<經 id="n1518">LUẬN PHẬT MẪU BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA VIÊN TẬP YẾU nghĩa <篇>SỐ 1518 HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1518 LUẬN PHẬT MẪU BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA VIÊN TẬP YẾU nghĩa Tác giả: -Bồ Tát Đại Vực Long (gồm 224 câu 5 chữ) Hán dịch:-Đời Triệu Tống Đại sư - Sa môn Thi Hộ. Kính lễ Đại Bồ-Tát Đồng Chơn Diệu Kiết Tường v.v… Bát nhã được thành tựu, Trí không hai Như Lai Trong đó nghĩa tương ưng, Tiếng và hai: Giáo - Đạo. Nương tựa và tác dụng, Sự nghiệp đồng tu hành, Phân biệt tướng và tội, Khen ngợi sẽ nói sau. Đủ tin lấy làm Thể, Thầy trò cùng thuyết-chứng, Lúc nói và nơi nói, Tự lượng được thành tựu. Người nói pháp nên biết, Thời và xứ thế gian, Người nói có đồng chứng, Sau mới thành như lượng, Tất cả đều tụ họp, Ta nghe điều đã nói. Hòa hợp nghĩa như thế, Ba hai phẩm cao quí, Phân biệt mười sáu tướng, Các không theo thứ tự. Trong tám ngàn tụng nói, Hiểu phương tiện khác nói, Nay tám ngàn tụng này, Nói đủ nghĩa không thiếu. Tùy ý thích lược tụng, nghĩa như thế, như thuyết, Bồ tát chẳng thấy ngã, Đây nói thật- Tịch mặc. Nhận các sự bên trong, (năng thọ) Kia nói đó là Không, Sắc và tự tính sắc, Đây nói cũng là Không. Các xứ bên ngoài v.v.. này, Phần đã nhận (sở thọ) đều dứt, Thân kia với tướng sắc v.v… Lìa an trú và tướng. Hướng nghĩa nếu kia thấy, Trong ấy tức không thật, tính Không các Nội xứ, Tự tính cũng lại Không. Sở hữu chủng tướng thức, Ngã liền khởi Bi-Trí, Chẳng sinh cũng chẳng diệt, Rõ những thứ v.v… hữu tình. Hữu tình, sinh tử dục, Kia nói đó là Không, Phật pháp chẳng thể thấy, Pháp Bồ-tát cũng vậy. Những điều đã nói đây, Cả Mười lực v.v… cũng Không, Có các pháp riêng rẽ, Đây nói là Biến Kế. Trong Thắng nghĩa chẳng có, Các pháp, nói như thế, Cắt đưtc1 hết Ngã kiến v.v.. Đại só hành rốt ráo. Nhưng kẻ ấy không ngã, Phật nói khắp mọi nơi, Tất cả pháp chẳng sinh, Ở đây nói cũng thế. Tuyên nói pháp vô ngã, Nói thật khắp các xứ, Có tội và không tội, Chẳng thêm cũng chẳng bớt. Pháp Hữu vi, Vô vi, Ngăn sở hữu các thiện, Trong tính Không (của) các thiện, Nó sinh ra vô tận Biến kế phân biệt này Nó gồm khắp đều Không. Mười thứ tâm tán loạn Tâm tán loạn chỗ khác Ngu chẳng được tương ưng Trí không hai chẳng thành. Nó ngăn chặn, đả phá Năng, Sở trị lẫn nhau Với pháp Bát-nhã này Nơi Viên Tập đã nói Nếu như Bồ-tát có Phân biệt Vô tướng này Thầy ngăn ngừa tán loạn Nói các Uẩn thế tục Đây tám ngàn bài tụng Từ lời đầu, thứ lớp Đến cuối đều chỉ ngăn Nói: Phân biệt Vô tướng Nhơn nói chẳng như thế Đây chỉ nói sự tướng Ở trong kinh Phạm Võng Biết tất cả như lý Bồ-tát chẳng thấy ngã Nhưng đây v.v… luôn rộng lớn Thế Tôn ngăn điều này Phân biệt Hữu tướng loạn Nếu chẳng thấy tên gọi Cảnh giới hành cũng vậy Uẩn ấy tất cả xứ Đều chẳng thấy Bồ-tát Đây chỉ ngăn Biến kế Thâu khắp đây mà nói Nhờ nhân Nhất Thiết Trí Huệ phân biệt các tướng Bát-nhã Ba-la-mật Nói ba thứ nương tựa Gọi Biến-kế, Y-tha Và tính Viên-thành-thật. Không có cú, thuyết này v.v.. Ngăn tất cả Biến kế Dụ huyễn v.v… thuộc về thấy Đấy nói tính Y-tha Có bốn thứ thanh tịnh Nói tính Viên-thành-thật Bát-nhã Ba-la-mật Phật nói không riêng khác Mười phân biệt tán loạn Đối trị nói như sau Ba thứ này biết rồi Nói: Hoặc tức, hoặc lìa. Như lời đầu Viên thành Y-tha và Biến-kế Phân biệt Vô tướng sắc Ngăn trừ tán loạn đó Phật ấy cũng Bồ đề Chẳng thấy có người nói v.v… Đến rốt cùng biết đó Ngăn trừ tính Biến kế Sắc ấy không tự tính Câu tướng làm sao có? Trong lời khác biệt này Hiểu biết đã ngăn nó Đây chẳng không, nên Không Lời như thế đã nói Các phân biệt chê bai Tất cả nói đều ngăn. Như huyễn, Phật cũng vậy Đó như mộng, cũng vậy Như sẽ biết như vậy Thuộc lời, trí quyết định Các thứ đồng sở tác Đây nói Phật như huyễn Tuyên nói v.v… dụ huyễn ấy v.v… Đây nói tính Y-tha. Nếu các trí Dị sinh Tự tính nó thanh tịnh Nên nói Phật ấy nói Bồ-tát cũng như thế. Tự tính tự sắc che Vô minh ấy làm nhân Như huyễn hiện riêng khác Quả như mộng nên bỏ Không hai nói riêng khác Quả v.v… quyết định chê bai Các phân biệt, chê bai v.v.. Đây, nói là hủy báng Sắc, Không, chẳng hoà hợp Nó trái ngại lẫn nhau Chẳng sắc chẳng tên không Sắc tướng tự hoà hợp Phân biệt một tính đó Đối trị các thứ tính Không, chẳng khác sắc ấy. Không ấy làm sao có? Đây “không thực” hiện bày Đó vô minh nổi lên Đây “không thực” năng biểu Đó nói là vô minh Đây nói sắc như thế Bát-nhã Ba-la-mật Không hai, hai như thế Đối trị, phân biệt hai. Như lý nói tính tịnh Cũng vậy - chẳng thể được tính, không tính, trái nhau Các thứ tính định thấy Nói sắc này chỉ tên Chơn thực không tự tính Phân biệt tự tính ấy Chấp nhận phải ngăn trừ Sắc và tự tính Sắc “Không” như trước đã nói Tự tính - câu tướng kia Phân biệt này nên trừ Chẳng sinh và chẳng diệt Nếu có quán các pháp Phật nói nếu tán khác Là phân biệt sai khác Danh, ngôn v.v.. đều giả dối Nếu phân biệt pháp ấy Tiếng và nghĩa, chẳng hợp Chẳng phải ý tự tính Bát-nhã Ba-la-mật Phật, Bồ-tát cũng thế Đó chỉ là tên gọi Phân biệt lìa thật nghĩa Ngăn tiếng-nghĩa vốn có Đây chẳng ngăn trừ sự Chổ khác cũng biết vậy nghĩa quyết định trong ngữ Đúng là không có được (vô sở đắc), Thật biết tất cả tên, tính như nghĩa là vậy, Chẳng ngăn trừ tiếng ấy. Tu Bồ Đề lìa hai, Tiếng và nghĩa như vậy, Bồ-tát chẳng có tên, Đây nói có “ngã kiến”. Bát-nhã Ba-la-mật, Ngữ không quyết định sinh, Chỉ Bậc Trí tìm xét, Được nghĩa Tuệ vi diệu. Nếu phân biệt nghĩa riêng, nghĩa nối nhau nên trừ, Bát-nhã Ba-la-mật, Lời đó như tiếng vang. Tóm lược nghĩa như vậy, Chỗ nương như Bát-nhã v.v… Như thế nghĩa xoay vòng, Lại nương vào nghĩa riêng. Bát-nhã Ba-la-mật, Chính thâu tám ngàn tụng, Nếu được tụ phước đức, Đều do Bát-nhã sinh.