<經 id="n1521">LUẬN THẬP TRỤ TỲ BÀ SA HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1521 LUẬN THẬP TRỤ TỲ BÀ SA Tác giả: Bồ-tát Long Thọ. Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập. <卷>QUYỂN 1 <詞>Phẩm 1: PHẦN TỰA Kính lạy chư Phật mười phương, Cùng với Đại đạo Vô thượng, Cho đến các chúng Bồ tát, Tâm kiên cố trú mười Địa. Thanh văn và Bích-chi-Phật, Bậc vô ngã và ngã sở, Nay giải thích nghĩa mười Địa, Tùy thuận pháp Phật đã thuyết. Hỏi: Vì lý do nào khiến ông nói là muốn giải thích về nghĩa của Thập địa Bồ tát? Đáp: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thiên, nhân, A-tu-la, đó là sáu nẻo hiểm nạn, gây sợ hãi lớn nhất. Hết thảy chúng sinh trong các nẻo ấy cứ trôi qua giạt lại trong biển cả sinh tử, tùy theo nghiệp mình gây tạo mà mãi lặn hụp trong vô số lớp sóng nhấp nhô đó. Biết bao nước mắt tuôn, bao giọt sữa tràn, bao mồ hôi, máu mủ tanh nồng là những khối nước uế tạp đáng chán. Những chứng bệnh hủi, hói, gầy còm, thổ huyết, lở loét đầy chân tay, ung thư, do khí nóng xông lên làm ói mửa, sình trướng. Các thứ bệnh tật, bệnh xấu ác như vậy chính là đám quỷ La-sát quái ác. Buồn lo sầu khổ là những thứ nước luôn khuấy động. Khóc lóc than thở kêu gào là âm thanh của muôn ngàn đợt sóng dữ dội. Mọi thứ khổ não thọ nhận chính là tảng đá ốc tiêu nơi đáy biển cả. Cái chết là một bờ dốc cao, không ai có thể vượt qua được. Kiết sử, phiền não, nghiệp hữu lậu là những cơn gió xoáy bất định. Bốn loại điên đảo là những sự dối trá gạt lừa. Ngu si, vô minh là vùng tối tăm lớn nhất. Theo nghiệp ái mà hàng phàm phu luôn bước đi trong ấy, từ vô thỉ đến nay cứ như vậy mà qua lại nơi biển cả sống chết, chưa từng đến được bờ giác ngộ. Ai đạt tới bờ kia thì phải vận dụng mọi khả năng để cứu vớt vô lượng chúng sinh. Do nhân duyên ấy cho nên nói về nghĩa của Thập địa Bồ-tát. Hỏi: Nếu người không có khả năng tu hành mười địa của Bồ-tát, thì không thể vượt khỏi biển cả sinh tử chăng? Đáp: Nếu ai tu theo thừa Thanh văn và Bích-chi-Phật, thì cũng vượt qua được biển sinh tử. Nếu người muốn dùng Đại thừa vô thượng để vượt qua biển lớn sinh tử, thì phải tu hành đầy đủ mười địa. Hỏi: Tu theo thừa Thanh văn và Bích-chi-Phật, thì đến khi nào có thể vượt qua biển cả sinh tử? Đáp: Ai tu theo thừa Thanh văn, thì một đời là thoát khỏi, hoặc hai đời, hoặc là hơn số đó, tùy căn trí lanh khôn hay chậm lụt, lại còn do nhân duyên tu hành từ đời trước nữa. Ai tu theo thừa Bích-chi-Phật thì bảy đời là vượt khỏi, hoặc tám đời mới vượt khỏi. Nếu ai tu theo Đại thừa thì phải trải qua một Hằng hà sa đại kiếp, hoặc hai-ba, cho đến mười trăm ngàn vạn đời, hoặc hơn số này, sau đó mới có thể tu tập đầy đủ mười địa của Bồ-tát mà thành Phật, cũng tùy trình độ lanh khôn hay chậm lụt và nhân duyên tu hành từ đời trước nữa. Hỏi: Phật, Thanh văn và Bích-chi-Phật cùng đến bờ bên kia, thì đối với sự giải thoát có gì khác nhau? Đáp: Sự việc này cần phải phân biệt. Giải thoát khỏi phiền não thì không có gì khác nhau, nhờ vào sự giải thoát này mà nhập Niết-bàn vô dư, trong đó cũng không khác nhau, vì không có tướng. Chỉ vì chư Phật với thiền định thâm diệu, giải thoát khỏi chướng ngại, hết thảy mọi thứ chướng ngại đều được giải thoát, là khác biệt đối với Thanh văn và Bích-chi-Phật. Sự khác biệt ấy không thể giải thích hết được, cũng không thể lấy ví dụ để so sánh. Hỏi: Cái học của ba Thừa là Niết-bàn vô dư, nếu trong Niết-bàn vô dư không có sai khác, thì chúng ta đâu cần phải qua lại trong hằng hà sa đại kiếp trong sinh tử để thực hành đầy đủ hạnh tu của mười địa? Chi bằng theo thừa của Thanh văn và Bích-chi-Phật để mau chóng diệt trừ mọi khổ não? Đáp: Lời ấy mang tính chất yếu kém, không phải là lời nói của tâm Đại Bi làm lợi ích. Nếu các Bồ-tát hành theo tâm nhỏ hẹp của ông không có tâm Từ Bi, thì không thể siêng năng tinh tiến tu tập mười địa. Như vậy, hàng Thanh văn và Bích-chi-Phật cũng không do đâu mà được độ thoát, cũng không có ba Thừa khác nhau. Vì sao? Vì tất cả hàng Thanh văn và Bích-chi-Phật đều phát sinh từ Phật, nếu không có chư Phật thì do đâu mà có Thừa kia? Nếu không tu mười địa thì làm sao có chư Phật? Nếu không có chư Phật thì cũng không có Pháp-Tăng. Cho nên những gì ông đã nói là làm đoạn mất hạt giống Tam bảo, không phải là lời nói của bậc Đại nhân có trí tuệ, vì vậy không chấp nhận được. Vì sao? Vì thế gian có bốn hạng người: Tự lợi. Lợi tha. Gồm cả tự lợi và lợi tha. Không tự lợi và lợi tha. Trong ấy, hạng thứ ba là có khả năng thực hành Từ Bi làm ích lợi cho kẻ khác, gọi là bậc Thượng nhân. Như thường nói: Thế gian thật là đáng xót thương, Thường làm trái chỉ vì lợi mình, Dốc lòng theo đuổi sự vui sướng, Rơi vào màng lưới của tà kiến. Thường ôm ấp lo sợ cái chết, Trôi giạt qua lại trong sáu đường, Các Bồ tát dùng tâm Đại Bi, Luôn luôn thực hành hạnh hiếm có. Lúc chúng sinh đối diện cái chết, Không có ai có thể cứu giúp, Chìm vào trong đen tối mịt mù, Do màng lưới phiền não hệ thuộc. Nếu người có năng lực phát nguyện, Thực hành tâm Đại Bi cao cả, Gánh vác tất cả mọi gánh nặng, Làm nơi nương tựa của chúng sinh. Nếu như người có tâm quyết định, Một mình nhận chịu mọi gian lao, Mà đạt được quả báo an ổn, Mang lại cho tất cả cùng vui. Được chư Phật luôn luôn khen ngợi, Là người cao cả vào bậc nhất, Cũng là người hiếm có trên đời, Kho tàng vó đại của công đức Thế gian có người vẫn thường nói: Nhà không sinh con cái xấu xa, Chỉ có thể thành tựu lợi mình, Không thể nào lợi cho người khác. Nếu sinh ra làm người tốt lành, Luôn luôn làm lợi ích cho người, Vậy thì như vầng trăng tròn đầy, Vằng vặc chiếu sáng trong nhà ấy. Người có những công đức phước thiện, Bởi vì đủ các loại nhân duyên, Lợi ích thêm nhiều như biển rộng, Lại cũng như mặt đất bao la. Không mong cầu gì với thế gian, Vì lòng yêu thương mà dừng lại, Người này sinh ra được tôn quý, Thọ mạng lâu dài vào bậc nhất. Như vậy, Thanh văn, Bích-chi-Phật đối với Phật, thì việc giải thoát khỏi phiền não dù không sai khác, nhưng có khác biệt lớn, đó là phải sống lâu trong sinh tử để độ vô lượng chúng sinh, tạo nhiều ích lợi để tu tập đầy đủ mười địa của Bồ-tát. Hỏi: Phật có tâm Đại Bi, ông là đệ tử luôn luôn ca ngợi Phật có lòng thương xót chúng sinh đích thực như đã nói, ông dùng các loại nhân duyên phân biệt rõ ràng để dẫn dắt làm cho hiểu biết. Người thực hành tâm Từ Bi nghe được thì tâm thanh tịnh tôi rất vui thích. Kệ trước đây ông nói về nghĩa của mười địa mong ông giải thích cho nghe! Đáp: Kính là lòng cung kính. Lạy là cúi mình tiếp xúc với chân. Hết thảy chư Phật là chư Phật khắp mười phương trong ba đời. Đại đạo Vô thượng là tất cả các pháp đều như thật thấy biết, thông suốt, không còn sót. Lại không có gì hơn cho nên nói là Vô thượng. Đạo của bậc Đại nhân tu hành cho nên gọi là Đại đạo. Chúng Bồ-tát vì đạo Vô thượng mà phát tâm hành trì cho nên gọi là Bồ-tát. Hỏi: Chỉ có phát tâm thì đều là Bồ-tát chăng? Đáp: Đâu có chuyện chỉ phát tâm mà trở thành Bồ-tát. Nếu người phát tâm chắc chắn có khả năng thành tựu đạo vô thượng mới gọi là Bồ- tát. Hoặc có người chỉ phát tâm cũng gọi là Bồ-tát. Tại sao vậy? Vì nếu tách rời khỏi phát tâm ban đầu thì không thể thành tựu đạo Vô thượng. Như kinh Đại thừa nói: “Ai mới phát tâm cũng gọi là Bồ-tát, giống như Tỳ-kheo tuy chưa đắc đạo nhưng cũng gọi là đạo nhân”. Đó là Bồ-tát danh tự dần dần tu tập chuyển thành pháp chân thật. Trong phần giải thích về địa Hoan hỷ sẽ nói rộng về tướng như thật của Bồ-tát. Chúng, là từ lúc mới phát tâm cho đến phần vị Kim cang vô ngại giải thoát đạo, trong đó bao gồm tất cả các Bồ-tát quá khứ-hiện tại-vị lai, cho nên gọi là chúng. Tâm vững chắc, là tâm như núi chúa Tu-di, không thể hủy hoại, cũng như mặt đất bao la không thể bị nghiêng ngã lay động. Trụ trong mười địa, là từ địa Hoan hỷ cho đến địa Pháp vân. Sau này sẽ nói rộng. Hỏi: Nếu Bồ tát lại có công đức thù thắng, tại sao chỉ khen ngợi tâm vững chắc? Đáp: Bồ-tát có công đức của tâm vững chắc mới có, năng lực thành tựu sự nghiệp lớn (Đại thừa), không bị rơi xuống Nhị thừa. Tâm mềm yếu là tâm sợ hãi sinh tử tự nghó rằng vì sao ở lâu trong sinh tử nhận chịu những điều khổ não, không bằng nhanh chóng theo hàng Thanh văn và Bích-chi-Phật để lập tức diệt mọi khổ đau. Hơn nữa, tâm mềm yếu là dành cho những kẻ sống trong địa ngục, như địa ngục Đẳng hoạt, địa ngục Hắc thằng, địa ngục Chúng hợp, địa ngục Hào khiếu, địa ngục Đại hào khiếu, địa ngục Viêm nhiệt, địa ngục Đại nhiệt, địa ngục Vô gián; và những địa ngục quyến thuộc khác như, địa ngục lửa đốt thành tro bụi, địa ngục phân sôi, địa ngục rừng cháy, địa ngục máng gươm trên cây, địa ngục đường đi toàn dao, địa ngục cột đồng cháy, địa ngục bị mũi nhọn đâm, địa ngục sông muối. Hết thảy các địa ngục ấy đều sắp đầy những dụng cụ như búa sắt, dao nhọn, kích nhọn, cung tên bằng sắt, chày vồ, gậy sắt, chuông bằng sắt, lưỡi cày trâu bằng sắt, khiên giáo sắt, cối sắt, chày sắt, bánh xe sắt. Tất cả dụng cụ ấy dùng để tra tấn tội nhân như chém, chặt, cắt, đâm, đánh đập, lột da, lóc thịt, xiềng xích, gông cùm, đốt cháy, luộc nấu, tra khảo bằng roi sắt, máy nghiền nát, đánh đâm thân thể tội nhân cho nhừ ra. Những ác thú như chồn, chó, cọp, sói và sư tử tranh nhau đến ăn thân thể ấy. Ở trên thì cú, quạ, kênh kênh sắt bay đến mổ ăn thân thể ác quỷ dồn đuổi tội nhân, họ phải chạy qua rừng cây dắt kiếm, trên dưới đều là núi lửa bốc cháy. Cho bánh xe lửa cán ngang cổ, rồi cầm gậy sắt nóng đỏ để quất ngã, hoặc lấy cả ngàn cây đinh đóng vào tội nhân, hoặc dùng dao cắt gọt, nạo lưỡi, cắt lưỡi, rồi lùa tội nhân vào hỏa ngục tăm tối, khi thân thể tội nhân nát như bột rồi đem giam vào chỗ hôi thối. Ở đây, thân thể tội nhân bị đặt lên những vỉ sắt nóng bao quanh, còn bị lột da lóc thịt, tay chân bị trói chặt, quăng vào vạc nước sôi, nấu thân ấy. Những quả tạ sắt liên tục ném vào đầu tội nhân khiến não vỡ tung, mắt lồi ra. Thân tội nhân phải đeo những vòng sắt nóng, với sức nóng kinh hoàng đó, máu tuôn ra lai láng. Hoặc có tội nhân phải lặn xuống sông đầy phân thối, hoặc phải đi trên đường ác tua tủa dao kiếm, những dao kiếm bên trên tự nhiên rớt xuống như mưa, như ngựa phóng nhanh, lao vào chém đứt thân thể. Có con sông gồm đủ nước chua, cay, mặn, hôi thối, những kẻ bị quăng xuống đó, thân thể nứt ra rời rã chỉ còn bộ xương. Bọn ngục tốt vớt những bộ xương ấy ra rồi kéo lê, dậm đạp lên… Những nỗi thống khổ ấy không cùng tận, mà tội nhân thì cứ phải sống ở đó để hứng chịu, muốn chết lại không được. Nếu nghe thấy những việc hãi hùng ấy, ai mà không sợ hãi, cầu mong tu tập theo Thừa của Thanh văn và Bích-chi-Phật? Lại nữa, còn có địa ngục băng giá, địa ngục Át-phù-đà, địa ngục Ni-la-phù-đà, địa ngục A-ba-ba, địa ngục A-la-la, địa ngục A-hầu-hầu, địa ngục bông sen trắng, địa ngục bông sen xanh, địa ngục bông sen nhiều màu, địa ngục bông sen hồng, địa ngục bông sen đỏ, thường ở trong chỗ u tối thăm thẳm đầy hãi hùng. Những ai hủy báng Hiền Thánh đều đọa vào những ngục ấy, ở đó còn những hình thể như nhà cửa, phòng xá, núi non, gò đống, núi cao chót vót xấu xí, gió rú lạnh khiếp, làm kích động nỗi đau thương, thân như nắm cỏ khô, da thịt rơi rụng như lá mùa đông. Rét buốt da thịt nứt nẻ, máu mủ hôi tanh nồng nặc tuôn ra. Thân thể phải giam mình trong hôi thối vô cùng khó chịu. Gió lạnh quất vào gây muôn ngàn cay đắng khổ sở, chỉ biết buồn rầu khóc than, tâm không còn nghó gì khác. Cứ gào khóc mà không có chỗ nào nương tựa. Những tội ấy là do chê bai Hiền Thánh mà ra. Những ai có tâm hồn nhút nhát nghe thấy những việc kia thì sao không run sợ mà mong cầu tu theo thừa của Thanh văn và Bích-chi-Phật? Lại nữa, sinh làm súc sinh như heo, chó, cáo, mèo, chồn, chuột, khỉ, dã nhân, cọp, sói, sư tử, beo, gấu, voi, ngựa, trâu, dê, rít, bò cạp, sên, rắn độc, mọt, rùa, thuồng luồng, cá trạch, ốc, rồng có sừng, bồ câu, cú, kênh kênh. Những cầm thú ấy tàn hại lẫn nhau. Người ta bủa lưới bắt đem về mổ, giết, xẻo thịt ăn, không phải là ít. Lúc còn sống thì chúng bị roi, móc đánh đập, xỏ mũi, ghịt đầu, bắt kéo chở nặng, còn bị đánh đập lòi da, lòi thịt, đau đớn không chịu nổi, bị xông vào khói lửa đốt, khổ độc biết chừng nào. Khi chết chúng còn bị lột da, ăn thịt. Những nỗi thống khổ vô cùng như vậy, những kẻ tâm hồn yếu đuối, hèn nhát thấy nghe việc ấy sao không run sợ, không mong cầu theo Thừa Thanh văn và Bích-chi-Phật? Lại ở trong loài quỷ đói, cổ như cây kim, miệng luôn bốc lửa, có quỷ đói chuyên ăn đồ ói mửa, có quỷ đói ăn đồ dơ trong thau giặt, có quỷ đói ăn máu mủ, có quỷ đói ăn cứt đái, có quỷ đói tên Phù-đà, có quỷ đói tên Cưu-bàn-trà, có quỷ Dạ-xoa, quỷ La-sát, quỷ Tỳ-xá-xà, quỷ Phú-đơn-na, quỷ Ca-la Phú-đơn-na và nhiều loại quỷ khác. Bọn quỷ này râu tóc rối nùi, móng tay dài, lỗ mũi to, trong mình nhiều dòi bọ, hôi thối đáng kinh tởm, bị đọa đày trong đói khát, ganh ghét, keo kiệt, chúng luôn khổ não bực bội. Chúng chưa từng được ăn, nếu ăn thì đồ ăn không qua khỏi yết hầu. Chúng thường chạy đi tìm máu mủ, cứt đái, đờm dãi, mũi dãi, nước dơ trong chậu. Những con mạnh lấn lấy được nhưng lại không ăn được. Chúng lõa lồ nên nóng lạnh càng giội vào cơ thể. Gió độc thổi khiến thân thể quằn quại đau nhức, ê ẩm. Ngoài ra còn bị muỗi mòng, trùng độc rút rỉa ăn thân của chúng, bụng cồn cào đói khổ như lửa đốt. Những tâm hồn yếu đuối khi nghe những việc ấy làm sao không sợ hãi, không mong cầu Thừa Thanh văn và Bích-chi-Phật? Trong thế giới con người bị khổ do ân ái lìa tan, khổ do oán ghét mà cứ phải gặp, khổ vì già, vì bệnh, vì chết, vì cơ cực nghèo hèn, mong hết cực khổ. Có biết bao cảnh khổ như vậy, ngay cả các cõi trời, A-tu-la cũng không tránh khỏi khổ, vì thời gian cứ lùi xa mất hút. Những tâm hồn yếu đuối khi nghe những việc ấy làm sao không sợ hãi, không mong cầu ở hàng Thanh văn và Bích-chi-Phật? Người có tâm vững chắc, khi nghe thấy tất cả khổ não mà chúng sinh phải chịu trong địa ngục ngạ quỷ, súc sinh, trời, người, A-tu-la, sinh tâm Đại Bi mà không lấy làm sợ hãi, còn lập nguyện như vậy: Những chúng sinh chìm sâu trong đau khổ, không ai cứu vớt, không nơi nương cậy, sau khi chứng Niết-bàn, mình sẽ cứu vớt họ. Vì lòng Đại Bi và siêng năng tinh tiến, cho nên không bao lâu được thành tựu tâm nguyện. Vì vậy tôi nói: Trong các công đức của Bồ-tát thì tâm kiên cố là bậc nhất. Lại nữa, Bồ-tát có tám pháp luôn luôn quy tập tất cả các công đức. Đó là: Lòng Đại Bi. Tâm kiên cố. Trí tuệ. Phương tiện. Không phóng túng. Thường xuyên tinh tiến. Thường nhiếp niệm. Thiện tri thức. Vì vậy, người mới phát tâm mau chóng thực hành tám việc này, như cứu lửa đang cháy trên đầu, sau đó mới tu các công đức khác. Hơn nữa, nương vào tám pháp này mà có được bốn đôi-tám bậc của tất cả các chúng Thanh văn, đó là Tu-đà-hoàn hướng, Tu-đà-hoàn… Bích-chi-Phật không có ngã-ngã sở, khi thế gian không còn Phật, không còn pháp của Phật, có những người tự đắc đạo gọi là Bích-chi- Phật. Các Hiền Thánh đã lìa xa sự tham trước về ngã và ngã sở, cho nên gọi là bậc không có ngã và ngã sở. Nay giải thích về nghĩa của mười địa thuận theo những điều Đức Phật đã nói, là trong kinh Thập Địa giải thích theo thứ tự, nay sẽ thuận theo thứ tự giải thích đầy đủ. Hỏi: Những điều ông nói không khác với kinh. nghĩa đã được lập trong kinh rồi, cần gì phải nói thêm nữa? Hay là ông muốn khoe tài để cầu danh, cầu lợi? Đáp: Tôi không vì thể hiện tự mình, Trau chuốc văn từ thật hoa mỹ, Cũng không tham lam theo lợi dưỡng, Mà tạo ra bộ luận như vậy. Hỏi: Nếu không như vậy thì vì sao tạo ra bộ luận này? Đáp: Tôi vì muốn đem tâm Từ Bi, Làm nhiều lợi ích cho chúng sinh, Chứ không vì nhân duyên nào khác, Mà tạo ra bộ luận như vậy. Thấy chúng sinh cực khổ trong sáu đường không ai cứu giúp. Vì muốn cứu giúp họ cho nên tôi dùng sức trí tuệ làm bộ luận này, không phải khoe sức trí tuệ để cầu danh lợi, cũng không có tâm ganh tị, tự cao để cầu cúng dường. Hỏi: Về lòng xót thương làm chuyện ích lợi cho chúng sinh thì trong kinh đã nói rồi, cần gì phải giải thích cho khổ nhọc? Đáp: Có người chỉ gặp được kinh Phật, Hiểu thông suốt về Đệ Nhất nghĩa, Có người được giải thích rõ ràng, Mà hiểu được nghĩa lý chân thật.. Có người lợi căn trí tuệ sâu sắc nghe những lời Phật nói sâu xa trong các kinh, thì có thể hiểu thông suốt về Đệ nhất nghĩa, đó gọi là người hiểu kinh sâu xa, tức là Bồ-tát mười địa. Đệ nhất nghĩa tức là nghĩa như thật của mười địa. Có những luận sư có lòng Từ Bi, thuận theo lời Phật nói, tạo sự luận bàn, tăng thêm lời lẽ làm cho sáng tỏ. Có người nhờ vậy mà thông suốt được nghĩa của mười địa. Như nói: Có người ưa trau chuốt văn chương, Lời lẽ câu văn đều tốt đẹp, Có người khéo đối với kệ-tụng, Có người thích câu từ xen lẫn, Có người thích thể loại ví dụ, Mới hiểu được rõ ràng nhân duyên, Ý thích của mọi người khác nhau, Tôi thuận theo mà không rời bỏ. Danh từ-câu cú-chương mục trau chuốt cho nghĩa trong câu không làm thành kệ tụng, kệ gọi là hướng về nghĩa lý, từ ngữ ở trong các câu hoặc là bốn chữ năm chữ, bảy chữ… kệ có hai loại: Kệ bốn câu gọi là Ba-giá. Kệ sáu câu gọi là Kỳ-dạ. Kệ xen nhiều loại câu gọi là lời lẽ nói thẳng. Thí dụ là bởi vì người ta không hiểu được nghĩa sâu xa cho nên mượn thí dụ khiến cho họ hiểu rõ. Thí dụ có lúc là sự thật, có lúc là giả tạm. - Nhân duyên là suy tìm nguyên do của sự việc, thuận theo sở thích mà không được bỏ qua. Hỏi: Ông sẽ làm gì với sở thích khác nhau của chúng sinh? Đáp: Tôi phát tâm vì đạo vô thượng, không bỏ tất cả mà tùy sức làm ích lợi cho họ, hoặc bằng tiền của, hoặc bằng giáo pháp. Như nói: Nếu như có người bậc Đại trí, Được nghe nghĩa lý kinh như vậy, Không cần phải giải thích gì thêm, Bởi đã hiểu rõ nghĩa mười địa. Nếu ai có phước đức thông minh, chỉ cần được nghe về kinh Thập Địa này, thì hiểu nghĩa lý không cần phải giải thích. Không phải vì người ấy mà tạo ra bộ luận này. Hỏi: Người thiện là sao? Đáp: Nếu nghe lời Phật dạy liền có thể tự mình hiểu được, như hàng trượng phu có thể uống thuốc đắng, trẻ thơ thì lấy mật ngọt hòa vào. Người thiện thì nói sơ lược có mười pháp. Những gì là mười pháp? Đó là: Tín. Tinh tiến. Nhớ nghó. Niệm. Thân nghiệp thiện. Khẩu nghiệp thiện. Ý nghiệp thiện. Không tham lam. Không giận dữ. Không ngu si. Như nói: Nếu như người nào vì kinh văn, Khó có thể đọc tụng dễ dàng, Nếu làm bộ luận Tỳ-bà-sa, Thì lợi ích nhiều cho người ấy. Nếu người độn căn lười nhác chậm chạp, bởi vì kinh văn khó cho nên không có thể đọc tụng. Khó là bởi vì văn nhiều cho nên khó tụng-khó giải thích-khó nghe. Hoặc có người ưa thích lời lẽ hoa mỹ, thí dụ xen lẫn làm sinh động chương cú và các loại kệ tụng… Vì lợi ích cho những người ấy mà soạn ra bộ luận này. Vì vậy trước đây ông nói chỉ cần kinh Phật thì đủ lợi ích cho chúng sinh, đâu cần phải giải thích, điều này không phải như vậy: Như nói: Tư duy soạn ra bộ luận này, Phát khởi do thiện tâm sâu xa, Đem giáo pháp này soi tất cả, Cúng dường Chư Phật không gì hơn. Khi soạn luận này, tôi đã suy nghó phân biệt, phần nhiều nghó đến Tam bảo và chúng Bồ-tát, cũng nghó đến bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ. Phát tâm thiện sâu xa thì đó là tự lợi, còn diễn nói, trình bày rõ ràng chính pháp này gọi là cách cúng dường Chư Phật không có gì sánh bằng, đó chính là lợi tha. Như nói: Thuyết pháp thắp ngọn đèn giáo pháp, Xây dựng cột cao nêu chính pháp, Cột cao này chính là ấn tướng, Giáo pháp vi diệu của Thánh Hiền, Nay tôi soạn ra bộ luận này, Đế-xả cùng với diệt và tuệ, Đây là bốn nơi của công đức, Tự nhiên mà tu tập thành tựu. Nay soạn ra luận này, là bốn loại công đức tự nhiên tu tập, vì vậy tâm không có gì mệt mỏi. Đế là tất cả đều chân thật, cho nên gọi là Đế. Lời Phật là chân thật trong tất cả mọi sự chân thật, bởi vì không thể biến hoại đổi thay. Tôi giải thích về Phật pháp này chính là thuộc về Tập đế. Xả gọi là bố thí. Thì có hai loại là pháp thí và tài thí. Trong hai loại thí thì pháp thí là hơn hẳn. Như Phật bảo với các Tỳ-kheo: “Một là pháp thí, hai là tài thí. Trong hai loại thí thì pháp thí là hơn hẳn”. Vì vậy lúc tôi bố thí pháp tức là thuộc về Xả của Tập. Nếu lúc tôi giải thích về nghĩa mười địa, thì không có ác nghiệp của thân-khẩu-ý, lại cũng không dấy lên ý niệm ham muốn-giận dữ-si mê và các kiết sử khác. Ngăn chặn lỗi lầm này thì gọi là thuộc về Diệt của Tập. Nói pháp cho người khác hiểu thì cảm được báo có trí tuệ rộng lớn, bởi vì sự thuyết pháp chính là thuộc về Tuệ của Tập. Như vậy soạn ra luận này, là nơi quy tập của công đức này. Lại nữa: Tôi giải thích luận về mười địa, Tâm tư mình đạt được thanh tịnh, Hết sức tham lam với tâm này, Tinh tiến thường xuyên không mệt mỏi. Nếu như người nghe và thọ trì, Tâm tư có được sự thanh tịnh, Tôi cũng hết sức vui như vậy, Dốc lòng soạn ra bộ luận này. nghĩa của hai bài kệ này đã rõ ràng không cần phải nói lại, chỉ vì tâm mình và tâm người thanh tịnh, cho nên soạn ra nghĩa mười địa này, tâm thanh tịnh đến được nơi phải đến, cảm được quả báo to lớn. Như Phật nói với Ca-lưu-đà-di: Đừng oán trách A-nan! Nếu Ta không thọ ký cho A-nan, vào sau khi hóa-tự-tại bảy lần trở lại làm vua. Như trong Kinh nói rộng. <詞>Phẩm 2: BƯỚC VÀO ĐỊA THỨ NHẤT Hỏi: Những lời ông vừa nói làm tâm tôi bừng sáng, tôi rất hân hoan. Nay ông giảng nói mười địa thì lợi ích chắc chắn nhiều nữa. Những gì là mười địa? Đáp: Pháp của mười địa nói trong này, Chư Phật ba đời quá-hiện-vị, Vì các đệ tử của Chư Phật, Đã thuyết giảng-nay đang thuyết giảng. Địa thứ nhất gọi là Hoan Hỷ, Địa thứ ba gọi là Minh địa, Địa thứ tư gọi là Diệm địa, Địa thứ năm gọi là Nan Thắng, Địa thứ sáu gọi là Hiện Tiền, Địa thứ bảy gọi là Thâm Viễn, Địa thứ tám gọi là Bất Động, Địa thứ chín gọi là Thiện Tuệ, Địa thứ mười gọi là Pháp Vân, Tướng mười địa phân biệt rõ ràng, Tiếp sau đây sẽ nói rộng ra. Trong này là trong nghĩa Đại thừa. Mười là số giáo pháp. Địa là trú xứ tầng bậc thiện căn của Bồ tát. Chư Phật là Chư Như Lai trong ba đời mười phương. Thuyết là khai thị giải thích. Phật tử là con chân thật của Phật, chính là các Bồ-tát, cho nên Bồ-tát gọi là Phật tử. Chư Phật quá khứ-vị lai-hiện tại đều nói mười địa này. Cho nên nói: “Đã nói, Đã thuyết giảng-nay đang thuyết giảng”. Bồ-tát ở địa thứ nhất, mới được vị pháp thiện cho nên tâm nhiều hoan hỷ, vì vậy gọi là địa Hoan Hỷ. Bồ-tát trong địa thứ hai, thực hành mười thiện đạo, xa lìa mọi cấu trược, cho nên gọi là địa Ly Cấu. Bồ-tát trong địa thứ ba, nghe nhiều học rộng, nói pháp cho mọi người nghe, tự làm sáng tâm mình, cho nên gọi là Minh địa. Bồ-tát trong địa thứ tư, làm tăng thêm việc bố thí, trì giới, lại học rộng, oai đức rực sáng, cho nên gọi là Diệm địa. Bồ-tát trong địa thứ năm, có sức mạnh của công đức, mọi thứ ma không đến quấy phá được, cho nên gọi là địa Nan Thắng. Bồ-tát trong địa thứ sáu, trừ hết ma chướng, các pháp của Bồ tát đạo hiện ra trước mặt, cho nên gọi là địa Hiện Tiền. Bồ-tát trong địa thứ bảy, xa gần trong ba cõi đều tôn làm Pháp vương, cho nên gọi là địa Thâm Viễn. Bồ-tát trong địa thứ tám, không gì làm lay chuyển được nguyện lực, cho dù đó là Thiên ma, là Phạm thiên, Sa-môn, Bà-la-môn, cho nên gọi là địa Bất Động. Bồ-tát trong địa thứ chín, với trí tuệ sáng ngời, điều phục nhu hòa tăng lên, cho nên gọi là địa Thiện Tuệ. Bồ-tát trong địa thứ mười, đối với vô lượng thế giới nơi mười phương, có thể rưới làn mưa pháp trong cùng một lúc như kiếp thiêu rụi tất cả sau đó rưới mưa lớn thầm nhuần khắp nơi, cho nên gọi là địa Pháp Vân. Hỏi: Đã nghe tên mười địa, bây giờ làm sao bước vào địa thứ nhất, đạt được tướng mạo của địa này và tu tập theo địa ấy? Đáp: Nếu căn thiện gieo trồng sâu dày, Cố gắng làm những hạnh tốt lành, Khéo quy tụ các vật sử dụng, Thiện tâm luôn cúng dường Chư Phật, Được hàng thiện tri thức che chở, Đầy đủ mọi tâm nguyện sâu xa, Tâm Từ Bi nghó đến chúng sinh, Tin và hiểu giáo pháp Vô thượng. Có đủ tám pháp như vậy rồi, Thích hợp tự mình phát nguyện rằng: Con được tự mình độ thoát rồi, Nên tiếp tục độ thoát chúng sinh. Bởi vì đạt được mười lực rồi, Chắc chắn tiến vào trong Định tụ, Thì sinh trong nhà của Như Lai, Không còn có tất cả lỗi lầm. Lập tức chuyển hóa đạo thế gian, Tiến vào đạo xuất thế cao thượng, Đây là đạt được địa thứ nhất, Địa này gọi là địa Hoan Hỷ. Căn thiện gieo trồng sâu dày; là theo như pháp mà tu tập mọi công đức, gọi là căn thiện gieo trồng sâu dày. - Căn thiện; là không tham, không giận dữ, không si mê. Mọi pháp thiện đều từ ba loại này mà có, cho nên gọi là căn thiện. Mọi pháp ác cũng phát sinh từ tham lam-giận dữ-si mê, cho nên ba loại xấu này gọi là căn bất thiện. Trong luận A-Tỳ-Đàm phân biệt nhiều loại tâm lý, như hệ thuộc vào cõi Dục, hệ thuộc vào cõi Sắc, hệ thuộc vào cõi Vô sắc và không bị hệ thuộc hợp lại thành mười hai loại, có tâm tương ưng, có tâm không tương ưng, tất cả có hai mươi bốn loại. Trong số đó, lúc tu tập thiện căn vô lậu thì chứùng quả Vô thượng chính đẳng chính giác, còn lại là sự tu tập trong chín địa Bồ tát. Nhưng lúc chưa phát tâm cũng tu tập, hoặc trong một tâm có ba, hoặc trong một tâm có sáu, hoặc trong một tâm có chín, hoặc trong một tâm có mười hai. Hoặc chỉ quy tập tâm tương ưng chứ không quy tập tâm không tương ưng. Hoặc quy tập tâm không tương ưng chứ không quy tập tâm tương ưng. Hoặc quy tập tâm tương ưng cũng là tâm không tương ưng. Hoặc không quy tập tương ưng và tâm không tương ưng. Đó là sự phân biệt các căn thiện, như đã nói rộng trong A-tỳ-đàm. Trong đó căn thiện là chúng sinh cầu đạo vô thượng, đã thực hành mọi pháp thiện, đều gọi là căn thiện. Có thể phát sinh Trí Tát-bà-nhã cho nên gọi là căn thiện. Làm những hạnh tốt lành, hành thiện thì gọi là thanh tịnh, các hành gọi là trì giới, thanh tịnh trì giới theo thứ tự mà thực hành là trì giới cùng với bảy pháp hòa hợp cho nên gọi là thiện hạnh. Những gì là bảy? Đó là: Tàm. Quý. Đa văn. Tinh tiến. Niệm. Tuệ. Đời sống trong sạch, nghiệp thân-miệng trong sạch. Thực hành bảy pháp này, tuân giữ đủ các giới, thì gọi là cố gắng làm những hạnh tốt lành. Lại nữa, kinh nói: “Các thiền là nơi thực hành, cho nên người đạt được thiền gọi là khéo thực hành các hạnh”. Trong luận này, không hẳn dùng thiền mới có thể phát tâm. Vì sao? Vì khi Phật còn tại thế, vô lượng chúng sinh cũng đều phát tâm mà không cần phải có thiền. Lại nữa, bạch y tại gia cũng gọi là hành thiện. Khéo quy tụ các vật sử dụng, thì phần trên của bài kệ đã nói: “Nếu căn thiện gieo trồng sâu dày, cố gắng làm những hạnh tốt lành khéo quy tụ các vật sử dụng, thiện tâm luôn cúng dường Chư Phật, được hàng thiện tri thức che chở đầy đủ mọi tâm nguyện sâu xa, tâm Từ Bi nghó đến chúng sinh, tin và hiểu giáo pháp vô thượng”. Đó gọi là các vật sử dụng. Vả lại, pháp thiện thực hành căn bản nhất định phải tu hành, thì thiện căn cũng gọi là các vật sử dụng. Đó là bố thí-nhẫn nhục, tâm chất trực không dua nịnh, cùng sống nhu hòa, vui vẻ không có tính giận hờn, tất cả mọi lỗi lầm không che giấu, không chấp trước sai lạc, không ngang ngược bướng bỉnh, không tranh cãi, không tự cao, không phóng túng, bỏ kiêu mạn, lìa xa cao ngạo kỳ dị, không khen mình có thể nhẫn nhịn mọi điều, tâm quyết định có thể can đảm nhận lấy kết quả, không bỏ công việc khuyên răn và dạy bảo, ít ham muốn-biết vừa đủ, vui với đời sống vắng lặng một mình. Các pháp như vậy thuận theo thực hành rồi, dần dần có thể đầy đủ những công đức thù thắng, thì pháp vị vững vàng chắc chắn, cho nên gọi là công hạnh căn bản. Nếu rời xa pháp này thì không có thể tiến lên đạt được những công đức thù thắng vi diệu. Vì vậy pháp thực hành căn bản này cùng với tám pháp hòa hợp, vốn là các vật sử dụng của địa thứ nhất. Thiện tâm luôn cúng dường Chư Phật, là nêu như Bồ tát đời đời đúng như pháp, thường xuyên cúng dường Chư Phật. Cúng dường có hai loại: Cố gắng lắng nghe chính pháp Đại thừa, hoặc mở rộng hoặc tóm lược. Cúng dường bốn loại cần thiết, cung kính lễ lạy hầu hạ… có đủ hai pháp cúng dường Chư Phật như vậy, đó gọi là thiện tâm luôn cúng dường Chư Phật. Thiện tri thức, thì Bồ tát tuy có bốn hàng thiện tri thức, nhưng trong này vốn nói đến hàng có năng lực chỉ bày tiến vào Đại thừa, đầy đủ các Ba-la-mật, là bậc có năng lực làm cho an trú trong mười địa. Đó là Chư Phật, Bồ tát và các Thanh văn, có năng lực nêu rõ và dạy cho pháp Đại thừa làm lợi ích hoan hỷ khiến không còn thối chuyển. Che chở, là thường xuyên tự mình thương yêu khuyên răn dạy bảo, khiến cho thiện căn được tăng trưởng, đó gọi là che chở. Đầy đủ mọi tâm nguyện sâu xa, là niềm vui sâu sắc đối với Phật thừa-Đại thừa Vô thượng và Nhất thiết trí thừa, đó gọi là đầy đủ mọi tâm nguyện sâu xa. Hỏi: Trong phẩm Hòa hợp, Bồ-tát Vô Tận Ý bảo Tôn giả Xá-lợi- phất: “Các Bồ tát vốn có phát tâm đều gọi là tâm sâu xa chăng”. Đáp: Từ một địa đến một địa, cho nên gọi là tâm hướng đến. Do công đức tăng thêm cho nên gọi là tâm vượt qua. Do đạt được sự nghiệp vô thượng cho nên gọi là tâm thượng đỉnh. Do nhiếp thủ pháp cao nhất cho nên gọi là tâm cao nhất. Hiện tiền đạt được pháp của chư Phật cho nên gọi là tâm hiện tiền. Do quy tập các pháp lợi ích cho nên gọi là tâm duyên. Do thông suốt mọi pháp cho nên gọi là tâm độ. Không mỏi mệt với bổn nguyện cho nên gọi là tâm quyết định. Nguyện được thỏa mãn cho nên gọi là tâm hỷ. Do chính mình làm xong mọi việc cho nên gọi là tâm không bè bạn. Do xa lìa tướng hư hỏng nên gọi là tâm điều hòa. Do không có những điều ác cho nên gọi là tâm thiện. Tránh xa kẻ ác cho nên gọi là tâm không hỗn tạp. Dùng đầu để bố thí cho nên gọi là tâm buông xả khó có. Cứu giúp người phá giới cho nên gọi là tâm trì giới khó có. Năng lực nhận chịu kém cỏi mà điều ác tăng thêm cho nên gọi là tâm khó nhẫn. Chứng Niết-bàn rồi, nhưng có thể buông bỏ, cho nên gọi là tâm khó tinh tiến. Không ham mê thiền cho nên gọi là tâm khó thiền định. Không thấy chán đủ với căn thiện trợ đạo cho nên gọi là tâm tuệ khó có. Có khả năng đạt được tất cả mọi điều cho nên gọi là tâm vượt qua các hành. Có trí tuệ khéo tư duy, cho nên gọi là tâm xa lìa kiêu mạn. Làm mọi chuyện không mong trả ơn, cho nên gọi là tâm phước điền của hết thảy chúng sinh. Quán xét pháp rất sâu xa của Chư Phật cho nên gọi là tâm không sợ hãi. Không bị cản trở cho nên gọi là tâm tăng trưởng công đức. Thường phát khởi tinh tiến cho nên gọi là tâm vô tận. Có thể đảm nhận mọi gánh nặng cho nên gọi là tâm không sầu muộn. Như nói: Vả lại, nghĩa của tâm sâu xa, là bình đẳng nghó đến chúng sinh, thương yêu tất cả mọi loài, cúng dường các bậc hiền thiện, nghó thương xót những người ác, tôn kính đối với thầy dạy; cứu giúp cho người không có ai cứu giúp, làm nơi nương tựa cho người không nơi nương tựa, làm nơi sinh sống cho người không nơi sinh sống. Người không có nơi cuối cùng thì làm nơi cuối cùng cho họ, người không có bạn bè thì tự mình làm bạn bè cho họ. Ở giữa những người quanh co trái đạo lý nhưng tâm mình thực hành chất trực. Ở giữa những người bại hoại nhưng tâm mình thực hành đứng đắn chân thật. Ở giữa những người dua nịnh giùm pha nhưng tâm mình thực hành không dua nịnh. Ở giữa những người không biết ân nghĩa nhưng mình thực hành đối với tâm biết ân nghĩa. Ở giữa những người không biết làm việc mà thực hành biết làm mọi việc. Ở trong những nơi không có lợi ích nhưng tự mình thực hành có lợi ích. Ở giữa những chúng sinh tà vạy nhưng mình thực hành công hạnh chính đáng. Ở giữa những người kiêu mạn mà mình thực hành công hạnh không kiêu mạn. Ở giữa những người không thuận theo giáo pháp nhưng mình không buồn giận. Ở giữa những chúng sinh tội lỗi nhưng luôn luôn làm người che chở, chúng sinh có những lỗi lầm nhưng mình không chấp vào lỗi lầm của họ. Cúng dường phước điền, tùy thuận khuyên bảo dạy dỗ, tiếp nhận giáo hóa không khó; ở nơi vắng lặng dốc lòng tinh tiến, không mong cầu lợi dưỡng, không tiếc gì thân mạng. Đồng thời trong tâm thanh tịnh cho nên không có gì lừa dối nghi hoặc, khẩu nghiệp tốt đẹp cho nên không tự khen ngợi mình, biết dừng lại vừa cho nên không có hành động uy hiếp bức bách, tâm không cấu nhiễm cho nên thực hành hết sức nhu hòa, quy tập thiện căn cho nên có năng lực tiến vào sinh tử, vì chúng sinh cho nên nhẫn nại đối với tất cả khổ đau. Hỏi: Bồ tát có những tướng mạo của tâm sâu xa như vậy, vốn không thể nói tận cùng được, nay ông chỉ nói về tướng của tâm sâu xa thì làm sao có thể không thiếu được? Đáp: Không thiếu gì cả. Bồ tát Vô tận Ý nói tổng quát về tất cả tướng mạo của tâm sâu xa thuộc về một chỗ, nhưng mà trong này phân bố ra các địa; kinh Thập Trú này nói tách biệt về tướng tâm sâu xa của từng địa, vì vậy Bồ tát thuận theo trong các địa đều có được tâm sâu xa, nghĩa của tâm sâu xa tức là thuộc về địa của mình. Nay nói về hai tâm sâu xa trong địa thứ nhất: Tâm phát Đại nguyện. Tâm ở phần vị nhất định thành tựu. Vì vậy nên biết tùy theo mười địa mà khéo léo nói về tâm sâu xa, ông nói làm sao có thể không thiếu được, thì điều này không phải như vậy. Tâm Từ Bi đối với chúng sinh, là thành tựu tâm Bi cho nên gọi là Bi. Sao nói là Bi? nghĩa là thương xót chúng sinh cứu giúp khổ nạn cho họ. Tin và hiểu giáo pháp Vô thượng, là đối với giáo pháp của Chư Phật có sức mạnh của niềm tin thông suốt tất cả. Phát nguyện con được tự mình độ thoát rồi sẽ tiếp tục độ thoát cho chúng sinh, là đối với tất cả các pháp của Chư Phật lấy nguyện làm căn bản, xa rời nguyện thì không thể thành tựu, vì vậy cho nên phát nguyện. Hỏi: Vì sao không nói con sẽ độ thoát cho chúng sinh, mà nói là tự mình độ thoát rồi sẽ tiếp tục độ thoát cho chúng sinh? Đáp: Tự mình chưa có thể độ thoát thì không có năng lực độ thoát cho người khác. Như người tự mình chìm trong bùn lầy, sao có thể kéo người khác thoát ra được. Lại như người bị nước cuốn trôi không có thể giúp gì cho người chết chìm, vì vậy nói rằng con độ thoát rồi sẽ độ thoát cho người. Nếu người tự vượt qua sợ hãi, Có thể làm chỗ dựa cho người, Tự mình chưa vượt khỏi nghi ngờ, Sao có thể độ thoát cho người? Nếu người tự mình không làm thiện, Không có thể khiến người làm thiện, Nếu như không tự mình vắng lặng, Sao có thể khiến người vắng lặng? Vì vậy trước hết, mình phải cố gắng vắng lặng rồi sau đó mới giáo hóa mọi người. Như bài kệ Pháp Cú nói: Nếu có thể tự mình an ổn Thân ở tại nơi chốn tốt lành, Sau đó làm an lòng người khác, Mình và người cùng chung lợi ích. Tất cả mọi việc đều trước hết phải lợi ích cho mình rồi sau mới có thể làm ích lợi cho người. Tại sao vậy? Như nói: Nếu tự mình thành tựu lợi mình, Mới có thể lợi ích cho người, Tự bỏ mong muốn lợi cho người, Mất lợi rồi buồn lo hối hận. Vì vậy nói tự độ thoát rồi, sẽ độ thoát cho chúng sinh. Hỏi: Được lợi gì mà nói thể hoàn thành việc này để tiến vào địa Tất định? Lại dùng tâm vào mà có thể mà phát nguyện như vậy? Đáp: Có được mười lực của Phật thì có thể thành tựu được sự nghiệp này, bước vào địa Tất định thì có năng lực để phát nguyện này. Hỏi: Mười lực của Phật là gì? Đáp: Phật thấu suốt hết thảy nhân quả của tất cả các pháp, đó gọi là lực thứ nhất. Biết đúng như thật về nơi đã dấy khởi nghiệp nhân-quả báo của ba đời quá khứ-vị lai và hiện tại, gọi là lực thứ hai. Biết đúng như thật về tướng của các thiền định-Tam muội, phân biệt rõ ràng cấu nhiễm-thanh tịnh và ra vào, gọi là lực thứ ba. Biết đúng như thật về các căn nhanh nhạy-chậm chạp của chúng sinh, gọi là lực thứ tư. Biết đúng như thật về niềm vui khác nhau của các chúng sinh, gọi là lực thứ năm. Biết đúng như thật về các loại tính khác nhau của thế gian, gọi là lực thứ sáu. Biết đúng như thật về tất cả nơi đến của đạo, gọi là lực thứ bảy. Biết đúng như thật về mọi việc của đời trước, gọi là lực thứ tám. Biết đúng như thật về sự việc sống chết, gọi là lực thứ chín. Biết đúng như thật về việc của lậu tận, gọi là lực thứ mười. Bởi vì có được mười lực của Phật như vậy, cho nên dùng tâm đại thừa phát nguyện thì ngay lúc ấy tiến vào Tất định tụ. Hỏi: Có phải ai mới phát tâm đều có tướng tâm như vậy chăng? Đáp: Hoặc có người nói: Mới phát tâm thì có tướng như vậy. Nhưng thật sự không phải. Tại sao vậy? Việc này cần phân biệt, không nên trả lời xác định. Vì sao? Vì hết thảy Bồ-tát khi mới phát tâm không phải tất cả đều tiến vào Tất định. Hoặc có người khi mới phát tâm thì may lúc ấy tiến vào Tất định. Hoặc có người dần dần tu đạo công đức, như Phật Thích-ca Mâu-ni, khi mới phát tâm không tiến vào Tất định, sau đó tu tập công đức gặp được Phật Nhiên Đăng thì có thể tiến vào Tất định. Vì vậy ông nói hết thảy Bồ-tát mới phát tâm liền tiến vào địa Tất định, đó là tà luận. Hỏi: Nếu là tà luận, thì tại sao ông nói dùng tâm này mà tiến vào Tất định? Đáp: Vì có Bồ-tát mới phát tâm liền tiến vào Tất định, dùng tâm này có thể đạt được địa thứ nhất. Bởi vì người này cho nên nói là mới phát tâm liền tiến vào trong Tất định. Hỏi: Đó là tâm ban đầu của Bồ-tát, Phật Thích-ca-Mâu-ni mới phát tâm thì tâm này như thế nào? Đáp: Tâm này không lẫn tạp với tất cả phiền não. Tâm này liên tục với nhau không ham theo Thừa khác. Tâm này vững chắc mà tất cả ngoại đạo không có năng lực thắng được. Tâm này tất cả quân ma không thể nào phá hoại. Tâm này là luôn luôn có năng lực quy tập mọi thiện căn. Tâm này có năng lực biết rõ các pháp hữu vi và vô vi. Tâm này không lay động mà có năng lực thâu nhiếp Phật pháp. Tâm này không che phủ mà xa rời các tà hạnh. Tâm này an trú không thể lay động nổi. Tâm này không có gì sánh bằng, không có gì trái ngược nhau. Tâm này như kim cang thông suốt tất cả các pháp. Tâm này không tận cùng mà quy tập vô lượng công đức phước thiện. Tâm này bình đẳng giống như tất cả mọi chúng sinh. Tâm này không có cao thấp, không có gì sai biệt. Tâm này là tính thanh tịnh không có gì cấu trược. Tâm này xa lìa cấu nhiễm mà ngọn lửa trí tuệ sáng ngời. Tâm này không lầm lỗi, không rời bỏ tâm sâu xa. Tâm này Từ Bi rộng lớn giống như hư không. Tâm này là bao la mà tiếp nhận tất cả chúng sinh. Tâm này không ngăn cản cho đến không chướng ngại đối với trí. Tâm này bao phủ khắp nơi mà không đoạn mất Đại Bi. Tâm này không gián đoạn mà có năng lực hồi hướng chính xác. Tâm này là nơi tất cả chúng sinh hướng về, người trí tuệ đều ca ngợi. Tâm này đáng nhìn ngắm, hàng tiểu thừa luôn luôn chiêm ngưỡng. Tâm này khó thấy được, tất cả các chúng sinh không thể nào nhìn thấy. Tâm này khó phá hủy mà có năng lực dễ dàng tiến vào Phật pháp. Tâm này là an trú trong trú xứ của tất cả mọi niềm vui vốn có. Tâm này là của cải sử dụng làm phước đức trang nghiêm. Tâm này là của cải sử dụng để trí tuệ chọn lựa. Tâm này thuần hậu lấy bố thí làm của cải sử dụng. Tâm này là của cải sử dụng cho đại nguyện trì giới. Tâm này là của cải sử dụng nhẫn nhục khó cản trở. Tâm này là của cải sử dụng cho tinh tiến khó thắng được. Tâm này là của cải sử dụng cho thiền định vắng lặng. Tâm này là của cải sử dụng cho trí tuệ không có gì làm não hại. Tâm này là tâm Từ sâu xa không hề có sân hận ngăn cản. Tâm này là tâm Bi sâu dày với gốc rễ sâu thẳm. Tâm này là Tâm Hỷ sâu dày vô cùng vui vẻ. Tâm này là tâm Xả sâu dày, mọi khổ vui không lay chuyển được. Tâm này được thần lực của Chư Phật cùng hộ niệm. Tâm này nối tiếp nhau làm cho Tam bảo không gián đoạn. Vô lượng công đức trang nghiêm cho tâm tiên tiến vào tất định như vậy, như trong phẩm Vô Tận Ý giải thích rộng. Tâm này không lẫn tạp với tất cả mọi phiền não, là kiến Đế tư duy mà đoạn trừ hai trăm chín mươi bốn loại phiền não không cho hòa hợp với tâm, cho nên gọi là không lẫn tạp. Tâm này liên tục với nhau không ham theo Thừa khác, là từ lúc mới phát tâm liên tục theo nhau cho đến nay, không ham theo thanh văn và Bích-chi-Phật, chỉ vì quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, cho nên gọi là liên tục với nhau không ham theo Thừa khác. Bốn mươi chín câu luận như vậy, nên biết về tâm ban đầu là như vậy. Hỏi: Ông nói tâm này là thường, mọi pháp hữu vi đều là vô thường, như trong Kinh Pháp Ấn nói: “Người tu hành quán xét thế gian là Không, tất cả không có gì thường còn mà không biến đổi, tan hoại”. Điều này sao có thể không trái ngược nhau? Đáp: Điều ông hỏi với nghĩa không được đúng lý cho nên làm thành vấn nạn này trong này không nói tâm là thường. Trong này tuy rằng miệng nói là thường, nhưng phải hiểu chữ Thường có nghĩa là Tất định, do tâm ban đầu sinh ra chắc chắn có năng lực thường xuyên quy tập các thiện căn không hề dừng nghỉ cho nên gọi là Thường. Sinh trong nhà của Như Lai, nhà Như Lai chính là nhà Phật. Như Lai: Như gọi là thật, Lai gọi là đến. Đến trong chân thật cho nên gọi là Như Lai. Như thế nào là chân thật? Đó là Niết bàn. Không hư dối cho nên đó gọi là Như Thật. Như trong kinh nói: “Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Thánh đế thứ nhất không có gì hư dối, chính là Niết bàn”. Vả lại, Như gọi là tướng không hủy hoại, đó gọi là Thật tướng của các pháp; Lai gọi là trí tuệ, đến trong Thật tướng thông suốt nghĩa lý ấy, cho nên gọi là Như Lai. Lại nữa không-Vô tướng-Vô tác gọi là Như; Chư Phật đi đến ba công giải thoát, cũng khiến cho chúng sinh đến được cổng này, cho nên gọi là Như Lai. Lại nữa, Không, Vô tướng, Vô tác thì gọi là Như. Chư Phật lại đến ba cửa giải thoát ấy, các Ngài cũng muốn cho chúng sinh đến được đó, cho nên gọi là Như Lai. Lại nữa, Như gọi là bốn Đế, bởi vì hết thảy mọi thứ đều thấy được bốn Đế, cho nên gọi là Như Lai. Lại nữa, Như gọi là sáu pháp Ba-la-mật, đó là bố thí-trì giới-nhẫn nhục-tinh tiến-thiền định-trí tuệ. Do sáu pháp này mà đến được Phật địa cho nên gọi là Như Lai. Lại nữa, bốn lónh vực công đức của Đế-Xả-Diệt-Tuệ cũng gọi là Như, dùng bốn pháp này mà đến được Phật địa cho nên gọi là Như Lai. Lại nữa, hết thảy pháp Phật gọi là Như, dùng pháp mà đến với chư Phật gọi là Như Lai. Lại nữa, hết thảy địa của Bồ-tát là Hoan Hỷ-Minh-Tịnh-Diệm- Nan thắng-Hiện Tiền-Thâm Viễn-Bất Động-Thiện Tuệ-Pháp Vân gọi là Như, các Bồ-tát theo mười địa này mà đến với Vô thượng chính đẳng chính giác cho nên gọi Như Lai. Lại dùng tám phần Thánh đạo đúng như thật mà đến cho nên gọi là Như Lai. Lại dùng hai chân Quyền-Trí đi đến quả Phật cho nên gọi là Như Lai. Như ra đi mà không trở lại cho nên gọi là Như Lai. Như Lai là ba đời mười phương chư Phật. Nhà của chư Phật gọi là nhà Như Lai. Bây giờ Bồ-tát thực hành đạo Như Lai, nối nhau không dứt cho nên gọi là sinh vào nhà Như Lai. Nhưng Bồ tát này chắc chắn thành Như Lai, cho nên gọi là sinh vào nhà Như Lai. Ví như sinh vào nhà của Chuyển luân Thánh vương thì có tướng của Chuyển luân Thánh vương, người này chắc chắn làm Chuyển luân Thánh vương. Bồ-tát này cũng như vậy, sinh vào nhà Như Lai, phát tâm như vậy cho nên chắc chắn thành bậc Như Lai, thì gọi là sinh vào nhà Như Lai. Có người nói: Nhà Như Lai là nơi chốn của bốn công đức Đế-Xả-Diệt-Tuệ. Các bậc Như Lai từ trong bốn công đức này mà sinh ra, cho nên gọi là nhà Như Lai. Có người nói: Bát nhã Ba-la-mật và phương tiện là nhà Như Lai, như trong kinh Trợ Đạo nói: Trí độ vô cực là người mẹ, Thiện quyền phương tiện là người cha, Vì sinh ra nên gọi là cha, Bởi nuôi dưỡng nên gọi là mẹ. Tất cả thế gian lấy cha mẹ làm nhà. Do hai công đức này giống như cha mẹ cho nên gọi là nhà. Có người nói: Pháp thiện và trí tuệ gọi là nhà của chư Phật. Chư Phật sinh ra từ hai pháp này. Hai pháp này chính là cội rễ của mọi pháp thiện. Như trong kinh nói: “Thực hành đầy đủ hai pháp này thì thành tựu chính pháp. Pháp thiện là cha, trí tuệ là mẹ. Hai pháp này cùng hòa hợp nhau thì gọi là nhà của chư Phật”. Như nói: Bồ tát lấy pháp thiện làm cha, Lấy trí tuệ làm mẹ của mình, Tất cả các Như Lai ba đời, Đều từ hai pháp này sinh ra. Có người nói: Tam-muội Bát chu và Đại Bi gọi là nhà của chư Phật. Từ hai pháp này sinh ra các Đức Như Lai. Trong đó, Tam-muội Bát chu là cha, Đại Bi là mẹ. Lại nữa, Tam-muội Bát chu là cha, Vô sinh pháp nhẫn là mẹ. Như trong Trợ Bồ-đề có nói: Tam-muội Bát chu là người cha, Đại Bi-Vô sinh là người mẹ, Tất cả các Như Lai ba đời, Từ hai pháp này mà sinh ra. Nhà Như Lai không hề có lỗi lầm, là nhà thanh tịnh. Thanh tịnh nghĩa là sáu pháp Ba-la-mật, bốn nơi quy tụ công đức, phương tiện Bát nhã Ba-la-mật, pháp thiện và trí tuệ, Tam-muội Bát chu, Đại Bi và các Nhẫn, đều là các pháp thanh tịnh, không hề có lỗi lầm cho nên gọi là nhà thanh tịnh. Bồ-tát lấy các pháp này làm nhà cho nên không có những lỗi lầm. Chuyển đổi lỗi lầm chuyển đổi từ đạo lý của thế gian mà tiến vào đạo xuất thế vô thượng, đạo lý thế gian gọi là đạo thực hành của hàng phàm phu, chuyển đổi gọi là dừng lại. Đạo lý của phàm phu thì không có năng lực cuối cùng đến được Niết bàn, mà thường qua lại trong sinh tử, đó gọi là đạo lý của phàm phu. Xuất thế gian là nhờ vào đạo lý này mà được thoát khỏi ba cõi, cho nên gọi là đạo lý xuất thế gian. Thượng nghĩa là tốt đẹp cho nên gọi là thượng. Nhập lại chính thức thực hành đạo pháp cho nên gọi là nhập. Dùng tâm này bước vào địa thứ nhất, gọi là địa Hoan hỷ. Hỏi: Sao gọi địa thứ nhất là địa Hoan hỷ? Đáp: Như đạt được quả vị thứ nhất, Cuối cùng đến được chốn Niết-bàn, Bồ tát đạt được địa vị này, Tâm luôn luôn có nhiều hoan hỷ Tự nhiên được tăng thêm mạnh mẽ Chủng tử của Chư Phật Như Lai, Vì vậy cho nên như người này, Được gọi là người bậc Hiền thiện. Như đạt được quả vị thứ nhất, là như người đạt được đạo quả Tu- đà-hoàn, khéo léo đóng chặt cửa vào ba ác đạo, nhận thấy pháp-tiến vào pháp và đạt được pháp, an trú kiên cố trong pháp không thể nào làm cho khuynh động. Cuối cùng đến được chốn Niết bàn, đoạn được pháp do kiến đế mà đoạn, cho nên tâm vô cùng hoan hỷ, giả sử có ngủ nghỉ-uể oải nhưng không đến nỗi rơi vào hai mươi chín cõi khác. Như dùng một mảy lông chia làm trăm phần, dùng phần trăm của một mảy lông ấy chấm lấy nước biển rộng, chỉ giống như vào ba giọt mà thôi. Khổ đã diệt thì như nước biển rộng, khổ còn lại chưa diệt thì như vài ba giọt đã chấm lấy. Tâm luôn luôn có nhiều hoan hỷ, Bồ tát đạt được địa thứ nhất như vậy rồi, gọi là sinh trong nhà Như Lai, được tất cả trời rồng, dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la- già, Phạm vương, Thiên vương, Sa môn, Bà-la-môn và hết thảy Thanh văn, Bích-chi-Phật đều cùng nhau cúng dường cung kính. Tại vì sao? Bởi vì người sinh trong nhà này không còn có lỗi lầm, chuyển đổi đạo lý thế gian tiến vào đạo lý xuất thế gian, chỉ vui với lòng cung kính Đức Phật, đạt được xứ sở của bốn công đức, đạt được mùi vị quả báo của sáu pháp Ba-la-mật, không đoạn mất dòng dõi của Chư Phật cho nên tâm vô cùng hoan hỷ. Bồ tát này vốn có nỗi khổ còn lại chỉ bằng vài ba giọt nước, tuy trải qua trăm ngàn ức kiếp đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, nhưng đối với nỗi khổ sinh tử từ vô thỉ, chỉ giống như vài ba giọt nước, những nỗi khổ đã được diệt trừ thì giống như nước trong biển rộng. Vì vậy cho nên địa này gọi là địa Hoan Hỷ.  LUẬN THẬP TRỤ TỲ BÀ SA <卷>QUYỂN 2 <詞>Phẩm 3: TƯỚNG ĐỊA Hỏi: Đã đạt được địa thứ nhất, Bồ-tát có tướng mạo như thế nào? Đáp: Bồ tát đạt được địa thứ nhất, Tự có nhiều năng lực chịu đựng, Không thích xảy ra sự tranh cãi, Tâm tư chan chứa những niềm vui, Luôn luôn vui với lòng thanh tịnh, Tâm xót thương nghó đến chúng sinh, Không còn có tâm ý nóng giận, Phần nhiều thực hành bảy điều này. Nếu Bồ tát đạt được địa thứ nhất thì có bảy tướng này. Có năng lực chịu đựng là có thể làm được việc khó làm, tu tập vô lượng phước đức thiện căn, ở trong vô lượng hằng hà sa kiếp qua lại chốn sinh tử, giáo hóa chúng sinh có tâm cố chấp ngang ngược khó thay đổi, nhưng tâm không hề lui sụt mà có năng lực chịu đựng những sự việc như vậy, cho nên gọi là kham nhẫn. Không tranh cãi là tuy có năng lực hoàn thành việc lớn mà không tranh cãi với người khác, không làm trái ngược với nhau. Hỷ là luôn luôn làm cho thân được dịu dàng, tâm được an ổn. Duyệt là ở trong pháp chuyển đổi cao hơn thì tâm được vui mừng phấn khởi. Thanh tịnh là xa lìa mọi sự cấu trược của phiền não. Có người nói: Tin hiểu gọi là thanh tịnh. Có người nói: Niềm tin kiên cố gọi là thanh tịnh. Tâm thanh tịnh này đối với Phật-Pháp-Tăng, đối với Khổ-Tập- Diệt-Đạo đế, đối với sáu độ Ba-la-mật, đối với mười địa Bồ tát, đối với pháp Không-Vô tướng-Vô tác, luôn luôn tin hiểu sâu sắc. Nói tóm lại là đối với tất cả các kinh sâu xa, các bậc Bồ tát và tất cả Phật pháp mà họ thực hành, tất cả đều là tâm tin tưởng thanh tịnh. Bi là thương xót cứu giúp cho chúng sinh, tâm Bi này dần tăng trưởng mà thành Đại Bi. Có người nói: Ở trong tâm Bồ tát gọi là Bi, Bi mẫn đến mọi chúng sinh gọi là Đại Bi. Đại Bi phát sinh từ mười nhân duyên, như trong Địa thứ ba giải thích rộng hơn. Không còn nóng giận, là Bồ tát vào lúc này kiết sử chưa đoạn, cho nên thực hành nhiều điều thiện làm cho tâm giảm bớt sự sân hận. Như vậy Bồ tát đang ở địa thứ nhất, tâm không sợ hãi lùi bước, cho nên gọi là có năng lực chịu đựng mọi điều. Vui với sự vắng lặng, cho nên gọi là không thích tranh cãi. Có được tâm Đại Bi thuận với đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, cho nên gọi là tâm chan chứa niềm vui. Xa lìa những phiền não cấu trược, cho nên đối với Phật-pháp-tăng thì tâm của các Bồ tát luôn luôn thanh tịnh. Tâm an ổn không có gì lo sợ, cho nên gọi là tâm vui sướng. Rất thương xót mọi chúng sinh, cho nên gọi là Bi. Tâm thường vui với hạnh Từ, cho nên gọi là không sân giận. Đây gọi là tướng mạo của Bồ tát ở địa thứ nhất. Hỏi: Vì sao không nói Bồ tát ở trong địa thứ nhất có bảy điều này mà nói là nhiều? Đáp: Bởi vì Bồ tát này chưa hết phiền não, có lúc uể oải bê trễ, ở trong bảy điều này có lúc tạm thời phế bỏ lui sụt, bởi vì nhiều công hạnh như vậy cho nên nói là nhiều. Ở trong địa thứ nhất đã đạt được pháp này, trong các địa sau chuyển tiếp theo nhau tăng thêm nhiều hơn. Hỏi: Thứ nhất là địa Hoan Hỷ, Bồ tát ở trong địa này gọi là nhiều hoan hỷ, vì đạt được các công đức cho nên hoan hỷ, hay là vì pháp của địa thuận theo hoan hỷ, vì điều gì mà hoan hỷ? Tâm luôn luôn nghó đến Chư Phật, Và pháp cao cả của Chư Phật, Công hạnh Tất định thật hiếm có, Cho nên tâm chan chứa hoan hỷ. Vốn có những nhân duyên hoan hỷ như vậy, cho nên tâm Bồ tát ở trong địa thứ nhất có nhiều hoan hỷ. Nghó đến Chư Phật, là nghó đến Chư Phật quá khứ như Phật Nhiên Đăng, Chư Phật hiện tại như Chư Phật A-di-đà, Chư Phật tương lai như Phật Di lặc. Tâm thường nghó nhớ Chư Phật Thế tôn như vậy, giống như hiện ở trước mắt. Chư Phật là bậc Vô Năng Thắng đứng đầu ba cõi, cho nên tâm cảm nhiều hoan hỷ. Nghó đến pháp cao cả của Chư Phật, nói tóm lược là bốn mươi pháp bất cọng của Chư Phật. Đó là: Tự tại tùy ý phi hành. Tự tại biến hóa vô biên. Tự tại nghe thấy vô ngại. Tự tại dùng vô lượng chủng loại pháp môn biết tâm của tất cả chúng sinh. Những pháp như vậy phần sau sẽ nói rộng hơn. Nghó đến các Bồ tát ở phần vị Tất định, là nếu như Bồ tát được thọ ký quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác thì tiến vào phần vị của pháp đạt được vô sinh pháp nhẫn, ngàn vạn ức số ma quân không thể nào làm cho rối loạn hư hoại được, đạt được tâm Đại Bi thành tựu pháp của bậc Đại nhân, chịu khó thực hành tinh tiến không tiếc thân mạng để đạt được Bồ đề. Đây gọi là nghó đến phần vị tất định của Bồ tát. Nghó đến công hạnh thật hiếm có, là nghó đến công hạnh hiếm có vào bậc nhất của Bồ tát ở phần vị Tất định khiến cho tâm hoan hỷ, tất cả phàm phu vốn không có năng lực đến được, tất cả Thanh văn và Bích-chi-Phật vốn không có năng lực thực hành, khai mở rõ ràng Phật pháp giải thoát vô ngại cùng với trí Tát-bà-nhã. Lại nghó đến các pháp đã thực hành của mười địa, gọi là tâm cảm nhiều hoan hỷ. Vì vậy Bồ tát được tiến vào địa thứ nhất gọi là Hoan hỷ. Hỏi: Có người phàm phu chưa phát tâm đối với đạo vô thượng, hoặc có phát tâm nhưng chưa đạt được phần vị của địa Hoan Hỷ, người này nghó đến Chư Phật và đại pháp của Chư Phật, nghó đến phần vị Tất định của Bồ tát và công hạnh hiếm có cũng được hoan hỷ, Bồ tát hoan hỷ đạt được địa thứ nhất, cùng với sự hoan hỷ của người này có gì khác biệt? Đáp: Bồ tát đạt được địa thứ nhất, Tâm tư chan chứa niềm hoan hỷ, Chư Phật có vô lượng công đức, Con cũng nhất định sẽ có được. Bồ tát đạt được phần vị Tất định thuộc địa thứ nhất, nghó đến Chư Phật có vô lượng công đức, mình sẽ chắc chắn đạt được sự việc như vậy. Tại vì sao? Bởi vì mình đã đạt được địa thứ nhất này và tiến vào trong phần vị Tất định, người khác không có tâm này, vì vậy Bồ tát ở địa thứ nhất phát sinh nhiều hoan hỷ. Người khác không có như vậy. Tại vì sao? Bởi vì người khác suy nghó đến Chư Phật, nhưng không có thể dấy lên ý nghó này: Mình nhất định sẽ làm Phật. Ví như con của Chuyển luân Thánh vương thì sinh trong nhà của Chuyển luân Thánh vương, thành tựu tướng mạo của Chuyển luân Thánh vương, nghó đến công đức tôn quý của Chuyển luân Thánh vương ở quá khứ, dấy lên nghó rằng: Nay mình cũng có tướng mạo này, cũng sẽ được giàu có tôn quý như vậy. Tâm tư vô cùng hoan hỷ phát sinh. Nếu không có tướng mạo của Chuyển luân Thánh vương thì không có niềm vui như vậy. Bồ tát ở phần vị Tất định nếu nghó đến Chư Phật và công đức oai nghi tôn quý vó đại của Chư Phật, mình có tướng mạo này thì chắc chắn sẽ làm Phật, ngay lúc ấy vô cùng hoan hỷ, người khác thì không có được sự việc này. Định tâm là tâm tiến vào trong Phật pháp không thể nào lay động. Vả lại, Bồ tát ở địa thứ nhất lúc nghó đến Chư Phật, dấy lên tư duy như vậy: Mình cũng không bao lâu nữa sẽ làm lợi ích cho mọi người ở thế gian; và nghó đến Phật pháp, thì mình cũng sẽ có được thân tướng trang nghiêm tốt đẹp, thành tựu pháp bất cọng của Chư Phật, tùy thuận các loại thiện căn và tâm lực lớn nhỏ của các chúng sinh mà thuyết pháp cho họ. Còn mình đã đạt được mùi vị của pháp thiện, không bao lâu sẽ giống như Bồ tát ở phần vị Tất định đi lại bằng các loại thần thông. Lại nghó đến đạo đã thực hành của Bồ tát ở phần vị Tất định, tất cả thế gian vốn không thể nào tin được, mình cũng sẽ thực hành. Nghó như vậy rồi thì tâm tràng đầy hoan hỷ. Người khác không có như vậy, tại vì sao? Bởi vì Bồ tát này tiến vào địa thứ nhất, tâm họ quyết định và nguyện không thay đổi mà chỉ cầu mong những gì đáng cầu mong. Ví như việc làm của Hương Tượng thì chỉ có Hương Tượng có năng lực thực hiện loài thú khác nhau có thể làm được. Vì vậy điều ông đã nói, thì sự việc không phải như vậy. Vả lại, Bồ tát đạt được địa thứ nhất thì không còn mọi điều sợ hãi, cho nên tâm nhiều hoan hỷ. Nếu người sợ hãi thì tâm không thể vui mừng được. Hỏi: Bồ-tát không sợ những gì? Đáp: Không có nỗi sợ hãi không sống Không sợ chết-không sợ đường ác, Không sợ uy đức của Đại chúng, Không sợ tiếng xấu và chê bai, Không sợ giam cầm và gông xiềng, Không sợ tra khảo và tử hình, Bởi vì vô Ngã và Ngã sở, Nào có những nỗi sợ hãi này. Hỏi: Vì sao Bồ tát trú trong địa thứ nhất thì không có nỗi sợ hãi không sống? Đáp: Bởi vì Bồ-tát có oai đức lớn, Bồ-tát có năng lực chịu đựng, Bồ-tát có trí tuệ lớn, biết ngừng lại và vừa đủ, Bồ-tát dấy lên nghó như vậy: “Ta đã tu tập nhiều phước đức, người có phước thì y phục, thức ăn đồ uống, những vật cần dùng tự nhiên liền đến. Như thuở xưa vào kiếp ban đầu, ai là bậc đại nhân thì được quần thần quân dân tôn lên làm vua. Nếu người nào phước đức mỏng thì dù được sinh vào chốn vương gia nhưng vẫn phải tự nuôi sống bằng sức mình, áo cơm còn không đầy đủ, huống là lo chuyện đất nước? Bồ-tát lại nghó như vậy: Mình tu tập nhiều phước đức, như kiếp ban đầu, vua tự nhiên lên ngôi, mình cũng sẽ như vậy, cũng sẽ làm được chuyện như vậy, không nên có nỗi sợ không sống nổi. Lại nữa, tuy người phước mỏng nhưng có sức chịu đựng, siêng tu phương tiện thì có thể có đủ áo cơm. Như kinh nói: Nhờ có ba nhân duyên mà được tiền của: Hiện tại tự mình làm phương tiện cho đời này. Sức người khác làm giúp cho. Nhân duyên do phước đức. Mình có năng lực có thể chịu được sự việc khó thành tựu, bởi vì đời hiện tại cũng có phương tiện, cho nên không cần phải sinh lòng sợ hãi không sống được. Người có trí ít tìm phương tiện mà có thể tự sống được, có thể cần Phật đạo. Phần trí tuệ ấy nay mình đã có, trí tuệ nhanh nhạy này thì có thể tự sống được, không nên có tâm lý sợ hãi không sống được. Lại nữa, Bồ tát dấy lên nghó như vậy: Mình có thế gian thế gian có những điều lợi-hại-khen-chê-tốt-xấu-vui-khổ, tám sự việc như vậy làm sao có thể không có, vì vậy không nên vì không đạt được mà sinh lòng sợ hãi không sống nổi. Lại nữa, Bồ tát này vì biết vừa cho nên thuận theo mọi thứ tốt-xấu-ngon-dở có được mà yên ổn, không cần phải sinh lòng sợ hãi không sống nổi. Nếu người không biết vừa đủ, thì cho dù có được tiền của tràn đầy cả thế gian mà ý vẫn còn không thỏa mãn. Như nói: Như có người nghèo hèn khốn khổ, Chỉ cầu mong có đủ cơm áo, Khi đã có được cơm áo rồi, Lại cầu mong tốt đẹp hơn nữa. Đã có được mọi thứ tốt đẹp, Lại cầu mong đến với tôn quý, Khi đã có được tôn quý rồi, Cầu làm vua tất cả mọi nơi. Giả sử được làm vua mọi nơi, Lại cầu mong làm vua cõi trời Người thế gian tham lam ham muốn, Không thể vì tiền bạc chất đầy. Nếu ai biết đủ, dù là được ít của, thì đời nầy, đời sau vẫn có thể thành tựu được những ích lợi cho họ. Ở địa nầy Bồ-tát ưa bố thí, nhờ có đủ trí tuệ, cho nên hầu hết đều có thể phát sinh căn thiện và không tham lam. Nếu không ưa bố thí mà lại ham làm điều ác, vì động lực của tham lam-bỏn sẻn-ngu si, thì căn bất thiện càng gia tăng với bỏn sẻn, tham lam. Cách sống không biết đủ là thuộc về tham lam-bỏn sẻn. Vì vậy, Bồ-tát hầu hết đều phát tâm nuôi căn thiện, buông bỏ lòng tham lam. Vì vậy mà biết đủ, vì biết đủ cho nên không lo là không sống nổi. Lại nữa, không sợ chết là vì biết làm nhiều phước đức, biết nghó nhiều về cái chết, biết chắc không tránh khỏi nó, biết cái chết đã có từ vô thỉ qua các cõi mà ai cũng thọ nhận, dù tu tập nhiều cũng không tránh khỏi. Cho nên Bồ-tát nghó như vậy: Nếu ai không tu phước đức thì lo sợ cái chết, từ lo sợ mà kiếp sau rơi vào đường ác, còn mình thì gom góp phước đức nên khi chết liền sinh vào nơi tốt đẹp nhất, vì vậy không sợ chết. Như nói: Chờ đợi cái chết như khách quý, Ra đi giống như đến hội lớn, Bởi vì tích tập nhiều phước đức, Lúc xả mạng cũng không còn sợ hãi. Bồ-tát còn nghó như vậy: Cái chết còn tùy nơi thọ thân, chẳng phải chờ cho tâm diệt mới là chết. Nếu như tâm diệt là chết, thì mình đã chết bao lần theo từng niệm từng niệm hủy diệt của tâm. Nếu kẻ sợ chết thì sợ theo từng niệm từng niệm hủy diệt của tâm, chứ không phải sợ tâm hủy diệt cuối cùng, mà cũng còn sợ tâm niệm trước bị hủy diệt. Vì sao? Vì tâm hủy diệt thì trước hay sau không hề khác nhau. Nếu lo sợ phải vào đường ác, lo sợ tâm hủy diệt sau cùng, thì người có phước đức sẽ không lo sợ đọa vào đường ác. Như đã nói ở trước: Mình sẽ nhận từng niệm hủy diệt và đối với từng niệm hủy diệt sau cùng, không nên có sự lo sợ về cái chết. Lại nữa, Bồ-tát dấy lên nghó: “Từ vô thỉ mình đã qua lại mọi thế giới trong sinh tử, chịu đựng vô lượng vô biên A-tăng-kỳ mọi cách chết, không nơi nào trốn thoát cái chết. Đức Phật nói: “Sống chết không có chỗ khởi đầu, trong một kiếp sống, người ta đã chết, xương chất cao hơn núi Tuyết”. Những cái chết vậy không có lợi gì cho mình, không làm lợi cho ai. Nay mình phát nguyện quay về đạo Vô thượng, là muốn làm lợi cho mình và cũng làm lợi cho người, chuyên cầu một lòng hành đạo để có lợi lớn, thì mình đâu còn sợ hãi cái chết”. Nghó được như vậy là Bồ-tát đã buông bỏ ý niệm sợ chết. Lại nữa, Bồ tát dấy lên nghó như vậy: Nay cái chết này nhất định phải nhận lấy, không có ai tránh khỏi. Tại vì sao? Bởi vì các Đại vương ở kiếp đầu tiên như Đảnh sinh, Hỷ kiến, Chiếu Minh Vương đều có thân trang nghiêm với ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, bảy báu đi theo, trời người đều kính mến, làm vua bốn thế giới, thường thực hành mười thiện đạo, nhưng các bậc Đại vương này đều quay về với cái chết. Lại có những Chuyển luân vương nhỏ như Xà-đề-la, tự dùng uy lực của vua cõi Diêm-phù-đề, sắc thân đoan chính giống như người cõi trời, đối với sắc-thanh-hương-vị-xúc tự nhiên tùy ý không thiếu thứ gì, mọi nơi đều quy phục không có nơi nào chống đối, lại có sở trường về thuật bắn cung. Nhưng các vị vua này cùng với hàng vua chúa cai quản thiên hạ, cho đến nhân dân và quyến thuộc của họ đều không tránh khỏi cái chết. Lại như các bậc Tiên Thánh là Ca-diếp, Kiều-cù-ma… thực hành các hạnh khổ hạnh, đạt được năm thần thông, làm ra những kinh sách, đều không tránh khỏi cái chết. Lại như vậy Phật, Bích-chi-Phật, A-la-hán, tâm được tự tại, xa lìa cấu nhiễm, đạt được đạo quả, đều bị cái chết làm cho hủy diệt, tất cả chúng sinh không ai có năng lực vượt qua, mình phát tâm với đạo Vô thượng thì không nên sợ chết. Lại vì phá tan nỗi sợ cái chết, cho nên phát tâm tinh tiến tự loại trừ nỗi sợ cái chết, cũng loại trừ giúp cho người khác. Vì vậy phát tâm hành đạo, tại sao đối với cái chết mà sinh lòng kinh sợ? Bồ tát tư duy về vô thường như vậy, lập tức loại trừ nỗi sợ hãi cái chết. Vả lại, Bồ tát thường tu tập về pháp không, cho nên không cần phải sợ cái chết. Như nói: Người lìa cái chết thì không chết, Lìa cái chết thì người không chết, Vì cái chết thì người có chết, Người vì cái chết thì có chết. Chết có sẵn thì thành cái chết, Cái chết trước lúc chưa thành tựu, Không hề có tướng trạng quyết định, Người không chết thì không thành tựu. Lìa cái chết thì có cái chết, Cái chết phải tự nhiên thành tựu, Nhưng thật sự lìa khỏi cái chết, Không có cái chết nào thành tựu. Mà thế gian phân biệt chấp trước, Cái chết này là vì người chết, Không biết cái chết thường đi-đến, Vì vậy cuối cùng không tránh khỏi. Từ những loại nhân duyên như vậy, Quán sát tướng trạng của các pháp, Tâm tư không có gì kỳ lạ, Cuối cùng không sợ gì cái chết. Không sợ rơi vào đường ác, là do Bồ-tát thường tu phước đức cho nên không sợ rơi vào đường ác. Bồ-tát dấy lên nghó: Người có tội thì đọa vào đường ác, chẳng phải là người có phước đức. Còn mình dù một ý niệm, cũng không cho điều ác xâm nhập, mà đối với, thân-miệng-ý luôn khởi nghiệp thanh tịnh, cho nên mình được thành tựu vô lượng vô biên công đức. Công đức tích tụ to lớn như vậy, thì làm sao sợ rơi vào đường dữ? Lại nữa, Bồ tát vừa phát tâm là làm lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh, do đại Từ Bi mà che chở trú trong xứ sở của bốn công đức, có được vô lượng công đức, vượt qua tất cả đường ác. Tại vì sao? Bởi vì tâm này hơn hẳn tất cả Thanh văn và Bích-chi-Phật. Như trong kinh Tịnh Tỳ-ni: “Ca Diếp thưa với Đức Phật rằng: Thật là hiếm có, thưa đức Thế tôn! Ngài khéo nói về hàng Bồ tát dùng nhiều tâm Tát-bà-nhã mà có năng lực hơn hẳn tất cả Thanh văn và Bích-chi-Phật”. Mình thành tựu công đức to lớn như vậy, trú trong giáo pháp vó đại như vậy, tại sao phải sợ rơi vào đường ác? Lại dấy lên nghó như vậy: Mình từ vô thỉ đến nay, qua lại trong sinh tử, rơi vào các đường ác nhận chịu vô lượng khổ đau, không làm lợi ích cho mình, cũng không lợi ích cho người, nay mình phát Đại nguyện vô thượng, vì muốn tự lợi ích cho mình và cũng vì lợi ích cho người, trước đây rơi vào đường ác không hề có lợi ích gì, nay vì lợi ích cho chúng sinh, giả sử rơi vào đường ác thì cũng không nên sinh lòng sợ hãi. Vả lại thực hành hạnh Bồ tát phát tâm như vậy, cho dù mình vào địa ngục A-tỳ nhận chịu đau khổ một kiếp rồi sau đó được thoát ra, có thể làm cho một người phát sinh một tâm thiện, tích tập vô lượng tâm thiện như vậy, vó thể đảm nhận giáo hóa khiến phát tâm đối với Tam thừa. Giáo hóa hằng hà sa chúng sinh thuộc Thanh văn Thừa như vậy, cũng giáo hóa hằng hà sa chúng sinh thuộc Bích-chi-Phật thừa, hằng hà sa chúng sinh phát tâm đại thừa, sau đó mình sẽ có được tâm đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, hãy còn không nên lui sụt, huống là nay mình tu tập vô lượng vô biên công đức, xa lìa đường ác ư? Bồ tát tư duy như vậy, sao có thể phát sinh nỗi sợ đường ác? Lại nữa, như trong kinh Khiếu Hoán Địa Ngục nói: Bồ tát trả lời ma rằng: Ta vốn dùng công hạnh bố thí, Vào ở trong địa ngục kêu la, Những người đã nhận Ta bố thí, Đều được sinh lên ở cõi trời. Nếu người hãy còn cần phải, Luôn luôn thực hành hạnh bố thí, Chúng sinh yên vui ở cõi trời, Ta chịu khổ địa ngục kêu la. Bồ tát dùng các loại nhân duyên như vậy, có năng lực ngăn chặn nỗi sợ đường ác. Không có nỗi sợ hãi vì đại chúng, bởi vì thành tựu Văn tuệ-Tư tuệ và Tu tuệ, lại còn có xa rời luận thuyết sai lầm, Bồ tát này kiến lập lời nói chính đáng, mà diễn đạt không có gì sai lạc, luôn luôn dùng nhân duyên-thí dụ kết lại thành câu không nhiều không ít và không có gì nghi hoặc lời nói không có gì trái nghĩa, không hề có dua nịnh lừa dối, đầy đủ các loại trang nghiêm chất trực nhu hòa, nghĩa lý theo thứ tự dễ hiểu nắm giữ, luôn luôn biểu hiện sự việc của mình có năng lực phá tan luận thuyết khác, lìa bỏ bốn nhân tố tà vạy, có đủ bốn nhân tố Đại thừa. Những loại ngôn từ trang nghiêm như vậy. Diễn thuyết giữa Đại chúng không có gì sợ hãi. Không sợ tiếng xấu và không sợ bị mắng chưởi, bởi vì không tham lợi dưỡng, thân-miêng-ý luôn thực hành thanh tịnh. Không có nỗi sợ hãi vì giam cầm-gông cùm-tra khảo tàn nhẫn, bởi vì không có tội lỗi gì, mà yêu thương tất cả chúng sinh, nhận chịu tất cả mọi sự khổ não, căn cứ vào quả báo của nghiệp mà tiếp nhận, trước kia mình tự gây ra thì nay trở lại nhận lấy báo ứng. Bồ tát này dùng những nhân duyên như vậy, cho nên không có những nỗi sợ hãi không sống được. Lại còn thích quán xét tất cả các pháp là vô ngã, cho nên không có tất cả mọi nỗi sợ hãi, tất cả mọi nỗi sợ hãi đều từ ngã chấp mà sinh ra, ngã chấp đều là tướng căn bản của những sự suy sụp buồn lo khổ sở. Bồ tát này vốn có trí tuệ sắc bén, đúng như thật tiến sâu vào Thật tướng của các pháp vốn là không có Ngã, Ngã không có thì từ đâu mà có sợ hãi? Hỏi: Bồ tát này tại sao không có tâm chấp ngã? Đáp: Bởi vì vui với pháp không, cho nên Bồ tát quán xét thân xa lìa Ngã và Ngã sở. Như nói: Tâm ngã làm nhân cho ngã sở, Ngã sở nhờ vào ngã sinh ra, Vì vậy cho nên ngã-ngã sở, tính của hai loại đều là không. Ngã thì có nghĩa là ông chủ, Ngã sở là vật của ông chủ, Nếu như không còn có ông chủ, Thì vật của chủ cũng không có, Nếu không có vật của ông chủ Thì cũng không còn có ông chủ. Ngã chính là kiến chấp về ngã, Kiến chấp vật của ngã-ngã sở, Quán xét thật vốn không có ngã, Ngã không có cũng không vô ngã, Bởi vì thọ mà có người thọ, Không có thọ thì không người thọ Xa lìa người thọ không còn thọ, Nhờ vào đâu mà thọ thành tựu? Nếu như người thọ thành tựu thọ, Thì thọ là không thể thành tựu, Bởi vì thọ không thể thành tựu, Không thể nào thành tựu người thọ, Bởi vì người thọ vốn là không, Không thể nào nói đó là Ngã, Bởi vì thọ đều vốn là không, Không có thể nói là Ngã sở, Vì vậy Ngã chẳng phải là Ngã, Cũng là Ngã-cũng chẳng phải vô Ngã, Chẳng phải Ngã, chẳng phải là Vô Ngã Tất cả đều trở thành tà luận. Ngã sở chẳng phải là Ngã sở, Cũng là Ngã chẳng phải Ngã sở, Chẳng phải Ngã-chẳng phải Ngã sở, Đây cũng trở thành những tà luận. Bồ tát thường vui với sự tu tập về không-Vô ngã như vậy, cho nên xa rời mọi nỗi sợ hãi. Vì sao như vậy? Bởi vì pháp Không-vô ngã luôn luôn xa rời những sự sợ hãi, vì vậy Bồ tát ở trong địa Hoan Hỷ, có những tướng mạo như vậy. -------------------------- <詞>Phẩm 4: TỊNH ĐỊA Hỏi: Đã vào địa thứ nhất, Bồ-tát tu tập như thế nào? Đáp: Sức mạnh niềm tin càng tăng lên, Thực hành tâm Đại Bi sâu sắc, Thương xót đối với mọi chúng sinh, Tu dưỡng tâm thiện không mệt mỏi, Vui mừng đối với những diệu pháp, Thường xuyên gần gũi thiện tri thức, Tự mình tàm quý và cung kính, Tâm tư mềm mỏng và hài hòa. Thích quán các pháp chẳng chấp trước, Dốc lòng cầu trí tuệ đa văn, Không tham lam đối với lợi dưỡng, Xa rời gian dối và dua nịnh. Không làm bẩn ngôi nhà Chư Phật, Không phá giới-chê bai Chư Phật, Hết sức vui thích Tát-bà-nhã, Không lay động giống như núi lớn. Thường vui với công hạnh tu tập, Pháp vi diệu càng tiến lên cao, Vui với Pháp xuất thế gian, Không thích những pháp của thế gian. Liền sửa trị cho địa Hoan Hỷ, Khó sửa trị mà sửa trị được, Vì vậy cho nên luôn dốc lòng, Chịu khó thực hành những pháp này. Bồ tát có năng lực thành tựu, Pháp vi diệu vô thượng như vậy, Đó là được an trú vững vàng, Trong địa thứ nhất của Bồ tát. Bồ tát dùng hai mươi bảy pháp thanh tịnh này để sửa trị ở địa thứ nhất. Sức mạnh niềm tin càng tăng lên, niềm tin gọi là có những gì thấy nghe thì nhất định tiếp nhận không nghi ngờ. Càng tăng lên có nghĩa là vô cùng tốt đẹp. Hỏi: Có hai loại tăng thượng, một là nhiều, hai là tốt đẹp. Nay nói về loại nào? Đáp: Trong này nói đến cả hai loại. Bồ tát tiến vào địa thứ nhất, đạt được mùi vị của các công đức cho nên sức mạnh của niềm tin càng tăng thêm. Dùng sức mạnh niềm tin này cần nhắc so sánh vô lượng công đức hết sức vi diệu của Chư Phật để tự mình tin nhận, vì vậy tâm này vừa nhiều vừa tốt đẹp. Thực hành tâm Đại Bi sâu sắc, thương xót nghó đến chúng sinh đến tận cùng xương tủy, cho nên gọi là sâu sắc; vì tất cả chúng sinh mà cầu Phật đạo, cho nên gọi là Đại. Tâm Từ, là thường mong cầu điều lợi ích làm an ổn cho chúng sinh. Tâm Từ có ba loại, sau sẽ nói rộng hơn. Tu dưỡng tâm thiện không mệt mỏi, thiện pháp có nghĩa là được gần gũi tu tập thì có thể mang lại kết quả yêu thích, lúc tu pháp như vậy thì tâm không lười nhác uể oải. Nhân duyên của thiện pháp là bốn nhiếp pháp-mười thiện đạo-sáu Ba-la-mật- mười địa của Bồ tát… và các công đức. Vui mừng đối với những diệu pháp, là thường tư duy tu tập sâu sắc mà đạt được ý vị của pháp, trải qua lâu dài thì sinh ra ưa thích. Như người ở trong vườn hoa thưởng thức vui sướng với sự yêu thích về sắc tướng của hoa. Luôn luôn gần gũi thiện tri thức, Bồ tát có bốn hành thiện tri thức, sau sẽ nói rộng hơn. Trong này nói đến thiện tri thức, chính là Chư Phật và Bồ tát. Thường dùng tâm chính đáng để gần gũi luôn luôn làm cho vui vẻ. Tàm quý gọi là thường hết hổ thẹn. Cung kính gọi là nghó đến công đức ấy mà tôn trọng đối với người ấy. Mềm mỏng là tâm tư hài hòa vui vẻ cùng chung niềm an vui. Thích quán xét các pháp, pháp là năm ấm-mười hai nhập-mười tám giới-không-vô tướng-vô tác… Dùng tự nhớ nghó chính đáng thường xuyên quán xét những pháp này. Không chấp trước, chấp trước là tâm quay về với ba cõi, là nơi quy tụ của chúng sinh. Có người nói: Năm dục và các tà kiến là quay về. Tại vì sao? Bởi vì tâm chúng sinh thường bị trói buộc bởi chấp trước. Tâm trí sắc bén của Bồ tát không còn tham đắm, dốc lòng mong cầu Phật pháp quý trọng chứ tâm không có ý tưởng nào khác. Cầu trí tuệ đa văn, Phật thuyết ra chín bộ kinh, có thể tự mình tìm tòi tu học rõ ràng không có gì ngờ vực, nếu còn thiếu sót thì không thể hoàn thành được. Không ham theo lợi dưỡng, lợi nghĩa là có được các loại ăn uống-tiền bạc của cải…, dưỡng là sự cung kính lễ lạy-sắp đặt giường ghế-đón đến đưa đi thật long trọng. Bồ tát thuận theo đem điều này giúp cho chúng sinh mà chính mình không tham đắm. Gian dối là sự cân đong sai lạc giả dối, áo quần vật dụng không chân thật. Dua nịnh là tâm không ngay thẳng. Dối gạt là năm cách sinh sống tà vạy: Ra vẻ kỳ lạ. Tự gần gũi thân thiết. Kích động người khác. Đè ép hoặc nâng lên. Dựa vào lợi thế mà cầu lợi. Làm ra vẻ kỳ lạ, là có người vì tham cầu lợi dưỡng, cho nên có lúc làm người mặc áo vá sống nơi vắng vẻ, hoặc thường khất thực, hoặc ăn một bữa, hoặc thường xuyên ngồi, hoặc sâu bữa trưa không uống nước đặc. Chịu được những hạnh đầu đà như vậy, dấy lên nghó rằng: Người khác thực hành như vậy, được cúng dường cung kính, mình thực hành như vậy có lẽ cũng được chúng sinh cung kính. Bởi vì lợi dưỡng cho nên thay đổi oai nghi, đó gọi là làm ra vẻ kỳ lạ. Tự gần gũi thân thiết, là có người vì tham lợi dưỡng, cho nên đến nhà đàn vật nói chuyện bày tỏ với người ta rằng: Như cha mẹ anh chị em thân thích của tôi không có gì khác, nếu có cần gì thì tôi có thể tự mình giúp cho, muốn làm điều gì thì tôi có thể làm giúp, tôi không ngại gì xa gần mà luôn luôn thăm hỏi, tôi ở nơi này chính là mong giúp nhau mà thôi. Vì mong cầu lợi dưỡng cúng dường, tham đắm theo đàn việt, luôn luôn dùng ngôn từ nói năng để dẫn dắt lòng người, những loại như vậy gọi là tự gần gũi thân thiết. Kích động người khác, là có người không nghó đến lỗi lầm của tham, mong muốn có được tiền bạc của cải, muốn có được những thứ ấy liền tự mình nói như vậy: Cái bát này đẹp, chiếc y này đẹp, cái móc cửa này tốt, tấm tọa cụ này tốt, nếu tôi có được thì luôn luôn sử dụng có ích. Lại nói. Tùy ý có thể cho. Người này khó xin được, lại đến nhà đàn việt nói như vậy: Cơm canh bánh thịt của nhà ông rất thơm ngon, áo quần lại tốt đẹp, thường ngày cúng dường tôi, tôi đã là thân thích trước đây thì nhất định sẽ được chu cấp. Biểu hiện tướng mạo tham lam như vậy, đó gọi là kích động người khác. Đè ép hoặc nâng lên, là có người vì tham cầu lợi dưỡng cho nên nói với đàn việt rằng: Ông vô cùng keo kiệt tiếc nuối, đối với cha mẹ anh chị em-vợ con thân thích mà hãy cón không thể nào giúp đỡ, thì ai là người có thể nhận được đồ vật của ông? Đàn việt hổ thẹn mà miễn cưỡng bố thí. Lại đến nhà khác nói như vậy: Ông có phước được làm thân người không phải là vô ích, A-la-hán thường vào ra trong nhà ông, đứng-ngồi trò chuyện cùng với ông. Dấy lên ý nghó này mong rằng đàn việt có lẽ sinh ra tâm này: Không có người nào khác ra vào nhà mình! Đàn việt nghó như vậy thì nhất định nói là mình, bởi vì mình thường ra vào nhà họ. Đây gọi là đè ép hoặc nâng lên. Dựa vào lợi thế mà cầu lợi, là người dùng đồ vật giúp đỡ cho cuộc sống như y-bát-tăng già lê hoặc tọa cụ, đem ra chỉ rõ với mọi người rằng: Những bậc vua chúa-quan lại và những người sang trọng khác cho tôi vật này. Dấy lên nghó rằng: Đàn việt có người có thể sinh tâm suy nghó, các bậc vua chúa-quan lại và những người sang trọng ấy hãy còn có thể tự họ cúng dường, huống gì mình mà không cho người này? Dựa vào lợi thế này để mong cầu những lợi ích khác, cho nên gọi là dựa vào lợi thế mà cầu lợi. Vì vậy cho nên luôn luôn phải xa lìa lỗi lầm của sự dua nịnh lừa dối như vậy. Không làm bẩn ngôi nhà Chư Phật, như thế nào là làm bẩn ngôi nhà Chư Phật? Có người nói: Nếu người phát tâm cầu đạo Vô thượng rồi, sau đó quay về với đạo lý Thanh văn và Bích-chi-Phật, không có năng lực trú giữa thế gian duy trì giòng dõi Tam bảo, đó gọi là làm bẩn ngôi nhà Chư Phật. nghĩa này không đúng. Tại vì sao? Bởi vì người này có năng lực vượt qua sinh tử, lại đạt được các căn-lực-giác-đạo vô lậu, cũng là con của Chư Phật, tại sao nói là làm bẩn ngôi nhà chư Phật? Như kinh nói: “Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Các ông đều là con Ta, từ tâm Ta sinh ra, từ miệng Ta sinh ra đạt được pháp phần”. Nhưng người Thanh văn nói xứ sở của Đế-xả-Diệt-Tuệ, gọi là nhà của Chư Phật. Tại vì sao? Bởi vì từ bốn sự việc này mà sinh ra Chư Phật. Nếu làm vấy bẩn bốn pháp này thì gọi là làm bẩn ngôi nhà Chư Phật. Như vậy, nếu người nào hư vọng-tham keo-cuồng lọan-ngu si, thì người ấy làm bẩn ngôi nhà của Phật. Nếu thực hành đúng đắn bốn pháp này, thì không làm bẩn ngôi nhà của Chư Phật. Có người nói: Sáu pháp Ba-la-mật là ngôi nhà của Chư Phật, bởi vì từ đây sinh ra Chư Phật. Nếu làm trái với sáu pháp này, thì chính là làm bẩn ngôi nhà của Chư Phật. Có người nói: Ba-la-mật là mẹ của Chư Phật, phương tiện là người cha, đây gọi là ngôi nhà của Chư Phật, từ hai pháp này sinh ra Chư Phật. Nếu làm trái với hai pháp này thì làm bẩn ngôi nhà của Chư Phật. Lại nữa, trong kệ tự nói về tướng vấy bẩn và không vấy bẩn, đó gọi là không phá giới và không chê bai Phật. Nếu thọ giới của Phật mà không tự mình giữ gìn thì chính là lừa dối Chư Phật, là làm bẩn ngôi nhà của Phật. Tại vì sao? Bởi vì lúc thọ giới là sinh trong nhà của Phật, phá giới thì lừa dối Chư Phật, đó gọi là làm bẩn ngôi nhà của Phật. Hỏi: Bồ tát ở phần vị Tất định có phá giới chăng? Đáp: Không đoạn trừ phiền não là điều đáng sợ, không bao lâu thì tiến vào phần vị Tất định, Bồ tát có lúc cũng phá giới. Như trong đại Thắng pháp Phật nói: “Nan-đà cố tình phá giới, Ta nói điều này hãy còn là đáng sợ”. Nhưng bởi vì trong kinh có nói điều này, tin lời Phật dạy cho nên tâm tin nhận thật sự. Nếu thọ giới mà không phá giới- không lừa dối Chư Phật, thì gọi là không làm bẩn ngôi nhà của Phật. Lại nữa, giới gọi là Tam học, đó là Giới học-Tâm học-Tuệ học. Phá hủy Tam học này thì gọi là làm bẩn ngôi nhà của Phật. Thọ giới đúng như pháp mà sau đó phá hủy thì gọi là lừa dối Đức Phật. Hai câu như vậy đều có nghĩa riêng biệt. Lừa dối Đức Phật, là tự mình phát nguyện suông chứ không thực hành đúng như giáo thuyết, lừa dối chúng sinh thì gọi là lừa dối Đức Phật. Lại nữa, trong tất cả các pháp không thực hành đúng như giáo thuyết, đó gọi là lừa dối Đức Phật. An trú kiên cố bất động trong trí Tát- bà-nhã giống như núi lớn, là các loại nhân duyên của Bồ tát này phát nguyện đều mong cầu đạt được trí Tát-bà-nhã, thậm chí khổ đau của Đại địa ngục cũng không làm cho tâm thay đổi, giống như núi chúa Tu di không hề lay động trước phong ba bão tố. Thường tu tập pháp tiến lên cao, là từ lúc mới phát tâm thường cầu tìm pháp thù thắng, tiến vào trong địa thứ nhất lại tu tập pháp cao hơn, như vậy lần lượt trải qua mà tâm không hề chán đủ. Vui với pháp xuất thế gian chứ không thích gì pháp thế gian, pháp thế gian có nghĩa là tùy thuận sự việc của thế gian tăng thêm nhiều sinh tử, sáu đường- ba cõi-năm ấm-mười hai nhập-mười tám giới-mười hai nhân duyên và các phiền não-nghiệp hữu lậu… Pháp xuất thế gian có nghĩa là tùy theo pháp mà sử dụng có năng lực vượt ra ngoài ba cõi, đó là năm căn- năm lực-bảy giác-tám đạo-bốn niệm xứ-bốn chính cần-bốn như ý túc, không-Vô tướng-vô tác giải thoát môn, giới luật nghi-đa văn, vô tham- sân-si, thiện căn-chán ngán lìa xa-tâm không phóng dật… Vốn là Bồ tát thuộc hàng lợi căn, cho nên không thích gì pháp hư vọng của thế gian, mà chỉ vui với pháp chân thật xuất thế gian, chính là sửa trị trong địa Hoan hỷ. Điều khó sử trị mà có năng lực sửa trị, sửa trị có nghĩa là thông suốt không có gì ngăn ngại, như người chẻ tre thì đốt đầu tiên là khó chẻ nhưng các đốt còn lại thì đều dễ dàng. Điều khó sửa trị của địa thứ nhất đã được sửa trị, thì những gì còn lại đều tự nhiên dễ dàng. Tại vì sao? Bởi vì Bồ tát ở địa thứ nhất, thế lực chưa đủ-thiện căn chưa sâu, thiện pháp tu tập chưa bao lâu, các căn nhãn-nhó… hãy còn thuận theo các trần, tâm chưa điều phục hoàn toàn, do đó các phiền não hãy còn có thể gây ra tai họa. Như người không đủ thế lực mà đi ngược dòng nước thì rất khó khăn. Lại trong địa này, ma và quân ma gây ra nhiều chướng ngại, cho nên dùng sức phương tiện chịu khó thực hành tinh tiến, vì vậy địa này gọi là Nan trị. Như vậy sức mạnh của niềm tin càng tăng lên cao trở thành đứng đầu, không thích gì pháp thế gian chỉ là hàng sau. Tu tập hai mươi bảy pháp này, sửa trị địa Hoan hỷ thứ nhất của Bồ tát, vì vậy nói là Bồ tát luôn luôn cần phải tu hành pháp này. Tu hành có nghĩa là một lòng không phóng túng, thường thực hành-thường quán sát loại trừ các lỗi lầm tai hại, cho nên gọi là sửa trị. Như người đang đi trên đường dọn dẹp làm cho sạch sẽ. Các pháp này không những tu sửa địa thứ nhất, mà tất cả các địa đều dùng đến pháp này. Hỏi: Ông đã nói địa thứ nhất đạt được phương tiện và pháp sửa trị thanh tịnh, Bồ tát an trú như thế nào mà không thối thất? Đáp: Thường thực hành thành tựu. Sức mạnh của niềm tin như vậy càng tăng lên cao cùng với các pháp, đó gọi là địa thứ nhất an trú. Bồ đề gọi là đạo Vô thượng, Tát-đỏa gọi là tâm sâu xa. Hết sức vui với Bồ tát cho nên gọi là Bồ-đề Tát-đỏa. Lại nữa, chúng sinh gọi là Tát-đỏa, vì chúng sinh mà tu tập Bồ-đề cho nên gọi là Bồ-đề Tát-đỏa. Thượng pháp là các pháp như Tín… có năng lực làm cho tiến vào thành tựu Phật đạo, cho nên gọi là Thượng pháp. ---------------------- <詞>Phẩm 5: THÍCH NGUYỆN, Phần 1 Đã nói về phương tiện tiến vào địa thứ nhất và pháp sửa trị thanh tịnh, Bồ tát nhờ vào nguyện cho nên được tiến vào các địa, lại thành tựu sức mạnh của niềm tin tăng lên thêm những công đức cho nên an trú trong địa ấy. Nay sẽ phân biệt về nguyện này. Nguyện cúng dường cung cấp dâng lên, Cung kính với hết thảy Chư Phật, Nguyện đều duy trì và bảo vệ, Tất cả các pháp của Chư Phật. Đây là nguyện ban đầu của các Bồ tát. Từ lúc mới phát tâm cho đến lúc đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, ở trong thời gian ấy dốc lòng hướng về cúng dường cung cấp dâng lên một cách cung kính đối với hết thảy Chư Phật. Cúng dường có nghĩa là các loại phẩm vật như hương hoa-chuỗi ngọc-cờ phướn-lọng tàn-đèn nến- xây dựng chùa tháp… Cung cấp dâng lên có nghĩa là lạy tôn trọng-đón đến đưa đi, chấp tay đứng hầu. Lại nữa, dùng pháp Tiểu thừa giáo hóa chúng sinh thì gọi là cúng dường. Dùng pháp Bích-chi-Phật giáo hóa chúng sinh thì gọi là cung cấp dâng lên. Dùng pháp Đại thừa giáo hóa chúng sinh thì gọi là cung kính. Đây là nguyện thứ nhất. Hộ trì tất cả các pháp của Chư Phật, Bồ tát dấy lên ý niệm này: Tất cả các pháp của Chư Phật ba đời mười phương trong quá khứ-vị lai-hiện tại thì mình cần phải bảo vệ. Hỏi: Chư Phật quá khứ đã diệt thì pháp cũng diệt theo, Chư Phật vị lai chưa xuất hiện thì pháp cũng chưa có, vẫn còn không có lần đầu chuyển pháp luân, huống là có pháp nào khác, làm sao có được để bảo vệ? Đích thực có thể bảo vệ pháp của Chư Phật hiện tại, bởi vì Chư Phật đang trong thời hiện tại. Đáp: Pháp của Chư Phật quá khứ-vị lai-hiện tại, đều là cùng một thể-cùng một tướng, vì vậy nếu bảo vệ pháp của một vị Phật, thì chính là bảo vệ pháp của Chư Phật ba đời. Như trong kinh nói: “Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Pháp xuất gia thọ giới-khoác y ôm bát-thiền định trí tuệ-thuyết pháp giáo hóa của Đức Phật Tỳ Bà Thi cũng giống như Ta vậy”. Vì vậy ông chất vấn không đúng. Đây là nguyện thứ hai. Lại nữa: Chư Phật từ cung trời Đâu-suất, Lùi lại đi đến ở thế gian, Cho đến lúc giáo hóa hoàn tất, Vónh viễn vào cảnh giới vô dư. Ở trong thai đến lúc sinh ra, Xuất gia tìm đến chốn đạo tràng, Hàng phục ma quân thành Phật đạo, Bắt đầu chuyển pháp luân vi diệu. Tôn kính đón tiếp các Như Lai, Và ở trong những thời gian khác, Nguyện tôi chắc chắn sẽ đạt được, Dốc hết tâm thành mà cúng dường. Chư Phật bắt đầu từ trên cõi trời Đâu-suất lùi lại xuống dưới thế gian, cuối cùng đến vô dư Niết-bàn. Ở trong thời gian ấy, lúc tiến vào trong thai thì thiết lễ cúng dường tôn trọng, cho đến lúc sinh ra và xuất gia tìm đến chốn đạo tràng, hàng phục Ma vương-thành tựu Phật đạo- chuyển pháp luân vi diệu-tôn kính đón tiếp Như Lai. Trong thời gian khác, là hiện bày nhiều thần thông, quy tập vô lượng trời người, cứu độ tất cả chúng sinh. Lúc bấy giờ nên dùng hoa hương-cờ phướn-lọng tàn-kỷ nhạc ca tụng tán thán, xuất gia thọ pháp tu hành đúng như giáo thuyết, dùng vật phẩm cúng dường bậc nhất để cúng dường Chư Phật. Đây là nguyện thứ ba. Lại nữa: Nguyện giáo hóa tất cả chúng sinh Khiến cho đều tiến vào các đạo. Giáo có nghĩa là dùng thiện pháp để giáo hóa người khác, hóa có nghĩa là làm cho xa lìa ác pháp. Mình nên dùng hai pháp này khiến cho vô lượng A-tăng-kỳ chúng sinh, trú trong đạo Thanh văn và Bích-chi- Phật. Đây là nguyện thứ tư. Lại nữa: Nguyện cho tất cả các chúng sinh, Thành tựu quả vị Bồ đề Phật, Có người hướng về đạo Thanh văn, Đạo Bích-chi-Phật đều thành tựu. Người này tu tập pháp của Thanh văn và Bích-chi-Phật chưa tiến vào phần vị của pháp, mình nên giáo hóa khiến cho hướng về Phật đạo. Có người không hướng về Thanh văn và Bích-chi-Phật, mình nên giáo hóa khiến cho hướng về Phật đạo Vô thượng. Có người hướng về Phật đạo vô thượng, mình nên chỉ bày rõ ràng lợi ích hoan hỷ làm cho công đức ấy càng tăng thêm nhiều hơn. Giáo hóa tất cả chúng sinh như vậy, đây là nguyện thứ năm. Lại nữa: Nguyện khiến cho tất cả các pháp, Tin hiểu được tiến vào bình đẳng. Tất cả các pháp là bao gồm hết thảy các pháp. Pháp vượt qua và pháp không phải vượt qua. Pháp thâu nhiếp giác ý và pháp không phải thâu nhiếp giác ý. Pháp trợ đạo và không pháp không phải trợ đạo. Pháp thuộc về Thánh đạo và pháp không phải thuộc về Thánh đạo. Pháp nên tu và pháp không nên tu. Pháp nên gần và pháp không nên gần. Pháp nên sinh và pháp không phải hiện tại. Pháp nhân duyên sinh và pháp không phải nhân duyên sinh. Pháp nhân duyên và pháp không phải nhân duyên. Pháp từ từ duy sinh và pháp không từ từ duy sinh. Pháp thô và pháp tế. Pháp thọ và pháp không thọ. Pháp nội và pháp ngoại. Pháp thuộc về nội nhập và pháp không phải thuộc về nội nhập. Pháp thuộc về ngoại nhập và pháp không phải thuộc về ngoại nhập. Pháp thuộc về năm ấm và pháp không phải thuộc về năm ấm. Pháp thuộc về năm thọ ấm và pháp không thuộc về năm thọ ấm. Pháp thuộc về bốn đế và pháp không thuộc về bốn đế. Pháp trợ thế gian và pháp không trợ thế gian. Pháp dựa vào tham và pháp dựa vào xuất ly. Pháp điên đảo và pháp không điên đảo. Pháp biến hoại và pháp không biến hoại. Pháp hối hận và pháp không hối hận. Pháp Đại thừa và pháp Tiểu thừa. Pháp thọ xứ và pháp không thọ xứ. Pháp đáng đoạn và pháp không đáng đoạn. Pháp thấy biết và pháp không biết. Pháp hữu lậu và pháp vô lậu. Pháp có hệ thuộc và pháp không có hệ thuộc. Pháp có thanh tịnh và pháp không có thanh tịnh. Pháp có hơn và pháp không có cao hơn. Pháp có giác và pháp không có giác. Pháp có quán và pháp không có quán. Pháp đáng hoan hỷ và pháp không đáng hoan hỷ. Pháp tương ưng và pháp không tương ưng. Pháp có phân biệt và pháp không có phân biệt. Pháp hành và pháp không có hành. Pháp có duyên và pháp không có duyên. Pháp có thứ tự và pháp không có thứ tự. Pháp có thể thấy và pháp không thể thấy. Pháp có tướng và pháp không có tướng. Pháp có thể thực hành và pháp không thể thực hành. Pháp hữu vi và pháp vô vi. Pháp nguy hiểm và pháp không nguy hiểm. Pháp có gốc và pháp không có gốc. Pháp có vượt ra và pháp không có vượt ra. Pháp chúng sinh và pháp không phải chúng sinh. Pháp khổ và pháp không phải khổ. Pháp não hại và pháp không phải não hại. Pháp có và pháp không phải là có. Pháp nghịch và pháp không nghịch. Pháp cảm báo vui và pháp không cảm báo vui. Pháp cảm báo khổ và pháp không cảm báo khổ. Pháp nhớ mà sinh và pháp không phải nhớ mà sinh. Pháp trí tuệ làm đầu và pháp không phải trí tuệ làm đầu. Pháp lấy tín làm đầu và pháp không phải lấy tín làm đầu. Pháp lấy tư duy làm đầu và pháp không phải lấy tư duy làm đầu. Pháp lấy nguyện làm đầu và pháp không phải lấy nguyện làm đầu. Pháp sắc và pháp không phải sắc. Pháp giáo và pháp không phải giáo. Pháp biến hóa và pháp không phải biến hóa. Pháp như ý du hành và pháp không phải như ý du hành. Pháp gốc rễ ham muốn và pháp không phải gốc rễ ham muốn. pháp nhân của thiện và pháp không phải nhân của thiện. Pháp nhân của thiện căn và pháp không phải nhân của thiện căn. Pháp định và pháp không phải định. Pháp thân và pháp không phải thân. Pháp miệng và pháp không phải miệng. Pháp ý và pháp không phải ý. Pháp có đối đãi xúc chạm sinh ra pháp không có đối đãi xúc chạm sinh ra. Pháp do ý xúc sinh ra và pháp không do ý xúc sinh ra. Pháp ác và pháp không phải là ác. Pháp thiện và pháp không phải là thiện. Pháp tự mình sinh ra và pháp không phải tự mình sinh ra. Pháp niệm niệm diệt đi và pháp không phải niệm niệm diệt đi. Pháp nhiếp tụ và pháp không phải nhiếp tụ. Pháp phân chia rõ ràng và pháp không phải phân chia rõ ràng. Pháp là nhân và pháp không phải là nhân. Pháp là duyên và pháp không phải là duyên. Pháp nhân duyên và pháp không phải nhân duyên. Pháp do nhân mà sinh và pháp không phải do nhân mà sinh. Pháp có nhân và pháp không phải có nhân. Pháp như nhau và pháp khác nhau. Pháp diệt và pháp không phải diệt. Pháp thâu nhiếp căn và pháp không phải thâu nhiếp căn. Pháp cùng tâm và pháp không phải cùng tâm. Pháp tâm và pháp không phải tâm. Pháp tâm sở và pháp không phải tâm sở. Pháp do năm căn cùng tiếp xúc và pháp không phải do năm căn cùng tiếp xúc. Pháp cùng đạt được mười sáu loại và pháp không phải cùng đạt được mười sáu loại. Pháp tế và pháp thô. Pháp hồi hướng và pháp không phải hồi hướng. Pháp thiện và pháp bất thiện. Pháp vô ký. Pháp do kiến đế mà đoạn. Pháp do tư duy mà đoạn. Pháp không đoạn pháp học và pháp vô học. Pháp phi học phi vô học… Vô lượng ngàn vạn loại các pháp đều làm cho tiến vào trong phạm vi không-vô tướng-vô tác bình đẳng không có gì sai khác, vốn là nhờ vào năng lực của niềm tin và sự hiểu biết. Đây là nguyện thứ sáu.  <卷>QUYỂN 3 <詞>Phẩm 5: THÍCH NGUYỆN, Phần 2 Nguyện làm cho cõi Phật thanh tịnh, Diệt trừ những ác hành lẫn tạp. Những việc làm bất tịnh là: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói lời thêu dệt, tham lam, giận dữ, sống tà vạy, uống rượu. Trong cõi nước còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và những cõi ác, đó là những thứ bất tịnh. Lại nữa, chúng sinh không có lòng tin, biếng nhác, tâm rối loạn, ngu si, dua nịnh, ganh ghét, bỏn sẻn, giận dữ, cừu hận, mê theo tà kiến, kiêu mạn, hỗn láo vô lối, cho mình hay giỏi mà xấc xược, cho mình hơn người, làm ra vẻ lạ kỳ, cầu quen thân, xúi giục, đè ép và nâng cao, từ lợi này cầu lợi khác, chuộng vui trần thế, buông lung, ý tứ buông thả, ưa điều ác, bất chính, tà dâm, không biết đến cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn, không nhẫn nhục, phá oai nghi, hỏi vặn, quán theo tri giác tà ngụy, tham dục, sân hận, ham ngủ, đùa cợt, mọi xấu ác đó đều được che lấp bởi nghi ngờ và hối tiếc, cho nên gọi là bất tịnh. Lại nữa, còn có nhiều chim ác, nhiều giặc cướp thù oán, hạn hán đến nỗi không có giọt nước uống, đói khát, dịch hạch, khiến người sợ, cả đến phi nhân cũng sợ. Bên trong thì bọn phản nghịch, bên ngoài thì giặc giã, hoặc mưa nhiều, hoặc hạn hán. Những suy sụp thảm não ấy là báo hiệu một tiểu kiếp tận diệt. Đó là bất tịnh. Lại nữa, chúng sinh chết yểu, sắc mặt xấu ác, không có sức lực, đau khổ lan tràn, thiếu can đảm, nhiều bệnh tật, thiếu oai lực, thiếu bà con lành, nhiều bà con ác, tình bà con dễ tan vỡ, nhà ở chật chội, cuộc sống yếu kém, bất chính xuất gia, gọi là bất tịnh. Lại nữa, có những Tăng-khư-du-già, Ưu-lầu-ca vương, Na-ba-la- tha, Tỳ-khư-na, Bình-sa-vương, tiên nhân Na-kiết-lược, tiên nhân voi, người đoạn dâm, đệ tử tu hành cao thượng. Kẻ chăn dê, người có lòng cao cả, người nhẫn nhục. Người sống khó khăn như Kiều-đàm-ma, Cưu- lan-đà. Kẻ cứu độ người, kẻ gánh nước. Bà-la-sa-già-na, Phả-la-đọa-xà, người quấn y, người không có y, người mặc y da thuộc, kẻ mặc áo da, kẻ mặc áo bằng cỏ, người mặc y dưới, người mặc áo kết bằng lông chim Giác điệc, người mặc áo bằng vỏ cây, kẻ tắm giặt ngày ba lần, người tùy thuận. Kẻ thờ Phạm vương, người thờ Cứu-ma-la, người thờ Tỳ-xá- xà, người thờ Kim-sí-điểu, người thờ Càn-thát-bà, người thờ Diêm-la vương, người thờ Tỳ-sa-môn vương, người thờ thần Mật Tích, người thờ thần Phù-đà, người thờ rồng, Sa-môn lỏa thể, Sa-môn áo trắng, Sa-môn áo nhuộm, Sa-môn Mạt-ca-lê. Người Tỳ-la-đa-tử, người Ca-chiên-diên Ni-kiền-tử, người Tác-kỳ-giá-tử, người giữ giới trâu, người giữ giới nai, người giữ giới chó, người giữ giới ngựa, người giữ giới voi, người giữ giới ăn xin, người giữ giới Cứu-ma-la, người giữ giới chư Thiên, người giữ giới cao thượng, người giữ giới dâm dục, người giữ giới tịnh khiết, người giữ giới lửa. Lại có người nói Sắc diệt là Niết-bàn, người nói Thanh diệt là Niết-bàn, người nói Hương diệt là Niết-bàn, người nói Vị diệt là Niết- bàn, người nói Xúc diệt là Niết-bàn, người nói Giác quán diệt là Niết- bàn, người nói hỷ diệt là Niết-bàn, người nói khổ-vui diệt là Niết-bàn. Người quấn áo ướt làm vòng hoa, người dùng nước sạch, người ăn sạch, người sống sạch, người cầm chày giã, người đập đá, người mừng khi tắm, người lặn hụp dưới sông, người ở nơi trống trải, người nằm trên gai nhọn, người có tính thế gian, người to lớn, người chấp ngã, người ưa sắc, người ưa âm thanh, người ưa mùi thơm, người ưa đồ ngon, người ưa đụng chạm, người biết về đất, người biết về nước, người biết về lửa, người biết về gió, người biết về hư không, người biết về hòa hợp, người biết về biến đổi, người biết về mắt, người biết về tai, người biết về mũi, người biết về lưỡi, người biết về thân, người biết về ý, người biết về thần túc. Xuất gia hay tại gia mà tin và làm theo những tà kiến như vậy đều gọi là bất tịnh. Lại nữa, mặt đất chỗ cao, chỗ thấp, hầm hố, gò nổng, rừng bụi, gai chông bén nhọn, gây nhiều trở ngại, đất đầy bụi cát tanh hôi, với bùn nhơ nhớp, nước lụt đọng vũng như cối đá bị vùi lấp. Núi hiểm trở cao vót, nhiều đèo quanh co trở ngại, núi trùng điệp ngăn cách, cao sừng sững khó leo. Các mỏ muối đều bị cháy khô chỉ còn lại cát sỏi ngói đá. Trái cây mất màu sắc, hương-vị nếu có cũng không còn là bao. Các loại cỏ làm thuốc không tốt. Thế mạnh mòn yếu do thiếu ăn uống, không còn sự tuyệt diệu của sắc-thanh-hương-vị-xúc, không còn cảnh đẹp của vườn hoa lầu gác, suối chảy, ao tắm, núi nhỏ, mô đất cao… Những nơi lên núi trông xa vui thú, đều điêu tàn. Quận, huyện, xóm làng không còn kề nhau. Nhiều bỏ hoang, dân cư thưa thớt, mà hầu hết đều nghèo khổ bần cùng, thấp kém. Ở kinh thành thì tể tướng, đại quan, người cao sang, khách buôn, thợ giỏi khéo tay, người học hỏi đều giảm hết. Những vật cần dùng cho thân như áo quần, đồ nằm, thuốc men đều khó kiếm được, dù có được cũng chẳng phải là đồ tốt, đó gọi là bất tịnh. Nói tóm lại là bất tịnh có hai loại: Vì nhân duyên của chúng sinh. Vì nhân duyên của hành nghiệp nhân duyên của chúng sinh, là bởi vì chúng sinh đầy tội lỗi xấu xa. Nhân duyên của hành nghiệp là bởi vì những hành vi đầy tội lỗi xấu xa. Hai điều này đã nói ở trên. Chuyển đổi hai điều này thì có được công đức của chúng sinh và công đức của hành nghiệp. Hai công đức này gọi là Tịnh độ, là quốc độ thanh tịnh. Nên biết rằng tùy theo nhân duyên bổn nguyện của các Bồ tát, các Bồ tát có năng lực thực hành các loại vô cùng tinh tiến, hạnh nguyện của Bồ tát vô lượng, không thể nào nói hết được, vì vậy nay chỉ nói sơ lược để nêu rõ ràng đầu mối của sự việc, những điều còn lại nên biết như vậy. Nói gọn và tướng của Tịnh độ, đó gọi là Bồ tát khéo đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, pháp lực công đức của chư Phật đầy đủ, của Thanh văn đầy đủ, Bồ-đề thọ đầy đủ, thế giới trang nghiêm, chúng sinh hoàn thiện được nhiều ích lợi. Người có thể hóa độ chính là đại đa số chúng được tập hợp đầy đủ do oai lực của Phật. Người khéo chứng quả Bồ-đề là dùng mười việc để trang nghiêm: Xa lìa những pháp hành khổ hạnh. Không có tâm nhàm chán kém cỏi. Nhanh chóng đạt được. Không cầu mong ngoại đạo làm thầy. Hạnh nguyện Bồ tát đầy đủ. Không có ma oán. Không có những điều trở ngại. Chư thiên tụ hội nhiều. Đầy đủ những điều hiếm có. Đầy đủ thời gian Xa lìa những pháp hành khổ hạnh, là nếu Bồ tát xuất gia vì đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, thì không thực hành những pháp tu khổ hạnh, đó là hoặc bốn ngày, hoặc sáu ngày, hoặc tám ngày, hoặc nửa tháng, hoặc một tháng, thậm chí ăn một hạt mè, một hạt gạo, một quả cây, hoặc chỉ uống nước, hoặc chỉ nuốt không khí, không dùng những pháp tu khổ hạnh như vậy để cầu đạo, mà an tọa nơi đạo tràng thành tựu Phật đạo. Không có tâm nhàm chán kém cỏi, là nếu Bồ tát đạt được một phần ít tâm lý chán ngán lìa xa thì lập tức cầu mong xuất gia. Nhanh chóng đạt được, là nếu Bồ tát xuất gia rồi thì đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Không cầu mong ngoại đạo làm thầy, là nếu Bồ tát xuất gia rồi, có bậc Đại sư ngoại đạo, có danh tiếng lừng lẫy, cũng không đến hỏi han mong cầu, các ông nói pháp gì, luận về điều gì, lấy gì làm lợi ích, cũng không tìm cầu gì ở khắp bốn phương. Hạnh nguyện Bồ tát đầy đủ, là lúc Bồ tát sắp thành tựu Phật đạo, các Bồ tát trong ba ngàn Đại thiên thế giới và các Bồ tát ở phương khác, đều mang vật phẩm cúng dường đến vây quanh rồi, chờ đợi Đức Phật thành đạo phóng ra ánh sáng rộng lớn, tất cả cùng nhau cúng dường, nghe pháp từ Đức Phật đều thực sự đạt được phần vị. Nhất sinh bổ xứ không còn thối chuyển. Không có ma oán, là nếu Bồ tát đến lúc sắp thành Phật, thì không có ma quân nào có thể đến phá hoại. Không có những điều trở ngại, là lúc Bồ tát sắp thành Phật, thậm chí không có mảy may phiền não để tiến vào trong tâm tư được. Các đại chúng tụ hội, là nếu Bồ tát đến lúc sắp thành Phật, thì Tứ thiên vương-Chư thiên cõi Đao lợi, chư Thiên cõi Dạ-ma, chư Thiên cõi Đâu-suất-đà, chư thiên cõi Hóa-lạc, chư Thiên cõi Tha-hóa-tự-tại, chư Thiên cõi Phạm cho đến chư Thiên cõi A-ca-nị-tra, cùng các vị rồng- thần, Dạ-xoa, càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-ma-la, Ma-hầu-la- già, và tất cả các thần trong vô lượng thế giới khắp mười phương, đều mang vật phẩm cúng dường thượng diệu bậc nhất đến cúng dường Bồ tát. Đây gọi là Đại chúng tụ hội đầy đủ. Còn người Thanh văn nói: Chư Thiên trong mười thế giới đều đến nơi ấy, gọi là chư Thiên tụ hội đông đủ. Đầy đủ những điều hiếm có, là nếu vào lúc Bồ tát được thành Phật, thì mặt đất phát ra sáu loại chấn động, vô lượng ba ngàn Đại thiên thế giới khắp mười phương, vốn có các cung điện của Ma vương đều bị biến hoại không còn màu sắc, ánh sáng không còn xuất hiện nữa. Vô lượng núi Tu-di thảy đều lay động, vô lượng biển rộng thảy đều chấn động dữ dội, tất cả thế giới nở hoa trái mùa, mưa xuống hương bột, Chiên-đàn và các loại hoa kỳ lạ của cõi trời, cùng những điều hiếm có vô cùng. Đầy đủ thời gian, là luôn luôn không có những dịch bệnh, đói kém, chiến tranh, lưu lạc, trốn chạy, mưa tưới xuống theo thời tiết, không có các tai họa bất ngờ. Các bậc vua chúa đều đúng như pháp mà sử trị cảm hóa, nhân dân yên vui thọ mạng lâu dài, không còn có giặc thù, không còn có các loại chim thú dữ tợn-trùng độc-quỷ thần làm não hại chúng sinh. Oai lực công đức của Phật, là oai lực công đức và trí tuệ của Phật trong quá khứ- vị lai-hiện tại, có vô lượng pháp sâu dày đều bình đẳng, không khác nhau, chỉ tùy thuộc nhân duyên bản nguyện của chư Phật. Hoặc có thọ mạng vô lượng, hoặc có người trông thấy Phật, là đạt được Tất định, có người nghe tên Phật cũng đạt được Tất định. Người nữ trông thấy Phật liền chuyển thành thân nam, hoặc có người nữ nghe tên Phật cũng chuyển được thân nữ, hoặc có người nghe tên Phật liền được vãng sinh. Hoặc có vô lượng ánh sáng, chúng sinh nào gặp được thì lìa hết các chướng ngại che phủ, hoặc có người nhờ ánh sáng liền tiến vào Tất định, hoặc nhờ ánh sáng mà diệt trừ tất cả khổ não. Thọ mạng vô lượng, là thọ mạng trải qua vô lượng kiếp vượt quá mọi tính toán, một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, vạn kiếp, ức kiếp, trăm ngàn muôn ức na-do-tha A-tăng-kỳ kiếp. Phật sống lâu như vậy chỉ vì thương xót chúng sinh mà làm nhiều ích lợi cho họ. Tất cả Chư Phật tuy có thọ mạng trải qua vô lượng kiếp, nhưng vì bổn nguyện cho nên có Phật ở đời lâu, có Phật ở đời không lâu. Khi trông thấy Phật là được nhập vào Tất định, nghĩa là có chúng sinh vừa thấy Phật liền được an trú không còn thối chuyển nơi quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì sao? Vì những người này khi được thấy thân Phật thì tâm hoan hỷ, thanh tịnh, vui vẻ. Tâm họ tức thời tiếp nhận được Tam-muội của Bồ-tát như vậy, từ sức của Tam-muội này mà thông đạt thật tướng của mọi pháp, có khả năng tiến thẳng vào địa Tất định Vô thượng chính đẳng chính giác. Các chúng sinh này, suốt thời gian dài với tâm sâu xa, vừa thấy Phật là tiến vào căn thiện Tất định, lấy tâm Đại Bi làm đầu, thanh tịnh vô cùng cho nên thông đạt hết thảy pháp của Phật. Vì độ thoát hết thảy chúng sinh, cho nên đến khi căn thiện thành tựu thì cũng là lúc gặp được Phật. Lại vì nhân duyên và bổn nguyện của chư Phật hòa hợp nhau cho nên sự việc này được thành tựu. Nghe tên Phật được tiến vào Tất định là; Phật có bổn nguyện: “Nếu người nào nghe tên của Ta thì được tiến vào Tất định”. Như thấy Phật, nghe tên Phật cũng như vậy. Người nữ trông thấy Phật được chuyển thân nữ, là nếu có người nữ nào một lòng mong cầu thay đổi thân nữ, tận trong đáy lòng chán ngán thân ấy, có sức mạnh của lòng tin hiểu, thệ nguyện làm thân nam, cho nên khi người nữ ấy trông thấy Phật, liền được chuyển đổi thân nữ. Nếu người nữ không có nhân duyên hành nghiệp như vậy và nghiệp thân nữ chưa hết, thì không gặp được Phật như vậy. Người nữ nghe tên Phật được chuyển đổi thân nữ, nhân duyên sự việc này như trong kinh Phật đã nói. Nghe tên Phật liền được vãng sinh, là nếu người có nhiều sức tin hiểu, các căn thiện đã thành tựu, nghiệp chướng đã hết, người như vậy được nghe tên Phật, phù hợp với nhân duyên bổn nguyện của Phật, thì được vãng sinh. Vô lượng ánh sáng, là ánh sáng của hết thảy Chư Phật đã soi chiếu, xa gần tùy theo ý muốn. Ở đây nói là vô lượng, chính là Thường quang của Phật. Thường quang soi sáng không thể dùng số lượng bằng dặm hoặc do tuần để làm hạn lượng, bao trùm khắp phương Đông bao nhiêu trăm ngàn vạn ức do tuần, không thể suy lường được. Phương Tây-Nam-Bắc, bốn phía phụ thuộc và trên dưới cũng lại như vậy, chỉ biết là vô lượng chứ không biết được giới hạn. Gặp ánh sáng trừ hết mọi ngăn che, là nhờ vào sức bản nguyện của chư Phật mà có kết quả như thế. Tham dục, sân hận, ngủ mê, ăn năn, bồn chồn, nghi ngờ đều bị trừ bỏ. Chúng sinh gặp ánh sáng này thì luôn luôn nghó đến Phật. Do nghó đến Phật cho nên nghó đến pháp. Nghó đến pháp cho nên mọi ngăn che đều bị tiêu tan. Ánh sáng chạm vào thân thì bao nhiêu khổ não đều tiêu diệt hết, nếu chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và phi nhân đang chịu nhiều khổ não, được ánh sáng do sức thần thông và bản nguyện của chư Phật chạm vào thân thì mọi khổ đau được lìa xa. Pháp đầy đủ là đầy đủ tất cả pháp của chư Phật. Không có đầy đủ và không đầy đủ là pháp chư Phật nói đều giống nhau cho nên pháp đều đầy đủ, chỉ do nhân duyên và bản nguyện chư Phật có sự sai biệt không đồng, cho nên có pháp Phật trụ lâu trong đời, hoặc có pháp Phật không ở lâu trong đời. Sao gọi là pháp đầy đủ? Có pháp nói gọn và nói rộng. Có pháp nói đến cả rộng và gọn, có đầy đủ thừa Thanh văn, có đầy đủ thừa Bích-chi- Phật, có đầy đủ Đại thừa. Nhờ sức thần thông của Phật bảo vệ giữ gìn, khiến không bị ngoại đạo phá hoại, không bị quân ma phá hoại, mà tồn tại lâu dài giữa đời. Nói gọn, là dùng ít ngôn từ mà bao gồm nhiều nghĩa, mười lợi căn nghe là hiểu rõ ràng. Nói rộng là đối với các loại nhân duyên của một sự việc, một nghĩa lý, vì những người độn căn ưa thích phân biệt, cho nên giải thích rộng ra mới có thể hiểu được. Nói vừa gọn vừa rộng, là vẫn dùng một lời mà bao quát nhiều nghĩa, đồng thời giải thích phân tán về một nghĩa. Có đầy đủ thừa Thanh văn, có đầy đủ thừa Bích-chi-Phật, có đầy đủ Đại thừa sẽ nói ở phần sau. Thần lực bảo vệ chính pháp, là dùng sức oai thần của Phật để hộ niệm pháp này, là pháp mà chư Phật đã ấn khả. Chư Phật ấn khả, đó gọi là bốn nhân lớn tách khỏi bốn nhân bất thiện. Không bị ngoại đạo phá là hết thảy luận sư của Sa-môn, Bà-la- môn, ngoại đạo vốn có tà kiến nói ra tai họa của mùi vị sinh diệt. Lại hiểu rõ tất cả pháp thiện, nói về nhân duyên phá hoại. Không bị tất cả quân ma phá hoại, nghĩa là chư Phật có vô lượng vô biên công đức, trí tuệ, phương tiện và năng lực thần thông, quân ma dù có sức mạnh nhưng không thể phá được. Lại nhờ sức mạnh của các Bồ-tát cho nên quân ma không thể phá được. Pháp tồn tại lâu dài trên đời, là hoặc một kiếp, hoặc giảm một kiếp, hoặc vượt qua số trăm kiếp, ngàn kiếp, vạn kiếp, mười vạn kiếp, trăm vạn kiếp, ngàn vạn kiếp, vạn vạn kiếp, vô lượng ngàn vạn ức na- do-tha A-tăng-kỳ kiếp, cho đến vô lượng vô biên kiếp. Thanh văn đầy đủ, là hết thảy chư Phật đều có đầy đủ Thanh văn Tăng, chỉ vì nhân duyên và bản nguyện của chư Phật cho nên có ít nhiều sai khác. Sao gọi là đầy đủ? Chúng Thanh văn của Như Lai đều có đầy đủ sự trì giới, thiền định, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, đồng đẳng thanh tịnh, đều là bậc lợi căn lợi ích cho hình sắc nghiêm tịnh của Bồ- tát. Trì giới đầy đủ, là lìa khỏi sự sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói thêu dệt, uống rượu, sống theo lối tà và các pháp ác. Lại nữa, những gì mà Tỳ Ni cấm đều phải xa lìa. Lại có khả năng thành tựu giới vô lậu. Thiền định đầy đủ, là bốn thiền, bốn vô lượng tâm, bốn vô sắc định, tám giải thoát, tám bối xả, tám thắng xứ, mười nhất thiết nhập… và được các thiền định vô lậu. Trí tuệ đầy đủ, là thành tựu loại thứ trí tuệ, được phát sinh từ đa văn, phát sinh từ tư duy, phát sinh từ sự tu tận, phát sinh từ nhân duyên nghiệp đời trước và quả báo. Giải thoát đầy đủ, là được giải thoát khỏi tất cả phiền não, còn được giải thoát khỏi tất cả chướng ngại che phủ. Giải thoát tri kiến đầy đủ, tri là biết sự việc ấy, kiến là biết rõ ràng sự việc đó. Đối với giải thoát, biết rõ từng thứ, không có gì nghi ngờ. Lại nữa, tri là trí hiểu biết cùng tận, kiến là thấy bốn chân lý (tứ đế). Đồng đẳng, là những người tiến vào quả Tu-đà-hoàn đều giống như nhau, cho đến quả A-la-hán cũng như vậy. Thanh tịnh là thành tựu ba loại thanh tịnh, thân thanh tịnh-miệng thanh tịnh-ý thanh tịnh. Lợi trí là chỉ nghe qua vài lời thì có thể hiểu rộng ra thông suốt tôn chỉ ý nghĩa, tóm lược có thể giải thích rộng ra, rộng có thể làm cho tóm gọn, nghĩa lý sâu xa kín đáo có thể làm cho dễ hiểu. Lợi ích của Bồ-tát, là luôn nhớ đến các Bồ-tát, kể cả Bồ-tát mới phát tâm cũng không khinh mạn họ mà kính mến với lòng sâu xa. Chỉ bày cho họ những pháp thiện-ác, nói cho họ nhân duyên, phương tiện của Phật đạo. Thân mình, sắc mặt nghiêm tịnh, là thân thể mềm mại xinh đẹp, sắc diện đầy đủ và có tướng tốt, ai thấy cũng hoan hỷ như Bích-chi-Phật tới, lui, nghỉ, ngồi, nằm, ngủ, khi ăn uống, tắm gội, đắp y, cầm bát, đều có oai nghi trật tự, không có gì thiếu sót. Vì vậy, người trông thấy thì tâm họ được thanh tịnh Đầy đủ Bồ-đề thọ, hết thảy đại thọ, cây Sa-la, cây Đa-la, cây Đề- la-ca, cây Đa-ma-la, cây Bà-cầu-la, cây Chiêm-bặc, cây A-thâu-ca, cây Sà-ha-ca-la, cây Phần-na-ma, cây Na-na, cây Na-ca, cây Thi-lê-sa, cây Nát-cù-đà, cây A-thâu-đà, cây Ba-lặc-xoa, cây Ưu-đàm-bát-la… trong số đại thọ này, tùy ý lấy một cây. Ở nơi đất bằng phẳng, cây cao tàn rộng đầy đủ gốc cành nhánh lá xanh mướt, sum suê tốt tươi. Màu hoa tươi sáng, không có tổn hoại thiếu sót. Cây cao đến năm mươi do tuần, ngay thẳng, nhẵn bóng, không có lóng, vỏ cây màu trắng mắt lóng mềm mại, tươi tắn, sạch đẹp. Thân cây không gây trở ngại vì bén, không hư mục. Hơn nữa, giữa thân cây không trống rỗng, không bị sâu mọt đục khoét gây thương tổn. Rễ bám sâu trong đất, kiên cố, đan liền nhau theo thứ tự hoa dùng trang sức như vòng chuỗi ngọc đẹp đẽ. Cành lá sum suê giống như cái tán tròn, sắp xếp theo thứ tự, công phu hơn hẳn nhân tạo. Lá cây xanh tươi như màu châu báu, nhánh cây không vắt vẻo cong queo, lá không úa vàng khô héo, không có sâu mọt muỗi ve kiến mối Mặt đất thật sạch được trải bằng loại cát vàng, phát ra ánh sáng, chiếu sáng giáp vòng. Nước hương Chiên-đàn rưới khắp mặt đất. Đất thì bằng phẳng mềm mại, mát mẻ dễ chịu. Bột Chiên-đàn ngưu đầu mịn màng rải khắp mặt đất. Chư Thiên thường rải hoa Mạn-đà-la như mưa, đốt loại trầm đen, mùi thơm lan tỏa khắp nơi. Trên trời hiện ra những đám mây năm sắc, rực rỡ như màn tơ lụa rủ xuống, gió mát nhè nhẹ làm lay động lá cành. Chim, thú đến chơi bên cạnh lặng yên không một tiếng động. Hai bên cây Bồ-đề, chư Thiên thường rưới mưa hoa với nhiều màu đẹp, tự nhiên chen nhau, rủ xuống trông như chuỗi ngọc, giống như thân rồng và trên thân rồng luôn luôn được treo nhiều chuỗi hoa quý sắc vàng. Bốn phía có nhiều cành cây cao, giăng lưới báu rủ xuống mặt đất trang nghiêm bằng bảy báu, giống như núi vàng tía, nguy nga tốt đẹp như cột cao của Đế thích. Đây là do Bồ-tát đã tu tập công đức thiện hạnh trải qua trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ kiếp mới được như vậy. Nhiều thứ báu đẹp hóa làm sư tử vương. Trên đầu bốn con sư tử, có chiếc giường báu rộng lớn, trải thảm rực rỡ của chư Thiên. Các trời Tứ Thiên vương, trời Đao-lợi, trời Dạ-ma, trời Đâu-suất-đà, trời Hóa- lạc, trời Tha-hóa-tự-tại, trời Phạm, cho đến trời A-ca-nị-tra, chở các thứ châu báu như: ngọc lưu ly, xa cừ, mã não, báu đại thanh, báu đế thanh, kim cương, pha lê và các cung điện quý báu. Màu sắc của các thứ ngọc quý báu tỏa ra ánh sáng rực rỡ lấp lánh, chiếu tới các cõi xa mà không ngọc báu nào sánh kịp. Hết thảy đều tập trung chung quanh cây báu để cúng dường. Lại nữa, mười phương vô lượng thế giới, các Bồ-tát tùy theo bản nguyện của mình đều chuẩn bị các thứ cúng dường, mưa các vật châu báu, hương hoa, cờ phướn, lọng báu, và các loại âm nhạc… Đó gọi là cây Bồ-đề đầy đủ. Thế gian trang nghiêm, là Bồ-tát quan sát cõi nước thanh tịnh trong mười phương được trang nghiêm tốt đẹp bậc nhất mà phát Đại nguyện: Tôi sẽ tu tập công đức mà cõi nước này đang có, để tôi có được cõi nước bậc nhất, không đâu sánh bằng. Chúng sinh tốt lành và có nhiều lợi ích, là chúng sinh đoan chính không có những bệnh tật tai họa, không có bệnh già, thọ mạng vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, đều được hóa sinh cho nên thân không có những ô uế, đủ ba mươi hai tướng tốt, ánh sáng vô lượng, phiền não chỉ còn số ít cho nên dễ dàng hóa độ. Có thể hóa độ đầy đủ, là một lần thuyết pháp thì chúng sinh nhiều như cát sông Hằng, cùng lúc đều được độ. Từ khi có Phật khác giảng nói chính pháp, mà chỉ có một hai người được độ, thì những chúng sinh ấy nhờ có căn thiện trồng từ kiếp trước, kiết sử còn ít cho nên khi vừa nghe pháp thì liền chứng ngộ. Đại chúng tập hợp, là có Đức Phật tập hợp đại chúng đông đến một do-tuần, hay mười do-tuần, có khi đến trăm ngàn vạn ức do-tuần. Có khi đại hội khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới. Đại chúng tập hợp trong này, là tất cả thế giới khắp mười phương nhiều như cát sông Hằng tập hợp làm một. Trong chúng hội này, toàn là những người có phước đức, cùng chư Thiên tám bộ, các Bồ-tát từ địa thứ nhất đến địa thứ mười đều đến đông đủ, chỉ trừ chư Phật. Phật lực đầy đủ, là chư Phật thực hành đủ bốn mươi pháp bất cộng. Hành xứ của mỗi một pháp này, tất cả là vô lượng vô biên. Đây là nguyện thứ bảy. Lại nữa: Đều thực hành đối với một việc, Nguyện không có tranh chấp oán thù. Với phước đức mà Bồ-tát đã làm, như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ, như xứ sở của bốn công đức là Đế-xả-diệt- tuệ, như nhân của các Đại nguyện lúc cầu Phật đạo nên phát nguyện như vậy: “Nếu có mười khác cùng tôi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, bốn xứ sở của công đức để cầu Phật đạo, thì tôi nguyện dùng nhân duyên phước đức này, không sinh tâm oán ghét tranh đua với họ. Vì sao? Vì cùng thực hành một việc. Những người có trí nói có tướng oán ghét. Thế gian thì sự việc này cũng còn có mặt Bồ-tát thì muốn trừ lỗi lầm này cho nên phát Đại nguyện như vậy. Đây là nguyện thứ tám. Lại nữa: Nguyện thực hành đạo của Bồ tát, Chuyển vận giáo pháp không thối chuyển, Khiến cho diệt trừ những phiền não, Được tiến vào niềm tin thanh tịnh. Bánh xe là bánh xe pháp. Bất thối chuyển là không người nào có thể phá hoại. Bồ-tát nên phát nguyện như vậy: Mình phải hành đạo như lời Phật đã giảng dạy, nhất định phải quay bánh xe pháp không thối chuyển. Nếu mình quay được bánh xe pháp này, thì ba độc phiền não sẽ bị trừ diệt, khiến chúng sinh tự lìa bỏ sinh tử, tiến vào trong các giáo pháp của Phật, trong khổ-tập-diệt-đạo làm cho được thanh tịnh. Đây là nguyện thứ chín. Lại nữa: Nguyện ở tất cả các thế giới, Đều thị hiện thành tựu Bồ đề. Tùy các thế giới mà chọn một nơi để làm việc Phật, ở khắp các thế giới đó, Bồ-tát thị hiện đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, đem lại an lạc cho hết thảy chúng sinh, diệt độ hết thảy chúng sinh, vì quả Bồ-đề Vô thượng vó đại chỉ có một mình nói. Còn những việc khác như là vào thai, ra thai, lớn lên ở nhà, rồi xuất gia thọ giới khổ hạnh, hàng phục quân ma, Phạm vương khuyến thỉnh và chuyển pháp luân đại chúng tập hợp đông đủ, độ thoát nhiều chúng sinh, thị hiện thần lực vó đại mà nêu rõ sự đại diệt độ. Những việc như vậy, đều nên làm như vậy, là biết có oai lực vô lượng như vậy, có năng lực làm ích lợi cho vô biên vô lượng chúng sinh, không nên chỉ ở một nước mà thị hiện thành tựu Phật đạo. Có người nói: Ở một cõi Phật gồm có bốn châu thiên hạ, các cõi Diêm-phù-đề là một cõi Phật. Ngoài cõi này, chỉ có Phật mới biết được, nhưng sự thực không phải vậy. Đây là nguyện thứ mười. Lại nữa: Tất cả Bồ tát đều như vậy, Lấy mười Đại nguyện làm đầu tiên, Rộng lớn giống như cõi hư không, Tận cùng đến thời gian vị lai, Cùng với vô lượng nguyện hạnh khác, Cũng đều phân biệt nói rõ ràng. Nguyện là do tâm mà ham thích mong cầu, cần phải thành lập mười nguyện là có mười môn. Rộng lớn như hư không, là nguyện đã duyên vào phương hướng, giống như cõi hư không vốn có thì nguyện cũng như vậy. Cùng tận thời gian vị lai, là khi phát nguyện đã trú vào nơi tận cùng với giới hạn sinh tử của tất cả chúng sinh vị lai. Có người nói: Quả vị Bồ-đề Vô thượng là giới hạn sinh tử của đời vị lai, nếu chư Phật nhập Niết-bàn vô dư thì đó là giới hạn sau cùng của sinh tử. Nguyện của Bồ-tát không cùng tận mà thật sự thành Phật thì kết thúc. Hết thảy các Đại Bồ-tát trong mười phương thế giới đều có nguyện này. Vô lượng nguyện khác, là các Bồ-tát đã thành tựu vô lượng công đức hiếm có, cho nên những lời nguyện vốn có, không thể nói hết được. Lại nữa: Bồ tát phát Đại nguyện như vậy, Thành tựu tất cả mười Đại nguyện. Mười Đại nguyện này, có mười điều rốt ráo. Những gì là mười? Đó là: tính chúng sinh và tính thế gian, tính hư không và tính của pháp, tính Niết-bàn và Phật-chúng sinh, tính trí Chư Phật là cứu cánh, Tất cả tâm sở duyên cứu cánh, Trí hành xứ Chư Phật cứu cánh, Trí chuyển pháp thế gian cứu cánh, Đây gọi là mười điều cứu cánh. tính của chúng sinh tận cùng. tính của thế gian tận cùng. tính của hư không tận cùng. tính của pháp tận cùng. tính của Niết-bàn tận cùng. tính Phật của chúng sinh tận cùng. tính của trí chư Phật tận cùng. tính của tất cả tâm sở duyên tận cùng. tính rốt cùng trí hành xứ của chư Phật. tính của trí chuyển pháp thế gian tận cùng. Đấy gọi là mười điều tận cùng. Hỏi: Ông nói tận cùng. Thế nào là tận cùng? nghĩa này cần phải phân biệt. Đáp: tính của chúng sinh nếu tận cùng, Thì nguyện mình cũng lại tận cùng, Như các chúng sinh đều tận cùng, Các nguyện như vậy cũng tận cùng, nghĩa tận cùng danh không tận cùng, Thiện căn của mình không tận cùng. tính của chúng sinh tận cùng là nếu chúng sinh điều diệt hết, thì nguyện của mình phải ngừng lại. Tùy theo tính thế gian hết, tính hư không hết, tính các pháp hết, tính Niết-bàn hết, tính Phật của các chúng sinh hết, tính trí của Chư Phật hết, tính do tâm sở duyên của tất cả chúng sinh hết, tính của trí nhập pháp Phật hết, trí chuyển pháp chuyển làm thay đổi thế gian hết, thì mười nguyện này của mình mới tận cùng. Nhưng mà mười điều như tính của chúng sinh … là thật sự không cùng tận, cho nên căn thiện phước đức này của mình cũng không cùng tận, không ngưng nghỉ. Không ngưng nghỉ nghĩa là vô lượng vô biên không thể nghó bàn … vượt qua mọi tính toán, gọi là không ngưng nghỉ. Ba ngàn đại thiên thế giới, mười phương vô lượng vô biên vượt qua mọi sự tính toán như vậy cho nên gọi là thế gian vô biên. Vô biên chúng sinh trong ba cõi, sáu đường ở khắp các thế giới như vậy cho nên gọi là tính chúng sinh vô biên. Trong tất cả thế giới này có hai loại tính hư không nội ngoại đều vô biên cho nên gọi là tính hư không vô biên. Trong các thế giới này, tính vô lậu của cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc vốn thâu nhiếp pháp hữu vi vô biên cho nên gọi là pháp tính vô biên. Nếu tất cả chúng sinh đều diệt độ thì tính Niết-bàn không thêm không bớt, vì vậy tính Niết-bàn là vô biên. Nếu mười phương chư Phật trong quá khứ đã vô lượng vô biên, thì mười phương chư Phật trong hiện tại cũng vô lượng vô biên, mười phương chư Phật trong vị lai cũng vô lượng vô biên, vì vậy tính Phật của chúng sinh vô biên. Trí chư Phật vô lượng, không thể nói ra không thể suy lường-không có gì bằng-không có gì sánh được không đối đãi-không so sánh, cho nên tính của trí chư Phật cũng vô lượng vô biên. Như Phật bảo A-nan: “Người Thanh văn này là biểu hiện trí vô lượng của chư Phật. Vì vậy tính của trí chư Phật là vô lượng vô biên. Trong đời quá khứ, tâm của mỗi một chúng sinh là vô lượng vô biên, các tâm này đều có duyên sinh. Trong đời vị lai cũng như vậy. Trong đời hiện tại, hết thảy tâm chúng sinh cũng vô lượng vô biên, đều có duyên sinh. Vì vậy tâm sở duyên cũng vô lượng vô biên. Lực của chư Phật nói gọn có bốn mươi pháp bất cộng, bốn mươi pháp bất cộng này, hành xứ của mỗi một pháp là vô lượng vô biên. Do hành xứ vô lượng vô biên cho nên trí cũng vô lượng vô biên, vì vậy nói trí hành xứ cùa Phật là vô biên vô lượng. Thế gian chuyển, pháp chuyển-trí chuyển, chuyển nghĩa là bởi vì pháp này có sự chuyển đổi. Thế gian có hai loại là quốc độ thế gian và chúng sinh thế gian. Ở đây nói đến chúng sinh thế gian, chư Phật và các Bồ-tát dùng vô lượng vô biên sức phương tiện dẫn dắt chúng sinh trong thế gian. Pháp chuyển là dùng vô lượng vô biên căn thiện phước đức để nhiếp thủ các pháp Phật. Trí chuyển là dùng vô lượng các pháp thiện, sáu pháp Ba-la-mật, mười địa để nhiếp thủ trí tuệ của Phật, cho nên trí chuyển là vô lượng vô biên. Ba loại này cùng chuyển đổi cho nên hợp thành một nguyện. Vì mỗi một nguyện của Bồ-tát đều thật bền chắc, cho nên trở thành mười nguyện vô tận. Phương là như hư không, thời gian là như giới hạn đời vị lai. Như vậy, tôi đã dùng cách nói rộng và gọn, giải thích về mười nguyện cứu cánh này. ----------------------------- <詞>Phẩm 6: PHÁT TÂM BỒ ĐỀ Hỏi: Mới phát tâm là căn bản của mọi lời nguyện. Thế nào là mới phát tâm? Đáp: Lúc bắt đầu phát tâm Bồ đề, Hoặc là nhờ ba-bốn nhân duyên. Chúng sinh mới phát tâm Bồ-đề, hoặc dùng ba nhân duyên, hoặc dùng bốn nhân duyên, như vậy hòa hợp có bảy nhân duyên để phát tâm Bồ-đề Vô thượng. Hỏi: Những gì là bảy nhân duyên? Đáp: Một là tất cả các Như Lai, Khiến cho phát tâm đạo Bồ đề, Hai là thấy pháp sắp hủy hoại, Vì bảo vệ cho nên phát tâm, Ba là ở giữa các chúng sinh, Vì lòng Đại Bi mà phát tâm, Bốn là hoặc có vị Bồ tát, Dạy bảo mà phát tâm Bồ đề, Năm là thấy công hạnh Bồ tát, Cũng thuận theo hành mà phát tâm, Có người nhờ vào bố thí rồi, Sinh thiện mà phát tâm Bồ đề, Có người thấy thân tướng của Phật, Hoan hỷ mà phát tâm Bồ đề, Nhờ vào bảy loại nhân duyên này, Mà phát tâm Bồ đề tu đạo. Phật khiến cho phát tâm, là Phật dùng Phật nhãn quán xét chúng sinh, biết thiện căn của họ thuần thục có thể có năng lực đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Người như vậy, Phật dạy bảo làm cho phát tâm với lời như vậy: Này người thiện nam! Nay có thể phát tâm là cứu độ chúng sinh đang khổ não! Hoặc lại có người sống ở trong đời ác trược, thấy pháp sắp bị hủy hoại, vì mong bảo vệ cho nên phát tâm suy nghó như vậy: Lạ lùng thay! Từ vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ kiếp đến nay, chỉ có một người đi giữa hai nơi vượt ra khỏi ba cõi, lấy bốn Thánh đế làm bậc Đại đạo sư, biết kho tàng của năm loại pháp thoát khỏi sáu đường, có bảy loại chính pháp rất quý báu, thực hành sâu vào tám giải thoát, dùng chín bộ kinh để giáo hóa, có người Đại lực thuyết ra mười một loại công đức, khéo léo xoay chuyển mười hai nhân duyên nối tiếp nhau, giải thích về mười ba pháp trợ Thánh đạo, có mười bốn giác ý rất quý báu, loại bỏ mười lăm loại tham dục, đồng thời đạt được mười sáu tâm giải thoát vô ngại, ra khỏi mười sáu địa ngục của chúng sinh, và thân có mười bảy loại đầy đủ, mười tám pháp bất cọng, khéo phân biệt mười chín người an trú trong quả, khéo phân biệt biết rõ về người Hữu học, A-la-hán, Bích-chi-Phật và Chư Phật, chính là hai mươi căn. Tâm Đại Bi là chúa của Đại tướng, chúa của Đại chúng, là đại y vương, là Đại đạo sư, là Đại thuyền sư. Lâu lắm mới có được pháp này, thực hành khổ hạnh, làm điều khó làm mới có được pháp này, mà nay sắp bị hủy hoại, mình nên phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác, gieo tròng thiện căn sâu dày được thành tựu Phật đạo, khiến cho pháp tồn tại lâu dài trải qua vô số A-tăng-kỳ kiếp. Lại trong thời gian thực hành Bồ tát đạo, hộ trì vô lượng giáo pháp của Chư Phật cho nên chịu khó thực hành tinh tiến. Hoặc lại có người thấy chúng sinh khổ não đọa đày, thậy đáng thương xót vì không ai cứu giúp, không chốn quay về, không có nơi nào nương tựa, lưu chuyển trong sinh tử trải qua đường ác đầy những hiểm nạn, có nhiều giặc thù, những loại thú dữ trùng độc, sinh tử vô cùng sợ hãi, các loại ác quỷ… Thường có nhiều gai góc của buồn lo khổ não, hố sâu của ân ái biệt ly-oán thù hội tụ, dòng nước của sự vui vẻ an lành thật là khó có được, rất lạnh lẽo rất nóng bức nhưng một mình đi trong cảnh ấy, đồng trống không một bóng râm khó mà được độ thoát. Chúng sinh ở trong những tình cảnh nhiều sợ hãi, không có người nào cứu giúp che chở dẫn dắt, thật đáng thương xót. Thấy chúng sinh như vậy, vào trong đường ác hiểm của dòng sinh tử này nhận chịu những nỗi khổ não. Vì lòng Đại Bi cho nên phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác, phát lời nguyện như vậy: Tôi sẽ làm người cứu giúp cho người không có ai cứu giúp, làm chốn quay về cho người không có chốn quay về, làm nơi nương tựa cho người không có nơi nương tựa. Tôi được độ rồi sẽ độ chúng sinh, tôi được thoát rồi sẽ cứu thoát chúng sinh, tôi được yên ổn rồi sẽ làm cho chúng sinh yên ổn!. Lại có người chỉ từ người khác mà nghe, dùng tâm tin tưởng ưa thích, phát tâm đạo vô thượng suy nghó như vậy: Mình nên tu tập pháp thiện không gián đoạn, hoặc có lẽ thuộc về phần vị Tất định đạt được vô sinh pháp nhẫn, nhờ quy tụ các công đức thuần thục thiện căn, có lẽ được gặp Chư Phật hoặc được gặp các bậc Đại Bồ tát, có năng lực biết chúng sinh có các căn lợi độn, tâm sâu xa và tính ham muốn đuôi sai biệt, khéo láo biết phương tiện được sự bảo vệ của Bát-nhã Ba-la-mật. Người có năng lực làm Phật sự biết mình phát nguyện, thiện căn thành thục cho nên khiến an trú trong phần vị Tất định, hoặc là vô sinh pháp nhẫn. Các Bồ tát này ở địa thứ bảy-thứ tám-thứ chín-thứ mười, như Phật khéo biết tâm lực của chúng sinh mà dạy bảo khiến cho phát tâm, chứ không phải vì chỉ có sức mạnh của niềm tin và ưa thích mà dạy bảo khiến cho phát tâm. Lại có người thấy Bồ tát khác hành đạo tu tập các thiện căn được che chở bằng lòng Đại Bi, đầy đủ phương tiện giáo hóa chúng sinh, không tiếc thân mạng làm nhiều điều lợi ích, học rộng hiểu nhiều vượt hẳn lên giữa những người vô cùng tuyệt vời của thế gian, làm bóng mát che phủ cho chúng sinh mệt mỏi vất vả, an trú trong bố thí-trì giới-nhẫn nhục-tinh tiến-thiền định-trí tuệ và tàm quý chất trực- nhu nhuyến điều hòa, tâm tư thanh tịnh vô cùng ưa thích pháp thiện. Thấy người như vậy mà dấy lên nghó rằng: Người này thực hành được thì mình cũng nên thực hành, họ đã tu nguyện hạnh thì mình cũng nên tu, mình vì đạt được pháp này cho nên phải phát nguyện này! Dấy lên suy nghó như vậy rồi phát tâm đạo vô thượng. Lại có người thực hành bố thí rộng lớn, cúng dường Chư Phật và tăng, hoặc chỉ cúng dường Phật với các loại ăn uống-áo quần. Người này nhờ vào hạnh bố thí này, nghó đến trong quá khứ các vị Bồ tát luôn luôn thực hành bố thí, như Vi-lam-ma, Vi-thủ-đa-la, Tát-bà-đàn, Thi- tỳ-vương…, liền phát tâm Bồ đề. Dùng phước thiện bố thí này hồi hướng cho quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Lại có người hoặc thấy hoặc nghe về ba mươi hai tướng tốt của Phật, lòng bàn chân bằng phẳng ngón tay ngón chân có xoáy tròn, giữa các ngón tay ngón chân có màng da mềm mỏng kết lại với nhau, bảy chỗ đầy đặn, ngón tay ngón chân thon dài, gót chân rộng, thân thẳng vai vuông, mu bàn chân cao bằng phẳng, đầu long xoay về bên phải, bắp đùi tròn lẳn như nai chúa, cánh tay dài quá đầu gối, âm mã giấu kín, thân màu vàng ròng, da mỏng và mềm mại, mỗi một lỗ chân lông chỉ mọc một sợi lông, giữa chặng mày có lông trắng dài và nhỏ, phần thân trên như sư tử, vai tròn và rộng, dưới nách đầy đặn biết được mùi vị tuyệt diệu, thân vuông như cây Ni-câu-lâu-đà, đỉnh đầu có nhục kế, lưỡi rộng và dài, phạm âm thanh thoát, gò má như sư tử, răng có bốn mươi chiếc đều đặn sáng bóng dày sít, đôi mắt màu xanh biếc, lông mi như tướng của trâu chúa… Nghe hoặc thấy tướng tốt của Phật thì tâm hoan hỷ dấy lên nghó như vậy: Mình cũng sẽ đạt được tướng tốt như vậy, người tướng tốt như vậy đã đạt được các pháp thì mình cũng sẽ đạt được. Ngay lúc ấy phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác. Dựa theo bảy nhân duyên này mà phát tâm Bồ đề. Hỏi: Ông nói về bảy nhân duyên phát tâm Bồ đề, là đều được thành tựu, có người thành tựu và có không thành tựu sao? Đáp: Điều này không chắc chắn thành tựu tất cả, hoặc có người thành tựu-có người không thành tựu. Hỏi: Nếu như vậy thì cần phải giải thích rõ ràng. Đáp: Ở trong bảy nhân duyên phát tâm, Phật dạy bảo khiến cho phát tâm, Bảo vệ pháp cho nên phát tâm, Vì thương xót cho nên phát tâm, Ba hạng người phát tâm như vậy, Nhất định phải đến được thành tựu, Bốn hạng người phát tâm còn lại, Không chắc chắn đều được thành tựu. Trong bảy loại phát tâm này thì Phật quán xét căn bản tâm thiện của chúng sinh ấy, dạy bảo khiến cho phát tâm nhất định được thành tựu, bởi vì không nói suông. Nếu vì tôn trọng Phật pháp, vì muốn bảo vệ giáo pháp, hoặc có tâm Đại Bi đối với chúng sinh, thì ba loại phát tâm như vậy chắc chắn được thành tựu, bởi vì có gốc rễ sâu dày. Còn lại nhờ Bồ tát dạy bảo khiến cho phát tâm, thấy công hạnh của Bồ tát thực hành mà phát tâm, nhờ vào hạnh bố thí rộng lớn mà phát tâm, hoặc nghe hoặc thấy tướng tốt của Phật mà phát tâm, thì bốn loại phát tâm này phần nhiều là không thành tựu. Hoặc có người thành tựu, nhưng gốc rễ còn nhỏ nhoi yếu ớt.  <卷>QUYỂN 4 <詞>Phẩm 7: ĐIỀU PHỤC TÂM Hỏi: Như phẩm trên đã nói ba cách phát tâm chắc chắn thành tựu, còn lại bốn cách phát tâm thì không thành tựu. Vậy thế nào là thành tựu và không thành tựu? Đáp: Nếu phát tâm Bồ-đề, mà khi hành đạo, Bồ-tát quên mất pháp của tâm Bồ-đề thì không thành tựu. Nếu Bồ-tát thực hành mà không quên mất pháp của tâm Bồ-đề, thì được thành tựu. Cho nên kệ nói: Bồ tát thuận theo phải rời xa, Quên mất pháp của tâm Bồ đề, Cần phải luôn nhất tâm tu hành, Không mất pháp của tâm Bồ đề. Tránh xa là diệt trừ pháp ác, không cho nó xâm nhập vào tâm mình. Nếu chúng đã vào thì nhanh chóng diệt trừ chúng đi. Mất là lãng quên tâm Bồ-đề ngay đời này hoặc đời sau. Không còn tùy thuận với sự tu hành, cho nên tránh xa những pháp như vậy. Trái lại, nếu không lạc mất những pháp tu hành Bồ-đề, không quên mất tâm Bồ-đề, thì cần phải luôn luôn nhất tâm chịu khó thực hành. Hỏi: Mất tâm Bồ-đề là mất những pháp gì? Đáp: Một là không kính trọng giáo pháp, Hai là có tâm niệm kiêu mạn, Ba là nói dối không chân thật, Bốn là không kính trọng tri thức. Phát sinh bốn lỗi này, nếu ở đời này đến lúc chết đi, hoặc tiếp theo đời sau sẽ quên mất tâm Bồ đề, không thể nào tự biết mình là Bồ tát, không còn phát nguyện, pháp thực hành của Bồ tát không còn hiện ở trước mắt. Không cung kính đối với giáo pháp, pháp là ba Thừa thượng- trung-hạ mà Chư Phật đã thuyết ra. Nói tóm tắt là giáo pháp của Chư Phật Như Lai đã sử dụng. Ở trong giáo pháp này không cung kính cúng dường ca ngợi tôn trọng, không có ý tưởng hiếm có-ý tưởng khó được-ý tưởng như vậy báu-ý tưởng thỏa mãn tâm nguyện, lỗi này có thể làm mất đi tâm Bồ đề. Tâm kiêu mạn là tâm lý tự cao ngạo, chưa được nói là được, chưa chứng nói là chứng. Đối với không-vô tướng-vô nguyện, hoặc vô sinh pháp nhẫn, hoặc sáu độ Ba-la-mật, hoặc mười địa Bồ tát, những pháp như vậy và các pháp khác từ sự tu tập mà có, ở trong pháp này chưa đạt được mà nói là đạt được. Vọng ngữ thì có loại thuộc về Đột-kiết-la, có hai loại thuộc về Ba-dạ-đề, có loại thuộc về Thân-lan-giá, có loại thuộc về Tăng-già- bà-thi-sa, có loại thuộc về Ba-la-di. Hoặc có người nói: Có loại nói dối thứ sáu, loại nói dối này thì tâm sinh ra sám hối. Năm loại nói dối trước thì loại thứ nhất là nhẹ, loại sau là nặng, loại thứ sáu là nhẹ nhất. Loại thuộc về Ba-la-di, là tự mình không vượt qua được ngã chấp và pháp chấp, hoặc miệng nói-hoặc hình dáng thể hiện, hướng đến dùng phương tiện để hiện rõ là mình có phẩm đức này. Loại thuộc về Tăng-già-bà- thi-sa, là hoặc nói miệng nói-hoặc hình dáng thể hiện, ở trong bốn sự của Tỳ-kheo kia, dùng tất cả mọi chuyện có căn cứ hay không có căn cứ mà phỉ báng họ. Loại thuộc về Thâu-lan-giá, là muốn đem sự việc có căn cứ hay không có căn cứ để phỉ báng nhưng mà nói không thành. Lại thuộc về Ba-la-đề, là đem sự việc không có căn cứ thuộc về Tăng- già-bà-thi-sa mà phỉ báng. Loại thuộc về Đột-kiết-la, là trừ ra bốn loại lỗi lầm trên, lỗi này thuộc về nói dối. Tự tâm trừ diệt, là như lúc nói giới tự biết mình có lỗi lầm nhỏ, không cần phải nói với người khác, mà tự tâm mình hối hận trừ bỏ. Hỏi: Lỗi nói dối này, chỉ thuộc về Tỳ-kheo chứ không thuộc về bạch y, mà ở luận này lại chung cho cả tại gia và xuất gia? Đáp: Hễ biết sự việc thật sự thì như vậy, nhưng mà nói đến hiểu biết thì khác nhau. Trong luận này nói là tướng chung của nói dối, bởi vì có chúng sinh phân biệt, có sự việc phân biệt, có thời gian phân biệt, có tội của năm chúng phân biệt, có trú xứ phân biệt, cho nên có nặng nhẹ khác biệt. Tuy nói dối là tội nhẹ nhưng huân tập lâu dài thì trở thành chồng chất, có thể làm mất tâm Bồ đề. Chúng sinh phân biệt, là hạng tà kiến đoạn mất thiện căn, và hạng còn lại những phiền não sâu xa, đây là thuộc về tội nặng. Sự việc phân biệt, là nếu nói đến lỗi lầm của người và pháp, thì đây là tội phá Tăng. Thời gian phân biệt là người xuất gia nói dối thì mắc lỗi nặng. Tội của năm chúng phân biệt, là như tội Ba-la-di và Tăng-già-bà-thi-sa thì nặng. Trú xứ phân biệt là lúc ở trong Tăng tự mình nói dối như chứng ngộ, đó là tội nặng. Không cung kính đối với thiện tri thức, là không sinh ra ý tưởng cung kính-sợ hãi-khó gặp. Người đã gây ra nhiều đối với bốn lỗi này, thì mất đi tâm Bồ đề. Hỏi: Chỉ vì bốn lỗi này có thể làm mất đi tâm Bồ đề, hay còn có lỗi nào khác chăng? Đáp: Keo kiệt với pháp quan trọng nhất, Ham mê theo pháp của Tiểu thừa, Hủy báng đối với các Bồ tát, Khinh chê những người tu pháp thiền. Keo kiệt với những pháp trọng yếu, là thầy biết được nhiều nghĩa sâu kín khó biết, nhưng vì ham mê lợi dưỡng, tham đắm lợi dưỡng sợ học trò sẽ bằng mình, cho nên giữ bí mật chứ không nói ra. Ham mê đối với pháp Tiểu thừa, là bởi vì không đạt được mùi vị của pháp Đại thừa, cho nên ham mê Nhị thừa. Chê bai hàng Bồ-tát, không có tội mà nói có tội, đó gọi là chê bai. nghĩa của Bồ tát trước đây đã nói: Người này không có lỗi lầm mà tùy tiện gán tội cho họ, nếu thật sự họ có tội mà bàn tán về tội lỗi ấy, thì điều này tuy có tội nhưng so với điều trước vẫn nhiều hơn. Tại vì sao? Bởi vì như kinh nói: “Các Bồ tát nếu thật sự có tội hay không có tội, thì cũng không nên bàn tán”. Khinh chê người tu pháp thiền, là nếu tại gia hay xuất gia vì đoạn trừ các phiền não cho nên chịu khó thực hành tinh tiến, vì ngăn chặn tất cả phiền não quy tập các pháp hỗ trợ cho Phật đạo, người này hoặc không có sở trường bàn luận, hoặc không có tài năng biện giải, hoặc không có uy đức to lớn, người không có trí mà khinh chê họ, thì mắc tội nặng. Lại nữa, nếu đối với bậc thiện tri thức mà lòng dạ kết thành oán giận, cũng có tâm dua nịnh quanh co, tham lam các lợi dưỡng…, thì cũng mắt tội nặng. nghĩa về thiện tri thức trước đây đã nói. Đối với người thuyết pháp giáo hóa như vậy mà sinh tâm oán giận, giống như oán giận cha mẹ thì mắc tội nặng. Dua nịnh là tâm nịnh bợ dụ dỗ. Quanh co là thân nghiệp và khẩu nghiệp có những việc làm để biểu hiện. Tham lam các lợi dưỡng, là tham đắm lợi lạc và tiếng khen. Bởi vì những lỗi này làm hỏng tâm chất trực, cho nên không có thể phát khởi thiện căn sâu sắc, như áo dính màu xấu xí thì không nhận thêm màu sắc đẹp hơn được. Lại nữa: Không hiểu rõ ràng những việc ma, Làm cho tâm Bồ đề yếu kém, Nghiệp chướng và pháp làm chướng ngại, Cũng làm mất đi tâm Bồ đề. Không phân rõ chuyện ma, là nếu không biết rõ chuyện ma thì không có khả năng chế ngự được chúng. Nếu không chế ngự chúng thì mất tâm Bồ-đề. Hỏi: Những gì là chuyện ma? Đáp: Lúc nói đến cần phải thực hành Bố thí-trì giới-nhẫn nhục- tinh tiến-thiền định-trí tuệ Ba-la-mật, và lúc nói đến nghĩa lý sâu xa thuộc về Đại thừa, thì không nhanh nhạy vui vẻ mà nói. Hoặc ưa nói đến những duyên tán loạn ở trong các sự việc khác. Hoặc viết chép, đọc tụng giải thích, bàn luận, nghe và tiếp nhận…, thì cao ngạo khinh mạn tự kiêu, tâm tư tán loạn, ý tưởng duyên theo điều khác, vọng niệm đùa cợt tranh luận chê bai lẫn nhau làm cho hai bên không hòa hợp, không thể nào không hiểu nghĩa lý chân thật, từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi, dấy lên nghó rằng: Mình ở trong chỗ này không có gì ghi nhận cả, mà làm cho tâm tư không thanh tịnh được, cũng không nói gì đến thành ấp-thôn xóm-nhà cửa nơi sinh sống của mình! Vì vậy cho nên không muốn nghe pháp, không cảm được ý vị liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi ra, bỏ các pháp Ba-la-mật đã nói về Đại thừa, và từ trong kinh của Thanh văn, Bích- chi-Phật để tự mình điều hòa suy tính mong cầu trí Tát-bà-nhã. Hoặc lúc viết chép, đọc tụng, giải thích, nghe và tin nhận…, ưa thích nói đến các loại sự việc khác, phá hủy làm cho Bát-nhã Ba-la-mật bị tan rã. Đó là nói đến những sự việc về xứ sở-quốc gia-thành ấp-thôn xóm, vườn rừng cây cối, chuyện thầy chuyện giặc, binh giáp-vũ khí, yêu ghét khổ vui, cha mẹ anh em, trai gái vợ con, áo quần ăn uống-đồ nằm thuốc thang và các vật dụng cung cấp cho cuộc sống, tâm tư bị tán loạn cho nên mất đi Bát-nhã Ba-la-mật. Lại nói đến những sự việc tham-sân-si, kẻ thù người thân, giờ tốt giờ xấu, ca múa kỹ nhạc, buồn lo vui cười, kinh sách văn chương tán tụng, chuyện xưa của đời trước, chuyện của các hàng Đế vương quốc chúa, đất nước lửa gió, năm dục giàu sang và lợi dưỡng… của thế gian, làm cho tâm vui thích. Hoặc ma hóa làm hình tướng Tỳ-kheo Tỳ-kheo-ni, dùng nhân duyên trong kinh Thanh văn và Bích-chi-Phật làm cho đạt được mà nói lời như vậy: Ông nên tu tập học theo kinh này, hãy rời bỏ pháp đã tu tập trước kia. Người nghe pháp không còn vui vẻ nghe nhận, người nói pháp thì tâm niệm buông lơi uể oải, đều có những lý do khác. Người nghe cần đến pháp mà người nói thì muốn đến nơi khác. Người nói vui vẻ nói pháp mà người nghe lại muốn đến nơi khác. Người nói có nhiều ham muốn tham đắm các lợi dưỡng, nhưng người nghe không có tâm giúp cho. Người nghe tâm tin tưởng ưa thích mong muốn nghe pháp, nhưng người nói không vui lòng để nói. Người nói vui lòng nói nhưng người nghe không thích. Hoặc có lúc nói về những khổ đau của địa ngục, chi bằng thân này hết khổ sớm đạt được Niết bàn là lợi ích nhất. Nói đến vô lượng khổ não của loài súc sinh, các loại tội lỗi của ngạ quỷ và A-tu-la, nói đến những đời kiếp sinh tử có nhiều tai họa buồn loa, làm cho người nghe đối với thân này mong sớm đạt được Niết-bàn là điều lợi ích nhất. Lại ca ngợi sự giàu sang vui sướng của thế gian, ca ngợi công đức phước thiện vui sướng của cõi Sắc-Vô sắc, người sinh trong chốn này chính là lợi ích to lớn. Ca ngợi về lợi ích công đức của quả Tu đà hoàn cho đến A-la-hán, làm cho người nghe đối với thân này mong cầu chứng được quả ấy, chính là lợi ích to lớn của mình. Hoặc là người nói pháp vui thích đối với quyến thuộc, mà người nghe pháp không muốn thuận theo. Người nói pháp thì muốn đến quốc độ đói kém loạn lạc không yên ổn, nói với người nghe rằng: Nay ông không cần phải đi theo tôi đến các nước ấy? Thế rồi sinh tâm chán nản uể oải mà không đi theo. Người nói pháp coi trọng đối với đàn việt cho nên đi nhiều nơi để thăm hỏi, khiến cho người nghe pháp không được nghe nhận, ở trong pháp sâu xa sinh ra tâm lý nghi hoặc, điều này không phải là kinh pháp mà Chư Phật thuyết ra, điều mình đã nói chính là kinh pháp của Phật, nếu Bồ tát có thể thực hành pháp này thì nhất định chứng được thực tế của các pháp. Các loại nhân duyên như vậy làm cho hai bên không hòa hợp, nên biết rằng những loại này đều là ma sự. Nói tóm lại, có chướng ngại đối với tất cả thiện pháp thì đều là ma sự. Tâm Bồ đề yếu kém, là bởi vì các phiền não có sức mạnh cho nên tâm đạo yếu kém không còn có thế lực, chí nguyện đối với quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác vónh viễn lìa xa. Nghiệp chướng thì tuy là có đủ loại nghiệp chướng trong này nói đến loại có thể làm cho người cầu đại thừa bị thối chuyển, đó chính là pháp chướng ngại, tức là thích thực hành các pháp bất thiện, rời bỏ không-vô tướng-vô nguyện và các pháp sâu xa tuyệt diệu như các Ba-la-mật… Bốn loại như vậy luôn luôn làm mất đi tâm Bồ đề. Hứa cho Thầy mà lại lừa dối Tội ấy thật vô cùng sâu nặng Người không có nghi ngờ ân hận Làm cho sinh nghi ngờ ân hận, Người tin tưởng vui với Đại thừa, Còn đem lòng giận dữ sâu nặng, Trách mắng nói tiếng xấu cho họ, Rêu rao lan truyền khắp mọi nơi, Đối với những quan hệ cộng sự, Trong tâm thường dua nịnh quanh co, Bốn pháp ác bất thiện như vậy, Thì làm mất đi tâm Bồ đề. Hứa giúp cho thầy mà đưa đến, là vật bằng lòng giúp cho thầy, hoặc đã hứa-hoặc chưa hứa mà sau đó không cho. Nếu cho không đúng lúc, cho không đúng chỗ, cho không đúng như pháp, thì cách cho như vậy là cách cho của ngoại đạo và thế gian. Trong Phật pháp biết được kinh pháp là từ nơi thầy nếu vốn có tiền bạc của cải theo pháp cúng dường thì dùng để giúp cho thầy. Nếu không có gì để giúp thì không hề có lỗi, không có nghi ngờ ân hận mà khiến cho sinh tâm nghi ngờ ân hận, là người này thật sự không phá giới, có trạng thái của một lỗi nhỏ mà nói thành tội lớn, hoặc phá bỏ oai nghi của đời sống chính đáng, hoặc phá bỏ cách nhìn chính đáng, như vậy đều khiến cho họ sinh tâm nghi ngờ ân hận. Oán giận người Đại thừa, là bao gồm Nhân thừa, Đại thừa, vô thượng, Như Lai thừa, đại nhân thừa, Nhất thiết trí nhân thừa, cho đến người mới phát tâm, ở giữa những người này sinh tâm vô cùng giận dữ mà mắng chửi gièm pha, nói tiếng xấu của họ làm cho lan truyền khắp nơi. Tâm dua nịnh quanh co đối với cọng sự, là đối với Hòa thượng A- xà-lê và các bậc thiện tri thức, không dùng tâm thẳng thắn để gần gũi, mà dùng tâm quanh co dua nịnh để học hỏi thực hành, thậm chí những người chưa từng quen biết cũng thể hiện dua nịnh quanh co với họ. Bốn pháp ác bất thiện, là những pháp cấu uế bất tịnh, có năng lực làm mất đi tâm Bồ đề Như nói: Chuyển đổi hai mươi loại pháp này Đời đời gắng sức khéo tu hành, Như vậy thì không làm mất đi, Tâm Vô thượng chính đẳng chính giác. Hai mươi pháp này làm mất tâm Bồ-đề, nếu biết chuyển đổi pháp này để tu tập thực hành thì đời không quên mất tâm Vô thượng chính đẳng chính giác. Chuyển đổi hai mươi pháp trên, là đem tâm cung kính pháp, phá tan tâm ngạo mạn, xa lìa nói dối, tôn trọng sâu xa đối với các bậc thiện tri thức. Ngoài ra những điều khác cũng nên biết như vậy. Hỏi: Những pháp nào làm cho nguyện Bồ-đề đời đời được tăng trưởng, và trong đời sau còn có thể tiếp tục phát Đại nguyện? Đáp: Thậm chí mất đi cả thân mạng, Mất ngôi vị Chuyển luân Thánh vương, Như vậy, hãy còn không thuận theo, Nói dối và dua nịnh quanh co. Có thể khiến cho các thế gian, Tất cả các chủng loại chúng sinh, Đối với hết thảy các Bồ tát, Mà phát sinh tâm niệm cung kính. Nếu có người có thể thực hành, Tất cả mọi pháp thiện như vậy, Thì đời đời luôn được tăng trưởng, Hạnh nguyện của Vô thượng Bồ đề. Bồ-tát dùng những pháp này, đời đời tăng trưởng nguyện Bồ-đề của mình, và trong đời sau có năng lực phát sinh đại nguyện thanh tịnh. Nếu nói thật mà chết, dù mất ngôi vị Chuyển luân Thánh vương và mất địa vị vua trời, thì cũng vẫn nói thật chứ không bao giờ nói dối, huống là nói dối vì một chuyện nhỏ. Đối với bà con và người ngoài, cũng từ bỏ tâm lý dua nịnh quanh co. Lại nữa, từ khi mới phát tâm cho đến nay, sinh lòng cung kính đối với hết thảy Bồ-tát, tôn trọng ca ngợi các vị ấy như Phật không khác, cũng nên tùy năng lực mà khiến cho an trú trong pháp Đại thừa. ----------------------------- <詞>Phẩm 8: A. DUY VIỆT TRÍ (BẤT THOÁI CHUYỂN) Hỏi: Các Bồ-tát này có hai hạng: Duy việt trí. A duy việt trí. Nên nói rõ về tướng ấy là Duy việt trí hay A duy việt trí? Đáp: Tâm bình đẳng đối với chúng sinh, Không ganh với lợi dưỡng của người, Thậm chí mất đi cả thân mạng, Cũng không nói lỗi của pháp sư, Tin tưởng vui với pháp thâm diệu, Không tham đối với sự cung kính, Đầy đủ tất cả năm pháp này, Chính là bậc A duy việt trí. Tâm bình đẳng đối với chúng sinh, chúng sinh là chúng sinh trong sáu đường, đối với chủng loại thượng-trung-hạ thì tâm đều đối xử như nhau, đó gọi là A duy việt trí. Hỏi: Như nói đối với chư Phật và Bồ-tát nên sinh tâm cung kính bậc nhất, còn lại thì không như vậy. Lại nói thân cận Chư Phật và Bồ- tát mà cung kính cúng dường, còn lại cũng không như vậy. Tại sao nói đối với hết thảy chúng sinh, tâm bình đẳng không khác nhau? Đáp: Mỗi câu nói đều có nghĩa khác nhau không nên nghi ngờ chất vấn. Tâm bình đẳng đối với chúng sinh, nghĩa là nếu có chúng sinh nhìn Bồ-tát như kẻ oán thù, có chúng sinh nhìn Bồ-tát như cha mẹ, có chúng sinh nhìn Bồ-tát như người bậc trung. Ở trong ba hạng chúng sinh này, tâm Bồ-tát luôn đối xử bình đẳng với họ , đều làm ích lợi cho họ, bởi vì muốn cứu vớt hết thảy, cho nên Bồ-tát không có tâm khác nhau đối với bất cứ ai. Vì vậy, ông không nên cố sức chất vấn. Không ganh tị lợi dưỡng của kẻ khác, là nếu người khác có được y phục, ngọa cụ, thuốc men, ăn uống, phòng nhà, sản nghiệp, của tiền, vàng bạc, châu báu, xóm làng, quốc gia, thành thị, nam nữ … thì đối với người được bố thí như vậy không sinh tâm ganh tị, cũng không ôm lòng oán hận, mà tâm phải mừng vui cho họ. Không nói lỗi của pháp sư, là nếu có người nói: Nên tu theo pháp Đại thừa Không-Vô tướng-Vô tác, hoặc sáu pháp Ba-la-mật, hoặc bốn xứ sở của công đức, hoặc các pháp Đại thừa của mười địa Bồ-tát, thì thậm chí chỉ gặp nhân duyên mất mạng, mà cũng không nói ra lỗi lầm của họ huống là gán thêm chuyện ác cho họ. Tin và vui với pháp vi diệu sâu xa, pháp sâu xa là Không-Vô tướng-Vô nguyện và những kinh sâu xa như Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Tạng … Đối với những pháp này, một lòng tin, và vui thích không có gì nghi hoặc, ở trong những việc khác thì không ưa thích như vậy, bởi vì từ trong kinh sâu xa cảm được pháp vi tuyệt vời. Không tham đối với sự cung kính, là khi đã thông suốt thật tướng của mọi pháp thì đối với chuyện khen-chê-lợi hay không lợi, đều không có gì khác nhau. Đầy đủ năm pháp này như nói ở đoạn trên. Không thối chuyển- không lười nhác bỏ dở đối với quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác thì gọi là A duy việt trí. Trái với điều này thì gọi là Duy việt trí. Bồ-tát Duy việt trí có hai hạng: Hoặc là hạng bại hoại, hoặc là hạng chuyển biến dần dần để tiến đến đạt được A duy việt trí. Hỏi: Đã nói đến hạnh bại hoại thì tướng trạng ấy như thế nào? Đáp: Nếu không có chí hướng tài năng, Thường ham thích với pháp thấp kém, Đắm say trong danh tiếng lợi dưỡng, Tâm tư không chất trực rõ ràng, Keo kiệt giữ gìn nhà người ta, Không tin tưởng vui với pháp không, Chỉ coi trọng đối với ngôn thuyết, Đây gọi là tướng trạng bại hoại. Không có chí hướng tài năng là diện mạo không có thần sắc, oai đức mỏng manh yếu kém. Hỏi: Không dùng đến thân tướng uy đức là tướng của A duy việt trí, mà nói như vậy là có nghĩa gì vậy? Đáp: Nói có ở đây có nghĩa là không nên dẫn đến nghi ngờ, tôi nói bên trong có công đức cho nên thân tướng có uy đức, chứ không phải chỉ nói đến sắc thân diện mạo đoan chính mà thôi. Chí hướng tài năng có nghĩa là thế lực của uy đức. Nếu có người có thể tu tập thiện pháp trừ diệt ác pháp, ở trong sự việc này có năng lực thực hành thì gọi là chí hướng tài năng. Tuy rằng thân tướng như Thiên vương, sáng ngời như mặt trăng-mặt trời, nhưng nếu không có năng lực tu tập thiện pháp trừ diệt ác pháp, thì cũng gọi là hạng không có chí hướng tài năng. Dù cho sắc thân xấu xí, hình hài giống như ngạ quỷ nhưng có thể tu tập thiện pháp trừ diệt ác pháp, thì đó chính là hạng có chí hướng tài năng vậy. Vì thế ông chất vấn không thích hợp. Ham thích với pháp thấp kém, là ngoại trừ Phật thừa thì các thừa khác so với Phật thừa đều là nhỏ bé thấp kém không sánh bằng được, cho nên gọi là thấp kém, chứ không phải là vì xấu ác. Những việc ác khác cũng gọi là thấp kém. Những pháp mà hàng nhị thừa đạt được so với Phật là thấp kém hơn mà thôi, đều là xuất thế gian tiến vào vô dư Niết bàn cho nên không gọi là xấu ác. Vì vậy nếu như người nào xa lìa Phật thừa mà tin và vui với Nhị thừa, thì đó là vui thích với pháp thấp kém. Người này tuy thích sự việc cao xa, nhưng bởi vì tin và vui với Nhị thừa rời xa Đại thừa, cho nên cũng gọi là vui thích với pháp thấp kém. Vả lại, thấp kém gọi là việc xấu ác, đó gọi là năm dục và đoạn kiến- thường kiến cùng sáu mươi hai kiến chấp mà ngoại đạo luận bàn, tất cả đều làm cho sinh tử tăng thêm, thì gọi là pháp thấp kém. Thực hành theo pháp này cho nên gọi là vui thích với pháp thấp kém. Đắm say trong danh lợi, là ở trong sự ca ngợi cúng dường tài lợi bố thí, tâm niệm luôn luôn vướng mắc gắng sức tìm mọi cách để có được, bởi vì không cảm được pháp vị thanh tịnh cho nên tham lam ưa thích những điều này. Tâm không chất trực rõ ràng, là tính tình dua nịnh quanh co thích làm những chuyện lừa dối. Keo kiệt giữ gìn nhà người ta, là người thuận theo những nhà mà mình đi vào, thấy có người khác được lợi dưỡng cung kính ca ngợi, thì sinh lòng ganh tî buồn rầu không vui. Tâm không thanh tịnh bởi vì chấp Ngã sâu nặng, tham đắm lợi dưỡng mà sinh tâm ganh ghét oán hận chê bai đàn việt. Không tin tưởng vui với pháp không, là Chư Phật thuyết về ba loại pháp không, đó gọi là ba giải thoát môn. Đối với những pháp không này, không tin tưởng-không ưa thích-không lấy làm quý trọng, bởi vì tâm tư không thông hiểu. Chỉ coi trọng ngôn thuyết, là chỉ ưa thích ngôn từ hoa mỹ chứ không có thể đúng như giáo thuyết mà tu hành, chỉ có nói suông chứ không có thể tin hiểu các pháp để cảm được pháp vi diệu kỳ ấy. Đây gọi là tướng trạng của hạng bại hoại. Nếu người phát tâm Bồ đề, có những tướng trạng như vậy, thì nên biết là hạng Bồ tát bại hoại. Bại hoại có nghĩa là không điều thuận, vì như con ngựa tồi tệ nhất thì gọi là bại hoại, chỉ có tên gọi của ngựa chứ không có tác dụng của ngựa. Bồ tát hạng bại hoại cũng như vậy, chỉ có tên gọi trống rỗng chứ không có công hạnh thật sự. Nếu người nào không muốn làm Bồ tát hạng bại hoại, thì nên loại trừ ác pháp thuận theo pháp mà nhận được tên gọi. Hỏi: Ông nói ở trong phần vị Duy việt trí, có hai hạng Bồ tát, một là Bồ tát bại hoại, hai là dần dần tinh tiến về sau đạt được phần vị A duy việt trí. Bồ tát hạng bại hoại đã giải thích hạng dần dần tinh tiến về sau đạt được phần vị A duy việt trí, nay có thể giải thích chăng? Đáp: Bồ tát không chấp trước với Ngã, Cũng không chấp trước với chúng sinh, Nói pháp không có gì phân biệt Cũng không chấp trước với Bồ đề, Không dùng hình tướng để thấy Phật, Dùng năm công đức diệu kỳ này, Được gọi là bậc Đại Bồ tát, Thành tựu bậc A duy việt trí. Bồ tát thực hành năm công đức này, thẳng đến phần vị A duy việt trí. Không chấp trước với Ngã, là lìa khỏi sự đắm trước đối với Ngã. Bồ tát này từ trong năm ấm-mười hai nhập-mười tám giới nội ngoại cầu tìm Ngã không thể nào có được, dấy lên nghó như vậy: Nếu như năm ấm thật là Ngã, Thì Ngã chính là tướng sinh diệt, Tại sao hướng về để cảm thọ, Mà ngay nơi ấy có cảm thọ? Nếu như tách khỏi ấm có Ngã, Thì ngoài ấm phải đạt được Ngã, Tại sao hướng về để cảm thọ, Mà sai khác đối với cảm thọ? Nếu như Ngã là có năm ấm, Thì Ngã tức là lìa năm ấm, Giống như thế gian vẫn thường nói, Trâu khác với người chủ của trâu. Bởi vì vật khác cùng hợp lại, Cho nên điều này gọi là có, Vì vậy Ngã có đủ năm ấm, Ngã chính là khác với năm ấm. Nếu như trong năm ấm có Ngã, Giống như trong căn phòng có người, Giống như người nằm ở trên giường, Ngã thuận theo khác biệt với ấm. Nếu như trong Ngã có năm ấm, Giống như trong đóa có trái cây, Giống như trong sữa có ruồi nhặng, Thì ấm khác biệt đối với Ngã, Như có thể đúng mà không đúng, Không tách rời đúng-có thể đúng, Đúng không có gì có thể đúng, Trong đúng-có thể đúng không có. Ngã chẳng phải ấm-xa lìa ấm, Ngã cũng không hề có năm ấm, Trong năm ấm không hề có Ngã, Trong ngã không hề có năm ấm. Như vậy tất cả mọi nhiễm trước, Đều là phiền não trong phiền não, Tất cả các loại như bình-áo, Đều cần phải biết đúng như vậy. Nếu nói Ngã chắc chắn là có, Và tướng sai khác của các pháp, Nên biết rằng hạng người như vậy, Không cảm được pháp vị của Phật. Bồ tát tư duy như vậy liền tách rời Ngã kiến, bởi vì lìa xa Ngã kiến thì không chấp trước vào Ngã. Không chấp trước chúng sinh, chúng sinh gọi là khác với Bồ tát. Lìa xa tham chấp kiến cho nên dấy lên ý niệm như vậy: Nếu người khác thật sự có Ngã, thì người ấy có thể làm nhân khác mà có Ngã, bởi vì người ấy là nhân khác, mà thật sự cầu Ngã thì không thể nào có được, người ấy cũng không thể nào có được, cho nên không có người ấy cũng không có ngã. Vì vậy Bồ tát cũng không chấp trước nơi ấy. Thuyết pháp không phân biệt, là bởi vì Bồ tát này tin hiểu tất cả các pháp vốn không hai, vốn không hề sai biệt, vốn là một tướng cho nên dấy lên ý niệm như vậy: Tất cả các pháp đều do sự nhớ nghó tà vạy phân biệt sinh ra, hoàn toàn hư vọng không thật. Bồ tát này diệt hết các phân biệt, không còn những phiền não làm cho suy sụp, lập tức tiến vào pháp nhân duyên của Đệ nhất nghĩa vô thượng mà không thuận theo trí tuệ nào khác. Thật tính thì chẳng phải là có, Lại cũng chẳng là không có, Chẳng phải là cũng có-cũng không, Chẳng phải là không có-không không. Cũng chẳng phải là có văn tự, Cũng không tách ra khỏi văn tự, nghĩa lý chân thật là như vậy, Chung quy không thể diễn tả được. Nói là ngôn ngữ có thể nói, Ngôn ngữ đều là tướng tịch diệt, Nếu như tính là tướng tịch diệt, Chẳng phải có cũng chẳng phải không. Vì muốn diễn tả sự việc gì, Dùng ngôn ngữ nào để diễn tả, Làm thế nào người có trí tuệ, Lại cùng với ngôn ngữ nói chăng? Nếu như tính các pháp là không, Thì các pháp không hề có tính, Thuận theo dùng không của pháp nào, Là pháp không thể diễn tả được? Không đạt được-không có ngôn thuyết, Mượn ngôn từ để diễn tả không, Thật nghĩa cũng chẳng phải là không, Lại cũng chẳng phải là không không. Cũng chẳng phải không-chẳng không không, Chẳng phải là chẳng không-không không, Chẳng phải hư cũng chẳng phải thật, Chẳng phải nói-chẳng phải không nói. Mà thật ra không gì vốn có, Cũng chẳng phải là không vốn có, Vậy thì tất cả đều rời bỏ, Những phân biệt chấp trước vốn có. Nhân cùng với từ nhân sinh ra, Tất cả các pháp đều như vậy, Đều là tướng tịch diệt thật sự, Không chọn lấy cũng không rời bỏ. Không có tro áo giặt không sạch, Tro cũng trở lại làm bẩn áo, Không ngôn từ không nói sự thật, Có ngôn thuyết thì có lỗi lầm. Bồ tát quán xét tin hiểu thông suốt như vậy, cho nên ở trong sự thuyết pháp không có gì phân biệt. Không chấp trước vào Bồ đề là bởi vì Bồ tát này tin hiểu về pháp không, như Bồ đề của phàm phu chấp trước, không chấp trước như vậy cho nên dấy lên ý niệm này: Phật không chấp trước với Bồ đề, Không phải Phật cũng không chấp trước, Các quả vị cùng với pháp khác, Tất cả cũng hoàn toàn như vậy. Có Phật thì sẽ có Bồ đề, Chấp vào Phật tức là thường kiến, Không có Phật- không có Bồ đề, Không chấp trước tức là đoạn diệt. Tách rời Phật không có Bồ đề, Tách rời Bồ đề không có Phật, Nếu như một-khác không thành tựu, Thì làm sao có được hòa hợp? Hết thảy các pháp trên thế gian, Vì sai khác mà có hòa hợp, Bồ đề không khác biệt với Phật, Vì vậy cả hai không hòa hợp. Phật cùng với Bồ đề pháp vị, Sai khác như nhau đều không thành, Tách rời hai lại không có ba, Làm sao mà có thể thành tựu? Vì vậy cho nên Phật tịch diệt, Bồ đề cũng luôn luôn tịch diệt, Bởi vì cả hai đều tịch diệt, Cho nên tất cả đều tịch diệt. Không dùng hình tướng để thấy Phật, là Bồ tát tin hiểu thông suốt về pháp là vô tướng, cho nên dấy lên suy nghó như vậy. Nếu như tất cả không có tướng, Thì tất cả vốn là có tướng, Tịch diệt hoàn toàn không có tướng, Ngay nơi tịch diệt là có tướng. Nếu quán các pháp không có tướng, Không có tướng chính nó là tướng, Nếu như nói tu không có tướng, Thì chẳng phải tu không có tướng. Nếu như xả bỏ những tham trước, Theo đó gọi là không có tướng, Giữ lấy tướng xả bỏ tham trước, Thì trở thành không còn giải thoát. Tất cả bởi vì có giữ lấy, Vì giữ lấy mà có rời bỏ, Ai giữ lấy-giữ lấy điều gì, Dựa vào tên gọi để rời bỏ. Do giữ lấy mà cần giữ lấy, Cùng với pháp có thể giữ lấy, Cùng lìa bỏ và cùng không có, Như vậy điều gọi là tịch diệt. Nếu pháp dựa vào nhau thành tựu, Thì pháp chính là không có tính, Nếu như tính của pháp không có, Thì tính này không hề có tướng, Nếu như pháp không hề có tính, Thì pháp này không hề có tướng, Làm sao nói là không có tính, Bởi vì tính này không có tướng? Nếu như sử dụng có và không, Cũng ngăn chặn cũng nên thuận theo, Tuy nói mà tâm không chấp trước, Vậy thì không có gì sai lầm. Nơi nào trước đã từng có pháp, Mà về sau không thể hoại diệt, Nơi nào trước đã có như vậy, Mà về sau lại có diệt đi? Đã có tướng tịch diệt như vậy, Cùng với không có tướng tịch diệt, Vì vậy cho nên nói tịch diệt, Và nói về tính-tướng tịch diệt . Trước cũng chẳng phải là tịch diệt, Cũng chẳng phải là không tịch diệt, Cũng chẳng tịch diệt-không tịch diệt, Lìa chẳng tịch diệt- không tịch diệt. Bồ tát này thông đạt về tuệ vô tướng như vậy không có gì nghi ngờ ân hận, không dùng sắc tướng để thấy Phật, không dùng thọ-tưởng- hành-thức để thấy Phật. Hỏi: Vì sao không dùng sắc tướng để thấy Phật, không dùng tướng của thọ-tưởng-hành-thức để thấy Phật? Đáp: Chẳng phải sắc là Phật, chẳng phải thọ-tưởng-hành-thức là Phật; chẳng phải lìa sắc mà có Phật, chẳng phải lìa thọ-tưởng-hành- thức mà có Phật; chẳng phải Phật có sắc, chẳng phải Phật có thọ-tưởng- hành-thức; chẳng phải trong sắc có Phật, chẳng phải trong thọ-tưởng- hành-thức có Phật; chẳng phải trong Phật có sắc, chẳng phải trong Phật có thọ-tưởng-hành-thức. Bồ tát ở trong năm loại này không giữ lấy tướng, cho nên đến được phần vị duy việt trí. Hỏi: Đã biết được pháp này là phần vị duy việt trí, vậy thì A duy việt trí có tướng mạo thế nào? Đáp: Bát nhã đã giải thích rộng ra, tướng mạo của A duy việt trí. Nếu Bồ tát quán xét phàm phu địa Thanh văn địa, Bích-chi-Phật địa và Phật địa, không hai-không phân biệt không có gì nghi ngờ ân hận, thì nên biết rằng đây là phần A duy việt trí. Có những ngôn từ diễn tả đều có lợi ích, không quán xét về ưu khuyết tốt xấu của người khác, không mong cầu có được những ngôn từ diễn tả của Sa môn ngoại đạo, điều gì nên biết thì biết-nên thấy thì thấy, không thì cúng lễ lạy các trời, không dùng hoa hương phan cái để cúng dường, không tôn thờ thuận theo thầy khác, không rơi vào đường ác, không nhận chịu thân nữ, thường tự mình tu tập mười thiện đạo, cũng dạy bảo người khác khiến họ thực hành, thường dùng thiện pháp chỉ bày nêu rõ về lợi ích hoan hỷ, thậm chí trong mộng cũng không rời bỏ mười thiện đạo. Không làm mười nghiệp đạo bất thiện, do nghiệp thân-miệng-ý mà gieo trồng thiện căn, đều làm an lạc độ thoát cho chúng sinh. Quả báo mình đạt được giúp cho chúng sinh cùng hưởng. Nếu nghe pháp sâu xa thì không sinh tâm nghi ngờ hối hận ít nói năng mà chỉ nói lời lợi ích an lành-lời hài hòa vui vẻ-lời mềm mỏng dịu dàng. Ít ngủ nghỉ, đi lại ra vào tâm không hề tán loạn, oai nghi nghiêm túc-nhớ nghó kiên cố. Thân không có các loại sâu bọ truyền bệnh, áo quần-đồ nằm sạch sẽ không dơ bẩn. Thân tâm thanh tịnh an nhàn vắng lặng ít điều rối rắm. Tâm không dua nịnh quanh co, không ôm lòng tham tiếc ganh ghét. Không coi trọng lợi dưỡng-áo quần-ăn uống-đồ nằm-thuốc thang và các vật dụng cung cấp cho đời sống. Ở trong pháp sâu xa không hề có sự tranh chấp, nhất tâm nghe pháp thường mong muốn các pháp ở ngay trước mắt. Dùng phước đức này làm cho đầy đủ các pháp Ba-la-mật. Đối với các kỹ thuật và những điều thù thắng tuyệt vời của thế gian, quán xét tất cả các pháp đều thuận với pháp tính. Thậm chí ác ma biến hóa hiện rõ tám địa ngục lớn, hóa làm Bồ tát mà nói lời như vậy: Nếu ông không rời bỏ tâm Bồ đề thì sẽ sinh vào trong này. Trông thấy cảnh giới hãi hùng ấy mà tâm vẫn không rời bỏ. Ác ma lại nói: Kinh Ma-ha-diễn không phải do Phật thuyết ra. Lúc nghe lời nói này nhưng tâm không có gì đổi khác, thường dựa vào pháp tướng chứ không thuận theo điều gì khác. Đối với sinh tử đầy khổ não nhưng không có kinh sợ, nghe có Bồ tát trải qua A-tăng-kỳ kiếp tu tập thiện căn mà phải thối chuyển, nhưng tâm không hề mất đi. Lại nghe Bồ tát lui lại trở thành A-la-hán đạt được các thiền định, thuyết pháp cứu độ chúng sinh mà tâm cũng không rời bỏ, thường có năng lực hiểu biết tất cả các việc ma. Hoặc nghe đến Tát-bà-nhã không, mười địa của Đại thừa cũng không, khả năng hóa độ chúng sinh cũng không, các pháp không hề có cũng như hư không. hoặc nghe những điều mê hoặc tán loạn tâm tư như vậy, muốn làm cho thối chuyển chán ngán mệt mỏi uể oải bỏ dở, nhưng mà Bồ tát này càng thêm tinh tiến thực hành Từ Bi sâu sắc. Ý dường như muốn tiến vào Sơ thiền-Nhị thiền-tam thiền-Tứ thiền mà không thuận theo thiền sinh ra, vẫn khởi lên pháp của cõi Dục, phá trừ kiêu mạn không coi trọng sự ca ngợi, tâm không còn sân giận ngu si. Nếu sống đời tại gia thì không nhiễm trước năm dục lạc, dùng tâm chán ngán lìa xa tiếp nhận giống như bệnh phải uống thuốc. Không dùng tà mạng để nuôi sống mình, không vì nhân duyên sinh sống của mình mà làm não loạn đối với người khác, chỉ làm cho chúng sinh được an lạc mà sống tại nhà thế gian. Thiện thần Kim Cang Mật Tích thường đi theo hầu hạ bảo vệ, người và loài Phi nhân không có thể làm cho hủy hoại tán loạn được. Các đăn đầy đủ không có gì thiếu sót, không làm bùa chú-thuốc độc để khống chế người-làm hại vật, không thích tranh đấu, không tự đề cao mình, không khinh thường người khác. Không xem tướng lành dữ, không thích nói đến nhiều chuyện, đó là những chuyện về vua chúa-quan quyền-dân chúng-phạm vi đất nước, vũ khí-chiến tranh-áo quần-vật dụng-rượu uống cơm ăn, chuyện về người nữ-chuyện đời xa xưa-chuyện trong biển rộng. Những chuyện như vậy đều không thích nói. Không đến chỗ xem-nghe ca nhi múa hát trổ tài âm nhạc, chỉ thích nói thuận theo nghĩa lý của các pháp Ba-la-mật. Thích nói thuận theo các pháp Ba-la-mật khiến cho được tăng thêm lợi ích, xa lìa những nơi tranh cãi đấu đá, thường nguyện được thấy Phật. Nghe phương khác hiện tại có Phật thì nguyện được vãng sinh về nơi ấy. Thường sinh chốn trung tâm của đất nước, hoàn toàn không tự nghi ngờ mình là A duy việt trí hay không phải là A duy việt trí. Quyết định tự biết mình là A duy việt trí. Các loại việc ma thì hiểu rõ ràng mà không thuận theo. Thậm chí chuyển đổi thân khác mà không sinh tâm thuộc Thanh văn và Bích- chi-Phật. Ngay cả ác Ma hiện làm thân Phật, nói cho biết rằng: Ông nên chứng A-la-hán, nay Ta sẽ thuyết pháp cho ông. Dù cho ở trong pháp này thành tựu A-la-hán, nhưng cũng không tin nhận, bởi vì hộ pháp cho nên không tiếc thân mạng mà thường thực hành tinh tiến. Nếu lúc thuyết pháp thì không có nghi ngờ thắc mắc gì, không có gì thiếu sót mất mát. Những sự việc như vậy gọi là tướng mạo của A duy việt trí. Người có năng lực thành tựu tướng mạo này, thì nên biết rằng đây là bậc A duy việt trí. Hoặc có người chưa đầy đủ tướng mạo ấy, thì làm sao để người này không bao lâu tiến vào được phần vị A duy việt trí? Người này thuận theo các địa sau mà tu tập thiện căn, thuận theo thiện căn chuyển sang sâu xa, thì đạt được tướng mạo của bậc A duy việt trí. <卷>QUYỂN 5 <詞>Phẩm 9: DỊ HÀNH Hỏi: Những việc ban đầu của Bồ-tát A duy việt trí này, như trước đã nói. Muốn đến được phần vị A duy việt trí này, thì thực hành những hạnh khó làm trải qua lâu dài mới có thể được. Hoặc rơi vào Thanh văn địa và Bích-chi-Phật địa, nếu như vậy thì đó là tai họa lớn, như trong pháp Trợ Đạo giải thích: Nếu như rơi vào Thanh văn địa, Và rơi vào Bích-chi-Phật địa, Thì gọi là Bồ tát vô cảm, Bởi mất đi tất cả lợi ích. Nếu như rơi vào chốn địa ngục, Không sinh ra sợ hãi như vậy, Nếu như rơi vào Nhị thừa địa, Thì trở thành sợ hãi vô cùng, Rơi vào trong địa ngục khổ đau, Cuối cùng có thể đến Phật địa, Nếu như rơi vào Nhị thừa địa, Cuối cùng trở ngại cho Phật đạo, Đức Phật tự mình ở trong kinh, Giải thích rõ sự việc như vậy, Như con người ham được mạng sống, Nghe chém đầu thì rất kinh hãi. Tâm niệm Bồ tát cũng như vậy, Nếu như rơi vào Thanh văn địa, Và rơi vào Bích-chi-Phật địa, Thì sinh lòng sợ hãi vô cùng. Vì vậy, như Chư Phật đã nói có nhiều phương tiện dễ dàng hành đạo nhanh chóng đến được phần vị A duy việt trí, mong nói cho nghe về điều ấy! Đáp: Như ông đã nói đều là hạng khiếp nhược yếu hèn không có tâm Đại thừa, không phải là lời nói của bậc trượng phu có ý chí kiên cường. Tại vì sao? Bởi vì nếu người phát nguyện mong cầu quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, chưa đạt được phần vị A duy việt trí, ở trong thời gian ấy thuận theo không tiếc thân mạng, ngày đêm tinh tiến như cứu lửa cháy đầu. Như trong pháp trợ đạo giải thích: Bồ tát chưa có thể đến được, Phần vị của A duy việt trí, Nên luôn luôn cần cù tinh tiến, Giống như cứu lửa cháy trên đầu. Gách vác mọi gánh nặng lâu dài, Bởi vì cầu thành tựu Bồ đề, Luôn luôn phải chịu khó tinh tiến, Không sinh tâm uể oải buông lơi. Nếu người mong cầu Thanh văn thừa, Và mong cầu Bích-chi-Phật thừa, Chỉ vì thành tựu lợi ích mình, Vẫn thường phải chịu khó tinh tiến. Huống là đối với hàng Bồ tát, Tự độ mình cũng độ cho người, So với người Nhị thừa như vậy, Cần phải tinh tiến gấp muôn lần. Người thực hành Đại thừa thì Đức Phật nói như vậy. Phát nguyện mong cầu Phật đạo, nặng nề hơn đưa cao cả ba ngàn Đại thiên thế giới. Ông nói phần vị A duy việt trí là pháp rất khó phải trải qua lâu dài mới có thể đạt được. Nếu có phương tiện dễ dàng hành đạo, nhanh chóng đến được phần vị A duy việt trí, thì đó chính là lời nói dàng cho hạng khiếp nhược kém cỏi, không phải là nói cho bậc Đại nhân có chí hướng kiên cường. Nếu như ông nhất định muốn nghe về phương tiện này thì nay tôi sẽ nói. Phật pháp có vô lượng pháp môn, như đường đi ở thế gian có khó có dễ, đường bộ phải đi bộ thì vất vả, đường thủy ngồi thuyền thì vui thú hơn. Đạo của Bồ tát cũng như vậy, hoặc có pháp chịu khó thực hành tinh tiến, hoặc có pháp dùng niềm tin làm phương tiện dễ dàng thực hành nhanh chóng đến được phần vị A duy việt trí. Như kệ nói: Đông phương có Đức Phật Thiện Đức, Nam phương Đức Phật Chiên đàn đức, Tây phương Đức Phật Vô Lượng Minh, Bắc phương là Đức Phật Tướng Đức, Đông nam Đức Phật Vô Ưu Đức, Tây nam là Đức Phật Bảo Thí, Tây bắc là Đức Phật Hoa Đức, Đông bắc Đức Phật Tam Thừa Hạnh, Hạ phương là Đức Phật Minh Đức, Thượng phương Đức Phật Quảng chúng Đức. Hết thảy các Thế tôn như vậy, Nay hiện tại khắp nơi mười phương, Nếu người muốn nhanh chóng đến được, Phần vị của bậc Bất thối chuyển, Cần phải đem tâm thành cung kính, Chấp trì xưng niệm danh hiệu Phật. Nếu Bồ tát muốn ngay thân này đến được phần vị A duy việt trí thành tựu quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, thì nên nghó đến Chư Phật mười phương và xưng niệm danh hiệu của Chư Phật. Như trong phẩm A duy việt trí của kinh Bảo Nguyệt Đông Tử Sở Vấn, nói: “Đức Phật bảo với Bảo Nguyệt: Phương Đông cách đây trải qua vô lượng vô biên cõi Phật nhiều như cát sông Hằng không thể nghó bàn được, có thế giới tên gọi Vô Ưu, cõi ấy bằng phẳng do bảy báu hợp thành, dây vàng Tử ma đan xen giăng dọc giới hạn đường đi, cây báu xếp thành hàng đều đặn để làm trang nghiêm, không có địa ngục-súc sinh-ngạ quỷ A- la-hán và những nơi hiểm nạn, thanh tịnh không có dơ bẩn, không có cát sỏi gạch đá-núi đồi gà nổng-hố sâu hang tối, trời thường mưa hoa để rải khắp mặt đất. Vào thời ấy có Đức Phật danh hiệu Thiện Đức Như Lai-Ứng Cúng- chính Biến Tri-Minh Hạnh Túc-Thiện Thệ-Thế Gian Giải-Vô Thượng Só-Điều Ngự Trượng Phu-Thiên Nhân Sư-Phật Thế Tôn, chúng Đại Bồ tát cung kính vây tròn xung quanh, thân tướng sáng ngời như núi vàng to lớn-như kho tàng châu báu to lớn tỏa ánh sáng rực rỡ, vì các Đại chúng thuyết giảng rộng về chính pháp, pháp thiện đầu-giữa-sau đều có ngôn từ-có nghĩa lý. Pháp đã thuyết đầy đủ không lẫn tạp, thanh tịnh như thật không sai lạc. Sao gọi là không sai lạc? Đó là không sai lạc đối với đất- nước-lửa-gió; không sai lạc đối với cõi Dục-cõi Sắc-cõi Vô sắc; không sai lạc đối với sắc-thọ-tưởng-hành-thức. Này Bảo Nguyệt! Đức Phật này thành đạo đến nay trải qua sáu mươi ức kiếp. Lại nữa, cõi Phật ấy ngày đêm không khác nhau, chỉ dùng số lượng ngày tháng năm ở cõi Diêm-phù-đề này để nói đến kiếp thọ của cõi ấy. Ánh sáng của Đức Phật thường soi chiếu thế giới. Vào mỗi lần thuyết pháp khiến cho vô lượng vô biên ngàn vạn ức A-tăng-kỳ chúng sinh trú trong vô sinh pháp nhẫn, gấp bội số người như vậy được trú trong Nhẫn thứ Nhất-Nhẫn thứ hai-Nhẫn thứ ba. Này Bảo Nguyệt! Đức Phật ấy vốn có nguyện lực, nếu có chúng sinh ở phương khác, ở trước Phật mà gieo trồng các thiện căn, thì Phật chỉ dùng ánh sáng tiếp xúc trên thân, liền đạt được Vô sinh pháp nhẫn. Này Bảo Nguyệt! Nếu người thiện nam-người thiện nữ nào nghe danh hiệu Đức Phật này mà tự mình tin nhận, thì không lui sụt đối với quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Sự việc về chín Đức Phật còn lại cũng đều như vậy”. Nay sẽ giải thích về danh hiệu của Chư Phật và danh hiệu của cõi Phật. Thiện Đức: Đức hạnh thuần thiện chỉ có an lạc, không giống như phước đức của chư Thiên-Rồng-Thần làm mê hoặc não hại chúng sinh. Chiên Đàn Đức: Phương Nam cách đây vô lượng vô biên cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, có thế giới tên gọi Hoan hỷ. Đức Phật danh hiệu là Chiên Đàn Đức, hiện nay đang thuyết pháp. Ví như mùi hương Chiên-đàn mà lại mát mẻ, danh hiệu Đức Phật ấy vang xa như mùi hương tỏa ngát khắp nơi, diệt trừ ngọn lửa nóng do ba độc của chúng sinh làm cho được mát lành. Phật Vô Lượng Minh: Phương Tây cách đây vô lượng vô biên cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, có thế giới tên gọi Thiện Giải, Đức Phật danh hiệu là Vô Lượng Minh, hiện nay đang thuyết pháp. Thân Đức Phật ấy sáng ngời và trí tuệ soi chiếu rõ ràng vô lượng vô biên pháp giới. Phật Tướng Đức: Phương Bắc cách đây vô lượng vô biên cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, có thế giới tên gọi Bất khả Động, Đức Phật danh hiệu là Tướng Đức, hiện nay đang thuyết pháp. Phước đức của Đức Phật ấy cao xa và sáng ngời rõ ràng, giống như tướng trạng của cột cờ vút cao. Phật Vô Ưu Đức: Phương Đông nam cách đây vô lượng vô biên cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, có thế giới tên gọi Nguyệt Minh, Đức Phật danh hiệu là Vô Ưu Đức, hiện nay đang thuyết pháp. Thần thông và uy đức của Đức Phật ấy khiến cho chư Thiên và loài người không còn lo âu sầu khổ. Phật Bảo Thí: Phương Tây nam cách đây vô lượng vô biên cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, có thế giới tên gọi chúng Tướng, Đức Phật danh hiệu là Bảo Thí, hiện nay đang thuyết pháp. Đức Phật ấy dùng các căn-Lực-Giác-Đạo vô lậu cùng các vật báu luôn luôn giúp cho chúng sinh. Phật Hoa Đức: Phương Tây bắc cách đây vô lượng vô biên cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, có thế giới tên gọi chúng Âm, Đức Phật danh hiệu là Hoa đức, hiện nay đang thuyết pháp. Sắc thân của Đức Phật ấy giống như loài hoa tuyệt diệu và công đức của Ngài vô lượng vô biên. Phật Tam Thừa Hạnh: Phương Đông bắc cách đây vô lượng vô biên cõi Phật nhiều như cát sông hằng, có thế giới tên gọi An Ẩn, Đức Phật danh hiệu là Tam thừa Hạnh, hiện nay đang thuyết pháp. Đức Phật ấy thường thuyết về hạnh của Thanh văn, hạnh của Bích-chi-Phật và các hạnh của Bồ tát. Có người nói rằng: Thuyết về hạnh tinh tiến thuộc ba tạng thượng-trung-hạ, cho nên danh hiệu là Tam Thừa Hạnh. Phật Minh Đức: Hạ phương cách đây vô lượng vô biên cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, có thế giới tên gọi Quảng Đại, Đức Phật danh hiệu là Minh Đức, hiện nay đang thuyết pháp. Minh là nói về thân sáng ngời-trí tuệ sáng suốt-cây báu sáng chói rực rỡ, ba loại ánh sáng này thường chiếu rọi khắp nơi thế gian. Phật Quảng Chúng Đức: Thượng phương cách đây vô lượng vô biên cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, có thế giới tên gọi Chúng Nguyệt, Đức Phật danh hiệu là Quảng Chúng Đức, hiện nay đang thuyết pháp. Đức Phật ấy có nhiều đệ tử phước đức rộng lớn vô biên, cho nên danh hiệu là Quảng chúng Đức. Chư Phật trong mười phương này thì Đức Phật Thiện Đức là đầu tiên, Đức Phật Quảng Chúng Đức là sau cùng, nếu người nào nhất tâm xưng niệm danh hiệu của Chư Phật, thì đạt được bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Như kệ nói: Nếu như có người được nghe nói, Về danh hiệu Chư Phật như vậy, Thì cảm được vô lượng công đức, Như nói cho Đồng tử Bảo Nguyệt, Con đảnh lễ hết thảy Chư Phật, Hiện tại ở thế giới mười phương, Có người xưng danh hiệu Chư Phật, Liền đạt được phần vị Bất thối. Phương Đông có thế giới Vô Ưu, Đức Phật danh hiệu là Thiện Đức, Sắc tướng như núi vàng sáng ngời, Danh tiếng lưu truyền vô biên cõi, Nếu người nghe danh hiệu Đức Phật, Liền đạt được phần vị Bất thối, Nay con chắp tay lễ lạy Ngài, Nguyện diệt trừ tất cả buồn phiền. Phương Nam có thế giới Hoan Hỷ, Đức Phật danh hiệu Chiên Đàn Đức, Khuôn mặt sáng ngời như trăng rằm, Ánh sáng chiếu rọi không giới hạn, Luôn luôn diệt trừ mọi phiền não, Ba độc của tất cả chúng sinh, Nghe danh hiệu đạt được Bất thối, Cho nên con cúi đầu lễ lạy. Phương Tây có thế giới Thiện Giải, Đức Phật danh hiệu Vô Lượng Minh, Thân sáng ngời trí tuệ soi tỏ, Chiếu rọi khắp nơi không ngăn ngại, Có người nghe danh hiệu Đức Phật, Liền đạt được phần vị Bất thối, Nay con cúi đầu lễ lạy Ngài, Nguyện tận cùng giới hạn sinh tử. Phương Bắc có thế giới Vô Động, Đức Phật danh hiệu là Tướng Đức, Thân đầy đủ tất cả tướng tốt, Dùng để tự trang nghiêm chính mình, Phá tan tất cả mọi ma oán, Khéo léo giáo hóa hàng trời-người, Nghe danh hiệu đạt được Bất thối, Cho nên con cúi đầu lễ lạy. Đông Nam có thế giới Nguyệt Minh, Đức Phật danh hiệu là Vô Ưu, Ánh sáng vượt mặt trời-mặt trăng, Người gặp được diệt hết phiền não, Thường xuyên thuyết pháp cho chúng sinh, Loại trừ những khổ não trong-ngoài, Chư Phật mười phương đều khen ngợi, Cho nên con cúi đầu lễ lạy. Tây nam có thế giới chúng tướng, Đức Phật danh hiệu là Bảo Thí, Thường đem các giáo pháp quý báu, Bố thí cho tất cả chúng sinh, Chư Thiên đều cúi đầu lễ lạy, Mũ báu cõi trời ở dưới chân, Nay con đem thân thể của mình, Quy mạng Đức Thế Tôn Bảo Thí. Tây bắc có thế giới Chúng Âm, Đức Phật danh hiệu là Hoa Đức, Thế giới ấy nhiều loại cây báu, Phát ra âm thanh tuyên diệu pháp, Thường dùng đóa hoa của bảy Giác, Trang nghiêm cho hết thảy chúng sinh, Tướng tốt lông trắng như vầng trăng, Nay con cúi đầu lễ lạy Ngài, Đông bắc có thế giới An Ẩn, Do các thứ báu mà hợp thành, Đức Phật danh hiệu Tam Thừa Hạnh, Thân trang nghiêm vô lượng tướng tốt, Ánh sáng trí tuệ không hạn lượng, Luôn phá trừ bóng tối vô minh, Chúng sinh không còn gì buồn khổ, Cho nên con cúi đầu lễ lạy. Thượng phương có thế giới Chúng Nguyệt, Trang nghiêm bằng nhiều loại quý báu, Chúng đệ tử Thanh văn Đại đức, Và Bồ tát không có số lượng, Hàng Sư tử trong các hàng Thánh, Có danh hiệu là Quảng Chúng Đức, Làm cho các ma đều sợ hãi, Cho nên con cúi đầu lễ lạy. Hạ phương có thế giới Quảng Đại, Đức Phật danh hiệu là Minh Đức, Thân tướng vi diệu thật tuyệt vời, Giống như núi vàng Diêm-phù-đàn, Thường dùng ánh mặt trời trí tuệ, Làm nở những đóa hoa thiện căn, Đất đai quý báu thật rộng lớn, Con cúi đầu lễ lạy từ xa, Vào thời quá khứ vô số kiếp, Có Đức Phật danh hiệu Hải Đức, Hết thảy Chư Phật đời hiện tại, Đều phát nguyệt từ Phật Hải Đức, Thọ mạng không có gì hạn lượng, Ánh sáng chiếu rọi không tận cùng, Cõi nước rất thanh tịnh trang nghiêm, Nghe danh hiệu nhất định làm Phật, Hiện tại ở thế giới mười phương, Thành tựu đầy đủ về mười Lực, Cho nên con cúi đầu lễ lạy, Đấng tôn kính nhất giữa trời-người. Hỏi: Chỉ nghe danh hiệu mười Đức Phật này mà giữ mãi trong tâm niệm, thì đối với quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác có thể không lùi sụt, hay là còn có danh hiệu Đức Phật khác-Bồ tát khác để đạt đến phần vị A duy việt trí chăng? Đáp: Phật A-di-đà cùng Chư Phật, Cho đến các vị Đại Bồ tát, Nhất tâm xưng danh và nhớ nghó, Cũng nhất định không còn thối chuyển. Lại còn có chư Phật như Đức Phật A-di-đà cũng nên cung kính lễ bái xưng niệm danh hiệu các Ngài. Nay sẽ nói đầy đủ: Vô Lượng Thọ Phật, Thế Tự Tại Vương Phật, Sư Tử Âm Phật, Pháp Ý Phật, Phạm Tướng Phật, Thế Tướng Phật, Thế Diệu Phật, Từ Bi Phật, Thế Vương Phật, Nhân Vương Phật, Nguyệt Đức Phật, Bảo Đức Phật, Tướng Đức Phật, Đại Tướng Phật, Châu Cái Phật, Sư Tử Man Phật, Phá Vô Minh Phật, Trí Hoa Phật, Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật, Trì Đại Công Đức Phật, Vũ Thất Bảo Phật, Siêu Dũng Phật, Ly Sân Hận Phật, Đại Trang Nghiêm Phật, Vô Tướng Phật, Bảo Tạng Phật, Đức Đảnh Phật, Đa Già La Hương Phật, Chiên Đàn Hương Phật, Liên Hoa Hương Phật, Trang Nghiêm Đạo Lộ Phật, Long Cái Phật, Vũ Hoa Phật, Tán Hoa Phật, Hoa Quang Minh Phật, Nhật Âm Thanh Phật, Tế Nhật Nguyệt Phật, Lưu Ly Tạng Phật, Phạm Âm Phật, Tịnh Minh Phật, Kim Tạng Phật, Tu Di Đảnh Phật, Sơn Vương Phật, Âm Thanh Tự Tại Phật, Tịnh Nhãn Phật, Nguyệt Minh Phật, Như Tu Di Sơn Phật, Nhật Nguyệt Phật, Đắc Chúng Phật, Hoa Vương Phật, Phạm Âm Thuyết Phật, Thế Chủ Phật, Sư Tử Hành Phật, Diệu Pháp Ý Sư Tử Hống Phật, Châu Bảo Cái San Hô Sắc Phật, Phá Si Ái Ám Phật, Thủy Nguyệt Phật, Chúng Hoa Phật, Khai Trí Tuệ Phật, Trì Tạp Bảo Phật, Bồ-Đề Phật, Hoa Siêu Xuất Phật, Chân Lưu Ly Minh Phật, Tế Nhật Minh Phật, Trì Đại Công Đức Phật, Đắc chính Tuệ Phật, Dõng Kiện Phật, Ly Siểm Khúc Phật, Trừ Ác Căn Tài Phật, Đại Hương Phật, Đạo Ánh Phật, Thủy Quang Phật, Hải Vân Tuệ Du Phật, Đức Đảnh Hoa Phật, Hoa Trang Nghiêm Phật, Nhật Âm Thanh Phật, Nguyệt Thắng Phật, Lưu Ly Phật, Phạm Thanh Phật, Quang Minh Phật, Kim Tạng Phật, Sơn Đảnh Phật, Sơn Vương Phật, Âm Vương Phật, Long Thắng Phật, Vô Nhiễm Phật, Tịnh Diện Phật, Nguyệt Diện Phật, Như Tu Di Phật, Chiên Đàn Hương Phật, Uy Thế Phật, Nhiên Đăng Phật, Nan Thắng Phật, Bảo Đức Phật, Hỷ Âm Phật, Quang Minh Phật, Long Thắng Phật, Ly Cấu Minh Phật, Sư Tử Phật, Vương Vương Phật, Lực Thắng Phật, Hoa Xỉ Phật, Vô Úy Minh Phật, Hương Đảnh Phật, Phổ Hiền Phật, Phổ Hoa Phật, Bảo Tướng Phật. Chư Phật Thế Tôn này hiện tại cư trú trong thế giới thanh tịnh khắp mười phương, đều xưng niệm danh hiệu và nhớ nghó, bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà như vậy: Nếu người nào nghó đến Ta mà xưng niệm danh hiệu tự quay về nương tựa, thì tiến vào phần vị Tất định đạt được quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì vậy thường thuận theo nhớ nghó dùng kệ ca ngợi Đức Phật: Ánh sáng và trí tuệ vô lượng, Thân như núi vàng ròng rực rỡ, Nay con thanh tịnh thân-miệng-ý, Chắp tay cúi đầu lễ lạy Ngài. Sắc vàng rực ánh sáng tuyệt vời, Soi chiếu tất cả các thế giới, Thuận theo vật tăng thêm sắc tướng, Cho nên con cúi đầu lễ lạy. Nếu như người vào lúc mạng chung, Được sinh về cõi nước thanh tịnh, Liền đầy đủ vô lượng công đức, Cho nên con cung kính quy mạng. Người luôn niệm danh hiệu Phật này, Được vô lượng sức mạnh công đức, Lập tức vào phần vị Tất định, Vì vậy con luôn luôn xưng niệm. Người ở cõi nước ấy mạng chung, Giả sử phải chịu những khổ đau, Nhưng không rơi vào địa ngục ác, Vì vậy con quy mạng lễ lạy. Nếu người sinh đến cõi nước ấy, Cuối cùng không rơi vào ba nẽo, Và không rơi và A-tu-la, Nay con quy mạng mà lễ lạy. Trời-người thân tướng đều giống nhau, Giống như đỉnh núi vàng sáng rực, Mọi nơi tốt đẹp đều quay về, Cho nên con cúi đầu lễ lạy. Có người sinh đến cõi nước ấy, Đầy đủ thiên nhãn-thiên nhó thông, Tất cả mười phương đều vô ngại, Cúi đầu lạy bậc Thánh trong Thánh. Các chúng sinh ở cõi nước ấy, Thần biến cùng với tha tâm thông, Cũng vốn có túc mạng trí thông, Vì vậy con quy mạng lễ lạy. Người được sinh đến cõi nước ấy, Không có Ngã-không có ngã sở, Không sinh tâm phân biệt đây-kia, Vì vậy con cúi đầu lễ lạy. Vượt ra khỏi ngục tù ba cõi, Đôi mắt tựa như cánh hoa sen, Chúng Thanh văn vô lượng vô biên, Vì vậy con cúi đầu lễ lạy. Các chúng sinh trong cõi nước ấy, tính tình mọi người đều nhu hòa, Tự nhiên thực hành mười thiện hạnh, Cúi đầu lạy các bậc Thánh vương. Từ thiện hạnh sinh ra sáng suốt, Với số đếm vô lượng vô biên, Bậc nhất trong phước trí cụ túc, Vì vậy con cung kính quy mạng. Nếu người nào nguyện được làm Phật, Tâm nghó đến Phật A-di-đà, Lập tức Ngài hiện thân cho thấy, Vì vậy con cung kính quy mạng. Sức mạnh bổn nguyện của Đức Phật, Các Bồ tát khắp nơi mười phương, Đến cúng dường cung kính nghe pháp, Vì vậy con cúi đầu lễ lạy. Các Bồ tát trong cõi nước ấy, Đầy đủ mọi tướng tốt tuyệt vời, Dùng để tự trang nghiêm thân tướng, Nay con quy mạng mà lễ lạy. Các vị Đại Bồ tát cõi ấy, Ngày ngày thường xuyên trong ba thời, Cúng dường Chư Phật khắp mười phương, Vì vậy con cúi đầu lễ lạy. Nếu người nào gieo trồng thiện căn, Nghi ngờ thì đóa hoa không nở, Người có tâm tin tưởng thanh tịnh, Hoa nở rộ thì được thấy Phật. Chư Phật hiện tại trong mười phương, Dùng tất cả các loại nhân duyên, Ca ngợi công đức của Đức Phật, Nay con quy mạng mà lễ lạy. Cõi nước ấy thật là trang nghiêm, Tuyệt vời hơn cung điện chư Thiên, Công đức thật sâu dày vô lượng, Vì vậy con lễ lạy chân Phật. Chân Phật có tướng Thiên phúc luân, Mềm mại với màu sắc hoa sen, Mọi loài trông thấy đều hoan hỷ, Cúi đầu lễ lạy dưới chân Phật. Lông trắng sáng ngời giữa chặng mày, Giống như vầng trăng sáng thanh tịnh, Tăng thêm vẻ sáng ngời nét mặt, Cúi đầu lễ lạy dưới chân Phật. Lúc ban đầu mong cầu Phật đạo, Thực hành những việc làm kỳ diệu, Như trong các kinh đã giải thích, Cúi đầu cung kính lễ lạy Ngài. Những điều Đức Phật đã giảng nói, Phá trừ mọi gốc rễ tội lỗi, Lời vi diệu thêm nhiều lợi ích, Nay con cúi đầu lạy cung kính. Dùng ngôn từ vi diệu thuyết giảng, Cứu giúp những căn bệnh tham dục, Đã hóa độ nay còn hóa độ, Vì vậy con cúi đầu lễ lạy. Đấng tôn quý nhất giữa trời-người, Chư Thiên cúi đầu lạy cung kính, Mũ bằng bảy báu-ngọc ma ni, Vì vậy con lễ lạy quy y. Hết thảy chúng đệ tử Hiền Thánh, Và các chúng đệ tử trời-người, Tất cả đều chung lòng quy mạng, Vì vậy con cũng xin lễ lạy. Ngồi trên con thuyền Bát đạo ấy, Được vượt qua biển cả khó vượt, Tự cứu mình cũng cứu cho người, Con lễ lạy bậc Thánh tự tại. Chư Phật trong vô lượng đời kiếp, Khen ngợi phát huy công đức ấy, Hãy còn không thể nào hết được, Cũng nguyện quy mạng người thanh tịnh. Nay con cũng dốc lòng như vậy, Ca ngợi Phật công đức vô lượng, Nhờ vào nhân duyên phước thiện này, Nguyện Đức Phật thường che chở con, Con ở đời này và đời trước, Phước đức lớn nhỏ được bao nhiêu, Con nguyện hướng về với Đức Phật, Tâm niệm luôn luôn được thanh tịnh. Nhờ vào nhân duyên phước thiện này, Cảm được công đức vi diệu nhất, Nguyện cầu các chủng loại chúng sinh, Tất cả cũng đều được phước thiện. Lại nữa, cũng nên nghó đến Chư Phật quá khứ như Phật Tỳ bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Thủ Bà Phục, Phật Câu Lâu San Đề, Phật Ca Na Ca Mâu Ni, Phật Ca Diếp, Phật Thích Ca Mâu Ni, và Phật Di Lặc ở đời vị lai, đều nên nhớ nghó lễ bái, dùng kệ ca ngợi: Xưa Đức Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Tu đạo dưới cội cây Vô ưu, Thành tựu trọn vẹn Nhất thiết trí, Đầy đủ mọi công đức vi diệu, Quán sát chính xác ở thế gian, Tâm tư luôn luôn được giải thoát, Nay con đem thân mạng của mình, Quy mạng đấng tôn kính Vô thượng. Quá khứ Phật Thế Tôn Thi khí, Ở tại xứ sở Bân-đà-lợi, Ngồi dưới tán cây nơi đạo tràng, Thành tựu quả Bồ đề vô thượng, Sắc thân không có gì sánh được, Như núi vàng tía thật rực rỡ, Nay con tự quay về nương tựa, Đấng tôn kính Vô thượng ba cõi, Quá khứ Thế Tôn Tỳ Thủ Bà, An tọa dưới tán cây Sa-la, Tự nhiên được thông suốt tất cả, Hết thảy trí tuệ thật tuyệt vời, Ở trong những thế hệ trời-người, Bậc nhất không có gì sánh được, Vì vậy con quay về nương tựa, Tất cả các bậc tôn quý nhất. Quá khứ Ca Cầu Thôn Đại Phật, Tu tập thực hành luôn tinh tiến, Đắc Vô thượng chính đẳng chính giác, Bên dưới tán cây Thi-lợi-sa, Thành tựu trí tuệ thật vó đại, Vónh viễn thoát khỏi lòng sinh tử, Nay con xin quy mạng lễ lạy, Đấng tôn quý nhất không ai bằng, Đức Phật Ca Na Hàm Mâu Ni, Bậc Đại Thánh tôn kính vô thượng, Bên dưới tán cây Ưu-đàm-bát, Thành tựu được Phật đạo Bồ đề, Thông đạt tất cả pháp vốn có, Đến tận cùng vô lượng vô biên Vì vậy con quay về nương tựa, Đấng Thế Tôn vô thượng bậc nhất. Quá khứ Phật Thế Tôn Ca diếp, Đôi mắt như hai đóa hoa sen, Dưới tán cây Ni-câu-lâu-đà, Tu hành thành tựu được Phật đạo, Ba cõi không có gì sợ hãi, Bước đi uy dũng như voi chúa, Nay con tự quay về nương tựa, Cúi đầu lạy đấng tôn kính nhất. Đức Thế Tôn Thích Ca mâu ni, Bên dưới tán cây A-du-đà, Hàng phục mọi ma oán đối địch, Thành tựu đạo Bồ đề Vô thượng, Diện mạo như vầng trăng tròn đầy, Thanh tịnh không dính chút bụi trần, Nay con cúi đầu lạy cung kính, Đấng tôn quý dũng mãnh bậc nhất. Đức Phật Di lặc đời vị lai, An tọa dưới tán cây Na-già, Thành tựu tâm rộng lớn bao la, Tự nhiên đạt được quả vị Phật, Công đức thật vô cùng kiên cố, Không ai có năng lực hơn được, Vì vậy con tự mình quay về, Nương tựa đấng Pháp vương cao cả. Còn có những Đức Phật như Phật Đức Thắng, Phật Phổ Minh, Phật Thắng Địch, Phật Vương Tướng, Phật Tướng Vương, Phật Vô Lượng Công Đức Minh Tự Tại Vương, Phật Dược Vương Vô Ngại, Phật Bảo Du Hành, Phật Bảo Hoa, Phật An Trú, Phật Sơn Vương, cũng nên nhớ nghó cung kính lễ lạy và dùng kệ ca ngợi Chư Phật: Trong thế giới tên gọi Vô Thắng, Có Đức Phật danh hiệu Đức Thắng, Nay con cúi đầu lạy cung kính, Cùng với Pháp bảo và Tăng bảo, Thế giới tên gọi Tùy Ý Hỷ, Có Đức Phật danh hiệu Phổ Minh, Nay con tự quay về nương tựa, Cùng với Pháp bảo và Tăng bảo. Trong thế giới tên gọi Phổ Hiền, Có Đức Phật danh hiệu Thắng Địch, Nay con nguyện quy mạng lễ lạy, Cùng với Pháp bảo và Tăng bảo. Thế giới tên gọi Thiện Tịnh Tập, Đức Phật danh hiệu Vương Tràng Tướng, Nay con cúi đầu lạy cung kính, Cùng với Pháp bảo và tăng bảo, Thế giới tên gọi Ly Cấu Tập, Phật hiệu Vô Lượng Công Đức Minh, Tự tại khắp nơi trong mười phương, Vì vậy con cúi đầu lễ lạy. Trong thế giới tên gọi Bất Cuồng, Đức Phật hiệu Dược Vương Vô Ngại, Nay con cúi đầu lạy cung kính, Cùng với pháp bảo và Tăng bảo. Trong thế giới tên gọi Kim Tập, Đức Phật danh hiệu Bảo Du Hành, Nay con cúi đầu lạy cung kính, Cùng với pháp bảo và Tăng bảo. Trong thế giới tên gọi Mỹ Âm, Phật bảo Hoa-An-Trú vương, Nay con cúi đầu dạy cung kính, Cùng với Pháp bảo và Tăng bảo. Hiện tại các Đức Như Lai này, An trú tại thế giới phương Đông, Con đem tâm cung kính lễ lạy, Ca ngợi nguyện quay về nương tựa. Chỉ nguyện cầu các Đức Như Lai, Đem lòng thương xót thật sâu xa, Hiện thân ở trước mặt chúng con, Đều khiến cho mắt được trông thấy. Lại nữa, Chư Phật quá khứ-vị lai-hiện tại, tất cả nên nghó đến không quên và cung kính lễ lạy, dùng kệ ca ngợi Chư Phật: Hết thảy Chư Phật đời quá khứ, Hàng phục tất cả những ma oán, Dùng sức mạnh trí tuệ vó đại, Lợi 1ich nhiều cho mọi chúng sinh, Lúc tất cả các chúng sinh, Đều dốc lòng cung kính cúng dường, Cung kính mà lại luôn ca ngợi, Vì vậy con cúi đầu lễ lạy. Hiện tại trong thế giới mười phương, Chư Phật không thể nào tính được, Số lượng vượt quá cát sông hằng, Vô lượng vô biên số kể. Thương xót tất cả mọi chúng sinh, Thường chuyển vận pháp luân vi diệu, Vì vậy con dốc lòng cung kính, Cúi đầu lạy nguyện xin quy mạng. Hết thảy Chư Phật đời vị lai, Sắc thân như núi vàng sáng rực, Ánh sáng không có gì hạn lượng, Tất cả tướng tốt tự trang nghiêm, Xuất thế cứu độ cho chúng sinh, Tương lai tiến vào cõi Niết bàn, Các Đức Thế tôn đều như vậy, Nay con cúi đầu lạy cung kính. Lại nữa, nên nghó nhớ các vị Đại Bồ tát, như Bồ-tát Thiện Ý, Bồ- tát Thiện Nhãn, Bồ-tát Văn Nguyệt, Bồ-tát Thi Tỳ Vương, Bồ-tát Nhất Thiết Thắng, Bồ-tát Tri Đại Địa, Bồ-tát Đại Dược, Bồ-tát Cưu Xá, Bồ- tát A Ly Niệm Di, Bồ-tát Đỉnh Sinh Vương, Bồ-tát Hỷ Kiến, Bồ-tát Uất Đa La, Bồ-tát Hòa Hòa Đàn, Bồ-tát Trường Thọ Vương, Bồ-tát Sằn Đề, Bồ-tát Vi Lam, Bồ-tát Thiểm, Bồ-tát Nguyệt Cái, Bồ-tát Minh Thủ, Bồ-tát Pháp Thủ, Bồ-tát Pháp Lợi, Bồ-tát Di Lặc. Lại có các Bồ-tát như: Bồ-tát Kim Cang Tạng, Bồ-tát Kim Cang Thủ, Bồ-tát Vô Cấu Tạng, Bồ-tát Vô Cấu Xưng, Bồ-tát Trừ Nghi, Bồ- tát Vô Cấu Đức, Bồ-tát Võng Minh, Bồ-tát Vô Lượng Minh, Bồ-tát Đại Minh, Bồ-tát Vô Tận Ý, Bồ-tát Ý Vương, Bồ-tát Vô Biên Ý, Bồ-tát Nhật Âm, Bồ-tát Nguyệt Âm, Bồ-tát Mỹ Âm, Bồ-tát Mỹ Âm Thanh, Bồ-tát Đại Âm Thanh, Bồ-tát Kiên Tinh Tiến, Bồ-tát Thường Kiên, Bồ- tát Kiên Phát, Bồ-tát Trang Nghiêm Vương, Bồ-tát Thường Bi, Bồ-tát Thường Bất Khinh, Bồ-tát Pháp Thượng, Bồ-tát Pháp Ý, Bồ-tát Pháp Hỷ, Bồ-tát Pháp Thủ, Bồ-tát Pháp Tích, Bồ-tát Phát Tinh Tiến, Bồ-tát Trí Tuệ, Bồ-tát Tịnh Uy Đức, Bồ-tát Na La Diên, Bồ-tát Thiện Tư Duy, Bồ-tát Pháp Tư Duy, Bồ-tát Bạt Đà Bà La, Bồ-tát Pháp Ích, Bồ-tát Cao Đức, Bồ-tát Sư Tử Du Hành, Bồ-tát Hỷ Căn, Bồ-tát Thượng Bảo Nguyệt, Bồ-tát Bất Hư Đức, Bồ-tát Long Đức, Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ-tát Diệu Âm, Bồ-tát Vân Âm, Bồ-tát Thắng Ý, Bồ-tát Chiếu Minh, Bồ-tát Dũng Chúng, Bồ-tát Thắng Chúng, Bồ-tát Uy Nghi, Bồ-tát Sư Tử Ý, Bồ-tát Thượng Ý, Bồ-tát Ích Ý, Bồ-tát Tăng Ý, Bồ-tát Bảo Minh, Bồ-tát Tuệ Đảnh, Bồ-tát Nhạo Thuyết Đảnh, Bồ-tát Hữu Đức, Bồ-tát Quán Thế Tự Tại Vương, Bồ-tát Đà La Ni Tự Tại Vương, Bồ-tát Đại Tự Tại Vương, Bồ-tát Vô Ưu Đức, Bồ-tát Bất Hư Kiến, Bồ-tát Ly Ác Đạo, Bồ-tát Nhất Thiết Dũng Kiện, Bồ-tát Phá Ấm, Bồ-tát Công Đức Bảo, Bồ-tát Hoa Uy Đức, Bồ-tát Kim Anh Lạc Minh Đức, Bồ-tát Ly Chư Ám Cái, Bồ-tát Tâm Vô Ngại, Bồ-tát Nhất Thiết Hạnh Tịnh, Bồ-tát Đẳng Kiến, Bồ-tát Bất Đẳng Kiến, Bồ-tát Tam Muội Du Hý, Bồ-tát Pháp Tự Tại, Bồ-tát Pháp Tướng, Bồ-tát Minh Trang Nghiêm, Bồ-tát Đại Trang Nghiêm, Bồ-tát Bảo Đảnh, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Thường Cử Thủ, Bồ-tát Thường Hạ Thủ, Bồ-tát Thường Thảm, Bồ-tát Thường Hỷ, Bồ-tát Hỷ Vương, Bồ-tát Đắc Biện Tài Âm Thanh, Bồ-tát Hư Không Lôi Âm, Bồ-tát Trì Bảo Cự, Bồ-tát Dũng Thí, Bồ-tát Đế Võng, Bồ-tát Mã Quang, Bồ-tát Không Vô Ngại, Bồ-tát Bảo Thắng, Bồ-tát Thiên Vương, Bồ-tát Phá Ma, Bồ-tát Điện Đức, Bồ-tát Tự Tại, Bồ-tát Đảnh Tướng, Bồ-tát Xuất Quá, Bồ-tát Sư Tử Hống, Bồ-tát Vân Ấm, Bồ-tát Năng Thắng, Bồ-tát Sơn Tướng Tràng Vương, Bồ-tát Hương Tượng, Bồ-tát Đại Hương Tượng, Bồ-tát Bạch Hương Tượng, Bồ-tát Thường Tinh Tiến, Bồ-tát Bất Hưu Tức, Bồ-tát Diệu Sinh, Bồ-tát Hoa Trang Nghiêm, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Thủy Vương, Bồ-tát Sơn Vương, Bồ-tát Đế Võng, Bồ-tát Bảo Thí, Bồ-tát Phá Ma, Bồ-tát Trang Nghiêm Quốc Độ, Bồ-tát Kim Kế, Bồ-tát Châu Kế. Các Đại Bồ-tát như thế, đều nên nghó nhớ, cung kính lễ bái mong cầu đạt được phần vị A duy việt trí (Bất thối chuyển). ---------------------------- <詞>Phẩm 10: TRỪ NGHIỆP Hỏi: Chỉ nhớ nghó Chư Phật như Phật A-di-đà…, và nghó đến các vị Bồ tát khác thì đạt được phần vị A duy việt trí, còn có phương tiện nào khác chăng? Đáp: Cầu đạt được phần vị A duy việt trí, không những nhớ nghó- xưng niệm danh hiệu-cung kính lễ lạy mà thôi, mà còn phải ở trước Chư Phật để sám hối-khuyến thỉnh-tùy hỷ-hồi hướng nữa. Hỏi: Việc này có nghĩa thế nào? Vô lượng Chư Phật khắp mười phương, Biết hết những hành nghiệp bất thiện, Nay con hướng về trước Chư Phật, Phát lộ những lỗi lầm xấu xa. Ba-ba hợp lại thành chín loại, Từ ba phiền não mà khởi lên, Thân đời này hoặc thân đời trước, Mọi tội lỗi đều xin sám hối. Ở trong ba đường ác khổ đau, Nếu như phải nhận chịu nghiệp báo, Nguyện thân đời này đền trả hết, Không vào trong đường ác nhận chịu. Mười phương chư Phật là hết thảy chư Phật trong hiện tại, mạng căn thành tựu, chưa nhập Niết-bàn. Mười phương là bốn hướng, bốn góc và trên-dưới. Phật là người biết hết những gì cần biết, không sót điều gì. Phát lồ là đến trước chư Phật, tỏ rõ hết thảy tội, không che giấu. Sau đó không tái phạm, như đắp đê giữ nước. Tội lỗi xấu xa là vì không có trí tuệ sáng suốt cho nên phạm đến nhiều điều ác, hoặc là pháp bất thiện, hoặc là ẩn một vô ký. Ba lần ba là thân, miệng ý gây ác, mắc quả báo đời này, quả báo đời sau và đời sau nữa, do tự mình làm, bày người khác làm, thấy làm mà vui. Từ ba thứ phiền não nổi dậy, đó là những trói buộc ở cõi Dục, ở cõi Sắc, ở cõi Vô sắc. Hoặc giúp cho phiền não ham muốn, hoặc giúp cho phiền não giận dữ, hoặc giúp cho phiền não ngu si. Hoặc phiền não bậc thượng, hoặc phiền não bậc trung, hoặc phiền não bậc hạ. Thân đời này hay thân đời trước đều xin sám hối, nghĩa là mọi tội ác đời này và đời trước mà mình đã làm đều xin sám hối không sót điều gì. Địa ngục bao gồm tám thứ địa ngục nóng, mười thứ địa ngục lạnh. Súc sinh là những loài hoặc sống trên đất liền, hoặc sống dưới nước, hoặc không có chân, hoặc hai chân, hoặc nhiều chân. Ngạ quỷ là loài ăn các loại đờm dãi khạc nhổ, mửa ra, nước cặn rửa ráy, máu mủ, phân nước tiểu… Nếu mình tạo nghiệp tương ưng với ba đường ác, thì phải nhận lấy quả báo làm thân ngạ quỷ. Tôi nguyện khiến cho thân này nhận chịu quả báo trong hiện tại vì tội lỗi đã tạo, hoặc thân đời sau nhận chịu quả báo mà không phải nhận chịu ở trong chốn địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Lại nữa, Phật tự nói pháp sám hối nếu Bồ-tát muốn sám hối tội, tội lỗi thì nên phát ra lời nói như vậy: Nay con hướng về Chư Phật đã chứng được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác hiện tại an trú trong mười phương thế giới, Chư Phật đang chuyển pháp luân, rưới làn mưa pháp, gióng lên tiếng trống pháp, thổi vang tiếng loa pháp, dựng cao cột cờ pháp, dùng giáo pháp bố thí đầy đủ cho mọi chúng sinh, mang lại nhiều lợi ích-nhiều an lạc, thương xót thế gian lợi 1ich thêm cho tất cả trời người. Nay con dùng thân-miệng-ý, cúi đầu lễ lạy dưới chân Chư Phật hiện ạti. Những gì mà Chư Phật thấy biết đều là đôi mắt của thế gian, là ngọn đèn của thế gian. Con từ vô thỉ sinh tử đến nay đã gây ra tội lỗi nghiệp chướng, bị tham dục giận ngu si thúc bách hoặc là không biết Phật-pháp-tăng, hoặc không biết tội phước, hoặc thân miệng ý gây ra nhiều điều tội lỗi, hoặc vì ác tâm làm cho thân Phật chảy máu, hoặc hủy diệt chính pháp, phá hoại chúng Tăng, giết bậc chân nhân A-la-hán. Hoặc tự mình làm mười nghiệp đạo bất thiện, hoặc chỉ bày người khác khiến họ làm, hoặc thấy người làm mà mình vui theo. Hoặc đối với chúng sinh phát ra lời nói không hài hòa, hoặc dùng cân đong đo đếm lừa dối gian trá xâm phạm của người, dùng các tà hạnh làm não loạn chúng sinh. Hoặc bất hiếu với cha mẹ, hoặc trộm cắp đồ vật trong tháp và vật dụng của Tứ phương tăng. Kinh điển giới pháp Đức Phật đã thuyết, có lúc làm cho hư hoại điều tàn, làm trái lời dạy của Hòa thượng A-xà-lê. Hoặc thấy người phát tâm Thanh văn thừa, Bích-chi-Phật thừa, hoặc người phát tâm Đại thừa, mà mình nói xấu-bôi nhọ làm nhục, chê bai-hiềm khích-oán giận-keo kiệt-ganh ghét che kín tâm tư. Đối với các bậc tôn túc thì có lúc khởi lên nói lời thô ác, hoặc nói chính pháp là phi pháp, nói phi pháp là chính pháp. Nay đem mọi tội lỗi này hướng về Chư Phật hiện tại, là những bậc thấy biết chính xác, là những bậc chứng ngộ tuyệt vời, tất cả đều phát lộ không dám che giấu, từ nay về sau không dám tái phạm. Nếu con có tội lỗi phải rơi vào trong chốn địa ngục-súc sinh-ngạ quỷ và A-tu-la, không được gặp Tam bảo, sinh ra ở những nơi hiểm nạn, nguyện vì tội lỗi này nhận chịu khổ báo ngay trong hiện tại. Như các vị Bồ tát cầu Phật đạo trong quá khứ, đã sám hối tội lỗi ác nghiệp của mình, con cũng phát lộ sám hối như vậy chứ không dám che giấu và sau này không sám tái phạm. Như các vị Bồ tát hiện tại cầu Phật đạo, sám hối về tội lỗi ác nghiệp của mình, con cũng phát lộ sám hối như vậy chứ không dám che giấu và sau này không dám tái phạm. Như các vị Bồ tát cầu Phật đạo trong vị lai, sám hối về tội lỗi ác nghiệp của mình, con cũng phát lộ sám hối như vậy chứ không dám che giấu và sau này không dám tái phạm. Như các vị Bồ tát cầu Phật đạo trong quá khứ-vị lai-hiện tại, sám hối về tội lỗi ác nghiệp của mình, đã sám hối-đang sám hối và sẽ sám hối, con cũng sám hối về tội lỗi ác nghiệp của mình như vậy, không dám che giấu và sau này không dám tái phạm. Hỏi: Ông đã nói về pháp sám hối, thế nào là khuyến thỉnh? Đáp: Hết thảy Chư Phật khắp mười phương, Những bậc thành đạo trong hiện tại, Con khuyến thỉnh để chuyển pháp luân, Làm cho mọi chúng sinh an lạc. Hết thảy Chư Phật khắp mười phương, Nếu như lúc sắp xả thọ mạng, Con đến trước cúi đầu lễ lạy, Khuyến thỉnh mong an trú lâu dài. Chuyển pháp luân, là thuyết về ý nghĩa của bốn Thánh đế trong ba lần chuyển mười hai tướng. Đây là khổ đế, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là đến nơi khổ diệt đạo. Đó gọi là bốn tướng của lần chuyển thứ nhất. Đây là khổ đế nên biết, đây là khổ tập nên đoạn, đây là khổ diệt nên chứng, đây là đến nơi khổ diệt đạo nên tu. Đó là bốn tướng của lần chuyển thứ hai. Đây là khổ đế đẽ biết đây là khổ tập đã đoạn, đây là khổ diệt đã chứng, đây là đạo đến nơi khổ diệt đã tu. Đó gọi là bốn tướng của lần chuyển thứ ba. Bốn tướng, là trong bốn Đế sinh ra đôi mắt trí tuệ hiểu biết rõ ràng. Có người nói: Thanh văn thừa, Bích-chi-Phật thừa và Đại thừa, đó gọi là pháp luân giải thoát. nghĩa của ba thừa này gọi là chuyển pháp luân. An lạc cho mọi chúng sinh, năm thứ dục lạc thì không gọi là an lạc, mà làm cho đời này và đời sau được an lạc thanh tịnh, tiến vào Tam thừa, đó gọi là an lạc. Người này khuyến thỉnh Chư Phật chuyển pháp luân, khiến cho các chúng sinh cảm nhận được niềm an lạc của Niết bàn. Nếu người chưa đạt được Niết bàn thì làm cho họ nhận được niềm vui của thế gian. Vì vậy nói là an lạc. Thọ mạng, là tiếp nhận nhân duyên nghiệp báo, cho nên mạng căn nối tiếp nhau được tồn tại, như mọi việc biến hóa thuận theo nghiệp của tâm mà tồn tại, tâm nghiệp dừng lại thì diệt mất. Khuyến thỉnh là chí thành cầu nguyện, Chư Phật quán xét các loài chúng sinh lớn nhỏ không khác nhau, vì vậy thỉnh cầu hy vọng được thuận như nguyện, đừng xả bỏ thọ mạng mà an trú đến vô lượng A-tăng-kỳ kiếp để độ thoát cho mọi chúng sinh. Lại nữa, Đức Phật tự nói về pháp khuyến thỉnh, Bồ tát nên nói lời như vậy: “Con kính lạy Chư Phật hiện tại trong mười phương, mới chứng được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, cho nên chưa chuyển pháp luân, nay con cầu thỉnh Chư Phật, nguyện chuyển pháp luân, giống tiếng trống pháp, thổi tiếng loa pháp, dựng cột cờ pháp, xây dựng đền thờ Đại pháp, thắp sáng ngọn đuốc đại pháp, đem pháp này ban cho tất cả chúng sinh, làm cho có nhiều ích lợi, mang lại nhiều an lạc, thương xót thế gian làm lợi ích thêm cho trời người, vì vậy nay con cung kính khuyến thỉnh”. Đó gọi là pháp khuyến thỉnh. Chư Phật chuyển pháp luân tồn tại lâu dài, thì cũng nên nói là Chư Phật hiện tại khắp mười phương. Chư Phật vào lúc sắp xả bỏ thọ mạng thì con cầu thỉnh an trú lâu dài, làm cho có nhiều ích mang lại nhiều an lạc, thương xót cho thế gian, làm ích lợi thêm cho người và trời. Hỏi: Ông đã nói về sám hối và khuyến thỉnh, thế nào gọi là tùy hỷ? Đáp: Tất cả phước bố thí có được, Thực hành trì giới và tu thiền, Sinh ra từ thân-miệng-ý thiện, Quá khứ-vị lai-nay vốn có, Người tu tập công hạnh Tam thừa, Đầy đủ phước thiện của Tam thừa, Hết thảy phước thiện của phàm phu, Đều tùy thuận sinh tâm hoan hỷ. Phước thiện bố thí, sinh ra từ sự buông xả các pháp keo kiệt. Phước thiện trì giới, sinh ra từ năng lực điều phục thân nghiệp và khẩu nghiệp. Hành thiền là tất cả các pháp thiền định. Sinh ra từ thân miệng, là nhờ vào thân miệng bố thí-trì giới, đón đến-tiễn đi… Nhờ vào ý sinh ra là Thiền định-Từ Bi… Quá khứ-vị lai-nay vốn có, là phước đức của tất cả chúng sinh trong ba đời. Công hạnh Tam thừa, là cầu pháp của Thanh văn thừa, Bích-chi-Phật thừa và Đại thừa. Đầy đủ phước thiện của tam thừa, là thành tựu về A-la-hán thừa, Bích-chi-Phật thừa và Phật thừa, tất cả những điều đã nói bao gồm đầy đủ không sót lại gì. Phàm phu là người chưa đạt được nghĩa lý của bốn Đế. Phước đức, có hai loại nghiệp là nghiệp thiện và nghiệp không ẩn một vô ký. Tùy hỷ là người khác làm phước mà mình sinh tâm hoan hỷ, khen ngợi cho là tốt lành. Hỏi: Ông đã nói về sám hối, khuyến thỉnh và tùy hỷ, thế nào là hồi hướng? Đáp: Hết thảy phước đức con có được, Tất cả đều hòa hợp như pháp, Vì lợi cho các chúng sinh, Đích thực hồi hướng về Phật đạo. Ngã là chính mình. Hết thảy phước đức, hoặc sinh ra từ thân nghiệp hoặc sinh ra từ khẩu nghiệp hoặc sinh ra từ ý nghiệp, hoặc nhờ bố thí mà có, hoặc nhờ trì giới mà có, hoặc nhờ tu thiền mà có, hoặc nhờ tùy hỷ mà có, hoặc nhờ khuyến thỉnh mà có, những phước đức như vậy và tất cả thiện hạnh còn lại, đều gọi là phước đức vốn có. Tất cả đều hòa hợp, là tâm nghó đến các phước đức tích góp quy tụ lại, tương xứng với hạn lượng mà biết rõ sự rộng lớn ấy. Các chúng sinh là tất cả chúng sinh trong ba cõi, chính là đích thực hồi hướng như Chư Phật, hồi hướng đúng như chân thật, hồi hướng về Bồ đề. Hồi hướng về Bồ đề, là các phước đức đều hồi hướng cho quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Lại nữa, tùy hỷ hồi hướng thì hai sự việc này Đức Phật cũng tự nói: Có vị Đại Bồ tát nào, muốn tùy hỷ hồi hướng thì nên nghó đến Chư Phật, đoạn trừ con đường nối tiếp nhau mãi của ba cõi, diệt hết mọi hý luận, làm khô bùn lầy của phiền não, loại bỏ mọi gai góc, vất hết những gánh nặng, đến được nơi tự lợi ích mình. chính trí giải thoát làm cho tâm được tự tại, không còn kiết sử của ba cõi vô lượng vô biên bất khả tư nghị A-tăng-kỳ thế giới khắp mười phương, trong mỗi một thế giới cũng có vô lượng vô biên bất khả tư nghị A-tăng-kỳ kiếp Chư Phật xuất thế đã diệt độ, từ lúc mới phát tâm cho đến lúc đạt được quả Phật nhập vô dư Niết bàn, đến khi giáo pháp để lại chưa diệt mất, trong quãng thời gian ấy thì hết thảy thiện căn phước đức của Chư Phật, thuận theo sáu Ba-la-mật và thọ ký cho hàng Bích-chi-Phật vốn có thiện căn; đồng thời người hàng Thanh văn có thiện, hoặc bố thí-trì giới-tu thiền, và thiện căn vô lậu của bậc học-vô học, cùng với phẩm giới-phẩm định- phẩm tuệ-phẩm giải thoát-phẩm giải thoát tri kiến của Chư Phật, Đại Từ-Đại Bi cùng vô lượng công đức,và tất cả các pháp mà Chư Phật đã thuyết ra… Ở trong các pháp này, có người nào tin hiểu tiếp nhận tu học đạt được lợi ích của pháp này, thì những người này vốn có thiện căn. Ở trong pháp này cho đến hàng phàm phu đã gieo trồng thiện căn và chư Thiên, Long thần, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, ma-hầu-la-già được nghe pháp rồi phát sinh những thiện tâm, thậm chí súc sinh nghe pháp sinh những thiện tâm. Đến lúc Chư Phật sắp nhập Niết bàn, chúng sinh đã gieo trồng thiện căn, thì những thiện căn phước đức này, tất cả đều hòa hợp tương xứng với mức lượng khiến cho không có gì sót lại, để mà tùy hỷ với tâm niệm tối thượng tối diệu tối thắng- vô lượng vô đẳng vô đẳng đẳng. Tùy hỷ rồi, dùng phước đức phát sinh do sự tùy hỷ này, hồi hướng về quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Chư Phật hiện tại và vị lai cũng như vậy. Phước đức của Chư Phật ba đời như vậy, và phước đức sinh ra nhờ Chư Phật, tâm đều tùy hỷ, hồi hướng về quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Tội lỗi nên sám hối như vậy, Phước sinh từ khuyến thỉnh-tùy hỷ, Hồi hướng về đạo quả vô thượng, Tất cả cũng thích hợp như vậy, Như những điều Chư Phật đã thuyết, Con sám hối tội lỗi-khuyến thỉnh, Tùy hỷ và hồi hướng công đức, Tất cả cũng thực hành như vậy. Từ vô thỉ đời kiếp đến nay, có vô lượng tội lỗi ngăn cản Phật đạo, cần phải sám hối ở trước Chư Phật mười phương. Khuyến thỉnh Chư Phật và tùy hỷ-hồi hướng cũng phải như vậy. Như Đức Phật đã biết-đã thấy-đã chấp nhận sám hối, con cũng sám hối-khuyến thỉnh Chư Phật như vậy, tùy hỷ và hồi hướng cũng lại như vậy. Nếu sám hối-khuyến thỉnh-tùy hỷ và hồi hướng như vậy, thì gọi là chân chính hồi hướng. Hỏi: Thế nào gọi là Chư Phật đã biết-đã thấy-đã chấp nhận sám hối-khuyến thỉnh-tùy hỷ và hồi hướng? Đáp: Sám hối và khuyến thỉnh như trước đã nói. Tùy hỷ hồi hướng, như trong kinh Đại Phẩm nói: “Tu Bồ đề thưa với Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Ngài đã thuyết về Bồ tát đối với hết thảy Chư Phật quá khứ-vị lai-hiện tại, và các đệ tử cùng tất cả chúng sinh vốn có phước đức thiện căn đều hòa hợp tùy theo hạn lượng, để tùy hỷ tối thượng. Thưa Đức Thế Tôn! Thế nào gọi là tùy hỷ tối thượng? Đức Phật bảo với Tu-bồ-đề: Nếu Bồ tát đối với các pháp Quá khứ-vị lai-hiện tại, không giữ lấy không nghó đến-không thấy-không được-không phân biệt, mà có thể tư duy như vậy: Các pháp này đều từ sự nhớ tưởng phân biệt các duyên hòa hợp mà có, tất cả các pháp thật sự không sinh ra, xưa nay không hề có, trong đó thậm chí không có một pháp nào đã sinh-đang sinh và sẽ sinh, không có pháp nào đã diệt-đang diệt và sẽ diệt, tướng của các pháp như vậy, mình tùy hỷ thuận với tướng của các pháp. Tùy hỷ rồi cũng thuận theo thật tướng của các pháp mà hồi hướng về đạo của Vô thượng chính đẳng chính giác. Đó gọi là tùy hỷ hồi hướng tối thượng. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Người thiện nam-người thiện nữ nào mong cầu Phật đạo, không muốn bài báng Phật, nên dùng thiện căn hồi hướng như vậy, nên dấy lên ý niệm như vậy: Như tâm Chư Phật-trí Phật-mắt Phật, thấy biết Thể tướng đầu đuôi của thiện căn phước đức này từ đâu mà có, mình cũng như vậy tùy hỷ thuận theo sự thấy biết của Chư Phật, như Chư Phật đã chấp nhận, mình cũng như vậy đem thiện căn mà hồi hướng. Nếu Bồ tát hồi hướng như vậy, thì không bài báng Chư Phật, cũng không có tội lỗi gì, tâm tin hiểu sâu sắc hồi hướng đúng như thật, đó gọi là hồi hướng rộng lớn-hồi hướng đầy đủ. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Người thiện nam-người thiện nữ nào đem các thiện căn phước đức thuận theo hồi hướng như vậy, như các bậc Hiền Thánh đầy đủ phẩm giới-phẩm định-phẩm tuệ-phẩm giải thoát-phẩm giải thoát tri kiến; không hệ thuộc cõi Dục, không hệ thuộc cõi sắc, không hệ thuộc cõi Vô sắc; không thuộc về quá khứ, không thuộc về vị lai, không thuộc về hiện tại. Bởi vì không hệ thuộc ba cõi, cho nên sự hồi hướng này cũng không hệ thuộc như vậy, mọi nơi đã hồi hướng cũng không hệ thuộc. Nếu Bồ tát có thể như vậy đạt được tâm tin hiểu đúng như thật, thì gọi là hồi hướng không sai lạc-hồi hướng không tổn hại-hồi hướng theo pháp tính. Nếu Bồ tát đối với sự hồi hướng này mà tham đắm giữ lấy tướng, thì gọi là hồi hướng sai lạc. Vì vậy các vị Đại Bồ tát, nên giống như Chư Phật mà biết rõ tướng của pháp, để hồi hướng về tướng của pháp này, có thể đến được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, đó gọi là hồi hướng chính xác”.  <卷>QUYỂN 6 <詞>Phẩm 11: PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC Hỏi: Sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng thực hiện như thế nào, trong một ngày đêm thực hành mấy thời? Đáp: Dùng gối bên phải quỳ sát đất, Trệch áo bày vai bên tay phải, Chắp hai tay tâm thật cung kính, Trong một ngày đêm hành sáu thời. Để tỏ lòng cung kính nên quỳ đầu gối bên phải chấm đất, để hở vai bên phải và chắp tay. Cách lễ ấy phải làm vào thời lễ đầu hôm, kính lạy hết thảy chư Phật, sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng. Giữa đêm và gần sáng cũng làm như vậy. Ban ngày thì buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều cũng làm như vậy. Cả ngày đêm là sáu thời, một lòng nhớ đến chư Phật như ở ngay trước mặt mình. Hỏi: Thực hành như vậy rồi được quả báo gì? Đáp: Nếu như thực hành dù một thời, Phước đức mà thật có hình tướng, Thì thế giới như cát sông Hằng, Cũng không thể nào chứa hết được. Thực hành như vậy trong một thời mà phước mình có được, nếu như có hình tướng thì ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng, vô lượng vô biên không thể nghó bàn vẫn không chứa hết. Như trong phẩm Trừ Tội Nghiệp của kinh Tam Hữu có nói: “Phật bảo Xá- lợi-phất: Nếu có người thiện nam-người thiện nữ nào đem bảy báu đầy ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng, bố thí cho chư Phật, nếu lại có người khuyến thỉnh chư Phật Chuyển pháp luân, thì phước đức của người này lại vượt xa phước bố thí kia”. Lại nữa, như phẩm Tùy Hỷ Hồi Hướng trong kinh Bát Nhã Ba La Mật nói: “Hay lắm! Hay lắm! Này Tu-bồ-đề! Thầy có thể làm việc Phật, nói cách hồi hướng cho các Bồ-tát . Nếu Bồ-tát nghó như vậy: Như chư Phật đã thấy biết về thể tướng, gốc ngọn phước đức căn thiện này do đâu mà có mình cũng như vậy thuận theo sự thấy biết của chư Phật mà hồi hướng. Người này được nhiều phước, ví như chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng đều thành tựu được mười thiện đạo, thì phước đức mà Bồ-tát hồi hướng sẽ cao tột hơn hết, rất tốt đẹp không gì bằng, không gì có thể đem so sánh. Thầy Tu-bồ- đề! Nếu chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng, thành tựu mười thiện đạo; hoặc chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng đều được Tứ thiền, phước ấy so với phước hồi hướng này, thì hồi hướng vẫn là tối thắng-tối diệu-tối thượng. Bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-Phật đạo, cũng lại như vậy, pháp hồi hướng là phước đức tối thắng-tối diệu- tối thượng. Thầy Tu-bồ-đề! Nếu chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng, đều thành Bích-chi-Phật, hoặc có chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng, đều phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác; lại có chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng, trong ấy có một Bồ-tát đem tâm chấp tướng, cúng dường các chúng sinh này những y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc thang, trải qua vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng, dùng mọi thứ âm nhạc cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, mỗi một Bồ-tát đều làm như vậy. Thầy Tu-bồ-đề nghó sao? Các Bồ-tát ấy do nhân duyên này có nhiều phước đức không? Thầy Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn! Phước rất nhiều. Phước đức nhiều như vậy cho nên không thể tính số hay lấy thí dụ mà nói đến được, nếu phước đức này có hình tướng thì thế giới nhiều như cát sông Hằng cũng không thể nào tiếp nhận hết được. Đức Phật bảo với Tu-bồ-đề: Hay lắm, hay lắm! Thầy Tu-bồ-đề! Bồ tát này vì giữ gìn Bát-nhã Ba-la-mật, dùng thiện căn hồi hướng thuận theo pháp tính mà được phước đức, các Bồ tát trước chấp tướng phước đức của bố thí, trăm phần không bằng một, ngàn phần-vạn phần- trăm ngàn vạn ức phần, cho đến toán số bố thí cũng không thể nào sánh kịp. Tại vì sao? Bởi vì các Bồ tát trước chấp tướng phân biệt Bố thí, đều là phước đức có hạn lượng-có tính đếm.” Lại nữa, trong phẩm Hồi hướng của kinh Bát Nhã Ba La Mật, Phật bảo Thiên tử Tịnh Cư: Giả sử chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng, đều phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác còn có chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng, mỗi một Bồ-tát dùng tâm chấp tướng cúng dường các chúng sinh này những y phục, đồ ăn uống, giường nằm, thuốc thang, và các vật dụng riêng tư, tùy ý cúng dường trong số kiếp nhiều như cát sông Hằng. Này các Thiên tử! Nếu chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng này đều phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác. Ngoài ra, còn có chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng, cũng đều phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác, trong số đó có một Bồ-tát cúng dường cho những Bồ-tát này về y phục, đồ ăn uống, giường nằm, thuốc thang, các đồ dùng cá nhân cần thiết, trải qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, là bố thí mà phân biệt chấp tướng. Như vậy, các Bồ-tát đều trải qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, cúng dường cho các Bồ-tát này những thứ cần dùng như y phục, đồ ăn uống, giường nằm, thuốc thang, tùy ý cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi, đều là bố thí chấp tướng. Nếu Bồ-tát được che chở từ Bát nhã Ba-la-mật mà thực hành những phẩm Giới-định-tuệ, phẩm Giải thoát, phẩm Giải thoát tri kiến của chư Phật ở quá khứ-hiện tại-vị lai và năm phẩm Thanh văn, cho đến những người phàm phu gieo trồng căn thiện trong ấy, hoặc đã trồng-đang trồng-sẽ trồng. Hết thảy đều hòa hợp, tương ưng với số lượng, không còn rơi sót chút nào, thì phước đức tùy hỷ đó là tối thắng-tối diệu-tối thượng, không gì bằng, không gì có thể so sánh, không thể nghó bàn. Đem phước đức ấy hồi hướng về Vô thượng chính đẳng chính giác, rồi nghó như vậy: Phước đức này của mình, có thể đến Phật đạo. Phước đức này so với phước đức chấp tướng trước kia, thì phước trước kia trong trăm phần không được một, ngàn-vạn phần-ức phần cho đến toán số thí dụ cũng không tính được. Vì sao? Vì những Bồ-tát ấy bố thí mà còn chấp tướng, còn phân biệt. Lại có chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng, đều phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác, thân-miệng- ý đều làm nghiệp thiện. Lại có chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng, đều phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác. Nếu người nào trải qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, đều có khả năng chịu đựng, nhẫn nhịn trước những lời mắng nhiếc ác độc trải qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, thân tâm tinh tiến, trừ bỏ mọi sự lười nhác, nhiếp tâm vào thiền định không còn các ý tưởng rối loạn mà đều chấp lấy tướng thì không bằng Bồ-tát hồi hướng như pháp tính, phước hồi hướng ấy là hơn hẳn. Vì vậy như ông nói trước đây, làm sự việc như vậy có được lợi ích như thế nào? Đạt được phước đức tích tụ to lớn như vậy. Vì vậy, nếu người nào muốn có được phước đức tích tụ vô lượng vô biên không thể nghó bàn như vậy, thì cần phần thực hành theo pháp sám hối khuyến thỉnh-tùy hỷ-hồi hướng này, không tiếc thân mạng-lợi dưỡng-danh tiếng, ở trong ngày đêm thường thuận theo chịu khó thực hành. Hỏi: Ông chỉ nói đến phước đức trong khuyến thỉnh-tùy hỷ-hồi hướng, vì sao không nói đến phước đức trong sám hối vậy? Đáp: Phước đức sám hối lớn nhất trong các phước đức, vì nghiệp chướng tội lỗi bị diệt trừ, khéo thực hành được hạnh Bồ-tát, làm cho khuyến thỉnh-tùy hỷ-hồi hướng cùng hòa hợp không có gì khác với Không-Vô tướng-Vô nguyện. Lại nữa, sám hối ví như ngọc báu Như ý tùy nguyện đều đạt được, như Phật đã nói: “Nếu ai muốn sinh trong dòng Bà-la-môn uy thế lớn, sinh trong dòng Sát-đế-lợi uy thế lớn, sinh trong nhà Cư só uy thế lớn, thì nên sám hối nghiệp tội như vậy, không được che giấu tội lỗi, nguyện về sau không dám tái phạm. Nếu có người muốn sinh lên các cõi trời Tứ Thiên vương, Đao-lợi, Dạ-ma, Đâu-suất-đà, Hóa-lạc, Tha-hóa-tự- tại, thì cũng nên như vậy mà sám hối nghiệp tội, không được che giấu tội lỗi nào, về sau không dám tái phạm. Nếu người muốn sinh lên cõi Phạm, cho đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng, thì người này cũng nên như vậy mà sám hối nghiệp tội, không được che giấu tội nào, về sau không dám tái phạm. Nếu người muốn được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A- na-hàm, A-la-hán, thì cũng nên như vậy mà sám hối nghiệp tội. Nếu người muốn được ba minh-sáu thông và sức lực tự tại trong đạo Thanh văn, cùng tận công đức Thanh văn để đến bờ bên kia, thì cũng nên như vậy mà sám hối nghiệp tội. Nếu người muốn được đạo Bích-chi-Phật thì cũng nên như vậy mà sám hối tội nghiệp. Nếu người muốn được Nhất thiết trí, trí tuệ không thể nghó bàn, trí tuệ vô ngại, trí tuệ vô thượng, thì cũng nên như vậy mà sám hối nghiệp tội, không được che giấu tội nào, về sau không dám tái phạm”. Vì vậy nên biết sám hối có được phước báo rất lớn. Hỏi: Ông nói sám hối trừ nghiệp, diệt nghiệp chướng tội lỗi trong kinh khác nói: “Phật bảo A-nan: Cố ý gây ra nghiệp thì chắc chắn sẽ nhận chịu báo ứng”. Còn trong A-tỳ-đàm nói: “Nhân duyên của mọi nghiệp không phải không có, cho nên quả báo không mất và không hoại diệt”. Lại trong kinh nói: “Chúng sinh đều ràng buộc do nghiệp, đều do nghiệp mà có, nương tựa vào nghiệp này, chúng sinh tùy theo nghiệp đều tự mình nhận chịu quả báo, hoặc hiện báo, hoặc sinh báo, hoặc hậu báo”. Lại trong kinh Nghiệp Báo, vua Diêm-la vì chúng sinh mà nói: “Ôi, chúng sinh! Tội này của các ngươi không phải do cha mẹ làm, không phải trời làm, hay Sa-môn, Bà-la-môn làm, mà chính các ngươi gây ra thì tự mình phải nhận lấy quả báo”. Lại trong bài kệ Hiền Thánh nói: trừ. Pháp chân thật giống như kim cang, Tướng của nghiệp lực không hơn được, Nay Ta đã chứng được đạo quả, Mà nhận chịu khổ báo ác nghiệp, Lại Đức Phật tự nói: Biển rộng cùng với những núi non, Gò đồi-cây cối và rừng rậm, Đất-nước-gió-lửa cùng vạn vật, Trời-trăng-tinh tú với hư không, Nếu đến lúc kiếp hoại bùng cháy, Đều diệt hết không còn lại gì, Nghiệp lực trải qua vô lượng kiếp, Thường tồn tại mà không mất đi. Ông gặp được người đầy đủ tướng, Nhất thiết trí bậc thầy của người, Tội nghiệp do đời trước tạo ra, Đã đền trả quả báo của mình, Nay tuy là được gặp Đức Phật, Cấu trược không còn-chứng quả Thánh, Bởi vì nhân duyên còn sót lại, Nên như dằm cây vẫn trong thân. Vì vậy không nên nói là sám hối thì tội lỗi nghiệp chướng tiêu Đáp: Tôi không nói sám hối thì nghiệp tội diệt hết không còn có quả báo. Tôi nói sám hối thì tội từng lúc sẽ mỏng đi. Vì vậy cho nên sám hối. Trong bài kệ nói: “Nếu phải chịu quả báo trong ba đường dữ thì nguyện nhận chịu trong thân hiện tại.” Còn trong kinh Như Lai Trí Ấn nói: “Đức Phật bảo với Di lặc: Các Bồ tát đối với đạo Vô thượng chính đẳng chính giác phát tâm hết sức quý trọng và ưa thích, có tội lỗi nhận chịu báo ứng ở đường ác thì tội lỗi giảm nhẹ, đời sau nhận chịu hình hài xấu xí, hoặc nhiều bệnh tật, không có uy đức, sinh trong nhà thấp kém, trong nhà nghèo thiếu, trong nhà tà kiến, trong nhà tự nuôi sống bằng tà nghiệp, sinh ở nơi trái ý, nơi lắm điều ưa sầu; đất nước bị tàn phá, thôn làng bị tàn phá, nhà ưa bị tàn phá, mọi thứ yêu quý bị tàn phá. Không gặp được thiện tri thức, luôn luôn không được nghe pháp, không có được lợi dưỡng. Nếu có được thì chỉ là loại tồi tệ, thường không cung cấp đủ cho mình, có thể làm cho hạng thấp kém tin tưởng kính trọng, đối với các bậc Đại nhân không có được sự tin tưởng kính trọng. Lúc tu tập những phước thiện, có nhiều chướng ngại không được thành tựu. Các căn tối tăm chậm chạp, tu tập thiền định thì ý tán loạn, không đạt được công đức của giác ý vô lậu, không biết kinh pháp để thuận theo hướng đến cho thích hợp, cho đến gặp ác mộng đền trả báo ứng trong đường ác.” Lại nữa, Phật nói: “Ai có tội nhỏ thì ngay đời này phải nhận quả báo. Nếu tội này trở nên nhiều thì phải đọa vào địa ngục”. Tại sao người đó ở đời này chỉ có tội nhẹ, mà trở thành tội nhiều để rơi vào địa ngục? Có người không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu tuệ, không có ý chí lớn, thì kẻ ấy, dù mắc tội nhỏ, cũng rơi vào địa ngục. Tại sao người này có tội ở đời này phải chịu quả báo? Tội không tăng thêm thì không đọa vào địa ngục. Có người tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ, có ý chí lớn, không có tâm cố chấp, người như vậy có tội nhưng tội sẽ không tăng thêm cho nên chịu quả báo ngay đời này. Ví như người lấy đồ đựng nhỏ chứa đầy nước, rồi bỏ vào đó một thăng muối thì không thể uống được. Nếu lại có người đem một thăng muối đổ vào hồ rộng thì vẫn không cảm thấy vị mặn, huống là không uống ư? Tại vì sao? Bởi vì nước nhiều mà muốt ít, tội lỗi cũng như vậy. Kệ nói: Thăng muối trút vào trong biển rộng, Vị của biển không có gì khác, Nếu bỏ vào om nhỏ ít nước, Thì mặn chát không thể uống được. Như người tích lũy nhiều phước thiện, Mà có một chút nhỏ tội ác, Không thể rơi vào trong đường ác, Duyên còn lại mà chịu báo nhẹ. Còn đối với người phước đức ít, Mà có một chút nhỏ tội ác, Bởi vì tâm chí thật nhỏ nhoi, Tội lỗi khiến rơi vào đường ác. Nếu như người sức nóng suy yếu, Ăn một chút thức ăn khó tiêu, Người này tuy là không chết được, Mà thân thể chịu nhiều khổ sở. Nếu như người thân thể khỏe mạnh, Ăn một chút thức ăn khó tiêu, Người này cuối cùng không chết được, Chỉ nhận chịu đôi chút khổ sở. Lửa phước thiện-trí tuệ kém cỏi, Mà có một chút ít tội ác, Tội lỗi này không ai cứu được, Có thể khiến rơi vào địa ngục. Người có nhiều phước thiện công đức, Tuy có làm điều gây tội ác, Mà không khiến rơi vào địa ngục, Thân hiện tại nhận chịu nhẹ nhàng. Ví như Ương-quật-ma-la ấy, Giết chết rất nhiều người vô tội, Lại muốn giết hại mẹ và Phật, Đạt được đạo quả A-la-hán. Đời này nhận quả báo nhẹ cũng như vua A-xà-thế giết cha, là người đắc đạo. Bởi vì nhân duyên gặp Phật và Văn-thù-sư-lợi cho nên tội nặng của ông chỉ nhận chịu nhẹ nhàng. Lại như người rắn độc sinh ra thì trời luôn mưa máu, sau dần lớn lên khi có ý muốn giết người, mắt nhìn vào lập tức chết liền, hoặc dùng hơi thở phun ra cũng làm chết người. Vì vậy người lúc ấy gọi là kẻ hà hơi chết người. Lúc này mạng chung, Xá-lợi-phất đi đến chỗ ấy, trong tâm người này giận dữ đưa mắt nhìn không chết, hà hơi cũng không chết. Xá-lợi-phất phương tiện hiện bày ánh sáng trên sắc thân, tâm người ấy liền được thanh tịnh, nhìn Xá-lợi-phất từ trên xuống dưới bảy lần. Nhờ nhân duyên này sau khi mạng chung, bảy lần sinh lên cõi trời, bảy lần sinh trong loài người. Về sau, lúc con người thọ bốn vạn tuổi, sẽ đạt được đạo quả Bích-chi-Phật, thân màu vàng ròng. Người lúc ấy gọi là khối vàng đến. Muốn chặt lấy vàng thì liền mạng chung nhập Niết bàn. Lại như vua A-thâu-già đưa binh đánh nước Diêm-phù-đề, giết chết một vạn tám ngàn cung nhân. Nhưng đời trước ông đã cúng đất cho Phật, xây tám vạn ngôi tháp, thường nghe kinh pháp nơi bậc A-la-hán, nên về sau ông chứng quả Tu-đà-hoàn. Thân ông chỉ đền chút tội nhẹ. Những tội ác như vậy phần nhiều nhờ làm phước đức với ý chí rộng lớn, các phước đức này tích tụ thêm nhiều cho nên không bị đọa vào đường dữ. Vì vậy, trước đây ông hỏi vặn là nếu sám hối nghiệp tội thì diệt hết không còn quả báo, nói vậy là không đúng. Mặt khác, nếu nói tội không thể tiêu diệt thì trong Tỳ-ni, Phật nói: Sám hối tiêu trừ tội, thì không thể tin? Điều này không phải như vậy. Vì vậy mắc tội lỗi nghiệp chướng thì nên sám hối. ------------------- <詞>Phẩm 12: PHÂN BIỆT BỐ THÍ, Phần 1 Bồ-tát có năng lực thực hành sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng như vậy. Sức mạnh phước đức càng tăng lên, Tâm cũng thêm nhu hòa mềm mỏng, Chính là tin vào công đức Phật, Và công hạnh lớn của Bồ tát. Bồ tát này nhờ vào sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng cho nên phước lực càng tăng lên, tâm điều hòa mềm mỏng, đối với vô lượng công đức thanh tịnh bậc nhất của Chư Phật, hàng phàm phu vốn không tin được mà Bồ tát luôn luôn tin nhận, và Đại hạnh thanh tịnh của các Bồ tát cùng với việc khó làm hiếm có mà cũng luôn luôn tin nhận. Lại nửa: Tất cả mọi chúng sinh khổ não, Không có pháp thanh tịnh xấu xa, Đối với họ sinh lòng thương xót, Mà phát tâm Từ Bi sâu sắc. Bồ tát tin tưởng vô lượng công đức thanh tịnh hết sức sâu xa bậc nhất của Chư Phật và Bồ tát, mà thương xót cho các chúng sinh, không có công đức này chỉ bởi vì các tà kiến mà nhận chịu các loại khổ não, cho nên sinh tâm Bi cảm sâu sắc. Nghó đến những chúng sinh như vậy, Đang chìm trong bùn lầy khổ não, Mình nên cứu giúp kéo họ ra, Làm cho đến được nơi an ổn. Bồ tát này có được tâm Bi rồi dấy lên nghó như vậy: Những chúng sinh này thường bị tham-sân-si làm cho thành căn bệnh, mà thân tâm phải chịu mọi nỗi khổ não, mình nên cứu giúp khiến cho thân tâm xa lìa vũng bùn sâu của khổ não, chấm dứt không còn tai họa của sinh già bệnh chết, được trú trong xứ sở an ổn của niềm vui Niết-bàn. Vì vậy đối với chúng sinh khổ não này mà phát sinh tâm Bi sâu sắc. Nhờ vào tâm Bi cho nên tiến hành cầu mong tùy ý khiến được an lạc, thì gọi là tâm Từ. Nếu Bồ tát suy nghó như vậy, Hết sức thuận theo tâm Từ Bi, Đoạn tuyệt hết thảy mọi tham tiếc, Chịu khó tinh tiến hành bố thí. Bồ tát là người mong cầu Phật đạo, cứu độ chúng sinh đang khổ não. Niệm là thuận theo, có nghĩa là tùy thuận với tâm Từ Bi chứ không thuận theo tâm niệm nào khác. Lòng Từ sâu sắc là tình thương bao phủ khắp nơi, nghó đến các chúng sinh cùng tận xương tủy. Vật vốn có là tất cả đồ vật trong và ngoài thân, hết thảy vàng bạc-châu báu-quốc thành- vợ con… Tham là mong muốn có được không hề chán tiếc là yêu quý giữ chặt không muốn cho người khác. Đoạn là lìa bỏ hài tâm lý xấu xa này, như vậy thì mở toang cánh cửa bố thí Ba-la-mật. Vì vậy thường xuyên phải dốc lòng chịu khó thực hành không để cho phóng túng. Tại vì sao? Bởi vì Bồ tát dấy lên ý niệm như vậy! Nay mình thuận theo năng lực của mình làm lợi ít cho chúng sinh, phát tâm thực hành bố thí kiên cố. Tất cả mọi đồ vật vốn có, Có mạng hoặc không có mạng sống, Ngôi vị của Chuyển luân Thiên vương, Không có ai xin mà không cho, Ngay cả con cái trai hay gái, Thê thiếp xinh đẹp giòng họ lớn, Tuổi trẻ rất đoan chính nghiêm trang, Khôn khéo tự mình hầu hạ người, Tâm cung kính thuận thảo nhu hòa, Tình thương nghó đến thật thiết tha, Mạng sống là điều tiếc hơn hết, Người cầu thì đều có thể cho. Cho đến máu thịt trên thân thể, Xương tủy và tay chân đầu mặt, Mắt tai mũi lưỡi cùng mọi thứ, Thân mạng này đều luôn luôn cho. Bồ tát này trong tâm quyết định hành hạnh bố thí, tất cả mọi vật vốn có ngoài thân, hoặc có mạng sống hoặc không có mạng sống, không có ai xin mà không cho. Vật không có mạng sống là vàng bạc châu báu, cho đến ngôi vị Chuyển luân Thánh vương, ngôi vị thiên vương. Vật có mạng sống là con trai con gái dòng họ cao quý, thê thiếp trẻ trung gia đình tốt lành, đoan nghiêm nhu hòa cung kính hiếu thuận, yêu quý thiết tha hơn cả chính thân mạng của mình mà có thể bố thí cho người, như Bồ tát Nhất thiết Thí vốn có vật bên ngoài và vợ con… đều tự mình luôn luôn bố thí. Bồ tát này ngay cả máu thịt đầu mắt tai mũi tay chân trên thân thể mình đều đem bố thí, cắt thịt lòi xương-đập xương lấy tủy, như Tát-bà-đa-luân, hoặc đem cả thân mạng mà bố thí. Tất cả mọi thứ yêu quý không có gì hơn thân mạng, Bồ tát cũng có thể bố thí như Tát-hòa- đàn. Như Bồ tát làm loài Thỏ đem thân bố thí cho Tiên nhân, như vua Thi-tỳ lấy thân mình thế cho chim bồ câu. Hỏi: Bồ tát này bởi vì phân biệt biết rõ bố thí và quả báo của Bố thí, cho nên có thể đem bố thí những điều khó bố thí, hay là chỉ vì tâm Từ bi mà phát nguyện bố thí? Đáp: Người thực hành bố thí như vậy, Thì cảm được quả báo như vậy, Bên trong dùng các phần thân thể, Cùng với những vật khác bên ngoài. Vật bên trong là đầu, mắt, tay, chân. Vật bên ngoài là vợ con, vàng bạc, vật báu… Bồ-tát này biết như thật về việc bố thí. Sự chứng đắc này hay quả báo này, tất cả đều phân biệt rõ ràng. Hơn nữa, lại tin tưởng ở các kinh đã nói, hoặc dùng thiên nhãn mà biết được. Hỏi: Trước đây ông nói về biết đem thân mạng bố thí và vật bên ngoài để bố thí mà cảm được quả báo, nay có thể nói về quả báo đạt được chăng? Đáp: Trong nghĩa bố thí Ba-la-mật ở phẩm thứ ba mươi là phẩm Vô tận Ý Bồ tát trong kinh Bảo Đảnh nói: “Bồ tát lập nguyện: Ai cần thì cho ăn, khiến cho mình đạt được năm sự báo ứng. Được sống lâu. Được chăm sóc. Được vui vẻ. Được sức mạnh. Được sắc tướng. Ai cần nước cháo cho nước cháo, thì trước tiên ở trong loài người được uống nước thơm ngọt, về sau được trừ diệt mọi khát ái phiền não. Ai cần xe cho xe, thì được báo ứng vui vẻ tùy ý, thành tựu bốn như ý túc, về sau đạt được đạo quả Tam thừa. Ai cần áo quần cho áo quần, thì cảm được báo áo quần tàm quý. Ai cần đèn sáng cho đèn sáng, thì cảm được báo Phật nhãn sáng suốt. Ai cần kỹ nhạc cho kỹ nhạc, thì cảm được Thiên nhó đầy đủ. Ai cần hương bột hương xoa cho hương bột hương xoa, thì cảm được thân thể không hôi hám. Ai cần nước sữa cho nước sữa, thì cảm được báo biết được mọi mùi vị. Ai cần nhà cửa cho nhà cửa, thì cảm được báo làm nơi nương tựa-cứu giúp cho tất cả chúng sinh. Người bố thí vật dụng cung cấp giúp cho đời sống, thì cảm được công đức hỗ trợ Bồ đề. Người bố thí thuốc thang, thì cảm được thân không có già bệnh chết, thường vui vẻ yên ổn. Người bố thí tôi tớ, thì cảm được trí tuệ đầy đủ tùy ý tự tại. Người bố thí vàng bạc-san hô-xa cừ-mã não, thì cảm được ba mươi hai tướng đầy đủ. Người bố thí các loại đồ vật trang nghiêm cho thân, thì cảm được tám mươi vẻ đẹp trên thân hình. Người bố thí voi-ngựa-xe cộ, thì cảm được pháp Đại thừa đầy đủ. Người bố thí vườn rừng, thì cảm được đầy đủ niềm vui của thiền định. Người bố thí con trai con gái, thì cảm được sự quý trọng đối với quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Người bố thí kho thóc-kho báu, thì cảm được pháp tạng đầy đủ. Người bố thí ngôi vị vua chúa trong một đất nước-một cõi Diêm-phù-đề- một cõi tứ thiên hạ, thì cảm được địa vị Pháp vương tự tại nơi đạo tràng. Người bố thí các dụng cụ chơi đùa vui vẻ, thì cảm được niềm pháp lạc. Người đem chân bố thí, thì cảm được đôi chân giáo pháp có năng lực đi đến chốn đạo tràng. Người đem tay bố thí thì cảm được đôi tay quý báu có năng lực bố thí tất cả. Người đem tai mũi bố thí, thì cảm được thân thể đầy đủ. Người đem đôi mắt bố thí, thì cảm được pháp nhãn đầy đủ không có gì chướng ngại. Người đem đầu bố thí, thì cảm được tất cả trí tuệ, cả ba cõi vô cùng tôn kính. Người đem máu thịt bố thí, khiến cho mọi chúng sinh cảm được công hạnh kiên cố. Người đem tủy bố thí, thì cảm được thân kim cang, không có thế lực nào có năng lực hủy hoại được”. Như vậy đã mở thông về phần quả báo của bố thí. Quả báo của những loại bố thí khác cũng cần phải biết rõ. Người dùng đồ nằm bố thí, cảm được giường nằm an ổn giải thoát của ba thừa. Người dùng chỗ ngồi bố thí, thì cảm được nơi chốn không thể hủy hoại nơi đạo tràng dưới cội cây Bồ đề. Người đem vợ bố thí thì cảm được niềm pháp hỷ vui sướng. Người đem đạo lý bố thí, thì cảm được tiến vào chính đạo làm cho chúng sinh mất đi đường khổ đau của sinh tử. Người đem bè mảng bố thí, thì cảm được vượt qua các dòng chảy của tham dục, dòng chảy của Hữu, dòng chảy của kiến, dòng chảy của vô minh. Người dùng xương bố thí, thì cảm được giới kiên cố, tuệ kiên cố, giải thoát kiên cố, giải thoát tri kiến kiên cố, chúng sinh kiên cố. Người đem quyến thuộc bố thí, thì cảm được sự thành tựu vô lượng vô biên A-tăng-kỳ phước đức, quyến thuộc trời-người chung lòng thanh tịnh không có thể ngăn cản hủy hoại được. Người dùng lời khen tốt lành bố thí, thì cảm được lúc thuyết pháp trời rồng, dạ xoa, càn-thát-bà, Sa môn, Bà-la-môn đều hoan hỷ ca ngợi. Người đem kinh sách bố thí, thì cảm được chín bộ kinh tồn tại lâu dài trải qua vô lượng thời gian. Người đem giáo pháp bố thí, thì cảm được sự thông đạt tất cả các pháp, quy tập tất cả công đức. Bồ tát này thích thực hành bố thí như vậy, biết rõ bố thí thanh tịnh, biết rõ quả báo của bố thí đã cảm được nhiều ít. Vì vậy: Bố thí tiền của không hợp pháp, Cho đến trí trách mắng bố thí, Không có cách bố thí như vậy, Chỉ bố thí hòa hợp với không. Phi pháp là do làm điều ác mà có được tiền bạc. Tiền bạc là vật giúp đỡ cung cấp cho cuộc sống. Lấy điều quan trọng mà nói, dùng tiền của có được bằng ác nghiệp mà bố thí, thì Bồ tát biết sự bố thí này không thanh tịnh. Những cách bố thí không hợp pháp thuộc loại như vậy, cho đến cách bố thí mà người trí trách mắng, không phải là bố thí thanh tịnh. Bồ tát thực hành bố thí, chỉ hòa hợp các loại công đức cùng với những trí tuệ về không. Hỏi: Đã nói về bố thí tài vật có được do phi pháp, và bố thí hòa hợp cùng trí tuệ về không, hai cách bố thí này nên phân biệt rộng ra chăng? Đáp: Hai cách bố thí này, trong phẩm Vô tận ý Bồ tát Hội và trong Đàn Ba-la-mật nói: Trước hết phân biệt về công đức bố thí, đó gọi là các Bồ tát không bố thí tài vật mong cầu phi pháp. Không bố thí sự phiền muộn, khổ não cho chúng sinh. Không bố thí sự sợ hãi. Không bố thí vì cố chấp. Không bố thí khi không có mong cầu. Không bố thí không giống như đã hứa. Không bố thí vì tiếc cái tốt mà cho cái xấu. Không bố thí với tâm không sâu xa. Không bố thí với tâm dua nịnh quanh co. không bố thí với tâm giả dối. Không bố thí với tâm tổn hại đến kết quả. Không bố thí với tâm tà vạy. Không bố thí với tâm si mê. Không bố thí với tâm hỗn tạp. Không bố thí với tâm không tin giải thoát. Không bố thí với tâm mệt mỏi chán nản. Không bố thí với tâm thân cận nhờ cậy. Không bố thí với tâm hy vọng thuận theo mình. Không bố thí với tâm mong cầu gặp người có phước. Không bố thí với tâm khinh rẻ tất cả chúng sinh không phải là người có phước. Không bố thí với tâm phân biệt trì giới-phá giới hay cao thấp. Không bố thí với tâm mong cầu danh tiếng. Không bố thí với tâm tự cao. Không bố thí với tâm chê người hèn hạ. Không bố thí với tâm tiếc nuối sâu kín. Không bố thí với tâm hối tiếc. Không bố thí vì kêu gọi khẩn cấp. Không bố thí với tâm xấu xa hèn hạ. Không bố thí pháp theo cách tự nhiên. Không bố thí với tâm mong cầu quả báo. Không bố thí với tâm giận dữ. Không bố thí với tâm làm cho người khao khát chở đợi, không bố thí với tâm làm phiền muộn người cầu xin. Không bố thí với tâm khinh chê đùa cợt người xin. Không bố thí với tâm lừa dối khi dễ. Không bố thí với tâm hẹn rồi trách mặt, không bố thí bằng cách ném cho. Không bố thí khi không nhất tâm. Không bố thí mà không tự tay mình trao. Không bố thí miễn cưỡng. Không bố thí tạm thời. Không bố thí rồi chấm dứt. Không bố thí vì tranh hơn người. Không bố thí với tâm khinh thường đồ vật. Không bố thí vì người cầu xin, tùy ý bừa bãi mà đưa cho vật đã bị gạt bỏ. Không bố thí không hợp với khả năng. Không bố thí với tâm không phải là phước điền. Không bố thí với tâm thấp kém cỏi vì một ít đồ vật. Không bố thí với tâm kiêu căng cậy vào nhiều đồ vật. Không bố thí với tâm tà hạnh. Không bố thí với tâm vui thích thọ thân đời sau. Không bố thí với tâm cậy thế sắc tộc giàu sang. Không bố thí với tâm mong cầu sinh lên cõi trời Tứ vương Thích Phạm. Không bố thí với tâm mong cầu Thanh văn thừa và Bích-chi-Phật thừa. Không bố thí với tâm mong cầu Quốc vương, vương tử. Không bố thí với tam hạn định trong một đời. Không bố thí với tâm thỏa mãn, không bố thí mà không hồi hướng về Tá-bà-nhã. Không bố thí với tâm bất tịnh. Không bố thí không hợp thời cơ. Không bố thí dao gậy độc hại. Không bố thí với tâm làm phiền muộn, đùa cợt chúng sinh. Không bố thí sai trái mà người trí đã chỉ bày quở trách. Như vậy đã nêu ra rõ ràng về phần bố thí, những loại bố thí bất tịnh khác cũng cần phải biết. Đó là các Bồ tát không bố thí đồ vật đang vất bỏ. Không bố thí cho hạng oán ghét Niết-bàn. Không bố thí cho người giàu có dễ dàng có được vật dụng. Không bố thí tùy theo ân tình. Không bố thí với tâm trả ơn. Không bố thí với tâm mong cầu báo đáp. Không bố thí với tâm mong cầu che chở không bố thí với tâm mong cầu điều tốt lành. Không bố thí với tâm kiêu mạn. Không bố thí theo cách truyền thống gia đình. Không bố thí với tâm nhờ cậy được liền. Không bố thí với tâm không thực hành suốt đời. Không bố thí với tâm cấu trược. Không bố thí với tâm đùa vui. Không bố thí vì người ấy là thiện tri thức. Không bố thí với tâm khinh khi. Không bố thí với tâm đùa cợt phóng túng. Không bố thí vì mất mát. Không bố thí vì mình được khen. Không bố thí vì bị trách mắng. Không bố thí vì bị nguyền rủa . không bố thí vì được khen là chuyện hiếm có. Không bố thí vì làm sáng tỏ niềm tin của mình. Không bố thí vì sợ hãi. Không bố thí với tâm lừa dối. Không bố thí vì mong cầu quyến thuộc. Không bố thí với tâm không dẫn dắt. Không bố thí với tâm dẫn dụ mọi người. Không bố thí với tâm không tin. Không bố thí với tâm không có nhân duyên. Không bố thí tùy ý. Không bố thí với tâm thể hiện kỳ lạ. Không bố thí với tâm tự khen ngợi mình. Không bố thí với tâm không thuận theo mong cầu. Không bố thí vì chèn ép người khác bố thí. Không bố thí với tâm không yêu quý. Không bố thí vật không được sử dụng. Không bố thí với tâm không cung kính. Không bố thí với tâm thấp hèn. Không bố thí vì tướng trạng kỳ lạ. Không bố thí với tâm chèn ép. Không bố thí với tâm dựa thế mạnh có được đồ vật. Không bố thí với tâm không thanh tịnh. Không bố thí với tâm nghi ngờ. Không bố thí với tâm phá hoại người cầu xin. Không bố thí đồ vật bị ngăn cấm. Không bố thí với tâm phân biệt. Không đem được bố thí. Không đem vũ khí gậy gộc để bố thí. Không chiếm đoạt đồ vật của người để bố thí. Không bố thí với tâm làm chong khác sinh ngờ vực. Không vì thân cận mà bố thí. Không bố thí với tâm nói về lỗi lầm của người khác. Không thuận theo những gì yêu quý mà bố thí. Không bố thí với tâm giận dữ. Không bố thí với tâm si mê. Không bố thí với tâm hý luận. không bố thí với tâm không vì Bồ đề. Hỏi: Bố thí tiền của có được từ sự mong cầu phi pháp, cho đến bố thí với tâm không vì Bồ đề, đối với Bồ tát là có hay là không có. Nếu tất cả không có thì phạm vào lỗi là không cầu phước điền, đối với tâm chúng sinh không có gì sai khác, cũng không có ý niệm tri ân và báo ân, cũng không bố thí theo truyền thống gia đình-truyền thống quốc gia. Nếu như có thì tại sao điều nói là không có? Đáp: Bố thí tiền của có được từ sự mong cầu phi pháp này, cho đến bố thí với tâm không vì bồ đề thì Bồ tát không hẳn là hoàn toàn không có, có lúc cũng có, nhưng cách bố thí này vốn không thuộc về bố thí Ba-la-mật, không có thể đầy đủ bố thí Ba-la-mật cho nên nói là không có. Bố thí hòa hợp với những công đức về không, như trong phẩm Đàn Ba-la-mật của kinh Vô tận Ý Bồ tát nói: “Bồ tát bố thí phù hợp với tâm không, cho nên không cùng tận. Bố thí này tu pháp Vô tướng cho nên không cùng tận, bố thí này bảo vệ vô nguyện cho nên, không cùng tận. Bố thí này thuộc về thiện căn cho nên không cùng tận. Bố thí này thuận theo tướng giải thoát cho nên không cùng tận. Bố thí này có năng lực phá tan tất cả các ma cho nên không cùng tận. Bố thí này không lẫn tạp phiền não cho nên không cùng tận. Bố thí này cảm được lợi ích tốt đẹp hơn cho nên không cùng tận. Bố thí này là tâm quyết định cho nên không cùng tận. Bố thí này quy tập các pháp hỗ trợ Bồ đề cho nên không cùng tận. Bố thí này đích thực hồi hướng cho nên không cùng tận. Bố thí này đạt được quả vị giải thoát nơi đạo tràng cho nên không cùng tận. Bố thí này vô biên cho nên không cùng tận. Bố thí này không thể cùng tận cho nên không cùng tận. Bố thí này không đoạn mất cho nên không cùng tận. Bố thì này rộng lớn cho nên không cùng tận. Bố thí này không thể hủy hoại cho nên không cùng tận. Bố thí này không thể hơn được cho nên không cùng tận. Bố thí này đến được tất cả trí tuệ cho nên không cùng tận. Bố thí này đoạn trừ cấu trược của những loại bố thí tài vật từ sự mong cầu phi pháp, thành tựu các công đức hòa hợp với không, cho nên không cùng tận. Những loại bố thí tài vật từ sự mong cầu phi pháp là bố thí bằng sự bố thí cấu trược; cùng với cấu trược hòa hợp là bố thích không thanh tịnh hòa hợp với các công đức của không là bố thí thanh tịnh. Lại nữa, bố thí thanh tịnh và không thanh tịnh này, nay sẽ tiếp tục nói. Kinh nói bố thí có bốn loại: Có loại bố thí, đối với người thí là thanh tịnh, không thanh tịnh đối với người nhận. Có loại bố thí, đối với người nhận là thanh tịnh, không thanh tịnh đối với người thí. Có loại bố thí, đối với người thí là thanh tịnh, đối với người nhận cũng thanh tịnh. Có loại bố thí, không thanh tịnh đối với người thí, cũng không thanh tịnh đối với người nhận. Nếu người thí thành tựu thiện nghiệp của thân miệng ý mà người nhận thành tựu ác nghiệp của thân miệng ý, thì gọi là thanh tịnh đối với người thí mà không thanh tịnh đối với người nhận. Nếu người thí thành tựu ác nghiệp của thân miệng ý người nhận thành tựu thiện nghiệp của thân miệng ý, thì gọi là thanh tịnh đối với người nhận mà không thanh tịnh đối với người thí. Nếu người thí thành tựu thiện nghiệp của thân miệng ý và người nhận cũng thành tựu thiện nghiệp của thân miệng ý, thì gọi là thanh tịnh đối với người thí mà cũng thanh tịnh đối với người nhận. Nếu người thí thành tựu bất thiện nghiệp của thân miệng ý người nhận cũng thành bất thiện nghiệp của thân miệng ý, thì gọi là không thanh tịnh đối với người thí mà cũng không thanh tịnh đối với người nhận. Tham dục-sân giận-ngu si, hoặc đoạn trừ hay không đoạn trừ, cũng nên phân biệt như vậy. Vả lại, trong bốn loại bố thí, thì có thanh tịnh hay không thanh tịnh: Thanh tịnh từ người thí. Thanh tịnh từ người nhận. Cả hai cùng thanh tịnh, thì gọi là thanh tịnh. Không thanh tịnh từ người thí. Không thanh tịnh từ người nhận. Cả hai đều không thanh tịnh, thì gọi là không thanh tịnh. Trong này, người thí có công đức cho nên từ người thí mà bố thí được thanh tịnh. Bởi vì người nhận có công đức cho nên từ người nhận mà bố thí được thanh tịnh. Bởi vì người thí và người nhận đều có công đức, cho nên từ người thí và người nhận mà bố thí được thanh tịnh. Người thí có tội lỗi cho nên từ người thí mà bố thí không thanh tịnh. Người nhận có tội lỗi cho nên từ người nhận mà bố thí không thanh tịnh. Người thí và người nhận đều có tội lỗi, cho nên từ người thí và người nhận mà bố thí không thanh tịnh. Người thí có công đức và người nhận có công đức, người thí có tội lội và người nhận có tội lỗi, như đã nói trước đây. Hỏi: Ông nói trong bốn loại bố thí này, Bồ tát nên thực hànyh loại bố thí nào? Đáp: Trong bốn loại bố thí đã nói, thực hành hai loại thí thanh tịnh, báo. Không mong cầu đối với danh lợi, và không mong cầu vì quả Bố thí này có bốn loại, ba điều kiện thanh tịnh và ba điều kiện không thanh tịnh, không thanh tịnh đều không nên thực hành. Trong thanh tịnh thì nên thực hành loại thanh tịnh: Người thí thanh tịnh mà không thanh tịnh đối với người nhận. Cả hai đều thanh tịnh. Ở trong hai loại thí thanh tịnh này cần phải luôn luôn tinh tiến. Tại vì sao? Bởi vì Bồ tát này không mong cầu quả báo, nếu như mong cầu quả báo thì cầu cho người nhận thanh tịnh. Thanh tịnh có nghĩa là người thí và người nhận đều có công đức trang nghiêm tâm tư thanh tịnh. Không thanh tịnh là người thí có tâm tham tiếc keo kiệt. Như Đức Phật nói “Keo kiệt là vết bẩn của bố thí, những phiền não khác tuy là bất tịnh nhưng mà keo kiệt là nặng nề nhất.” Hỏi: Nếu Bồ tát đối với người thí thanh tịnh và cả hai đều thanh tịnh, thì hai loại thí này cần phải chịu khó thực hành; keo kiệt là vết bẩn của người thí, cũng là vết bẩn lớn của bố thí, nếu Bồ tát chưa lìa tham dục, chưa có năng lực đoạn trừ keo kiệt, thì làm sao có thể thực hành hai loại bố thí thanh tịnh này? Đáp: Nếu vật có thể khởi keo kiệt, thì không cất giữ những vật này. Nếu Bồ tát đối với vật có mạng sống hay không có mạng sống, biết tâm mình sinh ra keo kiệt thì không nên cất giữ vật này. Vì vậy có mà bố thí đều không còn tâm keo kiệt tham tiếc. Hỏi: Vật bên ngoài có thể không cất giữ, còn thân mạng nên làm thế nào? Đáp: Thường vì lợi ích của chúng sinh, hiểu rõ thân này như cây thuốc. Vì lợi ích của chúng sinh, cho nên tin và hiểu rõ thân này giống như cây thuốc. Như cây thuốc thì mọi chúng sinh có sử dụng rễ thân cành lá hoa quả đều được chữa lành mọi căn bệnh tùy ý mà lấy chứ không có gì ngăn cản bảo vệ. Bồ tát cũng như vậy, vì lợi ích của chúng sinh cho nên luôn luôn tự mình xả thân, dấy lên ý nghó như vậy: Nếu chúng sinh lấy đầu mắt tay chân, xương gân đùi vế, ruột gan tim phổi, mũi tai răng lưỡi, mấu thịt xương tủy… của mình, thì đều thuận theo những gì cần dùng để luôn luôn giúp cho họ, hoặc bố thí tất cả thân mình. Hàng phục tâm tư, tu tập thiện căn như vậy, làm phương tiện mà che chở để thực hành công hạnh bố thí Ba-la-mật. ---------------------------- <詞>Phẩm 12: PHÂN BIỆT BỐ THÍ, Phần 2 Bố thí có tổng tướng-biệt tướng, Tất cả đều có thể hồi hướng. Bồ-tát có khả năng thực hành hai loại tịnh thí trên cho nên có khả năng biết hai loại hồi hướng: Tướng chung (tổng tướng) và tướng riêng (biệt tướng). Tổng tướng hồi hướng là có bố thí được những gì, Bồ-tát đều hồi hướng về Vô thượng chính đẳng chính giác. Biệt tướng bố thí thì như trong quả báo bố thí đã nói. Lại nữa, tổng tướng hồi hướng là vì sự an lạc, lợi ích cho hết thảy chúng sinh. Biệt tướng hồi hướng là nếu có ai không tin thì giúp họ tin. Với kẻ phá giới giúp họ trì giới. Với kẻ ít học giúp họ học rộng. Với người làm biếng giúp họ siêng năng. Người tâm rối loạn, giúp họ thiền định. Ai ngu si giúp họ có trí tuệ. Ai keo kiệt giúp họ có lòng xả bỏ. Đó là các loại biệt tướng. Lại nữa, tổng tướng hồi hướng là dùng sáu pháp Ba-la-mật hồi hướng Vô thượng chính đẳng chính giác. Hồi hướng theo tướng riêng là khi bố thí vật bên ngoài, thì nguyện cho hết thảy chúng sinh được an vui bậc nhất. Khi bố thí chi phần của thân thể, Bồ-tát nguyện cho tất cả chúng sinh đều được thân Phật cụ túc. Hỏi: Bố thí có bao nhiêu loại hồi hướng và bao nhiêu loại không hồi hướng? Đáp: Về tịnh thí có bốn loại hồi hướng và có ba loại không hồi hướng. Bồ-tát bố thí thanh tịnh có bốn loại hồi hướng và ba loại không hồi hướng. Ba loại không hồi hướng là: Không vì được làm vua mà hồi hướng. Không vì được dục lạc mà hồi hướng. Không vì được Thanh văn, Bích-chi-Phật mà hồi hướng. Không vì được làm vua mà hồi hướng, là ngăn lại ước mong làm vua, cũng là ngăn cản thế lực tự do của hết thảy những người giàu sang. Không vì được dục lạc mà hồi hướng, là ngoài hạng giàu sang trên, những kẻ khác đều thọ hưởng thú vui năm dục. Không vì được Thanh văn, Bích-chi-Phật mà hồi hướng, là ngăn ngừa cái nhân Tiểu thừa nhập Niết-bàn vô dư, khiến họ an trú trong Đại thừa. Phải rất lâu về sau, họ mới chứng được Niết-bàn vô dư. Bốn loại thanh tịnh hồi hướng nghĩa là Bồ-tát bố thí: Vì làm thanh tịnh cõi Phật cho nên hồi hướng. Vì thanh tịnh Bồ-đề nên hồi hướng. Vì giáo hóa chúng sinh thanh tịnh cho nên hồi hướng. Vì thanh tịnh Nhất thiết trí cho nên hồi hướng. Bồ-tát nên dùng phương tiện hồi hướng như vậy, chẳng những không làm pháp bố thí bị tổn giảm mà còn làm cho nó có thế lực mạnh. Hỏi: Vì điều gì làm cho bố thí bị tổn giảm và vì điều gì mà bố thí được tăng thêm? Đáp: Nếu bố thí mà không hồi hướng, Cũng không hề có phương tiện gì, Cầu mong sinh ở nơi thấp kém, Gần gũi những hạng ác tri thức, Bố thí với tâm niệm như vậy, Chính là bố thí bị tổn giảm. Nếu bố thí mà không hồi hướng về Vô thượng chính đẳng chính giác, thì vốn là đuổi theo thú vui của thế gian. Cầu mong sinh ở nơi thấp kém không hề có phương tiện gì. Luôn luôn phát sinh quả báo của thiền định và bố thí mà tự tại sinh ra. Thân cận với ác tri thức làm chướng ngại cho Đại thừa. Vì bốn điều này mà bố thí bị tổn giảm. Lìa bốn thí này được tăng thêm, Lại thuận theo ba tâm bố thí, Bồ tát tùy thuận lời Phật dạy, Cũng không mong cầu quả báo gì. Lìa khỏi bốn loại bố thí đã nói thì được bốn ích lợi là: Hồi hướng Vô thượng chính đẳng chính giác. Có phương tiện hồi hướng. Mong cầu xứ sở của Pháp vương. Được gần gũi thiện tri thức. Lại cần phải dùng ba tâm mà thực hành bố thí: Xót thương hết thảy mọi loài cho nên dùng tâm Bồ đề mà thực hành bố thí. Không lìa xa pháp Phật mà thực hành bố thí. Không cầu quả báo mà thực hành bố thí. Lại nữa: Bởi vì có được ba tâm pháp, Mà thực hành công hạnh bố thí, Bởi vì mong cầu được hai pháp, Cho nên luôn thực hành bố thí. Bồ-tát vì đạt được ba pháp cho nên thực hành Bồ tát: Pháp Phật. Thuyết pháp. Làm cho mọi chúng sinh trú trong niềm vui Vô thượng. Lại vì mong cầu hai pháp mà thực hành bố thí: Giàu có. Có đầy đủ bố thí Ba-la-mật. Tại vì sao? Bởi vì nếu Bồ tát giàu có, thì lìa xa nghèo khổ, không lấy tài sản của người khác, không cầu mong lợi dưỡng, không có chủ nợ, không lo trả nợ. Nhiều tiền bạc giàu có đầy đủ có thể tự do cơm áo cho mình, có khả năng giúp đỡ làm lợi ích cho bà con họ hàng và các bậc thiện tri thức, quyến thuộc yên vui gia đình dồi dào sung túc, thường ngày giống như lễ tết, tâm tư luôn luôn vui vẻ, có năng lực giúp đỡ nhiều người. Quyến thuộc không xem thường, mọi người đều cung kính ngưỡng mộ. Lời nói ra đều được mọi người tin nhận, làm nơi nương tựa cho mọi người, được thầy yêu mến, vào trong đại chúng không hề sợ hãi. Thường thích tắm gội, hương quý xoa thân, mặc áo quần đẹp đẽ sạch sẽ, các thứ trang nghiêm đầy đủ. Thấy những cảnh sắc tốt đẹp, nghe những âm thanh hay, ngửi các mùi hương tuyệt diệu, thường ăn thức ăn có mùi vị ngon lành nhất, tiếp xúc với những vật mịn màng mềm mại. Kẻ oán thù khó phá hoại, thiện tri thức thường hoan hỷ. Đây là đối với thân người cảm được quả báo tốt lành. Được mọi người kính phục ngưỡng mộ thường khen ngợi tốt lành. Quên mất hình dáng xấu xí của mình, tuy sinh ở nơi thấp hèn mà có tướng của bậc Đại nhân. Tuy không nói năng khéo léo mà trở thành người khéo léo nói năng. Tuy không học rộng mà trở thành người hiểu biết. Tuy ít trí tuệ mà trở thành người có trí tuệ. Nếu trước đã đoan chính thì nay lại đoan chính xinh đẹp gấp bội. Nếu trước đã sinh trong nhà họ lớn thì nay lại tôn quý gấp bội. Nếu trước đã nói năng khéo léo thì nay lại nói năng khéo léo gấp bội. Nếu trước đã học rộng thì nay hiểu biết gấp bội. Nếu trước đã có trí tuệ thì nay có trí tuệ gấp bội. Được ngồi nằm trên giường ghế bằng vật báu quý giá, thức hay ngủ đều yên ổn, có người hầu hạ bảo vệ đầy đủ. Các thứ báu làm nhà, tùy ý vui đùa đi lại. Thân tướng quý trọng, cần đến các loại kinh sách tùy ý lập tức có được. Thế lực địa vị tùy ý dễ dàng thân cận vua chúa, những người cao quý đều nghó đến. Những thầy thuốc giỏi tự đến thăm viếng, thường có người thân tín nói cho biết mọi tin tức. Có chút ít bệnh tật hoặc bệnh nặng thì dễ dàng chữa lành. Xa lìa nỗi sợ hãi của đời này và đời sau. Say cho cùng là vónh viễn lìa khỏi nỗi sợ hãi không sống được, thường xuyên có người cứu giúp. Có nhiều người thân cận tự cho là mình nhiều phước, vì được đồng ý cho nên chính mình hết sức vui mừng. Có chút ân đức bố thí mà cảm được sự đền đáp to lớn. Nếu làm điều ác nhỏ thì gánh chịu tai họa to lớn. Người nữ trẻ tuổi đoan chính trang nghiêm đầy đủ thuộc dòng dõi cao quý tự mình cầu mong cung cấp hầu hạ, những người hài hòa nhanh nhẹn đều đến với mình. Nếu làm điều ác thì điều ác trở thành bé nhỏ, làm chút điều thiện bố thí thì cảm được lợi ích to lớn. Có nhiều thiện tri thức thì người oán ghét càng ít hơn. Rắn rít thuốc độc, người ác phóng túng, mọi điều không tốt như vậy không ngang nhiên đến gần được. Những điều yêu quý cung kính đều tìm quay về. Nếu lúc được lợi ích thì mọi người vui mừng thay mình. Nếu có điều buồn phiền xót xa thì mọi người đều lo buồn thương xót. Mọi người cùng dẫn dắt chỉ bày, tranh nhau học theo điều tốt lành, khiến cho xa lìa pháp sai trái mà an trú trong pháp thiện. Thiện pháp bố thí to lớn, mọi người trông thấy đều hoan hỷ. Nếu chung lòng với nhau thì cho là đủ rồi, không mong cầu danh lợi giàu sang của thế gian làm gì. Giả sử ở địa vị con người, suy nghó tìm cách giúp đỡ trừ diệt những nỗi buồn phiền khổ đau, thấy người khác giàu sanh nhưng mình không hề có mong cầu, còn được mọi người ca tụng phẩm đức của họ chứ không vạch ra lỗi lầm của họ, tuy là hạng tiểu nhân mà được gọi là bậc Đại nhân, có đầy đủ sắc tướng. Nhìn thấy nhan sắc dung mạo của người khác mà mình không làm ra vẻ kỳ dị lạ lùng. Nếu làm Bà-la-môn, ở trong chùa miếu cảm được quả báo to lớn, đọc các kinh sách cảm được lợi ích thật sự, có được lợi ích mà tự mình thực hành bố thí. Nếu là hàng Sát-đế-lợi đã luyện tập thành tựu, khéo phát ra âm thanh, cố gắng tự mình rèn luyện thành thạo, cai trị thế gian bằng sách vở chuẩn mực, thì có thể cảm được quả báo. Nếu như là nhà nông thì gieo trồng đều được như ý. Nếu là khách buôn thì có thể cảm được lợi ích buôn bán. Nếu là Thủ-đà-la thì sự nghiệp đã làm phần nhiều đều được như ý. Hỏi: Trước đây ông nói Bồ tát bố thí không vì tâm mong cầu quả báo, lại cũng không vì giàu sang mà bố thí, bây giờ lại nói mong cầu giàu có cho nên bố thí, lời nói này có thể không tự trái ngược với nhau chăng? Đáp: Không trái ngược với nhau. Nếu như vì bản thân mình có mong cầu giàu có để hưởng thụ vui sướng, thì vì vậy nói là không nên mong cầu giàu có. Nay nói mong cầu có chỉ vì lợi ích cho chúng sinh, vì vậy nói là muốn bố thí rộng lớn cho nên mong cầu giàu có. Không vì bản thân mình mà mong cầu giàu có để hưởng thụ vui sướng, đó là trong quả nói đến nhân. Nếu Bồ tát không cảm được giàu có, thì tuy tin tưởng và thích bố thí nhưng mà không có tài sản để có thể giúp đỡ. Vì vậy ông không nên chất vấn về điều này. Vả lại, đoạn trừ hai pháp cho nên thuận theo thực hành bố thí. Những gì là hai pháp? Đó là: Keo kiệt. Tham lam. Hai pháp này là vết bẩn lớn nhất của bố thí. Lại có được hai pháp cho nên thực hành bố thí, đó gọi là Tận trí và vô sinh trí. Lại tăng thêm ba loại trí tuệ: Trí tuệ tự lợi. Trí tuệ vốn có. Trí tuệ đa văn. Có người nói: Vì tăng trưởng hai pháp cho nên thuận theo thực hành bố thí, đó là thiện và tuệ. Nói tóm lại là Bồ tát thuận theo thực hành bốn loại bố thí thâu nhiếp tất cả mọi thiện pháp: Bố thí với tâm bình đẳng. Bố thí không có đối đãi. Bố thí hồi hướng cho Bồ đề. Bố thí với tâm rỗng lặng đầy đủ mọi thiện pháp. Bồ tát đầy đủ bố thí Ba-la-mật như vậy cho nên thường xuyên thực hành tài thí.  <卷>QUYỂN 7 <詞>Phẩm 13: PHÂN BIỆT PHÁP THÍ Đối với bố thí tiền của, Bồ-tát nên tu học như vậy. Ngoài ra, nên tu học bố thí pháp. Như kệ nói: Trong các thí Pháp thí hơn hết, Người trí nên tu hành pháp ấy. Trong hết thảy các pháp bố thí, thì pháp thí là pháp bậc nhất và tốt đẹp nhất. Bố thí theo pháp này, người trí nên thực hành. Hỏi: Tại sao ông chỉ nói người trí nên thực hành pháp thí? Đáp: Nếu thực hành pháp thí mà không có trí tuệ, tức là nói dị luận. Nói dị luận thì mình mất lợi và làm cho kẻ khác mất lợi. Hỏi: Những gì gọi là dị luận? Đáp: Khi sắp diệt độ, Phật bảo thầy A-nan: “Kể từ nay về sau, thầy nên nương tựa vào Tu-đa-la (Khế kinh), đừng nương tựa vào ai khác. Này A-nan! Thế nào là nương tựa vào Tu-đa-la mà không nương tựa vào ai khác? Ví như có thầy Tỳ-kheo đến nói như vậy: Tôi hiện theo Phật nghe pháp, lãnh nhận lời Ngài dạy, đó là pháp, đó là thiện, đó là những gì Phật đã dạy. Thầy Tỳ-kheo ấy nói vậy, ông chớ chấp nhận hay xả bỏ mà cần phải suy xét nghe cho kỹ, rồi đem kinh luật đối chiếu với những lời thầy ấy nói. Nếu lời ấy không trùng với kinh luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, thì ông nên bảo thầy Tỳ-kheo ấy: Pháp ấy hoặc không phải Phật nói, hoặc là trưởng lão đã nhận lãnh sai lầm. Vì sao? Vì pháp ấy không đúng với kinh luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, cho nên đó chẳng phải là pháp, chẳng phải là thiện, chẳng phải là những gì mà Phật dạy. Biết như vậy rồi thì nên gạt bỏ đi. Lại có thầy Tỳ-kheo khác đến nói như vậy: Nơi trú xứ của đại chúng kia có vị Thượng tọa giỏi thuyết kinh luật, tôi đang theo vị ấy nghe pháp, lãnh thọ lời dạy, đó là pháp, đó là thiện, là những gì mà Phật đã dạy. Lời thầy Tỳ-kheo ấy nói, ông chớ chấp nhận mà cũng chớ xả bỏ, cần phải suy xét nghe cho kỹ rồi đem linh luật đối chiếu với những lời mà thầy ấy nói. Nếu lời ấy không đúng với kinh luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, thì ông nên bảo thầy Tỳ-kheo ấy: Này Trưởng lão! Vị Tỳ-kheo Tăng với pháp tướng và thiện tướng ấy, hoặc đã làm chuyện phi pháp, đã nói điều không phải, hoặc là trưởng lão đã nhận lãnh sai lầm. Vì sao? Vì pháp ấy không đúng với kinh luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, nên nó chẳng phải là pháp, chẳng phải là thiện, chẳng phải là những gì mà Phật đã dạy. Biết như vậy rồi, nên gạt bỏ đi. Lại có thầy Tỳ-kheo khác đến nói như vậy: Ở trú xứ kia, có nhiều Tỳ-kheo trì kinh, trì luật, trì Ma-đa-la-ca, tôi hiện theo nơi ấy mà nghe pháp, nhận lãnh lời dạy, đó là pháp, đó là thiện, là những gì mà Phật đã dạy. Thầy Tỳ-kheo ấy nói, ông chớ chấp nhận cũng chớ có bỏ đi, mà cần phải suy xét cho kỹ, rồi đem kinh luật đối chiếu với những lời mà thầy ấy nói. Nếu lời ấy không đúng với kinh luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, thì ông nên bảo thầy Tỳ-kheo ấy: Này Trưởng lão! Với pháp tướng và thiện tướng của Tỳ-kheo Tăng ấy, hoặc đã làm chuyện phi pháp, hoặc đã nói điều không phải, hoặc là trưởng lão đã nhận lãnh sai lầm. Vì sao? Vì pháp ấy không đúng với kinh luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, cho nên đó chẳng phải là pháp, chẳng phải là thiện, chẳng phải là những gì mà Phật đã dạy. Biết như vậy rồi nên gạt bỏ đi. Lại có thầy Tỳ-kheo khác đến nói như vậy: Trong trú xứ kia, có Trưởng lão Tỳ-kheo là người hiểu nhiều biết rộng, đáng tôn trọng. Tôi hiện theo vị ấy nghe pháp, nhận lãnh lời dạy, đó là pháp, đó là thiện, là những gì mà Phật đã dạy. Thầy Tỳ-kheo ấy nói, ông chớ chấp nhận cũng chớ bỏ qua, cần phải suy xét nghe cho kỹ, rồi đem kinh luật đối chiếu với những lời thầy ấy nói. Nếu lời ấy không đúng với kinh luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, thì ông nên bảo thầy Tỳ-kheo ấy: Này Trưởng lão! Tỳ-kheo có pháp tướng và thiện tướng ấy, hoặc đã làm chuyện phi pháp, hoặc đã nói điều không phải, hoặc trưởng lão đã nhận lãnh sai lầm. Vì sao? Vì pháp ấy không đúng với kinh luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, cho nên đó chẳng phải là pháp, chẳng phải là thiện, chẳng phải là những gì mà Phật đã dạy. Biết như vậy rồi, nên gạt bỏ đi”. Bốn việc vừa nói đó là dị luận. Vì vậy nói người trí không nương vào dị luận mà thực hành pháp thí thanh tịnh. Hỏi: Làm sao biết pháp thí là cao hơn hết trong các loại bố thí? Đáp: Kinh nói: “Bố thí có hai loại, là bố thí tiền của và bố thí pháp. Trong hai loại ấy, thì pháp thí là cao hơn hết. Lại nữa: Trong kinh Quyết Định Vương Đại Thừa, Ca ngợi về công đức thuyết pháp, Và nghi thức trước khi thuyết pháp, Nên thường xuyên tu tập thực hành. Nếu muốn bố thí pháp cho chúng sinh thì Bồ-tát phải làm như kinh Quyết Định Vương Đại Thừa, là khen ngợi công đức của pháp sư, và nắm rõ nghi thức thuyết pháp mà tùy thuận tu học. nghĩa là người thuyết pháp phải thực hành bốn pháp. Những gì là bốn? Đó là: Học nhiều hiểu rộng, có khả năng làm chủ được hết thảy lời ăn tiếng nói, câu chữ sách vở. Biết một cách chắc chắn về mọi pháp thế gian và xuất thế gian đều là tướng sinh diệt. Đã được thiền định và trí tuệ, đối với các kinh pháp nên tùy thuận không còn tranh cãi. Thực hành như pháp đã thuyết không thêm cũng không bớt. Nơi thuyết pháp là tòa sư tử lại có bốn pháp. Những gì là bốn? Đó là: Sắp bước lên pháp tòa, trước tiên nên cung kính lễ bái đại chúng, sau đó mới bước lên pháp tòa. Trong thính chúng có người nữa thì nên quán bất tịnh. Oai nghi nhìn ngó tướng của bậc Đại nhân, phô diễn pháp âm với nét mặt hài hòa thanh thản làm cho mọi người đều tin nhận, không nói đến kinh sách ngoại đạo, tâm không có gì khiếp sợ. Đối với những câu hỏi vặn thô lỗ, nên thực hành nhẫn nhục để trả lời. Ở trên tòa sư tử lại có bốn pháp. Những gì là bốn? Đó là: Đối với các chúng sinh phát sinh ý tưởng làm nhiều lợi ích. Đối với các chúng sinh không nảy sinh ý tưởng về ngã. Đối với các loại văn tự không nảy sinh ý tưởng về pháp. Nguyện cho các chúng sinh nghe pháp từ mình thuyết giảng sẽ không thối chuyển đối với đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Ở trên tòa sư tử lại có bốn pháp. Những gì là bốn? Đó là: Luôn luôn khéo an trú trong pháp môn Đà-la-ni, tin và thích giáo pháp sâu sắc. Cố gắng đạt được Bát-chu Tam-muội, chịu khó thực hành tinh tiến trì giới thanh tịnh. Không thích tất cả mọi nơi sinh ra, không tham lợi dưỡng, không cầu quả báo. Đối với ba giải thoát môn tâm không có gì nghi ngờ. Lại có năng lực dễ dàng phát khởi các Tam-muội sâu xa, đầy đủ oai nghi, nhớ nghó kiên cố, ý niệm an trú trong trí tuệ, không đùa cợt, không vội vàng, biết hổ thẹn, không mê loạn, lời nói không có sai lầm, giữ gìn các căn, không tham mùi vị thơm ngon. Khéo léo thâu nhiếp tay chân, mọi ý niệm đã nghó đến không quên. Thích thực hành Đầu đà, phân biệt rõ ràng pháp thế gian và xuất thế gian, tâm không nghi ngờ hối tiếc, ngôn từ chương cú không thể nào cùng tận, cầu lợi ích an ổn cho tất cả người nghe chứ không tìm đến sai lầm của họ. Có những pháp như vậy thì thích hợp ở trên tòa sư tử. Không tự khinh mình (mặc cảm). Không coi thường thính giả. Không xem thường những gì mình nói. Không vì lợi dưỡng. Đức Phật bảo A-nan: Người thuyết pháp nên nói những pháp gì? Này A-nan! Những pháp đáng nói là pháp vô vi, vô tướng không thể nêu ra, không thể diễn tả được. Tôn giả A-nan thưa: Bạch Thế Tôn! Pháp nếu như vậy thì làm sao có thể nói? Đức Phật nói: Này A-nan! Pháp này rất sâu xa cho nên Như Lai dùng bốn tướng làm phương tiện để diễn nói cho mọi người đều biết: Dùng âm thanh. Dùng tên gọi. Dùng lời nói. Dùng nghĩa lý. Lại dùng bốn nhân duyên để nói pháp cho mọi người đều nghe: Chúng sinh đáng độ thì nên độ. Chỉ nói đến tên gọi của sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Dùng các loại văn từ, chương cú làm lợi ích cho chúng sinh. Dù có dùng tên gọi để nói nhưng cũng không đạt được. Ví như bát dầu thanh tịnh không vết bẩn, người nhìn vào trong đó tự thấy mặt mình. Này A-nan! Thầy hoặc thấy hoặc nghe người nam trí tuệ, hay người nữ trì giới, hoặc đệ tử bậc Thánh nào có thể nói rằng tôi nhìn vào bát dầu thấy có người thật, hay không? Tôn giả A-nan thưa: Bạch Thế Tôn! Con không nghe, không thấy người nam trí tuệ, người nữ trì giới, đệ tử bậc Thánh nào có thể nói tôi thấy có người thật trong bát dầu. Vì sao? Vì người trí biết trước là bát dầu không có, huống gì là có người. Chỉ mượn tạm danh từ mà nói nhìn vào bát dầu thấy có tướng người. Đức Phật nói: Này A-nan! Như Lai cũng lại như vậy, chỉ dùng đến gọi mà nói những gì giả có. Này A-nan! Như Lai dùng bốn nhân duyên để nói pháp. Chúng sinh nghe rồi tâm được an lạc, gieo trồng nhân của Niết-bàn. Khi Như Lai nói pháp, âm thanh trùm khắp mười phương thế giới. Chúng sinh nghe thấy tâm được hoan hỷ, xa lìa những đường ác, sinh lên cõi trời Đâu-suất. Trong âm thanh của Như Lai không có nam- không có nữ, nam không giữ lấy tướng nữ, nữ không giữ lấy tướng nam. Âm thanh của Như Lai không não hại đến chúng sinh, không hủy hoại các pháp, chỉ là nêu rõ tính của âm thanh. Người thuyết pháp nên luyện tập thực hành điều này, nên thuận theo nơi thực hành mà bố thí giáo pháp cho chúng sinh. Người thí và người nhận cảm được quả báo, sau này sẽ nói rộng hơn. ------------------------------ <詞>Phẩm 14: QUY MẠNG TƯỚNG Ở trên đã nói về tài thí và pháp thí, nay lại phân biệt rõ hơn. Hàng đệ tử bạch y tại gia, Cần phải thực hành nhiều tài thí, Còn lại những pháp thiện hạnh khác, Nay sẽ tiếp tục giải thích thêm. Trong hai loại bố thí này, người tại gia nên thực hành tài thí, người xuất gia nên thực hành pháp thí. Tại vì sao? Bởi vì người tại gia thực hành pháp thí không bằng người xuất gia, mà người nghe nhận giáo pháp lại thuộc về hàng tại gia vốn có tín tâm rất cạn cợt mỏng manh. Vả lại, người tại gia có nhiều tiền bạc của cải, người xuất gia thì đối với các kinh pháp đọc tụng thông hiểu, giải thích cho người khác biết, ở giữa mọi người không có gì sợ hãi; không phải là người tại gia mà có thể sánh bằng, cũng khiến cho người nghe khởi tâm cung kính không bằng người xuất gia. Hơn nữa, nếu muốn thuyết pháp làm cho tâm người thuần phục, thì không bằng người xuất gia. Như nói: Trước tự mình tu hành đúng pháp, Sau đó dạy bảo cho người khác, Mới có thể nói lời như vậy: Ông thuận theo điều tôi thực hành… Đó là việc mà người xuất gia làm rất phù hợp, không phải là việc mà người tại gia làm được. Lại nói: Bản thân mình làm điều bất thiện, Sao có thể khiến người làm thiện? Tự mình không thể nào rỗng lặng, Sao có thể khiến người rỗng lặng? Vì vậy chính mình làm điều thiện, Có thể khiến người khác hành thiện, Tự mình đã đạt được rỗng lặng, Có thể khiến người được rỗng lặng. Pháp thiện tịch diệt, là pháp nên làm của người xuất gia. Hơn nữa, người nghe pháp có tâm cung kính tốt đẹp đối với người xuất gia. Vả lại, nếu thực hành tài thí thì người xuất gia làm trở ngại cho những pháp thiện khác, cũng trở ngại cho hạnh viễn ly, vì người tu hành sống nơi A-lan-nhã thanh vắng, nơi núi rừng. Nếu ham làm tài thí thì người xuất gia phải trở ngại đến chuyện tu hành. Những sự việc như vậy, nếu làm việc tài thí thì cần phải đến nơi làng xóm, làm việc theo bạch y, giao tiếp nói năng nhiều. Nếu không làm việc theo đời thì làm sao có tiền của mà bố thí? Vì lui tới xóm làng cho nên khó mà thâu nhiếp nghiệp của các căn, đứng trước những điều thấy-nghe-thanh-sắc, dễ sinh ra ba độc, đồng thời tâm phân tán đối với việc trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ. Sống theo lối bạch y thì tâm sẽ bị vấy nhiễm trong lợi dưỡng, phát sinh các tâm lý yêu, ghét, giận hờn, keo kiệt đầy phiền não. Sức suy nghó phải chống đỡ sinh ra ức chế tâm lý, nếu kẻ yếu đuối thì không tự kìm chế nổi, hoặc có thể dẫn đến bỏ mạng, hoặc phải chết vì những phiền não khốn đốn. Tham đắm năm dục, xả giới hoàn tục vốn gọi là chết. Hoặc luôn luôn trái với giới cấm, gây ra nhiều tội nặng, đó gọi là chết vì những phiền não khốn đốn. Vì những lý do ấy mà người xuất gia được khen ngợi là người thực hành pháp thí, người tại gia được khen ngợi thực hành tài thí. Như vậy đã nói rộng về Bồ-tát tại gia thực hành tài thí. Còn những thiện hạnh khác nay sẽ nói đến. Khi phát tâm Bồ-tát, thì trước hết phải quy y Phật- Pháp-Tăng. Nhờ ba quy mà được công đức, công đức có được đều hồi hướng về quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Lại nữa: Quy y Phật-pháp và chúng Tăng, Điều mà Bồ-tát cần phải biết. Bồ-tát phải hiểu rõ như thật về quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Hỏi: Thế nào gọi là quy y Phật? Đáp: Không rời bỏ tâm đạo Bồ-đề, Không hủy hoại giáo pháp đã thọ, Không xa lìa tâm niệm Đại Bi, Không ham thích đối với Thừa khác, Như vậy thì gọi là Bồ-tát, Quy y Phật thật sự như pháp. Tâm Bồ-đề là tâm đã phát nguyện cầu Phật, không dừng nghỉ, không buông rời tâm ấy. Không làm hư pháp mình đã tiếp nhận, là các Bồ-tát phải yêu mến giới hạnh, đó là pháp thiện mà mình ham thích, là pháp dạy làm những gì nên làm và không làm những gì ngăn cấm. Đó là nên thực hành các Ba-la-mật, hoặc nên thực hành bốn xứ sở của công đức. Làm mọi pháp thiện như vậy là đem lại ích lợi cho chúng sinh. Thọ trì, tu hành đều không khiến cho thiếu sót, hư hoại. Tâm Đại Bi là tâm cứu vớt chúng sinh đang khổ não, vì cầu Phật đạo cho đến trong chiêm bao cũng không rời bỏ tâm này. Không ham thích các Thừa khác, là chỉ ham thích tin sâu sắc vào Phật đạo, không ham theo Thanh văn thừa và Bích-chi-Phật thừa. Có được những pháp này thì nên biết đó là như thật quy y Phật. Hỏi: Thế nào là quy y Pháp? Đáp: Gần gũi người giảng giải giáo pháp, Nhất tâm lắng nghe nhận giáo pháp, Duy trì nhớ nghó mà giảng nói, Như vậy gọi là quy y pháp. Người nói pháp là người phô bày, giải thích, giảng nói sự sâu xa của pháp Phật, chỉ rõø thiện và ác, đoạn trừ mọi nghi ngờ mê hoặc. Nên luôn gần gũi và thường đến nơi ấy, một lòng cung kính cúng dường để lắng nghe và tiếp nhận. Dùng sức mạnh của nhớ nghó để nắm giữ không quên suy nghó theo giáo pháp tùy thuận với nghĩa sâu xa, sau đó giảng nói cho mọi người những gì mình hiểu. Đem công đức pháp thí này hồi hướng về Phật đạo. Đó gọi là quy y Pháp. Hỏi: Thế nào là quy y Tăng? Đáp: Như những người thuộc hành Thanh văn, Chưa bước vào phần vị của pháp, Khiến cho phát tâm đạo vô thượng, Để đạt được mười lực của Phật, Trước hết dùng tài thí thâu nhiếp, Sau đó mới dùng đến pháp thí, Tin sâu sắc bốn quả Sa-môn Coi trọng chúng Tăng không phân biệt, Cầu mong công đức của Thanh văn, Mà không chứng đến quả giải thoát, Như vậy gọi là quy y Tăng, Cũng cần phải nghó đến ba điều. Người thanh văn là người thành tựu thanh văn chưa bước vào pháp vị là đối với đạo Thanh văn chưa được Tất định, có thể giúp người này phát tâm Phật đạo mà đạt được mười lực. Nếu như người bước vào pháp vị thì cuối cùng không thể khiến họ phát tâm vô thượng nữa. Giả sử có phát tâm thì cũng không thành tựu, như Tôn giả Tu-bồ-đề đã nói trong Bát Nhã Ba-la-mật, đã bước vào pháp vị chính thức thì không thể phát tâm vô thượng nữa. Vì sao? Vì người này đã tách mình ra khỏi sinh tử, không còn qua lại trong sinh tử. Người phát tâm vô thượng, trước hết đem của tiền bố thí để thâu nhiếp người ta, đem những thứ cần dùng như y phục, đồ ăn uống, đồ nằm, thuốc men mà giúp cho để thâu nhiếp họ. Người xuất gia thì thâu nhiếp bằng cách giúp cho y phục, đồ ăn uống, đồ nằm, thuốc men, tạp hương, hương xoa. Người tại gia thì thâu nhiếp họ bằng nhân duyên, làm cho sinh tâm thân ái, những gì nói ra khiến cho họ tin nhận, rồi sau đó mới dùng pháp thí, khiến họ phát tâm đạo vô thượng. Quả của Tăng là bốn hướng-bốn quả. Chúng là những người tiếp nhận hình tướng xuất gia ở trong giáo pháp Phật, là những người vâng giữ giới cấm, không phân biệt là đã có quả hướng hay chưa có. Tăng như vậy là đã lìa khỏi sự nô lệ của ân ái, cho nên gọi là quý Tăng. Tin tưởng ham thích ba môn giải thoát là Không-Vô tướng-Vô nguyện, nhưng không phân biệt hý luận, nương tựa vào Tăng này thì gọi là quy y Tăng. Cầu công đức Thanh văn nhưng không chứng giải thoát là biết Tăng này giữ giới đầy đủ, thiền định đầy đủ, trí tuệ đầy đủ, giải thoát đầy đủ, giải thoát tri kiến đầy đủ, ba minh đầy đủ, đạt được sáu thần thông, tâm được tự tại, có đại oai đức, rời bỏ niềm vui thế gian, ra khỏi cảnh giới ma, không dùng làm mừng với lợi lộc danh dự mà đời khen ngợi. Không dùng làm buồn vì những hư hao, hủy nhục, chế nhạo, khổ sở, luôn thực hành sáu pháp xả, đạt được tám giải thoát theo lời Phật dạy, có người đang hành đạo, có người được giải thoát, có người thực hành một đạo, phá hai loại phiền não, biết thông thạo ba cõi, thông suốt bốn đế, trừ diệt năm ấm, an trú trong sáu pháp hòa kính, đầy đủ bảy pháp không thối chuyển và tám đại nhân giác, rời xa chín kiết sử, được mười loại sức mạnh của Thanh văn. Thành tựu mọi công đức như vậy gọi là chúng đệ tử của Phật. Chỉ mong cầu những công đức như vậy, chớ không mong cầu sự giải thoát ấy. Vì sao? Vì tâm ưa thích và tin sâu vào sự giải thoát vô ngại của Phật. Đó gọi là quy y Tăng. Lại nữa, nếu nghe pháp bằng chương cú, văn tự, thì có thể nghó đến thật tướng của pháp, gọi là quy mạng Pháp. Nếu thấy Thanh văn Tăng thì nghó đến các chúng Bồ-tát mà phát tâm Bồ-đề, đó gọi là quy y Tăng. Thấy hình tượng Phật thì nghó đến Đức Phật thật sự đó là quy y Phật. Hỏi: Thế nào gọi là nghó đến Đức Phật chân thật thật sự? Đáp: Như trong kinh Vô Tận ý đã nói về nghĩa của niệm Phật Tam-muội. Nghó đến Đức Phật thật sự, là không dùng sắc, không dùng tướng, không dùng nơi sinh, không dùng họ, không dùng nhà, không dùng quá khứ, hiện tại, vị lai, không dùng năm ấm-mười hai nhập-mười tám giới, không dùng kiến văn giác tri, không dùng tâm ý thức, không dùng hành thuộc hý luận, không dùng sinh diệt trú, không dùng lấy bỏ, không dùng nhớ nghó phân biệt, không dùng tướng pháp, không dùng tướng mình, không dùng tướng một, không dùng tướng khác, không dùng tâm duyên số, không dùng trong ngoài, không dùng giác quán giữ lấy tướng không dùng xuất nhập, không dùng hình sắc tướng mạo, không dùng những oai nghi đã thực hành, không dùng trì giới-thiền định-trí tuệ-giải thoát-giải thoát tri kiến, không dùng mười lực, bốn vô sở úy và các pháp của Phật. Như thật niệm Phật, là vô lượng không thể nghó bàn, không hành, không biết, không ngã, ngã sở, không nhớ, không nghó, không phân biệt năm ấm-mười hai nhập-mười tám giới. Không hình-không ngại-không phát-không trú-không chẳng trú. Không trú sắc-không trú thọ tưởng hành thức-không trú nhãn sắc-không trú nhãn thức-không trú nhó thanh- không trú nhó thức-không trú tỷ hương-không trú tỷ thức-không trú thiệt vị-không trú thiệt thức-không trú thân xúc-không trú thân thức-không trú ý pháp-không trú ý thức. Không trú hết thảy mọi duyên, không khởi hết thảy các tướng. Không sinh hết thảy động niệm, hồi tưởng, phân biệt… Không sinh kiến-văn-giác-tri. Tùy thuận thực hành hết thảy các tướng giải thoát chân chính. Tâm không nối theo nhau, diệt hết mọi phân biệt. Phá tan mọi yêu giận hủy hoại các tướng nhân, đoạn trừ tất cả đời trước-đời giữa-đời sau. Cuối cùng thông suốt sáng tỏ, không còn nơi này nơi kia, không loạn động cho nên không vui mừng, không thọ nhận ý vị cho nên không còn ham thích. Bản tướng tịch diệt cho nên không còn nóng bức. Tâm không lo toan cho nên được giải thoát. Tướng không có sắc cho nên không có thân. Không cảm thọ cho nên không có tiếp nhận. Không có tưởng cho nên không có kiết sử. Không có hành động cho nên vô vi. Không nhận biết cho nên không có thức. Không giữ lấy cho nên tâm không hoạt động. Không buông bỏ cho nên tâm chẳng phải là không hoạt động. Không nơi chốn cho nên tâm không trú. Trống không cho nên không có đến. Không phát sinh cho nên không có ra đi. Hết thảy đều nhớ nghó đến tâm-tâm số pháp và các pháp khác, không tham lam-không đắm trước-không giữ lấy-không tiếp nhận-không như vậy-không diệt. Từ trước đến nay không sinh không có tướng sinh. Thâu nhiếp vào pháp tính vượt qua nhãn sắc, vào cõi hư không. Tướng như vậy gọi là Chân niệm Phật. Niệm Pháp là pháp Phật giảng giải về pháp thiện như vậy, cảm được quả báo đời này không có thời hạn nhất định, mà có thể quán sát pháp thiện. Người sắp đến được đạo trí, bên trong biết rõ trước-giữa-sau đều là thiện, lời nói thiện, nghĩa lý thiện thuần túy là thiện không hề lẫn tạp, đầy đủ thanh tịnh. Có năng lực đoạn trừ tham dục, có năng lực đoạn trừ sân hận, có năng lực đoạn trừ ngu si, có năng lực loại bỏ tâm kiêu mạn, có năng lực loại bỏ kiến chấp, có năng lực loại bỏ nghi ngờ hối tiếc, có năng lực loại bỏ cao ngạo coi trọng chính mình, có năng lực loại bỏ mọi sự khao khát, phá tan mọi nơi quay về, đoạn tuyệt con đường nối tiếp nhau, không còn ái nhiễm, lìa xa dục tình, đến nơi Niết-bàn tịch diệt. Tướng như vậy gọi là niệm pháp. Bởi vì không-vô tướng-vô nguyện, là không sinh-không diệt hoàn toàn vắng lặng, không gì sánh được, không gì nêu rõ. Như trong nghĩa niệm Phật đã nói. Vả lại, niệm pháp có ba loại: Thuận theo Phật pháp giảng giải về pháp thiện này, cho đến thanh tịnh đầy đủ thì gọi là Đạo. Có năng lực đoạn trừ tham dục cho đến Niết-bàn tịch diệt, thì gọi là Niết-bàn. Không-Vô tướng… cho đến không gì sánh được, không gì nêu rõ, thì gọi là pháp Thể. Còn niệm Tăng thì như trước đã nói về công đức của Tăng. Niệm là tâm quyết định thích hợp với Tam bảo như vậy. Dùng ý niệm như vậy mong cầu hướng về Phật đạo mà thực hành bố thí, đó gọi là quy y Phật. Vì bảo vệ giáo pháp mà thực hành bố thí, đó gọi là quy y pháp. Dùng công đức bố thí này phát tâm hồi hướng, lúc thành tựu Phật đạo thâu nhiếp Bồ-tát và Thanh văn Tăng, đó gọi là quy y Tăng. ------------------------ <詞>Phẩm 15: NĂM GIỚI Như vậy Bồ-tát tại gia có khả năng tu tập nghiệp của người thiện, tách xa nghiệp của người ác. Như nói: Phát khởi tu tập nghiệp người thiện, Như pháp sử dụng mọi của cải, Đủ sức thì nhận lấy trách nhiệm, Không đủ sức thì không tiếp nhận. Nghiệp của người thiện, nói gọn là tự mình sống lương thiện, cũng làm cho người khác được lợi ích. Nghiệp của người ác là tự dìm mình trong suy sụp khổ não, khiến người khác cũng bị suy sụp khổ não. Của cải cần dùng đúng pháp, là không sát sinh, không ăn trộm, không lừa dối người ta, đem sức mình kiếm tiền của, dùng để cúng dường Tam bảo đúng như pháp. Xót thương giúp cứu kẻ già yếu tật bệnh. Đủ năng lực thực hành thì nhận lấy gánh nặng. Không đủ năng lực thực hành thì không tiếp nhận. Đối với việc làm ở đời này hoặc đời sau: Nếu Bồ-tát có khả năng làm lợi mình, lợi người, thì công việc được thành lập như trước đã nói. Nếu biết mình không đủ năng lực thực hành thì không tiếp nhận. Lại nói: Pháp thế gian không buồn-vui gì, Luôn luôn xả đối với tự lợi, Thường chịu khó thực hành lợi tha, Biết ân sâu sắc đền gấp bội. Pháp thế gian là những chuyện lợi lộc, suy tàn, đổ nát, danh dự, khen ngợi chê bai nhạo, khổ vui. Lòng không buồn-vui gì đối với những hiện tượng ấy. Buông bỏ tự lợi, siêng năng làm lợi cho người, là những hạnh thiện mà Bồ-tát làm, không nhắm vào cho mình, mà thì ngay cả những người chưa hề quen biết, những người không có nhân duyên mà Bồ-tát thực hành điều thiện, thực hành buông xả tự lợi để giúp đỡ người khác thành tựu thiện nghiệp. Hỏi: Xả bỏ lợi mình chịu khó thực hành làm lợi ích cho người, điều này không phải như vậy. Như Phật nói: Tuy là lợi ích nhiều nhưng người ta không bằng lòng tự rời bỏ lợi ích của mình. Như nói: Bỏ một người để có ích cho một nhà, bỏ một nhà vì lợi ích cho một làng, bỏ một làng vì lợi ích của một nước, bỏ một nước để thành tựu chính mình, bỏ chính mình để bảo vệ chính pháp. Trước hãy tự thành tựu lợi mình, Sau đó mới làm lợi cho người, Bỏ lợi mình làm lợi cho người, Sau sẽ sinh buồn phiền hối tiếc, Bỏ lợi mình làm lợi cho người, Tự cho rằng là người trí tuệ, Như vậy ở trong thế gian này, Thật là hạng ngu si thứ nhất. Đáp: Ở đời này, làm lợi cho kẻ khác, còn được khen là thiện, là có tâm vững chắc, huống là Bồ-tát đã làm mọi chuyện vượt qua thế gian, nếu lợi người thì chính là lợi mình. Như nói: Bồ-tát đối với việc của người, Tâm ý không hèn nhác yếu đuối, Người phát tâm Bồ-đề cao cả, Lợi cho người chính là lợi mình. nghĩa này đã nói rộng ở phần đầu, vì vậy lời ông vừa nói là không đúng. Biết ơn sâu đền đáp gấp bội, là nếu ai làm chuyện tốt cho mình, thì Bồ-tát luôn báo đền trọng hậu. Lại nữa, biết được ơn sâu kia, thì đấy là người có tướng thiện. Lại nữa: Người nghèo khó dùng của giúp đỡ, Người sợ hãi giúp cho không sợ, Những công đức tốt đẹp như vậy, Luôn luôn giữ gìn thật vững chắc. Ai nghèo thì cho của cải, là có kẻ đời trước không gieo trồng phước đức, cho nên đời này thiếu phương tiện sống mà sống thiếu hụt. Tùy năng lực của mình mà Bồ-tát xót thương chu cấp cho người ấy. Cho điều không sợ hãi, là đối với mọi thứ sợ hãi, như sợ hãi vì oán thù, sợ hãi vì đói rét, nóng lạnh, cháy nhà, lụt lội… thì Bồ-tát khuyên nhủ dạy dỗ cho những người luôn luôn lo sợ ấy, khiến họ được an ổn vui vẻ, xua tan sợ hãi cho họ. Công đức như vậy thật vững chắc. Cuối cùng đối với những người mang nhiều lo âu, Bồ-tát xua tan lo âu cho họ. Kẻ thiếu năng lực, Bồ-tát giúp họ thực hành nhẫn nhục, xa lìa ngạo mạn … Đối với ai được tôn kính, Bồ-tát làm tăng thêm sự cung kính. Đối với người học rộng, Bồ-tát luôn gần gũi, tiếp xúc. Đối với người trí tuệ, Bồ- tát luôn hỏi han thỉnh ý về điều thiện ác. Đối với những gì mà Bồ-tát thường tự làm, thì luôn làm với chính kiến. Đối với những ai không có lòng quanh co dua nịnh, không có yêu mến giả dối, thì Bồ-tát cầu điều thiện ở họ, không chán nản mà cầu học rộng không cùng, giữ tâm vững chắc để thành tựu mọi chuyện làm bố thí. Thường cùng sống cùng làm theo người thiện. Đối với kẻ ác, Bồ-tát sinh tâm Đại Bi. Đối với hàng thiện tri thức hay không phải thiện tri thức, Bồ-tát đều giữ chắc ý tưởng của hàng thiện tri thức. Có tâm bình đẳng đối với chúng sinh, không keo kiệt trong việc nói các pháp yếu. Giảng nói hết cho người những gì mà mình hiểu biết, những ý nghĩa cao sâu của những pháp mà mình nghe. Bồ-tát có ý niệm về vô thường đối với mọi thú vui của năm dục. Đối với vợ con, Bồ-tát có ý niệm về cảnh địa ngục. Đối với tài sản riêng tư, Bồ-tát có ý niệm về bệnh khổ. Đối với công việc và sản nghiệp, Bồ-tát sinh ý niệm ưu phiền. Đối với mọi mong cầu, Bồ-tát có ý niệm như căn thiện bị phá hoại. Đối với sự sống ở nhà, Bồ-tát có ý niệm như lao ngục. Đối với thân tộc, tri thức, Bồ-tát có ý niệm như cai ngục. Ngày đêm suy nghó với ý niệm là được lợi gì? Với ý niệm là được thân bền chắc hay thân không bền chắc? Với ý niệm được của cải bền chắc hay của cải không bền chắc? Lại nữa: Pháp của tại gia là năm giới, Tâm thuận theo an trú vững vàng. Bồ-tát tại gia lấy ba tự quy để thực hành công đức nói trên, và thuận theo an trú vững vàng vào năm giới. Năm giới là pháp chung của tại gia, phải xa lìa tâm giết hại, có lòng thương xót chúng sinh, tự biết đủ, không tham đồ đạc của người khác, cho đến một cọng cỏ, người ta không cho thì cũng không lấy. Lìa khỏi tà dâm, chán ngán chuyện phòng the. Ngăn ngừa tránh xa các sắc bên ngoài, mắt không nhìn ngó tà vạy. Thường nhìn xét những cái xấu phơi bày để sinh ý niệm chán ngán xa lìa. Biết rõ năm dục cuối cùng đều là khổ. Nếu có ý niệm ham muốn với vợ thì cũng phải buông bỏ, thường xem đó là bất tịnh, tâm luôn luôn lo sợ, những trói buộc của kiết sử rất ngặt nghèo, lìa khỏi ham muốn, không mê đắm, luôn biết thế gian là khổ và vô ngã, thuận theo phát nguyện như vậy: Đến lúc nào ý niệm ham muốn ở trong tâm mình sẽ có thể không phát sinh? Vả lại, thân thực hành xa lìa nói dối, vui thích thực hành nói lời chân thật không lừa dối mọi người. Tâm và miệng tương ưng có ý niệm an ổn sáng suốt, như những điều thấy nghe hiểu biết mà giải thích cho người khác. Tự mình sống theo pháp, thậm chí mất mạng nhưng lời nói không gian trá lừa dối. Rượu là gốc của mọi điều phóng túng xấu xa, thường phải xa rời không để cho dính vào miệng, không cuồng loạn mê say, không nóng nảy, không kinh sợ, biết hổ thẹn, không bỡn cợt, thường tự mình lắng lòng suy nghó mọi điều tốt xấu. Bồ tát này có lúc thích buông xả tất cả mà dấy lên ý niệm như vậy. Người cần cái ăn thì cho ăn, người cần uống thì cho uống. Nếu đem rượu bố thí thì nên có ý niệm như vậy: Nay là lúc thực hành bố thí Ba-la-mật, tùy theo sự mong cầu mà giúp cho. Sau đó nên tìm cách khuyên nhủ khiến cho xa lìa rượu, có được ý niệm trí tuệ để không còn phóng túng. Tại vì sao? Bởi vì pháp bố thí Ba-la-mật là làm thỏa mãn mọi mong cầu của người khác. Bồ tát tại gia đem rượu bố thí cho người như vậy thì không có tội, dùng phước đức năm giới này hồi hướng cho quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Hộ trì năm giới giống như bảo vệ vật báu vô giá, như bảo vệ thân mạng của mình. Hỏi: Bồ-tát này chỉ cần phải hộ trì năm giới, còn các nghiệp thiện khác thì không hộ trì hay sao? Đáp: Bồ tát nên an trú vững vàng, Trong tướng tổng quát của năm giới, Còn những nghiệp của thân-miệng-ý, Tất cả cũng cần phải thực hành. Nói xong ý nghĩa của năm giới tại gia. Sau khi thọ năm giới này an trú vững chắc vào đó. Ba nghiệp thiện còn lại, cũng phải thực hành tu tập. Lại nữa, pháp mà Bồ-tát tại gia nên thực hành: Tùy thuận làm lợi ích chúng sinh, Thuyết pháp để giáo hóa mọi người. Chúng sinh có những thiếu hụt gì thì Bồ-tát này đều giúp cho họ. Chúng sinh dù ở bất cứ nơi đâu trong nước, như trong thành ấp, xóm làng, bên rừng, dưới bóng cây, hễ thấy những gì có ích lợi thì Bồ-tát thuyết pháp giáo hóa họ. Ai chưa có lòng tin thì Bồ-tát nói pháp khiến họ tin pháp. Ai chưa có lòng cung kính thì nói cho họ biết sự kính lễ. Ai biết ít giáo pháp thì nói cho họ biết thêm nhiều giáo pháp. Ai tham lam keo kiệt thì nói pháp bố thí cho họ. Ai giận dữ thì nói pháp hòa hợp nhẫn nhục cho họ. Ai làm biếng thì nói pháp tinh tiến cho họ. Ai tâm ý rối loạn thì nói pháp chính niệm xứ cho họ. Ai ngu tối thì đem trí tuệ giảng giải cho họ. Lại nữa: Tùy theo những người gặp thiếu thốn, Cũng thuận lòng cung cấp đầy đủ. Chúng sinh có những thiếu hụt gì thì Bồ-tát đều cấp đủ cho họ. Có người tuy giàu mà còn có điều chưa đủ, cho đến vua chúa cũng phải có điều thiếu thốn. Vì vậy, trước tuy nói là đem của cải bố thí cho người nghèo, nhưng nay lại nói là tùy theo những người gặp thiếu hụt mà cấp cho đủ. Lại nữa: Có những chúng sinh đầy xấu xa, Gây ra bao nhiêu chuyện buồn phiền, Dua nịnh-kiêu căng và phóng túng, Mắng nhiếc-khinh khi cùng lừa dối, Vong ân bội nghĩa không đền đáp, Ngu si bít chặt khó cảm hóa, Tâm Bồ tát luôn thương xót họ, Dũng mãnh tinh tiến tu hành thêm. Những kẻ ác đem bao chuyện ác gây rắc rối cho Bồ-tát, nhưng tâm Bồ-tát vẫn không biếng trễ chán nản, không cần phải nghó như vậy: Kẻ hung dữ như thế, ai có thể điều phục họ được, ai có thể giáo hóa họ được, ai có thể khuyến khích họ được, khiến cho họ vượt qua sinh tử, cuối cùng tới Niết-bàn? Ai mà có thể qua lại sinh tử này với họ? Ai có thể cùng sống chung với họ trong hòa hợp. Mọi điều ác thật vô lý ai có thể chịu đựng nổi? Mình phải chấm dứt việc cứu vớt thôi, không thể cộng sự với họ nữa. Mình hoàn toàn xa rời, không cộng sự với họ, cũng không có thể hòa hợp nổi với họ. Những kẻ ác quá nhiều này, không hề suy nghó lại, những hạng ấy làm sao có thể đi theo họ mãi được? Bồ-tát thấy biết chúng sinh ác như vậy, nhưng không phải khó trừ, cho nên Bồ-tát lại nghó như vậy: Những hạng ác như vậy, không phải là ít, phải tinh tiến mới giúp mình trụ vững trong pháp lạc đã có. Bởi vì hạng ấy cho nên tâm mình phải tinh tiến, siêng năng hơn nữa, tinh tiến gấp trăm lần, để sau đó có sức mạnh to lớn mà giáo hóa họ. Hạng ác quá nhiều này, khó lay tỉnh này, Bồ-tát phải như thầy thuốc chịu khó gặp gỡ chúng sinh, dùng một nhân duyên nhỏ cũng có thể chữa trị bệnh nặng của họ. Bồ-tát diệt trừ bệnh phiền não của chúng sinh như vậy, khiến họ tùy ý vui sống trong công đức mà họ đã có. Đối với kẻ trọng tội, kẻ đại ác, mình cần phải phát khởi lòng Đại Bi sâu xa, thương xót họ gấp trăm ngàn lần. Như bậc lương y có lòng thương xót người, sẽ trị lành hẳn mọi căn bệnh, và đối với hạng người bệnh nặng, lương y lại càng thương xót sâu sắc, siêng năng tìm phương cách, tìm thuốc hay cho họ. Bồ-tát cũng như thế, đối với bệnh phiền não của chúng sinh, cần phải hết lòng xót thương sâu nặng. Đối với hạng hết sức ác, thì có nhiều phiền não nặng, Bồ-tát càng xót thương hơn, siêng năng tìm phương cách, gia tâm trị bệnh tốt hơn. Vì sao? Tùy theo nơi Bồ tát cư trú, Không giáo hóa dẫn dắt chúng sinh, Để rơi vào trong ba đường ác, Chư Phật quở trách thật sâu xa. Bồ tát tùy theo nơi cư trú, hoặc ở bất cứ đất nước nào, trong thành ấp-thôn làng, dưới tán cây giữa núi rừng, đều đem hết năng lực của mình làm lợi ích mà giáo hóa chúng sinh, nhưng lại lười nhác chán nản, chê bai oán giận, tham đắm trong niềm vui của thế gian, không có năng lực dẫn dắt cảm hóa làm cho rơi vào đường ác, thì Bồ tát này bị Chư Phật hiện tại trong mười phương, chỉ trích rất sâu sắc thật đáng hổ thẹn: Tại sao chạy theo nhân duyên nhỏ mà buông bỏ việc lớn lao? Vì vậy Bồ tát không muốn bị Chư Phật quở trách, cho nên đối với các loại chúng sinh dua nịnh quanh co-xấu xa chồng chất, tâm mình không cần phải tránh né mà tùy theo năng lực làm cho có ích, phải dùng mọi phương tiện chịu khó quan tâm cảm hóa dẫn dắt; ví như mãnh tướng dẫn dắt quân lính làm cho nhà vui chịu nhiều tổn thất, thì bị nhà vui quở trách nặng nề, nhưng nếu vì những quân lính không có sự hiểu biết, thì nhà vua không thể quở trách vị tướng. ------------------------------ <詞>Phẩm 16: BIẾT NHỮNG TAI HỌA CỦA GIA ĐÌNH Học tập như vậy cho nên Bồ-tát biết được những lỗi không tốt của đời sống gia đình. Vì sao? Vì biết những thói xấu như vậy thì dễ bỏ nhà đi học đạo. Hoặc chỉ cho người khác, khiến họ biết lỗi lầm của đời sống gia đình mà xuất gia học đạo. Hỏi: Thế nào là những lỗi lầm của đời sống gia đình? Đáp: Như kinh nói: “Phật bảo Úc-ca-la: Gia đình là nơi phá các căn thiện. Gia đình là rừng gai góc dày đặc khó mà tự mình thoát được. Gia đình là nơi phá hoại pháp thanh tịnh. Gia đình là chỗ ở của mọi giác quán xấu ác. Gia đình là chỗ xấu ác nhất, chỗ ở của phàm phu không điều phục. Gia đình là chỗ ở của hết thảy việc làm không tốt. Gia đình là nơi tụ hội của kẻ ác. Gia đình là chỗ ở của những tham dục, giận dữ, ngu si. Gia đình là chỗ ở của hết thảy phiền não đau khổ. Gia đình là nơi làm tiêu tan hết thảy mọi căn thiện từ đời trước. Phàm phu ở trong gia đình này, điều không nên làm mà vẫn làm, điều không nên nói mà vẫn nói. Không nên làm mà vẫn làm, là ở trong phạm vi này người ta khinh mạn, cha mẹ và các bậc thầy dạy, không kính trọng các bậc phước điền tôn quý. Sa môn và Bà-la-môn. Gia đình là nhân duyên của mọi sự tham ái, buồn đau, khổ não tai hõa. Gia đình là trứ xứ của mọi điều mắng nhiếc thô lỗ hiểm ác, khổ nhục, dao gậy, trói buộc, đánh đập, cắt xẻ. Chưa gieo trồng thiện căn mà không gieo trồng, đã gieo trồng thì có thể bị hủy hoại. Gia đình luôn luôn làm cho phàm phu vì nhân duyên tham dục này mà rơi vào đường ác, vì nhân duyên sân giận-nhân duyên ngu si mà rơi vào đường ác, vì nhân duyên sợ hãi mà rơi vào đường ác. Gia đình là nơi không giữ gìn giới phẩm, rơi bỏ định phẩm, không thể có quán tuệ phẩm, không đạt được giải thoát phẩm, không phát sinh giải thoát tri kiến phẩm. Sống ở trong gia đình này, tình yêu của cha mẹ, anh em, vợ con quyến thuộc, ngựa xe, làm cho sự tham cầu tăng thêm không còn thỏa mãn được. Gia đình là nơi khó đầy đủ, như biển rộng chứa mọi dòng sông. Gia đình là nơi không còn có gì đầy đủ, như ngọn lữa đốt cháy củi khô. Gia đình là nơi không bao giờ chấm vọng tưởng, sự giác quán phân biệt nối tiếp nhau như gió giữa hư không. Gia đình là quả báo xấu ác của đời sau, như thức ăn ngon có chất độc. Gia đình là tính chất của khổ đau, như kẻ thù giả làm người thân. Gia đình là chướng ngại luôn luôn gây trở ngại cho Thánh đạo. Gia đình là nơi tranh chấp hỗn loạn, đủ các loại nhân duyên trái ngược dẫn nhau. Gia đình là nơi nhiều nóng giận, trách mắng, tốt xấu. Gia đình là vô thường, tuy trải qua lâu dài nhưng cuối cùng phải tàn lụi điêu linh. Gia đình là nơi nhiều đau khổ, vì mong cầu cơm áo cùng mọi cách giữ gìn. Gia đình là nơi nhiều nghi ngờ, giống như kẻ thù. Gia đình là vô ngã mà điên đảo tham trước giả danh cho là có. Gia đình là người vũ nữ, tuy dùng các loại trang điểm nghiêm túc hiện rõ ra là người cao quý, nhưng trong chốc lát thì mọi thứ trang điểm trở lại làm cho hèn hạ. Gia đình là nơi những biến đổi lạ lùng, hội tụ nhất định phải ly tán. Gia đình như huyễn ảo giả dối, nhờ hòa hợp mà có chứ không có thật sự. Gia đình như giấc mộng, tất cả mọi sự giàu sang qua lâu dài thì vẫn mất đi. Gia đình như sương buổi sáng, trong thoáng chốc sẽ tan mất. Gia đình như giọt mật, mùi vị ấy thật ít ỏi. Gia đình như lùm gai, bị gai nhọn của mùi vị năm dục làm tổn thương mọi người. Gia đình là con sâu có miệng bằng sắt, giác quán bất thiện thường rúc rỉa ăn thịt người. Gia đình là nơi nhớp sạch lẫn lộn, đời sống có nhiều điều lừa gạt xấu xa. Gia đình là nơi ưu sầu làm cho tâm có nhiều điều hỗn loạn rối ren. Gia đình là nơi bị hủy hoại bởi vua quan-giặc cướp-nước-lửa-oán thân. Gia đình là nơi lắm tật, lắm những điều sai lầm. Như vậy trưởng giả là Bồ tát tại gia, cần phải biết rõ mọi tai họa của gia đình như vậy!” Lại nữa: Bồ tát thích hợp nên biết rõ, Sai lầm tai hại của gia đình, Tự mình thường xuyên hành bố thí, Trì giới tốt đẹp thường hoan hỷ, Nếu trông thấy những người xin ăn, Nên sinh khởi năm loại ba tưởng. Bồ-tát tại gia nên biết rành những tai họa và lầm lỗi của gia đình như vậy. Phải thực hành bố thí, trì giới thật tốt đẹp. Bố thí là bỏ tâm tham. Trì giới là thân khẩu ý thanh tịnh. Thiện là khéo thâu nhiếp các căn. Thường hoan hỷ là tâm cùng hoan hỷ. Năm loại ba tưởng là khi thấy người xin ăn nên phát sinh năm loại ba tưởng. Ba tưởng đầu là ý tưởng về thiện tri thức, ý tưởng chuyển thân được giàu có ý tưởng hỗ trợ Bồ đề. Lại có ba ý tưởng: Ý tưởng loại trừ tính tham lam keo kiệt. Ý tưởng xả bỏ hết thảy. Ý tưởng ham cầu có được hết thảy trí tuệ. Lại có ba ý tưởng: Ý tưởng làm theo lời Như Lai dạy bảo. Ý tưởng không cầu quả báo. Ý tưởng làm cho các ma phải khuất phục Lại có ba ý tưởng: Ý tưởng nhìn người đến xin như quyến thuộc của mình. Ý tưởng không buông bỏ nhiếp pháp. Ý tưởng buông bỏ sự tiếp nhận tà vạy. Lại có ba ý tưởng: Ý tưởng xa lìa ham muốn. Ý tưởng tu hành tâm Từ. Ý tưởng không ngu si. Nay sẽ giải thích về ba ý tưởng thứ năm: Nhân có người đến xin, Bồ-tát chiết phục làm cho ba độc giảm đi, xả bỏ đồ vật đã đem bố thí, phát sinh ý tưởng lìa khỏi ham muốn. Ai đến xin là nguyện nhân để giúp cho họ niềm vui, khiến tâm sân hận giảm đi, gọi là ý tưởng tu hạnh Từ. Đem công đức thí này hồi hướng về đạo vô thượng thì tâm ngu si sẽ giảm đi, đó gọi là ý tưởng không ngu si. Còn nghĩa của các ý tưởng khác, cũng nên biết như vậy. Lại nữa: Bồ tát nhờ vào người cầu xin, Thực hành đủ sáu Ba-la-mật, Nhờ vào những nhân duyên như vậy, Gặp người cầu xin rất hoan hỷ. Sáu Ba-la-mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ. Bởi vì nhờ có người cầu xin mới có thể thực hành đủ Ba-la-mật, đó là ích lợi. Khi thấy kẻ xin từ xa đang đến, Bồ-tát sinh tâm cả mừng, nghó như vậy: Thực hành phước điền tự nhiên mà đến. Nhờ có người này, mình mới được đầy sáu Ba-la-mật. Vì sao? Vì khi đem vật giúp cho mà tâm không ham tiếc, đó mới gọi là Bố thí Ba-la-mật. Bố thí là vì quả Vô thượng chính đẳng chính giác, đó gọi là Trì giới Ba-la-mật. Nếu không nóng giận đối với kẻ ăn xin thì gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Đang khi bố thí mà tâm không lo lắng, không sợ thiếu hụt, không rút lui lẩn tránh, đó gọi là Tinh tiến Ba-la-mật. Nếu cho người xin như cho chính mình thì tâm chắc chắn không hối tiếc, đó gọi là Thiền định Ba- la-mật. Vì hết thảy pháp các không thể nắm bắt được mà làm việc bố thí, không cầu quả báo, như Hiền Thánh không vướng mắc, đem công đức bố thí hồi hướng về Vô thượng chính đẳng chính giác, đó gọi là Trí tuệ Ba-la-mật. Lại nữa: Quả báo nhờ bố thí mọi vật, Các loại đều có thể biết được, Người tại gia keo kiệt tiếc nuối, Cũng biết rõ các loại lỗi lầm. Những vật mà mình đem bố thí đều được công đức lợi vật. Người tại gia keo kiệt luyến tiếc, hết thảy lỗi xấu ấy, Bồ-tát đều biết rõ. Hỏi: Bố thí thì được công đức gì? Người tại gia tiếc của, không bố thí thì mắc lỗi lầm gì? Đáp: Bồ tát dùng trí tuệ chân thật biết như vậy: Vật đem cho rồi là vật của mình. Vật còn trong nhà không phải là của mình. Vật đã cho rồi mới bền chắc, vật còn trong nhà không bền chắc. Vật đã cho là niềm vui đời sau, vật trong nhà chỉ là cái niềm vui chốc lát. Vật đã cho thì không lo giữ, vật còn trong nhà phải lo giữ. Vật đã cho làm giảm đi tâm ái dục, vật còn trong nhà làm tăng thêm lòng ái dục. Vật đã cho rồi không còn ngã sở, vật còn trong nhà thì còn ngã sở. Vật đã cho không có nơi hệ thuộc, vật trong nhà còn có nơi hệ thuộc. Vật đã cho không có gì lo sợ, vật còn trong nhà gây nhiều lo sợ. Vật đã cho giúp đạo Bồ-đề, vật còn trong nhà giúp cho ma đạo. Vật đã cho thì không hết, vật còn trong nhà thì có cạn. Vật đã cho thì từ đó mà được niềm vui, vật còn trong nhà thì từ đó mà bị khổ. Bố thí rồi là buông bỏ phiền não, còn vật trong nhà thì tăng thêm phiền não. Vật đã cho thì được vui giàu có, vật còn trong nhà thì không được niềm vui giàu có. Bố thí rồi là nghiệp Đại nhân, còn trong nhà là nghiệp tiểu nhân. Đã thí thì chư Phật khen, còn trong nhà thì ngu si khen. Lại nữa: Đối với vợ con và quyến thuộc, Cùng với các bậc thiện tri thức, Bố thí tiền bạc và súc sinh, Nên phát sinh ý tưởng huyễn hóa, Tất cả mọi hành động của nghiệp, Đều là do huyễn sư làm ra. Bồ tát tại gia đối với vợ con…, nên sinh ý tưởng huyễn hóa, như sự việc huyễn hóa chỉ lừa được mắt người hành nghiệp là chủ nhân huyễn hóa, mọi chuyện như vợ con… không mấy chốc sẽ phai mờ. Như kinh nói: “Đức Phật bảo với các Tỳ-kheo: Các hành như huyễn hóa, lừa dối làm mê hoặc người ngu si, chứ không có thật sự. Nên biết rằng bởi vì nghiệp mà có, nghiệp hết thì diệt đi, vì vậy giống như trò huyễn hóa”. Bồ tát dấy lên ý niệm như vậy. Ngã không phải nó là vốn có, Nó không phải là ngã vốn có, Nó và Ngã đều thuộc về nghiệp, Tùy theo nghiệp nhờ duyên mà có, Tư duy thực sự đúng như vậy, Không nên phát khởi những ác nghiệp. Cha mẹ-vợ con-bà con-tri thức-tôi tớ trai gái hầu hạ…, không có thể làm nơi cứu giúp, làm nơi nương nhờ, làm nơi quay về cho mình được, chẳng phải Ngã-chẳng phải Ngã sở; năm ấm-mười hai nhập-mười tám giới, hãy còn chẳng phải là Ngã-chẳng phải là Ngã sở, huống hồ cha mẹ-vợ con…? Mình cũng không có thể làm nơi cứu giúp, làm nơi nương nhờ, làm nơi quay về cho họ được; mình cũng thuộc về nghiệp, tùy theo nghiệp mà nhận lấy, họ cũng thuộc về nghiệp tùy theo nghiệp mà nhận lấy. Quả báo tốt xấu tùy theo ba loại như vậy: Có nghĩa lý. Thấy kinh nói. Thấy sự việc hiện tại. Không nên vì cha mẹ-vợ con… mà phát khởi mảy may ác nghiệp của thân-miệng-ý. Lại nữa: Bồ tát đối với vợ của mình, Nên có ba loại về ba tưởng, Cũng còn có ba loại ba tưởng, Lại có ba loại ba tưởng. Bồ tát tại gia nên sinh ra các loại về ba tưởng. Vốn gọi là ba tưởng, đó là đối với vợ thì có ý tưởng về vô thường, ý tưởng về mất mát, ý tưởng về tan hoại. Lại có ba tưởng: Là bạn cùng đùa chứ không phải là bạn của đời sau, là bạn cùng ăn chứ không phải là bạn cùng nhận lấy quả báo của nghiệp, là bạn lúc vui chứ không phải là bạn lúc khổ. Lại có ba tưởng: Là tưởng về bất tịnh, tưởng về dơ bẩn hôi hám, tưởng về đáng chán ngán vô cùng. Lại có ba tưởng: Là tưởng về oan gia, tưởng về sự não hại, tưởng về trái ngược nhau. Lại có ba tưởng: Là tưởng về La sát, tưởng về quỷ Tỳ-xá-xà, tưởng về xấu xí khó coi. Lại có ba tưởng: Là tưởng đi vào địa ngục, tưởng đi vào súc sinh, tưởng đi vào ngạ quỷ. Lại có ba tưởng: Tưởng về gánh nặng, tưởng về giảm bớt, tưởng về hệ thuộc sợ hãi. Lại có ba tưởng: Tưởng về không có Ngã, tưởng về hệ thuộc không chắc chắn, tưởng về giả tạm không thật. Lại có ba tưởng: Tưởng về nhân tố khởi lên ác nghiệp của thân, tưởng về nhân tố khởi lên ác nghiệp của miệng, tưởng về nhân tố khởi lên ác nghiệp của ý. Lại có ba tưởng: Tưởng về nơi cảm nhận ham muốn, tưởng về nơi cảm nhận giận dữ, tưởng về nơi cảm nhận buồn phiền. Lại có ba tưởng: Tưởng về gông cùm, tưởng về xiềng xích, tưởng về trói buộc. Lại có ba tưởng: Tưởng về ngăn cản trì giới, tưởng về ngăn cản thiền định, tưởng về ngăn cản trí tuệ. Lại có ba tưởng: Tưởng về hầm hố, tưởng về lưới giăng, tưởng về bao vây khó thoát. Lại có ba tưởng: Tưởng về tai hại, tưởng về bệnh tật, tưởng về suy sụp buồn phiền. Lại có ba tưởng: Tưởng về tội lỗi, tưởng về thân đen thui, tưởng về tai họa mưa đá. Lại có ba tưởng: Tưởng về bệnh, tưởng về già, tưởng về chết. Lại có ba tưởng: Tưởng về ma, tưởng về nơi ở của ma, tưởng về sợ hãi. Lại có ba tưởng: Tưởng về ưu sầu, tưởng về áo não, tưởng về khóc lóc nỉ non. Lại có ba tưởng: Tưởng về loài sài lang lớn, tưởng về loài các Ma- kiệt lớn, tưởng về loài chồn cáo lớn. Lại có ba tưởng: Tưởng về loài rắn độc đen thui, tưởng về loài cá Tầm trơn tuột, tưởng về thế lực cướp đoạt. Lại có ba tưởng: Tưởng về không có sự cứu giúp, tưởng về không có nơi quy tụ, tưởng về không có xả bỏ. Lại có ba tưởng: Tưởng về mất mát, tưởng về hủy bỏ, tưởng về mệt mỏi rã rời. Lại có ba tưởng: Tưởng về giặc cướp, tưởng về cai ngục, tưởng về cai ngục dưới âm ty. Lại có ba tưởng: Tưởng về giữ lại, tưởng về trói buộc, tưởng về thắt chặt. Lại có ba tưởng: Tưởng về bùn lầy, tưởng về dòng chảy, tưởng về trôi nổi. Lại có ba tưởng: Tưởng về xiềng xích, tưởng về gông cùm, tưởng về dính chặt. Lại có ba tưởng: Tưởng về đống lửa cháy rừng, tưởng về vòng dao xoay tròn, tưởng về bó đuốc cỏ. Lại có ba tưởng: Tưởng về không lợi ích gì, tưởng về gai nhọn, tưởng về sự ác độc. Lại có ba tưởng: Tưởng về lấn át người trên, tưởng về che kính ánh sáng, về tham lam đắm trước. Lại có ba tưởng: Tưởng về căm hận, tưởng về roi gậy, tưởng về gươm giáo nhọn sắc. Lại có ba tưởng: Tưởng về giận dữ, tưởng về tranh cãi, tưởng về gậy đánh. Lại có ba tưởng: Tưởng về oán ghét gặp nhau, tưởng về yêu thương chia lìa, tưởng về ồn náo loạn. Nói tóm lại, là dùng ý tưởng về tất cả đều hôi hám xấu xa bất tịnh, ý tưởng về tất cả đều là suy sụp hỗn loạn, ý tưởng về tất cả đều là căn bất thiện. Vì vậy Bồ tát tại gia đối với vợ con nhìn thấy mọi ý tưởng như vậy, nên sinh tâm chán ngán rời xa mà xuất gia tưởng về thiện- hành thiện. Nếu không thể xuất gia được, thì không nên đối với vợ mình mà dấy khởi những ác nghiệp. Lại nữa: Nếu đối với con cứ yêu thương, Thì dùng sức trí tuệ rời bỏ, Nhờ vào con mà hành bình đẳng, Yêu thương tất cả mọi chúng sinh. Bồ tát tại gia, nếu tự biết tâm mình yêu thương rất nhiều đối với con cái, thì dùng sức mạnh của trí tuệ mà tư duy lìa bỏ. Sức mạnh của trí tuệ thuận theo nghó như vậy: Tâm Bồ tát bình đẳng, mới có sự thành tựu quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, tâm phân biệt cao thấp thì không có Bồ đề. Đạo Vô thượng chính đẳng chính giác này, từ một tướng vô tướng mà đạt được, chứ không đạt được từ những tướng phân biệt. Nay mình cầu đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, nếu đối với con cái mà tâm yêu quý quá nhiều thì có phân biệt cao thấp, không gọi là bình đẳng, tức là tướng sai khác chứ không phải là một tướng như nhau. Nếu như vậy thì cách ly với đại Vô thượng chính đẳng chính giác thật là rất xa. Vì vậy mình không nên đối với con cái mà cứ sinh tâm yêu quý. Lúc bấy giờ đối với con cái cần phải phát sinh ba ý tưởng. Đối với mình thì con cái là giặc, Đức Phật dạy yêu thương bình đẳng để phá tan tâm niệm không bình đẳng, vốn là tâm yêu quý thiên lệch quá nhiều. Bị giặc làm hại nguyên nhân là con cái gây ra, làm cho tan tành các thiện căn, ngăn chặn mạng sống của chính trí. Mình do con cái mà đi trong con đường trái ngược chứ không đi theo con đường thuận lợi. Ngay lập tức nhờ con cái mà thực hành tâm từ bình đẳng đối với mọi chúng sinh, nên dấy lên nghó như vậy: Con cái từ nơi khác đến, mình cũng từ nơi khác mà đến , con đến chỗ khác, mình đi chỗ khác, mình không biết chỗ con đi, con không biết chỗ mình đi, con không biết nơi mình đến, mình không biết nơi con đến, thì con cái không phải là mình vốn có, vì sao vô cớ sinh ra nhiều điều yêu quý mà chịu ràng buộc? Như nói: Con và mình không quen biết nhau, Nơi nào đến và đi về đâu, Con và mình tại sao thân thiết, Mà sinh ra tâm chấp của mình? Vả lại, trong dòng sinh tử từ vô thỉ, tất cả chúng sinh đã từng làm con mình, mình cũng từng làm con của họ. Trong pháp hữu vi không có gì quyết định được đây là con mình-kia là con người khác. Tại vì sao? Bởi vì chúng sinh xoay vòng qua lại trong sáu đường cùng làm cha con lẫn nhau. Như nói: Vô minh che mờ mắt trí tuệ, Liên tục nhiều đời trong sinh tử, Qua lại đã tạo ra nhiều nghiệp, Trải qua làm cha con lẫn nhau. Tham đắm niềm vui của thế gian, Không biết có việc làm tốt đẹp, Oán thù cho rằng là quen biết, Quen biết lại cho là kẻ thù. Vì vậy mình phương tiện đừng sinh tâm yêu ghét, tại vì sao? Bởi vì nếu có thiện tri thức thì luôn luôn mong cầu các loại lợi ích, nếu có giặc thù thì luôn luôn nảy sinh các loại ý tưởng không ích lợi gì. Có tâm yêu ghét như vậy thì không có được ý tưởng thông suốt về các pháp bình đẳng. Tâm phân biệt cao thấp thì sau khi chết sẽ sinh vào nơi tà vạy, thực hành ngay thẳng thì sau khi chết sẽ sinh vào nơi thực hành ngay thẳng. Vì vậy mình không nên làm theo hạnh tà, mà thực hành bình đẳng đối với chúng sinh, thì sẽ đạt được trí Tát-bà-nhã bình đẳng.  <卷>QUYỂN 8 <詞>Phẩm 17: VÀO CHÙA Như vậy, Bồ-tát tại gia xử sự mọi việc, không sử dụng tâm tham đắm, tâm ta và của ta. Vì sao? Vì duyên vào của cải mà sinh mê đắm thì khó buông bỏ, theo pháp thì nên bố thí. Nếu có khả năng bố thí thì sẽ loại bỏ được lỗi này. Nếu không có tâm tham đắm, bủn xỉn, luyến tiếc thì Bồ-tát mới có thể sống được ở nhà. Hỏi: Nếu có người đến xin đồ đạc, mà Bồ-tát tại gia lại ham mê ưa thích luyến tiếc thứ ấy, thì phải làm sao? Đáp: Đối với vật mà mình tham trước, Có người đến cầu xin vật ấy, Nên tự khuyến khích với tâm mình, Lập tức bố thí thì đừng tham tiếc. Những đồ đạc mà Bồ-tát ưa thích, luyến tiếc, nếu có ai gấp gáp đến xin và bảo: Ông đưa cho tôi vật này sẽ mau chóng thành Phật. Ngay khi ấy, Bồ-tát liền khuyến dỗ tâm mình mà bố thí ngay. Nên suy nghó như vậy: Nếu hôm nay mình không buông bỏ thứ này, thì những thứ ấy chắc chắn sẽ xa rời mình. Vả lại đến lúc chết, mình đâu đem nó theo được. Vật này là hình tướng của sự xa rời, nay mình bố thí vì quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, để bố thí Ba-la-mật được đầy đủ, sau này đến lúc chết tâm không hối hận gì. Như kinh nói: “Không có tâm hối hận thì chết rồi sẽ sinh vào nơi thiện”. Được lợi lớn như vậy, tại sao không đem cho? Nếu tự khuyến nhủ mình như vậy mà lòng vẫn còn ham mê luyến tiếc thì tạ lỗi với người đến xin: Nay tôi là người mới tưởng về học, Thiện căn chưa đến nơi thành tựu, Tâm chưa đạt được sức tự tại, Nguyện sau này sẽ giúp cho nhau. Bồ-tát nên tạ lỗi với người đến xin: Xin ông chớ giận hờn tôi, tôi mới phát ý, căn thiện chưa đủ, chưa đủ thế mạnh của pháp hạnh Bồ-tát. Vì vậy, cho nên chưa có thể buông bỏ vật này. Sau khi được thế mạnh, căn thiện thành tựu, tâm được vững chãi, tôi sẽ đem nó cho ông. Lại nữa: Nếu như mọi người không hòa hợp, Gián đoạn việc thực hành kinh pháp, Bồ tát nên tùy theo sức mình, Phương tiện khiến cho không gián đoạn. Vì nguyên nhân nào đó, chúng Tăng trái nhau mà tranh cãi, việc kinh pháp bị bỏ phế, thì Bồ-tát tại gia nên chịu khó tìm phương tiện, đối với bên này bên kia không thiên vị, hoặc dùng của cải hay dùng lời nói kính lạy cầu thỉnh hai bên hòa hợp lại. Hoặc có trường hợp do thiếu hụt áo cơm, hoặc có kẻ tà kiến làm cản trở, hoặc người thuyết pháp muốn cầu lợi dưỡng, hoặc người nghe pháp mà tâm không cung kính, thì Bồ- tát tại gia nên tìm phương tiện thích đáng, hoặc đem của hay dùng lời, khiêm nhường cầu thỉnh khiến cho pháp sự ấy không bị bỏ phế. Pháp sự không bị bỏ phế tức là đã thắp ngọn đèn pháp Phật, cúng dường ba đời mười phương chư Phật. Lại nữa: Vào những ngày trai thọ tám giới, Gần gũi người trì giới thanh tịnh, Nhờ nhân duyên tốt lành của giới, Tâm thực hành kính mến sâu sắc. Ngày trai trong tháng là những ngày mồng tám-mười bốn-mười lăm-hăm ba-hăm chín và ba mươi; và ngăn chặn ba điều kiêng kî. Ba điều kiêng kî thì ngày mười lăm là ngày kiêng kî nhất. Từ Đông chí về sau bốn mươi lăm ngày, trong những ngày xấu ác này có nhiều quỷ thần xâm phạm tung hoành quấy nhiễm, người thế gian bởi vì giữ gìn sự yên ổn cho nên quá buổi trưa thì không ăn. Nhân đó Đức Phật dạy bảo khiến thọ giới một ngày, đã cảm được phước đức. Chư Thiên giáng trần quan sát thế gian, thấy vậy thì hoan hỷ mà nghó đến sự che chở. Bồ tát tại gia đối với những việc nhỏ hãy làm lợi ích thêm, huống là trước đây đã có những trai pháp này mà không tùy thuận hay sao? Vì vậy cần phải thực hành trai pháp một ngày, đã có được lợi ích cho mình mà cũng có thể lợi ích cho người. Hỏi: Trai pháp như thế nào? Đáp: Nên phát ra lời nói như vậy: Như các bậc Thánh nhân, thường xa rời sát sinh, vứt bỏ dao gậy thường không có giận dữ, có tâm tàm quý từ bi đối với chúng sinh, con tên họ là… nay trong một ngày một đêm xa lìa sát sinh, vứt bỏ dao gậy không có giận dữ, có tâm tàm quý từ bi đối với chúng sinh. Dùng pháp như vậy mà học theo Thánh nhân. Như các bậc Thánh nhân, thường xa rời trộm cắp, thân hành thanh tịnh mà thọ nhận biết vừa đủ nay con trong một ngày một đêm xa rời trộm cắp, cầu thọ nhận thanh tịnh tự sống. Dùng như vậy mà học theo Thánh nhân. Như các bậc Thánh nhân, thường đoạn trừ dâm dục, xa rời thú vui thế gian, nay con trong một ngày một đêm đoạn trừ dâm dục, xa rời thú vui thế gian, tưởng về hành phạm hạnh thanh tịnh. Dùng pháp như vậy mà học theo Thánh nhân. Như các bậc Thánh nhân, thường xa rời nói dối, luôn nói lời chân thật nói lời chính trực, nay con trong một ngày một đêm xa rời nói dối, mà nói lời chân thật, nói lời chính trực. Dùng pháp như vậy mà học theo Thánh nhân. Như các bậc Thánh nhân, thường xa rời uống rượu, rượu là nơi chốn của sự phóng túng, nay con trong một ngày một đêm xa rời đối với rượu. Dùng pháp như vậy mà học theo Thánh nhân. Như các bậc Thánh nhân, thường xa rời ca múa âm nhạc, và các loại hương hoa-chuỗi ngọc trang điểm thân hình, nay con trong một ngày một đêm xa rời ca múa âm nhạc, và các loại hương hoa chuỗi ngọc trang điểm thân hình. Dùng pháp như vậy mà học theo Thánh nhân. Như các bậc Thánh nhân, thường xa rời giường cao rộng to lớn, ở nơi giường nhỏ, lấy đệm cả làm chỗ ngồi, nay con trong một ngày một đêm xa rời giường cao rộng to lớn, ở giường nhỏ, lấy đệm cỏ làm chỗ ngồi. Dùng pháp như vậy mà học theo Thánh nhân. Như các bậc Thánh nhân, thường quá ngọ không ăn, xa lìa việc làm không đúng lúc-ăn không đúng lúc, nay con trong một ngày một đêm, quá ngọ không ăn, xa lìa việc làm không đúng lúc-ăn không đúng lúc. Dùng pháp như vậy mà học theo Thánh nhân. Như nói: Sát-đạo-dâm dục và nói dối, Uống rượu, trang điểm cùng ca múa, Giường cao ghế rộng ăn quá ngọ, Các bậc Thánh nhân đều rời bỏ, Nay con cũng học theo như vậy, Dùng nhân duyên của phước thiện này, Hồi hướng tất cả cùng thành Phật. Thân cận Tỳ-kheo trì giới thanh tịnh, là Bồ tát tại gia nên thân cận các Tỳ-kheo cố gắng hết lòng hộ trì cho giới cấm được thanh tịnh, thành tựu công đức, phòng xa mọi điều ác. Nhờ vào nhân duyên tốt lành của giới, là còn cần phải thân cận Tỳ-kheo trì giới, nhờ vậy nghiệp của thân miệng thanh tịnh, tâm hạnh tốt lành thẳng thắn, không còn mọi điều ác. Tâm kính mến sâu sắc, là đối với Tỳ-kheo trì giới thực hành thiện pháp, tâm chất trực cao cả, thành tựu các công đức, thì nên sinh tâm yêu mến hết sức, cung kính vô cùng. Hỏi: Bồ tát tại gia nếu đối với Tỳ-kheo trì giới, thành tựu công đức nên sinh tâm kính mến, còn đối với Tỳ-kheo phá giới thì nên sinh tâm khinh thường ghét bỏ chăng? Đáp: Nếu như thấy người nào phá giới, Không cần phải khởi tâm khinh ghét. Bồ-tát tại gia nếu thấy Tỳ-kheo phá giới có hành động tạp nhạp, mọi cử chỉ việc làm đều thiếu oai nghi, che giấu xấu ác, nhiều tỳ vết, không có phạm hạnh tự xưng là phạm hạnh, thì đối với hạng Tỳ-kheo ấy, cũng không nên sinh tâm khinh mạn hay giận dữ. Hỏi: Nếu không sinh tâm sân hận thì phải sinh tâm như thế nào? Đáp: Nên sinh tâm thương xót cho họ, Trách mắng các phiền não gây ra. Nếu thấy Tỳ-kheo phá giới, Bồ-tát tại gia không nên sinh tâm khinh khi, giận dữ, thù hận, cho nên sinh lòng xót thương có ích lợi nghó như vậy: Ôi! Người này gặp được pháp cao siêu của Phật, được lìa khỏi địa ngục, ngạ quỷ-súc sinh, Sắc-Vô sắc giới, không sinh nơi biên địa, các căn đầy đủ, không điếc câm, không ngu độn. Được gặp pháp Phật cao siêu, biết rõ tốt xấu, tâm còn chính kiến, thấu hiểu nghĩa lý, thân người khó được, như trong biển cả có con rùa một mắt đút đầu vào bộng cây, sinh trong cõi người còn khó bội phần, so với con rùa này. Đã nghe pháp Phật thì có khả năng tiêu diệt mọi điều ác, vượt qua mọi khổ não, được đến với chính trí. Bỏ hết của cải ít nhiều có được trong đời sống. Vónh viễn cắt bỏ thân tộc, không còn gì vương vấn, lưu luyến. Hoặc sinh trong dân thường, hoặc sinh trong giòng họ cao đã, vì lòng tin Phật mà xuất gia, luôn nghe nói về tội phá giới, là tự hạ thấp đời mình, bị người trí quở trách, tiếng xấu truyền khắp nơi thường ôm lòng ngờ vực hối hận, chết rồi đọa vào ác đạo . Đã được nghe như vậy mà còn phá giới chăng? Thực hành mười điều thiện mới được làm thân người, mà không thể nào đúng như pháp cố gắng sử dụng để tự lợi ích cho mình? Than ôi! Sức mạnh của ba độc thật là dữ dằn, thường lấn át chúng sinh làm cho khó mà xa rời được. Chư Phật đã quở trách các loại phiền não là giặc hung ác-hành hung ác, thì có lý đúng như thật! Tư duy như vậy thì không nên khinh chê người phá giới. Lại dấy lên nghó như vậy: Nếu mình không thể nào lìa bỏ mọi tâm lý giận dữ- khinh mạn, thì nên tự mình tư duy rằng Phật pháp vô lượng giống như biển rộng, hoặc có nơi khai thông mà mình không biết? Như trong kinh Đại thừa quyết định vương nói: “Đức Phật bảo với A-nan: Hoặc có Tỳ- kheo căn cơ ám độn bít chặt, tâm tính không sáng suốt, không hiểu được về tướng của các pháp, thường nghó đến trong pháp có tưởng- không có tưởng mà chọn lấy ý tưởng về có, phát sinh tưởng về nam nữ, sinh tưởng về tội lỗi chướng ngại, sinh tưởng về cấu nhiễm, sinh tưởng về thanh tịnh. Sinh những tưởng như vậy thì gọi là độn căn, tâm không sáng suốt tức là phát sinh tội lỗi. Này A-nan! Nếu như người ở trong tất cả các pháp mà không có thể khéo léo hiểu rõ thì gọi là không sáng suốt. Tất cả các pháp từ xưa đến nay, bản thể-tính tướng thường không thể nào nắm bắt được, người này không biết sự việc như vậy, sinh ra các tưởng này thì cùng với ngoại đạo không có gì khác nhau. Này A-nan! Pháp mà Ta đã nói đều có khai thông thanh tịnh rõ ràng, trong các pháp này không có tội cũng không có người có tội. Này A-nan! Tội lỗi là nghi ngờ hối tiếc ngu si tối tăm, tội lỗi là sinh tưởng về chúng sinh-tưởng về ngã-tưởng về mạng-tưởng về người, đều do thân kiến mà gọi là tội lỗi. Ở trong pháp của Ta không có người như vậy. Nếu trong pháp của Ta nhất định thật có những thân kiến như Ngã-chúng sinh-mạng-người, thì không nói là pháp của Ta có khai mở, chứ không phải là không khai mở. Pháp của Ta từ xưa đến nay thường thanh tịnh rõ ràng. Lại nữa, này A-nan! Nếu như quyết định có tội lỗi, có người nhận chịu tội lỗi, thì thân chính là thân ngã, tức là rơi vào Thường kiến thì không có Phật đạo. Nếu như thân khác với thần ngã thì rơi vào Đoạn kiến, cũng không có Phật đạo. Sáu mươi hai kiến chấp như vậy đều có thể là Bồ đề, nhưng điều này không phải như vậy. Vì thế cho nên, này A-nan! Ta ở giữa đại chúng làm bậc Sư tử Hống thuyết giảng mà không có lời nào sợ hãi: Pháp của Ta có khai mở chứ không phải là không có khai mở, từ xưa đến nay thường thanh tịnh rõ ràng. Này A-nan! Nếu tội lỗi chắc chắn là có, thì rốt cuộc không có Niết bàn, Ta sẽ không nói là pháp của Ta có khai mở. Này A-nan! Pháp của Ta thật sự từ xưa đến nay vốn thanh tịnh rõ ràng, vì vậy đệ tử của Ta làm cho tâm thuần phục an ổn không có gì nghi ngờ hối tiếc, không có những tội ác, thanh tịnh mà hành đạo”. Bồ tát nên tư duy như vậy chứ không nên giận hờn khinh chê người phá giới. Lại dấy lên suy nghó như vậy: Giới này nhất định là được an trú trong đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Tại vì sao? Bởi vì đã từng nghe nhất định là Bồ tát có lúc phát khởi tội lỗi, như mười vạn kiếp trong quá khứ, có Bồ tát phỉ báng bậc A-la-hán lậu tận, gọi là A-la-hán. Lại nghe có Bồ tát trong phần vị Tất định ở ba mươi mốt kiếp trước đây, dùng giáo dài đâm vào vị Tu-đà-hoàn. Lại trong Hiền kiếp này, nghe có Bồ tát phỉ báng Đức Phật Câu Lâu Tôn rằng có người trọc đầu nào mà được đắc đạo? Những chúng sinh như vậy khó có thể biết được, vì vậy mình đối với sự việc này đâu cần phải biết làm gì? Được-mất-tốt- xấu họ tự làm thì họ tự chịu đâu can hệ gì đối với mình, nay mình nếu như muốn biết chính xác sự việc ấy, có lẽ tự làm tổn thương mình vì phân biệt chúng sinh, điều này Đức Phật vốn không cho phép, như trong kinh nói: “Đức Phật bảo A-nan: Nếu người nào phân biệt đối với người khác thì đã tự làm tổn thương mình, chỉ riêng mình có thể phân biệt suy xét chính mình, chúng sinh và mình đều bình đẳng thì cũng nên suy xét mà thực hành”. Như nói: Có bình nắp đậy cũng không có, Không có nắp cũng lại không có, Có bình nắp đậy cũng đầy đủ, Không có nắp cũng lại đầy đủ, Nên biết rằng đối với thế gian, Có đủ bốn loại người như vậy, Oai nghi phạm hạnh và công đức, Có hay không có cũng như vậy. Nếu không phải là Nhất thiết trí, Làm sao có thể suy xét người, Lẽ nào có thể thấy oai nghi, Mà biết được phẩm đức của người? Trí tuệ chân chính có thiện tâm, Gọi là tướng của người đức hạnh, Chỉ trông thấy oai nghi bên ngoài, Dựa vào đâu biết được trong tâm? Bên trong có công đức trí tuệ, Ngoại hiện tướng không có uy đức, Đi khắp mọi nơi không ai biết, Như dùng tro phủ trên lửa đỏ. Nếu lấy bề ngoài xét bên trong, Mà sinh tâm khinh chê ngạo mạn, Làm hại đến thân và thiện căn, Mạng sống chấm dứt vào đường ác. Bên ngoài giả hiện rõ oai nghi, Đi khắp mọi nơi tựa Thánh Hiền, Chỉ có miệng nói năng hùng hổ, Như sấm động mà không có mưa. Nơi hoạt động của các tâm sở, Sai lầm khó có thể biết được, Vì vậy cho nên các chúng sinh, Không có thể suy xét tùy tiện. Chỉ có đầy đủ Nhất thiết trí, Biết rõ các tâm và tâm sở, Nơi hoạt động tinh vi sâu kín, Mới có năng lực xét chúng sinh. Đức Phật dạy mình-người bình đẳng, Mới có năng lực xét chúng sinh, Nếu Đức Phật giảng dạy như vậy, Ai có năng lực suy xét người? Nếu như thấy oai nghi bên ngoài, Mà xét đến phẩm đức bên trong, Thì tự mình làm hỏng thiện căn, Như nước vỗ tự làm bờ sụt. Nếu như có những sai lầm này, Thì gây ra nghiệp chướng to lớn, Vì vậy đối với những người này, Không nên khởi tâm ý khinh chê. Bồ-tát tại gia không nên sinh tâm khinh mạn, giận dữ với người phá giới. Lại nữa, người giữ giới hay phá giới không ở chung với người bạch y, thì do đâu mà biết. Nếu mình muốn phân biệt làm sáng tỏ việc này, thì sẽ gây ra tội chướng, rồi do tội chướng ấy mà chịu khổ ngàn vạn kiếp. Như trong kinh Vô Hành có nói, và trong kinh Đại thừa: “Phật bảo trưởng giả Úc-già-la: Như vậy Bồ tát tại gia nên sinh tâm xót thương Tỳ-kheo phá giới, dẫu cho người này có hạnh xấu, hạnh ác, hạnh nhơ. Vì sao? Vì người này mặc pháp y Thánh chúa tịch diệt tốt đẹp của Như Lai, nhưng không biết tự mềm mỏng, không có khả năng điều phục các căn mà làm nhiều hạnh bại hoại.” Lại nữa, trong kinh Phật cũng nói: “Không khinh chê người chưa học, vì không phải họ gây tội mà do phiền não gây tội. Kẻ ấy do phiền não phát sinh cho nên có những chuyện không tốt.” Lại nữa, pháp Phật có khai thông nên người này có thể tự bỏ lỗi của mình. Do nhân duyên chính niệm mà được tiến vào pháp vị, hoặc bước vào Tất định thuộc về quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Lại nữa, như Phật nói: Chỉ có trí tuệ mới phá tan phiền não. Không nên xét đoán người một cách tùy tiện. Nếu xét đoán như vậy thì tự làm hại mình. Chỉ có Phật đầy đủ trí tuệ mới biết rõ những việc như vậy, không phải là những điều mà mình hiểu biết, nghĩa là đối với người phá giới không sinh tâm giận dữ, khinh thường. Lại nữa: Nếu Bồ tát đi vào chùa tháp, Nên thực hành đầy đủ oai nghi, Tâm thành cung kính mà lễ bái Cúng dường tôn trọng các Tỳ-kheo. Như vậy Bồ tát tại gia nếu như đi vào chùa Chư Phật, lúc ban đầu sắp bước vào thì ở bên ngoài cổng chùa rạp lạy sát đất, nên phát khởi ý nghó như vậy: Đây là trú xứ của người thiện, là trú xứ của người tu hành pháp không, là trú xứ của người tu hành pháp vô tướng, là trú xứ của người tu hành pháp vô nguyện, đây là trú xứ thực hành Từ bi Hỷ Xả, đây là trú xứ của chính hạnh-chính niệm. Nếu gặp các Tỳ-kheo đầy đủ oai nghi, nhìn an lành thư thái, y bát nghiêm trang cẩn thận, đi đứng ngồi nằm, nghỉ ngơi yên giấc, ăn uống nói năng, dung mạo oai nghi đi lại lặng yên, tất cả đáng quán sát, nếu thấy các Tỳ-kheo tu hành bốn niệm xứ thì đó là hạnh của bậc Thánh thực hành, cùng với trì giới thanh tịnh, đọc tụng kinh pháp, tinh tiến tư duy ngồi thiền yên lặng, thấy rồi tâm tư cung kính nghiêm trang lễ bái, gần gũi thăm hỏi, nên phát khởi ý niệm như vậy: Nếu như trong hằng sa đời kiếp Mình thường đến đền thờ Thiên thần, Cúng dường rất nhiều không dừng bỏ, Không bằng cúng dường người xuất gia. Lúc bấy giờ Bồ tát này phát khởi ý niệm như vậy: Mình cầu mong tài vật đúng như pháp ở trong Hằng hà sa đời kiếp thường thực hành bố thí rộng lớn, phước đức của những hạnh bố thí này hãy còn không bằng phát tâm xuất gia, huống gì là có thật. Tại vì sao? Bởi vì tại gia thì có vô lượng lỗi lầm xấu ác, xuất gia có năng lực thành tựu vô lượng công đức. Tại gia thì ồn ào náo loạn, xuất gia thì thanh thản vắng lặng. Tại gia thì hệ thuộc cấu nhiễm, xuất gia thì không có gì hệ thuộc. Tại gia là nơi của việc ác, xuất gia là nơi của điều thiện. Tại gia thì nhiễm trước đủ loại bụi trần, xuất gia thì rời xa các loại bụi trần. Tại gia thì chìm trong bùn lầy năm dục, xuất gia thì ra khỏi bùn lầy năm dục. Tại gia khó có được mạng sống thanh tịnh xuất gia dễ có được mạng sống thanh tịnh. Tại gia thì nhiều kẻ thù, xuất gia thì không có kẻ thù. Tại gia thì nhiều buồn phiền trở ngại, xuất gia thì không có buồn phiền trở ngại. Tại gia là nơi buồn lo, xuất gia là nơi hoan hỷ. Tại gia là cửa vào đường ác, xuất gia là cửa vào lợi ích. Tại gia thì trói buộc, xuất gia thì giải thoát. Tại gia thì nhiều sợ hãi, xuất gia thì không có gì sợ hãi. Tại gia có gậy gộc roi vọt, xuất gia không có roi gậy gộc. Tại gia có gươm giáo, xuất gia không có gươm giáo. Tại gia có hối tiếc bứt rứt, xuất gia không có hối tiếc bứt rứt. Tại gia mong cầu nhiều mà khổ, xuất gia không mong cầu gì mà vui. Tại gia thì đùa cợt xúi giục, xuất gia thì yên lặng rỗng rang. Tại gia thì đáng thương xót, xuất gia không có gì đáng xót thương. Tại gia thì ưu sầu tiều tụy, xuất gia không có gì ưu sầu tiều tụy. Tại gia thì thấp kém, xuất gia thì cao quý. Tại gia thì hừng hực, xuất gia thì thanh thoát. Tại gia ít thế lực, xuất gia nhiều thế lực. Tại gia thì người khác làm cho, xuất gia thì tự mình làm. Tại gia tùy thuận cửa cấu nhiễm, xuất gia tùy thuận cửa thanh tịnh. Tại gia tăng thêm gai hóc, xuất gia phá bỏ gai góc. Tại gia thành tựu pháp nhỏ bé, xuất gia thành tựu pháp lớn lao. Tại gia làm điều bất thiện, xuất gia thì tu thiện hạnh. Tại gia thì có hối tiếc, xuất gia không có gì hối tiếc. Tại gia tăng thêm biển rộng của nước mắt-sữa và máu, xuất gia làm cạn khô biển rộng của nước mắt- sữa-máu. Tại gia thì bị Chư Phật, Bích-chi-Phật và Thanh văn chỉ trích, xuất gia thì được Chư Phật, Bích-chi-Phật và Thanh văn khen ngợi. Tại gia thì không biết vừa đủ, xuất gia thì biết vừa đủ. Tại gia thì ma vui, xuất gia thì ma buồn. Tại gia về sau có suy sụp, xuất gia về sau không có gì suy sụp. Tại gia thì dễ dàng sụp đổ, xuất gia thì khó mà sụp đổ. Tại gia thì dễ dàng sụp đổ, xuất gia thì khó mà sụp đổ. Tại gia là nô bộc, xuất gia thì làm chủ. Tại gia vónh viễn còn sinh tử, xuất gia cuối cùng đến Niết bàn. Tại gia thì rơi vào hầm hố, xuất gia thì thoát khỏi hầm hố. Tại gia thì tăm tối, xuất gia thì sáng tỏ. Tại gia không có năng lực làm cho các căn phải thuần phục, xuất gia thì có năng lực làm cho các căn phải thuần phục. Tại gia thì kiêu ngạo, xuất gia thì khiêm tốn. Tại gia thì dung tục, xuất gia thì tôn quý. Tại gia có lắm chuyện, xuất gia không có chuyện gì. Tại gia thì nhiều theo đuổi, xuất gia thì ít theo đuổi. Tại gia thì nhiều quả báo nhỏ bé, xuất gia thì quả báo to lớn. Tại gia thì dua nịnh quanh co, xuất gia thì chất trực. Tại gia thì nhiều buồn lo, xuất gia thì nhiều vui vẻ. Tại gia như mũi tên còn trong thân, xuất gia như mũi tên rút ra khỏi thân. Tại gia thì có bệnh tật, xuất gia thì bệnh tật chữa lành. Tại gia làm điều ác cho nên mau già, xuất gia thực hành thiện pháp cho nên khỏe mạnh. Tại gia phóng túng mà dẫn đến cái chết, xuất gia thì có mạng sống của trí tuệ. Tại gia thì lừa dối, xuất gia thì chân thật. Tại gia thì mong cầu nhiều, xuất gia thì ít mong cầu. Tại gia thì uống các loại nước độc hại, xuất gia thì uống nước cam lộ. Tại gia có nhiều điều xâm phạm tổn hại, xuất gia không có gì xâm phạm tổn hại. Tại gia thì suy sụp hư hao, xuất gia không có gì suy sụp hư hao. Tại gia như quả của cây độc, xuất gia như quả cây ngon ngọt. Tại gia thì oán ghét hòa hợp, xuất gia thì xa rời nỗi khổ oán ghét gặp nhau. Tại gia gặp nỗi khổ yêu thương chia ly, xuất gia thì thân ái hòa hợp. Tại gia thì ngu si sâu dày, xuất gia thì ngu si mỏng cạn. Tại gia thì mất đi hạnh thanh tịnh, xuất gia thì có được hạnh thanh tịnh. Tại gia thì tâm sâu xa bị phá hủy, xuất gia thì tâm sâu xa được thành tựu. Tại gia thì không có cách cứu giúp, xuất gia thì có cách cứu giúp. Tại gia thì cô quạnh khốn cùng, xuất gia không cô quạnh khốn cùng. Tại gia thì không có nhà, xuất gia thì có nhà. Tại gia thì không có nơi quay về, xuất gia thì có chốn quay về. Tại gia thì nhiều sân hận, xuất gia thì nhiều Từ Bi. Tại gia thì phải gánh nặng, xuất gia thì bỏ gánh nặng. Tại gia thì công việc không bao giờ hết, xuất gia thì không còn có công việc. Tại gia thì tội lỗi tụ hội, xuất gia thì phước thiện tập trung. Tại gia thì khổ não, xuất gia thì không có khổ não. Tại gia thì có nóng bức, xuất gia thì không có nóng bức. Tại gia thì có tranh chấp, xuất gia thì không có tranh chấp. Tại gia thì nhiễm trước, xuất gia không có nhiễm trước. Tại gia có ngã mạn, xuất gia không có ngã mạn. Tại gia coi trọng tiền bạc của cải, xuất gia coi trọng công đức. Tại gia có tai họa làm hại, xuất gia không còn tai họa làm hại. Tại gia thì giảm mất, xuất gia thì tăng thêm. Tại gia thì dễ được, xuất gia thì khó gặp, trải qua thời gian trong ngàn vạn kiếp mới gặp được một lần. Tại gia thì dễ làm, xuất gia thì khó thực hành. Tại gia thì thuận dòng, xuất gia thì ngược dòng. Tại gia thì trôi giạt bềnh bồng, xuất gia thì ngồi trên bè mảng. Tại gia thì bị phiền não đẩy đưa, xuất gia thì có cầu sống tự vượt qua. Tại gia là bờ bên này, xuất gia là bờ bên kia. Tại gia thì bị ràng buộc, xuất gia lìa khỏi ràng buộc. Tại gia ôm nặng oán kết hận thù, xuất gia lìa xa oán kết hận thù. Tại gia thuận theo Vương pháp, xuất gia thuận theo Phật pháp. Tại gia có nhiều sự cố, xuất gia không có sự cố gì. Tại gia có quả báo khổ đau, xuất gia có quả báo vui sướng. Tại gia thì nóng nảy vội vàng, xuất gia thì oai nghi thận trọng. Tại gia làm bạn dễ được, xuất gia khó được làm bạn. Tại gia lấy vợ làm bạn, xuất gia lấy tâm kiên cố làm bạn. Tại gia thì tiến vào vòng vây, xuất gia thì thoát khỏi vòng vây. Tại gia thì lấy sự xâm phạm não hại người khác làm quan trọng xuất gia thì lấy việc làm lợi ích cho người khác làm quan trọng. Tại gia thì coi trọng bố thí tiền của, xuất gia thì coi trọng bố thí giáo pháp. Tại gia thì giữ lấy cột cờ của ma, xuất gia thì giữ gìn cột cờ của Phật. Tại gia thì có nơi thuộc về, xuất gia phá hủy mọi nơi thuộc về. Tại gia thì nuôi lớn cho thân xuất gia thì xa rời thân. Tại gia đi sâu vào gai góc, xuất gia ra ngoài gai góc um tùm. Lại nữa: Đồng thời đối với người xuất gia, Tâm cần phải ngưỡng mộ sâu sắc. Bồ-tát tại gia này suy nghó công đức xuất gia như vậy, đối với người xuất gia nên đem lòng hâm mộ. Biết tới bao giờ mình mới được xuất gia, có được công đức như vậy? Biết đến bao giờ mình mới được xuất gia, để theo thứ tự thực hành pháp của bậc Sa-môn như: Thuyết giới, an cư, bố tát, tự tứ, ngồi theo thứ bậc. Biết bao giờ mình mới được mặc pháp y huân tu giới-định-tuệ-giải thoát-giải thoát tri kiến mà Thánh nhân đã mặc? Biết bao giờ mình mới được mang hình dáng Thánh nhân? Biết bao giờ mình sẽ được sống nơi núi rừng thanh vắng? Biết bao giờ mình mới được mang bình bát khất thực, được cho hay không được cho, nhiều ít, ngon dở, lạnh nóng, tuần tự mà tiếp nhận để nuôi thân, như bôi thuốc mỡ vào bánh xe? Biết đến bao giờ mình mới rời được tám pháp thế gian để tâm mình không lo-mừng? Biết đến bao giờ mình mới đóng được cửa ải sáu tình? Vì sáu tình này như chó, nai, cá, rắn, khỉ, chim. Chó thì ưa ở thôn xóm, nai thì ưa núi đầm, cá ưa sống ở ao hồ, rắn thì ưa ở hang, khỉ thì ưa rừng sâu, chim thì ưa bầu trời. Mắt-tai-mũi lưỡi-thân-ý thường ham sắc thanh hương vị xúc pháp. Kẻ phàm phu trí cạn, ý chí yếu đuối không thể hàng phục chúng được. Chỉ có bậc trí tuệ, kiên tâm, chính niệm, mới có khả năng đè bẹp giặc sáu tình này, không cho nó gây tai họa, tự tại không sợ hãi. Biết đến bao giờ mình mới vui sướng được tọa thiền, đọc tụng kinh pháp, vui sướng được đoạn trừ phiền não, tu những pháp thiện, ưa mặc áo xấu chỉ đủ để che thân? Nhớ lại xưa kia khi còn là tại gia, làm nhiều chuyện buông lung, nay được lợi mình và lợi người cho nên phải siêng năng tinh tiến? Biết đến bao giờ mình mới tùy thuận theo đạo pháp mà Bồ-tát đã làm? Biết đến bao giờ mình mới được làm phước điền vô thượng cho thế gian? Biết đến bao giờ mình mình sẽ được lìa xa kiếp nô lệ của ân ái? Biết đến bao giờ mình mới được ra khỏi địa ngục gia đình? Như nói: Cung kính lễ lạy các chùa tháp, Nhờ vào Phật sinh khởi ba tâm. Bồ-tát tại gia này đã tỏ lòng hâm mộ, kính ngưỡng người xuất gia. Nếu khi vào chùa tháp kính lễ Phật thì nên sinh khởi ba tâm. Những gì là ba? Đó là: Biết đến khi nào mình mới được thọ nhận sự cúng dường của Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Ma-hầu-la-già, nhân và phi nhân. Biết đến bao giờ mình mới có được thần lực như Xá-lợi rải khắp thế gian làm lợi ích cho chúng sinh? Hôm nay mình phát tâm sâu xa, thực hành rất tinh tiến lớn, sẽ đạt được Vô thượng chính đẳng chính giác, thành Phật rồi sẽ nhập Niết-bàn vô dư. Lại nữa: Lúc đến nơi của các Tỳ-kheo, Tùy theo công việc mà thực hành, Im lặng nghe những lời dạy bảo, Giúp đỡ mọi điều không hề tiếc. Bồ tát tại gia này cung kính lễ tháp Phật xong, đi đến cầu học với các Tỳ-kheo là người thuyết pháp, người đã trì luật, người đọc Tu- đa-la, người đọc Ma-đa-la-ca, người đọc Bồ tát tạng, người sống trong A-luyện-nhã, người mặc y vá, người khất thực, người ăn một bữa, người thường ngồi, người quá ngọ không uống nước đặc, người chỉ có ba y, người mặc y vải thô, người tùy ý trải chỗ ngồi, người ở dưới tán cây, người ở giữa mồ mả, người ở nơi trống trải, người ít ham muốn, người biết vừa đủ, người tu hạnh viễn ly, người ngồi thiền, người khuyên bảo giáo hóa, tất cả nên thuận theo các Tỳ-kheo mà thực hành đúng như sự dạy bảo. Nếu đến nơi người đọc A-tỳ-đàm, thì thuận theo tính tướng các pháp tương ưng hay không tương ưng… đã nói mà thưa hỏi những điều nghi ngờ. Hỏi rồi thì nên học tập thực hành. Nếu gặp người trì luật, thì nên thưa hỏi về nhân duyên phát khởi tội lỗi, tội nặng hay tội nhẹ, pháp diệt trừ tội lỗi và sự việc ví dụ. Hỏi rồi thì nên tu học thực hành. Nếu gặp người đọc Tu-đa-la, thì nên thưa hỏi về nghĩa lý trong các Bộ kinh A-hàm để học hỏi thực hành hiểu biết nhiều hơn. Nếu gặp người đọc Ma đa la, các kinh Ứng Lợi, Ưu đà na Ba la diên Pháp Cú, thì nên học tập thực hành theo các kinh như vậy. Nếu gặp người đọc Bồ tát tạng, thì nên thưa hỏi về sáu Ba-la-mật và mọi điều phương tiện. Hỏi rồi thì nên tu học thực hành. Nếu gặp người sống trong A-luyện-nhã, thì nên học theo pháp hành viễn ly của họ. Nếu gặp người ngồi thiền, thì nên học theo pháp ngồi thiền của họ. Đối với các Tỳ-kheo khác thì cũng nên như vậy, tùy theo công hạnh của họ mà thưa hỏi, hỏi rồi thì nên tu học không có gì trái ngược. Thâu nhiếp giữ gìn khẩu nghiệp, khi đến chỗ các Tỳ-kheo nên cố gắng thâu nhiếp khẩu nghiệp, yên lặng thanh thản điềm tónh, quán xét thời gian-quán xét nơi chốn tùy theo sự việc mà tư duy, tâm không tán loạn sai sót, ít nói năng mà chỉ lắng nghe. Lại còn ở nơi có người thuyết pháp, đối với các Tỳ-kheo thì tùy theo những gì mà họ thiếu thốn, hoặc là y-bát-tọa cụ, hoặc vật dụng giúp đỡ cho sinh hoạt thường ngày, tùy sức của mình mà giúp đỡ không hề tiếc nuối. Vì sao như vậy? Bởi vì Bồ tát còn thuận lòng bố thí cho những người ác, huống hồ Tỳ-kheo là người có công đức hay sao? Thậm chí thân mạng hãy còn không tiếc, huống gì là vật ngoài thân, vốn là nhân duyên trợ đạo. Lại nữa: Nếu như khi thực hành bố thí Đừng làm người khác sinh phiền não. BồTát khi thực hành bố thí nếu cho một người này, thì một người khác không được sẽ sinh sầu não. Do đó Bồ Tát nên khéo dự trù, lường tính mà thực hành bố thí, đừng để người khác phải sầu não. Vì sao? Mong muốn giữ cho tâm phàm phu, Cần phải hơn hẳn A-la-hán. Bồ tát tại gia này, bố thí y phục-đồ ăn uống-thuốc thang-đồ nằm cho các Tỳ-kheo, đón đưa cúng dường gần gũi dễ kính, mong muốn giữ cho tâm phàm phu, cần phải hơn hẳn A-la-hán. Tại vì sao? Bởi vì các A-la-hán đối với lợi suy, khen chê, được mất, khổ vui thì tâm không còn có gì phân biệt. Phàm phu còn yêu-giận-tham-ganh cho nên có thể phát khởi nghiệp tội. Vì nghiệp tội này mà rơi vào địa ngục-ngạ quỷ- súc sanh. Vì vậy cần phải hết sức giữ gìn cho phàm phu. Việc làm của Bồ tát, đều vì lợi ích cho tất cả chúng sinh mà bố thí, chứ không phải vì niềm vui sướng của mình, không vì tự mình cảm được quả báo ở đời sau, không phải là sự trao đổi như mua bán. Lại nữa: Dựa vào sự bố thí tiền bạc, Có thể thâu nhiếp cả pháp thí, Tùy theo những mong muốn lợi ích, Dạy cho phát tâm đạo vô thượng. Bồ tát tại gia này vì tự lợi mình cho nên tùy theo những lợi ích, hoặc dùng y-bát bố thí cho các Tỳ-kheo, đủ các loại như vậy và bố thí tiền bạc-vật dụng khác nữa, nhưng các Tỳ-kheo như vậy không tiến vào pháp vị, không đạt được đại quả, thì nên khuyến khích khiến cho phát nguyện đối với đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Tại vì sao? Bởi vì dựa vào bố thí tiền của để thâu nhiếp cho nên có thể dùng pháp thí mà thâu nhiếp. Hoặc đối với những vật đã bố thí mà đàn việc có tâm kính mến làm cho các Tỳ-kheo tin nhận lời khuyên của họ. Lại nữa: Vì mong muốn hộ trì giáo pháp, Xả thân mạng mà không tiếc gì, Chữa lành căn bệnh của Tỳ-kheo, Thậm chí dùng thân mình bố thí. Bồ tát tại gia này vì muốn hộ trì giáo pháp, thậm chí tự xả bỏ thân mạng, chịu khó thực hành tinh tiến phá trừ sáu mươi hai loại ngoại đạo và các chúng sinh ma quái thù ghét đối với Phật pháp. Trong hàng đệ tử Phật cũng có người tà hạnh giảo quyệt trái với Phật pháp. Người như vậy đúng như pháp mà phá trừ, đó gọi là hộ trì giáo pháp. Lại nên đối với những người đa văn thuyết pháp, tận tâm tin tưởng cung kính cúng dường bốn sự đầy đủ, cũng gọi là hộ trì giáo pháp. Nếu tự mình đọc tụng, giảng giải, viết chép ba tạng Kinh-Luật-Luận và Bồ tát tạng, thì cũng khuyên bảo chỉ bày cho người khác đọc tụng giảng giải biên chép. Nhờ nhân duyên này mà giáo pháp được tồn tại lâu dài làm lợi ích cho tất cả. Tại gia và xuất gia ca ngợi phát huy thuyết pháp, mong được tồn tại lâu dài làm lợi ích cho chúng sinh. Nếu giáo pháp mau chóng hủy diệt, thì đó là vì người thuyết giảng còn có những sai sót. Lại nghó rằng Như Lai từ lâu xa đến nay, thực hành Bồ tát đạo, thực hành những hạnh khó làm mới có được giáo pháp này. Vì nhân duyên này mà đối với những người tại gia và xuất gia, đem tâm chịu khó tinh tiến, chỉ bày hoan hỷ làm cho lợi ích, hoặc khiến đạt được đạo, hoặc khiến cho tiến vào A duy việt trí. Nói sơ lược về nhân duyên hộ pháp, khiến cho đạt được đầy đủ tất cả mọi niềm an lạc, lại cũng tự mình luôn luôn tu hành đúng như pháp, đều gọi là hộ trì giáo pháp. Vả lại, pháp của Bồ tát tại gia này, nếu có Tỳ-kheo bệnh tật cần phải được chữa trị, thì Bồ tát này thậm chí cả thân để chữa trị căn bệnh ấy mà không tiếc nuối gì, bởi vì điều này thật là quan trọng. Người xuất gia cần phải tìm đến người tại gia khi gặp điều quan trọng này, đó gọi là chính mình tự chăm sóc người gặp bệnh tật, cung cấp thuốc thang. Lại nữa: Tâm quyết định thực hành bố thí, Bố thí rồi không hối hận gì. Bồ tát này, hoặc vì hộ trì chính pháp, hoặc vì chăm sóc người bệnh, thường xuyên cung cấp bố thí mà tâm không có gì hối tiếc, đó gọi là bố thí thanh tịnh. Không mong cầu quả báo, không phân biệt là đáng nhận, hay là không đáng nhận, chỉ vì tâm thương xót làm lợi ích mà bố thí, đó gọi là bố thí thanh tịnh. Như nói: Nếu người bố thí với tâm từ, Thì gọi là bố thí thanh tịnh, Không nói đó chính là phước điền, Không nói đó không phải phước điền. Nếu như người thực hành bố thí, Thì bố thí mà không mong cầu, Nếu người vì quả báo bố thí, Thì gọi là bố thí mong cầu. Vì vậy nói đã bố thí rồi, Tâm không điều gì hối hận, Thậm chí có phước thiện nhỏ nhoi, Cũng hồi hướng đạo Vô thượng. Nhờ nhân duyên bố thí này mà có được phước đức, đều thuận theo hồi hướng cho đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, không mong cầu lợi ích vui sướng của đời này hay đời sau, cũng không mong quả vị Tiểu thừa, chỉ vì chúng sinh mà cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Như trước tôi nói là sẽ nói về những hạnh khác của Bồ tát tại gia, nay đã nói xong, tất cả đều thu thập trích ra từ trong các kinh Đại thừa, tùy thuận kinh pháp mà Bồ tát trú trong hạnh này mau chóng đạt được đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Trong địa thứ hai phần nhiều nói đến những hạnh của Bồ tát xuất gia. Hạnh chung cho Bồ tát xuất gia và Bồ tát tại gia, nay sẽ tiếp tục nói đến. <詞>Phẩm 18: VIỆC LÀM CHUNG Hỏi: Ông nói sẽ trình bày về pháp hành chung của Bồ tát xuất gia và Bồ tát tại gia, nay có thể nói điều ấy chăng? Đáp: Pháp nhẫn nhục, pháp bố thí, pháp nhẫn tư duy không quanh co, pháp tôn trọng, pháp không ngăn cản, pháp cúng dường, tin hiểu tu tập pháp không, không tham ganh, thuận theo pháp đã nói mà thực hành, bố thí đèn sáng, bố thí âm nhạc, bố thí xe cộ, chính nguyện nhiếp pháp suy nghó làm lợi ích an lạc cho chúng sinh, tâm bình đẳng đối với tất cả. Đây là những pháp quan trọng mà Bồ tát xuất gia và Bồ tát tại gia cùng thực hành. Vì vậy kệ nói: Thực hành nhẫn nhục thân đoan nghiêm, Bố thí pháp biết được túc mạng, Pháp nhẫn đạt được các tổng trì, Tư duy được trí tuệ sáng suốt, Đối với các pháp không quanh co, Thường có được suy nghó chính đáng. Thực hành nhẫn nhục thân đoan nghiêm, là có thể nhẫn chịu những lời nói hung ác, mắng nhiếc tệ hại, nguyền rủa trù yểm, trói cột- dao gậy, đòn roi tra khảo, nhưng tâm đều có thể chịu đựng tất cả chứ không dao động thay đổi. Nhờ thực hành nhẫn nhục như vậy mà cảm được quả báo, sinh trong loài người hoặc trên cõi trời thường được thân tướng đoan chính, về sau đến lúc thành Phật đầy đủ tướng tốt không gì sánh kịp. Bố thí pháp biết được túc mạng, người thực hành bố thí pháp có năng lực biết được sự việc trong vô lượng kiếp quá khứ. Bố thí pháp có nghĩa là phân biệt rõ ràng các loại, giải thích về nghĩa lý của Thanh văn thừa, Bích-chi-Phật thừa và Phật thừa. Quả báo của bố thí pháp tuy là có ba mươi lăm loại, nhưng quan trọng là biết được túc mạng, nói về nhân duyên của pháp mà đoạn trừ mọi nghi ngờ của người khác, vì vậy cho nên biết được túc mạng rõ ràng. Pháp nhẫn đạt được các tổng trì, pháp là thích hợp với Không-Vô tướng-Vô nguyện, thích hợp với sáu Ba-la-mật của các địa Bồ tát, là pháp thực hành của tất cả Bồ tát. Hiểu biết rõ ràng, thông suốt tận cùng thì tâm có năng lực tiếp nhận giữ gìn, đó gọi là pháp nhẫn. Người thực hành pháp nhẫn này thì đạt được các tổng trì. Tổng trì có nghĩa là đúng như kinh pháp đã nghe đúng như kinh pháp đã đọc tụng, nghĩa lý trong đó thậm chí trải qua trăm ngàn vạn kiếp nhưng cuối cùng không quên mất. Tư duy được trí tuệ sáng suốt, tư duy có nghĩa là suy xét về nghĩa lý phân biệt của các pháp thiện, vì vậy có năng lực đạt được lợi ích cho đời và cho đời này và đời sau. Tâm không quanh co được chính niệm, không quanh co gọi là chất trực không dua nịnh, tu tập thực hành theo pháp này thì ở trong tất cả các pháp đạt được sự nhớ nghó kiên cố. Lại nữa: Tôn trọng pháp thì pháp vững vàng, Không chướng ngại thì được giữ gìn, Cúng dường đúng pháp được gặp Phật, Tin hiểu rời xa các tai nạn. Tôn trọng pháp thì pháp vững vàng, nếu người tôn trọng cung kính đối với pháp thì pháp được kiên cố. Pháp kiên cố thì có nghĩa là pháp đã được thọ trì tu học luyện tập tự nhiên vững vàng không thể lay chuyển thay đổi. Về sau đến lúc thành Phật có nhiều đệ tử Thanh văn và Bồ tát, an trú trong pháp kiên cố này, không có ai có năng lực gây chướng ngại cho pháp mà mình đã tiếp nhận. Vả lại, kiên cố nghĩa pháp được tồn tại lâu dài. Không chướng ngại thì được giữ gìn, nếu người thuyết pháp và người nghe pháp không bất ngờ gây ra điều gì làm chướng ngại cho nhau. Sau này đến lúc thành Phật, chư Thiên và người thế gian cùng nhau hộ trì giáo pháp. Lúc chưa đạt được Phật đạo, thường tự mình hộ trì chính pháp của Chư Phật, sau khi Chư Phật diệt độ thì giữ gìn giáo pháp để lại, mới có thể tồn tại đến Đức Phật thế hệ sau xuất hiện. Vì nhân duyên này mà Bồ tát Thanh văn đều cần phải tận tâm cố gắng giữ gìn pháp. Cúng dường đúng pháp được gặp Phật, cúng dường có nghĩa là cung kính các pháp, đối với pháp thí và pháp hội đem tâm cung kính cúng dường người thuyết pháp, bài trí pháp tòa, xây dựng Thiền phòng trang hoàng nghiêm túc nơi chốn thuyết giảng kinh pháp. Tâm quý trọng vui vẻ sâu sắc như vậy, nhờ vào nhân duyên cúng dường đúng pháp cho nên được gặp Chư Phật. Nhờ tin hiểu mà rời xa các tai nạn, tin nghĩa là đối với các pháp thiện sinh lòng mong muốn ưa thích sâu sắc, nhờ vào pháp này mà được lìa xa tám nạn. Hiểu là có năng lực diệt trừ các lỗi lầm, có thể ở trong các pháp thiện, dùng sức mạnh của tâm mà tùy ý hiểu rõ các pháp thiện, như mười Nhất thiết nhập tùy ý mà hiểu rõ. Nếu người có nhiều sức mạnh của tâm tin hiểu, thì có năng lực diệt trừ vô lượng tội ác sinh tử từ vô thỉ đến nay. Như trong phẩm sám hối tội lỗi trước đây đã nói. Lại nữa: Tu pháp không thì không buông lung, Không tham được thành tựu lợi ích, Thuận theo pháp thuyết diệt phiền não, Bố thí đèn sáng được Thiên nhãn. Tu pháp không thì không buông lung, tu có hai loại là đạt được tu và thực hành tu. Nhờ sức mạnh tu tập pháp không, cho nên tin rằng pháp hữu vi đều là hư dối, cũng không trú vào không, bởi vì các pháp không có gì chắc chắn. Vì vậy luôn luôn tự mình thâu nhiếp tâm niệm không để buông lung. Không tham được thành tựu lợi ích, tham có nghĩa là ở giữa đồ vật của người khác mà sinh tâm tham lam lấy làm của mình. Nếu loại bỏ điều này thì mọi sự mong cầu đều thành tựu, mọi nguyện ước đều thỏa mãn. Thuận theo pháp thuyết diệt phiền não, tùy theo những pháp đã nói thì tự mình lập tức thực để đoạn trừ phiền não, ở trong mọi việc đều thực đúng như pháp đã nói, từ bao đời kiếp kiếp đến nay tập khí của các phiền não thường xông ướp trong tâm đều bị trừ diệt, làm cho tập khí xấu ác của các phiền não được thay đổi. Bố thí đèn sáng được Thiên nhãn, nếu người thắp đèn cúng dường Chư Phật, Thanh văn, Bích-chi-Phật và tháp-tượng-xá lợi, thì nhờ vào nhân duyên mà cảm được quả báo Thiên nhãn. Lại nữa: Thích Bố thí cảm báo Thiên nhó, Nhờ vào chính nguyện sinh tịnh độ, Bố thí xe cộ được thần túc, Nhiếp pháp cảm được đầy đủ tăng. Thích bố thí cảm được báo Thiên nhó, là ở trong Đại pháp hội dùng các loại âm nhạc cúng dường Chư Phật thì cảm được quả báo Thiên nhó. Bố thí xe cộ được thần túc là dùng các loại kiệu-xe-voi ngựa làm phương tiện đi lại mà Bố thí. Lại có người nói: Dùng các loại giày dép để Bố thí cũng cảm được quả báo thần túc. Nhờ vào chính nguyện sinh Tịnh độ, tùy theo những tâm nguyện mà chọn lấy quốc độ thanh tịnh, như quốc độ thanh tịnh với vô lượng các thứ báu là vàng bạc, pha lê, san hô, hổ phách, xa xừ, mã não trang nghiêm vi diệu. Nhiếp pháp cảm được đầy đủ Tăng, nếu Bồ tát thực hành đầy đủ bốn nhiếp pháp, thì cảm được chúng Tăng đầy đủ, dùng Bố thí-ái ngữ-lợi ích-đồng sự để nhiếp thủ chúng sinh, về sau đến lúc thành Phật cảm được vô lượng Bồ tát Tăng và Thanh văn Tăng đầy đủ thanh tịnh. Như Đức Phật A-di-đà có hai loại Tăng thanh tịnh đầy đủ. Nguyện đầy đủ thì như trong phần mười nguyện trước đây đã nói. Lại nữa: Vì làm lợi ích cho chúng sinh, Tất cả chúng sinh đều kính mến, Tâm bình đẳng không còn phân biệt, Được trở thành người tốt đẹp nhất. Nếu Bồ tát dùng nghiệp thân miệng ý phát sinh mọi việc làm, thì đều vì lợi ích và an lạc của chúng sinh, vì vậy chúng sinh thảy đều kính mến. Nếu Bồ tát đối với các chúng sinh, giữa những người oán-thân mà tâm luôn thực hành bình đẳng, không bỏ tất cả chúng sinh, thì nhờ nghiệp báo này mà được trở thành người tốt đẹp nhất. Tốt đẹp nhất, nghĩa là có năng lực chiến thắng tất cả mọi ác pháp phiền não của tham dục-sân hận-ngu si, cho nên gọi là Phật. Hỏi: Con người đều có đủ mắt-tai-mũi-lưỡi-miệng, không có gì khác biệt, làm sao có thể biết được là Phật? Đáp: Phật có ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, người có tướng này nên biết chính là Phật. Tại gia và xuất gia nên phân biệt biết rõ ba mươi hai tướng, tướng này nhờ pháp nào mà được? Pháp này nhờ nghiệp nào mà được? Tướng này và nghiệp này cũng cần phẩi biết. Tại vì sao? Bởi vì muốn có được công đức thì nên biết tướng này, muốn có được tướng này thì nên biết nghiệp này. Hỏi: Sự việc như vậy làm sao có thể hiểu được? Đáp: Ở trong phẩm nói về pháp tướng, Mỗi một tướng phân biệt thành ba. Trong A-tỳ-đàm, phẩm Tam Thập Nhị Tướng có nói: Mỗi một tướng có ba loại phân biệt, tất cả nên biết. Hỏi: Thế nào là mỗi một tướng có ba loại phân biệt? Đáp: Nói về Thể của tướng. Nói về quả của tướng. Nói về nghiệp cảm được tướng. Các tướng xoắn ốc ở đầu ngón tay-ngón chân, trước đây đã nói. Chuyển luân Thánh vương cũng có tướng này. Các Bồ tát cũng có tướng này. Người bình thường cũng có, nhưng không giống như tướng xoắn ốc nơi tay chân của Phật. Trong lòng bàn tay-bàn chân có vòng tròn ngàn tia, đầy đủ rõ ràng như nét dấu ấn hiện bày. Chân đứng yên không nhúc nhích, gọi là tướng chân đứng yên. Giữa các ngón tay ngón chân có màng da mỏng và mềm mại giống như chân ngỗng chúa, hoa văn rõ ràng như chỉ tơ bằng vàng ròng, cho nên gọi là tướng màng lưới tay chân. Tay chân mềm mại giống như cây Đâu-la, mịn màng như thân thể trẻ thơ màu sắc hồng tươi hơn hẳn các phần khác trên thân, gọi là tướng tay chân mềm mại. Lòng bàn tay-dưới bàn chân-trên đỉnh đầu-hai nách, bảy chỗ này đều tròn đầy, cho nên gọi là tướng bảy chỗ đầy đặn. Ngón tay dài và thon , cho nên gọi là tướng ngón tay thon dài. Gót chân dài và rộng, cho nên gọi là tướng gót chân dài rộng. Thân dài bảy khuỷu tay không cong, cho nên gọi là tướng thân thẳng và lớn. Mu bàn chân nổi lên, cho nên gọi là tướng mu bàn chân cao. Đầu sợi lông xoáy tròn hướng về bên phải, cho nên gọi là tướng đầu sợi lông xoáy tròn. Bắp đùi thon và to dần như bắp đùi của nai chúa Y-nê, cho nên gọi là tướng bắp đùi nai. Đứng thẳng thõng hai tay đến đầu gối, cho nên gọi là tướng cánh tay dài. Âm căn như ngựa quý-voi quý không hiện bày, cho nên gọi là tướng âm tàng. Ánh sáng màu vàng rực bậc nhất, cho nên gọi là tướng sắc vàng. Làn da mềm như vàng ròng tinh luyện không dính bụi bặm, cho nên gọi là tướng da mỏng mịn màng. Mỗi một lỗ chân lông mọc một sợi lông, cho nên gọi là tướng mỗi lỗ chân lông một sợi lông. Lông trắng dài và nhỏ giữa chặng mày có ánh sáng như ngọc trắng, cho nên gọi là tướng lông trắng. Thân rộng dày rắn chắc như thân sư tử, cho nên gọi là tướng thân phía trên của sư tử. Vai tròn và rộng, cho nên gọi là tướng vai tròn rộng. Dưới nách đầy đặn bằng phẳng, cho nên gọi là tướng dưới nách đầy đặn bằng phẳng. Cuống lưỡi không bị gió lạnh-hơi nóng làm cho tổn hoại, cho nên khéo phân biệt rõ các vị, người khác không được như vậy, do đó gọi là tướng biết rõ các loại mùi vị. Thân ngang dọc bằng nhau như cây Ni-câu-lâu, cho nên gọi là tướng thân tròn. Nhục kế tròn trịa, tóc xoáy tròn về phía phải, cho nên gọi là tướng nhục kế. Lưỡi như hoa sen đỏ, dài rộng mà mỏng, cho nên gọi là tướng lưỡi dài rộng. Tiếng nói như tiếng của Phạm vương, như tiếng chim Ca- lăng-tần-già, cho nên gọi là tướng Phạm âm. Gò má tròn rộng như đài gương, cho nên gọi là tướng gò má sư tử. Răng trắng như ngọc tuyết như hoa Quân-chỉ, cho nên gọi là tướng răng trắng. Đều đặn không so le, cho nên gọi là tướng răng đều đặn. Răng dày khít không thưa, cho nên gọi là tướng răng đầy đủ. Răng hàm trên-hàm dưới như nhau, cho nên gọi là tướng răng bốn mươi chiếc. Tròng mắt đen-trắng rõ ràng trong veo không có gân máu đỏ, cho nên gọi là tướng mắt xanh trong. Lông mi không mọc lộn xộn, trên dưới bằng nhau, không dài không ngắn, cho nên gọi là tướng lông mi Ngưu Vương. Đối với các bậc tôn túc đều cung kính đón đưa, ở trong chùa tháp, nơi pháp hội lớn, nơi thuyết pháp, cung cấp đầy đủ sức người-sức của, cho nên cảm được tướng xoắn ốc ở đầu ngón tay-ngón chân. Có người tướng này, thì tại gia làm Chuyển luân Thánh vương, có nhiều dân chúng; xuất gia học đạo thì có nhiều đồ chúng. Các pháp đã tiếp nhận kiên trì không bỏ, cho nên cảm được tướng chân đứng yên. Có được tướng này, cho nên không có gì có thể làm cho dao động nghiêng ngã. Thường tu bốn nhiếp pháp là Bố thí-ái ngữ-lợi ích-đồng sự, cho nên cảm được tướng tay-chân có màng da. Có được tướng này, cho nên nhanh chóng thu phục được mọi người. Dùng các loại đồ ăn thức uống ngon lành thơm tho cung cấp giúp cho người, và cung cấp những vật cần thiết cho các bậc tôn túc, cho nên cảm được tướng tay chân mềm mại và tướng bảy chỗ đầy đặn. Có được tướng này, cho nên có được nhiều đồ ăn thức uống thơm ngọt ngon lành. Cứu được người thoát chết và tăng thêm thọ mạng còn thọ giới không giết hại, cho nên cảm được tướng ngón tay thon dài-tướng gót chân đầy đặn-tướng thân cao lớn. Có được tướng này, cho nên thọ mạng dài lâu. Thiện pháp đã tiếp nhận tăng thêm không mất, cho nên cảm được tướng mu bàn chân nổi cao-tướng đầu sợi lông xoáy tròn về bên phải. Có được tướng mày, cho nên cảm được các công đức không giảm sút. Luôn luôn dùng các tài nghệ khéo léo và các loại kinh sách trao truyền hướng dẫn không tiếc, còn Bố thí các loại giày dép, cho nên cảm được tướng bắp đùi thon chắc như nai chúa Y-nê. Có được tướng này, cho nên những điều đã tu học mau chóng thành tựu như ý. Có người đến cầu xin thì không có gì tiếc nuối giữ lại, cho nên cảm được tướng cánh tay dài chấm gối. Có được tướng này, cho nên luôn luôn đạt được những thế mạnh có năng lực bố thí rộng rãi có năng lực dễ dàng điều phục mọi người không khiến cho bà con thân thích của chúng sinh gặp cảnh chia lìa. Nếu có sự chia lìa ngang trái thì vẫn làm cho hòa hợp, cho nên cảm được tướng âm tướng. Có được tướng này, cho nên có được nhiều đệ tử, dùng áo quần sạch sẽ tốt đẹp-đồ nằm-nhà cửa phòng ốc để Bố thí, cho nên áo quần sạch sẽ tốt đẹp-đồ nằm-nhà cửa phòng ốc, tùy theo sự thích hợp mà cúng dường cho Hòa thượng A- xà-lê, cha mẹ anh em và những người đáng tôn trọng. Có năng lực bảo vệ tốt lành, cho nên cảm được tướng mỗi một lỗ chân lông mọc một sợi lông-tướng đầu sợi lông xoáy tròn về bên phải-tướng lông trắng dài nhỏ và tướng khuôn mặt trang nghiêm. Có được tướng này, cho nên không có ai sánh bằng. Nói lời có tàm quý nói lời tùy thuận-nói lời thân ái, cho nên cảm được tướng phần thân trên như sư tử- tướng vai tròn và rộng. Có được tướng này, cho nên người thấy thì ưa nhìn không có chán ghét. Cung cấp đồ an thức uống, thuốc thang chữa trị bệnh tật, tự mình chăm sóc người bệnh, cho nên cảm được tướng dưới nách đầy đặn tướng biết được các mùi vị. Có được tướng này, cho nên thân ít bệnh tật. Bố thí vườn rừng-trái ngọt-cầu cống-cây tương-giếng hồ-đồ ăn thức uống- hương hoa chuỗi ngọc-nhà cửa-xây dựng chùa tháp-nhà tình thương… cho nên cảm được tướng như cây Ni-câu-lâu và tướng nhục kế. Có được tướng này, cho nên được sự tôn quý tự tại. Suốt đời tu tập thực hành lời nói chân thật và lời nói dịu dàng, cho nên cảm được tướng lưỡi rộng dài và tướng âm thanh của cõi Phạm. Có được tướng này, cho nên cảm được năm công đức của âm thanh. Năm công đức của âm thanh, đó là: Tiếng nói dễ hiểu, tiếng nói khiến cho người nghe không chán, tiếng nói sâu xa, tiếng nói nghe êm tai, tiếng nói không rời rạc. Suốt đời nói lời chân thật, không nói lời thêu dệt, cho nên cảm được tướng gò má như sư tử. Có được tướng này, cho nên nói ra điều gì thì mọi người nhất định tin nhận. Trước đã cúng dường, sau không khinh mạn, tùy theo ý muốn mà cung cấp cho nên cảm được tướng răng tướng muốt và tướng răng đều đặn. Có được tướng này, cho nên được thanh tịnh hòa thuận và quyến thuộc chung lòng vui vẻ. Suốt đời nói lời chân thật, không bao giờ gièm pha phỉ báng, cho nên cảm được tướng đủ bốn mươi chiếc răng và tướng răng dày khít đều đặn. Có được tướng này, cho nên quyến thuộc hài hòa với nhau, không có thể ngăn trở làm hại. Tâm yêu thương sâu sắc, nết mặt hiền hòa nhìn chúng sinh, không còn ý niệm yêu-ghét si mê, cho nên cảm được tướng mắt trong veo xanh biếc và tướng lông mi như Ngưu vương. Có được tướng này, cho nên tất cả mọi người trông thấy đều sinh lòng kính mến.  <卷>QUYỂN 9 <詞>Phẩm 19: BỐN PHÁP Như đã nói về các nghiệp cảm được ba mươi hai tướng, Bồ-tát nên một lòng tu tập. Tu tập nghiệp của ba mươi hai tướng như vậy, phải lấy trí tuệ làm gốc. Vì vậy: Bốn pháp làm giảm sút trí tuệ, Bồ tát phải luôn luôn rời xa, Bốn pháp để đạt được trí tuệ, Nên thường xuyên tu tập thực hành. Có bốn pháp luôn luôn làm giảm sút trí tuệ, Bồ-tát nên lánh xa. Lại có bốn pháp đạt được trí tuệ, phải luôn luôn tu tập. Bốn pháp làm mất trí tuệ là: Không cung kính đối với pháp và người thuyết pháp. Giấu kín, keo kiệt đối với những pháp trọng yếu. Gây trở ngại cho người thích giáo pháp, phá hoại tâm lắng nghe của họ. Ôm lòng kiêu ngạo tự cao, khinh người. Bốn pháp có được trí tuệ là: Cung kính đối với pháp và người thuyết pháp. Như pháp đã nghe và đã đọc tụng mà giảng giải cho mọi người, tâm mình thanh tịnh không mong cầu lợi dưỡng. Biết rõ là từ đa văn mà có được trí tuệ, cho nên chịu khó cầu học không ngừng, như cứu lửa cháy trên đầu. Như pháp đã nghe mà thọ trì không quên, coi trọng thực hành đúng như pháp chứ không coi trọng lời nói. Đây là bốn pháp, nếu người nào không làm hỏng các thiện căn, thì người này có năng lực rời bỏ bốn pháp làm mất trí tuệ, có năng lực thực hành bốn pháp đạt được trí tuệ. Vì vậy cho nên Bồ tát luôn mong cầu trí tuệ được tăng thêm. Như kệ nói: Bốn pháp ăn mòn dần thiện căn, Bồ tát phải luôn luôn rời xa, Bốn pháp nuôi lớn thêm thiện căn, Bồ tát luôn tu tập thực hành. Thế nào là bốn pháp ăn mòn dần căn thiện? Ôm lòng kiêu mạn, tham cầu chuyện thế gian, Đắm theo lợi dưỡng, lui tới các nhà thí chủ. Khởi tâm oán ghét, ganh tî mà bài báng các vị Bồ tát. Không nghe kinh, hoặc nghe mà không tin nhận. Thế nào là bốn pháp nuôi lớn thêm thiện căn? Những kinh nào chưa nghe thì mong nghe không chán, đó gọi là sáu pháp Ba-la-mật và Bồ tát tạng. Trừ bỏ tâm lý kiêu mạn đối với chúng sinh, khiêm tốn đến mức thấp nhất. Đúng như pháp có được tiền bạc, chỉ mong vừa đủ mà thôi, rời xa những việc làm tà vạy, thích thực hành công hạnh của bốn bậc Thánh. Đối với lỗi lầm của người khác, hoặc là thật hay không thật cũng không có ý niệm châm chọc chê bai, không tìm khuyến điểm của người khác. Nếu ở trong pháp có điều gì không hiểu, thì tâm không trái ngược mà lấy Phật để chứng minh, Phật là bậc Nhất thiết trí, giáo pháp Ngài thuyết ra vô lượng, tùy theo sự thích hợp mà thuyết giảng, không phải là mình mà biết được. Bốn pháp tăng thêm thiện căn như vậy, không phải là người dua nịnh quanh co mà có thể thành tựu. Vì vậy: Bồ tát phải luôn luôn rời xa, Bốn pháp dua nịnh quanh co này, Nên thường xuyên tu tập thực hành, Bốn pháp theo tâm tư ngay thẳng. Bồ-tát tại gia hay xuất gia cần phải lìa xa bốn pháp quanh co dua nịnh như cây cong trong rừng rậm khó có thể kéo nó ra được, như thế gian này có đệ tử Phật, dù đã bước vào pháp Phật nhưng không có năng lực thoát ra rừng sâu mù mịt của sinh tử. Những gì là bốn pháp dua nịnh quanh co? đó là: Đối với Phật pháp ôm lòng nghi ngờ không tin, không có tâm quyết định. Kiêu mạn, sân hận đối với chúng sinh. Tâm sinh tham lam ganh tî đối với lợi ích của người khác. Hủy báng Bồ tát, tiếng xấu lan truyền khắp nơi. Những gì là bốn tướng của tâm ngay thẳng? Đó là: Có lỗi lầm thì lập tức phát lộ không hề che giấu, hối hận trừ bỏ lỗi lầm, thực hành đúng pháp không ân hận. Nếu vì nói thật mà mất đi địa vị vua chúa và các loại tiền bạc châu báu, hãy còn không nói dối, miệng chưa hề nói lời khinh khi người khác. Nếu bị người mắng nhiếc hung ác thô bạo, khinh miệt chê bai phỉ báng giam cầm đòn roi đánh đập và vu cho nhiều tội lỗi, thì chỉ trách mình trước hết chứ không phải lỗi lầm của người khác, tin quả báo của nghiệp mà tâm không oán hận gì. An trú trong công đức của niềm tin, pháp vi diệu của Chư Phật rất khó tin nhận, nhưng tâm thanh tịnh cho nên đều có thể tin nhận. Bồ tát ba loại vì làm theo bốn pháp dua nịnh quanh co. Bồ tát điều hòa có bốn hạnh ngay thẳng. Vì vậy Bồ tát không nên làm theo tướng dua nịnh quanh co, mà cần phải thực hành theo tâm ngay thẳng. Như nói: Cần phải rời xa bốn loại pháp, Làm cho Bồ tát phải bại hoại, Nên tu tập thực hành bốn pháp, Làm cho Bồ tát được điều hòa. Thế nào gọi là bốn pháp làm cho Bồ tát bại hoại? Đó là: Nghe nhiều mà bỡn cợt, không thực hành theo chính pháp, Đối với sự giáo hóa mà sinh ra hý luận, không cung kính thuận theo lời dạy của Hòa thượng A-xà-lê. Không có năng lực tiêu hóa sự tín thí của người, hủy hoại sự giữ gìn thanh tịnh mà nhận cúng dường. Không cung kính nhu hòa tốt lành đối với Bồ tát, tâm chứa đầy kiêu mạn. Thế nào gọi là bốn pháp làm cho Bồ tát điều hòa? Đó là: Thường thích nghe pháp chưa được nghe, nghe rồi luôn luôn thực hành đúng như pháp đã nói, dựa vào pháp-dựa vào nghĩa-dựa vào đúng như thuyết mà thực hành. Tùy thuận với nghĩa lý, không mê hoặc bởi ngôn từ, điều hòa dễ cảm hóa, ở trong sự hầu hạ thầy có dụng ý thực hành cúng dường. Không làm mất giới-định, sống cuộc đời thanh tịnh. Đối với các vị Bồ tát điều hòa sinh tâm cung kính, tùy thuận với tình cảm sâu nặng, phá bỏ tâm kiêu mạn, cầu được công đức như họ. Lại nữa, Bồ tát có bốn loại sai lầm, thường ở trong này tìm tòi khuyết điểm của Bồ tát, đó gọi là Bồ tát bại hoại. Nếu luôn luôn gần gũi với bốn loại thiện đạo, thì gọi là Bồ tát điều hòa. Như kệ nói: Bồ tát luôn luôn nên rời xa, Bốn loại sai lầm của Bồ tát, Bồ tát nên thực hành tu tập, Bốn loại thiện đạo của Bồ tát. Thế nào là bốn loại sai lầm của Bồ tát? Đó là: Đối với chúng sinh không có năng lực tiếp nhận mà nói về pháp rất sâu xa, đó gọi là sai lầm. Người thích pháp Đại thừa sâu xa, lại nói pháp Tiểu thừa cho họ, đó gọi là sai lầm. Đối với người hành đạo chân chính, có thiện tâm trì giới, mà khinh mạn bất kính với họ, đó gọi là sai lầm. Đối với người chưa thành tựu, chưa có thể tin mà lại đặt niềm tin vào họ, gần gũi với người phá giới tệ hại để làm nơi thân thiện, đó gọi là sai lầm. Thế nào là bốn loại thiện đạo của Bồ tát? Đó là: Thực hành tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Dùng thiện pháp giáo hóa tất cả chúng sinh. Bình đẳng thuyết pháp cho tất cả chúng sinh. Nếu chính hạnh thực hành đối với tất cả chúng sinh. Nếu thường thực hành bốn loại sai lầm của Bồ tát, không thích tư duy về các pháp, không chịu khó tu tập thực hành pháp thiện, thì đó là Bồ tát chỉ có hình tướng mà thôi. Vì vậy? Trong các pháp của hành Bồ tát, Có bốn loại Bồ tát hình tướng, Đức Phật nói rõ pháp như vậy, Tất cả luôn luôn nên rời xa. Những gì là bốn? Đó là: Tham lam chú trọng lợi dưỡng, không coi trọng giáo pháp. Chỉ vì danh tiếng chứ không cầu công đức. Mong cầu vui thú riêng mình, không nghó đến chúng sinh. Ham vui với quyến thuộc, không thích rời xa. Đây là bốn loại Bồ tát hình tướng. Hỏi: Pháp của Bồ tát hình tướng làm thế nào có thể rời bỏ? Đáp: Nếu Bồ tát thuận theo tu tập thực hành công đức đầu tiên của hạnh Bồ tát, vậy là có thể rời xa pháp của Bồ tát hình tướng. Vì vậy Bồ tát, nếu muốn rời xa pháp của Bồ tát hình tướng, thì như kệ: Đầu tiên thực hành bốn công đức Chịu khó tinh tiến khiến được sinh, Sinh rồi làm cho được tăng trưởng, Tăng trưởng rồi cần phải giữ gìn. Những gì là bốn công đức? Đó là: Tin hiểu về pháp không cũng tin quả báo của nghiệp. Vui với pháp vô ngã, mà sinh tâm Đại Bi đối với tất cả chúng sinh. Tâm an trú Niết bàn mà công hạnh ở trong sinh tử. Bố thí vì muốn thành tựu chúng sinh, chứ không cầu quả báo. Nếu người nào muốn phát sinh bốn công đức thực hành đầu tiên của Bồ tát, làm cho được tăng trưởng và giữ gìn tốt đẹp, thì nên gần gũi các bậc thiện tri thức. Như kệ nói: Bồ tát luôn luôn nên gần gũi, Bốn bậc thiện tri thức lợi ích, Cũng luôn luôn cần phải rời xa, Bốn loại ác tri thức làm hại. Bồ tát yêu thích quý trọng đối với đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, thì cần phải gần gũi cung kính cúng dường bốn bậc thiện tri thức, nên hết sức rời xa bốn loại ác tri thức. Như thế nào là bốn bậc thiện tri thức? Đó là: Đối với người đến cầu xin, sinh ý tưởng coi như bạn hiền, bởi vì có thể giúp cho mình thành tựu đạo quả vô thượng. Đối với người thuyết pháp, sinh ý tưởng coi như thiện tri thức, bởi vì luôn luôn giúp cho mình thành tựu trí tuệ đa văn. Ca ngợi người xuất gia, sinh ý tưởng coi như thiện tri thức, bởi vì luôn luôn giúp cho mình thành tựu tất cả thiện căn. Đối với Chư Phật Thế tôn, sinh ý tưởng như bậc thiện tri thức, bởi vì có năng lực giúp cho mình thành tựu tất cả Phật pháp. Như thế nào là bốn loại ác tri thức? Đó là: Tâm mong cầu Bích-chi-Phật thừa, vui với ham muốn ít-sự nghiệp ít. Tỳ-kheo cầu mong Thanh văn thừa, vui với hạnh tọa thiền. Người thích học theo kinh điển Lộ-già-da của ngoại đạo, trau chuốt văn chương kệ tụng khéo léo, chú trọng về khả năng hỏi đáp tranh luận. Người dựa vào sự gần gũi, có được lợi ích thế gian chứ không có được lợi ích của giáo pháp. Vì vậy Bồ tát nên gần gũi bốn bậc thiện tri thức, rời xa bốn loại ác tri thức. Nếu Bồ tát luôn luôn rời xa bốn loại ác tri thức, gần gũi bốn bậc thiện tri thức thì có được bốn kho tạng rộng lớn, vượt qua tất cả mọi ma sự, có năng lực pháp sinh vô lượng phước đức, cuối cùng có năng lực thâu nhiếp giữ lấy tất cả các pháp thiện. Hỏi: Như thế nào là tạng pháp rộng lớn của Bồ tát? Như thế nào là có năng lực vượt qua tất cả các ma sự? Như thế nào là có năng lực phát sinh vô lượng phước đức? Như thế nào là có năng lực thâu nhiếp giữ lấy mọi pháp thiện? Đáp: Các Bồ tát có bốn kho tạng, Gồm đủ pháp vi diệu rộng lớn, Bốn pháp thâu nhiếp các pháp thiện, Lấy tâm Bồ đề làm đầu tiên. Những gì là bốn? Đó là: Được gặp Phật. Được nghe sáu pháp Ba-la-mật. Đối với người thuyết pháp, tâm không oán giận-không làm gì trở ngại. Dùng tâm không buông lung thích ở nơi vắng lặng. Đó là bốn kho tạng to lớn. Có năng lực vượt qua tất cả các ma, có bốn pháp. Bốn pháp như thế nào? Đó là: Không buông bỏ tâm Bồ đề. Tâm không sân hận, không gây trở ngại đối với hết thảy chúng sinh. Nhận biết tất cả các kiến chấp. Tâm không kiêu ngạo đối với các Bồ tát. Pháp đạt được vô lượng phước đức, lại có bốn pháp. Những gì là bốn pháp? Đó là: Không hề mong cầu gì đối với pháp thí. Sinh lòng Đại Bi đối với người phá giới làm điều xấu xa. Phát tâm Bồ đề vô thượng trong lúc giáo hóa chúng sinh. Thực hành nhẫn nhục đối với chúng sinh thấp kém. Thâu nhiếp tất cả các pháp thiện, có bốn pháp. Những gì là bốn? Đó là: Thường thực hành ở nơi vắng lặng, không hiện bày những điều lạ lùng kỳ dị. Thực hành bốn nhiếp pháp không mong trả ơn. Hộ trì chính pháp không tiếc thân mạng. Khi gieo trồng mọi căn thiện thì lấy tâm Bồ đề làm đầu tiên. Mỗi một loại bốn pháp này đều cần phải giải thích rộng ra, đối với văn vừa nhiều vừa rối cho nên không nói rộng ra. Nay như Phật đã nói, dùng kệ giải thích sơ lược. Nếu Bồ tát muốn đạt được kho tạng của các Bồ tát, muốn vượt qua tất cả các ma sự, muốn thâu nhiếp tất cả các pháp thiện, thì đều nên xa lìa: Hai hệ thuộc không-hai trói buộc, Hai chướng ngại-hai pháp cấu trược, Hai vết lở và hai hố sâu, Hai pháp bùng cháy-hai căn bệnh. Nếu Bồ tát muốn có được những kho tạng công đức của các Bồ tát thì cần phải rời xa các loại hai pháp này. Như thế nào là hai pháp hệ thuộc vào không? đó là: Tham đắm thuận theo các kinh Lô-giá-da. Dùng y bát làm vật trang điểm đẹp đẽ. Hai pháp trói buộc là: Trói buộc vì chấp vào các kiến. Trói buộc vì tham cầu danh lợi. Hai pháp chướng ngại là: Gần gũi với hàng bạch y. Lánh xa người lương thiện. Hai pháp cấu trược là: Chấp nhận chuốc lấy các phiền não. Thích quen biết với các đàn việt. Hai pháp lở loét là: Tìm tòi lỗi lầm của người khác. Tự che giấu lỗi lầm của mình. Hai pháp hầm hố là: Hủy hoại chính pháp. Phá giới mà thọ nhận cúng dường. Hai pháp bùng cháy là: Dùng tâm uế trược mà khoác ca sa. Nhận sự cung cấp của người trì giới. Người xuất gia có hai căn bệnh khó chữa trị, đó là: Hạng người tăng thượng mạn tự cho rằng mình có năng lực làm cho tâm phải thuần phục. Người cầu pháp Đại thừa mà ngăn cản làm hỏng ý nguyện của họ. Nếu Bồ tát xa rời những pháp như vậy, lại có pháp nhanh chóng đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, thì có thể nhanh chóng đạt được. Lại được Chư Phật, Bích-chi-Phật và A-la-hán cùng khen ngợi. Hỏi: Những pháp nào là pháp nhanh chóng đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác? Như thế nào là được Chư Phật, Bích- chi-Phật và A-la-hán cùng khen ngợi? Đáp: tiến. Luôn luôn hành theo tướng bốn Đế, Chóng đạt được quả Phật Bồ đề, Và người thực hành đúng bốn pháp, Thánh nhân ba Thừa cùng ngợi khen. Như thế nào là tướng bốn đế? Đó là: Mong cầu tất cả các pháp thiện cho nên chịu khó thực hành tinh Nếu được nghe-đọc tụng kinh pháp thì thực hành đúng như pháp đã nói. Chán ngán rời xa ba cõi giống như nơi giết chết con người, thường cầu được ra khỏi nơi ấy. Làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh, vốn là tự lợi ích cho tâm mình. Đế có nghĩa là chân thật không dối, đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác cho nên gọi là không hư giả. Lại có bốn pháp, được Thánh nhân ba thừa ngợi khen. Những gì là bốn pháp? Đó là: Thậm chí mất mạng cũng không làm điều ác. Thường thực hành pháp thí. Thọ pháp luôn luôn nhất tâm tiếp nhận. Nếu sinh tâm nhiễm ô, thì lập tức có thể quán sát đúng đắn nhân duyên nhiễm ô làm cho tâm nhiễm ô phát khởi. Căn nhiễm ô này vì sao gọi là nhiễm ô? Điều gì là nhiễm ô? Đối với điều gì mà phát khởi? Từ đâu sinh ra nhiễm ô này? Nhớ nghó đúng đắn như vậy, biết là hư vọng không chân thật, không tồn tại. Quyết định tin hiểu các pháp vốn là không, pháp không hề vốn có. Quán sát đúng đắn về nhân duyên của nhiễm ô như vậy, cho nên không khởi lên các ác nghiệp. Tất cả các phiền não khác cũng quán sát như vậy. Bồ tát được bậc Đại nhân khen ngợi như vậy, vốn là luôn xa rời các phiền não ác nghiệp, thì tâm được đầy đủ. Tâm xả thì như nói: Đầy đủ đối với tâm buông xả, Cầu lợi thế gian-xuất thế gian, Lúc cầu mong những lợi ích này, Tâm không còn chán nản mệt mỏi. Bồ tát này có đầy đủ pháp xả, mong muốn thực hành pháp thí, thực hành tài thí làm lợi ích cho chúng sinh. Nếu cầu mong những lợi ích thế gian và xuất thế giann, lúc chưa đạt được thì tâm không có gì mệt mỏi buông lơi. Lợi ích thế gian, là dẫn dàng hiểu rõ các loại kinh sách-kỹ năng tinh xảo-thuốc thang chữa trị-phương pháp khéo léo của thế gian. Lợi ích xuất thế gian, là nói về các pháp căn-lực-giác-đạo-đạo vô lậu. Như nói: Mong cầu hai lợi ích như vậy, Tâm không còn mệt mỏi buông lơi, Bởi vì không mệt mỏi buông lơi, Luôn đạt được các pháp sâu xa. Nhờ vào sự tìm cầu kinh sách, Mà có thể đạt được trí tuệ, Hiểu biết đầy đủ về thế gian, Pháp bậc nhất không gì sánh được. Không mệt mỏi buông lơi, mệt mỏi buông lơi gọi là chán nản căm ghét, điều học hỏi nếu không có gì chán nản ghét bỏ thì tâm không có gì mệt mõi buông lơi. Nếu không có gì mệt mỏi buông lơi, thì cầu tìm học hỏi các loại kinh sách về kỹ nghệ-thuốc thang chữa trị-kỹ thuật tinh xảo-lễ nghi phép tắc, đều không có gì mệt mỏi. Vì không có gì mệt mỏi, cho nên đạt được trí tuệ, biết sâu xa đầy đủ về các pháp thích hợp với thế gian. Pháp thế gian là những pháp thích hợp với từng địa phương, từng phong tục thuận theo tâm thế gian, pháp sửa trị thế gian cũng đều có thể biết được. Vì vậy có năng lực biết được chúng sinh từ bậc thượng-trung cho đến bậc hạ, thuận theo điều kiện thích hợp mà dẫn dắt cho họ, khéo léo giải thích mọi việc thế gian làm cho họ sinh tâm tàm quý sâu sắc. Thuận theo điều kiện thích hợp mà dẫn dắt, là đối với người bậc thượng-trung-hạ đều có những sự thích hợp theo từng bậc. Tàm quý thì tự xấu hổ với điều đã làm, gọi là tàm; dựa vào người khác mà sinh lòng xấu hổ, gọi là quý. Có người vì mình tự làm mà xấu hổ, thấy người khác làm mà thẹn. Trong pháp thế gian thì lấy sự xấu hổ làm công dụng trước hết. Như kinh nói: Hai pháp thanh tịnh trong sáng hộ trì thế gian, đó gọi là tàm và quý. Như kệ nói: Tùy lúc người sinh lòng hổ thẹn, Biết pháp-biết rõ tội và phước, Không hổ thẹn lánh xa người tốt, Không điều ác nào mà không làm. Hỏi: Tại sao ân cần dạy cho Bồ tát khéo biết cách thích nghi với thế gian? Đáp: Nếu Bồ tát biết rõ pháp thế gian, thì đối với chúng sinh dễ dàng vui vẻ hài hòa với nhau, dẫn dắt cảm hóa tâm tư khiến cho họ trú trong pháp Đại thừa. Nếu không biết pháp thế gian, thì ngay cả một người cũng không thể nào giáo hóa được. Vì vậy pháp thế gian, chính là con đường phương tiện để giáo hóa chúng sinh. Bồ tát biết pháp thế gian như vậy, thì tâm đầy đủ tàm quý. Như nói: Người làm ác mà còn cúng dường, Huống gì người làm lợi cho mình, Có tâm hổ thẹn có cung kính, Không khinh chê nhạo báng người thiện. Bồ tát này vốn có tâm hổ thẹn, đối với những người ác hãy còn có thể cung kính cúng dường đón đưa thăm hỏi, huống gì mười thiện có công đức luôn luôn làm lợi ích cho mình? Bởi vì có tâm hổ thẹn và tâm cung kính, cho nên đối với những người hiền thiện ít hiểu biết mà không sinh lòng khinh mạn, dấy lên ý nghó như vậy. Người có công đức tự ẩn mình giữa cuộc đời, như tro phủ ngọn lửa, pháp thế gian thô lậu cạn cợt không nên khinh thường, nếu mình vì một nhân duyên nhỏ mà khinh rẻ họ, thì sẽ mang lấy tội lỗi. Lại nữa: Tất cả việc gì mình đã làm, Tuy khó nhưng có thể làm được, Thì ở giữa thế gian lẫn lộn, Cũng chính là người không lui sụt. Tất cả những công việc mà Bồ tát này đã làm, hoặc xây dựng chùa tháp, hoặc tổ chức pháp hội to lớn, hoặc cứu giúp tội nhân… Tất cả các việc khó khăn như vậy trong thế gian mà tâm không lui sụt bỏ dở việc làm chưa thành tựu thì cần phải dùng các loại phương tiện, dùng sức mạnh của thân miệng và tâm khiến cho được thành tựu. Như vậy không những đối với Phật pháp có sức mạnh không thối chuyển mà trong công việc thế gian cũng có sức mạnh không thối chuyển. Hỏi: Vì nhân duyên gì mà có thể thành tựu điều này? Đáp: Người có sức mạnh nhẫn nại, chịu đựng được mọi gian lao thì có năng lực đạt được kết quả. Như nói: Có sức mạnh chịu đựng to lớn, Dốc hết lòng cúng dường Chư Phật, Thuận theo lời giáo hóa của Phật, Tất cả đều có thể thọ trì. Bồ tát có được sức mạnh chịu đựng, dùng sức mạnh này cúng dường cung kính đối với Chư Phật, tùy điều kiện thích hợp mà cung phụng các thức ăn uống-y phục… Đối với sự giáo hóa của Phật, hoặc trì giới thiền định, hoặc hàng phục tâm ý, hoặc chân thật quán xét các pháp, ở trong những việc này dùng sức mạnh có thể đảm nhận, như người có được dao sắc thì thích hợp để sử dụng trong việc có ích chư không sử dụng ở trong việc không có ích lợi gì. Như nói: Nhờ vào Tín-Từ Bi và Xả, Có thể tiếp nhận không mệt mỏi, Lại có năng lực biết nghĩa lý, Dẫn dắt cho tâm ý chúng sinh. Hổ thẹn có sức mạnh chịu đựng, Dốc hết lòng cúng dường Chư Phật, Trú trong giáo pháp Phật đã thuyết, Thực hành đúng đắn mười pháp này, Luôn luôn thanh tịnh sửa Sơ địa, Đó chính là hành đạo Bồ tát. Nếu Bồ tát lấy Tín để làm đầu, về sau trú trong giáo pháp của Phật, thì có thể thanh tịnh mà sửa trị Sơ địa. Trong mười pháp này lấy Tín làm đầu tiên. Tín nghĩa là ở trong pháp nhân duyên của Chư Phật thì tâm có được quyết định, lại thêm niềm vui thích tốt đẹp. Tại vì sao? Bởi vì Bồ tát này với tâm tính thanh tịnh cho nên có được Tín lực sâu xa, có tín lực cho nên ở giữa chúng sinh mà sinh tâm Bi, dấy lên ý niệm như vậy: Pháp của tất cả Chư Phật lấy Đại Bi làm gốc, nay mình nhất tâm ưa thích đối với Phật pháp, vì vậy ở giữa các chúng sinh nên phát sinh tâm Bi. Tâm Bi này dần tăng lên thì trở thành Đại Bi, có được Đại Bi cho nên ở giữa các chúng sinh thì phát sinh tâm Từ, dấy lên ý niệm như vậy: Mình nên tùy sức làm lợi ích cho chúng sinh. Bởi vì thành tựu tâm Bi chân thật mà thực hành tâm Từ. Lúc làm lợi ích cho chúng sinh thì luôn luôn thực hành tâm xả, tất cả trong ngoài đều có thể bố thí. Dấy lên ý niệm như vậy: Như vật này của mình. Vì muốn làm lợi ích an lạc cho chúng sinh mà thành tựu tâm từ chân thật, để cho chúng sinh tin nhận lời mình nói. Vì muốn thực hành tâm xả mà mong cầu tài vật có lợi cho chúng sinh, có thể chấp nhận tất cả những điều khổ não. Dấy lên ý niệm như vậy: Nếu có sự mệt mỏi chán nản thì đối với các loại kinh sách-kỷ nghệ-ruộng vườn-canh tác-nghề nghiệp khéo léo ở thế gian, các nhân duyên mong cầu tài lợi sẽ không thu được kết quả gì. Vì vậy nên đối với các loại kinh sách-kỹ nghệ… của thế gian, không có gì mệt mỏi chán nản. Vì có thể chấp nhận cho nên có năng lực biết rõ nghĩa lý. Dấy lên ý niệm như vậy: Kinh sách thế gian lấy nghĩa lý làm ý vị, nếu người khéo biết nghĩa lý của kinh sách thì đối với pháp thế gian đều có thể thông suốt rõ ràng. Có thể thông suốt rõ ràng thì có năng lực dẫn dắt chúng sinh ở mọi trình độ thượng-trung-hạ. Dấy lên ý niệm như vậy: Nếu người không có tàm quý thì không thể nào làm cho chúng sinh được hoan hỷ. Vì làm cho chúng sinh được hoan hỷ, cho nên thực hành tàm quý. Dấy lên ý niệm như vậy: Nếu không có thể chấp nhận thì không thành tựu lợi ích thế gian và xuất thế gian, có khả năng chấp nhận thì có năng lực dẫn dắt tất cả chúng sinh, làm cho đều được hoan hỷ. Tâm hoan hỷ cho nên tin nhận lời mình nói. Vì tin nhận cho nên chịu khó thực hành phương tiện mà truyền bá dẫn dắt. Dấy lên ý niệm như vậy: Nếu chúng sinh cúng dường Chư Phật, thì có được nhiều lợi ích. Muốn khiến cho chúng sinh phát tâm cúng dường Chư Phật, cho nên lập tức tự mình nhất tâm cúng dường đối với Phật và hình tượng-xá lợi của Phật. Chúng sinh tin nhận thì thuận theo học hỏi để cúng dường đối với Phật gieo trồng nhân duyên của trời người, trú trong ba thừa. Bồ tát như vậy theo thứ tự thực hành mười pháp, thì có năng lực thanh tịnh để sửa trị Sơ địa. --------------------------- <詞>Phẩm 20: NIỆM PHẬT Bồ tát ở địa thứ nhất, suy xét tận cùng những điều đã làm, tự nhờ vào sức mạnh của thiện căn mà có thể thấy được Chư Phật và Bồ tát. Như vậy làm cho tâm mình phải thuần phục, hết sức yêu quý đạo, như đã nghe Bồ tát địa thứ nhất thực hành đầy đủ tất cả đến cùng. Tự nhờ vào sức mạnh của thiện căn phước đức mà có thể thấy được Chư Phật hiện tại khắp mười phương, đều ở trước mắt mình. Hỏi: Chỉ nhờ vào sức mạnh của thiện căn phước đức mà được thấy Chư Phật, hay là còn có pháp nào chăng? Đáp: Đức Phật vì Bạt-đà-bà-la, Mà thuyết về Tam-muội quý báu này, Có năng lực thấy được Chư Phật. Bạt-đà-bà-la là Bồ tát tại gia, luôn luôn thực hành đầu đà, Đức Phật vì Bồ tát này thuyết giảng về kinh Bát chu Tam-muội. Bát Chu Tam muội có nghĩa là thấy Chư Phật hiện rõ ở trước mắt. Bồ tát đạt được Tam muội vô cùng quý báu này, tuy chưa đạt được Thiên nhãn- Thiên nhó mà có thể thấy được Chư Phật mười phương, cũng nghe được kinh pháp do Chư Phật giảng thuyết. Hỏi: Tam muội này nên dùng phương pháp nào để có thể đạt được? Đáp: Nên nghó đến hết thảy chư Phật, Hiện tại ở giữa các đại chúng, Đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, Tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân. Người tu hành dùng Tam muội này nghó đến Chư Phật có đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thanh tịnh, các Tỳ-kheo thân cận có chư Thiên cúng dường, được các đại chúng cung kính vây quanh, chuyên tâm nhớ nghó giữ lấy hình tướng của Chư Phật như vậy. Lại nghó đến Chư Phật là bậc có Đại nguyện, thành tựu Đại Bi mà không đoạn tuyệt, đầy đủ Đại từ hết sức an lạc cho chúng sinh, thực hành Đại hỷ trọn vẹn tất cả nguyện cầu, thực hành tâm xả rời xa yêu-ghét mà không rời bỏ chúng sinh, thực hành ở phạm vi của Đế luôn luôn không giả dối, thực hành ở phạm vi của xả trừ sạch mọi vết bẩn tham keo, thực hành ở phạm vi của Thiện thì tâm tư vắng lặng tốt lành, thực hành ở phạm vi của Tuệ thì đạt được trí tuệ vó đại. Thực hành đầy đủ Bố thí Ba-la-mật, làm người chủ Bố thí pháp. Thực hành đầy đủ Trì giới Ba-la-mật, là giới hạnh thanh tịnh. Thực hành đầy đủ Nhẫn nhục Ba-la-mật, là có năng lực nhẫn nại như mặt đất. Thực hành đầy đủ Tinh tiến Ba-la-mật, là tinh tiến vượt lên cao thật tuyệt vời. Thực hành đầy đủ Thiền định Ba-la-mật, là diệt sạch các chướng ngại cho định. Thực hành đầy đủ Trí tuệ Ba-la-mật, là phá tan chướng ngại cho trí tuệ. Tướng xoắn ốc ở ngón tay-ngón chân là có năng lực chuyển pháp luân. Tướng chân đứng yên là an trú trong các pháp. Tướng màng da mỏng giữa các ngón tay-ngón chân là diệt trừ các phiền não. Tướng bảy chỗ đầy đặn là các công đức tròn đầy. Tướng tay chân mềm mại là thuyết pháp nhu hòa. Tướng ngón tay thon dài là suốt đời tu tập các pháp thiện diệu. Tướng gót chân rộng là nhìn xa học rộng. Tướng thân thẳng cao lớn là thuyết về đạo pháp thẳng thắn rộng lớn tướng mu bàn chân nổi cao-tướng đầu các sợi lông cao và xoáy tròn, là luôn luôn làm cho chúng sinh trú trong pháp vi diệu nhất. Tướng bắp đùi như nai chúa Y-nê thon thả to dần, tướng cánh tay dài quá đầu gối, tướng cánh tay như vàng ròng thẳng tắp, tướng âm mã tàng là có kho tạng của pháp quý báu. Tướng thân màu vàng ròng là có vô lượng sắc thân. Tướng da mịn màng và mỏng là thuyết pháp vi diệu sâu xa. Tướng mỗi lỗ chân lông có một sợi lông, là nêu rõ pháp chỉ cùng một tướng. Tướng lông trắng dài nhỏ trang nghiêm khuôn mặt, là thích ngắm khuôn mặt Đức Phật không chán. Tướng thân trên như sư tử, là như sư tử không sợ hãi gì. Tướng vai tròn và rộng, là khéo phân biệt năm ấm. Tướng dưới nách đầy đặn, là đầy đủ thiện căn to lớn. Tướng cảm được tất cả các vị, là đầy đủ vị rỗng rang vắng lặng. Tướng thân vuông là phá tan cảnh giới sinh tử. Tướng nhục kế, là đầu chưa hề cúi xuống phục tụng điều gì. Tướng lưỡi rộng màu sắc như san hô chân thật có thể tự che kín mặt. Tướng phạm âm là tướng của thân lên đến cõi Phạm thiên. Tướng gò má sư tử-tướng vai rộng là có năng lực phá tan ngoại đạo. Tướng răng đều đặn là thực hành thiện hạnh thuần khiết sáng tỏ. Tướng răng bằng nhau là tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Tướng răng dày khít là lìa xa mọi sự tham đắm. Tướng đủ bốn mươi chiếc răng là đầy đủ bốn mươi pháp bất cọng. Tướng mắt trong xanh biếc là tâm Từ nhìn chúng sinh. Tướng lông mi Ngưu vương-mi dài không rối, là có được sắc tướng hiếm có, thích gặp mặt không chán. Dùng ba mươi hai tướng này mà trang nghiêm thân, tám mươi vẻ đẹp xen lẫn với nhau phát ra ánh sáng rực rỡ. Phước đức đầy đủ, uy lực tuyệt trần, danh tiếng truyền bá khắp nơi: Dùng hương của Giới xoa ướp thân mình, pháp thế gian không làm cho lay động, các phiền não không vấy nhiễm được, lời thô ác không làm cho nhuốm bẩn. Đạo qua khắp nơi bằng các thần thông. Chư Phật đầy đủ uy lực mạnh mẽ như vậy, không có ai dám đối kháng. Dùng trí tuệ thuyết pháp như sư tử gầm vang tự tại như ý. Dùng sức mạnh tinh tiến phá tan mọi tăm tối si mê. Dùng ánh sáng vó đại chiếu rọi khắp trời đất. Trong những điều hỏi-đáp thì Phật là bậc nhất, không có ai cao hơn. Tất cả đều ngước lên chiêm ngưỡng, không có ai nhìn xuống. Luôn luôn dùng tâm Từ quán sát chúng sinh. Niệm như biển rộng. Định như núi Tu-di, nhẫn nhục như mặt đất. Nuôi lớn thêm phước đức của chúng sinh đã gieo trồng như làn nước tưới thấm mọi nơi. Có năng lực phát sinh sức mạnh của các thiện căn cho chúng sinh như làn gió tỏa ra. Thành tựu chúng sinh như lửa làm cho mọi vật chín muồi. Trí tuệ vô biên giống như cõi hư không. rưới làn mưa đại pháp khắp nơi như vầng mây dày đặc rộng lớn. Không vấy nhiễm theo pháp thế gian giống như hoa sen. Có năng lực phá tan ngoại đạo tà sư giống như sư tử bắt hươu. Có năng lực nâng cao gánh nặng như voi chúa mạnh mẽ. Có năng lực dẫn dắt đại chúng như trâu chúa to lớn. Quyến thuộc thanh tịnh như chuyển luân Thánh vương. Cao nhất giữa thế gian như Đại Phạm vương. Đáng quý trọng-đáng yêu mến như vầng trăng vằng vặc giữa trời trong xanh. Chiếu sáng mọi nơi và có năng lực tốt cháy giống như vầng mặt trời sáng chói. Mang lại nhân duyên an lạc cho các chúng sinh, giống như người cha nhân hậu. Thương xót chúng sinh, tùy thuận chăm sóc bảo vệ giống như người mẹ hiền từ. Công hạnh thanh tịnh như vàng ròng cõi trời. Có thế lực to lớn như Thiên Đế Thích. Chịu khó làm lợi ích cho thế gian như người đứng đầu bảo vệ thế gian. Chữa trị căn bệnh phiền não giống như bậc Y vương. Cứu giúp mọi tai họa suy sụp giống như bà con thân thích. Tích lũy các công đức như kho tạng to lớn. Giới của Phật vô lượng. Định của Phật vô biên, Tuệ của Phật không thể nói hết, giải thoát không có gì sánh bằng. Giải thoát tri kiến không có gì có thể sánh bằng, đối với tất cả mọi điều thì Phật là cao nhất không có ai sánh được. Phật là vô thượng bậc nhất trong tất cả thế gian, cho nên gọi là người bậc nhất. Thành tựu. Đại pháp cho nên gọi là bậc đại nhân. Như vậy Bồ tát dùng tướng của bậc đại nhân nghó nhớ và quán tưởng Chư Phật. Chư Phật trải qua vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức đời kiếp không thể nghó bàn-không thể tính đếm, tu tập công đức, luôn luôn cố gắng giữ gìn nghiệp thân miệng ý. Ở trong Quá khứ-vị lai-hiện tại thuận theo tự nhiên nói về năm pháp tạng, đoạn trừ hết mọi nghi ngờ. Trả lời chắc chắn trả lời rõ ràng, trả lời hỏi vặn trả lời gác lại, đối với bốn loại hỏi-đáp không có gì sai lầm. Khéo léo nói về ba mươi bảy pháp trợ đạo là Căn-lực-Giác-đạo-Niệm xứ-chính cần-Như ý. Có năng lực khéo léo phân biệt nhân quả của Vô minh-Hành-Thức-Danh sắc-Lục nhập-Xúc-Thọ-Ái-Thủ-Hữu-Sinh-Lão tử. Đối với Nhãn sắc- Nhó thanh-Tỷ hương-Thiệt vị-Thân xúc-Ý pháp, không có gì hệ thuộc vướng mắc. Khéo léo thuyết vầ chín bộ kinh pháp, đó là Tu-đa-la, Kỳ dạ, Thọ ký, Già-đà, Ưu-đà-na, Ni-đà-na, Y-đế-mục-đa. Tỳ Phật lược- Vị tằng hữu. Không bị chi phối bởi các sử phiền não là tham dục, sân hận, mười, kiêu, mạn, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ và nghi. Không bị sự lấn át của các phiền não là không có niềm tin, không có tàm quý, dục nịnh quanh co, đùa cợt xúi giục, phóng túng giải đãi, thụy miên, sân hận, keo kiệt, ganh tî. Biết rõ về thấy khổ-đoạn Tập- chứng Diệt-tu đạo. Những điều cần bỏ đã bỏ hết, những điều cần thấy đã thấy rồi, việc làm đã làm xong, phá hết mọi giặc thù, đầy đủ các hạnh nguyện, là bậc tôn quý giữa thế gian, là người cha của thế gian, là vị vua giữa thế gian, là bậc xuất hiện khéo léo-ra đi khéo léo, tâm ý khéo léo-vắng lặng khéo léo-thanh tịnh khéo léo-giải thoát tuyệt vời. An trú ở trong vô lượng vô biên thế gian nhiều như cát sông Hằng khắp mười phương, như hiện rõ ở trước mắt của Bồ tát. Lại nên dùng tám mươi vẻ đẹp để nghó nhớ và quán tưởng Chư Phật. Màu móng chân-tay đỏ tươi là thực hành pháp thanh tịnh rõ ràng. Móng chân-tay gồ lên mà lại to, là sinh vào nhà thuộc dòng họ lớn. Màu móng chân-tay sáng bóng, là rất yêu thương chúng sinh. Ngón tay tròn và thon dài, là công hạnh sâu xa. Thịt trên ngón tay đầy đặn, là thiện căn đầy đủ. Ngón tay theo thứ tự mà dài và thẳng, là theo thứ tự quy tập các pháp của Chư Phật. Gân mạch không hiện rõ, là không che đậy những hành nghiệp của thân miệng ý. Mạch máu không kết thành thô kệch, là phá trừ mọi kiết sử phiền não. Mắt cá chân bằng phẳng không hiện rõ, là không che giấu pháp tạng, chân không cong quẹo, là vượt qua mọi tà ma ngoại đạo. Đi như sư tử, là sư tử giữa loài người. Đi như voi chúa, là voi chúa giữa loài người. Đi như ngỗng chúa, là bay cao như chim Hồng. Đi như trâu chúa, là địa vị tôn quý nhất giữa loài người. Lúc đi xoay về phía phải, là khéo nói chính đạo. Thân đi thẳng không cong xuống, là tâm không quanh co. thân vững chắc mà thẳng thắn, là ca ngợi giới hạnh kiên cố. Thân lớn dần theo thứ tự, là nói pháp theo thứ tự. Các phần thân thể lớn mà đoan nghiêm, là có năng lực khéo léo giải thích về công đức vi diệu to lớn. Thân tướng đầy đủ, là đầy đủ các pháp. Bước chân cách nhau đều đặn, là tâm bình đẳng đối với chúng sinh. Thân thể trong sáng thuần khiết, là ba nghiệp thanh tịnh. Da sẻ thân mình mịn màng mềm mại, là tâm tính dịu dàng tự nhiên. Thân thể không dính bụi bặm, là khéo léo nhận thức xa rời cấu trược. Thân không co lại, là tâm luôn luôn không mất. Thân không có hạn lượng, là thiện căn vô lượng. Da thịt căng tròn đầy đặn, là vónh đoạn dứt thân đời sau. Các bộ phận trên thân thể rõ ràng, là khéo léo nói rõ ràng thứ tự của mười hai nhân duyên. Màu sắc trên thân không mờ tối, là sự thấy biết không mờ tối. Bụng tròn và đầy đặn, là đệ tử đầy đủ công hạnh. Bụng sạch và tươi sáng, là có năng lực khéo léo biết rõ ràng tai họa sai lầm của sinh tử. Bụng không nhô cao ra ngoài, là phá trừ tâm lý kiêu mạn. Bụng bằng phẳng không hiện rõ, là thuyết pháp bình đẳng. Rốn tròn mà sâu là thông suốt các pháp rất sâu xa. Nếp rốn xoay về phía phải, là đệ tử thuận theo giáo pháp. Toàn thân đoan nghiêm, là đệ tử hoàn toàn thanh tịnh. Oai nghi trong sáng thuần khiết, là tâm thanh tịnh không gì sánh được. Thân không có nốt ruồi, là pháp ấn không tối tăm. Tay mềm hơn lụa Đây-la, là người được giáo hóa cảm thấy thể nhẹ nhàng như mảy lông. Đường chỉ tay sâu là oai nghi rất cẩn thận kỷ càng. Đường chỉ tay dài, là quán sát người tiếp nhận giáo pháp tôn thờ lâu dài về sau. Đường chỉ tay tươi sáng, là rời bỏ tình thân ái ích kỷ được ích lợi của đạo quả vó đại. Diện mạo không dài, là kết giới có khai thông. Môi đỏ như quả Tần-bà, là trông thấy tất cả thế gian. Lưỡi mềm mà mịn, là trước tiên dùng lời dịu dàng hóa độ tất cả chúng sinh. Lưỡi mỏng mà rộng, là công đức sâu dày thuần khiết. Lưỡi đỏ như nhuộm hồng, là tâm phàm phu khó hiểu Phật pháp thì làm cho hiểu rõ. Tiếng nói như sấm động, là không sợ gì tiếng sấm. Tiếng nói hài hòa dịu dàng, là thuyết pháp nhu hòa mềm mại. Bốn răng cửa tròn và thẳng, là to với đạo thẳng thắn. Bốn răng cửa đều sắc bén, là độ cho người lợi căn. Bốn răng cửa trắng sáng, là thanh tịnh trong sáng bậc nhất. Bốn răng cửa đều đặn như nhau, là an trú trong giới bình đẳng. Răng nhỏ dần theo thứ tự, là theo thứ tự thuyết về pháp bốn đế. Sống mũi gồ lên cao và thẳng, là an trú trong núi cao của trí tuệ. Trong lỗ mũi thanh tịnh, là đệ tử trong sáng tốt lành. Mắt to mà dài, là tuệ cao xa rộng lớn. Lông mi không thưa thớt, là dễ dàng tiếp nhận chúng sinh. Tròng mắt đen-trắng rõ ràng tươi sáng như cánh hoa sen xanh, là tất cả trời người-thể nữ vì thích đôi mắt mà lễ lạy cung kính. Chân mày cao mà dài, là danh tiếng lưu truyền khắp nơi. Lông mày sáng bóng, là khéo léo biết cách mềm mỏng. Vành tai bằng nhau, là người nghe pháp bình đẳng như nhau. Lỗ tai không hư hoại, là độ chúng sinh bằng tâm bất hoại. Vầng trán bằng phẳng mà đẹp, là khéo léo lìa xa những kiến chấp. Vầng trán rộng không có nếp ngăn, là phá tan tất cả ngoại đạo. Phần đầu đầy đủ hoàn thiện, là dễ dàng đầy đủ hạnh nguyện vó đại. Màu tóc như ong mật đen tuyền, là chuyển đổi năm thứ dục lạc. Tóc dày mà sợi mảnh, là kiết sử đã hết. Tóc đẹp và mềm mại, là trí tuệ sắc bén mềm mại có năng lực biết rõ pháp vị. Tóc không rối bồng lộn xộn, là lời nói luôn luôn không rối loạn. Tóc mướt mà sáng bóng, là luôn luôn không có lời nói thô thiển. Tóc có hương thơm, là dùng hương hoa của bảy giác ý tùy theo sự thích hợp mà cảm hóa dẫn dắt. Trong tóc có chữ Đức-chữ An-chữ Hỷ, giữa lòng bàn tay- bàn chân cũng có chữ Đức-chữ An-chữ Hỷ. Bồ tát nên nghó đến chư Phật như vậy. Chư Phật an tọa trên tòa sư tử, ở giữa đại chúng thuyết giảng về chính pháp. Tòa sư tử dùng lưu ly và các thứ báu làm chân, dùng san hô tịnh khiết và trân châu đỏ tuyệt vời để làm ghế dựa, vàng ròng dát mỏng làm màn che, các loại vải vóc cõi trời mềm mại trơn bóng dùng làm vật trải ghế ngồi. Có con sư tử quý báu dùng vàng ròng làm thân, hổ phách làm mắt, xa cừ làm đuôi, san hô làm lưỡi, kim cang trắng làm bốn răng nanh, bạc trắng tinh khiết làm bờm lông, lông và bờm dài rộng. Tòa ngồi đầy đủ đặt trên lưng bốn con sư tử như vậy. Ngà của voi chúa to lớn dùng làm ghế tựa, chân ghế tựa ấy được làm thành từ các vật báu. Đức Phật an tọa trên tòa sư tử, được chư Thiên-Long thần, dạ-xoa, càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-na, Ma-hầu-la-già cùng lễ lạy cung kính. Chư Phật an tọa trên tòa sư tử như vậy, khoác y Kiệt-chi-nê-hoàn Tăng, không cao không thấp che phủ ba phần thân, vấn quanh tề chỉnh. Mang ca sa nhạt màu, số điều rõ ràng, không cao không thấp cũng không so le, Đức Phật an tọa giữa tám bộ Đại Thánh chúng trang nghiêm và toàn thể trời-người trong pháp hội, loài rồng và chim cánh vàng cùng đến nghe pháp và tâm không còn sân hận với nhau. Hết thảy đại chúng với tâm tàm quý sâu sắc, cung kính quý trọng đối với Đức Phật, đều chung lòng nhất tâm nghe những điều Đức Phật thuyết giảng, thọ trì tư duy và thực hành đúng như giáo pháp Ngài đã dạy. Nhờ chuyên tâm nghe nhận mà tâm được thanh tịnh, cho nên có năng lực ngăn chặn những kiết sử phiền não. Tất cả đại chúng chiêm ngưỡng Như Lai không còn có gì thỏa mãn, lông tóc đều dựng đứng với tâm niệm tha thiết mà tuôn trào nước mắt, hoặc là có tâm niệm vô cùng hoan hỷ. Có những tâm cảm như vậy, thì biết rằng tâm tư người ấy được thanh tịnh vắng lặng rất sâu xa như tiến vào thiền định, không còn yêu-ghét gì nữa, tâm không còn duyên gì khác, có tướng Đại Bi thương xót chúng sinh, muốn cứu giúp ta, tâm không dua nịnh quanh co, thanh tịnh vắng lặng phân biệt rõ ràng tốt xấu, có chí nguyện nguyện to lớn không ẩn chìm-không co lại, không cao-không thấp… Đức Phật đều nhìn thấy mọi tâm niệm phát sinh như vậy trong Đại chúng hiện tại. Đức Phật thuyết pháp dễ hiểu dễ sáng tỏ, thích nghe mãi không chán. Âm thanh sâu lắng không rời rạc, dịu dàng nghe êm tai, từ rốn mà phát ra, đưa lên cổ họng-cuống lưỡi-mũi-trên trán rồi đến răng-môi, hơi thở dâng lên làm thay đổi phát thành câu nói dịu dàng nghe âm tai. Âm thanh phát ra như vầng mây dày đặc, như tiếng sấm vang vọng, như gió cuốn sóng trào giữa biển rộng, như âm thanh của Đại phạm Thiên dẫn dắt có thể hóa độ chúng sinh. Xa rời mày-mắt và môi mà có thể nói pháp quở trách. Lời nói không thiếu sót cũng không rườm rà lắm. Những gì đã nói ra thì không nghi ngờ gì, nói nhất định phải có lợi ích. Không có lời lừa dối và lời có thể phá bỏ… xa rời những lỗi như vậy, gần xa nghe như nhau. Không khác. Bốn loại vấn nạn thì tùy ý luôn luôn giải đáp, khai thị về bốn Đế khiến cho đạt được bốn Quả, kiến lập nghĩa lý về đầu mối kết cấu của nhân duyên, ngôn ngữ phép tắc thảy đầy đủ. Các loại đã nói thì nghĩa lý của sự việc dễ dàng hiểu rõ. Lời đã nói ra rõ ràng không có gì ẩn giấu quanh co. Lời nói không nhanh quá cũng không chậm quá, trước sau tương xứng không có ai có thể chất vấn được. Dùng lời nói như vậy để giảng giải rõ giáo pháp, đầu-giữa và cuối hợp với thiện, đều có ý nghĩa-có lợi ích, chỉ có pháp là đầy đủ, có năng lực làm cho chúng sinh cảm được quả báo của đời hiện tại. Không có thời gian có thể được thưởng thức để luôn luôn thỏa mãn ước nguyện của mình, người có trí tuệ tuyệt vời hết sức nhờ vào nội tâm có thể biết rõ. Pháp của Đức Phật đã thuyết, có năng lực dập tắt lửa dữ ba độc của chúng sinh, có năng lực loại trừ tất cả tội lỗi của thân miệng ý, có năng lực khéo léo khai thị về giới-định-tuệ phẩm. Đầu tiên dùng danh tự, sau mới làm cho biết nghĩa lý mà sinh tâm hoan hỷ, từ hoan hỷ phát sinh niềm vui, từ niềm vui phát sinh định lực, từ định lực phát sinh trí tuệ như thật, từ trí tuệ như thật phát sinh chán ngán lìa bỏ, từ chán ngán lìa bỏ mà diệt trừ kiết sử, diệt trừ kiết sử cho nên được giải thoát. Như vậy luôn luôn làm cho thực hành pháp này theo thứ tự, có năng lực khéo léo khai thị về bốn phạm vi của Đế-xả-Diệt-Tuệ, có năng lực chỉ bày cho chúng sinh khiến đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định và Trí tuệ. Có năng lực làm cho chúng sinh lần lượt đến được Hỷ địa-Tịnh địa-Minh địa-Diệm địa-Nan thắng-Hiện tiền-Thâm viễn-Bất động-Thiện tuệ và pháp vân địa. Có năng lực phân biệt rõ ràng về Thanh văn thừa, Bích-chi-Phật thừa và Đại thừa. Có năng lực khiến chứng được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Có năng lực khiến cho thành tựu tất cả mọi niệm vui sướng giàu có trong cõi người-trời. Đó là tất cả các kho tạng công đức lợi ích bậc nhất. Như vậy chính tâm nhớ nghó Chư Phật, ở nơi vắng lặng thanh tịnh loại trừ tham dục, sân hận, ngủ nghỉ, nghi ngờ, hối tiếc, đùa cợt vô ích mà chuyên chú tâm niệm không sinh ra chướng ngại làm cho tâm mất đi định lực. Dùng tâm như vậy chuyên chú nghó đến Chư Phật. Nếu tâm chìm xuống thì phải kéo lên, nếu tâm tán loạn thì phải thâu nhiếp. Đồng thời thấy Đại chúng thường xuyên như hiện ở trước mắt. Lúc chưa nhập định thì luôn luôn thuận theo sự việc mà ca ngợi về tướng tốt và vẻ đẹp của Đức Phật. Dùng kệ ca ngợi Đức Phật khiến cho tâm luyện tập thuần thục. Kệ nói như vậy. Các tướng tốt của Đức Phật Thế tôn, Nhân duyên của nghiệp nào cảm được? Con dùng tướng tốt và hạnh nguyện, Ca ngợi hướng về bậc đại Thánh. Tướng chân có vòng tròn ngàn tia, Hạnh bố thí quyến thuộc thanh tịnh, Nhờ vào nhân duyên tốt đẹp này, Cảm được chúng Thánh hiền vây quanh. Tướng bàn chân an trú vững chắc, Tiếp nhận thiện pháp giữ không mất, Vì vậy cho nên các quân ma, Không có năng lực hủy hoại được, Màng lưới giữa các ngón tay-chân, Tướng thân có sắc màu vàng tía, Nhờ khéo léo thực hành nhiếp pháp, Đại chúng tự nhiên đều quy phục. Tay và chân vô cùng mềm mại, Tướng bảy chỗ trên thân đầy đặn, Bố thí thức ăn theo ý người, Cảm được nhiều cúng dường tự nhiên. Ngón tay dài-gót chân bằng rộng, Tướng thân cao lớn và ngay thẳng, Vốn xa lìa nhân duyên sát sinh, Cảm được thọ mạng nhiều đời kiếp. Đầu lông xoay tròn hướng bên phải, Tướng mu bàn chân gồ lên cao, Thường tinh tiến làm những điều thiện, Cho nên cảm được pháp bất thối. Tướng bắp đùi nai chúa Y-nê, Thường ưa thích đọc tụng kinh pháp, Nhờ giảng giải cho người khác hiểu, Nhanh chóng đạt được đạo vô thượng, Cánh tay dài xuống quá đầu gối, Tất cả đồ vật mình có được, Người cầu xin cho không tiếc nuối, Tùy ý cảm hóa dẫn dắt người. Âm mã tàng tích trữ công đức, Vốn khéo hòa hợp sự ly tan, Cảm được chúng trời-người đông đủ, Tuệ nhãn thanh tịnh đều là con. Làn da mỏng ánh vàng sáng chói, Bố thí nhà cửa-áo quần đẹp, Cho nên cảm được nhiều y phục, Và lầu đài thanh tịnh tuyệt vời. Mỗi lỗ chân lông một sợi lông, Lông trắng dài nhỏ giữa chặng mày, Thường làm người che chở cao nhất, Cho nên tôn quý nhất ba cõi. Phần thân trên như thân sư tử, Hai vai tròn trịa mà đầy đặn, Thường thực hành lời nói nhân ái, Không có ai trái lời chống đối. Tướng nách đầy đặn-biết mùi vị, Bố thí thuốc thang giúp người bệnh, Trời-người đều tôn kính quý trọng, Thân không có những bệnh tật gì. Tướng thân tròn trịa và nhục kế, Phước Bố thí với tâm vui vẻ, Khuyên nhủ cảm hóa người ngang bướng, Bậc Pháp vương tự tại trong pháp. Âm thanh như Ca-lăng-tần-già, Lưỡi rộng mềm-tiếng như Phạm thiên, Lời nói thường dịu dàng chân thật, Cảm được tám âm bậc Đại Thánh. Trước hết phải suy nghó chính xác, Sau nói ra chắn chắn có thật, Cho nên cảm được tướng sư tử, Người thấy đều sinh tâm tin phục. Tướng răng trắng-đều và dày khít, Trước là người đã từng cúng dường, Về sau thường không sinh ngạo mạn, Cảm được tâm quyến thuộc hòa đồng, Phật, Trên-dưới đủ bốn mươi chiếc răng, Dày khít không thưa thớt hở hang, Vì không gièm pha-không nói dối, Cảm được đồ chúng không phá nổi. Tròng mắt đen-trắng thật rõ ràng, Tướng lông mi như mi trâu chúa, Vốn là tâm từ nhìn hài hòa, Người thấy không bao giờ thỏa mãn. Tuy là bậc Chuyển luân Thánh vương, Mẫu mực đứng đầu bốn thế giới, Có đầy đủ những tướng tốt này, Nhưng ánh sáng không bằng Đức Phật. Con đã nói hết lời ca ngợi, Đối với công đức những tướng tốt, Nguyện làm cho tất cả mọi người, Tâm thanh tịnh luôn luôn an lạc! Bồ tát lại thuận theo dùng tám mươi vẻ đẹp để nghó đến Chư Kệ nói như vậy: Chư Phật có tám mươi vẻ đẹp, Tốt lành vi diệu trang nghiêm thân, Tất cả mọi người nên hoan hỷ, Nhất tâm lắng nghe tôi nói rõ! Ngón tay Đức Thế Tôn thon tròn, Móng tay có màu sắc hồng tía, Gồ cao có thắm tươi sáng bóng, Tất cả không có gì nghó được. Đầu gối bằng-mắt cá không lộ, Hai chân không có gì cong queo, Bước đi giống như sư tử chúa, Oai nghi nhìn không ai sánh được. Lúc đi thân xoay về bên phải, An lành có hình dáng thanh nhã, Thân thể vuông vức theo thứ tự, Đoan nghiêm đáng yêu quý ưa thích. Thân rắn chắc và rất mềm mại, Từng phần thân thể thật rõ ràng, Lúc đi không uốn éo nghiêng ngã, Tất cả các căn đều đầy đủ. Da thịt thân thể rất mịn màng, Tươi sáng và vô cùng thanh tịnh, Thân hình rất đoan nghiêm thanh nhã, Không có nơi nào có thể chê. Bụng tròn trịa không nổi lên cao, Rốn sâu mà không thấy có lỗ, Nếp rốn xoay về phía bên phải, Oai nghi tự tại thật thanh tịnh. Thân không có một nốt ruồi nào, Tay chân rất mềm mại mịn màng Vân tay sâu đậm mà lại dài, Nhỏ và thẳng có màu tươi thắm. Lưỡi mỏng rộng-khuôn mặt không dài, Răng trắng muốt tròn nhỏ sắc bén, Môi đỏ thắm màu quả Tần-bà, Âm thanh sâu như chim hồng chúa, Sống mũi cao-mắt sáng trong xanh, Lông mi dài mà không rối loạn, Chặng mày cao và lông mềm mại, Đầu thẳng tắp không hề cong queo. Lông mày bằng nhau mà đều đặn, Khéo léo biết lỗi lầm các pháp, Lông mày có màu sắc tươi sáng, Khéo léo độ chúng sinh thuần thục. Vành tai đầy-dài mà bằng nhau, Không hư hoại thật là đáng yêu, Trán rộng mà bằng phẳng ngay ngắn, Tướng phần đầu thảy đều đầy đủ. Làn tóc mịn mà không hề rối, Màu sắc như ong chúa đen tuyền, Thanh tịnh mà thơm tho tinh khiết, Trong tóc có ba tướng tốt lành. Đây gọi là tám mươi vẻ đẹp, dùng tám mươi vẻ đẹp này xen lẫn nhau để trang nghiêm cho ba mươi hai tướng tốt. Nếu người nào không nghó đến ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp để ca ngợi thân Phật, vậy thì mãi mãi mất đi nhân duyên lợi lạc của đời này và đời sau.  <卷>QUYỂN 10 <詞>Phẩm 21: BỐN MƯƠI PHÁP BẤT CỘNG Bồ-tát dùng ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp như vậy để nghó đến sinh thân của Đức Phật rồi, bây giờ nên nghó đến các pháp công đức của Chư Phật. Đó là: Lại thuận theo dùng bốn mươi pháp, Bất cộng mà nghó đến Chư Phật, Thân Chư Phật chính là pháp thân, Chứ không phải chỉ là Nhục thân. Chư Phật tuy có vô lượng các pháp, nhưng pháp không chung (bất cộng) với người khác thì có bốn mươi pháp. Nếu người nào nghó đến thì cảm được hoan hỷ. Tại vì sao? Bởi vì Chư Phật không phải là sắc thân, mà chính là pháp thân. Như kinh nói: “Ông không nên dùng sắc thân mà quán tưởng Phật, hãy dùng pháp thân để quán tưởng Phật”. Bốn mươi pháp bất cộng là: Phi hành tự tại. Biến hóa vô lượng. Thánh như ý vô biên. Văn thanh tự tại. Trí lực vô lượng biết rõ tâm người khác. Tâm được tự tại. Thường ở trong tuệ an ổn. Thường không mắc sai lầm. Đạt được sức mạnh của Tam muội Kim vang. Khéo léo biết rõ sự việc bất định. Khéo léo biết rõ sự việc của Vô sắc định. Thông hiểu đầy đủ về những sự việc vónh viễn diệt trừ. Khéo léo biết rõ tâm bất tương ưng với pháp vô sắc. Có thế mạnh của Ba-la-mật. Ba-la-mật vô ngại. Tất cả hỏi đáp và thọ ký đều trả lời đầy đủ với Ba-la-mật. Thuyết pháp đầy đủ ba huân. Pháp đã thuyết không trống rỗng. Pháp đã thuyết không có gì sai lầm. Không có ai có thể làm hại. Bậc Đại tướng giữa các Hiền Thánh. 22.23.24.25 Là bốn pháp không cần giữ gìn nữa. 26.27.28.29 Là bốn pháp không có gì sợ hãi. 30.31.32.33.34.35.36.37.38.39 là mười lực của Phật. Giải thoát vô ngại. Đây là bốn mươi pháp Bất cộng, nay sẽ nói rộng ra. Phi hành tự tại, nghĩa là Chư Phật bay đi tự tại như ý, nhanh chóng đầy đủ như ý không tính toán, không ngăn ngại gì. Vì sao như vậy? Bởi vì nếu Phật muốn đi giữa hư không, thì đưa một chân lên trước, sau đó đưa tiếp một chân, liền được như ý. Hoặc muốn đưa chân đạp vào hư không mà đi, hoặc muốn đứng yên bất động mà đi, thì luôn luôn đi được. Hoặc ngồi xếp bằng tròn yên lặng mà đi, cũng có thể đi được. Hoặc muốn nằm an lành mà đi, lại cũng có thể đi được. Hoặc muốn có hoa sen với cuống lưu ly xanh-cánh san hô chân thật-vàng ròng làm tua, vô lượng đài ngọc như ý bao quanh như mặt trời mới mọc, thì hoa sen quý báu này xuất hiện khắp nơi giữa hư không, đặt chân lên mà đi. Hoặc muốn có cung điện như cung điện nhật nguyệt, cung điện đẹp đẽ của đế thích, cung điện của cõi trời Dạ-ma, cõi trời Đâu-suất-đà, cõi trời Hóa- lạc, cõi trời Tha-hóa-tự tại hay các cõi Phạm vương, thì đều tùy ý hóa làm cung điện như thế, an tọa trong cung điện ấy mà đi, tất cả luôn luôn thành tựu trong nháy mắt. Hoặc là dùng các loại nhân duyên khác, tùy ý có thể đi được. Vì vậy nói rằng: Thuận theo mọi tâm nguyện đều luôn luôn được đầy đủ. Vì vậy Chư Phật có năng lực đưa một bước chân, đi qua ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng. Có người nói: Phật có năng lực trong một ý niệm đi qua trăm ngàn cõi nước. Có người nói: Nếu biết Phật trong một ý niệm một bước có năng lực đi xa như vậy, thì có thể suy tính được. Trong kinh nói: Thần lực của Chư Phật là vô lượng. Vì vậy nên biết rằng Chư Phật phi hành tự tại giữa hư không, trải qua vô lượng vô biên cõi nước chẳng có gì ngăn ngại. Tại vì sao? Bởi vì nếu hàng Đại đệ tử Thanh văn có thần thông tự tại, trong khoảnh khắc một niệm thì có thể đi qua trăm ức cõi Diêm-phù-đề, Cù-đà-ni, Phất-bà-đề, Uất-đa-la-việt, cõi trời Tứ đại vương, cõi trời Đao lợi, cõi trời Dạ-ma, cõi trời Đâu-xuất-đà, cõi trời Hóa-lạc, cõi trời Tha-hóa tự tại, cõi trời Phạm. Trong một chớp mắt có bao nhiêu niệm đi qua, tích tụ những niệm này làm thành một ngày-bảy ngày, một tháng-một năm, thậm chí cả trăm năm. Một ngày đi qua năm mươi ba ức hai trăm chín mươi sáu vạn sáu ngàn thế giới hệ gồm ba ngàn đại thiên. Người Thanh văn như vậy đã đi qua trong thời gian trăm năm, mà Đức Phật có năng lực đi qua chỉ trong một niệm. Vả lại, giả sử cát trong sông Hằng cứ một hạt cát là một kiếp, có Đại Thanh văn thần thông tự tại, thọ mạng bậc nhất trải qua đại kiếp như những hạt cát trong sông Hằng như vậy, ở trong một niệm đi qua bao nhiêu thế giới, tích lũy những niệm như vậy để làm thành vô lượng ngày-tháng-năm, dùng sức tự tại đến hết số lượng những Đại kiếp này mà đi qua tất cả cõi nước, thì Đức Phật có năng lực đi qua trong thời gian một niệm mà thôi. Chư Phật phi hành tự tại nhanh chóng như vậy, đối với tất cả núi thiết vy, núi Thập bảo, cõi trời Tứ thiên vương, cõi trời Đao lợi, Dạ-ma, đâu-suất-đà, Hóa-lạc, Tha-hóa-tự-tại. Phạm thế, phạm chúng, đại phạm, Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang âm, Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh, Quảng quả, Vô tưởng, Bất quảng, Bất não, Hỷ kiến, Diệu kiến, A-ca-ni-tra, tất cả những cõi như vậy, cùng với kiếp nạn gió mạnh-nước lớn đến kiếp nạn lửa dữ…, và các hàng trời rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, các ma trời, sa môn và Bà-la-môn phạm hạnh, cho đến người đạt được những thần thông, không có gì có thể làm chướng ngại. Vì vậy nói là phi hành tự tại vô ngại. Lại còn phi hành tự tại như ý mà biến hóa ẩn hiện ra vào trong lòng đất, có năng lực đi qua vách đá và tất cả những núi non chướng ngại…, Chư Phật đối với điều này thì hơn hẳn các bậc Thánh nhân. Chư Phật cũng có năng lực dùng thân bình thường đứng dậy cao đến cõi Phạm thiên, điều mà người Thanh văn không có thể sánh kịp. Có những sự khác biệt đều là như vậy. Biến hóa tự tại, trong những việc biến hóa có vô lượng khả năng không thể nghó bàn được. Các bậc Thánh khác biến hóa có hạn lượng có phạm vi, Chư Phật biến hóa thì không còn có hạn lượng phạm vi gì cả, mà sự biến hóa của Chư Phật thật là không thể nghó bàn được. Các bậc Thánh khác ở trong một niệm biến hóa một thân, Chư Phật từ trong một niệm tùy ý biến hóa ra vô lượng sự việc. Như trong kinh Đại thần thông nói: “Phật từ trong rốn biến hóa có hoa sen nở ra, trên hoa sen có Hóa Phật, theo thứ tự hiện thân đầy khắp nơi, lên đến cõi trời A-ca-ni- tra. Chư Phật biến hóa ra những sự việc, đủ loại cảnh sắc-đủ loại hình dạng, đều từ trong một niệm”. Những người Thanh văn có thể biến hóa ở trong phạm vi một ngàn cõi nước, Chư Phật có năng lực biến hóa tự tại trong vô lượng vô biên cõi nước, còn có năng lực gấp bội là do Chư Phật đạt được Tam muội biến hóa kiên cố. Vả lại, Chư Phật biến hóa có năng lực vượt quá Hằng sa thế giới, đều từ một thân mà sinh ra. Chư Phật có năng lực ở khắp vô lượng vô biên thế giới trong mười phương hiện tại thọ thân-sinh ra bước đi bảy bước, xuất gia họa đạo-phá tan quân đội của ma, đắc đạo và chuyển pháp luân. Những sự việc như vậy đều biến hóa từ trong một niệm, những hóa Phật ấy cũng đều có năng lực thực hành mọi Phật sự. Như vậy Chư Phật đã biến hóa vô lượng vô biên sự việc không thể nghó bàn được. Lại ở trong Thánh như ý có vô lượng khả năng vi diệu. Thánh như ý, đó gọi là từ trên thân phát ra ánh sáng giống như lửa mạnh, và phát ra những làn mưa, biến hóa thọ mạng dài ngắn tùy ý. Ở trong một niệm có năng lực lên đến cõi Phạm thiên, có năng lực biến hiện các loại đồ vật, tự tại tùy ý có thể làm rung chuyển đất bằng, ánh sáng có năng lực chiếu rọi đến vô số thế giới mà không hề gián đoạn. Thánh như ý là không giống với hành phàm phu, không có hạn lượng, vượt quá mọi số lượng. Những hàng phàm phu tuy có thể biến hóa các đồ vật mà chỉ là ít ỏi nhỏ bé không đáng nói đến. Người Thanh văn có thể tách một ngàn cõi nước ra, rồi làm cho kết hợp lại; có thể làm cho thọ mạng hoặc kéo dài một kiếp, hoặc giảm bớt một kiếp, lại có thể làm cho ngắn hơn, ngắn rồi lại có thể làm cho dài ra, ở trong một niệm có thể đến thế giới cõi phạm của một ngàn cõi nước, có thể ở tại ngàn cõi nước tùy ý mà biến hóa, có thể làm lay động cả ngàn cõi nước, có thể trên thân phát ra ánh sáng chiếu rọi ngàn cõi nước liên tục không dứt. Giả sử thân diệt đi nhưng có thể để lại thần lực biến hóa như cũ đối với ngàn cõi nước. Tiểu Bích-chi-Phật có thể ở tại một vạn cõi nước biến hóa đủ loại. Trung Bích-chi-Phật có thể ở tại trăm vạn cõi nước biến hóa đủ các loại. Đại Bích-chi-Phật có thể ở tại ba ngàn đại thiên cõi nước biến hóa đủ các loại. Chư Phật Thế tôn có năng lực biến hóa thân với số lượng vượt quá các Hằng hà sa thế giới, phá ra nước-lửa có thể nghiền vụn các thân nhiều như Hằng hà sa thế giới làm thành bụi nhỏ, rồi có thể kết hợp lại làm một mà an trú. Thọ mạng với vô lượng kiếp số có năng lực làm cho ít lại, ít rồi lại có thể làm cho dài thêm, có năng lực an trú trài qua vô lượng thời gian. Tùy ý biến hóa, có năng lực từ trong một niệm đến vô lượng vô biên Hằng hà sa thế giới, có năng lực dùng thân bình thường đứng lên đến cõi Phạm thế. Lại có năng lực biến hóa vô lượng vô biên A-tăng kỳ thế giới đều làm cho trở thành vàng, hoặc làm cho cho trở thành bạc, lưu ly, san hô, xa cừ, mã não… Nói tóm lại là có năng lực làm cho trở thành vô lượng vật báu, tùy theo ý muốn mà làm thành. Lại còn có năng lực biến hóa nước trong biển rộng của Hằng hà sa thế giới, đều làm cho trở thành sữa-bơ-sữa đặc-mật ngọt, tùy theo ý muốn mà thành. Lại có năng lực từ trong một niệm biến hóa các núi non gò đồi đều trở thành vàng ròng, vượt quá mọi số lượng, tính đếm không thể nào được. Lại có năng lực làm chấn động vô lượng vô biên thế giới và tất cả các cung điện của hết thảy các trời cõi Dục-cõi sắc. Lại dùng một niệm có thể làm cho bao nhiêu ánh sáng sắc vàng rực soi chiếu khắp vô lượng thế giới như vậy, ánh sáng của mặt trăng-mặt trời và ánh sáng của cung điện các trời cõi Dục-cõi sắc đều làm cho lu mờ. Tuy rằng sau khi diệt độ rồi nhưng mà có năng lực ở trong các thế giới như vậy tùy ý luôn luôn tồn tại, thần lực lưu truyền khắp nơi hoặc lâu dài hoặc ngắn ngủi thường không bị gián đoạn. Văn thanh tự tại, là Chư Phật tự tại tùy ý trong mọi âm thanh đã nghe, hoặc vô lượng trăm ngàn vạn ức loại âm nhạc cùng lúc đều trỗi lên, hoặc vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh cùng lúc cất tiếng nói, hoặc xa hoặc gần tùy ý mà nghe rõ. Giả sử tất cả chúng sinh trong ba ngàn Đại thiên thế giới như cát sông Hằng, cùng lúc đều trỗi lên bao nhiêu trăm ngàn vạn loại âm nhạc đầy khắp thế giới; lại có chúng sinh trong hằng hà sa thế giới, cùng lúc dùng Phạm âm cất lên đầy khắp tất cả các thế giới, Chư Phật nếu muốn nghe một âm thanh trong đó thì tùy ý nghe được, chứ không nghe êm thanh khác. Người Thanh văn nghe tiếng mình muốn nghe, nếu có Đại thần lực ngăn cản thì không thể nào nghe được. Âm thanh mà Chư Phật nghe tuy có Đại thần lực ngăn cản nhưng cũng có năng lực nghe được. Người Thanh văn có thể nghe âm thanh trong một ngàn cõi nước, âm thanh mà Chư Phật Thế tôn nghe được vượt quá vô lượng vô biên thế giới, âm thanh nhỏ nhất cũng đều nghe được. Thanh văn có Đại thần lực trú tại cõi Phạm thế, phát ra Đại âm thanh có thể đầy khắp trong một ngàn cõi nước. Chư Phật Thế tôn hoặc an trú nơi này, hoặc an trú ở cõi Phạm thể, hoặc an trú nơi khác, thì âm thanh có năng lực truyền khắp vô lượng vô biên thế giới, nếu muốn làm cho chúng sinh nghe được âm thanh nhỏ nhất qua vô lượng vô biên thế giới, thì có năng lực khiến cho được nghe; muốn làm cho không nghe thì lập tức không nghe. Vì vậy chỉ có Chư Phật đạt được lực tự tại ở trong sự nghe được âm thanh tùy ý. Lực tự tại vô lượng biết rõ tâm người khác, là Chư Phật Thế tôn đối với chúng sinh hiện tại trong vô lượng vô biên thế giới đều biết rõ tâm tư của họ, người khác chỉ thuận theo danh tướng mà biết, Chư Phật thì dùng nghĩa của danh tướng mà biết. Vả lại, người khác không thể nào biết được những tâm tư của chúng sinh ở cõi vô sắc, nhưng Chư Phật thì có năng lực biết rõ. Người khác tuy có trí biết được tâm người khác, nhưng gặp thế lực lớn ngăn cản thì không thể biết được. Giả sử tất cả chúng sinh thành tựu Tha tâm thông, đều giống như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên và hàng Bích-chi-Phật, dùng thần lực ngăn chặn tâm tư của một người, thì không làm sao biết được tâm của người ấy, nhưng Chư Phật có năng lực phá tan thần lực ấy mà biết được tâm tư của họ. Vả lại, Chư Phật dùng thần lực biết rõ tâm thanh tịnh-tâm cấu trược của chúng sinh bậc thượng-trung-hạ. Lại biết các tâm đều có những sở duyên, từ duyên này đến duyên này theo thứ tự, biết tất cả các duyên khắp nơi. Lại dùng thật tướng biết rõ tâm chúng sinh. Vì vậy Chư Phật dùng lực tự tại vô lượng biết rõ tâm người khác. Thứ nhất là điều phục tâm Ba-la-mật, dễ dàng biết lúc trú-nhập- khởi của các thiền định Tam muội, giải thoát. Chư Phật hoặc lúc nhập định, hoặc lúc không nhập định, muốn giữ tâm vào trong một duyên, tùy theo ý muốn lâu mau đều có năng lực an trú như ý, từ trong duyên này lại trú vào duyên khác đều tùy ý có thể an trú. Nếu Phật an trú trong tâm bình thường, muốn làm cho người khác không biết thì không thể nào biết được. Giả sử tất cả chúng sinh, có trí biết được tâm người khác như Đại phạm vương, như Đại Thanh văn và Bích-chi-Phật, thành tựu trí tuệ biết được tâm người khác đem trí tuệ của những người này làm cho một người đạt được, người này muốn biết tâm bình thường của Phật, nếu Phật không đồng ý thì không thể nào biết được. Như trong kinh Thất phương tiện nói: “Hành giả khéo léo biết rõ tướng định, khéo léo biết rõ tướng trú trong định, khéo léo biết rõ tướng rời khỏi định, khéo léo biết rõ tướng an ổn trong định, khéo léo biết rõ tướng hành xứ của định, khéo léo biết rõ tướng định phát sinh, khéo léo biết rõ về các pháp định thích hợp và các pháp định không thích hợp. Đó gọi là Chư Phật điều phục tâm Ba-la-mật đứng đầu. Chư Phật thường an trú trong tuệ, Chư Phật an trú trong tuệ luôn luôn không lay động, niệm luôn luôn ở trong tâm. Tại vì sao? Bởi vì biết trước rồi sau mới thực hành, tùy ý an trú trong sở duyên mà thực hành không nghi ngờ gì, đoạn trừ tất cả phiền não, vượt qua khỏi sự xao động của tính. Như Phật bảo với A-nan: “Phật vào đêm này được quả vị vô thượng Bồ đề, tất cả thế gian hoặc là Thiên-ma, sa môn và Bà la môn phạm hạnh, dùng tất cả đạo lý diệt khổ giáo hóa hoàn tất mà nhập Niết bàn vô dư. Ở trong thời gian ấy, Phật đối với những sự cảm thọ biết rõ về khởi-trú-sinh-diệt, đối với các tướng-các xúc-các giác-các niệm cũng biết rõ về khởi-trú-sinh-diệt. Ác ma trong bảy năm suốt ngày đêm không nghỉ, thường đi theo Phật nhưng không tìm được khuyết điểm của Phật, không thấy niệm nào của Phật mà không ở trong niệm an ổn của tuệ. Đó gọi là Chư Phật thường an trú trong hành của trí tuệ”. Không quên mất pháp, bởi vì Chư Phật đạt được pháp bất thối, thông suốt năm tạng pháp, đạt được pháp Vô thượng. Chư Phật thường xuyên không quên mất, Chư Phật đã đạt được dưới cội Bồ đề, cho đến lúc nhập Niết bàn vô dư, hoặc là Thiên-ma, sa-môn và Bà-la-môn phạm hạnh, cùng với các Thánh nhân khác, không ai có năng lực làm cho Phật có điều gì quên mất. Như trong kinh Pháp Ấn nói: “Từ nơi đạo tràng mà đạt được thì gọi là chân thật đạt được, lại không có pháp nào hơn được”. Như kinh Y mao Thụ nói: “Này Xá-lợi-phất! Nếu người nào nói lời chân thật thì có năng lực đối với pháp không quên mất, phải nói đó chính là Ta. Tại vì sao? Bởi vì chỉ một mình Ta là người không có gì quên mất”. Đó gọi là Chư Phật đối với pháp không có gì quên mất. Kim cang Tam muội, là Tam muội Kim cang của Chư Phật Thế tôn, là pháp Bất cọng, không ai có năng lực phá hoại được, đối với tất cả mọi nơi không có gì chướng ngại, đạt được chính biến tri cho nên phá hủy tất cả các pháp chướng ngại, xuyên suốt bình đẳng cho nên đạt được sức mạnh lợi ích của các công đức, tối thượng trong các thiền định cho nên không có năng lực nào phá hủy được. Vì vậy gọi là Kim cang Tam muội. Như vật báu Kim cang không có vật nào có thể phá hủy được, Tam muội này cũng như vậy, không có pháp nào có thể hủy hoại được, vì vậy cho nên gọi là Kim cang Tam muội. Hỏi: Vì sao không thể hủy hoại được? Đáp: Bởi vì tất cả mọi nơi không có gì chướng ngại, như Kim cang của Đế Thích không có nơi nào chướng ngại được, Tam muội này cũng như vậy. Hỏi: Tam muội này vì sao nói là tất cả mọi nơi không chướng ngại được? Đáp: Bởi vì đích thực thông suốt tất cả các pháp, Chư Phật trú trong Tam muội này, đều có năng lực thông suốt Quá khứ-vị lai-hiện tại, thâu nhiếp năm tạng pháp vượt ra ngoài ba đời không thể diễn tả được, vì vậy gọi là tất cả mọi nơi không thể chướng ngại được. Nếu Chư Phật trú trong Tam muội này, mà các pháp vốn có nếu không thông suốt thì gọi là có chướng ngại, nhưng thật sự không phải như vậy, cho nên gọi là không có gì chướng ngại. Hỏi: Tại vì sao Tam muội này thông suốt tất cả các pháp? Đáp: Bởi vì Tam muội này có năng lực khai thông tất cả các pháp làm chướng ngại, đó gọi là có năng lực khai thông chướng ngại của phiền não, chướng ngại của định, chướng ngại của trí, đây gọi là có năng lực thông suốt tất cả các pháp. Hỏi: Tam muội này tại sao có năng lực khai thông tất cả chướng ngại, mà các Tam muội khác thì không có thể khai thông? Đáp: Bởi vì Tam muội này dễ dàng xuyên suốt hai pháp như nhau, có năng lực phá hủy các núi phiền não làm cho không sót lại gì, đích thực thông suốt tất cả các pháp, khéo léo đạt được tâm giải thoát bất hoại, cho nên Tam muội này có năng lực khai thông tất cả chướng ngại. Hỏi: Tam muội này vì sao xuyên suốt hai pháp như nhau? Đáp: Bởi vì trú trong sức mạnh có được của Tam muội này, có năng lực đạt được tất cả các chúng sinh, các Tam muội khác không có sức mạnh như vậy, cho nên Tam muội này có năng lực xuyên suốt như nhau. Hỏi: Vì sao trú trong Tam muội này có được sức mạnh, có năng lực đạt được tất cả các công đức? Đáp: Bởi vì Tam muội này là bậc nhất trong các Định, vì vậy trú trong Tam muội này thì có năng lực đạt được các công đức. Hỏi: Vì sao Tam muội này là bậc nhất trong các định? Đáp: Bởi vì Tam muội này được thành tựu từ vô lượng vô biên thiện căn, cho nên là bậc nhất trong các định. Hỏi: Tam muội này tại sao được thành tựu từ vô lượng vô biên thiện căn? Đáp: Tam muội này chỉ riêng người Nhất thiết trí có được, người khác vốn không có được, vì vậy cho nên gọi là Kim cang Tam muội. -------------------------- <詞>Phẩm 22: HỎI VẶN VỀ NGƯỜI NHẤT THIẾT TRÍ TRONG BỐN MƯƠI PHÁP BẤT CỘNG, Phần 1 Hỏi: Ông nói Kim cang Tam muội, chỉ riêng người Nhất thiết trí có được, người khác vốn không có được. Nếu Tam muội này chỉ riêng người Nhất thiết trí mới có, người khác không có được, thì Tam muội này không có. Tại vì sao? Bởi vì không có người Nhất thiết trí. Tại vì sao? Bởi vì pháp biết được là vô lượng vô biên, mà trí tuệ thì có hạn lượng-có phạm vi, dùng trí tuệ có hạn lượng-có phạm vi này, không thích hợp để biết về sự việc vô lượng. Như bây giờ ở cõi Diêm-phù-đề này có chúng sinh dưới nước trên đất vượt quá mọi toán số, ba phẩm chúng sinh này, hoặc là năm-hoặc là nữ, hoặc phi nam phi nữ, ở trong thai-còn bé thơ-tuổi trẻ sức mạnh-tuổi già sức yếu, các pháp khổ vui, các tâm và âtm sở pháp Quá khứ-vị lai-hiện tại, cùng các nghiệp thiện- ác, đã tích tập-đang tích tập-sẽ tích tập, đã thọ báo-đang thọ báo-chưa thọ báo, vạn vật sinh diệt cho đến núi sông ao hồ cỏ cây rừng rậm, gốc thân cành lá hoa quả, tất cả mọi thứ trong cõi Diêm-phù-đề, những gì có thể biết thì không có giới hạn, ba thế giới khác cũng như vậy; như bốn thế giới này thì vạn vật trong ba ngàn Đại thiên thế giới cũng như vậy; như vạn vật trong ba ngàn đại thiên thế giới thì vạn vật có thể biết được trong tất cả các thế giới cũng như vậy. Nhưng số lượng thế gian hãy còn vô lượng vô biên khó có thể biết được, huống gì là chúng sinh- phi chúng sinh và mọi vật phân biệt theo phạm vi trong các thế gian, các cõi Diêm-phù-đề? Vì nhân duyên này nên biết rằng, những vật có thể biết được vốn là vô lượng vô biên, không có người Nhất thiết trí. Nếu cho rằng trí tuệ có năng lực to lớn, ở trong pháp đã biết không có gì chướng ngại, cho nên biết tất cả thì tất cả có thể biết. Pháp như hư không bao trùm ở trong tất cả các pháp, vì vậy nói là có người Nhất thiết trí, thì điều này không đúng. Trí tuệ có năng lực to lớn thì có thể như vậy, nhưng trí tuệ không thể nào tự biết được, như đầu ngón tay không tự chạm vào nó được. Vì vậy không có Nhất thiết trí. Nếu cho rằng lại có trí có năng lực biết được trí này, thì cũng không đúng. Tại vì sao? Bởi vì có điều vô cùng vượt qua trí ấy. Trí hoặc là tự mình biết, hoặc là biết nhờ vào nơi khác, cả hai đều không đúng. Nếu trí này có vô lượng năng lực, nhưng bởi vì không tự mình biết được, thì không thể nói là có vô lượng. Vì vậy không có trí nào có năng lực biết được tất cả các pháp không có trí biết được tất cả các pháp, thì không có người Nhất thiết trí. Tại vì sao? Bởi vì người Nhất thiết trí, là dùng trí để biết được tất cả các pháp. Vả lại, pháp vốn biết được là vô lượng vô biên, nếu tổng hợp trăm ngàn vạn ức người trí lại, hãy còn không thể nào biết hết được, huống gì là một người? Vì vậy không có một người nào có năng lực biết được tất cả các pháp, không có người Nhất thiết trí. Nếu cho rằng không dùng cái biết bao trùm tất cả núi sông, chúng sinh-phi chúng sinh mà gọi là người Nhất thiết trí, chỉ dùng cái biết đầy đủ tất cả kinh sách mà gọi là người Nhất thiết trí, thì cũng không đúng. Tại vì sao? Bởi vì trong Phật pháp không nói về ý nghĩa của các loại kinh sách như vi đà… Nếu Phật là người Nhất thiết trí, thì phải sử dụng kinh sách Vi-đà…, nhưng thật sự thì không sử dụng, vì vậy Phật không phải là người Nhất thiết trí. Vả lại, bốn bộ kinh Vi-đà là có mức lượng-có giới hạn, đời nay còn không có người nào có năng lực biết hết được, huống là có người biết hết tất cả kinh sách ư? Vì vậy không có người Nhất thiết trí. Vả lại, có kinh sách thì có thể tăng thêm tham dục, và các loại ca múa-âm nhạc… Nếu người Nhất thiết trí biết sự việc này thì sẽ có tham dục, kinh sách này là nhân duyên của tham dục. Nếu có nhân thì chắc chắn có quả. Nếu người Nhất thiết trí không biết sự việc này thì không gọi là người Nhất thiết trí. Vả lại, có những kinh sách có thể giúp cho con người nảy sinh sân hận-vui mừng-dối gạt, đó gọi là những loại kinh sách cao trị thế gian. Nếu biết sự việc này thì nảy sinh sân hận. Tại vì sao? Bởi vì có nhân thì chắc chắn có quả. Nếu không biết thì không gọi là người Nhất thiết trí. Vì vậy biết rằng không có người Nhất thiết trí. Lại nữa, Phật không nhất định phải biết tất cả mọi sự việc ở đời vị lai. Ví như bây giờ tôi hỏi vặn về người Nhất thiết trí, Phật không có kinh sách ghi nhận trước về người này có dòng họ như vậy-gia đình như vậy ở nơi chốn ấy, dùng sự việc hỏi vặn người Nhất thiết trí, nếu cho rằng Phật biết tất cả thì tại sao không nói đến việc này? Nếu nói về kinh thì trong kinh phải có đoạn không nói đến sự việc này. Vì vậy biết rằng không phải là người Nhất thiết trí. Lại nữa, nếu Phật biết tất cả sự việc ở đời vị lai, thì phải biết trước là Điều-đạt xuất gia rồi sẽ phá hoại Tăng già. Nếu biết thì không nên cho phép xuất gia. Lại nữa, Phật không biết sự cố bắn tên xô đá, nếu Phật biết trước thì không nên kinh hành trong phạm vi đó. Lại nữa, Phật không biết con gái Bà-la-môn là Chiên-già dùng sự dâm dục báng bổ Phật, nếu Phật biết trước thì phải nói cho các Tỳ-kheo biết là vị lai sẽ có sự việc này. Lại nữa, có Phạm chí ganh ghét Phật cho nên ở nơi khác giết chết con gái của phạm chí là Tôn-đà-la, đem chôn trong bờ hào tinh xá Kỳ Hoàn. Phật không biết sự việc này, nếu biết sự việc này thì nên đến chỗ các phạm chí để cứu mạng cô gái này. Thậm chí bị Điều-đạt xô đá xuống mà cũng không biết trước, thì nói gì đến sự cố của con gái Bà-la-môn hay con gái Phạm chí? Bởi vì không biết, cho nên biết rằng Phật không biết tất cả về đời vị lai. Vì vậy không phải là người Nhất thiết trí. Lại nữa, Phật đi vào thôn xóm Bà-la-môn khất thực mà ôm bát không đi xa, không thể nào biết trước thời gian ma quân làm thay đổi lòng dạ mọi người, thậm chí một bữa ăn cũng không có được. Nếu Phật biết điều này thì không nên đi vào thôn xóm Bà-la-môn. Vì vậy biết rằng Phật không biết tất cả sự việc của vị lai. Lại nữa, vua A-xà-thế muốn làm hại Phật cho nên canh giữa tài sản mà thả voi say, Phật không biết mà đi vào thành vương-xá khất thực. Nếu biết trước điều này thì không nên đi vào thành. Vì vậy Phật không biết sự việc của vị lai. Vì không biết sự việc vị lai thì không phải là người Nhất thiết trí. Lại nữa, Phật không biết nhân duyên thỉnh cầu Phật của Ác Niết Đạt Đa, liền nhận sự thỉnh cầu ấy, dẫn các Tỳ-kheo đi đến nước Vi-la-xà, Bà-la-môn này quên mất sự thỉnh cầu trước đó, cho nên khiến Phật phải ăn lúa mạch của ngựa. Nếu Phật biết trước Bà-la- môn quên mất sự thỉnh cầu Phật và Tăng, thì không nên nhận lời thỉnh cầu để chịu cảnh căn lúa mạch của ngựa ba tháng trời. Vì vậy biết rằng Phật không biết sự việc của vị lai. Vì không biết sự việc vị lai cho nên không phải là người Nhất thiết trí. Lại nữa, Phật nhận Tu-niết-xoa-đa-la làm đệ tử, bởi vì Phật biết sự việc của vị lai. Người này tâm ác cố chấp ngang bướng khó thay đổi, không tin lời Phật dạy bảo. Nếu Phật biết điều này thì tại sao nhận làm đệ tử? Vì nhận làm đệ tử thì không biết sự việc của vị lai. Vì không biết sự việc vị lai cho nên không phải là người Nhất thiết trí. Lại nữa, nếu Phật là người Nhất thiết trí thì cần phải ngăn ngừa và che chở cho người chưa có phạm vào lỗi lầm, nên biết giới cho họ. Bởi vì không biết trước nhân duyên kiết giới, có gây ra lỗi lầm rồi mới có thể kiết giới, là vì không biết sự việc của vị lai. Không biết sự việc vị lai cho nên không phải là người Nhất thiết trí. Lại nữa, Phật pháp chỉ lấy số năm xuất gia thọ giới, để phân định thứ tự lớn nhỏ mà thể hiện sự lễ lạy cung kính, chứ không vì tuổi cao- dòng họ sang trọng-những nhà công đức-trí tuệ đa văn-thiền định-quả đoạn hay thần thông tuyệt vời làm lớn. Nếu như là người Nhất thiết trí, thì nên lấy tuổi cao, dòng họ cao quý, những người có công đức, trí tuệ đa văn, thiền định, quả-đoạn và thần thông tự tại làm lớn để cung kính cúng dường. Nếu như vậy thì gọi là khéo léo chế định. Số tuổi là số năm thọ giới. Như Đạo nhân năm tuổi lễ lạy người sáu tuổi. Dòng họ cao quý là ở thế gian có bốn đẳng cấp phân biệt chúng sinh, đó là Bà-la-môn, sát-lợi, Tỳ-xá và Thủ-đà-la. Đẳng cấp Thủ-đà-la phải cung kính đối với đẳng cấp Tỳ-xá, Sát-lợi và Bà-la-môn. Đẳng cấp Tỳ-xá phải cung kính đối với đẳng cấp Sát-lợi và Bà-la-môn. Đẳng cấp Sát-lợi phải cung kính đối với đẳng cấp Bà-la-môn. Các nhà là những người có tay nghề tinh xảo, người buôn bán, người tu tại gia, người hàng trưởng giả, người làm quan đại thần, người thân thích của vua chúa… Ở trong những nhà này, nhà có địa vị nhỏ phải cung kính đối với nhà có địa vị lớn. Như vậy người xuất gia ở trong gia đình nghèo hèn phải cung kính đối với người xuất gia ở trong gia đình giàu sang. Công đức thì người hủy phạm giới luật phải cung kính lễ lạy đối với người trì giới, người trì giới không nên lễ lạy người phá giới. Người không thực hành mười hai hạnh đầu đà, nên lễ lạy người thực hành mười hai hạnh đầu đà. Người không đầy đủ hạnh đầu đà, nên lễ lạy người đầy đủ hạnh đầu đà. Trí tuệ thì người không có trí tuệ nên lễ lạy cung kính người có trí tuệ. Đa văn thì người hiểu biết ít nên lễ lạy người hiểu biết nhiều. Người không học hành nhiều nên lễ lạy cung kính người học hành nhiều. Quả thì người đạt quả Tu-đà-hoàn nên cung kính lễ lạy người đạt quả Tư-đà-hàm. Như vậy lần lượt nên lễ lạy người đạt quả A-la-hán. Tất cả phàm phu nên lễ lạy đối với đắc quả. Đoạn thì người đoạn được phần ít kiết sử và người chưa đoạn được phần nào nên lễ lạy người đoạn được nhiều kiết sử. Thần thông thì nếu người chưa có đủ thần thông nên lễ lạy người đầy đủ thần thông. Nếu là Phật theo thứ tự như vậy khéo léo nói về pháp cung kính cúng dường, thì đây là nói như trước đã trình bày, nhưng thật sự không phải như vậy. Vì vậy biết rằng không phải là người Nhất thiết trí. Lại nữa, Phật hãy còn không có thể biết được sự việc hiện tại. Nếu ông cho rằng tôi làm sao biết là Phật không biết được sự việc hiện tại, thì nay sẽ nói về điều đó. Có chúng sinh là người giảm nhiều kiết sử, có người không còn nghiệp chướng, có người xa lìa tám nạn, có người có thể thực hành pháp sâu xa, có người có năng lực thành tựu chính pháp, mà Phật không biết được. Phật thành đạo rồi, ban đầu muốn thuyết pháp, nảy sinh nghi ngờ như vậy: Ta đã đạt được giáo hóa rất sâu xa, mênh mông thăm thẳm, vi diệu tịch diệt, khó biết khó hiểu vô cùng chỉ có người trí mới có thể biết được bên trong, chúng sinh thế gian tham đắm mọi chuyện của cuộc đời, trong thế gian này mà đoạn trừ tất cả phiền não-diệt hết ái dục-chán ngán lìa xa là điều khó thấy bậc nhất, nếu Ta thuyết pháp mà chúng sinh không hiểu, thì chỉ tự làm vất vả cho mình mà thôi. Nảy sinh nghi ngờ như vậy, mà thật sự chúng sinh thì có người giảm nhiều kiết sử, có người không còn nghiệp chướng, có người xa lìa tám nạn, có người có thể thực hành pháp sâu xa, có người có năng lực thành tựu chính pháp, nhưng Phật không thể nào biết được chúng sinh như vậy. Vì vậy cho nên biết rằng Phật không biết được sự việc hiện tại. Lại dấy lên ý niệm như vậy: Xưa Ta thực hành khổ hạnh, năm Tỳ- kheo cúng dường, giữ gìn giúp đỡ Ta, cần phải được lợi ích trước hết, nhưng nay họ ở nơi nào? Dấy lên ý niệm này rồi, lúc ấy có Thiên thần nói cho biết: Nay đang ở trong vườn Lộc-dã thuộc thành Ba-la-nại. Vì vậy cho nên biết rằng Phật không biết được sự hiện tại. Bởi vì không biết được sự việc hiển tại, thì không phải là người Nhất thiết trí. Lại nữa, Phật đắc đạo rồi nhận lời thỉnh cầu thuyết pháp mà dấy lên ý niệm như vậy: Nay Ta thuyết pháp thì ai là người nên nghe trước? Tức thì tiếp tục nghó rằng: Uất-đầu-lam-phất, người này lợi căn có thể dễ dàng khai ngộ. Lúc bấy giờ người này đã mạng chung từ trước, mà Phật lại hỏi han tìm kiếm. Lúc ấy có Thiên thần nói cho biết rằng: Đã mạng chung từ hôm qua. Phật lại tư duy chuyển tâm muốn độ cho A-la-la. Thiên thần lại thưa rằng: Người này chết đã bảy ngày. Nếu Phật là người Nhất thiết trí thì trước tiên phải biết những người này đã mạng chung, nhưng thật sự thì không biết. Bởi vì không biết sự việc quá khứ, cho nên không gọi là người Nhất thiết trí. Người Nhất thiết trí theo pháp cần phải độ thì có thể độ, không đáng độ thì gác lại. Lại nữa, Phật có lời nói hoài nghi khắp mọi nơi, như thành Ba- liên-phất, sự cố này sẽ hủy hoại vì ba nhân duyên, hoặc là nước-hoặc là lửa, hoặc là người bên trong âm mưu với người bên ngoài. Nếu Phật là người Nhất thiết trí thì không nên có lời nói trong sự nghi hoặc. Vì vậy biết rằng không phải là người Nhất thiết trí. Lại nữa, Phật hỏi Tỳ-kheo: Các ông tập trung lại để nói đến sự việc gì? Những câu hỏi như vậy, nếu là người Nhất thiết trí thì không cần phải hỏi những điều như vậy. Bởi vì hỏi người khác cho nên không phải là người Nhất thiết trí. Lại nữa, Phật tự khen mình mà chê bai người khác. Như trong kinh nói: “Đức Phật bảo A-nan: Chỉ một mình Ta là người bậc nhất, không có ai sánh bằng, không có ai ngang hàng với Ta”. Phật lại bảo với các Tỳ-kheo: Những hạng Ni-kiền-tử là người xấu xa tệ hại, thành tựu năm pháp tà những hạng Ni-kiền-tử không có tín tâm, vô tàm-vô quý, ít học- lười nhác, kém suy nghó-trí cạn cợt. Còn nói Phạm chí. Ni-kiền-tử và đệ tử của các ngoại đạo cùng với những sự việc không thích hợp. Nếu tự khen ngợi mình mà chê bai người khác, thì người thế gian hãy còn hổ thẹn, huống gì là người Nhất thiết trí? Vì có điều này cho nên không phải là người Nhất thiết trí. Lại nữa, kinh Phật thì trước-sau trái ngược nhau. Như trong kinh nói: “Này các Tỳ-kheo! Ta mới đắc đạo”. Lại nói: Ta được đắc đạo từ Chư Phật quá khứ. Người có trí ở thế gian hãy còn tránh xa sự trái ngược nhau đối với trước-sau, huống gì là người Nhất thiết trí xuất gia mà lại phát sinh trái ngược nhau ư? Bởi vì trước-sau trái ngược nhau, cho nên biết rằng không phải là người Nhất thiết trí. Vì vậy ông nói Kim cang Tam muội chỉ riêng người Nhất thiết trí mới đạt được thì điều này không đúng. Bởi vì không có người Nhất thiết trí, cho nên Tam muội Nhất thiết trí cũng không thành tựu. Đáp: Ông đừng nói như vậy, Phật thật sự là người Nhất thiết trí. Tại vì sao? Bởi vì tất cả các pháp có năm tạng pháp, đó gọi là pháp quá khứ, pháp vị lai, pháp hiện tại, pháp ra khỏi ba đời và pháp không thể diễn tả. Chỉ có Phật đúng như thật biết rõ tất cả pháp nào. Như ông vặn hỏi trước đây là pháp biết được vô lượng vô biên cho nên không có người Nhất thiết trí, nay tôi sẽ trả lời. Nếu pháp biết được là vô lượng vô biên, thì trí cũng vô lượng vô biên, dùng trí vô lượng vô biên biết rõ pháp vô lượng vô biên thì không có gì sai lầm. Nếu cho rằng sự nhận biết này cũng phải dùng trí để nhận biết trí như người thế gian nói: Tôi là người trí, tôi là người không có trí, tôi là người trí cạn cợt, tôi là người trí sâu xa. Vì nhân duyên này mà dùng trí để nhận biết bởi vì nhận biết thì không có gì vượt qua được, không có gì cùng tận. Như dùng trí hiện tại nhận biết trí quá khứ, thì biết hết tất cả các pháp không còn gì sót lại. Lại nữa, như người đếm toàn thân của người khác là mười, thì sự nhận biết cũng như vậy. Tự biết mình cũng biết người khác thì không có gì sai lầm. Như ngọn đèn tự soi sáng mà cũng soi sáng vật khác. Như ông đã nói tập hợp trăm ngàn vạn ức người trí, hãy còn không thể nào biết hết tất cả các pháp, huống gì là một người mà biết được, điều này không đúng. Tại vì sao? Bởi vì người có đầy đủ trí tuệ thì có năng lực nhận biết nhiều sự việc, tuy rằng rất nhiều người nhưng không có trí tuệ thì không thể nào có sự nhận biết. Như trăm ngàn người mù không có ai chịu làm người dẫn đường, một người có mắt sáng có thể đảm nhận làm người dẫn đường được. Vì vậy ông lấy một người để vặn hỏi, tuy là nhiều trí nhưng đối với Phật thì không có trí, điều này không đúng. Ông cho rằng Phật không nói các kinh sách khác như Vi-đà…, cho nên không phải là người Nhất thiết trí, nay sẽ trả lời. Trong kinh Vi-đà không có pháp tịch diệt thanh tịnh, chỉ có các loại sự việc hý luận tà vạy, Chư Phật đã thuyết kinh pháp đều là pháp tịch diệt thanh tịnh. Phật tuy biết các kinh như Vi-đà…, nhưng những loại ấy không có thể làm cho con người đạt được sự tịch diệt thanh tịnh, vì vậy không nói đến. Hỏi: Trong kinh Vi-đà cũng có nói đến giải thoát tịch diệt thanh tịnh, thế gian trước kia đều u ám, cũng không có gì cả, ban đầu có người to lớn xuất hiện như mặt trời, nếu có người trông thấy thì được khỏi nạn chết chóc. Lại có đạo khác cũng nói: Thân người nhỏ thì thần ngã nhỏ, thân người lớn thì thần ngã lớn. Thân là ngôi nhà mà thần ngã thường ở trong đó, nếu dùng trí tuệ cởi bỏ thông suốt sự trói buộc của thần ngã thì được giải thoát. Vì vậy cho nên biết rằng trong kinh Vi-đà có giải thoát tịch diệt. Đáp: Không có sự việc này. Tại vì sao? Bởi vì trong kinh vi-đà có bốn thứ điên đảo. Thế gian vô thường mà nói là có một thế gian thường còn; như nói một lần làm đền thờ thiên thần thì đọa lạc, tiếp tục làm cũng bị đọa lạc, làm lần thứ ba thì không đọa lạc. Đó là Thường điên đảo trong vô thường. Thế gian đau khổ mà nói có nơi thường vui sướng, đó là vui sướng điên đảo trong đau khổ. Lại nói thần ngã chuyển đổi làm con, nguyện làm cho sống thọ trăm tuổi; con là thân khác so nói là Ngã? Đó là Ngã điên đảo trong vô ngã. Nói thân thanh tịnh bậc nhất không gì sánh được, vàng bạc châu báu không có gì sánh kịp với thân. Đó gọi là Tịnh điên đảo trong bất tịnh. Điên đảo thì không chân thật, không chân thật thì làm sao có tịch diệt vì vậy trong kinh vi-đà không có pháp tịch diệt thanh tịnh. Hỏi: Trong kinh Vi-đà nói người có thể biết được Vi-đà thì được thanh tịnh an ổn, tại sao nói là không có pháp tịch diệt thanh tịnh? Đáp: Người biết vi-đà tuy nói là an ổn nhưng không phải là giải thoát hoàn toàn, ở trong thân khác nảy sinh ý tưởng giải thoát, là nói đến nhân của cõi trời Trường thọ, mà cho là giải thoát. Vì vậy trong vi-đà thật sự không có giải thoát. Lại nữa, trong vi-đà nói sơ lược có ba nghĩa: Chú nguyện. Ca ngợi. Pháp tắc. Chú nguyện có nghĩa là làm cho mình có được vợ con-trâu ngựa- vàng bạc châu báu. Ca ngợi có nghĩa là ông thờ thần lửa đầu đen-cổ đỏ-thân vàng thường ở trong năm đại của chúng sinh. Pháp tác có nghĩa là điều này nên làm, điều này không nên làm. Như bắt đầu từ sao mão tiếp nhận thờ lửa, nhưng thật sự thì chú nguyện-ca ngợi và pháp tắc không có gì là giải thoát tịch diệt cả. Tại vì sao? Bởi vì tham đắm thú vui thế gian mà thắp đèn chú nguyện chứ không có trí tuệ chân thật, không đoạn trừ phiền não thì làm sao có giải thoát? Hỏi: Pháp Vi-đà là pháp đáng tin bậc nhất đã có từ xưa, ông nói là không có tịch diệt thanh tịnh cho nên không đáng tin, điều này không đúng. Tại vì sao? Bởi vì Phật pháp gần đây mới xuất hiện ở thế gian, mà pháp vi-đà từ xa xưa luôn luôn tồn tại giữa thế gian, vì vậy pháp xa xưa là đáng tin mà pháp mới xuất hiện thì không đáng tin. Ông nói trong Vi-đà không có pháp tịch diệt thanh tịnh, điều này không đúng. Đáp: Thời gian không đáng tin vô minh xuất hiện trước, chính trí xuất hiện sau. Tà kiến xuất hiện trước, chính kiến xuất hiện sau. Không thể vì vô minh tà kiến xuất hiện trước mà đáng tin, còn chính trí-chính kiến xuất hiện sau thì không đáng tin. Như trước hết phải là bùn dơ, sau mới có hoa sen; trước có bệnh tật thì sau mới có thuốc chửa. Như vậy không thể vì xuất hiện trước mà cho là quan trọng, vì vậy pháp Vi-đà xuất hiện trước, Phật pháp xuất hiện sau, nói là không đáng tin điều này không đúng. Lại nữa, Chư Phật quá khứ như Phật Định Quang… đều xuất thế từ trước, pháp tắc của các Ngài xuất hiện từ xưa, pháp vi-đà sau này mới xuất hiện. Nếu ông lấy sự lâu dài trước tiên làm quý trọng, thì Chư Phật và pháp tắc này phải quý trọng hơn. Hỏi: Pháp Vi-đà không có thể làm cho tịch diệt thanh tịnh, vì vậy trong Phật pháp không nói đến, nếu Phật biết là không thể làm cho tịch diệt thì đâu cần phải biết làm gì, nếu không biết thì không phải là người Nhất thiết trí, cả hai đều có sai lầm. Đáp: Ông nói vậy không đúng. Phật biết trước là pháp Vi-đà không thể làm cho tịch diệt thanh tịnh, vì vậy không nói đến cũng không tu hành pháp ấy. Hỏi: Nếu Phật biết pháp Vi-đà không có lợi ích cho nên nói là không tu tập thì đâu cần phải biết làm gì? Đáp: Người Đại trí cần phải biết rõ ràng đây là chính đạo-là tà đạo, muốn làm cho vô lượng chúng sinh vượt qua con đường hiểm ác mà đi trên con đường chân chính. Ví như người dẫn đường khéo léo phân biệt đường cong-đường thẳng; thật cũng như vậy, đã tự mình thoát ra được con đường hiểm ác của sinh già bệnh chết, lại cũng muốn làm cho chúng sinh thoát ra, cho nên khéo léo biết rõ tám Thánh đạo thẳng thắn, cũng biết rõ những pháp vi-đà là đạo lý hiểm ác sai lạc. Vì xa lìa ác đạo tà vạy mà thực hành đối với chính đạo, cho nên chỉ biết mà không nói đến. Giống như người nông dân vì thóc lúa hoa màu mà gieo trồng, đến mùa Thu chín vàng thu hoạch cũng có được rơm và lúa. Phật cũng như vậy, vì đạo vô thượng cho nên chịu khó thực hành tinh tiến đạt được quả vị Bồ đề, cũng biết những pháp Vi-đà và các ngoại đạo, vì vậy không có gì sai lầm. Như trước đây ông nói không có người nào có thể có đầy đủ sự nhận biết về bốn Vi-đà, vặn hỏi điều này không đúng. Người thế gian đều có khả năng nhớ nghó, có người một ngày có thể học thuộc năm bài kệ. Có người học thuộc một trăm bài kệ có người học thuộc hai trăm bài kệ. Nếu người nào một ngày không học thuộc mười bài kệ, thì cho rằng không có thể học thuộc trăm bài kệ hoặc hơn trăm bài kệ, điều này không phải là lời nói chân thật. Các ông không có thể biết hết, cho nên liền nói cũng không có người trí nào hết. Nếu người thấy một người không có thể vượt qua sông thì nói không có người nào có thể vượt qua sông. Người này không gọi là nói lời đúng đắn. Tại vì sao? Bởi vì tự nhiên có người nhiều sức lực khác có thể vượt qua, điều này cũng như vậy. Giả sử người khác không có thể biết hết, nhưng người Nhất thiết trí biết thì đâu có gì sai lầm? Lại nữa, Tiên nhân Tỳ-sa đều thuộc làu Vi-đà cũng phải trở thành Nhất thiết trí, nếu có người thuộc làu tất cả vi đà, thì sao nói là không có người Nhất thiết trí? Nếu ông nói có kinh sách thì có thể phát sinh tham dục-sân giận, nay tôi sẽ trả lời. Nếu ông muốn sống lâu thì nên lìa xa nhân duyên chết chóc. Phật cũng như vậy, muốn đoạn trừ tất cả tham dục-sân giận của chúng sinh, thì cần phải nhân duyên của tham dục-sân giận. Lại nữa, như ông đã nói, có thể biết kinh sách là phát sinh tham dục-sân giận thì có người tham dục-sân giận nhiều hơn, điều này là vô lý. Phật tuy biết là không cần dùng-không thực hành nhưng không có gì sai lầm. Như người biết nhân duyên của cái chết thì không chết, nếu gây ra nhân duyên của cái chết thì phải chết, điều này cũng như vậy. Nếu ông nói không biết sự việc vị lai cho nên không gọi là người Nhất thiết trí. Nay tôi sẽ trả lời. Điều này thì vặn hỏi không đúng. Chúng ta cũng biết có vặn hỏi về người Nhất thiết trí, như trong kinh nói: “Đức Phật bảo với các Tỳ-kheo: Phàm phu không có trí thì có ba tướng, đó là điều không nên suy nghó mà suy nghó, điều không nên nói ra mà nói ra, điều không nên làm mà cứ làm. Vì vậy đều đã nói tổng quát cho các ông. Phàm phu đời vị lai đều ở trong ba trường hợp đó, cho nên không cần phải phân biệt nói rõ về những danh tự của nó”. Nếu cho rằng Phật biết có vặn hỏi mà không trả lời trước thì cũng không cần đến điều này. Nay trong bốn chúng hiện tại cũng có người khéo léo đoạn hết nghi ngờ thắc mắc, nay cũng có người có thể phá bỏ mọi câu hỏi vặn vẹo, thì đâu cần phải trả lời trước. Như ông hôm nay đang thấy trong các Tỳ-kheo có người có thể phá tan Bà-la-môn, vì vậy không cần phải trả lời trước. Vả lại lúc trước cũng có trả lời, phân tán ở trong các kinh, người không có thể biết đầy đủ về Phật pháp, cho nên không biết nằm nơi nào. Nếu nói đến sự việc cho phép Điều-đạt xuất gia, thì nay tôi sẽ trả lời. Nói là cho phép Điều-đạt xuất gia thì không phải là người Nhất thiết trí, nói như vậy không đúng, bởi vì Điều-đạt xuất gia không phải là Phật hóa độ. Hỏi: Nếu người khác hóa độ thì Phật vì sao lại cho phép? Đáp: Thiện ác đều có thời gian, không nhất định xuất gia mà ác. Sau khi Điều-đạt xuất gia có các công đức trì giới, vì vậy xuất gia không có gì sai lầm. Lại nữa, Điều-đạt ở trong mười hai năm trì giới thanh tịnh, tụng sáu vạn tạng pháp. Quả báo này trong đời vị lai không trống rỗng mà chắc chắn là có lợi ích. Ông nói Điều-đạt bắn tên xô đá, nay tôi sẽ nói. Chư Phật thành tựu pháp không sát sanh, cho nên tất cả thế gian không có ai có thể đoạt mất mạng sống của Phật. Hỏi: nếu thành tựu pháp không sát sinh, thì tại sao đá bắn tung tóe mà đến làm tổn thương? Đáp: Phật ở đời trước gieo nghiệp hủy hoại thân thì quả báo nhất định phải nhận lấy, chỉ rõ nghiệp báo của chúng sinh không thể rời bỏ, cho nên hiện tại nhận chịu, vì vậy tự nhiên mà đến. Ông nói sự cố của cô Chiên-già, Phật không nói trước, thì nay tôi trả lời. Bởi vì cô Chiên- già cố ý gièm pha Phật, không thể nào hủy hoại được nhân duyên của người Nhất thiết trí. Nếu Phật nói trước là cô Chiên-già sẽ đến phỉ báng Ta, thì cô Chiên-già sẽ không đến. Lại nữa, bởi vì nhân duyên nghiệp tội phỉ báng người khác ở đời trước của Phật, nay nhất định phải nhận chịu. Ông nói vì sao Phật không ngăn chặn sự cố Tôn-đà-lợi đi vào tinh xá Kỳ-hoàn, nay tôi sẽ trả lời. Sự cố này không thể nào hủy hoại được nhân duyên của người Nhất thiết trí. Phật không có sức lực khiến cho tất cả chúng sinh đều làm người vui sướng. Vả lại, Chư Phật xa rời tất cả mọi điều tranh cãi, không tự đề cao mình, không chấp tướng trì giới, vì vậy cho nên không ngăn chặn. Lại nữa, bởi vì nghiệp đời trước của Phật đã chín muồi, nhất định phải nhận chịu phỉ báng suốt bảy ngày. Vả lại, chúng sinh thấy Phật nghe phỉ báng mà không buồn-được ca ngợi mà không vui, cho nên phát tâm đạo vô thượng, dấy lên lời nguyện như vậy: Chúng con cũng sẽ đạt được tâm thanh tịnh như vậy. Vì vậy không có gì sai lầm. Trước đây ông nói Phật đi vào thôn xóm Bà-la-môn khất thực mà ôm bát không đi xa thì không phải là người Nhất thiết trí. Nay tôi sẽ trả lời. Phật không vì cơm ăn mà trước tiên phải quán xét tâm người, đi vào thôn xóm rồi thì ma quân làm thay đổi ý niệm của họ. Hỏi: Sự việc này Phật nên biết trước, Ta đi vào thôn xóm thì ma quân sẽ làm thay đổi tâm người. Đáp: Phật cũng biết trước sự việc này, nhưng vì lợi ích to lớn của chúng sinh, Chư Phật không chỉ vì tiếp nhận thức ăn của người, mà còn làm lợi ích độ thoát cho chúng sinh, có người dùng tâm thanh tịnh chào đón, lễ lạy cung kính, chiêm ngưỡng dung nhan từ hòa. Đây đều là lợi ích to lớn chứ đâu phải vì ăn uống. Dùng đủ loại phương tiện làm lợi ích cho chúng sinh, chứ không phải đi vào thôn xón một cách trống rỗng. Ông nói Phật bị voi say đón đường, nay tôi sẽ trả lời. Phật tuy biết sự việc này, nhưng bởi vì nhân duyên cho nên đi đến để voi say này chắc chắn sẽ được hóa độ. Vả lại, có thể ngăn được nghiệp tội làm hại Phật của nó. Lại nữa, con voi này thân như núi đen, mọi người thấy như núi đen, mọi người thấy nó cúi đầu lạy Phật đều khởi tâm cung kính. Vì nhân duyên này cho nên Phật cố ý đi đến chỗ nó. Lại nữa, Phật đi đến chỗ con voi này không có gì sai lầm, nếu có sự cố xấu xảy ra thì có thể vặn hỏi về Tùy-lan-nhã, là nhận chịu quả báo của nghiệp đời trước như vậy. Ông nói nhận Tu-niết-xoa-đa-la làm đệ tử, thì nay tôi sẽ nói. Thân miệng ý và mạng sống của Phật không cần phải bảo vệ, không có gì sợ hãi cho nên đồng ý nhận làm đệ tử. Lại nữa, người này luôn luôn gần gũi Phật cho nên được thấy các loại thần lực to lớn, thấy chư Thiên-long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la…, và các vị vua đến cúng dường Phật, thưa hỏi đủ loại về pháp quan trọng rất sâu xa, tâm được thanh tịnh. Nhờ tâm thanh tịnh cho nên cảm được nhân duyên lợi ích. Vì vậy tuy là người ác nhưng Phật đồng ý nhận làm đệ tử. Hỏi: Người này phát sinh nhiều tâm ác đối với Phật, vì vậy không nên nhận làm đệ tử mới phải. Đáp: Nếu không nhận làm đệ tử thì người này cũng phát sinh tâm ác, vì vậy nhận làm đệ tử nào có gì sai lầm? Ông nói trước lúc chưa gây ra tội lỗi tại sao không chế giới? Nay tôi sẽ trả lời. Trước khi Phật kiết giới, thuyết về tám Thánh đạo là chính kiến-chính tư duy- chính ngữ-chính nghiệp-chính mạng-chính tinh tiến-chính niệm và chính định, nói đây là con đường đến Niết bàn, đã nói đủ tất cả các giới trong đó. Lại nữa, Phật thuyết về ba Học, đó là khéo học về Giới, khéo học về Tâm, khéo học về Tuệ, nên biết là đã nói đầy đủ tất cả các giới. Lại nữa, Phật bảo với các Tỳ-kheo: Tất cả điều ác nhất định không nên làm; đây không phải là kiết giới trước hay sao? Lại nữa, Phật thuyết về mười thiện đạo, là xa rời sát sinh-trộm cắp-dâm dục-nói hai lưỡi-nói thô ác-nói dối-nói thêu dệt-tham danh-sân giận và tà kiến, không phải là kiết giới trước hay sao? Trong mười hai năm trước tiên, Phật thuyết một bài kệ làm pháp Bồ tát, đó là: Đừng làm tất cả những điều ác, hãy làm tất cả các điều thiện, tự giữ gìn tâm ý thanh tịnh, đó là lời Chư Phật dạy bảo. Vì vậy cho nên biết rằng trước tiên đã kiết giới rồi. Lại nữa, Phật thuyết về những nhân duyên ác nhỏ bé cũng cần phải rời xa. Như nói: Xa lìa những ác hành của thân, Xa lìa những ác hành của miệng, Xa lìa những ác hành của ý, Những ác hành khác đều xa lìa. Nói như vậy thì nên biết rằng trước tiên đã kiết giới rồi. Lại nữa, trước đó Phật đã thuyết về các pháp giữ gìn. Như nói: Giữ gìn thân là tốt lành thay, Luôn giữ gìn miệng cũng tốt lành, Giữ gìn ý là tốt lành thay, Giữ gìn tất cả cũng tốt lành. Tỳ-kheo luôn giữ gìn tất cả, Được xa lìa mọi nỗi khổ đau. Nói như vậy thì nên biết rằng trước tiên đã kiết giới rồi. Lại nữa, trước đó Phật đã thuyết về tướng thiện. Như nói: Tay chân đừng vi phạm bừa bãi, Ít nói và cẩn thận hành vi, Nên vui với ý giữ theo Định, Đó gọi là thực sự Tỳ-kheo. Nói như vậy thì nên biết rằng trước tiên đã kiết giới rồi. Lại nữa, nói về pháp của Sa-môn, nên biết rằng trước tiên đã kiết giới rồi. Sa môn có bốn pháp: Đối với sân giận không trả thù. Đối với mắng nhiếc không nói gì. Roi gậy đánh đập có thể chấp nhận. Người làm hại mà vẫn nhẫn nhịn bình thường. Lại nữa, Phật thuyết về bốn Niệm xứ là quán thân-quán thọ-quán tâm và quán pháp, vốn là trú xứ của đạo của Niết bàn. Nên biết rằng trước tiên đã kiết giới rồi. Nếu là điều ác bé nhỏ thì hãy còn không chấp nhận, huống hồ ác nghiệp của thân miệng hay sao? Những nhân duyên như vậy, nên biết rằng trước tiên đã kiết giới rồi. Như vị vua thiết lập pháp tắc, không cho phép làm điều ác, sau đó có người vi phạm thì tùy theo sự việc nặng nhẹ mà xử, gây ra tội lỗi như vậy thì phải trừng trị như vậy. Phật cũng như vậy, trước tiên nói tổng quát về giới, sau này có người vi phạm thì nói về tướng của tội ấy, như có người làm điều ác thì dạy cho họ cách sám hối, gây ra tội lỗi như vậy thì nên sám hối như vậy, không được xua đuôi-gạt bỏ hoặc không cư trú với nhau… Sự việc như vậy đã xảy ra, sau mới kiết giới.  <卷>QUYỂN 11 <詞>Phẩm 22: HỎI VẶN VỀ NGƯỜI NHẤT THIẾT TRÍ TRONG BỐN MƯƠI PHÁP BẤT CỘNG, Phần 2 Ông nói tuổi già-dòng dõi quý tộc… xuất gia thì phải làm Thượng tọa, nay tôi sẽ trả lời. Trong đạo pháp thì tuổi già hay dòng dõi quý tộc… xuất gia thì đối với đạo không ích lợi gì. Tại vì sao? Bởi vì sinh trong Phật pháp mới gọi là sinh trong gia đình tốt đẹp dòng dõi cao quý. Từ khi thọ Đại giới tính theo số năm ấy mới gọi là lớn tuổi. Ông nói người lớn tuổi phải được cúng dường, thì xuất gia thọ giới trước không phải là lớn hay sao? Vả lại, từ khi thọ giới trở về sau không còn có những dòng họ nào sai biệt; các Tỳ-kheo thọ Đại giới, gọi là sinh ở trong nhà Phật, vậy thì mất đi tên gọi-dòng họ lớn nhỏ trước đây, đều là người một nhà. Ông nói về trì giới, xuất gia trì giới trước trải qua ngày tháng lâu dài hộ trì, nhiều năm tháng cho nên làm hàng thượng tọa, như trong kiết giới đã nói. Ông nói người trì giới không nên lễ lạy người phá giới, nay tôi sẽ trả lời. Người phá giới hãy còn không cho phép ở chung huống là lễ lạy cúng dường ư? Bởi vì họ tự nói mình là Tỳ-kheo, tùy theo lớn nhỏ để mà làm lễ với nhau, giống như lễ lạy cảnh tượng trời đất-gỗ đá, vốn nghó là Thiên chân mà thôi. Phật dạy người tuổi nhỏ nên lễ lạy hàng Thượng tọa, thuận theo lời Phật dạy mà thực hành thì cảm được phước. Ông nói bởi vì hành hạnh đầu đà cho nên phải lễ lạy cung kính, nay sẽ trả lời. Nếu người hành hạnh đầu đà thì có năm loại vốn khó mà phân biệt được: Ngu si không biết gì mà tham lam thọ pháp khó thực hành. Căn tính chậm chạp mà hy vọng được lợi ích. Ý niệm xấu xa lừa dối mọi người. Cuồng loạn. Phát khởi ý niệm. Pháp hành đầu đà được Chư Phật-Hiền Thánh cùng khen ngợi, bởi vì pháp đầu đà tùy thuận với đạo Niết bàn. Năm loại người này thực hành theo pháp đầu đà, khó có thể phân biệt được. Tại vì sao? Bởi vì có người thích đạo cho nên nghe nhiều có người vì lợi dưỡng cho nên nghe nhiều. Nhiều loại như vậy cũng khó mà phân biệt được. Vả lại, Phật pháp quý trọng thực hành đúng như giáo pháp, chứ không coi trọng đọc nhiều-học nhiều. Lại như Phật dạy thực hành đúng một câu pháp có thể tự lợi ích cho mình mới gọi là nghe nhiều. Trí tuệ cũng như vậy, nếu không có thể thực hành như pháp đã nói thì đâu cần đến trí tuệ làm gì? Vì vậy không lấy trí tuệ mà nói là hàng Thượng tọa. Ví như quan hệ hiện tại giữa thế gian, người em tuy nghe nhiều-trí nhiều mà người anh không lễ lạy người em. Vì vậy không lấy trí tuệ làm đầu tiên để thọ nhận sự cúng dường lễ lạy. Như vậy tuy đa văn trí tuệ nhưng phải lễ lạy người thọ giới trước. Nếu cúng dường người đa văn trí tuệ trước thì làm cho tranh chấp rối loạn. Ngoài ra, người đắc quả Sa-môn, đoạn trừ kiết sử, đạt được thần thông, thật là khó biết người này đắc quả hay là không đắc quả, người này đoạn nhiều kiết sử hay là đoạn ít kiết sử, người này đạt được thần thông hay là không đạt được thần thông? Không thể nào dựa theo điều này mà làm Thượng tọa được. Nếu cùng đạt được đạo quả-đoạn trừ kiết sử-có được thần thông thì ai là Thượng tọa? Vì vậy thuận theo lời Phật dạy mà thực hành là cách tốt nhất. Ông nói Phật sinh tâm nghi ngờ đối với pháp thuyết ra, nay sẽ trả lời. Phật đối với pháp sâu xa còn không có gì nghi ngờ, huống là trong pháp nên nói hay không nên nói mà có nghi ngờ hay sao? Phật không nói là Ta hoàn toàn không thuyết pháp, chỉ nói là tâm vui với sự vắng lặng không ham theo nhiều việc, sau đó ở trong pháp thuyết giảng không có gì sai lầm. Lại nữa, các ngoại đạo nói: Phật là bậc Đại Thánh vắng lặng, hoàn toàn không hý luận, đâu cần phải nuôi chúng mà giáo hóa làm gì? Giả sử có giáo hóa thì cũng không hết được, tựa như phân biệt đâu cần phải thuyết pháp, nuôi dưỡng đệ tử là tướng tham đắm vướng mắc. Vì vậy Phật sự tư duy: Pháp của Ta rất sâu xa, vô lượng vô biên phương tiện-trí tuệ, mà người đáng độ thì rất ít. Vì vậy tự nói rằng không bằng im lặng. Vả lại, phòng ngừa sự gièm pha bài báng của ngoại đạo, cho nên khiến Phạm thiên vương thỉnh cầu thuyết pháp. Ngay lúc ấy Phạm Thiên Vương cùng chư Thiên thưa với Phật rằng: Chúng sinh đáng thương, trong đó có người căn tính nhanh nhạy-kiết sử giảm nhiều dễ dàng hóa độ được. Vì vậy nhận lời thỉnh cầu của các Phạm Thiên vương, như người có được kho báu to lớn cần phải chỉ cho người khác biết. Như vậy các bậc Thánh tự có được lợi ích cũng cần phải làm lợi ích cho người. Như ông đã nói Phật không biết A-la-ca-lan… đã mạng chung trước đó mà muốn thuyết pháp cho họ, nay sẽ trả lời. Phật không nghó rằng họ chết hay không chết, mà chỉ nghó đến những người này kiết sử giảm đi rất nhiều có thể tiếp nhận sự hóa độ nhanh chóng, thuận theo những niệm thì có trí phát sinh. Vì vậy trước tiên Phật tự nói với mình, sau đó Thiên thần thưa rõ lý lẽ, cho nên hoàn toàn thích hợp. Vả lại, trước đây Phật xuất gia, đến chỗ hai người này và đã dừng lại qua đêm, như Thiên và dân chúng có thể nghi ngờ là Phật tiếp nhận diệu pháp của họ đến nơi khác mà đắc đạo. Phật muốn đoạn hết sự nghi ngờ ấy, lập tức nói rõ ràng là người ấy già yếu như vậy, diệu pháp như thế nào thì họ chưa nghe thấy. Suy ra từ nghĩa lý như vậy, sự việc năm Tỳ-kheo lại cũng có thể biết được. Phật chỉ nghó đến nhân duyên đáng độ của họ, chứ không nghó đến họ cư trú nơi nào. Sau đó nghó đến trú xứ thì biết được rõ ràng. Vì vậy không cần phải phá bỏ về người Nhất thiết trí. Ông nói là nghi ngờ về sự việc sụp đổ của thành Ba-liên-phất, nay sẽ trả lời. Nhân duyên sụp đổ của thành này không rõ ràng, nhân duyên không rõ ràng mà nói cả quyết, thì đó chính là sai lầm. Vả lại, trước đây tôi nói trong bốn mươi pháp Bất cộng, Chư Phật khéo biết rõ về Bất định, trả lời thì không thích hợp với câu hỏi vặn này. Ông nói Phật hỏi, các Tỳ-kheo: Các ông tập trung lại để nói về điều gì? Nay sẽ trả lời. Phật sắp muốn thuyết giảng về pháp môn tu tập, cho nên hỏi như vậy: Hoặc là muốn kiết giới, cho nên hỏi để họ tự trình bày. Đủ cách thuyết pháp như vậy, cho nên hỏi mà không sai lầm gì. Thế gian cũng có lúc biết mà vẫn hỏi, như thế người ta đang ăn mà hỏi rằng: Ăn cơm ư? Như lúc trời lạnh mà hỏi rằng: Lạnh lẽo chăng? Phật cũng như vậy, biết mà vẫn hỏi thuận theo bình thường chứ không sai lầm gì. Ông nói khen mình chê người không phải là người Nhất thiết trí, nay sẽ trả lời. Phật không tham bản thân, không tham cúng dường, không giận người khác, không tăng thượng mạn. Vì lẽ đó tự nói Ta là người bậc nhất ở thế gian. Có chúng sinh tin tưởng, các căn nhanh nhạy mạnh mẽ rời bỏ ác tri thức, lấy Ta làm thầy, thì người này luôn luôn sẽ được yên ổn. Vì vậy Phật tự khen ngợi chính mình. Lại nữa, có người cầu đạo an vui bậc nhất, mà có tâm lý lười nhác không thể nào tinh tiến, cho nên Phật nói có được lợi ích vô thượng thì không nên lười nhác, Ta là người dẫn đường bậc nhất cho thế gian khéo nói rõ chính pháp, nên chịu khó tinh tiến thì có thể chứng được đạo quả. Những nhân duyên tự khen ngợi bản thân như vậy, không phải là tự coi trọng mình mà khinh rẻ người khác. Trách mắng người ác là muốn làm cho họ trừ diệt những pháp ác, chứ không phải là giận ghét gì chúng sinh. Có người mong cầu lợi ích đúng như pháp, tâm họ chất trực thanh tịnh, mà hòa hợp với ác tri thức, vì muốn làm cho họ xa rời điều này, do đó phải trách mắng thức tỉnh họ. Lúc chưa thành tựu quả vị Phật, hãy còn dùng tủy não Bố thí cho người, huống gì thành Phật mà lại trách mắng sao đành? Ông nói Phật pháp trước-sau trái ngược nhau, nay sẽ trả lời. Trong Phật pháp không có điều gì trước-sau trái ngược nhau, các ông không biết nghĩa lý của Phật pháp mà vội cho là trái ngược nhau. Đạo lý Niết bàn này, từ thời Phật Ca diếp độ đến nay, không còn người nào nói, cũng không có người đạt được. Vì vậy Phật nói Ta mới đắc đạo. Nơi khác Phật lại nói Ta đắc đạo vốn có. Đạo này là do Chư Phật quá khứ như Phật Định Quang đã chứng được, đó gọi là tám Thánh đạo có năng lực đưa đến Niết bàn. Vốn vó một đạo-một nhân duyên cho nên gọi là đạo vốn có. Vì vậy cho nên biết rằng Phật thành tựu Nhất thiết trí. Hỏi: Đã nói về người Nhất thiết trí, thế nào gọi là Nhất thiết trí? Vì biết tất cả cho nên gọi là Nhất thiết trí chăng? Đáp: Nhất thiết trí là biết cái đáng biết, cái đáng biết là năm tạng pháp, được sử dụng Quá khứ-vị lai-hiện tại ra khỏi ba đời và không thể diễn tả biết năm tạng pháp này thì gọi là biết. Vì vậy biết và cái biết được gọi là tất cả (Nhất thiết). Hỏi: Biết cái đáng biết thì gọi là tất cả, điều này không đúng. Tại vì sao? Bởi vì pháp này chỉ là một, cái đáng biết và biết cũng là cái đáng biết, như thế gian nói người này biết sắc sảo, người này biết vụng về. Đáp: Nếu tất cả là một thì nóng lạnh trái ngược nhau đều phải là một, các sự việc trái ngược nhau như sáng-tối, khổ-vui cũng phải là một, nhưng điều này không phải như vậy, do đó không có thể nói rằng tất cả đều là một. Hỏi: Cái chấp của ông cũng giống như lỗi này, nếu cái có thể biết là một, thì khổ vui… cũng phải là một, nhưng thật ra thì không phải là một. Đáp: Tôi không nói tất cả những cái có thể biết là một, ông đã chấp tất cả đều là một, vì vậy không giống với lỗi của ông. Lại nữa, ông nói cùng có lỗi như nhau, tự ông có lỗi trong cái chấp của mình; nếu người tự nhận lỗi trong cái chấp của mình thì rơi vào phần thua, ông biết cái chấp của mình có lỗi, thì không nên nói thêm về lỗi của người khác. Vì vậy ông nói cùng có sai lầm, thì điều này không đúng. Vả lại, nếu cho rằng hai pháp là biết và đáng biết chỉ là một, thì nên dùng pháp đáng biết để biết các vật như cái bình-chiếc áo…, mà thật ra thì dùng cái biết để nhận biết tất cả mọi vật. Nếu cho rằng cái bình-chiếc áo… đối với cái biết không có gì khác nhau, thì cái bình-chiếc áo… không có thể nhận biết được vật khác, tức là pảhi có khác nhau mà thật sự là dùng cái biết để biết tất cả mọi vật. Như vậy khắp nơi đều có lội cho nên không có thể nói tất cả đều là một. Lại nữa, biết và cái biết là hai tên gọi cho tất cả cái biết, vốn là tất cả các pháp. Gọi danh xưng của Như Lai là Nhất thiết trí, là người Nhất thiết trí nhờ Kim cang Tam muội, cho nên Kim cang Tam muội thành tựu. Trước đây ông nói Kim cang Tam muội không thành tựu thì Nhất thiết trí không thành tựu, điều này không đúng. --------------------------- <詞>Phẩm 23: KHÉO BIẾT BẤT ĐỊNH TRONG BỐN MƯƠI PHÁP BẤT CỘNG Khéo biết về pháp bất định, là các pháp chưa phát sinh, chưa xuất hiện, chưa thành tựu, chưa xác định, chưa phân biệt. Trong các pháp này trí tuệ của Như Lai có năng lực biết được. Như trong kinh Phật Phân Biệt Nghiệp nói: “Đức Phật bảo với A-nan: Có người thân thực hành thiện nghiệp, miệng thực hành thiện nghiệp, ý thực hành thiện nghiệp, người này mạng chung lại rơi vào địa ngục. Có người thân làm ác nghiệp, miệng làm ác nghiệp, ý làm ác nghiệp người này mạng chung lại sinh lên cõi trời. A-nan thưa với Đức Phật: Tại sao như vậy? Đức Phật nói: Người này hoặc là nhân duyên tội phước của đời trước đã thành thục, mà nhân duyên tội phước của đời này chưa thành thục, hoặc là lúc sắp mạng chung sinh tâm chính kiến-tà kiến hay thiện ác, tâm lúc sắp mạng chung có sức mạnh to lớn”. Còn trong kinh Thủ Ca nói: “Con của Bà-la-môn Thúc Ca thưa với Đức Phật: Thưa Đức Cù-đàm! Các Bà-la-môn bạch y tại gia, có năng lực phước đức thiện căn hơn hẳng người xuất gia, việc này thế nào? Đức Phật nói: Ta đối với điều này thì trả lời bất định, xuất gia nếu có người không tu thiện thì không bằng tại gia, tại gia có năng lực tu thiện thì hơn hẳn xuất gia.” Còn trong kinh Đại Niết bàn nói: “Thành trì Ba-liên-phất sẽ sụp đổ vì ba sự cố, hoặc lửa cháy-hoặc nước tràn, hoặc người trong âm mưu với người ngoài.” Còn vì phạm chí ba-lê-mạt, Đức Phật nói rằng: “Phạm chí Ba- lê-mạt lõa hình này, nếu không từ bỏ lời nói này, hoặc tâm này, hoặc tà kiến này mà đến trước mặt Ta thì điều ấy không hề có. Nếu cắt đứt dây da, hoặc đoạn thân mạng, thì cuối cùng không đến được trước mặt Phật.” Còn trong kinh Phiệt Dụ nói: “Pháp rất sâu xa này của Ta, dùng phương tiện giảng giải làm cho đơn giản dễ hiểu, nếu người có tâm chất trực đúng như giáo hóa mà thực hành thì có được hai lợi ích, hoặc đời này không còn phiền não, hoặc phiền não không thể hết sạch nhưng sẽ đạt được đạo quả Bất hoàn”. Còn trong kinh Xá Ca Lê Tăng Nhất A-hàm nói: “Đức Phật bảo với A-nan: Nếu người cố ý khởi nghiệp, thì không có ai không nhận chịu quả báo mà đắc đạo, quả báo hoặc là hiện tại nhận chịu hoặc đời sau nhận chịu, hoặc đời sau nữa sẽ nhận chịu.” Còn trong Kim Phù La-Tăng Nhất A Hàm nói: “Đức Phật bảo với các Tỳ-kheo: Những người ác chết đi hoặc làm súc sinh, hoặc đọa địa ngục, người thiện sinh ra ở cõi trời hoặc là cõi người.” Còn trong kinh Vô Úy Vương Tử nói: “Vô Úy thưa với Đức Phật: Đức Phật có nói điều gì có thể làm cho người khác tức giận hay không? Đức Phật nói: Này vương tử! Điều này là bất định, Phật hoặc vì tâm thương xót, mà làm cho người khác tức giận để có thể gieo nhân duyên tốt lành, như mẹ vú dùng ngón tay móc lấy vật xấu ác trong miệng đứa bé ra, tuy làm xây xát mà không có tai họa gì.” Còn trong A Tỳ Đàm nói: “Chúng sinh có ba loại, từ chủng loại Bất định có lúc rơi vào chủng loại Tà định, có lúc rơi vào chủng loại chính định. Sự việc không nhất định trong bốn tạng pháp đều như vậy, kể ra ngàn vạn loại.” Hỏi: Nếu người trí tuệ bất định mà không có tâm quyết định, đối với sự việc hoặc là như vậy-hoặc không như vậy, thì không gọi là người Nhất thiết trí. Người Nhất thiết trí là người nói lời không khác nhau, nói lời quyết định, nói lời rõ ràng. Vì vậy khéo bất định, không có thể gọi là pháp Bất cộng của Phật. Đáp: Sự việc bất định, hoặc như vậy-hoặc không như vậy, vốn là tùy thuộc vào nhiều nhân duyên, trong sự việc này không nên nói chắc chắn. Vả lại, nếu sự việc bất định mà trả lời một cách chắc chắn thì không gọi là người Nhất thiết trí. Vì vậy ở trong sự việc bất định thì chắc chắn phải dùng trí bất định, cho nên có pháp Bất cộng là trí Bất định. Lại nữa, nếu người đối với tất cả các pháp mà cho rằng quyết định biết hết, thì người này chắc chắc rơi vào trong tà luận. nếu tất cả các pháp là chắc chắn, thì tất cả mọi việc làm sẽ không cần đến công sức con người và phương tiện mà vẫn có được. Như nói: Nếu như tốt-xấu đã quyết định, Thì công người cần phải quyết định, Không cần sử dụng những nhân duyên, Mà tu tập không cần phương tiện. Lại nữa, hiện tại thấy người không tự giữ gìn thân mình thì gặp nhiều đau khổ, nếu tự phòng hộ thân mình thì được an ổn lợi ích. Lại như trong các loại việc làm, phải chịu những nỗi vất vả mệt nhọc, sau mới có được các loại quả báo giàu có vui sướng. Hoặc lại có người trong đời này lặng lẽ cũng không làm điều gì, mà lại có được quả báo. Vì vậy có sự việc bất định này, bởi vì biết sự việc bất định này, cho nên biết là có trí bất định. Hỏi: Ông giữ gìn hay không giữ gìn, thực hiện công việc hay không thực hiện công việc, mà cũng có sự việc bất định thành tựu, có người có thể tự phòng hộ mình mà gặp phải chịu khổ não, có người không thể tự phòng hộ mình nhưng không gặp điều gì khỗ não; lại có người chịu khó tự mình vất vả cực khổ mà không được kết quả bù công sức, có người không chịu khó thực hiện công việc nhưng lại có được kết quả công lao, điều này bất định hay sao? Đáp: Ông đã nói thì trở thành nghĩa bất định của tôi, nếu có sự việc bất định thì phải có trí bất định, tôi không nói là nếu người không tự phòng hộ mình thì đều nhận chịu khổ não, cũng không nói lìa xa công việc mà có quả báo. Có người tuy làm công việc nhưng vì tội chướng của đời trước cho nên không được nhận quả vui sướng, chứ không nói tất cả đều như vậy. Vì thế ông vặn hỏi không đúng. Đây gọi là Chư Phật ở trong sự việc bất định thì tự nhiên có đầy đủ trí bất định. Biết về cõi vô sắc, thì hàng Thanh văn và Bích-chi-Phật, biết phần ít về pháp và chúng sinh vào cõi Vô sắc, Chư Phật Thế tôn đối với pháp và chúng sinh cõi Vô sắc thì đều biết đầy đủ. Cõi Vô sắc này có bao nhiêu chúng sinh, sinh đến nơi này? Bao nhiêu chúng sinh, sinh đến nơi kia? Bao nhiêu chúng sinh, sinh đến xứ vô sắc định thứ nhất? Bao nhiêu chúng sinh, sinh đến xứ thứ hai? Bao nhiêu chúng sinh, sinh đến xứ thứ ha? Bao nhiêu chúng sinh, sinh đến xứ thứ tư? Bao nhiêu chúng sinh, sinh đến đây với thời gian như vậy? Bao nhiêu chúng sinh trải qua với thời gian như vậy rồi sẽ lui sụt? Bao nhiêu chúng sinh sống đến cuối cùng với thời gian như vậy? Bao nhiêu chúng sinh có thọ mạng chắc chắn đến cùng? Bao nhiêu chúng sinh có thọ mạng không chắc chắn đến cùng? Bao nhiêu chúng sinh từ cõi Dục mạng chúng sinh đến trong cõi này? Bao nhiêu chúng sinh từ cõi Sắc mạng chung sinh đến trong cõi này? Bao nhiêu chúng sinh từ cõi Vô sắc mạng chung trở lại sinh trong cõi này? Bao nhiêu chúng sinh trong cõi người mạng chung liền sinh đến cõi này? Bao nhiêu chúng sinh trong cõi trời mạng chung liền sinh đến cõi này? Những chúng sinh này mạng chung ở nơi này, hoặc sinh vào cõi Dục, hoặc sinh vào cõi Sắc, hoặc sinh vào cõi Vô sắc. Những chúng sinh này mạng chung trong cõi này, hoặc sinh vào loài trời, hoặc sinh vào loài người, hoặc sinh vào loài A-tu-la, hoặc sinh vào trong loài địa ngục-ngạ quỷ-súc sinh. Những chúng sinh này ở nơi ấy nhập Niết bàn. Bao nhiêu chúng sinh đều là phàm phu? Bao nhiêu chúng sinh là đệ tử Hiền Thánh-Phật? Bao nhiêu chúng sinh là đệ tử phàm phu? Bao nhiêu chúng sinh thành tựu Thanh văn thừa? Bao nhiêu chúng sinh thành tựu Bích-chi-Phật thừa? Bao nhiêu chúng sinh đều thành tựu Đại thừa? Bao nhiêu chúng sinh không thành tựu Thanh văn thừa? Bao nhiêu chúng sinh không thành tựu Bích-chi-Phật thừa? Bao nhiêu chúng sinh không thành tựu Đại thừa? Bao nhiêu chúng sinh là người hành diệt? Bao nhiêu chúng sinh là người không hành diệt? Bao nhiêu chúng sinh là hành bậc thượng? Bao nhiêu chúng sinh là đệ tử là của Đức Phật ấy? Chư Phật còn biết định này cảm thọ ý vị, định này không cảm thọ ý vị, là thiện-là vô ký, trong định này đoạn trừ bao nhiêu kiết sử, định này là bậc thượng-trung-hạ? Nói tóm lại là các định Vô sắc, chỉ có Chư Phật dùng nhất thiết chủng trí đều có năng lực phân biệt rõ ràng về lớn-nhỏ, sâu-cạn, tâm tương ưng-tâm bất tương ưng, quả báo và không phải quả báo… Đó gọi là Chư Phật biết rõ tất cả và thông đạt về cõi Vô sắc định. Diệt pháp là các Bích-chi-Phật, các A-la-hán quá khứ và hiện tại đã diệt độ, Chư Phật thông đạt như trong kinh nói: “Các Tỳ-kheo! Chín mươi mốt kiếp trước Hiền kiếp này, Phật Tỳ Bà Thi Xuất thế, đến kiếp ba mươi mốt có hai vị Phật xuất thế, một vị danh hiệu là Thi Khí, một vị danh hiệu là Tỳ Thức Bà. Trong Hiền kiếp này có Phật Câu Lưu Tôn, Câu Na Hàm Mâu Ni và Phật Ca diếp xuất thế. Chư Phật quá khứ với tri kiến vó đại như vậy, thảy đều biết rõ.” Trong kinh này cũng nói: “Và các đệ tử Thanh văn diệt độ nhập Niết bàn vô sư, cùng các Bích-chi-Phật, hiệu là Thành, hiệu là Hoa Tướng, hiệu là Kiến pháp, hiệu là Pháp khiếp, hiệu là Hỷ Kiến, hiệu là Vô cấu, hiệu là Vô Đắc. Các vị Bích-chi-Phật như vậy nhập Niết bàn Vô dư, Phật đều thông đạt tất cả.” Lại nữa, những người chưa diệt độ đang còn Niết bàn Hữu dư, sinh duyên đã hết mà thông đạt việc này, cũng gọi là thông đạt biết rõ về diệt. Như kinh nói: “Đức Phật bảo với A-nan: Ta đối với người này biết rõ không có chút gì mờ tối, người này cuối cùng chắc chắn đều là Nội pháp, người này mạng chung sẽ nhập Niết bàn, cũng gọi là biết rõ về diệt”. Còn đối với người khác thông đạt về bốn Đế có năng lực biết rõ sự việc ấy, cũng gọi là biết về diệt. Như kinh nói: “Sao ta không phương tiện làm cho người này được lậu tận giải thoát ngay tại nơi này? “Như Đức Phật bảo với A-nan: Ông thích thiền định, thích đoạn trừ kiết sử, cũng gọi là thông đạt biết rõ về diệt. Như Đức Phật bảo với Xá-lợi- phất: Ta biết Niết bàn, biết con đường đến Niết bàn, biết chúng sinh đến Niết bàn. Các kinh đều như vậy, trong này nên nói: Đó gọi là Chư Phật thông đạt biết rõ về diệt. Khéo biết về tâm bất tương ưng không phải là sắc pháp, giới-thiện căn-sử-thiện luật nghi-bất thiện luật nghi đều là những tâm bất tương ưng chứ không phải là sắc pháp. Thanh văn và Bích-chi-Phật không có năng lực thông đạt, Chư Phật khéo léo có năng lực thông đạt như hiện rõ trước mắt, bởi vì đối với tâm bất tương ưng trong các pháp, thành tựu được sức mạnh trí tuệ bậc nhất. Hỏi: Giới-thiện luật nghi và bất thiện luật nghi là sắc pháp, vì sao nói không phải là sắc pháp? Đáp: Giới-thiện luật nghi và bất thiện luật nghi có hai loại: Có tác và có vô tác. Tác là sắc, vô tác chẳng phải là sắc. Vô tác chẳng phải là sắc, cho nên Phật dùng khả năng bất cộng mà hiện rõ trước mắt có năng lực biết được, người khác dùng trí so sánh mới biết được. Hỏi: Chư Phật chỉ khéo biết về tâm bất tương ưng không phải là sắc pháp, chứ không khéo biết về pháp tương ưng hay sao? Đáp: Nếu thông đạt về pháp bất tương ưng, thì pháp tương ưng không có gì bàn luận nữa. Như người có năng lực bắn trúng sợi lông nhỏ bé, thì vật to hơn không bàn đến làm gì. Lại nữa, trong bảy trăm pháp bất tương ưng, hàng Thanh văn và Bích-chi-Phật dùng Thức thứ sáu có thể biết được bảy pháp: Danh. Tướng. nghĩa. Vô thường. Sinh. Bất sinh. Độ. Chư Phật dùng Thức thứ sáu thì có năng lực biết rõ tất cả. Chư Phật biết tướng của bốn Đế và biết các pháp thế tục, vì vậy nói là Chư Phật khéo biết về tâm bất tương ưng và Vô sắc pháp. Thế lực của Ba- la-mật, là ở trong tất cả các pháp đã biết không còn sót gì, đạt được thế lực của Nhất thiết chủng trí và mười lực bốn vô sở úy-bốn xứ công đức hỗ trợ mà thành tựu, cũng khéo đạt được mười lực, cho nên Phật có năng lực thành tựu được thế lực của Ba-la-mật. Thế lực này được tăng thêm từ trong tâm thứ mười sáu, Nhất thiết trí thường ở trong thân Phật, cho đến Niết bàn Vô dư. Nhờ vào những điều này mà ở trong tất cả các pháp đạt được trí vô ngại. Trí vô ngại Ba-la-mật, là gồm pháp-nghĩa- từ và lạc thuyết vô ngại, đối với bốn pháp này có vô lượng thế lực mà thông đạt vô ngại. Như trong kinh nói: “Đức Phật bảo với các Tỳ-kheo: Bốn đệ tử của Như Lai thành tựu Niệm lực-Trí tuệ lực-Kham thọ lực bậc nhất, như người có sở trường bắn tên mà bắn lá cây thì trúng đích không khó khác gì, các đệ tử này dùng bốn Niệm xứ để vấn nạn, Ta thường không nghỉ ngơi, trừ ra khi ăn uống-vệ sinh và ngủ nghỉ, ở trong trăm năm Như Lai thường trả lời, lạc thuyết trí tuệ không có gì cùng tận”. Phật ở trong này dùng tướng thiểu dục tự luận bàn về trí tuệ, nếu tất cả Tứ thiên hạ trong ba ngàn Đại thiên thế giới chứa đầy bụi nhỏ trong ấy, tùy theo số bụi nhỏ như thế làm thành ba ngàn Đại thiên thế giới như số bụi nhỏ, trong đó chứa đầy chúng sinh đều như Xá-lợi-phất, như Bích-chi-Phật, thảy đều thành tựu lạc thuyết trí tuệ, có thọ mạng trải qua Đại kiếp như số bụi nhỏ nói trên, tất cả những người này dựa vào bốn Niệm xứ cho đến tận cùng thọ mạng để vấn vạn Như Lai, Như Lai vẫn dùng nghĩa của bốn Niệm xứ trả lời những câu hỏi của họ, nhưng ngôn từ và ý nghĩa không trùng lặp với năng lực lạc thuyết vô tận. Pháp vô ngại, là có năng lực khéo léo phân biệt thông suốt vô ngại đối với tên gọi của các pháp. nghĩa vô ngại, là thông đạt vô ngại đối với nghĩa lý của các pháp. Từ vô ngại, là tùy chủng loại chúng sinh mà dùng các ngôn từ khiến cho họ hiểu được nghĩa lý thông suốt vô ngại. Lạc thuyết vô ngại, là lúc hỏi-đáp khéo léo vận dụng để thuyết pháp không có cùng tận. Các Thánh Hiền khác không có thể suy xét tận cùng được, chỉ có Chư Phật mới có năng lực tận cùng giới hạn của các pháp. Vì vậy gọi là trí vô ngại Ba-la-mật. Đáp đầy đủ Ba-la-mật, là trong tất cả các vấn nạn, Phật có năng lực khéo léo trả lời đầy đủ. Tại vì sao? Bởi vì ở trong bốn loại hỏi-đáp không có gì sai sót rối loạn, vốn khéo léo biết rõ nghĩa lý, nghĩa Ba-la- mật đầy đủ không hư hoại, biết rất rõ niềm vui và ham muốn mà tính của tất cả chúng sinh thường làm và thường thích. Như Xá-lợi-phất thưa với Đức Phật rằng: “Thưa Đức Thế Tôn! Phật thuyết những thiện pháp cho mọi người, mà trong đó có nhiều chúng sinh được chứng ngộ rồi thì tâm không còn khát ái, không còn khát ái cho nên đối với thế gian không có gì thọ nhận, tâm đã không có gì thọ nhận thì nội tâm vắng lặng. Phật đối với sự việc vô thường trong các thiện pháp, biết tất cả không sót gì, lại không có ai hơn được”. Hỏi: Ông nói bốn hỏi-đáp, thế nào là bốn loại? Đáp: Một là đáp quyết định, hai là đáp phân biệt, ba là đáp phản vấn, bốn là đáp gác lại. Đáp bằng cách quyết định, như một Tỳ-kheo thưa hỏi Đức Phật: “Thưa Đức Thế Tôn! Có thể có sắc nào thường còn không bị biến dị hay không? thưa Đức Thế Tôn! Thọ-tưởng-hành-thức thường còn không bị biến dị chăng? Đức Phật đáp rằng: Này Tỳ-kheo! Không có sắc nào thường còn mà không bị biến dị, không có thọ-tưởng-hành-thức nào thường còn mà không bị biến dị”. Như vậy đều gọi là đáp quyết định. Đáp bằng cách phân biệt, như “Phạm chí Bố-đa-lê-tử hỏi Sa-ma-đề. Có người cố ý gây ra nghiệp của thân miệng ý, thì nhận chịu quả báo như thế nào? Sa-ma-đề trả lời quyết định: Có người vì cố ý gây ra nghiệp của thân miệng ý thì nhận chịu quả báo khổ não. Câu hỏi này phải trả lời bằng cách phân biệt, sau đó Phạm chí này đến thưa hỏi Đức Phật về điều này. Đức Phật đáp rằng: Này Bố-đa-lê-tử! Nếu có người cố ý gây ra nghiệp của thân miệng ý, thì nghiệp này hoặc là nhận chịu quả báo khổ não, hoặc là cảm được quả báo vui sướng, hoặc là thọ báo không khổ không vui. Nếu gây ra nghiệp khổ thì thọ báo khổ, nghiệp vui thì thọ báo vui, nghiệp không khổ không vui thì thọ báo không khổ không vui”. Như vậy trong các kinh đều đáp rằng cách phân biệt rõ ràng. Đáp bằng cách hỏi ngược lại, như “Phạm chí Tiên Ni thưa hỏi Đức Phật. Đức Phật bảo: Ta hỏi lại ông, tùy ý ông trả lời. Này Tiên Ni! Ý ông nghó thế nào? Sắc là Như Lai chăng? Thọ-tưởng-hành-thức là Như Lai chăng? Đáp rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Không phải vậy. Lìa sắc, lìa thọ-tưởng-hành-thức là Như Lai chăng? Đáp rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Không phải vậy. “Các kinh như vậy thuận theo nói rộng ra, đó gọi là trả lời bằng cách hỏi ngược lại. Đáp bằng cách lại không trả lời, chính là mười bốn loại tà kiến, họ cho rằng thế gian là thường, thế gian là vô thường, thế gian vừa vô thường, thế gian không phải thường-không phải vô thường, thế gian có giới hạn, thế gian không giới hạn, thế gian cũng có giới hạn-cũng không giới hạn, thế gian chẳng phải có giới hạn-chẳng phải không giới hạn, Như Lai có diệt hậu, Như Lai không có diệt hậu, Như Lai cũng có-cũng không có diệt hậu, Như Lai không phải là có-không phải không có diệt hậu, thân chính là thần (thần thức), thân khác-thần khác. Tất cả chúng sinh như trên với trí tuệ lạc thuyết như Đại Bích- chi-Phật dùng bốn loại như vậy để hỏi Phật, Phật đều tùy thuận trả lời những câu hỏi của họ, không thừa không thiếu. Vì vậy cho nên nói Phật trả lời đầy đủ Ba-la-mật. Không có ai có năng lực làm hại, bởi vì Phật là bậc đạt được pháp không thể nào giết hại, không có năng lực nào đoạn được thân thể tay chân của Phật, mà Phật sống hay chết đều hoàn toàn tự tại. Như kinh nói: “Nếu người nào muốn tìm cách làm hại Phật, thì đều này không thể xảy ra.” Hỏi: Thọ mạng của Phật là hạn định hay không hạn định? Đáp: Có người nói là không hạn định. Nếu thọ mạng của Phật có hạn định, thì đối với thọ mạng hạn định của người khác có gì sai biệt đâu? Nhưng thật ra thì thọ mạng của Phật là không hạn định, không có năng lực nào làm hại được, mới là hiếm có. Có người nói: Thọ mạng của Phật có hạn định. Thọ mạng của người khác tuy có hạn định, nhưng mà tay chân tai mũi có thể cắt đứt, Phật thì không có điều này xảy ra. Hỏi: Vì sao không thể làm hại Phật, là do pháp bất cộng chăng? Đáp: Chư Phật là không thể nghó bàn được, mượn thí dụ có thể biết. Giả sử tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới đều có thế lực, nếu như có một loại ma có thế lực như thế, trở lại làm cho mỗi một chúng sinh khắp mười phương có sức mạnh như ác ma, muốn cùng nhau làm hại Phật, hãy còn không thể nào lay động được một sợi lông của Phật, huống là có người nào làm hại được Phật ư? Hỏi: Nếu như vậy thì Điều-đạt vì sao có thể làm Phật bị thương? Đáp: Điều này trước đã trả lời. Phật muốn chỉ rõ về tướng ba độc của chúng sinh, Điều-đạt tuy trì giới tu thiện nhưng tham đắm lợi dưỡng mà gây ra điều tệ hại vô cùng. Lại khiến cho biết rằng tâm Phật đối với các hàng trời người không có gì khác, còn vì lòng yêu thương xót xa nhìn Điều-đạt và La-hầu-la như mắt trái-mắt phải của mình. Phật luôn luôn nói đến tâm bình đẳng, lúc này hiện rõ ra tính bình đẳng ấy, trời-người thấy như vậy đều sinh tâm hiếm có càng thêm tin tưởng vui thích. Vả lại, trời Trường Thọ trông thấy đời trước Phật có gây ác nghiệp, nếu đời này không nhận chịu thì cho rằng làm đều ác không có báo ứng. Phật phải đoạn trừ tà kiến ấy cho nên thị hiện nhận chịu báo ứng này. Lại nữa, tâm Phật đối với khổ-vui không có gì khác, tâm không còn phân biệt mình và người, mà hoàn toàn rỗng lặng, các căn điều hòa thuận thục không thể thay đổi sai khác, không cần phải thực hành phương tiện để rời xa khổ-cảm nhận vui. Như trong Bồ tát Tạng nói: “Phật dùng phương tiện cho nên thị hiện nhận chịu điều này, cần phải biết rộng về điều này”. Đó gọi là pháp bất cộng không thể giết hại được của Phật. Thuyết pháp không trống rỗng. Tại vì sao? Bởi vì lúc Chư Phật chưa thuyết pháp, trước tiên quán xét tâm của chúng sinh đầu đuôi ở nơi nào, kiết sử dày hay mỏng, biết đời trước đã làm công đức, thấy căn tính của họ có thế lực nhiều hay ít; biết nơi chốn-thời gian làm chướng ngại cho họ, nên dùng pháp mềm mỏng có thể hóa độ hay sự việc khổ đau để có thể hóa độ? Hoặc là nên dùng sự việc khổ đau mềm mỏng mà hóa độ, hoặc cần phải gợi mở đôi chút mà hóa độ hoặc phân biệt rộng ra để hóa độ. Có người dùng Ấm-Nhập-Giới và mười hai nhân duyên mà được độ. Có người dùng phần Tín, hoặc dùng phần Tuệ mà được tiến vào đạo. Người này là thuận theo Phật mà độ. Người này thuận theo Thanh văn mà độ. Người này nên dùng những duyên khác mà được độ. Người này nên thành tựu Thanh văn thừa. Người này thích hợp thành tựu Bích-chi-Phật thừa. Người này thích hợp thành tựu Đại thừa. Người này quen thói tham dục, quen thói sân giận, quen thói ngu si đã lâu. Người này quen thói tham dục-sân giận. Người này quen thói tham dục-ngu si. Tất cả các loại như vậy đều phân biệt rõ ràng. Người này rơi vào Đoạn kiến. Người này rơi vào Thường kiến. Người này huân tập nhiều thân kiến. Người này huân tập nhiều biên kiến. Người này huân tập nhiều giới thủ kiến. Người này huân tập nhiều kiêu mạn. Người này huân tập nhiều tự ti mặc cảm-nịnh hót quanh co. người này tâm nhiều nghi ngờ hối tiếc. Người này ưa thích ngôn ngữ văn từ. Có người coi trọng nghĩa lý, có người thích nghĩa lý sâu xa, có người thích sự việc đơn giản. Người này đời trước tích tập các pháp trợ đạo. Người này đời này tích tập các pháp trợ đạo. Người này chỉ tích tập thiện căn phước báo. Người này chỉ tích tập thiện căn xuyên suốt. Người này sẽ nhanh chóng đắc đạo. Người này qua thời gian lâu dài mới đắc đạo. Phật quán sát suy nghó trước mà thuận theo căn cơ để họ được độ, vì họ thuyết pháp để độ thoát cho họ. Vì vậy tất cả các pháp thuyết ra thảy đều lợi ích chứ không phải là trống rỗng. Như kinh nói: “Thế Tôn thấy biết trước mọi căn cơ thuyết pháp, chứ không phải là thuyết pháp mà không thấy biết rõ ràng.” Không sai lầm không thiếu sót, là Chư Phật thuyết pháp không có điều gì sai lầm thiếu sót. Không sai lầm là lời nói và nghĩa lý không trái ngược nhau, không thiếu sót là nghĩa lý không thiếu sót. Không mất đi nhân duyên của đạo, cho nên gọi là không thiếu sót, không sai lầm với nhân duyên của đạo quả, cho nên gọi là không sai lầm. Không thiếu cho nên gọi là không mất. Không thừa cho nên gọi là không sai lầm. Nhờ thông suốt bốn trí vô ngại, ý niệm thường điều hòa trong tuệ an ổn, cho nên lìa xa những kiến chấp về đoạn-thường-không có nhân-nhân tà vạy…, trong pháp đã thuyết ra không làm cho người ta có sự mê hoặc phiền muộn, lời đã nói thì trước sau không có gì trái ngược lầm lỗi, tùy theo nghĩa của kinh này mà giải thích rộng ý nghĩa trong kinh. Như kinh nói: “Này các Tỳ-kheo! Ta thuyết pháp cho các ông, đầu là thiện-giữa là thiện và sau cũng là thiện, lời nói thiện-nghĩa lý thiện, thuần nhất không có gì lẫn tạp, mà nói đầy đủ về phạm hạnh.” Dùng sự việc hy hữu mà thuyết pháp, là tùy theo sự giáo hóa liền đạt được đạo quả, đó gọi là hy hữu. Nếu có sự đối đáp, hoặc có sự thọ ký đều thật sự không khác, thì cũng là hy hữu. Phật có đã lý đã thuyết ra, đạo lý này không xen tạp phiền não mà có năng đoạn trừ phiền não, đó cũng là hy hữu. Phật có những giáo thuyết đều có lợi ích chứ hoàn toàn không phải là lời nói vô ích, đó cũng là hy hữu. Nếu như người ở trong Phật pháp dụng tâm chịu khó tinh tiến, có thể đoạn trừ pháp bất thiện, tăng thêm pháp thiện, đó cũng là hy hữu. Lại nữa, có ba loại hy hữu, là hiện bày thần thông hy hữu, nói trước tâm người khác hy hữu, giáo hóa hy hữu. Thuyết pháp bằng ba loại hy hữu này, gọi là dùng sự việc hy hữu mà thuyết pháp. Bậc Đạo sư cao nhất trong các bậc Thánh, là Chư Phật biết rõ những việc làm-những ưa thích trong tâm của tất cả chúng sinh, kiết sử nông sâu-dày mỏng, các căn sắc bén-chậm chạp, trí tuệ bậc thượng- trung-hạ, bởi vì khéo léo biết rõ và thông suốt tất cả, cho nên Phật là bậc Đạo Sư cao nhất trong các bậc Thánh. Lại có năng lực khéo léo biết rõ tướng của bốn Đế khéo léo biết rõ tướng chung và tướng riêng của các pháp. Lại dùng nhân duyên thuyết pháp không trống rỗng, không sai lầm và không thiếu sót, cho nên Phật là bậc Đạo sư cao nhất trong các bậc Thánh. Hỏi: Bốn chúng cũng có người có năng lực thuyết pháp phá tan ngoại đạo khiến cho tiếp và Phật pháp, vì sao chỉ tôn xưng Phật là bậc Đạo sư cao nhất? Đáp: Nên dùng thí dụ để nói. Nếu thế lực trí tuệ của tất cả chúng sinh đều giống như Bích-chi-Phật, những chúng sinh này nếu không thuận theo ý Phật, mà muốn hóa độ một người, thì điều này không hề xảy ra, nếu lúc những người thuyết pháp, thậm chí không có năng lực đoạn trừ phần nhỏ kiết sử của cõi vô sắc. Nếu Phật muốn độ chúng sinh mà có những lời nói ra, cho đến ngoại đạo tà kiến và các loài rồng- Dạ xoa…, cùng những loài khác không hiểu lời Phật nói, thì đều làm cho hiểu được. Những loài này cũng có thể chuyển hóa được vô lượng chúng sinh, thậm chí hôm nay chúng Thanh văn khiến cho chúng sinh an trú trong bốn quả Sa môn, đều là tướng Đạo Sư cao nhất của Như Lai. Vì vậy cho nên Phật được tôn xưng là bậc Đạo Sư cao nhất, là pháp bất cộng ở trong các bậc Thánh. Bốn pháp không cần phải giữ gìn, là Chư Phật không cần giữ gìn nghiệp của thân, không cần giữ gìn nghiệp của miệng, không cần giữ gìn nghiệp của ý, không cần giữ gìn mọi thứ cung cấp cho đời sống. Tại vì sao? Bởi vì bốn điều này không cần giữ gìn đối với người khác, không dấy khởi ý niệm như vậy: Thân miệng ý và mạng sống của mình sợ rằng người khác biết rõ. Tại vì sao? Bởi vì trải qua thời gian lâu dài tu tập các loại nghiệp thanh tịnh, đều khéo léo thấy biết các pháp đoạn trừ tất cả mọi phiền não, thành tựu tất cả các thiện căn không gì sánh được, khéo léo thực hành những pháp đáng thực hành không có gì đáng chê trách, đầy đủ hạnh xả Ba-la-mật. Xả là mắt thấy sắc mà xả bỏ tâm lý buồn vui, cho đến ý-pháp cũng như vậy. Các kinh như Bà Ha Đề Tước Đa La…, trong ấy đã nói rõ về bốn pháp vô sở úy. Hỏi: Một pháp gọi là Vô sở úy, tại vì sao lại có bốn pháp? Đáp: Ở trong bốn sự việc không có gì nghi ngờ sợ hãi, cho nên có bốn pháp. Như Phật bảo với các Tỳ-kheo: Ta tự mình nói lời chân thành, là người Nhất thiết trí, trong này nếu có sa môn, Bà-la-môn, chư Thiên- ma-Phạm và người trí thế gian, như pháp chất vấn nói rằng Như Lai không biết pháp này. Ta ở trong này thậm chí không thấy có tướng nghi ngờ sợ hãi gì. Bởi vì không thấy tướng này, cho nên được an ổn không sợ hại gì. Đây là pháp Vô úy thứ nhất, vốn đúng như thật biết hết tất cả các pháp. Tự nói lời chân thành rằng: Ta không còn tất cả các lậu hoặc phiền não. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên-Ma-Phạm, nói lậu hoặc phiền não của Như Lai không hết. Ta ở trong này thậm chí không thấy có tướng nghi ngờ sợ hãi gì. Bởi vì không thấy tướng này cho nên được an ổn không sợ hãi gì. Đây là pháp Vô úy thứ hai, vốn khéo léo đoạn trừ các phiền não và đoạn trừ tập khí của phiền não. Ta nói về pháp chướng đạo, trong này nếu có Sa-môn, Bà-la- môn, chư Thiên-Ma-Phạm cùng với người trí thế gian, như pháp chất vấn rằng: Pháp này tuy sử dụng nhưng không có thể chướng ngại cho đạo. Ta ở trong này không thấy có tướng nghi ngờ sợ hãi gì. Bởi vì không thấy tướng này, cho nên được an ổn không có nghi ngờ sợ hãi gì. Đây là pháp vô úy thứ ba, vốn khéo léo biết rõ pháp chướng ngại cho đạo giải thoát. Đạo lý Ta đã nói, thực hành đúng như pháp đã nói, thì đến được nơi không còn đau khổ. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên-Ma- Phạm cùng với người trí thế gian, như pháp chất vấn rằng: Như pháp này tuy thực hành đúng như thuyết nhưng không có thể đến được nơi không còn đau khổ. Ta ở trong này không có tướng nghi ngờ sợ hãi gì. Bởi vì không thấy tướng này, cho nên được an ổn không có gì nghi ngờ sợ hãi. Đây là pháp Vô úy thứ tư, vốn khéo léo biết rõ đạo lý đến nơi không còn đau khổ. Bốn pháp Vô úy này đều vượt qua các tướng của tâm sợ hãi, kinh hoàng sởn gai ốc…, cho nên gọi là Vô úy. Lại bởi vì uy đức thù thắng so với Đại chúng, cho nên gọi là Vô úy. Lại bởi vì khéo léo biết rõ tất cả các điều hỏi-đáp, cho nên gọi là Vô úy. Chư Thiên tụ hội, trong kinh này cũng giải thích rộng ra. Hỏi: Nếu Phật là người Nhất thiết trí, thì phải đối với tất cả các pháp đều là Vô úy, tại sao chỉ nói bốn pháp Vô úy? Đáp: Sơ lược nêu ra những điều quan trọng nhất để khai thông đầu mối của sự việc, còn lại mọi pháp khác cũng như vậy. Mười lực của Phật, lực có nghĩa là giúp đỡ, có khí thế không thể cùng tận được, không có gì có năng lực ngăn trở phá hoại được. Tuy rằng có người tên gọi nhưng thật thì cùng chung một trí, duyên theo mười sự việc cho nên gọi là mười lực. Phật trí duyên vào tất cả mọi sự việc, thuận theo có vô lượng lực, bởi vì mười lực này đủ để hóa độ chúng sinh, cho nên nói chung về mười lực, chỉ khai mở về mười lực này, còn lại đều có thể biết. Lực thứ nhất: Nhân và chẳng phải nhân của tất cả các pháp, trí không thông suốt một cách quyết định gọi là lực thứ nhất. Như Phật nói: “Nếu người điên này không bỏ lời nói này, không bỏ tà kiến, không bỏ tâm này mà đến ở trước mặt Phật, thì điều này không có”. Như Phật bảo với A-nan: “Thế gian có hai vị Phật cùng lúc xuất thế, điều này không hề xảy ra. Một vị Phật xuất thế, thì điều này là có. Điều này là nói đến thế giới của một vị Phật, nhưng thật thì trong các thế giới vô lượng vô biên khắp mười phương, có trăm ngàn vạn ức vô số Chư Phật cùng lúc xuất thế”. Lại trong kinh nói: “Ác nghiệp của thân miệng ý mà có quả báo vi diệu tốt đẹp, thì điều này là vô lý. Nếu thiện nghiệp của thân miệng ý mà cảm được quả báo vi diệu tốt lành, thì điều này là có”. Những điều như vậy thì các kinh trong năm Tạng cũng đã nói nhiều. Lực thứ hai: Đối với các nghiệp và các pháp thọ nhận trong Quá khứ-vị lai-hiện tại, Phật phân biệt đúng như thật mà biết rõ nơi chốn, biết rõ sự việc, biết rõ quả báo. Nếu Phật muốn biết những nghiệp quá khứ-nghiệp báo quá khứ của tất cả chúng sinh, thì có thể biết rõ trong khoảnh khắc. Hoặc là nghiệp quá khứ mà báo ở hiện tại. Hoặc là nghiệp quá khứ mà báo ở vị lai. Hoặc là nghiệp quá khứ mà báo ở quá khứ. Hoặc là nghiệp quá khứ mà báo ở quá khứ và vị lai. Hoặc là nghiệp quá khứ mà báo ở quá khứ và hiện tại. Hoặc là nghiệp quá khứ mà báo ở vị lai-hiện tại. Hoặc là quá khứ mà báo ở quá khứ-vị lai và hiện tại. Hoặc là nghiệp hiện tại có báo ở hiện tại. Hoặc là nghiệp hiện tại có báo ở vị lai. Hoặc là nghiệp hiện tại có báo ở hiện tại và vị lai. Hoặc là nghiệp vị lai có báo ở vị lai. Có những sự phân biệt về pháp thọ nhận như vậy, gồm bốn pháp thọ nhận: Hiện tại thọ nhận vui sướng, đời sau nhận chịu đau khổ, hiện tại nhận chịu đau khổ, đời sau thọ nhận vui sướng; hiện tại thọ nhận vui sướng, đời sau cũng thọ nhận vui sướng; hiện tại nhận chịu đau khổ, đời sau cũng nhận chịu đau khổ. Xứ là tùy theo nơi chốn-phương hướng-thời gian của nghiệp, cũng biết nơi nhận chịu báo ứng của nghiệp này. Sự là có lúc thuận theo nhân duyên, có lúc thuận theo ba căn bất thiện, hoặc phần nhiều tự mình gây ra, hoặc phần nhiều do người khác gây ra. Nhân duyên các nghiệp thiện ác như vậy Phật đều biết rõ. Báo là biết tất cả các nghiệp đều có báo ứng của mỗi loại, nghiệp thiện hoặc là sanh vào xứ thiện hoặc đạt được Niết bàn, nghiệp ác thì sinh vào những xứ ác. Phật biết rõ nhân duyên gốc ngọn của các nghiệp này, biết rõ về bản thân mình và người khác, trong trí lực này không lui sụt cho nên gọi là lực. Lực thứ ba: Phật biết đúng như thật về thiền định, giải thoát, Tam muội, tướng cấu nhiễm-thanh tịnh. Thiền là bốn thiền. Định là bốn định Vô sắc, bốn tâm Vô lượng… đều gọi là định. Giải thoát là tám giải thoát. Tam muội là ngoại trừ các thiền giải thoát, còn lại các định đều gọi là Tam muội. Có người nói: Ba giải thoát môn và định có giác có quán, định không có giác-chỉ có quán, định không có giác-không có quán, gọi là Tam muội. Có người nói: Định là nhỏ, Tam muội là lớn. Vì vậy hết thảy Chư Phật và Bồ tát đã đạt được định, đều gọi là Tam muội. Bốn phạm vi này đều thâu nhiếp trong tất cả các thiền Ba-la-mật. Cấu nhiễm có nghĩa là cảm thọ ý vị, thanh tịnh có nghĩa là không cảm thọ ý vị. Lại nữa, cấu nhiễm gọi là định hữu lậu, thanh tịnh gọi là định vô lậu. Tam muội và giải thoát đều phân biệt rõ ràng, thiền phân biệt như vậy biết rõ các căn thượng-hạ của người khác-chúng sinh khác, biết đúng như thật gọi là lực thứ tư. Chúng sinh khác tức là phàm phu, người khác tức là các bậc Hiền Thánh như quả Tu-đà-hoàn… Hoặc có người nói: Chúng sinh có nghĩa là phàm phu, và những người học nhưng chưa hết phiền não; người khác là bậc không còn phiền não như quả A-la-hán… Hoặc có người nói: Chúng sinh và người cùng một tên gọi là nhưng có sai biệt về đẳng cấp. Các căn là Tín-Tinh tiến-Niệm-Định-Tuệ chứ không phải là các căn như nhãn-nhó… Thượng có nghĩa là mạnh mẽ sắc bén có năng lực đắc đạo, hạ có nghĩa là tối tăm vụng về không có năng lực tiếp nhận đạo pháp. Phật đối với hai căn thượng-hạ này biết đúng như thật không sai lầm. Tâm của chúng sinh khác-người khác đều có những vui thích, Phật đều biết đúng như thật, đó là lực thứ năm. Những vui thích có nghĩa là coi trọng sự việc đã hướng đến, như có người coi trọng tài sản tiền bạc và niềm vui thế gian, hoặc có người quý trọng phước đức-thiện pháp, những điều này Phật biết đúng như thật. Các loại tính-vô lượng tính của thế gian, Phật đều biết đúng như thật, đó là lực thứ sáu. Các loại tính là rất nhiều tính xen lẫn với nhau. Vô lượng tính là đối với mỗi một tính phát sinh vô lượng loại phân biệt sai khác. tính ấy từ đời trước đến nay có tâm thường quen sử dụng, thường có niềm vui thực hành tu tập cho nên trở thành tính. Hai tính thiện -ác này, Phật biết đúng như thật, cho đến tất cả xứ sở của đạo thì Phật đều biết đúng như thật, đó là lực thứ bảy. Đến tất cả xứ sở của đạo, là có năng lực đạt được tất cả các công đức, đạo này gọi là đến tất cả xứ sở của đạo, nghĩa là năm phần Tam muội, hoặc là năm trí Tam muội, hoặc chính là tám phần Thánh đạo, hoặc là Thánh đạo thâu nhiếp các pháp, hoặc là bốn như ý túc. Như kinh nói: “Tỳ-kheo có năng lực tu tập bốn Như ý túc thì không có lợi ích nào mà không đạt được”. Có người nói chính là bốn thiền. Như kinh nói: “Tỳ-kheo đạt được bốn thiền, tâm an trú một nơi thanh tịnh, trừ bỏ những phiền não, diệt hết mọi chướng ngại, điều hòa có thể sử dụng không còn động chuyển nữa, nếu quay lại hướng đến biết sự việc trong đời kiếp trước thì có năng lực biết được sự việc trong đời kiếp trược”. Đó là lực thứ tám. Nếu Phật muốn nhớ đến vô lượng vô biên đời kiếp trước của mình và tất cả chúng sinh, thì tất cả mọi việc đều biết rõ ràng, không có việc gì không biết dù trải qua hằng hà sa đời kiếp. Người này sinh nơi nào, họ tên-sang hèn, ăn uống-sinh hoạt, khổ sở-vui sướng, sự nghiệp đã làm, quả báo thọ, tâm hành như thế nào, vốn từ đâu đến đây…? Những sự việc như vậy, dùng Thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn mắt người thế gian, thấy chúng sinh trong sáu đường tùy theo nghiệp mà thọ thân, đó là lực thứ chín. Đại lực Thanh văn dùng Thiên nhãn thấy được Tiểu thiên quốc độ, cũng thấy được chúng sinh trong đó qua những lúc sinh-lúc tử. Bích- chi-Phật ít năng lực thấy được một ngàn Tiểu thiên quốc độ, thấy được chúng sinh trong đó qua những lúc sinh-lúc tử. Bích-chi-Phật có năng lực trung bình thấy được trăm vạn Tiểu thiên quốc độ, thấy được chúng sinh trong đó qua những lúc sinh-lúc tử. Bích-chi-Phật có năng lực to lớn thấy được ba ngàn Đại thiên quốc độ, thấy được những nơi chốn sinh tử của chúng sinh trong đó hướng đến. Chư Phật Thế tôn trông thấy vô lượng vô biên thế gian không thể nghó bàn được, cũng thấy rõ lúc sinh- lúc tử của nhân duyên trong những thế gian này, đó là lực thứ mười. Dục lậu-hữu lậu-vô minh lậu, tất cả các lậu không còn, các phiền não và tập khí cũng hết sạch, đó gọi là lực thứ mười. Vô ngại giải thoát, giải thoát có ba loại: Giải thoát đối với chướng ngại do phiền não. Giải thoát đối với chướng ngại do Định. Giải thoát đối với chướng ngại do tất cả các pháp. Từ trong này đạt được Tuệ giải thoát của A-la-hán, đạt được giải thoát lìa xa chướng ngại của phiền não; cùng với giải thoát của A-la- hán và Bích-chi-Phật, đạt được giải thoát lìa xa chướng ngại của phiền não, đạt được giải thoát lìa xa chướng ngại của các thiền định. Chỉ có Chư Phật đầy đủ ba loại giải thoát, đó gọi là giải thoát chướng ngại của phiền não, giải thoát chướng ngại của các thiền định, giải thoát chướng ngại của tất cả các pháp. Nói tổng quát là ba loại giải thoát này, Phật gọi là vô ngại giải thoát, thường thuận theo tâm cùng sinh ra, cho đến Niết bàn vô dư thì dừng lại. Bốn mươi pháp Bất cộng này, sơ lược khai mở pháp môn của Phật khiến cho chúng sinh được giải thoát, vì vậy mà nói ra. Những pháp không nói thì vô lượng vô biên. Đó là: Thường không rời xa tuệ. Biết thời cơ không sai. Diệt trừ tất cả tập khí. Đạt được Định Ba-la-mật. Tất cả công đức đều thù thắng. Thuận theo thích hợp mà thực hành Ba-la-mật. Không ai có thể thấy đỉnh đầu. Không có ai sánh bằng. Không có ai có năng lực hơn được. Cao nhất giữa thế gian. Không từ người khác nghe mà đắc đạo. Không ai chuyển được pháp. Tự nói là Phật thì rốt cuộc không thể nào đến được trước Phật. Phật. Người không lui sụt đối với pháp. Người đạt được Đại Bi. Người đạt được Đại Từ. Người đáng tin nhận bậc nhất. Người có danh tiếng và lợi dưỡng bậc nhất. Cùng y chỉ với Phật nhưng các Sư không có ai sánh bằng Các sư không có ai có được chúng đệ tử như Phật. Đoan chính bậc nhất, người thấy đều hoan hỷ. Phật là người mà không ai có thể làm hại. Phật muốn độ người nào thì không có ai làm tổn thương họ được. Lúc mới sinh ra, tâm có năng lực đoạn trừ kiết sử do tư duy. Chúng sinh đáng độ thì cuối cùng không bỏ lỡ thời cơ. Trí thứ mười sáu chứng được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Ruộng phước bậc nhất của thế gian. Phát ra vô lượng ánh sáng. Việc làm không giống như người khác. Có nhiều tướng phước đức. Vô lượng vô biên thiện căn. Lúc nhập thai. Lúc đản sinh. Lúc chứng được quả vị Phật. Lúc chuyển pháp luân. Lúc xả mạng căn trường thọ. Lúc nhập Niết bàn, luôn luôn làm chấn động ba ngàn Đại thiên thế giới. Làm lay chuyển vô lượng vô biên cung điện của các ma khiến chúng không còn uy đức mà làm cho đều kinh sợ. Các Thiên vương bảo vệ thế gian, Thích-đề-hoàn-nhân, Thiên vương Dạ-ma, Thiên vương Đâu-suất-đà, Thiên vương Hóa-lạc, Thiên vương Tự tại, Thiên vương cõi Phạm, chư Thiên cõi Tịnh cư… cùng lúc đến tập trung thỉnh Phật chuyển pháp luân. Thân Phật kiên cố như thân Na-la-diên. Chưa có kiết giới mà bắt đầu kiết giới. Những việc làm có thế lực hơn người. Bồ tát nhập thai thì mẹ không có tâm nhiễm trước đối với tất cả những người nam. Có năng lực cứu độ tất cả chúng sinh. Pháp bất cộng của Phật có vô lượng vô biên vô số những sự việc như vậy, bởi vì rất nhiều sự việc cho nên không thể nào nói rộng ra hết được. Pháp của Thanh văn tuy tựa như pháp của Phật, nhưng hơn-kém không giống nhau cho nên có sai biệt. Vả lại, nói tổng quát tất cả các pháp của Chư Phật là vô lượng vô biên, hy hữu bậc nhất không thể nghó bàn được, tất cả chúng sinh vốn không thể nào có được. Giả sử ba ngàn Đại thiên thế giới khắp mười phương vượt quá số lượng tính đếm, tất cả chúng sinh trong đó đều có trí tuệ như Đại Phạm Thiên Vương, đều giống như Đại Bích-chi-Phật, đều giống như Xá-lợi-phất, tập hợp những trí tuệ này vào cho một người, mong muốn đạt được một phần nhỏ trong bốn mươi pháp bất cộng của Phật, thì điều này không thể có được. Hoặc không bằng một phần ở trong trăm ngàn vạn ức phần của một pháp. Chư Phật có sức mạnh công đức vô lượng vô biên như vậy, tại vì sao? Bởi vì từ vô số Đại kiếp an trú trong xứ sở của bốn công đức, thực hành sâu vào sáu pháp Ba-la-mật, có năng lực thuần thục đầy đủ tất cả các pháp của Bồ tát thực hành, không chung với tất cả chúng sinh, cho nên quả báo cũng không chung.  <卷>QUYỂN 12 <詞>Phẩm 24: KỆ KHEN PHẬT Như vậy đã giải thích về bốn mươi pháp Bất cộng xong. Nên lấy tướng của bốn mươi pháp bất cộng này để nghó đến Phật, và nên dùng các kệ tán để ca ngợi Phật, giống như hiện tại đang đối diện cùng chuyện trò với Phật. Như vậy thì thành tựu Tam muội Niệm Phật, như kệ nói: Bậc Thánh chúa vô cùng tinh tiến Bốn mươi pháp chỉ một mình có, Nay con hướng về trước Đức Phật, Đem tâm cung kính để ca ngợi. Phi hành tự tại và như ý, Thần lực của Ngài thật vô biên, Ở trong Thánh như ý tự tại, Không có ai sánh được với Ngài. Tự tại trong âm thanh nghe thấy, Trí biết tâm người thật vô lượng, Luôn luôn khéo léo điều phục tâm, Thuận theo ý muốn mà thích hợp. Tâm niệm của Ngài như biển rộng, Sâu thẳm trong suốt luôn an ổn, Thế gian không có một pháp nào, Có thể làm nhiễu loạn được Ngài. Được tất cả Chư Phật khen ngợi, Pháp Tam muội Kim cang quý báu, Cảm được ở ngay trong lòng mình, Như Hiền Thánh giữ tâm ngay thẳng, Khéo léo biết về pháp bất tịnh, Mọi điều trong bốn định vô sắc, Vi tế thật khó mà phân biệt, Ngài biết rõ không sót điều gì. Tất cả chúng sinh đã diệt đi, Hoặc đang diệt và sẽ diệt đi, Chỉ có một mình Đức Thế Tôn, Trí tuệ có năng lực biết rõ. Khéo léo biết tâm bất tương ưng, Không phải sự việc trong sắc pháp, Tất cả mọi người trên thế gian, Đều không có năng lực biết rõ. Uy lực Thế Tôn thật vó đại, Công đức không thể suy lường nổi, Trí tuệ không có gì giới hạn, Cũng không có người nào sánh bằng. Ở trong bốn cách hỏi và đáp, Tuyệt vời không có ai bì kịp, Chúng sinh có những điều chất vấn, Tất cả đều trả lời dễ dàng. Nếu như ở trong các thế gian, Có người nào muốn làm hại Phật, Việc này cũng không xảy ra được, Bởi vì thành tựu pháp bất sát. Hoặc là ở trong ba thời gian, Tất cả các pháp Ngài thuyết ra, Lời nói chắc chắn không hư dối, Luôn luôn có quả báo to lớn. Tất cả các pháp thuyết ra, Đều là những pháp thật hiếm có, nghĩa lý hãy còn không sai lạc, Huống gì là đối với ngôn từ? Đối với Thánh đệ tử ba thừa, Thượng-trung-hạ căn cơ sai khác, Cùng những hành Tứ quả-Tứ hướng, Ngài là Đại Đạo Sư bậc nhất. Nghiệp thân miệng ý và mạng căn, Suy cho cùng luôn luôn thanh tịnh, Vì vậy ở trong những điều này, Không có gì cần phải phòng hộ. Tự nói là người Nhất thiết trí, Tâm không có điều gì nghi ngại, Nếu như người đến chất vấn Ta, Sợ rằng có những điều không biết, Tự nói tướng phiền não không còn, Đến hết giới hạn không phiền não, Tâm không có điều gì nghi ngại, Dù phiền não có còn không hết. Tự nói về những pháp chướng ngại, Trong đó không có gì ngờ vực, Tuy có sử dụng những pháp này, Nhưng không thể nào bị chướng ngại. Tám Thánh đạo Ngài thuyết ra, Tâm không có điều gì nghi ngại, Có người nói tám Thánh đạo này, Không có năng lực đến giải thoát. Ngài biết như thật đây là nhân, Đây là quả cùng với chẳng phải, Cho nên hiệu là Nhất thiết trí, Danh tiếng lưu truyền khắp mọi nơi. Tất cả các Nghiệp trong ba đời, Những nghiệp nào vốn có định báo, Và không có quả báo nhất định, Các loại Ngài đều biết rõ ràng. Những sự việc nông-sâu-thô-tế, Trong tất cả các thiền Tam muội, Ngài đều có năng lực biết rõ, Trong thiền không có ai sánh kịp. Trước biết rõ căn cơ chúng sinh, Thượng-trung-hạ ba hạng sai khác, Các loại ưa thích và tính tình, Tùy theo thích hợp thuyết pháp. Hành đạo đạt được những lợi ích, Đều dùng để dẫn dắt mọi người, Vì vậy tất cả các đệ tử, Như thật cảm được lợi ích này. Biết vô lượng mạng sống đời trước, Thiên nhãn nhìn thấu suốt vô biên, Tất cả mọi điều trong trời-người, Không ai có thể biết giới hạn. An trú trong Kim cang Tam muội, Diệt trừ phiền não và tập khí, Lại biết người không còn phiền não, Cho nên gọi là lực lậu tận. Chướng ngại do phiền não-các thiền, Chướng ngại do tất cả các pháp, Cả ba chướng ngại được giải thoát, Tôn xưng là Vô ngại giải thoát. Tất cả bốn mươi pháp bất cộng, Công đức không thể suy lường được, Không ai có thể nói rộng ra, Con đã nói sơ lược tất cả. Nếu Thế Tôn trải qua một kiếp, Ca ngợi giải thích pháp của Phật, Hãy còn không thể nào hết được, Huống gì con không có trí này? Bóng mây Đại Từ của Thế Tôn, Quy tụ vô lượng những thiện nghiệp, Vốn là xứ sở bốn công đức, Đạt được vô lượng pháp của Phật. Điều Thế Tôn ca ngợi giải thích, Xứ sở bốn công đức tốt đẹp, Nay con trở lại dùng điều này, Ca ngợi đối với Đức Như Lai. Đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, Mỗi tướng có đầy đủ phước đức, Tám mươi vẻ đẹp thật tuyệt vời, Ba cõi ai có thể có được? Hết thảy phước thiện của chúng sinh, Khắp ba ngàn Đại thiên thế giới, Quả báo gấp trăm lần như vậy, Tướng Phật có phước đức hơn hẳn, Tất cả những phước đức như vậy, Cùng với quả báo vốn có ấy, Lại dùng gấp trăm lần hơn hẳn, Làm thành một tướng tốt Bạch hào. Mỗi một tướng trong ba mươi tướng, Đầy đủ phước đức và quả báo, Lại lấy gấp ngàn lần hơn hẳn, Làm thành một tướng tốt Nhục kế. Tất cả công đức của Thế Tôn, Không thể nào lường tính hết được, Như người dùng thước tấc hạn lượng, Tính toán không hết được bầu trời. Từ lúc mới phát tâm vó đại, Vì hạnh nguyện cứu độ chúng sinh, Tâm kiên cố qua vô lượng kiếp, Vì vậy cho nên thành Phật đạo. Tinh tiến cần mẫn mong thành tựu, Đầy đủ những Đại nguyện như vậy, Trải qua trong vô lượng kiếp số, Thực hành những công hạnh khó hành. Như Chư Phật quá khứ xa xưa, Thuyết về xứ sở bốn công đức, Qua vô lượng kiếp mới thành tựu, Nay được an trú trong pháp ấy. Vốn là vì giữ gìn Thật đế, Xả thân và quyến thuộc yêu thương, Những niềm vui giàu sang hoa lệ, Cho nên được đầy đủ tất cả. Trải qua trong vô lượng kiếp số, Những pháp đã thấy nghe hiểu biết, Trước hết đều cố gắng tư duy, Sau đó mới giải thích cho người, Nếu đối với những người không thấy, Và ở trong đó có nghi ngờ, Vẫn có thể như thật giải thích, Làm cho lợi ích không kể xiết. Không nói điều người ta giấu kín, Không bài báng-chống đối ngang ngược, Niệm luôn luôn an trú trong tuệ, Tùy thuận cảm hóa khiến an ổn. Diệu đế chân thật luôn đứng đầu, Niết bàn thực sự là bậc nhất, Các pháp còn lại đều hư vọng, Thế Tôn có đầy đủ công đức. Đồ ăn thức uống và chăn màn, Nhà cửa lầu đài thật tuyệt vời, Voi ngựa xe cộ đều tốt đẹp, Những cung nữ đoan chính trang nghiêm, Vàng bạc cùng các loại châu báu, Những thành ấp làng mạc thôn xóm, Đất nước và địa vị vinh quang, Cùng tất cả bốn châu thiên hạ; Con thơ vợ hiền thật thân thương, Tay chân và đầu mắt thân thể, Cắt thịt lấy máu cùng xương tủy, Cho đến toàn thân đều Bố thí. Thương xót tất cả mọi chúng sinh, Bố thí hết thảy không tiếc gì, Vì cầu mong thoát khổ sinh tử, Không vì cầu mình được vui sướng. Muôn màn tinh tú giữa hư không, Cát sỏi vốn có trên mặt đất, Lúc Thế Tôn hành hạnh Bồ tát, Bố thí vượt quá số lượng này. Cuối cùng không dùng pháp sai trái, Cầu mong tài sản mà Bố thí, Bố thí không có gì không biết, Bố thí không tổn hại đến nhưng. Không ham tiếc đồ vật tốt đẹp, Mà dùng vật xấu để cho người, Bố thí không có tâm dua nịnh, Không tiếc rẻ mà gượng Bố thí. Tâm không giận dữ-không nghi ngờ, Không tà vạy-không hề cười chê Không chán nản-không hề bất tín, Đầu mặt tay chân đều Bố thí. Bố thí không có tâm phân biệt, Đây nên cho-kia không đáng cho, Chỉ dùng tâm thương xót bao la, Bình đẳng mà hành hạnh Bố thí. Không khinh rẻ đối với chúng sinh, Cho rằng không phải là ruộng phước, Gặp bậc Thánh đem lòng cung kính, Thượng xót cho những người phá giới. Không tự cao đối với chính mình, Không hạ mình đối với người khác, Cũng không vì được người khen ngợi, Không cầu quả báo mà Bố thí. Bố thí với tâm không hối tiếc, Không ưu sầu-không ý xấu xa, Tâm không đối đãi-vội-ân hận, Không phép tắc cũng nên Bố thí. Không Bố thí với tâm bất kính, Bố thí không bỏ vật xuống đất, Bố thí không buồn lòng người xin, Bố thí không tranh theo hơn thua. Không bỡn cợt đối với người xin, Bố thí tự tay mình đưa đến, Không xem thường đối với ít vật, Vì Bố thí nhiều mà tự cao. Bố thí không vì Thanh văn thừa, Cũng không vì Bích-chi-Phật thừa, Bố thí không giới hạn một đời, Bố thí không có lúc đúng sai. Thế Tôn trải qua vô số kiếp, Thực hành những hạnh thí hiếm có, Đều vì đạo Bồ đề vô thượng, Không mong cầu niềm vui cho mình. Ở trong các pháp của Chư Phật, Xuất gia thực hành hạnh xa lìa, Tu tập các pháp của Chư Phật, Thuyết giảng cho tất cả trời-người. Thuyết giảng về pháp thí như vậy, Cao nhất trong các hạnh Bố thí, Giống như ánh sáng của mặt trời, Rực rỡ nhất giữa ánh trăng-sao. Hành Bố thí thù thắng như vậy, Vượt lên trên tất cả trời-người, Cũng giống như Thế Tôn vó đại, Cao nhất trong tất cả thế gian. Vì vậy có năng lực đầy đủ, Hành Bố thí thù thắng như vậy, Danh tiếng trải qua vô lượng kiếp, Lưu truyền khắp nơi không cùng tận. Thế Tôn trải qua vô lượng kiếp, Bảo vệ giữ gìn giới thanh tịnh, Mở thông các cửa ngõ thiền định, Để đến được xứ sở lặng yên. Trước xa lìa đối với năm tướng, Sau mới thực hành tám giải thoát, Tiến vào ba Tam muội thanh tịnh, Cũng an trú ba giải thoát môn. Thế Tôn có năng lực phân biệt, Sáu mươi lăm loại thiền rõ ràng, Không có một loại thiền định nào, Từ trước đến nay không phát sinh. Ở trong tất cả các Định này, Cũng không cảm thọ ý vị ấy, Thế Tôn nhờ vào các thiền định, Đạt đến được ba loại thần thông. Dùng thần thông này độ chúng sinh, Vì vậy cho nên hơn tất cả, Thế Tôn trải qua vô lượng kiếp, Tâm bình đẳng-từ bi cảm hóa, Vô lượng vô số các chúng sinh, Khiến an trú trong cõi Phạm Thế, Luôn luôn dùng phương tiện khéo léo, Cho nên dễ dàng nói thiền định. Lúc Thế Tôn hành hạnh Bồ tát, Thường ở trong vô lượng đời kiếp, Không bị phiền não-tham ràng buộc, Mà thường xuyên qua lại thế gian. Trong quá khứ người được gặp Phật, Sanh lên cõi trời nhiều vô số, Các vị Bồ tát trong quá khứ, Đều có thể thực hành tịch diệt. Lúc Thế Tôn hành hạnh Bồ tát, Cũng như nhau không có gì khác, Vì vậy ở trong hành tịch diệt, Nơi chốn tốt đẹp đều đầy đủ. Lúc Thế Tôn hành hạnh Bồ tát, Vốn có tất cả những trí tuệ, Dùng trí tuệ cầu đạo Bồ đề, Nay thành quả báo trí tuệ này. Tất cả những vật dụng ăn uống, Như người nhờ vào đất sinh sống, Thế Tôn trải qua nhiều đời kiếp, Rời bỏ mười ác đạo tối tăm, Luôn luôn thực hành mười thiện đạo, Nhờ vào sức lực trí tuệ này, Rời bỏ năm dục và năm Cái, Đạt được tất cả các thiền định. Trải qua vô lượng vô số kiếp, Không từ người khác mà tiếp nhận, Tuyệt vời thay! Bậc Đại Thánh Tôn! Tất cả là thế lực trí tuệ. Chúng sinh nhờ vào Đức Thế Tôn, Vô số sinh đến sáu cõi trời, Cũng khiến cho đến cõi Phạm Thế, Đều nhờ vào sức trí tuệ này. Thế Tôn ở trong chốn sinh tử, Mê muội buồn phiền do khổ vui, Tâm Bồ đề không bao giờ mất, Đều là sức lực trí tuệ này. Thế Tôn ở trong chốn sinh tử, Không vui thích mà luôn tồn tại, Không giữ lấy niềm vui Niết bàn, Đều là sức lực trí tuệ này. Lúc an tọa giữa chốn đạo tràng, Làm cho mọi ma quân khuất phục, Độ thoát cho tất cả chúng sinh, Đều là sức lực trí tuệ này. Lúc ban đầu cầu đạo Bồ đề, Tích tập vô lượng pháp trợ đạo, Người nghe tướng mê mờ mệt mỏi, Huống hồ có thể nhận thực hành? Thế Tôn có năng lực kham nhẫn, Đều là sức lực trí tuệ này. Kinh sách và tất cả kỹ thuật, Đời đời sinh ra tự mình biết, Cũng có thể dạy cho người khác, Đều là sức lực trí tuệ này. Gần gũi với vô lượng Chư Phật, Thấm nhuần những giáo pháp cam lộ, Thưa hỏi-thỉnh cầu được nhiều loại, Cũng thuận theo phân biệt rõ ràng. Trong trí tuệ đối với kinh pháp, Không hề có tiếc nuối điều gì, Thậm chí với tôi tớ-trẻ nhỏ, Cũng hỏi han tiếp nhận lời hay, Thế Tôn nhờ nhân duyên như vậy, Trí tuệ siêu việt khắp mọi nơi. Thế Tôn ở trong đời kiếp trước, Lúc cầu Bồ đề Vô thượng đạo, Đối với tất cả mọi chúng sinh, Thực hành tâm Từ Bi vó đại. Dùng trí tuệ tuyệt vời bậc nhất, Thường phát ra thế lực vô cùng, Thực hiện vô lượng những sự việc, Khó làm-hiếm có ở thế gian. Ở trong tất cả các thế gian, Cùng nhau trải qua vô lượng kiếp, Giải thích không thể nào hết được, Cũng không phải toán số sánh kịp. Tất cả những sự việc như vậy, Vượt lên trên đối với trời-người, Ở trong tất cả các thế gian, Kỳ diệu không có gì sánh được. Do nghiệp vó đại mà được quả, Đầy đủ trọn vẹn Nhất thiết trí, Vị vua luôn phá tan sinh tử, An trú trong xứ sở pháp vương. <詞>Phẩm 25: TAM-MUỘI HỖ TRỢ NIỆM PHẬT Bốn mươi pháp bất cộng của Phật, Bồ tát nên dùng những pháp này, Nghó đến pháp thân của Chư Phật, Vì Phật không phải là Sắc thân. Kệ này theo thứ tự giải thích tóm tắt về nghĩa trong sáu phẩm của bốn mươi pháp bất cộng. Vì vậy hành giả trước tiên nghó đến sắc thân của Phật, sau đó nghó đến pháp thân của Phật. Tại vì sao? Bởi vì Bồ tát mới phát tâm, nên dùng ba mươi tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp để nghó đến Phật, như trước đã nói. Dần dần đi vào đạt được thế lực bậc trung, nên dùng pháp thân để nghó đến Phật, tâm chuyển sang đi sâu vào đạt được thế lực bậc thượng, nên dùng Thật tướng để nghó đến Phật mà không tham đắm gì cả. Không nhiễm trước đối với Sắc thân, Cũng không nhiễm trước vào pháp thân, Khéo biết rõ tất cả các pháp, Luôn luôn vắng lặng như hư không. Bồ tát này đạt được thế lực bậc thượng, không dùng sắc thân-Pháp thân mà tham đắm đối với Phật. Tại vì sao? Bởi vì tin và vui với Pháp không, biết các pháp giống như hư không, hư không thì không có gì chướng ngại. Nhân duyên chướng nạgi là các núi Tu-di do mười núi báu như núi Càn-đà…, cùng các núi Thiết-vi, núi Đen, núi Đá… vây quanh. Nhân duyên chướng ngại vô lượng như vậy, tại vì sao? Bởi vì người này chưa đạt được Thiên nhãn, nghó đến Phật ở thế giới phương khác, thì có các núi chướng ngại tầm nhìn. Vì vậy Bồ tát mới phát tâm, nên dùng mười hiệu và tướng tốt để nghó đến Phật. Như nói: Những vị Bồ tát mới phát tâm, Dùng mười hiệu và tướng vi diệu, Nghó đến Phật không sai lạc gì, Giống như hình ảnh ở trong gương. Mười hiệu và tướng tốt là Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Không sai lạc gì, là sự việc quán sát rỗng rang giống như hư không, đối với pháp không có gì sai lạc. Tại vì sao? Bởi vì các pháp từ xưa đến nay luôn vắng lặng không có gì sinh khởi như vậy thì tất cả các pháp cũng đều như vậy. Người này duyên theo danh hiệu mà tăng thêm pháp thiền thì có thể duyên vào tướng, lúc bấy giờ người này ngay nơi pháp thiền mà đạt được tướng. Đó gọi là thân cảm được sự thư thái thanh thản rất kỳ lạ. Nên biết là thành tựu được Tam muội Bát chu. Tam muội thành tựu cho nên được thấy Chư Phật. Giống như hình ảnh ở trong gương, là nếu Bồ tát thành tựu Tam muội này rồi, như gương sáng trong suốt tự trông thấy hình ảnh của mình, như nhìn thấy thân tướng của mình giữa làn nước trong veo. Lúc ban đầu tùy theo trước hết nghó đến Phật mà thấy sắc tượng của Phật, thấy sắc tượng này rồi, sau đó nếu muốn Chư Phật phương khác thì tùy theo sự nghó nhớ còn được thấy Chư Phật mà không có gì chướng ngại. Vì vậy người này: Cho dù chưa có được thần thông, Bay đi tùy ý đến mọi nơi, Nhưng có thể thấy được Chư Phật, Nghe pháp không có gì chướng ngại. Bồ tát mới phát tâm này đối với các núi Tu-di cùng tất cả các núi khác, không có gì có thể làm cho chướng ngại, cũng chưa đạt được thần thông-thiên-nhã và thiên nhó, chưa có năng lực bay đi từ trước này đến nước khác, nhưng nhờ vào sức mạnh của Tam muội này, thì ở quốc độ này được thấy Chư Phật Thế tôn ở phương khác, ngeh Chư Phật thuyết pháp và thường tu tập Tam muội này, cho nên được thấy Chư Phật chân thật khắp mười phương. Hỏi: Đại Định như vậy nhờ vào pháp nào có thể phát sinh, làm sao có thể đạt được? Đáp: Gần gũi các bậc thiện tri thức Tinh tiến không lười nhác rút lui, Trí tuệ thật vững vàng kiên định, Sức mạnh niềm tin không lay chuyển. Dùng bốn pháp này có thể phát sinh Tam muội này. Gần gũi các bậc thiện tri thức, là người có năng lực dùng Tam muội này dạy bảo cho người khác, đó gọi là bậc thiện tri thức. Tâm thuận theo càng cung kính và thường xuyên gần gũi, không có tâm lý lười nhác bỏ dở hoặc xa rời, thì được nghe nghĩa lý sâu xa của Tam muội này, có được trí nhanh nhạy-trí thông suốt và trí không sai lạc, gọi là gốc rễ của niềm tin sâu dày vững chắc. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn hoặc Thiên-Ma-Phạm và những người thế gian, cũng không có năng lực lay chuyển được, đó là sức mạnh niềm tin không thể lay chuyển. Bốn pháp như vậy, có thể phát sinh Tam muội. Lại nữa: Hổ thẹn-yêu mến và cung kính, Cúng dường đối với người thuyết pháp, Giống như đối với các Thế tôn, Có thể phát sinh Tam muội này. Hổ thẹn-yêu mến và cung kính, là đối với người thuyết pháp phát sinh tâm hổ thẹn sâu sắc, yêu mến và cung kính cúng dường như đối với Phật. Bốn pháp như vậy có thể phát sinh Tam muội này. Lại nữa, bốn pháp đầu tiên là: Suốt trong ba tháng không hề ngủ nghỉ, chỉ trừ ra lúc vệ sinh-ăn uống-đi lại đứng ngồi. Suốt trong ba tháng thậm chí trong khoảnh khắc cũng không sinh khởi tâm chấp Ngã. Suốt trong ba tháng thường kinh hành không nghỉ. Suốt trong ba tháng đều thực hành pháp thí mà không cầu lợi dưỡng. Lại có bốn pháp: Luôn luôn được thấy Phật. An ủi và khuyến khích người khác nghe Tam muội này. Thường không tham ganh với người thực hành tâm Bồ đề. Có năng lực tích tập đạo pháp thực hành của Bồ tát. Lại có bốn pháp: Làm ra những hình tượng Đức Phật cho đến vẽ các hình tượng Chư Phật. Nên cố gắng viết chép kinh điển Tam muội này, khiến cho người tin thích được dùng để đọc tụng. Khuyên dạy người tăng thượng mạn khiến xa rời pháp tăng thượng mạn, để đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Nên hộ trì chính pháp của Chư Phật. Lại có bốn pháp: Im lặng ít nói. Tại gia và xuất gia không cùng ở với nhau. Thường buộc tâm giữ lấy tướng của sở duyên. Thích ở nơi vắng lặng trống trải, xa lìa mọi phiền tạp. Năm pháp đầu tiên là: Vô sinh pháp nhẫn, chán ngán lìa xa tất cả các pháp hữu vi, không thích tất cả mọi nơi mà mình sinh ra, không tiếp nhận tất cả các pháp của ngoại đạo, chán ghét những dục lạc của tất cả các thế gian thậm chí không nghó đến, huống gì là tự mình gần gũi. Tâm thường xuyên tu tập vô lượng các pháp Định, ở một nơi yên lặng, đối với các chúng sinh không có gì sân giận-ngăn ngại, tâm thường tùy thuận thực hành bốn nhiếp pháp. Có năng lực thành tựu Từ Bi Hỷ Xả, không nói lỗi của người khác. Có năng lực tích tập nhiều pháp do Phật thuyết ra, thực hành đúng như pháp đã nói. Làm cho nghiệp thân-miệng-ý và cách nhìn được thanh tịnh. Lại có năm pháp: Vui vẻ như kinh đã khen ngợi về hạnh Bố thí, tâm không còn keo kiệt. Vui vẻ nói về pháp sâu xa, không có gì tiếc rẻ, cũng có năng lực tự mình an trú. Nhẫn nhục nhu hòa hoan hỷ cùng người an trú, những sự mắng nhiếc dữ dằn-đòn roi-trói buộc…, chỉ suy ra từ nghiệp duyên chứ không oán giận người khác. Thường thích nghe Tam muội này, đọc tụng thông suốt lưu loát, giải thích cho người khiến lưu truyền khắp nơi, chịu khó thực hành tu tập nhiều hơn. Tâm không có gì ganh ghét, không đề cao chính mình-không hạ thấp người khác, trừ diệt sự chướng ngại do ngủ nghỉ. Tín tâm thanh tịnh đối với Phật-Pháp-Tăng bảo, tâm hết sức cung kính cúng dường đối với các bậc thượng-trung-hạ tọa, người khác có ân dù nhỏ nhưng thường nhớ không quên, thường sống trong lời nói chân thật. Lại nữa: Đối với các Bồ tát xuất gia, Đã học pháp tu Tam muội này, Hàng Bồ tát tại gia cũng vậy, Pháp này thuận theo nên biết rõ. Nếu Bồ tát tại gia muốn tu tập Tam muội này, thì: Nên dùng tín tâm sâu sắc. Không mong cầu quả báo của nghiệp. Nên buông xả tất cả các vật trong ngoài. Suốt đời quy y Tam bảo. Giữ gìn năm giới thanh tịnh không có thiếu sót gì. Thực hành đầy đủ mười thiện đạo, cũng làm cho người khác trú trong pháp này. Đoạn trừ tâm dục. Chỉ trích năm dục. Không ganh tị. Ở giữa vợ con không sinh tâm ái trước. Tâm luôn luôn nguyện được xuất gia. Thường xuyên thọ trì trai giới. Tâm vui với đời sống nơi chùa miếu. Đầy đủ tàm quý. Khởi tâm cung kính đối với Tỳ-kheo giới hạnh thanh tịnh. Không keo kiệt đối với pháp. Tâm rất kính mến đối với người thuyết pháp. Đối với người thuyết pháp phát sinh ý tưởng như cha mẹ, như bậc Đại sư. Đối với người thuyết pháp đem tâm cung kính cúng dường những đồ vật ưa thích. Biết ơn và mong đền ơn. Như vậy Bồ tát tại gia, trú trong những công đức như vậy, thì có thể học Tam muội này. Bồ tát xuất gia tu tập pháp Tam muội này, đó là: Đối với giới không khuyết điểm gì. Trì giới không lẫn tạp. Trì giới không hỗn loạn. Giữ giới thanh tịnh. Không làm tổn hại giới. Không thủ giới. Không chấp giới Không đắc giới. Không bỏ giới. Trì giới mà bậc Thánh khen. Trì giới mà người trí khen. Theo giới Ba-la-đề-mộc-xoa. Hành xử đầy đủ oai nghi. Thậm chí lỗi lầm nhỏ bé nhưng tâm cũng rất sợ hãi. Nghiệp thân-miệng-ý trong sạch. Sống trong sạch. Giới vốn có đều thọ trì. Tin và vui với pháp rất xa. Tâm có năng lực nhẫn nại đối với pháp không có gì đạt được, tâm không kinh sợ trong pháp không-Vô tướng-vô nguyện. lê. Thường xuyên khởi tinh tiến. Niệm thường ở trước mặt. Lòng tin kiên cố. Đầy đủ hổ thẹn. Không ham lợi dưỡng. Không ganh tị. Trú trong công đức đầu đà. Trú trong pháp hành vi tế. Không thích nói lời dung tục của thế gian. Xa rời tụ tập bàn tán. Biết đền đáp ân tình. Biết người làm ơn và người báo đáp ân tình. Sinh tâm cung kính, tránh làm khó đối với Hòa Thượng A-xà- Phá trừ ý niệm kiêu mạn. Làm cho tâm chấp ngã phải thuần phục. Thiện tri thức khó gặp cho nên tâm thường xuyên cung cấp giúp đỡ. Từ nơi người nào được nghe pháp này, hoặc được quyển kinh, hoặc miệng tụng đọc, thì đối với người này nên nghó là cha mẹ sinh ra mình, nghó là bậc thiện tri thức, nghó là bậc Đại sư, nghó là mình thật hổ thẹn mà phải kính mến người ấy. Thường thích nơi vắng vẻ yên lặng. Không thích ở chốn đông người tụ tập. Không tham đắm gia đình của đàn việt và thiện tri thức. Không tiếc gì thân mạng. Tâm thường nghó đến cái chết. Không giữ ý niệm lợi dưỡng. Ở giữa mọi vật tâm không nhiễm trước. Không còn khát ái phiền não. Bảo vệ chính pháp. Không đắm theo y bát. Không tích góp để lại. Chỉ muốn khất thực. Theo thứ tự khất thực. Thường biết hổ thẹn, tâm thường có hối hận. Không cất giữ vàng bạc châu báu-tiền của tài sản, hối hận xa rời những điều bất thiện. Tâm không bị nhơ bẩn trói buộc. Thường thực hành tâm Từ. Đoạn trừ sân hận Thường thực hành Tâm Bi. Đoạn trừ tham ái. Thường cầu lợi ích an lành cho tất cả thế gian. Thường xót thương hết thảy chúng sinh. Thường vui thích kinh hành. Trừ khử ham mê ngủ nghỉ. Bồ tát xuất gia an trú trong những pháp như vậy, thì phải tu tập Tam muội này. Lại nữa: Ngoài pháp tu Tam muội này ra, Cũng cần phải học hỏi như vậy. Có thể phát sinh Tam muội Bát chu này, những pháp hỗ trợ khác cũng nên tu tập, là những pháp gì? Đó là: Nhờ vào ân Phật thường khiến ở trước mắt. Không để cho tâm tán loạn. Giữ tâm ở trước mắt. Giữ gìn các căn. Ăn uống biết đủ, biết ngừng. Đầu đêm và cuối đêm thường tu Tam muội. Xa rời các chướng ngại do phiền não. Phát sinh các thiền định. Không cảm thọ ý vị trong thiền. Rời bỏ sắc tướng hư hoại. Biết được tướng bất tịnh. Không tham giữ năm ấm. Không đắm theo người tám giới. Không vướng vào mười hai nhập. Không cậy vào giòng họ. Phá tan kiêu mạn. Tâm thường rỗng lặng đối với tất cả các pháp. Sinh ý tưởng bà con thân thuộc đối với các chúng sinh. Không thủ chấp giới. Không phân biệt định. Cần phải chịu khó học nhiều. Nhờ học nhiều mà biết rộng nhưng không kiêu mạn. Đối với các pháp không nghi ngờ gì. Không làm trái với Chư Phật. Không ngược với pháp. Không phá hoại Tăng. Thường đến với các bậc Hiền Thánh. Xa rời với hạng phàm phu. Thích bàn luận về pháp xuất thế gian. Tu sáu pháp hòa kính. Thường tu tập năm lónh vực giải thoát. Trừ bỏ chín điều sân hận buồn phiền. Đoạn trừ tám pháp giải đãi. Tu tập tám pháp tinh tiến. Thường quán xét chín tướng. Đạt được tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân. Đầy đủ mọi thiền định Tam muội. Đối với thiền định này không có gì tham đắm không có gì đạt được. Chuyên tâm nghe pháp. Hủy hoại tướng của năm ấm. Không trú vào sự tướng. Hết sức sợ hãi sinh tử. Sinh ý tưởng giặc thù đối với năm ấm. Ở trong các nhập. Sinh ý tưởng tụ tập trống không. Ở trong bốn đại, sinh ý tưởng rắn độc. Ở trong Niết bàn sinh ý tưởng vắng lặng, ý tưởng an ổn vui vẻ. đức. Ở trong dục sinh ý tưởng đàm dãi, tâm mong rời khỏi. Không trái lời Phật dạy. Không hề tranh cải đối với tất cả chúng sinh. Giáo hóa chúng sinh khiến họ được an trú trong hết thảy công Lại nữa: Quả báo của Tam muội như vậy, Bồ tát cần phải biết rõ ràng. Bồ tát thực hành Tam muội Bát chu này, quả báo đạt được cũng nên biết. Hỏi: Tu tập Tam muội này cảm được quả báo gì? Đáp: Đạt được quả báo không thối chuyển đối với đạo Vô thượng. Lại nữa, như kinh giải thích về quả báo: “Đức Phật bảo với Bồ tát Bạt- đà-bà-la: Ví như có người có năng lực đập nát đất đá trong ba ngàn thế giới, tất cả đều thành bụi nhỏ, đồng thời cỏ cây hoa lá và hết thảy các vật vốn có trong ba ngàn Đại thiên thế giới đều làm thành bụi nhỏ. Này Bạt-đà-bà-la! Lấy một hạt bụi nhỏ làm một thế giới Phật, có tất cả thế giới như vậy đều chứa đầy châu báu tuyệt diệu trong đó, lấy châu báu ấy để Bố thí. Này Bạt-đà-bà-la! Ý ông nghó thế nào? Người này nhờ vào nhân duyên Bố thí này, có được nhiều phước hay không? Bạt-đà- bà-la thưa: Rất nhiều: thưa Đức Thế Tôn! Đức Phật dạy: Này bạt-đà- bà-la! Nay Ta nói lời chân thật với ông, nếu có người thiện nam, được nghe Chư Phật hiện ở trước mắt thuyết về Tam muội, mà không kinh sợ thì phước ấy vô lượng; huống là tin nhận giữ gìn đọc tụng giải thích cho người khác, huống gì là định tâm tu tập, trong khoảng thời gian rất ngắn ư? Này Bạt-đà-bà-la! Ta nói phước đức của người này hãy còn không có giới hạn, huống là người có thể thành tựu Tam muội này ư? Đức Phật lại bảo với Bạt-đà-bà-la: Nếu có người thiện nam-người thiện nữ nào, thọ trì đọc tụng nói cho người khác biết, nếu lúc kiếp tận diệt giả sử vào lửa này thì ngọn lửa lập tức tắt ngậm. Này Bạt-đà-bà-la! Người trì Tam muội này, nếu xảy ra sự cố tai họa, hoặc gặp phải giặc thù, các loài sư tử-hổ lang-ác thú-rồng độc và các loài sâu độc…, hoặc gặp nạn Dạ-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-xà…, hoặc người ác và loài phi nhân…, mà hại đến thân, hoặc hại đến mạng, hoặc hủy phạm giới, thì không hề có điều này. Nếu đọc tụng giảng nói cho người thì cũng không có gì suy tổn buồn phiền, chỉ trừ ra nghiệp báo nhất định phải nhận chịu. Lại nữa, này Bạt-đà-bà-la! Lúc Bồ tát thọ trì đọc tụng Tam muội này, nếu mắc phải bệnh mắt-tai-mũi-lưỡi-miệng-răng, bệnh vì gió lạnh…, hoặc đủ loại những bệnh khác như vậy, bởi vì bệnh này mà mất thọ mạng, thì không bao giờ có điều này, chỉ trừ ra nghiệp báo nhất định phải nhận chịu. Lại nữa, này Bạt-đà-bà-la! Nếu người thọ trì đọc tụng Tam muội này, thì được chư Thiên bảo vệ, các loài rồng, Dạ-xoa, Ma-hầu-la-già, người và phi nhân, Tứ thiên vương, Đế thích, Phạm Thiên Vương, Chư Phật Thế Tôn đều cùng hộ niệm. Lại nữa, người này đều được chư Thiên cùng yêu mến, cho đến Chư Phật đều cùng yêu mến! Lại nữa, người này đều được chư Thiên cùng ca ngợi, cho đến Chư Phật cũng cùng ca ngợi, cho đến Chư Phật cũng cùng khen ngợi. Lại nữa, chư Thiên đều muốn gặp Bồ tát này mà đến trú xứ ấy, cho đến Chư Phật muốn thấy Bồ tát mà đến trú xứ của họ. Lại nữa, Bồ tát này thọ trì Tam muội này, thì kinh nào chưa được nghe tự nhiên sẽ được nghe. Lại nữa, Bồ tát này đạt được Tam muội này, thậm chí trong mộng cũng có được những điều lợi ích như vậy. Này Bạt-đà-bà-la! Nếu Ta trải qua một kiếp hoặc giảm một kiếp, nói về công đức của Bồ tát thọ trì độc tụng Tam muội này, thì cũng không thể nào hết được, huống gì là nói đến Bồ tát được thành Tam muội này? Này Bạt-đà-bà-la! Như người ở trong trăm năm, thân thể sức lực nhanh nhẹn đi nhanh như gió, người này trăm năm đi không dừng nghỉ, thường xuyên đi đến các phương Đông-Tây-Nam-Bắc, bốn góc và trên dưới, ý ông nghó thế nào, mười phương mà người này đi qua có người nào có thể tính biết số dặm đường đi hay không? Bạt-đà-bà-la thưa: Không thể tính được, chỉ ngoại trừ Như Lai, Xá-lợi-phất và các vị A duy việt trí, người khác không có thể biết được. Này Bạt-đà-bà-la! Nếu có người thiện nam-người thiện nữ nào, đem vàng ròng chứa đầy trong trú xứ sinh hoạt của người này mà Bố thí. Nếu có người chỉ nghe Tam muội này, dùng bốn loại tùy hỷ hồi hướng cho đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, thường cầu nghe nhiều. Như Chư Phật quá khứ lúc thực hành Bồ tát đạo tùy hỷ với Tam muội này, mình cũng như vậy. Như Bồ tát hiện tại đang tùy hỷ với Tam muội này, mình cũng như vậy. Như Chư Phật vị lai lúc thực hành Bồ tát đạo tùy hỷ với Tam muội này, mình cũng như vậy. Như Tam muội mà Bồ tát Quá khứ-vị lai-hiện tại thực hành, mình cũng tùy hỷ; đều vì được nghe nhiều, mình cũng như vậy vì cầu nghe nhiều cho nên tùy hỷ với Tam muội này. Này Bạt-đà-bà-la! Phước đức tùy hỷ này, thì phước đức Bố thí trên trăm phần không bằng một, trăm ngàn vạn ức phần không bằng một, thậm chí toán số thí dụ vốn không thể nào sánh kịp. Tam muội này đạt được quả báo vô lượng vô biên như vậy”. Lại nữa: Trú xứ thuộc về Tam muội này, Có sai khác giữa ít-vừa-nhiều, Đủ tất cả các tướng như vậy, Đều cần phải luận bàn phân biệt. Trú xứ của Tam muội này, có tướng ít-tướng vừa-tướng nhiều, các loại như vậy cần phải phân biệt, biết về điều này thì cần phải giải thích. Trú xứ, Tam muội này hoặc ở sơ thiền có thể đạt được, hoặc là thiền thứ hai-thiền thứ ba-thiền thứ tư có thể đạt được, hoặc là trung gian Sơ thiền đạt được thế lực, có thể phát sinh Tam muội này. Hoặc là ít thì người ít thế lực cho nên gọi là ít, lại trú không bao lâu cho nên gọi là ít, lại thấy một số thế giới của Phật cho nên gọi là ít. Vừa và nhiều cũng như vậy. Nói về Tam muội này thì hoặc là có giác-có quán, hoặc là không có giác-chỉ có quán, hoặc là không có giác-không có quán; hoặc tương ưng với khổ, hoặc tương ưng với vui, hoặc tương ưng với không khổ- không vui. Hoặc có hơi thở ra vào, hoặc không có hơi thở ra vào; hoặc chắc chắn là tính thiện, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu. Hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc hệ thuộc cõi Vô sắc; hoặc chẳng phải cõi Dục, hoặc chẳng phải cõi Sắc, hoặc chẳng hệ thuộc cõi Vô sắc. Tam muội này là tâm sở pháp, tâm tương ưng, pháp tùy tâm hành, pháp cùng tâm sinh, chẳng phải hiện có, năng duyên, chẳng phải nghiệp, nghiệp tương ưng, tùy nghiệp hành, chẳng phải báo của quả do nghiệp đời trước, ngoại trừ báo của nhân. Có thể tu-có thể biết-có thể chứng, cũng do thân mà chứng- cũng do tuệ mà chứng, hoặc có thể đoạn-hoặc không có thể đoạn, hữu lậu thì nên đoạn, vô lậu không có thể đoạn. Thấy-biết cũng như vậy, không hợp với bảy giác. Tất cả các nghĩa phân biệt về Tam muội như vậy, đều thuận theo đã nói trong này. Lại nữa, tu tập Tam muội này thì được thấy Chư Phật. Như nói: Có thể trông thấy Chư Phật rồi, Tâm thường xuyên cung kính cúng dường, Thiện căn được dần dần tăng mạnh, Có năng lực hóa độ chúng sinh. Cúng dường gọi là tâm ý thanh tịnh, cung kính hoan hỷ nghó đến Phật có vô lượng công đức, dùng các loại ca ngợi, gọi là miệng chúng sinh; lễ lạy tôn kính-dâng cúng hoa hương…, gọi là thân cúng dường. Vì vậy phước đức ngày càng tăng thêm, như hạt giống nằm trong đất được mưa tưới thấm nảy mầm lớn lên; nhanh chóng giáo hóa khiến cho chúng sinh an trú trong ba Thừa. Như vậy Bồ tát được tăng trưởng thiện căn đầy đủ. Dùng hai loại nhiếp pháp đầu tiên, Thâu nhiếp tiếp nhận các chúng sinh, Còn lại hai nhiếp pháp ở sau, Chưa hết thì có thề tin nhận. Hai nhiếp pháp đầu là Bố thí, Ái ngữ. Hai nhiếp pháp sau là Lợi ích, Đồng sự. Bồ tát ở địa thứ nhất, bởi vì không có thể hiểu hết được, cho nên chỉ có thể tin nhận. Lúc bấy giờ đem các thiện căn, Hồi hướng cho Phật đạo vô thượng, Như quặng tinh luyện thành vàng ròng, Thuần thục thì có thể sử dụng. Được tinh luyện bằng ngọn lửa trí tuệ, cho nên ở trong mọi việc mà Bồ tát thực hành, thiện căn thành thục thì có thể sử dụng tốt đẹp hơn. -------------------------- <詞>Phẩm 26: THÍ DỤ, Phần 1 Bồ tát này thuận theo nghe biết, Tướng của địa đạt được quả tu, Vì đạt được các phần của địa, Cho nên chịu khó hành tinh tiến. Tướng là tướng mạo, dựa vào tướng mạo để biết được. Đắc là thành tựu, nhờ vào pháp này cho nên gọi là thành tựu pháp này. Tu có nghĩa là cần phải tu và thực hành tu. Thường nghó đến quả, là từ trong nhân mà có sự thành tựu gọi là quả. Bồ tát này mong muốn đạt được công hạnh của mười địa, thuận theo cố gắng nghe về tướng đạt được quả tu tập. Nghe là được nghe mọi điều từ Chư Phật và Bồ tát, hơn hẳn những gì mà mình đã có. Vì đạt được các phần của địa, là bởi vì đạt được phần vị của địa này, cho nên chịu khó thực hành tinh tiến. Tướng của địa thứ nhất trong này, như trước đã nói: Bồ tát đang ở địa thứ nhất, Có nhiều điều có thể tiếp nhận, Không thích gì mọi điều tranh cãi, Tâm tư quả thật là vui sướng. Luôn luôn vui với lòng thanh tịnh, Tâm Bi mẫn thương xót chúng sinh, Không có tâm sân hận nóng này, Thực hành nhiều về bảy điều này. Bởi vì có thể tiếp nhận bảy pháp như không tranh cãi-vui sướng- thanh tịnh-tâm Bi mẫn-không sân hận…, cho nên thành tựu tướng mạo của địa thứ nhất. Có thể tiếp nhận bảy pháp như vậy, gọi là đạt được. Vả lại, có thể tiếp nhận tướng của bảy pháp, tức là đạt được địa thứ nhất. Như kệ nói: Nếu gieo trồng thiện căn sâu dày, Khéo thực hành đối với các hạnh, Khéo gom mọi vật dụng sinh hoạt, Luôn cung kính cúng dường Chư Phật, Được hàng thiện tri thức bảo vệ, Đầy đủ đối với tâm sâu sắc, Tâm Bi mẫn nghó đến chúng sinh, Tin hiểu đối với pháp vô thượng. Có đủ tám pháp như vậy rồi, Cần phải tự mình phát lời nguyện, Con đã đạt được pháp tự độ, Nên trở lại hóa độ chúng sinh. Bởi vì đã đạt được mười lực, Tiến vào trong phần vị Tất định, Thì sanh vào nhà của Như Lai, Không còn có những lỗi lầm gì. Lập tức chuyển con đường thế gian, Tiến vào con đường xuất thế gian, Từ đây đạt được địa thứ nhất, Địa này gọi là địa Hoan hỷ. Vì vậy nên biết rằng, vì Bồ đề cho nên đạt được tâm quyết định, gọi là địa thứ nhất có được danh xưng tu tập. Từ lúc mới phát tâm cho đến lúc thành tựu Tam muội Chư Phật hiện tiền, ở trong thời gian ấy nói đầy đủ về các công đức của địa, có thể phát sinh những công đức này, phát sinh rồi tu tập làm cho tăng trưởng, gọi là địa thứ nhất. Quả tu tập, trước đã nói khắp nơi, có được bao nhiêu phước đức, không hồi hướng cho địa Thanh văn và Bích-chi-Phật. Nay cần phải nói lại. Bồ tát đạt được quả của địa thứ nhất, có thể đạt được rất nhiều loại Định của Bồ tát. Phần vị của địa thứ nhất, là tất cả các pháp hợp lại làm thành địa thứ nhất, gọi là các phần. như men-gạo… trộn lẫn có thể làm thành rượu, gọi là nhân duyên của rượu. Tất cả các pháp có thể thành tựu địa thứ nhất, gọi là phần vị của địa thứ nhất. Đó là: Tín lực ngày càng tăng mạnh hơn, Thành tựu tâm Đại Bi vô thượng, Từ mẫn đối với mọi chúng sinh, Tu dưỡng thiện tâm không mỏi mệt, Vui thích đối với pháp vi diệu, Thường gần gũi hàng thiện tri thức, Luôn luôn tàm quý và cung kính, Tâm hài hòa mềm mỏng dịu dàng. Thích quan sát pháp không chấp trước, Dốc lòng mong cầu được nghe nhiều, Không tham lam đối với lợi dưỡng, Rời xa gian dối và dua nịnh. Không làm bẩn ngôi nhà Chư Phật, Không phá giới và lừa dối Phật, Hết sức vui với Tát-bà-nhã, Bất động như ngọn núi sừng sững, Luôn luôn vui thực hành tu tập, Pháp vi diệu ngày càng lên cao, Vui với các pháp xuất thế gian, Không vui với những pháp thế gian. Tức là sửa trị địa Hoan Hỷ, Khó trị mà có thể sửa trị, Vì vậy cho nên thường nhất tâm, Chịu khó thực hành những pháp này. Bồ tát có năng lực thành tựu, Pháp vi diệu trên cao như vậy, Thì có thể tự nhiên an trú, Trong địa thứ nhất của Bồ tát. Hỏi: Bồ tát đâu cần phải nghe về những tướng của địa thứ nhất này làm gì? Đáp: Bồ tát này đối với pháp trong những của địa thứ nhất, cần phải khéo léo biết rõ phương tiện, vì vậy cần phải nghe. Hỏi: Bồ tát chỉ cần ở trong pháp này, khéo léo biết rõ phương tiện, hay là tiếp tục ở trong những pháp khác cũng khéo léo biết rõ phương tiện? Đáp: Trong các pháp này cần phải khéo léo biết rõ phương tiện, cũng khéo léo biết rõ phương tiện đối với pháp khác. Hỏi: Nếu như vậy thì có thể giải thích sơ lược hay không? Đáp: Có pháp có thể hỗ trợ địa, Có pháp trái ngược đối với địa, Có pháp có thể sinh trưởng địa, Có pháp có thể hủy hoại địa. Có tướng của quả thuộc các địa, Có đạt được ở trong các địa Phần vị thanh tịnh của các địa, Từ địa này đến một địa khác. Trú trong địa ngày càng tăng thêm, Không có gì có thể làm lui sụt, Từ địa thanh tịnh của Bồ tát, Đến Phật địa vô lượng công đức. Ở trong tất cả những điều này, Nên khéo léo biết rõ phương tiện, Thưa hỏi những người có thiện trí, Trừ bỏ tất cả mọi kiêu mạn. Pháp hỗ trợ cho địa thứ nhất, đó là Tín-Giới-Văn-Xả-Tinh tiến- Niệm-Tuệ… Những pháp như vậy và các pháp khác tùy thuận với địa thứ nhất, thì gọi là pháp hỗ trợ. Pháp trái ngược là không tin-phá giới-ít nghe-tham keo-lười nhác- loạn niệm-không có trí tuệ…, và những pháp khác không tùy thuận, không có thể hỗ trợ cho địa thứ nhất. Pháp hủy diệt địa, là pháp có thể làm cho địa này bị lui sụt, bị chướng ngại không hiện bày rõ ràng. Như lúc kiếp tận diệt thì vạn vật đều bị hủy diệt. Thế nào gọi là pháp có thể trộm mất tâm Bồ đề, điều này đã nói trước đây. Pháp sinh trưởng địa, là pháp có thể pháp sinh- có thể thành tựu địa thứ nhất, đó gọi là pháp không trộm mất tâm Bồ đề, điều này trước đây đã nói. Tướng của địa-đạt được quả-phần vị của địa, ở trên đã nói. Pháp thanh tịnh, là dùng pháp này có thể làm cho địa thứ nhất được thanh tịnh, đó là những pháp đã nói như trước. Bảy pháp trong địa thứ nhất: Bồ tát đang ở địa thứ nhất, Có nhiều điều có thể tiếp nhận, Không thích gì mọi điều tranh cãi, Tâm tư quả thật là vui sướng. Luôn luôn vui với lòng thanh tịnh, Tâm Bi mẫn thương xót chúng sinh, Không có tâm sân hận nóng nảy, Thực hành nhiều về bảy điều này. Bảy pháp như vậy có thể sửa trị làm thanh tịnh cho địa thứ nhất. Từ một địa đến một địa, như từ địa thứ nhất đến địa thứ hai đạt được mười tâm như không dua nịnh quanh co… Từ địa thứ hai đến địa thứ ba dạy được mười tâm như Tín-Lạc… Đạt được các loại tâm-các loại pháp như vậy, cho nên có thể từ một địa đến một địa. Trú trong địa ngày càng tăng thêm, như trong địa thứ nhất thực hành Bố thí Ba-la-mật, trong địa thứ hai thực hành trì giới Ba-la-mật, và các pháp như Tín-Lạc… ngày càng có được thế lực; trong địa thứ ba thì thực hành nghe nhiều, và Bố thí-Trì giới-Tín… ngày càng có được thế lực, trong các địa khác cũng như vậy. Không gì có thể làm lui sụt, là trú trong địa này, hoặc Sa-môn hay Bà-la-môn, hoặc Thiên-Ma-Phạm và mọi loài khác trong các thế gian, không có gì có thể làm cho lay chuyển. Tại vì sao? Bởi vì đạt được sức mạnh của công đức to lớn, đi sâu vào tận cùng pháp tính, tin hiểu vô cùng sâu sắc. Từ địa thanh tịnh của Bồ tát đến vô lượng Phật địa, là nếu như Bồ tát đầy đủ tất cả các địa thanh tịnh rồi thì đến được Phật địa. Ở trong tất cả những điều này, đều cần phải khéo léo biết rõ phương tiện. Thưa hỏi những người có thiện trí, có năng lực thành tựu chính pháp cho nên gọi là người thiện trí. chính pháp thì nói tóm lược là Tín, Tinh tiến, Niệm, Định, tuệ, thân miệng ý luật nghi và không tham-không sân-không si. Trừ bỏ tất cả mọi kiêu mạn, tự cho là mình hơn hẳn ở trong những người hơn hẳn, gọi là Đại mạn, ở trong những người tài giỏi như mình mà tâm tự cao, gọi là kiêu mạn; lớn không bằng người khác mà nói mình nhỏ bé không bằng người, gọi là Tiểu mạn. Hỏi: Ông nói ở trong tất cả những pháp này cần phải khéo léo biết rõ phương tiện, thì có được phương tiện này dùng để làm gì? Đáp: Nếu Bồ tát khéo léo biết rõ, Các loại Tướng-Đắc trong các địa, Không thể nào thành tựu Phật đạo, Cuối cùng không chuyển địa thứ nhất. Tướng gọi là bảy pháp cùng hỗ trợ cho các địa; Đắc gọi là pháp trái ngược nhau, có tám loại như Diệt…, là tám pháp không nên thực hành. Nếu Bồ tát khéo léo biết rõ pháp này không đạt được Phật đạo, thì cuối cùng cũng không thối chuyển.  <卷>QUYỂN 13 Phẩm 26: THÍ DỤ, Phần 2 Hỏi: Khéo léo biết rõ những pháp này, không đạt được Phật đạo nhưng cuối cùng cũng không lui sụt, điều này nói rõ thế nào? Đáp: Như người dẫn đường nhiều tài năng, Khéo léo biết rõ tướng đường tốt, Nơi chốn này và nơi chốn kia, Chuyển đổi đường đi cho thích hợp. Lương thực và đồ dùng đi lại, Tất cả đều chuẩn bị đầy đủ, Ở trong con đường nguy hiểm ấy, Làm cho mọi người được yên ổn, Đến được chốn thành ấp rộng lớn, Có thể khiến mọi người không lo, Nhờ người dẫn đường tài giỏi này, Có năng lực khéo biết đường đi. Khéo léo biết chuyển đổi các địa, Đầy đủ tất cả pháp trợ đạo, Bồ tát khéo léo biết rõ đạo, Nơi này nơi kia tốt hay xấu. Từ vượt qua hiểm nạn sinh tử, Còn dẫn dắt cho nhiều chúng sinh, Khiến đến được nơi chốn yên ổn, Vào khu thành Niết bàn vô vi. Khiến cho xa lìa mọi khổ nạn, Không còn gặp phải những đường ác, Bồ tát dùng năng lực phương tiện, Luôn luôn khéo léo biết đường đi. Tướng đường tốt, là con đường có nhiều củi đun-đồng cỏ và nguồn nước, không có giặc cướp-hổ lang-sư tử và các loài thuộc về thú dữ-sâu bọ độc hại, không lạnh lẽo-không nóng bức, không có núi cao-hang sâu, khe suối nguy hiểm-rừng rậm âm u-gai góc cản lối, cũng không có cao thấp mà bằng phẳng, thẳng tắp thông suốt ít có đường rẽ, rộng rãi thoáng đãng để cho nhiều người đi lại và nghỉ chân, đi mà không chán nản mệt mỏi, có nhiều hoa trái và những vật có thể ăn. Những điều như vậy gọi là tướng con đường tốt lành, ngược lại với tướng này thì gọi là tướng xấu ác. Nơi này gọi là nơi mọi người dừng lại nghỉ ngơi ăn uống. Nơi kia gọi là từ nơi này đến nơi khác, hoặc ở giữa hai nơi trú ngụ cũng gọi là nơi khác. Chuyển đường có nghĩa là thấy có đường rẽ. Đến khu thành rộng lớn, là nên đi đường này mà nên bỏ những đường khác. Từ lương là những thức ăn trên đường đi như bột rang trộn mật-bánh khô… Đại lực là thế lực mạnh mẽ, có nhiều tiền bạc của cải, hiểu thông thạo cách thức sửa trị. Chuẩn bị đầy đủ là có nhiều đồ ăn thức uống, không có gì thiếu hụt. An là không có những sự cố do giặc cướp làm cho sợ hãi. Ổn là không có bệnh tật-đau khổ-lo sợ suy sụp, khu thành rộng lớn là nơi chứa được nhiều người, có thể khiến cho nhiều người đến được khu thành rộng lớn, người dẫn đường hiểu thông thạo tướng trạng của con đường để chính mình không gặp hoạn nạn, cũng làm cho mọi người không xảy ra hoạn nạn gì. Vốn am hiểu thông thạo con đường, cho nên không có những tai họa do lạnh lẽo, nóng bức, đói ăn-khát uống, giặc cướp-kẻ thù, thú dữ-sâu độc, núi cao-sông sâu, hầm hố gai góc… làm cho tổn hại. Tại vì sao? Bởi vì biết thông thạo tướng trạng tốt xấu của con đường. Lấy điều này để dụ cho địa Hoan Hỷ cùng tất cả mười địa. Như người đi trên đường, đi mãi không dừng lại thì có thể đến được khu thành rộng lớn. Như vậy Bồ tát thực hành mười địa này, đến được pháp của Phật mà tiến vào khu thành Niết bàn rộng lớn. Như con đường tốt đẹp kia có nhiều củi đun-đồng cỏ và nguồn nước…, người đi trên đường ấy không thiếu thốn gì. Đồng cỏ-nguồn nước có nghĩa là như người cỡi ngựa đi đường xa, có nhiều cỏ ngon-nước mát làm cho sức ngựa mạnh mẽ thêm, công đức của đạo mười địa cũng như vậy. Đế-xả-Diệt-Tuệ là bốn thắng xứ, hỗ trợ các công đức cho nên gọi là cỏ. Tại vì sao? Bởi vì như người coi trọng đối với sự thật thì vui lòng thuận theo lời chân thật, nên gần gũi người nói lời chân thật, thấy thật sự có lợi ích mà vui lòng thuận theo sự thật; rất ghét nói dối mà rời xa nói dối, thấy lỗi lầm nói dối cho nên không muốn nghe. Những nhân duyên như vậy đạt được thắng xứ của Đế, ba thắng xứ của Xả-diệt-Tuệ cũng nên biết như vậy. Như con đường tốt đẹp kia cần phải có các loài voi-ngựa-trâu-lừa mới đến được khu thành rộng lớn nhờ vào cỏ trợ giúp thành tựu được sức mạnh của chúng. Bốn thắng xứ là Đế-Xả-Diệt-Tuệ cũng như vậy, có năng lực khiến cho đến được pháp của Phật mà tiến vào khu thành rộng lớn của Niết bàn. Củi đun có nghĩa là nhiều Văn-Tư-Tu tuệ có năng lực đạt đến sự nghiệp trí tuệ vó đại, như củi đun có thể làm cho lửa cháy, cũng làm cho bừng cháy mạnh mẽ. Như vậy Văn-Tư-Tu tuệ có năng lực phát sinh trí tuệ vó đại, có năng lực làm cho tăng trưởng. Như ngọn lửa có thể đốt cháy, có thể đun nấu, có thể chiếu sáng; ngọn lửa trí tuệ cũng như vậy, đốt cháy những phiền não, thành thục những thiện căn, chiếu sáng bốn Thánh đế. Như ngọn lửa là trí tuệ, củi đun là các pháp có năng lực phát sinh trí tuệ. Nhiều nguồn nước có nghĩa là có nhiều dòng sông-khe suối rộng lớn, tùy ý lấy sử dụng đầy đủ cho mọi người, khe nhỏ-giống hồ vốn không có thể như vậy. Vả lại, nhiều nguồn nước thì giống như người đi thuyền thuận theo dòng nước mà đến được khu thành rộng lớn, nước của giếng hồ đầm ao thì không có thể được như vậy. Như kinh nói: “Niềm tin là sông lớn, phước đức là bờ sông. Như dòng sông trừ được nóng bức-trừ cơn cháy khát- trừ sạch dơ bẩn, luôn luôn phát sinh thế lực; niềm tin trong thiện pháp cũng như vậy, có năng lực diệt hết nóng bức của ba độc, trừ bỏ dơ bẩn của ba ác hạnh, trừ bỏ khát ái của ba cõi, là Niết bàn rỗng lặng”. Ở trong thiện pháp có được thế lực, như con đường tốt đẹp kia có nhiều loại cỏ thuốc-cây mát thì người đi đường không thiếu thốn gì; đạo của mười địa cũng như vậy. Căn có nghĩa là sự yêu quý sâu sắc trong tâm, như có gốc rễ thì sinh ra mầm non, lớn lên thành thân cành nhánh lá và các loại hoa trái. Tâm hết sức yêu quý đạo, phát sinh các công đức của chính ức niệm- đại nguyện… Cỏ thuốc có nghĩa là các Ba-la-mật, như cỏ thuốc có năng lực diệt trừ các độc tố, các Ba-la-mật là cỏ thuốc diệt trừ độc tố của tham-sân-si và các bệnh phiền não cũng lại như vậy. Như con đường tốt đẹp kia không lạc mất phương hướng (Vi-bà- đà) thì đi đường được yên ổn. Vi-bà-đà thời Tần nói là Vô Đối nghĩa, chính là dấu hiệu dẫn đường (Phù hịch). Như người đi đường không lạc mất dấu hiệu dẫn đường, thì nơi muốn đến không có gì chướng ngại; đạo của người địa cũng như vậy, không lạc mất phương hướng thì đến được nơi chốn, đi qua các địa mà tích tụ thiện căn thì có thể tùy ý hỗ trợ thành tựu. Tăng trưởng thiện căn hiện tại, người ấy còn có năng lực giáo hóa cho chúng sinh thuộc đạo Thanh văn, đạo Bích-chi-Phật và đạo chư Thiên cõi Dục-cõi Sắc, khiến được trú trong Phật đạo, hoặc là ma-hoặc ngoại đạo không có thể làm rối loạn được, đó gọi là không lạc mất phương hướng. Như con đường tốt đẹp kia không có các loại ruồi muỗi-sâu bọ độc hại, đạo của mười địa cũng như vậy, không có tiếng khóc lóc ưu sầu. Như con đường tốt đẹp kia không có nạn giặc cướp, đạo của mười địa cũng như vậy, không có giặc năm cái và các loại giặc phiền não xấu ác. Như Đức Phật bảo với Tỳ-kheo: “Giặc cướp xóm làng, đó gọi là năm Cái. Như giặc cướp, trước tiên cướp đoạt đồ vật của người, sau đó mới làm hại mạng sống; giặc năm cái cũng như vậy, trước tiên chúng cướp đoạt thiện căn, sau mới đoạn mất tuệ mạng, sẽ bị rơi vào hố phóng dật mà chết. Như giữa con đường không có sư tử-hổ báo và các loài thú dữ, đạo của mười địa cũng như vậy, không có sự sân hận-tranh chấp. Như sư tử cùng các loài thú dữ thường làm não hại loài khác, sân hận cũng làm não hại người khác, chúng sinh vốn cũng lại như vậy. Như các loài thú dữ ăn thịt uống máu, sân hận cũng ăn thịt của tuệ đa văn- uống máu của tu tuệ…, cũng lại như vậy. Như con đường tốt đẹp kia không có những tai họa xấu của hạnh lạnh lẽo-nóng bức, đạo của mười địa như vậy, không rơi vào địa ngục băng giá cho nên không có tai họa ác hiểm của lạnh lẽo, không rơi vào địa ngục lửa thiêu cho nên không có tai họa ác hiểm của nóng bức. Như con đường tốt đẹp kia không có những hiểm nạn của hố sâu- hang tối…, đạo của mười địa cũng như vậy, không có những hiểm nạn khổ hạnh của các ngoại đạo đó là ngâm thân vào trong băng giá, nhổ râu tóc, ngày tắm ba lần, đứng co một chân, ngày ăn một bữa, hai ngày ăn một bữa, thậm chí một tháng ăn một bữa, im lặng đến chết, thường đưa một cánh tay lên cao, thường thực hành nhẫn nhục, nằm hơi nóng nướng thân, nằm trên gai nhọn, vào trong lửa, ngâm trong nước, từ trên núi cao lao xuống, đứng trong lò sâu dùng phân trâu đốt cháy thân thể, đi thằng về một phía không tránh mọi tai nạn, thường mặc áo quần ướt, thường nằm trong nước…, làm cho thân tâm đau khổ vô cùng nhưng không đạt được chính trí. Không có những điều như vậy cho nên gọi là không có hiểm nạn. Như con đường không có ngã rẽ quanh co, đạo của mười địa cũng như vậy, không có ác nghiệp của thân miệng ý, cho nên gọi là không có ngã rẽ quanh co. Như con đường không có gai góc, đạo của mười địa cũng như vậy, không có gai góc của các nghiệp chướng, cho nên gọi là không có gai góc. Như gai nhọn đâm vào chân thì đường đi bỏ dở nửa chừng, gai góc của nghiệp chướng làm trở ngại sự thực hành pháp Phật tiến vào cõi Niết bàn. Như con đường thẳng tắp, đạo của mười địa cũng như vậy, không có tất cả mọi tâm lý dua nịnh lừa dối quanh co, cho nên gọi là thẳng tắp. Như con đường ít ngã rẽ, đạo của mười địa cũng như vậy, rất ít có những đạo lý kỳ dị. Tại vì sao? Bởi vì phát tâm Đại thừa thì ít thực hành theo đạo lý của Thanh văn và Bích-chi-Phật, cho nên rất ít có những đạo lý kì dị. Hoặc có Bồ tát thực hành đạo lý của Nhị thừa, thì nên biết rằng chưa đến phạm vi của Bồ tát, chưa tiến vào phần vị chính thức, mà thực hành công hạnh gần phạm vi của Bồ tát. Như con đường tốt đẹp kia không có những rừng rậm làm trở ngại, đạo của mười trú cũng như vậy, không có những rừng rậm của ác nghiệp và năm dục. Hỏi: Tại sao không nói là cũng không có rừng rậm của năm dục, mà chỉ nói là không có rừng xấu ác? Đáp: Người phát tâm Đại thừa, là nhân duyên phước đức có được năm dục bậc nhất, vì vậy không thể nói là không có, mà chỉ nói không có ác nghiệp thôi. Vả lại, như rừng rậm hun hút, khó tiến vào và khó vượt qua vì có nhiều tai họa làm chướng ngại, năm dục của Bồ tát thì không phải như vậy, không giống như phàm phu đối với năm dục sinh ra những lỗi lầm tai họa, như vậy cho nên chỉ nói là không có rừng rậm. Như con đường rộng rãi thoáng đãng, chứa được nhiều người không làm trở ngại cho nhau, đạo của mười trú cũng như vậy, tiếp nhận được rất nhiều, vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh cùng phát tâm đạo vô thượng mà không làm trở ngại đến nhau. Trăm ngàn vạn ức chúng sinh này, hoặc tất cả chúng sinh cùng phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác, cùng thực hành đạo lý này nhưng không làm trở ngại cho nhau. Như con đường nhiều người đi lại, đạo của mười trú cũng như vậy, hằng hà sa số Chư Phật quá khứ và hiện tại, lúc thực hành Bồ tát đạo đều thực hành đạo lý này. Như con đường tốt đẹp kia, người đi không mệt mỏi chán nản, đạo của mười trú cũng như vậy, có nhiều những niềm vui của nhân quả, đó gọi là nhiều đời thọ nhận quả báo trong đường trời-người, vui với sự ly dục cho nên thọ nhận niềm vui hoan hỷ-niềm vui thiền định-niềm vui vô hỷ-niềm vui hiện tại, có được những niềm vui này cho nên không có sự mệt mỏi chán nản. Như con đường tốt đẹp kia có nhiều cây cối hoa trái, đạo của mười trú cũng như vậy, có nhiều cây cối hoa trái. Cây là ba thiện căn, hoa là đóa hoa của bảy giác. Như kinh nói: ‘Bảy hoa chính là bảy giác ý”. Trái chính là bốn quả Sa-môn. Không có những lỗi lầm sai trái ở trên con đường tốt đẹp như vậy, cho nên gọi là xa lìa điều ác. Như người dẫn đường biết rõ trong con đường, trong đoạn này nên ăn uống, nơi này nên dừng chân, chỗ kia cũng nên nghỉ qua đêm; Bồ tát thực hành mười địa cũng như vậy, biết nơi nào có thể nghỉ lại, nơi nào có thể ăn uống. Nơi có thể nghỉ lại gọi là nơi có Chư Phật hiện tại. Nơi có thể ăn uống gọi là nơi có thể tu tập thiện pháp. Như ăn uống luôn luôn có lợi ích cho các căn, cũng giúp cho thọ mạng tồn tại; các thiện pháp cũng như vậy, có năng lực làm lợi ích cho các căn như Tín…, và giúp cho tuệ mạng được thành tựu. Nơi khác cũng có thể nghỉ lại, nghĩa là từ trú xứ Đức Phật ấy đến trú xứ Đức Phật khác. Vả lại, giữa quốc độ của Đức Phật này và quốc độ của Đức Phật kia, cũng gọi là nơi khác. Khéo léo biết thay đổi con đường, như người dẫn đường ấy biết con đường không yên ổn thì lập tức chuyển sang đường khác; Bồ tát cũng như vậy, biết rành mạch là đạo này đến Thanh văn, đạo này đến Bích- chi-Phật, đạo này đến của Phật, biết như vậy rồi rời bỏ đạo Thanh văn và đạo Bích-chi-Phật, chỉ thực hành đạt đến Phật đạo. Như con đường tốt đẹp kia có nhiều ăn thức uống; đạo của mười trú cũng như vậy, thực hành nhiều về Bố thí-trì giới-tu thiền. Như người dẫn đường kia dùng tiền bạc của cải, có năng lực thành thạo các pháp sửa trị, có thế lực to lớn; Bồ tát cũng như vậy, có tiền bạc của cải pháp sửa trị cho nên có thế lực to lớn. Tài vật là bảy loại tài sản, đó gọi là Tín-Giới-Tàm-Quý-Văn-Xả và Tuệ. Pháp sửa trị là tất cả các ma, các loại Sa-môn Bà-la-môn, luận sư ngoại đạo đều có năng lực phá tan làm cho phải khuất phục, đó chính là uy thế. Như khu thành rộng lớn kia không có giặc thù-tật bệnh-chết bất ngờ và các loại khổ não hư hoại, cho nên gọi là an ổn; khu thành Niết bàn rộng lớn cũng như vậy, không có các loại ma quân ngoại đạo, không có những dòng chảy của tham dục-sân hận-phóng dật-chết-ưu bi khổ não-than khóc nỉ non, cho nên gọi là an ổn. Như khu thành rộng lớn kia có nhiều đồ ăn thức uống cho nên gọi là dồi dào đầy đủ; khu thành Niết bàn cũng như vậy, có nhiều pháp sâu xa là thiền định-giải thoát và Tam muội, cho nên gọi là dồi dào đầy đủ. Như khu thành rộng lớn kia tiếp nhận rất nhiều cho nên gọi là rộng lớn. Giả sử tất cả chúng sinh không tiếp nhận các pháp, đều tiến vào Niết bàn vô dư, mà tính Niết bàn không tăng-không giảm. Như người dẫn đường kia có năng lực dẫn dắt nhiều người, khiến cho tất cả được an ổn, bởi vì chỉ rõ con đường tốt đẹp cho nên gọi là người dẫn đường; Bồ tát cũng như vậy, khéo léo dẫn dắt chúng sinh, chỉ rõ chính pháp của Phật, chỉ rõ đạo quả Niết bàn, từ đường hiểm nạn của sinh tử đến được xứ sở Niết bàn, cho nên gọi là bậc Đại Đạo sư. Như người dẫn đường kia biết thông thạo trạng thái của con đường, cho nên mình và những người khác đều không có gì xấu ác; Bồ tát cũng như vậy, tự mình không đi vào hố sâu của tham-sân-si, của các triền cái, của các ác nghiệp-khổ-hạnh-già chết, cũng không rơi vào địa ngục-ngạ quỷ đầy khổ đau của lạnh-nóng bức bách, cho nên gọi là chính mình không gặp phải điều ác mà người đi theo mình cũng không gặp phải điều ác. Vì vậy trong kệ nói: Khéo léo biết rõ tướng trạng của con đường, tự mình không gặp phải điều ác, người khác cũng không gặp điều ác. -------------------------- <詞>Phẩm 27: NÓI GỌN VỀ HẠNH Bồ tát thuộc về địa Hoan Hỷ, Nay đã giải thích sơ lược rồi, Bồ tát an trú trong địa này, Nhiều đời làm vua cõi Diêm Phù. Thường xa rời tham lam keo kiệt, Không mất ý niệm về Tam Bảo, Tâm luôn luôn nguyện được làm Phật, Cứu độ cho tất cả chúng sinh. Địa thứ nhất gọi là Hoan Hỷ, đã giải thích sơ lược rồi. Pháp của Chư Phật là vô lượng vô biên, đều lấy địa này làm gốc. Nếu giải thích rộng ra thì cũng vô lượng vô biên, vì vậy chỉ nói là giải thích sơ lược Bồ tát an trú trong địa này, nhiều đời làm chuyển luân vương có thế lực cai quản cõi Diêm-phù-đề, nhân duyên ở đời trước tu tập địa này, tin và thích Bố thí, không có tâm tham lam keo kiệt, thường cúng dường Tam bảo cho nên không mất ý niệm đối với Tam bảo, thường nghó đến làm Phật để cứu độ cho các chúng sinh. Những ý niệm thiện như vậy luôn luôn ở trong tâm. Lại nữa. Nếu như mong muốn được xuất gia, Tâm chịu khó thực hành tinh tiến, Có thể đạt được nhiều pháp định, Được thấy rất nhiều Phật Thế Tôn, Có thể chấn động nhiều thế giới, Bay đi tự tại cũng như vậy. Nếu như muốn phát ra ánh sáng, Có thể soi chiếu mọi thế giới, Giáo hóa hàng trăm loại chúng sinh, Có thể trí thọ mạng trăm kiếp, Có thể chọn lấy hàng trăm pháp, Có thể biến hóa làm trăm thân, Có thể biến hóa trăm Bồ tát, Thị hiện làm quyến thuộc của mình, Lợi căn vượt qua số lượng này, Nhờ vào thần lực Chư Phật. Đã nói về tướng của Sơ địa, Quả-lực-tịnh và pháp đối trị, Nay sẽ tiếp tục giải thích thêm, Về địa thứ hai là Vô cấu. Quả nghĩa là đạt được hàng trăm pháp định, được thấy hàng trăm Đức Phật… Thế lực, nghĩa là có thể giáo hóa hàng trăm loại chúng sinh. nghĩa còn lại trong kệ đã giải thích ở trước, không cần phải giải thích phần kệ còn lại. Nay sẽ tiếp theo giải thích về địa thứ hai là Vô cấu. Hỏi: Ông muốn giải thích rộng về pháp thực hành của Bồ tát, nghĩa của địa thứ nhất hãy còn nhiều, sợ rằng những người học vì chuyển sang rộng thêm thì sinh tâm lười nhác không có năng lực học thuộc lòng được, vì vậy nay ông nên giải thích sơ lược về các pháp thực hành của Bồ tát cho những người không có năng lực học thuộc lòng nhiều điều, được hay không? Đáp: Tất cả các pháp của Bồ tát, Là pháp đều cần phải thực hành, Tất cả điều ác nên từ bỏ, Đây gọi là giải thích sơ lược. Như trong các phẩm trên đây đã nói, pháp có năng lực phát sinh và có năng lực tăng trưởng của các địa. Như trong các phẩm trên nói, hoặc ở nơi khác nói, đều cần phải làm cho phát sinh thiện căn của Bồ tát, những điều lầm lỗi xấu ác đều cần phải rời xa, đó gọi là nói sơ lược về pháp cần phải thực hành của Bồ tát. Như trong Pháp Cú nói: Đừng làm những điều ác, hãy làm mọi điều thiện, tự thanh tịnh tâm ý, là lời Chư Phật dạy. Có một pháp thâu nhiếp được Phật đạo Bồ tát nên thực hành. Thế nào là một? Đó gọi là ở trong pháp thiện nhất tâm không phóng dật. Như Đức Phật bảo với A-nan: “Ta không phóng dật, cho nên đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác”. Như nói: Không phóng dật mà thành quả Phật, Thế gian không có ai sánh bằng, Nếu như luôn luôn không phóng dật, Thì không có việc gì không thành. Lại có hai pháp có thể thâu nhiếp Phật đạo: Không phóng dật. Trí tuệ. Như nói: Trí tuệ, không bao giờ phóng dật, Phật dạy là cửa ngỏ lợi ích, Không thấy người nào không phóng dật, Mà việc làm không được thành tựu. Lại có ba pháp có thể thâu nhiếp Phật đạo: Giới học thù thắng. Tâm học thù thắng. Tuệ học thù thắng. Như nói: Giới phát sinh Tam muội trước tiên, Tam muội phát sinh được trí tuệ, Trí tuệ phá tan mọi phiền não, Như gió thổi mây trôi bốn phía. Lại có bốn pháp có thể thâu nhiếp Phật đạo: Xứ sở của Đế. Xứ sở của Xả. Xứ sở của Diệt. Xứ sở của Tuệ. Như nói: Đế-xả và định đều đầy đủ, Được trí tuệ sắc bén thanh tịnh, Tinh tiến mong cầu đạo của Phật, Nên tích tụ đủ bốn pháp này. Lại có năm pháp có thể thâu nhiếp Phật đạo: Tín căn. Tinh tiến căn. Niệm căn. Định căn. Tuệ căn. Như nói: Tín căn-Tinh tiến căn-Niệm căn, Định căn và Tuệ căn kiên cố, Pháp này kết hợp với Đại Bi, Cuối cùng không lui sụt Phật đạo. Giống như người có được năm căn, Có năng lực thông suốt năm trần, Như có được các căn Tín-Tiến…, Có thể thông hiểu tướng các pháp. Lại có sáu pháp có thể thâu nhiếp Phật đạo. Đó là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định, Trí tuệ Ba-la-mật. Như nói: Sáu độ như trước đã giải thích, Làm cho các phiền não hàng phục, Luôn luôn tăng trưởng các thiện căn, Không bao lâu sẽ được thành Phật. Lại có bảy pháp có thể thâu nhiếp Phật đạo. Đó là bảy chính pháp: Tín, Tàm, Quý, Văn, Tinh tiến, Niệm Tuệ. Như nói: Muốn có được bảy pháp chân chính, Nên vui với thiền định tinh tiến, Loại bỏ hết bảy pháp tà vạy, Luôn luôn biết rõ các công đức. Người này có năng lực đạt được, Quả vị Phật vô thượng Bồ đề, Cứu người đang chìm trong sinh tử, Đưa đến nơi bến bờ yên ổn. Lại có tám pháp có thể thâu nhiếp Phật đạo. Đó là tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân: Ít ham muốn, biết vừa đủ, xa lìa, tinh tiến, niệm, định, tuệ, vui với không hý luận. Như nói: Nếu người có tâm quyết định trú, Trong tám điều giác bậc Đại nhân, Vì mong cầu thành tựu Phật đạo, Loại bỏ những giác quán xấu ác. Người như vậy thì không bao lâu, Nhanh chóng chứng được đạo Vô thượng, Nếu như người thực hành điều thiện, Chắc chắn cảm được quả tốt đẹp. Lại có chín pháp có thể thâu nhiếp Phật đạo. Đó là Đại Nhẫn, Đại từ, Đại Bi, Tuệ, Niệm, Tâm kiên cố, không có tham, không có sân, không có si. Như nói: Có đầy đủ đối với Đại Nhẫn, Cùng với Đại Từ và Đại Bi, Lại có năng lực trú vào Tuệ, Trong Niệm và Tâm luôn kiên cố, Tâm sâu xa hợp với thiện căn, Không tham-không sân và không si, Nếu người có năng lực như vậy, Thì Phật đạo chắc chắn thành tựu. Lại có mười pháp có thể thâu nhiếp Phật đạo. Đó là mười thiện đạo, tự mình không sát sinh, không bày người khác sát sinh, thấy sát sinh thì tâm không khen ngợi, thấy sát sinh thì tâm không vui, cho đến tà kiến cũng như vậy. Đem phước đức này hồi hướng đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Như nói: Không làm não hại với chúng sinh, Cũng không làm ác nghiệp trộm cướp, Không tà dâm xúc phạm vợ người, Ba điều này là nghiệp của thân. Không nói dối-không nói hai lưỡi, Không nói thô ác-nói thêm bớt, Không tham lam-sân hận-tà kiến, Bảy điều này là nghiệp miệng-ý Như vậy thì có thể mở toang, Cửa ngõ của Phật đạo vô thượng, Nếu người muốn chứng được quả Phật, Nên thực hành pháp này đầu tiên. Những pháp như vậy, Bồ tát nên làm cho phát sinh, phát sinh rồi thì nên giữ gìn, giữ gìn rồi nên làm cho tăng trưởng, đối với một điều thiện làm cho tăng thêm một điều, cũng cần phải biết! Người cầu Phật đạo, đối với một pháp ác phải mau chóng lìa xa, đó là gọi là xa không phóng túng. Như nói: Nếu người không có thể vượt qua, Con đường hiểm ác của sinh tử, Sự việc xấu xa tội lỗi này, Là điều đáng bị chỉ trích nhất. Tuy cầu mong niềm vui giàu có, Mà sinh trong gia đình nghèo hèn, Không có thể gieo trồng phước thiện, Làm tôi tớ cho người sai khiến, Nhân duyên đã dẫn đến khổ quả, Đều bởi vì tự mình phóng túng, Vì vậy cho nên người có trí, Nhanh chóng rời xa như ác độc, Nếu như chưa thành tựu Đại Bi, Pháp nhẫn vô sinh và Bất thối, Mà luôn luôn làm điều phóng túng, Vậy thì gọi là đã chết rồi. Lại có hai lỗi lầm phải nhanh chóng xa lìa: Tham theo Thanh văn thừa. Tham theo Bích-chi-Phật thừa. Như Đức Phật nói: Nếu rơi vào phạm vi Thanh văn, Và phạm vi của Bích-chi-Phật, Thì gọi là Bồ tát đã chết, Cũng gọi là mất đi tất cả. Tuy rơi vào trong chốn địa ngục, Nhưng không cần sinh lòng sợ hãi, Nếu rơi vào phạm vi Nhị thừa, Thì Bồ tát vô cùng sợ hãi. Tuy rơi vào trong chốn địa ngục, Nhưng không vónh viễn ngăn Phật đạo, Nếu rơi vào phạm vi Nhị thừa, Thì cuối cùng ngăn mất Phật đạo. Đức Phật dạy người quý mạng sống, Chặt đầu thì vô cùng sợ hãi, Như vậy mong muốn được làm Phật, Nên vô cùng sợ hãi Nhị thừa. Lại có ba lỗi lầm phải nhanh chóng xa lìa: Ghét các vị Bồ tát. Ghét việc làm của Bồ tát. Ghét kinh Đại thừa rất sâu sắc. Như nói: Trí Tiểu thừa dùng duyên Tiểu thừa, Oán ghét đối với các Bồ tát, Cũng oán ghét đạo của Bồ tát, Cũng oán ghét kinh điển Đại thừa. Vì không hiểu cho nên không tin, Rơi vào trong địa ngục muôn đời, Sợ hãi kêu gào rất thảm thiết, Sự việc này cần phải lìa xa. Lại có bốn lỗi lầm phải nhanh chóng xa lìa: Nịnh hót. Quanh co. tính nóng nảy. Không có lòng thương xót. Như nói: Tự cho rằng mình là Bồ tát, Nhưng tâm nhiều nịnh hót quanh co, tính nóng nảy không hề tha thứ, Không thực hành tâm thương xót ai, Là gần bên địa ngục A-tỳ, Rời bỏ Phật đạo rất xa xôi. Lại có năm lỗi lầm phải nhanh chóng xa lìa: Tham dục. Sân hận. Ngủ nghỉ. Bỡn cợt. Nghi ngờ. Đây gọi là năm cái che kín tâm tư. Như nói: Nếu như người làm điều phóng túng, Thì các cái che kín tâm tư, Sinh lên cõi trời hãy còn khó, Huống gì mong chứng được đạo quả? Nếu chịu khó thực hành tinh tiến, Thì có thể xé toạc các cái, Nếu có thể xé toạc các cái, Thì tùy nguyện đều được thành tựu. Lại có sáu lỗi lầm cùng với sáu Ba-la-mật trái ngược nhau, phải nhanh chóng xa lìa: Tham lam keo kiệt. Phá giới. Sân hận. Lười nhác. Bỡn cợt. Ngu si. Như nói: Tâm tham lam keo kiệt dơ bẩn, Phá giới mà lại còn lười nhác, Như loài trâu-dê chẳng biết gì, Dễ sân hận như loài rắn độc, Tâm hỗn loạn như loài vượn khỉ, Không có thể xa lìa các cái, Sinh cõi trời thật là khó có, Huống hồ mong chứng được Phật đạo? Lại có bảy lỗi lầm phải nhanh chóng xa lìa: Thích nhiều công việc. Thích học thuộc nhiều thứ. Ưa ngủ nghỉ. Ưa nói chuyện. Tham đắm lợi dưỡng. Thường muốn làm cho người ta ưa thích. Mê muội đối với đạo mà tâm thuận theo ái hành. Như nói: Người kém cỏi ưa thích nhiều chuyện, Thích học thuộc lòng nhiều kinh khác, Người ngu si ưa thích ngủ nghỉ, Thích cùng nhau tụ tập chuyện trò, Tuy nguyện ước mong được làm Phật, Mà vô cùng đắm say lợi dưỡng, Thì làm tôi tớ cho ân ái, Mê muội đối với đạo vô thượng, Những hạng người xấu xa như vậy, Tự cho rằng mình là Bồ tát. Lại có tám lỗi lầm phải nhanh chóng xa lìa: Tà kiến. Tà tư duy. Tà ngữ. Tà nghiệp. Tà mạng. Tà phương tiện. Tà niệm. Tà định. Như nói: léo. Nếu như có người thật ngu si, Thực hành đối với tám tà đạo, Học theo các kinh pháp tà vạy, Thích chạy theo những hạng thầy tà, Lìa xa đối với tám Thánh đạo, Những công đức hết sức vi diệu, Cố chấp sâu trong những phiền não, Mà lại nguyện thành tựu Bồ đề, Những hạng người ngu si như vậy, Mong muốn vượt qua được biển rộng, Mà rời bỏ con thuyền vững chắc, Ôm đá mong cầu vượt qua ư? Lại có chín lỗi lầm phải nhanh chóng xa lìa: Không nghe đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Nghe rồi nhưng không tin. Nếu có tin mà không tiếp nhận. Nếu có tiếp nhận nhưng không trì tụng. Nếu có trì tụng nhưng không biết nghĩa lý. Nếu có biết cũng không nói. Nếu có nói mà không làm như lời nói. Nếu có làm như lời nói mà không có thể làm thường xuyên. Nếu có thể làm thường xuyên mà không có thể làm cho khéo Như nói: Người ngu si không mong được nghe, Đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, Nghe rồi không thể nào tin được, Cũng không có năng lực tụng trì, Không biết nghĩa lý cũng không nói, Không thực hành như lời đã nói, Không có thể thường xuyên khéo làm, Không có ý niệm về an tuệ. Những hạng người ngu si như vậy, Không có thể chứng được đạo quả, Giống như người có nhiều tội ác, Không mong được sinh lên cõi trời. Lại có mười lỗi lầm phải nhanh chóng xa lìa. Đó là mười bất thiện đạo. Như nói: Người ngu si vào lúc tuổi trẻ, Tham ái mê mờ theo năm dục, Rời bỏ tất cả người thiện đạo, Làm đủ mười nghiệp đạo bất thiện, Niềm vui cõi trời nắm trong tay, Mà tự mình lại vứt bỏ mất, Như tham chút lợi của tiền bạc, Mà bỏ cả kho báu to lớn. Hỏi: Lúc ông nói về tướng của đạo vô thượng, đủ các loại nhân duyên trách mắng về Bồ tát phát nguyện suông, tự cho rằng mình là Bồ tát, chỉ có tên gọi Bồ tát hảo huyền. Nếu cả ba loại này không gọi là Bồ tát, thì thành tựu pháp nào mới gọi là Bồ tát thật sự? Đáp: Không những là phát nguyện hảo huyền, Tự cho rằng mình là Bồ tát, Ngay cả tên gọi là Bồ tát, Nói sơ lược có thể thành tựu, Thực hành đủ ba mươi hai pháp, Mới gọi là Bồ tát thật sự. Nếu người phát tâm mong cầu Phật đạo, tự cho rằng mình là Bồ tát, tiếp nhận danh hiệu trống rỗng chứ không thực hành những công đức, không có tâm Từ Bi, không đầy đủ các hạnh Ba-la-mật…, thì không gọi là Bồ tát, như khu thành bằng đất mà gọi là khu thành quý báu, thì chỉ tự lừa dối mình, cũng lửa dối Chư Phật, và cũng lừa dối chúng sinh ở thế gian. Nếu người có đầy đủ ba mươi hai pháp tuyệt diệu, cũng có năng lực phát nguyện, thì gọi là Bồ tát chân thật. Những gì là ba mươi pháp? Đó là: Phật. Tận đáy lòng cầu mong mọi điều an lạc cho tất cả chúng sinh. Có năng lực tiến vào trong trí của Chư Phật. Tự biết tường tận là mình có thể được làm Phật hay không làm Không ghét kẻ ác. Đạo tâm kiên cố. Không dựa vào tình thân ái mà kết bạn giả dối. Thậm chí không nhập Niết bàn mà thường vì chúng sinh làm bạn thân. Người thân kẻ sơ chung một tâm bình đẳng. Đã hứa làm điều thiện thì tâm không thay đổi. Không đoạn mất lòng Đại Từ đối với tất cả chúng sinh. Không đoạn mất lòng Đại Bi đối với tất cả chúng sinh. Tâm thường cầu chính pháp mà không mỏi mệt uể oải. Thường xuyên phát tâm tinh tiến không cảm thấy thỏa mãn. Nghe nhiều mà hiểu rõ nghĩa lý. Thường tự kiềm điểm sai lầm của mình. Không gièm pha khuyết điểm của người. Ở trong tất cả mọi điều thấy nghe luôn luôn tu tâm Bồ đề. Bố thí không cầu đền đáp. Trì giới không cầu tất cả mọi nơi sinh ra. Nhẫn nhục không sân hận làm trở ngại đối với tất cả chúng sinh. Có năng lực chịu khó tinh tiến tu tập tất cả thiện căn. Không thuận theo định Vô sắc mà sinh ra. Nhờ vào phương tiện mà thâu nhiếp trí tuệ. Nhờ vào bốn nhiếp pháp mà thâu nhiếp phương tiện. Trì giới và phá giới đều thương xót như nhau. Một lòng nghe pháp. Một lòng trụ nơi A-lan-nhã. Không thích các loại sự việc tạp loạn của thế gian. Không tham chấp Tiểu thừa. Thấy lợi ích của Đại thừa là to lớn. Lìa xa những hạng ác tri thức. Gần gũi với bậc thiện tri thức. Bồ tát trú trong ba mươi hai pháp này, có năng lực thành tựu bảy pháp, đó là: Bốn Vô lượng tâm, có năng lực du hý với năm loại thần thông thường dựa vào trí, thường không rời bỏ mọi chúng sinh dù thiện hay ác, nói những lời quyết định, nói ra chắc chắn đều là sự thật, tích tập tất cả các thiện pháp mà tâm không có gì thỏa mãn. Đây là ba mươi hai pháp, là bảy pháp quan trọng, Bồ tát thành tựu những pháp này, thì gọi là Bồ tát chân thật. ------------------------ <詞>Phẩm 28: PHÂN BIỆT NGHIỆP ĐẠO CỦA ĐỊA THỨ HAI, Phần 1 Các vị Bồ tát đã có được, Đầy đủ đối với địa thứ nhất, Mong muốn đạt được địa thứ hai, Trước hết phát sinh mười loại tâm. Các Bồ tát đã đạt được địa thứ nhất là Hoan Hỷ, vì đạt được địa thứ hai cho nên phát sinh mười loại tâm, nhờ vào mười tâm này có thể đạt được địa thứ hai, như người muốn lên lầu cao thì phải nhờ vào bậc thang mà trèo lên. Hỏi: Những gì là mười tâm làm phương tiện đạt được địa thứ hai? Đáp: Tâm thẳng thắn-tâm có thể dùng, Tâm mềm mỏng-thuần phục-vắng lặng, Chân diệu-không lẫn tạp không tham, Tâm rộng rãi-vó đại là mười. Các Bồ tát đã đầy đủ đối với địa thứ nhất, muốn đạt đến địa thứ hai, thì nên phát sinh mười tâm phương tiện này. Tâm thẳng thắn. Tâm có thể sử dụng. Tâm nềm mỏng. Tâm hàng phục. Tâm vắng lặng. Tâm chân diệu. Tâm không xen tạp. Tâm không tham. Tâm rộng rãi. Tâm Đại thừa. Tâm thẳng thắn là xa lìa dua nịnh quanh co, lìa xa dua nịnh quanh co cho nên trở nên mềm mỏng. Mềm mỏng thì không ngang ngạnh, thô lỗ dữ dằn. Bồ tát có được tâm mềm mỏng này, thì phát sinh các loại thiền định, cũng tu tập những thiện pháp; quán sát thật tướng của các pháp, thì tâm có thể sử dụng. Tâm có thể sử dụng cho nên phát sinh tâm thuần phục. Tâm thuần phục là có năng lực khéo léo làm cho các căn nhãn-nhó… phải hàng phục. Như kinh nói: “Thế nào là thiện đạo? Đó gọi là Tỳ-kheo hàng phục thì dễ dàng phát sinh tâm vắng lặng”. Tâm vắng lặng, có năng lực diệt trừ các phiền não của tham dục- sân hận-ngu si. Trước tiên tâm được thuần phục rồi, sau đó ngăn chặn khiến được vắng lặng. Lại có người nói: Đạt được các thiền định thì gọi là tâm vắng lặng. Như kinh nói: “Nếu người khéo léo biết rõ tướng của thiền định, không tham đắm ý vị của nó, thì gọi là tâm vắng lặng, đạt được tâm vắng lặng rồi, thì tâm chân diệu chắc chắn phát sinh.” Tâm chân diệu là đối với mọi điều mong cầu từ trong thiền định dùng thần thông mà đạt được như ý, ví như vàng ròng tùy ý mà sử dụng. Hành giả đạt được tâm thẳng thắn cho đến tâm chân diệu rồi, vì giữ gìn tâm này cho nên vui mừng sinh tâm không lẫn tạp. Tâm không lẫn tạp là không làm theo tại gia hay là xuất gia. Người này dấy lên ý niệm như vậy: Mình có được những tâm như vậy, đều nhờ vào sức mạnh của thiền định, dùng những tâm này sẽ đạt được địa thứ hai cùng với vô lượng lợi ích, nếu lẫn tạp cùng với nhiều người thì mất đi lợi ích này. Tại vì sao? Bởi vì nếu như người thực hành lẫn tạp cùng với nhiều người, thì cả sáu căn có lúc trở lại phát sinh các pháp bất thiện. Tại vì sao? Bởi vì gần gũi với pháp có thể vấy nhiễm-có thể sân hận-có thể ngu si, các căn phát động làm cho lửa phiền não bùng lên, vì lửa phiền não bùng lên cho nên sẽ mất đi lợi ích này. Thấy rõ những lỗi lầm như vậy cho nên sinh tâm không lẫn tạp, không nên thực hành lẫn tạp với người tại gia hoặc xuất gia. Người này có được tâm không lẫn tạp này rồi, sau đó sinh tâm không tham lam. Tâm không tham lam, là ở giữa những người tại gia hoặc xuất gia, đối với Cha mẹ-Anh em-Hòa thượng-thầy dạy như mọi người xưng hô, không sinh lòng tham đắm, dấy lên ý niệm như vậy: Nếu mình đối với tại gia hoặc xuất gia sinh lòng tham đắm, thì nhất định phải qua lại thăm hỏi, mình làm sao còn có tâm không lẫn tạp được? Vì vậy mình cần phải làm cho các thiền định đều có ích lợi mà trú trong tâm không lẫn tạp, nên rời bỏ tâm tham đắm đối với tại gia hoặc xuất gia. Hỏi: Pháp của Bồ tát là không nên rời bỏ chúng sinh, không nên sinh tâm rời bỏ, như trong phẩm Trợ Bồ đề nói: Bồ tát lúc ban đầu tinh tiến, Vốn có sức mạnh của phương tiện, Cần phải làm cho các chúng sinh, An trú vào trong pháp Đại thừa. Nếu người dạy hằng sa chúng sinh, Đều an trú quả vị La-hán, Không bằng dạy bảo cho một người, Trú trong pháp Đại thừa thù thắng. Nếu như người thế lực yếu kém, Không có thể phát tâm Đại thừa, Lần lượt nên dạy cho an trú, Thanh văn và Bích-chi-Phật thừa. Nếu người không có thể an trú, Thanh văn và Bích-chi-Phật thừa, Cần phải dạy cho chúng sinh này, Khiến thực hành nhân duyên phước thiện. Không có thể trú trong Tam thừa, Không cảm được niềm vui trời-người, Thường dùng sự việc ngay đời này, Thuận theo làm lợi ích cho họ. Nếu như lại có những chúng sinh, Không nhận lợi ích của Bồ tát, Đối với hạng này không nên bỏ, Cần phải sinh tâm Đại Từ Bi. Tại sao ông nói Bồ tát có được tâm không lẫn tạp mà sinh tâm không tham đắm, nếu Bồ tát không tham đắm chúng sinh thì rời bỏ họ, làm sao có thể hóa độ? Đáp: Nên tùy thuận với đạo của Bồ tát mà thực hành tâm Xả. Tại vì sao? Bởi vì người này dựa vào tâm Xả mà sinh tâm rộng rãi bao la, dấy lên ý niệm như vậy: Nếu mình rời bỏ chốn đông đúc ồn náo này thì sẽ đạt được thiền định, nhờ vào thiền định mà sinh ra pháp rộng rãi tuyệt vời, đạt được pháp này rồi thì sau đó có thể làm lợi ích cho chúng sinh, tốt đẹp gấp ngàn vạn lần bấy giờ. Vì vậy, muốn làm nhiều lợi ích cho chúng sinh mà tâm Xả trong thời gian ngắn, tạm thời rời bỏ chốn đông đúc ồn náo, sẽ đạt được thiền định và năm loại thần thông, cùng làm lợi ích cho chúng sinh. Tại sao Bồ tát thực hiện phương tiện như vậy? Bởi vì Bồ tát mong đạt được tâm vó đại mà dấy lên ý niệm như vậy: Người vó đại vui với lợi ích vó đại cho nên không còn lợi ích nhỏ nhoi, vì vậy nay mình đang cầu pháp của người vó đại, thuận theo mà tu học, phải chịu khó tinh tiến như vậy vì sự lợi ích vó đại, đó là các thiền định-thần thông-diệt khổ và giải thoát… Vì vậy điều ông nói là không đúng. Hỏi: Trong địa thứ nhất đã có các pháp như tâm thẳng thắn…, tại sao lại nói Bồ tát muốn đạt được địa thứ hai thì phải phát sinh mười tâm? Đáp: Địa thứ nhất tuy có những pháp này, nhưng chưa đạt đến niềm vui sâu sắc, chưa có ý chí kiên cố; ở trong địa thứ hai, tâm luôn luôn vui thích trở nên sâu sắc kiên cố, có thể tùy ý thực hiện có tác dụng, vì vậy ông chất vấn không đúng. Hỏi: Nếu niềm vui sâu sắc và kiên cố đối với pháp này, thì đạt được điều gì khác nữa? Đáp: Nếu như trong một lúc đạt được, Tâm kiên cố-niềm vui sâu sắc, Thì không cần phải dụng công nữa, Như kiết sử luôn luôn đi theo. Như kiết sử trong một lúc phát sinh mà luôn luôn đi theo con người. Bồ tát trong cùng một lúc đạt được tâm kiên cố và niềm vui sâu sắc như vậy rồi, thì luôn luôn đi theo, không cần phải tiếp tục dụng công mà phát sinh, hoặc dùng một chút nhân duyên thì phát sinh. Tại vì sao? Bởi vì gốc rễ ăn sâu trong lòng đất, cho nên cành nhánh cứ nối tiếp nhau mãi. Hỏi: Nếu Bồ tát có được mười loại tâm này thì đạt được những quả gì? Đáp: Nếu như có được những tâm này, Chính thức trú trọng địa thứ hai, Có đầy đủ ba loại ly cấu, Rời mọi ác nghiệp và phiền não. Nếu Bồ tát có được mười loại tâm này, thì gọi là trú trong địa Bồ tát thứ hai. Ly cấu thứ nhất, là tên gọi của địa. Ly cấu thứ hai, là ở trong địa này xa rời tội lỗi cấu trược của mười nghiệp đạo bất thiện. Ly cấu thứ ba, là xa rời các phiền não cấu trược như tham dục-sân hận-ngu si… Vì vậy gọi là Ly cấu. Vả lại, nghĩa của Ly cấu còn tiếp ở phần sau.  <卷>QUYỂN 14 <詞>Phẩm 28: PHÂN BIỆT NGHIỆP ĐẠO CỦA ĐỊA THỨ HAI, Phần 2 Bồ tát an trú trong địa này, Tự nhiên không làm mọi điều ác, Bởi vì rất vui thích pháp thiện, Cho nên tự nhiên làm điều thiện. Hỏi: Mười bất thiện đạo tự nhiên không làm, tự nhiên làm mười thiện đạo, hai loại nghiệp này, bao nhiêu là thân hành, bao nhiêu là khẩu hành, bao nhiêu là ý hành? Đáp: Thân và ý đều có ba loại, Miệng có bốn thiện cũng như vậy, Giải thích sơ lược thì như vậy, Điều này phải phân biệt rõ ràng. Hành bất thiện của thân có ba loại, đó là đoạt mạng sống kẻ khác- trộm cướp và tà dâm. Hành bất thiện của miệng có bốn loại, đó là nói dối-nói hai lưỡi-nói thô ác-nói tán loạn. Hành bất thiện của ý có ba loại, đó là tham lam-sân hận và tà kiến. Hành thiện của thân cũng có ba loại, đó là không đoạt mạng sống kẻ khác-không trộm cướp và không tà dâm. Hành thiện của miệng cũng có bốn loại, đó là không nói dối-không nói hai lưỡi-không nói thô ác- không nói tán loạn. Hành thiện của ý có ba loại, đó là không tham lam- không sân hận và có chính kiến. Nghiệp đạo của thân miệng ý, là thiện hoặc bất thiện đều phải bàn luận làm cho người ta hiểu được rõ ràng. Nghiệp đạo bất thiện đầu tiên là đoạt mạng sống, nghĩa là có chúng sinh khác biết chúng sinh này mà cố tình làm điều não hại, vì sự não hại này mà mất đi mạng sống, khởi lên thân nghiệp này thì gọi là nghiệp đạo bất thiện đoạt mạng sống kẻ khác. Rời xa việc này, cho nên gọi là hành thiện không đoạt mạng sống kẻ khác. Trộm cướp, nghĩa là vật thuộc về người khác, biết vật này thuộc về người khác mà sinh tâm trộm cướp, tay cầm vật này đưa rời xa nơi ban đầu. Hoặc là cướp hay là trộm, cho là vật của mình mà sinh tâm của mình, thì gọi là trộm cướp. Rời xa việc này thì gọi là hành thiện không trộm cướp. Tà dâm, là tất cả người nữ, như được cha mẹ bảo vệ, bà con bảo vệ, cho hàng bảo vệ, pháp luật cuộc đời bảo vệ, giới luật đạo pháp bảo vệ, hoặc vợ người khác, biết có những chướng ngại do roi gậy não hại…, mà ở trong việc này sinh tâm tham dục, khởi lên thân nghiệp. Hoặc đối với thê thiếp của mình vốn có, trong thời kỳ hoặc đang thọ giới, hoặc đang mang thai, hoặc con nhỏ còn bú, hoặc không phải chỗ, thì gọi là tà dâm. Rời xa việc này thì gọi là hành thiện của thân. Nói dối, là che tướng-che tâm-che cách nhìn-che chịu đựng-che ham muốn, biết tướng như vậy mà lại nói khác đi, thì gọi là nói dối. Rời xa việc này, thì gọi là hành thiện rời xa nói dối. Nói hai lưỡi, là muốn làm cho người ta phải chia ly, đem chuyện người này đến nói với người kia, đem chuyện người kia đến nói với này, làm cho họ phải chia lìa tan tác. Người hòa hợp thì làm cho biệt ly, người biệt ly thì tùy thuận vui thích vì họ phải biệt ly, mừng vì họ phải biệt ly-thích vì họ phải biệt ly, đây gọi là nói hai lưỡi. Lìa bỏ sự việc như vậy, gọi là hành thiện rời xa nói hai lưỡi. Nói thô ác, là tất cả những lời xấu xa-lời tai hại-lời đau khổ-lời thô thiển-lời tệ hại của thế gian làm cho người khác tức giận buồn phiền, đó gọi là nói thô ác. Rời bỏ việc này, gọi là hành thiện rời xa nói thô ác. Nói tán thán, là lời nói không đúng lúc, lời nói không có ích lợi, lời nói trái với pháp, lời nói không có đầu đuôi, lời nói không có nhân duyên, đó gọi là nói tán loạn. Rời bỏ việc này, gọi là hành thiện rời xa nói tán loạn. Tham lam, là vật thuộc về người khác, vật mà người ta mong muốn, ruộng đất của người ta, tài sản đồ vật của người ta, mà tâm tham lam giữ lấy mong muốn có được, đó gọi là tham lam. Ở trong việc này, không tham lam-không ganh tî-không mong muốn có được, đó gọi là hành thiện không tham lam. Sân hận, là tâm sân hận-tâm chướng ngại, phát khởi sân hận đối với chúng sinh khác, dấy lên ý niệm như vậy: Sao không đánh đập, trói buộc, giết hại? Đây gọi là sân hận. Rời bỏ sự việc như vậy, thì gọi là hành thiện không sân hận. Tà kiến, là nói không có Bố thí, không có ân đền đáp, thiện nghiệp-ác nghiệp không có quả báo, không có đời này-không có đời sau, không có cha mẹ-không có Sa-môn, không có Bà-la-môn, có thể biết đời này-đời sau, thông suốt rõ ràng tự mình làm người chứng thực, đó gọi là tà kiến. chính kiến, là cho rằng có Bố thí thì có ân đền đáp, có quả báo của nghiệp thiện-ác, có đời này và đời sau, thế gian có Sa-môn và Bà-la-môn, biết đời này và đời sau, thông suốt rõ ràng tự mình là người chứng thực, đây gọi là hành thiện có chính kiến. Bồ tát này tiến vào thiện đạo chính kiến như vậy. Thiện nghiệp đạo-bất thiện nghiệp đạo, Đều phân biệt thành hai mươi loại, Biết từ những nơi nào khởi lên, Làm thành mười hai loại phân biệt. Bồ tát đối với các loại tướng riêng biệt của mười bất thiện đạo và mười thiện đạo, biết rõ hai mươi loại phân biệt. Lại đối với hai mươi loại phân biệt này, khéo léo biết rõ từ những nơi nào khởi lên mười hai loại phân biệt. Ở trong mười bất thiện đạo này có hai mươi loại phân biệt, đó là không xa rời tội lỗi đoạt mạng sống loài khác: Bất thiện. Hệ thuộc cõi Dục. Hữu lậu. Không phải tâm sở pháp. Tâm không tương ưng. Không tùy theo tâm hành. Hoặc cùng tâm sinh, hoặc không cùng tâm sinh. Thế nào là cùng tâm sinh? Đó là thật có chúng sinh, biết là chúng sinh, dùng thân nghiệp mà đoạt mạng sống của chúng sinh ấy, thì gọi là cùng tâm sinh. Thế nào là không cùng tâm sinh? Nếu người muốn giết chúng sinh mà bắt giữ-lôi kéo-đánh ngã xuống đất rồi, sau đó tự chúng sinh ấy chết đi, thì gọi là không cùng tâm sinh. Vả lại, thân không tác động-miệng không nói năng, chỉ sinh tâm là mình từ hôm nay sẽ làm nghề giết hại chúng sinh. Tội lỗi đoạt mạng sống loài khác như vậy, thì gọi là không cùng tâm sinh. Nhưng người này không xa rời ý niệm đoạt mạng sống loài khác, hoặc ngủ hay thức luôn luôn tích tập tăng trưởng, thì cũng gọi là không cùng tâm sinh. Hoặc là sắc-hoặc là phi sắc, nghĩa là tội sát hại cùng tâm sinh thứ nhất là sắc, tội sát hại thứ hai-thứ ba-thứ tư không phải là sắc, Hoặc là tác-hoặc là phi tác, nghĩa là có sắc là tác, còn lại là vô tác. Hoặc là có duyên-hoặc là vô duyên, sắc là có duyên, còn lại là vô duyên. Hỏi: Tâm này là có duyên hay là vô duyên? Đáp: Không phải là có duyên. Hỏi: Nếu tâm không có duyên thì lúc thân không tác động-miệng không nói năng, nhưng tâm sinh ý niệm là mình từ hôm nay sẽ làm việc giết hại chúng sinh, nghiệp tội như vậy tại sao nói là không có duyên? Đáp: Nếu tội sát hại là tâm thì phải có duyên, nhưng bây giờ thật sự thì tội sát hại không phải là tâm, nếu là tâm thì tội sát hại này chính là thân nghiệp, mà tâm thật ra thì không phải là thân nghiệp. Vì vậy tội sát sinh không nói là có duyên, nhưng tội sát sinh cùng tâm phát sinh ở trong thân, vì tâm này vô tác cho nên nói là không có duyên. Nghiệp. Chẳng phải nghiệp tương ưng. Hành không tùy nghiệp. Hoặc là cùng nghiệp sinh-hoặc là không cùng nghiệp sinh, như cùng tâm sinh không khác, chỉ trừ ra tâm và tư cùng sinh ra khác biệt; Không phải là nghiệp báo của đời trước. Không đáng tu tập. Cần phải khéo léo nhận biết. Cần phải dùng tuệ chứng chứ không dùng thân mà chứng. Đáng bị đoạn trừ. Đáng được thấy biết. Trong tội không rời bỏ trộm cướp, tội không rời bỏ tà dâm, tội không rời bỏ nói dối, chỉ có: Cùng tâm sinh. Không cùng tâm sinh. Hoặc Hoặc Hay Có sắc. Vô sắc. Tác. Vô tác. Có duyên. Vô duyên. Còn lại như đã nói trong tội sát hại. Không rời bỏ tội nói hai lưỡi, không rời bỏ tội nói thô ác cũng như vậy. Tội không rời bỏ nói lời tán loạn, hoặc là bất thiện-hoặc là vô ký; từ tâm bất thiện phát sinh là bất thiện, từ tâm vô ký phát sinh là vô ký; hoặc là hệ thuộc cõi Dục, hoặc là hệ thuộc cõi Sắc. Hệ thuộc cõi Dục, là dùng thân tâm cõi Dục, nói lời tán loạn thì hệ thuộc cõi Dục. Hệ thuộc cõi Sắc cũng như vậy. Còn lại như đã nói trong tội nói dối. Tham lam hệ thuộc cõi Dục, là hữu lậu-tâm sở pháp, không phải tâm tương ưng, không phải tùy tâm hành, cùng tâm sinh, vô sắc-vô tác, có duyên, không phải nghiệp tương ưng, không phải tùy nghiệp hành, không phải cùng nghiệp sinh, không phải nghiệp báo của đời trước, trừ ra báo của nhân, không đáng tu tập, cần phải khéo léo nhận biết, cần phải dùng tuệ chứng-thân chứng, đáng đoạn trừ, đáng thấy biết. Sân hận thì hoặc là tâm tương ưng, hoặc là tâm bất tương ưng. Do triền cái thâu nhiếp thì gọi là tâm tương ưng, do kiết sử thâu nhiếp thì gọi là tâm bất tương ưng. Tùy tâm hành-không tùy tâm hành cũng như vậy. Cùng tâm sinh-không cùng tâm sinh, chúng sinh có giác với tâm cùng sinh, chúng sinh vô giác thì không cùng với tâm cùng sinh. Như tâm tương ưng; tùy tâm hành, cùng tâm sinh, nghiệp tương ưng, tùy nghiệp hành, cùng nghiệp sinh cũng như vậy. Như tâm bất tương ưng; không tùy tâm hành, không cùng tâm sinh, nghiệp không tương ưng, không tùy nghiệp hành, không cùng với nghiệp cùng sinh cũng như vậy. Còn lại phân biệt như đã nói trong tội tham lam. Như sân hận, tà kiến cũng như vậy. Trong mười thiện đạo thì rời xa tội lỗi đoạt mạng sống loài khác là tính thiện, hoặc là hệ thuộc cõi Dục, hoặc là không hệ thuộc ba cõi. Hệ thuộc cõi Dục, là dùng thân cõi Dục rời xa tội lỗi đoạt mạng sống loài khác, là hệ thuộc cõi Dục, không hệ thuộc ba cõi, là người học và người vô học do tám Thánh đạo thâu nhiếp. Rời xa tội lỗi sát sinh là chính nghiệp, thì hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu. Hệ thuộc cõi Dục là hữu lậu, không hệ thuộc ba cõi là vô lậu, không phải tâm sở pháp, không phải tâm tương ưng, không phải tùy tâm hành, hoặc là cùng tâm sinh-hoặc là không cùng tâm sinh. Như thế nào là cùng tâm sinh? Như người đi đường trông thấy sâu bọ mà dấy lên ý niệm như vậy: Thân nghiệp của mình nên xa lìa không làm tổn hại chúng. Đây gọi là hành thiện cùng tâm sinh xa rời tội lỗi đoạt mạng sống loài khác. Như thế nào là hành thiện không cùng tâm sinh xa lìa tội lỗi sát sinh? Như có người thân không tác động-miệng không nói năng nhưng tâm nghó rằng từ hôm nay về sau mình không sát sinh. Đây gọi là hành thiện không cùng tâm sinh. Lại có người trước kia rời bỏ sát sinh, hoặc là ngủ hay là thức nhưng tâm duyên vào việc khác, ở trong từng ý niệm luôn nghó là không sát sinh, phước luôn luôn được tăng trưởng, cũng gọi là không cùng tâm sinh. Hoặc là sắc-hoặc là phi sắc, một là sắc-hai là phi sắc, một là tác- hai là phi tác, một là có duyên-hai là vô duyên, là nghiệp-phi nghiệp tương ưng, không tùy nghiệp hành; hoặc là cùng nghiệp sinh-hoặc không cùng nghiệp sinh; như cùng tâm sinh-không cùng tâm sinh, trừ ra tâm và tư là khác biệt, không phải là nghiệp báo của đời trước, trừ ra báo của nhân, đáng tu tập-cần phải khéo léo nhận biết-cần phải dùng thân chứng, tuệ chứng thì hoặc là có thể đoạn trừ-hoặc là không thể đoạn trừ, hữu lậu thì có thể thì có thể đoạn trừ, vô lậu thì không thể đoạn trừ; đáng thấy biết cũng như vậy. Xa rời trộm cướp, xa rời tà dâm, xa rời nói dối, xa rời nói hai lưỡi, xa rời nói thô ác cũng như vậy. Xa rời nói lời tán loạn, hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc không hệ thuộc ba cõi. Hệ thuộc cõi Dục, là dùng thân tâm cõi Dục xa rời lỗi nói lời tán loạn. Hệ thuộc cõi Sắc cũng như vậy. Không hệ thuộc ba cõi, như đã nói trong phần không sát sinh. Hoặc là hữu lậu-hoặc là vô lậu, hữu lậu là hệ thuộc, vô lậu là không hệ thuộc, còn lại như đã nói trong phần xa rời lỗi nói dối. Không tham lam là tính thiện, hoặc là hệ thuộc cõi Dục, hoặc là không hệ thuộc ba cõi. Hệ thuộc cõi Dục, là hành thiện không tham lam của phàm phu và Hiền Thánh cõi Dục, thì hệ thuộc cõi Dục. Không hệ thuộc ba cõi, là hành thiện vô lậu không tham lam của các bậc Hiền Thánh, thì hoặc là hữu lậu-hoặc là vô lậu. Hệ thuộc cõi Dục là hữu lậu. Không hệ thuộc ba cõi là vô lậu, thì tâm sở pháp, tương ưng, tùy tâm hành, cùng tâm sinh, vô sắc-vô tác, có duyên, chẳng phải nghiệp, nghiệp tương ưng, tùy nghiệp hành, cùng nghiệp sinh, không phải là nghiệp báo của đời trước, trừ ra báo của nhân, đáng tu tập, cần phải khéo léo nhận biết, có thể dùng thân chứng, tuệ chứng thì hoặc là có thể đoạn trừ, hoặc là không thể đoạn trừ, hữu lậu thì có thể đoạn trừ, vô lậu thì không thể đoạn trừ, thấy biết cũng như vậy. Xa rời sân hận là tính thiện, hoặc là hệ thuộc cõi Dục, hoặc là hệ thuộc cõi Sắc, hoặc là hệ thuộc cõi Vô Sắc, hoặc không hệ thuộc ba cõi. Hệ thuộc cõi Dục là thiện căn không sân hận thuộc cõi Dục; hai cõi còn lại cũng như vậy. Không hệ thuộc, là không hệ thuộc những nơi khác thì hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu. Hệ thuộc ba cõi là hữu lậu, không hệ thuộc là vô lậu. Tâm sở pháp, hoặc là tâm tương ưng, hoặc là tâm bất tương ưng. Trái ngược với triền là thiện căn bất sân và tâm tương ưng. Trái ngược với sử là thiện căn bất sân và tâm bất tương ưng. Tùy tâm hành và cùng tâm sinh, cũng như vậy. Vô sắc-vô tác thì hoặc là có duyên, hoặc là không có duyên. Tâm tương ưng là có duyên, tâm bất tương ưng là không có duyên. Không phải nghiệp thì hoặc là cùng với nghiệp tương ưng, hoặc là không tương ưng với nghiệp; hoặc là tùy nghiệp hành, hoặc là không tùy nghiệp hành; hoặc là cùng nghiệp sinh, hoặc là không cùng nghiệp sinh, cũng như tâm đã nói. Không phải nghiệp báo đời trước, trừ ra báo của nhân, có thể dùng thân chứng-dùng tuệ chứng, hoặc là có thể đoạn trừ-hoặc là không thể đoạn trừ, hữu lậu có thể đoạn trừ, vô lậu không thể đoạn trừ, có thể thấy biết, cũng như vậy. chính kiến là tính thiện, hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc hệ thuộc cõi Vô Sắc, hoặc không hệ thuộc ba cõi. Hệ thuộc cõi Dục, là hoặc phàm phu-hoặc Hiền Thánh, niệm cõi Dục tương ưng với chính kiến; cõi Sắc và cõi Vô Sắc cũng như vậy. Không hệ thuộc ba cõi, là chính kiến vô lậu của Hiền Thánh, hoặc là hữu lậu- hoặc là vô lậu; hệ thuộc ba cõi là hữu lậu, không hệ thuộc là vô lậu. Tâm sở pháp, tâm tương ưng, tùy tâm hành, cùng tâm sinh vô sắc-vô tác, có duyên, chẳng phải nghiệp, tùy nghiệp hành, cùng nghiệp sinh, chẳng phải nghiệp báo đời trước, trừ ra báo của nhân, có thể dùng thân chứng-tuệ chứng, hoặc là có thể đoạn trừ-hoặc là không thể đoạn trừ, hữu lậu có thể đoạn trừ, vô lậu không thể đoạn trừ, có thể thấy-có thể biết, cũng như vậy. Đây gọi là hai mươi loại phân biệt về thiện và bất thiện. Mười hai loại phân biệt như từ đâu phát khởi…? Từ đâu phát khởi? Phát khởi cái gì? Từ nhân nào phát khởi? Làm nhân cho cái gì? Duyên vào đâu? Làm duyên cho cái gì? Sở duyên là gì? Làm duyên cho cái gì? Tăng thượng là gì? Làm tăng thượng cho cái gì? Mất cái gì? Tội sát hại là quả gì? Từ đâu phát khởi? Từ ba căn bất thiện mà phát khởi, lại từ tà niệm mà phát khởi. Vả lại, tùy theo dùng tâm nào mà đoạt mạng của chúng sinh thì từ tâm ấy mà phát khởi. Phát khởi cái gì? Từ tất cả các pháp bên cạnh tội sát hại, đã sinh- đang sinh và sẽ sinh, thì nhân duyên cũng như vậy. Sở duyên là gì? Duyên vào chúng sinh. Lại dựa vào tâm nào mà đoạt mạng của chúng sinh? Cũng duyên vào tâm này. Làm duyên cho cái gì? Dựa vào tất cả các pháp bên cạnh tội sát hại, hoặc đã sinh-hoặc đang sinh-hoặc sẽ sinh, pháp này duyên với tội sát sinh. Mất cái gì? Đời này gặp phải tiếng xấu, bị mọi người không tin… Chịu quả gì? Rơi vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la… và những nơi xấu ác khác, nhận chịu quả báo đau khổ vô cùng. Tăng thượng và làm tăng thượng cho cái gì? Như đã nói trong loại từ nơi nào phát khởi. Trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói thô ác, nói lời tán loạn, tham lam, sân hận, tà kiến cũng như vậy, nhưng có khác nhau về sở duyên. Tội trộm cướp duyên vào vật sử dụng. Tà dâm duyên vào chúng sinh. Nói dối, nói hai lưỡi, nói thô ác, nói lời tán loạn duyên vào danh tự. Tham lam duyên vào vật sử dụng. Sân hận duyên vào chúng sinh. Tà kiến duyên vào danh tự. Còn lại cũng như trên đã nói. Không sát sinh từ ba căn thiện mà phát khởi, lại từ chính niệm mà phát khởi. Vả lại, tùy theo dùng tâm nào xa lìa sát sinh thì từ tâm ấy mà phát khởi. Phát khởi cái gì? Từ tất cả các pháp của pháp này, hoặc đã sinh- hoặc đang sinh-hoặc sẽ sinh, thì nhân duyên cũng như vậy. Sở duyên là duyên vào chúng sinh. Làm duyên cho cái gì? Dựa vào tất cả các pháp bên cạnh thiện nghiệp không sát sinh này, hoặc đã sinh-hoặc đang sinh-hoặc sẽ sinh, duyên với không sát sinh. Tăng thượng là các thiện căn tăng thượng. chính niệm cũng tăng thượng, tùy theo dùng tâm nào không sát sinh, thì tâm ấy cũng tăng thượng. Làm tăng thượng cho cái gì? Đối với tất cả các pháp bên cạnh thiện nghiệp không sát sinh này, hoặc đã sinh-hoặc đang sinh-hoặc sẽ sinh. Có lợi ích gì? Trái ngược nhau với tội sát sinh thì gọi là lợi ích. Được quả gì? Trái ngược nhau với tội sát sinh thì gọi là quả. Không trộm cướp, không tà tâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói thô ác, không nói lời tán loạn, không tham lam, không sân hận, có chính kiến, cũng như vậy. Nhưng có khác nhau về sở duyên mà thôi. Không trộm cướp duyên với vật sử dụng. Không tà dâm duyên với chúng sinh. Không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói thô ác, không nói lời tán loạn duyên với danh tự. Không tham lam duyên với vật sử dụng. Không sân hận duyên với chúng sinh. chính kiến duyên với danh tự, hoặc là duyên với nghĩa lý. Hữu lậu duyên với danh tự. Vô lậu duyên với nghĩa lý. Bồ tát này đối với các loại thiện nghiệp-bất thiện nghiệp và người hai loại về phát khởi…, thực hành mười thiện nghiệp, cần phải phân biệt biết rõ như vậy. Lại biết: Phạm vi của bảy loại bất thiện, Vì tham-sân-si mà phát sinh, Cùng với bốn phần phân biệt rõ, Nghiệp chúng sinh đều có hai loại. Bồ tát này biết rõ bảy loại bất thiện nghiệp từ tham-sân-si mà phát sinh, phân biệt rõ ràng ở thế gian. Lại biết rõ bốn phần phân biệt trong bảy loại bất thiện nghiệp, tội sát sinh này hoặc từ tham mà sinh ra, hoặc từ sân mà sinh ra, hoặc từ si mà sinh ra. Từ tham mà sinh ra, như người thấy chúng sinh, sinh tâm tham đắm, thuận theo nhân duyên này, thích thọ dụng sắc-thanh-hương-vị- xúc, hoặc cần đến răng-sừng-lông-da-gân thịt-xương tùy…, người này sinh tâm tham như vậy mà đoạt mạng của loài khác, thì gọi là từ tham mà gây ra tội sát sinh. Nếu người do tâm sân hận không vui mà giết hại chúng sinh, thì gọi là do sân mà gây ra. Nếu người tà kiến không biết gì về nghiệp thiện-ác và đời sau giết hại chúng sinh, thì gọi là từ si mà gây ra tội sát sinh. Hoặc bởi vì làm điều phước đức, hoặc muốn làm cho vượt qua khổ đau mà giết, như nước An Tức ở Phương Tây… Lại có người chọn lấy nhân duyên phước đức mà giết, dùng nhân duyên của nghiệp sát hại này, muốn được sinh lên cõi trời, như người vùng Đông Thiên Trúc sát sinh ở trong đền thờ Thiên thần. Dựa vào việc làm này mà mong được sinh lên cõi trời, thì gọi là từ si mà sinh khởi. Lại có người vì tâm tham mà lấy vật của người khác, dấy lên ý niệm như vậy: vì mình phải tùy theo ý có được sắc-thanh-hương-vị-xúc tốt đẹp. Đây gọi là do tham mà sinh khởi. Lại có người vì tâm sân hận không ưa người kia cho nên trộm cướp tài sản đồ vật của họ, muốn làm cho họ phải phiền muộn, thì gọi là do sân mà sinh khởi. Lại có người tà kiến không biết gì về quả báo, trộm cướp đồ vật của người khác, thì gọi là do si mà sinh khởi. Như các Bà-la-môn cho rằng tài sản châu báu trên thế gian đều là vật của mình, vì sức mình yếu kém cho nên bị các hạng tiểu nhân lấy sử dụng một cách phi pháp, nếu mình lấy vật ấy thì chính là tự lấy vật của mình chứ không có tội lỗi gì. Dùng tâm như vậy mà trộm cướp vật của người khác, thì cũng là do si mà sinh khởi. Nếu người vì nhân duyên tham đắm vào sắc mà tà dâm, thì gọi là do tham mà sinh khởi. Nếu người sân hận không vui, dấy lên ý niệm như vậy; người này xâm phạm đến mẹ-vợ-và các chị-em gái của mình, mình cũng trả lại bằng sự dâm dục làm vấy bẩn đến mẹ-vợ-chị em gái của họ. Đây gọi là do sân mà sinh ra tà dâm. Nếu người tà kiến không biết gì về quả báo mà cố ý phạm tội, thì gọi là do si mà sinh khởi. Như có người nói: Trong loài người không có lỗi tà dâm, tại vì sao? Bởi vì người nữ đều vì người nam mà sinh ra, như những đồ vật sử dụng khác, đều có sự cần thiết của mỗi loại, nếu hành dâm với nhau thì không có tội tà dâm. Dùng tâm này làm chuyện dâm dục, thì gọi là do si mà sinh khởi. Như tội trộm cướp, nói dối cũng như vậy. Vì tham tài sản cho nên nói dối, thì gọi là do tham mà sinh khởi. Vì muốn dối gạt người khác làm cho họ phải chịu khổ não, thì gọi là do sân mà sinh khởi. Tà kiến không biết quả báo của nghiệp cho nên nói dối, thì gọi là do si mà sinh khởi. Nói hai lưỡi, nói thô ác, nói lời tán loạn cũng như vậy. Ba bất thiện nghiệp chính là căn ban, từ đây phân biệt sinh ra bảy loại quả báo của thân nghiệp và khẩu nghiệp. Hỏi: Không xa rời sát sinh đều là tội sát sinh phải không? hay là tội sát sinh đều không xa rời sát sinh chăng? Đáp: Có lúc không xa rời sát sinh thì chính là tội sát sinh, có lúc không xa rời sát sinh mà không phải là tội sát sinh. Thế nào là không xa rời sát sinh mà chính là tội sát sinh? nghĩa là nếu có chúng sinh biết là chúng sinh mà khởi lên thân nghiệp sát hại đoạt mạng của chúng sinh, thì gọi là không xa lìa sát sinh mà cũng là tội sát sinh? nghĩa là người này trước đó tuy gây ra nhân duyên sát hại mà chúng sinh không chết, đồng thời thân không tác động-miệng không nói năng, nhưng tâm nghó rằng từ hôm nay mình sẽ sát hại chúng sinh. Đây gọi là không xa rời sát sinh mà không phải là tội sát sinh. Hai phần này phân biệt, làm thành bốn loại phân biệt, đó là thiện và bất thiện đều có hai loại. Không những thiện nghiệp-bất thiện nghiệp, Mà hai loại nghiệp của thân-tâm, Lại cũng cần phải biết rõ ràng, Còn phân biệt có những loại khác. Trừ ra thân gây tội sát sinh-trộm cướp-tà dâm, còn lại như đánh đập-trói cột-giam giữ-roi gậy-lôi kéo…, nhưng không làm cho chết mà thôi. Những thân nghiệp bất thiện như vậy thì không thuộc về tội đoạt mạng sống. Những thân nghiệp thiện như cung kính lễ lạy, chắp tay đón đưa, chào hỏi, tắm gội, vuốt ve, Bố thí…trong phạm vi thiện, không phải là thuộc về không sát sinh. Trong ý nghiệp trừ ra tham lam-sân hận-tà kiến, còn lại tất cả các pháp như không giữ gìn tâm và các kiết sử…, đều là bất thiện. Nhưng trong ý nghiệp trừ ra không tham lam-không sân hận-có chính kiến, còn lại các pháp như khéo giữ gìn tâm-tín-giới-văn-định-xả-tuệ…, đều là thiện. Bảy nghiệp cũng chính là nghiệp đạo, Ba nghiệp đạo chẳng phải là nghiệp. Bảy loại như sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói thô ác, nói lời tán loạn, là nghiệp mà cũng là nghiệp đạo. Tham lam-sân hận-tà kiến, là nghiệp đạo chứ không phải là nghiệp, ba loại này tương ưng với suy nghó chính là nghiệp. Hỏi: Bảy loại trước vì sao cũng là nghiệp mà cũng là nghiệp đạo? Đáp: Thói quen thực hành bảy loại này chuyển sang nhiều hơn, dẫn đến địa ngục-ngạ quỷ-súc sinh, vì vậy cho nên gọi là nghiệp đạo. Bảy loại này có thể gây ra, cho nên gọi là nghiệp. Ba loại là nghiệp đạo mà chẳng phải là nghiệp, nó chính là căn bản của bất thiện nghiệp, vì vậy cho nên gọi là ba nghiệp đạo chứ không phải là nghiệp. Trong thiện cũng như vậy, có nghĩa là xa rời sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói thô ác, nói lời tán loạn cũng là nghiệp mà cũng là nghiệp đạo. Còn lại ba loại không tham lam, không sân hận và có chính kiến là nghiệp đạo chứ không phải là nghiệp, ba loại này tương ưng với suy nghó là nghiệp. Hỏi: Bảy loại trước vì sao là nghiệp mà cũng là nghiệp đạo? Đáp: Thường xuyên tu tập những loại này, cho nên có thể dẫn đến nơi tốt đẹp của trời-người thì gọi là đạo, bảy loại này có thể thực hiện cho nên gọi là nghiệp. Hỏi: Ba loại còn lại vì sao chỉ là nghiệp đạo mà không phải là nghiệp? Đáp: Ba loại này là căn bản của các thiện nghiệp, các thiện nghiệp thực hành từ trong này, cho nên gọi là nghiệp đạo mà không phải là nghiệp. Lại nữa: Giới và pháp thì đều là nghiệp, Nghiệp là giới hoặc chẳng phải giới, Nghiệp cho đến đối với nghiệp đạo, Có bốn loại phân biệt rõ ràng. Thân nghiệp và khẩu nghiệp là giới, ý nghiệp là nghiệp mà chẳng phải là giới. Nghiệp cho đến đối với nghiệp đạo có bốn loại phân biệt, là có nghiệp mà chẳng phải nghiệp đạo, có nghiệp đạo mà chẳng phải nghiệp, có nghiệp cũng là nghiệp đạo, có chẳng phải nghiệp cũng chẳng phải nghiệp đạo. Nghiệp chẳng phải nghiệp đạo, là ba loại thân nghiệp bất thiện, không thuộc về nghiệp đạo, đó là tay đấm-gậy đánh…, và ba loại thân nghiệp thiện, không thuộc về nghiệp đạo, đó là đón đưa-chào hỏi cung kính…, hai loại thiện nghiệp và bất thiện nghiệp này, không thuộc về nghiệp đạo. Hoặc có người nói: Cũng là nghiệp đạo. Tại vì sao? Bởi vì hai nghiệp này có lúc đưa đến nơi thiện-nơi ác, cho nên gọi là nghiệp đạo. Nhưng bởi vì bất định cho nên không nói là nghiệp đạo. Nghiệp đạo mà chẳng phải nghiệp, là ba loại bất thiện và ba loại thiện sau thuộc về ý, là tính phiền não cho nên chẳng phải là nghiệp, có thể phát khởi nghiệp hạnh cho nên gọi là nghiệp đạo; ba thiện là tính của thiện căn cho nên không phải là nghiệp, có thể phát khởi thiện nghiệp cho nên gọi là nghiệp đạo. Cũng là nghiệp-cũng là nghiệp đạo, đó là bảy loại như sát sinh và không sát sinh… Chẳng phải nghiệp-chẳng phải nghiệp đạo, là các pháp còn lại. Lại nữa: Bồ tát đến gần địa thứ nhất, Dùng ba loại thiện nghiệp thanh tịnh, An trú trong mười thiện nghiệp đạo, Tâm quyết định sẽ được phát sinh. Bồ tát này ở trong địa thứ hai phân biệt biết rõ ràng về mười thiện và mười bất thiện đạo như vậy. Biết rồi dùng ba loại thanh tịnh an trú trong mười thiện đạo, đó là tự mình không sát sinh-không bày cho người khác sát sinh, tâm không vui vẻ gì đối với tội sát sinh, cho đến chính kiến cũng như vậy. Hỏi: Bồ tát trong địa thứ nhất đã an trú với mười thiện đạo, vì sao trong này còn nói? Đáp: Trong địa thứ nhất, không phải là không an trú với mười thiện đạo, nhưng trong này chuyển sang tăng trưởng hơn hẳn, nhờ vào ba loại thanh tịnh. Trước đây trong Trú thứ nhất tuy làm vui cõi Diêm- phù-đề nhưng không có thể thực hành ba loại thanh tịnh này, vì vậy trong này nói đến ba loại thanh tịnh. Bồ tát an trú trong hai địa này, biết phân biệt các nghiệp như vậy, phát sinh quyết định. Thế gian vốn có những ác đạo, Đều do mười bất thiện sinh ra, Thế gian vốn có những thiện đạo, Nhờ vào mười thiện nghiệp sinh ra. Thế gian vốn có những ác đạo, đó là ba loại ác đạo của địa ngục, là địa ngục nóng bức-địa ngục lạnh lẽo và địa ngục tối đen; ba loại ác đạo của súc sinh, là súc sinh ở trong nước-súc sinh ở trên đất liền và súc sinh ở giữa hư không. Nhiều loại ác đạo của ngạ quỷ, có loài quỷ đói ăn khát uống, có loài quỷ ăn đồ bất tịnh, có loại quỷ miệng phun lửa, A-tu- la và Dạ-xoa… Tất cả do hành nghiệp của người bất thiện đạo, vốn có nhân duyên thuộc loại thượng-trung và hạ. Xuất thế gian vốn có những thiện đạo, hoặc là trời-hoặc là người, đều do hành nghiệp của mười thiện đạo sinh ra, thuộc về ba cõi, loài trời có hai mươi tám cõi trời, loài người có người trong bốn châu thiên hạ. Biết chắc chắn như vậy rồi, dấy lên ý niệm như vậy: Mình mong chính mình sinh đến nơi chốn tốt lành, cũng làm cho chúng sinh có thể sinh đến nơi chốn tốt lành. Vì vậy mình cần phải tự mình, An trú vào trong mười thiện đạo, Cũng làm cho những chúng sinh khác, Lập tức trú trong thiện đạo này. Hoặc sinh đến đường thiện, hoặc sinh vào đường ác, đều do mười thiện đạo hoặc là mười bất thiện đạo, mình biết nhân duyên các nghiệp có và không có trên thế gian này, đều có quyết định của chính mình làm chủ. Vì vậy mình cần phải tự mình thực hành mười thiện đạo, sau đó làm cho các chúng sinh cũng trú trong mười thiện đạo. Hỏi: Tại vì sao trước tiên phải tự mình trú trong mười thiện đạo, sau đó mới khiến cho người khác trú vào? Đáp: Người thực hành đối với ác nghiệp, Khiến người khác làm thiện không dễ, Bởi vì chính mình không làm thiện, Thì người khác không thể tin được. Nếu người ác tự mình không làm điều thiện, mà muốn khiến cho người khác làm điều thiện thì thật là rất khó. Tại vì sao? Bởi vì người này tự mình không làm điều thiện, thì người khác không tin được lời nói của họ. Như kệ nói: Nếu người tự mình không làm thiện, Thì không thể khiến người làm thiện, Nếu tự mình không vắng lặng được, Thì không thể khiến người vắng lặng, Vì vậy cho nên ông cần phải, Tự mình làm thiện vắng lặng trước, Sau đó mới bày cho người khác, Khiến họ làm thiện và vắng lặng. Bồ tát này nên thực hành pháp thiện như vậy. Bắt đầu từ địa ngục A-tỳ, Cho đến trên cõi trời Hữu đảnh, Phân biệt rõ ràng mười nghiệp quả, Cùng với chỗ nhận chịu báo ứng. Nên biết đích thực như vậy, dưới từ địa ngục A-tỳ, trên đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng, đều là nơi nhận chịu quả báo của các loại nghiệp thiện và bất thiện. Trong đó, thói quen thực hành người bất thiện đạo thuộc bậc Thượng cho nên sinh vào địa ngục A-tỳ. Giảm ít lại thì sinh vào địa ngục Đại chích. Giảm ít lại thì sinh vào địa ngục Tiểu chích. Giảm ít lại thì sinh vào địa ngục Đại khiến hoán. Giảm ít lại thì sinh vào địa ngục Tăng-già-đà. Giảm ít lại thì sinh vào địa ngục Đại mạch. Giảm ít lại thì sinh vào địa ngục Hắc thằng. Giảm ít lại thì sinh vào địa ngục Đẳng hoạt. Giảm ít lại thì sinh trong các địa ngục phụ thuộc nhỏ như Đao sơn-kiếm thọ… Cũng cần phải phân biệt chuyển đổi ít lại như vậy, thực hành mười bất thiện đạo thuộc bậc Trung thì sinh trong loài súc sinh; trong loài súc sinh cũng cần phải phân biệt chuyển sang ít lại, thực hành mười bất thiện đạo thuộc bậc Hạ, thì sinh trong loài ngạ quỷ. Như vậy nói về tướng tổng quát, trong này cần phải phân biệt rộng về sự sai khác. Có các loại A-tu-la và Dạ-xoa sinh trong loài quỷ. Có các Long vương sinh trong loài súc sinh. Thọ nhận vui sướng hoặc cùng với chư Thiên như nhau, nhưng các chúng sinh này vì nhân duyên bất thiện mà sinh, sinh rồi thọ nhận quả báo của thiện nghiệp, thực hành mười thiện đạo thuộc loại thấp nhất thì sinh trong loài người cõi Diêm-phù-đề ở trong gia đình nghèo khổ hèn hạ, đó gọi là hạng Chiên-đà-la, người hèn hạ sống ở những vùng heo hút xa xôi… Chuyển sang tốt hơn thì sinh trong nhà Cư só. Chuyển sang tốt hơn thì sinh trong nhà Bà-la-môn. Chuyển tốt hơn thì sinh trong nhà Sát-đế-lợi. Chuyển tốt hơn thì sinh trong nhà Đại thần. Chuyển tốt hơn thì sinh trong nhà Quốc vương. Đối với mười thiện đạo mà chuyển sang tốt hơn nữa thì sinh đến cõi Cù- đà-ni. Chuyển tốt hơn thì sinh đến cõi Phất-bà-đề. Chuyển tốt hơn thì sinh đến cõi Uất-đan-việt. Chuyển tốt hơn thì sinh lên cõi trời Tứ thiên vương. Chuyển tốt hơn thì sinh lên cõi trời Đao lợi, cõi trời Diệm-ma, cõi trời Đâu-suất-đà, cõi trời Hóa lạc. Luyện tập thực hành mười thiện đạo thuộc bậc thượng thì sinh lên cõi trời Tha hóa tự tại. Ở trong này cũng cần phải phân biệt các loại lớn nhỏ sai khác. Như trong loài người có Tiểu vương-Đại vương và Diêm-phù-đề vương, Chuyển luân Thánh vương. Cõi trời Tứ thiên vương thì có Tứ thiên vương. Trong cõi trời Đao-lợi thì có Thích-đề-hoàn-nhân. Trên cõi trời Diệm-ma thì có Thiên vương Tu-diệm-ma. Trên cõi trời Đâu-suất-đà thì có Thiên vương San- đâu-suất-đà. Trên cõi trời Hóa lạc thì có Thiên vương Thiện hóa. Trên cõi trời Tha hóa tự tại thì có Thiên vương Tha hóa tự tại. Vượt qua cõi này trở lên, cần phải thực hành thiền định tư duy mới có thể sinh lên cảnh giới phía trên. Hỏi: Nếu dùng thiền định tư duy mới được sinh lên cảnh giới phía trên, thì tại vì sao nói là cho đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng đều nhờ vào mười thiện đạo mà được sinh đến? Đáp: Tuy rằng tu thiền định sinh đến cõi Sắc và cõi Vô Sắc, nhưng trước tiên cần phải trú vững vàng trong mười thiện đạo, sau đó mới có thể tu thiền định. Vì vậy cho nên ở cõi ấy dùng mười thiện nghiệp đạo làm lợi ích to lớn. Vì lý do này mới nói là cho đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng đều nhờ vào nhân duyên của mười thiện đạo mà được sinh. Vì sao như vậy? Bởi vì trước tiên thực hành mười thiện đạo thanh tịnh xa rời dục vọng, tu tập Sơ thiền tư duy thuộc bậc Hạ được sinh đến cõi trời Phạm chúng, tu tập sơ thiền tư duy thuộc bậc trung thì sinh đến cõi trời Phạm Phụ, tu tập Sơ thiền tư duy thuộc bậc Thượng cho nên được sinh đến cõi trời Đại phạm. Tu tập Nhị thiền tư duy thuộc bậc Hạ thì sinh đến cõi trời Thiểu Quang, tu tập Nhị thiền tư duy thuộc bậc Trung thì được sinh đến cõi trời Vô Lượng Quang, tu tập Nhị thiền tư duy thuộc bậc Thượng thì được sinh đến cõi trời Diệu Quang. Tu tập Tam thiền tư duy thuộc bậc Hạ thì được sinh đến cõi trời Tiểu Tịnh, tu tập Tam thiền tư duy thuộc bậc trung cho nên được sinh đến cõi trời Vô Lượng Tịnh, tu tập Tam thiền tư duy thuộc bậc Thượng thì được sinh đến cõi trời Biến Tịnh. Tu tập Tứ thiền tư duy thuộc bậc Hạ cho nên sinh đến cõi trời A Na Bà Già, tu tập Tứ thiền tư duy thuộc bậc Trung cho nên sinh đến cõi trời Phước sinh, tu tập Tứ thiền tư duy thuộc bậc Thượng cho nên sinh đến cõi trời Quảng Quả. Tu tập Vô lượng định tư duy thuộc bậc trung thì được sinh đến cõi trời Vô tưởng, dùng vô lậu huân tu Tứ thiền tư duy thuộc bậc Hạ cho nên sinh đến cõi trời Bất Quảng, dùng vô lậu huân tu Tứ thiền tư duy hơn nữa bậc Hạ cho nên sinh đến cõi trời Bất Nhiệt, dùng vô lậu huân tu Tứ thiền tư duy hơn nữa cho nên sinh đến cõi trời Hỷ Nhiệt, dùng vô lậu huân tu Tứ thiền tư duy hơn nữa cho nên sinh đến cõi trời Hỷ Kiến, dùng vô lậu huân tu Tứ thiền tư duy hơn nữa cho nên sinh đến cõi trời Diệu Kiến, dùng vô lậu huân tu Tứ thiền tư duy cao nhất cho nên sinh đến cõi trời A Ca Nị Tra. Tu tập không xứ định tương ưng với tư duy thì được sinh đến cõi trời không xứ. Tu tập Thức xứ định tương ưng với tư duy thì được sinh đến cõi trời Thức xứ. Tu tập vô sở hữu xứ định tương ưng với tư duy thì được đền cõi trời Vô sở hữu xứ. Tu tập Phi tưởng phi phi tưởng xứ định tương ưng với tư duy thì được sinh đến cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đây gọi là nơi qua lại của chúng sinh trong thế gian sinh tử. ----------------------- <詞>Phẩm 29: PHÂN BIỆT THANH VĂN BÍCH CHI PHẬT Hỏi: Mười thiện nghiệp đạo này, chỉ là nhân duyên sinh trong cõi trời-người, lại có ích lợi gì khác chăng? Đáp: Có. Tất cả ba thừa là Thanh văn, Bích-chi-Phật cho đến Đại thừa, Đều dựa vào mười thiện nghiệp đạo, Để làm thành lợi ích to lớn. Tất cả nhân duyên thoát ra khỏi sinh tử thì chỉ có Tam thừa, đó là Thanh văn thừa, Bích-chi-Phật thừa và Đại thừa. Ba thừa này đều lấy mười thiện đạo để làm lợi ích to lớn. Tại vì sao? Bởi vì mười thiện đạo này có năng lực làm cho hành giả đến được địa vị Thanh văn, cũng có năng lực làm cho đến được địa vị Bích-chi-Phật, cũng có năng lực làm cho người đến được địa vị của Phật. Hỏi: Mười thiện đạo này có năng lực làm cho những chúng sinh nào đến được địa vị Thanh văn? Đáp: Tùy người không có tâm Đại Bi, Luôn sợ hãi đối với ba cõi, Vui với phần công đức nhỏ bé, Chí hướng của họ thật kém cỏi. Tâm vui với chán ngán lìa xa, Thường quán xét thế gian vô thường, Và biết rõ tất cả các pháp, Cũng hoàn toàn không có bản ngã. Thậm chí chỉ trong một ý niệm, Cũng không thích gì sự thọ sinh, Thường không tin tưởng gì thế gian, Lại có một pháp nào an ổn. Quán xét bốn Đại như rắn độc, Năm Ấm như giặc cướp vung dao, Sáu Nhập như đám bọt rỗng không, Không thích gì vui sướng thế gian. Coi trọng đối với sự trì giới, Kiên quyết phát sinh được thiền định, Thường vui với thiền pháp an lành, Tinh tiến tu tập các pháp thiện. Chỉ quán sát hướng về Niết bàn, Thật là nơi cứu hộ bậc nhất, Thường mong cầu trí tuệ diệt khổ, Vui tích tập hành hạnh giải thoát. Chỉ coi trọng đối với tự lợi, Tất cả đến nơi chốn tốt đẹp, Thiện đạo khiến cho hạng người này, Có thể đến địa vị Thanh văn. Thuận theo âm thanh của người khác, là nghe những gì người khác đã nói mà tùy thuận thực hành, chứ không có năng lực tự mình phát sinh trí tuệ. Hỏi: Mười thiện đạo có thể làm cho tất cả những người nghe được từ người khác đều trở thành Thanh văn hay sao? Đáp: Không phải như vậy. Nếu không có tâm Đại Bi thì người thiện đạo có thể khiến cho người này đến địa vị Thanh văn. Nếu có Bồ tát nghe pháp từ Chư Phật, bởi vì có tâm Đại Bi cho nên mười thiện đạo không có thể khiến cho đến địa vị Thanh văn được. Hỏi: Tất cả những người không có tâm Đại Bi, thì mười thiện đạo đều có thể làm cho họ đến địa vị Thanh văn hay sao? Đáp: Không phải như vậy. Người sợ hãi ba cõi thì mười thiện đạo có thể làm cho người này đến địa Thanh văn, người khác không sợ hãi thì khiến cho sinh vào nơi chốn tốt lành của trời-người, bởi vì họ thích ba cõi. Hỏi: Tất cả những người sợ hãi ba cõi, thì mười thiện đạo đều có thể làm cho đến địa vị Thanh văn hay sao? Nếu như vậy thì Bồ tát cũng sợ hãi thọ thân trong ba cõi, lại vì chúng sinh mà chịu khó thực hành tinh tiến cầu mong Niết bàn. Như vậy mười thiện đạo, cũng phải làm cho đến địa vị Thanh văn hay sao? Đáp: Không hẳn tất cả những người sợ hãi ba cõi đều rơi vào địa vị Thanh văn. Như thế nào là rơi vào? Đó là những người thích luyện tập thực hành phần ít công đức, ở trong sáu hạnh Ba-la-mật, mà Đức Phật giáo hóa, họ tiếp nhận thực hành phần ít, người như vậy sẽ rơi vào địa vị Thanh văn. Nếu người có thể chọn lấy công đức của Chư Phật mà học theo tất cả trí tuệ, thì mười thiện đạo nhất định làm cho người này đi thẳng đến Phật đạo. Người nghe và thuận theo người khác mà sợ hãi ba cõi, chọn lấy phần ít công đức, thì người này có hai loại tùy thuận mười thiện đạo, có thể làm cho đến địa vị Thanh văn và đến địa vị Bích-chi-Phật. Hỏi: Người này vì sao chỉ nghe theo người khác mà sợ hãi ba cõi, chọn lấy phần ít công đức, để mười thiện đạo có thể làm cho đến địa vị Thanh văn và địa vị Bích-chi-Phật? Đáp: Người chí hướng yếu hèn thì làm A-la-hán, người ít kiên cố thì làm Bích-chi-Phật. Hỏi: Mười thiện đạo khiến cho tất cả những người có chí hướng yếu hèn đến địa vị Thanh văn ư? Đáp: Chán ngán rời xa sinh tử, chứ không chỉ là người yếu hèn không có tâm lý chán ngán rời xa. Hỏi: Quán xét điều gì để biết được tâm vui với sự chán ngán rời xa? Đáp: Quán xét pháp hữu vi là vô thường, tất cả các pháp là vô ngã, nên biết là chắc chắn vui với sự chán ngán rời xa. Hỏi: Đã biết vui với sự chán ngán rời xa, Bồ tát cũng quán xét pháp hữu vi là vô thường-tất cả pháp là vô ngã như vậy, mười thiện đạo này sao có thể không làm cho người này rơi vào địa vị Thanh văn? Đáp: Người này hết sức chán ngán rời xa, vốn rời xa Đại Bi, cho đến trong một ý niệm cũng không thích thọ sinh, không tin là thế gian có tướng nào an ổn được cả. Như trong kinh nói: “Đức Phật bảo với các Tỳ-kheo: Ví như một chút phân mà hãy còn hôi thối dơ bẩn, huống gì là nhiều? Như vậy trong một niệm mà thọ sinh hãy còn khổ đau, huống gì là nhiều? Này các Tỳ-kheo! Nên học theo pháp đoạn dứt sinh khởi chứ đừng làm cho tiếp tục nhận! “Người Thanh văn tin nhận lời nói này, thậm chí trong một ý niệm cũng không thích thọ sinh, người này lại dấy lên nghó như vậy: Thế gian là vô thường, đối với những việc làm và mạng sống mà mình tiếp nhận cũng không có tướng an ổn gì, cái chết thường xuyên đi theo con người, ai có thể biết được lúc nào sẽ chết? Không biết lúc chết sẽ nhận lấy của quả báo của nghiệp gì? Vì tâm nào sinh khởi? Bởi vì trong mọi điều như vậy không hề an ổn, không đáng tin tưởng, hãy nhanh chóng cầu được hết khổ. Bồ tát thì không như vậy, thọ sinh trải qua hằng hà sa vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, vì đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, cứu độ cho các chúng sinh. Vì vậy trong kệ nói: Thậm chí chỉ trong một ý niệm, cũng không thích gì sự thọ sinh. Mười thiện đạo có thể làm cho người này đến được địa vị Thanh văn. Hỏi: Người này thích tu tập pháp nào mà không thích thọ sinh? Đáp: Người này quán xét bốn Đại là đất-nước-lửa-gió, vì vui mừng mà sinh sân hận, hôi thối dơ bẩn không biết ân nghĩa gì, cho nên sinh ý tưởng giống như rắn độc; năm Ấm là sắc-thọ-tưởng-hành-thức, vì luôn luôn đoạt mất mạng sống trí tuệ, cho nên sinh ý tưởng giống như giặc thù; sáu căn là nhãn-nhó-tỷ-thiệt-thân-ý, vì tiến vào xa lìa thường xuyên xa lìa trạng thái Bất động-Bất biến-Bất hoại-Vô ngã-vô ngã sở, cho nên sinh ý tưởng giống như đám bọt trống rỗng. Như người ở tại thế gian thì tất cả mọi sự thọ sinh và mọi điều kiện sinh sống vui vẻ đầy đủ, bởi vì vô thường giả dối không dừng lại trong chốc lát, cho nên không sinh tâm vui mừng. Người như vậy đối với tất cả mọi nơi sinh ra, sinh ý tưởng không có gì an ổn, chỉ một pháp Niết bàn là có thể làm nơi cứu hộ được mình. Như trong kinh nói: “Này các Tỳ-kheo! Thế gian đều là lửa cháy hừng hực, đó gọi là cháy do nhãn căn, cháy do sắc, cháy do nhãn thức, cháy do nhãn xúc, và nhân duyên thọ sinh của nhãn xúc cũng đều bốc cháy? Đó là do lửa tham dục-lửa sân hận-lửa ngu si, lửa của sinh-già- bệnh-chết-ưu bi khổ não mà cháy hừng hực. Nhó-tỷ-thiệt-thân-ý cũng như vậy. Quán xét tất cả các pháp hữu vi đều là lửa cháy hừng hực, chỉ có pháp Niết bàn vắng lặng mới có năng lực làm nơi cứu hộ được mình. Quý trọng chỉ một pháp Niết bàn cho nên buông bỏ tất cả mọi điều mà chịu khó luyện tập tọa thiền”. Hỏi: Nếu quán xét tất cả các pháp hữu vi đều là lửa cháy hừng hực, chỉ có pháp Niết bàn vắng lặng mới có năng lực làm nơi cứu hộ được, thì mười thiện đạo đều làm cho đi đến địa vị Thanh văn ư? Đáp: Không phải như vậy. Đức Phật kiết giới, vì thiền định cho nên quý trọng giới này, có tâm quyết định mà không hủy phạm, buông bỏ tất cả mọi điều mà chỉ vui với tọa thiền, cầu trí tuệ diệt khổ mà luôn luôn chịu khó tu tập nhân duyên giải thoát. Ở trong đời trước hoặc đến từ một thắng xứ, hoặc đến từ hai thắng xứ, thì mười thiện đạo có thể làm cho người này đi đến địa vị Thanh văn. Tại vì sao? Bởi vì trì giới thanh tịnh thì tâm không hối tiếc, tâm không hối tiếc cho nên được hoan hỷ, tâm được hoan hỷ cho nên thân nhẹ nhàng, thân nhẹ nhàng cho nên tâm vui vẻ, tâm vui vẻ cho nên nhiếp tâm đạt được định, nhiếp tâm đạt được định cho nên phát sinh trí tuệ như thật, phát sinh trí tuệ như thật cho nên lập tức sinh ra chán ngán, thuận theo chán ngán mà sinh ra lìa xa, từ lìa xa mà được giải thoát. Hoặc một thắng xứ, hoặc hai thắng xứ mà đến, như Tôn giả La- hầu-la đến từ thắng xứ của Đế, như Tôn giả Thi-viết-la đến từ thắng xứ của xả, như Tôn giả Ly-bạt-đa đến từ thắng xứ của Tịch diệt, như Tôn giả Xá-lợi-phất đến từ thắng xứ của Tuệ. Hoặc đến từ hai thắng xứ là Đế và xả, hoặc đến từ hai thắng xứ là Đế và Tịch diệt, hoặc đến từ hai thắng xứ là Đế và Tuệ, hoặc đến từ hai thắng xứ là Xả và Tịch diệt, hoặc đến từ hai thắng xứ là xả và Tuệ, hoặc đến từ hai thắng xứ là Tịch diệt và Tuệ. Như vậy mười thiện đạo, có năng lực làm cho đến được địa vị Thanh văn. <卷>QUYỂN 15 <詞>Phẩm 29: PHÂN BIỆT THANH VĂN VÀ BÍCH CHI PHẬT Phần 2 Hỏi: Mười thiện đạo làm cho những người nào đến được địa vị Bích-chi-Phật? Đáp: Đối với pháp hành của Thanh văn, Mười thiện đạo chuyển sang tốt hơn, Sâu vào thiền không theo người khác, Luôn luôn vui với hạnh xa lìa. Thường vui và khéo léo tu tập, Pháp nhân duyên vô cùng sâu xa, Xa lìa sức mạnh của phương tiện, Và cũng xa lìa tâm Đại Bi. Ít ham muốn và ít bận rộn, Không thích chốn ồn ào lẫn tạp, Thường vui với những nơi xa cách, Người có uy đức rất sâu dày. Vui làm nơi chốn của phước điền, Thường quán xét với tính xuất ly, Thành tựu đầy đủ lý và sự, Cung kính đối với Phật Thế Tôn. Đã thành tựu giữ tâm một chỗ, Biết tâm vốn duyên vào nơi nào, Luôn luôn vui với hạnh thiền định, Là người có thế lực bậc Trung. Vui với các pháp của xuất gia, Thiện tâm không co cụm chìm đi, Người đạt được trí tuệ sáng suốt, Hoặc đến từ trong hai thắng xứ, Hoặc đến từ trong ba thắng xứ, Nghiệp đạo của người thiện như vậy, Có thể làm cho người như vậy, Đến với địa vị của Duyên giác. Đối với pháp hành của Thanh văn-mười thiện đạo chuyển sang tốt hơn, là mười thiện đạo vượt qua sở hành của người Thanh văn, nhưng không bằng sở hành của Bồ tát dấy lên nghó như vậy: Người Thanh văn phải tùy theo người khác để nghe mà hành đạo, sau đó mới có thể tự mình chứng được trí tuệ, mình thì không như vậy, không thích tùy theo người khác, vì lý do này, mình phải làm cho mười thiện đạo chuyển sang tốt hơn, vì nhân duyên này cho nên mình không thích tùy theo người khác, mà mười thiện đạo sẽ làm cho mình đến được địa vị Bích- chi-Phật. Tư duy như vậy rồi thường vui với sự xa lìa, dấy lên nghó như vậy: Nếu mình thường thích sự ồn ào náo nhiệt thì sẽ làm cho các pháp bất thiện tai hại quy tụ, bởi vì tiếp cận những điều có thể vấy nhiễm-có thể sân hận-có thể ngu si. Thế là trong sự lìa xa thuận theo tu tập các pháp nhân duyên vô cùng sâu xa. Lại dấy lên nghó như vậy: Nếu mình không tu tập các pháp nhân duyên rất sâu xa thì không có thể không thuận theo trí của người khác, nay tại sao mình không thường xuyên tu tập nhân duyên rất sâu xa, sau đó có thể đạt được trí không thuận theo người khác? Rất sâu xa, là khó đến được nơi tận cùng, không có thể thông suốt được. Tất cả phàm phu từ vô thỉ chìm trong sinh tử, hết thảy kinh sách và mọi thứ kỹ năng khéo léo đều có thể đạt được đến chỗ tận cùng mọi điều, nhưng chỉ riêng nhân duyên rất sâu xa thì không thể đến được tận cùng, như các loài sâu bọ nhỏ bé không thể nào đến được đáy sâu của biển rộng. Nếu người có tâm Đại Bi làm phương tiện và tu tập nhân duyên rất sâu xa, thì đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Nếu rời bỏ hai điều này mà tu tập về trí nhân duyên sâu xa, thì trở thành Bích-chi-Phật. Phương tiện có nghĩa là từ trong sự thành tựu giáo hóa chúng sinh, tư duy đủ cách mà không sai lầm, cũng đối với pháp rất sâu xa không chấp lấy tướng. Đại Bi có nghĩa là hết sức thương xót chúng sinh, hơn hẳn hàng Thanh văn và Bích-chi-Phật, huống gì là phàm phu. Ít ham muốn và ít bận rộn-không thích chốn ồn ào lẫn tạp, như vậy thì đến được địa vị của Bích-chi-Phật. Nếu nhiều ham muốn và nhiều công việc, thích tu tập đông người, được sự bảo vệ của lòng Đại Bi và phương tiện, thì quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác sẽ dễ dàng đạt được. Tại vì sao? Bởi vì người cầu địa vị Bích-chi-Phật, ít ham muốn thì dấy lên ý nghó là chỉ tự cứu độ chính mình, ít bận rộn thì chỉ tự thành tựu thiện căn của mình chứ không nghó đến người khác. Người này rời bỏ sự nghiệp giáo hóa chúng sinh cho nên không gần gũi với chúng sinh. Bồ tát nhiều ham muốn-nhiều công việc, dấy lên ý niệm như vậy: Mình cần phải cứu độ tất cả chúng sinh. Bởi vì nhân duyên ham muốn vó đại này cho nên phải làm công việc vó đại là giáo hóa chúng sinh. Giáo hóa chúng sinh thì điều này không phải là chuyện nhỏ nhặt, nếu chán ghét những điều ồn ào náo nhiệt tai hại thì không làm được công việc này. Vì vậy Bồ tát vào trong chốn ồn ào náo nhiệt cũng dùng những lời ồn ào náo nhiệt, nhưng không hề vướng mắc điều gì. Vả lại, che lấp công đức chân thật, cho nên gọi là ít ham muốn. ít theo đuổi sự nghiệp cho nên gọi là ít bận rộn. Chán ghét nơi ồn náo nhiệt tai hại, gọi là ít ham muốn. thích ở một mình cho nên gọi là ít bận rộn. Người như vậy, ít ham muốn-ít bận rộn, không thích nơi không thích nơi đông người ồn ào náo nhiệt, thích gần gũi những nơi sâu xa heo hút, lìa xa những nơi đáng sợ, tâm tư vô cùng rộng lớn. Người này dấy lên ý niệm như vậy: Nếu mình ở những nơi sâu xa heo hút, lìa xa nơi đáng sợ thì người khác không đến được. Bởi vì ở những nơi xa cách, cho nên tâm tư cũng sâu xa. Nếu người tự mình không sâu xa mà thích đùa cợt, thì người khác qua lại tiếp xúc cũng không có gì là khó. Người như vậy không hòa hợp với chúng sinh, tuy rời bỏ chúng sinh mà cũng muốn làm cho chúng sinh gieo trồng các thiện căn làm lợi ích to lớn, dấy lên ý niệm như vậy: Tại sao mình không hòa hợp với chúng sinh để cũng có thể làm lợi ích cho chúng sinh? Tư duy biết như vậy rồi, mình nên vì chúng sinh làm lợi ích của phước điền mà thọ nhận sự cúng dường của họ. Như vậy, tuy không hòa hợp với chúng sinh, nhưng mà có thể làm lợi ích to lớn. Người này lại tư duy: Mình làm thế nào để đạt được địa vị của phước điền? Tức là sự thấy biết của mình. Nếu mình rất thích làm mảnh đất của phước điền, thì thường xuyên quán xét vượt ra ngoài tính, sau đó pháp của mảnh đất phước điền tự nhiên mà xuất hiện, ngay cả pháp vượt ra ngoài tính cũng tự nhiên mà xuất hiện, đó gọi là trì giới-thiền định-trí tuệ… Lại dấy lên ý niệm như vậy: Mình nên làm thế nào để nhanh chóng đến được mảnh đất phước điền và pháp vượt ra ngoài tính? Mình nên thực hành chính quán thì ở trong các sự việc và nghĩa lý hiện có thảy đều thành tựu đầy đủ, cung kính cúng dường Chư Phật Thế tôn, như vậy mảnh đất phước điền và pháp vượt ra ngoài tính, không bao lâu sẽ nhanh chóng đạt được. Tại vì sao? Bởi vì mình sẽ thành tựu đầy đủ sự việc có nghĩa lý, chính quán các pháp có thể đạt được trí không tùy thuộc người khác, lại cung kính cúng dường Chư Phật Thế Tôn cho nên khiến thiện căn được sâu dày hơn. Thiện căn tăng trưởng mạnh mẽ cho nên trí tuệ được sâu dày. Trí tuệ sâu dày cho nên có thể thông suốt được sự thật. Có thể thông suốt được sự thật cho nên có thể sinh ra chán ngán, từ chán ngán sẽ sinh ra xa rời, từ xa rời mà được giải thoát, được giải thoát cho nên thiện căn tích tập từ trước đến sau nhất định trở thành phước điền, sau đó có thể chứng được pháp vượt ra ngoài tính. Lúc gieo trồng các thiện căn này là nhân duyên lớn nhất. Người này lại tư duy: Mình làm thế nào để có thể nhanh chóng thành tựu sự việc có nghĩa lý? Người này liền tự mình thấy biết. Nếu mình tập trung buộc tâm lại một chỗ thì biết được sở duyên của tâm, thường vui với thiền định. Người này luôn luôn buộc tâm lại một chỗ thì có thể đạt được Tam muội, đạt được Tam muội cho nên sự việc có nghĩa lý đều có thể thành tựu đầy đủ. Như trong kinh nói: “Đạt được thiền định có thể biết đúng như thật-thấy đúng như thật”. Nếu người đã thực hành buộc tâm lại một chỗ thì nhanh chóng tiến vào Tam muội. Nhanh chóng tiến vào Tam muội cho nên gọi là thiền định, gọi là thường định. Nếu có thể tu tập các pháp như vậy thì chính là cung kính cúng dường Chư Phật. Nếu người dùng hương hoa và bốn sự cúng dường Chư Phật thì không gọi là cúng dường Chư Phật. Nếu có thể nhất tâm không phóng túng, gần gũi tu tập Thánh đạo thì gọi là cung kính cúng dường Chư Phật. Như kinh nói: “Lúc nhập Niết bàn, Đức Phật bảo với A-nan: Trời rải hoa Mạn-đà-la và bột hương Chiên-đàn, trỗi các loại âm nhạc cõi trời, cũng không gọi là chúng sinh cúng dường Như Lai. Này A-nan! Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nhất tâm không phóng túng, gần gũi tu tập Thánh pháp, thì gọi là thật sự cúng dường Phật. Vì vậy, này A-nan! Ông nên tu học thật sự cúng dường Phật”. Các công đức như vậy, đều là thế lực thuộc bậc Trung. Người vui với đời sống xuất gia, thiện tâm không co cụm chìm mất, là thế lực tối thượng có thể được thành Phật. Thế lực thuộc bậc hạ thì làm Thanh văn, vì vậy cho nên người có thế lực bậc Trung thì làm Bích-chi-Phật. Vui với đời sống xuất gia cho nên có năng lực thành tựu những công đức. Tại vì sao? Bởi vì nếu là tại gia thì không thể nào ít ham muốn-ít bận rộn, thân tâm không thể nào xa lìa ràng buộc, cũng không thể nào thiền định được. Nếu tâm co cụm chìm mất và không thanh tịnh, thì không thể nào thành tựu đầy đủ mọi công việc, không thể nào biết được pháp nhân duyên rất sâu xa, không thể nào chứng được tính vượt ra ngoài, không thể nào đúng như pháp thật sự cúng dường Chư Phật. Chúng sinh có thế lực thuộc bậc trung như vậy, dấy lên ý niệm như vậy: Mình là người có thế lực thuộc bậc Trung, thường thích xuất gia, tâm không bị co cụm chìm mất, những việc làm-những công đức-hạnh nguyện đều tự nhiên phát sinh. Lại dấy lên tư duy như vậy: Thế lực bậc Trung này vui vì đạt được quả gì? Lập tức biết là sẽ đạt được quả trí tuệ. Tại vì sao? Bởi vì trí tuệ luôn luôn là ánh sáng chiếu rọi. Như trong kinh nói: “Này các Tỳ-kheo! Ánh sáng trí tuệ là hơn hẳn trong tất cả các loại ánh sáng”. Lại dấy lên ý niệm như vậy: Ánh sáng trí tuệ mà mình thích, làm thế nào để đạt được? Liền biết hoặc là từ hai thắng xứ mà có, hoặc là từ ba thắng xứ mà có. Hai thắng xứ thì đã nói trước đây. Ba thắng xứ, đó gọi là Đế-Xả và Tịch diệt, hoặc là Đế-Xả và Tuệ, hoặc là Đế-Tịch diệt và Tuệ. Vì vậy cho nên mình phải tu tập những thắng xứ như vậy, mình tu tập vậy rồi đạt được ánh sáng trí tuệ, thì trí tuệ mà mình mong muốn tự nhiên phát sinh. Pháp trợ đạo có tướng như vậy-tu tập như vậy, thì mười thiện đạo có năng lực đưa đến địa vị Bích-chi-Phật. -------------------------- <詞>Phẩm 30: ĐẠI THỪA Hỏi: Như Nhân giả đã nói, mười thiện đạo có năng lực làm cho người tu tập đến được địa vị Thanh văn và Bích-chi-Phật; mười thiện nghiệp đạo, lại làm cho những chúng sinh nào đến được địa vị Phật? Đáp: Thực hành đầy đủ mười thiện đạo, Hơn hẳn đối với hai loại người, Tu tập vô lượng pháp hiếm có, Hơn hẳn tất cả các thế gian. Phát nguyện kiên cố và thiện niệm, Thành tựu tâm Đại Bi vô ngại, Khéo tiếp nhận thực hành phương tiện, Nhẫn chịu tất cả mọi khổ não. Không rời bỏ tất cả chúng sinh, Rất yêu quý trí tuệ Chư Phật, Đối với Phật lực luôn tự tại, Vui mừng vì không còn biến hành. Có năng lực phá mọi tà kiến, Bảo vệ được chính pháp của Phật, Dũng mãnh tiếp nhận luôn tinh tiến, Tâm kiên cố giáo hóa chúng sinh. Không tham đắm niềm vui riêng mình, Trong vô lượng thân mạng trải qua, Cao nhất trong tất cả mọi việc, Thực hành không có gì sai lầm. Tất cả các chủng loại thanh tịnh, Tất cả các thắng xứ phát sinh, Mười thiện đạo làm cho người này, Đến được mười lực của Thế tôn. Tu tập thực hành mười thiện đạo hơn hẳn hai loại người, là Bồ tát tu mười thiện đạo thì đối với người cầu địa vị Thanh văn và Bích-chi- Phật, càng trở nên hơn hẳn. Càng trở nên hơn hẳn, là nhất tâm tu hành và luôn luôn tu hành, vì lợi ích cho mình mà tu hành, vì lợi ích cho người mà tu hành, tu hành hết sức thanh tịnh. Nhất tâm tu hành là vận dụng tâm ý để tu hành. Luôn luôn tu hành là không dừng lại nửa chừng. Vì lợi ích cho mình mà tu hành, là nhân duyên sinh trong đường trời-người, là nhân duyên của Niết bàn. Vì lợi ích cho người mà tu hành, là Bồ tát tu hành người thiện đạo, hồi hướng làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh, vì nhân duyên này mà có thể cứu độ chúng sinh vượt quá số lượng tính toán. Tu hành thanh tịnh, là công hạnh không hủy hoại, công hạnh không có gì lẫn tạp, công hạnh không ô trược, công hạnh luôn tự tại, công hạnh luôn đầy đủ, không tham đắm đối với công hạnh, công hạnh được người trí khen ngợi. Hủy hoại là có lúc thực hành-có lúc không thực hành, ngược lại với điều này thì gọi là công hạnh không hủy hoại. Lẫn tạp là tự mình không làm mà khiến người khác làm, ngược lại với điều này thì gọi là công hạnh không lẫn tạp. Ô trược là việc làm phù hợp với nghiệp tội và phiền não, ngược lại với điều này thì gọi là công hạnh không ô trược. Tự tại, người phá giới bị gia nghiệp-ruộng vườn-vợ con-tài sản ràng buộc mà không được tự tại, người trì giới thì không có những điều như vậy, tùy ý tự tại không có gì ràng buộc. Đầy đủ là thực hành đầy đủ tất cả các giới lớn-nhỏ-nặng-nhẹ, ngăn lại các phiền não, thường nhớ đến và luôn giữ gìn, làm nhân duyên cho thiền định, hồi hướng Phật đạo có năng lực làm cho giống như pháp tính chân thật, đây gọi là đầy đủ. Không tham đắm là không hướng về thế gian, không giữ lấy giới tướng, tự cho mình cao xa mà coi rẻ người khác. Được người trí khen ngợi, là trong pháp Thanh văn không thuận theo sinh tử, chỉ vì Niết bàn cho nên nói là được người trí khen ngợi. Trong pháp Đại thừa này, hãy còn không quay lại hướng về Thanh văn và Bích-chi-Phật, huống là sinh tử? Chỉ một mực hướng đến quả Vô thượng chính đẳng chính giác, cho nên nói là được người trí khen ngợi tu hành mười thiện đạo. Hỏi: Tu có tướng trạng gì gọi là khéo léo tu tập? Đáp: Dùng vô lượng pháp hiếm có để tu tập mười thiện đạo, hơn hẳn tất cả các thế gian, đây gọi là khéo léo tu tập. Hỏi: Vì sao Bồ tát dùng pháp tu tập này mà hơn hẳn tất cả các thế gian? Đáp: Các Bồ tát dùng năm sự việc để tu tập, cho nên hơn hẳn tất cả các thế gian. Đó là: Hạnh nguyện. Tâm kiên cố. Tâm sâu xa. Khéo léo thanh tịnh. Phương tiện. Hạnh nguyện là nguyện thực hành của Bồ tát, mà tất cả người phàm phu và người Thanh văn,Bích-chi-Phật không có. vì vậy cho nên nguyện thực hành của Bồ tát hơn hẳn tất cả các thế gian. Như trong phần Tỳ-Ma-la-đạt-đa-nữ vấn của kinh Đại trí: “Đức Phật vì Mục-kiền- liên mà giải thích: Bồ tát từ lúc mới phát nguyện cho đến lúc an tọa nơi đạo tràng, có năng lực làm phước điền cho tất cả trời và người trong mọi thế gian, còn hơn hẳn tất cả các hàng Thanh văn và Bích-chi-Phật”. Lại như trong Tịnh Tỳ Ni: “Ma-ha-ca-diếp hướng đến trước Đức Phật thưa rằng: Đức Thế Tôn khéo léo giảng thuyết về pháp hiếm có, đó gọi là Bồ tát lúc mới phát nguyện đã hơn hẳn tất cả các hàng Thanh văn và Bích-chi-Phật”. Lại như trong kệ nói: Bồ tát từ lúc mới phát tâm, Phù hợp với tâm Đại Từ Bi, Vì hướng về đạo vô thượng, Chính tâm này trở thành hơn hẳn, Vì vậy cho nên dùng nguyện này, An trú trong tất cả thế gian. Tâm kiên cố, là Bồ tát ở trong những nơi khổ não, đó là địa ngục đẳng hoạt, địa ngục Hắc thằng, địa ngục Hợp hội, địa ngục Tiểu kh- iếu hoán, địa ngục Đại khiếu hoán, địa ngục Tiểu chích, địa ngục Đại Chích, địa ngục A-tỳ, địa ngục Phí thỉ, địa ngục kiếm lâm, địa ngục Khôi hà, địa ngục A-phù-đà, địa ngục Ni-la-phù-đà, địa ngục A-ba- bá, địa ngục A-la-la, địa ngục Hưu hưu, địa ngục Uất-bát-la, địa ngục Câu-vật-đà, địa ngục Tu-man-na, địa ngục Phân-đà-lợi, địa ngục Bát- đầu-ma, địa ngục Hàn nhiệt… Đủ các loại tra khảo tàn khốc, khổ não như vậy. Ở trong loài súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la, người-trời, cùng ăn nuốt lẫn nhau, dọa dẫm sợ hãi lẫn nhau, đói kém thóc lúa còn quý hơn vàng. Từ loài trời sụt xuống, thì keo kiệt-ganh-tî-sân hận-não hại, ân ái mà phải chia ly, oán ghét mà phải hội tụ, sinh-già-chết, ưu sầu-đau thương-buồn phiền… Trong sáu đường này, hết thảy mọi nỗi khổ đau hoặc thấy-hoặc nghe-hoặc nhận chịu, tu mười thiện đạo luôn luôn vì quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác mà tâm hoàn toàn không hư hoại. Vì vậy cho nên Bồ tát này dùng tâm kiên cố để tu tập mười thiện đạo, hơn hẳn tất cả thế gian. Như nói: Đường địa ngục và đường súc sinh, Đường ngạ quỷ-đường A-tu-la, Đường trời-người gồm sáu đường khổ, Không thể nào lay động tâm tư. Vì vậy cho nên các Bồ tát, Dùng tâm vô cùng kiên cố này, Tu tập thực hành mười thiện đạo, Hơn hẳn tất cả mọi thế gian. Tâm sâu xa, là tâm vó đại-tâm sử dụng-tâm yêu quý-tâm nhớ nghó. Các Bồ tát sử dụng những tâm như vậy để tu tập mười thiện đạo, hơn hẳn tất cả mọi thế gian, trừ ra Chư Phật Thế tôn và Bồ tát thực hành đã lâu. Như nói: Tâm sâu xa và tâm sử dụng, Tâm làm lợi ích cho thế gian, Bồ tát dùng những tâm niệm này, Hơn hẳn tất cả mọi thế gian. Khéo léo thanh tịnh, là Bồ tát tu tập mười thiện đạo có đầy đủ ba loại thanh tịnh, mà người khác không có được. Vì vậy cho nên hơn hẳn tất cả mọi thế gian. Như nói: Bồ tát quý nhất giữa loài người, Có tâm sâu xa-tâm thanh tịnh, Dùng sức mạnh của thiện pháp này, Thế gian không có ai sánh kịp. Phương tiện, là Bồ tát dùng sức mạnh của phương tiện để tu tập đối với thiện pháp, mà người khác không ai có được, cho nên hơn hẳn tất cả mọi thế gian. Tu vô lượng và Bồ tát dùng năm loại nhân duyên để tu tập, cho nên gọi là tu vô lượng, đó là: Thế gian vô lượng. Thiện căn vô lượng. Duyên vô lượng. Cứu cánh vô lượng. Hồi hướng vô lượng. Thế gian vô lượng, nghĩa là các Bồ tát tu tập thực hành thiện ng- hiệp đạo trải qua vô lượng thế gian. Trải qua vô lượng thế gian, cho nên sự tu tập thực hành thiện nghiệp đạo cũng vô lượng, vì vậy hơn hẳn tất cả mọi thế gian. Như nói: Các bậc Bồ tát là sư tử, Tu tập thực hành thiện nghiệp đạo, Thế gian vượt quá mọi toán số, Cho nên tu thiện nghiệp tốt thắng. Thiện căn vô lượng, nghĩa là các Bồ tát có vô lượng vô biên thiện căn, thuận theo thiện căn này mà tu tập thiện nghiệp đạo cũng vô lượng. Vì vậy hơn hẳn tất cả mọi thế gian. Như kinh Tịnh Tỳ Ni trong pháp Đại thừa nói: “Đức Phật bảo với Ca-diếp: Ví như vị Sinh tố đầy tràn trong bốn biển rộng, tư lương thiện căn hữu vi của Bồ tát cũng như vậy. Hồi hướng phước đức này cho trí tuệ vô vi là làm lợi ích to lớn cho tất cả chúng sinh. Vì vậy Bồ tát tuy ở trong pháp hữu vi mà có năng lực hơn hẳn tất cả mọi thế gian”. Như nói: Bồ tát vì tất cả chúng sinh, Và mong cầu Phật đạo vô thượng, Cho nên thiện căn là vô lượng, Vì vậy hơn hẳn mọi thế gian. Duyên vô lượng nghĩa là Bồ tát không duyên vào chúng sinh có hạn lượng mà tu tập thiện căn, nhưng mà sự tu tập thiện căn không nói là làm lợi ích bao nhiêu chúng sinh, hoặc không làm lợi ích cho bao nhiêu chúng sinh. Bồ tát chỉ duyên vào tất cả chúng sinh mà tu tập thiện căn. Vì vậy Bồ tát duyên vào vô lượng chúng sinh, mà tu tập thiện nghiệp đạo cũng vô lượng, hơn hẳn tất cả mọi thế gian. Như trong kinh Tịnh Tỳ Ni nói: “Đức Phật bảo với các Thiên tử: Như đại Bồ tát có tâm Từ Bi mỏng manh cầu mong làm lợi ích cho người, thì tâm này có năng lực làm cho vô lượng chúng sinh cảm được lợi ích an lạc. Bồ tát phát tâm sâu sắc, chịu khó thực hành tinh tiến cũng như vậy, có năng lực giáo hóa vô lượng A-tăng-kỳ chúng sinh khiến cho cảm được niềm vui Niết bàn”. Như nói: Bồ tát có vô lượng thiện căn, Công đức tự trang nghiêm cho mình, Đều vì cứu độ các chúng sinh, Thoát khỏi vô lượng điều khổ đau. Cứu cánh vô lượng, nghĩa là trong địa thứ nhất vốn giúp cho sự phát nguyện, đã nói về mười loại cứu cánh. Cứu cánh này vô lượng, cho nên sự tu tập thiện nghiệp đạo của Bồ tát cũng vô lượng, vì vậy hơn hẳn tất cả mọi thế gian. Như nói: Bồ tát tu tập thiện nghiệp đạo, Từ mười loại cứu cánh phát sinh, Vì vậy hơn tất cả thế gian, Không ai có năng lực hủy hoại. Hồi hướng vô lượng, như trong địa thứ nhất đã nói, Bồ tát hồi hướng vô lượng quả báo. Dùng vô lượng quả báo này hồi hướng mà tu tập thiện nghiệp cũng vô lượng, cho nên hơn hẳn tất cả mọi thế gian. Như nói: Bồ tát dùng vô lượng nhân duyên, Tu tập đối với thiện nghiệp đạo, Hồi hướng tất cả đến Phật thừa, Vì vậy thành tựu quả Tối thượng. Hy hữu là các Bồ tát tu tập thiện đạo, dùng năm loại nhân duyên mà gọi là hy hữu, đó là: Có thể tiếp nhận. Tinh tiến. Tâm kiên cố. Trí tuệ. Quả báo. Có thể tiếp nhận là nghó rằng mình sẽ làm người đầy đủ tất cả trí tuệ và tôn quý giữ chốn trời-người. Có năng lực có thể tiếp nhận như vậy, thì gọi là hy hữu. Nếu người dùng ngón tay nhấc bổng ba ngàn Đại thiên thế giới, đưa vào giữa hư không làm cho đứng yên qua trăm ngàn vạn kiếp sự việc này có thể làm được, không đủ để cho là khó. Nếu phát nguyện rằng tôi sẽ làm Phật, thì điều này là hy hữu, rất khó có. Như nói: Bồ tát vì vô lượng Phật pháp, Lập thệ nguyện mình sẽ làm Phật, Người này không có ai sánh kịp, Huống hồ có người nào hơn được? Tinh tiến, có nhiều người có thể tiếp nhận sự phát tâm đối với đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, nhưng không có năng lực tinh tiến thực hành sáu hạnh Ba-la-mật. Nếu người đã có thể tiếp nhận sự phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác, lại có năng lực tinh tiến thực hành sáu hạnh Ba-la-mật, thì gọi là thật sự có thể tiếp nhận vô lượng công đức. Bởi vì tinh tiến hiếm có, cho nên sự tu tập thiện nghiệp cũng hiếm có. Như nói: Vô cùng tinh tiến thật hiếm có, Người phàm trần nghó đến đã sợ, Bồ tát thật sự hành tinh tiến, Sao có thể không phải hiếm có? Tâm kiên cố, có người phát tâm tinh tiến tu tập Phật đạo, nếu có chướng ngại mà tâm không kiên cố thì không thể nào thành tựu được. Vì vậy phát tâm tinh tiến an trú hiếm có, trong tâm kiên có thì sự việc ấy được thành tựu, phá hủy mọi chướng ngại, đây là vị Bồ tát tu tập thiện nghiệp đạo hiếm có vào bậc nhất. Như nói: Nếu người không có tâm kiên cố, Việc nhỏ còn không thể thành tựu, Huống hồ muốn thành tựu Phật đạo, Là bậc vô thượng giữa thế gian? Trí tuệ, thì có thể tiếp nhận-tinh tiến và tâm kiên cố đều lấy trí tuệ làm căn bản, vì vậy trí tuệ của Bồ tát là hiếm có bậc nhất. Có năng lực phát sinh tâm kiên cố-tinh tiến và có thể tiếp nhận như vậy, bởi vì trí tuệ là hiếm có. vì trí tuệ là hiếm có, cho nên sự tu tập thiện nghiệp cũng hiếm có. Như nói: Như có người có thể tiếp nhận, Mong muốn đạt được pháp của Phật, Tinh tiến có được tâm kiên cố, Đều lấy trí tuệ làm căn bản. Quả báo, nghĩa là tu tập thiện nghiệp cho nên đạt được vô lượng vô biên giáo pháp của chúng sinh, cho nên Phật là hiếm có. Như nói: Thực hành thiện nghiệp này đắc đạo, Có sức mạnh vô lượng công đức, Làm bậc thầy của mọi chúng sinh, Ai nghe mà không muốn thực hành? Nguyện kiên cố, Bồ tát bởi vì năm nhân duyên cho nên gọi là nguyện kiên cố. Đó là: Tâm không chuyển đối với Thanh văn thừa. Tâm không chuyển đối với Bích-chi-Phật thừa. Tâm không chuyển đối với mọi sự việc của ngoại đạo. Tâm không chuyển đối với mọi sự việc của ma quân. Tâm không chuyển vì không có nhân duyên. Như nói: Nghe hàng Nhị thừa được giải thoát, Đâu có thể không tu đạo này? Nếu như chưa tiến vào phần vị, Thì sẽ mất đi đạo Bồ tát; Lại ham sự sự của ngoại đạo, Hoặc bị ma quân làm hư hoại, Hoặc là không có nhân duyên gì, Tự mình rời bỏ đạo Bồ tát. Nguyện thiện, Bồ tát nhờ vào năm nhân duyên cho nên gọi là nguyện thiện. Đó là: Trước hết phải suy tính cẩn thận được-mất điều gì. Biết rõ về đạo. Biết rõ quả của đạo. Không tham tiếc niềm vui riêng mình. Mong muốn diệt trừ mọi nỗi khổ cho chúng sinh. Phát nguyện như thế gọi là nguyện thiện. Như nói: Trước hết thấy tai họa thế gian, Phật đạo là lợi ích to lớn, Biết rõ thực hành đạo vô thượng, Cùng với quả vô lượng công đức. Bỏ niềm vui vắng lặng riêng mình, Muốn trừ đau khổ cho chúng sinh, Phát nguyện không gì sánh kịp này, Được Chư Phật mười phương khen ngợi. Đại Bi vô ngại, là dựa vào năm nhân duyên cho nên biết Bồ tát có tâm Đại Bi. Đó là: Vì lợi ích an vui cho vô lượng chúng sinh, đối với mọi vật cung cấp trong cuộc sống không hề sinh tâm tham tiếc. Không tiếc thân thể. Không tiếc mạng sống. Không nghó đến thế gian lâu xa. Mong muốn làm lợi ích với tâm bình đẳng giữa mọi người thân và kẻ thù. Như nói: Đối với vật yêu quý trong-ngoài, Buông xả không có gì tham đắm, Bởi vì lợi ích cho chúng sinh, Ngay cả thân mạng cũng xả bỏ, Sinh tử trải qua vô lượng kiếp, Giống như khoảng thời gian nháy mắt, Bình đẳng giữa người thân-kẻ thù, Gọi là tâm Bồ tát Đại Bi. Vô ngại, Bồ tát bởi vì năm nhân duyên mà tâm Bi có chướng ngại. Đó là: Bởi vì khổ đau của địa ngục. Bởi vì khổ đau của súc sinh. Bởi vì khổ đau của ngạ quỷ. Bởi vì người ác không có gì thay đổi. Bởi vì lỗi lầm tai hại của sinh tử. Nếu năm sự việc này không chướng ngại đến tâm của Bồ tát, thì gọi là Đại Bi vô ngại. Như nói: Khổ của địa ngục là đứng đầu, Súc sinh-ngạ quỷ cũng khổ đau, Khổ vì người ác và sinh tử, Không chướng ngại gọi là Đại Bi, Bồ tát có năng lực như vậy, Đức Phật bảo là Bi vô ngại. Khéo tiếp nhận thực hành phương tiện, Bồ tát dựa vào năm nhân duyên, gọi là khéo tiếp nhận thực hành phương tiện. Đó là: Biết thế gian phương hướng. Biết sự ưa thích trong tâm người khác. Biết chuyển hướng đi vào đạo. Biết sự việc theo thứ tự. Biết dẫn dắt cho mọi chúng sinh. Biết thế gian phương hướng là biết xứ sở địa phương này, cần phải dùng cách thuyết pháp như vậy; biết trong thế gian này, cần phải dùng cách thuyết pháp như vậy. Biết xứ sở địa phương này, cần phải dùng nhân duyên như vậy để hóa độ chúng sinh; biết trong thế gian này, cần phải dùng nhân duyên như vậy để hóa độ chúng sinh. Bồ tát biết trước sự việc này rồi tùy thuận của thực hành. Như nói: Nếu thuận theo ý của Thế tôn, Giảng giải cho người khác hiểu rõ, Trước tiên cần phải biết hai điều, Sau tùy lúc và nơi mà nói. Nếu không biết thế gian-xứ sở, Mà muốn giảng giải ý của Phật, Thì không có được lợi ích gì, Mà lại phát sinh những sai lầm. Biết sự ưa thích trong tâm người khác, là biết trong tâm người khác đang hướng về điều gì, đang ưa thích điều gì? Bồ tát biết trước rồi, thuận theo sự hiểu biết và niềm vui thích của chúng sinh, tùy thuận phát khởi phương tiện để độ thoát cho họ. Như vậy thì không uổng phí công sức mà còn mang lại lợi ích to lớn. Như nói: Bồ tát biết tâm ý chúng sinh, Sâu xa và khó suy lường được, Trước tiên biết tâm ý họ rồi, Dần dần khiến trú vào ý Phật. Biết tất cả mọi chuyện thế gian, Tự lợi mình cũng lợi cho người, Nếu người có năng lực như vậy, Thì gọi là khéo léo phương tiện. Biết chuyển hướng đi vào đạo, là có năng lực chuyển hóa ý niệm của phàm phu ngoại đạo khiến cho tiến vào Phật đạo, cũng chuyển hóa chúng sinh làm điều ác khiến cho an trú trong mọi điều thiện, cũng biết cách chuyển hóa pháp tu của Thanh văn và Bích-chi-Phật khiến cho tiến vào trong Đại thừa, những người đã ở trong Phật pháp thì không làm cho họ đi vào ngoại đạo. Trước tiên biết rõ sự việc này rồi tùy thuận mà tu hành. Như nói: Nếu như người làm cho chúng sinh, Rời xa các pháp của ngoại đạo, Và rời xa những pháp bất thiện, Tiến vào trong Phật pháp vắng lặng, Nếu biết rõ tâm các chúng sinh, Đầy đủ ba loại Thượng-Trung-Hạ, Biết rồi có năng lực dẫn dắt, Thì gọi là khéo léo phương tiện. Biết sự việc theo thứ tự, là như trong Thanh văn thừa, đầu tiên nói về Bố thí, tiếp theo là trì giới, tiếp theo là sinh cõi trời; tiếp theo là tai họa của năm dục, tếip theo là khổ não của tại gia, tiếp theo là lợi lạc của xuất gia; tiếp theo nói về khổ đế, tiếp theo là Tập đế, tiếp theo là Diệt đế, tiếp theo là Đạo đế; tiếp theo là quả Tu-đà-hoàn, tiếp theo là quả Tư-đà-hàm, tiếp theo là quả A-na-hàm, tiếp theo là quả A-la-hán, tiếp theo là giải thoát bất hoại, tiếp theo nói về những điều vô ngại. Trong Bích-chi-Phật thừa cũng nói theo thứ tự, vật mà có ngã-ngã sở thì có nhiều tai họa, rời bỏ vật tai họa này thì có được nhiều lợi ích, tại gia làm cho tai họa, xuất gia làm cho lợi ích; tiếp theo là chốn ồn ào náo nhiệt nói cười hỗn loạn làm cho tai họa, đi lại một mình thì làm cho lợi ích tốt đẹp, làng xóm tụ cư làm cho tai họa, ở nơi vắng vẻ yên lặng làm cho lợi ích tốt đẹp; nhàm chán rời xa nhiều ham muốn-nhiều bận rộn, vui với đời sống ít ham muốn-ít bận rộn; giữ gìn các căn, ăn uống biết điều độ, đầu đêm-cuối đêm luôn luôn giác ngộ, quán xét các duyên chọn lấy hình tướng; vui với sự an trú trong nhà trống rỗng, coi trong thực hành trì giới-thiền định-trí tuệ, không hiện bày hình dáng kỳ dị; làm cho người khác hoan hỷ, chỉ tự lợi ích cho mình, vui với pháp sâu xa, không thuận theo trí của người khác. Biết thứ tự trong Đại thừa, đầu tiên nói về Bố thí Ba-la-mật, tiếp theo là trì giới Ba-la-mật, tiếp theo là nhẫn nhục Ba-la-mật, tiếp theo là Tinh tiến Ba-la-mật, tiếp theo là thiền định Ba-la-mật, tiếp theo là Trí tuệ Ba-la-mật. Đầu tiên nói về thắng xứ của Đế, tiếp theo nói về thắng xứ của Xả-thắng xứ của Diệt và thắng xứ của Tuệ. Lại nữa, đầu tiên là ca ngợi phát tâm Bồ đề, tiếp theo là mười loại Nguyện, tiếp theo là mười Cứu cánh; tiếp theo là ca ngợi pháp xa lìa sự thối thất của tâm Bồ đề, tiếp theo là pháp tu tập không thối thất tâm Bồ đề, tiếp theo là tâm kiên cố tinh tiến, tiếp theo là kiên cố có thể tiếp nhận, tiếp theo là thệ nguyện kiên cố. Lại nữa, đầu tiên là nói về pháp có năng lực đạt được các địa, tiếp theo nói về pháp có năng lực an trú các địa tiếp theo nói về pháp có năng lực đạt đến tận cùng các địa, tiếp theo nói về pháp xa lìa cấu trược của các địa, tiếp theo nói về pháp có năng lực làm thanh tịnh các địa, tiếp theo nói về pháp an trú lâu dài của các địa, tiếp theo nói về pháp có năng lực đến gần các địa, tiếp theo nói về pháp có năng lực làm cho không thối thất của các địa, tiếp theo nói về quả của các địa, tiếp theo nói về thế lực của quả trong các địa. Lại nữa, hoặc là đầu tiên nói về địa Hoan Hỷ, tiếp theo nói về địa Ly Cấu, tiếp theo nói về địa Minh, tiếp theo nói về Địa Diệm, tiếp theo nói về địa Nan Thắng, tiếp theo nói về địa Hiện Tiền, tiếp theo nói về địa Thâm viễn, tiếp theo nói về địa Bất Động, tiếp theo nói về địa Thiện Tuệ, tiếp theo nói về địa Pháp vân. Như nói: Đầu tiên Bố thí-tiếp trì giới, Quả báo được sinh lên cõi trời, Thế gian vô thường lỗi tại gia, Xuất gia là lợi ích to lớn. Tiếp theo bốn đế là vô thường, Đoạn kiết-chứng bốn quả Sa-môn, Phương tiện thuận theo thứ tự này, Khiến cho người trú vào sơ quả. Đầu tiên nói về họa sinh tử, Tiếp theo nói lợi ích Niết bàn, Khéo léo giữ gìn được các căn, Trì giới thanh tịnh và thiền định; Không tùy thuộc trí tuệ của người, Thích ở một mình làm công đức, Tự dựa mình-không dựa người khác, Thích mong cầu niềm vui tự lợi; Cũng không rời bỏ những người khác, Thực hành sâu sắc pháp Đầu-đà, Là người mong cầu pháp Trung thừa, Tướng của giáo pháp ấy như vậy. Nhờ vào bốn mươi pháp Bất cộng, Nói về đức vô lượng của Phật, Cũng nói về tất cả pháp hành, Lúc thực hành công hạnh Bồ tát; Vì làm lợi ích cho chúng sinh, Theo thứ tự nói những pháp này, Tự lợi mình và lợi cho người, Nói tường tận các loại công đức; Cũng nói đến các đệ tử Phật, Ưa thích tu tập với mười địa, Người mong cầu giáo pháp Đại thừa, Theo thứ tự như vậy vượt qua. Dẫn dắt là thuận theo những pháp môn mà chúng sinh ưa thích, biết pháp môn này rồi, dùng pháp môn này để dẫn dắt chúng sinh, tùy theo sự ưa thích của họ, dựa vào thế lực của họ mà khiến cho họ được độ thoát. Như nói: Hoặc là có những hạng chúng sinh, Đáng dùng đến kinh sách sâu xa, Những việc khó làm và tinh xảo, Dùng ái ngữ cùng với chú thuật, Khéo léo giải thích và giúp đỡ, Bố thí-trì giới-định và tuệ, Suy nghó tính toán như vậy rồi, Dẫn dắt để tiến vào Đại thừa. Hoặc có lúc hiện thân người nữ, Dẫn dắt cho tất cả người nam, Lại có lúc hiện thân người nam, Dẫn dắt cho rất nhiều người nữ, Thị hiện niềm vui của năm dục, Sau đó nói rõ lỗi của dục, Để làm cho tất cả mọi người, Được xa lìa đối với năm dục. Khéo léo thực hành năm điều này, thì gọi là Bồ tát khéo léo tiếp nhận thực hành phương tiện. Có năng lực chịu đựng mọi khổ não, nghĩa là nếu có người ở trong sinh tử vượt quá kiếp số tính toán có năng lực chịu đựng mọi nỗi khổ não, thì mười thiện nghiệp đạo có thể làm cho người này trú trong đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Hỏi: Tất cả mọi người đều ưa vui sướng-ghét khổ đau, tại sao người này có thể chịu đựng mọi nỗi khổ não? Đáp: Nhờ vào năm nhân duyên. Đó là: Vui với Vô Ngã. Tin tưởng và vui với không. Suy nghó rõ ràng đối với pháp thế gian. Quán xét quả báo của nghiệp. Nghó đến vô lượng đời kiếp trước qua đã nhận chịu khổ não một cách oan uổng. Như nói: Vui với pháp Vô ngã và không, Lại biết rõ quả báo của nghiệp, Đối với tám pháp lợi-suy-hủy… Xử thế chắc chắn phải nhận chịu, Cũng nghó đến đời kiếp quá khứ, Nhận chịu oan uổng mọi khổ đau, Huống gì là đối với Phật đạo, Mà không đáng nhận chịu hay sao? Không rời bỏ đối với tất cả, nghĩa là hoặc có chúng sinh tệ hại xấu xa bậc nhất, không có công đức gì, không đáng làm cho lợi ích, nhưng Bồ tát đối với hạng này hoàn toàn không sinh tâm rời bỏ. Hỏi: Nếu như là người ác không đáng được cứu độ, thì tại sao không rời bỏ? Đáp: Bởi vì năm nhân duyên, đó là: Bởi vì coi rẻ pháp của hạng tiểu nhân. Vốn coi trọng pháp của bậc Đại nhân. Vốn sợ lừa dối Chư Phật. Vốn biết rõ ân đức. Vì sự việc của thế gian này cho nên tu pháp xuất thế gian. Như nói: Bởi vì muốn cứu độ chúng sinh, Phát tâm đón nhận những gánh nặng, Ở giữa mọi giặc thù xấu ác, Tâm luôn luôn không nên rời bỏ. Khinh tiểu nhân-coi trọng Đại nhân, Chính là sự phân biệt Đại-Tiểu, Không thích hợp ở giữa chúng sinh, Tâm xót thương hãy còn ngừng bỏ. Ở trong những hoạn nạn cấp bách, Không việc gì mà luôn lợi ích, Luôn luôn đón nhận mọi gánh nặng, Nhưng không lười nhác bỏ giữa chừng. Nếu phát tâm Bồ đề vô thượng, Hoặc có lúc rời bỏ chúng sinh, Hoặc tâm mình vất vả mệt mỏi, Và bị người xấu ác làm hại; Chính là tự mình đã lừa dối, Chư Phật ba đời khắp mười phương. Chư Phật tôn quý giữa thế gian, Vì lợi ích cho mọi chúng sinh, Thực hành đủ các loại khổ hạnh, Tu tập mong đạt được Phật đạo, Chư Phật trải qua hằng sa kiếp, Bỏ niềm vui để làm phước nghiệp; Nếu rời bỏ một người xấu ác, Thì làm trái ân đức Chư Phật, Vì vậy đối với chúng sinh ác, Không nên nửa chừng rời bỏ họ, Nếu người trải qua trong vô lượng, Vô biên a-tăng-kỳ-kiếp số, Tự tu tập hướng về Phật đạo, Lấy tâm Đại Bi làm căn bản; Nếu như khởi lên tâm tham dục, Và tâm sân hận-tâm sợ hãi, Rời bỏ một người đáng cứu độ, Thì đoạn mất gốc rễ Phật đạo. Vì vậy cho nên thiện nghiệp đạo có năng lực làm cho Bồ tát không rời bỏ chúng sinh cho đến lúc đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Hết sức vui với trí tuệ của Phật, nghĩa là nếu như người rất ưa thích đối với trí tuệ của Phật, thì nhanh chóng đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Nhờ vào năm nhân duyên cho nên rất ưa thích đối với trí tuệ của Phật, đó là: Trí tuệ của Phật siêu việt không có gì sánh được. Trí tuệ của Phật có năng lực khiến cho người trở thành bậc tôn quý giữa thế gian. Phật dùng trí tuệ của Phật để tự mình cứu độ chính mình. Trí tuệ của Phật cũng cứu độ cho người khác. Trí tuệ của Phật là trú xứ của tất cả mọi công đức. Như nói: Trí tuệ siêu việt của Chư Phật, Trên cõi trời và giữa thế gian, Tất cả không có gì sánh kịp, Huống hồ có điều gì hơn được? Chư Phật nhờ vào trí tuệ này, Được chư Thiên A-tu-la, Tất cả loài người giữa thế gian, Đều cung kính lễ lạy tôn thờ. Phật dùng trí tuệ tự độ mình, Cũng cứu độ cho mọi người khác, Nếu có được trí tuệ của Phật, Thì có được kho tạng công đức. Đối với uy lực của Chư Phật và trong pháp tự tại cảm được tự tại cảm được niềm vui không còn Biến hành. Biến hành có nghĩa là tập khí lâu xa, sức mạnh của tất cả các hạnh, gọi là sức mạnh của mười loại trí; tự tại có nghĩa là tùy ý làm những gì mình muốn làm. Nếu người rất vui với mười lực của Phật và trong pháp tự tại không còn Biến hành, thì người như vậy không bao lâu sẽ đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Nhờ vào năm nhân duyên mà vui với niềm vui không còn biến hành, đó là: Tôn trọng lời dạy bảo của Chư Phật. Bởi vì Chư Phật có Đại đệ tử. Bởi vì tự mình chứng được tất cả các pháp. Nhiếp thủ những chúng sinh đọa lạc. Chúng sinh đã bị đọa lạc thì có năng lực cứu giúp họ. Như nói: Tôn trọng lời Phật không gì bằng, Phật tử có Tứ quả-Bát bối, Và đầy đủ Tam minh-Lục thông, Có thể làm thầy của chư thiên. Dùng ánh mắt trí tuệ của Phật, Thấy các pháp hiện rõ trước mắt, Hạng ác nghịch đoạn mất thiện căn, Cho đến những chúng sinh phá giới… Những hạng người đọa lạc như vậy, Nhiếp thủ mà cứu độ cho họ. Nếu như người đối với Phật lực, Trong pháp tự tại với Biến hành, Thì Niết bàn và phước cõi trời, Luôn luôn ở trong tay người này. Ở trong này, Chư Phật dùng uy lực của Phật có năng lực thực hiện năm sự việc: Khiến cho chúng sinh học theo Thanh văn thừa. Khiến cho chúng sinh học theo Bích-chi-Phật thừa. Khiến cho chúng sinh học theo pháp Đại thừa. Người có năng lực đầy đủ thì khiến cho được giải thoát. Người năng lực kém cỏi thì khiến cho trú vào niềm vui thế gian. Như nói: Chư Phật dùng uy lực của Phật, Khiến chúng sinh chán ngán lìa xa, Hoặc khiến học theo pháp Tiểu thừa, Học theo Trung thừa và Đại thừa; Nếu người có năng lực đầy đủ, Thì khiến cho họ được giải thoát, Người không có đầy đủ năng lực, Thì sinh cõi trời vui thế gian. Tự tại có nghĩa là Chư Phật tự tại đối với năm sự việc, đó là: Các loại thần thông tự tại. Tự trong tâm mình được tự tại. Trong sự diệt tận được tự tại. Trong Thánh như ý được tự tại. Trong thọ mạng được tự tại. Như nói: Thần thông phi hành được tự tại, Tự trong tâm mình được tự tại, Ở trong cảnh thiền định vắng lặng, Như ra vào ngôi nhà của mình. Tất cả thanh tịnh hoặc bất tịnh, Tùy tâm mà có thể chuyển hóa, Mạng không bị người khác làm hại, Duyên vào chính mình cũng vô tận. Những sự việc tự tại như vậy, Tất cả các pháp cũng như vậy, Cho nên gọi là bậc Tự tại, Sư tử chúa ở giữa trời-người. Có năng lực phá tan những ý niệm xấu ác, đó gọi là những hạng chúng sinh xa rời chính đạo, tức là phàm phu và chín mươi sáu loại ngoại đạo… Nói sơ lược về những ý niệm xấu ác, thì phàm phu-ngoại đạo nói năm Ấm là Ngã, hoặc nói trong Ngã có năm Ấm có Ngã. Như nói: Nếu như năm ấm chính là ngã, Tức là rơi vào kiến đoạn diệt, Thì mất đi nhân duyên của nghiệp, Không có công lao mà giải thoát. Còn lại vó bốn loại kiến chấp, Ấm sai khác-không hề có tướng, Không có tướng-không hề có pháp, Đều thuận theo phá bỏ như vậy. Lại nữa, năm tà kiến gọi là những ý niệm xấu ác, đó là tà Kiến- thân kiến-Biên kiến-Kiến thủ và Giới thủ. Như nói: Phá tà kiến bác không nhân quả, Hai mươi loại tà chấp thân kiến, Chấp vào có và chấp không có, Điều thấp kém cho là cao nhất, Chỉ dùng năng lực của giữ giới, Mà có thể đạt đết giải thoát; Như trước phá bỏ một và khác, Kiến chấp này phá bỏ như vậy, chính ý dựa theo tám Thánh đạo, Nói rõ nghĩa là được giải thoát. Giữ gìn chính pháp của Chư Phật, nghĩa là nếu người có năng lực giữ gìn những giáo pháp của Chư Phật, đó gọi là mười hai bộ kinh, dùng tâm tư của mình luôn luôn tin tưởng và luôn luôn tiếp nhận, thì mười thiện nghiệp đạo có năng lực làm cho người này đạt đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Nhờ vào năm nhân duyên cho nên thuận theo tiếp nhận giữ gìn chính pháp: Biết đền đáp ân đức của Chư Phật. Làm cho chính pháp tồn tại lâu dài. Dùng pháp cúng dường tối thượng để cúng dường Chư Phật. Làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh. chính pháp là điều khó gặp bậc Nhất. Như nói: Nếu người nào mong muốn thực hành, Những điều tiếp nhận từ Chư Phật, Cũng làm cho giáo pháp trường tồn, Là cách cúng dường Phật cao nhất. Vì muốn chữa lành những bệnh nặng, Mang lại lợi ích cho chúng sinh, Cũng biết rõ các Đức Thế Tôn, Đạt được pháp này trong gian khổ. Bởi vì những nhân duyên như vậy, Biết rõ chính pháp là khó gặp, Vì vậy cho nên người có trí, Phải yêu quý giữ gìn chính pháp. Ở trong này, bởi vì năm nhân duyên mà gọi là yêu quý giữ gìn chính pháp: Thực hành như giáo pháp đã dạy. Khiến cho người khác thực hành đúng như pháp. Phá trừ những hạng bài báng Phật pháp. Xa rời bốn dấu ấn bất tịnh. Thực hành bốn pháp ấn vó đại. Như nói: Tự mình an trú trong pháp Phật, Như giáo pháp Chư Phật đã dạy, Tâm Bi chẳng keo kiệt giáo pháp, Cũng khiến cho người được an trú. Còn phá trừ các loại ma quân, Cùng với luận sư của ngoại đạo, Nếu như người căm ghét Phật pháp, Dùng tâm không sân để phá trừ. Xa rời bốn dấu ấn bất tịnh, Tiếp nhận thực hành bốn Đại ấn, Như vậy thì gọi là yêu quý, Giữ gìn chính pháp của Chư Phật. Dũng mãnh, có nghĩa là Bồ tát nhờ vào năm nhân duyên mà gọi là dũng mãnh: Phá trừ ma quân. Phá trừ giặc ngoại đạo. Phá trừ giặc phiền não. Phá trừ giặc của các căn. Phá trừ giặc của năm ấm. Như nói: Ác ma phát khởi nhiều quân lính, Phá hoại cây đạo muốn hại Phật, Thường tìm cơ hội phỉ báng Phật, Làm não loạn tâm ý người nghe. Mặt trời Phật soi sáng thế gian, Ma cầu thỉnh Phật nhập Niết bàn, Thường quấy nhiễu người chịu tu học, Phá hoại đối với đạo giải thoát. Thậm chí cho đến tận hôm nay, Tâm phá hoại hãy còn không dứt, Căm ghét người hướng về Niết bàn, Là kẻ giặc lớn của người thiện. Cần phải dựa vào Giới-Định-Tuệ, Đập tan sức mạnh của ma oán! Tự cho mình là có trí tuệ, Thường khinh mạn đối với Chư Phật, Dùng tất cả các loại nhân duyên, Hủy diệt Phật pháp mà xuất hiện, Thường căm ghét đệ tử của Phật, Tự mình sai bày người sai theo, Những hạng tà ma ngoại đạo này, Là kẻ giặc lớn của thế gian. Nên dùng tâm niệm không sân hận, Thuận theo dùng trí tuệ đa văn, Và dùng sức mạnh tâm vó đại, Đập tan đám giặc thù ngoại đạo. Sức mạnh phiền não dấy khởi nghiệp, Xoay vòng qua lại trong đường ác, Sức mạnh phiền não làm chướng ngại, Không thể nào thực hành Đại đạo, Bởi vì sức mạnh của phiền não, Mà rơi vào các loại tà kiến, Bởi vì sức mạnh của phiền não, Mà không thực hành đạo cam lộ. Bởi vì những nhân duyên như vậy, Phiền não là đám giặc lớn nhất, Dùng chính niệm-chính định-chính tuệ, Phá tan đám giặc phiền não này. Nếu bị giặc các căn lội kéo, Khiến cho người rơi vào đường ác, Lại rơi vào trong chốn trời-người, Không thể nào đến được Niết bàn. Nay đối với giặc các căn này, Sao không nhờ vào tâm tàm quý, chính niệm và thiền định-trí tuệ, Để phá tan đám giặc các căn? Ví như con người ở thế gian, Dùng lời nói dịu dàng lừa dối, Tiền của đồ vật và gươm giáo, Dùng bốn loại này trừ giặc cướp. Bởi vì năm ấm giả tạo này, Mà nhận chịu sinh-già-bệnh-chết, Cũng rơi vào nỗi sợ vô cùng, Nhận lấy những khổ não thúc bách. Bởi vì nhân duyên của năm ấm, Mà ưu sầu đau xót khóc than, Bởi vì nhân duyên của năm ấm, Mà nhận chịu đủ loại khổ đau. Vì vậy ông hãy tự mình biết, Thuận theo dùng các pháp thấy-biết, Phá tan nhân duyên năm ấm này, Giống như phá tan đám giặc thù. Có thể tiếp nhận nghĩa là tâm chí mạnh mẽ có tướng của bậc Đại nhân, nhìn nhận sự việc một cách sâu xa. Nhờ vào năm nhân duyên, cho nên gọi là có thể tiếp nhận: Việc thành tựu như mong cầu mà tâm tư không cao ngạo. Mong cầu mà không thành tựu thì tâm chí cũng không giảm xuống. Khổ não giày vò bản thân mà tâm chí không dao động. Thân có thêm điều vui sướng mà tâm cũng không thay đổi. Tâm tư sâu thẳm, hoặc sân hận-hoặc hoan hỷ cũng khó có thể biết được. Như nói: Thân-tâm dù gặp điều cay đắng, Mà ý chí cũng không lay động, Tùy ý vui với sự việc đến, Tâm bậc Đại trí không thay đổi, Hoặc sân hận-hoan hỷ-sợ hãi, Người khác không thể nào đoán được, Tâm và tướng sâu xa như vậy, Nói là người có thể tiếp nhận. Chịu khó tinh tiến, nghĩa là chịu khó thực hành tinh tiến đối với năm sự việc: Pháp ác chưa sinh làm cho không sinh, vì vậy chịu khó thực hành tinh tiến. Pháp ác đã sinh làm cho đoạn diệt không còn, vì vậy chịu khó thực hành tinh tiến. Pháp thiện chưa sinh làm cho phát sinh, vì vậy chịu khó thực hành tinh tiến. Pháp thiện đã sinh làm cho tăng trưởng tốt hơn, vì vậy chịu khó thực hành tinh tiến. Ở trong sự việc thế gian có những việc làm không có gì làm chướng ngại được, vì vậy chịu khó thực hành tinh tiến. Như nói: Đoạn trừ pháp ác đã sinh ra, Giống như loại trừ con rắn độc, Đoạn trừ pháp ác chưa sinh ra, Như chặn trước dòng chảy hung hãn, Pháp thiện đã sinh làm tăng trưởng, Như van tưới cây thêm quả ngọt, Pháp thiện chưa sinh làm cho sinh, Như kéo cây phát ra ngọn lửa. Trong mọi điều thiện ở thế gian, Tinh tiến không có gì chướng ngại, Chư Phật khen ngợi người như vậy, Gọi là chịu khó hành tinh tiến. Tâm kiên cố giáo hóa chúng sinh, nghĩa là nếu Bồ tát ở trong năm Thừa luôn luôn giáo hóa chúng sinh, tâm chí không chuyển đổi trong những sự việc như cúng dường-khinh mạn-yêu ghét-sợ hãi-khổ vui-vất vả mệt mỏi…, thì gọi là tâm kiên cố giáo hóa chúng sinh. Năm thừa là: Phật thừa. Bích-chi-Phật thừa. Thanh văn thừa. Thiên thừa. Nhân thừa. Như nói: Như vậy thuận theo dùng nhất tâm, Tất cả mọi thế mạnh vốn có, Dựa vào đủ các loại phương tiện, Xa rời đối với tâm yêu-ghét, Giáo hóa cho tất cả chúng sinh, Lìa tâm cấu trược được thanh tịnh, Khiến cho đạt được Vô thượng Thừa, Vô lượng đời kiếp khó có được. Nếu tiến vào không có thế lực, Không có thể trú trong Đại thừa, Thì dẫn dắt vào Bích-chi-Phật, Thanh văn thừa-Thiên thừa-Nhân thừa. Không tham niềm vui riêng mình, nghĩa là không tham đắm tất cả mọi niềm vui. Bồ tát nhờ vào năm nhân duyên mà không tham niềm vui riêng mình: Vui là vô thường, giống như bọt nước mong mang. Niềm vui của thế gian trở thành đau khổ. Vốn từ các duyên mà sinh ra. Vốn từ khát ái mà dấy lên. Niềm vui ít ỏi như giọt mật nhỏ nhoi. Như nói: Niềm vui mỏng manh như bọt nước, Trở thành đau khổ như chất độc, Căn-cảnh-thức hòa hợp với xúc, Có tham dục-ngu si mà sinh. Nếu xa rời đối với tham ái, Lại không có niềm vui nào khác, Thì như giống khô và giọt mật, Niềm vui ít mà đau khổ nhiều. Người làm lợi ích cho chúng sinh, Không nên có tâm niệm tham đắm. Trải qua vô lượng thân mạng, nghĩa là Bồ tát vì năm nhân duyên cho nên không tham tiếc thân mạng: Thân không từ đời trước mà đến. Không đi đến đời sau. Không chắc chắn. Thân này vô ngã. Không có ngã sở. Như nói: Thân ông tích tụ mọi dơ bẩn, Đầy dẫn mọi nơi đều bất tịnh, Không từ đời trước mà xuất hiện, Không duy trì đến được đời sau; Tuy cung dưỡng mọi điều tốt đẹp, Nhưng phá bỏ tất cả ân lớn, Thân này chẳng có gì kiên cố, Như bọt nước vỡ trong chốc lát. Duyên sinh chẳng có tính nhất định, Không có tính thì không tự tại. Vì vậy cho nên hãy biết rằng: Chẳng có ngã-chẳng có ngã sở, Thân này biết bao điều tai họa, Không nên có tâm niệm tham tiếc. Bồ tát vì năm nhân duyên cho nên không tham tiếc thọ mạng: Vui với tuệ mạng. Sợ hãi đối với tội lỗi. Nghó đến vô lượng lần chết trong vô thỉ sinh tử đến nay. Cùng nhận chịu mọi điều với tất cả chúng sinh. Vốn không thể tránh được. Như nói: Thuận theo đa văn và chính luận, Sinh tâm tham đối với tuệ mạng. Luôn luôn sợ hãi vì mất mạng, Mà dấy khởi biết bao tội ác, Lại thấy tất cả người thế gian, Không có ai thoát được tử sinh, Không thể dùng tiền của-mưu-trí, Sức phương tiện mà tránh thoát được. Người tu tập thực hành pháp thiện, Sao có thể tiếc mạng sống này? Cao nhất trong tất cả mọi việc, nghĩa là như người có làm điều gì thì nhất định có thể làm đến cuối cùng, đó gọi là người bậc Thượng. Bồ tát dùng năm sự việc mà phát khởi thì nhất định đạt đến kết quả cuối cùng, đó là: Tài sản vật dụng. Bố thí. Trì giới. Tu định. Đạo đức. Như nói: Chịu khó tích tụ nhiều tiền của, Tha thiết thực hành hạnh Bố thí, Theo thứ tự trì giới thanh tịnh, Tinh tiến mong cầu tu thiền định, Thực hành đủ các loại phương tiện, Phát sinh tám đạo được giải thoát, Đó gọi là người thuộc bậc thượng, Cao nhất trong tất cả mọi việc. Thực hành không có gì sai lầm, nghĩa là Bồ tát này làm mọi việc mà người trí không quở trách. Nhờ vào năm nhân duyên mà thực hành không có gì sai lầm, không bị người trí quở trách, đó là: Làm điều đáng làm. Đạt được lợi ích của quả to lớn. Không hủy hoại pháp. Tiếp về sau không có sai lầm. Danh tiếng lưu truyền mọi nơi. Như nói: Trước hết phải suy tính mọi điều, Tự mình làm công việc dễ làm Thuận theo việc này mà đạt được, Vô lượng lợi ích của Đại quả. Không trở ngại đối với thiện pháp, Làm rồi không có gì sai sót, Được người hiền thiện cùng ca ngợi, Tiếng tốt truyền đến khắp mọi nơi. Việc làm do người trí phát khởi, Gọi là không có gì lầm lỗi, Việc đáng làm và việc dễ làm, Tự nhiên tùy thuộc vào chính mình. Vô lượng công đức thật lớn lao, Nhanh chóng đạt được quả lợi ích, Người trí biết rõ ràng như vậy, Về sau không có gì lầm lỗi, Thuận lòng thêm chịu khó tinh tiến, Mà thực hành việc làm như vậy. Tất cả các chủng loại thanh tịnh và tất cả các thắng xứ phát sinh, nghĩa là nhờ vào năm nhân duyên mà các thắng xứ và tất cả các chủng loại đều được thanh tịnh. Đó là: Thân tâm thanh tịnh. Hồi hướng thanh tịnh. Tự thực hành thắng xứ đúng như giáo thuyết. Khiến cho người khác thực hành. Xa rời các pháp trái ngược với các thắng xứ, đó gọi là nói dối-tham lam keo kiệt-bỡi cợt xúi giục-ngu si. Như nói: Tâm Bồ tát thanh tịnh sâu xa, Rời xa mọi nịnh hót quanh co, Cũng đem tất cả bốn thắng xứ, Hồi hướng cho Phật đạo Bồ đề. Trước hết tự mình tu pháp thiện, Sau khiến cho người khác thực hành, Bồ tát luôn thực hành như vậy, Bốn thắng xứ đầy đủ thanh tịnh. Mười thiện đạo có năng lực làm cho đến được mười lực của Thế Tôn, nghĩa là tu tập mười thiện nghiệp đạo như vậy, có năng lực khiến cho người thực hành đạt đến mười lực. Mười lực ấy có nghĩa là chính biến tri. chính biến tri thì chính là Phật. Nhờ vào năm nhân duyên cho nên gọi là Thế Tôn: Đoạn trừ nghi ngờ của đời quá khứ. Đoạn trừ nghi ngờ của đời vị lai. Đoạn trừ nghi ngờ của đời hiện tại. Đoạn trừ nghi ngờ của pháp vượt qua ba đời. Đoạn trừ nghi ngờ về pháp không thể diễn tả được. Như nói: Vô thỉ đời kiếp trong quá khứ, Thông suốt không có gì nghi ngờ, Vô biên đời kiếp thuộc vị lai, Biết thông suốt không nghi ngờ gì; Mười phương bao la không giới hạn, Tất cả đời kiếp thuộc hiện tại, Pháp vi diệu-vô vi tối thượng, Vượt ra ngoài giới hạn ba đời; Mười bốn pháp không thể diễn tả, Cũng thông suốt không có nghi ngờ. Vốn có công đức tạng như vậy, Chư Phật xưng gọi là Thế Tôn. Công đức thành tựu như vậy là mười thiện nghiệp đạo có năng lực làm cho Bồ tát đạt đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì vậy cho nên người cầu Phật đạo, cần phải tu tập mười thiện nghiệp đạo như vậy.  <卷>QUYỂN 16 <詞>Phẩm 31: HỘ GIỚI Bồ tát này tu tập thực hành các thiện đạo như vậy: Đối với Tổng tướng và biệt tướng, Thiện nghiệp đạo-bất thiện nghiệp đạo, Mỗi loại có hai loại quả báo, Tất cả đều phân biệt biết rõ. Tổng tướng về quả báo của mười thiện nghiệp đạo, hoặc sinh lên cõi trời, hoặc sinh trong loài người. Biệt tướng về quả báo: Thiện hạnh xa rời sát sinh, có hai loại quả báo: Sống lâu. ít bệnh. Thiện hạnh xa rời trộm cắp, có hai loại quả báo: Rất giàu có. Chỉ một mình mình có của cải Thiện hạnh xa rời tà dâm, có hai loại quả báo: Người vợ trinh tiết hiền lành. Không bị người khác làm hại. Thiện hạnh xa rời nói dối, có hai loại quả báo: Không bị người khác phỉ báng. Không bị người khác lừa dối. Thiện hạnh xa rời hai lưỡi, có hai loại quả báo: Cảm được quyến thuộc tốt đẹp. Không bị người khác phá hoại. Thiện hạnh xa rời nói thô ác, có hai loại quả báo: Tùy ý nghe được những âm thanh mà mình ưa thích. Không có tranh chấp. Thiện hạnh xa rời nói lời tán loạn, có hai loại quả báo: Mọi người tin nhận những lời mình nói. Lời nói ra thật chắc chắn. Thiện hạnh xa rời tham lam, có hai loại quả báo: Biết vừa đủ. Ít ham muốn. Thiện hạnh xa rời sân hận, có hai loại quả báo: Ở nơi mình sinh sống thường cầu mong điều tốt đẹp cho người. không ưa làm não chúng sinh. Thiện hạnh chính kiến, có hai loại quả báo: Xa rời nịnh hót quanh co. Thấy những điều thanh tịnh. Mười bất thiện nghiệp đạo cũng như vậy. Tổng tướng về quả báo, hành bất thiện bậc thượng thì rơi vào địa ngục, hành bất thiện bậc Trung thì rơi vào súc sinh, hành bất thiện bậc hạ thì rơi vào ngạ quỷ. Biệt tướng về quả báo: Bất thiện hạnh sát sinh, có hai loại quả báo: Đoản mạng. Nhiều bệnh. Bất thiện hạnh trộm cướp, có hai loại quả báo: Bần cùng. Mất mát tiền của. Bất thiện hạnh tà dâm, có hai loại quả báo: Gặp phải người vợ xấu ác lại không trinh tiết lương thiện. Người khác làm hại. Bất thiện hạnh nói dối, có hai loại quả báo: Bị người khác phỉ báng. Bị người khác lừa dối. Bất thiện hạnh nói hai lưỡi, có hai loại quả báo: Gặp phải quyến thuộc xấu xa. Quyến thuộc nhất định phá hoại. Bất thiện hạnh nói thô ác, có hai loại quả báo: Tai nghe tiếng dữ dằn. Thường xảy ra tranh chấp. Bất thiện hạnh nói lời tán loạn, có hai loại quả: Lời nói không đáng tin nhận. Nói không có đầu đuôi. Bất thiện hạnh tham lam, có hai loại quả báo: Tâm không biết vừa đủ. Ham muốn nhiều không thỏa mãn. Bất thiện hạnh sân hận, có hai loại quả báo: tính hung ác. Ưa làm hại chúng sinh. Bất thiện hạnh tà kiến, có hai loại quả báo: Tâm niệm nịnh hót quanh co. Rơi vào trong tà kiến. Biết rồi yêu quý vui với pháp, Tâm không lay động đối với pháp, Ở giữa tất cả các chúng sinh, Tâm từ bi trở nên rộng lớn. Yêu quý pháp, nghĩa là chỉ yêu quý đối với pháp, lại không có điều gì hơn được. Pháp nói trong này, tức là trước tiên nói đến mười thiện nghiệp đạo. Vui với pháp, nghĩa là chỉ vui thích đối với pháp, lại không có điều gì khác nữa. Tâm không lay động đối với pháp, nghĩa là thậm chí mất mạng nhưng cuối cùng vẫn không rời bỏ pháp. Bồ tát thực hành theo pháp như vậy, ở giữa chúng sinh thì tâm Từ Bi trở nên rộng lớn hơn. Trong địa thứ nhất tuy có Từ Bi nhưng không bằng ở địa này, bởi vì thông suốt nhân duyên-nghiệp báo tội phước, chúng sinh đáng thương đều bởi vì nghiệp mà không thể nào tự tại được, vì vậy tâm không có ý niệm sân hận oán ghét đối với chúng sinh. Thực hành như vậy cho nên Từ Bi trở nên rộng lớn, dấy lên ý niệm như vậy: Kỳ quái làm sao các chúng sinh! Rơi vào trong hố sâu tà kiến Mình cần phải nói rõ chính kiến, Khiến họ được tiến vào chính đạo. Bồ tát thông suốt về nhân duyên-nghiệp báo tội phước, thực hành Từ Bi sâu sắc đối với các chúng sinh, dấy lên ý niệm như vậy: Chúng sinh đáng thương, bởi vì không biết thật tướng của các pháp, phát sinh nhiều vọng tưởng, sinh ra những tà kiến; bởi vì tà kiến mà dấy lên các phiền não, bởi vì phiền não mà khởi lên các nghiệp, nhân duyên khởi nghiệp mà luân chuyển trong sinh tử. Trước kia mình phát tâm cầu đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, vì cứu độ chúng sinh cho nên hãy nói rõ chính kiến, những chúng sinh này là mình phải cứu độ, nay hãy nói rõ chính kiến cho họ để họ tiến vào chính đạo khiến được độ thoát. Nghó như vậy, biết các chúng sinh có đủ loại phiền não, đó gọi là: Quán sát do phiền não dấy khởi, Và cấu trược của các phiền não, Đủ các loại ác nghiệp bất tịnh, Nhận chịu đủ mọi điều khổ não. Nghó thương xót cho các chúng sinh, Có biết bao nhiêu điều thiếu sót, Quán sát đủ các loại như vậy, Đều giống như mình có tất cả. Ngay lập tức dùng tâm Bi mẫn, Phát Đại nguyện vận dụng phương tiện, Làm thế nào khiến cho chúng sinh, Diệt trừ được những khổ đau này? Phiền não và cấu trược của phiền não, do Sử thâu nhiếp thì gọi là phiền não, do Triền thâu nhiếp thì gọi là cấu trược của phiền não. Phiền não do Sử thâu nhiếp, đó là tham-sân-mạn-vô minh-thân kiến-biên kiến-kiến thủ-giới thủ-tà kiến và nghi. Mười loại căn bản này tùy theo kiến đế và tư duy của ba cõi mà đoạn, phân biệt thì vốn gọi là chín mươi tám Sử. Không do Sử thâu nhiếp, đó là không tin-không có tàm-không có quý-nịnh hót quanh co-bỡn cợt-hối tiếc-cố chấp-lười nhác-lui sụt- ngủ nghỉ-giận dữ-keo kiệt-ganh tî-kiêu ngạo-không nhẫn nhịn-tham ăn-không biết vừa đủ, cũng do kiến đế và tư duy của ba cõi làm đoạn, phân biệt thì vốn có một trăm chín mươi sáu loại Triền cấu. Có người nói: Phiền não ở sâu trong tâm, cấu thì ở bên ngoài tâm. Có người nói: Các chướng che lấp gọi là Triền cấu, còn những loại khác đều gọi là phiền não. Ác nghiệp bất thiện, chính là bảy bất thiện nghiệp đạo, và tham lam sân hận-tà kiến tương ưng với tư, có thể phát sinh khổ báo. Đủ mọi điều khổ não, nghĩa là các loại ác sự trong thân gọi là khổ, các loại ác sự trong tâm gọi là não. Vả lại, khổ của đời hiện tại gọi là khổ, đời sau rơi vào đường ác thì gọi là não. Có nhiều điều thiếu sót, hoặc là các căn trên thân thể, hoặc là những nhu cầu cung cấp cho đời sống, hoặc là những công đức như Tín-Giới…, không đầy đủ cho nên gọi là thiếu sót. Những câu còn lại dễ hiểu, như trong kệ đã nói, không cần phải giải thích nữa. Tư duy như vậy rồi, Bồ tát thấy chúng sinh thật đáng thương xót, rơi vào trong Nhị thừa, mình nên vì họ mà phát nguyện làm cho họ trú trong Đại thừa. Sự việc này thì trong kinh Thập địa, Bồ tát Kim Cang Tạng tự mình nói như vậy: “Bồ tát này xa rời mười bất thiện nghiệp đạo, cũng làm cho chúng sinh trú trong mười thiện nghiệp đạo, vì chúng sinh mà tha thiết mong cầu tâm thù thắng-tâm tốt đẹp-tâm vui thích-tâm thương xót-tâm Từ Bi-tâm lợi ích-tâm giữ gìn-tâm mình vốn có-tâm Đại Sư- tâm thâu nhiếp-tâm tiếp nhận. Dấy lên ý niệm như vậy: Những chúng sinh này thật đáng thương xót, rơi vào trong các loại tà ý-tà kiến và đi theo con đường tà vạy nguy hiểm, nay mình phải làm cho họ trú vào trong con đường chính kiến chân thật. Những chúng sinh này vì chủng loại khác nhau mà tranh chấp lẫn nhau, thường ôm lòng căm thù, lửa sân hận bốc cháy rừng rực, mình nên làm cho họ trú trong niệm Đại Từ Vô thượng. Những chúng sinh này không có gì thỏa mãn, tham cầu lợi ích của người khác, tự nuôi sống bản thân bằng phương tiện tà vạy, mình nên làm cho họ trú trong nghiệp thân-nghiệp-ý thanh tịnh. Những chúng sinh này ở giữa nhân duyên của tham dục-sân hận-ngu si, thường dấy lên đủ loại kiết sử phiền não mà không tìm kiếm phương cách mong được tự mình thoát ra, mình nên diệt trừ những điều khổ não ấy làm cho họ trú vào nơi không có khổ não. Những chúng sinh này bị vô minh che phủ mà đi vào rừng rậm tối đen, không thể nào tự mình thoát ra được, xa rời ánh sáng trí tuệ mà đi vào trong con đường hiểm ác của các kiến chấp, mình cần phải cứu giúp khiến cho họ có được ánh mắt trí tuệ vô ngại, dùng ánh mắt trí tuệ này mà không đi theo người khác, đối với tất cả các pháp biết đúng như thật tướng của nó. Những chúng sinh này rơi vào sông dài của sinh tử, sắp rơi vào hố hầm của địa ngục- súc sinh-ngạ quỷ và a-tu-la, tiến vào trong mạng lưới quanh co tà vạy, bị các loại cỏ độc của phiền não che lấp, không có người dẫn đường- không sinh được tâm thiện, đạo nói là không phải đạo, không phải đạo nói là đạo, ma quân-giặc thù thường cùng nhau đuổi theo, không có bậc thầy khéo léo dẫn dắt, tùy thuận ý ma xa lìa Phật pháp; chúng sinh như vậy thì mình cần phải làm cho họ vượt qua những con đường hiểm ác của sinh tử này, được trú trong khu thành của tất cả trí tuệ, không còn sợ hãi-không còn suy sụp gì nữa. Những chúng sinh này bị trôi nổi dòng chảy của Dục-dòng chảy của Hữu-dòng chảy của kiến-dòng chảy của Vô minh; bị các loại sóng gió của nghiệp tội nhấn chìm trong sông Ái, trôi theo sóng nước của sinh tử, bị dòng nước xoáy làm cho xoay tròn không thể nào tự thoát ra được; bởi vì chìm ngập trong dòng nước mặn của cảm giác về Dục-cảm giác về Sân-cảm giác về não, cho nên bị La sát thân kiến nắm giữ; đi vào rừng rậm của năm Dục bị sự vui mừng ô nhiễm làm cho vướng mắc, thổi vào vùng đất của Ngã mạn, thật là đáng thương xót! Không có bến bờ nương tựa, không có ai cứu giúp được. Ở giữa thôn làng trống rỗng của sáu Nhập không có năng lực để phát động, không có người khéo léo cứu giúp. Chúng sinh như vậy thì nay mình nên dùng con thuyền trí tuệ vững chắc của lòng Đại Bi chở đến những bến bờ Nhất thiết trí yên ổn không có gì sợ hãi. Những chúng sinh này nhiều đau khổ đáng thương, bị giam hãm trong lao ngục sầu bi khổ não của sinh tử, lòng đầy tham giận yêu ghét, rơi vào bốn loại điên đảo, bị rắn độc bốn Đại làm hại, bị kẻ thù năm Ấm tàn sát, bị giặc cướp gian trá vui mừng ô nhiễm hãm hại, ở trong thôn làng trống rỗng của sáu Nhập nhận chịu vô lượng khổ não. Mình cần phải phá tan lao ngục sinh tử ấy khiến cho đạt được sự yên ổn vui sướng của Niết bàn vô ngại tự tại. Những chúng sinh này thật đáng thương xót, tâm nhỏ bé hạn hẹp chỉ vui với lợi ích nhỏ nhoi, co cụm chìm đắm chứ không có tâm Nhất thiết trí, giả sử mong cầu thoát ra thì lại vui với Thanh văn thừa Bích- chi-Phật thừa, mình cần phải làm cho họ đạt được tâm rộng lớn khiến cho vui với pháp rộng lớn của Phật”. Bồ tát thực hành pháp như vậy, Sẽ có được sức mạnh trì giới, Dễ dàng biết phát khởi thiện nghiệp, Khiến cho được tăng trưởng tốt hơn, Như vậy chính là đệ tử Phật, Đi sâu vào địa vị Ly cấu. Sức mạnh trì giới là nhất tâm thanh tịnh đầy đủ mười thiện đạo. Giới thì đạt được sức mạnh phước đức của sự tu tập. Có năng lực phát khởi thiện nghiệp là khéo léo biết tự mình phát sinh và tăng trưởng thiện đạo, cũng làm cho chúng sinh khác đi sâu vào, mọi công hạnh trở nên xa hơn đến tận cùng giới hạn của thiện đạo. Phật tử là có năng lực thuận theo pháp thực hành, đó gọi là Phật tử. Ở địa thứ nhất bắt đầu phát sinh, đến địa thứ hai thì tăng trưởng, là Bồ tát thì cần phải chịu khó thực hành tinh tiến như vậy. Nếu như Bồ tát có thể đến, Phạm vi của địa vị Ly cấu, Lúc bấy giờ sẽ được trông thấy, Trăm ngàn vị Phật ở mười phương. Trong địa thứ nhất đã nói, Bát chu Tam-muội là pháp thấy Phật hiện tại hỗ trợ cho Tam muội đó gọi là dùng ba mươi hai tướng tốt-tám mươi vẻ đẹp và bốn mươi pháp bất cộng để nghó đến Phật, không hề tham trước đối với tất cả các pháp; cũng nói về lợi ích của Tam muội, có thể thành tựu thế lực của quả báo. Hỏi: Nếu Bồ tát ở trong địa thứ nhất đã đến được phạm vi của địa thì có thể thấy được Chư Phật, mới bước vào địa thứ hai, lập tức sẽ thấy Chư Phật, tại sao nói cho đến phạm vi của địa thứ hai mới thấy Chư Phật? Nếu như vậy thì trong lúc ban đầu tiến vào địa thứ hai phải mất Tam muội này, về sau mới có được chăng? Đáp: Ban đầu tiến vào trong địa thứ hai cũng thấy Chư Phật, cũng không mất đi Tam muội này. Ông không có năng lực khéo léo hiểu được nghĩa của kệ cho nên chấp vấn như vậy. Ban đầu trong địa thứ hai, chỉ thấy trăm vị Phật, cho đến phạm vi của địa ấy thì thấy được trăm vị Phật-ngàn vị Phật. Thấy Chư Phật rồi thì tâm rất hoan hỷ, vì muốn đạt được Phật pháp cho nên chịu khó thực hành tinh tiến hơn. Lập tức có thể dùng bốn sự, Cúng dường đối với chư Như Lai, Tự mình hướng về nơi Chư Phật, Tiếp tục nhận lấy mười thiện đạo. Tứ sự là y phục, ăn uống, ngọa cụ, thuốc men, những nghĩa khác thì có thể biết. Thực hiện công hạnh như vậy rồi, Theo Phật nhận lấy những thiện đạo, Cho đến trăm ngàn vạn đời kiếp, Không hủy hoại cũng không mất đi. Không hủy hoại là không làm cho giới bị thiếu sót; hoặc nhờ sự việc thanh tịnh cho nên gọi là không hủy hoại, cũng không tiếp tục thực hành cho nên gọi là không mất đi. Bồ tát này như vậy, vượt qua địa thứ nhất tiến vào địa thứ hai rồi. Như nói: Khéo xa rời vết bẩn tham keo, Vui thực hành Bố thí thanh tịnh, Khéo xa rời vết bẩn tham keo, Rất quý trọng trì giới thanh tịnh. Thanh tịnh nghĩa là chỉ dùng thiện tâm thực hành Bố thí, không lẫn tạp những phiền não. Rất quý trọng nghĩa là an trú vững chắc trong đó, cuối cùng không buông bỏ. Vết bẩn tham keo, vết bẩn phá giới trong địa này không có gì sót lại, vì vậy cho nên địa này tên gọi là Ly cấu. Bồ tát như vậy không còn tâm tham keo và phá giới, ở trong bốn nhiếp pháp thì ái ngữ chú trọng đến lợi ích, trong sáu Ba-la-mật thì giới độ chú trọng về lợi ích. Lợi ích có nghĩa là thực hành nhiều thì thế lực càng sâu dày hơn. Hỏi: Nếu trong địa thứ hai, trì giới Ba-la-mật đã có được thế lực, thì nay trong địa này cần phải giải thích về sự sai biệt giữa Sinh-Lực- Tịnh của phần trì giới Ba-la-mật chăng? Đáp: Nói sơ lược về độ Thi-la Tất cả có sáu mươi lăm phần, Sinh-Lực-Tịnh cùng với Sai biệt, Trong luận đã giải thích khắp nơi. Thi-la Ba-la-mật có vô lượng vô biên, nhưng nói tóm lược thì có sáu mươi lăm phần, còn lại giới về Sinh-giới về Lực-giới về Tịnh và giới về Sai biệt, thì trong luận lần lượt khắp nơi giải thích về tướng, như trong phẩm Hòa hợp Phật pháp trong kinh Bảo Đảnh, Bồ tát Vô Tận ý ở trước Đức Phật nói về sáu mươi lăm loại thuộc phần Thi-la Ba-la-mật. “Thi-la có nghĩa là không buồn phiền. Tất cả chúng sinh ở giữa vật của người khác không có ý tưởng trộm cướp, không đắm theo ngoại sắc, không lừa dối chúng sinh, quyến thuộc đầy đủ cho nên không nói hai lưỡi. Chịu đựng nhiều lời tệ hại, cho nên không có lời nói thô ác. Thường tư duy đắn đo lời nói lợi ích cho nên không nói lời tán loạn. Vui mừng vì người khác sung sướng, cho nên tâm không còn tham lam giữ lấy. Chịu đựng những khổ đau, cho nên không có gì sân não. Không khen ngợi tà sư, cho nên gọi là chính kiến. Tâm tin tưởng thanh tịnh, cho nên tin Phật. Biết pháp chân thật, cho nên tin pháp. Vui với sự tôn trọng cung kính chúng Hiền Thánh, cho nên tin tăng. Nghó đến Phật mà rạp lạy sát đất để cung kính cúng dường. Ngay cả giới nhỏ bé mà tâm hết sức sợ hãi, cho nên giới không suy kém. Không dựa theo Thừa khác, cho nên giới không hủy phạm. Lìa bỏ tà hạnh, cho nên giới không thiếu sót. Không khởi lên phiền não xấu ác, cho nên gọi là giới không lẫn tạp. Cuối cùng thường vui với sự tăng trưởng thiện pháp, cho nên gọi là giới không vẩn đục. Tùy ý thực hành, cho nên gọi là giới tự tại. Không bị người trí quở trách, cho nên gọi là giới được bậc Thánh kheo ngợi. Thường ở trong niệm tuệ an ổn, cho nên gọi là giới dễ dàng thực hành. Tất cả không lỗi lầm, cho nên gọi là giới không đáng quở trách. Giữ gìn các căn, cho nên gọi là giới khéo bảo vệ. Được Chư Phật nghó đến, cho nên gọi là giới tiếng tốt vang xa. Có được đồ vật đúng như pháp, biết hạn lượng tiếp nhận, cho nên gọi là giới ít ham muốn. đoạn trừ tham keo, cho nên gọi là giới biết vừa đủ. Thân tâm xa lìa, cho nên gọi là giới xa lìa. Rời xa những nơi ồn ào náo nhiệt, cho nên gọi là giới A-lan-nhã. Không nhìn sắc diện người khác để mong có sự lợi ích, cho nên gọi là giới đầy đủ Thánh chủng. Thuộc về thiện căn, cho nên gọi là giới tế hạnh đầu đà. Sinh trong đường trời và người, cho nên gọi là giới tùy thuyết thực hành, cứu giúp tất cả chúng sinh, cho nên gọi là giới của Từ. Nhận chịu tất cả khổ đau, cho nên gọi là giới của Bi. Tâm không lui sụt, cho nên gọi là giới của Hỷ. Rời xa yêu-ghét, cho nên gọi là giới của xả. Tâm hàng phục, cho nên gọi là giới tự mình thấy lỗi lầm. Tâm che chở người khác, cho nên gọi là giới không sai lầm. Khéo giữ gìn giới, cho nên gọi là giới khéo thâu nhiếp. Thành thục chúng sinh cho nên gọi là giới Bố thí. Không mong cầu gì, cho nên gọi là giới nhẫn nhục. Không lười nhác rút lui, cho nên gọi là giới tinh tiến. Tập trung hỗ trợ thiền pháp, cho nên gọi là giới thiền định. Thiện căn đa văn không hề thỏa mãn, cho nên gọi là giới trí Tuệ. Từ đa văn có được trí tuệ, cho nên gọi là giới mong cầu đa văn. Tập trung hỗ trợ bảy giác pháp, cho nên gọi là giới thân cận thiện tri thức. Rời bỏ tà kiến đạo, cho nên gọi là giới lìa xa ác tri thức. Quán xét vô thường, cho nên gọi là giới không tham thân mạng. Chịu khó tích góp thiện căn, cho nên gọi là giới không tin theo số mạng. Tâm hết sức thanh tịnh, cho nên gọi là giới không hối tiếc. Hành nghiệp thanh tịnh, cho nên gọi là giới không giả dối. Tâm sâu xa vô cấu, cho nên gọi là giới không có nóng bức. Khéo phát khởi hành nghiệp, cho nên gọi là giới không có buồn lo. Không tự cao, cho nên gọi là giới không có ngạo mạn. Rời xa nhiễm dục, cho nên gọi là giới không nhạo báng xúi giục. Tâm chất trực, cho nên gọi là giới không tự cao. Tâm điều hòa, cho nên gọi là giới có hổ thẹn. Tâm ác không phát khởi, cho nên gọi là giới điều hòa tốt lành. Diệt trừ những phiền não, cho nên gọi là giới tịch diệt. Thực hành đúng như lời nói, cho nên gọi là giới tùy thuận lời Phật dạy. Thực hành bốn nhiếp pháp, cho nên gọi là giới giáo hóa chúng sinh. Không làm mất pháp của mình, cho nên gọi là giới hộ trì giáo pháp. Xưa nay thanh tịnh, cho nên gọi là giới đầy đủ tất cả các nguyện. Hồi hướng về đạo vô thượng, cho nên gọi là giới đến được Phật pháp. Tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh, cho nên gọi là giới đạt được tam-muội của Phật. Này đại đức Xá-lợi-phất! Đây là sáu mươi lăm phần Thi-la Ba-la- mật. Giới thanh tịnh của các Bồ-tát thì vô cùng vô tận”. Sinh giới thì giải thích khắp mọi nơi. Nói sơ lược thì có tám loại Sinh giới, bốn loại phát sinh từ thân, bốn loại phát sinh từ miệng. Phát sinh từ thân là rời xa đoạt mạng chúng sinh, rời xa việc làm khổ não cho chúng sinh, rời xa trộm cướp, rời xa tà dâm. Phát sinh từ miệng là rời xa nói dối, nói hai lưỡi, nói thô ác, nói lời tán loạn. Đây gọi là tám loại. Tám loại giới này phát sinh từ cảm thọ. Pháp cảm thọ này, hoặc dùng thân-hoặc dùng miệng-hoặc dùng tâm cảm thọ hòa hợp làm thành hai mươi bốn giáo. Người khác cảm thọ cũng có hai mươi bốn loại, tùy hỷ cảm thọ cũng có hai mươi bốn loại, lúc tu tập thực hành cũng có hai mươi bốn loại, hợp lại thành chín mười sáu loại, đều là hệ thuộc cõi Dục, từ đây ngày đêm liên tục phát sinh. Tại vì sao? Bởi vì tâm cảm thọ ban đầu đã diệt, tâm thứ hai này thường xuyên phát sinh. Vận dụng phước đức cũng như vậy. Nguyện cớ thế nào? Bởi vì tâm Bố thí ban đầu diệt rồi, từ tâm thứ hai về sau, lúc vận dụng thì sẽ phát sinh, đây gọi là nghiệp thiện của thân. Có mười thiện nghiệp đạo thâu nhiếp và có loại không thâu nhiếp, là do hệ thuộc cõi Dục như vậy. Hệ thuộc cõi Sắc có hai loại, một loại phát sinh từ thân, một loại phát sinh từ miệng. Phát sinh từ thân là rời xa mười bất thiện đạo, vốn không thuộc về tội lỗi. Phát sinh từ miệng là lời nói tán loạn. Giới này dùng thân cảm thọ- miệng cảm thọ và tâm cảm thọ, hai loại đều có ba thì trở thành sáu. Giáo hóa người khác cũng có sáu, tùy hỷ cũng có sáu, lúc tu tập thực hành cũng có sáu, bốn loại có sáu thì trở thành hai mươi bốn. Trước đã nói chín mươi sáu loại, cùng với hai mươi bốn loại này làm thành một trăm hai mươi loại. Như vậy từ hành nghiệp phát sinh giới. Lại có lúc chứng đạo phát sinh giới, lúc lui sụt đạo phát sinh giới, lúc mới sinh ra phát sinh giới, vì sự việc rất nhiều cho nên nay chỉ nói tóm lược. Giới lực là tăng trưởng thuận theo Ba-la-mật, giới chuyển biến có được sức mạnh, thuận theo phần vị đạt được mà giới cũng kiên cố có được sức mạnh. Giới định là không hủy hoại-thiếu kém… như trước đã nói. Vả lại, tướng tịnh và bất tịnh của giới, trong bảy pháp phạm hạnh đã nói. Như kinh nói: “Bởi vì bảy loại dâm dục, cho nên gọi là giới bất tịnh. Đó là: Tuy đoạn dâm dục nhưng vì tâm ô nhiễm cảm thọ người nữ tắm rửa-xoa bóp. Dùng tâm ô nhiễm ngửi mùi hương của người nữ cùng nhau chuyện trò cười đùa. Dùng tâm ô nhiễm mà mắt cùng nhìn nhau. Tuy có chướng ngại nhưng dùng tâm ô nhiễm nghe âm thanh của người nữ. Trước cùng với người nữ nói cười, sau tuy cách xa nhau nhưng nhớ mãi không quên. Tự hạn định thời gian như vậy sẽ đoạn trừ dâm dục, nhưng sau đó vẫn thực hiện dâm dục. Mong mỏi sinh lên cõi trời hưởng thụ niềm vui cùng thiên nữ và thân đời sau được giàu có sung sướng, vì vậy đoạn trừ dâm dục. Đây gọi là bất tịnh. Rời xa bảy điều này thì gọi là giới thanh tịnh”. Giới sai biệt, có hai loại: Hữu lậu. Vô lậu. Ba loại: Hệ thuộc cõi Dục, hệ thuộc cõi Sắc, không hệ thuộc. Bốn loại thì chính mạng thâu nhiếp hai loại chính ngữ-chính nghiệp, chính mạng không thâu nhiếp cũng là hai loại chính ngữ-chính nghiệp. Năm loại là giới phàm phu, giới Bồ-tát, giới Thanh văn, giới Bích-chi-Phật, giới Phật vô thượng. Sáu loại: chính mạng cõi Dục thâu nhiếp thân- miệng là một; chính mạng vốn không thâu nhiếp là hai: chính mạng hệ thuộc cõi Sắc thâu nhiếp nhiệp của thân-miệng là ba; chính mạng vốn không thâu nhiếp là bốn; chính mạng vô lậu thâu nhiếp thân-miệng là năm; chính mạng vốn không thâu nhiếp là sáu. Bảy loại là bảy thiện nghiệp đạo. Tám loại là như trước đã nói, thân có bốn loại và miệng có bốn loại. Chín loại là bảy loại hệ thuộc cõi Dục, bảy thiện nghiệp đạo và hai loại như trước đã nói. Mười loại thì Đạo giới có ba loại, đối trị giới có ba loại, chỉ riêng giới có ba loại, chín loại này cọng thêm giới vô lậu và giới hữu lậu làm thành mười loại. Như vậy đều là các loại phân biệt về giới sai biệt. Hỏi: Trong Thanh văn Thừa, nói thân nghiệp và khẩu nghiệp gọi là Thi-la. Hai thiện nghiệp này gọi là tốt, hai bất thiện nghiệp gọi là xấu. Thân nghiệp và khẩu nghiệp thiện này gọi là Thi-la trong luận này cũng lấy điều này làm Thi-la, hay là còn có Thi-la khác? Đáp: Không những thân nghiệp và khẩu nghiệp, Mới có thể gọi là Thi-la, Mà tu tập-thân cận-lạc hành, Tất cả cũng gọi là Thi-la. Ba việc này cùng một nghĩa, đó gọi là tu tập-thân cận và vui với thực hành. Hỏi: Nếu lấy sự tu tập-thân cận và vui với thực hành, gọi đó là Thi-la, thì tất cả các pháp đều phải gọi là Thi-la. Tại vì sao? Bởi vì thường xuyên tu tập-thân cận và vui với thực hành, cho nên nay ông phải nói về sự tu tập Thi-la thù thắng nhất chăng? Đáp: Nếu như vô ngã-vô ngã sở, Xa lìa tất cả mọi hý luận, Tất cả không có gì đạt được, Thì gọi là Thi-la cao nhất. Nếu không biết Thật tướng của nội pháp và ngoại pháp, thì sẽ Thi-la mà phát sinh tham trước và kiêu mạn, mở trong các cửa ngõ tội lỗi. Vì vậy nếu đối với nội pháp không thấy có Ngã, ở giữa ngoại pháp không có được Ngã sở biết nội pháp và ngoại pháp hoàn toàn trống rỗng chứ không có gì đạt được, cũng không giữ lấy tướng hý luận đối với hoàn toàn trống rỗng, thì đó gọi là Thi-la thù thắng nhất. Tại vì sao? Bởi vì trong Thi-la như vậy hãy còn không có tâm sai lầm, huống gì là thân-miệng sai lầm! Vì vậy Chư Phật và Bồ-tát là những bậc có năng lực thực hành Thi-la bậc nhất, đối với tất cả các pháp không có gì đạt được, cho nên gọi là Thi-la cao nhất. Như trong Kinh Ca diếp nói: “Đức Phật bảo với Ca-diếp Thi-la gọi là không có ngã-không phải không có ngã, không tạo tác-không có gì tạo tác, không có tác giả, không có hành-không phải không có hành, không có danh-không có sắc-không có tướng-không phải không có tướng, không có thiện-không phải không có thiện, không có tịch diệt-không phải không có tịch diệt, không có lấy-không có bỏ, không có chúng sinh-không có nhân duyên chúng sinh, không có thân-không có miệng-không có tâm, không có thế gian-không có pháp thế gian- không dựa vào thế gian. Không vì Thi-la mà tự cao, không và Thi-la mà hạ thấp người, không vì Thi-la mà khởi lên tăng thượng mạn, không vì Thi-la mà phân biệt đôi bên. Này Ca-diếp! Đây gọi là Thi-la của các bậc Hiền Thánh, lìa xa ba cõi, vô lậu và không có gì hệ thuộc.” Như trong phẩm Thi-la, Bồ-tát vô tận Ý nói với Xá-lợi-phất: “Thi- la có nghĩa là không phân biệt chúng sinh-không nói là ngã, không nói là thọ giả-mạng giả, không nói là người, không nói là người dưỡng dục, không nói là sắc ấm, thọ-tưởng-hành-thức ấm, không nói là địa chủng, thủy-hỏa-phong chủng. Thi-la có nghĩa là không phân biệt tướng mắt, không phân biệt đây là tướng sắc, không phân biệt đây là tướng tai- tướng thanh-tướng mũi-tướng hương-tướng lưỡi-tướng vị-tướng thân- tướng xúc-tướng ý-tướng pháp. Thi-la có nghĩa là không phân biệt đây là thân-là miệng-là tâm. Thi-la có nghĩa là thâu nhiếp tâm, bởi vì đây là tướng nhất tâm, lựa chọn các pháp vốn là tướng của tuệ. Thi-la có nghĩa là đạt đến không, đi đến phạm vi của vô tướng, không lẫn tạp với ba cõi, không có tạo tác-không có dấy khởi, chính là vô sinh nhẫn. Thi-la có nghĩa là không từ phạm vi trước mà đến, không đi về phạm vi sau, cũng không dừng lại phạm vi trung gian. Thi-la có nghĩa là không dừng lại, tâm-ý-thức không hòa hợp cùng với niệm. Thi-la có nghĩa là không dựa vào cõi Dục, không dựa vào cõi Sắc, không dựa vào cõi Vô sắc. Thi-la có nghĩa là rời xa tham trần cảnh-loại trừ cấu nhiễm sân hận-diệt hết bóng tối vô minh, chẳng phải thường-chẳng phải đoạn không trái với các tướng duyên sinh. Thi-la có nghĩa là rời xa tâm ngã, buông bỏ tâm ngã sở, không bám vào thân kiến. Thi-la có nghĩa là không tham trước danh tướng, không hòa hợp cùng với sắc tướng. Thi-la có nghĩa là không bị chi phối bởi kiết sử, không bị che phủ bởi các triền, không ở trong chướng ngại của nghi ngờ-hối tiếc. Thi-la có nghĩa là không ở trong căn bất thiện tham, vượt qua căn bất thiện sân, đọan trừ căn bất thiện si. Thi-la có nghĩa là không vội vàng-không nóng nảy mà dựa vào tâm thư thái vui vẻ. Thi-la có nghĩa là không đoạn mất chủng tử Chư Phật cho nên không phá hoại pháp thân, không phân biệt pháp tính cho nên không đoạn mất chủng tử của pháp, tướng thuận theo tự nhiên cho nên không đoạn mất chủng tử của Tăng. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là Thi-la vô thượng tối thắng của các Bồ-tát. Thi-la như vậy thì không thể cùng tận, chỉ trừ ra Thi-la của Chư Phật, còn lại đều là Thi-la có cùng tận. Đó Bắt đầu từ Thi-la phàm phu, Sau đến Thi-la Bích-chi-Phật, Tất cả đều có tướng cùng tận, Thi-la Bồ-tát thì vô tận. Bắt đầu từ phàm phu đến tất cả Thi-la vốn có, tuy thọ nhận quả báo lâu dài nhưng rốt cuộc cũng trở về cùng tận. Thi-la vốn có của các A-la-hán và Bích-chi-Phật cũng đều có cùng tận. Thi-la của Bồ-tát là vô ngã-vô ngã sở, xa rời tất cả mọi sở đắc, diệt hết những hý luận, cho nên không có cùng tận. Như trong phẩm Thi-la, Bồ-tát Vô tận Ý nói: “Thi-la của các phàm phu tùy theo nơi sinh ra, nơi sinh ra kết thúc thì Thi-la sẽ kết thúc. Ngoại đạo đến lúc thối chuyển năm thần thông, vì năm thần thông kết thúc cho nên Thi-la sẽ kết thúc. Con người vì mười thiện nghiệp đạo kết thúc, cho nên Thi-la sẽ kết thúc. Chư Thiên cõi Dục không còn phước đức, thì Thi-la sẽ không còn. Chư Thiên cõi Sắc không còn bốn thiền-bốn vô lượng thì Thi-la sẽ không còn. Chư Thiên cõi vô sắc tùy theo định nơi sinh ra chấm dứt, Thi-la sẽ chấm dứt. Những người học- vô học nhập Niết-bàn, bởi vì kết thúc cho nên Thi-la cũng kết thúc. Các vị Bích-chi-Phật không có lòng Đại Bi, vì vậy Thi-la sẽ chấm dứt. Này Đại đức Xá-lợi-phất! Chỉ riêng Thi-la của các Bồ-tát thì không có chấm dứt. Tại vì sao? Bởi vì từ Thi-la của Bồ-tát phát sinh các Thi-la sai biệt, nhân vô tận cho nên quả cũng vô tận. Thi-la của Bồ-tát là vô tận. Thi-la của Như lai cũng vô tận, vì vậy Thi-la của các bậc Đại nhân gọi là vô tận.” Hỏi: Lúc ông giải thích sơ lược về Thi-la, nói đến sáu mươi lăm loại Thi-la, trong Thanh văn có tám loại Thi-la, bốn loại phát sinh từ thân, bốn loại phát sinh từ miệng, sự việc như vậy làm sao có thể không trái ngược với nhau? Đáp: Không hề trái ngược nhau. Tại vì sao? Bởi vì: Tuy chẳng phải Thể của Thi-la, Nhưng lợi ích nên gọi là phần, Tám loại gồm thân nghiệp-khẩu nghiệp, Đó chính là Thể của Thi-la. Tuy sáu mươi lăm loại phần không phải là Thể của Thi-la nhưng lợi ích cho tám loại Thi-la thô thiển của thân-miệng, cho nên gọi là Thi- la phần. Tất cả điều gì có thể có những lợi ích thì đều gọi là phần, như voi-ngựa-tàng lọng-cờ quạt gọi là phần của nhà vua. Vì vậy thiền-trí tuệ… tuy là chẳng phải Thể của Thi-la, nhưng bởi vì lợi ích cho Thi-la, do đó cũng gọi là Thi-la phần. ---------------------------------- <詞>Phẩm 32: GIẢI THÍCH VỀ ĐẦU ĐÀ, Phần 1 Thấy mười lợi ích cần phải khoác, Hai pháp gồm có sáu loại y, Cũng bởi vì thấy mười lợi ích Cho nên suốt đời đi khất thực. Tỳ-kheo muốn hành trì đầy đủ giới phẩm, cần phải khoác hai loại gồm có sáu thứ y, bởi vì thấy được mười lợi ích. Những gì là mười? Đó là: độc. Bởi vì tàm quý. Bởi vì ngăn ngừa nóng-lạnh do thời tiết và ruồi muỗi trùng Bởi vì biểu hiện rõ ràng oai nghi pháp tắc của Sa-môn. Bởi vì tất cả trời-người trông thấy pháp y thì cung kính-tôn quý giống như chùa tháp. Bởi vì tâm chán ngán lìa xa mà khoác y hoại sắc chứ không phải vì tham cái đẹp. Bởi vì tùy thuận tịch diệt chứ không phải là vì phiền não hừng hực. thấy. Bởi vì khoác pháp y thì có điều xấu ác xảy ra sẽ dễ dàng nhận Bởi vì khoác pháp y thì không cần đến đồ vật trang nghiêm gì khác. Bởi vì khoác pháp y cho nên tùy thuận tu tập tám Thánh đạo. Mình nên tinh tiến hành đạo chứ không để tâm nhiễm ô dù chỉ trong chốc lát, vì vậy mà khoác pháp y hoại sắc. Bởi vì thấy được mười lợi ích này, cho nên cần phải khoác hai loại y: Y cư só. Y phấn tảo. Sáu loại là: Kiếp cụ. Sô-ma. Kiêu-xa-da. Y lông thú. 5.Y vải gai đỏ. 6. Y vải gai trắng. Thấy có mười lợi ích cho nên suốt đời đi khất thực: Những vật dùng để nuôi sống thân mạng, tùy thuộc vào mình chứ không tùy thuộc người khác. Chúng sinh Bố thí thức ăn cho mình, thì khiến cho họ trú vào Tam bảo rồi sau đó mới ăn. Nếu có người Bố thí thức ăn cho mình thì nên phát sinh tâm Bi, mình nên chịu khó thực hành tinh tiến làm cho họ dễ dàng trú trong hạnh Bố thí, thực hiện xong mới ăn. Tùy thuận thực hành theo lời dạy của Phật. Dễ đầy đủ và dễ nuôi sống. Thực hành phương pháp phá trừ kiêu mạn. Không thấy đỉnh cao của thiện căn. Thấy mình khất thực thì người khác có tu pháp thiện cũng sẽ học theo mình. Không có những nhân duyên quan hệ với nam nữ lớn nhỏ. Khất thực theo thứ tự, sinh tâm bình đẳng ở giữa chúng sinh, chính là chủng tử hỗ trợ cho Nhất thiết chủng trí. Tuy Phật cho phép xin thức ăn, Nhưng phải vì tự lợi mình xong, Cũng làm lợi ích cho người khác; Không vậy thì không được xin ăn. Tự lợi là có năng lực đầy đủ các Ba-la-mật. Lợi tha là giáo hóa chúng sinh khiến họ trú trong Tam bảo. Thực hành như vậy chính là vừa lợi cho mình vừa lợi cho người. Bởi vì thấy có người lợi ích, Thường không rời bỏ nơi thanh vắng, Thăm hỏi bệnh tật và nghe pháp, Giáo hóa tùy thuận mới đến chùa. Tỳ-kheo được ở chốn A-lan-nhã, tuy tăng trưởng các loại công đức, nhưng nói sơ lược thì thấy có mười lợi ích, cho nên suốt đời không nên rời bỏ. Những gì là mười? Đó là: Đến đi tự tại. Vô ngã và vô ngã sở. Tùy ý mà an trú chứ không có gì chướng ngại. Tâm càng vui với thói quen ở chốn A-lan-nhã. Ở chốn ít ham muốn và ít quan hệ. Không tiếc thân mạng, bởi vì đầy đủ công đức. Xa lìa những nơi ồn náo loạn. Tuy làm công đức nhưng không cầu đến ân. Tùy thuận thiền định dễ đạt được nhất tâm. Ở chốn vắng vẻ dễ dàng phát sinh ý tưởng không có chướng ngại gì, thăm hỏi bệnh tật cùng những người đi đến chùa học hỏi giáp pháp. Nếu như có nhân duyên quan hệ, Đến cư trú ở trong chùa tháp, Ở giữa tất cả mọi sự việc, Không rời bỏ ý tưởng vắng lặng. Tỳ-kheo tuy thọ pháp suốt đời ở chốn A-la-nhã, nhưng có nhân duyên quan hệ xảy ra thì vào trong chùa tháp. Phật pháp có mở thông- có ngăn chặn, chứ không giống như A-lan-nhã của ngoại đạo, gọi là thường vui với nơi chốn yên lặng vắng vẻ, không rời bỏ ý tưởng không đối với tất cả các pháp, bởi vì Thể của tất cả các pháp cuối cùng đều là không. Hỏi: Có nhân duyên gì mà đến nơi chùa tháp? Đáp: Cung cấp cho người bệnh. Cầu tìm dụng cụ thuốc thang chữa trị cho người bệnh. Cầu tìm người khám bệnh cho người bệnh. Thuyết pháp cho những Tỳ-kheo khác. Nghe pháp giáo hóa. Cung kính cúng dường các bậc Đại đức. Để cung cấp cho Thánh chúng. Để đọc tụng kinh điển sâu xa. Dạy cho người khác khiến họ đọc tụng kinh điển sâu xa. Có những nhân duyên như vậy cho nên đi đến nơi chùa tháp. Tinh tiến thực hành các giác quán, Tùy thuận pháp tu A-lan-nhã, Tỳ-kheo đã an trú thuần thục, Ở trong trú xứ A-lan-nhã, Thường thuận theo tinh tiến phát sinh, Tăng trưởng tất cả các thiện pháp, Tâm can đảm quán tưởng vô ngã, Diệt trừ hết mọi nỗi sợ hãi. Tinh tiến trong chốn A-lan-nhã, nếu Tỳ-kheo đoạn trừ tâm tham, không tiếc gì thân mạng và lợi dưỡng, ngày đêm thường tinh tiến như cứu lửa cháy trên đầu, thân mạng nương theo trú xứ vắng lặng nơi A- lan-nhã. Giác là các giác quán về thiện pháp như giác quán xuất ly-giác quán không sân hận-giác quán không não hại… Vả lại, nghó đến Phật là bậc chính Biến Tri, là đấng tôn quý giữa chúng sinh. Phật pháp là giải thích về thiện pháp, chúng đệ tử tùy thuận để thực hành đúng đắn. Lại nữa, các giác tùy thuận không-tùy thuận vô tướng-tùy thuận vô nguyện, gọi là giác tùy thuận A-lan-nhã. Lại nữa, các giác tùy thuận bốn thắng xứ, tùy thuận sáu Ba-la-mật thì gọi là giác tùy thuận A-lan-nhã. Lại nữa, như Phật thuyết về hạnh Bồ-tát tại gia và xuất gia cho Trưởng giả Úc-già: “Nếu Bồ-tát xuất gia thọ pháp A-lan-nhã, thì nên tư duy như vậy: Vì sao mình ở chốn A-lan-nhã? Mình không chỉ ở chốn A- lan-nhã mà gọi là Sa môn. Nhưng chốn A-la-nhã có nhiều chúng sinh, nhiều xấu xa bất thiện, không giữ gìn các căn, không tinh tiến, không tu tập thiện pháp, họ giống như hươu nai-vượn khỉ-chim chóc-giặc ác- Chiên đà la hèn hạ…, không gọi là Tỳ-kheo. Nay mình vì điều gì mà ở chốn A-la-nhã? Cần phải lo liệu cho được sự việc ấy. Này Trưởng giả! Những gi là sự việc? Đó là: Ý niệm không tán loạn. Đạt được các pháp Đà-la-ni. Thực hành tâm Từ. Thực hành tâm Bi. An trú tự tại trong năm thần thông. Đầy đủ sáu Ba-la-mật. Không rời bỏ tâm Nhất thiết trí. Tu tập trí phương tiện. Nhiếp thủ mọi chúng sinh. Thành tựu chúng sinh. Không rời bỏ bốn nhiếp pháp. Thường nghó đến sáu ý niệm tư duy. Vì đa văn cho nên không rời bỏ tinh tiến. chính quán lựa chọn các pháp. Thuận theo chính giải thoát. Biết được quả báo. Trú vào chính vị. Bảo vệ Phật pháp. Tin vào nghiệp và quả báo cho nên gọi là chính kiến. Rời xa tất cả ý tưởng phân biệt tư duy cho nên gọi là chính tư duy. Thuận theo niềm tin và sự ưa thích của chúng sinh để thuyết pháp cho nên gọi là chính ngữ. Diệt trừ các nghiệp cũ mà phát khởi nghiệp mới cho nên gọi là chính nghiệp. Phá bỏ tập khí phiền não cho nên gọi là chính mạng. Đạt được đạo vô thượng cho nên gọi là chính tinh tiến. Quán pháp không hư vọng cho nên gọi là chính niệm. Đạt được tất cả các trí tuệ cho nên gọi là chính định. Đối với không chẳng sợ hãi. Đối với vô tướng không lo sợ. Đối với vô nguyện không chìm mất. Vốn dùng trí để thọ thân. Dựa vào nghĩa chứ không dựa vào từ ngữ. Dựa vào trí chứ không dựa vào thức. Dựa vào kinh liễu nghĩa chứ không dựa vào kinh bất liễu nghĩa. Dựa vào pháp chứ không dựa vào người. Này Trưởng giả! Như vậy đều gọi là Tỳ-kheo Bồ-tát xuất gia, sự việc lợi ích tùy theo mà sinh”. Tùy thuận pháp A-la-nhã, đó gọi là bốn thiền-bốn vô lượng tâm, các thần thông như thiên nhãn-thiên nhó-tha tâm trí-túc mạng trí… Diệt trừ mọi nỗi sợ hãi, người này dùng ba nhân duyên có năng lực diệt trừ sợ hãi: Thấy pháp tướng không có ngã và ngã sở, cho nên có năng lực loại trừ sợ hãi. Dùng sức mạnh của phương tiện. Dùng sức mạnh can đảm của tâm cho nên có năng lực loại trừ sợ hãi. Thấy không có ngã và ngã sở, như đã nói trong địa thứ nhất, là trừ diệt năm loại sợ hãi bằng sức mạnh của phương tiện. Trong luận này, niệm là chính tư duy về nghiệp và quả báo, cho nên gọi là lực phương tiện. Cần phải dấy lên ý niệm này: Các Đại quốc vương ở trong cung điện sâu hút, có voi ngựa xe cộ và binh lính bảo vệ cẩn mật, nhưng nhân duyên của nghiệp chấm dứt thì cũng nhận chịu đủ loại những sự việc suy sụp buồn phiền. Vả lại, giữ gìn nhân duyên của nghiệp, thì tuy đi trong con đường nguy hiểm, vào trong nước biển mênh mông, ở giữa chiến trận các liệt mà cũng yên ổn không tai họa gì. Nhân duyên nghiệp lực đời trước của mình, nếu ở thôn làng, hoặc ở chốn A- lan-nhã, do nhân duyên của nghiệp thì nhất định phải nhận lấy quả báo ấy. Tư duy như vậy rồi trừ diệt mọi nỗi sợ hãi. Lại dấy lên ý niệm như vậy: Nếu mình vì giữ gìn thân, đi vào thành ấp thôn làng, rời bỏ trú xứ A-lan-nhã, thì không còn có năng lực hơn được người giữ gìn thiện nghiệp của thân-thiện nghiệp của miệng- thiện nghiệp của ý. Như Đức Phật bảo với vua Ba-tư-nặc: “Nếu người thực hành thiện nghiệp của thân, thực hành thiện nghiệp của miệng, thực hành thiện nghiệp của ý, thì gọi là người khéo tự mình giữ gìn. Nếu người này nói mình khéo tự giữ cho mình, thì đây là nói chân thật. Này Đại vương! Người này tuy không có bốn loại quân lính hộ vệ, nhưng cũng có thể gọi là khéo giữ gìn tốt đẹp. Tại vì sao? Bởi vì giữ gìn như vậy gọi là giữ gìn bên trong chứ không phải là giữ gìn bên ngoài. Vì vậy Ta lấy thiện hạnh của thân nghiệp, thiện hạnh của khẩu nghiệp, thiện hạnh của ý nghiệp mà gọi là khéo tự mình giữ gìn”. Lại dấy lên ý niệm như vậy: Các loài chim thú-rắn rít-côn trùng này ở chốn A-lan-nhã, thân không thực hành thiện nghiệp không thực hành thiện nghiệp, ý không thực hành thiện nghiệp, vì ở cách xa thôn làng cho nên không có gì sợ hãi, tâm trí của mình lẽ ra không bằng những loài chim thú này ư? Tư duy như vậy mà loại trừ những nỗi sợ hãi. Lại nhờ nghó đến Phật, cho nên ở chốn A-lan-nhã có năng lực phá tan tất cả những điều lo sợ. Như kinh nói: “Tỳ-kheo các ông ở chốn A- lan-nhã, hoặc ở dưới tán cây, hoặc ở trong nhà trống, có lẽ sinh ra sợ hãi, tâm chìm mất sởn gai ốc, thì các ông nên nghó mình là Như lai-Ứng cúng-chính Biến Tri-Minh Hạnh Túc-Thiện Thệ-Thế Gian Giải-Vô Thượng Só-Điều Ngự Trượng Phu-Thiên Nhân Sư-Phật-Thế Tôn. Lúc nghó như vậy thì sợ hãi không còn. Đại đảm có nghĩa là tâm không khiếp nhược mà quyết định cầu đạo. Như nói: Tỳ-kheo ở nơi chốn vắng lặng, Nên dùng sức mạnh tâm can đảm, Trừ diệt tất cả mọi lo sợ, Nghó đến Phật không còn sợ hãi. Nếu như người tự mình khởi nghiệp, Lo sợ không thể nào thoát được, Không lo sợ cũng không trừ bỏ, Sợ thì mất lợi ích chính đáng. Như vậy biết không thể tránh khỏi, Mà lại phá bỏ lợi ích khác, Thì làm sự việc của tiểu nhân, Không thích hợp đối với Tỳ-kheo. Nếu như có điều gì sợ hãi, Thì nên sợ đối với sinh tử, Trong tất cả mọi điều sợ hãi, Đều do sinh tử làm nguồn gốc. Vì vậy cho nên người hành đạo, Mong muốn thoát ra chốn sinh tử, Cũng cứu giúp cho những người khác, Không cần phải sinh lòng sợ hãi. Như trong kinh Phật Ly Bố Úy nói về hiện tượng sợ hãi: “Có Sa môn hoặc bà-la-môn ở chốn A-lan-nhã, cần phải suy nghó như vậy: Vì thân nghiệp bất tịnh, vì khẩu nghiệp bất tịnh, vì ý nghiệp bất tịnh, vì suy nghó không thanh tịnh, vì tự cao mà khinh rẻ người, vì tâm lười nhác, vì nhớ nghó xằng bậy, vì tâm bất định, vì ngu si mà sợ hãi. Trái lại với điều này, thân nghiệp thanh tịnh… thì không có gì sợ hãi”. Và Phật giải thích cho Trưởng giả Úc-già: “Bồ-tát xuất gia ở chốn A-lan-nhã, nên dấy lên suy nghó như vậy: Vì sao mình ở nơi này? Ngay lập tức tự mình biết rõ, vì muốn rời xa sợ hãi cho nên đến ở nơi này. Sợ hãi đối với điều gì? Sợ chốn đông đúc ồn ào, sợ chốn đông người nói năng sợ tham dục-sân hận-ngu si, sợ kiêu mạng-hận thù-ganh tî lợi dưỡng của người khác, sợ sắc-thanh-hương-vị-xúc, sợ ma năm ấm, sợ những điều ngu si chướng ngại, sợ nói không đúng lúc, sợ không thấy mà nói thấy, sợ không nghe mà nói nghe, sợ không hiểu mà nói hiểu, sợ không biết mà nói biết, sợ các Sa môn tệ hại, ngạ quỷ-súc sinh và các chốn hiểm nạn. Nói tóm lược là sợ tất cả các pháp bất thiện xấu ác, cho nên đến ở nơi này. Nếu người tại gia thích ở chốn đông đúc ồn áo mà không tu tập hành đạo, trú trong tà niệm thì không thể nào rời xa được những sự sợ hãi như vậy. Tất cả các vị Bồ-tát trong quá khứ, đều ở chốn A-lan-nhã, xa lìa những sợ hãi mà đạt được xứ sở không sợ hãi gì, đạt được tất cả các trí tuệ. Tất cả các vị Bồ-tát trong vị lai, cũng ở chốn A-lan-nhã, xa lìa mọi sợ hãi, đạt được tất cả các trí tuệ. Nay các vị Bồ-tát hiện tại, trú nơi A- lan-nhã, xa lìia mọi sợ hãi, đạt được xứ sỡ không sợ hãi gì, thành tựu tất cả mọi trí tuệ. Vì vậy cho nên mình sợ hãi tất cả mọi điều ác vượt qua mọi sợ hãi, cần phải ở trong chốn A-lan-nhã. Lại nữa, tất cả mọi sự sợ hãi đều từ đắm trước bản ngã mà phát sinh, vì tham trước bản ngã, vì yêu quý bản nãg, vì sinh ý tưởng về ngã, vì thấy có ngã, vì quý trọng bản ngã, vì phân biệt bản ngã, vì bảo vệ bản ngã. Nếu mình trú nơi A-lan-nhã mà không rời bỏ tham trước bản ngã, thì trở thành sống uổng ở chốn A-lan-nhã. Lại nữa, này Trưởng giả! Người thấy có sở đắc, thì không trú nơi A-lan-nhã. Người trú trong tâm chấp ngã và ngã sở, thì không trú nơi A-lan-nhã. Người trú trong điên đảo, thì không trú nơi A-lan-nhã. Này Trưởng giả! Ngay cả người phát sinh ý tưởng Niết-bàn, còn không thể trú nơi A-lan-nhã, huống gì là người dấy khởi ý tưởng phiền não. Này Trưởng giả! Ví như cỏ cây chốn A-lan-nhã, không có gì kinh sợ. Như vậy Bồ-tát trú nơi A-lan-nhã, cần phải phát sinh ý tưởng cỏ cây-ý tưởng gạch đá-ý tưởng hình ảnh trong nước-ý tưởng cảnh tượng trong gương. Đối với ngôn ngữ phát sinh ý tưởng tiếng vang, đối với tâm phát sinh ý tưởng huyễn ảo, trong này ai kinh hãi-ai lo sợ? Lúc bấy giờ Bồ-tát sẽ chính quán về thân, không có ngã-không có ngã sở, không có chúng sinh-không có thọ giả-không có mạng giả, không có người dưỡng dục, không có nam-không có nữ, không có người biết-người thấy. Sợ hãi gọi là phân biệt hư vọng, mình thì không nên thuận theo sự phân biệt hư vọng. Bồ-tát như vậy thuận theo như cỏ cây sống nơi A-lan-nhã. Lại biết tất cả các pháp cũng đều như vậy. Đoạn dứt đến đấu tranh gọi là xứ A-lan-nhã. Không có ngã-không có ngã sở-không có gì lệ thuộc, gọi là xứ sở A-lan-nhã. Không nên vui với trú xứ đông đúc ồn ào của tại gia và xuất gia. Chư Phật không cho phép Tỳ-kheo sống với A-lan-nhã hòa hợp với người tại gia và xuất gia.” Hỏi: Đức Phật không cho phép hòa hợp với tất cả người chăng? Đáp: Không phải như vậy. Phật cho phép bốn chúng hòa hợp, Ngoài ra thì không thể cho phép, Vì vậy thuận theo nên gần gũi, Người khác thì cần phải xa lìa. Bồ-tát ở chốn A-lan-nhã, cho phép hòa hợp với bốn chúng, đó gọi là vào trong chúng nghe pháp, giáo hóa chúng sinh, cúng dường Chư Phật, tâm hòa hợp không rời xa nhất thiết trí. Vì vậy chỉ cho phép hòa hợp trong bốn sự việc này, ngoài ra thì không nên gần gũi. Vả lại, Bồ-tát nên dấy lên ý niệm như vậy: Vì sao chư Phật cho phép? Trú xứ A-lan-nhã, mình nên gần gũi, có lúc mình không phải là trú xứ A-lan-nhã, mà nói là ở chốn A-lan-nhã, có lẽ có sai lầm? Hỏi: Như thế nào là trú xứ A-lan-nhã, Bồ-tát cần phải hòa hợp? Đáp: Trong kinh Đức Phật tự nói về trú xứ A-lan-nhã, có nghĩa là không trú vào tất cả các pháp, không duyên theo các trần cảnh, không chấp lấy tướng của tất cả các pháp, không tham đắm vào sắc-thanh- hương-vị-xúc. Tất cả các pháp đều bình đẳng, không trú vào nơi nào, đó gọi là trú xứ A-lan-nhã. Tự tâm vốn là thiện, trú xứ không trái nhau, gọi là trú xứ A-lan-nhã. Rời bỏ tất cả mọi gánh nặng, trú vào niệm an lạc, gọi là trú xứ A-lan-nhã. Loại bỏ tất cả phiền não, trú trong niệm không có gì sợ hãi, gọi là trú xứ A-lan-nhã. Trú trong niệm vượt qua các dòng chảy, gọi là trú xứ A-lan-nhã. Trú trong dòng Thánh, gọi là trú xứ A-lan-nhã. Trú xứ trong niệm hướng về nơi biết vừa đủ, gọi là trú xứ A- lan-nhã. Trú trong niệm dễ đầy đủ-dễ nuôi dưỡng-ít ham muốn, gọi là trú xứ A-lan-nhã. Trú trong trí tuệ đầy đủ, gọi là trú xứ A-lan-nhã. Trú trong chính hạnh đa văn, gọi là trú xứ A-lan-nhã. Không-vô tướng-vô nguyện giải thoát môn hiện ở trước mắt, gọi là trú xứ A-lan-nhã. Trú trong niệm đoạn dứt mọi ràng buộc mà được giải thoát, gọi là trú xứ A- lan-nhã. Thuận theo mười hai nhân duyên, tùy thuận mà trú, gọi là trú xứ A-lan-nhã. Trú trong niệm hoàn toàn vắng lặng, những việc làm đã làm xong, gọi là trú xứ A-lan-nhã. Trú xứ A-lan-nhã là tùy thuận giới phẩm-hỗ trợ Định phẩm-lợi ích cho Tuệ phẩm-dễ dàng đạt được giải thoát phẩm và dễ dàng đạt được giải thoát tri kiến phẩm, dễ dàng thực hành các pháp hỗ trợ Bồ-đề, có năng lực thâu nhiếp các công đức Đầu-đà. Trú xứ A-lan-nhã thông đạt các Đế, trú xứ A-lan-nhã thấy biết các Ấm, trú xứ A-lan-nhã thấy các tính cùng làm thành pháp tính, trú xứ A-lan-nhã rời khỏi mười hai Nhập, trú xứ A-lan-nhã không quên mất tâm Bồ đề, trú xứ A-lan-nhã quán xét không mà không sợ hãi, trú xứ A-lan-nhã có năng lực bảo vệ Phật pháp, trú xứ A-lan-nhã cầu giải thoát thì không mất công đức, trú xứ A-lan-nhã có năng lực đạt được Nhất thiết trí thì có năng lực lợi ích thêm cho trú xứ A-lan-nhã. Bồ-tát thực hành như vậy, nhanh chóng đạt được đầy đủ sáu độ. Tại vì sao? Bởi vì nếu Bồ-tát ở trong trú xứ A- lan-nhã, không tham tiếc thân mạng thì gọi là hành Bố thí Ba-la-mật. Ba loại thiện nghiệp thanh tịnh, phù hợp với pháp hành Đầu-đà vi tế thì gọi là Trì giới Ba-la-mật. Tâm không sân hận, tâm Từ phủ khắp đến mọi chúng sinh, chỉ nhẫn nại vui với Phật thừa mà không hướng về Thừa nào khác, đó gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Tự lập thệ nguyện ở nơi trú xứ A-lan-nhã không đạt được chính pháp thì chấp nhận suốt đời không rời bỏ nơi này, đó gọi là Tinh tiến Ba-la-mật. Đạt được thiền định cho nên không quán xét nơi sinh ra, chỉ dốc lòng tu tập thiện căn, đó gọi là Thiền định Ba-la-mật. Như thân, A-lan-nhã cũng như vậy. Như thân, Bồ đề cũng như vậy. Trong pháp đúng như thật, không có gì sai biệt, đó gọi là Trí tuệ Ba-la-mật. Đức Phật cho phép có bốn pháp, Ở trong trú xứ A-lan-nhã. Những gì là bốn? Như Đức Phật bảo với Trưởng giả: Đa văn. Khéo biết rõ nghĩa lý quyết định. Vui với sự tu tập chính niệm. Tùy thuận thực hành như giáo thuyết. Người như vậy thích hợp với trú xứ A-lan-nhã. Lại có Bồ-tát còn nhiều phiền não, người này nếu ở nơi đông đúc ồn ào thì phát sinh phiền não, cần phải ở trong trú xứ A-lan-nhã làm cho phiền não phải hàng phục. Lại nữa, Bồ-tát đạt được năm thần thông, người này muốn giáo hóa thành tựu các hàng Thiên-Long-Dạ xoa-Càn thát bà, thì cần phải ở trong trú xứ A-lan-nhã. Lại có Bồ-tát dấy lên ý niệm như vậy: Chư Phật đã khen ngợi và cho phép cư trú, chính là trú xứ A-lan-nhã. Vả lại, trú xứ A-lan-nhã giúp cho đầy đủ tất cả các thiện pháp và tăng trưởng thiện căn, sau đó đi vào thôn làng thuyết pháp cho chúng sinh. Thành tựu công đức như vậy mới có thể ở trong trú xứ A-lan-nhã. Lại nữa: Ở trong kinh Quyết Định Vương, Đức Phật giải thích cho A-nan, Tỳ-kheo thực hành A-lan-nhã, Nên trú trong bốn loại bốn pháp. Bồ-tát ở trong trú xứ A-lan-nhã là: Xa lìa hàng tại gia và xuất gia. Cần phải đọc tụng kinh điển sâu xa. Dẫn dắt chúng sinh khiến cho đạt được công đức của trú xứ A- lan-nhã. Ngày đêm không rời bỏ niệm Phật. Lại có bốn pháp: Ở giữa chúng sinh không sinh tâm sân hận dù trong khoảnh khắc. không nên làm cho tâm bị che phủ vì ngủ nghỉ dù trong chốc lát. Không nên phát sinh ý tưởng chúng sinh dù trong một niệm. Không nên quên mất tâm Bồ đề dù trong một ý niệm. Lại có bốn pháp: Luôn luôn thuận theo ngồi nơi vắng lặng, không nên tụ tập đông người. Thường vui với kinh hành. Thường quán các pháp với ý tưởng không có gì mới-cũ. Không nên rời xa pháp sâu sắc của Không-Vô tướng-Vô nguyện. Lại có bốn pháp: Thực hành bốn thiền chứ không thực hành thiền của thế gian, thực hành bốn vô lượng tâm duyên với chúng sinh phát sinh tâm Bi mà không chấp lấy tướng chúng sinh. Tuy thực hành tâm Từ mà không duyên với chúng sinh, tuy thực hành tâm Hỷ mà không tham đắm vui sướng, tuy thực hành tâm xả mà không rời bỏ chúng sinh. Tự thấy mình có bốn hạnh của Thánh chủng mà không tự cao- khinh thường người khác. Tự thực hành đa văn và thực hành như điều đã nghe. Đây là bốn loại bốn pháp. Lại nữa. Không có trí cũng không tinh tiến, Mà ở trong trú xứ vắng lặng, Thì mắc phải bốn pháp sai lầm, Lại mắc phải bốn lầm lỗi, Lại còn mắc phải ba sự việc, Đức Phật đã giải thích như vậy. Tỳ-kheo trú xứ A-lan-nhã ở trong các công đức cần phải chịu khó tu tập. Tại vì sao? Bởi vì trong công đức A-lan-nhã, thì trí tuệ và tinh tiến có năng lực phát sinh các công đức. Nếu Tỳ-kheo ngu si và lười nhác ở trong trú xứ A-lan-nhã thì mắc phải bốn pháp lỗi lầm: Ngủ nghỉ nhiều. Tham nhiều lợi dưỡng. Dùng nhân duyên hiện bày tướng trạng kỳ dị. Hiện rõ tướng trạng không thích trú xứ A-lan-nhã. Lại có bốn pháp: Tăng thượng mạn, chưa đạt được mà nói là đạt được. Lòng dạ oán ghét đối với kinh pháp sâu xa. Hủy hoại pháp không-vô tướng-vô nguyện. Tâm sinh sân hận đối với người thọ trì kinh pháp sâu xa. Lại có ba sự việc: Nếu ở trong trú xứ A-lan-nhã mà không tinh tiến-không có trí tuệ, thì có lúc gặp người nữ sẽ rơi vào pháp sai trái. Hoặc mắc vào tội tăng tàn, hoặc mắc phải tội nặng. Hoặc là phá giới-hoàn tục. Đây là ba sự việc sai lầm. Lại nữa: Giải thích rộng về pháp vắng lặng, Cho đến cùng với pháp khất thực, Còn lại mười công đức Đầu-đà, Cũng đều cần phải nói rộng ra. Mười hai pháp Đầu-đà, trên đây đã giải thích rộng về hai pháp, còn lại công đức của mười pháp Đầu-đà cũng nên biết như vậy. Tại vì sao? Bởi vì hai pháp này chính là pháp khai mở mười môn Đầu-đà, mười pháp còn lại thì dễ dàng hiểu được. Mười hạnh Đầu-đà: Khoác y phấn tảo. Ngồi ăn một lần. Thường ngồi. Sau bữa ăn không nhận đồ ăn thức uống phi thời. Chỉ có ba y. Y bằng lông thú. Tùy nơi trải chỗ ngồi. Ở dưới tán cât. Ở nơi trống trải. Ở giữa bãi tha ma. Y phấn tảo, là vải khâm liệm mà người ta vứt bỏ, nhận lấy để may lại mà mặc. Nhận lấy là tâm nảy sinh, hoặc là miệng nói ra. Ngồi ăn một lần, là trước ở nơi ấy nhận thức ăn rồi, sau đó không ăn nữa. Thường ngồi là đêm luôn luôn không nằm. Sau bữa ăn không uống nước đặc, là sau bữa ăn không nhận thức uống phi thời, những vậy có thể an như đường-mật… Chỉ có ba y là chỉ nhận ba y chứ không cất giữ y nào khác nữa. Y bằng lông thú, là y thô làm thành từ lông chim-thú như y yết-chiên, y khâm-bà-la… Tùy nơi trải chỗ ngồi, là tùy nơi mà có thể ngồi chứ không làm cho người khác phải đứng dậy. Ở dưới tán cây, là thích ở dưới tán câu chứ không đi vào chỗ che khuất ở nơi trống trải, là dừng lại ở nơi trống vắng hoang vu. Ở giữa bãi tha ma, là tùy thuận tâm niệm chán ngán lìa xa, thường ngủ đêm trong bãi tha ma lạnh lẽo. Đây gọi là mười hai hạnh Đầu-đà, làm cho giới được thanh tịnh. Y phấn tảo có mười lợi ích: Không vì y áo mà hòa hợp với người tại gia. đầu. ích: Không vì y áo mà hiện rõ tướng xin ý. Cũng không tìm cách nói để có được y cho mình. Không vì y áo mà cầu tìm khắp nơi. Nếu không có được y thì cũng không buồn. Có được y cũng không mừng. Vật hèn mọn dễ có được nhưng không có tai họa gì. Không trái mà thuận theo thực hành pháp Tứ Y tiếp nhận ban Phù hợp ở trong số y xấu. Không bị người ta tham trước. Ngồi ăn một lần cũng có mười lợi ích: Không có sự vất vả khổ sở vì cầu được ăn bữa thứ hai. Đơn giản đối với sự thọ nhận. Không có sự vất vả khổ sở bởi sử dụng. Trước khi ăn không có gì vất vả khổ sở. Cách ăn phù hợp với tế hạnh; Thức ăn tiêu hóa sau khi ăn. Ít tai họa gây trở ngại. Ít bệnh tật. Thân thể nhẹ nhàng. Thân thư thái vui vẻ. Thường ngồi cũng có mười lợi ích: Không tham sự vui sướng của thân. Không tham niềm vui ngủ nghỉ. Không tham niềm vui của đồ nằm. Không có nỗi khổ vì nằm thì hông dính chiếu. Không thuận theo ham muốn của thân. Dễ dàng ngồi thiền được. Dễ dàng đọc tụng kinh pháp. Ít ngủ nghỉ. Thân nhẹ nhàng dễ đứng lên. Tâm chẳng mong cầu y phục và vật ngồi nằm. Sau bữa ăn không nhận đồ ăn thức uống phi thời cũng có mười lợi Không ăn nhiều. Không ăn no. Không tham vị ngon. Ít những ham muốn. Ít tai họa gây trở ngại. Ít bệnh tật. Dễ đầy đủ. Dễ nuôi sống. Biết vừa đủ. Ngồi thiền đọc kinh thân thể không mệt mỏi uể oải. Chỉ có ba y cũng có mười lợi ích: Ngoài ba y ra không còn vất vả mong cầu thọ nhận gì. Không có sự vất vả khổ sở vì phải giữ gìn. Ít vật cất giữ. Chỉ có cái mặc trên thân là đủ. Giới hạnh tinh tế. Đi lại không có gì vướng bậc. Thân thể nhẹ nhàng. Tùy thuận ở trong trú xứ A-lan-nhã. Mọi nơi mình cứ trú không có gì tiếc nuối. Tùy thuận đạo hạnh. Nhận y bằng lông thú cũng có mười lợi ích: Thuộc về số y xấu. Ít những sự cầu tìm. Tùy ý có thể ngồi. Tùy ý có thể nằm. Giặt giũ sẽ dễ dàng. Lúc nhuộm cũng dễ dàng. Ít có sâu bọ phá hoại. Khó hư hoại. Không nhận thêm y khác. Cầu đạo không lui sụt. Tùy nơi trải chỗ ngồi cũng có mười lợi ích: Không vất vả khổ sở mong cầu ở trong chùa chiền tốt đẹp. Không vất vả khổ sở vì mong cầu đồ nằm-đồ ngồi tốt đẹp. Không làm phiền lòng hàng Thượng tọa. Không làm cho hàng hạ tọa phải sầu não. Ít ham muốn. Ít quan hệ. Mong có được mà dùng. Ít sử dụng thì ít theo đuổi. Không dấy khởi nhân duyên tranh cãi. Không giành lấy vật dụng của người khác. Ngồi dưới tán cây cũng có mười lợi ích: Không có sự vất vả khổ sở vì mong cầu phòng ốc nhà cửa. Không có sự vất vả khổ sở vì mong cầu đồ dùng ngồi-nằm. Không có sự vất vả khổ sở vì những vật yêu quý. Không có sự vất vả khổ sở vì phải tiếp nhận sử dụng. Không mưu cầu danh tiếng. Không có điều gì tranh chấp. Tùy thuận với pháp Tứ y. Ít mà dễ dàng có được, không mắc sai lầm gì. Tùy thuận với sự tu đạo. Không có người qua lại ồn ào. Ở giữ bãi tha ma cũng có mười lợi ích: Thường có được ý tưởng về Vô thường. Thường có được ý tưởng về cái chết. Thường có được ý tưởng về bất tịnh. Thường có được ý tưởng về thế gian không có gì đáng vui. Thường được xa lìa tất cả những người thương yêu. Thường có được tâm Bi. Xa lìa những sự bỡn cợt hý luận. Tâm thường chán ngán lìa xa. Chịu khó thực hành tinh tiến. Có năng lực loại trừ sợ hãi. Ở nơi trống trải cũng có mười lợi ích: Không mong cầu ở dưới tán cây. Xa lìa mọi thứ mình vốn có. Không có sự tranh chấp. Nếu đi nơi khác thì không có gì luyến tiếc. Ít bỡn cợt hý luận. Có thể chịu đựng gió mưa-nóng lạnh-ruồi muỗi trùng độc…. Không bị những âm thanh chói tai làm cho phiền não. Không làm cho chúng sinh sân hận. Tự mình cũng không có gì sầu hận. Không có nhiều người qua lại ồn ào.  <卷>QUYỂN 17 <詞>Phẩm 32: GIẢI THÍCH VỀ ĐẦU ĐÀ, Phần 2 nhã. Như giải thích năm loại thanh vắng, Những công đức khác cũng như vậy, Tự mình đọc tụng-dạy cho người, Có thể rời khỏi nơi thanh vắng. Tỳ-kheo A-la-nhã phân biệt có năm loại: Dùng ý xấu xa để mong cầu lợi dưỡng. Độn căn ngu si mà thực hành tu hạnh A-la-nhã. Cuồng si thất chí cho nên tìm đến chốn A-la-nhã. Bởi vì thực hành công hạnh Đầu-đà cho nên ở trong chốn A-la- Bởi vì được chư Phật Bồ-tát và các bậc Hiền Thánh khen ngợi cho nên ở trong chốn A-la-nhã. Ở trong năm loại A-la-nhã này, thì bởi vì thực hành công hạnh Đầu-đà cho nên ở trong chốn A-la-nhãvà bởi vì được chư Phật Bồ-tát cùng các bậc Hiền Thánh khen ngợi cho nên ở trong chốn A-la-nhã, hai hạnh này là hạnh thiện, ba loại còn lại thì đáng chê trách. Như pháp A- la-nhã phân biệt có năm loại, mười một hạnh Đầu-đà còn lại cũng phân biệt như vậy, cần phải nhận biết! Hỏi: Đức Phật dạy rằng nếu đã thọ pháp A-la-nhã thì suốt đời không nên buông bỏ, nếu có nhân duyên thì có thể rời bỏ được không? Đáp: Nếu nhân duyên đọc tụng kinh pháp, Thì được rời xa A-la-nhã. Nếu Tỳ-kheo muốn đi theo người khác thọ trì đọc tụng kinh pháp, hoặc muốn dạy cho người khác đọc tụng, thì cần phải từ trú xứ A-la-nhã đi vào chùa tháp. Vì nhân duyên này thì có thể rời xa được. Lúc dạy cho người khác đọc tụng, Không nên mong cầu được cung cấp, Luôn luôn cần phải nghó đến Phật, Đức Phật thường có những việc làm. Tỳ-kheo A-la-nhã từ nơi thanh vắng ra đi, dạy cho người khác đọc tụng, không nên mong cầu sự cung kính cúng dường, mà tâm cần phải nghó đến Phật, Phật hãy còn có những việc tự mình thực hành, huống gì là đối với mình. Nghó đến Phật, Phật là đấng Đa Đà A Già Đà Tam Miệu Tam Phật Đà, tất cả chư Thiên, Long thần, càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Thích-đề-hoàn-nhân, Tứ thiên vương, loài người và loài Phi nhân đều cung kính cúng dường. Phật là phước điền vô thượng của tất cả chúng sinh, nhưng Phật còn không mong cầu người khác cúng dường mà tự mình làm những công việc của chính mình. Nay mình chưa có hiểu biết gì, mới bắt đầu mong cầu học hỏi, tại sao lại nhận sự cung cấp từ người khác? Lại nên dấy lên ý niệm như vậy: Mình cần phải cố gắng cung cấp, Lợi ích cho tất cả chúng sinh, Không mong họ cung cấp cho mình, Mà vì lợi mình và lợi người. Thế nào là tự lợi? Nếu coi trọng sự cung cấp thì mất đi công đức của pháp thí. Nếu không coi trọng sự cung cấp thì có được công đức của pháp thí. Thế nào là lợi tha? Nếu coi trọng sự cung cấp của người khác mà dạy cho họ đọc tụng, thì người ấy sinh tâm nghó rằng vị Thầy chắc chắn vì lợi dưỡng thế gian mà dạy bảo cho mình chứ không phải vì giáp pháp. Người này nếu dùng tâm này cung cấp cho vị thầy, thì không có được lợi ích to lớn. Nếu chỉ vì cung kính giáo hóa mà tôn trọng vị Thầy, thì có được lợi ích to lớn. Đó gọi là lợi tha. Thuận theo người khác cầu trí tuệ, Ngay cả thân mạng cũng không tiếc. Nếu hành giả mong muốn thuận theo người khác để cầu trí tuệ thì cầu phải xem nhẹ thân mạng. Xem nhẹ thân mạng là vì trí tuệ, tâm chịu khó tinh tiến, cung kính đối với Thầy mà không tiếc thân mạng. Hỏi: tại vì sao phải vì trí tuệ mà cung kính Thầy ngay cả thân mạng cũng không tiếc? Đáp: Nếu như nhất tâm học một chữ, Lấy đây làm thời gian kiếp số, Cung kính đối với Thầy dạy mình, Người có thể giải thích luận này; Xa rời những tâm niệm quanh co, Hết sức yêu quý mà cung kính, Ngày đêm không lúc nào dừng lại, Tận cùng đời kiếp cũng như vậy. Thuận với số chữ nghĩa bàn luận mà Thầy đã dạy và tâm niệm của mình như vậy, nếu tâm người tiếp nhận giáo pháp không có gì dua nịnh quanh co và không tiếc gì thân mạng, thì ngày đêm cung kính, trước sau không sai khác. Tuy có thể như vậy mà hãy còn không đền đáp được ân đức của Thầy dạy cho mình được trí tuệ luận bàn. Vì vậy cho nên đệ tử cần phải rời xa tâm dua nịnh quanh co, rời bỏ ý niệm tham tiếc thân mạng, phá trừ mọi sự kiêu mạn. Nếu vị Thầy khinh miệt thì mình vẫn dùng tâm kính mến tôn trọng chứ không có gì thay đổi, nên sinh tâm yêu quý sâu sắc, tâm cung kính bậc nhất. Cần phải sinh tâm như cha mẹ, phải sinh tâm như bậc Đại sư, phải sinh ý tưởng như bậc thiện tri thức, phải sinh ý tưởng có năng lực làm điều khó làm, phải sinh tâm khó đền đáp nổi. Nếu thầy cho phép thì tiếp nhận mà luôn luôn thực hành làm việc, không đợi đến lúc Thầy sai bảo; những việc gì khác thì tự mình nhận mà luôn luôn thực hành làm việc, không đợi đến lúc Thầy sai bảo; những việc gì khác thì tự mình biết ý thầy tùy theo sự việc mà thực hành. Những gì được thầy quý trọng, tùy thuận mà quý trọng như Thầy. Không nên dựa vào Thầy để cầu mong lợi dưỡng thế gian. Không mong được thầy khen ngợi. Không mong cầu danh tiếng, chỉ mong cầu pháp quý báu là trí tuệ. Thầy có sai lầm gì, thường thuận theo mà che giấu. Nếu Thầy bị người khích bác hoặc có sai lầm lộ rõ, thì nên tìm cách che giấu giúp thầy. Thầy có công đức thì nên ca ngợi truyền bá khắp nơi, tâm hết sức yêu thích thuận theo thọ trì giải thích rõ ràng, tư duy về nghĩa lý và thực hành đúng như giáo thuyết. Cầu mong lợi mình và lợi người, thì đừng làm hạng đệ tử lỗi lầm, đừng làm hạng đệ tử tai họa, đừng làm hạng đệ tử dơ bẩn, đừng làm hạng đệ tử suy nhược, đừng làm hạng đệ tử không ích lợi gì. Không có những lỗi lầm như vậy, chỉ trú trong pháp của hàng đệ tử khéo léo mà cung cấp đối với Thầy. Như trong kinh bát Chu nói: “Đức Phật bảo với Bạt-đà-bà-la: Nếu Bồ-tát muốn đạt được Tam-muội này, thì phải chịu khó tinh tiến mà phát sinh tâm tôn trọng-tâm khó gặp đối với các vị Thầy. Nếu được nghe từ miệng, hoặc có được từ nơi quyển kinh, thì đối với vị Thầy này nên dùng tâm hết sức cung kính mà sinh tâm như cha mẹ, tâm như bậc thiện tri thức, tâm như bậc Đại sư, bởi vì bậc Thầy là người có năng lực giải thích về pháp như vậy, để giúp cho đạo Bồ-đề. Này Bạt-đà-bà-la! Nếu người cầu đạo Bồ-tát, hoặc người cầu Thanh văn mà theo Thầy đọc tụng giáo pháp này, nhưng không sinh tâm cung kính sâu sắc-tâm như cha mẹ-tâm như bậc thiện tri thức- tâm như bậc Đại sư, có thể thông suốt được pháp này khiến cho không quên mất và tồn tại không diệt đi, thì điều này không hề có. Tại vì sao? Này Bạt-đà-bà-la! Bởi vì nhân duyên không cung kính, cho nên Phật pháp sẽ hủy diệt. Vì vậy, này Bạt-đà-bà-la! Nếu người cầu đạo Bồ-tát, hoặc người cầu Thanh văn, đối với điều mà mình nghe được, đọc tụng-viết chép giáo pháp này, sinh tâm cung kính sâu sắc, tâm như cha mẹ-tâm như bậc thiện tri thức-tâm như bậc đại sư, thì đối với sự đọc tụng-viết chép chưa được sẽ khiến cho được, đã được sẽ làm tồn tại lâu dài, điều này thật sự là có. Tại vì sao? Bởi vì tâm cung kính cho nên Phật pháp không hủy diệt. Vì vậy, này Bạt-đà-bà-la! Nat Ta bảo với ông, đối với vị Thầy này mà thuận theo sinh tâm cung kính sâu sắc, tâm như cha mẹ-tâm như bậc thiện tri thức-tâm như bậc Đại sư. Vậy là thuận theo lời Ta đã nói”. -------------------------- <詞>Phẩm 33: QUẢ HỔ TRỢ CHO THI LA Bồ-tát như vậy, vì cầu đa văn và biết nghĩa của đa văn rồi thuận theo giáo thuyết mà thực hành, có năng lực làm cho Thi la được thanh tịnh, pháp làm thanh tịnh cho Thi-la thì cần phải tu hành. Hỏi: Những pháp nào có thể làm cho Thi-la được thanh tịnh? Đáp: Giữ gìn nghiệp của thân-miệng-ý cũng không được giữ gìn với pháp, Chung quy không phát sinh ngã kiến, và loại trừ kiến chấp lẫn tạp, Hồi hướng cho trí Tát-bà-nhã, bốn pháp này thanh tịnh Thi-la. Hành giả tu tập bốn pháp này, thì Thi-la tự nhiên được thanh tịnh. Giữ gìn nghiệp của thân-miệng và ý, là luôn luôn cần phải chính niệm về nghiệp của thân-miệng-ý, cho đến lỗi nhỏ cũng không làm, cho nên ở trong Đệ nhất nghĩa nhưng cũng không cần phải bảo vệ pháp của ba nghiệp. Có người tuy thấy pháp, không nhưng nói là biết cái không còn tồn tại. Vì vậy, cho nên nói là không lẫn tạp kiến chấp về Ngã-kiến chấp về chúng sinh-kiến chấp về Nhân-kiến chấp về Thọ giả-kiến chấp về Mạng giả… hồi hướng cho trí Tát-bà-nhã, là quả báo trì giới không mong cầu phước đức gì khác, chỉ vì cứu độ tất cả chúng sinh mà mong cầu Phật đạo. Đây là bốn pháp làm thanh tịnh cho Thi la. Lại có bốn pháp, có năng lực làm cho Thi la được thanh tịnh. Đó gọi là: Không có tâm chấp ngã-ngã sở, Cũng không có Đoạn kiến-Thường kiến, Phù hợp với pháp từ các duyên, Thì có thể thanh tịnh Thi la. Không có tâm chấp ngã-ngã sở, là tâm không tham trước đối với ngã-ngã sở, chỉ biết tâm này điên đảo hư vọng chứ không có pháp nào là ngã. Không có đoạn kiến-thường kiến, bởi vì Đoạn kiến và Thường kiến thật là sai lầm. Phù hợp với pháp từ các duyên, biết các pháp từ các duyên mà sinh chứ không có tính cố định, cho nên thực hành theo lý Trung đạo. Bốn pháp như vậy có năng lực làm cho Thi la được thanh tịnh. Lại có bốn pháp có năng lực làm cho Thi-la được thanh tịnh. Đó gọi là: Thực hành theo bốn hạnh Thánh chủng, Cùng với mười hai hạnh Đầu-đà, Cũng không thích ồn ào đông đúc, Suy nghó vì sao mà xuất gia? Bốn Thánh chủng, đó gọi là chỉ muốn có được y phục vừa đủ, chỉ muốn có được đồ ăn thức uống vừa đủ, chỉ muốn có được vật dụng ngồi- nằm vừa đủ, vui với đoạn trừ dục lạc mà tu hành. Mười hai hạnh Đầu-đà, đó gọi là thọ pháp A-la-nhã, thọ pháp khất thực, khoác y phấn tảo, ngồi ăn một lần, thường ngồi, sau bữa ăn không nhận đồ ăn thức uống phi thời, chỉ có ba y, y bằng lông thú, tùy nơi trải chỗ ngồi, ở dưới tán cây, ở nơi trống trải, ở giữa bãi tha ma. Cũng không thích ồn ào đông đúc, là không hòa hợp với người tại gia hay xuất gia. Có người tuy thực hành theo pháp A-la-nhã, nhưng biết nhiều-hiểu nhiều cho nên qua lại với nhiều người. Vì vậy nói là không thích ồn ào đông đúc. Nếu đến chỗ khác thì dường như tâm không hòa hợp với mọi người. Suy nghó vì sao mà xuất gia? Người thực hành Thi-la dấy lên ý niệm như vậy: Vì sao mà mình xuất gia? Suy nghó rồi thuận theo sự nghiệp xuất gia mà mong muốn thành tựu thực hành đúng như giáo thuyết. Đây là bốn pháp làm cho Thi-la thanh tịnh. Lại có bốn pháp có năng lực làm cho Thi-la được thanh tịnh. Đó gọi là: Năm ấm không hề có sinh-diệt, Sáu tính đều giống như pháp tính, Thấy sáu tình cũng hoàn toàn không, Không đắm theo ngôn ngữ thế tục, Thực hành bốn pháp đúng như vậy, Cũng có thể thanh tịnh Thi-la. Năm ấm không hề có sinh-diệt, là bởi vì tư duy về năm ấm từ gốc đến ngọn. Thấy năm ấm không có gì sinh-diệt, là thấy sáu tính của đất-nước… giống như pháp tính, như pháp tính không thể nào đạt được thì sáu tính cũng không thể nào đạt được. Biết sáu tình tuy là khổ-vui…, nhưng tâm-tâm sở là pháp nhân duyên, dùng chính trí truy xét tìm hiểu, cũng biết đều là không, hiểu thấu suốt cả ba loại đều biết rõ là không, có hành giả tham đắm vào không thì trở lại gây chướng ngại cho đạo, vì vậy nói là đừng tham đắm vào không, thuận theo thế tục mà nói đến tên gọi của không. Pháp như vậy thì có năng lực làm thanh tịnh Thi-la. Hỏi: Nếu như vậy thì làm sao nói đến các pháp năm ấm? Đáp: Bởi vì không các pháp năm ấm đều không; cuối cùng nói đừng đắm vào không, là đối với cái không cũng cần phải buông bỏ. Như vậy không có pháp nghi ngờ tà vạy nào làm trở ngại đến Thi-la. Hỏi: Các pháp năm ấm, bởi vì có tướng thích hợp với tướng, cho nên quyết định là có. Như nói sắc là tướng khổ não, cảm giác khổ-vui là tướng thọ. Hiện có các tướng thuộc loại như vậy, tại sao nói là chẳng phải không-chẳng phải không thể không? Đáp: Khổ não hư hoại là tướng sắc Như thế nào là tướng sắc này? Nếu như khổ não là tướng sắc, Rời xa tướng không thể có tướng, Thì tướng này thuộc về nơi nào Không có tướng không thể có tướng? Thế giới này chung quy không có, Không có tướng-có thể có tướng, Tướng cùng với có thể có tướng, Chẳng phải hợp-chẳng phải không hợp. Nó đến không có mới bắt đầu, Ra đi cũng không có nơi đến, Nếu như có hợp và không hợp, Thì trở thành tướng hợp với tướng. Như vậy, thì làm cho sai lạc, Tướng của tướng và hợp với tướng, Vì tướng trở thành hợp với tướng Tướng cũng không tự mình thành tựu. Tướng tự nó không thể thành tựu, Làm sao trở thành hợp với tướng? Thế giới này thật là đáng buồn, Phân biệt tướng và hợp với tướng, Những nẽo đã làm cho mê hoặc, Bị tà sư thường xuyên lừa gạt. Tướng hợp với tướng thì như vậy, Không có tướng-không thể có tướng, Mắt trông thấy sự việc như vậy, Như thế nào là không thể biết? Hễ chấp vào tướng hợp với tướng, Phát sinh những hý luận như vậy, Tùy theo lúc khởi lên hý luận, Thì rơi vào xứ sở phiền não. Vả lại hành giả dùng pháp môn không đến-không đi để quán sát tính của các ấm phù hợp với không. Như nói: Các pháp của sinh-lão-bệnh-tử, Lúc sinh không có nơi nào đến, Các pháp của sinh-lão-bệnh-tử, Lúc diệt không có nơi đi về. tính của các ấm giới và nhập, Lúc sinh không từ nơi nào đến, Lúc diệt không có nơi đi về, nghĩa lý của Phật pháp như vậy. Như lửa cháy chẳng phải công người, Cũng không thuộc về cọ xát cây, Trong hòa hợp cũng không có gì, Nhưng nhờ vào hòa hợp mà có. Củi cháy hết thì lửa sẽ tắt, Tắt rồi không có nơi đi về, Các duyên hòa hợp cho nên có, Duyên phân tán thì đều là không. Nhãn thức cũng hoàn toàn như vậy, Nó không tồn tại ở trong mắt, Nó không tồn tại ở trong sắc, Cũng không tồn tại ở khoảng giữa. Không tồn tại ở trong hòa hợp, Cũng không thể xa rời hòa hợp, Cũng không từ nơi khác mà đến, Nhưng nhờ vào hòa hợp mà có. Hòa hợp phân tán thì không có, Các pháp cũng hoàn toàn như vậy, Lúc sinh không từ nơi nào đến, Lúc diệt không có nơi đi về, Như tâm lực của loài rồng kia, Mà có mây âm u xuất hiện, Không từ nơi thân rồng xuất hiện, Cũng không từ nơi khác mà đến. Nhưng mây âm u rộng lớn này, Tuôn mưa đầy khắp nơi thế giới, Sau đó cũng đến lúc ngừng hẳn, Cũng không có nơi nào đi về. Như mây không có đến và đi, Các pháp cũng hoàn toàn như vậy, Lúc sinh không từ nơi nào đến, Lúc diệt không có nơi đi về. Như hình người vẽ trên bức tường, Không thuộc về mỗi một đường nét, Cũng không tồn tại trong hòa hợp, Giữa bức tường lại cũng không có. Nơi người thợ vẽ cũng không có, Trong bút họa vẽ cũng không có, Không từ nơi chốn khác mà đến, Nhưng nhờ vào hòa hợp mà có. Hòa hợp phân tán thì không có, Các pháp cũng hoàn toàn như vậy, Lúc có không từ nơi nào đến, Lúc không chẳng có nơi đi về. Đèn tỏa sáng không thuộc về dầu, Cũng không xuất hiện từ bấc đèn, Cũng không từ nơi khác mà đến, Mà nhờ vào dầu-bấc đèn cháy. Nhân duyên không còn thì diệt mất, Lúc diệt không có nơi đi về, là: Tướng đến và đi của các pháp, Lại cũng đều hoàn toàn như vậy, Lại có bốn pháp, có năng lực làm cho Thi-la thanh tịnh. Đó gọi Luôn luôn tự suy nghó về mình, Không tự cao-hạ thấp người khác, Hai điều này không hề đạt được, Tâm nhờ đó không còn kiêu mạn, Quán xét các pháp đều bình đẳng, Bốn pháp này thanh tịnh Thi-la. Luôn luôn tự suy nghó về mình, hành giả dấy lên ý niệm như vậy: Thân mình là tướng bất tịnh-vô thường-chết chóc, nào có gì đáng giá? Suy nghó như vậy rồi, thì không tự cao-hạ thấp người khác, tin và hiểu thân mình cùng với người khác không có ngã-ngã sở, vốn không có gì đạt được. Nương tựa là đạt được pháp như vậy, cho nên tâm tư thanh thản nhẹ nhàng có thể tiếp nhận được pháp. Từ đây dựa vào tâm vui vẻ không còn tự cao. Quán xét các pháp đều bình đẳng, dùng lý không để quán xét tất cả các pháp hữu vi-vô vi thảy đều bình đẳng chứ không có Thượng- Trung-Hạ sai biệt. Như nói: Nếu như phải dựa vào bậc Hạ, Mà phát sinh bậc Trung-bậc Thượng, Thì bậc Hạ không làm Trung-Thượng, Tại sao dựa vào Hạ mà có? Bậc Hạ tự làm thành bậc Hạ, Trung-Thượng trước kia quyết định có. Nếu như phải dựa vào bậc Trung, Mà phát sinh bậc Hạ-bậc Thượng, Thì bậc Trung không làm Hạ-Thượng, Tại sao dựa vào Trung mà có? Bậc Trung tự làm thành bậc Trung, Hạ-Thượng trước kia nhất định có. Nếu như phải dựa vào bậc thượng, Mà phát sinh bậc Trung-bậc Hạ, Thì bậc Thượng không làm Trung-Hạ, Tại sao dựa vào Thượng mà có? Bậc Thượng tự làm thành bậc Thượng, Trung-Hạ trước kia nhất định có. Dựa vào bậc Hạ không làm được, Không dựa vào cũng không có được, Nếu như trước kia nhất định có, Thì không cần dựa vào bậc Hạ. Nếu trước kia nhất định không có, Thì tại sao trở thành Trung-Thượng? Dựa vào bậc Trung không làm được, Không dựa vào cũng không có được, Nếu như trước kia nhất định có, Thì không cần dựa vào bậc Trung. Nếu trước kia nhất định không có, Thì tại sao trở thành Hạ-Thượng? Dựa vào bậc Thượng không làm được, Không dựa vào cũng không có được, Nếu như trước kia nhất định có, Thì không cần dựa vào bậc Thượng. Nếu trước kia nhất định không có, Thì tại sao trở thành Trung-Hạ? Vả lại, dùng một tướng không để quán xét các pháp đều bình đẳng, chúng sinh cũng như vậy. Người trí ở trong lý pháp không, Chẳng hề nói đến tướng phân biệt, Lý không chỉ một mà không khác, Luôn luôn thấy lý không như vậy. Đó gọi là được thấy Đức Phật, Bởi vì Phật chẳng khác với không, Giải thích rằng chư Phật là một, Tất cả chúng sinh đều là một. Tất cả các pháp cùng một pháp, Không hề phân biệt Thượng-Trung-Hạ, Hết thảy mười phương Phật Thế tôn, Lìa xa tự tính và tha tính. Hết thảy các chúng sinh mười phương, Cũng lìa xa tự tính-tha tính, Tất cả các pháp cũng như vậy, Lìa xa tự tính và tha tính. Bởi vì có nhân duyên như vậy, Cho nên gọi là cùng một tứơng, Có chư Phật thì trở thành sai, Không có chư Phật cũng là sai. Có các chúng sinh trở thành sai, Không có các chúng sinh là sai, Có các pháp thì trở thành sai, Không có các pháp cũng là sai. Lìa xa đối với có và không, Cho nên gọi là bình đẳng, Hết thảy mười phương Phật Thế tôn, Hết thảy chúng sinh và các pháp; Tất cả không thể nào chấp lấy, Đó gọi là các pháp bình đẳng, Hết thảy chư Phật và chúng sinh, Cùng các pháp không hề sai biệt. Bởi vì không thể nào phân biệt, Cho nên gọi đó là bình đẳng, Chư Phật cùng với các chúng sinh, Cho đến cùng tất cả các pháp; Hòa vào trong sinh-trú-dị-diệt, Vắng lặng hoàn toàn không hề có, Cũng không từ nơi nào mà đến, Lại cũng không có nơi đi về. Bởi vì không có đến và đi, Cho nên gọi đó là bình đẳng, Chư Phật cùng với các chúng sinh, Cho đến cùng tất cả các pháp; Hết thảy đều không hề vốn có, Vượt qua tất cả pháp hữu vi, Ba pháp này không phải bình đẳng, Lại cũng không phải không bình đẳng. Không bình đẳng mà đều bình đẳng, Đều bình đẳng nhưng không bình đẳng, Như vậy giải thích về các pháp, Đều bình đẳng không hề sai biệt. Lại có bốn pháp, có năng lực làm cho Thi-la thanh tịnh. Như nói: Khéo có thể tin hiểu lý không, Không kinh sợ với pháp vô tướng, Đại Bi đối với các chúng sinh, Có năng lực chấp nhận vô ngã, Thực hành bốn pháp đúng như vậy, Cũng có thể thanh tịnh Thi-la. Hành giả hiểu rõ ràng các pháp không có tự tính-không có tha tính, cho nên gọi là tin hiểu lý không. Như nói: Đối với tất cả pháp vốn có, Chung quy không sinh từ tự tính, Nếu như sinh ra từ các duyên, Thì cần phải có từ nơi khác. Không từ tự tính mà sinh ra, Làm sao từ nơi khác sinh ra, Tự tính đã không thể thành tựu, Tha tính lại cũng không có gì. Nếu như lìa tự tính mà sinh, Thì không có gì là tự tính, Nếu như lìa xa với tự tính, Thì không có gì là tự tướng. Tự tính và tướng của tự tính, Không bởi vì hòa hợp mà có, Không bởi vì phân tán mà không, Hai nhất định có thì không có. Tha tính không thể sinh ra pháp, Tự tính cũng không thể phát sinh Tự tính-tha tính cũng không thể, Lìa bỏ cả hai cũng không sinh. Nếu như không hề có tự tính, Thì tại sao từ nơi khác sinh, Bởi vì lìa xa pháp thế tục, Thì không có tự tính-tha tính. Nếu tha tính từ nơi khác sinh, Thì tha tính chẳng có tự thể, Không có thể thì chẳng phải có, Lấy vật gì mà sinh tha tính? Bởi vì không hề có tự Thể, Nơi khác sinh lại cũng không có, Bởi vì bốn loại đều là không, Chẳng pháp nào quyết định sinh diệt. Không kinh sợ đối với pháp vô tướng, là bởi vì tin và vui với sự xa lìa các tướng, cho nên không có gì kinh sợ. Như nói: Nếu như tất cả là vô tướng, Thì tất cả chính là có tướng, Pháp tịch diệt đều là vô tướng, Thì pháp này trở thành pháp có. Nếu như quán pháp là vô tướng, Thì vô tướng chính là có tướng, Nếu như nói tu pháp vô tướng, Thì không phải là tu vô tướng. Nếu như buông bỏ những chấp trước, Thì đó gọi là tu vô tướng, Chấp vào tướng buông bỏ chấp trước, Thì trở thành chẳng giải thoát gì. Tất cả bởi vì có chấp lấy, Vì chấp lấy mà có buông bỏ, Lìa chấp lấy-chấp lấy điều gì, Thì đó gọi là buông bỏ. Chấp lấy mà vận dụng chấp lấy, Cùng với pháp có thể chấp lấy, Tất cả rời xa đều không có, Thì đó đều gọi là tịch diệt. Nếu pháp dựa nhau mà thành tựu, Thì pháp này sẽ không có tướng. Nếu như pháp không hề có tính, Thì pháp này chính là vô tướng, Tại sao nói pháp là vô tính, Thì pháp ấy gọi là vô tướng? Nếu như bởi vì có và không, Thì cũng ngăn chặn-cũng thuận theo, Tuy nói rằng tâm không chấp trước, Nhưng thật ra thì không có lỗi. Nơi nào trước kia vốn có pháp, Mà sau đó không thể diệt mất? Nơi nào trước kia có như vậy, Mà sau đó lại có diệt đi? Đây là có tướng của tịch diệt, Và không có tướng của tịch diệt, Vì vậy cho nên nói tịch diệt, Vì vậy cho nên nói tịch diệt, Cùng với ngôn ngữ của tịch diệt. Từ trước đến nay chẳng tịch diệt, Cũng không phải là không tịch diệt, Cũng chẳng tịch diệt-không tịch diệt, Đều là tịch diệt-không tịch diệt. Đại Bi đối với các chúng sinh, bởi vì chúng sinh là vô lượng vô biên, cho nên tâm Bi cũng rộng lớn bao la. Vả lại, pháp của chư Phật là vô lượng vô biên, vô tận giống như hư không, tâm Bi là pháp căn bản của chư Phật, có năng lựa đạt được Đại pháp nên gọi là Đại Bi. Người vó đại nhất trong tất cả chúng sinh, cho nên tôn xưng là Phật. Công hạnh của Phật vận dụng gọi là Đại Bi. Chấp nhận với pháp vô ngã, là bởi vì tin và vui với pháp chân thật, chư Phật đều chung một đạo quả Niết-bàn, gọi là pháp vô ngã. Nếu như tiến vào trong pháp này mà tâm không thể chấp nhận, thì giống như cọng cỏ nhỏ bé đưa vào ngọn lửa sẽ bị cháy hết. Nếu như vàng ròng đưa vào ngọn lửa, có thể chịu được sức nóng thì không có sự tổn thất như vậy. Nếu người phàm phu không tu tập thiện căn mà tiến vào trong pháp vô ngã, không có năng lực chịu đựng nổi thì sẽ nảy sinh tà kiến nghi ngờ. Bồ-tát thì từ vô lượng đời kiếp đến nay tu tập thiện căn, có trí tuệ sắc bén được chư Phật gia hộ, tuy chưa đoạn kiết sử nhưng tiến vào trong pháp vô ngã mà tâm có năng lực tiếp nhận và chịu đựng được. Pháp vô ngã chính là các pháp như Ấm-Giới-Nhập và mười hai nhân duyên… Nhân duyên phá chấp ngã như trước đã nói. Vì vậy muốn làm cho Thi-la được thanh tịnh thì nên thực hành bốn pháp này. Lại nữa: Có bốn loại phá hỏng Thi-la, Nhưng tựa như giữ gìn Thi-la, Người thực hành cần phải tinh tiến, Tự chế ngự cẩn thận đừng làm! Trong phẩm Ca Diếp-kinh Bảo Đảnh nói: “Đức Phật bảo với Ca- diếp: Có bốn loại Tỳ-kheo phá giới nhưng tựa như Tỳ-kheo trì giới. Những gì là bốn loại? Này Ca-diếp! Có Tỳ-kheo ở trong kinh giới đều có năng lực thực hành đầy đủ mà nói là có ngã. Này Ca-diếp! Đó gọi là phá giới mà tựa như trì giới. Lại nữa, này Ca-diếp! Có Tỳ-kheo trì tụng kinh luật giữ gìn giới hạnh, ở trong thân kiến không lay động-không lìa bỏ, đó gọi là phá giới mà tựa như trì giới. Lại nữa, này Ca-diếp! Có Tỳ-kheo thực hành đầy đủ mười hai hạnh Đầu-đà, nhưng thấy các pháp chắc chắn là có, đó gọi là phá giới mà tựa như trì giới. Lại nữa, này Ca-diếp! Có Tỳ-kheo duyên với chúng sinh mà thực hành tâm từ, nghe các hành không có tướng sinh thì tâm kinh sợ. Đó gọi là phá giới mà tựa như trì giới. Này Ca-diếp! Đây là bốn loại người phá giới mà tựa như trì giới. Lại nữa: Giáo thuyết mà Thế Tôn giảng dạy, Sa-môn có bốn loại phân biệt, Nên làm Sa-môn loại thứ tư, Xa lìa ba loại Sa-môn trước. Trong phẩm Ca-diếp nói: “Bốn loại Tỳ-kheo, thì nên học theo loại Sa-môn thứ tư, không nên học theo ba loại trước. Những gì là bốn? Đức Phật bảo với Ca-diếp: Có bốn loại Sa-môn, một là Sa-môn hình dáng sắc tướng, hai là Sa-môn oai nghi kỳ lạ, ba là Sa-môn tham cầu danh lợi, bốn là Sa-môn công hạnh chân thật. Tại sao gọi là Sa-môn hình dáng sắc tướng? Bởi vì có hình dáng Sa-môn sắc tướng của Sa-môn. Đó gọi là khoác y Tăng-già-lê, cạo bỏ râu tóc, ôm giữ bình bát đen, mà thực hành thân nghiệp bất tịnh-khẩu nghiệp bất tịnh-ý nghiệp bất tịnh, không mong cầu vắng lặng, không mong cầu thiện pháp, tham lam bỏn xẻn-lười nhác mà làm những điều ác-phá giới chứ không thích tu đạo. Đó gọi là Sa-môn hình dáng sắc tướng. Thế nào là Sa-môn oai nghi kỳ lạ? Có Sa-môn đầy đủ oai nghi, suy xét tường tận-thanh thản yên lành mong có được cơm áo, thực hành công hạnh bậc Thánh, không hòa hợp với người tại gia-xuất gia, ít chuyện trò nói năng. Dùng những công hạnh này, mong cảm được ý người với tâm không thanh tịnh. Oai nghi như vậy không vì thiện pháp, không vì vắng lặng mà thấy các pháp chắc chắn là có, đối với pháp không chẳng hề vốn có thì sợ như rơi xuống hố sâu, thấy người nói lý không thì sinh ý tưởng như kẻ thù. Đó gọi là Sa-môn oai nghi kỳ lạ. Thế nào là Sa-môn tham cầu danh lợi? Có Sa-môn tuy gắng gượng có thể trì giới, nhưng dấy lên ý niệm như vậy: Làm sao để người ta biết mình trì giới? Gắng gượng cầu đa văn, làm sao để người ta biết mình có đa văn? Gắng gượng thực hành theo pháp A-lan-nhã, làm sao để người ta biết mình là hành pháp A-la-nhã? Gắng gượng thực hành công hạnh xa lìa-ít ham muốn-biết vừa đủ, làm sao để người ta biết mình ít ham muốn-biết vừa đủ và thực hành theo pháp xa lìa? Bởi vì không phải là tâm chán ngán lìa xa, bởi vì không phải là diệt trừ phiền não, bởi vì không phải là cầu tiến thẳng vào Thánh đạo, bởi vì không phải là Niết- bàn, bởi vì không phải là cứu độ tất cả chúng sinh, cho nên đó gọi là Sa-môn tham cầu danh lợi. Thế nào là Sa-môn công hạnh chân thật? Có Sa-môn đối với thân mạng hãy còn không tham tiếc, huống gì là tiếc nuối danh lợi. Nghe các pháp không chẳng hề vốn có thì tâm vô cùng hoan hỷ, thuận rõ lý không hãy còn không chấp trước, huống gì là chấp trước, huống gì là chấp trước Ngã-Nhân-chúng sinh_thọ giả-Mạng giả-Tri giả-Kiến giả? Ở trong các phiền não mà cầu giải thoát chứ không ở bên ngoài để mong cầu, quán xét tất cả các pháp xưa nay vốn thanh tịnh-không cấu nhiễm. Người này chỉ dựa vào chính mình chứ không dựa vào nơi nào khác. Vì thật tướng của các pháp mà Pháp thân hãy còn không tham, huống gì là sắc thân? Thấy pháp lìa xa tướng mà không dùng đến ngôn từ diễn đạt, Thánh chúng vô vi hãy còn không phân biệt, huống gì là chúng hội phàm phu? Không vì đoạn trừ-không vì tu tập cho nên không ghét sinh tử-không thích Niết-bàn, chẳng có gì trói buộc-chẳng có gì cởi bỏ. Biết rõ pháp của chư Phật không có tướng quyết định, biết rồi không qua lại trong sinh tử, lại cũng không diệt mất. Này Ca-diếp! Đó gọi là Sa-môn thuận theo công hạnh chân thật. Này Ca-diếp! Các ông nên chịu khó thực hành công hạnh chân thật của Sa-môn, đừng bị tên gọi làm cho tổn hại! Lại nữa: Không vì pháp luật của vua chúa, Mà giữ gìn đối với Thi-la, Cũng không dựa vào những nơi sinh, Mà giữ gìn đối với Thi-la. Hành giả muốn làm cho Thi-la thanh tịnh, không cần phải vì pháp luật của hàng vua chúa. Pháp luật của hàng vua chúa, như Đức Phật thuyết giảng cho Lực só Tịnh đức: “Này người thiện nam! Thi-la của Bồ-tát thì ngay cả nhân duyên mất mạng mà vẫn không phá giới. Không mong làm Quốc Vương mà trì giới, không mong sinh lên cõi trời mà trì giới; không mong làm Thích Đề Hoàn Nhân, không mong làm Phạm Thiên Vương, không vì giàu có vui sướng tự tại mà trì giới. Không vì danh tiếng ca ngợi mà trì giới. Không vì lợi dưỡng mà trì giới. Không vì thọ mạng mà trì giới. Không vì ăn uống-áo quần-đồ nằm-thuốc thang và vật dụng cung cấp cho đời sống mà trì giới. Không dựa vào pháp của những nơi sinh, là không vì sinh trong trời-người mà trì giới, không dựa vào mình mà trì giới, không dựa vào người khác mà trì giới, không dựa vào đời này mà trì giới, không dựa vào đời sau mà trì giới. Không dựa vào sắc-thọ-tưởng-hành-thức mà trì giới. Không dựa vào nhãn, không dựa vào nhập, không dựa vào nhó-tỷ- thiệt-thân-ý mà trì giới. Không dựa vào cõi Dục-cõi Sắc-cõi Vô Sắc mà trì giới. Không vì được thoát khỏi đường ác của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la mà trì giới. Không vì nỗi sợ nghèo thiếu trong cõi trời mà trì giới. Không vì nỗi sợ nghèo thiếu trong cõi người mà trì giới. Không vì nỗi sợ nghèo thiếu của loài Dạ-xoa mà trì giới”. Hỏi: Nếu không vì những pháp như vậy, thì vì pháp gì mà trì giới? Đáp: Vì mong muốn làm cho Tam bảo, Tồn tại lâu dài mà trì giới, Vì mong muốn có được đủ loại, Lợi ích cho người mà trì giới. Tam bảo tồn tại lâu dài, là vì không đoạn dứt dòng dỏi của Phật cho nên trì giới, vì chuyển pháp luân cho nên trì giới, vì thâu nhiếp Thánh chúng cho nên trì giới, vì thoát khỏi sinh-lão-bệnh-tử-ưu bi khổ não cho nên trì giới, vì cứu độ tất cả chúng sinh cho nên trì giới, vì làm cho tất cả chúng sinh được an lạc cho nên trì giới, vì làm cho chúng sinh đến được nơi an lạc cho nên trì giới, vì tu thiền định cho nên trì giới, vì trí tuệ giải thoát-giải thoát tri kiến cho nên trì giới. Sự việc này nói rộng ra như trong kinh Tịnh Đức. Bồ-tát có năng lực như vậy, Thì thành tựu đối với Thi-la, Không mất đi mười điều lợi ích, Cùng với các loại lợi ích khác. Lại cũng không còn sợ rơi vào, Bốn nơi hiểm nạn và tà đạo, Không gặp phải bốn pháp mất mát, Không gặp phải bốn pháp hư hoại. Nhưng có được pháp không lừa dối, Bốn pháp bình đẳng với chư Phật, Có năng lực vượt qua địa ngục, Và mười sự việc luôn sợ hãi. Không mất đi mười điều lợi ích, là không mất lợi ích thường làm Chuyển luân Thánh vương, thường ở trong đó không mất đi tâm không phóng túng, không mất lợi ích thường làm Thích Đề Hoàn Nhân thường ở trong đó không mất đi tâm không phóng túng thường không mất tâm cầu đạo của chư Phật, thường không mất sự nghiệp giáo hóa của các Bồ- tát, thường không mất năng lực lạc thuyết biện tài, thường không mất sở nguyện gieo trồng các thiện căn-phước đức đầy đủ, thường không mất lợi ích được chư Phật Bồ-tát Thánh hiền khen ngợi, thường không mất lợi ích nhanh chóng có năng lực đầy đủ tất cả trí tuệ. Đây là mười điều lợi ích. Các loại lợi ích, là đối với các loại công đức không hề lui sụt. Như trong kinh nói: “Bồ-tát khéo léo giữ giới, thường được chư Thiên khen ngợi, các Long vương khéo bảo vệ, mọi người đều cúng dường thường được chư Phật gia hộ, thường làm bậc Đại sư của thế gian, nghó đến chúng sinh với tâm Từ Bi”. Không rơi vào bốn nơi hiểm nạn cùng với tà đạo, là Bồ-tát có năng lực thành tựu Thi-la như vậy, thì không rơi vào bốn hiểm nạn: Không sinh vào nơi không có Phật. không sinh vào nhà tà kiến. Không sinh vào cõi trời Trường thọ. Không rơi vào tất cả các đường dữ. Có được bốn pháp không mất: Không mất tâm Bồ đề. Không mất ý niệm về Phật. Không mất tâm thường cầu đa văn. Không mất ý niệm về sự việc của vô lượng đời kiếp. Không gặp phải bốn pháp hư hoại: Không gặp pháp hư hoại. Không gặp chiến tranh. Không gặp điều ác độc. Không gặp nạn đói kém. Có được bốn pháp không lừa dối: Không lừa dối chư Phật mười phương. không lừa dối chư Thiên thiện thần. Không lừa dối chúng sinh. Không tự lừa dối mình. Lại vượt qua mười điều sợ hãi, Bồ-tát trì giới thanh tịnh như vậy, có năng lực vượt qua mười điều sợ hãi như rơi vào địa ngục… Những gì là mười? Đó là: Có năng lực vượt qua nỗi sợ hãi của địa ngục. Có năng lực vượt qua nỗi sợ hãi của súc sinh. Có năng lực vượt qua nỗi sợ hãi của ngạ quỷ. Có năng lực vượt qua nỗi sợ hãi của sự nghèo khổ. Có năng lực vượt qua nỗi sợ hại của sự phỉ báng-chỉ trích và tiếng xấu. Có năng lực vượt qua nỗi sợ hãi bị các phiền não che phủ. Có năng lực vượt qua nỗi sợ hãi rơi vào phạm vi của Thanh văn và Bích-chi-Phật. Có năng lực vượt qua nỗi sợ hãi của trời-người, rồng, thần, Dạ- xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già. Có năng lực vượt qua nỗi sợ hãi bị chiến tranh-chất độc-lụt lội- hỏa hoạn-sư tử-hổ lang-người khác làm hại. Có năng lực vượt qua nỗi sợ hãi của tà kiến. Bồ-tát trì giới thanh tịnh như vậy, thì có năng lực trú trong pháp của chư Phật, đó gọi là bốn mươi pháp bất cọng, có thể trở thành bậc pháp khí để duy trì Tam bảo. ---------------------------- <詞>Phẩm 34: CA NGỢI GIỚI Bồ-tát trì Thi-la thanh tịnh như vậy, có năng lực thâu nhiếp mọi ích lợi của loại công đức, như Bồ-tát Vô Tận Ý trình bày. Vả lại, sơ lược ca ngợi một phần ít của Thi-la. Thi-la là niềm vui sướng bậc nhất của người xuất gia, như tuổi trẻ giàu sang đáng vui sướng. Có năng lực tăng trưởng thiện pháp, như mẹ hiền nuôi nấng con thơ. Có năng lực phòng hộ tai họa suy tổn, như người cha mẹ che chở cho con. Thi-la có năng lực thành tựu tất cả lợi ích to lớn cho những người xuất gia, như vậy hàng bạch y nhiều tiền của. Thi-la có năng lực cứu giúp tất cả khổ não, như công hạnh chính đáng thuận với đạo lý. Thi-la được người thiện kính trọng, như pháp báo ân. Thi-la được mọi người quý trọng, giống như thọ mạng. Thi-la được người trí coi trọng, như trí tuệ. Người cầu giải thoát khéo giữ gìn thi-la, như Đại thần giữ gìn sự việc bí mật của nhà vua. Người vui với lợi ích của đạo thì quý trọng Thi-la, như vui với Niết-bàn thì quý trọng Phật pháp. Người trí tuệ khéo giữ gìn Thi-la, như người tiếc mạng sống giữ gìn pháp an thân cứu thoát cái chết trong lúc cấp bách. Thi-la là cao nhất, như gặp phải hoạn nạn nguy cấp mà có được bậc thiện tri thức. Thi-la thanh tịnh trang nghiêm cho người đức hạnh, như con gái gia đình cao quý hổ thẹn không có gì sai sót. Thi-la chính là cửa đầu tiên của công đức, như không dua nịnh quanh co mở thông những lợi ích tốt lành. Thi-la là gốc bậc nhất của phạm hạnh, như tâm thẳng thắn là căn bản của chính kiến. Các pháp của bậc Đại nhân lấy Thi-la làm căn bản, như cầu quả vị cao quý lấy tâm thẳng thắn làm căn bản. Thi-la chính là kho báu của công đức, như không phóng túng, cũng như chính niệm có năng lực phát sinh mọi lợi ích; cũng như bạn hiền thì đầu-giữa-sau tốt lành. Người học theo chính pháp không vượt quá được, như biển luôn luôn có giới hạn. Thi-la chính là trú xứ của công đức, cũng như mặt đất là nơi nương tựa của vạn vật. Thi-la tưới thấm thêm cho các công đức thiện, cũng như trời mưa tưới thấm thêm cho hạt giống. Thi-la có năng lực thành tựu năm căn, như lửa làm chín muồi mọi vật. Thi-la có năng lực sinh ra những lợi ích, như gió thành tựu thân. Thi-la có năng lực tiếp nhận tất cả đạo quả, cũng như hư không dung nạp vạn vật, cũng như chiếc bình may mắn tùy theo nguyện ước đều đạt được, cũng như bữa cơm ngon có lợi ích cho các căn. Thi-la có năng lực dễ dàng thông suốt các đạo lý, có năng lực làm cho các căn thanh tịnh vô ngại. Thọ mạng của trí tuệ lấy Thi-la làm căn bản, giống như mạng sống của thân lấy hơi thở làm căn bản. Thi-la chính là nơi nương tựa tối thượng, như dân chúng nương tựa nhà vua. Thi-la chính là chúa tể của mọi công đức, như đức tướng giữa ba quân. Thi-la được nhiều điều vui sướng như người vợ tùy ý luôn luôn xứng với tâm người chồng. Nếu cầu Niết-bàn và sinh lên cõi trời, thì Thi-la chính là vật dụng giúp đỡ cho người học đạo, như người đi xa nhất định phải mang theo áo quần lương thực. Thi-la dẫn đưa người khiến cho đến được nơi tốt lành, như đi qua con đường hiểm trở có được người dẫn đường khéo léo. Thi-la đưa người vượt qua từ sinh tử, giống như con tàu vững chắc có năng lực vượt qua biển rộng. Thi-la có năng lực diệt trừ tai họa của các phiền não, giống như vị thuốc tốt có năng lực tiều trừ mọi căn bệnh. Thi-la là vũ khí có năng lực chế ngự giặc ma, như binh khí sắc bén có năng lực chống trả quân thù giữa trận chiến. Thi-la dẫn đưa người thoát khỏi những sự suy hoại khổ não và thuận theo che chở không rời, như che chở người thân yêu trải qua hoạn nạn không rời xa. Thi-la có năng lực soi sáng sự ngu si tối tăm của đời sau, như ngọn đèn lớn có năng lực trừ diệt u ám tối tăm. Thi-la đưa người ra khỏi những đường ác, như vượt qua sông sâu có được cây cầu tốt lành. Thi-la có năng lực trừ diệt phiền não nóng bức, như căn nhà mát lành có năng lực loại trừ nắng nóng hiểm ác. Thi-la có năng lực cứu người sắp rơi vào đường dữ, như dũng só cầm gươm cứu giúp người đang sợ hãi. Người phàm phu cần phải hết sức quý trọng Thi-la, như các Bồ-tát học theo thắng xứ của Đế. Người thực hành khéo léo hành trì Thi-la, như các Bồ-tát thực hành thắng xứ của xả. Người đạt được quả vị khéo léo tu trì Thi-la, cũng như Bồ-tát tu trì thắng xứ của Diệt; hộ trì Thi-la khiến cho người đạt được quả vị, cũng như Bồ-tát tu tập thắng xứ của Tuệ. Người không phá hoại pháp có năng lực làm cho Thi-la thanh tịnh, như các Bồ-tát thanh tịnh vô cấu. Những hạng người ác rời bỏ Thi-la, như hạng dua nịnh quanh co rời bỏ tâm ngay thẳng. Người phóng túng không thực hành Thi-la, như người tham lam keo kiệt không thực hành Bố thí. Người phóng túng rời bỏ Thi-la, như người hý luận rời xa pháp vắng lặng. Người ngu si không có Thi-la, giống như người mù không trông thấy màu sắc rực rỡ. Người không có tư duy cách xa Thi-la, như rời bỏ tám Thánh đạo cách xa Niết-bàn. Người thiện yêu quý thân mình rất thích Thi-la, như A-la-hán hết sức yêu thích đối với pháp. Thi-la có năng lực làm cho không còn phiền não, thiện pháp nối tiếp nhau không đoạn dứt, như Phật xuất thế thực hành mọi điều thiện không chấm dứt. Thi-la có năng lực làm cho các đạo quả tồn tại, như thần lực của Phật làm cho giáo pháp tồn tại lâu dài. Thi-la như Phật tự lợi mình và làm lợi ích cho người. Thi-la khéo léo giữ gìn mọi công đức thiện căn, như vị vua biết thời thế có năng lực bảo vệ được lãnh thổ quốc gia. Thi-la làm yên lòng người thực hành, như quả Tu-đà-hoàn, đúng lúc phát khởi việc làm về sau không có gì hối tiếc. Thi-la đến cuối cùng chắc chắn đạt được Niết-bàn, như Bồ-tát nguyện đến kết quả cuối cùng được thành Phật. Thi-la cũng như thửa ruộng tốt-ao đầm thuận lợi, tìm đến để gieo trồng thì hạt giống nhanh chóng được tăng trưởng. Thi-la là nhân của các hạnh, như biết thời cơ-phương pháp… là nhân tố thành tựu mọi việc, như người đoan nghiêm có phước đức trí tuệ được mọi người tôn quý. Thi-la như vậy thì mình và người đều tôn kính, như lúc phước đức thành thục thì tâm được yên ổn. Thi-la có năng lực làm cho tâm được yên ổn tiếp nhận những quả báo lợi ích. Thi-la có năng lực làm cho người thực hành hoan hỷ, giống như con cái tốt lành làm cho tâm cha mẹ vui sướng. Thi-la là pháp vô úy không có gì sai lầm, như người không có lỗi lầm thì tâm không có gì sợ hãi. Thi la làm cho người ở này hay đời sau không còn có sợ hãi, không có những tội ác. Cúng dường ca ngợi người trì Thi-la thì người khác cũng vui theo, tự biết mình có phần. Thi-la thân ái với chúng sinh, như tu định Từ. Thi-la diệt trừ đau khổ, như tu định Bi. Thi-la mang lại niềm vui, như tu định Hỷ. Thi-la không yêu không ghét, như tu xả. Thi- la được người tin tưởng như bốn cách nói thân thiện có năng lực làm cho người ta tin tưởng. Thi-la vui với thực hành, như tâm luôn luôn hoan hỷ trong pháp thế gian. Thi-la là nhân tương ưng của lời nói và việc làm như nghe nhiều là nhân của lạc thuyết biện tài. Thi-la là nhân của vô úy, như biện tài không sợ hãi gì. Thi-la là nhân của danh tiếng, như thông suốt các kinh luận thì có danh xưng tốt đẹp. Thi-la là pháp có năng lực cứu giúp, như người dễ dàng các kinh luận thì có danh xưng tốt đẹp. Thi-la là pháp có năng lực cứu giúp, như người dễ dàng trò chuyện với nhau được người cứu giúp. Thi-la có năng lực thực hành thành tựu pháp giải thoát rõ ràng, như thực hành theo pháp giảng dạy. Thi-la là tướng của chư Phật, như đạo của Vô thượng chính đẳng chính giác. Thi-la là pháp hỗ trợ tu đạo, như Định hỗ trợ cho Tuệ. Thi-la khiến cho người gặp nạn không còn sợ hãi gì, như ý chí và lòng can đảm to lớn không có gì sợ hãi. Thi-la là nơi tích tụ các công đức, giống như vật báu trong núi Tuyết, tích tụ công đức của Tín-Niệm…, nơi có thể nương tựa của những sự việc hy hữu. Thi-la giống như biển rộng có nhiều điều kỳ lạ vô cùng, cũng như quả ngọt nhờ vào cây tốt. Thi-la mang đến cho người những kết quả tùy theo sự ưa thích, như tùy theo người có trí tuệ đúng đắn thực hành sẽ đạt được. Thi-la gọi là không có nước mà trong sạch. Thi-la là mùi hương tuyệt diệu vô cùng, không sinh ra từ trong gốc thân cành lá hoa quả. Thi-la trang nghiêm vượt quá các loại châu báu trang sức, thường ở trên thân mình nhưng không có thể cướp được. Thi-la là niềm vui to lớn không phát sinh từ năm dục đời sau cũng có những quả báo vui sướng tuyệt vời. Thi-la là sự ca ngợi của tất cả trời-người-Ma- Phạm, Sa-môn, bà-la-môn ở thế gian. Thi-la là niềm vui sướng tự tại ở trong thân chứ không có được từ người khác. Thi-la là phương tiện tốt lành để sinh lên cõi trời và đến cảnh giới Niết-bàn. Thi-la là dòng sông của niềm tin thực sự có ích, không có bùn lầy-gạch đá-gai góc, tùy ý có thể bước vào và dễ dàng vượt qua không ngăn ngại gì. Thi-la là tiền của châu báu không có những sự suy tổn khổ sở. Thi-la là con đường sạch sẽ không ai năng lực phá hoại, giống như con đường bằng phẳng mọi người qua lại không có gì khó khăn. Thi-la là thửa ruộng tốt không gieo hạt-không gặt hái mà tự nhiên có được kết quả. Thi-la là quả ngọt cam lộ, không sinh ra từ cây cỏ nhưng có mùi hương và vị ngọt không gì sánh được. Thi-la là đóa hoa đẹp không sinh ra từ nước hay đất, nhưng luôn luôn tươi thắm chứ không kéo tàn hư hoại. Thi-la diệt trừ sự nóng bức của phiền não, như tắm gội giữa làn nước mát lạnh. Thi-la giữ gìn tốt đẹp hẳn các loại vũ khí sắc bén. Người thực hành Thi-la không làm cho người ta sợ hãi mà được cung kính. Thi-la là chốn tự tại không có sự tranh chấp đua. Thi-la là vật báu tốt đẹp không sinh ra từ núi cao, không sinh ra từ biển rộng, mà giá trị của vật báu này là vô lượng. Thi- la có năng lực vượt qua nỗi sợ hãi không sống được-sợ hãi vào giữa mọi người-sợ hãi tra khảo đáng đập-sợ hãi rơi vào ác đạo. Thi-la thường đi theo con người, đời này đến đời sau như bóng đi theo hình. -------------------------- <詞>Phẩm 35: QUẢ BÁO CỦA GIỚI Bồ-tát thuộc về địa Ly cấu, Đã nói đầy đủ về thanh tịnh, Bồ-tát an trú trong địa này, Thường làm bậc Chuyển luân Thánh vương. Địa thứ hai ở trong mười địa có tên gọi là Ly Cấu, bởi vì mười điều ác căn bản như tham lam keo kiệt… vónh viễn không còn, cho nên gọi là Ly cấu. Bồ-tát ở trong địa này thực hành sâu vào Thi-la Ba-la-mật, Bồ-tát này nếu chưa lìa dục, nhưng vốn có nhân duyên quả báo của địa này, thì làm bậc Chuyển luân Thánh vương cai quản Tứ thiên hạ, được trang nghiêm bằng vành xe vàng ngàn tia và các loại châu báu. Vành bánh xe ấy dùng chân lưu ly làm ổ cốt xe, vòng tròn xung quanh rộng mười lăm dặm, được trăm loại thần Dạ-xoa cùng nhau bảo vệ, có năng lực bay đi giữa hư không, dẫn dắt bốn loại binh lính, nhẹ nhàng nhanh chóng như chim chúa cánh vàng, như gió thoảng-như ý nghó, nơi nào đi đến thì diệt mọi sự hoạn nạn suy tổn, làm cho giặc thù phải hàng phục, tất cả các Tiểu vương đều đến quy thuận phục tùng, thân tộc và nhân dân thảy đều kính mến, tài năng soi sáng khắp nơi. Dòng họ Thánh vương có các loại hoa đẹp và chuỗi ngọc trang hoàng xen lẫn với nhau, có năm loại kỹ nhạc luôn luôn đi theo, dùng tàn lọng quý báu kỳ diệu che phủ phía trên. Lúc đi có các loại hoa hương-bột hương-bột chiên đàn thường rải xuống cúng dường, đốt các loại hương Chân hắc trầm thủy-Ngưu đầu- Chiên đàn-Hoàng chiên đàn để xông ướp trên thân. Hai bên vành xe có Thiên nữ cầm phất trần trắng đứng hầu, các loại châu báu dùng làm tàn che. Vành bánh xe ấy có các loại sự việc hy hữu dùng để trang nghiêm. Đó gọi là Kim luân bảo cụ túc. Tướng của tất cả các voi, thân lớn mà trắng như núi bạc ròng sản sinh ra từ đỉnh núi thần. Trong những voi lớn có năng lực bay đi giữa hư không, thì những voi chúa to lớn như Y-la-bà-na, An-xà-na, Vương- ma-na… đều có năng lực quật ngã mọi thứ. Đó gọi là Bạch tượng bảo cụ túc. Tướng của ngựa có màu sắc như cổ chim khổng tước, thân thể nhẹ nhàng nhanh chóng như chim chúa cánh vàng bay đi không có gì ngăn ngại. Đó gọi là Mã bảo. Sinh ra trong gia đình cao quý, thân không có bệnh tật gì, có thế lực to lớn, hình hài thân thể sáng suốt sạch sẽ, nhớ nghó sâu xa, tâm ngay thẳng dịu dàng, trì giới kiên cố, rất kính mến nhà vua, có năng lực thông hiểu các loại kinh sách-kỹ thuật. Đó gọi là Chủ binh thần bảo. Như Thiên Vương làm chủ tài sản, tướng giàu có đầy đủ, ngàn vạn ức loại vật báu ẩn giấu kín đáo thường đi theo bên cạnh, ngàn vạn ức loại quyến thuộc của các thần Dạ-xoa cùng đi theo, đều là quả báo của hành nghiệp đời trước, khéo biết phân biệt các loại vật báu như vàng, bạc, đế thanh, đại thanh, kim cang, ma-la-kiệt, xa cừ mã não, san hô, pha lê, ma ni, trân châu, lưu ly… tất cả mọi vật báu ấy đều có năng lực khéo biết rõ đưa ra-thu vào nhiều ít, tùy sự thích hợp có thể sử dụng luôn luôn thỏa mãn ý nguyện của nhà vua. Đó gọi là Cư só bảo. Ánh sáng như mặt trời-mặt trăng soi chiếu mười sáu do-tuần, thân hình như trống lớn, có năng lực diệt trừ các loại trùng độc-khí độc-bệnh tật khổ đau, trời và người nhìn thấy không có ai không quý mến. Hoa đẹp và chuỗi ngọc dùng để trang nghiêm, ở tại đài cao tỏa ánh sáng uy nghiêm kỳ lạ, có năng lực làm cho chúng sinh phát tâm hy hữu, nảy sinh niềm hoan hỷ vô cùng. Đó gọi là Châu bảo. Móng tay móng chân đỏ hồng mà mỏng, hình dáng thẳng thắn cao lớn, mịn màng trơn láng chứ không mập không ốm, thịt trên thân sắp xếp theo thứ tự dày dặn và chặt chẽ, da mỏng không chịu được những điều vất vả, thân yên ổn vững chãi như cây Đa-la. Khắp nơi trên thân đều có chữ cát rõ ràng, đường nét chữ Cát nổi lên trang nghiêm cho thân. Những nét vẽ như voi chúa-trâu chúa-ngựa chúa, nét vẽ phan cái- nét vẽ cá rùa-nét vẽ vườn rừng… hiện rõ trên thân nhà vua. Mắt cá chân bằng phẳng không hiện ra, mu bàn chân như lưng rùa, hai bên bàn chân đều đỏ, gót chân tròn và rộng, bắp chân mềm mại, đầu gối tròn không hiện ra, bắp vế như cột vàng-như cây chuối, như vòi voi chúa mềm mại sáng bóng. Bụng tròn mà thẳng, có ba đường ngang vùng bụng nhưng không hiện rõ. Bốn tròn mà sâu, xương sống bằng và thẳng. Vú như trái tần-bà, như đôi chim uyên ương tròn đầy nhô lên, không thòng xuống mà lại mềm mại tươi sáng. Còn cánh tay thon nhỏ, tròn mà lại dài, các lóng ngón tay không hiện rõ. Mũi thẳng thắn không nghiêng, hiện rõ ra không to không nhỏ, lỗ mũi che kín không lộ ra. Hai gò má không lõm sâu, bằng phẳng không gồ cao, hai bên đều đầy đặn. Trán bằng phẳng mà dài, có đường nét của chữ Cát, tai mềm mà buông xuống , đeo vòng báu vô giá. Răng như chuỗi trân châu, như vầng trăng mới mọc, trắng như tuyết-sáng như ngọc. Môi như ráng chiều đỏ ửng, như trái tần-bà, trên dưới tương xứng không dày không mỏng, như chuỗi trân châu đỏ tươi. Hai tròng mắt đen trắng rõ ràng, dài rộng trang nghiêm có ánh sáng vô cùng thanh tịnh. Lông mi đen tuyền, dày và dài nhưng không rối. Lông mày không dày-không mỏng-không cao-không thấp, như vầng trăng mới mọc, cao-cong mà dài, hai bên giống nhau. Tóc mềm mà mịn, sáng bóng không rối. Thân thể nhà vua thơm ngát thường tỏa ra mùi hương, như mở các loại hộp chúa hương thơm vi diệu bậc nhất. Những lỗ chân lông trên thân thường tỏa ra mùi chiên đàn vô cùng tuyệt diệu, có thể làm vui lòng người. Trong miệng thường có mùi hương của hoa sen xanh. Thân thể mềm mại như Già-lăng-già. Y phục trời mềm mại trơn láng, tất cả đều cung cấp đầy đủ. Tâm không dua nịnh quanh co, luôn luôn tin tưởng và có lòng hổ thẹn, rất kính mến nhà vua, biết thời cơ-biết nơi chốn, có phương tiện khéo léo thâu nhiếp được tâm nhà vua, đứng-ngồi-nói chuyện có thể cảm được ý nhà vua, thuận theo ý nhà vua để thực hành, thường phát ra lời nói yêu mến, như con gái đức hạnh giữa chốn nhân gian đầy đủ mọi vẻ đẹp, sắc diện giống như con gái cõi trời Đề-lô-đa-ma, thanh tịnh rõ ràng. Xinh đẹp như đường nét vầng trăng đêm rằm hiện ra sáng rực, diễm lệ như phu nhân Xá-chỉ của Đế thích, mặc có cõi trời-đeo tràng hoa cõi trời-xoa ướp hương thơm cõi trời, dùng nhiều ánh sáng cõi trời và vàng-ngọc ma ni để trang điểm thân mình. Khéo léo biết mọi điều về ca múa-đánh đàn-vui đùa cười nói. Có phương tiện khéo léo tùy ý có thể làm cho nhà vua sinh niềm hoan hỷ. Trong tất cả những cô con gái thì cô gái này là bậc nhất. Đó gọi là Ngọc nữ bảo. Vả lại, Chuyển luân Thánh vương có bốn đức như ý: Sắc diện tướng mạo đoan nghiêm, bậc nhất trong Tứ thiên hạ không có ai sánh bằng. Không có bệnh tật khổ sở. Nhân dân hết sức yêu quý. Thọ mạng lâu dài. Giáo hóa dạy dỗ chúng sinh bằng mười thiện nghiệp, có năng lực làm cho cung điện của chư Thiên đầy đủ, có năng lực giảm bớt dân chúng của A-tu-la, có năng lực trừ bớt những đường ác-tăng thêm nẽo thiện, có năng lực vì chúng sinh cầu nhiều điều lợi ích mà phát sinh những việc làm tốt đẹp, không sử dụng vũ khí-quân binh mà dùng pháp đối trị để cảm hóa làm cho chư Thiên được an lạc, bên ngoài không có nỗi sợ hãi vì các nước thù địch-bên trong không có nỗi lo sợ vì những âm mưu đen tối. Vả lại, trong đất nước ấy không có xảy ra dịch bệnh và các tai họa suy tổn khổ não ngang trái. Tất cả các vua lân cận đều thuận lòng quy phục, có nhiều quyến thuộc Có năng lực nhanh chóng thâu nhiếp mọi người, lại không có ai có năng lực xâm hại lãnh thổ của quốc gia. Bốn loại binh lính của nhà vua có đầy đủ thế lực, các bà-la-môn, cư só và dân chúng đều cùng nhau kính mến, đồ ăn thức uống thơm ngon tốt lành tự nhiên mà có. Lãnh thổ của quốc gia ngày càng tăng thêm chứ không có gì giảm bớt, nhà vua có năng lực khéo léo thông hiểu kinh sách-kỹ nghệ-toán số-chú thuật, tất cả đều thọ trì thành tựu. Nhà vua có thể khéo léo bàn luận, phân biệt rõ ràng nghĩa lý, quần thần đều có đầy đủ uy đức, thường thực hành Bố thí không ai có thể sánh kịp. Ngàn người con đoan nghiêm như các Thiên tử, uy đức dũng mãnh có năng lực phá tan quân địch hùng mạnh, nơi ở của họ là những cung điện lầu đài tráng lệ như cung điện tuyệt diệu của Thiên Vương-Đế Thích. Nhà vua dạy dỗ họ thì không có ai có thể hư hỏng. Ở trong Tứ thiên hạ, chỉ có vị vua này đầy đủ uy đức tướng tốt, cho nên không có ai có thể sánh bằng. Âm thanh của nhà vua sâu xa, dễ hiểu, không phân tán cũng không rối loạn, như tiếng chim Ca-lăng- tần-già thánh thót hòa nhã khiến cho người nghe êm tai. Quyến thuộc của nhà vua đồng tâm không ai có thể làm cho ngăn ngại, nơi ở của họ dù trên mặt đất, dưới nước hay giữa hư không cũng chẳng có gì chướng ngại, họ có uy lực mạnh mẽ có thể đảm nhận việc lớn. Nghó và hỏi han những người già cả, không hề lừa dối người khác. Tâm họ không có gì ganh tî, không chấp nhận điều gì sai trái, không có gì sân hận, oai nghi khoan thai chứ không tùy tiện nóng nảy. Họ nói lời thành thật chứ không hề nói hai lời, thực Bố thí trì giới, thường tu dưỡng tâm thiện, đi đứng biết rõ thời gian không làm mất phương tiện. Thần sắc hai hòa vui vẻ, nói chuyện luôn luôn mỉm cười, không hề chau mày nhìn người khác với ánh mắt dữ dằn. Người giảm mất lợi ích cho họ, người đã có lợi ích thì làm cho họ biết sâu sắc để đền đáp. Tâm luôn hổ thẹn, có nhiều trí tuệ, uy đức tôn nghiêm mà luôn luôn nhẫn nhục. Tướng Đại trượng phu thì tính họ rất nghiêm khắc, những việc họ làm có thể nhanh chóng được thành tựu, trước phải suy nghó đúng đắn rồi sau đó mới thực hiện. Nhà vua có pháp nhãn để làm những việc thù thắng, người khéo suy nghó mới làm việc cùng với nhà vua. Nếu điều gì không đảm đương nổi thì tiếp tục cầu người có tài đức và sáng suốt, có gắng tích góp phước đức và tài vật, có năng lực tự mình giữ gìn thanh tịnh chứ không phá hủy giới cấm. Nhà vua có nhiều tiền bạc châu báu như Tỳ-Sa-môn thiên vương, có thế lực to lớn như Thiên Đế Thích, đoan nghiêm đáng yêu giống như trăng tròn, có năng lực nhẫn nhục như mặt đất, tâm sâu thẳm như biển rộng, không bị khổ vui làm cho dao động, như núi chúa Tu-di không thể nào lay chuyển vì sóng gió, trú xứ của những điều kỳ diệu quý báu, nơi nương tựa của mọi phước đức thiện căn, là thân tộc đối với tất cả thế gian, là nơi quay về của những người còn khổ não. Ai không có nơi quay về thì làm nơi quay về cho họ, ai không có nhà cửa thì làm nhà cửa cho họ, ai có nỗi sợ hãi thì luôn luôn trừ diệt sợ hãi giúp họ. Chuyển luân Thánh vương có những tướng như vậy, đều nhờ vào nhân duyên quả báo của địa thứ hai. Có thể chuyển hóa hạng phá giới, Khiến cho họ trú vào thiện pháp, Còn lại những sự việc đã làm, Như trong địa thứ nhất giải thích. Chuyển hóa hạng phá giới, là có năng lực làm cho chúng sinh bỏ điều ác-làm điều thiện có được niềm an lạc. Khiến cho họ trú vào thiện pháp, là có năng lực chuyển hóa nghiệp thân-miệng-ý bất thiện của chúng sinh, khiến cho họ thực hành nghiệp thiện của thân-miêng-ý. Điều này như giải thích trong địa thứ nhất, đó gọi là thấy chư Phật và đạt được những tam-muội, nhưng địa kia thấy số trăm-địa này thấy số ngàn, lấy đó làm sai biệt vậy.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 87