<經 id="n1523">LUẬN ĐẠI BẢO TÍCH KINH HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1523 LUẬN KINH ĐẠI BẢO TÍCH Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Tam Tạng Pháp sư Bồ Đề Lưu Chi. <卷>QUYỂN 1 Quy mạng đấng cứu đời, Vượt biển khổ bờ kia, Đại bi hàng ma oán, Con giải kinh Bảo Tích. Mười sáu thứ trang nghiêm, nghĩa chân thật vi diệu, Muốn pháp tồn tại lâu, Để lợi mình, lợi người. Hỏi: Muốn giải thích kinh Bảo Tích, trước hết ông nên giải thích điều nầy: Do nghĩa gì mà gọi là Bảo Tích? Đáp: Trong pháp báu của Đại thừa, hết thảy nghĩa sai biệt, tướng sai biệt của tất cả các pháp đều gồm thâu trong kinh nầy, cho nên gọi là Bảo Tích. Bảo Tích có nghĩa là tụ tập, gom góp, che mát, hòa hợp. Tên khác nhưng nghĩa chỉ có một. Hết thảy pháp Đại thừa trong đó, Như Lai vì các Bồ-tát mà nói mười sáu loại tướng sai biệt. Đó là: Tướng hành tà pháp: Bồ-tát nào đã hành tà hạnh như vậy, gọi là tướng hành tà pháp. Tướng chính hạnh: Là những Bồ-tát đã hành chính hạnh, nên gọi là tướng chính hạnh. Tướng lợi ích hành chính hạnh: Bồ-tát đã trụ vào chính hạnh, thì gọi là khéo hành hạnh bình đẳng pháp hạnh. Các tướng sai biệt của việc thực hành các pháp hạnh. Ở chỗ các Bồ-tát sinh tướng tâm từ, vì làm cho tâm sinh kính trọng, mà có tướng hành thuyết. Bồ-tát trụ trong chính hạnh mà học giới tướng. Ở trong giới của Thanh văn và giới của Bồ-tát mà nói tướng hơn kém. Tướng sai biệt của Bồ-tát đã khéo học giới Bồ-tát có thể bình đẳng với trí thế gian, mà làm lợi ích cho người khác. Tướng sai biệt khi thọ nhận tạng Bồ-tát nầy được dạy tu tập giới của Thanh văn. Tướng sai biệt của Sa-môn không khéo học. Tướng sai biệt của Sa môn không học. Tướng sai biệt của việc trụ vào danh tiếng, hành động giả tạo. Tướng sai biệt của việc trụ vào sự chân thật tu hành. Tướng sai biệt của Như Lai phương tiện hóa độ chúng sinh. Tướng sai biệt của việc nói ra những lời bí mật, vi diệu. Tướng sai biệt của việc đã được dạy bảo ở trong tạng Bồ-tát, khéo léo tin là có ích. Trong kinh Đại thừa, Như Lai đã vì các Bồ-tát mà nói mười sáu loại tướng sai biệt như vậy. Trong pháp môn đó, tất cả các tướng kia hiện đang được nói đến. Trong kinh Đại thừa pháp báu nầy, tất cả mọi tướng nói đến đều được gồm thâu vào trong đó. Cho nên pháp môn mầu nhiệm nầy mới gọi là Bảo Tích. Hỏi: Vì sao tất cả các tướng trong kinh báu Đại thừa chính pháp lại được gồm thâu hết trong pháp môn nầy? Đáp: “Ca-diếp! Có bốn pháp làm trí tuệ thoái mất. (…)” Như thế… là nói tám loại bốn câu thuộc về nhóm bạn xấu, gọi là tướng sai biệt của tà hạnh. Này Ca-diếp Bồ Tát có được bốn kho tàng lớn để ẩn giấu (…)”. Như thế… là nói sáu loại bốn câu thuộc về tướng sai biệt của chính ha- ïnh lợi ích. Như vậy, hai mươi hai loại bốn câu đủ để nói các việc nhiễm, tịnh, thoái lui và lợi ích. “Nầy Ca-diếp! Gọi là Bồ-tát chẳng phải đó chỉ là cái tên để gọi là Bồ-tát, (…)”. Như thế… nên biết đó là ba mươi hai loại tướng sai biệt . “Nầy Ca-diếp! Công đức của Bồ-tát là vô lượng vô biên, Ta sẽ dùng thí dụ để diễn nói (…)”. Như thế… nên biết là nói rõ các tướng khác nhau đó. “Nầy Ca-diếp! Nên biết, Bồ-tát muốn học kinh Đại Bảo Tích nầy”, cho đến “khi như đèn thắp sáng, ấy là cái rễ của Thánh tuệ, còn sự tối tăm chính là các nghiệp kiết sử vậy (…)”. Đó được gọi là tướng sai biệt thuộc về trụ vào chính hạnh, thâu nhiếp các giới. “Nầy Ca-diếp! Ví như trồng cây trong hư không, thì không thể sinh trưởng, từ xưa đến nay chưa có việc đó”. Cho đến “có khả năng xuất sinh vô lượng trăm ngàn Thanh văn, Bích-chi Phật (…)”. Như thế… là nói thí dụ về giới của Thanh văn và tướng sai biệt hơn kém trong giới của Bồ-tát. “Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại Ca-diếp”: Cho đến “từ trước cho đến nay hoàn toàn trong sạch (…)”,là nói tướng sai biệt gồm thâu cả trí thế gian và xuất thế gian mà hành sự lợi ích cho người khác, nên biết. Nầy Ca-diếp! Các ông nên quan sát cái bên trong chớ chạy theo bên ngoài, ngay như người xuất gia cũng còn mang hai chứng bệnh: Một là ôm giữ tính tăng thượng mạn mà tự điều phục tâm mình. Hai là phá hoại sự phát tâm Đại thừa của người khác. Khi thọ nhận tạng Bồ-tát, phải bình đẳng gồm thâu như vậy, phải dạy bảo sự tu tập về giới tướng sai biệt của hàng Thanh văn. Nầy Ca-diếp! Nên biết, Sa-môn là do nghĩa gì mà gọi là Sa-môn? Với lại, thế nào là Sa-môn? Nầy Ca-diếp! Có bốn loại Sa-môn. Cho đến câu: “Như vậy này Phổ Minh đó là Bồ-tát thông đạt pháp mau le”ï. Như vậy… là gồm thâu cả ba hạng Sa-môn trước. Nên biết, là nói tường sai biệt của loạiù Sa-môn không khéo học. Bấy giờ, Ma ha Ca-diếp bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thật là hiếm có! Kinh Đại Bảo Tích nầy đối với người tu hành Đại thừa thật là có ích, nếu mà đọc tụng, thọ trì, sao chép kinh nầy, thì người đó chính là đã cúng dường chư Phật. Bồ-tát đã được truyền thụ như vậy rồi, nên biết, là họ sẽ gồm thâu những tướng hữu ích sai biệt để khéo léo có niềm tin. Trong Đại thừa như đã thuyết, là gồm thâu mười sáu loại pháp tướng sai biệt. Do vậy mà pháp môn nầy giảng gọi là Bảo Tích. Đức Phật đang ở đại thành Vương-xá. Hỏi: Vì sao trước phải nói rõ trú xứ của Phật? Đáp: Nói chỗ ở của Phật, là muốn cho chúng sinh kính trọng nơi Phật cư ngụ. Chúng sinh biết quý trọng phước đức mà tỏ lòng tôn kính nơi nầy, thì căn thiện của họ sẽ lớn mạnh thêm. Vì vậy mà trước hết phải nói rõ trú xứ của Phật. Hỏi: Tại sao pháp nầy chỉ nói ở thành Vương-xá mà không phải là thành ấp khác? Đáp: Vì giải thích pháp môn nầy phải là chỗ ở của pháp vương, mà Vương-xá là chỗ ở của vua, nên phải nói rõ là Vương-xá. Đại pháp môn nầy cũng vậy, trú xứ của pháp vương, do nghĩa nầy mà giải thích, nên nói là trụ ở thành Vương-xá. Hỏi: Vì sao chỉ nói núi Kỳ-xà-quật mà không phải địa phương khác? Đáp: Đức Phật nói pháp Đại thừa nầy với nghĩa lý có cao hơn so với thừa Thanh văn, Duyên giác. Cao hơn vì hạnh lợi mình, lợi người. Đồng thời còn có tám ngàn Đại Tỳ-kheo, một vạn sáu ngàn Bồ-tát cùng tập hợïp. Hỏi: Đã vì Bồ-tát mà nói rõ pháp môn nầy. Nên đại chúng nầy được gọi chung là Bồ-tát. Sau còn nói chúng Thanh văn là có nghĩa gì? Đáp: Nói là chúng Thanh văn, vì có Thanh văn ở trong pháp Đại thừa còn có tâm nghi ngờ, nói vậy là để cho họ dẹp bỏ nghi đó. Hoặc có Thanh văn còn bất định, muốn giúp đỡ họ có chính tín. Hoặc có người tự cho mình đã được thanh tịnh, muốn họ xả bỏ tâm thanh tịnh đó. Hoặc có Thanh văn cho mình đã biết các kiết sử, nên trong pháp Phật chẳng còn gì để tu. nghĩa là đã dập tắt những chướng ngại của phiền não, tâm nảy sinh mình đã được lợi ích, vì muốn làm xa lìa tâm ngạo mạn ấy, nên trong pháp môn nầy, vì các Bồ-tát mà nói về pháp dập tắt các phiền não chướng. Vì phiền não chướng và diệt trí chướng mới nói pháp môn nầy, chứ không có mục đích nào khác. Nó vượt lên trên cả quả báo cao tột nhất của Thanh văn, Duyên giác. Hỏi: Chúng Thanh văn và Bồ-tát nầy từ đâu đến? Đáp: Trong đời vị lai có kẻ nghi hoặc, vì muốn dẹp bỏ nghi hoặc đó, trong kinh có nói: Từ cõi nước của chư Phật ở phương khác họ tập hợp về đây. Hỏi: Vì sao nói họ đều đạt được bất thoái chuyển? Đáp: Đạt được không thoái chuyển là đã đầy đủ bốn nhẫn. Người chứng đắc một đời, nghe thuyết về pháp sâu xa nầy đều có thể dùng làm pháp khí. Hỏi: Các Bồ-tát nầy từ cõi nước chư Phật phương khác đến, vậy thì cõi nước nầy có lợi ích gì? Trong thế giới đó, mỗi Như Lai đều đã giảng nói pháp. Đáp: Vì lợi ích chúng sinh. Trong thế giới nầy cũng có chúng sinh, mà các Bồ-tát kia vốn đã nhận giáo hóa. Đã thấy vốn là đồng tu các hạnh, đó là lạc kiến vậy. Pháp giáo hóa của các Bồ-tát xưa kia là ở sự nhận lãnh hạnh nầy. Các phương khác cũng có vô lượng chư Phật, nhưng vì muốn cho chúng sinh sinh tâm khát ngưỡng, cung kính, tôn trọng, hỏi han, thân cận, nên nói là vô lượng Phật. Cũng vì muốn cho chúng sinh phát khởi tâm dũng mãnh, tinh tấn, không mỏi mệt. Hơn nữa, Đức Thích-ca Như Lai xưa kia đã từng giáo hóa, các Bồ- tát nhớ lại việc hóa độ ngày xưa và việc tu tập các hạnh nguyện, nên đã từ phương khác đến để được gần gũi với Như Lai. Hỏi: Vì sao Đức Phật nói nhiều về Bồ-tát, mà ít thấy nói đến Thanh văn? Đáp: Sở dó Đức Phật nói nhiều cho chúng Bồ-tát là vì Ngài muốn biện minh các hạnh Bồ-tát trong pháp môn nầy. Ngài đã thấy cùng tận nguyên nhân nên nói cho các Bồ-tát. Hỏi: Tại sao trước hết Phật lại nói cho chúng Thanh văn? Đáp: Vì Ngài muốn cho chúng Thanh văn gia tăng khả năng vâng giữ pháp mà Ngài đã giảng nói. Hỏi: Tại sao gọi các Bồ-tát từ phương khác đến, tập hợïp nơi đây đều đã được “Nhất sinh”? Đáp: Nói vậy để cho sự lười biếng, ngã mạn không khởi lên. Họ đến là để cầu chính pháp, đối trị với hoạn nạn. Nói vậy để họ tự thấy mình ưa thích chính pháp, nên mới từ phương xa đến tham dự, chứ không phải tùy thuận theo tâm của người khác. Đức Thích-ca thành đạo từ xa xưa, ở trong thế giới của chư Phật. Các Bồ-tát nầy đã chứng quả vị Phật, còn vì pháp mà đến, huống chi là những người khác sao lại không đến? Hỏi: Vì lẽ gì Như Lai chỉ nói pháp nầy với Bồ-tát Ca-diếp mà không nói với Bồ-tát khác? Đáp: Khi Như Lai dạy bảo Bồ-tát Ca-diếp, là Như Lai đã biết trước Bồ-tát Ca-diếp có đủ khả năng nhận lãnh, nên mới chọn, chỉ có điều Bồ-tát Ca-diếp chưa biết điều ấy, lại chưa chính tín. Đức Thích-ca khi thành đạo đã tri giác sâu xa, chính tín với nghĩa lý Đại thừa, trong đó tà hạnh cũng đã được gồm thâu. Về tám loại bốn câu, các tướng từ trên sẽ lần lượt giải thích: Bốn câu đầu: Nói về việc tướng tà hạnh làm thoái lui trí tuệ. Bốn câu thứ hai: Nói về trí tuệ mà đã mất rồi, thì chính niệm cũng lãng quên. Bốn câu thứ ba: chính niệm mất rồi thì bạch pháp cũng diệt mất. Bốn câu thứ tư: Bạch pháp mà diệt rồi thì chẳng còn là hạnh Bồ-tát, mà tợ như tướng của tâm ác. Bốn câu thứ năm: Đã hành theo tướng tâm ác thì khó điều phục. Bốn câu thứ sáu: Đã khéo điều phục thì hành động đều là tà đạo. Bốn câu thứ bảy: Đã hành tà đạo rồi, thì không nên thân cận mà lại hay thân cận. Bốn câu thứ tám: Không đáng thân cận mà đã thân cận rồi, thì sẽ không hỗ trợ được gì cho hạnh Bồ-tát, mà trở thành tà hạnh. Để đối trị với tà hạnh nầy, chính hạnh cũng gồm thâu tám loại bốn câu, các tướng ở trên sẽ lần lượt giải thích: Bốn câu đầu: Nói về trí hỗ trợ đạo đầy đủ sẽ khiến không lãng quên chính niệm. Bốn câu thứ hai: Đã khiến chính niệm không lãng quên, nên trí trợ đạo càng tăng trưởng. Bốn câu thứ ba: chính niệm không quên mất thì bạch pháp tăng trưởng. Bốn câu thứ tư: Bạch pháp tăng trưởng rồi, thì hành tương tợ hạnh tâm tưởng Bồ-tát. Bốn câu thứ năm: Tâm hành không ác thì sẽ khéo điều phục. Bốn câu thứ sáu: Đã khéo điều phục rồi thì sẽ hành chính đạo. Bốn câu thứ bảy: Đã hành theo chính đạo rồi, thì người nên thân cận, tìm cách thân cận. Bốn câu thứ tám: Người nên thân cận đã thân cận được rồi, thì tùy theo các hạnh mà Bồ-tát đã hành, làm theo để thành chính hạnh. Trước đã nói về lợi ích của chính hạnh. Lại có sáu loại bốn câu. Các tướng trên đó sẽ lần lượt giải thích: Bốn câu đầu: Bồ-tát đã hành nhiều chính hạnh rồi, thì nên tu tập để thành tựu phước đức trí tuệ. Bốn câu thứ hai: Dựa vào công đức, trí tuệ đã tu tập được, xua tan chướng ngại để được trong sạch. Bốn câu thứ ba: Dựa vào chướng ngại đã sạch, làm cho hết thảy pháp môn hỗ trợ việc tu tập cho thông đạt một pháp môn. Bốn câu thứ tư: Dựa vào sự tu tập hết thảy bạch pháp môn, hết thảy tướng, hết thảy loại, vì lợi ích của hết thảy chúng sinh, lại tiếp tục tu hành vô lượng công đức. Bốn câu thứ năm: Đã tu hành vô lượng công đức, sẽ khiến vượt qua trụ địa vô minh. Bốn câu thứ sáu: Dựa vào việc đã vượt qua trụ vào địa vô minh, sẽ làm cho họ đạt được địa vô chướng ngại. Trên đây đã lần lượt nói hai mươi hai loại bốn câu. Từ đây về sau sẽ theo trình tự trở lại giải thích bốn câu trước đó, nên biết. Kinh nói: Nầy Ca-diếp! Có bốn pháp làm thoái lui trí tuệ của Bồ-tát. Hỏi: Vì nghĩa gì mà thốt ra lời nầy? Đáp: Người tu hành Đại thừa thì đạt được phương tiện Bồ-đề vô thượng. Kẻ ngu si thì sẽ giúp họ sự chỉ bày. Kẻ phóng dật thì khiến họ siêng năng, tinh tấn. Kẻ yếu hèn có tâm niệm nhỏ hẹp, thì khuyên bảo hỗ trợ họ, an ủi khuyến dụ, khiến họ phát khởi ý rộng lớn. Người hành chính hạnh thì vì họ mà khen ngợi. Hỏi: Rõ ràng bốn pháp, về số là không có nghĩa, mà sao lại nói tự thể sáng suốt? Đáp: Về toán số là bốn. Nói theo nghĩa gồm thâu, chớ nó rộng không cùng tận, phòng hờ người nghe không ham nghe nhiều, phải gồm thâu bằng số mới khiến họ nhớ dễ dàng, như sợi dây xỏ các hoa không làm cho nó rời rạc. Hỏi: Vì sao chỉ nhất định có bốn mà không nhiều cũng không ít? Đáp: Để ngăn ngừa những câu hỏi không cùng tận và vô nghĩa. Lại có thí dụ cho là để giúp cho kẻ bị lùi mất ba thứ trí có thể gồm thâu trí lại. Vì thế nên nói bốn pháp. Lại có ý khác cho là nói giản lược thì có ba thứ trí tuệ: Văn, Tư, Tu. Trong đấy, ba pháp trước, đa số đều chỉ rõ việc mất hết trí tuệ, về Văn (Văn tuệ). Pháp thứ tư đa số đều chỉ rõ mất hết trí tuệ về tư duy, tu tập (Tư tuệ, Tu tuệ) v.v… Vì thế, nên nói có bốn pháp. Thứ đến là chỉ ra tướng gần trong các pháp, lần lượt giải thích về nghĩa khác nhau. Khi Phật bảo Ca-diếp là nhằm khuyên bảo thính chúng, kể cả đồ đệ của thính chúng, phải nhất tâm lắng nghe, không nghó đến chuyện gì khác. Vì pháp là xả bỏ đối với người, cho nên nói là “nghe pháp”. Nếu không nói là pháp thì sẽ có người sinh nghi: Phật vì nói pháp hay là nói về người? Hỏi: Trước đây có nói đến Bồ-tát. Vì nghĩa gì nên gọi là Bồ-tát? Đáp: Là người tu hành Đại thừa. Tên gọi Bồ-tát được gồm thâu nhiều nghĩa. Nay nói giản lược có ba nghĩa, nên biết: Đức tin, Tu hành, Chứng ngộ. Thế nào là đức tin? Vì giác ngộ nên được trí tuệ rất sâu xa, để có khả năng khuyên bảo người khác cùng giác ngộ như mình. Thế nào là tu hành? Vì nguyên nhân là đem lại lợi ích cho mình và lợi ích cho người, thường thực hành Bồ-đề vô thượng. Thế nào là chứng ngộ? Là dùng năng lực trí tuệ khiến đạt được đạo Bồ-đề vô thượng. Lại mất trí tuệ là chứng tỏ trong hai thời có hai điều mất mát: Mất cái đã được. Mất cái sẽ được. Vì sao lùi lại, sao là mất? Mất ở trong pháp vô lậu là mất cái sẽ được. Còn mất cái đã được là ở thế gian. Hai thời đều cùng mất, vì không biết phân biệt hơn kém nên nói là lùi mất trí tuệ. Hỏi: Pháp vô lậu cũng mất chăng? Đáp: Nếu giải thích thì không phải thế. Nói lùi mất trí tuệ là vì muốn nói rõ không buông lung. Vì muốn cho biết các pháp tạo tác (tác pháp) trong những việc đã làm, nên nói lùi mất trí tuệ. Vì sao? Vì trí hữu lậu là nhân trợ đạo cho trí vô lậu. Trí hữu lậu nầy đã được mà mất thì trí vô lậu chưa được cũng mất. Cho nên cả hai đều mất là vậy. Trí vô lậu mất là do không được. Đã chứng ngộ thì trí vô lậu không có sự lui mất. Hỏi: Vì sao không tôn trọng pháp khiến Bồ Tát bị lui mất trí tuệ? Đáp: Vì giận ghét pháp, nên không kính pháp. Vì không kính pháp nên không chịu lắng nghe. Vì không lắng nghe nên không hiểu biết. Vì không hiểu biết sáng suốt, tức là tỏ dấu lùi mất trí tuệ. Keo kiệt với các pháp: Đối với các pháp đã thọ nhận lại giấu kín không nói hết, nên người ta không lắng nghe. Vì không lắng nghe nên các điều kiện sẽ không đầy đủ trong đời vị lai, nhân duyên không đủ nên lùi mất trí tuệ. Với người ưa chuộng chính pháp mà gây khó khăn cho họ, nói nhiều những chuyện gây hư hỏng tâm trí họ, tức là nói có lời lẽ nói khác đi. Ai phạm tội che giấu không thể sám hối lỗi mình v.v… Cho nên,mắc phải quả báo làm chướng ngại nghe pháp. Vì mắc phải quả báo làm chướng ngại pháp đã nghe, nên nhận lấy nhân ngu si. Thế nên đời vị lai nhất định ngu si. Do ngu si, nên trí tuệ bị đẩy lùi. Tâm kiêu căng, tự cao, tự khen mình, chê người, rồi gây thù hận với người. Vì đã có oán hận với người, nên nói ngược ngạo với họ. Vì đã ăn nói ngược ngạo, nên sẽ mắc phải ngược ngạo trong đời vị lai. Vì mắc phải ngược ngạo, nên đã lùi mất trí tuệ. Hỏi: Lùi mất trí tuệ từ lúc nào? Đáp: Trong hai thời tức là hiện tại và vị lai. Hỏi: Như các pháp bố thí v.v… cũng là lùi mất, vì có kẻ keo kiệt v.v… với các pháp. Tại sao chỉ nói nguyên nhân lùi mất trí tuệ mà không nói nguyên nhân lùi mất bố thí v.v…? Đáp: Vì trí tuệ dễ mất, nên nói trước. Vì Bồ-đề là thể tính của trí. Còn các Ba-la-mật khác thì phát sinh từ trí kia và dựa vào trí. Bồ-tát ở trong trí mà đã có tà hạnh thì không được gọi là chính hạnh đối với Bồ-đề và pháp hỗ trợ Bồ-đề. Do vậy chỉ nói đến nguyên nhân lùi mất trí tuệ mà không nói nguyên nhân lùi mất bố thí v.v… Như thế, không kính trọng pháp v.v… bốn câu nói về là nguyên nhân lùi mất trí tuệ, nói rõ bốn pháp không thích nghe v.v… Trong đấy, không cung kính, tôn trọng là nói rõ vì không ưa nghe, nên keo kiệt pháp. Vì không nghe, nên chướng ngại pháp của người khác, sẽ mắc phải quả báo chướng ngại không nghe. Vì ngã mạn, vì tâm niệm ganh ghét, nên nói ngược ngạo. Như thế, trí không thể hỗ trợ cho nghe v.v… nên lùi mất trí tuệ. Bốn pháp nầy, còn muốn nói đến tướng trí khác, có nghĩa là sống với bốn pháp ăn năn trong hiện tại và vị lai. Bốn pháp đó là: Không có khả năng sinh hiểu biết. Các duyên không đủ. Giúp thêm phước báo cho ngu si. Và bị ngược ngạo. Vì dựa vào không lắng nghe pháp, nên trong pháp hiện tại không phát sinh hiểu biết đúng đắn. Do không lắng nghe pháp, nên trong đời vị lai, các duyên sẽ không đầy đủ. Do nghe chướng ngại, nên sẽ nhận lấy báo ngu si trong đời vị lai. Do tâm ganh ghét mà ăn nói ngược ngạo, nên trong đời vị lai sẽ nhận lấy quả báo điên đảo. Hỏi: Không tôn trọng, cung kính pháp và không kính trọng Pháp sư, hai câu nầy được lặp lại là có ý nghĩa gì? Đáp: Cách nói trùng hợp trong hai câu nầy là chỉ rõ đầy đủ ý nghĩa không ưa nghe. Nếu người nào giận dữ, chê bai, thì họ không kính trọng pháp, nên không nghe pháp đó. Kính trọng Pháp sư thì ưa lắng nghe pháp. Còn kẻ giận hờn thì không kính trọng Pháp sư, nên không lắng nghe pháp. Cũng có số người giận hờn, nhưng còn biết kính trọng pháp, số người đó còn có thể lắng nghe pháp. Nếu có đủ sự giận dữ, chê bai, không kính trọng, thì những chúng sinh đó không còn cách gì để lắng nghe pháp. Thế nên, hai câu nầy được nói lặp lại nhằm chỉ rõ đầy đủ ý nghĩa không ưa nghe pháp. Hỏi: Keo kiệt với các pháp đã hiểu, giữ các pháp bí mật không nói hết, thì hai câu nầy có ý nghĩa gì? Đáp: Keo kiệt với các pháp là thấy mình hiểu biết hơn những gì mà người khác biết, nên giữ bí mật không chịu nói hết chính pháp. Giữ bí mật là để đề phòng về sau sẽ có kẻ không kính trọng và sợ họ sẽ giỏi hơn mình. Hoặc còn có nghĩa nữa là dù có thỉnh cầu hay không thỉnh cầu, một mực vẫn không nói pháp. Do bỏn sẻn tiếc pháp, hoặc do có mục đích, hoặc lại không nói được, hoặc vì tính keo kiệt mà hủy bỏ chính pháp. Từ bỏ chính pháp, chính là làm hư hỏng tâm mình. Còn hiểu pháp mà cố giữ bí mật không nói hết vì keo kiệt, thì đó là hạnh xấu. Có người ưa pháp mà lại gây khó khăn cho họ nghe những chuyện rắc rối là có ý phá hư tâm họ. Hoặc bảo là có lời nói khác: Người nào đã phạm tội che giấu thì không thể sám hối lỗi mình. Những câu nói như thế còn có nghĩa nào khác? Người ưa pháp mà lại bị gây khó khăn bằng cách nói là có lời lẽ nói khác. Hỏi: Ưa pháp mà bị gây khó khăn là sao? Đáp: Là nói những chuyện làm bại hoại tâm niệm người ta, hay quở trách, nói là có người nói: Người nào phạm tội che giấu thì không thể ăn năn sám hối tội lỗi của mình. Thế nào là làm hư hoại pháp trong lòng người do nói cho họ nghe chuyện xấu ác? Hết thảy pháp là từ người ham nghe. chính pháp kia với con người ưa nghe đó, thế mà đã không nói thật, nói vô nghĩa, mà lại còn bảo: Ta có khả năng nói đủ thứ thì nói cách đó sẽ là khiến người ta không còn ham nghe. Hỏi: Nói các lý do quở trách v.v… là thế nào? Đáp: Là đã nói không đúng đắn, lời nói lại không hạn chế. Hoặc đối với kẻ còn ưa nghe pháp, lại hỏi họ những câu gút mắc, khó khăn. Khi nghe những câu hỏi rắc rối đó thì họ không nghe pháp nữa, cũng không còn thích nghe. Hỏi: Thế nào là không thể nói lời giáo huấn người khác? Đáp: Là được thỉnh mà không nhận. Có người ưa chính pháp đến xin hỏi việc nói pháp, nhưng vì mình vốn đã keo kiệt pháp, nên không nói cho họ. Vả lại, cũng không chỉ cho người ta thỉnh cầu Pháp sư khác v.v… Và nếu người đó có ý muốn thỉnh hỏi Pháp sư khác, thì mình lại tỏ vẻ không bằng lòng cho phép. Hỏi: Che giấu là gì? Đáp: Nói với người nghe pháp, quở trách chúng đang nghe pháp và với pháp thì lại nói: Các ông là những người không có trí, mà pháp nầy rất sâu xa, các ông không thể nào nhận biết một cách thông suốt được… Vì đã nói với chúng nghe pháp, đã che giấu chính pháp, lý do cản trở pháp như thế, sẽ dẫn đến quả báo nạn xứ (bát Nạn). Tâm kiêu ngạo, tự cao, khen mình, chê người thấp kém. Những câu như thế có ý nghĩa gì? Sự kiêu căng, ngạo mạn được nói trong câu đầu, thì kiêu căng, ngạo mạn là thế nào? Là tự khen mình tốt đẹp, rồi chê bai mọi người. Thế nào là khen mình tốt đẹp? nghĩa là những điều mình nói đều không tốt, việc tu hành không chân chính, nhưng khi thấy những gì mà người khác nói là tốt, tu hành chân chính, thế trong đó để lộ tâm ngạo mạn, ganh ghét. Thế nào là chê bai người khác? Đối với người khéo nói pháp, khéo tu hành, thì nảy sinh ý nghó không tốt, nói họ tu hành không tốt, luôn có tư tưởng kiêu căng, ngạo mạn, tâm ganh ghét. Do vậy họ không có khả năng chứng được trí tuệ chính giác. Trí chứng nầy gồm thâu hết mọi pháp. Nói tóm lại: Chỉ bị lùi mất. Lùi mất như thế nào? Do thời gian nào lùi mất? Hết thảy pháp đã có được đều lùi mất. Bốn lý do vừa nêu là đã chỉ rõ. Lùi mất ở nơi nào? Đó là ở trong trí tuệ. Còn lùi mất như thế nào? Do tư tưởng nào mà lùi mất? Thì đã giải thích ở trước. Thời gian nào lùi mất trí tuệ? Là hiện tại và vị lai. Pháp đã có mà lùi mất là làm sáng tỏ bốn pháp không kính trọng v.v… Đã có bốn pháp không kính trọng nầy, thì có thể làm cho trí tuệ bị lùi mất, làm chướng ngại chính pháp. Nói về bốn pháp đối trị. “Lại nữa, nầy Ca-diếp! Bồ-tát có bốn pháp thành tựu đại trí tuệ là cung kính, tôn trọng pháp, kính trọng các Pháp sư…” Tùy thuận thực hành sự cung kính nầy là nhân pháp, tạo được nhân đại trí tuệ. Bốn thứ trí tuệ sẽ phát sinh là: Khởi đầu. Thành thục. Trợ đạo đầy đủ. Có khả năng thành tựu Bồ-đề. Nhưng sự cung kính đó phải có ưa chuộng nghe pháp. Đã được nghe pháp rồi thì trí tuệ sẽ phát sinh. “Theo các pháp đã nghe mà đọc tụng, ghi nhớ, đem tâm niệm trong sạch giảng nói cho mọi người mà không mong cầu một mảy may danh vọng, lợi dưỡng, cung kính nào v.v…” Là làm cho được giáo hóa cho mọi người để thành thục được tâm trí của mình”. Khéo biết trí tuệ từ đa văn sinh ra gắng sức tu hành tinh tấn, không lười biếng, như chữa lửa cháy trên đầu. Nghe pháp đọc tụng, ghi nhớ, ưa thực hành đúng theo lời Phật đã nói, nhưng không lệ thuộc vào lời nói”. Là thường mong muốn nghe nhiều (đa văn). Vì khi được nghe pháp nhiều, thì nhớ chắc không quên, đầy đủ trí trợ đạo. Khi thực hành không tùy thuộc vào lời nói và âm thanh, mà chỉ chú trọng ở chỗ chân thật mà hành, mới có thể đạt được trí tuệ Bồ-đề. Sự kính trọng pháp và kính trọng Pháp sư ở đây là để đối trị với kẻ không kính trọng pháp, nên biết. Theo các pháp được nghe mà đọc tụng, thọ trì, nhớ chắc, thì nghe là do nhó thức; đọc tụng, vâng giữ, ghi nhớ là do ý thức. Hoặc nghe là văn tuệ, đọc tụng, vâng giữ là tư tuệ. Kinh nói: “Đem tâm trong sạch giảng nói rộng rãi cho mọi người” là để mình từ bỏ tâm keo kiệt, ganh ghét. “Không mong cầu tất cả danh vọng, lợi dưỡng, cung kính v.v…” Là nguyên nhân khởi bỏn sẻn pháp. Lợi dưỡng là y phục v.v…, cung kính là lễ bái v.v…, tiếng đồn là những lời khen ngợi, tán dương các công đức. Dùng đa văn làm trí cần trợ cho văn tuệ phát sinh. Đã như cứu lửa đang cháy trên đầu, đó là việc phải tu hành để cầu văn tuệ. Vì cầu văn tuệ sẽ khuyến khích sự chuyển biến sáng suốt để tu tuệ. Như có người bị cháy đầu, cháy áo, thì họ phải bỏ mọi chuyện để lo cứu đầu, áo. Bồ-tát cũng như vậy. Biết văn tuệ là nhân của trí, trí nầy cũng có khả năng là nhân để được Nhất thiết trí. Chuyên cần siêng năng mong cầu nghe nhiều là vì lợi ích mình và người. Tùy pháp đã được nghe mà đọc tụng, vâng giữ và hành đúng theo lời Phật đã nói. Hoặc do nghe pháp mà hiểu được nghĩa, đó là thuận hành nên có khả năng phát sinh trí như thuận. Không phải chỉ có âm thanh và lời nói, không phải chỉ mong cầu được nghe, không phải chỉ nghe miệng nói, vì có khi lời nói vô nghĩa, hoặc lời họ đã nói không có lợi ích xuất thế gian. Tùy theo trình tự giải thích, không cung kính tôn trọng pháp và thuận theo pháp mà hành pháp, thì trở thành keo kiệt với các pháp. Do keo kiệt với pháp rồi, nên đối với người ưa mong cầu chính pháp sẽ gây rắc rối, giữ bí mật, không nói cho người ta. Ba yếu tố đó đã làm nhân cho sự mất trí tuệ. Đã không có trí thì kiêu ngạo khởi lên. Sẽ được đối trị bằng pháp trắng: Tôn kính pháp là tu hành đúng với chính pháp và pháp kế là từ bỏ tâm keo kiệt, sẻn tiếc pháp. Phải theo pháp được nghe mà giảng nói rộng cho mọi người. Vì ham chính pháp nên mong cầu được nghe nhiều, học rộng, được nghe nhiều học rộng tức là có thể thực hành hạnh lợi mình, lợi người. Theo lời dạy mà tu hành để không vướng mắc ở ngôn ngữ. Tâm Bồ-đề chỉ là trí căn bản. Nhất thiết trí chỉ lấy tâm Bồ-đề làm gốc. Do vậy không quên mất tâm Bồ-đề. Dù quên mất tâm Bồ-đề nhưng không quên nguyên nhân của các pháp. Đức Phật bảo Ca-diếp: Bồ-tát có bốn pháp quên mất tâm Bồ-đề. Bốn pháp đó là: Khi dễ, lừa dối A-xà-lê v.v… Hỏi: Vì sao chỉ nói có bốn pháp có khả năng quên mất tâm Bồ-đề mà không nhiều, không ít ? Đáp: Vì sự quên mất nầy có bốn thứ. Nói gọn là: Tà tín nên quên mất tâm Bồ-đề. Tin điên đảo nên quên mất tâm Bồ-đề, nhận thấy có lỗi đối với tâm Bồ-đề. Các pháp lãnh thọ đều là giả danh của tâm, nên quên mất tâm Bồ-đề. Đạt được pháp thể tâm nên quên mất tâm Bồ-đề. Trong bốn thứ quên mất nầy, có bốn thứ nguyên nhân đối trị theo thứ lớp như thế, nên biết. Khinh khi, lừa dối A-xà-lê, Sư trưởng v.v… là nói dối trước mặt Sư trưởng, đã phạm tội mà không phát lộ sám hối, lại lừa gạt, nói dối, nên trở thành khinh khi lừa dối Sư trưởng. A-xà-lê là người có thể can gián và khuyên răn, trao truyền. Chiếu theo giới điều mà người kia đã vi phạm để khuyên răn họ nên phát lộ sám hối, bảo với họ việc nầy không nên làm. Trước đây phạm tội họ muốn sám hối để tiêu tội, thì A-xà-lê nói các phương tiện: Ông nên nghó như thế nầy: Sư trưởng là người có thể giúp lợi ích, dùng lời hiểu dụ của Thánh, dù không phải là Sư trưởng, nhưng vì người đó đã có các công đức, thương xót và ưa khuyến khích dứt bỏ ác, tu thiện. Vì đã phạm tội, nên khiến người kia nói dối và quên mất. Do nghĩa đó, nên càng làm cho nghiệp báo của họ phát triển thêm lên, trở thành kẻ tà tín và quên mất tâm Bồ-đề, nên biết. Nếu người đó không có khả năng làm cho quên mất tâm Bồ-đề, nhưng vì người đó đã tập thói nói dối và làm chướng ngại cho việc thành tựu giới nên đã quên mất tâm Bồ-đề. Đó gọi là nguyên nhân ban đầu. Khiến cho kẻ không hoài nghi hối tiếc lại sinh tâm ngờ vực, hối tiếc. Khiến người đồng tu phạm hạnh không nghi ngờ mà sinh điên đảo, nghi ngờ. Khiến người tu hành giới hạnh chân chính trong phạm hạnh khởi tâm nghi hoặc giới cấm. Như vậy, người đồng phạm hạnh kia không chí tâm cung kính mà với tâm niệm quanh co dua nịnh, sinh nghi hoặc đối với giới luật, từ đó phát sinh nghiệp chướng sâu nặng. Vì lẽ đó tâm Bồ-đề của họ bị đảo ngược, không chính tín, không thấy lỗi. Cho nên thì mất tâm Bồ-đề. Nếu người đó không thể làm cho người khác nghi hoặc thì tìm cách chê bai việc nói pháp, làm cho người ta mất tâm Bồ-đề. Đấy gọi là nguyên nhân thứ hai. “Quở mắng, chê bai, bêu xấu người tu đại thừa”. nghĩa là đối với người ưa tu học chính pháp tùy theo pháp nào có lợi ích đều khiến cho họ đi ngược lại sự ích lợi của chính pháp. Còn nếu ai tin ưa tu tập Đại thừa, thì phá hoại họ bằng cách quở mắng, chê trách, bêu xấu, nói lên lời không tốt đẹp, thốt ra lời nói phá hoại, không lợi ích. Lời nói không lợi ích ở đây là lời nói không tốt lành. Bêu xấu là vạch lỗi lầm của người ta, bảo người ta là phá giới, người ta thốt ra lời nói cho là ác. Vạch khuyết điểm của mọi người bằng cách bảo đó là phi phạm hạnh, người nói phân biệt là không xứng công đức, tùy thuộc vào lời nói cụ thể mà cho là xấu. Do có những việc như thế, nên người kia đem những chuyện như thế nhắm vào Bồ-tát để nói lời không lợi ích, rạch ròi, bêu xấu. Người muốn tu tập Đại thừa như vậy dễ thoái lui và bị mê hoặc. Người ấy nhắm thẳng Bồ-tát với tâm không cung kính, nên dù Bồ-tát được bao nhiêu công đức, thì họ cũng đều che giấu. Do vậy, sự ác độc và nghiệp chướng của họ càng sâu nặng hơn. Và cũng do vậy, nên những gì mà tâm đã tu tập giới trước đây đều bị diệt hết. Trường hợp không che giấu được công đức chân thật của Bồ-tát, thì giới của người đó bị chướng ngại, tâm bị lùi mất. Đấy gọi là nguyên nhân thứ ba. Đem lòng quanh co dua nịnh sống với người không có lòng chân thật. Những ai muốn các Pháp sư vạch rõ các việc bí mật thì họ lại làm tâm kẻ đó mê hoặc. Dua nịnh ở đây là dối trá, không có tâm chân thật mà sống với người khác. Quanh co là tâm nịnh hót, lừa dối, không có tâm chân thật cùng tùy thuận với người. Họ nhờ các Pháp sư chỉ bày từng chương thực hành các việc bí mật. Họ theo các Pháp sư để được lắng nghe pháp sâu xa vi diệu. Nghe được rồi mà hễ có ai tu hành Đại thừa, thì họ chê bai người ta. Từ ý nghĩa đó mà nghiệp ác thêm sâu khôn lường. Đáng lẽ được tâm thuận pháp, nhưng do nghiệp chướng đó mà trở thành xa pháp, tâm lùi mất. Nếu không có khả năng chê bai sự xa lìa thì người đó cũng bị u tối trong giới cấm, tâm cũng bị lùi mất. Nói tóm lại, lùi mất cái gì? Tâm lùi mất lúc nào? Sẽ hành động ra sao trong pháp hiện tại, đã qua, sẽ đến? Có những tướng gì biểu lộ không cung kính, bất chính với các thầy và bậc tôn trưởng? Đủ bốn pháp đó. Đây tiếp nói rõ bốn pháp thiện đối trị bốn pháp vừa nói. Kinh nói: “Cho dù phải bỏ mạng, Bồ-tát vẫn không cố ý nói dối”. Đó là bảo vệ nắm chắc lời nói thật. Vì bảo vệ lời nói thật cho nên không tiếc thân mạng. “Huống gì nói đùa giỡn”. Ấy là đối với tội dù rất nhẹ và nhỏ, Bồ-tát vẫn cảm thấy rất sợ hãi. “Bồ-tát thường sống chân thật đối với người tòng sự”, ấy là do từ bỏ tâm dua nịnh, vô ngã. Lòng chân thật là tâm thật, vì luôn tùy thuận, thân cận, lìa khỏi tai họacủa Vô ngã. Bồ-tát thân cận như thật, không thể hiện hành động danh tiếng giả tạo, xa lìa dua nịnh, quanh co, xa lìa cái tâm không điều phục niệm ác. “Đối với tất cả Bồ-tát luôn nảy sinh tư tưởng họ là Thế Tôn, nên vì các Bồ-tát mà trong bốn phương luôn ca ngợi công đức” là tùy theo những lợi ích có được từ các pháp do Bồ-tát mà khen ngợi. “Chính Bồ-tát không yêu thích các pháp của Tiểu thừa. tùy theo từng chúng sinh mà có sự giáo hóa, khiến chúng sinh đều được đạo chính đẳng chính giác Vô thượng”. nghĩa là Bồ tát không ưa Tiểu thừa hạn hẹp, nó làm cho mình hèn yếu đi. Bồ-tát đã tu hành từ những nghĩa thù thắng, phải nắm lấy ý muốn gồm thâu chúng sinh để giáo hóa. (Các câu nầy sẽ được lần lượt giải thích lại sau) Khinh khi lừa dối A-xà-lê v.v… là không cúng dường, cung kính A-xà-lê, Sư trưởng v.v… Trong giới pháp không nảy sinh ý thức nhanh chóng ân cần, tôn trọng, bản thân không biết hổ thẹn, ăn năn tội lỗi, thấy người khác có tính hổ thẹn, ăn năn tội lỗi, thì lại làm cho họ sầu não, càng khiến tâm họ không được yên vui, càng làm cho họ buồn rầu thêm. Mình đã không biết hổ thẹn mà đi khuyên bảo kẻ khác ăn năn tội lỗi công khai. Đối với người tu học Đại thừa, thì nói các việc xấu ác là nhằm chê bai người mới phát tâm Bồ-đề. Vì không có tâm niệm đem lợi ích cho người khác, nên sống với người bằng tâm niệm quanh co, dua nịnh chứ không phải với tấm lòng thật thà chân thật. Lại có các câu “không mất” sẽ lần lượt giải thích kỹ. Dùng lời nói thật là tích tập nhân tốõ không quên tâm Bồ-đề, không mất tâm Bồ-đề, là đã phát khởi tâm làm lợi ích cho chúng sinh. Trong tự thân Bồ-tát có vô lượng các pháp hy hữu, biết rồi thì kính trọng tâm Bồ-đề và nguyên nhân của Nhất thiết trí. Đối với tâm Bồ-đề, tất cả Bồ-tát đã nảy sinh tư tưởng họ là Thế Tôn rồi. Vì kính trọng tâm Bồ-đề, nên đã giáo hóa chúng sinh, và Bồ-tát khuyến khích tất cả chúng sinh đồng hướng về quả vị chính đẳng chính giác Vô thượng. Không ưa thích mong cầu thực hành pháp hẹp hòi, yếu kém của Tiểu thừa. Tâm Bồ-đề là đúng nghĩa của Bồ-tát. Hỏi: Nếu là Bồ-tát mới phát tâm: Ta sẽ thành tựu quả vị chính giác, thì tâm Bồ-tát có tính gì? Còn có tướng gì? Có những nhớ nghó gì? Có công đức gì? Có việc thù thắng nào? Do đâu được gồm thâu? Vì ai làm căn bản? Cái gì là nguyên nhân chí khí hiện tại? Nương tựa vào đâu? Đáp: Câu hỏi đầu thì Bồ-tát lấy chính nguyện làm tính. Chả lẽ vì mong cầu tướng Bồ-đề mà tưởng niệm và nhớ nghó chúng sinh. Vì nhân của Nhất thiết trí là vô lượng công đức, nên lập nguyện trên cả thế gian, Thanh văn và Duyên giác. Vì thắng tín địa đã gồm thâu căn bản của Bồ-đề vô thượng. Từ bi là nhân của chí khí trong hiện tại, là giới mà Bồ-tát dựa vào. Nhưng phát tâm Bồ-đề này, nói tóm lại gồm có hai thứ: Nhân xuất thế gian. Nhân không xuất thế gian. Trong nhân xuất thế gian nếu đã phát tâm Bồ-đề rồi, thì vónh viễn không quên. Đấy gọi là nhân xuất thế gian. Nhân không xuất thế, nếu tâm không vónh viễn trong sự thỏa mãn thì quên mất tâm đó. Lùi lại cũng có hai thứ: Vónh viễn lùi lại. Không vónh viễn lùi lại. Trong vónh viễn lùi lại cũng có một số người lùi lại (nản lòng) nhưng vẫn còn khả năng phát sinh. Không vónh viễn lùi lại, hoặc có người vừa lùi lại xong, phát sinh ngay. Tuy nhiên, tâm người đó phải do bốn thứ nhân, bốn thứ duyên và bốn thứ năng lực mới có thể phát sinh. Bốn thứ duyên là: Thấy, nghe những sự kiện biến hóa hy hữu của Như Lai, nên phát tâm Bồ-đề. Nhân đối với Bồ-đề vô thượng do nghe pháp mà thương xót, đem lại lợi ích cho chúng sinh, nên phát tâm Bồ-đề. Bồ-tát vì muốn cho chính pháp được tồn tại lâu trong thế gian, nên phát tâm Bồ-đề. Vì nhận thấy trong đời nầy, chúng sinh phải chịu mọi đau khổ trầm trọng, nên phát tâm Bồ-đề. Bốn thứ nguyên nhân là gì? Có đủ tính. Có đủ thiện tri thức. Lấy tâm từ bi làm đầu. Không sợ hãi cảnh đêm dài của thế gian, với đủ loại nguyên nhân sâu xa có được từ nghe. Bốn năng lực là gì? Tự lực. Lực người khác. Lực của nguyên nhân. Lực của sự tu hành. Tự lực là do năng lực của mình, đủ sức phát tâm chính đẳng chính giác Vô thượng, đấy gọi là tự lực. Tha lực là do người khác khuyến khích, bảo mình phát tâm, đấy gọi là năng lực của người khác. Trước đây đã được học pháp thiện của Đại thừa, thì đấy gọi là sức mạnh của nhân. Trong giáo pháp hiện tại, thân cận thiện tri thức, trong suốt đêm dài, nghe, tư duy v.v… chính pháp, học tập, thực hành mọi điều thiện không ngơi nghỉ, đấy gọi là năng lực tu hành. Trong phần nầy, hoặc nói rộng hay giản lược. Vì bốn duyên và bốn nhân nầy dựa vào nhau, trông cậy vào nhau. Sức mạnh bên trong và sức mạnh của nguyên nhân, hai thứ nầy sẽ phát sinh tâm kia. Vì như thế, nên gọi là có lợi ích, gọi là kiên cố không lay động mà phát sinh. Năng lực người khác và năng lực tu hành làm nảy sinh tâm Bồ-đề kia, nên gọi là không làm dao động, làm mất đi, nên biết như vậy. Sự đổi thay lùi lại của tâm Bồ-đề, cũng có bốn thứ: Vì không có tính nên thuộc về ác tri thức. Không khởi tâm từ bi đối với mọi chúng sinh, và vì e sợ thế gian cho nên dù không quên tâm Bồ-đề, Bồ-tát cũng cố nhớ giữ tâm Bồ-đề kia, tu hành công đức với trí sáng suốt, đem căn thiện hỗ trợ đạo, Bồ-tát dù có tu tập các hạnh như thế, thì pháp thiện cũng đã diệt, vì nhân không tăng trưởng, nên nói là các pháp. Kinh nói: Đức Phật nói với Ca-diếp: “Bồ-tát thành tựu bốn pháp thiện đã sinh, rồi diệt, không tăng trưởng… Những gì là bốn pháp? Chỉ vì tâm kiêu căng ngã mạn, đọc tụng sách vở, chú thuật của thế gian, như thế v.v…”. Hỏi: Tại sao chỉ có bốn pháp, mà không nhiều không ít, nói đủ về nhân diệt, pháp thiện không tăng trưởng? là: Đáp: Pháp thiện có bốn thứ làm cho diệt, không tăng trưởng. Đó Không sinh diệt, không tăng trưởng. Không có khả năng tăng trưởng, vì có diệt mà không có tăng trưởng. Nhổ bỏ căn bản thì diệt, không tăng trưởng. Tạo nghiệp và xa lìa thì diệt không tăng trưởng. Trong đó, nguyên nhân pháp trắng diệt là do tâm kiêu ngạo, đọc tụng kinh điển thế gian, tìm tòi các chú thuật, không thể thông đạt sáu Ba-la-mật của Bồ-tát và pháp tạng của Bồ-tát. Có khi bỏ được tâm kiêu ngạo mà Bồ-tát còn tâm hy vọng, danh vọng, lợi dưỡng, ganh ghét điều người ta hơn mình, vì luôn lừa dối, mưu cầu chú thuật ở thế gian, không thể mong cầu các pháp tốt lành, trong trắng. Đã không sinh vì các pháp trắng đều bị diệt, nên có thể bị diệt hết. Trước kia đã có nhưng do điều kiện nghe, học tập yếu kém, nên pháp trắng mất, không tăng trưởng. Vì sao? Vì tham lam bám víu lợi dưỡng, danh vọng, thân cận các Đàn- việt. Lợi dưỡng là y phục v.v…, cúng dường là lễ bái v.v… vì bám víu vào lợi dưỡng, danh vọng, nên nói là đam mê lợi dưỡng, danh vọng vậy. Vì đam mê lợi dưỡng, danh vọng, nên sống tà mạng, nói rõ hơn là đam mê của cải nuôi nấng mạng sống v.v… nên biết. Vì thận cận với gia đình Đàn-việt, nên đa số đều có tai họa trong sự thân cận. Nếu người kia đã có hai điều ngờ vực thì lại bảo vì như pháp mới được của cải, lợi dưỡng, rồi cho là nhân không diệt, đó là do ý thức dựa vào tính chất dua nịnh, quanh co v.v… không sống trong đạo Thánh. Đã đắm say danh vọng, lợi dưỡng như thế, đã thân cận các gia đình bạch y, đã có rất nhiều điều kiện thân cận, nên các pháp thiện đã nghe v.v… không tăng trưởng. Nghe mà không tăng trưởng, tức là các pháp thiện đã nghe v.v… thảy đều không tăng trưởng, vì làm cho nghĩa cùng diệt đi nguyên nhân căn bản và gia tăng sự chê bai Bồ-tát. Kiến thức ác đã gia tăng trở lại và chê bai pháp tạng Bồ-tát. Vì đã giận dữ nên càng tìm tòi, kẻ vạch các sự lầm lẫn của các Bồ-tát, vu khống các Bồ-tát bằng tội giả đặt, chê bai, cho Bồ-tát đó mắc phải tội rất lớn. Do gây nghiệp đó nên hết thảy pháp thiện đều bị bứng gốc và diệt sạch. Bị xa lìa, diệt sạch nguyên nhân nên chưa được nghe pháp, chưa từng hộ trì kinh kệ, mà lại chê bai pháp. Chưa nghe pháp, có nghĩa là chưa đạt đạo lý bằng nhó thức. Chưa từng thọ trì là đã hiểu đạo, nhưng không đọc tụng, thọ trì, lại chê bai các giáo pháp đã đốn ngộ và các kinh pháp. Vì nghĩa đó, nên Đức Như Lai mới nói kinh nầy. Trong Đại Ưu Ba Đề Xá cũng có nói nghĩa nầy. Nếu tà sư mà đi so đo lường tính ý Như Lai, thì người đó chỉ làm việc chế nhạo chính pháp. Thế nên, phải xa lìa các pháp cùng tận, để các pháp trắng buộc phải bị diệt mất. Vì đối trị với điên đảo, nên làm rõ câu pháp trắng v.v… nầy, nên biết. Thế nên, Đức Như Lai bảo Ca-diếp: Nầy Ca-diếp! Bồ-tát đã thành tựu bốn pháp, pháp thiện đã sinh, sẽ được chuyển biến tăng trưởng tốt đẹp, không để cho bị mất đi rồi lại chuyển biến cho được tốt đẹp hơn gấp bội. Bốn pháp đó là: Từ bỏ tà pháp, chỉ cầu chính pháp, như thế v.v… Chỉ cầu chính pháp là thành tựu pháp tạng của sáu pháp Ba-la- mật của Bồ-tát, nghe chân chính, là nghe phải chân chính. Đã biết rõ chú thuật của thế gian là không đưa đến sự hiểu biết nhất định. Nói đưa đến hiểu biết, nhưng còn tùy thuận nơi tâm được khuyến khích. Tâm tốt lành, mềm mỏng, biểu lộ rõ ý nghĩa nào đó. Là cầu mong những ngôn ngữ chú thuật của thế gian hay là cội nguồn của mong cầu. Bám víu ngã mạn, là tạo thành những việc chú thuật của thế gian, là mong cầu chú thuật của thế gian. Lời nói là thành tựu hay từ bỏ tâm niệm về lợi dưỡng, cung kính, danh vọng. Khuyên bảo nên bỏ tâm niệm trên mà mong cầu sáu pháp Ba-la-mật và nhận lấy pháp tạng của Bồ- tát. Lấy pháp, tài sản và lợi dưỡng làm đủ, từ bỏ tất cả mọi lối sống tà mạng và an trụ trong tính tri túc của Thánh chúa, lấy lợi ích của pháp làm đủ. Như pháp là có được lợi dưỡng, tâm biết đủ. Người từ bỏ hết thảy tà mạng, là lìa mình ra khỏi tâm quanh co, dua nịnh, an trụ trong tính tri túc của Thánh chúa. Không có tâm mệt mỏi, vì được hay mất không phải do tâm. Đã sống với chính hạnh như vậy, Bồ-tát kia đã thành tựu hạnh lợi mình, lợi người, phòng vệ tâm niệm của người khác. Nếu có lỗi gì cũng không can gián, hay biện bạch là giả hay thật về tội lỗi của người, huống chi là vạch tìm các lỗi xấu của người. Bồ-tát nầy tu hành sáu pháp Ba-la-mật là kho pháp của Bồ-tát. Nếu tâm chưa thông đạt pháp chư Phật, thì chỉ có Phật làm chứng hiện thực mới biết được, nhưng cũng không có tâm chế nhạo. Vì sao? Vì Bồ-đề Phật là vô biên, mà tín căn không phải là một để diễn nói các pháp, cũng như trau dồi các pháp. Nói tổng quát, giản lược, nhưng sáng tỏ: Vì sao lùi mất, không thể tăng trưởng? Lùi mất như thế nào? Lùi mất bao giờ? Lùi mất pháp nào? Đó là chỉ rõ các pháp thiện vì sao lùi mất, không thể tăng trưởng? Lùi mất như thế nào? Là do tâm kiêu ngạo, mong cầu ngôn ngữ chú thuật v.v… của thế gian. Nói lần lượt lùi mất bao giờ, là ngay trong pháp hiện tại và vị lai. Các pháp nào? Là đầy đủ bốn pháp. Trong pháp bằng hữu trong trắng cũng thế. Hết thảy pháp thiện nảy sinh và sinh như thế nào? Sinh lúc nào? Dùng thuyết nào để đối trị? Hơn nữa, các pháp nầy lần lượt thuộc về thứ kiêu ngạo nào? Các lợi dưỡng, hy vọng, mong cầu, lời nói chú thuật v.v… của thế gian, mong cầu chỗ nào tùy thuận. Đã trông thấy lợi dưỡng trong gia đình Đàn-việt nào, thì có thể thân cận gia đình ấy. Thân sẽ bị ràng buộc do lợi dưỡng, tiếng tăm. Tâm sẽ nổi ganh ghét keo kiệt, vì hết thảy gia đình Đàn-việt đều đã có Bồ-tát khác thân cận. Từ đó nổi giận khởi lên sự bêu xấu, nhân giận dữ đó lại chê bai người, đó là chê bai chính pháp. Trong pháp trong trắng, vì lần lượt chứng minh các tai họa nên cần xa lìa kiêu ngạo v.v… Sáu pháp Ba-la- mật thuộc về chính văn tu học của Bồ-tát, có thể tùy thuận theo pháp mà tu hành. Hành thuận theo pháp rồi thì như pháp được bố thí, lấy làm trí lượng. Từ bỏ hết thảy tà mạng, an lạc trong tính tri túc của Thánh chúa. Tham đắm vào lợi dưỡng, tiếng tăm là nguyên nhân của sự chê bai. Không nói tội lỗi người khác. Dù thiệt hay giả vẫn không tìm chỗ khuyết điểm của người. Từ bỏ tâm chê bai, nên Bồ-tát có khả năng làm lợi ích. Sống như pháp là không chê bai pháp, từ bỏ mọi nguyên nhân làm tiêu diệt pháp trắng và các pháp. Tu hành các nguyên nhân không làm diệt pháp trắng. Từ bỏ làm những việc na ná như Bồ-tát. Từ bỏ luyện tập tâm ác làm ác. Tu hành tương tợ tâm ngay thẳng của Bồ-tát. Học tập các hạnh rồi bảo người khác hãy sáng suốt nhận rõ về nỗi đau khổ của sinh, diệt, không gây việc rối cho ai. Phật nói với Ca-diếp: Có bốn thứ tâm dua nịnh mà Bồ-tát thường phải rời bỏ. Đó là nên từ bỏ tâm nghi ngờ, hối tiếc, không quyết định rõ ràng đối với pháp Phật. Hỏi: Vì sao chỉ nói có bốn pháp? Đáp: Vì có bốn cách dua nịnh v.v… nên mới có bốn thứ tâm dua nịnh. Đó là bốn thứ dua nịnh, nên biết. Những gì là bốn? Dua nịnh đối với thừa. Giáo hóa tiếp nhận sự dua nịnh. Dua nịnh hỗ trợ công đức. Dua nịnh hỗ trợ trí. Dua nịnh đối với thừa là ngờ vực, mê lầm, không quyết định rõ ràng v. v… đối với pháp Phật, không cung kính tôn trọng, cũng không kính trọng các giới pháp. Do vậy, nảy sinh nghi ngờ, mê lầm pháp Phật v.v… Từ đó sinh tâm không tin vào Đại thừa mà cứ lặng lẽ làm. Do đã sinh nghi, có ý tìm đức lớn nên bị mê hoặc, do đó trí không nắm bắt được pháp Phật, không có quyết định sáng tỏ. Giáo hóa, tiếp nhận nguyên nhân dua nịnh là phát sinh tâm kiêu căng, ngạo mạn, giận hờn, ý tưởng hư vọng đối với chúng sinh, âm thầm giáo hóa với tâm kiêu ngạo. Không có khả năng chỉ lối do ý tưởng hư vọng ngạo mạn giận hờn. Các tôn sư và đệ tử đều khuyên giải, can gián họ, trong những công việc hữu ích, vô ích v.v… nên biết. Nguyên nhân dua nịnh hỗ trợ công đức là sinh tâm ganh ghét, keo kiệt, đối với lợi dưỡng của người khác. Thấy người khác được lợi dưỡng, phát sinh ý nghó ganh ghét, giận dữ, gây rắc rối. Hoặc thấy ai xin thì sinh tâm luyến tiếc, đấy gọi là keo kiệt. Đã phát sinh tâm ganh ghét, keo kiệt, hừng hực mãnh liệt, thì đối với hỗ trợ trí tuệ công đức bị giới hạn không tu hành, nên các trí tuệ công đức liền lùi mất. Nhân của dua nịnh quanh co hỗ trợ trí là bêu xấu các Bồ-tát, nào là tên ác, gọi ác, hành động ác v.v… Những việc về tên ác, trước đây đã giảng giải ở câu: Vì các Bồ-tát mà nói điều ác, là nói đến kinh Đại thừa, nên biết. Vì chê bai Đại thừa, nên đối với trí hỗ trợ đạo, Bồ-tát mặc nhiên rơi vào lười biếng, không tu hành, nên trí trong việc tu đạo bị lùi mất. Vì do việc làm nầy nên nói là bè bạn, nên biết. Để đối trị với tâm niệm quanh co dua nịnh, Phật nói với Ca-diếp: Bồ-tát có bốn thứ chân tướng chân thật, ngay thẳng. Những gì là bốn? Là hoàn toàn không che giấu các tội phạm, nghĩa là đều hướng về người khác phát lồ. Việc phát lồ có người nói đó là có tội thì sám hối. Do sám hối như thế, nên sau nầy không nảy sinh việc hối hận v.v… vì đã phát sinh điều thiện. Không màng đất nước của cải để tìm sự thật, đó là thị hiện bố thí không tiếc. Thân mạng khó được mà còn bỏ, không dựa vào cái gì khác, không nêu ra chuyện gì khác. Từ bỏ như vậy khiến kẻ khác bị mê hoặc, trong khi đó ý nầy nhằm chuyện khác. Trong tất cả điều ác, như mắng nhiếc, chê bai, đánh đập, trói buộc, gây những tổn hại, khi nhận lãnh hậu quả thì mới tự trách mình, tự nhớ lại nghiệp báo, chừng đó y mới hết giận hờn người khác. Các câu nầy còn có ý nghĩa gì khác? Mắng nhiếc là nói dối không thật. Giận dữ là giả hay thật đều nói. Gây nỗi khổ cho người khác là nói đến dòng họ v.v… nói đến các việc ác. Chê bai nhận lấy để thật thấy rõ ràng cái ác. Trách mắng đánh đập là trong tự thân có đủ các duyên. Trách kể là có đủ ba nghiệp. Đánh đập là dùng các bộ phận thân, tay chân v.v… Giết hại là tay cầm dao gậy. Trói buộc là dùng dây buộc lại. Trong những sự kiện như thế, chỉ tự trách cứ ở nghiệp báo mình, nguyên nhân là ở nghiệp báo thiện ác. Không giận hờn người khác, là không để tâm giận hờn v.v… không có mọi kiết sử, là không ôm ấp kiết sử giận hờn. Bồ-tát khéo an trụ kiên cố trong niềm tin và ước muốn. Giả sử có người không thể tin tưởng ở pháp của chư Phật, Bồ-tát có thể làm người ấy tin bằng tâm thanh tịnh, nói rõ thân tâm đều thành tựu từ trong pháp Đại thừa. Đối với pháp của chư Phật, do tâm niệm nghi ngờ, nên không tu tập hạnh giới, khiến mọi người hành theo tà hạnh. Bị tà hạnh nên sinh tâm lợi dưỡng, keo kiệt, ganh ghét. Vì không thể chế ngự tâm ganh ghét, nên thấy nghe các Bồ-tát có công đức, lợi dưỡng, thì phát tâm chê bai, bêu xấu. Trong pháp bằng hữu trong trắng lần lượt cũng có việc nương nhờ vâng giữ giới pháp. Người khéo giữ giới là khéo giữ gìn lời chân thật. Giữ gìn lời chân thật, là tùy thuận pháp nhẫn nhục. Do đủ sức nhẫn nhục nên được thân tâm thanh tịnh, do vậy, có khả năng tin tưởng chính pháp của chư Phật. Nói giản lược: Sự quanh co, dua nịnh, gọi là tâm hổ thẹn. Quanh co dua nịnh thường biểu lộ ở đâu? Trong pháp của chư Phật và do chúng sinh. Quanh co dua nịnh trong lúc nào? Trong pháp hiện tại, tập mà không xả, cũng đến tận đời vị lai, tùy thuận hết thảy pháp. Tùy thuận thì đã nói bốn câu gồm hai thứ, là tùy thuận hết thảy tướng chân thât, ngay thẳng. nghĩa đó như thế nào? Lúc nào? Hết thảy có ghi chép được đối trị do pháp trắng, nên biết. Các Bồ-tát can gián tâm dua nịnh quanh co bằng tâm niệm chân thật, ngay thẳng. Do có tâm niệm chân thật, ngay thẳng, nên Bồ-tát nói các nghĩa điều phục, để phòng hờ những quanh co dua nịnh. Bồ-tát khuyên họ điều phục, chỉ rõ cách điều phục, không điều phục. Phật nói với Ca- diếp: Bồ-tát có bốn thứ tướng hư hoại không điều phục tâm. Đó là: Đọc kinh điển mà sinh hý luận. Không làm, không sống theo pháp tùy thuận. Không điều phục tâm, làm rơi tàn hết các lời răn dạy. Tại sao chỉ nói có bốn pháp? Vì trong pháp hữu vi có bốn thứ nguyên nhân không điều phục tâm phân tán, hư hoại. Bốn pháp không điều phục tâm phân tán, hư hỏng là: Lónh vực không điều phục, nên phân tán hư hỏng. Phát triển không điều phục tâm, nên phân tán, hư hỏng mọi hạnh. Không điều phục tâm phân tán, hư hỏng trong sự thọ dụng. Không điều phục tâm phân tán, hư hỏng trong sự cư trú chung. Trong đó, không điều phục tâm phân tán, hư hỏng, còn gọi là không khéo léo điều phục, nó ví như con ngựa hung dữ. Bốn pháp không điều phục tâm phân tán nầy có thể gây chướng ngại cho sự tu tập hạnh Bồ-tát kia, nên gọi là pháp phân tán không điều phục. Khi lắng nghe pháp và ngay ở nơi tu hành mà nảy sinh hý luận là nguyên nhân của lónh vực không điều phục tâm phân tán, hư hỏng. Ví như con ngựa dữ không bị điều phục. Vì không bị điều phục, nên trở lại ở yên chỗ cũ. Bấy giờ, không thể thiện trụ, lại càng không thể điều phục, không thể phân tán hư hỏng. Bồ-tát cũng thế, nghe nhiều (học rộng) nghĩa pháp. Vì nghe nhiều, học rộng, nên tâm không điều phục. Được các thiện tri thức khuyên bảo đúng đắn, khiến tu hành các pháp và thứ pháp, nhưng không thể chính trụ. Các lời răn dạy không thể lãnh thọ pháp hạnh đúng đắn. Đấy gọi là nguyên nhân phát triển việc không điều phục tâm, phân tán hư hỏng, ví như không điều phục được con ngựa hung dữ, đặt nó vào đường chính. Do không điều phục nên theo hướng cõi ác. Bồ-tát không điều phục cũng lại như thế, dù được các thiện tri thức khuyên bảo tu hành các pháp và thứ pháp, nhưng với các lời răn lại đem ngay tâm niệm điên đảo mà phân biệt, tức là ngược ngạo cướp lấy gây tổn thương cho người tín thí, cúng dường, cung kính. Đấy gọi là nguyên nhân không điều phục tâm phân tán, hư hỏng trong tiếp nhận, tiêu dùng. Ví như ngựa dữ không bị điều phục mà cho ở chung với các con ngựa được điều phục, thì con ngựa dữ nầy vẫn sống khác các con ngựa kia. Do vậy nên nói không điều phục. Bồ-tát không điều phục cũng lại như thế, dù ở chung một chỗ với Bồ-tát được điều phục, nhưng vì đã rỉ rớt giới hạnh, đã nhận của cải cúng dường, sự cung kính của tín thí để trở thành hối hận, vì không sống giống như Bồ-tát giỏi điều phục đã sống, không ưa tri kiến phát sinh tâm chê bai, không tỏ lòng cung kính những Bồ-tát giỏi điều phục. Đấy gọi là nguyên nhân nơi ở không điều phục tâm phân tán, hư hỏng, ví như ngựa dữ không bị điều phục mà cho ở chung một chỗ với ngựa bị điều phục. Vì không bị điều phục nên tâm không thấy vui vẻ. Người giỏi điều phục và người không điều phục cùng ở chung một chỗ cũng thế. Bồ-tát không điều phục cũng lại như thế, vì mình duyên vào tà chấp nên không thấy tâm vui vẻ khi ở chung với các Bồ-tát giỏi điều phục. Bồ-tát giỏi điều phục cũng lại như thế. Điều là các giác quan được làm chủ trọn vẹn. Phục là một lòng dập tắt mọi hành vi ác để được hạnh tốt đẹp. Thay đổi tất cả pháp đen, đối trị bằng cách nói lên pháp bằng hữu trong trắng. Kinh nói: Khéo nói cho kẻ nghe, nghe rồi tin và thực hành như lời đã nói. Nương tựa vào pháp chứ không dựa vào lời nói của người. Không phải lấy tâm ganh ghét dành lấy phần hơn, chỉ lắng nghe chính pháp, mong được ích lợi, chứ không tìm tòi soi mói để thấy mọi khuyết điểm của người. Bồ-tát làm các việc đó thì thường được gặp pháp không rời thiện tri thức. Dựa vào lời thầy dạy bảo, vâng làm một cách hoàn thiện những lời nói của thầy, không trái ý của thầy, không lùi giới định. Các câu nầy còn có nghĩa khác: Những điều thầy răn dạy, nói chung là khuyên bảo làm mọi việc thiện. Dùng thí dụ lời nói là nghe nói những điều thiện, ác, đều nhẫn nhục. Mọi việc làm đều thiện, là mọi lúc đều không vi phạm giới cấm, đều không làm trái ý thầy. Tâm luôn cung kính tôn trọng lời thầy răn dạy. Làm các việc như vậy, Bồ-tát thường được gặp thiện tri thức, không lìa khỏi A-lan-nhã, giới định không thụt lùi. Dùng tâm điều phục mà nhận sự cúng dường là giới định đã không thụt lùi. Càng làm sáng tỏ giới hơn nữa. Đã làm các việc làm đó thì Bồ-tát thường không xa lìa hạnh công đức của bậc thiện tri thức. Hết thảy các Bồ-tát đã khéo điều phục, tùy thuận, thì sẽ tỏ lòng cung kính, yêu thích, tùy thuận người tốt lành, khuyến khích mọi người tiếp nhận hạnh tùy thuận, để hướng đến tùy thuận ý, tùy thuận các công đức, vì mục đích để được lợi ích. Hỏi: Các câu nầy còn có nghĩa gì khác? Đáp: Trong đây, giỏi điều phục và tùy thuận thì trước đã nói. Còn cung kính, yêu thích là chỉ rõ tâm niệm vui mừng, cung kính tôn trọng. Tùy thuận xuôi theo là ưa hiểu biết. Tùy thuận ý là ý muốn thân cận chân chính. Tùy thuận các công đức là ý muốn ưa nghe pháp. Khiến họ được lợi ích là ý muốn tùy thuận thực hành pháp nầy. Làm các việc làm đó, thì Bồ-tát thành tựu không xa lìa thiện tri thức, được đứng đầu trong chúng. Nói tóm lại là thế nào? Là điều phục, tùy thuận, là không điều phục, tùy thuận bên sự việc hư hỏng. Làm thế nào mà có được? Là chỉ nhờ nghe v.v… Vào lúc nào? Là pháp ở hiện tại và vị lai, được học tập không ngừng. Do các tướng nào? Là đầy đủ bốn pháp, là thực hành pháp đối trị bằng nghe v.v… bằng nói pháp bằng hữu trong trắng v.v… nên biết. Bắt đầu nói tiếp: Thực hành tâm ngạo mạn đối với pháp nghe v.v… Tùy thuận hành chính pháp và thứ pháp v.v… xong, không hành như pháp đối với điều truyền dạy chân chính. Do vậy, sử dụng mọi việc của tín thí dễ khiến kẻ ấy rơi vào lónh vực bất lợi, vì tâm xen tạp nhơ bẩn, ô nhiễm. Thấy các Bồ-tát đã khéo điều phục tâm mình rồi, mà không nảy sinh cung kính, thì đối trị bằng cách lần lượt nói pháp bè bạn trong trắng v.v… nên biết. Can gián trong các pháp không điều phục, là khuyên bảo tu tập pháp điều phục v.v…, sống vững trong pháp điều phục và phòng ngừa pháp lầm lẫn của Bồ-tát v.v… Khuyên tu tập pháp không lầm lẫn, nên nói những lầm lẫn trong pháp không lầm lẫn. Đức Phật nói với Ca-diếp: Bồ-tát có bốn pháp lầm lẫn. Bốn pháp đó là: Với chúng sinh chưa được tín thọ giáo hóa, mà cùng đồng ý, đó là Bồ-tát lầm lẫn, thậm chí còn gồm thâu cả những kẻ ác phá giới v.v…, đó là Bồ-tát lầm lẫn. Hỏi: Vì lý do gì chỉ nói bốn pháp? Đáp: Vì dựa vào bốn pháp lầm lẫn để nói Bồ-tát có bốn thứ lầm lẫn. Bốn thứ đó là: Lầm lẫn vì không thực hành. Lầm lẫn vì vượt quá dung lượng. Lầm lẫn vì thực hành sai. Lầm lẫn vì làm điều ác. Lầm lẫn vì không thực hành: Là đối với chúng sinh chưa thọ nhận sự giáo hóa mà đồng ý với họ. Dựa vào sự giáo hóa chúng sinh, khuyên bảo họ đạt đến quả vị cứu cánh. Nói pháp mà làm đứt mất tâm tin tưởng, cung kính của chúng sinh thì đó là sự lầm lẫn của Bồ-tát. Lầm lẫn vì vượt quá dung lượng, là nói pháp vi diệu thù thắng cho kẻ không có trình độ nghe nổi hay đối với kẻ Tiểu thừa mà mong cầu Đại thừa, lại không tùy thuận trình độ mà nói, đó là Bồ-tát lầm lẫn. Lầm lẫn vì thực hành sai, là người có trình độ cao mà đi nói pháp Tiểu thừa, hay đối với người Đại thừa cầu học Tiểu thừa, nói pháp mà không theo trình độ, đó là sự lầm lẫn. Lầm lẫn vì làm điều ác, là đối với kẻ sống theo chính hạnh, giữ giới đúng pháp, đối với sự trừng phạt phạm tội không cung kính, phá giới lại có tâm thiên vị, nói pháp lộn ngược cả. Giữ giới ở đây có ba nghĩa, nên biết. Sống với chính hạnh là không có nghiệp phạm giới. Giữ giới là không thiếu sót các giới điều. Pháp chân thật là pháp kính trọng giới. Có hai thứ tướng mà giải thích trở thành kẻ phá giới, phá giới là thiếu sót giới điều. Pháp ác là không kính trọng các giới. Lầm lẫn là duyên nơi tà đạo và chỉ dạy tà đạo, nên biết. Bốn câu lầm lẫn nầy chỉ rõ việc nói pháp có bốn cách: Không nói. Không nói tương tự. Nói không thích hợp trình độ. Nói điều ác. Không nói: Tỏ vẻ mệt mỏi trước và sau khi nói pháp xong, vậy là đã nảy sinh tâm niệm ác. Không nói tương tợ: Là nói không có phương pháp rõ ràng. Không hợp trình độ là chỉ ưa thích pháp Tiểu thừa. Nói ác là giáo huấn khuyên răn với tâm mong cầu lợi dưỡng. Tâm ác thì không nói pháp, vì căn thiện lui mất, không còn khả năng đầy đủ. Do vậy chỉ là lừa dối người ta. Vì không có phương cách khôn khéo để nói pháp, cho nên không gồm thâu được các kẻ có căn thiện cao. Thành thử kẻ vụng về kia chỉ theo pháp Tiểu thừa, tách xa khỏi căn thiện cao thượng. Lại nữa, khi dạy bảo mà có tâm mong cầu lợi dưỡng, nên không có được bao nhiêu công đức, chỉ là làm cho điều ác mạnh lên thôi. Lừa dối người ta thì đối trị việc xấu đó bằng cách nói pháp bạn bè trong trắng, nên biết. Kinh nói: Đối với các chúng sinh, tâm Bồ-tát đều phải bình đẳng, cho đến khuyên bảo chúng sinh cũng phải bình đẳng sống với chính hạnh. Tâm Bồ-tát đều bình đẳng đối với mọi chúng sinh, nghĩa là của mình và người là như nhau. Nói pháp cho kẻ không có lòng tin sâu xa, hay kẻ được giáo hóa nhưng chưa thành thục, phải đề phòng để không gây nên sự lầm lẫn. Đối với tất cả chúng sinh tâm đều bình đẳng khi nói pháp, hết thảy đều bình đẳng đối với pháp, nên gọi là pháp bình đẳng. Đối với kẻ ưa chuộng Tiểu thừa v.v… không có trình độ mong cầu Đại thừa, thì tùy năng lực nói pháp, đề phòng sự lầm lẫn, vì nó vượt quá dung lượng, nên biết. Cho nên nói pháp phải theo trình độ. Giáo hóa hết thảy chúng sinh để họ đều đạt trí tuệ Phật, thì với chúng sinh có trình độ tin ưa Đại thừa, nhưng lại đi học pháp Tiểu thừa, nên khuyên bảo họ đạt trí tuệ Phật, đề phòng sự lầm lẫn do thực hành, nên biết. Khiến cho hết thảy chúng sinh bình đẳng trụ trong chính hạnh, là mình phải từ bỏ lợi dưỡng, tiếng tăm, có tâm bình đẳng với kẻ giữ giới cũng như kẻ phá giới, nói pháp cho họ như nhau. Phải ngăn ngừa điều ác và việc lầm lẫn, nên biết. Đối với việc can gián, Bồ-tát không can dự, không gần gũi. Điều đó chỉ rõ lý do có nên gần gũi hay không. Phật nói với Ca-diếp: Bồ-tát có bốn hạng không phải là thiện tri thức, không phải là bạn lành v.v… Bồ-tát thường xuyên nên xa lìa. Hạng người mong cầu Tiểu thừa, họ chỉ nhắm vào tư lợi, nếu gần gũi họ chỉ được lợi cho thế gian, không lợi ích gì cho chính pháp. Hỏi: Tại sao nói chắc là chỉ có bốn pháp? Đáp: Do họ không phải là thiện tri thức. Bốn hạng người đó là: Trong thừa nầy, họ không phải là thiện tri thức. Trong hạnh nầy, họ không phải là thiện tri thức. Trong pháp Phật, họ không phải là thiện tri thức. Trong chính pháp, họ không phải là thiện tri thức. Người Tiểu thừa là người chỉ mong cầu lợi mình, không đem lại ích lợi cho người khác. Nết hạnh họ gần như hẹp hòi, thấp kém. Họ khuyên bảo Bồ-tát xa lìa pháp Đại thừa. Do vậy, họ không phải thiện tri thức trong thừa nầy. Hạng mong cầu Duyên giác, là hạng ít ham muốn, ít làm, chỉ lo lónh vực tu hành, trái với lợi ích của chúng sinh. Họ khuyên Bồ-tát xa lìa các việc làm lợi ích cho chúng sinh. Vì không làm lợi ích cho chúng sinh, nên mất cái nhân của hạnh. Do vậy, họ không phải thiện tri thức ở trong hạnh nầy. Lỗ-già-gia-đà là nói những lời kỳ lạ, khuyên bảo xa lìa pháp Phật. Vì xa lìa pháp Phật nên mất cái nhân của hạnh. Do vậy, họ không phải thiện tri thức trong chính pháp. Nếu thân cận với họ mà chỉ có lợi ích thế gian, không có ích lợi gì cho pháp. Do vậy, ở trong pháp thiện mà khuyên tu thì trở thành lý do thụt lùi. Do nguyên nhân lui mất pháp thiện nên gọi họ không phải là thiện tri thức trong chính pháp. Đối lại có bốn hạng thiện tri thức. Kinh nói: Các người đến cầu xin là thiện tri thức của Bồ-tát, là người có nhân duyên với đạo Phật. Do không làm đứt mất pháp Đại thừa nên gọi là thiện tri thức của Bồ-tát. Bồ-tát nghó thế nầy: Do dựa vào người đến cầu xin mà họ là thiện tri thức, nên ta càng tu tập vô lượng công đức để hồi hướng Bồ-đề vô thượng, đó mới là tu hành không hư vọng. Do không mong cầu Tiểu thừa, nên việc tu tập bố thí chỉ làm lớn thêm căn thiện của Bồ-tát, do vậy không mất hạnh Đại thừa. Người nói pháp là thiện tri thức của Bồ-tát, người phát sinh trí tuệ và chí khí thì không mất hạnh đối trị. Do học rộng nên có thể giúp người khác nói pháp. Thế nên, không cần cầu sự thiểu dục, nên trí tuệ uyên bác, chí khí thuần thành, dù gặp phải nỗi đau khổ của thế gian, nhưng Bồ-tát vẫn không thấy mệt mỏi trong việc giáo hóa con người để cho họ được xuất gia, đó là thiện tri thức của Bồ-tát. Ý chí thuần thành, sẽ tăng trưởng các pháp thiện, là lý không làm đứt mất chính pháp. Để đối trị, nên khuyên xuất gia. Do căn thiện thuần thục nên xa lìa được mọi tà hạnh, làm lợi cho mọi người vẫn không thấy mỏi mệt, chán nản, thoái lui. Chư Phật Thế Tôn gọi là thiện tri thức của Bồ-tát, với chí khí thuần thành làm tăng trưởng tất cả pháp Phật. Là đối trị với việc không làm mất pháp Phật. Điều đó chỉ rõ nếu được chư Phật giáo hóa nhiều thì càng không làm lui mất tâm Bồ-đề. Đức Thích-ca thành đạo vì không vướng mắc lợi dưỡng, tiếng tăm v.v…, người nào đã ham mê lợi dưỡng, tiếng tăm, thì họ sẽ xa lìa, làm lui mất pháp chư Phật. Thuần chí tu tập pháp chư Phật cho đến gom góp sức mạnh của căn thiện thì không thể lui mất. Vì nghĩa đó, nên từ chỗ không phải là thiện tri thức, nhưng đã can gián, khuyến khích họ tu tập được chân thật như thế, thì đó là việc làm của hạnh Bồ-tát, nó chứng minh tướng như thật và không như thật của Bồ-tát. Đức Phật nói với Ca-diếp: Bồ-tát có bốn hạng không phải Bồ-tát mà chỉ là na ná như Bồ-tát. Bốn hạng đó là: Hạng Bồ-tát ham mong cầu lợi dưỡng chứ không phải cầu pháp, ưa tụ tập đồ chúng chứ không thích hạnh xa lìa. Hỏi: Vì sao chỉ nói có bốn pháp? Đáp: Do có bốn thứ không phải là tướng Bồ-tát, nên nói chỉ có bốn thứ chẳng phải nầy: Giống như nghe nhiều, học rộng. Giống như A-lan-nhã. Giống như tạo tác hạnh công đức. Giống như dẫn dắt các đồ chúng. Tham cầu lợi dưỡng mà không cầu pháp, nghĩa là Bồ-tát nầy mong cầu lợi dưỡng đối với mọi người vốn có lòng tin. Dù vẫn vâng giữ chính pháp, nhưng gọi là Bồ-tát không như thật, chẳng phải như thật. Tham cầu tiếng tăm, khen ngợi đức độ của mình, không mong cầu công đức xuất thế, nghĩa là Bồ-tát nầy ham tiếng tăm, dù là ở A- lan-nhã, nhưng đây là không như thật, chẳng phải như thật. Ham tìm ưa thích riêng không có khả năng cứu vớt mọi thống khổ của chúng sinh, là vì bị trói buộc do tâm niệm mong cầu lợi dưỡng. Do vậy, dù làm mọi công đức, Bồ-tát nầy vẫn gọi là không như thật, chẳng phải như thật. Thích tụ tập đồ chúng, không ưa xa lìa, nghĩa là bị trói buộc do tâm mong cúng dường, cung kính. Dù là người đứng hàng đầu trong chúng, nhưng Bồ-tát nầy vẫn gọi là hành không như thật, chẳng phải như thật hành. Bồ-tát đã hành các hạnh như vậy, thì bao công đức tạo được dù là ở A-lan-nhã, dù đứng đầu trong chúng, cũng đều mất hết giá trị. Chống lại tệ hại đó, nên nói đến các công đức chân thật, nên biết như vậy. Kinh nói: Ai có khả năng tin hiểu về không, giải thoát… thì không ưa những việc lợi dưỡng. Còn tin hiểu về nghiệp báo thì đó là nhân để ưa thích các pháp. Vì ưa pháp, nên nghe và tu tập vô lượng công đức nhẫn, tất cả đều vô ngã và sở hữu của ngã. Vì nhẫn nhục, vô ngã, nên không ưa thích sự dính mắc vào danh vọng, tiếng khen v.v… Đối với tất cả chúng sinh, phát sinh tâm Đại Bi. Dùng tâm Đại Bi mong được công đức của Bồ-tát và chứng nhập ý Niết-bàn. Vì ý Niết-bàn nên không ưa niềm vui riêng cho mình và do vậy không từ bỏ việc làm cho thế gian. Do không từ bỏ thế gian, nên luôn cứu vớt chúng sinh khổ. Vì giáo hóa chúng sinh, nên tâm không bỏ rơi chúng sinh, mà lo làm việc bố thí, vì hành bố thí nên khéo biết công đức của chúng sinh. Tuy tu hành bố thí, nhưng Bồ-tát không mong được trả ơn. Do ưa vắng lặng, yên tónh, nên làm việc bố thí không mong cầu được đền đáp. Hỏi: Trong bạn bè trong trắng, đã diễn nói các pháp tin, ưa, thì đâu cần gì nói đến pháp không v.v…? Đáp: Việc làm bố thí là nhằm hỗ trợ các hành đạo có ý nghĩa là cùng chung làm các việc của Thanh văn, Duyên giác v.v… nhưng vì muốn nghe đến hạnh thù thắng của Bồ-tát và nảy sinh tâm niệm do dự. Người nầy vì muốn diễn nói pháp không cùng chung với Thanh văn, Duyên giác, để hỗ trợ cho việc thành tựu chính giác, là pháp của các Bồ-tát. Chú thêm: Luận nầy là quyển thứ nhất trong Tạng kinh đời nhà Tống, so với văn nghĩa của bổn Tạng thì khác xa, nên chưa biết nên lấy hay bỏ. Theo Khai Nguyên Lục ghi: Theo bản chú thích cũ, bên phải có riêng một quyển kinh Đại Bảo Tích, là hội Bảo Tích thứ bốn mươi ba, tức là bộ kinh Bảo Tích này. Hội Bồ-tát Phổ Minh thứ bốn mươi ba có một quyển bị thất lạc bản dịch. Theo bản dịch cũ bên phải thì có một quyển kinh Đại Bảo Tích riêng. Gồm bốn quyển có thích luận. Nay kiểm nghiệm lại nguyên quyển đầu của bản in đời Tống thì hoàn toàn là kinh Bảo Tích kia, không phải văn luận. Thế thì bản in đời Tống đã sai, vì đã đem bản kinh thêm vào chữ luận là luận ở quyển đầu. Vả lại, Lưu Chi dịch thì sao? Hôm nay, lấy hai bản làm chính thức. Bản kinh đã được giải thích kia chính là quyển thứ một trăm mười hai trong Đại kinh nầy. Các Hiền giả sau nầy muốn biết rõ sự kiện hôm nay đã bỏ đi bản in đời Tống ở quyển đầu là vì lý do gì, xin xem ở kinh kia thì sẽ rõ.  LUẬN ĐẠI BẢO TÍCH KINH <卷>QUYỂN 2 Bấy giờ, Phật nói với Ca-diếp: Bồ-tát có bốn kho tàng lớn được giấu kín. Bốn kho tàng đó là: Có khả năng nghe sáu pháp Ba-la-mật. Có khả năng gìn giữ chư Phật. Thậm chí say mê nơi núi rừng. Tâm vẫn không lười biếng. Hỏi: Vì sao chỉ nói nhất định có bốn pháp, không nhiều, không ít? Đáp: Vì ngăn ngừa lỗi hay nói vô cùng, cũng là vì không có người nào hỏi. Hơn nữa, muốn chỉ rõ lý do chưa từng có, cho nên nói có bốn thứ. Suốt đêm dài (sinh tử), khéo tu tập pháp “không”, nên được Nhất thiết trí, cũng như tu tập nhân không. Để quét sạch màn vô minh đen tối che mờ thế gian, nên nói pháp để có khả năng thân cận, hướng đến tâm Niết-bàn. Sự vắng lặng là rất sâu xa, không do tu tập, không điều phục mà trong sạch, thế gian nói đó là pháp mầu nhiệm vô thượng, người nào có thể thân cận? Bố thí tiền của và pháp chỉ làm tâm ganh ghét, keo kiệt mâu thuẫn với nhau. Vì đã tu tập từ lâu trong A-lê-da mà thế gian đều ưa thích. Vì đã có ham mê A-lê-da nên khi nói pháp có khả năng thân cận. Đôi khi vì còn thâu nhận việc làm của tất cả Bồ-tát. Nói gọn có bốn pháp, các Bồ-tát có hai thứ hạnh hỗ trợ đạo Bồ- tát: Hạnh hỗ trợ đạo bằng trí. Hạnh hỗ trợ đạo bằng công đức. Trong đấy, tin tưởng vào không, vô ngã và không rời bỏ Niết-bàn v.v… là hạnh hỗ trợ đạo bằng trí. Ba câu tin tưởng vào nghiệp báo v.v… là hỗ trợ thành tựu bằng trí và đức. Tu tập rộng sáu pháp Ba-la-mật, gồm thâu các hành hỗ trợ bốn thứ hạnh. Trong đó không từ bỏ ý định giáo hóa chúng sinh. Thực hành tài thí, pháp thí mà không mong báo đáp, thì gọi là hỗ trợ hạnh bố thí Ba-la-mật. Không rời bỏ ý Niết-bàn là hỗ trợ hạnh về giới Ba-la-mật. Do tâm hướng đến Niết-bàn, nên Bồ-tát thường e sợ thế gian mà luôn đề phòng khuất phục các nhân của phiền não, của phá giới v.v… Được pháp thể, tính giữ giới, nên Bồ-tát thành tựu vô ngã nhẫn và điều phục tướng mà chúng sinh nương tựa. Giả sử khi chúng sinh có lỗi và hoảng hốt nhưng tâm Bồ-tát thì không bị dao động, do Bồ-tát tin tưởng ở nghiệp báo, và ý định không từ bỏ thế gian, đó là hỗ trợ thành tựu hạnh tinh tấn Ba-la-mật, cũng là hỗ trợ thành tựu quả của hạnh công đức, trí tuệ. Tin tưởng vào Tát-bà-nhã nên Bồ-tát tuy thấu tỏ nỗi khổ trầm trọng của thế gian, tâm Bồ-tát vẫn không bỏ chúng sinh. Và cũng vì chí khí của trượng phu, nên không xa rời mọi thống khổ của thế gian. Chỉ có sống ở thế gian, mới tăng trưởng căn thiện, phát sinh đại tinh tấn, dùng tâm Đại Bi hỗ trợ cho thiền định Ba-la-mật thành tựu. Đại Bi là dựa gốc vào thiền định. Tin tưởng vào lý không chính là hỗ trợ cho hạnh trí tuệ Ba-la-mật thành tựu. Bồ-tát không rời bỏ tâm Bồ-đề thì gọi đó là giữ gìn lời nói chân thật, không lừa dối. Có tâm Đại Bi và tin tưởng ở nghiệp báo, nên Bồ-tát thường hướng về bạn ở thế gian, làm mọi việc nơi chúng sinh ở, nhưng không giúp vào việc nói điên đảo. Thế nên, do tâm Đại Bi và tin tưởng nghiệp báo, nên không từ bỏ việc làm ở thế gian, không từ bỏ cái nhân của tâm Bồ-đề. Cho nên dùng lời nói chắc thật chỉ rõ các pháp như vậy. Bồ-tát nói lời chân thật chắc chắn là do không rời bỏ tâm Bồ-đề. Đấy chính là căn cứ vào phát tâm bố thí, của cải, giáo pháp v.v… mà không hy vọng được trả ơn, nên gọi là giữ gìn thế mạnh. Tâm bố thí của Bồ-tát là bố thí cả tài và pháp, để phá bỏ tính keo kiệt, ganh ghét. Do vậy mà thành tựu tâm hướng đến Niết-bàn, đó là giữ chắc sự tịch tónh. Bồ-tát có tịch tónh là do dập tắt mọi cái không tịch tónh. Do vậy, có khả năng thành tựu nhân thiện và tin tưởng lý không, vô ngã v.v… Đấy gọi là duy trì trí tuệ. Trí tuệ của Bồ-tát là để điều phục, dập tắt mọi phiền não. Đối trị nó để được Bồ-đề thanh tịnh, căn thiện được tăng trưởng. Cho đến chứng ngộ Bồ-đề mà vẫn không mong cầu được trả ơn. Lòng từ là ban cho của cải và chính pháp v.v… là đem lại lợi ích cho người khác. Đại Bi, được gọi là Đại Bi, là vì Đại Bi đứng hàng đầu. Vì tin tưởng ở nghiệp báo, nên khi làm mọi việc lợi ích cho đời, chỉ làm những việc hữu ích cho chúng sinh. Những việc làm đó đều thành tựu nên tâm sinh vui mừng, đó gọi làthường do tâm hướng đến Niết-bàn, có khả năng điều phục mọi phiền não, mà không có phiền não nên tâm vui mừng gọi là hỷ. Lại nữa, Bồ-tát quán sát mọi hành đều là vô ngã, mọi pháp đều lìa ái kính v.v… hoặc nhớ nghó vô lượng công đức của Như Lai nên sinh tâm vui mừng, gọi là hỷ. Sau đó, Bồ-tát tự quán sát biết mình đã có đủ khả năng xuất thế. Hoặc thấy chúng sinh ở thế gian đều bị vùi sâu trong lớp bụi phiền não, nên Bồ-tát nghó: Ta có đủ khả năng nhổ hết các vô minh đang che mờ chúng sinh trong lớp bụi thế gian dầy đặc bao la nầy, giúp họ đạt đến cảnh giới Niết-bàn tịch diệt. Ta làm mọi lợi ích cứu vớt chúng sinh đang mắc trong trần lao nầy, thấy được lợi ích của họ và của ta không tách rời nhau. Hoặc thấy chúng sinh được hưởng các niềm vui, tâm cảm thấy vui mừng, đấy cũng gọi là hỷ. Vì quán sát các hành đều vô ngã, nên dẹp bỏ các việc người thân, kẻ thù v.v… chứng ngộ chân như bình đẳng, làm lợi ích cho chúng sinh, tự nhiên từ bỏ những việc trái với pháp. Đấy gọi là pháp phần Bồ-đề, là bố thí của cải và pháp mà không mong báo đáp. Bố thí lời nói khả ái và lòng yêu thương là không từ bỏ việc làm lợi ích cho chúng sinh. Những lợi ích khác là giữ mãi việc làm lợi ích cho chúng sinh, đó là đồng sự của Bồ-tát. Đó là gồm thâu hết thảy việc làm trợ đạo của Bồ-tát. Mọi việc đó được giải thích bằng bốn câu trên. Hỏi: Nay cần nói đến nghĩa không. Vậy không là gì? Đáp: Lấy trí tuệ để khéo giải thích mọi tính tướng của các hành mà không có được, nên gọi là không. Hỏi: Trí có khả năng diệt các hành chăng? Đáp: Không. Thực vậy, cảnh giới thức tướng là như thế, trong chân thật thì không hư vọng, nhưng trong lónh vực toàn là thức, thì không có thật. Trong lónh vực hữu thì trí tuệ và thức phát sinh cùng lúc. Từ khi phát động hạnh tu nhẫn bậc thấp cho đến pháp tính thì lần lượt có chia ra trước, sau, trên, dưới, vừa. Sự hiểu biết có khả năng tác duyên cùng với trí vô lậu, rồi trở lại diệt trí vô lậu. Trong chân thật thì không, hư vọng mà là thức, lónh vực của thức không có thực. Trong thế giới hiện tượng thì trí tuệ và thức cùng phát sinh. Từ khi phát động hạnh tu nhẫn bậc thấp cho đến pháp tính thì lần lượt chia ra trước, giữa, sau. Ý thức làm điều kiện cho trí vô lậu rồi quay lại diệt trí vô lậu. Từ vô lậu mà nhận thức thì hoạt động của thức là gây cản trở, nó không có khả năng duyên được cảnh chân thật. Lùi trở lại cảnh giới chân thật thì thấy lónh vực vô tướng, thấy pháp giới. Vượt khỏi lónh vực phiền não thì tự tướng không có cái thấy. Lónh vực của tự tướng chỉ là hoạt động của hành và thức. Chỉ có thức tạo tác thế gian. Tu đạo là hình thành trí hướng lên không thể tự duyên lấy tướng. Nếu dựa vào trí mà làm như thế thì không còn trí phân biệt tính và tướng. Tự tướng vốn là vô thường… Trí tuệ không phải là việc chân thật. Tướng hữu ký là thức. Không có thức hơn kém. Tại sao không có khả năng nắm lấy tự tướng? Vì trí chẳng phải tướng, trí thì đồng với cảnh giới tướng. Cảnh giới nầy không hư vọng, tự giữ lấy tướng. Nếu có khả năng nắm lấy tự tướng, thì cũng xả bỏ tự tướng được. Chỉ có sự ghi nhớ tạo thành thức. Do vậy, trí không phải là khác với thức, xuôi theo quả báo, không trái ngược, như vậy là dựa vào trí làm duyên cho thức cùng phát sinh. Nhưng cảnh giới tướng như vậy làm cho trí cũng phải hệ luî nhận lấy tự tướng. Vô thượng đẳng là những việc không đúng, vì chúng trái ngược nhau từ đầu, nên không có việc tự cùng với tướng trái nhau. Sắc cũng vô thường. Nếu cho sắc thành vô thường, thì trí tất nhiên có khả năng nắm giữ, tuy nhiên không thành. Cho nên trí không tự nắm lấy nghĩa của tướng. Trí phải tùy thuận vào thức, tính của nó là không diệt mất. Cảnh giới chân thật tạo ra tướng, thành tựu rồi xả bỏ nghĩa tự tướng. Cho nên trí không có cảnh giới của tự tướng. Thức mới là cảnh giới tướng chân thật. Hỏi: Vì sao tin tưởng vào không, nghiệp báo mà có khả năng tùy thuận? Dùng nghĩa nầy để có thể nói: phải luôn tin tưởng vào các nghiệp báo sao? Đáp: Lấy hữu sinh mà nói, cho nên không có tai họa. Điều đó cũng có thể dùng trí phân biệt, quán sát các hành, chúng sinh mà không thể hiểu được. Trí biết các hành phát sinh, vô tướng vô phân biệt duyên, mới thấy cái ác không có khả năng đứng yên, và vô phân biệt mới có, vậy thì ai tạo ra các hành và ai nhận quả? Để chúng có thể tùy thuận vào nhau, từ đó sinh thắc mắc nghi ngờ. Do sinh nghi ngờ, nên không tin nghiệp báo. Từ ý nghĩa nầy mà Phật nói với Ca- diếp: Thà phát sinh kiến chấp của chúng sinh chứa đầy như Tu-di, chứ không vì kẻ ngã mạn mà khởi lên tâm ngã mạn, như trong luận đã nói trong kệ sau: “Không” là trừ kiến chấp, Lại chấp chư Phật nói, Nếu ai duyên nơi không, Bệnh đó không thể chữa. Các không bất chính quán, Năng hoại không trí sáng, Như kẻ ác bắt rắn, Không biết cách hành chú. Ở đây vì hồi hướng, Như Lai nói kệ này, Biết pháp và pháp kế, Độn căn khó đo lường. Bồ-tát đã khéo léo biết được nguyên tắc đời thường và ý nghĩa tối hậu giải thoát. Tuy khéo quán sát phân biệt các hành (hiện tượng tâm sinh lý) biết rõ sự tập hợp của các nhân duyên. Trí sâu xa đã được suy nghiệm lâu dài về vấn đề đó mà biết được sự chẳng diệt của mọi nhân duyên nên không ngờ vực gì hết. Biết mọi hành là kết quả từ những nguyên nhân chẳng diệt đó, chúng không thành tựu tính. Các hành thì không phân biệt. Chính từ ý nghĩa không phân biệt mà có đủ mọi thứ phân biệt như vậy. Niệm Phật là phương tiện khéo léo nhất lôi cuốn để tạo ra các hành và sự tạo ra đó đã thành tựu. Như tùy chỗ mà giáo hóa dần dần được quả Nhất thiết trí. Dùng lòng tin Bồ-tát phát khởi sự dũng mãnh, tinh tấn, nhẫn nhục vô ngã thù thắng. Hỏi: Xin nói rõ về vô ngã, nhẫn? Đáp: Do quán sát cảnh giới thức tưởng của chúng sinh, vì có nguyên tắc đời sống nầy nên mọi pháp đều đồng nhau, chỉ biết khéo lựa chọn phân biệt. Tìm kiếm mãi vẫn không có chúng sinh và nghó như vầy: Mọi pháp có ở đây như trò ảo thuật không phân biệt. Không thể tự do thay thế nhau bằng duyên lực. Nghiệp phiền não là nhân sinh lửa cháy như sự cháy của ngọn đèn. Mọi hiện tượng duyên nơi nhau từ gốc nên nối tiếp nhau mãi không đoạn tuyệt. Nhưng khi lửa cháy lên thì ta không biết từ đâu nó đến? Và khi lửa tắt cũng không để lại dấu vết và nó cũng không đến đâu. Hết thảy tìm cầu đó chỉ là tác dụng của lửa thôi. Đấy gọi là vô ngã nhẫn. Hỏi: Vô ngã nhẫn có thể tạo nên ý thức không phân biệt đối với chúng sinh, Bồ-tát làm lợi ích cho chúng sinh thì tại sao nói là vô ngã nhẫn? Đáp: Mọi việc mà Bồ-tát làm cho chúng sinh, gọi là vô ngã nhẫn đó, thì chỉ là đem lợi ích cho họ. Do vô ngã nhẫn, nên Bồ-tát đã điều phục các phiền não, quán sát những hình thức tu tập của chúng sinh. Do vậy, Bồ-tát biết các hành duyên nhau là giả tạm, không rõ ràng. Giả sử chúng sinh có tai họa, hoặc thế gian trở lại gây rắc rối cho Bồ-tát, thì do đã khéo biết chúng sinh nên Bồ-tát không buông bỏ tâm Bồ-đề mà duy trì tâm đó mãi để thành tựu trí tuệ và tâm từ bi. Không rời bỏ chúng sinh và tu tập đủ các căn thiện, là để đạt được Nhất thiết trí. Không từ bỏ hành động mới chứng được Bồ-đề. Hỏi: Tin tưởng vào không, vô ngã nhẫn còn có nghĩa gì khác? Đáp: Tin tưởng vào không và vô ngã, có thể dễ phân biệt quán sát tất cả các hành, chứng được chỗ căn bản của pháp giới. Vô ngã nhẫn, là từ cảnh giới tự tướng đó, có thể dễ dàng phân biệt, quán xét chúng sinh, mọi vật. Do vậy, chỉ thấy được chỗ căn bản của pháp. Tin tưởng vào không là loại trừ tính kiêu mạn chấp giữ pháp. Còn vô ngã nhẫn là loại trừ tính kiêu mạn của chúng sinh. Hỏi: Do có tướng chúng sinh nên Bồ-tát phát sinh tâm Đại Bi. Vậy tại sao nói tin pháp là vô ngã, chả lẽ tướng Đại Bi đó của Bồ-tát đi ngược với pháp? Đáp: Nhờ tâm Đại Bi nầy mà Bồ-tát mới chứng biết mọi pháp đều vô ngã. Bồ-tát chỉ nhớ nghó đến thế giới chúng sinh, vì họ bị vô minh che mờ, chỉ có tu tập trong pháp vô ngã mới lìa mình ra khỏi sự chấp tướng chúng sinh. Do đã chấp là sinh ra ngã và ngã sở. Đã duyên ái thì trở lại tạo nghiệp hữu lậu, như vậy thì xoay vòng không dứt nổi đường sinh tử. Vì thế, Bồ-tát nghó thế nầy: Ta sẽ khuyên bảo chúng sinh hãy tin tưởng ưa chuộng các pháp nầy. Thế nên, Bồ-tát với tâm đại bi thương xót chúng sinh càng sâu nặng. Hỏi: Ông đã nói tâm hướng đến Niết-bàn, nay cũng cần phải giải thích nghĩa Niết-bàn? Đáp: Niết-bàn là không còn duyên vào nghiệp quả phiền não. Vì không duyên nên dòng chảy của chúng sinh đã diệt mất, đó là Niết-bàn. Không duyên thì lửa tắt, lửa trí tuệ chỉ còn hơi ấm. Không duyên nên hạt giống của thức diệt mất. Dù còn duyên vào vị lai, mọi hữu dù có nảy mầm như hạt giống nhưng lửa đã tắt, mầm hữu lậu không sinh. Dập tắt lửa phiền não là Niết-bàn chân thật, như cây đã bị nhổ tận gốc. Nhưng Niết-bàn thì có hai thứ: 1. Niết-bàn hữu dư; 2. Niết-bàn vô dư. Hữu dư chỉ diệt phiền não. Vô dư thì không còn duyên. Không từ tập, khổ, diệt, mà gọi là Niết-bàn. Vì tới Niết-bàn nên gọi là đến Niết-bàn, cũng gọi là trụ Niết-bàn. Hỏi: Hướng tâm đến Niết-bàn là sao? Đáp: Thấy chúng sinh kẹt trong hoạn nạn thế gian như thế, nên ta phải làm thế nào để dập tắt phiền não cho họ, để mọi người đều đến được chỗ tịch diệt, đó là lónh vực của cam lộ. Ý hướng đến Niết-bàn phát sinh cùng thức, tập hợp pháp trắng, đấy gọi là ý hướng đến Niết-bàn. Hỏi: Ý đã không xả bỏ thế gian, thì thế gian nầy có nghĩa gì? Đáp: Nghiệp phiền não nó giả tạo, duyên nhau, thay đổi nhau, nên từ vô thỉ đến nay luôn nối tiếp nhau không đứt đoạn ở thế gian. Vì đến mọi thế gian, nên gọi là đạt đến thế gian. Thế gian tịch diệt, hữu học là nghĩa nầy. Dù thấy mọi khổ hoạn, nhưng Bồ-tát vẫn phát ý về thế gian, không xả bỏ chúng sinh, chỉ tu tập, phát tâm làm việc cho đời. Hỏi: Khi tâm theo đời làm việc cho đời, hễ tu tập pháp trắng thì được pháp trắng, còn tu tập pháp đen thì bị đen. Trong trường hợp đó, ý nghó Bồ-tát hướng đến Niết-bàn như thế nào? Bồ-tát không phát sinh nghiệp giống đời chăng? Đáp: Đem lòng làm lợi ích cho người khác, nên Bồ-tát đã tu tập lâu dài các hạnh của Bồ-tát. Về ý hướng đến Niết-bàn, vì lợi ích kẻ khác, tâm Bồ-tát có thể đi ngược lại Niết-bàn. Do biết rõ thế gian đa số đều mắc nạn, nên dù đã nhàm chán thế gian, có ý hướng về Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vẫn không thể bỏ chúng sinh, do vậy Bồ-tát cần làm việc cho đời. Bồ-tát nghó thế nầy: Bồ-tát không phải từ trong pháp thể vô lậu làm cho pháp Bồ-tát sinh và lớn lên, nhưng từ thể hữu lậu mà các pháp Phật được sinh ra lớn lên. Thế nên, Bồ-tát không từ bỏ pháp Bồ-tát. Mặc dù thấy thế gian có nhiều hoạn nạn, nhưng Bồ-tát vẫn nguyện duyên vào thế gian. Như Phật đã nói với Ca-diếp: Cây đem trồng ở không trung làm sao sinh trưởng? Do vậy phải có kiết sử lẫn tạp nhiễm ô của thế gian pháp mới có thể làm cho pháp Phật phát triển. Do đó, Bồ-tát vì giáo hóa chúng sinh mà làm bố thí… Hỏi: Cần giải thích thêm việc Bồ-tát giáo hóa chúng sinh? Đáp: Tâm chúng sinh bị đẫm ướt phiền não. Do vậy dạy họ nên nghe pháp, tư duy và tu tập, là tạo hơi ấm đầu tiên cho họ. Rồi gom góp thành căn thiện xuất thế, khiến hơi ấm được nung thêm, tùy theo năng lực làm cho họ được yên ổn trong căn thiện vô lậu. Theo họ mà giáo hóa rộng khắp, gọi là Bồ-tát giáo hóa. Do khéo léo tu tập tâm từ bi và phương tiện thiện xảo để giáo hóa tâm chúng sinh, nên Bồ-tát dùng tài thí và pháp thí để gồm thâu hết thảy chúng sinh. Gom rồi thì xét xem họ ham thích cái gì, tùy năng lực mà giáo hóa họ theo pháp ba Thừa. Hỏi: Nói bố thí, vậy bố thí là gì? Đáp: Ban cho của cải và giáo pháp cùng lúc với tâm không tham, giữ hoài việc làm bố thí đó mà không mong trả ơn, gọi là bố thí. Mọi sự giáo hóa bằng bố thí đều có quả báo khác nhau, nhưng Bồ-tát đều không mong đền ơn. Bồ-tát đã xả cái vui thích của việc làm, nên không còn mong trả ơn. Đó là nghĩa của bố thí. Hỏi: Nói không xả bỏ chúng sinh mà làm việc bố thí, thì sao không gọi là mong cầu quả báo được? Vậy thì nói làm việc bố thí, nhưng tâm không mong cầu được đền đáp là sao? Đáp: Dù không mong cầu được quả báo, nhưng vẫn làm việc bố thí, giáo hóa chúng sinh, làm một cách tự nhiên có hại gì đâu. Hoặc nghó thế nầy: Lónh vực quả báo có nhiều đường đến mà quan trọng là: Phát tâm Bồ-đề, nhớ nghó và không bỏ chúng sinh. Giáo hóa họ bằng việc làm bố thí, công việc nầy đem đến cho thế gian vô lượng quả báo. Như vậy sau nầy trái ngược với Nhất thiết trí sao? Để tránh việc trái ngược đó, cho nên ngay lúc nầy phải hướng chúng sinh thực hành bố thí, Bồ-tát quán sát khuyên bảo họ tu tập công đức chân thật của Bồ- tát. Thế nên nói, làm bố thí, không mong người trả ơn, đó là nói theo nghĩa vừa nêu, chỉ rõ Bồ-tát đã thành tựu tâm sâu xa và tâm ngay thẳng, chứ không vì mong cầu điều mình ưa thích mà bố thí v.v… để được quả báo. Tâm Bồ-tát ở trong nhân và quả không hề vướng mắc, đam mê, không có sự mong cầu, mà chỉ vì lợi ích của chúng sinh, mong cho họ đều chứng Bồ-đề Phật. Khi phát thệ nguyện tu tập các căn thiện, Bồ-tát luôn nghó thế nầy: Nếu có pháp như thế, ta sẽ tu tập Nhất thiết trí rồi xả thí cho tất cả chúng sinh. Tuy nhiên, các pháp mỗi thể đều tự có, người tu các hạnh tự thân họ sẽ được quả báo. Dù vậy, ta tu tập Nhất thiết trí chỉ vì lợi ích cho mọi người. Dùng nó với nghĩa phương tiện. Bồ-tát từ lúc tónh tâm đến nay, mọi sự tu hành đều khiến để phát khởi hết thảy trí và bố thí là nhân của các pháp. Có được những ý nghó duyên với hết thảy trí, là các quả của pháp. Hết thảy mọi pháp đó đều là của Bồ-tát vì lợi ích cho chúng sinh, luôn khởi tâm hướng đến thành tựu của lợi ích. Do nghĩa nầy mà công đức của Bồ-tát khác với Thanh văn, Duyên giác. Đấy gọi là công đức chân thật của Bồ-tát. Thanh văn và Phật-bích-chi làm việc bố thí cho thế gian là để tự chuyển hóa mình. Các ngoại đạo thì vì mục đích mong cầu quả báo từ bên ngoài mà làm hạnh tà. Để đối trị với hạnh tà đó, nên mới nói Bồ-tát an trụ trong chính hạnh, chỉ rõ bốn điều có ích bằng bốn câu, nên biết. Bốn điều lợi ích đó là: Được kho tàng chôn giấu lớn tự tại. Siêu việt hơn đạo ma, vì làm cho không còn các oan gia. Từ bỏ tâm dua nịnh quanh co, ở chốn trống trải, nhàn nhã v.v… Mọi thứ thọ dụng không hiềm nghi quở trách. Hỗ trợ cho vô lượng phước đức trang nghiêm, thành tựu sự nghiệp hỗ trợ vô biên công đức. Để so sánh các lợi ích v.v… nầy, sẽ trình tự giải thích. Ở câu 1: Được kho tàng chôn giấu lớn, nghĩa là hỗ trợ thành tựu việc làm công đức, trí tuệ. Trong đấy nói có thể gặp chư Phật, là hỗ trợ thành tựu hạnh công đức. Ba câu sau là hỗ trợ việc làm trí tuệ, là dựa vào sự tập hợïp việc làm công đức trí tuệ. Bốn câu thứ hai vượt qua đạo ma, làm sạch chướng ngại, dựa vào sạch chướng đó. Bốn câu thứ ba là gồm thâu mọi pháp căn thiện, gom góp tất cả pháp trắng, dựa vào sự gom góp mọi pháp trắng. Bốn câu thứ tư, hỗ trợ, tập hợp và thành tựu vô lượng công đức, để làm được mọi lợi ích cho tất cả chúng sinh và được vô biên công đức, nên biết. Có bốn thứ khi được kho tàng điều phục lớn: Là thân cận người tốt lành, giỏi nghe chính pháp, vắng lặng tư duy, thuận theo pháp mà làm, và đó cũng là pháp thứ, nên biết. Có thể được gặp Phật, có thể thân cận người tốt, có thể giỏi nghe sáu pháp Ba-la-mật, giỏi nghe chính pháp. Đem tâm vô ngã thân cận hầu hạ người nói pháp, tâm phải vắng lặng, tư duy, không phóng túng. Ưa ở chốn núi rừng, tâm không lười biếng, có thể thực hành pháp tùy thuận và dùng pháp thứ. Trong đấy nói có thể được gặp chư Phật là cúng dường chư Phật, hỗ trợ thành tựu việc làm công đức. Ba câu còn lại: Văn, tư, tu, tuệ thanh tịnh, là hỗ trợ việc làm trí tuệ thành tựu. Dựa vào thế mạnh của đời để làm các pháp tương tự. Nói bốn điều nầy là được kho tàng điều phục lớn của pháp, nên biết. Thế gian có bốn loại việc: Thấy sự tướng vui thì cười đùa đủ cách. Ham nghe âm nhạc hưởng thú vui kỹ nhạc. Nghó nhớ cách tiêu dùng kho tiền của. Xúc chạm, thọ nhận mọi sự ăn uống khác. Như vậy, thấy Phật là nghe, tư duy, tu tập v.v… nên biết. Bồ-tát có bốn thứ pháp vượt qua khỏi đạo ma. Vì biết dựa vào bốn thứ ma để nói pháp vượt qua khỏi đạo ma, nên biết. Bốn thứ ma: Gây trở ngại khiến cho kẻ tu Đại thừa bỏ tâm Bồ-đề; gây chướng ngại cho việc giáo hóa chúng sinh; đối với việc chúng sinh làm, nó không gây tâm ác, đối với việc không làm khác nó gây trở ngại; ai hiểu biết rộng, nó gây cản trở và cản trở luôn việc làm đầy đủ các hạnh. Đối trị với tất cả chúng sinh khởi tâm kiêu mạn, Bồ-tát nói thừa bất động, chỉ họ tự bỏ những nhân không phải hạnh của chúng sinh, từ bỏ các nhân tà hạnh và bỏ sự thiếu hụt chính hạnh. Do đó mà vượt hơn đạo ma. Bồ-tát có bốn pháp gồm thâu được mọi căn thiện, bốn pháp nầy dựa vào bốn căn thiện để gồm thâu hết thảy thiện: Nhất tâm địa tu tướng. Bất nhất tâm địa tướng. Loại tướng giáo hóa chúng sinh. Tướng tu khổ hạnh và tướng văn tư. Bỏ tâm dua nịnh quanh co. Ở chốn trống trải thanh vắng, thị hiện tướng tu hành căn thiện. Hành bốn nhiếp pháp, đối với mọi chúng sinh không cầu trả ơn, nghĩa là vì chúng sinh mà giáo hóa là hạnh phải hành. Chúng sinh là người cần giáo hóa, đó là hạnh phải hành. Tướng chúng sinh là phải giáo hóa. Vì tất cả chúng sinh mà không tiếc thân mạng, vì mong cầu chính pháp là rất khó. Tướng khổ hạnh là nghe pháp không biết chán đủ, tìm hiểu nghĩa không biết chán đủ. Gom góp tất cả căn thiện và tu hành tinh tấn, đấy gọi là hình tướng của văn, tư. Bồ-tát có bốn sự việc trang nghiêm vô lượng phước đức. Dựa vào dục phát khởi nơi chúng sinh mà dạy họ lìa xa tham dục rồi nói bốn lónh vực. Đó là: hoài nghi, mê loạn, do dự v.v… vì đề phòng rơi vào đường ác. Kẻ ưa chuộng Tiểu thừa và kẻ phát sinh tâm niệm độc ác, chê bai đối với pháp Phật, trong đó, tâm Bồ-tát không mong cầu trả ơn mà vẫn làm việc bố thí, đó là muốn kẻ nghi ngờ, mê loạn, do dự v.v… kia quay về với chính pháp. Đối với người phá giới mà vẫn phát tâm Đại Bi, là Bồ-tát muốn đưa họ ra khỏi con đường ác kia. Ca ngợi, khuyến khích, giáo hóa tất cả chúng sinh phát tâm Bồ- đề. Khiến người có tâm ưa chuộng Tiểu thừa quay lại, đối với người có trình độ thấp kém, dạy họ tu tập hạnh nhẫn. Sửa đổi tâm kẻ độc ác, chê bai v.v… pháp Phật. Nếu không che chở chỉ dạy cho kẻ hẹp hòi, yếu kém, thì họ sẽ phát sinh tâm ác đối với pháp Phật. Do có bốn điều siêu việt nầy mà Bồ-tát vượt vô minh phiền não. Bốn điều đó là: Vâng giữ giới cấm, duy trì chính pháp, phóng hào quang tỏa sáng qua các đời, cho vật dụng của cải, và cả sự đồng ý v.v… Đấy là bốn pháp vượt qua lónh vực vô minh phiền não. Bồ-tát có bốn điều không chướng ngại, khiến đạt được đầy đủ trí không chướng ngại: Bố thí pháp. Giữ gìn, bảo hộ chính pháp. Không phát sinh tâm niệm ganh ghét. Không khinh bỉ chê bai người khác. Không phải chỉ có văn tự mà được gọi là Bồ-tát, mà đó còn là sự thị hiện khác nhau của chính hạnh, tính từ lúc mới phát ý cho đến lần lượt nói pháp thị hiện nhiều phương tiện tu hành. Dựa vào hạnh thù thắng, bình đẳng v.v…, đó là pháp hành của Bồ-tát, nó chỉ rõ hạnh Bồ-tát là cao vượt hơn hạnh của Thanh văn. Hạnh bình đẳng là coi thân mình và kẻ khác như nhau. Bồ-tát thị hiện các hạnh thiện không phải chỉ vì tất cả chúng sinh. Hạnh thiện đó ở trong hạnh Bồ-tát, nó chính là ý nghĩa thiện trong lành rốt cùng hơn hết. Phương tiện khéo léo là dựa vào Bồ-đề. chính hạnh theo pháp thiện là Bồ-tát giỏi sử dụng các phương tiện khéo léo trong việc làm của mình, trong đó hạnh Bồ-tát là hành chính pháp. Do vậy chính hạnh của Bồ-tát có năm thứ cao vượt hơn hạnh của Thanh văn và Duyên giác. Đó là đem yên vui và lợi ích thiết thực cho tất cả chúng sinh, giúp chúng sinh được an trụ Nhất thiết trí. Khéo có thể cân xứng với công đức của mình là do tâm sâu xa cao vượt. Do tâm sâu xa cao vượt, nên Bồ-tát tự thân thường vì an vui lợi ích cho tất cả chúng sinh, không phải như các Thanh văn, Duyên giác. Bồ-tát có khả năng dùng bốn hạnh thù thắng nhằm khuyên bảo mọi người tin tưởng và ngộ nhập Nhất thiết trí. Bồ-tát biết là phải luôn luôn khuyên bảo chúng sinh ngộ nhập vào tất cả trí tuệ, không phải như các Thanh văn, Duyên giác. Khéo léo và giỏi cân lường tương xứng công đức của mình, không làm hư hỏng trí của người khác, là Bồ-tát giỏi biết những gì mà mình đã chứng được, đồng thời cũng biết hạnh của Nhị thừa, chứ Nhị thừa thì không thể thông đạt được công đức của Bồ-tát. Tâm không quanh co dua nịnh là Bồ-tát không có tâm chấp trước, kiêu ngạo, vì đã chứng biết pháp vô ngã, nên tu tập trí tuệ. Câu thứ hai: Thanh văn v.v… có nói: Đây là lónh vực cao vượt của phước điền nầy. Ý thức ngộ nhập sâu xa và kiên cố, nghĩa là vì mục đích giáo hóa và đem lại lợi ích cho chúng sinh, nên Bồ-tát phát sinh ý thức ngộ nhập vững chắc, không phải như các Thanh văn, Duyên giác v.v… từ bỏ việc làm lợi ích cho chúng sinh để nhập Niết-bàn. Trong hạnh của Bồ-tát khi thị hiện có tám bằng nhau: Thương kính bằng nhau. Có ba thứ khác nhau tùy lúc tâm thực hiện: Thương kính không hư vọng là chỉ rõ không có tâm mong cầu. Coi kẻ thù và bà con như nhau là chỉ rõ dù có làm lợi ích cho ai hay không thì hai việc làm như nhau. Mãi mãi có khả năng làm thiện tri thức cho đến khi nhập Niết-bàn là chỉ rõ có lòng thương kính bất cứ khi nào. Thường trù tính lo nghó đầy đủ việc thương kính, trước là hỏi han, đó là chỉ rõ việc an ủi hỏi han với tâm bằng nhau, đặt ra thời hạn để các tâm thành thục như nhau được vui mừng vì giáo hóa. Đã hứa với ai cái gì thì trọn không để họ lo ta không làm, đó là chỉ rõ sự giúp đỡ công việc với tâm như nhau. Trách nhiệm nặng nề đã gánh vác hay chưa cũng không bao giờ làm đứt mất hành động của tâm từ bi đối với hết thảy chúng sinh. Không mỏi mệt là chỉ rõ tâm bi và tâm vô lậu đều như nhau chứ không thiên lệch, do hứa nhận lãnh gánh nặng. Vả lại tâm không mỏi mệt là chỉ rõ không bị trói buộc mà lúc nào cũng an vui như nhau, không có tâm buồn rầu trong gánh nặng mình đã lãnh. Mãi học chính pháp để tiếng thơm không chán là chỉ rõ cách dùng phương tiện giỏi như nhau, giỏi thông văn nghĩa, tùy sức mà sử dụng làm phương tiện giáo hóa. Chỉ thấy lỗi mình không thấy lỗi người là do không có tâm giận dữ, để người khác nói là chỉ rõ những gì mình đã nói đều như nhau. Nếu đã không thấy lỗi mình mà do tâm giận nói ra thì đó là nói có như nhau. Dùng tâm Bồ-đề làm chỗ dựa cho mọi oai nghi là chỉ rõ mọi phát nguyện đều như nhau, ngang bằng với mọi điều thiện. Mọi việc làm như nhau đều hồi hướng về Đại Bồ-đề. Nguyện làm căn thiện là hành giả muốn thị hiện hạnh bố thí, một trong sáu Ba-la-mật mà không cầu quả báo. Mỗi Ba-la-mật như thế v.v… đều có đối trị chướng và hiện rõ thuyết vô ngại. Các Ba-la-mật như là bố thí v.v… gồm cả thân miệng có thể nhẫn, tất cả chúng sinh không thể làm, không thể phá hỏng tâm nhẫn, nên kinh nói: Không phá hỏng tâm nhẫn nhục của tất cả chúng sinh. Vì tu tập tất cả căn thiện, là chỉ rõ sự tu tập căn thiện của ba Thừa, nên siêng năng tu hành tinh tấn. Mặc dù sinh lên cõi Vô sắc, nhưng vẫn phát sinh hạnh thiền định, là do ở trong cõi Sắc có được sự sống giỏi hay dở, nên biết. Bồ-tát sinh trong cõi Sắc không phải trong Tam-ma-bạt-đề là vì đã thành thục thân mình trong pháp Phật, còn đến thế giới khác để thân cận chư Phật, ở cõi Dục mà làm lợi ích cao vượt cho chúng sinh, không cần phải dùng phương tiện thuộc lónh vực cõi Vô sắc, mà hạnh tuệ nầy thuộc vào bốn nhiếp pháp (ở cõi Dục). Phương tiện là phương tiện thuộc về bốn nhiếp pháp, chỉ rõ bốn pháp đó là: Việc hành theo pháp. Việc tu hành. Việc hành theo tính. Việc kết quả của tu hành. Có ba hình thức của việc hành đó: Có tâm từ bi đối với người giữ giới hay phá giới. Đối với họ không có hai tâm, không có tâm phân biệt. Truyền dạy ở đây là dạy bảo cho kẻ giữ giới, hay kẻ không giữ giới. Hết thảy sự truyền dạy nầy là buông bỏ hết, không phân biệt ai có công đức hoặc ai gây họa, hay hy vọng truyền dạy để họ thân cận thầy dạy (Bồ-tát). Chí tâm nghe pháp là hết lòng dũng mãnh đón nhận các lời dạy bảo. Thường ưa cảnh núi rừng là dựa vào cảnh vắng lặng yên tónh để đối trị các dục vọng tham lam v.v… Ba câu nầy chỉ rõ việc tu hành. Ba câu nào chỉ rõ việc của tính? Là tâm không ưa dính mắc mọi việc thế gian, là chỉ rõ tâm không tán loạn. Vì không tán loạn, nên không đắm vào Tiểu thừa. Thường thấy lợi ích lớn trong Đại thừa. Bỏ qua tâm Tiểu thừa, sẽ thành tựu đúng theo tâm Đại thừa. Tránh xa bạn ác, nên thân cận các bạn lành, ở nơi vắng lặng, yên tónh, vẫn tu tập dũng mãnh không ngừng, thân cận chúng sinh, thân cận nhẫn. Giáo hóa chúng sinh không ngừng trong sự yên tónh, vắng lặng, dũng mãnh không ngừng nghỉ cho nên sống theo pháp đã nói như là Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na, nó gồm thâu mọi tư tưởng không cho tán loạn, tùy sự nhớ nghó, tùy bạn đồng hành, mới được hành sự theo pháp nầy. Kết quả của tính có hai thứ tướng là tâm thanh tịnh và sự giáo hóa chúng sinh. biết. Tâm tịnh là do trí tuệ thanh tịnh của thế gian và xuất thế gian, nên Thành tựu bốn phạm hạnh, trang nghiêm diệu dụng với năm thần thông. Dựa vào trí tuệ thanh tịnh của thế gian mới nhận được công đức lớn. Do hỗ trợ gom góp năng lực nương tựa tu hành có kết quả làm sạch trí tuệ thế gian, nên biết. Thường nương tựa trí tuệ là tu tập trí tuệ thế gian, nhưng do biết đủ nên từ bỏ tâm niệm tham lam mà hoàn toàn mong cầu trí tuệ xuất thế gian, đấy gọi là trí tuệ xuất thế gian, nên biết. Bốn câu nói về việc giáo hóa chúng sinh là chỉ rõ việc đối với những chúng sinh sống theo lối tà hay chính hạnh, nhưng ý định vẫn không buông bỏ, vì trụ vào điều mà người ta không thể chịu đựng nổi về rắc rối hoạn nạn, để từ đó vượt qua, với khả năng chịu đựng được mọi thiệt hại mà không mong cầu quả báo. Thường giữ lời nói chắc chắn có nghĩa là lời nào Bồ-tát nói ra là chắc chắn, và Bồ-tát luôn kính trọng mọi người trước sau, che chở nhau, chứ không phải trước đã nói rồi, sau lại không thích nói nữa. Quý trọng lời nói chân thật là Bồ-tát luôn kính thương và giữ gìn lời nói thật, làm theo lời mình nói. Tất cả mọi hành động đều dựa vào oai nghi mà làm, chỉ lấy tâm Bồ-đề làm đầu. Dựa vào đó để chứng Bồ- đề. Không ưa mong cầu lợi dưỡng, tiếng khen. Sống với chính hạnh rõ ràng như vậy là Bồ-tát đã chỉ rõ các công đức thù thắng, đã nói ra các thí dụ, nên biết: Nầy Ca-diếp! Như đất bao la có thể tiếp nhận mọi thứ. Trong thí dụ đầu là chỉ rõ Bồ-tát nương vào chúng sinh giúp tăng trưởng và phát triển các hạt giống để có quả báo tốt, nhưng với tâm thì không phân biệt. Không mong cầu sự báo đền là việc làm dù tốt hay xấu đều không mong báo đáp. Tâm không biết đủ đối với việc làm lợi ích hay không lợi ích. Dùng thí dụ thứ hai, thứ ba và thứ tư là chỉ rõ sự phát triển của nghĩa nương tựa, là giáo hóa chúng sinh, khiến họ tăng trưởng đến cùng hạt nhân của căn thiện. Tăng trưởng là như trăng lúc mới mọc, vầng trăng với màu sắc, hình dáng sáng tỏ rồi càng lúc càng tỏa sáng khắp nơi. Thí dụ thứ năm là dựa vào việc làm lợi ích cho chúng sinh, là chỉ rõ Bồ-tát tăng trưỏng, tự thành tựu hạnh, hỗ trợ đạo Bồ-đề. Thí dụ sáu là như sư tử, chúa của muôn thú, tùy ý muốn đến bất cứ nơi nào đều hoàn toàn không kinh hãi, mà an ổn bước đi. Thí dụ thứ bảy là chỉ rõ việc không lo sợ Niết-bàn hay thế gian mà không bám víu hai nơi đó. Ví như khéo điều phục voi chúa, để nói rõ khả năng chở được mọi đồ nặng mà không thấy mệt mỏi. Thí dụ thứ tám là chỉ rõ dù phải gánh vác việc nặng thế gian, nhưng Bồ-tát không khựng lại trong mỏi mệt, khác nào hoa sen mọc trong nước mà nước không thể dính ướt. Thí dụ thứ chín là chỉ rõ Bồ-tát không thể bị phiền não của thế gian vấy nhiễm, ví như có người chặt cây, rễ vẫn còn nên nó sống mãi. Thí dụ thứ mười là chỉ rõ Bồ-tát không sợ nhiễm phiền não, nhưng cũng không chứng Niết-bàn, ví như tất cả sông ở mọi nơi đều đổ ra biển cả, khi ấy chỉ có một vị mặn. Thí dụ thứ mười một là dù có căn thiện và phiền não, nhưng vẫn hồi hướng phát nguyện gồm thâu hết, là chỉ rõ nhân Bồ-đề, như núi chúa Tu-di là nơi nương tựa của các trời Đao-lợi và Tứ Thiên vương v.v… Thí dụ thứ mười hai là đề phòng Thanh văn đồng Niết-bàn. Thanh văn kia từ bỏ thệ nguyện của mình và các căn thiện mà nhập Niết-bàn, trong khi các Bồ-tát mặc dù thị hiện Niết-bàn, nhưng không bỏ lời thệ nguyện của mình, là chỉ rõ Bồ-tát được đại tự tại với mọi căn thiện, ví như nhờ vào năng lực của các bầy tôi, nên vua lo xong mọi việc của quốc gia. Thí dụ thứ mười ba là chỉ rõ việc Đức Thích-ca thành đạo rồi, tại sao nhập Niết-bàn mà vẫn có thể làm lợi ích cho chúng sinh, ví như trời nổi đám mây to ắt là trút xuống trận mưa, mọi quả hạt đều tăng trưởng. Thí dụ thứ mười bốn là nơi nào Chuyển luân Thánh vương sinh ra thì nơi đó có đầy đủ bảy thứ châu báu. Thí dụ thứ mười lăm là vì lẽ gì Đức Thích-ca không nói pháp mãi mãi và thị hiện giáng sinh mà còn phải chờ đợi thời gian? Thí dụ thứ mười sáu là như nơi nào có ngọc ma-ni thì nơi đó có vô lượng trăm ngàn vạn thứ châu báu như vàng, bạc v.v… Thí dụ thứ mười bảy là thị hiện Thanh văn v.v… đồng đẳng, còn có lỗi lầm trong Niết-bàn. Vì Thanh văn kia v.v… thì không có sự bình đẳng, ví như các trời Đao-lợi cùng vào vườn như nhau, mọi vật dụng đều đồng đẳng. Thí dụ thứ mười bảy: Chỉ rõ v.v… vì không có năng lực, nên Thanh văn không thể nhận lãnh nổi pháp cao vượt. Đối với mình và người, Bồ-tát đều làm lợi ích như nhau cho hết thảy chúng sinh. Ví như năng lực của chú thuật, thuốc độc, tuy giữ gìn nọc độc, nhưng nó không thể hại người đó. Mọi phân rác trong nội thành kia nếu đem bón cho ruộng mía bồ đào thì có ích lắm chứ. Thí dụ thứ mười tám và thí dụ thứ mười chín là chỉ rõ các Bồ-tát dù chưa đoạn tuyệt các phiền não, nhưng việc thị hiện vẫn cao vượt hơn Thanh văn, vì hàng Thanh văn không có khả năng gây lầm lỗi hay làm công đức lợi ích lớn cho chúng sinh. Các thí dụ nầy, ở câu trước đã phân biệt nói rõ, câu sau cũng sẽ lần lượt nói rõ, nên biết. Việc đó ra sao? Từ lúc mới phát tâm, Bồ-tát chỉ biết giúp đỡ làm cho căn thiện chúng sinh thành tựu, dù trước, giữa, sau vẫn không mong trả ơn. Đối với tất cả việc tốt hay xấu, tâm Bồ-tát như mặt đất, nhưng không phải là đất, vì mọi người nương nhờ vào đất mà sống, nhưng đất không hề biết. Bồ-tát không phải vậy, Bồ-tát biết mình khởi lòng thương kính là nhằm phát sinh nhân của căn thiện cho chúng sinh. Tâm Bồ-tát như nước nhưng không phải nước. Việc tiêu dùng nước có những trái ngược nhau. Bồ-tát không phải vậy, Bồ-tát nói pháp chán lìa v.v… là nhằm làm căn thiện của chúng sinh thành thục. Tâm Bồ-tát như lửa nhưng không phải lửa. Sự biến hóa thế giới chư Phật về thành tựu có khác nhau. Bồ-tát không như vậy, vì muốn giáo hóa chúng sinh thành thục, nên Bồ-tát chỉ rõ giải thoát, vận lực ứng hóa giúp vào việc truyền dạy giáo pháp. Tâm Bồ-tát như gió nhưng không phải gió. Người ta thấy gió thì lại mượn sức của nó mà sử dụng. Bồ-tát thì không phải vậy, tự ở chính mình, Bồ-tát có khả năng làm lớn thêm các pháp trắng. Tâm như trăng, nhưng không phải trăng, do trăng chỉ chiếu sáng phân nửa tháng, còn phân nửa tháng thì không. Bồ-tát không phải vậy, Bồ-tát lấy tâm bình đẳng và trí tuệ chiếu sáng mọi pháp, cả pháp đen lẫn pháp trắng. Tâm như mặt trời, nhưng không phải mặt trời. Mặt trời khi vận chuyển còn phải sợ La Hầu che khuất. Bồ-tát không phải vậy, bất cứ sinh nơi đâu, Bồ-tát vẫn không bị sự phiền não che mù mà cứ sống. Tâm như sư tử, nhưng không phải sư tử, vì sư tử mang gánh nặng thì sinh thoái lui. Bồ-tát không phải vậy, Bồ-tát có khả năng chịu đựng hết thảy mọi gánh nặng của khổ. Tâm như rồng chúa điều phục, nhưng không phải như rồng chúa được lợi hay mất lợi, nhu nhuyễn ngữ, khổ vui, phòng hộ, lợi ích, thất bại, tâm nhiễm. Bồ-tát không phải vậy, đối với hết thảy pháp thế gian, Bồ-tát không sinh tâm đắm nhiễm dù có tăng ích thế nào. Tâm Bồ-tát như hoa sen, lại không phải như hoa sen, vì cọng sen bị cắt đứt rồi thì không thể mọc ra nữa. Bồ-tát không như thế, mặc dù dập tắt các phiền não, do năng lực căn thiện, nhưng Bồ-tát có khả năng nảy sinh tâm từ ở cõi thế gian. Như cây không bị chặt rễ. Lại như gốc cây không bị chặt đứt, chỉ còn có khúc gốc ngay thẳng. Bồ-tát không thế, đối với căn thiện của mình, Bồ-tát đều hồi hướng về Bồ-đề và Đại Niết-bàn. Tâm như lội vào biển nước, nhưng không phải như lội vào biển nước, chỉ gọi là tùy thuận (xuôi) như nước biển. Bồ-tát thì không thế, bằng vào sự tu tập các căn thiện, thành tựu đại Bồ-đề và Niết-bàn, Bồ- tát vẫn có thể dạo chơi. Tâm như núi chúa Tu-di, nơi cư trú của các trời, nhưng không phải núi chúa Tu-di là nơi cư trú, vì các trời chỉ ưa đắm say niềm khoái lạc của mình với tâm niệm quá nhiều phóng túng. Bồ-tát thì không như thế, vì dùng năng lực phương tiện trí tuệ không cùng chung, nên có thể xét rõ hết thảy những việc mà chư Phật đã làm. Tâm như quốc vương, lo liệu xong việc nối nghiệp đất nước do sự gắng sức của đại thần, nhưng không phải như quốc vương, vì quốc vương phải nhờ công đức của các quan, chỉ vì lợi ích cho mình, phòng vệ nước mình. Bồ-tát không như thế, vì Bồ-tát từ bỏ, hy sinh hạnh phúc khoái lạc của mình để đem đến cho chúng sinh sự che chở thấm nhuần lợi ích. Tâm như bầu trời nổi mây to, nhưng không phải như bầu trời nổi mây to, vì mây không thể thường xuyên cho mưa mà còn phải do thời tiết khéo điều hòa thành thục. Bồ-tát thì không thế, Bồ-tát có khả năng tăng trưởng và phát sinh mãi pháp phần Bồ-đề. Tâm như sự xuất hiện của Chuyển luân Thánh vương, nhưng không phải như xứ sở ra đời của Chuyển luân Thánh vương, vì chỉ có một vua chứ không thể có hai bậc đại nhân cùng ra đời. Bồ-tát thì không như thế, Bồ-tát với tâm giải thoát, bình đẳng cùng phát sinh một lúc. Tâm như ngọc quý Ma-ni, nhưng không phải như ngọc quý Ma- ni vì vónh viễn không ra khỏi kho tàng Ca-ly-sa-ba-na v.v… Bồ-tát thì không như thế, khi đã nhập vào giới pháp vô lậu, thì Bồ-tát đồng hết thảy việc làm, đồng nhận mọi niềm vui. Tâm như các vị trời ở cung Đao-lợi đi vào vườn đồng đẳng, nhưng không phải như các trời ở cung Đao-lợi đi vào rừng đồng đẳng, vì họ chỉ có thể tăng trưởng các nghiệp phiền não mà thôi, chết rồi vẫn phải đọa vào đường ác. Bồ-tát thì không thế, vì đã dập tắt các phiền não, Bồ-tát không thể mắc vào chỗ ác, cứ an nhiên mà khuất phục các phiền não độc. Lại nữa, không phải như người cất giữ chất độc để sử dụng, không làm hại muôn vật và không ích lợi. Bồ-tát thì không như thế, vẫn có khả năng dùng phiền não của mình làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh. Tâm như đống phân phiền não nhơ bẩn ở trong thành to kia. Bồ-tát cũng thế, như thế gian hay khen ngợi các công đức v.v… nào là tốt đẹp hơn công đức kia, nên gọi là công đức không gì so sánh bằng, chính từ nghĩa đó, các Bồ-tát đều được gọi là công đức không có gì sánh kịp, nên biết. Do có sự khác nhau trong chính hạnh. Đã nói về các công đức cao vượt, nhưng chưa nói đến thể tính tướng của chính hạnh. Nó được chỉ rõ bằng nghĩa trung đạo. Dứt bỏ ngay hai bên là nghĩa trung đạo. Hai bên là gì? Hết thảy ngã kiến là bên của ngoại đạo. Họ chấp ngang ngược ấm, giới, nhập, đó tức là thường kiến, còn về sau nói chung chấp thường còn là một bên, chấp có ngã là một bên. Bên Thanh văn, Duyên giác, ở trong các ấm, lại chấp vô thường, vô ngã. Còn sau nầy tổng quát mà nói, thì vô thường là hai bên, vô ngã là hai bên. Đứng giữa hai bên ấy gọi là trí không phân biệt. Trí đó không phân biệt nghĩa, gọi là vô sắc, do không thể diễn nghĩa, nên gọi là không thể trông thấy; nó không ở trong hoạt động của thức, gọi là không hoạt động, nó không có chủ thể và đối tượng chấp. Đó là vô tướng, bỏ chủ thể chấp thì chỉ là ý thức ghi nhận là vô ký. Không trụ ở thế gian và Niết-bàn, nên gọi là vô trước, nên biết. Do ngoại đạo chấp ngang ngược có ngã, nên nói pháp đối trị là không thấy có ta, người, chúng sinh, sự sống lâu của chúng sinh, sự nuôi nấng, giáo dục, con trai, Bổ-đặc-già-la và không thấy Ma-na-bà. Những gì đã nói, nên biết. Thanh văn, Duyên giác lầm chấp ấm là vô thường, nên lấy vô ngã để đối trị và bảo cho họ quán sắc là chẳng phải thường, cũng chẳng phải vô thường, quán sát thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường, cũng chẳng phải vô thường, cho đến ngã là một bên, vô ngã là hai bên. Đứng giữa hai bên thấy hết thảy là không sắc, không hành, không mạng, không trí, không giác ngộ, không vướng mắc. Nầy Ca-diếp! Đó gọi là trung đạo chính quán, là sự chân thật của mọi pháp. Nói chấp vô thường, chấp vô ngã là nhân. Không phá bỏ hai cái chấp đó thì sẽ thấy đối tượng chấp là vô số, và chủ thể chấp phân biệt cũng vô số. Nầy Ca-diếp! Nếu chấp tâm có thật thì đó là một bên, nếu chấp tâm không thật thì đó là hai bên. Họ cho tâm chân thật là thuận theo phân biệt, chấp vô thường, vô ngã, hoặc phân biệt là thường, là ngã v.v… Nếu không có tâm sở, hoạt động của nghiệp là chỗ dựa. Không có tâm sở là vì chỉ có hoạt động tạo nghiệp. Không có ý nghĩa là những gì đã nói không có suy lường trước. Không có thức là quả báo. Pháp thiện, bất thiện là tùy thuận ngu si hay chẳng phải ngu si. Ngu si là kết quả không đáng mến, phải đối trị nó. Nói có tội, không có tội, là không có các điều ác ở thế gian và xuất thế gian. Hữu lậu, vô lậu. Vô lậu thì không thể nhận lấy tâm hữu lậu là tâm hữu lậu. Còn hữu lậu thì làm bạn với pháp đen, là pháp ô nhiễm đã nói. Bạn pháp trắng là pháp trong sạch v.v… trong đó hoặc tâm có thật, hoặc tâm không có thật, đó là hai bên có chỗ tùy thuận trong các pháp. Có thiện, bất thiện, cho đến có nhơ bẩn, không nhơ bẩn, hết thảy sự dính kẹt hai bên đều không nắm bắt được, không thể nói, không thể xét nghiệm, phân tích rõ. Đấy gọi là trung đạo chính quán, là sự chân thật của mọi pháp. Không nắm bắt được là do sự cố chấp kia. Không thể nói là, chỉ vì nói sự cố chấp đó (không thể nói). Tự thể không thể nói đúng đắn khi người khác hỏi đến. Còn có những nghĩa khác. Tốt không tốt thì đây vốn là giải thích câu trên khác với câu trên nữa, đúng đắn. Nên biết, để đối trị với ngoại đạo, Thanh văn v.v… nên nói về nghĩa trung đạo, rồi mới nói đến pháp đối trị. Nói Bồ-tát đối trị chấp một bên ấy, vì trong đấy có ngoại đạo chấp ngã trái ngược. Nó được phát sinh từ đâu? Có thuyết nói: Như người mù té xuống đất. Các Thanh văn, Duyên giác v.v… tu hành chấp nhân vô ngã là do họ chỉ hiểu biết hoạt động của tâm lý. Họ phát sinh cái hiểu biết về hoạt động tâm lý là vô thường, vô ngã. Và vốn chấp pháp vô ngã, nên dựa vào những hoạt động từ vô thường vô ngã mà sinh. Bồ-tát nhận thấy tu hành pháp vô ngã xong, vốn học tập pháp vô ngã, nhưng qua đời sau chấp có bên sai lầm, do họ dựa vào ba thứ chấp có sai lầm. Đối trị là chỉ rõ tự tính của sự chấp đó. Về có, không, Phật nói với Ca- diếp: Có là chấp một bên, không là chấp hai bên, cho đến không thân mạng, không hay, không biết, không vướng mắc, đấy gọi là trung đạo chính quán, là sự chân thật của mọi pháp. Cách đối trị chướng là vô minh thì nói đến minh. Kinh nói: Nầy Ca-diếp! Ta vì các ông đã nói về mười hai nhân duyên từ vô minh duyên hành, cho đến vô minh diệt xong, thì các tưởng hư vọng lo buồn, khổ não v.v… cũng đều diệt mất. Nói thêm là chấp hữu vi, vô vi cũng diệt hết. Các câu hành và diệt hành, như thế là đối trị với các thứ chấp v.v… Đó gọi là từ bỏ tính chất chấp mà không còn vọng tưởng phân biệt chia hai. Nói không có hai tướng là tính chất vốn bình đẳng. Chẳng phải minh có khả năng sinh chấp, chẳng phải vô minh có khả năng diệt, chẳng phải hành có khả năng diệt chấp, trừ cái không diệt thì mới khỏi chấp. Dù có thành tựu phân biệt tính và tướng mọi thứ thì trí kia vẫn có khả năng đề phòng sự chê bai chấp một bên ấy. Chẳng phải minh, chẳng phải vô minh mà diệt được vậy. Không phải do không có khả năng làm cho các pháp thành không, không do vô tướng nên chỉ pháp tính tự không. Các pháp vô tướng là chỉ nó tự vô tướng. Cho đến các pháp tự nó không phát sinh, không chấp lấy, không tính. Như vậy là chỉ rõ ý nghĩa gì? Do thấy rõ các tướng là không nên biết pháp nhân duyên sinh là do tính phân biệt vọng tưởng cả, hoặc còn vì tính thành tựu, nên các pháp trở thành không. Tại sao? Do thể của pháp là vậy. Nếu tính là vọng tưởng phân biệt, hoặc nếu là tính thành tựu, thì các pháp cũng không. Như vậy cho đến vô tính, thì những điều đã nói đó là có ánh sáng và có chướng ngại. Điều đó chỉ rõ các pháp đã từ bỏ tính thành tựu của vọng tưởng. Nó đã đề phòng ngăn cản bảo vệ sự chê bai một bên. Trong đấy có bảy thứ đối trị chướng. Nói ánh sáng là không, cho đến vô tính. Bảy thứ chướng đó là: Đối trị với chấp có kia, nên nói là không. Đối trị với nguyên nhân của tướng tham, sân, si, nên nói là vô tướng. Vả lại, chấp lấy sự nguyện ước trong hữu lậu nhằm đối trị với nó nên nói là vô nguyện. Lại nữa, nhằm đối trị với hành động gây tạo nghiệp hữu lậu đó, nên nói là không tạo tác. Do nói có nhân quả sinh, nên đối trị nó mà nói là không sinh. Sinh rồi tất nhiên khổ vui, vì đối trị với quan niệm đó, nên nói không phát sinh. Vì chấp không, nên nảy sinh tâm niệm ngã mạn, để đối trị với tính ngã mạn đó, nên nói các pháp cũng vô tính vậy. Trong đấy nói quan sát vô ngã là nhằm ngăn ngừa con người ôm giữ lấy tướng. Ngoài ra, cho đến không có hai tướng là vì ôm giữ tướng của các pháp, nên Phật nói với Ca-diếp: Chẳng phải không có người mà gọi là không. Không là do tự nó không, là ngăn ngừa kiểu chấp tướng ngang ngược về người và pháp, mà không phải làm diệt mất sự duyên vào tướng của chúng sinh. Không phải dập tắt sự duyên vào tướng của chúng sinh mà tu tập không, nhưng không tự chính nó là không, là chỉ rõ cần diệt sự chấp tướng đối với pháp. Đó là tính vọng chấp phân biệt. Không là không, huống chi tất cả pháp hư vọng? Trong việc phân biệt sự chấp giữ là như thế do không tức chẳng có gì. Nương vọng chấp thì trong tính phân biệt là không. Chẳng phải không có gì thì trong tính thành tựu lại có. Như không nghĩa là hết thảy các pháp cũng thế. Do chấp giữ các pháp nên chỉ rõ pháp là vô ngã. Nhưng sự thành tựu đó là do ngày tháng. Kinh nói: Bến bờ trước là không, bến bờ giữa không, bến bờ sau cũng không, hết thảy thời gian đều thị hiện như vậy. Chỉ rõ cái có từ tự thể của bậc hữu học, vô học, phàm phu, các ông phải dựa vào không, dựa vào liễu nghĩa. Đối với không, chỉ rõ phương tiện phòng vệ, là đừng dựa vào người, mà phải dựa vào liễu nghĩa. Ngăn ngừa sự nương dựa đó rồi, thì gọi là an trụ dựa vào liễu nghĩa. Người ta phân biệt tùy theo nguyên nhân là hai thứ Bổ-đặc-già-la kia. Nếu hiểu không và liền dựa vào không là nói ý gì? Không còn vọng phân biệt, vì hiểu được tính không nên dựa vào nghĩa không. Dựa như thế xong, thì việc chấp có người và ta tan biến hết, chúng bị biến mất nhanh hơn. Để chỉ rõ ngã chấp và sự tan mất mau lẹ của nó, nên sau khi thành đạo, Đức Thích- ca mới nói với Ca-diếp: Thà phát sinh quan niệm chấp ngã lớn như núi Tu-di, hơn là chấp không. Hết thảy mọi kiến chấp chỉ tan biến khi hiểu lý không. Do biết sự phân biệt là không. Đã biết nghĩa chân thật của không, thì ngã mạn tiêu tan. Vì bám ngã chấp nên phát sinh sự chê bai. Kiến chấp con người là khó trừ. Thuốc của ông đã gây chuyển động nội tại, nhưng không toát ra bên ngoài cơ thể, đấy gọi là có bệnh. Kinh nói: Nầy Ca-diếp! Nếu người nào phát sinh chấp không, thì ta nói người đó là không thể đối trị. Do vọng chấp phân biệt tính nên người ta chấp ngang ngược vào nghĩa cho hết thảy mọi vật là hoàn toàn không có gì. Thí dụ hư không là phòng ngừa sự chuyển biến tà chấp. Người nào mang tâm chấp không thì họ đem ý tưởng không đó nhìn mọi pháp là không, trong mọi việc chẳng có gì để phân biệt. Do nhìn sai lệch như vậy nên gọi là biến chuyển chấp thủ ngang ngược. Pháp tính của các sắc v.v… nầy tự nó không có thí dụ. Nếu các chúng sinh mưu cầu trừ bỏ “không” là thí dụ cho sự tu hành. Thể không của pháp là huyễn. Do sợ cái thể đó nên vọng phân biệt các sự. Nếu các pháp sắc v.v… là không có, thì sự tu tập các hạnh hóa ra oan uổng vô ích. Để ngăn ngừa tai họa nầy, nên Phật nói thí dụ về họa só. Thật sự thì không có quỷ, đó là do họa só đã tự phân biệt, tư duy, tính toán mờ mịt, ngồi tréo giò trên đất vẽ ra. Như thế, cũng là sự việc không có sắc v.v…, mà các phàm phu ngang ngược, tự nhớ nghó, phân biệt tu hành, nên thế gian cứ mãi xoay vòng mà tu hành, không có trí để có thể trừ khử được ngu kia. Tu hành mà không hư vọng, trước đây đã giải thích sự tu hành phân biệt hư vọng. Nay sẽ nói đến việc phát tâm tu không hư vọng. Nếu tâm chỉ là mê muội, thì làm sao nói tâm đó có khả năng biết được để đề phòng mọi rủi ro và bảo vệ tâm đó, cho nên trước hết là đề phòng sự phân biệt hư vọng, đưa đến chấp giữ, cũng cần ngăn ngừa nó phát sinh hành động. Nói thí dụ về nhà ảo thuật. Sống với ảo thuật, là ông ta ràng buộc tâm trí và sự nhớ nghó vào ảo thuật. Làm ảo thuật là làm cho trí suy nghiệm, không nghó đến bất cứ việc gì khác, như ăn chẳng hạn, trí chăm chắm vào ý đó, không nhớ nghó chuyện gì khác sợ làm phân tán, quán như hư không v.v… từ bổn lai căn cơ tuệ Thánh, phải quan sát mà thấy như thật. Nhưng đã là không thì làm sao quán sát không như thật để chứng ngộ được trí xuất thế gian? Để ngăn ngừa câu hỏi khó khăn nầy, nên Phật dụ nói hai cây cọ xát với nhau, vì duyên nơi tư duy vắng lặng, nên từ chỗ đó có lửa nảy sinh căn tuệ Thánh. Trí tuệ Thánh phát sinh rồi, thì xả bỏ sự thị hiện quán sát vắng lặng kia, nên biết. Trí tuệ phát sinh để đối trị với không có trí tuệ. Để ngăn ngừa câu hỏi khi trí tuệ chưa phát sinh, nên Đức Phật đưa ra thí dụ ngọn đèn sáng, chỉ rõ đó là trí không phân biệt. Lúc trí tuệ đã phát sinh là đối trị vô trí. Thế nào là vô thỉ phiền não đối trị bằng hữu thỉ? Để ngăn ngừa câu hỏi khó đó, nên đã dụ về sự vướng mắc đèn sáng bên trong. Thí dụ nầy là dụ về nghĩa trung đạo. Đó là nói và giải thích giản lược. Nếu phân biệt rộng ra, Bồ-tát trụ trong giới chính hạnh, có sai biệt nên biết. Pháp mà Bồ-tát hành, nếu nói theo lý thật ngữ thì nó thuộc chân lý của thế tục và thật ngữ phân biệt. Nó biểu hiện cho sự tiệm giáo (giáo lý thứ lớp) chứ không như nghe âm thanh rồi giữ lấy. Do hình tướng như thế, nên không dựa vào thừa Thanh văn mà vượt qua Thanh văn, đó là trung đạo. Từng cúng dường và tu tập căn thiện, nghĩa là tùy thuận đi theo các pháp sâu xa của Đại thừa và tùy thuận “không”. Đối với trí phân biệt và không phân biệt đều thuộc về lý của chân lý thật. Chân lý thế tục và chân lý thật đã nói, chỉ nói từ sự liễu nghĩa của một pháp giới nghĩa đó, dùng nghĩa xuôi theo nơi nương tựa gọi là tu hành vắng lặng. Vì tu hành vắng lặng nên gọi là tùy thuận hướng về nghĩa trung đạo. Pháp trung đạo đó mở rộng ra, giảng nói về mười ba loại của trung đạo. Giải thích chúng sinh không là chúng sinh vô ngã và pháp không. Pháp vô ngã nầy là sự phân biệt ngang ngược, là chấp một bên và chê bai một bên. Pháp chứng ngộ và sự phát nguyện kia đều hướng về đại Bồ-đề. Thực hành như thế xong, đối với phiền khổ, tâm không chán đủ và càng tin hơn vào hai thứ vô ngã. Vô ngã ở trước, vô ngã ở giữa và sau, là tối tận cho đến các không. Cái không đó cũng được giải thích như nói về năng lực thần thông vậy. Giải thích về chúng sinh không là sao? Do một tướng. Nói nếu không tự quán sát là chỉ rõ không tự mình hiểu biết. Trong đấy có sự không phân biệt. Có ba thứ việc không phân biệt. Đối với chúng sinh làm rõ về năm ấm và những sự việc khác. Chuyển biến sáng suốt trong các giới, các nhập v.v… trong sự kiện tiếp nhận cần dùng kia, trong, ngoài và hai trung gian, như phàm phu chấp ngang ngược.  <卷>QUYỂN 3 Không chấp ngã thì làm sao giải thích thành người vô ngã, dùng một tướng thị hiện mà giác ngộ. Trong đấy, vì có sự giác ngộ nầy, nên nói không thường xuyên quán sát biết trở lại trong ba thứ việc kia. Phàm phu chấp giữ là do họ thường không nhận thấy, phàm phu đã cố chấp thì tự họ ôm lấy tướng khác của mình. Ấm là vô thường v.v… làm thế nào giải thích nó là pháp không cũng do một tướng thị hiện nhưng không giác ngộ, cho là chẳng quán sát vô thường? Biết mình không giác ngộ nên trở lại với lý vô thường đó, cả trong, ngoài và hai trung gian. Phàm phu nầy đã chấp giữ vào tướng thể tính giả nói mà họ không biết. Đã chấp như vậy, vì biết vô thường cũng không thể nói được, nên họ bằng lòng sống một cách tạm bợ như vậy. Do vậy, làm sao giảng giải pháp là vô ngã? Chỉ cho họ giác ngộ một tướng? Do có sự ngộ biết trên, nên những gì mà họ biết rõ chính là đã thấy biết cảnh giới của Thánh trí. Chỉ có bậc Thánh tự chứng biết nội tại mà không thể nói cho người khác biết. Sự giác ngộ đó có sáu loại tướng: Như phàm phu đã chấp lấy cái giả thì Thánh nói tính không tương tợ. Sáu hình thức đó là: Không phải sắc là tự trắc nghiệm, chỉ rõ nó không thể nói được. Đấy là những cái không thể thấy, nghĩa là sắc kia không thể nắm bắt được. Chỉ rõ sắc đó không đứng lại, nghĩa là vượt qua cảnh giới sắc căn. Căn, xứ, sắc kia v.v… không có khả năng đứng lại. Vô tướng là lìa khỏi sự nhớ nghó tính tướng. Vô ký là ly khai cảnh giới của ý thức. Không vướng mắc là không có sự kiện phiền não. Làm thế nào giải thích được sự chấp có một bên, nói đúng đắn về thị hiện, có hai thứ thắng tướng và nói đúng đắn về thị hiện thể tính tướng đó. Trong đó, nói đúng ra thắng tính tướng là gì? Mỗi thể tính và tướng đều có tám thứ. Chấp thường trọn thì có chấp ngã trọn. Chấp trọn là vô thường thì có chấp vô ngã. Dựa hẳn vào chấp vô ngã, nếu chấp có thật tại tâm thì dựa vào chấp có ngã. Nói không chấp sự cố chấp về tâm chân thật, nó là chỗ dựa của chấp có ngã, thì đó cũng là đi tìm tâm chân thật. Bằng sự đi tìm cái thật tâm, mà họ dựa vào để chấp, thì sự chấp kiên cố đó không phải thật tâm. Sự cố chấp là không tốt v.v… mọi chấp trước đó cho đến chấp sự ô nhiễm, chấp tướng có năm thứ tai họa của chướng. Đó là các tai họa điên đảo, tai họa của sự chê bai, tai họa của khởi ý, tai họa của sự ác độc thô bạo, và tai họa vô thường ở trong các pháp nhiễm. Sự chấp giữ vào tâm thật thì đối trị với tâm đó là sự an ổn ở trong pháp thanh tịnh tốt đẹp, cho đến sự thanh tịnh mà được an ổn. Đấy là tám thứ an ổn tốt đẹp hơn hết. Trong tám thứ an ổn tốt đẹp nầy, Bồ-tát không giác ngộ ý niệm tùy thuận, không chấp giữ, không nói đến sự tùy thuận, không khuyên bảo người khác, không giác ngộ sự tùy thuận, không chê bai người khác. Duyên nơi sự an ổn chân thật, thì như trên đã nói rõ, là cần phải dựa vào tám sự an ổn tốt đẹp vượt trội vừa nói. Phàm phu đã ràng buộc ý niệm, duyên vào sự an ổn tạm bợ, với tác dụng của tính chất bám chấp an ổn như thế, làm sao cởi bỏ sự chê bai một bên? Thì cũng do một tướng mà thị hiện có việc chê bai. Chê bai là do tin tà pháp, duyên nơi vô ngã trong mọi lúc. Nói không có tướng của mọi pháp là theo nghĩa ấy. Đó là nói giản lược (vắn tắt) về sự chấp ngang chê bai một bên. Lìa sáu thứ tướng ở trên là làm sáng lên nghĩa trung đạo. Giải thích thế nào để thành tựu việc chứng ngộ các pháp? Như kinh nói: Nầy Ca-diếp! Minh và vô minh đều không sai không khác. Nhận biết như thế thì đây gọi là trung đạo chính quán chân thật, cho đến già, chết, diệt mất, thì sự quán sát đó không hai, không khác v.v… Có ba thứ tướng để giải thích việc chứng pháp, ba tướng đó vốn nói lên ba sự việc về nhân duyên thứ tư trong đó có chướng, có đối trị, trụ vào pháp hữu vi, vô vi, chỉ rõ tính tướng đều không thể nắm bắt được, cho nên có chỉ rõ việc cao vượt cũng không thể nắm bắt được, sự học tập đó đã chứng được trí như thật. tính tướng không thể nắm bắt được là như phàm phu chấp lấy tính tướng của minh và vô minh thì đều không thể nắm bắt được. Sự cao vượt không thể nắm bắt là hết thảy phàm phu kia ngang ngược chấp tính tướng sinh diệt, tụ tập mà đều không thấy có hai tướng. Trí chứng ngộ thì đã nói đến nó cũng như nơi nó nương tựa, nghó nhớ, không nhớ nghó, tu hành không chướng ngại. Do nội trí mà biết chứng pháp vô ngã, còn pháp Bồ-tát chứng làm sao giải thích? Vì phát nguyện hồi hướng đại Bồ-đề, cũng là một tướng. Nếu nói không phải đem lý không làm cho các pháp trở nên không, thì với bảy câu nói như thế, Bồ-tát vì làm lợi ích cho chúng sinh, đem lý không mà không làm cho các pháp trở nên không, không rời bỏ phiền não, nghĩa đó là như thế. Không là do vô nguyện mà làm cho các pháp thành vô nguyện. Không là do vô tướng mà làm cho các pháp thành vô tướng. Không hiện khởi lại dòng sông của nghiệp và dòng sông của ý niệm, hết thảy mọi hành đều vô tính, đem Niết-bàn chấm dứt dòng chảy của thế gian. Đã hành như vậy rồi thì sao? Ấy là tâm chưa lìa mình ra khỏi nỗi khổ phiền não, nhưng cũng do nghĩa một tướng. Nói như các pháp là có tính và không tính. Với bảy câu nói như thế v.v… là chưa tiêu diệt được các pháp thù oán chướng ngại v.v… Quán như thật, chứng như thật, thì chứng như thật là hành pháp vô ngã, đối với mọi pháp chướng ngại dùng thể tính thì cái thấy không còn nhiễm và khổ nữa. Làm thế nào để giải thích giỏi bốn thứ tướng? Là chỉ rõ cái thấy thắng tướng. Là chỉ rõ được tướng xa lìa, là một sự xa lìa tốt. Là chỉ rõ cái hơn hẳn của loạn làm mất thiền định. Là chỉ rõ cái tâm loạn hơn hẳn. Với cái thấy cao vượt thì như kinh nói: Nầy Ca-diếp! Không phải không có người mà gọi là không, cho đến bờ chính giữa cũng không. Không phải chỉ vì không thấy có người mà nói là không. Ý nghĩa đó là sao? Trụ vào chúng sinh, không là không thấy pháp không, chỉ có tự thể không của các pháp. Đời vị lai ở trong Niết-bàn sẽ cắt đứt tâm kiêu mạn và giỏi quán sát đối tượng chấp và cho đến người chấp hành trí vô ngã, lìa giả danh, tính thuộc về không. Không giỏi quán sát ba thời quá khứ, vị lai, hiện tại, nên gọi là không quán sát chân chính ngọn lửa trí chân như, cho nên kiêu ngạo, lầm lẫn, chấp giữ vào pháp vốn là không, là giả danh. Nói dựa vào không, không dựa vào pháp vì vô ngã, chân thật là không. Pháp đó do không dập tắt mất cái gốc đối tượng chấp là chúng sinh không và vì chấp mà pháp sinh có, gọi là tướng lùi mất. Bồ-tát đối với pháp nầy không như thế. Vì do nghĩa đó nên đã chỉ rõ pháp vô ngã là hạnh thù thắng của Bồ-tát. Đức Phật nói với Ca-diếp: Các ông phải nương tựa vào không, cho đến bị lùi mất trong pháp Phật. Sự xa lìa trụ nơi cao vượt trong chúng sinh vô ngã. Ngã kiến là từ chỗ phàm phu thấp nhất càng đi xuống thấp nữa bằng hai hình thức: Khổ không tránh khỏi. Hành khổ. Vì hai tướng mạo nầy, nên Phật nói với Ca-diếp: Thà phát sinh sự cố chấp của chúng sinh chất chứa như núi Tu-di, chứ không vì chấp không mà phát sinh tư tưởng tăng thượng mạn. Vì sao? Nầy Ca-diếp! Tất cả các cố chấp đều do không mà được giải thoát, còn chấp không thì không thể trị. Đoạn văn nầy chỉ rõ nghĩa đó. Thà khởi ngã kiến chất đầy như núi Tu-di, có nghĩa là ngã kiến ấy có thể đối trị, có thể làm cho nó diệt. Không vì chấp không mà phát sinh tư tưởng tăng thượng mạn. Do không thấy pháp vô ngã, nên mới khởi tăng thượng mạn. Nên biết, ngã là không nên thấy các hành đều không, vọng tưởng chấp tính không cũng là không, không thể nắm bắt nó. Thể không và chấp ngang, phân biệt tính là không rồi ngang ngược an ổn vào lónh vực điên đảo. Do an ổn ngang ngược vào kiến đó mà thành chấp không. Nếu phát sinh chấp không thì không có thuốc chữa, không thể nắm giữ. Nên biết, đã không thể nắm giữ cho nên không tránh khỏi các nỗi khổ sinh v.v… do mọi lúc không thoát ly phiền não nóng bức, không thể vui vẻ tu hành, như bệnh nhân không thể chữa trị. Diệt trừ thứ chấp mà trước đây nói là hai thứ tướng, như lương y trao thuốc cho bệnh nhân, cho đến nếu phát sinh chấp không, thì ta nói người đó là không thể cứu chữa. Thí dụ nầy chỉ rõ: Như bệnh nhân chưa đến nỗi sắp tắt thở, nhưng do khuấy động chứng bệnh, hoặc động vào nguyên nhân, hoặc không khuấy động nguyên nhân gây bệnh trước sau, khiến bệnh nhân nhận hai thứ cảm giác đau khổ nầy. Như vậy, chấp nhân vô ngã không diệt thì đồng với chấp ngã và không lìa chấp sinh không, pháp vô ngã, vì tự thuận theo bệnh phiền não. Hai thứ chấp trước, sau đều diệt, nên gọi là diệt. Bồ-tát không thế. Ở đây nói diệt là thiện thắng. Như kinh nói: Ví như có người sợ hãi hư không như thế v.v… Lại nhìn vào khoảng không tự nhớ nghó, phân biệt, cố chấp ngang ngược, tạo nên nỗi sợ hãi cho mình. Người đó kêu lên: Xua tan hư không đi, xua tan nó đi! Như vậy người nầy trụ vào nhân vô ngã, không trụ vào pháp vô ngã, vì ngã mạn nên sinh sợ hãi. Hư không chẳng có việc gì để có thể nói mà ngang nhiên chấp nó rồi an ổn tạm thời vào đó chấp tạm bợ vào sắc rồi đòi cắt đứt những gì là sắc là tưởng… Bồ-tát không thế. Ở đây nói tâm rối loạn là hơn hết. Đức Phật nói với Ca-diếp: Ví như họa só tự sáng tác nên bức vẽ đầy hình dáng kinh hãi, như hình tượng quỷ Dạ-xoa như thế v.v… Như vậy sẽ mất bản tâm, chạy theo loạn động trụ vào nhân vô ngã, tự phân biệt, tự nhớ nghó, thật có các cảnh giới. Người đó vì do tư tưởng điên đảo làm cho họ trở thành điên đảo. Bồ-tát không thế. Thế nào là giải thích nói về nguyên nhân do hai thứ thí dụ? Thí dụ nhà ảo thuật. Thí dụ hai thanh gỗ cọ xát vào nhau. Thí dụ đầu chỉ rõ việc quan sát chủ thể chấp, do nhân vô ngã, nên trí chỉ duyên nơi các hành. Người đó nhìn pháp bằng trí vô ngã, quán pháp nầy cũng bằng trí vô ngã, nên gọi là người chấp và quán. Nhưng nhân vô ngã trí và pháp vô ngã trí đó đều là nhân. Vì có nhân đó, nên mới có thí dụ nầy. Như nhà ảo thuật và người huyễn thuật là nhân. Thí dụ nếu người huyễn thuật ăn thì nhà ảo thuật cũng hóa làm như thế. Dùng pháp vô ngã trí chúng sinh vô ngã trí mà lìa mình ra khỏi giả danh, thì đó là không. Lìa được mình ra khỏi phân biệt, nên vắng lặng. Vì có thể rời bỏ tướng, vì không có sự cố chấp, vì là không, không có vật gì nên không quán sát chắc chắn như ăn. Thí dụ thứ hai chỉ rõ: Ví như hai việc thật sự chứng đắc, thì sự chứng đắc như thật đó có được do quan sát chủ thể và đối tượng quán đều vắng lặng, tư duy nhớ nghó nhân là không rời nhau, vónh viễn biết được bên trong của mình nên phát sinh trí quyết định. Quán sát đối tượng ở đây, có nghĩa là quán sát chúng sinh bằng trí vô ngã. Còn chủ thể là thực hành pháp vô ngã trí. Hai trí đó, như hai miếng gỗ trên, dưới cùng chiều, xếp vào nhau, vắng lặng tư duy, vì duyên vắng lặng nên nội tại đã chứng biết mới nảy sinh trí quyết định, gọi là chứng ngộ chân thật. Thí dụ hai miếng gỗ nầy, chỉ rõ nguyên nhân có thể được là do hai thanh gỗ cọ xát vào nhau nên mới phựt lửa. Lửa nầy trở lại đốt cháy hai miếng gỗ kia. Như vậy, trí của nhân vô ngã, pháp vô ngã là nguyên nhân hành động. Sự nảy sinh là pháp vô ngã trí, vì duyên nơi trí nội tại nên quyết định nảy sinh trí. Hết thảy tính chất vọng niệm nghó chấp của hành trí ấy, nhờ trí quán như thật mà có thể đốt cháy. Nói phổ biến cho đến không là sao? Cũng do nghĩa một tướng. Trở lại, vì nhận thấy như thật trong trí của pháp vô ngã kia, nên nói thí dụ: Như khi đèn cháy, thì tất cả bóng tối đều tự biến mất. Thí dụ nầy giải thích cho nói pháp. Trong đấy, nhận thấy như thật là vì không có trí v.v… là lìa danh tính giả tạm. Không là vì không chấp như thế. Không thể chấp lấy sự vắng lặng là vì không giác ngộ. Giải thích “không” là gì? Nghiệp diệt mất, phiền não cũng diệt mất, là vì hiện tại đã đối trị. Đức Phật nói với Ca-diếp: Ví như trong khu nhà, hoặc trong từng căn, từng buồng, từng phòng, trải qua hàng ngàn năm cho đến nay, hết thảy những bóng tối trong ngôi nhà đó được xem là các nghiệp kiết sử. Thí dụ nầy chỉ rõ sự diệt. Đến mất đi là sự tìm kiếm, tức đã nảy sinh trí tuệ sáng suốt, có thể làm diệt mất các nghiệp phiền não từ vô thỉ đến sau nầy. Nếu có thể nhanh chóng dập tắt các phiền não như thế, thì tại sao các Bồ-tát lại tu hành lâu dài trong thế gian? Thí dụ thứ hai là chỉ rõ được thắng quả tốt đẹp đó. Đức Phật nói với Ca-diếp: Ví như gieo giống trong khoảng không, cho đến các sử, tạp pháp thế gian cũng có khả năng nuôi lớn pháp Phật, hạt giống có thể sinh sôi nảy nở trong thửa ruộng tốt có nhiều tạp uế. Những thí dụ như thế nhằm chỉ rõ việc Bồ-tát hướng tâm Niết- bàn, nhưng không bỏ chúng sinh. Vì thành tựu pháp Phật mà nguyện ở lại thế gian, vì đã hồi hướng phát nguyện các căn thiện, tu hành lâu dài các hạnh. Niết-bàn ở đây là vô vi, ví như hư không, nếu nương vào hư không thì pháp Phật không được nuôi lớn. Thế gian là thửa ruộng tạp nhạp ô uế phiền não, tâm Đại Bi của Bồ-tát cũng như mảnh đất có tạp uế phiền não, nắm giữ mảnh đất nầy Bồ-tát mới thể hiện khả năng làm tăng trưởng pháp Phật. Vì sao dựa vào pháp hữu vi thấp kém mà Bồ-tát có khả năng tăng trưởng pháp Phật vô thượng? Lấy thí dụ hoa sen để giải thích một cách sáng tỏ, nên Đức Phật nói với Ca-diếp: Chỉ ở những chỗ đất ẩm thấp, đầy bùn lầy, hoa sen mới mọc lên. Bồ-tát cũng như thế, chỉ ở trong vũng bùn sinh tử tà định của chúng sinh, Bồ-tát mới làm pháp Phật phát sinh. Nếu như thế thì đối với Bồ-tát, các Thanh văn không có mười hai sự việc cao vượt nầy. Mười hai điều đó là gì? Đó là: Cao vượt trong tu tập các căn thiện xen tạp. Cao vượt trong tu trí và hạnh. Cao vượt trong quả giải thoát thuộc về tận vô sinh trí giải thoát cùng đạt. Cao vượt trong việc hàng phục các ma oán. Cao vượt trong vô học. Cao vượt trong A-la-hán. Cao vượt trong chúng sinh, nói nghĩa ứng cúng. Cao vượt trong việc nói rõ pháp thù thắng, dựa vào tứ song bát bối. Cao vượt trong hiện pháp được Niết-bàn, nói rõ pháp thù thắng trong chúng sinh. Cao vượt trong sự đạt tịch diệt cao cả từ chúng sinh cho đến chín lónh vực chúng sinh. Cao vượt trong việc tâm được tự tại. Cao vượt trong việc khó điều phục chúng sinh. Vì đề phòng sự vấn nạn, nên nói các thí dụ, nên biết. Vì đề phòng sự khó khăn cao vượt ban đầu, nên nói hai thí dụ biển cả và sữa tươi, vì vô lượng chúng sinh không nhận lãnh pháp thọ dụng tương tợ. Thí dụ thứ hai đề phòng sự khó khăn về trí Bồ-tát thì có hai: Vì đối trị với chướng của tự thân và của người khác trong vô lượng thân chúng sinh. Thí dụ thứ ba bênh vực sự khó khăn của Bồ-tát, có hai thứ: Thí dụ về người đàn ông, như lónh vực giải thoát của bậc cao thượng, các thừa Thanh văn và lời thệ nguyện của họ là lónh vực của kẻ nghèo. Lónh vực của tôi tớ bị sai khiến thì Bồ-tát cũng không rời bỏ những chúng sinh nầy. Nơi vua ở là thệ nguyện của Đại thừa, vì đề phòng các sự oán thù. Thí dụ ban đầu về Chuyển luân Thánh vương và con chân thật của Như Lai, là phòng hộ sự cao vượt của vô học. Thí dụ thứ hai Chuyển luân Thánh vương, là để nói Bồ-tát không đoạn tuyệt chủng tử Phật. Phòng vệ sự cao vượt của A-la-hán, vì kham nhận ứng cúng. Thí dụ thứ ba về Chuyển luân Thánh vương, là nhân truyền trao Nhất thiết trí, đề phòng nói đến mọi cao vượt trên. Dùng thí dụ Tỳ-lưu-ly, ban đầu là gồm thâu để được tâm Bồ-đề. Phòng hộ người nói pháp là vì sự cao vượt trên. Nói thí dụ cây thuốc chúa, vì có thể chữa khỏi bệnh phiền não cho chúng sinh. Thí dụ sự cao vượt trên là phòng hộ nguồn sáng trong chúng sinh. Không thể xả bỏ vầng trăng, vì có thể tạo nên trí tuệ sáng suốt cho tất cả chúng sinh, phòng hộ được sự cao vượt là sự vắng lặng hơn hết. Nói mặt trăng trong thí dụ ban đầu, là chỉ nhân tụ tập trí công đức, hỗ trợ được Bồ-đề. Phòng hộ sự cao vượt về tâm được tự tại bằng thí dụ ngọc lưu ly, vì Bồ-tát đã thành tựu quả vị Nhất thiết trí, phòng hộ sự cao vượt khó khăn nảy sinh. Thí dụ như chế biến ngọc Tỳ-lưu-ly. Tâm tự tại hơn mọi lợi dưỡng của công đức Thanh văn. Dựa vào Bồ-tát mà nói giản lược các thí dụ nầy như thế. Chỉ rõ công đức của Bồ-tát vượt hơn Thanh văn. Từ đây về sau sẽ nói rộng về các công đức. Có bao nhiêu hạng Thanh văn? Giới của Bồ-tát có những gì vượt hơn giới của Thanh văn? Có bốn hạng Thanh văn. Hơn nữa, giới của Bồ-tát còn có mười ba thứ tướng vượt trội hơn giới của Thanh văn. Bốn hạng Thanh văn là: Ứng Thanh văn, Ngã mạn Thanh văn, Lập nguyện Bồ-đề Thanh văn và tính diệt định Thanh văn. Ứng Thanh văn: Nếu phải hóa độ chúng sinh, thì chư Phật và Bồ- tát đã giáo hóa. Đấy gọi là Ứng Thanh văn. Thanh văn Ngã mạn: Là chúng sinh chỉ dùng vô ngã trí và tà pháp là vô ngã, mà trí lại chấp vì kiêu ngạo ta đây, cho là đã thanh tịnh, đó là Thanh văn Ngã mạn. Lập nguyện Bồ-đề Thanh văn: Là từ trước đến giờ tâm thương xót yếu kém, nhưng nhờ thân cận Đức Như Lai và nhờ học tập, thân tâm rất tin tưởng pháp Phật sâu xa vô thượng, làm việc công đức được huân tập thành tựu. Mặc dù an trụ trọn trong giới vô lậu, nhưng chư Phật đã khuyên bảo họ và nói các phương tiện, nhân đó mà các Thanh văn kia được tu tập đại Bồ-đề. Mặc dù họ đã tu tập Bồ-đề như thế, nhưng về sau trong việc làm lợi ích cho chúng sinh họ còn chậm chạp, không nhạy bén và vì ưa thanh tịnh riêng, không phải từ khi mới phát tâm mà có Phật tính, đấy gọi là Nguyện Bồ-đề của Thanh văn. Thanh văn với tính diệt định: Từ trước đến nay, vì tính nhỏ nhen, mỏng manh của tâm xót thương, họ hoàn toàn quay lưng với chúng sinh và tâm niệm sợ hãi trước nỗi đau khổ của thế gian, chỉ đứng lại hướng về cảnh giới Niết-bàn, không đủ khả năng tu tập đại Bồ-đề. Ví như hai vương tử với hình dáng, diện mạo giống nhau, đồng thọ hưởng mọi khoái lạc do vua ban, nhưng một người đã khéo thấu biết pháp chế của vua, và các thứ kỹ thuật v.v…, còn vị vương tử thứ hai thì không được như vậy. Người thứ nhất giỏi kỹ thuật hơn người thứ hai, nhưng sự thọ dụng khoái lạc thì chẳng thể nào như nhau. Cũng vậy, Bồ-tát an trụ trong giới vô lậu giỏi hơn Thanh văn trụ trong tính diệt định. Bồ-tát vượt hơn Thanh văn ở các lónh vực: Thân Bồ-tát tu tập pháp trắng, trí tập hợp tương tợ, tính giữ nhà hạnh, năng lực thần thông, tu hành, phước điền cao vượt hơn ca nhân quả, và dựa vào sinh, nên biết như vậy. Như gieo giống ở giữa trời mà nó sinh trưởng được thì không có lý đó. Nhưng gieo giống trên ruộng tốt lẫn với sự nhơ nhớp thì nó vẫn sinh sôi, nảy nở. Ở trên đồi đất gò cao thì hoa sen không mọc được. Các thí dụ như thế, nhằm chỉ rõ tính diệt định của Thanh văn và nói đến sự cao vượt về lòng tin, sự chí tâm của Bồ-tát. tính diệt định của Thanh văn, như đất nhơ tạp nhạp. Mọi việc làm phải xen lẫn trong bùn phiền não ô nhiễm của chúng sinh, nhưng lại quay lưng đi, nhất định hướng về cảnh giới Niết-bàn, cũng như chỗ đất đang hừng hực cháy trong thế giới chúng sinh thanh tịnh, mà tâm đồng và an trụ. Trái với tính chất của Bồ-tát hướng đến tâm Niết-bàn và cùng với chúng sinh trụ trong thanh tịnh. Tâm Bồ-tát không bỏ chúng sinh vốn mang nhiều phiền não mà còn luôn cứu độ họ, sống với thế gian tạp nhiễm và sẵn sàng dẫn dắt chúng sinh. Lấy thí dụ về lónh vực tập hợp các pháp trắng được thay thế lẫn nhau để chỉ rõ việc làm cao vượt của Bồ-tát. Thanh văn vẫn có các pháp trắng nhưng ít và mỏng manh, chỉ có ích cho mình. Pháp Bồ-tát thì vô lượng, luôn tăng trưởng lợi ích cho tất cả chúng sinh và xem họ như con mình. Ví như người cha dùng sữa tươi nuôi lớn các con, Bồ-tát cũng thế. Căn thiện của mình nhiều vô lượng, như sữa tươi nuôi nấng, giáo dục, làm tăng trưởng các Bồ-tát mới học tập như con, như đứa con trai. Hư không là chỉ rõ trí tập hợp cao vượt, Thanh văn sử dụng trí vô lậu chỉ nhận thấy tự thân không tịch. Bồ-tát ở ngay trong các phiền não là vì tấm lòng thương xót, với trí đồng chứng ngộ, khuyên bảo chúng sinh quay về với tất cả chúng sinh trong mười phương, làm cho họ đồng phát nguyện hướng về Bồ-đề vô thượng. Thí dụ về bậc đại phu và tớ gái, là chỉ rõ cái cao vượt về lónh vực tương tợ. Thanh văn nhớ nghó đến cảnh giải thoát cao vượt, mẹ bậc đại phu, thì ý thức nhỏ hẹp, thấp kém, còn người cha thì tâm nghèo nàn cùng khổ gia tăng, nên họ không thành Phật tử (Bồ-tát). Các vị Bồ-tát rời bỏ tính thấp kém của phàm phu chúng sinh, nghó đến đứa tớ gái nơi mẹ sai khiến, như đại vương dùng tâm thượng niệm quán đảnh thành tựu, được gọi là Phật tử (Bồ-tát). Thí dụ về Chuyển luân Thánh vương ban đầu là chỉ rõ sự cao vượt của lónh vực tính, như vương tử của Chuyển luân Thánh vương đã thành tựu các năng lực, thành tựu thế lực, và thành tựu uy lực cùng cực. Nhưng do không có tướng Chuyển luân Thánh vương, nên không đủ khả năng làm Chuyển luân Thánh vương. Thanh văn cũng thế, siêng năng tinh tấn, thành tựu các năng lực chắc chắn và khéo léo, thành tựu thế lực mà tâm không buông bỏ, thành tựu uy lực cùng cực nhưng không có tướng, tính Phật, nên chư Phật Như Lai không ủng hộ, tiếp nhận, dẫn dắt. Bồ-tát dùng hai thí dụ Chuyển luân Thánh vương để chỉ rõ sự cao vượt của trì gia (giữ nhà). Mặc dù Thanh văn có năng lực đến tận quá khứ, vị lai, nhưng vẫn không thể nào giữ vững được ngôi nhà của Phật, trong khi đó, Bồ-tát mới phát tâm đã có năng lực duy trì được. Thí dụ về Chuyển luân Thánh vương thứ ba là chỉ rõ việc làm cao vượt. Mặc dù Thanh văn đã chứng ngộ đến cùng, nhưng các trời, Thánh, người đều không cung kính, khen ngợi. Thí dụ về ngọc Tỳ-lưu-ly tượng trưng cho Bồ-tát mới tu hành, là chỉ rõ sự cao vượt về năng lực thần thông cao tột. Từ địa thứ nhất, thần lực trí tuệ của Bồ-tát đã bỏ xa Thanh văn, Duyên giác. Thí dụ về cây thuốc ở núi Tuyết là chỉ rõ việc cao vượt của sự tu hành. Dù Thanh văn đã thành tựu trí, có thể diệt trừ chứng bệnh phiền não, thuốc trí chữa khỏi bệnh phiền não của chúng sinh, nhưng trái với chất Bồ-tát. Chỉ vì Bồ-tát thường làm việc giúp ích cho mọi người. Thí dụ về các vì sao là chỉ rõ sự cao vượt về phước điền. Dù cùng tận đến quả vị, Thanh văn vẫn không thể dùng trí tuệ soi sáng chúng sinh, không làm nên ruộng phước để hóa độ hết thảy hàng người, trời. Còn Bồ-tát thì không diệt phiền não, nhưng có thể làm ruộng phước cho tất cả hàng người, trời, gieo trồng căn thiện. Thí dụ về mặt trăng, trăng mới mọc, là chỉ rõ sự cao vượt trong mọi sự cao vượt. Chư Phật, Như Lai mãi mãi cao vượt hơn Thanh văn và Bồ-tát. Sự cao vượt đó là từ Bồ-tát mà có. Có hai hình tướng để Bồ-tát đi tới chỗ cao vượt. Bồ-tát giáo hóa chúng sinh và thành thục pháp Phật, thế nên có Bồ-đề và được quả vị. Tùy vào sự giáo hóa chúng sinh mà họ được giải thoát. Như người kinh doanh các loại cá, kết quả có được số cá với hình thù kỳ dị, lòng hoảng sợ không dám ăn. Đây cũng như thế, nên biết. Ví như chư Thiên và loài người, tất cả thế gian đều khéo giữ gìn ngọc lưu ly. Thí dụ nầy chỉ rõ sự cao vượt của nhân, quả. Dù Thanh văn có một mực tu tập nhân tốt của pháp thanh tịnh, lại thân cận với vô lượng thiện tri thức, nhưng vẫn không thể được quả Đại Bồ-đề, vì chất của việc họ làm khác với Bồ-tát. Nói các vị Bồ-tát là vì Bồ-tát có thể chứng quả đại Bồ-đề. Như thợ chế biến ngọc quý Tỳ-lưu-ly, thí dụ nầy chỉ rõ sự cao vượt dựa vào sự phát sinh. Các Thanh văn nương vào Bồ-tát mà xuất hiện ở thế gian, chứ không phải Bồ-tát dựa vào Thanh văn để xuất hiện ở thế gian, vì nghĩa dứt hết mọi điều ác, giữ gìn vững chắc điều thiện. Đức Phật nói với Ma ha Ca-diếp: Nầy Ca-diếp! Nếu có cõi nước mà trong nước đó chỉ có con lạc đà với cổ đen, đầu ngước lên, vừa ngủ gà ngủ gật, cho đến nước đó không có gì lo sợ. Nầy Ca-diếp! Bồ-tát vẫn thường xuyên cứu hộ đem lại lợi ích cho chúng sinh. Lần lượt sẽ nói ra. Từ đây trở về sau sẽ chỉ rõ được lợi ích của kết quả kia, mà sự cao vượt như đoạn trước đã nói. Nói trong bùn phiền não nhiễm tạp, Bồ-tát có thể tăng trưởng pháp Phật. Nếu thế, thì không phải tăng trưởng trong thân của Bồ-tát, cũng không phải các Bồ-tát khác giúp đỡ thân Bồ-tát nầy, thì làm thế nào trong thân Bồ-tát mà có thể tăng trưởng Bồ-tát? Vì chúng sinh nên tu tập các hạnh là chỉ rõ lời nói nầy: Nếu tăng trưởng cho Bồ-tát, là cũng đã tăng trưởng cho đạo của mình. Kinh nói: Bồ-tát thường cứu hộ như thế v.v… là chỉ rõ cho đến bốn phương, tất cả thế giới, tất cả thệ nguyện của Bồ-tát, đều là những việc làm lợi ích cho chúng sinh. Hoàn toàn chữa trị chân thật. Ai lìa khỏi lương y mà chữa lành bệnh của thân, thậm chí lìa ngoại đạo mà chữa trị được phiền não, thì đó không phải là cách chữa trị chân thật, chỉ là giả danh trị, là điên đảo trị. Trong đó, Bồ-tát dụ như lương y, hết thảy chúng sinh dụ như người bệnh. Là bệnh tham lam, sân… thuốc là pháp quán bất tịnh v.v… Có ba thứ hình thức tịnh bị chấn động mạnh mà phát sinh các thứ bệnh, hoặc do chứa nhiều chất độc trong người, hoặc do không nên ăn mà ăn, hoặc do hết bệnh nầy sinh bệnh khác. Như thế, ba thứ nguyên nhân nầy, hoặc vì tướng của tâm ác nên nảy sinh tâm bệnh, hoặc vì chứa các điều ác như tham v.v…, hoặc là rèn tập các tính tham lam v.v… lâu dài, hoặc vì thấy việc không nên làm mà làm. Lại nữa, trong hiện tại đang kẹt vào các việc cố chấp v.v…, hoặc làm các việc điên đảo rồi bỏ. Trong đấy đối trị với bệnh phiền não ban đầu thì dùng quán bất tịnh, dùng bất tịnh để đối trị với các tính tham lam, dùng tâm từ để đối trị với tính giận dữ, dùng bốn phép quán nhân duyên để đối trị với ngu si. Lấy hình ảnh có bệnh như thế v.v… rồi chỉ rõ các đối trị là dùng thuốc “không” v.v…, vì phải dựa vào bốn hạng chúng sinh, nên mới nói: Kiến chấp. Tham đắm Tam-ma-bạt-đề. Ưa thích các sự sống. Đối với lónh vực không có giải thoát mà tưởng là giải thoát. Trong đây, từ chỗ cố chấp vướng mắc của chúng sinh, nên nói mọi thứ chấp đó, chỉ có không mới trị dứt hết. Nếu phát sinh kiến chấp về không thì đồng nói như thế v.v… Nên biết, vì tham đắm Tam-ma-bạt-đề cho nên nó không có tướng, không có tướng trong tất cả các ý niệm phân biệt tướng có và không. Chỉ rõ hết thảy có, không, chỉ rõ sự tham đắm Tam-muội, chỉ rõ sự ưa thích các đời sống, nên nói là vô nguyện. Vì diệt tất cả cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc v.v… nên nói là vô nguyện. Dựa vào lónh vực không phải là giải thoát mà làm ra tướng giải thoát, và nói chẳng phải bốn điên đảo. Vì để diệt hết tư tưởng điên đảo nên mới nói bốn điên đảo. Vì chấp thường v.v… nên đối với lónh vực không phải giải thoát mà nảy sinh tướng giải thoát. Cần phải từ bỏ sự rèn tập điên đảo. Vì dựa vào hữu lậu thì rộng, nói giản lược thì bốn thứ đối trị điên đảo. Nên biết, phàm phu hữu lậu còn có sáu hạng: Ai đam mê vào thân nên nói niệm xứ để đối trị. Ai bị phiền não tán loạn, thì nói bốn chính cần để đối trị. Ai kẹt vào kiêu ngạo, đắp đổi nhau, thì nói bốn như ý túc để đối trị. Ai từ bỏ tu tập căn thiện thì nói căn và lực để đối trị. Ai không thấu rõ các chân lý, thì nói các phần đạo giác ngộ để đối trị. Ai ham chấp vào việc lành, dữ, thì nói các phần đạo để đối trị. Sáu là không tùy thuận quán sát thân, mà theo sự chấp thân, hoặc chấp ngã sở, không phân biệt mặt trái pháp thiện, không tin tưởng thì nói căn và lực để đối trị. Nầy Ca-diếp! Trong cõi Diêm-phù-đề, hết thảy thầy thuốc và học trò của thầy thuốc thì Kỳ-bà Dược vương là thầy thuốc số một. Nầy Ca- diếp! Giá như hết thảy chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới đều là thầy thuốc như Kỳ-bà Dược vương, các chúng sinh đều na ná Kỳ-bà như thế v.v…, là chỉ rõ các bộ luận về phương thuốc được nghe nhiều, dù khéo léo tốt đẹp cũng không trị được các thứ bệnh kiến chấp, nghi ngờ, ăn năn, do các bệnh đó khó trị, phương tiện trong đấy quyết định. Mọi kiến chấp có khả năng gây chướng ngại. Như Tôn giả Xiển-đà nói: “Các Đại đức! Tôi nghó như vầy: Sắc là vô thường…, nhưng tôi lại thực hành Xa-ma-tha không, không phân biệt, diệt mất ái, lìa dục, diệt hết, và trong Niết-bàn tâm tôi không yên, không mừng, không an trụ (đứng lại), không giải thoát. Ý nghó của tôi thay đổi, xoay lại, tôi cảm thấy chán nản, lười biếng. Nhưng ngã sở là gì?”. Nói như thế rồi, bấy giờ, Tôn giả Xiển-đà dùng tâm trí tuệ tưởng nhớ đến Niết-bàn, vì không dập tắt được ngã kiến về thân, nên nói ta sẽ vô ngã, tâm chuyển biến lùi lại và nảy sinh sầu não trong cảnh Niết-bàn. Nhưng ngã và ngã sở là gì? Không nghó như thế nầy: Đây chỉ là hành động. Do đâu, cái gì là không có kia, nhưng đạo hành ở thế gian bấy giờ không có khả năng chữa trị nên gọi là không thể chữa trị. Vì muốn gồm thâu tâm chưa nhập định, nên sự ràng buộc đã tạo ra nghi và ăn năn. Có khả năng xua tan nguyên nhân nghi ngờ ăn năn. Bỏ quên lời dạy thì chỉ có chư Phật Như Lai mới trị được, vì các Bồ-tát không có bệnh độc hại, mà có đại oai lực. Thế nên nói kiến chấp, nghi ngờ và ăn năn, thì không ai có năng lực làm cho thức tỉnh vì ý thức không thể lường nổi, không thể nói, không thể đọc tụng, không thể nói đúng đắn, không thể dùng lời nói. Mong cầu hạnh hỗ trợ đạo nầy, rồi mong cầu việc làm xuất thế gian. Tâm mong cầu trong hữu dư, sau đó sẽ hữu dư. Dựa vào chúng sinh vô ngã, có hai thứ dựa: Dựa vào pháp vô ngã, có một điều kiện ngộ nhập trí v.v… nhân là dục, tin tưởng, căn bản trí, tín trí, chỉ có tâm là khuyên can trung gian, đoạn tuyệt, không có điều kiện, giác ngộ và vô ngã. Tìm kiếm trong học tập nhân duyên, là chỉ rõ sự chứng ngộ nhân vô ngã. Ở trong, ngoài và chính giữa nếu nương tựa vào ý thức nhớ nghó kia thì thấy tâm không thể nắm bắt được, tính chất nhớ nghó ngang ngược, vọng tưởng và thành tựu tướng không sắc v.v…, vì nhận thấy được thể tính nên chỉ rõ sự chứng ngộ pháp vô ngã. Nhưng vì thành tựu tính nầy, nên hành động của tâm phải có bảo hộ và không chấp điều bất chính. Đức Phật nói với Ca-diếp: Tâm của tất cả chư Phật đều không nhận thấy, nói chẳng phải tự nhiên, không thấy là chỉ rõ tâm trụ vào pháp thể. Vì tất cả chư Phật đều nói là thấy suốt cả ba thời gian. Như vậy, trước đã nói không có tính phân biệt, nhớ nghó ngang hình thức của sự nhớ nghó ngang đó, chỉ rõ tính và tướng người khác nên mới nói, vì có căn cứ. Nói tâm kia lấy gì làm tính để chấp nhận trong đó đã nói rõ tâm và tâm sở pháp. Nếu do ý thức mà đọa, chỉ là tướng, thì làm sao giải thích nên sự sinh tử thế gian như huyễn (ảo)? Chỉ nhất tâm tu hành như dòng sông trôi. Tu hành như thế thì tâm ở trong sự nhàm chán, muốn xa lìa thì sao không được giải thoát? Giải thích sự việc đó như gió, trong đó cái xa có nghĩa là hết thảy sự việc đều có tính kia, nhưng rất khó biết. Thế nào là được giải thoát? Giải thích sự việc đó như đèn cháy sáng. Vì duyên lực vô minh nên hành. Đây là chỉ rõ khi vô minh đã dứt hết thì không có hành. Nếu sức phiền não trong tâm còn thì có ô nhiễm thành tựu, không là tùy thuận chân như. Vì phiền não kia không sạch, nên không nhận thấy sự giác ngộ và giải thoát. Vì phòng hộ tai họa nầy, nên thị hiện như là hư không. Vì phòng hộ các tai họa, vì như là hư không không phân biệt, nên thị hiện như sấm chớp, mỗi ý niệm đều diệt. Vì không duyên nơi các tính tham v.v… nên thị hiện tướng vô thường. Sở dó phải chỉ rõ tướng vô thường nầy là nhằm đề phòng tai họa của tướng khác lạ có thể xảy ra. Mặc dù trong sạch tâm mình, nhưng vì mỗi niệm đều diệt, nên thị hiện như con vượn. Vì tâm niệm kia không mong cầu mọi thứ cảnh giới, nên nó phân tán, tùy thuận các tính tham lam v.v…, đều không thể bỏ nên trở thành có tán loạn. Vì sao không giải thích là tất cả không cộng sinh? Giải thích tạo nghiệp như công việc của họa só. Vì sao không phải hết thảy mọi lúc như thế v.v…? Giải thích tạo nghiệp không trụ. Vì sao nghiệp hiện tại lui gót? Hoặc vì cây hiện ra khí lực, nên nó sống. Giải thích là như sự nghiệp của vua. Hết thảy nghiệp tu là sức mạnh tối thượng, do khả năng huân tập của tâm Phật được tăng thượng thành tựu hạnh nói pháp tỏ rõ. Hoặc như vua thì tại sao tự mình có thể sinh các nỗi khổ? Giải thích là như oan gia. Tại sao tự chính mình mà như oan gia? Giải thích là như đống tro tàn thị hiện trong nhà. Thân v.v… thị hiện có bốn thứ ngược ngạo. Vì hạnh tùy thuận v.v… là phòng hộ tai họa có thể xảy ra. Có như vậy thì vì cái gì sinh ở chỗ an vui mà chấp nhận sự sống? Thị hiện như oan gia vì có ba khổ. Thị hiện xứ sở kia vì cũng có đau khổ sinh. Với nỗi khổ như thế vì sao không lấy khổ để đối trị, chống trả lại mà thị hiện như quỷ Dạ-xoa v.v… cướp đoạt công sức của con người, nên phòng hộ sự ham dính vào Tam-muội theo thứ lớp. Hơn nữa, vì sao trong đối trị không ưa thị hiện những việc làm như giặc? Là do không phòng vệ, không dẫn dắt chúng sinh, hỗ trợ đạo tu căn thiện. Nếu lập nên công đức trong đau khổ mà có ý nghĩa ưa thích, ưa trụ, thì như thế, do tai họa nào mà thị hiện như có đủ các việc thế lực, không thế lực, ghét yêu. Tại sao si mê điên loạn? Vì đam mê, vướng mắc sắc v.v… Giải thích là như con ngài làm tắùt đèn. Đức Phật nói với Ca-diếp: Sự mong cầu là trạng thái của tâm, nhưng không thể được. Nếu không thể được tức là không thể trông thấy, cho đến các thể tính của Thánh cũng như thế, không phải là thân gây tạo nghiệp, không phải miệng, không phải ý thức trong tính kia, cũng không có sự sai biệt giữa trình độ cao, trung bình và thấp. Tư tưởng mong cầu là trạng thái của tâm, nhưng không thể được là có sự lần lượt nào? Thị hiện việc làm tính tướng của người khác xong. Sự mong cầu tính, tướng người khác đó cũng là mong cầu với vọng niệm ngang ngược và khi mong cầu tính được thành tựu, thì mới có sự thị hiện. Tuy nhiên sự vọng tưởng ngang ngược với tính phân biệt kia, là sự mong cầu không thể được trong tâm lý, thế nên tính tướng đều không thể được. Tâm kia cũng do không thể được, nên đã chỉ rõ thành tựu tướng tính của tâm phải là vô vi, thời gian sau nầy sẽ nói đến. Bảo cho biết về sự kiện sinh trong ba đời của tâm kia, không phải như nhập vào định diệt tận, vì đương thời tâm không đồng sinh trong ba đời. Như thế, việc thác sinh của tâm kia là qua ba đời. Nhưng không thể vượt qua ba đời, vì tâm đã phát sinh rồi lại phát sinh nữa. Nếu vượt qua thời gian ba đời, thì tâm kia cũng không được gọi là đã có phòng hộ chấp ngang ngược. Tựa danh thị hiện cũng có, cũng không, vì vọng tưởng nhớ nghó đến tính tưởng của người khác, nên mới nói rõ thành tựu tính là nên có. Tâm kia không phát sinh là do nguyên nhân quán thân, nên tâm kia là không. tính đối với cõi địa ngục v.v… là nguyên nhân quyết định tính. Tâm kia không phát sinh là vì tạo ra nhân tố sống nên tiêu mất, là đã diệt mất. Tâm kia thì không lìa là do diệt. Không lìa là vì chưa diệt, tâm kia thì không có hành nghiệp là vì năm ấm. Tâm kia là vô vi vì làm sáng tỏ nó, nói tất cả việc nầy, kia là vô Nay muốn phân biệt giải thích rõ ràng: Tâm nầy là cái gốc của tất cả Thánh tính, do tâm nhớ nghó nầy mà thành tựu được quả vị Thánh kia. Các Thánh cũng do tâm nầy mà được sáng tỏ. Nhưng tính của tâm kia là do Niết-bàn hữu dư và vô dư làm sáng tỏ nó, do Niết-bàn của Bồ-tát làm sáng tỏ nó. Trong đấy, nương tựa vào Niết-bàn hữu dư, nên nói: Không có giữ giới, cũng không có phá giới, vì đã khéo học tập giới pháp, nên vô hành hữu dư diệt, chứ chẳng phải hành hữu dư, diệt hữu dư, cũng chẳng phải không hành các phiền não. Không có tâm, không có tâm sở pháp là vì xa lìa ô nhiễm. Nghiệp ở đây là còn có nghiệp nhân của phiền não. Cũng không có nghiệp báo, vì dựa vào Niết-bàn vô dư. nghĩa nầy nên nói như thế nầy: “Nếu không khổ và không vui thì đấy là tính của bậc Thánh”. Như trước đã nói: Tâm kia thì không có nghiệp. Ba câu Tu-đa-la nói về tính chất khác nhau của nghiệp đó. Câu thứ tư nói về sự khác nhau của chúng sinh, dựa vào Niết-bàn của Bồ-tát. Vì dựa vào Niết-bàn của Bồ-tát, nên nói tính bình đẳng nầy như hư không, cho đến tính chân tịnh nầy từ trước cho đến nay đều rốt ráo thanh tịnh. tính nầy bình đẳng như hư không, là thị hiện sự bình đẳng đồng hành lợi mình lợi người như nhau. tính nầy không có gì hơn. Tất cả pháp đều đồng một mùi vị là chỉ rõ tính không khác biệt trong các Bồ-tát thanh tịnh, không có khác biệt nào hơn trong tất cả pháp phần Bồ-đề. tính vắng lặng nầy là xa lìa, thân tâm vắng lặng là chỉ rõ thể không khác biệt của tâm. tính tùy thuận theo hướng Niết-bàn là chỉ rõ nghiệp tốt đẹp của thân Bồ-tát ngay trong thân của mọi chúng sinh. tính tịch tónh xa lìa hết thảy phiền não cấu là chỉ rõ mặc dù đồng giải thoát với chúng sinh, nhưng về phương diện diệt tập khí thì Bồ-tát vượt hơn. tính nầy là vô ngã, lìa ngã và ngã sở là chỉ rõ thế giới yên tónh vì vónh viễn diệt định. tính nầy không có ác, vừa hư, vừa thật, sinh từ bình đẳng là chỉ rõ việc làm của Bồ-tát trong thế gian. Niết-bàn không mất, không được, không nảy sinh phân biệt vì nó bình đẳng, thật nghĩa. Niết-bàn có nghĩa hư và thật, còn thế gian là không thật, nên biết. tính chân thật đệ nhất nghĩa đế nầy là chỉ rõ sự xa lìa chê bai, không cùng chung với ngoại đạo. tính nầy không thể cùng tận, nó rốt ráo không sinh, là chỉ rõ: Mặc dù đã chứng Niết-bàn vô dư, nhưng Bồ- tát vẫn không dứt việc làm lợi ích cho chúng sinh. Lại nữa, tính nầy rốt ráo không sinh là chỉ rõ Bồ-tát sinh ra hoàn toàn không phải do nghiệp phiền não chi phối mà là do thành tựu năng lực tự tại tốt đẹp trong việc sinh ra. tính nầy thường trụ trong tất cả các chân như thường trụ là chỉ rõ việc trụ ở thế gian và Niết-bàn. Vì thế gian kia không phải thế, nên nói đến tính nầy là nói đến sự yên vui, trong sạch, vô ngã v.v… nên biết. tính chân thật thanh tịnh nầy từ trước đến nay hoàn toàn trong sạch là chỉ rõ sự trong sạch hết lửa chướng ngại, tùy nơi cần sạch mà sáng tỏ lên sự trong sạch như thế. Từ nghĩa lớn mà đối trị khác nhau về việc thế gian và xuất thế gian. Trên đây là lần lượt giải thích thứ lớp và vượt thứ lớp, nên biết. Nầy Ca-diếp! Bồ-tát đã đi khắp bốn phương, ứng hiện lợi ích cho chúng sinh là chỉ rõ cách dùng trí thế gian và xuất thế gian làm lợi ích bình đẳng cho mọi người. Đến bốn phương là Bồ-tát đó đã giáo hóa chúng sinh, từ thế giới nầy đến thế giới khác. Dùng năng lực thần thông nên từ một thế giới nầy đến thế giới khác, ở khoảng giữa, như từ nước nầy sang nước khác. Rồi trở lại thế giới đầu tiên mình sinh ra và sinh vào bất cứ đâu, làm cho mọi chỗ được trong sạch, tùy có chúng sinh. Các Bồ-tát giáo hóa là vì chúng sinh thanh tịnh đó. Bồ-tát tạo ra pháp đối trị hoàn toàn chân thật. Bồ-tát đã dùng phiền não đối trị phiền não. Bồ-tát chữa trị chúng sinh quá điên loạn, được trở thành đại y sư vô thượng, rồi vì họ truyền dạy ba giới pháp thanh tịnh, trị bệnh cố chấp mà Dược vương Kỳ-Bà không trị được. Chữa trị tận gốc kẻ mang chứng bệnh hoài nghi, ăn năn, bằng sự chữa trị chân thật, gọi là hữu trị lớn. Đại, có nghĩa là chân thật, không dùng nghĩa nầy. Về sau thì gọi là chữa trị hoàn toàn chân thật. Do hành đạo xuất thế gian và tiêu diệt phiền não sử, trở thành trí thế gian, trong đó có hai hạng: Hạng người thô bạo. Hạng người trung bình. Đối trị hạng thô là diệt phiền não. Đối với hạng trung bình, Bồ-tát đối trị bằng cách khuất phục, ví như kẻ quá nhiều tham dục thì Bồ-tát đối trị bằng pháp quán bất tịnh, cho đến dập tắt tất cả mọi sự đảo điên. Cả bốn thứ điên đảo cũng diệt như thế. Để đối trị với phiền não thô bạo, Bồ-tát áp dụng bốn niệm xứ cho đến tám đạo chân chính. Đối với hạng trung bình thì Bồ-tát đối trị bằng phương pháp hàng phục. Phiền não thô bạo ở đây là các hành động tham dục v.v… trong cảnh giới hiện tại, đổi thay thành hạng trung bình, nên biết. Hành động ở đây là dùng trí thế gian quán sát cảnh giới mình, nhằm đề phòng phiền não ô nhiễm v.v… tính tham lam được khuất phục xong, làm cho tính hạnh được trong sạch. tính hạnh ở đây khác biệt với tính hạnh trung bình. Người tại gia đa số đều mang tính hạnh tham lam, giận dữ và si mê. Người xuất gia phần nhiều dựa vào các kiến thức cố chấp, dựa vào thành kiến, dựa vào bất chính niệm, vào tính niệm. Phân biệt tính niệm là nói rộng, lược nói thì có bốn thứ đảo điên: Không phải lónh vực giải thoát mà nảy sinh cố chấp ngạo mạn cho là giải thoát. Đối với tham dục, Bồ-tát dùng pháp quán sát bất tịnh để đối trị khiến cho được thanh tịnh. Đối với kẻ giận dữ, dùng từ bi quán để đối trị. Đối với kẻ si mê, đối trị bằng pháp quán nhân duyên. Đối với các kiến chấp, dùng pháp không để đối trị. Ý niệm không chân chính thuộc về phân biệt, tính phân biệt giỏi, đối trị bằng vô tướng. Mong muốn thì đối trị bằng vô nguyện. Không phải lónh vực giải thoát mà nảy sinh tư tưởng giải thoát, thì dùng chẳng phải không điên đảo để đối trị. Ví dụ: Đây là lónh vực thường, thì phiền não trong đó ngăn ngừa chúng thô bạo ra sao? Dựa vào sự tự đối trị, dựa vào cảnh giới ô nhiễm, các việc tham lam, giận dữ, ngu si. Ở trong cảnh giới hiện tại những hành động của tham lam v.v… là tai họa. Tập hợp là nghĩa hành động. Cần diệt hành động đó, nên tu tập các pháp phần Bồ-đề, bốn niệm xứ v.v… Vì tu tập pháp niệm xứ nên được buộc chặt trong chính niệm. Đối với ý niệm chưa được buộc chặt, thì tâm khiến cho ý niệm được buộc chặt, nên phải tu hành, nếu không biết đến niệm nầy, nên tự tâm phát sinh chấp ngã. Tu tập niệm xứ là ràng buộc mọi tâm niệm, rồi tu tập chính cần, trụ vào như ý túc. Vì an trụ, nên thân, tâm, dù nam, nữ, do quán sát mà biết nội tại, dẹp trừ phiền não bậc trung. Đem trí hữu lậu, vô lậu tu hành đạo nghiệp, pháp xuất thế gian là đối trị dục vọng, không ham muốn v.v…, đó là dựa vào dục mà đối trị. Không phải căn lực tạo ra kiến chấp mà là ngu dốt về tập hợïp nhân duyên và ngu dốt về nhân vô ngã, Bồ-tát sẽ dùng pháp phần Bồ-đề để điều phục chấp đó. Mọi hoạt động tà đạo hay chính đạo quyết định sự thành tựu thì hết thảy hình thức có được là tướng thô, phiền não bậc trung, chân chính đề phòng và hàng phục là đối trị. Trí sự gọi là trí thế giới. Trí xuất thế gian là gì? Là lónh vực hàng phục phiền não, ô nhiễm, tham lam, giận dữ, si mê và hết thảy những kiết sử nhỏ nhiệm phiền não. Đối với trí sự thì pháp đối trị là gì? Trong đối trị hàng phục trí sự kia có ba lónh vực khéo léo để gọi đó là trí duyên vào nhân duyên khéo léo, trí nầy làm phát sinh niềm tin trong pháp không ngã, không chúng sinh, không thân mạng, không nuôi dạy, không có Phú-già-la, tin chắc nhân vô ngã, không sợ hãi pháp không, không phân biệt. Do tin pháp vô ngã, nên tâm mong cầu phát sinh sức lực tinh tấn, vượt qua hết mọi phiền não, có bốn pháp đối trị để giáo hóa. Vì không có trí nên không chấp lấy. Ý thức phát sinh tác dụng với trí để quán sát nội tâm: Đồng tướng, tự tướng, tướng nhiễm và tướng tịnh. Không trí thì trong đó có ba thứ tưởng, đó là nghĩa đồng tưởng, nên biết. Cầu tìm tâm như thế, đâu là tâm đáng ưa, có thể tiêm nhiễm, có thể xấu hổ? Hết thảy quá khứ, vị lai, hiện tại, thì quá khứ gọi là hết, vị lai là thời gian chưa đến, còn hiện tại là ý nghó nối nhau không dừng. Trong đây, quá khứ, hiện tại duyên vào mà thành tâm, trái với không giác quán. Hiện tại thì mỗi ý niệm đều không hay biết, các tâm lý tham tự duyên vào nhau mà phát sinh chứ không phải tâm tạo ra chúng v.v… Các tướng của tâm đều là tự tướng, nên biết. Nầy Ca-diếp! Phật nói: Tâm nầy không ở bên trong, không ở bên ngoài, không ở khoảng giữa, vì biết tâm như thế nên tìm kiếm tâm không thể được. Như vốn nói giả danh, nói tính không thể được. Tâm nầy không có sắc, không có hữu thể, không đứng lại, không có tướng, không ghi nhận, không dính mắc. Như vậy nó như sáu tướng ở trước đã nói. Vì nhận biết được chân như. Tất cả chư Phật đều nói: Đã không thấy, nay không thấy, sẽ không thấy nó, nên tất cả các Thánh đều không do tri kiến mà biết nó, vì các tướng nên tâm có tướng nhiễm, nên biết. Không tùy thuận là vì không tùy thuận, tu hành là vì tu hành, nên tâm như huyễn. Do sự tưởng tượng, ghi nhớ hư vọng, rồi phân biệt phát sinh đủ các nghiệp hành động, nảy sinh sự thọ nhận đủ thứ thân tâm, nhận lãnh sinh ra đủ thứ thân trong các đường. Vì không tùy thuận sự ô nhiễm nên tâm như dòng nước chảy sinh diệt không dừng lại. Trở lại với sự sống kia, là chính mình tùy thuận theo dòng chảy của mỗi ý niệm. Tâm như làn gió bay xa không chụp nắm được, rất khó giữ gìn cho trong sạch trong tất cả ý niệm. Vì thuận theo hành nên tâm như ngọn đèn. Do nhân duyên của hữu và hành nên nước ái thấm nhuần tự tại, vì tùy thuận hành nhiễm, thuận theo điều đã làm để có thể làm, đây là hành nhiễm. Tâm đi đến chỗ nào cũng như làn điện chớp. Hoặc hướng hành động đến nơi tạo ra điều thiện, hoặc khi tâm thiện nảy sinh như làn điện, thì tâm như hư không, hoặc hướng theo hành động không tốt lành, biết như hư không, như khách trần nhiễm phiền não, thì tâm như con vượn. Nếu một mực hướng về các cảnh giới tham thì tâm như họa só, vì tâm một mực khởi sự hành động tạo ra các nghiệp. Nầy Ca-diếp! Phật nói: Tâm không nhất định, có thể chạy theo các thứ phiền não. Hoặc hoàn toàn ở trong phiền não, còn có thể hành động tham dục, giận dữ và si mê, nó không đứng lại mà chạy đi mãi. Tâm như kẻ bộ hành chỉ đi một mình, không có bạn đồng hành. Không phải tâm kia vốn có ô nhiễm tham lam rồi mới có thành tựu xa lìa rồi xa lìa, lìa xa dục rồi lại có tham dục. Giải thích như thế v.v… Nói tâm như vị quốc vương, vì được tất cả pháp tự tại. Trong pháp an vui, vì thành tựu được thế lực tự tại mới tu hành. Tâm như kẻ thù, vì có khả năng nảy sinh tất cả khổ. Bỏ rồi lại ưa, nên có khả năng sinh khổ. Tâm như nhà đựng tro tàn, như lưỡi câu cá (cá mắc câu), như chiêm bao, như ruồi lằn xanh. Do chấp vô ngã, nên có thể tự nảy sinh đau khổ. Vì điên đảo như kẻ thù, nên nó giúp thêm nỗi khổ cho mình mà không biết vừa đủ hay nhàm chán. Tâm như quỷ Dạ-xoa cướp đi năng lực của con người, khiến cho con người phải từ bỏ việc tu tập tốt lành để tìm đến chúng, theo sự sai khiến của chúng. Tâm như kẻ thù, vì làm điều không tốt lành và hay tìm kiếm các lỗi lầm của người khác, luôn phân biệt cao, thấp, có thế lực, không có thế lực, yêu, ghét đều biết. Tâm như bọn giặc rất là phóng đãng, điều gì được làm thì không làm, tất cả căn thiện đều có thể bị tiêu tan hết. Tâm ưa thích các màu sắc v.v… vì cảnh giới sắc rất dễ dính mắc, vì bám dính nên mãi mãi nhớ nghó được cảnh giới cam lồ, nhớ nghó rồi, thì khó được yên ổn. Do ba thứ tướng, tâm được thanh tịnh, nên biết. Vì được tướng không, nên chẳng phải là tướng hữu vi. Vô tướng. tính tướng. Nầy Ca-diếp! Tâm nầy mong cầu không thể được. Vì không thể được nên không thể hay biết được tâm đó, thì danh tính mong tìm không thể được. Vì không thể nắm bắt được, nên tâm kia không thể hay biết. Tâm có như thế, quán sát tướng là nhân của tâm thanh tịnh rồi, thì hành tư duy có khác. Mong cầu tâm thanh tịnh là không thể được. Tư duy như thế rồi, khiến có thể được, đấy gọi là được tướng không được. Pháp tu hành như thế là tu hành vô ngã, dùng trí tuệ để tu hành xong, là tướng chân như. Tâm dùng tri kiến sau đó mới là tướng chân như. Dùng chín thứ tướng để nói đến tâm. Vì đối trước pháp tướng hữu vi cho nên mới nói là vô vi, nên biết. Vượt qua ba đời là không phải hành trong ba đời. Vả lại, không phải như nhập định diệt tận, vì tâm đã phát sinh tác dụng rồi lại có thể nảy sinh. Tâm kia chẳng phải có, chẳng phải không, danh tính giả tạm, không thể phân biệt đo lường. Dùng tính chân như có thể đo lường biết được tâm chẳng phải có hai tướng. Tâm không sinh, vì tướng nó là vô sinh. Tâm kia không tính, vì nó vượt qua tướng nhân, là tính chất của sự sinh. Nó không phát sinh, vượt qua các sự sinh trong đời vị lai. Tâm kia không bị tiêu diệt vì nó đã vượt khỏi phần đoạn của cái chết. Tâm không có gì để xa lìa vì vượt qua sự từ bỏ mỗi ý niệm. Không có gì để xa lìa là trong từng niệm từng niệm, nó vượt qua mọi xa lìa. Không có gì để xa lìa, tức là không đến, không đi, không lui lại, không sinh. Vì đã vượt qua sự chuyển biến của các đường. Không có hành nghiệp ở đây là vì đã vượt qua nghiệp phiền não. Nếu là vô vi, thì đó là chủng tính của bậc Thánh. tính tướng ở đây là tướng của cảnh giới vô vi, nên biết. Vì nhận thấy vô vi kia, nên làm sáng tỏ sự nghiệp của các Thánh. Nhưng trong pháp hiện tại của các Thánh đã vượt qua năm việc. Nếu là tính của Thánh, thì không có người giữ giới, vì vượt qua mọi việc tạo tá; cũng không có kẻ phá giới, vì vượt qua mọi việc không tạo ra. Vô hành là quá tác hành. Phi vô hành là quá tác phi hành. Phi hành là quá bất hành tác hành, và vượt qua việc hữu vi trong vị lai. Đó là vô tâm, vô tâm sở pháp. Vượt qua lại có sinh, phát khởi hành động. Không có nghiệp là vượt qua hành động hữu vi kia. Không có nghiệp báo là vượt qua ngôi nhà sinh ra. Pháp vô vi kia không có khổ, cũng không có vui, vì nó đã vượt qua chỗ nương tựa có thế lực, không thế lực của pháp hữu vi. Trong đó không có nghiệp, không phát sinh nghiệp hành động, nhưng trong tính pháp vô vi kia, không phải do thân tạo ra nghiệp, không phải miệng, không phải do tâm tạo ra. Vì dựa vào nỗi khổ, niềm vui, nên tất cả đều ghi nhận có tác động chuyển biến xê dịch. Không có nghiệp là nó vượt qua các giới học. Không phát sinh nghiệp hành động là nó vượt qua mọi sự mong muốn. Nhưng không phải do thân v.v… tạo ra nghiệp trong tính vô vi kia, là vì quá khứ nó không cảm nhận quả báo. tính vô vi cũng không có khác nhau về cao, thấp, trên, dưới. Vì mỗi thứ thân đều đã dựa vào tính vô vi trong quá khứ. Nhưng tính vô vi kia có đến chín thứ tướng khác nhau về tính và tướng. Khi không tịnh, khi tịnh, khi chứng và khi tận diệt. tính của vô vi nầy luôn bình đẳng như hư không, lúc không tịnh thì đẳng chí tất cả tướng, như hư không bao trùm tất cả sắc, tất cả tướng, chân như cũng thế. Hiện tại khi tịnh, thấy đẳng chí, đấy là thời gian không tịnh. Một tướng là tính không phân biệt, vì tất cả pháp đều một vị bình đẳng. Đây là tính vắng lặng xa lìa thân tâm, vắng lặng là khi tịnh, vì một vị và thân tâm đều vắng lặng. Khi tịnh có hai thứ tướng, nên biết. Tướng vắng lặng nầy tùy thuận hướng đến cảnh giới Niết-bàn. tính thanh tịnh nầy đã xa lìa mọi phiền não nhơ bẩn. Vì đã vónh viễn chứng ngộ nên tùy thuận, và do thanh tịnh nên tùy thuận hướng về cùng tận đến khi chứng đắc, đấy gọi là khi chứng ngộ. Tướng ban đầu, tính không bình đẳng, lìa ngã và ngã sở. Tướng thứ hai vượt qua thân kiến khi chứng. tính nầy không ác, vừa hư vừa thật, xuất sinh từ bình đẳng, nó vượt qua ác kiến căn bản kia. Trở lại tướng mạo thứ ba của tính kia thì tính nầy là chân thật đệ nhất nghĩa đế. Đây là nói khi vónh viễn cùng tận, thì tính ấy trụ hoàn toàn. Vì nó thường còn, nên thành tựu các niềm vui, vượt qua ba thứ chuyển biến. Ba thứ chuyển biến là: Chuyển biến sống chết v.v… Chuyển biến nơi đến. Chuyển biến thanh tịnh bị lùi lại. tính nầy không cùng tận, hoàn toàn không sinh, vì nó vượt qua sự chuyển biến sống chết v.v…, đấy gọi là thành tựu tướng ban đầu khi tận cùng. tính nầy là thường, lạc, ngã, tịnh. Vì nó vượt qua chuyển biến chỗ điên đảo, rồi trở lại tướng thứ hai trong tính kia sau khi đã đến mức tận cùng. tính nầy chân tịnh, từ trước đến nay đều hoàn toàn thanh tịnh, nó đã vượt sự chuyển biến lùi mất thanh tịnh, trở lại tướng thứ ba trong tính kia khi đã đến mức tận cùng. Thế nên, cho đến đạo của thế gian, xuất thế gian đều thị hiện sự lợi ích cho người khác, nên Đức Phật nói: Nầy Ca-diếp! Thầy phải tự quán sát mọi tâm, đừng chạy theo bên ngoài. Nầy Ca-diếp! Thậm chí Tỳ-kheo hành đạo, đã phải tùy nơi tâm bị trói buộc mà cầu giải thoát. Nầy Ca-diếp! Thầy phải tự quán sát bên trong. Theo thứ lớp nào? Như tính vô vi kia đã làm sáng tỏ sự thanh tịnh của các bậc Thánh. tính đó đã được chỉ rõ. Như hôm nay, tùy thuận như bậc Thánh đã sinh. Lời giải đáp kia sẽ được nói rõ hơn.  <卷>QUYỂN 4 Nầy Ca-diếp! Sau nầy trong tương lai sẽ có Tỳ-kheo như con chó đuổi theo cục đất. Trong đấy gọi như chó là do theo ngoại đạo. Năm thứ cảnh giới sắc v.v… ví như cục đất, ném vào là như sợ sắc, âm thanh, mùi thơm, vị ngọt, sự va chạm, chỉ rõ sự sợ hãi các cảnh giới đó. Tỳ-kheo kia sợ cảnh giới, vì không chứng biết nguyên nhân vì sao phải sợ. Phật chỉ cho Tỳ-kheo bốn thứ tướng. Chỉ tranh giành lấy cảnh giới. Ở chỗ trống trải, vắng vẻ vì muốn đổi thay được cảnh giới tốt đẹp, nên duyên nơi chốn trống trải, vắng vẻ. Tỳ-kheo đó chỉ ở một mình, không có bạn đồng tu, trừ bỏ sự nhiễm tạp, vónh viễn trụ không hai. Thân đã lìa xa năm dục, nhưng tâm lại không từ bỏ nó, người nầy có khi hoặc nghó nhớ đến sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon ngọt, sự va chạm, rồi chút lòng tham lam, say đắm khởi lên mà không tự quán sát nội tại, không hay, không biết, chỉ luôn gợi nhớ đến các cảnh giới vì có sức chịu đựng, nên họ cũng không biết. Tại sao cần phải xa lìa sắc, thanh, hương, vị, xúc? Chính vì họ không hay biết, nên thời gian sau, khi họ vào thành ấp, xóm làng, hay kinh đô của vua v.v…, giữa chốn đầy người thì họ bị trói buộc do năm dục: Sắc, tiếng, mùi thơm, vị ngọt, cùng sự va chạm nên bị lùi lại. Nếu người cho đến chết ở nơi trống trải, thanh vắng, lại giữ giới thế tục để được sinh lên cõi trời hữu lậu, thì họ vẫn bị trói buộc do sự ưa thích năm dục lạc trên trời. Rồi khi phước cõi trời hết, họ cũng không tránh khỏi rơi vào bốn đường ác. Bốn con đường ác là: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và A-tu-la. Đã được sinh lên cõi trời mà vẫn còn phải bị đọa là do hành động, họ dựa vào tham dục đó là bạn đen, nên biết. Dựa vào cái thấy mà hành động, gọi là bạn trắng, nên biết. Do thấy nhân vô ngã, để đối trị với hạng người đó, nên giải thích thành hai hạng bạn đen, trắng v.v… nên biết. Tu tập các hạnh như thế xong, nếu tâm tán loạn, thì gồm thâu nó lại. Đã gồm thâu được thì có giải thoát. Câu kinh trong đấy là thí dụ. Tâm không nhập định, nhưng vì muốn được giải thoát, nói các phương tiện Xa-ma-tha v.v…, thủ xả phiền não Xa-ma-tha xen kẽ để đối trị tâm, nên nói rõ qua thí dụ yết hầu và thí dụ người bị trói buộc v.v…, đều coi một lòng tâm định là phương tiện giải thoát, nhằm thị hiện tướng kiến tu, nói đó là phương tiện diệt phiền não. Sự cản trở của kẻ tu đạo là chấp thân và mê đắm Tam-muội, vì nhận thức như thí dụ yết hầu và người bị trói buộc v.v… Khi chứng ngộ đế dùng trí xuất thế gian tạo tác, gây ra khó khăn là chấp thân như chứng bệnh phát sinh nơi yết hầu, nên biết. Đã thực hành hạnh như thế xong, vì đề phòng chấp pháp có, đề phòng những chấp như vậy nên nói hai thứ thí dụ “không” về tâm không sạch: Đọc tụng kinh sách, các bộ luận v.v… của ngoại đạo, thế gian. Cất chứa nhiều y bát tốt đẹp, dựa vào nghiệp, dựa vào thân. Hai pháp nầy trói buộc vào hai thứ: Bị trói buộc do chấp. Trói buộc do lợi dưỡng, tiếng khen v.v… Hai thứ nầy có khả năng trói buộc khi pháp thiện chưa phát sinh, làm cho pháp thiện không sinh, tạo ra hai chướng khác: Bạn dòng Thánh. Gần gũi các Đàn-việt, còn pháp thiện đã sinh thì bị tiêu mất, hay làm cho ô nhiễm, khiến hình thành hai thứ nhơ: Chịu đựng sự nhơ bẩn của các phiền não. Ham trí thức v.v… của các Đàn-việt. Vónh viễn nhổ đứt pháp căn thiện, khiến hỗ trợ thành hai thứ mưa đá làm hư hỏng chính pháp: Chê bai chính pháp, phá giới mà vẫn nhận lãnh của tín thí. Họ không thể cứu chữa được nơi pháp hiện tại, do vậy mắc phải hai chứng bệnh ung nhọt: Vạch tìm lỗi người khác. Tự che giấu mọi tội lỗi của mình. Trong pháp hiện tại, họ đau khổ vì hành động ác, làm cho họ mắc phải hai thứ pháp thiêu đốt: Thân tâm nhơ bẩn mà mặc áo cà sa. Nhận sự lễ bái, cúng dường v.v… của người giữ giới có công đức. Thí dụ vị lai là dù thế nào vẫn không thể sinh căn thiện, vì mắc hai chứng bệnh, không thể nào cứu chữa là: Phá hoại việc tự điều phục tâm tăng thượng mạn. Làm hư hỏng sự phát tâm Đại thừa của người khác. Vì phỉ báng Bồ-tát, dựa vào giới pháp của Thanh văn, còn có lần lượt trong vị lai, nên biết. Nầy Ca-Diếp ! Thầy phải tự quán sát bên trong. Như thế, cho đến trong số đó, có người nào thông minh trí tuệ, điều phục được phiền não tham lam v.v… Nói thí dụ về tăng thượng giới hạnh nghe nhiều, học rộng, thì họ nảy sinh ý nghó ăn năn mà chán nản (thế trần) để làm sáng tỏ tâm tăng thượng về giới hạnh bằng thí dụ yết hầu và thí dụ về người bị trói buộc, dùng nhân vô ngã và pháp vô ngã làm tăng thượng trí giới hạnh. Nếu để điều phục phiền não tham lam v.v… mà tâm tăng thượng về giới hạnh như kinh đã nói, thì sao trong đây lại nói tăng thượng giới hạnh? Đáp: Tham sân si là nhân làm phát sinh mọi hành động phiền não tham. Nó khởi lên tướng rõ nhất, cho nên nói điều phục phiền não tham là hạnh tăng thượng của giới. Hỏi: Thế nào là các phiền não có khả năng phát sinh tội? Đáp: Vì có hai thứ tướng, người đó không thể sám hối. Ví như người đó đã sám hối, nhưng không thành sám hối. Có các Sa-môn, Bà- la-môn không nhận biết nguyên nhân của phiền não, nên sợ hãi cảnh giới sắc v.v…, họ tìm nơi trống trải, thanh vắng mà ở, nhưng tự tâm vẫn khởi lên những suy nghó bất thiện, nên phiền não ngã mạn, lại cũng phát sinh, hoặc nhớ nghó đến nơi khác mà cảm thấy tham v.v…, họ lao theo nó, như con chó đuổi theo cục đất. Khi ta lượm đất chọi thì con chó đuổi theo cục đất. Như vậy là không biết cách loại trừ tham v.v… Do đã có chuyện thân cận với xóm làng nên mình mới nghó nhớ đến, thì đấy gọi là chưa loại trừ. Thuận theo nghĩa nầy nên gọi là loại trừ và loại trừ xong. Hỏi: Vì sao nói điều phục tham lam trong bạn đen mà không nói điều phục phiền não trong bạn trắng? Nói điều phục về phiền não mà không nói về tham? Đáp: Vì cả hai đều ở trong cõi Dục, nên chỉ rõ có cái còn sót bị điều phục và có cái còn sót không bị điều phục, điều ấy có nghĩa là nếu người ở chỗ trống trải thanh vắng mà chết thì như thế là chưa điều phục. Người giữ vững giới cấm mà giới tăng thượng còn bị hư hoại, huống chi là người không giữ vững giới cấm, ví như trông thấy con ngựa đi dưới đường mà đôi khi còn lầm lẫn. Hành giả tu hành giới tăng thượng cũng như thế, ngộ nhận các ý niệm, cũng gọi là tán loạn, cũng như chứng bệnh yết hầu đưa đến chết người. Như thế, phải tu hành nhân vô ngã với trí tăng thượng. Do thân kiến có thể làm chết mạng sống của pháp. Như người bị trói buộc chỗ nào thì mong cầu được giải thoát chỗ ấy, dựa vào pháp vô ngã mà tu hành với trí tăng thượng. Cũng như vậy, tùy tâm chấp, tùy vọng niệm mà thắng vượt chúng. Trong ba cách tu tập giới pháp nầy, có tám pháp mâu thuẫn nhau về giới và có tám thứ tùy thuận tâm không trong sạch, như đọc tụng kinh, sách, các luận v.v… của ngoại đạo thế gian, đa số đều ham thích y bát đẹp đẽ v.v… mà không phải vì cần dùng. Như ô nhiễm ngang ngược “Không”, vì ô nhiễm ngang ngược là nguyên nhân của sự ràng buộc. Nói lần lượt thì có hai thứ ràng buộc: Sự ràng buộc của kiến chấp. Sự ràng buộc của danh vọng, lợi dưỡng. Hai thứ nguyên nhân tạo ra sự ràng buộc, nên nói lần lượt là vậy. Bị kiến chấp trói buộc, nên ghét và chê bai bạn bè dòng Thánh. Bị lợi dưỡng và danh vọng, nên thân cận bạch y. Hai thứ nầy như vết nhơ gây chướng ngại: Oán ghét, chê bai bạn Thánh, thì nhận lãnh các phiền não. Thân cận bạch y là tham tri thức v.v… của các Đàn-việt. Sự dơ bẩn nầy làm nguyên nhân tạo cơn mưa đá. Hại của sự mưa đá là bị phiền não giày vò, rồi chê bai chính pháp, ham theo Đàn-việt, sự thân cận nầy là điều kiện phá giới. Kẻ phá giới và nhận lãnh sự cúng dường của tín thí là nguyên nhân cho cơn mưa đá, nên sau đó mới có chứng bệnh ung nhọt. Do chê bai chính pháp, phá giới và thọ hưởng của tín thí, tự che giấu các tội lỗi của mình, các điều đó làm nguyên nhân nung nấu của chứng ung nhọt. Lại nữa, kẻ đó còn bị đốt cháy do sự tìm vạch lỗi của người khác. Kẻ thân tâm nhơ bẩn mà mặc áo cà sa, kẻ che giấu tội của mình mà nhận lãnh sự lễ bái, cúng dường v.v… của người có công đức giữ giới, những hành động đó là nguyên nhân gây ra sự đốt cháy kia. Bệnh không thể chữa trị là bệnh thân tâm nhơ bẩn thích mặc áo cà sa, ấp ủ tăng thượng mạn mà gom góp tâm giới. Nhận lãnh sự lễ bái, cúng dường v.v… của người giữ giới có công đức là phá hoại kẻ trụ vào phát tâm Đại thừa. Nói bạn trắng để đối trị với các chứng bệnh trên, nên biết. Trong hai loại người nầy, thứ nhất là người tu hành mà có chấp, thứ hai là người tu hành mà tham ái, nên biết. Có bốn hạng Sa-môn lần lượt chỉ rõ là: Hạng gây tai họa vì sống trái với giới pháp. Hoặc thân cận bạch y. Hoặc gây tai nạn cho người làm họ phải bỏ pháp. Hoặc người đã có công đức rồi mà gây mọi trở ngại trong ý nghó họ. Nếu không gây trở ngại thì chỉ có ba hạng người gây tai họa. Ba loại đó là: Sa-môn với hình dáng, sắc phục nhưng tâm, hạnh đều hư hỏng. Dựa vào ưa ghét mà nói pháp theo nghĩa ưa ghét đó. Sa-môn lừa dối là Sa-môn ham tiếng tốt, hạnh tốt, mà tâm hư, họ chạy theo vui mừng, ham muốn quá đổi, chạy theo những mừng vui dục vọng hữu lậu. Trong vui mừng, ham muốn xấu đó, luôn nghó mình là Sa-môn, nhưng không phải là Sa-môn. Rất sợ hãi, nếu có được nhiều đức, nhưng lại tự ý bỏ đức vốn đã có của mình, luôn nghó thế nầy: Người có tâm vui mừng và ham muốn, người đó nếu đã vừa có đức mà còn có tâm trên thì càng tốt hơn. Hạng người thứ nhất có hai việc hư hỏng: Hữu dư. Vô dư. Hữu dư là dựa vào bốn hạng Sa-môn mà nói, là do thọ giới hữu lậu đưa đến ý nghiệp bất tịnh. Đem ba thứ không giỏi điều phục nầy theo như thứ lớp chỉ rõ, nếu căn cứ vào việc khất thực mà nói là sống đời không trong sạch. Dựa vào việc thọ dụng để nói về sự keo kiệt, nghĩa là họ gom góp để dành thức ăn qua đêm. Dựa vào nghiệp tu tập để nói lối sống bất tịnh. Dựa vào sự tiêu dùng để nói chuyện keo kiệt, như cất giữ đồ ăn cách đêm v.v… Dựa vào việc tu mà nói lười biếng. Vô dư là do phá giới nên phạm những lời dạy căn bản của giới. Tâm hư hỏng là dùng pháp ác và cố ý che giấu tội lỗi của mình. Thành tựu hạnh thứ hai là dựa vào hành mạng giới thọ dụng và tu đạo, trong đó thành tựu về hạnh là dựa vào hành. Thành tựu về cảnh giới là dựa vào mạng sống. Thành tựu oai nghi là để tâm nhuộm thắm trong bốn hạnh oai nghi. Dựa vào giới cấm là thọ dụng vật thô nhám, thức ăn cũ đạm bạc, ít ham muốn. Chủng tính của bốn Thánh là dựa vào thọ dụng, không thân cận các bạn đạo và người thế tục v.v… Dựa vào tu đạo nên ít nói, ưa sống nơi thanh vắng, dựa vào luận thuyết an ủi, khuyến dụ v.v… nên biết. Mặc dù thực hành các pháp như thế, nhưng đều là lừa dối chớ không vì giỏi làm tịnh tâm, vì tâm đã hư hỏng nên hạnh tu hành nương vào cũng lừa dối, nên biết: Thường chấp ngã là dựa vào nhân vô ngã mà hành nhưng lại không dập tắt được chấp ngã. Nên trong “Pháp không” phát sinh tâm sợ hãi, như thấy mình sắp rơi xuống vực thẳm. Nương vào pháp vô ngã, nhưng không phân biệt được ý nghĩa của “không”, người nào nói pháp không thì họ coi là kẻ thù. Người thứ ba là thành tựu hạnh tùy thuận trụ niệm, nghĩa là y chỉ và y hành tùy thuận các pháp, nên biết. Trong đấy, trụ là vâng giữ giới cấm, niệm là học rộng. Vì sự nhớ nghó đó, nên tùy thuận được mọi việc. Nương tựa là sống nơi trống trải thanh vắng, vì tọa thiền ở chỗ trống trải, thanh vắng, nên tùy thuận của các công đức. Tùy thuận các pháp là biết vừa đủ, ít ham muốn v.v… tâm không thân cận với bất cứ ai. Không dập tắt được mọi ý niệm thì ở đây chỉ rõ cách đối trị là làm phát sinh nhàm chán và lìa dục. Nhờ đó, chấm dứt được ham muốn, được tâm Bồ-đề hay mất tâm Bồ-đề là do kết quả tu đạo nầy. Người thứ tư, cả hai đều thành tựu. Có chín thế mạnh của thành tựu, nên biết: Thế mạnh của tu mãi một hạnh. Thế mạnh của học rộng. Thế mạnh của ham muốn. Thế mạnh của suy tư vắng lặng. Thế mạnh của chính kiến. Thế mạnh của chứng ngộ. Thế mạnh của diệt hết. Thế mạnh của tu tập. Thế mạnh của chứng ngộ chân chính. Không mong cầu thân mạng là không tham tiếc thân mạng. Đấy gọi là thế mạnh của tu mãi một hạnh. Ưa học pháp Không v.v… với lòng hoan hỷ là làm sáng tỏ thế mạnh thứ hai là học rộng. Cũng không cảm thấy vui mừng với chấp “Không” v.v… và cũng không tỏ vẻ vui mừng với cảnh giới Niết-bàn mà chỉ chuyên lo tu tập các phạm hạnh, huống chi mong cầu sẽ được sống trong ba cõi, không mong cầu chấp pháp, cũng ưng pháp diệt, ý hướng đến Niết-bàn của quả đó, đạo đó. Nói về thế mạnh ham muốn thứ ba là thường xuyên dừng lại và dựa vào chính pháp, không dựa vào văn tự, câu văn. Mong cầu nội tâm được giải thoát mọi phiền não, không trốn chạy cái bên ngoài. Vì dựa vào chính pháp mà mong cầu được thiền định, giải thoát suy nghó về trí tuệ thế gian v.v… Thế mạnh thứ tư là suy tư trong thanh vắng để cầu mong giải thoát mọi phiền não, không hướng ra ngoài, chỉ mong thấy được một pháp. Pháp đó từ xưa đến nay vốn không cấu uế mà hoàn toàn trong sạch để tự mình nương vào nó. Không dừng lại nương tựa vào người nào khác để tính không bị nhiễm. Pháp hữu học xuất thế gian là bên trong mình phải tự biết lấy. Thế mạnh thứ năm là chính kiến, là dùng pháp thân chân chính mà còn không trông thấy được Phật, huống gì là sắc thân. Không thấy Tam bảo là ba ngôi quý báu, chân thật, cũng là do trí xuất thế gian phân biệt nhớ nghó. Thế mạnh thứ sáu là chứng. Đã lìa mình ra khỏi tai họa chấp “Không” mà còn không thấy được pháp, huống chi là tham đắm âm thanh, lời nói. Do vậy cần diệt trừ những gì nên diệt trừ. Thế mạnh của diệt là thứ bảy, không thấy có điều gì phải tu tập nữa. Thế mạnh của tu tập là thứ tám. Không sinh vào vòng sinh tử, không đắm say Niết-bàn, biết được tất cả pháp xưa nay tịch diệt, không thấy có sự trói buộc, không có mong cầu giải thoát. Thế nên, không từ bỏ thế gian, không chứng ngộ Niết-bàn. Không diệt nhân tố thế gian để chứng Niết-bàn. Không sinh ở thế gian, không mong cầu cảnh giới Niết-bàn. Không mong muốn chết và không mong được sống lâu mãi. Không mong cầu được giải thoát, không mong muốn phải bị ràng buộc, vì đã diệt, và còn phần hữu dư. Không tu hành cũng không diệt. Trong đấy, tính chất diệt cùng tận là các pháp vô học thuộc về vô sinh trí v.v… nên biết. Đây gọi là thế mạnh thứ chín về chính chứng. Vì đã có ba hạng Sa-môn kia, nên mới đặt tên Sa-môn (danh từ Sa-môn). Danh từ Sa-môn đó không có nghĩa và chỉ rõ không giống nhau, chỉ lấy tên để thay thế. Nói thí dụ nghèo khổ. Lấy tên để thay thế là thế nào? Dùng hình dáng, trạng mạo khác với tên Sa-môn, giả dối để nhận lãnh lợi dưỡng của tín thí. Từ đây trở về sau, các hành chẳng phải là chân thật. Sa-môn và ý thức nhận biết (tri thức) đã phát sinh tính kiêu ngạo. Hạnh chân thật của Sa-môn là vâng giữ giới cấm có nhận thức, hiểu biết. Nói điên đảo vì giống như giữ gìn giới, trí văn, tư, tu, dựa vào kiêu ngạo đó nên mới nói hai thí dụ: Như có người bị nhận chìm trong vũng nước sâu mà chết khát. Thí dụ nầy nhằm chỉ rõ kẻ có văn tuệ dễ nảy sinh ngã mạn. Thí dụ thầy thuốc là do tư tuệ, nên ham mê Tam-ma-bạt-đề, kẻ phàm phu xa lìa ham muốn thì dễ mắc vào lợi dưỡng và sự cung kính. Hữu học là phát sinh hối tiếc tu tập Tam-ma-bạt-đề, vì tu tuệ hạnh tà sẽ thị hiện sự kiêu ngạo trong việc hành chính hạnh, cho nên nói ra ba thí dụ khác: Thí dụ đầu là nói về bệnh nhân, thí dụ thứ hai là của quý báu, thứ ba là nói về người chết. Dựa vào giới sinh tính kiêu ngạo, thị hiện có bốn hạng Tỳ-kheo phá giới, thí dụ như Tỳ-kheo khéo giữ giới v.v… Trong đó, người đầu tiên tạm thọ giới, người thứ hai là hạng không khéo giữ gìn giới luật, còn tỏ rõ sự lười biếng. Người thứ ba hành động giống như người giữ giới, gây chướng ngại đối với sự phá giới, nên nói làm hư hỏng chướng ngại giới. Người thứ tư nói là đã lãnh thọ đầy đủ mười hai công đức của hạnh đầu đà, đây là giữ giới trên danh nghĩa tạm bợ. Trong đấy, người thứ nhất nhận thấy tai họa phá giới nên dập tắt bằng cách gây chướng ngại để đối trị. Gọi là phá giới. Hữu lậu do phá giới nên không thể gìn giữ một phần nào trong số giới cấm. Nảy sinh tư tưởng sợ hãi trong cảnh giới Niết-bàn, vì không có khả năng diệt được chướng ngại phá giới, nên đối trị bằng cách tu hành. Người thứ hai dùng tính ngã mạn nảy sinh ta đây được tướng giải thoát. Để đối trị hạnh nầy, nên mới nói về các công đức giữ giới chân thật. Phá giới là tội ác đã quá rõ ràng. Hạnh tu đạo cũng đã được chứng tỏ. Trong đó, với người giữ giới đầu tiên, Đức Phật nói họ nên ngộ nhập từ bên trong, không nên ngộ nhập từ bên ngoài. Với người giữ giới thứ hai, Đức Phật nói: Chớ tạo ra nghiệp nhiễm. Khéo léo không tạo ra nghiệp nhiễm, không phải để thân v.v… tạo nên. Nghiệp nhiễm cũng không phải không làm gì, mà là giỏi làm ở chỗ vô hành và không phải không làm gì. Dựa vào tạp nhiễm, mà không tạp nhiễm. Dựa vào sự khất thực mà không chấp vào khất thực, cũng không dựa vào đó mà không hành. Thọ dụng tạp nhiễm nhưng không nhiễm tạp, vì không danh, không sắc, Niết-bàn vô dư. Trong vô tưởng vô phi tưởng, vô tướng hành, lìa bỏ hết thảy tưởng nhớ nghó và những nhớ nghó vô tưởng, thành ra giới là không diệt, không phải không diệt. Hạnh vô học đối với Niết-bàn là hữu dư, phiền não là vô dư. Không chấp không buông, thường làm xa lìa sự vui mừng, âu lo, và từ bỏ sự nhớ nghó đến đồng sinh, thì không gì đáng chấp không gì đáng bỏ. Trở lại cảnh giới ban đầu, không chấp sự vui sự khổ, và chấp, buông ý niệm đồng sinh, thì không có chúng sinh, không có danh từ chúng sinh, cho đến không tâm, không có tên của tâm. Dựa vào thí dụ để giải thích, nếu đã diệt thì tùy thuộc vào đối tượng diệt để có thể ghi nhận và tùy vào việc đã ghi nhận mà tùy thuận đối tượng được ghi nhận. Không có thế gian, không có phi thế gian. Sống trong thế gian xen tạp, nhưng người tu hành làm việc không xen tạp. Nói không nương tựa, không phải là không nương tựa. Nương vào tạp nhiễm và không tạp nhiễm. Dựa vào cảnh giới thôn xóm, ruộng vườn của sáu thức, mà không coi thân giới của mình là cao. Không chê bai giới của người là thấp. Dù nương vào sự thân cận tại gia, nhưng không nhớ tưởng, phân biệt với giới kia cũng không phân biệt ta là người vâng giữ giới, ta có giữ giới như thế, không phân biệt tính chất đó. Vô lậu cũng có thể theo hữu lậu thế gian mà cùng tiêu mất sao? Thế nên tìm cách làm sáng tỏ, nói nó là không cùng chung với hữu lậu thế gian. Ba cõi không phải là kết quả, nên không cầu nguyên nhân ba cõi. Hai câu nầy thứ tự chỉ rõ tên là các pháp đối với giới có tùy thuận, không tùy thuận. Sa-môn học giỏi và không học giỏi có những sai biệt. Thế nào là Sa-môn không học giỏi giới? Trong đấy có ba hạng Sa-môn, nên biết: Về hình dáng, sắc phục thì trông giống như Sa-môn, Sa-môn không tham tiếc việc giữ giới, Sa-môn chỉ đồng một hình dáng, sắc phục. Còn Sa-môn không đồng nhau là về hành động, mạng sống, thọ dụng và giới mạng, kiến thức, tâm đều không giống nhau v.v… Trong đó, lónh vực hình dáng và lónh vực sắc phục gọi là tương tợ. Về y phục, họ cùng mặc y Tăng-già-lê v.v… nên gọi là đồng phục. Về hình dáng họ cũng cạo râu tóc, mang bình bát, nên gọi là đồng hình dáng. Nhưng do hành động của bản thân v.v… là bất tịnh, nên gọi là hành động không giống Sa-môn. Vì lối sống không trong sạch, nên mạng không giống Sa-môn. Vì keo kiệt nên trong thọ dụng không giống Sa-môn. Vì lười biếng nên hành động tiêu dùng không giống Sa-môn. Vì phá giới nên không giống việc làm của Sa-môn giữ giới. Vì theo phép ác nên không hiểu biết giống Sa-môn. Vì không điều hòa, không khuất phục, không ổn định được các căn, nên không giống Sa-môn, và với tâm cũng không giống. Hai là với oai nghi lừa dối, họ khẩn cầu những vật dụng riêng tư và ra sức tiêu xài, nên biết. Tâm tăng thượng đồng với tuệ tăng thượng, nhưng hành động kẻ kia và tâm không giống như vậy, vì thành tựu việc sử dụng theo ý v.v… Giới tăng thượng đồng với nhất tâm an ổn cho đến không ưa tạp loạn, nên hạnh của tâm tăng thượng thì đồng với ít nói năng, hạnh của trí tăng thượng thì đồng với những hành động lừa dối kia, hạnh đó không đồng với tâm. Ba là Sa-môn ham tiếng khen, tức là chỉ mong cầu được tiếng khen, nên biết. Một phần thì đồng với Xa-ma-tha, một phần thì đồng với Tỳ-bát- xá-na. Hai phần đó đồng với sự tu tập. Trở lại hai hạnh hỗ trợ đạo kia thì tâm đồng nhưng tính không đồng. Trong trường hợp nầy, vì do giới. Vì có phần giới, nên một phần đồng với Xa-ma-tha. Giới là nhân của Tam-muội. Do nghe nhiều, học rộng, nên một phần đồng với Tỳ-bát-xá-na. Văn có khả năng lãnh hội được trí vô lậu. Do ở chỗ A-lan-nhã trống trải, thanh vắng, nên hai phần tu tập kia đồng giống nhau. Vì trụ chỗ trống trải, thanh vắng là nhân tu tập. Hạnh ít ham muốn v.v… đồng với hai hạnh hỗ trợ đạo kia. Vì ít ham muốn v.v… là hạnh hỗ trợ cho sự học tập v.v… và dù có thân cận người khác, nhưng tâm không giống như họ, nên biết. Thế nào là Sa-môn khéo học tập? Có bốn hình thức, nên biết. Đó là hành, là tâm, là chứng, và đạt đến cùng tận. Do không tiếc thân mạng, nên được hạnh nhàm chán, ăn năn trong pháp hiện tại. Sa-môn với ý nghó vui mừng đối với không v.v… Việc giáo hóa của thân trong đời vị lai, đấy gọi là thế mạnh của việc làm, nên biết. Nương vào hạnh chân như, ý thức tin tưởng vào pháp vô ngã, không vui mừng với cảnh Niết-bàn, và không vui mừng với “Không”. Có điều nên làm và có điều có thể được. Hành động đó cũng làm xa lìa tính, tướng giả danh. Không chấp chính pháp, thường dựa vào sự thấu đáo về nghĩa, không dựa vào văn tự, chỉ mong cầu nghĩa cần đến. Ở ngay trong phiền não mà cầu mong được giải thoát, không chạy theo bên ngoài. Không tùy thuận như tính của âm thanh, đấy gọi là thế mạnh của tâm, nên biết. Nhận thấy thể của tất cả pháp đều vónh viễn trong sạch, không nhiễm, dùng pháp chân như tạo ra, giúp đỡ thân hình của mình và của người khác, không duyên vào trí tính người khác, việc chứng ngộ không nhiễm. Các quả báo v.v… trong đấy đều nhận thấy giải thoát, không thấy tính, tướng giả danh, nên gọi là thế mạnh của chứng ngộ, nên biết. Tự tính của mọi chúng sinh đều diệt, không làm điều thiện và không tu tập pháp đối trị hết thảy phiền não nhiễm v.v…, không nhận lấy Niết-bàn, chân như không đoạn tuyệt, và không quán sát việc sai quấy, đó gọi là thế mạnh đến tận cùng, nên biết. Thí dụ về người nghèo ở trong đấy với Sa-môn không khéo học. Vì ba thứ tướng, chỉ có tên gọi chứ không đúng nghĩa, nên biết. Tâm hư hoại mà hành thành tựu, tâm thành tựu mà hạnh lại hư hoại, tâm hư hoại và hạnh cũng hư hoại. Trong đấy, tâm hư hoại mà hạnh thành tựu thì có ba thứ, nên biết. Chủ thể nghe và đối tượng được nghe cho là đã đủ. Trong chủ thể nói kia mà cho là đủ, là vì chứng ngộ được Tam-muội thế gian và được công đức của thế gian, lấy đó làm điều ham thích. Như dụ kẻ bị chìm dưới sông. Nói tâm hư mà hạnh thành thì chỉ có việc nghe v.v… nên biết. Thí dụ thầy thuốc, là trở lại sự kiện người kia chỉ có nói suông, nên biết. Thí dụ trò ảo thuật là chứng được Tam-muội ở thế gian, chỉ có ham dính vào đó, nên biết. Thí dụ ngọc báu Ma-ni là chỉ rõ tâm thành tựu nhưng hạnh thì hư, nên biết. Thí dụ người chết là chỉ rõ tâm hạnh đều hư, nên biết. Thí dụ con trưởng giả là chỉ rõ tâm hạnh đều thành tựu. Do nghĩa một tướng, Sa-môn khéo học, nên biết. Nói có bốn hạng Tỳ-kheo phá giới, trông giống như giỏi trì giới, thứ lớp ra sao? Đem Sa-môn chân thật nhằm chỉ rõ việc thọ nhận hạnh chân thật. Đem sự thị hiện như giới tương tợ trụ giới giả danh nhằm chỉ rõ giới giả danh. Chỉ rõ giới giả danh là như thế nào? Là duyên vào giới giả danh mà hành bốn thứ, nên biết. Hạng Sa-môn đó vì tính ngã mạn làm hư thân. Đó gọi là trụ vào giới giả danh mà hành. Người đầu tiên thành tựu sáu điều giới cấm, do hai thứ chướng làm hư hỏng giới. Sáu hạnh đó là gì? Phần, giới, gìn giữ, thành tựu, y theo Ba-la-đề-mộc-xoa đã nói mà thực hành thành tựu. Hạnh thành tựu, hư hoại cảnh giới thành tựu. Đối với tội nhỏ nhặt vẫn cảm thấy sợ hãi thì nhận lãnh giới mà tu hành. Ở trong các giới có hai thứ chướng, đó là: Chấp thân quá mạnh khiến giới trung khởi và mạng tri. Thứ hai là bỏ hai tai họa đó, từ bỏ lónh vực chấp thân quá mạnh, do luật sư giỏi chỉ rõ được những vi phạm về giới, nhưng vì cùng với sự thanh tịnh ở thế gian, không thể động tới mọi lợi dưỡng nên đồng nảy sinh chấp thân. Thứ ba, pháp đồng đẳng nầy được giới thanh tịnh của thế gian, lại đồng nảy sinh chấp thân. Không am hiểu pháp vô ngã, nghe pháp, nảy sinh sợ hãi và lười biếng. Thứ tư, từ bỏ tất cả những tai họa, nhưng vì tin theo tà pháp vô ngã, nên làm hư giới, sống ngã mạn, sống trong bốn thứ giới không chân chính, biết rõ việc mình chê bai giới pháp, tướng đó và pháp vô lậu đó, nên biết. Chê bai pháp là gì? Đầu tiên người duyên vào giới giả danh, chấp có ngã và ngã sở. Để đối trị với hạng người đó, nên nói không có ngã và ngã sở. Người đã tạo ra phạm giới, mà gọi là không gây tạo để đối trị thì nói vô tác, vô phi tác. Kẻ bảo cái hành tạo ra đó cũng chẳng phải là hành, để đối trị nên nói không có những cái đã tạo ra, thì cũng không có người tạo ra, kẻ bảo hạnh an tường cũng gọi là chẳng phải hạnh, để đối trị với nó nên nói vô hành, vô phi hành. Người thứ hai trụ vào giới hạnh giả danh, họ chấp thân làm bạn với tùy thuận phiền não, họ chấp cả danh và sắc để đối trị, nên nói là không có sắc, không có danh. Kẻ bảo vị lai sinh tưởng định là có, họ chấp giữ vào đó thì nên nói vô tưởng vô phi tưởng để đối trị. Còn bảo diệt kiết sử đang hừng hực cũng gọi là không diệt, thì nên nói vô diệt, vô phi diệt để đối trị. Hạng chấp nhân vô ngã và buông xả chấp giữ lấy người, thì nên nói vô thủ vô xả để đối trị họ. Còn hạng chấp chúng sinh vô ngã kia, họ bảo cũng có thể thủ cũng không thể thủ, thì nên nói không thể lấy, không thể bỏ để đối trị họ. Hạng chấp tướng chúng sinh nhưng không phải do sắc v.v…, họ bảo chấp đó hay lắm, thì nên nói không có chúng sinh, không có tên chúng sinh, để đối trị họ. Họ nói chấp phân biệt đó hay lắm, thì nên nói không có thân, không có tên thân, không có miệng, không có tên miệng, để đối trị họ. Họ bảo phân biệt đó là tâm và họ bảo chấp phân biệt đó như vậy là hay lắm, để đối trị với luận điệu đó, nên nói không có tâm, không có tên tâm phân biệt. Người thứ ba trụ vào hạnh giới, họ bảo sinh ở trên thế gian mới tốt, cõi thế gian bên dưới chả có gì, nó là phi thế gian, để đối trị lối chấp đó, nên nói không có thế gian, không có phi thế gian. Hạng cho rằng dựa vào Tam-muội cũng là dựa vào không tham dục, để đối trị họ nên nói vô y chỉ, vô phi y chỉ. Hạng gồm thâu giới pháp của mình, không chê giới pháp của người khác, để đối trị thì nói không tự cao giới pháp của mình, không chê bai giới pháp của người là thấp kém. Người thứ tư trụ vào giới giả danh, họ bảo: “Ta là người giỏi giữ giới”, rồi nảy sinh ý niệm phân biệt, để đối trị họ, nên nói cũng không phân biệt giới. Hạng có ý niệm phân biệt giới và cho ý niệm có tính cao vượt, để đối trị với quan niệm đó, nên nói: Không phân biệt giới và không có ý niệm về giới nầy. Chấp như họ gọi là chê bai pháp, làm tiêu tan hết pháp vô lậu. Đấy gọi là một câu mà nói đủ sự vâng giữ giới pháp vô lậu của các Thánh. Không chỗ nào bám dính là hạng xuất thế gian, không còn ở trong ba cõi, đạo lý không tùy thuận tất cả phiền não và xa lìa mọi sự dừng nghỉ nương tựa. Đối trị với sự xa lìa ba cõi là sự trở lại trong sạch, chỉ rõ được cái cao vượt của hạnh trì giới, nên nói kệ sau đây, nên biết: Người giữ giới đầy đủ, Không nhơ, không sở hữu. Câu kệ thứ nhất chỉ rõ sự xa lìa cấu uế, nói lên tính chất của thanh tịnh, mọi tham dục còn sót đều đã xa lìa hết thì đó là nguyên nhân của thanh tịnh, cho nên nói là được tính thanh tịnh của giới, cũng chỉ rõ đồng nhân tố thanh tịnh bình đẳng. Ba câu còn lại thì trở lại với hạnh giữ giới, chỉ rõ nguyên nhân trong sạch của các bạn đồng lòng giữ giới. Trong đây, đồng bạn phá giới và các đồng nhân thì đối trị. Đối với giới đồng bạn và các đồng nhân, có ba thứ sai biệt, nên biết. Ở trong đồng bạn phá giới có ba thứ: Đồng sắc kiêu mạn, nương dựa vào đồng, làm cho ý bị mê hoặc, chấp như những kẻ ngu si. Đồng ưa Tam-ma-bạt- đề, bắt đồng bạn chấp lấy ý niệm đó. Đồng sự niệm là như sống thô bỉ, ta và bạn yêu mến, vui mừng cùng sống chung như vậy. Đấy là ý nghĩa của bài kệ thứ nhất. Trở lại với hết thảy hình thức trong việc trì giới là để chỉ rõ việc nương vào giới thanh tịnh, nên Đức Phật nói bài kệ thứ hai, nên biết. Tịch diệt và thường rốt ráo như vậy. Trong đấy nói đến việc đối trị với bốn thứ đồng tính gây tai họa, nên phải nói giới thanh tịnh Ba- la-đề-mộc-xoa, nên biết. Do không thiếu sót đối với việc thọ giới thiền thanh tịnh. Còn lại đều là giới hạnh tịnh vô lậu. Trở lại việc nương vào trì giới kia, thì thanh tịnh không có gì tai họa, cho nên nói kệ thứ ba: Không tham tiếc thân mạng. Như vậy có năm điều tai họa: Tai họa về lợi dưỡng và sự cung kính, do còn luyến tiếc thân mạng. Tai họa về tính lười biếng, cứ nghó vui sống hoài, không nghó đến cái chết. Tai họa bắt đầu mong muốn giữ giới phạm hạnh, vì mong cầu tất cả hữu lậu sinh. Tai họa về quan niệm chỉ có giới là đủ, vì không nhận thức đúng đắn đâu là chỗ cuối cùng. Tai họa về không biết chỗ ra khỏi cuối cùng như luận thuyết của ngoại đạo, đều trở thành lối lý luận không đúng đắn. Xa lìa năm điều tai họa nầy, thì giải thích sự thành tựu thanh tịnh, không còn các tai họa, nên biết, là dựa vào tính thanh tịnh, không phiền não, nên nói tiếp kệ thứ tư: Trì giới không nhiễm đời. Là không nhiễm pháp thế gian, do sự ô nhiễm là thuộc vào sự nương dựa tập đế, mọi lónh vực của dục đều đưa đến sự ô nhiễm cao nhất. Có hai sự nhận thức: Chấp giữ vào ái ân và diệt sự ái ân, nên nói: Không dựa vào pháp thế gian là vậy. Nói không dựa vào thế gian là dập tắt đi dục vọng trước, vì lại còn có sự ái ân phải diệt. Mau được trí tuệ sáng, Do được ánh quang minh, Ở trong kiến đế đạo, Không ngại, không sở hữu. Sự kiện không chướng ngại, không có sở hữu, là do tu đạo phá trừ vô minh v.v…, và ngoài ra để đối trị với những pháp khác nên nói: Không ngã, không tướng đó, Xa lìa tướng ta, người, Dựa vào đạo vô học, Lìa ngã mạn thanh tịnh. Phật nói tiếp kệ thứ năm: Không bờ nầy, bờ kia, Cũng không khoảng chính giữa, Trong hành động vô tướng, Không mắc vào trong ngoài. Vô lậu là không bị dính mắc, do đã dập tắt phiền não và sức cháy hừng hực của kiết sử. Không dua nịnh vô lậu và cũng không có kiêu ngạo nào khác, đã làm sáng tỏ việc vónh viễn dựa vào thanh tịnh, nên nói kệ thứ sáu: Tâm không dính danh, sắc, Lập chí trước mọi việc, Không rời pháp tịch diệt, Trì giới không chưa đủ. Điều phục các giác quan, Tam-muội không, chưa đủ, Không sinh ngã, ngã sơ,û Đến hữu đảnh thế gian. Biết đủ là do giữ gìn giới cấm. Dựa vào thế gian mà được tịnh, chỉ rõ là từ sự trì giới, nên nói kệ thứ bảy: Dù vâng giữ các giới, Nhưng tâm không tự cao. Là chỉ rõ do giữ giới, nên tâm không nảy sinh sự phân biệt cao, thấp, không nhàm chán và biết vừa đủ. Cũng không cho là cao, Vượt là cầu đạo Thánh. Vâng giữ giới cấm thanh tịnh, thấy Tam-muội không đủ, việc mong cầu đạo xuất thế gian, dựa vào sự thanh tịnh của xuất thế gian, nên nói tiếp kệ thứ tám: Không coi giới là nhất, Không coi giới là đủ, Cũng không quý Tam-muội, Không đắm say Tam-muội, Vượt qua hai việc đó, Tu tập thượng trí tuệ. Không phân biệt là tính của Thánh. Không phân biệt là tu tập để gom lấy trí tăng thượng, luôn được chư Phật khen ngợi. Vì thế nên người nhận biết có thừa, là người sẽ được chư Phật khen ngợi hơn hết. Dựa vào sự thanh tịnh của hữu học, vô học, phi hữu học phi vô học nên nói kệ thứ chín: Tâm giải thoát thân kiến, Diệt hữu phân thân kiến, Thị hiện tịnh học giới, Diệt trừ ngã, ngã sở, Diệt thân kiến đồng sinh, Hiện tịnh giới vô học, Tin “Không” cảnh giới Phật. Do tin lý không cho nên chỉ rõ sự thanh tịnh là chẳng phải học, chẳng phải vô học. Dựa vào sự thanh tịnh mà xua tan tính keo kiệt và ham dính, nên nói kệ thứ mười: Nương giới, được Tam-muội, Tam-muội, năng tu tuệ. Ở đây chỉ rõ vì chưa được giới của tám đạo Thánh, nên nói thanh tịnh không phải do giữ giới: Nương dựa nhân tu tuệ, Mau được trí thanh tịnh, Đạt được trí thanh tịnh, Giới thanh tịnh đầy đủ. Bài kệ nầy nói: Do chứng ngộ được Thánh trí, mà sau đó được giới thanh tịnh. Bấy giờ, có tám trăm vị Tỳ-kheo không còn các lậu, tâm đều được giải thoát. Có ba vạn hai ngàn người lìa mình ra khỏi trần cấu, đều đạt được pháp nhãn thanh tịnh. Điều đó chỉ rõ sự dạy bảo đã đem nhiều lợi ích lớn. Đồng thời cũng chỉ rõ tức khắc được kết quả lớn lao. Về người giáo hóa, gồm nhiều người đã thành tựu, được quả vị hữu học, vô học v.v… cùng năm trăm vị Tỳ-kheo đạt được thiền định, khi vừa nghe nói pháp sâu xa nầy, tâm họ không tin hiểu, không thể thông đạt, nên rời khỏi chỗ ngồi, đứng dậy ra đi. Đây là những người khó điều phục, họ đã có thể điều phục xong, nhưng vì không tin hiểu nên họ không thể thông suốt, không có khả năng ngộ nhập được pháp sâu xa. Có hai hình thức không thể thấu suốt được các pháp là không tin, có tin cũng không ưa chuộng, nên trí tuệ không có khả năng suy tính thông suốt được các nghĩa. Ý nghĩa bài kệ nầy rất sâu xa vì khó nhận biết được. Sự sâu xa của Bồ-đề chư Phật Như Lai, thì ý thức không dễ gì đo lường nổi. Nếu căn thiện của họ không thuần thục được là do họ đã bị các tri thức xấu ác thâu tóm rồi. Do sức tự tin quá ít ỏi, nên rất khó tin và lãnh thọ pháp. Bị ác tri thức gồm thâu, nên họ không thể nào tu tập thuần thục các căn thiện, vì họ không tin nhiều, nên biết. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với Tôn giả Tu-bồ-đề. Khi Tu-bồ-đề cùng các Thanh văn nghe Đức Như Lai nói mấy lời sâu xa là họ đã có khả năng được hóa độ bằng nghĩa cao cả. Thế nên giả danh, chân thật đều có chỗ khác nhau, nên biết. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền hóa ra hai vị Tỳ-kheo để chỉ rõ phương tiện ứng hiện giáo hóa của Như Lai. Thị hiện người hóa độ có hai thứ tướng: Chỉ rõ sự tin tưởng đối với đồng phục và kiến đồng pháp sự. Các Tỳ-kheo kia đều gom ý nhận lãnh. Sau khi Đức Thế Tôn nói chính pháp răn dạy xong, các Tỳ-kheo kia lại vọng chấp Niết-bàn, phát khởi kiêu ngạo, sinh tâm hoảng sợ. Vì có lòng tin, nên nói cảnh giới Niết-bàn như thật, là không có chúng sinh. Nếu người đã bước vào Niết-bàn thì không còn mọi tham dục v.v… mà chỉ có trạng thái tận diệt. Những Tỳ-kheo kia còn không sinh, như thế người thị hiện Niết-bàn chỉ có diệt, không còn sinh khởi phiền não. Đức Phật nói: Các ông đừng gợi lên những tưởng tượng vu vơ, chớ tạo ra những phân biệt. Chớ bước vào ngã hay ngã sở dù trong hay ngoài, cứ như vậy tiếp tục thìø không còn dính chấp vào mọi pháp, vì sự tham sân xưa nay không sinh, nên không xa lìa, cả đến vị lai cũng không xa lìa cái gì cả. Đó gọi là tịch diệt. Để ngăn ngừa quan niệm cố chấp cho là: Vốn chẳng phải tịch diệt mà có tịch diệt. Phải biết, hết thảy phẩm giới có được v.v… là không qua, không lại. Và cũng không phải diệt tận hết, chỉ có tên chúng sinh là vónh viễn tịch diệt. Không qua, không lại là không ô nhiễm. Với lại không diệt hết là tự tính diệt hết. Chính nó cũng không còn sót. Nếu xưa kia vốn không tịch diệt rồi về sau mới thành tịch diệt, thì các ông nên buông bỏ xa lìa tướng đó, vì Niết-bàn không có việc đó. Ông đừng nói tôi nhập Niết- bàn, mà chỉ có tướng hướng về cảnh giới Niết-bàn, nên tạo ra tướng Niết-bàn. Ông đừng dùng tướng của những tham dục mà hiểu là tướng Niết-bàn, chẳng tham dục, không tham dục v.v… mới gọi là Niết-bàn. Điều đó mới gọi là tướng. Vả lại có hành vô tướng cũng đều là phương tiện. Nếu đạt vô lậu rồi thì sau đó mới nói cái vui của pháp hành hiện tại, lấy đó làm phương tiện tu tập nhập vào định diệt tận. Có khi nó còn có nghĩa khác. Kinh nói: Nếu Tỳ-kheo kia không gieo trồng các căn thiện thuần chủng thì công đức trí tuệ hỗ trợ đạo còn thiếu kém, nên khách trần phiền não sẽ gia tăng mạnh mẽ. nghĩa nầy không phải thuộc về ác tri thức, vì thiện tri thức đã không biết gồm thâu. Hư hoại, nghĩa nầy không thể tin hiểu, xa lìa trợ đạo bằng trí mà hành, có khả năng tin vào chỗ sâu xa của pháp, nghĩa nầy không có khả năng tin hiểu. Cho nên nói chung là không có khả năng thông đạt, là không có khả năng đo lường để biết trí an trụ trong thể của pháp. Vả lại, không có khả năng tin hiểu thì không thể có quyết định đúng đắn do trí chân thật. Như Lai dùng hai thứ phương tiện hóa độ, nên biết. Giáo hóa là đem ngã mạn cùng thể chỉ rõ khi cùng sự nói ra để có thể tùy thuận việc thực hành dạy dỗ nầy, đạt được sự giáo huấn thì có nhân xuất thế, lấy việc giáo dục chính tịnh làm phương tiện truyền trao. Có bốn thứ phương tiện giáo hóa: Phương tiện một: Với kẻ sợ hãi pháp nhiễm, tịnh, thì thuận theo họ để nói cho họ xa lìa sợ hãi, trao cho họ cái nhân xa lìa phiền não và trao cho họ pháp thanh tịnh, từ bỏ được nhân sợ hãi, truyền dạy cho họ hiện pháp, đó là phương tiện làm cho họ thấy vui vẻ nhất khi tụ tập. Lại còn có việc chấp ngã, cho rằng các ngã nầy chứng đạo chân chính, cho nên phải đem lý không tùy thuận mà truyền dạy họ, bảo với họ: Tôi không có tội gì để sinh lo sợ cả. Do nhiễm là việc làm của thế gian. Đó gọi là tướng thứ nhất. Phương tiện thứ hai: Các ông chớ nghó tưởng, chớ tạo sự phân biệt. Nhân của phiền não thị hiện do hai thứ tính giả danh. Đó là tính chất phân biệt, kiêu ngạo, chấp, phiền não và chấp vào công đức mà phân biệt cho là tai hại hơn hết. Đó gọi là tướng thứ hai. Phương tiện thứ ba: Về phần thanh tịnh, tóm tắt có hai thứ, nên biết: Đạo hạnh thanh tịnh. Niết-bàn thanh tịnh. Thanh tịnh đạo hạnh là nguyên nhân của sự sợ hãi, nên biết. Nầy các thầy Tỳ-kheo! Hết thảy phẩm giới là không đi, không đến, lại không hoàn toàn diệt hết mà chấp là vónh viễn thanh tịnh trong chân như. Trong phần trước, đã giải thích có phiền não phân biệt và lìa phân biệt phiền não nhưng cũng không thành. Phiền não và lìa phiền não trong thanh tịnh đạo hạnh kia, đã có sự phân biệt rồi, mà vẫn còn nảy sinh tư tưởng sợ hãi đối với thanh tịnh đạo hạnh, nên có hai thứ tướng, nên biết. Ở trong nhân của Niết-bàn thanh tịnh phát sinh sợ hãi, thì các ông cần phải lìa bỏ tư tưởng nầy, Niết-bàn không khác với tính giả danh, nhưng người ta lại chấp nó. Các thầy chớ tùy theo tư tưởng và chớ đuổi theo cái chẳng phải tư tưởng. Niết-bàn khác với tư tưởng. Ký ức đã tạo ra sự tưởng tượng của tâm. Các thầy đừng có ý tưởng gì khác, đừng dùng ý thức để tưởng tượng ra. Chớ lấy tưởng khác mà quán danh. Đó gọi là tưởng tịch diệt của nội tâm, cũng chớ có dùng ý tưởng để quán sát ý tưởng. Không còn hai cái nhân đó thì ở trong Niết-bàn không phát sinh sợ hãi. Đó gọi là tướng thứ ba. Phương tiện thứ tư: Loại bỏ hai nguyên nhân ấy, truyền dạy các phương tiện v.v… về những việc làm tối thượng. Khi từ bỏ hai nhân ấy và bỏ cả nhân phiền não, là đã giũ sạch nhân sợ hãi đối với pháp thanh tịnh. Ở đó cho đến mọi phương tiện hóa độ của Như Lai đều nên biết. Đó gọi là tướng thứ tư. Từ đây trở về sau nói chính trí tạo ra lợi ích lớn là dựa vào sáu việc để nói: Về nguyên nhân. Về nương tựa. Về đi ngược với ấm Về vắng lặng suy nghó. Về răn dạy. Về pháp chứng ngộ và pháp tùy thuận. Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề hỏi vị Tỳ-kheo kia: Các thầy Tỳ-kheo! Các thầy đã đi đến đâu và hôm nay từ đâu đến đây? Các Tỳ-kheo nói: Nầy thầy Tu-bồ-đề! Đức Phật nói: Pháp không từ đâu đến và không đi về đâu, câu đó có nghĩa gì? Trả lời thế nầy: Câu đầu là dựa vào nhân Niết-bàn, do nghĩa gì mà Niết-bàn là không có qua lại, là thí dụ như thế gian. Lại hỏi: Ai là thầy ông? Trả lời: Thầy chúng tôi nếu từ trước đến nay đã không sinh thì cũng không có diệt. Câu đó có nghĩa gì? Trả lời thế nầy: Là dựa vào vấn đề thứ hai. Là dựa vào không phải sắc thân của Thế Tôn. Ngài không sinh cũng không diệt, đó là tính của Niết-bàn. Lại hỏi: Vậy thì các thầy theo ai để nghe pháp? Trả lời: Không bị trói buộc, cũng không cần giải thoát. Câu đó có nghĩa gì? Là dựa vào đi ngược với ấm mà nói pháp thứ ba, là họ không bị trói buộc. Dựa vào ái nhiễm đã phát sinh ở trên mà nói không cần giải thoát, để đối trị vì người đó đã được giải thoát rồi. Lại hỏi: Các thầy đang tu tập pháp gì? Trả lời: Không vì diệt tan vô minh, cũng không vì phát sinh sự sáng. Câu đó là nghĩa có thể nói như thế nầy. Là dựa vào vấn đề thứ tư: Suy nghó vắng lặng do không diệt vô minh nên không lìa vô minh. Các bậc Thánh đã nghe nói đến hạnh đó, không vì phát sinh sự sáng là vì sáng đã sinh. Lại hỏi: Thầy của các ông là ai? Trả lời: Vô đắc, vô trí là thầy tôi. Đệ tử của người đó thì chưa được, chưa chứng. nghĩa của câu đó có ý như thế nầy: Là dựa vào vấn đề thứ năm răn dạy. Đã giáo hóa các thầy Tỳ-kheo thân còn động ấy rồi, cho nên việc thứ sáu là pháp chứng, pháp hành tùy thuận. Dựa vào mười việc mà nói, nên biết. Dựa vào Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư diệt kiến đế. Dựa vào phiền não mà diệt sự tu hành và đạo hành phiền não, dứt hết mọi khổ. Cúng dường Tôn giả là thực hành hạnh bố thí, vượt qua quả vị phàm phu, bước vào an trụ ở quả vị Thánh nhân, và cùng được đến bờ giải thoát. Lại hỏi: Các thầy cùng tu tập phạm hạnh với ai? Trả lời: Chúng tôi ở trong ba cõi, không tu hành, cũng chẳng phải không tu hành. nghĩa câu đó nên nói như thế nầy: Do có Niết-bàn vô dư và Niết-bàn hữu dư. Do vậy chúng tôi cùng ở chung với các bạn đồng pháp. Lại hỏi: Chừng nào các thầy chứng Niết-bàn? Trả lời: Những người được Đức Như Lai giáo hóa đều đã chứng ngộ Niết-bàn, chúng tôi cũng sẽ chứng Niết-bàn. Câu đó về nghĩa có thể nói như thế nầy: Dựa vào Niết-bàn hữu dư, do Niết-bàn đó vốn có sinh diệt. Tha lực là nghiệp vốn có, nó tương tự như pháp. Và bấy giờ chúng tôi sẽ cùng ở chung với những người khác. Lại hỏi: Các thầy hết sạch phiền não chưa? Trả lời: Hết thảy các pháp tướng đều hoàn toàn dứt hết. Câu đó có nghĩa gì cần nói? Do diệt mọi mê hoặc của kiến đế cho nên hết thảy các pháp đều vónh viễn diệt, kể cả lónh vực các cõi ác. Lại hỏi: Các thầy đã được ích lợi gì cho mình chưa? Trả lời: Chúng tôi biết cách cắt đứt vô ngã và vô ngã sở. Câu đó về nghĩa có thể nói như thế nầy: Đó là dựa vào tu tập để dập tắt phiền não. Và dập tắt luôn đồng sinh thân kiến. Lại hỏi: Các thầy đã đánh đổ được ma chưa? Trả lời: Ma năm ấm thì không thể nắm bắt được. nghĩa của câu đó có thể nói như thế nầy: Là dập tắt hết mọi nỗi khổ, ma năm ấm thì không thể nắm bắt được, do không thể trông thấy năm ấm đó trong đời vị lai. Thế nên phải hàng phục tất cả ma oán ở ngay trong năm ấm. Khi năm ấm đã không thì các ma khác không thể hiện hành. Lại hỏi: Các thầy phụng sự Đức Như Lai bằng cách nào? Trả lời: Không dùng thân, miệng và tâm. nghĩa của câu nầy có thể nói như thế nầy: Sự cung kính, sự tôn trọng, không dùng đến thân v.v… sẽ được Niết-bàn để thân cận cung kính Đức Như Lai. Lại hỏi: Các thầy đã tạo lập phước điền chưa? Trả lời: Vì không chấp, nên không có tạo tác. Câu nầy có nghĩa nên hiểu như thế nào? Người Đàn-việt tạo sự cung kính, chúng tôi không chấp và không đặt ra sự cung kính đó, do lìa xa mọi thứ chấp, sẽ làm lay động mọi điều ác. Cứ như vậy lại hỏi tiếp: Các thầy đã đoạn tuyệt sự qua lại sinh tử chưa? Trả lời: Vì không thường cũng không đoạn. Câu nầy có nghĩa nên hiểu như thế nào? Vì đã vượt qua quả vị không phải Thánh nhân, nên không đoạn tuyệt thế gian, tạo ra được một ít phương tiện, nhưng chẳng phải là cao thượng, vì Niết-bàn hữu dư. Đó là sự thị hiện không cắt đứt với thế gian. Lại hỏi: Có phải các thầy đã tùy thuận việc làm của bậc Thánh không? Trả lời: Xa lìa tất cả thủ đã có được giải thoát vô ngại. Câu nầy có nghĩa gì? Nên nói như thế nầy: Khi đã an trụ vào ngôi Thánh, thì từ bỏ mọi thứ chấp để giải thoát, không chấp ngang ngược, từ bỏ mọi tà chấp. Lại hỏi: Rốt cùng các thầy dừng và nương tựa vào đâu? Trả lời: Chúng tôi sẽ theo Như Lai để giáo hóa mọi người, cho đến nơi đến chốn. nghĩa của câu nầy nên hiểu như thế nầy: Là cùng đến bờ giải thoát bên kia. Đối với Như Lai thật ra không có pháp tướng tự hơn hết và khác lạ, thị hiện việc cùng đến bờ giải thoát, hoặc là tâm lại được tự tại. Các Thiện nam ! Có thể tùy lúc mà thọ lãnh sự thọ ký chân chính, vì đã được Tôn giả Tu-bồ-đề nêu ra các câu hỏi như thế, nên sau đây là nói sự thọ ký chân chính, do có khả năng đem lại nhiều lợi ích lớn, nên biết. Lời nói bí mật là gì? Là trí không có hai tướng. Mọi lời bí mật là để ngộ nhập vào tướng không có hai tướng. Câu nói nầy dựa vào quan điểm nào? Tính chất của câu nói đó là không. Tính chất của lời nói đó là công lao của một tướng, mọi cảnh giới đều có tính và tướng. Không hai là từ không hai đó mà sinh chấp, khi đã có hai tướng là có ô nhiễm. Không chấp hai tướng là trong sạch. Dù có nói mọi quan điểm đều có, nhưng cái có đó cũng chỉ là giả danh, là công lao của tướng thôi. tính của cảnh giới là không nhưng do công lao của hai tướng nên tính của cảnh giới thành có. Dù cảnh giới có hai, nhưng không chấp vào hai tướng. Có nhiễm mà không chấp cho hết sạch là tịnh. Như thế, tất cả chư Phật đều ngộ nhập lời nói bí mật, đó là tướng không hai, nên biết. Trong đây có năm thứ tướng, đối với quả vị tôn quý và sự truyền dạy đó, có năm thứ quả và năm thứ của lợi ích. Vì thành tựu việc gìn giữ, nên nói là các việc bí mật, nên biết. Năm thứ tướng tôn quý là gì? Nếu có tư tưởng thì mới nói tư tưởng đó thành tựu, là thành tựu lónh vực tôn quý. Câu nầy còn có nghĩa gì nữa? nghĩa là Đức Phật vónh viễn chứng Niết-bàn, nên Ngài mới nói: Các pháp không từ đâu đến và nó không đi đến nơi nào. Xa lìa sáu thứ nên nhập diệt. Các hữu trong thế giới kia có chê bai hay không chê bai v.v… và không phân biệt của hữu học, cho nên biết tại sao các pháp được các Tỳ-kheo tôn trọng mà có thể nói pháp. Các pháp đó có tướng gì? Do các pháp từ trước đến sau chưa sinh, nên cũng không có diệt, vì dựa vào pháp thân không sinh, không diệt. Nói các pháp gì? Nếu không bị trói buộc thì không cần giải thoát. Cởi trói và buộc là không còn tính, tướng nữa. Điều đó giúp cho kẻ học biết được pháp. Có bao nhiêu tính, tướng để nói? Là không đoạn diệt vô minh, cũng không nảy sinh minh. Vô minh và minh đều có tính giả danh, không thể nắm bắt được, chỉ chấp có sự giác ngộ thôi. Nói cho người nào? Nếu chưa được chứng ngộ và chưa được quả vị chính giác. chính giác chưa ngừng thì vô minh kia không có. Thành tựu quả cao vượt là gì? Có nghĩa là vì cảnh giới Niết-bàn vô dư. Khi không còn sống với ba cõi thì đã dựa vào lónh vực của cõi Niết-bàn vô dư. Chỉ còn trụ vào cõi tịnh chân như. Nói về cảnh giới Niết-bàn hữu dư. Ai được Đức Như Lai giáo hóa mà chứng nhập cảnh chân thật Niết-bàn, thì đó mới chỉ có tính Niết- bàn, tất cả các pháp đều dựa vào Niết-bàn theo chân lý thế tục. Đó là nói có khả năng làm tròn đạo hạnh bậc Thánh. Mọi việc làm đã hoàn tất mới nói là ta đã làm xong mọi việc. Dù có ngã, không có ngã và ngã sở, thì cũng đều dựa vào sự chứng ngộ pháp vô ngã mà nói như vầy: Đã đánh tan giặc thù bên trong bằng nội lực và dẹp vónh viễn mọi oán phiền não, do đã chứng ngộ pháp vô ngã. Nói đánh tan giặc thù bên ngoài như thế là do chưa thấy ấm ma. Hết thảy thuộc về ngoại ấm. Ấm là oán thù bên ngoài, là âm thanh và lời nói, nên biết. Vượt hơn năm ấm là xa lìa nhớ nghó phân biệt. tính của năm ấm là không giác ngộ, nên biết. Thành tựu kết quả ích lợi là tỏ lòng cung kính đối với Đức Thế Tôn không phải bằng sắc thân v.v… mà bằng tùy thuận pháp khéo léo hành để việc nhận lãnh của cải của tín thí bố thí được trong sạch. Hiểu rõ phước điền là không thủ một pháp nào, nên vượt qua được biển khổ thế gian. Vượt qua thế gian là do biển vô ngã không đoạn, không thường, không lùi bước đối với việc làm ruộng phước. Do làm ruộng phước nên từ bỏ chấp pháp và kiêu ngạo, được pháp giáo hóa mà thành Phật tử (Bồ-tát). Dựa vào Đức Như Lai nên Tôn giả Tu-bồ-đề nói: Các ông làm gì mà đi không đến nơi? Như Đức Như Lai đã giáo hóa, đó là đến vậy. Tu-bồ-đề đã vấn đáp với các Tỳ-kheo như thế. Bấy giờ, có tám trăm vị Tỳ-kheo không tiếp nhận các pháp nên tâm được giải thoát, ba vạn hai ngàn người đã xa lìa trần cấu đều chứng được pháp nhãn thanh tịnh. Sự thọ ký chính thức nầy đem lại lợi ích lớn. Người hữu học được vô học. Phàm phu thành tựu được quả vị hữu học. Bạch Thế Tôn ! Pháp môn Bảo Tích nầy thật là hiếm có, có khả năng giúp cho thiện nam thiện nữ được sống vững trong Đại thừa và làm nhiều lợi ích lớn. Từ đây trở về sau sẽ nói rõ hơn về lợi ích lớn của pháp môn Bảo Tích nầy. Do có lợi ích, nên đối với các Bồ-tát đã thành tựu pháp Phật là rất cần cho việc giáo hóa chúng sinh thứ lớp răn dạy nghĩa trung đạo v.v… Các thiện nam thiện nữ kia được bao nhiêu công đức phải thị hiện bằng sự học theo lời răn dạy từ tạng Bồ-tát để có lòng tin lợi ích. Nầy Ca-Diếp ! Nếu có thiện nam thiện nữ đồng đẳng như vậy, thì trong hiện tại có năm thứ tướng lợi ích từ đức tin: Thế giới vào thời đại duy trì có bậc đức độ lớn. Tự tại thành tựu nguyên nhân lùi sụt. Thân thay đổi. Xứ sở đó thành tựu việc nói và nhận lãnh thừa hành pháp. Người nghe thành kẻ thừa hành pháp và trước khi chết sẽ thấy rõ nghiệp thanh tịnh. Đại được nói ở thế giới trì thời là chỉ Phật, chúng Thanh văn và các tháp v.v… Trì là đầy đủ vật báu, y phục trong các thế giới v.v… Thời gian là vô lượng A-tăng-kỳ kiếp. Trong năm thứ tướng đó, việc được đại tự tại và khỏi sự thụt lùi của nhân thì nên biết. Do nhân quả có hạn lượng, không hạn lượng, là rất hiếm, do pháp có cùng tận và không cùng tận, do chẳng phải cao thượng mà được thú vui cao thượng, ấy chỉ là tính chất hoạt động để hỗ trợ cho tri đạo và do thế giới Phật là luôn tiếp nhận dìu dắt. Hơn nữa, lại có năm thứ tướng giúp thành tựu được đại tự tại và nhân khỏi thụt lùi, nên biết: Nguyên nhân vui có thể từ một việc ác nhỏ xíu. Nguyên nhân vui không nhất định chỉ có một hướng. Nguyên nhân vui là không vónh viễn. Nguyên nhân vui sẽ làm cho ý thọ lãnh điên đảo. Nguyên nhân vui nương vào cái khổ mà thân thọ lãnh. Sau cùng, từ thân nữ được thay đổi thân và nơi chốn đó đều được cung kính như tháp Thánh. Nơi đó đã tạo ra người gánh vác pháp, họ tùy thuận pháp tính kia mà đọc tụng, thọ trì v.v… Nói rõ hơn, là người gánh vác pháp ấy, khi chết họ sẽ được trông thấy Như Lai, được nghiệp nơi thân, miệng, ý thanh tịnh. Cho đến lúc rời bỏ thân mạng, mà được thấy thanh tịnh và nghiệp thanh tịnh, nên không có các hoạn nạn, do vậy khi sắp chết không còn khổ não gì, và vì không còn cái nhân lo âu sầu não, nên tâm lo rầu không thể đè bẹp được họ. Dù đôi mắt không còn nhấp nháy, nhưng biết chắc mọi ý thức vẫn hiện hữu, tay chân không quơ động là đã thành tựu oai nghi, bụng không mất đại, tiểu tiện, tâm không nhiễm ô. Do tinh thần không còn sợ hãi, nên không nắm tay, không quờ quạng hư không, không có tướng xấu an nhiên mà bỏ thọ mạng. Do thân đã điều phục, nên tiếng nói tốt, đúng đắn. Do xa lìa các nạn sợ hãi, nên giọng nói hoạt bát, lanh lợi. Do đã xa lìa lời nói, rít rắn, hung dữ, nên tiếng nói càng tốt đẹp hơn. Dùng lời nói tốt đẹp hơn hết để nói lên pháp mầu nhiệm của Như Lai. Tiếng nói vui vẻ đáng yêu là để ca ngợi các Đức Như Lai. Tiếng nói được hàng người trời ủng hộ, là giọng nói dịu dàng, mềm mỏng. Người đồng pháp là biết đem đạo lý để đặt ra câu chuyện đối đáp. Lời nói không sai trái, là không có các lời nói dối. Tiếng nói chắc chắn là lời nói trước sau không mâu thuẫn nhau. Giọng nói dễ nghe, là lời nói hợp lý không ngang trái. Tiếng nói được trời ủng hộ là niềm tin tưởng pháp Phật, được chư Thiên luôn ủng hộ. Tiếng nói được chư Phật ủng hộ, là chư Phật đã gồm thâu tiếp nhận. Là không giận dữ, ngay trong hiện tại gặp việc hung dữ có thể chịu đựng. Không hận là có thể nhẫn nhục với việc ác trong quá khứ. Không giận dữ gây rắc rối là không che giấu các điều ác. Không ôm lòng trả thù, là mọi sức nóng của sự rầu lo ăn năn đều không thể đốt cháy được. Không cố chấp lỗi lầm hoạn nạn, là không mong cầu tham dục v.v… Không ôm ấp là không hy vọng được trả ơn. Không có tướng kỳ lạ, tâm không khiếp nhược đối với giới pháp, là không chấp nhận kiến thức khác lạ. Không phóng túng, tâm luôn siêng năng, tinh tấn. Không làm rối loạn tâm vắng lặng, do tâm không hèn yếu. Tiếp nhận thế giới thanh tịnh của Phật mà không vui mừng, thì tự thân được chư Phật, Bồ-tát che chở, tiếp nhận được sự mầu nhiệm của thế giới Phật. Xa lìa kiêu ngạo và tăng thượng mạn là đã có được chí khí hiện tại đối với tất cả pháp Phật. Nhờ từ bỏ kiêu ngạo và tăng thượng mạn nên có tâm phân biệt sâu xa tinh tế, mà không cầu Tam-ma-bạt-đề thế gian. Dù có cái nhân để được chí khí hiện tại đối với tất cả pháp Phật, nhưng không cho là cao vượt. Tất cả Tam-muội của chư Phật là tạng Bồ-tát, nhờ dạy bảo mà được lòng tin chân chính đầy lợi ích ở trong vô lượng A-tăng-kỳ như vậy. Sự phân biệt đó đã có những sai biệt từ gốc, nhưng niềm tin tưởng về lợi ích thì ngày càng chuyển biến đến vô lượng vô biên A-tăng-kỳ, nên biết như vậy. Tạo luận Bảo Tích nầy, Con có được công đức, Do ý tịnh dũng mãnh, Mong thế gian rốt cùng. Pháp mầu, kinh Bảo Tích, Đại trí sáng không nhơ, Luận nầy trừ chướng, lấp, Tạo, chép, được phước đức. Hết thảy mọi kiến chấp, Rơi vào lưới không trí, Mắt Phật không chướng ngại, Nguyện thế gian sớm được.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 87