<經 id="n1522">LUẬN THẬP ĐỊA KINH HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1522 LUẬN THẬP ĐỊA KINH Tác giả: Bồ-tát Thiên Thân. Hán dịch: Đời Hậu Ngụy, Tam Tạng Pháp sư Bồ Đề Lưu Chi <卷>QUYỂN 1 Địa 1: ĐỊA HOAN HỶ, Phần 1 Người nói pháp môn này, Và các pháp khuyến thỉnh, Người phân biệt nghĩa tạng, Vâng giữ truyền bá ra. Các pháp môn tối thắng, Đảnh lễ giải diệu nghĩa, Khiến pháp tồn tại lâu Lợi mình và lợi người. Pháp môn của mười địa, sơ địa (Địa thứ nhất) gồm tám phần: Phần Tự (Mở đầu). Phần Tam-muội. Phần Gia hộ. Phần Phát khởi. Phần Căn bản. Phần Thỉnh cầu. Phần Thuyết giảng. Phần Đối chiếu chỗ thù thắng. Kinh: “Tôi nghe như vậy: Một thời, Đức Bà-già-bà thành đạo chưa lâu, đến ngày thứ mười bốn, tại điện Ma Ni Bảo Tạng, ở vương cung Tự Tại thiên, thuộc cõi trời Tha-hóa-tự-tại, cùng với chúng Đại Bồ-tát hiện diện đông đủ, hết thảy đều là bậc không còn thối chuyển, còn một đời nữa sẽ chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng, đều từ thế giới của các vị Phật khác vân tập đến pháp hội này. Các vị Bồ-tát ấy đều được tự tại trong cảnh giới trí tuệ của tất cả Bồ-tát, đều có thể bước vào cảnh giới trí tuệ của hết thảy Như lai, đều siêng năng tu tập không dừng nghỉ, khéo có thể giáo hóa mọi thế gian, tùy lúc hiện bày hết thảy các sự việc về thần thông, trong một sát na đều làm xong mọi chuyện, không bỏ sót một đại nguyện nào của hàng Bồ-tát đã phát khởi, luôn tu tập mọi hạnh của các bậc Bồ-tát ở bất cứ đời nào, kiếp nào, cõi nước nào, đầy đủ phước đức trí tuệ của hàng Bồ-tát, được thần túc như ý không bao giờ cùng tận, có khả năng đem ích lợi cho tất cả chúng sinh, sử dụng được phương tiện trí tuệ của hết thảy Bồ-tát để đạt tới bờ kia, có thể khiến cho chúng sinh quay lưng với nẻo thế gian mà hướng đến cửa Niết-bàn, không làm đứt mất mọi việc Bồ-tát đã hành trì, giỏi đi vào cảnh giới thiền định, Tam-muội giải thoát, thần thông, minh tuệ của tất cả Bồ-tát, đối với mọi việc cần làm đều khéo có thể thị hiện, đạt tự tại vô tác của bậc Bồ-tát, thảy đều chứng đắc mọi như ý thần túc, trong khoảnh khắc một niệm, có thể đi tới dự đại hội của chư Phật trong mười phương để khuyến phát, thưa thỉnh cách thọ trì pháp luân của hết thảy chư Phật, thường đem tâm rộng lớn cúng dường chư Phật, luôn tu tập theo sự nghiệp hành hóa của hàng Đại Bồ-tát, có thể hiện thân ở, vô lượng thế giới, tiếng nói vang xa, không đâu là không nghe thấy, tâm ý thông suốt, thấy rõ ba đời, tu tập đầy đủ mọi công đức hiện có của hết thảy Bồ-tát. Công đức của Bồ-tát Ma-ha-tát vô lượng vô biên như vậy, trong vô số kiếp nêu bày không bao giờ hết. Danh hiệu của chư vị là: Bồ-tát Kim Cang Tạng, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Tạng, Bồ-tát Thắng Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Thắng Tạng, Bồ-tát Nhật Tạng, Bồ-tát Nguyệt Tạng, Bồ-tát Tịnh Nguyệt Tạng, Bồ-tát Chiếu Nhất Thiết Thế Gian Trang Nghiêm Tạng, Bồ-tát Trí Tuệ Phổ Chiếu Minh Tạng, Bồ-tát Diệu Thắng Tạng, Bồ-tát Chiên Đàn Thắng Tạng, Bồ- tát Hoa Thắng Tạng, Bồ-tát Câu Tố Ma Thắng Tạng, Bồ-tát Ưu Bát La Hoa Thắng Tạng, Bồ-tát Thiên Thắng Tạng, Bồ-tát Phước Đức Thắng Tạng, Bồ-tát Vô Ngại Thanh Tịnh Trí Tạng, Bồ-tát Công Đức Tạng, Bồ-tát Na La Diên Đức Tạng, Bồ-tát Vô Cấu Tạng, Bồ-tát Ly Cấu Tạng, Bồ-tát Chủng Chủng Lạc Thuyết Trang Nghiêm Tạng, Bồ- tát Đại Quang Minh Võng Chiếu Tạng, Bồ-tát Tịnh Minh Thắng Chiếu Uy Đức Vương Tạng, Bồ-tát Đại Kim Sơn Tịnh Quang Minh Uy Đức Vương Tạng, Bồ-tát Nhất Thiết Tướng Trang Nghiêm Tịnh Thắng Tạng, Bồ-tát Kim Cang Diệm Thắng Hung Tướng Trang Nghiêm Tạng, Bồ-tát Diệm Xí Tạng, Bồ-tát Túc Vương Quang Chiếu Tạng, Bồ-tát Hư Không Khố Vô Ngại Trí Tạng, Bồ-tát Vô Ngại Diệu Âm Viễn Tạng, Bồ-tát Đà La Ni Công Đức Trì Nhất Thiết Thế Gian Nguyện Tạng, Bồ-tát Hải Trang Nghiêm Tạng, Bồ-tát Tu Di Thắng Tạng, Bồ-tát Tịnh Nhất Thiết Công Đức Tạng, Bồ-tát Như Lai Tạng, Bồ-tát Phật Thắng Tạng, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt. Những Bồ-tát Ma-ha-tát như vậy vô lượng vô biên A-tăng-kỳ, không thể nghó bàn, không thể nêu xưng, không thể lường tính, không có hạn lượng, từ vô số cõi nước của chư Phật vân tập tới đây, số lượng không thể nêu bày, không thể nói hết, Bồ-tát Kim Cang Tạng là bậc thượng thủ”. Luận: So sánh về thời (thời gian) xứ (nơi chốn) để làm sáng tỏ sự vượt hơn. Pháp này là thù thắng cho nên được giảng nói vào lúc đầu, tại nơi chốn thù thắng. Cung điện của nơi ấy là hơn hết. Đó là nơi chốn thù thắng. Tại sao Phật không giảng nói pháp ở cõi Sắc? Ấy là quả được cảm ứng ở nơi chốn đó. Vì sao Phật không giảng nói pháp vào bảy ngày đầu? Do Phật đang còn tư duy về việc làm, tư duy về nhân duyên của việc làm, vì căn bản của sự thành đạo là lợi tha. Vì sao trong bảy ngày đầu, Phật chỉ tư duy mà không nói pháp? Vì Ngài nhằm chỉ rõ là mình đang hưởng nguồn vui của pháp lớn lao. Tại sao chỉ rõ nguồn vui pháp nơi chính mình? Vì muốn khiến cho chúng sinh ở chỗ của Như Lai, tâm cung kính của họ được tăng lên. Lại nữa, ra khỏi pháp lạc vi diệu như vậy để giảng nói pháp cho chúng sinh vì Ngài có lòng thương xót họ. Do đâu Ngài chỉ nghó về việc làm nhân duyên hành hóa? Vì nhân duyên hành hóa ấy là sự hiển bày pháp Bất cộng. Tại sao Bồ-tát nói pháp môn này? Vì muốn khiến diệu lực của các Bồ-tát được tăng trưởng. Do đâu chỉ nói Kim Cang Tạng? Do tất cả phiền não là khó hủy hoại. Pháp môn này có khả năng phá trừ phiền não, vì căn thiện cứng chắc như kim cang, cho nên không nói tên khác. Vì sao gọi là Kim Cang Tạng? Tạng có nghĩa là cứng chắc, như cây bám rễ sâu trong lòng đất, như mầm nụ tàng ẩn bên trong. Do vậy, gọi là cứng như Kim Cang, như Kim Cang Tạng. Những căn thiện này, đối với hết thảy các căn thiện khác, chúng có sức mạnh tối thượng như kim cang, cũng có khả năng phát sinh và thành tựu đạo hạnh của hàng trời, người. Mọi căn thiện khác không thể phá hoại, cho nên gọi là Kim Cang Tạng. Đã nói xong phần Tự. Tiếp theo là phần Tam-muội. Kinh: “Bấy giờ, Bồ-tát Ma-ha-tát Kim Cang Tạng vâng theo oai thần của Phật, nhập vào Tam-muội Đại thừa quang minh của Bồ-tát”. Luận: Nhập vào Tam-muội tức là chỉ rõ pháp này không phải là cảnh giới suy lường. Nói xong phần Tam-muội. Kế tiếp là nói phần Gia hộ. Kinh: “Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nhập vào Tam-muội Đại thừa quang minh của Bồ-tát này, tức thì ông đã vượt qua các thế giới của chư Phật nhiều như số vi trần trong mười ức cõi Phật nơi mười phương, rồi trước số lượng chư Phật nhiều như số vi trần trong mười ức cõi Phật, ông đều hiện thân, đều gọi là Kim Cang Tạng, được chư Phật ấy khen ngợi: Hay lắm! Hay lắm! Chỉ có Kim Cang Tạng mới có thể nhập vào Tam-muội Đại thừa quang minh của Bồ-tát. Lại nữa, này thiện nam! Chư Phật nhiều như số vi trần nơi mười ức cõi Phật trong mười phương như vậy đều cùng một hiệu, tăng thêm oai thần cho ông. Đó là diệu lực từ bản nguyện của Phật Lô-xá na gia hộ”. Luận: Tại sao có nhiều Phật gia hộ như vậy? Đó là chỉ rõ sự tăng trưởng tâm cung kính đối với pháp và Pháp sư. Do đâu cùng một tên là Kim Cang Tạng? Do diệu lực của bản nguyện gia hộ. Vì sao Như lai phát nguyện như vậy? Là nhằm chỉ rõ nhiều Phật. Tam-muội này là Thể của pháp. Bản hạnh khi làm Bồ-tát đều tên là Kim Cang Tạng, cùng nói pháp này, nay thành chính giác, cũng gọi là Kim Cang Tạng cho nên không gia hộ tên gì khác. Lại nữa, do nghe các Đức Như Lai cùng tên với mình, cho nên Bồ- tát này càng thêm vui thích phấn khích. Tại sao không nói vượt qua vô lượng thế giới? Là dùng phương tiện để hiển bày về nhiều Phật. Vì sao nói cố định là mười ức cõi Phật? Là vì giảng nói về mười địa. Kinh này phần nhiều nói về số mười như vậy. Đức Phật kia từ trước đã phát nguyện này, nay lại tự gia hộ. Sau có Phật khác gia hộ mà nói là diệu lực từ bản nguyện của Phật Lô-xá-na, cho nên gia hộ. Vì sao gia hộ? Vì giảng nói pháp này cho nên mới gia hộ. Lại nữa, gia hộ như vậy nào? Kinh: “Lại nữa, hết thảy Bồ-tát là không thể nghó bàn. Pháp của chư Phật được nêu bày rõ, khiến họ bước vào Địa trí tuệ, nhằm thâu nhiếp mọi căn thiện, để khéo phân biệt lựa chọn hết thảy pháp của Phật, để hiểu rộng các pháp, để khéo quyết định giảng nói các pháp, để trí không phân biệt được thanh tịnh, không xen tạp, để không bị nhiễm nơi pháp của các thứ ma, để cho căn thiện của pháp xuất thế gian được trong sạch, để đạt được cảnh giới của trí không thể nghó bàn, cho đến đạt được cảnh giới của trí nơi bậc Nhất thiết trí. Lại nữa, để được đầu cuối nơi mười địa của Bồ-tát, để giảng nói đúng như thật về phương tiện khác nhau nơi mười địa của Bồ-tát, để nhớ nghó tùy thuận nơi hết thảy pháp Phật, để quán xét phân biệt thấu đạt pháp vô lậu, để giỏi lựa chọn phương tiện của đại trí tuệ quang minh, để khiến bước vào cửa trí tuệ đầy đủ, để giúp tùy theo chỗ an trú chính thức giảng nói, làm rõ về biện tài, không sợ hãi, để được bậc trí vô ngại lớn lao, để luôn nhớ nghó không quên mất tâm Bồ-đề, nhằm giáo hóa, thành tựu hết thảy cảnh giới của chúng sinh, để thông suốt, phân biệt hết thảy lónh vực của pháp”. Luận: Hai mươi câu trên đây là dựa vào hạnh lợi mình, lợi người của Bồ-tát mà gia hộ. Như vậy, mười câu đầu là dựa vào hạnh lợi mình, mười câu sau là dựa vào hạnh lợi người. Hết thảy Bồ-tát trong này là trú ở bậc Tín hạnh.Pháp của chư Phật không thể nghó bàn vì nó là đạo phẩm xuất thế gian.Minh (rõ) là thấy trí được chứng đắc. Nêu bày (thuyết) là biết phân biệt ở trong đó. Nhập là tin ưa chỗ được chứng đắc. Trí tuệ địa là trí của mười địa. Như trong phần căn bản nói, đây là sự hội nhập căn bản, như kinh đã nói: “Lại nữa, hết thảy Bồ-tát là không thể nghó bàn, pháp của chư Phật nêu bày rõ khiến hội nhập vào Trí tuệ địa”. Trong Tu-đa-la này nói: Nương vào chỗ căn bản để hội nhập, có chín loại nhập: Nhiếp nhập (Hội nhập thâu nhiếp): Mọi căn thiện thâu nhiếp vào Văn tuệ, như Kinh: Thâu nhiếp tất cả căn thiện. Tư nghị nhập (Hội nhập nghó bàn): Tư tuệ là trí phương tiện ở trong hết thảy các đạo phẩm, như Kinh: Khéo phân biệt, lựa chọn hết thảy pháp Phật. Pháp tướng nhập (Hội nhập pháp tướng): Là vô lượng các loại nhận biết trong ý nghĩa của hai loại nhập trên, như Kinh: Biết rộng các pháp. Giáo hóa nhập (Hội nhập giáo hóa): Là theo sự nghó bàn về danh tự đầy đủ mà khéo giảng nói pháp, như Kinh: Khéo quyết định giảng nói các pháp. Chứng nhập (Hội nhập chứng đắc): Là ở trong tất cả pháp bình đẳng, lúc trí đạt Kiến đạo khéo làm thanh tịnh, như Kinh: Trí không phân biệt được thanh tịnh không xen tạp. Bồ-tát giáo hóa chúng sinh tức là tự thành tựu pháp Phật, cho nên lợi tha cũng gọi là tự lợi. Bất phóng dật nhập (Hội nhập không buông lung): Là ở trong khi đạt Tu đạo, xa lìa tất cả phiền não chướng, như Kinh: Hết thảy pháp của ma không hề bị cấu nhiễm. Địa địa chuyển nhập (hội nhập chuyển theo từng địa): Là trong đạo phẩm xuất thế gian, các căn thiện như không tham … đều thanh tịnh, như Kinh: Căn thiện của pháp xuất thế gian đều thanh tịnh. Lại có căn thiện có thể làm nhân cho đạo phẩm xuất thế gian. Bồ-tát tận nhập ( Hội nhập tận cùng của Bồ-tát): Là ở trong Địa thứ mười, hội nhập nơi trí bí mật của tất cả Như Lai, như Kinh: Đạt được cảnh giới của trí không thể nghó bàn. Phật tận nhập (Hội nhập tận cùng của Phật): Là trí hội nhập nơi Nhất thiết trí, như Kinh: Cho đến đạt được cảnh giơí của trí nơi bậc Nhất thiết trí. Những nhập nêu trên đây là sự đối chiếu về nghĩa sai biệt nơi trí, lần lượt chuyển lên tốt hơn, chứ không phải là nhập căn bản. Hết thảy chỗ nêu trong mười câu trên, đều có sáu loại tướng môn sai biệt. Đây gọi là giải thích, nên biết là nhằm dứt trừ sự việc. Việc đó là ấm, giới, nhập. Sáu loại tướng là: Tổng tướng, Biệt tướng, Đồng tướng, Dị tướng, Thành tướng, Hoại tướng. Tổng tướng là nhập căn bản. Biệt tướng là chín loại nhập kia. Biệt tướng nương dựa vào căn bản (nhập căn bản) làm viên mãn phần căn bản kia (thành tướng). Tướng đồng (đồng tướng) là nhập. Tướng khác (dị tướng) là tướng thêm lên. Tướng thành (thành tướng) là nói tóm lược. Tướng hoại diệt (hoại tướng) là nói rộng. Như chuyện thành hoại trong thế giới phần, còn lại trong tất cả mười câu thì theo nghĩa, loại mà hiểu. Câu thứ hai mươi gọi là đạt được trọn vẹn nơi mười địa của Bồ-tát. Đầu-cuối căn bản này, trong đó đầu là tin tưởng muốn gần gũi. Cuối có nghĩa là nhớ nghó giữ lấy các địa. Lại có A-hàm và chứng đắc. Như vậy, theo thứ tự nương vào tướng ban đầu, cho nên biết đó là nương vào đầu-cuối căn bản. Có mười loại đầu-cuối (thủy chung): Thủy chung thâu nhiếp: Là trí của Tư tuệ theo nghĩa đã nghe mà thọ trì, giảng nói. Như Kinh: Như thật giảng nói về phương tiện khác nhau nơi mười địa của Bồ-tát. Thủy chung về dục (mong muốn): Là khiến chứng đắc hết thảy pháp Phật. Như Kinh: Nhớ nghó tùy thuận nơi tất cả pháp Phật. Thủy chung về hành: Là trong khi quán chiếu từng phần về đạo phẩm vô lậu, biết phân biệt tu tập cùng giác ngộ. Như Kinh: Quán chiếu thấu suốt, phân biệt pháp vô lậu. Thủy chung về chứng đắc: Là phương tiện của trí vô ngã thấy pháp trong khi kiến đạo. Như Kinh: Khéo lựa chọn phương tiện sáng tỏ của đại trí tuệ quang minh, trong đó khéo lựa chọn là tối thắng nơi sự lựa chọn. Tối thắng là trí nhận biết pháp vô ngã. Đại trí tuệ là vượt khỏi Tiểu thừa. Quang minh (sáng tỏ) là đối trị với vô minh. Trong việc này, nơi thời gian khác đều khéo nhận biết. Thủy chung về tu đạo: Là trí lực của trí xuất thế gian hội nhập nơi nghĩa của pháp. Như Kinh: Khiến nhập vào cửa trí ấy một cách đầy đủ. Ở đây Bồ-tát đối với Bồ-đề có năm loại chướng: Chướng ngại do không thể phá trừ tà luận: Mình cho là chính nghĩa, nhưng người khác nói là có thể hủy hoại. Lại nữa như quyến thuộc ly tán. Chướng ngại vì không thể trả lời nổi các vấn nạn: Những gì người khác hỏi thì mờ mịt không giải đáp nổi. Nếu có nói điều gì thì người ta cũng không tin nhận. Chướng ngại vì tham vướng Tiểu thừa: Chính mình không đủ khả năng đạt được đại Bồ-đề, mà còn từ bỏ việc làm ích lợi cho chúng sinh. Chướng ngại do biếng trễ nơi việc giáo hóa chúng sinh: Trong đó đã bỏ hạnh lợi tha, không trợ giúp điều thiện cho kẻ khác, lại khiến cho căn thiện của mình không phát triển. Chướng ngại vì không có trí phương tiện: Không thể khéo giáo hóa chúng sinh, cho nên hạnh Bồ-đề của mình không được đầy đủ. Để đối trị năm chướng ngại này, có năm loại thủy chung : Thủy chung có khả năng phá trừ chướng ngại của tà luận. Tùy theo những vướng mắc của họ mà làm sáng tỏ ý nghĩa chính đáng của mình. Không lo sợ khi đối trị nơi tà chấp, có biện tài tính không tối tăm. Như Kinh: Tùy nơi chốn an trú mà nói chính pháp, không lo sợ, biện tài sáng tỏ. Thủy chung có khả năng trả lời những vấn nạn: Do chứng được đại trí địa vô ngại. Như Kinh: Đạt được đại trí địa vô ngại. Thủy chung đối trị sự tham chấp Tiểu thừa: Do không lãng quên nguyện đại Bồ-đề, niệm đại Bồ-đề. Như Kinh: Luôn nghó nhớ, không quên mất tâm Bồ-đề. Thủy chung đối trị sự biếng trễ nơi việc giáo hóa chúng sinh: Do không hề mỏi mệt khi làm lợi ích cho chúng sinh. Như Kinh: Giáo hóa thành tựu cho hết thảy chúng sinh giới. Thủy chung đối trị chỗ không có trí phương tiện: Do phân biệt thông suốt được lónh vực năm minh. Như Kinh: Thông suốt, phân biệt hết thảy các lónh vực của pháp. Đã nói tại sao phải gia hộ? Lại nói gia hộ như vậy nào? nghĩa là gia hộ nơi thân khẩu ý. Thế nào là gia hộ nơi miệng (khẩu)? Kinh: “Lại nữa, thiện nam! Ông hãy biện luận để giảng nói về cách sử dụng phương tiện khác nhau của pháp môn này. Nhờ vào thần lực của chư Phật, trí sáng của Như lai gia hộ, cho nên căn thiện của mình thanh tịnh thì pháp giới thanh tịnh, làm lợi ích cho mọi cõi chúng sinh. Có Pháp thân, Trí thân, chính thọ hết thảy quả vị Phật, đạt được thân hết sức cao lớn hơn hết trong tất cả thế gian, vượt qua hết thảy đạo thế gian, đạo thanh tịnh là pháp xuất thế gian, có được đầy đủ trí của bậc Nhất thiết trí”. Luận: Trong mười câu này, biện tài theo chỗ đạt được nghĩa của pháp, luôn nhớ nghó giữ gìn không quên mà nói. Các pháp môn là pháp của mười địa. Sai khác là mọi thứ danh-tướng. Pháp này là thành tựu khéo léo, cho nên gọi là phương tiện. Nương vào biện tài căn bản có hai loại biện tài: Biện tài do sức của người khác. Biện tài do chính khả năng của mình. Biện tài do sức của người khác là nhờ vào thần lực của Phật. Thế nào là nương nhờ vào thần lực của Phật? Là trí lực của Như lai gia hộ một cách rõ ràng. Như Kinh: Vâng theo thần lực của chư Phật, được trí sáng của Như lai gia hộ. Biện tài do chính khả năng của mình có bốn loại: Biện tài làm thanh tịnh pháp thiện. Như Kinh: Do căn thiện của chính mình thanh tịnh. Biện tài làm thanh tịnh pháp vô tác. Như Kinh: Pháp giới thanh tịnh. Biện tài làm thanh tịnh việc giáo hóa chúng sinh. Như kinh nêu: Làm lợi ích cho mọi cõi chúng sinh. Biện tài làm thanh tịnh tự thân: Nơi thân thanh tịnh ấy hiện bày ba loại tận cùng: Một là tận cùng của Bồ-tát có hai loại lợi ích. Hai là sự tận cùng không đồng với hàng Thanh văn, Bích-chi-Phật. Ba là tận cùng của Phật. Tận cùng của Bồ-tát tức là Pháp thân rời khỏi tâm-ý-thức, chỉ nương tựa vào trí. Như Kinh: Pháp thân, Trí thân. Hai loại lợi ích: Một là lợi ích của quả báo hiện tại, nhận lấy quả vị Phật. Hai là lợi ích của quả báo về sau. Sinh về nơi trí của Ma-hê- thủ-la. Như Kinh: chính thọ hết thảy quả vị Phật, đạt được thân to cao bậc nhất trong thế gian thế gian. Sự tận cùng không đồng với hàng Nhị thừa là lúc độ năm đường, là làm thanh tịnh nẻo Niết-bàn. Như Kinh: Vì vượt qua hết thảy nẻo thế gian, cho nên con đường của pháp xuất tất cả là thanh tịnh. Sự tận cùng của Phật là nhập vào trí Nhất thiết trí viên mãn. Như Kinh: Đạt được đầy đủ trí của bậc Nhất thiết trí. Biện tài từ lực của chính mình là đối chiếu chuyển theo nẻo càng cao hơn, thù thắng hơn. Đã nói xong việc gia hộ cho miệng. Thế nào là gia hộ cho ý? Kinh: “Bấy giờ chư Phật ban cho Bồ-tát Kim Cang Tạng thân chân thật không còn sợ hãi. Ban cho biện tài giảng nói pháp không bị chướng ngại. Ban cho sự hội nhập khéo làm thanh tịnh mọi sai biệt của trí. Ban cho sự gia hộ khéo nhớ nghó không quên mất. Ban cho phương tiện khéo quyết định về ý thức. Ban cho Nhất thiết trí bao trùm khắp mọi nơi chốn. Ban cho diệu lực không hủy hoại của chư Phật. Ban cho sự không lo sợ, không khiếp nhược của Như Lai. Ban cho chính kiến phân biệt pháp, không bị trở ngại nơi trí của bậc Nhất thiết trí. Ban cho sự khéo phân biệt về thân khẩu ý phát khởi trang nghiêm của hết thảy Như Lai”. Luận: Mười câu nói về sự gia hộ cho ý này, thì thân không sợ hãi có hai loại: Một là ban cho thân oai đức tối thắng không ai hơn, như vua ở giữa đám đông cư xử tự tại, không hề sợ hãi. Hai là ban cho thân biện tài không sợ hãi. Sắc thân trước hơn sắc thân sau cho nên gọi là Thân vượt hơn. Gọi là thân ấy có chín loại: Một là biện tài không vướng mắc: Là thuyết pháp không bị đứt đoạn, không vấp váp. Như Kinh: Ban cho biện tài ưa thuyết giảng không chướng ngại. Hai là biện tài gắng nhận: Là khéo làm thanh tịnh trí kham nhận, có bốn loại là Duyên-Pháp-Tạo tác và Thành tựu. Giỏi nhận biết, biết tướng thành hay không thành của nghĩa ấy. Như Kinh: Ban cho sự khéo hội nhập vào chỗ khác nhau của trí thanh tịnh. Ba là biện tài buông mở: Là thuyết giảng không theo thứ tự ngôn từ không đứt đoạn, nơi nơi đều hợp ý không quên mất danh nghĩa. Như Kinh: Ban cho khả năng giỏi nhớ nghó, gia hộ khiến không quên mất. Sự gia hộ không quên này là gia hộ về ý lực. Bốn là biện tài có thể nêu bày: Là tùy chỗ cho nên hóa độ, dùng nhiều loại thí dụ để có thể đoạn trừ nghi ngờ. Như Kinh: Ban cho phương tiện để khéo quyết định về ý. Năm là biện tài không lẫn lộn: Là ba loại đồng tướng, mà trí thường hiện diện. Như Kinh: Ban cho Nhất thiết trí bao trùm khắp mọi nơi chốn. Sáu là biện tài giáo hóa xuất ly: Là đạt được mười lực không hư hoại của Phật đối với kẻ đáng hóa độ thì giúp họ dứt trừ phiền não. Như Kinh: Ban cho diệu lực không hư hoại của chư Phật. Bảy là biện tài không sợ hãi: Là đạt được quyết định không sợ hãi của Phật đối với ngôn thuyết của kẻ khác không hề khiếp nhược. Như Kinh: Ban cho sự không sợ hãi, không khiếp nhược của Như Lai. Tám là biện tài vô lượng: Đối với Nhất thiết trí, tùy thuận để giảng nói các pháp nơi Tu-đa-la như sáu loại chính kiến … Như Kinh: Ban cho chính kiến để phân biệt pháp không chướng ngại nơi trí của bậc Nhất thiết trí. Chín là biện tài đồng hóa: Là đạt được thân vô úy của tất cả chư Phật, cùng với ba loại giáo hóa tùy chỗ đáng hóa độ mà hiển bày ba nghiệp thù thắng để thần hóa. Như Kinh: Ban cho sự phát khởi trang nghiêm của thân khẩu ý để khéo phân biệt của hết thảy Như Lai. Lại nữa, chư Phật có diệu lực, có từ bi, vì sao dùng mười loại thân không sợ hãi, chỉ gia hộ cho Bồ-tát Kim Cang Tạng mà không gia hộ cho vị khác? Kinh: “Tại sao? Do đạt được pháp Tam-muội Đại thừa quang minh của Bồ-tát, cũng là dấy khởi bản nguyện của Bồ-tát, do khéo làm thanh tịnh tâm sâu xa, khéo làm thanh tịnh trí viên mãn, khéo tích tập pháp trợ đạo, do khéo tu hành bản nghiệp, do nhớ nghó, giữ gìn vô lượng pháp, do tin hiểu pháp thanh tịnh quang minh, do khéo đạt được Đà-la-ni môn bất hoại, do pháp giới ấn chứng, pháp thiện và trí tuệ”. Luận: Vì Bồ-tát này được pháp Tam-muội Đại thừa quang minh, còn những vị khác thì không đạt được. Được pháp Tam-muội có hai loại: Bản nguyện được thành tựu ngay đây, như Kinh: Cũng là dấy khởi bản nguyện của Bồ-tát. Thân Tam-muội gồm thâu mọi công đức. Thân Tam-muội gồm thâu mọi công đức này có tám loại , nương vào tự lợi, lợi tha: Một là Nhân thanh tịnh: Tâm sâu xa hướng đến Bồ-tát địa cho nên hết sức thanh tịnh. Như Kinh: Khéo làm thanh tịnh tâm sâu xa. Tâm sâu xa là tin tưởng, vui thích. Lại là căn bản của mọi pháp thiện. Hai là Trí thanh tịnh: Là hướng đến chỗ tận cùng của Bồ-tát địa với trí quán chân như của bậc tu đạo. Như Kinh: Khéo làm thanh tịnh trí viên mãn. Quán chân như này là nội trí viên mãn, soi sáng khắp pháp giới cũng như ánh sáng của vầng mặt trời chiếu tỏa cùng khắp. Ba là Thân chuyển thanh tịnh: Là đời đời chuyển hơn, khéo hành trì cho nên thành tựu viên mãn. Như Kinh: Khéo gom góp pháp trợ đạo. Bốn là Tâm điều phục thanh tịnh: Là khéo đoạn trừ tập khí phiền não. Như Kinh: Khéo tu hành theo bản nghiệp. Năm là Lãnh hội thâu nhiếp thanh tịnh: Là có thể gánh vác, thọ nhận, giữ gìn hết thảy pháp bí mật do Như Lai giảng nói. Như Kinh: Nhớ giữ lấy vô lượng pháp. Sáu là Thần thông thanh tịnh: Là đạt được thần thông thù thắng tự tại. Như Kinh: Tin hiểu pháp quang minh thanh tịnh, đem tín lực quyết định để giữ lấy thần thông. Bảy là Biện tài thanh tịnh: Là khéo nhận biết về môn Đà-la-ni không trái nhau. Như Kinh: Khéo đạt được môn Đà-la-ni bất hoại. Trong này, chữ nơi chương đầu hiện có là môn Đà-la-ni. Mỗi mỗi tự môn thâu nhiếp vô lượng danh cú-tự thân. Không hư hoại là trước sau không trái nhau. Tám là Lìa kiêu mạn thanh tịnh: Là trí chân thật dạy bảo truyền trao không có gì khác nhau. Như Kinh: Pháp giới đã ấn chứng về pháp thiện và trí tuệ. Ở đây, thân Tam-muội gồm thâu công đức có bốn loại, dựa vào nhân tự lợi: Khéo làm thanh tịnh thâm tâm. Khéo làm thanh tịnh trí viên mãn. Khéo gom góp các pháp trợ đạo. Khéo tu trì theo bản nghiệp. Bốn câu trong phần Tu-đa-la này, theo thứ tự nêu bày là: Nhân tinh tiến, nhân không quên mất, nhân uy lực và nhân không bị cấu nhiễm. Lại nữa, dựa vào nhân lợi tha cũng có bốn loại: Nhớ giữ vô lượng pháp là nhân đoạn trừ nghi hoặc. Tin hiểu pháp quang minh thanh tịnh là nhân của sự tôn kính. Dùng sức thần thông thị hiện chỗ chẳng thể nghó bàn, khiến những ai trông thấy đều phát sinh sự quyết định tin tưởng, hội nhập khéo đạt được môn Đà-la-ni bất hoại là nhân để chuyển diệu lý của pháp. Khi chính pháp hoại diệt, nhờ vào sự tôn trọng pháp còn lại cho nên vẫn đọc tụng, giữ gìn pháp giới ấn chứng về pháp thiện, trí tuệ là nhân của sự giáo hóa truyền trao pháp xuất ly. Giáo hóa như vậy, chính mình được lợi, không quên mất. Đã nói xong sự gia hộ về ý. Thế nào là gia hộ về thân? Là xoa nơi đỉnh đầu tạo sự hiểu biết. Kinh: “Bấy giờ, mười phương chư Phật không rời bổn xứ, đều dùng sức thần thông, đưa tay bên phải sờ vào đỉnh đầu của Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng”. Luận: Không ra khỏi bản xứ mà xoa đầu ở đây, là thị hiện rõ thần lực thù thắng. Nếu tới nơi này mà xoa đầu thì không phải là điều kỳ lạ. Như vậy, thần thông như ý này không phải như các thứ thần thông khác. Đã nói xong phần Gia hộ. Thế nào là phần Phát khởi? Kinh: “Sau khi chư Phật xoa đầu Bồ-tát Kim Cang Tạng rồi, bấy giờ Bồ-tát Kim Cang Tạng liền từ Tam-muội đứng lên”. Luận: Liền từ Tam-muội đứng lên nghĩa là do hành Tam-muội đã xong, lại được lực thù thắng, khi giảng nói, lại đạt đến định không còn nói năng. Đã nói xong phần Phát khởi. Thế nào là phần căn bản? Kinh: “Sau khi đứng lên ra khỏi Tam-muội, liền nói với các Bồ- tát: Này các Phật tử! Thệ nguyện của các Bồ-tát ấy là khéo quyết định, không xen tạp, không thể thấy, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, che chở cho hết thảy cảnh giới chúng sinh suốt tận đời vị lai. Này các Phật tử! Các Bồ-tát ấy mới có thể bước vào trí địa của chư Phật quá khứ, mới có thể bước vào trí địa của chư Phật vị lai, mới có thể bước vào trí địa của chư Phật hiện tại. Này các Phật tử! Mười địa của Bồ-tát này là chư Phật trong quá khứ-vị lai và hiện tại đã giảng nói, đang giảng nói, sẽ giảng nói. Ta nhân nơi sự việc ấy mà giảng nói như vậy. Những gì là mười địa? Địa Hoan hỷ. Địa Ly cấu. Địa Minh. Địa Diệm. Địa Nan thắng. Địa Hiện tiền. Địa Viễn hành. Địa Bất động. Địa Thiện tuệ. Địa Pháp vân. Này các Phật tử! Mười địa của Bồ-tát này, chư Phật thời quá khứ- vị lai-hiện tại đã giảng nói, đang giảng nói, sẽ giảng nói. Này các Phật tử! Ta không thấy có thế giới của chư Phật nào với các Đấng Như Lai ở nơi đó, lại không khen ngợi việc giảng nói mười địa của Bồ-tát này. Vì sao? Vì đây là pháp thắng diệu tăng thượng của Đại Bồ-tát, cũng là pháp môn quang minh của Bồ-tát, nghĩa là phân biệt sự việc của mười địa. Này các Phật tử! Sự việc này là không thể nghó bàn. Đó là trí tuệ của các Bồ-tát nơi các địa”. Luận: Tại sao không thỉnh cầu mà giảng nói? Vì nếu không giảng nói thì đại chúng không biết là giảng nói hay không giảng nói. Lại nữa, không biết là định giảng nói pháp gì. “Thệ nguyện khéo quyết định” là như phần địa thứ nhất nói về việc phát tâm Bồ-đề, tức là thệ nguyện trong phần căn bản này, nên biết! Khéo quyết định là trí chân thật thâu nhiếp. Khéo quyết định là giỏi quyết định. Người này đã bước vào địa thứ nhất, không phải thuộc về Tín địa. Sự giỏi quyết định này có sáu loại: Giỏi quyết định quán tướng: Là quán chân như với tướng một vị. Như Kinh: Không xen tạp. Giỏi quyết định chân thật: Tức không phải là cảnh giới của tất cả thế gian hay xuất thế gian. Như Kinh: Không thể trông thấy. Giỏi quyết định thù thắng: Là đại pháp giới, là căn bản của hết thảy Phật. Như Kinh: Rộng lớn như pháp giới. To lớn, cao rộng hơn hẳn là cùng một Thể nhưng với tên gọi khác, là nghĩa của pháp tướng. Là pháp như nhiên nơi hết thảy pháp. Lại nữa, quán về đại chân như của pháp giới là vượt hơn trí của hàng phàm phu, nhị thừa là pháp như nhiên của pháp tịnh. Lại nữa, phương tiện lớn của pháp giới tập hợïp các địa, nghĩa là nói về pháp như nhiên của pháp Đại thừa. Thêm nữa, là pháp như nhiên của pháp thiện nơi pháp giới, của pháp đại bạch nơi pháp giới. Giỏi quyết định về nhân có hai loại: Giỏi quyết định về nhân của quả ái thành vô thường. Nhân này như hư không, nương vào đó mọi sắc phát sinh, cho nên sắc không cùng tận. Như Kinh: Rốt ráo như hư không. Giỏi quyết định về nhân của quả thường, đạt được đạo Niết-bàn. Như Kinh: cùng tận đến đời vị lai. Giỏi quyết định về sự lớn lao: Là tùy thuận làm việc lợi người. Như Kinh: Che chở cứu giúp cho cảnh giới của tất cả chúng sinh. Kế đến là giỏi quyết định như trước, vì nguyện này không một mực chấp vào Niết-bàn hay thế gian. Giỏi quyết định không khiếp nhược: Là hội nhập nơi trí địa của hết thảy chư Phật, không khiếp nhược. Như Kinh: Này Phật tử! Các vị Bồ-tát ấy chính là vào đến trí địa của chư Phật hiện tại. Lại nữa, mười địa này đã sinh khởi, thành tựu, giữ vững trí Phật. Như Kinh: Này chư Phật tử! Mười địa của Bồ-tát này là chư Phật quá khứ-vị lai-hiện tại đã giảng nói, đang giảng nói, sẽ giảng nói. Giỏi quyết định ở đây là Tổng tướng, phần còn lại là Biệt tướng. Đồng tướng là giỏi quyết định. Dị tướng là Biệt tướng. Thành tướng là nói tóm lược. Hoại tướng là nói rộng, như sự thành hoại của thế giới. Tại sao quyết định giảng nói về mười địa của Bồ-tát? Là để đối trị mười loại chướng ngại. Những gì là mười loại chướng ngại? Chướng ngại chấp về ngã tướng của hàng phàm phu. Chướng ngại của thân chúng sinh theo hành tà. Chướng ngại do quên mất, u tối đối với các pháp văn-tư-tu. Chướng ngại do kiêu mạn đối với việc lãnh hội pháp. Chướng ngại do ngã mạn đối với thân thanh tịnh. Chướng ngại do tập khí của phiền não vi tế. Chướng ngại do tướng tập khí tinh vi. Chướng ngại do chấp có hành đối với vô tướng. Chướng ngại do không thể tạo lợi ích cho chúng sinh. Chướng ngại do không được tự tại trong các pháp. Tại sao nơi mười địa, phần đầu gọi là Hoan hỷ, cho đến địa thứ mười gọi là Pháp vân? Do thành tựu hạnh tự lợi-lợi tha vô thượng, phần đầu là chứng được cõi Thánh, sinh nhiều vui mừng, cho nên gọi là địa Hoan hỷ. Lìa bỏ mọi thứ cấu uế của phiền não, phạm giới có thể dấy khởi tâm sai lầm, giới pháp thanh tịnh đầy đủ cho nên gọi là địa Ly cấu. Theo văn-tư-tu, làm cho pháp sáng chói hiển hiện cho nên gọi là địa Minh. Lửa trí tuệ không quên thiêu rụi mọi củi phiền não cho nên gọi là địa Diệm. Đạt được trí xuất thế gian với phương tiện thiện xảo, có thể hóa độ kẻ khó độ cho nên gọi là địa Nan thắng. Thực hành Bát nhã Ba-la-mật theo thời gian đại trí tuệ hiện tiền cho nên gọi là địa Hiện tiền. Khéo tu hạnh vô tướng, công dụng rốt ráo, có khả năng vượt khỏi thế gian hàng Nhị thừa và đạo xuất thế gian cho nên gọi là địa Viễn hành. Quả báo nơi hành đã thuần thục, vô tướng, không gián đoạn, cho nên gọi là địa Bất động. Diệu lực vô ngại, giảng nói pháp thành tựu hạnh lợi tha cho nên gọi là địa Thiện tuệ. Đạt được đại pháp thân đầy đủ tự tại, cho nên gọi là địa Pháp vân. Như vậy là nhận lãnh quả vị Pháp vương, như Thái tử được tự tại đối với các vương tử. Ở đây vẫn còn một chút chướng ngại đối với trí, cho nên không hoàn toàn tự tại. Đối trị chướng ngại này cho nên nói Phật địa. Lại như ở trong thai tạng, mười địa của Bồ-tát cũng lại như vậy. Do các địa có chướng ngại cho nên như lúc sinh con, lúc thành Phật cũng như vậy, tức là đã làm xong hết mọi việc. Lại nữa, như khi sinh ra, các căn đều nhận biết. Phật cũng như vậy, đối với tất cả cảnh giới, trí đều thông tỏ. Tạng có mười thời kỳ: Thời gian mang thân Đà-la-bà. Thời gian mang thân Áp-la-bà. Thời gian mang thân Thi-la-tha. Thời gian thân cứng chắc. Thời gian hình vóc giống với sắc thân. Thời gian tính giống với thân. Thời gian thân nghiệp động. Thời gian thân đầy đủ. Trong đó có ba: Thời gian các căn đầy đủ. Thời gian tướng nam nữ khác nhau đầy đủ. Thời gian các tướng dài rộng đầy đủ. Với mười chặng thời gian như vậy, các địa đều giống nhau. “Này các Phật tử! Ta không thấy có thế giới của chư Phật với các bậc Như Lai ở đó, lại không khen ngợi việc nêu giảng mười địa của Bồ-tát này”: Làm sáng tỏ pháp thù thắng ấy, là nhằm khiến cho đại chúng lúc ấy tăng thêm khát vọng chiêm ngưỡng. Thế giới của Phật là ở nơi đó đã thành tựu Phật đạo. Dụ như ruộng lúa. Đến đó làm việc Phật, cũng gọi là thế giới của Phật. Khen ngợi việc thuyết giảng: Ở đây có hai loại là Thuyết giảng về nghĩa A-hàm. nghĩa chứng nhập. Ma-ha-tát có ba loại lớn: Nguyện lớn. Hành động lớn. Làm lợi ích cho chúng sinh lớn. Pháp thắng diệu là pháp môn này thù thắng tột bậc trong các pháp môn. Quang minh là pháp Đại thừa này chiếu sáng cho hết thảy pháp môn khác. Pháp môn tức là pháp. Phân biệt sự việc của mười địa là hiển bày, chỉ rõ về pháp đã được nhận biết của trí thế gian. Việc này là không thể nghó bàn. Đó là trí tuệ nơi các địa của Đại Bồ-tát: Tức là chỉ rõ về trí xuất thế gian, đây không phải là sự phân biệt của thế gian về trí địa có thể thành lập được đạo thanh tịnh của Bồ-tát. Đã nói xong phần Căn bản. Thế nào là phần Thỉnh cầu? Kinh: “Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng, sau khi giảng nói xong về tên gọi nơi mười địa của Bồ-tát, thì lặng yên an trú, không phân biệt nữa. Khi đó, hết thảy chúng Bồ-tát nghe nói về tên gọi nơi mười địa của Bồ-tát rồi, tất cả đều khao khát muốn được nghe giảng nói, giải thích thêm, cùng suy nghó như vậy: Do nhân duyên gì, Bồ-tát Kim Cang Tạng này giảng nói về tên gọi nơi mười địa của Bồ-tát rồi thì lặng yên an trú không giải thích thêm? Lúc ấy, trong chúng Đại Bồ-tát có Bồ-tát tên là Giải Thoát Nguyệt, nhận biết tâm niệm của các Bồ-tát có điều nghi hoặc, liền dùng kệ hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng: Tại sao người tịnh giác, Niệm-trí-công đức đủ, Nói các địa thượng diệu, Có sức không giải thích? Quyết định hết thảy đây, Bồ-tát tên tuổi lớn, Sao nói tên các Địa, Nhưng không giảng rộng nghĩa? Chúng đây đều thích nghe, Phật tử trí không sợ, nghĩa của các Địa ấy, Xin phân biệt nêu bày. Chúng đây đều thanh tịnh, Nghiêm tịnh không lười nhác, An trú trong vững bền, Công đức, trí đầy đủ. Nối nhau, đứng chiêm ngưỡng, Hết thảy đều cung kính, Như ong cầu mật ngon, Như khát nghó cam lồ”. Luận: Tại sao an trú trong im lặng? Là muốn cho đại chúng khát ngưỡng thỉnh cầu giảng nói. Lại làm tăng thêm lòng tôn kính pháp của Bồ-tát. Tại sao Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh trước? Vì Bồ-tát là thượng thủ trong đại chúng. Bồ-tát hỏi trước để ngăn chận những câu hỏi khác dễ gây cảnh rối loạn. Vì sao dùng kệ tụng để thỉnh? Là do ít chữ mà thâu nhiếp nhiều nghĩa. Những lời khen ngợi đa phần dùng thể kệ tụng. Năm bài kệ vừa nói có những ý nghĩa gì? Chúng làm sáng tỏ, chỉ rõ là người giảng nói và người nghe không có các lỗi lầm. Nếu có lỗi thì không nên nói. Ở đây là hiển bày nêu rõ người giảng nói hoàn toàn thanh tịnh nhận biết, không lỗi gì. Lại cũng làm sáng tỏ người nghe đều có chung pháp quyết định và ưa thích nghe. Lại nữa, chỉ rõ về số còn lại tâm đều thanh tịnh, cũng hiển bày đại chúng này đều đủ khả năng nghe pháp, cho nên lời kệ nói: Nối nhau đứng chiêm ngưỡng. Thế nào là tán thán sự thuyết giảng? Kệ nói: Tại sao người tịnh giác, Niệm-trí-công đức đủ, Nói các địa thượng diệu, Có sức không giải thích? Do đâu chỉ khen sự tỉnh giác thanh tịnh? Vì tỉnh giác thanh tịnh là nói về nhân. Giác là giác quán, là lời nói, việc làm đều thanh tịnh, tức là nói về nhân. Tại sao không nói? Khen ngợi sự giác quán thanh tịnh có hai loại: Thâu nhiếp để đối trị. Lìa hết các lỗi lầm. Trong đó, niệm-trí đủ là thâu nhiếp để đối trị. Sự đối trị có hai loại: Giác quán xen tạp. Nhân của giác quán bị xen tạp do nhớ tưởng phân biệt. Niệm là bốn niệm xứ, đối trị với giác quán xen tạp. Trí là trí chân như vô tướng, đối trị với nhân giác quán xen tạp do những nhớ tưởng phân biệt. Phần còn lại là chỉ rõ việc lìa mọi lỗi lầm. Lỗi lầm ấy có ba loại. Nếu có ba lỗi ấy thì không thể giảng nói. Những gì là ba? Keo kiệt, ganh tị. Lười biếng giảng nói pháp. Không ưa thích giảng nói pháp. Keo kiệt là tâm tiếc lẫn đối với pháp. Ganh tị là ghét người khác có trí tuệ hơn mình. Công đức đầy đủ là đủ các công đức như không sân hận… chỉ rõ là không có lỗi lầm đầu. Nói địa thượng diệu là chỉ rõ cho biết không có lỗi thứ hai. Có lực là bảo cho biết không có lỗi thứ ba. Hai loại như vậy là giác quán thanh tịnh. Đã nói xong phần Khen ngợi người giảng nói. Tiếp theo là phần Khen người nghe. Kệ nêu: Quyết định hết thảy đây, Bồ-tát tên tuổi lớn, Sao nói tên các Địa, Nhưng không giảng rộng nghĩa? Quyết định là thông tuệ luôn thấu tỏ. Quyết định có ba loại: Quyết định trên hết là nguyện đại Bồ-đề. Quyết định danh văn là khéo kính trọng người khác. Quyết định thâu nhận là người giảng nói pháp đã khéo nhận biết. Kệ nói: Bồ-tát có tên tuổi lớn, nói tên của các địa. Thứ tự như vậy cho nên biết. Tuy có quyết định, có thể thọ nhận là pháp khí, nhưng tâm không muốn nghe thì cũng không được nêu giảng. Kệ nói: Chúng đây đều thích nghe, Phật tử, trí không sợ, nghĩa của các Địa ấy, Xin phân biệt nêu bày. Quyết định là ở đây có quyết định về A-hàm, không phải là quyết định chứng đắc. Có quyết định hiện tiền và quyết định không hiện tiền. Quyết định như vậy là pháp khí không đầy đủ cho nên không thể nghe nhận. Chỉ rõ đại chúng hiện có ở đây là quyết định đầy đủ, cho nên có thể nghe nhận. Kệ nói: “Phật tử trí không sợ”. Trí có hai loại: Chứng pháp. Hiện thọ. Như vậy là khéo nhận biết về pháp khí đầy đủ cho nên mới thỉnh cầu Kim Cang Tạng. nghĩa của các địa như vậy, cho nên nguyện là phân biệt mà nói. Đã khen ngợi về chúng đồng pháp, quyết định ưa thích nghe về công đức. Sau đây là khen ngợi chúng khác. Kệ nói: Chúng đây đều thanh tịnh, Nghiêm tịnh không lười nhác, An trú trong vững bền, Công đức, trí đầy đủ. Thanh tịnh là không đục-cấu. Đục, cấu có sáu loại. Lìa khỏi những loại đục-cấu này cho nên gọi là thanh tịnh. Những gì là sáu loại ? Đục cấu của sự không mong muốn. Đục cấu về oai nghi. Đục cấu của triền cái (những thứ buộc, che). Đục cấu vì tưởng nghó khác: Tâm ganh ghét kẻ hơn, tâm phá hoại. Đục cấu vì không đủ công đức, tức là căn thiện nhỏ kém, cho nên đối với lời nói của Bồ-tát, tâm không ưa an trú. Đục cấu vì ngu si, là ngu tối. Đối trị với sáu loại đục, cấu này, có sáu loại không đục cấu: An trú nơi kiên cố: Là tu hành kiên cố theo pháp đã giảng nói. Như vậy, thứ tự cùng đối trị. Xa lìa biếng nhác là để đối trị đục cấu không mong muốn. Nghiêm là để đối trị đục cấu về oai nghi. Thanh tịnh là để đối trị với đục cấu của triền-cái (Những thứ buộc trói, ngăn che). Kiên cố là đối trị với đục cấu nghó tưởng khác lạ. Công đức đầy đủ đối trị với đục cấu không đủ công đức. Trí đầy đủ là đối trị với đục cấu do ngu si. Sáu câu ấy nêu bày nơi hai kệ kia, làm rõ về chúng đồng sinh thanh tịnh. Kệ kế tiếp là hiển bày chúng dị sinh thanh tịnh. Một kệ sau là chỉ rõ về hai chúng thanh tịnh. Kệ nói: Nối nhau đứng chiêm ngưỡng, Hết thảy đều cung kính, Như ong hút mật ngon, Như khát nghó cam lồ. Nối nhau cùng chiêm ngưỡng là chỉ bày không có tâm tạp nhiễm. Đều cung kính là chỉ sự kính trọng pháp, không phải là tâm ganh ghét. Nửa kệ sau là dụ về sự kính pháp càng trở cho nên sâu xa. Kệ này, câu: “Nối nhau cùng chiêm ngưỡng” là Tổng tướng. Hết thảy cùng cung kính là Biệt tướng. Như vậy, những kệ còn lại, câu đầu là Tổng tướng, những câu khác là Biệt tướng. Các tướng Đồng-Dị-Thành-Hoại thì như trên đã nói. Kệ nói: Trí lớn không sợ hãi, Kim Cang Tạng nghe rồi, Muốn đại chúng vui vẻ, Tức thì nói kệ tụng. Hiếm có khó bậc nhất, Bồ-tát nêu hành hóa, Trước phân biệt việc địa, Căn bản của chư Phật. Lìa niệm tinh khó thấy, Phi tâm địa khó đạt, Cảnh giới trí vô lậu, Nếu nghe thì mịt mờ. Giữ tâm như kim cang, Tin sâu trí tuệ Phật, Tâm địa trí vô ngã, Vi tế trí nghe được. Như vẽ vào hư không, Như tướng gió cõi không, Trí phân biệt như vậy, Khó thấy Phật vô lậu. Ta nghó trí tuệ Phật, Khó biết nhất trong đời, Pháp hy hữu, khó tin, Vì vậy Ta im lặng. Luận: Nơi kệ thứ nhất, câu: “Muốn đại chúng vui vẻ” là câu trả lời theo tướng chung. Có hai cách đáp lại: Có thể đáp lại. Đáp lại không khiếp nhược, tức là kệ nói: “Trí lớn không sợ hãi”. Lìa việc không thể đáp lại. Lìa việc đáp lại không chính đáng. Hai điều này chứng tỏ mình và người không ai có lỗi. Thế nào là tướng đáp lại chính đáng? Do pháp này khó giảng nói và khó nghe. Thế nào là khó giảng nói? Kệ nói: Hiếm có khó bậc nhất, Bồ-tát nêu hành hóa, Trước phân biệt việc địa, Căn bản của chư Phật. Khó là khó đạt được. Có hai loại khó: Rất khó. Khó vì chưa từng có. Kệ nói: Hiếm có cho nên khó bậc nhất. Hai điều này chỉ ra chỗ khó giảng nói. Thế nào là khó? Kệ nói: Bồ-tát chỗ hành trì chỉ rõ trước là phân biệt việc của địa. Bồ-tát hành trì là trí xuất thế gian. Chỉ rõ là chỉ bày, làm sáng tỏ. Việc của địa là việc làm của Bồ-tát ở các địa. Trước hết là phân biệt, tức là nói về sự thù thắng. Bồ-tát làm những gì? Kệ nói: Căn bản của chư Phật. Phật là giác ngộ về trí Phật. Đã nói là khó nói, lại nói lý do của cái khó. Những gì là khó? Là nghĩa trú của việc Bồ-tát làm thì không thể giảng nói như vậy. nghĩa trú là gì? Kệ nói: Lìa niệm tinh khó thấy, Phi tâm địa khó đạt, Cảnh giới trí vô lậu, Nếu nghe thì mịt mờ. Trong kệ này, câu khó đạt là nêu chung, còn những câu khác là nêu riêng. Khó đạt là khó chứng đắc. Có bốn loại khó đạt: Do quá vi tế cho nên khó đạt. Khó thấy cho nên khó đạt. Lìa niệm cho nên khó đạt. Không phải là cõi tâm cho nên khó đạt. Do quá vi tế cho nên khó đạt không phải là cảnh giới của Văn tuệ. Những việc thô thiển thì không cần tư duy. Khó thấy cho nên khó đạt, không phải là cảnh giới của Tư tuệ. Lìa niệm cho nên khó đạt, không phải là cảnh giới của Tu tuệ thế gian. Điều này chỉ rõ sự phân biệt về tâm, tâm số pháp trong ba cõi, không phải là cảnh giới của trí tu đạo thế gian. Không phải là cõi tâm cho nên khó đạt được, là chỉ rõ việc sinh khởi điều thiện nơi hiện báo, không phải là cảnh giới của trí tu đạo. Đây là nêu bày về cảnh giới của tâm, tức là cõi tâm. Cảnh giới của cái gì? Kệ nói: Cảnh giới của trí. Thế nào là trí? Là thấy được nghĩa thật. Tại sao không phải là cảnh giới khác? Vì đó là vô lậu. Vô lậu có nghĩa là xuất thế gian. nghĩa này không ở trong lónh vực của trí thế gian, mà là nghĩa hết mực thâm diệu cho nên không thể hiểu, không thể giảng nói. “Nếu nghe thì mịt mờ”: Thế nào là mịt mờ? Là tùy theo chỗ nghe rồi chấp giữ điều ấy. Người nghe là đã nghe, chẳng phải là không nghe. Đã biện luận xong phần khó giảng nói, tiếp theo là nói về nghĩa khó nghe (lãnh hội). Kệ nói: Giữ tâm như kim cang Tin sâu trí tuệ Phật, Tâm địa trí vô ngã, Trí vi tế nghe được. “Như kim cang” là cứng chắc như kim cang. Có hai loại cứng chắc: Cứng chắc của sự quyết định tin tưởng. Cứng chắc của sự chứng đắc. Ba câu này nêu bày sự cứng chắc là tổng. Phần còn lại là biệt. Thế nào là tin sâu trí tuệ Phật? Vì chỉ là sự nhận biết của Phật, không phải là cảnh giới của mình. Sự giác ngộ của Phật là vô biên. Khi giáo hóa chúng sinh, Phật giảng nói nhiều pháp môn, nhiều thứ để tin. Tâm địa ấy là gì? Thế nào là trí vô ngã? Tâm địa là tùy theo tâm mà nhận lấy quả báo trong ba cõi. Lại nữa, hết thảy cảnh giới tùy theo nẻo hành của tâm cũng gọi là Tâm địa. Trí vô ngã có hai loại: Là Ngã không và Pháp không, là nhận biết đúng như thật. “Vi tế trí nghe được” là khó nhận biết. Vi tế như vậy, ở trước đã nói. Có thể lấy ví dụ để làm sáng tỏ nghĩa vi tế. Kệ nói: Như vẽ vào hư không, Tướng gió thổi cõi không, Trí phân biệt như thế, Khó thấy Phật vô lậu. Kệ này nêu bày việc vẽ hình sắc vào hư không, hư không như bức tường, trong đó không trú cho nên không thể thấy. Như gió thổi qua hư không thì hư không như cây lá, trong ấy không trú cho nên không thể thấy. Nhưng về động tác thì không phải là không có hai việc ấy trong hư không. Sự việc xảy ra trong hư không như vậy là không thể nói về nơi chốn. Việc gió thổi, vẽ hoa ấy như đã nói, do chúng không có tự tính cho nên không thể thấy được, vì chúng không trú vào đâu do sự dung nạp kia. Lời nói này không chứa ở đâu trong hư không. Trí Phật cũng như vậy. Nếu lấy lời nói để hiển bày về cảnh giới phân biệt phần thù thắng, thì khó thấy. Vẽ là dụ cho danh tự-cú thân. Vì sao? Vì dựa vào tướng mà nêu bày. Gió là dụ cho âm thanh. Nêu bày (Nói) là dùng hai thứ ấy để nói. Nghe cũng nhờ hai thứ ấy để nghe. Nếu như vậy thì có thể giảng nói, có thể nghe (lãnh hội). Như vậy là khó thấy. Ta nghó tới trí Phật, Khó biết nhất trong đời, Pháp hy hữu khó tin, Vì vậy Ta im lặng. Khó biết là khó chứng đắc. Khó tin là khó sinh tâm quyết định. Kệ này chỉ rõ là có chứng đắc có tin, có thể giảng nói, có thể nghe (lãnh hội), nhưng do thế gian khó có thể chứng-tin, cho nên Ta không nói. Kinh: “Bấy giờ, sau khi nghe nói như vậy rồi, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt mới thỉnh Bồ-tát Kim Cang Tạng: Thưa Phật tử! Các Bồ-tát này khéo làm thanh tịnh chúng hội, khéo làm thanh tịnh thâm tâm, khéo làm thanh tịnh các niệm, khéo gom chứa các hạnh, phần đông đều thân cận chư Phật, khéo tích tập các pháp trợ đạo, đầy đủ vô lượng công đức, lìa bỏ ngu si-nghi ngờ-hối tiếc, không còn cấu nhiễm, giỏi an trú nơi thâm tâm, tin theo pháp Phật, không theo giáo pháp nào khác. Lành thay Phật tử! Xin diễn nói nghĩa này. Pháp sâu thẳm như vậy, các Bồ-tát này đều có khả năng nhận biết, chứng đắc”. Luận: Tại sao Thánh giả Giải Thoát Nguyệt lại khen ngợi chúng này? Như trên vừa nói: Thế gian tin, chứng là khó đạt được, vì vậy chỉ rõ đại chúng này có thể thọ nhận, lãnh hội. Khéo làm thanh tịnh tâm sâu xa (thâm tâm) là tổng. Khéo làm thanh tịnh thâm tâm ấy có hai loại: A-hàm thanh tịnh. Chứng đắc thanh tịnh. A-hàm thanh tịnh có năm loại: Mong muốn thanh tịnh: Tùy ở chỗ nhớ nghó nơi A-hàm mà được phương tiện niệm giác thanh tịnh. Như Kinh: Khéo làm thanh tịnh các niệm. Cầu đạt thanh tịnh: Là có thể tùy thuận nơi hành cung kính của thân, miệng. Như Kinh: Khéo gom chứa các hạnh. Thọ trì thanh tịnh: Là học rộng ghi nhớ vâng giữ không lầm lẫn, trải qua vô lượng đời. Như Kinh: Phần nhiều đều thân cận chư Phật. Nơi sinh được thanh tịnh: Là nguyện đươc sinh lên cảnh giới ở trên thù thắng, tâm niệm tốt hơn. Như Kinh: Khéo tích tập các pháp trợ đạo. Hành thanh tịnh: Là mong giỏi chứng đắc pháp, sống quen với thiểu dục, đầu đà… thành tựu nhiều công đức. Như Kinh: Đầy đủ vô lượng công đức. Chứng đắc thanh tịnh có bốn loại: Đắc thanh tịnh: Là trí hiện tại khéo quyết định. Như Kinh: Lìa ngu si-nghi ngờ-hối tiếc. Bất hành thanh tịnh: Là trong tu đạo, mọi thứ phiền não không hiện hành. Như Kinh: Không có cấu nhiễm. Không nhàm chán thanh tịnh: Là không ham thích Tiểu thừa, đạt được tâm hy vọng tối thắng. Như Kinh: An trú nơi tâm sâu xa tin tưởng. Tâm sâu xa là hy vọng, mong muốn. Tin là quyết định. Lại còn nhớ nghó giữ gìn mọi công đức. Không theo giáo pháp khác thanh tịnh: Là hướng đến tận cùng nơi đạo pháp, với chính hạnh của mình. Như Kinh: Chỉ ở trong pháp Phật, không theo giáo pháp khác. Kinh: “Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Phật tử: Tuy chúng Bồ-tát này đã khéo làm thanh tịnh tâm tin sâu xa, khéo làm thanh tịnh các niệm, khéo gom chứa các hạnh, phần đông đều thân cận với chư Phật, giỏi tích tập các pháp trợ đạo, đầy đủ vô lượng công đức, lìa bỏ ngu si-nghi ngờ-hối tiếc, không có cấu nhiễm, giỏi an trú nơi tâm sâu xa tin tưởng, chỉ ở trong pháp Phật, không theo giáo pháp khác. Ngoài ra, ai ưa thích pháp nhỏ, khi nghe nói đến sự việc hết sức thâm diệu khó nghó bàn này, phần nhiều sinh ra nghi hoặc, thì những kẻ ấy chịu mọi bất lợi lâu dài, cùng với suy tổn khổ não. Ta xót thương những trường hợp đó cho nên im lặng”. Luận: Thánh giả Kim cang Tạng đã lãnh hội những lời khen ngợi về chúng công đức thanh tịnh do Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói, nhưng ở trong chỗ thuyết pháp, nếu không thấy có pháp khí thì nghe chỉ tăng thêm nghi hoặc, cho nên không nói. Đối với một pháp, có hai lỗi: Nghi có nghĩa là do dự, trái với chính hạnh. Hoặc nghĩa là tâm mê muội, có thể hủy hoại pháp thiện, xa rời pháp thiện. Như vậy, chỉ rõ là không thọ nhận nhân thực hành, mà thọ nhận nhân làm thối chuyển. Kinh: “Khi đó, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt thỉnh Bồ-tát Kim Cang Tạng: Hay thay Phật tử! Một lần nữa xin thỉnh cầu việc này. Mong vâng theo thần lực của Phật khéo phân biệt về pháp không thể nghó bàn này, đã được Phật hộ niệm, khiến cho mọi người dễ tin hiểu. Vì sao? Vì khéo giảng nói về nghĩa của mười địa, chư Phật trong mười phương theo pháp mà hộ niệm, hết thảy Bồ-tát giữ gìn Trí địa này với phương tiện đều siêng năng thực hành. Tại sao vậy? Đây là việc đầu tiên Bồ-tát phải hành trì để thành tựu tất cả pháp của chư Phật. Thưa Phật tử! Ví như hết thảy thư-chữ-số-ngôn thuyết đều bao gồm trong chương đầu, vì chương đầu là căn bản. Không có việc nêu bày thư-chữ-số-lời nói mà không đưa vào chương đầu. Như vậy, thưa Phật tử! Mười địa này là phần căn bản của hết thảy pháp Phật. Bồ-tát nào thực hành đầy đủ mười địa này thì có khả khả năng được tất cả trí tuệ. Do vậy, kính xin Phật tử giảng nói nghĩa đó. Chư Phật hộ niệm sẽ tăng thêm thần lực khiến người tin, nhận, không thể bị phá hoại”. Luận: Tại sao Thánh giả Giải Thoát Nguyệt lại thưa thỉnh một lần nữa? Đó là chỉ rõ nghi hoặc đối với nơi trường hợp này là khó tránh. Nếu không giảng nói thì mắc nhiều lỗi, hết thảy pháp Phật không thể thành tựu. Do ý nghĩa đó, cho nên thưa thỉnh Bồ-tát Kim Cang Tạng một lần nữa. Nếu chư Phật có diệu lực thì có thể khiến phát sinh lòng tin. Tại sao chúng sinh ở trong pháp ấy còn khởi ý hủy báng? Có hai loại quyết định: Quyết định do chiêu cảm từ quả báo. Quyết định do tạo nghiệp. Có hai loại quyết định này thì oai lực của chư Phật không thể chuyển được. Những việc phải làm đầu tiên: Tức là phải nương vào A-hàm để hành trì. Thành tựu hết thảy pháp Phật là chứng đắc trí tuệ. Viết ra (Thư) là hình tướng của chữ, như hình chữ Tư, hình tướng sư tử… Chữ là âm a, á… Số là danh từ, câu văn, hai yếu tố này là nghĩa của Số. Nói là ngôn ngữ. Tất cả thư-chữ-số-lời nói là phần căn bản của chương đầu. Kinh: “Bấy giờ, chúng Bồ-tát cùng lúc đồng thanh dùng kệ để thưa thỉnh Bồ-tát Kim Cang Tạng: Trí thượng diệu sạch cấu, Biện giải vô lượng nghĩa, Diễn nói êm-hay-đẹp , Tương ưng nghĩa chân thật. Niệm vững-tuệ thanh tịnh, Là mười lực tâm tịnh, Phân biệt nghĩa không ngại, Nói pháp mười địa này. Định-giới-ý chính sâu, Lìa ngã mạn-vọng kiến, Chúng đây không tâm nghi, Mong được nghe khéo nói. Như khát nghó nước mát, Như đói nghó món ngon, Như bệnh nghó thuốc hay, Như ong cần mật ngọt. Chúng tôi cũng như vậy, Nguyện nghe pháp cam lồ, Lành thay! Trí thanh tịnh, Nói địa hơn không cấu, Đủ mười lực không ngại, Nói hết đạo Thiện Thệ”. Luận: Kệ thứ nhất khen ngợi việc chứng đắc lực, thành tựu biện tài. Kệ thứ hai, câu đầu là khen ngợi diệu lực của A-hàm, thành tựu biện tài. Do chứng đắc lực là diệu lực của A-hàm lực cho nên có thể giảng nói. Vì vậy mà tán thán. Chữ Trên (Thượng) là tổng. Lại nữa, chữ Trên là chỉ rõ chứng đắc lực, biện tài thù thắng. Tán thán về biện tài có ba loại: Trí chân thật. Thể tính. Quả. Trí chân thật: Là trí vô lậu, hơn hẳn trí của hàng Thanh văn, Duyên giác. Cho nên kệ nói: Trí thượng diệu sạch cấu. Thể tính: Là thành tựu biện tài vô lượng nghĩa. Kệ nói: Biện giải vô lượng nghĩa. Quả: Là chữ-nghĩa được thành tựu, lại là thành tựu nghĩa của chữ, nêu bày lưu loát, hơn hẳn. Kệ nói: Diễn nói lời hay đẹp, tương ưng nghĩa chân thật. Câu trên của kệ thứ hai là khen ngợi diệu lực của A-hàm. Kệ viết: Niệm vững-tuệ thanh tịnh, Là mười lực, tâm tịnh, Phân biệt nghĩa không ngại, Nói pháp mười địa này. Niệm vững là thọ nhận-giữ gìn, hiển bày sự thuyết giảng. Bồ-tát này ở trong A-hàm có trí tuệ thanh tịnh vô ngại. Như vậy là khen ngợi về diệu lực chứng ngộ và diệu lực của A-hàm xong. Kế tiếp là khiến người nghe đi vào sự chứng nhập nơi A-hàm, cho nên cầu giảng nói. Thế nào là đi vào chỗ chứng đắc? Là người đã đi vào địa thì khiến họ có được Phật lực. Ai chưa đi vào địa, thì giúp họ bước vào địa. Kệ nói: Là mười lực, tâm thanh tịnh. Thế nào là chứng nhập nơi A-hàm? nghĩa là phân biệt vô ngại khiến thọ trì pháp của mười địa. Như vậy là đã khen ngợi sự thuyết giảng, thành tựu diệu lực chứng nhập, diệu lực của A-hàm xong. Tiếp theo là khen ngợi chúng hội có thể lãnh thọ A-hàm và diệu lực chứng nhập. Kệ nói: Định-giới- ý chính sâu, Lìa ngã mạn-vọng kiến, Chúng đây không tâm nghi, Nguyện được nghe khéo nói. Trong kệ này, chữ Duy nguyện là tổng. Duy nguyện có hai loại : Cầu A-hàm. Cầu chính chứng. Có hai loại vọng tưởng, không thể nghe được A-hàm: Một là ngã; Hai là mạn. Do ngã mạn cho nên không sinh tâm tôn kính pháp và Pháp sư. Lại có hai loại vọng tưởng cho nên không thể chứng đắc: Một là kiến; Hai là nghi. Kiến là nhận thức điên đảo. Nghi là không phát sinh lòng tin đối với việc không thể nghó bàn. Vọng là vọng tưởng trong nhận thức giống như kiết sử. Có hai loại đối trị để có thể nghe A-hàm: Định. Giới. Định là tâm được điều phục. Giới là khéo an trú trong oai nghi. Lại nữa, có hai loại đối trị để có thể chứng nhập: chính kiến. chính ý. chính kiến là khéo suy niệm về ý nghĩa. chính ý là đạt được hoan hỷ. Sâu là ý vi tế, khéo tư duy. Lại dùng các ví dụ để chỉ rõ sự cầu pháp của đại chúng càng sâu. Kệ nói: Như khát nghó nước mát, Như đói nghó món ngon, Như bệnh, nghó thuốc hay, Như ong cần mật ngọt. Chúng tôi cũng như vậy Nguyện nghe pháp cam lồ. Bốn ví dụ này, dụ cho bốn loại ý nghĩa, chỉ rõ sự lãnh thọ chân chính nơi nghĩa Bồ-tát giảng nói. Những gì là bốn? Thọ trì. Trợ lực. Xa lìa. An lạc hạnh. nghĩa này là thế nào? Như nước thì không thể nhai nhưng theo chỗ được mà uống. Như vậy về Văn tuệ bắt đầu nghe thì theo đó mà nghe và thọ trì. Như khi ăn thì nhai nuốt, sức nơi thân được hỗ trợ mới thành. Như vậy Tư tuệ thâu nạp chỗ pháp được nghe, trí lực được hỗ trợ để thành. Như uống thuốc hay, thuốc hoạt động sẽ dứt trừ bệnh. Như vậy, đủ Văn-Tư tuệ, thuận theo nghĩa chính mà tu hành đúng pháp. Xa lìa hết thảy tai họa của tập khí phiền não. Như bầy ong nương vào mật, vui sống nơi trú xứ. Như vậy, Văn-Tư Tu tuệ là nơi nương tựa của quả Thánh. Yêu thích vị của hiện pháp, thọ nhận an lạc để hành trì. Như vậy là khen ngợi người giảng nói, người nghe và thỉnh cầu giảng nói pháp xong. Sau đó là tán thán ích lợi của pháp được giảng nói, thảy cùng cầu thỉnh. Kệ nói: Lành thay! Trí thanh tịnh, Nói địa hơn-không cấu, Đủ mười lực không ngại, Nói hết đạo Thiện Thệ. Lành thay: Là nơi pháp được giảng nói đã khéo đầy đủ. Lành thay có ba thứ: Nơi nương tựa. Thể tính. Quả. Nơi nương tựa: Là tuệ thanh tịnh. Thể tính: Là giảng nói về các địa là pháp chưa từng giảng nói thù thắng, là so sánh chỗ hơn của địa. Vô cấu: Là giảng nói nghĩa không trái ngược. Nói nghĩa trái ngược có ba thứ cấu uế: Nói đảo lộn. Hủy báng Như Lai. Dối gạt người nghe. Quả: Là đủ mười lực không chướng ngại, là quả của Bồ-đề. Đã thỉnh cầu như vậy rồi, nhưng Bồ-tát vẫn chối từ không giảng nói. Tại sao không nói? Do sự thỉnh cầu chưa đầy đủ.  LUẬN THẬP ĐỊA KINH <卷>QUYỂN 2 Địa 1: ĐỊA HOAN HỶ, Phần 2 Luận: Bồ-tát này, trước thỉnh với tư cách là bậc thượng thủ trong chúng Đồng sinh. Kế đó, thỉnh vì đại chúng. Lại nữa, nhờ vào sự gia hộ của chư Phật Pháp vương để thỉnh. Vì sao? Là nhằm tăng thêm sự kính trọng pháp. Kinh: “Bấy giờ, Phật Thích-ca Mâu-ni, từ tướng bạch hào giữa hai chân mày, phóng ra ánh sáng rạng rỡ của Bồ-tát lực, với vô số vô lượng ánh sáng dùng làm quyến thuộc. Phóng hào quang như vậy khiến chiếu tỏa khắp mười phương thế giới của chư Phật, không đâu là không phủ trùm. Chiếu xong, ánh sáng trở về trú nơi bản xứ. Mọi khổ não trong ba đường dữ đều ngừng nghỉ. Hết thảy cung điện của ma đều bị che khuất, không hiện bày. Hào quang ấy tỏa sáng đến chúng hội của chư Phật trong mười phương, hiện rõ diệu lực không thể nghó bàn nơi cảnh giới của Như Lai. Ánh sáng đó chiếu khắp mười phương thế giới, gia hộ cho trú xứ của hết thảy Như Lai, gia hộ cho người giảng nói pháp và các chúng Bồ-tát. Trên không trung, ánh sáng kia kết thành đài lưới mây rực rỡ đứng yên. Chư Phật mười phương kia lại cũng hiện bày như vậy. Từ tướng bạch hào nơi giữa hai chân mày phóng ra ánh sáng rạng rỡ của Bồ-tát lực, với vô số vô lượng ánh sáng khác làm quyến thuộc. Phóng hào quang như vậy khiến chiếu tỏa khắp mười phương thế giới của chư Phật, không đâu là không phủ trùm. Chiếu xong, ánh sáng trở về trú nơi bản xứ. Mọi khổ não trong ba đường dữ đều ngừng nghỉ. Hết thảy cung điện của ma đều bị che khuất, không hiện bày. Hào quang ấy tỏa sáng đến chúng hội của chư Phật trong mười phương, hiện rõ diệu lực không thể nghó bàn nơi cảnh giới của Như Lai. Ánh sáng đó chiếu khắp mười phương thế giới, gia hộ cho trú xứ của tất cả Như Lai, gia hộ cho người giảng nói pháp và các chúng Bồ-tát. Hiển hiện cảnh giới của Như Lai với diệu lực không thể nghó bàn, chiếu tới chúng hội lớn của Phật Thích-ca Mâu-ni và thân của Bồ-tát Kim Cang Tạng. Trên không trung, ánh sáng kia cũng kết thành đài lưới mây rực rỡ, đứng yên. Khi đó, Phật Thích-ca Mâu-ni, từ khoảng giữa hai chân mày, phóng ra hào quang sáng trắng, chiếu đến chúng hội lớn của chư Phật trong mười phương thế giới, tỏa sáng tới thân của các Bồ-tát và tòa sư tử. Đại chúng nơi ấy đều thấy rõ, chư Phật trong mười phương thế giới đều phóng hào quang từ khoảng giữa hai chân mày, chiếu sáng khắp ba ngàn đại thiên thế giới, tới chúng hội lớn của Phật Thích-ca Mâu-ni ở cõi Ta-bà, tới thân của Bồ-tát Kim Cang Tạng và tòa sư tử. Đại chúng ở đây thảy đều thấy rõ. Bấy giờ, do thầân lực của chư Phật, trong đài lưới mây rực rỡ kia, phát ra kệ tụng…”. Luận: Tại sao Đức Như Lai hiện bày diệu lực thần thông bằng cách phóng hào quang để cùng thỉnh? Vì Như Lai này, trước đã gia hộ cho ý, chưa gia hộ cho thân, miệng, không giống với các Phật khác. Vì thế, cho nên nay muốn gia hộ đầy đủ cho thân-miệng. Tại sao Như Lai không dùng miệng thường, thân thường để gia hộ? Là vì tôn trọng pháp, không xem thường thân mình. Hào quang này có tám loại nghiệp, hai loại thân. Tám nghiệp là: Nghiệp giác: Là hào quang ấy chiếu sáng nơi thân các Bồ-tát rồi khiến họ tự biết sự gia hộ từ diệu lực của Như Lai. Như Kinh: Phóng ra ánh sáng rạng rỡ của Bồ-tát lực. Nghiệp nhân: Là vô số hào quang đều có vô lượng ánh sáng làm quyến thuộc. Như Kinh: Vô số vô lượng ánh sáng dùng làm quyến thuộc. Nghiệp thâu mở: Mở ra thì hào quang chiếu khắp A-tăng-kỳ vô lượng thế giới. Thâu lại thì trở về nhập vào ánh sáng bình thường. Như Kinh: Phóng ra hào quang này rồi, khiến tỏa chiếu khắp thế giới của chư Phật nơi mười phương, không đâu là không trùm phủ. Chiếu rồi trở về an trú nơi bản xứ. Nghiệp ngừng dứt: Là trừ diệt hết thảy vô số khổ não trong ba đường ác. Như Kinh: Mọi khổ não trong ba đường ác đều được ngừng nghỉ. Nghiệp hàng phục: Là khiến cho ánh sáng, uy thế của tất cả cung ma đều không hiện bày. Chúng thấy rồi vô cùng kinh hoàng khiếp hãi, không còn quấy loạn thì các chúng sinh có thể giáo hóa. Như Kinh: Hết thảy cung ma đều bị che khuất, không còn hiện bày. Nghiệp cung kính: Là hiện bày thần lực không thể nghó bàn của Phật. Như Kinh: Chiếu đến chúng hội của chư Phật trong mười phương thế giới, hiển hiện diệu lực không thể nghó bàn nơi cảnh giới của Như Lai. Nghiệp thị hiện: Là gia hộ cho trú xứ của chư Phật trong mười phương thế giới. Gia hộ cho chúng hội Bồ-tát, khiến chúng này đều trông thấy. Như Kinh: Ánh sáng này chiếu trùm khắp các thế giới trong mười phương, gia hộ cho trú xứ của tất cả Như Lai, gia hộ cho người giảng nói pháp và chúng Bồ-tát. Nghiệp thỉnh cầu: Là phát ra âm thanh nói kệ. Như Kinh: Lúc ấy, nhờ thần lực của chư Phật, từ trong đài lưới mây rực rỡ kia phát ra lời kệ… Hai thân là gì? Thân như sao chuyển động, đi đến những thế giới của phương khác. Thân như mặt trời ở giữa hư không. Như Kinh: Trên hư không, ánh sáng ấy tạo thành đài lưới mây rực rỡ, đứng yên. Nơi tất cả xứ, cùng lúc được soi chiếu khắp. Như thế, hết thảy chúng sinh nơi này xứ nọ đều cùng trông thấy nhau, như cùng nghe pháp trong một hội. Đó gọi là gia hộ cho thân. Còn gia hộ cho miệng thì sao? Kệ nói: Chư Phật không ai sánh, Công đức như hư không, Mười lực không sợ hãi, Đứng đầu vô lượng chúng. Họ Thích-ca pháp sinh, Gia hộ trên trời - người, Vâng thần lực chư Phật, Mở bày tạng Pháp vương. Hành các địa thượng diệu, Trí phân biệt nghĩa địa, Các Như Lai gia hộ, Hộ niệm các Bồ-tát. Người này luôn nghe giữ, Pháp vi diệu như thế, Các địa tịnh không cấu, Thứ tự đạt đầy đủ. Chứng mười loại lực Phật, Thành Bồ-đề Vô thượng, Dù ở trong biển cả, Hay kiếp tận lửa cháy. Quyết định tin không nghi, Tất được nghe kinh này, Trí đạo thắng các địa, Lần hồi trú nơi địa, Thứ tự mà giảng nói, Cảnh giới vô lượng hạnh. Luận: Hai kệ rưỡi đầu (mười câu) là hiển bày chủ thể gia hộ (Phật) cùng phạm vi được gia hộ. Hai sự gia hộ này chỉ rõ do ý nghĩa nào mà gia hộ. Nếu cầu thỉnh bậc không tôn quý, không phải pháp thù thắng, thì Thánh giả không giảng nói. Vì sao kệ đầu hiển bày chủ thể gia hộ? Kệ nói: “Gia hộ trên trời- người ”. Thế nào là trên trời, người? Là các Đức Phật, Như Lai. Ở đây có nghĩa gì? Có nghĩa là bậc Pháp vương. Làm sao biết vị ấy là Pháp vương? Do vị ấy thành tựu bốn loại thù thắng: Tự tại thù thắng. Diệu lực thù thắng. Quyến thuộc thù thắng. Chủng tính thù thắng. Thế nào là Tự tại thù thắng của chư Phật? Là giải thoát tự tại khỏi phiền não chướng và trí chướng (sở tri chướng). Tâm trí các Ngài không còn bị chướng ngại, tùy ý nhận lấy nguồn an lạc vô thượng. Làm sao nhận biết? Kệ nói: “Chư Phật không ai sánh” tức là bậc Nhất thiết trí. Lại như hư không, mọi pháp thế gian không thể làm cấu nhiễm. Mọi vô minh, phiền não, tập khí đều diệt trừ hết. Vô đẳng là chư Phật so với chúng sinh khác thì các Ngài không có ai sánh bằng. Bằng là Pháp thân của chư Phật và chúng sinh bằng nhau. Tại sao không chỉ nói Vô đẳng? Đây là nêu rõ Đẳng chính giác. Vì sao diệu lực của chư Phật là thù thắng? Do đầy đủ mười lực cho nên có khả năng hàng phục mọi trí tà, phá tan mọi ma oán. Làm sao nhận biết? Kệ nói: Mười lực, bốn vô úy. Thế nào là quyến thuộc thù thắng của chư Phật? Là thâu nhiếp đủ cả các chúng Thanh văn, Bồ-tát. Làm sao nhận biết? Kệ nói: “Đứng đầu vô lượng chúng”. Các Bồ-tát kia là chúng đứng đầu. Vô lượng là tăng-kỳ. Đứng đầu các chúng, thì Phật là tối thượng trong thế gian. - Thế nào là chủng tính thù thắng của chư Phật? Là gia tộc họ hàng thù thắng. Làm sao nhận biết? Kệ nói: Họ Thích-ca pháp sinh. Tại sao chỉ khen ngợi chủng tính của Phật này? Là do hiện thấy. Lại nữa, Ngài lấy pháp làm nhà, chứ không phải chỉ là nhà sinh ra. Nhà pháp là an trú trong pháp như. Tạo sự gia hộ là Tổng tướng. Gia hộ có hai loại: Gia hộ cho thân đầy đủ: Là nương vào Pháp thân. Gia hộ cho quả đầy đủ: Là chứng đắc quả vị Phật. Trên hàng trời, người là cũng Tổng, cũng Biệt. Phần còn lại chỉ là biệt. Vì sao kệ thứ hai hiển bày phạm vi được gia hộ? Vì đây là Bồ-tát, còn kia là pháp vương của chư Phật. Vì mở bày nghĩa của Pháp tạng hiện tại cho nên gia hộ. Kệ nói: Nhận thần lực chư Phật, Mở bày tạng Pháp vương, Hành các Địa thượng diệu, Trí phân biệt nghĩa địa. Khen ngợi Pháp tạng này có hai loại: Thành tựu về nghĩa tạng. Thành tựu về tự tạng. Thế nào là nghĩa tạng? Kệ nói: “Hành các địa thượng diệu”. Hành là việc làm của các Bồ-tát. Đó là pháp trợ đạo. Diệu là trí chân thật. Thượng là thần lực vượt hơn hết. Như thế là hiển bày sự thâm điệu tối thắng. Thế nào là tự tạng? Kệ nói: “Trí phân biệt nghĩa địa”. Phân biệt là nói về chỗ sai khác của mười địa. Tại sao trong kệ này nêu rõ: Là vâng theo thần lực của Phật để giảng nói? Là vì có chúng sinh nảy sinh ý tưởng khinh mạn đối với Như Lai, tự mình không thể thỉnh cầu người khác giảng nói pháp. Đây là ngăn chận ý vừa nói. Như vậy là đã nói xong phần thỉnh cầu nói pháp. Tiếp theo là hiển bày việc nói pháp lợi người. Có ba khoảng thời gian lợi ích, trong đó có ba kệ. Ba thời gian lợi ích là: Lợi ích lúc nghe pháp. Lợi ích khi tu hành. Lợi ích khi chuyển sinh. Thế nào là lợi ích lúc nghe pháp? Kệ nói: Chư Như Lai gia hộ, Hộ niệm các Bồ-tát, Người này nghe thọ trì, Pháp vi diệu như vậy. Bồ-tát nghe, thọ trì: Là Phật lực gia hộ. Đó gọi là lợi ích lúc nghe pháp. Thế nào là lợi ích khi tu hành? Kệ nói: Các địa tịnh không cấu, Thứ tự đạt đầy đủ, Chứng mười loại lực Phật, Thành Bồ-đề Vô thượng. Thứ tự đạt được mười địa, tự thân có được mười lực của Phật, thành tựu đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đó là lợi ích khi tu hành. Thế nào là lợi ích khi chuyển sinh? Kệ nói: Dù ở nơi biển cả, Hay kiếp tận, lửa cháy, Quyết định tin không nghi, Tất được nghe kinh này. Dù sinh vào đường lành, đường dữ, nơi có các nạn vẫn được nghe kinh pháp. Thế giới loài rồng, cõi trời Trường Thọ sống lâu cũng được nghe kinh này. Kệ nói: “Dù ở nơi biển cả”. Dù ở cõi trời Quang Âm… thuộc Sắc giới cũng được nghe kinh này. Kệ nói: “Hay kiếp tận, lửa cháy”. Người nghe pháp này là đều được lợi ích. Có người không được lợi ích chăng? Không có. Vì sao? Vì có thể đạt được quyết định không nghi. Ai tin nơi pháp này thì kẻ ấy có thể được lợi ích. Kệ nói: “Quyết định tin không nghi. Tất được nghe kinh này”. Như vậy là đã hiển bày xong về lợi ích của việc thỉnh cầu thuyết pháp. Trên nói: “Trí phân biệt nghĩa địa”, là nói pháp được thuyết giảng ở đây có ba loại theo thứ tự. Kệ thứ sáu phân biệt chỉ rõ về việc này. Kệ nói: Trí đạo thắng các địa, Lần lượt trú nơi địa, Thứ tự mà giảng nói, Cảnh giới vô lượng hạnh. Ba loại theo thứ tự là gì? Theo thứ tự quán. Theo thứ tự chứng đắc. Theo thứ tự tu hành. Câu một, hai, ba đều nói về theo thứ tự. Trí đạo thù thắng là trí đạo thù thắng của mười địa. Giảng nói về mười địa này, hoặc quán xét, hoặc nương dựa đều có thể phát sinh trí các địa. Nhập là bước vào địa. Trú là chưa chuyển hướng qua địa khác. Lần lượt là từ địa này chuyển lên địa kia với các trú xứ đó. Hành là thành tựu sự nhập trú lần lượt ấy. Cảnh giới là cảnh giới của hành có vô số khác biệt với hành ấy. Tiệm là theo thứ tự. Giảng nói là trao cho. Như vậy là chỉ dạy về nghĩa gì? Là chỉ rõ hết thảy nhân mà Như Lai có thể giảng nói, làm phát sinh lòng tin chân chính sau này. Kinh: “Lúc ấy, Bồ-tát Ma-ha-tát Kim Cang Tạng quán sát mười phương, muốn khiến cho đại chúng vui mừng hơn nữa, phát sinh chính tín cho nên dùng kệ nói: Đạo Thánh diệu khó biết, Không phân biệt lìa niệm, Khó đạt-vô cấu trược, Người trí hành theo trí. Tự tính thường vắng lặng, Không diệt cũng không sinh, Tự thể xưa nay Không, Có không hai-không cùng. Xa lìa nơi các cõi, Cùng đồng tướng Niết-bàn, Không phải đầu-giữa-sau, Không ngôn từ, giảng nói. Vượt ra ngoài ba đời, Tướng ấy như hư không, Định diệt, Phật đã hành, Ngôn thuyết không diễn hết. Hành địa cũng như vậy, Khó nói lại khó nghe, Lìa niệm và nẻo tâm, Trí khởi cảnh giới Phật. Không ấm-giới-nhập nêu, Tâm ý không đuổi kịp, Như dấu chim không trung, Khó nói khó thể thấy. nghĩa mười địa như vậy, Nói-nghe không thể đạt, Ta chỉ nêu một phần, Từ bi và nguyện lực. Thứ tự chẳng tâm cảnh, Trí đủ như tâm tịnh, Cảnh giới đó khó thấy, Khó nói tự tâm biết. Ta vâng Phật lực nói, Đều cung kính lắng nghe, Trí vào hành như vậy, Ức kiếp nói không cùng. Nay lược nói như thế, Như thật trú đầy đủ, Nhất tâm cung kính đợi, Nhờ Phật lực khéo nói. Nêu pháp âm thượng diệu, Dụ tương ưng chữ thiện. Ngôn thuyết ấy rất khó, Thần lực Phật vô lượng. Ánh sáng vào thân Ta, Nhờ lực ấy, Ta nói”. Luận: Tại sao quán sát mười phương? Là chỉ rõ không còn ngã mạn, không còn tâm thiên vị. Muốn khiến đại chúng vui mừng phấn khích hơn nữa, phát sinh chính tính thêm sâu, cho nên nói kệ chỉ cho biết là nói về các địa, tăng thêm ích lợi cho người nghe, đủ sức nhận lãnh ý nghĩa. Vui mừng phấn khích là tâm thanh tịnh không cấu đục. Vui mừng phấn khích có hai loại: nghĩa lớn lao vui mừng hết mực vì đạt được nghĩa. Vui mừng hết mực vì nói lớn, nhân đây nói lớn là có thể đạt được nghĩa ấy. Ở đây, năm kệ trước chỉ rõ sự vui mừng hết mực vì ý nghĩa lớn. Thế nào là ý nghĩa lớn? Là nghĩa sâu xa. Thế nào là nghĩa sâu xa? Kệ nói: Đạo Thánh diệu khó biết Không phân biệt lìa niệm… Kệ này dựa vào nghĩa gì để nói? Nương vào trí địa. Làm sao biết là nương vào trí địa? Vì trên đây đã giảng nói là đều nương vào trí địa cả. Càng về sau này có giảng nói, cũng lại nương vào trí địa. Kệ thứ tư nói: “Trí khởi cảnh giới Phật…” Vi diệu là sao? Kệ nói: “Khó nhận biết Thánh đạo”. Thế nào là khó nhận biết? Là khi nói khó nhận biết. Lại vì sao khó nhận biết? Do đạo của bậc Đại Thánh khó nhận biết. Đại Thánh là chư Phật. Cho nên gọi là vi diệu. Đạo là nhân. Tu hành đạo này thì có thể đi tới chỗ Thánh. Nói khó nhận biết đạo Thánh thì sự vi diệu ấy có hai: Khi giảng nói hết sức vi diệu. Khi chứng đắc cũng rất vi diệu. Theo thứ tự như vậy, tại sao nói khó nhận biết? Kệ nói: “Không phân biệt lìa niệm… “Không phân biệt là lìa cảnh giới phân biệt. Lìa niệm là tự thể vô niệm. Thánh đạo như vậy gọi là rất vi diệu. Tại sao khó đạt được? Khó đạt được là khó chứng đắc, đó gọi là rất vi diệu. Vì sao lại rất khó đạt được? Kệ nói: Khó đạt-vô cấu trược, Người trí hành nơi trí, Tự tính thường vắng lặng, Không diệt cũng không sinh. Không cấu đục là trong trí không còn vô minh. Có vô minh xen tạp trong trí thì đó là cấu trược. Người trí hành nơi trí, là chính mình chứng biết. Tự chứng biết là nương vào trí đó phát sinh. Trí ở đây là thấy được nghĩa Thật đế. Lại càng khéo hiểu pháp thì càng khéo đạt được vắng lặng. Lại có trí thế gian tùy theo chỗ nghe mà hiểu biết sáng tỏ. “Tự tính thường vắng lặng” là tự tính lìa khỏi phiền não. Không phải trước có cấu nhiễm rồi thời gian sau mới lìa bỏ. Không diệt là không phải một lần chết là mất luôn, vì không buông bỏ việc làm lợi ích cho chúng sinh. Không sinh là xuất thế gian. Như vậy trí này không an trú trong Niết-bàn cũng như thế gian. Như thế, do hành quán hết sức vi diệu, chỗ nương tựa hết sức vi diệu, sự thanh tịnh hết sức vi diệu, công đức hết sức vi diệu, gọi là rất khó đạt được. Trong ấy, sự vi diệu thứ nhất (Hành quán) không giống như Tam- muội của thế gian. Còn các vi diệu thứ hai, thứ ba (chỗ nương dựa, sự thanh tịnh) thì không giống với ngoại đạo tự cho là tôn quý. Vi diệu thứ tư (công đức) thì không đồng với Thanh văn, Phật-bích-chi. Nơi kệ này, vi diệu là Tổng. Hai loại vi diệu còn lại là Biệt. Lại hiển bày về chỗ khó được. Khi đạt được rất vi diệu là Tổng, bốn loại rất vi diệu còn lại là Biệt. Trí rất vi diệu này có tướng ra sao? Kệ nói: Tự thể xưa nay Không Có không hai-không cùng, Xa lìa nơi các cõi, Cùng đồng tướng Niết-bàn. Không phải đầu-giữa-sau, Không ngôn từ giảng nói, Vượt ra ngoài ba đời, Tướng ấy như hư không. Tướng của trí ấy có hai loại: Là Đồng tướng và Không đồng tướng. Trong phần Đồng tướng, thế nào là tướng, là tướng của trí ấy? Kệ nói: “Tự thể xưa nay Không”. Trí tự nó là Không. Tại sao là Đồng tướng? Vì hết thảy các pháp như đã nói, tự thể của chúng là Không. Tự thể là Không thì nên nhận lấy như thế nào? Như sừng thỏ chăng? Không phải. Như thế có thể nhận lấy khác với cái Không ấy, trí lại có một cái không khác nữa chăng? Không phải. Như vậy có thể lãnh hội tự thể của Không kia và Không này, rồi cả hai cùng chuyển biến diệt mất chăng? Không phải. Làm thế nào để lãnh hội cái tự thể Không ấy? Vì có không hai không tận, cho nên lãnh hội như vậy. Câu này chỉ rõ là lìa khỏi ba loại thâu nhiếp của Không: Lìa sự thâu nhiếp của chê bai. Lìa sự thâu nhiếp của khác biệt. Lìa sự thâu nhiếp của tận diệt. Có hai loại tụng: Tụng một: “Có không hai, không tận”. Tụng hai: “Định không hai, không tận”. Tụng này tuy khác, nhưng cùng làm rõ là thật có. Nếu không thật có thì không thể nói định. Định này là gì? Định này là có thể diệt trừ mọi phiền não, cho nên gọi là Đồng tướng. Không đồng tướng là sao? nghĩa là tướng thanh tịnh giải thoát. Tướng này lại có hai loại: Được giải thoát ở nơi nào? Giải thoát như thế nào? Được giải thoát ở nơi nào?. Kệ nói: “Xa lìa nơi các cõi”. Ở đây nêu rõ: Các cõi được giải thoát là xa lìa mọi sinh khởi của phiền não và nghiệp. Giải thoát như thế nào. Kệ nói: “Cùng đồng tướng Niết-bàn”. Vì thế gian và Niết-bàn bình đẳng cùng thâu nhiếp nhau, không phải như Thanh văn toàn bộ đều quay lưng với thế gian. Trí này diệt trừ sạch lậu, là trí ban đầu đoạn trừ hay trí ở giữa, ở sau đoạn trừ? Không phải là trí ban đầu đoạn trừ, cũng không phải trí ở giữa hay trí ở sau đoạn trừ. Kệ nói: “Không phải đầu-giữa-sau.” Đoạn trừ như thế nào? Như ngọn đèn cháy sáng, không phải chỉ có ban đầu-chặng giữa, hay sau cùng, do chấp giữ cho nên nói có trước- giữa-sau. Như vậy, giải thoát có thể đồng với sự quán âm thanh khác chăng? Không phải. Thế nào là quán? Kệ nói: “Không ngôn từ giảng nói”. Tức là lìa ngôn ngữ. Vậy có thể cho là đồng với trí thế gian, nương tựa vào thế gian chăng? Không phải. Thế nào là nương tựa? Kệ nói: “Vượt ra khỏi ba đời”. Chuyển đổi, nương tựa, mà nương tựa vào thân thường hằng, không phải như ý thức vô thường. Trí nương tựa vào pháp nhân duyên vô thường. Như trong Tu-đa-la (Kinh) nói quyết định nêu bày về giải thoát này, có thể đồng với sự giải thoát của hàng Thanh văn và Duyên giác, trí của họ có chướng ngại đối với sự giải thoát, vậy có thể giải thoát chăng? Không phải. Thế nào là giải thoát? Kệ nói: “Tướng ấy như hư không” tức là không bị tất cả các thứ phiền não gây chướng ngại. Trí quán như vậy, đoạn trừ phiền não như vậy, quán trên quán như vậy, nương tựa trên nương tựa như vậy, giải thoát như vậy và được giải thoát, như thế đã nói xong. Trong đó, tự thể Không là Tổng, ba loại Không là Biệt. Giải thoát là Tổng, năm loại giải thoát là Biệt. Kệ nói: Định-diệt - Phật đã hành, Ngôn thuyết không diễn hết Hành địa cũng như vậy, Khó nói lại khó nghe. Kệ này, tại sao dùng phương tiện hiển bày trí kia mà làm lu mờ Niết-bàn? Tức là chỉ rõ về Niết-bàn tính tịnh cho nên kệ nói: Định- diệt. lặng. Định là thành đồng tướng với Niết-bàn, vì tự tính của nó là vắng Diệt là thành không đồng tướng với Niết-bàn mà là phương tiện phá bỏ chấp về Niết-bàn, chỉ rõ trí duyên nơi diệt. Ai chứng trí này? Kệ nói: Phật đã thực hành. Ai nói pháp, ai nghe pháp? Không nói, không nghe. Kệ nói: “Ngôn thuyết không thể đạt.” Ngôn thuyết là dùng ngôn âm để dẫn dắt, tức là danh cú-tự thân. Tại sao không chỉ nói là vô ngôn? Vì chỉ ra việc dựa vào lời nói cầu sự hiểu biết. Trí kia đã như vậy, còn việc làm của địa thì hành tướng như thế nào? Kệ nói: “Hành địa cũng như vậy, khó nói lại khó nghe.” Địa là cảnh giới. Hành quán là quyến thuộc của trí. Quyến thuộc của trí là đồng hành. Đồng hành là các Ba-la-mật như Đàn Ba-la-mật (Bố thí Ba-la-mật)… Tại sao khó nói lại khó nghe? Kệ nói: Lìa niệm và nẻo tâm, Trí khởi cảnh giới Phật, Không ấm-giới-nhập nêu, Tâm ý không đuổi kịp. Kệ này chỉ rõ về Tư tuệ và thức, trí sinh từ quả báo, đó là điều có thể nói. Nhưng trí này không phải là cảnh giới kia vì không giống nhau. Kệ nói: “Trí khởi cảnh giới Phật.” Như ấm-giới-nhập thì có thể nói, còn trí này thì không phải vậy, vì nó lìa văn tự, cho nên không thể nêu bày. Kệ nói: Không ấm-giới-nhập nêu. “Tức là không phải sự nhận biết của nhó thức, không phải là ý thức có thể suy lường, do vậy mà không thể nghe. Kệ nói: “Tâm ý không đuổi kịp”. Trí là địa. Trí dấy khởi thì dùng gì để quán sát? Lấy gì làm đồng hành để có thể khởi trí ấy? Vì sao có thể chứng mà không thể nói, không thể nghe? Nay lại dùng ví dụ để làm sáng tỏ nghĩa này. Kệ nói: Như dấu chim không trung, Khó nói không thể thấy, nghĩa mười địa như vậy, Nói-nghe không thể được. Kệ này nêu bày nghĩa gì? Như chim bay nơi không trung, dấu vết của nó không thể nói, tướng cũng không thể thấy. Vì sao? Tướng của hư không và dấu chim đều không thể phân biệt được., chẳng phải là không có dấu vết bay qua bầu trời. Như vậy, chỗ ở của dấu chim gọi là trú xứ của danh-cú-tự thân. Chỗ thâu nhiếp trí chứng đắc của Bồ-tát địa là không thể nói được, không thể nghe được. Vì sao? Vì nó không phải như tính của âm thanh, không phải là không có danh cú tự thân của trí địa. nghĩa sâu xa ở đây được chỉ ra khiến cho đại chúng vui mừng hết mực. Tại sao Ta lại nói như vậy? Các vị không nên theo như âm thanh mà chấp giữ lấy nghĩa. Bám theo tiếng mà hiểu nghĩa thì mắc năm lỗi: Không chính tín. Dũng mãnh bị thoái chuyển. Dối gạt kẻ khác. Hủy báng Phật. Khinh rẻ pháp. Đại chúng tự biết là không mắc năm lỗi này cho nên mới nói nghĩa sâu xa. Lại hiển bày việc giảng nói điều lớn lao khiến sinh chính tín. Tiếp theo là nói năm kệ: Ta chỉ nói một phần, Từ bi và nguyện lực, Thứ tự chẳng tâm cảnh, Trí đủ như tâm tịnh. Cảnh giới ấy khó thấy, Khó nói tự tâm biết, Ta vâng Phật lực nói, Đều cung kính lắng nghe. Trí vào hành như vậy, Ức kiếp nói không cùng, Nay lược nói như thế, Như thật trú đầy đủ. Nhất tâm cung kính đợi, Vâng Phật lực khéo nói, Nêu pháp âm thượng diệu, Dụ tương ưng chữ thiện. Ngôn thuyết ấy rất khó, Thần lực Phật vô lượng, Ánh sáng vào thân Ta, Nhờ lực ấy Ta nói. nghĩa của mười địa, trước nói là không thể nói được, nghe được, nay bảo là: Ta chỉ nói một phần. Lời này có nghĩa gì? Có hai loại thuộc về địa này: Là phần nhân và phần quả. Nói tức là giải thích. Một phần là phần nhân nơi phần quả, cho nên bảo: Ta chỉ nói một phần. Ở đây, nói về sự lớn lao có ba loại: Nhân thành tựu lớn. Nhân thứ tự thành tựu lớn. Giáo hóa, nói pháp, tu tập, thành tựu lớn. Thế nào là nhân thành tựu lớn? Kệ nói: “Từ bi và nguyện lực”. Từ là cùng ban cho nhân quả vui mừng. Bi là cùng cứu khỏi nhân quả khổ não. Nguyện là phát tâm mong đạt đại Bồ-đề. Từ bi và nguyện lực này, sự siêng năng tu tập lâu dài, khác với hàng Nhị thừa. Thế nào là nhân thứ tự thành tựu lớn? Kệ nói: Thứ tự. Thứ tự là nói về văn-tư-tuệ đều theo thứ tự, cho đến khi có thể phát sinh nhân của trí xuất thế gian. Thế nào là giáo hóa-nói pháp-tu tập được thành tựu lớn? Có hai loại: Tu đầy đủ. Tu quán. Tu đầy đủ, như kệ nói: “Không phải là tâm cảnh”. Câu này chỉ rõ Văn-Tư tuệ là cảnh giới của tâm, chính là nhân của trí có thể phát sinh trí xuất thế gian. Nhưng trí này không đầy đủ như trí xuất thế gian của các địa kia. Kệ nói: “Trí đủ như tâm tịnh”. Như tâm tịnh là như tâm xuất thế gian thanh tịnh, có thể làm đầy đủ cho trí nơi các địa kia. Còn tu quán? Như kệ nói: Cảnh giới ấy khó thấy, Khó nói tự tâm biết, Ta vâng Phật lực nói, Đều cung kính lắng nghe. Kệ này hiển bày nghĩa gì? Cảnh giới ấy khó thấy. Tự tâm thanh tịnh thì có thể thấy. Cảnh giới ấy không thể nói. Giáo hóa-nói pháp-tu tập thành tựu như vậy là xong. Trong thuyết pháp, không thể chứng đắc được là do có hai lỗi: Lỗi của người nói và lỗi của kẻ nghe. Lỗi của người nói có hai loại: Nói pháp không được Phật tùy hỷ. Thuyết pháp không bình đẳng. Kẻ nghe cũng có hai loại lỗi: Lỗi của kiến chấp, sinh tranh cãi, cho pháp của mình là đúng, pháp của kẻ khác là sai. Chấp trước vào những loại nhận thức như vậy. Không cung kính đối với người nói pháp, ở đây chỉ rõ người giảng nói không mắc lỗi gì. Người nói tự bảo: Ta nói đây là được chư Phật tùy hỷ. Kệ nêu: Vâng Phật lực Ta nói, hãy cùng lắng nghe. Tiếp đến là khuyên bảo người nghe để đề phòng hai lỗi ấy. Kệ nói: “Đều cung kính lắng nghe”. Lần lượt hứa nói như vậy, nhưng đại chúng chưa biết nói rộng hay nói lược. Không thể nói rộng mà chỉ hứa là nói lược thôi, nhưng ý nghĩa của địa vẫn đầy đủ. Như kệ thứ ba nói: Trí vào hành như vậy, Ức kiếp nói không cùng, Nay nói lược như thế, Như thật trú đầy đủ. Trí vào hành tức là chỗ nêu giảng về pháp của các địa, chúng sinh dùng trí để hội nhập. Thế nào là hội nhập? Là thâu nhiếp như thật một cách đầy đủ. Hội nhập rồi theo như hành mà tu tập đầy đủ, chỉ rõ chỗ thâu nhiếp nghĩa nói rộng kia An trú là quyết định ở yên trong nhà của Như Lai. Trước đây, ta nói đều cung kính lắng nghe là vậy. Nếu thiếu điều ấy thì không nói. Cung kính như thế nào? Kệ nói: Nhất tâm cung kính đợi, Vâng Phật lực khéo nói, Nêu pháp âm thượng diệu, Dụ tương ưng chữ thiện. Nhất tâm cung kính đợi có hai loại: Thân chính thức cung kính đợi: Trú yên với oai nghi, đủ khả năng nhận lãnh pháp giảng nói. Tâm chính thức cung kính đợi: Như tâm quyết định có thể nhận lãnh nhớ giữ. Câu này khuyên bảo hai loại cung kính đợi là thân và tâm. Khéo nói là chỉ rõ mình không dua nịnh, không kiêu mạn. Vâng theo Phật lực là chỉ rõ mình không có tăng thương mạn. Nửa kệ sau nói: Pháp âm thượng diệu dụ cho sự tương ưng với chữ thiện. Câu này chỉ rõ về việc gì? Nhờ vào việc gì? Việc ấy như thế nào? Nương tựa vào việc gì? Chỉ rõ về việc gì, tức là nói pháp tối thượng. Nhờ vào việc gì, tức là nhờ vào âm thanh vi diệu. Việc ấy như thế nào? Là ví dụ tương ưng. Nương tựa vào việc gì, là nương tựa vào chữ thiện. Tất cả ta đều khéo giảng nói. Lại, tương ưng là thí dụ cùng tương ưng. Chữ thiện (khéo) có hai loại tướng: Khéo tùy thuận theo âm của phương ngôn. Chữ-câu đều viên mãn, không thêm không bớt, tương ưng với lý, cho nên gọi là chữ thiện. Trước nói vâng theo thần lực của Phật, nhưng chưa nêu rõ lực ấy như thế nào. Kệ thứ năm chỉ rõ các việc nơi thần lực của Phật. Kệ nói: Ngôn thuyết ấy rất khó, Thần lực Phật vô lượng, Ánh sáng vào thân ta, Nhờ lực ấy Ta nói. Đã nói xong phần Thỉnh cầu. Từ đây trở xuống là chính thức nói về Địa thứ nhất. Nơi phần Thuyết giảng này, nêu bày về những việc gì? Phân biệt có ba loại: Trú, Giải thích tên gọi và An trú. Trú có bốn loại: Nương tựa vào thân nào? Vì nghĩa gì? Do nhân gì? Có tướng gì? Khi Bồ-tát phát sinh tâm kia tức là trú ở Địa thứ nhất, đó gọi là trú. Trong đó, các Phật tử khéo tích tập căn thiện. Như vậy, bốn mươi câu là nói về việc của trú này. Đầu tiên là nói nương vào thân nào để sinh tâm như thế? Kinh: “Này các Phật tử! Nếu chúng sinh có thể phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác thì người ấy phải: “Tích tập sâu dày mọi căn thiện. Khéo tích tập các hành động lành. Khéo tập hợïp các hành Tam-muội. Khéo cúng dường chư Phật. Khéo gom góp các pháp thanh tịnh. Được bậc thiện tri thức khéo hộ niệm. Giỏi làm thanh tịnh tâm ý. Hội nhập vào tâm rộng sâu. Tin ưa pháp lớn, thích cầu đạt trí tuệ Phật. Hiện bày đại từ bi”. Luận: Mười câu như thế là nói nương tựa vào thân nào? Sự tích tập ấy có chín loại: Công việc tích tập điều thiện làm quyến thuộc cho trì giới. Như Kinh: Khéo tích tập các hạnh thiện. Dùng định tập hợïp các điều thiện làm quyến thuộc cho Tam- muội. Như Kinh: Khéo tập hợïp các hành Tam-muội. Hành Tam-muội thì hành quán tăng thêm. Thân cận tu tập, khéo tu tập trí văn tuệ. Như Kinh: Khéo cúng dường chư Phật. Tích tập trí tư tuệ, khéo suy nghó về các pháp thiện như các Ba- la-mật. Như Kinh: Khéo tích tập pháp thanh tịnh. Giữ, chứa tu hành, thực chứng, khéo được dạy trao. Như Kinh: Được bậc thiện tri thức khéo hộ niệm. Tâm thanh tịnh tập hợïp được chính trí xuất thế gian. Như Kinh: Khéo làm thanh tịnh tâm. Tích tập tâm sâu xa để làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh. Như Kinh: Đi vào tâm rộng sâu. Tập hợïp tín tâm cầu trí Nhất thiết trí. Như Kinh: Tin ưa pháp Đại thừa, dốc cầu trí tuệ Phật. Hiện tích tập nhiều hạnh từ bi. Như Kinh: Hiện bày đại từ bi. Trong đó, Từ nhớ nghó, dựa vào khổ khổ và hoại khổ, còn Bi thì dựa vào hành khổ. Ở đây, hai loại tích tập đầu là chỉ rõ về Giới học tăng thượng, Định học tăng thượng, thực hành tích tập điều thiện để làm quyến thuộc cho trì giới. Định tích tập các điều thiện để làm quyến thuộc cho Tam- muội. Tiếp theo có bốn tích tập là chỉ rõ về tuệ học tăng thượng. Thân cận tích tập điều thiện là tu tập trí Văn tuệ. Tích tập trí Tư tuệ là khéo suy nghó về các pháp thiện như các Ba-la-mật. Giữ gìn tích tập, tu hành, thực chứng là khéo được dạy truyền. Tâm tịnh tích tập để được trí xuất thế gian. Ba tích tập sau là chỉ rõ sự vượt hơn hàng Thanh văn, Bích-chi- Phật. Tập hợp tâm sâu xa là để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tích tập lòng tin để cầu trí Nhất thiết trí, hiện rõ tích tập nhiều hạnh từ bi. Trong mười câu này, dày công tích tập mọi căn thiện là Tổng, chín loại còn lại là Biệt. Tích tập là Đồng tướng, còn Biệt là Dị tướng. Thành là nói lược, Hoại là nói rộng. Đã nói xong phần dựa vào thân nào để phát sinh tâm như vậy. Tiếp theo là nói vì ý nghĩa gì mà phát sinh tâm như vậy. Kinh: “Bồ-tát Ma-ha-tát sinh tâm như vậy là để: Đạt được trí của Phật. Được sức mạnh của mười lực. Được hoàn toàn không sợ hãi. Được pháp bình đẳng của Phật. Được cứu độ hết thảy thế gian. Làm thanh tịnh tâm đại từ bi. Được trí trọn vẹn về mười phương. Được trí thanh tịnh, không bị mọi thứ trong thế gian làm chướng ngại. Được chỉ trong một niệm biết rõ việc của ba đời. Được chuyển đại pháp luân, dứt mọi sự sợ hãi”. Luận: Trí Phật nói ở đây là Trí vô thượng, đầy đủ biết (khổ) đoạn (tập) chứng (diệt) tu (đạo). Trí Phật này có chín loại nghiệp khác nhau. Vì mong cầu trí ấy cho nên sinh tâm như vậy. Nghiệp hỏi ghi của trí Phật lực: Đây là trí lực hỏi ghi của Như Lai về thị xứ phi xứ, như trong Tu-đa-la đã nêu. Như kinh này nói: Đạt được sức mạnh của mười lực. Nghiệp phá trừ tà thuyết của trí Phật vô úy. Như Kinh: Đạt được sự vô úy lớn lao. Nghiệp đạt được người-pháp vô ngã dạy trao cho chúng sinh chứng nhập của trí Phật bình đẳng. Như Kinh: Vì đạt được pháp bình đẳng của Phật. Nghiệp dùng bốn nhiếp pháp giáo hóa chúng sinh của trí Phật cứu độ. Như Kinh: Để cứu độ hết thảy thế gian. Nghiệp làm thanh tịnh là nhân cứu độ giáo hóa của trí Phật thanh tịnh. Như Kinh: Làm thanh tịnh tâm đại từ bi. Nghiệp dùng Phật nhãn quán xét chúng sinh nơi thế gian của trí Phật trọn vẹn. Như Kinh: Đạt được trí trọn vẹn về mười phương. Nghiệp tạo cho tất cả thế giới không chướng ngại, không cấu nhiễm, ứng hóa tự nhiên khiến tin tưởng của trí Phật không nhiễm. Như Kinh: Được trí thanh tịnh, hết thảy thế giới không bị chướng ngại. Nghiệp ở trong một niệm nhận biết tâm, nẻo hành tâm của chúng sinh ba đời của trí Phật tỉnh giác. Như Kinh: Đạt được trong một niệm biết rõ các sự việc ba đời. Nghiệp tạo phương tiện thiện xảo, đạt giải thoát của trí Phật chuyển pháp luân. Cùng một lúc chuyển pháp luân lớn trong trăm ức cõi Diêm-phù-đề. Như Kinh: Được chuyển pháp luân lớn, không còn mọi sợ hãi. Phát sinh tâm như vậy thì chính là trong phần căn bản nói: Này chư Phật tử! Bồ-tát này nguyện khéo quyết định… Vì sao chỉ nói sinh tâm mà không nói sinh trí cùng với các pháp tâm số khác? Vì trong tâm đã thâu nhiếp đầy đủ tri-đoạn-chứng-tu và hết thảy pháp trợ đạo. Đã nói xong phần vì ý nghĩa gì mà phát sinh tâm như vậy. Tiếp theo là nói do nhân gì mà sinh tâm như vậy. Kinh: “Tâm ấy dùng Đại Bi làm đầu, lấy trí tuệ với phương tiện thiện xảo tăng thượng làm chỗ thâu nhiếp, tâm ngay thẳng sâu xa hoàn toàn tinh thuần, oai lực vô lượng của Như Lai, trí lực khéo quyết định lực của chúng sinh, tùy thuận trí tự nhiên có thể thọ nhận hết thảy pháp Phật, dùng trí tuệ để giáo hóa, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, cho đến tận cùng đời vị lai”. Luận: Dùng Đại Bi làm đầu, Bi có chín loại lớn lao: Lớn về tăng thượng: Khổ càng vi tế thì trí càng tăng thượng sinh khởi. Như Kinh: Trí tuệ tăng thượng. Trí là quán xét về nhân, quả thuận, nghịch, nhiễm, tịnh. Tuệ là quán xét sự khác biệt của tự tướng, đồng tướng. Lớn về thâu nhiếp: Cứu khổ chúng sinh, thâu nhiếp bằng phương tiện thiện xảo. Như Kinh: Dùng phương tiện thiện xảo làm chỗ thâu nhiếp. Lớn về sự tinh thuần: Lúc hướng đến chấp thuận cho tới tận cùng cảnh giới của chúng sinh, luôn tạo lợi ích cho muôn loài với tâm Bi tăng thượng. Như Kinh: Trực tâm, thâm tâm đều hết mực tinh thuần. Lớn về vô lượng: Thâu nhiếp vô lượng diệu lực của Như Lai. Như Kinh: Diệu lực của Như Lai là vô lượng. Lớn về quyết định: Quyết định thượng diệu, tin vào trí sâu xa, vào sự đối trị thù thắng. Như Kinh: Khéo quyết định về trí lực, về lực của chúng sinh. Lớn về tùy thuận: Là tùy thuận vào chính giác Bồ-đề. Như Kinh: Tùy thuận trí tự nhiên. Lớn về chính thọ: Có khả năng nhận lấy chính pháp lớn lao thù thắng để dạy bảo trao truyền cho chúng sinh. Như Kinh: Có khả năng nhận lãnh hết thảy pháp Phật, dùng trí tuệ giáo hóa chúng sinh. Lớn về chỗ vi diệu tột bậc: Tức thâu nhận mọi công đức thù thắng vi diệu. Như Kinh: Rộng lớn như pháp giới. Lớn về sự an trú cùng tận: Tức là đạt được vô lượng quả yêu thích, là nhân đạt đến cảnh giới Niết-bàn. Như Kinh: Rốt ráo như hư không, cùng tận đến đời vị lai. Đã nói xong về phần do nhân nào mà phát sinh tâm như vậy. Tiếp đến là nói khi tâm ấy phát sinh thì có những tướng gì. Kinh: “Bồ-tát phát sinh tâm như vậy, lập tức vượt qua hàng phàm phu, bước vào quả vị Bồ-tát, sinh vào nhà Phật, thuộc tộc họ tôn quý, không thể chê trách. Vượt qua hết thảy nẻo thế gian, bước vào đạo xuất thế gian, an trú trong pháp của Bồ-tát, ở tại chính xứ của Bồ-tát, hội nhập nơi pháp chân như của ba đời, trong chủng tính của Như Lai, nhất định đạt được đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác trọn vẹn. Bồ-tát an trú trong pháp như vậy, gọi là trú nơi địa Hoan hỷ của Bồ-tát, vì đây là pháp bất động”. Luận: Vượt qua hàng phàm phu, do vượt qua hàng phàm phu, tức là chỉ rõ chứng được Thánh đạo xuất thế gian. Có tám loại vượt qua: Vượt qua sự bước vào quả vị đầu tiên là thành tựu tâm xuất thế gian, như mới trú thai là pháp tương tợ. Như Kinh: Bước vào quả vị Bồ- tát. Vượt qua nhà: Nhà được sinh ra là pháp tương tợ. Như Kinh: Sinh vào nhà Phật. Vượt qua về chủng tính: Pháp tương tợ như con cho nên phát sinh hạnh Đại thừa. Như Kinh: Chủng tính tôn quý không bị chê trách. Vượt qua đạo: Thâu nhiếp toàn bộ đạo thế gian và xuất thế gian không thâu nhiếp được. Đạo khác phát sinh là pháp tương tợ. Như Kinh: Vượt qua hết thảy đạo thế gian, bước vào đạo xuất thế gian. Vượt qua Thể của pháp: Lấy Đại Bi làm Thể, khi làm việc cho kẻ khác tức là việc của mình. Thể của tự thân là pháp tương tợ. Như Kinh: An trú trong pháp của Bồ-tát. Vượt qua nơi chốn: Không bỏ thế gian, theo phương tiện không cấu nhiễm cho nên khéo léo an trú. Trú xứ là pháp tương tợ. Như Kinh: Trú vào chính xứ của Bồ-tát. Vượt qua nghiệp: Thuận với không của Thánh trí, vì sinh mạng là pháp tượng tợ. Như Kinh: Nhập vào pháp chân như của ba đời. Vượt qua tất định: Tức là Phật chủng không bị dứt mất rốt cùng là đạt đạo Niết-bàn, thành tựu là pháp tương tợ. Như Kinh: Trong chủng tính của Như Lai, nhất định đạt được đạo quả Bồ-đề Vô thượng một cách trọn vẹn. Như thế, thị hiện đời sống của hàng phàm phu, đời sống của Bồ- tát, nhập thai không giống nhau. Có phiền não, không phiền não, thứ tự về nhà như vậy là không giống nhau. Chủng tính không giống nhau, đạo không giống nhau, Thể không giống nhau, nơi chốn không giống nhau, nghiệp của đời sống không giống nhau, thành tựu không giống nhau. Như thế là đã nói về trú trong địa này, đó gọi là trú. Như Kinh: Bồ-tát trú pháp như vậy gọi là trú địa Hoan hỷ của Bồ-tát, vì đây là pháp Bất động. Đã nói xong về nghĩa trú. Tiếp đến giải thích về tên gọi. Thế nào là nói nhiều về hoan hỷ mà mang tên là hoan hỷ? Hoan hỷ do cái gì? Trong địa này Bồ-tát hoan hỷ lại phải dùng niệm nào? Trước nói mười câu, sau nói hai mươi câu. Kinh: “Chư Phật tử! Bồ-tát này trú trong địa Hoan hỷ của Bồ-tát thành tựu nhiều hoan hỷ, nhiều tin kính, nhiều niệm yêu mến, nhiều vui mừng, nhiều thuận hợp, nhiều phấn khích, nhiều khả năng nhận lãnh, nhiều điều không hủy hoại ý kẻ khác, nhiều điều không não hại chúng sinh, nhiều điều không sân hận”. Luận: Hoan hỷ là Tâm hỷ, Thể hỷ, Căn hỷ. Hoan hỷ này có chín loại: Hoan hỷ vì tôn kính: Là tôn kính đối với Tam bảo. Như Kinh: Nhiều tin kính. Hoan hỷ vì yêu mến: Là ưa thích quán chiếu về pháp chân như. Như Kinh: Có nhiều niệm yêu mến. Hoan hỷ vì chúc mừng: Là tự biết những điều mình đã chứng đắc, thấy nó là thù thắng. Như Kinh: Có nhiều vui mừng. Hoan hỷ vì thuận hợp: Là tự thân tâm tràn ngập sự thành tựu. Như Kinh: Có nhiều thuận hợp. Hoan hỷ vì phấn khích: Là tự thân tràn ngập sự đầy đủ tăng thượng. Như Kinh: Có nhiều phấn khích. Hoan hỷ vì đủ sức nhận lãnh: Là tự thấy mình đến gần Bồ-đề. Như Kinh: Có nhiều khả năng nhận lãnh. Hoan hỷ vì không bị hủy hoại: Tức là khi luận bàn, giải thích, tự tâm điều phục, tâm không bị loạn động. Như Kinh: Có nhiều điều không hủy hoại ý kẻ khác. Hoan hỷ vì không não hại: Là khi thâu nhiếp giáo hóa chúng sinh, luôn lấy từ bi tạo sự thuận hợp, hòa dịu. Như Kinh: Có nhiều điều không não hại chúng sinh. Hoan hỷ vì không sân hận: Là khi thấy các chúng sinh có oai nghi bất chính, không theo như chỗ giảng nói để tu hành, nhưng Bồ-tát vẫn nhẫn chịu không nổi giận. Như Kinh: Có nhiều điều không sân hận. Đã nói xong về phần nhiều hoan hỷ. Tiếp nói: Do niệm (nhớ nghó) gì mà thành hoan hỷ? Sẽ nói đến trong câu thứ hai mươi và ba mươi. Niệm này có hai loại: Niệm sẽ đạt được và niệm hiện đạt được. Thế nào là niệm sẽ đạt được? Kinh: “Chư Phật tử! Bồ-tát trú ở địa Hoan hỷ này: Phát sinh tâm hoan hỷ vì nhớ (niệm) chư Phật. Phát sinh tâm hoan hỷ vì nhớ các pháp của chư Phật. Phát sinh tâm hoan hỷ vì nhớ các Đại Bồ-tát. Phát sinh tâm hoan hỷ vì nhớ những việc làm của Bồ-tát. Phát sinh tâm hoan hỷ vì nhớ tướng thanh tịnh của các Ba-la-mật. Phát sinh tâm hoan hỷ vì nhớ nghó về địa của các Bồ-tát đối chiếu thấy rõ sự thù thắng. Phát sinh tâm hoan hỷ vì nhớ về diệu lực của Bồ-tát không thoái chuyển. Phát sinh tâm hoan hỷ vì nhớ pháp giáo hóa của Như Lai. Phát sinh tâm hoan hỷ vì nhớ có thể tạo lợi ích cho chúng sinh. Phát sinh tâm hoan hỷ vì nhớ về sự hội nhập trí hành của hết thảy Như Lai”. Luận: Thế nào là niệm? Là nghó rằng mình cũng sẽ đạt được như Phật đã đạt được. Nhớ (niệm) đến Phật như vậy có chín loại: Nhớ pháp của Phật. Như Kinh: Nhớ pháp của chư Phật cho nên sinh tâm hoan hỷ. Nhớ đến Bồ-tát của Phật. Như Kinh: Nhớ Đại Bồ-tát cho nên sinh tâm hoan hỷ. Nhớ sự hành hóa của Phật. Như Kinh: Nhớ việc làm của Bồ-tát, cho nên sinh tâm hoan hỷ. Nhớ sự thanh tịnh của Phật. Như Kinh: Nhớ tướng thanh tịnh các Ba-la-mật cho nên sinh tâm hoan hỷ. Nhớ sự thù thắng của Phật. Như Kinh: Nhớ về địa của các Bồ- tát đối chiếu thấy rõ sự thù thắng cho nên sinh tâm hoan hỷ. Nhớ sự không thoái chuyển của Phật. Như Kinh: Nhớ diệu lực của Bồ-tát không thoái chuyển cho nên sinh tâm hoan hỷ. Nhớ sự giáo hóa của Phật. Như Kinh: Nhớ pháp giáo hóa của các Đức Như Lai cho nên sinh tâm hoan hỷ. Nhớ Phật đem lại ích lợi. Như Kinh: Nhớ về việc có thể tạo ích lợi cho chúng sinh cho nên sinh tâm hoan hỷ. Nhớ đến sự hội nhập nơi Phật. Như Kinh: Nhớ việc hội nhập nơi trí hành của hết thảy Như Lai cho nên sinh tâm hoan hỷ. Ở đây hai niệm đầu là cùng nhớ về Phật: Nghó rằng mình sẽ chứng đạt được như Phật. Nhớ đến pháp của Phật là nhớ nghó về pháp của chư Phật. Phật và pháp của Phật là hai niệm. Nhớ đến Bồ-tát của Phật và nhớ đến các Bồ-tát là hai niệm. Nhớ đến việc làm của Phật, nhớ đến việc làm của Bồ-tát. Thứ tự như vậy có sáu câu. Nhớ Phật thanh tịnh: Nhớ tướng thanh tịnh của các Ba-la-mật. Nhớ đến sự thù thắng của Phật. Nhớ tới địa của các Bồ-tát đối chiếu thấy rõ sự hơn hẳn. Nhớ sự không thoái chuyển của Phật. Nhớ diệu lực của Bồ- tát không thoái chuyển. Nhớ sự giáo hóa của Phật. Nhớ pháp giáo hóa của các Như Lai. Nhớ Phật tạo ích lợi. Nhớ tới việc có thể tạo ích lợi cho chúng sinh. Nhớ đến sự hội nhập của Phật. Nhớ tới sự hội nhập nơi trí hành của hết thảy Như Lai. Tùy theo chỗ mà làm sáng tỏ hạnh của Bồ- tát. Dùng cái gì để làm sáng tỏ? Các niệm như vậy đều cho nên biết. Lại nữa, lấy gì để làm sáng tỏ các pháp Ba-la-mật kia là thanh tịnh? Làm sáng tỏ như thế nào để hiển bày hành nơi địa Bồ-tát, để so sánh chỗ hơn hẳn chuyển lên cao hơn do đã đi tới địa cuối cùng. Phần còn lại ở đây là được pháp giáo hóa, làm lợi ích cho chúng sinh, hành không giả dối bước vào địa hành của Như Lai. Nơi phần này nhớ đến sự hành hóa của Phật vừa là Tổng vừa là Biệt. Đã nói về phần niệm sẽ đạt được cho nên sinh tâm hoan hỷ. Tiếp theo nói về niệm hiện đang đạt được cho nên sinh tâm hoan hỷ. Kinh: “Chư Phật tử! Bồ-tát lại nghó như vậy: Phát sinh tâm hoan hỷ vì mình chuyển lìa khỏi mọi cảnh giới của thế gian. sinh. Phát sinh tâm hoan hỷ vì gần bước vào trú xứ của Như Lai. Phát sinh tâm hoan hỷ vì xa lìa khỏi hàng phàm phu. Phát sinh tâm hoan hỷ vì tới gần bên cõi trí tuệ. Phát sinh tâm hoan hỷ vì đoạn trừ hết các đường ác. Phát sinh tâm hoan hỷ vì làm nơi nương tựa cho tất cả chúng Phát sinh tâm hoan hỷ vì gần thấy hết thảy chư Phật. Phát sinh tâm hoan hỷ vì được sinh vào cảnh giới của chư Phật. Phát sinh tâm hoan hỷ vì hội nhập vào pháp chân như của tất cả Bồ-tát. Phát sinh tâm hoan hỷ vì mình xua tan mọi chuyện kinh hãi”. Luận: Mình chuyển lìa khỏi mọi cảnh giới của thế gian là chuyển lìa khỏi các việc chấp giữ của hàng phàm phu. Sự chuyển lìa này có chín loại: Chuyển lìa để hội nhập. Như Kinh: Bước vào gần với trú xứ của Như Lai cho nên sinh tâm hoan hỷ. Chuyển lìa vì cách xa. Như Kinh: Xa lìa hàng phàm phu cho nên sinh tâm hoan hỷ. Chuyển lìa vì gần tới nơi. Như Kinh: Đến gần cõi trí tuệ cho nên sinh tâm hoan hỷ. Chuyển lìa vì đoạn trừ. Như Kinh: Đoạn trừ hết thảy mọi đường ác, cho nên sinh tâm hoan hỷ. Chuyển lìa vì nương tựa. Như Kinh: Làm nơi nương tựa cho tất cả chúng sinh cho nên sinh tâm hoan hỷ. Chuyển lìa vì thấy gần. Như Kinh: Thấy gần hết thảy chư Phật cho nên sinh tâm hoan hỷ. Chuyển lìa vì được sinh. Như Kinh: Sinh vào cảnh giới chư Phật cho nên sinh tâm hoan hỷ. Chuyển lìa vì bình đẳng. Như Kinh: Bước vào pháp chân như của hết thảy Bồ-tát, cho nên sinh tâm hoan hỷ. Chuyển lìa vì xả bỏ. Như Kinh: Mình lìa khỏi mọi sự sợ hãi khủng khiếp cho nên sinh tâm hoan hỷ. Trong này, chuyển lìa để hội nhập là chỉ rõ sự không giống nhau. Chuyển lìa vì cách xa, chuyển lìa vì tới gần là chỉ rõ về tự thân không giống nhau. Sáu câu còn lại là: Chuyển lìa vì đoạn trừ, chuyển lìa vì nương tựa, chuyển lìa vì thấy gần, chuyển lìa vì được sinh, chuyển lìa vì bình đẳng, chuyển lìa vì xả bỏ. Thứ tự làm như vậy là hành không giống nhau, cùng đắp đổi nương tựa không giống nhau, tha lực không giống nhau, nơi chốn không giống nhau, sinh nghiệp không giống nhau, thành tựu không giống nhau. Sợ hãi là không yêu thích, nghi ngờ, lo lắng, ưu phiền, các tưởng ấy tương ưng với tâm. Lại nữa, tướng thân khác nhau như việc lông tóc dựng đứng … Tiếp theo nói thế nào là sợ hãi. Đâu là nhân của sợ hãi? Xa lìa nhân ấy thì không còn sợ hãi. Kinh: “Tại sao vậy? Bồ-tát Ma-ha-tát này được địa Hoan hỷ rồi, thì hết thảy mọi thứ sợ hãi hiện có đều xa lìa. Đó là sợ hãi không sống nổi, sợ hãi tiếng tăm xấu ác, sợ hãi cái chết, sợ hãi đọa vào đường ác, sợ hãi uy đức của đại chúng. Bồ-tát lìa tất cả các thứ sợ hãi như thế. Vì sao? Vì Bồ-tát này đã lìa hết tướng ngã, thân hãy còn không tham tiếc huống nữa là mọi việc cần dùng, vì vậy cho nên không còn sợ hãi, không sống nổi. Tâm không mong cầu được cung kính cúng dường: Ta phải cúng dường cho hết thảy chúng sinh, cung cấp cho họ mọi thứ cần dùng, vì thế không sợ hãi về tiếng tăm xấu ác. Vì xa lìa ngã kiến, không có tướng ngã cho nên không sợ hãi cái chết. Bồ-tát lại nghó như vậy: Nếu mình chết rồi sinh ra thì không rời chư Phật, Bồ-tát, vì vậy không sợ hãi bị đọa vào đường ác. Nơi chốn mà mình vui thích, thân tâm của mọi người nơi thế gian đều không sánh bằng, huống nữa là có ai vượt hơn, vì vậy không sợ hãi uy đức của đại chúng. Này chư Phật tử! Bồ-tát hoàn toàn lìa khỏi mọi chuyện lo sợ khủng khiếp như vậy”. Luận: Năm nỗi sợ hãi này là chướng ngại của địa thứ nhất, nhưng cũng trình bày những lợi ích thù thắng của địa. Trong năm nỗi sợ hãi này thì điều một-hai-năm là dựa vào thân- miệng- ý. Điều ba-bốn dựa vào thân. Dựa vào thân nghĩa là nương vào thân mà có được hay từ bỏ yêu ghét về đường thiện, đường ác. Tại sao chỉ nói năm nỗi sợ hãi thôi? Vì mọi sự sợ hãi khác như bị trói cột, đánh đập… đều nằm trong năm điều sợ hãi này. Nhân của sự sợ hãi này lược nói có hai loại: Trí hiểu biết sai lầm, bám vào những vọng tưởng tạo ra yêu mến, chấp trước. Do căn thiện quá mỏng, ít. Đối trị những sợ hãi này, như Kinh: Lìa ngã tướng, thân hãy còn không tham tiếc… cho đến… không sợ hãi trước uy đức của đại chúng, không còn những sự sợ hãi khủng khiếp. Tại sao nói hai nơi? Trước nói thân sợ hãi, sau nói thân khác sợ hãi? Kinh: “Chư Phật tử! Do lấy Đại Bi làm đầu, tâm sâu lớn kiên cố, cho nên Bồ-tát này siêng năng tu tập và thành tựu hết thảy các căn thiện”. Luận: Tâm sâu lớn kiên cố thì phiền não và Tiểu thừa không thể hủy hoại pháp quán này. Càng siêng năng tu tập và thành tựu hết thảy căn thiện: Là tất cả những căn thiện được nói đến đều thâu nhận trong địa này. Thế nào là siêng tu? Trong ấy có ba loại thành tựu: Thành tựu tâm tin tưởng. Thành tựu tu hành. Thành tựu hồi hướng. Có ba mươi câu chỉ rõ, mười câu đầu nói về thành tựu tâm tin tưởng. Kinh: “Đó là tâm tin tưởng tăng thượng, nhiều cung kính, tin thanh tịnh, phần nhiều lấy sự tin để phân biệt. Khởi tâm Bi thương xót, thành tựu Đại Từ. Tâm không mệt mỏi biếng trễ. Lấy hổ thẹn để trang nghiêm, thành tựu mọi an lạc của nhẫn nhục, kính thuận giáo pháp của Phật, tin tưởng quý trọng, tôn kính. Luận: Tâm tin tưởng tăng thượng là tùy thuộc vào công việc hiện có, trong đó tâm tin tưởng tăng thượng thành tựu. Tin tưởng tăng thượng này có chín loại: Tin tưởng tăng thượng của tôn kính: Tức là tôn kính Tam bảo. Như Kinh: Có nhiều cung kính. Tin tưởng tăng thượng do thanh tịnh: Tức là tự chứng trí chân tịnh. Như Kinh: Tin thanh tịnh. Tin tưởng tăng thượng của phân biệt: Tức là giúp kẻ khác chứng trí thanh tịnh. Như Kinh: Phần nhiều dùng tin tưởng để phân biệt. Tin tưởng tăng thượng của tâm Bi. Tin tưởng tăng thượng của tâm Từ: Tức là giáo hóa chúng sinh. Như Kinh: Khởi tâm bi thương xót, thành tựu Đại Từ. Bi là dứt trừ tướng khổ, quyết định cứu độ chúng sinh. Từ là ban cho tướng an vui. Mãi ban cho vô lượng an lạc. Khởi là chuyển đổi để thành hiện tiền. Tin tưởng tăng thượng do không mỏi mệt: Là ở lâu trong thế gian để giáo hóa chúng sinh vô lượng, đem lại ích lợi cho họ. Như Kinh: Tâm không mệt mỏi biếng trễ. Tin tưởng tăng thượng do hổ thẹn: Tức là không tham đắm thế gian. Đối với các loại làm chướng ngại Ba-la-mật như keo kiệt … luôn hết sức hổ thẹn. Như Kinh: Dùng hổ thẹn để trang nghiêm. Tin tưởng tăng thượng do an lạc: Tức là đối với người cùng pháp, không gây não loạn. Như Kinh: Thành tựu mọi an lạc của nhẫn nhục. Tin tưởng tăng thượng do kính pháp: Là cùng tăng tâm kính tin thù thắng. Như Kinh: Kính thuận theo giáo pháp của chư Phật cho nên tin tưởng càng tôn quý. Ba câu sau, chỉ cho biết tu những hạnh gì? Đó là tu hạnh Ba-la- mật. Ai là bạn mình? Ấy là những đồng sự an lạc. Đi vào pháp nào? Đó là giáo pháp của chư Phật. Như thế là thành tựu tâm tin tưởng. Thế nào là thành tựu tu hành? Kinh: “Ngày đêm tu tập căn thiện không biết chán đủ. Phải thân cận thiện tri thức. Thường yêu thích vui với pháp. Cầu học rộng không hề chán. Lấy pháp nghe được để hành quán. Tâm không tham đắm. Không để mình vướng mắc vào lợi dưỡng, tiếng khen, sự cung kính. Không cầu tìm mọi của cải cần dùng cho đời sống. Thường sinh tâm như thật, không thấy chán đủ”. Luận: Mười câu trên đây là nói về thành tựu tu hành. Thế nào là thành tựu tu hành? Tức là tích tập các căn thiện không ngừng nghỉ. Như Kinh: Ngày đêm tu tập căn thiện không biết chán đủ. Sự tích tập này có tám loại: Tích tập do thân cận: Không quên các pháp. Như Kinh: Thân cận thiện tri thức. Tích tập do yêu mến pháp: Đối với những hỏi đáp, luận bàn, giải thích, tâm luôn vui thích. Như Kinh: Thường yêu thích pháp. Tích tập do đa văn. Như Kinh: Tìm cầu học rộng không hề biết chán. Tích tập do chính quán. Như Kinh: Những pháp nghe được đều phải chính quán. Tích tập do không vướng mắc. Như Kinh: Tâm không tham chấp. Ba câu vừa nói về tích tập do đa văn, đó là Văn-Tư-Tu tuệ theo thứ tự như vậy. Không chấp là không tham vướng vào Tam-muội. Tích tập do không tham. Tích tập do không mong cầu: Là đối với mọi lợi dưỡng đã đạt được thì không ham. Lợi dưỡng chưa đạt được thì không cầu. Nếu không thì giới hạnh của Bồ-tát bị cản trở, bị thoái chuyển. Như Kinh: Không vướng mắc vào lợi dưỡng, tiếng khen, sự cung kính, không cầu hết thảy của cải cần dùng cho đời sống. Tích tập do tâm như thật: Là tâm xuất thế gian, khiến nó luôn hiện tiền trong từng niệm nối nhau. Như Kinh: Thường sinh tâm như thật, không thấy chán đủ. Như thế là thành tựu tu hành. Thế nào là thành tựu hồi hướng? Kinh: “Chư Phật tử! Bồ-tát Ma-ha-tát muốn thành tựu pháp tịnh trị nơi địa như thế, gọi là an trú nơi địa Hoan hỷ của Bồ-tát, thì phải: Cầu đạt bậc Nhất thiết trí. Cầu đạt các pháp bất cộng, vô sở úy, mười lực của Phật. Cầu đạt các pháp Ba-la-mật không chấp trước. Lìa xa mọi thứ dua nịnh quanh co. Như lời dạy có thể hành trì. Thường hộ trì lời nói chân thật. Không làm cấu nhiễm nhà của chư Phật. Không lìa bỏ giới Bồ-tát. Bất động như đại sơn vương, sinh tâm cầu Nhất thiết chủng trí. Không buông bỏ mọi chuyện trong thế gian mà vẫn thành tựu đạo xuất thế gian. Thường xuyên tích tập các pháp trợ Bồ-đề phần. Luôn dốc lòng cầu đạo thù thắng tối thượng”. Luận: Cầu quả vị Nhất thiết trí … là nói những việc gì? Đó là chỉ rõ về thành tựu hồi hướng. Cầu quả vị Nhất thiết trí là Tổng. Cầu mười lực… Như Lai đối với quả vị Nhất thiết trí là Biệt. Cầu quả vị Nhất thiết trí bằng quán chiếu. Cầu quả vị Nhất thiết trí do không chướng ngại. Cầu quả vị Nhất thiết trí do xa lìa. Cầu quả vị Nhất thiết trí do thực hành đúng theo lời chỉ dạy. Cầu quả vị Nhất thiết trí do sự hộ trì. Cầu quả vị Nhất thiết trí do không cấu nhiễm. Cầu quả vị Nhất thiết trí do không xả bỏ. Cầu quả vị Nhất thiết trí do bất động. Cầu quả vị Nhất thiết trí do thành tựu hạnh bất xả. Cầu quả vị Nhất thiết trí do tích tập. Cầu quả vị Nhất thiết trí do luôn dốc lòng cầu đạt. Ở đây, mong cầu những sự việc gì? Là cầu đạt quả vị Nhất thiết trí. Dùng quán gì để cầu? Là quán về mười lực, không sợ hãi, pháp bất cộng của chư Phật. Cầu như thế nào? Cầu pháp Ba-la-mật không vướng mắc. Ba sự mong cầu ấy là nhà này nương vào nhà kia, không có gì trở ngại để cầu. Chấp trước vào chỗ dị biệt để cầu cho nên trong Đàn Ba-la-mật (Bố thí Ba-la-mật) có hai loại cấu uế: Dua nịnh, quanh co khi thấy kẻ đến cầu xin, hứa nêu phương tiện nhưng không có tâm thuận cho. Không giữ lời hứa trước vì vậy không cho. Đối trị hai cấu uế này, như Kinh: Lìa bỏ dua nịnh quanh co, đúng như lời giảng nói để thực hành. Trì giới Ba-la-mật có một thứ cấu uế là không giữ lời chân thật. Trái với những gì mình đã thọ nhận. Đã phạm còn che giấu. Đối trị cấu uế này, như Kinh: Luôn giữ gìn lời chân thật. Nhẫn nhục Ba-la-mật có một cấu uế là làm vấy bẩn nhà Như Lai. Thế nào là Bồ-tát làm vấy bẩn nhà Như Lai? Đó là làm não loạn nghiệp của người khác. Nhà Như Lai là làm ích lợi cho người khác, vì thế Bồ- tát sinh trong nhà này, gây não loạn cho đời sống của kẻ khác là làm chuyện không tốt. Đối trị cấu uế ấy, như Kinh: Không làm cấu nhiễm nhà Như Lai. Tinh tiến Ba-la-mật có một cấu uế là sinh tâm thoái chuyển đối với giới Bồ-tát khó làm, khó giữ trải qua vô lượng kiếp lâu dài. Đối trị cấu uế này, như Kinh: Không buông bỏ giới Bồ-tát. Thiền định Ba-la-mật có hai loại cấu uế: Tâm loạn động. Không có khả năng điều phục những nghó tưởng phân biệt. Đối trị cấu uế này, Kinh: Bất động như đại sơn vương, sinh tâm cầu Nhất thiết chủng trí. Bát nhã Ba-la-mật có ba loại cấu uế: Không có phương tiện thiện xảo cho nên Niết-bàn của thế gian đáng lẽ hiện bày nhưng hoàn toàn không hiện ra. Không tu tập đạo xuất thế gian. Tâm nguyện và sự mong muốn còn mỏng đối với pháp chứng đắc thù thắng. Thứ tự đối trị ba cấu uế đó, như Kinh: Không bỏ tất cả sự việc nơi thế gian nhưng vẫn thành tựu đạo xuất thế gian. Tích tập các pháp trợ Bồ-đề phần không hề thấy chán đủ. Thường cầu đạo thù thắng tối thượng. Như vậy là thành tựu hồi hướng. Gọi là siêng năng hành trì thành tựu đầy đủ. Siêng năng hành trì này có bốn loại: Tin tưởng. Mong muốn. Tinh tiến. Phương tiện. Mười câu đầu là chỉ rõ tin tưởng tăng thượng thành tựu. Tin tưởng tăng thượng ấy bao gồm sự mong muốn. Câu thứ hai mươi: Đêm ngày tu tập căn thiện không thấy chán đủ, là chỉ rõ về tinh tiến. Câu ba mươi: Cầu quả vị Nhất thiết trí, là chỉ rõ về phương tiện. Đó gọi là nêu bày phần an trú nơi địa này. Tại sao? Như Kinh: Chư Phật tử! Bồ-tát Ma-ha- tát thành tựu pháp trị địa thanh tịnh như vậy, gọi là an trú nơi địa Hoan hỷ của Bồ-tát. Đã nói xong phần thuyết giảng.  <卷>QUYỂN 3 Địa 1: ĐỊA HOAN HỶ, Phần 3 Luận: Đã nói rõ phần Thuyết giảng. Tiếp theo là nói về phần Đối chiếu chỗ thù thắng. Thế nào là đối chiếu chỗ thù thắng? Ở trong địa này, Bồ-tát đã vượt hơn hàng Thanh văn, Bích-chi-Phật. Đối chiếu về chỗ thù thắng ấy có ba loại: Nguyện thù thắng. Tu hành thù thắng. Lợi ích của quả thù thắng. Thế nào là nguyện thù thắng? Đó là mười đại nguyện. Kinh: “Bồ-tát an trú trong địa Hoan hỷ của Bồ-tát như vậy, phát các đại nguyện, đại phương tiện như vậy. Thành tựu đại hạnh như vậy. Đó là đối với toàn bộ tất cả chư Phật, hết thảy đều cung kính cúng dường. Đầy đủ hết thảy mọi thứ, lòng tin thanh tịnh, sâu xa tột bậc. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, hết thảy mọi kiếp, hết thảy số lượng Phật thành đạo, đều cung kính cúng dường lớn lao, không ngừng nghỉ”. Luận: Đại nguyện thứ nhất là không còn sót ấy có ba loại: Hết thảy Phật không còn sót. Hết thảy cúng dường không còn sót. Hết thảy cung kính không còn sót. Hết thảy Phật có ba thân Phật: Ứng thân Phật. Báo thân Phật. Pháp thân Phật. Có ba loại hết thảy cúng dường: Cúng dường các thứ lợi dưỡng, như cúng dường y phục, ngọa cụ… Cúng dường cung kính như hương hoa, cờ phướn… Cúng dường tu hành là tu hành tin nơi giới hạnh … Cung kính hết thảy có ba loại cung kính: Cung kính cung cấp hầu hạ. Cung kính đón đưa. Cung kính tu hành. Vì vậy khởi nguyện cung kính cúng dường. Như Kinh: Đó là đối với toàn bộ tất cả chư Phật, hết thảy đều cung kính, cúng dường. Tất cả các thứ đều đầy đủ: Tức là trong vô lượng chủng loại, loại nào tốt hơn thì đem cúng dường. Lòng tin thanh tịnh sâu xa tối thượng là sự kính trọng tăng thượng, quyết định tin tưởng, nguyện hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề. Rộng lớn như pháp giới: Là trong tất cả mọi căn thiện còn lại thì điều ấy là hơn hết. Rốt ráo như hư không là không thọ nhận quả ái của vô lượng nhân tố. Tận cùng đời vị lai là nhân này đạt được quả thường hằng Niết- bàn. Hết thảy kiếp số, hết thảy số lượng Phật thành đạo đều cung kính cúng dường lớn lao, không ngừng nghỉ. Trong nguyện đầu ấy có sáu loại lớn, gọi là đại nguyện: Phước điền lớn. Như Kinh: Đó là tất cả chư Phật không sót đều hết thảy cung kính, hết thảy cúng dường. Cung cấp lớn. Như Kinh: Tất cả mọi thứ đều đầy đủ. Tâm lớn. Như Kinh: Lòng tin thanh tịnh sâu xa tối thượng. Thâu nhiếp công đức lớn. Như Kinh: Rộng lớn như pháp giới. Nhân lớn. Như Kinh: Rốt ráo như hư không. Thời gian lớn. Như Kinh: Tận cùng đời vị lai. Kinh: “Lại phát đại nguyện, đó là đều có thể thọ trì hết thảy pháp của chư Phật giảng nói. Thâu nhận tất cả đạo quả Bồ-đề của Phật. Hộ trì hết thảy pháp của Phật giáo hóa. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, tất cả kiếp số, tất cả số lượng Phật thành đạo đều thâu nhiếp bảo vệ chính pháp, không hề ngừng nghỉ”. Luận: Đại nguyện thứ hai có ba loại pháp. Thọ trì hết thảy pháp luân của chư Phật giảng nói: Là giáo pháp nơi Tu-đa-la … viết chép, cúng dường, đọc tụng, thọ trì, giảng nói cho kẻ khác. Thâu nhận tất cả đạo quả Bồ-đề của Phật: Tức là chứng pháp, chứng ba loại pháp Bồ-đề của Phật. Thâu nhận tất cả pháp chứng đắc này rồi đem chỉ dạy truyền trao. Hộ trì hết thảy pháp của chư Phật giáo hóa là tu hành. Khi tu hành các pháp có những chướng ngại cần phải thâu nhiếp cứu giúp. Còn gọi là ba loại thành tựu. Thành tựu việc không làm đứt mất pháp luân của chư Phật giảng nói nơi những Tu-đa-la như A-hàm … theo thứ tự. Thành tựu sự chứng đắc tức là chứng ba loại chính giác. Thành tựu chính giác tức là tu hành cho đến tu hành đúng như thật. Ba loại Bồ-đề của Phật thì Thanh văn và Bích-chi-Phật cũng gọi là Phật. Kinh: “Lại phát đại nguyện, đó là tất cả thành Phật trọn vẹn, tất cả trú xứ của thế giới. Từ cõi trời Đâu-suất giáng trần, vào thai, ở trong thai, sinh ra, xuất gia, thành Phật, chuyển pháp luân, nhập Niết- bàn. Bấy giờ, mình đối với các sự việc ấy đều đi đến khắp để cúng dường, thâu nhiếp các pháp làm hàng đầu. Bất cứ nơi nào, mọi việc đều chuyển biến thành tựu trong cùng một lúc. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, hết thảy kiếp số, hết thảy số lượng Phật thành đạo, đem đến khắp nơi thâu nhiếp các pháp không có ngừng nghỉ”. Luận: Đại nguyện thứ ba là tất cả thành Phật trọn vẹn, tất cả trú xứ của thế giới: nghĩa là hết thảy ứng thân Phật là vô biên, đầy khắp mọi trú xứ của thế giới. Tùy theo trú xứ của chư Phật ở thế giới nào, có nhân duyên cảm ứng thuận hợp thì chúng sinh đều trông thấy cả. Từ cõi trời Đâu-suất hạ sinh, cho đến thị hiện nhập đại Niết-bàn, bấy giờ mình đối với các sự kiện ấy đều đến khắp để cúng dường. Thâu nhiếp các pháp làm hàng đầu: Tùy theo các chúng sinh kia dùng phương tiện cúng dường Phật, dùng phương tiện để thâu nhiếp các pháp do Như Lai thuyết giảng, tích tập công đức trí tuệ và các pháp trợ Bồ-đề. Bất cứ nơi đâu, mọi việc đều chuyển biến, thành tựu trong cùng một lúc: Là chỉ rõ không có trước-sau. Tại sao Phật thị hiện ở trú xứ kia? Vì Ngài không trú nơi cõi Sắc, Vô sắc. Nếu từ các chốn khổ nạn ấy đến, không vì mình thì họ sẽ khởi tâm khinh thường, không sinh tâm cung kính, cho nên phải ngăn chận việc đó. Tại sao Như Lai không trú cõi trời Tha-hóa-tự-tại? Như Lai đầy đủ thần lực cho nên có thể sinh vào nơi chốn thù thắng. Nhưng từ bỏ không sinh ở nơi đó là vì nghó tới chúng sinh, cho nên hạ sinh từ cõi trời Đâu-suất, khiến chúng sinh phát sinh tâm đại cung kính. Tại sao bỏ thú vui nơi cõi Thiên thượng mà sinh trong loài người? Vì Như Lai thương xót chúng ta, sinh trong loài người này để làm cho con người sinh tâm cung kính thêm lên. Do đâu ở trong thai? Là thị hiện cùng sinh, làm tăng trưởng sức lực. Tại sao Như Lai tự mình thành tựu chính giác? Tức là chỉ rõ không phải do Phật khác giáo hóa, hiện bày sức mạnh của bậc trượng phu, thành tựu đạo quả Bồ-đề không phải nhờ người khác mà được. Do đâu thị hiện nhập Niết-bàn? Là khiến cho các chúng sinh biếng trễ phải siêng năng tu tập. Kinh: “Lại phát đại nguyện, đó là hết thảy việc làm của Bồ-tát rộng lớn vô lượng, không xen tạp, đều thâu nhiếp trong các pháp Ba-la- mật. Những chốn thanh tịnh của các địa phát sinh các pháp trợ đạo đủ mọi tổng tướng, biệt tướng, đồng-dị-thành-hoại tướng. Nêu bày mọi việc làm của Bồ-tát là đạo như thật nơi địa, và các phương tiện tạo tác của các pháp Ba-la-mật, là giáo hóa chúng sinh, khiến mọi người đều nhận lãnh và thực hành, làm cho tâm được tăng trưởng, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, hết thảy số kiếp, số lượng công hạnh tăng lên mãi, không có ngừng nghỉ”. Luận: Đại nguyện thứ tư là tâm được tăng trưởng. Dùng những hành gì làm cho tâm tăng trưởng? Là hết thảy việc hành trì giáo hóa của Bồ-tát khiến tất cả đều thọ nhận, thực hành, làm cho tâm tăng trưởng. Hành của Bồ-tát có bốn loại: Một là chủng chủng, hai là thể, ba là nghiệp, bốn là phương tiện. Giáo hóa theo bốn loại đó, giúp cho chúng sinh nhận lãnh và thực hành. Những gì là hành của Bồ-tát? Là vô số việc làm ở thế gian. Có ba loại: Rộng là từ sơ địa đến địa thứ sáu. Lớn là địa thứ bảy. Vô lượng là từ địa thứ tám cho đến địa thứ mười. Không xen tạp là pháp bình đẳng, vô ngã, trí quán xét xuất thế gian. Như Kinh: Hết thảy các việc làm của Bồ-tát là rộng lớn, vô lượng, không xen tạp. Thể là như Kinh: Đều thâu nhiếp trong các pháp Ba-la-mật. Nghiệp là như Kinh: Địa thanh tịnh phát sinh các pháp trợ đạo. Phương tiện là như Kinh: Tổng tướng, biệt tướng, dị-đồng-thành- hoại tướng. Nói tất cả việc làm của Bồ-tát là đạo như thật ở các địa cùng các nghiệp của phương tiện Ba-la-mật. Kinh: “Lại phát đại nguyện, đó là tất cả cảnh giới của chúng sinh đầy đủ có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, không phải là không tưởng, phi tưởng phi phi tưởng, cho đến noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, mọi hệ thuộc trong ba cõi, xen lẫn vào sáu đường, tất cả chốn sinh thâu nhiếp trong danh sắc, đều giáo hóa thành tựu, khiến hết thảy chúng sinh có lòng tin, đi vào pháp của chư Phật, đoạn trừ tất cả các nẻo của thế gian, khiến trú vào trí Nhất thiết trí, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, hết thảy kiếp số, hết thảy cảnh giới của chúng sinh, giáo hóa trọn vẹn không ngừng nghỉ”. Luận: Đại nguyện thứ năm là giáo hóa chúng sinh. Chúng sinh là gì? Có nghĩa gì? Giáo hóa hết thảy chúng sinh có sáu loại khác nhau: Khác nhau về tế và thô. Khác nhau về nơi sinh ra và nương tựa. Khác nhau về nơi chốn sạch-không sạch. Khác nhau về khổ-vui. Khác nhau về tự nghiệp. Khác nhau về tự thể. Thế nào là khác nhau về tế và thô? Thô là có sắc, vi tế là không có sắc. Trong sắc thô là có tưởng. Vi tế thì không có tưởng. Trong vô sắc, thô không phải là không có tưởng. Vi tế là phi tưởng phi phi tưởng. Đó gọi là sự khác nhau giữa thô và tế. Như Kinh: Có sắc, không sắc. Có tưởng, không có tưởng. Không phải là không có tưởng, phi tưởng phi phi tưởng. Khác nhau về nơi sinh ra và nương tựa như Kinh: Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh. Hóa sinh nương vào đâu? Nó nương vào nghiệp sinh. Khác nhau về nơi chốn sạch-không sạch. Như Kinh: Hệ thuộc vào ba cõi. Khác nhau về khổ vui là do có nhiều thứ thân, như Kinh: Xen lẫn vào sáu đường. Khác nhau về tự nghiệp, như Kinh: Tất cả nơi chốn sinh ra. Khác nhau về tự thể. Như Kinh: Thâu nhiếp trong danh sắc. Đó gọi là chúng sinh. Giáo hóa nghĩa là sao? Có ba nghĩa: Khiến họ có lòng tin, tiến vào pháp của chư Phật thuyết giảng. Như Kinh: Vì giáo hóa thành tựu hết thảy cõi chúng sinh, khiến tin và tiến vào giáo pháp của chư Phật. Những ai đã đi vào pháp Phật rồi thì khiến họ nhập vào Bồ-đề của Nhị thừa. Như Kinh: Đoạn trừ hết thảy các đạo của thế gian. Đã vào Bồ-đề của Nhị thừa thì giúp họ tiến vào Bồ-đề Vô thượng. Như Kinh: Khiến an trú nơi trí Nhất thiết trí. Kinh: “Lại phát đại nguyện, đó là toàn bộ tất cả thế giới rộng lớn vô lượng, bao gồm thô-tế-trú loạn-trú điên đảo-trú chính đáng với vô số sai khác như lưới của Đế thích. Mười phương thế giới với vô lượng dị biệt đều hội nhập, đều nhận biết ngay trước mặt. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, hết thảy kiếp số, hết thảy số lượng thế giới đều tin tưởng tiến vào không ngừng nghỉ”. Luận: Đại nguyện thứ sáu là toàn bộ hết thảy thế giới, tức là gồm có ba loại tướng tùy theo trí hội nhập thế giới như thế đều nhận biết nơi hiện tiền. Tướng hết thảy. Tướng của nghĩa chân thật. Tướng vô lượng. Tướng hết thảy là như Kinh: Rộng lớn vô lượng cho đến chính trú. Rộng lớn vô lượng tức là một ngàn thế giới, hai ngàn thế giới, ba ngàn thế giới. Tế là tùy thuộc vào ý thức thân của thế giới nào đó. Thô là tùy thuộc vào ý sắc thân của thế giới nào đó. Loạn trú (Trú loạn) là ở không có thứ tự. Đảo trú (Trú điên đảo) là ở không tạo ra nhà cửa gì hết. chính trú (Trú chính đáng) là ở có nhà cửa. Đó gọi là hết thảy tướng. Khác nhau như lưới trời Đế thích là tướng của nghĩa chân thật, như nghiệp tạo ra mọi thứ huyền ảo. Tướng vô lượng là đi vào mười phương thế giới với vô lượng sai biệt, tức là tướng của chúng vô lượng. Tướng của nghĩa chân thật là chỉ có trí mới có thể nhận biết. Tướng còn lại thì có thể thấy rõ. Kinh: “Lại phát đại nguyện, đó là tất cả cõi Phật là một cõi Phật, một cõi Phật là tất cả cõi Phật, hết thảy cõi nước đều thanh tịnh bình đẳng. Tất cả cõi Phật đều trang nghiêm bằng uy lực thần thông chiếu sáng đầy đủ. Lìa hết mọi thứ phiền não, thành tựu đạo thanh tịnh. Chúng sinh ở trong đó đều đầy đủ vô lượng trí tuệ, đều hội nhập cảnh giới bình đẳng thượng diệu của Phật. Tùy sự ưa thích nơi tâm niệm của các chúng sinh mà Như Lai thị hiện. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, tận cùng hết thảy kiếp số và số lượng cõi Phật, đều làm thanh tịnh tất cả cõi Phật không ngừng nghỉ”. Luận: Đại nguyện thứ bảy là làm thanh tịnh cõi Phật. Có bảy loại tướng: Đồng thể tịnh (Thanh tịnh do đồng thể tính). Như Kinh: Hết thảy cõi Phật là một cõi Phật. Một cõi Phật là hết thảy cõi Phật. Tự tại tịnh (Thanh tịnh do tự tại). Như Kinh: Hết thảy cõi nước đều thanh tịnh bình đẳng. Trang nghiêm tịnh (Thanh tịnh do trang nghiêm). Như Kinh: Hết thảy cõi Phật đều trang nghiêm bằng thần thông sáng chói đầy đủ. Trang nghiêm bằng ánh sáng và bằng mọi thứ châu báu. Thọ dụng tịnh (Thanh tịnh do thọ dụng). Như Kinh: Lìa mọi thứ phiền não, thành tựu đạo thanh tịnh. Trú xứ chúng sinh tịnh (Thanh tịnh do chúng sinh trú xứ). Như Kinh: Chúng sinh ở trong đó đều có vô lượng trí tuệ. Nhân tịnh (Thanh tịnh do nhân). Như Kinh: Nhập vào cảnh giới bình đẳng thượng diệu của Phật. Quả tịnh (Thanh tịnh do quả). Như Kinh: Theo sự ưa thích nơi tâm của các chúng sinh mà Như Lai thị hiện, làm sáng tỏ thần lực của trí. Kinh: “Lại phát đại nguyện, đó là tất cả Bồ-tát đồng tâm đồng hành cùng gom góp căn thiện, không đố kî. Hết thảy Bồ-tát đều bình đẳng xem cùng là một. Thường thân cận chư Phật, Bồ-tát, không lìa bỏ. Tùy theo ý có thể hóa hiện thân Phật. Từ trong tâm đều có thể hiểu biết thần lực, trí lực của Phật. Được pháp không thối chuyển, tùy ý hiện thần thông. Đều có khả năng du hành tới mọi thế giới. Hiện thân tướng khắp các pháp hội của chư Phật. Có khả năng hóa sinh vào bất cứ nơi chốn nào, thành tựu pháp Đại thừa không thể nghó bàn, hành trì hạnh Bồ-tát đầy đủ. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, hết thảy kiếp số, hết thảy số lượng hành hóa đều tiến vào pháp Đại thừa không ngừng nghỉ”. Luận: Đại nguyện thứ tám là không nghó tới Thừa khác. Như Kinh: Hết thảy Bồ-tát đồng tâm đồng hành. Hạnh Bồ-tát có mười loại: Cùng gom góp căn thiện, không ganh ghét nhau. Hết thảy Bồ-tát đều bình đẳng như một. Thường thân cận chư Phật, Bồ-tát, không rời bỏ. Tùy ý có thể hiện thân Phật. Tự trong tâm có thể hiểu biết hết thảy trí lực, thần lực của Phật. Được pháp bất thối chuyển, tùy ý hiện bày thần thông. Có khả năng du hành tới mọi thế giới. Có thể hiện thân tướng vào chúng hội của hết thảy Phật. Có thể sinh vào bất cứ nơi chốn nào. Lai. Thành tựu pháp Đại thừa không thể nghó bàn. Đó là hành trì đầy đủ các hạnh của Bồ-tát. Trong ấy, câu đầu là làm sáng tỏ về hạnh công đức. Câu hai là trú trong quán chiếu bình đẳng tịch tónh. Câu ba là tụ hội, giảng giải, luận bàn về pháp Phật. Câu bốn là tùy tâm thị hiện thành Phật. Câu năm là tự phát tâm thù thắng nhớ tới Pháp thân của Như Câu sáu là luôn được thần thông không thối chuyển. Bốn câu còn lại là do nghiệp chung mà được tên gọi. Đi tới các thế giới khác. Thị hiện từ nơi thân khác. Cùng sinh đến một nơi. Nhập vào pháp Đại thừa không thể nghó bàn. Kinh: “Lại phát đại nguyện đó là: Nương vào pháp luân không thối chuyển, hành trì hạnh Bồ-tát. Nghiệp do thân-miệng-ý tạo tác thì chẳng hư rỗng. Nếu chúng sinh trông thấy thì nhất định đạt được pháp Phật. Nghe tiếng mình giảng nói liền được trí tuệ chân thật. Tâm vui mừng cung kính liền đứt hết phiền não. Được thân như Dược thọ vương. Được thân như ngọc báu Như ý. Hành hóa hạnh của Đại Bồ-tát. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, hết thảy kiếp số, hết thảy số lượng việc làm đều tạo ích lợi chân thật không ngừng nghỉ”. Luận: Đại nguyện thứ chín là làm sáng tỏ việc hành trì chân thật nơi hạnh của Bồ-tát. Lại nữa, hành trì hạnh của Bồ-tát là làm sáng tỏ nương vào giáo pháp không thối chuyển để hành hạnh Bồ-tát. Hành trì hạnh Bồ-tát không hư giả có hai loại: Không hư giả do tác nghiệp nhất định: Là nghiệp thân-khẩu- ý làm ra không hư rỗng. Ba câu nêu ra theo trình tự như vậy, cho nên biết. Chúng sinh trông thấy thì nhất định đạt được pháp Phật là nêu rõ về thân nghiệp không hư giả. Nghe lời mình giảng nói liền được trí tuệ chân thật, là chứng tỏ khẩu nghiệp không hư giả. Tâm hoan hỷ cung kính thì phiền não được dứt hết, là chứng tỏ ý nghiệp không hư giả. Không hư giả do tạo lợi ích: Hết thảy chúng sinh có hai loại khổ: Vô số các thứ khổ Khổ vì bần cùng. Đối trị hai loại này, như Kinh: Như được thân Dược thọ vương, được thân như ngọc báu Như ý. Kinh: “Lại phát đại nguyện đó là ở trong hết thảy mọi thế giới, đều thành tựu đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Ở trong một cõi phàm phu, vẫn không lìa tất cả các cõi phàm phu. Đức Như Lai đã thị hiện thân sơ sinh, tọa đạo tràng, thành Phật đạo, chuyển pháp luân hóa độ chúng sinh, nhập Niết-bàn. Hiện bày trí lực đại thần thông nơi cảnh giới của chư Phật. Theo cảnh giới của tất cả chúng sinh cần được hóa độ, thì ở trong niệm niệm thị hiện đạt được Phật đạo, hóa độ các chúng sinh, diệt trừ khổ não. Dùng một trong ba Bồ-đề nhận biết khắp cả mọi pháp, như tính của Niết-bàn. Dùng một âm thanh nêu giảng khiến hết thảy chúng sinh đều vui mừng. Thị hiện đại Niết-bàn nhưng không làm dứt mất con đường hành hóa của Bồ-tát. Thị hiện cảnh giới đại trí tuệ, phát khởi mọi pháp, thần thông pháp trí, thần thông như ý, thần thông như huyễn trùm khắp tất cả thế giới. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, tận cùng mọi kiếp số, số lượng thành tựu ba pháp Bồ-đề, cầu được đại trí tuệ, đại thần thông… không ngừng nghỉ. Chư Phật tử! Bồ-tát an trú nơi địa Hoan hỷ của Bồ-tát như vậy, phát khởi các đại nguyện, phát khởi phương tiện lớn như vậy, đại hạnh như vậy, lấy mười môn nguyện làm đầu … đầy đủ từ mười-trăm-ngàn- vạn A-tăng-kỳ đại nguyện. Bồ-tát an trú nơi địa Hoan hỷ của Bồ-tát phát khởi các nguyện như vậy”. Luận: Đại nguyện thứ mười là phát khởi hạnh Đại thừa. Thế nào là đại Bồ-đề? Thế nào là tác nghiệp? Đại Bồ-đề là như Kinh: Thành tựu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Tác nghiệp có bảy loại: Nghiệp chỉ rõ về chính giác. Nghiệp nêu bày thật đế. Nghiệp làm rõ sự giáo hóa. Nghiệp giảng nói nhiều loại pháp. Nghiệp không làm đứt mất chủng tính Phật. Nghiệp khiến pháp luân còn tồn tại. Nghiệp tự tại. Nghiệp đầu là sống trong một cõi phàm phu vẫn không lìa bỏ tất cả các cõi phàm phu khác… cho đến… thị hiện đại Niết-bàn. Một cõi phàm phu là như cõi Diêm-phù-đề. Cõi phàm phu Diêm- phù-đề là chúng sinh nơi đây có thể hóa độ được, gọi là cõi phàm phu. Nghiệp thứ hai là hiện bày trí lực đại thần thông nơi cảnh giới của chư Phật. Tùy theo hết thảy chúng sinh trong các cõi, đáng hóa độ thì trong từng niệm thị hiện cảnh Phật thành đạo hóa độ tất cả chúng sinh, dập tắt mọi khổ não. Tùy theo các thế giới, thì tất cả có thể giáo hóa theo tâm thị hiện thân Phật. Thị hiện thân Phật nghĩa là ngoại trừ các xứ nạn, thân Phật kia sẽ sinh vào các xứ sở thù thắng, để thị hiện quá trình trừ khổ-đoạn tập-chứng diệt-tu đạo. Nghiệp thứ ba là dùng một trong ba Bồ-đề quán pháp vô ngã, vì mọi pháp tính đều là Niết-bàn thanh tịnh, khiến chúng sinh tin, hiểu. Nghiệp thứ tư là dùng một âm thanh tùy theo vô số chúng sinh tin hiểu có thể giáo hóa, cùng lúc đều khiến cho tâm hoan hỷ. Nghiệp thứ năm là thị hiện đại Niết-bàn, nhưng vẫn không làm dứt mất diệu lực nơi nẻo hành hóa của các Bồ-tát. Nghiệp thứ sáu là tiếp tục dùng trí địa của Phật với các pháp được nêu giảng nơi hết thảy Tu-đa-la đều khiến không bị mất. Nghiệp thứ bảy là Pháp trí thông quán hết thảy các pháp không có tính-tướng. Như ý thần thông là tự thân thị hiện sinh-trú diệt, dài ngắn tùy tâm tự tại. Huyễn thần thông là làm mọi việc bên ngoài khiến nó chuyển đổi tùy ý. Thần thông pháp trí thứ nhất không trú ở thế gian. Còn Thần thông như ý, Thần thông huyễn thì không trú ở Niết-bàn. Tại sao chỉ nói mười đại nguyện này? Nguyện đầu là hạnh công đức đầy đủ. Nguyện thứ hai là hạnh trí tuệ đầy đủ. Năm nguyện tiếp theo là giáo hóa chúng sinh. Dùng thân nào? Dùng tâm nào? Chúng sinh nào? Chúng sinh ở nơi nào? Tự thân sống nơi đâu để có thể giáo hóa chúng sinh? Ba nguyện sau là làm sáng tỏ tự thân: Được trú địa rồi còn đối chiếu chỗ thù thắng. Được địa Bồ-tát rồi, đối chiếu tận cùng chỗ thù thắng. Đạt được tất cả các địa trọn vẹn, rốt ráo. Ba điều này chỉ rõ việc giáo hóa chúng sinh đúng như thật. Phát các đại nguyện là tùy theo tâm cầu đạt nghĩa. Khởi đại phương tiện như vậy là thành tựu chỗ tạo tác phương tiện dũng mãnh kia. Đại hạnh như vậy là thành tựu chỗ tạo tác các hành. Bồ-tát an trú ở địa này, cần phải lần lượt tu tập lâu dài mới mong phát khởi ba công hạnh ấy, chứ không phải một lúc mà có được. Tại sao? Vì mười đại nguyện này, trong mỗi mỗi nguyện đều có trăm ngàn vạn A-tăng-kỳ đại nguyện làm quyến thuộc. Như Kinh: Chư Phật tử! Bồ-tát an trú nơi địa Hoan hỷ của Bồ-tát như vậy, phát các đại nguyện, khởi đại phương tiện như vậy, khởi đại hạnh như vậy, dùng mười môn nguyện làm đầu, sinh đầy đủ mười, trăm, ngàn, vạn, A-tăng-kỳ đại nguyện như vậy. Bồ- tát này trú ở địa Hoan hỷ của Bồ-tát, phát khởi nguyện như thế… Thế nào gọi là đại nguyện? Do căn thiện sáng tỏ chuyển biến vượt hơn, tăng trưởng rộng lớn. Sự đối chiếu về nguyện thù thắng của Bồ-tát ấy có hai loại vượt hơn hàng Thanh văn, Bích-chi-Phật: Thường siêng năng tu tập vô lượng hạnh. Đồng hành cùng với tất cả chúng sinh. Đồng hành này nơi mười câu nói về tận cùng đã chỉ rõ. Kinh: “Dùng mười câu nói về tận cùng để tạo thành các đại nguyện. Những gì là mười? Đó là: Tận cùng cảnh giới của chúng sinh. Tận cùng thế giới. Tận cùng cõi hư không. Tận cùng pháp giới. Tận cùng cảnh giới Niết-bàn. Tận cùng thế giới Phật xuất hiện. Tận cùng cảnh giới trí tuệ của Như Lai. Tận cùng cảnh giới mà tâm duyên vào. Tận cùng cõi hội nhập của trí nơi cảnh giới của Phật. Tận cùng cõi trí chuyển nơi chuyển pháp luân của thế gian. Nếu cảnh giới của chúng sinh hết thì nguyện của mình mới hết. Nếu thế giới hết, nếu cảnh giới hư không hết, như pháp giới hết, nếu cảnh giới Niết-bàn hết, nếu thế giới của Phật ra đời hết, nếu cảnh giới của trí Phật hết, nếu cảnh giới duyên của tâm hết, nếu cõi trí hội nhập nơi cảnh giới của Phật hết, như cõi trí chuyển nơi chuyển pháp luân của thế gian hết, nếu các cảnh giới kia hết thì nguyện của mình mới hết. Như vậy, cảnh giới của chúng sinh có hết hay không hết, căn thiện này của mình vẫn không thể hết. Thế giới hết hay không hết, cảnh giới hư không hết hay không hết, pháp giới hết hay không hết, cảnh giới Niết-bàn hết hay không hết, thế giới của Phật ra đời hết hay không hết, cõi trí hội nhập nơi cảnh giới của Phật hết hay không hết, cảnh giới duyên của tâm hết hay không hết, cảnh giới nơi trí của Như Lai hết hay không hết, cõi trí chuyển nơi chuyển pháp luân của thế gian hết hay không hết thì căn thiện nơi các nguyện này vẫn không thể hết”. Luận: Trong này, cảnh giới của chúng sinh tận cùng là Tổng, thế giới tận cùng… cho đến cõi trí chuyển tận cùng là Biệt. Những gì là cảnh giới của chúng sinh, cảnh giới của chúng sinh cùng tận? Thế giới tận cùng sẽ trú ở đâu? Cảnh giới hư không hiện có và cảnh giới hư không tận cùng. Giảng nói pháp gì để giáo hóa tận cùng pháp giới? Tùy thuận giáo hóa chúnh sinh đặt ở đâu? Đặt ở tận cùng cảnh giới Niết-bàn, Phật ra đời nơi thế giới tận cùng, dùng phương tiện thiện xảo gì? Đó là tận cùng cảnh giới trí tuệ của Như Lai, tùy theo chỗ tận cùng cảnh giới duyên của tâm. Lại tùy theo chỗ dùng cảnh giới nào? Đó là tận cùng cõi trí hội nhập nơi cảnh giới của Phật. Các sự việc ấy đã nêu ra. Tận cùng là chỉ rõ không dứt hết, không phải là niệm niệm dứt hết. Chín loại tận cùng này, nói gọn là có ba loại. Ba chuyển biến chỉ rõ diệu lực tăng thượng nơi mười câu nói về tận cùng ấy. Dùng diệu lực này, chư Phật thường tạo ích lợi cho chúng sinh. Như vậy là đã nói về phần so sánh để thấy nguyện thù thắng. Thế nào là so sánh để thấy hạnh thù thắng? Kinh: “Chư Phật tử! Sau khi quyết định phát khởi các đại nguyện như vậy rồi, Bồ-tát được tâm điều thuận, tâm hòa dịu. Như vậy là lòng tin đã thành tựu, tin các Đức Phật Như Lai vốn đã từng thực hành chứng nhập, tích tập các pháp Ba-la-mật luôn được tăng trưởng. Khéo thành tựu các địa, đầy đủ các pháp không sợ hãi, mười lực, các pháp bất cộng của Phật không hư hoại. Pháp Phật là không thể nghó bàn, không có chặng giữa, không biên vực. Cảnh giới của Như Lai khởi vô lượng hạnh môn là cảnh giới hội nhập của các Như Lai, là tin nơi quả thành tựu. Nói tóm lại, tin nơi hạnh của hết thảy Bồ-tát, cho đến khi được trí lực của Như Lai cũng nêu bày về chỗ hơn”. Luận: Phát các đại nguyện như vậy rồi thì được tâm điều thuận; tức là đạt được tự tại thù thắng trong mọi căn thiện kia. Tâm hòa dịu là đạt được hạnh an vui hơn hết. Như thế tức là lòng tin thành tựu: nghĩa là ở trong bản hạnh. Chứng nhập là từ chỗ hội nhập hạnh Bồ-tát, cho đến khi thành tựu đạo quả Bồ-đề, trong ấy tin vào chỗ thâu nhiếp của hạnh Bồ-tát. Hội nhập của bản hạnh có hai loại tướng: Thế nào là hạnh Bồ-tát? Thế nào là thứ tự thành tựu? Như Kinh: Tích tập các Ba-la-mật luôn được tăng trưởng. Khéo thành tựu các địa. Hội nhập của bản hạnh là chỗ thâu nhiếp của Bồ-đề ấy có sáu loại thù thắng. Do đó tin là hơn hết. Thù thắng do đối trị các thứ ma oán, ngoại đạo cùng hàng Nhị thừa. Như Kinh: Đầy đủ các pháp vô úy, mười lực, pháp bất cộng của Phật, không hư hoại. Thù thắng vì diệu lực thần thông là hơn hết, là không thể nghó bàn. Như Kinh: Pháp Phật là không thể nghó bàn. Thù thắng vì không tạp nhiễm. Như Kinh: Cảnh giới của Như Lai hiện khởi là không chặng giữa, không biên vực. Thù thắng do Nhất thiết chủng trí. Như Kinh: Vô lượng môn hành đều nhập vào cảnh giới của Như Lai. Thù thắng vì xa lìa, tức là luôn xa lìa tất cả phiền não tập khí. Như Kinh: Tin nơi quả thành tựu. Lại lược nói về chỗ thị hiện hội nhập nơi bản hạnh của Bồ-tát kia. Như Kinh: Tóm lại, tin nơi tất cả hạnh Bồ-tát, cho đến đạt được trí địa của Như Lai cũng nêu bày về chỗ hơn (thù thắng). Nêu bày là chỗ thuyết giảng. Hơn là chỗ chứng đắc. Bồ-tát này có ba loại quán cho nên đối với chúng sinh khởi tâm Đại Từ Bi: Xa lìa an lạc đệ nhất nghĩa tối thượng. Gồm đủ các khổ. Đối với hai loại điên đảo kia, thế nào là lìa bỏ sự an lạc đệ nhất nghĩa đối thượng? Kinh: “Chư Phật tử! Bồ-tát đó suy nghó như vậy: chính pháp của chư Phật hết mực thâm diệu như thế, tịch tónh như thế, vắng lặng như thế, Không như thế, Vô tướng như thế, Vô nguyện như thế, vô nhiễm như thế, vô lượng như thế, tối thượng như thế, pháp của chư Phật như thế thì rất khó đạt được”. Luận: chính pháp của chư Phật hết mực thâm diệu như thế, có chín loại: Hết mực thâm diệu do tónh lặng. Hết mực thâm diệu do tịch diệt. Hết mực thâm diệu do Không. Hết mực thâm diệu do Vô tướng. Hết mực thâm diệu do Vô nguyện. Hết mực thâm diệu do vô nhiễm. Hết mực thâm diệu do vô lượng. Hết mực thâm diệu do tối thượng. Hết mực thâm diệu do khó đạt được. Tịch tónh là lìa bỏ những vọng chấp về thật có. Vọng cho là có mà giữ lấy. Tịch diệt là định nơi nghĩa của pháp. Không, Vô tướng, Vô nguyện là quán về cửa giải thoát để đối trị ba chướng. Thế nào là ba chướng? Đó là phân biệt, tướng và chấp giữ. Ba chướng đó làm cho bỏ nguyện. Vô nhiễm là quán pháp, lìa bỏ tạp nhiễm. Vô lượng là không thể tính toán về số lượng, là quán căn thiện sinh khởi không thể suy lường. Tối thượng là trí quán nương vào tự lợi-lợi tha tăng thượng. Khó đạt được là quán về sự chứng trí trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp. Thế nào là gồm đủ các khổ? Kinh: “Nhưng tâm của các phàm phu rơi vào tà kiến, bị vô minh tối tăm che phủ ý thức họ, khiến luôn tạo lập trú kiêu mạn, rơi vào niệm ham muốn, rớt trong lưới khát ái, thuận theo rừng dua nịnh tà vạy, thường ôm lòng ganh ghét, tất cả nhân duyên của nơi chốn sinh ra thân sau. Tích tập nhiều tham dục, sân hận, ngu si, dấy khởi lên các hành nghiệp giận, ghét, như gió dữ thổi suốt, tâm tội như lửa khiến luôn bốc cháy hừng hực, mọi chỗ tạo nghiệp đều tương ưng với điên đảo, cuốn theo dục lậu-hữu lậu-vô minh lậu, nối tiếp để tạo cho nên chủng tử của tâm ý thức”. Luận: Nhưng tâm của các phàm phu rơi vào tà kiến. Tà kiến có chín loại: Tà kiến che lấy ý. Như Kinh: Bị vô minh tối tăm che lấp ý thức họ. Tà kiến do kiêu mạn. Như Kinh: Thường tạo lập trú kiêu mạn. Tà kiến do niệm ái. Như Kinh: Rơi vào niệm dục, rớt trong lưới khát ái. Tà kiến do tâm dua nịnh, quanh co. Như Kinh: Xuôi theo rừng dua nịnh tà vạy. Tà kiến do hành động đố kî. Như Kinh: Thường ôm lòng đố kî làm nhân duyên cho mọi chốn sinh ra thân sau. Tà kiến do tích tập các nghiệp. Như Kinh: Tích tập nhiều tham dục, sân hận, ngu si, dấy khởi các hành nghiệp. Tà kiến do tâm dục luôn cháy bùng. Như Kinh: Ghét-giận như gió dữ thổi suốt, tâm tội như lửa luôn khiến cháy bùng. Tà kiến do khởi lên các nghiệp. Như Kinh: Chỗ tạo nghiệp đều tương ưng với điên đảo. Tà kiến do chủng tử của tâm, ý thức. Như Kinh: Cuốn theo dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, nối tiếp để sinh chủng tử của tâm ý thức. Ba loại tà kiến: Tà kiến che lấp ý thức, tà kiến do kiêu mạn, tà kiến do niệm ái, đều dựa vào chỗ vọng chấp của nghĩa pháp theo thứ tự như vậy. Còn tà kiến do tâm dua nịnh, quanh co; tà kiến do hành động đố kî, hai loại này sinh khởi do lúc theo đuổi, tìm cầu, tâm tạo lỗi lầm. Tật (Ganh)-Đố (Ghét) là đối với tài sản của người khác. Do vậy, đời đời sinh vào nơi hèn kém, thân hình xấu xí, của cải ít ỏi. Tà kiến thứ sáu do tích tập các nghiệp: Tức là khi nhận lãnh các thọ thì yêu-ghét đối với hai cảnh giới điên đảo kia. Tà kiến thứ bảy: Tức là lúc oán hận cùng đuổi theo niệm dục mà dấy khởi quả báo của ác nghiệp. Tà kiến thứ tám là khi làm ác, cùng mưu hại lẫn nhau. Tà kiến thứ chín là khi tạo nghiệp thiện như bố thí, trì giới, tu hành các căn thiện thì đều là hữu lậu. Kinh: “Ở trong cảnh giới của ba cõi, lại có mầm phát sinh, đó là danh-sắc cùng sinh. Sự tăng trưởng không lìa khỏi danh-sắc này và trở thành nơi tụ hợp của sáu nhập. Sáu nhập đã thành rồi thì trong ngoài cùng đối nhau mà phát sinh xúc. Xúc làm nhân duyên cho nên sinh ra thọ. Thọ lạc sâu xa cho nên sinh ra khát ái. Khát ái tăng trưởng cho nên sinh ra thủ. Thủ tăng trưởng cho nên lại khởi hậu hữu (đời sau). Hữu làm nhân duyên cho nên có sinh lão tử ưu bi khổ não. Chúng sinh như vậy sinh trưởng trong đau khổ, trong đó đều là Không, rời xa ngã và ngã sở, chúng vô tri-vô giác như cây cỏ-đá gạch, lại cũng như tiếng vang. Nhưng các chúng sinh không hiểu, không biết mà nhận chịu khổ não”. Luận: Ở đây nhân duyên có ba loại: Theo tự tướng lại có mầm sinh… cho đến Hữu. Đồng tướng, tức là lỗi lầm của sinh lão bệnh tử. Điên đảo cùng tách rời ngã và ngã sở. Tự tướng có ba loại: Báo tướng là danh-sắc sinh cùng với thức A-lại-da. Như Kinh: Cảnh giới của ba cõi lại có mầm sinh. Đó là danh-sắc cùng sinh. Danh- sắc cùng sinh tức danh-sắc cùng sinh với thức A-lại-da. Nhân tướng kia là danh-sắc này không lìa thức kia, mà dựa vào đó để cùng sinh. Như Kinh: Không lìa nhau. Tướng thứ tự của quả kia: Sáu nhập cho đến Hữu. Như Kinh: Danh-sắc này tăng trưởng rồi, thành nơi tụ hợp của nhập. Sáu nhập đã thành rồi thì trong ngoài cùng đối nhau mà phát sinh Xúc. Xúc làm nhân duyên sinh ra Thọ. Thọ lạc sâu xa cho nên sinh ra Khát ái. Khát ái tăng trưởng cho nên sinh ra Thủ. Thủ tăng trưởng cho nên lại khởi hậu hữu (thân sau). Hữu làm nhân duyên cho nên có sinh lão tử-ưu bi-khổ não. Chúng sinh sinh trưởng trong đau khổ. Ở đây lìa ngã và ngã sở: Hai loại này chỉ rõ là Không. Vô tri vô giác: Tức là tự thể là vô ngã. Vô tri vô giác này chỉ rõ không phải là số lượng của chúng sinh động hay không động. Như Kinh: Như cây cỏ- vách đá, lại cũng như tiếng vang. Nhân duyên tương tợ là pháp cùng loại. Thế nào là đối với hai loại điên đảo kia? Như Kinh: Nhưng vì các chúng sinh không biết, không hiểu mà thọ nhận khổ đau. Kinh: “Thấy các chúng sinh không lìa khỏi khổ khổ như vậy, Bồ- tát liền sinh trí tuệ Đại Bi, nghó: Đây là các chúng sinh mình cần phải giáo hóa, khiến họ trú vào nguồn an vui rốt ráo của Niết-bàn. Vì thế, liền sinh khởi trí tuệ Đại Bi”. Luận: Thế nào là gồm đủ các thứ đau khổ? Thế nào là xa lìa sự an lạc đệ nhất nghĩa tối thượng? Các điều ấy ở trước đã nói nơi phần thị hiện Đại Từ Bi. Kinh: “Chư Phật tử! Bồ-tát Ma-ha-tát tùy thuận pháp Đại Từ Bi như vậy, an trú nơi địa thứ nhất. Do tâm thâm diệu, mà đối với tất cả vật không hề luyến tiếc, dùng pháp để cầu trí vi diệu lớn lao của Phật. Tu pháp Đại Xả, những gì có thể bố thí thảy đều đem cho cả. Nào là tiền của, xe cộ, kho tàng đều cho hết. Hoặc đem vàng bạc, ma ni, trân châu, xa cừ, mã não, kha bối, lưu ly, sinh kim … để bố thí. Hoặc đem những dụng cụ trang nghiêm bằng các vật báu như chuỗi anh lạc để bố thí. Hoặc đem voi, ngựa, xe tải, kiệu khiêng mà bố thí. Hoặc đem chùa, nhà, vườn, ruộng, rừng, lầu gác, suối nước, ao tắm để bố thí. Hoặc đem tôi tớ, gia nhân để bố thí. Hoặc đem đất nước, xóm làng, thành ấp, vương đô ban cho. Hoặc đem vợ con nam nữ thí cho. Hoặc đem hết thảy sự việc rất ưa thích đều có thể bố thí. Hoặc dùng hết thảy các chi phần nơi thân thể như đầu, mắt, tai, mũi, tay, chân để bố thí. Bồ-tát bố thí hết thảy mọi vật dụng như vậy không hề tham tiếc, chỉ mong cầu đạt được trí tuệ vô thượng của Phật mà hành trì bố thí. Bồ-tát Ma-ha-tát an trú nơi địa thứ nhất như thế, có thể thành tựu hạnh xả thí lớn lao”. Luận: Những gì hiện tại có thể bố thí đều đem thí ngay: Là bởi vì cầu trí vi diệu lớn lao vô thượng của Phật. Tất cả các vật, lược nêu có hai loại: Vật bên ngoài, vật bên trong. Vật bên ngoài lại có hai loại: Vật đang dùng, vật dự trữ. Như Kinh: Đó là tất cả của cải, lúa thóc kho tàng. Theo thứ tự như thế, trong ấy, nêu rộng có tám loại: Từ vàng bạc cho đến các vật dụng mình ưa thích. Vật bên trong là thuộc về thân mình, coi nó như vật dụng bên ngoài có thể xả thí. Bố thí thứ nhất là Tổng. Chín loại còn lại là Biệt. Nương vào hai loại vui mừng: Vui mừng do thâu nhiếp. Vui mừng do lợi ích. Vui mừng do thâu nhiếp: Như vàng bạc … Vui mừng vì lợi ích có tám loại: Vui mừng vì lợi ích do được trang sức, tức là dùng các thứ báu trang sức. Vui mừng vì lợi ích do thay cho đi bộ, tức là các loại voi- ngựa… Vui mừng vì lợi ích do được vui chơi, tức là như vườn rừng, lầu gác. Vui mừng vì lợi ích do thay cho sự khó nhọc, tức là có các tôi tớ, nô tỳ. Vui mừng vì lợi ích do được tự tại, tức là có đất nước. thôn xóm… Vui mừng vì lợi ích do có quyến thuộc, tức là như vợ con… Vui mừng vì lợi ích do chắc chắn, tức là như tất cả vật dụng được ưa thích. Vui mừng vì lợi ích do xứng hợp với ý. Tức như đầu-mắt-tai… Kinh: “Dùng tâm đại thí cứu giúp tất cả chúng sinh như vậy, Bồ- tát dần dần suy tìm các việc thù thắng tạo lợi ích thế gian và xuất thế gian. Khi làm công việc ấy thì tâm không mỏi mệt. Do đó, Bồ-tát thành tựu tâm không mệt mỏi. Tâm ấy được thành tựu rồi, đối với tất cả kinh luận, tâm không hề khiếp nhược. Đó gọi là thành tựu trí nhất thiết kinh luận. Trí đó đã được thành tựu, khéo có thể lường tính các việc nên làm hay không nên làm. Đối với các chúng sinh thượng-trung-hạ luôn tùy chỗ thích hợp mà hành hóa, tùy theo sức và tùy theo chỗ cảm nhận. Vì thế, Bồ-tát thành tựu trí thế gian. Đạt được trí ấy thì biết thời gian, số lượng, biết hổ thẹn để tự trang nghiêm, tu tập các đạo tự lợi lợi tha. Cho nên Bồ-tát tạo được sự trang nghiêm do hổ thẹn. Như thế, trong sự hành trì luôn siêng năng tinh tiến tu tập đạt được diệu lực không thối chuyển, vậy là Bồ-tát đã thành tựu diệu lực kiên cố, nhờ đó càng dốc lòng tu hành, cúng dường chư Phật, theo những pháp đã lãnh hội để tu hành. Chư Phật tử! Bồ-tát hiểu biết hết pháp thanh tịnh nơi các địa sinh khởi như vậy. Đó là những pháp tin tưởng, từ bi, xả thí không mệt mỏi, biết các kinh luận, khéo lý giải pháp thế gian, biết hổ thẹn, diệu lực kiên cố cúng dường chư Phật, như pháp tu hành”. Luận: Trong này, nương vào trí thế gian ấy để hành hóa thích hợp. Như trong luận nói là tùy theo sức mình, tùy khả năng thọ nhận của kẻ kia. Dựa vào sự hổ thẹn để biết số lượng, biết thời gian. Tức là chỉ rõ có ba loại thời: Thời gian của nhớ nghó. Thời gian của đêm-ngày. Thời gian của sự tạo tác, cần phải đạt được không gián đoạn. Dựa vào diệu lực kiên cố trong sự hành hóa như vậy của Bồ-tát, tức là như trên đã nói về tin tưởng … Siêng năng tu hành có hai loại: Tu hành không xả bỏ diệu lực bất thối chuyển. Tu hành với diệu lực không chuyển đổi, tinh tiến không dứt. Cúng dường chư Phật, như pháp tu hành: Có hai loại: Cúng dường lợi dưỡng. Cúng dường tu hành. Mười loại hạnh này chỉ rõ hai loại thành tựu thù thắng là: Thành tựu tâm sâu xa là tin tưởng-từ bi… Thành tựu sự tu hành là bố thí không mệt mỏi. Hiểu hết về các kinh luận, khéo lãnh hội pháp thế gian, biết hổ thẹn, có sức kiên cố, cúng dường chư Phật, như pháp tu hành… Trong đó, nương vào tự lợi để hành trì là lòng tin, có thể tin nơi hạnh Bồ-tát cùng pháp của chư Phật, cầu nhất định đạt kết quả mong muốn. Nương vào lợi tha để hành trì là tâm Từ Bi có năng lực làm cho nên yên ổn và mang lại niềm vui. Xả là đem tiền của nơi mình để trợ giúp việc làm cho kẻ khác, không mệt mỏi là tự thâu nhiếp các pháp để hành hóa. Hiểu kinh luận, khéo lãnh hội pháp thế gian là dùng pháp để hỗ trợ việc làm cho kẻ khác. Ngoài ra còn ba hành thâu nhiếp giúp cho lòng tin là: Hành không vướng mắc: Dùng hổ thẹn để đối trị chướng ngại, không vướng mắc vào việc làm tin tưởng … Hành bất động: Có diệu lực kiên cố để tin … không gì có thể làm lay động. Hành tu tập: Tức là mọi sự cấu uế kia đều trở cho nên thanh tịnh khi biết nương vào hành cúng dường chư Phật. Thâu nhiếp lòng tin nơi căn thiện… Ở đây nương vào hai loại cúng dường cho nên được hai loại thân: Thân vi diệu tối thượng: Là thân khiến người trông thấy đều sinh tâm cung kính, lợi ích không hư giả. Tâm thuận hợp: Là thành tựu căn thiện của tự tính cho nên ưa thích hành trì pháp. Trước nói ba mươi câu, từ lòng tin tăng thượng… cho đến thường cầu đạo thù thắng tối thượng, là pháp của địa thanh tịnh. Nay trong mười câu này từ Tin tưởng… cho đến cúng dường chư Phật đều là những pháp làm thanh tịnh các chướng ngại nơi địa. Đó gọi là tu hành, đối chiếu chỗ thù thắng. Thế nào là đối chiếu chỗ thù thắng nơi lợi ích của quả? Kinh: “Chư Phật tử! Sau khi an trú ở địa Hoan hỷ của Bồ-tát rồi, Bồ-tát này thường thấy chư Phật, nhờ vận dụng diệu lực của đại thần thông, diệu lực của đại nguyện, thấy nhiều Phật từ trăm, ngàn cho đến hàng trăm ngàn Phật, trăm ngàn na-do-tha Phật, nhiều ức Phật, trăm ức Phật, ngàn ức Phật, trăm ngàn ức Phật, trăm ngàn ức na-do-tha Phật, do vận dụng diệu lực của đại thần thông, của đại nguyện. Khi Bồ-tát này thấy chư Phật, thì đem tâm vô thượng, tâm sâu xa cung kính cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, phụng hiến y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc thang hết thảy đều đầy đủ. Rồi dùng các vật dụng tạo an lạc thượng diệu của các Bồ-tát cúng dường cho chúng Tăng, đem hết căn thiện này hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề tối thượng. Nhân việc cúng dường chư Phật này, Bồ-tát ấy đã thành tựu pháp giáo hóa tạo ích lợi cho chúng sinh. Bồ-tát ấy thường dùng hai nhiếp pháp để thâu nhiếp chúng sinh là bố thí và ái ngữ. Hai nhiếp pháp sau (trong bốn nhiếp) chỉ dùng sức tin hiểu để hành trì, do chưa khéo thông đạt. Bồ-tát này trong mười pháp Ba-la-mật coi trọng hơn hết về Đàn Ba-la-mật. Còn các Ba- la-mật khác, không phải là không tu tập. Tùy sức, tùy phần, Bồ-tát ấy theo chỗ cúng dường chư Phật, luôn giáo hóa chúng sinh, đều có thể nhận lãnh và hành trì pháp thanh tịnh của địa. Bao nhiêu căn thiện như vậy, đều nguyện hồi hướng về đạo quả Nhất thiết chủng trí. Dần dần trở cho nên sáng sạch mà thành tựu thuận hợp, tùy ý sử dụng. Này chư Phật tử! Ví như thợ kim hoàn khéo léo luyện vàng luôn tiếp cận với lửa, cứ như vậy mãi thì có được vàng sạch-sáng mà thành tựu thuận hợp, tùy ý sử dụng. Chư Phật tử! Bồ-tát cũng lại như vậy. Cứ như thế, như thế, cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sinh, đều có thể tu hành pháp thanh tịnh của địa. Tu hành chính đáng rồi, được tất cả các căn thiện ấy, đều đem hồi hướng đến quả vị Nhất thiết chủng trí. Dần dần tâm ý sáng-sạch mà thành tựu thuận hợp, tùy ý sử dụng”. Luận: Đối chiếu chỗ thù thắng nơi lợi ích của quả có bốn loại: Thù thắng do lợi ích của quả thuận hợp. Thù thắng do lợi ích của quả phát thú. Thù thắng do lợi ích của quả nhiếp báo. Thù thắng do lợi ích của quả nguyện trí. Thù thắng do lợi ích của quả thuận hợp: Giống như cách luyện vàng. Tín… cùng với các pháp thiện giống như vàng thật nhiều lần vào trong lửa. Có ba loại vào là: Vào nơi công đức, cúng dường Phật, Tăng. Vào tâm Bi để giáo hóa chúng sinh. Vào nơi quả vô thượng, nguyện hồi hướng tới đạo quả đại Bồ- đề. Dùng diệu lực của đại thần thông thấy chư Phật: Là dùng lực đại thần thông thù thắng thấy sắc thân Phật. Đại nguyện lực là dùng nguyện lực chân chính bên trong của mình để thấy Pháp thân Phật. Thấy nhiều trăm Phật, cho đến trăm ngàn ức na-do-tha Phật: Là dùng phương tiện thiện xảo thị hiện nhiều Phật, hiển bày số lượng nhiều. Cúng dường có ba loại là: Cúng dường cung kính: Là tán thán làm sáng tỏ công đức của Phật. Cúng dường tôn trọng: Là lễ bái… Cúng dường phụng thí: Là hiến cúng những hương hoa, hương xoa, hương bột, cờ phướn, lọng báu… Đem các vật dụng tạo an lạc thượng diệu của các Bồ-tát: Các Bồ-tát này hiện có các vật dụng mà thế gian không thể cung cấp, đều phụng thí cho hết thảy chúng Tăng. Thế nào là thù thắng do lợi ích của quả phát thú? Kinh: “Lại nữa, chư Phật tử! Bồ-tát Ma-ha-tát trú ở địa Hoan hỷ của Bồ-tát này, ở trong địa thứ nhất có những tướng đạt quả, thuận theo chư Phật, Bồ-tát, và thiện tri thức để suy tìm, thỉnh hỏi những pháp thành tựu các địa, không hề biết chán đủ. Bồ-tát an trú trong địa thứ nhất như vậy phải luôn tìm hiểu thỉnh hỏi từ chư Phật, Bồ-tát và thiện tri thức. Trong địa thứ hai đến địa thứ mười cũng hành trì như vậy, thành tựu pháp của mười địa không hề chán đủ. Bồ-tát ấy khéo nhận biết cách đối trị chướng ngại của các địa. Khéo nhận biết địa thành hoại. Khéo nhận biết tướng của địa. Khéo nhận biết quả tu chứng của địa. Khéo nhận biết phần thanh tịnh của địa. Khéo nhận biết việc chuyển từ địa này lên địa khác. Khéo nhận biết trú xứ của từng địa. Khéo nhận biết đối chiếu trí thù thắng của từng địa. Khéo nhận biết chỗ đạt được không thối chuyển của địa. Khéo nhận biết hết thảy Bồ-tát địa chuyển nhập thanh tịnh vào trí địa của Như Lai. Chư Phật tử! Bồ-tát khéo dấy khởi tướng địa như vậy, phát ý không trú vào địa thứ nhất, mà chuyển lên địa thứ mười không bị chướng ngại. Do được mười địa cho nên trí tuệ càng sáng tỏ, có thể đạt được ánh sáng nơi trí tuệ của chư Phật. Chư Phật tử! Ví như mười dẫn đường giỏi, dẫn đám đông đi vào kinh thành lớn kia, khi chưa lên đường, trước tiên cần phải hỏi những lợi ích tốt đẹp … trên đường sẽ đi, hỏi trên đường đó có những trở ngại hiểm nạn nào. Ông lo liệu về lương thực đầy đủ, thưa hỏi cái gì cần làm, suy tính hết từ đầu đến cuối mọi điều, rồi mới phát khởi lên đường, cuối cùng tới thành phố lớn kia sau khi trải qua nhiều đoạn đường nguy hiểm, nhưng mọi người đều an toàn. Này các Phật tử! Đại Bồ-tát là bậc Đạo sư thiện xảo cũng lại như vậy. Trú nơi địa thứ nhất, khéo nhận biết cách đối trị các chướng ngại của địa, cho đến khéo nhận biết hết thảy Bồ-tát ở địa thanh tịnh, chuyển vào trí địa của Như Lai. Bấy giờ, Bồ-tát có đủ phước đức lớn làm hành trang trợ đạo, khéo lựa chọn trợ đạo trí tuệ, mong dẫn dắt chúng sinh đến đại thành Nhất thiết chủng trí. Lúc chưa lên đường, trước tiên phải hỏi về nẻo công đức của địa, biết đâu là chỗ lùi bước của các địa. Lại hỏi chuyện tốt đẹp nơi đường đi của địa. Hỏi về nỗi lo thối chuyển ở giữa đường của địa. Phải có đủ đại công đức, hành trang của trí tuệ, những gì cần làm, đều phải thỉnh hỏi từ Phật, Bồ-tát và thiện tri thức. Biết cách đối trị mọi chướng ngại. Bồ-tát biết rõ đường tới đại thành Nhất thiết trí, ngay từ điểm chưa xuất phát, đến đó bằng cách hành trì đầy đủ đại công đức, hành trang của trí tuệ, giáo hóa tất cả chúng sinh vượt qua mọi chặng đường hiểm nạn của thế gian, khiến họ an trú trong đại thành Nhất thiết trí, không còn bị nhiễm trong hiểm họa sinh tử ở đời, thân mình và chúng sinh không còn các suy tổn khổ não. Chư Phật tử! Do đó, Bồ-tát Ma-ha-tát này thường hiện bày tâm không mỏi mệt, luôn siêng tu tập nghiệp của các địa với trí thù thắng nơi bản hạnh. Chư Phật tử! Đó gọi là lược nói về Bồ-tát Ma-ha-tát hội nhập nơi cửa địa Hoan hỷ của Bồ-tát. Nói rộng thì có trăm ngàn vạn ức A-tăng- kỳ sự việc”. Luận: Các tướng là những chướng ngại và tướng đối trị hiện có trong các địa, đạt được là chứng đắc trí xuất thế gian. Quả là nhờ chứng trí lực mà đạt được trí thế gian và xuất thế gian. Các pháp thành tựu của địa là sự tin tưởng… nơi các địa đều có đủ. Có năm loại phương tiện: Phương tiện về quán chiếu. Phương tiện để chứng đắc. Phương tiện về tăng thượng. Phương tiện không thối chuyển. Phương tiện để đạt tới tận cùng. Phương tiện về quán chiếu: Là khéo léo đối trị chướng ngại và biết rõ sự thành hoại. Như Kinh: Bồ-tát này khéo nhận biết đối trị chướng ngại của các địa. Khéo nhận biết sự thành hoại của địa. Đối trị chướng ngại của mười địa có mười loại, gọi là mười địa như đã nói trong phần Căn bản ở trước. Thứ tự như vậy tích tập cho nên thành, tan lìa cho nên hoại. Được phương tiện là nhằm tiến vào phương tiện, đã hội nhập phương tiện rồi thì theo đó mà tăng tiến, thành tựu. Như Kinh: Khéo nhận biết tướng của địa. Khéo nhận biết quả tu của địa. Khéo nhận phần thanh tịnh của địa. Phương tiện tăng thượng: Là địa này chuyển lên địa khác, trú xứ của mỗi địa, sự tăng trưởng của mỗi địa, hết thảy đều nhận biết một cách khéo léo. Như Kinh: Khéo nhận biết sự chuyển địa này lên địa khác. Khéo nhận biết chỗ ở của các địa. Khéo nhận biết trí thù thắng của các địa qua đối chiếu. Phương tiện không thối chuyển. Như Kinh: Khéo nhận biết địa đạt được pháp không thối chuyển. Phương tiện đạt tới tận cùng: Là Bồ-tát hành trì xong địa Bồ-tát thì khéo léo hội nhập nơi địa của Như Lai. Như Kinh: Khéo nhận biết tất cả địa Bồ-tát thanh tịnh, chuyển nhập trong trí địa của Như Lai. Chư Phật tử! Ví như người dẫn đường khéo léo, đưa đám đông đến thành phố lớn kia, muốn đi tới một cách chắc chắn thì người dẫn đường phải có hai loại phương tiện: Một là phương tiện không lầm đường. Ông ta đều khéo nhận biết về đường sá nơi nào là lợi, nơi nào là bất trắc, mọi nơi chốn trên đường đi, chốn nào là thuận hợp, nơi nào là là xấu- hiểm. Như Kinh: Trước phải hỏi chuyện ích lợi trong đường ấy như thế nào. Hỏi có những hiểm nạn gì khiến lùi bước, có gì hay, giữa đường có những trở ngại gì khiến phải rút lui… Hai là phương tiện của lợi ích nơi vật cần dùng. Như Kinh: Gồm đủ hành trang cái gì cho nên làm … Thế nào là thù thắng do lợi ích của quả nhiếp báo ? Kinh: “Bồ-tát Ma-ha-tát trú ở địa thứ nhất này, phần nhiều làm vua nơi cõi Diêm-phù-đề, giàu sang tự tại, thường hộ trì chính pháp, thâu nhiếp các chúng sinh bằng những pháp đại bố thí, khéo dứt trừ mọi cấu uế của chúng sinh là tính tham lam-keo kiệt-đố kî. Luôn hành hóa đại xả không bao giờ cạn. Các việc làm đều là thiện như bố thí-ái ngữ-lợi hành-đồng sự. Những phước đức ấy đều nhờ không lìa niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, không lìa niệm các Bồ-tát, cùng những việc làm của Bồ-tát, không lìa niệm về các Ba-la-mật, không lìa niệm về mười địa, không lìa niệm về diệu lực bất hoại, không lìa niệm về pháp vô úy, không lìa niệm về các pháp bất cộng, cho đến không lìa niệm về trí Nhất thiết trí, nhận biết đầy đủ về mọi chủng loại. Thường sinh tâm như vầy: Đối với tất cả chúng sinh, mình sẽ là thượng thủ, là thù thắng, là lớn lao, vi diệu, tối thượng, vô thượng, tôn quý, là bậc Đạo sư, là vị tướng soái, cho đến là bậc Nhất thiết trí, là nơi nương dựa của mọi chúng sinh. Chư Phật tử! Đại Bồ-tát này nếu muốn lìa bỏ nhà cửa siêng năng hành trì tinh tiến đối với pháp Phật, liền có thể xả bỏ năm dục lạc đối với gia đình, vợ con. Được xuất gia rồi, thì càng tinh tiến, trong khoảnh khắc đạt được trăm Tam-muội, thấy trăm Phật, nhận biết thần lực của trăm Phật, có thể làm chuyển động thế giới của trăm Phật, có khả năng hội nhập thế giới của trăm Phật, có thể chiếu sáng hàng trăm thế giới Phật, giáo hóa chúng sinh nơi thế giới của hàng trăm Phật, trú thọ trong trăm kiếp, nhận biết sự việc của các đời quá khứ, vị lai hàng trăm kiếp, có thể khéo đi vào hàng trăm pháp môn, biến hóa hàng trăm thân, từ mỗi mỗi thân đó, thị hiện ra hàng trăm Bồ-tát làm quyến thuộc”. Luận: Thù thắng do lợi ích của quả nhiếp báo có hai loại: Quả báo tại gia và quả báo xuất gia. Quả báo tại gia lại có hai loại: Một là thân thượng thắng như làm vua cõi Diêm-phù-đề. Như Kinh: Bồ-tát Ma-ha- tát trú nơi địa thứ nhất này, phần nhiều làm vua cõi Diêm-phù-đề, giàu sang tự tại, thường hộ trì chính pháp. Hai là quả thượng thắng: Tức là khéo léo chế ngự mọi thứ tham lam-keo kiệt-ganh ghét. Như Kinh: Có thể dùng pháp bố thí lớn để thâu nhiếp chúng sinh, khéo diệt trừ tính tham lam-keo kiệt-ganh ghét của chúng sinh. Có thể thâu nhiếp chúng sinh bằng đại thí là chính mình làm việc bố thí, rồi khéo khuyên kẻ khác bố thí. Thâu nhiếp chúng sinh, khéo chuyển hóa mọi cấu uế của keo kiệt- ganh ghét nơi họ, dùng phương tiện thiện xảo với bốn Nhiếp pháp để thâu nhiếp chúng sinh. Không lìa niệm Phật… là chỉ rõ không lìa các sự việc tự lợi. Các niệm như thế, hành trì đầy đủ là thành tựu đại cung kính, xua tan mọi vọng tưởng. Niệm ấy, nói tóm lược có bốn loại: Niệm tối thượng: Là nhớ nghó về Tam bảo. Niệm đồng pháp: Là nhớ nghó về các Bồ-tát. Niệm công đức: Là nhớ nghó về thân mình, thân người, việc làm của Bồ-tát, tự thể chuyển biến thù thắng. Niệm cầu nghĩa: Là nhớ nghó về các lực, vì đó là cứu cánh chân thật. Niệm tối thượng là gì? Là nhớ nghó về Phật, nhớ nghó về pháp của Phật… Đối với người cho, kẻ nhận, vật cho và Bồ-đề, không sinh tâm phân biệt, không chấp giữ. Như vậy trong tất cả chỗ tạo tác, người làm không chấp trước, cảnh giới không chấp trước, việc làm không chấp trước, quả báo không chấp trước. Đem hết thảy sự hành trì này nguyện hồi hướng về đạo quả đại Bồ-đề. Bậc thượng thủ có hai loại: Thượng thủ thù thắng, là bậc có công đức chói sáng. Thượng thủ lớn lao, Là không còn ai hơn. Thù thắng có hai loại: Thù thắng tự tại do trí tuệ vi diệu. Thù thắng tự tại do lìa bỏ tất cả phiền não. Lớn lao có hai loại: Ở trên là không ai sánh bằng. Vô thượng là không ai có thể vượt hơn. Như vậy là làm sáng tỏ công đức của tự thể. Dẫn đường là ở trong A-hàm (kinh điển) phân biệt nghĩa pháp thuyết giảng đúng đắn. Bậc tướng nghĩa là giúp kẻ khác chứng đắc diệu nghĩa, diệt trừ các thứ phiền não. Bậc thầy là dạy bảo truyền trao, khiến hội nhập chính đạo. Cho đến làm chỗ nương dựa hết thảy trí Nhất thiết trí, là dùng đạo đại Bồ-đề để giáo hóa. Đó gọi là sự thù thắng do lợi ích của quả nhiếp báo nơi Bồ-tát tại gia. Lại nữa, Bồ-tát xuất gia với nghiệp thù thắng do thiền định. Nghiệp thù thắng có hai loại: Thù thắng do Tam-muội, là trong một niệm đạt được hàng trăm Tam-muội, đạt được diệu lực tự tại của Tam-muội. Thù thắng do sự tạo tác của Tam-muội, tức là thấy được hàng trăm Phật. Do đạt được diệu lực của Tam-muội ấy, cho nên đối với chư Phật trong mười phương đều được gia hộ. Nơi trú xứ của các Bồ-tát, tu tập trí tuệ. Có khả năng làm chuyển động thế giới của hàng trăm Phật, tức là khiến chúng sinh có thể giáo hóa để phát sinh chính tín. Có khả năng tiến vào thế giới của hàng trăm Phật, chiếu sáng hàng trăm thế giới Phật, có thể giáo hóa chúng sinh nơi hàng trăm thế giới Phật; là đi tới các nơi chốn đó cùng thấy và chính thức giáo hóa chúng sinh. Có thể sống lâu hàng trăm kiếp; là thâu nhiếp sự sống thù thắng. Có khả năng nhận biết sự việc về quá khứ, vị lai trong trăm kiếp; là hóa độ các chúng sinh hành trì việc đứng đầu là lìa ác, thuyết giảng về con đường tạo nghiệp thiện-ác. Có thể tiến vào trăm pháp môn; là tăng trưởng trí tuệ của mình, suy tư về diệu nghĩa của vô số pháp môn. Có năng lực biến một thân ra trăm thân, rồi nơi mỗi mỗi thân biến ra trăm Bồ-tát làm quyến thuộc; là hành trì mau chóng để tạo nhiều lợi ích. Thế nào là sự thù thắng do lợi ích của quả nguyện trí? Kinh: “Nếu so với nguyện lực tự tại thắng thượng, thì nguyện lực của Bồ-tát thị hiện sẽ vượt hơn số lượng ấy. Thị hiện nhiều loại thần thông, hoặc về thân, hoặc ánh sáng, hoặc thần thông, hoặc về mắt, về cảnh giới, về âm thanh, về hành, về trang nghiêm, về gia hộ, về tin tưởng, về nghiệp, những thần thông như vậy, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, không thể tính biết được”. Luận: Ở đây thân là nơi nương tựa căn bản cho mọi hành hóa của Bồ-tát. Nương vào thân ấy cho nên có ánh sáng, thần thông. Dựa vào ánh sáng này cho nên có thiên nhãn. Do có thiên nhãn cho nên mới trông thấy cảnh giới trước mắt. Tất cả mắt (nhãn) có năm loại cho nên biết. Dựa vào các thần thông cho nên có âm thanh cùng sự hành trì trang nghiêm, gia hộ. Âm thanh là sự ứng hợp với lời nói. Hành trì là đi đến khắp mười phương. Trang nghiêm là thực hiện vô số sự ứng hiện. Gia hộ là dùng thần lực gia hộ cho Bồ-tát. Tin là nương tựa vào môn Tam-muội, hiện thần thông lực, tùy theo chỗ tin của các chúng sinh mà lợi ích được thành tựu. Nghiệp là nương vào mắt tuệ để thâu nhiếp môn Đà-la-ni, thị hiện giảng nói pháp. Lược nêu về hết thảy các địa, mỗi địa đều có Thể của nhân và tướng của quả, nên biết.  <卷>QUYỂN 4 Địa 2: ĐỊA LY CẤU Luận: Như thế là Bồ-tát đã chứng đắc chính vị, nương nơi đạo xuất thế gian, nhờ vào giới thanh tịnh để nói về địa Ly cấu, là Địa thứ hai của bậc Bồ-tát. Giới thanh tịnh này có hai loại thanh tịnh: Thanh tịnh phát khởi. Thanh tịnh tự thể. Thanh tịnh phát khởi là nói về mưới thứ tâm chính trực. Kinh: “Bấy giờ, đại Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Các Phật tử! Nếu Bồ-tát đã thành tựu đầy đủ Địa thứ nhất, muốn đạt được Địa thứ hai thì cho nên phát khởi mười loại tâm chính trực. Những gì là mười? Đó là: Tâm chính trực. Tâm mềm dịu. Tâm thuận hợp. Tâm thiện. Tâm vắng lặng. Tâm chân thật. Tâm không xen tạp. Tâm không mong cầu. Tâm thù thắng. Tâm lớn lao. Bồ-tát sinh khởi mười tâm ấy thì hội nhập nơi địa Ly cấu, là Địa thứ hai của bậc Bồ-tát”. Luận: Mười loại tâm chính trực là dựa vào giới thanh tịnh để thành tựu giới tính của tâm chính trực, tùy chỗ cho nên tạo tác mà hành hóa tự nhiên. Tâm chính trực lại có chín loại: Tâm chính trực mềm dịu; tức là cùng với ý vui mừng thực hành trì giới. Tâm chính trực thuận hợp; là diệu lực tự tại, cho nên tính khéo trì giới không xen lẫn phiền não. Tâm chính trực thiện; tức là giữ gìn các căn, không để lầm lạc phạm giới, cũng như ngựa hay, tính đã được điều phục. Tâm chính trực vắng lặng; là tâm đã được chế ngự, trở cho nên hòa dịu, không cao ngạo. Tâm chính trực chân thật; tức là có thể nhẫn chịu mọi thứ não hại, như vàng ròng. Tâm chính trực không xen tạp; tức là đối với mọi công đức đã đạt được không sinh chán đủ, dựa vào giới thanh tịnh để cầu đạt giới thù thắng, ưa thích tịch tónh. Tâm chính trực không mong cầu; là tâm không mong đạt những thế lực tự tại nơi các cõi. Tâm chính trực thù thắng; là vì tạo lợi ích cho chúng sinh cho nên không dứt bỏ các nguyện hữu lậu. Tâm chính trực lớn lao; tức là tâm tuỳ thuận nơi quả của các cõi mà không đắm nhiễm. “Thanh tịnh tự thể” có ba loại giới: Giới thanh tịnh do xa lìa. Giới thanh tịnh do thâu nhiếp pháp thiện. Giới thanh tịnh do đem lại lợi ích cho chúng sinh. Giới thanh tịnh do xa lìa; tức là mười thiện đạo nghiệp. Từ lìa bỏ sát sinh cho đến chính kiến, cũng gọi là thọ trì giới thanh tịnh. Giới thanh tịnh do thâu nhiếp pháp thiện; tức là đối với giới thanh tịnh do xa lìa làm đầu. Từ câu: “Bồ-tát tư duy: Chúng sinh bị đọa nơi các cõi ác đều do nhân duyên tập khởi là mười bất thiện nghiệp đạo” đến câu: “Vì vậy mình nên hành trì mười bất thiện đạo nghiệp với tất cả các loại thanh tịnh”. Giới thanh tịnh do đem lại lợi ích cho chúng sinh; tức là đối với giới thâu nhiếp pháp thiện làm đầu, từ câu: “Bồ-tát lại suy nghó: Mình xa lìa mười bất thiện nghiệp đạo, ưa thích pháp hành” cho đến: “Sinh tâm tôn kính …”. Kinh: “Này các Phật tử! Bồ-tát trú nơi địa Ly cấu của Bồ-tát tự tính thành tựu mười thiện nghiệp đạo, xa lìa hết thảy việc sát sinh, dứt bỏ đao gậy, không có tâm sân hận, có hổ có thẹn, đầy đủ tâm thương xót đối với tất cả chúng sinh, sinh khởi tâm an ổn, tâm Từ. Bồ-tát ấy hãy còn không có tâm xấu ác, gây não hại các chúng sinh, huống là đối với các chúng sinh kia mà khởi tưởng về chúng sinh, khởi tâm thô nặng, thân gây thêm não hại”. Luận: Nói “Mười thiện nghiệp đạo, xa lìa hết thảy việc sát sinh”, là thị hiện chỗ hơn hết nơi lợi ích thù thắng của sự xa lìa. Dựa vào việc xa lìa sát sinh có ba loại lìa: Lìa nhân. Như Kinh nói: “Dứt bỏ đao gậy, không có tâm sân hận, có hổ có thẹn, đầy đủ sự thương xót…”. Lìa bằng cách đối trị. Như Kinh nói: “Đối với tất cả chúng sinh sinh khởi tâm an ổn, tâm Từ”. Lìa do hành quả. Như Kinh nói: “Hãy còn không có tâm xấu ác, não hại chúng sinh, huống chi là đối với các chúng sinh khác…”. Ở đây, sát sinh có hai loại nhân: Nhân chứa nhóm. Nhân phát khởi. Nhân chứa nhóm có hai loại là đao-gậy. Đao là tạo việc chém, chặt. Gậy là tạo việc đánh, đập. Như Kinh nói: “Dứt bỏ đao, gậy, cho đến chú thuật, các thứ thuốc, những vật dụng có thể giết hại, thảy đều xa lìa”. Nhân phát khởi có hai loại là tham, sân, vì tài sản-lợi dưỡng mà tạo các nghiệp ác, cho đến mất mạng, tâm không xấu hổ, hối hận. Đối trị chúng, như Kinh: “Có hổ có thẹn”. Vì tham mà chúng sinh bắt bớ, nuôi dưỡng, cột nhốt nơi lồng, khiến sinh khổ não. Đối trị những điều ấy, như Kinh: “Đầy đủ sự thương xót”. Lìa hai loại đó cho nên gọi là lìa nhân. Lìa bằng cách đối trị có hai loại: Tâm an ổn; đối với hết thảy chúng sinh luôn tạo lợi ích, dùng pháp thiện giáo hóa khiến họ trú nơi nẻo thiện, là nhân của Niết-bàn. Tâm Từ, khiến cho các chúng sinh kia đạt được phước báo của hàng trời, người, dẫn đến quả an lạc của Niết-bàn. Như Kinh nói: “Đối với tất cả chúng sinh, sinh khởi tâm an ổn, tâm Từ”. Như vậy, ở trong nhân quả không cầu tìm điên đảo. Lìa tâm ngu si sát sinh để cúng tế… Đối trị các điều ấy thì gọi là lìa, cho nên gọi là lìa bằng cách đối trị. Bồ-tát là chủ thể lìa. Nói chúng sinh; là chỉ rõ các chúng sinh, không phải thường, không phải đoạn, tùy theo nhân duyên của mạng căn, cho đến có được thọ mạng, trú ở đời. Chết thì dựa vào lực của nghiệp-phiền não, sinh trở lại vào đời vị lai. Lìa do hành quả có hai loại: Vi tế: Như tâm niệm làm não hại. Thô trọng: Như thân hành làm não hại. Như Kinh nói: “Bồ-tát ấy hãy còn không có tâm xấu ác não hại các chúng sinh, huống là đối với các chúng sinh khác…”. Ở đây, hành thô trọng có năm loại: Thân: Như Kinh nói: “Khác”. Sự: Như Kinh nói: “Chúng sinh”. Tưởng: Như Kinh nói: “Tưởng về chúng sinh”. Hành: Như Kinh nói: “Nên khởi tâm thô trọng”. Thể: Như Kinh nói: “Thân gây thêm não hại”. Kinh: “Lìa bỏ đối với việc trộm cướp vật dụng cần cho đời sống, thường tự cho là đầy đủ. Không huỷ hoại tài sản của kẻ khác. Nếu vật thuộc về người khác mà họ được sử dụng và có ý tưởng giữ gìn thì mình không sinh tâm trộm cắp. Bồ-tát ấy cho đến cọng cỏ-chiếc lá, không cho thì không lấy, huống chi là đối với các vật dụng, của cải khác”. Luận: Dựa vào việc lìa trộm cướp, có ba loại lìa: Lìa nhân. Lìa bằng cách đối trị. Lìa do hành quả. Lìa nhân: Của cải mà chính mình không đủ. Đối trị điều ấy, như Kinh: “Các vật dụng-của cải thường tự cho là đầy đủ”. Lìa bằng cách đối trị: Đó là bố thí. Đối với của cải mà chính mình có, xả bỏ không vướng mắc, do không tham. Không huỷ hoại của cải thuộc vị lai, như Kinh: “Không huỷ hoại tài sản của kẻ khác”. Lìa do hành quả, có hai loại: Vật vi tế không cho, không lấy. Vật thô trọng không cho, không lấy. Ở đây, chỉ rõ có năm loại: Thân: Như Kinh nói: “Nếu vật thuộc về kẻ khác”. Sự: Như Kinh nói: “Sự việc kẻ khác thọ dụng”. Tưởng: Như Kinh nói: “Kẻ khác có ý tưởng giữ gìn”. Hành; tức là tâm trộm cắp. Như Kinh nói: “Không sinh tâm trộm cắp”. Thể; tức là tính chất vi tế, thô trọng. Như kinh nói: “Cho đến cọng cỏ-chiếc lá, không cho thì không lấy, huống là…”. Kinh: “Lìa bỏ tà dâm, tự cho là đủ đối với nhan sắc của vợ mình, không cầu tìm vợ kẻ khác, cầu tìm người nữ do người khác giữ gìn cùng vợ của kẻ khác. Mà bà con thân thuộc của họ luôn giữ gìn, hoặc có giới pháp che chở. Bồ-tát ấy cho đến không sinh tâm nhớ nghó để tham cầu, huống là cùng với người nữ làm việc tà dâm, hoặc lại hành sự không đúng chỗ”. Luận: Dựa vào việc lìa tà dâm, có ba loại lìa: Lìa nhân. Lìa bằng cách đối trị. Lìa do hành quả. Lìa nhân: Như đối với vợ mình chưa đủ. Đối trị việc này, như Kinh: “Tự biết đủ về nhan sắc của vợ mình”. Lìa bằng cách đối trị: Phạm hạnh hiện tại thanh tịnh, không cầu nhan sắc của vợ thuộc vị lai. Như Kinh nói: “Không cầu tìm vợ người khác”. Lìa do hành quả; có hai loại: Vi tế; đó là trong tâm. Thô trọng, tức là thân tướng. Thân tướng ở đây có ba loại: Không chính đáng. Trái thời. Không đúng chỗ. Không chính đáng (Bất chính) là đối với người nữ được kẻ khác giữ gìn mà ở chung hoặc không ở chung. Ở chung; là do người khác giữ gìn. Không ở chung; là vợ của kẻ khác. Như Kinh nói: “Người nữ do người khác giữ gìn cho đến là vợ của kẻ khác”. Bà con thân thuộc của họ luôn giữ gìn; tức là cha mẹ, người thân trong tộc họ giữ gìn, che chở. Trường hợp đã gả cho người khác thì họ có ý thức gìn giữ. Như Kinh nói: “Bà con thân thuộc của họ luôn giữ gìn”. Người nữ; tức là chỉ rõ việc xa lìa, tên gọi người nữ thuộc không phải loại số chúng sinh (phi chúng sinh số). Trái thời; tức là chỉ rõ vào thời gian tu phạm hạnh. Như Kinh nói: “Giới pháp che chở”. Không đúng chỗ (Phi xứ); tức là hành dâm không đúng nơi. Như Kinh nói: “Hoặc lại hành sự không đúng chỗ”. Vi tế-thô trọng; tức là ý nghiệp và thân nghiệp, cả hai loại này đều xa lìa. Như Kinh nói: “Cho đến không sinh tâm nhớ nghó để tham cầu, huống là cùng với người nữ làm việc tà dâm”. Kinh: “Lìa bỏ vọng ngữ, thường nói lời chân thật, chắc chắn, hợp thời đúng lúc. Bồ-tát ấy, cho đến trong mộng cũng không khởi ý che giấu sợ người khác thấy (Phú kiến) mà chấp nhận để người khác thấy (Nhẫn kiến), không có tâm muốn làm cho người khác nói lời dối trá, huống là cố ý nói dối”. Luận: Dựa vào việc lìa vọng ngữ (nói dối), có hai loại lìa: Lìa bằng cách đối trị. Lìa do hành quả. Lìa bằng cách đối trị; tức là lìa nhân. Vì sao? Vì thân nghiệp kia có hai loại lìa. Còn trong nói dối thì không có sự việc bên ngoài, lại không có nhân khác. Như trong việc lìa sát sinh thì nơi nhân chứa nhóm có hai loại đao-gậy, là sự việc bên ngoài, như trong trường hợp đó đã nói lìa bỏ cả đao, gậy. Trong việc lìa bỏ nói dối thì không có hai loại sự việc bên ngoài của thân nghiệp kia. Không có nhân khác; tức là nhân của sát sinh như tham-sân-si… Nhân của nói dối; là tâm dối gạt kẻ khác cần phải xa lìa, thì nói lời chân thật, xác nhận lời nói chân thật như thế là đối trị tâm dối gạt kẻ khác, tức là lìa nhân. Dựa vào kia để sinh đây, cho nên nói là không có nhân khác. Như vậy, lìa bằng cách đối trị chính là lìa nhân. Lại nữa, lìa bằng cách đối trị có ba loại: Nói lời thuận với tưởng. Như Kinh nói: “Thường nói lời chân thật. Khéo suy xét; là nói với đúng như sự việc. Như Kinh nói: Nói lời chắc chắn. Nói lời biết thời; tức là không khởi ý làm suy não thân mình và thân người khác. Như Kinh nói: “Nói lời hợp thời đúng lúc.” Lìa do hành quả: Vi tế. Thô trọng. Như Kinh nói: “Bồ-tát ấy, cho đến trong mộng cũng không khởi ý che giấu sợ người khác thấy mà chấp nhận để người khác thấy, không có tâm muốn làm cho người khác nói lời dối trá, huống là cố ý nói dối.” Trong giấc mộng; là vi tế. Tạo cho nên; là thô trọng. Che giấu sợ kẻ khác thấy… : Dễ hiểu. Trí kiến gọi là kiến. Kinh: “Lìa bỏ nói hai lưỡi, là không có tâm phá hoại, không có tâm gây sợ hãi không có tâm gây não loạn. Nghe người này nói, không hướng tới kẻ kia nói lại để phá hoại người này. Nghe kẻ kia nói, không hướng tới người này nói lại để phá hoại kẻ kia. Không phá bỏ sự đồng ý. Đã phá hoại thì không khiến cho tăng trưởng. Không có tâm mừng về sự ly biệt. Không có tâm vui vì sự ly biệt. Không thích nói lời làm ly biệt. Không tạo ra lời nói ly biệt, hoặc thật hoặc chẳng thật”. Luận: Dựa vào việc lìa nói hai lưỡi, có hai loại lìa: Lìa bằng cách đối trị. Lìa do hành quả. Lìa bằng cách đối trị; tức là không làm điều phá hoại. Gồm hai: Một là Tâm, hai là Sự sai biệt. Tùy điều đã nghe ở đây, đi đến nơi khác mà nói. Hai loại này nêu rõ tâm tiếp nhận ghi nhớ mà khẩu nghiệp nói năng do tâm phá hoại. Như Kinh nói: “Nghe người này nói, không hướng tới kẻ kia nói lại để phá hoại người này. Nghe kẻ kia nói, không hướng tới người này nói lại để phá hoại kẻ kia”. Sự sai biệt có ba loại: Thân phá hoại. Tâm phá hoại. Nghiệp phá hoại. Thân phá hoại có hai loại: Một là chưa phá hoại, hai là đã phá hoại. Đối trị việc này, như Kinh: “Không phá hoại sự đồng ý. Đã phá hoại thì không khiến cho tăng trưởng”. Tâm phá hoại cũng có hai loại: Một là chưa phá hoại thì muốn phá hoại, hai là đã phá hoại thì tuỳ hỷ. Đối trị việc này, như Kinh: “Không có tâm mừng về sự ly biệt. Không có tâm vui vì sự ly biệt”. Nghiệp phá hoại cũng có hai loại: Một là vi tế, hai là thô trọng. Cả về lời nói thật và chẳng thật. Đối trị việc này, như Kinh: “Không thích nói lời làm ly biệt. Không gây ra lời nói làm ly biệt, hoặc thật hoặc chẳng thật. Kinh: “Lìa bỏ lời nói thô ác đối với mọi lời nói. Đó là lời nói xâm hại, lời nói thô bạo, lời nói làm khổ kẻ khác, lời nói khiến kẻ khác sân hận, lời nói hiện tiền, lời nói không hiện tiền, lời nói bỉ ổi, lời nói dai dẳng, lời nói khiến người khác không thích nghe, lời nói khiến người nghe không vừa lòng, lời nói gây giận dữ bực bội, lời nói khiến lửa nơi tâm bốc cháy có thể thiêu đốt, lời nói khiến tâm nóng bức, lời nói không hòa ái, lời nói không vui thích, lời nói bất thiện, tự hoại thân mình mà cũng huỷ hoại thân kẻ khác. Những lời nói như vậy thảy đều lìa bỏ. Tất cả nói tuyệt vời vui tai. Đó là; lời nói đằm thắm, lời nói mềm mỏng, lời nói vi diệu, lời nói vui mừng khi nghe, lời nói ưa thích nghe, lời nói đi vào tâm can, lời nói thuận lý, lời nói được nhiều người yêu mến, lời nói được nhiều người vui mừng, lời nói hòa ái, lời nói khiến tâm hoàn toàn hoan hỷ, lời nói có thể làm cho tâm mình và tâm kẻ khác sinh niềm hoan hỷ kính tin. Thường nói những lời nói tuyệt vời như vậy”. Luận: Dựa vào sự lìa bỏ lời nói thô ác, có hai loại lìa: Lìa do hành quả. Lìa bằng cách đối trị. Lìa do hành quả; tức là những lời nói gây tổn hại cho kẻ khác, có thể khiến cho kẻ khác giận dữ. Như Kinh nói: “Lời nói xâm hại, lời nói thô bạo, lời nói làm khổ kẻ khác, lời nói khiến kẻ khác sân hận”. Cả đoạn này, theo thứ tự, dùng phần sau giải thích phần trước. Những loại ấy, nghĩa là một nhưng tên gọi thì khác. Lại có: Lời nói đối mặt nhau, lời nói không đối mặt nhau, lời nói thô ác thường hiện hành. Như Kinh nói: “Lời nói hiện tiền, lời nói không hiện tiền, lời nói bỉ ổi, lời nói dai dẳng”. Ở đây: Lời nói hiện tiền: Thô mà không dứt. Lời nói không hiện tiền là tế mà có gián đoạn. Nói như vậy thì trái ngược với giới, có thể gây đau khổ cho kẻ khác, khiến kẻ khác sân hận. Như Kinh nói: “Lời nói khiến người khác không thích nghe, lời nói khiến người nghe không vui lòng”. Gây ra lời nói không lợi ích là bởi vì tâm sân hận, ganh ghét dấy khởi, khiến mâu thuẫn với giới của kẻ khác. Như Kinh nói: “Lời nói gây giận dữ, bực bội”. Khiến kẻ khác giận dữ, bực bội, có hai loại sự việc không lợi ích: Chưa dấy khởi giận dữ thì có thể khiến sinh giận dữ, khi nghe- khi nhớ cũng không thích-không vui trong lòng bế tắc. Như Kinh nói: “Lời nói khiến lửa nơi tâm bốc cháy có thể thiêu đốt, lời nói khiến tâm nóng bức, lời nói không hòa ái, lời nói không vui thích”. Đã có thì niềm vui trong tâm ý của mình bị mất hẳn, khiến kẻ khác cũng mất hẳn. Như Kinh nói: “Lời nói bất thiện tự hoại thân mình mà cũng huỷ hoại thân kẻ khác “. Lìa bỏ những lời nói thô ác như vậy, gọi là Lìa do hành quả. Lìa bằng cách đối trị; tức là nói lời nói đằm thắm. Ở đây có hai loại: Một là lời nói không thô-không vội, hai là lời nói đáng vui thích. Như Kinh nói: “Lời nói mềm mỏng, lời nói vi diệu”. Trong đó: Không thô, không vội; tức là thuộc về giới phần, thọ hành không dứt. Vui mừng; tức là đáng vui thích. Đáng vui thích có hai loại: Một là vui vẻ đáng vui thích, hai là an ổn đáng vui thích. Vui vẻ (lạc) là thuận theo hàng trời, người. An ổn là thuận theo thành Niết-bàn. Như Kinh nói: “Lời nói vui mừng khi nghe, lời nói ưa thích nghe, lời nói đi vào tâm can, lời nói thuận lý”. Lại nữa, người trong chỗ oán-thân, khi nghe-khi nhớ lại có thể sinh niềm hoan hỷ. Như Kinh nói: “Lời nói khiến nhiều người yêu mến, lời nói được nhiều người vui thích”. Những lời nói như vậy có thể phát sinh hai loại lợi ích: Một là; người khác chưa sinh sân hận thì khiến họ không sinh, mà sinh hoan hỷ, lại có thể sinh khởi Tam-muội; hai là chưa sinh tâm bạn thân thì khiến phát sinh, tự mình đang làm, khiến người khác cũng hiện làm. Như Kinh nói: “Lời nói khiến tâm hòa ái, thích thú, lời nói khiến tâm hoàn toàn hoan hỷ, lời nói có thể làm cho tâm mình và tâm người khác sinh niềm hoan hỷ kính tin…”. Kinh: “Lìa bỏ lời nói thêu dệt, thường dùng lời nói khéo tư duy, lời nói đúng lúc, lời nói chân thật, lời nói có ý nghĩa, lời nói đúng pháp, lời nói thuận đạo, lời nói đúng giới luật, lời nói trù tính theo thời gian, lời nói khéo nhận biết niềm vui thích của tâm. Bồ-tát ấy cho đến đối với vui đùa hãy còn không nói lời thêu dệt, huống hồ cố ý nói lời thêu dệt”. Luận: Dựa nơi việc lìa lời nói thêu dệt, có hai loại lìa: Lìa bằng cách đối trị. Lìa do hành quả. Lìa bằng cách đối trị; tức là khéo nhận biết khi nói năng. Dựa vào lời nói đây kia, khuyên phát khởi nhớ nghó. Lúc tu tập nếu thấy các chúng sinh hành xử bất thiện thì khiến họ xả bỏ mà an trú nơi pháp thiện, tuỳ hoàn cảnh để nói lời giáo hóa. Như Kinh nói: “Lời nói luôn khéo tư duy, lời nói đúng lúc”. Lại, lời nói không điên đảo, là dựa vào sự giảng dạy lần lượt, tuỳ thuận khi tu hành, nói năng đúng nghĩa đúng pháp. Như Kinh nói: “Lời nói chân thật, lời nói có ý nghĩa, lời nói đúng pháp”. Lại dựa vào sự cử tội lần lượt, diệt trừ sự tranh chấp, lúc tu học, hành trì, lời nói đúng như pháp, lời nói đúng như kinh điển. Như Kinh nói: “Lời nói thuận đạo, lời nói đúng giới luật”. Lại dựa vào lời nói thâu nhận, thuyết giảng pháp để thâu nhận, khi tu hành, lời nói đúng như oai nghi an trú, lời nói nêu ví dụ thuận theo nghĩa. Như kinh nói: “Lời nói trù tính theo thời gian, lời nói khéo nhận biết niềm vui thích của tâm”. Lìa do hành quả; có hai loại: Vi tế. Thô trọng. Xa lìa hai loại ấy, gọi là Lìa do hành quả. Vi tế-thô trọng như Kinh nói: “Bồ-tát ấy, cho đến đối với vui đùa hãy còn không nói lời thêu dệt…”. Kinh: “Lìa bỏ tâm tham. Đối với tất cả tài sản vật dụng hiện có của kẻ khác, do kẻ khác thọ dụng, thì mình không sinh tâm tham. Không cầu, không mong cho nên không sinh tâm tham”. Luận: Dựa vào tâm không tham, có ba loại: Sự. Thể. Sai biệt. Sự; là thuộc về phần thọ dụng. Ở đây có hai loại: Một là đã thâu nhiếp thọ dụng, hai là nghĩa đến thâu nhiếp thọ dụng. Như Kinh nói: “Đối với tất cả tài sản vật dụng vốn có của kẻ khác…”. Thể; có hai loại: Một là những điều kiện sử dụng như vàng-bạc… hai là sự việc thọ dụng cho đời sống; như thức ăn uống-y phục… Như Kinh nói: “Của cải do kẻ khác thọ dụng”. tính không tham; là đối trị tâm tham. Như Kinh nói: “Không sinh tâm tham”. Sai biệt ở đây đối trị ba loại tham. Ba loại tham là: Hành theo nẻo mong muốn. Hành theo nẻo đạt được. Hành theo nẻo chiếm đoạt. Đối trị những thứ ấy, như Kinh: “Không cầu, không mong, cho nên không sinh tâm tham”. Trong đó, hai loại đầu là vi tế, thứ ba là thô trọng. Kinh: “Lìa bỏ tâm sân hận, đối với hết thảy chúng sinh thường khởi tâm Từ, tâm an ổn, tâm thương xót, tâm an vui, tâm lợi lạc, tâm thâu nhiếp làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Mọi vọng tưởng cấu uế vốn có như sân hận-ganh ghét-não hại thảy đều xa lìa. Tất cả các hạnh vốn có đều tuỳ thuận Từ Bi, khéo tu tập để thành tựu mọi công hạnh”. Luận: Dựa vào việc lìa bỏ tâm sân, đối trị chướng ngại, là vì năm loại chúng sinh mà nói. Đối với loại oán thù; Nên sinh khởi tâm Từ bi. Như Kinh nói: “Thường khởi tâm Từ”. Đối với các chúng sinh làm ác: Như Kinh nói: “Sinh tâm an ổn”. Đối với các chúng sinh bần cùng, xin ăn, khổ sở, Như Kinh nói: “Sinh tâm thương xót, tâm đem lại an vui”. Đối với các chúng sinh ưa thích, đắm nhiễm nơi phiền não: Như Kinh nói: “Khởi tâm tạo lợi lạc”. Đối với các chúng sinh phát tâm Bồ-đề, Bồ-tát càng siêng năng chịu khó nhọc vất vả trong việc hành trì vô lượng lợi ích. Như Kinh nói: “Khởi tâm thâu nhiếp làm lợi ích cho tất cả chúng sinh”. Tâm Từ ấy… có sáu loại chướng ngại. Ở đây không phân biệt, cũng không mỗi mỗi đối chiếu. Đối với trường hợp chưa sinh oán thù thì có thể phát sinh. Đã sinh rồi thì tùy thuận làm cho tăng trưởng. Trường hợp chưa sinh thân thiện thì khiến cho chẳng sinh. Đã sinh rồi thì khiến không tăng trưởng. Nơi tự thân, pháp thiện chưa sinh thì khiến cho chẳng sinh. Đã sinh rồi thì khiến cho diệt mất. Đối với pháp bất thiện, chưa sinh thì khiến có thể sinh. Đã sinh rồi thì khiến cho tăng trưởng. Nơi thân người khác, sự việc không yêu thích chưa sinh thì khiến cho đã phát sinh. Đã sinh rồi thì khiến cho tăng trưởng. Sự việc yêu thích chưa sinh thì khiến cho không sinh. Đã sinh rồi thì làm cho tuỳ thuận. Như kinh nói: “Mọi thứ vọng tưởng cấu uế… vốn có như sân hận-ganh ghét-não hại thảy đều xa lìa”. Nơi kinh này, theo thứ tự của câu văn đã nói đến vô lượng hành ác căn bản như sân hận… này cho nên nói đều cùng lìa bỏ những thứ ấy. Phần còn lại tuỳ theo chỗ nhớ nghó, tất cả đều dùng tâm Từ làm lợi ích. Như Kinh nói: “Hết thảy các hạnh vốn có đều thuận theo Từ Bi, khéo tu tập để thành tựu mọi công hạnh”. Kinh: “Lìa bỏ tà kiến, thuận theo chính đạo, trừ bỏ các loại xem tướng đoán chuyện lành dữ. Lìa giới kiến xấu ác, tu tập theo kiến chấp đúng đắn. Không gian dối, không dua nịnh, quanh co. Quyết định tin tưởng hoàn toàn đối với Tam bảo: Phật-Pháp-Tăng. Bồ-tát ngày đêm thường giữ gìn mười thiện nghiệp đạo như vậy”. Luận: Dựa vào chính kiến, có bảy loại kiến chấp cần đối trị. Những gì là bảy loại kiến chấp? Đó là Kiến chấp bởi Thừa khác: Đối trị điều này, như Kinh: “Thuận theo chính đạo”. Kiến chấp do phân biệt hư vọng. Kiến chấp do “Giới cấm thủ” cho là thanh tịnh: Đối trị điều ấy, như Kinh: “Trừ bỏ các loại xem tướng đoán việc lành dữ. Xa lìa kiến chấp của giới ác”. Kiến chấp của giới xấu ác. Kiến chấp của giới xấu ác, là tự chấp lấy cái thấy của mình. Tự cho là chính kiến, đối trị điều này, như Kinh: “Tu tập theo kiến chấp đúng đắn”. Kiến chấp do che giấu. Kiến chấp vì trá hiện không thật. Đối trị điều này, như Kinh: “Không gian dối, không dua nịnh, quanh co”. Kiến chấp vì không thanh tịnh; tức là kiến chấp của thế gian. Đối trị điều này, như Kinh: “Quyết định tin tưởng hoàn toàn đối với Tam bảo: Phật-Pháp-Tăng”. Như vậy là đã nói về giới lìa bỏ tất cả các thứ. Lại nói về giới do xa lìa, khiến cho thanh tịnh tăng trưởng, không gián đoạn, không thiếu sót, luôn hộ trì, như Kinh: “Bồ-tát ngày đêm thường giữ gìn mười thiện đạo như vậy. Như vậy đầy đủ tất cả các thứ cần xa lìa, thành tựu giới tính. Lại chỉ rõ sự không gián đoạn, không thiếu sót, vì vậy tiếp theo nói về giới thanh tịnh do thâu nhiếp pháp thiện. nghĩa là Bồ-tát suy nghó … như kinh theo thứ tự trình bày. Kinh: “Bồ-tát suy nghó: Hết thảy chúng sinh rơi vào các cõi ác, đều do không xa lìa nhân duyên tập khởi của mười loại bất thiện nghiệp đạo. Do vậy, mình trước hết cho nên trú vào pháp thiện, cũng khiến cho người khác trú vào pháp thiện. Vì sao? Nếu người tự mình không hành thiện thì không có đủ hạnh thiện, vì người khác thuyết pháp khiến họ trú vào hạnh thiện, là điều không thể có”. Luận: Rơi vào các cõi ác, có ba loại nghĩa: Dựa vào hành ác mà đi đến. Dựa vào nơi tự thân, có thể sinh ra khổ não. Thường rơi vào chốn có vô số tướng khổ. Vì sao nói mười bất thiện nghiệp đạo? Tức là do thâu nhiếp đủ số lượng của tất cả các quả xấu ác, cho nên gọi là mười bất thiện nghiệp đạo. Thâu nhiếp đủ số lượng của tất cả các quả xấu ác, là nói về mười bất thiện nghiệp đạo. Số là chỉ thâu nhiếp chọn lấy mười tên gọi. Ác; là bất thiện. Quả là chịu rơi vào địa ngục-ngạ quỷ-súc sinh…, luôn luôn bị phá hoại. Quả; là bị đọa nơi ba cõi ác (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh), thật đáng thương. Đáo là đủ, tức là thâu nhiếp dẫn đến nghiệp. Tập nhân là nhân tích tập, tức là thọ hành. Bồ-tát xa lìa không có nhân điên đảo như vậy, nhờ đó dễ dàng hiểu rõ chúng sinh tự hành nghiệp ác, trú nơi chốn phi pháp, không thể xa lìa. Bồ-tát tư duy, có được sự tịch tónh sâu xa, muốn cứu độ các chúng sinh kia, tự nhận biết là có khả năng thực hiện được. Lại quán xét về chướng ngại, và sự đối trị với bất thiện nghiệp đạo cùng quả báo, thiện nghiệp đạo và quả báo, cùng sự thanh tịnh tối thượng để phát khởi tâm tăng thượng cầu học, tu tập, hành trì giới thanh tịnh do thâu nhiếp pháp thiện. Kinh: “Bồ-tát ấy lại tư duy sâu xa: Do nhân duyên tập khởi mà hành mười bất thiện nghiệp đạo, nên bị rơi ba cõi ác. Do nhân duyên tập khởi mà hành mười thiện nghiệp đạo, cho nên được sinh trong cõi người, cho đến sinh nơi cõi Hữu Đảnh. Lại, trên mười thiện nghiệp này, cùng với trí tuệ quán xét, hòa hợp tu hành, nhưng do tâm hạn hẹp, tâm chán sợ ba cõi, do xa lìa Đại Bi, theo người khác nghe âm thanh mà thông đạt, nghe âm thanh mà ý hiểu rõ, thành thừa Thanh văn”. Luận: Trí tuệ quán xét; là quán xét về Thật tướng. Cõi ác là Khổ. Bất thiện nghiệp đạo là Tập. Xa lìa bất thiện là Diệt. Đối trị bất thiện là Đạo. Lại nữa, cõi thiện là Khổ. Thiện nghiệp đạo là Tập. Lìa các sử kia là Diệt. Đối trị các sử là Đạo. Trí tuệ cùng quán xét, tu hành không phân biệt. Thanh văn có năm loại tướng: Tập nhân. Sợ khổ. Bỏ tâm. Nương tựa. Quán xét. Tính chất hạn hẹp… như vậy là tâm Thanh văn. Tập nhân; tức là tu hành căn thiện còn ít và mỏng, chỉ dựa vào lợi ích của tự thân. Như Kinh nói: “Tâm ấy hạn hẹp”. Sợ khổ; Như Kinh nói: “Tâm chán sợ ba cõi”. Bỏ tâm; là bỏ các chúng sinh. Như Kinh nói: “Xa lìa Đại Bi”. Nương tựa; là nương vào sự giảng dạy trao truyền của thầy. Quán xét; là nhớ nghó về âm thanh. Thế nào là âm thanh? Tức là ngã và chúng sinh chỉ có tên gọi. Như vậy ngã và chúng sinh kia theo âm thanh mà lãnh hội. Hội nhập nơi chúng sinh vô ngã mà không phải là pháp vô ngã. Như Kinh nói: “Theo người khác nghe âm thanh mà thông đạt…”. Kinh: “Lại trên mười thiện nghiệp đạo, thanh tịnh này, không nghe theo người khác, tự mình giác ngộ chính pháp, không thể đầy đủ phương tiện Đại Bi, mà có thể thông đạt pháp nhân duyên sâu xa, thành Thừa Bích-chi-Phật”. Luận: Bích-chi-Phật có ba loại tướng: Tự giác. Không thể thuyết pháp. Quán phần ít cảnh giới. Không nhờ Phật và các Bồ-tát thuyết pháp mà chỉ tự giác ngộ, như Kinh: “Không theo người khác mà nghe, tự mình giác ngộ chính pháp”. Không khởi tâm nêu giảng, không kham nổi việc thuyết pháp, như Kinh: “Không thể đầy đủ phương tiện Đại Bi”. Quán xét các hành nơi cảnh giới của nhân duyên vi tế, như Kinh: “Nhưng có thể thông đạt pháp nhân duyên sâu xa, thành thừa Bích-chi- Phật”. Tập nhân, sợ khổ, xả bỏ chúng sinh, Bích-chi-Phật cũng có pháp ấy. Các sự việc thù thắng vốn có, trong đó đã nêu bày. Kinh: “Lại trên mười thiện nghiệp đạo thanh tịnh tối thượng này đã đầy đủ tâm rộng lớn vô lượng, cho nên đối trị các chúng sinh khởi tâm thương xót, phương tiện mà thâu nhiếp, cho nên khéo phát khởi đại nguyện, không bỏ hết thảy chúng sinh, quán xét trí tuệ Phật rộng lớn. Địa Bồ-tát thanh tịnh. Ba-la-mật thanh tịnh, thành tựu việc hội nhập vào các hành sâu rộng”. Luận: Bồ-tát có bốn loại tướng: Tập nhân. Dụng. Diệu lực. Chỗ dựa của địa (cảnh giới). Tất cả căn thiện được phát khởi mà hành trì, dựa vào tất cả chúng sinh để làm lợi ích, tâm Đại thừa rộng lớn vô lượng. Đây là tích tập về nhân. Như Kinh nói: “Lại trên mười thiện nghiệp đạo thanh tịnh tối thượng này đã đầy đủ tâm rộng lớn vô lượng”. Thấy các chúng sinh tạo tác nhân khổ và khi thọ quả khổ mà khởi tâm thương xót, dựa vào các chúng sinh ấy để làm lợi ích, đó là Dụng của Bồ-tát. Như Kinh nói: “Đối với các chúng sinh khởi tâm thương xót”. Diệu lực; tức là bốn Nhiếp pháp. Như Kinh nói: “Phương tiện mà thâu nhiếp”. Địa (cảnh giới) có ba loại: Một là, cảnh giới của tâm sâu xa thanh tịnh, được mang tên của mười đại nguyện. Như Kinh nói: “Khéo phát khởi đại nguyện”, hai là: Cảnh giới không thối chuyển, đạt được hạnh vắng lặng rồi nhưng không xả bỏ việc giải thoát cho chúng sinh. Như Kinh nói: “Không xả bỏ tất cả chúng sinh”. Ba là, cảnh giới thọ nhận quả vị lớn, vì vậy cần chứng đắc trí tuệ rộng lớn của Phật. Như kinh nói: “Quán xét trí tuệ Phật rộng lớn”. Địa Bồ-tát thanh tịnh, Ba-la-mật thanh tịnh, thành tựu việc hội nhập với các hành sâu rộng. Trong này chỉ nói địa Bồ-tát rộng lớn, thành tựu đầy đủ các phương tiện. Vì sao lại nói địa thanh tịnh, Ba- la-mật thanh tịnh? Là vì có sự thanh tịnh hơn hết mà trên hết, là pháp thanh tịnh bậc nhất. Hiển bày chỗ thành tựu hạnh sâu rộng của Bồ-tát. Đệ nhất nghĩa; là nghĩa của Ba-la-mật. Kinh: “Lại trên mười nghiệp đạo thanh tịnh cao nhất này, là Nhất thiết chủng thanh tịnh là diệu lực của mười lực, tích tập tất cả pháp Phật khiến được thành tựu. Vì vậy mình phải cùng thực hành mười thiện nghiệp đạo, tu tập Nhất thiết chủng khiến đầy đủ thanh tịnh”. Luận: Thượng thượng: Có bốn loại nghĩa làm rõ tính chất “Thượng thượng”: Diệt trừ. Xả bỏ. Phương tiện. Không chán đủ. Bất thiện nghiệp đạo cùng tập khí được diệt trừ, cho nên nghiệp thiện thành tựu, tự tại. Xả bỏ là đối với Thừa Thanh văn và Bích-chi-Phật. Phương tiện; là tính chất thiện xảo nơi thừa Bồ-tát, không chán đủ đối với các thứ còn lại trong Nhất thiết trí màđạt trí tự tại. Nhất thiết chủng khiến càng thanh tịnh. Như Kinh nói: “Lại trên mười thiện nghiệp đạo thanh tịnh cao nhất này, là Nhất thiết chủng thanh tịnh, là diệu lực của mười lực, tích tập tất cả pháp Phật khiến được thành tựu. Vì vậy mình phải cùng thực hành mười thiện nghiệp đạo tu tập nhất thiết chủng khiến đầy đủ thanh tịnh”. Hàng phục các thứ ma oán, làm tăng thượng cho hàng Tiểu thừa, hiển bày diệu lực của pháp Phật, nên biết. Tiếp theo trên là dựa vào tâm Đại Bi làm lợi ích cho chúng sinh, với giới tăng thượng. Có năm loại nghĩa: Trí. Nguyện. Tu hành. Tích tập. Tích tập quả. Trí có ba loại tướng: Sai biệt của thời. Sai biệt của quả báo. Sai biệt của quả do tập khí. Kinh: “Bồ-tát ấy lại tư duy: Mười bất thiện nghiệp đạo này, kẻ tạo tác thuộc hạng nặng, là nhân duyên của Địa ngục, hạng trung bình là nhân duyên của Súc sinh, hạng nhẹ là nhân duyên của Ngạ quỷ. Trong đó, tội sát sinh có thể khiến cho chúng sinh bị đọa nơi ba đường dữ, nếu sinh nơi cõi người thì bị hai loại quả báo: Một là thọ mạng ngắn ngủi, hai là nhiều bệnh tật. Tội trộm cắp cũng khiến cho chúng sinh bị đọa nơi ba đường ác, nếu sinh vào cõi người thì có hai loại quả báo: Một là bần cùng, hai là có của cải chung không được tự tại. Tội tà dâm cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba đường ác, nếu sinh nơi cõi người thì bị hai loại quả báo: Một là vợ không trinh thuận, hai là vợ cùng tranh chấp chứ không theo tâm ý mình. Tội nói dối cũng khiến cho chúng sinh bị đọa nơi ba đường ác, nếu sinh vào cõi người thì bị hai loại quả báo: Một là bị nhiều người phỉ báng, hai là luôn bị nhiều kẻ dối gạt. Tội nói hai lưỡi cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba cõi ác, nếu sinh làm người thì bị hai loại quả báo: Một là bị hàng thân thuộc phá hoại, hai là hàng thân thuộc đều là kẻ xấu ác thậm tệ. Tội nói lời thô ác cũng khiến cho chúng sinh bị đọa nơi ba cõi ác, nếu sinh vào cõi người thì bị hai loại quả báo: Một là thường nghe các âm thanh xấu ác, hai là mọi nẻo nói năng luôn có sự tranh chấp kiện tụng. Tội nói lời thêu dệt cũng khiến cho chúng sinh bị đọa nơi ba cõi ác, nếu sinh vào cõi người thì bị hai loại quả báo: Một là giảng điều chân chính mà người nghe không tin nhận, hai là mọi ngôn thuyết vốn có đều không thể biện giải. Tội tham dục cũng khiến cho chúng sinh bị đọa nơi ba đường ác, nếu sinh vào cõi người thì bị hai loại quả báo: Một là tham muốn về của cải không biết chán đủ, hai là nhiều mong cầu luôn không theo ý. Tội sân hận cũng khiến cho chúng sinh bị đọa nơi ba đường ác, nếu sinh vào cõi người thì bị hai loại quả báo: Một là luôn bị kẻ khác tìm kiếm soi mói về chỗ hơn kém của mình, hai là thường bị kẻ khác gây não hại. Tội tà kiến cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba đường dữ, nếu sinh làm người thì bị hai loại quả báo: Một là thường sinh vào gia đình theo tà kiến, hai là tâm luôn quanh co, dua nịnh. Này các Phật tử! Mười bất thiện nghiệp đạo như thế, đều là nhân duyên to lớn của mọi khổ đau Luận: Sai biệt của thời; là dựa vào sự sai biệt về thượng-trung-hạ nơi nhân quả của bất thiện nghiệp đạo. Như Kinh nói: “Bồ-tát ấy lại tư duy: Mười bất thiện nghiệp đạo này, kẻ tạo tác thuộc hạng nặng, là nhân duyên của địa ngục…”. Trước đã xét chung về nhân của bất thiện nghiệp đạo. Nay, xét riêng về quả báo của tất cả các chốn ác. Như Kinh nói: “Tội sát sinh có thể khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba cõi ác… cho đến tội tà kiến cũng khiến cho chúng sinh…”. Quả của Tập khí; tức là nơi con người mỗi mỗi đều có hai loại quả. Như Kinh nói: “Nếu sinh nơi cõi người thì bị hai loại quả báo: Một là thọ mạng ngắn ngủi, hai là nhiều bệnh tật”. Cho đến “Nếu sinh vào cõi người thì bị hai loại quả báo: Một là thường sinh vào nhà tà kiến, hai là tâm luôn quanh co dua nịnh”. Ở đây, sai biệt của quả báo theo thời gian là chỉ rõ sự khổ não sâu nặng. Chỉ rõ như thế nào? Thất nhấp là trong cõi Ngạ quỷ, là sâu. Hạng giữa lại càng thêm sâu. Hạng trên là càng sâu nặng hơn nữa. Sai biệt của quả do tập khí, tuỳ thuận đến trong cõi thiện. Hợp quán chung riêng về vô lượng khổ lớn trong cõi ác. Như Kinh nói: “Các Phật tử! Mười bất thiện nghiệp đạo như thế đều là nhân duyên to lớn của mọi khổ đau”. Thế nào là nguyện? Kinh: “Bồ-tát lại suy niệm: Mình phải xa lìa mười bất thiện nghiệp đạo, vui với sự thích hành pháp hành”. Luận: Nguyện: là vẫn vui với sự thực hành pháp Đại thừa, làm lợi ích cho chúng sinh, thâu nhiếp pháp thiện. Như Kinh nói: “Bồ-tát lại suy niệm” cho đến “vui thực hành pháp hành”. Thế nào là tu hành? Kinh: “Bồ-tát xa lìa mười bất thiện nghiệp đạo, an trú nơi mười thiện nghiệp đạo, cũng khiến người khác an trú nơi mười thiện nghiệp đạo”. Luận: Tu hành: là tự an trú nơi pháp thiện, xa lìa mọi chướng ngại kia. Tu hành đối trị thì cũng khiến cho chúng sinh trú nơi pháp thiện. Như Kinh nói: “Bồ-tát xa lìa mười bất thiện nghiệp đạo” cho đến “cũng khiến người khác trú nơi mười thiện nghiệp đạo”. Thế nào là tích tập? Kinh: “Bồ-tát ấy, lại ở trong tất cả chúng sinh khởi tâm an ổn, tâm đem lại an lạc, tâm Từ, tâm bi, tâm thương xót, tâm làm lợi ích, tâm giữ gìn, tâm ngã, tâm sư, tâm sinh tôn kính”. Luận: Tích tập: là dựa vào tâm Bi tăng thượng. Lại vì nhớ nghó đến chúng sinh cho nên sinh khởi mười loại Tâm. Lại nữa, tâm này là vì tám loại chúng sinh cho nên sinh khởi: Đối với chúng sinh hành ác; muốn khiến họ trú nơi hành thiện. Như Kinh nói: “Sinh tâm an ổn”. Đối với chúng sinh khổ não; muốn khiến họ có đủ an lạc không cùng tận. Như Kinh nói: “khởi tâm đem lại an lạc”. Đối với chúng sinh oán ghét; không nghó đến việc gia tăng trả thù. Như Kinh nói: “khởi tâm Từ”. Đối với chúng sinh bần cùng; muốn khiến xa lìa các thứ khổ ấy. Như Kinh nói: “Khởi tâm Bi”. Đối với chúng sinh nhiều hoan lạc; muốn khiến họ không buông lung. Như Kinh nói: “Khởi tâm thương xót”. Đối với các chúng sinh thuộc ngoại đạo; muốn khiến họ hiện tại tin tưởng với pháp Phật. Như Kinh nói: “Khởi tâm làm lợi ích”. Đối với các chúng sinh đồng hành; muốn giúp họ không thối chuyển. Như Kinh nói: “Khởi tâm giữ gìn”. Đối với hết thảy chúng sinh đã phát nguyện thâu nhiếp đạo quả Bồ-đề thì xem như là thân mình. Các chúng sinh ấy tức là thân mình. Như Kinh nói: “khởi tâm ngã”, nhờ vào nơi đạo Đại thừa, tiến tới tích tập đầy đủ công đức. Như Kinh nói: “Khởi tâm sư, tâm sinh tôn kính”. Tích tập quả; là thâu tóm của tâm Bi thù thắng mong càng thù thắng. Lại nữa, dựa vào điên đảo tăng thượng” làm “người đứng đầu” đối với ba loại chúng sinh: Cầu Dục. Cầu Hữu. Cầu Phạm hạnh. Chúng sinh cầu Dục có hai loại: Lúc thọ dụng. Lúc theo đuổi tìm cầu. Thọ dụng có ba loại: Thọ dụng của cải không chung. Thọ dụng của cải không chán đủ. Thọ dụng của cải tích trữ. Theo đuổi tìm cầu có hai loại: Theo đuổi tìm cầu quả báo hiện tại, quen theo các hành ác. Theo đuổi tìm cầu quả báo về sau, quen theo các hành thiện. Chúng sinh cầu Hữu cũng có hai loại: Sai biệt về đạo. Sai biệt về cảnh giới. Chúng sinh cầu Phạm hạnh cũng có hai loại: Tà kiến, như các ngoại đạo. chính kiến, như hàng Tiểu thừa, đồng pháp… Các chúng sinh kia hướng tới đạo như thế, tuỳ thuận nhằm đối trị khiến họ an trú nơi chốn ứng hợp. Thế nào là điên đảo bậc nhất? Kinh: “Bồ-tát lại suy nghó như vậy: Các chúng sinh ấy rơi vào rừng rậm tà kiến, ý ác tâm ác, hành theo đạo ác. Mình nên khiến họ hành theo đạo chân thật, trú trong pháp như thật của đạo chính kiến”. Luận: Tà kiến, tức là bốn điên đảo. Điên đảo này, hai loại gọi là Ý ác, chuyên nghó về Hành. Hai loại gọi là Tâm ác, không chuyên nghó về Hành, tức là tưởng chấp về ngã tịnh. Vì đó không phải là chính đạo, mà là nhân nơi hành của rừng rậm. Không phải là chính đạo; là các thứ phiền não. Rừng rậm, là phiền não-kiết sử. Như Kinh nói: “Bồ-tát lại suy nghó: Các chúng sinh ấy rơi vào rừng rậm tà kiến, ý ác, tâm ác, hành theo đạo ác…” Các chúng sinh kia nên tuỳ thuận dùng diệu pháp để đối trị theo nẻo chính niệm, chính kiến của pháp xuất thế gian. Như Kinh nói: “Mình nên khiến cho các chúng sinh kia hành theo đạo chân thật, trú trong pháp như thật của đạo chính kiến”. Kinh: “Các chúng sinh đều cùng phá hoại lẫn nhau, phân biệt ta, người, luôn tranh giành, đấu đá, ngày đêm sân hận bùng phát không dứt. Mình nên khiến họ an trú trong pháp Đại Từ vô thượng”. Luận: - Thọ dụng của cải không chung; là cùng phá hoại lẫn nhau. Phá hoại có hai loại: Đối oán ở trong tâm. Tranh giành, đấu đá trong lời nói. Sự phá hoại như thế khiến luôn nhớ nghó, tạo báo thù, làm tăng trưởng các hành động hung dữ. Như Kinh nói: “Các chúng sinh ấy cùng phá hoại lẫn nhau” cho đến “Ngày đêm sân hận bùng phát không dứt”. Đối oán ở trong tâm, phân biệt ta-người: Câu này chỉ rõ sự tranh giành đấu đá ở trong lời nói. Thường cùng tranh giành, đấu đá: Câu này chỉ rõ việc nhớ nghó, tạo thù, làm tăng trưởng các hành động hung dữ. Ngày đêm sân hận bùng phát không dứt: Câu này chỉ rõ các chúng sinh kia nên tùy thuận, đem tâm Đại Từ tạo lợi ích để đối trị. Như Kinh nói: “Mình nên khiến cho các chúng sinh kia trú trong pháp Đại Từ vô thượng”. Thế nào là thọ dụng của cải không chán đủ? Kinh: “Các chúng sinh ấy tâm không biết chán đủ, luôn tìm cầu tài sản của kẻ khác, sinh sống theo tà mạng. Mình nên khiến cho các chúng sinh đó an trú trong ba nghiệp thân-khẩu-ý thanh tịnh của pháp chính mạng”. Luận: - Thọ dụng của cải không biết chán đủ, có hai loại: Tham lam ở trong tâm. Ở nơi thân-miệng, dùng các phương tiện như cân-đong, nói dối để chiếm đoạt. Như Kinh nói: “Các chúng sinh ấy tâm không biết chán đủ, thường mong cầu tài sản của người khác…”. Các chúng sinh kia cho nên tuỳ thuận để đối trị khiến ba nghiệp thân-khẩu-ý thanh tịnh, tự sinh sống theo chính mạng. Như Kinh nói: “Mình nên khiến cho các chúng sinh đó an trú trong…”. Thế nào là thọ dụng của cải tích trữ? Kinh: “Các chúng sinh ấy chạy theo tham dục-sân hận-ngu si cho nên luôn bị vô số các thứ phiền não bùng cháy thiêu đốt, không thể dốc cầu phương tiện để giải thoát. Mình nên khiến họ diệt trừ tất cả lửa dữ phiền não, ở yên nơi chốn mát mẻ không sợ hãi”. Luận: Thọ dụng của cải tích trữ; bởi vì Thể của tham… vượt quá sự nhiễm đắm kia, cho nên đối với chỗ thọ dụng bị mất mát thì khởi tâm giận dữ. Trong sự thọ dụng các thứ quý báu kia, phần nhiều ưa thích về cảnh giới cho nên luôn bị lửa phiền não đốt cháy dữ dội. Do không thấy lỗi lầm ấy cho nên không có ý cầu xuất ly. Như Kinh nói: “Các chúng sinh ấy do chạy theo tham dục-sân hận-ngu si…”. Các chúng sinh đó cho nên tuỳ thuận để đối trị, dứt trừ tất cả phiền não đạt đến nơi chốn mát mẻ. Như Kinh nói: “Mình nên khiến các chúng sinh kia diệt trừ hết thảy lửa dữ phiền não…”. Thế nào là theo đuổi tìm cầu quả báo hiện tại, quen theo các hành ác? Kinh: “Các chúng sinh ấy thường bị ngu si tối tăm, vọng kiến phủ dày, vô minh đen ngòm che lấp, cho nên đi vào nẻo rừng rậm phiền não mờ mịt, xa lìa ánh sáng trí tuệ, rơi vào chốn tăm tối, tùy theo chỗ thấy biết mà đã lần đến vô số đường hiểm ác. Mình nên khiến họ đạt được mắt tuệ thanh tịnh không chướng ngại, dùng mắt ấy để nhận biết về tướng như thật của tất cả pháp, đạt được trí nhận biết tất cả như thật không chướng ngại không theo kẻ khác”. Luận: Theo đuổi tìm cầu quả báo hiện tại, đi theo các hành ác. Đã có ngu si tối tăm, vọng kiến phủ dày, vô minh đen ngòm che lấp, vượt quá vọng kiến về lạc, cho nên không thấy lỗi lầm của quả báo thật có nơi vị lai, cũng không thấy lỗi lầm của quả báo thật có nơi hiện tại. Như Kinh nói: “Các chúng sinh ấy thường bị ngu si tối tăm…”. Ngu si; tức là tối tăm, mờ mịt. Vọng kiến; tức là ưa thích kiến chấp điên đảo. Phủ dày; là không thấy lỗi lầm của quả báo thật có nơi vị lai. Tăm tối (hắc ám); là không thấy lỗi lầm nơi quả báo thật của hiện tại. Ngu si ấy, do tràn đầy mà khiến việc làm trở thành lỗi lầm và xa lìa nơi chốn của Trí vô lậu. Chúng gây chướng ngại cho hành thiện, thuận theo hành bất thiện. Như Kinh nói: “Đi vào nẻo rừng rậm phiền não hết sức tối tăm, xa lìa ánh sáng trí tuệ…”. Rừng rậm; là nhân khiến cho ngu si. Lớn (Đại); là đầy khắp, cho nên thọ nhận lỗi lầm đáp lại hết sức lớn. Như Kinh nói: “Rơi vào chốn tăm tối mênh mông”. Ở đây, “Đáp lại” là chỉ rõ về sự tăm tối. Như người đi trong tối tăm thì nơi nơi bị chướng ngại. Pháp tương tợ như thế. Thọ nhận các sự việc đáp lại lớn chính là đi đến các cõi ác. Vì thế gọi là rơi vào chốn gây tạo nhiều nhân tội lỗi. Vào lúc lâm chung thấy rõ tướng ác báo, tâm sinh hối hận, thấy biết lỗi lầm. Như Kinh nói: “Tùy theo chỗ thấy biết mà đã đi đến vô số đường hiểm”. Thấy biết đường hiểm; tức là hối hận, nhận biết. Thấy biết về tướng của tội vốn có nhưng không thể tích tập để đối trị chúng theo chính kiến. Tùy theo chỗ thấy biết kia; tức là vào lúc sắp qua đời, các chúng sinh kia thuận theo sự đối trị, nhờ vào pháp như thật khiến đạt được mắt tuệ thanh tịnh không chướng ngại. Như Kinh nói: “Mình nên khiến các chúng sinh kia đạt được mắt tuệ thanh tịnh không chướng ngại, dùng mắt tuệ ấy để nhận biết tướng như thật của tất cả pháp, đạt được Trí nhận biết tất cả như thật không chướng ngại, không theo kẻ khác”. Thế nào là theo đuổi tìm cầu quả báo về sau, quen theo các hành thiện? Kinh: “Các chúng sinh ấy thuận theo đường hiểm sinh tử nơi thế gian, mà bị rơi vào hầm sâu của ba cõi ác, bị cuốn vào lưới ác kiến, bị đủ thứ rừng rậm ngu si che lấp, chạy theo nẻo hư vọng tạo các hành điên đảo, luôn bị mù lòa cho nên xa lìa bậc Đạo sư có trí tuệ. Không phải là nơi chốn của đạo giải thoát mà tưởng là giải thoát, lầm lạc nơi cõi ma, bị các thứ giặc oán nắm giữ, xa lìa bậc đạo sư thiện xảo, đi vào chốn gai gốc của ý ma, lìa bỏ ý Phật. Mình nên cứu vớt họ với vô số các khổ, vượt khỏi mọi nẻo mạn của nơi thế gian, đặt yên họ ở chốn không sợ hãi, khiến an trú nơi thành lớn Nhất thiết trí”. Luận: Theo đuổi tìm cầu quả báo về sau, quen theo các hành thiện; là thuận theo lỗi lầm nơi đường hiểm. Như Kinh nói: “Các chúng sinh ấy thuận theo đường hiểm sinh tử nơi thế gian…”. Đường hiểm kia có ba loại: Tự thể. Chướng ngại. Tổn thất. Tự thể; tức là thiếu hụt căn thiện của thế gian. Chướng ngại; có tám loại: Cầu ra khỏi, nhưng lại thuận theo thế gian, bị đọa vào ba cõi ác. Như Kinh nói: “Bị rơi vào hầm sâu của ba cõi ác”. Bị cuốn vào lưới; ở trong quả khổ mà vọng sinh an lạc. Như Kinh nói: “Bị cuốn vào trong lưới ác kiến”. Bị các thứ rừng rậm tối tăm che phủ; bởi vì ngu si kia cho nên khiến bị che phủ. Vì họ nêu giảng về nhân của khổ mà không nhận biết. Như Kinh nói: “Bị vô số các thứ rừng rậm ngu si che phủ”. Hành theo đường điên đảo, xả bỏ sự an lạc chân thật, vọng theo đạo tà. Như Kinh nói: “Chạy theo nẻo hư vọng, tạo các hành điên đảo”. Chịu quả mù tối, tham đắm chỗ mù lòa của ái dục. Như Kinh nói: “Luôn bị mù lòa”. Xa lìa bậc thầy dẫn đường, sinh trong cõi ác, và tạo các lỗi lầm như phóng dật…, tuy gặp đời có Phật mà không thấy không nghe. Như Kinh nói: “Xa lìa bậc Đạo sư có trí tuệ”. Mong cầu Niết-bàn mà lại hướng tới nơi chốn khác; tức là đối với Phạm thiên … các hàng phạm hạnh nơi thế gian, cho là chính kiến xuất thế gian. Như Kinh nói: “Không phải là nơi chốn của đạo giải thoát mà tưởng chấp là giải thoát”. Đi theo cảnh giới của ma, giặc oán, tham đắm các dục, cướp hết công đức, khiến không tích tập. Như Kinh nói: “Lầm lạc theo cõi ma, bị các giặc oán nắm giữ”. Tổn thất; có ba loại: Lìa bậc Đạo sư thiện, dựa vào cõi bất thiện. Như Kinh nói: “Xa lìa bậc Đạo sư thiện xảo”. Nương dựa cảnh giới oán.Như Kinh nói: “Đi vào vùng rừng rậm của ý ma”. Xa lìa nơi tạo ra thiện tri thức. Như Kinh nói: “Xa lìa ý Phật”. Các chúng sinh này cần phải tùy thuận để đối trị. Dùng pháp như thật, khiến ra khỏi thế gian, an trú nơi cõi Nhất thiết trí. Như Kinh nói: “Mình nên cứu vớt các chúng sinh kia đang bị vô số các khổ não, thoát khỏi mọi nẻo hiểm nạn của thế gian…”. Thế nào là sai biệt về đạo? Kinh: “Các chúng sinh đó bị sóng dữ của dòng thác lớn nhận chìm. Bị trôi nổi theo bốn dòng chảy: Dòng chảy của dục, dòng chảy của hữu, dòng chảy của kiến chấp và dòng chảy của vô minh. Bị cuốn theo nẻo chìm nổi của thế gian, đắm nơi sông lớn ái dục, quanh quẩn nơi dòng xoáy dữ dội, không thể quan sát đúng đắn. Luôn có những nhận biết xấu ác (dục, sân, não), hành ác càng rộng, mà bị La-sát nắm giữ trong biển nước Ái kiến, đã vào rừng dục, trở lại tìm cầu dục cho nên càng tham ái, đắm chấp sâu dày. Cõi đất ngã mạn đã thiêu đốt cháy khô họ, không ai có thể cứu giúp. Ở nơi xóm làng sáu nhập không thể khởi động. Tự lìa hành thiện, không người cứu độ chân chính. Mình nên, đối với các chúng sinh kia khởi tâm Đại Bi, dùng diệu lực của căn thiện để cứu vớt họ, khiến có được tâm vô úy, vắng lặng không cấu nhiễm, lìa mọi sợ hãi, an trú nơi cõi báu của Nhất thiết trí”. Luận: Sai biệt về đạo của chúng sinh cầu Hữu; tức là chìm đắm nơi sông lớn lỗi lầm. Như Kinh nói: “Các chúng sinh ấy bị sóng dữ của dòng thác lớn nhận chìm”. Sóng dữ nơi dòng thác lớn kia có ba loại: Tự thể. Khó ra khỏi. Mất mát. (Tổn thất). Tự thể có năm loại tướng: Nước sâu vô lượng. Như Kinh nói: “Bị trôi nổi theo bồn dòng chảy (dục, hữu, kiến, vô minh).” Trôi theo dòng chảy nơi thế gian, trôi mãi không dứt. Như Kinh nói: “Bị cuốn theo nẻo chìm nổi của thế gian”. Bị chìm nơi biển nước Ái. Như Kinh nói: “Đắm nơi sông lớn ái dục”. Trôi nổi bồng bềnh; niệm niệm không dừng cho nên không thấy bờ. Như Kinh nói: “Ở nơi dòng nước xiết, không thể quán xét đúng đắn”. Rộng lớn; xuôi theo tham dục… nhớ nghó-nhận biết xấu ác (ác giác) càng rộng lớn. Như Kinh nói: “Luôn có những nhận biết xấu ác như dục-sân-não hại khiến hành ác càng rộng. Khó ra khỏi có bốn loại: Chấp trước vào ngã-ngã sở như nhà ở, kho chứa, không thể lay động, lìa bỏ. Như Kinh nói: “Bị La-sát cầm giữ trong biển nước Ái kiến”. Vào trở lại: Trước đã lìa bỏ dục, lại trở vào nẻo ấy, tăng lên trong sự nhớ nghó về dục. Như Kinh nói: “Đã vào rừng dục, trở lại cầu tìm dục”. Bị vướng mắc; vào lúc thọ dụng, cầu tìm dục… luôn ưa thích, chấp trước. Như Kinh nói: “Cầu tìm trong sự thọ dụng dục, mà càng tham ái đắm chấp sâu dày”. Ở nơi cồn-bãi; đối với sự thọ dụng, hành xử, cho ngã là hơn hết, như ba loại ngã mạn, tự cao, khinh chê kẻ khác. Như Kinh nói: “Cõi đất ngã mạn đã thiêu đốt cháy khô họ”. Mất mát (Tổn thất) có ba loại: Tổn thất vì không ai cứu độ. Tức là ở trong cõi ác không có người cứu vớt. Tổn thất vì không có ý ra khỏi. Ở trong cõi thiện không có tâm xuất ly. Như Kinh nói: “Ở nơi xóm làng của sáu nhập không thể khởi động”. Tổn thất do đi đến xứ khác. Sinh vào các xứ nạn không gặp Phật ở đời. Như Kinh nói: “Tự lìa hành thiện, không có người hóa độ chân chính”. Các chúng sinh kia cần phải tùy thuận để đối trị, dùng pháp như thật khiến trú nơi cõi Nhất thiết trí. Như Kinh nói: “Mình nên, đối với các chúng sinh kia khởi tâm Đại Bi…”. Thế nào là sai biệt về cảnh giới của chúng sinh cầu Hữu? Kinh: “Các chúng sinh ấy bị giam giữ nơi lao ngục của thế gian, bị nhiều thứ khổ nạn, sầu não, vọng tưởng về yêu ghét trói buộc, lo buồn cùng hành, vòng khóa ái cột trói, vào nơi ba cõi, bị rừng rậm vô minh che phủ. Mình nên khiến các chúng sinh kia xa lìa hết thảy mọi thứ vướng mắc nơi ba cõi, giúp họ an trú nơi Niết-bàn vô ngại, lìa tướng”. Luận: Sai biệt về cảnh giới của chúng sinh cầu Hữu; tức là bị giam cầm nơi lao ngục lỗi lầm. Như Kinh nói: “Các chúng sinh ấy bị giam giữ nơi lao ngục của thế gian”. Lao ngục lỗi lầm này có năm loại theo đuổi, cho nên biết: Sự khổ. Của cải hết. Yêu thương ly biệt. Trói buộc. Chướng ngại. Ở đây chỉ rõ về năm loại sai biệt của khó khăn. Khó khăn về không bệnh. Tức là có nhiều thứ bệnh khổ, vọng tưởng sầu não. Như Kinh nói: “Bị nhiều thứ khổ nạn, sầu não, vọng tưởng”. Khó khăn về cuộc sống. Ở trong sự việc yêu thích không yêu thích-luôn bị yêu ghét trói buộc. Như Kinh nói: “Yêu ghét trói buộc”. Khó khăn về người thân. Người thân yêu ly tán, hoại diệt cho nên lo buồn càng tăng trưởng. Như Kinh nói: “Lo buồn cùng hành”. Khó khăn về giới. Tuy sinh trong cõi Sắc-Vô sắc, tạm lìa xa phạm giới, nhưng không tránh khỏi giới và hành trái nhau, cùng bị ái dục sai khiến, trói buộc. Như Kinh nói: “Bị vòng khóa ái cột trói”. Khó khăn về kiến chấp: Đạt được Trí thế gian, nhưng mâu thuẫn với sự che phủ, sai khiến của vô minh. Như Kinh nói: “Vào nơi ba cõi, bị rừng rậm vô minh che lấp”. Các chúng sinh này cần phải tùy thuận để đối trị, dùng pháp như thật khiến họ an trú Niết-bàn vô ngại, lìa tướng. Như Kinh nói: “Mình nên khiến các chúng sinh kia xa lìa hết thảy mọi thứ vướng mắc nơi ba cõi…”. Thế nào là tà kiến như các ngoại đạo? Kinh: “Các chúng sinh ấy chấp trước sâu vào tướng ngã. Ở nơi hang ổ của năm ấm không thể tự ra khỏi. Hành bốn điên đảo, dựa vào sáu nhập làng xóm trống không, luôn bị bốn loại rắn độc là bốn đại xâm phạm-bức não, bị giặc oán năm ấm sát hại, mà nhận lấy vô lượng khổ não. Mình phải khiến cho các chúng sinh đó xa lìa hết thảy mọi chướng ngại, giúp họ an trú nơi trí đạo về Không-Vô ngã, tức là Niết-bàn diệt trừ tất cả chướng ngại”. Luận: Phạm hạnh tà như các ngoại đạo; tức là chấp giữ lỗi lầm của tướng ngã. Đây là kiến chấp căn bản của các kiến chấp khác. Như Kinh nói: “Các chúng sinh ấy chấp trước sâu vào tướng ngã”. Những chúng sinh này muốn đến thành Niết-bàn, nhưng vì có ngã ở nơi ngôi nhà năm ấm không thể khởi động ra khỏi. Như Kinh nói: “Ở nơi hang ổ của năm ấm, không thể tự ra khỏi”. Muốn hành đạo chính, nhưng do điên đảo mà đi theo nẻo tà. Như Kinh nói: “Hành bốn điên đảo”. Trú nơi làng xóm là sáu nhập, theo ngã kiến hư vọng. Như Kinh nói: “Dựa vào sáu nhập là xóm làng trống vắng”. Thọ nhận các khổ của sinh-lão-bệnh-tử. Ý muốn xa lìa mà không thể lìa được, luôn tùy thuộc nơi tự thân. Như Kinh nói: “Thường bị bốn loại rắn độc là bốn đại xâm phạm, bức não”. Kẻ oán là ấm mãi theo đuổi mà không buông bỏ. Như Kinh nói: “Bị giặc oán năm ấm sát hại”. Luôn bị vô số các khổ đeo bám. Như Kinh nói: “Thọ nhận vô lượng các thứ khổ não ấy”. Các chúng sinh kia cần phải tùy thuận để đối trị. Dùng pháp như thật, xa lìa hết thảy chướng ngại, khiến an trú nơi Niết-bàn. Như Kinh nói: “Mình nên khiến cho các chúng sinh kia…”. Thế nào là phạm hạnh chân chính như Tiểu thừa đồng pháp? Kinh: “Các chúng sinh đó, do tâm nhỏ-hẹp-thấp mà không cầu Đại thừa. Tâm ấy xa lìa trí Nhất thiết trí vô thượng, cùng có xuất hành nhưng ưa thích Thừa Thanh văn và Bích-chi-Phật. Mình nên khiến cho các chúng sinh kia an trú nơi pháp Phật vô thượng, vi diệu, với ý nghĩa rộng lớn, sâu xa. Này các Phật tử! Bồ-tát thuận theo diệu lực của sự trì giới như vậy, cho nên khéo có thể phát khởi nhiều phương tiện hành hóa”. Luận: Phạm hạnh chính hành; là cầu đạt Tiểu thừa với những lỗi lầm. Ý của Tiểu thừa này có hai loại: Tâm nhỏ: Pháp Phật vi diệu, rộng lớn vô lượng, nhưng tâm ấy thối chuyển mà không thể chứng đắc. Tâm hẹp: Đối với vô lượng chúng sinh, biếng nhác đối với việc tạo lợi ích. Như Kinh nói: “Các chúng sinh đó, tâm nhỏ-hẹp-thấp mà không cầu pháp Đại thừa”. Lại dựa vào lỗi lầm của tâm nguyện Tiểu thừa, là nguyện nơi Tiểu thừa. Như Kinh nói: “Tâm ấy xa lìa trí Nhất thiết trí vô thượng, cho nên tu hành có lỗi lầm. Chúng sinh nơi tụ bất định thật sự có pháp Đại thừa xuất sinh, nhưng tu hành theo Tiểu thừa. Như Kinh nói: “Cùng có xuất hành (Hành trì để giải thoát) nhưng ưa thích Thừa Thanh văn, Bích-chi- Phật”. Các chúng sinh này cần phải tùy thuận để đối trị, dùng pháp như thật khiến trú nơi pháp Phật vô thượng, vi diệu, với tâm rộng lớn. Như Kinh nói: “Mình nên khiến cho các chúng sinh kia…”. Dựa vào trì giới để hành hóa, đạt được diệu lực của giới ấy, cho nên có thể tạo ra các pháp thiện, khéo léo dấy khởi các hành thiện. Như Kinh nói: “Này các Phật tử! Bồ-tát thuận theo diệu lực của việc trì giới như vậy, cho nên khéo có thể phát khởi nhiều phương tiện hành hóa”. Kinh: “Này các Phật tử! Bồ-tát ấy trú nơi địa Ly cấu của Bồ-tát xong, được thấy nhiều chư Phật. Do diệu lực của đại thần thông, diệu lực của đại nguyện, cho nên được thấy nhiều đến hàng trăm Đức Phật- hàng ngàn Đức Phật, hàng trăm ngàn-hàng trăm ngàn na-do-tha Phật, hàng ức Phật-hàng trăm ức, hàng trăm ngàn ức-hàng trăm ngàn ức na- do-tha Phật. Do diệu lực của đại thần thông-đại nguyện, Bồ-tát ấy khi thấy chư Phật, đều dùng tâm trên hết, tâm sâu xa, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men, tất cả mọi vật cung cấp đều để phụng thí, dùng các thứ vật dụng tạo an lạc thượng diệu của Bồ-tát cúng dường chúng Tăng, đem căn thiện này đều nguyện hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Nơi trú xứ của chư Phật, sinh tâm cung kính trên hết, lại thọ nhận mười pháp thiện. Thọ nhận pháp thiện rồi, cho đến khi chứng đắc đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, trong quá trình hành trì ấy hoàn toàn không thối thất. Bồ-tát ấy, ở trong vô lượng kiếp, vô lượng trăm kiếp, vô lượng ngàn kiếp, vô lượng trăm ngàn kiếp, vô lượng ức kiếp, vô lượng trăm- ngàn, vô lượng trăm ngàn ức kiếp, vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, xa lìa tâm keo kiệt-ganh ghét-phá giới-cấu nhiễm, thực hành bố thí, trì giới thanh tịnh. Này các Phật tử! Ví như đem vàng thật đã được luyện xong trong phàn thạch, đun nóng, tách lìa mọi cáu bẩn, khiến vàng trở cho nên sáng sạch. Này các Phật tử! Bồ-tát trú trong địa Ly cấu này cũng lại như vậy. Ở trong vô lượng kiếp, cho đến vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha kiếp luôn xa lìa tâm keo kiệt-ganh ghét-phá giới-cấu nhiễm, thành tựu bố thí, trì giới thanh tịnh. Bấy giờ, Bồ-tát ở trong bốn Nhiếp pháp, chú trọng nhiều về ái ngữ, trong mười Ba-la-mật, dốc sức tăng trưởng giới Ba-la-mật, các Ba-la-mật còn lại đều tu tập đầy đủ, tùy sức và tùy phần. Này các Phật tử! Đó gọi là nói tóm lược về địa Ly cấu, là Địa thứ hai của đại Bồ-tát. Bồ-tát trú trong địa này, nhiều lần làm Chuyển luân Thánh vương, được pháp tự tại, bảy báu đầy đủ, có diệu lực tự tại, có khả năng dứt trừ cấu uế như phá giới của hết thảy chúng sinh, dùng phương tiện thiện xảo khiến các chúng sinh tu hành mười thiện nghiệp đạo. Hành trì nghiệp thiện thuộc bố thí- ái ngữ-lợi ích-đồng sự, các phước đức ấy không lìa niệm Phật-niệm Pháp-niệm Tăng và niệm Bồ-tát, niệm về hạnh của Bồ-tát-niệm Ba-la-mật, mười địa-lực không hoại-vô úy và pháp bất cộng của Phật, cho đến không lìa niệm đầy đủ về trí Nhất thiết trí, trí Nhất thiết chủng trí. Luôn sinh khởi tâm này: Mình phải đối với tất cả chúng sinh, là người đứng đầu-hơn hẳn-lớn lao-diệu-vi diệu, là trên, là vô thượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, vị thầy, là bậc tôn quý, cho đến là chỗ dựa của trí Nhất thiết trí. Này các Phật tử! Bồ-tát này, nếu muốn lìa bỏ gia đình, siêng năng hành trì tinh tấn, thì ở trong pháp Phật liền có thể xả bỏ nhà cửa, vợ con, năm dục, được xuất gia rồi thì siêng năng, tinh tấn tu tập, trong khoảng một niệm đạt được ngàn Tam-muội, được thấy ngàn Phật, nhận biết ngàn thần lực của Phật, có thể làm chuyển động ngàn thế giới Phật, có thể đi vào ngàn thế giới Phật, có khả năng soi chiếu ngàn thế giới Phật, có thể giáo hóa chúng sinh nơi ngàn thế giới Phật, có thể thọ mạng ngàn kiếp, có thể nhận biết sự việc trong ngàn kiếp nơi đời quá khứ-vị lai, có thể khéo hội nhập ngàn pháp môn, có thể biến thân thành ngàn thân, nơi mỗi mỗi thân có thể hiện bày ngàn Bồ-tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại tối thắng, thì nguyện lực của Bồ-tát còn vượt hơn số lượng ấy, thị hiện vô số thần thông, hoặc thân tướng, hoặc ánh sáng, hoặc thần thông, hoặc nơi mắt, hoặc cảnh giới, hoặc âm thanh, hoặc hành trì, hoặc trang nghiêm, hoặc gia hộ, hoặc tin tưởng, hoặc tạo tác. Các thứ thần thông ấy, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết”. Luận: Ở đây, lợi ích của quả, đối chiếu về sự việc thù thắng, như nơi Địa thứ nhất đã nêu, địa này cũng như vậy. Chỗ có cùng chỗ không, cho nên biết. Sự việc thù thắng được nêu trong này; tức là từ vô lượng kiếp xa lìa tâm cấu uế của keo kiệt, ganh ghét, phá giới, thành tựu bố thí, trì giới thanh tịnh, cùng các sự việc thù thắng. Nơi Địa thứ nhất, giới chưa thanh tịnh, thí cũng chưa thanh tịnh. Như vậy tại sao trong Địa thứ nhất nói về Bố thí Ba-la-mật tăng thượng, còn các Ba-la-mật khác thì không bằng? Rõ ràng là Bố thí Ba-la-mật kia, so với Địa thứ hai này, thì đã chuyển biến và thanh tịnh hơn, do đã lìa các thứ cấu uế như keo kiệt-ganh ghét-phá giới … Vì vậy địa này, tên gọi được giải thích là Lìa cấu uế. Trong Địa thứ nhất, vàng chỉ dùng lửa để luyện, loại trừ các cáu bẩn thô trọng bên ngoài như tham …, gọi là vàng luyện thanh tịnh. Nay ở tại địa này lại đặt vàng đã luyện trong phàn thạch, đun nóng để loại trừ cáu bẩn, làm sáng rõ tự thể, là tự tính thanh tịnh đích thật, cho nên gọi là nghĩa giới tính thanh tịnh.  <卷>QUYỂN 5 Địa 3: ĐỊA MINH Luận: Dựa vào chỗ sai biệt của Địa thứ ba là Minh, có bốn phần: Phần khởi hành nhàm chán. Phần hành nhàm chán. Phần sự nhàm chán. Phần quả nhàm chán. Khởi hành nhàm chán; là do mười loại tâm niệm sâu xa. Hành nhàm chán; là quán xét tất cả hành là vô thường, cho đến chưa nhập thiền. Nhàm chán; là bốn thiền, bốn Không và Tam-ma-bạt-đề. Quả nhàm chán; là bốn vô lượng cùng với tâm sâu xa thanh tịnh, cho nên biết. Kinh: “Này các Phật tử! Bồ-tát khéo làm thanh tịnh tâm, hành trí Địa thứ hai xong, muốn đạt được Địa thứ ba của Bồ-tát, phải dấy khởi mười loại tâm niệm sâu xa. Những gì là mười? Đó là: Tâm thanh tịnh. Tâm không động. Tâm nhàm chán. Tâm lìa dục. Tâm không thối chuyển. Tâm kiên cố. Tâm sáng tỏ. Tâm thuần hậu. Tâm hứng thú. Tâm lớn lao. Bồ-tát dùng mười loại tâm niệm sâu xa này để đi vào Địa thứ ba”. Luận: Mười loại tâm niệm sâu xa ở đây: Dựa vào sự thành tựu của Địa thứ hai để khởi tâm niệm sâu xa thanh tịnh, như kinh nói: “Khởi tâm thanh tịnh”. Dựa vào chỗ không xả bỏ Thừa của mình, như kinh nói: “Khởi tâm không động”. Ý chí cầu đạt pháp thù thắng, dấy khởi phương tiện thiện xảo, vì vậy có thể chán bỏ tham dục nơi vị lai. Dựa vào sự không tham cầu nơi dục hiện tại, như kinh nói: “Khởi tâm nhàm chán, tâm lìa dục”. Dựa vào chỗ không bỏ nẻo tăng tiến nơi Thừa của mình, như kinh nói: “Khởi tâm không thối chuyển”. Dựa vào địa của mình, phiền não không thể hủy hoại, như kinh nói: “Khởi tâm kiên cố”. Dựa vào tính chất tự tại của Tam-ma-bạt-đề (Định), như kinh nói: “Khởi tâm sáng tỏ”. Dựa vào lực dụng tự tại của Thiền định, tuy sinh vào cõi dưới nhưng không thối thất, như kinh nói: “Khởi tâm thuần hậu”. Dựa vào chỗ phiền não phát sinh kia không thể làm cho nhiễm ô, như kinh nói: “Khởi tâm hứng thú”. Dựa vào việc làm lợi ích cho chúng sinh, không dứt bỏ các cõi, như kinh nói: “Khởi tâm lớn lao”. Đã nói xong phần “Khởi hành nhàm chán”, tiếp theo là nói về phần “Hành nhàm chán”. Hành nhàm chán có ba loại: Hành tu tập ngăn chận phiền não. Hành tu tập ngăn chận Tiểu thừa. Hành tu tập dùng phương tiện thâu nhiếp. - Hành tu tập ngăn chận phiền não; là quán xét hết thảy các hành vô thường, không có kẻ cứu độ. Hai mươi câu này chỉ rõ: Thế nào là quán tất cả hành vô thường? Kinh: “Này các Phật tử! Bồ-tát ấy an trú nơi địa Bồ-tát thứ ba rồi, quán xét đúng đắn về pháp hữu vi, với tất cả hành vô thường, khổ-bất tịnh-vô thường, tan hoại không trú lâu, niệm niệm sinh diệt, không từ đời trước đến không đi đến đời sau, hiện tại thì không dừng. Quán xét đúng đắn về tất cả hành như vậy”. Luận: Ở đây, nẻo hành của thọ mạng không dừng, là nêu rõ chung về quán vô thường. Như kinh nói: “Quán xét đúng đắn về pháp hữu vi…”. Vô thường này thế nào? Cái gì là vô thường? Quán xét đúng đắn như vậy. - Vô thường này thế nào? Dựa vào thời gian chuyển biến của thân sức, sinh ra ba loại khổ. Như kinh nói: “Là khổ”. Dựa sức ăn uống, hình sắc có tăng-giảm… Như kinh nói: “Là bất tịnh”. Dựa sức không thể ngăn giữ các điều ác, làm cho nên thọ mạng ngắn ngủi. Như kinh nói: “Là vô thường”. Dựa vào sức của thế giới thành trú, diệt hoại. Như kinh nói: “Là tan hoại”. Đời sống dựa vào chủ không có lực cố định, không dừng ở một nơi. Như kinh nói: “Không trú lâu”. Cái gì là vô thường? Vô thường có hai loại: Khi còn trẻ. Như Kinh nói: “Niệm niệm sinh diệt”. Tự tính chẳng thành: Thật sự trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai là không sinh, không chuyển, không trú. Như kinh nói: “Không từ đời trước đến, không đi đến đời sau, hiện tại thì không dừng”. Quán xét đúng đắn về tất cả các hành như vậy, quán xét hết thảy pháp hữu vi như vậy, trong hành vô thường không có người cứu độ. Kinh: “Bồ-tát ấy quán xét chân thật như vậy, thấy rõ tất cả hành không có người cứu độ, không nơi chốn nương dựa, cùng lo, cùng buồn, cùng bị bức bách, bị yêu ghét trói buộc, sầu não càng nhiều, không hề dừng lâu, luôn bị lửa tham sân si thiêu đốt, thấy rõ thân có vô lượng bệnh khổ tăng trưởng”. Luận: Bồ-tát ấy quán xét chân thật như vậy, thấy rõ tất cả hành không có người cứu độ. Mười câu thứ hai này, nói về Không cứu độ, có chín loại: Ở nơi vô thường chưa đến; không có chỗ nương, báo cho biết. Như kinh nói: “Không nơi chốn nương tựa”. Vô thường đã đến; không ai có thể cứu độ. Vì vô thường đến cho nên phần nhiều cùng lo, khổ. Như kinh nói: “Cùng lo”. Khoảng giữa cùng buồn. Như kinh nói: “Cùng buồn”. Trong sự việc cùng khổ não thì lo, buồn luôn đeo đuổi. Vì sức lực yếu kém cho nên càng thêm bực bội, bức bách. Như kinh nói: “Cùng bị bức bách”. Lúc theo đuổi, cầu tìm vật dụng cho đời sống, mong muốn điều yêu thích chứ không mong điều không yêu thích. Như vậy, luôn bị vọng tưởng về yêu-ghét trói buộc. Như kinh nói: “Bị yêu ghét trói buộc”. Trong khi thọ dụng thì vui ít, khổ nhiều. Như kinh nói: “Sầu não càng tăng nhiều”. Vào lúc thân già yếu thì sắc lực tráng kiện của thời trẻ không thể tích tập trở lại. Như kinh nói: “Không thể dừng lâu”. Khi còn trẻ-mạnh, có đủ ba loại thọ nhận, thường bị tâm tham thiêu đốt. Như kinh nói: “Luôn bị lửa tham-sân-si đốt cháy”. Lúc già yếu, vô lượng bệnh khổ tăng trưởng. Như kinh nói: “Thấy rõ thân có vô lượng bệnh khổ tăng trưởng”. Ba câu sau đều nêu rõ về các việc khổ hoạn nơi thân. Vì sao không nêu ở phần đầu? Bởi vì chỉ rõ thân luôn luôn có sự lo lắng, hoạn nạn. Thế nào là hành tu tập ngăn chận Tiểu thừa? Kinh: “Bồ-tát ấy thấy rõ như vậy rồi, đối với hết thảy Hành càng thêm chán lìa, hướng tới trí tuệ của Như Lai. Bồ-tát này thấy rõ trí tuệ của Như Lai là không thể nghó bàn, là không gì hơn, là vô lượng, là khó chứng đắc, không xen tạp, không phiền, không lo, có thể dẫn đến thành lớn an ổn, không sợ hãi, không còn phải trở lại, thấy rõ là có thể cứu độ vô lượng chúng sinh khổ não”. Luận: Tu hành ngăn chận Tiểu thừa; tức là đối với tất cả các hành hữu vi, sinh chán lìa rồi, dốc lòng hướng tới trí tuệ Phật. Dựa vào trí của Như Lai có hai loại lớn: Lớn do thâu nhiếp các công đức. Lớn do thanh tịnh. Lớn do thâu nhiếp các công đức; có năm loại: Lớn do thâu nhiếp các công đức từ thần lực. Như kinh nói: “Bồ- tát ấy thấy rõ trí tuệ của Như Lai là không thể nghó bàn”. Lớn do thâu nhiếp các công đức không gì sánh, bởi vì không có người đối xứng. Như kinh nói: “Không gì bằng”. Lớn do thâu nhiếp các công đức có ý nghĩa vó đại; bởi vì có thể làm lợi ích rộng khắp cho vô lượng chúng sinh. Như kinh nói: “Vô lượng”. Lớn do thâu nhiếp các công đức không bị chê trách; bởi vì ít có, khó đạt được. Như kinh nói: “Khó chứng đắc”. Lớn do thâu nhiếp các công đức khác thường; bởi vì các ngoại đạo không thể làm lẫn lộn. Như kinh nói: “Không xen tạp”. Lớn do thanh tịnh; là xa lìa phiền não sử-khổ, đạt được Niết- bàn. Xa lìa phiền não sử; tức là xa lìa phiền não dựa theo vô minh, không bị xen tạp. Như kinh nói: “Không phiền não”. Lìa khổ; tức là mọi khổ căn bản dứt hết, các thứ lo buồn tùy thuộc cũng hết. Như kinh nói: “Không lo buồn”. Đạt được Niết-bàn. Như kinh nói: “Có thể dẫn đến thành lớn an ổn, không sợ hãi”. Bồ-tát đến thành Niết-bàn rồi, không còn thối chuyển trở lại, mà có thể làm lợi ích cho chúng sinh khiến họ đạt được các sự việc thù thắng của Niết-bàn thế gian và xuất thế gian. Như kinh nói:”Không còn thối chuyển trở lại”. Thấy có thể cứu độ vô lượng chúng sinh khổ não, là dựa vào các chúng sinh không có người cứu độ, phát khởi mười loại tâm thù thắng. Kinh: “Bồ-tát thấy rõ trí tuệ của Như Lai vô lượng như vậy, thấy rõ hết thảy hành hữu vi có vô lượng khổ não, lại đối với tất cả chúng sinh mà chuyển sinh mười loại tâm thù thắng. Những gì là mười? Đó là Bồ-tát khởi tâm thù thắng đối với mười loại chúng sinh: Chúng sinh đáng thương xót vì cô độc, không có người cứu độ. Luôn luôn bần cùng. Bị lửa của ba độc thiêu đốt không dứt. Bị giam trong lao ngục kiên cố của ba cõi. Thường bị các thứ rừng rậm xấu ác của phiền não che phủ. Không có sức lực để quán xét đúng đắn. Xa lìa pháp thiện, tâm không có gì vui sướng. Mất pháp diệu của chư Phật. Luôn bị cuốn theo dòng chảy của thế gian. Mất phương tiện đạt tới Niết-bàn”. Luận: Ở đây, không có người cứu bởi vì cô độc. Cô độc không có người cứu, có chín loại: Cô độc không có người cứu vì luôn luôn bần cùng. Cô độc không có người cứu vì bị lửa của ba độc thiêu đốt không dứt. Cô độc không có người cứu vì bị giam trong lao ngục kiên cố của ba cõi. Cô độc không có người cứu vì thường bị các thứ rừng rậm xấu ác của phiền não che phủ. Cô độc không có người cứu vì không có sức lực để quán xét đúng đắn. Cô độc không có người cứu vì xa lìa pháp thiện, tâm không có gì vui sướng. Cô độc không có người cứu vì làm mất pháp diệu của Phật. Cô độc không có người cứu vì luôn bị cuốn theo dòng chảy của thế gian. Cô độc không có người cứu vì mất phương tiện đạt tới Niết- bàn. Dựa vào chúng sinh cầu Dục mà tâm không biết chán đủ, đối với tài sản của kẻ khác luôn mong cầu không biết dừng nghỉ, hai loại mà nên biết. Như kinh nói: “Đối với chúng sinh luôn mãi bần cùng, khởi tâm thù thắng. Đối với chúng sinh bị lửa của ba độc thiêu đốt không dứt, khởi tâm thù thắng”. Dựa vào các chúng sinh cầu Hữu (cõi) luân chuyển trong sáu cõi thế gian, các chúng sinh kia do bị phiền não che lấp, thường sinh vào các chốn nạn. Ba câu như vậy, theo thứ tự nên biết, như kinh nói: “Đối với các chúng sinh bị giam trong lao ngục kiên cố của ba cõi, khởi tâm thù thắng. Đối với các chúng sinh thường bị các thứ rừng rậm xấu ác của phiền não che phủ, khởi tâm thù thắng. Đối với các chúng sinh không có sức lực để quán xét đúng đắn, khởi tâm thù thắng”. Dựa vào các chúng sinh cầu phạm hạnh không phát khởi ý niệm thù thắng, mang tâm kiêu mạn tăng thượng, tâm không muốn vào Niết- bàn, tâm vọng hành theo ngoại đạo. Bốn câu như vậy, theo thứ tự nên biết, như kinh nói: “Đối với các chúng sinh: Xa lìa pháp thiện, tâm không có gì vui sướng. Làm mất pháp diệu của Phật. Thường bị cuốn theo dòng chảy của thế gian. Mất phương tiện đạt đến Niết-bàn. Bồ-tát khởi tâm thù thắng”. Tiếp theo là nói về Bồ-tát hành tinh tiến, phát mười loại tâm bày để cứu độ chúng sinh. Kinh: “Bồ-tát ấy thấy rõ cảnh giới của các chúng sinh đều nhận chịu vô số các thứ khổ não như vậy, đã phát khởi hạnh tinh tiến lớn: Các chúng sinh này mình nên cứu độ, nên giải thoát, nên khiến cho họ được thanh tịnh, nên khiến họ được thoát khỏi, nên dẫn dắt họ đi đến nơi thiện, nên khiến họ an trú, cho nên khiến họ hoan hỷ, nên biết rõ chỗ thích hợp, nên khiến cho họ được vượt qua, nên khiến họ đạt đến Niết-bàn”. Luận: Cứu độ những nơi chốn nào? Dùng những gì để cứu độ? Làm sao cứu độ thành tựu? Phần này làm rõ chỗ sai biệt của việc cứu độ chúng sinh. Cứu độ những nơi chốn nào? Ở trong vọng tưởng về nghiệp, vọng tưởng về phiền não, vọng tưởng về sinh tồn. Như kinh nói: “Mình nên giải cứu, nên khiến cho họ được thanh tịnh, cho nên khiến họ được thoát khỏi”. Thứ tự như vậy, mình nên cứu độ. Dùng những gì để cứu độ? Trao cho ba Học để thâu nhiếp, khuyên ở yên nơi chốn trì giới, khuyến khích trú nơi chốn định-tuệ. Như kinh nói: “Cho nên dẫn dắt họ đi đến chốn thiện. Cho nên khiến an trú”. Thứ tự về cảnh giới Tam-muội như vậy là định-tuệ hợp nêu. Lại khuyên ở yên nơi chốn trì giới có hai loại: Dứt trừ lưới nghi khiến tin tưởng vào giới. Như kinh nói: “Nên khiến họ hoan hỷ”. Người đã vào giới; khiến tâm vui thích, an trú kiên cố, không động. Như kinh nói: Nên biết rõ chỗ thích hợp”. Lại khuyên trú vào định-tuệ, diệt trừ các thứ tuỳ phiền não sai khiến như Trạo cử, Hôn trầm. Như kinh nói: “Nên khiến cho họ được vượt qua”. Làm sao cứu độ thành tựu? Tức là khiến đạt được hai loại cảnh giới Niết-bàn. Như kinh nói: “Nên khiến cho họ đạt đến Niết-bàn”. Đó gọi là Hành tu tập ngăn chận nẻo Tiểu thừa. Thế nào là Hành tu tập dùng phương tiện để thâu nhiếp? Kinh: “Bồ-tát khéo chán lìa tất cả hành hữu vi như vậy rồi, nhớ nghó sâu về hết thảy cảnh giới chúng sinh, hướng tới trí Nhất thiết trí, làm vô lượng lợi ích, ngay lúc ấy dựa vào trí tuệ của Như Lai để cứu độ chúng sinh, tư duy như vậy: Các chúng sinh này rơi vào trong nghiệp- phiền não nhiều khổ đau, dùng phương tiện hành hóa gì để cứu vớt, khiến họ an trú nơi Niết-bàn an lạc trọn vẹn?”. Luận: Ở đây, chán lìa-nhớ nghó sâu-tạo lợi ích, chỉ rõ về ba loại nhân: Nhân xa lìa vọng tưởng; khéo chán lìa hết thảy hành hữu vi. Nhân không xả bỏ thế gian; nhớ nghó sâu về tất cả cảnh giới chúng sinh. Nhân phát khởi tinh tiến; hướng tới trí Nhất thiết trí, làm vô lượng lợi ích. Hướng tới nơi chốn lợi ích; là có thể tu hành chính đạo. Nhớ nghó sâu xa; là có thể khéo hóa độ chúng sinh. Dựa vào trí tuệ của Như Lai để cứu độ chúng sinh. Câu này chỉ rõ về hành phát khởi phương tiện để thâu nhiếp. Như kinh nói: “Bồ-tát tư duy: Các chúng sinh này rơi vào trong…”. Rơi vào trong nghiệp-phiền não khổ đau: Khổ là vọng tưởng về sinh tồn. Phiền não là vọng tưởng về phiền não. Nghiệp là vọng tưởng về nghiệp. Niết-bàn an lạc trọn vẹn; là Niết-bàn vô thượng. Trong ấy, phương tiện hành hóa để thâu nhiếp có ba loại: Chứng đắc rốt ráo tận cùng. Phát khởi chứng đắc rốt ráo tận cùng bậc nhất. Phát khởi hành nương tựa. Kinh: “Bồ-tát ấy suy nghó: Không lìa bỏ nơi chốn của trí giải thoát không chướng ngại. Nhờ vào nơi chốn của trí kia cho nên không lìa bỏ sự nhận biết đúng như thật về tất cả pháp. Nhờ vào sự nhận biết đúng như thật về tất cả pháp kia cho nên không lìa trí tuệ hành vô sinh vô hành. Do ánh sáng của trí tuệ như vậy cho nên không lìa phương tiện của thiền, quyết định quán trí tuệ. Nhờ vào phương tiện của thiền, quyết định quán trí tuệ kia cho nên không lìa phương tiện của văn tuệ”. Luận: Chứng đắc rốt ráo tận cùng; là an trú trong trí giải thoát không chướng ngại. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy suy nghó: Không lìa bỏ nơi chốn của trí giải thoát không chướng ngại”. Bồ-tát hoàn toàn dựa vào tất cả pháp do Như Lai nêu giảng, tùy thuận để phát khởi sự nhận biết đúng như thật. Nhờ sự nhận biết đúng như thật đó mà sinh trí giải thoát không chướng ngại kia. Như kinh nói: “Nhờ vào nơi chốn của trí giải thoát không chướng ngại kia, cho nên không lìa sự nhận biết đúng như thật về tất cả pháp”. Đây là hành tuệ không phân biệt tự tướng, đồng tướng. Như kinh nói: “Nhờ vào sự nhận biết đúng như thật về tất cả pháp kia cho nên không lìa tuệ hành vô sinh-vô hành. Do ánh sáng của trí trí tuệ như vậy cho nên không lìa phương tiện của thiền…”. Trí tuệ kia, ở đây gọi là Ánh sáng rạng rỡ. Dựa vào ánh sáng đó cho nên gọi là địa Minh (Địa thứ ba). Bồ-tát ấy, ở trong thiền định, dùng phương tiện quyết định quán trí tuệ. Như kinh nói: “Nhờ vào phương tiện của thiền kia quyết định quán trí tuệ cho nên không lìa phương tiện của Văn tuệ”. Phương tiện của thiền; là đạt được thiền thắng tiến. Quyết định; tức là quyết định đối với các việc khác. Quán trí tuệ; là dùng trí tuệ của chính mình để quán xét. Đó gọi là phát khởi sự chứng đắc rốt ráo tận cùng bậc nhất. Bồ-tát quán trí tuệ như vậy là dựa vào phương tiện của Văn tuệ mà đạt được. Đây là Bồ-tát phát khởi hành nương dựa. Phương tiện của văn tuệ là chỗ nương dựa của sự phát khởi. Vì thế, tu hành được gọi là Bồ-tát dấy khởi hành nương dựa, trong đó, hành giả ngày đêm cầu pháp, nghe pháp. Thứ tự dựa vào giáo-nghĩa như vậy. Kinh: “Bồ-tát quán xét đúng đắn nhận biết như vậy rồi, lại càng thêm siêng năng tu tập, hành trì cầu đạt chính pháp, ngày đêm luôn cầu nghe pháp, thích pháp, vui với pháp, dựa vào pháp, thuận theo pháp, làm tăng trưởng pháp, tư duy pháp, đạt tới chỗ rốt ráo của pháp, quy kính pháp, tuỳ thuận pháp để hành hóa”. Luận: Ở đây, hành trì cầu đạt chính pháp; là dựa vào kinh giáo, dựa vào diệu nghĩa, như trước đã nói. Ngày đêm luôn cầu, nghe pháp-thích pháp-vui với pháp; là không có tâm kiêu mạn, không có tâm ganh ghét, không có tâm khuất phục kẻ khác, để hỏi nghĩa. Dựa vào pháp; là dựa vào giáo pháp Đại thừa, tự thấy rõ là đúng để giữ lấy, không quên mất. Theo pháp, làm tăng trưởng pháp-tư duy về pháp; là dựa vào sự đọc tụng, dựa vào việc vì người khác mà nêu giảng, dựa vào nơi chốn tịch tónh để tư duy về ý nghĩa. Đạt tới chỗ rốt ráo của pháp; là dựa vào định để tu hành. Quy kính pháp; là dựa vào trí xuất thế gian. Tùy thuận pháp để hành hóa; là dựa vào giải thoát, đối với pháp giải thoát của chư Phật luôn tùy thuận mà hành trì. Trong đoạn này, hành trì cầu đạt chính pháp, luôn cầu nghe pháp: Hai câu này chỉ rõ việc luôn siêng năng hành trì. Thích pháp… gồm chín câu chỉ rõ về sự tu hành chân chính. Bồ-tát kia thường siêng năng hành trì, lấy gì làm nhân? Chỉ rõ là sự cung kính, tôn trọng pháp, hết mực đầy đủ trọn vẹn. Bồ-tát kia được tài sản bậc nhất, ở trong chốn nhiều của cải châu báu cùng ngôi vị vua chúa, hoặc sinh nơi cõi trời, sinh trong thế gian thanh tịnh, tự thân luôn tôn trọng chính pháp. Kinh: “Bồ-tát dùng phương tiện như vậy để cầu đạt pháp Phật, không có các thứ tiền của, kho đụn vật báu nào mà không thể xả bỏ. Đối với các vật ấy không sinh ý tưởng khó có, chỉ đối với người thuyết giảng chính pháp sinh tưởng là khó gặp. Bồ-tát này, vì cầu pháp Phật, không có các thứ tài sản bên ngoài được thọ dụng nào mà không thể xả bỏ, cũng không có các thứ tài sản bên trong nào mà không thể từ bỏ. Không có chỗ tạo ra các vật dụng để cung cấp, tôn kính nào mà không thể làm. Không có các thứ kiêu mạn-ngã mạn-đại mạn nào mà không thể trừ bỏ. Ngay thẳng-chân chất-dịu dàng-mềm mỏng, cho nên không có thân khổ nào mà không thể thọ nhận. Bồ-tát ấy thành tựu được “Tâm thắng tài. Nếu nghe một câu pháp chưa từng nghe, thì cho là hơn có được châu báu đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Bồ-tát này, nếu được nghe một bài kệ về chính pháp, thì sinh ý tưởng cho là tài sản bậc nhất, hơn có được ngôi vị Chuyển luân Thánh vương. Lại nữa, đạt được Tâm thắng tài, nếu được pháp chưa từng nghe, có thể làm thanh tịnh cho hạnh Bồ-tát, thì cho là hơn có được mạng sống vô lượng kiếp nơi chốn của Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm Thiên vương. Bồ-tát này, nếu có người đến nói như vậy: Tôi sẽ trao cho ông một câu pháp do Phật thuyết giảng, có thể làm thanh tịnh cho hạnh Bồ-tát, nếu như nay ông có thể nhảy vào hầm lửa lớn đang cháy rực, chịu khổ não dữ dội, như vậy thì ông sẽ nhận được câu pháp kia. Bồ-tát ấy liền tư duy: Mình nhận được một câu pháp do Phật thuyết giảng, có thể làm thanh tịnh cho hạnh Bồ- tát, thì đối với lửa dữ đầy khắp trong ba ngàn đại thiên thế giới, hãy còn từ cõi Phạm thiên nhảy xuống, huống là bước vào hầm lửa nhỏ này! Mình chờ đợi pháp, thì dù phải thọ nhận hết mọi thứ khổ nơi địa ngục, vẫn làm được để cầu pháp, huống là các khổ não nhỏ trong cõi người! Bồ-tát phát khởi hạnh tinh tiến như vậy, tu tập chính pháp, theo pháp đã được nghe, ở chốn tịch tónh, đều có thể quán xét đúng đắn”. Luận: Bồ-tát kia, vì quý trọng pháp cho nên có thể xả bỏ tất cả tài sản vật dụng. Như kinh nói: “Bồ-tát dùng phương tiện như vậy để cầu đạt pháp Phật…”. Cho đến: “Chỉ đối với người thuyết giảng chính pháp sinh ý tưởng khó gặp”. Đối với các thứ tài sản bên ngoài-bên trong, Bồ-tát đều có thể xả bỏ để cầu đạt pháp Phật, như kinh đã nói rõ. Thân hành cung kính, phụng dâng… Như kinh nói: “Không có chỗ tạo ra các vật dụng để cung cấp tôn kính nào mà không thể làm…”. Các thứ tâm ý cao ngạo, tự đại cũng có thể dứt bỏ. Như kinh nói: “Không có các thứ kiêu mạn-ngã mạn- đại mạn nào…”. Những nơi chốn cần giữ gìn, Bồ-tát cũng có thể xả bỏ. Vô số các thứ khổ nơi thân đều có thể nhận chịu… Đối với các thứ tài sản, châu báu quý giá, thù thắng có được nhưng Bồ-tát không yêu thích, vì đã thành tựu tâm quý trọng pháp. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy thành tựu được Tâm thắng tài…” cho đến “cho là hơn có được châu báu đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới”. Đó gọi là đối với của cải đã thắng được chúng. Thế nào gọi là thắng đối với ngôi vị vua…? Bồ-tát ấy đạt được pháp, càng sinh tâm hoan hỷ và thành tựu tâm ấy, còn hơn có được ngôi vị Chuyển luân Thánh vương, Đế thích, Phạm vương. Như kinh nói: “Bồ-tát này được nghe một bài kệ về chính pháp, sinh ý tưởng cho là tài sản bậc nhất…”. Vì cầu pháp, cho nên Bồ-tát có thể buông thân nhảy vào lửa dữ cháy tràn khắp ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến ở rất lâu nơi địa ngục nhận chịu bao thứ khổ não. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nếu có người đến nói như vậy…”. Ở đây, nghe một câu pháp; tức là nghe câu chữ về pháp. Được nghe một bài kệ về pháp; là nghe kệ nói về chính pháp. Có thể làm thanh tịnh cho hạnh Bồ-tát; tức là lãnh hội về ý nghĩa. Sự tu hành chân chính ấy dùng gì để làm nhân? Tức là chỉ rõ dựa vào chốn tịch tónh để tư duy quán xét đúng đắn. Như kinh nói: “Bồ-tát phát khởi hạnh tinh tiến như vậy…”. Thế nào là phần nhàm chán? (Phần ba trong bốn phần nơi Địa thứ ba). Bồ-tát ấy lãnh hội các pháp rồi, nhận biết phải tu hành đúng theo lời giảng nói mới chứng đạt pháp Phật. Nhập thiền vô sắc với vô lượng thần thông, nhưng đó không phải là chốn an lạc, cho nên ở trong đó quyết định không đắm nhiễm. Kinh: “Bồ-tát ấy nghe các pháp rồi, tự hàng phục tâm mình, ở nơi chốn thanh vắng, tâm suy nghó: Phải hành trì đúng như lời giảng nói mới chứng đắc pháp Phật, không thể chỉ dùng những ngôn thuyết từ nơi miệng mà đạt được thanh tịnh. Bồ-tát ấy, trú nơi địa Minh này, dựa vào lời thuyết giảng để hành trì, liền lìa các pháp ác, bất thiện của dục nơi có giác có quán, hỷ lạc sinh do lìa, nhập vào nẻo hành của Thiền thứ nhất. Bồ-tát ấy diệt bỏ giác-quán, bên trong tâm thanh tịnh, toàn chốn không giác-không quán, hỷ lạc sinh do định nhập vào nẻo hành của Thiền thứ hai. Bồ-tát này lìa hỷ, hành xả, nghó về tuệ an ổn, thân thọ nhận lạc như các bậc Hiền Thánh đã có thể nêu bày, có thể xả bỏ, nghó về sự thọ nhận an lạc, nhập vào nẻo hành của Thiền thứ ba. Bồ-tát ấy dứt hẳn mọi khổ-vui, trước hết là dứt bỏ ưa-hỷ, không khổ không vui, niệm xả thanh tịnh nhập vào nẻo hành của Thiền thứ tư. Bồ-tát này vượt quá hết thảy tưởng của sắc, dứt bỏ tất cả tưởng hữu đối, không nghó về tất cả tưởng dị biệt, nhận biết về Hư không vô biên, liền nhập vào nẻo hành của xứ Hư không vô biên. Bồ-tát này đã vượt qua tất cả tưởng của Hư không vô biên, nhận biết Thức vô biên, liền nhập vào nẻo hành của xứ Thức vô biên. Bồ-tát này lại vượt quá tất cả tưởng của Thức vô biên, nhận biết về Vô sở hữu, liền nhập vào nẻo hành của xứ Vô sở hữu. Bồ- tát ấy lại vượt quá tất cả xứ Vô sở hữu, nhận biết nơi an ổn của Phi hữu tưởng phi vô tưởng, liền nhập vào nẻo hành của xứ Phi hữu tưởng phi vô tưởng, chỉ tùy thuận pháp hành mà không ham thích, vướng chấp”. Luận: Do ý nghĩa gì mà nhập thiền Vô sắc với vô lượng thần thông? Vì năm loại chúng sinh: Vì các chúng sinh kiêu mạn nơi thiền lạc cho nên nhập các thiền. Vì giải thoát cho các chúng sinh kiêu mạn nơi Vô sắc cho nên nhập định vô sắc. Vì các chúng sinh khổ não, khiến an trú nơi xứ thiện, trao cho an lạc vónh viễn, cần giải cứu các thứ khổ kia, khiến họ không còn nhận chịu nữa, cho nên nhập vô lượng Từ Bi. Vì các chúng sinh được giải thoát, cho nên nhập vô lượng Hỷ Xả. Vì các chúng sinh quy y nơi nẻo tà, cho nên nhập thần thông lực thù thắng, khiến họ có được chính tín đối với ý nghĩa. Địa này đạt được thiền không thối chuyển, cho nên gọi là địa Tam-muội. Địa trước không phải là không có Tam-muội, nhưng địa này vượt hơn. Ở đây, sự sai biệt của thiền cõi Sắc có bốn loại: Lìa chướng ngại. Tu hành đối trị. Tu hành làm lợi ích. Hai loại kia (2, 3) đều nương vào Tam-muội. Trong thiền thứ nhất này: Lìa các pháp ác, bất thiện của dục; đó gọi là lìa chướng ngại. Như kinh nói: “Tức lìa các pháp ác, bất thiện của dục”. Có giác có quán; đó gọi là Tu hành đối trị. Như kinh nói: “Nơi có giác có quán”. Hỷ lạc; đó gọi là tu hành làm lợi ích. Như kinh nói: “Hỷ lạc sinh do lìa”. Nhập vào nẻo hành của thiền thứ nhất; đó gọi là hai loại kia đều nương vào Tam-muội. Như kinh nói: “Nhập vào nẻo hành của thiền thứ nhất”. Trong thiền thứ hai: Diệt bỏ giác-quán; đó gọi là lìa chướng ngại. Như kinh nói: “Diệt bỏ giác-quán”. Bên trong thanh tịnh; đó gọi là tu hành đối trị, diệt bỏ chướng ngại là giác-quán. Như kinh nói: “Bên trong, tâm thanh tịnh, toàn xứ đều không giác không quán”. Tâm một xứ; là tu tập Tam-muội vô lậu không gián đoạn, hành một cảnh. Hỷ lạc do định sinh; đó gọi là tu hành làm lợi ích. Như kinh nói: “Hỷ lạc do định sinh”. Nhập vào nẻo hành của thiền thứ hai; đó gọi là hai loại kia đều nương vào Tam-muội. Như kinh nói: “Nhập vào nẻo hành của thiền thứ hai”. Trong thiền thứ ba: Lìa hỷ; đó gọi là lìa chướng ngại. Như kinh nói: “Lìa hỷ”. Hành xả- nghó về tuệ an ổn; đó gọi là tu hành đối trị. Như kinh nói: “Hành xả, nghó về tuệ an ổn”. Thân thọ nhận lạc; đó gọi là tu hành làm lợi ích. Như kinh nói: “Thân thọ nhận lạc”. Nhập vào nẻo hành của thiền thứ ba; đó gọi là hai loại kia đều nương vào Tam-muội. Như kinh nói: “Nhập vào nẻo hành của thiền thứ ba”. Trong thiền thứ tư: Đoạn trừ khổ- lạc, trước hết là dứt bỏ ưu-hỷ; đó gọi là lìa chướng ngại. Như kinh nói: “Đoạn trừ khổ-lạc…”. Niệm xả thanh tịnh; đó gọi là tu hành đối trị. Như kinh nói: “Niệm xả thanh tịnh”. Không khổ-không lạc; đó gọi là tu hành làm lợi ích. Như kinh nói: “Không khổ-không vui”. Nhập vào nẻo hành của thiền thứ tư; đó gọi là hai loại kia đều nương vào Tam-muội. Như kinh nói: “Nhập vào nẻo hành của thiền thứ tư”. Tam-ma-bạt-đề (Định) vô sắc cũng có bốn loại: Lìa chướng ngại. Tu hành đối trị. Tu hành làm lợi ích. Hai loại kia (2, 3) đều nương vào Tam-muội. Vượt quá tất cả tưởng của sắc; là vượt quá tưởng của nhãn thức. Diệt bỏ hết thảy tưởng của hữu đối; tức là tưởng hòa hợp của nhó thức-tỷ thức-thiệt thức-thân thức, được diệt trừ. Không nghó về tất cả tưởng dị biệt; là không nghó về tưởng hòa hợp của ý thức. Do ý thức phân biệt đối với tất cả pháp, cho nên gọi là tưởng dị biệt. Cả ba trường hợp trên gọi là lìa chướng ngại. Như vậy, đối trị vượt quá tưởng của sắc và cảnh giới, không phân biệt sắc và cảnh giới, thấy rõ vô ngã. Đó gọi là tu hành đối trị. Nhận biết về Hư không vô biên; đó gọi là tu hành làm lợi ích. Liền nhập vào nẻo hành của Hư không vô biên; đó gọi là hai loại kia đều nương vào Tam-muội. Vượt quá tất cả tưởng của Hư không vô biên; đó gọi là lìa chướng ngại. Đối trị như vậy, vượt quá Hư không vô biên kia, thấy rõ niệm thô bên ngoài, phân biệt chỗ lỗi lầm trở ngại; đó gọi là tu hành đối trị. Nhận biết về Thức vô biên; đó gọi là tu hành làm lợi ích. Liền nhập vào nẻo hành của Thức vô biên; đó gọi là hai loại kia đều nương vào Tam-muội. Vượt quá tất cả tưởng của Thức vô biên; đó gọi là lìa chướng ngại. Đối trị như vậy; vượt quá Thức vô biên kia, thấy rõ niệm về sự thô, phân biệt chỗ lỗi lầm, trở ngại; đó gọi là tu hành đối trị. Nhận biết về Vô sở hữu; đó gọi là tu hành làm lợi ích. Liền nhập vào nẻo hành của Vô sở hữu; đó gọi là hai loại kia đều nương vào Tam-muội. Vượt quá tất cả tưởng của Vô sở hữu; đó gọi là lìa chướng ngại. Đối trị như vậy: Vượt quá cảnh giới Vô sở hữu, thấy rõ niệm thô, phân biệt chỗ lỗi lầm, trở ngại; đó gọi là tu hành đối trị. Nhận biết chỗ an ổn của Phi hữu tưởng phi vô tưởng; đó gọi là tu hành làm lợi ích. Liền nhập vào nẻo hành của Phi hữu tưởng phi vô tưởng; đó gọi là hai loại kia đều nương vào Tam-muội. Phần Nhàm chán đã trình bày xong. Thế nào là Quả nhàm chán? (Phần bốn của Địa thứ ba) Đó là bốn vô lượng, năm thần thông… Những gì là bốn vô lượng? Kinh: “Bồ-tát này với tâm Từ tùy thuận rộng lớn vô lượng, không hai. Tâm ấy không sân hận, không đối, không chướng, không não hại. Tâm ấy hiện bày đến tất cả xứ của thế gian, pháp giới, hư không giới rốt ráo tột cùng của thế gian. Tâm ấy trùm khắp tất cả hành của thế gian. Như vậy, Bồ-tát với tâm Bi tùy thuận, tâm Hỷ tùy thuận, tâm Xả tùy thuận rộng lớn vô lượng, không hai. Ba tâm này (Bi, Hỷ, Xả) không sân hận, không đối, không chướng, không não hại. Tâm ấy hiện bày đến tất cả xứ của thế gian, pháp giới, hư không giới rốt ráo tột cùng của thế gian, trùm khắp tất cả hành của thế gian”. Luận: Vô lượng có ba loại: Nhớ nghó về chúng sinh. Nhớ nghó về pháp. Vô niệm. Nhớ nghó về chúng sinh có bốn loại tướng sai biệt: Ban cho an lạc. Đối trị chướng ngại. Thanh tịnh. Thâu nhiếp quả. Thế nào là ban cho an lạc? Tức là ban cho ba loại an lạc. Một là; ban cho an lạc nơi cõi Dục. Hai là; ban cho đồng hỷ-lạc nơi cõi Sắc; ba là; ban cho hỷ-lạc chẳng đồng, vì ở đây là lìa khổ, lìa hỷ. Không hai (Bất nhị); cũng là rộng lớn vô lượng. Như kinh nói: “Bồ-tát này với tâm Từ tùy thuận rộng lớn vô lượng, không hai”. Thế nào là đối trị chướng ngại? Ban cho không tham ái là trao cho sự đối trị chướng ngại do ái này. Như kinh nói: “Không sân hận, không đối”. Thế nào là thanh tịnh? Thân tâm chính đoạn, không cười đùa, không có các Cái (che lấp) như thùy miên, trạo cử, hối… Như kinh nói: “Không chướng ngại”. Thế nào là thâu nhiếp quả? Trong cõi Dục, cõi Sắc thọ nhận chính quả, tập quả, không có sự khổ. Như kinh nói: “Không não hại”. Thế nào là nhớ nghó về pháp? Hiện bày khắp tất cả xứ, tất cả hàng phàm phu hiện có nơi ba cõi, các hàng chúng sinh hữu học-vô học cùng pháp và chúng sinh phân biệt tạo tác hiện có, đều có thể nhớ nghó, nhận biết. Như kinh nói: “Hiện bày đến tất cả xứ của thế gian”. Vô niệm có hai loại: Vô niệm tự tướng; là quán pháp vô ngã tột cùng trong thế gian. Như kinh nói: “Pháp giới, tột cùng của thế gian”. Quán xét khắp đến vô tận. Như kinh nói: “Hư không giới rốt ráo”. Hết thảy thế gian; là hành rộng lớn của tất cả thế giới. Như kinh nói: “Bao trùm khắp hành của tất cả thế gian”. Các thần thông; là bốn thần thông thuộc về Minh trí. Thần thông thứ năm thuộc về Minh kiến. Một thần thông nơi thân nghiệp thanh tịnh. Thiên nhó-Tha tâm trí là hai thần thông nơi khẩu nghiệp thanh tịnh. Túc mạng-Sinh tử trí là hai thần thông nơi ý nghiệp thanh tịnh. Một thần thông nơi thân có thể đi đến mọi nơi chốn của chúng sinh. Hai thần thông Thiên nhó-Tha tâm có thể nhận biết ý nghĩa của âm thanh thuyết pháp. Do nhận biết về tâm kẻ khác, tuỳ theo các loại ngôn âm mà đều có thể nhận biết. Dựa vào nghĩa này có đủ loại tên gọi khác được nêu bày, tùy theo nẻo dụng của chúng sinh. Hai thần thông khứ, lại nhận biết các chúng sinh quá khứ-vị lai, với chỗ cần thọ nhận sự hóa độ. Thế nào là thần thông nơi thân? Kinh: “Bồ-tát này hiện bày vô lượng thần thông lực, có thể làm chuyển động đại địa. Một thân hiện làm nhiều thân. Nhiều thân biến thành một thân. Hiện mất đi rồi có trở lại. Mọi thứ chướng ngại như tường đá, vách núi đều có thể xuyên qua, như đi giữa hư không. Ở trong hư không ngồi kiết già mà đi giống như chim bay. Vào-ra nơi đất như ra vào nơi nước không khác. Đi trên nước như đi trên đất. Thân tuôn ra lửa khói như khối lửa lớn. Nơi thân phóng ra nước cũng như đám mây lớn. Mặt trời, mặt trăng có thần đức lớn, uy lực lớn, nhưng Bồ-tát có thể dùng tay sờ, chạm vào, xoa mạnh. Thân lực tự tại cho đến cõi Phạm Thế. Bồ-tát này dùng cảnh giới của thiên nhó thanh tịnh hơn hẳn con người, nghe được hai loại âm thanh của hàng trời-người, hoặc gần hoặc xa, cho đến âm thanh của các loài vật nhỏ như ruồi-muỗi-nhặng… cũng đều nghe được. Bồ-tát này vận dụng Tha tâm trí nhận biết đúng như thật về tâm và tâm sở pháp của chúng sinh khác. Có tâm tham thì biết như thật là có tâm tham. Lìa tâm tham thì biết đúng như thật là lìa tâm tham. Biết đúng như thật là có tâm sân-lìa tâm sân, có tâm si- lìa tâm si. Biết đúng như thật là có tâm nhiễm-lìa tâm nhiễm, tâm nhỏ, tâm rộng, tâm lớn, tâm vô lượng, tâm thâu nhiếp, tâm không thâu nhiếp, tâm trú định, tâm không trú định, tâm giải thoát, tâm không giải thoát, tâm mong cầu, tâm không mong cầu. Tâm hướng thượng thì biết đúng như thật là tâm hướng thượng. Tâm không hướng thượng, thì biết đúng như thật là tâm không hướng thượng. Bồ-tát này cũng nhớ biết đúng như thật về vô lượng thọ mạng nơi đời trước, các nơi chốn sinh ra cũng có thể nhớ biết. Nhớ biết về một đời, hai-ba-bốn-năm cho đến mười-hai mươi-ba mươi-bốn mươi-năm mươi đời. Cũng có thể nhớ biết về một trăm đời, nhớ biết về vô lượng trăm đời, vô lượng ngàn đời, vô lượng trăm ngàn đời. Nhớ biết về kiếp thành, kiếp hoại và kiếp thành hoại, vô lượng kiếp thành hoại. Cho đến nhớ biết về trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, ức kiếp, trăm ức kiếp, ngàn ức kiếp, trăm ngàn ức kiếp. Nhớ biết cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp… Mình vốn ở nơi ấy với, tên gọi-họ-đời sống-hình sắc, sự ăn uống- thọ mạng-đã trú lâu như vậy, thọ nhận khổ vui như vậy. Mình ở nơi kia chết đi, sinh ra tại nơi này. Ở nơi này chết đi, sinh ra ở nơi kia. Như vậy, về đời quá khứ với vô số tướng mạo-tính tướng… được nêu bày, đều có thể nhớ biết. Bồ-tát này, vận dụng cảnh giới của thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn con người, thấy rõ các chúng sinh, hoặc sống hoặc chết, hình sắc tốt xấu, hành thiện-hành bất thiện, nghèo hèn-giàu sang, các chúng sinh đó tùy theo chỗ tạo nghiệp, đều nhận biết đúng như thật. Các chúng sinh đó gây tạo nghiệp ác nơi thân, nơi miệng, nơi ý, huỷ báng các bậc Hiền Thánh, hành theo tà kiến và nhân duyên của nghiệp tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, chắc chắn đọa vào cõi ác, sinh trong địa ngục. Các chúng sinh đó, thành tựu nghiệp thiện nơi thân, nơi miệng, nơi ý, không huỷ báng Hiền Thánh, thành tựu chính kiến, cùng nhân duyên của nghiệp thiện chính kiến, sau khi thân hoại mạng chung, chắc chắn sinh nơi cõi thiện và trong các cõi trời. Như vậy, Bồ-tát với cảnh giới thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn con người … đều nhận biết đúng như thật về các chúng sinh theo nghiệp thọ báo. Bồ-tát này, đối với Tam-ma-bạt-đề, Tam-muội, Thiền giải thoát đều có thể nhập-xuất, nhưng không lệ thuộc vào lực sinh của Thiền giải thoát. Theo sự nhận thức có thể thực hành đầy đủ các pháp phần Bồ-đề, nhờ nguyện lực cho nên sinh trong ấy”. Luận: Thần thông nơi thân; là đạt được tự tại thù thắng, cho nên biết. Tự tại có ba loại: Tự tại đối với thế giới; tức là có thể làm chuyển động đại địa. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, hiện bày vô lượng thần thông lực…”. Tự tại đối với thân: Bồ-tát có thể ẩn, hiện, tan hợp. Như kinh nói: “Một thân hiện làm nhiều thân…”. Tự tại đối với tác nghiệp; tác nghiệp có tám loại: Bàng hành vô ngại (Đi đứng xung quanh không bị ngần ngại). Như Kinh nói: “Tường đá, vách núi… đều có thể xuyên qua, như đi giữa hư không”. Đi trên cao. Như Kinh nói: “Ở trong hư không ngồi kiết già mà đi giống như chim bay”. Đi trên, dưới. Như Kinh nói: “Vào ra nơi đất như ra vào nơi nước không khác”. Lội qua nước không bị chìm. Như kinh nói: “Đi trên nước như đi trên đất”. Nơi thân có lửa cháy bùng. Như kinh nói: “Thân tuôn ra lửa khói…”. Thân có thể tuôn ra nước. Như kinh nói: “Nơi thân tuôn ra nước giống như đám mây lớn”. Thân có thể sờ, chạm. Như kinh nói: “Mặt trời mặt trăng…”. Tự tại. Cho đến cõi Phạm Thế, cũng như đối với khí thế gian, tùy ý chuyển biến luôn được tự tại. Như kinh nói: “Thân lực tự tại…” Thiên nhó thông; tùy theo khả năng nghe và điều đã nghe mà thị hiện đúng như thật về sự lắng nghe thanh tịnh. Hơn hẳn con người; tức là nghe xa cho nên vượt quá con người. Âm thanh thì thấp cho đến âm thanh nơi địa ngục A-tỳ…, đều có thể nghe được. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, dùng cảnh giới của thiên nhó thanh tịnh vượt quá con người”. Tùy chỗ tạo âm thanh của hàng trời-người, hiện tại đều nghe biết rõ ràng, cho đến âm thanh rất nhỏ của các loài ruồi-nhặng … cũng có thể nghe rõ. Như kinh nói: “Nghe được hai loại âm thanh của hàng trời-người, hoặc gần hoặc xa, cho đến âm thanh của các loài ruồi-muỗi-nhặng…”. Tha tâm thông; là chỗ sai biệt nơi tâm kẻ khác, có tám loại: Tùy thuộc phiền não. Sử. Sinh. Học hành trì Tam-muội. Đạt Tam-muội. Đạt giải thoát. Hành vọng, hành chính. Các phàm phu tăng thượng mạn khác. Tùy thuộc phiền não; tức là kết hợp với tham-sân-si… Như kinh nói: “Bồ-tát ấy dùng Tha tâm trí nhận biết đúng như thật về tâm và tâm số pháp của chúng sinh khác…”. Sử; tức là có phiền não, lìa phiền não… Như kinh nói: “Nhận biết đúng như thật về tâm có nhiễm, tâm lìa nhiễm”. Sinh: trong cõi người là nhỏ, trong cõi trời thuộc cõi Dục là rộng, trong cõi trời thuộc cõi Sắc là lớn, trong hai cõi giải thoát của Vô sắc là vô lượng. Như kinh nói: “Tâm nhỏ, tâm rộng, tâm lớn, tâm vô lượng”. Học hành trì Tam-muội; tức là tâm tán loạn, tâm không tán loạn. Như kinh nói: “Tâm thâu nhiếp, tâm không thâu nhiếp”. Đạt Tam-muội; khi nhập định-không nhập định và lúc xuất định. Như kinh nói: “Tâm trú định, tâm không trú định”. Đạt giải thoát; tức là có trói buộc và không trói buộc. Như kinh nói: “Tâm giải thoát, tâm không giải thoát”. Hành vọng, hành chính; là đối với tiếng tăm hiện khởi hy vọng, thuận hợp hoặc không thuận hợp. Như kinh nói: “Tâm cầu mong, tâm không cầu mong”. Hàng phàm phu tăng thượng mạn khác; tức là tập hành thô-tế. Như kinh nói: “Tâm hướng thượng nhận biết đúng như thật…”. Túc mạng trí thông; là người có thể nhớ nghó và trí có thể nhớ nghó. Như kinh nói: “Bồ-tát này nhớ biết đúng như thật về vô lượng thọ mạng của đời trước…”. Nhớ biết về những sự việc gì? Như kinh nói: “Cũng có thể nhớ biết về một đời cho đến…”. Thế nào là chỗ dựa vào của trí nhớ biết? Đó là: Sai biệt về danh tự. Như Kinh nói: “Mình vốn ở nơi ấy với tên như vậy.” Sai biệt về gia đình. Như Kinh nói: “Họ như vậy”. Sai biệt về sang hèn. Như Kinh nói: “Đời sống như vậy”. Sai biệt về đẹp xấu. Như Kinh nói: “Hình sắc như vậy”. Sai biệt về ăn uống. Như Kinh nói: “Sự ăn uống như vậy”. Sai biệt về hành nghiệp. Như Kinh nói: “Thọ mạng như vậy, sống lâu như vậy”. Sai biệt chỗ hơn kém thành hoại. Như Kinh nói: “Thọ nhận khổ vui. Mình ở nơi kia chết đi…”. Trong đó: Sai biệt về gia đình; tức là sai biệt về cha, mẹ. Sai biệt về sang hèn; tức là sai biệt về Sát-lợi, Bà-la-môn… Sai biệt về hành nghiệp; là sai biệt về thọ mạng, chết đúng lúc- không đúng lúc. Ở đây: Vô số tướng mạo; là sai biệt về tất cả hình tướng. Như kinh nói: “Vô số các tướng mạo”. Nêu bày; là danh xưng. Như kinh nói: “Được nêu ra”. tính tướng; là họ của gia đình. Như kinh nói: “tính tướng… đều có thể nhớ biết”. Lại có nghĩa khác; cũng có thể nhớ biết về một đời, hai đời, như vậy… gọi là tướng mạo. Nêu bày; là tên gọi … Tướng; Mình ở nơi kia chết đi, sinh ở nơi này. Như vậy… đều có thể nhớ biết. Sinh tử trí thông thì ai có thể thấy được? Dùng thiên nhãn để thấy. Thanh tịnh; là thấy kỹ càng, đầy đủ. Vượt hơn con người; là thấy xa. Như kinh nói: “Bồ-tát này dùng cảnh giới của thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn con người…”. Thấy những sự việc gì? Tức là các sự việc sống-chết của chúng sinh. Như kinh nói: “Thấy các chúng sinh, hoặc sống, hoặc chết…”. Thấy như vậy nào? Như kinh nói: “Các chúng sinh đó gây tạo nghiệp ác nơi thân…”. Phần khác; thì như trong hai địa trước đã nói. Nghiệp báo thiện ác, ở đây cũng như vậy, cho nên biết. Trong đoạn này: Thiền; là bốn thiền. Giải thoát; là bốn định Vô sắc. Tam-muội; là bốn vô lượng. Tam-ma-bạt-đề; là năm thần thông. Có thể vào-có thể ra; tức là khi tâm sinh, thì tùy theo lực dụng của tâm nơi hiện tiền. Nhưng không lệ thuộc vào lực sinh của thiền giải thoát; tức là tâm niệm sâu xa thuần hậu kia, ở đây chỉ rõ sự thành tựu. Theo chỗ thấy biết, có thể làm viên mãn nơi chốn của pháp phần Bồ-đề; tức là cùng với đại Bồ-đề của chư Phật cùng sinh một xứ. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, đối với thiền giải thoát…”. Kinh: “Bồ-tát này, an trú nơi địa Minh của Bồ-tát rồi, được thấy nhiều chư Phật, do diệu lực của đại thần thông-đại nguyện, cho nên thấy nhiều trăm Phật, nhiều ngàn Phật, nhiều trăm ngàn Phật, trăm ngàn na- do-tha Phật, nhiều ức Phật, trăm ức, ngàn ức, trăm ngàn ức, trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật. Do diệu lực của đại thần thông-đại nguyện, cho nên Bồ-tát này, khi thấy chư Phật, đều đem tâm hướng thượng, tâm sâu xa cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men, tất cả vật dụng cung cấp đều dùng để phụng thí. Dùng các thứ vật dụng tạo an lạc thượng diệu của Bồ-tát để cúng dường chúng Tăng, đem những căn thiện này đều nguyện hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Tại trú xứ của chư Phật khởi tâm cung kính tột bậc, chuyên tâm nghe pháp, nghe rồi thọ trì, theo đúng như lời dạy mà hành trì. Bồ-tát ấy quán xét tất cả pháp không sinh-không diệt, do nhân duyên mà có”. Luận: Tất cả pháp không sinh-không diệt; tức là ở trong pháp thanh tịnh không thấy có tăng, ở trong vọng tưởng phiền não không thấy có giảm. Do nhân duyên làm nhân sinh, cho nên trong sự thanh tịnh kia, không một pháp nào có thể tăng, trong vọng tưởng phiền não kia, không một pháp nào có thể giảm. Nhưng dựa vào nhân duyên đối trị, lìa bỏ vọng tưởng, phiền não thì càng trở nên thanh tịnh thù thắng, trí tuệ hiện tiền. Như kinh nói: “Quán xét tất cả pháp không sinh, không diệt, do nhân duyên mà có”. Kinh: “Bồ-tát này, tất cả sự trói buộc của Dục đã chuyển biến trở nên mỏng, ít. Tất cả sự trói buộc của Sắc, của Hữu, của Vô minh thảy đều trở nên mỏng, ít. Sự trói buộc của kiến, trước đó đã trừ diệt. Bồ-tát này, an trú nơi địa Minh của bậc Bồ-tát rồi, trong vô lượng trăm kiếp, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, không còn hiện trở lại sự tích tập để đoạn trừ vọng tham-vọng sân-vọng si. Bồ-tát này, chuyển tăng các căn thiện đã có kia khiến càng trở nên sáng sạch. Này các Phật tử! Ví như vàng ròng từ ban đầu được người thợ kim hoàn khéo léo tôi luyện phù hợp với cân-lượng, càng trở nên sáng đẹp bội phần. Này các Phật tử! Bồ-tát này cũng lại như vậy… Bồ-tát ấy tâm nhẫn nhục an lạc càng trở nên sáng sạch. Các thứ tâm: Tâm cùng hòa hợp, tâm mềm mỏng, tâm không sân, tâm không động, tâm không ô trược, tâm không cao thấp nơi ngã, tâm không mong cầu đối với những việc chúng sinh đã làm, tâm đối với những việc đã thực hành không mong báo đáp, tâm không dua nịnh quanh co, tâm không rơi vào rừng rậm phiền não, thảy đều chuyển sang thanh tịnh. Bồ-tát ấy, trong bốn Nhiếp pháp thì lợi hành càng tăng thượng, trong mười Ba-la-mật thì Nhẫn nhục Ba-la- mật tăng thượng. Các Ba-la-mật còn lại không phải là không tu tập, nhưng tùy theo lực-theo phần. Này các Phật tử! Đó gọi là lược nêu về địa Minh, là Địa thứ ba của bậc Bồ-tát”. Luận: Tất cả sự trói buộc của Dục đã chuyển biến trở nên mỏng-ít; là do tu đạo, đoạn trừ tất cả phiền não hiện có nơi ba cõi và nhân của chúng, cùng tập khí vô minh thảy đều mỏng, ít, do xa lìa. Sự trói buộc của các kiến; ở trong địa thứ nhất, khi đạt kiến đạo đã đoạn trừ. Như kinh nói: “Sự trói buộc của các kiến, trước đó đã trừ diệt”. Không còn hiện trở lại sự tích tập để đoạn trừ vọng tham…; tức là đoạn trừ căn bất thiện, sử, hành của tập khí, không đoạn trừ phiền não thô trọng, vì các phiền não thô trọng ấy nơi địa trước đã đoạn. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, an trú nơi địa Minh của bậc Bồ-tát rồi, trong vô lượng trăm ngàn kiếp…”. Dụ về vàng ròng; là chỉ rõ sự an trú xứng hợp không giảm. Bồ-tát trú nơi địa Minh, sự chán lìa thế gian hơn hẳn so với địa trước, tự tại không mất. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Ví như vàng ròng từ ban đầu…”. Bồ-tát ấy, tâm nhẫn nhục an lạc càng trở nên sáng sạch; tức là nếu kẻ khác gia tăng tâm xấu ác. Bồ-tát đều có thể nhẫn chịu, lại khéo hộ trì tâm kẻ khác. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy tâm nhẫn nhục an lạc…”. Kẻ gia tăng ác không sửa đổi, lại khéo hộ trì tâm của họ, tức là phân biệt chỉ rõ những việc làm ác và tâm hoài nghi nơi họ, hiện bày cùng là bạn bè, dùng ái ngữ để khuyên-dẫn. Như kinh nói: “Tâm cùng hòa hợp, tâm mềm mỏng-dịu dàng”. Gia tăng điều ác nhưng Bồ-tát không giận dữ, nghe lời mắng nhiếc không đáp trả, không sinh lo buồn. Như kinh nói: “Tâm không sân hận, tâm không động, tâm không ô trược”. Quá khứ không kiêu mạn, luôn tự hiện bày lời nói thiện. Như kinh nói: “Tâm không cao ngạo về ngã”. Tâm không mong cầu được kẻ khác cung kính. Như Kinh nói: “Tâm không mong cầu đối với những việc làm của chúng sinh”. Đối với những việc đã làm, tâm không mong cầu báo đáp. Như Kinh nói: “Tâm đối với những việc đã làm không mong cầu báo đáp”. Tâm không phải là không thật sự làm điều lợi ích, và tâm không thiên lệch… khi làm lợi ích. Như kinh nói: “Tâm không dua nịnh quanh co”. Những thứ cấu uế vi tế, ẩn giấu nơi tâm thảy đều xa lìa. Như kinh nói: “Tâm không rơi vào rừng rậm phiền não, thảy đều chuyển sang thanh tịnh”. Kinh: “Bồ-tát trú trong địa này, nhiều lần làm vua cõi trời Đao Lợi, được tự tại nơi pháp, có thể dứt trừ các thứ phiền não cấu uế như tham dục… của chúng sinh. Dùng diệu lực của phương tiện thiện xảo để cứu vớt các chúng sinh nơi bùn lầy tham dục. Các nghiệp thiện đã làm như bố thí-ái ngữ-lợi hành-đồng sự, những thứ phước đức ấy đều không lìa niệm Phật-niệm Pháp-niệm Tăng-niệm Bồ-tát-niệm hạnh của Bồ- tát-niệm Ba-la-mật-niệm mười địa-niệm lực không hoại-niệm vô úy, niệm pháp bất cộng của Phật, cho đến không lìa niệm đầy đủ về trí Nhất thiết chủng trí, trí Nhất thiết trí. Bồ-tát ấy thường khởi tâm này: Đối với tất cả chúng sinh, mình phải là người đứng đầu, là thù thắng, là lớn lao, là diệu, là vi diệu, là trên, là vô thượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, là vị thầy, là bậc tôn quý, cho đến là chỗ dựa của trí Nhất thiết trí. Lại từ niệm ấy phát khởi hành tinh tiến. Do diệu lực của tinh tiến, cho nên ở trong khoảng một niệm đạt được trăm ngàn Tam-muội, được thấy trăm ngàn Phật, nhận biết trăm ngàn thần lực của Phật, làm chuyển động trăm ngàn thế giới Phật, có thể đi vào trăm ngàn thế giới Phật, có thể soi chiếu trăm ngàn thế giới Phật, có thể giáo hóa chúng sinh nơi trăm ngàn thế giới Phật, có thể trú thọ trăm ngàn kiếp, có thể nhận biết sự việc trong ngàn kiếp nơi đời quá khứ-vị lai, có thể khéo hội nhập nơi trăm ngàn pháp môn, có thể biến hóa thân làm trăm ngàn thân, nơi mỗi mỗi thân có thể thị hiện trăm ngàn Bồ-tát dùng làm quyến thuộc. Hoặc dùng nguyện lực thắng thượng tự tại, thì nguyện lực của Bồ-tát còn vượt hơn số lượng ấy. Thị hiện vô số diệu lực thần thông, hoặc nơi thân, hoặc nơi ánh sáng, hoặc thần thông, hoặc nơi mắt, hoặc cảnh giới, hoặc âm thanh, hoặc nẻo hành, hoặc sự trang nghiêm, hoặc gia hộ, hoặc tin tưởng, hoặc tạo tác. Các thứ thần thông ấy, cho đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết hết”. Luận: Địa này thâu nhiếp quả báo nơi quả của nguyện trí lực, như trong địa thứ nhất đã giải thích.  <卷>QUYỂN 6 Địa 4: ĐỊA DIỆM Luận: Địa thứ tư của bậc Bồ-tát là địa Diệm, tức là dựa vào Tam- muội thanh tịnh của Bồ-tát kia, hiển bày sự lãnh hội, hành trì đúng như thật nơi Trí thanh tịnh. Sự sai biệt của địa này có bốn phần: Phần nêu nhân tăng trưởng của sự tu hành đối trị đạt thanh tịnh. Phần nêu sự thanh tịnh. Phần nêu sự tu hành đối trị tăng trưởng. Phần nêu quả. Nhân tăng trưởng của sự tu hành đối trị thanh tịnh; là mười pháp Minh nhập. Kinh: “Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này các Phật tử! Nếu Bồ-tát đạt được Địa thứ ba của bậc Bồ-tát, đầy đủ ánh sáng thanh tịnh rồi, muốn chứng đắc Địa thứ tư của bậc Bồ-tát thì phải dùng mười pháp Minh nhập để hội nhập Địa thứ tư. Những gì là mười? Đó là: Lượng xét về cảnh giới của chúng sinh để minh nhập. Lượng xét về thế giới để minh nhập. Lượng xét về Pháp giới để minh nhập. Lượng xét về Hư không giới để minh nhập. Lượng xét về Thức giới để minh nhập. Lượng xét về Dục giới để minh nhập. Lượng xét về Sắc giới để minh nhập. Lượng xét về Vô sắc giới để minh nhập. Lượng xét về cảnh giới của tâm thù thắng quyết định tin tưởng để minh nhập. Lượng xét về cảnh giới của tâm lớn lao quyết định tin tưởng để minh nhập. Bồ-tát do mười pháp Minh nhập này mà được tiến vào Địa thứ tư”. Luận: Pháp Minh nhập: là chứng đắc ánh sáng của trí địa, dựa vào ánh sáng của Trí ấy để hội nhập trong giáo pháp do Như Lai thuyết giảng. Trí ấy gọi là Pháp Minh nhập. Pháp do Phật nêu giảng, Bồ-tát dùng chính quán để lượng xét, nhận biết đúng như thật, hai xứ đều thuận hành. Sự lượng xét ấy có mười loại sai khác: Sai khác do lượng xét phân biệt về cảnh giới chúng sinh là giả danh. Như kinh nói: “Lượng xét về cảnh giới chúng sinh để minh nhập”. Phân biệt do y trú. Như kinh nói: “Lượng xét về thế giới để minh nhập”. Phân biệt do nhiễm. Như Kinh nói: “Lượng xét về pháp giới để minh nhập”. Phân biệt do vô tận. Như Kinh nói: “Lượng xét về hư không giới để minh nhập”. Phân biệt do nương dựa vào nhiễm tịnh. Như Kinh nói: “Lượng xét về thức giới để minh nhập”. Phân biệt do phiền não-sử cấu nhiễm. Như Kinh nói: “Lượng xét về Dục giới để minh nhập. Lượng xét về Sắc giới để minh nhập (7). Lượng xét về Vô sắc giới để minh nhập (8)”. 9.Phân biệt do thanh tịnh. Như Kinh nói: “Lượng xét về cảnh giới của tâm thù thắng quyết định tin tưởng để minh nhập. Lượng xét về cảnh giới của tâm lốn lao quyết định tin tưởng để minh nhập (10)”. Trong đoạn này: Phiền não, sử cấu nhiễm; tức là chỉ cho ba cõi. Thanh tịnh: Nơi hai câu sau (9, 10): Một là dựa vào phiền não nhưng không nhiễm, hai là dựa vào nghĩa đồng và chẳng đồng; không xả bỏ chúng sinh và hàng Thanh văn … Thế nào là Phần thanh tịnh? Tức là ở nơi nhà của Như Lai chuyển sang có uy lực. Kinh: “Này các Phật tử! Bồ-tát ấy đạt được địa Diệm của bậc Bồ-tát, tức ở nơi nhà của Như Lai chuyển sang có uy lực, đạt pháp bên trong kia, dùng mười loại pháp trí để giáo hóa thành tựu đầy đủ. Những gì là mười? Đó là: sinh. Tâm không thối chuyển. Đối với Tam bảo quyết định hoàn toàn cung kính, trọn vẹn. Phân biệt quán xét về hành sinh diệt. Phân biệt quán xét về tự tính của các pháp chẳng sinh. Phân biệt quán xét về sự thành hoại của thế gian. Phân biệt quán xét về chỗ hữu sinh của nghiệp. Phân biệt quán xét về thế gian, Niết-bàn. Phân biệt quán xét về sự sai biệt nơi nghiệp và thế giới chúng Phân biệt quán xét về sự sai biệt nơi phạm vi trước, sau. Phân biệt quán xét về chỗ tận cùng của vô sở hữu. Các Phật tử! Bồ-tát như vậy, với mười loại pháp trí giáo hóa thành thục, tức là ở nơi nhà của Như Lai chuyển sang có uy lực, đạt được pháp bên trong kia”. Luận: Thế nào là ở nơi nhà của Như Lai chuyển sang có uy lực? Tức là nương vào trí đa văn rốt ráo, trừ diệt mọi chướng ngại của trí, thâu nhiếp chỗ thù thắng. Ở đây, nhà của Như Lai thanh tịnh thù thắng như vậy, do đó gọi là đạt được pháp bên trong kia. Tự thân của Như Lai hiện có các pháp, do các pháp ấy hiển bày về Như Lai, tức là mười loại pháp trí giáo hóa thành thục. Pháp minh nhập ấy đồng thời đạt được, nên biết. Bồ-tát lại có bốn loại trí để giáo hóa, gọi là pháp trí giáo hóa thành thục. Bốn loại trí là: Trí tự trú xứ rốt ráo. Như kinh nói: “Tâm không thối chuyển”. Trí đồng kính Tam bảo rốt ráo. Như kinh nói: “Đối với Tam bảo quyết định hoàn toàn cung kính trọn vẹn”. Trí chân như. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về hành sinh diệt. Phân biệt quán xét về tự tính của các pháp chẳng sinh”. Trí phân biệt điều đã thuyết giảng. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về sự thành hoại của thế gian. Phân biệt quán xét về sự hữu sinh của nghiệp. Phân biệt quán xét về thế gian, Niết-bàn…”. Tự trú xứ của Bồ-tát; là pháp Đại thừa. Hai pháp đầu ở đây: Tâm không thối chuyển tâm đối với Tam bảo quyết định hoàn toàn cung kính trọn vẹn. Hai trí đầu tiên này là trí tự trú xứ rốt ráo và trí đồng kính Tam bảo rốt ráo, để giáo hóa thành thục. Hai pháp tiếp theo là phân biệt quán xét về các hành sinh diệt. Phân biệt quán xét về tự tính của các pháp chẳng sinh, là trí chân như. nghĩa là quán về chúng sinh và pháp đều vô ngã. Thứ tự phân biệt như vậy nên biết. Phần còn lại; là trí phân biệt điều đã thuyết giảng. Bồ-tát lại dựa vào chỗ nhiễm-tịnh của phiền não. Theo chỗ nhiễm của phiền não, thì do phiền não nào mà nhiễm? Tịnh vốn có thì tùy theo mà tịnh. Thế nào là theo chỗ nhiễm của phiền não? Tức là thuận với khí thế gian. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về sự thành hoại của thế gian”. Chúng sinh-thế gian sinh-cùng nhân thọ sinh. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về chỗ hữu sinh của nghiệp”. Thế nào là phiền não cấu nhiễm? Tức là thế gian. Thế nào là tịnh vốn có? Tức là Niết-bàn. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về thế gian, Niết-bàn”. Thế nào là tùy theo mà tịnh? Là trong thế giới của chư Phật, giáo hóa chúng sinh thành thục về tự nghiệp. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về sự sai biệt nơi chúng sinh-thế giới-nghiệp”. Phiền não nhiễm và tịnh, tức là phạm vi trước và phạm vi sau. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về sự sai biệt nơi phạm vi trước-sau”. Phạm vi trước-sau kia không giảm không tăng. Như kinh nói: “Phân biệt quán xét về chỗ tận cùng của vô sở hữu”. Ở trong pháp nhiễm, không thấy một pháp có thể giảm. Ở trong pháp tịnh không thấy một pháp có thể tăng. Thế nào là đối trị? Là tu hành tăng trưởng, có hai loại: Tu hành ngăn chận phiền não cấu nhiễm. Tu hành ngăn chận Tiểu thừa. Thế nào là ngăn chận phiền não cấu nhiễm? Là tu hành các pháp phần Bồ-đề. Kinh: “Bồ-tát ấy, an trú nơi địa Diệm của bậc Bồ-tát này rồi, quán về nội thân theo thân mà quán xét, tinh tiến, nhất tâm dứt trừ mọi tham- ưu của thế gian. Quán ngoại thân, theo thân mà quán xét, tinh tiến, nhất tâm diệt trừ mọi tham ưu-của thế gian. Quán nội-ngoại thân theo thân mà quán xét, siêng năng tinh tiến, nhất tâm, dứt trừ mọi tham ái, lo buồn của thế gian. Quán nội thọ-ngoại thọ-nội ngoại thọ như vậy. Quán nội tâm-ngoại tâm-nội ngoại tâm như vậy. Quán nội pháp theo pháp mà quán xét như vậy, siêng năng tinh tiến nhất tâm trừ bỏ tham-ưu của thế gian. Quán ngoại pháp, theo pháp mà quán xét, tinh tiến, nhất tâm dứt trừ mọi tham, ưu của thế gian. Quán nội ngoại pháp theo pháp mà quán xét, tinh tiến, nhất tâm dứt trừ mọi tham ái-lo buồn của thế gian. Bồ-tát ấy, đối với các pháp ác, bất thiện chưa sinh thì làm cho chúng không sinh. Chúng sắp sinh thì siêng năng tinh tấn phát tâm chính đoạn. Đối với các pháp ác, bất thiện đã sinh thì đoạn trừ. Chúng sắp sinh nữa thì siêng năng tinh tiến phát tâm chính đoạn. Đối với các pháp thiện chưa sinh thì khiến cho sinh. Chúng sắp sinh thì siêng năng tinh tiến phát tâm chính hành. Đối với các pháp thiện đã sinh, thì khiến cho chúng an trú, không mất, tu tập đầy đủ, làm tăng trưởng rộng khắp. Chúng sắp sinh nữa thì siêng năng tinh tiến phát tâm chính hành. Bồ- tát ấy, tu hành bốn như ý phần. Thành tựu dục định đoạn hành, tu như ý phần, dựa vào sự nhàm chán, dựa vào sự xa lìa, dựa vào sự diệt trừ, hồi hướng về Xả. Thành tựu tinh tiến định đoạn hành, tu như ý phần, dựa vào sự nhàm chán, dựa vào sự xa lìa, dựa vào sự diệt trừ, hồi hướng về Xả. Thành tựu tâm định đoạn hành, tu như ý phần, dựa vào sự nhàm chán, dựa vào sự xa lìa, dựa vào sự diệt trừ, hồi hướng về Xả. Thành tựu tư duy định đoạn hành, tu như ý phần, dựa vào sự nhàm chán, dựa vào sự xa lìa, dựa vào diệt trừ hồi hướng về Xả. Bồ-tát ấy, tu hành tín căn, dựa vào sự nhàm chán, dựa vào sự xa lìa, dựa vào sự diệt trừ, hồi hướng về Xả. Tu hành tinh tiến căn, dựa vào sự nhàm chán, dựa vào sự xa lìa, dựa vào sự diệt trừ, hồi hướng về Xả. Tu hành niệm căn định căn-tuệ căn dựa vào sự nhàm chán, dựa vào sự xa lìa, dựa vào sự diệt trừ, hồi hướng về Xả. Bồ-tát ấy, tu hành về năm lực (Tín-tinh tiến-niệm-định-tuệ) đều dựa vào sự nhàm chán, dựa vào sự xa lìa, dựa vào sự diệt trừ, hồi hướng về Xả. Bồ-tát này, tu hành về bảy giác phần (Niệm-trạch pháp-tinh tiến- hỷ- khinh an-định-xả) đều dựa vào sự nhàm chán, dựa vào sự xa lìa, dựa vào sự diệt trừ, hồi hướng về Xả. Bồ-tát ấy, tu hành về tám đạo (chính kiến-chính tư duy-chính ngữ-chính nghiệp-chính mạng-chính tinh tiến-chính niệm-chính định) đều dựa vào sự nhàm chán, dựa vào sự xa lìa, dựa vào sự diệt trừ, hồi hướng về Xả”. Luận: Thế nào là tu hành ngăn chận Tiểu thừa? Là không xả bỏ tất cả chúng sinh, mà tu hành pháp trợ Bồ-đề phần. Kinh: “Bồ-tát này, do tâm không xả bỏ tất cả chúng sinh cho nên hành trì. Do bản nguyện phát khởi đã thuần thục trọn vẹn, cho nên dùng Đại Bi làm đầu, thành tựu tâm Đại Từ, quán xét trí Nhất thiết trí, để dấy khởi việc làm trang nghiêm cõi Phật, vì để đầy đủ các pháp vô úy-mười lực- mười tám pháp bất cộng, các tướng tốt trang nghiêm của Phật, đầy đủ âm thanh vi diệu, để cầu hạnh thù thắng tối thượng, để tùy thuận mà lãnh hội pháp Phật hết mực sâu xa và giải thoát, để tư duy về phương tiện lớn, cho nên hành trì”. Luận: Tâm không xả bỏ tất cả chúng sinh. Tâm không xả bỏ chúng sinh ấy có bốn loại: Khởi đầu. Lợi ích. Mong cầu. Hành trì. Khởi đầu, tức là bản nguyện. Như kinh nói: “Bản nguyện phát khởi đã thành thục trọn vẹn”. Lợi ích, là thương xót. Như kinh nói: “Lấy Đại Bi làm đầu, thành tựu tâm Đại Từ”. Mong cầu, là cầu đạt trí Phật. Như kinh nói: “Quán xét trí Nhất thiết trí”. Hành trì, là tu hành. Tu hành có năm thứ. Tu hành nơi cõi tịnh. Như kinh nói: “Để phát khởi việc làm trang nghiêm cõi Phật”. Tu hành dấy khởi pháp Phật. Như kinh nói: “Để đầy đủ các pháp vô úy-mười lực-mười tám pháp bất cộng, các tướng tốt trang nghiêm của Phật, đầy đủ âm thanh vi diệu”. Âm thanh vi diệu; là tiếng loa pháp. Tu hành theo phương tiện của địa kia không hề chán đủ. Như kinh nói: “Để cầu đạt hạnh thù thắng tối thượng”. Tu hành hội nhập nơi địa không thối chuyển. Như kinh nói: “Tùy thuận mà lãnh hội pháp Phật hết mực sâu xa và giải thoát”. Tu hành giáo hóa chúng sinh. Như kinh nói: “Để tư duy về phương tiện lớn cho nên hành trì”. Đó gọi là phần Tu hành đối trị tăng trưởng. Thế nào là phần quả của sự tu hành đối trị tăng trưởng? Kinh: “Bồ-tát ấy, đối với thân kiến hiện có, được xem là đứng đầu, đối với ngã-nhân-chúng sinh-thọ mạng-ấm-giới- nhập-ngã mạn, các sự việc như vậy dấy khởi hiện ra hay ẩn mất, tư duy, và quán xét nhiều, vì đối trị, vì ngã, vì giữ gìn, vì nơi tham trước. Các sự việc như vậy, Bồ-tát ấy thảy đều đoạn trừ”. Luận: Quả của sự tu hành đối trị tăng trưởng; là trí của ngã, trí lớn, ngã tu hành, là sự tu tập của ngã. Như vậy, cùng với các sự việc hiện ra-ẩn mất… thảy đều diệt trừ. Hiện ra, là nghĩa của Tam-muội phát khởi. Ẩn giấu, là nghĩa của Tam-muội dứt mất. Chỗ thảy đều diệt trừ của Bồ-tát, lại có năm thứ: Gốc. Dấy khởi. Hành. Giữ gìn. Lỗi lầm. Gốc; tức là dựa vào thân kiến làm gốc. Ngã mạn với chúng sinh, ngã mạn với pháp có sai biệt như vậy. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, đối với thân kiến hiện có, được xem là đứng đầu…”. Dấy khởi, là khởi tư duy không chân chính. Như kinh nói: “Tư duy”. Hành, là khiến cho kẻ khác nhận biết. Như kinh nói: “Quán xét nhiều”. Giữ gìn, là luôn luôn quán xét, dấy khởi ngã tưởng và thọ trì. Như kinh nói: “Vì đối trị, vì ngã, vì giữ gìn.” Lỗi lầm, là các sự việc như chốn an ổn của tâm. Như kinh nói: Vì nơi tham trước”. Các việc hiện ra-ẩn mất… trong sự việc học-hành như vậy thảy đều xa lìa. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, đối với các sự việc như vậy thảy đều đoạn trừ”. Đây là dựa vào phiền não cấu nhiễm mà sinh quả xa lìa. Kinh: “Bồ-tát ấy, đối với nghiệp không thể tạo tác hiện có, đối với các thứ phiền não cấu nhiễm bị Như Lai quở trách, tất cả đều không hành trì. Đối với nghiệp có thể tạo tác hiện có, thuận theo hạnh Bồ-tát, được Như Lai tán thán, tất cả đều tu hành đúng đắn”. Luận: Nghiệp không thể tạo tác hiện có; có hai loại sự việc vốn không nên làm: Không tôn kính Như Lai, Phật không tán thán. Sợ tiếng tăm xấu, sinh phiền não. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, đối với nghiệp không thể tạo tác…”. Nghiệp có thể tạo tác hiện có; có hai loại sự việc, do đó nên làm: Thấy rõ không có danh lợi xấu ác, thuận theo hạnh Bồ-tát. Tôn kính Như Lai, được Phật tán thán. Như kinh nói: “Đối với nghiệp có thể tạo tác hiện có…”. Đây là dựa vào nghiệp cấu nhiễm, sinh quả xa lìa. “Bồ-tát ấy lại chuyển đổi, tùy từng chỗ, từng nơi, với trí phương tiện phát khởi tu tập trợ đạo phần. Như vậy và như vậy, thành tựu tâm Nhuận ích”, bốn mươi câu như vậy… hiển bày bốn loại quả: Ở trong công đức thù thắng, sinh tâm mong muốn tăng thượng. Trong sự tôn kính người thuyết pháp kia, khởi hành báo ân. Trong hành phương tiện kia, phát khởi siêng năng tinh tiến. Nơi sự mong muốn tăng thượng kia, cảnh giới của tâm gốc luôn đầy đủ. Thế nào là ở trong công đức thù thắng, sinh tâm mong muốn tăng thượng? Kinh: “Bồ-tát ấy lại chuyển đổi, tùy chỗ tùy nơi với trí phương tiện và phát khởi tu hành trợ đạo phần. Như vậy và như vậy, thành tựu tâm nhuận ích, tâm mềm dịu, tâm thuận hợp, tâm an ổn vui thích, tâm không nhiễm, tâm chuyển sang cầu đạt hạnh thù thắng tối thượng, tâm chuyển sang cầu đạt thắng trí, tâm cứu độ tất cả thế gian, tâm cung kính các bậc Thầy và tùy thuận thọ giáo, tâm thuận theo pháp được nghe mà tu hành”. Luận: Nơi đoạn này: Tùy chỗ tùy nơi với trí phương tiện mà phát khởi tu hành; là tu hành không xả bỏ tất cả chúng sinh, như trước đã nói. Trợ đạo phần: là tất cả chi đạo của pháp Bồ-đề phần. Như vậy và như vậy, thành tựu tâm nhuận ích; là yêu kính và mong muốn sâu xa. Tâm nhuận ích ấy có ba loại tướng: Thù thắng do ưa thích hành trì. Như kinh nói: “Tâm mềm dịu”. Thù thắng do Tam-muội tự tại. Như kinh nói: “Tâm thuận hợp”. Thù thắng do đối trị lìa lỗi lầm. Như kinh nói: “Tâm an ổn vui vẻ”. Lỗi lầm kia lại có sáu loại: Lỗi lầm về ăn uống. Hoặc lỗi lầm do có tâm ganh ghét trong sự thuyết pháp. Đối trị việc này, như kinh nói: “Tâm không cấu nhiễm”. Lỗi lầm do ít mong muốn về công đức. Không ưa thích hành trì nhiều bố thí, đầu đà. Đối trị việc này, như kinh nói: “Tâm chuyển sang cầu đạt hạnh thù thắng, tối thắng”. Lỗi lầm do ít mong muốn trí tuệ, không thích cầu đạt thắng trí. Đối trị việc này, như kinh nói: “Tâm chuyển sang cầu đạt thắng trí”. Lỗi lầm do biếng trễ, không siêng năng giáo hóa chúng sinh. Đối trị việc này như kinh nói: “Tâm cứu độ tất cả thế gian”. Lỗi lầm do tự kiến thủ, đối với giáo pháp tôn quý, tâm không tùy thuận. Đối trị việc này như kinh nói: “Tâm cung kính các bậc thầy và tùy thuận thọ giáo”. Lỗi lầm do xả bỏ hết, không theo lời giảng nói để hành trì. Đối trị việc này như kinh nói: “Tâm thuận theo pháp được nghe, mà tu hành”. “Như vậy, thành tựu tâm nhuận ích…”: Mười câu này gọi là Quả ở trong công đức thù thắng, sinh tâm mong muốn tăng thượng. Thế nào là trong sự tôn kính người thuyết pháp kia, khởi hành báo ân? Kinh: “Bồ-tát ấy thành tựu tâm biết ân, tâm biết báo ân như vậy, chuyển sang nhu hòa, cùng trú nơi an lạc. Thành tựu tâm chính trực, tâm mềm dịu, không có hành theo rừng rậm phiền não, không có dua nịnh, không có ngã mạn, khéo thọ nhận sự chỉ dạy, đạt được ý của người thuyết giảng, thành tựu tâm thiện như vậy, thành tựu tâm tịch diệt như vậy, thành tựu tâm hoàn toàn tịch diệt như vậy”. Luận: Trong sự tôn kính người thuyết pháp kia, phát khởi hành báo ân, tâm biết ân kia… Mười câu thứ hai (đợt 2) này đã chỉ rõ về điều ấy. Ở đây: Thành tựu tâm biết ân; là hành báo ân của hành tùy thuận. Hành báo ân có chín loại: Dựa vào sự tôn kính khởi tâm báo ân. Như kinh nói: “Tâm biết báo ân”. Dựa vào đồng pháp, khởi tâm dẫn dắt, giúp đỡ. Như kinh nói: “Tâm chuyển sang nhu hòa, cùng trú nơi an lạc”. Dựa vào nẻo hành pháp mà tùy thuận thọ nhận sự giáo hóa phát khởi khả năng nhẫn chịu các việc. Như kinh nói: “Tâm chính trực, tâm mềm dịu”. Dựa vào sự thọ dụng ăn uống, ở chỗ thí chủ, không che giấu lỗi lầm của mình, không khoe khoang đức độ của mình. Như kinh nói: “Không có hành theo rừng rậm phiền não, không có dua nịnh quanh co”. Dựa vào công đức thù thắng của mình, không khởi tâm cao ngạo. Như kinh nói: “Không có ngã mạn”. Dựa vào sự giáo hóa, thọ nhận đúng đắn lời giảng nói. Như kinh nói: “Khéo thọ nhận sự chỉ dạy”. Dựa vào sự chỉ dạy, thọ nhận không điên đảo. Như kinh nói: “Đạt được ý của người thuyết giảng”. Bồ-tát như vậy ở nơi bậc tôn kính kia mà tu tập hành báo ân. Thành tựu tâm thiện như vậy; là tu hành đối trị tăng trưởng. Thành tựu tâm tịch diệt như vậy; là diệu lực thứ nhất của sự tu hành đối trị tăng trưởng. Thành tựu tâm hoàn toàn tịch diệt như vậy; là nói về quả nơi hai câu trước đã hiển bày. Đó gọi là Quả thứ hai, của “Trong sự tôn kính người thuyết pháp kia, phát khởi hành báo ân. Thế nào là trong hành phương tiện kia, phát khởi sự siêng năng tinh tiến? Kinh: “Bồ-tát ấy, thành tựu tinh tiến không ngừng nghỉ như vậy, thành tựu tinh tiến không tạp nhiễm, tinh tiến không thối chuyển, tinh tiến rộng khắp, tinh tiến vô biên, tinh tiến sáng tỏ, tinh tiến không gì sánh bằng, tinh tiến không hoại, tinh tiến giáo hóa tất cả chúng sinh, tinh tiến khéo phân biệt đạo đúng đạo không đúng”. Luận: Ở trong hành phương tiện kia, phát khởi sự siêng năng tinh tiến thành tựu tinh tiến không ngừng nghỉ… Mười câu thứ ba (đợt 3) này chỉ rõ về Tinh tiến không ngừng nghỉ. Tinh tiến này có chín loại: Tinh tiến ấy được thể hiện một cách thuần nhất bình đẳng. Như Kinh nói: “Tinh tiến không tạp nhiễm”. Tạp nhiễm là chỉ cho vừa lười biếng vừa cấu nhiễm, hoặc thái quá hoặc bất cập. Đối với Thừa của mình không động. Như Kinh nói: “Tinh tiến không thối chuyển”. Nhớ nghó rộng khắp. Như Kinh nói: “Tinh tiến rộng khắp”. Vì vô lượng chúng sinh mà làm lợi ích, nguyện thâu nhiếp và dẫn dắt. Như Kinh nói: “Tinh tiến vô biên”. Luôn chí tâm hành trì thuận hợp. Như Kinh nói: “Tinh tiến sáng tỏ”. Tu tập vượt hơn các loại tinh tiến khác. Như Kinh nói: “Tinh tiến không gì sánh bằng”. Mọi hành của ma phiền não không thể phá hoại. Như Kinh nói: “Tinh tiến không hoại”. Thâu nhiếp và dẫn dắt. Như Kinh nói: “Tinh tiến giáo hóa hết thảy chúng sinh”. Có thể đoạn trừ nghi hoặc, hàng phục ngôn thuyết của kẻ khác, tu tập chân chính. Như kinh nói: “Tinh tiến khéo phân biệt đạo chính tà”. Đó gọi là Quả trong hành phương tiện kia phát khởi sự siêng năng tinh tiến”. Thế nào là cảnh giới của tâm gốc kia luôn đầy đủ? Kinh: “Bồ-tát ấy, nơi cảnh giới của tâm sâu xa chuyển sang thanh tịnh. Cảnh giới của tâm sâu xa không mất. Lónh vực tin hiểu chuyển sang sáng tỏ thông suốt, căn thiện đã sinh càng tăng trưởng, xa lìa mọi thứ uế trược của thế gian, đoạn trừ các tâm nghi, không có lưới nghi, hiện tiền đầy đủ, thành tựu hỷ lạc, được Như Lai hiện tiền gia hộ, thanh tựu tâm sâu xa vô lượng hiện tiền”. Luận: Mười câu thứ tư (đợt 4). Tức là đoạn kinh gồm bốn mươi câu, nói bốn loại quả chỉ rõ về cảnh giới của tâm kia chuyển sang thanh tịnh. Cảnh giới của tâm; là tâm dựa vào Bồ-đề phần, như câu đầu đã chỉ rõ. Cảnh giới của tâm thanh tịnh có chín loại: Tâm đạo kia tu hành tăng tiến. Như Kinh nói: “Cảnh giới của tâm sâu xa không mất”. Ở trong chỗ chứng đắc thắng thượng, chuyển sinh tâm quyết định. Như kinh nói: “Lónh vực tin hiểu chuyển sang sáng tỏ, thông suốt”. Nhân đối trị tăng trưởng. Như Kinh nói: “Căn thiện đã sinh càng tăng trưởng”. Diệt trừ các chướng ngại. Như Kinh nói: “Xa lìa mọi thứ uế trược của thế gian”. Đoạn trừ các sự nghi ngờ ẩn kín đối với địa này. Như Kinh nói: “Đoạn trừ các tâm nghi”. Do đoạn trừ nghi cho nên đối với các xứ khác luôn quyết định. Như kinh nói: “Hiện tiền đầy đủ, không có lưới nghi”. Dựa vào hành an lạc thù thắng. Như Kinh nói: “Thành tựu hỷ- lạc”. Dựa vào diệu lực để giáo hóa chúng sinh. Như Kinh nói: “Như Lai hiện tiền gia hộ”. Dựa vào tâm Tam-muội vô lượng hiện có, mọi chướng ngại của trí đều được thanh tịnh. Như Kinh nói: “Thành tựu tâm sâu xa vô lượng hiện tiền”. Đó gọi là Quả cảnh giới của tâm gốc luôn đầy đủ. Kinh: “Bồ-tát ấy, trú nơi địa Diệm của bậc Bồ-tát rồi, được thấy nhiều chư Phật. Do diệu lực của đại thần thông-đại nguyện, cho nên được thấy nhiều trăm Phật cho đến nhiều trăm ngàn na-do-tha Phật, được thấy nhiều ức Phật cho đến nhiều trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật. Do diệu lực của đại thần thông-đại nguyện, cho nên Bồ-tát này, khi gặp Phật đều đem tâm hướng thượng, tâm sâu xa tôn trọng, cung kính, tán thán, cúng dường y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men, tất cả mọi vật dụng cúng dường thảy đều phụng thí, dùng các thứ các loại tạo nên an lạc thượng diệu của bậc Bồ-tát cúng dường cho chúng Tăng, đem các căn thiện này, đều nguyện hồi hướng về đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Ở nơi trú xứ của chư Phật, sinh tâm cung kính tột bậc, một lòng lắng nghe chính pháp, nghe rồi họ trì, tùy sức tu tập, ở trong pháp của chư Phật xuất gia học đạo. Bồ-tát ấy, với tâm sâu xa quyết định tin hiểu, càng trở nên sáng tỏ, thanh tịnh. Bồ-tát ấy, trú nơi địa Diệm của bậc Bồ-tát, ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, tâm sâu xa luôn quyết định tin hiểu, thanh tịnh bình đẳng. Các căn thiện kia luôn chuyển sang sáng sạch, thù thắng. Này các Phật tử! Ví như vàng ròng từ ban đầu được các thợ kim hoàn khéo léo luyện, sửa, tạo ra những vật dụng trang sức đẹp đẽ thành tựu không mất. Những vật dụng không phải là trang sức khác, đối với vàng ròng vốn không thể sánh kịp. Này các Phật tử! Bồ-tát kia cũng như vậy, trú nơi địa Diệm của bậc Bồ-tát này, những căn thiện kia thành tựu không thối chuyển, căn thiện của địa dưới không thể sánh kịp. Này các Phật tử! Ví như ngọc báu ma ni phát sinh ánh sáng, vầng ánh sáng thanh tịnh có thể phóng ra ánh sáng, thành tựu không mất. Ánh sáng của những vật báu khác không thể xâm đoạt. Hết thảy mọi trường hợp gió giật, mưa dồn, nước tưới, ánh sáng kia cũng không tắt. Này các Phật tử! Như vậy, Bồ-tát an trú nơi địa Diệm của bậc Bồ-tát này, những Bồ-tát ở địa dưới không thể theo kịp. Tất cả các thứ ma cùng các loại phiền não đều không thể phá hoại. Bồ-tát ấy, trong bốn Nhiếp pháp, thì đồng sự là hơn hẳn, trong mười Ba-la-mật thì Tinh tiến Ba- la-mật là tăng thượng, các Ba-la-mật khác không phải là không tu tập, nhưng tùy theo sức, theo phần. Này các Phật tử! Đó gọi là lược nêu về địa Diệm, là Địa thứ tư của bậc Bồ-tát. Chư Bồ-tát trú trong địa này, nhiều lần làm Thiên vương cõi trời Tu-dạ-ma, mọi sự tạo tác đều tự tại, diệt trừ các thứ kiến chấp về thân của chúng sinh. Dùng phương tiện thiện xảo, khiến cho các chúng sinh an trú trong chính kiến, những nghiệp thiện đã làm như bố thí-ái ngữ-lợi hành-đồng sự, các phước đức ấy đều không lìa niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng, niệm Bồ-tát, niệm hạnh của Bồ-tát, niệm Ba-la-mật, niệm mười địa, niệm diệu lực không hoại, niệm vô úy, niệm pháp bất cộng của Phật. Cho đến không lìa niệm đầy đủ về trí Nhất thiết chủng, trí Nhất thiết trí, luôn sinh tâm này: Mình nên đối với hết thảy chúng sinh, là người đứng đầu, là hơn hẳn, là lớn, là diệu, là vi diệu, là trên, là vô thượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, là bậc thầy, là bậc tôn quý cho đến là chỗ dựa của trí Nhất thiết trí. Bồ-tát lại từ niệm ấy phát khởi hành tinh tiến, do diệu lực của tinh tiến, cho nên trong khoảng một niệm, đạt được ức Tam-muội, có thể thấy ức Phật, có thể nhận biết ức thần lực của Phật, có thể làm chuyển động ức thế giới của Phật, có thể đi vào ức thế giới của Phật, có thể soi chiếu ức thế giới của Phật, có thể hóa độ chúng sinh nơi ức thế giới của Phật, có thể trú trong ức kiếp, có thể biết rõ về sự việc nơi ức kiếp của đời quá khứ-vị lai, có thể khéo hội nhập nơi ức pháp môn, có thể biến hóa thân làm ức thân, nơi mỗi mỗi thân có thể thị hiện ức Bồ-tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thắng thượng, thì nguyện lực của Bồ-tát còn vượt hơn số lượng ấy. Bồ-tát thị hiện đủ các loại thần thông, hoặc nơi thân, hoặc ánh sáng, hoặc thần thông, hoặc nơi mắt, hoặc cảnh giới, hoặc âm thanh, hoặc hành hóa, hoặc làm trang nghiêm, hoặc gia hộ, hoặc tin tưởng, hoặc tạo nghiệp. Các thần thông ấy, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết hết”. Luận: Bồ-tát ấy với tâm sâu xa quyết định tin hiểu thanh tịnh, bình đẳng, các căn thiện kia càng trở nên sáng sạch thù thắng, như các Bồ-tát nơi địa thanh tịnh khác. Dụ về vàng ròng tạo ra các vật dụng trang sức; là dụ cho A-hàm (Pháp không gì sánh) nơi Trí hiện tác chứng trang nghiêm, chỉ rõ về Trí chứng đắc. Như kinh nói: “Ví như vàng ròng từ ban đầu…”. Dụ về ngọc báu ma ni phát sinh ánh sáng; là ánh sáng pháp nơi trí chứng đắc của Bồ-tát, như ánh sáng nơi ngọc báu ma ni, phóng ra ánh sáng của pháp không gì sánh, nhập vào vô lượng pháp môn, chỉ rõ nghĩa Ánh sáng nơi cảnh giới của Trí soi chiếu khắp. Do ý nghĩa ấy cho nên địa này được gọi là Diệm (Ánh lửa). Như kinh nói: “Này các Phật tử! Ví như ngọc báu ma ni phát sinh ánh sáng…”. Phát sinh ánh sáng: là có đầy đủ ánh sáng. Vầng ánh sáng thanh tịnh; là ánh sáng viên mãn, không cấu nhiễm. Mọi tạo tác đều tự tại: tức là phá trừ thân kiến của các chúng sinh. Trong đó tạo tác là chỗ tạo tác, tự tại là năng lực. Phần còn lại như trước đã nói, nên biết.  <卷>QUYỂN 7 Địa 5: ĐỊA NAN THẮNG Luận: Trong địa này, phân biệt có ba phần: Thắng do đối trị mạn. Thắng do hành đạo không trú. Thắng của quả ấy. Thế nào là thắng do đối trị mạn? Kinh: “Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này các Phật tử! Nếu Bồ-tát đạt được Địa thứ tư của bậc Bồ-tát, khéo thực hiện đủ các hành rồi, muốn bước vào Địa thứ năm cho nên dùng mười loại tâm thanh tịnh, sâu xa, bình đẳng để hội nhập nơi địa ấy. Những gì là mười? Đó là: Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với pháp Phật quá khứ. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với pháp Phật vị lai. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với pháp Phật hiện tại. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với giới tịnh. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với tâm tịnh. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với việc dứt trừ kiến-nghi-hối, đạt thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với trí đạo phi đạo thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với trí hành đoạn thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với việc lượng xét về tất cả pháp phần Bồ-đề thanh tịnh tối thượng. Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với việc hóa độ tất cả chúng sinh đạt thanh tịnh. Này các Phật tử! Bồ-tát dùng mười loại tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng ấy cho nên có thể đi vào Địa thứ năm của bậc Bồ-tát”. Luận: Đối trị mạn thắng; tức là mười loại tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng, cùng niệm về tâm không thối chuyển. Trước đã nói về việc đối trị mạn với lãnh hội pháp. Nay trong địa này nói về đối trị mạn nơi phân biệt thanh tịnh. Trong đó: Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng; là ở trong sự bình đẳng, tâm được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sâu xa ấy phân biệt có mười loại. Mười loại tâm thanh tịnh sâu xa; là pháp của chư Phật cùng sự tùy thuận nơi pháp của chư Phật. Sự phân biệt ấy, nên biết. Thế nào là pháp của chư Phật? Tức là diệu lực… của ba đời, như kinh nói: “Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với pháp Phật quá khứ-vị lai-hiện tại”. Như vậy, diệu lực của pháp Phật nơi ba đời đã nêu bày. Tiếp theo là nói về sự tuỳ thuận với pháp của chư Phật. Pháp của chư Phật kia do đâu mà được thành? Tức là dựa vào giới- định-trí cùng việc hóa độ chúng sinh, trong ấy: Dựa vào giới thanh tịnh. Như kinh nói: “Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với giới thanh tịnh”. Dựa vào định thanh tịnh. Như kinh nói: “Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với tâm định”. Dựa vào trí thanh tịnh. Như kinh nói: “Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với việc dứt trừ kiến-nghi-hối-đạt thanh tịnh…”. Ở đây: Trí hành đoạn; là lượng xét về tất cả pháp phần Bồ-đề chuyển sang thù thắng tối thượng, dựa vào sự giáo hóa chúng sinh. Như kinh nói: “Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng với việc hóa độ tất cả chúng sinh đạt thanh tịnh”. Kinh: “Này các Phật tử! Bồ-tát ấy an trú nơi Địa thứ năm của bậc Bồ-tát rồi, khéo tu hành pháp phần Bồ-đề, khéo thành tựu tâm thanh tịnh sâu xa, chuyên cầu đạt hành thượng thắng, tùy thuận hành như đạo, đạt nguyện lực lớn, do tâm từ bi, không xả bỏ tất cả chúng sinh, tu tập hành công đức trí tuệ, các hành không ngừng nghỉ, dấy khởi phương tiện thiện xảo, soi chiếu, thấy rõ địa tối thượng, chính thức thọ nhận sự gia hộ của Như Lai, đạt được trí lực niệm ý khứ, thành tựu tâm không thối chuyển”. Luận: Trong đoạn này: “Khéo tu hành pháp phần Bồ-đề”, cho đến “Tùy thuận hành như đạo”; đều là chính thức tu tập các hành. Khéo tu hành pháp phần Bồ-đề; trong Địa thứ tư của bậc Bồ-tát tu tập pháp phần Bồ-đề, khéo đạt tâm sâu xa thanh tịnh. Còn tâm thanh tịnh sâu xa kia thì cùng cầu đạt hạnh thù thắng. Như vậy mà hành đạo không trú, hơn hẳn để phá trừ các mạn. Tùy thuận hành như đạo; là tâm thanh tịnh sâu xa, tâm không thối chuyển, trong sự bình đẳng kia hiện bày thành tựu, tùy theo sự bình đẳng ấy, trú nơi pháp thanh tịnh. Như vậy, tâm sâu xa của Bồ-tát an trú gọi là tùy thuận hành như đạo. Tùy thuận hành như đạo, có tám loại: Tu tập tâm Bồ-đề. Như kinh nói: “Đạt được nguyện lực lớn”. Không mệt mỏi. Như kinh nói: “Do tâm Từ Bi cho nên không xả bỏ tất cả chúng sinh”. Đạt được diệu lực của căn thiện. Như kinh nói: “Tu tập hạnh công đức, trí tuệ”. Không bỏ các hành. Như kinh nói: “Các hành không ngừng nghỉ”. Tu hành chân chính. Như kinh nói: “Phát khởi phương tiện thiện xảo”. Không chán đủ. Như kinh nói: “Soi chiếu thấy rõ địa tối thượng”. Đạt được lực thù thắng của kẻ khác. Như kinh nói: “Chính thức thọ nhận sự gia hộ của Như Lai”. Tự thân đạt được diệu lực thù thắng, niệm thù thắng của ba tuệ. Như kinh nói: “Đạt được trí lực niệm ý khứ, thành tựu tâm không thối chuyển”. Khứ là quán tu tuệ, có nghĩa là không bị chướng ngại. Thế nào là sự thù thắng của hành đạo không trú? Thù thắng của hành đạo không trú có hai loại quán: Thù thắng của trí thanh tịnh trong pháp đã được nhận biết. Thù thắng của phương tiện siêng năng làm lợi ích cho chúng sinh. Do hai pháp ấy, cho nên không trú nơi thế gian, không trú nơi Niết-bàn. Thế nào là sự thù thắng của trí thanh tịnh trong pháp đã được nhận biết? Kinh: “Bồ-tát ấy nhận biết đúng như thật về: Khổ Thánh đế, Khổ Tập đế, Khổ Diệt đế. Nhận biết đúng như thật về Đạo Thánh đế diệt trừ hết mọi khổ. Bồ-tát ấy, khéo nhận biết về thế gian đế, khéo nhận biết về Đệ nhất nghĩa đế, khéo nhận biết về: Đế tướng. Đế sai biệt. Đế thuyết thành. Đế sự. Đế sinh. Đế tận vô sinh trí. Đế khiến nhập đạo trí. Đế thứ tự thành tựu tất cả địa của bậc Bồ-tát. Đế tập Như Lai trí. Bồ-tát này thuận theo tâm ý của chúng sinh khiến họ hoan hỷ. Khéo nhận biết về thế gian đế, cho nên thông đạt về một tướng của tất cả pháp. Khéo nhận biết về đế đệ nhất nghĩa, cho nên biết rõ tự tướng, đồng tướng của pháp. Khéo nhận biết về đế tướng, cho nên biết rõ chỗ sai biệt của các pháp. Khéo nhận biết về đế sai biệt, cho nên biết phân biệt về ấm-giới-nhập. Khéo nhận biết về đế thuyết thành, cho nên biết rõ về thân tâm khổ não. Khéo nhận biết về đế sự, cho nên biết rõ về các nẻo sinh tương tục. Khéo nhận biết về đế sinh cho nên diệt trừ hoàn toàn mọi thứ nhiệt não. Khéo nhận biết về đế tận vô sinh trí cho nên phát khởi hành bất nhị. Khéo nhận biết về đế khiến nhập đạo trí, cho nên biết đúng đắn về tướng của tất cả các pháp. Khéo nhận biết về đế thứ tự thành tựu hết thảy địa của bậc Bồ-tát, và khéo nhận biết về đế tập Như Lai trí, do diệu lực tin hiểu, cho nên biết rõ chỗ nhận thức của trí phi đắc nhất thiết cứu cánh”. Luận: Sự thù thắng của trí thanh tịnh trong pháp đã được nhận biết, có hai loại: Phân biệt pháp thật, nhận biết đúng như thật về bốn đế. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về Khổ Thánh đế”. Chỗ sai biệt của phương tiện hóa độ chúng sinh, dựa vào trí phương tiện sai biệt của mười đế. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy khéo nhận biết về thế gian đế, cho đến: “Cùng khéo nhận biết về đế tập Như Lai trí”. Trong ấy: Phân biệt pháp thật: tức là dù có Phật hay không có Phật, thì hai đế khổ-tập với quả nhân sai biệt, Thể của chúng là vọng tưởng cấu nhiễm. Hai đế diệt-đạo với quả nhân sai biệt, Thể của chúng là pháp thanh tịnh. Chỗ sai biệt của phương tiện hóa độ chúng sinh; là sự sai biệt của chúng sinh được hóa độ. Phương tiện sai biệt cho nên nhận biết! Chúng sinh nơi đối tượng được hóa độ có bảy loại. Hàng Tiểu thừa có thể hóa độ có sáu loại: Vì chúng sinh căn cơ chưa thuần thục, cho nên biết rõ phương tiện của thế gian đế. Vì chúng sinh căn cơ thuần thục, cho nên biết rõ phương tiện của đế đệ nhất nghĩa. Vì các chúng sinh nghi hoặc đối với pháp thâm diệu, cho nên biết rõ phương tiện của đế tướng. Vì các chúng sinh hiểu sai lạc, mê lầm đối với pháp thâm diệu cho nên biết rõ phương tiện của đế sai biệt. Vì các chúng sinh lìa chính niệm, cho nên biết rõ phương tiện của đế thuyết thành. Vì các chúng sinh có chính kiến cho nên nhận biết phương tiện của đế sự, nhận biết phương tiện của đế sinh, đế tận vô sinh trí, đế khiến nhập đạo trí. Bốn đế như đế sự… là thuộc về khổ đế… Là hàng Đại thừa có thể hóa độ chúng sinh, cho nên khéo nhận biết phương tiện của đế thứ tự thành tựu tất cả địa của bậc Bồ-tát, và khéo nhận biết về phương tiện của đế tập Như Lai trí. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, tùy thuận tâm ý của chúng sinh, khiến họ hoan hỷ, khéo nhận biết về thế gian đế…”. Trong đoạn này: Thứ tự của địa Bồ-tát là khoảng giữa của từng địa, như từ địa của mình thứ tự mà hội nhập, thuận theo biết tất cả sinh xứ, thân tâm thọ nhận khổ não. Khổ: tức là mọi sự thọ nhận hiện có đều là sự khổ. Phát khởi hành bất nhị; tức là một hành. Nhận biết đúng đắn về tất cả các tướng: là xứ luận của năm minh đều khéo léo nhận biết, là lực dụng của tin, hiểu. Nhận biết: là trí lực của quán xét hình tượng trong gương, trí lực của sự quán xét không thành tựu. Như vậy là đã nói xong phần thù thắng của trí thanh tịnh trong pháp đã được nhận biết. Thế nào là thù thắng của phương tiện siêng năng làm lợi ích cho chúng sinh? Do nhận biết tướng hư vọng của tất cả pháp hữu vi, cho nên dấy khởi niệm thương xót chúng sinh. Kinh: “Bồ-tát ấy đã khéo phát khởi trí của các đế như vậy rồi, nhận biết đúng như thật về tất cả hành hữu vi đều là hư vọng, dối gạt, làm mê hoặc hàng phàm phu. Bồ-tát bấy giờ, lại ở giữa chúng sinh, tâm Đại Bi chuyển sang trội bật, luôn hiện tiền cùng phát khởi tâm Đại Từ sáng tỏ”. Luận: “Bồ-tát ấy đã khéo phát khởi trí của các Đế như vậy rồi”, cho đến “Cùng phát khởi tâm Đại Từ sáng tỏ”: Trong đó, vọng tưởng về thường… là vì chẳng giống với không hoàn toàn (vô) cho nên là hư. Luôn tạo ra các sự việc kiêu mạn, tưởng chấp về ngã, cho nên là vọng. Pháp thế gian hoàn toàn hư hoại cho nên là dối. Pháp thế gian lôi kéo, trói buộc hàng phàm phu ngu si cho nên là trá… Phàm phu: là dựa vào chấp giữ về thân mà dấy khởi ngã mạn. Đại Bi, Đại Từ: là thương xót chúng sinh. Lợi ích thù thắng là chỉ rõ chỗ hơn so với địa trước về Bi, cho nên nói Đại Bi thù thắng hành đạo không trú. Thành tựu trí phương tiện để cứu độ chúng sinh, cho nên gọi là tâm Đại Từ sáng tỏ. Kinh: “Bồ-tát ấy đạt được diệu lực của trí tuệ như vậy, không xả bỏ tất cả chúng sinh, luôn cầu đạt trí tuệ Phật. Quán xét đúng như thật về hết thảy hành hữu vi, đối với thời gian trước-thời gian sau nhận biết các chúng sinh từ thời gian trước bởi vì vô minh-hữu ái mà sinh, lưu chuyển trong thế gian, quay về ngôi nhà năm ấm, không thể hành động tự tại mà khổ ấm càng tăng trưởng. Trong đó, không có ngã, không có thọ mạng, không có chúng sinh, lìa ngã, ngã sở, Bồ-tát đều nhận biết đúng như thật. Thời gian sau cũng như vậy. Ở đây, không thật có mà do tham chấp hư vọng về phần đoạn, tất cả đều sinh ra có không, Bồ-tát đều nhận biết đúng như thật”. Luận: Bồ-tát ấy đạt được diệu lực của trí tuệ như vậy: tức là như trước đã nêu. Không xả bỏ tất cả chúng sinh: tức là tâm Đại Bi, Đại Từ sáng tỏ cũng như trước đã nói. Cầu đạt trí tuệ Phật: là nghĩa về cứu độ tất cả chúng sinh. Quán xét đúng như thật về hết thảy hành hữu vi đối với thời gian trước-sau: tức là tùy theo quán Đại Bi kia chỉ rõ hai loại tướng: Quán như thật về nhân duyên của khổ là tập. Như kinh nói: “Nhận biết các chúng sinh, từ thời gian trước bởi vì vô minh-hữu ái mà sinh…”. Ở đây, từ thời gian trước bởi vì vô minh-hữu ái mà sinh”; tức là hiển bày về phàm phu sinh chứ không phải là Bồ-tát sinh. Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo để sinh. Vì sao không nói các phần nhân duyên khác? Vì vô minh, hữu ái là gốc rễ của phần Hữu. Phàm phu sinh, tức là nói có ba loại chúng sinh: Chúng sinh cầu dục, chúng sinh cầu phạm hạnh không thật, chúng sinh cầu hữu. Cho đến dựa vào cõi trời Hữu Đảnh thì nỗi khổ của năm ấm cũng là vô ngã, trong ấy, tự thân vô ngã và vô ngã của chúng sinh thuộc đệ nhất nghĩa, cho nên là không có. Nhưng vô ngã của chúng sinh là dựa vào sức của mạng căn mà trú, luôn luôn thọ sinh, thân tâm của chúng sinh tương tục, không phải thường, không phải đoạn, mà cho là có thọ mạng và có chúng sinh. Phá trừ ý chấp giữ kiêu mạn kia, cho nên nói là không có thọ mạng-không có chúng sinh. Xa lìa ý ngã mạn của chủ thể chấp giữ, đối tượng chấp giữ, cho nên gọi là lìa ngã và ngã sở. Đối với thời gian trước, do nhân duyên gì mà tùy theo chúng sinh hiện có, tuỳ theo hành khổ hiện có? Bồ-tát quán xét đúng đắn rồi, đối với thời gian sau cũng như vậy. Tùy theo nhân của khổ kia là vô minh-ái dứt hẳn, đó gọi là diệt, hơn hẳn diệt của thế gian. “Ra khỏi” là đạo. “Không” cũng nhận biết đúng như thật. “Có” cũng nhận biết đúng như thật. Đó gọi là một thứ Đại Bi quán đúng đắn về nhân duyên tập, nhớ nghó đúng như thật về khổ. Tiếp theo là nói đến Đại Bi thứ hai: Quán đúng đắn về các khổ sâu nặng mãi đeo đuổi nơi vô lượng đời cùng các loại khổ. Kinh: “Bấy giờ, Bồ-tát suy nghó: Các kẻ phàm phu ấy thật hết sức kỳ dị. Ngu si, không có trí cho nên thọ nhận vô lượng vô biên A-tăng-kỳ thân, đã diệt, đang diệt và sẽ diệt. Luôn diệt như vậy, nhưng không thể đối với thân sinh tưởng chán lìa, lại càng làm tăng trưởng những yếu tố chính nơi thân khổ, luôn bị cuốn trôi theo dòng chảy của thế gian mà không thể lội ngược lại, chỉ quay về ngôi nhà năm ấm chứ không sao lìa bỏ được, chẳng sợ rắn độc bốn đại, không sao nhổ bỏ mũi tên kiến chấp-ngã mạn, không thể diệt trừ lửa tham sân si, không thể phá bỏ được vùng vô minh tối tăm, không thể làm khô cạn dòng sông lớn của ái chấp, không cầu đạt mười lực của bậc Đại Thánh-bậc Đạo sư, thường đi vào rừng rậm của ý ma, ở trong biển sinh tử luôn bị các thứ giác quán xấu ác xoay chuyển”. Luận: Đại Bi, quán xét đúng đắn về các khổ sâu nặng: là trong vô lượng đời luôn bị cuốn theo đủ thứ khổ. Có vô lượng vô biên A-tăng-kỳ thân diệt: là bị cuốn theo trong vô lượng đời. Thế nào là quán xét về vô số thứ khổ? Như quán về sinh khổ, nhân của khổ ấy, lìa nhân khổ kia là diệt, đạo. Cũng vậy, quán về già-bệnh- chết khổ, nhân của khổ kia, lìa nhân khổ là diệt, đạo. Nơi đoạn này: Thân ấy dựa vào nhân duyên, có đủ yếu tố chính về thân khổ; là chỉ rõ về sinh khổ. Thường bị cuốn trôi theo dòng chảy của thế gian mà không thể lội ngược lại; là chỉ rõ về ái của tập (nguyên nhân). Quay về nơi ngôi nhà năm ấm chứ không sao lìa bỏ được: là chỉ rõ về diệt, đạo, lìa nhân khổ. Không sợ rắn độc bốn đại: là bệnh khổ nơi nhân kia phát sinh tăng-giảm. Chúng sinh cầu phạm hạnh hư vọng, chúng sinh cầu dục, thọ nhận dục, hành hạnh ác, chúng sinh cầu hữu: Tức là chỉ rõ không thể nhổ bỏ mũi tên kiến chấp-ngã mạn. Không thể diệt trừ lửa tham sân si, không thể phá bỏ vùng vô minh tối tăm, không thể làm khô cạn dòng sông lớn của ái chấp. Thứ tự như vậy, chỉ rõ về nguyên nhận của khổ kia cầu hướng tới nơi chốn vô úy. Không cầu đạt mười lực của bậc Đại Thánh-bậc Đạo sư: là chỉ rõ việc xa lìa sự diệt khổ kia. Luôn đi vào rừng rậm của ý ma: là chỉ rõ việc thuận theo đạo ác, xa lìa đạo diệt khổ kia. Ở trong biển sinh tử luôn bị các thứ giác quán xấu ác xoay chuyển, tức là tướng của tất cả tâm, tâm số pháp nơi ba cõi đều là phân biệt hư vọng, cho nên biết. Kinh: “Bồ-tát thấy rõ các chúng sinh kia thọ nhận khổ não như vậy, cô độc không ai cứu độ, không nơi nương dựa, không có nhà cửa, không có bến bãi, không có nẻo cứu cánh, mù lòa không mắt, bị màng tối vô minh che chắn trói buộc, ngu si trùm phủ. Vì các chúng sinh ấy, Bồ-tát phát tâm như vậy: Chỉ mỗi mình ta đơn độc không bè bạn sánh cùng, tu tập công đức trí tuệ trợ đạo, dùng công đức trí tuệ trợ đạo ấy làm hành trang, khiến cho hết thảy chúng sinh được an trú nơi chốn thanh tịnh trọn vẹn, cho đến khiến họ đạt được mười lực và trí hoàn toàn không chướng ngại của Phật”. Luận: Các chúng sinh thọ nhận khổ não như vậy. Như trước đã nói. Cô độc: tức là ở trong khổ não không ai cứu vớt. Lại nữa, cô độc là đối với việc đã thọ nhận khổ, chưa thọ nhận khổ mà nói. Không người cứu độ, không nơi nương dựa: là xa lìa thiện tri thức. Không có nhà cửa: tức là lìa việc được nghe chính pháp. Không có bến bãi: là lìa bỏ tư duy tịch tónh. Không nẻo cứu cánh: là lìa bỏ chính kiến. Mù lòa không mắt: tức là chỉ cho chướng ngại nơi các phiền não vốn có cùng với phiền não của khách trần, luôn khởi tà niệm, không nghe chính pháp. Bị màng tối vô minh che chắn, trói buộc, ngu si trùm phủ, chỉ mỗi mình ta, đơn độc không bạn bè cùng sánh. Hiển bày sự việc dũng mãnh, thù thắng. Tu tập công đức, trí tuệ trợ đạo: là làm sáng tỏ việc tu hành tăng trưởng, dựa vào đó để giáo hóa chúng sinh, làm nhân của hàng trời, người, cho đến nhân của Niết-bàn. Thanh tịnh trọn vẹn: là sự thanh tịnh hơn hẳn thế gian. Đạt được mười lực của Phật: là hàng phục các thứ ma oán. Trí hoàn toàn không chướng ngại; là trí thanh tịnh của Phật hơn hẳn hàng Nhị thừa. Kinh: “Bồ-tát khéo quán xét như vậy, khởi diệu lực của trí tuệ mà tu các thiện pháp, phát nguyện vì cứu độ tất cả chúng sinh, vì làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh, vì đem lại an lạc cho mọi chúng sinh, thương xót nhớ nghó đến muôn loài, vì khiến cho họ không còn khổ não, khiến họ đạt được giải thoát, vì thâu nhiếp dẫn dắt hết thảy chúng sinh, vì khiến cho tâm của tất cả chúng sinh được thanh tịnh, vì điều phục hết thảy các loài, cho nên Bồ-tát phát nguyện hóa độ khiến họ hội nhập nơi Đại Niết-bàn”. Luận: Trong đoạn này: Khéo quán xét-khởi diệu lực của trí tuệ; là dùng trí quan sát đúng đắn để điều phục dẫn dắt chúng sinh. Đều vì cứu độ tất cả chúng sinh; tức là nhổ sạch mọi thứ khổ não. Cứu độ có chín loại: Đối với chúng sinh trú trong bất thiện; khiến cho họ trú vào pháp thiện. Như kinh nói: “Vì tất cả chúng sinh mà làm lợi ích”. Chúng sinh trú nơi pháp thiện; khiến cho họ đạt được quả an lạc. Như kinh nói: “Vì khiến cho hết thảy chúng sinh đạt được an lạc”. Chúng sinh sống cảnh bần cùng thiếu thốn, thì ban cho họ tất cả vật dụng sinh sống. Như kinh nói: “Thương xót nhớ nghó đến hết thảy các loài”. Chúng sinh bị bệnh khổ cùng các ngoại duyên não hại; đều khiến cho họ dứt trừ. Như kinh nói: “Vì khiến cho hết thảy chúng sinh không còn khổ não”. Chúng sinh bị trói buộc nơi thế gian; khiến họ đều được lìa khỏi. Như kinh nói: “Vì khiến cho mọi chúng sinh đều được giải thoát”. Ở đây có bốn loại tướng. Khiến các ngoại đạo tin hiểu chính pháp. Như kinh nói: “Vì thâu nhiếp, dẫn dắt hết thảy chúng sinh”. Chúng sinh nghi hoặc thì khiến họ khéo quyết định dứt trừ nghi. Như kinh nói: “Vì khiến cho tâm tất cả chúng sinh được thanh tịnh”. Chúng sinh đã trú nơi quyết định; thì khuyến khích họ tụ tập ba Học. Như kinh nói: “Vì điều phục hết thảy các chúng sinh”. Chúng sinh đã trú nơi ba Học; thì khiến cho họ đạt được Niết- bàn. Như kinh nói: “Phát nguyện vì tất cả chúng sinh khiến họ hội nhập nơi Đại Niết-bàn”. Trong chín loại cứu khổ này thì hai câu đầu là cứu độ đời vị lai, các câu còn lại là cứu độ hiện tại và cũng cứu độ vị lai. Đó gọi là thù thắng do tu hành đạo không trú. (Phần hai) Tiếp theo là nói về Quả của sự tu hành ấy (Phần ba). Có bốn loại tướng: Thù thắng do thâu nhiếp công đức. Thù thắng do tu tập, hành trì. Thù thắng do giáo hóa chúng sinh. Thù thắng do khởi trí tùy thuận thế gian. Thế nào là thù thắng do thâu nhiếp công đức? Là thù thắng do thâu nhiếp Văn-Giới-Trí. Kinh: “Bồ-tát ấy an trú nơi địa Nan thắng, là Địa thứ năm của bậc Bồ-tát rồi, được gọi là Niệm, vì không quên các pháp. Gọi là Ý vì trí tuệ khéo quyết định. Gọi là Khứ vì nhận biết thứ tự, ý nghĩa của kinh sách. Gọi là có Hổ thẹn vì tự giữ gìn và giữ gìn cho chúng sinh. Gọi là Tâm kiên cố vì không rời bỏ thực hành trì giới. Gọi là Giác vì khéo tư duy về xứ đúng và xứ không đúng. Gọi là Theo trí vì không tùy thuộc kẻ khác. Gọi là Theo tuệ vì khéo phân biệt về nghĩa đúng không đúng nơi chương câu của các pháp. Gọi là Đạt thần thông vì khéo tu tập thiền định. Gọi là Phương tiện thiện xảo vì tùy thuận hành pháp thế gian”. Luận: Thù thắng do thâu nhiếp Văn: là thù thắng do thâu nhiếp ba tuệ: Văn-Tư-Tu. Thế nào là thù thắng của tuệ? Như kinh nói: “Gọi là Niệm vì không quên các pháp. Gọi là Ý, vì trí tuệ khéo quyết định. Gọi là Khứ vì nhận biết thứ tự, ý nghĩa của kinh sách”. Ở đây, Niệm là thù thắng của Văn tuệ. Ý là thù thắng của Tư tuệ. Khứ là thù thắng của Tu tuệ. Thứ tự của các câu ấy lại có cách giải thích khác: Nghe và hành trì thù thắng cho nên gọi là Niệm. Pháp trí thâm diệu thù thắng cho nên gọi là Ý. Trí thâm diệu của ý thù thắng cho nên gọi là Khứ. Đây là lược nêu về hai loại thiện xảo: Pháp thiện xảo và nghĩa thiện xảo thành tựu. Thù thắng do thâu nhiếp Giới; có hai loại là nhẫn nhục nhu hòa và thù thắng do giới không thiếu sót. Như kinh nói: “Gọi là có Hổ thẹn vì tự giữ gìn và giữ gìn cho chúng sinh. Gọi là Tâm kiên cố vì không rời bỏ thực hành trì giới”. Thù thắng do thâu nhiếp Trí, có năm loại: Trí nhân duyên tập, không có nhân của điên đảo và đối trị nhân của tà kiến. Như kinh nói: “Gọi là Giác, vì khéo tư duy về xứ đúng-xứ không đúng”. Trí chứng đắc, đối trị ma sự. Như kinh nói: “Gọi là Theo trí vì không tùy thuộc kẻ khác”. Trí nhận biết ngôn thuyết sai lạc và đối trị dị thuyết. Khéo nhận biết về câu nghĩa đúng, câu nghĩa không đúng, câu nghĩa xen tạp. Như kinh nói: “Gọi là Theo tuệ, vì khéo phân biệt nghĩa đúng-nghĩa không đúng nơi chương câu của các pháp”. Trí thần lực, đối trị quy y tà vạy. Như kinh nói: “Gọi là Đạt thần thông vì khéo tu tập thiền định”. Trí hóa độ chúng sinh, dùng phương tiện để thâu nhiếp. Như kinh nói: “Gọi là Phương tiện thiện xảo vì tùy thuận hành pháp thế gian”. Đó gọi là thù thắng do thâu nhiếp công đức. Thế nào là thù thắng do tu tập hành trì? Kinh: “Gọi là Không chán đủ vì khéo tích tập công đức, hành trợ đạo. Gọi là Tinh tiến không ngừng nghỉ vì thường cầu đạt trí tuệ, hành trợ đạo. Gọi là Không mệt mỏi vì tích tập Đại Từ Bi, hành trợ đạo. Gọi là Thường niệm pháp Phật, vì luôn cầu đạt mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng của Phật. Gọi là Khéo nhớ nghó tu hành vì khởi phát việc làm trang nghiêm cõi Phật. Gọi là Tu hành đầy đủ các loại nghiệp thiện vì tích tập ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp. Gọi là Thường hành tinh tiến vì luôn cầu thân, khẩu-ý Phật trang nghiêm. Gọi là Ưa thích cung kính đại pháp vì luôn thân cận cúng dường hết thảy chư Bồ-tát cùng Pháp sư. Gọi là Khéo dấy khởi nguyện tự tại vì có phương tiện lớn để khéo hội nhập thế gian. Gọi là Ngày đêm xa lìa tâm khác, vì thường ưa thích giáo hóa hết thảy chúng sinh”. Luận: Ở đây, nêu sự thù thắng do tu hành có mười loại: Hành tăng trưởng nhân. Như kinh nói: “Gọi là Không chán đủ vì khéo tích tập công đức, hành trợ đạo”. Hành nương vào nhân. Như kinh nói: “Gọi là Tinh tiến không ngừng nghỉ vì luôn cầu đạt trí tuệ, hành trợ đạo”. Hành hóa độ chúng sinh không hề mệt mỏi. Như kinh nói: “Gọi là Không mệt mỏi vì tích tập Đại Từ Bi, hành trợ đạo”. Hành hưng khởi pháp Phật. Như kinh nói: “Gọi là thường niệm pháp Phật vì dốc cầu đạt mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng của Phật”. Hành phát khởi việc làm thanh tịnh cõi Phật. Như kinh nói: “Gọi là Khéo nhớ nghó tu hành, vì khởi phát việc làm thanh tịnh cõi Phật”. Thế nào là trang nghiêm? Tức là chúng sinh trú nơi cõi đó không có phiền não cấu uế, đạt trí tuệ kiên cố, cùng pháp Phật luôn trang nghiêm. Hành dựa vào pháp Phật để phát khởi. Như kinh nói: “Gọi là Tu hành đầy đủ các loại nghiệp thiện, vì tích tập ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp”. Hành dựa vào nẻo hành hóa của Phật để phát khởi. Như kinh nói: “Thường hành tinh tiến vì luôn cầu thân- khẩu-ý Phật trang nghiêm”. Hành kính trọng pháp. Như kinh nói: “Ưa thích cung kính đại pháp vì luôn thân cận cúng dường hết thảy chư Bồ-tát và Pháp sư”. Hành nguyện đạt được đầy đủ. Như kinh nói: “Gọi là Khéo dấy khởi nguyện tự tại vì có phương tiện lớn để khéo hội nhập thế gian”. Hành lìa bỏ tâm Tiểu thừa. Như kinh nói: “Gọi là Ngày đêm xa lìa tâm khác vì thường ưa thích giáo hóa hết thảy chúng sinh”. Đó gọi là sự thù thắng do tu hành. Thế nào là thù thắng do giáo hóa chúng sinh? Kinh: “Bồ-tát ấy, khi thành tựu hành như vậy, dùng bố thí để giáo hóa chúng sinh. Lại dùng ái ngữ-lợi hành-đồng sự để giáo hóa chúng sinh. Lại dùng việc thị hiện sắc thân để giáo hóa chúng sinh. Lại dùng việc thuyết pháp để giáo hóa chúng sinh. Lại thị hiện nhiều sự việc về thần không và hạnh của Bồ-tát để giáo hóa chúng sinh. Lại nói về đại sự của chư Phật để giáo hóa chúng sinh. Lại thị hiện sự xấu ác lỗi lầm của thế gian để giáo hóa chúng sinh. Lại nói về lợi ích nơi trí tuệ của chư Phật để giáo hóa chúng sinh. Lại hiện bày tướng trang nghiêm của đại thần thông, cũng giảng nói về vô số hành để giáo hóa chúng sinh. Bồ-tát ấy, giáo hóa chúng sinh như vậy, thành tựu phương tiện, thân tâm luôn hướng tới trí Phật mà không hề thối thất các hành của căn thiện, luôn siêng năng tu tập chuyển sang đạo thù thắng”. Luận: Ở đây, sự thù thắng do giáo hóa chúng sinh đã dùng bốn Nhiếp pháp để giáo hóa. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, khi thành tựu hành như vậy, dùng bố thí để giáo hóa chúng sinh…”. Vì đồng sự là tùy thuận chúng sinh, cho nên Bồ-tát ứng hóa tự tại. Như kinh nói: “Lại dùng viện thị hiện sắc thân để giáo hóa chúng sinh”. Vì các chúng sinh nghi hoặc, cho nên có thể thuyết pháp thành tựu. Như kinh nói: “Lại dùng việc thuyết pháp để giáo hóa chúng sinh”. Vì các chúng sinh không có phương tiện đối với Bồ-đề. Như kinh nói: “Lại thị hiện nhiều sự việc về thần thông và hạnh của Bồ-tát để giáo hóa chúng sinh”. Vì các chúng sinh đối với pháp Đại thừa tỏ ra mỏi mệt. Như kinh nói: “Lại nói về đại sự của chư Phật để giáo hóa chúng sinh”. Vì các chúng sinh ham thích nơi thế gian. Như kinh nói: “Lại thị hiện sự xấu ác lỗi lầm của thế gian để giáo hóa chúng sinh”. Vì các chúng sinh không tin pháp Đại thừa. Như kinh nói: “Lại nói về lợi ích nơi trí tuệ của chư Phật để giáo hóa chúng sinh”. Vì các chúng sinh không có trí tuệ; Bồ-tát hiện bày thần thông trang nghiêm, thị hiện vô số các hành, dùng một thân thị hiện vô lượng thân. Các sự việc như vậy đều khiến cho chúng sinh quyết định tin tưởng. Như kinh nói: “Lại hiện bày tướng trang nghiêm của đại thần thông, cũng giảng nói về vô số hành để giáo hóa chúng sinh”. Bồ-tát ấy, giáo hóa chúng sinh như vậy, thành tựu phương tiện: Như trước đã nói. Thân tâm luôn hướng tới trí Phật; là cầu đạt diệu lực thù thắng để giáo hóa chúng sinh. Nhưng các hành của căn thiện không hề thối thất; tức là tùy theo công đức-trí tuệ đã đạt được đều không thối thất. Luôn siêng năng tu tập chuyển sang đạo thù thắng; tức là mọi chỗ tu tập các hành đều muốn khiến cho tăng trưởng tốt đẹp. Đó gọi là sự thù thắng do giáo hóa chúng sinh. Thế nào là thù thắng do khởi trí tùy thuận thế gian, đối trị các thứ chướng-nhiễm? Kinh: “Bồ-tát ấy, vì làm lợi ích cho chúng sinh, mà khéo nhận biết về mọi thứ hiện có nơi thế gian như sách vở-luận thuyết-in ấn-toán số, các luận như Thạch tính… các phương thức chữa trị các bệnh, các thứ làm tổn hại chúng sinh. Bồ-tát thảy đều có thể chữa trị, tạo luận, kinh sách, các loại nhạc hay, các sự việc đem lại vui thích. Khéo nhận biết về đất nước, thành ấp, xóm làng, nhà cửa, sông suối, ao hồ, vườn hoa, lầu gác, thảo dược, rừng núi… các loại vật báu như vàng, bạc, lưu ly, ngọc báu ma ni, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não… với những tính chất của chúng. Khéo nhận biết về; mặt trời, mặt trăng, tinh tú, động đất, mộng tưởng lành dữ, với các tướng trạng ảnh hưởng tới thân mạng. Bồ- tát trì giới, hành xử thiền định, thần thông, bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc, tất cả những sự việc không gây não hại chúng sinh, có thể đem lại lợi ích, an lạc cho chúng sinh, vì thương xót chúng sinh cho nên hiện ra, dần dần khiến họ tin vào pháp Phật vô thượng”. Luận: Trí thuận theo thế gian; là đối trị chướng, nhiễm. Như kinh nói: “Bồ-tát này, vì làm lợi ích cho chúng sinh, mà khéo nhận biết về mọi thứ hiện có nơi thế gian như sách vở, luận thuyết…”. Trong đó về sách vở có bốn loại chướng ngại cần đối trị: Chướng ngại do quên đối với việc sử dụng là chọn lấy, trao cho, nhờ vào, giao phó, nghe pháp, nghó bàn, làm việc, không làm việc, việc đã làm, chưa làm, việc cho nên làm, không cho nên làm. Đối trị điều này cho nên viết sách. Chướng ngại do trí yếu kém đối với tà kiến: Như dùng Nhân luận, Thanh luận. Đối trị hai loại này cho nên tạo Luận. Chướng ngại do dùng vật không thể giữ gìn: Đối trị điều này cho nên có in ấn. Chướng ngại do lấy-trao mà sinh nghi. Đối trị điều này cho nên có toán, số. Số như các phép cộng-trừ… Toán như một dọc mười ngang. Các Luận như Thạch tính… Đối trị chướng ngại do bần cùng. Những phương thức chữa trị các bệnh; là đối trị chướng ngại các bệnh do bốn đại không điều hòa, chúng sinh bị tướng độc… Mặt trời, mặt trăng, tinh tú… Trong đó, chỉ có tướng của mặt trời- mặt trăng… là thấy được, vì mặt trời, mặt trăng… là thuộc về ánh sáng. Nhập là nhập vào tám loại quả nghiệp. Các thứ tướng trạng ảnh hưởng tới thân mạng; là hành của quả yêu thích và không yêu thích. Trì giới, hành xử thiền định, thần thông… Thứ tự như vậy là vì đối trị các thứ cấu nhiễm do: Phá giới. Tham dục. Quy y theo nẻo tà. Hành sai lầm về công đức. Tu tập sai lạc về giải thoát. Như kinh đã nêu. Tạo luận, sách, nhạc hay, các sự việc đem lại vui thích… là đối trị chướng ngại do buồn sầu, khổ não. Đất nước, thành ấp, cho đến thảo dược, rừng núi… Đây là đối trị chướng ngại do không vui thích. Các thứ vật báu như vàng, bạc, lưu ly… Ở đây là đối trị chướng ngại do bị trói buộc, giam giữ. Mặt trời, mặt trăng, tinh tú… Ở đây là đối trị chướng ngại do chỗ thọ nhận quả báo vì gây lỗi lầm, tạo nhân ác. Trì giới, hành xử thiền định… là đối trị năm loại cấu nhiễm. Đó là cấu nhiễm do phá giới, cho đến cấu nhiễm do tu tập sai lạc về giải thoát. Khởi trí thuận theo thế gian ấy có đủ bốn loại tướng: Không có chướng ngại trong chướng khác. Như kinh nói: “Tất cả những sự việc không gây não hại cho chúng sinh”. Ban sự an lạc không lỗi lầm. Như kinh nói: “Có thể đem lại lợi ích an lạc cho chúng sinh”. Phát khởi thanh tịnh. Như kinh nói: “Thương xót chúng sinh cho nên hiện ra”. Chỗ thọ dụng thanh tịnh. Như kinh nói: “Dần dần khiến họ tin vào pháp Phật vô thượng”. Kinh: “Này các Phật tử! Bồ-tát ấy, an trú nơi địa Nan thắng của bậc Bồ-tát rồi, được thấy nhiều chư Phật. Do diệu lực của đại thần thông-đại nguyện, cho nên được thấy nhiều trăm Phật cho đến nhiều trăm ngàn na-do-tha Phật, nhiều ức Phật, cho đến nhiều trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật. Do diệu lực của đại thần thông-đại nguyện, Bồ-tát ấy khi gặp chư Phật, đều dùng tâm sâu xa, tối thượng mà cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men, mọi thứ vật dụng cúng dường thảy đều phụng thí, dùng các vật dụng tạo an lạc thượng diệu của bậc Bồ-tát để cúng dường chúng Tăng, đem các căn thiện này, đều nguyện hồi hướng về đạo quả Bồ- đề Vô thượng, nơi trú xứ của chư Phật luôn khởi tâm cung kính tột bậc, hết lòng nghe pháp, nghe rồi thọ trì tùy sức tu hành, ở trong pháp Phật xuất gia, xuất gia rồi thì luôn có mặt nơi trú xứ của Phật, nghe nhận kinh pháp, làm vị pháp sư, thuyết pháp làm lợi ích, chuyển được pháp Đà-la-ni đa văn, thành tựu bậc pháp sư. Bấy giờ, Bồ-tát ấy, trú trong địa Nan thắng của bậc Bồ-tát, trải qua vô lượng trăm kiếp, các căn thiện kia càng trở cho nên thanh tịnh, sáng tỏ thù thắng. Trải qua vô lượng ngàn kiếp, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, các căn thiện kia càng chuyển sang, sáng sạch, thù diệu. Bồ-tát ấy đã thành tựu pháp giáo hóa chúng sinh như vậy. Này các Phật tử! Ví như vàng ròng từ ban đầu, dùng xa cừ để mài bóng thì màu sắc ánh sáng càng trở cho nên sáng đẹp hơn hết. Này các Phật tử! Bồ-tát này, trú nơi địa Nan thắng của bậc Bồ-tát, những căn thiện kia nhờ diệu lực của trí phương tiện suy xét, cho nên càng chuyển sang, trở cho nên sáng, sạch hơn hết. Căn thiện được trí tuệ kia suy xét đã thành tựu, không thối chuyển, cho nên càng thù thắng, căn thiện của địa dưới không thể sánh kịp. Này các Phật tử! Ví như vầng sáng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cung điện của chư thiên, ánh sáng ấy đều thành tựu viên mãn, không bị hủy hoại, gió không thể lay động. Cũng vậy, Bồ-tát ấy, an trú trong địa Nan thắng của bậc Bồ-tát, các căn thiện kia, nhờ diệu lực của trí phương tiện suy xét, cho nên thành tựu không thối chuyển hết thảy căn thiện của thế gian, của hàng Nhị thừa đều không thể sánh kịp. Bồ-tát ấy, trong mười Ba-la-mật thì Thiền Ba-la-mật tăng thượng, các pháp Ba-la-mật khác không phải là không tu tập, nhưng tùy theo sức và tùy phần. Này các Phật tử! Đó gọi là lược nêu về địa Nan thắng, là Địa thứ năm của bậc Bồ-tát. Bồ-tát an trú trong địa này, nhiều lần làm Thiên vương của cõi trời Đâu-suất-đà, mọi nẻo hành hóa đều tự tại, hàng phục các thứ tà kiến của hết thảy ngoại đạo, có thể khiến cho chúng sinh trú trong Thật đế, các nghiệp thiện đã làm như bố thí-ái ngữ-lợi hành-đồng sự, các phước đức ấy đều không lìa niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng, niệm Bồ-tát, niệm hành của Bồ-tát… cho đến không lìa niệm trí Nhất thiết chủng, trí Nhất thiết trí mà thường khởi tâm này: Mình nên ở trong tất cả chúng sinh, là người đứng đầu, là thù thắng, là lớn, là diệu, là vi diệu, là bậc trên, là vô thượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, là bậc thầy, là bậc tôn quý, cho đến là chỗ dựa của trí Nhất thiết trí. Lại từ ý niệm này, phát khởi hành tinh tiến, nhờ diệu lực của tinh tiến, cho nên trong khoảng một niệm, đạt được ngàn ức Tam-muội, được thấy ngàn ức Phật … có thể khéo hội nhập ngàn ức pháp môn, có thể biến hóa thân thành ngàn ức thân, nơi mỗi mỗi thân có thể thị hiện ngàn ức Bồ-tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thù thắng, tối thượng, thì nguyện lực của Bồ-tát vượt hơn số lượng ấy. Thị hiện đủ các loại thần thông, hoặc nơi thân, hoặc ánh sáng, hoặc thần thông nơi mắt, hoặc nơi cảnh giới, hoặc âm thanh, hoặc hành hóa, hoặc trang nghiêm, hoặc gia hộ, hoặc tin tưởng, hoặc tạo nghiệp. Các thần thông biến hóa, cho đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết”. Luận: Đạt được Đà-la-ni đa văn càng trở cho nên thù thắng, thành tựu bậc Pháp sư: Không phải là đạt được nghĩa nơi Đà-la-ni, mà do tâm thanh tịnh bình đẳng hết sức khó đạt. Lại ưa thích trí xuất thế gian, hiện bày trí thế gian là vô cùng khó. Do đạt được Đà-la-ni văn và trì, cho nên ánh sáng của Trí - Địa này là chỉ rõ về “Sự chân như”. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Ví như vàng ròng từ ban đầu… cho đến căn thiện của địa dưới không thể sánh kịp”. Vầng sáng của mặt trời, mặt trăng; là dựa vào pháp thù thắng làm tăng trưởng ánh sáng của trí tuệ, hơn hẳn trí của địa trước. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Ví như mặt trời, mặt trăng, tinh tú … cho đến căn thiện của thế gian đều không thể sánh kịp”.  <卷>QUYỂN 8 Địa 6: ĐỊA HIỆN TIỀN Luận: Như trong Địa thứ năm, có ba phần sai biệt: Phần thắng do đối trị mạn. Phần thắng do hành đạo không trú. Phần thắng của quả ấy. Địa thứ sáu cũng như vậy, nên biết là thắng ấy đã chuyển sang. Thế nào là thắng? Trong Địa thứ tư đã nói về ngã mạn của chúng sinh, lãnh hội pháp để đối trị mạn. Nơi Địa thứ năm đã nói về phân biệt thân thanh tịnh, đối trị mạn. Nay Địa thứ sáu là nói về: Phân biệt dùng pháp nhiễm-tịnh để đối trị mạn, do mười pháp bình đẳng. Kinh: “Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này các Phật tử! Nếu Bồ-tát đã khéo hành trì đầy đủ đạo của Địa thứ năm, muốn đi vào Địa thứ sáu của bậc Bồ-tát thì phải dùng mười pháp bình đẳng. Những gì là mười? Đó là: Bình đẳng với tất cả pháp vô tướng. Bình đẳng với tất cả pháp vô tưởng. Bình đẳng với tất cả pháp vô sinh. Bình đẳng với tất cả pháp không thành. Bình đẳng với tất cả pháp tịch tónh. Bình đẳng với tất cả pháp bản tịnh. Bình đẳng với tất cả pháp không hý luận. Bình đẳng với tất cả pháp không lấy-bỏ. Bình đẳng với tất cả pháp như huyễn, mộng, ảnh, tiếng vang, trăng trong nước, bóng nơi gương, dợn nắng. Bình đẳng với tất cả pháp có-không mà không hai. Bồ-tát ấy, quán xét tướng của hết thảy các pháp như vậy, dứt trừ mọi cấu nhiễm, tùy thuận, không phân biệt, cho nên được tiến vào địa Hiện tiền là Địa thứ sáu của bậc Bồ-tát, đạt được Nhẫn thuận sáng tỏ thông suốt, chưa đạt được pháp Nhẫn vô sinh”. Luận: Phân biệt dùng pháp nhiễm-tịnh để đối trị mạn; tức là mười pháp bình đẳng. Trong đó, tất cả pháp vô tướng cho đến tất cả pháp có không, không hai đều bình đẳng, là mười hai nhập thuộc tự tính của tất cả pháp vô tướng bình đẳng. Lại nữa, phân biệt tướng đối trị có chín loại: Tưởng của tự tướng nơi mười hai nhập. Như kinh nói: “Tất cả pháp vô tưởng, bình đẳng”. Hành tướng của thứ tự Niệm. Như kinh nói: “Tất cả pháp vô sinh, bình đẳng”. Hành tướng của thứ tự Sinh. Như kinh nói: “Tất cả pháp không thành, bình đẳng”. Tướng nhiễm. Như kinh nói: “Tất cả pháp tịch tónh, bình đẳng”. Tướng tịnh. Như kinh nói: “Tất cả pháp bản tịnh, bình đẳng”. Tướng phân biệt. Như kinh nói: “Tất cả pháp không hý luận, bình đẳng”. Tướng hiện, ẩn. Như kinh nói: “Tất cả pháp không lấy bỏ, bình đẳng”. Tướng ngã không phải có. Như kinh nói: “Tất cả pháp như huyễn, mộng, ảnh, tiếng vang, trăng trong nước, bóng trong gương, dợn nắng, đều bình đẳng”. Tướng thành hoại. Như kinh nói: “Tất cả pháp có-không và không hai, đều bình đẳng”. Dứt trừ cấu uế: là xa lìa cấu nhiễm chướng ngại. Tùy thuận: là thuận theo pháp chân như bình đẳng. Không phân biệt: tức là không sinh ý tưởng phân biệt. Sáng tỏ thông suốt: là đối trị các mạn vi tế. Trong hai địa trước thì đối trị mạn trong phần thô. Đạt được Nhẫn thuận trong sự mềm dịu: là thuận theo pháp Nhẫn vô sinh. Chưa đạt được pháp Nhẫn vô sinh: Nhẫn này thuận với Nhẫn vô sinh mà không phải là Nhẫn vô sinh. Đó gọi là Phân biệt dùng pháp nhiễm-tịnh để đối trị mạn. Thế nào là thù thắng do hành đạo không trú? Kinh: “Bồ-tát ấy, quán xét về tướng của tất cả pháp như vậy, tùy thuận để đạt đến, lại dùng Đại Bi thù thắng làm đầu, tâm Đại Bi tăng thượng, khiến cho Đại Bi đầy đủ, quán xét sự sinh-diệt của thế gian”. Luận: Bồ-tát ấy quán xét về tướng của tất cả pháp như vậy, tùy thuận để đạt đến là đạt đến chỗ thù thắng do hành đạo không trú. Thù thắng do hành đạo không trú là sự thù thắng do tâm Đại Bi thâu nhiếp, không bỏ tất cả chúng sinh trong ba đời. Là trí thanh tịnh trong tất cả pháp đã được nhận thức. Là quán về hết thảy các loại nhân duyên vi tế tích tập, là không trú vào thế gian và Niết-bàn. Như kinh nói: “Lại dùng tâm Đại Bi thù thắng làm đầu… cho đến quán xét sự sinh diệt của thế gian”. Kinh: “Bồ-tát ấy quán xét về sự sinh diệt của thế gian rồi, dấy lên ý niệm: Mọi sự sai biệt về thọ thân và sinh xứ hiện có nơi thế gian đều do tham chấp về ngã. Nếu lìa chấp ngã thì không còn sinh xứ nơi thế gian. Bồ-tát lại khởi suy nghó: Các phàm phu này, do ngu si làm mù lòa cho nên tham chấp vào ngã, do không có trí cho nên bị tối tăm, chướng ngại, luôn cầu tìm có-không, thường theo niệm tà, hành sai lạc nơi đạo tà, tập khởi hành vọng, hành tội, hành phước, hành bất động. Vì các hành đó, nên khởi chủng tử của tâm, khởi tưởng hữu lậu, hữu thủ, khởi thân sinh-bệnh-lão-tử nơi vị lai, lại sinh thân mạng đời sau, nghiệp là mảnh đất, bị vô minh che phủ, nước ái tưới nhuần làm cho tâm ngã tràn đầy, các loại màng lưới kiến chấp làm cho được tăng trưởng, sinh ra mầm danh-sắc, sinh rồi lớn dần. Danh, sắc tăng trưởng mà thành các căn. Các căn thành hình rồi thì lần lượt cùng đối nhau mà sinh Xúc. Xúc cùng đối nhau sinh Thọ. Chỗ mong cầu về sau của Thọ sinh Ái. Do có Ái mà sinh Thủ. Thủ thêm lớn thì sinh Hữu. Hữu thành rồi sinh thân năm Ấm. Thân năm Ấm tăng trưởng, nên ở trong năm đường dần dần suy biến, gọi là Lão. Lão suy biến và diệt gọi là Tử. Tử rồi, sinh các thứ nhiệt não, bởi vì nhiệt não cho nên sinh ra tất cả mọi nỗi ưu bi khổ não. Nhân duyên của tập này, không có tập mà tự nhiên tích tập, không có diệt mà tự nhiên hoại diệt. Bồ-tát ấy, tùy thuận quán xét như vậy về sự tích tập của nhân duyên”. Luận: Ở đây, mọi sự sai biệt về thọ thân và sinh xứ hiện có nơi thế gian tức là trong năm đường vốn có mọi thứ sai biệt về sinh tử, gọi là sự sai biệt hiện có của thế gian. Nhân duyên tập này có ba loại môn quán, nên biết: Sai biệt của tướng thành đáp. Sai biệt của đệ nhất nghĩa Đế. Sai biệt của thế gian Đế. Thế nào là sai biệt của Thành? Đầu tiên là nêu rõ về nhân duyên của tập để giải thích về nghĩa của vô ngã, xác nhận tất cả sự thọ thân và sinh xứ hiện có của thế gian, đều do tham chấp vào ngã. Nếu lìa chấp ngã thì không có sinh xứ của thế gian, là thành tựu nghĩa vô ngã. Nếu trong Đệ nhất nghĩa thật sự có tướng ngã, thì tâm chấp ngã tức là trí của Đệ nhất nghĩa, không nên ở nơi thế gian thọ thân, sinh tại sinh xứ. Lại nữa, nếu trong Đệ nhất nghĩa thật sự có tướng ngã, nếu lìa chấp ngã thì phải thường sinh nơi thế gian. Hiển bày về nghĩa này, như kinh nói: “Mọi sự sai biệt về thọ thân và sinh xứ hiện có nơi thế gian đều do tham chấp về ngã…”. Thế nào là sai biệt của Đáp? Nếu thật sự vô ngã thì vì sao mà chấp ngã? Ở đây, phải có vấn nạn này, thì tự mình đáp lại: Do ngu si làm cho mù lòa mà tham chấp vào ngã. Đó là chỉ rõ, như kinh nói: “Bồ-tát lại khởi suy nghó. Các phàm phu này do ngu si làm mù lòa cho nên tham chấp vào ngã…”. Như vậy thật sự không có ngã, theo thứ tự nào mà tham chấp vào ngã, có được sinh xứ-thọ thân và thời gian sống? Thành ở đây chỉ rõ, như kinh nói: “Do không có trí, bị tối tăm chướng ngại, luôn cầu tìm có-không”. Như vậy là đáp lại vấn nạn về sai biệt. Trong này: Không có trí… có-không; là mong cầu về thường-đoạn. Ở đây chỉ rõ vô minh-hữu ái là hai Hữu chi căn bản, luôn theo niệm tà, hành sai lạc nơi đạo tà, tập khởi hành vọng, hành tội, hành phước… Luôn theo niệm tà chỉ rõ về nhân của vô minh. Hành sai lạc nơi đạo tà chỉ rõ về hành không chân chính đối với nơi chốn giải thoát. Tập khởi hành vọng chỉ rõ nghĩa thù thắng của Bồ-tát. Bồ-tát tuy hành nơi Hữu nhưng không gọi là hành vọng. Do hành này cho nên khởi chủng tử của tâm, khởi tưởng hữu lậu, hữu thủ, cho đến tùy thuận quán xét về nhân duyên của tập. Trong này: Khởi chủng tử của tâm: Tức chỉ rõ thể tính của sinh-lão-tử. Lại sinh thân mạng của đời sau là tùy thuận thâu nhiếp mà làm thành các hành tội, phước, nghiệp là mảnh đất. Trước nói do không có trí, bị tối tăm chướng ngại, vô minh che phủ, luôn cầu tìm có-không, nước ái tưới nhuần. Luôn luôn như vậy, sinh tâm như vậy, ngã là ngã sở, ngã tướng là mạn ngã sinh hay chẳng sinh với đủ loại màng lưới của kiến chấp như vậy. Tự nhiên mà diệt; là tính tự diệt chứ chẳng phải là duyên của trí diệt. Như vậy thì đáp lại vấn nạn về nhân duyên của tập, giải thích của về nghĩa vô ngã xong. Thế nào là tướng sai biệt? Nếu nhân duyên là vô ngã thì vì tướng gì mà trú nơi hành nhân duyên của tập? Kinh: “Bồ-tát ấy lại khởi suy nghó: Không nhận biết đúng như thật về Đệ nhất nghĩa của các Đế, cho nên gọi là Vô minh. Vô minh đã tạo ra nghiệp quả thì đó gọi là Hành. Dựa vào Hành có Tâm thức ban đầu và Thức cùng sinh có bốn Thọ Ấm gọi là Danh sắc. Danh sắc tăng trưởng mà có sáu Nhập. Căn-Trần-Thức là ba loại hòa hợp sinh ra Xúc hữu lậu. Xúc cùng sinh nên có thọ. Thọ nhiễm chấp cho nên gọi là Ái. Ái tăng trưởng cho nên gọi là Thủ. Từ Thủ dấy khởi nghiệp hữu lậu, gọi là Hữu. Nghiệp Hữu có quả báo gọi là Sinh. Sinh Ấm tăng trưởng, suy kém, biến đổi gọi là Lão. Lão rồi thì Ấm hoại gọi là Tử. Lúc Tử biệt ly thì người ngu với tâm tham chấp cháy bùng lên gọi là Ưu, phát ra tiếng gào khóc gọi là Bi. Năm căn cùng đối nhau gọi là Khổ. Ý căn cùng đối gọi là Ưu. Ưu khổ càng nhiều thì gọi là Não. Như vậy, chỉ có cây khổ tăng trưởng chứ không có người tạo ra. Bồ-tát dấy khởi ý niệm: Nếu có người tạo thì có sự việc được tạo. Nếu không có người tạo tác thì không có sự việc được tạo ra. Trong Đệ nhất nghĩa, không có người tạo, không có sự việc được tạo”. Luận: Trong đoạn này: Vô minh tạo ra nghiệp quả; tức là Danh sắc. Trong ấy, Thức dựa vào Danh sắc. Danh sắc và Thức cùng sinh. Thức mà Danh sắc lần lượt cùng dựa vào nhau. Nếu không có người tạo tác thì trong đó, phân biệt về sự việc được tạo tác cũng không. Đây là nói về phần nhân duyên tích tập mà có. Tự thể không có sự việc được tạo tác, đó gọi là phần Hữu, quán về thứ tự của nhân duyên tích tập. Thế nào là sai biệt của đệ nhất nghĩa Đế? (Môn Quán thứ hai về nhân duyên tập) Như vậy, chứng đắc về đệ nhất nghĩa Đế thì được giải thoát khỏi quán xét kia. Kinh: “Bồ-tát ấy khởi lên suy nghó: Ba cõi đều hư vọng, chỉ là một tâm tạo”. Luận: Chỉ là một tâm tạo; tức là tất cả ba cõi chỉ do tâm chuyển biến. Thế nào là sai biệt của thế gian Đế? (Môn quán thứ ba…) Tùy thuận quán về thế gian Đế tức là hội nhập với đệ nhất nghĩa Đế. Quán này có sáu loại: Quán thế nào là nhiễm? Là chỗ nương dựa của nhiễm? Quán về nhân. Quán chỗ thâu nhiếp lỗi lầm. Quán chỗ ngăn chận lỗi lầm. Quán chỗ nhàm chán không nhàm chán. Quán phần sâu xa. Ở đây, quán về chỗ nương dựa của nhiễm là phần Hữu của nhân duyên dựa vào một tâm. Kinh: “Như Lai thuyết giảng về phần mười hai nhân duyên đều dựa vào một Tâm. Vì sao? Vì tùy theo tham dục cùng Tâm sinh, tức là Thức, là Hành. Hành lừa dối Tâm cho nên gọi là Vô minh. Vô minh cùng Tâm sinh gọi là Danh sắc. Danh sắc tăng trưởng gọi là Sáu nhập. Sáu nhập từng phần gọi là Xúc. Xúc cùng sinh gọi là Thọ. Thọ rồi không biết chán đủ gọi là Ái. Ái thâu nhiếp không bỏ gọi là Thủ. Ở đây có phần hòa hợp sinh Hữu. Hữu dấy khởi gọi là Sinh. Sinh biến đổi, chín muồi gọi là Lão. Lão hủy hoại gọi là Tử “. Luận: Đây là sự sai biệt của hai Đế. Một tâm tạp nhiễm, hòa hợp nơi nhân duyên tích tập, nên quán về điều ấy. Quán về nhân có hai loại: Quán về nhân của kẻ khác. Quán về nhân của chính mình. Thế nào là quán về nhân của kẻ khác? Kinh: “Trong ấy, Vô minh có hai loại tạo tác: Si trong duyên khiến cho chúng sinh mê lầm. Làm nhân cho Hành. Hành cũng có hai loại tạo tác: Sinh quả báo của đời vị lai. Làm nhân cho Thức. Thức cũng có hai loại tạo tác: Có thể khiến cho có sự tương tục. Làm nhân cho Danh sắc. Danh sắc cũng có hai loại tạo tác: Hỗ trợ để thành tựu lẫn nhau. Làm nhân cho sáu Nhập. Sáu nhập cũng có hai loại tạo tác: Chủ thể duyên với sáu Trần. dứt”. Làm nhân cho Xúc. Xúc cũng có hai loại tạo tác: Chủ thể xúc chạm nơi được duyên. Làm nhân cho Thọ. Thọ cũng có hai loại tạo tác: Nhận biết về các việc yêu-ghét. Làm nhân cho Ái. Ái cũng có hai loại tạo tác: Ở trong chỗ có thể nhiễm mà sinh tâm tham. Làm nhân cho Thủ. Thủ cũng có hai loại tạo tác: Làm tăng trưởng phiền não cấu nhiễm, trói buộc. Làm nhân cho Hữu. Hữu cũng có hai loại tạo tác: Có thể sinh ở trong các cõi khác. Làm nhân cho Sinh. Sinh cũng có hai loại tạo tác: Làm tăng trưởng năm Ấm. Làm nhân cho Lão. Lão cũng có hai loại tạo tác: Khiến cho các căn chín muồi. Làm nhân cho Tử. Tử cũng có hai loại tạo tác: Huỷ hoại thân năm Ấm. Do không thấy biết mà khiến cho sự tương tục không Luận: Ở đây, hủy hoại thân năm ấm, do không thấy biết mà khiến cho sự tương tục không dứt: Hoại năm ấm, có thể làm nhân cho đời sau. Do không thấy biết cho nên có thể làm nhân của đời sau. Đó gọi là quán về nhân của kẻ khác. Thế nào là quán về nhân của chính mình? Vô minh… là từ nhân mà sinh nhân, cho nên quán về sự việc của duyên. Thế nào là nhân của vô minh duyên hành không gián đoạn, hỗ trợ thành? Kinh: “Trong đó, Vô minh duyên Hành là nhân của Vô minh duyên vào khiến cho Hành không đoạn mà hỗ trợ để thành Hành. Hành duyên Thức là nhân của Hành duyên vào khiến cho Thức không đoạn mà hỗ trợ thành Thức. Thức duyên Danh sắc là nhân của Thức duyên vào khiến cho Danh sắc không đoạn, hỗ trợ thành Danh sắc. Danh sắc duyên sáu Nhập là nhân của Danh sắc duyên vào khiến cho sáu Nhập không đoạn, hỗ trợ thành sáu Nhập. Sáu Nhập duyên Xúc… cho đến Sinh duyên Lão, Tử; là nhân của Sinh duyên vào khiến cho Lão-Tử không mà đoạn hỗ trợ thành Lão, Tử. Vô minh diệt thì Hành diệt; là nhân duyên của Vô minh đã không, nên Hành diệt, không hỗ trợ thành… cho đến Sinh diệt thì Lão, Tử diệt; là nhân duyên của Sinh đã không, cho nên Lão-Tử diệt mà không hỗ trợ thành”. Luận: Vô minh duyên Hành: là nhân của Vô minh duyên vào khiến cho Hành không đoạn, hỗ trợ thành Hành. Vô minh có hai loại: Lúc còn là chủng tử. Lúc đã kết thành quả. Ở đây, lúc còn là chủng tử, khiến cho Hành không đoạn có hai loại nghĩa, chỉ rõ về việc Duyên. Như vậy, các nhân duyên khác, từng phần tự sinh nhân, có hai loại nghĩa về việc Duyên, nên biết. Quán về nhân của chính mình: là quán không lìa bỏ lẫn nhau. Quán nếu lìa chi trước thì không có chi sau. Quán không lìa Vô minh thì thành Hành. Nếu không lìa Vô minh mà có Hành thì không nên nói là Vô minh duyên Hành. Nếu lìa Vô minh mà có Hành, thành tựu, thì sai khác mà không thành. Vì vậy kệ nói: Pháp do các duyên sinh, Vậy thì chẳng là nhân, Cũng lại chẳng nhân khác, Không đoạn cũng không thường. Quán nhân duyên tự sinh, như trước đã nói. Vô minh có hai loại: Lúc còn là chủng tử. Lúc đã kết thành quả. Hành cho đến Lão-Tử cũng như vậy. Thời gian trước và thời gian sau diệt đi, thì thời gian giữa cũng không có, vì vậy không nói đến. Thế nào là Quán về chỗ thâu nhiếp lỗi lầm? Đó là ba nẻo thâu nhiếp nhân khổ quả khổ. Kinh: “Ở đây, ba phần Vô minh-Ái-Thủ không đoạn là nẻo của phiền não. Hai phần Hành, Hữu không đoạn là nẻo của nghiệp. Các phần Nhân duyên còn lại, không đoạn là nẻo của khổ. Thời gian trước-sau tương tục không đoạn, cho nên ba nẻo ấy không đoạn. Như vậy, ba nẻo ấy lìa ngã, ngã sở, chỉ có sinh diệt, cho nên giống như bó trúc”. Luận: Thế nào là Quán chỗ ngăn chận lỗi lầm? Nếu nói nhân duyên sinh thì phân biệt có ba loại lỗi lầm: Lỗi về tất cả thân cùng sinh một lúc. Vì sao? Vì không có nhân khác. Lỗi về tự nghiệp không thọ báo. Vì sao? Vì không có người tạo. diệt. Lỗi do mất nghiệp. Vì sao? Vì chưa thọ nhận quả mà nghiệp đã Ba loại lỗi này dùng sự nhận thức về nhân khác của đời quá khứ để đáp, cho nên quả báo của sự thọ sinh có sai biệt. Kinh: “Vô minh duyên Hành là thấy sự việc của đời quá khứ. Thức-Danh sắc-sáu Nhập-Xúc-Thọ là thấy sự việc của đời hiện tại. Ái- Thủ-Hữu-Sinh-Lão Tử là thấy sự việc của đời vị lai. Đối với điều này thấy có sự chuyển biến của ba đời. Vô minh diệt cho nên các Hành diệt, gọi là giải thích về sự đoạn dứt của nhân duyên tương tục. Luận: Vô minh duyên Hành tức là thấy sự việc đời quá khứ; tức là sinh của hiện tại là sự tạo tác từ quá khứ. Quả của hiện tại tức là sinh của vị lai, là nghĩa về thấy nhân của đời quá khứ. Thức cho đến Thọ là thấy sự việc đời hiện tại; tức là trong đời quá khứ, tùy theo nghiệp vốn có, nghiệp ấy nhận lấy quả báo của Thức… nơi hiện tại. Lại có thể nhận lấy quả báo của vị lai. Ái-Thủ-Hữu… là thấy sự việc đời vị lai; lại có sinh, toàn bộ được định rõ. Đối với điều này thấy có sự chuyển biến của ba đời; lại có sự chuyển sinh của đời sau. Nói như vậy có nghĩa gì? Có ba loại nghĩa. Nghiệp quá khứ không thọ báo, hoặc có lúc chưa làm hoặc đã làm mà chưa thọ báo, hoặc được đối trị đoạn trừ. Trong ấy, Vô minh duyên Hành là chỉ rõ về sự tạo tác. Hành duyên Thức cho đến Xúc-Thọ, tức chỉ rõ sự tạo tác ấy đã thọ nhận báo. Ái-Thủ-Hữu không đoạn, ở đây là chỉ rõ về không được đối trị. Nếu đoạn Ái-Thủ, tuy có tạo nghiệp, thì Vô minh duyên Hành không thể sinh Hữu. Vì thế các nghiệp, có trường hợp đã tạo, chưa tạo, có trường hợp thọ nhận quả, chưa thọ nhận quả, có trường hợp đã đoạn- chưa đoạn. Nếu như vậy thì không có lỗi về tất cả thân cùng sinh một lúc. Như vậy, chẳng phải là hết thảy các nghiệp thì thọ nhận quả đương lai, cũng chẳng phải là không thọ, cũng không phải là một lúc. Nếu tự tạo nghiệp thì quả báo không mất, chẳng phải là thân người khác thọ. Như vậy thì không có lỗi về tự nghiệp không thọ nhận báo, vì người khác không tạo. Lìa ba sự nơi nghiệp nhất định thọ nhận quả, không mất. Nếu như vậy thì không có lỗi do mất nghiệp. Đó gọi là chỉ rõ về chỗ ngăn chận ba loại lỗi. Thế nào là quán về nhàm chán-không nhàm chán? Tức là phân biệt, nhàm chán về vô số các khổ vi tế. Mọi thọ nhận hiện có đều là khổ, nên cùng nhàm chán vô số các khổ thô trọng. Kinh: “Mười hai phần Nhân duyên gọi là ba khổ. Trong đó, Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, sáu nhập gọi là Hành khổ. Xúc-Thọ gọi là Khổ khổ. Các phần Nhân duyên còn lại gọi là Hoại khổ. Vô minh diệt cho nên Hành diệt, cho đến Sinh diệt mà Lão Tử diệt, gọi là nói về việc đoạn trừ ba khổ tương tục”. Luận: Thế nào là quán sâu xa? Kinh: “Nhân của Vô minh duyên Hành sinh thì nhân duyên có thể sinh Hành. Phần còn lại cũng như vậy. Vô minh diệt, Hành diệt thì Hành không còn. Phần còn lại cũng như vậy. Nhân của Vô minh duyên Hành là nói về Sinh bị trói buộc. Phần còn lại cũng như vậy. Vô minh diệt thì Hành diệt là nói về diệt bỏ trói buộc. Phần còn lại cũng như vậy. Nhân của Vô minh duyên Hành là nói về tùy thuận quán Hữu. Phần còn lại cũng như vậy. Vô minh diệt thì Hành diệt là nói về tùy thuận quán tận cùng Vô sở hữu. Phần còn lại cũng như vậy”. Luận: Quán sâu xa có bốn loại: Phần Hữu, không phải kẻ khác tạo mà từ nhân sinh ra. Chẳng phải là tự tạo tác mà do duyên sinh. Như kinh nói: “Nhân của Vô minh duyên Hành sinh thì nhân duyên có thể sinh Hành. Phần còn lại cũng như vậy. Vô minh diệt thì Hành diệt…”. Chẳng phải cả hai tạo tác mà chỉ tùy thuận sinh. Vì không nhận biết cho nên khi tạo tác chẳng trú. Như kinh nói: “Nhân của Vô minh duyên Hành là nói về sinh bị trói buộc. Phần còn lại cũng như vậy. Vô minh diệt thì Hành diệt là nói về trói buộc được diệt trừ. Phần còn lại cũng như vậy”. Không phải là không có nhân tạo tác mà tùy thuận nên có. Như kinh nói: “Nhân của Vô minh duyên Hành là nói về tùy thuận quán Hữu. Phần còn lại cũng như vậy. Vô minh diệt thì Hành diệt là nói về tùy thuận quán tận cùng Vô sở hữu. Phần còn lại cũng như vậy”. Nếu không có nhân sinh thì sinh phải thường sinh chứ, không phải là không sinh, bởi vì không có nhân nhất định cho nên cũng có thể luôn luôn không sinh. Vì sao? Vì không có nhân sinh. Đây chẳng phải là điều ưa thích của pháp Phật. Nếu như vậy, tùy thuận quán hữu thì có nhân chứ, không phải là không có nhân. Nếu không có nhân thì không thể nói là tùy thuận có. Đó gọi là mười loại quán về nhân duyên tích tập, quán về chỗ sai biệt của đế tướng đã nói. Kinh: “Bồ-tát ấy đã quán mười loại nghịch thuận về pháp nhân duyên tích tập như vậy, đó là thứ tự của phần nhân duyên, là chỗ thâu nhiếp của nhất tâm, là tự nghiệp thành tựu, là không lìa bỏ lẫn nhau là ba nẻo không đoạn, là quán về thời gian trước sau, là ba khổ tích tập, là nhân duyên sinh, là nhân duyên sinh diệt trừ trói buộc, là tùy thuận quán tận cùng về Hữu”. Luận: Lại có hai loại quán khác: Quán Đại Bi tùy thuận. Quán phân biệt trí Nhất thiết tướng. Quán Đại Bi tùy thuận có bốn loại: Ngu si điên đảo. Ở xứ khác cầu giải thoát. Dị đạo cầu giải thoát. Cầu giải thoát khác. Thế nào là ngu si, điên đảo? Tức là tùy theo nơi chốn chấp trước, quán xét các sự việc ngu si, điên đảo, do chấp trước vào ngã, mà tất cả xứ thọ sinh xa lìa thì không có sinh. Thế nào là ngu si vô minh tăm tối? Như kinh nói: “Bồ-tát ấy quán xét về sự sinh diệt của thế gian rồi, dấy lên ý niệm: Mọi sự sai biệt về sinh thọ thân và sinh xứ hiện có nơi thế gian, đều do tham chấp về ngã…”. Ngu si làm mù lòa cho nên tham chấp vào ngã, điên đảo cùng với điên đảo nghi hoặc trong chi tướng Hữu như vậy. Như kinh nói: “Bồ-tát lại khởi suy nghó: Các phàm phu này do ngu si làm mù loà…”. Thế nào là ở xứ khác cầu giải thoát? Tức là các phàm phu ấy, do ngu si điên đảo như vậy, nên thường ở trong thức A-lê-da và thức A-đà- na mà cầu giải thoát, chính là ở trong ngã-ngã sở của xứ khác mà cầu giải thoát. Đối trị điều này, như kinh nói: “Bồ-tát ấy khởi lên suy nghó: Ba cõi đều hư vọng, chỉ là một tâm tạo…”. Thế nào là dị đạo cầu giải thoát? Tức là ở trong nhân điên đảo mà cầu giải thoát. Nhân điên đảo có ba loại: Nhân của tính. Nhân của cõi Tự Tại Thiên. Nhân của khổ hạnh và không có nhân. Không nên cầu như vậy. Vì sao? Vì chi Hữu của nhân duyên có hai loại nghiệp có thể dấy khởi các nhân duyên. Như kinh nói: “Trong đó, Vô minh có hai loại tạo tác: Một là si trong duyên khiến cho chúng sinh mê lầm, hai là làm nhân cho Hành…”. Nhân tự sinh. Như kinh nói: “Trong đó, Vô minh duyên Hành là nhân của Vô minh duyên vào khiến cho Hành không đoạn mà hỗ trợ để thành Hành…”. Nhân của nghiệp-phiền não vọng tưởng, chẳng phải là nhân an lạc. Như kinh nói: “Trong đó, ba phần Vô minh-Ái-Thủ không đoạn là Nẻo phiền não”. Như vậy… là nhân của thời gian trước-giữa, và nhân của thời gian giữa-sau, thời gian giữa của hai thời gian trước sau. Như kinh nói: “Trong đó, nhân Vô minh duyên Hành là thấy rõ sự việc của đời quá khứ”. Nếu không có các sự việc như vậy thì các loại chúng sinh cũng không có. Thế nào là cầu giải thoát khác? Giải thoát chân chính có bốn loại tướng: Tướng lìa tất cả khổ. Tướng vô vi. Tướng xa lìa cấu nhiễm. Tướng xuất thế gian. Giải thoát kia vẫn còn bị các hành khổ theo đuổi, kể cả cõi Vô sắc cũng còn bị trói buộc. Như kinh nói: “Mười hai phần Nhân duyên gọi là ba khổ. Vô minh-Hành cho đến sáu Nhập gọi là Hành khổ”. Nhân duyên sinh như vậy, như kinh nói: “Trong đó, nhân duyên của Vô minh, nhân duyên của Hành có thể sinh Hành. Các phần khác cũng vậy”. Như vậy, lại nhiễm mà sinh trói buộc, như kinh nói: “Trong đó, Vô minh duyên Hành là nói về Sinh bị trói buộc. Các phần khác cũng như vậy”. Như vậy, tùy thuận Hữu, cầu giải thoát nơi cõi Vô sắc. Như kinh nói: “Nhân của Vô minh duyên với Hành là nói về tùy thuận quán Hữu. Phần khác cũng như vậy”. Như vậy đã nói về quán Đại Bi tùy thuận với nhân duyên tích tập. Quán phân biệt về trí Nhất thiết tướng. Có chín loại: Quán phân biệt về nhiễm, tịnh; tức là các thứ nhiễm, tịnh như chấp ngã mạn, lìa ngã mạn. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy quán về thế gian sinh diệt rồi, khởi suy niệm: Mọi sự sai biệt về thọ thân và sinh xứ hiện có nơi thế gian, đều do tham chấp vào ngã…”. Quán về sự nương dựa; tức là quán nhân duyên tích tập ấy dựa vào những pháp gì? Như kinh nói: “Bồ-tát này lại suy niệm: Không nhận biết đúng như thật về Đệ nhất nghĩa của các Đế cho nên gọi là Vô minh…”. Quán về phương tiện; tức là quán về chi Hữu của nhân duyên có hai loại nghiệp có thể khởi các nhân duyên. Như kinh nói: “Trong đó, vô minh có hai loại tạo tác…”. Quán về tướng nhân duyên; tức là như chi Hữu không tạo tác. Như kinh nói: “Trong đó, Vô minh duyên Hành là nhân của Vô minh duyên vào khiến cho Hành không đoạn…”. Quán về nhập đế: Tức như quán về Tập đế của ba nẻo khổ (Nghiệp, Phiền não, Khổ). Như kinh nói: “Trong đó, Vô minh- Ái-Thủ, ba phần không đoạn là Nẻo của phiền não…”. Quán về chỗ tin nhập nương dựa của có lực và không lực; là như quán chỗ thù thắng của sự hóa độ trong thời gian trước-giữa-sau. Như kinh nói: “Vô minh duyên Hành là thấy rõ việc của đời quá khứ…”. Quán về chỗ tin, nhập của Mạn tăng thượng và không Mạn tăng thượng; tức là như quán vì không nhận biết đúng như thật về khổ, ngã mạn, vi tế. Như kinh nói: “Trong đó, Vô minh-Hành, cho đến sáu Nhập gọi là Hành khổ…”. Quán không có khởi đầu như thời gian giữa có nhân duyên sinh thì thời gian sau sinh, tùy thuận vào trói buộc. Như kinh nói: “Nhân duyên của Vô minh, nhân duyên của Hành… Nhân của vô minh duyên Hành là nói về Sinh bị trói buộc…”. Quán về các loại; là quán tùy thuận Hữu đối với Ái của ba cõi. Như kinh nói: “Nhân Vô minh duyên Hành là nói về quán tùy thuận Hữu. Phần khác cũng như vậy”. Như vậy đã nói về sự thù thắng của việc hành đạo không trú (Phần hai). Tiếp theo là nói về Quả thù thắng ấy (Phần ba). Có năm thứ tướng: Thù thắng do đạt được Hành đối trị cùng thù thắng do lìa chướng. Thù thắng do tu hành, chứng đắc. Thù thắng do đạt được Tam-muội. Thù thắng do đạt được tâm bất hoại. Thù thắng do đạt được diệu lực tự tại. Thế nào là thù thắng do đạt được Hành đối trị? Tức là ba môn giải thoát. Kinh: “Bồ-tát ấy, hành mười loại quán về nhân duyên tích tập rồi, thấy rõ là không có ngã, không có thọ mạng, không có chúng sinh, tự tính là Không, lìa mọi sự tạo tác-thọ nhận. Khi quán xét như vậy, thì môn giải thoát Không sinh khởi hiện tiền. Bồ-tát ấy, quán về chi Hữu kia là tự tính diệt cho nên giải thoát luôn hiện tiền, thấy rõ nơi chốn của nhân duyên không một tướng của pháp nào có thể sinh. Như vậy, không thấy tướng của pháp cho nên môn giải thoát Vô tướng sinh khởi hiện tiền. Bồ-tát ấy, như vậy hội nhập với Không và Vô tướng, không sinh nguyện ưa thích, chỉ dùng Đại Bi làm đầu để giáo hóa chúng sinh. Như vậy, môn giải thoát Vô nguyện sinh khởi, hiện tiền. Bồ-tát này, tu hành ba môn giải thoát ấy, lìa tướng ta-người, lìa bỏ tướng tạo tác-thọ nhận, lìa bỏ tướng có, không”. Luận: Môn giải thoát Không ở đây, nói có ba loại tướng: Thấy chúng sinh là vô ngã. Thấy pháp là vô ngã. Đối với hai loại ấy (Chúng sinh, pháp) đều trở thành vô kiến, vô tác. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, hành mười loại quán về nhân duyên tích tập rồi, thấy rõ không có ngã, không có thọ mạng, không có chúng sinh, tự tính là Không…”. Thấy chúng sinh là vô ngã là không có ngã, không có thọ mạng, không có chúng sinh. Câu này chỉ rõ về thấy pháp là vô ngã. Tự tính là Không, câu này chỉ rõ: Đối với hai loại kia đều trở thành vô kiến, vô tác. Thấy chúng sinh và pháp không có sự tạo tác, vì không có người tạo tác, cho nên sự việc tạo tác cũng không. Không thấy sự tạo tác-lìa tạo tác-thọ nhận; câu này chỉ rõ về môn giải thoát Vô tướng, cũng có ba loại tướng: Diệt trừ chướng. Đạt được đối trị. Niệm tướng không hành. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, quán về chi Hữu kia là tự tính diệt cho nên giải thoát luôn hiện tiền, thấy rõ nơi chốn của nhân duyên không có tướng của một pháp nào có thể sinh…”. Diệt trừ chướng là quán về chi Hữu kia là tự tính diệt. Câu này chỉ rõ về “Đạt được đối trị”. Nên giải thoát luôn hiện tiền. Câu này chỉ rõ về “Niệm tướng không hành”. Thấy rõ nơi chốn của nhân duyên… Câu này chỉ rõ về môn giải thoát Vô nguyện, cũng nói có ba loại tướng: Nương dựa. Thể tính. Thù thắng. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, như vậy hội nhập với Không và Vô tướng, không sinh nguyện ưa thích, chỉ lấy Đại Bi làm đầu…”. Trong đó, hội nhập với Không, với Vô tướng thì gọi là Nương dựa. Nhờ nương dựa như vậy cho nên có thể thành tựu Vô nguyện, không sinh nguyện ưa thích. Không sinh nguyện ưa thích, gọi là Thể của Vô nguyện. Đại Bi làm đầu để giáo hóa chúng sinh, đó là sự thù thắng. Hàng Thanh văn cũng có “Không sinh nguyện ưa thích”, nhưng đối với Thể của Vô nguyện lại xa lìa Đại Bi, không ưa thích giáo hóa chúng sinh. Thù thắng của diệt trừ chướng; là lìa ba loại tướng. Như kinh nói: “Bồ-tát tu hành ba môn giải thoát ấy, lìa bỏ tướng ta-người, lìa bỏ tướng tạo tác-thọ nhận, lìa bỏ tướng có, không”. Thứ tự như vậy, ở trong năm địa, tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng xa lìa. Ở trong bốn địa xa lìa các tướng hiện-ẩn và trong sáu địa này là pháp bình đẳng xa lìa. Kinh: “Bồ-tát ấy, tâm Đại Bi chuyển sang, do quý trọng Đại Bi, siêng năng hành trì tinh tấn, chưa viên mãn các pháp trợ Bồ-đề phần thì mong khiến đạt đầy đủ. Bồ-tát khởi lên suy nghó: Hữu vi hòa hợp, hành lìa hòa hợp, không hành với các duyên đầy đủ, hành không đầy đủ cho nên không hành. Chỉ riêng mình nhận biết pháp hữu vi có nhiều lỗi lầm, không nên hòa hợp đủ các nhân duyên, cũng không dứt bỏ hoàn toàn pháp hữu vi, vì lợi ích giáo hóa chúng sinh. Này các Phật tử! Bồ-tát nhận biết pháp hữu vi có nhiều lỗi lầm như vậy, lìa tự tính mà quán tự tính không sinh-không diệt. Bồ-tát ấy hành quán như vậy rồi, khởi tâm Đại Bi, không xả bỏ tất cả chúng sinh, tức thì đạt được môn trí không chướng ngại, hiện tiền, gọi là hành Bát nhã Ba-la-mật sáng tỏ, hiện tiền. Bồ-tát này thành tựu hành Bát nhã Ba-la-mật sáng tỏ hiện tiền, soi chiếu như vậy rồi, làm nhân duyên viên mãn pháp trợ Bồ-đề phần nhưng không cùng trú với pháp hữu vi, quán tướng tịch diệt nơi tính của pháp hữu vi, cũng không trú trong đó, chỉ muốn đầy đủ pháp phần Bồ-đề vô thượng”. Luận: Thù thắng do tu hành chứng đắc, có hai loại tu hành: Tu hành do phát khởi dũng mãnh. Tu hành do khởi chí trượng phu. Tu hành do phát khởi dũng mãnh; tức là nhận biết pháp hữu vi có nhiều lỗi lầm, xa lìa chỗ tạo nghiệp phiền não cùng mọi sự trói buộc, tạo lợi ích thù thắng cho chúng sinh. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, tâm Đại Bi chuyển sang”. Tu hành do khởi chí trượng phu; tức là quán đối chiếu sự nhàm chán, quán thấy rõ nhiều lỗi lầm, mà diệt trừ đối. Quán tự tính cùng tướng đều không. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Bồ-tát nhận biết pháp hữu vi có nhiều lỗi lầm như vậy…”. Thù thắng do tu hành; tức là thù thắng do trí và tâm Đại Bi tùy thuận. Dựa vào đạo không trú, hành theo môn trí không chướng ngại luôn hiện tiền, hành Bát nhã Ba-la-mật sáng tỏ hiện tiền, chứng biết pháp hữu vi và Niết-bàn bình đẳng, Bồ-tát không trú cả hai, vì đối với các pháp phần trợ đạo, Bồ-tát hành trì chưa đầy đủ. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, hành quán như vậy rồi, khởi tâm Đại Bi, không xả bỏ tất cả chúng sinh…”. Trí không chướng ngại; tức là trí của Như Lai. Nhưng ở đây vì chưa thành tựu, cho nên gọi là “Sáng tỏ, hiện tiền”. Thế nào là thù thắng do đạt được Tam-muội? Đó là có mười môn Tam-muội không đều là hàng đầu, cùng với quyến thuộc của mình. Kinh: “Bồ-tát ấy, an trú trong địa Hiện tiền của bậc Bồ-tát, đạt được các loại Tam-muội: Tín Không. tính Không. Đệ nhất nghĩa Không. Đệ nhất Không. Đại Không. Hợp Không. Khởi Không. Như thật bất phân biệt Không. Bất xả Không. Đắc lìa-chẳng lìa Không. Bồ-tát ấy, đạt được mười môn Tam-muội Không hàng đầu như vậy, với trăm ngàn vạn môn Tam-muội Không luôn hiện tiền. Đạt được mười môn Tam-muội Vô tướng hàng đầu như vậy, với trăm ngàn vạn môn Tam-muội Vô tướng luôn hiện tiền. Đạt được mười môn Tam-muội Vô nguyện hàng đầu như vậy, cùng với trăm ngàn vạn môn Tam-muội Vô nguyện luôn hiện tiền”. Luận: Tam-muội Không này có bốn loại sai biệt: Quán. Không buông lung. Được tăng thượng. Làm nhân. Trừ Tam-muội thứ tư (Đệ nhất không) có năm Tam-muội được gọi là Quán: Quán chúng sinh vô ngã. Như kinh nói: “Đạt Tam-muội Tín Không”. Quán pháp vô ngã. Như kinh nói: “Đạt Tam-muội tính Không”. Quán chọn lấy không kia. Như kinh nói: “Đạt Tam-muội Đệ nhất nghĩa Không”. Quán dựa vào Thức A-lê-da. Như kinh nói: “Đạt Tam-muội Đại Không”. Quán Thức chuyển. Như kinh nói: “Đạt Tam-muội Hợp Không”. Không buông lung là Tam-muội thứ tư, phân biệt, khéo tu hành, tu hành không chán đủ. Như kinh nói: “Đạt Tam-muội Đệ nhất Không”. Được tăng thượng: Tam-muội thứ bảy (Khởi Không) đạt được công đức tăng thượng. Như kinh nói: “Đạt Tam-muội Khởi Không”. Làm nhân là ba loại Tam-muội còn lại. Nhân làm thanh tịnh chướng ngại của trí, như kinh nói: “Đạt được Tam-muội Như thật bất phân biệt Không”. Nhân của việc giáo hóa chúng sinh, như kinh nói: “Đạt được Tam-muội Bất xả không” là nhân của việc chọn lấy cõi. Như kinh nói: “Đạt được Tam-muội Đắc lìa chẳng lìa không”. Nguyện chọn lấy cõi như vậy, xa lìa phiền não cấu uế mà tùy thuận nơi các cõi, nên gọi là “Lìa, chẳng lìa”. Thế nào là thù thắng do đạt được Tâm bất hoại? Kinh: “Bồ-tát ấy, an trú trong địa Hiện tiền của bậc Bồ-tát, lại chuyển sang, thành tựu đầy đủ các Tâm: Bất hoại. Quyết định. Chân thật. Sâu xa. Không thoái chuyển. Không ngừng nghỉ. Thanh tịnh. Vô biên. Cầu trí. Đầy đủ phương tiện trí hành”. Luận: Tâm bất hoại là kiên cố, không thoái chuyển. Tâm bất hoại này có chín loại: Bất hoại do tin quán. Như kinh nói: “Tâm quyết định”. Bất hoại do gắng sức thọ nhận, thuận hợp. Như kinh nói: “Tâm chân thật”. Bất hoại do ở nơi chốn sâu xa không kinh sợ. Như kinh nói: “Tâm sâu xa”. Bất hoại do ở nơi thừa của mình không động. Như kinh nói: “Tâm không thoái chuyển”. Bất hoại do phát khởi tinh tấn. Như kinh nói: “Tâm không ngừng nghỉ”. Bất hoại do lìa cấu nhiễm của tâm ý ganh ghét, phá giới. Như kinh nói: “Tâm thanh tịnh”. Bất hoại do tạo lợi ích rộng khắp cho chúng sinh. Như kinh nói: “Tâm vô biên”. Bất hoại do cầu đạt giải thoát thù thắng tối thượng. Như kinh nói: “Tâm cầu đạt trí”. Bất hoại do hành hóa cứu độ chúng sinh. Như kinh nói: “Tâm đầy đủ phương tiện trí hành”. Thế nào là thù thắng do đạt được diệu lực tự tại? Kinh: “Bồ-tát ấy, như tâm của các bậc Bồ-tát, tùy thuận thành tựu, dốc lòng hướng tới đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Tinh tấn không thoái chuyển, thành tựu việc khiến cho tất cả dị luận của ngoại đạo đều không thể khuynh động. Thành tựu tùy thuận hội nhập cảnh giới các trí. Thành tựu xa lìa, làm xoay chuyển cảnh giới hàng Nhị thừa. Thành tựu quyết định toàn bộ hướng đến trí Phật. Thành tựu không thoái thất, khiến hết thảy các thứ ma phiền não không thể phá hoại. Thành tựu sự an trú vững chắc, khéo trú nơi trí tuệ sáng tỏ bậc Bồ- tát. Thành tựu sự an trú chính đáng, khéo tu tập hành trì các pháp Không-Vô tướng-Vô nguyện. Thành tựu sự hỗ trợ hành chân chính của trí phương tiện quán xét. Thành tựu hành không bỏ tích tập các pháp trợ phần Bồ-đề. Bồ-tát ấy, trú trong địa Hiện tiền của bậc Bồ- tát, hành Bát nhã Ba-la-mật tăng thượng, thành tựu, đạt được thông suốt Nhẫn thứ ba là Thuận nhẫn, tùy thuận pháp như thật, không có chống trái”. Luận: Bồ-tát ấy, như tâm của các bậc Bồ-tát… dốc lòng hướng tới đạo quả Bồ-đề Vô thượng: Tức là đạt được diệu lực thù thắng của hành Bát nhã Ba-la-mật, cho nên có thể hội nhập sâu xa, trong đó, diệu lực thù thắng có chín loại: Diệu lực có khả năng hàng phục kẻ khác. Như kinh nói: “Tinh tấn không thoái chuyển…”. Diệu lực có thể đoạn trừ các nghi. Như kinh nói: “Thành tựu tùy thuận hội nhập cảnh giới các trí”. Diệu lực của tự Thừa không động. Như kinh nói: “Thành tựu xa lìa, làm xoay chuyển cảnh giới của hàng Nhị thừa”. Diệu lực ở nơi chốn sâu xa quyết định tin tưởng. Như kinh nói: “Thành tựu quyết định toàn bộ hướng đến trí Phật”. Diệu lực không tan hoại. Như kinh nói: “Thành tựu không thoái thất khiến các thứ ma phiền não không thể phá hoại”. Diệu lực kiên cố, dựa vào sự đối trị các chướng phiền não được thanh tịnh. Như kinh nói: “Thành tựu sự an trú vững chắc”. Diệu lực do đối trị rộng khắp. Như kinh nói: “Thành tựu sự an trú chính đáng, khéo tu tập”. Diệu lực do hóa độ chúng sinh. Như kinh nói: “Thành tựu sự hỗ trợ hành chân chính của trí phương tiện quán xét”. Diệu lực làm thanh tịnh mọi chướng ngại của trí. Như kinh nói: “Thành tựu hành không xả bỏ…”. Các pháp ấy như trên đã nói, đều thuộc về diệu lực thù thắng. Kinh: Này các Phật tử! Bồ-tát ấy an trú nơi địa Hiện tiền của bậc Bồ-tát rồi, được thấy nhiều chư Phật. Do diệu lực của đại thần thông, của đại nguyện, Bồ-tát ấy được thấy nhiều trăm Phật… cho đến nhiều trăm ngàn na-do-tha Phật, được thấy nhiều ức Phật… cho đến nhiều trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật. Do diệu lực của đại thần thông, của đại nguyện, Bồ-tát ấy khi gặp chư Phật đều đem tâm hướng thượng, tâm sâu xa, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men… Dùng căn thiện này đều nguyện hồi hướng đến quả vị Vô Thượng chính Đẳng chính Giác. Ở nơi trú xứ của chư Phật sinh tâm cung kính tột bậc, một lòng nghe pháp, lãnh hội rồi thọ trì, lãnh hội-thọ trì xong thì đạt được Tam-muội Như thật, trí tuệ tỏa sáng, tùy thuận tu tập, hành trì rồi ghi nhớ, giữ gìn, trí tuệ càng trở nên thù thắng, lại đạt được tạng Pháp của chư Phật. Bồ-tát ấy, an trú trong địa Hiện tiền của bậc Bồ-tát, ở nơi vô lượng trăm kiếp… vô lượng ngàn kiếp, vô lượng trăm ngàn kiếp, vô lượng trăm ngàn na-do-tha kiếp, vô lượng ức kiếp, cho đến vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, các căn thiện kia luôn chuyển đổi, càng trở nên sáng, sạch thù thắng. Này các Phật tử! Ví như vàng ròng từ ban đầu, dùng lưu ly mài bóng thì ánh sáng màu sắc càng trở nên sáng, đẹp. Bồ-tát này cũng như vậy, trú trong địa Hiện tiền của bậc Bồ-tát ấy, các căn thiện kia với trí phương tiện quán xét, càng trở nên thanh tịnh, sáng tỏ hơn hết, dần dần vắng lặng, thành tựu bất hoại. Ví như vầng sáng của mặt trăng tỏa chiếu nơi thân chúng sinh, khiến được mát mẻ, bốn loại gió thổi cũng không thể hủy hoại. Này các Phật tử! Bồ-tát này cũng thế, trú nơi địa Hiện tiền của bậc Bồ-tát, các căn thiện kia có thể diệt trừ lửa phiền não của vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha chúng sinh, bốn loại đạo ma đều không thể phá hoại. Bồ-tát ấy, trong mười Ba-la-mật thì Bát nhã Ba-la-mật là tăng thượng, các pháp Ba-la-mật khác không phải là không tu tập, nhưng mà tùy theo phần-theo sức. Này các Phật tử! Đó gọi là lược nói về địa Hiện tiền, là Địa thứ sáu của bậc Bồ-tát. Nếu Bồ-tát trú trong địa này nhiều lần làm Thiên vương cõi trời Hóa-lạc, mọi sự tạo tác hành hóa đều tự tại, khéo léo diệt trừ tâm ngã mạn của chúng sinh, khéo dùng pháp để xoay chuyển tâm ngã mạn ấy, các nghiệp thiện đã làm như bố thí-ái ngữ-lợi hành- đồng sự, các phước đức ấy đều không lìa niệm Phật-niệm Pháp niệm Tăng, niệm Bồ-tát và niệm hành của Bồ-tát… cho đến không lìa niệm về trí Nhất thiết chủng, trí Nhất thiết trí, luôn khởi tâm này: Mình nên ở trong hết thảy chúng sinh, là người đứng đầu, là hơn, là lớn, là diệu, là vi diệu, là trên, là vô lượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, là bậc thầy, là bậc tôn quý, cho đến là chỗ dựa của trí Nhất thiết trí. Lại từ niệm này mà phát khởi hành tinh tấn, do diệu lực của tinh tấn, cho nên trong khoảng một niệm, đạt được trăm ngàn ức Tam-muội, thấy trăm ngàn ức Phật, nhận biết trăm ngàn ức thần lực của Phật, có thể làm chuyển động trăm ngàn ức thế giới Phật, có thể đi vào trăm ngàn ức thế giới Phật, có thể soi chiếu trăm ngàn ức thế giới Phật, có thể giáo hóa chúng sinh nơi trăm ngàn ức thế giới Phật, có thể trú thọ trăm ngàn ức kiếp, có thể nhận biết sự việc trong trăm ngàn ức kiếp nơi đời quá khứ-vị lai, có thể khéo hội nhập trăm ngàn ức pháp môn, có thể biến hóa thân làm trăm ngàn ức thân, nơi mỗi mỗi thân có thể thị hiện trăm ngàn ức Bồ-tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thù thắng tối thượng, thì nguyện lực của Bồ-tát còn vựơt hơn số lượng ấy. Thị hiện vô số thần thông, hoặc nơi thân, hoặc nơi ánh sáng… cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết hết”. Luận: Lãnh hội, thọ trì rồi, đạt được Tam-muội Như thật, tùy thuận tu hành là đạt được nghĩa Đà-la-ni. Câu này chỉ rõ, là nhờ vào sự việc kia, cho nên nói, dựa vào Tam-muội thù thắng, đạt được các pháp Chỉ- Quán sáng tỏ, với nẻo hành trì hơn hẳn. Hành rồi ghi nhớ, giữ gìn. Tức là có thể giữ gìn hành ấy. Bồ-tát này trí tuệ càng trở nên thù thắng, cho đến. Các căn thiện kia càng được sáng, sạch là giải thoát khỏi mọi chướng ngại, chứng đắc diệu nghĩa kia. Dụ về dùng lưu ly mài bóng vàng ròng; là chỉ rõ, trong địa này, trí xuất thế gian tăng thượng, ánh sáng của trí càng trở nên hơn hẳn. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Ví như vàng ròng từ ban đầu…”. Do trí không có chướng ngại hiện tiền, cho nên hành Bát nhã Ba-la-mật sáng tỏ hiện tiền. Vì vậy gọi là địa Hiện tiền. Trí phương tiện quán xét; là trí sáng tỏ do hành hóa đạo không trú. Dụ về vầng sáng của mặt trăng; là chỉ rõ chỗ hơn so với trí của địa trước. Vầng nhỏ nhưng ánh sáng lớn. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Ví như vầng ánh sáng của mặt trăng… cho đến bốn loại đạo ma cũng không thể phá hoại”. Đạo ma là thuận theo sự việc của ma, hành của ma. Các phần khác như trước đã nêu.  <卷>QUYỂN 9 Địa 7: ĐỊA VIỄN HÀNH Luận: Trong Địa thứ bảy, có năm loại tướng sai biệt: Sai biệt về đối trị sự ưa thích hành vô tác. Sai biệt về đối trị chướng ngại của điều ấy. Sai biệt do cả hai cùng hành. Sai biệt do sự thù thắng của địa trên, trước. Sai biệt về quả của địa ấy. Thế nào là đối trị sự ưa thích hành vô tác? Kinh: “Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Các Phật tử! Nếu Bồ- tát đã khéo hành trì đầy đủ Địa thứ sáu, muốn đi vào Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, thì Bồ-tát ấy phải dùng mười loại trí phương tiện phát khởi hành thù thắng để hội nhập. Những gì là mười? Đó là: Khéo tu tập các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, tích tập nhiều công đức trợ đạo. Hội nhập các pháp không có ngã, không có thọ mạng, không có chúng sinh nhưng không xả bỏ việc dấy khởi bốn vô lượng. Phát khởi pháp công đức làm tăng thượng cho hành Ba-la-mật, mà không chấp giữ nơi pháp nào. Phải xa lìa ba cõi nhưng có thể ứng hóa, dấy khởi hành làm trang nghiêm ba cõi. Làm vắng lặng hoàn toàn mọi thứ lửa phiền não, nhưng có thể vì hết thảy chúng sinh, phát khởi hành động trừ diệt lửa dữ của phiền não như tham-sân-si. Thuận theo các pháp như huyễn, mộng, ảnh, tiếng vang, ánh trăng trong nước, bóng noi gương, tự tính không hai mà khởi tạo nghiệp với tâm vô lượng sai biệt. Khéo nhận biết về tất cả cõi nước, các cõi như hư không, mà khởi hành làm trang nghiêm, thanh tịnh cõi Phật. Nhận biết rõ Pháp thân của chư Phật tự tính là không có thân, mà khởi hiện sắc thân với tướng hảo trang nghiêm đầy đủ. Biết rõ âm thanh của chư Phật là vô thanh, xưa nay vốn tịch diệt không thể nêu bày về tướng, mà tùy thuận hết thảy chúng sinh, khởi vô số âm thanh trang nghiêm sai biệt để hành hóa. Hội nhập chư Phật, trong khoảng một niệm thông đạt sự việc của ba đời, mà có thể phân biệt về vô số tướng nơi kiếp số để tu tập, thuận theo tâm của tất cả chúng sinh, quán xét sự sai biệt. Này các Phật tử! Bồ-tát ấy, với mười loại trí phương tiện, phát khởi hành thù thắng, hành trì đầy đủ nơi sáu địa rồi được hội nhập Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát. Này các Phật tử! Bồ-tát ấy từ mười loại trí phương tiện này phát khởi hành thù thắng, hành hiện tiền, gọi là đi vào Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát”. Luận: Đối trị sự ưa thích hành vô tác; tức là trí phương tiện phát khởi mười loại hành thù thắng. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Nếu Bồ-tát đã khéo hành trì đầy đủ Địa thứ sáu rồi…”. Bồ-tát kia với trí không có chướng ngại hiện tiền, khi hành Bát nhã Ba-la-mật hiện tiền, liền ở nơi hành vô tác sinh tâm ưa thích mà không khởi hành tăng thượng. Đối trị với sự ưa thích đó, ở đây đã chỉ rõ về mười loại pháp sai biệt. Trí phương tiện; là sự đối trị của trí không bỏ chúng sinh và pháp vô ngã, thâu nhiếp hành tăng thượng, phát khởi hành thù thắng. Hành thù thắng này, đối với thế gian và xuất thế gian là hành tăng thượng, lại không gì hơn, do có bốn loại công đức: Làm nhân thù thắng cho tài sản và thân mạng: Theo chỗ, theo ý đạt được tài sản cùng thân mạng thù thắng do công đức tích tập làm nhân. Như kinh nói: “Đó là khéo tu tập các pháp Không-Vô tướng-Vô nguyện, tích tập nhiều công đức trợ đạo”. Làm nhân ngăn chận hành ác: Đạt được vô lượng sự tu tập thù thắng như vậy, cho nên đối với tất cả chúng sinh không khởi hành sai lạc. Như kinh nói: “Hội nhập các pháp không có ngã, không có thọ mạng, không có chúng sinh…”. Làm nhân giữ gìn căn thiện: Đạt được nhân thù thắng tăng thượng, cho nên pháp công đức làm hành tăng thượng, do hành Ba-la- mật. Như kinh nói: “Khởi pháp công đức làm cho hành Ba-la-mật tăng thượng…”. Làm nhân để thâu nhiếp chúng sinh: Ở đây có bảy môn: Nguyện lực lấy sự sống làm hàng đầu, giáo hóa các chúng sinh khác. “Hàng đầu”; là chỉ cho sự gắn bó với chúng sinh. Như kinh nói: “Phải xa lìa ba cõi, nhưng có thể ứng hóa…”. Nêu bày sự đối trị: Vì diệt trừ mọi phiền não cấu nhiễm cùng các thứ tùy phiền não, các kiết sử, luôn tự làm vắng lặng. Như kinh nói: “Làm vắng lặng hoàn toàn mọi thứ lửa phiền não…”. Vì diệt trừ các chướng: Chướng có bốn loại như trong Địa thứ năm đã nói. Như kinh nói: “Thuận theo các pháp như huyễn, mộng…”. Quy tập chúng hội của đại pháp. Như kinh nói: “Khéo nhận biết về tất cả cõi nước, các cõi…”. Hiểu biết, thân cận cúng dường, tu hành sinh phước đức. Như kinh nói: “Nhận biết Pháp thân của chư Phật tự tính là không có thân…”. Chuyển pháp luân. Như kinh nói: “Nhận biết âm thanh của chư Phật là vô thanh, xưa nay vốn tịch diệt…”. Theo chỗ vấn nạn, khéo giải thích đầy đủ. Như kinh nói: “Hội nhập chư Phật, trong khoảng một niệm thông đạt sự việc của ba đời…”. Mười loại hành thù thắng được phát khởi này, cùng thâu nhiếp để đối trị, kết hợp, khéo tu tập các hành Không-Vô tướng-Vô nguyện, hội nhập tất cả pháp không có ngã, không có thọ mạng, không có chúng sinh, thứ tự như vậy, cho nên biết. Mười loại pháp này hiện tiền, cho nên được trú nơi Địa thứ bảy. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Bồ-tát ấy, với mười loại trí phương tiện này…”. Như vậy là đã nói về sự sai biệt do đối trị ưa thích hành vô tác nơi Địa thứ bảy (Phần một). Tiếp theo là nói về Phần đối trị chướng (Phần hai) Có hai loại tướng: Tu hành vô lượng chủng loại. Tu hành với hành không dụng công. Kinh: “Bồ-tát ấy, an trú trong Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, hội nhận vô lượng cảnh giới của chúng sinh. Hội nhận vô lượng nẻo tạo tác của chư Phật để giáo hóa chúng sinh. Hội nhận vô lượng lưới thế giới. Hội nhận vô lượng cõi nước thanh tịnh của chư Phật. Hội nhận vô lượng các pháp sai biệt. Hội nhận vô lượng trí của chư Phật, chứng đắc đạo vô lượng. Hội nhận vô lượng kiếp số. Hội nhận vô lượng sự thông đạt các việc trong ba đời của chư Phật. Hội nhận vô lượng nẻo sai biệt của chúng sinh tin và thích việc thù thắng. Hội nhận vô lượng danh hiệu, sắc thân của chư Phật với vô số sự thị hiện. Hội nhận vô lượng tâm hành, căn tín của chúng sinh với đủ thứ loại sai biệt. Hội nhận vô lượng âm thanh, ngôn ngữ của chư Phật, khiến chúng sinh hoan hỷ. Hội nhận vô lượng tâm và nẻo hành nơi tâm của chúng sinh với vô số sự sai biệt. Hội nhận vô lượng hành tùy trí tuệ của chư Phật. Hội nhập dựa vào vô lượng sự tin hiểu của thừa Thanh văn. Hội nhận vô lượng sự thuyết giảng đạo của chư Phật, khiến chúng sinh tin hiểu. Hội nhận vô lượng sự tập thành của thừa Bích-chi-Phật. Hội nhận vô lượng môn trí tuệ sâu xa của chư Phật đã thuyết giảng. Hội nhận vô lượng nẻo hành đạo của các Bồ-tát. Hội nhận vô lượng sự tập thành pháp Đại thừa được chư Phật thuyết giảng, khiến Bồ-tát được hội nhập”. Luận: Tu hành vô lượng chủng loại; tức là là tùy chỗ làm lợi ích cho những chúng sinh nào? Chúng sinh ở nơi chốn nào? Dùng những trí tuệ nào? Dùng những tâm nào? Dùng những hành nào? Đưa đến những Thừa nào? Do những sai biệt ấy, cho nên có mười loại tu hành: Trong đó, tùy chỗ làm lợi ích cho những chúng sinh nào: Đối với vô lượng chúng sinh, dùng vô lượng nghiệp để giáo hóa. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, an trú trong Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, hội nhận vô lượng cảnh giới của chúng sinh…”. Chúng sinh ở nơi chốn nào? Ở trong vô lượng thế giới, khiến nương vào cõi Phật thanh tịnh. Như kinh nói: “Hội nhận vô lượng thế giới. Hội nhận vô lượng cõi nước thanh tịnh của chư Phật”. Dùng những trí tuệ gì? Vô lượng chủng loại trí tuệ giác ngộ về pháp giới. Như kinh nói: “Hội nhận vô lượng các pháp sai biệt. Hội nhận vô lượng trí tuệ của chư Phật, đạt đạo Vô thượng”. Vô lượng kiếp số, thông đạt về ba đời, cùng hội nhập trí tuệ giác ngộ. Như kinh nói: “Hội nhập vô lượng kiếp số. Hội nhận vô lượng sự thông đạt các sự việc trong ba đời của chư Phật”. Dùng những tâm gì? Có ba loại sự việc: Có các chúng sinh tin vào vô số thân tướng chư Thiên, tâm tùy đồng hành, thuận theo niềm tin ấy mà thuyết giảng. Như kinh nói: “Hội nhận vô lượng nẻo sai biệt của chúng sinh tin ưa sự việc thù thắng”. Nhận biết tâm quá khứ, tùy theo căn trí mà nêu giảng ứng hợp. Như kinh nói: “Hội nhận vô lượng tâm hành căn tín của chúng sinh với đủ loại sai biệt. Hội nhận vô lượng âm thanh, ngôn ngữ của chư Phật…”. Dùng những hành gì? Tùy theo tâm của chúng sinh mà nêu bày sự đối trị. Như kinh nói: “Hội nhận vô lượng tâm, nẻo hành nơi tâm chúng sinh với vô số sai biệt…”. Đưa đến những Thừa nào? Ở trong ba Thừa thì đưa đến thừa Thanh văn. Như kinh nói: “Hội nhập dựa vào vô lượng sự tin hiểu của Thừa Thanh văn. Hội nhận vô lượng sự thuyết giảng đạo của chư Phật, khiến chúng sinh tin hiểu”. Đưa đến Thừa Bích-chi-Phật. Như kinh nói: “Hội nhận vô lượng sự tập thành của thừa Bích-chi-Phật. Hội nhận vô lượng môn trí tuệ sâu xa của chư Phật đã thuyết giảng”. Đưa đến Đại thừa. Như kinh nói: “Hội nhận vô lượng nẻo hành đạo của các Bồ-tát. Hội nhận vô lượng sự tập thành pháp Đại thừa được chư Phật thuyết giảng, khiến Bồ-tát được hội nhập”. Như vậy đã nói về tu hành mười loại, với vô số sai biệt của phần đối trị chướng. Tiếp theo là nói về: Tu hành với hành không dụng công. Kinh: “Bồ-tát ấy, khởi niệm như vậy: Chư Phật Thế Tôn có vô lượng vô biên cảnh giới. Cảnh giới đó không thể dùng bao nhiêu thời gian như trăm ức kiếp, ngàn ức kiếp, trăm ngàn ức kiếp, cho đến vượt hơn số lượng ấy như vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính toán được. Cảnh giới của chư Phật như vậy, mình đều cần phải tập hợp, tự nhiên không phân biệt mà được thành tựu. Vì không phân biệt, không chấp giữ tướng cho nên thành tựu. Bồ-tát ấy khéo quán xét như vậy cho nên trí thông tỏ, ngày đêm luôn tu tập trí phương tiện, dốc sức phát khởi hành thù thắng, khéo an trú kiên cố bởi vì pháp bất động”. Luận: Trong đoạn này: Tự nhiên là tự tính thù thắng, không phân biệt. Như kinh nói: “Tự nhiên không vì phân biệt mà được thành tựu…”. Câu này đã chỉ rõ điều ấy. Bồ-tát này khéo quán xét như vậy…: là đối trị về chướng kia. Như vậy đã nói về phần thứ hai của địa này: Phần đối trị chướng. Phần thứ ba: Cùng hành cả hai. Phần này có bốn loại tướng: Hai hành cùng hành không gián đoạn. Tin tưởng thù thắng. Có thể làm nghĩa lớn. Sai biệt của pháp Bồ-đề phần. Kinh: “Bồ-tát ấy, khi phát khởi đạo, một niệm tâm cũng không rời bỏ. Bồ-tát này tu hành trí tuệ, khi đến cũng khởi, lúc đi cũng khởi, khi đứng cũng khởi, lúc ngồi-nằm cũng khởi, cho đến khi ngủ nghỉ-nằm mộng đều có thể phát khởi đạo. Lìa mọi thứ ngăn che, an trú vào các oai nghi, luôn không lìa tướng niệm như vậy. Bồ-tát ấy, ở trong từng niệm đều hành trì đầy đủ mười pháp Ba-la-mật của bậc Bồ-tát. Vì sao? Vì Bồ-tát khởi tất cả tâm như vậy, ở trong từng mỗi niệm, dùng Đại Bi làm đầu, tu tập hết thảy pháp Phật, đều hồi hướng đến trí của Như Lai. Bồ-tát ấy, lúc cầu đạt Phật đạo, mọi căn thiện được tu tập đều ban cho tất cả chúng sinh, là Bố thí Ba-la-mật. Có thể diệt trừ hết thảy mọi thứ phiền não thiêu đốt là Trì giới Ba-la-mật. Từ Bi làm hàng đầu, có thể nhẫn đối với hết thảy chúng sinh, là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Cầu căn thiện chuyển thắng, tâm không hề chán đủ, là Tinh tấn Ba-la-mật. Chỗ tu tập các hành tâm không dong ruổi, tán loạn, luôn hướng tới trí Nhất thiết trí, là Thiền định Ba-la-mật. Hiện tại nhận biết các pháp, tự tính chẳng sinh, là Bát nhã Ba-la-mật. Có thể dấy khởi vô lượng môn trí, là Phương tiện Ba-la-mật. Mong đạt trí thù thắng tối thượng là Nguyện Ba-la-mật. Hết thảy tà luận của ngoại đạo cùng các chúng ma đều không thể phá hoại đạo Bồ-tát, là Lực Ba-la-mật. Quán xét đúng như thật, nhận biết về tướng của tất cả các pháp, là Trí Ba-la-mật. Này các Phật tử! Như vậy, Bồ-tát ấy an trú trong địa Viễn hành của bậc Bồ-tát, niệm niệm đều hành trì đầy đủ mười pháp Ba-la-mật, cũng hành trì đầy đủ bốn Nhiếp pháp, cũng hành trì đầy đủ bốn Gia, ba mươi bảy pháp Trợ Bồ-đề phần, ba môn giải thoát, lược nói cho đến hết thảy pháp Trợ Bồ-đề phần, thảy đều hành trì đầy đủ”. Luận: Ở đây, trong một niệm, hai hành Xa-ma-tha (Chỉ) Tỳ-bát-xá-na (Quán) đều cùng hiện tiền (Là hai hành cùng hành không gián đoạn). Trú vào các oai nghi; tức là trong tất cả hành, Bồ-tát lúc tu tập, hành trì đều không gián đoạn, không ngừng nghỉ. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, lúc phát khởi đạo, một niệm tâm cũng không bỏ…”. Tin tưởng thù thắng; là Bồ-tát, trong Trí vô lượng, với nghĩa đặc biệt, tướng trang nghiêm, chuyên niệm để hiện tiền. Như kinh nói: “Luôn không lìa tướng niệm như vậy”. Có thể làm ra nghĩa lớn; niệm niệm đều hành trì đầy đủ mọi nghĩa lớn của mười Ba-la-mật. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, ở trong từng niệm hành trì đầy đủ mười pháp Ba-la-mật của bậc Bồ-tát, cho đến Trí Ba- la-mật”. Ở đây: Phương tiện Ba-la-mật là khởi vô lượng trí sự, dựa vào trí ấy mà khởi vô lượng hạnh nguyện như Bố thí… dùng diệu lực để thâu nhiếp. Nguyện Ba-la-mật là phát khởi trí tối thượng, do nơi trí ấy, cho nên khởi các hành tối thượng như Bố thí… làm sinh trưởng, thâu nhiếp mọi thứ thù thắng. Lực Ba-la-mật: hết thảy Dị luận cùng các thứ ma không thể phá hoại nẻo hành của Bồ-tát. Dựa vào hành ấy, cho nên xa lìa mọi chướng ngại nơi Bố thí… Trí Ba-la-mật: quán xét đúng như thật, nhận biết về tướng của tất cả các pháp. Dựa vào trí ấy, mà đối với các pháp Bố thí… và hết thảy mọi thứ sai biệt đều nhận biết, để hóa độ chúng sinh. Sai biệt của pháp Bồ-đề phần. Có bốn loại tướng: Dựa vào pháp Đại thừa, hành Ba-la-mật. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Như vậy, Bồ-tát ấy an trú trong Địa Viễn hành của bậc Bồ- tát, niệm niệm đều hành trì đầy đủ mười pháp Ba-la-mật”. Dựa vào sự giáo hóa chúng sinh, hành bốn Nhiếp pháp. Như kinh nói: “Cũng hành trì đầy đủ bốn Nhiếp pháp”. Dựa vào phiền não chướng, đã được thanh tịnh tăng thượng: Gia, Bồ-đề phần, môn giải thoát; là trú ở nơi chốn nào, dùng những môn gì, để tu hành đạt được thanh tịnh. Như kinh nói: “Cũng hành trì đầy đủ bốn Gia, ba mươi bảy pháp phần Trợ đạo, ba môn giải thoát”. Bốn gia là: Bát nhã gia, Đế gia, Xả phiền não gia, Khổ thanh tịnh gia. Dựa vào trí chướng đã thanh tịnh. Như kinh nói: “Lược nói về tất cả pháp phần Trợ Bồ-đề, ở trong mỗi mỗi niệm thảy đều hành trì đầy đủ”. Như vậy đã nói về phần thứ ba: Sai biệt do cả hai cùng hành. Tiếp đến là nói về phần thứ tư: Sai biệt do sự thù thắng nơi địa trên-trước. Địa dưới phương tiện tăng thượng, hành trì đầy đủ, trong Địa thứ bảy nói rõ. Kinh: “Bấy giờ, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng: Thưa Phật tử! Bồ-tát, chỉ ở trong Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát mới hành trì đầy đủ tất cả pháp phần Trợ Bồ-đề, hay là hết thảy Bồ-tát trong các địa, cũng đều hành trì đầy đủ? Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Phật tử! Bồ-tát ở trong mười địa của bậc Bồ-tát, thảy đều hành trì đầy đủ tất cả pháp phần Trợ Bồ-đề, nhưng Địa thứ bảy thì hơn hẳn cho nên được mang tên. Vì sao? Này Phật tử! Vì Bồ-tát ấy, ở trong địa của bậc Bồ-tát này, đã hành trì đầy đủ mọi phương tiện, được hội nhập với hành trí tuệ-thần thông. Này Phật tử! Bồ-tát, ở trong Địa thứ nhất phát nguyện, quán xét tất cả pháp Phật, gồm đủ pháp phần Trợ Bồ-đề. Trong Địa thứ hai, diệt trừ mọi thứ cấu uế xấu ác của tâm, gồm đủ pháp phần Trợ Bồ-đề. Trong Địa thứ ba, nguyện chuyển sang tăng trưởng, đạt được pháp sáng tỏ, gồm đủ pháp phần Trợ Bồ-đề. Trong Địa thứ tư, hội nhập đạo, gồm đủ pháp phần Trợ Bồ-đề. Trong Địa thứ năm, tùy thuận hành pháp thế gian, hành đầy đủ pháp phần Trợ Bồ-đề. Nơi Địa thứ sáu, hội nhập pháp môn thâm diệu, cho nên hành đầy đủ pháp phần Trợ Bồ-đề, và trong Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát này, phát khởi hết thảy pháp Phật, hành trì đầy đủ pháp phần Trợ Bồ-đề”. Luận: Thế nào là các địa dưới phương tiện tăng thượng, hành trì đầy đủ? Do đầy đủ cho nên hội nhập hành đại trí thông. Như kinh nói: “Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Này Phật tử! Bồ-tát ở trong mười địa của bậc Bồ- tát thảy đều hành trì đầy đủ tất cả pháp phần Bồ-đề…”. Ở đây, Thông là năm thần thông, Trí; như trước đã nói. Vì sao trong địa này, hành phương tiện đầy đủ? Vì Bồ-tát, trong hành thế gian, xuất thế gian khác lại càng thực hành thù thắng. Do đó, trong Địa thứ bảy này khởi tất cả pháp Phật, có thể hành trì đầy đủ các pháp phần Trợ Bồ-đề. Như kinh nói: “Bồ-tát ở trong Địa thứ nhất, phát nguyện quán xét tất cả pháp Phật…”. Như vậy đã nói về các địa dưới phương tiện tăng thượng, hành trì đầy đủ, thuộc phần thứ tư. Thế nào là địa trên, tu hành tăng thượng trí tuệ phương tiện đối với pháp phần Bồ-đề? Là hành công dụng đã đầy đủ. Kinh: “Vì sao? Này Phật tử! Bồ-tát từ Địa thứ nhất trở đi, cho đến bảy Địa, đạt được các trí tuệ, hành hóa đạo. Nhờ vào diệu lực ấy, cho nên từ Địa thứ tám của bậc Bồ-tát cho đến Địa thứ mười, là hành không dụng công, tự nhiên đầy đủ. Này Phật tử! Ví như có hai thế giới: Một là thế giới nhiễm tịnh. Hai là thế giới thuần tịnh. Ở giữa hai thế giới ấy khó có thể vượt qua được. Muốn vượt qua cảnh giới này phải dùng diệu lực của đại thần thông. Phật tử! Bồ-tát cũng vậy, hành hóa nơi đạo Bồ-tát nhiễm tịnh, khó có thể vượt qua được. Phải dùng diệu lực của đại nguyện, của trí phương tiện lớn, của thần thông lớn mới có thể vượt qua được. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi: Phật tử! Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát là hành nhiễm hay là hành tịnh? Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Này Phật tử! Từ Địa thứ nhất trở đi, Bồ-tát hành trì đều xa lìa nghiệp phiền não nhiễm. Vì sao? Vì đều hồi hướng đến đạo quả Vô Thượng chính Đẳng chính Giác. Tùy theo các đạo mà hành hóa, như phần hành đạo bình đẳng, cho nên không gọi là đã vượt qua hành phiền não của bảy địa. Này Phật tử! Ví như Chuyển luân Thánh vương cỡi voi báu du hành khắp bốn cõi thiên hạ, nhận biết có những kẻ bần cùng khốn khổ, cấu nhiễm, lỗi lầm, nhưng không bị những lỗi lầm kia làm cho ô nhiễm. Vì vua chưa thoát khỏi thân người. Nếu bỏ thân người, sinh đến cõi trời Phạm Thế, trú tại cung điện của Phạm Thiên, thấy rõ hàng ngàn thế giới, thị hiện uy lực, ánh sáng của bậc Phạm vương, bấy giờ không còn gọi là người. Này Phật tử! Bồ-tát cũng như vậy. Từ Địa thứ nhất trở đi, cỡi trên cỗ xe là các pháp Ba-la- mật, hành hóa nơi tất cả thế gian, cũng nhận biết mọi thứ phiền não cấu nhiễm, lỗi lầm của thế gian, nhưng không bị những thứ ấy làm cho ô nhiễm, vì đã hành trì chính đạo, mà không gọi là đã vượt quá phiền não cấu nhiễm của bảy địa. Nếu Bồ-tát xả bỏ hết thảy hành công dụng, từ bảy Địa nhập vào Địa thứ tám, bấy giờ gọi là đi trên cỗ xe Bồ-tát thanh tịnh, hành hóa nơi tất cả thế gian, nhận biết đúng như thật về hết thảy các thứ phiền não cấu uế, lỗi lầm, nhưng không bị chúng làm cho ô nhiễm, do đã được vượt qua. Phật tử! Bồ-tát an trú nơi Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát này, vượt qua phần lớn các thứ phiền não như tham dục… Bồ-tát ấy, trú trong địa Viễn hành của bậc Bồ-tát này, không gọi là người có phiền não, cũng không gọi là người không phiền não. Vì sao? Vì tất cả phiền não không hiện hành, cho nên không gọi là có phiền não. Vì còn tham cầu trí tuệ của Như Lai hiện tại chưa đầy đủ, cho nên không gọi là không có phiền não”. Luận: Thế nào là Địa trên, trí tuệ phương tiện tăng thượng hành Bồ- đề phần? Tức là công dụng đầy đủ. Như kinh nói: “Vì sao? Này Phật tử! Bồ-tát từ Địa thứ nhất trở đi, cho đến Địa thứ bảy, đạt được các trí tuệ…”. Tức là chỉ rõ từ Địa thứ nhất trở đi, luôn xa lìa các thứ phiền não như vậy. Địa này gọi là nhiễm tịnh, chẳng phải là hành nhiễm, như phần Hành đạo bình đẳng. Bồ-tát ấy, ở trong địa này, tùy nơi phần lực, xả bỏ nẻo công dụng, như ví dụ về Chuyển luân Thánh vương. Trong Địa thứ tám, tự nhiên đạt được hạnh báo vượt quá mọi thứ phiền não cấu nhiễm, lỗi lầm, chỉ rõ như sinh nơi cõi trời Phạm Thế, xả bỏ thân người của Chuyển luân Thánh vương. Như kinh nói: “Phật tử! Ví như Chuyển luân Thánh vương…”. Phật tử! Bồ-tát an trú nơi Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, vượt qua phần lớn các thứ phiền não như tham dục; tức là là chưa đạt đến Địa báo. Vì thế Địa này không gọi là hành lìa phiền não, là vì còn có dụng công. “Bồ-tát trú trong địa Viễn hành này không gọi là có phiền não”, cho đến: “Chưa đầy đủ, cho nên không gọi là không có phiền não”. Như vậy là đã nói về phần sai biệt do sự thù thắng nơi địa trên- trước. (Phần thứ tư). Tiếp theo là nói về Phần thứ năm: Sai biệt về quả do song hành. Phần này có bốn loại tướng: Nghiệp thanh tịnh. Đạt được Tam-muội thù thắng. Quá địa (chỗ vượt hơn nơi địa). Đạt được hành thù thắng. Kinh: “Bồ-tát ấy an trú trong địa Viễn hành là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, thành tựu trọn vẹn thân nghiệp thanh tịnh sâu xa, thành tựu trọn vẹn khẩu nghiệp thanh tịnh sâu xa, thành tựu trọn vẹn ý nghiệp thanh tịnh sâu xa. Bồ-tát ấy, đối với các nẻo nghiệp bất thiện hiện có, luôn bị chư Phật quở trách, đều đã lìa bỏ. Đối với các nẻo nghiệp thiện hiện có, luôn được chư Phật khen ngợi, đều luôn hành trì. Mọi thứ kinh sách, kỹ thuật hiện có nơi thế gian, như đã nói trong năm địa, tự nhiên mà hành. Bồ-tát ấy, ở trong Tam thiên đại thiên thế giới, được xem là bậc Đại sư. Chỉ trừ chư Phật và Bồ-tát nơi tám địa, không có chúng sinh nào, mà tâm sâu xa, hành vi diệu có thể sánh kịp. Bồ-tát này, hết thảy các thứ thiền định, Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề, thần thông, giải thoát đều hiện tiền. Trong môn tu hành, không phải là đã khéo thành tựu lực báo như Địa thứ tám của bậc Bồ-tát. Bồ-tát ấy, trú nơi địa Viễn hành là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, ở trong mỗi mỗi niệm, tu tập đầy đủ diệu lực của trí phương tiện cùng tất cả pháp phần Trợ Bồ-đề, luôn chuyển biến, thù thắng viên mãn”. Luận: Nghiệp thanh tịnh: có bốn loại tướng: Tịnh giới thù thắng. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy trú nơi địa Viễn hành là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, thành tựu trọn vẹn thân nghiệp thanh tịnh sâu xa…”. Trí thế gian thanh tịnh thù thắng. Như kinh nói: “Mọi thứ kinh, sách, kỹ thuật hiện có của thế gian…”. Đạt tự thân thù thắng; tâm hành bình đẳng, không ai sánh kịp. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, ở trong Tam thiên đại thiên thế giới…”. Đạt được diệu lực thù thắng, các thứ thiền định… luôn hiện tiền, thù thắng. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, hết thảy các thứ thiền định, Tam- muội… hiện có…”. Ở đây, dựa vào Thiền mà khởi Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề, Thần thông, Giải thoát, là giáo hóa chúng sinh, là ưa thích hành tịch diệt, là diệt định Tam-ma-bạt-đề, thứ tự như vậy. Đã nói xong tướng thứ nhất của phần thứ năm. Tiếp theo là nói về tướng thứ hai: Đạt được Tam-muội thù thắng. Kinh: “Bồ-tát ấy, an trú trong địa Viễn hành này, hội nhập với các Tam-muội: Thiện trạch trí Bồ-tát. Thiện tư nghĩa. Ích ý. Phân biệt nghĩa tạng. Trạch nhất thiết nghĩa. Thiện trú kiên căn. Trí thần thông môn. Pháp giới nghiệp. Như Lai lợi ích. Nhập vào Tam-muội mang tên Bồ-tát chủng chủng nghĩa tạng, thế gian Niết-bàn môn. Bồ-tát ấy, ở nơi môn đại trí thông như vậy, đầy đủ mười Tam- muội hàng đầu, cho nên có thể nhập vào trăm ngàn môn Tam-muội của bậc Bồ-tát, làm thanh tịnh địa này”. Luận: Đạt được Tam-muội thù thắng có mười loại tướng: Dựa vào nghĩa chưa quán. Dựa vào nghĩa đã quán. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy an trú trong địa Viễn hành là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, nhập Tam-muội gọi là Bồ-tát thiện trạch trí…”. Dựa vào một câu với vô lượng nghĩa thù thắng. Như kinh nói: “Tam-muội Thiện tư nghĩa”. Dựa vào một nghĩa để nói về vô lượng tên gọi. Như kinh nói: “Tam-muội Ích ý. Tam-muội Phân biệt nghĩa tạng”. Dựa vào trí thông tỏ tất cả xứ của năm Minh. Như kinh nói: “Tam-muội Trạch nhất thiết nghĩa”. Dựa vào chướng phiền não đã được thanh tịnh, quán chân như với căn kiên định. Như kinh nói: “Tam-muội Thiện trú kiên căn”. Dựa vào chướng ngại của trí đã được thanh tịnh. Có bốn loại chướng đã được thanh tịnh: Chướng ngại đối với công đức thù thắng. Đối trị chướng này, như kinh nói: “Tam-muội Trí thần thông môn”. Chướng ngại nơi trí không có chướng ngại: Đối trị chướng này, như kinh nói: “Tam-muội Pháp giới nghiệp”. Chướng ngại do khiếp sợ đối với pháp Phật sâu xa tối thượng. Đối trị chướng này, như kinh nói: “Tam-muội Như Lai lợi ích”. Chướng ngại đối với hành không trú. Đối trị chướng này, như kinh nói: “Nhập vào Tam-muội gọi là chủng chủng nghĩa tạng…”. Chủng chủng nghĩa tạng; là vô số các loại căn thiện. Như vậy, nơi môn đại trí thông, Bồ-tát đã hành trì đầy đủ mười Tam-muội hàng đầu, cho nên có thể hội nhập trăm ngàn vạn môn Tam- muội của bậc Bồ-tát, làm thanh tịnh địa này. Đã nói xong về phần Đạt Tam-muội thù thắng. Tiếp đến là nói về phần quá địa (chỗ vượt hơn nơi địa). Kinh: “Bồ-tát ấy, đạt được Tam-muội như vậy, trí tuệ phương tiện hoàn toàn thanh tịnh, đạt diệu lực của Đại Bi, cho nên vượt hơn cảnh giới của hàng Nhị thừa, hiện tiền tư duy, suy xét, hướng đến cảnh giới trí tuệ”. Luận: Vượt hơn cảnh giới của hàng Nhị thừa. Có hai loại tướng: Diệu lực của trí phương tiện tu hành. Diệu lực của tâm Đại Bi. Hiện tiền tức là có thể hội nhập dòng với chảy của đạo pháp. Lượng xét, hướng tới cảnh giới trí tuệ tức là trí tuệ của tám địa. Chỉ quán với Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na mà mọi xứ ấy đều thành tựu. Lại nữa, chỗ vượt hơn là nẻo hành hóa thù thắng, cho nên chỉ rõ. Kinh: “Bồ-tát ấy an trú trong địa Viễn hành, là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, nơi vô lượng thân nghiệp hành vô tướng, nơi vô lượng khẩu nghiệp-ý nghiệp đều hành vô tướng. Bồ-tát này, khéo hành thanh tịnh cho nên đạt được pháp Nhẫn vô sinh sáng tỏ. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói: Này Phật tử! Bồ-tát trú nơi Địa thứ nhất của bậc Bồ-tát, có vô lượng thân nghiệp, vô lượng khẩu nghiệp, vô lượng ý nghiệp, đã vượt hơn tất cả hành của hàng Nhị thừa chăng? Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Này Phật tử! Quán xét về pháp lớn cho nên vượt hơn. Không phải là hành lực của tự trí. Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát này, đạt được quán với hành lực của tự trí, cho nên hết thảy mọi nẻo hành của hàng Nhị thừa đều không thể sánh kịp. Này Phật tử! Ví như Vương tử sinh nơi Vương gia, đầy đủ vương tướng hơn hẳn tất cả các bề tôi, là do uy lực của chốn quyền quý, chẳng phải là do hành lực của tự trí. Về sau, thân tướng trưởng thành tự đầy đủ trí lực, mọi sự việc tạo tác đều thành tựu, mới đích thực vượt hơn tất cả các bề tôi. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đã vượt hơn tất cả hàng Thanh văn, Bích-chi-Phật, do tâm sâu xa lớn lao. Nay trú trong Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát, tự trí hành trú, cho nên vượt hơn mọi hành của hàng Nhị thừa”. Luận: Vô lượng ba nghiệp hành vô tướng; là nhập định, xa lìa mọi tướng. Vô lượng ấy thì hàng Thanh văn, Duyên giác cũng có nghiệp thanh tịnh xa lìa tướng, nhưng không phải là vô lượng tướng, vì không thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Lại nữa, vô lượng ấy hơn hẳn sự việc của các địa dưới. Khéo hành thanh tịnh là tu tập các hành phương tiện đầy đủ. Pháp Nhẫn vô sinh sáng tỏ là tướng hiện tiền của pháp Nhẫn ấy. Dụ về vương tử là chỉ rõ sự thù thắng, vượt hơn trong địa này, do tu hành phương tiện đầy đủ. Tự trí hành trú; là hành phương tiện xong, niệm quán để an trú. Như kinh nói: “Phật tử! Ví như vương tử sinh tại Vương gia… “cho đến”: Tự trí hành trú cho nên hơn hẳn…”. Vô lượng nghiệp thù thắng như thân nghiệp… đã nói, không chỉ là có nhiều thần lực vô lượng mà cũng chỉ rõ về vô lượng nghĩa thù thắng. Kinh: “Này các Phật tử! Bồ-tát ấy an trú nơi địa Viễn hành này, đạt được nẻo vô hành, xa lìa hết mực sâu xa. Ba nghiệp thân-khẩu-ý đều chuyển biến, cầu đạt hành thù thắng nhưng không lìa bỏ”. Luận: Hết mực sâu xa; là tiến vào nơi xa. Xa lìa: tức là các chướng ngại được diệt trừ. Vô hành: là chỉ cho các địa thế gian xuất thế gian còn lại đều không thể hành trì. Ba nghiệp chuyển biến, cầu đạt hành thù thắng mà không lìa bỏ; tức là chỉ cho hàng Nhị thừa, tuy lìa tướng nghiệp kia, nhưng chẳng như vậy, mới đạt một ít đã cho là đủ, không cầu đạt hành vô thượng. Như vậy đã nói về tướng thứ ba: Chỗ vượt hơn nơi địa (Vượt hơn cảnh giới của hàng Nhị thừa). Thế nào là đạt được hành thù thắng? (Tướng thứ tư) Kinh: “Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi: Này Phật tử! Bồ-tát từ địa nào trở đi mới có thể hội nhập vào định Tịch diệt? Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này Phật tử! Bồ-tát từ Địa thứ sáu trở đi, có thể hội nhập định Tịch diệt. Nay trú nơi Địa thứ bảy của bậc Bồ- tát, trong mỗi mỗi niệm đều có thể nhập nơi định ấy, nhưng không thủ chứng. Bồ-tát ấy đã thành tựu trọn vẹn về ba nghiệp thân-khẩu-ý không thể nghó bàn. Này Phật tử! Đó là hành của các Bồ-tát hành hóa nơi thật tế mà không chứng đắc định Tịch diệt. Phật tử! Ví như có người dùng thuyền lớn đi vào biển cả, khéo biết cách sử dụng thuyền, khéo nhận biết tướng trạng của nước, không bị nạn nước của biển lớn làm hại. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát trú trong Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát này, đi trên thuyền của các pháp Ba-la-mật, hành hóa nơi thật tế mà không chứng đắc định Tịch diệt”. Luận: Hành hóa nơi thật tế mà không chứng đắc định Tịch diệt; bởi vì không xả bỏ Hữu. Như kinh nói: “Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Đại Bồ- tát, từ nơi Địa thứ sáu trở đi…”. Đã nói về phần hành thù thắng nơi Tam-ma-bạt-đề. Tiếp theo là nói về việc phát khởi hành thù thắng. Kinh: Bồ-tát là thông đạt về trí lực của Tam-muội như vậy, tu tập khởi trí lực của phương tiện lớn, hiện thân nơi nẻo thế gian mà tâm sâu xa là Niết-bàn. Tuy quyến thuộc vây quanh nhưng tâm thường xa lìa. Dùng nguyện lực thọ sinh nơi ba cõi, nhưng không bị thế gian làm ô nhiễm. Tâm thường vắng lặng, nhờ diệu lực của phương tiện mà trở lại tỏa sáng, tỏa sáng nhưng không bùng cháy. Tùy thuận trí Phật, xoay chuyển cảnh giới của hàng Nhị thừa, thông đạt cảnh giới ẩn giấu của chư Phật, hiện bày cảnh giới của ma, vượt qua bốn cõi ma, hiện hành cảnh giới ma. Hiện bày nẻo hành của các ngoại đạo, nhưng tâm sâu xa không xả bỏ nẻo Phật. Thông tỏ tất cả sự việc nơi thế gian, nhưng tâm luôn ở nơi đạo pháp xuất thế gian. Tất cả mọi điều trang nghiêm, hơn hẳn các chúng chư Thiên, Long, Dạ xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca- lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân, bốn Thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm Thiên vương, mà không xả bỏ sự nhớ nghó về pháp an lạc”. Luận: Phát khởi hành thù thắng, có tám loại hành cùng thâu nhiếp của đối trị: Hành công đức phát khởi tùy thuận nẻo thế gian. Như kinh nói: “Bồ-tát thông đạt về trí lực của tam-muội như vậy…”. Hành đứng đầu thâu nhiếp các thứ khác. Như kinh nói: “Tuy quyến thuộc vây quanh…”. Hành nguyện chọn lấy cõi. Như kinh nói: “Dùng nguyện lực thọ sinh nơi ba cõi…”. Hành không đoạn bỏ gia đình; xa lìa tham dục và các tùy phiền não-kiết sử, nhưng thị hiện các sự việc hành tham dục. Như kinh nói: “Tâm thường vắng lặng, nhờ diệu lực của phương tiện…”. Hành hội nhập. Như kinh nói: “Tùy thuận trí Phật…”. Hành nơi đời sống; ăn uống, ngủ nghỉ, nằm mộng… như cảnh giới của ma. Như kinh nói: “Thông tỏ cảnh giới ẩn giấu của chư Phật…”. Hành thoái chuyển; thị hiện già-bệnh-chết là ba cảnh giới của ma. Như kinh nói: “Vượt qua bốn cõi ma, hiện hành cảnh giới ma”. Hành xoay chuyển. Có ba loại xoay chuyển: Xoay chuyển tham chấp. Như kinh nói: “Hiện bày nẻo hành của các ngoại đạo, nhưng tâm sâu xa…”. Xoay chuyển chướng ngại. Như kinh nói: “Thông tỏ tất cả sự việc nơi thế gian…”. Xoay chuyển tâm tham; đối với các chúng Trời, Rồng… tâm tôn trọng, thâu nhiếp để xoay chuyển tâm tham của họ. Như kinh nói: “Tất cả mọi điều trang nghiêm…”. Kinh: “Bồ-tát thành tựu trí tuệ như vậy, an trú nơi địa Viễn hành của bậc Bồ-tát này rồi, được thấy nhiều chư Phật. Do diệu lực của đại thần thông, của đại nguyện, cho nên thấy nhiều trăm Phật… cho đến nhiều trăm ngàn na-do-tha Phật, thấy nhiều ức Phật cho đến nhiều trăm ngàn ức na-do-tha Phật. Do diệu lực của đại thần thông, của đại nguyện, cho nên Bồ-tát ấy khi gặp chư Phật đều đem tâm sâu xa, tâm hướng thượng, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men… Dùng các căn thiện này đều nguyện hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Nơi trú xứ của chư Phật, sinh tâm cung kính tột bậc, hết lòng nghe pháp, lãnh hội rồi thọ trì, thọ trì xong đạt được Tam-muội như thật, trí tuệ tỏa sáng, tùy thuận tu tập, hành hóa, nhớ giữ, hộ trí chính pháp của chư Phật, hết thảy trí tuệ của hàng Nhị thừa nêu bày vấn nạn đều không thể gây trở ngại. Bồ-tát ấy lại có thể làm lợi ích cho chúng sinh, cho nên pháp Nhẫn càng trở nên thanh tịnh. Bồ-tát này, trú trong địa Viễn hành của bậc Bồ-tát ấy, trải qua vô lượng kiếp, các thứ căn thiện kia, càng trở cho nên sáng, sạch, thù thắng, thành tựu thuận hợp, lại chuyển sang thành tựu tột cùng. Trải qua vô lượng trăm kiếp, vô lượng ngàn kiếp… cho đến vô lượng trăm ngàn na-do-tha kiếp, vô lượng ức kiếp… cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, các thứ căn thiện kia càng trở nên, sáng sạch thù thắng, thành tựu thuận hợp, lại chuyển sang thành tựu trọn vẹn. Này Phật tử! Ví như vàng ròng từ ban đầu dùng tất cả các thứ vật báu để trang nghiêm đầy đủ, thì ánh sáng, màu sắc càng trở cho nên sáng đẹp thù thắng, các vật dụng trang sức khác đều không thể sánh kịp. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát trú trong địa Viễn hành là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát ấy, thì các căn thiện kia, theo trí phương tiện, lại càng trở cho nên sáng, sạch, thù thắng, hết thảy hàng Nhị thừa đều không thể làm trở ngại. Này Phật tử! Ví như ánh sáng của mặt trời, thì tất cả ánh sáng của tinh tú, mặt trăng đều không thể hủy hoại, mọi vũng nước bùn lầy vốn có trong cõi Diêm-phù-đề, do ánh sáng của mặt trời cho nên đều có thể khô cạn. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát trú trong địa Viễn hành này, các căn thiện kia thì tất cả hàng Nhị thừa đều không thể hủy hoại mà lại có thể làm khô cạn mọi vũng bùn đọng của phiền não nơi tất cả chúng sinh. Bồ-tát ấy, trong mười pháp Ba-la-mật thì Phương tiện Ba-la-mật là tăng thượng, các pháp Ba-la-mật khác không phải là không tu tập, nhưng màø tùy lực-tùy phần. Này các Phật tử! Đó gọi là lược nói về địa Viễn hành, là Địa thứ bảy của bậc Bồ-tát. Nếu Bồ-tát trú trong địa này thì nhiều lần làm Thiên vương cõi Trời Tha- hóa-tự-tại, mọi nẻo tạo tác đều tự tại, khéo khiến cho chúng sinh phát sinh chính trí, cũng khiến cho mọi chúng sinh vượt qua biển phiền não, mọi nghiệp thiện đã tạo như bố thí-ái ngữ-đồng sự-lợi hành, các thứ phước đức ấy, đều không lìa niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Bồ-tát và niệm hành của Bồ-tát… cho đến không lìa niệm trí Nhất thiết chủng, trí Nhất thiết trí, luôn khởi tâm này: Mình phải ở trong tất cả chúng sinh, là người đứng đầu, là thù thắng, là lớn, là diệu, là vi diệu, là trên, là vô thượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, là bậc thầy, là bậc tôn quý, cho đến là chỗ nương dựa của trí Nhất thiết trí. Lại từ suy nghó ấy mà phát khởi hành tinh tấn. Do diệu lực của tinh tấn, cho nên trong một niệm đạt được trăm ngàn ức na-do-tha Tam-muội, thấy trăm ngàn ức na-do-tha Phật, nhận biết trăm ngàn ức na-do-tha thần lực của Phật, có thể làm chuyển động trăm ngàn ức na-do-tha thế giới Phật, có thể đi vào trăm ngàn ức na-do-tha thế giới Phật, có thể soi chiếu trăm ngàn ức na-do-tha thế giới Phật, có thể giáo hóa chúng sinh nơi trăm ngàn ức na-do-tha thế giới Phật, có thể trú thọ qua trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, có thể nhận biết sự việc trong trăm ngàn ức na-do-tha kiếp của đời quá khứ, vị lai, có thể khéo hội nhập trăm ngàn ức na-do-tha pháp môn, có thể biến hóa thân làm trăm ngàn ức na-do-tha thân, nơi mỗi mỗi thân có thể thị hiện trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại, thắng thượng thì diệu lực của Bồ-tát còn vượt hơn số lượng ấy, thị hiện vô số các loại thần thông, hoặc nơi thân, hoặc nơi ánh sáng, hoặc nơi mắt, hoặc nơi cảnh giới, hoặc nơi âm thanh… Các thứ thần thông đó, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết hết”. Luận: Hộ trì chính pháp của chư Phật là ở trong Tam thiên đại thiên thế giới cần phải làm bậc Đại sư, tu tập hành phương tiện đầy đủ, lấy việc hộ trì pháp làm đầu, làm lợi ích cho chúng sinh, cho nên pháp nhẫn càng hiển hiện. Về giải thích tên gọi của địa này, cho nên biết. Như kinh nói: “Bồ- tát ấy, lại có thể làm lợi ích cho chúng sinh, cho nên pháp Nhẫn càng trở cho nên thanh tịnh”. Tu hành công đức đạt đến tận cùng cho nên gọi là địa Viễn hành, hết thảy các thứ báu đều đầy đủ, trang nghiêm. Về vàng ròng là chỉ rõ về tất cả pháp phần Bồ-đề với hành phương tiện, công dụng đầy đủ, cho nên trong địa này, các căn thiện đều trở cho nên sáng sạch thù thắng tuyệt vời. Như kinh nói: “Ví như vàng ròng từ ban đầu…cho đến: “Hết thảy hàng Nhị thừa đều không thể hủy hoại”. Dụ về ánh sáng mặt trời; như trong địa trước đã nói, nhưng địa này hơn hẳn. Như kinh nói: “Này Phật tử! Ví như ánh sáng mặt trời…” cho đến: “Lại có thể làm khô cạn mọi vũng bùn đọng của phiền não nơi hết thảy chúng sinh”. Những phần còn lại như trước đã giải thích.  <卷>QUYỂN 10 Địa 8: ĐỊA BẤT ĐỘNG Luận: Trong Địa thứ tám có bảy loại tướng sai biệt: Phân nêu rõ chung về phương tiện tác tập địa. Phần đạt được Nhẫn thanh tịnh. Phần đạt được hành thù thắng. Phần làm thanh tịnh cõi Phật. Phần đạt được tự tại. Phần đạt được thù thắng lớn. Phần giải thích tên gọi. Thế nào là Phần nêu rõ chung về phương tiện tác tập địa? Kinh: “Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này các Phật tử! Nếu Bồ-tát ở trong bảy địa, khéo tích tập tuệ phương tiện, khéo làm thanh tịnh các hành, khéo tập hợp pháp trợ đạo, khéo phát khởi đại nguyện lực, khéo làm tăng sự gia hộ của diệu lực Như Lai, thì từ lực dụng của căn thiện đạt được diệu lực, thường nhớ nghó tùy thuận với mười tám pháp bất cộng của Phật, mười lực và bốn vô uý của Như Lai, khéo làm thanh tịnh tâm nhận biết sâu xa, thành tựu phước đức-trí lực, Đại Từ Bi bình đẳng không xả bỏ nẻo hành của tất cả chúng sinh, thông đạt vô lượng trí đạo”. Luận: Phần nêu rõ chung về phương tiện tác tập địa: Do chung cho bảy địa nên có Đồng tướng và Biệt tướng. Thế nào là Đồng tướng? Đồng tướng có ba loại: Chứng đắc cao nhất về hai loại Vô ngã. Đạo không trú thanh tịnh. Trí phương tiện của hành thâu nhiếp đầy đủ các pháp phần Trợ Bồ-đề. Như kinh nói: “Này các Phật tử! Nếu Bồ-tát ở trong bảy địa…”. Thế nào là Biệt tướng? Tức là khéo phát khởi đại nguyện lực, đồng với Địa thứ nhất và đồng với các địa. Như kinh nói: “Khéo phát khởi đại nguyện lực”. Trong Địa thứ hai: “Vì vậy mình nên bình đẳng thực hành mười thiện nghiệp đạo, tu tập nhất thiết chủng, khiến đạt được thanh tịnh, đầy đủ diệu lực của Như Lai nơi xứ kia”. Như kinh nói: “Khéo làm tăng thêm lực gia hộ của Như Lai”. Trong Địa thứ ba: “Nhàm chán, đạt được thiền định không thối chuyển, từ lực dụng của căn thiện mà có thể thông đạt”. Như kinh nói: “Từ lực dụng nơi căn thiện đạt được diệu lực”. Trong Địa thứ tư: “Pháp được thuyết giảng khiến mọi chướng ngại nơi trí giáo hóa và trí phân biệt đều được thanh tịnh, suy niệm hơn hẳn, thông đạt pháp Phật”. Như kinh nói: “Thường nhớ nghó, tùy thuận với mười tám pháp bất cộng, bốn vô úy, mười lực của Như Lai”. Trong Địa thứ năm: “Tâm thanh tịnh sâu xa bình đẳng, khéo làm thanh tịnh tâm sâu xa…”. Như kinh nói: “Khéo làm thanh tịnh tâm nhận biết sâu xa”. Trong Địa thứ sáu: “Đại Bi tự tại đứng đầu, tăng thượng về quán nhân duyên tích tập, thành tựu phước đức-trí lực”. Như kinh nói: “Thành tựu phước đức-trí lực”. Trong Địa thứ bảy: “Trí tuệ phương tiện, phát khởi đạo thù thắng, không xả bỏ nẻo hành của tất cả chúng sinh”. Như kinh nói: “Đại Từ Bi bình đẳng không xả bỏ nẻo hành của tất cả chúng sinh”. Dùng vô lượng cảnh giới chúng sinh mà hội nhập với vô lượng trí đạo. Như kinh nói: “Thông đạt vô lượng trí đạo”. Như vậy Địa thứ tám đã nêu rõ chung về phương tiện tập hợp địa. Đã nói xong phần thứ nhất. Thế nào là Phần đạt được Nhẫn thanh tịnh? (Phần thứ hai) Tức là đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Nên biết Bồ-tát ấy đạt thanh tịnh, tự nhiên hành không dụng công. Kinh: “Hội nhập với tất cả pháp xưa nay không có sinh, không có thành, không có tướng, không có xuất, không mất, vô tận, không hành, không phải là có tính Có, đầu-giữa-sau đều bình đẳng. Chân như không phân biệt, hội nhập với trí Nhất thiết trí. Bồ-tát ấy xa lìa hết thảy mọi tâm-ý-thức, nhớ tưởng phân biệt, không còn gì tham chấp, bình đẳng như hư không, hội nhập với tất cả pháp, tính như hư không. Đó gọi là đạt được pháp Nhẫn vô sinh”. Luận: Lại nữa, Nhẫn ấy, ở trong bốn loại Vô sinh, nên biết. Bốn loại Vô sinh là: Sự vô sinh. Tự tính vô sinh. Số lượng sai biệt vô sinh. Tác nghiệp sai biệt vô sinh. Sự vô sinh: là thật có bảy loại sự. Trong phần tịnh của pháp vốn có thật. Đối trị điều này, như kinh nói: “Hội nhập với tất cả pháp xưa nay không có sinh”. Mỗi lượt mới sinh là có thật. Đối trị điều này, như kinh nói: “Các pháp xưa nay là không có thành”. Tướng là thật. Đối trị điều này, như kinh nói: “Các pháp xưa nay là không có tướng”. Thời gian sau là thật. Đối trị điều này, như kinh nói: “Các pháp xưa nay là không có xuất”. Thời gian trước là thật; là chướng phiền não trong phần nhiễm. Đối trị điều này, như kinh nói: “Các pháp xưa nay không mất”. Cùng tận là thật, như các chúng sinh. Đối trị điều này, như kinh nói: “Các pháp xưa nay là vô tận”. Tạp nhiễm là thật, như trong phần tịnh. Đối trị điều này, như kinh nói: “Các pháp xưa nay là không hành”. Tự tính vô sinh: là pháp này vô ngã, pháp kia vô ngã, tự Thể là vô tính. Như kinh nói: “Chẳng phải là có tính Có”. Bồ-tát quán xét về sự, đây là pháp Nhẫn vô sinh cho nên không thể cho là quán không thật có, vì tướng của pháp và của ngã đều không có. Số lượng sai biệt vô sinh: tức là ở trong ba thời, pháp nhiễm tịnh không tăng giảm. Như kinh nói: “Đầu giữa sau đều bình đẳng”. Tạo nghiệp sai biệt vô sinh; tức là ở trong Chân như, trí Phật không phân biệt mà hoàn toàn thanh tịnh. Như kinh nói: “Chân như không phân biệt, hội nhập với trí Nhất thiết trí”. Như vậy là chỉ rõ về quán pháp Nhẫn vô sinh. Tiếp theo là chỉ rõ về hành xa lìa báo, tưởng về cảnh giới phân biệt, tưởng về tính thâu nhiếp phân biệt. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy xa lìa mọi sự nhớ tưởng, phân biệt của Tâm-ý-thức”. Tưởng là xa lìa tưởng về chướng ngại pháp chứ không phải là tưởng về pháp không có đối trị. Bồ-tát đối trị tưởng ở trong địa sau có ba loại sự thù thắng: Hành tự nhiên chứ không dụng công. Như kinh nói: “Không có gì tham chấp”. Hiện bày khắp nơi tướng của tất cả pháp. Như kinh nói: “Bình đẳng như hư không”. Hành tự nhiên mà hội nhập với Chân như bất động. Như kinh nói: “Hội nhập với tất cả pháp, tính như hư không”. Đó gọi là đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Như vậy đã nói về phần thứ hai của Địa thứ tám: Phần đạt được Nhẫn thanh tịnh. Tiếp đến là phần thứ ba: Đạt được hành thù thắng. Kinh: “Lại nữa, này Phật tử! Thành tựu pháp Nhẫn như vậy, Bồ- tát lập tức đạt đến địa Bất động, là Địa thứ tám của bậc Bồ-tát, được gọi là Bồ-tát hành trì sâu xa khó có thể nhận biết, không thể phân biệt, vì lìa tất cả tướng, lìa hết thảy tưởng và hết thảy tham chấp, vô lượng vô biên, tất cả hàng Nhị thừa đều không thể hủy hoại, tịch tónh và tất cả đều tịch tónh mà luôn hiện tiền. Này Phật tử! Ví như Tỳ-kheo chứng đắc đầy đủ thần thông, tâm được tự tại, thứ tự nhập định Diệt tận, tất cả mọi thứ nhớ tưởng, phân biệt của tâm động thảy đều dứt hết. Phật tử! Bồ-tát cũng như vậy, an trú nơi địa Bất động, là Địa thứ tám của bậc Bồ-tát, thì lìa hết thảy hành có dụng công cùng các thứ nhớ nghó, đạt được pháp không dụng công, lìa mọi tạo tác của thân-khẩu-ý, an trú nơi hành báo. Phật tử! Ví như có người, trong mộng thấy thân bị rơi xuống dòng sông lớn. Người ấy bấy giờ phát khởi sự dũng mãnh lớn, hiện bày đại phương tiện muốn ra khỏi sông sâu. Lúc phát khởi sự dũng mãnh, bỗng nhiên thức giấc, thức giấc rồi người ấy liền lìa mọi sự việc phương tiện dũng mãnh đã dựa vào. Này Phật tử! Bồ-tát cũng như vậy. Từ lúc mới phát tâm trở đi, thấy các chúng sinh rơi vào bốn sông lớn, phát khởi sức tinh tiến lớn, dốc sức tu hành đạo đến địa Bất động, liền lìa tất cả tưởng của hành có dụng công. Bồ-tát ấy, tất cả đều không hành hai tâm, các nẻo nhớ tưởng không còn hiện tiền nữa. Này Phật tử! Ví như sinh tại cõi Phạm thiên, thì tất cả phiền não của cõi Dục đều không hiện hành. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát trú nơi địa Bất động ấy, hết thảy tâm-ý-thức đều không hiện hành, hết thảy tâm Phật, tâm Bồ-đề, tâm Bồ-tát, tâm Niết-bàn đều không hành, huống hồ là hành tâm thế gian”. Luận: Ở đây, đạt được hành thù thắng; tức là đạt được hành sâu xa. Hành sâu xa có bảy loại: Sâu xa do khó hội nhập. Như kinh nói: “Lại nữa, này Phật tử! Thành tựu pháp Nhẫn như vậy… cho đến: khó có thể nhận biết”. Sâu xa do đồng hành: tức là với các địa thanh tịnh, Bồ-tát đồng hành. Như kinh nói: “Không thể phân biệt”. Sâu xa của cảnh giới: là điều được chọn lấy và có thể chọn lấy đều không hiện tiền. Như kinh nói: “Lìa tất cả tướng…”. Ngăn chận tất cả tưởng về chướng, cho nên gọi là lìa mọi tham chấp. Sâu xa của sự tu hành: là hành tự lợi-lợi tha. Như kinh nói: “Vô lượng vô biên”. Sâu xa do không thối chuyển. Như kinh nói: “Tất cả hàng Nhị thừa đều không thể hủy hoại”. Sâu xa do lìa chướng ngại. Như kinh nói: “Tịch tónh”. Sâu xa do đối trị, hiện tiền. Như kinh nói: “Tất cả đều tịch tónh mà luôn hiện tiền”. Chân như cho nên hết thảy tịch tónh. Dụ về định Diệt tận: là chỉ rõ về hành tịch diệt kia. Như kinh nói: “Này Phật tử! Ví như Tỳ-kheo… cho đến: “Lìa mọi tạo tác của thân- khẩu-ý, an trú nơi hành báo thành tựu”. Hết thảy mọi thứ nhớ tưởng phân biệt của tâm động thảy đều dứt sạch; tức là không còn nơi chốn nương dựa. Lìa tất cả hành có dụng công; là vượt quá cảnh giới của hành dụng công. Đạt pháp không dụng công: tức là đạt pháp đối trị của hành kia. Do đạt được pháp không dụng công, cho nên hành trì tự nhiên. An trú nơi hành báo là chỉ rõ chỗ đạt được pháp trái với hành có dụng công. Lại an trú nơi hành báo thành tựu: tức là khéo trú vào thức A-lê-da trong pháp Chân như. Dụ về nằm mộng thức giấc: là chỉ rõ trong hành này có sự ngăn chận tưởng lỗi lầm, vì có tưởng chính trí, vì hành ấy là tịch diệt. Như kinh nói: “Này Phật tử! Ví như có người trong mộng…”. Ở đây, dựa vào Niết-bàn, thế gian thanh tịnh cho nên hai tâm không hiện hành. Dựa vào cảnh giới thọ dụng cho nên niệm tưởng không hiện hành. Dụ về sinh nơi cõi Phạm thiên: là đối với địa dưới, tâm hoàn toàn không hiện hành để đạt được phần báo nơi địa. Ở đây là nói về chỗ thù thắng do xa lìa. Như kinh nói: “Phật tử! Ví như sinh nơi cõi trời Phạm thiên… ” cho đến: “Huống là hành tâm thế gian”. Ở đây, hai phần hành thuận-hành không thuận là tâm cùng với Phật đều không hiện hành, vì Đại thừa và Tiểu thừa có sai biệt. Trong Đại thừa-Tiểu thừa, chúng sinh và pháp có sai biệt, hữu học và vô học có sai biệt, Phật cùng Niết-bàn có sai biệt. Mọi sự nêu bày như vậy, nên biết. Trong ấy, hành thuận: là trong phần hành thuận, tâm đều không hiện hành. Như kinh nói: “Hết thảy tâm ý thức đều không hiện hành”. Hành không thuận: là trong phần hành không thuận, Phật cũng không hiện hành. Như kinh nói: “Tâm Phật, cho đến tâm Niết-bàn, đều không hiện hành”. Đại thừa và Tiểu thừa có sai biệt. Sai biệt trong Đại thừa: là sai biệt về Phật, Bồ-tát, Niết-bàn. Sai biệt trong Tiểu thừa; là sai biệt về A-la-hán, Niết-bàn, Thanh văn. Trong Đại thừa-Tiểu thừa, chúng sinh và pháp có sai biệt: là sai biệt về Phật và Bồ-tát. Pháp sai biệt; là sai biệt về Bồ-đề và Niết- bàn. Trong Tiểu thừa, hữu học-vô học và chúng sinh có sai biệt. Pháp sai biệt: là sai biệt về Niết-bàn. Vô học sai biệt, là sai biệt về A-la-hán. Hữu học sai biệt; là sai biệt về A-na-hàm … Các hành như vậy thảy đều không hành. Kinh: “Này Phật tử! Bồ-tát này, đạt được địa Bất động ấy rồi, an trú trong diệu lực của bản nguyện. Bấy giờ, chư Phật, trong dòng chảy của nẻo pháp, đã ban cho trí tuệ của Như Lai, lại nói; lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ông đã đạt được pháp Nhẫn rốt ráo ấy, thuận với pháp của tất cả chư Phật. Này thiện nam! Chúng ta đã thành tựu mười tám pháp Bất cộng của Phật, bốn Vô sở úy, mười Lực hiện có. Ông nay chưa đạt được, thì nên làm cho thành tựu pháp của chư Phật, siêng năng, tinh tiến cầu đạt, cũng chớ xả bỏ môn Nhẫn này”. Luận: Ở đây, ban cho lực trí tuệ của Như Lai: là chuyển biến trong hành sâu xa kia ưa thích tâm đầy đủ, tán thán chỗ đạt pháp tối thượng, không thủ đắc đối với sự tu hành-dẫn dạy-trao truyền. Nếu không xả bỏ pháp Nhẫn này mà hành không thủ đắc, thì mới thành tựu tất cả pháp Phật, vì dựa vào pháp Nhẫn ấy mới có năng lực để có thể tạo tác. Như kinh nói: “Này Phật tử! Bồ-tát ấy đạt được địa Bất động này rồi, an trú nơi diệu lực của bản nguyện…” cho đến: “Cũng chớ xả bỏ môn Nhẫn ấy”. Kinh: “Lại nữa, này thiện nam! Ông tuy đạt được pháp Giải thoát vắng lặng ấy, nhưng các chúng sinh phàm phu ở đây là không thiện, không vắng lặng, luôn ở trong vô số các thứ phiền não được tích tập, bị đủ các loại giác quán của dị niệm làm hại. Ông phải thương xót, nhớ nghó đến các chúng sinh như vậy”. Luận: Dựa vào các chúng sinh như vậy, họ không có được lợi ích lớn, do hiện khởi phiền não-kiết sử trong hai phần tại gia-xuất gia, tham chấp sâu vào phiền não. Các chúng sinh ấy cần được xoay chuyển. Như kinh nói: “Này thiện nam! Ông tuy đạt được…”. Không thiện: là hiện khởi phiền não cấu nhiễm. Không vắng lặng: là không xa lìa các thứ kiết sử kia. Luôn ở trong vô số các thứ phiền não được tích tập: là ở trong phần tại gia. Bị đủ các loại giác quán của dị niệm làm hại; là ở trong phần xuất gia. Kinh: “Lại nữa, này thiện nam! Ông nên nhớ nghó về sở nguyện từ xưa là mong làm lợi ích lớn cho chúng sinh, là mong đạt được môn trí tuệ không thể nghó bàn”. Luận: Dựa vào bản nguyện là mong giáo hóa chúng sinh, trí hành hóa rộng khắp, cho nên có thể xoay chuyển. Như kinh nói: “Lại nữa, này thiện nam! Ông nên nhớ nghó…”. Kinh: “Lại nữa, này thiện nam! Pháp tính trong tất cả pháp ấy, dù có Phật hay không Phật thì pháp giới vẫn thường trú. Chư Như Lai do không thủ đắc pháp ấy, cho nên gọi là Phật. Hàng Nhị thừa cũng đạt được pháp không phân biệt này”. Luận: Dựa vào nghĩa bất cộng. Cần xoay chuyển chỗ cấu nhiễm do công hạnh đã mệt mỏi nơi hàng Nhị thừa. Như kinh nói: “Lại nữa, này thiện nam! Pháp tính trong tất cả pháp ấy…” Kinh: “Lại nữa, này thiện nam! Ông quán xét nơi chúng ta có vô lượng thân thanh tịnh, vô lượng trí tuệ, vô lượng cõi nước Phật, vô lượng hào quang, vô lượng trí khởi, vô lượng âm thanh thanh tịnh. Ông nay nên phát khởi các sự việc như vậy”. Luận: Vô lượng thân thanh tịnh … là chỉ rõ sự thành tựu diệu lực hiện có nơi pháp Phật, dựa vào việc làm lợi ích cho chúng sinh. Công việc làm lợi ích cho chúng sinh này, là thân nên dùng sự việc gì? Như kinh nói: “Lại nữa, này thiện nam! Ông quán xét nơi chúng ta có vô lượng thân thanh tịnh”. Dùng những trí gì? Là trí của thế gian Đế, trí của đệ nhất Đế nghĩa. Như kinh nói: “Vô lượng trí tuệ”. Do những cõi nước thanh tịnh nào? Như kinh nói: “Vô lượng cõi nước Phật”. Dùng những gì để nhiếp phục? Như kinh nói: “Vô lượng hào quang”. Tùy những chúng sinh nên độ mà trí tuệ hành hóa. Như kinh nói: “Vô lượng trí phát khởi”. Tùy theo ngôn thuyết thuận hợp. Như kinh nói: “Vô lượng âm thanh thanh tịnh”. Tất cả là chỉ rõ: “Ông nay nên phát khởi các sự việc như vậy”. Kinh: “Lại nữa, này thiện nam! Ông nay vừa đạt được một pháp Minh ấy, đó là pháp Minh của tất cả các pháp vắng lặng, không phân biệt. Như vậy, này thiện nam! Pháp Minh của Như Lai, với vô lượng hội nhập, vô lượng tạo tác, vô lượng chuyển biến. Ông vì đã đạt được pháp Minh kia, cho nên hãy phát khởi pháp này”. Luận: Lại chỉ rõ về vô lượng hành thù thắng của chư Phật. Như kinh nói: “Lại nữa, này thiện nam! Ông nay vừa đạt được một pháp Minh ấy…”. Vô lượng hội nhập: là các pháp môn sai biệt. Vô lượng tạo tác: là làm sự việc sai biệt. Vô lượng chuyển biến: là sự sai biệt đối với hành không gián đoạn cao nhất. Kinh: “Lại nữa, này thiện nam! Ông quán xét về vô lượng cõi nước, vô lượng chúng sinh, vô lượng pháp sai biệt trong mười phương. Ông nên thông đạt tận cùng các sự việc như vậy. Này Phật tử! Như vậy thì chư Phật đã ban cho Bồ-tát ấy vô lượng vô biên môn trí tuệ hiện khởi như vậy. Nhờ vô lượng môn trí tuệ đó, cho nên Bồ-tát này có thể phát khởi vô lượng nghiệp sai biệt, thảy đều thành tựu”. Luận: Hiện tại, sự tạo tác của Bồ-tát còn ít. Theo chỗ nhận thấy về sự sai biệt giữa vô lượng thế giới, chúng sinh và các pháp, chỉ cần quán một phần ít thì có thể thành tựu sự xoay chuyển. Như kinh nói: “Lại nữa, này thiện nam…”. Kinh: “Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt: Này Phật tử! Nếu chư Phật không ban cho Bồ-tát này môn trí hiện khởi như vậy, thì bấy giờ, Bồ-tát ấy, liền nhập Niết-bàn, từ bỏ việc làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Do chư Phật đã ban cho Bồ-tát vô lượng vô biên môn trí hiện khởi, cho nên ở trong một niệm đã dấy khởi nghiệp trí, so với Bồ-tát từ lúc mới phát tâm trở đi, cho đến hết Địa thứ bảy, thì toàn bộ nghiệp trí có được ấy, trăm phần không bằng một, ngàn phần- trăm ngàn phần-trăm ngàn na-do-tha phần, ức phần-trăm ức phần, ngàn ức phần-trăm ngàn ức phần-trăm ngàn ức na-do-tha phần, không bằng một phần. Cho đến vô lượng vô biên A-tăng-kỳ phần, cũng không bằng một, thậm chí không thể dùng toán số-thí dụ để đạt được. Vì sao? Này Phật tử! Vì trước kia chỉ một thân phát khởi hành khởi. Nay trong Địa thứ tám của bậc Bồ-tát này, đã đạt được vô lượng thân sai biệt của bậc Bồ-tát, tập hợp vô lượng hành lực, vô lượng âm thanh hiện khởi, vô lượng trí tuệ hiện khởi, vô lượng đời hiện khởi, vô lượng cõi nước thanh tịnh, giáo hóa vô lượng chúng sinh, cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, tùy thuận nhận biết vô lượng pháp, đạt được vô lượng thần thông lực hiện khởi, vô lượng chúng hội sai biệt, vô lượng nghiệp thân-khẩu-ý tích tập hành lực của tất cả Bồ-tát, nhờ pháp bất động. Này Phật tử! Ví như đi thuyền muốn vào biển cả, thời gian chưa đến nơi thì dùng nhiều công sức. Nếu đã tới biển cả thì không còn dùng sức nữa, chỉ nhờ vào sức gió đưa thuyền đi. Như vậy, một ngày đi được nơi biển lớn vào lúc này, so với công sức chèo chống trước đây, thì cho đến trăm năm cũng không thể bằng. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát khéo tập hợp các căn thiện làm hành trang, đi trên thuyền Đại thừa, đến chốn hành hóa của Bồ-tát là biển lớn trí tuệ, trong khoảng một niệm mà trí không dụng công có thể hội nhập cảnh giới của trí Nhất thiết trí, thì đối với hành công đức vốn có, hoặc một kiếp, hoặc trăm ngàn vạn kiếp cũng không thể bằng được”. Luận: Ở đây, liền nhập Niết-bàn: tức là chỉ rõ việc ban cho trí tuệ. Như kinh nói: “Chư Phật đã ban cho Bồ-tát ấy vô lượng vô biên môn trí hiện khởi…” cho đến: “Do pháp bất động”. Do chư Phật đã ban cho Bồ-tát ấy vô lượng vô biên môn trí hiện khởi: tức là trong sự hành hóa của Bồ-tát đã thâu nhiếp nhân của công đức thù thắng, cùng thực hành giáo hóa nêu giảng trao truyền. Cho đến toán số… thứ tự đã giải thích, nên biết. Số phần: tức là là tính toán, như một cộng một bằng hai… Các thí dụ như vậy cũng không bằng một, tức là sự việc ấy không thể dùng dụ để so sánh. Vô lượng thân sai biệt; là tất cả thân của Bồ-tát, tin hiểu như tự thân. Vô lượng âm thanh hiện khởi như vậy… cũng là vô lượng, nên biết. Mười câu này, dựa vào sự giáo hóa chúng sinh, dựa vào sự tập hợp hành trợ đạo, dựa vào chướng ngại đã được thanh tịnh, nên biết. Tùy nơi thân trú, tùy chỗ nêu giảng, tùy việc dựa vào trí, tùy chỗ chọn lấy đời sống, tùy theo cõi nước nào có thể giáo hóa chúng sinh, tùy sự tập hợp công đức trợ đạo, tập hợp trí tuệ trợ đạo, cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, tùy thuận nhận biết vô lượng pháp, tùy theo chướng ngại của thần thông, chướng ngại của chính giác đã được thanh tịnh. Tất cả nơi chốn này, tùy thuận với vô lượng nghiệp thân-khẩu-ý, nên biết. Nhờ pháp bất động: tức là sự tích tập không gián đoạn. Ví như đi thuyền… cho đến: Trăm ngàn vạn kiếp không thể bằng được: “Thuyền là dụ cho sự đi lại mau chóng của Bồ-tát, chỉ rõ sự nhận biết về nhân thù thắng. Khéo tập hợp căn thiện làm hành trang: là ở trong bảy địa tu tập hạnh Bồ-tát. Đi trên thuyền Đại thừa, đến chốn hành hóa của Bồ-tát là biển lớn trí tuệ: là biển trí tuệ của tám địa, nên biết. Như vậy đã nói về phần thứ tư; làm thanh tịnh cõi Phật. Việc làm thanh tịnh cõi Phật này có ba loại hành tự tại: Hành tự tại của khí thế gian. Hành tự tại của thế gian chúng sinh. Hành tự tại của trí chính giác. Thế nào là Hành tự tại của khí thế gian? Kinh: “Này Phật tử! Bồ-tát ấy, đạt được Địa thứ tám của bậc Bồ- tát, từ tuệ phương tiện lớn, khởi tâm không dụng công, ở nơi đạo Bồ- tát, quán xét diệu lực của trí Nhất thiết trí. Đó là quán thế gian thành, quán thế gian hoại. Bồ-tát này, tùy theo thế gian thành, đều nhận biết đúng như thật, tùy theo thế gian hoại, đều nhận biết đúng như thật. Tùy theo nhân duyên của nghiệp tích tập, mà thế gian thành, Bồ-tát cũng nhận biết. Tùy theo nhân duyên của nghiệp đã hết, mà thế gian hoại, Bồ-tát cũng nhận biết. Tùy theo gian của thế gian thành, Bồ-tát cũng nhận biết. Tùy theo thời gian của thế gian hoại, Bồ-tát cũng nhận biết. Tùy theo gian của thế gian thành trú, Bồ-tát cũng nhận biết. Tùy theo gian của thế gian hoại trú, Bồ-tát cũng nhận biết. Bồ-tát ấy nhận biết về tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai biệt của Địa giới. Bồ-tát ấy nhận biết về tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai biệt của Thủy giới-Hỏa giới-Phong giới. Bồ-tát ấy nhận biết về tướng vi tế, tướng thô, tướng vô lượng, tướng sai biệt của vi trần. Tùy trong thế giới nào mọi vi trần hợp, tan hiện có, vi trần sai biệt, thảy đều có thể nhận biết. Tùy trong thế giới nào, bao nhiêu vi trần hiện có nơi Địa giới, Thủy giới-Hỏa giới-Phong giới, thảy đều có thể nhận biết. Bao nhiêu vi trần hiện có nơi thân chúng sinh, nơi thân cõi nước, thảy đều có thể nhận biết. Bồ-tát ấy nhận biết về sự sai biệt nơi thân thô thân vi tế của các chúng sinh, với từng ấy vi trần để thành tựu. Nhận biết về thân địa ngục, thân súc sinh, thân ngạ quỷ, dựa vào từng ấy vi trần để thành tựu. Nhận biết về thân A-tu-la, thân trời, thân người, dựa vào từng ấy vi trần để thành tựu. Bồ-tát ấy dùng trí để thông đạt, hội nhập phân biệt về vi trần như vậy rồi, nhận biết về sự thành-hoại của ba cõi Dục- Sắc-Vô sắc. Nhận biết về tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai biệt của ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc, hội nhập trong trí lượng xét về ba cõi như vậy. Bồ-tát ấy lại khéo dấy khởi trí sáng, khéo nhận biết về thân chúng sinh sai biệt, khéo nhận biết, phân biệt về thân chúng sinh, khéo quán xét về nơi chốn phải sinh. Bồ-tát ấy, tùy theo chốn sinh của chúng sinh, tùy theo nghiệp tập hợp nơi thân chúng sinh, vì họ mà thọ thân để giáo hóa và dẫn dắt. Bồ-tát này, hiện thân đủ khắp nơi ba ngàn đại thiên thế giới, thuận theo thân chúng sinh, mỗi mỗi đều sai biệt, như vậy tùy thuận nơi sinh, khỏi ánh sáng hiện tiền, hoặc trong hai- ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc ba-bốn-năm-hoặc mười-hai mươi-ba mươi-bốn mươi-năm mươi-hoặc một trăm ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc ngàn-hoặc vạn, hoặc trăm vạn, hoặc ngàn vạn, hoặc trăm ngàn vạn, hoặc ức vạn, hoặc trăm ngàn vạn ức na-do-tha, cho đến vô lượng vô biên không thể nói, không thể nói hết số ba ngàn đại thiên thế giới, hiện thân đủ khắp trong ấy, thuận theo tự thân của chúng sinh, với sự tin tưởng sai biệt, với chốn sinh như vậy, khởi trí ánh sáng hiện tiền mà tùy thuận. Bồ-tát ấy thành tựu trí tuệ như vậy, ở nơi một cõi Phật thân không dao động, cho đến ở nơi vô lượng cõi nước của chư Phật không thể nói hết, tại các chúng hội đều khởi ánh sáng hiện tiền”. Luận: Hành tự tại của khí thế gian, có năm loại tự tại: Tùy theo sự mong muốn của tâm, Bồ-tát có thể hiện-không hiện thân. Tùy theo sự mong muốn nào đó, Bồ-tát có thể hiện thân. Tùy theo lúc mong muốn, Bồ-tát tức thời hiện thân. Tùy theo sự mong muốn rộng-hẹp, Bồ-tát có thể hiện thân. Tùy theo tâm có bao nhiêu mong muốn, Bồ-tát có thể hiện thân. Như kinh nói: “Này Phật tử! Bồ-tát ấy, đạt được Địa thứ tám của bậc Bồ-tát, từ tuệ phương tiện lớn, khởi tâm không dụng công…” cho đến: “Tùy theo thế gian hoại, Bồ-tát đều nhận biết đúng như thật”. Sự thành-hoại… của thế gian này, đầu tiên trong hành tự tại của khí thế gian, tùy theo sự mong muốn của tâm, Bồ-tát có thể hiện thân hay không hiện thân. Tùy theo nhân duyên của nghiệp tích tập mà thế gian thành, Bồ-tát cũng nhận biết; tùy theo nhân duyên của nghiệp đã hết, mà thế gian hoại, Bồ-tát cũng nhận biết; đây là trí nghiệp tập tận. Thứ hai, tùy theo sự mong muốn nào đó, Bồ-tát có thể hiện thân. Tùy theo thời gian của thế gian thành, cho đến câu thứ tư: Tùy theo thời gian của thế gian hoại-trú, Bồ-tát cũng nhận biết; đây là trí tùy theo thời gian của thế gian thành …”. Thứ ba, tùy theo lúc mong muốn, Bồ-tát tức thời hiện thân. Bồ-tát ấy, nhận biết về tướng nhỏ của Địa giới, cho đến nhận biết về thân người, dựa vào từng ấy vi trần để thành tựu; là trí nhận biết tướng sai biệt của địa giới… Thứ tư, tùy theo sự mong muốn rộng hẹp, Bồ-tát có thể hiện thân. Bồ-tát ấy, hội nhập với trí phân biệt vi trần như vậy, cho đến ánh sáng hiện tiền, là trí thành hoại, cho đến ở nơi một cõi Phật, thân không dao động. Thứ năm, tùy theo tâm có bao nhiêu mong muốn, Bồ-tát có thể hiện thân. Trong đó, thứ tự của Địa giới… là trí cảnh giới và trí tướng. Thế nào là trí cảnh giới? Cảnh giới của Thức, chẳng phải là báo của định địa, gọi là tướng nhỏ. Cảnh giới của Thức nơi định địa, gọi là tướng lớn. Cảnh giới của Như Lai gọi là tướng vô lượng. Thế nào là trí tướng? Tự tướng và đồng tướng, gọi là tướng sai biệt. Thân thô-tế: là các chúng sinh nơi cõi Sắc, Vô sắc. Thứ tự như vậy với tướng cảnh giới và tướng trí của cõi Dục… Nơi cõi Dục cảnh giới của loài người gọi là tướng nhỏ, cảnh giới của chư Thiên gọi là tướng lớn. Nơi cõi Sắc; cảnh giới giác quán là tướng nhỏ, cảnh giới không giác, không quán là tướng lớn. Cõi Vô sắc, cảnh giới của phàm phu trong pháp Phật là tướng nhỏ, cảnh giới của hàng Thanh văn, Bồ-tát là tướng lớn, cảnh giới của tất cả Như Lai là tướng vô lượng. Khéo nhận biết về thân chúng sinh sai biệt. Khéo nhận biết và phân biệt về thân chúng sinh; tức là khéo nhận biết về phương tiện chẳng đồng nơi thân, về đồng sinh-dị sinh sai biệt nên biết. Cõi nước của chư Phật, nơi các chúng hội, dấy khởi ánh sáng hiện tiền; là chỉ rõ Thể của Pháp thân nơi xứ xứ kia. Đã nói về phần hành tự tại của khí thế gian, làm thanh tịnh cõi Phật như vậy. - Thế nào là Hành tự tại của thế gian chúng sinh? Kinh: “Bồ-tát ấy, tùy theo thân chúng sinh với sự tin tưởng sai biệt, tùy theo quyết định tin sai biệt, trong cõi nước của tất cả Đức Phật trong chúng hội của các Đức Phật, như vậy và như vậy và tự thân thị hiện. Bồ-tát ấy, hoặc ở trong chúng Sa-môn thị hiện hình tướng Sa-môn, trong chúng Bà-la-môn, chúng Sát-đế-lợi, chúng Tỳ-xá, chúng Thủ-đà, chúng Cư só, chúng Trưởng giả, thị hiện hình tướng Bà-la-môn, Sát-đế- lợi, Tỳ-xá, Thủ-đà, Cư só, Trưởng giả. Trong chúng Tứ Thiên vương, chúng Đế thích, thị hiện hình tướng Tứ Thiên vương, Đế thích. Như vậy, trong chúng Diệm-ma, chúng Đâu-suất, chúng Hóa-lạc, chúng Tha-hóa-tự-tại, chúng Ma, chúng Phạm thiên, thị hiện hình sắc Phạm thiên, cho đến trong chúng nơi cõi trời A-ca-nị-trá thị hiện hình sắc trời A-ca-nị-trá. Bồ-tát ấy, đối với chúng sinh nên dùng thân Thanh văn để hóa độ thì thị hiện hình sắc Thanh vănn nên dùng thân Bích-chi-Phật để hóa độ thì thị hiện hình sắc Bích-chi-Phật, nên dùng thân Bồ-tát để hóa độ, thì thị hiện hình sắc Bồ-tát, nên dùng thân Phật để hóa độ thì thị hiện hình sắc thân Phật. Này Phật tử! Như vậy, trong cõi nước của chư Phật hiện có nhiều không thể nói hết, tùy theo sự tin ưa sai biệt của thân chúng sinh, trong cõi nước của các Đức Phật tự thân Bồ-tát thị hiện mọi sự sai biệt như vậy”. Luận: Hành tự tại của thế gian chúng sinh; là Bồ-tát tự tại điều phục, chỉ rõ Bồ-tát hành hóa nơi thân chúng sinh, tâm tự đồng sự với phần thân tâm của chính mình. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, tùy theo thân chúng sinh với sự tin tưởng sai biệt… cho đến trong cõi nước của tất cả Đức Phật …”. Đã nói về phần: Hành tự tại của thế gian chúng sinh. Thế nào là Hành tự tại của trí chính giác? Là trí của thế gian Đế, trí của đệ nhất nghĩa Đế. Kinh: “Bồ-tát ấy, xa lìa tất cả sự phân biệt về thân tướng, đạt thân bình đẳng. Bồ-tát ấy, nhận biết về thân chúng sinh, thân cõi nước, thân nghiệp báo, nhận biết về thân Thanh văn, thân Bích-chi-Phật, thân Bồ-tát, thân Như Lai, nhận biết về thân trí, thân pháp, thân hư không. Bồ-tát ấy, nhận biết về tâm sâu xa của chúng sinh hiện khởi ưa thích như vậy, hoặc dùng thân chúng sinh làm tự thân. Như vậy, cũng lấy thân cõi nước… cho đến thân hư không mà làm tự thân. Bồ-tát ấy, nhận biết về tâm sâu xa của chúng sinh hiện khởi ưa thích như vậy, hoặc dùng tự thân làm thân chúng sinh, như vậy cũng dùng thân cõi nước… cho đến thân hư không mà làm thân chúng sinh. Bồ-tát ấy, nhận biết về tâm sâu xa của chúng sinh hiện khởi ưa thích như vậy, thì trong những thân nào, nơi những thân nào có thể tạo tác tự tại? Bồ-tát ấy, nhận biết về thân chúng sinh, thân tập nghiệp, thân báo, thân phiền não, thân sắc, thân vô sắc. Bồ-tát ấy, nhận biết về thân cõi nước với tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng cấu, tướng tịnh, tướng rộng, tướng loạn trú, tướng đảo trú, tướng bình đẳng. Nhận biết về tướng mạng lưới nơi chốn sai biệt. Nhận biết về sự giả danh sai biệt của thân nghiệp báo, thân Thanh văn, thân Bích-chi-Phật, thân Phật, thân Bồ-tát. Bồ-tát ấy nhận biết về thân Như Lai, thân Bồ-đề, thân nguyện, thân hóa, thân thọ thần lực, thân tướng hảo trang nghiêm, thân quang minh, thân ý sinh, thân công đức, thân pháp, thân trí. Bồ-tát ấy khéo nhận biết về thân trí với tướng khéo lượng xét, tướng khéo quán như thật, tướng quả hành thâu nhiếp, tướng thế gian-xuất thế gian sai biệt, tướng ba Thừa sai biệt, tướng cộng-bất cộng, tướng Thừa-chẳng-thừa, tướng hữu học-vô học. Bồ-tát ấy nhận biết về tướng pháp thân bình đẳng, nhận biết về tướng chẳng hoại, nhận biết về tướng chuyển thời giả danh sai biệt, tướng chúng sinh phi chúng sinh pháp sai biệt, nhận biết về tướng pháp Phật pháp Thánh tăng sai biệt. Bồ-tát này nhận biết về thân hư không với tướng vô lượng, tướng biến hiện khắp, tướng vô hình, tướng chẳng khác, tướng vô biên. Nhận biết về thân hiển sắc với tướng dị biệt”. Luận: Trí của đệ nhất nghĩa Đế: là xa lìa tất cả sự phân biệt về thân tướng, chỉ rõ chỗ đạt được thân bình đẳng, không phân biệt tự thân-tha thân. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy xa lìa tất cả… đạt được thân bình đẳng”. Đây là chỗ không đồng với hàng Nhị thừa. Trí đệ nhất nghĩa chỉ rõ về trí của thế gian Đế: tức là khéo nhận biết về thân chúng sinh với phần nhiễm, phần tịnh, phần không hai, đều khéo phân biệt nhận biết. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết về thân chúng sinh… cho đến: Nhận biết về thân hư không”. Trong đó, thế gian chúng sinh và khí thế gian, hai loại ấy là sinh nghiệp nhân, phiền não là phần nhiễm, ba Thừa là phần tịnh. Ba Thừa này tùy theo trí nào, tùy theo pháp nào. Phần tịnh kia hiển bày hư không là phần không hai. Bồ-tát ấy nhận biết tâm sâu xa của chúng sinh hiện khởi ưa thích như vậy, hoặc dùng thân chúng sinh làm tự thân, cho đến: dùng thân hư không mà làm tự thân… Bồ-tát ấy nhận biết về tâm sâu xa của chúng sinh… cho đến dùng thân hư không mà làm thân chúng sinh: Ở đây, dùng thân chúng sinh làm tự thân: là chỉ rõ mọi tạo tác, thâu nhiếp, hành hóa vô số của Bồ-tát trong sự tự tại. Thân chúng sinh: là nghiệp sinh phiền não, vọng tưởng cấu nhiễm sai biệt. Sự sai biệt của Sắc giới-Vô sắc giới đều nhận biết đúng như thật. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết về thân chúng sinh, thân tập nghiệp…”. biết. Thân cõi nước: là sự sai biệt của hàng ngàn… thế giới, nên biết. Sự sai biệt của thế giới tịnh, bất tịnh, đều khéo phân biệt-nhận Sự sai biệt của thế giới rộng… đều khéo phân biệt-nhận biết. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết về thân cõi nước… cho đến: Nhận biết về tướng mạng lưới nơi chốn sai biệt”. Các câu nói về tướng rộng… nghĩa như đã nói ở Địa thứ nhất. Sự sai biệt về giả danh nơi thân nghiệp báo, thân Thanh văn, thân Bích-chi-Phật, thân Bồ-tát: là tự tướng, đồng tướng giả danh sai biệt, phân biệt là không có ngã-nhân. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết về sự giả danh sai biệt của thân nghiệp báo… cho đến: Nhận biết về sự giả danh sai biệt của thân Bồ-tát”. Bồ-tát ấy nhận biết về thân Như Lai; là chỉ rõ về sự thành tựu chính giác là Bồ-đề. Là nguyện sinh nơi cõi trời Đâu-suất. Là mọi ứng hóa của Phật hiện có. Là trú trì, Xá-lợi của tự thân. Là thân thật báo hiện có. Là ánh sáng hiện có để nhiếp phục chúng sinh. Là tâm đồng chẳng đồng với thế gian-xuất thế gian hiện có, đạt được giải thoát tự tại. Là pháp bất cộng hiện có, có thể làm nhân của lợi ích rộng lớn. Là cảnh giới vô lậu của Như Lai hiện có. Là trí không chướng ngại hiện có. Vì thế, trí ấy có thể tạo tác tất cả sự việc, và mọi sự việc sai biệt kia thảy đều có thể nhận biết. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết về thân Như Lai, thân Bồ-đề… cho đến: Nhận biết về thân trí”. Bồ-tát ấy nhận biết về thân trí: tức là mọi thứ sai biệt nơi các trí văn tư, trí tu, trí hành quả, trí thế gian xuất thế gian, đều nhận biết đúng như thật. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy khéo nhận biết về thân trí… cho đến: Nhận biết về tướng hữu học vô học”. Bồ-tát ấy nhận biết về tướng pháp thân bình đẳng: là vô lượng pháp môn sáng tỏ cùng với một pháp thân. Như lãnh hội-chọn lấy, là tùy theo sự giáo hóa chúng sinh, căn tính tương ưng khi nêu giảng sai biệt. Tướng sai biệt về có căn, không căn, tướng đệ nhất sai biệt, Bồ-tát thảy đều có thể nhận biết. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết về tướng pháp thân bình đẳng… cho đến: Nhận biết về tướng sai biệt nơi pháp Phật pháp Thánh tăng”. Bồ-tát ấy nhận biết về thân hư không: là nhận biết về tướng vô tận, tướng hiện bày khắp, tướng không thể thấy, tướng không chướng ngại, tướng vô vi. Có thể thông tỏ sự thọ nhận sắc tướng, dựa vào sắc để phân biệt, Bồ-tát thảy đều có thể nhận biết. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết về thân hư không với tướng vô lượng… cho đến: Nhận biết về thân hiển sắc với tướng dị biệt”. Như vậy nói xong về ba hành tự tại nơi phần; làm thanh tịnh cõi Phật (Phần thứ tư) của Địa thứ tám. Tiếp theo là nói về phần Đạt mười tự tại (Phần thứ năm). Kinh: “Bồ-tát ấy khéo nhận biết việc hiện khởi các thân như vậy, thì đạt được Mạng tự tại, thân mạng trú trì trong số lượng kiếp không thể nói và không thể nói. Đạt được Tâm tự tại, vô lượng A-tăng-kỳ Tam-muội hội nhập với trí. Đạt được Vật tự tại, thị hiện sự trú trì nơi tất cả thế giới với vô lượng sự trang nghiêm đẹp đẽ. Đạt được Nghiệp tự tại, thị hiện sự trú trì của nghiệp báo như đời này và đời sau. Đạt được Sinh tự tại, thị hiện việc sinh trong tất cả thế giới. Đạt được Nguyện tự tại, tùy theo sự mong muốn của tâm, chỉ rõ khi thành tựu ba Bồ-đề nơi cõi Phật. Đạt được Tín giải tự tại, thị hiện Phật đầy khắp trong hết thảy thế giới. Đạt được Như ý tự tại, thị hiện việc tạo mọi biến hóa như ý trong cõi nước của tất cả chư Phật. Đạt được Pháp tự tại, thị hiện vô biên vô tận các pháp môn sáng tỏ. Đạt được Trí tự tại, thị hiện về lực, vô uý- pháp bất cộng-tướng hảo trang nghiêm và ba Bồ-đề của Như Lai”. Luận: Đạt được tự tại: tức là Bồ-tát ấy, tu hành như vậy, đối với khí thế gian, thế gian chúng sinh, thế gian của trí chính giác, ba loại ấy đều hành hóa tự tại, cho nên đạt được mười tự tại. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy khéo nhận biết việc hiện khởi các thân như vậy…”. Mười loại tự tại này đối trị mười loại sợ hãi, thứ tự như vậy nên biết. Những gì là mưới thứ sợ hãi: Sợ hãi về chết. Sợ hãi về phiền não cấu uế. Sợ hãi về bần cùng. Sợ hãi về nghiệp ác. Sợ hãi về cõi Ác. Sợ hãi về cầu không đạt. Sợ hãi về nghiệp tội hủy báng pháp. Sợ hãi về lúc theo đuổi cầu tìm bị trói buộc không thể sống. Sợ hãi về vì sao nghi ngờ. Sợ hãi về uy đức của đại chúng. Đã nói xong phần thứ năm: Đạt được mười tự tại. Tiếp theo là nói về phần thứ sáu: Đạt thù thắng lớn. Kinh: “Bồ-tát ấy, đạt được mười tự tại của bậc Bồ-tát này rồi, tức thì được gọi là bậc Trí không thể nghó bàn, là bậc Trí vô lượng, là bậc Trí rộng khắp, là bậc Trí không thể hủy hoại. Bồ-tát đạt được trọn vẹn như vậy, thành tựu trí như vậy, luôn tập khởi ba nghiệp thân-khẩu-ý thanh tịnh, trí tuệ làm đầu, trí tùy thuận chuyển biến, Bát nhã Ba-la-mật tăng thượng, Đại Bi làm đầu, dùng phương tiện thiện xảo cho nên có thể khéo phân biệt, tự khởi nguyện lực, khéo làm tăng thêm sự gia hộ của chư Phật, thường không xả bỏ hạnh làm lợi ích cho chúng sinh, nhận biết khắp mọi sự việc sai biệt trong vô biên thế giới. Này Phật tử! Lược nói về Bồ-tát chứng đạt địa Bất động của bậc Bồ-tát này, mọi tạo tác của ba nghiệp thân-khẩu-ý đều có thể tập khởi tất cả pháp Phật. Bồ-tát ấy đạt được địa Bất động của bậc Bồ-tát, khéo an trú trong diệu lực của tâm thanh tịnh, lìa bỏ tất cả phiền não tích tập. Khéo an trú trong diệu lực của tâm sâu xa, luôn không lìa bỏ đạo. Khéo an trú trong diệu lực của Đại Bi, không xả bỏ việc làm lợi ích cho chúng sinh. Khéo an trú trong diệu lực của đại từ, cứu độ tất cả thế gian. Khéo an trú trong lực dụng của Đà-la-ni, không hề quên pháp. Khéo an trú trong lực dụng của biện tài, trí tuệ khéo léo phân biệt về hết thảy pháp Phật. Khéo an trú trong lực dụng của thần thông, hành hóa khắp vô biên thế giới sai biệt. Khéo an trú trong nguyện lực, không rời tất cả nẻo hành trì của bậc Bồ-tát. Khéo an trú trong lực dụng của Ba-la-mật, tu tập hết thảy pháp Phật. Khéo an trú trong diệu lực gia hộ của Như Lai, trí Nhất thiết chủng, trí Nhất thiết trí luôn hiện tiền. Bồ-tát ấy, đạt được trí lực như vậy, chỉ rõ trong tất cả sự tạo tác hành hóa đều không có lỗi lầm”. Luận: Đạt được thù thắng lớn. Có ba loại lớn: Trí lớn. Nghiệp lớn. Hai loại kia an trú trong công đức lớn. Thế nào là trí lớn? Là trí không thể nghó bàn, không trú vào thế gian, chẳng trú vào Niết-bàn. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy đạt được mười tự tại của bậc Bồ-tát này rồi, tức thì được gọi là bậc Trí không thể nghó bàn”. Không thể nghó bàn ấy, có ba loại nên biết: Không thể nghó bàn do tu hành trọn vẹn tận cùng. Không thể nghó bàn do điều đã được nhận biết. Không thể nghó bàn do trí được dứt trừ chướng ngại. Như kinh nói: “Bậc Trí vô lượng, Trí rộng khắp, Trí không thể hủy hoại”. Đó gọi là trí lớn. Bồ-tát đạt được đầy đủ như vậy… cho đến: Tập khởi tất cả pháp Phật. Bồ-tát ấy đạt được đầy đủ như vậy; như trên đã nói. Thành tựu trí như vậy; cũng như trên đã nói. Thường tập khởi ba nghiệp thanh tịnh. Đây là nghiệp lớn. Nghiệp thanh tịnh của Bồ-tát có bốn loại tướng: Tạo mọi phát khởi đồng thời. Như kinh nói: “Trí tuệ làm đầu, trí tùy thuận chuyển biến”. Trí thâu nhiếp không nhiễm, hạnh làm lợi ích cho chúng sinh. Như kinh nói: “Bát nhã Ba-la-mật tăng thượng, Đại Bi làm đầu, dùng phương tiện thiện xảo cho nên có thể khéo phân biệt”. Nhân thâu nhiếp nhân của tự hành-tha hành. Như kinh nói: “Khéo phát khởi nguyện lực, khéo làm tăng thêm sự gia hộ của chư Phật”. Tạo nghiệp, phát khởi lợi ích cho chúng sinh làm thanh tịnh cõi Phật, thành tựu tất cả pháp Phật. Như kinh nói: “Thường không xả bỏ hạnh làm lợi ích cho chúng sinh… cho đến: Đạt được địa Bất động của bậc Bồ-tát, mọi tạo tác của ba nghiệp thân-khẩu-ý đều có thể tập khởi hết thảy pháp Phật”. Đó gọi là Nghiệp lớn. Hai loại kia an trú trong công đức lớn: là khéo an trú trong diệu lực của tâm thanh tịnh, chỉ rõ dựa vào bảy loại công đức: Công đức do khéo an trú trong đạo. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy đạt được địa Bất động của bậc Bồ-tát, khéo an trú trong diệu lực của tâm thanh tịnh”. Lại, công đức do khéo an trú trong đạo, hai câu đầu là xa lìa chướng, đối trị là sự kiên cố; hai câu tiếp theo là không xả bỏ chúng sinh. Công đức do không quên. Như kinh nói: “Khéo an trú trong lực dụng của Đà-la-ni, không hề quên pháp”. Công đức do thành tựu khẩu nghiệp. Như kinh nói: “Khéo an trú trong lực dụng của biện tài…”. Công đức do thành tựu tâm tự tại. Như kinh nói: “Khéo an trú trong lực dụng của thần thông, hành hóa khắp vô biên thế giới sai biệt”. Công đức do nguyện lực thành tựu. Như kinh nói: “Khéo an trú trong nguyện lực, không rời tất cả nẻo hành trì của bậc Bồ-tát”. Công đức do tu hành thành tựu. Như kinh nói: “Khéo an trú trong lực dụng của Ba-la-mật, tu tập hết thảy pháp Phật”. Công đức do được ban cho trí. Như kinh nói: “Khéo an trú trong diệu lực gia hộ của Như Lai, trí Nhất thiết trí, nhất thiết chủng luôn hiện tiền”. Bồ-tát ấy, đạt được trí lực như vậy, chỉ rõ trong tất cả mọi sự tạo tác; là Bồ-tát tạo nghiệp bình đẳng, không yêu ghét, không phân biệt chúng sinh có phiền não, không phiền não. Trong hết thảy các sự việc không có lỗi lầm; tức là nhờ đạt được bảy loại công đức ấy. Đã nói xong phần Đạt được thù thắng lớn (Phần thứ sáu). Tiếp theo là nói về phần thứ bảy: Giải thích tên gọi. Kinh: “Này Phật tử! Trí địa của bậc Bồ-tát này, gọi là địa Bất động, vì không thể hủy hoại. Gọi là địa Bất chuyển, vì trí tuệ không thối chuyển. Gọi là địa Nan đắc, vì tất cả thế gian khó nhận biết. Gọi là địa Vương tử, vì không có lỗi lầm của nơi chốn. Gọi là địa Sinh, vì tùy ý tự tại. Gọi là địa Thành, vì không còn tạo tác nữa. Gọi là địa Cứu cánh, vì trí tuệ khéo phân biệt. Gọi là địa Niết-bàn, vì khéo phát khởi nguyện lực lớn. Gọi là địa Gia, vì kẻ khác không thể làm cho động. Gọi là địa Không dụng công, vì khéo dấy khởi đạo trước tiên”. Luận: Giải thích tên gọi có hai loại: Giải thích tên gọi của Địa. Giải thích tên gọi của Trí. + Giải thích tên gọi của địa có sáu loại tướng: 1. Đối trị nhiễm: Nhiễm ấy có hai loại: Hành có dụng công của địa là theo nguyện của Tiểu thừa và các nghiệp ma. Tập hành của phiền não. Đối trị điều này, như kinh nói: “Phật tử! Trí địa của bậc Bồ-tát này gọi là địa Bất động…”. Đạt được sự thâm diệu. Như kinh nói: “Gọi là địa Nan đắc…”. Phát khởi hành thanh tịnh. Như kinh nói: “Gọi là địa Vương tử…”. Phát khởi thanh tịnh; tức là như Vương tử, hết thảy việc làm đều không lỗi lầm. Hành thanh tịnh; tức là trú trong địa Sinh, mọi sự mong muốn đều thành tựu tự tại. Mọi tạo tác đối với thế gian-xuất thế gian đều thanh tịnh thù thắng. Như kinh nói: “Gọi là địa Thành…”. Sự tạo tác của xuất thế gian thanh tịnh thù thắng; nhờ trí tuệ khéo phân biệt, cho nên mọi chướng ngại của trí đều thanh tịnh. Hai loại vô tác của Bồ-tát thanh tịnh thù thắng. Như kinh nói: “Gọi là địa Niết-bàn vì khéo phát khởi nguyện lực lớn”. Vô tác thanh tịnh thù thắng; là nhờ diệu lực của bản nguyện nên không bỏ hạnh làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Địa Bồ-tát thù thắng. Như kinh nói: “Gọi là địa Gia, vì kẻ khác không thể làm động. Gọi là địa Không dụng công, vì khéo dấy khởi đạo trước tiên”. Lại nữa, địa Bồ-tát thù thắng; là hơn hẳn sáu địa, bảy địa. Hơn hẳn sáu địa: Sáu địa phát khởi hành thù thắng, còn nhớ nghó về sự việc khác thì vẫn còn động. Hơn hẳn bảy địa: Bảy địa còn có dụng công. Trong tám địa thì khéo phát khởi đạo trước tiên, hành tự nhiên không hề dụng công. Giải thích tên gọi của Trí: bởi vì từ nghĩa nào, Bồ-tát gọi là đạt được bậc Bồ-tát bất động? Nay nói về việc này, nên biết. Kinh: “Này Phật tử! Bồ-tát thành tựu trí tuệ như vậy, gọi là được hội nhập với Phật tính, gọi là công đức của Phật tự tỏa sáng, gọi là thuận theo hành uy nghi của Phật, gọi là cảnh giới của Phật hiện tiền. Ngày đêm luôn khéo làm tăng thêm sự gia hộ của chư Phật. Thường được Tứ Thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm Thiên vương… cung kính nghênh tiếp. Luôn được thần Kim cang Mật Tích hầu cận, bảo vệ. Không lìa lực dụng của Tam-muội, luôn hiện bày vô lượng các thân sai biệt. Trong hết thảy thân hành, uy lực đều thành tựu. Thành tựu quả báo lớn về thần thông. Ở trong vô biên Tam-muội luôn được tự tại, có thể thọ nhận vô lượng ký biệt, tùy thuận hóa độ thế gian, thị hiện thành chính giác. Bồ-tát ấy, thông đạt hội nhập với các nẻo trí tuệ của Đại thừa, khéo lượng xét về thông lực của pháp Đại thừa, ngày đêm luôn phóng ra ánh sáng rực rỡ của trí, nhập vào cõi Pháp giới không gì chướng ngại. Khéo nhận biết về sự sai biệt của các thế giới, có thể hiện bày hết thảy tướng công đức, tùy ý tự tại. Khéo hiểu rõ về mọi thời gian trước, sau, thông tỏ tất cả sự xoay chuyển theo trí nơi cõi Ma, đi vào cảnh giới trí tuệ của Như Lai, có thể ở trong vô biên thế giới hành đạo Bồ-tát, diệu lực không thối chuyển. Do đó, Bồ-tát được gọi là chứng đắc bậc Bồ-tát bất động”. Luận: Lại có hai loại nghĩa, gọi là đạt được bậc Bồ-tát bất động: Bất động của toàn bộ. Bất động của một Thể. Tùy thuận nhân của Phật tính. Như kinh nói: “Này Phật tử! Bồ-tát thành tựu trí tuệ như vậy, gọi là được nhập với Phật tính…”. Phật tính: là chỉ cho sự thù thắng của cảnh giới đầy đủ. Tùy thuận nhân: tức là chỉ rõ về ba loại tướng: Thâu nhiếp công đức. Hành. Thân cận. Như kinh nói: “Gọi là công đức của Phật tự tỏa sáng. Gọi là thuận theo hành uy nghi của Phật. Gọi là cảnh giới của Phật hiện tiền”. Tự tỏa sáng: là nghĩa khéo làm thanh tịnh. Hành uy nghi: gọi là chính hành. Hiện tiền: là tiếp cận cảnh giới Phật. Bất động của toàn bộ. Như kinh nói: “Ngày đêm luôn khéo làm tăng thêm sự gia hộ của chư Phật”. Lại dựa vào năm công đức nên biết! Công đức của sự cúng dường. Như kinh nói: “Thường được Tứ Thiên Vương…”. Công đức của sự hộ trì. Như kinh nói: “Luôn được thần Kim cang Mật Tích…”. Công đức của sự nương dựa. Như kinh nói: “Không lìa lực dụng của Tam-muội”. Công đức của cõi nước thanh tịnh. Như kinh nói: “Luôn hiện bày vô lượng các thân sai biệt”. Công đức của việc giáo hóa chúng sinh. Công đức thứ năm này có năm loại thị hiện: Nguyện chọn lấy các cõi thọ sinh. Như kinh nói: “Tất cả thân hành, uy lực đều thành tựu”. Tâm vốn có điều khiển trí lực. Như kinh nói: “Thành tựu quả báo lớn về thần thông”. Chuyển pháp luân với vô lượng pháp lực. Như kinh nói: “Ở trong vô biên Tam-muội luôn được tự tại”. Thọ nhận diệu lực. Như kinh nói: “Có thể thọ nhận vô lượng ký biệt”. Nêu bày về lực. Như kinh nói: “Tùy thuận hóa độ thế gian, thị hiện thành chính giác”. Bồ-tát ấy thông đạt như vậy: tức là là bất động toàn bộ. Bất động của một Thể: là hội nhập các nẻo trí tuệ của Đại thừa. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, thông tỏ, hội nhập với các nẻo trí tuệ của Đại thừa như vậy”. Hội nhập với các nẻo trí tuệ của Đại thừa: gọi là nghĩa không thể hủy hoại. Ở đây có chín loại: Trí không hoại. Như kinh nói: “Khéo lượng xét về thông lực của pháp Đại thừa”. Thuyết giảng không hoại. Như kinh nói: “Ngày đêm luôn phóng ra ánh sáng rực rỡ của trí”. Giải thoát không hoại. Như kinh nói: “Nhập vào cõi Pháp giới không chướng ngại”. Cõi Phật thanh tịnh không hoại. Như kinh nói: “Khéo nhận biết về sự sai biệt của các thế giới”. Vào nơi Đại thừa, không hoại. Như kinh nói: “Có thể hiện bày hết thảy tướng công đức”. Thần thông không hoại. Như kinh nói: “Tùy ý tự tại”. nghĩa có thể giải thích, không hoại. Như kinh nói: “Khéo hiểu rõ về các thời gian trước sau”. Ngồi nơi đạo tràng, không hoại. Như kinh nói: “Thông tỏ tất cả sự xoay chuyển theo trí nơi cõi ma”. chính giác không hoại. Như kinh nói: “Đi vào cảnh giới trí tuệ của Như Lai, nên có thể ở trong vô biên thế giới hành đạo Bồ-tát”. Diệu lực không thối chuyển: là hành không chướng ngại, không đoạn tuyệt. Do ý nghĩa của hành không chướng ngại-không đoạn tuyệt, cho nên gọi là đạt được bậc Bồ-tát bất động. Kinh: “ Bồ-tát đạt được địa Bất động của bậc Bồ-tát, thường không lìa việc được thấy vô lượng chư Phật, khéo hành trì lực dụng Tam-muội cùng với đại nguyện lực. Lúc thấy chư Phật luôn hiện bày sự cung kính cúng dường. Bồ-tát ấy, ở trong mỗi mỗi kiếp, trong mỗi mỗi thế giới, được thấy vô lượng Phật, vô lượng trăm Phật cho đến vô lượng trăm ngàn na-do-tha Phật, vô lượng ức Phật cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật. Do diệu lực của đại thần thông và của đại nguyện, cho nên khi thấy chư Phật, Bồ-tát đều dùng tâm hướng thượng, tâm sâu xa, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men… Dùng các căn thiện này đều nguyện hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề Vô thượng, thân cận chư Phật, theo chư Phật thọ nhận các pháp Minh trong sự sai biệt của thế giới vốn có. Bồ-tát ấy chuyển sang tiến vào sâu trong tạng pháp của Như Lai, thỉnh vấn về các sự việc sai biệt của thế giới, không ai có thể đạt tới tận cùng. Bồ-tát này, với các căn thiện của mình, trong vô lượng kiếp luôn chuyển biến, càng trở nên sáng sạch thù thắng. Trong vô lượng trăm kiếp… vô lượng trăm ngàn na-do-tha, vô lượng ức kiếp, cho đến vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, các căn thiện kia luôn chuyển biến, càng trở nên sáng tỏ, thanh tịnh, thù thắng. Này Phật tử! Ví như vàng ròng từ ban đầu được các thợ kim hoàn khéo tay làm ra các vật dụng trang sức đẹp đẽ cho vương gia cõi Diêm- phù-đề dùng đeo nơi cổ hoặc phía trước hoặc phía sau. Các thứ trang sức bằng vật báu khác của người cõi Diêm-phù-đề, đều không thể hơn được. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát an trú trong địa Bất động ấy, với các căn thiện hiện có, thì tất cả hàng Nhị thừa, kể cả Bồ-tát nơi bảy địa đều không thể hủy hoại. Bồ-tát chứng đạt địa này thì trí lớn tỏa sáng, diệt trừ mọi thứ phiền não tối tăm ngăn ngại của chúng sinh, nhờ khéo phân biệt về môn Trí. Này Phật tử! Ví như Đại Phạm Thiên vương, chủ của ngàn thế giới, có thể trong một lúc ban phát tâm từ cho khắp ngàn thế giới, cũng có thể phóng ra ánh sáng tỏa chiếu khắp trong các cõi ấy. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát an trú trong địa Bất động của bậc Bồ-tát ấy, có thể phóng ra ánh sáng nơi thân tỏa chiếu khắp mười ngàn vạn Tam thiên đại thiên thế giới, dần dần có thể diệt trừ mọi ngọn lửa phiền não của chúng sinh trong vô số vô lượng thế giới, khiến họ đều được mát mẻ. Bồ-tát này, trong mười Ba-la-mật thì Nguyện Ba-la-mật luôn tăng thượng, các Ba-la-mật khác không phải là không tu tập, nhưng mà theo sức- tùy phần. Này Phật tử! Đó gọi là lược nêu bày về Bồ-tát chứng đạt địa Bất động, là Địa thứ tám của bậc Bồ-tát, nếu nói rộng thì trong vô lượng kiếp cũng không thể hết. Bồ-tát trú trong địa này, nhiều lần làm Đại Phạm Thiên vương, chủ của ngàn thế giới, tự tại tột bậc, ban cho các chúng sinh và hàng Nhị thừa về đạo Ba-la-mật của bậc Bồ-tát mà không cùng tận, thuyết giảng về tính của thế gian trong sự sai biệt mà không gì có thể hủy hoại. Những nghiệp thiện đã làm như bố thí-ái ngữ-đồng sự, lợi hành, các loại phước đức ấy đều không lìa niệm Phật-niệm Pháp-niệm Tăng, niệm Bồ-tát và niệm hành của Bồ-tát và niệm Ba-la-mật, niệm mười Địa, niệm diệu lực không hoại, niệm vô úy, niệm pháp bất cộng của Phật, cho đến không lìa niệm về trí Nhất thiết chủng, trí Nhất thiết trí, thường khởi tâm như vậy: Mình phải ở trong tất cả chúng sinh, là người đứng đầu, là thù thắng, là lớn, là diệu, là vi diệu, là trên, là vô thượng, là kẻ dẫn dắt, là vị tướng, là bậc thầy, là bậc tôn quý, cho đến là chỗ nương dựa của trí Nhất thiết trí. Lại từ niệm ấy mà phát khởi hành tinh tiến, nhờ diệu lực của tinh tiến, cho nên trong khoảng một niệm, đạt được các pháp Tam-muội nhiều như số vi trần trong trăm vạn Tam thiên đại thiên thế giới, được thấy chư Phật nhiều như số vi trần trong trăm vạn Tam thiên đại thiên thế giới, có thể nhận biết về thần lực của Phật, có thể làm chuyển động thế giới Phật, có thể nhập vào thế giới Phật, có thể soi chiếu đến thế giới Phật, có thể giáo hóa chúng sinh trong thế giới Phật, có thể trú thọ với số lượng kiếp, có thể nhận biết các sự việc của đời quá khứ vị lai, có thể khéo hội nhập với các pháp môn…, hết thảy đều nhiều như số vi trần trong trăm vạn Tam thiên đại thiên thế giới. Có thể biến hóa thân thành số thân nhiều như số vi trần trong trăm vạn Tam thiên đại thiên thế giới, nơi mỗi mỗi thân, có thể thị hiện cũng từng ấy số Bồ-tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thù thắng tối thượng, thì nguyện lực của Bồ-tát còn vượt hơn số lượng ấy, thị hiện trong vô số các loại thần thông, hoặc nơi thân, hoặc nơi ánh sáng, hoặc nơi mắt, hoặc nơi cảnh giới, hoặc nơi âm thanh, hoặc nơi hành, hoặc nơi sự trang nghiêm, hoặc gia hộ, hoặc tin tưởng, hoặc tạo tác. Các thần thông này, cho đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết hết”. Luận: Theo chư Phật thọ nhận các pháp minh… là nói về tướng nhân của Bồ-tát. Dụ về vàng ròng làm ra các vật dụng trang sức đẹp đẽ cho vương gia cõi Diêm-phù-đề; là nói về việc đạt được thân tâm thù thắng trong địa thanh tịnh. Chỉ rõ về căn thiện sáng tỏ kia lại càng trở nên sáng sạch. Như kinh nói: “Này Phật tử! Ví như Đại Phạm Thiên vương, chủ của ngàn thế giới… cho đến: Khiến họ đều được mát mẻ”. Các phần còn lại như trước đã giải thích.  <卷>QUYỂN 11 Địa 9: ĐỊA THIỆN TUỆ Luận: Trong Địa thứ chín có bốn phần sai biệt: Thành tựu phương tiện của pháp sư. Thành tựu về trí. Thành tựu về nhập hành. Thành tựu về thuyết giảng. Trong Địa thứ tám chỉ làm thanh tịnh cõi Phật và giáo hóa chúng sinh. Trong Địa thứ chín này, nhờ diệu lực của biện tài cho nên có thể giáo hóa chúng sinh, thành tựu tất cả tướng, có thể giáo hóa cho nên địa này vượt hơn địa trước. Thế nào là thành tựu phương tiện của Pháp sư? Kinh: “Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này Phật tử! Bồ-tát dùng trí vô lượng, trí khéo lượng xét như vậy, lại cầu chuyển biến để đạt sự giải thoát tịch diệt, sâu xa thù thắng. Lại chuyển sang cầu đạt trí tuệ rốt ráo của Như Lai, nhập vào trong pháp sâu kín của Như Lai, tư duy chọn lựa Đai trí tuệ không thể nghó bàn, chọn lấy các pháp Tam- muội, Đà-la-ni và trí, đều làm cho thanh tịnh, hiện bày các thần thông với các hành rộng lớn, thông đạt nẻo hành sai biệt trong thế giới, tu tập các pháp bất cộng của Phật, các lực-vô úy của Như Lai không gì chướng ngại mà luôn thuận hợp, thấu tỏ sự việc chuyển pháp luân trang nghiêm của Như Lai, không rời bỏ đại nguyện lực của Đại Bi, được tiến vào Địa thứ chín của bậc Bồ-tát”. Luận: Ở đây, thành tựu phương tiện của Pháp sư; tức là dựa vào tự lợi và lợi tha, mỗi một hành (tự-tha) có năm câu và ba câu nêu rõ. Dựa vào Vô Sắc, đạt được tướng giải thoát, có thể hóa độ chúng sinh, làm lợi ích. Như kinh nói: “Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Phật tử! Bồ-tát dùng trí vô lượng, trí khéo lượng xét như vậy…”. Dựa vào chỗ chưa đạt được trí rốt ráo của Phật, đem lại lợi ích cho chính mình. Như kinh nói: “Lại chuyển cầu đạt trí tuệ rốt ráo của Như Lai”. Dựa vào căn đã thành thục của Bồ-tát. Dựa vào chúng sinh hành theo tà niệm mà có thể giáo hóa. Dựa vào chúng sinh chưa hiểu biết pháp, chuyển pháp luân khiến cho họ được hiểu biết. Dựa vào chúng sinh quy y theo tà đạo. Dựa vào chúng sinh tin sinh lên cõi trời. Thứ tự năm câu như vậy chỉ rõ về hành lợi tha. Như kinh nói: “Nhập vào trong pháp sâu kín của Như Lai, tư duy, chọn lựa Đại trí tuệ không thể nghó bàn, chọn lấy các pháp Đà-la-ni, Tam-muội và trí đều làm cho thanh tịnh, hiện bày các thần thông với các hành rộng lớn, thông đạt nẻo hành sai biệt trong thế giới…”. Nêu rõ cõi nước thanh tịnh, chuyển hóa chúng sinh tin tưởng sinh lên cõi trời khiến cho họ tiến vào Phật pháp. Dựa vào chính giác, dựa vào chuyển pháp luân, dựa vào Niết- bàn: Thứ tự ba câu như vậy chỉ rõ về hành tự lợi, như kinh nói: “Tu tập các lực-vô úy của Như Lai và các pháp bất cộng của Phật…”. Không xả bỏ việc làm lợi ích cho chúng sinh; là chỉ rõ về Đại Niết-bàn, nhờ đạt được việc không lìa bỏ đại nguyện lực về Đại Bi, nên biết. Như đã nói về phần thành tựu phương tiện của Pháp sư trong Địa thứ chín. Thế nào là thành tựu về trí? Kinh: “Bồ-tát ấy, an trú trong địa Thiện tuệ của bậc Bồ-tát, nhận biết đúng như thật về pháp hành thiện-bất thiện-vô ký; về pháp hành hữu lậu vô lậu; về pháp hành thế gian-xuất thế gian; về pháp hành nghó bàn, không thể nghó bàn; về pháp hành định không định; về pháp hành của hàng Nhị thừa; về pháp hành của hạnh Bồ-tát; về pháp hành của địa Như Lai; về pháp hành của pháp hữu vi-vô vi”. Luận: Thành tựu về trí; là dựa vào những pháp nào để thuyết giảng? Nên biết pháp tịnh-nhiễm kia là không hai. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, an trú trong địa Thiện tuệ của bậc Bồ-tát, nhận biết đúng như thật…”. Ở trong pháp tịnh có hữu lậu-vô lậu. Như kinh nói: “Pháp hành hữu lậu vô lậu”. Lại trong pháp vô lậu có pháp hành thế gian-xuất thế gian. Như kinh nói: “Pháp hành thế gian xuất thế gian”. Lại trong pháp ấy có nghó bàn-không thể nghó bàn. Như kinh nói: “Pháp hành nghó bàn-không thể nghó bàn”. Trong pháp nghó bàn, lại có định, không định. Như kinh nói: “Pháp hành định-không định”. Pháp kia lại ở trong ba Thừa. Như kinh nói: “Pháp hành của hàng Nhị thừa. Pháp hành của hạnh Bồ-tát. Pháp hành của địa Như Lai…”. Lại, trong pháp của ba Thừa, chỉ rõ về hữu vi-vô vi dựa vào hành thuận hợp. Như * Kinh: “Pháp hành hữu vi, pháp hành vô vi, đều nhận biết đúng như thật”. Như vậy đã nói phần thành tựu về trí trong Địa thứ chín. Thế nào là thành tựu về nhập hành? Kinh: “Bồ-tát ấy, tùy thuận trí tuệ như vậy, nhận biết đúng như thật về vùng rừng rậm trong: Tâm hành của chúng sinh. Nẻo hành của phiền não. Nẻo hành của nghiệp. Nẻo hành của căn. Nẻo hành của tín. Nẻo hành của tính. Nẻo hành của tâm sâu xa. Nẻo hành của sử. Nẻo hành của sinh. Nẻo hành của tập khí. Nẻo hành sai biệt của ba Tụ. Tất cả đều nhận biết đúng như thật”. Luận: Thành tựu về nhập hành; là nương vào chỗ dựa chung của nghiệp phiền não sinh khởi và cấu nhiễm, cùng với phiền não nhiễm-tịnh… Dựa vào lúc định, không định… Như kinh nói: “Bồ-tát ấy tùy thuận trí tuệ như vậy…”. Sự tùy thuận kia lại có lúc định-không định thuộc về căn… thứ tự của căn… tương tự như tín… Như kinh nói: “Rừng rậm trong nẻo hành của căn. Rừng rậm trong nẻo hành của tín. Rừng rậm trong nẻo hành của tính. Rừng rậm trong nẻo hành của tâm sâu xa. Rừng rậm trong nẻo hành của sử….”. Trù lâm (Rừng rậm): nghĩa là rất nhiều, nghĩa là khó nhận biết. Hành: là nghĩa không có chính tín. Thế nào là sự sai biệt của vùng rừng rậm trong tâm hành? Kinh: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về vô số các loại tướng trong các tâm của chúng sinh: Tướng xen tạp của tâm. Tướng chuyển biến, sinh chẳng sinh của tâm. Tướng vô hình của tâm. Tướng hiện bày tất cả chốn, vô số, vô biên của tâm. Tướng thanh tịnh của tâm của tâm. Tướng nhiễm-không nhiễm của tâm. Tướng trói buộc-giải thoát của tâm. Tướng huyễn khởi của tâm. Tướng tùy cõi sinh của tâm Cho đến vô lượng trăm ngàn chủng loại tướng sai biệt của tâm, đều nhận biết đúng như thật”. Luận: Sự sai biệt trong rừng rậm tâm hành; tức là vô số các loại sai biệt, dị biệt của tâm. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật…”. Vô số các loại tướng của tâm có tám loại: Tướng sai biệt; tức là như sáu loại sai biệt của tâm-ý-thức. Như kinh nói: “Tướng xen tạp của tâm”. Tướng hành; là các hành trú dị sinh diệt. Như kinh nói: “Tướng chuyển biến sinh chẳng sinh của tâm”. Tướng đệ nhất nghĩa; quán xét tâm ấy, lìa tâm thì tâm-thân không thể thủ đắc. Như kinh nói: “Tướng vô hình của tâm”. Tự tướng; hành thuận theo vô lượng cảnh giới để chọn lấy. Như kinh nói: “Tướng hiện bày tất cả xứ, vô số vô biên của tâm”. Tướng tự tính không nhiễm. Như kinh nói: “Tướng thanh tịnh của tâm”. Tướng đồng với phiền não không đồng với phiền não. Như kinh nói: “Tướng nhiễm-chẳng nhiễm của tâm”. Tướng đồng với sử-không đồng với sử. Như kinh nói: “Tướng trói buộc, giải thoát của tâm”. Tướng nhân, các Bồ-tát do nguyện lực mà thọ sinh, còn các chúng sinh thì do nghiệp lực của chính mình mà sinh. Như kinh nói: “Tướng huyễn khởi của tâm. Tướng tùy cõi sinh của tâm. Cho đến vô lượng trăm ngàn chủng loại tướng sai biệt của tâm đều nhận biết đúng như thật”. Bởi vì tự tính của tâm là thanh tịnh. Hai câu thứ sáu-thứ bảy: là tâm nhiễm-chẳng nhiễm, tâm trói buộc, giải thoát, hai câu này chỉ rõ về phiền não nhiễm. Câu thứ tám; là tâm tùy cõi sinh chỉ rõ về sinh nhiễm. Thế nào là sự sai biệt trong rừng rậm của hành phiền não? Kinh: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng thâm nhập của các phiền não: Tướng hành vô biên. Tướng cùng sinh chẳng lìa. Tướng phiền não-sử cùng một nghĩa. Tướng tương ưng không tương ưng với tâm. Tướng tùy theo sinh xứ mà nhận chịu quả báo. Tướng sai biệt trong ba cõi. Tướng lỗi lầm lớn của mũi tên độc là kiến-vô minh-ái. Tướng không đoạn nhân của ba loại nghiệp. Lược nói, cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của hành phiền não”. Luận: Sự sai biệt trong rừng rậm của hành phiền não; chỉ rõ về ba loại sự việc: Nhập từ xa cho đến cõi Hữu đảnh. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng thâm nhập của các phiền não”. Khó nhận biết về vô lượng căn thiện cùng hành tu tập. Như kinh nói: “Tướng hành vô biên”. Nhiễm của nghiệp phiền não mà sinh nhiễm. Ở đây, tùy theo sự trói buộc, bởi vì những gì trói buộc và sự việc trói buộc. Giải thích về điều này là chỉ rõ việc cấu nhiễm của phiền não ô nhiễm. Như kinh nói: “Tướng cùng sinh không lìa. Tướng phiền não và sử cùng một nghĩa. Tướng tương ưng không-tương ưng với tâm”. Trong đó: Tùy theo sự trói buộc: là lần lượt cùng đồng sự, lần lượt cùng dựa vào nhau, cùng sinh không lìa. Bởi vì những gì trói buộc? Tức là sử. Vì có sử mà không được giải thoát, vì sử và phiền não cùng một nghĩa. Sự việc đã trói buộc: tức là tâm. Tâm tương ưng-không tương ưng. Không tương ưng; là chỉ rõ được giải thoát. Thân hành sự làm nhân cho cảnh giới là chỉ rõ về việc sinh phiền não cấu nhiễm. Như kinh nói: “Tướng tùy theo sinh xứ mà nhận chịu quả báo. Tướng sai biệt trong ba cõi”. Ở trong ba phần, thì nhân của nghiệp làm chướng ngại cho giải thoát, nghiệp thân-khẩu-ý thuận theo thế gian, không đoạn trừ việc dấy khởi nhân, chỉ rõ về vọng tưởng của nghiệp, phiền não cấu nhiễm. Như kinh nói: “Tướng lỗi lầm lớn của mũi tên độc là kiến-vô minh-ái. Tướng không đoạn nhân của ba thứ nghiệp căn bản. Cho đến, nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của hành phiền não”. Ba phần: Một là chúng sinh yêu thích hành dục. Hai là chúng sinh không có giới. Ba là chúng sinh ngoại đạo. Thế nào là sự sai biệt trong rừng rậm của hành nghiệp? Kinh: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng của các nghiệp thiện-bất thiện-vô ký: Tướng có tạo tác-chưa tạo tác. Tướng của tâm cùng sinh không lìa. Tướng dựa vào tự tính đến tận cùng tập quả không sai thứ tự. Tướng có báo không có báo. Tướng sai biệt trong việc chính thức thọ nhận các nghiệp; đen- trắng-đen trắng, chẳng đen chẳng trắng. Tướng vô lượng nhân của nghiệp. Tướng sai biệt về thế gian-Thánh nhân. Tướng của hiện báo-sinh báo-hậu báo. Tướng Thừa không phải Thừa và định-không-định. Cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của các nghiệp”. Luận: Sai biệt trong rừng rậm của hành nghiệp; là chỉ rõ về nhân sai biệt của các cõi. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về…”. Tự tính sai biệt. Như kinh nói: “Tướng có tạo tác-chưa có tạo tác”. Phương tiện sai biệt. Như kinh nói: “Tướng của tâm cùng sinh, không lìa”. Tận cùng tập quả sai biệt. Như kinh nói: “Tướng dựa vào tự tính đến tận cùng tập quả không sai thứ tự”. Sai biệt về đã thọ nhận quả-chưa thọ nhận quả. Như kinh nói: “Tướng có báo-không báo”. Đối sai biệt. Như kinh nói: “Tướng sai biệt trong việc chính thức thọ nhận các nghiệp; đen-trắng…”. Nhân duyên sai biệt. Như kinh nói: “Tướng vô lượng nhân của nghiệp”. Sai biệt do chưa tích tập đã tích tập. Như kinh nói: “Tướng sai biệt về thế gian-bậc Thánh”. Sai biệt về báo định và bất định. Như kinh nói: “Tướng hiện báo- sinh báo-hậu báo… Cho đến, nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của các nghiệp”. Ở đây, tự tính sai biệt có hai loại nghiệp: Một là; thời gian trù lượng, hai là thời gian tạo nghiệp. Phương tiện sai biệt; là tâm cùng sinh huân tập tâm sinh quả không khác. Tận cùng tập quả sai biệt; tức là từ thời vô thỉ, nghiệp tự nhiên gây tạo, niệm niệm diệt hoại, tích tập không mất, mà các pháp hữu vi làm nhân của nghiệp được tích tập trọn vẹn. Sai biệt về đã thọ nhận quả-chưa thọ nhận quả; là thọ nhận-không thọ nhận về sinh báo-hậu báo. Đối sai biệt; tức là nghiệp đen đối với nghiệp trắng. Nghiệp trắng đối với nghiệp đen. Nghiệp chẳng đen chẳng trắng đối với hai nghiệp. Hai nghiệp đối với nghiệp chẳng đen chẳng trắng. Nghiệp tích tập tạo thành sự sai biệt, nên biết. Sai biệt về định và bất định; tức là ba thời gian định-chẳng định, ba Thừa định-chẳng định. Chẳng phải thừa; là thế gian định-chẳng định. Nên biết! Thế nào là sai biệt trong rừng rậm của hành căn? Kinh: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt của các căn bậc hạ-bậc trung-bậc thượng: Tướng dị biệt-không dị biệt của thời gian trước-sau. Tướng thượng-trung-hạ. Tướng phiền não cùng sinh không lìa. Tướng Thừa-không phải Thừa-định chẳng định. Tướng định thuần thục. Tướng tùy theo lưới căn chuyển biến-hủy hoại-chấp giữ tướng. Tướng căn tăng thượng không hoại. Tướng sai biệt của căn chuyển-không chuyển. Tướng thâm nhập cùng sinh với vô số sai biệt. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của các căn. Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng tin tưởng bậc hạ của chúng sinh, lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng tin tưởng sai biệt. Bồ-tát ấy nhận biết đúng như thật về tướng của các tính bậc hạ-bậc trung-bậc thượng lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của các tính. Bồ-tát ấy nhận biết đúng như thật về tướng của tâm bậc hạ-bậc trung-bậc thượng, lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của tâm”. Luận: Sự sai biệt trong rừng rậm của hành căn. Có chín loại: Sai biệt về các năng lực. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt của các căn bậc hạ-bậc trung-bậc thượng”. Sai biệt về căn chuyển biến. Như kinh nói: “Tướng dị biệt- không dị biệt của thời gian trước-sau”. Sai biệt về tính. Như kinh nói: “Tướng thượng-trung-hạ”. Sai biệt về phiền não cấu nhiễm. Như kinh nói: “Tướng phiền não cùng sinh không lìa”. Sai biệt về định không định. Như kinh nói: “Tướng Thừa chẳng phải Thừa, định-chẳng định. Tướng định thuần thục”. Sai biệt về thuận hành. Như kinh nói: “Tướng tùy theo lưới căn chuyển biến-hoại diệt-chấp giữ tướng”. Sai biệt về Thanh văn thanh tịnh. Như kinh nói: “Tướng căn tăng thượng không hoại”. Sai biệt về Bồ-tát thanh tịnh. Như kinh nói: “Tướng sai biệt của căn chuyển không-chuyển”. Sai biệt về chỗ thâu nhiếp của tất cả các căn. Như kinh nói: “Tướng thâm nhập cùng sinh với vô số sai biệt. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của các căn”. Ở đây: Sai biệt về căn chuyển biến; tức là căn trước-sau. Căn trước thấp tăng lên bằng nhau. Sai biệt về tính; tức là tính sai biệt ở trong ba Thừa. Sai biệt về phiền não cấu nhiễm; các căn như hỷ-lạc… tùy theo phiền não tập khí làm cho cấu nhiễm. Sai biệt về định-không định; ở trong ba Thừa ở trong thế gian, định-chẳng định, thuần thục chẳng thuần thục. Trong đó, chúng sinh căn bất định theo Tiểu thừa, Bồ-tát khiến cho chuyển hướng về Đại thừa. Còn căn định, Bồ-tát khiến cho vượt qua Nhị thừa, đạt đầy đủ sự giải thoát. Sai biệt về thuận hành. Có ba loại thuận hành: Thuận hành theo chỗ dựa của thân; tức là lần lượt theo thứ tự cùng bị ràng buộc trong sáu Nhập. Thuận hành theo sinh diệt; tức là tính chất trôi nổi, hoại diệt. Quán các hành, chấp giữ tướng. Sai biệt về Thanh văn thanh tịnh: có nghĩa là có thể thành tựu hành tăng thượng thì chướng ngại được diệt trừ. Sai biệt về Bồ-tát thanh tịnh: là sự sai biệt của địa chuyển không chuyển. Sai biệt về chỗ thâu nhiếp của tất cả các căn: là sự sai biệt về báo giữa phương tiện mới thực hành và căn đã thành thục. Vô lượng tướng sai biệt về tín-tính-tâm thuộc bậc hạ-bậc trung-bậc thượng… đều nhận biết đúng như thật. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng tin tưởng của chúng sinh bậc hạ-bậc trung-bậc thượng, cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của tâm”. Như vậy về tính nhập, nên biết. Thế nào là sai biệt trong rừng rậm của hành sử? Kinh: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng của các sử sâu xa cùng sinh với tâm cùng sinh: Tướng không lìa tâm tương ưng-chẳng tương ưng. Tướng nhập từ xa. Tướng từ vô thỉ đến nay không sợ hãi. Tướng tương phản với việc tu tập chân chính về tất cả thiền định, Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề giải thoát, thần thông. Tướng trói buộc kiên cố nơi ba cõi. Tướng tích tập nối tiếp của tâm từ vô thỉ đến nay. Tướng tích tập mở ra các nẻo Nhập. Tướng có thể đối trị sự thật. Tướng tùy thuận-không tùy thuận với Nhập của địa. Tướng không khác với Thánh đạo diệt bỏ nẻo động. Lược nói, cho đến nhận biết đúng như thật về tám vạn bốn ngàn tướng sai biệt của vô số các thứ sử”. Luận: Ở đây, sử; tức là nghĩa theo đuổi, trói buộc. Sự sai biệt trong rừng rậm của hành sử này; tức là theo đuổi nơi nào? Vì sao mà để theo đuổi? Nêu rõ sự sâu xa cùng sinh với tâm cùng sinh. Nơi chốn nào để theo đuổi? Tức tâm có báo hay không báo. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết đúng như thật về tướng kết hợp sâu xa để sinh tâm cùng sinh của sử”. Tâm không lìa sự việc hiện có, cõi Dục-Sắc-Vô sắc có sự sai biệt về thượng-trung-hạ. Như kinh nói: “Tướng không lìa tâm tương ưng, chẳng tương ưng”. Theo đuổi cho đến cõi Hữu Đảnh, như kinh nói: “Tướng nhập xa”. Vô biên thế giới chỉ có trí sợ hãi, xem như giặc oán, chưa từng có trí Văn Tư Tu, do đó không mất. Như kinh nói: “Tướng từ vô thỉ đến nay không sợ hãi”. Thiền định… của thế gian không thể diệt trừ được tâm hành thuận theo. Như kinh nói: “Tướng tương phản với việc tu tập chân chính về tất cả thiền định…”. Vì sao mà theo đuổi? Có sáu loại theo đuổi. Sáu loại theo đuổi là sáu câu được nêu ra: Theo đuổi vì không đoạn Hữu. Vì tướng không đoạn Hữu, giống như sử làm cho trói buộc. Như kinh nói: “Tướng trói buộc kiên cố nơi ba cõi”. Theo đuổi từ lâu xa. Như kinh nói: “Tướng tích tập, nối tiếp của tâm từ vô thỉ đến nay”. Theo đuổi nơi thân một đời. Các nhập như nhãn… có sáu loại phát sinh và tích tập Thức cùng sinh mà theo đuổi, và bởi vì A-lê-da huân tập mà theo đuổi. Như kinh nói: “Tướng tích tập mở ra các nẻo Nhập”. Theo đuổi không thật; tức là nghĩa đối trị với thật. Như kinh nói: “Tướng có thể đối trị sự thật”. Theo đuổi vi tế; Ở trong chín địa, phiền não của sáu Nhập xứ theo đuổi nơi thân. Như kinh nói: “Tướng tùy thuận không tùy thuận với Nhập của địa”. Theo đuổi về lìa khổ; chỉ có hành xuất thế gian, các hành khác không thể lìa bỏ. Như kinh nói: “Tướng không khác với Thánh đạo diệt bỏ nẻo động”. Thế nào là sự sai biệt trong rừng rậm của hành sinh? Kinh: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt của các hành sinh: Tướng theo nghiệp sinh. Tướng sai biệt của chúng sinh trong sáu đường. Tướng sai biệt của chúng sinh có sắc-không có sắc. Tướng sai biệt của chúng sinh có tưởng-không có tưởng. Tướng nhận biết: Nghiệp là ruộng đất, Ái là nước, Vô minh là tối tăm, Thức là hạt giống, Thân sau là mầm sinh. Tướng Danh sắc cùng sinh mà không lìa. hạn. Tướng có si cầu ái tương tục. Tướng dục thọ dục sinh, ưa thích chúng sinh, nối tiếp không giới Tướng tham đắm ba cõi cùng hiện bày… Thảy đều nhận biết đúng như thật”. Luận: Sai biệt trong rừng rậm của hành sinh. Có tám loại: Thân đủ loại. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt của các hành sinh”. Nghiệp đủ loại. Như kinh nói: “Tướng theo nghiệp sinh”. Trú xứ đủ loại. Như kinh nói: “Tướng sai biệt của các chúng sinh trong sáu đường”. Vô số thứ loại sắc tướng cao thấp. Như kinh nói: “Tướng sai biệt của chúng sinh có sắc-không có sắc, có tưởng-không có tưởng”. Vô số các loại về nhân của ngoại sắc giống nhau. Như kinh nói: “Tướng nhận biết Nghiệp là ruộng đất, Ái là nước…”. Vô số các loại tự tướng. Như kinh nói: “Tướng Danh sắc cùng sinh mà không lìa”. Vô số các loại về nhân vốn thuận sinh. Như kinh nói: “Tướng có si cầu ái tương tục.” Chỉ rõ về vô số sai biệt của Tập Khổ đế. Như kinh nói: “Tướng dục thọ dục sinh, ưa thích chúng sinh, nối tiếp không giới hạn. Tướng tham đắm ba cõi cùng hiện bày… đều nhận biết đúng như thật”. Ở đây, dục thọ; là ưa thích tham lam cùng nắm giữ, chốn chốn cầu tìm. Dục sinh, lại có chúng sinh ưa thích các cõi, yêu mến thân mình, thân kẻ khác, tâm đắm theo tướng, qua lại các cõi trên dưới, càng chấp giữ tham đắm. Vô lượng lớn nhỏ, không có tưởng cùng hiện bày, là chỉ rõ sai biệt về sự xoay vòng lần lượt của các cõi trong Khổ đế. Thế nào là sai biệt trong rừng rậm của hành tập khí? Kinh: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt trong hành-không hành của tập khí: Tập khí do thuận theo chốn sinh của cõi huân tập mà có. Tập khí do thuận theo cùng chúng sinh hành mà có. Tập khí do thuận theo phiền não-nghiệp mà có. Tập khí do thuận theo các pháp thiện-bất thiện-vô ký mà có. Tập khí do thân sau mà có. Tập khí do thứ tự theo đuổi mà có. Tập khí do vào sâu, không đoạn trừ phiền não lôi kéo mà có. Tập khí do có thật-chẳng thật mà có. Tập khí của hành Nhị thừa, Bồ-tát, Như Lai, do thấy-nghe-gần gũi huân tập mà có. Thảy đều nhận biết đúng như thật”. Luận: Sai biệt trong rừng rậm của hành tập khí có mười loại: Sai biệt về quả hiện tại, không hiện tại. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt trong hành-không hành của tập khí”. Sai biệt do cõi huân tập. Như kinh nói: “Tập khí do thuận theo chốn sinh của cõi huân tập mà có”. Sai biệt do gần gũi chúng sinh mà huân tập. Như kinh nói: “Tập khí do thuận theo cùng chúng sinh hành mà có”. Sai biệt do sức huân tập của phiền não-nghiệp. Như kinh nói: “Tập khí do thuận theo phiền não-nghiệp mà có”. Sai biệt do nghiệp thiện… huân tập. Như kinh nói: “Tập khí do thuận theo pháp thiện-bất thiện-vô ký mà có”. Sai biệt do trung ấm huân tập. Như kinh nói: “Tập khí do thân sau mà có”. Sai biệt do cùng với thứ tự của quả huân tập. Như kinh nói: “Tập khí do thứ tự theo đuổi mà có”. Sai biệt do nhân của thiền lìa thế gian huân tập: Huân tập do nhập từ xa, không đoạn trừ phiền não cùng sự lôi kéo của chúng. Như kinh nói: “Tập khí do vào sâu, không đoạn trừ phiền não lôi kéo mà có”. Sai biệt do sự huân tập từ hành giải thoát của đồng pháp dị đạo. Như kinh nói: “Tập khí do có thật-không thật mà có”. Sai biệt do sự huân tập của Thừa. Như kinh nói: “Tập khí của các hàng Nhị thừa, Bồ-tát…, thảy đều nhận biết đúng như thật”. Thế nào là sai biệt trong rừng rậm của hành ba Tụ? Kinh: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về ba Tụ chúng sinh với các tướng: Tướng chính định-tướng tà định. Tướng bất định lìa cả hai loại. Tướng chính kiến-chính định. Tướng tà kiến-tà định. Tướng bất định lìa cả hai loại. thật. Tướng năm nghịch tà định. Tướng năm căn chính định. Tướng bất định lìa cả hai loại. Tướng tám tà-tà định. Tướng chính vị-chính định. Tướng bất định, lại không tạo tác cho nên lìa cả hai loại. Tướng tà định với hành ác keo kiệt, ganh ghét không chuyển. Tướng chính định tu tập Thánh đạo vô thượng. Tướng bất định lìa cả hai loại, Bồ-tát đều nhận biết đúng như Này Phật tử! Bồ-tát tùy thuận với trí như vậy, gọi là an trú trong địa Thiện tuệ của bậc Bồ-tát”. Luận: Sai biệt trong rừng rậm của hành ba Tụ chúng sinh, có năm loại: Sai biệt về pháp có Niết-bàn và pháp không có Niết-bàn trong ba Thừa luôn luôn xác định. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về ba Tụ chúng sinh với các tướng…”. Sai biệt do nhân quả của hành thiện-ác. Như kinh nói: “Tướng chính kiến-chính định. Tướng tà kiến tà định. Tướng bất định lìa cả hai loại”. Sai biệt do nhân của cõi Thiện-cõi Ác. Như kinh nói: “Tướng năm nghịch tà định. Tướng năm căn chính định. Tướng bất định lìa cả hai loại”. Sai biệt do nhân của hàng Nhị thừa, ngoại đạo. Như kinh nói: “Tướng tám tà-tà định. Tướng chính vị chính định. Tướng bất định lại không tạo tác cho nên lìa cả hai loại”. Sai biệt do sự thị hiện của Bồ-tát. Như kinh nói: “Tướng tà định với hành ác keo kiệt, ganh ghét không chuyển. Tướng chính định tu tập đạo Thánh vô thượng. Tướng bất định lìa cả hai loại”. Xả bỏ các chúng sinh có thể giáo hóa, gọi là ganh ghét đố kî. Không vui thích bố thí của cải cho kẻ khác, gọi là keo kiệt. Có thể gây đau khổ cho kẻ khác là hành ác không chuyển. Các pháp Ba-la-mật của Bồ-tát trái với tà định. Bồ-tát đạt được như vậy gọi là thành tựu phương tiện của Pháp sư, thành tựu về trí, thành tựu về nhập hành. Thành tựu ba sự việc ấy, là khéo an trú trong địa này. Như kinh nói: “Này Phật tử! Bồ-tát tùy thuận với trí như vậy gọi là an trú trong địa Thiện tuệ của bậc Bồ-tát”. Thế nào là thành tựu về thuyết giảng, ban cho chúng sinh phương tiện giải thoát? Kinh nói: “Bồ-tát ấy, an trú trong địa Thiện tuệ của bậc Bồ-tát này rồi, nhận biết đúng như thật về tướng sai biệt trong các hành của chúng sinh như vậy, tùy theo sự giải thoát mà trao cho họ nhân duyên. Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về các pháp: Giáo hóa chúng sinh. Cứu độ chúng sinh. Thuyết giảng về Thừa Thanh văn. Thuyết giảng về Thừa Bích-chi-Phật. Thuyết giảng về Thừa Bồ-tát. Thuyết giảng về địa của Như Lai. Bồ-tát ấy, nhận biết như vậy rồi, đúng như thật, vì chúng sinh thuyết pháp khiến cho họ được giải thoát. Tùy theo sự sai biệt của tâm, của sử, của căn, của lòng tin, của cảnh giới, vô số hành của tập khí, tùy thuận với trí của hết thảy cảnh giới, tùy thuận với vô số hành tính, tùy theo tập khí của phiền não-nghiệp sinh khởi, chuyển biến, tùy theo sự sai biệt của các Tụ, tùy theo niềm tin với Thừa, đều vì tất cả mà thuyết pháp khiến cho được giải thoát”. Luận: Thành tựu về thuyết giảng; là tùy vào sự giải thoát mà ban cho họ nhân duyên. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy an trú trong địa Thiện tuệ…”. Thành tựu về thuyết giảng, lại có ba loại tướng chỉ rõ: Thành tựu về trí. Thành tựu về khẩu nghiệp. Thành tựu về Pháp sư. Thành tựu về trí: Tùy theo những gì được nhận biết, những gì được nương dựa mà thuyết giảng về ấy, nên biết. Thế nào là tùy theo những gì được nhận biết để thuyết giảng? Tức là năng lực giải thoát được thành thục. Thể giải thóat đúng lúc được hóa độ. Sai biệt của sự giải thoát là do sự sai biệt của ba Thừa. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về pháp giáo hóa chúng sinh, cho đến nhận biết đúng như thật pháp thuyết giảng về địa của Như Lai”. Thế nào là tùy theo những gì được nương dựa để thuyết giảng? Tức là pháp được thuyết giảng luôn phù hợp với năng lực thọ nhận của căn cơ, tùy theo căn cơ phải hóa độ, để trao cho pháp đối trị, nghĩa này được nói đến trong hai câu. Thành tựu năng lực thọ nhận pháp đã thuyết giảng, tùy theo căn trí, tùy theo sự tin tưởng, mà vì họ thuyết giảng pháp, nghĩa này cũng có hai câu nói rõ. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết như vậy rồi đúng như thật, vì chúng sinh thuyết giảng chính pháp, khiến cho họ được giải thoát. Tùy theo sự sai biệt của tâm, của sử, của căn, của lòng tin…”. Theo thí dụ để hiểu về năng lực thọ nhận giáo pháp, như kinh nói: “Tùy theo cảnh giới sai biệt, tùy theo vô số hành của tập khí”. Tùy theo vô số hành khác của năng lực thọ nhận, như kinh nói: “Tùy thuận với trí của hết thảy cảnh giới”. Cho đến có thể thành tựu năng lực thọ nhận giáo pháp, như kinh nói: “Tùy thuận với vô số hành tính”. Tùy theo sự biện giải về ngôn từ của năng lực thọ nhận, từ đó phiền não của nghiệp sinh khởi huân tập cùng hành. Như kinh nói: “Tùy theo tập khí của phiền não-nghiệp sinh khởi và chuyển biến”. Tùy theo căn định, bất định chuyển biến của năng lực thọ nhận, như kinh nói: “Tùy theo sự sai biệt của các Tụ”. Tùy theo nhân của Thừa có thể hiện bày sự hành hóa của năng lực thọ nhận, như kinh nói: “Tùy theo niềm tin với Thừa khiến cho được giải thoát, mà vì họ thuyết giảng giáo pháp”. Thế nào là thành tựu trí nghiệp? Kinh: “Bồ-tát ấy, trú trong địa Thiện tuệ của bậc Bồ-tát, lược nói về việc làm đại Pháp sư, trú trong nghĩa thâm diệu của bậc đại Pháp sư, giữ gìn pháp tạng của chư Phật”. Luận: Ở đây, sự thuyết giảng, sự thọ trì, được chỉ rõ trong hai câu: Trú trong nghĩa thâm diệu của bậc đại Pháp sư; có hai mươi loại có thể làm sự việc của bậc Pháp sư. Một là thời. Hai là ý chân chính. Ba là nhanh chóng. Bốn là tương tục. Năm là dần dần. Sáu là thứ tự. Bảy là câu nghĩa theo đúng thứ tự. Tám là chỉ rõ. Chín là vui mừng. Mười là khuyến khích. Mười một là đầy đủ các đức. Mười hai là không chê bai. Mười ba là không loạn động. Mười bốn là như pháp. Mười lăm là thuận theo đại chúng. Mười sáu là có tâm Từ. Mười bảy là tâm an ổn. Mười tám là có tâm thương xót. Mười chín là không đắm theo lợi dưỡng và danh tiếng. Hai mươi là không tự tán dương mình, chê bai kẻ khác. Thời: là không có tám nạn. Như kệ nói: Như lòng vua buồn phiền, Bệnh giận theo các dục, Hiểm xứ không thị vệ, Nịnh thần chẳng trung lương. Tám nạn luôn như vậy, Trì thần không nên nói, Tâm vua cũng như vậy, Trái thời không nên nói. Ý chân chính: tức là an trú oai nghi chính đáng, không phải là trú không chính đáng. nghĩa này như vậy nào? Mình đứng người ta ngồi thì không nên vì họ mà thuyết pháp. Các sự việc như vậy, trong Giới kinh đã nêu giảng rộng khắp. Vì sao? Vì chư Phật Bồ-tát luôn kính trọng pháp. Do kính trọng pháp nên khiến cho người khác sinh tâm tôn trọng. Khi nghe pháp phải cung kính thâu nhiếp tâm tư lắng nghe. Nhanh chóng (Đốn): là ý chân chính của Bồ-tát, vì tất cả chúng mà thuyết tất cả pháp, lìa bỏ cấu nhiễm do keo kiệt trong việc giảng pháp. Tương tục: thuyết giảng không ngừng nghỉ, xả bỏ tâm ý đố kî trong các pháp. Dần dần: tức là theo như thứ tự của câu chữ mà giảng. Thứ tự: tức là theo thứ tự trong nghĩa của câu chữ để thuyết giảng. Câu nghĩa theo đúng thứ tự: là giảng pháp đồng nghĩa chứ không giảng pháp không đồng nghĩa. Chỉ rõ: tức là chỉ rõ những điều cần phải chỉ rõ. Vui mừng: tức là vui mừng với điều nên vui mừng. Khuyến khích: nghĩa là đối với các chúng sinh khiếp nhược thì hỗ trợ khiến cho họ được dũng mãnh. Đầy đủ các đức: tức là hiện trí-tỷ trí, sự chứng đắc về pháp vô tỷ đều trình bày đầy đủ. Không chê bai: tức là tùy thuận đạo thiện để thuyết giảng. Không loạn động: là không động, không lẫn lộn, chính thức hội nhập trong chốn thích hợp. Như pháp: là giảng đầy đủ về bốn Thánh đế. Thuận theo đại chúng: tức là đối với bốn chúng, tám bộ, tùy theo những gì cần nghe để mà thuyết pháp thích hợp. Mười lăm loại tướng như vậy, Bồ-tát tùy thuận để làm lợi ích cho kẻ khác mà thuyết giảng tất cả pháp. Tâm từ: là đối với các chúng sinh oán ghét, dấy khởi tâm Từ mà thuyết giảng pháp. Tâm an ổn: là ở trong chỗ ác với chúng sinh hành ác, khởi tâm làm lợi ích để giảng pháp. Tâm thương xót: là đối với các chúng sinh thọ khổ-vui, khởi tâm thương xót, làm lợi lạc, vì họ mà thuyết pháp. Không đắm theo lợi dưỡng và danh tiếng: tức là tâm không mong cầu mà luôn hành xa lìa. Không tự tán dương mình-chê bai kẻ khác: tức là lìa bỏ ngã mạn, các thứ tùy phiền não như ganh ghét, vì chúng sinh mà giảng nói pháp. Năm loại tướng như vậy, Bồ-tát làm thanh tịnh cho tự tâm. Đầy đủ hai mươi sự việc ấy thì có thể làm Pháp sư. Đó gọi là an trú trong nghĩa thâm diệu của bậc đại Pháp sư. Như vậy đã nói về thành tựu trí trong sự thành tựu về thuyết giảng. Thế nào là thành tựu về khẩu nghiệp? Kinh: “Thông đạt về phương tiện của vô lượng trí, bốn Trí vô ngại, dấy khởi ngôn từ của Bồ-tát để giảng pháp. Bồ-tát ấy ngày đêm luôn phát huy bốn Trí vô ngại. Những gì là bốn? Đó là Pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, Từ vô ngại và Lạc thuyết vô ngại”. Luận: Thành tựu về khẩu nghiệp; tức là Bồ-tát dùng bốn loại ngôn từ-âm thanh vô ngại để thuyết pháp. Như kinh nói: “Thông đạt về phương tiện của vô lượng trí…” cho đến “Lạc thuyết vô ngại”. Không hoại (phát huy); tức là không động. Cảnh giới của bốn vô ngại là: Thể của pháp. Thể cảnh giới của pháp. Chính thức đạt được để ban cho chúng sinh. Chính thức cầu đạt cùng với vô lượng môn. Thể của pháp: tức là xa lìa hai phía thuộc về sinh-pháp, như tướng ngăn ngại của sắc… Thể cảnh giới của pháp: tức là Bồ-tát, trong việc lìa xa hai phía thuộc về sinh-pháp, trí nhận biết đúng như thật về cảnh giới. Bồ-tát ở trong cảnh giới của trí như vậy mà nhận biết chỗ thâu nhiếp của sinh- pháp-trú như sắc. Thế nào là sắc? Là những phân biệt hư vọng của nhẫn sắc… Chính thức đạt được để ban cho chúng sinh: tức là ở trong cảnh giới của trí như thật kia, tùy theo người khác mà hoan hỷ thuyết giảng, biết chính xác tùy theo người khác mà thuyết giảng, biết chính xác mà trao cho họ. Chính thức cầu đạt cùng với vô lượng môn: là Bồ-tát, tùy theo người khác mà hoan hỷ nói năng, biết chính xác vô lượng các loại ngữ nghĩa, tùy theo sự nhận biết mà trao cho họ. Bốn trí vô ngại này có mười loại sai biệt: Dựa vào tự tướng. Dựa vào đồng tướng. Tướng hành. Tướng thuyết. Tướng trí. Tướng không có ngã mạn. Tướng Tiểu thừa-Đại thừa. Tướng của địa Bồ-tát. Tướng của địa Như Lai. Tướng làm trú trì. Năm tướng sau là tướng tịnh. Thế nào là tự tướng? Kinh: “Bồ-tát ấy, dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về tự tướng của các pháp. Dùng trí của nghĩa vô ngại để nhận biết về tướng sai biệt của các pháp. Dùng trí của Từ vô ngại để nhận biết về việc thuyết các pháp không hoại. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại để nhận biết về việc thuyết giảng thứ tự các pháp theo thứ tự không gián đoạn”. Luận: Tự tướng; có bốn loại: Tự tướng của sinh pháp. Tự tướng sai biệt. Tự tướng kiên cố của tưởng. Tự tướng sai biệt của tưởng kia. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, dùng trí của Pháp vô ngại…”. Thuyết không hoại; là tùy theo sự biết rõ về các tướng, tùy theo các chúng sinh kia mà thuyết giảng vô số các loại pháp. Thuyết thứ tự không gián đoạn; tức là thứ tự không dứt, số lượng hết sức nhiều, với tên gọi khác là kiên cố theo nghĩa kia. Thế nào là đồng tướng? Kinh: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về các pháp là không có Thể tính. Dùng trí của nghĩa vô ngại để nhận biết về tướng sinh diệt của các pháp. Dùng trí của Từ vô ngại để nhận biết về các pháp là giả danh, nhưng thuyết pháp không đoạn trừ giả danh. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại, tùy theo giả danh mà nêu giảng không hoại vô biên pháp”. Luận: Ở đây, đồng tướng có bốn loại: Đồng tướng của tất cả pháp. Đồng tướng của tất cả pháp hữu vi. Đồng tướng của tất cả pháp giả danh. Đồng tướng giả danh của giả danh. Như kinh nói: “Lại nữa, dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết các pháp là không có Thể tính… cho đến: dùng trí của lạc thuyết vô ngại, tùy theo giả danh nêu giảng không hoại vô biên pháp mà”. Trong đó, môn vô thường nhập vào trong nghĩa Vô ngã, đồng tướng thứ hai là thành tựu cảnh giới của trí thứ nhất. Nhận biết các pháp là giả danh nhưng thuyết pháp không đoạn trừ giả danh; tức là pháp giả danh thì dùng những pháp giả danh khác để nêu giảng. Tùy theo giả danh, không hoại vô biên pháp: Tức là không hoại giả danh trước, mà có thể nêu giảng về giả danh khác. Thế nào là tướng hành? Kinh: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về sự sai biệt trong các pháp hiện tại. Dùng trí của nghĩa vô ngại để nhận biết về sự sai biệt trong các pháp quá khứ vị lai. Dùng trí của Từ vô ngại để nhận biết về các pháp quá khứ-hiện tại-vị lai, mà thuyết pháp không hoại. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại trong mỗi mỗi đời đạt được vô lượng pháp sáng cho nên thuyết pháp”. Luận: Tướng hành có bốn loại: Tướng hành sinh. Tướng hành đã sinh-chưa sinh. Tướng hành của vật giả danh. Tướng hành nói về sự. Như kinh nói: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại…”. Mỗi mỗi đời trong đời hiện tại-quá khứ-vị lai, tất cả đều do thế gian thâu nhiếp, nên biết. Thấy đời quá khứ-vị lai, nhận biết về đời hiện tại. Như vậy Bồ-tát ấy đã thành tựu về cảnh giới của trí. Tướng của hành sự không ra ngoài ba đời, nên biết. Vô lượng pháp sáng; là pháp sáng sai khác rất nhiều chủng loại, nên biết. Thế nào là tướng thuyết giảng? Kinh: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về các pháp sai biệt. Dùng trí của nghĩa vô ngại để nhận biết về nghĩa sai biệt của các pháp. Dùng trí của Từ vô ngại, tùy theo các loại ngôn từ-âm thanh, vì chúng sinh mà giảng nói pháp. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại, tùy theo sự ưa thích hiểu biết, vì họ mà giảng pháp”. Luận: Tướng thuyết giảng; có bốn loại: Tướng thuyết giảng kinh. Tướng thuyết giảng giải thích kinh. Tướng tùy thuận thuyết giảng. Tướng thuyết giảng tương tự. Như kinh nói: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về các pháp sai biệt…”. Ở đây, tùy theo các loại ngôn từ-âm thanh mà thuyết giảng: tức là tùy theo ngôn ngữ-âm thanh của các chúng sinh kia mà giảng. Tùy theo sự ưa thích hiểu biết mà thuyết giảng: là tùy theo tâm niệm hiện có của các chúng sinh, cho đến tùy theo vô số thí dụ hiện có mà thuyết giảng. Thế nào là tướng trí? Kinh: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại, dùng Pháp trí để nhận biết các pháp sai biệt không hủy hoại phương tiện. Dùng trí của nghĩa vô ngại, dùng trí so sánh để nhận biết đúng như thật về các pháp sai biệt. Dùng trí của Từ vô ngại, dùng chính kiến của trí thế gian để thuyết pháp. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại, dùng phương tiện của trí đệ nhất nghĩa mà thuyết pháp”. Luận: Tướng trí: có bốn loại: Trí hiện thấy. Trí so sánh. Trí muốn đạt được phương tiện. Trí đạt được. Như kinh nói: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại, dùng Pháp trí để nhận biết các pháp sai biệt không hủy hoại phương tiện…”. Ở đây, Pháp trí: tức là nhận biết về đế sai biệt, không khác với phương tiện. Pháp trí sai biệt không hủy hoại phương tiện. Trí so sánh: như sự phân biệt đúng như thật ở đây, thì các trường hợp khác cũng như vậy. Trí so sánh nhận biết đúng như thật về đế sai biệt. Phương tiện của trí đệ nhất nghĩa: tức là không phải dị thuyết điên đảo nên biết! Thế nào là tướng không có ngã mạn? Kinh: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về một tướng không hoại của các pháp. Dùng trí của nghĩa vô ngại để nhận biết về phương tiện tích tập nhân duyên của ấm-giới-nhập-đế. Dùng trí của Từ vô ngại để nhận biết về chỗ quy kính của tất cả thế gian đối với âm thanh-câu chữ thiện diệu mà thuyết pháp. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại mà thuyết về vô lượng pháp minh càng trở nên thù thắng để thuyết pháp.” Luận: Tướng không có ngã mạn; có bốn loại: Tướng không có ngã mạn của Đệ nhất nghĩa đế. Tướng không có ngã mạn của Thế đế. Tướng không có ngã mạn nói về sự tốt đẹp. Tướng không có ngã mạn nói về vô thượng. Như kinh nói: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về một tướng không hoại của các pháp…”. Một tướng không hoại: tức là Vô ngã không hoại. Ngã nhận biết về Vô ngã. Ngã chứng đắc về vô ngã. Như vậy, hủy hoại các ấm đều là phương tiện tiến vào vô ngã. Vì vậy, Bồ-tát ấy đã thành tựu cảnh giới của trí. Tích tụ về chấp ngã. Chấp về nhân khác. Chấp vào dục. Chấp vào tạo tác. Đối trị các điều này theo thứ tự như vậy, đều là ấm cùng phương tiện nên biết! Thế nào là tướng của Tiểu thừa-Đại thừa? Kinh: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về các pháp không có sai biệt, thâu nhiếp trong một Thừa. Dùng trí của nghĩa vô ngại để nhận biết và phân biệt các môn sai biệt của các Thừa. Dùng trí của Từ vô ngại để có thể nói về các Thừa không hoại. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại, đối với mỗi mỗi Thừa giảng về vô lượng pháp sáng”. Luận: Tướng của Tiểu thừa-Đại thừa: có bốn loại: Tướng quán. Tướng tính. Tướng giải thoát. Tướng niệm. Như kinh nói: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về các pháp không có sai biệt, thâu nhiếp trong một Thừa…”. Nhận biết các pháp không có sai biệt, thâu nhiếp trong một Thừa; tức là nhất quán không khác, nên biết. Có thể giảng về các Thừa không hoại; tức là dựa vào chỗ đồng giải thoát, dứt mọi sợ hãi. Nêu bày về vô lượng pháp sáng; tức là vô số các thứ pháp sáng, phân biệt nêu giảng, tùy theo chúng sinh có thể hóa độ, dựa vào vô số niệm hành mà thuận theo giải thoát. Thế nào là tướng của Địa Bồ-tát? Kinh: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về pháp hành-trí hành, tùy theo trí hành nhập của tất cả Bồ-tát. Dùng trí của nghĩa vô ngại để nhận biết và phân biệt nói về nẻo nhập sai biệt trong nghĩa của mười địa. Dùng trí của Từ vô ngại để nói về chỗ tùy thuận các địa không hoại. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại để nói về vô lượng tướng của mỗi mỗi địa”. Luận: Tướng của địa Bồ-tát: có bốn loại: Tướng trí. Tướng thuyết giảng. Tướng cùng với phương tiện. Tướng nhập vào vô lượng môn. Như kinh nói: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về pháp hành-trí hành, tùy theo trí hành nhập của tất cả Bồ-tát…”. Hành của tất cả Bồ-tát: tức là chỉ rõ về pháp hành-trí hành và trí quán. Mười địa sai biệt: là tâm nêu bày, miệng nói, nên biết! Nêu bày không hoại và tùy thuận các địa: là sự chỉ dạy trao truyền không điên đảo. Thế nào là tướng của địa Như Lai? Kinh: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về tất cả Phật, trong khoảng một niệm, chứng đắc chính giác. Dùng trí của nghĩa vô ngại, nhận biết về chỗ sai biệt trong sự tướng của vô số thời. Dùng trí của Từ vô ngại, tùy theo sự sai biệt của chính giác mà giảng. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại, đối với mỗi mỗi câu pháp, thuyết giảng trong vô lượng kiếp mà không cùng tận”. Luận: Tướng của địa Như Lai: có bốn loại: Tướng pháp thân. Tướng sắc thân. Tướng chính giác. Tướng thuyết giảng. Như kinh nói: “Lại nữa! Dùng trí của Pháp vô ngại để nhận biết về tất cả Phật, trong khoảng một niệm, chứng đắc chính giác…”. Thời: tức là tùy theo trong những kiếp nào, thành tựu những Phật sự gì, tùy theo những cõi Phật nào, tùy theo thân tướng của những vị Phật nào, tùy theo danh hiệu được thọ ký mà có thể thấy nghe. Tùy theo chính giác: tức là dựa vào mười hiệu Phật như chính giác, nên biết. Thế nào là tướng làm trú trì? Kinh: “Lại nữa, dùng trí của Pháp vô ngại, nhận biết về ngôn ngữ-lực-vô úy-pháp bất cộng của Phật, Đại Bi-trí hành vô ngại-chuyển pháp luân của tất cả chư Phật tùy thuận với trí Nhất thiết trí. Dùng trí của nghĩa vô ngại, nhận biết về pháp tùy thuận trong âm thanh của Như Lai hiện bày tám vạn bốn ngàn loại, tùy theo chỗ sai biệt về tâm, căn, sự tin tưởng của chúng sinh. Dùng trí của từ vô ngại, nhận biết về nẻo hành của hết thảy chúng sinh, dùng âm thanh bất hoại của Như lai thuyết giảng. Dùng trí của Lạc thuyết vô ngại, dùng trí hành thần thông viên mãn của chư Phật, tùy theo sự tin tưởng mà thuyết pháp”. Luận: Tướng làm trú trì: có bốn loại: Tướng giác ngộ. Tướng sai biệt. Tướng thuyết giảng. Tướng vô lượng. Như kinh nói: “Lại nữa, dùng trí của Pháp vô ngại, nhận biết về ngôn ngữ-lực-vô úy-pháp bất cộng của Phật…”. Ngôn ngữ của Phật: tức là khả năng thuyết pháp. Lực: tức là khả năng phá trừ chúng sinh kiêu mạn. Vô úy: là khả năng hàng phục các ngoại đạo. Pháp bất cộng của Phật: tức là pháp không đồng với hàng Nhị thừa của Phật. Đại Bi: tức là luôn có thể thuyết pháp. Trí hành vô ngại: tức là dựa vào chúng sinh để thuyết pháp của Bồ-tát. Chuyển pháp luân: là tùy thuận thuyết pháp. Tất cả sự việc ấy thì trí Nhất thiết trí đều nhận biết, thông tỏ. Tùy tâm: là tùy theo tâm tính, nên biết! Trí hành thần thông viên mãn của chư Phật; tức là Pháp thân của chư Phật với hành này làm lợi ích cho chúng sinh, mà hành không thể hoại. Nói viên mãn là tùy theo sự tin tưởng của chúng sinh, chỉ rõ sự Lạc thuyết vô tận của Bồ-tát. Như vậy đã nói xong về phần thành tựu khẩu nghiệp. Thế nào là thành tựu sự tự tại của bậc Pháp sư? Hiện rõ trong bốn việc: Thành tựu về tổng trì. Thành tựu về thuyết giảng. Thành tựu về hỏi-đáp. Thành tựu về thọ trì. Thế nào là thành tựu về Tổng trì? Kinh: “Này Phật tử! Bồ-tát khéo nhận biết về trí vô ngại như vậy, an trú trong Địa thứ chín của bậc Bồ-tát, gọi là đạt được tạng pháp của chư Phật, có thể làm đại Pháp sư, chứng đắc các Đà-la-ni nghĩa, các Đà-la-ni Pháp, khởi Đà-la-ni Trí, Đà-la-ni Quang minh, Đà-la-ni Thiện ý, Đà-la-ni Chúng tài, Đà-la-ni Uy đức, Đà-la-ni vô chướng ngại môn, Đà-la-ni Vô lượng, Đà-la-ni Đắc chủng chủng nghĩa. Chứng đắc các môn Đà-la-ni, đầy đủ mười A-tăng-kỳ trăm ngàn môn Đà-la-ni như vậy, đầy đủ mười A-tăng-kỳ trăm ngàn phương tiện âm thanh như vậy, gồm đủ mười A-tăng-kỳ trăm ngàn vô lượng môn Tín-lạc, thuyết pháp sai biệt như vậy, Bồ-tát ấy chứng đắc mười A-tăng-kỳ trăm ngàn vô lượng môn Đà-la-ni như vậy, có thể ở tại trú xứ của vô lượng chư Phật mà nghe pháp, nghe rồi không quên, như pháp đã nghe, có thể dùng vô lượng môn sai biệt, vì mọi người mà diễn nói”. Luận: Thành tựu về Tổng trì: có mười loại Đà-la-ni: Đà-la-ni nghĩa. Như kinh nói: “Chứng đắc các Đà-la-ni nghĩa”. Đà-la-ni Nghe pháp. Như kinh nói: “Chứng đắc các Đà-la-ni Pháp”. Đà-la-ni Trí. Như kinh nói: “ Khởi Đà-la-ni Trí”. Đà-la-ni Phóng quang. Như kinh nói: “Đà-la-ni Quang minh”. Đà-la-ni hàng phục kẻ khác. Như kinh nói: “Đà-la-ni Thiện ý”. Đà-la-ni cúng dường Như Lai, bố thí để thâu nhiếp dẫn dắt các chúng sinh bần cùng. Như kinh nói: “Chứng đắc Đà-la-ni Chúng tài”. Đà-la-ni ở trong pháp Đại thừa, đối với các chúng sinh thấp kém, chỉ dạy làm lợi ích. Như kinh nói: “Đà-la-ni Uy đức”. Đà-la-ni Biện tài không đoạn. Như kinh nói: “Chứng đắc Đà-la- ni Vô chướng ngại môn.” Đà-la-ni lạc thuyết vô tận. Như kinh nói: “Chứng đắc Đà-la-ni Vô lượng”. Đà-la-ni lạc thuyết vô số loại nghĩa. Như kinh nói: “Đạt được Đà-la-ni Đắc chủng chủng nghĩa… cho đến. Như pháp đã nghe, có thể dùng vô lượng môn sai biệt vì mọi người mà diễn nói”. Phần văn kinh còn lại đã nói về: Thành tựu về thuyết giảng. Thành tựu về hỏi đáp. Thành tựu về thọ trì. Như trong kinh nói, nên biết! Vì dễ hiểu cho nên không giải thích. Các phần khác như trước đã nói. Kinh: “Bồ-tát ấy, đối với một Đức Phật, dùng mười A-tăng-kỳ trăm ngàn môn Đà-la-ni để nghe-nhận giáo pháp. Như từ một vị Phật, nhận nghe giáo pháp, đối với vô lượng vô biên chư Phật khác cũng lại như vậy. Bồ-tát ấy, vào lúc lễ kính Phật, mà nghe về môn pháp minh thì có thể tiếp nhận, không phải như hàng Thanh văn học nhiều, đạt được diệu lực của đại Đà-la-ni, ở trong mười vạn kiếp mà có thể thọ trì, hành hóa. Bồ-tát ấy, đạt được diệu lực của Đà-la-ni, diệu lực của trí vô ngại nhạo thuyết như vậy để giảng nói giáo pháp. Khi thuyết pháp, ở tại pháp tòa, hiện khắp hết thảy ba ngàn đại thiên thế giới, tùy theo sự sai biệt trong tâm của chúng sinh mà giảng nói. Pháp tòa của Bồ-tát ấy, chỉ trừ chư Phật và Bồ-tát được thọ ký, thì đối với tất cả thật là thù thắng tột bật, nhờ đạt được vô lượng pháp minh. Bồ-tát ấy, ở tại pháp tòa, hoặc dùng một âm thanh để giảng nói, khiến cho hết thảy đại chúng đều có thể hiểu rõ, liền được hiểu rõ. Hoặc dùng các loại âm thanh để thuyết giảng, khiến cho tất cả đại chúng đều có thể mở bày thông tỏ, liền được mở bày thông tỏ. Hoặc chỉ phóng ra ánh sáng để thuyết giảng, khiến cho hết thảy đại chúng đều có thể hiểu pháp, liền được hiểu pháp. Hoặc dùng tất cả lỗ chân lông nơi thân đều phát ra pháp âm. Hoặc dùng mọi thứ sắc, vật hiện có trong ba ngàn đại thiên thế giới cùng phát ra pháp âm. Hoặc dùng một âm thanh hiện khắp hết thảy pháp giới đều khiến cho được hiểu. Hoặc dùng tất cả âm thanh làm pháp thanh trú trì. Hoặc đối với hết thảy âm thanh của âm nhạc ca vịnh trong mọi thế giới, đều phát ra pháp âm. Hoặc ở trong âm thanh của một chữ phát ra âm thanh của câu chữ của tất cả pháp, mọi sự sai biệt đều được nêu giảng. Hoặc ở trong thế giới không thể nói hết, với vô lượng vi trần vi tế sai biệt tích tụ khắp bốn đại địa-thủy-hỏa-phong, trong mỗi mỗi vi trần, có các pháp môn không thể nói hết, Bồ-tát thảy đều có thể nêu giảng. Bồ-tát ấy, đối với mọi chúng sinh hiện có trong ba ngàn đại thiên thế giới, trong một niệm, cùng lúc nêu vấn nạn, mỗi mỗi chúng sinh kia dùng vô lượng âm thanh sai biệt để nêu vấn nạn, như một người thưa hỏi, những người còn lại đều thưa hỏi việc khác. Bồ-tát ấy, trong khoảng một niệm, đều tiếp nhận các thứ vấn nạn như vậy, chỉ dùng một âm thanh đều khiến cho họ thông tỏ. Như vậy, hai ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc ba-bốn- năm, hoặc mười-hai mươi-ba mươi-bốn mươi-năm mươi, hoặc một trăm ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc một ngàn ba ngàn đại thiên thế giới. Hoặc một vạn, mười vạn, một trăm vạn, hoặc một ức ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc mười ức-trăm ngàn vạn ức na-do-tha, cho đến vô lượng vô biên ba ngàn đại thiên thế giới không thể nói hết-không thể nêu bày hết, chúng sinh đầy ắp trong ấy, trong một niệm cùng lúc nêu bày vấn nạn, mỗi mỗi chúng sinh kia dùng vô lượng âm thanh sai biệt để nêu vấn nạn, như một người thưa hỏi, những người còn lại đều thưa hỏi việc khác. Bồ-tát đó, trong một niệm đều tiếp nhận các loại vấn nạn như vậy, chỉ dùng một âm thanh để giải thích đều khiến cho mọi người hiểu rõ. Bồ-tát ấy, ở trong số lượng thế giới không thể nói-không thể bày, luôn thị hiện đầy đủ trong đó, tùy theo tâm ý, tùy theo căn trí, tùy theo sự tin tưởng, vì các chúng sinh mà nêu giảng pháp, chứng đắc pháp minh, cầu đạt mười Lực của Như Lai, hoàn thành các Phật sự, cùng với hết thảy chúng sinh làm nơi nương dựa. Bồ-tát ấy, càng thêm tinh tiến gấp bội, thâu nhiếp được trí sáng như vậy, hoặc ở tại mỗi mỗi đầu sợi lông nơi thân tướng, đều có đại hội của Như Lai nhiều như số vi trần thế giới không thể nêu bày-không thể nói hết, Đức Phật ở trong các đại hội ấy, vì chúng sinh mà giảng thuyết giáo pháp. Mỗi mỗi đức Như Lai, vì số lượng chúng sinh nhiều như số vi trần thế giới, không thể nói hết-không thể nêu bày hết, mà nói pháp. Trong tâm của mỗi mỗi chúng sinh, đều có đức Như Lai từ tâm sinh, nhiều như số vi trần thế giới không thể nói-không thể nêu bày, tùy theo tâm niệm của chúng sinh như vậy mà trao cho pháp môn. Như một Đức Phật, tất cả Phật nơi đầu mỗi mỗi sợi lông cũng lại như vậy. Như vậy, trong hết thảy pháp giới, từ trong đó sinh khởi lực dụng to lớn của sự nhớ nghó, trong khoảng một niệm, từ trú xứ của tất cả Phật, Bồ-tát thọ nhận hết thảy pháp minh mà không hề mất một câu, huống là việc thuyết giảng cho chúng sinh trong tất cả thế giới. Bồ-tát ấy, an trú trong địa Thiện tuệ của bậc Bồ-tát, càng chuyển sang, thù thắng, ngày đêm không còn có ý niệm nào khác ý ngoài niệm hội nhập cảnh giới Phật, luôn được gần gũi tất cả chư Phật, thông tỏ sự giải thoát thâm diệu của bậc Bồ-tát. Bồ-tát ấy, tùy thuận với trí như vậy, thường nhập Tam-muội, thân cận không lìa chư Phật. Ở trong mỗi mỗi kiếp được thấy vô lượng Phật, vô lượng trăm Phật, vô lượng ngàn Phật, vô lượng trăm ngàn Phật, vô lượng trăm ngàn na-do-tha Phật, vô lượng ức Phật, cho đến vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha Phật, dùng các vật cúng dường thượng diệu để cung kính cúng dường, tôn trọng, tán thán, gần gũi chư Phật, ở tại trú xứ của chư Phật, thông đạt vô số vấn nạn, vô số Đà-la-ni thuyết pháp. Bồ-tát ấy, nơi các căn thiện của mình càng chuyển sang thanh tịnh sáng tỏ. Này Phật tử! Ví như vàng ròng từ ban đầu làm ra các vật dụng trang sức cho bậc Chuyển luân Thánh vương, hoặc đeo trên cổ-cài trên đầu, thì hết thảy vật dụng trang sức hiện có của các hàng Tiểu vương trong bốn cõi thiên hạ đều không thể sánh kịp. Này Phật Tử! Như vậy, Bồ- tát trú trong địa Thiện tuệ của bậc Bồ-tát này, các căn thiện hiện có đã chuyển biến càng thêm sáng sạch, hàng Nhị thừa và các Bồ-tát địa dưới đều không thể hủy hoại. Bồ-tát ấy, căn thiện càng trở nên sáng rực, có thể soi chiếu vùng rừng rậm trong tâm phiền não của chúng sinh, soi chiếu rồi trở lại thâu nhiếp dẫn dắt. Ví như Đại Phạm Vương, trong hai ngàn thế giới, với tất cả những chốn sâu rộng, đông đúc, thảy đều có thể soi chiếu. Này Phật tử! Như vậy, Bồ-tát trú trong địa Thiện tuệ của bậc Bồ-tát này, các căn thiện hiện có đều sáng tỏ, soi chiếu vùng rừng rậm trong tâm phiền não của chúng sinh, soi chiếu thì trở lại thâu nhiếp. Bồ-tát này, trong mười Ba-la-mật, thì Lực Ba-la-mật được tăng thượng, các Ba-la-mật khác không phải là không tu tập, nhưng mà theo sức-theo phần. Này Phật tử! Đó là lược nói về địa Thiện tuệ, là Địa thứ chín của bậc Bồ-tát. Nếu nói rộng, thì ở trong vô lượng kiếp cũng không thể nói hết. Bồ-tát trú trong địa này, nhiều lần làm Đại Phạm Thiên vương, đạt uy lực lớn, làm chủ hai ngàn thế giới, trong mọi tự tại mà đạt được tự tại, hiểu biết chân chính đúng như thật là thù thắng bậc nhất khéo có thể nói rõ về hành Ba-la-mật của bậc Bồ-tát, hàng Nhị thừa và chúng sinh vấn nạn thì thuyết giảng không thể cùng tận. Các nghiệp thiện đã làm như bố trí-ái ngữ-đồng sự-lợi hành, những phước đức ấy đều không lìa niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Bồ-tát và niệm hành của Bồ-tát… cho đến không lìa niệm trí Nhất thiết chủng, trí Nhất thiết trí, thường khởi tâm này: Mình phải ở trong tất cả chúng sinh là người đứng đầu, là thù thắng, là lớn, là diệu, là vi diệu, là trên, là vô thượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, là bậc thầy, là bậc tôn quý, cho đến là chỗ nương dựa của trí Nhất thiết trí. Lại từ niệm ấy mà phát khởi hành tinh tiến. Nhờ vào lực của tinh tiến ở trong một niệm, chứng đắc các Tam- muội nhiều như số vi trần trong mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Thấy chư Phật nhiều như số vi trần trong mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Nhận biết thần lực của Phật nhiều như số vi trần trong mười A- tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có thể làm chuyển động các thế giới nhiều như số vi trần trong mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có thể đi vào các thế giới nhiều như số vi trần trong mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có khả năng soi chiếu các thế giới nhiều như số vi trần trong mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có thể giáo hóa các chúng sinh nhiều như số vi trần trong mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có thể trú thọ với số lượng kiếp nhiều như số vi trần trong mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có thể nhận biết các sự việc trong các đời quá khứ-vị lai, với số lượng kiếp mỗi đời nhiều như số vi trần trong mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có thể khéo hội nhập với các pháp môn nhiều như số vi trần trong mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Có thể biến hóa thân nhiều như số vi trần trong mười A-tăng-kỳ trăm ngàn cõi Phật. Mỗi mỗi thân có thể thị hiện các Bồ-tát nhiều như số vi trần trong mười A-tăng- kỳ trăm ngàn cõi Phật, dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thù thắng hơn hết, thì nguyện lực của Bồ-tát còn vượt hơn số lượng ấy. Thị hiện vô số các thứ thần thông, hoặc nơi thân, hoặc nơi ánh sáng, hoặc nơi mắt, hoặc nơi cảnh giới, hoặc nơi âm thanh, nơi sự hành hóa, sự trang nghiêm, sự gia hộ, hoặc tin tưởng, hoặc tạo tác. Các thần thông ấy, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể tính biết hết”.  <卷>QUYỂN 12 Địa 10: ĐỊA PHÁP VÂN Luận: Bồ-tát ở trong chín địa đã làm thanh tịnh cõi Phật và giáo hóa chúng sinh. Trong Địa thứ mười là tu hành khiến cho trí giác viên mãn, đây là điều hơn hẳn. Trong địa này có tám phần sai biệt: Phần phương tiện tạo tác viên mãn của địa. Phần Tam-muội đầy đủ. Phần được tiếp nhận quả vị. Phần nhập đại tận. Phần giải thích tên gọi của địa. Phần diệu lực thần thông hữu thượng-vô thượng. Phần ảnh tượng của địa. Phần lợi ích của địa. Thế nào là phần phương tiện tạo tác viên mãn nơi địa? Kinh: “Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này Phật tử! Nếu Bồ-tát đạt được trí vô lượng, trí khéo quán xét như vậy, cho đến trí khéo chọn lựa trong Địa thứ chín của bậc Bồ-tát, khéo hành đầy đủ pháp thanh tịnh, tích tập vô lượng pháp trợ đạo, khéo thâu nhiếp trí tuệ-đại công đức, hành rộng khắp theo tâm Đại Bi tăng thượng, nhận biết khắp về thế giới sai biệt, vào sâu vô số nẻo hành trong cảnh giới của chúng sinh, nhớ nghó và tùy thuận hội nhập trong cảnh giới hành của Như Lai, thâm nhập, hướng tới mười Lực-bốn Vô sở úy của Như Lai, mười tám pháp Bất cộng của Phật, gọi là đạt đến Trí nhất thiết chủng-Nhất thiết trí, tiếp nhận quả vị nơi địa”. Luận: Phần phương tiện tạo tác viên mãn của địa: tức là từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín với trí khéo lựa chọn về hành động, nên biết. Như kinh nói: “Phật tử! Nếu Bồ-tát đạt được trí vô lượng, trí khéo quán xét như vậy… cho đến; trí khéo lựa chọn trong Địa thứ chín của bậc Bồ-tát”. Trí khéo lựa chọn này có bảy loại tướng: Khéo tu hành: Có ba câu. Như kinh nói: “Khéo hành đầy đủ pháp thanh tịnh…”. Các câu ấy thứ tự cùng giải thích, nên biết. Tùy thuận đủ khắp về tự lợi-lợi tha. Như kinh nói: “Hành rộng khắp theo tâm Đại Bi tăng thượng”. Khiến cõi Phật thanh tịnh. Như kinh nói: “Nhận biết khắp về thế giới sai biệt”. Giáo hóa chúng sinh. Như kinh nói: “Vào sâu vô số nẻo hành trong cảnh giới của chúng sinh”. Khéo thông tỏ. Như kinh nói: “Nhớ nghó và tùy thuận hội nhập trong cảnh giới hành của Như lai”. Cảnh giới của Như lai, chính là pháp chân như Không chán đủ. Như kinh nói: “Thâm nhập hướng tới mười Lực-bốn Vô sở úy của Như Lai, mười tám pháp Bất cộng của Phật…”. Sự hội nhập tận cùng của địa. Như kinh nói: “Gọi là đạt đến trí Nhất thiết chủng Nhất thiết trí, tiếp nhận quả vị của địa”. Như vậy đã nói về phần phương tiện tạo tác viên mãn của địa. Thế nào là Phần chứng đắc Tam-muội đầy đủ? Kinh: “Này Phật tử! Bồ-tát tùy thuận hành với trí như vậy, được tiến vào tiếp nhận quả vị của địa thì Bồ-tát đạt được Tam-muội, tên gọi Tam-muội Ly cấu luôn luôn hiện tiền, tên gọi Tam-muội Ly cấu của bậc Bồ-tát luôn hiện tiền, tên gọi Tam-muội Nhập pháp giới sai biệt, tên gọi Tam-muội Trang nghiêm đạo tràng, tên gọi Tam-muội Nhất thiết chủng hoa quang, tên gọi Tam-muội Hải tạng, tên gọi Tam-muội Hải thành tựu, tên gọi Tam-muội Hư không giới quảng, tên gọi Tam- muội Thiện trạch nhất thiết pháp tính, tên gọi Tam-muội Tùy nhất thiết chúng sinh tâm hành, tên gọi Tam-muội Hiện nhất thiết chư Phật hiện tiền trú Bồ-tát… tất cả đều hiện tiền. Mười A-tăng-kỳ trăm ngàn các môn Tam-muội thượng thủ như vậy, luôn hiện tiền. Bồ-tát ấy thảy đều hội nhập vào tất cả Tam-muội đó, khéo nhận biết về phương tiện của Tam-muội, cho đến nơi hành trì chính thọ của Tam-muội. Bồ-tát này, cho đến mười A-tăng-kỳ trăm ngàn Tam-muội, Tam-muội cuối cùng đến gọi là Tam-muội Nhất thiết trí trí thọ thắng vị Bồ-tát luôn luôn hiện tiền”. Luận: Chứng đắc Tam-muội đầy đủ: tức là Tam-muội Ly cấu… cùng với quyến thuộc hiện tiền. Tam-muội Ly cấu: là lìa cấu nhiễm của phiền não. Mà luôn hiện tiền: tức là không còn tăng thêm dụng công mà tự nhiên hiện tiền. Tam-muội Ly cấu này lại có chín loại Tam-muội, lìa tám thứ cấu nhiễm, nên biết. Hội nhập nẻo sâu kín không cấu nhiễm. Như kinh nói: “Tên gọi Tam-muội Nhập pháp giới sai biệt”. Tiếp cận không cấu nhiễm. Như kinh nói: “Tên gọi Tam-muội Trang nghiêm đạo tràng”. Phóng quang không cấu nhiễm. Như kinh nói: “Tên gọi Tam- muội Nhất thiết chủng hoa quang”. Đà-la-ni không cấu nhiễm. Như kinh nói: “Tên gọi Tam-muội Hải tạng”. Khởi thần thông không cấu nhiễm. Như kinh nói: “Tên gọi Tam- muội Hải thành tựu”. Cõi Phật thanh tịnh, không cấu nhiễm; có hai câu nói về vô lượng chính quán. Như kinh nói: “Tên gọi Tam-muội Hư không giới quảng. Tên gọi Tam-muội Thiện trạch nhất thiết pháp tính”. Hóa độ chúng sinh không cấu nhiễm. Như kinh nói: “Tên gọi Tam-muội Tùy nhất thiết chúng sinh tâm hành”. chính giác không cấu nhiễm; khi thành tựu đạo quả Bồ-đề, hết thảy chư Phật lần lượt cùng hiện tiền, nhận biết. Như kinh nói: “Tên gọi Tam-muội Hiện nhất thiết chư Phật hiện tiền trú Bồ-tát, mà luôn hiện tiền”. Cho đến tên gọi Tam-muội Nhất thiết trí trí thọ thắng vị Bồ-tát, mà luôn hiện tiền: tức là trí Nhất thiết trí không phân biệt, trí Nhất thiết trí bình đẳng tiếp nhận quả vị. Khéo nhận biết về phương tiện của Tam-muội, cho đến nơi hành trì chính thọ của Tam-muội: tức là chỉ rõ việc hành trì đầy đủ các sự việc của Tam-muội. Như vậy đã nói xong phần chứng đắc Tam-muội đầy đủ. Thế nào là phần được tiếp nhận quả vị? Kinh: “Khi các Tam-muội này hiện tiền, liền có Hoa sen chúa báu lớn xuất hiện, chu vi bằng mười A-tăng-kỳ trăm ngàn Tam thiên đại thiên thế giới, hết thảy các thứ báu đều đan xen để trang nghiêm, hơn hẳn hết thảy mọi cảnh giới của tất cả thế gian, sinh ra từ căn thiện của xuất thế gian, thành tựu từ cảnh giới của hành các pháp với tính như huyễn, ánh sáng tỏa chiếu khắp hết thảy pháp giới, vượt quá mọi cảnh giới hiện có của chư Thiên. Ma ni báu đại lưu ly làm thân, chiên đàn vương không thể lường tính làm đài, báu đại mã não làm nhị, vàng Diêm-phù-đàn làm cánh hoa, thân hoa có vô lượng ánh sáng. Tất cả các thứ báu đan xen bên trong, vô lượng màng lưới báu giăng phủ khắp phía trên, dùng số lượng hoa sen nhiều như số vi trần đầy trong mười Tam thiên đại thiên thế giới làm quyến thuộc. Thành tựu đầy đủ các tướng như vậy rồi, bấy giờ thân tướng của Bồ-tát thù thắng vi diệu tương xứng với tai họa. Bồ-tát ấy, đạt được diệu lực của Tam-muội Nhất thiết trí trí thọ thắng vị, ngay lập tức thân an tọa ở trên tòa hoa sen chúa báu lớn. Lúc Bồ-tát này an tọa ở trên tòa hoa sen chúa báu lớn, bấy giờ trên các tòa hoa sen quyến thuộc của hoa sen chúa báu lớn đều có Bồ-tát, mỗi một Bồ-tát đều an tọa trên tòa hoa sen, vây quanh Bồ-tát ấy. Tất cả Bồ-tát đều đạt được mười-mười trăm ngàn Tam-muội, đều nhất tâm cung kính chiêm ngưỡng vị Đại Bồ-tát.” Luận: Được tiếp nhận quả vị; tức là tùy theo những tòa thế nào, tùy theo thân lượng thế nào, tùy theo những quyến thuộc nào, tùy theo những hình tướng nào, tùy theo nơi chốn xuất hiện thế nào, tùy theo quả vị đã đạt được. Tùy theo thuyết giảng như vậy, có sáu sự việc, nên biết. Ở đây, tòa xứ (Nơi chốn của tòa ngồi) có mười loại tướng: Tướng sinh khởi. Như kinh nói: “Khi các Tam-muội này hiện tiền, liền có hoa sen chúa báu lớn xuất hiện”. Tướng dung lượng. Như kinh nói: “Chu vi bằng mười A-tăng-kỳ trăm ngàn Tam thiên đại thiên thế giới”. Tướng thù thắng. Như kinh nói: “Hết thảy các thứ báu đều đan xen để trang nghiêm”. Tướng của địa. Như kinh nói: “Hơn hẳn hết thảy mọi cảnh của tất cả thế gian”. Tướng nhân. Như kinh nói: “Sinh ra từ căn thiện của xuất thế gian”. Tướng hành. Như kinh nói: “Thành tựu từ cảnh giới của hành các pháp với tính như huyễn.” Tướng Đệ nhất nghĩa. Như kinh nói: “Ánh sáng tỏa chiếu khắp tất cả pháp giới. “Do khéo tỏa chiếu cho nên gọi là chính quán”. Tướng công đức; hơn hẳn hết thảy chư Thiên. Như kinh nói: “Vượt quá mọi cảnh giới hiện có của chư Thiên”. Tướng thể: tức là thân, đài hoa… Như kinh nói: “Báu ma ni đại lưu ly làm thân…”. Tướng trang nghiêm đầy đủ. Như kinh nói: “Thân hoa có vô lượng ánh sáng…”. Tùy theo thân lượng thế nào; tức là thân tương xứng với tòa hoa. Như kinh nói: “Bấy giờ, thân tướng của Bồ-tát…”. Tùy theo những quyến thuộc nào. Nơi tòa ngồi này, có các tòa quyến thuộc của Hoa sen chúa báu lớn, với các Bồ-tát quyến thuộc trú ở trong ấy. Bấy giờ trên các tòa hoa sen quyến thuộc…”. Kinh: “Bồ-tát ấy, bước lên tòa hoa sen chúa báu lớn, cùng với các Bồ-tát quyến thuộc an tọa trên tòa hoa sen, nhập Tam-muội rồi. Bấy giờ, tất cả thế giới trong mười phương đều chấn động lớn, tất cả cõi Ác thảy đều dừng lại, ánh sáng tỏa chiếu khắp tất cả pháp giới, tất cả thế giới thảy đều thanh tịnh trang nghiêm, đều được thấy-nghe tất cả đại hội của chư Phật. Vì sao? Này Phật tử! Vì lùc Bồ-tát ấy an tọa trên tòa hoa sen chúa báu lớn, lập tức từ phía dưới hai chân phóng ra mười A- tăng-kỳ trăm ngàn ánh sáng, xuất hiện rồi tỏa chiếu khắp vô lượng địa ngục A-tỳ trong mười phương, diệt trừ mọi khổ não của chúng sinh. Từ hai đầu gối phóng ra mười A-tăng-kỳ trăm ngàn ánh sáng, xuất hiện rồi tỏa chiếu khắp vô lượng cõi Súc sinh trong mười phương, trừ diệt mọi thứ khổ não. Từ vùng rốn phóng ra mười A-tăng-kỳ trăm ngàn ánh sáng, xuất hiện rồi tỏa chiếu khắp vô lượng cõi Ngạ quỷ trong mười phương, diệt trừ mọi thứ khổ não. Từ hai bên hông phóng ra mười A- tăng-kỳ trăm ngàn ánh sáng, xuất hiện rồi tỏa chiếu khắp vô lượng thân người trong mười phương, diệt trừ mọi thứ khổ não. Từ hai tay phóng ra mười A-tăng-kỳ trăm ngàn ánh sáng, xuất hiện rồi tỏa chiếu khắp vô lượng cung điện của chư Thiên A-tu-la trong mười phương. Từ hai vai, phóng ra mười A-tăng-kỳ trăm ngàn ánh sáng, xuất hiện rồi tỏa chiếu khắp vô lượng bậc Thanh văn nơi mười phương. Từ cổ-lưng phóng ra mười A-tăng-kỳ trăm ngàn ánh sáng, xuất hiện rồi tỏa chiếu khắp vô lượng thân Bích-chi-Phật trong mười phương. Từ diện môn, phóng ra mười A-tăng-kỳ trăm ngàn ánh sáng, xuất hiện rồi tỏa chiếu đến vô lượng Bồ-tát trong mười phương từ hàng mới phát tâm cho đến bậc đạt được Địa thứ chín. Từ tướng bạch hào phóng ra mười A-tăng-kỳ trăm ngàn ánh sáng, xuất hiện rồi tỏa chiếu đến vô lượng thân tướng của Bồ-tát đạt được quả vị trong mười phương, trú nơi thân ấy khiến cho hết thảy cung Ma đều bị che khuất không còn hiện bày. Từ trong đỉnh đầu phóng ra mười A-tăng-kỳ trăm ngàn ánh sáng nhiều như số vi trần trong ba ngàn đại thiên thế giới, xuất hiện rồi tỏa chiếu tất cả đại hội của chư Phật trong mười phương, vòng quanh hết thảy thế giới mười vòng, trú giữa hư không, làm thành đài tròn tỏa ánh sáng lớn, gọi là Ánh sáng cao lớn, thực hiện sự cúng dường lớn để cúng dường chư Phật. Như vậy, sự cúng dường Bồ-tát từ hàng mới phát tâm cho đến bậc đạt được chín địa, so với việc cúng dường chư Phật, trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không bằng một, trăm ngàn na-do-tha phần không bằng một, ức phần không bằng một, trăm ức phần không bằng một, ngàn ức phần không bằng một, trăm ngàn ức phần không bằng một, trăm ngàn ức na-do-tha phần không bằng một, cho đến đúng toán số, thí dụ cũng không thể đạt tới. Đài tròn tỏa ánh sáng lớn này hơn hẳn mọi thứ vật dụng cúng dường hiện có trong mười phương thế giới như hoa hương, hương bột, hương đốt, hương xoa, hương tán, vòng hoa, y phục, lọng báu, cờ phướn, các thứ báu, chuỗi anh lạc, ngọc báu ma ni, vượt quá tất cả cảnh giới thế gian, bởi vì sinh ra từ căn thiện xuất thế gian. Trên mỗi mỗi đại hội của Phật đều rưới xuống các thứ báu, giống như cơn mưa lớn. Nếu có chúng sinh nào hiểu rõ việc cúng dường như vậy, thì nên biết chúng sinh ấy đều nhất định không thối chuyển đối với đại đạo vô thượng. Các thứ ánh sáng rưới xuống để cúng dường lớn như vậy rồi, tỏa chiếu đến tất cả đại hội của chư Phật trong mười phương, vòng quanh hết thảy các thế giới mười vòng rồi nhập vào dưới chân của chư Phật. Bấy giờ, chư Phật cùng các đại Bồ-tát nơi ấy, đều nhận biết trong thế giới đó có Bồ-tát danh hiệu là…, đã hành đạo Bồ-tát như vậy, đến lúc thành tựu quả vị của địa Bồ-tát. Này Phật tử! Lập tức vô lượng vô biên Bồ-tát trong mười phương, cho đến các Bồ-tát trú trong chín địa, đều đến vây xung quanh, thiết lễ cúng dường lớn, nhất tâm chiêm ngưỡng, tất cả đều đạt được mười-mười trăm ngàn Tam-muội. Các Bồ-tát chứng đắc quả vị của địa, từ nơi công đức trang nghiêm là chữ Vạn bằng kim cương ở ngực, hiện ra một vầng ánh sáng lớn, gọi là Hoại ma oán, có mười A-tăng-kỳ trăm ngàn ánh sáng dùng làm quyến thuộc, xuất hiện rồi tỏa chiếu đến vô lượng thế giới trong mười phương, hiện rõ vô lượng thần lực, cũng đến nhập vào chữ Vạn bằng kim cương ở ngực, là chốn công đức trang nghiêm của đại Bồ-tát ấy. Ánh sáng này tắt rồi, Bồ-tát ấy lập tức đạt được trăm ngàn Đại uy lực tăng thượng và công đức trí tuệ luôn luôn hiện tiền”. Luận: Tùy theo những hình tướng nào? Tức là tướng làm chuyển động tất cả thế giới. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy bước lên tòa hoa sen chúa báu lớn… cho đến: Đều được thấy nghe tất cả đại hội của chư Phật”. Tùy theo nơi chốn xuất hiện thế nào? Tức là do xuất hiện ánh sáng. Lại nữa, ánh sáng ấy có ba loại tạo tác, nên biết: Tạo tác đem lại lợi ích. Tạo tác hiện bày sự hiểu biết. Tạo tác để thâu nhiếp điều phục. Như kinh nói: “Vì sao? Này Phật tử! Bồ-tát ấy an tọa trên tòa hoa sen chúa báu lớn, lập tức từ phía dưới hai chân phóng ra mười A-tăng-kỳ trăm ngàn ánh sáng… cho đến: Công đức trí tuệ luôn luôn hiện tiền”. Nhất định không thối chuyển đối với đại đạo vô thượng; là nghĩa quyết định ở trong địa. Lại có nghĩa khác là quyết định không phóng dật, mọi sự tạo tác đều do tâm quyết định. Nơi công đức trang nghiêm là chữ Vạn bằng kim cương ở ngực; tức là giữa ngực của Bồ-tát có chữ Vạn là tướng công đức trang nghiêm kim cương, gọi là Vô tỉ (không gì có thể so sánh). Kinh: “Như vậy, này Phật tử! Bấy giờ, chư Phật từ tướng bạch hào giữa chặng mày phóng ra ánh sáng tên là “Ích Nhất Thiết Trí Thông”, có A-tăng-kỳ ánh sáng làm quyến thuộc, tỏa chiếu hết thảy thế giới nơi mười phương, không còn sót một chốn nào, vòng quanh tất cả thế giới mười vòng, thị hiện diệu lực nơi đại thần thông của chư Phật, khuyến phát vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật, hết thảy cõi nước của chư Phật khắp mười phương hiện bày sáu loại chấn động, diệt trừ khổ não của tất cả cõi Ác, hết thảy cung điện của Ma đều bị che khuất, không còn hiện hữu, thị hiện tất cả chư Phật đạt được trú xứ Bồ-đề, thị hiện sự việc thần thông trang nghiêm trong đại hội của tất cả chư Phật, chiếu sáng phạm vi của tất cả pháp giới, tất cả hư không giới, tận cùng mọi thế giới rồi quy tụ trở lại, vòng quanh vây tròn ở phía trên đại hội của tất cả Bồ-tát, thì hiện các sự việc trang nghiêm của ánh sáng đại thần thông. Ánh sáng này nhập vào đỉnh đầu của đại Bồ-tát ấy các ánh sáng quyến thuộc ấy nhập vào đỉnh đầu của các Bồ-tát an tọa trên các tòa hoa sen quyến thuộc. Lúc ánh sáng nhập vào thân tướng của Bồ-tát này các vị Bồ-tát kia đều đạt được mười, mười trăm ngàn Tam-muội mà trước đây chưa đạt. Lúc các ánh sáng kia trong một lúc nhập vào đảnh đầu của Bồ-tát ấy thì Bồ-tát ấy gọi là chứng đắc quả vị, hội nhập cảnh giới của chư Phật, đầy đủ mười Lực của Như Lai, thuộc về số lượng của Phật. Này Phật tử! Ví như Trưởng tử của Chuyển luân Thánh vương, do Ngọc nữ báu sinh ra, đầy đủ vương tướng. Chuyển luân Thánh Vương đưa con đặt trên tòa ngồi bằng vàng Diêm-phù-đàn trên lưng bạch tượng báu, lấy nước trong bốn biển lớn, phía trên giăng các màng lưới, lọng báu, phướn báu, cờ hoa, vô số các thứ trang nghiêm, tay cầm chum vàng đựng đầy nước thơm, rưới lên đỉnh đầu con trai, thì gọi là phép Quán đảnh đưa vào số của Sát Lợi vương, chuyển hóa đầy đủ bằng mười thiện đạo, cho nên được gọi là Chuyển luân Thánh vương. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát ấy, được tiếp nhận quả vị từ các đức Như Lai rồi, gọi là đạt được quả vị của trí, đầy đủ mười lực, thuộc về số lượng Phật. Này Phật tử! Đó gọi là quả vị Đại thừa trong địa của Bồ-tát. Bồ- tát vì quả vị này mà tiếp nhận thực hành vô lượng trăm ngàn vạn ức sự việc gian khổ và khó làm. Bồ-tát này đạt được quả vị này rồi, vô lượng công đức trí tuệ đầu chuyển tăng, gọi là an trú trong địa Pháp Vân của bậc Bồ-tát”. Luận: Tùy theo quả vị đã được; tức là ánh sáng của Như Lai, Bồ-tát kia lần lượt cùng nhận biết và thâu nhiếp bình đẳng. Như kinh nói: “Như vậy, này Phật tử! Bấy giờ chư Phật từ tướng bạch hào giữa chặng mày, phóng ra ánh sáng tên là Ích Nhất Thiết Trí Thông…”. Thế nào là đạt được ngôi vị như Trưởng tử của Chuyển luân Thánh vương? Như kinh nói: “Ví như trưởng tử của Chuyển luân Thánh vương…”. Bồ-tát này cùng đạt được quả vị, gọi là khéo an trú trong địa này, như kinh nói: “Bồ-tát này đạt được quả vị đó rồi, vô lượng công đức trí tuệ đều chuyển tăng…”. Như vậy đã nói về Phần được tiếp nhận quả vị. Thế nào là Phần nhập đại tận? Phần này có năm loại: Trí lớn (Đại). Giải thoát lớn. Tam-muội lớn. Đà-la-ni lớn. Thần thông lớn. Sự việc này dựa vào năm loại nghĩa để phân biệt: Dựa vào nghĩa về chính giác thật trí. Dựa vào nghĩa tâm tự tại. Dựa vào nghĩa về phát tâm liền thành tựu tất cả sự việc. Dựa vào nghĩa thuận theo việc làm lợi ích cho chúng sinh trong tất cả thế gian. Dựa vào nghĩa có thể có năng lực để hóa độ chúng sinh. Thế nào là thành tựu về trí? Kinh: “Này Phật tử! Bồ-tát ấy, trú trong địa Pháp Vân của bậc Bồ-tát, nhận biết đúng như thật về Tập của ba cõi Dục-Sắc-Vô sắc. Nhận biết đúng như thật về Tập của Chúng sinh giới, Thức giới-Hữu vi giới, Vô vi giới, Hư không giới-Pháp giới. Nhận biết đúng như thật về Tập của Niết-bàn giới. Nhận biết đúng như thật về Tập trong cảnh giới của các phiền não-tà kiến, Tập của thế giới thành-hoại; Tập trong hành của hàng Nhị thừa; Tập trong hành của Bồ-tát; Tập của pháp thân-sắc thân Phật, mười Lực-bốn Vô sở úy-mười tám pháp Bất cộng của Phật; Tập của trí Nhất thiết chủng Nhất thiết trí, Tập của việc chứng đắc Bồ- đề, chuyển pháp luân và thị hiện diệt độ. Lược nói cho đến nhận biết đúng như thật về Tập của sự hội nhập tất cả pháp thành tựu trí sai biệt. Bồ-tát ấy, dùng trí như vậy thông đạt tuệ thù thắng, nhận biết đúng như thật về sự chuyển hóa của nghiệp chúng sinh, của phiền não, của kiến giải, của thế giới, của pháp giới, của hàng Nhị thừa, của Bồ-tát, của Như Lai. Nhận biết đúng như thật về sự chuyển hóa của tất cả phân biệt-không phân biệt. Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về sự duy trì của Phật lực, của Pháp-Tăng, nghiệp-phiền não-thời, nguyện-cúng dường, hành-kiếp. Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về trí nhập vi tế hiện có của chư Phật, đó là trí nhập vi tế của hành, trí nhập vi tế thối chuyển, trí nhập vi tế vào thai-sinh ra, phát tâm xuất gia, chứng đắc Bồ- đề, chuyển pháp luân, trì thọ mạng, thị hiện Bát Niết-bàn. Nhận biết đúng như thật về trí nhập vi tế của pháp trú lâu dài. Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về mật xứ hiện có của chư Phật, đó là mật xứ của thân- khẩu-ý, mật xứ của sự trù lượng đúng thời, phi thời, mật xứ của việc thọ ký cho Bồ-tát, mật xứ của việc nhiếp phục dẫn dắt chúng sinh, mật xứ của các loại Thừa, mật xứ của tất cả căn hành sai biệt, mật xứ của tất cả niềm tin đúng như thật mà thực hiện. Nhận biết đúng như thật về mật xứ của sự hành trì chứng đắc Bồ-đề. Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về trí nhập kiếp hiện có của chư Phật, đó là một kiếp nhập vào A-tăng- kỳ kiếp, A-tăng-kỳ kiếp nhập vào một kiếp; Hữu số kiếp nhập vào Vô số kiếp, Vô số kiếp nhập vào Hữu số kiếp, một niệm kiếp nhập vào vô lượng kiếp, vô lượng kiếp nhập vào một niệm kiếp; kiếp nhập vào phi kiếp, phi kiếp nhập vào kiếp; kiếp có Phật nhập vào kiếp không Phật, kiếp không Phật nhập vào kiếp có Phật; kiếp có Phật nhập vào kiếp có Phật, kiếp không Phật nhập vào kiếp không Phật; kiếp quá khứ vị lai nhập vào kiếp hiện tại, kiếp hiện tại nhập vào kiếp quá khứ vị lai; kiếp vị lai quá khứ nhập vào kiếp hiện tại, kiếp hiện tại nhập vào kiếp vị lai quá khứ; kiếp dài nhập vào kiếp ngắn, kiếp ngắn nhập vào kiếp dài; kiếp ngắn nhập vào kiếp ngắn, kiếp dài nhập vào kiếp dài, tướng của tất cả kiếp cùng nhập. Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về trí nhập hiện có của chư Phật, đó là: Trí nhập vào nẻo phàm phu, trí nhập vào vi trần, trí Bồ-đề nhập vào thân cõi nước, trí Bồ-đề nhập vào thân tâm chúng sinh, trí Bồ-đề nhập vào tất cả xứ tùy thuộc, trí thị hiện nhập vào hành loạn động, trí thị hiện nhập vào hành thuận hợp, trí thị hiện nhập vào hành nghịch đối, trí nhập vào nghó bàn không nghó bàn, trí nhập vào thế gian xuất thế gian, trí hành thị hiện, trí nhập vào Thanh văn, trí nhập vào Bích-chi-Phật, trí Bồ-tát, trí Như Lai hành trí. Này Phật tử! Trí tuệ của chư Phật rộng lớn vô lượng vô biên như vậy, Bồ-tát trú trong địa này thì có thể được nhập vào trí tuệ như vậy”. Luận: Về trí lớn lại có bảy loại: Trí tập lớn. Trí ứng hóa lớn. Trí gia trì lớn. Trí nhập vi tế lớn. Trí mật xứ lớn. Trí nhập kiếp lớn. Trí nhập đạo lớn. Trong đó: Thứ nhất: Dựa vào diệu lực có thể đoạn trừ nghi. Nên biết! Thứ hai: Dựa vào diệu lực phát khởi thân ấy. Thứ ba: Dựa vào diệu lực của hành chuyển như vậy-như vậy. Thứ tư: Dựa vào sự tạo tác của trí bất nhị khéo tích tập-gia trì và ứng hóa của Bồ-tát. Thứ năm: Dựa vào sự hộ trì chúng sinh căn tính chưa thành thục không khiến cho kinh sợ. Thứ sáu: Dựa vào sự gia trì hành mạng với ý xả bỏ tự tại. Thứ bảy: Dựa vào ý đối trị để giảng giải. Trong này: Trí tập: là trí tích tập nhân duyên. Trí ấy lại tùy theo phần nhiễm hiện có, hoặc tịnh, hoặc vắng lặng. Tùy theo nơi chốn của ba cõi hiện có. Tùy theo chúng sinh hiện có. Tùy theo tâm nhiễm-tịnh… Tùy theo pháp hữu vi-pháp vô vi hiện có, nhận biết và không nhận biết. Tùy theo xứ-hư không hiện có. Tùy theo pháp thuyết giảng đúng-không đúng. Tùy theo sự chứng đắc-không chứng đắc, tức là đối với Niết-bàn. Tùy theo tà kiến vượt quá những ngoại đạo khác mà không thể chứng đạt. Tùy theo khí thế gian thành-hoại hiện có. Tùy theo ba Thừa hiện có. Trí ấy tích tập mọi sai biệt, nên biết! Như kinh nói: “Này Phật tử! Bồ-tát ấy, trú trong địa Pháp Vân của bậc Bồ- tát này, nhận biết đúng như thật về Tập của cõi Dục…”. Trí ứng hóa: tức là sự sai biệt tùy theo chúng sinh mà ứng hóa. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, dùng trí như vậy thông đạt tuệ thù thắng”. Nẻo hóa của phiền não tạo tác kiến chấp; tức là thị hiện sự ứng hóa phiền não cấu nhiễm tạo kiến chấp. Pháp giới hóa; tức là nẻo hành của giáo pháp được giảng nói. Sự ứng hóa về tất cả thứ phân biệt không phân biệt, đều nhận biết đúng như thật. Trí gia trì. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy nhận biết đúng như thật về sự duy trì của Phật lực… cho đến: Nhận biết đúng như thật về trí trì”. Trí trì: tức là trí Nhất thiết trí. Trí này có thể tạo ra tất cả sự việc. Trí nhập vi tế. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về trí nhập vi tế hiện có của chư Phật…”. Phấn tiến; tức là hiện hành bảy bước đi. Trí mật xứ. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về mật xứ hiện có của chư Phật…”. Trí nhập kiếp; đó là vào kiếp. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về trí nhập kiếp hiện có của chư Phật”. Nhập; tức là bình đẳng giải thoát trong tất cả kiếp, lần lượt cùng hội nhập. Trí nhập đạo; tức là dựa vào hàng phàm phu, dựa vào kẻ hành ngã mạn, dựa vào người tin cầu sinh Thiên, dựa vào giác quán. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, nhận biết đúng như thật về trí nhập hiện có của chư Phật…”. Như vậy là đã nói về bảy loại trí lớn. Thế nào giải thoát lớn? Kinh: “Này Phật tử! Bồ-tát ấy, thông đạt về nảo hành của địa này như vậy được gọi là Bồ-tát đạt môn giải thoát không thể nghó bàn, giải thoát không chướng ngại, giải thoát của trí thanh tịnh sai biệt, giải thoát của ánh sáng tỏa khắp chốn, giải thoát của Như Lai tạng, giải thoát tùy thuận luân không thối chuyển, giải thoát nơi sự hội nhập thông đạt về ba đời, giải thoát của pháp giới tạng, giải thoát của quang luân giải thoát, gọi là Bồ-tát đạt được giải thoát trọn vẹn trong tất cả cảnh giới. Này Phật tử! Bồ-tát ấy là vị đứng đầu trong mười môn giải thoát của bậc Bồ-tát, chứng đắc vô lượng vô biên trăm ngàn vạn A-tăng-kỳ môn giải thoát của bậc Bồ-tát như vậy, đều ở trong Địa thứ mười của bậc Bồ-tát mà đạt được, như vậy cho đến vô lượng vô biên trăm ngàn vạn A-tăng-kỳ Tam-muội, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn A-tăng-kỳ Đà-la-ni, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn A-tăng-kỳ thần thông, cũng lại như vậy”. Luận: Giải thoát lớn: có mười loại: Dựa vào cảnh giới của thần thông. Như kinh nói: “Phật tử! Bồ- tát ấy, thông đạt về nẻo hành của địa này như vậy…”. Có thể đi đến vô lượng thế giới với nguyện-trí vô ngại. Như kinh nói: “Giải thoát không chướng ngại”. Nhận biết về các bậc Hữu học-Vô học thế gian-xuất thế gian, các bậc thuộc hàng Nhị thừa, Bồ-tát, Như Lai với trí giải thoát. Như kinh nói: “Giải thoát của trí thanh tịnh sai biệt”. Theo ý chuyển sự. Như kinh nói: “Giải thoát của ánh sáng tỏa khắp chốn”. Đà-la-ni về pháp. Như kinh nói: “Giải thoát của Như Lai tạng”. Có thể phá trừ ngôn thuyết của kẻ khác. Như kinh nói: “Giải thoát tùy thuận luân không thối chuyển”. Tùy ý trú trì với kiếp trong ba đời. Như kinh nói: “Giải thoát của sự hội nhập thông đạt về ba đời”. Đạt trí tích tập nhân duyên trong tất cả pháp, tất cả chủng loại. Như kinh nói: “Giải thoát của pháp giới tạng”. Ánh sáng không lìa thân mà có thể tỏa chiếu khắp. Như kinh nói: “Giải thoát quả quang luân giải thoát”. Dựa vào năng lực trong một lúc nhận biết tâm niệm của các chúng sinh vô lượng thế giới. Như kinh nói: “Gọi là Bồ-tát đạt được giải thoát trọn vẹn trong tất cả cảnh giới”. Ở đây: Tam-muội lớn. Như kinh nói: “Như vậy, cho đến vô lượng vô biên trăm ngàn vạn A-tăng-kỳ Tam-muội”. Đà-la-ni lớn. Như kinh nói: “Vô lượng vô biên trăm ngàn vạn A- tăng-kỳ Đà-la-ni”. Thần thông lớn. Như kinh nói: “Vô lượng vô biên trăm ngàn vạn A-tăng-kỳ thần thông cũng lại như vậy”. Như vậy là đã nói xong Phần nhập đại tận của Thập địa. Thế nào là Phần giải thích tên gọi của địa? Kinh: “Bồ-tát ấy, thông trí tuệ đạt, tùy thuận Bồ-đề như vậy, thành tựu trọn vẹn phương tiện của vô lượng niệm lực. Bồ-tát ấy, ở trong vô lượng trú xứ của Phật khắp mười phương, trong vô lượng pháp minh lớn, nơi vô lượng pháp tỏa chiếu lớn, trong vô lượng pháp rưới mưa lớn, trong khoảng một niệm đều có thể tiếp nhận-gánh vác-tư duy-gìn giữ được tất cả. Này Phật tử! Ví như mây Sa Già La rưới xuống trận mưa lớn, thì lượng nước ấy các vùng đất khác không thể tiếp nhận-dung nạp-tư duy- gìn giữ, chỉ trừ ra biển cả. Như vậy, này Phật tử! Tất cả nơi chốn bí mật của Như Lai, đó là Pháp minh lớn, Pháp tỏa chiếu lớn, Pháp rưới mưa lớn, thì hết thảy chúng sinh kia, hết thảy hàng Nhị thừa đều không thể tiếp nhận-gánh vác-tư duy-gìn giữ được . Bồ-tát từ địa thứ nhất cho đến địa thứ chín, cũng không thể nào tiếp nhận-gánh vác-tư duy-gìn giữ được. Chỉ có Bồ-tát trí trong địa Pháp Vân này mới có thể hoàn thành các sự việc trên. Này Phật tử! Ví như của biển cả, một đại Long vương dấy lên mây lớn, rưới mưa, thì lượng nước ấy, biển cả thảy đều có thể tiếp nhận-dung nạp, suy xét, giữ gìn. Nếu hai, hoặc ba-bốn-năm, hoặc mười-hai mươi- ba mươi-bốn mươi-năm mươi, hoặc một trăm Long vương, hoặc ngàn- vạn- ức, hoặc trăm ức-ngàn ức-trăm ngàn ức na-do-tha Long vương, cho đến vô lượng vô biên không thể nêu bày hết, số lượng đại Long vương như vậy, cùng dấy khởi mây lớn, rưới mưa, trong một niệm, cùng một lúc tuôn nước xuống, thì biển cả thảy đều có thể tiếp nhận-dung nạp-suy xét-gìn giữ được. Vì sao? Vì biển cả là vật chứa rộng lớn vô lượng. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát an trú trong địa Pháp Vân của bậc Bồ-tát này, trong trú xứ của một Đức Phật, với các pháp minh lớn, pháp tỏa chiếu lớn, pháp rưới mưa lớn, thảy đều có khả năng tiếp nhận-gánh vác-tư duy-gìn giữ được tất cả. Hoặc hai-ba-bốn-năm, hoặc mười-hai mươi-ba mươi-bốn mươi-năm mươi, hoặc một trăm chư Phật, hoặc ngàn, hoặc vạn ức-trăm ức-ngàn ức, trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật, cho đến vô lượng vô biên trú xứ của chư Phật không thể tính kể, với các pháp minh lớn, pháp tỏa chiếu lớn, pháp rưới mưa lớn, trong khoảng một niệm, Bồ-tát trí trong địa Pháp Vân thảy đều có thể tiếp nhận-gánh vác-tư duy-gìn giữ được tất cả. Vì vậy, địa này gọi là địa Pháp Vân. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói: Này Phật tử! Bồ-tát trí trong địa Pháp Vân này, ở trong bao nhiêu trú xứ của Phật, với các pháp minh lớn, pháp tỏa chiếu lớn, pháp rưới mưa lớn, trong khoảng một niệm, thảy đều có thể tiếp nhận-gánh vác-tư duy-gìn giữ? Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Này Phật tử! Bồ-tát trí trong địa Pháp Vân này, ở trong trú xứ của Phật không thể tính, không thể nêu bày, với các pháp minh lớn, pháp tỏa chiếu lớn, pháp rưới mưa lớn, trong khoảng một niệm, thảy đều có thể tiếp nhận-gánh vác-tư duy- gìn giữ. Này Phật tử! Ví như mười phương vốn có trăm ngàn vạn ức na-do- tha cõi Phật nhiều như số vi trần không thể nói hết, trong các thế giới ấy vốn vô lượng vô số chúng sinh, trong số chúng sinh ấy có một chúng sinh đạt được pháp Đà-la-ni văn trì, là người giữ Phật pháp không sót điều gì, đó là bậc Thanh văn vó đại nhất đạt được pháp Đà-la-ni văn trì bậc nhất. Ví như Đức Phật Kim Cang Liên Hoa Thượng, có vị Tỳ-kheo tên là Đại Thắng, là người đạt được pháp Đà-la-ni Văn trì bậc nhất. Một chúng sinh kia thành tựu diệu lực của pháp Đà-la-ni Văn trì như vậy, như một chúng sinh ấy, hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới còn lại cũng đều thành tựu diệu lực Đà-la-ni Văn trì như vậy. Một người đã tiếp nhận pháp, người thứ hai tiếp nhận pháp không trùng lặp. Như vậy, tất cả mỗi mỗi chúng sinh đều tiếp nhận pháp không giống nhau. Này Phật tử! Ý ông nghó sao? Hết thảy các chúng sinh kia, đã tiếp nhận diệu lực của Đà-la-ni Văn trì, nên xem là nhiều chăng? Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt đáp: Thưa Phật tử! Tất cả chúng sinh ấy đã tiếp nhận diệu lực của Đà- la-ni Văn trì thật là nhiều vô lượng. Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này Phật tử! Tôi nay sẽ vì ông mà nói rõ. Bồ-tát ấy an trí trong địa Pháp Vân này, trong khoảng một niệm ở tại trú xứ của một Đức Phật hiệu là Tam Thế Pháp Giới Tạng, với các pháp minh lớn, pháp tỏa chiếu lớn, pháp rưới mưa lớn, thảy đều có thể tiếp nhận-gánh vác-tư duy-gìn giữ. Pháp minh lớn, pháp tỏa chiếu lớn, pháp rưới mưa lớn kia, đều làm phương tiện thọ trì như trên đã nói. Hết thảy chúng sinh đạt được diệu lực của pháp Đà-la-ni văn trì, so với Bồ-tát này thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không bằng một, trăm ngàn na-do-tha phần không bằng một. Ức phần không bằng một, trăm ức phần không bằng một, ngàn ức phần không bằng một, trăm ngàn ức phần không bằng một, trăm ngàn ức na-do-tha phần không bằng một, cho đến dùng toán số-thí dụ cũng không thể nói hết. Như một trú xứ của Phật đã nói trên, trú xứ của chư Phật nhiều như số vi trần trong mười phương thế giới. Lại vượt qua số lượng ấy, là vô lượng vô biên trú xứ của chư Phật, gọi là Tam Thế Pháp Giới Tạng, với các pháp minh lớn, pháp tỏa chiếu lớn, pháp rưới mưa lớn, trong khoảng một niệm Bồ-tát ấy thảy đều có thể tiếp nhận-gánh vác-tư duy-gìn giữ. Vì vậy, địa này gọi là địa Pháp Vân. Lại nữa, này Phật tử! Bồ-tát ấy, trí trong địa Pháp Vân này, theo nguyện lực của chính mình, khởi áng mây Từ Bi lớn, làm chấn động với tiếng sấm pháp lớn, lấy sự thông sáng, vô úy làm ánh chớp rực rỡ, dùng ánh sáng của trí tuệ lớn làm gió thổi nhanh, dùng căn thiện của phước đức lớn làm đám mây dày đặc, hiện bày vô số thứ sắc thân làm vầng mây nhiều màu sắc, thuyết giảng về chính pháp rưới mưa, phá trừ các thứ ma oán, trong khoảng một niệm như trước đã nói, số lượng vi trần hiện có trong các thế giới, trăm ngàn vạn ức na-do-tha thế giới như vậy thảy đều phủ khắp. Lại vượt qua số lượng ấy vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na-do-tha thế giới cũng đều phủ khắp, tuôn xuống trận mưa pháp cam lồ lớn là căn thiện, diệt trừ mọi thứ lửa trong tâm chúng sinh vì đã vui với vô minh mà dấy khởi phiền não bụi bặm. Vì vậy, địa này gọi là địa Pháp Vân. Lại nữa, này Phật tử! Bồ-tát ấy, trí trong địa Pháp Vân của bậc Bồ-tát này, ở trong một thế giới, từ cõi trời Đâu-suất đi xuống, vào thai, ở trong thai, sinh ra, xuất gia, chứng đắc Phật đạo, thỉnh chuyển pháp luân, thị hiện Đại Niết-bàn, tất cả Phật sự tùy theo sự hóa độ chúng sinh mà đạt được trí tự tại. Hoặc trong ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến như trước đã nói về các thế giới nhiều như số vi trần. Lại vượt qua số lượng ấy trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ thế giới, từ cõi trời Đâu-suất bước xuống, cho đến thị hiện Đại Niết-bàn, tất cả Phật sự đều tùy theo sự hóa độ chúng sinh mà đạt được trí tự tại”. Luận: Ở đây, giải thích tên gọi của địa, có ba loại: Pháp tương tự như mây; bởi vì giăng phủ khắp. Trong địa này, nghe pháp tương tự, như thân hư không trùm khắp. Pháp tương tự như diệt trừ bụi bặm cấu uế; pháp này có thể diệt trừ phiền não cấu nhiễm của chúng sinh. Hóa độ chúng sinh, từ cõi trời Đâu-suất bước xuống, cho đến thị hiện Đại Niết-bàn. Dần dần hóa độ chúng sinh, như đám mây lớn rưới mưa, sinh thành tất cả mầm non cho cây cỏ sự vật. Thành tựu rốt ráo phương tiện của vô lượng niệm lực; là nói gần với nghĩa của sự thọ trì. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, thông đạt trí tuệ tùy thuận Bồ-đề như vậy, thành tựu trọn vẹn phương tiện của vô lượng niệm lực”. Lại có thể thọ trì rất nhiều sự vi diệu bí mật, thọ trì nhanh chóng. Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, ở trong vô lượng trú xứ của Phật khắp mười phương, trong vô lượng pháp minh lớn…”. Vô lượng trú xứ của Phật, vô lượng pháp minh lớn: là nói về số lượng rất nhiều trong việc hội nhập xứ bí mật vi diệu của Như Lai. Trong khoảng một niệm; là tiếp nhận nhanh chóng. Nghe pháp: tức là chỉ rõ về hai sự việc; là tính, là tạo tác. Thế nào là tính? Tức là ánh sáng của pháp lớn, trí Văn-Tự thâu nhận. Pháp tỏa chiếu lớn thì trí Tu tuệ thâu nhận. Thế nào là tạo tác? Tức là pháp rưới mưa lớn. Như đám mây lớn cùng với trận mưa pháp lớn khác, phát khởi sự tin tưởng từ trong đó. Nói tiếp nhận: là tiếp nhận về câu chữ đã được thuyết giảng. Nói gánh vác (kham): là có khả năng chọn lấy nghĩa. Nói tư duy: là Bồ-tát thâu nhận hai sự việc trên không để mất. Nói giữ gìn: tức là cũng như biển cả, do không ô trược. Nói tiếp nhận: là có khả năng tiếp nhận tất cả nước. Nói gánh vác: tức là các thứ nước khác luôn chảy vào đều mất tên gọi vốn có. Nói tư duy: là dùng không thể hết. Nói giữ gìn: nên biết! như kinh nói: “Gọi là Tam Thế Pháp Giới Tạng, với các pháp minh lớn, pháp tỏa chiếu lớn, pháp rưới mưa lớn, thảy đều có thể tiếp nhận-gánh vác-tư duy-gìn giữ… cho đến: Vì vậy địa này gọi là địa Pháp Vân”. Gọi là Tam Thế Pháp Giới Tạng; tức là ở trong pháp giới, thâu nhiếp ba loại sự việc. Các thí dụ về mây, sấm, chớp, đối chiếu với pháp tương tự nên biết. Như kinh nói: “Lại nữa, này Phật tử! Bồ-tát ấy, trí trong địa Pháp Vân này, theo nguyện lực của chính mình… cho đến: Vì thế địa này gọi là địa Pháp Vân”. Ánh sáng của trí tuệ lớn dùng làm ngọn gió thổi nhanh: là pháp tương tự nơi gió. Hiện bày vô số sắc thân: là tùy theo thế gian với vô số các loại thân xoay chuyển, là pháp tương tự với mây nhiều màu sắc. Thuyết giảng về trận mưa chính pháp phá trừ ma oán: là pháp tương tự với mưa. Như vậy đã nói xong về Phần giải thích tên gọi của địa. Thế nào là Phần nói về diệu lực của thần thông hữu thượng-vô thượng? Kinh: “Bồ-tát ấy, trú tại địa này, ở trong trí tuệ, đạt được diệu lực tự tại hơn hết, khéo chọn lấy đại trí thông, tùy theo sự nhớ nghó của tâm, hoặc lấy cõi nước hẹp làm rộng, cõi nước rộng làm hẹp. Lại tùy theo suy niệm của tâm, hoặc lấy cõi nước cấu uế làm thanh tịnh, cõi nước thanh tịnh làm cấu uế. Trong vô lượng tất cả thế giới loạn trú, đảo trú, chính trú rộng lớn như vậy, nhờ diệu lực tự tại, nên vô số các loại ấy đều có thể thành tựu. Bồ-tát ấy, lại tùy theo tâm niệm, hoặc ở trong một vi trần thị hiện một thế giới, có đủ hết thảy núi Thiết-vi…, nhưng vi trần kia vẫn không tăng trưởng. Hoặc hai, ba, bốn, năm, hoặc mười-hai mươi-ba mươi-bốn mươi- năm mươi, hoặc trăm-ngàn-vạn-ức, hoặc trăm ức-ngàn ức, hoặc trăm ngàn ức, hoặc trăm ngàn ức na-do-tha thế giới, cho đến số lượng thế giới không thể nói, không thể nêu bày hết, đều có đủ tất cả núi Thiết- vi… đều nhập vào trong một vi trần, nhưng vi trần đó cũng không tăng trưởng. Bồ-tát ấy, lại tùy theo tâm niệm, hoặc dùng sự việc của một thế giới trang nghiêm mà thị hiện hai thế giới. Lại tùy theo tâm niệm, hoặc dùng sự việc của một thế giới trang nghiêm, cho đến thị hiện vô lượng thế giới không thể nêu bày- không thể nói hết. Lại tùy theo tâm niệm, hoặc dùng sự việc của hai thế giới trang nghiêm, thị hiện một thế giới, cho đến hoặc dùng sự việc của vô lượng thế giới trang nghiêm không thể nói-không thể nêu hết, thị hiện một thế giới. Lại tùy theo tâm niệm, cho đến hoặc đem số lượng chúng sinh trong vô lượng thế giới không thể nói không thể nêu, đặt vào trong một thế giới, nhưng các chúng sinh đều không sợ hãi, không biết không hay. Lại tùy theo tâm niệm, hoặc đem chúng sinh trong một thế giới, cho đến đặt trong vô lượng thế giới không thể nêu không thể nói, mà các chúng sinh đó cũng không sợ hãi, không biết không hay. Lại tùy theo tâm niệm, hoặc đầu một sợi lông thị hiện sự việc của tất cả cảnh giới Phật trang nghiêm. Lại tùy theo tâm niệm, cho đến hoặc dùng sự việc của vô lượng tất cả cảnh giới Phật trang nghiêm không thể nêu- không thể nói hết, thị hiện nơi một sợi lông. Lại tùy theo tâm niệm, trong khoảng một niệm, thị hiện số lượng thân nhiều như số vi trần trong vô lượng thế giới không thể nêu, không thế nói. Trong mỗi mỗi thân thị hiện số lượng tay nhiều như số vi trần, dùng các tay này với tâm ân cần cúng dường chư Phật khắp mười phương. Dùng mỗi mỗi tay cầm lấy hằng hà sa số các giỏ hoa tung rải cúng dường chư Phật. Giỏ hoa như vậy, tràng hoa như vậy, hương bột, hương xoa, hương xông, y phục, lọng báu, cờ hoa, phướn hoa cùng tất cả mọi sự trang nghiêm cũng lại như vậy. Nơi mỗi mỗi thân thị hiện các đầu nhiều như số vi trần đã nói, trong mỗi mỗi đầu thị hiện các lưỡi nhiều như số vi trần đã nói. Dùng các lưỡi ấy, tán thán về công đức của chư Phật. Các sự việc như vậy, ở trong mỗi mỗi niệm, đều hiện bày đủ khắp mười phương. Ở trong mỗi mỗi niệm thị hiện vô lượng thế giới đạt được Bồ-đề, cho đến thị hiện Đại Niết-bàn, trú trì trang nghiêm. Ở trong ba đời, thị hiện vô lượng thân, trong tự thân thị hiện có vô lượng chư Phật, thị hiện sự việc của vô lượng thế giới Phật trang nghiêm, cũng thị hiện sự việc của thế giới thành, hoại. Hoặc ở trong một lỗ chân lông của tự thân phát ra tất cả Phong tai, nhưng không làm não hại chúng sinh. Lại tùy theo tâm niệm, hoặc dùng vô lượng vô biên thế giới làm nước của một biển. Trong nước của biển này, làm ra hoa sen lớn, ánh sáng trang nghiêm trùm khắp vô lượng vô biên thế giới, trong đó, thị hiện cây Bồ-đề lớn với sự việc trang nghiêm vi diệu, cho đến thị hiện trí Nhất thiết chủng Nhất thiết trí. Hoặc nơi tự thân thị hiện ngọc báu ma ni, ánh sáng tỏa khắp mười phương, cùng với ánh sáng của sấm chớp, mặt trời, mặt trăng, tinh tú…, cho đến các thứ ánh sáng của tất cả thế giới, đều từ trong thân mà hiện bày. Dùng miệng hà hơi, có thể làm chuyển động vô lượng thế giới trong mười phương, nhưng không khiến cho chúng sinh có ý tưởng sợ hãi. Thị hiện thế giới khắp mười phương với kiếp tận phong tai, đến kiếp tận hỏa tai và kiếp tận thủy tai. Tùy theo vô số các loại tâm niệm của tất cả chúng sinh mà ứng hiện sắc thân trang nghiêm thành tựu. Hoặc dùng tự thân làm thành thân Như Lai, dùng thân Như Lai làm thành tự thân. Dùng thân Như Lai làm thành cõi Phật của chính mình, dùng cõi Phật của chính mình tạo làm thành Như Lai. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát ấy, trú trong địa Pháp Vân của bậc Bồ-tát này, hiện bày thần biến như vậy. Lại vượt qua ở đây, còn có vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na-do-tha thần thông, thị hiện sự trang nghiêm, tự tại”. Luận: Diệu lực thần thông hữu thượng vô thượng; có sáu loại tướng, nên biết! Dựa vào bên trong. Dựa vào bên ngoài. Tự tướng. Làm trú trì. Khiến hoan hỷ. Thù thắng lớn. Diệu lực thần thông vô thượng; là so sánh với thần thông lực của chúng sinh khác. Diệu lực thần thông hữu thượng; là so sánh đối với diệu lực nơi thần thông của Như Lai. Dựa vào bên trong; có bốn loại: Giải thoát không nghó bàn. Tam-muội. Khởi trí Đà-la-ni. Thần thông. Như đã nói ở trước. Dựa vào bên ngoài; là sự việc bên ngoài của địa. Lại có sự việc bên ngoài của tự thân-tha thân. Tự tướng: có hai loại: Chuyển nơi sự việc bên ngoài. Tự thân ứng hóa … Chuyển; lại có ba loại: Chuyển lược, rộng. Chuyển biến sự việc khác lạ. Chuyển tự tại, có thể làm ra vô số trang nghiêm cho tất cả chúng sinh. Thế nào là chuyển lược, rộng? Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, trú tại địa này, ở trong trí tuệ, đạt được diệu lực tự tại hơn hết, khéo chọn lấy đại trí thông, tùy theo sự nhớ nghó của tâm, hoặc lấy cõi nước hẹp làm rộng, cõi nước rộng làm hẹp”. Thế nào là chuyển biến sự việc khác lạ? Như kinh nói: “Lại tùy theo tâm niệm, hoặc dùng cõi nước cấu uế làm thanh tịnh…”. Thế nào là chuyển tự tại? Như kinh nói: “Bồ-tát ấy, lại tùy theo tâm niệm, ở trong một vi trần thị hiện một thế giới…”. Thế nào là tự thân ứng hóa? Như kinh nói: “Lại tùy theo tâm niệm, hoặc đầu một sợi lông thị hiện sự việc của tất cả cảnh giới Phật trang nghiêm…”. Làm trú trì: tức là là thành tựu các môn cúng dường, tích tập các pháp trợ Bồ-đề. Như kinh nói: “Lại tùy theo tâm niệm, trong một niệm thị hiện các thân tướng nhiều như số vi trần trong vô lượng thế giới không thể nêu không thể nói…”. Thế nào là khiến hoan hỷ? Kinh: “Bấy giờ trong pháp hội, tất cả chúng Bồ-tát, cùng hết thảy tám bộ chúng hộ pháp, Tứ Thiên Vương, Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm Thiên vương, Ma-hê-thủ-la chủ cõi trời Tịnh Cư… đều suy nghó: Nếu thần thông và trí lực của Bồ-tát có thể như vậy, thì vô lượng vô biên Phật lại như vậy nào? Khi ấy, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt, nhận biết tâm niệm của các đại chúng rồi, bèn hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng: Thưa Phật tử! Hiện nay các đại chúng, nghe nói về trí lực-thần thông của Bồ-tát ấy, đều rơi vào mạng lưới nghi hoặc. Vì đoạn trừ tâm nghi ngờ này, xin thị hiện một ít sự việc vi diệu trang nghiêm bằng diệu lực thần thông của Bồ-tát. Bồ-tát Kim Cang Tạng, lúc này, liền nhập Tam-muội Nhất Thiết Phật Quốc Thể tính Bồ-tát. Khi Bồ-tát Kim Cang Tạng nhập Tam- muội ấy, thì hết thảy chúng Bồ-tát kia cùng tất cả tám bộ chúng hộ pháp, Tứ Thiên Vương, Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm Thiên vương, Ma- hê-thủ-la chủ cõi trời Tịnh Cư… đều tự thấy thân mình nhập vào trong thân Bồ-tát Kim Cang Tạng. Ở trong thân ấy thấy rõ cõi nước của Phật. Trong cõi nước đó đầy đủ các hình tướng trang nghiêm, các sự việc kỳ diệu, dù trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp nêu bày cũng không thể hết. Trong đó có cây đạo tràng, thân cây chu vi mười vạn Tam thiên đại thiên thế giới, cao trăm vạn Tam thiên đại thiên thế giới, che phủ khắp ba ngàn ức Tam thiên đại thiên thế giới. Xứng hợp với sự cao rộng của cây, có tòa sư tử. Trên tòa ấy có Phật hiệu là Như Lai Nhất thiết trí Thông Vương, tất cả đại chúng đều cùng trông thấy. Đức Phật an tọa trên tòa sư tử ở dưới tán cây đạo tràng. Trong đó có các hình tướng trang nghiêm, các sự việc kỳ diệu, dù trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp cũng không thể nói hết. Bồ-tát Kim Cang Tạng thị hiện đại thần lực như vậy rồi, lại khiến cho hết thảy các chúng Bồ-tát, tám bộ chúng hộ pháp, chư vị Tứ Thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm Thiên vương, Ma-hê-thủ-la chủ cõi trời Tịnh Cư… đều trở lại chỗ cũ. Bấy giờ, tất cả đại chúng đều vô cùng hoan hỷ, sinh ý tưởng hy hữu, im lặng mà an trú và nhìn về Bồ-tát Kim Cang Tạng. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói với Bồ-tát Kim Cang Tạng: Này Phật tử! Thật là hết sức hy hữu! Tam-muội này với thần thông trang nghiêm có uy lực vô cùng. Này Phật tử! Tam-muội này tên gọi là gì? Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Này Phật tử! Tam-muội này gọi là Nhất Thiết Phật Quốc Thể tính. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng: Thưa Phật tử! Cảnh giới của Tam-muội này trang nghiêm với thần thông, các sự việc kỳ diệu như vậy thì ngang mức độ nào? Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Này Phật tử! Nếu Bồ-tát, tùy theo sự nhớ nghó của tâm, khéo tu tập thành tựu diệu lực của Tam-muội ấy, thì có thể thị hiện vô số, vô lượng cõi Phật như vậy. Cõi nước của chư Phật từ trong thân hiện bày, lại vượt qua số lượng ấy. Này Phật tử! Bồ-tát trí trong địa Pháp Vân của bậc Bồ-tát này, đạt được vô lượng trăm ngàn Tam-muội của bậc Bồ-tát như vậy. Do ý nghĩa ấy, cho nên Bồ-tát này, đạt được quả vị và Bồ-tát đạt vị, Bồ-tát trí trong địa Thiện tuệ (Địa thứ chín), cũng không thể lường biết. Hoặc nơi thân thì thân nghiệp khó có thể lường biết. Hoặc nơi khẩu thì khẩu nghiệp khó có thể lường biết. Hoặc nơi ý thì ý nghiệp, khó có thể lường biết. Hoặc nơi sự việc thần thông, hoặc nơi trí quán ba đời, hoặc hội nhập cảnh giới Tam-muội, hoặc cảnh giới của trí, hoặc diệu dụng của các giải thoát, hoặc những việc làm về ứng hóa, gia trì, hiện bày thần lực, cho đến những động tác đưa chân lên-hạ chân xuống thảy đều khó có thể lường biết. Hàng Bồ-tát đạt được quả vị và Bồ-tát trí trong địa Thiện tuệ cũng không thể lường biết được. Này Phật tử! Địa Pháp Vân của bậc Bồ-tát vô lượng như vậy, nay đã lược nói, nếu nói rộng thì trong vô lượng trăm ngàn A-tăng-kỳ kiếp, vô lượng trăm ngàn vạn, vô lượng trăm ngàn ức A-tăng-kỳ kiếp cũng không thể nói hết được. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng: Thưa Phật tử! Nếu diệu lực trong cảnh giới thần thông hành của Bồ-tát là vô lượng như vậy, thì diệu lực trong cảnh giới thần thông hành của chư Phật lại như vậy nào? Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: Này Phật tử! Ví như có người lấy hai-ba hòn đất nhỏ trong bốn cõi thiên hạ, dấy lên nói như vậy: Đất trong vô biên thế giới là nhiều hơn đất ở đây chăng? Điều mà ông đã hỏi thì tôi nói là như vậy. Trí tuệ vô lượng của Như Lai, làm sao lấy trí tuệ của Bồ-tát để lường xét? Này Phật tử! Như người lấy một chút đất trong bốn cõi thiên hạ, đất còn lại thì nhiều vô cùng. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát trong địa Pháp Vân, ở trong vô lượng kiếp nêu bày thì chỉ nói được một phần, huống hồ là địa Như Lai. Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt: Này Phật tử! Chư Như Lai chứng biết cho lời tôi nói. Giả sử trong mỗi mỗi phương khắp mười phương có cõi nước chư Phật nhiều như số vi trần của vô lượng thế giới, Bồ-tát mười địa đều hiện hữu đầy trong các cõi nước kia, ví như vô số các thứ mía, tre, lau, lúa, mè. Các vị Bồ- tát này, trong vô lượng kiếp, tu tập hành trì công đức trí tuệ, thì so với diệu lực công đức trí tuệ của Như Lai, trăm phần của các vị Bồ-tát kia không bằng một, ngàn phần không bằng một … trăm ngàn ức na-do-tha phần không bằng một, cho đến dùng toán số thí dụ cũng không thể đạt tới. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát ấy, trí tuệ thông đạt như vậy, thuận theo ba nghiệp thân, khẩu, ý của Như Lai, không rời bỏ lực dụng Tam- muội của bậc Bồ-tát, thì có thể thấy chư Phật, dốc tâm cúng dường, ở trong mỗi mỗi kiếp, dùng tất cả vật dụng cúng dường tối thượng, cúng dường vô lượng chư Phật, mới có thể tiếp nhận đầy đủ thần lực gia hộ của chư Phật, càng trở nên sáng tỏ, thù thắng. Bồ-tát ấy, ở trong pháp giới, mọi thứ vấn nạn hiện có, không ai có thể thắng. Trong vô lượng trăm kiếp, vô lượng ngàn kiếp, vô lượng trăm ngàn kiếp…, cho đến vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, đều không thể cùng tận. Này Phật tử! Ví như người thợ kim hoàn thiện xảo, khéo sửa sang loại vàng này làm các vật dụng trang sức, lại dùng ngọc báu ma ni vô thượng gắn xen lẫn trong ấy, để cho Tự Tại Thiên vương, đeo ở trên cổ hoặc cài trên đầu, thì những vật dụng trang sức của các Thiên vương khác đều không thể sánh bằng. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát ấy, an trú trong địa Pháp Vân, là địa thứ mười của bậc Bồ-tát, thì trí hành của Bồ-tát kia không thể nghó bàn, tất cả chúng sinh, tất cả hàng Nhị thừa, các Bồ-tát từ Địa thứ nhất cho đến trí trong địa thứ chín, đều không thể sánh bằng. Bồ-tát ấy, trú trong địa này, ánh sáng của trí lớn tỏa chiếu, có thể khiến cho hết thảy chúng sinh, cho đến trú trong trí Nhất thiết trí. Mọi ánh sáng của các thứ trí tuệ khác đều không thể phá hoại được. Này Phật tử! Ví như ánh sáng của Thiên vương Ma-hê-thủ-la vượt qua tất cả sinh xứ của chúng sinh, ánh sáng ấy có thể khiến cho thân tâm chúng sinh mát mẻ. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát ấy, trú trong địa Pháp Vân, là Địa thứ mười của bậc Bồ-tát, thì ánh sáng trong trí tuệ của Bồ-tát đó, tất cả hàng Thanh văn, Bích-chi-Phật, các Bồ-tát từ Địa thứ nhất, cho đến trí trong địa thứ chín, đều không thể sánh kịp. Bồ-tát ấy, trí trong địa này, có thể khiến cho hết thảy chúng sinh trú trong pháp của trí Nhất thiết trí. Này Phật tử! Bồ-tát ấy, tùy thuận nơi trí tuệ như vậy, chư Phật nơi mười phương, vì Bồ-tát đó mà nói về trí tuệ, khiến thông đạt mọi nẻo hành của ba đời, nhận biết đúng về pháp giới sai biệt, trùm khắp tất cả cảnh giới thế gian, soi chiếu hết thảy cảnh giới thế gian, khiến cho tất cả chúng sinh giới có thể chứng đắc pháp. Lược nói, cho đến tùy thuận đạt được trí Nhất thiết trí. Bồ-tát ấy, trong mười Ba-la-mật, thì Trí Ba- la-mật luôn tăng thượng. Này Phật tử! Đó gọi là trình bày tóm lược về địa Pháp Vân, là Địa thứ mười của bậc Bồ-tát. Nếu nói rộng, thì trong vô lượng vô biên A- tăng-kỳ kiếp cũng không thể cùng tận. Bồ-tát trí trong địa này, nhiều lần làm Thiên vương Ma-hê-thủ-la, tự tại đầy đủ, khéo trao truyền các hành Ba-la-mật cho chúng sinh và hàng Thanh văn, Bích-chi-Phật, Bồ-tát. Ở trong pháp giới, có người vấn nạn, không ai có năng lực làm cho tận cùng. Mọi nghiệp thiện đã làm như bố thí-ái ngữ-đồng sự-lợi hành, thì các phước đức ấy đều không lìa niệm Phật-niệm Pháp-niệm Tăng, niệm Bồ-tát và niệm hành của Bồ-tát, niệm Ba-la-mật… cho đến không lìa niệm đầy đủ với trí Nhất thiết chủng-Nhất thiết trí. Luôn sinh tâm niệm này: Mình phải ở trong hết thảy chúng sinh, là người đứng đầu, là hơn hẳn, là lớn, là diệu, là vi diệu, là trên, là vô thượng, là người dẫn dắt, là vị tướng, là bậc thầy, là bậc tôn quý, cho đến là nơi nương dựa của trí Nhất thiết trí. Lại từ tâm niệm ấy, phát khởi hành tinh tiến, nhờ lực dụng của tinh tiến cho nên trong khoảng một niệm, đạt được các pháp Tam-muội nhiều như số vi trần bằng mười lần không thể nêu bày trong trăm ngàn vạn ức na-do- tha thế giới Phật. Được thấy các Đức Phật nhiều như số vi trần bằng mười lần không thể nêu bày trong trăm ngàn vạn ức na-do-tha thế giới Phật. Có thể nhận biết về thần lực của Phật nhiều như số vi trần bằng mười lần không thể nêu bày trong trăm ngàn vạn ức na-do-tha thế giới Phật. Có thể làm chuyển động các thế giới nhiều như số vi trần bằng mười lần không thể nêu bày trong trăm ngàn vạn ức na-do-tha thế giới Phật. Có thể đi vào các thế giới nhiều như số vi trần… có thể soi chiếu khắp các thế giới nhiều như số vi trần… Có thể giáo hóa chúng sinh trong các thế giới nhiều như số vi trần… Có thể trú thọ trong số lượng kiếp nhiều như số vi trần… Có thể nhận biết các sự việc trong đời quá khứ-vị lai, mỗi đời với số lượng kiếp nhiều như số vi trần… Có thể khéo hội nhập với các pháp môn nhiều như số vi trần… Có thể biến hóa thân thành số lượng thân nhiều như số vi trần… Nơi mỗi mỗi thân thị hiện các vị Bồ-tát nhiều như số vi trần…, dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại, thì nguyện lực của Bồ-tát còn hơn hẳn, vượt qua số lượng trên, thị hiện vô số các loại thần thông, hoặc nơi thân, hoặc nơi ánh sáng, hoặc nơi mắt, hoặc nơi cảnh giới, hoặc nơi âm thanh, hoặc nơi hành, hoặc sự trang nghiêm, hoặc sự gia hộ, hoặc tin tưởng, hoặc tạo tác. Các thần thông ấy, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, cũng không thể tính biết”. Luận: Khiến hoan hỷ: tức là có thể đoạn trừ nghi hoặc. Đoạn trừ nghi có hai loại: Thị hiện diệu lực thần thông của chính mình. Thuyết giảng tất cả pháp. Thế nào là thị hiện diệu lực thần thông của chính mình? Như kinh nói: “Bấy giờ, trong pháp hội, tất cả chúng Bồ-tát, cùng với hết thảy tám bộ chúng hộ pháp…”. Như vậy tự mình thị hiện diệu lực, đoạn trừ nghi hoặc của chúng sinh, khiến cho họ hoan hỷ. Thế nào là thuyết giảng tất cả pháp? Như kinh nói: “Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát ấy, trí tuệ thông đạt như vậy, thuận theo thân-khẩu ng- hiệp của Như Lai, cho đến: Càng thêm sáng tỏ thù thắng. Bồ-tát ấy, ở trong pháp giới, mọi thứ vấn nạn hiện có, không ai có thể thắng…”. Thù thắng lớn, có hai loại: Diệu lực thần thông thù thắng. Toán số thù thắng. Hai loại này đều hơn hẳn so với tất cả các địa trước. Như kinh đã nói, nên biết! Thông đạt mọi nẻo hành của ba đời: tức là là thông tỏ ba loại hành: Hành có thể đoạn trừ nghi. Như kinh nói: “Này Phật tử! Bồ-tát ấy trú trong địa này, tùy thuận với trí như vậy, được chư Phật trong mười phương thuyết giảng về trí tuệ, khiến cho thông đạt về nẻo hành của ba đời”. Hành của ba đời; là nghĩa về thông tỏ, nên biết. Hành của thần thông nhanh chóng. nghe giảng nói về pháp bí mật của Như Lai. Như kinh nói: “Nhận biết đúng về pháp giới sai biệt”. Hành hỗ trợ tạo tác bình đẳng. Hành này có ba loại, nên biết! Bình đẳng làm thanh tịnh cõi Phật, vì hóa độ chúng sinh. Bình đẳng làm pháp minh. Bình đẳng làm chính giác. Như kinh nói: “Trùm khắp tất cả cảnh giới thế gian. Soi chiếu tất cả cảnh giới thế gian…”. Như vậy đã nói xong Phần thứ sáu: Diệu lực thần thông vô thượng hữu thượng. Tiếp theo là nói về Phần ảnh tượng của địa. Ảnh tượng của địa: có bốn loại: Ao. Núi. Biển. Ngọc báu ma ni. Để so sánh với bốn loại công đức: Công đức tu hành. Công đức thắng thượng. Công đức của quả lớn, có thể hóa độ các chúng sinh khó hóa độ. Công đức kiên cố chuyển tận. Thế nào là công đức tu hành? Kinh: “Này Phật tử! Bồ-tát mười địa này, thứ tự thuận theo hành, hướng tới trí Nhất thiết chủng Nhất thiết trí. Này Phật tử! Ví như từ nơi ao lớn A Nậu, xuất phát bốn con sông, làm sung mãn khắp cõi Diêm- phù-đề, không thể cùng tận, lại càng tăng trưởng, cho đến sung mãn trong biển cả. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát từ trong tâm Bồ-đề, xuất phát dòng nước của đại nguyện căn thiện, dùng bốn Nhiếp pháp làm sung mãn cảnh giới chúng sinh, không hề cùng tận, lại càng tăng trưởng cho đến chứng đạt trọn vẹn trí Nhất thiết chủng-Nhất thiết trí”. Luận: Công đức tu hành: là dựa vào lực dụng của bản nguyện để tu hành. Dùng bốn Nhiếp pháp làm lợi ích, là hành lợi tha. Căn thiện của chính mình tăng trưởng, cho nên đạt được Bồ-đề, là hành tự lợi, nên biết. Như kinh nói: “Này Phật tử! Ví như từ trong ao lớn A Nậu, xuất phát bốn con sông… cho đến, chứng đạt trọn vẹn trí Nhất thiết chủng-Nhất thiết trí”. Thế nào là công đức thắng thượng. Kinh: “Này Phật tử! Bồ-tát mười địa ấy, nhờ vào trí Phật mà có sai biệt. Ví như dựa vào đại địa, cho nên có mười ngọn núi chúa lớn sai biệt. Những gì là mười? Đó là: Núi chúa Tuyết. Núi chúa Hương. Núi chúa Tỳ-đà-lược. Núi chúa Tiên Thánh. Núi chúa Do-càn-đà-la. Núi chúa Mã Nhó. Núi chúa Ni-dân-đà-la. Núi chúa Chước-ca-bà-la. Núi chúa Chúng Tướng. Núi chúa Tu-di. Này Phật tử! Ví như núi chúa Tuyết, hết thảy các loại cỏ thuốc đều tập trung ở nơi ấy, các loại cỏ thuốc đó dùng không thể hết. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát trú trong địa Hoan hỷ của bậc Bồ-tát, hết thảy các loại sách vở, luận thuyết, kỹ nghệ, văn tụng, chú thuật của thế gian đều tập hợp trong đó, những thứ đó đều không thể cùng tận. Này Phật tử! Ví như núi chúa Hương, tất cả các loại hương đều tập trung ở nơi ấy, các loại hương đều dùng không thể hết. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát trí trong địa Ly Cấu của bậc Bồ-tát, hết thảy các loại hương nơi hành trì giới, chính thọ của Bồ-tát đều tập hợp trong đó, tất cả những thứ hương đó đều không thể cùng tận. Này Phật tử! Ví như núi chúa Tỳ-đà-lược, tính báu thuần tịnh, tất cả các thứ báu đều tập trung trong đó, các thứ báu ấy dùng không thể hết. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát an trú trong địa Minh của bậc Bồ-tát, tất cả các thứ thiền định, thần thông, giải thoát, Tam-muội, Tam-ma- bạt-đề của thế gian đều tập hợp trong đó, tất cả các thứ ấy hỏi đáp không thể cùng tận được. Này Phật tử! Ví như núi chúa Tiên Thánh, tính báu thuần tịnh, Thánh nhân đạt được năm thông tập trung trong đó, Thánh nhân đạt được năm thông không thể cùng tận. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát trú trong địa Diệm của bậc Bồ-tát, trí hành thù thắng trong tất cả các hành đều tập hợp trong đó, hết thảy các hành đó với vô số vấn nạn đều không thể cùng tận. Này Phật tử! Ví như núi chúa Do-càn-đà-la, tính báu thuần tịnh, tất cả Dạ xoa, các quỷ thần lớn đều tập trung trong đó, hết thảy các loại đó đều không thể cùng tận. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát trí trong địa Nan Thắng của bậc Bồ-tát, tất cả thần thông như ý tự tại, biến hóa trang nghiêm đều tập hợp trong đó, hết thảy các thứ ấy hỏi đáp không thể cùng tận. Này Phật tử! Ví như núi chúa Mã Nhó, tính báu thuần tịnh, tất cả các quả đều tập trung trong đó, tất cả các quả ấy dùng không thể hết. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát trí trong địa Hiện Tiền của bậc Bồ-tát, nói về quán nhập nhân duyên tích tập đều tập hợp trong đó, việc giảng nói đó, hỏi đáp về chứng quả Thanh văn đều không thể cùng tận. Này Phật tử! Ví như núi chúa Ni-dân-đà-la, tính báu thuần tịnh, tất cả Long thần đại lực đều tập hợp trong đó, hết thảy Long thần đại lực đó đều không thể cùng tận. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát trí trong địa Viễn Hành của bậc Bồ-tát, vô số các loại trí phương tiện đều tập trung trong đó, vô số trí ấy nêu bày chỗ hỏi đáp về sự chứng quả của Bích-chi-Phật đều không thể cùng tận. Này Phật tử! Ví như núi chúa Chước-ca-bà-la, tính báu thuần tịnh, chúng đạt được tự tại tập hợp trong đó, chúng đạt được tự tại đều không thể cùng tận. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát trí trong địa Bất Động của bậc Bồ-tát, phát khởi tất cả nẻo tự tại của bậc Bồ-tát đều tập hợp trong đó, sự việc phát khởi này, nói về tất cả cảnh giới thế gian sai biệt, hỏi đáp đều không thể cùng tận. Này Phật tử! Ví như núi chúa Chúng Tướng, tính báu thuần tịnh, đại chúng A-tu-la tập hợp trong đó, các đại chúng A-tu-la đó đều không thể cùng tận. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát trí trong địa Thiện tuệ của bậc Bồ-tát, sự nhận biết về hành thuận nghịch của tất cả chúng sinh đều tập hợp trong đó, sự nhận biết đó nói về tất cả tướng sinh diệt của thế gian, hỏi đáp đều không thể cùng tận. Này Phật tử! Ví như núi chúa Tu-di, tính báu thuần tịnh, đại chúng chư Thiên tập hợp trong đó, các chúng chư Thiên đó đều không thể cùng tận. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát trí trong địa Pháp Vân của bậc Bồ-tát, các lực, vô úy của Như Lai, mười tám pháp Bất cộng của Phật đều tập hợp trong đó, các lực-vô úy… thị hiện Phật sự, hỏi đáp không thể cùng tận. Này Phật tử! Mười núi chúa báu lớn này cùng ở nơi biển cả, dựa vào biển cả mà được mang tên. Như vậy, này Phật tử! Mười địa Bồ-tát cùng ở trong Nhất thiết trí, dựa vào Nhất thiết trí mà được mang tên”. Luận: Công đức thắng thượng; tức là dựa vào Nhất thiết trí tăng thượng, hành trì mười địa. Như kinh nói: “Này Phật tử! Bồ-tát mười địa ấy, nhờ vào trí Phật mà có sai biệt. Ví như dựa vào đại địa cho nên có mười ngọn núi chúa lớn sai biệt…”. Dụ về các núi báu thuần tịnh; là dụ cho tám chủng địa, yếm địa khéo thanh tịnh. Lại nữa, các núi chúa không phải thuộc về số lượng chúng sinh, mà là chỗ dựa của phần thuộc về số lượng chúng sinh. Không phải thuộc về số lượng chúng sinh; có hai loại: Sự vật thọ dụng. Sự vật quý báu được tích tụ, gìn giữ. Sự vật thọ dụng có hai loại: Bốn đại của chúng sinh đối trị tăng giảm. Nuôi lớn chúng sinh. Dựa vào núi Tuyết, núi Hương, núi Tỳ-đà-lược, núi Mã Nhó. Bốn núi này chẳng phải là chỗ dựa của phần thuộc về số lượng chúng sinh. Cỏ thuốc, các thứ hương, các loại báu, tất cả quả tập hợp trong những nơi ấy. Tất cả quả là phần thuộc về số lượng chúng sinh trong núi chúa thứ sáu. Lại có sáu loại nạn cần đối trị. Sáu loại nạn là: Nạn vì nghèo. Nạn vì chết. Nạn vì thiếu thốn. Nạn do không được điều phục. Nạn vì nghiệp ác. Nạn vì oán địch. Trong núi chúa thứ tư, phước điền của năm thông đối trị nạn vì nghèo. Trong núi chúa thứ năm, đại thần thông biến hóa của Dạ xoa đối trị nạn vì chết. Trong núi chúa thứ bảy, các đại Long vương đối trị nạn vì thiếu thốn. Trong núi chúa thứ tám, chúng đạt được tự tại, đối trị nạn do không được điều phục. Nơi núi chúa thứ chín, A-tu-la nói chú, đối trị nạn vì nghiệp ác. Trong núi chúa thứ mười, bốn Thiên Vương tự tại, đối trị nạn vì oán địch. Tất cả các núi chúa này, các sự vật được tập hợp trong đó, như sự việc được nêu bày, có thể sinh tất cả vật. Tập hợp trong đó, không thể cùng tận; tức là hành thuận hợp, không dứt mất, không ngừng nghỉ. Mười núi lớn kia dựa vào biển cả mà được mang tên. Biển cả cũng dựa vào núi lớn mà được mang tên. Mười địa của Bồ-tát cũng lại như vậy. Cùng ở trong Nhất thiết trí, dựa vào Nhất thiết trí mà được gọi tên, tức là nhân quả cùng hiển bày. Như kinh nói: “Này Phật tử! Mười núi chúa báu lớn ấy, cùng ở giữa biển cả…”. Thế nào là công đức của quả lớn; có thể hóa độ các chúng sinh khó hóa độ? Kinh: “Này Phật tử! Ví như biển cả, do mười tướng cho nên luôn được gọi là biển cả, không gì có thể hủy hoại. Những gì là mười? Lần lượt sâu dần. Không tiếp nhận thây chết. Các dòng nước khác chảy vào đều mất tên gọi vốn có. Đồng một vị. Có vô lượng vật báu tích tụ. Hết mực sâu xa khó lường tính. Rộng lớn vô lượng. Có nhiều chúng sinh thân tướng lớn sinh sống. Thủy triều lên xuống không sai thời hạn. Có thể tiếp nhận tất cả mưa lớn, không hề thỏa mãn. Như vậy, này Phật tử! Hạnh Bồ-tát cũng do mười tướng cho nên luôn gọi là hạnh Bồ-tát, không gì có thể hủy hoại. Những gì là mười tướng? Đó là: Bồ-tát trong địa Hoan Hỷ, lần lượt phát khởi đại nguyện. Bồ-tát trong địa Ly Cấu, không cùng trú với tử thi là kẻ phá giới. Bồ-tát trong địa Minh (địa Phát Quang), xả bỏ các thứ giả danh của thế gian. Bồ-tát trong địa Diệm, luôn cung kính Tam bảo, đạt được nhất vị (Pháp vị duy nhất) không hủy hoại. Bồ-tát trong địa Nan Thắng, với vô lượng trí phương tiện khởi tạo các thứ báu của thế gian. Bồ-tát nơi địa Hiện Tiền, quán xét pháp nhân duyên tích tập vô cùng sâu xa. Bồ-tát nơi địa Viễn Hành, dùng vô lượng trí phương tiện, khéo chọn lấy các pháp. Bồ-tát ở trong địa Bất Động, thị hiện dấy khởi các sự việc trang nghiêm lớn. Bồ-tát trí trong địa Thiện Tuệ, đạt được giải thoát thâm diệu, thông tỏ các hành của thế gian, chứng đắc đúng như thật, không vượt quá giới hạn. Bồ-tát trong địa Pháp Vân, có thể tiếp nhận tất cả các pháp minh lớn, pháp rưới mưa lớn của chư Phật, không có gì chán đủ”. Luận: Công đức của quả lớn; có thể hóa độ các chúng sinh khó hóa độ: Tức là nhân quả cùng thuận hợp. Mười địa như biển cả, có thể hóa độ các trường hợp khó hóa độ, đạt được quả đại Bồ-đề. Biển cả có tám loại công đức, nên biết! Công đức dễ đi vào. Như kinh nói: “Lần lượt sâu dần”. Công đức thanh tịnh. Như kinh nói: “Không tiếp nhận thây chết”. Công đức bình đẳng. Như kinh nói: “Các dòng nước khác đổ vào đều mất tên gọi vốn có”. tụ”. Công đức che chở. Như kinh nói: “Đồng một vị”. Công đức làm lợi ích. Như kinh nói: “Vô lượng các vật báu tích Công đức không khô cạn; tức là là sâu rộng. Như kinh nói: “Hết mực sâu xa khó lường tính, rộng lớn vô lượng”. Công đức về trú xứ; tức là có các chúng sinh thân lớn nương tựa. Như kinh nói: “Có nhiều chúng sinh thân tướng lớn sinh sống”. Công đức hộ trì thế gian: Thủy triều không sai thời hạn, dung chứa nước không chán đủ. Như kinh nói: “Thủy triều lên xuống không sai thời hạn. Có thể tiếp nhận tất cả mưa lớn, không hề thỏa mãn”. Pháp tương tự với biển cả, hành trong mười địa của Bồ-tát, cũng có mười loại tương ưng, như kinh nói: “Như vậy, này Phật tử! Hạnh Bồ-tát cũng do mười tướng cho nên luôn gọi là hạnh Bồ-tát, không gì có thể hủy hoại”. Thế nào là công đức kiên cố chuyển tận? Kinh: “Này Phật tử! Ví như ngọc báu ma ni vượt qua mười tính báu: Sinh ra từ biển cả. Thợ khéo tay sửa sang tốt đẹp. Khéo léo càng đẹp đẽ kỳ diệu. Hết sức thanh tịnh. Hết sức trong sáng rực rỡ. Dễ dàng xuyên thủng. Dùng sợi quý báu luồn qua. Đặt ở cột cao bằng lưu ly. Phóng ra tất cả ánh sáng. Tùy theo ý của vua, mưa xuống các vật báu, có thể ban cho hết thảy chúng sinh tất cả vật báu. Như vậy, này Phật tử! Bồ-tát phát tâm Nhất thiết trí, vượt qua mười tính Thánh: Đầu tiên là phát tâm bố thí, lìa keo kiệt. 2 Khéo tu tập trì giới, hành chân chính sáng tỏ thanh tịnh. Khéo tu các pháp thiền định, Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề, khiến cho càng trở nên tinh, diệu. Các pháp Bồ-đề phần hết sức thanh tịnh. Phương tiện thần thông hết sức trong sáng rạng rỡ. Quán xét nhân duyên tích tập dễ dàng xuyên suốt. Vô số trí phương tiện, khéo dùng sợi tơ nối liền. văn. Đặt ở trên cột cao của thần thông tự tại. Quán xét hành của chúng sinh, phóng ra ánh sáng trí tuệ đa Chư Phật trao cho địa vị trí tuệ, lúc bấy giờ có năng lực vì tất cả chúng sinh mà thị hiện làm những Phật sự, thì gọi là đạt được Nhất thiết trí”. Luận: Công đức kiên cố chuyển tận; là dụ về báu đại ma ni. Như kinh nói: “Này Phật tử! Ví như ngọc báu ma ni…”. Vượt quá mười tính báu; tức là ngọc báu ma ni vượt qua các thứ như tỳ lưu ly…, do vì sinh ra cho nên được chọn lấy, cho đến; phóng ra tất cả ánh sáng là chỉ rõ về báu này có tám loại công đức thâu nhiếp. Đó là: Công đức xuất phát; tức là chọn lựa mà lấy, nhờ vào sự khéo léo quán xét. Công đức màu sắc; người thợ khéo tay sửa sang tốt đẹp. Công đức hình tướng; Khéo léo càng đẹp đẽ kỳ diệu. Công đức không cấu uế; tức là hết sức thanh tịnh. Công đức sáng, sạch; tức là hết sức trong sáng rực rỡ. Công đức phát khởi hành; là dễ dàng xuyên thủng, dùng sợi quý báu luồn qua, đặt ở cột cao bằng lưu ly ba câu này đã chỉ rõ. Công đức do thần lực; phóng ra tất cả ánh sáng, soi chiếu khắp mọi nơi chốn. Công đức không giữ lấy; tức là tùy theo ý vua, mưa xuống các vật báu, có thể ban cho tất cả chúng sinh hết thảy vật báu. Tiếp nhận quả vị chính trí, bởi vì chung một tạng thiện căn với tất cả chúng sinh. Vượt quá mười tính Thánh; tức là vượt quá tính của hàng Nhị thừa. Hàng Thanh văn có tám chủng tính: Bốn hành-bốn quả sai biệt. Hàng Bích-chi-Phật chỉ có hai chủng tính: Một hành-một quả sai biệt. Như vậy đã nói xong Phần ảnh tượng của mười địa. Thế nào là Phần lợi ích của địa? Kinh: “Này Phật tử! Bồ-tát ấy hành hóa, khéo tích tập công đức của trí Nhất thiết chủng Nhất thiết trí, tích tập nhiều thứ pháp môn. Nếu chúng sinh nào không gieo trồng căn lành sâu xa, thì không thể nào nghe được. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi: Thưa Phật tử! Đối với sự khéo tích tập công đức của trí Nhất thiết chủng-Nhất thiết trí, tích tập nhiều loại pháp môn ấy, nếu người được nghe thì người ấy thành tựu được bao nhiêu công đức? Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Này Phật tử! Tùy theo sự thâu nhiếp của trí Nhất thiết trí, quán xét tập hợp các công đức, thì sự tích tập công đức của trí Nhất thiết chủng Nhất thiết trí, tích tập các pháp môn cũng lại như vậy. Người này được nghe pháp môn này thì công đức đạt được cũng lại như vậy. Vì sao? Này Phật tử! Vì nếu chẳng phải là Bồ-tát thì không nghe được sự tích tập các pháp môn, tích tập công đức của trí Nhất thiết chủng-Nhất thiết trí, huống là có thể tin, có thể thọ trì, có thể tu tập đúng đắn hay sao? Khi thuyết giảng kinh này, nhờ thần lực của Phật, nhờ đạt được diệu lực của pháp, thế giới của chư Phật nhiều như vi trần trong mười ức cõi Phật khắp mười phương thế giới, xuất hiện sáu loại chấn động với mười tám tướng, đó là: Chấn động khắp nơi-chấn động bằng nhau- tất cả cùng chấn động, vọt lên khắp nơi-vọt lên bằng nhau-tất cả cùng vọt lên; hiểu rõ khắp nơi-hiểu rõ như nhau-tất cả cùng hiểu rõ, tung lên khắp nơi-tung lên như nhau-tất cả cùng tung lên; rung chuyển khắp nơi- rung chuyển như nhau-tất cả cùng rung chuyển; gầm lên khắp nơi-gầm lên như nhau-tất cả cùng gầm lên. Nhờ thần lực của Phật, nhờ đạt được diệu lực của pháp, cho nên mưa xuống các loại hoa trời, như làn mây từ từ hạ thấp, mưa xuống các thứ y phục-vật báu-đồ dùng trang nghiêm- tán che-cờ phướn-kỹ nhạc-âm thanh, tất cả đều là vật dụng của cõi trời, để tán thán địa Nhất thiết trí và tán thán những sự việc thù thắng trong mười địa. Như bốn cõi thiên hạ thuộc thế giới này, trong cung điện Ma Ni Bảo Tạng của Tự Tại Thiên Vương ở cõi trời Tha-hóa-tự-tại, thuyết giảng về pháp của mười địa. Như vậy, tất cả thế giới khắp mười phương, đều thuyết giảng về pháp của mười địa này. Nhờ thần lực của Phật, các thế giới nhiều như số vi trần trong mười ức cõi Phật khắp mười phương, có các Bồ-tát nhiều như số vi trần trong mười ức cõi Phật đến quy tụ đầy khắp mười phương hư không. Đến rồi đều nói lời như vậy: Lành thay! Lành thay! Này Phật tử! Ông đã khéo thuyết giảng về tướng của Bồ-tát trú trong các địa. Này Phật tử! Tất cả chúng tôi cũng tên là Kim Cang Tạng, từ thế giới Kim Cang Thắng, trú xứ của Đức Phật Kim Cang Tràng đến đây. Tất cả các thế giới ấy đều nhờ vào thần lực của Phật, đều thuyết giảng về pháp môn này, các chúng hội cũng như vậy, câu chữ cũng người, giải thích tên gọi cũng như vậy, nghĩa lý cũng như vậy chứ không tăng-không giảm. Này Phật từ! Vì vậy chúng tôi vâng theo thần lực của Phật, đi đến chúng hội này để chứng minh đúng như pháp. Này Phật tử! Như chúng tôi đã đến tại pháp hội này, như vậy tất cả thế giới khắp mười phưởng, trong mỗi một thế giới có bốn cõi thiên hạ, trong cung điện Ma Ni Bảo Tạng của Tự Tại Thiên Vương trên cõi trời Tha-hóa-tự-tại, cũng có các Bồ-tát nhiều như số vi trần trong mười ức cõi Phật, đều đến để làm chứng. Lúc bấy giời Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng vâng theo thần lực của Phật, khi thuyết giảng kinh này được Như lai tùy hỷ. Tất cả các chúng Bồ-tát ấy và tám bộ chúng hộ pháp, Tứ Thiên Vương, Thích Đề Hoàn Nhân, Phạm Thiên Vương, Ma-hê-thù-la cùng chúng cõi trời Tịnh Cư đều vô cùng hoan hỷ. Đức Phật sau khi thành đạo chưa lâu, vào ngày thứ mười bốn tại cung điện Ma-Ni Bảo Tạng của Tự Tại Thiên Vương trong cõi trời Tha- Hóa-tự tại, thuyết cho Bồ-tát Kim Cang Tạng hoan hỷ phụng hành”. Luận: Lợi ích của địa, có hai loại: Công đức phát sinh niềm tin. Công đức cúng dường. Lại nữa, trong pháp môn này, chỉ rõ việc quyết định tin tưởng, nói về ý nghĩa của lợi ích to lớn. Như Kinh nói: “Này Phật tử! Bồ-tát ấy hành hóa, khéo tích tập công đức của trí Nhất thiết chủng-Nhất thiết trí, tích tập nhiều loại pháp môn… Bồ-tát Giải thoát Nguyệt hỏi… Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp…” Bởi vì từ trong kinh này, phát sinh niềm tin đạt được công đức. Lại có công đức phát sinh niềm tin, là nghĩa của duyên sinh này, nhờ thần lực của Phật, nhờ đạt được diệu lực của pháp…” Sáu loại chấn động: Chấn động. Vọt lên. Tung lên. Phát khởi. Tung xuống. Gầm thét. Mười tám tướng là tướng trạng của sáu loại chấn động này, hiện bày theo thứ tự hạ-trung-thượng như vậy. Trong khí thế gian, dựa vào bốn loại chúng sinh tu: Dựa vào chúng sinh bất thiện. Dựa vào chúng sinh tin theo các loại trời. Dựa vào chúng sinh . Vì sự sai biệt theo thứ tự hạ-trung-thượng của các chúng sinh này, mà có các loại chấn động từ chấn động cho đến gầm thét. Mười tám câu với nghĩa khác nhau như vậy, nên biết! Như vậy đã nói về công đức phát sinh niềm tin và nghĩa của duyên sinh. Công đức cúng dường. Như kinh nói: “Mưa xuống các loại hoa trời…” Tất cả các thế giới đều thuyết giảng về pháp môn này là chỉ rõ về vô lượng pháp môn, về mọi việc làm lợi ích cho tất cả chúng sinh mà thị hiện. Như kinh nói: “Như bốn cõi thiên hạ thuộc thế giới này…” Những phần còn lại thì dễ dàng hiểu được.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 87