi Dục-sắc. Không thành tựu giới vô học cũng không phải là giới phi học phi vô học, nghĩa là những người học và các phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc.  <卷>QUYỂN 13 <章>Chương 5: ĐẠI CHỦNG UẨN <詞>Phẩm 1: BÀN VỀ ĐẠI TẠO Xứ do bốn đại chủng tạo ra, Có bao nhiêu bốn-hai-năm-ba, Đại tạo thành tựu-không thành tựu, Đại thành tựu đối với bốn tạo, Chỉ thành tựu bốn đại sở tạo, Đại chủng và tất cả bảy loại, Dựa vào định diệt và trụ quả, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Xứ do đại chủng tạo, bao nhiêu hữu kiến? Đáp: Một. Hỏi: Bao nhiêu vô kiến? Đáp: Tám và phần ít của hai xứ. Hỏi: Bao nhiêu hữu đối? Đáp: Chín và phần ít của một xứ. Hỏi: Bao nhiêu vô đối? Đáp: Phần ít của một xứ. Hỏi: Bao nhiêu hữu lậu? Đáp: Chín và phần ít của hai xứ. Hỏi: Bao nhiêu vô lậu? Đáp: Phần ít của một xứ. Hỏi: Bao nhiêu hữu vi? Đáp: Chín và phần ít của hai xứ. Hỏi: Bao nhiêu vô vi? Đáp: Không có. Hỏi: Bao nhiêu quá khứ? Đáp: Mười và phần ít của một xứ. Hỏi: Bao nhiêu vị lai? Đáp: Mười và phần ít của một xứ. Hỏi: Bao nhiêu hiện tại? Đáp: Mười và phần ít của một xứ. Hỏi: Bao nhiêu thiện? Đáp: Phần ít của ba xứ. Hỏi: Bao nhiêu bất thiện? Đáp: Phần ít của ba xứ. Hỏi: Bao nhiêu vô ký? Đáp: Bảy và phần ít của ba xứ. Hỏi: Bao nhiêu hệ thuộc cõi Dục? Đáp: Hai phần ít của chín. Hỏi: Bao nhiêu hệ thuộc cõi Sắc? Đáp: Phần ít của chín. Hỏi: Bao nhiêu hệ thuộc cõi Vô sắc? Đáp: Không có. Hỏi: Bao nhiêu học? Đáp: Phần ít của một. Hỏi: Bao nhiêu vô học? Đáp: Phần ít của một xứ. Hỏi: Bao nhiêu phi học phi vô học? Đáp: Chín và phần ít của hai xứ. Hỏi: Bao nhiêu do kiến đoạn? Đáp: Không có. Hỏi: Bao nhiêu do tu đoạn? Đáp: Chín và phần ít của hai xứ. Hỏi: Bao nhiêu không đoạn? Đáp: Phần ít của một xứ. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì lúc ấy thành tựu sắc do bốn đại tạo ra (Sở tạo sắc) chăng? Đáp: Thành tựu các đại chủng, thì lúc ấy nhất định thành tựu sắc sở tạo. Có thành tựu sắc sở tạo mà không phải là đại chủng, nghĩa là các Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu không phải là đại chủng, thì lúc ấy không phải là sắc sở tạo chăng? Đáp: Đối với không phải là sắc sở tạo, thì lúc ấy không phải là đại chủng. Có lúc không phải là đại chủng mà cũng không phải là sắc sở tạo, nghĩa là Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì lúc ấy thành tựu sắc thiện chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu đại chủng mà không phải là sắc thiện, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc các phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, thì sẽ trụ nơi không luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, không có thân-ngữ biểu thiện, giả sử có mà mất. Có thành tựu sắc thiện mà không phải là đại chủng, nghĩa là Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Có thành tựu đại chủng cũng là sắc thiện, nghĩa là các Thánh giả ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu thiện, hoặc trước có không mất; hoặc sinh nơi cõi Sắc. Không phải là đại chủng, cũng không phải là sắc thiện, nghĩa là phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng thì lúc ấy thành tựu sắc bất thiện chăng? Đáp: Có thành tựu sắc bất thiện, A-la-hán kia nhất định sẽ thành tựu đại chủng. Có thành tựu đại chủng không phải là sắc bất thiện, ng- hóa là ở trong vỏ trứng và ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, không có thân-ngữ biểu bất thiện, giả sử có mà mất; hoặc sinh nơi cõi Sắc. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì lúc ấy thành tựu sắc hữu phú vô ký chăng? Đáp: Đối với thành tựu sắc hữu phú vô ký, A-la-hán kia nhất định sẽ thành tựu đại chủng. Có thành tựu đại chủng mà không phải là sắc hữu phú vô ký, nghĩa là sinh nơi cõi Dục; hoặc sinh nơi cõi Sắc, hiện không có thân-ngữ biểu hữu phú vô ký. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì lúc ấy thành tựu sắc vô phú vô ký chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu sắc vô phú vô ký, thì lúc ấy thành tựu đại chủng chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì lúc ấy thành tựu sắc thiện-bất thiện chăng? Đáp: Có thành tựu đại chủng mà không phải là sắc thiện-bất thiện, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, không có thân-ngữ biểu thiện và bất thiện, giả sử có mà mất. Có thành tựu đại chủng cũng là sắc thiện mà không phải là sắc bất thiện, nghĩa là sắc bất thiện, nghĩa là Thánh giả trú trong thai tạng; hoặc sinh nơi cõi Dục, trú vào luật nghi, không có thân-ngữ biểu bất thiện, giả sử có mà mất; hoặc trú vào nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu thiện, hoặc trước có mà không mất, không có thân-ngữ biểu bất thiện, giả sử có mà mất; hoặc sanh thuộc cõi Sắc. Có thành tựu đại chủng cũng là sắc bất thiện mà không phải là sắc thiện, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi, không có thân-ngữ biểu thiện, giả sử có mà mất; hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu bất thiện, hoặc trước có mà không mất, không có thân-ngữ biểu thiện, giả sử có mà mất. Có thành tựu đại chủng cũng là sắc thiện và bất thiện, nghĩa là sinh nơi cõi Dục trú trong luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu bất thiện, hoặc trước có mà không mất; hoặc trú nơi không luật nghi, hiện có thân- ngữ biểu thiện, hoặc trước có mà không mất; hoặc trú nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu thiện và bất thiện, hoặc trước có mà không mất. Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện-bất thiện, thì lúc ấy thành tựu đại chủng chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì lúc ấy thành tựu sắc thiện-hữu phú vô ký chăng? Đáp: Có thành tựu đại chủng, không phải là sắc thiện-hữu phú vô ký, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi không luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, không có thân-ngữ biểu thiện, giả sử mà mất. Có thành tựu đại chủng và sắc thiện, không phải là sắc hữu phú vô ký, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu thiện, hoặc trước có màkhông mất; hoặc sinh nơi cõi Sắc hiện không có thân-ngữ biểu hữu phú vô ký. Có thành tựu đại chủng cũng là sắc thiện-hữu phú vô ký, nghĩa là sinh nơi cõi Sắc hiện có thân-ngữ biểu hữu phú vô ký. Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện-hữu phú vô ký, thì lúc ấy thành tựu đại chủng chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì lúc ấy thành tựu sắc thiện-vô phú vô ký chăng? Đáp: Có thành tựu đại chủng, cũng là sắc vô phú vô ký mà không phải là sắc thiện, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi không luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, không có thân-ngữ biểu thiện, giả sử mà mất. Có thành tựu đại chủng cũng là sắc thiện-vô phú vô ký, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu thiện, hoặc trước có mà không mất. Hoặc sinh nơi cõi Sắc hiện không có thân-ngữ biểu vô phú vô ký. Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện-vô phú vô ký, thì lúc ấy thành tựu đại chủng chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì lúc ấy thành tựu sắc bất thiện- hữu phú vô ký chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì lúc ấy thành tựu sắc bất thiện- vô phú vô ký chăng? Đáp: Có thành tựu đại chủng cũng là sắc vô phú vô ký mà không phải là sắc bất thiện, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, không có thân-ngữ biểu bất thiện, giả sử mà mất; hoặc sinh nơi cõi Sắc. Có thành tựu đại chủng cũng là sắc bất thiện-vô phú vô ký, nghĩa là hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi, hoặc trụ nơi luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện có thân- ngữ biểu bất thiện, hoặc trước có mà không mất. Hỏi: Nếu thành tựu sắc bất thiện-vô phú vô ký, thì lúc ấy thành tựu đại chủng chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì lúc ấy thành tựu sắc hữu phú vô ký và vô phú vô ký chăng? Đáp: Có thành tựu đại chủng, cũng là sắc vô phú vô ký mà không phải là sắc hữu phú vô ký, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, hoặc sinh nơi cõi Sắc hiện không có thân-ngữ biểu hữu phú vô ký. Có thành tựu đại chủng cũng là sắc hữu phú vô ký và vô phú vô ký, nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, hiện có thân-ngữ biểu hữu phú vô ký. Hỏi: Nếu thành tựu sắc hữu phú vô ký và vô phú vô ký, thì lúc ấy thành tựu đại chủng chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì lúc ấy thành tựu sắc thiện-bất thiện-hữu phú vô ký chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì lúc ấy thành tựu sắc thiện-bất thiện-vô phú vô ký chăng? Đáp: Có thành tựu đại chủng, cũng là sắc vô phú vô ký mà không phải là sắc thiện-bất thiện, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, không có thân-ngữ biểu thiện-bất thiện, giả sử mà mất. Có thành tựu đại chủng, cũng là sắc thiện-vô phú vô ký, không phải là sắc bất thiện, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, không có thân-ngữ-biểu bất thiện, giả sử mà mất; hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi hiện có thân-ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có mà không mất, không có thân-ngữ biểu bất thiện, giả sử mà mất; hoặc sinh nơi cõi Sắc Có thành tựu đại chủng cũng là sắc bất thiện-vô phú vô ký mà không phải là sắc thiện, nghĩa là sinh nơi cõi Dục trụ nơi không luật nghi, không có thân-ngữ biểu thiện, giả sử mà mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi hiện có thân-ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có mà không mất, không có thân-ngữ biểu thiện, giả sử mà mất. Có thành tựu đại chủng cũng là sắc thiện-bất thiện-vô phú-vô ký, nghĩa là sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có mà không mất, hoặc trụ nơi không luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có mà không mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi hiện có thân- ngữ biểu thiện-bất thiện, hoặc trước đã có mà không mất. Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện-bất thiện-vô phú vô ký, thì lúc ấy thành tựu đại chủng chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì lúc ấy thành tựu sắc thiện hữu phú vô ký và vô phú vô ký chăng? Đáp: Có thành tựu đại chủng cũng là sắc vô phú vô ký mà không phải là sắc thiện-hữu phú vô ký, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi không luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, không có thân-ngữ biểu thiện, giả sử mà mất. Có thành tựu đại chủng, cũng là sắc thiện-vô phú vô ký, không phải sắc hữu phú vô ký, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi hiện có thân-ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có mà không mất; hoặc sinh nơi cõi Sắc, hiện không có thân-ngữ biểu hữu phú vô ký. Có thành tựu đại chủng cũng là sắc thiện-hữu phú vô ký và vô phú vô ký, nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, hiện có thân-ngữ biểu hữu phú vô ký. Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện hữu phú vô ký và vô phú vô ký, thì lúc ấy thành tựu đại chủng chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì lúc ấy thành tựu sắc bất thiện- hữu phú vô ký và vô phú vô ký chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, thì Lúc ấy thành tựu sắc thiện-bất thiện-hữu phú vô ký và vô phú vô ký chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện, thì Lúc ấy thành tựu sắc bất thiện chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu sắc thiện, không phải là sắc bất thiện, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, không có thân-ngữ biểu bất thiện, giả sử mà mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi hiện có thân-ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có mà không mất, không có thân-ngữ biểu bất thiện, giả sử mà mất; hoặc sinh nơi cõi Sắc, hoặc Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Có thành tựu sắc bất thiện mà không phải là sắc thiện, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi, không có thân-ngữ biểu thiện, giả sử mà mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi hiện có thân-ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có mà không mất, không có thân-ngữ biểu thiện, giả sử mà mất. Có thành tựu sắc thiện cũng là sắc bất thiện, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có mà không mất. Nếu đã trụ nơi không luật nghi hiện có thân-ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có mà không mất. Nếu đã trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện có thân-ngữ thiện-bất thiện, hoặc trước đã có mà không mất. Không phải là sắc thiện và sắc bất thiện, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, không có thân-ngữ biểu thiện-bất thiện, giả sử mà mất, hoặc phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện, thì Lúc ấy thành tựu sắc hữu phú vô ký chăng? Đáp: Đối với thành tựu sắc hữu phú vô ký, Thánh giả kia nhất định sẽ thành tựu sắc thiện. Hoặc đã thành tựu sắc thiện mà không phải là sắc hữu phú vô ký, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi và không phải là không luật nghi không phải là luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có mà không mất, hoặc sinh nơi cõi Sắc hiện không có thân-ngữ biểu hữu phú vô ký; hoặc Thánh giả sinh nơi cõi vô sắc Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện mà thì Lúc ấy phải là sắc vô phú vô ký chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu sắc thiện mà không phải là sắc vô phú vô ký, nghĩa là Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Có thành tựu sắc vô phú vô ký mà không phải là sắc thiện, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, không có thân-ngữ biểu thiện, giả sử mà mất. Có thành tựu sắc thiện cũng là sắc vô phú vô ký, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi. Hoặc trụ nơi không luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có mà không mất. Không phải là sắc thiện và sắc vô phú vô ký, nghĩa là phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện, thì Lúc ấy thành tựu sắc bất thiện- hữu phú vô ký chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện, thì Lúc ấy thành tựu sắc bất thiện- vô phú vô ký chăng? Đáp: Có thành tựu sắc thiện mà không phải là sắc bất thiện-vô phú vô ký, nghĩa là Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Có thành tựu sắc thiện cũng là sắc vô phú vô ký mà không phải là sắc bất thiện, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, không có thân-ngữ biểu bất thiện, giả sử mà mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có mà không mất, không có thân- ngữ biểu bất thiện, giả sử mà mất; hoặc sinh nơi cõi sắc. Có thành tựu sắc thiện cũng là sắc bất thiện-vô phú vô ký, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có mà không mất. Hoặc trụ nơi không luật nghi hiện có thân-ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có mà không mất; hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu thiện-bất thiện, hoặc trước đã có mà không mất. Hỏi: Nếu thành tựu sắc bất thiện-vô phú vô ký, thì Lúc ấy thành tựu sắc thiện chăng? Đáp: Hoặc thành tựu, hoặc không phải là. Thế nào là thành tựu? Tức là như trên đã nói. Thế nào là không phải là? nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi, không có thân-ngữ biểu thiện, giả sử mà mất; hoặc trú nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, hiện có thân-ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có mà không mất, không có thân-ngữ biểu thiện, giả sử có mà mất. Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện, thì Lúc ấy thành tựu sắc hữu phú vô ký và vô phú vô ký chăng? Đáp: Có thành tựu sắc thiện mà không phải là sắc hữu phú vô ký và vô phú vô ký, nghĩa là Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Có thành tựu sắc thiện, cũng là sắc vô phú vô ký, không phải là sắc hữu phú vô ký, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi hiện có thân-ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có mà không mất; hoặc sinh nơi cõi Sắc hiện không có thân-ngữ biểu hữu phú vô ký. Có thành tựu sắc thiện cũng là sắc hữu phú vô ký và vô phú vô ký, nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, hiện có thân-ngữ biểu hữu phú vô ký. Hỏi: Nếu thành tựu sắc hữu phú vô ký và vô phú vô ký, thì Lúc ấy thành tựu sắc thiện chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện, thì Lúc ấy thành tựu sắc bất thiện- hữu phú vô ký và vô phú vô ký chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Nếu thành tựu sắc bất thiện, thì Lúc ấy thành tựu sắc hữu phú vô ký chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Nếu thành tựu sắc bất thiện, thì Lúc ấy thành tựu sắc vô phú vô ký chăng? Đáp: Đối với thành tựu sắc bất thiện, Thánh giả kia nhất định sẽ thành tựu sắc vô phú vô ký. Có thành tựu sắc vô phú vô ký mà không phải là sắc bất thiện, nghĩa là ở trong vỏ trứng, trụ trong thai tạng; hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi và không phải luật nghi không phải là không luật nghi, không có thân-ngữ biểu bất thiện, giả sử mà mất; hoặc sinh nơi cõi Sắc. Hỏi: Nếu thành tựu sắc bất thiện thì lúc ấy thành tựu sắc hữu phú vô ký và vô phú vô ký chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Nếu thành tựu sắc hữu phú vô ký, thì Lúc ấy thành tựu sắc vô phú vô ký chăng? Đáp: Đối với thành tựu sắc hữu phú vô ký, thì lúc ấy nhất định sẽ thành tựu sắc vô phú vô ký. Có thành tựu sắc vô phú vô ký mà không phải là sắc hữu phú vô ký, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, hoặc sinh nơi cõi Sắc, hiện không có thân-ngữ biểu hữu phú vô ký. Hỏi: Đối với bốn đại chủng và sắc sở tạo, thì Lúc ấy dựa vào định nào diệt? Đáp: Dựa vào bốn định, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Hỏi: Tầm tứ hữu đối xúc, dựa vào định nào diệt? Đáp: Dựa vào định thứ nhất, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Hỏi: Lạc căn dựa vào định nào diệt? Đáp: Dựa vào ba định, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Hỏi: Hỷ căn dựa vào định nào diệt? Đáp: Dựa vào hai định, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Hỏi: Khổ căn, ưu căn, đoan thực dựa vào định nào diệt? Đáp: Dựa vào vị chí mà diệt. Hỏi: Xả căn-xúc-tư-thức thực dựa vào định nào diệt? Đáp: Dựa vào bảy định, hoặc dựa vào vị chí mà diệt. Hỏi: Đối với bốn đại chủng và sắc sở tạo, tầm-từ-hữu đối-xúc-lạc căn-hỷ căn, đã đoạn, đã biết khắp, nên nói trụ quả nào? Đáp: Quả A-la-hán, hoặc vô sở trụ. Hỏi: Khổ căn-ưu căn-đoàn thực, đã đoạn-đã biết khắp, nên nói trụ quả nào? Đáp: Quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc vô sở trụ. Hỏi: Xả căn-xúc-tư-thức thực đã đoạn-đã biết khắp, nên nói trụ quả nào? Đáp: Quả A-la-hán. ------------------- <詞>Phẩm 2: BÀN VỀ DUYÊN Đại chủng tạo ra-căn-xứ-tâm, Đối với nhau có bao nhiêu duyên, Tương ưng đại chủng tạo ba đời, Thế giới biện giải làm thành duyên, Đại chủng cùng với sắc sở tạo, Giới và thế làm thành đồng-dị, Bốn thể thâu nhiếp vào xứ-thức, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Đại chủng và đại chủng là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng và sắc sở tạo là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở tạo và sắc sở tạo là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở tạo và đại chủng là bao nhiêu duyên Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng và tâm-tâm sở pháp là bao nhiêu duyên Đáp: Sở duyên tăng thượng. Hỏi: Tâm-tâm sở pháp và tâm-tâm sở pháp là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân đẳng vô gián, sở duyên tăng thượng. Hỏi: Tâm-tâm sở pháp và đại chủng là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng và nhãn xứ là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Nhãn xứ và nhãn xứ là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Nhãn xứ và đại chủng là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Như nhãn xứ, nhó-tỷ-thiệt-thân-hương-vị xứ cũng vậy. Hỏi: Đại chủng và sắc xứ là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc xứ và sắc xứ là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc xứ và đại chủng là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Như sắc xứ, xứ thanh, xúc cũng vậy. Hỏi: Đại chủng và ý xứ là bao nhiêu duyên? Đáp: Sở duyên tăng thượng. Hỏi: Ý xứ và ý xứ là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân đẳng vô gián, sở duyên tăng thượng. Hỏi: Ý xứ và đại chủng là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng và pháp xứ là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân, sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp xứ và pháp xứ là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân đẳng vô gián, sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp xứ và đại chủng là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng và nhãn căn là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Nhãn căn và đại chủng là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Như nhãn căn, nhó-tỷ-thiệt-thân-nam-nữ căn cũng như vậy. Hỏi: Đại chủng và mạng căn là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Mạng căn và đại chủng là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Đại chủng và ý căn là bao nhiêu duyên? Đáp: Sở duyên tăng thượng. Hỏi: Ý căn và đại chủng là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Như ý căn-lạc-khổ-hỷ-ưu-xả-tín-tinh tiến-niệm-định-tuệ căn cũng như vậy. Hỏi: Đại chủng và vị tri-đương tri căn là bao nhiêu duyên? Đáp: Sở duyên tăng thượng. Hỏi: Vị tri-đương tri căn và đại chủng là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Như vị tri-đương tri căn, dó tri căn, cụ tri căn cũng như vậy. Hỏi: Vì sao bốn đại chủng, cùng sinh-cùng trụ-cùng diệt mà lại không tương ưng? Còn tâm-tâm sở pháp thì cùng sinh-cùng trụ-cùng diệt, lại gọi là tương ưng? Đáp: Như bốn đại chủng hoặc giảm hoặc tăng, còn tâm-tâm sở pháp thì không như vậy. Vả lại, tâm-tâm sở pháp đều có sở duyên, bốn đại chủng không có sở duyên, không phải là pháp không có sở duyên để có thể nói tương ưng. Hỏi: Có thể có đại chủng quá khứ tạo ra sắc quá khứ, tạo ra sắc vị lai, hay là tạo ra sắc hiện tại chăng? Đáp: Đều có. Hỏi: Có thể có đại chủng vị lai tạo ra sắc vị lai, tạo ra sắc quá khứ, hay là tạo ra sắc hiện tại chăng? Đáp: Vị lai có, quá khứ và hiện tại không có. Hỏi: Có thể có đại chủng hiện tại tạo ra sắc hiện tại, tạo ra sắc quá khứ, hay là tạo ra sắc vị lai chăng? Đáp: Hiện tại và vị lai có, quá khứ không có. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng quá khứ, thì Lúc ấy thành tựu sắc sở quá khứ tạo ra chăng? Đáp: Không có thành tựu đại chủng quá khứ, có thành tựu sắc sở quá khứ tạo ra, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi, hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi trước có thân-ngữ biểu không mất, hoặc sinh nơi cõi Sắc, hoặc những người học đã sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng quá khứ, thì Lúc ấy thành tựu đại chủng vị lai chăng? Đáp: Không có thành tựu đại chủng quá khứ-vị lai. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng quá khứ, thì Lúc ấy thành tựu sắc sở vị lai tạo ra chăng? Đáp: Không có thành tựu đại chủng quá khứ mà có thành tựu sắc sở vị lai tạo ra, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, được tâm thiện thuộc cõi Sắc; hoặc sinh nơi cõi Sắc, hoặc Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng quá khứ, thì Lúc ấy thành tựu đại chủng hiện tại chăng? Đáp: Không có thành tựu đại chủng quá khứ mà có thành tựu đại chủng hiện tại, nghĩa là sinh nơi cõi Dục-Sắc. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng quá khứ, thì Lúc ấy thành tựu sắc sở hiện tại tạo ra chăng? Đáp: Không có thành tựu đại chủng quá khứ, có thành tựu sắc sở hiện tại tạo ra, nghĩa là sinh nơi cõi Dục-Sắc. Hỏi: Nếu thành tựu sắc sở quá khứ tạo ra, thì Lúc ấy thành tựu đại chủng vị lai chăng? Đáp: Không có thành tựu đại chủng vị lai, có thành tựu sắc sở quá khứ tạo ra, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục trụ nơi luật nghi. Hoặc trụ nơi không luật nghi, hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, trước có thân-ngữ biểu không mất, hoặc sinh nơi cõi Sắc, hoặc những người học đã sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu sắc sở quá khứ tạo ra, thì Lúc ấy thành tựu sắc sở vị lai tạo ra chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu sắc sở quá khứ tạo ra, không phải là sắc sở vị lai tạo ra, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, không được tâm thiện thuộc cõi Sắc; hoặc trụ nơi không luật nghi, hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, trước có thân-ngữ biểu không mất. Có thành tựu sắc sở vị lai tạo ra mà không phải là sắc sở quá khứ tạo ra, nghĩa là A-la-hán sinh nơi cõi Vô sắc. Có thành tựu sắc sở quá khứ tạo ra, cũng là sắc sở vị lai tạo ra, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, đạt được tâm thiện thuộc cõi Sắc; hoặc sinh nơi cõi Sắc, hoặc những người học sinh nơi cõi Vô sắc. Không phải là sắc sở quá khứ tạo ra, cũng không phải là sắc sở vị lai tạo ra, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, trước đó không có thân-ngữ biểu, giả sử mà mất; hoặc phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu sắc sở quá khứ tạo ra, thì Lúc ấy thành tựu đại chủng hiện tại chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu sắc sở quá khứ tạo ra, không phải là đại chủng hiện tại, nghĩa là người học sinh cõi Vô sắc. Có thành tựu đại chủng hiện tại, không phải là sắc sở quá khứ tạo ra, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, trước đó không có thân-ngữ biểu, giả sử mà mất. Có thành tựu sắc sở quá khứ tạo ra cũng là đại chủng hiện tại, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi, hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, trước đó có thân-ngữ biểu không mất, hoặc sinh nơi cõi Sắc. Không phải là sắc sở quá khứ tạo ra cũng không phải là đại chủng hiện tại, nghĩa là A-la-hán, hoặc phàm phu sinh cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu sắc sở quá khứ tạo ra, thì A-la-hán sẽ thành tựu sắc sở hiện tại tạo ra chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu sắc sở quá khứ tạo ra, không phải là sắc sở hiện tại tạo ra, nghĩa là người học đã sinh nơi cõi Vô sắc. Có thành tựu sắc sở hiện tại tạo ra, không phải là sắc sở quá khứ tạo ra, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi, trước không có thân-ngữ biểu, giả sử có mà mất. Có thành tựu sắc sở quá khứ tạo ra, cũng là sắc sở hiện tại tạo ra, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi, hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải là không luật nghi trước có thân-ngữ biểu không mất, hoặc sinh nơi cõi Sắc. Không phải là sắc sở quá khứ tạo ra, cũng không phải là sắc sở vị lai tạo ra, nghĩa là A-la-hán, hoặc phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng vị lai, thì lúc ấy thành tựu sắc sở vị lai tạo ra chăng? Đáp: Không có thành tựu đại chủng vị lai, có thành tựu sắc sở vị lai tạo ra, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, được tâm thiện thuộc cõi Sắc, hoặc sinh nơi cõi Sắc; hoặc Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng vị lai, thì Lúc ấy thành tựu đại chủng hiện tại chăng? Đáp: Không có thành tựu đại chủng vị lai. Có thành tựu đại chủng hiện tại, nghĩa là sinh nơi cõi Dục-Sắc. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng vị lai, thì Lúc ấy thành tựu sắc sở hiện tại tạo ra chăng? Đáp: Không có thành tựu đại chủng vị lai. Có thành tựu sắc sở hiện tại tạo ra, nghĩa là sinh nơi cõi Dục-Sắc. Hỏi: Nếu thành tựu sắc sở vị lai tạo ra, thì Lúc ấy thành tựu đại chủng hiện tại chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu sắc sở vị lai tạo ra, không phải là đại chủng hiện tại, nghĩa là Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Có thành tựu đại chủng hiện tại, không phải là sắc sở vị lai tạo ra, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc các phàm phu ổ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục không được tâm thiện thuộc cõi Sắc. Có thành tựu sắc sở vị lai tạo ra, cũng là đại chủng hiện tại, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục được tâm thiện thuộc cõi Sắc, hoặc sinh nơi cõi Sắc. Không phải là sắc sở vị lai tạo ra cũng không phải là đại chủng hiện tại, nghĩa là các phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu sắc sở vị lai tạo ra, thì Lúc ấy thành tựu sắc sở hiện tại tạo ra chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu sắc sở vị lai tạo ra mà không phải là sắc sở hiện tại tạo ra, nghĩa là Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. Có thành tựu sắc sở hiện tại tạo ra, không phải là sắc sở vị lai tạo ra, nghĩa là ở trong vỏ trứng, hoặc các phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục không được tâm thiện thuộc cõi Sắc. Có thành tựu sắc sở vị lai tạo ra, cũng là sắc sở hiện tại tạo ra, nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục được tâm thiện thuộc cõi Sắc; hoặc sinh nơi cõi Sắc. Không phải là sắc sở vị lai tạo ra, cũng không phải là sắc sở hiện tại tạo ra, nghĩa là phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng hiện tại, thì Lúc ấy thành tựu sắc sở hiện tại tạo ra chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu sắc sở hiện tại tạo ra, thì Lúc ấy thành tựu đại chủng hiện tại chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Đại chủng quá khứ và đại chủng quá khứ là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng quá khứ và sắc sở quá khứ tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở quá khứ tạo ra và sắc sở quá khứ tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở quá khứ tạo ra và đại chủng quá khứ là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng quá khứ và đại chủng vị lai là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng vị lai và đại chủng vị lai là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng vị lai và đại chủng quá khứ là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng quá khứ và sắc sở vị lai tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở vị lai tạo ra và sắc sở vị lai tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Sắc sở vị lai tạo ra và đại chủng quá khứ là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Đại chủng quá khứ và đại chủng hiện tại là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng hiện tại và đại chủng hiện tại là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng hiện tại và đại chủng quá khứ là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Đại chủng quá khứ và sắc sở hiện tại tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở hiện tại tạo ra và sắc sở hiện tại tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở hiện tại tạo ra và đại chủng quá khứ là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Sắc sở quá khứ tạo ra và đại chủng vị lai là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng vị lai và sắc sở quá khứ tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Sắc sở quá khứ tạo ra và sắc sở vị lai tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở vị lai tạo ra và sắc sở quá khứ tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Sắc sở quá khứ tạo ra và đại chủng hiện tại là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng hiện tại và sắc sở quá khứ tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Sắc sở quá khứ tạo ra và sắc sở hiện tại tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở hiện tại tạo ra và sắc sở quá khứ tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Đại chủng vị lai và sắc sở vị lai tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở vị lai tạo ra và đại chủng vị lai là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng vị lai và đại chủng hiện tại là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Đại chủng hiện tại và đại chủng vị lai là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng vị lai và sắc sở hiện tại tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Sắc sở hiện tại tạo ra và đại chủng vị lai là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở vị lai tạo ra và đại chủng hiện tại là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Đại chủng hiện tại và sắc sở vị lai tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở vị lai tạo ra và sắc sở hiện tại tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Sắc sở hiện tại tạo ra và sắc sở vị lai tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng hiện tại và sắc sở hiện tại tạo ra là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở hiện tại tạo ra và đại chủng hiện tại là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng hệ thuộc cõi Dục, thì Lúc ấy thành tựu sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục, thì Lúc ấy thành tựu đại chủng hệ thuộc cõi Dục chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng hệ thuộc cõi Dục, thì Lúc ấy thành tựu đại chủng hệ thuộc cõi Sắc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu đại chủng hệ thuộc cõi Dục, không phải là đại chủng hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, đại chủng của cõi Sắc không hiện ở trước mắt. Có thành tựu đại chủng hệ thuộc cõi Sắc, không phải là đại chủng hệ thuộc cõi Dục, nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, làm thay đổi của cõi Dục, không phát ra ngôn ngôn ngữ thuộc cõi Dục. Có thành tựu đại chủng hệ thuộc cõi Dục cũng là đại chủng hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, đại chủng thuộc cõi Sắc hiện ở trước mắt mắt; hoặc sinh nơi cõi Sắc, làm thay đổi của cõi Dục, phát ra ngôn ngôn ngữ thuộc cõi Dục. Không phải là đại chủng hệ thuộc cõi Dục, cũng không phải là đại chủng hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng hệ thuộc cõi Dục, thì Lúc ấy thành tựu sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu đại chủng hệ thuộc cõi Dục, không phải là sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, không đạt được tâm thiện thuộc cõi Sắc. Có thành tựu sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc mà không phải là đại chủng hệ thuộc cõi Dục, nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, không làm thay đổi của cõi Dục, không phát ra ngôn ngôn ngữ thuộc cõi Dục. Có thành tựu đại chủng hệ thuộc cõi Dục, cũng là sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, được tâm thiện thuộc cõi Sắc. Hoặc sinh nơi cõi Sắc, làm sự thay đổi của cõi Dục, phát ra ngôn ngữ thuộc cõi Dục. Không phải là đại chủng hệ thuộc cõi Dục, cũng không phải là sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục, thì Lúc ấy thành tựu đại chủng hệ thuộc cõi Sắc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục, không phải là đại chủng hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, đại chủng của cõi Sắc không hiện ở trước mắt. Có thành tựu đại chủng hệ thuộc cõi Sắc mà không phải là sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục, nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, không làm thay đổi của cõi Dục, không phát ra ngôn ngữ thuộc cõi Dục. Có thành tựu sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục, cũng là đại chủng hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, đại chủng của cõi Sắc hiện ở trước mắt, hoặc sinh nơi cõi Sắc làm thay đổi cõi Dục, phát ra ngôn ngữ thuộc cõi Dục. Không phải là sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục, cũng không phải là đại chủng hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục, thì Lúc ấy lúc ấy sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục, không phải là sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là sinh nơi cõi Dục đạt không được tâm thiện thuộc cõi Sắc. Có thành tựu sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc, không phải là sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục, nghĩa là sinh nơi cõi Sắc mà không làm thay đổi của cõi Dục, không phát ra ngôn ngữ thuộc cõi Dục. Có thành tựu sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục cũng là sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, được tâm thiện thuộc cõi Sắc, hoặc sinh nơi cõi làm thay đổi cõi Dục, phát ra ngôn ngữ thuộc cõi Dục. Không phải là sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục cũng không phải là sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là sinh nơi cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng hệ thuộc cõi Sắc, thì Lúc ấy thành tựu sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc chăng? Đáp: Đối với sự thành tựu đại chủng hệ thuộc cõi Sắc, Thánh giả kia nhất định sẽ thành tựu sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc. Có thành tựu sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc mà không phải là đại chủng hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là sinh nơi cõi Dục đạt được tâm thiện thuộc cõi Sắc, đại chủng của cõi Sắc, không hiện ở trước mắt. Hỏi: Đại chủng hệ thuộc cõi Dục và đại chủng hệ thuộc cõi Dục là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng hệ thuộc cõi Dục và sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục và sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục và đại chủng hệ thuộc cõi Dục là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng hệ thuộc cõi Dục và đại chủng hệ thuộc cõi Sắc là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Đại chủng hệ thuộc cõi Sắc và đại chủng hệ thuộc cõi Sắc là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng hệ thuộc cõi Sắc và đại chủng hệ thuộc cõi Dục là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Đại chủng hệ thuộc cõi Dục và sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc và sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc và đại chủng hệ thuộc cõi Dục là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục và đại chủng hệ thuộc cõi Sắc là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Đại chủng hệ thuộc cõi Sắc và sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục và sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc và sắc sở tạo hệ thuộc cõi Dục là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Đại chủng hệ thuộc cõi Sắc và sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Sắc sở tạo hệ thuộc cõi Sắc và đại chủng hệ thuộc cõi Sắc là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Các sắc hệ thuộc cõi Dục, thì tất cả sắc đó đều do đại chủng hệ thuộc cõi Dục tạo ra chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có sắc hệ thuộc cõi Dục mà không do đại chủng hệ thuộc cõi Dục tạo ra, nghĩa là đại chủng hệ thuộc cõi Dục tạo ra. Có sắc do đại chủng hệ thuộc cõi Dục tạo ra mà không phải sắc hệ thuộc cõi Dục, nghĩa là sắc không hệ thuộc đại chủng hệ thuộc cõi Dục. Có sắc hệ thuộc cõi Dục cũng là đại chủng hệ thuộc cõi Dục tạo ra mà nghĩa là sắc hệ thuộc cõi Dục, đại chủng tạo nên hệ thuộc cõi Dục. Có sắc không phải hệ thuộc cõi Dục cũng không phải là do đại chủng hệ thuộc cõi Dục tạo ra mà nghĩa là đại chủng hệ thuộc cõi Sắc. Nếu sắc hệ thuộc cõi Sắc thì do đại chủng hệ thuộc cõi Sắc tạo ra, nếu là sắc không hệ thuộc, đại chủng hệ thuộc cõi Sắc tạo ra. Hỏi: Các sắc hệ thuộc cõi Sắc, thì tất cả sắc đó đều do đại chủng hệ thuộc cõi Sắc tạo ra chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có sắc hệ thuộc cõi Sắc mà không phải là do đại chủng hệ thuộc cõi Sắc tạo ra, nghĩa là đại chủng hệ thuộc cõi Sắc. Có sắc là đại chủng hệ thuộc cõi Sắc tạo ra mà không phải là sắc hệ thuộc cõi Sắc, nghĩa là sắc không hệ thuộc mà do đại chủng hệ thuộc cõi Sắc tạo ra. Có sắc hệ thuộc cõi Sắc, cũng là đại chủng hệ thuộc cõi Sắc tạo ra, nghĩa là sắc hệ thuộc cõi Sắc, đại chủng hệ thuộc cõi Sắc tạo ra. Có sắc không phải là hệ thuộc cõi Sắc, cũng không phải là do đại chủng hệ thuộc cõi Sắc tạo ra, nghĩa là đại chủng hệ thuộc cõi Dục. Nếu sắc hệ thuộc cõi Dục thì do đại chủng hệ thuộc cõi Dục tạo ra nếu sắc không hệ thuộc, thì do đại chủng tạo hệ thuộc cõi Dục tạo ra. Hỏi: Các sắc quá khứ, thì tất cả sắc ấy là do đại chủng quá khứ tạo ra chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có sắc quá khứ mà không phải là do đại chủng quá khứ tạo ra, nghĩa là đại chủng quá khứ. Có sắc là do đại chủng quá khứ tạo ra mà không phải là quá khứ, nghĩa là sắc do đại chủng vị lai-hiện tại-quá khứ tạo ra. Có sắc quá khứ, cũng là do đại chủng quá khứ tạo ra, nghĩa là sắc quá khứ do đại chủng quá khứ tạo ra. Có sắc không phải là quá khứ cũng không phải là do đại chủng quá khứ tạo ra, nghĩa là đại chủng hiện tại-vị lai. Nếu sắc vị lai-hiện tại thì do đại chủng hiện tại tạo ra, nếu sắc vị lai thì do đại chủng vị lai tạo ra. Hỏi: Các sắc vị lai thì tất cả sắc ấy đều là do đại chủng vị lai tạo ra chăng? Đáp: Các sắc, đại chủng vị lai tạo ra thì tất cả sắc ấy là vị lai. Có sắc vị lai mà không phải là đại chủng vị lai tạo ra, nghĩa là đại chủng vị lai; hoặc là sắc do đại chủng quá khứ-vị lai-hiện tại tạo ra. Hỏi: Các sắc hiện tại, thì tất cả sắc ấy đều do đại chủng hiện tại tạo ra chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có sắc hiện tại mà không do đại chủng hiện tại tạo ra, nghĩa là đại chủng hiện tại; hoặc là sắc hiện tại do đại chủng quá khứ tạo ra. Có sắc do đại chủng hiện tại tạo ra mà không phải là hiện tại, nghĩa là sắc vị lai do đại chủng hiện tại tạo ra. Có sắc hiện tại do đại chủng tạo nên hiện tại, nghĩa là sắc hiện tại do đại chủng hiện tại tạo ra. Có sắc không phải hiện tại cũng không do đại chủng hiện tại tạo ra, nghĩa là đại chủng quá khứ-vị lai; nếu là sắc quá khứ, do đại chủng quá khứ, vị lai tạo ra, hoặc là sắc vị lai do đại chủng vị lai tạo ra. Hỏi: Thế nào là đất? Đáp: Hình sắc hiển bày rõ ràng. Hỏi: Thế nào là giới (cảnh giới) của đất? Đáp: Sự chạm xúc của tính cứng nhắc. Hỏi: Thế nào là nước? Đáp: Hình sắc hiển bày rõ ràng. Hỏi: Thế nào là giới của nước? Đáp: Sự chạm xúc của tính ướt. Hỏi: Thế nào là lửa? Đáp: Hình sắc hiển bày rõ ràng. Hỏi: Thế nào là giới của lửa? Đáp: Sự chạm xúc của tính nóng. Hỏi: Thế nào là gió? Đáp: Tức là cảnh giới của gió. Hỏi: Thế nào là giới của gió? Đáp: Sự chạm xúc của tính động. Hỏi: Đất-nước-lửa-gió có bao nhiêu xứ thâu nhiếp? Bao nhiêu thức nhận biết? Đáp: Đất-nước-lửa, có hai thức nhận biết, đó là nhãn thức và ý thức. Gió do một xứ thâu nhiếp, đó là xúc xứ; có hai thức nhận biết, đó là thân thức và ý thức. Hỏi: Giới của đất-nước-lửa-gió có bao nhiêu xứ thâu nhiếp? Bao nhiêu thức nhận biết Đáp: Một xứ thâu nhiếp, đó là xúc xứ, có hai thức nhận biết, đó là thân thức và ý thức. ------------------ <詞>Phẩm 3: BÀN VỀ THẤY ĐỦ Sáu sắc do đại chủng nào tạo, Ba sắc do chủng nào làm nhân, Biến hóa chín-trung hữu có bảy, Thế-kiếp-tâm gồm có ba phần, Duyên-nhân duyên mỗi loại có bốn, Không có sắc đoạn trừ sắc tưởng, Bốn-bảy-chín thâu nhiếp lẫn nhau, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn đã kiến đế đầy đủ, chưa lìa dục nhiễm mà thành tựu sắc của nghiệp thân-ngữ hệ thuộc cõi Sắc, do đại chủng nào tạo? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Sinh cõi Dục, nhập vào sắc của nghiệp thân-ngữ thuộc bốn tónh lự hữu lậu, do đại chủng nào tạo? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Sinh cõi Dục, nhập vào sắc của nghiệp thân-ngữ thuộc bốn tónh lự vô lậu, do đại chủng nào tạo? Đáp: Hệ thuộc cõi Dục. Hỏi: Sinh cõi Sắc, nhập vào sắc của nghiệp thân-ngữ thuộc bốn tónh lự hữu lậu, do đại chủng nào tạo? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Sinh cõi Sắc, nhập vào sắc của nghiệp thân-ngữ thuộc bốn tónh lự vô lậu, do đại chủng nào tạo? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn, sinh vào cõi Vô sắc, mà thành tựu sắc của nghiệp thân-ngữ vô lậu, do đại chủng nào tạo? Đáp: Hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Ở cõi Vô sắc mất đi, sinh vào cõi Dục, ban đầu do đại chủng mà được các căn, đại chủng nào làm nhân? Đáp: Hệ thuộc cõi Dục. Hỏi: Ở cõi Vô sắc mất đi, sinh vào cõi Sắc, ban đầu do đại chủng mà được các căn, đại chủng nào làm nhân? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Ở cõi Sắc mất đi, sinh vào cõi Dục, ban đầu do đại chủng mà được các căn, đại chủng nào làm nhân? Đáp: Hệ thuộc cõi Dục. Hỏi: Sinh cõi Dục, làm thay đổi cõi Sắc, phát ra ngôn ngữ cõi Sắc, sắc của thân-ngữ ấy, do đại chủng nào tạo? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Sinh cõi Sắc, làm thay đổi cõi Dục, phát ra ngôn ngữ cõi Dục, sắc của thân-ngữ ấy, do đại chủng nào tạo? Đáp: Hệ thuộc cõi Dục. Hỏi: Sự thay đổi nên nói là có đại chủng hay không có đại chủng? Đáp: Nên nói là có đại chủng. Hỏi: Sự thay đổi nên nói là có sắc sở tạo hay không có sắc sở tạo? Đáp: Nên nói là có sắc sở tạo. Hỏi: Sự thay đổi nên nói là có tâm hay không có tâm? Đáp: Nên nói không có tâm. Hỏi: Sự thay đổi nên nói là do tâm nào mà chuyển? Đáp: Nên nói là do hóa chủ. Hỏi: Trung hữu nên nói là có đại chủng hay không có thể có đại chủng? Đáp: Nên nói là có đại chủng. Hỏi: Trung hữu nên nói là có sắc sở tạo hay không có sắc sở tạo? Đáp: Nên nói có sắc sở tạo. Hỏi: Trung hữu nên nói là có tâm, hay không có tâm? Đáp: Nên nói là có tâm. Hỏi: Trung hữu nên nói là do tâm nào mà chuyển? Đáp: Nên nói là tự tâm. Hỏi: Đời được gọi cho pháp nào? Đáp: Hành do tăng ngữ này mà hiển bày. Hỏi: Kiếp được gọi cho pháp nào? Đáp: Thời do tăng ngữ này mà hiển bày nửa tháng-thang-mùa- năm của tâm khởi-trụ-diệt. Hỏi: Phần được gọi cho pháp nào? Đáp: Do tăng ngữ này mà hiển bày sát-na-lạp phược-mâu hô-lật đa. Hỏi: Có thể có pháp do bốn duyên sinh chăng? Đáp: Có, nghĩa là tất cả tâm-tâm sở pháp. Hỏi: Có thể có pháp do ba duyên sinh chăng? Đáp: Có, nghĩa là Đẳng chí vô tưởng, Đẳng chí diệt tận. Hỏi: Có thể có pháp do hai duyên sinh chăng? Đáp: Có, nghĩa là trừ ra Đẳng chí vô tưởng-diệt tận còn lại các tâm bất tương ưng hành và các tất cả sắc. Hỏi: Có thể có pháp do một duyên sinh chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Thế nào là nhân tương ưng với pháp? Đáp: Tất cả tâm-tâm sở pháp. Hỏi: Thế nào là nhân không tương ưng với pháp? Đáp: Sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Thế nào là nhân tương ưng và nhân không tương ưng với pháp? Đáp: Tức là tâm-tâm sở pháp, phần ít của tương ưng với nhân, phần ít là nhân không tương ưng. Hỏi: Thế nào là không phải nhân tương ưng, không phải nhân không tương ưng với pháp? Đáp: Tức là tâm-tâm sở pháp, phần ít không phải là nhân tương ưng, phần ít không phải là nhân không tương ưng. Hỏi: Thế nào là pháp duyên hữu duyên? Đáp: Nếu ý thức và pháp tương ưng, duyên với tâm-tâm sở pháp. Hỏi: Thế nào là pháp duyên vô duyên? Đáp: Năm thức thân và pháp tương ưng. Hoặc ý thức và pháp tương ưng, duyên với sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Thế nào là pháp duyên hữu duyên, pháp duyên vô duyên? Đáp: Nếu ý thức và pháp tương ưng, duyên với tâm-tâm sở pháp cùng sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Thế nào là không phải pháp duyên hữu duyên, không phải pháp duyên vô duyên? Đáp: Sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành. Như Đức Thế Tôn nói: “Trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài”. Hỏi: Thế nào là trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài? Đáp: Có Bí-sô khởi lên thắng giải như vậy: “Nay thân này của ta sắp chết, đã chết, sắp đưa lên xe, đã đưa lên xe, sắp đi đến nơi gò mả, đã đến nơi gò mả, sắp để xuống đất, đã để dưới đất, sắp bị các loại côn trùng cắn ăn, đã bị các loại côn trùng cắn ăn”. Bí-sô kia, về sau không thấy trong thân, chỉ thấy trùng bên ngoài. Lại có Bí-sô khởi lên thắng giải đúng như vậy này: “Nay, thân này của ta sắp chết, đã chết, sắp đưa lên xe, đã đưa lên xe, sắp đi đến nơi gò mả, đã đến nơi gò mả, sắp đặt trên đống củi, đã đặt trên đống củi, sắp bị lửa đốt cháy, đã bị lửa đốt cháy”. Về sau, Bí-sô kia không thấy trong thân, chỉ thấy lửa bên ngoài”. Lại có Bí-sô khởi lên thắng giải như vậy: “Nay, thân này của ta thật là hư giả, như tuyết hoặc nắm tuyết, như đường phèn hoặc nhúm đường phèn, như sữa đặc chưa chín miệng sữa đặc chưa chín, sắp bị lửa nướng, đã bị lửa nướng, sắp chảy tan, đã chảy tan”. Bí sô kia vào lúc cuối cùng, không thấy thân bên trong, chỉ thấy lửa bên ngoài. Đó gọi là bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài. Như Đức Như Lai nói: “Có đoạn trừ tưởng sắc”. Hỏi: Thế nào là đoạn trừ tưởng sắc? Đáp: nghĩa là có Bí-sô khởi lên thắng giải đúng như vậy này: “Nay thân này của ta sắp chết, đã chết, sắp đưa lên xe, đã đưa lên xe, sắp đi đến nơi gò mả, đã đến nơi gò mả, sắp để xuống đất, đã chôn dưới đất, sắp bị các thứ trùng cắn ăn, đã bị các loại côn trùng cắn ăn, những loại côn trùng này sắp tản ra, đã tản ra”. Sau cùng, Bí-sô kia không thấy tự thân, cũng không thấy trùng. Lại có Bí-sô khởi lên thắng giải đúng như vậy này: “Nay thân này của ta sắp chết, đã chết, sắp đưa lên xe, đã đưa lên xe, sắp đi đến nơi gò mả, đã đến nơi gò mả, sắp đặt trên đống củi, đã đặt trên đống củi, sắp bị lửa đốt cháy, đã bị lửa đốt cháy, lửa đốt cháy thi thể này sắp tắt”, đã tắt. Sau cùng, Bí-sô kia không thấy tự thân, cũng không thấy lửa. Lại có Bí-sô khởi lên thắng giải đúng như vậy này: “Nay thân này của ta thật là hư giả, như tuyết, hoặc nắm tuyết, như bơ sống, hoặc miếng bơ sống, như bơ chín hoặc miếng bơ chín sắp bị lửa nướng, đã bị lửa nướng, sắp tiêu tan, đã tiêu tan, lửa có năng lực nung chảy này sắp tắt, đã tắt”. Sau cùng, Bí-sô kia không thấy tự thân, cũng không thấy lửa. Đó gọi là đoạn trừ tưởng sắc. Hỏi: Mọi tưởng sắc không có đoạn trừ, đều chưa lìa sắc nhiễm chăng? Đáp: Mọi sắc nhiễm chưa lìa, đều không có đoạn trừ tưởng sắc. Có lúc không có đoạn trừ tưởng sắc mà không phải là chưa lìa sắc nhiễm, nghĩa là đã lìa sắc nhiễm, nhưng chưa tiến vào định ấy. Hỏi: Mọi tưởng sắc có đoạn trừ, đều đã lìa sắc nhiễm chăng? Đáp: Mọi tưởng sắc có đoạn trừ, đều đã lìa sắc nhiễm. Có lúc đã lìa sắc nhiễm mà không phải là có đoạn trừ tưởng sắc, nghĩa là đã lìa sắc nhiễm, mà chưa tiến vào định ấy. Hỏi: Bốn thức trụ và bảy thức trụ, là bốn gồm thâu bảy hay bảy gồm thâu bốn? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có bốn (thức trụ) mà không phải bảy (thức trụ), nghĩa là sắc- thọ-tưởng-hành của cõi Quảng quả-địa ngục-bàng sinh-ngạ quỷ, và thọ-tưởng-thành của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Có bảy mà không phải là bốn, nghĩa là tâm của người trời cõi Dục, trời Phạm chúng, Cực quang tịnh, Biến tịnh, cõi Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ. Có bốn cũng là bảy, nghĩa là sắc-thọ-tưởng-hành của người nơi trời cõi Dục, trời Phạm chúng, Cực quang tịnh, Biến tịnh, và thọ-tưởng- hành của Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ. Không phải bốn, cũng không phải bảy, nghĩa là tâm của cõi địa ngục-bàng sinh-ngạ quỷ và Quảng quả, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Hỏi: Bốn thức trụ và chín hữu tình cư, là bốn gồm thâu chín hay là chín gồm thâu bốn? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có bốn mà không phải là chín, nghĩa là địa ngục-bàng sinh-ngạ quỷ và trời Vô tưởng, không thâu nhiếp sắc-thọ-tưởng-hành của trời Quảng quả. Có chín mà không phải là bốn, nghĩa là tâm của người trời cõi Dục, trời Phạm chúng, Cực quang tịnh, Biến tịnh, Vô tưởng và bốn Vô sắc. Có bốn cũng là chín, nghĩa là sắc-thọ-tưởng-hành của người trời cõi Dục, trời Phạm chúng, Cực quang tịnh, Biến tịnh, Vô tưởng và thọ- tưởng-hành của bốn vô sắc. Không phải bốn, cũng không phải chín, nghĩa là địa ngục-bàng sinh-ngạ quỷ và trời Vô tưởng không gồm thâu tâm của trời Quảng quả. Hỏi: Bảy thức trụ và chín hữu tình cư, là bảy gồm thâu chín hay là chín gồm thâu bảy? Đáp: Chín gồm thâu bảy chứ không phải bảy gồm thâu chín. Hỏi: Không thâu nhiếp nơi nào? Đáp: Hai xứ, đó là xứ Vô tưởng thiên và xứ Phi tưởng phi phi tưởng. Luận A Tỳ Đạt Ma Phát Trí.  <卷>QUYỂN 14 <章>Chương 5: ĐẠI CHỦNG UẨN <詞>Phẩm 4: BÀN VỀ CHẤP THỌ Mười bảy đối có bao nhiêu duyên Đối với tự-tha có tám loại, Riêng đối với tha có chín loại, Tám nghĩa trong-ngoài như thế nào, Tám môn thọ thâu nhiếp lẫn nhau, Chín địa vị và mười lăm môn, Hiện tại tu và vị lai tu, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Đại chủng có chấp thọ và đại chủng có chấp thọ là bao nhiêu duyên? Đàp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng có chấp thọ và đại chủng không có chấp thọ là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Đại chủng không có chấp thọ và đại chủng không có chấp thọ là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Đại chủng không có chấp thọ và đại chủng có chấp thọ là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Nhân tương ưng pháp và nhân tương ưng pháp là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân đẳng vô gián và sở duyên tăng thượng. Hỏi: Nhân tương ưng pháp và nhân không tương ưng pháp là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng vô gián tăng thượng, Hỏi: Nhân không tương ưng pháp và nhân không tương ưng pháp là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Nhân không tương ưng pháp và nhân tương ưng pháp là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp có sở duyên và pháp có sở duyên là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân đẳng vô gián và sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp có sở duyên và pháp không có sở duyên là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân đẳng vô gián tăng thượng. Hỏi: Pháp không có sở duyên và pháp không có sở duyên là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Pháp không có sở duyên và pháp có sở duyên là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp có sắc và pháp có sắc là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Pháp có sắc và pháp không có sắc là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp không có sắc và pháp không có sắc là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân vô gián và sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp không có sắc và pháp có sắc là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Pháp có thấy và pháp không thấy là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp không thấy và pháp không thấy là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân đẳng vô gián và sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp không thấy và pháp có thấy là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Pháp có đối và pháp có đối là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Pháp có đối và pháp không đối là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp không đối và pháp không đối là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân đẳng vô gián và sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp không đối và pháp có đối là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân tăng thượng. Hỏi: Pháp hữu lậu và pháp hữu lậu là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân đẳng vô gián và sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp hữu lậu và pháp vô lậu là bao nhiêu duyên? Đáp: Đẳng vô gián và sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp vô lậu và pháp vô lậu là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân đẳng vô gián và sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp vô lậu và pháp hữu lậu là bao nhiêu duyên? Đáp: Đẳng vô gián và sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp hữu vi và pháp hữu vi là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhân đẳng vô gián và sở duyên tăng thượng. Hỏi: Pháp hữu vi và pháp vô vi là bao nhiêu duyên? Đáp: Không có. Hỏi: Pháp vô vi và pháp vô vi là bao nhiêu duyên? Đáp: Không có. Hỏi: Pháp vô vi và pháp hữu vi là bao nhiêu duyên? Đáp: Sở duyên tăng thượng. Hỏi: Do các triền mà ràng buộc nối tiếp hữu của địa ngục, ban đầu đã có được đại chủng các căn, đại chủng các căn ấy và tâm-tâm sở pháp kia, là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Tâm-tâm sở pháp kia và đại chủng các căn ấy, là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Do các triền mà ràng buộc nối tiếp hữu của bàng sinh, hữu của quỷ giới, hữu của người, hữu của trời, ban đầu đã có được đại chủng các căn, đại chủng các căn ấy và tâm-tâm sở pháp kia, là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Tâm-tâm sở pháp kia và đại chủng các căn ấy, là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Sinh cõi Dục, nhập sơ tónh lự hữu lậu cho đến khi tưởng phi phi tưởng xứ, nuôi lớn các căn, tăng thêm đại chủng, đại chủng các căn ấy và tâm-tâm sở pháp kia là bao nhiêu duyên? Đáp: Một tăng thượng. Hỏi: Tâm-tâm sở pháp kia và đại chủng các căn ấy, là bao nhiêu duyên? Hỏi: Có chấp thọ là nghĩa thế nào? Đáp: Tăng ngữ này đã hiển bày rơi vào pháp của tự thể. Hỏi: Thế nào là không chấp thọ? Đáp: Tăng ngữ này đã hiển bày không rơi vào pháp của tự thể. Hỏi: Thế nào là thuận với thủ? Đáp: Tăng ngữ này đã hiển bày pháp hữu lậu. Hỏi: Thế nào là không thuận với thủ? Đáp: Tăng ngữ này đã hiển bày pháp vô lậu. Hỏi: Thế nào là thuận với kiết? Đáp: Tăng ngữ này đã hiển bày pháp hữu lậu. Hỏi: Thế nào là không thuận với kiết? Đáp: Tăng ngữ này đã hiển bày pháp vô lậu. Hỏi: Thế nào là kiến xứ? Đáp: Tăng ngữ này đã hiển bày pháp hữu lậu. Hỏi: Thế nào là không phải kiến xứ? Đáp: Tăng ngữ này đã hiển bày pháp vô lậu. Hỏi: Nếu pháp là nội, thì pháp ấy do nội xứ thâu nhiếp chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp là nội mà không phải nội xứ thâu nhiếp, như nói ở nội thọ-nội pháp trụ theo quán pháp. Có pháp nội xứ thâu nhiếp mà không phải nội, như nói đối với ngoại thọ-ngoại pháp trụ theo quán tâm. Có pháp là nội, cũng là nội xứ thâu nhiếp, như nói đối với thân trong, tâm trong trụ theo quán tâm. Có pháp không phải nội, cũng không phải nội xứ thâu nhiếp, như nói đối với ngoại thọ-ngoại pháp, trụ theo quán pháp. Hỏi: Nếu pháp là ngoại, thì pháp ấy do ngoại xứ thâu nhiếp chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp là ngoại mà không phải ngoại xứ thâu nhiếp, như nói đối với ngoại thân-ngoại tâm trụ theo quán tâm. Có pháp ngoại xứ thâu nhiếp mà không phải ngoại, như nói đối với nội thọ-nội pháp, trụ theo quán pháp. Có pháp là ngoại cũng là ngoại xứ thâu nhiếp, như nói đối với ngoại thọ-ngoại pháp trụ theo quán pháp. Có pháp không phải ngoại, cũng không phải ngoại xứ thâu nhiếp, như nói đối với nội thân-nội tâm trụ theo quán tâm. Có hai thọ, gọi là thân thọtâm thọ. Có ba thọ, gọi là lạc thọ-khổ thọ-bất khổ bất lạc thọ (không khổ không vui). Hỏi: Hai thọ thâu nhiếp ba thọ, hay là ba thọ thâu nhiếp hai thọ? Đáp: Thâu nhiếp lẫn nhau, tùy thuộc vào sự việc nơi hai thọ kia như trước đã nói. Có bốn thọ, đó là thọ hệ thuộc ba cõi và thọ không hệ thuộc. Hỏi: Hai thọ thâu nhiếp bốn thọ, hay bốn thọ thâu nhiếp hai thọ? Đáp: Thâu nhiếp lẫn nhau, tùy thuộc vào sự việc của hai thọ như trước đã nói. Có năm thọ, nghĩa là lạc thọ, khổ thọ-hỷ thọ-ưu thọ-xả thọ. Hỏi: Hai thọ thâu nhiếp năm thọ, hay là năm thọ thâu nhiếp hai thọ? Đáp: Thâu nhiếp lẫn nhau, tùy thuộc vào sự việc nơi hai thọ như trước đã nói. Có sáu thọ, nghĩa là do nhãn xúc sinh ra thọ do nhó-tỷ-thiệt- thân- ý xúc sinh ra thọ. Hỏi: Hai thọ thâu nhiếp sáu thọ, hay là sáu thọ thâu nhiếp hai thọ? Đáp: Thâu nhiếp lẫn nhau, tùy thuộc vào sự việc hai thọ như trước đã nói. Có mười tám thọ, đó là sáu hỷ ý cận hành, sáu ưu ý cận hành, sáu xả ý cận hành. Hỏi: Hai thọ thâu nhiếp mười tám thọ, hay là mười tám thọ thâu nhiếp hai thọ? Đáp: Hai thọ thâu nhiếp mười tám thọ chứ không phải mười tám thọ thâu nhiếp hai thọ. Không thâu nhiếp những gì? nghĩa là lạc căn-khổ căn hữu lậu, năm thức tương ưng với xả căn và thọ vô lậu. Hai thọ như trước đã nói. Có ba mươi sáu thọ, nghĩa là sáu hỷ dựa vào thị (Dựa vào sự đam mê ưa thích), sáu hỷ dựa vào ly, sáu ưu dựa vào thị, sáu ưu dựa vào ly, sáu xả dựa vào thị, sáu xả dựa vào ly. Hỏi: Hai thọ thâu nhiếp ba mươi sáu thọ, hay là ba mươi sáu thọ thâu nhiếp hai thọ? Đáp: Hai thọ thâu nhiếp ba mươi sáu thọ chứ không phải ba mươi sáu thọ thâu nhiếp hai thọ. Không thâu nhiếp những gì? nghĩa là như trước đã nói. Hai thọ như trước đã nói. Có một trăm lẻ tám thọ, đó là dựa vào ở ba đời, mỗi đời đều có ba mươi sáu thọ. Hỏi: Hai thọ thâu nhiếp một trăm lẻ tám thọ, hay là một trăm lẻ tám thọ thâu nhiếp hai thọ? Đáp: Hai thọ thâu nhiếp một trăm lẻ tám thọ, không phải một trăm lẻ tám thọ thâu nhiếp hai thọ. Không thâu nhiếp những gì? nghĩa là như trước đã nói. Hỏi: Ba thọ và bốn thọ. Ba thọ thâu nhiếp bốn thọ, hay là bốn thọ thâu nhiếp ba thọ? Đáp: Thâu nhiếp lẫn nhau, tùy thuộc vào sự việc. Ba thọ và năm thọ-sáu thọ. Ba thọ thâu nhiếp năm và sáu thọ, hay là năm và sáu thọ thâu nhiếp ba thọ? Đáp: Thâu nhiếp lẫn nhau, tùy thuộc vào sự việc. Ba thọ và mười tám thọ- ba mươi sáu thọ, một trăm lẻ tám thọ. Ba thọ thâu nhiếp mười tám…, hay là mười tám… thâu nhiếp ba thọ? Đáp: Ba thọ thâu nhiếp mười tám…, không phải mười tám… thâu nhiếp ba thọ. Không thâu nhiếp những gì? nghĩa là như trước đã nói. Hỏi: Bốn thọ và năm thọ-sáu thọ. Bốn thọ thâu nhiếp năm và sáu thọ, hay là năm và sáu thọ thâu nhiếp bốn thọ? Đáp: Thâu nhiếp lẫn nhau, tùy thuộc vào sự việc. Hỏi: Bốn thọ và mười tám thọ-ba mươi sáu thọ, một trăm lẻ tám thọ. Là bốn thọ thâu nhiếp mười tám…, hay là mười tám… thâu nhiếp bốn thọ? Đáp: Bốn thọ thâu nhiếp mười tám…, không phải mười tám… thâu nhiếp bốn thọ. Không thâu nhiếp những gì? nghĩa là như trước đã nói. Hỏi: Năm thọ và sáu thọ. Năm thọ thâu nhiếp sáu thọ, hay là sáu thọ thâu nhiếp năm thọ? Đáp: Thâu nhiếp lẫn nhau, tùy thuộc vào sự việc. Hỏi: Năm thọ và mười tám thọ-ba mươi sáu thọ-một trăm lẻ tám thọ. Là năm thọ thâu nhiếp mười tám…, hay là mười tám… thâu nhiếp năm thọ? Đáp: Năm thọ thâu nhiếp mười tám…, không phải mười tám… thâu nhiếp năm thọ. Không thâu nhiếp những gì? nghĩa là như trước đã nói. Hỏi: Sáu thọ và mười tám thọ-ba mươi sáu thọ, một trăm lẻ tám thọ. Sáu thọ thâu nhiếp mười tám…, hay là mười tám… thâu nhiếp sáu thọ? Đáp: Sáu thọ thâu nhiếp mười tám…, không phải mười tám… thâu nhiếp sáu thọ. Không thâu nhiếp những gì? nghĩa là như trước đã nói. Hỏi: Mười tám thọ và ba mươi sáu thọ-một trăm lẻ tám thọ. Mười tám thọ thâu nhiếp ba mươi sáu…, hay là ba mươi sáu… thâu nhiếp mười tám thọ? Đáp: Thâu nhiếp lẫn nhau, tùy thuộc vào sự việc. Hỏi: Ba mươi sáu thọ và một trăm lẻ tám thọ. Ba mươi sáu thọ thâu nhiếp một trăm lẻ tám thọ, hay là một trăm lẻ tám thọ thâu nhiếp ba mươi sáu thọ? Đáp: Thâu nhiếp lẫn nhau, tùy thuộc vào sự việc. Hỏi: Dùng đạo vô gián để chứng quả Dự lưu, lúc tu đạo kia thì bốn niệm trụ, bốn chính đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám đạo chi, bốn tónh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, mười biến xứ, tám trí, ba đẳng trì, có bao nhiêu tu hiện tại, bao nhiêu tu vị lai? Đáp: Niệm trụ, hiện tại có một, vị lai có bốn. chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại-vị lai có năm; giác chi hiện tại-vị lai có sáu; đạo chi hiện tại-vị lai có tám, không có tónh lư, không có vô lượng, không có vô sắc; không có giải thoát, không có thắng xứ, không có biến xứ, không có trí; đẳng trì hiện tại và vị lai có một. Hỏi: Dùng đạo vô gián để chứng quả Nhất lai, khi tu đạo vô gián kia, từ bốn niệm trụ cho đến ba đẳng trì, có bao nhiêu tu hiện tại, bao nhiêu tu vị lai có? Đáp: Nếu tăng gấp bội việc lìa dục nhiễm, nhập chính tính ly sinh, thì lúc tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm, giác chi hiện tại và vị lai có sáu; đạo chi hiện tại và vị lai có tám; không có tónh lự; không có vô lượng; không có vô sắc, không có giải thoát, không có thắng xứ, không có biến xứ, không có trí; đẳng trì hiện tại và vị lai có một. Nếu từ quả Dự lưu, dùng đạo thế tục để chứng quả Nhất lai, thì khi tu đạo thế tục kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn- thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi, hiện tại không có, vị lai có sáu; đạo chi hiện tại không có, vị lai có tám; không có tónh lự; không có vô lượng; không có vô sắc; không có giải thoát, không có thắng xứ, không có biến xứ, trí hiện tại có một, vị lai có bảy; đẳng trì hiện tại không có, vị lai có ba. Nếu từ quả Dự lưu, dùng đạo vô lậu để chứng quả Nhất lai, thì khi tu đạo vô lậu kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn- thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại và vị lai có sáu; đạo chi hiện tại và vị lai có tám; không có tónh lự; không có vô lượng; không có vô sắc; không có giải thoát, không có thắng xứ, không có biến xứ, trí hiện tại có hai, vị lai có bảy; đẳng trì hiện tại có một, vị lai có ba. Hỏi: Dùng đạo vô gián để chứng quả Bất hoàn, thì lúc tu đạo vô gián kia, từ bốn niệm trụ cho đến ba đẳng trì, có bao nhiêu tu hiện tại, bao nhiêu tu vị lai? Đáp: Nếu đã lìa dục nhiễm, dựa vào vị chí định, nhập chính tính ly sinh, thì lúc tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại và vị lai có bảy, đạo chi hiện tại và vị lai có tám; không có tónh lự; không có vô lượng; không có vô sắc; không có giải thoát, không có thắng xứ, không có biến xứ, không có trí; đẳng trì hiện tại và vị lai có một. Nếu dựa vào sơ tónh lự, nhập chính tính ly sinh, thì khi tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại và vị lai có sáu; đạo chi hiện tại và vị lai có tám; tónh lự hiện tại và vị lai có một; không có vô lượng; không có vô sắc; không có giải thoát, không có thắng xứ, không có biến xứ, không có trí; đẳng trì hiện tại và vị lai có một. Nếu dựa vào trung gian tónh lự, nhập chính tính ly sinh, thì lúc tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn- thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại có sáu, vị lai có bảy; đạo chi hiện tại có bảy, vị lai có tám; tónh lự hiện tại không có, vị lai có một; không có vô lượng; không có vô sắc; không có giải thoát, không có thắng xứ, không có biến xứ, không có trí; đẳng trì hiện tại và vị lai có một. Nếu dựa vào tónh lự thứ hai, nhập chính tính ly sinh, thì lúc tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc, hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại và vị lai có bảy; đạo chi hiện tại có bảy, vị lai có tám; tónh lự hiện tại có một, vị lai có hai; không có vô lượng; không có vô sắc; không có giải thoát, không có thắng xứ, không có biến xứ, không có trí; đẳng trì hiện tại và vị lai có một. Nếu dựa vào tónh lự thứ ba, nhập chính tính ly sinh, thì lúc tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại có sáu, vị lai có bảy; đạo chi hiện tại có bảy, vị lai có tám; tónh lự hiện tại có một, vị lai có ba; không có vô lượng; không có vô sắc; không có giải thoát, không có thắng xứ, không có biến xứ, không có trí; đẳng trì hiện tại và vị lai có một. Nếu dựa vào tónh lự thứ tư, nhập chính tính ly sinh, thì lúc tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại có sáu, vị lai có bảy; đạo chi hiện tại có bảy, vị lai có tám; tónh lự hiện tại có một, vị lai có bốn; không có vô lượng; không có vô sắc; không có giải thoát, không có thắng xứ, không có biến xứ, không có trí; đẳng trì hiện tại và vị lai có một. Nếu từ quả Nhất lai, dùng đạo thế tục để chứng quả Bất hoàn, thì lúc tu đạo thế tục ấy, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc, hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại không có, vị lai có sáu; đạo chi hiện tại không có, vị lai có tám; không có tónh lự; không có vô lượng; không có vô sắc; không có giải thoát, không có thắng xứ, không có biến xứ, trí hiện tại có một, vị lai có bảy; đẳng trì hiện tại không có, vị lai có ba. Nếu từ quả Nhất lai, dùng đạo vô lậu để chứng quả Bất hoàn, thì tu đạo vô lậu ấy, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn- thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại và vị lai có sáu; đạo chi hiện tại và vị lai có tám; không có tónh lự; không có vô lượng; không có vô sắc; không có giải thoát, không có thắng xứ, không có biến xứ, trí hiện tại có hai, vị lai có bảy; đẳng trì hiện tại có một, vị lai có ba. Hỏi: Dùng đạo vô gián để chứng thần cảnh trí thông, thì lúc tu đạo vô gián đó, từ bốn niệm trụ cho đến ba đẳng trì, có bao nhiêu tu hiện tại, bao nhiêu tu vị lai có? Đáp: Nếu các phàm phu dựa vào sơ tónh lự, thì khi tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; không có giác chi; không có đạo chi; tónh lự hiện tại và vị lai có một; vô lượng hiện tại không có, vị lai có bốn; không có vô sắc; giải thoát hiện tại không có, vị lai có hai; thắng xứ hiện tại không có, vị lai có bốn; không có biến xứ, trí hiện tại và vị lai có một; không có đẳng trì. Nếu các Thánh giả dựa vào sơ tónh lự, thì khi tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại không có, vị lai có bảy; đạo chi hiện tại không có, vị lai có tám; tónh lự, hiện tại và vị lai có một; vô lượng hiện tại không có, vị lai có bốn; không có vô sắc; giải thoát hiện tại không có, vị lai có hai; thắng xứ hiện tại không có, vị lai có bốn; không có biến xứ, trí hiện tại có một, vị lai có bảy; đẳng trì hiện tại không có, vị lai có ba. Nếu các phàm phu dựa vào tónh lự thứ hai, thì lúc tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; không có giác chi; không có đạo chi; tónh lự hiện tại và vị lai có một; vô lượng hiện tại không có, vị lai có bốn; không có vô sắc; giải thoát hiện tại không có, vị lai có hai; thắng xứ hiện tại không có, vị lai có bốn; không có biến xứ, trí hiện tại và vị lai có một; không có đẳng trì. Nếu các Thánh giả dựa vào tónh lự thứ hai, thì lúc tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại không có, vị lai có bảy; đạo chi hiện tại không có, vị lai có tám; tónh lự hiện tại có một, vị lai có hai; vô lượng hiện tại không có, vị lai có bốn; không có vô sắc; giải thoát hiện tại không có, vị lai có hai; thắng xứ hiện tại không có, vị lai có bốn; không có biến xứ, trí hiện tại có một, vị lai có bảy; đẳng trì hiện tại không có, vị lai có ba. Nếu các phàm phu dựa vào tónh lự thứ ba, thì lúc tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; không có giác chi; không có đạo chi; tónh lự hiện tại và vị lai có một; vô lượng hiện tại không có, vị lai có ba; không có vô sắc; không có giải thoát, không có thắng xứ, không có biến xứ, trí hiện tại và vị lai có một; không có đẳng trì. Nếu các Thánh giả dựa vào tónh lự thứ ba, thì lúc tu đạo vô gián kia, niệm trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực, hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại không có, vị lai có bảy; đạo chi hiện tại không có, vị lai có tám; tónh lự hiện tại có một, vị lai có ba; vô lượng hiện tại không có, vị lai có ba; không có vô sắc, không có giải thoát, không có thắng xứ, không có biến xứ, trí hiện tại có một, vị lai có bảy; đẳng trì hiện tại không có, vị lai có ba. Nếu các phàm phu dựa vào tónh lự thứ tư, thì lúc tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; không có giác chi; không có đạo chi; tónh lự hiện tại và vị lai có một; vô lượng hiện tại không có, vị lai có ba; không có vô sắc; giải thoát hiện tại không có, vị lai có một; thắng xứ hiện tại không có, vị lai có bốn; biến xứ hiện tại không có, vị lai có tám; trí hiện tại và vị lai có một; không có đẳng trì. Nếu các Thánh giả dựa vào tónh lự thứ tư, thì lúc tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại không có, vị lai có bảy; đạo chi hiện tại không có, vị lai có tám; tónh lự hiện tại có một, vị lai có bốn; vô lượng hiện tại không có, vị lai có ba; không có vô sắc; giải thoát hiện tại không có, vị lai có một; thắng , hiện tại không có, vị lai có bốn; biến xứ hiện tại không có, vị lai có tám; trí hiện tại có một, vị lai có bảy; đẳng trì, hiện tại không có, vị lai có ba. Hỏi: Dùng đạo vô gián để chứng thiên nhó trí thông, tha tâm trí thông, túc trụ tùy niệm trí thông, tử sinh trí thông, khi tu đạo vô gián kia, từ bốn niệm trụ cho đến ba đẳng trì, có bao nhiêu tu hiện tại, bao nhiêu tu vị lai có? Đáp: Như thần cảnh trí thông, nên tùy thuận vào tướng để nói. Hỏi: Dùng đạo vô gián để chứng lậu tận trí thông, khi tu đạo vô gián kia, từ bốn niệm trụ cho đến ba đẳng trì, có bao nhiêu tu hiện tại, bao nhiêu tu vị lai có? Đáp: Nếu dựa vào vị chí định để chứng quả A-la-hán, thì lúc tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn- thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại có sáu, vị lai có bảy; đạo chi hiện tại và vị lai có tám; tónh lự, hiện tại không có, vị lai có bốn; không có vô lượng; vô sắc hiện tại không có, vị lai có ba; giải thoát hiện tại không có, vị lai có ba; không có thắng xứ, không có biến xứ, trí hiện tại có hai, vị lai có sáu; đẳng trì hiện tại có một, vị lai có ba. Nếu dựa vào sơ tónh lự, nhằm chứng quả A-la-hán, thì lúc tu đạo vô gián kia, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại và vị lai có bảy; đạo chi hiện tại và vị lai có tám; tónh lự hiện tại có một, vị lai có bốn; không có vô lượng; vô sắc hiện tại không có, vị lai có ba; giải thoát hiện tại không có, vị lai có ba; không có thắng xứ, không có biến xứ, trí hiện tại có hai, vị lai có sáu; đẳng trì hiện tại có một, vị lai có ba. Nếu dựa vào trung gian tónh lự, để chứng quả A-la-hán, thì lúc tu đạo vô gián đó, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn- thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại có sáu, vị lai có bảy; đạo chi hiện tại có bảy, vị lai có tám; tónh lự hiện tại không có, vị lai có bốn; không có vô lượng; vô sắc hiện tại không có, vị lai có ba; giải thoát hiện tại không có, vị lai có ba; không có thắng xứ, không có biến xứ, trí hiện tại có hai, vị lai có sáu; đẳng trì hiện tại có một, vị lai có ba. Nếu dựa vào tónh lự thứ hai, để chứng quả A-la-hán, thì lúc tu đạo vô gián đó, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại và vị lai có bảy; đạo chi hiện tại có bảy, vị lai có tám; tónh lự hiện tại có một, vị lai có bốn; không có vô lượng; vô sắc hiện tại không có, vị lai có ba; giải thoát hiện tại không có, vị lai có ba; không có thắng xứ, không có biến xứ, trí hiện tại có hai, vị lai có sáu; đẳng trì hiện tại có một, vị lai có ba. Nếu dựa vào tónh lự thứ ba, thứ tư, để chứng quả A-la-hán, thì lúc tu đạo vô gián đó, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn- thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại có sáu, vị lai có bảy; đạo chi hiện tại có bảy, vị lai có tám; tónh lự hiện tại có một, vị lai có bốn; không có vô lượng; vô sắc hiện tại không có, vị lai có ba; giải thoát hiện tại không có, vị lai có ba; không có thắng xứ, không có biến xứ, trí hiện tại có hai, vị lai có sáu; đẳng trì hiện tại có một, vị lai có ba. Nếu dựa vào định vô sắc, để chứng quả A-la-hán, thì lúc tu đạo vô gián đó, niệm, trụ hiện tại có một, vị lai có bốn; chính đoạn-thần túc hiện tại và vị lai có bốn; căn-lực hiện tại và vị lai có năm; giác chi hiện tại có sáu, vị lai có bảy; đạo chi hiện tại có bốn, vị lai có tám; tónh lự hiện tại không có, vị lai có bốn; không có vô lượng; vô sắc hiện tại có một, vị lai có ba; giải thoát hiện tại có một, vị lai có ba; không có thắng xứ, không có biến xứ, trí hiện tại có hai, vị lai có sáu; đẳng trì hiện tại có một, vị lai có ba. ---------------- <章>Chương 6: CĂN UẨN <詞>Phẩm 1: BÀN VỀ CĂN Căn-học và thiện đều có ba, Dị thục ba loại-đoạn do sáu, Kiến-phi kiến-hữu tầm-vô tầm…, Thọ tương ưng hệ thuộc giới-xứ…, Nhân duyên có bốn phàm và Thánh, Uẩn thâu nhiếp bảy, thâu nhiếp ba, Làm duyên sinh có bao nhiêu duyên, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hai mươi hai căn: Nhãn căn, nhó căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, nữ căn, nam căn, mạng căn, ý căn, lạc căn-khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn, tín căn-tinh tiến căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, vị tri đương tri căn, dó tri căn, cụ tri căn. Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu học, bao nhiêu vô học mà bao nhiêu phi học phi vô học? Đáp: Hai học, một vô học mà mười phi học phi vô học mà chín cần phân biệt: nghĩa là ý căn, hoặc học, hoặc vô học mà hoặc phi học phi vô học. Thế nào là học? nghĩa là tác ý học tương ưng với ý căn. Thế nào là vô học? nghĩa là tác ý vô học tương ưng với ý căn. Thế nào là phi học phi vô học? nghĩa là tác ý hữu lậu tương ưng với ý căn. Như ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn, tín căn-tinh tiến căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng như vậy. Hỏi: Các căn học mà các căn đó là căn của người học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có căn học mà căn đó không phải là căn của người học, nghĩa là căn học mà người học không thành tựu. Có căn là căn của người học, căn ấy không phải học, nghĩa là căn phi học phi vô học mà người học đã thành tựu. Có căn học mà căn đó cũng là căn của người học, nghĩa là căn học mà người học đã thành tựu. Có căn không phải là học mà căn ấy cũng không phải là căn của người học, nghĩa là căn vô học và căn phi học phi vô học mà người học không thành tựu. Hỏi: Các căn vô học đó là căn của người vô học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có căn vô học mà căn đó không phải là căn của người vô học mà nghĩa là căn vô học mà người vô học không thành tựu. Có căn là căn của người vô học mà căn ấy không phải là vô học mà nghĩa là với căn phi học phi vô học mà người vô học đã thành tựu. Có căn vô học mà căn đó cũng là căn của người vô học mà ng- hóa là căn vô học mà người vô học đã thành tựu. Có căn không phải là vô học mà căn ấy cũng không phải là căn của người vô học mà nghĩa là căn học và căn phi học phi vô học mà người vô học không thành tựu. Hỏi: Các căn phi học phi vô học mà căn đó là căn của người phi học phi vô học chăng? Đáp: Các căn của người phi học phi vô học thì căn đó là phi học phi vô học. Có căn phi học phi vô học mà căn đó không phải là căn của người phi học vô học, nghĩa là căn phi học phi vô học mà người phi học phi vô học không thành tựu. Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thiện, bao nhiêu bất thiện, bao nhiêu vô ký? Đáp: Có tám thiện, tám vô ký, sáu cần phân biệt. nghĩa là ý căn, hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Thế nào là thiện? nghĩa là tác ý thiện tương ưng với ý căn. Thế nào là bất thiện? nghĩa là tác ý bất thiện tương ưng với ý căn. căn. Thế nào là vô ký? nghĩa là tác ý vô ký tương ưng với ý căn. Như ý căn; lạc căn-khổ căn, hỷ căn, xả căn cũng như vậy. Ưu căn hoặc thiện, hoặc bất thiện. Thế nào là thiện? nghĩa là tác ý thiện tương ưng với ưu căn. Thế nào là bất thiện? nghĩa là tác ý bất thiện tương ưng với ưu Hỏi: Hai mươi hai căn này bao nhiêu có dị thục, bao nhiêu không có dị thục? Đáp: Một có dị thục, mười một không có dị thục, mười cần phân biệt. nghĩa là ý căn, hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục. Thế nào là có dị thục? nghĩa là ý căn hữu lậu thiện-bất thiện. Thế nào là không có dị thục? nghĩa là ý căn vô lậu, vô ký. Như ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn cũng như vậy. Khổ căn hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục. Thế nào là có dị thục? nghĩa là khổ căn thiện-bất thiện. Thế nào là không có dị thục? nghĩa là khổ căn vô ký. Tín căn-tinh tiến căn-niệm căn-định căn-tuệ căn, hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục. Thế nào là có dị thục? nghĩa là năm căn hữu lậu. Thế nào là không có dị thục? nghĩa là năm căn vô lậu. Hỏi: Hai mươi hai căn này, có bao nhiêu kiến sở đoạn bao nhiêu tu đoạn, bao nhiêu không đoạn? Đáp: Chín tu sở đoạn, ba không đoạn, mười cần phân biệt: nghĩa là ý căn, hoặc do kiến sở đoạn, hoặc tu sở đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do kiến mà đoạn? nghĩa là ý căn tùy tín-tùy pháp hành, do hiện quán biên nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là tám mươi tám tùy miên tương ưng với ý căn do kiến mà đoạn. Thế nào là do tu mà đoạn? nghĩa là ý căn học kiến tích do tu mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là mười tùy miên tương ưng với ý căn do tu mà đoạn và ý căn hữu lậu không ô nhiễm. Thế nào là không đoạn? nghĩa là ý căn vô lậu. Như ý căn; xả căn cũng như vậy. Lạc căn hoặc do kiến mà đoạn, hoặc do tu mà đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do kiến mà đoạn? nghĩa là lạc căn của tùy tín-tùy pháp hành, do hiện quán biên nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là hai mươi tám tùy miên tương ưng với lạc căn do kiến mà đoạn. Thế nào là do tu mà đoạn? nghĩa là lạc căn học kiến tích do tu mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là năm tùy miên tương ưng với lạc căn do tu mà đoạn và lạc căn hữu lậu không ô nhiễm. Thế nào là không đoạn? nghĩa là lạc căn vô lậu. Hỷ căn hoặc do kiến mà đoạn, hoặc do tu mà đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do kiến mà đoạn? nghĩa là hỷ căn của tùy tín-tùy pháp hành, di hiện quán biên nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là năm mươi hai tùy miên do kiến mà đoạn tương ưng với hỷ căn. Thế nào là do tu mà đoạn? nghĩa là hỷ căn học kiến tích do tu mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là sáu tùy miên tương ưng với hỷ căn do tu mà đoạn và hỷ căn hữu lậu không ô nhiễm. Thế nào là không đoạn? nghĩa là hỷ căn vô lậu. Ưu căn hoặc do kiến mà đoạn, hoặc do tu mà đoạn. Thế nào là do kiến mà đoạn? nghĩa là ưu căn tùy tín-tùy pháp hành, do hiện quán biên nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là mười sáu tùy miên do kiến mà đoạn tương ưng với ưu căn. Thế nào là do tu mà đoạn? nghĩa là học kiến tích của ưu căn do tu mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là hai tùy miên do tu mà đoạn, tương ưng với ưu căn và ưu căn không ô nhiễm. Tín căn-tinh tiến căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, hoặc do tu mà đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do tu mà đoạn? nghĩa là năm căn hữu lậu. Thế nào là không đoạn? nghĩa là năm căn vô lậu. Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu do kiến khổ mà đoạn, bao nhiêu do kiến tập mà đoạn, bao nhiêu do kiến diệt mà đoạn, bao nhiêu kiến đạo mà đoạn, bao nhiêu do tu mà đoạn, bao nhiêu không đoạn? Đáp: Chín do tu mà đoạn, ba không đoạn, mười cần phân biệt: nghĩa là ý căn, hoặc do kiến khổ mà đoạn, hoặc do kiến tập mà đoạn, hoặc do kiến diệt mà đoạn, hoặc do kiến đạo mà đoạn, hoặc do tu mà đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do kiến khổ mà đoạn? nghĩa là ý căn tùy tín-tùy pháp hành, do khổ hiện quán biên nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là hai mươi tám tùy miên tương ưng với ý căn do kiến khổ mà đoạn. Thế nào là do kiến tập mà đoạn? nghĩa là ý căn tùy tín-tùy pháp hành, tập hiện quán biên nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là mười chín tùy miên tương ưng với ý căn do kiến tập mà đoạn. Thế nào là do kiến diệt mà đoạn? nghĩa là ý căn tùy tín-tùy pháp hành, diệt hiện quán biên nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là mười chín tùy miên tương ưng với ý căn do kiến đạo mà đoạn. Thế nào là do kiến đạo mà đoạn? nghĩa là ý căn tùy tín-tùy pháp hành, đạo hiện quán biên do nhẫn đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là hai mươi hai tùy miên đối tượng đoạn của kiến đạo, tương ưng với ý căn. Thế nào là do tu mà đoạn? nghĩa là ý căn học kiến tích do tu mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là mười tùy miên tương ưng với ý căn do tu mà đoạn và ý căn hữu lậu không ô nhiễm. Thế nào là không đoạn? nghĩa là ý căn vô lậu. Như ý căn; xả căn cũng như vậy. Lạc căn hoặc do kiến khổ mà đoạn, hoặc do kiến tập mà đoạn, hoặc do kiến diệt mà đoạn, hoặc do kiến đạo mà đoạn, hoặc do tu mà đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do kiến khổ mà đoạn? nghĩa là lạc căn tùy tín-tùy pháp hành, do khổ hiện quán biên nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là chín tùy miên tương ưng với lạc căn do kiến khổ mà đoạn. Thế nào là do kiến tập mà đoạn? nghĩa là lạc căn của tùy tín- tùy pháp hành, do tập hiện quán biên nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là sáu tùy miên tương ưng với lạc căn do kiến tập mà đoạn. Thế nào là do kiến diệt mà đoạn? nghĩa là lạc căn của tùy tín-tùy pháp hành, diệt hiện quán biên nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là sáu tùy miên tương ưng với lạc căn do kiến diệt mà đoạn. Thế nào là do kiến đạo mà đoạn? nghĩa là lạc căn của tùy tín-tùy pháp hành, đạo hiện quán biên nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là bảy tùy miên tương ưng với lạc căn do kiến đạo mà đoạn. Thế nào là do tu mà đoạn? nghĩa là lạc căn học kiến tích do tu mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là năm tùy miên tương ưng với lạc căn do tu mà đoạn căn và lạc căn hữu lậu không ô nhiễm. Thế nào là không đoạn? nghĩa là lạc căn vô lậu. Hỷ căn hoặc do kiến khổ mà đoạn, hoặc do kiến tập mà đoạn, hoặc do kiến diệt mà đoạn, hoặc do kiến đạo mà đoạn, hoặc do tu mà đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do kiến khổ mà đoạn? nghĩa là hỷ căn của tùy tín-tùy pháp hành, do khổ hiện quán biên nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là mười bảy tùy miên tương ưng với hỷ căn do kiến khổ mà đoạn. Thế nào là do kiến tập mà đoạn? nghĩa là hỷ căn của tùy tín-tùy pháp hành, do tập hiện quán biên nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là mười một tùy miên tương ưng với hỷ căn do kiến tập mà đoạn. Thế nào là do kiến diệt mà đoạn? nghĩa là hỷ căn của tùy tín-tùy pháp hành, do diệt hiện quán nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là mười một tùy miên tương ưng với hỷ căn do kiến diệt mà đoạn. Thế nào là do kiến đạo mà đoạn? nghĩa là hỷ căn tùy tín-tùy pháp hành, do đạo hiện quán nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là mười ba tùy miên do kiến đạo mà đoạn, tương ưng với hỷ căn. Thế nào là do tu mà đoạn? nghĩa là hỷ căn học kiến tích do tu mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là sáu tùy miên tương ưng với hỷ căn do tu mà đoạn và hỷ căn hữu lậu không ô nhiễm. Thế nào là không đoạn? nghĩa là hỷ căn vô lậu. Ưu căn hoặc do kiến khổ mà đoạn, hoặc do kiến tập mà đoạn, hoặc do kiến diệt mà đoạn, hoặc do kiến đạo mà đoạn, hoặc do tu mà đoạn. Thế nào là do kiến khổ mà đoạn? nghĩa là ưu căn tùy tín-tùy pháp hành, do khổ hiện quán nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là bốn tùy miên, tương ưng với ưu căn do kiến khổ mà đoạn. Thế nào là do kiến tập mà đoạn? nghĩa là ưu căn của tùy tín-tùy pháp hành, do tập quán biên nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là bốn tùy miên do kiến tập mà đoạn, tương ưng với ưu căn. Thế nào là do kiến diệt mà đoạn? nghĩa là ưu căn tùy tín-tùy pháp hành, do diệt hiện quán nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là bốn tùy miên tương ưng với ưu căn do kiến diệt mà đoạn. Thế nào là do kiến đạo mà đoạn? nghĩa là ưu căn của tùy tín-tùy pháp hành, do đạo hiện quán nhẫn mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là bốn tùy miêm, tương ưng với ưu căn do kiến đạo mà đoạn. Thế nào là do tu mà đoạn? nghĩa là ưu căn học kiến tích do tu mà đoạn. Sự việc này là thế nào? nghĩa là hai tùy miên tương ưng với ưu căn do tu mà đoạn và ưu căn không ô nhiễm. Tín căn-tinh tiến căn-niệm căn-định căn-tuệ căn, hoặc do tu mà đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do tu mà đoạn? nghĩa là năm căn hữu lậu. Thế nào là không đoạn? nghĩa là năm căn vô lậu. Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu kiến, bao nhiêu phi kiến? Đáp: Một kiến, mười bảy phi kiến, bốn cần phân biệt: nghĩa là tuệ căn hoặc do kiến, hoặc phi kiến. Thế nào là kiến? nghĩa là tận trí-vô sinh trí không thâu nhiếp ý thức tương ưng với tuệ căn. Thế nào là phi kiến? nghĩa là tuệ căn khác. Vị tri-đương tri căn hoặc là kiến, hoặc phi kiến. Thế nào là kiến? nghĩa là vị tri-đương tri căn thâu nhiếp tuệ căn. Thế nào là phi kiến? nghĩa là vị tri-đương tri căn thâu nhiếp các căn khác. Như vị tri-đương tri căn dó tri căn cũng như vậy. Cụ tri căn hoặc do kiến, hoặc phi kiến. Thế nào là kiến? nghĩa là tận trí-vô sinh trí, không thâu nhiếp cụ tri căn mà thâu nhiếp tuệ căn. Thế nào là phi kiến? nghĩa là cụ tri căn thâu nhiếp các căn khác. Hỏi: Hai mươi hai căn này, bao nhiêu có tầm-có tứ; bao nhiêu không có tầm-có tứ; bao nhiêu không có tầm-không có tứ? Đáp: Hai có tầm-có tứ; tám không có tầm-không có tứ; mười hai cần phân biệt: Ý căn hoặc có tầm-có tứ; hoặc không có tầm, chỉ có tứ; hoặc không có tầm-không có tứ. Thế nào là có tầm-có tứ? nghĩa là tác ý có tầm-có tứ, tương ưng với ý căn. Thế nào là không có tầm chỉ có tứ? nghĩa là tác ý không có tầm- chỉ có tứ, tương ưng với ý căn. Thế nào là không có tầm-không có tứ? nghĩa là tác ý không có tầm-không có tứ tương ưng với ý căn. Như ý căn, xả căn, tín căn-tinh tiến căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, vị tri- đương tri căn, dó tri căn, cụ tri căn cũng như vậy. Lạc căn hoặc có tầm-có tứ; hoặc không có tầm-không có tứ. Thế nào là có tầm-có tứ? nghĩa là tác ý có tầm-có tứ tương ưng với lạc căn. Thế nào là không có tầm-không có tứ? nghĩa là tác ý không có tầm-không có tứ, tương ưng với lạc căn. Như lạc căn, hỷ căn cũng như vậy. Hỏi: Hai mươi hai căn này, có bao tương ưng với lạc căn, bao nhiêu tương ưng với khổ căn, bao nhiêu tương ưng với hỷ căn, bao nhiêu tương ưng với ưu căn, bao nhiêu tương ưng với xả căn? Đáp: Lạc căn-hỷ căn-xả căn tương ưng với phần ít của chín căn, khổ căn-ưu căn tương ưng với phần ít của sáu căn. Hỏi: Hai mươi hai căn này, có bao nhiêu hệ thuộc cõi Dục, bao nhiêu hệ thuộc cõi Sắc, bao nhiêu hệ thuộc cõi Vô sắc, bao nhiêu không hệ thuộc? Đáp: Bốn căn hệ thuộc cõi Dục, ba không hệ thuộc, mười lăm căn cần phân biệt. nghĩa là nhãn căn hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc. Thế nào là hệ thuộc cõi Dục? nghĩa là nhãn căn được tạo do đại chủng hệ thuộc cõi Dục. Thế nào là hệ thuộc cõi Sắc? nghĩa là nhãn căn được tạo do đại chủng hệ thuộc cõi Sắc. Như nhãn căn; nhó căn-tỷ căn-thiệt căn, thân căn cũng như vậy. Mạng căn hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc hệ thuộc cõi Vô sắc. Thế nào là hệ thuộc cõi Dục? nghĩa là thọ mạng hệ thuộc cõi Dục. Sắc. Thế nào là hệ thuộc cõi Sắc? nghĩa là thọ mạng hệ thuộc cõi Thế nào là hệ thuộc cõi Vô sắc? nghĩa là thọ mạng hệ thuộc cõi Vô sắc. Ý căn hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc. Thế nào là hệ thuộc cõi Dục? nghĩa là tác ý hệ thuộc cõi Dục, tương ưng với ý căn. Thế nào là hệ thuộc cõi Sắc? nghĩa là tác ý hệ thuộc cõi Sắc, tương ưng với ý căn. Thế nào là hệ thuộc cõi Vô sắc? nghĩa là tác ý hệ thuộc cõi Vô sắc, tương ưng với ý căn. Thế nào là không hệ thuộc? nghĩa là tác ý vô lậu tương ưng với ý căn. Như ý căn, xả căn, tín căn-tinh tiến căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng như vậy. Lạc căn hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc không hệ thuộc. Thế nào là hệ thuộc cõi Dục? nghĩa là tác ý hệ thuộc cõi Dục, tương ưng với lạc căn. Thế nào là hệ thuộc cõi Sắc? nghĩa là tác ý hệ thuộc cõi Sắc, tương ưng với lạc căn. Thế nào là không hệ thuộc? nghĩa là tác ý vô lậu tương ưng với lạc căn. Như lạc căn, hỷ căn cũng như vậy. Hỏi: Hai mươi hai căn này, có bao nhiêu nhân tương ưng? Đáp: Có mười bốn. Hỏi: Hai mươi hai căn này, có bao nhiêu nhân không tương ưng? Đáp: Có tám. Hỏi: Hai mươi hai căn này, có bao nhiêu nhân tương ưng, và nhân không tương ưng? Đáp: Tức là mười bốn căn trước, phần ít là nhân tương ưng, phần ít là nhân không tương ưng. Hỏi: Hai mươi hai căn này, có bao nhiêu không phải là nhân tương ưng, bao nhiêu không phải là nhân không tương ưng? Đáp: Tức là mười bốn căn trước, phần ít không phải là nhân tương ưng, phần ít không phải là nhân không tương ưng. Hỏi: Hai mươi hai căn này, bao nhiêu là duyên có duyên? Đáp: Phần ít của mười ba căn. Hỏi: Bao nhiêu là duyên không có duyên? Đáp: Một căn và phần ít của mười ba căn. Hỏi: Bao nhiêu duyên có duyên, duyên không có duyên? Đáp: Tức là phần ít của mười ba căn trước. Hỏi: Bao nhiêu không phải duyên có duyên, không phải duyên không có duyên? Đáp: Là tám. Hỏi: Các căn là pháp này, thì căn đó là phàm phu chăng? Đáp: Các căn là pháp này, căn đó không phải là phàm phu. Hỏi: Nếu căn là phàm phu, thì căn đó là pháp này chăng? Đáp: Các căn thuộc phàm phu, căn đó không phải là pháp này. Hỏi: Sắc uẩn thâu nhiếp bao nhiêu căn? Đáp: Bảy căn. Hỏi: Thọ uẩn thâu nhiếp bao nhiêu căn? Đáp: Năm căn và phần ít của ba căn. Hỏi: Tưởng uẩn thâu nhiếp bao nhiêu căn? Đáp: Không có. Hỏi: Hành uẩn thâu nhiếp bao nhiêu căn? Đáp: Sáu căn và phần ít của ba căn. Hỏi: Thức uẩn thâu nhiếp bao nhiêu căn? Đáp: Một căn và phần ít của ba căn Hỏi: Căn thiện thâu nhiếp bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn? Đáp: Gồm tám giới-hai xứ-ba uẩn. Hỏi: Riêng căn thiện thâu nhiếp có bao nhiêu giới-xứ-uẩn? Đáp: Không có. Hỏi: Căn bất thiện thâu nhiếp bao nhiêu giới-xứ-uẩn? Đáp: Gồm tám giới, hai xứ, hai uẩn. Hỏi: Riêng căn bất thiện thâu nhiếp có bao nhiêu giới-xứ-uẩn? Đáp: Không có. Hỏi: Căn hữu phú, vô ký thâu nhiếp bao nhiêu giới-xứ-uẩn? Đáp: Gồm sáu giới-hai xứ-hai uẩn. Hỏi: Riêng căn hữu phú vô ký thâu nhiếp bao nhiêu giới-xứ-uẩn? Đáp: Không có. Hỏi: Căn vô phú vô ký thâu nhiếp bao nhiêu giới-xứ-uẩn? Đáp: Gồm mười ba giới, bảy xứ, bốn uẩn. uẩn? Hỏi: Riêng căn vô phú vô ký thâu nhiếp bao nhiêu giới-xứ-uẩn? Đáp: Năm giới, năm xứ, không có uẩn. Hỏi: Các căn thâu nhiếp bao nhiêu giới-xứ-uẩn? Đáp: Gồm mười ba giới, bảy xứ, bốn uẩn. Hỏi: Riêng căn pháp thâu nhiếp bao nhiêu giới-xứ-uẩn? Đáp: Gồm mười hai giới-sáu xứ-hai uẩn. Hỏi: Không phải căn pháp thâu nhiếp bao nhiêu giới-xứ-uẩn? Đáp: Gồm sáu giới, sáu xứ, ba uẩn. Hỏi: Riêng không phải căn pháp thâu nhiếp bao nhiêu giới-xứ- Đáp: Gồm năm giới, năm xứ, một uẩn. Hỏi: Căn pháp và không phải căn pháp thâu nhiếp bao nhiêu giới- xứ-uẩn? Đáp: Gồm mười tám giới-mười hai xứ-năm uẩn. Hỏi: Riêng căn pháp và không phải căn pháp thâu nhiếp có bao nhiêu giới-xứ-uẩn? Đáp: Gồm một giới-một xứ-hai uẩn. Hỏi: Có thể căn làm duyên sinh ra căn chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Sinh không phải là căn chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Sinh căn không phải là căn chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Có thể không phải căn làm duyên sinh ra không phải căn chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Sinh căn chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Sinh căn không phải là căn chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Có thể căn và không phải căn làm duyên sinh ra căn không phải là căn chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Sinh căn chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Sinh chẳng phải là căn chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Có thể nhãn căn làm duyên sinh ra nhãn căn chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Sinh ra nhó căn cho đến cụ tri căn chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Có thể cho đến cụ tri căn làm duyên sinh ra cụ tri căn chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Sinh ra nhãn căn cho đến dó tri căn chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Nhãn căn và nhãn căn, là bao nhiêu duyên? Nhãn căn và nhó căn cho đến cụ tri căn, là bao nhiêu duyên? Cho đến và cụ tri căn, là bao nhiêu duyên? Cụ tri căn và nhãn căn cho đến dó tri căn là bao nhiêu duyên? Đáp: Nhãn căn và nhãn căn, là nhân tăng thượng; Cùng với các sắc căn-mạng căn-khổ căn, là một tăng thượng, cùng với căn khác là sở duyên tăng thượng. Như nhãn căn, nhó-tỷ-thiệt căn cũng như vậy. Thân căn cùng với thân căn-nữ-năm căn, là nhân tăng thượng; cùng với các sắc căn-mạng căn-khổ căn là một tăng thượng, cùng với các căn khác là sở duyên tăng thượng. Nữ căn và nữ căn-thân căn, là nhân tăng thượng; cùng với sắc căn-mạng căn-khổ căn, là một tăng thượng, cùng với các căn khác, là sở duyên tăng thượng. Như nữ căn; năm căn cũng như vậy Mạng căn và mạng căn, là nhân tăng thượng cùng với bảy sắc căn-khổ căn, là một tăng thượng; cùng với các căn khác, là sở duyên tăng thượng. Ý căn và ý căn là nhân đẳng vô gián và sở duyên tăng thượng; cùng với bảy sắc căn-mạng căn, là nhân tăng thượng; cùng với khổ căn, là nhân đẳng vô gián tăng thượng, chứ không phải là sở duyên; cùng với các căn khác là nhân đẳng vô gián và sở duyên tăng thượng. Như ý căn, lạc căn- hỷ căn-xả căn-tín căn-tinh tiến căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng như vậy. Khổ căn và khổ căn, là nhân đẳng vô gián tăng thượng, chứ không phải là sở duyên, cùng với bảy sắc căn-mạng căn, là nhân tăng thượng; cùng với ba căn vô lậu, là sở duyên tăng thượng; cùng với các căn khác, là nhân đẳng vô gián và sở duyên tăng thượng. Ưu căn và ưu căn, là nhân đẳng vô gián và sở duyên tăng thượng; cùng với bảy sắc căn-mạng căn, là nhân tăng thượng; cùng với khổ căn, là nhân đẳng vô gián tăng thượng, không có sở duyên; cùng với va căn vô lậu, là sở duyên tăng thượng; cùng với các căn khác, là nhân đẳng vô gián và sở duyên tăng thượng. Vị tri-đương tri căn và vị tri-đương tri căn, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với cụ tri căn, là nhân sở duyên tăng thượng, không phải là đẳng vô gián; cùng với bảy sắc căn-mạng căn-khổ căn, là một tăng thượng; cùng với ưu căn, là sở duyên tăng thượng; cùng với các căn khác, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng. Dó tri căn và dó tri căn, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với bảy sắc căn-mạng căn-khổ căn, là một tăng thượng; cùng với ưu căn và vị tri căn, là sở duyên tăng thượng; cùng với các căn khác, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng. Cụ tri căn và cụ tri căn, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với bảy sắc căn-mạng căn-mạng căn-khổ căn, là một tăng thượng; cùng với ưu căn, vị tri-đương tri căn và dó tri căn, là sở duyên tăng thượng; cùng với các căn khác, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng.  <卷>QUYỂN 15 <章>Chương 6: CĂN UẨN <詞>Phẩm 2: BÀN VỀ HỮU Đạt được một-biết tất cả ba, Quả Sa môn gồm có chín đoạn, Bốn trí gồm có pháp-loại trí, Duyên tương ưng cùng với năm môn, Căn học và vô học đạt được Dùng đạo vô gián chứng bốn quả, Có bao nhiêu căn đoạn-diệt-khởi, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Dục hữu nối tiếp nhau, đầu tiên do bao ban đầu do bao nhiêu nghiệp mà sinh ra căn? Đáp: Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh có hai; hóa sinh có sáu, hoặc bảy, hoặc tám; vô hình có sáu, một hình bảy, hai hình có tám. Hỏi: Sắc hữu nối tiếp nhau, ban đầu do bao nhiêu nghiệp mà sinh ra căn? Đáp: Sáu. Hỏi: Vô sắc hữu nối tiếp nhau, ban đầu do bao nhiêu nghiệp mà sinh ra căn? Đáp: Một. Hỏi: Có thể tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Dục thì biết tất cả cõi Dục chăng? Đáp: Biết tất cả. Hỏi: Có thể tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Dục thì biết tất cả cõi Sắc chăng? Đáp: Không biết tất cả. Hỏi: Có thể tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Dục thì biết tất cả cõi Vô sắc chăng? Đáp: Không biết tất cả. Hỏi: Có thể tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Sắc thì biết tất cả cõi Sắc chăng? Đáp: Biết tất cả. Hỏi: Có thể tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Sắc thì biết tất cả cõi Dục chăng? Đáp: Biết tất cả. Hỏi: Có thể tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Sắc thì biết tất cả cõi Vô sắc chăng? Đáp: Không biết tất cả. Hỏi: Có thể tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Vô sắc thì biết tất cả cõi Vô sắc chăng? Đáp: Biết tất cả. Hỏi: Có thể tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Vô sắc thì biết tất cả cõi Dục chăng? Đáp: Không biết tất cả. Hỏi: Có thể tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Vô sắc thì biết tất cả cõi Sắc chăng? Đáp: Biết tất cả. Hỏi: Có bao nhiêu căn biết tất cả cõi Dục? Đáp: Đạo thế tục có bảy, đạo vô lậu tám. Hỏi: Có bao nhiêu căn biết tất cả cõi Sắc? Đáp: Đạo thế tục có bảy, đạo vô lậu có mười. Hỏi: Có bao nhiêu căn biết tất cả cõi Vô sắc? Đáp: Mười một. Hỏi: Khi biết tất cả cõi Dục, thì có bao nhiêu căn biết tất cả? Đáp: Có bốn. Hỏi: Khi đã biết tất cả cõi Sắc thì có bao nhiêu căn biết tất cả? Đáp: Có năm. Hỏi: Khi biết tất cả cõi Vô sắc thì có bao nhiêu căn biết tất cả? Đáp: Có tám. Hỏi: Có bao nhiêu căn được quả Dự lưu? Đáp: Có chín. Hỏi: Có bao nhiêu căn được quả Nhất lai? Đáp: Nếu lìa dục nhiễm gấp bội, nhập chính tính ly sinh thì có chín, nếu từ quả Dự lưu, được quả Nhất lai thì đạo thế tục có bảy, đạo vô lậu có tám. Hỏi: Có bao nhiêu căn được quả Bất hoàn? Đáp: Nếu người đã lìa dục nhiễm, nhập chính tính ly sinh thì có chín. Nếu từ quả Nhất lai, được quả Bất hoàn thì đạo thế tục có bảy, đạo vô lậu tám. Hỏi: Có bao nhiêu căn được quả A-la-hán? Đáp: Có mười một. Hỏi: Được quả Dự lưu có bao nhiêu căn biết tất cả? Đáp: Không có. Hỏi: Được quả Nhất lai có bao nhiêu căn biết tất cả? Đáp: Không có. Hỏi: Được quả Bất hoàn có bao nhiêu căn biết tất cả? Đáp: Nếu người đã lìa dục nhiễm, nhập chính tính ly sinh thì không có. Nếu từ quả Nhất lai, được quả Bất hoàn thì có bốn. Hỏi: Được quả A-la-hán có bao nhiêu căn biết tất cả? Đáp: Có tám. Hỏi: Các căn được quả Dự lưu, căn này được quả ấy rồi, nên nói là thành tựu hay là không thành tựu? Đáp: Thuộc về đạo giải thoát thì nói là thành tựu, thuộc về đạo vô gián thì nói là không thành tựu. Hỏi: Các căn được quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán, căn này được các quả ấy rồi, nên nói là thành tựu hay là không thành tựu? Đáp: Thuộc về đạo giải thoát thì nói là thành tựu, thuộc về đạo vô gián thì nói là không thành tựu. Hỏi: Các căn được quả Dự lưu, căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? nào? nào? Đáp: Cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Dự lưu, hoặc không có. Hỏi: Các căn được quả Nhất lai, căn này đoạn trừ kiết của cõi Đáp: Cõi Dục, hoặc cõi Sắc-Vô sắc, hoặc không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Nhất lai, hoặc không có. Hỏi: Các căn được quả Bất hoàn, căn này đoạn trừ kiết của cõi Đáp: Cõi Dục, hoặc cõi Sắc-Vô sắc, hoặc không có. nào? Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Bất hoàn, hoặc không có. Hỏi: Các căn được quả A-la-hán, căn này đoạn trừ kiết của cõi Đáp: Cõi Vô sắc, hoặc không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả A-la-hán, hoặc không có. Hỏi: Lúc được quả Dự lưu là đã xả các căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Cõi Dục, hoặc cõi Sắc-Vô sắc, hoặc không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Không có. Hỏi: Khi được quả Nhất lai là đã xả các căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Cõi Dục, hoặc cõi Sắc-Vô sắc, hoặc không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Dự lưu, hoặc không có. Hỏi: Khi được quả Bất hoàn là đã xả các căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Cõi Dục, hoặc cõi Sắc-Vô sắc, hoặc không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Nhất lai, hoặc không có. Hỏi: Khi đắc quả A-la-hán là đã xả các căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Cõi Sắc, hoặc cõi Vô sắc, hoặc không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Bất hoàn, hoặc không có. Hỏi: Khi đạt được quả Dự lưu là đã được các căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Dự lưu, hoặc không có. Hỏi: Khi đạt được quả Nhất lai là đã được các căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Nhất lai, hoặc không có. Hỏi: Khi đạt được quả Bất hoàn là đã được các căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Bất hoàn, hoặc không có. Hỏi: Khi đạt được quả A-la-hán là đã được các căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả A-la-hán, hoặc không có. Hỏi: Những người Dự lưu đã thành tựu căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Cõi Dục, hoặc không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Dự lưu, hoặc không có. Hỏi: Những người Nhất lai đã thành tựu căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Cõi Dục, hoặc không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Nhất lai, hoặc không có. Hỏi: Những người Bất hoàn đã thành tựu căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Cõi Sắc, hoặc cõi Vô sắc, hoặc không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả Bất hoàn, hoặc không có. Hỏi: Những người A-la-hán đã thành tựu căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Thuộc về quả A-la-hán, hoặc không có. Hỏi: Những người Dự lưu đoạn trừ kiết do các căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Cõi Dục. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Không có. Hỏi: Những người Nhất lai đoạn trừ kiết do các căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Cõi Dục. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Không có. Hỏi: Những người Bất hoàn đoạn trừ kiết do các căn, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Cõi Sắc, hoặc cõi Vô sắc. Hỏi: Căn này thuộc về quả nào? Đáp: Không có. Hỏi: Các căn thuộc về quả Dự lưu, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Các căn thuộc về quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán, thì căn này đoạn trừ kiết của cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Các khổ trí là trí vô lậu đối với khổ chăng? Đáp: Các khổ trí là trí vô lậu về khổ. Hỏi: Nếu trí vô lậu đối với khổ thì đó là khổ trí chăng? Đáp: Có trí vô lậu đối với khổ mà không phải là khổ trí, nghĩa là trí đối với khổ nhận biết về tập. Hỏi: Các tập trí là trí vô lậu đối với tập chăng? Đáp: Các tập trí là trí vô lậu về tập. Hỏi: Nếu trí vô lậu đối với tập thì đó là tập trí chăng? Đáp: Có trí vô lậu đối với tập mà không phải là tập trí, nghĩa là trí đối với tập nhận biết về khổ. Hỏi: Các diệt trí là trí vô lậu đối với diệt chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu trí vô lậu đối với diệt thì đó là diệt trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các đạo trí là trí vô lậu đối với đạo chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu trí vô lậu đối với đạo thì đó là đạo trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Dục, thì căn này tương ưng với pháp trí chăng? Nếu căn vô lậu tương ưng với pháp trí, thì căn này duyên hệ thuộc cõi Dục chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Dục mà căn này không tương ưng với pháp trí, nghĩa là khổ pháp trí nhẫn và căn tương ưng với khổ pháp trí, tập pháp trí nhẫn và căn tương ưng với tập pháp trí. Có căn vô lậu tương ưng với pháp trí mà căn này không duyên hệ thuộc cõi Dục, nghĩa là căn tương ưng với diệt-đạo pháp trí. Có căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Dục mà căn này cũng tương ưng với pháp trí, nghĩa là căn tương ưng với khổ-tập pháp trí. Có căn vô lậu không duyên hệ thuộc cõi Dục mà căn này cũng không tương ưng với pháp trí, nghĩa là khổ loại trí của khổ loại trí nhẫn và hai căn tương ưng; tập loại trí, tập loại trí nhẫn và hai căn tương ưng; diệt pháp trí nhẫn và căn tương ưng với diệt pháp trí; diệt loại trí nhẫn- diệt loại trí và hai căn tương ưng; đạo pháp trí nhẫn và căn tương ưng với đạo phát trí; tạo loại trí nhẫn-đạo loại trí và hai căn tương ưng. Hỏi: Các căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc, thì căn này tương ưng với loại trí chăng? Nếu căn vô lậu tương ưng với loại trí, thì căn này duyên hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc mà căn này không tương ưng với loại trí, nghĩa là khổ loại trí nhẫn và căn tương ưng với khổ loại trí, tập loại trí nhẫn và căn tương ưng với tập loại trí. Có căn vô lậu tương ưng với loại trí, căn này không duyên hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc, nghĩa là căn tương ưng với diệt-đạo loại trí. Có căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc mà căn này cũng tương ưng với loại trí, nghĩa là căn tương ưng với khổ-tập loại trí. Có căn vô lậu không duyên hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc mà căn này cũng không tương ưng với loại trí, nghĩa là khổ pháp trí nhẫn, khổ pháp trí và hai căn tương ưng; tập pháp trí nhẫn-tập pháp trí và hai căn tương ưng, diệt pháp trí nhẫn-diệt pháp trí và hai căn tương ưng; diệt loại trí nhẫn và căn tương ưng với diệt loại trí; đạo pháp trí nhẫn-đạo pháp trí và hai căn tương ưng; đạo loại trí nhẫn và căn tương ưng với đạo loại trí. Hỏi: Pháp trí, nên nói là pháp trí chăng? Hay nên nói là loại trí, tha tâm trí, thế tục trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí chăng? Đáp: Nên nói là pháp trí, hoặc tha tâm trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí. Hỏi: Nên nói là có tầm-có tứ; không có tầm, chỉ có tứ; không có tầm-không có tứ chăng? Đáp: Nên nói đủ ba loại. Hỏi: Nên nói tương ưng với lạc căn, tương ưng với hỷ căn hay là tương ưng với xả căn? Đáp: Nên nói đủ ba căn. Hỏi: Nên nói tương ưng với Không-Vô tướng-Vô nguyện chăng? Đáp: Nên nói đủ ba loại. Hỏi: Nên nói duyên hệ thuộc cõi Dục, duyên hệ thuộc cõi Sắc, duyên hệ thuộc cõi Vô sắc, hay là duyên không hệ thuộc? Đáp: Nên nói duyên hệ thuộc cõi Dục, hoặc không hệ thuộc. Hỏi: Loại trí, nên nói là loại trí chăng? Hay nên nói là pháp trí, tha tâm trí, thế tục trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí? Đáp: Nên nói là loại trí, hoặc tha tâm trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí. Hỏi: Nên nói là có tầm-có tứ; không có tầm-chỉ có tứ; không có tầm-không có tứ chăng? Đáp: Nên nói đủ ba loại. Hỏi: Nên nói tương ưng với lạc căn, tương ưng với hỷ căn hay là tương ưng với xả căn? Đáp: Nên nói đủ ba căn. Hỏi: Nên nói tương ưng với Không-Vô tướng-Vô nguyện chăng? Đáp: Nên nói đủ ba loại. Hỏi: Nên nói duyên hệ thuộc cõi Dục, duyên hệ thuộc cõi Sắc, duyên hệ thuộc cõi Vô sắc, hay là duyên không hệ thuộc? Đáp: Nên nói duyên hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc, hoặc không hệ thuộc. Hỏi: Lúc tâm giải thoát, nên nói căn học đạt được, căn vô học đạt được, hay là căn học đạt được, vô học? Đáp: Nên nói đạt được căn học-vô học. Hỏi: Tâm bất động giải thoát, nên nói là căn học đạt được, căn vô học đạt được, hay là căn học-vô học đạt được? Đáp: Nếu vốn đạt được bất động, nên nói là căn học, vô học đạt được. Nếu lúc A-la-hán giải thoát đạt được bất động, thì nên nói là căn vô học đạt được. Hỏi: Tất cả kiết trừ hết, nên nói là căn học đạt được, căn vô học đạt được, hay là căn học-vô học đạt được? Đáp: Nên nói là căn học, vô học đạt được. Hỏi: Dùng đạo vô gián để chứng quả Dự lưu, cho đến quả A-la- hán. Đạo này nên nói là pháp trí tương ưng với loại trí, tha tâm trí, thế tục trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí? Nên nói là có tầm-có tứ, không có tầm-chỉ có tứ; không có tầm-không có tứ chăng? Nên nói là tương ưng với lạc căn, hỷ căn, xả căn chăng? Nên nói tương ưng với Không-Vô tướng-Vô nguyện chăng? Nên nói là duyên hệ thuộc cõi Dục, hệ thuộc cõi Sắc, hệ thuộc cõi Vô sắc hay không hệ thuộc? Đáp: Dùng đạo vô gián để chứng quả Dự lưu, thì đạo này nên nói là tương ưng với có tầm-có tứ, tương ưng với xả căn, tương ưng với Vô nguyện, duyên không hệ thuộc. Dùng đạo vô gián để chứng quả Nhất lai. Nếu tăng thêm lìa dục nhiễm, nhập chính tính ly sinh ra như nói về chứng quả Dự lưu. Nếu từ quả Dự lưu, dùng đạo thế tục để chứng quả Nhất lai, thì đạo này nên nói là thế tục trí tương ưng với có tầm-có tứ, tương ưng với xả căn, duyên hệ thuộc cõi Dục. Nếu từ quả Dự lưu, dùng đạo vô lậu để chứng quả Nhất lai, thì đạo này nên nói tương ưng với pháp trí, hoặc khổ trí-tập trí-diệt trí; hoặc tương ưng với đạo trí; tương ưng với có tầm-có tứ, tương ưng với xả căn, tương ưng với Không, hoặc Vô nguyện, Vô tướng, hoặc duyên hệ thuộc cõi Dục, hoặc duyên không hệ thuộc. Dùng đạo vô gián để chứng quả Bất hoàn, nếu đã lìa dục nhiễm, nhập chính tính ly sinh, thì đạo này nên nói là tương ưng với nhẫn, hoặc có tầm-có tứ; hoặc không có tầm, chỉ có tứ; hoặc không có tầm- không có tứ; hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ căn, hoặc tương ưng với xả căn, tương ưng với vô nguyện, duyên không hệ thuộc. Nếu từ quả Nhất lai, dùng đạo thế tục để chứng quả Bất hoàn, thì như nói về dùng đạo thế tục để chứng quả Nhất lai. Nếu từ quả Nhất lai, dùng đạo vô lậu để chứng quả Bất hoàn, thì như nói về dùng đạo vô lậu để chứng quả Nhất lai. Dùng đạo vô gián để chứng quả A-la-hán, thì đạo này nên nói hoặc tương ưng với pháp trí, hoặc tương ưng với loại trí, hoặc tương ưng với khổ trí; hoặc tập trí, hoặc diệt trí, hoặc đạo trí, hoặc có tầm có tứ, hoặc không có tầm chỉ có tứ, hoặc không có tầm không có tứ; hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ căn, hoặc tương ưng với xả căn, hoặc tương ưng với không, hoặc tương ưng với vô nguyện, hoặc tương ưng với vô tướng, hoặc duyên hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc. Hỏi: Có bao nhiêu căn vónh viễn đoạn, diệt-khởi chứng đắc quả Dự lưu? Đáp: Không có căn vónh viễn đoạn; bảy căn diệt-khởi; một căn diệt không khởi; một căn khởi, không diệt thì được quả Dự lưu. Hỏi: Có bao nhiêu căn vónh viễn đoạn-diệt-khởi đạt được quả Nhất lai? Đáp: Nếu tăng thêm lìa dục nhiễm, nhập chính tính ly sinh, thì như nói về chứng quả Dự lưu. Nếu từ quả Dự lưu, dùng đạo thế tục để chứng quả Nhất lai, thì không có căn vónh viễn đoạn; bảy căn diệt-khởi, được quả Nhất lai. Nếu từ quả Dự lưu, dùng đạo vô lậu để chứng quả Nhất lai, thì không có căn vónh viễn đoạn; tám căn diệt-khởi, được quả Nhất lai. Hỏi: Có bao nhiêu căn vónh viễn đoạn-diệt-khởi đạt được quả Bất hoàn? Đáp: Nếu đã lìa dục nhiễm, nhập chính tính ly sinh, không có căn vónh viễn đoạn; bảy căn diệt-khởi, một căn diệt, không khởi; một căn khởi, không diệt được quả Bất hoàn. Nếu từ quả Nhất lai, dùng đạo thế tục để chứng quả Bất hoàn, thì không nhập tónh lự, bốn căn vónh viễn đoạn; bảy căn diệt-khởi, được quả Bất hoàn. Nếu nhập tónh lự, thì bốn căn vónh viễn đoạn; sáu căn diệt-khởi; một căn diệt, không khởi; một căn khởi, không diệt, được quả Bất hoàn. Nếu từ quả Nhất lai, dùng đạo vô lậu để chứng quả Bất hoàn, thì không nhập tónh lự, bốn căn vónh viễn đoạn; tám căn diệt-khởi, được quả Bất hoàn. Nếu nhập tónh lự, thì bốn căn vónh viễn đoạn, bảy căn diệt-khởi; một căn diệt, không khởi; một căn khởi, không diệt, được quả Bất hoàn. Hỏi: Có bao nhiêu căn vónh viễn đoạn-diệt khởi, đạt được quả A- la-hán? Đáp: Nếu dựa vào vị chí định chứng quả A-la-hán, thì một căn vónh viễn đoạn, bảy căn vónh viễn đoạn, diệt-khởi; một căn diệt, không khởi; một căn khởi, không diệt, được quả A-la-hán. Như dựa vào vị chí định, dựa vào trung gian tónh lự, tónh lự thứ tư, ba định vô sắc cũng như vậy. Nếu dựa vào sơ tónh lự chứng quả A-la-hán, thì hai căn vónh viễn đoạn; sáu căn vónh viễn đoạn, diệt-khởi; một căn diệt-khởi; một căn diệt, không khởi; một căn khởi, không diệt, được quả A-la-hán. Như dựa vào sơ tónh lự, dựa vào tónh lự thứ hai-thứ ba cũng như vậy. --------------- <詞>Phẩm 3: BÀN VỀ XÚC Mười sáu xúc thâu nhiếp lẫn nhau, Căn tương ưng cùng với thành tựu, Biết khắp tất cả-diệt tác chứng, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Có mười sáu xúc: Xúc hữu đối, xúc tăng ngữ, xúc minh, xúc vô minh, xúc phi minh phi vô minh, xúc ái, xúc giận dữ, xúc thuận với lạc thọ, xúc thuận với khổ thọ, xúc thuận với bất khổ bất lạc thọ, xúc nhãn, xúc nhó, xúc tỷ, xúc thiệt, xúc thân, xúc ý. Hỏi: Thế nào là xúc hữu đối? Đáp: Xúc tương ưng với năm thức thân. Hỏi: Thế nào là xúc tăng ngữ? Đáp: Xúc tương ưng với ý thức thân. Hỏi: Thế nào là xúc minh? Đáp: Xúc vô lậu. Hỏi: Thế nào là xúc vô minh? Đáp: Xúc ô nhiễm. Hỏi: Thế nào là xúc phi minh, phi vô minh? Đáp: Xúc hữu lậu không nhiễm. Hỏi: Thế nào là xúc ái? Đáp: Xúc tương ưng với tham. Hỏi: Thế nào là xúc giận dữ? Đáp: Xúc tương ưng với giận. Hỏi: Thế nào là xúc thuận với lạc thọ? Đáp: Xúc tương ưng với lạc thọ. Hỏi: Thế nào là xúc thuận với khổ thọ? Đáp: Xúc tương ưng với khổ thọ. Hỏi: Thế nào là xúc thuận với bất khổ bất lạc thọ? Đáp: Xúc tương ưng với bất khổ bất lạc thọ. Hỏi: Thế nào là xúc nhãn? Đáp: Xúc tương ưng với nhãn thức thân. Hỏi: Thế nào là xúc nhó? Đáp: Xúc tương ưng với thân nhó thức. Hỏi: Thế nào là xúc tỷ? Đáp: Xúc tương ưng với thân tỷ thức. Hỏi: Thế nào là xúc thiệt? Đáp: Xúc tương ưng với thiệt thức thân. Hỏi: Thế nào là xúc thân? Đáp: Xúc tương ưng với thân thức của thân. Hỏi: Thế nào là xúc ý? Đáp: Xúc tương ưng với ý thức thân. Hỏi: Xúc hữu đối thâu nhiếp bao nhiêu xúc? Cho đến xúc ý thâu nhiếp bao nhiêu xúc? Đáp: Xúc hữu đối thâu nhiếp toàn bộ sáu xức và phần ít của bảy xúc. Xúc tăng ngữ thâu nhiếp toàn bộ ba xúc và phần ít của bảy xúc. Xúc minh thâu nhiếp toàn bộ xúc minh và phần ít của bốn xúc. Xúc vô minh thâu nhiếp toàn bộ ba xúc và phần ít của mười một xúc. Xúc phi minh, phi vô minh thâu nhiếp toàn bộ xúc phi minh phi vô minh và phần ít của mười một xúc. Xúc ái thâu nhiếp toàn bộ xúc ái và phần ít của mười một xúc. Xúc giận dữ thâu nhiếp toàn bộ xúc dữ và phần ít của mười một xúc. Xúc thuận với lạc thọ toàn bộ xúc thuận với lạc thọ và phần ít của mười hai xúc. Xúc thuận với khổ thọ thâu nhiếp toàn bộ xúc thuận với khổ thọ và phần ít của mười một xúc. Xúc thuận với bất khổ bất lạc thọ thâu nhiếp toàn bộ xúc thuận với bất khổ lạc thọ và phần ít của mười ba xúc. Xúc thâu nhiếp toàn bộ xúc nhãn và phần ít của tám xúc. Như xúc nhãn, xúc nhó-xúc tỷ-xúc thiệt-xúc thân cũng như vậy. Xúc ý thâu nhiếp toàn bộ ba xúc và phần ít của bảy xúc. Hỏi: Xúc hữu đối tương ưng với bao nhiêu căn? Cho đến xúc ý tương ưng với bao nhiêu căn? Đáp: Xúc hữu đối tương ưng toàn bộ một căn và phần ít của tám căn. Xúc tăng ngữ tương ưng toàn bộ năm căn và phần ít của tám xúc minh tương ưng toàn bộ ba căn phần ít của chín căn. Xúc vô minh tương ưng phần ít của sáu căn. Xúc phi minh phi vô minh tương ưng phần ít của mười một căn. Xúc ái tương ưng phần ít của bốn căn. Xúc giận dữ tương phần ít của bốn căn. Xúc thuận với lạc thọ tương ưng toàn bộ hai căn và phần ít của chín căn, xúc thuận với khổ thọ tương ưng toàn bộ hai căn và phần ít của sáu căn. Xúc thuận với bất khổ bất lạc thọ tương ưng toàn bộ một căn và phần ít của chín căn. Xúc nhãn tương ưng với phần ít của chín căn. Như xúc nhãn, xúc nhó, xúc tỷ, xúc thiệt, xúc thân cũng như vậy. Xúc ý tương ưng toàn bộ năm căn và phần ít của tám căn. Hỏi: Các căn là nhân của xúc hữu đối thì căn này tương ưng với xúc hữu đối chăng? Đáp: Các căn tương ưng với xúc hữu đối thì căn này là nhân của xúc hữu đối. Hỏi: Nếu căn tương ưng với xúc hữu đối thì căn này là nhân của xúc hữu đối chăng? Đáp: Có căn là nhân của xúc hữu đối thì căn này không phải tương ưng với xúc hữu đối, nghĩa là căn làm nhân của xúc hữu đối, tương ưng với xúc khác, và dị thục sinh không hữu sở duyên. Như xúc hữu đối, trừ ra xúc minh và xúc phi minh, phi vô minh, các xúc còn lại cũng như vậy. Hỏi: Các căn là nhân của xúc minh thì căn này tương ưng với xúc minh chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu căn tương ưng với xúc minh thì căn này là nhân của xúc minh chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các căn là nhân của xúc phi minh, phi vô minh thì căn này tương ưng với xúc phi minh, phi vô minh chăng? Đáp: Các căn tương ưng với xúc phi minh, phi vô minh thì căn này là nhân của xúc phi minh, phi vô minh. Hỏi: Nếu căn tương ưng với xúc phi minh, phi vô minh thì căn này là nhân của xúc phi minh, phi vô minh chăng? Đáp: Có căn là nhân của xúc phi minh, phi vô minh thì căn này không tương ưng với xúc phi minh, phi vô minh, nghĩa là căn làm nhân của xúc phi minh, phi vô minh, tương ưng với xúc khác, và dị thục sinh không hữu sở duyên. Hỏi: Thành tựu nhãn căn loại này thì lúc ấy thành tựu thân căn loại này chăng? Giả sử thành tựu thân căn loại này thì lúc ấy thành tựu nhãn căn loại này chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có thành tựu nhãn căn loại này mà không phải thân căn loại này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, không được thân căn, giả sử được rồi mất, được nhãn căn nơi cõi Sắc. Có thành tựu thân căn loại này mà không phải nhãn căn loại này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, không được nhãn căn, giả sử được rồi mất, không được nhãn căn cõi Sắc. Có thành tựu nhãn căn loại này mà cũng là thân căn loại này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, nhãn căn, đã được không mất, hoặc sinh nơi cõi Sắc. Không thành tựu về nhãn căn loại này mà cũng không phải là thân căn loại này, nghĩa là sinh nơi cõi Vô sắc. Như nhãn căn, nhó căn cũng như vậy. Hỏi: Thành tựu tỷ căn loại này thì lúc ấy thành tựu về thân căn loại này chăng? Đáp: Nếu thành tựu tỷ căn loại này thì lúc ấy thành tựu thân căn loại này. Hỏi: Nếu thành tựu thân căn loại này thì lúc ấy thành tựu tỷ căn loại này chăng? Đáp: Có thành tựu thân căn loại này mà không thành tựu tỷ căn loại này, nghĩa là sinh nơi cõi Dục, không được tỷ căn, giả sử được rồi mất. Như tỷ căn; thiệt căn cũng như vậy. Hỏi: Địa ngục thành tựu bao nhiêu căn? Bàng sinh cho đến các vô sắc, tùy tín hành cho đến câu giải thoát thành tựu bao nhiêu căn? Đáp: Địa ngục nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là tám căn. Bàng sinh nhiều nhất là mười chín căn ít nhất là mười ba căn. Cõi ngạ quỷ cũng như vậy. Kẻ đoạn căn thiện nhiều nhất là mười ba căn, ít nhất là tám căn. Tà định tụ nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là mười tám căn. chính định tụ nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là mười một căn. Bất định tụ nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là tám căn. Châu Thiệm-bộ nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là tám căn. Châu Tỳ-đề- ha, châu Cù-đà-ni cũng như vậy. Châu Câu-lô nhiều nhất là mười tám căn, ít nhất là mười ba căn. Trời tứ đại vương chúng nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là mười bảy căn. Trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại cũng như vậy. Trời Phạm chúng nhiều nhất là mười sáu căn, ít nhất là mười lăm căn. Trời Cực quang tịnh cũng như vậy. Trời Biến tịnh nhiều nhất là mười sáu căn, ít nhất là mười bốn căn. Trời Quảng quả nhiều nhất là mười sáu căn, ít nhất là mười ba căn. Trung hữu nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là mười ba căn. Các vô sắc nhiều nhất là mười một căn, ít nhất là tám căn. Tùy tín hành nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là mười ba căn. Tùy pháp hành cũng như vậy. Tín thắng giải nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là mười một căn. Kiến chí cũng như vậy. Thân chứng nhiều nhất là mười tám căn, ít nhất là mười một căn. Tuệ giải thoát, câu giải thoát cũng như vậy. Hỏi: Nhãn căn cho đến tuệ căn, khi được có bao nhiêu căn biết tất cả được biết tất cả? Đáp: Khi nhãn căn được biết tất cả, đến lìa sắc nhiễm có năm căn được biết tất cả. Nhó-tỷ-thiệt-thân căn cũng như vậy. Khi nữ căn được biết tất cả, đến lìa dục nhiễm có bốn căn được biết tất cả. Nam căn, khổ căn, ưu căn cũng như vậy. Khi mạng căn được biết tất cả, đến lìa vô sắc nhiễm có tám căn được biết tất cả. Ý căn, xả căn, năm căn như tín… cũng như vậy. Khi lạc căn được biết tất cả, đến lìa nhiễm cõi Biến tịnh, thì lạc căn được biết tất cả. Lúc hỷ căn được biết tất cả, đến lìa nhiễm cõi Cực quang tịnh, thì hỷ căn được biết tất cả. Hỏi: Nhãn căn cho đến tuệ căn, khi diệt tác chứng có bao nhiêu căn diệt tác chứng? Đáp: Khi nhãn căn diệt tác chứng, đến lìa sắc nhiễm, năm căn diệt tác chứng, đến A-la-hán mười chín căn diệt tác chứng. Nhó-tỷ-thiệt-thân căn cũng như vậy. Khi nữ căn diệt tác chứng, đến lìa dục nhiễm, có bốn căn diệt tác chứng, đến A-la-hán có mười chín căn diệt tác chứng. Nam căn, khổ căn, ưu căn cũng như vậy. Khi mạng căn diệt tác chứng, đến A-la-hán có mười chín căn diệt tác chứng. Ý căn, xả căn, năm căn như tín… cũng như vậy. Khi lạc căn diệt tác chứng, đến lìa nhiễm nơi cõi Biến tịnh, thì lạc căn diệt tác chứng, đến A-la-hán có mười chín căn diệt tác chứng. Khi hỷ căn diệt tác chứng, đến lìa nhiễm cõi Cực quang tịnh, thì hỷ căn diệt tác chứng, đến A-la-hán có mười chín căn diệt tác chứng. ----------------- <詞>Phẩm 4: BÀN VỀ ĐẲNG TÂM Đẳng tâm-thọ mạng và hai định, Vô tưởng-thâu nhiếp và tương ưng, Phạm vi tử-sinh và Niết bàn, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Tâm của tất cả hữu tình, nên nói là cùng khởi-cùng trụ-cùng diệt chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Tâm hữu tham, tâm lìa tham, nên nói là cùng khởi-cùng trụ- cùngg diệt chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Hữu sân-lìa sân, hữu si- lìa si, rời rạc-sơ lược, lùi xuống-đưa lên, lớn-nhỏ, trạo cử-không trạo cử, vắng lặng-không vắng lặng-không định tu-không tu, giải thoát-không giải thoát, các tâm đúng như vậy nên nói là cùng khởi-cùng trụ-cùngg diệt chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Thọ mạng nên nói là tùy tâm chuyển hay không tùy tâm chuyển? Đáp: Không tùy tâm chuyển. Hỏi: Nên nói tùy chuyển nối tiếp nhau là cùng khởi thì trụ chăng? Đáp: Nếu hữu tình nơi cõi Dục không trụ nơi các đẳng chí (định)- vô tưởng-diệt tận, thì nên nói tùy chuyển biến nối tiếp nhau. Nếu trụ nơi đẳng chí-vô tưởng-diệt tận, và hữu tình của cõi Sắc-Vô sắc, nên nói cùng khởi ấy là trụ Hỏi: Trụ nơi đẳng chí-vô tưởng-diệt tận thì thọ mạng nên nói chuyển là trụ chăng? Đáp: Nên nói là chuyển, như Đức Thế Tôn nói: “Thọ mạng của con người dần hết, như nước sông nhỏ”. Hỏi: Nếu thọ mạng của các hữu tình khởi, thì trụ, làm sao biết được thọ mạng ấy dần hết? Đáp: Bởi vì đời hết cho nên kiếp hết. Hỏi: Nhập định vô tưởng có bao nhiêu căn diệt? Đáp: Có bảy. Hỏi: Tâm-tâm sở diệt hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Xuất định vô tưởng có bao nhiêu căn hiện tiền? Đáp: Có bảy. Hỏi: Tâm-tâm sở hiện tiền hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Nhập định diệt tận có bao nhiêu căn diệt? Đáp: Có bảy. Hỏi: Tâm-tâm sở diệt hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Xuất định diệt tận có bao nhiêu căn hiện tiền? Đáp: Hoặc bảy, hoặc tám. Tâm hữu lậu bảy, tâm vô lậu là tám. Hỏi: Tâm-tâm sở hiện tiền hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hoặc hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc. Hỏi: Sinh Vô tưởng Thiên có bao nhiêu căn diệt? Đáp: Có tám. Hỏi: Tâm-tâm sở diệt hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền? Đáp: Có tám. Hỏi: Tâm-tâm sở hiện tiền hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Vô tưởng Thiên mất có bao nhiêu căn diệt? Đáp: Có tám. Hỏi: Tâm-tâm sở diệt hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền? Đáp: Hoặc tám, hoặc chín, hoặc mười, vô hình là tám, một hình là chín, hai hình là mười. Hỏi: Tâm-tâm sở hiện tiền hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Dục. Hỏi: Khi hữu tình sinh nơi Vô tưởng nên nói là hữu tưởng hay vô tưởng? Đáp: Nên nói hữu tưởng. Như Đức Thế Tôn nói: “Các lúc ấy, bởi vì tưởng khởi cho nên từ nơi hữu tưởng kia mất”. Hỏi: Khi từ hữu tưởng kia mất, tưởng kia nên nói là diệt hay không diệt? Đáp: Nên nói là diệt. Hỏi: Nên nói trụ xứ nào mà tưởng ấy diệt? Đáp: Nên nói là trụ ngay nơi xứ hữu tưởng. Hỏi: Tưởng kia nên nói là thiện hay vô ký? Đáp: Hoặc thiện, hoặc vô ký. Hỏi: Tưởng kia có bao nhiêu tùy miên tùy tăng? Đáp: Duyên hữu lậu cõi Sắc. Hỏi: Có bao nhiêu kiết trói buộc? Đáp: Có sáu. Như Đức Thế Tôn nói: “Tất cả hữu tình đều do ăn mà trụ”. Hỏi: Hữu tình vô tưởng dựa vào cách ăn gì mà trụ? Đáp: Xúc-ý-tư-thức. Hỏi: Nhãn căn thâu nhiếp bao nhiêu căn? Cho đến cụ tri căn thâu nhiếp bao nhiêu căn? Đáp: Nhãn căn thâu nhiếp nhãn căn. Như nhãn căn, nhó-tỷ-thiệt- mạng, khổ, ưu căn cũng như vậy. Thân căn thâu nhiếp ba căn. Nữ căn thâu nhiếp nữ căn, phần ít của thân căn. Nam căn cũng như vậy. Ý căn thâu nhiếp ý căn và phần ít của ba căn. Như ý căn; lạc-hỷ-xả căn, năm căn như tín… cũng như vậy. Vị tri đương tri căn thâu nhiếp vị tri đương tri căn, phần ít của chín căn. Như vị tri đương tri căn, dó tri căn, cụ tri căn cũng như vậy. Hỏi: Tín lực cho đến Tuệ lực, Niệm giác chi, cho đến Xả giác chi, chính kiến cho đến chính định, pháp trí cho đến đạo trí, Không-Vô nguyện-Vô tướng thâu nhiếp bao nhiêu căn? Đáp: Tín lực thâu nhiếp một căn và phần ít của ba căn. Như Tín lực, bốn lực còn lại cũng như vậy. Niệm giác chi thâu nhiếp phần ít của bốn căn. Như Niệm giác chi, Trạch pháp, Tinh tiến, hỷ, định… giác chi cũng như vậy, pháp khác không thâu nhiếp căn. chính kiến thâu nhiếp phần ít của bốn căn. Như chính kiến, chính cần, niệm- định cũng như vậy, còn lại không thâu nhiếp căn. Pháp trí thâu nhiếp phần ít của bốn căn. Như pháp trí; loại trí-khổ trí-tập trí-diệt trí, đạo trí cũng như vậy. Tha tâm trí thâu nhiếp phần ít của ba căn, thế tục trí thâu nhiếp phần ít của một căn. Không thâu nhiếp phần ít của bốn căn. Như Không-Vô nguyện- Vô tướng cũng như vậy. Hỏi: Ý căn có bao nhiêu căn tương ưng? Cho đến cụ tri căn có bao nhiêu căn tương ưng? Đáp: Ý căn tương ưng với mười căn và phần ít của ba căn. Lạc căn-hỷ căn tương ưng với phần ít của chín căn. Khổ căn, ưu căn tương ưng với phần ít của sáu căn. Tín căn tương ưng với bốn căn và phần ít của chín căn. Như Tín căn, Tinh tiến-Niệm-Định-Tuệ căn cũng như vậy. Vị tri đương tri căn tương ưng với vị tri đương tri căn và phần ít của chín căn. Như vị tri đương tri căn; dó tri căn và cụ tri căn cũng như vậy. Hỏi: Tín lực cho đến Tuệ lực, Niệm giác chi cho đến Xả giác chi, chính kiến cho đến chính định, pháp trí cho đến đạo trí, không, vô nguyện, vô tướng có bao nhiêu căn tương ưng? Đáp: Tín lực tương ưng với phần ít của bốn căn, chín căn. Như tín lực, bốn lực còn lại cũng như vậy. Niệm giác chi tương ưng với phần ít của mười một căn. Như Niệm giác chi, Trạch pháp, Tinh tiến, Định giác chi cũng như vậy. Hỷ giác chi tương ưng với phần ít của chín căn, An, Xả giác chi tương ưng với ba căn và phần ít của chín căn. chính kiến tương ưng với phần ít của mười một căn. Như chính kiến, chính tư duy-chính cần-chính định cũng như vậy, còn lại không tương ưng với căn. Pháp trí tương ưng với phần ít của mười một căn. Như pháp trí-loại trí-khổ trí-tập trí- diệt trí-đạo trí cũng như vậy. Tha tâm trí tương ưng với phần ít của mười căn. Thế tục trí tương ưng với hai căn và phần ít của tám căn. Không-Vô nguyện-Vô tương ưng với phần ít của mười một căn. Hỏi: Khi mất ở cõi Dục, sinh ở cõi Dục có bao nhiêu căn diệt? Đáp: Hoặc bốn-hoặc chín, hoặc tám-hoặc mười ba; hoặc chín- hoặc mười bốn; hoặc mười, hoặc mười lăm. Người mạng chung dần thì tâm vô ký là bốn, tâm thiện là chín; kẻ mạng chung tức khắc, nếu vô hình thì tâm vô ký là tám, tâm thiện mười ba, nếu một hình thì tâm vô ký là chín, tâm thiện mười bốn, nếu hai hình thì tâm vô ký là mười, tâm thiện mười lăm. Hỏi: Tâm-tâm sở diệt hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Dục. Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền? Đáp: Hoặc tám, hoặc chín, hoặc mười, vô hình là tám, một hình là chín, hai hình là mười. Hỏi: Tâm-tâm sở hiện tiền hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Dục. Hỏi: Khi mất ở cõi Dục, sinh ở cõi Sắc có bao nhiêu căn diệt? Đáp: Hoặc bốn, hoặc chín, hoặc chín, hoặc mười bốn. Người mạng chung dần thì tâm vô ký là bốn, tâm thiện là chín; kẻ mạng chung tức khắc thì tâm vô ký là chín, tâm thiện là mười bốn. Hỏi: Tâm-tâm sở diệt hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Dục. Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền? Đáp: Có tám. Hỏi: Tâm-tâm sở hiện tiền hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Khi mất ở cõi Dục, sinh ở cõi Vô sắc có bao nhiêu căn diệt? Đáp: Hoặc bốn, hoặc chín, hoặc mười chín, hoặc mười bốn. Như trước đã nói. Hỏi: Tâm-tâm sở diệt hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Dục. Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền? Đáp: Có ba. Hỏi: Tâm-tâm sở hiện tiền hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Khi mất ở cõi Sắc, sinh nơi cõi Sắc có bao nhiêu căn diệt? Đáp: Hoặc tám, hoặc mười ba, tâm vô ký là tám, tâm thiện là mười ba. Hỏi: Tâm-tâm sở diệt hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền? Đáp: Có tám. Hỏi: Tâm-tâm sở hiện tiền hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Khi mất ở cõi Sắc, sinh nơi cõi Dục có bao nhiêu căn diệt? Đáp: Hoặc tám, hoặc mười ba, như trước đã nói. Hỏi: Tâm-tâm sở diệt hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền? Đáp: Hoặc tám, hoặc chín, hoặc mười, như trước đã nói. Hỏi: Tâm-tâm sở hiện tiền hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Dục. Hỏi: Khi mất ở cõi Sắc, sinh nơi cõi Vô sắc có bao nhiêu căn diệt? Đáp: Hoặc tám, hoặc mười ba, như trước đã nói. Hỏi: Tâm-tâm sở diệt hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền? Đáp: Có ba. diệt? diệt? diệt? Hỏi: Tâm-tâm sở hiện tiền hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Khi mất ở cõi Vô sắc, sinh nơi cõi Vô sắc có bao nhiêu căn Đáp: Hoặc ba, hoặc tám, tâm vô ký là ba, tâm thiện là tám. Hỏi: Tâm-tâm sở diệt hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền? Đáp: Có ba. Hỏi: Tâm-tâm sở hiện tiền hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Khi mất ở cõi Vô sắc, sinh nơi cõi Dục có bao nhiêu căn Đáp: Hoặc ba, hoặc tám, như trước đã nói. Hỏi: Tâm-tâm sở diệt hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền? Đáp: Hoặc tám, hoặc chín, hoặc mười, như trước đã nói. Hỏi: Tâm-tâm sở hiện tiền hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Dục. Hỏi: Khi mất ở cõi Vô sắc, sinh nơi cõi Sắc có bao nhiêu căn Đáp: Hoặc ba, hoặc tám, như trước đã nói. Hỏi: Tâm-tâm sở diệt hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền? Đáp: Có tám. Hỏi: Tâm-tâm sở hiện tiền hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc. Hỏi: Khi A-la-hán bát Niết-bàn, có bao nhiêu căn diệt sau cùng? Đáp: Hoặc bốn, hoặc chín; hoặc tám, hoặc ba. Ở nơi cõi Dục, A- la-hán bát Niết-bàn dần dần là bốn, bát Niết-bàn tức khắc là chín, nơi cõi Sắc là tám, nơi cõi Vô sắc là ba. ------------------ <詞>Phẩm 5: BÀN VỀ NHẤT TÂM Tương ưng-duyên và không lìa xa, Tu-không tu và đạt được căn, Bỏ-được vị tri đương tri căn, Năm môn biện giải về hai trí, Tâm trí-vô sinh trí ban đầu, Sở duyên tận trí-vô sinh trí, Bảy chính đạo tương ưng lẫn nhau, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Các pháp với tâm cùng khởi-cùng trụ-cùng diệt, thì pháp ấy tương ưng với tâm chăng? Đáp: Nếu pháp tương ưng với tâm, thì pháp đó sẽ cùng khởi-cùng trụ-cùng diệt với tâm. Có pháp cùng khởi-cùng trụ-cùng diệt với tâm, pháp ấy không phải tương ưng với tâm, nghĩa là tùy tâm chuyển biến sắc, tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Các pháp cùng khởi-cùng trụ-cùng diệt, thì pháp ấy cùng một sở duyên với tâm chăng? Đáp: Nếu pháp có cùng một sở duyên với tâm, thì pháp ấy và tâm cùng khởi-cùng trụ-cùngg diệt. Có pháp cùng khởi-cùng trụ-cùngg diệt với tâm, pháp ấy không phải là một sở duyên của tâm, nghĩa là tùy tâm chuyển sắc, tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Các pháp cùng với tâm đồng thời khởi lên không lìa tâm, pháp đó cùng với tâm đồng thời trụ-đồng thời diệt không lìa tâm chăng? Đáp: Hữu tình cõi Dục, Sắc không trụ nơi định vô tưởng-diệt tận, đại chủng của các căn, cùng với tâm đồng thời khởi, không lìa tâm, cùng với tâm đồng thời trụ-đồng thời diệt, không lìa tâm. Nếu người trụ nơi định vô tưởng-diệt tận, thì người ấy sẽ lìa tâm. Hỏi: Như nói về không tu nhãn căn cho đến thân căn. Thế nào là không tu nhãn căn cho đến thân căn? Đáp: Nếu đối với nhãn căn, chưa lìa tham, chưa lìa mong mỏi khao khát vui thú. Nhưng, đạo vô gián có khả năng trừ hết tham sắc, mà lúc ấy đối với đạo vô gián này chưa tu mà chưa an. Như không tu nhãn căn; không tu nhó-tỷ-thiệt-thân căn cũng như vậy. Hỏi: Như nói không tu ý căn. Thế nào là không tu ý căn? Đáp: Nếu đối với ý căn chưa lìa tham, chưa lìa mong mỏi khao khát vui thú. Nhưng đạo vô gián có khả năng trừ hết tham vô sắc, mà lúc ấy đối với đạo này chưa tu và chưa an. Hỏi: Như nói tu nhãn căn cho đến thân căn. Thế nào là tu nhãn căn cho đến thân căn? Đáp: Nếu đối với nhãn căn, đã lìa tham, đã lìa mong mỏi khao khát vui thú. Đồng thời đạo vô gián có khả năng trừ hết tham sắc, lúc ấy đối với đạo này đã tu, đã an. Như tu nhãn căn, nhó-tỷ-thiệt-thân căn cũng như vậy. Hỏi: Như nói tu ý căn. Thế nào là tu ý căn? Đáp: Nếu đối với ý căn đã lìa tham, đã lìa mong mỏi khao khát vui thú. Đồng thời đạo vô gián có khả năng trừ hết tham vô sắc, lúc ấy đối với đạo này đã tu và đã an. Hỏi: Các căn học không thành tựu được căn học, thì lúc ấy tất cả nhập chính tính ly sinh chăng? Đáp: Nếu nhập chính tính ly sinh, thì lúc ấy tất cả không thành tựu căn học mà đạt được căn học. Có lúc không thành tựu căn học mà đạt được căn học, lúc ấy không phải là nhập chính tính ly sinh, nghĩa là lúc quả A-la-hán lui sụt. Hỏi: Các căn học không thành tựu mà được căn học, thì lúc ấy tất cả pháp Thế đệ nhất là đẳng vô gián chăng? Đáp: Nếu pháp thế đệ nhất là đẳng vô gián, thì thì lúc ấy tất cả không thành tựu căn học, đạt được căn học. Có lúc không thành tựu căn học mà căn học đạt được, lúc ấy không phải pháp Thế đệ nhất là đẳng vô gián, nghĩa là khi quả A-la-hán lui sụt. Hỏi: Bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, thì lúc ấy tất cả là từ quả đến quả chăng? Đáp: Nếu từ quả đến quả, thì tất cả Thánh giả kia đều bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu. Có lúc bỏ căn vô lậu được căn vô lậu, mà lúc ấy không phải là từ quả đến quả, nghĩa là lúc hiện quán biên phát khởi đạo loại trí, hoặc là lúc A-la-hán giải thoát lúc luyện căn làm thành bất động. Hỏi: Bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, lúc ấy tất cả căn vô lậu diệt hay là căn vô lậu khởi? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu mà lúc ấy không phải là căn vô lậu diệt hay căn vô lậu khởi, nghĩa là lúc thoái lui quả A-la-hán, Bất hoàn, Nhất lai; và lúc dùng đạo thế tục, đạt được quả Nhất lai và bất hoàn. Có căn vô lậu diệt, căn vô lậu khởi, mà lúc ấy không phải là bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, nghĩa là đã được căn vô lậu diệt-khởi hiện ở trước mắt. Có bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, mà lúc ấy cũng là căn vô lậu diệt, căn vô lậu khởi, nghĩa là lúc hiện quán biên phát khởi đạo loại trí và lúc dùng đạo vô lậu, đạt được quả Nhất lai, Bất hoàn, lúc đạt được quả A-la-hán, lúc A-la-hán giải thoát, lúc luyện căn làm thành bất động. Không phải xả căn vô lậu, được căn vô lậu, lúc ấy cũng không phải là căn vô lậu diệt, căn vô lậu khởi, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Các vị tri đương tri căn, tất cả căn ấy đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán, có khả năng hiện quán chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có vị tri đương tri căn mà căn ấy không phải đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán, có khả năng hiện quán, nghĩa là vị tri đương tri căn ở quá khứ, hoặc vị lai. Có căn đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán, có khả năng hiện quán mà căn đó không phải vị tri đương tri căn, nghĩa là các pháp không có căn đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán, có khả năng hiện quán. Có vị tri đương tri căn mà căn ấy cũng đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán, có khả năng hiện quán, nghĩa là vị tri đương tri căn đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán, có khả năng hiện quán. Không phải vị tri đương tri căn mà căn ấy cũng không phải đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán, có khả năng hiện quán, nghĩa là trừ các tướng trước. Hỏi: Tận trí nên nói là tận trí cho đến đạo trí, nên nói có tầm có tứ, cho đến không có tầm không có tứ, nên nói lạc căn cho đến xả căn tương ưng, nên nói Không cho đến Vô nguyện-Vô tướng tương ưng, nên nói duyên hệ thuộc cõi Dục cho đến duyên không hệ thuộc chăng? Như tận trí, vô sinh trí và chính kiến vô học cũng như vậy. Đáp: Tận trí nên nói là tận trí, hoặc pháp trí, loại trí, hoặc khổ- tập-diệt-đạo trí; hoặc có tầm-có tứ; hoặc không có tầm, chỉ có tứ; hoặc không có tầm-không có tứ; hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ-xả căn, hoặc tương ưng với Vô nguyện, hoặc tương ưng với Vô tướng, hoặc duyên hệ thuộc cõi Dục, hoặc duyên hệ thuộc cõi Sắc, hoặc duyên hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc. Như tận trí, vô sinh trí cũng như vậy. chính kiến vô học nên nói là chính kiến vô học, hoặc pháp- loại- tha tâm trí, hoặc khổ-tập-diệt-đạo trí; hoặc có tầm-có tứ; hoặc không có tầm, chỉ có tứ; hoặc không có tầm-không có tứ; hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ, xả căn, hoặc tương ưng với Không, hoặc tương ưng với Vô nguyện, hoặc tương ưng với Vô tướng, hoặc duyên hệ thuộc cõi Dục, hoặc duyên hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc. Hỏi: Các tận trí đầu tiên, lúc ấy tất cả là đạo vô gián đẳng vô gián chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu đạo vô gián là đẳng vô gián, thì lúc ấy tất cả là tận trí chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các vô sinh trí đầu tiên, lúc ấy tất cả là tận trí đẳng vô gián chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu tận trí là đẳng vô gián, thì lúc ấy tất cả là vô sinh trí chăng? Đáp: Hoặc tận trí, hoặc vô sinh trí, hoặc chính kiến vô học. Hỏi: Các duyên phát khởi đạo vô gián ấy, tức là duyên phát khởi tận trí ấy đầu tiên chăng? Đáp: Nếu duyên khởi sinh đạo vô gián thì duyên phát khởi tận trí ấy đầu tiên. Nếu không phải là duyên sinh khởi đạo vô gián thì không phải là duyên phát khởi tận trí ấy đầu tiên. Hỏi: Các duyên phát khởi tận trí ấy, tức là duyên phát khởi vô sinh trí ấy chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu duyên phát khởi vô sinh trí ấy, thì đó là duyên phát khởi tận trí ấy chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với chính kiến vô học, thì pháp đó tương ưng với chính tư duy vô học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với chính kiến vô học mà không phải chính kiến vô học, nghĩa là chính tư duy vô học tương ưng với chính tư duy vô học, và chính tư duy vô học không tương ưng với pháp tương ưng của chính kiến vô học. Có pháp tương ưng với chính tư duy vô học mà không phải là chính tư duy vô học, nghĩa là chính kiến vô học tương ưng với chính kiến vô học, và chính kiến vô học không tương ưng với pháp tương ưng của chính tư duy vô học. Có pháp tương ưng với chính kiến vô học, cũng tương ưng với chính tư duy vô học, nghĩa là trừ ra chính kiến vô học tương ưng với chính tư duy vô học, và trừ ra chính tư duy vô học tương ưng với chính kiến vô học, còn lại các pháp tương ưng của chính kiến vô học và chính tư duy vô học. Có pháp không tương ưng với chính kiến vô học, cũng không tương ưng với chính tư duy vô học, nghĩa là chính kiến vô học không tương ưng với chính tư duy vô học, chính tư duy vô học không tương ưng với chính kiến vô học, và trước kia vốn không thâu nhiếp tâm-tâm sở pháp cùng Sắc-Vô vi-tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Các pháp tương ưng với chính kiến vô học, thì pháp đó tương ưng với chính cần vô học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với chính kiến vô học mà không phải là chính cần vô học, nghĩa là chính kiến vô học tương ưng với chính tư duy vô học. Có pháp tương ưng với chính cần vô học mà không phải là chính kiến vô học, nghĩa là chính kiến vô học, và chính kiến vô học không tương ưng với pháp tương ưng của chính cần vô học. Có pháp tương ưng với chính kiến vô học, cũng tương ưng với chính cần vô học, nghĩa là trừ chính kiến vô học tương ưng với chính cần vô học, còn lại các pháp tương ưng của chính kiến vô học. Có pháp không tương ưng với chính kiến vô học, cũng không tương ưng với chính cần vô học, nghĩa là chính kiến vô học không tương ưng với chính cần vô học, và trước kia vốn không thâu nhiếp tâm-tâm sở pháp cùng Sắc-Vô vi-tâm bất tương ưng hành. Như đối với chính cần; đối với chính niệm-chính định-chính giải thoát cũng như vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với chính kiến vô học, thì pháp đó không tương ưng với chính trí vô học chăng? Đáp: Các pháp tương ưng với chính trí vô học, pháp đó không tương ưng với chính trí vô học. Hỏi: Các pháp tương ưng với chính tư duy vô học, thì pháp ấy tương ưng với chính cần vô học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với chính tư duy vô học mà không phải là chính cần vô học, nghĩa là chính tư duy vô học tương ưng với chính cần vô học. Có pháp tương ưng với chính cần vô học mà không phải chính cần vô học, nghĩa là chính tư duy vô học tương ưng với chính tư duy vô học, và chính tư duy vô học không tương ưng với pháp tương ưng của chính cần vô học. Có pháp tương ưng với chính tư duy vô học, cũng tương ưng với chính cần vô học, nghĩa là trừ ra chính tư duy vô học tương ưng với chính cần vô học, còn lại các pháp tương ưng của chính tư duy vô học. Có pháp không tương ưng với chính tư duy vô học, cũng không tương ưng với chính cần vô học, nghĩa là chính tư duy vô học không tương ưng với chính cần vô học, và trước kia vốn không thâu nhiếp tâm-tâm sở pháp cùng Sắc,Vô vi-tâm bất tương ưng hành. Như đối với chính cần; đối với chính niệm-chính định-chính giải thoát cũng như vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với chính tư duy vô học, thì pháp đó tương ưng với chính trí vô học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với chính tư duy vô học mà không phải chính trí vô học, nghĩa là chính trí vô học tương ưng với chính tư duy vô học, và chính trí vô học không tương ưng với pháp tương ưng của chính tư duy vô học. Có pháp tương ưng với chính trí vô học mà không phải chính trí vô học, nghĩa là chính tư duy vô học tương ưng với chính tư duy vô học, và chính tư duy vô học không tương ưng với pháp tương ưng của chính trí vô học. Có pháp tương ưng với chính tư duy vô học, cũng tương ưng với chính trí vô học, nghĩa là trừ ra chính tư duy vô học tương ưng với chính trí vô học, và trừ ra chính trí vô học tương ưng với chính tư duy vô học, còn lại các pháp tương ưng của chính trí và chính tư duy vô học khác. Có pháp không tương ưng với chính tư duy vô học, cũng không tương ưng với chính trí vô học, nghĩa là chính tư duy vô học không tương ưng với chính trí vô học, chính trí vô học không tương ưng với chính tư duy vô học. Và trước kia vốn không thâu nhiếp tâm-tâm sở pháp cùng Sắc Vô vi-tâm bất tương ưng hành. Hỏi: Các pháp tương ưng với chính cần vô học, thì pháp đó tương ưng với chính niệm vô học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với chính cần vô học mà không phải là chính niệm vô học, nghĩa là chính niệm vô học. Có pháp tương ưng với chính niệm vô học mà không phải là chính cần vô học, nghĩa là chính cần vô học. Có pháp tương ưng với chính cần vô học, cũng tương ưng với chính niệm vô học, nghĩa là trừ ra chính cần vô học và chính niệm vô học, còn lại các pháp tương ưng của chính niệm và chính cần vô học. Có pháp không tương ưng với chính cần vô học, cũng không tương ưng với chính niệm vô học, nghĩa là trước kia vốn không thâu nhiếp tâm-tâm sở pháp và Sắc vô vi-tâm bất tương ưng hành. Như đối với chính niệm; đối với chính định-chính giải thoát cũng như vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với chính cần vô học, thì pháp đó tương ưng với chính trí vô học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với chính cần vô học mà không phải chính trí vô học, nghĩa là chính trí vô học, và chính trí vô học không tương ưng với pháp tương ưng của chính cần vô học. Có pháp tương ưng với chính trí vô học mà không phải là chính cần vô học, nghĩa là chính trí vô học tương ưng với chính cần vô học. Có pháp tương ưng với chính cần vô học, cũng tương ưng với chính trí vô học, nghĩa là trừ ra chính trí vô học tương ưng với chính cần vô học, còn lại các pháp tương ưng của chính trí. Có pháp không tương ưng với chính cần vô học, cũng không tương ưng với chính trí vô học, nghĩa là chính trí vô học không tương ưng với chính cần vô học, trước kia vốn không thâu nhiếp tâm-tâm sở pháp cùng Sắc vô vi-tâm bất tương ưng hành. Như đối với chính cần; đối với chính niệm-chính định cũng như vậy. Hỏi: Các pháp tương ưng với chính giải thoát vô học, thì pháp đó tương ưng với chính trí vô học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có pháp tương ưng với chính giải thoát vô học mà không phải chính trí vô học, nghĩa là chính trí vô học, và chính trí vô học không tương ưng với pháp tương ưng của chính giải thoát vô học. Có pháp tương ưng với chính trí vô học mà không phải là chính giải thoát vô học, nghĩa là chính trí vô học tương ưng với chính giải thoát vô học. Có pháp tương ưng với chính giải thoát vô học, cũng tương ưng với chính trí vô học, nghĩa là trừ ra chính trí vô học tương ưng với chính giải thoát vô học, còn lại các pháp tương ưng của chính trí. Có pháp không tương ưng với chính giải thoát vô học, cũng không tương ưng với chính trí vô học, nghĩa là chính trí vô học không tương ưng với chính giải thoát vô học, và trước kia vốn không thâu nhiếp tâm-tâm sở pháp và Sắc vô vi-tâm bất tương ưng hành.  <卷>QUYỂN 16 <章>Chương 6: CĂN UẨN <詞>Phẩm 6: BÀN VỀ NGƯ Tất cả ba đời là đều thành tựu, Không thành tựu là cũng giống như vậy, Căn thiện-bất thiện… cũng làm nhân, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Nếu thành tựu nhãn căn thì lúc ấy đối với hai mươi hai căn, có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu là? Cho đến cụ tri căn, câu hỏi cũng như vậy? Hỏi: Như đã nêu? Đáp: Nếu thành tựu nhãn căn, thì lúc ấy nhất định thành tựu là năm, còn lại là không nhất định. Nhó-tỷ-thiệt căn cũng như vậy. Nếu thành tựu thân căn, thì lúc ấy nhất định thành tựu là bốn, còn lại thì không nhất định. Nếu thành tựu nữ căn, thì lúc ấy nhất định thành tựu là tám, còn lại thì không nhất định. Nam căn cũng như vậy. Nếu thành tựu mạng căn, thì lúc ấy nhất định thành tựu là ba, còn lại thì không nhất định. Ý căn-xả căn cũng như vậy. Nếu thành tựu lạc căn, thì ngưới trí kia nhất định thành tựu là bốn, còn lại thì không nhất định. Nếu thành tựu khổ căn, thì lúc ấy nhất định thành tựu là bảy, còn lại thì không nhất định. Nếu thành tựu hỷ căn, thì lúc ấy nhất định thành tựu là năm, còn lại thì không nhất định. Nếu thành tựu ưu căn, thì lúc ấy nhất định thành tựu là tám, nhất định không thành tựu là một, còn lại thì không nhất định. Nếu thành tựu Tín căn, thì lúc ấy nhất định thành tựu là tám, còn lại thì không nhất định. Tinh tiến, Niệm-Định-Tuệ căn cũng như vậy. Nếu thành tựu vị tri, đương tri căn, thì lúc ấy nhất định thành tựu là mười ba, nhất định không thành tựu là hai, còn lại thì không nhất định. Nếu thành tựu dó tri căn, thì lúc ấy nhất định thành tựu là mười một, nhất định không thành tựu là hai, còn lại thì không nhất định. Nếu thành tựu cụ tri căn, thì lúc ấy nhất định thành tựu là mười một, nhất định không thành tựu là ba, còn lại thì không nhất định. Hỏi: Nếu thành tựu nhãn căn, thì lúc ấy đối với hai mươi hai căn thuộc ba đời là có bao nhiêu căn thành tựu, bao nhiêu căn không thành tựu là? Cho đến cụ tri căn, câu hỏi cũng như vậy? Đáp: Nếu thành tựu nhãn căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là quá khứ-vị lai là tám, nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là hai, hiện tại là ba; các căn còn lại thì không nhất định. Nhó-tỷ-thiệt căn cũng như vậy. Nếu thành tựu thân căn, lúc ấy nhất định không thành tựu là quá khứ-vị lai là tám; nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là hai, hiện tại là hai, các căn còn lại thì không nhất định. Nếu thành tựu nữ căn, thì trí giả kia nhất định không thành tựu là quá khứ-vị lai là tám; nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là năm, hiện tại là ba, các căn còn lại thì không nhất định. Nam căn cũng như vậy. Nếu thành tựu mạng căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là quá khứ-vị lai là tám; nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là hai, hiện tại là một, các căn còn lại thì không nhất định. Ý căn-xả căn cũng như vậy. Nếu thành tựu lạc căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là quá khứ-vị lai là tám, nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là hai, vị lai là một, hiện tại là một, còn lại thì không nhất định. Nếu thành tựu khổ căn, thì trí giả kia nhất định không thành tựu là quá khứ-vị lai là tám, nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là năm, hiện tại là hai, còn lại thì không nhất định. Nếu thành tựu hỷ căn, thì người trí giả kia nhất định không thành tựu là quá khứ-vị lai là tám, nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là hai, vị lai là hai, hiện tại là một, còn lại thì không nhất định. Nếu thành tựu ưu căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là quá khứ-vị lai là tám, ba đời là một; nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là bốn, ba đời là hai, hiện tại là hai, còn lại thì không nhất định. Nếu thành tựu tín căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là quá khứ-vị lai là tám, nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là bảy, hiện tại là một, còn lại thì không nhất định. Tinh tiến-Niệm-Định-Tuệ căn cũng như vậy. Nếu thành tựu vị tri, đương tri căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là quá khứ-vị lai là tám, ba đời là hai, hiện tại là hai, nhất định thành tựu là ba đời là bảy, quá khứ-vị lai là ba, hiện tại vị lai một, hiện tại là hai, còn lại thì không nhất định. Nếu thành tựu dó tri căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là quá khứ-vị lai là tám, ba đời là hai; nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là bảy, vị lai là ba, hiện tại là một, còn lại thì không nhất định. Nếu thành tựu cụ tri căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là quá khứ-vị lai là tám, ba đời là ba; nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là bảy, vị lai là ba, hiện tại là một, còn lại thì không nhất định. Hỏi: Nếu không thành tựu là nhãn căn, thì lúc ấy đối với hai mươi hai căn, có bao nhiêu không thành tựu là, bao nhiêu thành tựu? Cho đến cụ tri căn, câu hỏi cũng như vậy. Đáp: Nếu không thành tựu là nhãn căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là một, nhất định thành tựu là ba, còn lại thì không nhất định. Nhó-tỷ-thiệt, nữ, nam căn, ba căn vô lậu cũng như vậy. Hỏi: Nếu không thành tựu là thân căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là mười, nhất định thành tựu là tám, còn lại thì không nhất định. Mạng, ý, xả căn đều thành tựu. Nếu không thành tựu là lạc căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là chín, nhất định thành tựu là tám, còn lại thì không nhất định. Nếu không thành tựu là khổ căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là năm, nhất định thành tựu là tám, còn lại thì không nhất định. Nếu không thành tựu là hỷ căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là tám, nhất định thành tựu là tám, còn lại thì không nhất định. Hỏi: Nếu không thành tựu là ưu căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là một, nhất định thành tựu là tám, còn lại thì không nhất định. Nếu không thành tựu là tín căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là tám, nhất định thành tựu là tám, còn lại thì không nhất định. Tinh tiến-Niệm-Định-Tuệ căn cũng như vậy. Nếu không thành tựu là nhãn căn, thì lúc ấy đối với hai mươi hai căn của ba đời là có bao nhiêu căn không thành tựu là, bao nhiêu căn thành tựu? Cho đến cụ tri căn, câu hỏi cũng như vậy. Đáp: Nếu không thành tựu là nhãn căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là ba đời là một, quá khứ-vị lai là bảy; nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là hai, hiện tại là một; còn lại thì không nhất định. Nhó- tỷ-thiệt, nữ, nam căn cũng như vậy. Nếu không thành tựu là thân căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là ba đời là mười, quá khứ-vị lai là một; nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là năm, ba đời là hai, hiện tại là một, các căn còn lại thì không nhất định. Mạng-ý-xả căn đều thành tựu. Nếu không thành tựu là lạc căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu ba đời là chín, quá khứ-vị lai là sáu, nhất định thành tựu quá khứ-vị lai là bảy, hiện tại là một, còn lại thì không nhất định. Nếu không thành tựu là khổ căn, thì trí giả kia nhất định không thành tựu là ba đời là năm, quá khứ-vị lai là sáu, nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là bảy, hiện tại là một, còn lại thì không nhất định. Nếu không thành tựu là hỷ căn, thì trí giả kia nhất định không thành tựu là ba đời là tám, quá khứ-vị lai là sáu, nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là bảy, hiện tại là một, còn lại thì không nhất định. Nếu không thành tựu là ưu căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là ba đời là một, quá khứ-vị lai là tám, nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là bảy, hiện tại là một, còn lại thì không nhất định. Nếu không thành tựu là tín căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu là ba đời là tám, quá khứ-vị lai là tám, nhất định thành tựu là quá khứ-vị lai là bốn, ba đời là hai, hiện tại là hai, còn lại thì không nhất định. Tinh tiến-Niệm-Định-Tuệ căn cũng như vậy. Nếu không thành tựu là vị tri, đương tri căn, thì lúc ấy nhất định không thành tựu ba đời là một, quá khứ-vị lai là tám, nhất định thành tựu quá khứ-vị lai là hai, hiện tại là một, còn lại thì không nhất định. Dó tri căn và cụ tri căn cũng như vậy. Hỏi: Các căn thiện thì căn ấy làm nhân của căn thiện chăng? Nếu căn là nhân của căn thiện thì căn ấy là thiện chăng? Đáp: Các căn thiện thì căn đó là nhân của căn thiện. Có căn là nhân của căn thiện thì căn đó không phải là thiện, nghĩa là do căn thiện mà dẫn dắt dị thục sinh ra căn. Hỏi: Các căn bất thiện thì căn ấy là nhân của căn bất thiện chăng? Nếu căn là nhân của căn bất thiện thì căn ấy là bất thiện chăng? Đáp: Các căn bất thiện thì căn đó là nhân của căn bất thiện. Có căn là nhân của căn bất thiện thì căn đó không phải là bất thiện, nghĩa là căn bất thiện đã dẫn căn dị thục sinh ra căn, và căn tương ưng với hữu thân kiến-biện chấp kiến thuộc cõi Dục. Hỏi: Các căn vô ký thì căn ấy là nhân của căn vô ký chăng? Nếu căn là nhân của căn vô ký thì căn ấy là vô ký chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có căn vô ký thì căn đó không phải là nhân của căn vô ký, ng- hóa là căn không có duyên. Có căn là nhân của căn vô ký thì căn đó không phải là vô ký, nghĩa là căn bất thiện. Có căn vô ký thì căn đó cũng là nhân của căn vô ký, nghĩa là căn vô ký có duyên. Có căn không phải vô ký thì căn đó cũng không phải là nhân của căn vô ký, nghĩa là căn thiện. Hỏi: Có thể có căn không phải là nhân của căn thiện, không phải là nhân của căn bất thiện, không phải là nhân của căn vô ký, mà căn đó không phải là không có nhân chăng? Đáp: Có, nghĩa là căn không có duyên làm nhân của sắc-tâm bất tương ưng hành. -------------------- <詞>Phẩm 7: BÀN VỀ NHÂN DUYÊN Năm-ba-bốn-tám khác nhau, Tám-tám-tám cùng với bốn môn, Biện giải về căn nhân-sở duyên, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Các căn là nhân quá khứ thì căn ấy là duyên quá khứ chăng? Đáp: Các căn là nhân quá khứ thì căn ấy hoặc là duyên quá khứ, hoặc duyên vị lai, hoặc duyên hiện tại, hoặc duyên vô vi, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân quá khứ, duyên quá khứ, nghĩa là căn quá khứ- duyên quá khứ, và căn vị lai-hiện tại có nhân quá khứ-duyên quá khứ. Nhân quá khứ-duyên vị lai, nghĩa là căn quá khứ-duyên vị lai và căn vị lai-hiện tại có nhân quá khứ-duyên vị lai. Nhân quá khứ-duyên hiện tại, nghĩa là căn quá khứ-duyên hiện tại và căn vị lai-hiện tại có nhân quá khứ-duyên hiện tại. Nhân quá khứ-duyên vô vi, nghĩa là căn quá khứ-duyên vô vi và căn vị lai-hiện tại, có nhân quá khứ-duyên vô vi. Nhân quá khứ, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên- nhân quá khứ. Hỏi: Nếu căn là duyên quá khứ thì căn ấy là nhân quá khứ chăng? Đáp: Các căn là duyên quá khứ thì căn ấy hoặc là nhân quá khứ, hoặc nhân vị lai, hoặc nhân hiện tại. Các căn là duyên quá khứ-nhân quá khứ, nghĩa là căn quá khứ, duyên quá khứ và căn vị lai-hiện tại có nhân quá khứ-duyên quá khứ. Duyên quá khứ-nhân vị lai nghĩa là căn vị lai-duyên quá khứ. Duyên quá khứ-nhân hiện tại, nghĩa là căn hiện tại-duyên quá khứ, và căn vị lai có nhân hiện tại-duyên quá khứ. Hỏi: Các căn là nhân vị lai thì căn ấy là duyên với vị lai chăng? Đáp: Các căn là nhân vị lai thì căn ấy hoặc là duyên vị lai, hoặc duyên quá khứ, hoặc duyên hiện tại, hoặc duyên vô vi, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân vị lai-duyên vị lai, nghĩa là căn vị lai-duyên vị lai. Nhân vị lai-duyên quá khứ, nghĩa là căn vị lai-duyên quá khứ. Nhân vị lai-duyên hiện tại, nghĩa là căn vị lai-duyên hiện tại. Nhân vị lai-duyên vô vi, nghĩa là căn vị lai-duyên vô vi. Nhân vị lai, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên- nhân vị lai. Hỏi: Nếu căn là duyên vị lai thì căn ấy là nhân vị lai chăng? Đáp: Các căn là duyên vị lai thì căn ấy hoặc là nhân vị lai, hoặc nhân quá khứ, hoặc nhân hiện tại. Các căn là duyên vị lai-nhân vị lai, nghĩa là căn vị lai-duyên vị lai, và căn vị lai-hiện tại có nhân quá khứ- duyên vị lai. Duyên vị lai-nhân quá khứ, nghĩa là căn quá khứ-duyên vị lai. Duyên vị lai-nhân hiện tại, nghĩa là căn hiện tại-duyên vị lai, và căn vi lai có nhân hiện tại-duyên vị lai. Hỏi: Các căn là nhân hiện tại thì căn ấy là duyên hiện tại chăng? Đáp: Các căn là nhân hiện tại thì căn ấy hoặc là duyên hiện tại, hoặc duyên quá khứ, hoặc duyên vị lai, hoặc duyên vô vi, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân hiện tại-duyên hiện tại, nghĩa là căn hiện tại- duyên hiện tại, và căn vị lai có nhân hiện tại-duyên hiện tại. Nhân hiện tại-duyên quá khứ, nghĩa là căn hiện tại-duyên quá khứ, và căn vị lai có nhân hiện tại-duyên quá khứ. Nhân hiện tại-duyên vị lai, nghĩa là căn hiện tại-duyên vị lai, và căn vị lai có nhân hiện tại-duyên vị lai. Nhân hiện tại-duyên vô vi, nghĩa là căn hiện tại-duyên vô vi, và căn vị lai có nhân hiện tại-duyên vô vi. Nhân hiện tại, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên- nhân hiện tại. Hỏi: Nếu căn là duyên hiện tại thì căn ấy là nhân hiện tại chăng? Đáp: Các căn là duyên hiện tại thì căn ấy hoặc là nhân hiện tại, hoặc nhân quá khứ, hoặc nhân vị lai. Các căn là duyên hiện tại, nhân hiện tại, nghĩa là căn hiện tại-duyên hiện tại, và căn vị lai có nhân hiện tại-duyên hiện tại, và căn vị lai có nhân hiện tại-duyên hiện tại. Duyên hiện tại, nhân quá khứ, nghĩa là căn quá khứ-duyên hiện tại. Duyên hiện tại, nhân vị lai, nghĩa là căn vị lai-duyên hiện tại. Hỏi: Các căn là nhân thiện thì căn ấy là duyên thiện chăng? Đáp: Các căn là nhân thiện thì căn ấy hoặc là duyên thiện, hoặc duyên bất thiện, hoặc duyên vô ký, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân thiện-duyên thiện, nghĩa là căn thiện duyên thiện, và căn vô ký có nhân thiện-duyên thiện. Các căn là nhân thiện-duyên bất thiện, nghĩa là căn thiện-duyên bất thiện, và căn vô ký có nhân thiện-duyên bất thiện. Các căn là nhân thiện-duyên vô ký, nghĩa là căn thiện-duyên vô ký và căn vô ký có nhân thiện-duyên vô ký. Các căn là nhân thiện, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên, nhận thiện. Hỏi: Nếu căn là duyên thiện thì căn ấy là nhân thiện chăng? Đáp: Các căn là duyên thiện thì căn ấy hoặc là nhân thiện, hoặc nhân bất thiện, hoặc nhân vô ký. Các căn là duyên thiện, nhân thiện, nghĩa là căn thiện duyên thiện. Các căn là duyên thiện, nhân bất thiện, nghĩa là căn bất thiện-duyên thiện, và căn vô ký có nhân thiện-duyên thiện. Các căn là duyên thiện, nhân vô ký, nghĩa là căn vô ký-duyên thiện. Hỏi: Các căn là nhân bất thiện thì căn ấy là duyên bất thiện chăng? Đáp: Các căn là nhân bất thiện thì căn ấy hoặc là duyên bất thiện, hoặc duyên thiện, hoặc duyên vô ký, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân bất thiện-duyên bất thiện, nghĩa là căn bất thiện duyên bất thiện, và căn vô ký có nhân bất thiện-duyên thiện. Các căn là nhân bất thiện-duyên thiện, nghĩa là căn bất thiện-duyên thiện, và căn vô ký có nhân vô ký-duyên thiện. Các căn là nhân bất thiện-duyên vô ký, nghĩa là căn bất thiện-duyên vô ký, và căn vô ký có nhân bất thiện-duyên vô ký. Các căn là nhân bất thiện-không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân bất thiện. Hỏi: Nếu căn là duyên bất thiện thì căn ấy là nhân bất thiện chăng? Đáp: Các căn là duyên bất thiện thì căn ấy hoặc là nhân bất thiện, hoặc là nhân thiện, hoặc nhân vô ký. Các căn là duyên bất thiện, nhân bất thiện, nghĩa là căn bất thiện duyên bất thiện. Các căn là duyên bất thiện, nhân thiện, nghĩa là căn thiện-duyên bất thiện, và căn vô ký có nhân bất thiện-duyên bất thiện, và căn vô ký có nhân thiện-duyên bất thiện. Các căn là duyên bất thiện, nhân vô ký, nghĩa là căn vô ký-duyên bất thiện, và căn bất thiện có nhân vô ký-duyên bất thiện. Hỏi: Các căn là nhân vô ký thì căn ấy là duyên vô ký chăng? Đáp: Các căn là nhân vô ký thì căn ấy hoặc là duyên vô ký, hoặc duyên thiện, hoặc duyên bất thiện, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân vô ký-duyên vô ký, nghĩa là căn vô ký duyên vô ký, và căn bất thiện có nhân vô ký-duyên vô ký. Các căn là nhân vô ký-duyên thiện, nghĩa là căn vô ký-duyên thiện, và căn bất thiện có nhân vô ký-duyên thiện. Các căn là nhân vô ký-duyên bất thiện, nghĩa là căn vô ký-duyên bất thiện, và căn bất thiện có nhân vô ký-duyên bất thiện. Các căn là nhân vô ký, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân vô ký. Hỏi: Nếu căn là duyên vô ký thì căn ấy là nhân vô ký chăng? Đáp: Các căn là duyên vô ký thì căn ấy hoặc là nhân vô ký, hoặc là nhân thiện, hoặc nhân bất thiện. Các căn là duyên vô ký-nhân vô ký, nghĩa là căn vô ký-duyên vô ký. Các căn là duyên vô ký-nhân thiện, nghĩa là căn thiện-duyên vô ky, và căn bất thiện có nhân vô ký -duyên vô ký, và căn vô ký có nhân thiện-duyên vô ký. Các căn là duyên vô ký-nhân bất thiện, nghĩa là căn bất thiện-duyên vô ký, và căn vô ký có nhân bất thiện-duyên vô ký. Hỏi: Các căn là nhân cõi Dục thì căn ấy duyên cõi Dục chăng? Đáp: Các căn là nhân cõi Dục thì căn ấy hoặc là duyên cõi Dục, hoặc duyên cõi Sắc, hoặc duyên cõi Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân cõi Dục-duyên cõi Dục, nghĩa là căn cõi Dục- duyên cõi Dục. Các căn là nhân cõi Dục-duyên cõi Sắc, nghĩa là căn cõi Dục-duyên cõi Sắc. Các căn là nhân cõi Dục-duyên cõi Vô sắc, nghĩa là căn cõi Dục-duyên cõi Vô sắc. Các căn là nhân cõi Dục-duyên không hệ thuộc, nghĩa là căn cõi Dục-duyên không hệ thuộc. Các căn là nhân cõi Dục, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân cõi Dục. Hỏi: Nếu căn là duyên cõi Dục thì căn ấy là nhân cõi Dục chăng? Đáp: Các căn là duyên cõi Dục thì căn ấy hoặc là nhân cõi Dục, hoặc nhân cõi Sắc, hoặc nhân cõi Vô sắc, hoặc nhân không hệ thuộc. Các căn là duyên cõi Dục-nhân cõi Dục, nghĩa là căn cõi Dục- duyên cõi Dục. Các căn là duyên cõi Dục-nhân cõi Sắc, nghĩa là căn cõi Sắc-duyên cõi Dục. Các căn là duyên cõi Dục-nhân cõi Vô sắc, nghĩa là căn cõi Vô sắc-duyên cõi Dục. Các căn là duyên cõi Dục-nhân không hệ thuộc, nghĩa là căn không hệ thuộc, duyên cõi Dục. Hỏi: Các căn là nhân cõi Sắc thì căn ấy là duyên cõi Sắc chăng? Đáp: Các căn là nhân cõi Sắc thì căn ấy hoặc là duyên cõi Sắc, hoặc duyên cõi Dục, hoặc duyên cõi Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân cõi Sắc-duyên cõi Sắc, nghĩa là căn cõi Sắc- duyên cõi Sắc. Các căn là nhân cõi Sắc-duyên cõi Dục, nghĩa là căn cõi Sắc-duyên cõi Dục. Các căn là nhân cõi Sắc-duyên không hệ thuộc, nghĩa là căn cõi Sắc-duyên không hệ thuộc. Các căn là nhân cõi Sắc, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân cõi Sắc. Hỏi: Nếu căn là duyên cõi Sắc thì căn ấy là nhân cõi Sắc chăng? Đáp: Các căn là duyên cõi Sắc thì căn ấy hoặc là nhân cõi Sắc, hoặc nhân cõi Dục, hoặc nhân cõi Vô sắc, hoặc nhân không hệ thuộc. Các căn là duyên cõi Sắc-nhân cõi Sắc, nghĩa là căn cõi Sắc- duyên cõi Sắc. Các căn là duyên cõi Sắc-nhân cõi Dục, nghĩa là căn cõi Dục-duyên cõi Sắc. Các căn là duyên cõi Sắc-nhân cõi Vô sắc, nghĩa là căn cõi Vô sắc-duyên cõi Sắc. Các căn là duyên cõi Sắc-nhân không hệ thuộc, nghĩa là căn không hệ thuộc, duyên cõi Sắc. Hỏi: Các căn là nhân cõi Vô sắc thì căn ấy là duyên cõi Vô sắc chăng? Đáp: Các căn là nhân cõi Vô sắc thì căn ấy hoặc là duyên cõi Vô sắc, hoặc duyên cõi Dục, hoặc duyên cõi Sắc, hoặc duyên không hệ thuộc, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân cõi Vô sắc-duyên cõi Vô sắc, nghĩa là căn cõi Vô sắc-duyên cõi Vô sắc. Các căn là nhân cõi Vô sắc-duyên cõi Dục, nghĩa là căn cõi Vô sắc-duyên cõi Dục. Các căn là nhân cõi Vô sắc- duyên cõi Sắc, nghĩa là căn cõi Vô sắc-duyên cõi Sắc. Các căn là nhân cõi Vô sắc-duyên không hệ thuộc, nghĩa là căn cõi Vô sắc-duyên không hệ thuộc. Các căn là nhân cõi Vô sắc, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu căn là duyên cõi Vô sắc thì căn ấy là nhân cõi Vô sắc chăng? Đáp: Các căn là duyên cõi Vô sắc thì căn ấy hoặc là nhân cõi Vô sắc, hoặc nhân cõi Dục, hoặc nhân cõi Sắc, hoặc nhân không hệ thuộc. Các căn là duyên cõi Vô sắc-nhân cõi Vô sắc, nghĩa là căn cõi Vô sắc-duyên cõi Vô sắc. Các căn là duyên cõi Vô sắc-nhân cõi Dục, nghĩa là căn cõi Dục-duyên cõi Vô sắc. Các căn là duyên cõi Vô sắc- nhân cõi Sắc, nghĩa là căn cõi Sắc-duyên cõi Vô sắc. Các căn là duyên cõi Vô sắc-nhân không hệ thuộc, nghĩa là căn không hệ thuộc, duyên cõi Vô sắc. Hỏi: Các căn là nhân học thì căn ấy là duyên với học chăng? Đáp: Các căn là nhân học thì căn ấy hoặc là duyên học, hoặc duyên vô học, hoặc duyên phi học phi vô học, và căn vô học có nhân học-duyên học. Các căn là nhân học-duyên học, nghĩa là căn học-duyên học, và căn vô học có nhân học-duyên vô học. Các căn là nhân học-duyên vô học, nghĩa là căn học-duyên vô học, và căn vô học có nhân học-duyên phi học phi vô học. Các căn là nhân học-duyên phi học phi vô học, nghĩa là căn học- duyên phi học phi vô học. Hỏi: Nếu căn là duyên học, căn ấy là nhân học chăng? Đáp: Các căn là duyên học, căn ấy hoặc là nhân học, hoặc nhân vô học, hoặc nhân phi học phi vô học. Các căn là duyên học-nhân học, nghĩa là căn học-duyên học, và căn vô học có nhân học-duyên học. Các căn là duyên học-nhân vô học, nghĩa là căn vô học-duyên học. Các căn là duyên học-nhân phi học phi vô học, nghĩa là căn phi học phi vô học-duyên học. Hỏi: Các căn là nhân vô học, căn ấy là duyên với vô học chăng? Đáp: Các căn là nhân vô học, căn ấy hoặc là duyên vô học, hoặc duyên học, hoặc duyên phi học phi vô học. Các căn là nhân vô học-duyên vô học, nghĩa là căn vô học-duyên vô học. Các căn là nhân vô học-duyên học, nghĩa là căn vô học-duyên học. Các căn là nhân vô học-duyên phi học phi vô học, nghĩa là căn vô học-duyên phi học phi vô học. Hỏi: Nếu căn là duyên vô học, căn ấy là nhân vô học chăng? Đáp: Các căn là duyên vô học, căn ấy hoặc là nhân vô học, hoặc nhân học, hoặc nhân phi học phi vô học. Các căn là duyên vô học-nhân vô học, nghĩa là căn vô học-duyên vô học. Các căn là duyên vô học-nhân học, nghĩa là căn học-duyên vô học, và căn vô học có nhân học-duyên học. Các căn là duyên vô học-nhân phi học phi vô học, nghĩa là căn phi học phi vô học-duyên vô học. Hỏi: Các căn là nhân phi học phi vô học, căn ấy là duyên với phi học phi vô học chăng? Đáp: Các căn là nhân phi học phi vô học, căn ấy hoặc là duyên phi học phi vô học, hoặc duyên học, hoặc vô học, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân phi học phi vô học-duyên phi học phi vô học, nghĩa là căn phi học phi vô học-duyên phi học phi vô học. Các căn là nhân phi học phi vô học-duyên học, nghĩa là căn phi học phi vô học-duyên học. Các căn là nhân phi học phi vô học-duyên vô học, nghĩa là căn phi học phi vô học-duyên vô học. Các căn là nhân phi học phi vô học, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân phi học phi vô học. Hỏi: Nếu căn là duyên phi học phi vô học, căn ấy là nhân phi học phi vô học chăng? Đáp: Các căn là duyên phi học phi vô học, căn ấy hoặc là nhân phi học phi vô học, hoặc nhân học, hoặc nhân vô học. Các căn là duyên phi học phi vô học-nhân phi học phi vô học, nghĩa là căn phi học phi vô học-duyên phi học phi vô học. Các căn là duyên phi học phi vô học-nhân học, nghĩa là căn học- duyên phi học phi vô học, và căn vô học có nhân học-duyên phi học phi vô học. Các căn là duyên phi học phi vô học-nhân vô học, nghĩa là căn vô học-duyên phi học phi vô học. Hỏi: Các căn là nhân kiến đoạn thì căn ấy là duyên với kiến đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân kiến đoạn thì căn ấy hoặc là duyên kiến đoạn, hoặc duyên tu đoạn, hoặc duyên không đoạn, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân kiến đoạn-duyên kiến đoạn, nghĩa là căn kiến đoạn-duyên kiến đoạn. Các căn là nhân kiến đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là căn kiến đoạn- duyên tu đoạn. Các căn là nhân kiến đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn kiến đoạn-duyên không đoạn. Các căn là nhân kiến đoạn, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân kiến đoạn. Hỏi: Nếu căn là duyên kiến đoạn thì căn ấy là nhân kiến đoạn chăng? Đáp: Các căn là duyên kiến đoạn thì căn ấy hoặc là nhân kiến đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc nhân không đoạn. Các căn là duyên kiến đoạn-nhân kiến đoạn, nghĩa là căn kiến đoạn-duyên kiến đoạn. Các căn là duyên kiến đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn- duyên kiến đoạn. Các căn là duyên kiến đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên kiến đoạn. Hỏi: Các căn là nhân tu đoạn thì căn ấy là duyên tu đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân tu đoạn thì căn ấy hoặc là duyên tu đoạn, hoặc duyên kiến đoạn, hoặc duyên không đoạn, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân tu đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn- duyên tu đoạn. Các căn là nhân tu đoạn-duyên kiến đoạn, nghĩa là căn tu đoạn- duyên kiến đoạn. Các căn là nhân tu đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn tu đoạn- duyên không đoạn. Các căn là nhân tu đoạn, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân tu đoạn. Hỏi: Nếu căn là duyên tu đoạn thì căn ấy là nhân tu đoạn chăng? Đáp: Các căn là duyên tu đoạn thì căn ấy hoặc là nhân tu đoạn, hoặc nhân kiến đoạn, hoặc nhân không đoạn. Các căn là duyên tu đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn- duyên tu đoạn. Các căn là duyên tu đoạn-nhân kiến đoạn, nghĩa là căn kiến đoạn- duyên tu đoạn, và căn tu đoạn có nhân kiến đoạn-duyên tu đoạn. Các căn là duyên tu đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên tu đoạn. Hỏi: Các căn là nhân không đoạn thì căn ấy là duyên với không đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân không đoạn thì căn đó hoặc là duyên không đoạn, hoặc duyên kiến đoạn, hoặc duyên tu đoạn. Các căn là nhân không đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên không đoạn. Các căn là nhân không đoạn-duyên kiến đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên kiến đoạn. Các căn là nhân không đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên tu đoạn. Hỏi: Nếu căn là duyên không đoạn thì căn ấy là nhân không đoạn chăng? Đáp: Các căn là duyên không đoạn thì căn ấy hoặc là nhân không đoạn, hoặc nhân kiến đoạn, hoặc nhân tu đoạn. Các căn là duyên không đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên không đoạn. Các căn là duyên không đoạn-nhân kiến đoạn, nghĩa là căn kiến đoạn-duyên không đoạn. Các căn là duyên không đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn- duyên không đoạn. Hỏi: Các căn là nhân kiến khổ đoạn thì căn ấy là duyên với kiến khổ đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân kiến khổ đoạn thì căn ấy hoặc là duyên kiến khổ đoạn, hoặc duyên kiến tập đoạn, hoặc duyên kiến diệt đoạn, hoặc duyên kiến đạo đoạn, hoặc duyên tu đoạn, hoặc duyên không đoạn, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên kiến khổ đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên kiến khổ đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên kiến tập đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên kiến tập đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên kiến tập đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên kiến diệt đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên kiến diệt đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên kiến đạo đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên kiến đạo đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên kiến đạo đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên tu đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn- duyên kiến khổ đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn kiến diệt-kiến đạo đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên không đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân kiến khổ đoạn. Hỏi: Nếu căn là duyên kiến khổ đoạn thì căn ấy là nhân kiến khổ đoạn chăng? Đáp: Các căn là duyên kiến khổ đoạn thì căn ấy hoặc là nhân kiến khổ đoạn, hoặc nhân kiến tập đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc nhân không đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân kiến khổ đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên kiến khổ đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân kiến tập đoạn, nghĩa là căn kiến tập đoạn-duyên kiến khổ đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến tập đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Như kiến khổ đoạn, kiến tập đoạn cũng như vậy. Hỏi: Các căn là nhân kiến diệt đoạn thì căn ấy duyên với kiến diệt đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân kiến diệt đoạn thì căn ấy hoặc là duyên kiến diệt đoạn, hoặc duyên tu đoạn, hoặc duyên không đoạn, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân kiến diệt đoạn-duyên kiến diệt đoạn, nghĩa là căn kiến diệt đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là nhân kiến diệt đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là tu đoạn có nhân kiến diệt đoạn-duyên tu đoạn. Các căn là nhân kiến diệt đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn kiến diệt đoạn-duyên không đoạn. Các căn là nhân kiến diệt đoạn, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân kiến diệt đoạn. Hỏi: Nếu căn là duyên kiến diệt đoạn thì căn ấy là nhân kiến diệt đoạn chăng? Đáp: Các căn là duyên kiến diệt đoạn thì căn ấy hoặc là nhân kiến diệt đoạn, hoặc nhân kiến khổ đoạn, hoặc nhân kiến tập đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc nhân không đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn-nhân kiến diệt đoạn, nghĩa là căn kiến diệt đoạn-duyên kiến diệt đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn-nhân kiến khổ đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn-nhân kiến tập đoạn, nghĩa là căn kiến tập đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Như kiến diệt đoạn, kiến đạo đoạn cũng như vậy. Hỏi: Các căn là nhân kiến khổ đoạn thì căn ấy là duyên với khổ pháp trí đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân kiến khổ đoạn thì căn ấy hoặc là duyên khổ pháp trí đoạn, hoặc duyên khổ loại trí đoạn, hoặc duyên tập pháp trí đoạn, hoặc duyên tập loại trí đoạn, hoặc duyên diệt pháp trí đoạn, hoặc duyên diệt loại trí đoạn, hoặc duyên đạo pháp trí đoạn, hoặc duyên đạo loại trí đoạn, hoặc duyên tu đoạn, hoặc duyên không đoạn, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên khổ loại trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên khổ loại trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên tập pháp trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên tập pháp trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên tập pháp trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên tập loại trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên tập loại trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên tập loại trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên đạo pháp trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên đạo pháp trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên đạo loại trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên đạo loại trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên đạo loại trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là căn kiến diệt kiến đạo đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên không đoạn Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên không đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân kiến khổ đoạn. Hỏi: Nếu căn là duyên khổ pháp trí đoạn thì căn ấy là nhân kiến khổ đoạn chăng? Đáp: Các căn là duyên khổ pháp trí đoạn thì căn ấy hoặc là nhân kiến khổ đoạn, hoặc nhân kiến tập đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc nhân không đoạn. Các căn là duyên khổ pháp trí đoạn-nhân kiến khổ đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn. Các căn là duyên khổ pháp trí đoạn-nhân kiến tập đoạn, nghĩa là căn kiến tập đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn. Các căn là duyên khổ pháp trí đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn. Các căn là duyên khổ pháp trí đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn. Hỏi: Các căn là nhân kiến khổ đoạn thì căn ấy là duyên khổ loại trí đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân kiến khổ đoạn thì căn ấy hoặc là duyên khổ loại trí đoạn, hoặc duyên khổ pháp trí đoạn, hoặc duyên tập pháp trí đoạn, hoặc duyên tập loại trí đoạn, hoặc duyên diệt pháp trí đoạn, hoặc duyên diệt loại trí đoạn, hoặc duyên đạo pháp trí đoạn, hoặc duyên đạo loại trí đoạn, hoặc duyên tu đoạn, hoặc duyên không đoạn, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên khổ loại trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên tập pháp trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên tập pháp trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên tập loại trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên tập loại trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên tập pháp trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên tập pháp trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên đạo pháp trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên đạo pháp trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên đạo loại trí đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên đạo loại trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên tu đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn- duyên tu đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên không đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên không đoạn. Các căn là nhân kiến khổ đoạn, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân kiến khổ đoạn. Hỏi: Nếu căn duyên với khổ loại trí đoạn thì căn ấy là nhân kiến khổ đoạn chăng? Đáp: Các căn duyên với khổ loại trí đoạn thì căn ấy hoặc là nhân kiến khổ đoạn, hoặc nhân kiến tập đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc nhân không đoạn. Các căn là duyên khổ loại trí đoạn-nhân kiến khổ đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên khổ loại trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Các căn là duyên khổ loại trí đoạn-nhân kiến tập đoạn, nghĩa là căn kiến tập đoạn-duyên khổ loại trí đoạn, và căn kiến tập đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Các căn là duyên khổ loại trí đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Các căn là duyên khổ loại trí đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Như đối với khổ, đối với tập cũng như vậy. Hỏi: Các căn là nhân kiến diệt đoạn thì căn ấy là duyên diệt pháp trí đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân kiến diệt đoạn thì căn ấy hoặc là duyên diệt pháp trí đoạn, hoặc duyên diệt loại trí đoạn, hoặc duyên tu đoạn, hoặc duyên không đoạn, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân kiến diệt đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn, nghĩa là căn kiến diệt đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn. Các căn là nhân kiến diệt đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, nghĩa là căn tu đoạn có nhân kiến diệt đoạn-duyên tu đoạn Các căn là nhân kiến diệt đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là căn kiến diệt đoạn-duyên tu đoạn. Các căn là nhân kiến diệt đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn kiến diệt đoạn-duyên không đoạn. Các căn là nhân kiến diệt đoạn, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân kiến diệt đoạn. Hỏi: Nếu căn duyên với diệt pháp trí đoạn thì căn ấy là nhân kiến diệt đoạn chăng? Đáp: Các căn duyên với diệt pháp trí đoạn thì căn ấy hoặc là nhân kiến diệt đoạn, hoặc nhân kiến khổ đoạn, hoặc nhân kiến tập đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc nhân không đoạn. Các căn là duyên diệt pháp trí đoạn-nhân kiến diệt đoạn, nghĩa là căn kiến diệt đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn. Các căn là duyên diệt pháp trí đoạn-nhân kiến khổ đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn, và căn kiến tập-kiến diệt đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn. Các căn là duyên diệt pháp trí đoạn-nhân kiến tập đoạn, nghĩa là căn kiến tập đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn, và căn kiến tập-kiến diệt đoạn có nhân kiến tập đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn. Các căn là duyên diệt pháp trí đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn. Các căn là duyên diệt pháp trí đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn. Hỏi: Các căn là nhân kiến diệt đoạn thì căn ấy duyên với diệt loại trí đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân kiến diệt đoạn thì căn ấy hoặc là duyên diệt loại trí đoạn, hoặc duyên diệt pháp trí đoạn, hoặc duyên tu đoạn, hoặc duyên không đoạn, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân kiến diệt đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, nghĩa là căn kiến diệt đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là nhân kiến diệt đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn, nghĩa là căn kiến diệt đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn. Các căn là nhân kiến diệt đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn có nhân kiến diệt đoạn-duyên tu đoạn. Các căn là nhân kiến diệt đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn kiến diệt đoạn-duyên không đoạn. Các căn là nhân kiến diệt đoạn, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân kiến diệt đoạn. Hỏi: Nếu căn là duyên diệt loại trí đoạn thì căn ấy là nhân kiến diệt đoạn chăng? Đáp: Các căn là duyên diệt loại trí đoạn thì căn ấy hoặc là nhân kiến diệt đoạn, hoặc nhân kiến khổ đoạn, hoặc nhân kiến tập đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc nhân không đoạn. Các căn là duyên diệt loại trí đoạn-nhân kiến diệt đoạn, nghĩa là căn kiến diệt đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là duyên diệt loại trí đoạn-nhân kiến khổ đoạn, nghĩa là căn kiến khổ đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, và căn kiến tập-kiến diệt đoạn có nhân kiến khổ đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là duyên diệt loại trí đoạn-nhân kiến khổ đoạn, nghĩa là căn kiến tập đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, và căn kiến tập-kiến diệt đoạn có nhân kiến tập đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là duyên diệt loại trí đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là duyên diệt loại trí đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Như đối với diệt, đối với đạo cũng như vậy. Hỏi: Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn thì căn ấy duyên với khổ pháp trí đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn thì căn ấy hoặc là duyên khổ pháp trí đoạn, hoặc duyên khổ loại trí đoạn, hoặc duyên tập pháp trí đoạn, hoặc duyên tập loại trí đoạn, hoặc duyên diệt pháp trí đoạn, hoặc duyên diệt loại trí đoạn, hoặc duyên đạo pháp trí đoạn, hoặc duyên đạo loại trí đoạn, hoặc duyên tu đoạn, hoặc duyên không đoạn, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên tập pháp trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên tập pháp trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên tập loại trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên tập loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên tập pháp trí đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên tập pháp trí đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên đạo pháp trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên đạo pháp trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên đạo pháp trí đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên đạo loại trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên đạo loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên đạo pháp trí đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên tu đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên tu đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn diệt-đạo pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên không đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân khổ pháp trí đoạn. Hỏi: Nếu căn là duyên với khổ pháp trí đoạn thì căn ấy là nhân khổ pháp trí đoạn chăng? Đáp: Các căn là duyên với khổ pháp trí đoạn thì căn ấy hoặc là nhân khổ pháp trí đoạn, hoặc nhân tập pháp trí đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc nhân không đoạn. Các căn là duyên khổ pháp trí đoạn-nhân khổ pháp trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn. Các căn là duyên khổ pháp trí đoạn-nhân tập pháp trí đoạn, nghĩa là căn tập pháp trí đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn. Các căn là duyên khổ pháp trí đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn. Các căn là duyên khổ pháp trí đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên khổ pháp trí đoạn. Hỏi: Các căn là nhân khổ loại trí đoạn thì căn ấy là duyên với khổ loại trí đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân khổ loại trí đoạn thì căn ấy hoặc là duyên khổ loại trí đoạn, hoặc duyên tập loại trí đoạn, hoặc duyên diệt loại trí đoạn, hoặc duyên đạo loại trí đoạn, hoặc duyên tu đoạn, hoặc duyên không đoạn. Các căn là nhân khổ loại trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Các căn là nhân khổ loại trí đoạn-duyên tập loại trí đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên tập loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên tập loại trí đoạn. Các căn là nhân khổ loại trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên đạo loại trí đoạn. Các căn là nhân khổ loại trí đoạn-duyên đạo loại trí đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên đạo loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên đạo loại trí đoạn. Các căn là nhân khổ loại trí đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên tu đoạn, và căn tập loại trí-tu đoạn có nhân khổ loại trí đoạn-duyên tu đoạn. Các căn là nhân khổ loại trí đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên không đoạn. Hỏi: Nếu căn là duyên với khổ loại trí đoạn thì căn ấy là nhân khổ loại trí đoạn chăng? Đáp: Các căn là duyên với khổ loại trí đoạn thì căn ấy hoặc là nhân khổ loại trí đoạn, hoặc nhân khổ pháp trí đoạn, hoặc nhân tập pháp trí đoạn, hoặc nhân tập loại trí đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc nhân không đoạn. Các căn là duyên khổ loại trí đoạn-nhân khổ loại trí đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Các căn là duyên khổ loại trí đoạn-nhân khổ pháp trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Các căn là duyên khổ loại trí đoạn-nhân tập pháp trí đoạn, nghĩa là căn tập pháp trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Các căn là duyên khổ loại trí đoạn-nhân tập loại trí đoạn, nghĩa là căn tập loại trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên khổ loại trí đoạn Các căn là duyên khổ loại trí đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Các căn là duyên khổ pháp trí đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên khổ loại trí đoạn. Như đối với khổ, đối với tập cũng như vậy. Hỏi: Các căn là nhân diệt pháp trí đoạn thì căn ấy duyên với diệt pháp trí đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân diệt pháp trí đoạn thì căn ấy hoặc là duyên diệt pháp trí đoạn, hoặc duyên tu đoạn, hoặc duyên không đoạn, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân diệt pháp trí đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn, nghĩa là căn diệt pháp trí đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn. Các căn là nhân diệt pháp trí đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn có nhân diệt pháp trí đoạn-duyên tu đoạn. Các căn là nhân diệt pháp trí đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn diệt pháp trí đoạn-duyên không đoạn. Các căn là nhân diệt pháp trí đoạn, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân diệt pháp trí đoạn. Hỏi: Nếu căn là duyên với diệt pháp trí đoạn thì căn ấy là nhân diệt pháp trí đoạn chăng? Đáp: Các căn là duyên với diệt pháp trí đoạn thì căn ấy hoặc là nhân diệt pháp trí đoạn, hoặc nhân khổ pháp trí đoạn, hoặc nhân tập pháp trí đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc nhân không đoạn. Các căn là duyên diệt pháp trí đoạn-nhân diệt pháp trí đoạn, nghĩa là căn diệt pháp trí đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là duyên diệt pháp trí đoạn-nhân khổ pháp trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là duyên diệt pháp trí đoạn-nhân tập pháp trí đoạn, nghĩa là căn tập pháp trí đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn. Các căn là duyên diệt pháp trí đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn. Các căn là duyên diệt pháp trí đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên diệt pháp trí đoạn. Hỏi: Các căn là nhân diệt loại trí đoạn thì căn là duyên với diệt loại trí đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân diệt loại trí đoạn thì căn ấy hoặc là duyên diệt loại trí đoạn, hoặc duyên không đoạn. Các căn là nhân diệt loại trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, nghĩa là căn diệt loại trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là nhân diệt loại trí đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn diệt loại trí đoạn-duyên không đoạn. Hỏi: Nếu căn duyên với diệt loại trí đoạn thì căn ấy là nhân diệt loại trí đoạn chăng? Đáp: Các căn duyên với diệt loại trí đoạn thì căn ấy hoặc là nhân diệt loại trí đoạn, hoặc nhân khổ pháp trí đoạn, hoặc nhân khổ loại trí đoạn, hoặc nhân tập pháp trí đoạn, hoặc nhân tập loại trí đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc nhân không đoạn. Các căn là duyên diệt loại trí đoạn-nhân diệt loại trí đoạn, nghĩa là căn diệt loại trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là duyên diệt loại trí đoạn-nhân khổ pháp trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là duyên diệt loại trí đoạn-nhân khổ loại trí đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là duyên diệt loại trí đoạn-nhân tập pháp trí đoạn, nghĩa là căn tập pháp trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân tập pháp trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là duyên diệt loại trí đoạn-nhân tập loại trí đoạn, nghĩa là căn tập loại trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân tập pháp trí đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là duyên diệt loại trí đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Các căn là duyên diệt loại trí đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên diệt loại trí đoạn. Như đối với diệt, đối với đạo cũng như vậy. Hỏi: Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn thì căn ấy duyên với kiến khổ đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn thì căn ấy hoặc duyên với kiến khổ đoạn, hoặc duyên kiến tập đoạn, hoặc duyên kiến diệt đoạn, hoặc duyên kiến đạo đoạn, hoặc duyên tu đoạn, hoặc duyên không đoạn, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên kiến tập đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên kiến tập đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên kiến tập đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên kiến đạo đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên kiến đạo đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên kiến đạo đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên tu đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên tu đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn diệt-đạo pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên không đoạn. Các căn là nhân khổ pháp trí đoạn, không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân khổ pháp trí đoạn. Hỏi: Nếu căn duyên với kiến khổ đoạn thì căn ấy là nhân khổ pháp trí đoạn chăng? Đáp: Các căn duyên với kiến khổ đoạn thì căn ấy hoặc là nhân khổ pháp trí đoạn, hoặc nhân khổ loại trí đoạn, hoặc nhân tập pháp trí đoạn, hoặc nhân tập loại trí đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc nhân không đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân khổ pháp trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân khổ loại trí đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ loại trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân tập pháp trí đoạn, nghĩa là căn tập pháp trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân tập pháp trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân tập loại trí đoạn, nghĩa là căn tập loại trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân tập loại trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Hỏi: Các căn là nhân khổ loại trí đoạn thì căn ấy duyên với kiến khổ đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân khổ loại trí đoạn thì căn ấy hoặc là duyên kiến khổ đoạn, hoặc duyên kiến tập đoạn, hoặc duyên kiến diệt đoạn, hoặc duyên kiến đạo đoạn, hoặc duyên tu đoạn, hoặc duyên không đoạn. Các căn là nhân khổ loại trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ loại trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Các căn là nhân khổ loại trí đoạn-duyên kiến tập đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên kiến tập đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ loại đoạn-duyên kiến tập đoạn. Các căn là nhân khổ loại trí đoan-duyên kiến diệt đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên kiết diệt đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ loại trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là nhân khổ loại trí đoạn-duyên kiến đạo đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên kiến đoạn-duyên kiến đạo đoạn, và căn tập-đạo loại trí đoạn-duyên kiến đạo đoạn. Các căn là nhân khổ loại trí đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên tu đoạn, và căn tập loại trí đoạn-tu đoạn có nhân khổ loại trí đoạn-duyên tu tu đoạn. Các căn là nhân khổ loại trí đoạn-duyên không đoạn, nghó là căn diệt-đạo loại trí đoạn có nhân khổ loại trí đoạn-duyên không đoạn. Hỏi: Nếu căn duyên với kiến khổ đoạn thì căn ấy là nhân khổ loại trí đoạn chăng? Đáp: Các căn duyên với kiến khổ đoạn thì căn ấy hoặc là nhân khổ loại trí đoạn, hoặc nhân khổ pháp trí đoạn, hoặc nhân tập pháp trí đoạn, hoặc nhân tập loại trí đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc nhân không đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân khổ loại trí đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn, và căn tập loại trí đoạn có nhân khổ loại trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân khổ pháp trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn, và căn tập pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân tập pháp trí đoạn, nghĩa là căn tập pháp đoạn-duyên kiến khổ đoạn, và căn khổ pháp trí đoạn có nhân tập pháp trí đoạn-duyên kiến khổ đoạnn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân tập loại trí đoạn, nghĩa là căn tập loại trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn, và căn khổ loại trí đoạn có nhân tập loại trí đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn, duyên kiến khổ đoạn. Các căn là duyên kiến khổ đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên kiến khổ đoạn. Như đối với khổ, đối với tập cũng như vậy.] Hỏi: Các căn là nhân diệt pháp trí đoạn thì căn ấy duyên với kiến diệt đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân diệt pháp trí đoạn thì căn ấy hoặc là duyên kiến diệt đoạn, hoặc duyên tu đoạn, hoặc duyên không đoạn, hoặc không có sở duyên. Các căn là nhân diệt pháp trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn, nghĩa là căn diệt pháp trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là nhân diệt pháp trí đoạn-duyên tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn có nhân diệt pháp trí đoạn-duyên tu đoạn. Các căn là nhân diệt pháp trí đoạn-duyên không đoạn, nghĩa là căn diệt pháp trí đoạn-duyên không đoạn. Các căn là nhân diệt pháp trí đoạn-không có sở duyên, nghĩa là căn không có duyên-nhân diệt pháp trí đoạn. Hỏi: Nếu căn duyên với kiến diệt đoạn thì căn ấy là nhân diệt pháp trí đoạn chăng? Đáp: Các căn duyên với kiến diệt đoạn thì căn ấy hoặc là nhân diệt pháp trí đoạn, hoặc nhân diệt loại trí đoạn, hoặc nhân khổ pháp trí đoạn, hoặc nhân khổ loại trí đoạn, hoặc nhân tập pháp trí đoạn, hoặc nhân tập loại trí đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc nhân không đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn-nhân diệt pháp trí đoạn, nghĩa là căn diệt pháp trí đoạn duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn-nhân diệt loại trí đoạn, nghĩa là căn diệt do loại trí đoạn duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn-nhân khổ pháp trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn, và căn tập-diệt pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn-nhân khổ loại trí đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn duyên kiến diệt đoạn, và căn tập-diệt loại trí đoạn lcó nhân khổ loại trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn là nhân tập pháp trí đoạn, nghĩa là căn tập pháp trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn, và căn khổ diệt pháp trí đoạn có nhân nơi tập pháp trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn là nhân tập loại trí đoạn, nghĩa là căn tập loại trí đoạn duyên kiến diệt đoạn, và căn khổ diệt loại trí đoạn có nhân tập loại trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn - nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn duyên kiến diệt đoạn. Hỏi: Các căn là nhân diệt loại trí đoạn thì các căn ấy là duyên với kiến diệt đoạn chăng? Đáp: Các căn là nhân diệt loại trí đoạn thì các căn ấy, hoặc duyên kiến diệt đoạn, hoặc duyên không đoạn. Các căn là nhân diệt loại trí đoạn duyên kiến diệt đoạn, nghĩa là căn có nhân diệt loại trí đoạn duyên kiến diệt đoạn. Các căn là nhân diệt loại trí đoạn duyên không đoạn, nghĩa là căn do diệt loại trí đoạn-duyên không đoạn. Hỏi: Nếu căn duyên kiến với diệt đoạn thì căn ấy là nhân của diệt loại trí đoạn chăng? Đáp: Các căn duyên với kiến diệt đoạn thì căn ấy hoặc là nhân diệt loại trí đoạn, hoặc là nhân của diệt pháp trí đoạn, hoặc là nhân của khổ pháp trí đoạn, hoặc là nhân của khổ loại trí đoạn, hoặc là nhân của tập pháp trí đoạn, hoặc là nhân của tập loại trí đoạn, hoặc nhân tu đoạn, hoặc là nhân của không đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn là nhân của diệt loại trí đoạn, nghĩa là căn diệt loại trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn là nhân của diệt pháp trí đoạn, nghĩa là căn diệt pháp trí đoạn duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn là nhân của khổ pháp trí đoạn, nghĩa là căn khổ pháp trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn, và căn tập-diệt pháp trí đoạn có nhân khổ pháp trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn nhân khổ loại trí đoạn, nghĩa là căn khổ loại trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn và căn tập-diệt loại trí đoạn nhân khổ loại trí đoạn duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn-nhân tập pháp trí đoạn, nghĩa là căn tập pháp trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn và căn khổ diệt pháp trí đoạn, là nhân của tập pháp trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn-nhân tập loại trí đoạn, nghĩa là căn tập loại trí đoạn-duyên kiến diệt đoạn, và căn khổ diệt loại trí đoạn có nhân tập loại trí đoạn duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn-nhân tu đoạn, nghĩa là căn tu đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Các căn là duyên kiến diệt đoạn-nhân không đoạn, nghĩa là căn không đoạn-duyên kiến diệt đoạn. Như đối với diệt; đối với đạo cũng như vậy.  <卷>QUYỂN 17 <章>Chương 7: ĐỊNH UẨN <詞>Phẩm 1: BÀN VỀ ĐẮC Năm đắc-bốn khởi đến các chi, Vị-nhập-sinh cùng với vô lượng, Đoạn kiết-thọ quả và xứ sở, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Các pháp đạt được quá khứ, pháp ấy đạt được quá khứ chăng? Đáp: Pháp đạt được ấy, hoặc quá khứ-hoặc vị lai, -hoặc hiện tại. Hỏi: Nếu quá khứ đạt được thì pháp ấy đạt được ở quá khứ chăng? Đáp: Pháp ấy hoặc là quá khứ-hoặc vị lai-hoặc hiện tại-hoặc vô vi. Hỏi: Các pháp đạt được ở vị lai, pháp ấy vị lai đạt được chăng? Đáp: Pháp đạt được ấy, hoặc vị lai-hoặc quá khứ-hoặc hiện tại. Hỏi: Nếu vị lai đạt được thì pháp ấy đạt được ở vị lai chăng? Đáp: Pháp ấy hoặc vị lai-hoặc quá khứ-hoặc hiện tại-hoặc vô vi. Hỏi: Các pháp đạt được ở hiện tại, pháp ấy hiện tại đạt được chăng? Đáp: Pháp đạt được ấy, hoặc hiện tại-hoặc quá khư- hoặc vị lai. Hỏi: Nếu hiện tại đạt được thì pháp ấy đạt được ở hiện tại chăng? Đáp: Pháp ấy hoặc hiện tại-hoặc quá khứ-hoặc vị lai, hoặc vô vi. Hỏi: Các pháp thiện đạt được thì pháp ấy là thiện chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu đạt được thiện thì đó là đạt được pháp thiện chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các pháp bất thiện đạt được thì pháp ấy là bất thiện chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu đạt được bất thiện thì đó là pháp đạt được pháp bất thiện chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các pháp vô ký đạt được thì pháp ấy là vô ký chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu đạt được vô ký thì đó là đạt được pháp vô ký chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Đạt được các pháp thuộc cõi Dục thì pháp đạt được ấy thuộc cõi Dục chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu pháp đạt được thuộc cõi Dục thì pháp đạt được là thuộc cõi Dục chăng? Đáp: Pháp đó hoặc thuộc cõi Dục, hoặc không hệ thuộc. Hỏi: Đạt được các pháp thuộc cõi Sắc thì pháp đạt được ấy thuộc cõi Sắc chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: nếu pháp đạt được thuộc cõi Sắc thì pháp đạt được là thuộc cõi Sắc chăng? Đáp: Pháp đó hoặc hệ thuộc thuộc cõi Sắc, hoặc không hệ thuộc. Hỏi: Đạt được các pháp thuộc cõi vô Sắc thì pháp đạt được ấy thuộc cõi Vô sắc chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: nếu pháp đạt được thuộc cõi vô Sắc thì pháp đạt được là thuộc cõi Vô sắc chăng? Đáp: Pháp đó hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc. Hỏi: Đạt được các pháp học thì pháp đạt được ấy là học chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu pháp đạt được là học thì đó là đạt được pháp học chăng? Đáp: Pháp đó hoặc học, hoặc phi học phi vô học. Hỏi: Đạt được các pháp vô học thì pháp đạt được ấy là vô học chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu pháp đạt được là vô học thì đó là đạt được pháp vô học chăng? Đáp: Pháp đó hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học. Hỏi: Đạt được các pháp phi học vô học thì pháp đạt được ấy là phi học phi vô học chăng? Đáp: Pháp ấy hoặc phi học phi vô học, hoặc học, hoặc vô học. Hỏi: Nếu pháp đạt được là phi học phi vô học đó là đạt được pháp phi học phi vô học chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các pháp đạt được do kiến mà đoạn thì pháp đạt được ấy do kiến mà đoạn chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu pháp đạt được do kiến mà đoạn thì pháp đạt được ấy là do kiến đoạn chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các pháp đạt được do tu mà đoạn thì pháp đạt được ấy do tu đoạn chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu pháp đạt được do tu mà đoạn thì pháp đạt được ấy là pháp do tu đoạn chăng? Đáp: Pháp đó hoặc do tu mà đoạn, hoặc không đoạn. Hỏi: Các pháp đạt được không đoạn thì pháp đạt được ấy không đoạn chăng? Đáp: Pháp đạt được ấy hoặc không đoạn, hoặc do tu mà đoạn. Hỏi: Nếu pháp đạt được không đoạn thì pháp đạt được ấy là pháp không đoạn chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Các pháp thiện vô sắc dấy khởi, pháp ấy đều có tâm thiện chăng? Đáp: Các pháp thiện vô sắc dấy khởi, pháp đó hoặc tâm thiện đều có, hoặc tâm bất thiện đều có, hoặc tâm vô ký đều có. Thế nào là tâm thiện đều có? Các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia đều có thiện vô sắc. Thế nào là tâm bất thiện đều có? Như tâm bất thiện, hoặc thoái chuyển, hoặc sinh thì pháp thiện được dấy khởi. Thế nào là tâm vô ký đều có? Như tâm vô ký, hoặc thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp thiện được dấy khởi. Hỏi: Nếu pháp với tâm thiện đều dấy khởi, thì pháp đó là thiện vô sắc chăng? Đáp: Các pháp với tâm thiện đều dấy khởi, pháp đó hoặc thiện vô sắc, hoặc vô ký vô sắc. Thế nào là thiện vô sắc? Các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia đều có thiện vô sắc. Thế nào là vô ký vô sắc? Như tâm thiện phát triển tốt đẹp, pháp vô ký được dấy khởi và trụ vào tâm thiện, các căn vô ký được nuôi lớn, tăng thêm đại chủng, pháp ấy cần phải sinh-lão-trụ-vô thường Hỏi: Các pháp bất thiện vô sắc dấy khởi, pháp ấy đều có bất thiện chăng? Đáp: Các pháp bất thiện vô sắc dấy khởi, pháp đó hoặc tâm bất thiện đều có, hoặc tâm vô ký đều có. Thế nào là tâm bất thiện đều có? Các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia đều có bất thiện vô sắc. Thế nào là tâm vô ký đều có? Như tâm vô ký, hoặc thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp bất thiện được dấy khởi. Hỏi: Nếu pháp với tâm bất thiện đều dấy khởi, thì pháp đó là bất thiện vô sắc chăng? Đáp: Các pháp với tâm bất thiện đều dấy khởi, pháp đó hoặc bất thiện vô sắc, hoặc thiện vô sắc, hoặc vô ký vô sắc. Thế nào là bất thiện vô sắc? Các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia đều có bất thiện vô sắc. Thế nào là thiện vô sắc? Như tâm bất thiện, nếu thoái chuyển, hoặc sinh thì pháp thiện được dấy khởi. Thế nào là vô ký vô sắc? Như tâm bất thiện, nếu thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp vô ký được dấy khởi và trụ vào tâm bất thiện, các căn vô ký được nuôi lớn, tăng thêm đại chủng, pháp ấy cần phải sinh- lão-trụ-vô thường. Hỏi: Các pháp vô ký vô sắc dấy khởi, pháp ấy đều có tâm bất thiện chăng? Đáp: Các pháp vô ký vô sắc dấy khởi, pháp đó hoặc tâm vô ký đều có, hoặc tâm thiện đều có, hoặc tâm bất thiện đều có. Thế nào là tâm vô ký đều có? Các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia đều có vô ký vô sắc. Thế nào là tâm thiện đều có? Như tâm thiện tiến lên tốt đẹp, pháp vô ký được dấy khởi và trụ vào tâm thiện, nuôi lớn các căn vô ký, tăng thêm đại chủng, pháp ấy cần phải sinh-lão-trụ-vô thường. Thế nào là tâm bất thiện đều có? Như tâm bất thiện, nếu thoái chuyển, hoặc sinh thì pháp vô ký được dấy khởi và trụ vào tâm bất thiện, nuôi lớn các căn vô ký, tăng thêm đại chủng, pháp ấy cần phải sinh-lão-trụ-vô thường. Hỏi: Nếu pháp với tâm vô ký đều cùng dấy khởi, thì pháp đó là vô ký vô sắc chăng? Đáp: Các pháp với tâm vô ký đều cùng dấy khởi, pháp đó hoặc vô ký vô sắc, hoặc thiện vô sắc, hoặc bất thiện vô sắc. Thế nào là vô ký vô sắc? Các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia đều có vô ký vô sắc. Thế nào là thiện vô sắc? Như tâm vô ký, hoặc sinh hoặc tiến lên tốt đẹp thì pháp thiện được dấy khởi. Thế nào là bất thiện vô sắc? Như tâm vô ký, hoặc sinh hoặc tiến lên tốt đẹp, thì pháp bất thiện được dấy khởi. Hỏi: Các pháp vô sắc thuộc cõi Dục dấy khởi, pháp ấy với tâm thuộc cõi Dục đều có chăng? Đáp: Các pháp thuộc vô sắc thuộc cõi Dục dấy khởi, pháp ấy hoặc là tâm thuộc cõi Dục đều có, hoặc tâm thuộc cõi Sắc đều có, hoặc tâm thuộc cõi Vô sắc đều có, hoặc tâm không hệ thuộc đều có. Thế nào là tâm thuộc cõi Dục đều có? Các pháp tương ưng với tâm ấy, tâm ấy đều có vô sắc thuộc cõi Dục. Thế nào là tâm thuộc cõi Sắc đều có? Như tâm thuộc cõi Sắc, hoặc sinh, hoặc tiến lên tốt đẹp, thì pháp thuộc cõi Dục sẽ được sinh khởi và trụ vào tâm thuộc cõi Sắc, các căn thuộc cõi Dục được nuôi lớn, đại chủng được tăng thêm, pháp ấy cần phải sinh-lão-trụ-vô thường. Thế nào là tâm thuộc cõi Vô sắc đều có? Như trụ vào tâm thuộc cõi Vô sắc, nuôi lớn các căn cõi Dục, tăng thêm đại chủng, pháp ấy cần phải sinh-lão-trụ-vô thường. Thế nào là tâm không hệ thuộc đều có? Như tâm không hệ thuộc, tiến lên tốt đẹp, pháp thuộc cõi Dục được dấy khởi và trụ vào tâm không hệ thuộc, các căn thuộc cõi Dục được nuôi lớn, đại chủng được tăng thêm, pháp ấy cần phải sinh-lão-trụ-vô thường. Hỏi: Nếu pháp và tâm thuộc cõi Dục đều cùng dấy khởi, pháp ấy là vô sắc thuộc cõi Dục chăng? Đáp: Các pháp và tâm thuộc cõi Dục đều cùng dấy khởi, pháp ấy hoặc vô sắc thuộc cõi Dục, hoặc vô sắc thuộc cõi Sắc, hoặc vô sắc thuộc cõi Vô sắc, hoặc vô sắc không hệ thuộc. Thế nào là vô sắc thuộc cõi Dục? Các pháp tương ưng với tâm kia, tâm ấy đều có vô sắc thuộc cõi Dục. Thế nào là vô sắc thuộc cõi Sắc? Như tâm thuộc cõi Dục, nếu thoái chuyển, hoặc sinh thì pháp thuộc cõi Sắc sẽ được dấy khởi. Thế nào là vô sắc thuộc cõi Vô sắc? Như tâm thuộc cõi Dục, hoặc sinh hoặc tiến lên tốt đẹp, thì pháp thuộc cõi Vô sắc sẽ được dấy khởi. Thế nào là vô sắc không hệ thuộc? Như tâm thuộc cõi Dục, thoái chuyển thì pháp không hệ thuộc được dấy khởi. Hỏi: Các pháp vô sắc thuộc cõi Sắc dấy khởi, pháp ấy với tâm thuộc cõi Sắc đều có chăng? Đáp: Các pháp vô sắc thuộc cõi Sắc dấy khởi, pháp ấy hoặc là tâm thuộc cõi Sắc đều có, hoặc tâm thuộc cõi Dục đều có, hoặc tâm thuộc cõi Vô sắc đều có, hoặc tâm không hệ thuộc đều có. Thế nào là tâm thuộc cõi Sắc đều có? Các pháp tương ưng với tâm cõi Sắc, tâm ấy đều có vô sắc cõi Sắc. Thế nào là tâm thuộc cõi Dục đều có? Như tâm thuộc cõi Dục, nếu thoái chuyển hoặc sinh, thì pháp thuộc cõi Sắc sẽ được dấy khởi. Thế nào là tâm thuộc cõi Vô sắc đều có? Như trụ vào tâm thuộc cõi Vô sắc, nuôi lớn các căn thuộc cõi Sắc, tăng thêm đại chủng, pháp ấy cần phải sinh-lão-trụ-vô thường. Thế nào là tâm không hệ thuộc đều có? Như tâm không hệ thuộc, tiến lên tốt đẹp, pháp thuộc cõi Sắc được dấy khởi và trụ vào tâm không hệ thuộc, các căn thuộc cõi Sắc được nuôi lớn, đại chủng được tăng thêm, pháp ấy cần phải sinh-lão-trụ-vô thường. Hỏi: Nếu pháp và tâm thuộc cõi Sắc đều cùng dấy khởi, pháp ấy là vô sắc thuộc cõi Sắc chăng? Đáp: Các pháp và tâm thuộc cõi Sắc đều cùng dấy khởi, pháp ấy hoặc là vô sắc thuộc cõi Sắc, hoặc vô sắc thuộc cõi Dục, hoặc vô sắc thuộc cõi Vô sắc, hoặc vô sắc không hệ thuộc. Thế nào là vô sắc thuộc cõi Sắc? Các pháp tương ưng với tâm thuộc cõi Dục kia, tâm ấy đều có vô sắc thuộc cõi Sắc. Thế nào là vô sắc thuộc cõi Dục? Như tâm thuộc cõi Sắc, hoặc sinh hoặc tiến lên tốt đẹp, thì pháp thuộc cõi Dục sẽ được dấy khởi và trụ vào tâm thuộc cõi Sắc, nuôi lớn các căn thuộc cõi Dục, tăng thêm đại chủng, pháp đó cần phải sinh-lão-trụ-vô thường. Thế nào là vô sắc thuộc cõi Vô sắc? Như tâm thuộc cõi Sắc, hoặc sinh, thì pháp cõi Vô sắc sẽ được dấy khởi. Thế nào là vô sắc không hệ thuộc? Như tâm thuộc cõi Sắc, nếu thoái chuyển hoặc tiến lên tốt đẹp thì pháp không hệ thuộc được dấy khởi. Hỏi: Các pháp vô sắc thuộc cõi Vô sắc dấy khởi, pháp ấy với tâm thuộc cõi Vô sắc đều có chăng? Đáp: Các pháp vô sắc thuộc cõi Vô sắc dấy khởi, pháp ấy hoặc với tâm thuộc cõi Vô sắc đều có, hoặc tâm thuộc cõi Dục đều có, hoặc tâm thuộc cõi Sắc đều có, hoặc tâm không hệ thuộc đều có. Thế nào là tâm thuộc cõi Vô sắc đều có? Các pháp tương ưng với tâm thuộc cõi Vô sắc, tâm ấy đều có vô sắc thuộc cõi Vô sắc. Thế nào là tâm thuộc cõi Dục đều có? Như tâm thuộc cõi Dục, nếu thoái chuyển hoặc sinh, thì pháp thuộc cõi Vô sắc được dấy khởi. Thế nào là tâm thuộc cõi Sắc đều có? Như tâm thuộc cõi Sắc, hoặc sinh hoặc tiến lên tốt đẹp thì pháp thuộc cõi Vô sắc sẽ được dấy khởi. Thế nào là tâm không hệ thuộc đều có? Như tâm không hệ thuộc, tiến lên tốt đẹp, pháp thuộc cõi Vô sắc được dấy khởi. Hỏi: Nếu pháp và tâm thuộc cõi Vô sắc đều cùng dấy khởi, pháp ấy là vô sắc thuộc cõi Vô sắc chăng? Đáp: Các pháp và tâm thuộc cõi Vô sắc đều cùng dấy khởi, pháp ấy hoặc là vô sắc thuộc cõi Vô sắc, hoặc vô sắc thuộc cõi Dục, hoặc vô sắc thuộc cõi Sắc, hoặc vô sắc không hệ thuộc. Thế nào là vô sắc thuộc cõi Vô sắc? Các pháp tương ưng với tâm cõi Vô sắc, tâm ấy đều có vô sắc thuộc cõi Vô sắc. Thế nào là vô sắc thuộc cõi Dục? Như tâm thuộc cõi Vô sắc, nuôi lớn các căn thuộc cõi Dục, tăng thêm đại chủng, pháp cần phải sinh- lão-trụ-vô thường. Thế nào là vô sắc thuộc cõi Sắc? Như trụ vào tâm cõi Vô sắc, nuôi lớn các căn thuộc cõi Sắc, tăng thêm đại chủng, pháp cõi Sắc cần phải sinh-lão-trụ-vô thường. Thế nào là vô sắc không hệ thuộc? Như tâm thuộc cõi Vô sắc, nếu thoái chuyển, hoặc nếu tiến lên tốt đẹp thì pháp không hệ thuộc được dấy khởi. Hỏi: Các pháp vô sắc thuộc hữu học dấy khởi, pháp ấy với tâm hữu học đều có chăng? Đáp: Các pháp vô sắc thuộc hữu học dấy khởi, pháp đó hoặc là tâm hữu học đều có, hoặc tâm phi học phi vô học đều có. Thế nào là tâm hữu học đều có? Các pháp tương ưng với tâm hữu học, tâm hữu học đều có vô sắc hữu học. Thế nào là tâm phi học phi vô học đều có? Như tâm phi học phi vô học, nếu thoái chuyển, hoặc tiến lên tốt đẹp thì pháp hữu học được dấy khởi. Hỏi: Nếu pháp và tâm hữu học đều dấy khởi, pháp ấy là vô sắc thuộc hữu học chăng? Đáp: Các pháp và tâm hữu học đều dấy khởi, pháp đó hoặc là vô sắc thuộc hữu học, hoặc vô sắc thuộc phi học phi vô học. Thế nào là vô sắc thuộc hữu học? Các pháp tương ưng với tâm hữu học kia, tâm ấy đều có vô sắc hữu học. Thế nào là vô sắc thuộc phi học phi vô học? Như tâm hữu tiến lên tốt đẹp, pháp phi học phi vô học được dấy khởi, và trụ vào tâm hữu học, nuôi lớn các căn của phi học phi vô học, tăng thêm đại chủng, pháp đó cần phải sinh-lão-trụ-vô thường. Hỏi: Các pháp vô sắc thuộc vô học dấy khởi, pháp ấy với tâm vô học đều có chăng? Đáp: Các pháp vô sắc thuộc vô học dấy khởi, pháp đó hoặc là tâm vô học đều có, hoặc tâm phi học phi vô học đều có. Thế nào là tâm vô học đều có? Các pháp tương ưng với tâm vô học, tâm ấy đều có vô sắc vô học. Thế nào là tâm phi học phi vô học đều có? Như tâm phi học phi vô học, nếu thoái chuyển, hoặc tiến lên tốt đẹp, thì pháp vô học được dấy khởi. Hỏi: Nếu pháp và tâm vô học đều cùng dấy khởi, pháp ấy là vô sắc thuộc vô học chăng? Đáp: Các pháp vàtâm vô học đều cùng dấy khởi, pháp đó hoặc là vô sắc thuộc vô học, hoặc vô sắc của phi học phi vô học. Thế nào là vô sắc thuộc vô học? Các pháp tương ưng với tâm vô học kia, tâm ấy đều có vô sắc vô học. Thế nào là vô sắc thuộc phi học phi vô học? Như tâm vô học tiến lên tốt đẹp , pháp phi học phi vô học được dấy khởi và trụ vào tâm vô học, nuôi lớn các căn của phi học phi vô học, tăng thêm đại chủng, pháp đó cần phải sinh-lão-trụ-vô thường. Hỏi: Các pháp vô sắc thuộc phi học phi vô học dấy khởi, pháp ấy với tâm phi học phi vô học đều có chăng? Đáp: Các pháp vô sắc thuộc phi học phi vô học dấy khởi, pháp đó hoặc là tâm phi học phi vô học đều có, hoặc tâm hữu học đều có, hoặc tâm vô học đều có. Thế nào là tâm phi học phi vô học đều có? Các pháp tương ưng với tâm phi học phi vô học, tâm ấy đều có vô sắc của phi học phi vô học. Thế nào là tâm hữu học đều có? Như tâm hữu học, tiến lên tốt đẹp, thì pháp phi học phi vô học được dấy khởi, và trụ vào tâm học, nuôi lớn các căn của phi học phi vô học, tăng thêm đại chủng, pháp cần phải sinh-lão-trụ-vô thường. Thế nào là tâm vô học đều có? Như tâm vô học, nếu tiến lên tốt đẹp, thì pháp phi học phi vô học được dấy khởi, và trụ vào tâm vô học, nuôi lớn các căn của phi học phi vô học, tăng thêm đại chủng, pháp cần phải sinh-lão-trụ-vô thường. Hỏi: Nếu pháp và tâm phi học phi vô học đều cùng dấy khởi, pháp ấy là vô sắc của phi học phi vô học chăng? Đáp: Các pháp và tâm phi học phi vô học đều cùng dấy khởi, pháp đó hoặc vô sắc thuộc phi học phi vô học, hoặc là vô sắc thuộc hữu học, hoặc vô sắc thuộc vô học. Thế nào là vô sắc của phi học phi vô học? Các pháp tương ưng với tâm phi học phi vô học kia, tâm ấy đều có vô sắc thuộc phi học phi vô học. Thế nào là vô sắc thuộc hữu học? Như tâm phi học phi vô học, nếu thoái chuyển, nếu tiến lên tốt đẹp, thì pháp hữu học được dấy khởi. Thế nào là vô sắc của vô học? Như tâm phi học phi vô học, nếu thoái chuyển, nếu tiến lên tốt đẹp, thì pháp vô học được dấy khởi. Hỏi: Các pháp vô sắc do kiến đoạn dấy khởi, pháp ấy với tâm do kiến đoạn đều có chăng? Đáp: Các pháp vô sắc do kiến đoạn dấy khởi, pháp ấy hoặc là tâm do kiến đoạn đều có, hoặc tâm do tu đoạn đều có. Thế nào là tâm do kiến đoạn đều có? Các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia đều có vô sắc do kiến đoạn. Thế nào là tâm do tu đoạn đều có? Như tâm do tu đoạn, hoặc sinh hoặc tiến lên tốt đẹp, thì pháp do kiến đoạn được dấy khởi. Hỏi: Nếu pháp và tâm do kiến đoạn đều cùng dấy khởi, thì pháp đó là vô sắc do kiến đoạn chăng? Đáp: Các pháp và tâm do kiến đoạn đều cùng dấy khởi, pháp đó hoặc là vô sắc do kiến đoạn, hoặc vô sắc do tu đoạn. Thế nào là vô sắc do kiến đoạn? Các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia đều có vô sắc do kiến đoạn. Thế nào là vô sắc do tu đoạn? Như tâm do kiến đoạn, hoặc sinh hoặc tiến lên tốt đẹp, thì pháp do tu đoạn được dấy khởi, và trụ vào tâm do kiến đoạn, nuôi lớn các căn do tu đoạn, tăng thêm đại chủng, pháp ấy đắc sinh-lão-trụ-vô thường. Hỏi: Các pháp vô sắc do tu đoạn dấy khởi, pháp đó với tâm do tu đoạn đều có chăng? Đáp: Các pháp vô sắc do tu đoạn dấy khởi, pháp ấy hoặc là tâm do tu đoạn đều có, hoặc tâm do kiến đoạn đều có, hoặc tâm không đoạn đều có. Thế nào là tâm do tu đoạn đều có? Các pháp tương ưng với tâm đó, tâm đó đều có vô sắc do tu đoạn. Thế nào là tâm do kiến đoạn đều có? Như tâm do kiến đoạn, hoặc sinh hoặc tiến lên tốt đẹp, thì pháp do tu đoạn được dấy khởi, và trụ nơi tâm do kiến đoạn, nuôi lớn các căn do tu đoạn, tăng thêm đại chủng, pháp ấy đắc sinh-lão-trụ-vô thường. Thế nào là tâm không đoạn đều có? Như tâm không đoạn tiến lên tốt đẹp thì pháp do tu đoạn được dấy khởi và trụ vào tâm không đoạn. Các căn do tu đoạn được nuôi lớn, tăng thêm đại chủng, pháp cần phải sinh-lão-trụ-vô thường. Hỏi: Nếu pháp và tâm do tu đoạn đều cùng dấy khởi, thì pháp đó là vô sắc do tu đoạn chăng? Đáp: Các pháp và tâm do tu đoạn đều cùng dấy khởi, pháp đó hoặc vô sắc do tu đoạn, hoặc vô sắc do kiến đoạn, hoặc vô sắc không đoạn. Thế nào là vô sắc do tu đoạn? Các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia đều có vô sắc do tu đoạn. Thế nào là vô sắc do kiến đoạn? Như tâm do tu đoạn, hoặc sinh hoặc tiến lên tốt đẹp, thì pháp do kiến đoạn sẽ được dấy khởi. Thế nào là vô sắc không đoạn? Như tâm do tu đoạn, hoặc tiến lên tốt đẹp, thì pháp không đoạn được dấy khởi. Hỏi: Các pháp vô sắc không đoạn dấy khởi, pháp ấy với tâm không đoạn đều có chăng? Đáp: Các pháp vô sắc không đoạn dấy khởi, pháp ấy hoặc là tâm không đoạn đều có, hoặc tâm do tu đoạn đều có. Thế nào là tâm không đoạn đều có? Các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia đều có vô sắc không đoạn. Thế nào là tâm do tu đoạn đều có? Như tâm do tu đoạn, nếu thoái chuyển, hoặc tiến lên tốt đẹp, thì pháp không đoạn được dấy khởi. Hỏi: Nếu pháp và tâm không đoạn đều cùng dấy khởi, thì pháp đó là vô sắc không đoạn chăng? Đáp: Các pháp và tâm không đoạn đều cùng dấy khởi, pháp đó hoặc là vô sắc không đoạn, hoặc vô sắc do tu đoạn. Thế nào là vô sắc không đoạn? Các pháp tương ưng với tâm không đoạn, tâm ấy đều có vô sắc không đoạn. Thế nào là vô sắc do tu đoạn? Như tâm không đoạn, tiến lên tốt đẹp, thì pháp do tu đoạn được dấy khởi, và trụ vào tâm không đoạn, các căn do tu đoạn được nuôi lớn, tăng thêm đại chủng, pháp cần phải sinh- lão-trụ-vô thường. Hỏi: Tất cả tónh lự thứ nhất đều có năm Chi chăng? Đáp: Không nhiễm ô thì có năm, nhiễm ô thì không có năm. Những gì là không có? Không có ly sinh hỷ lạc. Hỏi: Tất cả tónh lự thứ hai đều có bốn Chi chăng? Đáp: Không nhiễm ô thì có bốn, nhiễm ô thì không có bốn. Những gì là không có? Không có nội đẳng tịnh. Hỏi: Tất cả tónh lự thứ ba đều có năm Chi chăng? Đáp: Không nhiễm ô thì có năm, nhiễm ô thì không có năm. Những gì là không có? Không có chính niệm-chính tri. Hỏi: Tất cả tónh lự thứ tư đều có bốn chi chăng? Đáp: Không nhiễm ô thì có bốn, nhiễm ô thì không có bốn. Những gì là không có? Không có xả niệm thanh tịnh. Hỏi: Vị tương ưng với tónh lự thứ nhất, nhập nên nói là vị hay xuất nên nói là vị? Đáp: Đối với Năng vị, nên nói là nhập; đối với Sở vị, nên nói là xuất. Hỏi: Cho đến vị tương ưng với Phi tưởng phi phi tưởng xứ nhập nên nói là vị hay xuất nên nói là vị? Đáp: Đối với Năng vị, nên nói là nhập; đối vơi Sở vị, nên nói là xuất. Hỏi: Các vị tương ưng với tónh lự thứ nhất đều là hữu phú, vô ký chăng? Đáp: Các vị tương ưng với tónh lự thứ nhất đều là hữu phú, vô ký. Hỏi: Nếu tónh lự thứ nhất là hữu phú vô ký thì đều tương ưng với vị chăng? Đáp: Có tónh lự thứ nhất là hữu phú vô ký mà không tương ưng với vị, nghĩa là trừ ra ái còn lại phiền não khác hiện ở trước mắt. Hỏi: Cho đến các vị tương ưng với Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều là hữu phú vô ký chăng? Đáp: Các vị tương ưng với Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều là hữu phú vô ký. Hỏi: Nếu Phi tưởng phi phi tưởng xứ là hữu phú vô ký thì đều tương ưng với vị chăng? Đáp: Có Phi tưởng phi phi tưởng xứ là hữu phú vô ký mà không tương ưng với vị, nghĩa là trừ ra ái, phiền não khác hiện ở trước mắt. Hỏi: Có thể có không nhập tónh lự thứ nhất mà nhập tónh lự thứ hai chăng? Đáp: Nhập. Hỏi: Cho đến có thể có không nhập Vô sở hữu xứ mà nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ chăng? Đáp: Nhập. Hỏi: Có thể có không nhập tónh lự thứ nhất mà sinh cõi Phạm thế chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Cho đến có thể có không nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà sinh Phi tưởng phi phi tưởng xứ chăng? Đáp: Sinh. Hỏi: Nếu đạt được tónh lự thứ nhất chứ không phải tónh lự thứ hai, thì hành giả kia mạng chung sinh đến xứ nào? Đáp: Hoặc cõi Phạm thế, hoặc cõi Cực quang tịnh, hoặc cõi Biến tịnh, hoặc cõi Quảng quả, hoặc Không vô biên xứ, hoặc Thức vô viên xứ, hoặc Vô sở hữu xứ, hoặc Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc không có xứ sở. Hỏi: Cho đến nếu đạt được Vô sở hữu xứ-Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thì hành giả kia mạng chung sinh đến xứ nào? Đáp: Hoặc Vô sở hữu xứ, hoặc Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc không có xứ sở. Hỏi: Tư duy về những gì để nhập định Từ? Đáp: Mang lại niềm vui cho hữu tình. Hỏi: Tư duy về những gì để nhập định Bi? Đáp: Trừ diệt khổ đau giúp hữu tình. Hỏi: Tư duy về những gì để nhập định Hỷ? Đáp: Vui mừng cho các hữu tình. Hỏi: Tư duy về những gì để nhập định Xảø? Đáp: Bình đẳng đối với hữu tình. Hỏi: Từ đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Bi-Hỷ-Xả đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Tịnh tónh lự thứ nhất đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Cho đến tịnh Phi tưởng phi phi tưởng xứ đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Sự giải thoát thứ nhất, thứ hai, thứ ba đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Không vô biên xứ giải thoát đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hoặc là Không vô biên xứ, hoặc Thức vô biên xứ, hoặc Vô sở hữu xứ, hoặc Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc không có. Hỏi: Thức vô biên xứ giải thoát đoạn kiết hệ thuộc thuộc cõi nào? Đáp: Hoặc Thức vô biên xứ, hoặc Vô sở hữu xứ, hoặc Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc không có. Hỏi: Vô sở hữu xứ giải thoát đoạn kiết hệ thuộc thuộc cõi nào? Đáp: Hoặc Vô sở hữu xứ, hoặc Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc không có Hỏi: Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát , giải thoát diệt-thọ- tưởng đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Thắng xứ đầu tiên đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Cho đến thắng xứ thứ tám đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Biến xứ đầu tiên đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Cho đến biến xứ thứ mười đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Pháp trí đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hoặc cõi Dục, hoặc cõi Sắc, hoặc cõi Vô sắc, hoặc không có. có. Hỏi: Loại trí đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hoặc cõi Sắc, hoặc cõi Vô sắc, hoặc không có. Hỏi: Tha tâm trí đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Không có. Hỏi: Thế tục trí đoạn kiết hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hoặc cõi Dục, hoặc cõi Sắc, hoặc cõi Vô sắc, hoặc không Như thế tục trí, trí khổ-tập-diệt-đạo, Tam-ma-địa Không-Vô nguyện-Vô tướng cũng như vậy. Hỏi: Dị thục Từ thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc cõi Phạm thế, hoặc cõi Cực quang tịnh, hoặc cõi Biến tịnh, hoặc cõi Quảng quả, hoặc vô xứ sở. Như Từ, đối với Bi, Xả cũng như vậy. Hỏi: Dị thục Hỷ thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc cõi Phạm thế, hoặc cõi Cực quang tịnh, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục tịnh của sơ tónh lự thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc cõi Phạm thế, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục tịnh của tónh lự thứ hai thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc cõi Cực quang tịnh, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục tịnh của tónh lự thứ ba thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc cõi Biến tịnh, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục tịnh của tónh lự thứ tư thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc cõi Quảng quả, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục tịnh của Không vô biên xứ thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc là Không vô biên xứ, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục tịnh của Thức vô biên xứ thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc là Thức vô biên xứ, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục tịnh của Vô sở hữu xứ thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc Vô sở hữu xứ, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục tịnh của Phi tưởng phi phi tưởng xứ thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc là Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục của giải thoát đầu tiên-thứ hai thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc cõi Phạm thế, hoặc cõi Cực quang tịnh, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục của tịnh giải thoát thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc cõi Quảng quả, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Không vô biên xứ giải thoát, cho đến dị thục của Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc địa mình, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục của diệt thọ tưởng giải thoát thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc là Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục của bốn thắng xứ đầu thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc cõi Phạm thế, hoặc cõi Cực quang tịnh, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục của bốn thắng xứ sau thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc cõi Quảng quả, hoặc vô xứ sở. Như đối với bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước cũng như vậy. Hỏi: Dị thục của hai biến xứ sau thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc phần vị của mình, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục của tha tâm trí thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc cõi Phạm thế, hoặc cõi Cực quang tịnh, hoặc cõi Biến tịnh, hoặc cõi Quảng quả, hoặc vô xứ sở. Hỏi: Dị thục của thế tục trí thọ sanh xứ nào? Đáp: Hoặc cõi Dục, hoặc cõi Sắc, hoặc cõi Vô sắc, hoặc vô xứ sở. ---------------- <詞>Phẩm 2: BÀN VỀ DUYÊN Tám định có vị-tịnh-vô lậu, Thành tựu-không thành tựu-đắc-xả, Thoái chuyển-tu-ban đầu nhập-duyên, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Có tám định, đó là bốn tónh lự và bốn vô sắc. Có ba định, đó là vị tương ưng-tịnh và vô lậu Trong này bảy loại trước đều có đủ ba loại, loại thứ tám chỉ có hai, đó là trừ vô lậu. Hỏi: Có thể có thành tựu vị tương ưng tónh lự thứ nhất mà không phải tịnh-vô lậu chăng? Đáp: Có, đó là ái thuộc cõi Dục chưa hết. Hỏi: Có thể có thành tựu tịnh tónh lự thứ nhất mà không phải vô lậu-vị tương ưng chăng? Đáp: Có, đó là phàm phu sinh cõi Dục và cõi Phạm thế, ái thuộc cõi Phạm thế đã hết. Hỏi: Có thể thành tựu vô lậu tónh lự thứ nhất mà không phải tịnh- vị tương ưng chăng? Đáp: Có, đó là Thánh giả sinh trên cõi Phạm thế. Hỏi: Có thể có thành tựu vị tương ưng-tịnh tỉnh tự thứ nhất mà không phải vô lậu chăng? Đáp: Có, đó là phàm phu sinh ở cõi Dục, ái của cõi Dục đã hết mà ái cõi Phạm thế chưa hết, và sinh ở cõi Phạm thế, ái cõi Phạm thế chưa hết. Hỏi: Có thể có thành tựu vị tương ưng-vô lậu tónh lự thứ nhất mà không phải là tịnh chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có thành tựu tịnh-vô lậu tónh lự thứ nhất mà không phải là vị tương ưng chăng? Đáp: Có, đó là Thánh giả sinh nơi cõi Dục-Phạm thế, ái của cõi Phạm thế đã hết. Hỏi: Có thể có thành tựu vị tương ưng-tịnh-vô lậu tónh lự thứ nhất chăng? Đáp: Có, đó là Thánh giả sinh nơi cõi Dục, ái cõi Dục không còn, ái cõi Phạm thế chưa hết, và sinh nơi cõi Phạm thế, ái cõi Phạm thế chưa hết. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất không thành tựu vị tương ưng mà không phải là tịnh-vô lậu chăng? Đáp: Có, đó là Thánh giả sinh nơi cõi Dục-Phạm thế, ái cõi Phạm thế không còn. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất không thành tựu tịnh mà không phải là vị tương ưng-vô lậu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất không thành tựu vô lậu mà không phải là vị tương ưng-tịnh chăng? Đáp: Có, đó là phàm phu sinh nơi cõi Dục, ái cõi Dục không còn, ái cõi Phạm thế chưa hết, và sinh nơi cõi phạm thế, ái cõi Phạm thế chưa hết. Hỏi: Có thể tónh lự thứ nhất không thành tựu vị tương ưng-tịnh mà không phải là vô lậu chăng? Đáp: Có, đó là Thánh giả sinh trên cõi Phạm thế. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất không thành vị tương ưng-vô lậu mà không phải là tịnh chăng? Đáp: Có, đó là phàm phu sinh nơi cõi Dục-Phạm thế, ái cõi Phạm thế không còn. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất không thành tựu tịnh-vô lậu mà không phải là vị tương ưng chăng? Đáp: Có, đó là ái cõi Dục chưa hết. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất không thành tựu vị tương ưng-tịnh- vô lậu chăng? Đáp: Có, đó là phàm phu sinh trên cõi Phạm thế. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất đạt được vị tương ưng chứ không phải là tịnh-vô lậu chăng? Đáp: Có, đó là từ lúc ái cõi Phạm thế không còn mà lui sụt, và lúc trên cõi Phạm thế mất đi, sinh vào cõi Dục. Hỏi: Có thể tónh lự thứ nhất đạt được tịnh chứ không phải là vị tương ưng-vô lậu chăng? Đáp: Có, đó là lúc phàm phu hết ái cõi Dục. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất đạt được vô lậu chứ không phải là vị tương ưng-tịnh chăng? Đáp: Có, đó là dựa vào tónh lự và trung gian tónh lự, nhập chính tính ly sanh, và lúc đạt được quả A-la-hán. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất đạt được vị tương ưng-tịnh chứ không phải là vô lậu chăng? Đáp: Có, đó là lúc trên cõi Phạm thế mất đi, sanh vào cõi Phạm thế. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất đạt được vị tương ưng-vô lậu chứ không phải là tịnh chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất đạt được tịnh-vô lậu chứ không phải là vị tương ưng chăng? Đáp: Có, đó là lúc Thánh giả hết ái cõi Dục. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất đạt được vị tương ưng-tịnh-vô lậu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất xả vị tương ưng chứ không phải là tịnh-vô lậu chăng? Đáp: Có, đó là lúc ái cõi Phạm thế không còn. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất xả tịnh chứ không phải là vị tương ưng-vô lậu chăng? Đáp: Có, đó là phàm phu từ lúc ái cõi Dục hết mà lui sụt, và lúc ở cõi Dục-Phạm thế mất đi, sinh trên cõi Phạm thế, cùng với lúc ở cõi Phạm thế mất đi sinh vào cõi Dục. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất xả tịnh-vô lậu mà không phải là vị tương ưng chăng? Đáp: Có, đó là lúc Thánh giả từ cõi Dục không còn ái mà lui sụt. Hỏi: Có thể có xả những pháp còn lại chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất lui sụt vị tương ưgn chứ không phải là tịnh-vô lậu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất lui sụt tịnh chứ không phải là vị tương ưng-vô lậu chăng? Đáp: Có, đó là lúc phàm phu từ cõi Dục không còn ái mà lui sụt. Hỏi: Có thể có tónh lự thứ nhất lui sụt tịnh-vô lậu chứ không phải là vị tương ưng chăng? Đáp: Có, đó là lúc Thánh giả từ cõi Dục không còn ái mà lui sụt. Hỏi: Có thể có lui sụt những pháp còn lại chăng? Đáp: Không có. Như nói về tónh lự thứ nhất, cho đến vô sở hữu xứ, giải thích cũng như vậy. Hỏi: Nếu tu tịnh tónh lự thứ nhất, thì lúc ấy cũng tu vô lậu chăng? Nếu tu vô lậu tónh lự thứ nhất, thì lúc ấy cũng tu tịnh chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu tịnh tónh lự thứ nhất mà không phải vô lậu, nghĩa là đã đạt được tịnh tónh lự thứ nhất hiện ở trước mắt; hoặc chưa đạt được tịnh tónh lự thứ nhất hiện ở trước mắt, mà không tu vô lậu; hoặc chưa đạt được chứ không phải là tónh lự thứ nhất, thế tục trí hiện ở trước mắt, mà tu tịnh tónh lự thứ nhất chứ không phải là vô lậu. Có tu vô lậu tónh lự thứ nhất mà không phải là tịnh, nghĩa là đã đạt được vô lậu tónh lự thứ tư hiện ở trước mắt; hoặc chưa đạt được vô lậu tónh lự thứ nhất hiện ở trước mắt, mà không tu tịnh; hoặc chưa đạt được chứ không phải thế tục trí thuộc tónh lự thứ nhất, và chưa đạt được chứ không phải là vô lậu trí thuộc tónh lự thứ nhất trí đó hiện ở trước mắt, mà tu vô lậu tónh lự thứ tư chứ không phải là tịnh. Có tu tịnh tónh lự thứ nhất cũng là vô lậu, nghĩa là chưa đạt được tịnh tónh lự thứ nhất hiện ở trước mắt, mà tu vô lậu; hoặc chưa đạt được vô lậu tónh lự thứ tư hiện ở trước mắt, mà tu tịnh; hoặc chưa đạt được chứ không phải là thế tục trí, vô lậu trí thuộc tónh lự thứ nhất trí đó hiện ở trước mắt mà tu tịnh tónh lự thứ nhất và vô lậu. Không tu tịnh tónh lự thứ nhất, cũng không phải là vô lậu, nghĩa là đã đạt được mà không phải là thế tục trí, vô lậu trí thuộc tónh lự thứ nhất hiện ở trước mắt, hặoc chưa đạt được mà không phải là thế tục trí- vô lậu trí hiện ở trước mắt mà không tu tịnh tónh lự thứ nhất và vô lậu; hoặc tất cả tâm ô nhiễm-tâm vô ký hiện ở trước mắt, hoặc trụ vào định vô tưởng, định diệt tận, sinh cõi trời Vô tưởng. Như nói về tónh lự thứ nhất, tónh lự thứ hai, thứ ba cũng đúng như vậy. Hỏi: Nếu tu tịnh tónh lự thứ tư, Lúc ấy cũng tu vô lậu chăng? Nếu tu tónh lự thứ tư vô lậu, Lúc ấy cũng tu tịnh chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu để phân biệt: Có tu tịnh tónh lự thứ tư, không phải vô lậu, nghĩa là đã đạt được tịnh tónh lự thứ tư hiện ở trước mắt. Nếu chưa đạt được tónh lự thứ tư hiện ở trước mắt, mà không tu vô lậu. Có tu tónh lự thứ tư vô lậu, mà không phải tịnh, nghĩa là đã đạt được tónh lự thứ tư vô lậu hiện ở trước mắt. Nếu chưa đạt được tónh lự thứ tư vô lậu hiện ở trước mắt, mà không tu tịnh, nếu chưa đạt được không phải thế tục trí của tónh lự thứ tư và chưa đạt được không phải vô lậu trí của tónh lự thứ tư, trí ấy hiện ở trước mắt mà vô lậu tónh lự thứ tư chứ không phải là tịnh. Có tu tịnh tónh lự thứ tư, cũng là vô lậu, nghĩa là chưa đạt được tịnh tónh lự thứ tư hiện ở trước mắt, mà tu vô lậu; hoặc chưa đạt được tónh lự thứ tư vô lậu hiện ở trước mắt, mà tu tịnh, nếu chưa đạt được không phải vô lậu trí của tónh lự thứ tư hiện ở trước mắt mà tu tịnh tónh lự thứ tư và vô lậu. Không tu tịnh tónh lự thứ tư, cũng không phải là vô lậu, nghĩa là đã đạt được không phải thế tục trí, vô lậu trí của tónh lự thứ tư hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được mà không phải thế tục trí, vô lậu trí thuộc tónh lự thứ tư, trí ấy hiện ở trước mắt mà không tu tịnh tónh lự thứ tư và vô lậu; hoặc tất cả tâm ô nhiễm, tâm vô ký hiện ở trước mắt, hoặc vào trụ định vô tưởng-định diệt tận, sinh cõi trời Vô tưởng. Như nói về tónh lự thứ tư, cho đến nói về Vô sở hữu xứ giải thích cũng cũng như vậy. Hỏi: Nếu đầu tiên nhập vô lậu tónh lự thứ nhất, thì bấy giờ đã đạt được các tâm-tâm sở pháp vô lậu vị lai còn lại, thì tất cả tâm ấy nên nói là có tầm-có tứ chăng? Đáp: Các tâm ấy hoặc có tầm-có tứ, hoặc không có tầm-chỉ có tứ, hoặc không có tầm-không có tứ. Hỏi: Nếu đầu tiên thứ hai nhập tónh lự vô lậu, bấy giờ đã đạt được các tâm-tâm sở pháp vô lậu vị lai còn lại, thì tất cả tâm ấy nên nói là tương ưng với hỷ căn chăng? Đáp: Các tâm ấy hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ căn, hoặc tương ưng với xả căn. Hỏi: Nếu đầu tiên tónh lự thứ ba nhập vô lậu, lúc ấy đã đạt được các tâm-tâm sở pháp vô lậu vị lai còn lại, thì tất cả tâm ấy nên nói là tương ưng với lạc căn chăng? Đáp: Các tâm ấy hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ căn, hoặc tương ưng với xả căn. Hỏi: Nếu đầu tiên thứ tư nhập tónh lự vô lậu, bấy giờ đã đạt được các tâm-tâm sở pháp vô lậu vị lai còn lại, thì tất cả tâm ấy nên nói tương ưng với xả căn chăng? Đáp: Các tâm ấy hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ căn, hoặc tương ưng với xả căn. Hỏi: Nếu đầu tiên Không vô biên xứ nhập vô lậu, bấy giờ đã đạt được các tâm-tâm sở pháp vô lậu vị lai còn lại, thì tất cả tâm ấy nên nói thuộc về Không vô biên xứ chăng? Đáp: Các tâm ấy hoặc thuộc về Không vô biên xứ, hoặc thuộc về Thức vô biên xứ, hoặc thuộc về Vô sở hữu xứ. Hỏi: Nếu đầu tiên Thức vô biên nhập xứ vô lậu, lúc ấy đã đạt được các tâm-tâm sở pháp vô lậu vị lai còn lại, thì tất cả tâm ấy nên nói thuộc về Thức vô biên xứ chăng? Đáp: Các tâm ấy hoặc thuộc về Không vô biên xứ, hoặc thuộc về Thức vô biên xứ, hoặc thuộc về Vô sở hữu xứ. Hỏi: Nếu đầu tiêng Vô sở hữu xứ nhập vô lậu, bấy giờ đã đạt được các tâm-tâm sở pháp vô lậu vị lai còn lại, thì tất cả tâm ấy nên nói là thuộc về Vô sở hữu xứ chăng? Đáp: Các tâm ấy thuộc về Không vô biên xứ, hoặc thuộc về Thức vô biên xứ, hoặc thuộc về Vô sở hữu xứ. Hỏi: Vị tương ưng tónh lự thứ nhất, cùng với vị tương ưng tónh lự thứ nhất…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với vị tương ưng của địa mình, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh của địa mình, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu của địa mình, và tịnh-vô lậu của ba tónh lự trên, là sở duyên tăng thượng; cùng với pháp còn lại, là một tăng thượng. Hỏi: Tịnh tónh lự thứ nhất, cùng với tịnh tónh lự thứ nhất…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với tịnh của địa mình, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu-vị tương ưng của địa mình, và tịnh, vô lậu tónh lự thứ hai-thứ ba, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh-vô lậu tónh lự thứ tư, là sở duyên tăng thượng; cùng với pháp còn lại, là một tăng thượng. Hỏi: Vô lậu tónh lự thứ nhất, cùng với vô lậu tónh lự thứ nhất…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với vô lậu của địa mình, và vô lậu tónh lự thứ hai-thứ ba, là nâhn đẳng vô gián sở duyên tăng thượng, cùng với tịnh của địa mình, và tịnh tónh lự thứ hai-thứ ba, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh tónh lự thứ tư, và tịnh vô sắc, là sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu tónh lự thứ tư, và vô lậu vô sắc, là nhân sở duyên tăng thượng; cùng với pháp còn lại, là một tăng thượng. Hỏi: Vị tương ưng tónh lự thứ hai, cùng với vị tương ưng tónh lự thứ hai là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với vị tương ưng của địa mình, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh tónh lự thứ nhất-thứ hai, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tất cả tónh lự vô lậu, và tịnh tónh lự thứ ba-thứ tư, là sở duyên tăng thượng; cùng với pháp còn lại, là một tăng thượng. Hỏi: Tịnh tónh lự thứ hai, cùng với tịnh tónh lự thứ hai…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với tịnh của mình, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tất cả tónh lự vô lậu, và tịnh tónh lự thứ nhất-thứ ba-thứ tư; cùng với vị tương ưng của địa mình, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với pháp còn lại, là một tăng thượng. Hỏi: Vô lậu tónh lự thứ hai, cùng với vô lậu tónh lự thứ hai, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với tất cả tónh lự vô lậu, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tất cả tónh lự tịnh, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh vô sắc, là sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu vô sắc, là nhân và sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác là một tăng thượng. Hỏi: Vị tương ưng tónh lự thứ ba, cùng với vị tương ưng tónh lự thứ ba… là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với vị tương ưng của địa minh, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh tónh lự thứ hai-thứ ba, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tất cả tónh lự vô lậu, và tịnh tónh lự thứ nhất-thứ tư là sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác, là một tăng thượng. Hỏi: Tịnh tónh lự thứ ba, cùng với tịnh tónh lự thứ ba…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với tịnh của địa mình, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tất cả tónh lự vô lậu, và tịnh tónh lự thứ nhất-thứ hai-thứ tư, cho đến vị tương ưng của địa mình, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh-vô lậu của không vô biên xứ, là tăng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác, là một tăng thượng. Hỏi: Vô lậu tónh lự thứ ba, cùng với vô lậu tónh lự thứ ba…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với vô lậu của bốn tónh lự-Không vô biên xứ, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh của bốn tónh lự-Không vô biên xứ, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh của ba vô sắc trên, là sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu của hai vô sắc trên, là nhân sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác, là một tăng thượng. Hỏi: Vị tương ưng tónh lự thứ tư, cùng với vị tương ưng tónh lự thứ tư…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với vị tương ưng của địa mình là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh tónh lự thứ ba-thứ tư, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu của bốn tónh lự, và tịnh tónh lự thứ nhất-thứ hai, là sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác, là một tăng thượng. Hỏi: Tịnh tónh lự thứ tư, cùng với tịnh tónh lự thứ tư… là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với tịnh của địa mình, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu của ba tónh lự trên, và tịnh tónh lự thứ hai- thứ ba, cho đến vị tương ưng của địa mình, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh-vô lậu của hai vô sắc trước, là đẳng vô gián tăng thượng; cùng với tịnh-vô lậu tónh lự thứ nhất, là sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác, là một tăng thượng. Hỏi: Vô lậu tónh lự thứ tư, cùng với vô lậu tónh lự thứ tư…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với vô lậu của ba tónh lự trên-hai vô sắc sau, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh của ba tónh lự trên-hai vô sắc trước, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh tónh lự thứ nhất-thứ hai vô sắc sau, là sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu tónh lự thứ nhất- Vô sở hữu xứ, là nhân và sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác là một tăng thượng. Hỏi: Vị tương ưng không vô biên xứ, cùng với vị tương ưng không vô biên xứ…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với vị tương ưng của địa mình, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh của địa mình, và tịnh tónh lự thứ tư, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tất cả tónh lự vô lậu, và tịnh của ba tónh lự dưới, là sở duyên tăng thượng, cùng với pháp khác, là một tăng thượng. Hỏi: Tịnh của Không vô biên xứ, cùng với tịnh của Không vô biên xứ…, là bao duyên duyên? Đáp: Cùng với tịnh của địa mình, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng cùng với vô lậu của địa mình, và tịnh-vô lậu tónh lự thứ ba-thứ tư, cho đến vị tương ưng của địa mình, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh-vô lậu của Thức vô biên xứ-Vô sở hữu xứ, là đẳng vô gián tăng thượng, cùng với tịnh-vô lậu tónh lự thứ nhất-thứ hai, là sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác, là một tăng thượng. Hỏi: Vô lậu của Không vô biên xứ, cùng với vô lậu của Không vô biên xứ…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với vô lậu của ba vô sắc-hai tónh lự sau, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh của ba vô sắc dưới-hai tónh lự sau là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh tónh lự thứ nhất-thứ hai, và tịnh của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, là sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu tónh lự thứ nhất-thứ hai, là nhân và sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác, là một tăng thượng. Hỏi: Vị tương ưng Thức vô biên xứ, cùng với vị tương ưng Thức vô biên xứ…, là bao duyên duyên? Đáp: Cùng với vị tương ưng của địa mình, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh của hai vô sắc dưới, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh-vô lậu của bốn tónh lự, và vô lậu của hai vô sắc dưới, là sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác là một tăng thượng. Hỏi: Tịnh của Thức vô biên xứ, cùng với tịnh của Thức vô biên xứ…, là bao duyên duyên. Đáp: Cùng với tịnh của địa mình, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu của địa mình, và tịnh-vô lậu của tónh lự thứ tư-Không vô biên xứ, cho đến vị tương ưng của địa mình, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng, cùng với tịnh-vô lậu của Vô sở hữu xứ, và tịnh của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, là đẳng vô gián tăng thượng, cùng với tịnh-vô lậu của ba tónh lự dưới, là sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác là một tăng thượng. Hỏi: Vô lậu của Thức vô biên xứ, cùng với vô lậu của Thức vô biên xứ…, là bao nhiêu duyên. Đáp: Cùng với vô lậu tónh lự thứ tư-ba vô sắc, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh tónh lự thứ ba-bốn sắc, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh của ba tónh lự dưới, là sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu của ba tónh lự dưới, là nhân và sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác, là một tăng thượng. Hỏi: Vị tương ưng của Vô sở hữu xứ, cùng với vị tương ưng của Vô sở hữu xứ…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với vị tương ưng của địa mình, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh của địa mình và tịnh của Thức vô biên xứ, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu của tất cả địa khác và tịnh của bốn tónh lự-không vô biên xứ, là sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác là một tăng thượng. Hỏi: Tịnh của Vô sở hữu xứ, cùng với tịnh của Vô sở hữu xứ…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với tịnh của địa mình, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu của ba vô sắc, và tịnh của hai vô sắc dưới, cho đến vị tương ưng của địa mình, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh của phi tưởng phi phi tưởng xứ, là đẳng vô gián tăng thượng; cùng với tịnh-vô lậu của bốn tónh lự, là sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác là một tăng thượng. Hỏi: Vô lậu của Vô sở hữu xứ, cùng với vô lậu của Vô sở hữu xứ…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với vô lậu của ba vô sắc, là nâhn đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh của bốn vô sắc, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh của bốn tónh lự, là sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu của bốn tónh lự, là nhân và sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác, là một tăng thượng. Hỏi: Vị tương ưng của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, cùng với vị tương ưng của Phi tưởng phi phi tưởng xứ…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với vị tương ưng của địa mình, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh của hai vô sắc trên, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với vô lậu của tất cả địa khác, và tịnh của sáu địa dưới, là sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác, là một tăng thượng. Hỏi: Tịnh của Phi tương phi phi tương xứ, cùng với tịnh của Phi tưởng phi phi tưởng xứ…, là bao nhiêu duyên? Đáp: Cùng với tịnh của địa mình, là nhân đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh vô lậu của Thức vô biên xứ-Vô sở hữu xứ, và vị tương ưng của địa mình, là đẳng vô gián sở duyên tăng thượng; cùng với tịnh-vô lậu của năm địa dưới, là sở duyên tăng thượng; cùng với pháp khác, là một sở duyên.  <卷>QUYỂN 18 <章>Chương 7: ĐỊNH UẨN <詞>Phẩm 3: BÀN VỀ SỰ THÂU NHIẾP Thâu nhiếp thích hợp được tương ưng Thành tựu-không đạt được-lùi-bỏ, Diệt trừ nhanh-chậm dựa theo định, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Mười tưởng là Tưởng về vô thường, tưởng về vô thường khổ, tưởng về khổ vô ngã, tưởng về chết, tưởng về bất tịnh, tưởng về chán ăn, tưởng về tất cả gian là không đáng vui, tưởng về đoạn, tưởng về lìa, tưởng về diệt. Bốn tónh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, mười biến xứ, tám trí, ba Tam-ma-địa. Hỏi: Tưởng về vô thường… thâu nhiếp bao nhiêu tónh lự…? Đáp: Tưởng về vô thường thâu nhiếp bốn tónh lự, bốn vô sắc, bốn giải thoát. Như tưởng về vô thường; tưởng về vô thường khổ, tưởng về khổ vô ngã, tưởng về chết, tưởng về đoạn, tưởng về lìa, tưởng về diệt cũng như vậy. Tưởng về bất tịnh thâu nhiếp giải thoát thứ nhất-thứ hai và tónh lự thứ ba-thứ tư. Như tưởng về bất tịnh, tưởng về chán ăn cũng như vậy. Tưởng về không thể vui của tất cả thế gian thâu nhiếp tónh lự thứ ba- thứ tư. Hỏi: Tónh lự thứ nhất… thâu nhiếp bao nhiêu tónh lự…? Đáp: Tónh lự thứ nhất thâu nhiếp tónh lự thứ nhất, bốn vô lượng, giải thoát thứ nhất-thứ hai, bốn thắng xứ trước, tám trí, ba Tam-ma- địa. Tónh lự thứ hai thâu nhiếp tónh lự thứ hai, bốn vô lượng, giải thoát thứ nhất, thứ hai, bốn thắng xứ trước, tám trí, ba Tam-ma-địa. Tónh lự thứ ba thâu nhiếp tónh lự thứ ba, ba vô lượng, tám trí, ba Tam-ma-địa. Tónh lự thứ tư thâu nhiếp tónh lự thứ tư, ba vô lượng, tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước, tám trí, ba Tam-ma-địa. Hỏi: Từ Vô lượng… thâu nhiếp bao nhiêu vô lượng…? Đáp: Từ Vô lượng thâu nhiếp Từ-thế tục trí Từ, cho đến Xả thâu nhiếp Xả-thế tục trí. Hỏi: Không vô biên xứ… thâu nhiếp bao nhiêu vô sắc…? Đáp: Không vô biên xứ thâu nhiếp Không vô biên xứ và giải thoát của mình-biến xứ của mình, ba Tam-ma-địa. Thức vô biên xứ thâu nhiếp Thức vô biên xứ và giải thoát của mình-viến xứ của mình, sáu trí, ba Tam-ma-địa. Vô sở hữu xứ thâu nhiếp Vô sở hữu xứ và giải thoát kia, sáu trí, ba Tam-ma-địa. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thâu nhiếp Phi tưởng phi phi tưởng xứ và giải thoát của mình, diệt thọ tưởng giải thoát, thế tục trí giải thoát. Hỏi: Giải thoát thứ nhất… thâu nhiếp bao nhiêu giải thoát…? Đáp: Giải thoát thứ nhất, thứ hai, thứ ba thâu nhiếp thế tục trí của giải thoát thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Không vô biên xứ giải thoát thâu nhiếp Không vô biên xứ giải thoát và biến xứ của mình, sáu trí, ba Tam-ma-địa. Thức vô biên xứ giải thoát thâu nhiếp Thức vô biên xứ giải thoát và biến xứ của mình, sáu trí, ba Tam-ma-địa. Vô sở hữu xứ giải thoát thâu nhiếp Vô sở hữu xứ giải thoát, sáu trí, ba Tam-ma-địa. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát thâu nhiếp Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát và thế tục trí. diệt thọ tưởng giải thoát thâu nhiếp giải thoát diệt thọ tưởng. Hỏi: Thắng xứ thứ nhất thâu nhiếp bao nhiêu thắng xứ…? Đáp: Thắng xứ thứ nhất thâu nhiếp thế tục trí của thắng xứ thứ nhất, cho đến thắng xứ thứ tám thâu nhiếp thế tục trí của thắng xứ thứ tám. Hỏi: Biến xứ thứ nhất thâu nhiếp bao nhiêu biến xứ… Đáp: Biến xứ thứ nhất thâu nhiếp thế tục trí của biến xứ thứ nhất, cho đến biến xứ thứ mười thâu nhiếp thế tục trí của biến xứ thứ mười. Hỏi: Pháp trí… thâu nhiếp bao nhiêu trí… Đáp: Pháp trí thâu nhiếp pháp trí và phần ít của năm trí. Loại trí thâu nhiếp loại trí, phần ít của năm trí. Tha tâm trí thâu nhiếp tha tâm trí, phần ít của bốn trí. Thế tục trí thâu nhiếp thế tục trí và phần ít của một trí. Khổ trí thâu nhiếp khổ trí, phần ít của hai trí. Tập trí thâu nhiếp tập trí và phần ít của hai trí. Diệt trí thâu nhiếp diệt trí, phần ít của ba trí. Đạo trí thâu nhiếp đạo trí và phần ít của ba trí. Hỏi: Tam-ma-địa không… thâu nhiếp bao nhiêu Tam-ma-địa? Đáp: Không thâu nhiếp Không, Vô nguyện thâu nhiếp Vô nguyện, Vô tướng thâu nhiếp Vô tướng. Như thâu nhiếp có thể đạt được cũng như vậy. Hỏi: Tưởng về vô thường… tương ưng với bao nhiêu tónh lự…? Đáp: Tưởng về vô thường tương ưng với bốn tónh lự, bốn vô sắc, bốn giải thoát, bốn trí, một Tam-ma-địa. Như tưởng về vô thường, tưởng về vô thường khổ, tưởng về khổ vô ngã, tưởng về chết, tưởng về đoạn, tưởng về lìa, tưởng về diệt cũng như vậy. Tưởng về bất tịnh tương ưng với hai tónh lự sau, thế tục trí của hai giải thoát đầu. Như tưởng về bất tịnh, tưởng về chán ăn cũng như vậy. Tưởng về tất cả thế gian không đáng vui tương ưng với thế tục trí của hai tónh lự sau. Hỏi: Tónh lự thứ nhất… tương ưng với bao nhiêu tónh lự…? Đáp: Tónh lự thứ nhất tương ưng với tónh lự thứ nhất, bốn vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, tám trí, ba Tam-ma-địa. Tónh lự thứ hai tương ưng với tónh lự thứ hai, bốn vô lượng, giải thoát thứ nhất-thứ hai, bốn thắng xứ trước, tám trí, ba Tam-ma-địa. Tónh lự thứ ba tương ưng với tónh lự thứ ba, ba vô lượng, tám trí, ba Tam-ma-địa. Tónh lự thứ tư tương ưng với tónh lự thứ tư, ba vô lượng, tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước, tám trí, ba Tam-ma-địa. Hỏi: Từ vô lượng… tương ưng với bao nhiêu vô lượng…? Đáp: Từ tương ưng với từ và thế tục trí , cho đến Xả tương ưng với xả và thế tục trí. Hỏi: Không vô biên xứ… tương ưng với bao nhiêu vô sắc…? Đáp: Không vô biên xứ tương ưng với Không vô biên xứ và giải thoát của mình-biến xứ của mình, sáu trí, ba Tam-ma-địa. Thức vô biên xứ tương ưng với Thức vô biên xứ và giải thoát của mình-biến xứ của mình, sáu trí, ba Tam-ma-địa. Vô sở hữu xứ tương ưng với Vô sở hữu xứ và giải thoát của mình, sáu trí, ba Tam-ma-địa. Phi tưởng phi phi tưởng xứ tương ưng với Phi tưởng phi phi tưởng xứ và giải thoát của mình cùng thế tục trí. Hỏi: Giải thoát… thứ nhất tương ưng với bao nhiêu giải thoát…? Đáp: Giải thoát thứ nhất, thứ hai, thứ ba tương ưng với thế tục trí của giải thoát thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Không vô biên xứ giải thoát tương ưng với không vô biên xứ giải thoát và biến xứ kia, sáu trí, ba Tam-ma-địa. Thức vô biên xứ giải thoát tương ưng với thức vô biên xứ giải thoát và biến xứ của mình, sáu trí, ba Tam-ma-địa. Vô sở hữu xứ giải thoát tương ưng với Vô sở hữu xứ giải thoát, sáu trí, ba Tam-ma-địa. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát tương ưng với Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát và thế tục trí. Diệt thọ tưởng giải thoát không có pháp tương ưng. Hỏi: Thắng xứ thứ nhất tương ưng với bao nhiêu thắng xứ? Đáp: Thắng xứ thứ nhất tương ưng với thế tục trí của thắng xứ thứ nhất, cho đến thắng xứ thứ tám tương ưng với thế tục trí của thắng xứ thứ tám. Hỏi: Biến xứ thứ nhất tương ưng với bao nhiêu biến xứ? Đáp: Biến xứ thứ nhất tương ưng với thế tục trí của biến xứ thứ nhất, cho đến biến xứ thứ mười tương ưng với thế tục trí của biến xứ thứ mười. Hỏi: Pháp trí… tương ưng với bao nhiêu Tam-ma-địa? Đáp: Pháp trí tương ưng với phần ít của ba Tam-ma-địa. Như pháp trí, loại trí cũng như vậy. Tha tâm trí tương ưng với phần ít của một Tam-ma-địa. Như tha tâm trí, tập trí, diệt trí, đạo trí cũng như vậy. Khổ trí tương ưng với phần ít của hai Tam-ma-địa. Hỏi: Nếu thành tựu tónh lự thứ nhất…, lúc ấy đối với bốn tónh lự có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Đáp: Nếu thành tựu tónh lự thứ nhất, thì lúc ấy đối với bốn tónh lự, hoặc một-hai-ba-bốn. Một nghĩa là ái của cõi Phạm thế chưa hết. Hai, nghĩa là ái của cõi Phạm thế đã hết, ái cõi trên chưa hết. Ba nghĩa là ái của cõi Cực quang tịnh đã hết, ái cõi trên chưa hết. Bốn, nghĩa là ái của cõi Biến tịnh đã hết. Đối với bốn vô lượng, hoặc không có, hoặc ba, hoặc bốn. Không có nghĩa là sinh cõi Vô sắc. Ba nghĩa là sinh cõi Biến tịnh, cõi Quảng quả. Bốn nghĩa là sinh cõi Phạm thế, cõi Cực quang tịnh nơi cõi Dục. Đối với bốn vô sắc hoặc không có, hoặc một-hai-ba-bốn. Không có nghĩa là ái sắc chưa hết. Một nghĩa là ái sắc đã hết, ái cõi trên chưa hết. Hai nghĩa là ái Không vô biên xứ đã hết, ái cõi trên chưa hết. Ba nghĩa là ái Thức vô biên xứ đã hết, ái cõi trên chưa hết. Bốn nghĩa là ái của Vô sở hữu xứ đã hết. Đối với tám giải thoát, hoặc không có, hoặc một-hai-ba-bốn-năm- sáu-bảy. Không có nghĩa là sinh cõi Biến tịnh, ái của cõi Biến tịnh chưa hết. Một nghĩa là sinh cõi Biến tịnh, ái của cõi Biến tịnh đã hết, ái cõi trên chưa hết; hoặc sinh cõi Quảng quả, ái cõi ấy chưa hết; hoặc sinh Không vô biên xứ, ái cõi kia chưa hết. Hai nghĩa là sinh cõi Phạm thế, cõi Cực quang tịnh và cõi Dục, ái của cõi Biến tịnh chưa hết; hoặc sinh cõi Biến tịnh-cõi Quảng quả ái cõi Quảng quả đã hết, ái cõi trên chưa hết, hoặc sinh Không vô biên chăng, ái cõi ấy đã hết, ái cõi trên chưa hết; hoặc sinh Thức vô biên xứ ái cõi ấy chưa hết. Ba nghĩa là sinh cõi Phạm thế, cõi Cực quang tịnh và cõi Dục, ái cõi Biến tịnh đã hết, ái cõi trên chưa hết; hoặc sinh cõi Biến tịnh, cõi Quảng quả, thì ái của Không vô biên xứ hết, ái cõi trên chưa hết. Hoặc sinh Thức vô biên xứ, ái của Thức vô biên xứ đã hết, ái cõi trên chưa hết. Hoặc sinh Vô sở hữu xứ, ái xứ ấy chưa hết. Bốn nghĩa là sinh cõi Phạm thế, cõi Cực quang tịnh và cõi Dục ái của cõi Quảng quả đã hết, ái cõi trên chưa hết. Hoặc sinh cõi Biến tịnh, cõi Quảng quả, thì ái của Thức vô biên xứ đã hết, ái cõi trên chưa hết. Hoặc sinh Không-Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, ái của Vô sở hữu xứ đã hết. Hoặc sinh Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không đạt được định diệt tận. Năm nghĩa là sinh cõi Phạm thế, cõi Cực quang tịnh và cõi Dục, ái của Không vô biên xứ đã hết, ái cõi trên chưa hết. Hoặc sinh cõi Biến tịnh, cõi Quảng quả thì ái của Vô sở hữu xứ hết, không đạt được định diệt tận. Hoặc sinh ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ đạt được định diệt tận. Sáu nghĩa là sinh cõi Phạm thế, cõi Cực quang tịnh và cõi Dục, ái của Thức vô biên xứ đã hết, ái cõi trên chưa hết. Hoặc sinh cõi Biến tịnh, cõi Quảng quả đạt được định diệt tận. Tám nghĩa là sinh cõi Dục- cõi Phạm thế-cõi cực quang tịnh, đạt được định diệt tận. Bảy nghĩa là sinh cõi Phạm thế, cõi Cực quang tịnh của cõi Dục thì ái của Vô sở hữu xứ đã hết, không được định diệt tận. Đối với tám thắng xứ hoặc không có, hoặc bốn, hoặc tám. Không có nghĩa là sinh cõi Biến tịnh, tức ái cõi ấy chưa hết, hoặc sinh cõi vô Sắc. Bốn nghĩa là sinh cõi Phạm thế, cõi Cực quang tịnh và cõi Dục, ái của cõi Biến tịnh chưa hết. Hoặc sinh ở Biến tịnh tức ái của cõi ấy đã hết; hoặc sinh cõi Quảng quả. Tám nghĩa là sinh cõi Phạm thế, cõi Cực quang tịnh và cõi Dục, ái của cõi Biến tịnh đã hết. Đối với mười biến xứ, hoặc không có, hoặc một-hai-tám-chín- mười. Không có nghĩa là sinh cõi Phạm thế, cõi Cực quang tịnh, cõi Biến tịnh và cõi Dục, ái nơi cõi Biến tịnh chưa hết; hoặc sinh ở Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Một nghĩa là sinh Không vô biên xứ, ái cõi đó chưa hết, hoặc sinh Thức vô biên xứ. Hai nghĩa là sinh Không vô biên xứ, ái cõi đó đã hết. Tám, nghĩa là sinh cõi Dục cõi Phạm thế, cõi Cực quang tịnh, cõi Biến tịnh, ái cõi Biến tịnh đã hết, ái cõi trên chưa hết, hoặc sinh cõi Quảng quả, tức ái cõi đó chưa hết. Chín, nghĩa là sinh cõi Dục-Sắc, thì ái của cõi Dục-Sắc đã hết, ái cõi trên chưa hết. Mười, nghĩa là sinh cõi Dục-Sắc, thì ái của Không vô biên xứ đã hết. Đối với tám trí, hoặc hai-bốn-năm-sáu-bảy, tám. Hai nghĩa là phàm phu ở phần vị khổ pháp nhẫn. Bốn, nghĩa là phần vị khổ pháp trí- khổ loại nhẫn. Năm, nghĩa là phần vị khổ loại trí-tập pháp nhẫn. Sáu, nghĩa là phần vị tập pháp trí cho đến diệt pháp nhẫn. Bảy nghĩa là phần vị diệt pháp trí cho đến đạo pháp nhẫn. Tám, nghĩa là đạo pháp trí. Những phần vị trên đây, đối với ba Tam-ma-địa, hoặc không có, hoặc hai, hoặc ba. Không có nghĩa là các phàm phu. Hai nghĩa là các Thánh giả chưa sinh ra diệt pháp nhẫn. Ba nghĩa là diệt pháp nhẫn đã sinh. Như thành tựu tónh lự thứ nhất, cho đến thành tựu tónh lự thứ tư, tùy theo sự thích ứng cũng như vậy. Bảy bổ đặc già la, đó là tùy tín hành, tùy pháp hành, tín thắng giải, kiến chí, thân chứng, tuệ giải thoát và câu giải thoát. Hỏi: Tùy tín hành…, đối với vị tương ưng… bốn tónh lự-bốn vô sắc, có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Đáp: Tùy tín hành, đối với vị tương ưng của bốn tónh lự, hoặc không có, hoặc một-hai-ba-bốn. Không có, nghĩa là ái sắc đã hết. Một, nghĩa là ái nơi cõi Biến tịnh đã hết, ái cõi trên chưa hết, cho đến bốn, nghĩa là ái cõi Phạm thế chưa hết. Đối với tịnh của bốn tónh lự, hoặc không có, hoặc một-hai-ba-bốn. Không có nghĩa là ái dục chưa hết. Một nghĩa là ái dục đã hết, ái cõi trên chưa hết, cho đến bốn nghĩa là ái cõi Biến tịnh đã hết. Đối với vô lậu của bốn tónh lự hoặc không có, hoặc một-hai-ba- bốn. Không có nghĩa là dựa vào vị chí định, nhập chính tính ly sinh. Một, nghĩa là dựa vào tónh lự thứ nhất hoặc trung gian tónh lự, nhập chính tính ly sinh, cho đến bốn nghĩa là dựa vào tónh lự thứ tư, nhập chính tính ly sinh. Đối với vị tương ưng của bốn vô sắc, hoặc một-hai-ba-bốn. Một, nghĩa là ái Vô sở hữu xứ đã hết, ái cõi trên chưa hết, cho đến bốn, nghĩa là ái của Không vô biên xứ chưa hết. Đối với tịnh của bốn vô sắc, hoặc không có, hoặc một-hai-ba-bốn. Không có, nghĩa là ái sắc chưa hết. Một, nghĩa là ái sắc đã hết, ái cõi trên chưa hết, cho đến bốn nghĩa là ái Vô sở hữu xứ đã hết. Đối với vô lậu của ba vô sắc đều không thành tựu. Như tùy tín hành, tùy pháp hành cũng như vậy. Tín thắng giải, đối với vị tương ưng của bốn tónh lự, hoặc không có, hoặc một-hai-ba-bốn. Không có, nghĩa là ái sắc đã hết. Một, nghĩa là ái cõi Biến tịnh đã hết, ái cõi trên chưa hết; cho đến bốn, nghĩa là ái của cõi Phạm thế chưa hết. Đối với tịnh của bốn tónh lự, hoặc không có, hoặc một-hai-ba-bốn. Không có nghĩa là ái dục chưa hết, hoặc sinh cõi Vô sắc. Một, nghĩa là sinh cõi Dục, ái dục đã hết, ái cõi trên chưa hết. Hoặc sinh cõi Phạm thế, ái cõi đó chưa hết. Hoặc sinh cõi Cực quang tịnh, ái của cõi ấy chưa hết. Hoặc sinh cõi Biến tịnh tức ái cõi đó chưa hết, hoặc sinh cõi Quảng quả. Hai, nghĩa là sinh cõi Phạm thế, ái của cõi Phạm thế đã hết, ái của cõi trên chưa hết. Hoặc sinh cõi Cực quang tịnh tức ái của cõi ấy đã hết, ái cõi trên chưa hết. Hoặc sinh cõi Biến tịnh, tức ái cõi đó đã hết. Ba, nghĩa là ái của cõi Phạm thế, cõi Cực quang tịnh đã hết, ái của cõi trên chưa hết. Hoặc sinh cõi Cực quang tịnh, ái của cõi Biến tịnh hết. Bốn nghĩa là sinh cõi Phạm thế và cõi Dục, ái cõi Biến tịnh đã hết. Đối với vô lậu củabốn tónh lự, hoặc không có, hoặc một-hai-ba- bốn. Không có nghĩa là ái của cõi Dục chưa hết. Một, nghĩa là ái của cõi Dục đã hết, ái của cõi trên chưa hết, cho đến bốn, nghĩa là ái của cõi Biến tịnh đã hết. Đối với vị tương ưng của bốn vô sắc hoặc một-hai-ba-bốn. Một, nghĩa là ái của Vô sở hữu xứ đã hết, ái cõi trên chưa hết, cho đến bốn, nghĩa là ái không vô biên xứ chưa hết. Đối với tịnh của bốn vô sắc, hoặc không có, hoặc một, hai, ba bốn. Không có, nghĩa là sinh cõi Dục-Sắc, ái của cõi Sắc chưa hết. Một nghĩa là sinh cõi Dục-Sắc, ái của cõi Sắc đã hết, ái cõi trên chưa hết. Hoặc sinh Không vô biên xứ, tức ái cõi đó chưa hết. Hoặc sinh Thức vô biên xứ, ái cõi đó chưa hết. Hoặc sinh Vô sở hữu xứ, ái cõi đó chưa hết. Hoặc sinh Phi tưởng phi phi tưởng xứ, ái cõi đó chưa hết. Hai, nghĩa là sinh Không vô biên xứ và cõi Dục-Sắc, ái Không vô biên xứ đã hết, ái cõi trên chưa hết. Hoặc sinh Thức vô biên xứ, ái cõi đó đã hết, ái cõi trên chưa hết. Hoặc sinh Vô sở hữu xứ, ái cõi đó đã hết. Ba, nghĩa là sinh Không vô biên xứ cõi Dục-Sắc, ái của Thức vô biên xứ đã hết, ái cõi trên chưa hết. Hoặc sinh Thức vô biên xứ, ái của Vô sở hữu xứ đã hết. Bốn, nghĩa là sinh Không vô biên xứ và cõi Dục-Sắc, ái của Vô sở hữu xứ đã hết. Đối với vô lậu của ba vô sắc, hoặc không có, hoặc một, hai, ba. Không có nghĩa là ái sắc chưa hết. Một nghĩa là ái sắc đã hết, ái cõi trên chưa hết; cho đến ba nghĩa là ái của Thức vô biên xứ đã hết. Như tín thắng giải, kiến chí cũng như vậy. Thân chứng đối với vị tương ưng của bốn tónh lự đều không thành tựu. Đối với bốn tónh lự, hoặc không có, hoặc một-hai-ba-bốn. Không có, nghĩa là sinh Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Một, nghĩa là sinh cõi Quảng quả; cho đến bốn, nghĩa là sinh cõi Phạm thế thuộc cõi Dục. Đối với vô lậu của bốn tónh lự đều thành tựu. Đối với vị tương ưng của bốn vô sắc của, thành tựu một, không thành tựu ba. Đối với tịnh của bốn vô sắc, hoặc một, hoặc bốn. Một, nghĩa là sinh ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Bốn, nghĩa là sinh cõi Dục-Sắc. Đối với vô lậu của ba vô sắc đều thành tựu. Tuệ giải thoát đối với vị tương ưng của bốn tónh lự đều không thành tựu. Đối với tịnh của bốn tónh lự, hoặc không có, hoặc một-hai-ba-bốn. Không có, nghĩa là sinh cõi Vô sắc. Một, nghĩa là sinh cõi Quảng quả; cho đến bốn nghĩa là sinh cõi Phạm thế và cõi Dục. Đối với vô lậu của bốn tónh lự đều thành tựu. Đối với vị tương ưng của bốn vô sắc đều không thành tựu. Đối với bốn vô sắc, hoặc một-hai-ba-bốn. Một, nghĩa là sinh ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ; cho đến bốn nghĩa là sinh Không vô biên xứ và cõi Dục-Sắc. Đối với vô lậu của ba vô sắc đều thành tựu. Câu giải thoát đối với vị tương ưng của bốn tónh lự đều không thành tựu. Đối với tịnh của bốn tónh lự hoặc không có, hoặc một-hai-ba-bốn. Không có, nghĩa là sinh ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Một, nghĩa là sinh cõi Quảng quả; cho đến bốn, nghĩa là sinh cõi Phạm thế và cõi Dục. Đối với vô lậu của bốn tónh lự đều thành tựu. Đối với vị tương ưng của bốn vô sắc đều không thành tựu. Đối với tịnh của bốn vô sắc hoặc một, hoặc bốn Một nghĩa là sinh ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Bốn, nghĩa là sinh cõi Dục-Sắc. Đối với vô lậu của ba vô sắc đều thành tựu. Hỏi: Có thể có thành tựu vị tương ưng của bốn tónh lự, không phải là tịnh, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là ái dục chưa hết. Hỏi: Có thể có thành tựu tịnh của bốn tónh lự mà không phải là vị tương ưng, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là phàm phu sinh cõi Phạm thế và cõi Dục, ái sắc đã hết. Hỏi: Có thể có thành tựu vô lậu của bốn tónh lự mà không phải là vị tương ưng, không phải là tịnh chăng? Đáp: Có, nghĩa là Thánh giả sinh cõi Vô sắc. Hỏi: Có thể có thành tựu tịnh-vô lậu của bốn tónh lự, không phải là vị tương ưng chăng? Đáp: Có, nghĩa là Thánh giả sinh cõi Phạm thế cõi Dục, ái sắc đã hết. Hỏi: Có thể có thành tựu hai hoặc ba pháp khác chăng? Đáp: Không có Hỏi: Có thể có bốn tónh lự không thành tựu vị tương ưng mà không phải tịnh, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là Thánh giả sinh vào cõi Phạm thế nơi cõi Dục, ái sắc đã hết. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự không thành tựu tịnh mà không phải là vị tương ưng, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự không thành tựu vị tương ưng-tịnh mà không phải là vị tương ưng, không phải tịnh chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự không thành tựu vị tương ưng-tịnh mà không phải là vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là Thánh giả sinh cõi Vô sắc. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự không thành tựu vị tương ưng-vô lậu mà không phải là tịnh chăng? Đáp: Có, nghĩa là phàm phu sinh cõi Phạm thế của cõi Dục, ái sắc đã hết. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự không thành tựu tịnh-vô lậu mà không phải là vị tương ưng chăng? Đáp: Có, nghĩa là ái dục chưa hết. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự không thành tựu vị tương ưng-tịnh-vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là phàm phu sinh cõi Vô sắc. Hỏi: Có thể có thành tựu vị tương ưng của bốn vô sắc mà không phải là tịnh, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là ái sắc chưa hết. Hỏi: Có thể có thành tựu tịnh-vô lậu của bốn vô sắc mà không phải là vị tương ưng chăng? Đáp: Có, nghĩa là A-la-hán sinh Không vô biên xứ và cõi Dục- Sắc. Hỏi: Có thể có thành tựu pháp khác chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc không thành tựu vị tương ưng mà không phải là tịnh, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là A-la-hán sinh ở Không vô biên xứ và cõi Dục- Sắc. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc không thành tịnh-vô lậu mà không phải là vị tương ưng chăng? Đáp: Có, nghĩa là ái sắc chưa hết. Hỏi: Có thể có pháp khác không thành tựu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có đạt được vị tương ưng của bốn tónh lự mà không phải là tịnh, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là ái sắc đã hết, lúc dấy khởi triền của cõi Dục mà lui sụt, hoặc khi mất ở cõi Vô sắc sinh cõi Dục. Hỏi: Có thể có đạt được tịnh của bốn tónh lự mà không phải là vị tương ưng, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có đạt được vô lậu của bốn tónh lự mà không phải là vị tương ưng, không phải là tịnh chăng? Đáp: Có, nghĩa là dựa vào tónh lự thứ tư, nhập chính tính ly sinh, hoặc khi đạt được quả A-la-hán. Hỏi: Có thể có đạt được pháp khác chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự xả vị tương ưng mà không phải là tịnh, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có bốn tónh lự xả tịnh mà không phải là vị tương ưng, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là ái nơi cõi Biến tịnh của phàm phu đã hết, khi dấy khởi triền của cõi Dục, mà lui sụt, hoặc khi mất ở cõi Phạm thế và cõi Dục, sinh cõi Vô sắc. Hỏi: Có bốn tónh lự xả tịnh-vô lậu mà không phải là vị tương ưng chăng? Đáp: Có, nghĩa là Thánh giả không còn ái cõi Biến tịnh, lúc triền của cõi Dục dấy khởi mà lui sụt. Hỏi: Có thể có xả khác chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc đạt được vị tương ưng mà không phải là tịnh, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là khi A-la-hán khởi dấy khởi triền của cõi Dục- Sắc mà lui sụt. Hỏi: Có ba vô sắc đạt được vô lậu mà không phải là vị tương ưng, không phải là tịnh chăng? Đáp: Có, nghĩa là khi đạt được quả A-la-hán. Hỏi: Có thể có đạt được quả khác chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc xả vị tương ưng mà không phải là tịnh, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc xả tịnh mà không phải là vị tương ưng, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là phàm phu đã không còn ái Vô sở hữu xứ, lúc dấy khởi triền của cõi Dục-Sắc mà lui sụt. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc xả vô lậu mà không phải là vị tương ưng, không phải tịnh chăng? Đáp: Có, nghĩa là tín thắng giải lúc duyên căn đã hết ái của Thức vô biên xứ. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc xả tịnh-vô lậu mà không phải là vị tương ưng chăng? Đáp: Có, đó là Thánh giả không còn ái của Vô sở hữu xứ lúc dấy khởi triền của cõi Dục-Sắc mà lui sụt. Hỏi: Có thể có xả pháp khác chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự lui sụt vị tương ưng mà không phải là tịnh, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự lui sụt tịnh mà không phải là vị tương ưng, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là phàm phu đã không còn ái cõi Biến tịnh, lúc dấy khởi triền của cõi Dục mà lui sụt. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự lui sụt tịnh-vô lậu mà không phải là vị tương ưng chăng? Đáp: Có, nghĩa là khi Thánh giả đã không còn ái của cõi Biến tịnh, dấy khởi triền của cõi Dục mà lui sụt. Hỏi: Có thể có lui sụt pháp khác chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc lui sụt vị tương ưng mà không phải là tịnh, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc lui sụt tịnh mà không phải là vị tương ưng, không phải là vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là khi phàm phu đã không còn ái của Vô sở hữu xứ, dấy khởi triền của cõi Dục-Sắc mà lui sụt. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc lui sụt tịnh-vô lậu mà không phải là vị tương ưng chăng? Đáp: Có, nghĩa là khi Thánh giả đã không còn ái của Vô sở hữu xứ, triền của cõi Dục-Sắc dấy khởi mà lui sụt. Hỏi: Có thể có lui sụt pháp khác không? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự nhanh chóng đạt được vị tương ưng chăng? Đáp: Có, nghĩa là khi ái sắc hết, triền của cõi Dục và Phạm thế dấy khởi mà lui sụt, hoặc khi mất ở cõi Vô sắc, sinh cõi Phạm thế và cõi Dục. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự nhanh chóng xả vị tương ưng chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự dần dần đạt được vị tương ưng chăng? Đáp: Có. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự dần dần xả vị tương ưng chăng? Đáp: Có. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự nhanh chóng đạt được tịnh chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự nhanh chóng xả tịnh chăng? Đáp: Có, nghĩa là khi ái cõi Biến tịnh đã hết, triền cõi Dục dấy khởi mà lui sụt, hoặc lúc mất ở cõi Phạm thế và cõi Dục, sinh cõi Vô sắc. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự dần dần đạt được tịnh chăng? Đáp: Có. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự dần dần xả tịnh chăng? Đáp: Có. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự nhanh chóng đạt được vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là dựa vào tónh lự thứ tư, nhập chính tính ly sinh, hoặc đạt được quả A-la-hán. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự nhanh chóng xả vô lậu chăng? Đáp: Có, nghĩa là khi Thánh giả đã hết ái của cõi Biến tịnh, triền cõi Dục dấy khởi mà lui sụt. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự dần dần đạt được vô lậu chăng? Đáp: Có. Hỏi: Có thể có bốn tónh lự dần dần xả vô lậu chăng? Đáp: Có. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc nhanh chóng đạt được vị tương ưng chăng? Đáp: Có, nghĩa là khi A-la-hán dấy khởi triền của cõi Dục-Sắc và không vô biên xứ mà lui sụt. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc nhanh chóng xả vị tương ưng chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc dần dần đạt được vị tương ưng chăng? Đáp: Có. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc dần dần xả vị tương ưng chăng? Đáp: Có. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc nhanh chóng đạt được tịnh chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc nhanh chóng xả tịnh chăng? Đáp: Có, nghĩa là ái của Vô sở hữu xứ đã hết, lúc triền cõi Dục- Sắc dấy khởi mà lui sụt. Hỏi: Có thể có bốn vô sắc dần dần đạt được tịnh chăng? Đáp: Có. Hỏi: Có thể có bốn sắc dần dần xả tịnh chăng? Đáp: Có. Hỏi: Có thể có ba vô sắc nhanh chóng đạt được vô lậu chăng? Đáp: Có, đó là lúc được qiả A-la-hán. Hỏi: Có thể có ba vô sắc nhanh chóng xả vô lậu chăng? Đáp: Có, đó là lúc Thánh giả không còn ái của Thức vô biên xứ, triền của cõi Dục-Sắc dấy khởi mà lui sụt. Hỏi: Có thể có ba vô sắc dần dần đạt được vô lậu chăng? Đáp: Có. Hỏi: Có thể có ba vô sắc dần dần xả vô lậu chăng? Đáp: Có. Hỏi: Thân-ngữ biểu và vô biểu dựa vào định nào diệt? Đáp: Thân-ngữ biểu dựa vào sơ định, hoặc vị chí định; thân-ngữ vô biểu dựa vào bốn định, hoặc vị chí định. Hỏi: Ba ác hành, ba diệu hành, ba căn bất thiện, ba căn thiện, dựa vào định nào diệt? Đáp: Dựa vào vị chí định. Hỏi: Bốn phi Thánh ngữ, bốn Thánh ngữ, bốn sinh, bốn loại nhập thai, bốn thức trụ, dựa vào định nào diệt? Đáp: Bốn phi Thánh ngữ, bốn Thánh ngữ, thai-noãn-thấp sinh, bốn loại nhập thai, dựa vào vị chí định; hóa sinh và ba thức trụ sau, dựa vào bảy định hoặc vị chí định; sắc thức trụ, dựa vào bốn định hoặc vị chí định. Hỏi: Năm uẩn, năm thủ uẩn, năm thứ, năm diệu dục, năm học xứ, dựa vào định nào diệt? Đáp: Sắc uẩn-sắc thủ uẩn, dựa vào bốn định hoặc vị chí định; bốn uẩn-bốn thủ uẩn còn lại và cõi trời, dựa vào bảy định hoặc vị chí định; bốn cõi, còn lại, năm diệu dục và năm học xứ, dựa vào vị chí định. Hỏi: Sáu nội xứ, sáu ngoại xứ, sáu thức thân, sáu xúc thân, sáu thọ thân, sáu tưởng thân, sáu tư thân, sáu ái thân, dựa vào định nào diệt? Đáp: Năm nội xứ, sắc-thanh-xúc ngoại xứ, dựa vào bốn định hoặc vị chí định; ý nội xứ-pháp ngoại xứ-thân ý thức, và xúc-thọ-tưởng-tư-ái thân tương ưng với chúng, dựa vào bảy định hoặc vị chí định; hương vị ngoại xứ, tỷ-thiệt-thức thân, và xúc-thọ-tưởng-tư-ái thân tương ưng với chúng, dựa vào vị chí định; nhãn-nhó-thân-thức, và xúc-thọ-tưởng-tư-ái thân tương ưng với chúng, dựa vào sơ định hoặc vị chí định. Hỏi: Bảy thức trụ, tám thế pháp, chín hữu tình cư, mười nghiệp đạo, dựa vào định nào diệt? Đáp: Thức trụ thứ nhất, tám thế pháp, hữu tình cư thứ nhất, mười nghiệp đạo, dựa vào vị chí định; thức trụ thứ hai, hữu tình cư thứ hai, dựa vào sơ định hoặc vị chí định; thức trụ thứ ba, hữu tình cư thứ ba, dựa vào hai định hoặc vị chí định; thức trụ thứ tư, hữu tình cư thứ tư, dựa vào ba định hoặc vị chí định; hữu tình cư thứ năm, dựa vào bốn định hoặc vị chí định; thức trụ thứ năm, hữu tình cư thứ sáu, dựa vào năm định hoặc vị chí định; thức trụ thứ sáu, hữu tình thứ bảy, dựa vào sáu định hoặc vị chí định; thức trụ thứ bảy, hữu tình cư thứ tám-thứ chín, dựa vào bảy định vị chí định. Hỏi: Bốn tónh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, mười biến xứ, dựa vào định nào diệt? Đáp: Tónh lự thứ nhất, dựa vào sơ định hoặc vị chí định; tónh lự thứ hai, Hỷ vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, dựa vào hai định hoặc vị chí định; tónh lự thứ ba, dựa vào ba định hoặc vị chí định; tónh lự thứ tư, ba vô lượng còn lại, tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước, dựa vào bốn định hoặc vị chí định; không vô biên xứ, và giải thoát-biến xứ của cõi ấy. Dựa vào năm định hoặc vị chí định; Thứv vô biên xứ, và giải thoát-biến xứ của cõi ấy, dựa vào sáu định hoặc vị chí định; hai vô sắc sau, ba giải thoát sau, dựa vào bảy định hoặc vị chí định. Hỏi: Tha tâm trí và thế tục trí, dựa vào định nào diệt? Đáp: Tha tâm trí, dựa vào bốn định hoặc vị chí định; thế tục trí, dựa vào bảy định hoặc vị chí định. ------------------ <詞>Phẩm 4: BÀN VỀ BẤT HOÀN Bất hoàn-học cùng với vô học, Thuận-nghịch-trụ hai chốn cuối cùng, Bồ tát-thọ ký và nguyện trí, Vô tránh có bốn cặp khác nhau, Trụ-đoạn pháp cùng với điều phục, Tùy pháp pháp hành và trụ-diệt, Pháp luân-chính pháp và đời kiếp, nghĩa chương này xin nói đầy đủ. Có năm Bất hoàn: Trung bát Niết-bàn, Sinh bát Niết-bàn, Hữu hành bát Niết-bàn, Vô hành bát Niết-bàn, Thượng lưu vãng sắc cứu cánh. Hỏi: Tất cả thâu nhiếp năm hay là năm thâu nhiếp tất cả? Đáp: Tất cả thâu nhiếp năm, không phải năm thâu nhiếp tất cả. Hỏi: Không thâu nhiếp những gì? Đáp: Đó là Hiện pháp bát Niết-bàn và vãng vô sắc Bất hoàn. Hỏi: Trung bát Niết-bàn và Sinh bát Niết-bàn, thì Niết bàn nào là thù thắng? Đáp: Nếu trụ đẳng đoạn, thì Trung bát Niết-bàn là thù thắng hơn. Nếu Sinh bát Niết-bàn đoạn kiết nhiều, thì Niết-bàn đó là thù thắng hơn. Hỏi: Trung bát Niết-bàn cho đến Thượng lưu vãng sắc cứu cánh, Niết-bàn nào là thù thắng hơn? Đáp: Nếu trụ đẳng đoạn thì Trung bát Niết-bàn là thù thắng hơn; hoặc cho đến Thượng lưu vãng sắc cứu cánh đoạn kiết nhiều, thì Niết- bàn đó là thù thắng hơn. Hỏi: Như vậy Sinh bát Niết-bàn cho đến Thượng lưu vãng sắc cứu cánh, Hữu hành bát Niết-bàn cho đến Thượng lưu vãng sắc cứu cánh, Vô hành bát Niết-bàn cho đến Thượng lưu vãng sắc cứu cánh, Niết-bàn nào là thù thắng hơn? Đáp: Nếu trụ đẳng đoạn thì Sinh bát Niết-bàn là thù thắng hơn. Nếu Hữu hành bát Niết-bàn…, đoạn kiết nhiều thì Niết-bàn đó thù thắng hơn. Hỏi: Những sự học, tất cả học ấy là vì đạt được điều chưa được mà học chăng? Nếu như vì đạt được điều chưa đạt mà học, thì tất cả đó là học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có học không phải là vì đạt được điều chưa đạt được mà học, đó là học trụ trong tính vốn có. Có học là vì đạt được điều chưa được mà học nhưng đó không phải là học, đó là A-la-hán và phàm phu cầu tiến lên pháp cao hơn. Có học cũng là vì đạt được điều chưa được mà học, đó học cầu tiến lên pháp cao hơn. Có học không phải là học cũng không phải là vì đạt được điều chưa được mà học, đó là A-la-hán và phàm phu trụ trong tính vốn có. Hỏi: Những vô học, tất cả vô học ấy không vì đạt được điều chưa được mà học chăng? Nếu như không vì đạt được điều chưa được mà học, thì tất cả đó là vô học chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có vô học mà không phải là không vì đạt được điều chưa được mà học, đó là A-la-hán cầu tiến lên pháp cao hơn. Có vô học không phải vì đạt được điều chưa được mà học nhưng không phải là vô học, đó là học và phàm phu trụ trong tính vốn có. Có vô học cũng không phải vì đạt được điều chưa được mà học, đó là A-la-hán trụ trong tính vốn có. Có vô học không phải là vô học cũng không phải là không vì đạt được điều chưa được mà học, đó là học và phàm phu cầu tiến lên pháp cao hơn. Hỏi: Thuận lưu là nghĩa gì? Đáp: Đối với các loại sinh-các thú-các hữu-các chủng loại-các sinh tử, làm thành chi-làm nên-làm sự-làm đạo-làm dấu tích hướng về, đó là nghĩa của thuận lưu. Hỏi: Nghịch lưu là nghĩa gì? Đáp: Đối với loại sinh diệt-thú diệt-hữu diệt-chủng loại diệt-sinh tử diệt làm thành chi-làm môn-làm sự-làm đạo-làm dấu tích hướng về, đó là nghĩa của nghịch lưu. Hỏi: Tự trụ là nghĩa gì? Đáp: Không phải là đối với các loại sinh cho đến các sinh tử làm thành chi cho đến làm thành dấu tích hướng về, cũng không phải là đối với các sinh diệt cho đến sinh tử diệt làm thành chi cho đến làm thành dấu tích hướng về, đó là nghĩa của tự trụ. Hỏi: Các A-la-hán, tất cả A-la-hán ấy là tự trụ chăng? Nếu tự trụ thì tất cả tự trụ ấy là A-la-hán chăng? Đáp: Các A-la-hán, tất cả A-la-hán kia đều tự trụ. Có tự trụ nơi không phải A-la-hán, nghĩa là Bất hoàn, như Đức Thế Tôn nói: Vónh viễn đoạn trừ năm phiền não, Học đầy đủ không có pháp dẫn, Đạt được định căn luân tự tại, Người như vậy gọi là tự trụ. Hỏi: Những chịu đựng cuối cùng đạt được, tất cả đó là dấu tích đạt được cuối cùng chăng? Nếu dấu tích đạt được cuối cùng, thì tất cả đó là chịu đựng cuối cùng đạt được chăng? Đáp: Những chịu đựng cuối cùng đạt được, tất cả đó là dấu tích đạt được cuối cùng. Có dấu tích đạt được cuối cùng nhưng không phải là sự chịu đựng cuối cùng đạt được, đó là Bất hoàn. Như Đức Thế Tôn nói: Thế nào là dấu tích đạt được cuối cùng của Bí-sô? Đó là đối với năm kiết thuận phần dưới, vónh viễn đoạn trừ và biết khắp tất cả. Hỏi: Đầy đủ gì thì gọi là Bồ tát? Đáp: Đầy đủ năng lực tạo tác tướng tăng trưởng của nghiệp dị thục. Hỏi: Đạt được gì thì gọi là Bồ tát? Đáp: Đạt được tướng của nghiệp dị thục. Như nói: “Từ Thị! Ông ở đời vị lai, sẽ được làm Phật danh hiệu là Từ Thị Như Lai Ứng chính Đẳng Giác.” Hỏi: Đây là trí nào? Đáp: Nhân trí-đạo trí. Hỏi: Trí này chuyển thế nào? Đáp: Có lúc chuyển đối với tướng của nghiệp dị thục, vì vậy gọi là nhân trí. Có lúc chuyển đối với căn-lực vô lậu-giác chi-đạo chi, đạt được đạo quả này ngay nơi pháp hiệp tại, phân rõ được Thánh chỉ.” Hỏi: Đây là trí nào? Đáp: Đạo trí. Hỏi: Trí này chuyển thế nào? Đáp: Trí này chuyển đối với căn-lực vô lậu-giác chi-đạo chi, đạt được các lậu vónh viễn không còn, vì vậy gọi là đạo trí. Đáp: Như A-la-hán thành tựu thần thông, được tâm tự tại, tùy thuận nghĩa muốn biết, phát chính nguyện xong, liền tiến vào cảnh giới của tónh lự thứ tư. Hỏi: Từ định khởi xong, như nguyện đều biết trí nguyện, nên nói là thiện hay vô ký chăng? Đáp: Hoặc thiện, hoặc vô ký. Hỏi: Thế nào là hạnh vô tránh? Đáp: Khi tất cả A-la-hán khéo thông suốt bên trong, bên ngoài không như vậy, hoặc là lúc cũng khéo thông suốt bên ngoài thì gọi là hạnh vô tránh. Hỏi: Vô tránh gọi cho pháp nào? Đáp: Khiến cho sự nối tiếp nhau của người khác chuyển biến không có nhơ bẩn xen tạp. Như nói: Trong các đệ tử của Ta, Nhân Nho Đồng là thông tuệ bậc nhất, Bà-hệ-ca… là mẫn tiệp bậc nhất. Hỏi: Hai người này khác nhau thế nào? Đáp: Tôn giả Nhân Nhu Đồng với tâm ngay thẳng, tâm không có cong vạy, tâm trong sáng thuần phác tăng thượng. Tôn giả Bà-hê-ca với tâm bình đẳng, tâm thấm nhuần, tâm mềm mỏng, hòa thuận tăng thượng. Như nói: “Trong đệ tử của Ta, Tiểu Lộ thuộc về tâm hồi thiện, Đại Lộ thuộc về tâm hồi thiện”. Hỏi: Hai người này khác nhau thế nào? Đáp: Tôn giả Tiểu Lộ phần nhiều trụ vào tâm thuận theo tâm quán niệm trụ, Tôn giả Đại Lộ thì phần nhiều trụ vào pháp thuận theo pháp quán niệm trụ. Như nói: “Trong đệ tử của Ta, Xá-lợi-tử đủ tuệ biện lớn, còn Chấp Đại Tạng được vô ngại giải”. Hỏi: Hai người này khác nhau thế nào? Đáp: Tôn giả Xá-lợi-tử phần nhiều trụ vào nghĩa vô ngại giải, Tôn giả Chấp Đại Tạng thì phần nhiều trụ vào bốn vô ngại giải. Như nói: “Trong đệ tử của Ta, Đại Ca-diếp-ba thiểu dục tri túc đầy đủ hạnh đầu đà, Bạc-củ-la thì ít bệnh tiết kiệm có đủ giới hạnh thanh tịnh”. Hỏi: Hai vị này khác nhau ra sao? Đáp: Đại Ca-diếp-ba có được các thức uống ăn hoặc dở hoặc ngon đều ăn theo thứ lớp, không hề có sự lựa chọn. Tôn giả Bạc-củ-la, hễ được thức uống ăn hoặc dở hoặc ngon đều lựa bỏ thức ngon mà ăn cái dở. Lại nữa, Tôn giả Đại Ca-diếp-ba nhận thức sâu rộng-phước lớn, dễ có được y phục-thức uống ăn-dụng cụ giường nằm, thuốc thang và vật dụng cần thiết khác, trước kia không tiếp nhận công đức của hạnh đầu đà mà vẫn có khả năng phụng hành. Tôn giả Bạc-củ-la thì không phải kiến văn sâu rộng-phước lớn, khó có được y phục-thức uống ăn- tọa cụ-giường nằm-thuốc thang và dụng cụ cần thiết khác, trước kia đã tiếp nhận công đức của hạnh đầu đà, cũng có khả năng vâng giữ thực hành. Bí-sô ít kiến thức, thọ nhận công đức của hạnh đầu đà, ở trong ấy tùy thuận chuyển biến, điều này không lấy làm khó. Như nói: “Đại Danh học, phần nhiều ở năm cái mà đoạn trừ dần”. Hỏi: Trong này thế nào là học? Đáp: Dự lưu, hoặc Nhất lai. Hỏi: Thế nào là học phần nhiều ở năm cái mà đoạn trừ dần? Đáp: Đoạn trừ dần, lìa dần, điều phục dần, rời bỏ dần. Như nói: “Vì Bí-sô xả bỏ pháp cho nên xả bỏ Tỳ-nại-da, vì xả bỏ Tỳ-nại-da cho nên xả bỏ pháp.” Hỏi: Thế nào là pháp? Đáp: Tám chi thánh đạo. Hỏi: Thế nào là Tỳ-nại-da? Đáp: Tham-giận-si diệt. Hỏi: Thế nào là vì xả bỏ pháp cho nên xả bỏ Tỳ-nại-da, vì xả bỏ Tỳ-nại-da cho nên xả bỏ pháp? Đáp: Nếu đối với tám chi Thánh đạo, lúc không tu tập thì lúc ấy đối với tham-sân-si trừ diệt, không có năng lực tác chứng. Nếu đối với tham-sân-si trừ diệt, lúc không thể tác chứng, thì lúc ấy đối với tám chi Thánh đạo, không có năng lực tu tập. Vì nhân duyên này cho nên nói lời như vậy. Như nói: “Tùy pháp pháp hành”. Hỏi: Thế nào là pháp? Đáp: Niết-bàn vắng lặng. Hỏi: Thế nào là tùy pháp? Đáp: Tám chi thánh đạo. Hỏi: Thế nào là tùy pháp pháp hành? Đáp: Nếu ở trong pháp này, tùy thuận nghĩa mà thực hành. Hơn nữa, biệt giải thoát gọi là pháp biệt giải thoát, luật nghi gọi là tùy pháp. Nếu ở trong pháp ấy, tùy thuận nghĩa mà tu hành, thì gọi là tùy pháp pháp hành. Lại nữa, thân luật nghi-ngữ luật nghi-mạng thanh tịnh, gọi là pháp thọ, đây gọi là tùy pháp. Nếu ở trong pháp này, tùy thuận nghĩa mà tu hành, thì gọi là tùy pháp pháp hành. Hỏi: Thế nào là pháp luân? Đáp: Tám chi thánh đạo. Hỏi: Dựa vào gì nên nói là chuyển pháp luân? Đáp: Như lúc ấy Tôn giả A-nhã-đa Kiều-trần-na kiến pháp. Hỏi: Thế nào là chính pháp? Đáp: Căn-lực vô lậu-giác chi-chi đạo. Hỏi: Đầy đủ thế nào nên nói là chính pháp trụ? Đáp: Nếu vào lúc người thực hành giáo pháp trụ. Hỏi: Đầy đủ thế nào nên nói là chính pháp diệt? Đáp: Nếu vào lúc người thực hành giáo pháp diệt. Hỏi: Nếu đầu tiên nhập vô lậu tónh lự thứ nhất, do đạt được định này, cho nên đã đạt được các tâm-tâm sở pháp vô lậu khác, tâm ấy thuộc về đời nào? Đáp: Thuộc về đời vị lai. Hỏi: Nếu đầu tiên nhập cho đến nhập vô lậu Vô sở hữu xứ, do đạt được vô lậu này cho nên đã đạt được các tâm-tâm sở pháp vô lậu khác, tâm ấy thuộc về đời nào? Đáp: Thuộc về đời vị lai. Hỏi: Các sự sinh thuộc về đời nào? Đáp: Thuộc về đời vị lai. Hỏi: Các pháp diệt thuộc về đời nào? Đáp: Thuộc về đời hiện tại.  <卷>QUYỂN 19 <章>Chương 7: ĐỊNH UẨN <詞>Phẩm 5: BÀN VỀ NHẤT HẠNH Một hành trải qua sáu-bảy tu, Đoạn-chính tính ly sinh-hai trí, Hai niềm vui khác với hai khởi, Tướng nghe thấy trong định-xuất định, Định-bất định và những giác chi, Đoạn-biết khắp-thiên nhãn-thiên nhó, Lui sụt-đạt được-năm thông-quả, nghĩa chương này xin nói đầy đủ. Ba Tam-ma-địa là Không-Vô nguyện, Vô tướng. Hỏi: Nếu thành tựu Không thì thành tựu Vô nguyện chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu Vô nguyện thì thành tựu Không chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu Không thì thành tựu Vô tướng chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu Vô tướng thì thành tựu Không chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu Vô nguyện thì thành tựu Vô tướng chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu Vô tướng thì thành tựu Vô nguyện chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ thì thành tựu Không vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu Không vị lai thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ thì thành tựu Không hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu Không hiện tại thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không vị lai thì thành tựu Không hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu Không hiện tại thì thành tựu Không vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ thì thành tựu Không hiện tại- vị lai chăng? Đáp: Vị lai thành tựu, hiện tại, nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu Không hiện tại-vị lai, thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không vị lai, thì thành tựu Không hiện tại-quá khứ chăng? Đáp: Có thành tựu Không vị lai mà không phải là quá khứ-hiện tại. Thành tựu Không vị lai-quá khứ mà không phải là hiện tại. Thành tựu Không vị lai-hiện tại mà không phải là quá khứ. Thành tựu Không vị lai-hiện tại-quá khứ. Thành tựu Không vị lai mà không phải là quá khứ-hiện tại, nghĩa là đã đạt được không chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất, không hiện ở trước mắt. Thành tựu Không vị lai-quá khứ mà không phải là hiện tại, nghĩa là Không đã diệt không mất, không hiện ở trước mắt. Thành tựu Không vị lai-hiện tại mà không phải là quá khứ, nghĩa là không hiện ở trước mắt và chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất. Thành tựu Không vị lai-hiện tại-quá khứ, nghĩa là không đã diệt không mất, hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu Không hiện tại-quá khứ, thì thành tựu Không vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu Không hiện tại thì thành tựu Không quá khứ, vị lai chăng? Đáp: Vị lai thì thành tựu, quá khứ nếu đã diệt không mất thì thành tựu, nếu chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ, vị lai, thì thành tựu Không hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Như đối với không; Vô nguyện và Vô tướng cũng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ, thì thành tựu Vô nguyện quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Vô nguyện quá khứ, thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ, thì thành tựu Vô nguyện vị lai chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Nếu thành tựu Vô nguyện vị lai, thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ, thì thành tựu Vô nguyện hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu Vô nguyện hiện tại, thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ, thì thành tựu Vô nguyện quá khứ-hiện tại chăng? Đáp: có thành tựu Không quá khứ mà không phải là Vô nguyện quá khứ-hiện tại. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô nguyện quá khứ mà không phải là hiện tại. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô nguyện hiện tại mà không phải là quá khứ. Thành tựu Không quá khứ cũng thành tựu Vô nguyện hiện tại-quá khứ. Thành tựu Không quá khứ mà không phải là Vô nguyện quá khứ- hiện tại, nghĩa là không đã diệt không mất, Vô nguyện chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất, không hiện ở trước mắt. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô nguyện quá khứ mà không phải là hiện tại, nghĩa là Không-Vô nguyện đã diệt không mất, Vô nguyện không hiện ở trước mắt. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô nguyện hiện tại mà không phải là quá khứ, nghĩa là không đã diệt không mất, Vô nguyện hiện ở trước mắt chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất. Thành tựu Không quá khứ, cũng thành tựu Vô nguyện hiện tại- quá khứ, nghĩa là Không-Vô nguyện đã diệt không mất, Vô nguyện hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu Vô nguyện quá khứ-hiện tại, thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ, thì thành tựu Vô nguyện hiện tại-vị lai chăng? Đáp: Vị lai thì thành tựu, hiện tại nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu Vô nguyện hiện tại-vị lai, thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ, thì thành tựu Vô nguyện quá khứ, vị lai chăng? Đáp: Vị lai thì thành tựu, quá khứ nếu đã diệt không mất thì thành tựu, nếu chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Vô nguyện quá khứ, vị lai, thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ thì thành tựu Vô nguyện quá khứ-hiện tại-vị lai chăng? Đáp: Có thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô nguyện vị lai mà không phải là quá khứ-hiện tại. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô nguyện hiện tại-vị lai mà không phải là quá khứ. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô nguyện quá khứ, vị lai mà không phải là hiện tại. Thành tựu Không quá khứ, cũng thành tựu Vô nguyện quá khứ-hiện tại-vị lai. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô nguyện vị lai mà không phải là quá khứ-hiện tại, nghĩa là không đã diệt không mất, Vô nguyện chưa diệt, giả sử đã diệt rồi mất, không hiện ở trước mắt. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô nguyện hiện tại-vị lai mà không phải là quá khứ, nghĩa là không đã diệt không mất, Vô nguyện hiện ở trước mắt, chưa diệt, giả sử diệt rồi mất. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô nguyện quá khứ, vị lai mà không phải là hiện tại, nghĩa là Không-Vô nguyện đã diệt không mất, Vô nguyện không hiện ở trước mắt. Thành tựu Không quá khứ, cũng thành tựu Vô nguyện quá khứ- hiện tại-vị lai, nghĩa là Không-Vô nguyện đã diệt không mất, Vô nguyện hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu Vô nguyện quá khứ-hiện tại-vị lai, thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ thì thành tựu Vô tướng quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử diệt rồi mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Vô tướng quá khứ thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ thì thành tựu Vô tướng vị lai chăng? Đáp: Nếu đạt được. Hỏi: Nếu thành tựu Vô tướng vị lai thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ thì thành tựu Vô tướng hiện tại chăng? Đáp: Nếu hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu Vô tướng hiện tại thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ thì thành tựu Vô tướng quá khứ-hiện tại chăng? Đáp: Thành tựu Không quá khứ mà không phải là Vô tướng quá khứ-hiện tại. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô tướng quá khứ mà không phải là hiện tại. Thành tựu Không quá khứ; thành tựu Vô tướng hiện tại mà không phải là quá khứ. Thành tựu Không quá khứ, cũng thành tựu Vô tướng quá khứ-hiện tại Thành tựu Không quá khứ mà không phải là Vô tướng quá khứ- hiện tại, nghĩa là không đã diệt không mất, Vô tướng chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất chứ không hiện ở trước mắt. Thành tựu Không quá khứ; thành tựu Vô tướng quá khứ mà không phải là hiện tại, nghĩa là không, Vô tướng đã diệt không mất, Vô tướng không hiện ở trước mắt. Thành tựu Không quá khứ; thành tựu Vô tướng hiện tại mà không phải là quá khứ, nghĩa là không đã diệt không mất; Vô tướng hiện ở trước mắt, chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất. Thành tựu Không quá khứ, cũng thành tựu Vô tướng hiện tại-quá khứ, nghĩa là không, Vô tướng đã diệt không mất, Vô tướng hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu Vô tướng quá khứ-hiện tại, thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ, thì thành tựu Vô tướng hiện tại-vị lai chăng? Đáp: Có thành tựu Không quá khứ mà không phải là Vô tướng hiện tại-vị lai. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô tướng vị lai mà không phải là hiện tại. Thành tựu Không quá khứ, cũng thành tựu Vô tướng hiện tại-vị lai. Thành tựu Không quá khứ mà không phải là Vô tướng hiện tại-vị lai, nghĩa là không đã diệt không mất, chưa đạt được Vô tướng. Thành tựu Không quá khứ; thành tựu Vô tướng vị lai mà không phải là hiện tại, nghĩa là không đã diệt không mất, Vô tướng không hiện ở trước mắt. Thành tựu Không quá khứ, cũng thành tựu Vô tướng hiện tại-vị lai, nghĩa là không đã diệt không mất, Vô tướng đã đạt được được nhưng không hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu Vô tướng hiện tại-vị lai, thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ, thì thành tựu Vô tướng quá khứ, vị lai chăng? Đáp: Có thành tựu Không quá khứ mà không phải là Vô tướng quá khứ, vị lai. Thành tựu Không quá khứ; thành tựu Vô tướng vị lai mà không phải là quá khứ. Thành tựu Không quá khứ, cũng thành tựu Vô tướng quá khứ, vị lai. Thành tựu Không quá khứ mà không phải là Vô tướng quá khứ, vị lai, nghĩa là không đã diệt không mất, chưa đạt được Vô tướng. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô tướng vị lai mà không phải là quá khứ, nghĩa là không đã diệt không mất, đã đạt được Vô tướng chưa diệt, giả sử diệt rồi mất. Thành tựu Không quá khứ, cũng thành tựu Vô tướng quá khứ, vị lai, nghĩa là không, Vô tướng đã diệt không mất. Hỏi: Nếu thành tựu Vô tướng quá khứ, vị lai, thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Hỏi: Nếu thành tựu Không quá khứ, thì thành tựu Vô tướng quá khứ-hiện tại-vị lai chăng? Đáp: Có thành tựu Không quá khứ mà không thành tựu Vô tướng quá khứ-hiện tại-vị lai. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô tướng vị lai mà không phải là quá khứ-hiện tại. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô tướng hiện tại-vị lai mà không phải là quá khứ. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô tướng quá khứ, vị lai mà không phải là hiện tại. Thành tựu Không quá khứ cũng thành tựu Vô tướng quá khứ-hiện tại-vị lai. Thành tựu Không quá khứ mà không thành tựu Vô tướng quá khứ- hiện tại-vị lai, nghĩa là không đã diệt không mất, Vô tướng chưa đạt được. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô tướng vị lai mà không phải là quá khứ-hiện tại, nghĩa là không đã diệt không mất, đạt được Vô tướng chưa diệt, giả sử diệt rồi mất, không hiện ở trước mắt. Thành tựu Không quá khứ, thành tựu Vô tướng hiện tại-vị lai mà không phải là quá khứ, nghĩa là không đã diệt không mất, Vô tướng hiện ở trước mắt, chưa diệt, giả sử diệt rồi mất. Thành tựu Không quá khứ, cũng thành tựu Vô tướng quá khứ, vị lai mà không phải là hiện tại, nghĩa là không, Vô tướng đã diệt không mất, Vô tướng không hiện ở trước mắt. Thành tựu Không quá khứ, cũng thành tựu Vô tướng quá khứ-hiện tại-vị lai, nghĩa là không, Vô tướng đã diệt không mất, Vô tướng hiện ở trước mắt. Hỏi: Nếu thành tựu Vô tướng quá khứ-hiện tại-vị lai, thì thành tựu Không quá khứ chăng? Đáp: Nếu đã diệt không mất, thì thành tựu, hoặc chưa diệt, giả sử đã diệt mà mất thì không thành tựu. Như không đối với Vô tướng nên biết, Vô nguyện đối với Vô tướng cũng như vậy. Như bảy tiểu, nên biết bảy tiểu cũng như vậy. Sai biệt là dùng hai đối với một, như dùng không quá khứ, Vô nguyện quá khứ đối với Vô tướng quá khứ có bảy. Hỏi: Nếu tu Không thì tu Vô nguyện chăng? Nếu tu Vô nguyện thì tu không? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có tu không mà không phải Vô nguyện, nghĩa là đã đạt được không hiện ở trước mắt. Có tu Vô nguyện mà không phải không, nghĩa là đã đạt được Vô nguyện hiện ở trước mắt hoặc chưa đạt được Vô nguyện hiện ở trước mắt, nhưng không tu không. Có tu không cũng tu Vô nguyện, nghĩa là chưa đạt được không hiện ở trước mắt thì tu Vô nguyện, hoặc chưa đạt được Vô nguyện hiện ở trước mắt, thì tu không, hoặc chưa đạt được Vô tướng và chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, thì tu Không-Vô nguyện. Không tu không, cũng không tu Vô nguyện, nghĩa là đã đạt được Vô tướng hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được Vô tướng hiện ở trước mắt nhưng không tu Không-Vô nguyện. Hoặc đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt nhưng không tu Không-Vô nguyện. Tất cả tâm ô nhiễm, tâm vô ký của phàm phu đều ở định vô tưởng, định diệt tận, sinh nơi Vô tưởng thiên. Hỏi: Nếu tu không thì tu Vô tướng chăng? Nếu hay tu Vô tướng thì tu không chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có tu không mà không phải là Vô tướng, nghĩa là đã đạt được không hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được không hiện ở trước mắt, nhưng không tu Vô tướng. Hoặc chưa đạt được Vô nguyện hiện ở trước mắt, nhưng tu không chứ không phải là Vô tướng. Có tu Vô tướng mà không phải là không, nghĩa là đã đạt được Vô tướng hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được Vô tướng hiện ở trước mắt, nhưng không tu không. Có tu không cũng tu Vô tướng, nghĩa là chưa đạt được không hiện ở trước mắt, tu Vô tướng, hoặc chưa đạt được Vô tướng hiện ở trước mắt, nhưng tu không, hoặc chưa đạt được Vô nguyện và chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, mà tu không, Vô tướng. Không tu không, cũng không tu Vô tướng, nghĩa là đã đạt được Vô nguyện hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được Vô nguyện hiện ở trước mắt nhưng không tu không, Vô tướng, hoặc đã đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt nhưng không tu không, Vô tướng. Tất cả tâm ô nhiễm, tâm vô ký của phàm phu đều ở định vô tưởng, định diệt tận, sinh nơi Vô tưởng thiên. Hỏi: Nếu tu Vô nguyện thì tu Vô tướng, hay tu Vô tướng thì tu Vô nguyện chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có tu Vô nguyện, không phải là Vô tướng, nghĩa là đã đạt được Vô nguyện hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được Vô nguyện hiện ở trước mắt, và chưa đạt được không hiện ở trước mắt, nhưng không tu Vô tướng. Có tu Vô tướng, không phải Vô nguyện, nghĩa là đã đạt được Vô tướng hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được Vô tướng hiện ở trước mắt, nhưng không tu Vô nguyện. Có tu Vô nguyện cũng tu Vô tướng, nghĩa là chưa đạt được Vô nguyện hiện ở trước mắt, thì tu Vô tướng, hoặc chưa đạt được Vô tướng hiện ở trước mắt, mà tu Vô nguyện, hoặc chưa đạt được không và chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt, mà tu Vô nguyện, Vô tướng. Không tu Vô nguyện, cũng không tu Vô tướng, nghĩa là đã đạt được không và thế tục trí hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được thế tục trí hiện ở trước mắt nhưng không tu Vô nguyện, Vô tướng. Tất cả tâm ô nhiễm, tâm vô ký của phàm phu đều ở định vô tưởng, định diệt tận, sinh nơi Vô tưởng thiên. Hỏi: Có thể có kiết không mà đoạn chứ không phải là Vô nguyện- Vô tướng chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có kiết Vô nguyện mà đoạn chứ không phải là không, Vô tướng chăng? Đáp: Có, nghĩa là kiết do kiến tập-kiến đạo mà đoạn, Vô nguyện đoạn. Hỏi: Có thể có kiết Vô tướng mà đoạn chứ không phải là Không- Vô nguyện chăng? Đáp: Có, nghĩa là kiết do kiến diệt mà đoạn Vô tướng đoạn. Hỏi: Có thể có kiết Không-Vô nguyện đoạn chứ không phải là Vô tướng chăng? Đáp: Có, nghĩa là kiết do kiến khổ mà đoạn, Không-Vô nguyện đoạn. Hỏi: Có thể có kiết không, Vô tướng mà đoạn, không phải Vô nguyện chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có kiết Vô nguyện, Vô tướng mà đoạn, không phải là không chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có kiết do Không-Vô nguyện, Vô tướng mà đoạn chăng? Đáp: Có, nghĩa là kiết do học kiến tích tu mà đoạn, Không-Vô nguyện-Vô tướng đoạn. Hỏi: Có kiết không phải do Không-Vô nguyện-Vô tướng đoạn mà chính nó đã đoạn chăng? Đáp: Có, nghĩa là kiết do phàm phu mà đoạn. Hỏi: Thế nào là tác ý nhập chính tính ly sinh? Đáp: Hoặc tư duy về vô thường, hoặc Khổ, hoặc không, hoặc Vô ngã. Hỏi: Hành hệ thuộc cõi nào nhập chính tính ly sinh? Đáp: Hệ thuộc cõi Dục. Hỏi: Tận trí nên nói là đối với thân thuận theo thân, quán niệm trụ chăng? Cho đến nên nói đối với pháp, thuận theo pháp, quán niệm trụ chăng? Đáp: Tận trí nên nói hoặc đối với thân thuận theo thân, quán niệm trụ. Hoặc đối với thọ, hoặc đối với tâm, hoặc đối với pháp, thuận theo pháp quán niệm trụ. Như tận trí, vô sinh trí cũng như vậy. Hỏi: Những niềm vui vô lậu của tónh lự thứ nhất, những niềm vui của các giác chi như khinh an…, hai niềm vui này có gì sai biệt? Đáp: Không có sai biệt. Hỏi: Những niềm vui vô lậu của tónh lự thứ hai, những niềm vui của các giác chi như khinh an…, hai niềm vui này có gì sai biệt? Đáp: Không có sai biệt. Hỏi: Nếu từ đẳng trì xuất, thì đó là sở duyên chăng? Giả sử từ sở duyên xuất, thì đó là đẳng trì chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có từ đẳng trì xuất mà không phải là sở duyên, nghĩa là như có một tư duy về tướng này, nhập tónh lự thứ nhất, lúc ấy lại tư duy về tướng ấy mà nhập tónh lự thứ hai. Có từ sở duyên xuất mà không phải là đẳng trì, nghĩa là như có một tư duy về tướng này, nhập tónh lự thứ nhất, lúc ấy không xuất tónh lự thứ nhất, lại tư duy về tướng khác. Có từ đẳng trì xuất cũng là sở duyên, nghĩa là như có một tư duy về tướng này, nhập tónh lự thứ nhất, lúc ấy lại tư duy về tướng khác mà nhập tónh lự thứ hai. Không phải từ đẳng trì xuất cũng không phải sở duyên, nghĩa là như có một tư duy về tướng này, nhập tónh lự thứ nhất, dừng lại rồi trải qua nhiều thời gian. Như nói: “Bí-sô! Cho đến tưởng định, có năng lực thấu triệt Thánh chỉ, đệ tử của Đức Thế Tôn sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ”. Hỏi: Đệ tử ấy dựa vào định nào mà đạt được quả A-la-hán? Đáp: Vô lậu thuộc Vô sở hữu xứ . Như Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói: “Hiền giả! Tôi tự nhớ lại, đã trụ định Vô sở hữu xứ, ở bên ao Mạn đà chỉ ni, nghe tiếng gầm rống của rất nhiều loài voi và rồng”. Hỏi: Tôn giả lúc ấy là nghe trong định hay là nghe lúc khởi định? Đáp: Khởi định mà nghe chứ không phải là ở trong định. Hỏi: Đối với bất định, tất cả bất định đó không phải là thông tuệ mà thuộc về vô minh chăng? Đáp: Các bất định, tất cả bất định đó không phải là thông tuệ mà thuộc về vô minh. Có lúc không phải là thông tuệ, thuộc về vô minh mà không phải bất định, nghĩa là tà định. Hỏi: Đối với định, tất cả định đó là thông tuệ, thuộc về minh chăng? Đáp: Các thông tuệ, thuộc về minh, tất cả tuệ minh ấy là định Có định mà định ấy không phải là thông tuệ, thuộc về vô minh, nghĩa là tà định. Hỏi: Đối với bất định, hầu hết bất định đó đều không thành tựu các giác chi chăng? Đáp: Đối với các bất định, tất cả bất định ấy không thành tựu các giác chi. Có lúc không thành tựu các giác chi mà không phải bất định, nghĩa là tà định. Hỏi: Đối với định, tất cả định đó đều thành tựu các giác chi chăng? Đáp: Đối với định, tất cả định đó đều thành tựu các giác chi. Có định mà không thành tựu các giác chi, nghĩa là tà định. Hỏi: Đối với việc thành tựu các giác chi đó là thành tựu pháp vô lậu chăng? Đáp: Những thành tựu về các giác chi, đó là thành tựu pháp vô lậu. Có thành tựu pháp vô lậu nhưng không phải là các giác chi, nghĩa là các phàm phu. Hỏi: Đối với việc không thành tựu các giác chi, đó là không thành tựu pháp vô lậu chăng? Đáp: Đều thành tựu pháp vô lậu. Không thành tựu về các giác chi, nghĩa là các phàm phu. Hỏi: Vào lúc đạt được các giác chi, lúc ấy đạt được pháp vô lậu chăng? Đáp: Vào lúc đạt được các giác chi, lúc ấy đạt được pháp vô lậu. Có lúc đạt được pháp vô lậu nhưng không phải là các giác chi, đó là những phàm phu. Hỏi: Vào lúc xả các giác chi, lúc ấy xả pháp vô lậu chăng? Đáp: Không hoàn toàn xả các giác chi, cũng không hoàn toàn xả pháp vô lậu. Hỏi: Vào lúc lui sụt các giác chi, lúc ấy lui sụt pháp vô lậu chăng? Đáp: Không hoàn toàn lui sụt các giác chi, cũng không có hoàn toàn lui sụt pháp vô lậu. Hỏi: Vào lúc chưa đoạn, lúc ấy chưa biết khắp chăng? Đáp: Vào lúc chưa biết khắp, thì lúc ấy là chưa đoạn. Có lúc chưa đoạn nhưng không phải là chưa biết khắp, nghĩa là nếu trí biết khắp vì đã biết khắp chứ không phải là đoạn, biết khắp vốn là đã đoạn. Hỏi: Vào lúc đã đoạn, lúc ấy đã biết khắp chăng? Đáp: Vào lúc đã đoạn lúc ấy đã biết khắp. Có lúc đã biết khắp nhưng không phải là đã đoạn, nghĩa là như trí biết khắp vốn là đã biết khắp chứ không phải là đoạn, biết khắp vốn là đã đoạn. Hỏi: Có những người vào đời này mắt không thấy sắc, người ấy dựa vào pháp nào dẫn phát thiên nhãn? Đáp: Như có một người đạt được tự tính sinh, nghó nhớ trước kia trong đời khác, mắt đã từng trông thấy sắc, người ấy dựa vào đây cho nên dẫn phát thiên nhãn. Hỏi: Có những người vào đời này tai không nghe tiếng, người ấy đã dựa vào pháp nào dẫn phát thiên nhó? Đáp: Như có một người đạt được tự tính sinh, nghó nhớ trước kia trong đời khác, tai đã từng nghe tiếng, người ấy dựa vào đây cho nên dẫn phát thiên nhó. Hỏi: Vì sao khi phàm phu thoái lui thì tăng thâm kiết do kiến-tu mà đoạn? Khi đệ tử của Đức Thế Tôn lui sụt chỉ tăng thêm kiết do tu mà đoạn? Đáp: Phàm phu dùng đạo này để đoạn kiết do kiến mà đoạn, thì dùng đạo này để đoạn kiết do tu mà đoạn cho nên khi phàm phu lui sụt, hai kiết đều tăng thêm. Đệ tử của Đức Thế Tôn dùng đạo này để đoạn kiết do kiến mà đoạn, quyết định không lui sụt đối với đạo này, lại dùng đạo khác để đoạn kiết do tu mà đoạn. Phàm phu kia đối với đạo khác có lui sụt hoặc không lui sụt. Đệ tử của Đức Thế Tôn, giả sử dùng đạo này đoạn kiết do kiến mà đoạn, cũng dùng đạo này để đoạn kiết do tu mà đoạn, nên các đệ tử của Đức Thế Tôn cũng không lui sụt. Hỏi: Vì lẽ gì ba quả trên có lui sụt mà không phải là quả Dự lưu? Đáp: Kiết do tu mà đoạn dựa vào sự có dấy khởi, nghĩa là có tướng tịnh, có tướng bất tịnh. Thánh giả kia do tác ý phi lý khi quán tướng tịnh, thế là lui sụt đối với tưởng bất tịnh. Kiết do kiến mà đoạn dựa vào sự không có dấy khởi, không có một pháp nào là ngã-ngã sở, có thể khiến cho Thánh giả kia lui sụt khi quán về kiến chấp vô ngã. Hỏi: Khi lui sụt ba quả trên, những điều đạt được về căn-lậu vô lậu-giác chi-đạo chi, nên nói là đã từng được mà được, hay chưa từng được mà được? Đáp: Nên nói là đã từng được mà được. Hỏi: Khi mất ở cõi Vô sắc, sinh cõi Dục, các uẩn-giới-xứ đã đạt được, với căn thiện-bất thiện-vô ký, tùy miên kiết-phược, tùy phiền não triền, nên nói là đã từng được mà được, hay chưa từng được mà được? Đáp: Nên nói là pháp thiện-ô nhiễm đã từng được mà được, pháp dị thục chưa từng được mà được. Hỏi: Khi mất ở cõi Vô sắc, sinh cõi Sắc, các uẩn-giới-xứ đã đạt được, với căn thiện, vô ký, tùy miên kiết, phược, tùy phiền não triền, nên nói là đã từng được mà được, hay chưa từng được mà được? Đáp: Nên nói là pháp thiện-ô nhiễm đã từng được mà được, pháp dị thục chưa từng được mà được. Khi mất ở cõi Sắc, sinh cõi Dục, các uẩn-giới-xứ … đã đạt được, như đã nói mất ở cõi Vô sắc, sinh cõi Dục. Hỏi: Dựa vào tónh lự thứ nhất, khi dẫn phát đạo thần cảnh thông, lúc ấy xa nhất là đến nơi nào xa? Đáp: Cho đến cõi trời Phạm thế. Hỏi: Dựa vào tónh lự thứ nhất, khi dẫn phát đạo thiên nhó thông, lúc ấy xa nhất là đến nơi nào xahệ thuộc cõi nào? Đáp: Cho đến cõi trời Phạm thế. Hỏi: Dựa vào tónh lự thứ nhất, khi dẫn phát đạo tha tâm thông, lúc ấy biết xa nhất là tâm-tâm sở pháp hệ thuộc cõi nào? Đáp: Cho đến cõi trời Phạm thế. Hỏi: Dựa vào tónh lự thứ nhất, khi dẫn phát đạo túc trụ tùy niệm thông, lúc ấy nhớ lại xa nhất là sự việc của túc trụ hệ thuộc cõi nào? Đáp: Cho đến cõi trời Phạm thế. Hỏi: Dựa vào tónh lự thứ nhất, khi dẫn phát đạo thiên nhãn thông, lúc ấy nhìn thấy xa nhất là sắc hệ thuộc cõi nào? Đáp: Cho đến cõi trời Phạm thế. Như dựa vào tónh lự thứ nhất, cho đến dựa vào tónh lự thứ tư, mỗi tónh lự đều tùy thuộc xứ mình, nói rộng ra cũng như vậy. Hỏi: Nếu đối với khổ tư duy về khổ, đạt được quả A-la-hán, thì lúc ấy tư duy đến khổ hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu đối với tập, tư duy về tập, đạt được quả A-la-hán, thì lúc ấy tư duy đến tập hệ thuộc cõi nào? Đáp: Tập thuộc cõi Vô sắc. Hỏi: Nếu đối với diệt tư duy về diệt, đạt được quả A-la-hán, thì lúc ấy tư duy đến các hành diệt hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc các hành diệt hệ thuộc cõi Sắc- Vô sắc. Hỏi: Nếu đối với đạo, tư duy về đạo, đạt được quả A-la-hán, thì lúc ấy tư duy đến các hành có năng lực đoạn đạo hệ thuộc cõi nào? Đáp: Hoặc các hành có năng lực đoạn đạo hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc. <章>Chương 8: KIẾT UẨN <詞>Phẩm 1: BÀN VỀ NIỆM TRỤ Niệm trụ tất cả có sáu môn, Biết đúng như thật có tám phần, Tham-sân-si có tăng và giảm, Tử-thọ-tâm cùng với Niết-bàn, Đệ tử mà lại Niết-bàn trước, Phật Niết-bàn sau và xuất định, Bốn hữu-ba hữu cùng với hành, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Bốn niệm trụ là thân-thọ-tâm-pháp niệm trụ. Hỏi: Nếu tu thân niệm trụ là thì lúc ấy là thọ niệm trụ chăng? Nếu tu thọ niệm trụ thì lúc ấy là thân niệm trụ chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có tu thân niệm trụ mà không tu thọ niệm trụ, nghĩa là đã đạt được thân niệm trụ hiện ở trước mắt. Có tu thọ niệm trụ mà không tu thân niệm trụ, nghĩa là đã đạt được thọ niệm trụ hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được thọ niệm trụ hiện ở trước mắt, nhưng không tu thân niệm trụ, hoặc chưa đạt được tâm, pháp niệm trụ hiện ở trước mắt, nhưng u thọ niệm trụ chứ không tu thân niệm trụ. Có tu thân niệm trụ, cũng tu thọ niệm trụ, nghĩa là chưa đạt được thân niệm trụ hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được thọ niệm trụ hiện ở trước mắt, mà tu thân. Không tu thân niệm trụ cũng không tu thọ niệm trụ, nghĩa là đã đạt được tâm-pháp niệm trụ hiện ở trước mắt, hoặc mà không tu thân, thọ. Tất cả tâm ô nhiễm, tâm vô ký, ở định vô tưởng, định diệt tận, sinh Vô tưởng thiên. Như thân niệm trụ đối với thọ niệm trụ, thân niệm trụ đối với tâm niệm trụ cũng như vậy. Hỏi: Nếu tu thân niệm trụ thì lúc ấy là pháp niệm trụ chăng? Nếu tu pháp niệm trụ thì lúc là thân niệm trụ chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có tu thân niệm trụ mà không tu pháp niệm trụ, nghĩa là đã đạt được thân niệm trụ hiện ở trước mắt. Có tu pháp niệm trụ mà không tu thân niệm trụ, nghĩa là đã đạt được pháp niệm trụ hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được pháp niệm trụ hiện ở trước mắt, nhưng không tu thân niệm trụ, hoặc chưa đạt được tâm, thọ niệm trụ hiện ở trước mắt, nhưng tu pháp niệm trụ mà không tu thân niệm trụ. Có tu thân niệm trụ, cũng tu pháp niệm trụ, nghĩa là chưa đạt được thân niệm trụ hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được pháp niệm trụ hiện ở trước mắt, mà tu thân, hoặc chưa đạt được thọ, tâm niệm trụ hiện ở trước mắt, mà tu thân, pháp. Không tu thân niệm trụ, cũng không tu pháp niệm trụ, nghĩa là đã đạt được tâm-thọ niệm trụ hiện ở trước mắt. Tất cả tâm ô nhiễm, tâm vô ký, ở định vô tưởng, định diệt tận, sinh vô tưởng thiên. Hỏi: Nếu tu thọ niệm trụ thì lúc ấy là tâm niệm trụ chăng? Nếu tu tâm niệm trụ thì lúc ấy là thọ niệm trụ chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có tu thọ niệm trụ mà không tu tâm niệm trụ, nghĩa là đã đạt được thọ niệm trụ hiện ở trước mắt. Có tu tâm niệm trụ mà không tu thọ niệm trụ, nghĩa là đã đạt được tâm niệm trụ hiện ở trước mắt. Có tu thọ niệm trụ mà cũng tu tâm niệm trụ, nghĩa là chưa đạt được thân thọ tâm niệm trụ hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được pháp niệm trụ hiện ở trước mắt, mà tu thọ-tâm. Không tu thọ niệm trụ cũng không tu tâm niệm trụ, nghĩa là đã đạt được thân-pháp niệm trụ hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được pháp niệm trụ hiện ở trước mắt, không tu thọ tâm. Tất cả tâm ô nhiễm, tâm vô ký, ở định vô tưởng, định diệt tận, sinh vô tưởng thiên. Hỏi: Nếu tu thọ niệm trụ thì lúc ấy là pháp niệm trụ chăng? Nếu tu pháp niệm trụ thì lúc ấy là thọ niệm trụ chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có tu thọ niệm trụ mà không tu pháp niệm trụ, nghĩa là đã đạt được thọ niệm trụ hiện ở trước mắt. Có tu pháp niệm trụ mà không tu thọ niệm trụ, nghĩa là đã đạt được pháp niệm trụ hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được pháp niệm trụ hiện ở trước mắt, mà không tu thọ. Có tu thọ niệm trụ, cũng tu pháp niệm trụ, nghĩa là chưa đạt được thân, tâm niệm trụ hiện ở trước mắt, hoặc chưa đạt được pháp niệm trụ hiện ở trước mắt, mà tu thọ. Không tu thọ niệm trụ cũng không tu pháp niệm trụ, nghĩa là đã đạt được thân-tâm niệm trụ hiện ở trước mắt. Tất cả tâm ô nhiễm-tâm vô ký, ở định vô tưởng-định diệt tận, sinh Vô tưởng thiên. Như thọ niệm trụ đối với pháp niệm trụ; nên biết tâm niệm trụ đối với pháp niệm trụ cũng như vậy. Đối với thân thuận theo thân quán niệm trụ, nên nói là pháp-loại- thế tục-khổ-tập-đạo trí; nên nói là có tầm-có tứ; không có tầm-chỉ có tứ; không có tầm- không có tứ; nên nói tương ưng với lạc căn, hỷ căn, xả căn; nên nói làTam-ma-địa Không-Vô nguyện, Vô tướng đều có; nên nói duyên hệ thuộc cõi Dục, Sắc và không hệ thuộc. Đối với thọ, thuận theo thọ quán niệm trụ, nên nói là pháp, loại, tha tâm-thế tục- khổ-tập-đạo trí; nên nói là có tầm-có tứ; không có tầm-chỉ có tứ; không có tầm- không có tứ; nên nói là tương ưng với lạc căn, hỷ căn, xả căn; nên nói là Tam-ma-địa Không-Vô nguyện đều có; nên nói là duyên hệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc-Vô sắc và không hệ thuộc. Như đối với thọ, đối với tâm cũng như vậy. Đối với pháp, thuận theo pháp, quán niệm trụ, nên nói là pháp-loại-tha tâm-thế tục-khổ-tập-diệt-đạo trí; nên nói là có tầm- có tứ, không có tầm-chỉ có tứ; không có tầm-không có tứ; nên nói tương ưng với lạc căn, hỷ căn, xả căn; nên nói là Tam-ma-địa Không- Vô nguyện, Vô tướng đều cùng có; nên nói là duyên hệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc-Vô sắc và không hệ thuộc. Như nói về lúc thọ lạc thọ, như thật biết là mình thọ lạc thọ, đây là do bốn trí, đó là pháp-loại-thế tục và đạo trí. Lúc thọ khổ thọ, như thật biết là mình thọ khổ thọ, đây là do một trí, đó là thế tục trí. Lúc thọ bất khổ bất lạc thọ, biết như thật là mình thọ bất khổ bất lạc thọ, đây là do bốn trí, đó là pháp-loại-thế tục và đạo trí. Thân thọ lạc-thân thọ khổ-thân thọ bất khổ bất lạc thọ và lúc tâm thọ khổ, biết như thật là đang thọ, đây là do một trí, đó là thế tục trí. Lúc tâm thọ lạc-tâm thọ bất khổ bất lạc thọ, biết như thật đang thọ, đây là do bốn trí, đó là pháp-loại-thế tục và đạo trí. Thọ lạc có ý vị-thọ khổ có ý vị-thọ bất khổ bất lạc thọ có ý vị và lúc thọ khổ không có ý vị, biết như thật là đang thọ, đây là do một trí, đó là thế tục trí. Lúc thọ lạc không có ý vị-thọ bất khổ lạc thọ không có ý vị, như thật biết là đang thọ, đây là do bốn trí, đó là pháp-loại-thế tục và đạo trí. Lúc thọ lạc dựa vào sự ham thích-thọ khổ dựa vào sự ham thích- thọ bất khổ bất lạc thọ dựa vào sự ham thích và thọ khổ dựa vào sự tách rời, biết khổ bất lạc thọ dựa vào sự ham thích và thọ khổ dựa vào sự tách rời, biết như thật là đang thọ, đây là do một trí, đó là pháp-loại-thế tục và đạo trí. Như nói rằng tâm có tham, biết như thật là tâm có tham, đây là do một trí, đó là thế tục trí. Tâm lìa tham, biết như thật là tâm lìa tham, đây là do bốn trí, đó là pháp-loại-thế tục và đạo trí. Như tâm có tham- tâm lìa tham, cần phải biết. Tâm có si-tâm lìa si, tâm nhiễm-tâm không nhiễm, tâm sơ suất-tâm tán loạn, tâm thấp xuống-tâm cao lên, tâm nhỏ bé-tâm rộng lớn-tâm dao động-tâm không vắng lặng, tâm định-tâm bất định, tâm tu-tâm-tâm không tu, tâm giải thoát-tâm không giải thoát, cũng như vậy. Tâm có sân, như thật biết là tâm có sân, đây là do một trí, đó là thế tục trí. Tâm lìa sân, như thật biết là tâm lìa sân, đây là do ba trí, đó là pháp-thế tục và đạo trí. Như nói rằng bên trong có cái tham dục, biết như thật là bên trong có Cái tham dục, đây là do một trí, đó là thế tục trí. Bên trong không có cái tham dục, biết như thật là bên trong không có Cái tham dục, đây là do ba trí, đó là pháp-thế tục và đạo trí. Như bên trong chưa sinh Cái tham dục mà sinh, biết như thật về điều này, đây là do một trí, đó là thế tục trí. Sinh rồi liền đoạn, đoạn rồi sau không sinh nữa, biết như thật về điều này, đây là do ba trí, đó là pháp-thế tục và đạo tri. Như cái tham dục, nên biết cái giận dữ- hôn trầm-thụy miên-trạo cử-ố tác và nghi, cũng như vậy. Như nói về bên trong có kiết của nhãn, như thật biết là bên trong có kiết của nhân, đây là do một trí, đó là thế tục trí. Bên trong không có kiết của nhãn như thật biết là bên trong không có kiết của nhãn, đây là do bốn trí, đó là pháp-loại-thế tục và đạo trí. Như bên trong chưa sinh kiết của nhãn mà sinh, biết như thật về điều này, đây là do một trí, đó là thế tục trí. Sinh rồi liền đoạn, đoạn rồi sau không sinh nữa, như thật biết về điều này, đây là do bốn trí, đó là pháp-loại-thế tục và đạo trí. Như kiết của nhãn, nên biết của nhó-thân-ý cũng như vậy. Kiết của tỷ-thiệt như nói về Cái. Như nói rằng bên trong có các giác chi như Niệm…, biết như thật là bên trong có các giác chi như Niệm…, đây là do bốn trí, đó là pháp- loại-thế tục và đạo trí. Bên trong không có các giác chi như Niệm…, như thật biết là bên trong không có các giác chi như Niệm…, đây là do một trí, đó là thế tục trí. Như Niệm giác chi… chưa sinh mà sinh, sinh rồi trụ vững không quên, làm cho nên mãn tăng thêm trí rộng ra tác chứng, đây là do bốn trí, đó là pháp-loại-thế tục và đạo trí. Như niệm giác chi, nên biết rằng Trạch pháp-Tinh tiến-Hỷ-Khinh an-Định và Xả, cũng như vậy. Hỏi: Như nói về cùng thuận theo quán tự tham-sân-si tăng lên, thế nào là tham-sân-si tăng lên? Đáp: Vì có tham-sân-si trói buộc thuộc phẩm hạ cho nên có phẩm trung, vì có phẩm trung cho nên có phẩm thượng, đó là tăng. Hỏi: Như nói cùng thuận theo quán tự tham-sân-si giảm bớt, thế nào là tham-sân-si giảm bớt? Đáp: Vì không có tham-sân-si trói buộc thuộc phẩm thượng cho nên không có phẩm trung, vì không có phẩm trung cho nên không có phẩm hạ, Đó gọi là giảm. Hỏi: Thế nào là thọ biên tế tử? Đáp: Do mạt ma (Marman, tử huyệt) này đoạn mà mạng căn diệt. diệt. Hỏi: Tương đương với giới hạn nào, nên nói là thọ biên tế tử? Đáp: Tương đương với giới hạn mạt ma ấy đoạn mà mạng căn Hỏi: Thuộc về xứ nào? Đáp: Pháp xứ. Hỏi: Có bao nhiêu thức tương ưng? Đáp: Thân thức-ý thức. Đầu tiên mạt ma đoạn cảm thọ thì tương ưng với thân thức; cảm thọ sau cùng thì tương ưng với ý thức. Hỏi: Tâm bát Niết-bàn của A-la-hán, nên nói là thiện hay vô ký? Đáp: Nên nói là vô ký. Hỏi: Vì sao hai đệ tử bậc Hiền bát Niết-bàn trước, còn Phật thì sau? Đáp: Vì lẽ hai Tôn giả ấy từ trước đã tạo tác tăng trưởng trong suốt nẻo sinh tử, chiêu cảm nghiệp không đoạn, chớ cho là trống rỗng, không có quả dị thục. Vả lại bởi vì pháp vốn như vậy. Hỏi: Như nói: “Đức Thế Tôn dựa vào định Bất động tịch tịnh mà bát Niết bàn, ánh mắt của thế gian mất đi.” Đây là trong định hay là xuất định vậy? Đáp: Xuất định. Hỏi: Như nói bốn hữu là bổn hữu, tử hữu, trung hữu, sinh hữu. Thế nào là bổn hữu? Đáp: Trừ phần sinh-phần tử ra là các hữu trung gian của các uẩn. Hỏi: Thế nào là tử hữu? Đáp: Phần tử của các uẩn. Hỏi: Thế nào là trung hữu? Đáp: Trừ phần sinh-phần tử ra là các hữu trung gian của các uẩn. Hỏi: Thế nào là sinh hữu? Đáp: Phần sinh của các uẩn. Hỏi: Các dục hữu, tất cả dục hữu đó là năm hành chăng? Nếu là năm hành thì tất cả năm hành ấy là dục hữu chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có dục hữu mà không phải là năm hành, nghĩa là hữu tình cõi Dục, trụ tâm nơi không đồng phần và trụ nơi định vô tưởng, diệt tận. Có năm hành mà không phải là dục hữu, nghĩa là trời Hữu tưởng cõi Sắc, trụ tâm nơi đồng phần, hoặc là trời Vô tưởng, không đạt được vô tưởng. Có dục hữu cũng là năm hành, nghĩa là hữu tình cõi Dục, trụ tâm đồng phần. Không phải dục hữu cũng không là phải năm hành, nghĩa là trời Hữu tưởng cõi Sắc, trụ tâm nơi không đồng phần và trụ nơi định vô tưởng-diệt tận. Hỏi: Nếu nơi Vô tưởng thiên đạt được vô tưởng, hoặc sinh cõi Vô sắc, thì các sắc hữu thuộc trời Hữu tưởng, tất cả sắc hữu đó là năm hành chăng? Nếu là năm hành thì tất cả sắc hữu kia thuộc trời Hữu tưởng chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có sắc hữu thuộc trời Hữu tưởng mà không phải là năm hành, nghĩa là trời hữu tưởng cõi Sắc, trụ tâm nơi không đồng phần và trụ định vô tưởng, diệt tận. Có năm hành, không phải sắc hữu thuộc trời Hữu tưởng, nghĩa là hữu tình cõi Dục, trụ tâm nơi đồng phần, hoặc là trời Vô tưởng thì không được vô tưởng. Có sắc hữu thuộc trời Hữu tưởng, cũng là năm hành, nghĩa là trời Hữu tưởng cõi Sắc, trụ tâm nơi phần đồng. Không phải sắc hữu thuộc trời Hữu tưởng cũng không phải là năm hành, nghĩa là hữu tình cõi Dục, trụ tâm nơi không đồng phần và trụ nơi định vô tưởng-diệt tận, hoặc là trời Vô tưởng được vô tưởng. Hỏi: Nếu sinh cõi Vô sắc thì các sắc hữu thuộc trời Vô tưởng, tất cả sắc hữu đó là hai hành chăng? Nếu là hai hành thì tất cả sắc hữu kia thuộc trời Vô tưởng chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có sắc hữu thuộc trời Vô tưởng mà không phải hai hành, nghĩa là trời Vô tưởng không đạt được vô tưởng. Có hai hành mà không phải là sắc hữu thuộc trời Vô tưởng, nghĩa là hữu tình cõi Dục, trụ tâm nơi không đồng phần và trụ nơi định vô tưởng, diệt tận. Hoặc trời Hữu tưởng cõi Sắc trụ tâm nơi không đồng phần và trụ định vô tưởng-diệt tận. Có sắc hữu thuộc trời Vô tưởng, cũng là hai hành, nghĩa là trời Vô tưởng đạt được vô tưởng. Không phải sắc hữu thuộc trời Vô tưởng cũng không phải hai hành, nghĩa là hữu tình cõi Dục, trời Hữu tưởng cõi Sắc, trụ tâm đồng phần, hoặc sinh cõi Vô sắc. Hỏi: Các vô sắc hữu, thì tất cả vô sắc hữu ấy là bốn hành chăng? Nếu là bốn hành, thì tất cả bốn hành là vô sắc hữu chăng? Đáp: Đối với bốn hành, tất cả đó là vô sắc hữu. Có vô sắc hữu mà không phải là bốn hành, đó là hữu tình cõi Vô sắc, trụ tâm không đồng phần. Hỏi: Có thể có thể có hữu là năm hành chăng? Đáp: Có, nghĩa là hữu tình cõi Dục và trời Hữu tưởng cõi Sắc, trụ tâm nơi phần đồng, hoặc là trời Vô tưởng thì không được vô tưởng. Hỏi: Có thể có hữu là bốn hành chăng? Đáp: Có, nghĩa là hữu tình cõi Vô sắc, trụ tâm nơi phần đồng. Hỏi: Có thể có hữu là ba hành chăng? Đáp: Không có. Hỏi: Có thể có hữu là hai hành chăng? Đáp: Có, nghĩa là hữu tình cõi Dục và trời Hữu tưởng cõi Sắc, trụ tâm nơi không đồng phần, hoặc trụ nơi định vô tưởng-diệt tận, hoặc trời Vô tưởng được vô tưởng. Hỏi: Có thể có hữu là một hành chăng? Đáp: Có, nghĩa là hữu tình cõi Vô sắc, trụ tâm nơi không đồng phần. Hỏi: Có thể có hữu là vô hành chăng? Đáp: Không có. --------------- <詞>Phẩm 2: BÀN VỀ BA HỮU Ba hữu-tùy miên và mười tưởng, Sáu tầm-mình cùng với vô minh, Đối với nhân duyên có và không, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Đối với xả dục hữu-dục hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả pháp cõi Dục diệt đi, đồng thời pháp cõi Dục hiện ở trước mắt chăng? Đáp: Vào lúc xả dục hữu-dục hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả pháp cõi Dục diệt đi nhưng pháp cõi Dục hiện ở trước mắt. Có lúc pháp cõi Dục diệt đi và pháp cõi Dục hiện ở trước mắt mà không phải là xả dục hữu-dục hữu nối tiếp nhau, nghĩa là không mạng chung mà pháp cõi Dục diệt đi và pháp cõi Dục hiện ở trước mắt. Hỏi: Đối với xả dục hữu-sắc hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả pháp cõi Dục diệt đi, pháp cõi Sắc hiện ở trước mắt chăng? Đáp: Vào lúc xả dục hữu-sắc hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả cả pháp cõi Dục diệt đi và pháp cõi Sắc hiện ở trước mắt. Có lúc pháp cõi Dục diệt đi và pháp cõi Sắc hiện ở trước mắt mà không phải là xả dục hữu-sắc hữu nối tiếp nhau, nghĩa là không mạng chung mà pháp cõi Dục diệt đi và pháp cõi Sắc hiện ở trước mắt. Hỏi: Đối với xả dục hữu-vô sắc hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả pháp cõi Dục diệt đi, pháp cõi Vô sắc hiện ở trước mắt chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Giả sử pháp cõi Dục diệt đi, pháp cõi vô sắc hiện ở trước mắt, lúc ấy tất cả là xả dục hữu-vô sắc hữu nối tiếp nhau chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Đối với xả sắc hữu-sắc hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả pháp cõi sắc diệt đi, đồng thời pháp cõi sắc hiện ở trước mắt chăng? Đáp: Vào lúc xả sắc hữu-sắc hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả pháp cõi sắc diệt đi, pháp cõi sắc hiện ở trước mắt. Có lúc pháp cõi Sắc diệt đi và pháp cõi Sắc hiện ở trước mắt mà không phải là xả sắc hữu-sắc hữu nối tiếp nhau, nghĩa là không mạng chung mà pháp cõi Sắc diệt đi và pháp cõi Sắc hiện ở trước mắt. Hỏi: Đối với xả sắc hữu-dục hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả pháp cõi sắc diệt đi, pháp cõi Dục hiện ở trước mắt chăng? Đáp: Vào lúc xả sắc hữu-dục hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả pháp cõi Sắc diệt đi, pháp cõi Dục hiện ở trước mắt. Có lúc pháp cõi Sắc diệt đi và pháp cõi Dục hiện ở trước mắt mà không phải là xả sắc hữu-dục hữu nối tiếp nhau, nghĩa là không mạng chung mà pháp cõi Sắc diệt đi và pháp cõi Dục hiện ở trước mắt. Hỏi: Đối với xả sắc-vô sắc hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả pháp cõi Sắc diệt đi, pháp cõi Vô sắc hiện ở trước mắt chăng? Đáp: Vào lúc xả sắc hữu-vô sắc hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả pháp cõi Sắc diệt đi, pháp cõi Vô sắc hiện ở trước mắt. Có lúc pháp cõi Sắc diệt đi và pháp cõi Vô sắc hiện ở trước mắt mà không phải là xả sắc hữu-vô sắc hữu nối tiếp nhau, nghĩa là không mạng chung mà pháp cõi Sắc diệt đi và pháp cõi Vô sắc hiện ở trước mắt. Hỏi: Đối với xả vô sắc hữu-vô sắc hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả pháp cõi vô sắc diệt đi, đồng thời pháp cõi vô sắc hiện ở trước mắt chăng? Đáp: Vào lúc xả vô sắc hữu-vô sắc hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả pháp cõi vô sắc diệt đi, pháp cõi Vô sắc hiện ở trước mắt. Có lúc pháp cõi Vô sắc diệt đi và pháp cõi Vô sắc hiện ở trước mắt mà không phải là xả vô sắc hữu nối tiếp nhau, nghĩa là không mạng chung mà pháp cõi Vô sắc diệt đi và pháp cõi vô sắc hiện ở trước mắt. Hỏi: Đối với xả vô sắc hữu-dục hữu nối tiếp nhau, luc ấy tất cả pháp cõi vô sắc diệt đi, pháp cõi Dục hiện ở trước mắt chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Giả sử pháp cõi Vô sắc diệt đi, pháp cõi Dục hiện ở trước mắt, thì lúc ấy tất cả là xả vô sắc hữu-dục hữu nối tiếp nhau chăng? Đáp: Đúng như vậy. Hỏi: Đối với xả vô sắc hữu-sắc hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả pháp cõi vô sắc diệt đi, pháp cõi Sắc hiện ở trước mắt chăng? Đáp: Vào lúc xả vô sắc hữu-sắc hữu nối tiếp nhau, lúc ấy tất cả pháp cõi vô sắc diệt đi, pháp cõi Sắc hiện ở trước mắt. Có lúc pháp cõi Vô sắc diệt đi và pháp cõi Sắc hiện ở trước mắt mà không phải là xả vô sắc hữu-sắc hữu nối tiếp nhau, nghĩa là không mạng chung mà pháp cõi Vô sắc diệt đi và pháp cõi Sắc hiện ở trước mắt. Hỏi: Vì lẽ gì tùy miên cõi Dục không tùy tăng đối với pháp cõi Sắc-Vô sắc? Đáp: Vì cõi sẽ trở nên tạp loạn và thuận theo không thể thiết lập, do đã lìa nhiễm dục. Hỏi: Vì lẽ gì tùy miên cõi Sắc không tùy tăng đối với pháp cõi Dục? Đáp: Vì cõi sẽ trở thành tạp loạn và thuận theo không thể thiết lập, do đã lìa nhiễm dục. sắc? Hỏi: Vì lẽ gì tùy miên cõi Sắc không tùy tăng đối với pháp cõi Vô Đáp: Vì cõi sẽ trở thành tạp loạn và cũng không thể nhận biết, vì đã lìa nhiễm sắc. Hỏi: Vì lẽ gì tùy miên cõi Vô sắc không tùy tăng đối với pháp cõi Dục, cõi Sắc? Đáp: Vì cõi sẽ trở thành tạp loạn và thuận theo không thể thiết lập, do đã lìa sắc nhiễm. Hỏi: Vì lẽ gì tùy miên bất biến hành thuộc cõi Dục không tùy tăng đối với pháp cõi Dục? Đáp: Vì tùy miên ấy đã hợp thành biến hành và tùy miên ấy không phải sở duyên của tùy tăng này. Hỏi: Vì sao tùy miên bất biến hành thuộc cõi Sắc không tùy tăng đối với pháp cõi Sắc? Đáp: Như trước đã nói tùy miên không biến hành thuộc cõi Vô sắc, nói rộng cũng như vậy. Có mười tưởng là tưởng về vô thường cho đến tưởng về diệt. Hỏi: Nếu tu tập tưởng về vô thường, thì lúc ấy tư duy về tưởng vô thường chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có tu tập tưởng về vô thường mà không tư duy về tưởng vô thường, nghĩa là duyên vào pháp khác mà tu tưởng về vô thường. Có tư duy về tưởng vô thường mà không tu tập tưởng về vô thường, nghĩa là duyên vào tưởng về vô thường mà tu tưởng khác. Có tu tưởng về vô thường cũng tư duy về tưởng vô thường, nghĩa là duyên tưởng về vô thường mà tu tưởng về vô thường. Không tu tưởng về vô thường cũng không tư duy về tưởng vô thường, nghĩa là trừ các tưởng trước. Như tưởng về vô thường, tưởng về vô thường khổ, tưởng về khổ vô ngã cũng như vậy. Tưởng về chết, tưởng về bất tịnh, tưởng về chán ăn, tưởng về tất cả thế gian là không đáng vui, tưởng về đoạn, tưởng về lìa, tưởng về diệt cũng tùy theo sự việc, nên biết. Hỏi: Nếu dấy khởi tầm dục, thì lúc ấy tư duy về tầm dục chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có dấy khởi tầm dục mà không tư duy về tầm dục, nghĩa là duyên vào pháp khác, dấy khởi tầm dục. Có tư duy về tầm dục mà không dấy khởi tầm dục, nghĩa là duyên tầm dục dấy khởi tầm khác. Có dấy khởi tầm dục cũng tư duy về tầm dục, nghĩa là duyên vào tầm dục dấy khởi về tầm dục. Không dấy khởi tầm dục cũng không tư duy về tầm dục, nghĩa là trừ các tướng trước. Như tầm dục; tầm giận dữ, tầm hại, tầm xuất ly, tầm không có giận dữ, tầm không có hại cũng như vậy. Hỏi: Các pháp là nhân vô minh thì pháp đó duyên với vô minh chăng? Đáp: Nếu pháp là nhân vô minh, thì pháp đó duyên với vô minh. Có pháp duyên với vô minh mà không phải là nhân vô minh, nghĩa là trừ dị thục vô minh còn lại các hành vô phú-vô ký và hành thiện. Hỏi: Các pháp là nhân vô minh thì pháp đó duyên với minh chăng? Đáp: Nếu pháp là nhân vô minh, thì pháp đó duyên với minh. Có pháp duyên với minh mà không vô nhân minh, nghĩa là minh đầu tiên và các hành hữu lậu. Hỏi: Các pháp là nhân vô minh thì pháp đó duyên với minh chăng? Đáp: Nếu pháp là nhân vô minh, thì pháp đó duyên với vô minh. Có pháp duyên với vô minh, không phải là nhân vô minh, nghĩa là trừ dị thục nơi vô minh, các hành vô phú, vô ký khác và hành thiện. Hỏi: Các pháp là nhân vô minh thì pháp đó duyên với vô minh chăng? Đáp: Nếu pháp là nhân vô minh, thì pháp đó vô duyên minh. Có pháp duyên vô minh, không nhân minh, nghĩa là minh đầu tiên và các hành hữu lậu. Hỏi: Các pháp là nhân vô minh thì pháp đó là bất thiện chăng? Đáp: Nếu pháp là bất thiện, thì pháp đó là nhân vô minh. Có thể có là nhân vô minh, không phải là bất thiện, nghĩa là dị thục nơi vô minh, và hành hữu phú, vô ký. Hỏi: Các pháp là nhân minh thì pháp đó là thiện chăng? Đáp: Nếu pháp là nhân minh thì pháp đó là thiện. Có pháp thiện mà không phải là nhân minh, nghĩa là minh đầu tiên và hành hữu lậu thiện. Hỏi: Có thể có pháp không phải là nhân minh cũng không phải là nhân vô minh, thì pháp đó không phải là không có nhân chăng? Đáp: Có, nghĩa là trừ dị thục vô minh còn lại các hành vô phú vô ký và minh đầu tiên, hành hữu lậu thiện. <詞>Phẩm 3: BÀN VỀ TƯỞNG Tưởng-tâm-biết khắp gồm có bốn, Không có duyên-pháp-kiến và nghi, Nhân đạo cùng thâu nhiếp có ba, nghĩa chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Các pháp do tưởng về vô thường sinh, thì pháp đó tương ưng với tưởng về vô thường chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có pháp do tưởng về vô thường sinh mà không tương ưng với tưởng về vô thường, nghĩa là tưởng về vô thường hiện ở trước mắt nhất định sẽ diệt, tưởng khác hiện ở trước mắt nhất định sẽ sinh pháp tương ưng kia. Có pháp tương ưng với tưởng về vô thường mà không do tưởng về vô thường sinh, nghĩa là tưởng khác hiện ở trước mắt nhất định sẽ phải diệt, tưởng về vô thường hiện ở trước mắt nhất định sẽ sinh pháp tương ưng kia. Có pháp do tưởng về vô thường sinh, cũng tương ưng với tưởng về vô thường, nghĩa là tưởng về vô thường hiện ở trước mắt nhất định sẽ diệt, tưởng về vô thường hiện ở trước mắt nhất định sẽ sinh pháp tương ưng kia. Có pháp không do tưởng về vô thường sinh, cũng không tương ưng với tưởng về vô thường, nghĩa là tưởng khác hiện ở trước mắt nhất định sẽ diệt, tưởng khác hiện ở trước mắt nhất định sẽ sinh pháp tương ưng kia. Như tưởng về vô thường, cho đến tưởng về diệt cũng như vậy. Hỏi: Các pháp do tưởng về vô thường sinh, thì pháp đó là một duyên với tưởng về vô thường chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có pháp do tưởng về vô thường sinh mà không phải một duyên với tưởng về vô thường, nghĩa là tưởng về vô thường hiện ở trước mắt nhất định sẽ diệt, tưởng khác hiện ở trước mắt nhất định sẽ sinh, tưởng kia có duyên khác. Có thể có là một duyên với tưởng về vô thường mà không do tưởng về vô thường sinh, nghĩa là tưởng khác hiện ở trước mắt nhất định sẽ phải diệt, tưởng về vô thường hiện ở trước mắt nhất định sẽ sinh, tưởng kia có duyên này. Có pháp do tưởng về vô thường sinh, cũng là một duyên với tưởng về vô thường, nghĩa là tưởng về vô thường hiện ở trước mắt nhất định sẽ diệt, tưởng về vô thường hiện ở trước mắt nhất định sẽ sinh, tưởng kia có duyên này. Có pháp không do tưởng về vô thường sinh, cũng không phải một duyên với tưởng về vô thường, nghĩa là tưởng khác hiện ở trước mắt nhất định sẽ diệt, tưởng khác hiện ở trước mắt nhất định sẽ sinh, tưởng kia có duyên khác. Như tưởng về vô thường; cho đến tưởng về diệt cũng như vậy. Hỏi: Các pháp do tâm dấy khởi, không pháp nào là không do tâm, hoặc vào lúc tâm dấy khởi, thì bấy giờ, pháp kia dấy khởi chăng? Đáp: Tâm dấy khởi trước, pháp kia dấy khởi sau. Hỏi: Nếu khi tâm diệt, thì bấy giờ pháp kia diệt chăng? Đáp: Tâm diệt trước, pháp kia diệt sau. Hỏi: Nếu khi tâm đạt được, thì bấy giờ pháp kia đạt được chăng? Đáp: Tâm đạt được trước, pháp kia đạt được sau. Hỏi: Nếu khi tâm bỏ, thì bấy giờ pháp kia bỏ chăng? Đáp: Pháp kia bỏ trước, rồi sau mới đến tâm. Hỏi: Nếu khi tâm cảm thọ dị thục, thì bấy giờ là pháp kia chăng? Đáp: Hoặc lúc ấy, hoặc khi khác. Hỏi: Có thể có là đã thông đạt, đã biết khắp mà không phải là đã đoạn, không phải là đã tu, không phải là đã tác chứng chăng? Đáp: Có, nghĩa là hư không phi trạch diệt. Hỏi: Có thể có là đã thông đạt, đã biết khắp mà không phải là đã đoạn, không phải là đã tu, là đã tác chứng chăng? Đáp: Có, nghĩa là trạch diệt. Hỏi: Có thể có là đã thông đạt, đã biết khắp mà không phải là đã đoạn, là đã tu, là đã tác chứng chăng? Đáp: Có, nghĩa là pháp hữu vi vô lậu. Hỏi: Có thể có là đã thông đạt, đã biết khắp cũng là đã đoạn, là đã tu, là đã tác chứng chăng? Đáp: Có, nghĩa là hành hữu lậu thiện. Hỏi: Có thể có là đã thông đạt, đã biết khắp cũng là đã đoạn, không phải là đã tu nhưng là đã tác chứng chăng? Đáp: Có, nghĩa là định đã dấy khởi thiên nhãn và thiên nhó. Hỏi: Có thể có là đã thông đạt, đã biết khắp cũng là đã đoạn mà không phải là đã tu, không phải là đã tác chứng chăng? Đáp: Có, nghĩa là trừ ra định đã dấy khởi thiên nhãn và thiên nhó, còn lại hành vô ký và pháp bất thiện. Hỏi: Có pháp không có duyên với nhân duyên, không có duyên với pháp duyên, không có duyên với pháp câu sinh mà là có, là tính có, không phải không có, không phải không có tính, khác sắc, khác thọ- tưởng-thức, tương ưng với hành khác chăng? Đáp: Có, nghĩa là năm thức thân, pháp tương ưng năm thức thân kia, và duyên với Sắc-Vô vi, tâm bất tương ưng hành, thân ý thức, pháp tương ưng với ý thức kia, vốn có sinh-lão-trụ-vô thường. Pháp này không có duyên với nhân duyên, không có duyên với pháp duyên, không có duyên với pháp câu sinh mà là có, là tính có, không phải không có, không phải không có tính, khác sắc, khác thọ-tưởng-thức, tương ưng với hành khác. Hỏi: Pháp này đối với pháp kia nên nói là nhân hay nói là duyên? Đáp: Nên nói là nhân, nên nói là duyên. Hỏi: Pháp này nên nói là thiện, là bất thiện, hay là vô ký?ù Đáp: Đối với pháp thiện nên nói là thiện, đối với pháp bất thiện nên nói là bất thiện, đối với pháp vô ký nên nói là vô ký. Hỏi: Pháp này có bao nhiêu tùy miên tùy tăng, bao nhiêu kiết trói buộc? Đáp: Tùy miên tùy tăng duyên hữu lậu thuộc ba cõi, có chín kiết trói buộc. Hỏi: Kiến tương ưng với thọ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng? Đáp: Duyên hữu lậu thuộc ba cõi và kiến duyên với vô lậu, tùy miên tùy tăng vô minh tương ưng với kiến kia. Hỏi: Kiến không tương ưng với thọ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng? Đáp: Trừ ra kiến duyên vô lậu, vô minh tương ưng với kiến kia, còn lại tùy miên tùy tăng. Hỏi: Nghi tương ưng với thọ, có bao nhiêu tùy miên tùy tăng? Đáp: Duyên hữu lậu do kiến mà đoạn thuộc ba cõi và nghi duyên vô lậu, là tùy miên tùy tăng vô minh tương ưng với kiến kia. Hỏi: Nghi không tương ưng với thọ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng? Đáp: Trừ ra duyên vô lậu, nghi tương ưng với vô minh, còn lại tùy miên tùy tăng. Hỏi: Pháp duyên khởi dựa vào đạo, thâu nhiếp bao nhiêu giới-xứ- uẩn? Đáp: Mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, trừ ra nhãn xúc cùng dấy khởi tưởng-thọ, tâm tương ưng với pháp và nhó xúc cùng dấy khởi tưởng-thọ, tâm không tương ưng với pháp. Hỏi: Pháp còn lại thâu nhiếp bao nhiêu giới-xứ-uẩn? Đáp: Mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, cho đến trừ ra thân xúc cùng dấy khởi tưởng-thọ, tâm tương ưng với pháp, và ý xúc cùng dấy khởi tưởng-thọ, tâm không tương ưng với pháp. Hỏi: Pháp còn lại thâu nhiếp bao nhiêu giới-xứ-uẩn? Đáp: Mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn.  <卷>QUYỂN 20 <章>Chương 8: KIẾT UẨN <詞>Phẩm 4: BÀN VỀ TRÍ Trí-đoạn-nhàm chán-xa lìa-tu, Duyên-xúc-mạn-nghiệp cùng với sự, Thâu nhiếp còn lại và tất cả, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Hỏi: Nếu sự có thể thông đạt, thì sự ấy có thể biết khắp chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có sự có thể thông đạt, không phải có thể biết khắp, nghĩa là khổ-tập-diệt-đạo trí không đoạn trừ ra các phiền não. Có sự có thể biết khắp mà không phải có thể thông đạt, nghĩa là khổ-tập-diệt-đạo nhẫn dứt trừ ra các phiền não. Có sự có thể thông đạt, cũng có thể biết khắp, nghĩa là trí khổ- tập-diệt-đạo đoạn trừ ra các phiền não. Có sự không có thể thông đạt, cũng không có thể biết khắp, nghĩa là khổ-tập-diệt-đạo nhẫn không đoạn trừ ra các phiền não. Hỏi: Nếu sự có thể nhàm chán, thì sự ấy có thể xa lìa chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có sự có thể nhàm chán mà không có thể xa lìa, nghĩa là khổ- tập nhẫn trí không đoạn trừ ra các phiền não. Có sự có thể xa lìa mà không có thể nhàm chán, nghĩa là diệt- đạo nhẫn trí đoạn trừ ra các phiền não. Có sự có thể nhàm chán cũng có thể xa lìa, nghĩa là khổ, tập nhẫn trí đoạn trừ ra các phiền não. Có sự không có thể nhàm chán, cũng không có thể xa lìa, nghĩa là diệt-đạo nhẫn trí không đoạn trừ ra các phiền não. Hỏi: Nếu sự có thể nhàm chán thì sự có thể tu nhàm chán chăng? Đáp: Nếu sự có thể nhàm chán, thì sự ấy cũng nên tu nhàm chán. Có sự nên tu nhàm chán mà không phải là có thể nhàm chán, nghĩa là diệt-đạo trí đoạn trừ ra các phiền não. Hỏi: Nếu sự có thể lìa thì sự có thể tu nhàm chán chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có sự có thể xa lìa mà không phải là tu nhàm chán, nghĩa là diệt-đạo nhẫn đoạn trừ ra các phiền não. Có sự tu nhàm chán mà không phải là có thể xa lìa, nghĩa là khổ-tập nhẫn trí không đoạn trừ ra các phiền não. Có sự có thể xa lìa cũng tu nhàm chán, nghĩa là khổ-tập nhẫn trí và trí diệt, đạo đoạn trừ ra các phiền não. Có sự không phải có thể lìa, cũng không phải tu nhàm chán, nghĩa là diệt-đạo nhẫn trí không đoạn trừ ra các phiền não. Hỏi: Nếu pháp làm nhân cho pháp kia, thì có lúc pháp này không phải là nhân của pháp kia chăng? Đáp: Không có lúc nào không phải là nhân. Hỏi: Nếu pháp làm đẳng vô gián cho pháp kia, thì có lúc pháp này không phải là đẳng vô gián của pháp kia chăng? Đáp: Nếu khi pháp này chưa đến mà đã sinh. Hỏi: Nếu pháp làm sở duyên cho pháp kia, thì có lúc pháp này không phải là sở duyên của pháp kia chăng? Đáp: Không có lúc nào không phải là sở duyên. Hỏi: Nếu pháp làm tăng thượng cho pháp kia, thì có lúc pháp này không phải là tăng thượng của pháp kia chăng? Đáp: Không có lúc nào không phải là tăng thượng. Hỏi: Đối với ý xúc thì tất cả là xúc của ba loại hòa hợp? Đáp: Vào lúc ý xúc thì tất cả là xúc của ba loại hòa hợp. Có xúc của ba loại hòa hợp mà không phải là ý xúc, nghĩa là năm thức thân tương ưng với xúc. Do đó, Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô nên biết, có ý giới, có pháp giới, có vô minh giới, do vô minh xúc mà sinh, do thọ mà xúc, cho nên người ngu tối kém hiểu biết liền chấp có, chấp không, hoặc chấp có - không”. Hỏi: Đối với mạn thì tất cả mạn ấy là tự chấp chăng? Đáp: Đối với mạn thì đó là tất cả tự chấp. Có tự chấp mà không phải là mạn, nghĩa là các kiến thú. Vì vậy Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô nên biết, tự chấp là có ngã, tự chấp là có ngã sở”. Hỏi: Đối với mạn thì tất cả mạn ấy là không tónh lặng chăng? Đáp: Đối với mạn thì tất cả mạn đó là không tónh lặng. Có lúc không tónh lặng mà không phải là mạn, nghĩa là phiền não còn lại hiện ở trước mắt. Do đó Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô nên biết, sự khuynh động bị ma ràng buộc, không khuynh động là thoát khỏi điều ác”. Hỏi: Đối với nghiệp thì nghiệp ấy là không luật nghi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có nghiệp mà không phải là không luật nghi, nghĩa là thân, ngữ luật nghi. Có lúc không luật nghi mà không phải nghiệp, nghĩa là căn không luật nghi. Có nghiệp cũng là không luật nghi, nghĩa là thân-ngữ không luật nghi. Không phải nghiệp cũng không phải là không luật nghi, nghĩa là căn luật nghi. Hỏi: Đối với nghiệp thì nghiệp ấy là luật nghi chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt: Có nghiệp mà không phải là luật nghi, nghĩa là thân, ngữ không luật nghi. Có luật nghi mà không phải là nghiệp, nghĩa là căn luật nghi. Có nghiệp cũng là luật nghi, nghĩa là thân-ngữ luật nghi. Không phải nghiệp cũng không phải là luật nghi, nghĩa là căn không luật nghi. Hỏi: Nếu sự chưa đạt được, thì sự ấy không thành tựu chăng? Đáp: Nếu sự chưa đạt được, thì sự ấy không thành tựu. Có sự không thành tựu mà không phải là chưa đạt được, nghĩa là đạt được mà đã mất. Hỏi: Nếu sự đã đạt được, thì sự ấy thành tựu chăng? Đáp: Nếu sự thành tựu, thì sự ấy đã đạt được. Có sự đã đạt được mà không thành tựu, nghĩa là đạt được mà đã mất. Trừ ra Khổ Thánh đế và pháp xứ, các pháp còn lại thâu nhiếp hai giới-một xứ-một uẩn. Trừ ra Tập Thánh đế và pháp xứ nêu ra cũng như vậy. Trừ ra Diệt Thánh đế và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp mười bảy giới-mười một xứ-hai uẩn. Trừ ra Đạo Thánh đế và pháp xứ nêu ra cũng như vậy. Trừ ra pháp hữu sắc và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp bảy giới-một xứ-một uẩn. Trừ ra pháp vô sắc và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp mười giới-mười xứ- một uẩn. Trừ ra pháp hữu kiến và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp mười sáu giới-mười xứ- hai uẩn. Trừ ra pháp vô kiến và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp một giới-một xứ-một uẩn. Trừ ra pháp hữu đối và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp bảy giới-một xứ-một uẩn. Trừ ra pháp vô đối và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp mười giới-mười xứ- một uẩn. Trừ ra pháp hữu lậu và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp hai giới- một xứ-một uẩn. Trừ ra pháp vô lậu và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp mười bảy giới-mười một xứ-hai uẩn. Trừ ra pháp hữu vi và pháp xứ, trừ ra tất cả pháp này mà hỏi về pháp khác là điều không có, là sự bàn luận trống rỗng. Trừ ra pháp vô vi và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp mười bảy giới-mười một xứ-hai uẩn. Trừ ra pháp quá khứ và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp mười bảy giới-mười một xứ-hai uẩn. Trừ ra pháp hiện tại-vị lai và pháp xứ, giải thích cũng như vậy. Trừ ra pháp thiện và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp mười bảy giới-mười một xứ-hai uẩn. Trừ ra pháp bất thiện và pháp xứ, giải thích cũng như vậy. Trừ ra pháp vô ký và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp chín giới, ba xứ-hai uẩn. Trừ ra pháp hệ thuộc cõi Dục và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp mười ba giới-chín xứ-hai uẩn. Trừ ra pháp hệ thuộc cõi Sắc và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp mười bảy giới-mười một xứ-hai uẩn. Trừ ra pháp hệ thuộc cõi Vô sắc, pháp học, pháp vô học và pháp xứ, nói cũng như vậy. Trừ ra pháp phi học phi vô học và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp hai giới-một xứ-một uẩn. Trừ ra pháp do kiến đoạn và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp mười bảy giới-mười một xứ-hai uẩn. Trừ ra pháp do tu đoạn và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp hai giới-một xứ-một uẩn. Trừ ra pháp không đoạn và pháp xứ, pháp còn lại thâu nhiếp mười bảy giới-mười một xứ-hai uẩn. Trừ ra pháp đã sinh và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp mười tám giới-mười hai xứ, năm uẩn. Trừ ra pháp không phải đã sinh và pháp nhất định không sinh, trừ ra tất cả pháp này mà hỏi về pháp khác, là sự việc không có, là sự bàn luận trống rỗng. Trừ ra pháp hữu sắc và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp tám giới-hai xứ-bốn uẩn. Trừ ra pháp vô sắc và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp mười một giới-mười một xứ- một uẩn. Trừ ra pháp có kiến và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp mười bảy giới-mười một xứ, năm uẩn. Trừ ra pháp vô kiến và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp một giới-một xứ-một uẩn. Trừ ra pháp hữu đối và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp tám giới, hai xứ, năm uẩn. Trừ ra pháp vô đối và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp mười giới-mười xứ- một uẩn. Trừ ra pháp hữu lậu và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp ba giới, hai xứ, năm uẩn. Trừ ra pháp vô lậu và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp mười tám giới-mười hai xứ, năm uẩn. Trừ ra pháp hữu vi và pháp nhất định không sinh, trừ ra tất cả pháp này mà hỏi về pháp khác, là sự việc không có, là sự bàn luận trống rỗng. Trừ ra pháp vô vi và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp mười tám giới-mười hai xứ, năm uẩn. Trừ ra pháp quá khứ, pháp hiện tại và pháp nhất định không sinh, giải thích cũng như vậy. Trừ ra pháp vị lai và pháp nhất định không sinh, trừ ra tất cả pháp này mà hỏi về pháp khác, là sự việc không có, là sự bàn luận trống rỗng. Trừ ra pháp thiện và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp mười tám giới-mười hai xứ, năm uẩn. Trừ ra pháp bất thiện và pháp nhất định không sinh, giải thích cũng như vậy. Trừ ra pháp bất thiện và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp mười giới, bốn xứ, năm uẩn. Trừ ra pháp hệ thuộc cõi Dục và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp mười bốn giới-mười xứ- năm uẩn. Trừ ra pháp hệ thuộc cõi Sắc và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp mười tám giới-mười hai xứ, năm uẩn. Trừ ra pháp hệ thuộc cõi Vô sắc, pháp học, pháp vô học và pháp nhất định không sinh giải thích cũng như vậy. Trừ ra pháp phi học phi vô học và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp ba giới, hai xứ, năm uẩn. Trừ ra pháp do kiến đoạn và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp mười tám giới-mười hai xứ, năm uẩn. Trừ ra pháp do tu đoạn và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp ba giới-hai xứ-năm uẩn. Trừ ra pháp không đoạn và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại thâu nhiếp mười tám giới-mười hai xứ, năm uẩn. Hỏi: Có thể có một giới-một xứ-một uẩn thâu nhiếp tất cả các pháp chăng? Đáp: Có, một giới nghĩa là pháp giới, một xứ nghĩa là ý xứ, một uẩn nghĩa là sắc uẩn. <詞>Phẩm 5: BÀN VỀ KIẾN Tà kiến có hai loại Đoạn-Thường, Giới cấm thủ-tà giới-tà thường, Sáu kiến chấp-năm loại Niết bàn. Chín loại mạn cùng với thường kiến. Mê chấp vào mình-người làm ra, Ngộ thì cả hai đều không có, Có đủ mạn và những đạt được, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Có những kiến chấp như vậy: Không có bố thí, không có yêu thích, không có thờ cúng, không có diệu hạnh và ác hạnh. Đây là tà kiến bài bác nhân, do kiến tập mà đoạn. Không có quả của diệu hạnh-ác hạnh, đây là tà kiến bài bác quả, do kiến khổ mà đọan. Không có đời này, không có đời khác, không có hữu tình hóa sinh, tà kiến này hoặc do kiến tập mà đoạn, hoặc do kiến khổ mà đoạn. Không có cha, không có mẹ, đây là tà kiến bài bác nhân, do kiến tập mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Thế gian không có A-la-hán, đây là tà kiến bài bác đạo, do kiến đạo mà đoạn. Không có sự chính xác tuyệt đối, đây là tà kiến bài bác diệt, do kiến diệt mà đoạn. Không có chính hạnh của đời này-đời khác, ngay nơi pháp hiện tại biết tự mình không đạt, trú trọng tác chứng đầy đủ, đời sống mình đã hết, phạm hạnh đã lập, những việc làm đã xong, không tiếp nhận quả báo của thân sau, biết đúng như thật. Đây là tà kiến bài bác đạo, do kiến đạo mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Thậm chí có mạng sống này, chết đi rồi hủy diệt không còn, không có bốn đại chủng này, lúc thân só phu chết đi, địa chủng trong thân trở về với đất, thủy chung trong thân trở về với nước, hóa chủng thân trở về với lửa, phong chủng trong thân trở về với gió, căn chuyển biến thuận theo hư không, xe chở đi là thứ năm, mang tử thi kia đến bỏ giữa mồ hoang, chưa tốt thì có thể biết, đốt rồi thì trở thành tro bụi, còn lại xương khô đen nám. Người ngu khen ngợi giúp cho, người trí khen ngợi cảm thọ. Có những lời bàn luận, tất cả đều là nói dối chẳng hề thật. Cho đến có mạng sống, người ngu kẻ trí chết đi, hủy hoại chấm dứt không còn. Đây là biên chấp kiến thuộc về đoạn kiến, do kiến khổ mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Không có nhân, không có duyên khiến cho hữu tình bị tạp nhiễm; chẳng phải nhân, chẳng phải duyên mà hữu tình bị tạp nhiễm. Đây là tà kiến bài bác nhân, do kiến tập mà đoạn. Không có nhân, không có duyên khiến cho hữu tình được thanh tịnh; chẳng phải nhân, chẳng phải duyên mà hữu tình được thanh tịnh. Đây là tà kiến bài bác đạo, do kiến đạo mà đoạn. Không có nhân, không có duyên khiến cho hữu tình không có trí tuệ-không có nhận thức; chẳng phải nhân, chẳng phải duyên mà hữu tình không có trí tuệ- không có nhận thức. Đây là tà kiến bài bác nhân, do kiến tập mà đoạn. Không có nhân, không có duyên khiến cho hữu tình có trí tuệ-nhận thức; chẳng phải nhân, chẳng phải duyên mà hữu tình cò trí tuệ-nhận thức. Đây là tà kiến bài bác đạo, do kiến đạo mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Không có lực, không có tinh tiến, không có lực tinh tiến; không có chí khí, không có uy thế, không có chí khí uy thế; không có mình làm, không có người khác làm, không có mình và người khác làm; tất cả hữu tình, tất cả chúng sinh tất cả chủng loại, không có lực, không có tự tại, không có tinh tiến, không có uy thế, chắc chắn hợp với tính biến đổi, đối với sáu sinh loại tốt đẹp, thọ nhận mọi khổ-vui. Tà kiến này, nếu bài bác lực-tinh tiến…hữu lậu, thì chính là tà kiến bài bác nhân, do kiến tập mà đoạn; nếu bài bác lực-tinh tiến… vô lậu, thì chính là tà kiến bài bác đạo, do kiến đạo mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Tạo sự giết hại-tạo sự nấu nướng, tạo sự nấu nướng làm hại, tạo sự giết hại tổn thương các chúng sinh, không cho mà lấy, ham muốn tà hạnh, biết mà nói dối, cố tình uống các loại rượu đục tường-cạy vách lấy hết tất cả mọi thứ, giữ lối ngăn đường, làm hại thôn làng thành ấp, hại đến mạng sống của đất nước, dùng dao dùng vòng, vây chặn tách rời mặt đất cắt xẻ chặt đứt thân thể tất cả chúng sinh, gom lại chất làm một đống thịt náy. Nên biết rằng bởi vì những điều này không có gì ác, không có duyên ác. Ở bờ Nam sông Hằng chém chặt đánh đập, ở bờ Bắc sông Hằng bố thí tu phước. Nên biết rằng bởi vì những điều này không có tội-phước, cũng không có duyên của tội-phước, bố thí-ái ngữ-lợi hành-đồng sự thâu nhiếp các chúng sinh, đều không có phước thiện. Đây là tà kiến bài bác nhân, do kiến tập mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Thân bảy só này, không làm mà làm, không hóa hiện mà hóa hiện, không thể làm hại, luôn luôn an trú, như Y Sư Ca an trú bất động, không có gì chuyển biến, không xúc chạm lẫn nhau. Những gì là bảy só? Đó là địa-thủy-hỏa phong và khổ-lạc-mạng. Thân bảy só này, không phải là làm cho đến như Y Sư Ca, an trú bất động, hoặc tội-hoặc phước, hoặc là tội-phước, hoặc khổ-hoặc vui, hoặc là khổ-vui, không thể nào chuyển biến được, cũng không thể nào làm cho xúc chạm ngăn ngại lẫn nhau được. Giả sử có só phu chặt đầu só phu, cũng không gọi là làm hại mạng sống thế gian. Hoặc đi-hoặc đứng, ở giữa bảy thân, tuy dao sắc quay vòng mà không làm hại mạng sống. Trong này không có chủ thể làm hại, không có khách thể bị hại, không có chủ thể đánh đập, không có khách thể bị đánh đập, không có biểu hiện, không có nơi biểu hiện. Đây là biên chấp kiến thuộc về thường kiến, do kiến khổ mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Có mười bốn ức-sáu vạn-sáu trăm sinh môn; năm nghiệp-ba nghiệp-hai nghiệp-một nghiệp và nửa nghiệp; sáu mươi hai hành tích; sáu mươi hai trung kiếp; một trăm ba mươi sáu địa ngục; một trăm hai mươi căn; ba mươi sáu trần giới; bốn vạn chín ngàn nhà rồng; bốn vạn chín ngàn nhà chim diệu sí; bốn vạn chín ngàn nhà dị học; bốn vạn chín ngàn nhà mạng sống; bảy kho tạng hữu tưởng, bảy kho tạng vô tưởng, bảy kho tạng ly hệ, bảy A-tố-lạc, bảy Tất-xá- già, bảy trời, bảy người, bảy mộng-bảy trăm mộng, bảy giác-bảy trăm giác, bảy hồ-bảy trăm hồ, bảy đèo cao-bảy trăm đèo cao, bảy giảm-bảy trăm giảm, bảy trăm tăng, sáu loại sinh tốt đẹp, tám địa vị Đại só. Ở nơi như vậy, trải qua tám vạn bốn ngàn đại kiếp, hoặc ngu-hoặc trí, lưu chuyển qua lại, mới quyết định có năng lực làm thành giới hạn của khổ, như ném cuộn tơ, tơ hết thì dừng lại. Trong này không có Sa môn hoặc Bà-la-môn nào có năng lực dấy lên nói rằng: Tôi dùng Thi-la (giới), hoặc dùng tinh tiến, hoặc dùng phạm hạnh, khiến cho nghiệp vốn có chưa chín muồi thì được chín muồi, chín muồi rồi thì đã tiếp xúc, lập tức chuyển đổi loại bỏ. Bởi vì sự suy xét về giới hạn sinh tử khổ vui như vậy, không thể nào thiết lập được, có tăng-có giảm cũng không thể nào giải thích được, hoặc đúng hay là không đúng. Đây là không phải nhân mà chấp làm nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn, có những kiến chấp như vậy. Tất cả só phu và Bổ-đặc-già-la, có những sự cảm thọ, hết thảy đều lấy việc tạo ra từ đời trước để làm nhân. Đây là không phải nhân mà chấp làm nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Tất cả só phu và Bổ-đặc-già-la, đối với sự cảm thọ, hết thảy đều lấy sự biến hóa tự tại để làm nhân. Đây là không phải nhân mà chấp làm nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Tất cả só phu và Bổ-đặc-già-la, mọi sự cảm thọ đều là không có nhân-không có duyên. Đây là tà kiến bài bác nhân do kiến tập mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Tự mình làm ra khổ-vui, người khác làm ra khổ-vui, mình và người khác làm ra khổ-vui. Đây là không phải nhân mà chấp làm nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Mọi sự khổ-vui đã cảm thọ, không phải tự mình làm ra, không phải do người khác làm ra, không có nhân mà sinh ra. Đây là tà kiến bài bác nhân, do kiến tập mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Mình và thế gian, thường hằng tồn tại kiến cố, không có pháp nào biến dịch, đích thực an trú như vậy. Đây là biên chấp kiến thuộc về thường kiến, do kiến khổ mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Chân lý vốn tồn tại cho nên mình có bản ngã. Đây là biên chấp kiến thuộc về thường kiến, do kiến khổ mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Chân lý vốn tồn tại cho nên mình không có bản ngã. Đây là biên chấp kiến thuộc về đoạn kiến, do kiến khổ mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Mình quán nhãn sắc của mình chính là bản ngã. Đây là hữu thân kiến, do kiến khổ mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Mình quán không có nhãn của mình chính là bản ngã, sắc là những công cụ phụ thuộc. Đây là hữu thân kiến, do kiến khổ mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Không có bản ngã quán sắc của mình chính là bản ngã, nhãn là những công cụ phụ thuộc. Đây là hữu thân kiến, do kiến khổ mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Đây là ngã, là hữu tình; là mạng sống, là sự sinh trưởng, là sự nuôi nấng, là Bổ đặc-già-la; ý sinh nho đồng, là sự tạo tác, là sự chỉ dạy, là sự sinh trưởng-cùng sinh trưởng, là sự dấy khởi-cùng dấy khởi, là nói năng, là hiểu biết, là cùng tiếp nhận cảm thọ, không phải đã từng không có, không phải là sẽ không có; đối với mọi nơi chốn ấy, tạo ra nghiệp thiện-ác, đối với mọi nơi chốn ấy, nhận lấy quả dị thục; rời bỏ uẩn này, thì uẩn khác nối tiếp liên tục. Đây là biên chấp kiến thuộc về thường kiến, do kiến khổ mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Cảm thọ năm dục vi diệu, gọi là đạt được Niết bàn trong pháp hiện tại bậc nhất. Đây là lấy pháp yếu kém làm tốt đẹp, thuộc về kiến thủ, do kiến khổ mà đoạn. Có những kiến chấp như vậy: Lìa xa pháp bất thiện-ham muốn xấu xa, có tầm-có tứ, ly sinh hỷ lạc, nhập tónh lự thứ nhất an trú đầy đủ, gọi là đạt được Niết bàn trong pháp hiện tại bậc nhất; tầm-tứ vắng lặng; nội xứ cùng tâm thanh tịnh hướng về tính vốn có, không có tầm-không có tứ, định sinh hỷ lạc, nhập tónh lự thứ hai an trú đầy đủ, gọi là đạt được Niết bàn trong pháp hiện tại bậc nhất; ly hỷ trụ vào xả, chính niệm- chính tri, thân cảm thọ an lạc như lời Thánh giả tuyên thuyết, luôn luôn xả đầy đủ niệm an trú vui vẻ, nhập tónh lự thứ ba an trú đầy đủ, gọi là đạt được Niết bàn trong pháp hiện tại bậc nhất; đoạn vui-đoạn khổ, tâm lý mừng-lo trước kia không còn, không khổ-không vui, xả niệm thanh tịnh, nhập tónh lự thứ tư an trú đầy đủ, gọi là đạt được Niết bàn trong pháp hiện tại bậc nhất. Đây là lấy pháp yếu kém làm tốt đẹp, thuộc về kiến thủ, do kiến khổ mà đoạn. Có chín loại mạn, đó là mình hơn hẳn, mình bằng người, mình kém hơn, có người hơn mình, có người bằng mình, có người thua mình, không có ai hơn mình, không có ai bằng mình, không có ai thua mình. Mình hơn hẳn, là dựa vào kiến dấy khởi quá mạn. Mình bằng người, là dựa vào kiến dấy khởi mạn Mình kém hơn, là dựa vào kiến dấy khởi ti mạn. Có người hơn mình, là dựa vào kiến dấy khởi ti mạn. Có người bằng mình, là dựa vào kiến dấy khởi mạn. Có người thua mình, là dựa vào kiến dấy khởi quá mạn. Không có ai hơn mình, là dựa vào kiến dấy khởi mạn. Không có ai bằng mình, là dựa vào kiến dấy khởi quá mạn. Không có ai thua mình, là dựa vào kiến dấy khởi ti mạn. Có những kiến chấp như vậy: Gió không thổi, sông không chảy, lửa không cháy, sữa không đông lại, thai không mang, mặt trời-mặt trăng không mọc-không lặn, an trú trong tự tính nhiễm-tịnh, không tăng-không giảm. Đây là biến chấp kiến thuộc về thường kiến, do kiến khổ mà đoạn. Như trong khế kinh nói: Chúng sinh chấp do mình làm ra, Chấp người làm ra cũng như vậy, Tất cả không thể nào như thật, Quán sát biết đây là mùi tên. Hỏi: Lời này có nghĩa gì? Đáp: Chúng sinh, đó là chỉ cho ngoại đạo. Ngoại đạo dấy lên chấp rằng: Ngã có thể làm ra, ngã có thể sinh trưởng, ngã có thể thay đổi. Vì vậy nói là chúng sinh chấp do mình làm ra. Lại có ngoại đạo chấp người khác có thể làm ra, người khác có thể sinh trưởng người khác có thể thay đổi. Vì vậy nói là chấp người làm ra cũng như vậy. Tất cả nghĩa là mỗi một mà không phải là hết thảy. Mũi tên nghĩa là ác kiến luôn luôn làm cho bị trúng thương. Ngoại đạo đối với kiến chấp này, không thể nào quán sát biết như thật đây là mũi tên. Nên quán sát đây là mũi tên, Chúng sinh cố tình giữ chấp trước, Như vậy thì không hề có gì, Mình làm và người khác làm ra. Nên quán sát đây là mũi tên, nghĩa là nên quán sát biết như thật kiến chấp này là mũi tên độc thật sự, vốn làm kẻ đi trước dẫn đường cho lão-bệnh-tử. Chúng sinh cố tình giữ chấp trước, chúng sinh nghĩa là ngoại đạo, họ ở trong sự hứng thú đối với kiến chấp, chấp trước kiên cố, không thể nào rời ra được. Nếu có thể như thật quán sát biết như vậy, thì không còn có chấp vào mình làm ra-mình sinh trưởng-mình thay đổi, cũng không còn có chấp do người khác làm ra-người khác sinh trưởng- người khác thay đổi, do đó biết rằng đối với cái không phải là có mà vọng chấp là có. Chúng sinh có đủ mạn, Mạn trước và mạn trói, Đối với kiến ngược nhau, Không vượt qua sinh tử. Có đủ mạn, biểu hiện thành tựu bảy loại mạn. Chúng sinh, đó là ngoại đạo. Ngoại đạo đối với bảy loại mạn, vướng mắc vào đó-vướng mắc nhiều-vướng mắc khắp nơi, cho nên nói là mạn trước, trói buộc vào đó-trói buộc nhiều-trói buộc khắp nơi, cho nên nói là mạn trói. Đối với kiến ngược nhau, nghĩa là hai loại đoạn kiến và thường kiến, trái ngược lẫn nhau. Không vượt qua sinh tử, nghĩa là ngoại đạo đối với sinh tử không có giới hạn, không có năng lực vượt qua Mà đến được Niết bàn. Được-sẽ được đều là tro bụi, Học kém tắm trong giới cấm thủ, Một bên thờ khổ hạnh-tịnh phạm, Thọ dục thanh tịnh là thứ hai, Không thấy cuối cùng mãi chạy theo, Mắt sáng thấy có thể khác lạ, Đối với trần mạn không có kia, Hết đường đến giới hạn khổ đau. Đạt được, là biểu hiện rõ ràng đã đạt được các uẩn-giới-xứ; sẽ đạt được, là biểu hiện rõ ràng chưa đạt được các uẩn-giới-xứ; đều là tro bụi, nghĩa là cả hai điều này đều là tham sân si, đó là tro bụi-khắp nơi là tro bụi-cuối cùng là tro bụi. Kém có hai nghĩa: Một là mắt bị bệnh, hai là mắt ngoại đạo. Nay nói ngoại đạo là kém, bởi vì họ học theo đối với điều này cho nên nói là học kém. Họ dấy lên nói rằng: Các Bổ-đặc- già-la, học cưỡi voi ngựa-chèo thuyền-lái xe-gánh kiệu, cầm giữ cung tên-dao gậy-móc sắt-vòng quay-dây lụa, viết chép-in ấn-tính toán, đều làm cho thông thạo khéo léo, nhờ đó liền đạt được thanh tịnh, giải thoát xa rời đến cuối cùng giới hạn của khổ-vui. Đây là không phải nhân mà chấp làm nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn. Giới là có những ngoại đạo, dấy khởi kiến chấp này, lập thành luận thuyết này, các Bổ-đặc-già-la thọ trì các giới trâu chó hươu dê-giới khỏa thân trần truồng…, nhờ vậy liền đạt được giải thoát thanh tịnh, xa rời đến tận cùng giới hạn của khổ-vui. Đây là không phải nhân mà chấp làm nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn. Cấm là có những ngoại đạo, dấy khởi kiến chấp này, lập thành luận thuyết này, các Bổ-đặc-già-la thị trì những điều cấm kî đối với quạ-cấm kî đối với chim cú- cấm kî đối với sự im lặng…, nhờ vậy liền đạt được giải thoát thanh tịnh, xa rời đến tận cùng giới hạn của khổ-vui. Đây là không phải nhân mà chấp làm nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn. Tắm gội là có những ngoại đạo, dấy khởi kiến chấp này, lập thành luận thuyết này, các Bổ-đặc-già-la tắm gội ở trong ba hồ nơi cửa sông Ma-nại-bà, Tỷ- ma-nại-bà, Căng-già, nhờ vậy liền được giải thoát thanh tịnh xa rời đến tận cùng giới hạn của khổ-vui. Đây là không phải nhân mà chấp làm nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn. Phạm nghĩa là phạm hạnh, có những ngoại đoạn, dấy khởi kiến chấp này, lập thành luận thuyết này, các Bổ-đặc-già-la thọ trì phạm hạnh, xa lìa dâm dục, nhờ vậy liền được giải thoát thanh tịnh, xa rời đến tận cùng giới hạn của khổ-vui. Đây là không phải nhân mà chấp làm nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn, khổ nghĩa là khổ hạnh, có những ngoại đạo dấy khởi kiến chấp này, lập thành luận thuyết này, các Bổ-đặc-già-la thọ trì các loại khổ hạnh, nhờ vậy liền đạt được giải thoát thanh tịnh, xa rời đến tận cùng giới hạn của khổ-vui. Đây là không phải nhân mà chấp làm nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn. Sự nghĩa là thừa sự, có những ngoại đạo dấy khởi kiến chấp này, lập thành luận thuyết này, các Bổ-đặc-già-la điều phục nơi voi ngựa trâu dê, thờ cúng nhật-nguyệt-tinh-tú-lửa-châu ngọc-thuốc thang…, nhờ vậy liền đạt được giải thoát thanh tịnh, xa rời đến tận cùng giới hạn của khổ vui. Đây là phải nhân mà chấp làm nhân, thuộc về giới cấm thủ, do kiến khổ mà đoạn. Một bên, nghĩa là trước đã nói chính là phía khổ hạnh. Thọ dục thanh tịnh, có những ngoại đạo dấy khởi kiến chấp này, lập thành luận thuyết này, đối với dục lạc thanh tịnh vi diệu, tùy ý vui sướng tiếp nhận hưởng thụ mà không có lỗi lầm gì. Đây là lấy pháp thấp kém làm tốt đẹp, thuộc về kiến thủ, do kiến khổ mà đoạn. Là thứ hai, nghĩa là ở đây nói đến chính là phía lạc hạnh. Không thấy, nghĩa là những ngoại đạo đối với hai phía đã nói trước đây, không thấy đúng như thật. Cuối cùng mãi chãy theo, nghĩa là ngoại đạo kia, bởi vì không thấy cho nên nhất loạt dấy lên ái trước, do đó gọi là cuối cùng chìm đắm theo, nhất loạt dấy khởi kiến chấp, do đó gọi là cuối cùng mãi chạy theo. Vả lại, nhất loạt lười nhác, cho nên gọi là cuối cùng chìm đắm theo; nhất loạt trạo cử, cho nên gọi là cuối cùng mãi chạy theo. Lại nữa, nhất loạt dấy khởi mạn, cho nên gọi là cuối cùng chìm đắm theo; nhất loạt dấy khởi quá mạn, cho nên gọi là cuối cùng mãi chạy theo. Mắt sáng thấy, mắt sáng nghĩa là phật và đệ tử của Phật, thấy nghĩa là ở trước đã nói về hai bên, thấy biết đúng như thật. Có thể khác lạ, bởi vì thấy biết đúng như thật, cho nên không giống với kẻ kia cuối cùng chìm đắm theo, cuối cùng mãi chạy theo, bởi vì luôn luôn không dấy khởi những ái kiến… Đối với trần mạn không có kia, nghĩa là đối với uẩn-giới-xứ đã đạt được hay chưa đạt được, không dấy khời bụi bặm của tham sân si. Đối với trần mạn không có kia, nghĩa là đối với hai bên, tuy đều xa lìa mà tâm không ỷ lại. Hết đường, là nếu luôn luôn như vậy thì cắt đứt ba đường, đó là phiền não nghiệp khổ. Đến giới hạn khổ đau, khổ nghĩa là khổ do năm thủ uẩn. Giới hạn nghĩa là Niết bàn. Nếu cắt đứt ba đường, thì nhất định đến cuối cùng giới hạn của khổ uẩn này. ----------------- <詞>Phẩm 6: BÀN VỀ GIÀ THA Thấy lưới giăng đẹp cõi Phạm phụ, Xe vốn là lưu chuyển niềm tin, Tuệ vương mẫu thoát khỏi các căn, nghĩa Chương này xin nói đầy đủ. Người đã thấy thì luôn luôn thấy, Đã thấy cùng với không thấy gì, Người không thấy thì không thể thấy, Không thể thấy cùng với đã thấy. Đã thấy, nghĩa là đã thấy được khổ-tập-diệt-đạo. Luôn luôn thấy- đã thấy và không thấy, nghĩa là người ấy luôn luôn thấy những điều mà người khác đã thấy, và không thấy được khổ-tập-diệt-đạo. Người không thấy, nghĩa là những người không thấy được khổ-tập-diệt-đạo. Không thể thấy điều không thể thấy cùng với đã thấy, nghĩa là người ấy không thấy những điều người khác không thấy và đã thấy được khổ-tập-diệt- đạo, không thể thấy điều không thể thấy cùng với đã thấy, nghĩa là người ấy không thấy những điều người khác không thấy và đã thấy được khổ-tập-diệt-đạo. Không nên làm hại những Phạm chí, Lại cũng không nên rời bỏ họ, Nếu làm hại hoặc rời bỏ họ, Đều bị người trí thế gian trách. Không nên làm hại những Phạm chí, Phạm chí tức là A-la-hán, nghĩa là không nên dùng tay-đất đá-dao gậy để làm hại A-la-hán. Lại cũng không nên rời bỏ họ, nghĩa là đối với A-la-hán, thì nên dùng y phục-đồ ăn thức uống-đồ nằm-thuốc thang và những đồ vật dụng cụ khác, cung kính cung dường chứ không nên rời bỏ. Nếu làm hại hoặc rời bỏ họ- đều bị người trí thế gian trách, nghĩa là đối với A-la-hán, nếu dùng mọi thứ để làm hại, hoặc là lìa bỏ mà không cung kính cúng dường thì đều bị những người có trí ở thế gian chê bai chỉ trích. Ngang ngược làm hại đến cha mẹ Vua chúa và hai bậc đa văn, Hủy diệt đất nước và tùy hành, Vượt qua Phạm chí không ngăn ngại. Ngang ngược làm hại đến cha mẹ-vui chúa và hai bậc đa văn: Mẹ tức là dụ cho ái, bởi vì luôn luôn sinh ra. Như Đức Thế Tôn nói: Só phu do ái mà sinh ra, Do tâm cho nên mãi rong ruổi, Hữu tình ở trong chốn sinh tử, Khổ đau là vô cùng sợ hãi. Cha, tức là dụ cho nghiệp hữu lậu, bởi vì luôn luôn dẫn dắt. Như Đức Thế Tôn nói: “Này Bí-sô, hữu tình như vậy, tạo ra thiện hữu lậu, do tu mà nghiệp thành tựu, được sinh ở cõi kia mà nhận lấy quả dị thục, cho nên Ta nói thuận theo nghiệp mà đi”. Vua chúa, tức là dụ cho hữu- thủ-thức. Như Đức Thế Tôn nói: Tăng thượng thứ sáu là tâm vương, Tự mình giữ lấy nhiễm thì nhiễm, Không có gì nhiễm mà có nhiễm, Nhiễm thì gọi là người ngu si. Đức Thế Tôn lại nói: “Này Bí-sô nên biết! Ta nói đến chủ thành, chính là hữu-thủ-thức”. Hai bậc đa văn, tức là dụ cho kiến thủ và giới cấm thủ. Như cúng tế-thờ tự im lặng, hai bậc đa văn ở trong chỗ bụi bặc dơ bẩn cùng làm ra mọi thứ hý luận. như vậy hai thủ, chấp vào pháp hữu lậu , lấy làm cao đẹp bậc nhất; hoặc là giải thoát thanh tịnh rời xa, vónh viễn đoạn trừ thức-thủ-ái nghiệp, cho nên gọi là ngang ngược làm hại. Đất nước, dụ cho phiền não. Tùy hành, dụ cho tầm-tứ tương ưng với thức-thủ. Hủy diệt nghĩa là giết sạch, vónh viễn loại bỏ đoạn trừ phiền não tầm tứ, cho nên gọi là hủy diệt. Không ngăn ngại, ngăn ngại có ba loại đó là tham sân si. Người kia đối với ba loại này, đã đoạn trừ và biết khắp, cho nên gọi là không ngăn ngại. Vượt qua ấy là thoát ra. Người ấy không có gì ngăn ngại, cho nên vượt ra ngoài ba cõi, vónh viễn trừ bỏ ác pháp, cho nên gọi là Phạm chí. Như Đức Thế Tôn nói: Phật luôn luôn an trú chính niệm, Thường xuyên giáo hóa cho thế gian, Diệt trừ ác pháp không còn kiết, Cho nên gọi là bậc Phạm chí. Ngang ngược làm hại đến mẹ cha, Vua chúa và hai bậc đa văn, Trừ bỏ hổ-oán hận thứ năm, Người này nói là bậc thanh tịnh. nghĩa của nữa trên trong tụng này như trước đã nói. Hổ là dụ cho sân trói buộc, như loài hổ bẩm tính hung bạo hiểm ác, ăn thịt uống máu mọi loài; sân trói buộc cũng như vậy, hung bạo hiểm ác, hủy diệt các thiện căn. Oán hận thứ năm, là dụ cho cái thứ năm trong năm cái, hoặc dụ cho kiết thứ năm trong năm kiết thuận phần dưới. Vónh viễn loại bỏ đoạn trừ, cho nên nói là trừ bỏ. Người này vónh viễm đoạn trừ tham sân si, cho nên nói là bậc thanh tịnh. Thắng rồi không trở lại thắng nữa, Đã thắng không có gì phụ thuộc, Công hạnh của Phật không giới hạn, Không dấu tích từ đâu hướng đến. Thắng rồi, nghĩa là các phiền não đã đoạn trừ biết khắp. Nơi ấy có tiếp tục thắng, có lúc không trở lại thắng nữa. Ai tiếp tục thắng? Đó là người đã đoạn trừ phiền não về sau lại còn lui sụt. Ai không trở lại thắng nữa? Đó là người đã đoạn trừ phiền não không còn lui sụt nữa? Người không trở lại thắng nữa, là chọn lấy sự khác biệt với người tiếp tục thắng. Đã thắng không có gì phụ thuộc, nghĩa là nếu phiền não chưa đoạn biết khắp, thì phụ thuộc vào ba cõi, lưu chuyển mãi không dứt. Khi các phiền não đã đoạn trừ biết khắp, chính là không có gì phụ thuộc. Công hạnh của Phật không giới hạn, nghĩa là Phật Thế Tôn, đầy đủ trí- kiến vô học, giác ngộ bồ đề rõ ràng, tuệ soi chiếu hiện quán, phát khởi đạt được thành tựu, cho nên tôn xưng là Phật. Bốn loại niệm trú, gọi là công hạnh của Phật. Bốn niệm trú này, có hành tướng sở duyên, đều không có giới hạn, cho nên gọi là vô biên, không dấu tích từ đâu hướng đến, dấu tích nghĩa là dấu vết bàn chân, tức là dụ cho phiền não. Nếu các phiền não chưa đoạn trừ biết khắp, thì lúc ấy hướng về nẽo ác trong ba cõi; các phiền não đã đoạn trừ biết khắp, cho nên không còn hướng về nơi nào nữa. Những mạng lưới không thể giăng ra, Ái không còn nơi nào nuôi dưỡng, Công hạnh của Phật không giới hạn, Không dấu tích từ đâu hướng đến. Những mạng lưới không thể giăng ra, mạng lưới tức là dụ cho ái. Như Đức Thế Tôn dạy: “Ta nói lưới ái giăng ra che phủ khắp nơi. Nếu như ái chưa đoạn trừ biết khắp, thì có thể mạng lưới sẽ giăng ra khắp ba cõi. Ái đã đoạn trừ biết khắp, cho nên không thể giăng ra được”. Ái không còn nơi nào nuôi dưỡng, nếu ái chưa đoạn trừ biết khắp, thì có thể nuôi dưỡng hướng đến ba cõi. Đã đoạn trừ diệt biết khắp, cho nên không còn gì nuôi dưỡng hướng đến. nghĩa của nửa sau trong bài tụng, như trước đã nói: Xe đã hư hoại-dây đã đứt, Chảy băng băng cùng với tùy hành, Vượt qua hào sâu của thế gian, Chỉ riêng Phật xưng là Phạm chí. Xe đã hư hoại-dây đã đứt, chảy băng băng cùng với tùy hành: Xe là dụ cho ngã mạn, dây là dụ cho ái. Như chiếc xe chuyên chở đồ vật, bởi vì chiếc xe vốn nó đã cao, dùng dây buộc chặt để giữ lại, đi xa thì có nơi đến; hữu tình cũng như vậy, bởi vì mạn vốn nó đã cao, mà do ái buộc chặt để giữ lại, lưu chuyển trong sinh tử. Chảy băng băng tức là dụ cho tất cả phiền não. Tùy hành là dụ cho tầm-tứ tương ưng với phiền não. Đã đoạn biết khắp mạn ái là những phiền não tương ưng với tầm- tứ, gọi là đã đoạn trừ hư hoại. Vượt qua hào sâu, hào sâu là dụ cho vô minh, đã đoạn trừ biết khắp cho nên gọi là vượt qua. Như Đức Thế Tôn dạy: “Đến đâu thì gọi là đã vượt qua hào sâu? Đó là đã đoạn trừ biết khắp vô minh”. Đối với thế gian chỉ riêng Phật xưng là Phạm chí, nghĩa giải thích như trước. Đối với các thế gian, chỉ riêng Phật được tôn xưng là bậc vô Thượng Giác, là bậc Phạm chí chân thật, mới có năng lực vónh viễn diệt trừ những ác pháp vốn có. Một nguồn chảy-hai dòng nước xoáy, Ba cấu trược-năm loại lưu chuyển, Biển mênh mông-mười hai đèo cao, Mâu Ni đều đã vượt qua hết. Một nguồn chảy là dụ cho vô minh, vốn là gốc rễ của sinh tử. Như Đức Thế Tôn dạy: Tất cả các nẻo ác khổ đau, Đời hiện tại và đời vị lai, Đều do vô minh làm gốc rễ, Các loại dục tham cùng giúp đỡ. Hai dòng nước xoáy, tức là dụ cho danh sắc, hữu tình ở trong đó khó mà thoát ra được. Ba cấu trược, đó là tham sân si. Năm loại lưu chuyển tức là dụ cho năm thú, hữu tình ở trong đó luôn luôn lưu chuyển bất tận. Biển mênh mông là dụ cho sáu nội xứ. Mười hai đèo cao, tức là mười hai tướng, đây là dụ cho sáu nội xứ và sáu ngoại xứ. Đèo cao là hầm hố nguy hiểm, dụ cho các phiền não. Mâu Ni đều đã vượt qua hết, Mâu Ni có hai, đó là học và vô học. Học là đang vượt qua tất cả mọi thứ kia, vô học là đã vượt qua tất cả mọi thứ kia. Không tin tưởng-không biết ân tình, Đoạn thân thiết không chốn dung thân, Luôn luôn hy vọng thay đổi hết, Chính là bậc trượng phu cao nhất. Không tin tưởng, đó là A-la-hán đối với Tam bảo-Tứ đế đều tự mình chứng biết, không phải là tin theo người khác nói. Không biết ân tình, ân tình đó là hữu vi, vốn có tác dụng; Niết bàn gọi là không ân tình, các bậc A-la-hán có trí kiến tốt đẹp, vốn biết là không phải ân tình, cho nên gọi là không biết ân tình. Đoạn thân thiết, thân thiết nghĩa là nối tiếp. Ở đây có hai loại: Cõi Dục và cõi Sắc nối tiếp nhau. Cõi Sắc và cõi Vô sắc nối tiếp nhau. Bậc A-la-hán ấy xa lìa sự nối tiếp nhau này, cho nên gọi là đoạn thân thiết. Không chốn dung thân, nghĩa là bậc A-la-hán xa lìa sự nối tiếp nhau, cho nên ở trong ba cõi không có nơi tiếp nhận sinh ra. Luôn luôn hy vọng thay đổi hết: Hy vọng có hai loại, một là hy vọng về tài sản địa vị, hai là hy vọng về thọ mạng. Bậc A-la-hán ấy đối với hai loại này, đã đoạn trừ biết khắp, cho nên gọi là thay đổi hết, tức là nghĩa của sự từ bỏ tâm lý luôn luôn hy vọng. Chính là bậc trượng phi cao nhất, đó là bậc A-la-hán đạt được công đức bậc nhất-tốt đẹp nhất-cao nhất đã nói trước đây. Vì vậy gọi là cao nhất-tốt đẹp nhất-đứng bậc nhất trong hàng trượng phu. Ba mươi sáu dòng chảy băng băng, Do ý dẫn dắt càng thâm mạnh, Hạng ác kiến điều khiển rong ruổi, Phân biệt vướng mắc nơi nương tựa. Ba mươi sáu dòng chảy băng băng, là dụ cho ba mươi sáu hành ái. Do ý dẫn dắt, nghĩa là ý làm nơi quy tụ, do ý mà sinh khởi, là chủng loại thuộc về ý. Càng thêm mạnh, đó là nhanh chóng tròn đầy đến mức cao nấht. Hạng ác kiến, đó là những ngoại đạo, học điều khiển rong ruổi theo điều này, hướng đến nẽo dữ của địa ngục-ngạ quỷ-súc sinh, cho nên gọi là điều khiển rong ruổi. Phân biệt thì đó là ba loại phân biệt: Phân biệt vì dục Phân biệt vì giận dữ. Phân biệt vì tổn hại. Vướng mắc nơi nương tựa, vướng mắc ng- hóa là tham dục-giận dữ-ngu si. Dựa vào đây dấy khởi kia, cho nên gọi là nơi nương tựa, Bỏ ác hạnh của thân, và ác hạnh của ngữ, Bỏ ác hạnh của ý, và những lỗi lầm khác. Bỏ ác hạnh của thân, đó là đoạn trừ ba ác của thân. Và ác hạnh của ngữ, đó là đoạn trừ bốn ác hạnh của ngữ. Bỏ ác hạnh của ý, đó là đoạn trừ ba ác hạnh của ý. Và những lỗi lầm khác, đó là đoạn trừ mười loại ác hành trước và những lỗi lầm khác. Ông đối với những điều thấy nghe, Chỉ có những điều đã thấy nghe, Và đối với những điều hiểu biết, Chỉ có những điều đã hiểu biết. Bởi vì ông chỉ có như vậy, Không có đây kia và xa gần, Cũng không có khoảng giữa hai bên, Thì đến giới hạn của khổ đau. Hai tụng như vậy là tụng lại trong kinh: “Đức Phật bảo với Đại Mẫu: Ông đối với điều đã thấy, chỉ có điều đã thấy; ông đối với điều đã nghe, chỉ có điều đã nghe, ông đối với điều đã hiểu, chỉ có điều đã hiểu; ông đối với điều đã biết, chỉ có điều đã biết. Bởi vì ông chỉ có những điều đã thấy nghe…, cho nên ông không có nơi này, cho nên ông không có nơi kia; vì ông không có nơi kia, cho nên ông không có xa-không có gần, không khoảng giữa hai bên. Bởi vì nhân duyên này, cho nên đến giới hạn của khổ đau” Trong này, nhãn thức đã tiếp nhận, đã phân biệt rõ ràng, gọi là đã thấy. Có lúc đối với điều đã không thấy, chỉ có điều đã thấy; có lúc đối với điều đã thấy mà không phải là chỉ có điều đã thấy; ai đối với điều đã thấy, chỉ có điều đã thấy? Đó là đối với nhãn thức đã tiếp nhận, đã phân biệt rõ ràng, mà không dấy khởi phiền não. Ai đối với điều đã thấy mà không phải là chỉ có điều đã thấy? Đó là đối với nhãn thức đã tiếp nhận, đã rõ ràng mà dấy khởi các phiền não. Nhó thức đã tiếp nhận, đã phân biệt rõ ràng, gọi là đã nghe. Có lúc đối với điều đã nghe, chỉ có đã nghe; có lúc đối với điều đã nghe mà không phải là chỉ có điều đã nghe. Ai đối với điều đã nghe, chỉ có điều đã nghe? Đó là đối với nhó thức đã tiếp nhận, đã phân biệt rõ ràng, mà không dấy khởi phiền não. Ai đối với điều đã nghe mà không phải là chỉ có điều đã nghe? Đó là đối với nhó thức đã tiếp nhận, đã phân biệt rõ ràng mà dấy khởi các phiền não. Ba thức tỷ-thiệt-thân đã tiếp nhận, đã phân biệt rõ ràng, gọi là đã hiểu. Có lúc đối với điều đã hiểu, chỉ có điều đã hiểu; có lúc đối với điều mà không phải là chỉ có đã hiểu. Ai đối với điều đã hiểu, chỉ có điều đã hiểu? Đó là đối với ba thức đã tiếp nhận, đã phân biệt rõ ràng, mà dấy khởi phiền não. Ai đối với điều đã hiểu mà không phải là chỉ có điều đã hiểu? Đó là đối với ba thức đã tiếp nhận, đã phân biệt rõ ràng, mà dấy khởi các phiền não. Ý thức đã tiếp nhận đã phân biệt rõ ràng, gọi là đã biết. Có lúc đối với điều đã biết, chỉ có điều đã biết; có lúc đối với điều đã biết mà không phải là chỉ có điều đã biết. Ai đối với điều đã biết, chỉ có điều đã biết? Đó là đối với ý thức đã tiếp nhận, đã phân biệt rõ ràng, mà không dấy khởi phiền não. Ai đối với điều đã biết mà không phải là chỉ có điều đã biết? Đó là đối với ý thức đã tiếp nhận, đã phân biệt rõ ràng, mà dấy khởi các phiền não. Bởi vì người ấy đối với những điều đã thấy-nghe-hiểu-biết, chỉ có những điều đã thấy-nghe- hiểu-biết, mà không dấy khởi phiền não, cho nên không có nơi này, nghĩa là không dấy khởi tâm lý kiêu mạn-cao ngạo-đề cao mình-mạnh mẽ quyết đoán. Bởi vì không có nơi này cho nên không có nơi kia, nghĩa là không dấy khởi tham-sân-si. Bởi vì không có nơi kia cho nên không có xa-không có gần, không có khoảng giữa hai bên, nghĩa là đối với cõi Dục-cõi Sắc-cõi Vô sắc, đều không còn nơi sinh ra. Dựa vào lý như vậy, thì đến được giới hạn của khổ đau. Khổ đau đó là năm thủ uẩn, giới hạn của khổ đau này tức là rời bỏ tất cả mọi nơi nương tựa, ái không còn-lìa xa nhiễm trước-vónh viễn diệt hết đến nơi Niết bàn. Giống như Y-nê và Mê-nê, Đạp-phô cùng với Đạt-điệp-phô, Đừng mong nên vui với tịch lặng, Lìa hết đến giới hạn khổ đau. Một tụng như vậy là hiển bày lại trong kinh: “Đức Phật vì hai vị vua hộ thế mà phát ra ngôn ngữ Miệt-lệ-xa để thuyết giảng về bốn Thánh đế…, hai vị vua liền lónh hội được.” Y-nê là hiển bày Thánh đế về khổ, Mê-nê là hiển bảy Thánh đế về tập, Đạo-phô là hiển bày Thánh đế về Diệt, Đạt-điệp-phô là hiển bày Thánh đế về Đạo. Đừng mong là khuyên nhủ hai vị vua ấy đừng mong cầu đến cõi Dục-cõi Sắc và cõi vô sắc. Nên vui với, là khuyên nhủ hai vị vua ấy nếu nghe Đức Phật chứng pháp Bồ đề, thì cố gắng giảng giải về tăng tu tập diệu hạnh là Sắc vô thường, Thọ-Tưởng-Hành- Thức vô thường, khéo léo thiết lập về khổ đế, khéo léo thiết lập về Tập-Diệt-Đạo đế, nên sinh tâm hoan hỷ. Nên tịch lặng, là khuyên nhủ hai vị vua ấy nếu lúc tham sân si dấy khởi, thì nên tịch lặng tất cả-tịch lặng đến mức cao nhất-tịch lặng đến tận cùng. Nên lìa hết, là khuyến khích tâm hai vị vua ấy nên lìa xa cõi Dục-Cõi Sắc và cõi Vô sắc. Đến giới hạn khổ đau, đó là hai vị vua ấy nếu có thể như vậy, thì đến được giới hạn của khổ đau. Giới hạn của khổ đau thì nghĩa như trước đã nói. Biết thân như bọt nước tụ tập, Cũng hiểu rõ như hơi nắng tỏa, Đoạn trừ hoa đốm bay huyễn ảo, Không thấy sứ giả của vua chết. Biết thân như bọt nước tụ tập: Đó là biết đúng như thật thân giống như bọt nước tụ tập, không có sức lực-trống rỗng yếu kém không thể nắm giữ được. Cũng hiểu rõ như hơi nắng tỏa: Đó là hiểu đúng như thật thân giống như hơi năng nóng tỏa ra, là nhân tố sinh ra nóng bức phiền muộn, chuyển dịch không dừng lại. Đoạn trừ hoa đốm bay huyễn ảo: Hoa đốm tụ cho cha, ma có bốn loại, đó là ma phiền não-ma uẩn-ma chết-ma cõi trời Tự tại. Nên biết rằng trong này nói đến là ma phiền não. Do kiến mà đoạn trừ, thì gọi là ma hoa; do tu mà đoạn trừ, thì gọi là ma nhỏ. Đối với các loại ấy vónh vónh đoạn trừ rời bỏ gọi là đoạn tuyệt. Không thấy sứ giả của vua chết: Vô thường luôn luôn hủy diệt, gọi nó là vua chết. Lão-bệnh đuổi thao bức bách, gọi là sứ giả của vua chết. Quán sát an trú hiểu gần-xa, Nên vui mừng không còn các nghiệp, Biết cuộc đời có hưng-có suy, Tâm thiện giải thoát khắp mọi nơi. Quán sát an trú, đó là nên quán sát. An trú có ba loại: Không. Vô nguyện. Vô tướng. Hiểu gần-xa, hiểu nghĩa là tuệ giác, thông minh đầy đủ tất cả, đối với nội cảnh và ngoại cảnh, thuận theo đích thực mà sinh khởi. Nên vui mừng, nghĩa là nếu nghe thuyết giảng về pháp chứng ngộ Bồ-đề của Đức Phật, thì cố gắng giảng giải về Tăng tu tập diệu hạnh là Sắc vô thường, Thọ-Tưởng-Hành-Thức vô thường, khéo léo thiết lập khổ đế, khéo léo thiết lập Tập-Diệt-Đạo đế, nên sinh tâm hoan hỷ. Không còn các nghiệp, đó là không thành tựu, có thể cảm được nghiệp thân-ngữ-ý của đời vị lai. Biết cuộc đời có hưng-có suy; Biết nghĩa là thông hiểu rõ ràng. Cuộc đời, nghĩa là năm thủ uẩn. Hưng suy, nghĩa là sinh-diệt. Tức là nghĩa của sự tùy thuận quán sát năm uẩn hữu lậu có phát khởi và hủy diệt. Tâm thiện, đó là tâm quyết trạch-tâm thiện xảo-tâm điều hòa mềm mỏng. Giải thoát khắp mọi nơi, nghĩa là đối với các cõi-các hữu- các sinh, đã giải thoát-giải thoát khắp nơi-giải thoát đến cuối cùng. Tuy thoát ra mà lại rơi rụng, Tham ăn uống vẫn còn trở lại, Được yên ổn vẫn thích vui sướng, Nhờ vào vui đến nơi vui hơn. Tuy thoát ra, đó là các ngoại đạo, tuy thoát ra ngoài cõi Dục mà vẫn còn rơi rụng. Mà lại rơi rụng, đó là ngoại đạo còn rơi rụng sinh vào cõi Sắc-cõi Vô sắc, và rơi vào tâm lý tham lam thọ sinh các cõi ấy. Tham ăn uống vẫn còn trở lại: Đó là ngoại đạo đối với năm kiết thuận phần dưới, tuy đoạn được phần ít, mà còn lại rất nhiều, cho nên về sau nhất định dấy khởi tham, sinh trở lại cõi Dục. Được yên ổn, yên ổn đó là cảnh giới Hữu dư y Niết bàn, các bậc A-la-hán đã chứng cho nên gọi là được. Vẫn thích vui sướng, vui sướng đó là cảnh giới vô dư y Niết bàn, các bậc A-la-hán luôn luôn ngưỡng mộ và ưa thích cho nên gọi là thích. Nhờ vào vui đến nơi vui hơn: Đó là nhờ vào niềm vui đối với đạo, đến với niềm vui của cảnh giới Niết bàn. Không có gốc rễ ở phần đất, Không có lá cũng không có cành, Người dũng mãnh cởi bỏ ràng buộc, Ai lại tùy ý mà chê bai? Gốc rễ là dụ cho hữu-thủ-thức. Phần tất là dục cho bốn thức trú. Như Đức Thế Tôn dạy: “Năm chủng tử là biểu hiện về bốn thức trú”. Lá là dụ cho ngã mạn. Như đức Thế Tôn dạy: “Tại sao phải đốt lá? nghĩa là ngã mạn đã đoạn trừ-đã biết khắp.” Cành là dụ cho ái. Như Đức Thế Tôn dạy: Trong cung điện năm màu tuyệt diệu, Nếu như có cành ái sinh ra, Mâu Ni thấy cành ái sinh ra, Dùng kiếm tuệ nhanh chóng đoạn trừ. Các vị A-la-hán, ở trong bốn thức trú, không có thức hữu-thủ dắt dẫn nhân quả dị thục đời sau, không có mạn-không có ái, cho nên nói là không có gốc rễ ở phần đất-không có lá cũng không có cành. Người dũng mạnh, đó là bậc A-la-hán thành tựu, vốn có năng lực thành tựu pháp dũng mãnh, cho nên cũng gọi là người dũng mãnh. Cởi bỏ ràng buộc, ràng buộc có ba loại, đó là tham sân si. Bậc A-la-hán đối với ràng buộc này, đã giải thoát-giải thoát khắp nơi-giải thoát đến cuối cùng. Ai lại tùy ý mà chế bai: nghĩa là loại Bổ-đặc-già-la như vậy, chỉ thuận theo ca ngợi chứ không nên chê bai. Nếu như dẫn đến chê bai khinh rẻ, thì nhận chịu vô số tội lỗi, bởi vì làm tổn hại đến ruộng phước chân thật của thế gian. Như đức Thế Tôn dạy: Nếu như đáng chê mà lại khen, Và đáng ca ngợi mà chê bai, Miệng người kia tụ tập tai họa, Chắc chắn không thể nào an lạc. 