<經 id="n1532">THẮNG TƯ DUY PHẠM THIÊN SỞ VẤN KINH LUẬN HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1532 THẮNG TƯ DUY PHẠM THIÊN SỞ VẤN KINH LUẬN Tác giả: Bồ-tát Thiên Thân. Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Tam Tạng Pháp sư Bồ Đề Lưu Chi. <卷>QUYỂN 1 nghĩa của bốn câu: “Quy mạng Phật Thích-ca Mâu-ni…”: Ở phần đầu của các kinh đều có luận giải thích. Như sự giải thích đó nên biết. Đức Phật giảng nói pháp môn này ở giữa đại chúng: Là nhằm chỉ rõ pháp thù thắng thuộc về đại chúng nơi trú xứ thuyết pháp, vì dựa vào thắng cảnh của núi kia để thuyết giảng. Sáu vạn bốn ngàn Tỳ-kheo Tăng: Đây là chỉ rõ sự trang nghiêm nơi đại chúng của Như Lai. Pháp môn của kinh này rất là sâu xa, mầu nhiệm, hoàn toàn siêu việt cảnh giới của hàng Thanh văn, vì chỉ rõ Như Lai có khả năng giảng nói nghĩa cao hơn hết. Bảy vạn hai ngàn các Bồ-tát. Vì sao Bồ-tát lại nhiều hơn Thanh văn? Vì kinh điển này nhằm vào các Đại Bồ-tát mà giảng nói về pháp hết mực thâm diệu. Đó là điều mà bậc trí đều biết. Đã nhận biết rồi tại sao phải nói lại? Vì dựa vào pháp thế gian. Thế gian nói sự thù thắng trong thù thắng. Như nói đoan nghiêm tột bậc trong sự đoan nghiêm, mới có thể hướng đến tương lai. Đối với người có đức tốt đẹp trong mọi người có đức, mới có thể xây dựng cho tương lai. Các Bồ-tát kia đều có trí riêng, không phải là có chung. Lại còn có nghĩa: Đó là điều mà bậc trí đều biết. Nhận biết: Là đã nhập vào cảnh giới nơi đối tượng nhận biết của Bồ-tát. Đó là làm rõ nghĩa gì? Nguyên vì trước kia, các Đại Bồ-tát này đã từng thực hành việc các Bồ-tát làm, nên biết được Bồ-tát kia. Vì thế nên nói: Đó là điều mà bậc trí đều biết. Các Bồ-tát là bậc trí kia, về đối tượng được nhận biết có bảy loại đức, đều dựa vào biện tài ưa nói pháp, nên biết. Những gì là bảy? Đó là: Biện tài ưa giảng nói mọi thứ. Biện tài ưa giảng nói pháp không vấp váp. Biện tài ưa giảng nói pháp kiên cố. Biện tài ưa giảng nói pháp rõ ràng dễ hiểu. Biện tài ưa giảng nói pháp không khiếp nhược. Biện tài ưa giảng nói pháp tương ưng. Biện tài ưa giảng nói tùy ý mở rộng. Các biện tài trên đây như kinh nói: Chứng được đầy đủ Đà-la-ni, cho đến chứng ngộ Vô sinh pháp nhẫn. Bảy câu như thế theo thứ tự mà giảng nói, nghĩa này nên biết. Nên biết như thế nào? Đà-la-ni là do tuệ nghe nhiều học rộng, ưa giảng nói các pháp môn, cho nên gọi là vô số các thứ biện tài ưa giảng nói. Vì giảng nói rất nhanh nhẹn, lưu loát, không dừng lại, cho nên gọi là biện tài ưa giảng nói không ngưng trệ, vấp váp. Vì đã được thâu nhận các Tam-muội cho nên không hề quên sót, lầm lẫn, do đó gọi là biện tài ưa giảng nói vững chắc. Các Đại Bồ-tát…, vì đã trú chắc do dựa vào diệu lực thần thông thù thắng, không sợ tất cả các thứ ma…, nên gọi là biện tài ưa giảng nói rõ ràng, dễ hiểu. Bồ-tát đã được bốn pháp không sợ hãi, với uy đức mầu nhiệm, đối với chúng của mình, của người khác đều không chút sợ hãi, cho nên gọi là biện tài ưa giảng nói không khiếp nhược. Dựa vào sự giả danh, nhờ oai lực Phật gia bị, nên Bồ-tát đã thành tựu Thể tướng của ba pháp, và không điên đảo, cho nên gọi là biện tài ưa giảng nói tương ưng. Chứng ngộ được Vô sinh pháp nhẫn trong tám địa, tùy ý giảng nói pháp, lìa mọi chướng ngại khi nói pháp, cho nên gọi là biện tài ưa giảng nói tùy ý mở rộng. Bậc Thánh là chỉ cho các vị Bồ-tát như Văn-thù-sư-lợi… Vì nghĩa gì mà gọi là Pháp vương tử? Vì từ khi mới phát tâm trở về sau, các Bồ- tát luôn đoạn tuyệt pháp dâm dục. Ngay lúc mới phát tâm, là đã chứng nhập chính vị nơi tâm định của Bồ-tát, cho nên nhận biết như thế. Tất cả Bồ-tát đều là các bậc Đại Hiền só. Vì sao chỉ nói Thánh giả Bạt-đà-bà-la…, gọi là bậc Đại Hiền só? Vì chỉ rõ về tâm hành nổi bật. Các Bồ-tát như Bạt-đà-bà-la…, đều có tâm niệm như thế này: Ta đã giáo hóa chúng sinh, đều khiến họ phát tâm Bồ-đề, cầu đạt quả vị chính đẳng chính giác Vô thượng. Đã được như thế, lại hóa độ chúng sinh, khiến chứng đắc quả vị Bồ-đề Vô thượng. Thế nên việc làm lợi mình, lợi người là sự tu hành như thật nổi bật, vì tự mong cầu Bồ-đề, đồng thời cũng hóa độ chúng sinh khiến chứng được Bồ-đề. Vì thế nên nói Bạt-đà-bà-la…, kia là bậc Đại Hiền só. Có trăm ngàn vạn đại chúng vây quanh, là chỉ rõ về quyến thuộc vó đại của Như Lai. Tất cả đều là những người đạt được tâm định. Đây là do Đức Như Lai có thể thống lãnh đại chúng, là bậc tối thắng trong đại chúng, dùng trăm ngàn vạn chúng chỉ rõ về Đại sự, cho nên vây quanh. Nói vây quanh là chỉ rõ đại chúng thảy đều khéo điều phục các phiền não. Nên gọi là thuyết pháp pháp, là chỉ rõ Đức Như Lai thường xuyên thuyết pháp không đoạn tuyệt, vì đã xa lìa mọi lỗi lầm. Đầu gối bên phải chấm sát đất, là chỉ rõ tướng oai nghi khi sắp thưa hỏi Phật. Lại nhằm chỉ ra tướng nhất tâm của các đại chúng… Hai gối đều chấm sát đất, là tướng không phải lễ bái, cũng không thành tướng định hỏi Phật, vì theo các thế gian, gối bên phải chạm sát đất là tướng cung kính, tôn trọng. Làm rung động cả ba ngàn đại thiên thế giới này, là vì các ma không gây trở ngại cho người nói pháp, nhằm làm cho các ma đâm ra hoảng sợ. Vả lại, khi Phật thuyết pháp, đại chúng không khởi tâm tán loạn, lại vì có thể hóa độ chúng sinh. Nếu là người phóng dật, Phật sẽ khiến tự nhận biết. Lại vì khiến chúng sinh nhớ nghó đến tướng của pháp. Và còn có nghĩa: Gây chấn động các chúng sinh…, trong ba ngàn đại thiên thế giới này, khiến chúng sinh quan sát được các đại chúng này đang hiện diện nơi trú xứ thuyết pháp. Lại vì giáo hóa chúng sinh đã thuần thục, khiến được giải thoát. Lại vì khiến cho tùy thuận hỏi về nghĩa đúng đắn. Phật nói với Bồ-tát Võng Minh: Tùy ý Bồ-tát thưa hỏi, Ta sẽ giải nói làm vui lòng ông. Như Lai nghe hỏi, chỉ rõ tự thân Ta là người Nhất thiết trí, vì khiến cho người nghe nghe Như Lai thuyết pháp mà sinh tâm tôn trọng. Có thể thấy được thân Phật, là tùy thuận quan sát phần thân nào của Như Lai mà không thể rời bỏ. Lại quan sát phần thân khác của Như Lai, vì thân tướng của Như Lai là vi diệu vượt hơn ánh sáng của trăm ngàn vạn mặt trời, mặt trăng. Đây là chỉ rõ tướng thù thắng tương ưng với tướng vi diệu linh hoạt. Chỉ rõ tướng xuất thế gian của Như Lai, vì thân Như Lai có đủ tướng như thế. Như Lai vì ban cho chúng sinh niềm vui và sự yên ổn, cho nên thị hiện sự nhận biết được tương ưng với tâm chân chính ngay thẳng và sự tu hành tương ưng với quả của trí, nên biết. Nên biết thế nào? Nên biết: Đức Như Lai dựa vào sắc tướng kia, phát ra các hào quang, có thể tạo thành hai điều lợi ích cho chúng sinh, nghĩa là chư Phật cho chúng sinh sự yên ổn và niềm vui, tương ưng với trí, soi sáng quốc độ chư Phật. Ta tự cảm nghó, nếu chúng sinh nào có thể trông thấy được thân Phật và tư duy. Ở đây, sự trông thấy đầu tiên là ngắm nhìn sắc tướng của Phật. Nói tư duy là sau đó tiếp tục quan sát. Nói các hào quang tỏa sáng dựa vào ba pháp sai biệt, nên biết. Ba pháp đó là: Nhân-Danh và hoàn thành. Gọi là nhân; tức là chư Phật ban cho chúng sinh niềm vui và sự yên ổn, là sự tu hành tương ưng với trí, nghĩa này nên biết. Danh là như kinh nói, là sự vắng lặng trang nghiêm, cho đến gọi là thị hiện tất cả các loại sắc như thế. Dựa vào chính mình, mỗi mỗi chúng sinh tạo nghiệp sai biệt, về nghĩa này nên biết. Nói hoàn thành là sự nghiệp đều đã hoàn thành, nêu tóm lược có bốn loại. Vì theo nghĩa ấy cho nên nói giản lược thì có bốn loại hào quang tỏa sáng. nghĩa là thọ dụng, công đức tăng trưởng, dứt điều ác, khiến tin tưởng. Nói thọ dụng là chư Phật Như Lai có thể hóa độ chúng sinh, cho họ cùng tiếp nhận niềm vui với pháp. Chúng sinh thọ dụng niềm vui, có nghĩa là được trông thấy Như Lai, cúng dường Như Lai, lễ bái Như Lai, thưa hỏi Như Lai, nên biết. Được trông thấy Như Lai, cúng dường Như Lai là dựa vào hào quang tỏa sáng thứ nhất, được trông thấy Như Lai và tư duy về Như Lai. Được trông thấy, cúng dường Như Lai, là hào quang tỏa sáng thứ nhất. Nói lễ bái Như Lai là chỉ rõ nghiệp thân cúng dường. Trông thấy Như Lai, không phải là cúng dường, nên biết. Thưa hỏi Như Lai, hào quang tỏa sáng thứ hai là nói trong phần đã hỏi, vì có thứ tự sai biệt về quả báo của thế gian và xuất thế gian. Lại còn có sáu loại hào quang tỏa sáng, soi rọi về sự sai biệt mầu nhiệm, tốt đẹp của quả báo thế gian, dựa vào hai loại địa: Địa không phải định. Địa dựa vào định. Trong địa không phải định, do thệ nguyện tiếp nhận hai loại quả báo: Quả báo thắng diệu của Chuyển luân Thánh vương. Quả báo thắng diệu của Trời Đế thích. Dựa vào địa định, nghĩa là quả báo thắng diệu của vua Phạm thiên. Vì sao không nhận lấy các quả báo của Trời Dạ-ma…? Vì các kinh nơi thế gian đều không nói đến. Đức Phật phát ra hào quang tỏa sáng, lẽ ra nên soi sáng cõi trời đó, nhưng vì không có trong các kinh, cho nên riêng cõi trời này không nói đến. Sự sai biệt nơi quả báo xuất thế gian, nghĩa là dựa vào ba loại sai biệt của ba Thừa. Về nghĩa này nên biết. Nói tăng trưởng công đức, nghĩa là tăng trưởng ba loại công đức. Chúng sinh ở trong đường dữ, khuyên bảo thoát ly nơi đó, đến đời sau sẽ được sinh nơi đường lành. Chúng sinh đang cam chịu đau khổ, Bồ-tát liền hiện thân trong cảnh đó để ban cho họ an vui, khiến được hoan hỷ. Có thể khuyên bảo những chúng sinh phóng dật sớm quay về pháp thiện. Nói dứt điều ác, nghĩa là khuyên bảo chúng sinh lìa các cõi, lìa các cảnh giới, lìa các nạn, lìa các chướng, gọi là dứt các điều ác. Các cõi có hai loại: Đường dữ. Đường lành. Đường dữ có ba loại: Khuyên bảo các chúng sinh lìa các tai nạn, là khiến chúng sinh thoát ly các thứ khổ nạn nơi ba đường dữ. Khiến các chúng sinh lìa các chướng, là khuyên bảo chúng sinh lìa các căn không nguyên vẹn trong đường lành: Nghiệp ác, mù, điếc, tâm thức mê mờ, lầm lạc, đó là các thứ chướng. Lìa các chướng ngại trong các địa. Các địa có ba loại: Địa Bồ-tát. Địa Thanh văn. Địa phàm phu. Trong địa Bồ-tát là khiến chúng sinh xa lìa sáu chướng được đối trị do các Ba-la-mật. Trong địa Thanh văn, nghĩa là khiến chúng sinh xa lìa ba loại chướng; chướng không cung kính và chướng không có trí. Gia tăng phiền não, không thể chấm dứt, mà còn khởi lên phiền não, nên gọi là chướng. Vả lại, không cung kính là bị cản trở do không tin tưởng. Lại nữa, không có trí là bị cản trở do không có tuệ học rộng nghe nhiều. Lại như phiền não thêm lên, không thể ngăn cấm, còn để chúng nổi dậy, cho nên gọi là chướng, tức là chướng không biết hổ thẹn. Trong địa phàm phu, nghĩa là khiến chúng sinh xa lìa bốn loại chướng, dựa vào gốc tu tập mà các phiền não như tham lam, giận dữ, si mê hiện hành gây cản trở, đó là những tà niệm hiện hành. Tất cả phiền não hiện hành gây cản trở cần phải xua tan chúng. Đây là dứt điều ác. Dựa vào thứ tự của hai mươi mốt loại hào quang tỏa sáng mà nói, nên biết. Nói khiến tin tưởng là trông thấy Như Lai với hào quang tỏa sáng vi diệu thù thắng, cho nên nảy sinh niềm tin tưởng và hy vọng muốn được trông thấy. Các loại sắc lạ là trông thấy các loại màu sắc. Trông thấy là hy vọng muốn được trông thấy. Các thứ sắc lạ là các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng…, mỗi thứ đều khác nhau. Vô lượng các sắc: Các màu xanh…, mỗi màu đều có vô lượng thứ. Vượt qua trăm ngàn vạn màu sắc; tức là hào quang tỏa sáng thù thắng, vượt qua trong các sắc xanh…, khác. Vượt qua, nghĩa là lại vượt qua vô lượng vô biên trong các sắc xanh, vàng… Hoặc kiếp còn lại, là nói vượt qua một kiếp, cho đến vô lượng vô biên kiếp. Công đức vô lượng vô biên của hào quang tỏa sáng không thể cùng tận, là công đức của hào quang tỏa sáng thật vô lượng vô biên, không thể dùng toán số hay thí dụ để có thể theo kịp, cho đến cảnh giới Niết-bàn vô dư cũng không cùng tận, nên biết. Tất cả hào quang tỏa sáng, cho đến A-tăng-kỳ kiếp vô số vô lượng ánh sáng cũng không ra khỏi sự tương ưng của bốn loại hào quang tỏa sáng thọ dụng… Như vậy biết rằng Đức Như Lai thị hiện vô lượng vô biên hào quang tỏa sáng trang nghiêm, không thể nghó bàn phương tiện khéo léo tương ưng với pháp thuyết giảng. Thị hiện thuyết pháp, là pháp đã thuyết khiến cho có thể cảm hóa chúng sinh, làm cho tâm tôn trọng được phát sinh. Thị hiện pháp hiếm có khiến cho phát sinh nhân tố tốt đẹp với tâm kính trọng. Bạch Thế Tôn! Con chưa nghe nói đến tên của các hào quang tỏa sáng này, là chỉ rõ vô lượng vô biên công đức nơi hào quang của Như Lai. Điều không nói là không ca ngợi. Nếu như vậy thì tại sao nay lại nói: Là chỉ rõ nhân của công đức vô thượng? Vì vậy tiếp theo nói: Bạch Thế Tôn! Như con hiểu được nghĩa pháp mà Phật đã thuyết. Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nào được nghe tên gọi của các hào quang tỏa sáng như vậy, có thể phát sinh niềm tin, thanh tịnh với lòng tôn kính, thì các chúng sinh đó cuối cùng chắc chắn đạt được thân Như Lai với hào quang tỏa sáng như vậy. Trước hết là phóng ra hào quang tỏa sáng. Bồ-tát Võng Minh đã nhận biết tất cả Như Lai đã làm công việc lợi ích cho chúng để họ cảm nhận các loại pháp lạc, muốn cùng với vô lượng các Bồ tát khác cùng cảm nhận pháp lạc cho nên thưa thỉnh Như Lai để Ngài phóng ra hào quang tỏa sáng, như kinh nói: Bạch Thế Tôn! Chỉ mong hôm nay phóng hào quang thỉnh Bồ-tát để giác ngộ các Bồ-tát. Hào quang này không ra ngoài hào quang cảm nhận pháp lạc trong bốn loại hào quang ở trước. Khiến các Bồ-tát ở thế giới khác đều hay biết; tức là hào quang này nhập vào hào quang phân tán ở trước, cũng nhập vào hào quang tỏa sáng làm công đức tăng trưởng, nên biết như vậy. Dùng các hào quang tỏa sáng nào soi sáng vô lượng vô biên thế giới? Trong này chỉ rõ vượt quá số lượng có thể kể được, cho nên gọi là vô lượng. Đi đến phương khác giống như hư không, vì biên giới không thể hình dung được, cho nên gọi là vô biên. Nói hiện trú là trải qua các thế giới khác mà không rời nơi ấy, cho nên gọi là hiện trú. Không nhập Niết-bàn cho nên gọi là hiện mạng. Vì không có các bệnh cho nên gọi là hiện tại. Lại nói các pháp tương ưng với sự thanh tịnh, cho nên gọi là không có bệnh, nên biết. Phụng sự, trông thấy Đức Phật ấy, là do hiện tại trông thấy Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Cúng dường Đức Phật ấy, là hết thảy vật dụng cúng dường thích hợp đều để cung cấp cúng dường tất cả. Hỏi Đức Phật ấy thưa thỉnh đúng như pháp chăng? Trả lời Đức Phật ấy trả lời đúng như pháp. Câu hỏi ngụ ý rất sâu xa vi tế là bởi vì đoạn trừ những mối nghi ngờ Lại còn có nghĩa: Vì hiện tại được diện kiến, được cúng dường Phật, vì dựa vào bản hạnh oai nghi, nghe hỏi vì không cố ý. Như vậy theo thứ tự dựa vào pháp, dựa vào nghĩa mà hỏi pháp, hỏi nghĩa. Từ đây trở xuống, dựa vào nghĩa hỏi trả lời, nên biết như vậy. Mười loại tâm thanh tịnh kiên cố, sơ lược dựa vào hai loại mà nói: Dựa vào tâm không cấu nhiễm mà nói. Dựa vào tâm cung kính mà nói. Dựa vào tâm không cấu nhiễm, là dựa vào bảy loại khác nhau vào pháp nhiễm, lìa nhiễm của thế giới nhiễm-tịnh, nên biết. Bảy thứ khác nhau là: Pháp khác nhau, khác nhau vì pháp tịnh và pháp không tịnh. Thọ khác nhau, khác nhau vì thọ khổ và thọ vui. Nghiệp khác nhau, vì khác nhau về nơi sinh trong gia đình, tộc họ thượng-trung-hạ, khác nhau giữa hành ác-hành thiện và hành xen tạp. Tâm khác nhau, vì các chúng sinh ở trong Phật pháp có tin pháp và không tin pháp cho nên khác nhau. Hành khác nhau, vì có hành chính-tà khác nhau. Tâm tu hành khác nhau, vì hạnh nguyện của ba Thừa khác nhau. Đạo khác nhau, vì đạo thiện-đạo ác khác nhau. Sự cấu nhiễm của tâm ác như vậy thì dùng hình thức không nhiễm để đối trị nó. Nói tám loại tâm thanh tịnh kiên cố, nghĩa này nên biết. Nên biết cái gì? Đó là pháp nhiễm khác nhau, ở đây có hai loại: Dựa vào nghĩa, là khéo nói về tướng và không khéo nói về tướng, phân biệt như vậy. Dựa vào pháp, là nghe nói tướng lành, nghe nói tướng không lành, phân biệt như vậy. Đối trị: Câu đầu dùng tâm không giận dữ mà đối trị với tâm giận dữ, là tâm không lay động, đối với lời nói tốt hay lời nói không tốt. Trước lời nói hung dữ, không khởi tâm niệm: Ta có thể chịu đựng. Về nghĩa này nên biết. Câu hai nói dùng tâm từ: Là dùng tính chất của các văn tự như vậy để thuyết pháp không điên đảo khiến cho các chúng sinh trú vào nơi yên ổn. Đối trị với thọ nhiễm khác nhau, là mọi cảm thọ hiện có thảy đều là khổ. Như vậy, trong muôn việc phải sinh tâm Bi bình đẳng, thương xót chúng sinh. Đối trị với nghiệp nhiễm khác nhau, là tu hành chân chính như vậy ở tất cả mọi nơi, tâm đều bình đẳng ban cho niềm vui, tu hành với hiểu biết. Đối trị với tâm nhiễm khác nhau, là đối với mọi sự khinh chê- cúng dường đều xa lìa tâm cao-thấp. Đối trị với hành nhiễm khác nhau, là không thấy các lỗi lầm cho nên không nảy sinh tâm làm lợi ích. Đối trị với tâm tu hành cấu nhiễm khác nhau là bình đẳng một vị, không có tâm phải-quấy đối với ba Thừa. Đối trị với đạo cấu nhiễm khác nhau, là không sinh sợ hãi, tùy thuận nghiệp của mình. Khéo nhận biết như vậy, để quán sát Thể của pháp. Đó gọi là tám loại tâm thanh tịnh kiên cố, dựa vào bảy loại tâm không ô nhiễm mà nói, nên biết như vậy. Dựa vào tâm cung kính ở đây có hai loại: Đối với tất cả Bồ-tát sinh ý tưởng như Thế Tôn, điều này nói rõ nghĩa gì? Đó là đối với các Bồ tát sinh trong thế giới năm trược này mà sinh ý tưởng giống như nghĩa đến Như Lai. Như vậy trong cõi Phật, nhìn thấy các Bồ-tát đều thực hành khổ hạnh, mong cầu đại Bồ-đề, không biết mỏi mệt luôn luôn tu hành như thật. Đối với Bồ tát này sinh ý tưởng như Đức Như Lai. Vì vậy cho nên nói là sinh ý tưởng như Thế Tôn. Lại sinh ý tưởng hy hữu, nghĩa này nên biết. Nên biết cái gì? Như Phật xuất thế thật là rất hy hữu. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, vì không từ bỏ việc phát tâm Bồ-đề cũng gọi là hy hữu. Vì vậy đối với họ sinh ý tưởng như Đức Thế Tôn. Đối với Phật sinh ý tưởng hy hữu. Điều này có nghĩa gì? Như ở thế giới không cấu nhiễm, chúng sinh nơi ấy có thọ mạng vô lượng trăm ngàn vạn kiếp, chư Phật Như Lai luôn làm lợi ích cho họ. Như vậy, khi Phật sinh trong thế giới quá nhiều phiền não này, với thời gian ngắn mà sinh ý sinh tưởng hy hữu, nghĩa này nên biết. Tâm thanh tịnh kiên cố được lớn mạnh mãi và thành tựu, nghĩa này nên biết. Bước vào hành tịch tónh, dựa vào tâm thanh tịnh kiên cố, luôn nghó đến Bồ tát được Bồ tát tiếp nhận. Ở thế giới thanh tịnh kia trăm ngàn vạn kiếp, không rời chính niệm, thường tu phạm hạnh, ở cõi Ta Bà từ sáng tới trưa, kiên quyết giữ gìn giới cấm, tâm hạnh không cấu nhiễm, thị hiện sự thù thắng. Điều này làm sáng tỏ ý nghĩa gì? Như chữa trị bệnh nặng khiến cho bệnh mau khỏi, chỉ có cách cho thuốc quý khiến uống thì được thuyên giảm. Như vậy chúng sinh có quá nhiều phiền não mau được diệt trừ, khiến cho họ đạt được các pháp thù thắng, đối trị là trừ sạch. nghĩa này nên biết. Đây là chỉ rõ chúng sinh sống ở cõi đầy xấu ác, nhiều đau khổ, nhiều phiền não, là thế giới cấu nhiễm. Để giúp các Bồ-tát được thấy Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Phật mà lễ bái cúng dường, cho nên hỏi đáp với Như Lai. Bậc Thánh giả Phạm Thiên Thắng Tư Duy, là bậc thượng thủ, thưa hỏi. Hỏi đáp dựa vào Phạm Thiên Thắng Tư Duy để sinh tâm cung kính đối với đại chúng. Thị hiện Phạm Thiên Thắng Tư Duy cuối cùng được những biện tài ưa giảng nói gì? Được quả gì của biện tài ưa giảng nói? Dựa vào hai loại thuyết giảng này là thù thắng bậc nhất trong sự thưa hỏi chính xác. nghĩa này nên biết. Câu đầu nói: Được những biện tài ưa giảng nói, là hỏi về sự tương ưng của mọi nơi chốn, do năng lực thiện xảo khiến cho chúng sinh lãnh hội, do ngôn ngữ tối thắng, do lời lẽ tôn trọng, do giảng nói về nhân chính, vì dựa vào nghĩa thật mà nói, dựa vào sự an ổn mà nói. Đó gọi là điều tuyệt đẹp, vì có tình người, vì ở bên cạnh bậc Đại thiên-nhận được cúng dường với tâm thanh tịnh, vì tất cả các ma oán thù địch không thể khống chế được, vì giảng nói ý nghĩa sâu kín. Tám câu vừa rồi là nói về biện tài ưa giảng nói của Phạm Thiên Thắng Tư Duy, với những lời nói hay đẹp. nghĩa này nên biết. Nên biết thế nào? Đó là: Tương ưng. Khiến hiểu biết. Tôn trọng. Yên ổn. Tình người. Thanh tịnh vô cùng. Không thể hàng phục. Hết mực thâm diệu. Tiếp đến nói về nhân của biện tài ưa giảng nói (biện tài nhạo thuyết), chỉ rõ khi giảng nói pháp với ngôn ngữ như vậy, có nhiều công đức. Nếu các chúng sinh có ai không tu, tập hạnh chân chính như thật, nhưng tâm vẫn không rời bỏ họ, bởi vì cùng với sự an lạc thù thắng khéo tương ưng, bởi vì mong cho các chúng sinh lìa xa mọi khổ đau, được an vui thù thắng, bởi vì lúc mang lại công đức đẹp vui vẻ cho họ thì hoan hỷ chúc mừng, bởi vì cầu mong không nhiễm ô và mang lại sự an ổn vui sướng tốt lành. Dùng năm câu này để nói về nhân tố biện tài ưa giảng nói, với ngôn ngữ hay đẹp của Phạm Thiên Thắng Tư Duy. Về nghĩa này nên biết. Nên biết những gì? Chỉ rõ ba loại tâm: Tâm không buông bỏ. Tâm ban cho vui. Tâm yên ổn. Như vậy, nói theo thứ tự một-ba-một, nên biết. Tiếp theo nói đến phần đạt được những biện tài ưa giảng nói pháp như thế nào? Đó là có năng lực đoạn trừ nghi ngờ trong tất cả mọi ý nghĩa của hết thảy chúng sinh kia. Về nghĩa của bài kệ, y như trong kinh. Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen Phạm Thiên Thắng Tư Duy: Lành thay! Lành thay! Phạm Thiên! Lại lành thay, Phạm Thiên! Vì Phạm Thiên đã mở ra nghi thức đến trước Phật để thỉnh hỏi, tương ưng với sự việc trong ba thời gian này. Nên biết lành thay Phạm Thiên! Nay ông hãy chí tâm lắng nghe, Ta sẽ nói cho ông theo thứ tự như vậy, với tâm không điên đảo và tâm chính niệm. Tâm Phạm Thiên kiên cố mà không biết mệt mỏi, là tâm chính trực. Trong này tâm tin vào Đại Bồ đề làm gốc, là tướng phát nguyện, dựa vào nguyện ấy thì có thể đầy đủ được tất cả công đức của địa Như Lai. nhất. Dựa vào phương tiện kiên cố của tâm Bồ-đề, mới có câu hỏi thứ Nói giản lược, trong Đại thừa có bốn loại sự việc mỏi mệt. Từ bốn sự việc mỏi mệt đó, dù Bồ-tát có phát tâm Bồ-đề, phát nguyện Bồ-đề, nhưng vẫn làm mất tâm Bồ-đề ấy. Những gì là bốn loại? Đó là: Vì các chúng sinh không tu hành như thật. Vì làm nhiều sự việc. Vì mất nhiều thời gian trong hành hữu vi. Trong sự giải thoát bình đẳng thường muốn được mau chóng giải thoát, vì Bồ-tát đó có lực. Pháp đối trị với bốn chướng ngại này nghĩa là phát tâm Đại Bi đối với hết thảy chúng sinh. Bốn pháp như vậy theo thứ tự mà nói đến, nghĩa này nên biết. Biết như thế nào? nghĩa là các Bồ-tát dựa vào tâm Đại Bi, khi nhận thấy chúng sinh như thế-như thế không thể tu tập hạnh chân chính như thật. Chuyển biến thêm lên như thế-như thế sinh tâm thương xót vì các chúng sinh đó khiến cho được giải thoát. Càng chuyển biến tăng trưởng thêm lên như thế như thế mà phát nguyện. Hơn nữa, các Bồ-tát thường siêng năng tinh tiến không cảm thấy mỏi mệt đối với công việc đã làm khá nhiều và đều có thể làm xong. Lại nữa, các Bồ-tát với các nỗi khổ trong quá khứ từ vô thỉ đến nay, đều tin hiểu như giấc mộng, không chấp nỗi khổ trong đời vị lai ở thời gian sau. Lại nữa, các Bồ-tát vì Nhất thiết trí, mặc dù đồng với hàng Nhị thừa giải thoát khỏi mọi phiền não, tuy nhận lấy vô lượng công đức không chung, nhưng vì Bồ-tát có lực đoạn tuyệt mọi phiền não với tâm niệm muốn được nhanh chóng giải thoát. Nói không như nhau là không chung về công đức, vì không có ngang bằng. Vốn nói như nhau tức là một phần ít của Nhị thừa cùng đoạn phiền não, vì vậy gọi là như nhau. Do ý nghĩa ấy cho nên gọi là không hề có bằng nhau. Bốn loại tâm không mỏi mệt như vậy, đối trị với bốn loại chướng ngại khiến tâm mỏi mệt. Vì vậy, đối với Đại thừa, tâm Bồ-tát kiên cố, mà không mỏi mệt. Tâm như vậy nương vào pháp Phật tự thân tu hành thuần thục như thật. Chính thức nói pháp xong. Tiếp đến dựa vào phần vì người khác tu hành như thật. Lược nói về bốn pháp. Vốn nói về sự quyết định không hối tiếc nửa chừng, đối với hai loại nghĩa: Không có nghĩa. Có nghĩa. Nói không có, là vì không có ngã. Không có ngã ấy vì xa lìa pháp. Nói không có pháp, vì không có tướng của pháp đó, thì Bồ-tát nói các pháp đó hoàn toàn không có ngã. Các Bồ-tát đều như vậy, cuối cùng nói tất cả pháp đều không có ngã. Nói có nghĩa thì có ba loại nghĩa: nghĩa có lỗi. nghĩa công đức. nghĩa có hai. Vì sai biệt cho nên thuộc về nghĩa có lỗi, tức là tất cả mọi nơi sinh ra đều thâu nhiếp tất cả phiền não. Vì không muốn sinh vào đó cho nên không thích giảng nói. Vì vậy Bồ tát cuối cùng nói rõ : Tất cả mọi nơi sinh ra đó không có gì an vui. Các Bồ-tát đều như vậy, nói chắc chắn nhưng nơi sinh ra không có gì vui vẻ. nghĩa công đức; là ca ngợi pháp vô thượng của Đại thừa, vì các công đức đều tương ưng với tất cả. Vì vậy Bồ-tát cuối cùng quyết định thường ca ngợi Đại thừa. Các Bồ-tát đều như vậy, luôn luôn ca ngợi pháp Đại thừa. Nói nghĩa có hai, tức là Bồ-tát đã vượt lên trên hai pháp công đức chẳng không. vì vậy Bồ-tát cuối cùng nói hai pháp đó không phải là không. Các Bồ-tát đều như vậy, cuối cùng nói hai pháp tội-phước kia là chẳng không. Điều này trình bày nghĩa gì? Mặc dù trải qua vô lượng thời gian, khi nhân duyên tương ưng thì sinh quả báo. Như vậy nương vào sự lợi ích cho mình-cho người mà tu hành như thật, cuối cùng nói pháp xong. Tiếp đến là nói về việc làm tăng trưởng các căn thiện, là dựa vào nhân của quả báo thế gian và xuất thế gian, nói về căn thiện được lớn mạnh thêm. Dựa vào nhân của quả báo xuất thế gian cho nên căn thiện được tăng trưởng. Nhân của quả báo thế gian có hai loại: Nhân thành tựu thân tốt đẹp của mình. Nhân thành tựu vật dụng giúp cho đời sống. Nhân thành tựu thân tốt đẹp của mình có hai loại: Nhân thành tựu thân tốt đẹp của mình trong địa bất định, là căn thiện của giới được tăng trưởng. Nhân thành tựu thân tốt đẹp của mình trong địa định, là căn thiện của trí được tăng trưởng, vượt qua công đức của trí thuộc địa dưới-trên, vì dựa vào căn bản trí lìa dục mà thành trí căn thiện. Nhân thành tựu vật dụng giúp cho đời sống, là buông bỏ tất cả mọi vật, đó là nhân bố thí cho nên căn thiện được tăng trưởng. Nhân của quả báo xuất thế gian, là nhân giải thoát, là tướng xuất gia, nhân xa lìa tham đắm. Do nhân ấy cho nên có được nhân giải thoát. Tất cả căn thiện của công đức tăng trưởng loại tăng trưởng thêm, là các căn thiện này dựa vào các biện luận của thế gian. Có năm loại nghĩa tăng thượng cho nên gọi là tăng trưởng. Những gì là năm loại? Đó là: Các căn thiện hàng phục tăng thêm cho nên gọi là tăng trưởng, vì căn thiện này vượt hẳn các căn thiện của hàng Thanh văn, Bích-chi- Phật… Tăng thêm không trái ngược cho nên gọi là tăng trưởng, bởi vì không lui sụt, bởi vì kiên cố. Tăng thêm không sợ hãi cho nên gọi là tăng trưởng, bởi vì nương vào căn thiện này cho nên vượt qua mọi sợ hãi của cõi ác, như địa ngục… Tăng thêm không thiên lệch cho nên gọi là tăng trưởng, vì có năng lực phá tan mọi pháp bị đối trị. Tăng thêm không khác biệt cho nên gọi là tăng trưởng, vì làm lợi mình-lợi người mà không có tướng khác nhau. Tăng trưởng các căn thiện như vậy, cho nên đối với chúng sinh không tin pháp Phật, không tu hành như thật, tâm không sinh căm giận, ở trong phần thiện hạnh như đọc tụng…, đúng như pháp mà nói, không có gì sợ hãi, oai nghi không đổi. Vì vậy, theo thứ tự giảng nói tướng của pháp Phật, đối với các chúng sinh không tin pháp Phật, không tu hành như thật, cũng không chút e sợ và oai nghi không thay đổi. Có ba hạng sợ hãi là hạng hèn yếu, trung bình, bậc thượng. Hèn yếu là lo sợ mạng sống không có được của tiền nuôi dưỡng. Hạng trung bình có hai: Thường sợ bị chê bai làm nhục. Thường sợ bị tai tiếng xấu ác, nói xấu ngay trước mặt và cả lúc vắng mặt. Sợ hãi bậc thượng là thường sợ thân phải chịu mọi khổ não. Không chút sợ hãi, oai nghi không thay đổi như vậy là tùy thuận pháp tịnh. Vì vậy tiếp theo là nói về các pháp tịnh tịnh trưởng. Nương vào bốn loại pháp tịnh mà nói: Ham muốn pháp tịnh. Thực hành pháp tịnh. Đầy đủ công đức pháp tịnh. Chứng đắc pháp tịnh. Ham muốn pháp tịnh có nghĩa là Bồ-tát dùng Đại Bồ-đề giáo hóa chúng sinh phát sinh tâm ham muốn ấy, khiến cho các chúng sinh ở đời vị lai đạt được tướng ham muốn của tự Thể trong các pháp tịnh. Thực hành pháp tịnh là các Bồ-tát từ bỏ đời sống đầy đủ của tiền, các vật châu báu…, tất cả đều dùng vào việc bố thí, hoàn toàn không mong cầu quả báo cho thân mình trong vị lai. Đầy đủ công đức của pháp tịnh là các Bồ-tát dựa vào nhân tố từ bỏ châu báu, được thành tựu pháp mầu nhiệm tốt đẹp, tâm không tham đắm mà tiếp tục tu hành pháp tịnh, nhiếp thủ pháp mầu nhiệm. Do tương ưng với sự nghe nhiều học rộng, cho nên tất cả pháp tịnh đều được huân tập đầy đủ, vì vậy các công đức của Bồ-tát đều đầy đủ. Chứng đắc pháp tịnh là các Đại Bồ-tát nương vào trí để chứng đạt, vì đối với Đại Bồ-đề của tự thân, cho nên nói phương tiện trí đạt được pháp thù thắng của trí chứng ngộ các pháp tịnh kia. Tăng trưởng các pháp tịnh như thế xong, Bồ-tát tùy thuận để khéo nhận biết từ địa này đến địa khác. Vì vậy tiếp tục nói đến tướng của pháp đó, nghĩa là dựa vào bốn pháp mà nói. Những gì là bốn pháp? Đó là: Công đức đầy đủ. Các chướng thanh tịnh. Tâm thành tựu. Tu hành đầy đủ. Tập hợp các căn thiện, là đạt được các công đức đầy đủ từ địa này đến địa khác. Lìa các lỗi, là làm thanh tịnh tất cả các chướng ngại kia. Phương tiện hồi hướng, là xa lìa đời sống tiền của hữu lậu và từ bỏ tâm ham giải thoát mau chóng của hàng Tiểu thừa. Tất cả căn thiện hiện có đều hồi hướng tiếp nhận Đại Bồ-đề cho nên siêng năng tinh tiến, là chí tâm tu hành trong tất cả mọi lúc luôn luôn không đoạn dứt, vì dựa vào căn bản cho nên nhận lấy nơi chốn thù thắng. Như vậy đã nói về phương tiện xong. Tiếp theo là nói về phương tiện nơi pháp tướng, khéo nhận biết phương tiện giáo hóa chúng sinh. Dựa vào bốn pháp mà nói: Có khả năng giáo hóa chúng sinh. Tập hợp vô lượng công đức của trí. Tập hợp vô lượng trí tuệ. Phương tiện. Có năng lực giáo hóa chúng sinh, nghĩa là nương vào bố thí, ái ngữ…, tùy thuận các chúng sinh, nhiếp thủ các chúng sinh. Vì vậy Bồ- tát có khả năng giáo hóa chúng sinh. Tập hợp vô lượng công đức của trí, là tuy xa lìa phần vị định-bất định, mà nương vào hành bố thí…, cho nên hết thảy các loại công đức của tất cả chúng sinh ở trong ba đời thảy đều tùy hỷ. Vì vậy Bồ-tát đạt được vô lượng công đức của trí. Tập hợp vô lượng trí tuệ, là mặc dù không có trí đối trị với chướng ngại mà thường xuyên tu hành phát lộ sám hối, cho nên Bồ-tát tập hợp được vô lượng trí tuệ. Phương tiện là dựa vào tất cả pháp tu hành đối trị của Bồ-tát mà khuyến thỉnh chư Phật. Dựa vào là vì các chúng sinh mà ban cho trí tuệ sáng suốt để tập hợp các trí tuệ, và khéo dùng phương tiện làm căn bản, cho nên Bồ-tát có được vô lượng trí tuệ. Như vậy đã nói xong về phương tiện tu hành. Tiếp theo là nói đến vì chúng sinh mà Bồ-tát giảng nói về tướng của pháp. Tùy thuận các chúng sinh để giảng nói pháp cho họ, nghĩa là dựa vào bốn loại các chúng sinh mà nói. Dựa vào chúng sinh trung gian. Dựa vào chúng sinh nhập pháp. Dựa vào chúng sinh chê bai pháp. Dựa vào chúng sinh đã tôn trọng. Vì tùy thuận chúng sinh đó cho nên dùng phương tiện oai nghi. Dựa vào chúng sinh trung gian, là dựa vào chúng sinh chưa tin pháp Phật, Bồ-tát tu hành tùy theo những chúng sinh đã tin tưởng pháp Phật, Bồ-tát giảng nói pháp cho họ, trao cho chúng sinh đó mọi sự yên ổn, không những chỉ cho họ sự cúng dường cung kính mà còn không hề lừa dối họ. Bồ-tát luôn hành trì như vậy. Dựa vào chúng sinh nhập pháp, là tâm Bồ tát muốn chúng sinh được tiến vào nghĩa lý của pháp cho nên Bồ-tát cung cấp cho họ, khiến cho các chúng sinh còn tham đắm lợi dưỡng kia được gần gũi Bồ-tát và có thể tiến vào nghĩa lý của pháp. Đối với pháp như vậy có người nào chưa được hóa độ thì Bồ-tát khiến cho họ được hóa độ. Bồ-tát không thấy mệt mỏi trong việc bố thí, chu cấp áo cơm tiền của cho những ai cần. Làm như vậy mà Bồ-tát không vì tự thân tham đắm thú vui cho mình. Bồ-tát luôn hành trì như vậy. Dựa vào chúng sinh chê bai pháp, là việc làm của Bồ-tát không có lỗi lầm. Nương vào sự nhu hòa nhẫn nhục, không chấp tội của chúng sinh mà luôn chỉ dạy sám hối, Bồ-tát thực hành như vậy. Dựa vào chúng sinh đã tôn trọng, Bồ tát đối với những chúng sinh khuất phục thuận theo, tùy lời nói mà tiếp nhận, Bồ tát luôn luôn trì như vậy. Như vậy đã nói về Bồ-tát tùy thuận chúng sinh, tu hành như thật, giảng nói pháp cho họ không biết mệt mỏi. Tiếp theo là nói về việc không làm mất tâm Bồ-đề. Bởi vì không làm mất tâm Bồ-đề cho nên mới tùy thuận giảng nói pháp, nhận thấy quả vị Phật mầu nhiệm lấy làm tối thắng. Dựa vào bốn pháp mà nói: Nương vào việc không xâm đoạt vật của người khác. Nương vào nhân của định. Nương vào lực của duyên. Nương vào lực của nhân. Thường xuyên nhớ nghó Phật, là tâm thường xuyên nhớ nghó đến quả của tâm Bồ-đề nơi Phật. Vì nhận thấy quả vị Phật đã thành tựu vô lượng công đức không chung. Đây là dựa vào việc không chiếm đoạt vật của người khác, vì vậy không làm mất tâm Bồ-đề. Hết thảy căn thiện đã làm không lìa tâm Bồ-đề, tức là mọi căn thiện đều lấy tâm Bồ- đề làm gốc. Vì nương vào tâm Bồ-đề là nhân lâu dài trong vô lượng đời. Vì dựa vào nhân của định cho nên không bị lôi kéo để gánh chịu mọi thứ quả báo của thế gian. Đây là dựa vào nhân của định đưa tới đâu thì ở đó cho nên không làm mất tâm Bồ-đề. Gần gũi thiện tri thức là do tu hành chân chính, nương vào duyên lực bên ngoài là thiện tri thức … Đây là nương vào lực của duyên, cho nên không làm mất tâm Bồ-đề. Ca ngợi Đại thừa là vì các chúng sinh phát tâm Bồ-đề tán thán Đại thừa, cho nên đời đời kiếp kiếp đều được tăng trưởng tất cả chủng tử căn thiện làm diệu lực của nhân cho bản thân mình. Nhân to lớn có sức mạnh kiên cố, dựa vào lực của nhân này, cho nên tâm Bồ đề không mất. Không làm mất tâm Bồ-đề như vậy, cuối cùng nhất tâm hành hạnh Bồ-tát, vì vậy theo thứ tự giảng nói tướng của các pháp kia. Người có khả năng buộc tâm mình vào một chỗ mà không tán loạn, bởi vì dùng bốn loại đối trị với chướng khiến tâm tán loạn, cho nên nói bốn loại tâm không tán loạn. Những gì là bốn loại chướng khiến tâm tán loạn? Đó là: Chướng ngại vì Thừa. Chướng ngại giáo hóa chúng sinh. Chướng ngại tích tập đầy đủ công đức của pháp Phật. Chướng ngại đến cuối cùng tích tập tất cả Phật pháp. Bốn loại tâm không tán loạn là những tâm nào? Đối trị ra sao? Đó là: Xa lìa tâm Thanh văn, là đối trị chướng ngại nơi Thừa, không rơi vào tâm Tiểu thừa của Thanh văn, cho nên tâm Bồ-tát không tán loạn đối với Đại thừa. Từ bỏ tâm niệm về Bích-chi-Phật, là đối trị chướng ngại đến việc giáo hóa chúng sinh, không vướng mắc vào việc ưa thích hành Tam-muội của tự thân. Vì vậy Bồ-tát giáo hóa chúng sinh mà tâm không tán loạn. Cầu pháp không hề chán đủ, đối trị với chướng ngại đến việc tích tập đầy đủ công đức của pháp Phật. Vì cầu pháp Phật không hề chán đủ, vì tập hợp tất cả pháp của chư Phật, vì tăng trưởng các loại căn thiện, vì đầy đủ các công đức của pháp Phật, cho nên Bồ-tát tu tập đầy đủ công đức của pháp Phật với tâm không tán loạn. Như pháp đã được nghe mà giảng nói rộng cho mọi người về pháp đó, nhằm đối trị chướng ngại đến việc tích tập trọn vẹn tất cả pháp Phật. Theo như pháp được nghe như vậy-như vậy mà chính niệm quán xét, do nhận biết đúng đắn, tích tập rốt ráo tất cả pháp Phật, vì vậy Bồ-tát tích tập hết thảy pháp Phật một cách trọn vẹn mà tâm không tán loạn. Đó gọi là bốn loại tâm không tán loạn, đối trị với bốn loại chướng tâm tán loạn, nghĩa này nên biết. Cuối cùng được nhất tâm như vậy rồi khéo léo mong cầu pháp. Vì vậy tiếp theo nói về việc khéo léo cầu pháp để đối trị với bốn loại quả báo thành tựu ở thế gian, giống như nói về sự thành tựu của bốn loại quả báo xuất thế gian. Nên biết là chỉ rõ việc Bồ-tát mong cầu thành tựu quả báo xuất thế gian. Mong cầu các pháp nào gọi là thành tựu bốn loại quả báo thế gian? Đó là: Thành tựu sự đoan nghiêm, vui thích vi diệu. Thành tựu không bệnh tật. Thành tựu sự giàu sang. Thành tựu việc không sợ người khác. Thế nào là tướng đối trị? Như người thế gian cho là thành tựu tự thân đoan nghiêm làm nhân hiếm có để mong cầu châu báu. Như vậy, Bồ-tát cho là thành tựu các tướng tốt đẹp vui vẻ vi diệu, là từ nhân của pháp thiện, sinh ý tưởng quý báu sinh ý tưởng hy hữu cho nên Bồ-tát cầu các pháp. Như người thế gian vì muốn không bệnh, cho nên mong cầu cỏ thuốc mầu nhiệm. Cũng như vậy vì đoạn trừ tất cả phiền não, Bồ-tát có ý tưởng pháp Phật là thuốc mầu nhiệm, cho nên mong cầu các pháp. Như người thế gian, vì muốn được giàu sang cho nên mong cầu của cải lợi lộc. Cũng như vậy vì mong cầu thành tựu các thần thông, không lùi lại, vì mong cầu tướng nghĩa khiến đạt được không mất, Bồ-tát coi pháp Phật là nơi phát sinh của cải lợi ích, cho nên mong cầu các pháp. Như người thế gian đã xa lìa giặc…, không còn lo sợ gì cho nên họ mong cầu của báu. Cũng như vậy vì đã xa lìa tất cả phiền não chướng ngại khiến chúng không thể ràng buộc Bồ-tát. Bồ-tát không sợ bất cứ chốn nào. Bồ-tát không sợ bất cứ chốn nào, là mọi nỗi khổ ở thế gian. Bồ- tát đã vượt qua tất cả thế gian, xa lìa tất cả tướng khổ của thế gian, đạt được tướng vắng lặng yên tónh, vì đạt được Niết-bàn thành tựu không sợ hãi, vì Bồ-tát ở trong pháp Phật sinh ý tưởng không có khổ để mong cầu các pháp.  THẮNG TƯ DUY PHẠM THIÊN SỞ VẤN KINH LUẬN <卷>QUYỂN 2 Lại có nghĩa khác: Dựa vào bốn loại công đức châu báu của thế gian, giống như vậy để nói về pháp bảo xuất thế gian, nên biết. Những gì gọi là bốn loại công đức châu báu của thế gian? Sao gọi là tương đối giống như? Giá trị quý trọng to lớn hơn hết. Như người thế gian được của báu kia thì có thể phát sinh ra vô lượng tài sản quý báu. Cũng như vậy, được pháp quý báu xuất thế gian của Phật, cho nên Bồ-tát có khả năng sinh ra vô lượng căn thiện. Tương ưng với pháp tối thắng. Như người thế gian được của báu kia, cho nên họ có khả năng chữa lành mọi chứng bệnh. Cũng như vậy, vì được pháp quý báu xuất thế gian của Phật, cho nên Bồ-tát có thể đoạn trừ tất cả chứng bệnh phiền não, như thuốc vi diệu kia. Như ý. Như người thế gian được Thể ngọc báu Ma-ni Như ý kia, dựa vào ngọc báu đó, họ cần cầu điều gì cũng được. Cũng như vậy, vì được pháp quý báu xuất thế gian của Phật, cho nên Bồ-tát dựa vào pháp, tư duy về hết thảy công đức căn thiện đầy đủ. Thể báu. Như người thế gian được ngọc báu Ma-ni kia thì tâm cần cầu điều gì cũng đều có được không cùng tận. Cũng như vậy, vì vượt lên trên tất cả mọi nỗi khổ thế gian, Bồ-tát được pháp bảo xuất thế gian của Phật, cho nên có được quả báo không cùng tận, có thể vì chúng sinh nói pháp quý báu không sống-không chết. Lại còn có nghĩa: Chúng sinh ở thế gian được vô lượng của quý báu. Có của báu trong tay là có thể tùy ý thành tựu vô lượng sự việc thù thắng. Cũng như vậy, được pháp bảo xuất thế gian của Đại thừa cho nên Bồ-tát có thể tùy ý thành tựu tất cả quả báo thù thắng, tất cả công đức của thế gian và xuất thế gian. Như vậy, được vô lượng của báu, điều trị các chứng bệnh.. Dựa vào câu đầu để giải thích các câu khác, cho nên biết. Cầu pháp như vậy, tùy thuận việc học rộng nghe nhiều, có phương tiện khéo léo, có khả năng xa lìa các lỗi. Vì vậy theo thứ tự giảng nói tướng của pháp kia, thoát khỏi tội phá hủy giới cấm. Tức là nương vào pháp mà quán sát như thật, không nhận lấy-không buông bỏ. Nương vào không sinh-không diệt, không đi-không đến. Nương vào đời vị lai không còn làm điều ác. Nương vào khả năng xa lìa tất cả những gì đã nghi ngờ mà đạt được nhẫn vô sinh, là nhẫn nội tâm, làm cho các pháp nhẫn vắng lặng, quán sát như thật không nhận lấy-không buông bỏ. Được nhẫn không diệt, là quán sát như thật về tự Thể của tội lỗi là do sự phân biệt hư vọng, vì nó không sinh-không diệt-không đi-không đến. Được nhẫn nhân duyên, là quán sát nhân duyên xưa nay không sinh vì thuộc về Thể tính khác. Quán sát như thật về Thể bị ô nhiễm do phá hủy giới cấm, cho nên lìa nguyên nhân phát sinh, trong đời vị lai không còn làm ác nữa. Chứng được nhẫn vô trú là tâm đổi khác lần lượt nảy sinh sự ăn năn. Quán sát như thật về căn bản của các tội ở trong thân, không lìa nơi tâm, không nhận thấy tội lỗi kia. Như vậy là không nhận thấy tất cả tội lỗi, xa lìa tất cả những gì đã nghi ngờ trong tâm, vì có khả năng làm tiêu mất sự hối tiếc cho nên vượt ra khỏi tội lỗi. Như vậy, căn bản của các lỗi là pháp nhiễm hư vọng. Nếu muốn chấm dứt lỗi thì cần phải đoạn tuyệt gốc lỗi. Vì vậy tiếp theo là nói đến việc đoạn tuyệt nguồn gốc của lỗi kia. Khéo đoạn trừ các phiền não, là nương vào ba đời để nói, quán sát chân chính là như thật chính niệm. Dựa vào hoạt động của tà niệm cho nên phiền não khởi lên. Do quán sát chân chính như thật cho nên không nhận lấy tự thể của lỗi kia, xa lìa các chướng ở vị lai. Tăng trưởng các pháp tịnh là trong đời vị lai sẽ không còn làm ác, bởi vì chí tâm không làm điều ác này, cho nên đạt được tâm thanh tịnh. Được sức mạnh của pháp thiện, là quán sát các lỗi của phiền não hư vọng, không nhận thấy tất cả phiền não trong quá khứ, đó là nhờ sức mạnh của pháp tịnh. Ở riêng một mình xa lìa, là đã có được chủng tử của tâm vắng lặng, yên tónh. Như vậy, theo thứ tự căn thiện tăng thêm tùy thuận không sinh cảnh giới phiền não, không che giữ các phiền não, là do sức mạnh của nhân duyên, cho nên phiền não không còn khởi lên trong đời vị lai. Như vậy, khuất phục các phiền não xong, Bồ-tát khéo đến với các đại chúng, vì vậy theo thứ tự trính bày về tướng của pháp kia. Khéo đến với các đại chúng, có hai loại khác nhau: Dựa vào sự sai biệt về người, dựa vào sự sai biệt của tâm. Dựa vào sự sai biệt về người, là đến với những người nào? Đến đó để làm gì? Đến vì nghĩa gì? Tại sao lại phải đến? Đây là trình bày về nghĩa nào? Người quý giá xuất gia có tuệ nghe nhiều học rộng vì cầu pháp, sinh tâm quý trọng, đi đến người ấy mà không tìm kiếm lỗi của họ. Người này vì không tìm kiếm lỗi lầm của người kia như vậy, đến với người thấp kém xuất gia, có tuệ nghe nhiều học rộng, vì mục đích cầu pháp cho nên sinh tâm tôn trọng, đi đến người với tâm không kiêu mạn như vậy. Đến với người nơi A-lan-nhã là người không có tuệ nghe nhiều học rộng, nhưng Bồ-tát không có tâm khinh thường mà chỉ mong cầu một ít pháp thiện, tới đó Bồ-tát không tự đề cao mình. Như vậy người này không tự đề cao mình, cho nên có thể đi đến chỗ ồn ào náo nhiệt. Người này đến với người có tuệ nghe nhiều học rộng, nhưng Bồ-tát vẫn không khinh thường họ, vẫn không đề cao mình là người hơn hết, sao lại tới đó? Bởi vì cho rằng thân mình đối với thân người khác, vì cầu mong căn thiện nên đến với người kia, không vì thân mình được cung kính cúng dường, ca ngợi thanh danh. Người này không vì thân mình được cúng dường cung kính, ca ngợi thanh danh mà đến với người kia. Tâm niệm khác nhau, là bởi vì nương vào bốn loại tâm thành tựu: Tâm cầu pháp thành tựu, là thấy pháp thù thắng, giống như châu báu, vì mong cầu pháp đó cho nên đến với đại chúng. Tâm oai nghi thành tựu, là cởi bỏ áo mũ-giày dép-ô dù quý báu…, thể hiện oai nghi nhu hòa tùy thuận mà đến với đại chúng. Tâm mong cầu nghĩa tối thượng của căn thiện thành tựu là dù được pháp vô thượng nhưng không cho là đủ, lại mong cầu pháp thù thắng trong pháp thù thắng, vì pháp thí cho nên đến với đại chúng. Tâm bản nguyện thành tựu là không mong cầu thân mình được cúng dường cung kính, tôn xưng ca ngợi, mà vì lợi mình, lợi người, cho nên đến với đại chúng. Như vậy, đến với các đại chúng cần phải thực hành pháp thí. Vì vậy, theo thứ tự nói về tướng của pháp đó. Khéo mở bày pháp thí, dùng pháp gì để nói? Dùng nghĩa gì để nói? Nương vào sự việc gì để nói? Nói thế nào? Vốn là dựa vào sự việc ấy mà nói. Dùng pháp nào để nói là dùng pháp để nhiếp thủ pháp. Như được Tuệ về nghe để giảng nói pháp như vậy. Dùng nghĩa gì để nói là hiểu được nghĩa cho nên tự lập thệ nguyện xong, cuối cùng trong tâm mình tư duy mà giảng giải cho người khác. Nương vào sự việc nào để nói, là làm điều vi diệu, làm sự việc tài đức. Như pháp đã nói, làm việc như, dùng các ngôn ngữ giải thích không giả dối. Nói pháp thế nào? Là chỉ rõ pháp nhiễm-tịnh. Chỉ rõ theo thứ tự tướng của hai pháp với hai đế. Như vậy giảng nói pháp cho người khác giúp họ nảy sinh căn thiện, tự mình tăng trưởng năng lực kiên cố của nhân. Vì vậy theo thứ tự giảng nói về tướng của pháp kia, trước hết là có được năng lực của nhân, không làm mất căn thiện. Nương vào bốn pháp để nói. Giáo hóa chúng sinh. Có thể nhẫn chịu các khổ. Xa lìa tà kiến. Tu hành tất cả căn thiện công đức. Nương vào năng lực kiên cố của nhân mà nói. Ai sai lầm thiếu sót, không thấy lỗi của họ, là không thấy lỗi của người khác mà còn phòng hộ lỗi nơi thân mình. Giáo hóa được kẻ lỗi lầm là nhờ sức mạnh kiên cố của các nhân, đời đời kiếp kiếp thường có khả năng giáo hóa tất cả chúng sinh, là nhờ nương vào năng lực của nhân tăng trưởng vững chắc hiện tiền. Với năng lực của nhân vững chắc như vậy, sẽ giáo hóa chúng sinh trong đời vị lai một cách kiên cố, lớn mạnh thêm mà được thành tựu. Đây gọi là diệu lực của nhân mà Bồ-tát đã được từ trước cho nên không làm mất căn thiện. Đối với người giận dữ, Bồ-tát thường tu tập tâm Từ, là ưa tu tập tâm Đại Từ, bởi vì có khả năng nhẫn nhục đối với sự giận dữ của người kia. Chúng sinh gây khổ não, Bồ-tát có khả năng chịu đựng mọi khổ đau. Với năng lực của nhân kiên cố cho nên đời đời, kiếp kiếp Bồ-tát ưa tu tập Đại Từ, thường xuyên có khả năng chịu đựng sự sân giận. Chúng sinh nổi giận gây khổ não, nhưng với năng lực của nhân tăng trưởng, kiên cố hiện tiền, Bồ-tát nương vào đó, nương vào năng lực của nhân kiên cố như vậy cho nên có thể chịu đựng mọi nỗi khổ trong đời vị lai. Nhờ sức tăng trưởng kiên cố mà được thành tựu. Đây gọi là Bồ-tát có được diệu lực của nhân từ trước cho nên không làm mất căn thiện. Thường nói nhân duyên của các pháp, là chỉ rõ cho kẻ khác về nhân không điên đảo trong các pháp, chỉ rõ sức mạnh của nhân đạt quả bằng cách rời tà kiến mà ưa chuộng chính kiến. Với sức của nhân kiên cố, cho nên đời đời, kiếp kiếp ở trong các pháp, vì người khác chỉ rõ nhân không điên đảo. Diệu lực của nhân đạt quả, là lìa bỏ tà kiến ưa thích chính kiến. Sức của nhân tăng trưởng kiên cố hiện tiền. Bồ-tát nương vào sức của nhân kiên cố đó cho nên thân mình trong đời vị lai ưa chuộng chính kiến, không thích tà kiến, với sức kiên cố tăng trưởng mà được thành tựu. Đây gọi là Bồ-tát có được diệu lực của nhân từ trước cho nên không làm mất căn thiện. Thường nhớ nghó Bồ-đề là không từ bỏ nguyện lực của tâm Bồ-đề, thường xuyên không rời bỏ tâm Bồ-đề, tu hành tất cả căn thiện công đức. Thấy tâm của Đại Bồ-tát với nguyện lực kiên cố cho nên Bồ-tát đời đời, kiếp kiếp thường tu tập tất cả công đức thiện căn, sức mạnh của nhân được tăng trưởng kiên cố hiện tiền. Nương vào sức của nhân kiên cố đó, Bồ-tát tu hành tất cả công đức căn thiện trong đời vị lai, cho nên sự kiên cố tăng trưởng đều được thành tựu. Đây gọi là đầy đủ được năng lực của nhân từ trước cho nên không làm mất căn thiện. Như vậy bởi vì có năng lực của nhân từ trước, dù chưa có người giảng nói hạnh Ba-la-mật, nhưng Bồ-tát vẫn có phương tiện thực hành Ba-la-mật. Vì vậy tiếp theo là nói đến sự việc không do người khác dạy bảo mà có khả năng tự thực hành pháp hạnh Ba-la-mật. Dùng bố thí làm người dẫn đường, bố thí ở trong Ba-la-mật là đứng đầu, mình tu hành trước mới dạy người khác, giúp họ bước vào tu hành. Tu hành bố thí như vậy cho nên Bồ-tát thành tựu hạnh bố thí trong đời vị lai, từ kiếp sống này đến kiếp sống khác, đời đời không do người khác dạy bảo mà Bồ-tát vẫn có khả năng thực hành Bố thí Ba-la-mật. Không nói tội phá bỏ giới cấm của người khác, là chỉ rõ không thấy lỗi lầm của người khác, Bồ-tát khéo trú vào trì giới. Do khéo trú vào giới cấm như vậy, cho nên không làm mất tất cả các hạnh của giới cấm, đời đời kiếp kiếp không do người khác dạy bảo nhưng Bồ-tát vẫn có khả năng thực hành Thi Ba-la-mật (Trì giới Ba-la-mật). Khéo nhận biết nhiếp pháp giáo hóa chúng sinh, là bởi vì giáo hóa các chúng sinh khiến cho họ được nhẫn yên ổn. Ai không tu tập các hành thì Bồ-tát siêng năng giảng nói các pháp cho họ không mỏi mệt, biết tâm, biết sử dụng giáo pháp mà nhiếp thủ chúng sinh. Bồ-tát tu hành nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định như vậy cho nên đến đời vị lai thành tựu được tinh tiến, nhẫn nhục và thiền định. Đời đời kiếp kiếp theo thứ tự như vậy, không do người khác dạy bảo mà Bồ-tát vẫn có khả năng thực hành nhẫn nhục, tinh tiến, thiền Ba-la-mật. Hiểu rõ ràng pháp sâu xa, là khéo nhận biết tất cả các pháp không có ngã. Bồ-tát vì tin hiểu về pháp sâu xa như vậy, cho nên thành tựu trí tuệ ở vị lai, trong nhiều kiếp sống qua mỗi đời, không do người khác dạy bảo mà vẫn có khả năng tự thực hành Bát nhã Ba-la-mật. Bồ-tát tu hành Ba-la-mật như vậy, thực hành được hạnh thù thắng hòa dịu, có khả năng chuyển biến các thiền định, hóa sinh trở lại trong cõi Dục. Vì vậy theo thứ tự giảng nói tướng của pháp ấy. Tâm hòa dịu là do chứng được Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề cho nên Bồ-tát có năng lực tự tại. Dùng phương tiện khéo léo mà có khả năng chuyển biến, khởi hiện cảnh giới mầu nhiệm thù thắng. Bồ-tát kia đã được năng lực tự tại trong thiền định, không vì thiền định mà sinh lên cõi Sắc. Được sức mạnh của căn thiện là các Bồ-tát có khả năng từ bỏ lónh vực tốt đẹp mà không giữ lấy cảnh giới tốt đẹp. Mặc dù sinh vào cõi dưới, nhưng Bồ-tát vẫn không lùi mất thiền định kia. Khéo tu tập sức mạnh của phương tiện trí tuệ là các Bồ-tát do có năng lực của phương tiện Bát nhã cho nên khéo tu tập các hạnh, vì vậy không lùi lại nơi địa dưới. Do nhàm chán mà không tiếp nhận địa đó, cũng không tu hành hạnh gì để sinh vào cảnh giới đó. Chỉ rõ về chính nhân cho nên không bỏ tất cả các chúng sinh, vì không rời bỏ chúng sinh, cho nên các Bồ-tát rời bỏ cảnh giới mầu nhiệm tốt đẹp, chấp nhận sinh vào nơi chốn thấp kém, là chỉ rõ công hạnh giáo hóa các chúng sinh. Như vậy Bồ-tát không tham đắm niềm vui riêng mà đem niềm vui cho người khác, chỉ rõ mang lại an vui cho chúng sinh, vì đã được pháp luân không lùi lại. Theo thứ tự sẽ nói đến tướng của pháp đó. Chứng được địa của pháp luân không thối chuyển, là vì đối với ba loại lùi lại cần phải đối trị cho nên nói bốn pháp đối trị. Về nghĩa này cho nên biết. Cho nên biết như vậy nào? Đó là ba pháp khiến cho sự tu tập hạnh Bồ-tát bị lùi lại: Thời gian lâu xa vô lượng. Vì không thể chịu đựng mọi thứ khổ não của sự sống…, cho nên phát sinh tâm niệm lùi lại. Vì công đức trí tuệ kém cho nên sinh tâm lùi lại. Bỏ rơi tất cả chúng sinh, không có tâm Từ Bi, cho nên phát sinh tâm lùi lại. Có sức chịu đựng sinh tử vô lượng là Bồ-tát có tâm niệm hoàn toàn chấp nhận thời gian vô lượng, cho nên dù có vô lượng các nỗi khổ của sự sống nhưng vẫn đủ khả năng chịu đựng, không sợ hãi, không cảm thấy mệt mỏi. Cúng dường vô lượng chư Phật Như Lai, là Bồ-tát cung kính, cúng dường vô lượng chư Phật theo Phật nghe pháp cảm được vô lượng công đức trí tuệ. Vì vậy Bồ-tát thành tựu được công đức trí tuệ tốt đẹp vô cùng. Tu hành vô lượng tâm Đại Từ, Đại Bi; là Bồ-tát theo thứ tự như vậy mà ban cho tất cả chúng sinh sự yên ổn, đem niềm vui đến cho mọi chúng sinh, bởi vì Bồ-tát không lìa bỏ họ. Như vậy bởi vì chứng được địa không thối chuyển, cho nên không đoạn tuyệt chủng tử Phật mà tu hành như thật, vì vậy, theo thứ tự sẽ nói đến pháp tướng đó. Không đoạn chủng tử Phật mà tu hành như thật, là vì chứng được Phật địa đệ nhất nghĩa, vì chứng được Phật địa ở thế gian. Phật địa đệ nhất nghĩa, có ba nhân tố mà chứng được: Tâm ham muốn căn bản. Chí tâm mong muốn chứng đắc. Tâm ham muốn tối thượng. Bản nguyện không lùi lại, là vì không làm mất căn bản của sự ham muốn. Đây gọi là tâm ham muốn căn bản, vì nó chỉ rõ tướng nơi sức mạnh của nguyện gốc. Tu hành như lời nói, là theo pháp Như Lai đã giảng nói mà tu hành như vậy, gọi là tu hành như lời nói, là chỉ rõ các Bồ-tát chí tâm muốn được chứng ngộ. Đối với các pháp thiện có sự ham muốn lớn về tinh tiến là tâm ham muốn cao thượng, dù được một phần ít nhưng vẫn không cho là đủ, lại còn mong cầu pháp thù thắng. Tâm sâu xa thực hành Phật đạo, là chỉ rõ tên gọi tạm thời về nhân của Phật địa. Giả danh là Phật, nêu rõ Đức Phật giáng sinh và lúc nhập Niết bàn. Nói tâm sâu xa là chỉ rõ việc cầu tâm của Đức Phật giáng sinh ấy. Thực hành Phật đạo là tu hành như thật, là Đức Phật giáng sinh thị hiện Phật trú trì. Lại bởi vì thị hiện lúc Đức Phật giáng sinh, còn có thuyết pháp chuyển pháp luân để nhiếp thủ tất cả chúng sinh. Vì cảm nhận niềm vui của nghĩa các pháp nào? Đức Phật phát ra hào quang tỏa sáng để nhiếp thủ chúng sinh. Vì Thánh giả Phạm Thiên Thắng Tư Duy muốn thọ nhận các niềm vui pháp kia. Nương vào lời hỏi trước của Phạm Thiên về sự thù thắng, Thánh giả Võng Minh Đồng tử Bồ-tát hỏi Phạm Thiên về pháp tướng nổi bật đã nói đó. Từ đây trở xuống sẽ nói rộng về Phạm Thiên Thắng Tư Duy, cho nên biết. Phần hỏi của Phạm Thiên có tám loại tà và chính được ghi nhận vì nói về pháp đó. Như kinh nêu “ Thiên nói: Võng Minh! Nếu Bồ-tát thấy có ngã cho nên hỏi, đó là hỏi tà không phải là hỏi chính”. Những gì là tám thứ? Đó là: Nương vào. Thể. Nương dựa. Nương vào sự. Lỗi lầm. Lợi ích. Dấy khởi. Căn bản. Nương vào, nghĩa là nương vào Đại thừa, vì nương vào thừa đó, là câu hỏi chính ở đây. Thể: Hỏi tà là Thể. Thể ấy có ba loại. Đó là Ngoại đạo, Thanh văn và Bồ-tát mới phát tâm. Nương tựa: Có ba loại không có trí là thô-trung bình và vi tế. Ba loại ấy là tối tăm, nghĩa là theo thứ tự như ngoại đạo…, nên biết. Nên biết như vậy nào? Nên biết người ngoại đạo dựa vào không có trí thô sơ. Vì vậy không nhận thức được thể, tướng của vô ngã, trong thân mình và thân người chấp trước có ngã, bởi vì không thể nào biết được tướng của các pháp. Nương vào tâm mình, nhận thấy luận tà đã giảng nói, theo nghĩa câu của luận đó, chấp trước nơi pháp tướng. Như vậy theo thứ tự thân mình và thân người vì nhận thức hư vọng mà hỏi. Hết thảy như vậy không phải là hỏi chính niệm mà đều là hỏi tà. Thanh văn phân biệt nhận biết tướng của pháp vô ngã, vẫn còn có điều không biết. Vì vậy gọi là hạng không có trí, tối tăm trung bình. Dựa vào chỗ không có trí trung bình ấy mà nhận lấy nghiệp của mình tạo tác các nghiệp…, tức là chính nơi nghiệp đó mà nhận quả báo chứ không phải đâu khác. Và chấp vào tự Thể theo tướng đồng-tướng khác, thành tựu các pháp chắc chắn có như sắc… Thưa hỏi như vậy là chấp trước thân mình và pháp của thân khác. Vì có tùy thuận mà đoạn trừ chướng phiền não, dựa vào Thừa mình gọi là chính niệm. Dựa vào đoạn trừ chướng phiền não nhưng không tùy thuận đoạn trừ chướng của trí cho nên gọi là tà niệm. Dựa vào Đại thừa cho nên gọi là hỏi tà. Bồ-tát mới phát tâm có phần ít khả năng nhận biết các pháp vô ngã. Còn có chỗ không biết là không có trí mà có vi tế, dựa vào không có trí vi tế-dựa vào không có vật nào có lìa bỏ tướng có mà chấp lấy tướng không. Ở trong hai pháp, một mực chấp giữ pháp không duyên nơi tướng của pháp không mà hỏi, là hỏi không chân chính. Nói nương vào sự thì sự có sáu loại: Ấm-nhập-giới. Nhân duyên tập hợp. Đế (Chân lý). Chứng trí. Đối với đối trị. Pháp Phật. Dựa vào việc của ấm-giới-nhập là dựa vào ngã để hỏi về ngã. Dựa vào việc của nhân duyên tập hợp là dựa vào thuận nghịch mà hỏi, lấy sinh mà hỏi, lấy diệt mà hỏi, lấy thị xứ phi xứ mà hỏi, tức là hỏi về nhân duyên tập hợp kia. Sinh diệt tức là thị xứ phi xứ. Như trong kinh nói: “Nghiệp của thân-miệng…, tu hành các điều lành, nếu sinh vào đường dữ thì không có chuyện đó”. Nương vào sự việc của Đế, là thuận với nhân duyên tu tập, nghịch với nhân duyên tu tập. Thuận với nhân duyên tu tập là hai Đế, với Thể cấu nhiễm có nhân-có quả là Thể của pháp hành hữu lậu. Nghịch với nhân duyên tu tập là hai Đế với Thể tịnh nương vào đạo có khả năng diệt trừ, vì vậy Đạo đế gọi là Diệt đế. Như vậy, nương vào hai Đế với hai loại nhiễm-tịnh mà hỏi. Dựa vào hai Đế với Thể của pháp nhiễm mà hỏi về thế gian có sinh tử. Dựa vào hai Đế với Thể của pháp tịnh, mà hỏi về Niết-bàn tịch diệt. Như vậy, theo thứ tự, sinh trong thế gian, vượt lên trên thế gian mà chứng được Niết-bàn. Như vậy Niết-bàn và thế gian là hai loại khác nhau, là nương vào Niết-bàn hữu dư và Niết-bàn vô dư. Như vậy hỏi những sự việc thế gian là dựa vào thật Đế mà hỏi, nghĩa này nên biết . Do ý nghĩa đó, dựa vào bốn loại sự việc của Đế mà làm cản trở pháp vô ngã. Nương vào việc chứng trí, là dựa vào sự hiểu biết và xa lìa mà hỏi, vì chứng đắc vì tu tập mà hỏi. Theo thứ tự như vậy, trí đó vào lúc kiến đạo được gọi là trí. Đã chứng trí cho nên từ đây trở lên, được gọi là tu đạo. Vì được chứng biết cho nên dựa vào trí chứng ngộ để hỏi, được gọi là trí, được gọi là tu hành, nghĩa này cho nên biết. Vì xa lìa Tập kia cho nên được quả của chính đạo xuất thế gian, vì lìa khỏi các kiết sử phiền não nơi thân, cho nên dựa vào chỗ xa lìa sự việc mà hỏi, như kinh nói: “Vì vậy Võng Minh! Dùng những nơi chốn không đắc, không nhận lấy, không chứng ngộ, không phân biệt, không biết, không nương tựa, không tu, không tu kiến mà hỏi, đó là hỏi chân chính”. Việc ấy có nghĩa gì? Ở trong Chân Như đã nói về câu chữ là nói không có trí như vậy, là để ngăn ngừa lónh vực Chân Như không có pháp như vậy. Như mỗi câu có vị trí riêng cũng là để ngăn chặn vị trí của chúng không có pháp như vậy. Không nhận lấy, là không còn phân biệt hư vọng rằng mình đã đạt được. Không phân biệt, là không phân biệt hư vọng rằng mình đã chứng ngộ. Không nương dựa, là không phân biệt hư vọng rằng mình đã biết Niết-bàn. Không phân biệt, là Đệ nhất nghĩa. Nói nương tựa, là nương vào kiến đạo, kiến đạo là dựa vào tu đạo mà nói. Không tu kiến, là không chấp mình tu đạo. Nói pháp như vậy thì gọi là chính. Nương vào đối với đối trị, là các pháp thiện-bất thiện… Pháp bất thiện gọi là đối, pháp thiện gọi là đối trị. Lại nữa, pháp thiện có hai loại khác nhau là hữu lậu và vô lậu. Lại nữa, các ngoại đạo do gắn với tà kiến ô trược, cho nên trong cõi sinh tử luôn có lỗi lầm, nghĩa này nên biết. Không có lỗi cũng có hai loại khác nhau là hữu vi và vô vi. Pháp thiện lại có hai loại khác nhau là thế gian và xuất thế gian. Kẻ có tâm phân biệt vì không có phân biệt dựa vào đó mà hỏi về các việc chủ thể đối trị và đối tượng cần phải đối trị. Võng Minh! Nếu Bồ-tát không thấy hai và không thấy không hai, thì không thấy hai số cũng không thấy một số. Đó là để ngăn ngừa có thể chấp lấy pháp vô ngã. Hỏi về vô minh, vô tướng, việc làm bình đẳng đó gọi là hỏi chính. Vì giữ lấy tướng của pháp kia cho nên phải ngăn ngừa khả năng chấp lấy, có thể chấp lấy tướng đó. Lại nữa, hỏi về vô tướng và việc làm bình đẳng vô tướng, là để ngăn ngừa chủ thể nói, có thể nói về tướng. Vả lại, chủ thể nói gọi là bình đẳng, có thể nói gọi là tướng, vì nhận biết tất cả mọi sự đều bình đẳng. Pháp kia có thể nói cũng gọi là bình đẳng, bởi vì nhiều loại pháp tướng giống nhau gọi là nói. Nương vào việc của pháp Phật, là nương vào Phật, nương theo pháp, nương vào sự tu hành, nương vào nơi chốn, nương vào chúng sinh có thể hóa độ, nương vào sự tinh tiến, giữ lấy chứng trí. Như vậy theo thứ tự Phật…, nêu rõ nhân sai biệt ấy mà hỏi về các loại như Phật… Nên biết. Đủ chủng loại Phật là sự khác nhau về thời kỳ, gia đình, dòng họ, đời sống. Đủ chủng loại Pháp là sự khác nhau về các thể loại của kinh, Kỳ- dạ… Đủ chủng loại Tăng, là sự khác nhau ít nhiều về Bồ-tát, Thanh văn, Tăng xen tạp từ xưa đến nay. Đủ chủng loại quốc độ, là sự khác nhau về quốc độ thanh tịnh và tạp nhiễm từ xưa đến nay. Đủ chủng loại chúng sinh, nghĩa là sự khác nhau về các loại phiền não như tham lam, giận dữ, si mê xen tạp… Đủ chủng loại Thừa, là sự khác nhau về các Thừa như Thanh văn… Nói lỗi lầm, là các ngoại đạo…, hỏi về pháp sinh-pháp diệt, và thị xứ phi xứ. Thấy pháp sinh mà hỏi. Thấy pháp diệt mà hỏi. Thấy pháp ô nhiễm mà hỏi. Thấy pháp thanh tịnh mà hỏi. Các câu hỏi như vậy đều là hỏi ô nhiễm, vì vậy gọi là lỗi lầm. Người hàng Thanh văn đối với tất cả câu hỏi cũng như vậy, vì diệt-vì tịnh-vì thành tựu Niết-bàn mà không đạt được Đại Bồ-đề, vì vậy gọi là lỗi lầm. Bồ-tát mới phát tâm Bồ-đề cũng hỏi không chính niệm, bởi vì không thành tựu trí thanh tịnh như thật, cho nên gọi là lỗi. Nói lợi ích, là nếu không có người nào hỏi như vậy thì gọi là lợi ích. nghĩa này nên biết. Các câu hỏi như vậy đều không phải là các câu hỏi chân chính. Các câu hỏi như vậy gọi là các câu hỏi chân chính, đều nêu rõ nghĩa lý ấy. Nói là dấy khởi, tức là không phải câu hỏi đúng đắn và các câu hỏi đúng đắn, chỉ rõ nghĩa lợi ích kia. Như kinh nói: “Lại nữa, này Bồ- tát Võng Minh! Tất cả các pháp là chính, tất cả các pháp là tà”. Điều này có ý nghĩa gì? Các ấm-giới-nhập…, đều nói thuộc về trong pháp Phật, như trước đây đã nói về các sự tướng ấm, giới, nhập… Các pháp như đã giảng nói không thể nghó bàn gọi là chính, mà dấy lên nghó bàn gọi là tà, là sự việc hỏi không chính và hỏi chính. Như kinh nói: “Phạm Thiên nói: Võng Minh! Do nghĩa nào mà các pháp không thể nghó bàn thì tất cả pháp ấy gọi là chính”. Nếu không thể nghó bàn mà nghó bàn cho nên tất cả các pháp đều gọi là tà. Vì nghĩa gì? Vì mọi pháp là không thể nghó bàn, như kinh nói: Tất cả pháp tónh lặng gọi là chính tư duy; vì Thể xa lìa phân biệt hư vọng, gọi là tónh; bởi vì không có hý luận, cho nên cũng gọi là tónh lặng. Vì không tin sự tónh lặng của pháp vô ngã cho nên rơi vào phía tăng thượng mạn. Phân biệt hư vọng là có thể phân biệt pháp mà tu tập các hạnh, vì phân biệt bốn đại cho nên khởi lên câu hỏi, hỏi pháp như vậy thì không phải hỏi một cách chân chính. Pháp chính tính là lìa cảnh giới của mình, lìa phạm vi ham muốn khác, đó gọi là pháp tính. Đây là chỉ rõ về nhân của hỏi chân chính. Đây là do nghĩa nào, dùng các pháp quán sát nào để có khả năng xa lìa dục vọng? Do các trí nào mà phân biệt được pháp đó? Hai pháp không hai kia gọi là pháp Chân Như, trong đó trí không phân biệt như vậy là tướng của trí Chân Như, gọi là thật tế. Nói thật tế, là lìa phạm vi hơn hẳn của ham muốn khác. Nói thật tế, là lìa khỏi các thứ ham muốn, thật tướng của trí Chân Như là không phân biệt. Đây là từ trong cảnh giới của nội tâm quán sát như thật để quán tưởng về nơi chốn phần vị. Như vậy theo thứ tự trình bày về pháp tính là tónh lặng, nên biết. Địa là thành tựu cảnh giới của tự tâm, và quán Chân Như là Địa được quán sát. Các pháp nào là trên như đã nói về ấm-giới… Sự của ấm-giới…, đó lìa xa Chân Như, vì Chân Như không có hý luận. Chân Như phải quán sát bằng trí không phân biệt. Trí đó tónh lặng, vì Chân Như lìa xa mọi nơi chốn có thể giữ lấy và chủ thể giữ lấy. Nói pháp rất sâu xa như vậy, nên biết là chính pháp này rất thâm diệu, khó hiểu. Như kinh nói: “Bồ-tát Võng Minh nói: Phạm Thiên, ít có chúng sinh có khả năng hiểu được chính tính của các pháp như vậy. Nói các pháp có chính tính như vậy, tức là lìa pháp tính chính mà cầu trí thì không thể được. Vì pháp tính kia vượt lên trên số lượng một-khác của thế gian, che mất Thể của pháp hữu vi. Gọi là ít bởi vì nương vào một số, lìa một số kia lại không có phần ít, như vậy là để ngăn ngừa sự chấp có về Thể của vật. Thể của pháp đó không phải luôn luôn là không có. Không hay, không biết bởi vì ngăn ngừa cho rằng không có tướng pháp. Đây là xác minh về nghĩa gì? Ở đây nói tin tưởng các pháp căn bản của ba đời, không nhận thấy pháp tướng, không có nghĩa là ngăn sự thật chứng. Các Đại Bồ-tát đều có pháp thật chứng. Chỉ rõ nghĩa này vì thuận theo nghĩa này cho nên gọi là tin không có chứng đắc. Chứng ngộ pháp này gọi là không nhận thấy một sự. Võng Minh! Nếu có người thiện nam-người thiện nữ nào được nghe chính tính của các pháp như vậy, siêng năng tinh tiến tu hành, thì gọi là tu hành như thật, tức là nương vào Tuệ nghe, Tuệ tư duy, từ trong trí tuệ mà giảng giải về tướng pháp. Như trước đây đã nói: Như Lai thuyết pháp là nương vào tâm nào? Ý nào? Về nghĩa này cho nên biết. Vì không hý luận với tất cả pháp, thì gọi là chứng pháp. Vì biết như thật cho nên Bồ-tát không trú vào thế gian, không trú vào Niết-bàn. Nơi thế gian đầy phiền não ô nhiễm không có một pháp nào buông bỏ, vì vậy mà không giảm. Do trong Niết-bàn không có một pháp nào nhận lấy, vì vậy mà không tăng. Đó là chỉ rõ các Đại Bồ-tát không trú vào tướng Niết-bàn của thế gian. Nghe giảng nói về tướng chính pháp như vậy, là theo thứ tự, nghe pháp từ người khác, sau đó tự chính tư duy ở nội tâm, theo thứ tự có khả năng phát sinh chính kiến xuất thế mà đạt được quả. Lìa các tướng là chỉ rõ thật Thể không trú tướng, chỉ rõ nhân không trú của Niết-bàn. Đó là vì Như Lai nhận thấy pháp vô ngã bình đẳng cùng các Bồ tát về thế gian và Niết bàn, các lỗi lầm và công đức không có gì phân biệt bởi vì tướng bình đẳng. Như vậy các Bồ tát nhất định không trú vào thế gian cũng không trú vào Niết bàn. Nói pháp theo thứ tự đến đây đã xong. Lại dựa vào nghĩa khác, tiếp theo dưới đây lại hỏi. Điều này trình bày về nghĩa gì? Đức Như Lai thuyết pháp không bao giờ vượt qua phân biệt, là không bao giờ phân biệt vượt quá đối với thân, không bao giờ phân biệt vượt quá thế gian lại có một pháp nào khác, vì vậy thế gian không có một pháp nào giảm, ở trong Niết bàn không có một pháp nào tăng, ngăn chặn lìa bỏ một vật và ngăn chặn có được một vật. Đây là trình bày về nghĩa gì? Không phải nói là luôn luôn không vượt qua thế gian, hay có vượt qua thế gian. Đó là để ngăn ngừa kẻ chấp (không thấy có vật gì cả). Đây là trình bày về nghĩa gì? Là chỉ rõ ý nghĩa vượt qua hai tướng. nghĩa này thế nào? Nói hai tướng: Việc làm ở thế gian. Niết-bàn. Phân biệt sai lầm về thế gian, phân biệt sai lầm về công đức, thì Đại Bồ-tát hoàn toàn xa lìa hai lầm lỗi đó. Về nghĩa này thế nào? Trong pháp bình đẳng không có nhiễm-tịnh, vì dựa trên pháp tính của thực tế để lìa dục. Nói như vậy bởi vì thực tế kia luôn luôn không giống với sinh tử. Thế gian cho sinh tử là thường, vì vậy không có ai nhập Niết-bàn. Bởi vì nghĩa này cho nên không cấu nhiễm, không thanh tịnh. Theo thứ tự như vậy, không cần phải nói pháp, mà chỉ mặc nhiên an trú, cũng có thể tu hành các hạnh đúng như pháp. Nếu muốn giảng nói thì phải như Phạm Thiên kia đã nói. Vì vậy Như Lai khen: Lành thay! Lành thay! Pháp không thể nói mà có thể giảng nói. Vì vậy Như Lai lại khen: Lành thay! Ta không vướng vào sinh tử, không chứng đắc Niết-bàn. Như vậy đều là lónh hội những nghĩa trước đây đã nói, lại không có pháp nào để có thể nói. Vì sao Như Lai lại nói pháp này? Vì năm trăm Tỳ-kheo khi nghe nói pháp này sinh tâm hoảng sợ, Đức Như Lai vì muốn làm cho các Tỳ-kheo ấy ở trong nghĩa này cuối cùng được yên định. Đây là nêu ra nghĩa nào? Là chỉ rõ ý của Như Lai cũng như vậy, chứ không phải riêng gì Phạm Thiên. Chúng sinh đều rơi vào phía không có vật. Vì vậy Như Lai và Phạm Thiên đều nói lý Không, nhưng kẻ tu tập phạm hạnh không hiểu ý nghĩa sâu xa mà phân biệt sai lầm. Phạm hạnh là sao? nghĩa là thọ trì giới tu hành như thật mà không sai phạm. Tu hành chính đạo là tu hành, quán sát sự khác nhau của bốn Đế. Các thiền là bốn thiền như Sơ thiền, Nhị thiền… Tam-muội là các loại hoạt động có giác-có quán… Tam-ma-bạt-đề là bốn định Vô sắc. Do chấp có pháp và không có pháp cho nên các Tỳ-kheo ấy vừa nghe nói như trên, thì nói rằng Như Lai thuyết hoàn toàn không có vật cũng không có tu hành phạm hạnh như vậy cho nên sinh tâm hoảng sợ, vì họ chấp pháp là có, là không. bởi vì đoạn trừ chấp có, không của các Tỳ-kheo, thì đối với số người ấy Phật không xuất thế… Thậm chí Niết-bàn họ cũng cho là vật có vì thế mong cầu chứng Niết-bàn. Đối trị với chấp vật có, như kinh nói: Hạng người đó cứ mong cầu tướng quyết định. Như vậy là dựa vào không có danh-tướng để giảng nói pháp Không. Như Lai dùng hai thí dụ để quở trách số Tỳ-kheo sợ hãi kia. Hai thí dụ này khiến phát sinh hai loại nhân nhớ nghó, là phát sinh nhân nhớ nghó nhàm chán, phát sinh nhân nhớ nghó quán sát vui mừng. Nhờ hai nhân ấy mà đạt được Niết-bàn, vì vậy mà Như Lai quở trách. Đây là trình bày về nghĩa gì? Là chỉ rõ từ chỗ họ cầu pháp, tâm bị phiền não lỗi lầm bức bách, cho nên khởi quán về nhàm chán. Thí dụ đầu giống như pháp đối trị tướng, chỉ rõ cách quán có lợi ích, vui cùng thân quán, cho nên phát sinh quán sát hoan hỷ. Thí dụ thứ hai giống như pháp đối trị về tướng. Tiếp theo là trình bày về hạng người kia, dù thực hành tướng chính mà đó lại là tướng tà hạnh, vì họ khởi lên tướng sinh, tướng diệt, để được tướng Niết-bàn, để chứng tướng đạo. Từ trước đến giờ, nghe Như Lai giảng nói pháp, các Tỳ-kheo được giảm bớt các hành động xấu ác. Từ đây trở xuống, vì muốn cho các Tỳ-kheo tiến vào trong pháp, cho nên Bồ-tát Võng Minh nói với Phạm Thiên Thắng Tư Duy giúp họ được tiến vào trong pháp. Ở đây chỉ rõ hai loại pháp tướng: Chỉ rõ về Thể thật. Chỉ rõ về chứng đắc quả vị. Nói thể thật là khiến họ tin tưởng pháp. Nói chứng quả là khiến các Tỳ-kheo lìa tà kiến được giải thoát. Suy cho cùng là chỉ rõ tướng chính kiến. Vì thân Tỳ-kheo trong khi nghe giảng nói pháp, có khả năng sinh khởi chủng tử vì chư Phật Như Lai ở quốc độ khác cũng đều giảng nói pháp này, là chỉ rõ cho Tỳ-kheo biết sợ nơi nào, thì không thể bỏ nơi đó mà đi, không thể xa lìa pháp tướng đã nói, vì tất cả mọi nơi đều không lìa pháp, vì không thể tránh khỏi. Chỉ rõ tướng như vậy, để hàng Tỳ-kheo kia không ra đi. Nói hư không để thí dụ, nghĩa này chỉ rõ là sợ hãi nơi nào thì bỏ nơi đó mà đi, chung quy vẫn không tách khỏi chỗ sợ hãi. Như sợ hư không, không thể vượt khỏi nó, mà có một nơi nào không có hư không để có thể tìm cầu. Nương vào pháp chứng kia, là chỉ rõ tướng chứng đắc. Không, Vô tướng, Vô nguyện là Chân Như. Nên biết rằng muốn cầu Niết-bàn, đi trong Niết-bàn, nhưng không chứng đắc Niết-bàn, vì Niết-bàn là tướng thanh tịnh của Chân Như. Đây là theo nghĩa nào? Vì Chân Như kia đều bình đẳng trong tất cả pháp, cho nên gọi là Niết-bàn. Vì trong miệng nói ra thì không thể giữ lấy. Đây là trình bày về nghĩa gì? Vì ngăn ngừa quan niệm cho rằng thật Thể là có thể giữ lấy. Như vậy xa lìa pháp vật có-không, có thể nhận biết như thật về thể tướng của các pháp. Các Tỳ-kheo kia nhận thấy như vậy rồi, tâm được giải thoát. Được tâm giải thoát rồi, thì được pháp thật. Được pháp thật rồi, tự nói pháp tướng. Các Tỳ-kheo kia trước đây là phàm phu, sau đó làm học nhân, kế đến chứng thành La-hán. Vì nghĩa này cho nên sau ba thời gian, chấp giữ như trước đây không thành, họ nói lên lời này: Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con đây không phải là phàm phu, không phải hàng hữu học, không phải là bậc vô học, không phải là A-la-hán. Không ở nơi thế gian, là vónh viễn đoạn tất cả mọi nơi thọ sinh mà ở trong cảnh giới Niết-bàn Vô dư. Không ở nơi Niết-bàn, vì tướng thủ ấm chưa dứt mà ở trong Niết- bàn Hữu dư. Như thật chỉ rõ là có Phật xuất thế, hiện bày tướng giác tri. Nói đến động, tức là tâm tán loạn. Nói ngã tưởng tức là ngã kiến. Nói phát khởi, là có khả năng dấy khởi các hành tướng của tâm. Nói đến hý luận là ba câu phân biệt về tâm như động khởi… Nhân quả như vậy hoặc hoàn toàn chỉ rõ cho hạng kia có Phật xuất thế. Thánh giả Xá-lợi-phất nương vào đạo, nương vào sự đạt được, nương vào diệt, nương vào sự chứng ngộ để hỏi các Tỳ-kheo. Các Tỳ- kheo cho nên trả lời như vậy. Như Tôn giả Xá-lợi-phất nói mà các Tỳ kheo nói như vậy: Tôi đã được bảy điều không thể làm mà làm. Nói năng hỏi đáp, đây là nêu rõ trả lời thật với cách trả lời ngược lại. Ở đây có hai loại: Trả lời về chỗ chứng đắc. Trả lời về sự giảng nói. Vì có người như vậy cho nên thiết lập sự ghi nhận. Các Tỳ-kheo đồng hành nói pháp nhưng không có khả năng đạt đến cùng cực, càng sinh tâm tôn trọng. Vì Tỳ-kheo kia nói về Thể của pháp cho nên phát sinh tâm tôn trọng.  PHẠM THIÊN SỞ VẤN KINH LUẬN <卷>QUYỂN 3 Trú vào ruộng phước có khả năng tiêu hóa của cúng dường, nghĩa là dựa vào ruộng phước, trú vào đạo La-hán thì có thể thọ nhận cúng dường. Đại sư Thế Tôn hãy còn không thể tiêu hóa các thứ cúng dường, huống là chúng ta mà có thể tiêu hóa các sự cúng dường ư? Đây là trình bày nghĩa gì? Vì biết đúng như thật pháp tính xưa nay thanh tịnh. Vì vậy cho nên nói: Đại sư Thế Tôn hãy còn không thể tiêu hóa các thứ cúng dường, huống là chúng ta… Đây là trình bày nghĩa gì? Bởi vì lìa pháp giới lại không có ai tiếp nhận của cúng dường, vì pháp giới kia xưa nay vốn thanh tịnh. Đây là theo nghĩa gì? Bởi vì trú cảnh giới ruộng phước, trú quả vị La-hán có thể thọ nhận cúng dường. Vì nhận biết như thật về pháp giới thanh tịnh, vì các thế gian không biết Như Lai là ruộng phước tốt đẹp, cho nên nói: Đại sư Thế Tôn hãy còn không thể tiêu hóa các sự cúng dường. Đây là trình bày nghĩa gì? Vì lìa khỏi pháp giới lại không còn có pháp tướng thanh tịnh nào khác, vì tự tính pháp giới kia là thanh tịnh. Vì dựa vào sự tiếp nhận cúng dường cho nên hỏi về ruộng phước. Tiếp theo hỏi về người thích hợp để thọ nhận cúng dường ruộng phước. Những người đó là ai? Như kinh tiếp đến nói: Không bị sự lôi kéo của pháp thế gian. Thưa Thế Tôn! Dựa vào các Bồ-tát như vậy đều là ruộng phước của thế gian, cho nên nói tướng ruộng phước của sự nhận cúng dường. Vì vậy đáp: Không bị sự lôi kéo của pháp thế gian. Đây là theo nghĩa gì? Vì các Đại Bồ-tát thường ở thế gian, thực hành pháp thế gian, không bị ô nhiễm vì pháp thế gian, dù các môn pháp thế gian như hơn, thua, được, mất, khen chê, khổ, vui đều không thể lôi kéo. Thể của tâm Bồ- tát không có được - mất, hơn - thua - khen - chê, khổ - vui. Tâm Bồ-tát luôn vững chắc cho nên không chạy theo tám pháp thế gian. Đối với các sự việc như vậy, tâm luôn kiên cố không động, tham dục, giận dữ và si mê không thể lôi kéo được. Người như vậy là người ruộng phước tiếp nhận sự cúng dường, đó gọi là ruộng phước có khả năng nhận lãnh cúng dường, đó là thanh tịnh. Vì nghĩa này, dựa vào người ruộng phước, cho nên hỏi về tướng của ruộng phước thanh tịnh. Vì các Bồ-tát, tuy phần nhiều thọ nhận lợi dưỡng của quyến thuộc, nhưng không khởi tâm nhiếp thủ một pháp, chấp trước một pháp. Do nghĩa ấy cho nên có khả năng tiêu hóa của cúng dường, là ruộng phước có thể tiêu hóa của cúng dường. Làm sáng tỏ nghĩa ấy, cho nên câu hỏi kế tiếp là về khả năng tiêu hóa cúng dường, vì không chấp trước. Đó là chỉ rõ tướng tốt đẹp của ruộng phước có khả năng thọ nhận. Do vậy được gọi là hai tướng ruộng phước và công đức. Vì không làm mất sự yên ổn của chúng sinh, cho nên Bồ-tát mới phát tâm Bồ-đề, các chúng sinh cho nên tu hành làm các công đức cho nơi ấy. Được công đức cúng dường cung kính là sự tốt đẹp trong ruộng phước, là chỉ rõ nghĩa này. Vì vậy, câu hỏi kế tiếp mới hỏi về phước điền thanh tịnh. Vì Bồ-tát không làm hư hoại tâm Bồ-đề, mà là người có khả năng thọ nhận cúng dường làm thanh tịnh phước điền, vì vậy Bồ-tát có khả năng làm ruộng phước, làm thiện tri thức nhiếp thủ chúng sinh. Nêu rõ nghĩa này, cho nên lần lượt hỏi về thiện tri thức. Họ là người trực tâm tu hành theo thứ tự như vậy, tiến vào thiền định. Từ thiền định bước ra ban cho các chúng sinh niềm vui và sự yên ổn, vì không rời bỏ tất cả chúng sinh, chỉ rõ Bồ-tát, là bậc thiện tri thức thù thắng. Như vậy Bồ-tát có khả năng làm bạn lành của chúng sinh. Nương theo lời Như Lai dạy lợi mình-lợi người và tu hành các hạnh không quên mất ơn sư. Nêu rõ nghĩa này cho nên tiếp theo hỏi có thể báo ơn Phật, vì đạt được Bồ-đề của Phật không đoạn tuyệt chủng tử Phật, tâm làm lợi ích cho người khác, cho nên đối với Như Lai, tự làm những việc làm tốt đẹp để báo ơn Phật. Báo ơn là cúng dường những người có các công đức. Chỉ rõ nghĩa này, cho nên tiếp theo hỏi việc đó. Cúng dường Phật là dùng tự Thể của thật tế, Pháp thân không sinh, đối với thân Như Lai, có khả năng biết tướng chứng đắc thật tế không sinh. Vì mong cầu pháp đó thì chắc chắn có sẽ được không mất, cho nên cúng dường Như Lai vào bất cứ khi nào. Vì vậy Bồ-tát đem sự cúng dường tốt đẹp để cúng dường chư Phật. Vì cúng dường các Như Lai là gần gũi chư Phật, chỉ rõ nghĩa này, cho nên tiếp theo mới hỏi về việc thân cận với Phật. nghĩa là các Bồ- tát thà bỏ thân mạng chứ quyết không bỏ việc làm nơi mười địa, vì đã gồm thâu việc làm của mười địa cho nên không bỏ giới cấm mà đạt được Thể như pháp. Gần gũi chư Phật và các Bồ-tát, là chỉ rõ việc làm tốt đẹp của họ. Vì thân cận chư Phật và Bồ-tát, tỏ lòng tôn trọng cung kính Như Lai, để chỉ rõ nghĩa này, cho nên tiếp theo hỏi về sự cung kính đối với Phật. Vì tất cả các căn không hề sai biệt mà tất cả các căn được bảo vệ và thực hành các hạnh, cho nên không sinh tâm phiền não để có khả năng tu hành, khéo giữ gìn các căn, vì vậy đạt được tâm thù thắng tôn trọng ấy. Bồ-tát tu hành đúng đắn như vậy rồi đạt được quả báo to lớn. Để chỉ rõ nghĩa này, cho nên tiếp theo hỏi về của cải giàu có, là có được bảy loại pháp tài tối thắng xuất thế gian như tín… Chỉ rõ pháp tài to lớn thù thắng mà cảm được tướng của tâm ham muốn tốt đẹp, cao nhất đã được đoạn trừ chướng, thực hành các ham muốn, lìa các tướng dục, cảm thọ pháp lạc tiếp nhận ăn uống vui vẻ, được chứng ngộ pháp như thật, tu hành như thật về tín-giới-tàm-quý-văn-xả-tuệ… Nói bố thí tài sản, vật dụng như thứ tự mà nói. Lại nữa, hai loại pháp tài là tàm (hổ) và quý (thẹn), đây là nương vào pháp đoạn trừ phiền não nóng bức, cho nên biết như vậy. Dù có bảy loại pháp tài, nhưng Đại Bồ-tát vẫn không nảy sinh tâm niệm là mình có đủ hay không đủ. Để chỉ rõ nghĩa này, cho nên theo thứ tự hỏi về sự biết đủ, dùng để nhiếp thủ tất cả các chúng sinh. Dù mong cầu cúng dường, nhưng tâm Bồ-tát thường mong cầu Bát nhã vô thượng, không cho là đủ, không nảy sinh tâm đầy đủ, gọi là biết đủ. Đã biết đủ rồi thì lìa mọi sự ham muốn. Để chỉ rõ nghĩa này, cho nên theo thứ tự hỏi về sự xa lìa. Mặc dù Bồ-tát tu hành trong ba cõi nhưng không mong cầu nơi chốn ấy, cho nên được tâm vắng lặng thù thắng tột bậc. Đã chứng được tâm vắng lặng như vậy xong, xa lìa thân tâm. Để chỉ rõ nghĩa này, vì vậy tiếp theo hỏi về không có các hành ác. Mặc dù thọ dụng các loại cảnh giới vi diệu thù thắng nhưng tâm Bồ-tát không bị ô nhiễm theo phiền não, vì được tâm tốt đẹp luôn gìn giữ các căn. Đã gìn giữ được các căn cho nên Bồ-tát không sợ hãi bất cứ nơi chốn nào. Vì không sợ hãi cho nên được cảm thọ an lạc. Nhằm chỉ rõ nghĩa ấy, cho nên lần lượt hỏi về con người an lạc. Dù tiếp nhận sự cúng dường, cung kính, nhưng Bồ-tát không tham đắm, thường xuyên không rời bỏ tất cả chúng sinh. Khéo nhận biết các hạnh hữu vi, lìa xa mọi phiền não, cho nên được niềm vui thù thắng. Không vướng mắc như vậy, lìa các phiền não cảm được niềm vui thù thắng rồi, là được gắn liền với sự thọ nhận niềm vui của chúng sinh. Như vậy thì Bồ-tát đã đến bờ kia. Để chỉ rõ nghĩa này, cho nên tiếp theo hỏi về khả năng đến bờ kia. Vì các Bồ-tát thị hiện thân sáu nhập của các cõi, nhiếp thủ tất cả chúng sinh sáu nhập, để đoạn trừ tham dục của các chúng sinh, khiến họ đến được bờ kia, lìa hẳn tâm tham dục. Vì vậy gọi là có khả năng bỏ sáu nhập. Vì lìa bỏ sáu nhập cho nên đã được tâm thù thắng đến được bờ kia. Vì đã được tâm ấy và đến bờ kia, cho nên Bồ-tát chính thức an trú nơi xứ sở đó. Để chỉ rõ nghĩa này, cho nên sau đấy là hỏi đến việc trú nơi bờ kia. Do không phân biệt đạo Niết-bàn, thế gian, cho nên trí không phân biệt mà chứng ngộ pháp vô ngã, trú ở Niết-bàn vô trú, được vô sinh pháp Nhẫn. Chính vì nghĩa ấy cho nên đã chứng được trí đồng, bất đồng trong địa thứ tám, vì vậy gọi là đã đến bờ kia và an trú vào xứ sở thù thắng đó. Bồ-tát trú như vậy ở bờ kia với đầy đủ các pháp Ba-la-mật xuất thế gian. Để chỉ rõ nghĩa ấy, vì vậy tiếp theo hỏi làm sao tăng trưởng được các Ba-la-mật? Bởi vì mong cầu tâm Nhất thiết trí, tăng trưởng bố thí…, làm cho bố thí…, đều lần lượt tăng trưởng, vì vậy Bồ-tát luôn vì các chúng sinh nói về tâm Nhất thiết trí. Các Bồ-tát đều khuyên bảo chúng sinh phát tâm Bồ-đề, tăng trưởng hạnh bố thí. Vì vậy trong đời trước, Bồ-tát đã từng khuyên bảo các chúng sinh phát tâm Bồ-đề, tu hành bố thí. Bồ-tát tự thực hành bố thí như vậy, chỉ dạy mọi người thực hành bố thí. Ngoài ra, còn bố thí giáo pháp để hóa độ chúng sinh khiến họ thực hành bố thí. Các Bồ-tát cũng khuyên bảo chúng sinh phát tâm Bồ-đề tu hành bố thí. Các Bồ-tát còn khiến cho chúng sinh phát tâm thực hành bố thí. Với tự tâm an trú vào bố thí lần lượt như vậy, cũng khiến người khác an trú vào bố thí. Chính vì nghĩa này cho nên Bố thí Ba-la-mật lần lượt được tăng trưởng, mà thường xuyên không bỏ tâm Bồ-đề. Nói Trì giới Ba-la-mật, tức là ai phá hủy giới cấm thì giúp họ cần phải trì giới, Bồ-tát không lìa bỏ tâm hạnh Bồ-đề, vì mong đạt được Đại Bồ-đề, khiến cho tất cả trú trong giữ giới, vì nhận thấy tâm Nhất thiết trí không lùi lại. Nói Nhẫn nhục Ba-la-mật, là nói Bồ-tát ở trong tâm Bồ-đề, gọi là khiến cho mọi xứ sở khác, các chúng sinh khác, đều phát sinh tâm nhẫn. Nhẫn tất cả tội, nhẫn tất cả điều ác, tư duy về tâm Nhất thiết trí không thể thủ đắc. Nói Tinh tấn Ba-la-mật, là dựa vào tinh tấn Ba-la-mật, không chấp giữ nơi bờ bên kia, không chấp giữ tướng khổ hạnh, vì vậy không sinh tâm mỏi mệt, vì Bồ-tát đã chứng được tâm Nhất thiết trí vắng lặng. Nói Thiền định Ba-la-mật, là tự tính của tâm thanh tịnh không sinh không diệt. Vì nhận biết trí vắng lặng cho nên tâm tán loạn hoàn toàn không hiện hành, không hý luận với tất cả pháp. Nói Bát nhã Ba-la-mật, là nhiếp thủ trí không phân biệt, để chỉ rõ Ba-la-mật thiện, thanh tịnh khác, vì Ba-la-mật khác đều dựa vào tâm Nhất thiết trí mà nói. Pháp đối trị với chướng hoạt động của phiền não thì Bồ-tát chỉ nhận thấy vô ngã trong hạnh thù thắng Ba-la-mật như vậy, vì pháp Phật đã thuần thục, vì giáo hóa chúng sinh cho nên nương vào pháp kia. Tiếp theo hỏi Bồ-tát đối với vô lượng chúng sinh không nảy sinh tâm hữu lậu mà phát sinh tâm Từ. Đây là trình bày về nghĩa gì? Thấy không có gì khác với mình mà tâm yên ổn, không nảy sinh ý niệm thân mình là khác và có tưởng về chúng sinh là khác với thân mình. Bồ-tát dựa vào chúng sinh không nảy sinh pháp tưởng mà thực hành tâm Bi. Vì nhận thấy pháp khổ khổ không đem lại những thành tựu, vì các chúng sinh đang vướng mắc trong vòng khổ khổ đó cho nên sinh tâm bi. Bồ-tát không có ngã tưởng đối với chúng sinh mà thực hành tâm Hỷ. Kẻ khác đối với chúng sinh thấy mình có tâm vui riêng, thấy ai thành tựu tài sản đầy đủ thì khởi tâm ý tham lam ganh tî chứ không sinh tâm Hỷ. Bồ-tát không như vậy, đã không có tưởng tham mà lại tùy hỷ với người. Vì vậy Bồ-tát xa lìa tâm ganh tî cần phải đối trị. Dựa vào xa lìa sự ganh tị mà Bồ-tát thực hành tâm Hỷ, nương vào tâm Hỷ mà Bồ-tát không dấy khởi tưởng về người và ta mà thực hành tâm Xả. Từ ý tưởng chấp ta và người cần đối trị mà Bồ-tát thực hành tâm Xả. Việc làm không dụng công trong địa thứ tám là do chứng đạt năng lực của trí không phân biệt. Vì được năng lực trí tuệ đồng và bất đồng, cho nên có khả năng xa lìa tướng của tâm niệm phân biệt mình và người, giúp chúng sinh phương tiện vui vẻ là nhân tố xa lìa cấu nhiễm. Như vậy nương vào Ba-la-mật, nương vào Vô lượng, vì lợi mình- lợi người mà tu hành. Lại nương vào tâm ham muốn cao thượng, nương vào sự tiếp nhận pháp lạc, nương vào sự đoạn trừ phiền não, như đã nói, mà mọi công đức được tăng trưởng. Tiếp theo hỏi an trú nơi lòng tin…, là sao? Như thứ tự ấy thì có thể tin vào pháp vô ngôn, an trú vào lòng tin pháp là tin vô ngã, là pháp sâu xa bậc nhất, thì các pháp thật thâm diệu dù rất khó tin mà vẫn tin được. Vì không chấp vào mọi âm thanh mà trú trong Tuệ nghe, như pháp đã được nghe không có tâm chấp trước như vậy mà chỉ đặc biệt mong cầu đối với pháp. Mặc dù chỉ một ít Tuệ nghe nhưng vẫn có khả năng làm được nhiều sự việc, chỉ cần được nghe một bài kệ nói về Tuệ nghe nhiều. Nương vào tướng của nội tâm cho nên có đức tàm quý. nghĩa là nương vào thân người khác và thân mình làm không đúng pháp. Vì biết sự lỗi lầm cho nên lìa bỏ nơi đó, lìa bỏ sự xâm nhập từ bên ngoài, cho nên hạnh tàm quý được thành tựu. Người khác nói pháp mà không thực hành như pháp, xa lìa lỗi lầm đó, bởi vì từ thân người khác là từ ngoài vào. Người ganh tị nói người kia như vậy, xả bỏ pháp ấy thì gọi là xả bỏ xâm nhập từ ngoài. nghĩa này cho nên biết. Ba nghiệp thân-miệng-ý thanh tịnh trùm khắp tất cả mọi nơi, thành tựu công đức có khả năng nhận sự cúng dường. Ruộng phước thanh tịnh…, cho đến tàm quý, các công đức đã được nêu bày, nhằm đối trị với các nghiệp thân - miệng - ý cần được đối trị là tương ưng với thiện ác. Vì nghĩa này cho nên gọi là thanh tịnh. Nương vào ba nghiệp thanh tịnh kia, đến các công đức đầy đủ, cho nên gọi là trùm khắp tất cả mọi nơi chốn công đức. Như vì vậy biết. Lại còn có nghĩa trùm khắp đến tất cả mọi nơi của công đức. Đó gọi là tất cả công đức đều an trú trong pháp. Về nghĩa của mười bài kệ, mỗi mỗi bài đều như kinh đã nói. Như vậy, nương vào pháp thế gian nói có khả năng tiếp nhận các công đức cung cấp ruộng phước tốt đẹp, tức là dựa trên nghĩa ấy theo thứ tự như vậy mà Phạm Thiên mở ra việc thỉnh hỏi. Về nghĩa này cho nên biết. Bồ-tát vượt qua pháp thế gian là thế nào? Bởi vì các Thanh văn cũng vượt qua thế gian, cho nên Đức Như Lai chỉ rõ pháp thù thắng vượt qua các pháp xuất thế gian của Thanh văn. Do đó, nói là vượt lên trên pháp thế gian. Lại nữa, Như Lai còn chỉ rõ, dù Bồ-tát ở thế gian thực hành pháp thế gian nhưng vượt lên trên pháp thế gian, không bị cấu nhiễm vướng mắc theo pháp thế gian, thực hành giáo hóa chúng sinh ở thế gian. Như kinh nói “khéo nhận biết như thật về các pháp thế gian”. Lại vì tập hợp các chúng sinh, hiện bày phương tiện khéo léo, để nhiếp thủ chúng sinh khiến cho hội nhập pháp thế gian. Biết Tập đế của thế gian, biết thế gian sẽ đi về đâu, mà nương vào trí nguyện sinh về nơi đó, không bị Tập của thế gian mà sinh ra. Chấp nhận sự sinh như vậy là thị hiện thế gian thành tựu Thế đế. Nương vào Thế đế, nói pháp cho chúng sinh, khiến họ vượt lên trên thế gian. Mặc dù tu hành trong thế gian nhưng chung quy Bồ-tát không bị thế gian làm ô nhiễm. Trái lại, Bồ-tát chứng được pháp vô ngã, trú trong đạo vô trú. Vì giáo hóa tất cả chúng sinh, tuy sinh trong thế gian, nhưng Bồ-tát vì các chúng sinh mà nhiếp thủ tất cả đạo lý của thế gian. Ba mươi lăm bài kệ như kinh đã nói nương vào pháp thế gian đã được nêu bày, Như Lai cũng nương vào thân thế gian của mình và pháp thế gian, nhận biết cảnh giới, dùng biện tài ưa nói pháp, nói về pháp tướng nhập thế gian, vì pháp của Như Lai vượt lên trên pháp xuất thế gian của Thanh văn. Thanh văn cũng vượt qua cảnh giới thế gian. Đức Như Lai lại vượt qua cảnh giới của Thanh văn. Lại giảng nói pháp thù thắng là nói về pháp kia để chúng sinh khác vượt qua thế gian, chỉ rõ phương tiện xuất thế gian như vậy. Phạm Thiên nói: Thế gian, ta nói năm ấm gọi là thế gian. Ở đây là chỉ rõ năm thủ ấm, cho nên biết là nương vào thế gian mà nói. Tham đắm năm ấm là tham đắm theo ái này. Gọi là sự chứa nhóm của thế gian, là do ái kia thu hút mà thế gian có sự tụ tập. Khi các ấm quá khứ-vị lai-hiện tại diệt trừ, vì nhân của ấm đời vị lai đã dứt hết, vì không gieo trồng chủng tử vị lai nữa, cho nên gọi là diệt. Quán sát năm ấm không thấy có hai pháp, gọi là Đạo diệt của thế gian. Cầu đạo và không cầu đạo, cả hai hoàn toàn không đạt được Thánh đạo là chỉ rõ sự thù thắng. Điều này có nghĩa gì? Là đối trị thế gian không phải luôn luôn nhất định. Nếu có đối trị, thì có khả năng nhàm chán nỗi khổ. Nếu không có đối trị thì pháp kia lùi lại. Nếu có một pháp để đối trị pháp này thì sẽ không đối trị pháp khác. Nếu có một pháp để đối trị với địa dưới thì không phải là đối trị với địa trên. Đối trị của Thánh đạo thì không như vậy, vì đối trị mọi pháp bất cứ khi nào. Như vậy dựa vào nghĩa đối trị của Thanh văn Thừa. Nói về tướng sai biệt của thế gian rồi, tiếp theo dựa vào tướng sai biệt và nghĩa pháp đối trị của Đại thừa mà nói. Nương vào tướng sai biệt của Đại thừa để nói về pháp tướng. Như kinh nói: Lại nữa, Phạm Thiên! Vì như vậy…, vốn nói về năm ấm, năm ấm đó chỉ có trên lời nói. Sự thấy-nghe-biết trong năm ấm…, chỉ là do phân biệt về danh tự mà nói. Vì nương vào sự tập hợp từ vô thỉ đến nay, dựa trên Thể phân biệt, cho nên chấp giữ nơi pháp kia. Bồ-tát quán sát nếu nương vào sự phân biệt về danh tự như vậy thì đó là ngôn ngữ của thế gian, nếu như phân biệt ngôn ngữ danh tự mà tham đắm vào tướng thì đó là tà kiến, xa lìa tùy thuận thực hành gọi là Tập của thế gian. Như tướng tịch diệt của thế gian kia, quán sát như thật về Thể của tướng diệt đó, quán sát như thật về sở duyên của diệt cho nên gọi là diệt của thế gian. Dùng đạo như thế nào mà không giữ lấy tà kiến ấy, đó gọi là Đạo diệt của thế gian. Vừa nói về phân biệt có thể đối trị phân biệt, là nêu rõ về trí không phân biệt. Cảnh giới của thế gian như vậy… Như Lai đã vượt qua, đã chứng được Đại Niết-bàn. Sự nhiếp thủ của Ngài không phải là vượt qua thế gian, không phải lìa đạo thế gian. Nương vào thế gian như vậy, để nói về Khổ đế của thế gian …, là đã nương vào Thế đế thù thắng mà nói. Từ đây trở xuống, Phạm thiên lại hỏi Như Lai đã giảng nói về bốn Thánh đế. Thánh nhân thấy các Đế như Khổ đều do phân biệt hư vọng. Như Lai chỉ rõ thật sự Thánh đế thì không như vậy. Đây là theo nghĩa gì? Có hai đế: Tướng đế. Tâm đế. Thế gian đều nương vào hai đế như vậy. Nương vào Tướng đế là nói khổ đế…, với mọi pháp tướng, pháp thể, thật thể hiện có. Dựa vào đó thì không phải Thánh đế, vì Thánh đế không có sai biệt cho nên gọi là đạo Thánh đế. Nương vào tâm đế là nói về Thánh đế thù thắng, vì trong Thánh đế kia nhận biết tâm điên đảo, tâm không điên đảo. Đây là có nghĩa gì? Bởi vì chẳng phải là Thánh. Nói Khổ đế, kẻ kia chỉ thọ khổ mà không biết Khổ đế. Nói Tập đế, người kia chỉ nghe nói về pháp tập hợp hư vọng mà không biết Tập đế. Nói Diệt đế, chúng sinh chỉ nghe tên diệt rồi rơi vào đoạn kiến mà không biết Diệt đế. Nói Đạo đế, chúng sinh nghe nói pháp hữu vi như nghiệp và phiền não, cho rằng pháp như vậy chỉ là sự tập hợp của pháp hữu vi thế gian, chứ không biết Đạo đế. Phân biệt về bốn đế là như vậy. Nếu như vậy tất cả…, đều có đế, thì các chúng sinh sinh trong ba đường dữ, đều phải có đế nhưng họ không có đế. Vì vậy phải chỉ rõ nghĩa như vậy. Như kinh nói: “Phạm thiên! Nếu khổ kia là thật Thánh đế, thì tất cả bò, heo, các súc sinh đều phải có thật đế. Vì sao? Vì chúng đều chịu mọi nỗi khổ. Chính vì nghĩa này, cho nên khổ không phải là thật đế. “Bởi vì nghĩa gì mà chỉ nói bò-heo trong các loài súc sinh, còn những súc sinh khác không thấy nói đến? Vì bò-heo là loại ngu si đần độn nhất trong súc sinh. Vì các thế gian đều biết bò-heo rất là đần độn. Như vậy, không phải là Thánh mà phân biệt hư vọng cho đó là đế. Về nghĩa này cho nên biết. Vì người thế gian nương vào phần khổ hư vọng chấp trước cho đó là Khổ đế. Nương vào phần Tập chấp trước hư vọng cho là Tập đế. Nương vào phần Diệt, cho là Diệt đế. Nương vào phần Đạo đối trị, chấp trước hư vọng cho là Đạo đế. Lại nữa, hai đế Khổ- Tập không có Thể tướng, vì tự Thể của chúng không thành tựu, vì tự Thể của chúng xưa nay không sinh và không hòa hợp. Vì dựa vào sự chấp trước hư vọng cho nên có tâm đối trị. Nói nhận biết không sinh và không hòa hợp thì gọi là Thánh đế của Thánh nhân. Các pháp hữu lậu cũng không có Thể tướng như vậy trong tất cả các thời, vì Thể của pháp kia không thể xa lìa. Vì nương vào sự chấp trước hư vọng kia cho nên có tâm đối trị. Dựa vào Chân Như thanh tịnh thì mọi pháp kia xưa nay luôn vắng lặng. Cách đối trị của Thánh đế nơi bậc Thánh là chỉ rõ không có sinh- diệt. Cả pháp đối trị cũng không có Thể tướng, vì tự Thể của chúng không thành tựu. Vì Đạo đế không phải là đế đối trị. Dùng tâm thanh tịnh của tự tính mà đối trị với tâm chấp trước hư vọng đó. Nương vào pháp quán sát bình đẳng để có thể quán sát. Nương vào trí thuần thục, nương vào trí quán sát, nương vào các pháp kia, tất cả các pháp bình đẳng không có hai, không có tu đạo. Nói pháp không hai mà chứng được đạo, đó gọi là Thánh đế của Thánh nhân. Thánh đế thứ nhất là tên khác của Niết-bàn, gọi là Đạo đế, cũng gọi là Thánh đế của Thánh nhân. Vì không lừa dối, vì không sinh, cho nên gọi là Thánh đế. Vả lại, từ không có sinh cho đến không hai, nghĩa là nương vào đạo Niết-bàn đã tu tập, dựa vào Đạo Thánh đế thì mọi pháp đều bình đẳng. Nói tất cả pháp không hai là nói đến Niết-bàn, là do pháp Chân Như thanh tịnh mà được tên gọi. Do Niết-bàn lìa mọi pháp có thể giữ lấy, cho nên có khả năng giữ lấy các pháp. Vì dựa vào pháp ấy cho nên được tên gọi là Thánh đế. Theo thứ tự như vậy. Vả lại, các đế kia bởi vì không chính niệm, cho nên gọi là lời nói hư vọng chứ không phải là Thánh đế thật. Lại nữa, đế kia dựa vào chính niệm cho nên gọi là thật ngữ, nhưng cũng không phải là Thánh đế thật. Vì vậy Như Lai chỉ rõ dù là nói hư vọng hay nói thật đều không thành tựu. Như kinh nói: “Phạm thiên! Thật Thánh đế, thật Thánh đế ấy không phải là nói dối, không phải là nói thật. Chúng không phải là chính niệm vì còn chấp lấy tướng ngã. Chỉ rõ cho biết là vậy”. Các câu nói ở trong mỗi mỗi pháp phát sinh sự chấp trước như vậy, bởi vì trói buộc trong các tướng và nghĩa lý vô cùng khác biệt, nên biết. nghĩa là có một ngã là Thể của hữu ngã, là gốc. Vì nương vào ngã gốc đó cho nên mới có tất cả. Vì ngã không đoạn, cho nên gọi là chúng sinh. Vì nương vào mạng căn mà tồn tại cho nên gọi là mạng sống, thường bị đọa trong sáu đường cho nên gọi là trượng phu. Các kiến chấp như vậy đều cho tự thân là duy nhất mà chấp trước sai lầm, chấp giữ tướng ngã, bởi vì dựa vào sự phân biệt hư vọng về các ngã kia, cho nên thường và vô thường đều rơi vào chấp thường và chấp đoạn. Chấp ngã là sắc, ngã là vô sắc, những thứ phân biệt hư vọng như vậy đều là chấp trước, đủ thứ chấp sai khác, chấp ngã là một, có ngã thì có vật. Vì phân biệt hư vọng cho nên chấp có tướng. Từ sự phân biệt sai lầm về ngã kia, mà chấp giữ vô minh Phân biệt hư vọng rồi chấp lấy tướng ngã, tức là nương vào sự phân biệt hư vọng về ngã kia, chấp giữ vô minh và diệt. Từ phân biệt hư vọng chấp giữ lấy tướng đoạn diệt. Như vậy sinh diệt là dựa vào tướng ngã. Theo thứ tự trở thành sự phân biệt hư vọng, chấp giữ tướng thế gian, chấp giữ tướng Niết-bàn. Chấp giữ tướng thế gian và Niết-bàn, như trước đã nói về các loại chấp tướng. Nói chấp trước là hy vọng, ưa thích tin tưởng đều từ phân biệt hư vọng chấp giữ kiên cố, chỉ có điều này là thật, các thứ khác là hư vọng, đây gọi là chấp trước. Do không thể tách rời mọi kiến chấp kia cho nên chấp giữ vào hư vọng, đó gọi là sự tiếp xúc, không lìa sự tiếp xúc đó, gọi là giữ lấy (thủ). Theo thứ tự như vậy không nhận lấy, không tiếp xúc, không chấp trước thì gọi là lời nói thật. Chỉ rõ chính niệm như vậy là dựa vào vô ngã của trượng phu, không phải là lời nói dối, không phải là lời nói thật. Như vậy đã nói xong. Tiếp theo dựa vào pháp vô ngã, phân biệt nói về khổ… Từ bỏ trí không phân biệt thì gọi là lừa dối. Do sự lừa dối này cho nên gọi là lời nói dối. Vì vậy chỉ rõ sự thật của Nhị thừa kia là hư vọng không thật. Do phân biệt mọi pháp trong ba đời, cho nên sự nhớ nghó của hàng Nhị thừa kia là hư vọng, vì vậy phải chỉ rõ trí vô phân biệt. Đây là trình bày về nghĩa gì? Ấy là do nhớ lại mọi pháp môn trong quá khứ, phân biệt mọi pháp trong hiện tại và nhớ nghó đến mọi pháp môn trong vị lai. Vì nghĩa này, cho nên lìa xa chính niệm. Bồ-tát an trú trong trí vô phân biệt, không hý luận với mọi pháp tướng. Quán sát pháp vô ngã, chứng được Niết-bàn vô trú. Vì không trú chấp trong Niết-bàn và thế gian, cho nên được tri kiến bình đẳng. Bồ-tát khéo nhận biết pháp như vậy rồi, các đế như đã nêu bày chỉ rõ giúp họ thấy đế không thành tựu. Đế của Thánh nhân là ở nơi không có lời thật, không có lời nói dối. Vì nghĩa này, cho nên chỉ rõ nghĩa kia. Dù tâm chính niệm hay không chính niệm có khác nhau, nhưng Thánh đế kia hãy còn không thành tựu. Nếu trú vào tướng thật để thành tựu đế, thì trong tất cả thời gian xưa nay đều thường như vậy, luôn tồn tại như vậy. Từ đây trở xuống là chỉ rõ nghĩa đó. Như kinh nói: “Phạm thiên! Nói thật thì xưa nay đều thật. Đây là trình bày nghĩa nào? Pháp Thể của pháp tính kia là chỉ rõ Thể của pháp thù thắng, là nhân của pháp Thể nơi bậc Thánh. Niết-bàn và thế gian không khác nhau, vì vậy mà gọi là thường, là Thánh đế. Nương vào Niết-bàn và thế gian chỉ rõ hai Thánh đế thành tựu. Như vậy, Thánh đế dựa vào tính Chân Như, là chỉ rõ Thánh đế không lìa thế gian, là chỉ rõ Thánh đế không giữ lấy Niết-bàn. Nói sự thật của pháp tướng như vậy, đã chứng ngộ rồi mới nói ra, là chỉ cho kẻ khác gọi là nói thật. Người kia nói Thánh đế gọi là nói tà. Từ đây trở xuống là nói đến nghĩa đó. Chỉ rõ người kia không có nhân tăng thượng của giới học. Người này không có khả năng gìn giữ các căn, chỉ rõ là do nhân kém. Chỉ rõ là người không có tăng thượng giới học, không có nhân tăng thượng của định học. Chỉ rõ là người không có tăng thượng định học, không có nhân của tăng thượng của tuệ học. Chỉ rõ họ không có tăng thượng tuệ học, chỉ rõ tướng sinh này là Khổ đế, là pháp chấp trước hư vọng. Theo thứ tự, cùng phối hợp với nghĩa này cho nên biết. Như vậy, Bà-già-bà là Thế Tôn mà Thanh văn chỉ là ngoại đạo. Tiếp theo là chỉ rõ người Thanh văn kia trở thành ngoại đạo. Bởi vì người ngu Thanh văn kia làm mất vật cần dùng là đế mà nói vật là đế, đó là chỉ rõ người Thanh văn kia bị đọa vào đường dữ, vì tự mình không chứng ngộ. Như Lai vì đã chứng ngộ được pháp không có lời nói. Tự Thể của các đế như Khổ…, không thành cho nên thị hiện nói về tướng đế. Ta chứng ngộ như vậy, là chỉ rõ không thành lập pháp tướng hữu vi, chỉ rõ không giữ lấy gì khác. Bồ-đề không thể nắm được vì Thể của nó là không phân biệt, cho nên không giữ lấy và cho rằng Ta đã đạt được pháp Bồ đề. Không chấp giữ như vậy là bởi vì đã lìa khỏi mọi thứ hữu vi, vì lìa ba cõi, lìa năm đường. Vì đã vượt lên trên pháp hữu vi kia, cho nên Như Lai chứng được pháp của đạo Thánh xuất thế gian. Như vậy, không nhận thấy mọi pháp là tướng Bồ-đề. Không chứng ngộ một pháp mà chứng ngộ các pháp. Vì vậy gọi Ngài là Ứng chính Biến Tri. Nếu Như Lai đối với pháp vô sở đắc, thì vì nghĩa gì lại nói Như Lai ngồi nơi đạo tràng gọi là Phật? Đây là hỏi Như Lai, để ngăn ngừa cho là có được vật gì. Như Lai nói: Ta không được vật gì, mà nghe nói đến tên pháp thì thuộc về Tục đế, bởi vì phân biệt tướng. Nương vào tướng không có Thể tính và nghĩa của pháp vô ngã, cho nên tiếp theo nương vào pháp vô ngã mà hỏi. Pháp tướng kia là pháp vô ngã bởi vì tất cả các pháp không có tự Thể làm Thể, là vì ngăn chặn chấp pháp là có, là không. Chỉ rõ nghĩa gì? Chỉ rõ pháp đó không phải là vật có để có thể chứng ngộ, không phải là vật không để có thể chứng ngộ. Vì pháp đó lìa khỏi hai tướng có-không, cho nên nói là chứng ngộ. Đã nói như vậy. Từ đây trở xuống tiếp theo nói không phải hoàn toàn là không chứng ngộ pháp thật, vì chấp giữ hư vọng. Do nhận thấy sự chấp trước hư vọng, cho nên là như thật, khéo nhận biết tự tính không sinh. Sinh là do dựa vào Thể điên đảo khác, đó là sự phân biệt nhiễm trước về Thể tính. Tự tính không sinh trong tất cả mọi thời gian. Biết Chân ngã như vậy, pháp chứng làm sao biết được? Như thường xuyên không biết, không hiểu mà nhận biết được. Nói tri thức, đây là chỉ rõ tướng Chân Như kia cũng không phân biệt. Không thấy được Thể của pháp Chân thật vì thể của nó thì tất cả lời nói không thể diển tả. Vì vậy, chỉ rõ nhân tố của trí chứng ngộ kia. Pháp không biết, không nhận thức, không thể nhận thấy…, vì thấy- nghe-hiểu-biết là đã rơi vào bốn loại lời nói. Các câu…, này được đặt thành câu hỏi ở các phần trên để chỉ rõ, cho nên biết. Như Thể của pháp kia không thể giữ lấy… Vì vậy, pháp kia không thể dùng sự nhận thấy đó để giữ lấy nó. Đây là theo nghĩa nào? Vì các danh, tự không thể diễn tả được, vượt qua cảnh giới của tâm, cho nên không có hý luận. Không có gì tương đương với nó, vì mọi loại ngôn ngữ không thể đạt tới. Vì không có gì tương đương với nó, cho nên không thể hỏi đáp. Vì nó vượt qua sáu căn, vượt qua danh tự, tất cả thân bên trong, đều không thể nêu bày. Không có tướng thế gian, pháp thế gian không hiện hành. Lìa những gì tạo tác, vì pháp hữu vi không hiện hành. Vì không có tâm ý thế gian, ý thức là tướng phân biệt. Nó vượt khỏi thế gian, vì không có tự thể kia, vượt qua mọi hý luận, vì không có cái gì có thể đối lập. Như vậy nếu rõ nói về Thể của pháp, không có tất cả các phân biệt xong. Chỉ rõ pháp kia giống như hư không, cho nên biết. Pháp kia giống như hư không có hai loại tướng, nên biết: Đến khắp: Vì tách khỏi hý luận có-không, cho nên được pháp cứu cánh không thể nghó bàn của chư Phật. Không ngăn ngại: Vì tâm Từ lớn lao, nhẫn chịu đau khổ bậc nhất, điều không thể làm mà có khả năng làm được. Vì pháp không có lời nói, vì nương vào lời nói mà nương vào pháp đó khiến các chúng sinh đều được tiến vào trong pháp. Đó là chỉ rõ nghĩa gì? Các chúng sinh dựa vào sự thông minh mẫn tiệp mà có tâm ngã mạn. Vì vậy, họ không có lòng tin đối với pháp tướng đã giảng nói. Ở đây là chỉ rõ vì các chúng sinh kia căn thiện mỏng manh, cho nên giảng nói rõ về pháp tướng kia. Đây là trình bày nghĩa gì? Là làm sáng tỏ pháp môn ấy, là pháp môn cả thế gian đều khó tin. Vì ý của thế gian thường điên đảo. Đây là trình bày nghĩa gì? Ý của người thế gian nghó: Chúng ta cho nên chứng ngộ chân lý thật, nương vào ba pháp học thì tu hành là đầy đủ. Dựa vào pháp đó, chúng ta chứng được Niết-bàn, một mực tu tập pháp thiện, và nương vào pháp đó, cho nên trong hiện tại cảm nhận niềm vui của pháp. Hạnh thiện này tuần tự nương theo Phật xuất thế dùng làm căn bản. Kế đến sẽ có nói pháp, sau đó sẽ có bè bạn là chúng Tăng tu hành như thật. Như vậy an trú như thật nơi pháp này là chân lý thật sự vốn không có hý luận. Người thế gian không thể tin pháp ấy. Về nghĩa này cho nên biết. Bạch Thế Tôn ! Ví như trong nước phát ra lửa, trong lửa chảy ra nước. Đây là nêu rõ nghĩa gì? Là chỉ rõ phiền não như lửa, lửa phiền não không phải là Thể vắng lặng. Xa lìa Thể đó cho nên Bồ-đề như nước, vì nước Bồ-đề có khả năng dập tắt lửa phiền não. Người ta không tin và tin tưởng mâu thuẫn nhau về pháp tương ưng. nghĩa này cho nên biết. Nói phiền não, là tất cả phàm phu ngu si, đều chấp giữ như vậy, lại hý luận nói là có phiền não cấu nhiễm, vì những kẻ ngu kia mà ngăn chặn để cho Thể của phiền não không thành tựu. Do quán sát pháp là không thể nắm bắt, chỉ có trí xuất thế gian mới chứng ngộ được. Thức không thể phân biệt nhận biết mà phải lấy học và tu đạo để đối trị chỗ cần đối trị. Không chấp giữ hai tướng chủ thể và đối tượng đối trị, bởi vì chứng được pháp Chân Như thanh tịnh. Không có tâm chấp giữ đạt được pháp, cho nên có khả năng làm cho chướng kia hết thế lực, vì bản tính của pháp chướng kia là không sinh. Như pháp tướng đã nói, nếu có khả năng tin tưởng là pháp không sinh, thì sẽ xa lìa mọi tà kiến và được giải thoát, vì đã xa lìa tâm phân biệt chấp giữ tướng không thật là chủ thể và đối tượng cần đối trị. Từ đây trở xuống, nương vào các Đại Bồ-tát, tin tưởng vào công đức của pháp, ca ngợi Bồ-tát kia có bảy loại công đức. nghĩa này cho nên biết. Những gì là bảy? Đó là: Công đức do mọi việc làm đã đầy đủ. Công đức tu hành. Công đức tiến vào quả vị. Công đức do tâm tự tại phát sinh. Công đức do khéo luyện tập. Công đức tu hành có khả năng tập hợp pháp Phật. Công đức chứng đắc quả vị. Công đức do mọi việc làm đã đầy đủ là gì? Là chỉ rõ đối với chư Phật trong quá khứ, đã có khả năng làm các loại công đức, đều đã làm xong. Lại có nghĩa gì? Dựa vào hai nghĩa: Dựa vào công đức. Dựa vào trí tuệ. Vì có khả năng cúng dường cung kính, giúp đỡ hầu hạ, như oai nghi trong mọi việc tu hành, lắng nghe chính pháp. Theo thứ tự, như vậy việc làm của Bồ-tát đã đầy đủ công đức trí tuệ như vậy rồi, sau đó thuận theo tu hành bước vào các hành của địa. Vì vậy, tiếp theo là bốn câu nói về công đức tu hành của Bồ-tát, chỉ rõ có các công đức trí tuệ tăng thượng, dùng pháp ăn uống vì nó thuộc về hai loại thức ăn. Nương vào thiện tri thức lại tu tập các hạnh, có khả năng làm phương tiện khéo léo đối với nghĩa, tùy thuận chính pháp tu hành như thật, để có được sức căn thiện vi diệu hơn hết, nhờ nương vào phương tiện thiện xảo. Sự vi diệu có hai loại: Vi diệu của chủ thể tạo tác và đối tượng tạo tác. Vi diệu sâu xa là có khả năng tin tưởng vào nơi kia, vì nghe nói đến hai loại vi diệu lớn lao như vậy mà không cảm thấy sợ hãi. Vì khéo hộ trì tạng pháp mầu nhiệm của Như Lai, như pháp đã giảng nói mỗi mỗi đều tùy thuận tu hành như thật, bằng cách không tự chấp giữ tri kiến, không tự tiếp xúc chấp vào pháp. Bồ-tát tu hành như thật như vậy thì chính mình cuối cùng tiến vào quả vị Bồ-tát. Vì vậy tiếp theo là nói về công đức tiến vào quả vị. Có hai mươi lăm câu chỉ rõ nghĩa này. Gọi là sinh vào nhà Như Lai là thế nào? Là Bồ-tát này từ nhà Phật sinh ra, được pháp của Phật cho nên có khả năng trừ bỏ phiền não phân biệt. Bấy giờ nhiếp thủ trí vô phân biệt, chỉ rõ tu hành các hạnh bố thí…, để quyết đoán phương pháp đối trị với sự phá giới. Đây là trình bày về nghĩa gì? Là giữ giới để đối trị pháp phá giới, có khả năng phát khởi tiêu diệt các phiền não phá giới, vì vậy giữ giới là đối trị với những gì cần đối trị kia. Tiếc thân mạng đã được đối trị. Tâm lười biếng đã được đối trị. Đối trị với điều ác bất thiện của cõi Dục, đối trị với tất cả mọi kiến chấp bất chính, cho đến đối trị với kiến chấp của Tiểu thừa, như vậy gọi là công đức tiến vào quả vị, là công đức của hạnh Ba-la-mật xuất thế gian, nên biết. Như Lai giảng nói pháp như thật rất sâu, nếu hiểu thấu đúng đắn với công đức không điên đảo, thì dù ma thiên, ma phiền não…, cũng không có khả năng làm chướng ngại. Như vậy theo thứ tự nói về khả năng nói pháp tiến vào công đức, dùng ý nghĩa sâu xa, nói về công đức của pháp không điên đảo mà tiến vào. Công đức nói pháp là như vậy đế, như Đệ nhất nghĩa đế là nói chân thật. Như trình tự mà nêu bày. Đây là trình bày nghĩa gì? Là tự tính của pháp, là tướng nơi tự Thể của các pháp đều tiến vào tự tính. Nên biết là gìn giữ công đức, nhập pháp môn, lưu hành quả vị, đạt được pháp thanh tịnh. Dựa vào sức trú trì của Như Lai mà có khả năng làm xong công việc cần làm. Dù đồng phạm hạnh, nhưng công đức của các Bồ- tát này khác nhau mà công đức giữ giới là ngang nhau. Bồ-tát này có phần tăng trưởng công đức của pháp thiện là công đức của tín…, xuất thế gian, đều hiện tiền. Đây là công đức do các Bồ-tát không tiếp xúc đến các thức ăn. Đây là trình bày nghĩa gì? Tùy thuận mà được, nghĩa là trú xứ khất thực, giường nằm và thuốc thang đều là công đức biết đủ, Thánh nhân đã thực hành, tùy thuận những vật dụng cung cấp cho đời sống đều không đụng chạm. Công đức không tiếp xúc của tướng tu hành ưa xa lìa các dục là đối trị với sự tiếp xúc, nên biết. Điều này lại có nghĩa gì? Là mạng sống không dựa vào trí tuệ của người khác, vì vậy dễ thỏa mãn dễ nuôi, nên biết là vì có khả năng tùy thuận công đức đầy đủ của trí chứng ngộ, vì chính mình cuối cùng đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác , vì tâm đã rốt ráo thì ta nhất định đạt được. Phải biết người này có khả năng hóa độ kẻ chưa được hóa độ. Tám câu như vậy…, là nói về công đức tu hành đem lại lợi ích cho mọi người. Nên biết như vậy. Bồ-tát vì có khả năng an ủi các chúng sinh…, đang bị phiền não trói buộc, khuyên bảo họ tiến vào đạo. Vì có khả năng yên định chúng sinh trong pháp giải thoát, cho nên có thể khiến chúng sinh được giải thoát. Hai câu tiếp theo chỉ rõ xứ sở thù thắng, có khả năng giảng đạo cho nên giúp cho mọi người sự giải thoát. Hai câu tiếp theo nêu rõ khả năng biết pháp đối trị, nêu rõ tự mình luôn luôn giúp cho pháp đối trị để đối trị cả chủ thể và khách thể.  PHẠM THIÊN SỞ VẤN KINH LUẬN <卷>QUYỂN 4 Bồ-tát như vậy tiến vào quả vị Bồ-tát rồi, vì muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh, cho nên tâm sinh hữu, thâu nhiếp sinh trong các cõi. Vì vậy tiếp theo nói về Đại Bồ-tát dùng tâm tự tại sinh trong ba cõi, vì vậy gọi là công đức nhiếp thủ. Bốn câu chỉ rõ. Dùng năng lực tự tại thâu nhiếp sinh vào nơi thù thắng. Dù sinh vào nơi đó, nhưng không bị cấu nhiễm theo cảnh giới ấy. Trong thời gian lâu dài nhiếp thủ nơi sinh không hề mệt mỏi, không vì các nghiệp phiền não chi phối sinh ra, mà tự tại như ý để nhiếp thủ sinh ra. Bất cứ nơi chốn nào, Bồ-tát sinh vào đó đều tiếp nhận mọi điều khổ não, không hề sợ hãi. Bồ-tát như vậy, vì làm lợi ích cho tất cả chúng sinh mà tu hành các hạnh, thường làm bậc thượng thủ cho hết thảy chúng sinh. Vì vậy, tiếp theo nói Bồ-tát có khả năng làm bậc thượng thủ, có khả năng lãnh đạo đại chúng, có thể làm mọi công đức. Có mười lăm câu chỉ rõ nghĩa này. Tự thân Bồ-tát, như pháp Phật đã giảng nói mà tu hành, siêng học tập và dạy bảo người khác không mắc lỗi, dù bao lâu vẫn học tập giới cấm, gìn giữ, không phá hỏng, phòng ngừa cẩn thận kiên cố. Như vậy thì có hai loại công đức cho nên tự mình khéo an trú vào thời gian trước-sau. Do nghĩa ấy mà Bồ-tát có khả năng lãnh đạo đại chúng, cho nên biết. Vì chúng sinh, Bồ-tát có khả năng làm bậc thượng thủ khiến họ quy phục. Vì vậy, Bồ-tát có khả năng lãnh đạo đại chúng, các ma không thể gây trở ngại, mọi nghiệp ma lùi xa. Gìn giữ nghiệp nơi thân-miệng- ý được hoàn toàn, không sợ người khác nói lỗi của mình. Hiện thấy được pháp rất sâu, cho nên có khả năng giải đáp các câu hỏi khó mà không khiếp nhược, dùng phương tiện khéo léo để giảng nói pháp cho nên lãnh đạo đại chúng làm những việc lớn lao. Tu hành các hạnh không lùi lại là phần căn thiện của chính mình. Hai câu chỉ rõ chúng sinh đáng được hóa độ, sinh vào nơi sáng tỏ, có khả năng làm nhân duyên để hóa độ chúng sinh lìa xa vô minh, theo thứ tự như vậy, nghĩa này nên biết. Các chúng sinh có người tùy thuận có người không tùy thuận, nhưng tâm Bồ-tát vẫn kiên cố. Dù các phiền não có chống đối hay không chống đối, tâm Bồ-tát vẫn không đổi khác. Đối với chúng sinh, Bồ-tát không có tâm khác nhau, luôn giúp họ thành tựu tất cả các loại công đức, vì có khả năng tiếp nhận tất cả số lượng công đức. Làm ơn cho người khác, không cần người khác trả ơn lại, vì mọi chướng ngại trói buộc không buộc được tâm. Vì dập tắt hết tất cả các sử và vì pháp đối trị với tất cả chúng sinh, cho nên dù được đại chúng vây quanh, nhưng tâm Bồ-tát không tự cao. Bồ-tát tu hành các công hạnh lợi mình - lợi người như vậy là tu hành thành tựu pháp Phật. Vì vậy tiếp theo là nói đến công đức tu hành thành tựu pháp Phật. Có hai mươi chín câu chỉ rõ nghĩa ấy. Phải biết người này như núi Tu-di đứng vững không động là do nương vào tất cả các công đức thù thắng của trí không phân biệt. Mọi phân biệt của bảy địa còn lại không thể làm động. Vì dựa vào pháp đó, vì tính kiên cố của nó, cho nên mọi ý niệm Thanh văn và Bích-chi Phật đều không phá hoại được. Dựa vào pháp bên trong của Như Lai mà tu hành cho nên những gì đi ngược với pháp Phật đều không thể làm hư hỏng. Vì được năng lực thù thắng, cho nên tiến vào pháp vô ngã của nghĩa sâu xa thứ nhất. Người này được chuyển biến thân với pháp thù thắng, dựa vào pháp đó, cho nên được giải thoát. Vì đã dập tắt phiền não. Vì dựa vào sự tu hành chuyển biến thân đạt được thân, cho nên mọi chủng tử phiền não ô nhiễm dựa vào thân đều diệt hết. Vì nghe mãi chính pháp của tất cả Đức Phật mà không hề đầy đủ, cho nên chứng ngộ thật tế không còn có cảnh giới. Chưa chứng ngộ có thể chứng ngộ mà không mong cầu. Vì các chúng sinh chuyển pháp luân diễn nói chính pháp. Dùng các tướng tốt trang nghiêm thân mình, cho nên có thể duy trì niềm vui lâu dài, như vua Đế thích là niềm vui ưa thích của các chúng sinh. Vì đạt được mười năng lực tự tại trong tám địa. Hai câu chỉ rõ sự nương vào việc thuyết pháp với biện tài ưa giảng nói trong chín địa, giúp cho các chúng sinh tương ưng với chính niệm. Như thứ tự nêu bày, về nghĩa này cho nên biết. Do được pháp của chủ thể đối trị khéo tăng trưởng ở địa Bồ-tát thứ mười, cho nên ra khỏi pháp chướng ngại của sự đối trị. Gọi là khiếp nhược, là đối với những pháp đã đối trị, cho nên nói là nhiếp nhược. Vì các Bồ-tát đã an trú vào nơi như vậy, cho nên gọi là Phật địa. Dù là địa có chướng ngại nhưng Bồ-tát không bị chướng ngại. Bồ-tát này trú vào nơi chốn thù thắng hơn các Bồ-tát khác, vì Bồ-tát ấy an trú nơi địa không ai bằng của Bồ-tát bình đẳng. Lại nữa, không ai bằng, không sai biệt mà lại có thuyết giảng các Tu-đa-la sai biệt về pháp vô ngã bình đẳng cùng chứng một vị như nhau. Bồ-tát an trú vào nơi đó, người khác không thể dùng giác quán để lường xét được. Vì biện tài ưa nói pháp, giảng nói tất cả pháp sâu kín không vướng mắc. Bồ-tát có khả năng nhớ kỹ càng tất cả pháp mà vô lượng Như Lai đã nói, không để quên mất. Ngay sau đó dùng tuệ nghe, tiếp nhận cơn mưa Đại pháp. Sau đó dùng giác quán như thật mà tiến vào giác quán. Dùng pháp ấy giác ngộ tùy thuận đúng đắn đi sâu vào các pháp. Vì tiến vào tám vạn bốn ngàn hạnh môn của các chúng sinh theo đúng như hạnh ấy giúp cho pháp đối trị không hề mệt mỏi. Vì vậy Bồ-tát tuy thấy thế gian mà luôn tách rời thế gian. Những pháp thế gian như được- mất…, các sử phiền não như yêu-ghét-tham-giận đều không thể nào tăng trưởng được. Bồ-tát ấy tuy có được những điều lợi ích to lớn nhưng đối với phần tu hành các thiện căn không thể nào hoại diệt được. Bồ-tát tu tập pháp Phật như vậy, tu tập chân chính các hạnh, cho nên được các quả báo tốt đẹp. Vì vậy tiếp theo nói đến sự việc đạt được quả báo công đức, gồm hai mươi sáu câu chỉ rõ nghĩa ấy. Nương vào chưa hiểu biết thành tựu, nương vào sắc thành tựu, nương vào nghiệp thành tựu. Nương vào địa Bồ-tát thành tựu đầy đủ tất cả. Nương vào sự thành tựu tiến vào Phật địa đến cùng. nghĩa này theo thứ tự như vậy, cho nên biết. Phải biết người này đã có được sự vui vẻ đáng mến, được các bậc thông tuệ đều kính trọng. Vì chứng ngộ lý như thật, cho nên Bồ-tát này làm bè bạn đồng hành với người ấy, với tâm cung kính, ái mộ, nhớ nghó. Rồi dựa theo pháp cú dựa vào sự hiểu biết về pháp tướng, biết rõ pháp kia cho nên trân trọng cúng dường. Như thứ tự giảng nói, vì tôn trọng pháp Phật cho nên luôn luôn cúng dường, do đó dựa vào người trung gian, người không tin tưởng vào pháp Phật, nhận thấy Bồ-tát có sự nghiệp tốt đẹp lớn lao mà quy y với Bồ-tát, lễ bái…, hết mực tinh tiến tu tập hạnh Bồ-tát. Đối với Bồ-tát này, các Bồ-tát khác cũng cúng dường. Người của hàng Nhị thừa, dù vẫn tinh tiến tu tập để chứng được đạo quả, nhưng vì Bồ-tát này có công đức thù thắng cho nên người Nhị thừa kia cũng mong cầu công đức ấy. Vì thế Bồ-tát này nương vào hạnh thù thắng của mình mà không mong cầu Tiểu thừa. Đây là tâm thành tựu đạt được tướng của quả báo công đức. Phải biết người này vì không dua nịnh, tà vạy, vì không chút cấu nhiễm theo pháp dua nịnh, vì đã xa lìa pháp tướng hữu vi của thế gian như các thứ tà hạnh, xu phụ. Do có khả năng phát sinh sự hoan hỷ cho thế gian mà các oai nghi như đi-đứng-ngồi-nằm, đã hoàn toàn thành tựu với các sắc tướng hình mạo vi diệu hơn kém. Do đầy đủ oai nghi, cho nên được các thế gian sinh tâm cung kính, tôn trọng, vì thân tướng Bồ- tát đầy đủ ba mươi hai tướng tốt. Do Bồ-tát ấy hiển hiện tất cả các loại thân đầy đủ tám mươi vẻ đẹp. Đây là sắc thành tựu đạt được tướng của quả báo công đức. Nương vào sự hành hóa trú trì của Phật-Pháp-Tăng đều là nghiệp thành tựu đạt được tướng của quả báo công đức. Người này được thấy chư Phật, là bởi vì hiện thấy hết thảy Chư Phật tức là nhờ vào các công đức của Phật cho nên được thấy đúng như thật. Được hiện thấy Pháp thân của Như Lai, được chứng ngộ vô lượng pháp mà tiếp nhận quả vị, được pháp nhẫn ở tất cả phần vị hạ-trung- thượng. Nói nhẫn bậc hạ là ở trong bảy địa. Nói nhẫn bậc trung là ở trong địa thứ tám-thứ chín. Nói nhẫn bậc thượng là ở trong địa thứ mười. Đây là Bồ-tát thành tựu đầy đủ tất cả các địa đạt được tướng của quả báo công đức. Người này đầy đủ đạo tràng, là bởi vì chứng được Nhất thiết chủng, tất cả các công đức đều đầy đủ. Người này có năng lực làm cho các ma quân phải hàng phục, thậm chí người này có năng lực làm những việc mà Phật đã làm. Bởi vì làm cho ma quân phải hàng phục, như vậy theo thứ tự dựa vào mà làm, đem lại lợi ích cho chúng sinh. Nên biết đây là sự thành tựu tiến vào Phật địa đến cùng, đạt được tướng của quả báo công đức. Không sợ hãi: Thế nào là sợ hãi? Vì nghe pháp sâu xa cho là đạo khác lạ, đó gọi là sợ hãi. Vì sự sợ hãi đó càng chuyển biến tăng thêm nối tiếp nhau không dứt, cho nên gọi là sợ hãi tăng thượng. Sự sợ hãi không đoạn tuyệt tương ưng với sự chấp trước, gọi là sợ hãi tăng thêm tột bậc. Vì rơi vào trong sự sợ hãi, vì đang trong sợ hãi, vì sợ hãi không còn. Như vậy theo thứ tự cho thấy rõ người kia không sợ hãi, không có sợ hãi tăng thêm, không có các sự sợ hãi tăng thượng tột bậc. nghĩa này cho nên biết. Nói công đức kia hãy còn không thể hết, là dựa vào sự tu hành như lời Phật giảng nói, gồm bảy loại công đức với vô số các loại khác nhau không thể tính hết. Bồ-đề của Phật là như trước đã nói, Bồ-đề đó khó có thể nhận biết. Hai câu nêu rõ sự khó thấy, khó biết, chỉ rõ vì đó là trí xuất thế gian. Dựa vào trí xuất thế gian đạt được cảnh giới của trí, các trí thế gian khác thì không thể nhận biết được cảnh giới đó. Có khả năng tin tưởng, là nương vào sự tiếp nhận thọ trì đọc tụng, giải thích có thể tự mình tùy thuận pháp, tu hành như thật để giúp người khác biết, cho nên gọi là tin. Đó là khiến cho người khác có trí phương tiện khéo léo tu hành như thật, nghĩa này cho nên biết. Sự tiếp nhận thọ trì đọc tụng giảng giải đều vốn có công đức không thể kể xiết, bởi vì đây là cảnh giới của Nhất thiết trí. Tiếp theo nương vào sự việc Phạm Thiên không thể nào nhận biết trọn vẹn về trí đầy đủ kia. Như kinh nói: Bấy giờ, Như Lai bảo Đại Phạm Thiên Thắng Tư Duy: Này Phạm Thiên! Ông chỉ biết một phần ít về sắc thân và công đức của các Đại Bồ-tát kia, mà ca ngợi Bồ-tát. “Đây là trình bày về nghĩa gì? Bởi vì nương vào sự ca ngợi, nương vào công đức và sự nghiệp Bồ-tát, theo thứ tự như vậy, nương vào nghĩa rất sâu xa mà nói. Có nghĩa là hết sức thâm diệu trong từng chữ-câu-nghĩa, cho nên biết. Đó là chỉ rõ sự nhận biết được nơi chốn đi tới, hướng đến là biết được ý nghĩa sâu xa thâm diệu. Đây là vì nghĩa gì? Biết được ý sâu xa là biết ý của người có khả năng nói pháp. Nêu rõ dựa vào mức độ tương ưng với pháp cho nên nghĩa và pháp trước sau đều phù hợp, nên biết. Bởi vì không xuôi theo nghĩa của văn tự mà dựa vào nghĩa chứ không dựa vào chữ, vì nương vào câu hỏi chân chính và lời nói chân chính, dùng năm loại năng lực tu hành mà nói. Vì vậy cho nên, tức nói năm năng lực của ngôn ngữ gọi là ưa giảng nói, nghĩa này cho nên biết. Năm năng lực này sao gọi là lực? Vì có bốn loại năng lực tương ưng. Những gì là bốn loại? Đó là: Năng lực trú trì công việc Phật đã làm. Năng lực hàng phục tất cả các ngoại đạo. Năng lực có thể nhận biết tất cả nghiệp ma, nhận biết rồi thì có thể xa lìa chúng. Năng lực tiếp nhận tất cả ba thừa. Mỗi mỗi năng lực đều khế hợp với pháp kia. Vì nương vào pháp đó, Như Lai luôn luôn giảng giải về sự khéo léo tương ưng. Năm năng lực này nương vào năm pháp rất sâu xa mà nói. Những gì là năm? Đó là: Dựa vào tướng thâm diệu. Dựa vào ý thâm diệu. Dựa vào thời xứ thâm diệu. Dựa vào sự tiến thủ thâm diệu. Dựa vào việc thường xuyên giảng nói pháp tùy thuận thâm diệu. Theo thứ tự như vậy. Dựa vào tướng thâm diệu: Là vì tướng khác nhau rất khó nhận biết của tất cả các pháp trong ba đời. Các pháp quá khứ…, nương vào bốn loại mà nói. Những gì là bốn? Đó là: Nương vào sự việc mà nói. Nương vào sự đối lập của pháp đối trị mà nói. Nương vào nghĩa của Thế đế mà nói. Nương vào sự khác biệt về sự tiến thủ của Thừa mà nói. Đây là trình bày nghĩa gì? Nương vào sự việc mà nói, là nương vào sự việc trong ba đời để nói về pháp tướng của sự việc kia. Sự việc trong ba đời, là quá khứ-vị lai-hiện tại, thì ở đây gọi là nói về việc của ba đời. Vì nương vào trí không chướng ngại của Như Lai để nói về sự việc ba đời, gọi là ghi nhớ về ba đời. Nương vào sự đối lập của pháp đối trị mà nói, phiền não cấu nhiễm là đối trị, pháp thanh tịnh là chủ thể đối trị. Pháp thanh tịnh và phiền não kia có hai loại khác nhau là thiện và bất thiện. Lại nữa, pháp thiện cũng có hai loại khác biệt là thế gian và xuất thế gian. Thế gian cũng có hai loại khác nhau là hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu cũng có hai loại khác nhau là có lỗi và không có lỗi. Không có lỗi cũng có hai loại khác nhau là hữu vi và vô vi. Nương vào nghĩa của Thế đế mà nói; là nương vào danh tự giả danh để nói về tướng khác nhau của ngã- chúng sinh… Nương vào sự khác biệt về sự tiến thủ mà nói; là đạt được nghĩa bậc nhất, chứng ngộ Chân Như, vì chính trí dựa vào sự thanh tịnh. Sự chứng ngộ theo thứ tự như vậy là tiến tới Niết-bàn của thế gian. Đây là trình bày nghĩa gì? Nơi tiến tới của người thế gian tức là Nhị thừa của thế gian, nhiếp thủ pháp chứng ngộ của địa khác, cho là Niết-bàn mà giữ lấy phạm vi tịch diệt của Niết-bàn. Các Đại Bồ-tát không trú vào hai nơi này. Vì nói năng lực ban đầu của Bồ-tát không chấp trước cho nên không có lỗi lầm. Nói dụ về trò huyễn… Đây là trình bày nghĩa gì? Như các ảo thuật làm ra thân thể con voi…, đều không thành tựu. Như vậy, ngôn ngữ đã nói về các pháp như sắc với những thân tướng đều không thành tựu, như trong mộng mộng thấy thọ dụng các loại cảnh giới, nhưng những cảnh giới trong giấc mộng ấy đều là điên đảo. Theo lời nói như vậy về nghĩa thọ dụng pháp lạc thì pháp đó chỉ là sự phân biệt hư vọng. Lời nói-tiếng vang, có như chính mình nghe trong hư không, nhưng tiếng đó không có nơi trú vào. Như vậy nói pháp với lời lẽ-âm thanh về Đệ nhất nghĩa đế là khéo an trú trong vô trú. Như ảnh kia hiện trông thấy chỉ có tướng, tuy thấy có các thứ hình tướng của sắc…, nhưng các hình tướng đó đều không tương ưng với Thể của pháp. Nương vào pháp đó tùy thuận mà nảy sinh ngôn ngữ như vậy: Nói tất cả các pháp cũng chỉ là tướng, tuy có các loại danh tự sai biệt mà các danh tự cùng với pháp đã nói không hề tương ưng, nhưng dựa vào pháp mà tùy thuận với tướng. Như dùng các dấu in để in vào bùn cùng trông thấy dấu in thứ hai, nhưng tự Thể của các dấu in vẫn không thay đổi, không hòa nhập. Với cách nhìn như vậy lời lẽ như vậy mà nói về các pháp, thì tuy dựa vào lời nói nghe đến nghĩa của sắc mà tướng và nghĩa hoàn toàn sai biệt. Nhưng các ngôn ngữ không thuộc về nghĩa của pháp mà nghe thì vốn như vậy. Như sóng nắng kia thật sự không có nước, nhưng cũng thấy là nước. Như vậy ngôn ngữ nói về Thể tướng thì Thể tướng của các pháp không giống như lời nói, nhưng cũng nhận thấy Thể tướng của pháp đó. Như hư không kia xưa nay vốn không sinh không diệt, tuy có dùng lời nói để nói về hư không, nhưng hư không kia vẫn không có tự Thể để có thể nói được. Như vậy ngôn ngữ nói về Đệ nhất nghĩa thì không thể nói về Thể của nó, vì mọi pháp không có lời lẽ nào có khả năng diễn đạt. Nói pháp là không nói được một pháp nào cả, vì lời nói về pháp kia đều như huyễn, cho nên Như Lai dùng thí dụ về trò huyễn để chỉ ra. Như vậy, không vướng mắc vào lời nói khi nói về nghĩa của pháp, đạt được trí không chướng ngại với biện tài ưa nói pháp, đó gọi là lợi ích. nghĩa này cho nên biết. Đây là trình bày nghĩa gì? Tất cả pháp ngôn ngữ không lìa pháp giới mà nói, không sai biệt với pháp giới mà nói. Đây là vì nghĩa gì? Tất cả pháp được nói ra như sắc…, với những sai biệt không lìa pháp giới mà nói, vì pháp giới luôn hòa hợp, mà nói về các pháp sai biệt như sắc…, nhưng không hề chấp trước. Dựa vào ý thâm diệu, là nương vào sáu loại mật ý của Như Lai mà Bồ-tát có khả năng biết được Như Lai có dụng ý rất sâu xa. Về nghĩa này cho nên biết. Những gì gọi là sáu loại mật ý? Đó là: Mật ý về sự nhớ nghó. Mật ý về sự không nêu bày. Mật ý đối với đối trị. Mật ý về pháp. Mật ý về tâm. Mật ý về chuyển biến của chữ. “Phạm Thiên! Như Lai hoặc pháp nhiễm nói là tịnh…” Đây là chỉ rõ mật ý về sự nhớ nghó. nghĩa này là thế nào? Bởi vì không thấy Thể của pháp phiền não cấu nhiễm. Nếu có thấy là vì chấp vào Thể của pháp tịnh, vì nhiễm hay chính niệm, cả hai đều không có tự Thể. Bởi vì không dao động chấp trước, đây là thể tướng của pháp nhiễm. Bởi vì tâm dao động chấp trước đây là Thể tướng của pháp tịnh. Pháp nhiễm kia dù không phải là chính niệm, nhưng pháp nhiễm ấy không thành pháp nhiễm. Đây gọi là mật ý về sự nhớ nghó của Như Lai. “Lại nữa, Phạm Thiên! Ta nương vào bố thí tức là chỉ rõ về Niết- bàn…”. Đây là chỉ rõ mật ý về sự không nêu bày. Đó là trình bày về nghĩa gì? Bởi vì Phật không khởi tâm mà thuyết các pháp. Vì tất cả pháp đều không có năng lực như vậy, có thể từ đời này chuyển biến đến đời kia. Pháp của Ta là vô Thể, cho nên không có một pháp nào có thể chuyển đổi. Chính vì nghĩa này, cho nên không có một pháp nào chuyển biến đến đời khác. Vì vậy nương vào bố thí mà nói đạt được Niết-bàn là không có điều ấy. Đây gọi là mật ý không nêu bày của Như Lai. Từ trì giới cho đến Bát nhã là để chỉ rõ Niết-bàn. Đây là trình bày nghĩa gì? Đây là trình bày về mật ý đối với đối trị. Đó là vì nghĩa gì? Bởi vì pháp đối trị của những sự đoạn mất giới nương vào hạnh Ba-la-mật mà thực hành vui vẻ. Nói trì giới…, gọi là Niết-bàn, vì đoạn tuyệt khả năng phát khởi phiền não phá giới của thân-miệng-ý cho nên không làm những điều ác, mà lìa xa tất cả các tâm sát hại. Dựa vào tâm sát hại ấy là không vì không cho nên không còn sinh tâm nhẫn nhục. Vì lìa lười biếng mà thường siêng năng tinh tiến, là tăng trưởng điều thiệnđể diệt trừ tiền ác. Không có tâm như vậy là thiện không tăng thêm, hành ác không diệt. Lại nữa, tâm không còn dao động vì không có giác quán. Đây là vì nghĩa gì? Vì lìa tất cả tâm dao động, vì không còn tâm phân biệt tán loạn, vì lìa tất cả cảnh giới do nhận thức mà sinh ra, cho nên không phát sinh. “Ta đã được tâm, vì không có gì để được, mà gọi là được, vì không thấy có pháp”. Đây gọi là mật ý của Như Lai đối với pháp đối trị. Tham dục là thật tế pháp tính không có tướng của dục, cho đến ngu si là thật tế pháp tính không có tướng của ngu si. Lìa khỏi chân như thì tham dục…, thật tế…, không có pháp nào đáng nói. Đây là nêu rõ một ý về pháp của Như Lai. Điều này trình bày nghĩa gì? Thật tế pháp tính không có tướng ngu si. Đây là nêu rõ mật ý về pháp. Đây là vì nghĩa nào? Bởi vì lìa xa Chân Như thì tham dục…, thật tế…, không có pháp nào có thể nói. nghĩa này nên biết. Đây gọi là mật ý về pháp của Như Lai. Thế gian là Niết-bàn vì không lùi lại-không sinh, cho đến hư vọng là lời nói thật, làm cho người tăng thượng mạn. Đó là chỉ rõ mật ý về tâm. Đây là trình bày nghĩa gì? Bởi vì hiểu thế gian xưa nay không sinh- không diệt-tức là Niết-bàn. Chấp trước về Niết-bàn, về Thể tướng của Niết-bàn, chấp lấy tướng như vậy do lỗi lầm ở tâm ấy, tức là thế gian. Lời nói thật, là nương vào lời nói để nói. Nếu nhận thấy là thật, tức là hư vọng. Nói hư vọng là người ngã mạn phân biệt hư vọng, cho sự phân biệt là thật mà chấp lấy tướng thật, nhưng là không thật. Đây gọi là mật ý về tâm của Như Lai. “Lại nữa, Phạm thiên! Như Lai vốn dó tùy ý, hoặc tự nói: Ta bảo là thường biên (chấp thường)”. Đây là chỉ rõ mật ý về chuyển biến của chữ. Đó là trình bày nghĩa gì? Bởi vì nói Niết-bàn…, là pháp thường còn. Vì nói các pháp phiền não…, là cấu nhiễm. Vì nói đoạn trừ các kiết sử phiền não như tham… Vì nói không tạo ra hành ác vì nói không tạo nghiệp thân… Vì thấy rõ mọi tà kiến hý luận, vì Nhất thiết trí là không tùy thuộc vào nhân duyên của người khác. Vì chứng ngộ pháp giới của Niết-bàn vô vi, vì không nương vào nghiệp phiền não mà sinh trong tất cả các cõi, vì không có tướng sinh trói buộc. Vì được đoạn tuyệt nghiệp ái, vì không trú trong ba cõi, không hệ thuộc ba cõi. Như kinh nói: “Nhưng Như Lai không có các sự việc như vậy”. Đây là vì nghĩa gì? Đây là do Như Lai nương theo thường biên cho nên thấy tất cả là vô thường… Lại nói không có các sự việc như vậy. Bởi vì trong pháp Phật không có nêu bày như vậy, tất cả mọi pháp đã thuyết giảng đều không thể nhận thấy. “Phạm Thiên phải biết, đây là Như Lai tùy ý”. Vì nương vào ý nào mà chúng sinh kiêu mạn có khả năng trừ bỏ ngã mạn? Đây là trình bày nghĩa gì? Tức là chỉ rõ nghĩa khác trong pháp đã nói như vậy. Sự chấp trước theo danh nghĩa cũng như vậy. “Phạm Thiên! Nếu Bồ-tát biết Như Lai tùy theo phương tiện giảng nói”. Đó là từ bỏ chấp trước vào danh nghĩa như vậy, tiếp theo lại nói, đây là trình bày nghĩa gì? Đó là trong việc giảng nói pháp có hai loại hoạt động: Chữ hoạt động. nghĩa hoạt động. Đây là trình bày nghĩa gì? Đó là danh tự hoạt động trong nghĩa như vậy, nghĩa hoạt động trong danh tự như vậy. Đây là ý rất thâm diệu của Như Lai. Nương vào ý thâm diệu này, khéo nhận biết về trí-hạnh-nghĩa- chữ-tướng với phương tiện khéo léo như vậy. Nên biết hoạt động này tức là hành động của Bồ-tát đi tới hành động như ý. Như ý rất sâu xa mà Như Lai đã nói, cho nên phương tiện khéo léo tập hợp các pháp, thì có năng lực dễ dàng biết tất cả những điều đã nói về đủ loại các pháp. Vì vậy Bồ-tát có năng lực đối với tất cả ngôn ngữ âm thanh thuyết pháp của chư Phật mà không hề kinh sợ. Nên biết như vậy. Vì các chúng sinh tùy theo đủ loại tâm, cho nên Bồ-tát dựa vào phương tiện ấy thì có thể tin nhận, dù nghe Phật xuất thế hay không xuất thế. Vì các tướng khác biệt vô cùng, giống như Phật xuất thế hay không xuất thế, tất cả đều nêu rõ, không hề chấp trước mà dùng phương tiện khéo léo khiến cho các chúng sinh tin tưởng tiến vào các pháp. Vì có thể hóa độ thân chúng sinh không thuần thục, khiến cho thân chúng sinh ấy được thuần thục, mà nói pháp đơn giản dễ hiểu cho họ, dựa vào niềm vui chỉ rõ niềm vui, vì thân cảm thọ niềm vui-thân được thuần thục cho nên nói cho nghe về pháp sâu xa. Vì vậy theo thứ tự dựa vào thời gian mà nói pháp, nghĩa này cho nên biết. Cho nên biết thế nào? Trước hết, nói pháp đơn giản cho chúng sinh. Đây là trình bày về nghĩa gì? Đó là nhiếp thủ nhân quả, nhiếp thủ sự quán sát của họ, nhiếp thủ nghiệp của họ, dùng phương tiện giáo hóa để nhiếp thủ chúng sinh, nhiếp thủ sự tu hàng: Bố thí sẽ được giàu, cho đến có tuệ để dứt trừ các phiền não. Nương vào pháp thiện tu hành để nhiếp thủ lý nhân quả. Dùng nhẫn để đối trị với sự xấu xa thô bỉ, vì nhẫn có khả năng sinh tâm hoan hỷ, vì nhẫn có khả năng làm nhân cho sự đoan chính. Tu hành các công hạnh của Tuệ nghe…, có khả năng làm nhân cho trí, làm nhân vượt qua mọi thứ Khổ khổ. Nhờ tuệ quán như thật cho nên có khả năng lìa bỏ mọi phiền não, làm nhân của các phiền não diệt tan, không thể tập hợp. Lại nữa, hạnh của Tuệ nghe này là tu tập quán sát pháp thiện. Tại sao nhân của quán sát này lại do tuệ nghe nhiều nhiếp thủ? Vì nó nhiếp thủ sự quán sát kia, nhiếp thủ mười đạo nghiệp thiện tu hành của thân… Nương vào mười nghiệp thiện ấy mà nhiếp thủ hàng Trời Người thành tựu các công đức, đều nhờ sự nhiếp thủ nghiệp kia. Nhiếp thủ vô lượng nghiệp thương xót chúng sinh, Bồ-tát dùng phương tiện để giáo hóa nhiếp thủ chúng sinh. Dùng phương tiện nhiếp thủ chúng sinh thuần thục là do Bồ-tát dựa vào Xa-ma-tha, tu hành tất cả pháp thiện. Vì vậy từ Xa-ma-tha tu hành được Tỳ-bát-xá-na. Đây là tu hành để nhiếp thủ. Nương vào ba thừa, được Niết-bàn của ba thừa là quả của sự tu hành nhiếp thủ. Người nhận lấy việc khất thực, tu hạnh khất thực ít ham muốn, đầu đà thì ít làm việc ích lợi cho chúng sinh, không có khả năng nói pháp, để giúp cho chúng sinh tùy thuận tiến vào giáo pháp. Như Lai nói pháp đơn giản như vậy xong, sau đó mới giảng nói pháp sâu xa. Đây là trình bày nghĩa gì? Giảng nói pháp đơn giản là làm sáng tỏ về nhân quả. Căn tính chúng sinh chưa thuần thục thì có thể giáo hóa khiến tự tâm chúng sinh nhận biết về sự nhân quả. Chúng sinh được nhiếp thủ gồm chủ thể tạo tác và đối tượng tạo tác, Như Lai đều nhìn thấy rõ. Vì vậy, Như Lai trước hết là làm sáng tỏ về nhân quả, tiếp đến mới nói tới pháp đối trị gồm chủ thể đối trị và đối tượng đối trị, là chỉ rõ chính họ phải từ bỏ tà kiến kia. Như Lai thật sự không có tưởng về ngã-chúng sinh-thọ mạng và trượng phu… nghĩa này là thế nào? nghĩa về ngã-chúng sinh-thọ mạng-trượng phu, như trước đây đã nói, cho nên biết như vậy. Vì không nhận thấy pháp nhân quả của chủ thể đối trị và đối tượng đối trị kia, cho nên nói giản lược nương theo quả báo của thế gian. Vì không thấy sự thọ nhận quả báo của bố thí…, vì không thấy sự keo kiệt…, phải thọ nhận quả báo. Do đã xa lìa pháp tu hành của chủ thể và đối tượng đối trị. Vì không thấy quả báo của sự việc lìa thế gian, quả của việc đạt được Niết-bàn, theo tướng của pháp có-không. “Phạm Thiên! Như Lai thường nói pháp cho chúng sinh, và họ nương theo lời dạy của Như Lai, như pháp đã nói mà tu hành như thật, siêng năng hành trì các hạnh”. Vì ý nghĩa gì mà siêng năng tu hành các hạnh kia, cho đến không thủ đắc Niết-bàn, không thấy có Niết-bàn? Đây là trình bày nghĩa gì? Như nói pháp đơn giản nhiếp thủ chúng sinh, thấy tướng của các pháp, tu hành như vậy được quả xuất thế gian mà không chấp giữ quả ấy. Như Lai thị hiện nói pháp như vậy, là nhân của thế gian. Đây có nghĩa gì? Nương vào pháp Phật nói mà tu hành. Đây là tùy thuận pháp thiện căn bản. Tu các hạnh, là giải thích nhờ nương vào pháp không thủ đắc, nương vào pháp không chấp giữ. Theo thứ tự như vậy mà nói. Pháp không thủ đắc là dùng tuệ quán sát không thể đạt được. Pháp không chấp giữ là thân không thể chứng ngộ được Niết- bàn. Khiến chúng sinh nhiếp thủ được pháp mầu nhiệm, là trình bày nghĩa gì? Pháp đơn giản và sâu xa mà Như Lai giảng nói là để cho chúng sinh đều được tiến vào hai pháp đơn giản và sâu xa ấy. Bởi vì chỉ rõ sự tiến vào pháp tướng. Đây là trình bày nghĩa gì? Khiến cho tiến vào pháp, dựa vào bốn loại tiến vào. Vì chúng sinh có thể hóa độ mà chỉ rõ sự giải thoát khiến họ chứng ngộ được pháp đó. nghĩa này cho nên biết. Bốn loại tiến vào, nói về hành tướng đạt được các căn như mắt…, lìa ngã và ngã sở, vì Thể của hai tướng ấy đều là Không. Hiểu được tướng đó rồi thì không thể lừa dối mà có thể tiến vào giải thoát, cho nên gọi là tướng. Tiến vào, dựa vào các tướng như mắt thì có thể tiến vào giải thoát, vì vậy nói là tiến vào tướng giải thoát. Như vậy, từ tướng Không kia tu tập chính hạnh, cho nên được tiến vào tướng giải thoát, đều không lừa dối vì trái ngược với tướng lừa dối. Bởi vì nghĩa này, cho nên dựa theo sự tu hành tiến vào mà nói các chúng sinh tiến vào tướng giải thoát. Vì vậy dựa vào hành tướng hai pháp này để chỉ rõ các môn đối trị về nghiệp phiền não cấu nhiễm và sinh khởi cấu nhiễm cùng các loại không. Đây là trình bày nghĩa gì? Bởi vì đối trị những gì cần phải đối trị. Đó là pháp đối trị về chấp tướng- nguyện nhiễm trước-nghiệp phiền não nhiễm trước và những sinh khởi cấu nhiễm. Đây là trình bày nghĩa gì? Dùng các môn không-vô tướng- vô nguyện, đối trị nghiệp nhiễm ô và phiền não cấu nhiễm. Bởi vì môn không thực hành đối với sinh tử, cho nên đối trị sự sinh khởi cấu nhiễm. Môn không sinh không diệt, đây là trình bày nghĩa gì? Chính là pháp đối trị sai biệt trong sự sinh khởi cấu nhiễm kia, tức là những sự đối trị kia lại có đối trị. Bởi vì môn không từ đâu đến cũng không đi về đâu lại có đối trị. Dùng môn không lùi lại-không rời bỏ tiến vào tướng giải thoát. Như thứ tự đó, pháp môn tự tính thanh tịnh mới là tịch tónh. Đây là trình bày nghĩa gì? Vì tự tính của pháp lùi kia là vắng lặng, tức là chỉ rõ sự cấu nhiễm kia thảy đều vắng lặng. Vì sao nói tự tính vắng lặng? Vì nương vào tính tịnh để nói về pháp tiến vào. Vì vậy phần tiếp theo nói: “Lại nữa, Phạm Thiên! Từ danh, tự, Như Lai chỉ cho biết đó là cửa giải thoát…” Đây là vì nghĩa gì? Vì có sự lần lượt không có gì tương ưng, vì tự tính tối tăm. Đây là vì nghĩa gì? Vì nương vào nhiều loại pháp khác mà nói về nhiều loại danh tự khác, vì các danh tự có chữ trước-chữ sau không phù hợp với nhau, cho nên lại có sự khác biệt về ý nghĩa và lời nói không khớp với nhau. Nói như vậy là trình bày nghĩa gì? Vì nói các pháp không có ngôn ngữ của nó để có thể nêu bày. Nương vào pháp tướng vốn không có lời nói-danh, tự, để nói như vậy xong, chỉ rõ tất cả lời nói, danh tự, do Như Lai nói ra, là nhân của giải thoát. Đây là trình bày nghĩa gì? Đó là nói về thật đế. Dựa vào thật đế đúng như thật chính thức nêu giảng các pháp xong, làm thế nào để được giải thoát? Vì vậy tiếp theo nói: “Phạm Thiên! Như Lai nói pháp, không có pháp nhiễm”. Đây là trình bày nghĩa gì? Vì thân thuần thục, cho nên Như Lai nói pháp đơn giản rồi, vì tùy thuận sự đoạn trừ nhân của pháp phiền não ô nhiễm mà dựa theo pháp môn tiến vào, nói trong hết thảy pháp được nêu giảng đều chỉ rõ về giải thoát. Đây là trình bày nghĩa gì? Đó là chỉ rõ Niết-bàn. Chỉ rõ người tu học kiến đế thấy rõ phiền não còn lại, chỉ rõ người tu học lìa phiền não mà đạt được giải thoát. Ai chưa thấy thật đế thì giúp người ấy tiến vào tất cả pháp Chân Như bình đẳng, dùng phương tiện nói pháp chỉ rõ Niết-bàn. Có hai nghĩa cho nên biết về Đại Bi: Cuối cùng đối trị với pháp của đối tượng được đối trị. Tâm Đại Bi của Nhất thiết chủng. Đây là trình bày nghĩa gì? Đó là xa lìa tất cả pháp của đối tượng đối trị, và lìa bỏ mọi tập khí phiền não, mà đạt được thân Như Lai, được Nhất thiết chủng. Lược nương vào bốn loại tâm Đại Bi mà nói. Những gì là bốn? Đó là: Tâm Đại Bi xa lìa tương ưng. Tâm Đại Bi tương ưng. Tâm Đại Bi của tâm. Tâm Đại Bi tu hành. Xa lìa tương ưng, bởi vì dùng thức xa lìa thức là không tương ưng, vì nhận thấy ngã-tâm tương ưng. Đây là trình bày nghĩa gì? Chỉ rõ tâm Đại Bi xa lìa tương ưng, chỉ rõ tâm Đại Bi tương ưng. Như vậy theo thứ tự mọi pháp đều vô ngã, cho đến hết thảy các pháp đều không có trượng phu (ngã-nhân-thọ mạng). Dựa vào nhân vô ngã mà nói tất cả pháp là không vốn có. Dựa vào pháp vô ngã để nói, tức là hai loại ấy, nhân không có tướng ngã và pháp không có tướng ngã gọi là vô trú. Nói vô trú vì không chấp trước vào thể của các pháp cho nên không trú vào tất cả mọi pháp. Cho nên biết như vậy. Đây là trình bày về nghĩa gì? Gọi là trú, là trú vào các nhập. Dựa vào môn ái của ngã kiến, rồi trú vào nơi ấy. Hễ vô trú thì không có nơi quy về. Không có nơi quay về thì làm sao có sự trở về? Trở về nơi ba cõi, về với sáu đường. Vì nương vào sáu nhập kia mà giữ lấy thân, dựa vào đó sinh ra mà ở nơi ấy bị chìm đắm mãi. Nói chìm đắm, là ngã và ngã sở lấy những nơi ấy mà sinh ra thân- tâm, cho nên có sự sống. Không có nơi quay về thì không có ngã tưởng. Không có tưởng về ngã thì không có sở hữu của ngã. Có nơi trở về thì chấp vào ngã tưởng. Vướng mắc vào tưởng về ngã thì có ngã sở. Chấp vào ngã sở thì mọi pháp cùng sinh ra. Nhưng vì chúng sinh phân biệt hư vọng cho nên ngã càng gia tăng. Đây là trình bày về nghĩa gì? Đó là nương vào sự việc để nhiếp thủ sự chấp trước. Nói nương vào sự việc là nương vào ruộng nương-nhà cửa-vườn- rừng…, nương vào cha-mẹ-vợ-con…, nương vào y phục, thức uống ăn- giường nằm… Nương vào sự nhiếp thủ là nhận lấy mọi sự thọ dụng. Nương vào chấp trước là chấp trước những gì mình đã có là ngã sở, là ruộng nương-nhà cửa và sở hữu riêng biệt của mình. Như vậy chấp vào sự sống, chấp vào sự sống lùi lại. Nói chấp vào sự sống, là tự mình ở nơi này-tự mình đến nơi khác, nơi nào cũng chấp lấy. Nghiệp phiền não cấu nhiễm tăng lên khắp nơi, đi-lại sinh sống mọi lúc mọi nơi đầy những cấu nhiễm. Dựa theo ba loại tham-sân-si mà bị cấu nhiễm trói buộc thuận theo mọi sự cấu nhiễm. nghĩa này thế nào? Bởi vì tham-sân-si mà bị cấu nhiễm, thuận theo mọi sự cấu nhiễm. Bởi vì nghĩa gì? Bởi vì hai loại danh-thuyết dựa vào cấu nhiễm căn bản, nghĩa là từ đời quá khứ cho đến đời này, từ trong đời này hướng về đời khác, lấy những điều đó làm đầu. Nói như vậy là chỉ rõ đời đời kiếp kiếp nối tiếp nhau không đoạn tuyệt. Mọi việc làm chúng sinh, cứ sống như vậy, không đoạn tuyệt mà luân chuyển mãi, học tập các thứ kỹ thuật, mọi thứ ngành nghề, đều do sức của trượng phu (chúng sinh) làm nên, pháp hữu vi, mọi hý luận tạo ra môi trường từ đó có cảnh giới thọ dụng. Chúng sinh phân biệt hư vọng như vậy, tất cả sự việc như vậy, đều dựa vào phạm vi của người thế tục, nghĩa này cho nên biết. Lại nữa, có người nương vào phần vị kẻ xuất gia, chỉ là hình tướng theo tà kiến của ngoại đạo, tà kiến theo nguyện. Đây là trình bày về nghĩa gì? Nói tà kiến là chấp ngã… Gọi là tướng, là phân biệt hư vọng về đủ loại tướng của nghĩa kia. Gọi là nguyện, là tâm thường vui với mong cầu được sinh trong thế gian… Tức là như trên đã nói về tâm Bi xa lìa, tâm Bi không xa lìa, là thị hiện tâm Bi của tâm. Về nghĩa này cho nên biết. Vì tâm Bi xa lìa hay không xa lìa đều là nói đến pháp tu hành. Dựa vào ý muốn mong cầu. Dựa vào có sự mong cầu. Dựa vào phạm hạnh để mong cầu các đạo điên đảo, là pháp của chủ thể đối trị và đối tượng đối trị. Vì vậy tiếp theo là việc tu hành tâm bi. Đây là trình bày về nghĩa gì? Dựa vào ý muốn mong cầu đạo điên đảo, là vì tích chứa mà vội vàng cùng nhau tranh chấp xâu xé. Vì những ham muốn mà tự Cha mẹ và vợ con đều tranh chấp lẫn nhau. Vì giận dữ mà kiện tụng lẫn nhau… Như vậy lần lượt dựa vào xứ sở để cầu đạo điên đảo, là tương ưng với điên đảo. Cầu Phạm thiên…, cho nên thường thấy điên đảo. Vì chấp giữ điên đảo cho nên gọi là điên đảo. Vì điên đảo mà lìa bỏ đạo điên đảo khiến có thể đi vào đạo không điên đảo. Lại nữa, dựa vào cái có để cầu đạo điên đảo, là trú nơi dị đạo vì muốn giáo hóa các chúng sinh nơi dị đạo kia khiến họ tiến vào Phật đạo biết là đạo không thể thủ đắc. Dựa vào phạm hạnh để cầu đạo điên đảo, lược nêu có ba hạng, là cầu không được, cầu tà vạy và cầu thấp kém. Đây còn có nghĩa gì? Tất cả thế gian đều có lỗi là không tự tại, lỗi sống tà vạy, lỗi lầm đối với người thân. Các pháp phiền não nhiễm và nghiệp khổ nhiễm là ngôi nhà vui của người thế tục. Vì vậy chúng sinh không cầu phạm hạnh. Không cầu phạm hạnh là không cầu đạo giải thoát. Đó là sự keo kiệt đã nhận chìm con người vào mọi hành vi tham lam, lừa dối và tập khí của lười nhác. Theo thứ tự như vậy, Bồ-tát hành hóa để cứu giúp chúng sinh không biết chán đủ. Chiếm đoạt tài sản của kẻ khác, vì tự nuôi sống một cách phi pháp. Bố thí cho họ cũng đều không đủ. Chúng sinh thường làm tôi tớ cho tài sản, vật dụng, nhà cửa, vợ con, ân ái. Đây là chỉ rõ tâm của chúng sinh không được tự tại. Đối với những loại nguy khốn không vững chắc này mà sinh ý tưởng vững chắc, là mọi thứ của tiền, vật dụng cho đời sống đều vô thường mà sinh ý tưởng thường còn. Cung kính cúng dường, đây là nghĩa gì? Đó là sự ràng buộc của uống ăn không thành tựu. Chúng sinh tuy cho là thiện tri thức mà chính là ác tri thức của họ, là chỉ rõ đó là oán gia. Sinh sống tà vạy là sử dụng cân-hộc…, để lừa dối người khác. Trong tất cả các hành, luôn siêng năng tu tập các hạnh thiện thì cuối cùng mới có thể chứng được đại Bồ-đề, nhưng mà các chúng sinh đó rất lười biếng, mệt mỏi cho nên vẫn nhận chịu khổ đau. Cảnh giới giải thoát tối thượng của Thánh nhân, là do người tu hành với nhân không điên đảo mà đạt được, nhưng các chúng sinh mong cầu phạm hạnh tà vạy dựa vào nhân điên đảo mà tu tập các hạnh, hy vọng chứng đắc, thìnhg ấy mong cầu giải thoát của ngoại đạo, vì khiến cho họ không được thực hành tà đạo ấy. Tại sao? Vì họ không được sự giải thoát của Thánh nhân. Chúng sinh rời bỏ Đại thừa tối thượng không ngăn ngại, bởi vì chỉ mong cầu phạm hạnh thấp, bỏ Đại thừa vô thượng bậc nhất mà mong cầu được phần thấp của Tiểu thừa.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 88