<經 id="n1451">CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰÏ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1451 CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Nghóa Tịnh đời Đường - TQ Việt dịch: Ban phiên dịch chùa Pháp Bảo, HT Thích Tịnh Hạnh giám tu - năm 2005 Hiệu đính và nhuận văn: NS Thích nữ Như Lộc tại chùa Phổ Minh - năm 2009 <卷>QUYỂN 1 Bốn mươi quyển Tạp sự này tổng cộng có tám môn, một tụng đại môn nhiếp hết cả bộ; trong mỗi môn lại có biệt môn tổng nhiếp tám bài tụng, trong mỗi biệt môn lại có mười bài tụng, tổng cộng là tám mươi chín bài tụng, trong mỗi bài tụng tóm lược ngàn hàng. Nếu ai thọ trì thông thuộc thì có thể thông suốt hết ý nghóa cả bộ. Tụng đại môn tổng nhiếp: có tám Đá kỳ cọ, lông bò, Ba y và Thượng tòa, Xá lợi, gân thú dữ, Cấp đa ni, trừ tháp. Tổng nhiếp tụng của biệt môn: có mười Đá kỳ (cọ), tên, móng, bát, Gương, sanh chi, đạp y, Thủy la, đậu sống khác, Rửa chân, quần nên cột. Nhiếp tụng thứ nhất: Đá kỳ cọ, đất trắng, Ngưu hoàng và hương thơm, Đánh cột, đeo chỉ sợi, Đeo anh lạc và con dấu. Phật tại giảng đường Cao các, bên ao Di hầu, thành Quảng nghiêm; lúc đó Lục chúng Bí-sô đắp y mang bát vào thành Quảng nghiêm khất thực. Cách thành không xa có vườn của Lật-cô-tỳ tử, phong cảnh thanh nhàn, cây trái sum suê, suối nước chảy quanh với nhiều chim đẹp giống như trong vườn Hoan hỉ của vua trời Đế thích. Trong vườn sắp đặt nhiều dụng cụ thể dục thao, lại có nhiều loại nhạc khí kỳ tuyệt; bên ao để nhiều vật dụng tắm rửa với hương xông… Lục chúng Bí-sô nói với nhau: “nghe nói vườn này rất khả Ái…, chúng ta nên vào xem thử”, nói rồi cùng vào trong vườn, nhìn thấy các dụng cụ như chày gỗ dài ngắn, cái vồ lớn nhỏ, các viên đá lớn lớn nhỏ dùng cho việc vận động thân thể, làm cho máu huyết lưu thông, tiêu hóa thức ăn… ; lại thấy các loại nhạc khí kỳ tuyệt như đàn, sáo, trống…; bên ao để nhiều vật dụng tắm rửa như đá kỳ cọ, tháo đậu, cỏ thơm, hạt dư cam… Lục chúng Bí-sô thấy rồi liền nói với nhau: “các vật dụng tạo cảm giác an lạc này đều có đầy đủ nơi đây, chúng ta thử thọ dụng, nên đàn ca trước hay là tắm rửa trước?”, một người nói: “đã lâu chúng ta chưa tắm, nên tắm trước”, nói rồi liền cùng xuống ao tắm, dùng đá kỳ cọ thân ở trong nước tạo ra các âm thanh như của năm loại nhạc khí. Lúc đó có nhiều người đi ngang qua vườn, nghe những âm thanh này từ trong vườn vang ra liền nói với nhau: “trong vườn chắc đang biểu diễn ca nhạc, chúng ta nên vào xem”, nói rồi cùng vào trong vườn. Vừa lúc đó Lục chúng Bí-sô tắm xong đi ra, họ hỏi: “các Thánh giả, biểu diễn ca nhạc ở đâu?”, đáp: “các người ngu si, có tai nghe tiếng mà không phân biệt hay dỡ. Làm gì có ai biểu diễn được âm thanh kỳ diệu như thế”, lại hỏi: “âm thanh vừa rồi là do ai tấu lên ?”, đáp: “đó là do chúng ta lúc tắm, dùng đá kỳ cọ thân ở trong nước tạo ra âm thanh kỳ diệu như vậy”, mọi người nói: “các thầy còn bị năm dục não loạn thân tâm hay sao?”, đáp: “chúng ta tự thọ dục lạc nhưng không bỏ phế việc tu chánh nghiệp thì có lỗi gì. Các ngươi có phải là thầy ta đâu mà nói lời chê trách này, hãy im lặng chớ chuốc họa vào thân”. Mọi người nghe rồi sợ hãi bỏ đi, nhưng khi vào trong thành, đến chỗ ngã tư đường liền phê bình chỉ trích. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do Bí-sô lúc tắm dùng đá kỳ cọ thân mới có lỗi này. Từ nay không được dùng đá kỳ cọ thân, nếu dùng thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó, chân của các Bí-sô có cáu bẩn, khiến nứt chân; khi đi khất thực, mọi người nhìn thấy liền hỏi: “chân của các thầy bị nứt, đóng cáu bẩn, tại sao không chà rửa cho sạch?”, đáp là Phật chế không cho chà rửa, mọi người nói: “thân các thầy nhơ bẩn như thế, sao gọi là thanh tịnh được”. Các Bí-sô nghe rồi im lặng, trở về trú xứ đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “trước đây là sáng chế (chế lần đầu tiên), bây giờ là tùy khai: từ nay khai cho các Bí-sô dùng đá chà rửa chân, không phải thân phần khác; nếu kỳ cọ trên thân phần khác thì phạm tội Việt pháp”. Lục chúng Bí-sô sau đó lại dùng đá bọt để kỳ cọ, Phật nói cũng phạm tội Việt pháp. Duyên xứ giống như trên, lúc đó vào sáng sớm, các Bí-sô đắp y mang bát vào thành khất thực, thấy các Bà-la-môn dùng ngón tay chấm lấy đất trắng hay tro trắng rồi vạch lên trán ba vạch, do nhân duyên này nên họ cầu xin gì cũng đều được. Lục chúng Bí-sô thấy rồi nói với nhau: “chúng ta cũng nên làm theo họ”, hôm sau vạch ba vạch trên trán rồi mới vào thành khất thực. Những người không tin theo Phật nhìn thấy họ liền nói: “tôi xin quỳ bái”, Lục chúng Bí-sô nói: “những kẻ ngu si này không biết lễ nghi, ai nên quỳ bái, ai nên kính lễ?”, họ đáp: “chúng tôi chỉ biết hễ thấy Bà-la-môn thì nói là quỳ bái, thấy Sa môn thì nói là kính lễ”, Lục chúng Bí-sô nói: “vì sao thấy chúng ta là Sa môn lại nói là quỳ bái?”, họ đáp: “chúng tôi không biết các vị là Sa môn, vì trên trán các vị có ba vạch nên chúng tôi cho là Bà-la-môn, không phải Sa môn”, Lục chúng Bí-sô nghe rồi im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do Bí-sô vạch ba vạch trên trán nên có lỗi này, từ nay Bí-sô nào vạch như vậy thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có Bí-sô bịnh, thầy thuốc bảo dùng đất trắng bôi lên người, liền bạch Phật, Phật nói: “trước đây là sáng chế, bây giờ là tùy khai : nếu thầy thuốc bảo bôi đất trắng lên người thì khỏi bịnh, Bí-sô bịnh được làm không phạm”. Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó vào sáng sớm Lục chúng Bí- sô đắp y mang bát vào thành khất thực, thấy các Bà-la-môn dùng ngưu hoàng điểm trên trán, do nhân duyên này nên họ xin gì cũng đều được. Lục chúng thấy rồi liền làm theo… giống như trên cho đến câu Phật nói: “nếu Bí-sô nào bôi ngưu hoàng trên trán thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có Bí-sô bị mọc mụt nhọt trên trán, thầy thuốc bảo dùng ngưu hoàng bôi quanh chỗ mụt nhọt thì bịnh được lành, Bí-sô liền đem việc này bạch Phật, Phật nói: “trước đây là sáng chế, bây giờ là tùy khai : nếu thầy thuốc bảo bôi ngưu hoàng thì bịnh được lành, Bí-sô bịnh được làm không phạm; nếu không bịnh mà cố ý dùng thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ giống như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô thoa hương thơm vào người, khi đi đến chỗ các thanh thiếu niên liền hỏi họ có nghe mùi thơm hay không, họ hỏi: “các Thượng tòa cũng thoa hương thơm hay sao?”, đáp là có thoa, họ nói: “thoa hương thơm là cách ng- hiêm sức của thế tục, không hợp với các Thượng tòa”, đáp: “hợp hay không hợp thì chúng ta cũng đã làm rồi”, họ nghe rồi liền chê trách. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do Bí-sô thoa hương thơm nên có lỗi này, từ nay Bí-sô nào thoa hương thơm thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có Bí-sô bịnh đến gặp thầy thuốc, thầy thuốc bảo thoa hương thơm thì bịnh được lành, Bí-sô nói: “ông bảo tôi thích dục lạc hay sao?”, thầy thuốc nói: “trừ loại này ra, dùng thứ khác thì không hết bịnh”, Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “trước đây là sáng chế, bây giờ là tùy khai: nếu thầy thuốc bảo thoa hương thơm vào người thì bịnh được lành, Bí-sô bịnh được làm không phạm”. Lúc đó Bí-sô thoa hương thơm vào người rồi, khi vào ngồi trong chúng hoặc thuyết pháp cho các cư só, Bà-la-môn hoặc vào nhà thế tục đều bị họ chê trách. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “nay ta chế hành pháp cho Bí-sô thoa hương thơm là không được vào ngồi trong chúng; không được thuyết pháp cho các cư só, Bà-la-môn; không được vào trong nhà thế tục. Sau khi hết bịnh, tắm cho hết mùi mới được tùy ý vào trong chúng…; nếu làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có các cư só, Bà-la-môn tín tâm đem hương thoa đến cúng cho các Bí-sô, Bí-sô không thọ nên các cư só nói: “khi Phật chưa ra đời, chúng tôi xem ngoại đạo là chỗ tu phước ; nay Phật ra đời, chúng tôi xem các vị là đại phước điền. Vì sao các vị không thọ vật của chúng tôi cúng, há không phải khiến chúng tôi bỏ tư lương tốt thú hướng cho đời sau hay sao?”. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật bảo nên thọ, các Bí-sô thọ rồi liền vất xuống đất ở trước mặt thí chủ, các cư só nói: “Thánh giả, chúng tôi mua với giá rất mắc, vì sao lại vất bỏ như thế?”, Phật bảo: “không nên thọ rồi lại xem thường đem vất bỏ trước mặt thí chủ, nên đem thoa trên đất ở trước tháp Phật để cúng dường”. Khi các Bí-sô đem hương thơm này thoa trên đất ở trước tháp thờ tóc, móng tay của Phật để cúng dường thì thí chủ nói: “há chúng tôi không biết có tháp để cúng dường hay sao, chúng tôi đã cúng dường cho tháp rồi, còn đây là cúng cho các vị dùng”, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “nên đem thoa ở cửa phòng”. Khi đem thoa ở cửa phòng, khách viếng thăm cho là điện Phật nên lễ bái, Phật bảo nên thoa ở cửa ngoài, lại cũng bị lỗi như trước, Phật nói: “nên thoa ở tường vách trong phòng, mũi ngửi được mùi thơm này sẽ làm cho mắt sáng”. Phật tại vườn Thi lộc, rừng Khủng úy, núi Thất thu ma la. Lúc đó vương tử Bồ-đề xây cất lầu Điểu minh vừa xong liền làm lễ khánh thành, thỉnh Phật và Tăng đến nhà thọ thực. Phật và Tăng ngồi ở dưới lầu, Ô ba-nan-đà dùng tay dộng vào cột trụ lầu, làm cho lầu chấn động. Người cúng dường nói: “vương tử Bồ-đề mới xây cất tòa lầu này, tô vẽ điêu khắc với trăm màu sắc, Thánh giả có ý gì mà muốn phá hoại?”, đáp: “Tên Bồ-đề bần hàn khởi tâm tham Ái lầu nay, sau khi chết sẽ đọa vào đâu; nếu ngươi lại sanh tâm tham Ái lầu này, sau khi chết sẽ đọa vào loài quỷ bướu to”, người kia nghe rồi liền chê trách. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do Bí-sô dộng vào cột trụ nên có lỗi này, từ nay không được dùng tay dộng vào cột trụ, nếu ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó Lục chúng Bí-sô lại dùng quyền, vai, lưng, đầu gối cho đến gạch đá đập vào cột trụ và bị chê trách như trước, Phật nói không được dùng bất cứ vật gì; Lục chúng lại dộng vào tường, vào trong đất, Phật nói dộng vào vật khác cũng phạm tội Việt pháp. Duyên xứ giống như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô đắp y mang bát vào thành khất thực, thấy các Bà-la-môn đeo dây phạm tuyến, do nhân duyên này nên xin được nhiều thức ăn ngon. Lục chúng thấy rồi liền làm theo… giống như trên, cho đến câu Phật nói: “do Bí-sô đeo dây phạm tuyến nên có lỗi này, từ nay không được đeo dây, ai đeo thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ giống như trước, Lục chúng Bí-sô khất thực, thấy các Bà-la-môn dùng hoa đẹp để trang nghiêm thân hình, nơi canh tay lại đeo chỉ ngũ sắc, do nhân duyên này nên họ được nhiều thức ăn ngon. Lục chúng thấy rồi liền bắt chước làm theo… giống như trên cho đến câu Phật nói: “do Bí-sô đeo chỉ ngũ sắc nên có lỗi này, từ nay không được đeo chỉ ngũ sắc nơi cánh tay, nếu làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có Bí-sô bịnh đến chỗ thầy thuốc yêu cầu chữa trị, thầy thuốc bào dùng chỉ ngũ sắc chú nguyện rồi đeo nơi cánh tay thì khỏi bịnh. Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “trước đây là sáng chế, bây giờ là tùy khai: nếu thầy thuốc bảo đeo thì khỏi bịnh, Bí-sô bịnh được làm không phạm”. Sau đó lại có Bí-sô đeo chỉ ngũ sắc ở phía trước khuỷu tay phải, phía sau khuỷu tay phài, phía trước khuỷu tay trái, phía sau khuỷu tay trái , Phật nói đều không được đeo. Lúc đó Bí-sô bịnh nhờ đeo chỉ ngũ sắc bịnh được lành rồi liền vất bỏ bừa bãi, phi nhân thấy liền giận trách nói: “Thánh giả, dây này có kết tên họ của tôi, nhờ chú nguyện nên làm cho hết bịnh, nay lành bịnh lại xem thường”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “không được vất bừa bãi, nếu chưa hết bịnh thì cột nơi chéo y, nếu hết bịnh rồi thì tỳ để trong khe hở của tường cột”. Duyên xứ giống như trước, lúc đó Lục chúng Bí-sô thấy thế tục dùng chuỗi anh lạc trang nghiêm thân, cũng bắt chước dùng vòng anh lạc đeo nơi tay chân rồi hỏi họ có đẹp không, họ liền trêu chọc: “Thánh giả trên đầu cạo nhẵn tóc, dưới nách lông dài thì có chỗ nào để nghiêm sức cho đẹp, há chẳng phải các thầy bị dục nhiễm trói buộc hay sao?”, Lục chúng im lặng, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “do Bí-sô đeo anh lạc nên có lỗi này, từ nay không được đeo anh lạc nơi tay chân, nếu ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ giống như trước, lúc đó có giặc đến trộm vật trong nhà kho của Tăng và các vật của cá nhân, do không ghi dấu nên các Bí-sô không biết mất vật nào, của ai. Phật bảo nên cất chứa con dấu, Lục chúng Bí-sô nghe rồi liền dùng vàng bạc, lưu ly, thủy tinh, ngọc thạch để làm con dấu rồi đeo vào ngón tay, khoe với thế tục, thế tục hỏi: “trên ngón tay là vật gì?”, đáp: “đây là chỉ ấn, Phật cho cất chứa”, thế tục liền chê cười nói rằng: “Sa môn Thích tử còn làm việc kiêu mạn, dùng vật báu làm con dấu rồi đeo vào ngón tay gọi là chỉ ấn; không phải là chân thật Sa môn, cũng không phải là Bà-la-môn”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “từ nay Bí-sô không được dùng vật báu làm chỉ ấn, nên dùng năm loại: đá du, đồng đỏ, đồng trắng, ngà và sừng để làm con dấu”. Sau đó Lục chúng Bí-sô lại khắc hình tượng nam nữ ôm nhau trên con dấu của mình, thế tục thấy rồi liền chê trách: “các vị là Sa môn mà còn có tâm ô nhiễm hay sao?”, các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “có hai loại con dấu : một cho đại chúng và một cho cá nhân. Nếu là con dấu của đại chúng thì nên khắc hình tượng chuyển pháp luân, hai bên có nai quỳ chầu hầu, bên dưới khắc tên họ thí chủ và nguồn gốc xây cất chùa. Nếu là con dấu cá nhân thì nên khắc hình tượng bộ xương hay đầu lâu để nhìn thấy sanh tâm nhàm lìa”. Nhiếp tụng thứ hai trong Biệt môn: Cắt tóc, móng, đánh bóng, Mùa xuân ăn trái nhỏ, Khát dùng năm loại thuốc, Nói nhân duyên Hỏa sanh. Duyên xứ giống như trước, lúc đó trưởng giả Cấp-cô-độc xây tinh xá ở rừng Thệ đa cúng cho Phật và Tăng, sau đó bảo người thợ cạo đến cạo râu tóc cho Tăng. Người này vâng lời đi đến trong tinh xá thì gặp Lục chúng Bí-sô đang đứng trước cổng chùa, Ô ba-nan-đà chào hỏi: “thiện lai Hiền thủ, như ngày mồng một đầu tháng khó gặp được”, thợ cạo nói: “trưởng giả sai tôi đến cạo tóc cho Tăng”, Ô ba-nan-đà hỏi có biết cắt móng tay không, đáp: “đây là nghề của tôi”, Ô ba-nan-đà liền xòe bàn tay ra bảo cắt, thợ hỏi muốn cắt như thế nào, liền bảo cắt như hình hạt lúa, cho đến như hình đầu người, hình dao cạo, hình lưỡi búa, hình bán nguyệt…, cuối cùng quở trách người thợ rồi bảo cắt bằng hết, như thế mãi đến chiều tồi, người thợ mới trở về. Trưởng giả hỏi: “hôm nay cạo râu tóc cho bao nhiêu vị?”, người thợ liền đem việc trên kể lại rồi nói: “tôi không có rảnh để đi cạo râu tóc cho đại chúng”, trưởng giả nghe rồi liền chê trách: “tuy đã xuất gia trong thiện pháp luật mà tâm không tịch tónh”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do Bí-sô cắt móng tay nên có lỗi này, từ nay các Bí-sô không được cắt móng tay, nếu ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó các Bí-sô để móng tay dài, thế tục thấy liền hỏi sao không cắt, đáp là Phật không cho, họ liền nói: “để móng tay chân dài như vậy là sạch hay sao”. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “trước đây là sáng chế, bây giờ là tùy khai: cắt móng tay có hai cách: một là cắt như hình dao cạo, hai là như hình lưỡi búa”. Duyên xứ giống như trước… cho đến câu Ô ba-nan-đà hỏi thợ có biết cách đánh bóng móng tay không, đáp: “đây là nghề của tôi”, Ô ba- nan-đà liền xòe tay bảo đánh bóng móng tay bằng màu vàng, cho đến màu đỏ, màu trắng…, cuối cùng lại bảo chùi sạch hết, như thế mãi đến chiều tôi người thợ mới trở về… giống như trên cho đến câu Phật nói: “do Bí-sô đánh bóng móng tay nên có lỗi này, từ nay không được đánh bóng móng tay, nếu ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó, có Bí- sô nhuộm y hay xông bát nên móng tay bị đóng cáu bẩn và bị nhuộm màu. Khi đi khất thực, thế tục thấy liền hỏi vì sao tẩy đánh cho sạch, đáp là Phật không cho, họ nói: “để đóng cáu bẩn như thế là sạch hay sao”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu bị đóng cáu bẩn thì nên tẩy đánh cho sạch, không nên vì đẹp mà đánh bóng móng tay”. Phật tại thành Vương xá, lúc đó vua Ảnh thắng suy nghó: “khi đến mùa Xuân, mùa Thu có lúa mới và trái đầu mùa, ta nên bảo đem dâng cúng Phật và Tăng rồi mới dùng sau”. Sau đó có đại thần dâng vua trái Am một la mới chín, vua liền bảo đem dâng cúng Phật và Tăng, đại thần cười móm, vua hỏi nguyên do, đại thần đáp là đã dâng cho Phật và Tăng trước rồi, vua nói: “ta muốn dâng cúng khu vườn có ngàn cây ăn trái cho Tăng”, đại thần nói: “đây là việc làm tốt, thần rất tùy hỉ”, vua liền đem khu vườn có ngàn cây trái Am một la này cúng cho tứ phương Tăng và làm lễ khánh tán phước điền. Rừng cây ăn trái này trước nay đều ra rất nhiều trái, cho dù dân chúng trong cả nước tụ lại cũng đủ trái để ăn, nhưng từ khi vua dâng cúng cho Tứ phương tăng, dù trái còn nhỏ các Bí-sô cũng hái ăn hết sạch. Sau đó, có vua nước khác cần loại trái cây này nên sai sứ đến gặp vua Ảnh thắng xin, vua nói: “ta đã cúng rừng cây trái này cho Tăng rồi, sứ giả hãy đến trong tăng xin”. Sứ giả đến trong Trúc viên thì gặp Lục chúng Bí-sô đang đứng trước cổng, sứ đến đảnh lễ và bạch rằng: “Thánh giả, con là sứ giả của vua nước --- , nay đến xin Tăng cho hái ít trái Am một la mang về nước”, Ô ba-nan- đà nói: “ông cứ vào trong rừng cây tùy ý hái”, sứ giả vào trong vườn nhìn thấy không có cây nào có trái liền trở ra nói là rừng cây không có trái. Ô ba-nan-đà cùng sứ giả vào trong vườn rồi bảo sứ leo lên cây cao tìm hái, như thế cho đến bảo leo lên cây phía Đông, Tây, Nam và Bắc để tìm hái. Tìm không thấy, sứ giả nói: “hay là năm nay rừng cây này không ra trái”, Ô ba-nan-đà nói: “năm nay cũng kết trái nhiều như năm trước”, lại hỏi: “có phải năm nay bị gió mưa làm cho trái rụng hết phải không?”, đáp là không phải, lại hỏi vì sao không thấy có trái nào, đáp: “vì chúng tôi đã hái ăn hết khi chúng còn nhỏ trái”. Sứ giả dến chỗ vua tâu lại việc này, vua nói: “lành thay, tâm nguyện của ta là muốn cho Thánh chúng ăn”, sứ giả buồn bã trở về nước. Sau đó nước Ma-kiệt-đà có đại hội, dân chúng hỏi các Bí-sô vì sao rừng cây Am một la năm nay không ra trái, liền đáp: “không phải năm nay không ra trái, mà vì chúng tôi đã hái ăn hết khi trái còn nhỏ”, họ nghe rồi liền chê trách là không tốt, các Bí-sô nói: “vua cúng rừng cây trái này cho chúng tăng, chúng tôi ăn hết thì có lỗi gì”, mọi người nghe rồi đều chê trách là không biết tri túc. Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “do các Bí-sô ăn trái đó nên có lỗi này, từ nay không được ăn trái ấy, nếu ăn thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có trưởng giả tín tâm đem trái Am một la tuy nhỏ nhưng thơm ngon cúng cho Tăng, Bí-sô không thọ nên trưởng giả nói: “khi Phật chưa ra đời, tôi xem ngoại đạo là chỗ tu phước; nay Phật ra đời, tôi xem các vị là đại phước điền. Vì sao các vị không thọ trái cây của tôi cúng, há không phải khiến tôi bỏ tư lương tốt thú hướng cho đời sau hay sao?”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “khi trái có hạt thì ăn không phạm”. Sau đó lại có trưởng giả đem trái Am một la chín cúng cho Tăng… giống như trên cho đến câu Phật nói: “khi trái có hạt cho đến khi chín đều được ăn, không phạm”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có Bí-sô bịnh đến thầy thuốc xin điều trị, thầy thuốc nói: “nên dùng Tô cho thân nhuận trường”, sau khi dùng bơ lại sinh bịnh khát, thầy thuốc hỏi có bớt không, đáp là bịnh khát, thầy thuốc bảo cầm lấy Dư cam tử, kế bảo ngậm vào miệng, kế bảo nhai, Bí-sô nói là Phật chưa cho, thầy thuốc nói: “Phật từ bi sẽ khai cho”, bạch Phật, Phật nói nên nhai. Sau khi nhai liền nhả ra không nuốt nên bịnh không lành, thầy thuốc hỏi vì sao không nuốt, đáp là không được ăn phi thời, liền bạch Phật, Phật nói: “từ nay khai cho năm loại trái dù bịnh hay không bịnh, thời hay phi thời đều được thọ dùng không phạm, đó là Dư cam tử (tiếng Phạm là Am-ma-lạc-ca, khác với trái Am-một-la), Ha-lê-lặc, Tỳ-ê-lặc, Tất-bát-lê và Hồ tiêu”.  CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 2 Nhiếp tụng thứ hai trong biệt môn thứ nhất (tiếp theo): Phật tại Trúc viên thành Vương xá, lúc đó trong thành có một trưởng giả tên là Thiện hiền rất tín kính ngoại đạo lõa hình, nhà giàu có, thọ dụng đầy đủ; ông cưới vợ chưa bao lâu thì vợ có thai. Sáng hôm đó, Phật đắp y mang bát vào thành theo thứ lớp khất thực đến nhà của trưởng giả, trưởng giả liền dẫn vợ ra thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, vợ con có thai sẽ sanh trai hay gái?”, Phật nói: “chắc chắn sẽ sanh nam, sẽ làm rạng rỡ gia tộc, có đầy đủ diệu tướng của chư thiên, sẽ ở trong giáo pháp của ta xuất gia, sẽ được Lậu tận chứng quả A-la-hán”, trưởng giả nghe rồi liền đem thức ăn tinh khiết thơm ngon sớt đầy bát dâng cúng Phật, Phật chú nguyện cho trưởng giả rồi đi. Cách nhà đó không xa, có ngoại đạo lõa hình nhìn thấy Thế tôn từ nhà trưởng giả đi ra liền suy nghó: “ta chỉ có nhà này thường cúng dường thức ăn, nay cũng bị Sa môn Kiều-đáp-ma đến khuyến dụ, ta nên đến hỏi nhân duyên gì”, nghó rồi liền đến hỏi trưởng giả: “có phải Sa môn Kiều-đáp-ma đã đến đây phải không?”, đáp là phải rồi đem việc trên kể lại cho ngoại đạo nghe. Ngoại đạo này tinh thông tướng số liền đoán biết đúng như lời Phật đã nói, suy nghó: “nếu ta khen ngợi là thật thì gia chủ sẽ tín kính Sa môn, ta nên che giấu sự thật và nói khác đi”, nghó rồi liền trở ngược bàn tay vỗ vào mặt, trưởng giả hỏi nguyên do, đáp: “lời của Sa môn nửa thật nửa hư”, trưởng giả hỏi thật hư như thế nào, đáp: “sẽ sanh con trai là thật, nhưng làm rạng rỡ gia tộc là hư, vì rạng rỡ là tên khác của lửa, đứa con này vô phước vừa sinh ra liền đốt cháy gia tộc. Nói đứa con nay có đủ diệu tướng của chư thiên cũng là hư, vì có ai sanh trong loài người lại có đủ diệu tướng của chư thiên chứ. Nói ở trong giáo pháp của Phật xuất gia là thật, vì sau khi sanh ra nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc tất nhiên phải xuất gia. Nói được Lậu tận chứng quả A-la-hán là hư, vì Sa môn Kiều-đáp-ma cũng còn chưa được Lậu tận, chứng quả A-la-hán huống chi là các đệ tử”. Trưởng giả nghe rồi trong lòng buồn khổ hỏi ngoại đạo: “con phải làm gì đây?”, ngoại đạo nói: “ta là người xuất gia thọ trì cấm giới, không tùy tiện nói dối, hư thật như thế nào sau này ông sẽ rõ”, nói rồi liền bỏ đi. Lúc đó trưởng giả suy nghó muốn giết giết thai nhi, nghó rồi liền đưa thuốc phá thai cho vợ uống, vì thai nhi trong đời nay là thọ thân sau cùng nên tuy bị thuốc độc vẫn biến thành thuốc lành. Trưởng giả liền đạp vào bụng vợ phía hông phải, thai nhi chuyển qua nằm bên hông trái; đạp phía hông trái, thai nhi lại chuyển qua nằm phía hông phải vì đời này thọ thân sau cùng, chưa được Lậu tận thì không chết giữa chừng. Lúc đó người vợ bị chồng đạp bụng đau đớn la lớn lên, người chung quanh nghe tiếng la liền chạy đến hỏi, trưởng giả liền nói là đau bụng sắp sanh, mọi người nghe vậy liền bỏ về. Trưởng giả suy nghó: “ta không giết chết được thai nhi thì nên phương tiện dẫn người mẹ đến trong rừng vắng không người giết chết”, nghó rồi liền lập phương tiện dẫn vợ vào trong rừng giết chết, sau đó lén đứa trở về nhà rồi nói với trong thân tộc và xóm giềng là vợ gặp nạn nên qua đời. Thân thuộc buồn rầu thương tiếc dùng lụa ngũ sắc bọc thi thể đem đến trong rừng thây chết để hỏa thiêu. Ngoại đạo nghe rồi vui mừng đi vào trong thành ấp rêu rao rằng: “mọi người hãy nghe đây: Sa môn Kiều-đáp-ma thọ ký vợ trưởng giả Thiện hiền sẽ sanh nam, sẽ làm rạng rỡ gia tộc, có đầy đủ diệu tướng của chư thiên, sẽ ở trong giáo pháp của ta xuất gia, sẽ được Lậu tận chứng quả A-la-hán. Nay vợ trưởng giả đã chết, thi thể đang ở trong Hàn lâm như đại thọ không có rễ, cành lá và hoa quả”. Thường pháp của chư Phật là khởi tâm đại từ bi cứu giúp chúng sanh, trụ trong chánh quán, không nói hai lời, dựa trên định huệ hiển phát ba minh, thành tựu ba học, điểu phục hoàn toàn ba nghiệp, vượt qua bốn Bộc lưu, an trụ nơi bốn Thần túc, thường tu bốn nhiếp hạnh, xả trừ năm triền cái, đầy đủ năm chi, năm lực, viên mãn sáu độ, bố thí khắp tất cả bằng bảy Thánh tài, nở hoa bảy giác ngộ, chỉ bày tám chi Thánh đạo, xa lìa tám nạn, đoạn dứt hẳn chín kết, phương tiện thiện xảo tùy ý nhập Cửu định, đủ mười Lực, danh vang khắp mười phương, tự tại vô úy, hàng phục ma oán, cất tiếng sấm lớn, rống lên tiếng rống của sư tử, ngày đêm ba thời thường dùng Phật nhãn quán sát chúng sanh: trí huệ tùy chuyển của ai tăng, của ai giảm; ai gặp khổ nạn, ai bức bách, ai bị bức bách; ai xuống nẽo ác, ai lên đường lành, ai một bề thú hướng, ai còn mang gánh nặng. Nên dùng phương tiện gì để cứu độ chúng sanh ra khỏi đường ác, vào cõi trời người và được giải thoát; người chưa tu thiện căn khiến tu tập thiện căn, người đã tu thiện căn chưa thành thục khiến cho được thành thục, đã thành thục rồi khiến được giải thoát. Như bài kệ tụng: “Cho dù hải triều lớn, Cũng có khi trễ hạn, Đối với người đáng độ, Phật liền độ, không bỏ. Đối với các hữu tình, Phật từ bi thương tưởng, Nghó cứu họ thoát khổ, Như bò mẹ theo con”. Lúc đó Phật móm cười, từ trong miệng phóng ra hào quang năm sắc chiếu xuống hay chiếu lên, nếu chiếu xuống thì chiếu đến ngục Vô gián và các ngục khác khiến cho chúng sanh trong đây đang bị đốt nóng liền được mát mẻ, đang bị lạnh cóng liền được ấm áp. Họ cảm thấy an lạc liền suy nghó: “ta và mọi người từ cảnh khổ địa ngục chết đi, được sanh vào cõi khác chăng?”. Thế Tôn sau khi làm cho các hữu tình kia sanh tín tâm liền hiện nhiều tướng khác nữa, thấy những tướng này họ liền suy nghó: “chúng ta không phải chết ở đây sanh về cõi kia, mà là do sức oai thần của Đại Thánh đã khiến thân tâm chúng ta hiện được an lạc”. Đã sanh tín kính thì có thể diệt các khổ, ở cõi nhơn thiên được thọ thân thắng diệu, thành chơn pháp khí thấy được lý chơn đế. Nếu hào quang chiếu lên thì đến cõi trời Sắc cứu cánh, trong hào quang diễn nói các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã… và nói kệ: “Người phải nghe Phật dạy Dốc cầu đạo xuất ly Phá được quân sanh tử Như voi phá nhà tranh. Ở trong pháp luật Phật Dũng tiến thường tu học Xa lìa đường sanh tử Bờ mé khổ không còn”. Hào quang này sau khi chiếu khắp ba ngàn Đại thiên thế giới liền trở về chỗ Phật, nếu Thế Tôn nói việc quá khứ thì hào quang trở vào phía sau lưng, nếu nói việc vị lai thì hào quang trở vào phía trước ngực, nếu nói việc địa ngục thì hào quang trở vào phía dưới chân, nếu nói việc bàng sanh thì hào quang trở vào phía gót chân, nếu nói việc ngạ quỷ thì hào quang trở vào phía ngón chân, nếu nói việc loài người thì hào quang trở vào đầu gối, nếu việc của Lực luân vương thì hào quang trở vào lòng bàn tay trái, nếu nói việc của Chuyển luân vương thì hào quang trở vào lòng bàn tay phải, nếu nói việc cõi trời thì hào quang trở vào rốn, nếu nói việc của Thanh văn thì hào quang trở vào miệng, nếu nói việc của Độc giác thì hào quang trở vào phía giữa hai chân mày, nếu nói việc của đạo quả Chánh đẳng chánh giác thì hào quang trở vào phía trên đảnh đầu. Lúc đó hào quang này xoay quanh Phật ba vòng rồi trở vào miệng Phật, cụ thọ A-nan-đà bạch Phật: “Thế Tôn Như Lai Ứng chánh đẳng giác vui vẻ móm cười chẳng phải là không có nhơn duyên”, liền nói kệ thỉnh Phật: “Miệng Phật phóng hào quang vi diệu, Chiếu khắp Đại thiên nhiều hình tướng, Chiếu khắp mười phương các quốc độ, Như mặt trời chiếu khắp hư không. Phật là nhân tốt cho chúng sanh, Có thể trừ kiêu mạn, lo buồn. Có nhân duyên nên từ kim khẩu, Móm cười ắt nói việc hy hữu. Xin đấng Mâu Ni nói tường tận, Xin hãy nói cho người muốn nghe, Như sư tử vương rống tiếng diệu, Nguyện Phật quyết nghi cho chúng con, Phật như Diệu sơn vương trong biển, Nếu không nhân duyên, không dao động, Tự tại từ bi, Phật móm cười, Nói nhân duyên cho người muốn nghe”. Thế Tôn bảo A-nan-đà: “Đúng vậy A-nan-đà, không phải không có nhân duyên mà Như Lai Ứng chánh đẳng giác miệng hiện móm cười. Thầy hãy thông báo cho các Bí-sô: Như lai muốn đến trong rừng thây chết, ai muốn đi theo thì hãy đắp y mang bát”, tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy đi thông báo, các Bí-sô đều đắp y mang bát đi đến chỗ Phật. Lúc đó do Phật đã tự điều phục nên điều phục vây quanh, do đã tự tịch tónh nên tịch tónh vây quanh, do đã tự giải thoát nên giải thoát vây quanh, do đã tự an ổn nên an ổn vây quanh, do đã tự thiện thuận nên thiện thuận vây quanh, do tự đã là A-la-hán nên A-la-hán vây quanh, do đã tự lìa dục nên lìa dục vây quanh, do đã tự đoan nghiêm nên đoan nghiêm vây quanh. Giống như Bò chúa được đàn bò vây quanh, như Voi chúa được đàn voi vây quanh, như Sư tử chúa được đàn sư tử vây quanh, như Ngỗng chúa được đàn ngỗng vây quanh, như chim chúa Diệu súy được đàn chim vây quanh, như Bà-la-môn được học trò vây quanh, như Lương y được các bịnh nhân vây quanh, như Đại tướng được các binh só vây quanh, như bậc đạo sư được các khách lữ hành vây quanh, như vị thương chủ được các thương nhơn vây quanh, như đại trưởng giả được các trưởng giả vây quanh, như vị quốc vương được quần thần vây quanh, như Chuyển luân Thánh vương được các thiên tử vây quanh, như vầng trăng được các ngôi sao vây quanh, như mặt trời được ngàn ánh sáng vây quanh, như Trì quốc thiên vương được Càn-thát-bà vây quanh, như Tăng trương thiên vương được Cưu-bàn-trà vây quanh, như Xú mục thiên vương được các rồng vây quanh, như Đa văn thiên vương được các Dược xoa vây quanh, như Tịnh diệu thiên vương được A-tu-la vây quanh, như vua trời Đế thích được chư thiên cõi trời Tam thập tam vây quanh, như vua trời Phạm thiên được chư thiên cõi trời Phạm vây quanh. Giống như biển cả sâu lắng yên tónh, giống như đám mây lớn, Thế tôn cũng vậy do đã điều phục các căn nên oai nghi tịch tónh, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời, có đủ mười Lực, bốn Vô úy, tâm đại bi và ba niệm kiên cố, vô lượng công đức. Các tôn giả như A nhã Kiều-trần-như, Mã thắng, Đại danh, Vô diệt, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca-diếp, A-nan-đà… cùng vô số trời người vây quanh Phật cùng đi đến trong rừng thây chết. Đi theo Phật có mười tám lợi ích thù thắng là không sợ vua, giặc, nước, lửa, nước địch; sư tử, hổ lang…; không sợ cửa ải đóng kín, không sợ đóng thuế bến đò, không sợ thiếu cứu giúp; không sợ nhơn, phi nhơn; thường được thấy chư thiên, nghe tiêng chư thiên, được thấy hào quang lớn, được nghe Phật thọ ký, được nghe diệu pháp, được thọ ẩm thực và thân không bịnh khổ. Khi Phật và đại chúng đến nơi, bốn phía của rừng thây chết đều có gió mát thổi đến; lúc đó trong thành Vương xá có hai đồng tử cùng đi chung, một thuộc dòng Sát-đế-lî có tín tâm, một thuộc dòng Bà-la- môn không có tín tâm. Đồng tử dòng Bà-la-môn nói với đồng tử dòng Sát-đế-lî: “tôi nghe nói Thế tôn thọ ký vợ của trưởng giả Thiện hiền sẽ sanh nam, sẽ làm rạng rỡ gia tộc, có đầy đủ diệu tướng của chư thiên, sẽ ở trong giáo pháp của ta xuất gia, sẽ được Lậu tận chứng quả A-la- hán. Nạy vợ trưởng giả đã chết, thi thể đang ở trong rừng thây chết, như vậy há chẳng phải lời Thế tôn nói là hư vọng hay sao?”, đồng tử dòng Sát-đế-lî nói kệ: “Cho dù trăng sao đều rơi xuống, Đất núi, rừng cây bay lên không, Sóng lớn, nước biển đều khô cạn, Lời Thế tôn nói không hư vọng”. Đồng tử dòng Bà-la-môn nói: “nếu vậy chúng ta cùng đi đến trong rừng thây chết xem thử hữu tình thật thế nào”, nói rồi cả hai cùng đi. Đến nơi nhìn thấy Thế tôn, đồng tử dòng Sát-đế-lî liền nói kệ: “Mâu ni uy nghi không giỡn cợt, Đại chúng trời người đều vân tập, Phật sẽ cất tiếng rống sư tử, Hàng phục lời ngoại đạo không nghi, Đại sư khi đến trong Thi lâm, Gió mát thổi khắp nơi hoang dã, Vô lượng chúng sanh đều chiêm ngưỡng, Mừng xem Điều ngự vận thần thông”. Lúc đó vua Ảnh thắng nghe biết việc này liền suy nghó: “không thể vô cớ Phật đến trong Thi lâm, chắc vì vợ của Thiện hiền và nhân đó điều phục chúng sanh hữu duyên. Ta cũng nên đến đó xem thử”, nghó rồi liền ra lịnh chỉnh đốn quân nghi cùng Thái tử, cung phi… và các tùy tùng đồng ra khỏi thành đi đến Thi lâm. Đồng tử dòng Sát-đế-lî thấy vua Ảnh thắng liền nói kệ: “Nhìn thấy quốc vương ra khỏi thành, Với các tùy tùng theo hộ vệ, Tôi đang suy nghó đại chúng này, Chắc chắn được lợi ích thù thắng”. Lúc đó đại chúng thấy Thế tôn đi tới liền mở đường, Phật mỉm cười đi vào trong đại chúng, ngoại đạo lõa hình thấy rồi liền suy nghó: “Kiều-đáp-ma móm cười đi vào trong đại chúng, há đứa bé trong bụng người mẹ không chết”, nghó rồi liền nói với trưởng giả: “chắc chúng sanh bạc phước đó chưa chết”, trưởng giả nói: “vậy con phải làm thế nào?”, ngoại đạo nói: “ta là người xuất gia thọ trì cấm giới, chỉ biết niệm thiện, việc sắp tới ông tự lo liệu”. Lúc đó trưởng giả đưa thi thể vợ lên giàn hỏa châm lửa hỏa thiêu, ngọn lửa đốt cháy toàn thân nhưng chung quanh bụng của người mẹ lại không thương tổn, bỗng nứt ra và mọc lên một hoa sen xanh, trong hoa sen có một đứa bé dung mạo đoan nghiêm, ngồi an nhiên rất đáng yêu. Đại chúng nhìn thấy việc này rồi đều khen là hi hữu, ngoại đạo mất hết nhuệ khí và kiêu mạn; Phật bảo trưởng giả Thiện hiền vào trong lửa bồng đứa bé ra, trưởng giả nhìn ngoại đạo hỏi ý, ngoại đạo nói: “nếu ông vào trong lửa đó chắc chắn sẽ chết”, trưởng giả nghe rồi liền lo sợ không dám vào lửa bồng đứa bé. Phật bảo Thị-phược-ca vào trong lửa bồng đứa bé ra, Thị-phược-ca suy nghó: “Phật không sai ta làm việc phi thời phi xứ, ta nên vào trong lửa bồng đứa bé ra”, nghó rồi liền vào trong lửa bồng đứa bé ra với tâm vô úy. Chư thiên trên hư không nói kệ: “Phật bảo vị ấy vào trong lửa, Với tâm vô úy bồng bé ra, Nhờ thần lực tự tại của Phật, Làm cho lửa nóng thành ao mát”. Phật hỏi Thị-phược-ca vào trong lửa có thương tổn gì không, Thị- phược-ca đáp: “Thế tôn, con sinh ra trong cung, lớn lên trong cung, dùng hương Ngưu đầu chiên đàn thoa thân nhưng chưa từng có cảm giác mát mẻ như hôm nay”. Phật lại bảo trưởng giả Thiện bồng đứa bé về nhà, trưởng giả bị ác kiến hoại tâm nên vẫn không khởi lòng tin, nhìn sang ngoại đạo hỏi ý, ngoại đạo nói: “đứa bé ấy ít phước, bẩm tánh hung bạo vì lửa có thể ăn tất cả nhưng lại không đốt nó được; đủ biết rõ nó là chúng sanh tội khổ, ngang ngạnh đáng ghét, nếu ông bồng nó về nhà tức là rước lấy tai ách, ông chắc chắn sẽ bị hại chết”. Người thế gian thương yêu không gì hơn thân mạng của mình, trưởng giả nghe nói như vậy nên không đón nhận đứa bé. Phật lại bảo vua Ảnh thắng: “Đại vương nên nhận lấy đứa bé này”, vua nghe rồi liền đưa tay đón nhận đứa bé, chăm chú nhìn một hồi rồi hỏi Phật nên đặt tên nó là gì, Phật nói: “đứa bé này sanh trong lửa nên đặt tên cho nó là Hỏa sanh”. Lúc đó Phật quán biết tâm mọi người liền ứng cơ thuyết pháp khiến cho họ sau khi nghe pháp, có người được Noãn pháp, hoặc được Đảnh pháp, hoặc được Nhẫn pháp; có người được vơi bớt ba độc, lìa tham dục, có người được Thế đệ nhất pháp, có người đắc quả Tu đà hoàn, hoặc quả Tư-đà-hàm, hoặc quả A-na-hàm, có người gieo trồng nhân duyên với Thanh văn thừa, có người gieo trồng nhân duyên với Bích chi Phật thừa, có người gieo trồng nhân duyên với Phật thừa; hoặc quy y Tam bảo thọ trì năm giới, khởi lòng tin sâu xa. Vua mang Hỏa sanh về trong cung giao cho tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng… Lúc đó cậu của Hỏa sanh (anh của mẹ Hỏa sanh) trước đó đã đi đến phương khác giao dịch mua bán, khi nghi tin em mình có thai, lại nghe Thế tôn thọ ký sẽ sanh con trai … nên ông rất vui mừng. Sau khi bán hết hàng hóa, thu mua các mặt hàng khác xong, ông liền trở về thành Vương xá thì lại nghe tin em gái đã chết; ông suy nghó: “Thế tôn đã thọ ký cho em gái ta sanh trai… há là hư vọng hay sao”, nghó rồi liền hỏi thăm hàng xóm, họ nói: “lời Đại sư nói không hư vọng, chỉ vì người chồng tin theo ngoại đạo nên giết cô ấy chết oan uổng. Đứa con sinh ra có đại oai thần, ở trong lửa cháy mà không thương tổn gì, nay được vua nuôi dưỡng trong cung”. Người cậu nghe nói rồi liền đến gặp trưởng giả Thiện hiền, sau khi chào hỏi xong liền nói: “người đã làm việc phi lý”, trưởng giả nói: “tôi đã làm gì?”, người cậu nói: “người nghe lời ác kiến của ngoại đạo nên giết chết em ta oan uổng. Đứa bé sinh ra trong lửa cháy có đại oai thần nên không thương tổn gì, nay được vua nuôi dưỡng trong cung. Việc đã như vậy không cần nói nữa, nay ông phải mang đứa bé về đây thì ta sẽ dung thứ ; nếu không mang về, ta sẽ tập họp thân tộc và xóm giềng đến đuổi ngươi với số thẻ mà người không thể đếm hết, sau đó rao truyền tội ác của ngươi trên khắp các nẽo đường là: “em gái ta vô tội bị Thiện hiền giết chết oan uổng, kẻ giết phụ nữ thì không được cùng nói chuyện và bị pháp luật xử hành hình”. Trưởng giả nghe rồi trong lòng đau khổ, suy nghó: “theo như lời ông ta vừa nói, chác chắn sẽ không tha cho ta”, nghó rồi liền đến trong cung gặp vua Ảnh thắng kể lại việc trên và xin vua ban ân trao Hỏa sanh lại. Vua nói: “ta không nhận đồng tử từ ngươi, chính Phật đã trực tiếp giao đứa bé cho ta, nếu ngươi muốn nhận lại thì hãy đến bạch Phật”, trưởng giả liền đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi đem việc trên bạch Phật rồi xin Phật từ bi cho nhận Hỏa sanh lại, Phật suy nghó: “nếu trưởng giả này không nhận lại được đứa bé thì sẽ hộc máu mà chết”, nghó rồi liền bảo A-nan: “thầy hãy cùng đi với trưởng giả này đến chỗ vua, chuyển lời ta chúc sức khỏe của vua rồi nói rằng: “xin vua cho trưởng giả nhận lại Hỏa sanh, vì nếu trưởng giả này không nhận lại được đứa bé thì sẽ hộc máu mà chết”. Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy cùng trưởng giả đi đến chỗ vua nói y như lời Phâït đã dạy, vua nghe rồi liền vâng theo lời Phật dạy, tôn giả A-nan chúc sức khỏe vua rồi ra về. Lúc đó vua bảo trưởng giả: “ta vâng lịnh Phật nuôi dưỡng đứa bé này và rất thương yêu nó. Khanh phải lập ước là mỗi ngày ba thời phải mang nó đến gặp ta, thì ta mới giao nó lại cho khanh”, trưởng giả đáp: “thần không dám trái lịnh vua”, vua liền cho mặc thượng y, trang sức các chuỗi anh lạc rồi đặt bé lên lưng voi lớn, cho hộ tống về nhà. Thường tình thế gian, khi cha còn sống thì danh tiếng của con không rạng rỡ; sau khi cha mất, Hỏa sanh tự quản lý gia nghiệp, tín kính Tam bảo. Ngay nơi chỗ cha hại mẹ chết ngày trước liền cho xây một chùa Tăng với mọi vật dụng thọ dụng đầy đủ để cúng dương cho Tứ phương tăng, gọi là Nhu phúc lâm; vì vậy trong kinh nói Phật tại Nhu phúc lâm thành Vương xá. Trưởng giả Thiện hiền khi còn sống đã từng sai các thương nhân đến phương khác buôn bán ; sau khi trưởng giả qua đời, họ nghe biết Hỏa sanh thay cha quản lý gia nghiệp, tín kính Tam bảo nên mang một cái bát bằng Ngưu đầu chiên đàn đựng đầy châu báu đến biếu cho Hỏa sanh. Hỏa sanh liền để bát này trên ngọn phướn cao rồi thông báo khắp trong thành rằng: “người nào không dùng thang, ghế mà lấy được bát này ; hoặc có Sa môn, Bà-la-môn nào có đại oai lực, thần thông tự tại mà lấy được bát này thì tôi sẽ tăng bát cho người ấy”. Lúc đó các ngoại đạo vào sáng sớm đi tắm thấy ngọn phướn cao này liền hỏi trưởng giả Hỏa sanh: “đó là vật gì?”, Hỏa sanh đáp như trên, ngoại đạo nói: “trưởng giả trước nay tín kính Thích ca tử, không biết họ có lấy được bát hay không?”, nói rồi bỏ đi. Sau đó có nhiều Bí-sô kỳ túc vào thành khất thực thấy ngọn phướn cao này cũng hỏi như trên, Bí-sô nghe rồi liền nói với nhau: “há vì cái bát mà lại khoe tài của mình hay sao, Phật đã dạy nên che giấu điều thiện, phát lồ tội lỗi mới là hạnh của người xuất gia”, nói rồi bỏ đi. Lúc đó tôn giả Thập lực Ca-diếp đi ngang qua đó thấy rồi cũng hỏi như trên, nghe rồi liền suy nghó: “ta từ vô thỉ sanh tử đến nay, những phiền não oan gia mà ta đã nuôi dưỡng nay đều đã vất bỏ hết. Ta nay nên đón nhận nhân duyên trưởng giả thỉnh, khiến ông ta được mãn nguyện”, nghó rồi liền duỗi tay ra như cái vòi voi lớn đưa lên ngọn phướn lấy cái bát xuống rồi mang về trú xứ. Các Bí-sô thấy rồi liền hỏi từ đâu có, tôn giả kể lại việc trên, các Bí-sô nói: “tôn giả há vì cái bát này mà hiện thần thông hay sao?”, đáp: “đúng hay sai thì tôi cũng đã làm rồi”, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “Bí-sô không được hiện thần thông trước người thế tục, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp. Bát có bốn loại bằng vàng, bạc, lưu ly và pha lê ; lại có bốn loại bằng đá du, đồng đỏ, đồng trắng và gỗ. Bốn loại bát trước nếu trước không có thì không được thọ, nếu trước đã có rồi thì nên vất bỏ; bốn loại bát sau nếu trước không có thì không được thọ, nếu trước đã có thì nên dùng làm tô đựng thuốc tù thời thọ dụng. Bát như pháp chỉ có hai loại bằng sắt và bằng gốm sứ”. Thời gian sau, nơi Hỏa sanh xuất hiện đầy đủ diệu tướng của chư thiên. Lúc đó ở giữa thành Chiêm ba và thành Vương xá có một trạm thu thuế, vị thuế quan qua đới thác sanh trong loài dược xoa, trong đêm về báo mọâng cho con rằng: “cha qua đời thác sanh trong loài dược xoa, ngay nơi chỗ thu thuế con hãy lập một cái miếu thờ thần Dược xoa, ở trước cửa treo một cái linh. Nếu ai mang vật phải đóng thuế đi qua đây mà không nộp thuế thì linh này sẽ rung lên, lúc đó con sẽ gọi họ lại, thu thuế rồi mới cho đi”, người con tỉnh dậy kể lại giấc mông cho thân tộc biết, vài ngày sau đó cùng lập cái miếu thờ thần Dược xoa ngay nơi chỗ trọng yếu vào treo cái linh ở trước cửa. Trong thành Chiêm ba có vợ của một Bà-la-môn, lúc đó bà suy nghó: “chồng ta đi khắp nơi kinh doanh mua bán, đem tài vật về cho ta thọ dụng, ta ăn rồi ngồi không là điều không nên”, nghó rồi liền vào trong chợ mua chỉ sợi Kiếp bối mang về se thành sợi mịn rồi bảo thợ dệt dệt thành hai tấm vải thật đẹp trị giá ngàn tiền vàng. Sau đó bà đưa cho chồng nói rằng: “hai xấp vải này trị giá ngàn tiền vàng, chàng hãy mang ra chợ bán, nếu có người mua thì tốt, nếu không có ai mau thì nên đi đến chỗ khác bán”. Người chồng mang hai xấp vải này đến trong chợ rao bán ngàn tiền vàng nhưng không có ai hỏi mua, ông liền cuộn hai xấp vải lại để vào bên trong cán dù rồi tháp tùng theo đoàn thương nhân đi đến thành Vương xá. Khi đến chỗ thuế quan, mọi người đóng thuế xong khi đi ngang qua miếu thờ thần Dược xoa thì cái linh rung lên, thuế quan nghe rồi liền nói: “cái linh kêu chắc là có người chưa đóng thuế, hãy kiểm soát lại chớ để mất”. Sau khi kiểm soát lại xong, họ liền cho đoàn thương nhân đi qua thì cái linh lại rung lần nữa, như thế đến lần thứ ba khiến các thương nhân bực dọc nói với thuế quan : “các ông muốn chèn ép chúng tôi nên tìm phương tiện giữ lại”. Thuế quan chia đoàn thương nhân làm hai nhóm để kiểm tra, nhóm không có Bà-la-môn này thì khi đi qua miếu, cái linh không rung ; nhóm có Bà-la-môn này khi đi qua miếu thì cái linh lại rung lên. Thuế quan giữ lại nhóm thứ hai và chia làm hai nhóm như trên, cuối cùng chỉ còn lại một mình Bà-la-môn. Bà-la-môn này nói: “cứ xét trên người tôi nếu có vật đóng thuế thì cứ lấy”, thuế quan xét không thấy liền cho đi qua thì cái linh lại rung lên. Thuế quan nói: “dùù ông có mang tài vật gì, chúng tôi cũng không thu thuế nữa. Nay ông phải nói thật, đừng dối với thần linh, tôi nuốn cho ông biết thần linh là Thánh”, Bà-la-môn nói: “nếu ông không lấy thuế thì tôi nói thật”, nói rồi liền lấy hai xấp vải từ bên trong cán dù ra, thuế quan thấy rồi hết sức kinh ngạc khen là hi hữu : “thần linh quả thật báo điềm không sai”, nói rồi liền lấy một xấp vải trương ra khoác lên tượng thần. Bà-la-môn nói: “ông nói không lấy thuế, nay làm như vậy là muốn lấy vải của tôi”, thuế quan nói: “đừng lo sợ, tôi chỉ muốn chứng tỏ lời thần nói không sai, tạm khoác lên báo ân thần rồi sẽ trả lại cho ông”, nói rồi đưa trả lại xấp vải. Bà-la-môn lại cuộn hai xấp vài cào bên trong cán dù rồi tiếp tục đi đến thành Vương xá, vào trong chợ rao bán với giá ngàn tiền vàng cũng không có ai hỏi mua như lần trước, ông liền nói là chợ không người. Lúc đó trưởng giả Hỏa sanh từ trong cung vua đi ra, cỡi voi đi vào phố chợ để về nhà, nghe lời nói này của Bà-la-môn, lấy làm ngạc nhiên nên cho người gọi đến hỏi nguyên do. Bà-la-môn đáp: “tôi có hai xấp vải trị giá ngàn tiền vàng nhưng không có người hỏi mua”, Hỏa sanh nói: “hãy mang lại đây cho ta xem thử”, Hỏa sanh xem xong rồi nói: “một tấm còn mới, một tấm đã mặc rồi. Nay ta trả giá tấm đã mặc rồi hai trăm năm mươi tiền vàng, tấm chưa mặc năm trăm tiền vàng”, Bà-la-môn nói: “vì sao lại nói như vậy, cả hai tấm đều chưa mặc”, Hỏa sanh nói: “ta sẽ cho ngươi xem rõ thật hư, nếu tấm chưa mặc tung lên không trung thì nó sẽ trụ như cái lọng rồi rơi xuống đất từ từ ; tấm đã mặc rồi tung lên thì nó rơi ngay xuống đất”, Bà-la-môn nhìn thấy rồi khen rằng: “thật hi hữu, ông là người đại trí, thần duệ siêu quần”, Hỏa sanh lại nói: “tấm chưa mặc để trên gai thì mũi gai nhọn không xuyên qua được ; tấm đã mặc rồi thì ắt bị gai nhọn xuyên qua”, Bà-la-môn nhìn thấy rồi khen ngợi như trên rồi nói: “tôi theo giá đã trả, ông hãy lấy vải”, Hỏa sanh nói: “ông là khách đi lại nên cần có sự cúng dường, tôi không giảm giá, ông cứ nhận đủ ngàn tiền vàng”, Bà-la-môn nhận tiền rồi hoan hỉ ra đi, Hỏa sanh đem tấm đã mặc rồi đem cho gia nhân dùng, tấm chưa mặc thì dùng làm khăn tắm cho mình. Một hôm, vua Ảnh thắng cùng quần thần lên lầu gác cao, tấm khăn tắm nay phơi trên lầu gác của Hỏa sanh bị gió thổi bay đến chỗ vua, vua nói: “y này là của trời hay từ đâu bay đến đây?”, đại thần nói: “thần nghe nói thuở xưa có vua tên Mạn-đà-la, trong bảy ngày trời mưa vàng và ngọc báu; nay có y rơi xuống chỗ vua, không lâu nữa sẽ tới mưa vàng”, vua nói: “ta nghe Phật thọ ký Hỏa sanh có đầy đủ diệu tướng của chư thiên, thiên y này ta sẽ đem tặng cho Hỏa sanh”. Sau đó Hỏa sanh đến, vua đem thiên y tặng, Hỏa sanh đưa tay đón nhận, vừa nhìn liền biết là vật của mình liền móm cười hỏi vua: “Đại vương đã tiếp xúc vật này chưa?”, đáp là đã, Hỏa sanh nói: “nếu Đại vương đã tiếp xúc xin hãy rửa tay, vì đây không phải là thiên y mà là khăn tắm của thần”, vua hỏi làm sao biết được, đáp: “thần còn một tấm giống như vậy đã đem cho gia nhân dùng, Đại vương có thể nghiệm biết”, vua lại hỏi: “hiện nay diệu tướng của chư thiên đã xuất hiện nơi khanh hay chưa?”, đáp là đã xuất hiện, vua nói: “nấu vậy sao khanh không mời ta đến nhà của khanh?”, đáp: “nếu Đại vương nhận lời thì hôm nay thần xin thỉnh”, vua nói: “vậy khanh hãy trở về lo liệu thức ăn uống”, Hỏa sanh nói: “Đại vương, nếu người có diệu tướng của chư thiên xuất hiện thì tự nhiên có sẵn, không cần lo liệu gì cả. Ngay bây giờ thần xin thỉnh Đại vương đến nhà dự tiệc”. Vừa đến cửa cổng nhìn thấy người tớ gái của Hỏa sanh, vua liền nhìn xuống đất, Hỏa sanh hỏi vì sao, vua nói: “ta tránh nhìn vợ khanh”, Hỏa sanh nói: “đó là người hầu bên ngoài, không phải vợ của thần”, vua khen là hiếm có. Vừa vào trong nhà nhìn thấy phụ nữ, vua cũng nhìn xuống đất… giống như trên cho đến câu vua khen là hiếm có. Lúc đó vua nhìn thấy nên nhà bằng lưu ly trong suốt như ao nước trong, bên trên cửa có đặt cá máy, bóng hiện xuống nền nhà lung linh, vua liền tháo giày ra. Hỏa sanh hỏi vì sao, vua đáp là sợ ướt giày, Hỏa sanh nói: “đây là nên nhà bằng lưu ly, không phải nước”, vua lại hỏi vì sao có ca ở trong đó, đáp: “đó không phải là cá thật, chỉ là bóng của cá máy ảnh hiện xuống nền”. Vua không tin, liền tháo chiếc nhẫn ném xuống, nhẫn chạm đất phát ra tiếng kêu rồi lăn sang một bên, Vua trầm trồ khen ngợi mãi rồi lên tòa sư tử ngồi. Lúc đó tất cả người trong nhà đều ra bái yết vua, chưa kịp đứng lên thì các người nữa đều chảy nước mắt, vua hỏi Hỏa sanh vì sao, đáp: “không phải họ khóc, vì y phục của vua được xông bằng khói hương chiên đàn trầm thủy nên khiến họ chảy nước mắt”. vua Ảnh thắng ở nhà Hỏa sanh thọ hưởng diệu lạc thù thắng như của cõi trời nên thích thú, không muốn trở về cung, bỏ phế việc triều chánh. Các đại thần yêu cầu Thái tử Vị sanh oán đến nhà Hỏa sanh thỉnh vua trở về cung, Thái tử bèn đến gặp vua tâu rằng: “Đại vương, vì sao cứ ở mãi nơi đây, không đoái tới triều chánh?”, vua nói: “con là Thái tử, không lẽ không thể đảm đương việc triều chánh trong một ngày được hay sao?”, Thái tử nói: “Đại vương nói chỉ có một ngày hay sao, Đại vương xuất cung đến nay đã bảy ngày rồi”, vua nghe nói rồi quay lại nhìn Hỏa sanh hỏi: “thật đã bảy ngày rồi hay sao?”, đáp là đúng vậy, vua hỏi: “làm sao phân biệt được ngày đêm?”, đáp: “nhờ thấy hoa nở hay khép, ngọc báu sáng hay tối, chim hót hay không hót mà biết là ngày hay đêm”, vua nói: “nhưng ta vẫn chưa biết”, đáp: “có loại hoa đêm nở, ban ngày khép; cũng có loại ban đêm khép, ban ngày nở. Có loại ngọc báu ban đêm sáng, ban ngày tối; cũng có loại ban đêm tối, ban ngày sáng. Chim cũng vậy, có loại hót vào ban đêm, có loại hót vào ban ngày”, vua nghe nói rồi cho là hi hữu, nói rằng: “lời Thế tôn nói quả là không hư vọng, đúng như lời Phật thọ ký, nay khanh đều thọ hưởng tất cả”.  CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 3 Nhiếp tụng thứ hai (tiếp theo): Lúc đó Thái tử Vị sanh oán vào trong nhà của Hỏa sanh thấy ngọc báu đẹp nên lén lấy đưa cho tùy tùng cầm, khi trở về cung liền bảo đưa lại, tùy tùng mở tay ra thì chỉ thấy tay không liền đáp: “không biết ngọc báu biến đâu mất rồi”, Thái tử nổi giận đánh, Hỏa sanh hỏi nguyên do, Thái tử nói: “ta là giặc nhỏ, nó là giặc lớn. Ta lén lấy ngọc báu trong nhà của khanh nhưng lại bị kẻ tiểu nhân này trộm lại”, Hỏa sanh nói: “không phải Thái tử trộm, cũng không phải kẻ kia trộm lại. Sau khi Thái tử tử lấy đi, vật ấy tự trở về chỗ cũ. Tài sản của thần đều là của Thái tử, Thái tử cần bao nhiêu cứ tùy ý mang đi, cần gì phải lén lấy”, Thái tử im lặng rồi suy nghó: “sau khi phụ vương qua đời, ta sẽ lấy tất cả”. Sau khi Thái tử nghe lời xúi giục của Đề-bà-đạt-đa, giết hại vua cha rồi tự lên ngôi xưng là vua quán đảnh, lúc đó vua Vị sanh oán bảo Hỏa sanh: “khanh là em ta, hãy cùng phân chia tài sản”, Hỏa sanh suy nghó: “kẻ giết người cha anh minh của mình để tự lên ngôi thì lẽ nào lại dung thứ cho ta. Nay ác vương này muốn đoạt tài sản của ta, ta nên đồng ý trước”, nghó rồi liền nói: “Đại vương, trước đây thần đã có ý dâng hết tài sản cho Đại vương thì còn phân chia gì nữa. Đại vương hãy đến ở trong nhà thần, thần sẽ đến ở trong vương cung”, vua nói: “lành thay, hãy làm theo ý khanh”. Khi Hỏa sanh vào ở trong vương cung thì những diệu tướng kia đều chuyển theo vào trong vương cung, như thế đến bảy lần, diệu tướng đều đi theo Hỏa sanh mà không theo vua. Vua suy nghó: “ta không thể lấy được những vật báu của Hỏa sanh, hãy dùng phương tiện khác”, nghó rồi liền bảo kẻ trộm đến trong nhà của Hỏa sanh lấy trộm. Kẻ trộm tuân lịnh vua treo tường để vào nhà lấy trộm, người nhà trông thấy kêu lên, Hỏa sanh nghe rồi liền nói: “hãy giữ kẻ trộm lại”, kẻ trộm liền như bị đóng đinh trên đầu tường không thể leo xuống được. Đến sáng, mọi người vây lại gạn hỏi, liền đáp: “vua sai tôi đến lấy trộm”, mọi người nghe rồi đều tức giận nói: “đó là kẻ ác, đã giết oan vua cha vô tội, nay còn sai trộm đến, thật không thể tha thứ được”. Vua nghe biết việc này rồi liền sai sứ đến bảo thả kẻ trộm ra, Hỏa sanh liền bảo kẻ trộm đi đi, lúc đó kẻ trộm mới leo xuống được. Hỏa sanh suy nghó: “kẻ kia còn có thể giết cha mình mà không hại ta thì không có lý đó; lẽ nào vì tài sản mà phải bỏ mạng hay sao. Trước đây Phật đã thọ ký ta sẽ ở trong giáo pháp của Phật xuất gia, được Lậu tận chứng quả A-la-hán; nay ta nên bỏ tục xuất gia, đem tất cả tài bảo trong nhà bố thí hết cho những người nghèo khổ, cô độc khiến cho họ được sung túc”. Sau đó Hỏa sanh từ giả thân bằng quyến thuộc đi đến chỗ Phật đảnh lễ rồi chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, xin cho con được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô, tu tập phạm hạnh, phụng sự Thế tôn”, thiện lai các Bí-sô, hãy xuất gia tu phạm hạnh”, Phật liền bảo: “thiện lai Bí-sô, tu tập phạm hạnh”, vừa nói xong, râu tóc của trưởng giả này tự rụng, ca-sa hiện trên thân trở thành Bí-sô, giống như người đã được xuất gia bảy ngày, oai nghi đầy đủ giống như Bí-sô trăm tuổi. Phật nói kệ: “Thế tôn gọi “Thiện lai”, Tóc rụng, đủ y bát, Các căn đều tịch tónh, Thành tựu theo ý niệm”. Lúc đó Phật tùy căn cơ chỉ dạy, Hỏa sanh tinh tấn siêng tu, quán sanh tử luân hồi dao động không ngừng trong năm đường, các hành hữu vi đều hoại diệt, là pháp đáng nhàm lìa thường bị hủy tổn, tuy vui trong chốc lát nhưng chịu khổ lâu dài; tuy có quả báo trên cõi trời nhưng cuối cùng cũng hoại diệt. Quán thấy rõ rồi liền đoạn trừ các phiền não, chứng A-la-hán, ba minh, sáu thông , đủ tám giải thoát, được như thật tri: sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc nên làm đã làm xong, không còn thọ thân sau. Tâm không chướng ngại như tay nắm hư không, như dao cắt mùi thơm, yêu ghét không khởi, xem vàng và đất như nhau không khác, tất cả danh lợi đều xả bỏ, Thích Phạm chư thiên thảy đều cung kính. Lúc đó các Bí-sô đều khởi nghi thỉnh hỏi hỏi Phật: “Thế tôn, trưởng giả Hỏa sanh đã tạo nghiệp gì mà được quả báo sanh trong nhà giàu có, thọ dụng đầy đủ; lại do tạo nghiệp gì mà cùng mẹ đồng một lúc chịu lửa thiêu đốt; lại do tạo nghiệp gì mà được đầy đủ diệu tướng của chư thiên; lại do tạo nghiệp gì mà được xuất gia trong giáo pháp của Phật, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán?”, Phật nói: “các thầy lắng nghe: Quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp có Phật ra đời hiệu là Tỳ- bà-thi Như lai, Ứng cúng chánh đẳng giác, đầy đủ mười hiệu. Phật cùng đại chúng Bí-sô có tới sáu mươi hai ngàn vị tuần tự du hành đến thành Thân tuệ, trụ trong rừng Thân tuệ. Vua hiệu là Hữu thân, có phước đức lớn, trong nước thái bình thịnh vượng, không có chiến tranh, nhân dân no ấm. Trong thành có một trưởng giả tên là Thiên phận, nhà giàu có, thọ dụng đầy đủ… giống như Tỳ sa môn thiên vương. Lúc đó trưởng giả suy nghó: “ta tuy thường thỉnh Phật Tỳ-bà-thi và các Thánh chúng thọ thực, nhưng chưa từng cúng dường tứ sự trong ba tháng an cư. Nay ta nên đến thỉnh Phật và Tăng cúng dường tứ sự trong ba tháng an cư”, nghó rồi liền đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho trưởng giả được lợi hỉ rồi liền im lặng. Trưởng giả đứng dậy bạch Phật: “cúi xin Phật thương xót thọ con cúng dường tứ sự trong ba tháng an cư”, Phật im lặng nhận lời, trưởng giả biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật rồi ra về. Lúc đó vua Hữu thân nghe Phật Tỳ-bà-thi cùng đại chúng đã đến nước mình và đang ở trong rừng liền suy nghó: “ta tuy thường thỉnh Phật Tỳ-bà-thi và các Thánh chúng thọ thực, nhưng chưa từng cúng dường tứ sự trong ba tháng an cư. Nay ta nên đến thỉnh Phật và Tăng cúng dường tứ sự trong ba tháng an cư”, nghó rồi liền đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho vua được lợi hỉ rồi liền im lặng. Vua đứng dậy chắp tay bạch Phật: “con tuy thường thỉnh Phật và các Thánh chúng thọ thực, nhưng chưa từng cúng dường tứ sự trong ba tháng an cư. Cúi xin Phật và Tăng thương xót thọ con cúng dường tứ sự trong ba tháng an cư”, Phật nói: “Đại vương, ta đã thọ trưởng giả Thiên phận thỉnh cúng dường trong ba tháng an cư rồi”, vua nói: “nếu Phật không nhận lời vì đã thọ Thiên phận thỉnh, con sẽ bàn với Thiên phận, chắc ông ta sẽ đồng ý”, Phật nói: “nếu ông ta đồng ý thì ta sẽ thọ Đại vương thỉnh”, vua nghe lời Phật dạy, đảnh lễ rồi trở về cung. Sau đó vua sai sứ triệu trưởng giả Thiên phận đến, nói rằng: “khanh biết không, nay ta thỉnh Phật và Tăng, muốn mình là người cúng dường trước ; khanh hãy cúng sau không muộn”, đáp: “Đại vương, thần đã thỉnh Phật và Tăng trước rồi, nguyện này không thể làm trái”, vua nói: “tuy là như vậy, nhưng khanh ở trong nước ta, theo lý khanh nên nhường cho ta cúng dường trước”, đáp: “tuy thần là người của vua, nhưng xét cạn lý thì thần là người thỉnh trước; nếu vua cố ép thì trái với đạo nghóa”, vua nói: “khanh không do ham muốn nên được toại ý, nhưng ta muốn cùng khanh cúng cách ngày, nếu người nào cúng tươm tất hơn thì người đó tùy ý được thỉnh”, đáp: “xin vâng theo lời vua”. Ngay trong đêm ấy, trưởng giả cho lo liệu đầy đủ các món ăn thơm ngon thượng diệu, sáng hôm sau nơi chỗ thiết thực, trưởng giả dùng bình lớn đựng nước sạch rồi sai người đến bạch Phật đã đến giờ thọ thực. Phật Tỳ-bà-thi đắp y mang bát cùng Tăng chúng đi đến nhà trưởng giả; thấy Phật và Tăng ngồi xong, trưởng giả tự tay dâng cúng khiến cho Phật và Tăng đều được no đủ. Sau đó lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi trước Phật nghe pháp, Phật tùy căn cơ thuyết diệu pháp khiến cho trưởng giả được lợi hỉ rồi đứng dậy ra về. Ngày hôm sau đến lượt vua thiết cúng cũng giống như vậy, cứ như thế hai người luân phiên cúng dường, không ai hơn ai. Vua thấy vậy ngồi chống cằm ưu tư, các đại thần thấy vậy liền hỏi nguyên do, vua nói: “làm sao ta không lo buồn, người khách ở nhờ trong nước ta cùng ta cúng dường Phật và Tăng, ta không hơn được nên mới như thế”, đại thần nói: “trong nhà trưởng giả không có củi, cần phải mua củi bên ngoài; vua ra lịnh những người bán củi không được bán, trưởng giả không mua được củi thì không thể làm thức ăn được”, vua nghe rồi liền làm theo lời đại thần. Trưởng giả ngày hôm đó không mua được củi, liền dùng gỗ thơm chiên đàn trong nhà để chụm lửa, lại dùng dầu thơm thoa lên vải đốt để nấu thức ăn, mùi thơm bay khắp trong thành. Vua nghe mùi thơm này lấy làm lạ hỏi, đại thần đem việc trên tâu vua rồi nói: “xin vua thu hồi lịnh cấm bán củi, không nên làm như thế, vì sao, vì trưởng giả không có con, sau khi qua đời, tài sản đã có đều thuộc về vua tùy ý thọ dụng”, vua nghe rồi liền thu hồi lịnh cấm bán củi. Trưởng giả nghe biết việc này liền tức giận nói ra lời ác rằng: “với số gỗ thơm đã có trong nhà ta, có thể thiêu đốt cả vua cùng mẹ ở một chỗ”. Sau đó vua cũng ngồi chống cằm ưu tư như trước, quần thần tâu: “xin vua chớ lo buồn, thần có cách làm cho trưởng giả cúng dường không bằng Đại vương”. Vào ngày vua cúng dường, quần thần cho người quét dọn sạch gạch đá trên các nẽo đường trong thành, rưới nước thơm, xông hương thơm, rải hoa thơm và treo phan phướng, khắp nơi đều được trang hoàng đẹp đẽ như vườn Hoan hỉ cõi trời. Trong nhà ăn, trải chỗ ngồi báu trang nghiêm với các tua ren báu, chuẩn bị các món ăn với đủ loại mỹ vị thơm ngon để cúng dường Phật và Tăng. Chuẩn bị đâu đó xong xuôi rồi tâu vua: “chúng thần cùng nhau chuẩn bị đâu đó xong xuôi cả rồi, vua nên vui mừng”, vua đích thân đi xem xét và khen là hiếm có, sau đó sai sứ đến bạch Phật đã đến giờ thọ thực. Phật đắp y mang bát cùng chúng tăng đi đến trong vương cung, ngồi vào chỗ thọ thực; vua ra lịnh cho voi lớn quán đảnh cầm lọng báu che phía trên cho Phật, các voi khác đều cầm lọng che cho các Bí-sô; đại phu nhân của vua cầm quạt báu quạt cho Phật, các cung nữ khác quạt cho các Bí-sô; vua và các đại thần tự tay dâng thức ăn cúng dường Phật và Tăng… như trên. Lúc đó trưởng giả Thiên phận bảo gia nhân đến chỗ vua thiết cúng xem vua cúng dường như thế nào, gia nhân thứ nhất cho đến thứ ba đến nhìn thấy cảnh tượng này rồi quên trở về báo lại. Trưởng giả đích thân đến xem, nhìn thấy rồi liền khen là hi hữu, nghó rằng: “các món ăn với đầy đủ mỹ vị như thế thì ta có thể làm được, nhưng voi và các cung nhân thì ta không làm sao có được”, nghó rồi trở về nhà bảo người giữ cửa: “nếu thấy có ai đến xin gì thì cứ cho nhưng không cho vào nhà”, nói rồi buồn bã vào trong phòng. Vua trời Đế thích thường dùng thiên nhãn quán sát nhân gian, lúc đó Đế thích thấy trưởng giả Thiên phần ở trong phòng buồn bã, quán biết tâm niệm của ông nên suy nghó: “Phật là phước điền tối thắng trong thế gian, Thiên phận là đại thí chủ bậc nhất, ta nên giúp ông ấy”, nghó rồi liền hóa ra một Bà-la-môn đến trước cửa nhà trưởng giả nói với người giữ cửa : “hãy vào báo với trưởng giả là có đại Bà-la-môn dòng Kiều thi ca đang ở ngoài cửa muốn gặp”, người giữ cửa nói: “trưởng giả có dặn, nếu thấy có ai đến xin gì thì cứ cho, vậy ông cần gì cứ nói, tôi sẽ cho ông tùy ý mang đi, không cần phải gặp trưởng giả”, Bà-la-môn nói: “tôi không xin gì cả, chỉ muốn gặp trưởng giả mà thôi”, người giữ cửa bèn vào trong báo lại, trưởng giả nói: “nấu vậy thì hãy cho ông ta vào”. Bà-la-môn vào liền hỏi trưởng giả vì sao ưu sầu, trưởng giả nói kệ: “Ai giải tỏa được buồn, Tôi mới cùng nói chuyện, Nếu không giải tỏa được, Sẽ không cùng nói chuyện”. Bà-la-môn nói: “nếu trưởng giả có chuyện buồn thì tôi có cách giải tỏa nỗi buồn”, trưởng giả kể lại sự việc, Bà-la-môn hiện trở lại thân Đế thích nói với trưởng giả: “ta sẽ sai trời Xảo diệu đến giúp trưởng giả”, nói rồi liền biến mất. Về đến thiên cung, Thiên đế bảo trời Xảo diệu: “ông hãy đến châu Thiệm bộ giúp đỡ trưởng giả Thiên phận”, đáp lành thay. Vào sáng sớm của ngày trưởng giả cúng dường, trời Xảo diệu đến trong thành tùy ý biến hóa trang hoàng đường sá hết sức kỳ xảo, gấp bội của vua; trong nhà ăn, trải tọa cụ của cõi trời, đầu bếp trời nấu thức ăn; sai voi lớn cầm lọng báu che cho Phật, các voi khác cầm lọng che cho các Bí-sô; lại sai các thiên nữ cầm quạt quạt cho Phật và các Bí-sô. Vua sai sứ đến xem trưởng giả cúng dường như thế nào, sứ giả đến xem rồi quên trở về báo lại, như thế cho đến các đại thần, Thái tử đến cũng đều không ai trở về. Vua lấy làm lạ nên đích thân đến xem, Phật thấy vua đến liền bảo trưởng giả: “vị vua này đã thấy Chân đế, ông đã nói lời ác đối với vị ấy, vua đang ở ngoài cửa, ông nên ra tạ lỗi”, trưởng giả nghe rồi liền ra ta lỗi với vua và thỉnh vua vào trong nhà. Vua nhìn thấy mọi việc rồi khen là hi hữu, nói với trưởng giả: “từ nay khanh có thể cúng dường Phật và Tăng hằng ngày, không phải là việc mong cầu của ta nữa”. Trưởng giả cúng dường xong, đảnh lễ Phật và phát nguyện: “nguyện nhờ thắng duyên cúng dường bậc phước điền tối thượng này, ở đời vị lai con thường sanh trong nhà phú quý, tài sản sung túc, thọ đầy đủ diệu tướng của cõi trời. Lại được gặp Phật chứng được pháp thù thắng, lìa các Ái triền; con sẽ thừa sự Phật đại sư, tâm không nhàm chán”. Phật bảo các Bí-sô: “trưởng giả Thiên phận thuở xưa chính là Hỏa sanh ngày nay, do nói lời ác với vua nên trải qua năm trăm đời thường bị đốt cùng với mẹ; nhờ thiện nghiệp cúng dường Phật Tỳ-bà-thi và phát nguyện nên thường được sanh trong nhà phú quý… ở trong giáo pháp ta xuất gia, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán. Này các Bí- sô, thần thông đạo lực của ta và Phật Tỳ-bà-thi bình đẳng, cho nên ai cúng dường thừa sự với tâm ân trọng đều được quả báo thù thắng. Hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo thuần đen…”, các Bí-sô nghe Phật dạy xong đều tín thọ phụng hành. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ nhất: Vá bát, chứa tư cụ, Dao nhỏ và ống kim, Cột phơi y có ba, Bậc đại tiên khai cho. Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có Bí-sô đem cái bát bị lủng đến chỗ thợ thiếc nhờ vá giùm, thợ thiếc này suy nghó: “các Thích ca tử này đều là người ở không, chỉ muốn nhờ làm giùm, không trả tiền; nếu ta làm thì họ sẽ tiếp tục đến nhờ vả mãi, công việc của ta sẽ bỏ phế, ta nên hẹn lần lữa”, nghó rồi liền nói với Bí-sô: “hôm nay tôi bận, ngày mai hãy đến”, ngày mai đến lại hẹn ngày sau, cứ như thế hẹn lần lữa khiến Bí-sô tới lui mệt nhọc. Một Bí-sô quen biết thấy vậy liền hỏi: “tôi thấy thầy thường lui tới nhà này, họ là môn đồ hay là bà con với thầy?”, đáp: “họ không phải là môn đồ cũng không phải bà con, chỉ là tôi có cái bát bị lủng muốn nhờ họ vá giùm, nhưng họ cứ hẹn lần lữa mãi khiến tôi tới lui mệt nhọc”, Bí-sô kia nghe rồi nói: “thầy không nghe nói thợ giỏi thường không nói thật hay sao, tôi biết cách vá, nếu Phật khai cho tự làm thì tôi sẽ vá giúp cho thầy”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “nếu Bí-sô nào biết cách làm thì nên làm ở chỗ khuất, dù có người thấy cũng không bị cơ hiềm”, được Phật khai cho làm, Bí-sô này liền đến nói với Bí-sô kia và nhờ vá giùm bát, Bí-sô kia nói: “không lẽ tôi dùng ngón tay để vá bát hay sao, cần phải có tư cụ nữa mới vá được bát”, liền bạch Phật, Phật nói: “do nhân duyên này, từ nay khai cho Tăng được cất chứa tư cụ như sắt để làm, ai cần thì đến mượn, làm xong đem trả lại”. Duyên khởi ở thành Thất-la-phiệt, lúc đó có Bí-sô muốn may ba y, do dùng tay xé vải nên vải bị tổn hoại, bạch Phật, Phật nói: “không nên dùng tay xé vải, nên dùng dao kéo cắt”. Bí-sô liền đến nhà cư só muợn dao kéo về cắt vải, dùng xong đem trả lại, cư só nói: “vật này xin cúng cho thầy”, Bí-sô nói Phật chưa cho thọ, liền bạch Phật, Phật nói cho thọ cất dao kéo. Lúc đó Lục chúng Bí-sô liền dùng vàng bạc, lưu ly… các vật báu với nhiều màu sắc để trang sức trên cán dao kéo; thế tục nhìn thấy liền chê trách: “các thầy còn có sự tham muốn trói buộc tâm hay sao?”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “không được dùng vàng bạc vật báu nhiều màu trang sức trên cán dao kéo, nếu cần dao kéo thì nên dùng thuần bằng sắt”. Sau đó Lục chúng Bí-sô lại làm dao lớn dài và bị chê trách, Phật nói không được cất chứa dao lớn dài. Các Bí-sô lại làm dao quá nhỏ không cắt được vật, Phật nói: “có ba loại dao lớn, vừa và nhỏ; loại lớn dài sáu ngón tay, loại nhỏ dài bốn ngón, loại vừa ở giữa hai loại trên. Hình dáng có hai: một là cong như cánh quạ, hai là như cánh gà, không nên làm mũi nhọn”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó các Bí-sô may ba y dùng cọng tre hay cọng lông chim để xỏ may khiến vải bị hư rách, Phật bảo nên dùng kim. Lục chúng Bí-sô dùng vàng bạc… vật báu để làm kim, cũng giống như trên bị thế tục chê trách, Phật nói: “không được dùng vàng bạc… vật báu làm kim, kim có bốn loại là bằng đồng, sắt, đá du và đồng đỏ”. Lúc đó các Bí-sô dùng kim xong bạ đâu bỏ đó nên bị rỉ sét, Phật bảo nên dùng ống đựng kim; các Bí-sô không biết làm ống kim như thế nào, Phật nói: “có hai loại ống: một là loại ống rút ra được, hai là ống tre; nếu đối với hai loại dao trên sợ bị rỉ sét cũng có thể cất trong ống, giống như cất kim”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Phật cho các Bí-sô may y Tăng-già-lê, các Bí-sô trải vải xếp chồng trên đất nên dơ, Phật nói: “không nên để trên đất, hãy làm cột trụ phơi y”, các Bí-sô không biết làm cột trụ như thế nào, Phật nói: “có hai loại bằng gỗ hay tre”, các Bí-sô giăng y trên cây tre, kéo qua kéo lại, mắc tre làm rách y ; Phật nói: “nên khoan lỗ xỏ dây qua cột trụ để nối hai cột trụ với nhau để phơi y”. Như Phật dạy có ba loại y thượng trung và hạ, y thượng giăng vừa trên trụ cao, hai y trung hạ thì không vừa, Phật nói nên làm ba loại cột trụ tương xứng với ba loại y. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ nhất: Soi gương và soi nước, Không được dùng lược chải, Trên đầu để tóc dài, Phòng tắm, Lật-cô-tỳ. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Lục chúng Bí-sô vào sáng sớm đắp y mang bát vào thành khất thực, thấy thế tục mở rương lấy đồ trang điểm ra, liền cầm lấy cái gương soi mặt rồi tự khen mình đẹp trai. Thế tục liền chê trách: “các vị trên đầu không tóc, dưới nách lông dài thì đẹp ở chỗ nào”, Lục chúng Bí-sô nghe rồi liền im lặng, các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “Bí-sô không được soi gương, ai soi thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó Lục chúng Bí-sô lại soi mặt trong nước và cũng bị chê trách như trên, Phật nói cũng không được soi mặt trong nước. Lúc đó có Bí-sô xem trùng trong nước, nhìn thấy mặt mình nên sanh tâm hối, Phật nói: “xem trùng trong nước, thấy mặt thì không phạm ; cho đến xem trên mặt có mụn hay ung nhọt hoặc xem hình dáng trẻ hay già so với trước đây nên soi gương thì không có lỗi”. Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô khất thực đến nhà thế tục, thấy trong nhà họ có đồ trang điểm, liền cầm lấy cái lược chải tóc trên đầu rồi hỏi nhau có đẹp không và bị thế tục chê trách giống như trên. Phật nói: “Bí-sô không được chải đầu, ai chải thì phạm tội Việt pháp”, lại có Bí-sô dùng bàn chải, cho đến dùng cả lược và bàn chải, Phật đều nói là phạm tội Việt pháp. Duyên xứ như trên, sau khi trải vàng lót trên đất để mua rừng Thệ đa cúng cho Phật và Tăng, trưởng giả Cấp-cô-độc bảo một thợ cạo đến cạo tóc cho Tăng. Người này đến trước cửa liền gặp Lục chúng Bí-sô, họ hỏi: “ngươi có thể cạo chừa lại chỏm tóc trên đảnh đầu hay không?”, đáp: “đây là nghề chuyên môn của tôi”, lúc đang cạo, họ lại bảo chừa nhiều tóc, lại bảo bớt một phần… cho đến bớt tám phần, cuối cùng mắng người thợ cạo: “người ngu này không hiểu gì cả, hãy cạo sạch hết đi”, rồi mới thả cho ra về thì trời đã chiều tối. Trưởng giả hỏi thợ cạo: “anh đã cạo tóc cho bao nhiêu vị?”, đáp là không rảnh đi cạo tóc cho Tăng, rồi đem việc trên kể lại, trưởng giả nghe rồi liền chê trách. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “Bí-sô không nên để chỏm tóc trên đầu, ai để thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ như trên, lúc đó cụ thọ Ngưu ngọa ở trong hang Trư khảm, vườn của vua Xuất quang, núi Thủy lâm, nước Kiều thiểm tỳ. Vào tháng mùa xuân vườn cây tươi tốt, đủ loại chim như A-na-hàm vũ, công, Uyên ương, nỗng nhạn… bay đến hót vang; vua Xuất quang bảo người giữ vườn: “hãy sửa sang cây cỏ trong vườn, dọn sạch gạch đá, để nhiều nước sạch và người hộ vệ, ta sẽ đến trong vườn du ngoạn”. Người giữ vườn theo lịnh vua chuẩn bị đâu đó xong xuôi rồi bạch vua biết thời, vua cùng các cung nhân và tùy tùng vào trong vườn du ngoạn cho đến khi mệt liền nằm nghỉ. Các cung nhân thấy vua đã nằm nghỉ nên dạo khắp nơi hái hoa quả, chợt nhìn thấy cụ thọ Ngưu ngọa râu tóc dài, y trên người rách và dơ, đang ngồi kiết già dưới gốc cây, liền kinh hoàng la lên là có quỷ. Bí-sô nghe la liền trở vào trong hang, lúc đó vua giật mình tỉnh dậy, rút kiếm chạy tới hỏi quỷ ở đâu, đáp là đã vào trong hang. Vua liền đến bên cửa hang hỏi Bí-sô là ai, đáp là Sa môn, vua hỏi là Sa môn gì, đáp là Sa môn Thích tử, vua lại hỏi: “thầy đã chứng quả A-la-hán chưa?”, đáp là chưa, lại hỏi: “đã chứng quả Bất hoàn cho đến quả Dự lưu hay chưa?”, đều đáp là chưa, lại hỏi: “nếu vậy, đã đắc được định thứ nhất cho đến định thứ tư hay chưa?”, đều đáp là chưa, vua nghe rồi liền chuyển sang nổi giận bảo đại thần: “kẻ phàm tục này xúc phạm cung nữ của ta, hãy đem kiến bỏ đầy trong hang để chúng cắn người này”. Lúc đó, thiên thần cựu trụ trong hang nghe vua nói lời này liền suy nghó: “Sa môn thiện này đến đây nương tựa ta, không phạm lỗi gì, chỉ tu hạnh thiểu dục. Vua ác này phi pháp muốn làm hại, ta nên phương tiện giúp đỡ”, nghó rồi liền biến thành một con heo lớn từ trong hang chạy ra. Vua thấy con heo liền bảo đại thần đem ngựa và cung tên đến để vua rượt đuổi theo, lúc đó các cung nữ bảo Bí-sô: “Thánh giả hãy đi mau, nhà vua rất bạo ác có thể hại thầy”, Bí-sô nghe rồi liền mang y bát đi đến thành Thất-la-phiệt. Các Bí-sô thấy liền chào hỏi từ đâu đến, đáp là từ nước Kiều thiểm tỳ đến, lại hỏi có được an lạc không, đáp là suýt bị vua giết hại, nói rồi liền kể lại việc trên. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật bảo gọi Ngưu ngọa đến, Ngưu ngọa liền đến chỗ Phật đảnh lễ rồi đứng một bên, Phật hỏi: “có phải thầy đã tạo hình dáng phi pháp như vậy hay chăng?”, đáp là phải, Phật nói: “thầy thật là người ngu nên mới ở trong hang kia khởi tâm tham luyến”, kế bảo các Bí-sô: “do Bí-sô để tóc dài nên mới có lỗi này, từ nay không được để tóc dài, ai để thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có Bí-sô ở A-lan-nhã vì không có cạo tóc nên phải bỏ ngọa cụ ở đó để đến sống gần tụ lạc, Phật tuy biết nhưng vẫn hỏi A-nan nguyên do, A-nan đem việc trên bạch Phật, Phật nói: “từ nay khai cho Bí-sô ở A-lan-nhã được để tóc dài chừng hai lóng tay, người ở tụ lạc thì để tóc ngắn hơn”. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô bịnh đến thầy thuốc yêu cầu điều trị, thầy thuốc nói: “nên làm phòng tắm, tắm xong thì bình phục”, Bí-sô nói: “lẽ nào ông bảo tôi thọ dục lạc như thế tục hay sao?”, thầy thuốc nói: “ngoài cách này ra, không còn cách nào khác”, liền bạch Phật, Phật nói: “nếu thầy thuốc bảo phải làm phòng tắm mới trị được bịnh thì khai cho làm phòng tắm”. Bí-sô liền trở lại hỏi thầy thuốc cách làm phòng tắm, thầy thuốc nói: “tôi đọc sách thuốc của Luân vương nói làm phòng tắm thì trự được bịnh, nhưng tôi không biết cách thức làm như thế nào. Đại sư của thầy là bậc Nhất thiết trí, thầy hãy đến hỏi”. Bí- sô trở về hỏi Phật, Phật nói: “nên làm phòng tắm như vậy như vậy”, các Bí-sô làm bên trong hẹp bên ngoài rộng, Phật nói: “không nên làm như vậy, nên làm bên trong rộng, bên ngoài hẹp, hình như trái bầu”. Lúc đó bên trong bị khói mịt mù, không có chỗ thoát ra, Phật bảo nên làm cửa sổ; các Bí-sô làm cửa sổ quá thấp, khói vẫn không thoát ra được, Phật bảo không nên làm quá thấp; lại làm quá cao nên bên trong ít ánh sáng, Phật nói: “không nênlàm quá thấp cũng không nên quá cao, nên làm vừa chừng”. Lúc đó chim quạ từ cửa sổ bay vào trong, Phật bảo nên làm chấn song; sau đó lại bị mưa gió tạt vào, Phật bảo nên làm cánh cửa; gió lại thổi bật cửa, Phật bảo nên làm chốt cửa; lại khó mở đóng, Phật bảo nên làm cây chống giống như móng chân dê để đóng mở cửa. Lúc đó phòng tắm không có cửa, Phật bảo nên làm cửa và then cài ; trong phòng tắm, các Bí-sô để bình nước dưới đất, nước bị lạnh nên không thể tắm được; Phật bảo nên kê gạch đá rồi để bình nước ở trên, không quá cao cũng không quá thấp, nên ngang bằng đầu gối. Lúc đó các Bí-sô đốt lửa trên đất làm tổn hại đất, Phật bảo nên lót gạch đá rồi đốt ở trên. Lúc đó trong phòng tắm, lửa đang cháy rực, Bí-sô bước vào liền bị ngất; Phật bảo: “khi lửa đang cháy rực, không nên vội bước vào, nên đợi bớt cháy rồi mới vào”. Các Bí-sô rải lửa ra cho mau tắt, Phật bảo nên gom lại một chỗ; các Bí-sô không biết lấy vật gì gom lửa, Phật bảo nên dùng xẻng sắt. Lại có Bí-sô bị trúng lửa nên ngất, Phật bảo nên dùng ít dầu Man thanh tử hòa với bột rồi bỏ vào trong lửa thì sẽ tỉnh lại; lại có mùi hôi, Phật bảo nên đốt hương thơm. Bí-sô bị chảy nước mắt, Phật bảo nên dùng cục bột chậm; vẫn không hết chảy nước mắt, Phật bảo: “nên dùng Dư cam tử vụn thấm ướt vò thành viên nhỏ dùng để chậm nước mắt”. Lúc đó trong phòng tắm không có ghế ngồi nên mỗi người tự mang đến, bị dính dơ; Phật bảo nên dùng cỏ lót. Chân đi trên đất dính bùn nhơ nhớp, Phật bảo nên trải cỏ; các Bí-sô dùng cỏ khô nên bị cháy, Phật bảo nên trải cỏ tươi; cỏ tươi khó tìm, Phật bảo nên nhúng cỏ khô cho ướt. Lúc đó Bí-sô thoa dầu toàn thân nên ngứa; dùng gạch đá, móng tay gãi nên bị trầy da, Phật bảo nên dùng đá bọt; dùng đá bọt bén nên bị lỗi như trước, Phật bảo mài cho mất chỗ bén rồi mới dùng. Lúc đó các Bí-sô dùng rồi vất bừa bãi nên bị mất, Phật bảo không được vất bừa bãi làm mất, nên dùng dây cột treo trên giá hay cọc. Các Bí-sô dùng đá bọt gãi nên dính mồ hôi và dầu, phải thường dùng nước tẩy; Phật bảo không nên tẩy bằng nước, nên bỏ vào lửa. Lúc đó nhiều người ra vào trong phòng tắm khiến phòng bị lạnh; Phật bảo ra vào nên đóng cửa, nên bảo một Bí-sô giữ cửa. Các Bí-sô ở trong phòng tắm nói chuyện phiếm, Phật bảo không nên nói chuyện phiềm trong nhà tắm, khi tắm nên theo hai nghi pháp là nói như pháp và im lặng như bậc Thánh. Lúc đó các Bí-sô tắm trong phòng làm đọng bùn ầm ướt, Phật bảo không nên tắm trong phòng, nên tắm trong phòng tắm riêng. (Phòng tắm trị bịnh là theo phương Tây dùng gạch xếp theo hình tháp, trên hẹp dưới rộng, chính giữa cao chừng một trượng, bên dưới rộng bảy tám thước, có cửa ở một bên; trong ngoài đều trét tro bùn dày kín, chính giữa để một lò đất để đốt than hay củi khi tắm, khói thông ra cửa sổ. Người tắm ngồi bên lò, hơi nóng trong nồi làm cho thân ra mồ hôi, sau đó lấy dầu thoa khắp thân, tự lau và kỳ cọ hay bảo người khác lau. Cách tắm hơi, xông hơi này có thể tri được các loại bịnh cảm cúm, bịnh gió mà không cần dùng thuốc, không phải chỉ là tắm cho sạch cáu bẩn mà thôi). Lúc đó trong phòng tắm có bùn, Phật bảo dùng gạch đá lót; lại bị đọng nước, Phật bảo nên làm mương thoát nước. Lúc đó người xối nước ngồi ở dưới, người tắm ngồi ở trên nên khi xối, nước văng làm dơ y ; Phật bảo người tắm nên ngồi ở dưới, người xối nước nên ngồi ở trên. Lúc đó các Bí-sô tắm giặt cần dùng xỉ mộc, tháo đậu… phải đến chỗ khác lấy, Phật bảo nên dự trữ các vật này trong nhà tắm, không nên để ở chỗ khác phải đi xa lấy. Sau khi tắm xong, thân bị suy nhược, Phật bảo nên ăn chút ít. Tay dính dầu, mồ hôi khó rửa sạch liền, nếu rửa lâu thì sợ phạm lỗi; Phật bảo nên dùng muỗng để ăn, ăn cháo cũng nên dùng muỗng. Khi ăn cần muối, không có lá để thọ; Phật bảo nên cất chứa cái mâm đựng muối. Khi Phật cho làm phòng tắm, các Bí-sô không biết sai ai làm; Phật bảo nên sai đệ tử môn nhân cùng làm, nếu có thí chủ cũng được nhờ làm. Các Bí-sô khi tắm kỳ cọ cho nhau, Phật bảo khi tắm nên bảo đệ tử theo vào để kỳ cọ cho. <篇> CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 4 - Nhiếp tụng thứ tư (tt): Phật tại thành Quảng nghiêm, trong thành có một Lật-cô-tỳ tử tên Thiện hiền, tánh hạnh chất trực, không có khi dối, hằng ngày đều đến kính lễ Thế tôn. Một hôm, trên đường đi đến gặp Phật bỗng gặp hai Bí- sô Hữu và Địa, hai Bí-sô này trong nhiều đời đã có oán thù với Bí-sô Thật lực tử, khi thấy Thiện hiền liền hỏi đi đâu, đáp là đến kính lễ Thế tôn. Hai Bí-sô này hỏi: “ông đến gặp Thế tôn dùng lời cúng dường, vậy ông có chuẩn bị lời nói nào thù thắng hay chưa?”, đáp là không có, hai Bí-sô liền chỉ vẻ: “khi ông đến gặp Phật nên nói rằng: “Bí-sô Thật lực tử không biết xấu hổ, hành phi pháp, đã cùng vợ của con hành dâm, làm hạnh bất tịnh, phạm Ba-la-thị-ca. Thế tôn nghe rồi chắc chắn sẽ hoan hỉ”. Thiện hiền nghe rồi liền đi đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi đứng một bên bạch Phật: “Thế tôn, Bí-sô Thật lực tử không biết xấu hổ, hành phi pháp, đã cùng vợ của con hành dâm, làm hạnh bất tịnh, phạm Ba-la- thị-ca.”, nói xong liền ra về, Phật bảo các Bí-sô: “Lật-cô-tỳ tử kia nói lời phỉ báng, khi dối; các thầy nên làm yết ma phú bát cho ông ta, nếu có ai giống như vậy, Tăng cũng nên làm yết ma phú bát. Tác pháp như sau: trải tòa, đánh kiền chùy, Tăng tập họp, trong Tăng nên sai một Bí- sô tác bạch yết ma: Đại đức Tăng lắng nghe, Lật-cô-tỳ tử Thiện hiền đã đem pháp Ba-la-thị-ca không căn cứ vu báng cho Bí-sô thanh tịnh Thật lực tử. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay tác yết ma phú bát cho Thiện hiền. Bạch như vậy. Tăng tác yết ma phú bát xong thì các Bí-sô không được đến nhà người ấy, nếu có đến cũng không được ngồi, không được thọ thức ăn uống, cũng không được thuyết pháp cho họ”. Phật lại bảo A-nan: “thầy hãy đi đến nhà của Thiện hiền nói với ông ta rằng: “Tăng đã tác yết ma phú bát cho ông rồi”, tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy đến nhà Thiện hiền, không có ông ta ở nhà nên tôn giả hỏi người vợ: “Thiện hiền đang ở đâu?”, đáp: “ông ấy có việc nên đi vắng, đại đức cần gặp có chuyện gì không?”, tôn giả nói: “bà nên biết Tăng đã tác yết ma phú bát cho chồng bà”, lại hỏi yết ma phú bát là gì, đáp: “nếu người nào bị Tăng tác yết ma phú bát thì các Bí-sô không được đến nhà người ấy, nếu có đến cũng không được ngồi, không được thọ thức ăn uống, cũng không được thuyết pháp cho họ”, người vợ nói: “theo lời nói này thì Tăng đã vì chồng con mà phát thẻ lập chế không qua lại nữa, nhưng chồng con có lỗi gì mà bị phú bát?”, đáp: “chồng bà đến gặp Phật nói rằng: “Bí-sô Thật lực tử không biết xấu hổ, hành phi pháp, đã cùng vợ của con hành dâm, làm hạnh bất tịnh, phạm Ba-la-thị-ca”, người vợ nghe xong liền vào phòng, tôn giả ra về. Lúc đó Thiện hiền giải quyết xong công việc liền trở về nhà, người vợ nói: “chàng biết không, Thánh chúng đã tác yết ma phú bát cho chàng”, Thiện hiền nói lành thay, người vợ hỏi: “chàng có biết yết ma phú bát là gì không?”, đáp là không biết, người vợ nói: “người nào bị Thánh chúng tác yết ma phú bát thì các Bí-sô không được đến nhà người ấy, nếu có đến cũng không được ngồi, không được thọ thức ăn uống, cũng không được thuyết pháp cho họ. Có phải chàng đã từng thấy Bí-sô Thật lực tử cùng tôi làm việc phi pháp ở chỗ khuất phải không?”, đáp là không thấy, người vợ nói: “chàng hãy đến sám hối với Đại sư, nếu Đại sư dung thứ cho chàng thì tốt, nếu không dung thứ thì chàng đừng bước vào nhà”. Thiện hiền nghe rồi, trong lòng xấu hổ, sợ hãi liền đi đến gặp Phật, đảnh lễ rồi chắp tay bạch rằng: “Thế tôn, con hằng ngày đều đến kính lễ Thế tôn. Một hôm, trên đường đi đến gặp Phật, con bỗng gặp hai Bí-sô Hữu và Địa, hai Bí-sô này trong nhiều đời đã có oán thù với Bí-sô Thật lực tử, khi thấy con liền hỏi đi đâu, con đáp là đến kính lễ Thế tôn. Hai Bí-sô này hỏi: “ông đến gặp Thế tôn dùng lời cúng dường, vậy ông có chuẩn bị lời nói nào thù thắng hay chưa ?”, con đáp là không có, hai Bí-sô liền chỉ vẻ: “khi ông đến gặp Phật nên nói rằng: Bí-sô Thật lực tử không biết xấu hổ, hành phi pháp, đã cùng vợ của con hành dâm, làm hạnh bất tịnh, phạm Ba-la-thị-ca”. Lời nói đó là do hai Bí-sô kia dạy con nói, không phải là ý của con”, Phật bảo các Bí-sô: “Thiện hiền tuy phỉ báng nhưng vốn không phải là ý mình, các thầy nên tác pháp yết ma ngưỡng bát cho ông ta. Nếu có ai giống như vậy, Tăng cũng nên cho yết ma ngưỡng bát. Tác pháp như sau: trải tòa, đánh kiền chùy, Tăng tập họp; sau khi Tăng tập họp, nên bảo Thiện hiền đến trước vị Thượng tòa chắp tay bạch như sau: Đại đức Tăng lắng nghe, con tên Thiện hiền do bị ác tri thức dối hoặc nên đã đem pháp Ba-la-thị-ca không căn cứ vu báng cho Bí-sô thanh tịnh Thật lực tử. Do việc này, Tăng đã tác yết ma phú bát cho con, con nay theo Tăng xin yết ma ngưỡng bát. Cúi xin Tăng cho con yết ma ngưỡng bát, xin thương xót (ba lần). Kế đó nên đưa Thiện hiền đến chỗ chỉ thấy nhưng không nghe, đứng chắp tay. Một Bí-sô ở trong Tăng tác bạch yết ma như sau: Đại đức Tăng lắng nghe, Lật-cô-tỳ tử Thiện hiền do bị ác tri thức dối hoặc nên đã đem pháp Ba-la-thị-ca không căn cứ vu báng cho Bí-sô thanh tịnh Thật lực tử. Do việc này nên Tăng đã tác yết ma phú bát cho ông ta. Nay Thiện hiền biết lỗi sám hối, theo Tăng xin yết ma ngưỡng bát. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay cho Thiện hiền yết ma ngưỡng bát. Bạch như vậy. Khi Tăng đã tác yết ma ngưỡng bát rồi thì các Bí-sô được đến nhà người ấy, được ngồi, được thọ thức ăn uống và được thuyết pháp cho họ. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thứ nhất: Sanh chi, mặt như gương, Không được ca múa nhạc, Khai cho ngâm vịnh, tán, Dùng bát, cả thảy bốn. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một Bí-sô chuyên tu tịch định, khi ngồi kiết già, sanh chi bỗng khởi lên. Hôm khác sau khi khất thực trở về, thọ thực xong, thu xếp y bát, rửa chân rồi đến bên gốc cây ngồi ngay thẳng tư duy thì sanh chi lại khởi lên. Bí-sô này bị dục làm cho phiền não nên nổi sân, đăït sanh chi lên đá rồi dùng đá đập làm cho tổn hoại. Bí-sô khổ não không chịu đựng nổi liền suy nghó: “Thế tôn từ bi, sao không thương tưởng đến ta”. Lúc đó Phật từ xa biết được tâm niệm của Bí-sô nên đi đến bên cạnh hỏi: “thầy đã làm việc gì?”, Bí-sô đem việc trên bạch Phật, Phật nói: “thầy há không nghe ta đã dạy rằng: Bí-sô khi dục nhiễm phát sanh thì nên quán bất tịnh để ngăn dứt. Tại sao thầy lại làm người ngu si, nên đánh cái này (tâm dục nhiễm) lại đánh cái khác (sanh chi)”, Bí-sô nghe rồi xấu hổ im lạêng. Do việc này, Phật bảo các Bí-sô: “trước đây há ta đã không dạy các thầy: khi tâm dục nhiễm phát sanh thì nên quán bất tịnh, khi tâm sân hận phát sinh thì nên quán từ bi, khi tâm ngu si phát sanh thì nên quán mười hai nhân duyên. Đối với pháp nên tu tập mà lại không tu tập, đối với điều nên đánh mà không đánh, lại đánh cái khác thì phạm tội Việt pháp”. Trong thành này có một trưởng giả cưới vợ không bao lâu liền sanh được một trai, tướng mạo tuấn tú khiến mọi người đều yêu mến. Đứa bé được thương yêu nuôi dưỡng cho đến trưởng thành thì xuất gia trong giáo pháp của Phật, thành tánh Bí-sô. Bí-sô này có duyên sự nên rời khỏi rừng Thệ đa, du hành trong nhân gian, trên mặt bỗng mọc một ung nhọt nên tìm thầy thuốc chữa trị, không may gặp phải thầy thuốc dở dùng kim châm chích, khiến miệng của Bí-sô bị méo xệch. Khi trở về lại trong vườn Cấp, các vị quen biết trước kia không ai thăm hỏi nên Bí-sô này hỏi: “thầy không nhận ra tôi hay sao?”, đáp: “tôi không nhớ có quen thầy, thầy là ai?”, Bí-sô liền đem việc trên kể lại. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “luận về người giữ khuôn mặt cũng như giữ gương sáng, không nên vội cho thầy thuốc không giỏi châm chích trên mặt. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có Bí-sô đầu mặt bị nóng sốt, muốn chích bớt máu nóng trên trán nhưng không tìm được thầy thuốc bậc thượng; Phật nói: “nếu không có thầy thuốc bậc thượng thì nên nhờ thầy thuốc bậc trung lễ lấy máu ra”. Trong thành này có hai nhóm người kết thân hữu với nhau, một nhóm thuộc hạng người mua bán giao dịch, một nhóm là Bà-la-môn; nhóm người mua bán giỏi về ca múa hơn nhóm Bà-la-môn, nhưng thua về chiến đấu. Một hôm, nhóm Bà-la-môn nói với nhau: “nhóm người mua bán ca múa hay hơn chúng ta nhưng thua về chiến đấu, chúng ta làm cách nào để hơn họ về ca múa?”, một người nói: “muốn thắng họ, chúng ta nên học tập ca múa”, một người nói: “ý kiến hay, nhưng nên học ca múa với ai?”, một người nói: “Lục chúng Bí-sô giỏi âm nhạc và ca múa, chúng ta nên cầu học. Các vị ấy đa tham, thích tài vật ; nếu họ yêu cầu điều gì, chúng ta nên đáp ứng”. Bàn xong họ cùng đi đến chỗ Lục chúng Bí-sô, đảnh lễ rồi bạch rằng: “cúi xin các đại đức từ bi dạy chúng tôi ca múa”, đáp: “nếu cung cấp đầy đủ bánh trái thì ta sẽ dạy”, họ nghe rồi liền cung cấp đầy đủ bánh để theo học ca múa. Thời gian sau, trong lễ hội nhóm Bà-la-môn này không những thắng nhóm người kia về chiến đấu mà ngay cả ca múa cũng thắng luôn. Nhóm người kia liền hỏi nguyên do, đáp: “đó là do chúng tôi cố công học tập ca múa”, lại hỏi là ai dạy, đáp là Lục chúng Bí-sô. Nhóm người kia nghe rồi liền sanh tâm cơ hiềm, nói rằng: “Sa môn Thích tử hành pháp trạo cử, ca múa chơi nhạc, lại còn dạy cho thế tục”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do ca múa nên có lỗi này, từ nay Bí-sô không được học ca múa, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó nhóm Bà- la-môn quên âm nhạc của họ nên đến yêu cầu Lục chúng Bí-sô ôn tập giúp, đáp là Phật đã chế ngăn, Bà-la-môn nói: “nếu vậy nên lược bớt”, Lục chúng Bí-sô nghe rồi liền lược bớt phần ca múa nhạc để dạy họ. Khi đến lễ hội, nhóm Bà-la-môn này lại thua nhóm kia về ca múa nên họ chê trách: “Sa môn Thích tử dạy lược bớt làm cho chúng ta thua”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “Bí-sô không nên lược bớt phần ca múa nhạc của người khác, ai làm thế thì phạm tội Việt pháp”. Vào thời khác, nhóm Bà-la-môn lại đến yêu cầu Lục chúng Bí-sô dạy về hí nhạc, Lục chúng Bí-sô không dạy, họ nói: “nếu các Thánh giả không dạy, thì xin đến có mặt nơi đó cổ vũ cho chúng tôi được thắng”. Lục chúng Bí-sô liền đến cổ vũ, nhóm kia thấy sanh hổ thẹn, không thể trổ tài được nên chê trách: “Sa môn Thích tử lại hiện diện ở chỗ ca múa”, Phật bảo: “Bí-sô không được đến chỗ ca múa, từ nay Bí-sô nào tự mình ca múa, ngâm, vịnh và dạy cho người khác hoặc lược bớt nhạc của người khác đều phạm tội Việt pháp”. Nhân duyên của tôn giả Thiện hòa: Tại nước Kiều thiểm tỳ có một trưởng giả tên Đại thiện, bẩm tánh nhu hòa, vợ trưởng giả đang có thai. Lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất quán biết thai nhi sau này sẽ được mình hóa độ, chứng quả thắng thượng nên đi đến nhà trưởng giả. Trưởng giả sanh tín tâm, cầu quy y thọ trì năm giới, từ đó tôn giả thường hay lui tới nhà này. Một hôm, tôn giả một mình đi đến nhà trưởng giả, trưởng giả hỏi vì sao lại đi một mình, tôn giả đáp: “thị giả của tôi không ở trong thảo am mà ở chỗ trưởng giả”, trưởng giả liền nói: “vợ con đang có thai, sau này nếu sanh con trai sẽ cho làm thị giả của tôn giả”, tôn giả nghe rồi liền chú nguyện cho đứa bé được khỏe mạnh rồi ra về. Thời gian sau đủ ngày tháng, vợ trưởng giả hạ sanh một bé trai, thân hình ốm gầy xấu xí nhưng lại có âm thanh hòa nhã. Trải qua hai mươi mốt ngày, trưởng giả mở tiệc ăn mừng và đặt tên cho bé, thân thuộc nói: “đứa bé này thân hình ốm gầy xấu xí, nhưng lại có âm thanh hòa nhã, là con của trưởng giả Đại thiện nên đặt tên cho bé là Thiện hòa”. Đợi khi Thiện hòa khôn lớn, tôn giả Xá-lợi- phất vào một buổi sáng đắp y mang bát vào thành khất thực, thứ lớp đến nhà trưởng giả Đại thiện. Trưởng giả thấy liền chào hỏi thiện lai, đảnh lễ tôn giả rồi đón lấy bát đựng đầy thức ăn dâng cúng; lúc đó đồng tử Thiện hòa ra chào tôn giả, tôn giả liền hiện tướng khiến trưởng giả nhớ lại chuyện trước đây. Trưởng giả liền bảo con: “khi con còn ở trong bụng mẹ, cha đã hứa cho con làm đệ tử của tôn giả. Nay đã đến thời, con nên đi theo tôn giả”, đồng tử ở trong đời này thọ thân sau cùng nên rất dễ lìa tục, nghe cha nói rồi liền đi theo tôn giả. Về đến trú xứ, tôn giả cho Thiện hòa xuất gia, sau đó cho thọ giới cụ túc, như pháp giáo hóa, Thiện hòa siêng năng tinh tấn tu tập, không bao lâu sau đoạn trừ phiền não, chứng được quả A-la-hán. Lúc đó Bí-sô Thiện hòa có năng khiếu ngâm vịnh tán tụng kinh pháp, âm thanh trong suốt thấu tận cõi Phạm thiên, ai nghe cũng đều sanh tâm hoan hỉ ; các Bí-sô chưa ly dục đều bỏ phế việc của mình để lắng nghe diệu âm này. Vô số chúng sanh nghe được âm thanh này đều gieo trồng căn lành giải thoát, cho đến loài bàng sanh cũng lắng tai nghe diệu âm này. Phật nhân lúc đại chúng nhóm họp liền nói với đại chúng: “này các Bí-sô, trong giáo pháp của ta, Bí-sô Thiện hòa có âm thanh vi diệu bậc nhất trong số các đệ tử Thanh văn”. Lúc đó trời gần sáng, vua Thắng quang nước Kiều-tát-la cỡi voi Bạch liên hoa cùng tùy tùng ra khỏi thành để đi đến thành khác vì công việc. Khi đi ngang qua rừng Thệ đa, voi của vua nghe tiếng tán tụng kinh pháp của Bí-sô Thiện hòa vang ra, liền đứng lại vễnh tai lắng nghe, không chịu đi tới; Quản tượng dùng móc câu đập vào chân, voi vẫn đứng yên. Vua bảo Quản tượng thúc voi đi tới, Quản tương tâu: “thần đã tận lực thúc đẩy nó đi tới, nhưng nó vẫn không chịu đi, không biết nó muốn gì”, vua nói: “nếu vậy, hãy thả ra cho nó tùy ý đi”, Quản tượng thả ra, voi liền đi vào trong vườn Cấp đứng trước cửa chùa vễnh tai lắng nghe tiếng tán tụng. Lúc đó Bí-sô Thiện hòa tán tụng xong liền đọc kệ phát nguyện: “Chư thiên, A-tu-la, Dược xoa, Ai đến nghe pháp nên chí tâm, Ủng hộ Phật pháp khiến thường còn, Ai nấy siêng tu lời Phật dạy. Những vị nghe pháp đã đến đây, Ở trên mặt đất hoặc hư không, Thường hành tâm từ với người đời, Ngày đêm tự mình nương theo pháp. Nguyện cho thế giới thường an ổn, Vô biên phước trí lợi quần sanh, Bao nhiêu tội nghiệp thảy tiêu trừ, Xa lìa các khổ về viên tịch. Thường dùng hương giới thoa thân sáng, Thường mặc áo thiền để che thân, Diệu hoa Bồ-đề khắp trang nghiêm, Tùy ở nơi đâu đều an lạc”. Voi nghe kệ này xong biết thời kinh đã mãn liền vẩy tai trở về lại chỗ vua, nghe theo sự điều khiển của Quản tượng. Vua hỏi: “vì sao bây giờ voi lại nghe theo ý khanh?”, đáp: “vì hồi nãy voi nghe tiếng tán tụng vi diệu của vị Thánh giả nào trong chùa, ưa thích nghe nên mới không chịu đi tới; bây giờ đã nghe xong nên chịu nghe thần điều khiển”, vua nghe rồi liền nói: “nếu vậy, hãy quay voi về, ta muốn đến thăm hỏi vị Thánh giả đó và muốn dâng cúng thượng y cho vị ấy. Ngày mai đến thành kia cũng được”, Quản tượng tuân lịnh vua quay voi trở về cung. Lúc đó phu nhân Thắng man thấy vua quay trở về, ngạc nhiên hỏi nguyên do; vua đem việc trên kể lại rồi nói: “phu nhân hãy đưa thượng y cho ta, ta muốn tự mình dâng cúng cho vị kinh sư kia”, phu nhân nghe rồi liền suy nghó: “phải chăng chính là Bí-sô Thiện hòa đã tán tụng kinh pháp với âm thanh vi diệu. Tôn giả hình dung ốm gầy xấu xí, vua lại thích người tuấn tú; nếu vua gặp nhất định sẽ không vừa ý và sanh tâm khinh mạn, hối tiếc là đã kính trọng. Ta nên tìm cách làm cho vua không đích thân đến gặp”, nghó rồi liền tâu vua: “Đại vương cứ đi đến thành kia, y này thiếp sẽ mang đến dâng cho tôn giả kia”, vua nói: “phu nhân mặc tình lấy y khác dâng cúng, lẽ nào vì cái y mà nước Kiều-tát-la của ta lại trở nên nghèo thiếu hay sao?”, phu nhân nghe rồi liền im lặng. Vua cầm thượng y đi đến trong rừng Thệ đa, lúc đó tôn giả A-nan đang đi kinh hành trước cửa chùa, vua thấy rồi liền bước xuống voi đảnh lễ rồi hỏi tôn giả: “xin hỏi đại đức sáng sớm hôm nay, vị tôn giả nào đã tán tụng kinh pháp?”, tôn giả hỏi: “Đại vương cần gì mà hỏi như vậy?”, đáp: “tôi muốn đích thân cúng thượng y này cho vị ấy”, tôn giả nghe rồi suy nghó: “Bí-sô Thiện hòa tuy tán tụng kinh pháp với âm thanh vi diệu, âm vận hòa nhã siêu quần; nhưng hình dung ốm gầy xấu xí, vua lại thích người tuấn tú; nếu vua gặp nhất định sẽ không vừa ý và sanh tâm khinh mạn, hối tiếc là đã kính trọng. Ta nên tìm cách làm cho vua không đích thân đến gặp”, nghó rồi liền nói với vua: “Đại vương hãy đưa y cho tôi, tôi sẽ đưa lại cho vị ấy”, vua nói: “đại đức, Thế tôn tán thán việc tự mình dâng cúng là tối thượng, nên tôi muốn tự tay dâng cúng”. Lúc đó vào ban ngày, tôn giả Thiện hòa đang ngồi kiết già bên gốc cây, tôn giả A-nan dẫn vua đến rồi nói: “Đại vương, vị ngồi kiết già dưới gốc cây chính là vị tụng kinh với âm thanh vi diệu”, vua bước tới nhìn thấy tôn giả hình dung xấu xí liền sanh tâm khinh thường, không còn tín kính nữa, quay đầu và nhăn mày, để thượng y xuống trước mặt rồi bỏ đi. Tôn giả Thiện hòa thấy nhà vua có hành động như vậy liền nói kệ: “Ai dùng sắc thấy ta, Dùng âm thanh cầu ta, Ái nhiễm loạn tâm họ, Không thể thấy được ta. Ai chỉ biết bên trong, Mà không thấy bên ngoài, Ở bên trong cầu quả, Là bị mê theo tiếng. Ai chỉ biết bên ngoài, Mà không thấy bên trong, Ở bên ngoài cầu quả, Cũng bị mê theo tiếng. Ai không biết bên trong, Cũng không thấy bên ngoài, Phàm phu đều bị chướng, Cũng bị mê theo tiếng. Ai biết rõ bên trong, Lại khéo thấy bên ngoài, Người trí sẽ xuất ly, Không bị mê theo tiếng”. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “do nhân duyên gì mà Bí-sô Thiện hòa hình dung xấu xí mà âm thanh lại hòa nhã, được xuất gia trong Phật pháp, được Lậu tận chứng quả A-la-hán?”, Phật nói: “Bí-sô Thiện hòa tự tạo nghiệp nên nay tự thọ lấy quả báo… cho đến nói kệ: “Dù trải qua trăm kiếp, Nghiệp đã tạo không mất, Khi nhân duyên hội họp, Tự thọ lấy quả báo”. Các thầy lắng nghe: Quá khứ Hiền kiếp lúc loài người sống thọ bốn vạn tuổi, có Phật Câu lưu tôn ra đời đầy đủ mười hiệu; sau khi làm xong các Phật sự, Phật liền nhập Niết-bàn vô dư. Lúc đó có vua Vô ưu muốn cúng dường xá lợi Phật nên cho xây tháp rộng một du thiện na, cao nửa du thiện na rồi sai người trông coi việc xây cất. Người này có tín tâm, ý thích hiền thiện, siêng năng làm việc không biết mệt; lại có một người làm công thấy việc xây tháp quá cao liền cơ hiềm: “vua xây tháp này quá cao, tốn nhiều sức người sức của, biết ngày nào mới xong”, người trông coi việc xây cất nói: “nếu anh không muốn làm nữa thì tùy ý đi nơi khác, vì sao lại cơ hiềm như vậy?”, người làm công nghe rồi im lặng, sau đó xin lỗi và làm việc như cũ. Thời gian sau thấy tháp vẫn chưa xong, người làm công này lại cơ hiềm như trước, người trông coi việc xây cất bèn đuổi đi, người làm công xin lỗi và làm việc như cũ. Đến khi tháp hoàn thành, mọi người đến nhìn ngắm hoan hỉ ca ngợi; người làm công này thấy vậy liền sanh tâm hối hận nghó rằng: “trước đây ta đã nói lời bất thiện, thấy tháp quá cao nên cơ hiềm; nay ta nên sắm sửa đồ cúng dường”, nghó rồi liền đem số tiền làm công đã có làm một cái linh bằng vàng treo trên tháp cúng dường. Này các Bí-sô, người làm công thuở xưa chính là Thiện hòa ngày nay, do nói lời cơ hiềm tháp thờ xá lợi Phật nên nay thọ thân xấu xí; do cúng dường chiếc linh bằng vàng nên nay được âm thanh hòa nhã, khiến người nghe đều sanh tâm hoan hỉ”. Lúc đó các Bí-sô vẫn còn nghi nên thỉnh hỏi Phật: “Bí-sô Thiện hòa đã tạo nghiệp gì, do nghiệp lực này đọc tụng kinh pháp, âm thanh thấu tận cõi Phạm thiên?”, Phật nói: “các thầy lắng nghe: Quá khứ lúc loài người thọ hai vạn tuổi, có Phật Ca-diếp ba ra đời đầy đủ mười hiệu; lúc đó tại vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư có cây Hương quả, trên cây có một con chim hót hay nương ở. Một hôm vào sáng sớm, Phật Ca-diếp ba đắp y mang bát vào thành khất thực, con chim này thấy Phật tuớng mạo đoan nghiêm như núi vàng, liền cất tiếng hót vang nhiễu quanh Phật ba vòng rồi bay trở lại trên cây, cứ như thế mỗi ngày cho đến một hôm nó bị chim Ưng bắt ăn thịt. Chim qua đời thác sanh vào nhà đại Bà-la-môn, từ đó về sau không thác sanh vào loài hạ tiện xấu xa nữa, mãi đến ngày nay thọ thân người vẫn cảm quả báo có âm thanh vang vọng đến cõi Phạm thiên, người nghe đều ưa thích. Này các Bí-sô, con chim hót hay đó chính là Thiện hòa ngày nay”. Các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “Bí-sô Thiện hòa đã tạo nghiệp gì, do nghiệp lực này có âm thanh mỹ diệu bậc nhất trong số các đệ tử Thanh văn của Phật?”, Phật nói: “Bí-sô Thiện hòa do lực phát nguyện nên cảm được quả báo này, các thầy lắng nghe: Quá khứ vào thời Phật Ca-diếp ba, Thiện hòa xuất gia, bổn sư của Thiện hòa là người đứng đầu trong việc hướng dẫn việc phúng tụng cho các đệ tử của Phật. Thiện hòa từ khi xuất gia cho đến cuối đời, tuy tu tập phạm hạnh nhưng vẫn không chứng quả, đến khi lâm chung liền phát nguyện: “con tuy xuất gia tu tập phạm hạnh nhưng đến cuối đời vẫn không chứng quả, nguyện nhờ thắng nhân này ở đời vị lai lúc con người thọ trăm tuổi, có Phật Thích ca mâu ni ra đời đầy đủ mười hiệu, con sẽ được xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán, là người tán tụng bậc nhất trong số các đệ tử của Phật; cũng như Thân giáo sư của con hiện nay”. Này các Bí-sô, do nguyện lực ấy nên nay Thiện hòa được xuất gia trong giáo pháp của ta và là người tán tụng bậc nhất trong số các đệ tử Thanh văn của ta. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập chớ có buông lung”. Duyên xứ như trên, lúc đó có các Bí-sô tụng kinh không thông hiểu âm vận, chỉ đọc theo câu giống như tiếng trút Táo sang chậu khác; trong khi các ngoại đạo lại đọc tụng với âm thanh ngâm vịnh dễ nghe. Trưởng giả Cấp-cô-độc mỗi ngày đều đến kính lễ Thế tôn, nghe tiếng ngoại đạo tụng kinh liền suy nghó: “các Bí-sô tụng kinh không thông hiểu âm vận, chỉ đọc theo câu giống như tiếng trút Táo sang chậu khác; trong khi các ngoại đạo lại đọc tụng với âm thanh ngâm vịnh dễ nghe. Ta nên đem việc này bạch Phật”, nghó như thế rồi nên khi đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, các Bí-sô tụng kinh không thông hiểu âm vận, chỉ đọc theo câu giống như tiếng trút Táo sang chậu khác; trong khi các ngoại đạo lại đọc tụng với âm thanh ngâm vịnh dễ nghe. Cúi xin Thế tôn từ bi chấp thuận cho Thánh chúng đọc tụng kinh pháp với âm thanh ngâm vịnh”, Phật im lặng chấp thuận, trưởng giả biết Phật đã chấp thuận liền đảnh lễ rồi ra về. Sau đó Phật bảo các Bí-sô: “từ nay các thầy được tán tụng kinh pháp với âm thanh gâm vịnh”. Lúc đó các Bí-sô không những đọc tụng kinh pháp mà cho đến việc cung thỉnh, dạy bảo, tác cũng đều dùng âm thanh ngâm vịnh. Trưởng giả Cấp-cô-độc khi vào trong chùa nghe những âm thanh huyên náo này liền nói: “già lam này trước đây là pháp vũ, nay trở thành Càn-thát-bà”, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật bảo: “không phải tất cả việc đều dùng âm thanh ngâm vịnh, chỉ có hai việc được dùng âm thanh ngâm vịnh: một là tán thán ân đức của Đại sư, hai là tung kinh Tam khải; các việcc khác đều không nên ngâm vịnh”. Sau đó có một Bí-sô nhỏ tuổi tuy làm hai việc này nhưng lại không ngâm vịnh, các Bí-sô hỏi tại sao không ngâm vịnh, đáp là không biết, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói nên học. Lúc đó các Bí-sô bất cứ ở chỗ nào cũng học cách ngâm vịnh, trưởng giả Cấp-cô-độc đến chùa nghe những âm thanh huyên náo này liền chê trách như trước, Phật nói: “các Bí-sô nên ơ ûchỗ khuất học cách ngâm vịnh, không nên ở chỗ hiển lộ, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ như trên, lúc đó có một Bí-sô đứng lấy bát ra khỏi đãy đựng bát, một Bí-sô khác nói chớ đứng lấy bát, hỏi có lỗi gì, đáp: “nếu rơi xuống đất bể thì không phải là có lỗi hay sao”, Bí-sô kia im lặng, các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “Bí-sô không nên đứng lấy bát, dù là bát ở trong đãy hay đứng rửa, đứng phơi; nếu ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ nhất: Bước trên vải, các đãy, Mền nệm và tọa cụ, Có duyên lìa ba y, Có sáu pháp tâm niệm. Phật tại vườn thi lộc, rừng Khủng úy, núi Giang trư; lúc đó vương tử Bồ-đề thỉnh Phật và Tăng đến trên lầu Diệu hoa cúng dường. Trên lầu vương tử cho trải điệp y thượng hạng màu đỏ như ráng trời buổi sáng, Phật đến nơi thấy trải vải này nên không bước chân lên, các Bí-sô cũng không ai bước chân lên. Vương tử thỉnh Phật bước lên, Phật vẫn không bước lên, vương tử liền cho cuộn điệp y đem cất, lúc đó Phật mới bước lên lầu đến chỗ ngồi ngồi. Ngoại đạo nghe biết việc này liền nói: “Sa môn Kiều-đáp-ma chưa kham nổi sự cúng dường nên mới không dám bước chân lên vải đã trải”, Phật nghe biết liền bảo các Bí-sô: “nếu có Bà-la-môn, cư só, trưởng giả tín tâm trải vải thượng diệu rồi thỉnh Bí- sô bước lên, lúc đó nếu muốn hàng phục tâm ngã mạn của ngoại đạo thì Bí-sô nên quán các hành vô thường rồi bước lên, chớ có nghi ngại”. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô đang mang bát đi trên đường, bị vấp chân nên bát bị rơi xuống bể, bạch Phật, Phật nói: “Bí-sô không nên dùng tay mang bát, nên dùng chéo y bọc bát”, dùng chéo y bọc bát cũng chiêu lỗi như trên, Phật nói: “nên làm đãy đựng bát”, Bí-sô làm đãy đựng bát cũng chiêu lỗi như trên, Phật bảo: “nên làm dây cột rồi quải trên vai mang đi, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô tháp tùng theo đoàn thương buôn để du hành trong nhân gian, lúc đó có một Bà-la-môn bị bịnh đến thầy thuốc yêu cầu chữa trị, thầy thuốc bảo nên dùng trái Ha lê lặc thì hết bịnh, đáp: “đang trên đường đi, không thể tìm được thuốc này”, thầy thuốc nói: “Sa môn Thích tử thường mang theo thuốc, theo họ xin chắc sẽ được”, Bà-la-môn liền đến gặp Bí-sô hỏi có Ha lê lặc hay không, đáp: “có, ông cần thuốc này làm gì?”, đáp: “tôi có bịnh, thầy thuốc bảo dùng nó thì hết bịnh, thầy có xin hãy cho tôi”. Bí-sô liền ở trước mặt người này mở đãy ra tìm thuốc, trước tiên lấy ra dao, kế lấy da thuộc và các tạp vật rồi mới lấy thuốc; Bà-la-môn thấy thuốc để xen lẫn với các vật tạp nhạp nên nói: “Bí-sô sao lại để thuốc xen lẫn với các tạp vật như vậy, tôi thà chết chứ không dùng thuốc này”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “Bí-sô nên sắm ba loại đãy: đãy đựng bát, đãy đựng thuốc và đãy đựng tạp vật”. Lúc đó các Bí-sô đeo ba loại đãy ngang bằng nhau này ở dưới nách phía dưới y, khiến nó nhô ra ngoài; người bất tín thấy rồi liền chê trách: “bộ các thầy kẹp cái trống dưới nách hay sao?”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “không nên đeo ba laọi đãy ngang bằng nhau, nên may theo thứ lớp dài ngắn để mang đi cho tương xứng”. Lúc đó các Bí-sô đeo mang đãy bằng dây nhỏ nên khiến thân bị tổn, Phật bảo nên dùng dây bản lớn, bên dưới may lót thêm vải, đừng cho cuộn co lại, khi đeo mang sẽ không bị tổn. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp. <篇> CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 5 - Nhiếp tụng thứ sáu (tt): Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có Bí-sô được cúng nhiều mền nỉ dày, muốn may thành y cắt rọc để thọ trì nên cầm mền này và dao kéo đến dưới một tàng cây để cắt rọc. Phật đi đến thầy liền hỏi Bí-sô muốn làm gì, đáp: “Thế tôn bảo Bí-sô nên thọ trì ba y cắt rọc, con có nhiều mền nỉ dày nên muốn may thành ba y cắt rọc”. Phật do việc này đủ lời khen ngợi giới và người trì giới rồi bảo các Bí-sô: “có năm loại không nên cắt rọc, đó là tất cả loại khăn choàng, thảm lông dài, thảm lông ngắn, mền nỉ dày và vật vụn vặt. Nếu ai đem cắt rọc thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô khách vì có việc phải đi gấp nên quên không mang theo Ni-sư-đàn, đến trời tối ghé vào một ngôi chùa, vị tri sự bảo thọ lấy ngọa cụ, đáp: “tôi quên không mang theo Ni- sư-đàn, biết lấy gì lót trên nệm”, tri sự nói: “nếu vậy thọ thọ lấy giuờng đơn”. Bí-sô thọ giường đơn nằm ngủ, ban đêm trời lạnh rét, Bí-sô chịu lạnh rét suốt đêm nên bị bịnh, bạch Phật, Phật nói: “Bí-sô không mang theo Ni-sư-đàn thì không được đi ra ngoài, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó, có các Bí-sô có việc muốn đến thôn khác, chùa khác trong thành, định sẽ trở về ngay trong ngày mà vẫn phải mang theo Ni-sư-đàn; Bí-sô già bịnh không mang theo nổi nên sanh phiền não, liền nói với các Bí-sô: “tôi có việc cần phải đi, định sẽ về ngay nên không muốn mang theo Ni-sư-đàn, nhưng Đại sư không cho, tôi phải làm sao?”, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu các Bí-sô có việc muốn đến thôn khác, chùa khác trong thành, định sẽ trở về ngay trong ngày thì không cần phải mang theo Ni-sư-đàn”. Sau đó lại có Bí-sô có việc cần phải đi, định sẽ về ngay nên không mang theo Ni-sư-đàn, không ngờ đến đó duyên sự lại kéo dài đến tối, vì không mang theo Ni-sư-đàn nên vị này phải trở về trong đêm đó và bị độc trùng… giặc cướp làm hại. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “nếu định trở về ngay nhưng vì duyên sự nên không về kịp thì nên ngủ lại đêm tại đó, không nên trở về trong đêm. Nên mượn Ni-sư-đàn của vị đồng phạm hạnh nơi đó tạm dùng, mượn được thì tốt, nếu không được thì nên lấy y bảy điều xếp làm bốn để lót nằm, thức nhiều ngủ ít cho đến sáng hôm sau mới trở về”. Sau đó lại có Bí-sô khi mượn Ni-sư-đàn của người khác làm dơ rồi đem trả lại, Bí-sô kia không chịu nhận, bạch Phật, Phật bảo nên giặt sạch rồi mới trả. Bí-sô giặt sạch rồi đem trả nhưng Bí-sô kia vẫn không chịu nhận, bạch Phật, Phật nói: “nên y theo giá mà đền trả hoặc tạ lỗi đừng để giận trách”. Lúc đó Phật chế Bí-sô xuất giới không được lìa ba y, có các Bí-sô có việc muốn đến thôn khác, chùa khác trong thành, định sẽ trở về ngay trong ngày nhưng vẫn phải mang theo ba y; Bí-sô già bịnh không mang theo nổi nên sanh phiền não, liền nói với các Bí-sô: “tôi có việc cần phải đi, định sẽ về ngay nên không muốn mang theo ba y, nhưng Đại sư không cho, tôi phải làm sao?”, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu các Bí-sô có việc muốn đến thôn khác, chùa khác trong thành, định sẽ trở về ngay trong ngày thì không cần phải mang theo ba y”. Sau đó lại có Bí-sô có việc cần phải đi, định sẽ về ngay nên không mang theo ba y, không ngờ đến đó duyên sự lại kéo dài đến tối, vì không mang theo ba y nên vị này phải trở về trong đêm đó và bị độc trùng … giặc cướp làm hại. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “nếu định trở về ngay nhưng vì duyên sự nên không về kịp thì nên ngủ lại đêm tại đó, không nên trở về trong đêm. Nên mượn y của vị đồng phạm hạnh nơi đó tạm thọ trì, sáng hôm sau xả rồi trả lại ”. Lúc đó các Bí-sô không biết tạm thọ trì như thế nào, Phật bảo: “y đã thọ trì trước nên tâm niệm xả rồi mới thọ trì y mới. Có sáu pháp tâm niệm : một là trưởng tịnh, hai là tùy ý, ba là thọ trì y, bốn là xả ba y, năm là phân biệt y dư, sáu là xả biệt thỉnh”. Lúc đó có Bí-sô được y, không rảnh để cắt may giặt nhuộm, Phật bảo nếu không đủ duyên để cắt may giặt nhuộm thì nên tính ra giá của vải chưa nhuộm đủ để sắm ba y thọ trì, cho đến y vật của thế tục, muợn dùng thọ trì thì không phạm. Lại có Bí-sô đến nơi khác ngủ đêm không mang theo Ni-sư-đàn, cho là đã phạm tội lìa y, bạch Phật, Phật nói: “ta chế không được lìa ba y ngủ đêm, không chế lìa Ni-sư-đàn; nhưng Bí-sô không nên cố ý không mang theo, nếu quên thì không phạm”. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ nhất: Cái lượt nước có năm, Cùng ăn chung một bát, Lộ hình khi ăn uống, Việc tắm rửa nên biết. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó ở phương Nam có hai Bí-sô muốn đến thành Thất-la-phiệt để yết kiến Thế tôn, nhưng cả hai đều không mang theo cái lượt nước. Trên đường đi khát nước, khi đến một ao nước, người này bảo người kia xem nước có trùng không để uống cho đở khát, nhìn thấy nước có trùng nên họ không uống, cứ như thế đi đến ba nơi, nơi nào cũng nhìn thấy có trùng, cả hai nói với nhau: “nước đều có trùng, nếu uống thì hại chúng sanh, nếu không uống thì chết khát, chúng ta phải làm sao?”, Bí-sô nhỏ nói kệ: “Trăm ngàn câu chi kiếp, Khó được gặp Thế tôn, Nay ta nên uống nước, Đến đảnh lễ Đại sư”. Bí-sô lớn nói kệ: “Như lai đại bi thương chúng sanh, Diệt hết Ái nhiễm của ba cõi, Thọ trị cấm giới trong pháp này, Ta thà chịu chết, không sát sanh”. Lúc đó Bí-sô nhỏ không nhịn khát được nên uống nước có trùng rồi lên đường, Bí-sô lớn vì hộ trùng nên quyết tâm không uống nuớc có trùng, cố gắng ngồi thẳng dưới một gốc cây, trong lúc sức chưa kiệt quệ hệ tâm nơi việc thiện cho đến khi kiệt quệ mới qua đời. Do phước lực này nên được sinh lên chỗ thắng diệu của cõi trời Tam thập tam, tất cả hữu tình sanh lên cõi trời đều khởi ba niệm: một là ta từ đâu sanh đến đây, hai là nay ta đang ở đâu, ba là ta do nghiệp duyên gì. Vị thiên tử này liền nhớ biết tiền thân mình là người, được sanh lên cõi trời Tam thập tam là nhờ tôn trọng lời Phật dạy. Thiên tử suy nghó: “nếu ta không đến kính lễ Thế tôn trước là bất kính”, nghó rồi liền dùng chuỗi anh lạc trang nghiêm thân, dùng y kích đựng đầy các loại hoa trời như hoa Ưu bát la, Bát đầu ma… qua đầu đêm đến chỗ Phật, rải hoa cúng dường, đảnh lễ rồi ngồi một bên nghe Phật thuyết diệu pháp. Thân quang của vị thiên tử này chiếu sáng khắp cả rừng Thệ đa, Phật quán biết căn tánh tùy miên của thiên tử này, nói pháp Tứ đế khiến cho được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Sau khi chứng quả, thiên tử bạch Phật: “Thế tôn, nhờ Phật khai ngộ khiến con ở trong các nạn mà được giải thoát, điều này không phải do cha mẹ… cho đến sa môn, Bà-la-môn có thể làm được. Thế tôn là bậc đại thiện tri thức đã cứu vớt con ra khỏi ba cõi, đặt để con vào cõi trời người, hết khổ sanh tử, được đạo Niết-bàn, làm cạn biển máu, vượt khỏi núi xương, núi thân kiến từ vô thỉ đến nay đếu bị phá tan bằng chày trí Kim cang, chứng được Sơ quả. Nay con xin quy y Tam bảo, từ hôm nay cho đến trọn đời thọ trì năm học xứ, cúi xin Thế tôn chứng biết con là Ô-ba-sách-ca”, thiên tử liền cung kính nói kệ: “Con nương nhờ Phật lực, Đóng bít ba đường ác, Sanh cõi trời thắng diệu, Thú hướng cõi Niết-bàn. Con nương nhờ Thế tôn, Nên được thanh tịnh nhãn, Chứng được Chân đế lý. Phật vượt trên trời người, Thoát khỏi già bịnh chết, Khó gặp trong biển Hữu, Nay gặp được chứng quả. Con với thân trang nghiêm, Tâm tịnh đảnh lễ Phật, Nhiễu bên phải trừ oán, Nay trở về thiên cung”. Nói kệ rồi, thiên tử vui mừng như người đi buôn được lời, như người cày ruộng được thu hoạch, như người ra trận được thắng, như người bịnh được lành, đảnh lễ Phật rồi trở về thiên cung. Sau đó Bí-sô nhỏ đến thành Thất-la-phiệt, vào trong rừng Thệ đa, cất y bát, rửa chân rồi đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi đứng một bên. Pháp thường của Phật là khi có khách Bí-sô đến, Phật an ủi rồi hỏi Bí-sô từ đâu đến, đáp là từ phương Nam đến, lại hỏi hạ an cư ở đâu, đáp là cũng ở phương Nam, lại hỏi đi đường có bạn không, đáp là có, lại hỏi người bạn đó hiện nay ở đâu, Bí-sô liền kể lại việc trên. Phật nghe rồi liền nói kệ: “Nếu khinh mạn giới ta, Thì gặp ta làm chi, Dù cho có gặp ta, Cũng như là không gặp. Bí-sô kia gặp ta, Do thọ trì tịnh giới, Thầy ngu si vô trí, Không thể thật thấy ta”. Lúc đó Phật vạch bày thượng y cho Bí-sô này thấy ngực mình rồi nói kệ: “Thầy hãy nhìn thân ta, Thân do cha mẹ sanh, Sắc ví như vàng ròng, Là do nghiệp đời trước. Ai không kính pháp thân, Thì không thật thấy Phật, Ai thành tựu pháp thân, Mới thật thấy Mâu ni. Pháp thân đứng thứ nhất, Sắc thân đứng thứ hai, Người trí thấy biết rõ, Nên khéo hộ Thi la. Thời Phật Ca-diếp ba, Có Bí-sô phạm giới, Vì tổn lá Y la, Hiện đọa trong loài rồng”. Nói kệ rồi Phật suy nghó: “do Bí-sô không mang theo cái lượt nước nên có lỗi này”, nghó rồi liền bảo các Bí-sô nên cất chứa cái lượt nước. Lúc đó các Bí-sô không biết cái lượt nước có mấy loại, Phật nói: “có năm loại: Cái lượt nước lưới vuông: thông thường dùng chừng ba, hai hay một thước vải để làm cái lượt nước, nên làm hai lớp, vải nên dày và mịn để trùng không lọt qua được, nếu vải thưa mỏng thì không nên dùng. Pháp bình tức là bình âm dương. Quân trì: dùng vải bịt miệng bình rồi dùng dây cột nơi cổ bình, nhúng xuống nước cho nửa miệng bình nổi lên, nếu chìm ngập miệng bình thì nước sẽ không vào trong bình, chờ nước vào đầy bình mới lấy ra khỏi nước, vẫn phải xem kỹ có trùng hay không. Chước-thủy-la: cái lượt nước lưới tròn, hình thức tuy khác nhưng ý hộ trùng là giống nhau. Y-giác-la: không phải chéo y ca-sa, mà là miếng vải vuông chừng một khuỷu tay bịt, cột vào miệng bình để lượt lấy nước khi cần”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có hai Bí-sô trước đã có hiềm khích, nay làm bạn cùng du hành trong nhân gian. Một người có cái lượt nước, một người không có; người có lấy ra dùng để lượt nước, người không có hỏi mượn, người kia không cho mượn nên công việc của người này bị trở ngại. Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu trước đã có hiềm khích thì không nên cùng du hành, nếu gặp duyên phải đi chung thì nên sám tạ nhau rồi mới đi chung”. Duyên xứ như trên, lúc đó có hai Bí-sô cùng du hành, một người có cái lượt nước, một người không có. Người không có hỏi: “thầy có mang theo cái lượt nước không?”, đáp là có, người này nghe rồi lại không hỏi người kia có cho mượn dùng hay không. Sau đó người kia lượt lấy nước uống, người này hỏi mượn, người kia không cho mượn và nói: “thầy chỉ hỏi tôi có mang cái lượt nước hay không chứ không hỏi mượn dùng, nay lại hỏi mượn thì thật là bất kính nên tôi không cho”, do duyên này nên công việc bị trở ngại như trên. Phật nói: “khi các Bí-sô muốn đi đâu nếu không có cái lượt nước thì nên hỏi đồng bạn có mang theo cái lượt nước hay không, nếu đáp là có thì nên hỏi cho tôi dùng chung được không, nếu đáp là được thì mới cùng đi chung, nếu đáp không được thì không nên cùng đi chung”. Duyên xứ như trên, lúc đó có hai Bí-sô cùng du hành, một người có cái lượt nước, một người không có. Người không có hỏi: “thầy có mang theo cái lượt nước không?”, đáp là có, lại hỏi cho tôi dùng chung được không, đáp là được nên cả hai cùng đi chung. Trên đường đi bỗng gặp đoàn thương buôn, người có mang theo cái lượt nước có việc nên theo các thương nhân trở về, người không có cái lượt nước liền nói: “trước đây thầy có hứa cho tôi dùng chung cái lượt nước, nay thầy trở về hãy đưa nó cho tôi”, đáp: “tôi hứa cho thầy dùng chung nhưng không nói là để lại cho thầy dùng”. Do duyên này nên công việc bị trở ngại như trên. Phật nói: “khi các Bí-sô muốn đi đâu nếu không có cái lượt nước thì nên hỏi đồng bạn có mang theo cái lượt nước hay không, nếu đáp là có thì nên hỏi cho tôi dùng chung được không, nếu đáp là được thì nên hỏi nếu thầy có việc phải trở về thì có thể để lại cái lượt nước cho tôi mượn dùng hay không; nếu bằng lòng thì tốt, nếu không bằng lòng thì không nên cùn đi chung”. Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật: “Thế tôn, nếu không mang theo cái lượt nước thì có được đi đến thôn khác hay chùa khác hay không?”, Phật nói: “không được, nếu biết đến nơi đó có thể cầu được cái lượt nước, không làm trở ngại công việc thì không phạm”; lại hỏi: “hai người chỉ có một cái lượt nước thì có được du hành hay không?”, Phật nói: “nếu không làm trở ngại công việc thì được”; lại hỏi: “nếu nhiều người cho đến đại chúng chỉ có một cái lượt nước thì có được du hành hay không?”, Phật nói như trên, lại hỏi: “nếu không có cái lượt nước thì có nên đi lại trên bờ sông hay không?”, Phật nói: “nếu nước chảy xiết, không có dòng nước khác chảy vào thì cách năm dặm nên xem nước rồi mới dùng; nếu có dòng nước khác chảy vào thì khi dùng nước cũng phải xem kỹ; nếu nước sông không chảy xiết thì tùy chỗ nên xem kỹ”; lại hỏi: “khi xem nước, nên xem trong phạm vi bao nhiêu?”, đáp là chừng một tầm lại hỏi: “nếu không xem nước cũng không lượt thì nước đó có được dùng hay không?”, đáp là không được, nếu dùng thì phạm; lại hỏi: “nước đã lượt rồi mà không xem lại thì có được dùng hay không?”, đáp là không được; lại hỏi: “nước không lượt nhưng có xem kỹ thì có được dùng hay không?”, Phật nói: “nếu xem kỹ thấy không trùng thì được tùy ý dùng”; lại hỏi: “nước đã lượt và xem kỹ thì có được dùng hay không?”, đáp là không trùng thì được dùng. Phật bảo Ưu-ba-ly: “có năm loại nước sạch (tịnh thủy): Tăng già tịnh thủy: đại chúng sai một Bí-sô xem nước, khi vị này đang như pháp xem kỹ nước, một Bí-sô khác đến nói: “nước này Tăng đã lượt sạch rồi” thì uống dùng không phạm. Biệt nhân tịnh thủy: nếu biết Bí-sô kia đối với giới, kiến, oai nghi, chánh mạng đều thanh tịnh thì dùng nước của vị ấy không phạm. Lự la tịnh thủy: dùng cái lượt nước để lượt nước, không có trùng lọt qua, được dùng không phạm. Dũng tuyền tịnh thủy: ngay chỗ nước suối phun ra thì không có trùng. Tỉnh thủy tịnh thủy: khi múc nước giếng lên xem thấy trong sạch không có trùng, để đến sáng hôm sau được tùy ý lấy dùng”. Lúc đó có Bí-sô do chăm chú xem nước có trùng hay không nên mắt bị loạn thị, Phật bảo không nên nhìn quá lâu, chỉ nên bằng khoảng thời gian xe sáu con bò chở tre quay trở lại, trong khoảng thời gian tâm tịnh trở lại để xem nước thì không phạm. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có các cư só tịnh tín mang các khí cụ đựng thức ăn đến cúng cho các Bí-sô, các Bí-sô không thọ nên các cư só nói: “khi Phật chưa ra đời, chúng tôi xem ngoại đạo là chỗ tu phước; nay Phật ra đời, chúng tôi xem các vị là đại phước điền. Vì sao các vị không thọ vật của chúng tôi cúng, há không phải khiến chúng tôi bỏ tư lương tốt thú hướng cho đời sau hay sao?”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “vì đại chúng nên thọ”, Bí-sô vâng lời Phật dạy thọ rồi đem cất vào trong kho, thọ thực vẫn bằng bát như cũ, thí chủ thấy rồi liền hỏi: “những khí cụ đựng thức ăn đã cúng trước đây vì sao không dùng?”, đáp là đã cất vào trong kho, thí chủ nói: “Thánh giả, không lẽ trong nhà tôi không có kho để cất chứa hay sao, chúng tôi dâng cúng là muốn các thầy thọ dụng; nay thầy đem cất vào trong kho thì chúng tôi chỉ được phước bố thí mà không được phước thọ dụng”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “vật của thí chủ cúng nên thọ dụng”, Bí-sô vâng lời Phật dạy thọ dụng. Sau đó lại có thí chủ dâng cúng cái mâm đồng lớn, Bí-sô già được mâm đồng này hằng ngay lau chùi nên cực khổ, Phật bảo: “nên cử người cất giữ khí vật và lau chùi”. Lúc đó các Bí-sô không chọn người để sai làm việc này nên khiến các khí vật hư hoại, Phật bảo: “người có đủ năm pháp nếu chưa sai thì không nên sai, nếu đã sai rồi thì không cho làm, đó là: tùy Ái, tùy sân, tùy sợ, tùy si, không nhớ đã làm hay chưa làm. Ngược với năm pháp trên thì nếu chưa sai nên sai, nếu đã sai rồi thì nên bảo làm. Tác pháp sai như sau : trải tòa, đánh kiền chùy, nhóm Tăng; Tăng nhóm rồi nên hỏi trong chúng: “Bí-sô tên --- có thể làm người cất giữ khí vật cho Tăng hay không?”, nếu người này đáp là có thể thì một Bí-sô trong Tăng nên tác bạch yết ma như sau: Đại đức Tăng lắng nghe, Bí-sô tên ---- hoan hỉ làm người cất giữ khí vật cho Tăng. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay sai Bí-sô ---- làm người cất giữ khí vật cho Tăng. Bạch như vậy. Lúc đó có Bí-sô được khí vật, sau khi dùng xong đem khí vật dơ này đưa cho người coi giữ khí vật, Phật bảo nên đưa cho môn nhân đệ tử rửa sạch. Sau đó có Bí-sô không có đệ tử nên tự chùi rửa, Phật bảo nên đưa cho người cất giữ khí vật chùi rửa, nếu đệ tử không biết cách chùi rửa cũng nên đứa cho người cất giữ khí vật làm. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Lục chúng Bí-sô cùng ăn chung trong một bát, cùng đưa tay vào trong bát rồi cùng rút tay ra nên bát bị kéo theo lên. Họ bèn nói với nhau: “hãy nhìn xem bát đen này đang hiện thần thông”, khi họ rút tay ra khỏi bát thì bát rơi xuống bể. Thấy bát bể, họ cùng cười lớn, Bí-sô khác thấy rồi liền trách: “các thầy cùng làm việc sai trái như vậy, đáng lẽ phải xấu hổ, ngược lại còn cười lớn nữa”, Lục chúng Bí-sô nói: “chúng ta làm việc gì, uống rượu hay là ăn hành tỏi?”, đáp: “việc đó không bao lâu nữa cũng sẽ làm”, Lục chúng Bí-sô nói: “bát tuy bể như không lẽ thợ gốm đều chết hết, đất sét cũng không còn hay sao; ta sẽ bảo họ làm cái khác thì có lỗi gì?”, Bí-sô nghe rồi liền im lặng, bạch Phật, Phật nói: “do ăn chung một bát nên có lỗi này, từ nay không được cùng một chỗ ăn chung một bát, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có các Bí-sô tháp tùng theo đoàn thương buôn, khi các thương nhân cùng ăn chung một chỗ, các Bí-sô cũng ăn nhưng vì ít vật đựng nên không dám ăn chung, chờ họ ăn xong mới ăn thì trễ giờ, không theo kịp họ rớt lại phía sau nên gặp giặc cướp. Các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu đang trên đường đi, không tìm được vật đựng thì nhiều người có thể cùng ăn chung một vật đựng, đợi người này đưa tay lên, người kia mới đưa tay xuống, không được đồng thời đưa lên hay đưa xuống”. Sau đó lại có Cầu tịch không dám ăn chung với Bí-sô nên sinh lỗi giống như trên, Phật bảo Bí-sô thọ lấy thức ăn trước, tay cầm vật đựng rồi mới cùng ăn chung một chỗ. Gặp lúc đi chung với tịnh nhân, việc cũng giống như với Cầu tịch, Phật bảo vắt cơm thành từng nắm chuyền đưa cho tịnh nhân ăn. Lại có Bí-sô trở về quê quán, thân tộc nói: “xa cách đã lâu, nay mới gặp nhau nên ngồi ăn chung mâm”, Bí-sô nói: “các vị là thế tục, tôi là người xuất gia không thể ăn chung mâm”, thân tộc nghe rồi buồn khóc, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “biết họ ân cần mời thì nên cùng ăn chung ở chỗ khuất để không chiêu lấy cơ hiềm. Bí-sô thọ lấy thức ăn trước rồi tay đụng vào mâm thì cùng ngồi ăn không lỗi”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Lục chúng Bí-sô chỉ mặc quần ngồi ăn, người tục thấy liền hỏi là ai đang ăn, có người đáp là Sa môn Thích tử, thế tục liền hiềm trách: “giáo chủ của họ gìn lòng hổ thẹn, vì sao đệ tử lại làm việc không biết hổ thẹn như thế”. Các Bí- sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do chỉ mặc quần ngồi ăn nên có lỗi này, từ nay Bí-sô không được chỉ mặc quần ngồi ăn. Ai làm trái tì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có Bí-sô già bịnh sức yếu, khi ăn không thể đắp thêm y, Phật bảo nên mặc y Tăng khước kỳ thì không phạm. Lại có Bí-sô bịnh nặng không thể mặc y Tăng khước kỳ, Phật bảo: “nếu vậy thì được chỉ mặc quần ngồi ăn, nhưng nên ngồi ăn ở chỗ khuất, chớ để người ngoài nhìn thấy”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Lục chúng Bí-sô lộ hình tắm trong sông A thị la, thế tục thấy liền hỏi là ai tắm, có người đáp là ngoại đạo lõa hình, lại có người đáp là Sa môn Thích tử, thế tục liền hiềm trách: “giáo chủ của họ gìn lòng hổ thẹn, vì sao đệ tử lại làm việc không biết hổ thẹn như thế”. Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “do lộ hình tắm nên có lỗi này, từ nay các Bí-sô nên cất chứa quần tắm, không được lộ hình tắm. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có Bí-sô may quần tắm hai lớp, Phật nói: “sợ có trùng chui vào bên trong nên không được dùng; nếu ai chỉ có quần tắm kép, không có quần đơn thì nên xem kỹ nước không trùng mới được tắm”. Lúc đó có Bí-sô thọ trì ba y, sợ trái pháp nên không may quần tắm, Phật bảo nên thọ trì rồi cất chứa dùng; lại có người nghèo không may được quần tắm, Phật nói: “nếu không thể có được thì nên dùng dây cột lá cây để che phía trước và phía sau rồi tắm nơi chỗ khuất, chớ để người khác nhìn thấy thì không phạm”. Lúc đó Bí-sô tắm xong, sợ trong quần tắm có trùng nên không vắt quần ráo nước ; Phật bảo: “quần đơn một lớp thì không có trùng bám vào, nhưng khi vắt ráo nên giũ, nếu có trùng bám cũng sẽ văng ra”. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ nhất: Đậu mọc nơi đất dơ, Ói thức ăn, đòi hỏi, Không được dùng đồ đồng, Được đựng muối … không phạm. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Hiệt-ly-bạt để tánh đa nghi, một hôm vào trong nhà xí nhìn thấy một hạt đậu mọc lá liền cho là mình làm tổn hại sanh chủng (hạt giống sống). Thời gian sau, trong Tăng làm nhiều bánh đậu xanh, Bí-sô này không dám ăn, các đệ tử hỉ nguyên do, liền kể lại việc đã thấy trước kia, các đệ tử nghe rồi cũng không dám ăn và đem việc này kể lại cho người khác nghe, không bao lâu sau lan truyền khắp trong chúng nên đại chúng cũng không dám ăn. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “trong các loại đậu có hạt dù nấu lâu vẫn không chín nên mọc lại, loại đậu đã nấu qua thì ăn không lỗi”. Duyên xứ như trên, lúc đó tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: “cây mọc trên đất không sạch, rái rụng trên đất không sạch thì có được ăn hay không?”, Phật nói không được, lại hỏi: “cây mọc trên đất không sạch, trái rụng trên đất sạch thì có được ăn hay không?”, Phật nói được ăn, lại hỏi: “cây mọc trên đất sạch, trái rụng trên đất không sạch thì có được ăn hay không?”, Phật nói nếu không để cách đêm thì được ăn, lại hỏi: “cây mọc trên đất sạch, trái rụng trên đất sạch thì có được ăn hay không?”, Phật nói được ăn. Duyên xứ như trên, lúc đó có một Bà-la-môn đứng đầu về dạy học được cúng một con bò đực, nhiều lần sau đó đều được cúng bò đực, số bò nhiều nên trở thành bầy. Bà-la-môn này cho con bò đực đầu tiên là điềm lành nên không giết nó và để nó được tự do. Thời gian sau nó già yếu, một hôm vì khất nên nó đến bên sông uống nước, không may bị lún xuống bùn không thể lên được. Lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất đi ngang qua nhìn thấy, liền quán thấy con bò này có thiện căn và có duyên với mình nên kéo nó lên khỏi bùn, lấy nước rửa sạch rồi cho nó ăn cỏ uống nước. Sau đó nói cho nó nghe ba câu pháp: “hiền thủ, các hành vô thường, các pháp vô ngã, tịch diệt là vui. Hãy khởi tâm tịnh tín nơi ta và nhàm lìa cõi bàng sanh”, nói rồi bỏ đi. Đêm đó khi bị con dã can làm hại, con bò này suy nghó: “nếu có thầy ta bên cạnh thì ta đã không bị khổ này”, nghó rồi đối với tôn giả Xá-lợi-phất hệ tâm tôn trọng, do nhân duyên này sau khi qua đời liền thác sanh vào nhà một Bà-la-môn. Lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất suy nghó: “ta nên tạm đến thăm con bò già kia”, nghó rồi liền tác ý quán biết nó đã qua đời và thác sanh vào nhà một Bà-la-môn. Tôn giả vì muốn hóa duyên nên thường lui tới nhà Bà-la-môn này, khiến cả hai vợ chồng đều thọ Tam quy ngũ giới… giống như trường hợp của Bí-sô Thiện hòa ở trên. Thời gian sau đủ ngày tháng, vợ Bà-la-môn hạ sanh một trai có khuôn mặt như bò…, do đứa bé có khuôn mặt như bò nên được đặt tên là Ngưu chủ… giống như trường hợp của Bí-sô Thiện hòa ở trên, cho đến câu được chứng A-la-hán. Do nghiệp lực đời trước nên trong cổ của tôn giả Ngưu chủ có hai cuống họng, một ói thức ăn ra và một nuốt vào nhai lại. Khi Phật chưa chế giới ăn phi thời thì tôn giả này ở chỗ khuất ói ra rồi nhai lại, sau khi Phật chế giới thì ói thức ăn ra ngoài luôn; do không ăn được thức ăn nên thân thể tiều tụy. Phật tuy biết nhưng vẫn hỏi tôn giả A-nan: “vì sao Bí-sô Ngưu chủ lại ốm gầy tiều tụy như thế?”, A-nan đem việc trên bạch Phật, Phật nói: “nếu do túc nghiệp có hai cuống họng thì khi ói thức ăn ra nên súc miệng ba lần rồi hãy nhai lại thì không phạm”. Sau đó lại có Bí-sô sau khi ăn no xong lại ợ thức ăn, không biết mình có phạm giới ăn phi thời không, Phật nói nên súc miệng sạch thì không phạm. Sau khi Ngưu chủ xuất gia thành Bí-sô, nhiều thế tục chê bai nói rằng: “Sa môn Thích tử sao lại cho người có hình dáng như Ngưu chủ xuất gia”, các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “Thánh đệ tử của ta đức độ như núi Diệu cao lại bị người đời cơ hiềm, do nhân duyên này Bí-sô Ngưu chủ không nên ở trong thành nơi chỗ đông người, nên ở ngoài biên phương”, Bí-sô Ngưu chủ vâng lời Phật dạy rời khỏi rừng Thệ đa, ra ngoài biên phương ở an trong cung Thế lị sa. Phật bảo các Bí-sô: “trong các đệ tử sống nơi biên phương thì Ngưu chủ là tối thắng”, lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Bí-sô Ngưu chủ đã tạo nghiệp gì, do nghiệp lực ấy tuy được sanh làm người nhưng lại có khuôn mặt như bò và được xuất gia trong Phật pháp, chứng quả A-la-hán?”, Phật nói: “nghiệp đã tạo theo thời gian tăng trưởng thuần thục, trở lại tự thọ quả báo… Các thầy lắng nghe: Quá khứ Hiền kiếp, lúc con người thọ hai vạn tuổi có Phật Ca- diếp ba ra đời đầy đủ mười hiệu, Ngưu chủ xuất gia trong giáo pháp của Phật này, Thân giáo sư của Ngưu chủ là bậc thượng thủ trong chúng đã chứng quả A-la-hán, tuổi già sức yếu không thể ăn mau. Ngưu chủ thường đợi thầy ăn xong thu bát, rửa sạch rồi mới đến chỗ các Bí-sô tập tụng; do thầy ăn chậm nên thường đến trễ, một hôm nổi sân nói rằng: “vì sao lại ăn chậm như bò già vậy”, vị thầy nghe rồi suy nghó: “nó đang sân, không nên nói với nó, đợi nó hết sân sẽ nói cho nó biết”. Sau khi đệ tử hết sân, vị thầy hỏi: “hồi nãy con nói lời gì?”, đáp: “con nói thầy ăn chậm như bò già”, thầy nói: “con có biết ta là ai không?”, đáp: “con biết thầy là người xuất gia trong Phật pháp này, là bậc thượng thủ trong chúng”, vị thầy nói: “quả là như vậy, nhưng đối với việc nên làm của người xuất gia thì ta đã làm xong, còn con thì vẫn còn bị trói buộc. Con đã nói lời thô ác, phải mau chí thành sám hối mới trừ được nghiệp ác này”, đệ tử nghe rồi liền chí thành sám hối. Phật bảo các Bí-sô: “do quá khứ Ngưu chủ nói lời thô ác với vị A-la-hán nên trong năm trời đời thường thọ thân bò, đời này do nghiệp dư tàn nên tuy thọ thân người vẫn còn mang khuôn mặt của bò; lại nhờ trong quá khứ siêng năng tập tụng nên đời này được xuất gia trong giáo pháp của ta, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán”, các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “Bí-sô Ngưu chủ đã tạo nghiệp gì mà lại ở biên phương và được Phật khen là tối thắng?”, Phật nói: “đó là do lực của phát nguyện, các thầy lắng nghe: Vào thời Phật Ca-diếp ba, Ngưu chủ xuất gia tuy trọn đời tu tập nhưng không được chứng quả, thầy của Ngưu chủ trú ở biên phương thọ dụng y thực được khen là tối thắng, vì thế khi lâm chung Ngưu chủ phát nguyện rằng: “nguyện đem công đức tu tập này, ở đời vị lai lúc con người thọ trăm tuổi, có Phật Thích ca mâu ni ra đời đầy đủ mười hiệu, con sẽ được xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán và được giống như thầy của con, trú ở biên phương thọ dụng y thực được khen là tối thắng”. Phật bảo các Bí-sô: “do nguyện lực thuở xưa nên nay được thọ quả báo này. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen… cho đến câu chỉ nên tạo nghiệp trắng”. Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô chỉ trỏ đòi thức ăn: “hãy đưa cho chúng tôi vật này, đưa cho chúng tôi vật kia…”, khiến người dọn đưa thức ăn mất thứ lớp đưa đến ai, bạch Phật, Phật nói: “Bí- sô không được chỉ trỏ đòi thức ăn, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp; nếu không có lửa, đòi thức ăn chín thì không phạm”. Duyên xứ như trên, lúc đó cụ thọ Ô ba-nan-đà đến nhà thợ làm đồng hỏi: “hiền thủ, có thể làm bát bằng đồng được không?”, đáp: “đây là nghề của con, có gì không làm được. Thánh giả muốn làm bát lớn hay bát nhỏ?”, đáp là làm lớn cở ---- lại hỏi: “Thánh giả làm bát lớn như thế để làm gì?”, đáp: “người ngu si này, chẳng lẽ ông làm không, không lấy tiền hay sao mà hỏi”, người thợ làm đồng suy nghó: “làm lớn theo ý của khách đối với ta có hại gì”, nghó rồi liền làm bát lớn. Làm xong, Ô ba- nan-đà lại bảo làm thêm một bát nữa đặt lọt vào trong bát này, thứ lớp như thế đến cái bát thứ bảy. Sau khi làm xong liền bảo đệ tử đánh bóng rồi dùng chỉ ngũ sắc đan lưới để đựng cả bảy cái bát đó và bảo Cầu tịch đội trên đầu mà đi đến chỗ thọ thỉnh. Sau khi Lục chúng Bí-sô vào nhà thí chủ, ngồi vào chỗ ngồi rồi liền mở lấy bảy cái bát ra để ở trước mặt; các cư só thấy rồi liền nói: “chẳng lẽ các thầy mở cửa hàng bán đồ đồng hay sao?”, đáp: “các người không biết gì cả, bảy cái bát này : bát thứ nhất đựng cơm ; bát thứ hai đựng bún, miến hay mì ; bát thứ ba đựng bánh, bát thứ tư đựng thức ăn ngon, bát thứ năm đựng canh rau, bát thứ sáu đựng sữa hay lạc, bát thứ bảy đựng gia vị”, cư só nói: “nếu vậy cần thêm một vật đựng nữa để đựng thức ăn uống nhiều hơn”, Lục chúng Bí-sô nghe rồi liền im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do Bí-sô chứa bát đồng nên có lỗi này, từ nay Bí-sô không được chứa bát đồng. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp, nhưng cất chứa muỗng đồng, mâm đồng đựng muối, chung nước bằng đồng thì không phạm; hoặc dùng vật của người khác thì không phạm”. <篇> CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 6 Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ nhất: Nên làm chỗ rửa chân, Cho chứa chậu rửa chân, Mùa nóng cho dùng quạt, Năm loại phất đuổi muỗi. Duyên xứ như trên, lúc đó các Bí-sô rửa chân bừa bãi khắp nơi trên đất khiến nhiều ruồi bay loạn xạ bu đến; các cư só, Bà-la-môn đến trong chùa nhìn thấy liền hỏi: “vì sao ruồi bay loạn xã bu đến những chỗ ấy?”, đáp: “đó là chỗ chúng tôi rửa chân”, họ nghe rồi liền chê trách: “Sa môn Thích tử ở dơ, tùy tiện rửa chân khắp nơi”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “Bí-sô không được rửa chân bừa bãi khắp nơi, nên chọn góc Đông nam của chùa làm nơi rửa chân”, các Bí-sô không biết làm như thế nào, Phật nói nên làm như hình mai rùa. Các Bí-sô làm xong nhưng quá trơn nên không chà rửa chân được, Phật bảo nên làm nhám (chỗ rửa chân cũng có thể làm chỗ tắm rửa, bốn bên xây gạch cao chừng một thước, bên trong lót gạch, bên cạnh làm ống thoát nước dẫn nước chảy ra ngoài). Lúc đó có Bí-sô già yếu, không thể đi đến chỗ rửa chân được, Phật bảo: “nên nuôi người chấp sự để bảo họ rửa chân giúp, nên cất chứa chậu rửa chân”. Sau đó Lục chúng Bí- sô liền dùng vàng bạc… các vật báu làm chậu rửa chân… bị thế tục chê trách nên Phật bảo: “không được dùng vật báu làm chậu rửa chân, nên làm chậu sành”. Lúc đó các Bí-sô làm chậu rửa chân như hình con lạc đà, Phật bảo không được, nên làm như dấu chân voi hoặc như hình cái gương sen, nên làm nhám. Bí-sô rửa chân xong vất bỏ bừa bãi, Phật nói: “không được vất bừa bãi, nếu là vật của Tăng thì nên cất ở chỗ khuất, nếu là vật riêng thì nên để phía sau cánh cửa”. Duyên xứ như trên, lúc đó vào mùa xuân các Bí-sô bị nóng không chịu nổi nên thân thể ốm gầy; thế tục thấy liền hỏi nguyên do, đáp: “chúng tôi khổ vì nóng”, lại hỏi vì sao không dùng quạt, đáp là Phật chưa cho dùng quạt, thế tục nói: “đại sư từ bi, nếu biết các thầy khổ vì nóng ắt sẽ khai cho dùng quạt”, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói cho dùng quạt. Sau đó Lục chúng Bí-sô liền dùng vàng bạc… các vật báu với đủ loại màu sắc để làm cán quạt và bị thế tục chê trách, Phật nói: “không được dùng vật báu làm cán quạt, chỉ được làm hai loại quạt là quạt bằng tre và bằng lá”. Sau đó lại có các cư só tín tâm đem quạt có họa vẽ nhiều màu đến cúng, các Bí-sô không thọ, Phật nói: “thọ cho Tăng thì không phạm”. Duyên khởi tại giảng đường Cao các, bên ao Di hầu, thành Quảng nghiêm; lúc đó có Bí-sô bị muỗi cắn thành ghẻ ngứa nên gãi không ngừng. Thế tục hỏi rõ nguyên do rồi nói: “vì sao các thầy không dùng cây phất đuổi muỗi?”, đáp là Phật không cho, bạch Phật, Phật nói cho dùng cây phất đuổi muỗi. Sau đó Lục chúng Bí-sô lại dùng các vật báu là cán cây phất và dùng đuôi của trâu Mao làm lại bị thế tục chê trách, Phật nói: “có năm loại cây phất đuổi muỗi: một là làm bằng lông dê, hai là bằng sợi gai, ba là bằng vải bố xé nhỏ, bốn là bằng vải rách cũ, năm là bằng đọt cây ; nếu dùng vật báu làm thì phạm Ác tác”. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ nhất: Không cột hạ quần cao, Thân không mang vác nặng, Nếu bịnh cho cầm gậy, Khai cho được dùng tỏi… Duyên xứ như trên, như Phật bảo Bí-sô nên giúp làm việc xây cất cho Tăng; lúc đó có Bí-sô có việc phải leo lên thang, những người đứng dưới nhìn lên thấy hạ bộ của vị này liền nói: “giờ tôi mới biết thầy thật là người nam vì có nam căn”, Bí-sô nghe rồi xấu hổ nên im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do Bí-sô leo lên thang mà không cộ hạ quần nên có lỗi này, từ nay nên cột hạ quần rồi mới leo lên cao”. Lúc đó khi các Bí-sô làm việc cột xắn quần lên quá cao, thế tục không tín tâm thấy liền chê cười nói: “Thánh giả muốn đánh nhau hay sao?” … cho đến câu Phật nói: “khi leo lên thang mới cột hạ quần còn làm việc dưới đất thì không cần cột”. Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô tự mang vác nặng, thế tục không tín tâm thầy rồi liền nói: “chúng tôi vì phải nuôi cha mẹ, vợ con nên mới đem thân mang vác làm việc nặng, vì sao các thầy lại khổ nhọc như vậy?”, đáp: “chúng tôi cũng có nhiều nguyên do: một là cúng dường Phật, hai là lo việc ăn uống cho Tăng, ba là vì cung cấp vật cần dùng cho người bịnh”, thế tục nghe rồi liền im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “Bí-sô không nên mang vác nặng, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Duyên khởi tại núi Thứu, thành Vương xá; lúc đó có Bí-sô già yếu lên xuống núi bị vấp chân té ngã, Phật bảo nên cất chứa gậy. Sau đó Lục chúng Bí-sô dùng các vật báu với nhiều màu sắc làm gậy và bị thế tục chê trách, Phật nói: “có hai trường hợp được cất chứa gậy: một là già yếu không sức lực, hai là bịnh nặng”. Lúc đó có Bí-sô giả vờ già bịnh nên dùng gậy chống, Phật nói: “ai thật già bịnh thì nên vào trong Tăng xin yết ma cất chứa gậy. Tác pháp như sau : trải tòa, đánh kiền chùy nhóm Tăng, Bí-sô già bịnh vào trong Tăng đến trước vị Thượng tòa chắp tay bạch rằng: Đại đức Tăng lắng nghe, tôi là Bí-sô ---- già bịnh suy yếu, nếu không có gậy thì không thể đi lại được, nay theo Tăng xin yết ma cất chứa gậy. Xin Tăng cho tôi là Bí-sô ---- cất chứa gậy, xin thương xót (ba lần). Lúc đó một Bí-sô trong Tăng nên tác bạch yết ma như sau: Đại đức Tăng lắng nghe, Bí-sô ---- này già bịnh suy yếu, nếu không có gậy thì không thể đi lại được, nay theo Tăng xin yết ma cất chứa gậy. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng cho Bí-sô ---- già bịnh suy yếu này yết ma cất chứa gậy. Bạch như vậy. Tác yết ma cũng chuẩn theo văn tác bạch, ai được Tăng yết ma cho cất chứa gậy rồi thì dùng gậy chống đi không phạm”. Duyên khởi tại thành Vương xá, lúc đó có Bí-sô già yếu lại thêm bịnh phong, khi lên xuống núi Thứu thì bị trượt chân té ngã, bình nước rửa và bình quân trì đều bể. Bí-sô bạch Phật, Phật nói nên dùng dây đan lưới cột vào gậy, Lục chúng Bí-sô nghe rồi liền dùng dây tơ ngũ sắc đan lưới cột vào gậy và bị thế tục chê trách…, Phật nói: “nếu ai muốn cất chứa gậy và dây đan lưới cột vào gậy thì xin Tăng yết ma một lần, Tăng yết ma cho rồi thì dùng không phạm”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có Bí-sô sau khi ăn tỏi, đến chỗ Phật đảnh lễ rồi đứng một bên, Phật bảo ngồi xuống nhất tâm nghe pháp, Bí-sô vâng lời ngồi xuống một bên, trong khi Phật đang thuyết pháp thì vị này cứ day mặt qua chỗ khác, vì sợ mùi tỏi xúc phạm Phật, cứ như thế đến ba lần đều không nhất tâm nghe pháp. Đến lần thứ ba, Bí-sô đứng dậy đảnh lễ Phật rồi đi, Phật tuy biết nhưng vẫn hỏi A- nan nguyên do, A-nan đem việc trên bạch Phật, Phật hỏi: “các Bí-sô có ăn tỏi hay sao?”, đáp là có, Phật nói: “do vị ấy ăn tỏi nên bị chướng ngại nhập Thánh đạo, vừa rồi nếu không do ăn tỏi, nhất tâm nghe pháp thì đã ngay nơi chỗ ngồi chứng được quả Dự lưu. Từ nay các Bí-sô không nên ăn các loại hành tỏi, ai ăn tỏi thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất đang ngồi trong chúng suy nghó: “hôm nay Bí-sô này không được Kiến đế thì ngày mai có được hay không?”, liền quán biết ngày mai cho đến sau này cũng đều không có duyên chứng được Thánh đạo. Tôn giả xuất định nói kệ: “Do trong thời gian ngắn, Tán tâm không chánh niệm, Nên mãi đến đời sau, Cũng không được Kiến đế”. Lúc đó Phật biết tâm niệm của tôn giả Xá-lợi-phất nên bảo: “này Xá-lợi-phất, thầy không nên suy lường về cảnh giới Phật, vì cảnh giói này vượt lên trên tất cả cảnh giới của Thanh văn, Duyên giác; nhưng đời vị lai có Phật ra đời hiệu là Nhất thiết tôn thì người này sẽ ở trong giáo pháp của vị Phật ấy xuất gia, được Lậu tận chứng quả A-la-hán”. Sau đó có Bí-sô bịnh nặng đến yêu cầu thầy thuốc chữa trị, thầy thuốc bảo ăn tỏi thì hết bịnh, Bí-sô nói Phật đã chế không được ăn, thầy thuốc nói: “bịnh này thuốc khác không trị hết bịnh”, bạch Phật, Phật nói: “nếu thầy thuốc nói phải dùng thuốc này mới hết bịnh thì được dùng không phạm”. Bí-sô này ăn tỏi để trị bịnh, ở trong Tăng phòng thọ dụng giường nệm, chăn mền; đến chỗ đại tiểu tiện, ra vào trong chúng, nhiễu tháp, lễ hương đài, thuyết pháp cho thế tục nghe, thọ thí chủ thỉnh thực, đến trong miếu thờ trời, ở chỗ đông người…; mọi người nghe mùi tỏi liền chê trách rằng: “Sa môn Thích tử cũng ăn tỏi, mùi hôi bay cùng khắp đâu khác người thế tục chúng ta”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “Bí-sô bịnh muốn ăn tỏi thì có hành pháp như sau: phải ở phòng bên, không được ở trong Tăng phòng thọ dụng giường nệm, chăn mền; không được đến chỗ đại tiểu tiện và ra vào trong chúng ; không được nhiễu tháp, lễ hương đài và thuyết pháp cho thế tục nghe; không được thọ thí chù thỉnh thực và đến trong miếu thờ trời, ở chỗ đông người… Bí-sô bịnh khi ăn tỏi nên ở chỗ khuất ăn, nếu có người thấy cũng không chê trách. Khi nào hết bịnh, vẫn phải ở chỗ cũ trong vòng bảy ngày; nếu ăn hành thì trong vòng ba ngày; nếu ăn hẹ thì trong vòng một ngày cho hết mùi hôi. Sau đó tắm rửa sạch sẽ, mặc y phục sạch và hương xông cho không còn nghe mùi hôi nữa, lúc đó mới được trở vào trong chúng. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Tổng nhiếp Biệt môn thứ hai: Lông bò và dù lọng, Đắp mền, duyên Thắng man, Xuất gia, bình nước thuốc, Cửa ngỏ, dùi, búa, rìu. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai: Lông bò và chỗ kín, Chung giường, không đắp riêng, Nếu được vải màu trắng, Nhuộm rồi mới được dùng. Duyên xứ như trên, sau khi dâng cúng rừng Thệ đa cho Tăng bốn phương, trưởng giả Cấp-cô-độc bảo người thợ cạo vào trong tinh xá cạo tóc cho Tăng…, Ô ba-nan-đà hỏi thợ cạo có biết cắt tóc kiểu lông bò không, đáp: “đây là nghề chuyên môn của tôi”, nói rồi liền cắt kiểu lông bò là chừa lại hai phần tóc, Ô ba-nan-đà bảo chừa lại một phần, cho đến bảo cạo sạch hết… cho đến câu Phật bảo: “Bí-sô không được cắt tóc kiểu lông bò, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó lại có Bí-sô bị ghẻ trên đầu, nếu cạo sạch hết thì rất đau, Phật nói: “nên chừa lại phần tóc chỗ bị ghẻ”. Duyên xứ như trên, trưởng giả bảo người đến cạo tóc cho Tăng… cho đến câu Ô ba-nan-đà hỏi thợ cạo: “ông có thể cạo sạch lông chỗ kín cho ta không?” … cho đến câu Phật nói: “Bí-sô không được cạo lông ở ba chỗ kín, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó lại có Bí-sô mọc mụt nhọt ở chỗ kín rất khó chịu, Phật nói: “người bịnh nên bạch với Bí- sô kỳ túc để nhờ cạo giúp lông ở chỗ có mụt nhọt”. Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô nằm chung một giường rồi cùng nhau cười giỡn, xô đẩy lôi kéo; các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “do nằm chung một giường nên có lỗi này, từ nay các Bí-sô không được nằm chung một giường. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có nhiều Bí-sô du hành trong nhân gian đi đến nhà thế tục trong thôn, mượn giường nằm ngủ qua đêm, chủ nhà cho mượn một cái, Bí-sô mượn thêm, chủ nhà nói: “nhà tôi nhiều người cùng ngủ chung một giường, vì sao Bí-sô lại đòi thêm, ngủ chung giường có hại gì?”. Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “nếu Bí-sô có tâm hổ thẹn, giới hạnh đầy đủ thì mỗi người nên mặc áo lót thân, chánh niệm tỉnh giác, ở giữa nên để đãy đựng y ngăn cách thì ngủ chung giường không phạm”. Duyên xứ như trên, lúc đó có nhiều Bí-sô du hành trong nhân gian đến nhà một trưởng giả xin chỗ nằm ngủ qua đêm. Ban đêm khí trời lạnh nên họ tìm vật lót nằm, chủ nhà sanh tâm thương xót đưa cho vật lót nằm, Bí-sô nào được trước thì lót nằm riêng một mình, người sau không được phải chịu nằm lạnh suốt đêm. Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “không được cho mượn trước liền lót nằm riêng một mình, nên lót nằm chung và ưu tiên cho người già”. Sau đó, Ô ba-nan- đà do lớn tuổi hơn nên được vật lót nằm, không lót nằm chung lại quấn vào mình đi kinh hành để người khác nằm chịu lạnh; Bí-sô tuổi nhỏ hơn nói: “tôi bị khổ vì lạnh, thầy lại quấn vào mình đi kinh hành”, bạch Phật, Phật nói: “nếu là vật lót nằm chung thì không được riêng dùng quấn đi kinh hành. Ai dùng vật của chung làm của riêng thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ như trên, lúc đó vào tháng mùa Đông, các Bí-sô vì lạnh nên nằm co ro nghiêng một bên; trưởng giả Cấp-cô-độc vào trong chùa nhìn thấy liền nói: “giáo pháp của bậc Đại sư chú trong tinh cần, vì sao các thầy lại nằm co ro, luống qua ngày tháng mà không tu thiện phẩm?”, Bí-sô đáp: “tâm có hỷ lạc thì mới tu thiện phẩm, chúng tôi khổ vì lạnh thì làm sao tinh cần nổi”. Trưởng giả nghe rồi liền trở về nhà lấy năm trăm xấp bạch điệp dày mang đến cúng cho Tăng, các Bí- sô đắp bạch điệp này ra ngoài du hành, thế tục nhìn thấy liền nói: “các thầy muốn hoàn tục hay sao?”, đáp: “các vị không nên nói lời này, vì chúng tôi lạnh nên mới đắp bạch điệp này”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “Bí-sô không được đắp bạch điệp của thế tục, nếu cần dùng nên nhuộm cho hoại sắc rồi mới đắp mặc. Ai làm trái thì phạm tội”. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai: Dù, lọng, không đời sau, Tiếng ca, không phóng hỏa, Du hành cầu y chỉ, Mền lông, không đắp ngược. Duyên xứ như trên, lúc đó trong thành có một cư só buôn bán y vật để kiếm sống, sau khi thu mua được nhiều y vật liền suy nghó: “nên tu phước nghiệp gì để được nhiều lợi ích, ta nên thỉnh Phật và Tăng thọ thực, cúng dường y thực là đại phước điền, nhờ nhân duyên cúng dường này ta sẽ được nhiều lợi ích”, nghó rồi liền đến thỉnh Phật và Tăng vào ngày mai thọ thực, Phật im lặng nhận lời, cư só biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Về đến nhà ngay trong đêm đó lo sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa bằng loại vải thượng diệu rồi sai sứ đến bạch Phật: “đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời”. Lúc đó chúng tăng đi đến nhà cư só, Phật và vị tri sự ở lại trong chùa, có năm nhân duyên Phật ở lại chùa và bảo người nhận lấy phần thức ăn mang về: một là muốn yên tónh, xa lìa ồn ào; hai là muốn thuyết pháp yếu cho chư thiên; ba là muốn thăm nom người bịnh; bốn là muốn xem xét ngọa cụ; năm là muốn chế học xứ cho các đệ tử. Hôm nay Phật muốn chế học cứ nên ở lại chùa không đi thọ thỉnh thực. Các Bí-sô đi đến nhà thí chủ, giữa đường gặp mưa nên y phục đều ướt sũng, khi đến trong nhà thí chủ ngồi vào chỗ ngồi làm dơ tấm trải trên tòa ngồi. Thí chủ thấy rồi không vui nghó rằng: “những tấm vải này đều bị ố khiến ta mất lợi, ta nên đem cúng thí cho các Bí-sô”, nghó rồi liền nói: “tôi xin dâng cúng những tấm vãi trải lót ngồi, các thầy tùy ý mang về”, các Bí-sô nói đợi về bạch Phật. Các Bí-sô trở về đem việc này bạch Phật, Phật nói: “các thầy nên biết, đây không phải là bản tâm của cư só dâng cúng, chỉ vì không vui nên mới cúng thì các thầy không được thọ”, cư só nghe lời này rồi liền sanh tâm tín kính nghó rằng: “những tấm vải này nếu đem bán cũng không được nửa giá, nay đem cúng cho các Thánh giả nhuộm hoại sắc để thọ dụng thì thích hợp hơn”, nghó rồi liền mang những tấm vải này đến trong chùa bạch với Thánh chúng : “quả thật tôi vốn không có ý muốn cúng y vật này, nhưng nay tôi thật tâm dâng cúng, xin hãy thọ rồi nhuộm cho hoại sắc để đắp mặc. Lại nữa xin các vị nên cầm dù khi trời mưa để y không bị ướt”, các Bí-sô nói: “xin hãy chờ chúng tôi bạch Phật”, liền bạch Phật, Phật nói: “nếu cư só trước không có tâm cúng, nay lại thật tâm cúng thì các thầy nên thọ rồi nhuộm hoại sắc để đắp mặc cho thí chủ được lợi ích hiện tiền. Từ nay các thầy nên cầm dù khi trời mưa, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó Lục chúng Bí-sô dùng bốn loại báu với nhiều màu sắc để làm cán dù, dùng lông chim công làm tán dù; các cư só, Bà-la-môn thấy đều chê trách… Phật nói: “Bí-sô không nên cầm các loại dù như thế, có hai loại dù được dùng là bằng tre và bằng lá”, Lục chúng Bí-sô lại làm cán dù dài, giương lên đi lại trong thành; cư só thấy liền hỏi nhau: “người cầm dù là vị thương chủ nào hay là trưởng giả đại phú nào từ phương khác đến”, họ tụ lại xem mới biết là Bí-sô liền chê trách… Phật nói: “Bí-sô không được làm cán dù dài, nên dài chừng hai khuỷu tay hoặc dài bằng dù và không dược cầm du che khi vào trong tụ lạc”. Sau đó có các Bí-sô tháp tùng theo các thương nhân du hành trong nhân gian đến một tụ lạc, do đường đi ngay trong tụ lạc nên Bí-sô cầm dù che không dám di vào mà đi theo con đường bên ngoài tụ lạc, bị lạc phía sau một mình nên gặp giặc cướp. Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu đường đi ngay trong tụ lạc thì không nên giương dù lên, cầm nghiêng một bên đi thì không phạm”. Lại có Bí-sô vào thôn khất thực, vì cán dù đã từng bị xúc chạm nên không dám cầm đi, gặp mưa ướt hết y nên bạch Phật, Phật nói: “nên rửa sạch cán dù rồi câm đi, khi tạnh mưa tùy chỗ gởi cất, khi rời khỏi tụ lạc mới cầm đi”. Duyên xứ như trên, lúc đó có du só ngoại đạo ở phương Nam tên là Ô-đà-di thuộc phái Lô ca da, thông minh đại trí, bài bác không có đời sau, đi khắp nơi dần dần đến thành Thất-la-phiệt vào rừng Thệ đa. Trước tiên người này đến chỗ tôn giả Kiều-trần-như nói rằng: “tôi ở chỗ Sư môn học được ít văn tự, nay muốn cùng tôn giả luận nghị”, đáp: “việc khích luận không phải là việc làm của tôi, ông hãy tìm đến chỗ khác, không nên ở đây”, ngoại đạo liền tìm đến chỗ các tôn giả như Mã thắng Bạt đà la, Đại danh Bà sáp ba, Danh xưng Bổ luật noa, Ngưu chủ Tỳ ma la, Thiện tý La-hỗ-la cũng nói giống như trên và các tôn giả cũng đáp giống như tôn giả Kiều-trần-như. Cuối cùng đến chỗ tôn giả Xá- lợi-phất cũng hỏi như trên, tôn giả liền nhập định quán xem ngoại đạo này có thiện căn không, liền quán biết là có; lại quán có duyên với ai, liền quán biết là có duyên với mình; lại quán có người khác nhờ nghe cuộc luận nghị này mà được điều phục hay không, liền quán biết là có; lại quán lúc nào mới đến nhóm họp để được điều phục, liền quán biết là nội trong bảy ngày. Sau khi quán biết rồi tôn giả liền nói với ngoại đạo: “ông muốn khích luận thật là việc tốt, hãy ở chỗ --- làm đạo tràng luận nghị”, vào ngày đầu tiên tôn giả lên tòa cao kiến lập tông môn để luận nghị với ngoại đạo, khi xuống tòa đều lưu lại nghóa dư để ngày mai luận nghị tiếp; cứ như thế đến ngày thứ bảy, khắp các nơi đều nghe biết: có du só ngoại đạo ở phương Nam tên là Ô-đà-di thuộc phái Lô ca da, thông minh đại trí, bài bác không có đời sau, đi khắp nơi dần dần đến thành Thất-la-phiệt khích luận với tôn giả Xá-lợi-phất đã trải qua sáu ngày chưa phân thắng bại. Đến ngày thứ bày có vô lượng trăm ngàn chúng sanh hữu duyên đều vân tập đến thành Thất-la-phiệt, có người phát tâm hoan hỉ, cũng có người do thiện căn đời trước thuần thục mà đến. Lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất suy nghó: “những người hữu duyên nhân nghe luận nghị mà được hóa độ đều đã vân tập đến, nay chính là đúng thời”, nghó rồi tôn giả liền vì đại chúng thuyết giảng cùng tột nghóa lý, ngoại đạo này nghe xong tin hiểu, tâm ý liền khai thông, đứng dậy chắp tay bạch rằng: “đại đức, xin cho con được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô, tu tập phạm hạnh”. Tôn giả quán biết tâm của ngoại đạo chí thành nên cho xuất gia thọ giới cụ túc và dạy bảo chánh giáo, vị này phát tâm dõng mãnh tinh tấn đoạn hết lậu hoặc chứng quả A-la-hán. Lúc đó đại chúng trong pháp hội thấy việc này rồi đều cho là hy hữu, nói với nhau: “tôn giả Xá-lợi-phất thông minh đại trí, đã dùng pháp hàng phục được ngoại đạo kiêu mạn khiến cho xuất gia”, tôn giả lại tùy theo căn cơ sai biệt và tâm ưa thích không đồng của đại chúng, thuận theo túc duyên của họ mà thuyết pháp, khiến cho họ sau khi nghe pháp xong thảy đều được chứng ngộ, hoặc chứng quả Dự lưu…, hoặc thọ Tam quy ngũ giới, tín kính Tam bảo. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “này các Bí-sô, không phải ai nấy đều được như Xá-lợi-phất, người tương tự như vậy cũng không tìm được. Từ nay các thầy nên học Lô già da… các luận thư của ngoại đạo”. Lúc đó các Bí-sô học luận thư của ngoại đạo không biết chọn lựa, người ngu muội cũng học luận thư; Phật nói: “người ngu si ít trí huệ không nên học ngoại thư, chỉ có người tự biết mình thông tuệ, đa văn có trí nhớ tốt, có thể hàng phục ngoại đạo thì mới được học ngoại thư”. Sau đó những người thông tuệ mãi lo học ngoại thư nên không tu tập phẩm thiện, Phật bảo không nên như vậy; họ lại chỉ lo học ngoại điển, xao lảng việc học nội điển; Phật nói: “nên chia làm ba thời : hai thời học nội điển, một thời học ngoại điển”. Các Bí-sô lại chia năm tháng làm ba thời, Phật nói: “mạng sống con người vô thường trong một sát na, không nên chia năm tháng làm ba thời mà nên chia mỗi ngày làm ba thời”; các Bí-sô buổi sáng học ngoại điển, buổi chiều học nội điển, Phật nói: “nên vào buổi sáng và xế chiều học nội điển, buổi tối học ngoại điển”; các Bí-sô lại chỉ đọc qua kinh điển mà không tụng thuộc văn nên sau đó liền quên, Phật bảo nên tụng thuộc; các Bí-sô lại không biết nên tụng kinh điển vào lúc nào, Phật nói: “như ngày có ba thời, đêm cũng có ba thời”. Duyên xứ như trên, lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất cho hai người con của một Bà-la-môn xuất gia tên là Ngưu thọ và Ngưu sanh rồi dạy cho họ đọc tụng kinh pháp. Thời gian sau hai vị này du hành trong nhân gian đến một tụ lạc, thấy nơi đây có nhiều lợi dưỡng nên trụ lại ở nơi này. Do trước khi xuất gia, họ đã học ngâm vịnh theo âm vận của Bà- la-môn nên sau khi xuất gia, họ vẫn đọc tụng kinh Phật theo âm vận của Bà-la-môn. Trong hai Bí-sô này, một vị bỗng qua đời, vị kia buồn rầu suy nhược nên quên hết những pháp đã học, liền trở về lại trong rừng Thệ đa, thành Thất-la-phiệt. Nghỉ ngơi xong, Bí-sô này đến chỗ tôn giả Kiều-trần-như đảnh lễ rồi bạch rằng: “xin tôn giả giúp con ôn lại kinh”, đáp: “lành thay, ta sẽ tụng cho con nghe”, khi tôn giả tụng được ít nhiều, Bí-sô liền nói: “kinh mà tôn giả vừa tụng, văn từ đều sai lạc, âm vận không dài, có thiếu sót”, tôn giả nói: “từ trước đến nay ta đều tụng như vậy”. Bí-sô này đảnh lễ rồi đến chỗ các tôn giả như Mã thắng Bạt đà la, Đại danh Bà sáp ba, Danh xưng Bổ luật noa, Ngưu chủ Tỳ ma la, Thiện tý La-hỗ-la… bạch giống như trên; các tôn giả tụng được ít nhiều, Bí-sô cũng nói giống như trên rồi đảnh lễ từ giã đến chỗ tôn giả Xá-lợi-phất, cũng bạch giống như trên. Khi tôn giả đồng tụng, Bí-sô kéo âm vận dài, tôn giả kéo âmvận còn dài hơn, Bí-sô liền nói: “các tôn giả khác đều tụng sai sót, chỉ có thầy tụng văn từ và âm vận không sai”, tôn giả nói: “thầy là người ngu si tự mình sai lại bài báng các bậc trí khác tụng kinh sai. Các vị ấy tụng đều không sai”, bị thầy chiết phục nên Bí-sô này im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do Bí-sô tụng kinh kéo âm vận dài như ngâm vịnh nên có lỗi này. Từ nay các Bí-sô tụn kinh không được kéo dài âm vận như ngâm vịnh, Bí-sô nào dùng âm vận Xiển đà để tụng kinh Phật thì phạm tội Việt pháp ; nếu ai theo tiếng địa phương cần phải kéo dài âm vận thì khi tụng không phạm. (Xiển đà là pháp dọc tụng của Bà-la-môn, âm vận kéo dài và dùng ngón tay ra dấu để phân tiết đoạn,người hướng dẫn xướng trước, những người khác đọc theo). <篇> CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 7 Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai (tiếp theo): Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Lục chúng Bí-sô tuy lớn tuổi nhưng vẫn thường trạo cử, các Bí-sô khác nói: “các vị tuổi đã xế chiều mà vẫn chưa ngừng trạo cử”, Lục chúng Bí-sô nghe rồi im lặng, sau đó nói với nhau: “bọn Hắc bát này thật nhiều chuyện nên mới dạy khôn chúng ta, chúng ta hãy làm việc só nhục khiến họ xấu hổ”, nói rồi liền rình tìm cơ hội. Sau đó có nhiều Bí-sô kỳ túc vào trong rừng ngồi tịnh dưới gốc cây, Lục chúng Bí-sô cũng đến đó thấy rồi liền ở trên hướng gió thổi đốt lửa khắp cả ba phía xong, cùng tới một chỗ từ xa nhìn lại. Lúc đó các Bí-sô thấy lửa cháy lan tới, kinh sợ đứng dậy theo hướng khói chạy ra, Lục chúng Bí-sô thấy rồi liền nói: “các vị tuổi đều già mà vẫn chưa hết trạo cử, cớ sao bỏ chạy làm mất hết oai nghi tường tự”, đáp: “các vị không thấy lửa cháy lan đến hay sao, bỏ chạy thì có gì lạ đâu”, Lục chúng Bí-sô nói: “Thế tôn há có thể vào lúc ở yên mà chế giới, lúc gặp ách nạn lại được phạm hay sao?”, các Bí-sô hỏi: “há chẳng phải các thầy gây ra hỏa hoạn này hay sao?”, Lục chúng Bí-sô cười lớn nói: “là do chúng tôi cố ý muốn só nhục các thầy”, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “Bí-sô không được đốt rừng, ai làm trái thì phạm Tốt thổ la để”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có hai Bí-sô một già một trẻ cùng du hành trong nhân gian, vị già mang theo nhiều y vật, vị trẻ chỉ mang theo ba y. Sau đó vị giả bảo vị trẻ: “thầy mang đãy y giúp tôi, tôi mệt muốn nghỉ vai một lát”, vị trẻ nói: “con có vài lời muốn nói, xin trưởng lão đừng trách”, vị già nói: “thầy cứ tùy ý nói, ta không giận trách”, vị trẻ nói: “trưởng lão há không thấy Phật pháp tăng bảo đi đến đâu tùy được dâng cúng tới đó, hơi đâu lại cất chứa những vật ngu si này”, vị già nói: “thầy không chịu mang giúp thì thôi, không ai ép thầy; nhưng tôi hỏi thầy, thầy có phải là A-giá-lợi-da hay là Ô-ba-đà-da của tôi đâu mà lại khuyên dạy tôi”, vị trẻ liền im lặng, vị già suy nghó: “rồi ta sẽ xử lý thầy”. Đến chiều tối cả hai đến một ngôi chùa xin nghỉ qua đêm, trong chùa này tăng chúng có lập chế: ai không có y chỉ thì không được ở lại dù là một đêm. Lúc đó vị tri sự bảo hai khách tăng thọ lấy ngọa cụ, vị già thọ rồi bảo vị trẻ thọ, vị trẻ nói: “con chưa có y chỉ, đợi con xin y chỉ rồi sẽ thọ lấy ngọa cụ”, nói rồi liền đi đến chỗ vị Thượng tòa thủ chúng đảnh lễ cầu y chỉ, Thượng tòa hỏi: “thầy di với ai đến đây?”, đáp là đi với Bí-sô tên ---, Thượng tòa nói: “thầy hãy đến vị ấy cầu y chỉ, đừng để vị ấy nói Thượng tòa thủ chúng chia rẽ thầy trò hai người”. Vị trẻ nghe rồi liền đi đến cầu vị khác, như thế khắp hết trong chùa, không ai chịu cho y chỉ ; cuối cùng vị trẻ đành phải trở lại chỗ vị già gõ cửa phòng gọi: “kính lễ Thượng tòa”, vị già trong phòng hỏi vọng ra là ai, vị trẻ liền đáp: “con tên là ---, Thượng tòa biết không, đại chúng trong chùa này lập chế ai không có y chỉ thì không được ở lại dù là một đêm, xin Thượng tòa cho con y chỉ”, vị già nói: “lập chế tốt, chúng tăng không làm thì ta cũng sẽ làm. Trước đây thầy đã nói với ta há không thấy Tam bảo nên mới cất chứa những vật ngu si này, sao nay lại nói là kính lễ Thượng tòa. Thầy khinh mạn như vậy thì ai lại cho thầy y chỉ, thầy hãy đi tìm thầy y chỉ khác theo ý mình”, nói rồi im lặng không mở cửa cho y chỉ khiến vị trẻ phải ở ngoài suốt đêm chịu khổ. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “ai không có thầy y chỉ thì không nên du hành ; lại nữa, các Bí-sô không nên như Sư tử cố chấp lòng sân hận không chịu xả và Tăng không được lập chế ác nghiệt như vậy, khiến Bí-sô kia phải chịu khổ suốt đêm bên ngoài. Bí- sô nào không có thầy y chỉ mà du hành, lại nói lời xúc não người khác và tăng lập chế phi pháp đều phạm tội Việt pháp”. Phật tại nước Ma-kiệt-đà du hành trong nhân gian, đến ở trong cung điện của Dược xoa Bạc-câu-la tại núi Mộ câu; Bí-sô Long hộ theo làm thị giả. Lúc đó Phật đang kinh hành ngoài đất trống, trong đêm tối trời mưa lâm râm, có ánh chớp nhưng Phật vẫn không trở về phòng; thường pháp của chư Phật là Phật chưa nằm nghỉ thì thị giả không được nằm nghỉ trước. Trong lúc đó vua trời Đế thích dùng thiên nhãn quán xem hạ giới, thấy Thế tôn đang kinh hành… liền suy nghó: “ta nên đến lễ bái Thế tôn”, nghó rồi liền hóa ra cung điện bằng lưu ly theo thân đến chỗ Thế tôn, đi theo sau để che mưa cho Phật. Dân chúng nước Ma- kiệt-đà có thói quen hễ thấy trẻ con kêu khóc ban đêm thì dọa chúng là có Dược xoa Bạc-câu-la đến ăn thịt, để chúng ngưng khóc. Lúc đó Bí-sô Long hộ thấy Phật không chịu về phòng nằm nghỉ liền suy nghó: “ta hãy giả làm Dược xoa Bạc-câu-la để hù dọa Thế tôn”, nghó rồi liền trùm cái mền lông dài lớn đi đến chỗ Phật đang kinh hành nói rằng: “Sa môn, Dược xoa Bạc-câu-la hiện thân đến đây”, Phật nói: “thầy là người ngu si nên mới đem Dược xoa Bạc-câu-la ra hù dọa Thế tôn, Như lai Ứng chánh đẳng giác đã lìa sợ hãi từ lâu, thân tâm đầu không còn kinh hãi nữa”. Vua trời Đế thích thấy Bí-sô Long hộ làm việc phi pháp này rồi liền sanh tâm hiềm trách, bạch Phật rằng: “ở trong Phật pháp lại có hạng người như thế hay sao?”, Phật nói: “ông nên biết, ngồi nhà của Kiều-đáp-ma rất rộng lớn, bên trong có nhiều phẩm loại khác nhau; nhưng chớ khinh nguời này, vì ở đời vị lai họ sẽ chứng được thắng pháp”, vua trời Đế thích đảnh lễ Phật rồi trở về thiên cung. Phật bảo các Bí-sô: “do Bí-sô dùng mền lớn day phần lông dài ra ngoài nên có lỗi này, từ nay các Bí-sô không được đắp mền như thế, nếu ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có các Bí-sô tháp tùng theo các thương nhân du hành trong nhân gian, đến chỗ người chăn bò nghỉ đêm, ban đêm trời lạnh phải đắp mền lông dài, mền có mùi hôi và nhiều rận rệp. Các Bí-sô muốn day phần lông dài ra ngoài để đắp nhưng lại sợ trái chế, đem việc này bạch Phật, Phật nói: “được dùng mền day phần lông dài ra ngoài khi ngồi yên, không được trùm đi kinh hành. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai: Nệm lót, cho không cho, Không để bát chỗ dơ, Cột y, ba loại nút, Dây đai lưng cũng vậy. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, Phật bảo các Bí-sô: “nếu được nệm lót bằng Kiếp bối hoặc nỉ lông dài hoặc Cao nhiếp bà… đều được thọ, Tăng hay cá nhân đều tùy ý thọ dụng; nhưng nếu là nỉ hay Cao nhiếp bà thượng diệu thì chỉ có Tăng được cất chứa còn cá nhân không được”. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô khất thực sáng sớm đắp y mang bát vào thành khất thực, thượng y bỗng tuột xuống nên Bí-sô vội để bát xuống để kéo y lên. Các cư só, Bà-la-môn thấy rồi liền chê trách : “Sa môn Thích tử không biết dơ sạch, tùy tiện để bát trên đất dơ”, bạch Phật, Phật nói: “ai tùy tiện để bát trên đất dơ thì phạm tội Việt pháp, nhưng để giự y khỏi tuột xuống, Bí-sô nên làm nút”. Lúc đó Bí-sô dùng dây gai cột y khiến y bị rách, Phật bảo không nên; lại dùng dây tơ cột, Phật bảo: “không nên, nên ở trên vai làm dây khuy và tra nút phía trước ngực”. Các Bí-sô không biết làm nút như thế nào, Phật nói: “có ba loại nút : một là như hạt Anh túc, hai là như hạt Quỳ, ba là như hạt Đường lê. Bên đường viền y ở trên vai tra dây khuy có thể mau bị đứt, nên tra thụt vô khoảng chừng bốn ngón tay”, lúc đó dây khuy vẫn bị đứt, Phật nói: “nên may thêm cái bàn bà hai lớp, khoét lỗ trên đó để tra dây khuy vào bên trong của hai lớp bàn bà này, xếp y lại làm ba lớp, ngay chỗ đó nên tra nút. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô khất thực sáng sớm đắp y mang bát vào thành khất thực, hạ quần bỗng tuột xuống nên Bí-sô vội để bát xuống để kéo y lên. Các cư só, Bà-la-môn thấy rồi liền chê trách: “Sa môn Thích tử không biết dơ sạch, tùy tiện để bát trên đất dơ”, bạch Phật, Phật nói: “nên cột hạ quần rồi mới vào tụ lạc”. Các Bí-sô dùng dây cột khiến quần mau rách, Phật nói không nên dùng dây, nên dùng dây đai lưng; các Bí-sô không biết làm dây đai lưng như thế nào, Phật nói: “có ba loại dây đai lưng: một là làm dẹp, hai là làm vuông, ba là làm tròn. Ai làm khác thì phạm tội Việt pháp”. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai: Việc Thắng man, Ác sanh, Chế đeo chuỗi anh lạc, Dây vàng, vật màu sắc, Thảy đều không cất chứa. Duyên khởi tại vườn cây Đa căn, thành Kiếp-tỷ-la; lúc đó người trông coi công việc trong một tụ lạc của Thích tử Đại danh đột ngột qua đời. Người trong thôn đến báo tin và yêu cầu Thích tử Đại danh cử người khác đến thay thế, Thích tử Đại danh bảo một Ma-nạp-bà đứng bên cạnh: “ngươi hãy tạm đến trông coi công việc trong thôn, sau đó ta sẽ cử người khác đến thay thế”. Người này đến trông coi công việc như pháp rồi đem lợi nhuận về đất đai nộp cho Thích tử Đại danh, Thích tử Đại danh thấy lợi nhuận này nhiều hơn trước kia nên hỏi: “người thu thuế ruộng nhiều hơn trước kia, có phải lúc bình thường đã bức bách dân trong thôn hay không?”, đáp: “tôi thu thuế như pháp, không làm ai oán hận”. Thích tử Đại danh liền hỏi dân trong thôn: “Ma-nạp-bà này có bức bách dân trong thôn hay không?”, đều đáp là không có, Thích tử Đại danh liền cử Ma-nạp-bà này làm người trông coi mọi việc trong thôn, vì người nay thu thuế như pháp, không áp bức cướp đoạt của dân. Sau đó Ma-nạp-bà lấy một cô gái dòng Bà-la-môn trong thôn làm vợ, không bao lâu sau sanh được một trai, năm sau lại sanh thêm một gái đặt tên là Minh nguyệt; Minh nguyệt trưởng thành thông minh trí huệ và rất xinh đẹp. Thời gian sau người cha bịnh nặng, thuốc thang chữa trị đều không thuyên giảm; tiền thu thuế hàng năm đều dùng cho việc chữa trị cũng không đủ, phải vay mượn thêm người ở ngoài thôn nhưng bịnh người cha ngày càng nặng, cuối cùng qua đời. Người trong thôn đến báo tin và kể rõ mọi việc cho Thích tử Đại danh nghe, Thích tử Đại danh hỏi: “xem họ còn dư chút nào thì lấy đem trả nợ”, người trong thôn nói: “trong nhà không còn gì cả, chỉ còn ba mẹ con, người con gái tên Minh nguyệt thông minh và rất xinh đẹp”, Thích tử Đại danh nói: “thế thì để cho người mẹ và con trai tự kiếm sống, còn người con gái gọi đến đây giúp việc cho ta”. Người trong thôn liền dẩn Minh nguyệt đến chỗ Thích tử Đại danh, trong nhà của Thích tử Đại danh có một bà già làm kiêm hai việc : bếp núc và hái hoa. Bà liền xin Thích tử Đại danh cho Minh nguyệt phụ giúp bà hái hoa, Thích tử Đại danh nói tùy ý, Minh nguyệt vào vườn hái hoa rồi kết thành vòng hoa dâng cho Thích tử Đại danh, Thích tử Đại danh vui mừng nói: “vậy thì từ nay cho cô bé hái hoa trong vườn, kết thành vòng hoa đem dâng cho ta”, nhân đó đặt lại tên là Thắng man. Một hôm, sau khi nhận lấy phần ăn của mình rồi đi vào vườn để hái hoa, Thắng man gặp Thế tôn đang vào thành khất thực. Thấy Phật tướng hảo trang nghiêm, Thắng man sanh tâm tín kính đứng chiêm ngưỡng Thế tôn rồi suy nghó: “từ trước tới nay do ta chưa từng cúng dường bậc chân thật phước điền, nên phải làm nô tỳ như thế này. Nếu Thế tôn nhận thức ăn này của ta, ta sẽ cúng dường”, Phật quán biết tâm niệm của Thắng man nên đưa bát ra và nói: “này thiện nữ, nếu muốn dâng cúng thì hãy để vào trong bát”. Thắng man cung kính để phần thức ăn vào trong bát của Phật rồi đảnh lễ và phát nguyện : “nguyện nhờ phước cúng dường này, con được xả bỏ thân nô tỳ, không còn nghèo khổ, được đại phú quý”, phát nguyện xong đảnh lễ Phật rồi đi. Trên đường đi Thắng man gặp người bạn của cha mình trước kia, người này giỏi xem tướng nên thấy được dị tướng của Thắng man, liền bảo: “này cháu gái, hãy đưa tay ra cho ta xem”, sau khi xem xong ông liền nói kệ: “Lòng bàn tay của ai, Có luân tướng vòng câu, Tuy mang thân nô tỳ, Sẽ làm đại vuơng phi. Lòng bàn tay của ai, Có tướng thành lầu các, Tuy mang thân nô tỳ, Sẽ làm đại vuơng phi. Người nào miệng như ao, Tiếng nói như Ngỗng chúa, Tuy mang thân nô tỳ, Sẽ làm đại vuơng phi. Cháu chớ nên ưu sầu, Sẽ thoát kiếp nô tỳ, Hưởng thọ cảnh giàu sang, Được làm Đại vương phi”. Thắng man bái tạ rồi đi vào vườn hái hoa. Thời gian sau, vua Thắng quang nghiêm giá bốn binh ra ngoài thành săn bắn, con ngựa của vua đang cỡi bỗng vọt chạy không sao kìm lại được, nó đưa vua đến vườn của Thích tử Đại danh ở thành Kiếp-tỷ-la. Lúc đó Thắng man đang hái hoa trong vườn, thấy vua liền chào hỏi, vua hỏi: “vườn này của ai?”, đáp là của Thích tử Đại danh. Vua xuống ngựa, Thắng man cột ngựa vào gốc cây, vua nói: “hãy lấy nước cho ta rửa chân”, Thắng man suy nghó: “rửa chân nên lấy nước ấm”, nghó rồi liền đến chỗ nước có mặt trời chiếu xuống, dùng lá sen múc đầy nước mang đến cho vua rửa chân. Vua lại bảo: “hãy lấy nước cho ta rửa mặt”, Thắng man suy nghó: “rửa mặt nên lấy nước mát”, nghó rồi liền dùng tay khuấy nước cho vừa mát rồi múc nước mang đến cho vua rửa mặt. Vua lại bảo: “hãy đem nước cho ta uống”, Thắng man suy nghó: “uống nước nên lấy nước lạnh”, nghó rồi liền múc nước ở dưới sâu trong ao mang đến cho vua uống. Vua uống xong liền hỏi: “trong vườn này có ba loại nước phải không?”, đáp: “trong vườn không có ba loại nước, chỉ lấy nước ở một chỗ”, nói rồi liền tâu lại việc làm của mình, vua nghe rồi suy nghó: “cô gái này khéo biết đáp ứng thời cơ”. Vua lại bảo: “ta muốn nằm nghỉ một chút, nàng hãy bóp chân cho ta”, Thắng man bóp chân cho đến khi thấy vua ngủ say liền suy nghó: “những vị vua tôn quý ắt có nhiều người oán ghét, ít người yêu mến. Vua đang ngủ say sợ có kẻ ác đến hại, ta nên đóng cửa phòng hộ, nếu có ai đến hại vua, ta và chủ nhân sẽ bị tội”, nghó rồi liền đóng cửa khu vườn. Lúc đó bốn binh noi theo dấu của vua tìm đến vườn, gặp Thắng man liền hỏi: “nhà vua đang ở trong đây phải không?”, Thắng man nghe hỏi không trả lời, cũng không chịu mở cửa, vua nghe tiếng ồn ào liền thức giấc hỏi vọng ra: “là tiếng ồn gì vậy?”, đáp: “có nhiều người đến hỏi Đại vương nhưng thiếp không muốn mở cửa”, vua hỏi là ai đã đóng cửa, đáp: “chính thiếp đã đóng”, vua hỏi vì sao lại đóng, đáp: “thiếp tự nghó: những vị vua tôn quý ắt có nhiều người oán ghét, ít người yêu mến. Vua đang ngủ say sợ có kẻ ác đến hại, ta nên đóng cửa phòng hộ, nếu có ai đến hại vua, ta và chủ nhân sẽ bị tội. Vì vậy thiếp đã đóng cửa”, vua nghe rồi liền khen ngợi : “nàng thật tốt mới nghó ra kế hay này”, vua lại hỏi: “Thích tử Đại danh có thân thuộc gì vói nàng?”, đáp: “thiếp là người giúp việc”, vua nói: “nàng là con gái của Thích tử Đại danh, không phải hạng thấp hèn, vì sao không nói thật?”, Thắng man im lặng, vua liền bảo Thắng man đi báo cho Thích tử Đại danh biết là vua Thắng quang đang ở trong vườn. Thắng man vội đi báo, Thích tử Đại danh nghe báo liền cho nhiều người mang thức ăn ngon và hương hoa đến trong vườn rồi đến gặp vua Thắng quang. Sau khi chào hỏi xong, đợi vua tắm rửa thay đổi y phục rồi dâng hương hoa và thức ăn ngon. Vua ăn xong rồi hỏi Thích tử Đại danh: “cô gái này có thân thuộc gì với khanh?”, đáp là người giúp việc, vua nói: “nàng ấy là con gái của khanh, không phải người giúp việc, khanh hãy dâng cho ta”, Thích tử Đại danh nói: “có rất nhiều con gái dòng họ thích xinh đẹp gấp bội, vì sao vua lại chọn người con gái này?”, vua nói: “cô gái này mới chính là người mà ta cần, không phải người nào khác”, Thích tử Đại danh nói: “nếu thế thì thần sẽ trang nghiêm cho đủ lễ rồi đưa đến dâng vua”, vua nói lành thay. Thích tử Đại danh liền cho quét dọn sạch sẽ và trang hoàng đường sá, dùng chuỗi anh lạc trang nghiêm cho Thắng man rồi cho ngồi trên voi lớn đưa đến nơi rộng rãi, lắc linh thông báo cho dân trong thành Kiếp-tỷ-la biết: Thắng man là con gái của Thích tử Đại danh được đưa đến dâng cho vua Thắng quang, nước Kiều-tát-la làm đệ nhất phu nhân. Trước sự tiễn đưa của dân chúng trong thành và với lễ nghi đầy đủ, vua Thắng quang đón Thắng man về nước. Lúc đó quốc thái phu nhân nghe biết vua lấy nô tỳ làm phu nhân, trong lòng ưu phiền và tức giận suy nghó: “đây không phải là đứa con tốt, lúc còn trong bụng đã làm ta phiền não, nay trưởng thành lại làm chổng kẻ nô tỳ”. Về đến trong thành, vua liền bảo Thắng man đấn ra mắt đại gia, Thắng man đến đảnh lễ đại gia, hai tay ôm lấy chân. Do bàn tay của Thắng man mềm mại nên khi chạm vào chân, quốc thái phu nhân cảm thấy thân tâm ngây ngất, giâu lâu mới chợt tỉnh, nói rằng: “cô gái hạ tiện có thân hình xinh đẹp mềm mại này sẽ làm tan nát thành Kiều-tát-la của ta” . Lúc đó vua Thắng quang có hai phu nhân : một tên là Hành vũ, hai tên là Thắng man; khi ở bên Thắng man thì vua thường khen ngợi Hành vũ là người xinh đẹp tuyệt trần, Thắng man hỏi vua: “bao giờ thiếp mới được gặp?”, vua nói: “không bao lâu nữa sẽ gặp”. Thời gian sau, vào mùa xuân trăm hoa đua nở, cây cỏ tươi tốt, nước hồ trong xanh, đủ các loại chim bay đến tụ tập trong vườn như Anh vũ, Công, Uyên ương… Vua cùng các cung phi thể nữ vào trong vườn du ngoạn, vua mõi mệt nên nằm nghỉ, các cung nhân đi dạo khắp trong vườn. Lúc đó Hành vũ đứng vịn nhánh cây Vô ưu, Thắng man nhìn thấy cho là thần cây nên đến bên đảnh lễ, hai tay chạm vào chân làm cho Hành vũ cảm thấy ngây ngất. Vua chợt tỉnh dậy nhìn thấy Thắng man đang ở bên Hành vũ liền ra lịnh trở về cung, sau đó ở bên Hành vũ, vua khen ngợi Thắng man, Hành vũ hỏi: “bao giờ thiếp mới được gặp”, vua nói: “nàng đã gặp rồi”, đáp: “thiếp nhớ là chưa từng gặp”, vua nói: “để ta nhắc cho nàng nhớ, khi vào trong vườn du ngoạn, nàng đứng bên cây Vô ưu, Thắng man đã đến đảnh lễ và chạm vào chân của nàng”, Hành vũ hỏi: “nàng ấy là Thắng man sao?”, đáp là phải, Hành vũ nói: “thiếp biết được Đại vương yêu mến nên mới bỏ qua người có thân hình xinh đẹp mềm mại như vậy mà hạ cố đến thiếp”. Sau đó ở bên Thắng man, vua khen ngợi Hành vũ, Thắng man hỏi: “bao giờ thiếp mới được gặp?”, vua nói: “nàng đã gặp rồi”, Thắng man nói: “thiếp nhớ là chưa từng gặp”, vua nói: “để ta nhắc cho nàng nhớ, khi vào trong vườn du ngoạn, ở bên cây Vô ưu nàng đã đảnh lễ Hành vũ”, Thắng man hỏi: “nàng đó là Hành vũ sao?”, đáp là phải, Thắng man nói: “thiếp biết được Đại vương yêu mến nên mới bỏ qua người xinh đẹp tuyệt trần như vậy mà hạ cố đến thiếp”. Lúc đó cả nước đều biết vua Thắng quang có hai phu nhân: Thắng man thân hình xinh đẹp mềm mại và Hành vũ dung mạo xinh đẹp tuyệt trần. Các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, Thắng man và Hành vũ đã tạo thiện nghiệp gì, do nghiệp lực này nên một người được thân xinh đẹp mềm mại, còn người kia dung mạo xinh đẹp tuyệt trần?”, Phật nói: “hai người này đều do nghiệp đã tạo chiêu cảm tăng trưởng thành thục… Các thầy lắng nghe: Quá khứ trong Đại thành có một Bà-la-môn lấy vợ chưa bao lâu thì người vợ hạ sanh được một trai, vài năm sau lại sanh thêm một gái. Khi hai anh em trưởng thành thì cha mẹ đều bị bịnh và qua đời, người anh gặp việc đau buồn nên nghó đến núi rừng, liền dắt em vào núi rừng hái hoa quả sống qua ngày. Này các Bí-sô, như rắn độc lớn có năm điều hại: một là nhiều sân, hai là nhiều hận, ba là làm ác, bốn là vô ân, năm là lợi độc. Người nữ cũng có năm điều hại: một là nhiều sân, hai là nhiều hận, ba là làm ác, bốn là vô ân, năm là lợi độc; người nữ lợi độc là người có tâm nhiễm dục rất mãnh liệt. Khi cô em gái đến tuổi trưởng thành thì tâm Ái dục hừng thạnh, liền nói với người anh: “em không thể chỉ ăn hoa quả sống ở nơi đây, chúng ta hãy đến nơi có người tìm thức ăn”, người anh nghe rồi liền dẫn em gái ra khỏi rừng, đi dần đến trước nhà của một Bà-la-môn khất thực, Bà-la-môn nhìn thấy liền hỏi: “ẩn só cũng có vợ hay sao?”, đáp: “đây là em gái, không phải vợ tôi”, Bà-la-môn hỏi đã đính hôn chưa, đáp là chưa, Bà-la-môn nói: “nếu vậy hãy gả cho tôi”, đáp: “em tôi đã xa lìa ác pháp”. Lúc đó người em do tâm Ái dục hừng thạnh nên nói với người anh: “không phải em không thể ở trong núi rừng ăn trái cây để sống, mà là vì em không chịu nổi phiền não bức bách nên mới muốn cùng anh rời bỏ núi rừng đến ở trong nhân gian. Anh hãy gả em cho Bà-la-môn này”, người anh nói: “ta không thể đem gả em vì đây là ác pháp thế gian, không phải là việc làm của ta; nếu em có tục tâm thì mặc tình em muốn làm gì thì làm”. Bà-la-môn hiểu ý cô gái liền dẫn vào nhà, hội họp thân tộc làm lễ cưới ; lúc đó người em gái nói với anh: “anh nay có thể ở cùng nhà với em nhưng khác phòng”, người anh nói: “ta không cầu dục lạc, chỉ ưa muốn xuất gia”, người em nói: “xin hãy hứa với em rồi tùy ý xuất gia”, người anh hỏi hứa điều gì, người em nói: “nếu anh chứng quả thù thắng, xin hãy trở lại gặp em”, người anh nói: “em sẽ được như nguyện”, nói rồi từ giã ra đi. Người anh sau khi xuất gia ở chỗ các ẩn só, do thiện căn đời trước nổ lực tu tập, không bao lâu sau ngay nơi ba mươi bảy phẩm pháp Bồ-đề phần, không thầy tự ngộ chứng quả Độc giác. Lúc đó vị Độc giác suy nghó: “trước đây ta có hứa với em gái, nay nên trở lại gặp”, nghó rồi liền đi đến nhà người em gái, ở trên hư không hiện các thần biến : trên thân phóng lửa, dưới thân phun nước… rồi hạ xuống đất. Thường tình hễ phàm phu nhìn thấy thần biến này liền như cây đại thọ sụp đổ, lúc đó người em gái sụp xuống đảnh lễ người anh nói rằng: “anh thật đã chứng được thắng đức thù diệu”, đáp là phải, người em nói: “anh cần ăn uống để duy trì mạng sống còn em vì cầu phước, xin anh hãy ở lại đây để em được cúng dường”, Độc giác nói: “em nay không được tự tại, hãy bàn với chồng”. Người em liền đến nói với chồng: “anh biết không, anh của em xuất gia nay đã chứng được quả thượng diệu, em muốn cúng dường nhưng không dám tự chuyên. Nếu anh đồng ý, em sẽ cúng dường ẩm thực và các vật cần dùng trong ba tháng”, người chồng nói: “nếu anh của em không xuất gia, dù không muốn ta cũng phải chu cấp đầy đủ ; huống chi nay anh ấy xuất gia đã chứng quả thù thắng, tùy ý em cúng dường trong ba tháng”. Người chồng này có có một người vợ nữa, người vợ trước này thấy người vợ sau cúng dường ẩm thực liền suy nghó: “gia tài là của chung, nay cô ấy biết cầu phước, vì sao ta lại không làm”, nghó rồi liền nói với người vợ sau: “anh của cô cũng là bậc tôn của tôi, hãy cho tôi được cách ngày cúng dường”, đáp là tùy ý. Người vợ sau muốn giữ tình cảm với người vợ trước nên khi đem thức ăn cúng dường cho anh, cô để thức ăn ngon ở bên trong, bên ngoài để thức ăn thường rồi nói với người vợ trước: “em mang thức ăn này cúng dường cho người anh, xin chị tùy hỉ”. Đến ngày người vợ trước cúng dường, muốn giữ tình cảm với người vợ sau nên cô để thức ăn thường ở bên trong, bên ngoài để thức ăn ngon rồi nói với người vợ sau: “tôi mang thức ăn này cúng dường cho tôn huynh, cô hãy tùy hỉ”. Phật bảo các Bí-sô: “người em gái thuở xưa chính là Thắng man ngày nay, do cúng dường thức ăn thơm ngon để ở bên trong cho người anh là vị Độc giác, nên trong năm trăm đời thân thường mềm mại. Người vợ trước chính là Hành vũ ngày nay, do để thức ăn thơm ngon ở bên ngoài đem cúng dường cho vị Độc giác, nên trong năm trăm đời dung mạo thường xinh đẹp. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập như vậy”. Thời gian sau, phu nhân Thắng man có thai, cùng ngày ấy vợ của một đại thần Bà-la-môn cũng có thai và chịu khổ nhiều vì cái thai này. Qua chín tháng, phu nhân Thắng man hạ sinh được một trai khôi ngô tuấn tú, ai cũng yêu mến; qua hai mươi mốt ngày vua bảo đại thần bồng đứa bé này đến xin quốc thái phu nhân đặt tên. Đại thần vâng lịnh vua bồng đứa bé đến, quốc thái phu nhân nói: “có phải trước đây ta có nói rằng: cô gái hạ tiện có thân hình xinh đẹp mềm mại này sẽ làm tan nát thành Kiều-tát-la của ta”, đại thần đáp phải, quốc thái phu nhân nói: “khi đứa bé chưa sanh, ta đã báo trước điều không lành, vậy nên đặt tên cho nó là Ác sanh”. Cùng ngày Ác sanh sanh ra, vợ của đại thần cũng hạ sanh một trai… do đứa bé này khi còn ở trong thai cũng đã làm khổ mẹ, sau khi sanh ra cũng làm người mẹ khổ nên đứa bé này được đặt tên là Khổ mẫu. Cả hai đều được tám bà nhũ mẫu chăm sóc cho đến trưởng thành, lúc đó Thái tử Ác sanh và Khổ mẫu ra thành săn bắn, con ngựa của Thái tử đang cỡi bỗng chạy vọt đến trong vườn Thích ca ở thành Kiếp-tỷ-la. Người giữ vườn đến báo với các Thích tử , các Thích tử nghe rồi liền nói với nhau: “chúng ta cùng tiến ra giết Ác sanh, bây giờ là đúng lúc”, nói rồi cùng trang bị binh giáp muốn xuất thành. Các bậc kỳ lão thấy rồi liền hỏi muốn đi đâu, đáp là muốn giết Ác sanh, các kỳ lão nói: “họ là khách mới đến chưa xúc phạm gì, hãy nhẫn nhịn”, các Thích tử nghe rồi liền lui bịnh trở vào thành. Lúc đó bốn binh noi theo dấu tìm Thái tử đến trong vườn, người giữ vườn lại đến báo với các Thích tử, các Thích tử nghe rồi nổi giận lại muốn xuất thành. Các bậc kỳ lão thấy liền hỏi muốn đi đâu, đáp: “bốn binh của Ác sanh đến trong vườn phá hoại, chúng tôi muốn đến giết họ”, các kỳ lão nói: “hãy nhẫn nhịn”. Lúc đó Ác sanh biết các Thích tử muốn hại nên vội dẫn binh trở về nước, chỉ để lại một người thám thính tình hình. Khi các Thích từ kéo binh đến, không thấy Ác sanh đâu liền hỏi: “Ác sanh đứa con của kẻ nô tỳ nay ở đâu?”, đáp là vừa đi khỏi, các Thích tử nói với nhau: “nếu chúng ta bắt được Ác sanh trước hết chặt tay, kế chặt chân rồi moi tim nó; nay nó đi khỏi thì làm được gì”, nói rồi liền sai người đào bỏ chỗ đất mà Ác sanh đã đứng rồi lấy đất khác lấp lại, sau đó rưới nước thơm lên tường vách mà Ác sanh đã dựa vịn và cho quét dọn sạch sẽ lại khu vườn. Người ở lại thám thính nhìn thấy mọi việc rồi liền trở về gặp Ác sanh, Ác sanh hỏi: “người đã nghe và thấy những gì?”, đáp là không dám nói, Ác sanh nói: “ngươi thấy nghe như thế nào cứ nói ra, ta muốn biết rõ sự thật”, người kia liền kể rõ lại mọi việc. Ác sanh nghe rồi phẩn nộ nói với tả hữu : “các ngươi hãy nhớ kỹ, sau khi phụ vương băng hà, khi ta lên ngôi kế vị, các ngươi phải nhắc lại việc này cho ta nhớ. Đây là mối thù đầu tiên của ta, ta nhất định sẽ tru diệt Thích chủng”, Khổ mẫu nói: “lành thay Thái tử, xin hãy kiên tâm, khi Thái tử lên ngôi kế vị, thần sẽ nhắc lại việc này”. <篇> NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 8 4. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai (tiếp theo): (Việc vua Thắng quang tin Phật và Ác sanh tàn sát Thích chủng) Thời gian sau, Thái tử Ác sanh khởi tâm ác nghịch, cùng các quan bàn tính việc soán ngôi; cả năm trăm đại thần đều thuận nghe theo, chỉ có đại thần Trường hành là người được vua Thắng quang Ái trọng là không thuận theo. Ác sanh hỏi Trường hành: “ông không muốn ta lên ngôi vua hay sao?”, đáp: “vì sao Thái tử lại nói lời phi pháp như vậy, vua nay tuổi đã già, không bao lâu nữa sẽ băng hà, Thái tử đương nhiên sẽ lên nối ngôi. Vì sao lại mưu tính soán ngôi để mang tiếng ác, thần tuy ngu si nhưng trộm nghó là Thái tử không nên”, Ác sanh nói: “ta chỉ thử lòng ông, ông hãy giữ kín miệng chớ nói cho ai biết”, đáp là không dám trái lịnh. Sau đó, vua Thắng quang cùng đại thần Trường hành du hành đến các tụ lạc mà không dẫn tùy tùng theo. Khi đến thấy có một A-lan-nhã thanh nhàn khoáng đãng, không có tạp uế rất hợp cho người tu thiền định, dưỡng tinh thần ; vua nói với Trường hành: “Thế tôn đại sư có thể trụ một nơi thắng xứ như thế này, ta rất muốn hạ mình thân cận cúng dường nhưng không biết hiện giờ Thế tôn đang ở đâu”, đáp: “thần nghe nói Thế tôn đang ở trú xứ của Thích chủng tại tụ lạc Kiết tường”, vua hỏi: “từ đây đến đó gần hay xa?”, đáp: “khoảng chứng ba Câu lô xá”, vua nói: “ta muốn đến đó gặp Thế tôn”, Trường hành tuân lịnh vua cho quay xe lại để đi đến tụ lạc Kiết tường. Đến nơi, cả hai xuống xe đi bộ, thấy các Bí-sô đang kinh hành, vua làm lễ rồi hõi Phật đang ở đâu, đáp: “Thế tôn đang thiền định trong căn phòng khép cửa, Đại vương đến đó gõ nhẹ cửa, Thế tôn sẽ tự biết thời”. Vua có năm vật trang nghiêm thắng diệu: một là mão báu, hai là lọng báu, ba là kiếm báu, bốn là cây phất báu, năm là giày báu. Vua cởi bỏ năm vật này giao cho Trường hành coi giữ để di đến gặp Phật, Trường hành suy nghó: “vua giao năm vật nay cho ta coi giữ để an tâm gặp Phật, ta nên ở đây coi giữ”. Lúc đó vua đến gõ nhẹ cửa phòng, Phật ra mở cửa, vua đảnh lễ rồi bạch Phật: “đã lâu con không gặp Như lai, nay được gặp vui mừng không kể xiết”, Phật nói: “Đại vương vì sao lại có thể hạ mình đối với ta ân trọng như vậy?”, vua nói: “con tín kính giáp pháp của Thế tôn, vì tín kính nên con phát tâm ân trọng. Lại nữa, Phật Thế tôn Ứng chánh đẳng giác khéo thuyết giảng pháp luật khiến chúng đệ tử Thanh văn đều phụng hành theo, không ai dám trái nghịch”. Phật hỏi: “Đại vương ở nơi pháp nào mà khởi tâm cung kính?”, vua bạch Phật: “trước đây con từng thấy các Sa môn, Bà-la-môn khác có được ít trí huệ liền tự thị cống cao, làm luận thư để nạn vấn người khác. Mọi người cho là họ giỏi phân tích nên tùy thuận theo những kiến giải đã có, họ kiến lập tông với chủ thuyết riêng rồi suy nghó: “ta nên đến gặp Sa môn Kiều- đáp-ma để cùng đàm luận, nếu không đáp được, ta sẽ làm nhục ông ta; nếu đáp được thì ta sẽ nạn vấn là phi lý không đúng”. Khởi tà niệm này rồi họ đến gặp Phật, sau khi thấy sức oai thần của Phật, họ không dám nhìn thẳng vào Phật huống chi là trực tiếp cùng đàm luận. Do đây con phát sinh lòng tín kính đối với Thế tôn, vì tín kính nên con phát tâm ân trọng. Lại nữa, Phật Thế tôn Ứng chánh đẳng giác khéo thuyết giảng pháp luật khiến chúng đệ tử Thanh văn đều phụng hành theo. Lại nữa Thế tôn, trước đây con từng thấy các Sa môn, Bà-la-môn khác có được ít trí huệ liền tự thị cống cao, làm luận thư để nạn vấn người khác. Khi đến gặp Thế tôn, họ đã không dám nạn vấn mà còn khen Thế tôn là bậc Pháp vương đệ nhất trong trời người, bậc Nhất thiết trí đã bứng hết gốc tà đưa người về chánh đạo ; thế nên con khởi tâm tín kính, vì tín kính nên con phát tâm ân trọng. Lại nữa, Phật Thế tôn Ứng chánh đẳng giác khéo thuyết giảng pháp luật khiến chúng đệ tử Thanh văn đều phụng hành theo. Lại nữa Thế tôn, trước đây con từng thấy các Sa môn, Bà-la-môn khác có được ít trí huệ liền tự thị cống cao, làm luận thư để nạn vấn người khác. Khi đến gặp Thế tôn, họ đăït ra nhưng câu hỏi không hoàn chỉnh, Phật đã trả lời bằng những câu hoàn chỉnh khiến họ sanh tâm hoan hỉ, khởi tín tâm quy y Tam bảo, thọ trì học xứ; thế nên con khởi tâm tín kính, vì tín kính nên con phát tâm ân trọng. Lại nữa, Phật Thế tôn Ứng chánh đẳng giác khéo thuyết giảng pháp luật khiến chúng đệ tử Thanh văn đều phụng hành theo. Lại nữa Thế tôn, trước đây con từng thấy các Sa môn, Bà-la-môn khác có được ít trí huệ liền tự thị cống cao, làm luận thư để nạn vấn người khác. Khi đến gặp Thế tôn, họ đặ ra những câu hỏi hoàn chỉnh, Phật tùy căn cơ trả lời bằng những câu hoàn chỉnh hơn khiến họ sanh tâm hoan hỉ, hiểu được diệu nghóa liền từ bỏ tà đạo, tôn sùng chánh pháp, xin xuất gia thọ giới cụ túc, siêng tu phạm hạnh, không bao lâu sau trừ hết trần cấu của nhiều đời, chứng quả A-la-hán thọ giải thoát lạc rồi suy nghó: “bấy lâu nay uổng cho ta đã tự khi dối mình, không phải Sa môn mà cho là Sa môn, không phải Bà-la-môn mà cho là Bà- la-môn, không phải A-la-hán mà cho là A-la-hán. Nay ta mới thật là Sa môn, Bà-la-môn, là chân A-la-hán”. Thế nên con khởi tâm tín kính… như trên. Lại nữa Thế tôn, con từng thấy các Sa môn, Bà-la-môn khác sắc mặt vàng vọt, thân hình suy nhược với các căn khiếm khuyết, thật không ưa nhìn. Con suy nghó: “có phải người ây không thích tu phạm hạnh hay bị bịnh triền miên đến nỗi suy nhược như vậy, hay đã làm ác nghiệp ở chỗ khuất mà che giấu nên mới khiến người khác không ưa nhìn”; nghó rồi con đến hỏi rõ nguyên do, họ nói là do bị Ái dục bức bách nên mới như thế. Con nghe rồi suy nghó:” người không đoạn được Ái dục nên mới như vậy, nếu được thỏa mãn Ái dục thì đáng lẽ phỉ được tăng trưởng sức lực, sắc mặt hồng hào ; nhưng thật tế thì không phải vậy. Vì sao, vì con làm quốc vương được tự tại thọ hưởng năm dục lạc, đáng lẽ con phải được tướng mạo thù thắng nhưng lại không được, nên con biết không phải do thỏa mãn Ái dục mà được sức lực và sắc đẹp, nhưng người ngu si lại tham đắm Ái dục. Còn các đệ tử Thanh văn của Thế tôn do tu phạm hạnh nên các căn sáng sạch, sắc mặt tươi nhuận được an lạc trụ, thường sợ Ái dục như Nai ở trong rừng, cho đến trọn đời sống thanh bạch, thuần nhất không tạp, phạm hạnh đầy đủ. Vì thế con khởi tâm tín kính… như trên. Lại nữa Thế tôn, con nhớ lúc con ở trên cung điện xử lý việc nước, có nhiều người vì năm dục nên đến chỗ con để kiện tụng hoặc cha mẹ, anh chị em, con trai, con gái, bạn bè… cùng tranh luận tốt xấu với nhau, huông chi là đối với người khác. Con lại thấy có hai Bí-sô tranh cãi với các Bí-sô khác đến nỗi xả giới hoàn tục, nhưng hai Bí-sô này ở trong Phật pháp tăng bảo không nói lỗi lầm, chỉ tự trách mình vô phước không thể trọn đời nương ở trong giáo pháp của Thế tôn để tu phạm hạnh, không có khuyết phạm. Vì thế con khởi tâm tín kính… như trên. Lại nữa Thế tôn, con thấy có một hạng Sa môn, Bà-la-môn cố giữ tâm tịch tónh tu phạm hạnh, nhưng tám chín tháng sau lại bị Ái dục lôi kéo liền xả luật nghi làm việc nhiễm ô, tự thọ ngũ dục lạc. Còn các đệ tử Thanh văn của Thế tôn tu phạm hạnh đầy đủ, trọn đời nương theo lời Phật dạy, không có khuyết phạm. Vì thế con khởi tâm tín kính… như trên. Lại nữa Thế tôn, con là quốc chủ với quyền lực tự tại, thống trị đất nước có thể giết người không đáng chết, cũng có thể tha cho người đáng chết được sống, trong nước không ai là không tôn trọng. Nhưng khi con luận bàn chính trị với các đại thần là hào tộc Bà-la-môn hay Sát-đế-lî, trưởng giả; khi họ tâu trình vẫn có thái độ không nghiêm túc, tâm ý kiêu mạn. Con lại thấy Thế tôn khi thuyết pháp cho đại chúng trời người, tất cả đều nhất tâm lắng nghe không có tán loạn, dưới tòa im lặng không có một tiếng tằng hắng huống chi là làm ồn náo. Nếu như trong pháp hội có ai ho ra tiếng thì người bên cạnh khẽ nói: “xin chớ làm ồn, Thế tôn đang thuyết diệu pháp, vị như mật ngọt”, vị kia nghe rồi liền im lặng. Lúc đó con suy nghó: “Thế tôn có oai lực thật không thể nghó bàn, Phật không dùng dao gậy hay hình phạt mà điều phục được mọi người, tất cả đều phụng hành theo”. Vì thế con sanh tâm tín kính… như trên. Lại nữa Thế tôn, con có hai cận thần tên là Tiên thọ và Cố cựu, đều được con phong ấp thưởng ban mà được giàu sang danh tiếng an lạc; đối với con tuy họ nhớ ân nhưng lại không cung kính nồng hậu như đã đối với Thế tôn. Một hôm con thống lónh binh mã đi thảo trừ phản tặc, con muốn thử lòng hại cận thần này nên đã hỏi họ: “đối với ta và Phật, khi ngủ hai khánh day đầu và chân về phía ai?”; lúc đó họ liền khen ngợi công đức Phật và phước điền của Pháp Tăng rồi nói là day đầu về Phật và day chân về vua. Con nghe rồi càng thêm kính trọng oai lực không thể nghó bàn của Phật, vì thế con khởi tâm tín kính… như trên. Lại nữa Thế tôn, con là vua nước Kiều-tát-la, Phật cũng ở trong nước Kiều-tát-la; con sinh trong dòng Sát-đế-lî, Phật cũng thuộc dòng Sát-đế-lî; con nay đã thọ hơn tám mươi tuổi, Phật cũng thọ hơn tám mươi; con là vua Sát-đế-lî quán đảnh, Phật cũng là Pháp vương vô thượng nhưng so với Phật, con không thể nào sánh được. Vì thế con khởi tâm tín kính… như trên”. Lúc đó vua Thắng quang ở trước Phật nói những điều thấy nghe và pháp kỳ diệu đã khiến mình khởi tâm tín kính đối với Phật xong, đảnh lễ Phật rồi đi. Vua đi không lâu, Phật liền bảo các Bí-sô: “các thầy nên ghi nhớ những điều vua đã nói, đó là pháp tụ kỳ diệu nên thọ trì đọc tụng, vì sao, vì văn và nghóa đầy đủ, tương ưng với chánh pháp, thành tựu phạm hạnh, có thể khiến chứng được quả Chánh đẳng giác, Niết-bàn viên minh. Vì thế các thầy nên siêng năng tu học”, các Bí-sô nghe Phật nói xong, hoan hỉ phụng hành. - Nhiếp tụng văn trường hàng ở trên: Luận về bốn hạng người, Nghó đến dục, thân gầy, Hai quan cung kính khác, Tôn vua không bằng Phật. Sau khi vua Thắng quang đến gặp Phật, đại thần Trường hành suy nghó: “năm trăm đại thần của vua đều thuận theo Thái tử Ác sanh, chỉ có mình ta là không theo nên họ không thể thành tựu việc lớn. Nay ta nên trở về ủng hộ Thái tử Ác sanh lên ngôi và đuổi hai phu nhân ra khỏi cung”, nghó rồi liền bỏ lại năm vật của vua, lên xe quay trở về thành Thất-la-phiệt. Trường hành đến gặp Thái tử hỏi rằng: “nay Thái tử có muốn lên ngôi không?”, đáp: “đó chính là điều ta muốn”, Trường hành liền cùng các quan sách lập Thái tử lên ngôi vua, đuổi hai phu nhân ra khỏi cung đến chỗ vua, hai phu nhân hỏi vua đang ở đâu, Trường hành đáp: “hiện vua đang ở trong vườn Thích ca Diệu quang”, hai phu nhân nghe rồi liền đi bộ đến đó gặp vua. Lúc đó vua trở ra không thấy Trường hành đâu liền hỏi các Bí-sô, Bí-sô đáp: “vua vào gặp Thế tôn chưa bao lâu thì Trường hành cũng lên xe bỏ đi”, vua nghe rồi liền đi bộ trở về, lúc đó Phật cũng đi về thành Vương xá. Vua đi đến giữa đường thì gặp hai phu nhân liền hỏi: “vì sao hai khanh đi bộ đến đây?”, hai phu nhân liền kể lại việc trên, vua nghe rồi liền bảo Thắng man : “trước đây khanh đã hưởng ân sũng của vua chồng, nay khanh nên trở về thọ sự phụng dưỡng của vua con. Ta và Hành vũ sẽ không trở về đó nữa”, Thắng man nghe rồi liền theo đường cũ trở về thành Thất-la-phiệt, vừa đi vừa khóc. Vua cùng Hành vũ đi hướng về thành Vương xá, khi gần tới thành thấy có một khu vườn, vua liền dừng lại nói với Hành vũ: “ta tạm ở đây, khanh vào trong thành báo với vua Vị sanh oán là có vua Thắng quang nước Kiều-tát-la đang ở trong một khu vườn ngoài thành, muốn gặp nhà vua”, Hành vũ nghe rồi liền vào thành gặp vua Vị sanh oán nói lại lời vua Thắng quang, vua Vị sanh oán nghe rồi kinh ngạc nói: “vua Thắng quang nước Kiều-tát-la có đại oai lực, bốn binh hùng cường vì sao lại đến đây?”, Hành vũ nói: “nay vua không có bốn binh vì Thái tử soán nghịch, chỉ có thiếp cùng vua đến đây mà thôi”, vua nghe rồi liền nói: “nếu vậy, ta sẽ tôn vua làm vua nước ta, ta sẽ lui xuống làm Thái tử”, nói rồi liền triệu tập quần thần nói rằng: “vua Thắng quang là vua của nước lớn, vua quán đảnh dòng Sát-đế-lî nay đã đến đây, chúng ta phải cung kính tiếp đãi. Các khanh nên cho sửa sang đường sá trong thành, ta sẽ thống lónh bốn binh đích thân nghinh đón vua vào thành”, quân thần tuân lịnh vua cho người đánh trống thổi loa ra lịnh dân chúng quét dọn sạch sẽ đường sá trong thành như vườn Hoan hỉ của vua trời Đế thích. Lúc đó vua Thắng quang đã lâu không ăn, thấy sứ giả chậm đến đón mình nên ra khỏi vườn để tìm thức ăn. Vua đến một vườn trồng củ La bặc, người giữ vườn là kẻ phàm phu đưa cho vua năm củ, vì quá đói nên vua ăn cả củ và lá, ăn xong khát nước, vua đến bên bờ nước để uống, do uống nhiều nước nên tâm thần rối loạn lại nhớ tới Thắng man, loạng choạng đi về phía trước và té ngã xuống đất, miệng ngậm đầy đất nên qua đời. Khi vua Vị sanh oán thống lónh bốn binh đến khu vườn nghinh đón thì không thấy vua đâu, liền sai binh lính bủa đi khắp nơi tìm kiếm. Một kî mã đến vườn trồng củ La bặc hỏi người giữ vườn có thấy một người như vậy như vậy không, người giữ vườn nói: “có một người như thế vừa mới đến đây xin củ La bặc rồi đi đến bờ nước”. Kî mã đến bờ nước thì thấy vua đã chết liền trở lại báo với vua, vua nghe báo liền than: “thảm thay, ta lại mang thêm tiếng xấu, trước đây ta mang tiếng hại cha đoạt ngôi, nay lại mang tiếng hại bạn của cha”, than rồi liền bảo các quan : “đây là vua Thắng quang dòng Sát-đế-lî quán đảnh, gặp nguy khốn nên băng hà nơi đây, chúng ta nên long trọng hỏa táng với đầy đủ nghi lễ”, các quan tuân lịnh Vuatrang hoàng linh xa để đưa thi thể nhà vua đến trong Hàn lâm làm lễ hỏa thiêu. Sau đó vua Vị sanh oán đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch Phật: “Thế tôn, vua Thắng quang đời trước đã tạo nghiệp gì mà nay vì ăn củ La bặc, chịu khốn khổ phải qua đời?”, Phật nói: “vua Thắng quang do nghiệp đã tạo nên nay phải thọ quả báo, Đại vương lắng nghe: Quá khứ tại một ngôi làng, có một Bà-la-môn cưới vợ chưa bao lâu liền hạ sanh một trai, đứa con này lớn lên phải khất thực để nuôi sống. Một hôm xin được năm củ La bặc, đưa cho mẹ nói: “con đi tắm tửa, mẹ chờ con trở về làm thức ăn”. Thuở đó, thế gian không có Phật, chỉ có Phật Bích chi ra đời thường thương xót người nghèo khổ, thích sống tónh lặng để làm phước điền cho nhân gian. Vị này du hành trong nhân gian, thứ lớp khất thực đến trước nhà này, người mẹ thấy vị Độc giác thân tướng đoan nghiêm, các căn thanh tịnh liền đem năm củ La bặc cúng dường. Vị này thọ cúng dường xong liền ở trên hư không hiện các thần biến: trên thân phóng lửa, dưới thân phun nước… rồi hạ xuống đất. Thường tình hễ phàm phu nhìn thấy thần biến này liền như cây đại thọ sụp đổ, tâm ý điều phục hoan hỉ đảnh lễ. Sau đó người con tắm xong trở về, bảo mẹ đưa lại năm củ La bặc, người mẹ nói là đã cúng dường cho vị Phật Bích chi rồi, người con nghe rồi tức giận nói ra lời ác: “mong cho ông ta ăn năm củ ấy sẽ bị rối loạn mà chết”. Phật bảo Đại vương: “người con thuở xưa chính là vua Thắng quang ngày nay, thuở xưa do ní lời ác đối với vị Độc giác nên bị đọa vào địa ngục chịu khổ não trong vô lượng trăm ngàn năm. Nghiệp báo dư tàn phải trải qua sáu lần bị bịnh rối loạn mà chết, đời này là đời thứ bảy, do nghiệp báo dư tàn nên sau khi ăn củ kia bị rối loạn mà qua đời. Đây là đời cuối cùng thọ nghiệp báo, sẽ không còn thọ nữa. Đại vương nên biết, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, vì vậy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập nghiệp trắng, chớ có nói lời ác”, vua Vị sanh oán nghe Phật dạy rồi hoan hỉ tín thọ, đảnh lễ rồi ra về. Lúc đó Thái tử Ác sanh đã lên ngôi vua, thời gian sau khi vua lâm triều, Khổ mẫu liền tâu vua: “trước kia Đại vương ở trước quần thần đã nói lời rằng: “khi nào ta lên ngôi, ta sẽ tru diệt các Thích tử để báo mối thù đầu tiên”, vua hỏi: “có nên thực hiện lời ta đã nói trước kia hay không ?”, Khổ mẫu nói: “nay Đại vương đã lên ngôi, đúng lúc nên thực hiện lời đã nói trước kia, nếu không sẽ là nói hư dối, xin Đại vương chọn ngày xuất binh”, vua nghe lời Khổ mẫu thống lónh bốn binh là tượng binh, mã binh, xa binh và bộ binh ra khỏi thành Thất-la-phiệt, hướng về nước Kiếp-tỷ-la để tru diệt Thích chủng. Lúc đó Phật quán biết các Thích tử sẽ phải thọ nghiệp báo, nhưng vì tình thân nên Phật đến ngồi dưới một gốc cây nhỏ, ít cành lá ở giữa biên giới hai nước chờ đợi vua Ác sanh. Vua Ác sanh từ xa trông thấy Thế tôn, liền đến bạch Phật: “đại đức, có nhiều vườn rừng với bóng mát rậm rạp vì sao lại bỏ mà đến ngồi dưới gốc cây ít lá, thiếu bóng mát này?”, Phật nói: “Đại vương, không có gì mát bằng bóng mát của thân tộc”, vua nghe rồi liền suy nghó: “dòng họ Thích trong nước Kiếp-tỷ-la đều là thân quyến của Phật, Phật vì tình thân nên nói lời này”, nghó rồi liền rút binh trở về nước. Sau đó Khổ mẫu nhắc lại việc tru diệt Thích chủng đến lần thứ ba, vua Ác sanh mới bảo quần thần: “các Thích tử ở thành Kiếp-tỷ-la mắng ta là con của nô tỳ, ta không thể quên được ; nhưng họ là thân tộc của Như lai, Như lai vì tình thân can ngăn nên ta phải chịu nhịn không dám làm việc tru diệt, ta phải làm sao trả được mối thù này”, Khổ mẫu nói: “thần nghe Sa môn Kiều-đáp-ma tự nói là ly dục, bậc ly dục thì không còn nghó đến thân quyến; nếu nghó đến thân quyến thì không phải là bậc ly dục. Đạo tục khác nhau, Đại vương nên tự quyết”, vua Ác sanh nghe rồi liền quyết định tru diệt Thích chủng. Trong lúc vua Ác sanh chưa xuất binh, Phật suy nghó: “các Thích tử trong thành Kiếp-tỷ-la chưa được Kiến đế, nếu đợi đến khi họ chiến đấu với vua Ác sanh thì không còn có cơ hội để Kiến đế nữa”, nghó rồi Phật liền đi đến trong vườn Đa căn, thành Kiếp-tỷ-la. Các Thích tử nghe tin Phật đến trong vườn Đa căn liền đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi ngồi một bên ; Phật tùy căn cơ mà nói diệu pháp khiến cho các hữu tình trong chúng hội đều được lợi ích lớn, hoặc chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất lai … hoặc gieo nhân duyên quả Phật Bích chi, hoặc quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, lại có vô lượng chúng sanh quy y Tam bảo, thọ trì học xứ phụng hành theo lời Phật dạy. Các Thích tử được pháp lợi rồi liền đảnh lễ Thế tôn rồi ra về, lúc đó vua Ác sanh đã thống lónh bốn binh đến đóng quân ở gần thành Kiếp-tỷ-la. Lúc đó cụ thọ Đại Mục-kiền-liên đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch Phật: “Thế tôn, con nghe kẻ ngu si Ác sanh đã thống lónh bốn binh đến tru diệt Thích chủng. Con có thể dùng thần lực dời binh lính ấy đến nơi xa khác, cúi xin Thế tôn chấp thuận, con sẽ dùng thần lực biến Thành thành sắt có lưới sắt che phía trên khiến cho Ác sanh không thể nào tru diệt được”, Phật nói: “ta biết thầy có thần thông lực, nhưng các Thích tử đã tạo nghiệp rồi, theo thời gian nghiệp ấy tăng trưởng thần thục, duyên biến hiện tiền như bộc lưu ( thác nước ) không thể chảy ngược lại, quyết định phải chiêu lấy quả báo không ai có thể thọ thay”, liền nói kệ: “Dù trải qua trăm kiếp, Nghiệp đã tạo không mất, Khi nhân duyên hội họp, Tự thọ lấy quả báo”. Phật bảo Mục liên: “thầy nên biết thế gian đều do nghiệp lực mà thọ lấy quả báo, do nghiệp lực mà sanh, do nghiệp lực mà trụ ; tất cả chúng sanh đều tùy theo nghiệp thiện ác mà thọ lấy quả báo”, Đại Mục-kiền-liên không được Phật chấp thuận liền đảnh lễ rồi lui ra. Lúc đó các Thích tử trong thành Kiếp-tỷ-la thấy vua Ác sanh đưa đại binh đến, liền thống lónh bốn binh ra thành chống địch. Do họ đều là bậc Kiến đế nên không sát hại, chỉ dùng roi gậy quơ trái quơ phải để đánh. Hoặc dùng cung tên bắn làm cho đứt dây đai dưới bụng voi ngựa, hoặc bắn làm cho rơi mão, hoặc bắn trúng vào hai bên tai … làm cho té ngã mà không giết chết. Lúc đó quân của vua Ác sanh tán loạn, quân của các Thích tử đắc thắng rồi lui quân vào thành đóng cửa phòng thủ và ra chế lịnh : “chúng ta không được giết hại quân của vua Ác sanh, nếu ai trái chế lịnh thì không phải là dòng họ Thích”. Vua Ác sanh thấy việc này rồi liền muốn rút quân trở về, Khổ mẫu tâu: “các Thích tử đều là bậc Kiến đế, ngay cả ruồi muỗi còn không giết huống chi là người. Trong trận vừa rồi quân của ta không ai bị thương tổn, họ còn ra chế lịnh: “chúng ta không được giết hại quân của vua Ác sanh, nếu ai trái chế lịnh thì không phải là dòng họ Thích”, vua nghe tâu nhưng vẫn im lặng. Lúc đó có một Thích tử tên là Thiểm bà ở ngoài thành coi về nông nghiệp, nghe tin vua Ác sanh thống lónh bốn binh đến tru diệt Thích chủng, do không nghe chế lịnh của các Thích tử và chưa Kiến đế nên dẫn quân đến đánh úp quân của vua Ác sanh. Hai bên giao chiến, quân của Thiểm bà thua trận, bị quân của vua Ác sanh tàn sát gần hết. Vua Ác sanh nói với Khổ mẫu: “vừa rồi ngươi nói các Thích tử đều là bậc Kiến đế, ngay cả ruồi muỗi còn không giết huống chi là người; nay Thiểm bà dẫn quân đến đánh, giết hại quân ta cũng nhiều. Nếu các Thích tử dẫn binh đến đánh thì thật khó đối phó, chúng ta nên quay binh trở về”, Khổ mẫu nói: “Thiểm bà ở ngoài thành, vốn chưa vào trong thành Kiếp-tỷ-la nên không biết chế lịnh, nên mới dẫn binh đến đánh, xin Đại vương chớ lo”. Lúc đó Thiểm bà muốn vào thành nến đến kêu cửa, người giữ cửa hỏi là ai, đáp là Thiểm bà, trong thành sai sứ ra nói rằng: “từ nay về sau ông không còn thuộc họ Thích ca, muốn đi đâu tùy ý vì ông đã phạm chế lịnh nên không thể cho ông vào thành”, hỏi là chế lịnh gì, đáp: “các Thích tử đã ra chế lịnh: “chúng ta không được giết hại quân của vua Ác sanh, nếu ai trái chế lịnh thì không phải là dòng họ Thích”, Thiểm bà nói: “tôi không nghe biết, xin hãy dung thứ”, tuy Thiểm bà khẩn cầu nhưng các Thích tử vẫn không cho vào thành, Thiểm bà nói: “nếu không cho vào thì hãy đưa quyến thuộc của tôi ra”. Sau khi đoàn tụ với các quyến thuộc, Thiểm bà đến gặp Thế tôn đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch Phật: “các Thích tử ở trong thành đuổi con, xin Phật từ bi ban cho con vật kỷ niệm để con thường cúng dường”, Phật thương xót liền đưa tóc và móng tay cho Thiểm bà, Thiểm bà cầm lấy tóc và móng tay của Như lai rồi đi đến nước bà cụ trà. Lúc đó dân chúng nước này nghe có Thích tử hào tộc tên là Thiểm bà đến muốn làm chủ nên cùng bàn với nhau có nên theo hay không nên theo. Thiểm bà thấy dân chúng tụ tập dưới núi bàn tính liền để tùy tùng ở một chỗ khuất, tự mình giả làm sứ giả đưa thư, giấu con dao trong người rồi đi đến chỗ họ nói rằng: “các vị nên biết Thích tử Thiểm bà có thế lực lớn và có sức mạnh rất khó chống lại, sai tôi mang thư đến. Xin hãy ngồi cùng đọc thư”, mọi người nói: “nơi đây không có ghế ngồi thì ngồi vào đâu?”, Thiểm bà rút dao ra chặt tảng đá thành từng miếng rồi mời mọi người ngồi, mọi người thấy rồi liền khen là hy hữu rồi hỏi: “bậc trượng phu như ông có tất cả bao nhiêu người?”, đáp: “tôi là người đưa thư đâu có gì đáng nói, những người khác còn hơn tôi gấp bội”, mọi người nghe rồi liền kinh sợ nói với nhau: “sứ giả còn như vậy huống chi là Thiểm bà, tốt hơn hết là lập ông ta lên làm vua”. Sau khi đọc thư xong, họ viết thư phúc đáp rồi nói với sứ giả: “chúng tôi mong Đại vương giá lâm sớm”. Thiểm bà từ giã rồi trở lại chỗ các quyến thuộc, chỉnh đốn tùy tùng rồi đi vào nước Bà cụ trà. Dân chúng già trẻ đều vui mừng nghinh đón và chọn ngày lành lập lên làm vua, lấy hiệu nước là Thiểm bà quốc. Sau khi lên ngôi, Thiểm bà cho xây một ngôi tháp thờ tóc và móng tay của Như lai gọi là tháp Thiểm bà. Người vợ của Thiểm bà vốn không tin Phật, nay cho xây miếu thần thờ cúng mãi cho đến nay.  NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 9 Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai (tt): Lúc đó vua Ác sanh nói với Khổ mẫu: “các Thích tử đóng cửa thành và ở trên thành phòng thủ, chúng ta làm cách nào tru diệt họ được?”, Khổ mẫu nói: “đối với các thành lớn chúng ta nên khéo dùng mưu mới diệt được họ. Thần nghe các vị cổ tiên nói có năm việc quyết định thắng, đó là: Giao hảo, ngầm hối lộ, Lừa gạt, dùng kế độc, Sau đó dùng binh lực, Là việc của người trí. Trong năm việc này, chúng ta nên dùng cách lừa gạt, sai sứ mang lịnh vua đến nói với họ rằng: “đối với các vị ta không có ác ý, có việc cần bàn nên muốn vào thành, xin các vị mở cửa cho tạm gặp rồi sẽ trở ra ngay, không dám ở lâu”. Vua liền sai sứ đến nói theo lời của Khổ mẫu, người trong thành bàn với nhau nên cho vào hay không nên cho vào ; có người nói nên, có người nói không nên, có người nói nên bắt thăm để lấy ý kiến của đa số. Lúc đó Ma vương suy nghó: “ta thường theo rình tìm sơ xuất của Sa môn Kiều-đáp-ma nhưng không tìm được, nay chính là lúc ta nên hại quyến thuộc của ông ta”, nghó rồi ma vương hóa thành một Thích tử già ngồi trên ghế cao bắt thăm trước. Mọi người thấy rồi liền nói với nhau: “bậc kỳ túc đã rút thăm, vì sao chúng ta không rút”, nói rồi liền rút thăm. Kết quả số thăm nên cho vào nhiều hơn nên họ mở cửa thành cho vào. Khi đã vào được trong thành, vua Ác sanh liền ra lịnh tàn sát các Thích tử không thương xót, Thích tử Đại danh thấy việc này rồi, vì thương xót thân quyến nên chạy đến chỗ vua Ác sanh với đầu tóc rối tung nói rằng: “xin vua cho tôi một ước nguyện”, hỏi là nguyện gì, đáp: “xin vua hãy thí vô úy cho Thích chủng”, vua nói: “ta không tha cho các Thích tử khác, nhưng quyến thuộc của ngươi thì được tùy ý ra đi”, Thích tử Đại danh nói: “tôi sẽ lặn xuống đáy hồ, trong lúc tôi chưa nổi lên, xin vua cho quyến thuộc của tôi được chạy thoát”, vua nghe rồi liền nhìn quần thần, quần thần tâu: “Thích tử Đại danh là bạn của tiên vương, vua nên cho ông ấy được như nguyện”, vua nói: “vậy thì hãy cho họ tùy ý chạy đi trong thời gian ngắn”. Được vua chấp thuận, Đại danh trong lòng áo não thương xót nhìn quyến thuộc rồi nhảy xuống hồ lặn xuống đáy, lấy tóc của mình cột vào một gốc cây và chết ở đó. Lúc đó những người trong dòng Thích không cọng nghiệp trong quá khứ thì chạy ra khỏi thành hoặc đến nước Mạt la, hoặc nước Nê ba la hoặc đến các tụ lạc thành ấp khác. Những người cọng nghiệp trong quá khứ thì không thể chạy ra khỏi thành, đến cửa Đông lại chạy trở vào cửa Nam, đến cửa Nam lại chạy trở vào cửa Tây, đến cửa Tây lại chạy trở vào cửa Bắc, đến cửa Bắc lại chạy trở vào cửa Đông. Quần thần thấy vậy liền tâu vua: “không hiểu vì sao họ chạy ra đến cửa thành lại trở vào lại”, vua hỏi quần thần: “hãy xuống xem vì sao Đại danh lại lặn lâu như vậy”, binh lính xuống đáy hồ xem thì thấy Đại danh đã chết. Vua nghe nói Đại danh chết dưới đáy hồ liền nổi giận bảo quần thần: “hãy làm tòa cao để ta lên trên đó tận mắt nhìn thấy máu của dân trong thành này chảy tràn ngập khắp nơi; nếu không như thế thì ta không rời khỏi tòa này”. Lúc đó quần thần nói với nhau: “vua Ác sanh gây tội ác muốn thấy máu chảy tràn ngập, nhưng làm sao có thể được như vậy. Chúng ta lấy chất khoáng màu đỏ tía nấu ra nước đỏ rồi đem tưới khắp nơi, nhìn không khác gì là máu chảy”, nói rồi liền làm như vậy, vua Ác sanh nhìn thấy cho là máu chảy liền suy nghó: “ta đã được thỏa mãn, nay nên rút binh trở về”. Trong trận chiến này, kẻ ngu si Ác sanh đã giết oan bảy vạn bảy ngàn người họ Thích, trong số đó có nhiều người đã Kiến đế. Vua Ác sanh khi rút quân dẫn theo năm trăm đồng nam và năm trăm đồng nữ họ Thích đến một khu vườn là trú xứ của ngoại đạo, Khổ mẫu hỏi vì sao không giết chết, vua hỏi nên giết như thế nào, đáp là cho voi giày đạp. Trong số năm trăm Thích tử này có người khỏe mạnh đánh voi ngã, Khổ mẫu thấy rồi liền tâu vua: “những Thích tử khỏe mạnh này nếu thả ra, họ sẽ gây bất lợi cho Đại vương”, vua hỏi nên giết họ như thế nào, đáp: “nên đào hố chôn sống, cho đầu ló lên rồi dùng sắt đóng”. Lúc đó có hai Thích tử chạy đến chỗ Phật, Phật muốn cho mọi người biết nghiệp báo là thật có nên dùng thần lực hóa ra cái bát lớn cho họ ẩn nấp, nhưng họ vẫn chết ở trong bát. Lúc đó Phật cảm thấy đau đầu nên bảo A-nan mang bát đầy nước đến, hai ba giọt mồ hôi trên cổ Phật nhỏ vào trong bát nước này khiến nước bốc khói và phát ra tiếng kêu như bỏ sắt nóng vào nước. Lúc đó vua Ác sanh để một người ở lại thám thính nói rằng: “nếu người nghe thấy Phật nói gì thì hãy trở về báo lại”, nói rồi dẫn năm trăm Thích nữ về nước. Các Bí-sô thấy việc này rồi đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn do nghiệp gì mà bị đau đầu, các Thích tử trong thành Kiếp-tỷ-la đã tạo nghiệp gì mà nay tuy không phạm tội lại bị vua Ác sanh tru diệt?”, Phật bảo A-nan: “thầy hãy thông báo các Bí-sô tập họp, cùng ta đi đến vườn của ngoại đạo để nghe ta nói nhân duyên của túc nghiệp khiến cho kẻ ngu Ác sanh tàn sát Thích chủng”, tôn giả A-nan vâng lời Phật đi thông báo. Phật cùng đại chúng đi đến vườn ngoại đạo, một Bà-la-môn ở giữa đường gặp Phật liền nói: “Sa môn Kiều-đáp-ma, kẻ ngu Ác sanh đã tạo nghiệp ác, giết oan Thích chủng vô tội”, Phật nói: “đúng vậy, kẻ ngu Ác sanh đã tạo nghiệp ác, giết oan Thích chủng vô tội”. Đến nơi Phật thấy các Thích tử bị sắt đóng đang thoi thóp, họ thấy Phật đều kêu khóc, Phật ở một bên trải tọa cụ ngồi xuống rồi bảo các Bí-sô: “các Thích tử này quá khứ là những người đánh cá đã giết hại loài thủy tộc, chúng rên la cũng giống như các Thích tử ngày nay. Các thầy có từng nghe thợ săn đồ tễ để tự nuôi sống mà có voi ngựa xe uy nghiêm hùng mạnh hay không ?, đáp là chưa từng nghe, Phật nói: “lành thay các Bí-sô, ta cũng chưa từng nghe, vì sao, vì khi kẻ đồ tễ tội ác giết hại loài vật, con vật bị giết sẽ nhìn người giết nó bằng ác nhãn thì kẻ tạo nghiệp ác này không thể có được voi ngựa xe hùng mạnh và tài sản phong phú. Huống chi kẻ ngu Ác sanh đã giết hại các vị Hữu học có đủ oai đức, trì giới thanh tịnh mà lại có được voi ngựa xe uy nghiêm hùng mạnh và được an lạc trụ thì không có lý đó. Các thầy nên biết ví như rồng độc quay nhìn đến nơi đâu thì nơi đó sẽ bị tiêu diệt, thành Kiều-tát-la cũng vậy; sau bảy ngày nữa kẻ ngu Ác sanh và Khổ mẫu sẽ bị lửa đốt cháy kêu khóc vang trời, sau khi chết bị đọa vào địa ngục Vô gián chịu khổ não vô cùng. Vì vậy, đối với cây khô còn không nên có tâm ác huống chi là đối với chúng sanh”. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “năm trăm Thích tử này đã tạo nghiệp gì, do nghiệp lực này nên nay bị kẻ ngu Ác sanh giết oan; lại do nghiệp gì khi họ bị giết hại, Phật bị đau đầu?”, Phật nói: “các thầy lắng nghe nghiệp của các Thích tử và của ta đã làm, đã tạo nghiệp rồi, theo thời gian nghiệp ấy tăng trưởng thần thục, duyên biến hiện tiền như bộc lưu (thác nước) không thể chảy ngược lại, quyết định phải chiêu lấy quả báo không ai có thể thọ thay… Quá khứ, ở bên bờ sông có năm trăm ngư dân thấy có hai con cá từ biển bơi vào sông rồi ngoi lên mặt nước, họ vui mừng thả lưới lớn để bắt. Bắt được rồi, thấy cá quá lớn liền nói với nhau: “cá to quá, nếu giết hết cả hai, thịt dùng không hết sẽ bị ươn”, một người nói: “giết một con, còn một con cột dưới nước”, một người nói: “cả hai đều lớn, dù giết một con, thịt dùng không hết cũng bị ươn. Nên cột cả hai dưới nước, khi nào cần thịt ăn thì cắt lấy để ăn, như vậy thịt mới tươi sống”, mọi người đồng ý và cứ cắt thịt ăn từ từ, cá đau đớn kêu rống vang trời. Lúc đó có một đồng tử nhìn thấy cảnh này lấy làm vui thích, hai con cá suy nghó: “ta bất hạnh nên gặp nỗi khổ này, trong đời vị lai họ sanh đến nơi nào, ta cũng sanh đến nơi đó, dù họ vô tội ta cũng sát hại làm cho họ đau khổ”. Phật bảo các Bí-sô: “hai con cá thuở xưa chính là Ác sanh và Khổ mẫu ngày nay, năm trăm ngư dân chính là năm trăm Thích tử. Thuở xưa họ làm cho hai con cá đau khổ nên nay trở lại bị chôn sống và bị sắt đóng vô cùng đau khổ. Các Thích chủng khác chính là những người thuở xưa đã tùy hỉ theo việc làm của các ngư dân, đồng tử tùy hỉ thuở xưa chính là thân ta ngày nay, Nay ta tuy chứng Vô thượng Bồ-đề nhưng vận chịu quả báo đau đầu, nếu ta không có phước tụ vô biên công đức này thì ta cũng sẽ bị tru diệt như các Thích tử. Các thầy hãy lắng nghe thêm: Quá khứ có năm trăm giặc cướp đến trong một thôn cướp đoạt tài vật, chúng thấy có hai trưởng giả ở trên lầu liền gọi xuống nhưng không chịu xuống, giặc cướp nói: “nếu không xuống ta sẽ giết hết”, đáp: “ta thà chết chứ không xuống”, giặc cướp liền chất củi đốt lầu khiến hai trưởng giả chịu khổ thiêu đốt liền suy nghó: “ta vô tội mà chịu nỗi khổ này, trong đời vị lai họ sanh ở chỗ nào, ta cũng sanh đến chỗ đó và sẽ làm cho họ đau khổ”. Này các Bí-sô, hai trưởng giả thuở xưa chính là Ác sanh và Khổ mẫu ngày nay, năm trăm giặc cướp chính là năm trăm Thích tử, thuở xưa bị giết nay giết trở lại. Thế nên này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập nghiệp trắng”. Lúc đó vua Ác sanh trở về thành Thất-la-phiệt, khi sắp vào thành, vua nghe thấy Thái tử Thệ đa đang thọ hưởng ngũ dục lạc cùng các thể nữ ở trên lầu cao, liền cho gọi đến hỏi: “ta đi đánh dẹp kẻ thù vô cùng mệt nhọc, vì sao người lại ở đây thọ hưởng dục lạc?”, Thái tử đáp: “thần không biết Đại vương đi đánh dẹp kẻ thù, nhưng kẻ thù là ai?”, vua nói: “đó là các Thích tử ở thành Kiếp-tỷ-la”, Thái tử nói: “nếu các Thích tử là kẻ thù thì ai là bạn thân?”, vua nghe rồi liền nổi giận ra lịnh: “đây cũng là phe đảng của các Thích tử, hay mau giết chết”. Thái tử vô tội bị giết chết, do phước báo thù thắng ở cõi người chưa hưởng hết nên được sanh lên cõi trời Tam thập tam để tiếp tục thọ diệu lạc ở cõi trời. Lúc đó Thế tôn liền nói kệ tụng: “Đời này vui, đời sau cũng vui, Do làm phước, hai đời đều vui, Tự biết vui này do nghiệp trước, Lại được chuyển sanh vào cõi lành. Đời này vui, đời sau cũng vui, Do làm phước, hai đời đều vui, Tự biết vui này do nghiệp trước, Sanh đến cõi khác cũng an lạc”. Cụ thọ A-nan nghe kệ tụng này rồi liền bạch Phật: “con chưa hiểu rõ ý nghóa của bài kệ tụng này” , Phật nói: “Thái tử Thệ đa vô tội bị kẻ ngu Ác sanh giết chết, do phước báo thù thắng ở cõi người chưa hưởng hết nên được sanh lên cõi trời Tam thập tam để tiếp tục thọ diệu lạc ở cõi trời. Vì thế ta mới thuyết kệ tụng này”, A-nan nghe rồi hoan hỉ tín thọ. Thời gian sau, khi vua Ác sanh cùng các Thích nữ thọ lạc trong cung liền tự khoe rằng: “ta là bậc dũng mãnh hiếm có, trong thế gian không ai bằng được”, các Thích nữ nói kệ: “Các Thích tử quy Phật, Vì thọ trì giới luật, Mới bị vua giết chết, Có gì phải tự khoe”. Vua nghe rồi liền nổi giận nói kệ: “Giết rồng giữ Long nữ, Khiến ta sanh sân độc, Hãy chặt hết tay chân, Để mau theo thân tộc”. Quần thần tuân lịnh vua dẫn năm trăm Thích nữ này đến bên bờ hồ Ba thát la và chặt hết tay chân của họ, do nhân duyên này hồ còn có tên là Hồ chặt tay chân. Các Thích nữ đau đớn không chịu nỗi liền suy nghó: “chúng ta đang đau đớn không chịu nỗi, vì sao Thế tôn không thương xót”. Phật không có điều gì là không biết, lúc đó Phật liền khởi tâm đại bi đi đến chỗ đó và thấy các Thích nữ đang ngồi lõa hình, Phật liền khởi tâm thế tục. Thường pháp của chư Phật, nếu Phật khởi tâm thế tục thì ngay cả côn trùng cũng biết được ý Phật, nếu Phật khởi tâm xuất thế thì dù là Thanh văn, Duyên giác cũng không thể biết được ý Phật, huống chi là chúng sanh khác. Phật nghó: “lành thay, nếu thiên nữ Xá chi đem y phục và nước đến đây thì tốt quá”, Phật vừa khởi niệm, thiên nữ Xá chi liền biết ý Phật muốn thuyết diệu pháp để hóa độ các Thích nữ, nên đến ao Vô nhiệt múc đầy bình nước và đem năm trăm thiên y đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi bạch Phật: “Thế tôn, con đem thiên y và nước thơm đến”, Phật bảo thiên nữ đến an ủi các Thích nữ, tắm rửa và mặc y phục giúp cho họ. Thiên nữ làm theo lời Phật dạy xong, Phật liền dùng thần thông lực làm cho năm trăm Thích nữ không còn đau đớn nữa rồi nói rằng: “nghiệp đã tạo đời trước nay đã thành thục phải tự thọ lấy quả báo, không ai thay thế được”, nói rồi bỏ đi. Các Thích nữ nghe rồi liền khởi tâm tịnh tín đối với Phật, sau khi qua đời được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương. Tất cả hữu tình vừa sanh lên cõi trời đều khởi ba niệm: một là ta từ đâu sanh đến đây, hai là nay ta đang ở đâu, ba là ta do nghiệp duyên gì. Các thiên nữ liền biết mình từ cõi người chết được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương là nhờ khởi tâm tịnh tín đối với Phật. Các thiên nữ suy nghó: “nếu ta không đến kính lễ Thế tôn trước là bất kính”, nghó rồi liền dùng chuỗi anh lạc trang nghiêm thân, dùng y kích đựng đầy các loại hoa trời như hoa Ưu bát la, Bát đầu ma… vào nửa đêm đến chỗ Phật, rải hoa cúng dường, đảnh lễ rồi ngồi một bên nghe Phật thuyết diệu pháp. Thân quang của các thiên nữ này chiếu sáng khắp cả rừng Thệ đa, Phật quán biết căn tánh tùy miên của các thiên nữ này, nói pháp Tứ đế khiến cho được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Các thiên nữ chứng ngộ rồi liền chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, nhờ Phật khai ngộ khiến chúng con ở trong các nạn mà được giải thoát, điều này không phải do cha mẹ… cho đến sa môn, Bà-la-môn có thể làm được. Thế tôn là bậc đại thiện tri thức đã cứu vớt chúng con ra khỏi ba cõi, đặt để chúng con vào cõi trời người, hết khổ sanh tử, được đạo Niết-bàn, làm cạn biển máu, vượt khỏi núi xương, núi thân kiến từ vô thỉ đến nay đều bị phá tan bằng chày trí Kim cang, chứng được Sơ quả. Nay chúng con xin quy y Tam bảo, từ hôm nay cho đến trọn đời thọ trì năm học xứ, cúi xin Thế tôn chứng biết chúng con là Ô-ba-tư-ca” , ở trước Phật cung kính nói kệ: “Chúng con nhờ Phật lực, Đóng bít ba đường ác, Sanh cõi trời thắng diệu, Thú hướng cõi Niết-bàn. Chúng con nhờ Thế tôn, Nên được thanh tịnh nhãn, Chứng được Chân đế lý. Phật vượt trên trời người, Thoát khỏi già bịnh chết, Khó gặp trong biển Hữu, Nay gặp được chứng quả. Chúng con thân trang nghiêm, Tâm tịnh đảnh lễ Phật, Nhiễu bên phải trừ oán, Nay trở về thiên cung”. Các thiên nữ vui mừng như người đi buôn được lời, như người cày ruộng được thu hoạch, như người ratrận được thắng, như người bịnh được lành, đảnh lễ Phật rồi trở về thiên cung. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “năm trăm Thích nữ này đã tạo nghiệp gì, do nghiệp lực này nên trong đời này tuy vô tội mà lại bị kẻ ngu Ác sanh chặt hết tay chân; lại do nghiệp lực gì mà được sanh lên cõi trời, được nghe diệu pháp và được chứng chân đế lý?”, Phật nói: “nghiệp đã tạo đời trước nay thành thục phải tự chịu lấy quả báo… Các thầy lắng nghe: Quá khứ Hiền kiếp, lúc con người thọ hai vạn tuổi có Phật Ca- diếp ba ra đời đầy đủ mười hiệu: Như lai, Bạc già phạm, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng só, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn. Năm trăm Thích nữ này xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy làm Bí-sô ni, do đối với các Bí- sô ni Hữu học, Vô học khởi sân nói lời mắng nhiếc đòi chặt tay chân của họ nên trong vô lượng năm bị đọa trong địa ngục chịu khổ thiêu đốt. Do nghiệp dư tàn phải trong năm trăm đời chịu quả báo bị chặt tay chân, đời này là cuối cùng. Do khởi tâm tịnh tín nơi ta nên được sanh lên cõi trời, lại do thuở xưa khi làm Bí-sô ni đã thọ trì đọc tụng chánh pháp nên nay được gặp ta nghe thuyết diệu pháp và được Kiến đế. Phật bảo các Bí-sô: “các thầy nên biết thế gian đều do nghiệp lực mà thọ lấy quả báo, do nghiệp lực mà sanh, do nghiệp lực mà trụ ; tất cả chúng sanh đều tùy theo nghiệp thiện ác mà thọ lấy quả báo”. Lúc đó người ở lại thám thính sau khi nghe lời Phật dự ký rồi liền trở về chỗ vua Ác sanh, vua hỏi: “Phật đã nói gì?”, đáp: “Phật dự ký qua bảy ngày sau nước Kiều-tát-la sẽ bị hủy diệt, vua Ác sanh và Khổ mẫu sẽ bị lửa thiêu đốt, sau khi chết bị đọa vào địa ngục Vô gián”, vua nghe rồi trong lòng rất lo buồn, Khổ mẫu hỏi nguyên do rồi tâu rằng: “Đại vương, như Bà-la-môn, khất só đến cầu xin mà không được cho, họ sẽ muốn nhà ấy gặp trăm ngàn điều không lành. Sa môn Kiều-đáp-ma thấy thân tộc bị Đại vương giết chết mới nói lời oán hận trù rủa này. Nếu vua lo sợ thì hãy cho xây một tòa lầu ở trong hồ nước phía sau vườn rồi ở đó trong vòng bảy ngày mới trở vào lại trong thành”. Vua nghe lời Khổ mẫu cho xây lầu rồi cùng các cung nhân lên lầu đó ở, qua được một đêm Khổ mẫu tâu: “đã qua được một đêm, còn sáu đêm nữa sẽ trở vào lại trong thành”, như thế cho đến ngày thứ bảy Khổ mẫu lại tâu: “Đại vương, hôm nay an ổn hãy cùng trở vào lại trong thành”. Lúc đó mây bỗng kéo đến giăng che bốn phía, các cung nhân nói với nhau: “chúng ta hãy trang điểm để trở vào lại trong thành”, một cung nhân lấy ngọc nhật quang ra để trên gối rồi tự trang điểm. Mây bỗng tan, trời quang đãng trở lại, ánh mặt trời chiếu soi vào viên ngọc liền phát ra lửa đốt cháy cái gối thành lửa ngọn thiêu đốt tòa lầu. Các cung nhân bỏ chạy, lúc đó vua Ác sanh và Khổ mẫu muốn chạy ra nhưng có phi nhân đóng cửa khiến họ không ra được nên bị lửa thiêu đốt, đau khổ kêu la, sau khi chết bị đọa vào địa ngục Vô gián. Lúc đó Thế tôn nói kệ tụng: “Đời này khổ, đời sau cũng khổ, Do tạo tội, hai đời đều khổ, Tự biết khổ này do nghiệp ác, Chết rồi bị đọa trong cõi ác. Đời này khổ, đời sau cũng khổ, Do tạo tội, hai đời đều khổ, Tự biết khổ này do nghiệp ác, Sanh cõi khác vẫn phải chịu khổ”. Cụ thọ A-nan nghe kệ tụng rồi liền bạch Phật: “con chưa hiểu ý nghóa của bài kệ tụng này”, Phật nói: “kẻ ngu Ác sanh và Khổ mẫu bị lửa thiê đốt, sau khi chết bị đọa vào địa ngục Vô gián nên ta mới nói kệ tụng này”. Lúc đó ở trong thành Kiếp-tỷ-la, sau khi các Thích tử bị tru diệt còn để lại nhiều vật trang sức như anh lạc, vòng xuyến…; các Thích nữ nhìn thấy những vật này càng thêm đau buồn, suy nghó: “chủ của những vật này khi còn sống rất kính Tăng, nay ta nên đem cúng cho Tăng để truy tiến cho họ”, nghó rồi liền đem đến cúng Tăng. Lục chúng Bí-sô được vật trang sức này liền dùng trang nghiêm thân rồi đi vào thành khất thực, các Thích nữ nhìn thấy lại đau buồn nói rằng: “chúng con không muốn nhìn thấy những vật này nên đem cúng Tăng để dứt ưu phiền, không ngờ các thầy lại đeo nó làm cho chúng con nhớ lại càng thêm đau buồn”, Lục chúng Bí-sô im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do Bí-sô đeo anh lạc, dây vàng nên có lỗi này, từ nay Bí-sô không được đeo các vật tráng sức, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai: Xuất gia có năm lợi, Không cầm tiền, thọ học (học hối Sa di) Đại chúng nói kệ tụng, Ho khai cho hút thuốc. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó trong một tụ lạc có một trưởng giả cưới vợ sông với nhau rất hạnh phúc, nhưng sau đó gia tộc ly tán, tài sản cũng không còn. Trưởng giả suy nghó: “ta đã lớn tuổi không thể kiếm tiền được nữa, thân tộc không còn ai, ta nên bỏ tục xuất gia”, nghó rồi liền đến nói với vợ ý nghó của mình, người vợ nghe rồi liền nói: “xuất gia cũng tốt, nhưng ông phải thường trở về thăm tôi”, đáp được. Trưởng giả đến trong rừng Thệ đa, đảnh lễ các Bí-sô cầu xuất gia, Bí-sô nói: “xuất gia là việc tốt, ông sẽ được như ý. Như Phật đã dạy người trí thấy năm điều nên cầu xuất gia trong thiện pháp luật: một là ta được tự lợi, người khác không có ; hai là tự biết mình thuộc giai cấp hạ tiện bị người sai khiến, sau khi xuất gia trở lại được họ cung kính tán thán, lễ bái cúng dường; ba là sẽ chứng được Niết-bàn vô thượng; bốn là sau khi qua đời sẽ được sanh lên cõi trời; năm là thường được chư Phật, chúng Thanh văn và các bậc thắng nhân khen ngợi”, nói rồi liền cho trưởng giả xuất gia và thọ cận viên. Qua hai ba ngày, sau khi chỉ dạy xong các pháp thức các Bí-sô bảo tân Bí-sô: “nai không nuôi nai, thành Thất-la-phiệt rộng lớn là cảnh giới của Phật, thầy từ nay nên theo thứ lớp khất thực để nuôi mạng sống”, tân Bí-sô này sáng hôm sau đắp y mang bát vào thành khất thực, nhìn thấy một người nữ liền nhớ đến người vợ của mình, suy nghó: “ta trước đây có hứa với vợ sau khi xuất gia sẽ về thăm, nay ta nên giữ lời hứa trở về thăm, chớ để bà ấy buồn”. Khất thực xong trở về trong rừng Thệ đa, sau đó đến xin phép thầy cho trở về thăm người vợ cũ, vị thầy nói: “được nhưng phải khéo hộ tâm ý”, đáp vâng. Tân Bí-sô này khi trở về đến nhà, người vợ vừa nhìn thấy liền chạy ra đón và kêu to: “Thánh tử mới về”, muốn đưa tay cầm lấy y bát, Bí-sô nói: “hiền thủ muốn làm gì?”, đáp là muốn cầm lấy y bát, Bí-sô bảo đừng đụng vào y bát, người vợ hỏi vì sao, đáp: “tôi vâng lời thầy dạy phải khéo hộ tâm ý”, người vợ nói: “Thánh tử cứ hộ tâm ý, tôi có làm chướng ngại gì đâu”, nói rồi vẫn cầm lấy y bát, trải tòa mời ngồi rồi lấy nước muốn rửa chân cho Bí-sô, Bí-sô nói đừng chạm vào chân, hỏi vì sao, Bí-sô đáp như trên, người vợ cũng nói câu như trên và vẫn cứ rửa chân cho Bí-sô, kế lấy dầu muốn thoa chân cho Bí-sô, Bí-sô nói đừng thoa, người vợ hỏi và Bí-sô đáp cũng như trên. Sau đó người dọn thức ăn và muốn cùng ăn, Bí-sô cũng nói như trên…; ăn xong người vợ trải nệm bảo Bí-sô nằm nghỉ. Bí-sô vừa nằm xuống nghỉ, người vợ liền đến muốn nằm chung, Bí-sô nói như trên… cho đến câu người vợ ôm Bí-sô, khi bị xúc chạm tâm Bí-sô loạn động liền cùng người vợ giao hợp. Như thế trải qua nhiều ngày, Bí-sô nói muốn trở về chùa, người vợ suy nghó: “ông ấy cùng ta tư thông, người ngoài không thấy, ta nên làm cho mọi người đều biết, lúc đó các Bí-sô sẽ đuổi và ông ấy sẽ trở về với ta”, nghó rồi liền nói với Bí-sô: “Thánh tử không nên trở về không, nên mang theo ít lương thực và tiền đi đường”, Bí-sô nói: “tôi không được cầm tiền bạc”, người vợ nói: “tôi có cách khiến Thánh tử không chạm đến nó”, nói rồi gói các vật ấy cột vào phía đầu của cây tích trượng, Bí-sô cầm tích trượng trở về thành Thất-la-phiệt. Lúc đó Lục chúng Bí-sô đang kinh hành trước cổng chùa, Ô ba-nan-đà từ xa nhìn thấy Bí-sô này liền bước tới chào hỏi, Bí-sô liền đáp: “xin kính lễ A-giá-lợi-da”, Ô ba-nan-đà nghe rồi liền biết đây là một Bí-sô Ma ha la nên mới không phân biệt được Ô-ba-đà-da và A-giá-lợi-da. Lúc đó Ô ba-nan-đà hỏi Bí-sô từ đâu đến, đáp là vừa thăm người vợ cũ trở về, Ô ba-nan-đà nói: “thầy là người tốt nên còn nhớ ân xưa, người nhớ ân xưa thường được khen ngợi. Phật có nói các bs nên thường nhớ báo ân, ân nhỏ còn báo đáp huống chi là ân lớn. Thầy có gặp được vợ hay không?”, đáp là có gặp, lại hỏi có bình an không, đáp là bình an, lại hỏi vật gì cột trên đầu tích trượng, đáp là tiền của vợ cho để đổi lương thực trên đường đi. Ô ba-nan-đà nghe rồi liền suy nghó: “thầy già thầy có phước, về thăm vợ nên được lợi này. Ta xem hình dáng cử chỉ chắc là đã cùng vợ tư thông, ta nên tra gạn”, nghó rồi liền dùng lời ôn hòa tra hỏi, Bí-sô này thật thà đem việc trên kể lại, Ô ba-nan-đà nghe rồi liền nói: “thầy hãy đem việc mà thầy đã làm kể lại cho Ô-ba-đà-da nghe, vị ấy ắt sẽ vui mừng”, Bí-sô này thật thà nghe theo lời của Ô ba-nan-đà đến chỗ thầy kể lại mọi việc đã làm, vị thầy nghe rồi liền bạch với các Bí-sô, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “Bí-sô Ma ha la này không biết khinh trọng, không cố ý phạm; nếu có ai chưa từng được nghe nói bốn pháp Ba-la-thị-ca thì cũng không phạm. Này các Bí-sô, do việc này từ nay khi truyền thọ giới cụ túc, bạch tứ yết ma xong, các thầy nên nói bốn pháp Ba-la-thị-ca cho người mới thọ giới biết, nếu không nói cho họ biết thì phạm tội Việt pháp”.  CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 10 Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai (tiếp theo): Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có Bí-sô tên Hoan hỉ sống nơi A-lan-nhã tu thiền định nên mọi người gọi là Hoan hỉ trụ định. Một hôm khi sắp tọa thiền, ma nữ đến yêu cầu hành dục, Hoan hỉ không chịu ; hôm khác khi sắp tọa thiền, ma nữ lại hiện đến ngồi trên đầu gối của Hoan hỉ và xúc chạm, sau khi bị xúc chạm tâm nhiễm phát sanh nên Bí-sô cùng ma nữ hành dục. Sau khi hành dục xong, Bí-sô hối hận đau khổ, cảm thấy như bị tên cắm vào ngực liền suy nghó: “do ta ngu si nên đã hoại hạnh thanh tịnh, phạm dâm thì phải hoàn tục. Ta thật không có tâm che giấu, nay ta nên đến phát lồ với Thế tôn, nếu có quy chế vẫn được xuất gia thì ta sẽ thực hành như pháp; nếu không được như thế thì ta sẽ hoàn tục”, nghó rồi liền cầm pháp y đi đến chỗ Phật. Lúc đó Phật đang thuyết pháp cho trăm ngàn đại chúng vây quanh, từ xa thấy Bí-sô này đến, Phật liền suy nghó: “nếu ta không nói thiện lai trước thì Bí-sô này sẽ đau buồn hộc máu mà chết”, nghó rồi liền nói với Hoan hỉ: “thiện lai Hoan hỉ, vì sao lại đau buồn như vậy?”, đáp: “Thế tôn, trước đây con là hoan hỉ, nhưng nay không còn là hoan hỉ nữa”, Phật nói: “thầy đã làm lỗi gì mà nói lời này?”, đáp: “Thế tôn, con không xả học xứ mà làm việc dâm, hoại hạnh thanh tịnh ; con tuy phạm giới nhưng không có tâm che giấu”, Phật nói: “thầy có thể thọ học xứ trọn đời hay không?”, đáp: “Thế tôn, con có thể thọ trì”. Lúc đó Phật bảo các Bí-sô: “các thầy nên biết, Bí-sô Hoan hỉ tuy hủy phạm tịnh giới nhưng không có tâm che giấu, không phải là Ba-la-thị-ca. Các thầy nên yết ma cho Hoan hỉ thọ học xứ trọn đời, nếu có ai giống như vậy cũng nên tác pháp yết ma cho. Tác pháp như sau: trải tòa, đánh kiền chùy nhóm tăng, khi Tăng đã nhóm, Bí-sô Hoan hỉ nên đảnh lễ Tăng rồi ở trước vị Thượng tòa chắp tay bạch rằng: Đại đức Tăng lắng nghe, con là Bí-sô Hoan hỉ không xả học xứ mà làm việc dâm, hoại hạnh thanh tịnh; con tuy phạm giới nhưng không có tâm che giấu. Nay con theo Tăng xin thọ học xứ trọn đời, xin thương xót (ba lần). Tăng nên bảo Hoan hỉ đến đứng ở chỗ mắt thấy nhưng tai không nghe, lúc đó một Bí-sô trong Tăng tác bạch yết ma như sau: Đại đức Tăng lắng nghe, Bí-sô Hoan hỉ không xả học xứ mà làm việc dâm, hoại hạnh thanh tịnh; tuy đã phạm giới nhưng không có tâm che giấu, nay Bí-sô Hoan hỉ theo Tăng xin thọ học xứ trọn đời. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay cho Bí-sô Hoan hỉ thọ học xứ trọn đời. Bạch như vậy. Đại đức Tăng lắng nghe, Bí-sô Hoan hỉ không xả học xứ mà làm việc dâm, hoại hạnh thanh tịnh ; tuy đã phạm giới nhưng không có tâm che giấu, nay theo Tăng xin thọ học xứ trọn đời. Nếu cụ thọ nào chấp thuận cho Bí-sô Hoan hỉ thọ học xứ trọn đời thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói. Đây là yết ma lần thứ nhất (lần thứ hai, lần thứ ba). Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Này các Bí-sô, hành pháp của Bí-sô thọ học xứ trọn đời là: không được thọ sự nghinh đón, cung kính chắp tay lễ bái của Bí-sô trụ bổn tánh thiện; không được ngồi chung một tòa, phải ngồi chỗ thấp hơn ; không được cùng kinh hành, nếu cùng đi thì phải đi sau một bước; không được cùng thiện Bí-sô làm bạn đi đến nhà trưởng giả, Bà-la-môn; nếu cùng đi thì phải đi sau, cũng không được ngu chung một phòng; không được cho người khác xuất gia và thọ Cận viên; không được thọ người khác y chỉ; không được nuôi Sa di; không được tác các pháp yết ma như đơn bạch, bạch nhị hay bạch tứ yết ma; không được thọ Tăng sai làm người bỉnh pháp yết ma; không được thọ tăng sai giáo giới Bí-sô ni, nếu được Tăng sai cũng không nên đi; nếu thấy có Bí-sô khác phá giới, phá kiến, phá oai nghi, không chánh mạng đều không được cử tội họ, cũng không được làm chế lịnh; không được đồng trưởng tịnh và việc Tùy ý. Hằng ngày phải dậy sớm mở cửa, thu cất đèn, quét dọn phòng chùa, dùng phân bò mới trét làng tùy chỗ; ở trong nhà xí múc nước và để lấy cây, đất đầy đủ; trong nhà tắm cấp nước cần dùng thích hợp lạnh nóng… Đánh kiền chùy, trải tòa, chuẩn bị đầy đủ hương hoa cúng dường; nếu có khả năng thì tùy lúc tụng niệm, tán thán công đức Phật; nếu không làm được thì mời người khác. Vào tháng nóng phải cầm quạt quạt cho các Bí-sô ; khi muốn ngồi thì phải ngồi dưới đại Bí-sô và ngồi trên Sa di. Khi thọ thực phải giữ tâm an, ăn xong phải thu dọn sạch sẽ. Thường báo cho chúng biết số ngày như sau: “Đại đức Tăng lắng nghe, hôm nay là ngày đầu tháng mỗi người nên dụng tâm vì thí chủ xây chùa, thiên thần hộ chùa, quốc vương, đại thần, sư tăng, cha mẹ, tín thí mười phương mà tụng kệ phước thí trong kinh ; nếu không làm được thì mời người khác làm”. Lúc đó các Bí-sô chia phòng xá lại không chia cho người thọ học, Phật bảo nên chia ; lại không chia lợi dưỡng, Phật bảo nên chia. Có Bí- sô thọ học không tu pháp thiện, Phật bảo nên tu và phải tùy thuận làm theo các hành pháp đã chế cho đến khi đoạn hết kiết sử, nếu không làm thì phạm tội. Lúc đó Bí-sô Hoan hỉ tùy thuận làm theo các hành pháp mà Phật đã chế, siêng năng không lười biếng; nhờ đó đoạn hết các kiết sử ràng buộctrong năm đường, chứng A-la-hán , đủ ba minh, sáu thông , tám giải thoát, được như thật tri: sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc nên làm đã làm xong, không còn thọ thân sau. Tâm không chướng ngại như tay nắm hư không, như dao cắt mùi thơm, yêu ghét không khởi, xem vàng và đất như nhau không khác, tất cả danh lợi đều xả bỏ, Thích Phạm chư thiên thảy đều cung kính. Sau khi chứng quả, Bí-sô Hoan hỉ vẫn hành theo các hành pháp mà Phật đã chế, Phật nói: “không cần làm nữa, từ nay nên ngồi theo thứ lớp lớn nhỏ, được cùng ở chung với các thiện Bí-sô”. Duyên khởi tại thành Vương xá, cụ thọ Tất-lân-già-bà ta sau khi xuất gia thường bị bịnh, một vị đồng phạm hạnh đến thăm hỏi có an lạc không, đáp là bị bịnh nên không an lạc, lại hỏi bịnh gì, đáp là bịnh ho, lại hỏi đã uống thuốc gì, đáp: “trước đây đã từng hút thuốc thấy bớt”, lại hỏi sao không hút thuốc nữa, đáp là Phật chưa cho. Các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “người có bịnh được hút thuốc để trị bịnh”, Bí-sô không biết cách làm, để thuốc trên lửa nên không hút được, Phật bảo: “hãy dùng hai cái tô úp vào nhau, trên đáy tô xoi lỗ, bên trong để lửa và thuốc rồi hút”, vẫn không hút được, Phật bảo nên làm cái tẩu thuốc, Bí-sô làm tẩu thuốc bằng tre vẫn không hút được, Phật bảo nên làm bằng sắt, làm quá ngắn hay quá dài vẫn không hút được, Phật bảo nên làm dài chứng mười hai ngón tay, không quá nhọn cũng không quá thô, để thuốc trên miệng của tẩu thuốc rồi hút ở phía đầu của cái tẩu thuốc. Bí-sô dùng xong bỏ bừa bãi, Phật bảo nên may cái đãy đựng cất ; Bí-sô lại để cái đãy đựng tẩu thuốc dưới đất, Phật bảo không nên để duới đất, nên treo trên cái cọc hay trên sào. Lúc đó ống của tẩu thuốc bị sét, Phật bảo dùng dầu thoa, sau đó Bí-sô lau rửa mệt nhọc, Phật bảo không nên rửa bằng nước, nên hơ trong lửa. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai: Cho tắm nước thuốc nóng, Nhỏ mũi, dùng chén đồng, Già bịnh được đi xe, Nên biết việc tiểu tiện. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có Bí-sô bịnh đến thầy thuốc yêu cầu chữa trị, thầy thuốc bảo nên tắm bằng nước thuốc nóng, Bí-sô nói Phật chưa cho, thầy thuốc nói: “Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu thầy thuốc bảo tắm nước thuốc nóng thì được tùy ý làm”. Lúc đó Bí-sô không biết dùng nước thuốc gì nên đến hỏi thầy thuốc, thầy thuốc nói: “tôi cũng không biết là nước thuốc gì, chỉ là đọc thấy trong sách của Luân vương gọi nước thuốc nóng là Nhân đẳng. Phật là bậc Nhất thiết trí, thầy nên đến hỏi”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu trị bịnh phong thì dùng các loại thảo dược gồm có rễ, cành, hoa, vỏ cây… nấu làm nước thuốc, tắm xong thì hết bịnh”. Lúc đó Bí-sô tắm nước thuốc nóng, nước da bị đổi màu, Phật bảo nên dùng dầu xoa, Bí-sô thoa nhiều dầu nên dơ y phục, Phật bảo dùng tháo đậu lau sạch, nước da vẫn bị đổi màu, Phật bảo nên nhỏ một hai giọt dầu vào trong nước thuốc nóng khi sắp tắm xong thì nước da sẽ tươi sáng trở lại. Lúc đó cụ thọ Tất-lân-già-bà ta bị bịnh… như trên cho đến câu bị bịnh chảy nước mũi, lại hỏi từng trị bằng thuốc gì, đáp là từng nhỏ thuốc vào mũi, lại hỏi sao không nhỏ nữa, đáp là Phật chưa cho. Các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “người có bịnh được nhỏ thuốc vào mũi”, Bí-sô nhỏ thuốc vào mũi, thuốc chảy ra ngoài làm thân dơ, Phật bảo không nên nhỏ như vậy, lại dùng lá để nhỏ, Phật bảo nên dùng ống đồng hay sắt để nhỏ mũi, Bí-sô làm ống chỉ thông một đầu, Phật bảo nên làm thông hai đầu, Bí-sô lại làm ống bén nhọn thô xấu, Phật bảo không nên, Bí-sô lại dùng tay bẩn nhỏ thuốc, Phật bảo nên rửa tay sạch thọ thuốc rồi mới nhỏ. Lúc đó cụ thọ Tất-lân-già-bà ta bị bịnh khát nhưng không có đồ dùng uống nước, Phật bảo nên dùng chén đồng để uống nước. Lúc đó có thân tộc đến nghe cụ thọ Tất-lân-già-bà ta thuyết pháp, nghe xong trở về nói với vợ: “tôi được nghe Thánh giả Tất-lân-già-bà ta thuyết diệu pháp, vì sao nàng không đi nghe?”, người vợ nói: “em là phụ nữ không thể ra ngoài, nếu Thánh giả Tất-lân-già-bà ta đến đây thuyết pháp thì em sẽ nghe”. Người chồng nghe rồi liền đến thỉnh, Tất- lân-già-bà ta nói: “tôi bịnh nên không thể đi đến đó được”, đáp: “con sẽ đem xe đến đón Thánh giả”, Tất-lân-già-bà ta nói Phật chưa cho, bạch Phật, Phật nói: “do việc này nên khai cho Bí-sô bịnh được đi xe”. Tất- lân-già-bà ta liền ngồi trên xe cùng các đệ tử đi đến nhà người thỉnh, Lục chúng Bí-sô gặp trên đường đi liền hỏi các đệ tử đó là ai ngồi trên xe, đáp là Ô-ba-đà-da của chúng tôi, Lục chúng Bí-sô liền hỏi: “Phật cho Bí-sô ngồi xe hay sao?”, đáp: “Thế tôn đại từ biết Bí-sô bịnh không thể đi bộ nên khai cho ngồi xe”, Lục chúng Bí-sô nghe rồi liền nói với nhau: “chúng ta cũng nên đi xe và trang nghiêm chiếc xe cho đẹp”. Qua hôm sau Lục chúng Bí-sô dùng các vật trang nghiêm với chuông linh treo trên xe rồi ngồi đi khắp các ngã đường. Các trưởng giả, Bà-la-môn thấy rồi liền chê trách: “Sa môn các ị còn thọ dục lạc hay sao?”, các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “Bí-sô không bịnh mà đi xe thì phạm tội Việt pháp. Có hai nhân duyên được đi xe: một là già yếu, hai là bịnh không có sức lực”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có trưởng giả tín tâm cùng một Bà-la-môn không có tín tâm vào rừng Thệ đa tham quan, khi đến một gốc cây thấy tiện lợi hôi dơ nên Bà-la-môn nói: “Sa môn Thích tử không sạch sẽ nên đại tiểu tiện dưới gốc cây hoa trái”, trưởng giả nói: “các Thánh giả há lại tùy tiện phóng uế hay sao, chắc là bạch y nào đó”, nói vừa dứt lời bỗng thấy một Bí-sô Ma ha la dùng y che đầu đến tiện lợi bên gốc cây. Bà-la-môn liền nói với trưởng giả: “ông nói là bạch y làm, vậy ông hãy nhìn xem ai đang tiện lợi bên gốc cây?”, trưởng giả xấu hổ im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “Bí-sô không được tiện lợi bên gốc cây, ai lám trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có Bí-sô đi trên đường, đến một rừng cây bị tiện lợi thúc bách nhưng không dám đi nên mắc bịnh khác, Phật nói: “nếu đi trên đường đến rừng cây thì được tùy ý tiện lợi”. Sau đó có Bí-sô ở trong tụ lạc bị tiện lợi thúc bách nhưng không dám di bên gốc cây, trời giữa trưa rất khổ sở, Phật nói: “nếu ở trong tụ lạc, đến dưới lùm cây được tùy ý tiện lợi”. Lúc đó Ô ba-nan-đà đại tiện trong vườn rau của người khiến rau cỏ chết, Phật nói: “Bí-sô không được đại tiểu tiện trên rau cỏ tươi”. Sau đó các Bí-sô đến chỗ đất trống tiện lợi, các trưởng giả, Bà-la-môn thấy rồi liền chê trách: “Sa môn Thích tử ưa chuộng nghi thức mà lại cùng ngồi ăn một chỗ, cùng tiện lợi một nơi”, Phật nói: “do việc này nên cho các Bí-sô làm nhà xí”. Làm nhà xí bên ngoài chùa, ban đêm đi sợ gặp hổ lang, giặc cướp, Phật bảo nên làm trong chùa, Bí-sô không biết nên làm chỗ nào, Phật nói nên làm ở góc Tây bắc sau chùa, lại không biết làm như thế nào, Phật nói: “có hai loại: một là nhà xí riêng biệt, hai là nhà xí ở bên cạnh. Nhà xí riêng biệt rộng vuông vức một trượng, tiện lợi ở bên trong; nhà xí ở bên cạnh là ở phía sau phòng được ngăn bằng vách gỗ, tiện lợi trong đó. Bên ngoài nhà xí là chỗ rửa tay chân nên để bình nước, nhà xí nên có cửa và then cài, có guốc gỗ bên ngoài để mang khi vào trong nhà xí”. Lúc đó có một Bí-sô đã vào nhà xí, Bí-sô khác lại vào nữa, Phật nói: “không nên như vậy, khi muốn vào nhà xí nên khảy móng tay hay tằng hắng, người bên trong nhà xí cũng vậy”. Nhà xí có mùi hôi, Phật bảo nên luân phiên quét dọn sạch sẽ; các Bí-sô dùng tay vất lá đất trong nhà xí nên nhờm gớm, Phật bảo nên dùng nước dội và dùng chổi quét, không nên dùng tay. Lại có Bí- sô rửa tay chân lâu trong nhà xí khiến người bên ngoài chờ lâu, Phật bảo nên làm chỗ rửa tay chân bên ngoài. Bí-sô làm quá xa, Phật bảo nên làm gần bên nhà xí và để đủ các vật cần dùng. Lúc đó các Bí-sô vào nhà xí tiểu tiện khiến người muốn đại tiện phải chờ nên sinh bịnh khác, Phật bảo nên làm chỗ tiểu tiện riêng; các Bí-sô không biết làm chỗ nào, Phật bảo nên làm gần bên nhà xí, có ống thoát nước và có cửa cũng như nhà xí. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai: Bình nước biết dơ sạch, Nguyện Thế tôn trường thọ, Nhân đây ni Niết-bàn, Thức ăn uống có năm. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một Bà-la-môn vì trời nóng bức nên bị khát cần nước uống nên vào trong chùa xin nước uống, Bí-sô đem bình nước rửa đưa cho Bà-la-môn, Bà-la-môn hỏi: “đây là bình nước sạch hay là bình nước rửa”, đáp là bình nước rửa, Bà-la-môn nói: “nếu là bình nước rửa sao lại đưa cho tôi uống?”, đáp: “vì hai bình để chung nên tôi lấy lộn”, Bà-la-môn nói: “bình nước sa- ïch không nên để chung với bình nước rửa, nên để riêng nếu có ai đến xin nước uống, cho họ uống hết khát há không phải là việc phước hay sao”, nói rồi bỏ đi. Phật nói: “từ nay nên để riêng bình nước sạch cung cấp cho người bị khát”, có trưởng giả nghe biết việc này liền mang đến cúng nhiều bình nước. Các Bí-sô không coi giữ, ai cần cứ tự nhiên lấy mang đi nên không bao lâu sau bình hết sạch. Các Bí-sô lại bảo thí chủ mang đến thêm, thí chủ nói: “tôi cúng rất nhiều vì sao lại mau hết như vậy”, Bí-sô kể lại việc trên, thí chủ nói: “các thầy sao không coi giữ để đến nỗi hao phí như vậy”, Phật nói: “không nên để người lấy đi như thế, từ nay nên sai người coi giữ khí vật”. Lúc đó các Bí-sô không chọn lựa tùy tiện sai người, Phật nói: người có đủ năm pháp nếu chưa sai thì không nên sai, nếu đã sai rồi thì không cho làm, đó là: tùy Ái, tùy sân, tùy sợ, tùy si, không nhớ đã cất hay chưa cất khí vật. Ngược với năm pháp trên thì nếu chưa sai nên sai, nếu đã sai rồi thì nên bảo làm. Tác pháp sai như sau: trải tòa… như trước đã nói, trong Tăng nên hỏi: “Bí-sô tên ---- có thể làm người coi giữ khí vật cho Tăng hay không?”, nếu đáp là có thể thì nên bạch nhị yết ma sai. Tác bạch như sau: Đại đức Tăng lắng nghe, Bí-sô tên ---- hoan hỉ làm người coi giữ khí vật cho Tăng. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay sai Bí-sô ----- làm người coi giữ khí vật cho Tăng. Bạch như vậy. Đại đức Tăng lắng nghe, Bí-sô ------ hoan hỉ làm người coi giữ khí vật cho Tăng. Nếu cụ thọ nào chấp thuận Bí-sô ----- làm người coi giự khí vật cho Tăng thì imlặng, ai không chấp thuận thì nói. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Lúc đó có người tục bị khát đến xin nước, Bí-sô đưa bình nước mới chọ họ, họ đem bình cũ trả lại, Phật bảo: “không nên như vậy, nên đưa bình nước mới cho các Bí-sô, còn bình nước cũ thì đưa cho người tục”. Bí-sô dùng nước xong thì cất bình, còn người tục dùng rồi thì vất bỏ tùy tiện, Phật bảo nên thu cất. Lại nữa Bí-sô không khéo giữ gìn nên làm bình hư hoại, Phật bảo nên làm kho cất chứa. Lúc đó có thương chủ từ phương Bắc đến thỉnh Phật và Tăng cúng dường trong ba tháng, suy nghó: “ta không muốn mượn dùng vật dụng của người khác, nên mua sắm vật dụng mới”, nghó rồi liền dùng đồng trắng đồng đỏ làm nhiều vật dụng để đựng thức ăn cúng dường Phật và Tăng trong ba tháng. Đủ ba tháng ông đem các vật dụng này cúng cho Tăng, Bí-sô đem cất vào trong kho gần các đồ gốm làm cho đồ gốm bị bể, Phật bảo vật dụng bằng đồng và gốm sứ không được để chung. Lại có một Bà-la-môn khát đến chỗ Bí-sô xin nước, Bí-sô đưa gàu và dây múc nước, Bà-la-môn hỏi dùng để làm gì. Đáp: “tôi không có múc sẵn nước, ông hãy tự múc lấy uống”, Bà-la-môn nói: “các vị nên múc sẵn nước uống để giúp cho người bị khát, đó là việc thiện”, Phật bảo nên múc sẵn nước sạch dự trữ. Các Bí-sô nghe rồi liền múc để sẵn nước ở khắp nơi hoặc ở giữa sân, hoặc ở trong phòng, trước hiên… làm cho nước bị bẩn, Phật nói không nên. Bí-sô không biết để nước ở đâu, Phật nói: “nên làm chỗ để nước ở phía Đông cổng chùa”, trong chỗ để nước tối tăm, Phật bảo nên làm cửa sổ, lót gạch trên nền và làm ống thoát nước, phóng nên có cửa và khóa; bình chứa nước không được để dưới đất, nên để trên bục gỗ, nếu nghiêng thì nên kê ở dưới. Lúc đó bình nước dơ, Bí-sô không biết dùng vật gì chà rửa, Phật bảo nên dùng bàn chải và lá cây ; tuy thường chà rửa vẫn có mùi hôi, Phật bảo nên dùng nhiều bình thay nhau đựng nước, số bình này đựng nước thì số bình kia đem phơi. Bí-sô đem phơi dưới nắng, Phật bảo nên để trong chỗ mát. Bình không có nắp đậy nên bụi đất rơi vào trong làm dơ nước, Phật bảo nên làm nắp đậy, không được dùng dơ khuấy nước, phải rửa sạch tay. Mỗi lần chạm vào bình phải rửa tay nên Bí-sô thấy mệt nhọc, Phật bảo nếu khi chạm vào bình đồng hay sành sứ mà tay không chạm nước thì không cần phải rửa tay. Lúc đó các Bí-sô không biết sai ai múc sẵn nước dự trữ, Phật bảo nên sai môn nhân đệ tử làm. Phật tại thành Kiếp-tỷ-la trong vườn Đa căn, lúc đó Bí-sô ni Đại thế chủ Cù đàm di cùng năm trăm ni quyến thuộc đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi ngồi một bên nghe Phật thuyết pháp, Phật bỗng nhảy mũi. Đại thế chủ liền nguyện cho Thế tôn trường thọ, trụ hơn kiếp số; năm trăm ni nghe rồi đều đồng thanh nguyện theo; địa thần Dược xoa, hư không thần Dược xoa, cho đến chư thiên các cõi trời Tứ thiên vương, cõi trời Tam thập tam… nghe rồi cũng đều đồng thanh nguyện theo như vậy. Lúc đó Phật bảo Bí-sô ni Đại thế chủ: “bà cùng các chúng sanh đã làm điều chướng ngại lớn, do lời nguyện này của bà nên năm trăm ni cho đến chư thiên các cõi trời đều nguyện theo như thế. Thật ra cung kinh như vậy không gọi là thiện”, Đại thế chủ liền hỏi Phật cung kính thế nào mới gọi là thiện, Phật nói: “này Cù đàm di, bà nên nói rằng: nguyện cho Phật và Tăng trụ lậu ở đời thường được hòa hợp như nước với sữa, làm cho giáo pháp của Đại sư được quang huy. Làm như thế mới gọi là cung kính bậc Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đó mới gọi là thiện lễ”, lúc đó một Bí-sô ni nói kệ: “Thế chủ Cù đàm di, Đến đảnh lễ Như lai, Nguyện Mâu ni trường thọ, Trụ hơn một kiếp số, Để độ các chúng sanh. Tâm Phật mẫu ân trọng, Nên nói lời nguyện này, Nhưng Phật bảo không nên, Nói lời nguyện như vậy”. Lúc đó Đại thế chủ suy nghó: “Phật tán thán Tăng hòa hợp…, nay Thế tôn còn ở đời, trong chúng tăng chưa bị chia rẽ, ta nên nhập Niết- bàn”, nghó rồi liền bạch Phật: “Thế tôn, tôi nay muốn nhập Niết-bàn”, Thế tôn nghe rồi liền im lặng ; Đại thế chủ bạch đến lần thứ ba, Phật cũng im lặng; bạch đến lần thứ tư, Phật nói: “bà muốn nhập Niết-bàn phải không?”, đáp là muốn nhập Niết-bàn, Phật nói: “bà muốn nhập Niết-bàn thì Như lai còn gì để nói, các hành vô thường đều nên như thế”. Năm trăm Bí-sô ni cũng bạch Phật muốn nhập Niết-bàn, Phật cũng nói lời như thế; nghe Phật nói lời này rồi Đại thế chủ và các Bí-sô ni hoan hỉ đảnh lễ Phật rồi đi đến chỗ tôn giả A-nan nói là muốn nhập Niết-bàn, A-nan cũng nói lời như Phật đã nói; như thế cho đến các tôn giả cũng đều nói lời như Phật đã nói. Sau khi báo cho các tôn giả biết điều này rồi, Đại thế chủ và các Bí-sô ni trở về trú xứ của mình, nội trong bảy ngày thuyết diệu pháp cho ba chúng khiến cho họ được lợi ích thù thắng rồi đi đến chỗ thanh vắng theo thứ lớp ngồi bán già. Lúc đó Đại thế chủ nhập tam muội, nhờ định lực thù thắng liền ẩn thân ngay nơi chỗ ngồi, hiện ra trên không trung đi đứng nằm ngồi, nhập định Hỏa quang trước tiên từ phương Đông hiện các ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng; hoặc hiện biến thần thông như trên thân tuôn ra nước, dưới thân tuôn ra lửa, hoặc trên thân tuôn ra lửa, dưới thân tuôn ra nước; phương Đông đã như vậy, các phương Nam, Tây, Bắc cũng hiện như vậy. Năm trăm Bí-sô ni cũng nhập tam muối hiện tướng như Đại thế chủ không khác. Lúc đó Đại thế chủ nhập định thứ nhất, xuất định thứ nhất rồi nhập định thứ hai, xuất định thứ hai rồi nhập định thứ ba, xuất định thứ ba rồi nhập định thứ tư, xuất định thứ tư rồi nhập định Không xứ, xuất định Không xứ rồi nhập định Thức xứ, xuất định Thức xứ rồi nhập định Vô sở hữu xứ, xuất định Vô sở hữu xứ rồi nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, xuất định Phi tưởng phi phi tưởng xứ rồi nhập ngược trở lại, như thế cho đến định thứ nhất rồi mới nhập Niết-bàn. Năm trăm Bí-sô ni cũng lần lượt nhập thuận nghịch các thiền rồi nhập Niết-bàn cũng như Đại thế chủ không khác. Lúc đó đại địa chấn động, sáu phương đều rực sáng, chư thiên trên không trung kêu vang nghe như tiếng trống. Các Bí-sô đang ở trên núi Diêu cao hay các núi khác, cho đến ở trong tụ lạc hay A-lan-nhã… nghe thấy các tướng này liền nhiếp niệm, uqán biết Đại thế chủ và năm trắm Bí-sô ni đã nhập Niết-bàn. Các Bí-sô suy nghó: “từ mẫu của Thế tôn đã nhập Niết-bàn, chúng ta nên đến trợ giúp cúng dường xá lợi”, nghó rồi liền tùy khả năng của mình, mỗi người đem các loại gỗ thơm đến chỗ Đại thế chủ nhập Niết-bàn. Lúc đó Thế tôn cùng các tôn giả như Kiều-trần-như, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên… các chúng Thanh văn; cho đến vua Thắng quang cùng các quyến thuộc, các trưởng giả như Cấp-cô-độc…, Tỳ-xá-khư … cùng các quyến thuộc đều đi đến chỗ Đại thế chủ… nhập Niết-bàn để cúng dường xá lợi. Vua Thắng quang dùng các vật báu trang nghiêm năm trăm chiếc xe với hương hoa phan lọng và các kỹ nhạc đến. Lúc đó bốn Bí-sô: Nan-đà, A-na-luật, A-nan-đà, La-hỗ-la cùng khiêng linh xa của Đại thế chủ, Thế tôn cũng đưa tay phải đỡ linh xa ; các Bí-sô khác khiêng linh xa của các Bí-sô ni đưa đến chỗ bằng phẳng rộng rãi, với tâm ân trọng làm lễ trà tỳ. Lúc đó Phật tấm y phủ trên người của Đại thế chủ và năm trăm Bí-sô ni rồi nói với các Bí-sô: “các thầy hãy nhìn xem, Đại thế chủ và các Bí-sô ni này đã thọ một trăm hai mươi tuổi mà tướng mạo không già, vẫn trẻ như đồng nữ mười sáu”. Vua Thắng quang cùng đại chúng dùng gỗ thơm hỏa thiêu, lúc đó Phật thuyết về vô thường cho mọi người nghe rồi trở về tinh xá, rửa chân rồi ngồi trên tòa bảo các Bí-sô: “sự việc vừa qua đều là do nghe người khác nhảy mũi mà chúc nguyện trường thọ. Từ nay nghe thấy người khác nhảy mũi, Bí-sô không được chúc nguyện trường thọ, ai noi thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, Đại thế chủ Cù đàm di và năm trăm Bí-sô ni đã tạo nghiệp gì, nhờ nghiệp lực này nên thọ đến một trăm hai mươi tuổi mà tướng mạo không già, vẫn trẻ như đồng nữ mười sáu?”, Phật nói: “các thầy lắng nghe nghiệp mà Đại thế chủ và các Bí-sô ni đã tạo, nhờ nghiệp lực ấy mà nay tự thọ lấy quả báo: Quá khứ Hiền kiếp, lúc con người thọ hai vạn tuổi có Phật Ca- diếp ba ra đời đầy đủ mười hiệu xuất hiện ở đời, trụ tại vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Sau khi nhân duyên giáo hóa đã mãn, Phật ấy nhập Niết-bàn vô dư như củi hết lửa tắt. Lúc đó có vua tên là Cát lợi chỉ cho xây bảo tháp rộng một du thiện na, cao nửa du thiện na để cúng dường xá lợi Phật ấy. Đại phi của vua và năm trăm thể nữ do tuổi đã già nên vua không đoái hoài đến nữa, họ nói với nhau: “chúng ta nên tu nghiệp gì để đời sau không bị già?”, Đại vương phi nói: “chúng ta nên cúng dường tháp xá lợi của Phật Ca-diếp ba thì sở nguyện sẽ thành tựu”. Sau khi được vua chấp thuận, họ đem các loại hương bột, hương thoa, anh lạc, tràng phan, lọng báu và các món ăn thơm ngon đến cúng dường tháp với tâm ân trọng, năm vóc kính lễ rồi nhiễu quanh bên phải của tháp, sau đó chắp tay phát nguyện: “nguyện đem thiện căn cúng dường bậc vô thượng phước điền này, đời đời kiếp kiếp chúng con đều không có tướng già cho đến khi hết tuổi thọ”. Này các Bí-sô, Đại vương phi thuở xưa chính là Đại thế chủ ngày nay, năm trăm thể nữ thuở xưa chính là năm trăm Bí-sô ni ngày nay. Do lực của phát nguyện xưa mà mãi đến đời này tuy thọ đến một trăm hai mươi tuổi mà tướng mạo vẫn không già… ” Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó trong thành có một trưởng giả cưới vợ đã lâu mà không có con, đến khi tuổi già có ý muốn xuất gia nên nói với vợ, người vợ nói tùy ý. Trưởng giả này đến chỗ các Bí-sô ở trong rừng Thệ đa cầu xuất gia và được thọ Cận viên. Thời gian sau, trong lúc Phật đang thuyết pháp cho đại chúng, Bí-sô già này ngồi phía ngoài bỗng nhảy mũi, do Phật đã chế ngăn nên không ai chúc nguyện trường thọ. Lúc đó người vợ cũ của Bí-sô già này đi ngang qua nghe thấy như vậy, trong lòng bất nhẫn liền dùng tay trái bốc nắm đất đưa quanh đầu Bí-sô già rồi ném ra ngoài và chúc nguyện trường thọ. Thấy các Bí-sô nhìn, người vợ bèn vừa nắm tay Bí-sô già kéo đi vừa nói lời thô quở trách: “Thánh tử vì sao lại xuất gia ở chung với những kẻ oán thù, trong rừng Thệ đa này thường có năm trăm Dược xoa áo xanh, nhờ tôi chúc nguyện cho ông trường thọ, nếu không Dược xoa sẽ hút tinh khí của ông. Ông không nên ở đây nữa, hãy về nhà với tôi”, các Bí-sô gọi bảo Bí-sô già chớ đi nhưng ông ta vẫn không đứng lại. Lúc đó một Bí-sô tới nắm tay ông kéo giữ lại, ông kếu la đau quá, Phật nói: “hãy hỏi Bí-sô già tay nào đau, tay bị Bí-sô nắm đau hay là tay bị vợ nắm đau. Nếu nói là tay bị Bí-sô nắm đau thì tâm đã muốn đi, cứ để tùy ý đi; nếu nói là tay bị vợ nắm đau thì tâm còn muốn ở lại, nên giữ lại chớ cho đi”, Bí-sô vâng lời Phật hỏi, Bí-sô già đáp là tay bị Bí-sô nắm đau, Bí-sô liền buông ra để ông ta tùy ý về nhà với vợ. Do cho ông ta xuất gia thọ Cận viên nên gây chướng ngại lớn, Phật nói: “Bí-sô già thường thích trường thọ, vì vậy khi nghe họ nhảy mũi nên nói trường thọ, ai không nói thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ như trên, lúc đó có một trưởng giả tín tâm cùng với một Bà-la-môn không tín tâm vào trong rừng Thệ đa, trưởng giả bỗng nhảy mũi, các Bí-sô không chúc nguyện trường thọ, Bà-la-môn liền chúc nguyện trường thọ rồi nói: “sao ông lại có tín tâm với những kẻ oán thù, trong rừng Thệ đa này thường có năm trăm Dược xoa áo xanh, nhờ tôi chúc nguyện cho ông trường thọ, nếu không Dược xoa sẽ hút tinh khí của ông. Ông không nên ở đây nữa, hãy mau về nhà”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “những người tục đều thích trường thọ, nếu nghe họ nhảy mũi nên nói trường thọ. Các Bí-sô nếu thấy người già nhảy mũi, người nhỏ nên đứng dậy làm lễ và nói là kính lễ (bạn đệ); nếu là người nhỏ nhảy mũi thì người lớn nên nói là vô bịnh. Ai không nói như vậy thì phạm tội Việt pháp”. Phật tại vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la- nê-tư, lúc đó năm Bí-sô đầu tiên được Phật làm cho trụ nơi vị Chánh định, tuy ở trong pháp luật thiện thuyết xuất gia nhưng đối với các loại thức ăn ăn nhai và oai nghi tới lui đều chưa hiểu rõ, liền bạch Phật, Phật nói: “có năm loại thức ăn thuộc củ, cọng, lá, hoa, quả và năm loại thức ăn để ăn nhai như mì (miến hay bún), cơm, ngũ cốc, cá thịt và bánh; lại có năm loại thức ăn bổ sung như sữa lạc, mật, chả, nem và các loại rau cải. Nếu có loại thức ăn bổ sung này thì vị sẽ ngon hơn, giúp cho thân có sắc lực để tu tập thiện pháp”. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai: Làm cửa có ổ khóa, Lót da, làm cửa sổ, Trong rộng, dùng lưới ngăn, Cây chống móng chân dê. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó các Bí-sô làm phòng nhưng không làm cửa, Phật bảo nên làm cửa; lại không làm cánh cửa, Phật bảo nên làm; lại không làm bản lề và ổ khóa nên đóng mở khó, Phật bảo nên làm. Lúc đó mở cửa có tiêng kêu, Phật bảo nên dùng miếng da lót ở chỗ kêu; trong phòng tối, Phật bảo nên làm cửa sổ; các Bí-sô làm cửa sổ quá thấp nên bị trộm, Phật bảo không nên làm quá thấp; lại làm quá cao nên phòng vẫn tối như trước, Phật bảo: “không nên làm quá cao, cũng không nên làm quá thấp, nên làm vừa chừng”. Lúc đó các Bí-sô làm bên trong hẹp, bên ngoài rộng; Phật bảo nên làm bên trong rộng, bên ngoài hẹp; lại có chim quạ bay vào, Phật bảo nên dùng lưới ngăn; cửa sổ lại không làm cánh cửa nên rắn, bò cạp ban đêm bò vào, Phật bảo nên làm cánh cửa sổ; cửa sổ lại bị gió thổi bật ra, Phật bảo nên làm then cài; đóng mở lại khó khăn, Phật bảo nên dùng cây chống như móng chân dê để đóng mở cửa. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai: Chùy sắt và chum vại, Xẻng sắt và xẻng gỗ, Nồi, giường, bếp năm trăm, Búa đục đều cho dùng. Duyên khởi tại thành Vương xá, lúc đó cụ thọ Tất-lân-già-bà ta có bịnh phong, các Bí-sô đến thăm và hỏi đã từng uống thuốc gì, đáp: “trước đây tôi thường dùng chùy sắt nóng thả vào trong chậu nước rồi dùng nước nóng này lau thân thì hết bịnh”, lại hỏi vì sao nay không làm, đáp là Phật chưa cho, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “từ nay cho Bí-sô bịnh phong được dùng chùy sắt nóng thả vào trong chậu nước rồi dùng nước nóng này lau thân để trị bịnh”. Lúc đó Bí-sô đốt chùy sắt nóng quá nên không cầm lấy được, Phật bảo nên dùng móc sắt kéo ra; Bí-sô đưa móc sắt vào lửa, nóng quá cũng không kéo ra được; Phật bảo nên để bên ngoài, dùng bùn bọc lại ở chỗ tay cầm cho không bị nóng để kéo chùy sắt ra bỏ vào trong chậu nước. Bí-sô sau đó dùng tháo đậu, phân bò để chà rửa chùy sắt; Phật bảo không nên chà rửa như vậy, nên bỏ vào trong lửa thì sạch. Lúc đó các Bí-sô nấu nước nóng để rửa trước, nấu nước sạch sau; Phật bảo nên nấu nước sạch trước, nấu nước để rửa sau, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp. Duyên xứ như trên, cụ thọ Tất-lân-già-bà ta bị bịnh, các Bí-sô đến thăm và hỏi như trên, đáp: “trước đây tôi dùng cái chum vại nhỏ đựng nước thuốc để xông thì hết bịnh”, lại hỏi và đáp như trên cho đến câu Phật nói: “từ nay cho Bí-sô bịnh được dùng chum vại đựng nước thuốc xông”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có trưởng giả làm phòng tăm cho Tăng, trong phòng có than lửa rơi vãi khắp nơi, Phật bảo nên gom lại một chỗ ; các Bí-sô không biết dùng vật gì để gom lại, Phật bảo nên dùng xẻng sắt. Lúc đó các Bí-sô ở A-lan-nhã không có sắt để làm xẻng, Phật bảo dùng cây gỗ làm; xẻng bằng cây gỗ dùng bị lửa cháy, Phật bảo dùng phân bò trộn với bùn trét lên xẻng rồi mới dùng thì không bị lửa cháy. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô bịnh đến thầy thuốc yêu cầu điều trị, thầy thuốc chỉ cách trị rồi Bí-sô liền đến chỗ Trưởng giả hỏi mượn nồi để nấu thuốc, sau đó đem trả lại, trưởng giả nói là cúng cho Thánh giả, Bí-sô nói là Phật chưa cho thọ, trưởng giả nói: “nếu vậy hãy để dưới đất rồi đi Bí-sô bạch Phật, Phật nói cho thọ. Lúc đó Tỳ-xá-khư Lộc tử mẫu nghe Phật cho thọ nồi, liền mang đến cúng năm trăm nồi sắt, các Bí-sô không biết làm thế nào, Phật bảo nên theo thứ lớp chia cho các Bí-sô; không đủ chia cho các Bí-sô nhỏ, Phật bảo nên chia cho họ nồi đất. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô bịnh nằm trên đất lạnh nên ăn uống không tiêu, đến mượn trưởng giả giường chiếu để nằm, sau khi hết bịnh đem trả, trưởng giả nói là cúng cho Thánh giả, Bí-sô nói là Phật chưa cho thọ, bạch Phật, Phật nói cho thọ. Lúc đó Tỳ-xá-khư Lộc tử mẫu nghe Phật cho thọ giường, liền mang đến cúng năm trăm cái giường, các Bí-sô không biết làm thế nào, Phật bảo nên theo thứ lớp chia cho các Bí-sô. Lại có Bí-sô cần bếp lò, đến mượn của trưởng giả, dùng xong đem trả, trưởng giả nói là cúng cho Thánh giả, Bí-sô nói là Phật chưa cho thọ, bạch Phật, Phật nói cho thọ. Lúc đó Tỳ-xá-khư Lộc tử mẫu nghe Phật cho thọ bếp lò, liền mang đến cúng năm trăm bếp lò, các Bí-sô không biết làm thế nào, Phật bảo nên theo thứ lớp chia cho các Bí-sô. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô cần nồi nấu nước nhuộm y, đến mượn của trưởng giả, dùng xong đem trả, trưởng giả nói là cúng cho Thánh giả, đáp là Phật chưa cho, bạch Phật; Phật bảo nên thọ cho Tăng, đại chúng dùng chung. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô bị gãy giường nên đến chỗ trưởng giả mượn cái đục, dùng xong đem trả, trưởng giả nói là cúng cho Thánh giả, đáp là Phật chưa cho, bạch Phật; Phật bảo nên thọ cho Tăng, đại chúng dùng chung. 10. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai: Búa, rìu, ba loại thang: Tre, gỗ, dây tùy việc. Hạ quán, cách làm chùa. Nói nhân duyên Nan-đà. Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô bị gãy giường cần búa, đến mượn của trưởng giả, dùng xong đem trả, trưởng giả nói là cúng cho Thánh giả, đáp là Phật chưa cho, bạch Phật; Phật bảo nên thọ cho Tăng, đại chúng dùng chung. Duyên xứ như trên, lúc đó Phật ở trong vườn của Lộc tử mẫu cho các Bí-sô làm chùa tháp, làm quá cao không biết làm sao leo lên nên bạch Phật, Phật bảo nên làm thang; lại không biết làm bằng gì, Phật nói: “được tùy ý dùng ba loại tre, gỗ và dây để làm thang”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có Bí-sô thân bịnh đến thầy thuốc yêu cầu trị bịnh, thầy thuốc nói nên để lộ phía dưới thân (hạ quán hay hạ khỏa), Bí-sô nói Phật chưa cho, thầy thuốc nói: “Phật từ bi sẽ khai cho”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói nếu có bịnh thì khai cho được để lộ phía dưới thân. Duyên xứ như trên, như lời Phật dạy khi làm chùa Tăng, Tăng phòng được làm năm tầng, điện Phật bảy tầng, cổng chùa bảy tầng. Nếu làm chùa Ni, Ni phòng được làm ba tầng, điện Phật năm tầng, cổng chùa năm tầng. Lúc đó các Bí-sô không biết làm sao leo lên cao, Phật bảo nên làm cầu thang ở bên góc chùa hoặc bằng đá, gỗ hay đất. Lúc đó Bí-sô không hiểu rõ liền làm cầu thang ở tầng dưới bằng gỗ, ở tầng giữa bằng đất, ở tầng trên bằng đá khiến cho trên nặng đè xuống dưới làm chùa sập hư; Phật bảo cầu thang ở tầng dưới nên làm bằng đá, ở tầng giữa nên làm bằng đất, ở tầng trên mới làm bằng gỗ. <篇> CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 11 10. Nhiếp tụng (tiếp theo) - Nhân duyên về Nan-đà: Duyên khởi tại vuờn Đa căn thành Kiếp-tỷ-la, lúc đó em của Thế tôn tên là Nan-đà, thân sắc vàng ròng và có đủ ba mươi hai tướng tốt như Phật, chỉ thấp hơn Phật bốn ngón tay. Vợ của nan-đà là Tôn-đà-la, dung nghi đoan chánh, xinh đẹp tuyệt trần, ai cũng yêu mến nên Nan- đà yêu thương không muốn xa lìa, tình sâu nặng cho đến trọn đời. Lúc đó Thế tôn biết thời hóa độ đã đến nên vào sáng sớm đắp y mang bát cùng thị giả A-nan vào thành khất thực, theo thứ lớp đến trước cửa cung củanan-đà. Phật dùng đại bi lực phóng ánh sáng hoàng kim chiếu vào trong cung khiến cho khắp nơi đều trở thành sắc hoàng kim. Nan-đà thấy ánh sáng này bỗng nhiên chiếu đến liền biết là do Như lai làm, sai sứ ra xem thử, sứ ra thấy Phật liền trở vào báo là Phật đang ở trước cửa. Nan-đà nghe rồi liền muốn ra nghinh đón làm lễ, Tôn-đà-la suy nghó: “nếu đề Nan-đà đi ra, Thế tôn chắc sẽ cho chàng xuất gia”, nghó rồi liền níu áo Nan-đà lại không cho đi, Nan-đà nói: “hãy buông ra, sau khi làm lễ xong anh sẽ trở vào ngay”, Tôn-đà-la nói: “chàng hãy hứa rồi mới được đi”, nói rồi liền dùng son ướt bôi lên trán củanan-đà nói rằng: “chàng hãy trở vào khi vết son này chưa khô, nếu trái lời sẽ bị phạt năm trăm tiền vàng”, Nan-đà nói được rồi vội ra cửa nghinh đón đảnh lễ Phật, kế lấy bát của Phật đem vào trong cung đựng đầy thức ăn thơm ngon rồi mang trở ra, Phật liền bỏ đi, Nan-đà đưa bát cho A-nan, Thế tôn liền hiện tướng không cho A-nan lấy bát. Nan-đà vì tôn trong sự oai nghiêm của Phật nên không dám gọi Thế tôn đứng lại mà đưa bát cho A-nan, A-nan hỏi: “hồi nãy anh nhận bát này từ ai?”, đáp là từ Phật, A-nan nói: “vậy anh nên đưa cho Phật”, đáp: “tôi không dám xúc phạm đại sư”, nói rồi liền im lặng đi theo sau Phật về đến trong tinh xá. Phật trải tòa ngồi rồi, Nan-đà đưa bát cho Phật, Phật thọ thực xong rồi hỏi Nan-đà: “em có thể ăn cơm dư này không?”, đáp là ăn, đợi Nan-đà ăn xong, Phật hỏi: “em có thể xuất gia không?”, đáp là có thể. Do trong quá khứ khi Phật hành Bồ-tát đạo không có trái nghịch lời dạy của cha mẹ, sư trưởng và các tôn giả khác, nên đời này được quả báo không ai dám trái lời. Phật nghe Nan-đà đáp như vậy rồi liền bảo A-nan cạo tóc cho Nan-đà, A-nan lại bảo thợ cạo cạo tóc cho Nan-đà. Lúc đó Nan-đà nói với thợ cạo: “ngươi có biết không, không bao lâu nữa ta sẽ làm Lực luân vương, nếu ngươi cạo tóc của ta, sau này ta sẽ chặt cổ tay ngươi”, thợ cạo nghe rồi sợ hãi thu cất dao cạo muốn ra về, A-nan bạch Phật, Phật tự đi đến hỏi Nan-đà: “em không muốn xuất gia phải không?”, lại đáp là muốn xuất gia, Phật liền tự cầm bình nước xối lên đầu củanan- đà rồi bảo tịnh nhân cạo tóc, Nan-đà suy nghó: “ta vì kính phụng Thế tôn nên tạm xuất gia, đến chiều sẽ trở về nhà”. Đến chiều, Nan-đà tìm đường trở về nhà, Phật hóa ra một hố lớn ở giữa đường, Nan-đà thấy hố liền suy nghó: “ta rất nhớ Tôn-đà-la nhưng không cách gì qua được hố này, vậy còn phải xa Tôn-đà-la cho đến sáng mai, ta sẽ tìm cách trở về nhà”. Lúc đó Phật biết tâm ý của nan-đà nên bảo A-nan: “ thầy hãy đến bảo Nan-đà làm tri sự”, A-nan vâng lời Phật đến bảo Nan-đà làm tri sự, Nan-đà hỏi: “thế nào là tri sự và phải làm việc gì?”, đáp là coi ngóviệc chúng, lại hỏi coi ngó như thế nào, đáp: “hễ là tri sự thì khi các Bí-sô đi khất thực phải quét dọn trong chùa, dùng tân cù ma tô trét nền, coi giữ vật của Tăng không cho thất lạc ; nếu có việc bình luận thì nên bạch Tăng…, ban đêm đóng cửa chùa, sáng mở ra…”, Nan-đà nói: “được, tôi sẽ làm theo lời Phật dạy”. Sáng hôm sau khi các Bí-sô đắp y mang bát vào thành khất thực, Nan-đà quét dọn trong chùa nghó là quét xong sẽ trở về nhà. Lúc đó Phật dùng thần thông lực làm cho những nơi đã quét sạch lại đầy rác rến trở lại, nên Nan-đà quét mãi mà vẫn không sạch hết rác. Nan-đà liền nghó: “hãy đóng cửa rồi bỏ đi”, Phật lại dùng thần thông lực làm cho Nan đóng cửa này xong, khi đến đóng cửa khác thì cửa này lại mở ra; Nan-đà phiền muộn liền suy nghó: “dù giặc có phá tan chùa này cũng chẳng hại gì, khi lên làm vua ta sẽ cho xây lại trăm ngàn ngôi chùa đẹp hơn chùa này. Nay ta nên trở về nhà”. Nan-đà sợ đi đường lớn sẽ gặp Phật nên đi đường nhỏ, Phật biết nên đi đường nhỏ theo chiều ngược lại, Nan-đà nhìn thấy Phật nhưng không muốn gặp nên nấp dưới một tàng cây bên đường. Phật dùng thần thông lực khiến cho cây đưa cành cây lên cao để lộ thân hình của nan-đà rồi hỏi: “thầy đi đâu, hãy theo ta trở về”, Nan-đà hổ thẹn đi theo Phật trở về. Lúc đó Phật suy nghó: “người này luyến Ái vợ sâu nặng, ta nên làm phương tiện khiến cho từ bỏ”, nghó rồi Phật dẫn Nan-đà ra khỏi thành Kiếp-tỷ-la đi đến thành Thất-la-phiệt, trú trong vườn của Tỳ-xá-khư Lộc tử mẫu. Lúc đó Tỳ-xá-khư nghe biết em của Thế tôn tên là Nan-đà, thân sắc vàng ròng và có đủ ba muơi hai tướng tốt như Phật, chỉ thấp hơn Phật bốn ngón tay, đã cùng Phật đến đây liền suy nghó: “ta nên đến làm lễ để được gặp”. Sáng hôm sau, Nan-đà đắp y mang bát vào thành khất thực, theo thứ lớp đến trước nhà của Tỳ-xá-khư , Tỳ-xá-khư thấy tướng mạo củanan-đà hơn người thường liền suy nghó: “đây há chẳng phải là em của Phật hay sao?”, nghó rồi với tâm tín kính đảnh lễ, đặt tay lên chân của nan-đà. Do sự xúc chạm này nên Nan-đà với bản tánh đa dục liền sanh tâm nhiễm ô, xuất tinh rơi trên đầu của Tỳ-xá-khư . Phật dùng thần lực biến chất bất tịnh kia thành dầu thơm Tô hợp, Tỳ-xá-khư sờ lên đầu chạm dầu thơm này liền biết là do thần lực của Phật làm ra nên sanh tâm hi hữu vui mừng tán thán: “lành thay Phật đà, lành thay Đạt ma, lành thay Tăng già. Pháp luật khéo thuyết giảng thật không thể nghó bàn mới có thể khiến cho người đa dục như Nan-đà cũng xuất gia trong Phật pháp, chuyên tu phạm hạnh”. Lúc đó Nan-đà sanh tâm hối hận suy nghó không biết có phạm Tăng tàn hay không nên bạch các Bí- sô, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “không phạm, nếu người nào nhiều dục như vậy thì nên dùng túi da bọc lại” , các Bí-sô không biết làm bằng da gì, Phật nói nên dùng ba loại da là da dê, da nai và da chuột. Lúc đó Bí-sô dùng da sống làm túi da nên có mùi hôi; Phật bảo nên thuộc da, rửa sạch phơi khô rồi mới dùng. Khi Bí-sô gặp người nữ sanh dục nhiễm, xuất tinh làm dơ hạ y, Phật bảo nên làm hai cái túi da, một cái phơi, một cái dùng. Lúc đó túi da dính nhiều tinh nên ẩm hư, Phật bảo nên dùng vật lót để phơi trên nền cát. Lại có Bí-sô sau khi dùng túi da bọc lại rồi đi thọ thực hoặc nhiễu tháp, Phật bảo nên tháo ra để ở chỗ khuất, rửa sạch tay rồi mới đi dùng cơm hay lễ kính. Sau đó khi ngồi trên tảng đá, Nan-đà lại nhớ đến Tôn-đà-la nên vẽ hình cô lên đá, tôn giả Đại Ca-diếp đi ngang qua thấy vậy liền hỏi: “thầy đang làm gì vậy?”, đáp là đang vẽ hình Tôn-đà-la, Đại Ca-diếp nói: “này cụ thọ, Thế tôn dạy Bí-sô nên làm hai việc là thiền định và đọc tụng, thầy không làm hai việc này lại ở đây vẽ hình phụ nữ?”, Nan- đà nghe rồi im lặng, Đại Ca-diếp đem việc này bạch Phật, Phật nói: “kẻ ngu si Nan-đà nhớ Tôn-đà-la nên vẽ hình cô ấy, từ nay Bí-sô không được vẽ hình, ai vẽ thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó các Bí-sô không dám dùng hương thoa, hương bột thoa ở tháp Phật, Phật hỏi A-nan nguyên do, A-nan bạch Phật, Phật nói: “được dùng hương thoa, hương bột thoa ở tháp Phật nhưng không được vẽ hình tượng chúng sanh. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp, nếu vẽ hình đầu lâu hay xương khô thì không phạm”. Lúc đó Phật suy nghó: “Nan-đà ngu si Ái nhiễm nên nhớ đến vợ mãi, không dứt tình xưa được, ta nên làm phương tiện khiến cho dứt tâm Ái nhiễm”, nghó rồi liền hỏi Nan-đà: “thầy đã từng thấy núi Hương túy chưa?”, đáp là chưa thấy, Phật bảo: “hãy nắm lấy chéo y của ta”, Nan-đà vâng lời nắm lấy chéo y. Lúc đó Phật như Nga vương bay lên hư không, đưa nan-đà đến núi Hương túy. Đến nơi, Nan-đà nhìn ngó hai bên thấy dưới một gốc cây ăn trái có một con vượn cái mù, Phật hỏi có thấy vượn mù hay không, đáp là có thấy, lại hỏi: “ý thầy thế nào, con vượn cái này so với Tôn-đà-la thì ai xinh đẹp hơn?”, đáp: “Tôn-đà-la thuộc dòng Thích ca cũng như thiên nữ, nghi dung bậc nhật, tuyệt thế vô song, con vượn này so với Tôn-đà-la không bằng một phần ngàn”, Phật lại hỏi: “thầy đã thấy thiên cung chưa?”, đáp là chưa thấy, Phật bảo: “hãy nắm lấy chéo y của ta”, Nan-đà vâng lời nắm lấy chéo y. Lúc đó Phật như Nga vương bay lên hư không, đưanan-đà đến cõi trời Tam thập tam rồi bảo Nan-đà: “thầy hãy đi tham quan các nơi trong thiên cung”. Nan-đà tham quan các nơi như vườn Hoan hỉ, vườn Thể thân, vườn Thô thân, vườn Giao hợp, Thiện pháp đường… thấy hoa trái, ao tắm và chỗ vui chơi hoan lạc trong các vườn đó thảy đều thù thắng. Khi vào trong thành Thiện kiến, Nan-đà thấy các loại nhạc khí như trống kèn… với âm thanh vi diệu, khắp nơi đều có các thiên nữ xinh đẹp vui chơi mà không thấy có thiên tử nên hỏi một thiên nữ vì sao, thiên nữ đáp: “Thế tôn có người em tên là Nan-đà theo Phật xuất gia tu phạm hạnh, sau khi qua đời sẽ sanh lên đây nên chúng tôi ở đây chờ đợi”, Nan-đà nghe rồi vui mừng trở lại gặp Phật, Phật hỏi: “thầy đã thấy những việc thắng diệu của chư thiên chưa?”, đáp là đã thấy rồi kể lại những việc trên, Phật lại hỏi có thấy thiên nữ không, đáp là đã thấy, lại hỏi: “những thiên nữ đó so với Tôn-đà-la thì ai xinh đẹp hơn?”, đáp: “Tôn-đà-la so với các thiên nữ ở đây cũng như đem con vượn mù ở núi Hương túy so với Tôn-đà-la, không bằng một phần ngàn”, Phật nói: “người tu tịnh hạnh có lợi thù thắng này, vậy thầy hãy cố tu phạm hạnh để được sanh thiên thọ hưởng những khoái lạc này”, Nan-đà nghe rồi im lặng. Sau khi trở về rừng Thệ đa, Nan-đà vì muốn sanh thiên hưởng khoái lạc nên nổ lực tu phạm hạnh, Phật biết tâm ý củanan-đà nên bảo A-nan: “thầy hãy đi thông báo với các Bí-sô là không ai được cùng với Nan-đà ngồi chung, kinh hành chung, ngồi tụng kinh chung, phơi y chung một sào, cũng không để bát và bình nước chung”, A-nan thông báo xong, các Bí-sô phụng hành theo. Lúc đó Nan-đà thấy mọi người không cùng mình sinh hoạt chung nên trong lòng cảm thấy xấu hổ, một hôm thấy A-nan cùng các Bí-sô giúp nhau may y trong phòng may, Nan-đà suy nghó: “các Bí-sô đều bỏ rơi ta nhưng A-nan là em ta, lẽ nào cũng bỏ rơi ta hay sao”, nghó rồi liền đến ngồi cạnh, A-nan liền đứng dậy tránh đi, Nan-đà hỏi: “các Bí- sô khác tránh ta còn được, nhưng thầy là em ta, vì sao cũng tránh ta?”, đáp: “vì anh hành đạo theo hướng khác, tôi hành đạo theo hướng khác nên phải tránh nhau”, lại hỏi: “tôi theo hướng nào còn thầy theo hướng nào?”, đáp: “anh vì muốn sanh thiên nên tu phạm hạnh, tôi vì cầu viên tịch nên trừ dục nhiễm”, Nan-đà nghe rồi càng ưu sầu. Lúc đó Phật hỏi Nan-đà: “thầy từng thấy địa ngục chưa?”, đáp là chưa thấy, Phật bảo: “hãy nắm lấy chéo y của ta”, Nan-đà vâng lời nắm lấy chéo y. Lúc đó Phật như Nga vương bay lên hư không, đưa nan-đà đến địa ngục rồi bảo Nan-đà đi tham quan các nơi. Nan-đà đến tham quan các địa ngục như Khôi hà, Kiếm thọ, Phẩn niệu, Hỏa ha … thấy trong đó chúng sanh chịu khổ như bị kìm kéo lưỡi, nhổ răng, móc mắt, thân bị cưa, tay chân bị chặt, thân bị mâu giáo đâm, bị chùy đồng đập nát, hoặc bị nước đồng sôi rót vào miệng, hoặc leo lên núi dao vào rừng kiếm, hoặc bị giã trong cối, bị nghiền dưới đá, hoặc ôm trụ đồng, nằm rên giường sắt nóng đỏ … Lại thấy chúng sanh bị đốt nấu trong chão nước sôi sùng sục chịu khổ, nhưng có một chão nước sôi sùng sục không có chúng sanh, Nan-đà lấy làm lạ hỏi ngục tốt vì sao, ngục tốt đáp: “Nan-đà em của Phật muốn sanh thiên nên tu phạm hạnh, tuy được sanh lên cõi trời tạm thời hưởng thọ hoan lạc, nhưng sau khi chết lại đọa xuống đậy ở trong chão nước sôi này thọ khổ. Vì vậy tôi nấu nước sẵn chờ”, Nan-đà nghe rồi sợ hãi đến nỗi toàn thân nổi gai ốc, đổ mồ hôi suy nghó: “nếu hắn biết ta chính là Nan-đà thì chắc là bắt ta bỏ vào trong chão nước sôi này”, nghó rồi vội chạy trở lại chỗ Phật, Phật hỏi đã thấy các cảnh trong địa ngục chưa, đáp là đã thấy rồi kể lại những việc đã thấy trên, Phật nói: “nếu nguyện sanh cõi người hay cõi trời mà tu phạm hạnh thì đều có lỗi này, vì vậy thầy nên vì cầu Niết-bàn viên tịch mà tu phạm hạnh, chớ vì ưa thích sanh thiên mà cần khổ tu phạm hạnh”, Nan-đà nghe rồi xấu hổ im lặng. Sau khi trở về rừng Thệ đa, Phật bảo Nan-đà và các Bí-sô: “có ba cấu uế bên trong, đó là tham dục, sân hận và ngu si; các thầy nên từ bỏ, nên xa lìa, nên tu học như vậy”. Ở trong rừng Thệ đa chưa bao lâu, Thế tôn muốn tùy duyên hóa độ chúng sanh nên cùng các môn đồ du hành đến nước Chiêm ba, trụ bên bờ hồ Yết già. Lúc đó Nan-đà cùng năm trăm Bí-sô cũng đi theo đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên, Phật bảo Nan-đà và các Bí-sô: “ta có pháp yếu ban đầu, khoảng giữa và sau cùng đều thiện, văn nghóa xảo diệu, thuần nhất không tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh trong sạch, đó là kinh Vào thai mẹ. Các thầy lắng nghe: Này Nan-đà, tuy có thai mẹ nhưng có trường hợp nhập và không nhập. Như thế nào là thọ sanh vào thai mẹ? Nếu cha mẹ có tâm dâm cùng giao hội, bụng người mẹ thanh tịnh, khi đến nguyệt kỳ Trung uẩn hiện tiền thì biết lúc đó gọi là Vào thai mẹ. Thân Trung uẩn (Trung ấm, Trung hữu) có hai: một là xinh đẹp, hai là xấu xí. Trung hữu của địa ngục có dung mạo xấu xí như khúc cây cháy đen, Trung hữu của bàng sanh có sắc như khói, Trung hữu của ngạ quỷ có sắc như nước, Trung hữu của người trời có sắc vàng kim, Trung hữu của sắc giới có sắc tươi trắng, cõi Vô sắc giới vốn không có sắc nên không có Trung hữu. Trung uẩn của hữu tình có hai tay hai chân hoặc bốn chân, nhiều chân hoặc không chân; tùy theo nghiệp đời trước thác sanh vào cõi nào mà cảm thọ thân Trung hữu ứng với cõi ấy. Nếu Trung hữu cõi trời thì đầu hướng lên; Trung hữu cõi người, bàng sanh và ngạ quỷ thì đi ngang ; Trung hữu cõi địa ngục thì đầu chúc xuống. Các Trung hữu đều có thần thông nương theo hư không mà đi, cũng có thiên nhãn thấy chỗ thác sanh từ xa. Nguyệt kỳ là thời kỳ nạp thai, có những người nữ trải qua ba ngày hoặc năm ngày, nửa tháng… cũng có người phải chờ đợi lâu mới có nguyệt kỳ. Nếu người nữ không có uy thế thì phải chịu nhiều đau khổ, hình dung xấu xí, ăn uống không ngon, nguyệt kỳ có đến nhưng lại dứt ngay, như đất khô dù rưới nước cũng rất mau khô. Nếu người nữ có uy thế thì thường an lạc, hình dung xinh đẹp, ăn uống ngon, nguyệt đến sẽ không dứt liền, như đất ẩm, rưới nước sẽ lâu khô. Như thế nào là không nhập thai?: khi người cha xuất tinh mà người mẹ không xuất tinh hoặc mẹ xuất tinh mà cha không xuất tinh hoặc cả hai đều không xuất tinh thì không nhập thai. Nếu người mẹ không thanh tịnh, người cha thanh tịnh hoặc mẹ thanh tịnh, cha không thanh tịnh, hoặc cả hai đều không thanh tịnh thì cũng không nhập thai. Nếu căn môn của người mẹ bị bịnh như bịnh phong, bịnh vàng, bịnh đàm ấm… hoặc uống thuốc, eo quá nhỏ, hoặc sản môn như miệng ngựa, hoặc bên trong như cây nhiều rễ, hoặc như đầu lưỡi cày hoặc như dây leo, hoặc như lá cây; hoặc trên bụng dưới bụng quá sâu, hoặc không có dạ con, hoặc thường chảy máu, hoặc như mỏ quạ thường mở không khép, hoặc trên dưới bốn bên không bằng nhau, hoặc cao thấp lồi lõm ; hoặc bên trong có trùng ăn làm cho hư hoại bất tịnh… thì người mẹ không thể thọ thai. Nếu cha mẹ tôn quý mà thân Trung hữu ty tiện hoặc thân Trung hữu tôn quý mà cha mẹ ty tiện cũng không thành thai. Nếu cha mẹ và thân Trung hữu đều tôn quý nhưng nghiệp không hòa hợp thì cũng không thành thai, hoặc thân trung hữu đối với cảnh trước không luyến Ái nam hay nữ thì cũng không thọ sanh. Như thế nào thì Trung hữu vào thai mẹ? Nếu bụng người mẹ thanh tịnh, Trung hữu hiện tiền thấy cha mẹ làm việc dâm, người mẹ không có các bịnh kể trên, đối ới cha mẹ có nghiệp lực cảm ứng thì Trung hữu mới nhập thai. Nếu khi nhập thai, thân Trung hữu là nam thì sẽ luyến Ái với mẹ mà ghét cha ; nếu là nữ thì sẽ luyến Ái với cha mà ghét mẹ. Đối với các nghiệp đã tạo trong đời trước liền sanh vọng tưởng và hiểu sai như tưởng lạnh, gió lớn, mưa to, mây mù… hoặc nghe tiếng của nhiều người cải nhau; sanh các vọng tưởng này rồi tùy nghiệp mạnh yếu mà phát sinh mười vọng tưởng, đó là ta đang vào nhà, ta sắp lên lầu, ta lên đài điện, ta lên giường tòa, ta vào thảo am, ta vào nhà lá, ta vào bụi cỏ, ta vào trong rừng cây, ta vào trong khe tưởng hở, ta vào trong hàng rào. Khi thân Trung hữu có các vọng tưởng này liền vào thai mẹ. Này Nan-đà, khi vừa thọ thành thai gọi là Yết-la-lam, Yết-la- lam chính là tinh cha huyết mẹ, do tinh cha huyết mẹ làm nhân duyên hòa hợp để thức nương dựa tồn tại. Như nhân công đổ sữa vào bình rồi khuấy đều không ngững sẽ được tô, nếu làm khác thì sẽ không được tô ; thân Yết-la-lam sanh do tinh cha huyết mẹ cũng như vậy. Lại có bốn ví dụ : một là như trùng dựa vào cỏ xanh mà sanh ra, cỏ không phải trùng nhưng trùng không lìa cỏ, dựa vào cỏ làm nhân duyên hòa hợp mà trùng sanh ra có sắc xanh; thân Yết-la-lam sanh do tinh cha huyết mẹ cũng như vậy, nhân duyên hòa hợp sanh đại chủng căn. Hai là như trùng dựa vào phân bò mà sanh ra, phân bò không phải trùng nhưng trùng không lìa phân bò, dựa vào phân bò làm nhân duyên hòa hợp mà trùng sanh ra có sắc vàng; thân Yết-la-lam sanh do tinh cha huyết mẹ cũng như vậy, nhân duyên hòa hợp sanh đại chủng căn. Ba là như trùng dựa vào gai mà sanh ra, gai không phải trùng nhưng trùng không lìa gai, dựa vào gai làm nhân duyên hòa hợp mà trùng sanh ra có sắc đỏ; thân Yết-la-lam sanh do tinh cha huyết mẹ cũng như vậy, nhân duyên hòa hợp sanh đại chủng căn. Bốn là trùng dựa vào lạc mà sanh ra… như trên cho đến câu trùng sanh ra có sắc trắng; thân Yết-la-lam sanh do tinh cha huyết mẹ cũng như vậy, nhân duyên hòa hợp sanh đại chủng căn. Lại nữa nan-đà, nương vào thân Yết-la-lam bất tịnh của cha mẹ, địa giới hiện tiền có tánh cứng, thủy giới hiện tiền có tánh ướt, hỏa giới hiện tiền có tánh nóng, phong giới hiện tiền có tánh nhẹ động. Thân Yết-la-lam bất tịnh của cha mẹ nếu chỉ có địa giới không có thủy giới thì khô và bị phân tán, như tay cầm bột tro khô; nếu chỉ có thủy giới mà không có địa giới thì ly tán như giọt dầu trên nước; do thủy giới nên địa giới không rã, do địa giới nên thủy giới không bị trôi. Nếu thân Yết-la- lam có địa thủy giới mà không có hỏa giới thì bị hư nát, như mùa hạ để cục thịt nơi chổ râm mát. Nếu thân Yết-la-lam có địa thủy hỏa giới mà không có phong giới thì không thể tăng trưởng to lớn; chúng đều do nghiệp đời trước làm nhân lại lẫn nhau làm duyên, cùng chiêu cảm nhau nên thức được sanh. Địa giới nâng đỡ, thủy giới kết dính, hỏa giới làm chín, phong giới làm tăng trưởng; ví như có người điều chế đường, dùng hơi thổi vào làm cho phòng lên nhưng bên trong trống rỗng như ngó sen. Địa thủy hỏa phong trong thân do nghiệp lực tăng trưởng cũng như vậy. Chẳng phải chỉ có chất bất tịnh của cha mẹ, cũng chẳng phải bụng mẹ, cũng chẳng phải nghiệp này, chẳng phải nhân hay duyên mà phải do tất cả duyên này hòa hợp mới thành thai. Như hạt giống mới không bị gió nắng làm hư hoại, chắc mà kông lép, được cất giữ đúng cách rồi đem gieo xuống ruộng tốt, đủ độ ẩm… các duyên hòa hợp thì hạt mới nẩy mầm và theo thứ lớp phát triển thành cành lá hoa trái. Vì vậy nên biết không phải chỉ có cha, mẹ hay các duyên khác mà thành thai; phải do tinh cha huyết mẹ… các nhân duyên hòa hợp mới thành thai. Như có người tìm lửa, đem ngọc nhật quang để dưới ánh mặt trời, trên phân bò khô thì lửa mới phát sanh; cũng vậy do tinh cha huyết mẹ… các nhân duyên hòa hợp mới thành thai. Chất bất tịnh của cha mẹ hòa hợp thành Yết-la-lam gọi là Sắc, thọ tưởng hành thức gọi là Danh, hợp lại gọi là Danh sắc. Uẩn tụ danh sắc đáng chán ghét này gá sanh các Hữu, cho đến một sát na nhỏ nhất ta cũng không tán thán nó, vì sao, vì sanh trong các Hữu là đại khổ. Ví như phẩn uế dù chút ít cũng hôi thối, vì vậy nên biết sanh trong các Hữu là đại khổ. Năm Thủ uẩn sắc thọ tưởng hành thức này đều có sanh trụ tăng trưởng cho đến hoại diệt; sanh là khổ, trụ là bịnh, tăng trưởng hoại diệt là già chết. Vì vậy ở trong biển Hữu, ai lại sanh yêu thích, nằm trong thai mẹ thọ đại khổ não này. Lại nữa nan-đà, nên biết bất cứ ai nhập thai, nói chung là có ba mươi tám lần bảy ngày: Trong bảy ngày đầu, thai trong bụng mẹ gọi là Yết-la-lam, thể trạng như cháo lỏng hay như lạc tương nằm trong cái nồi, thân căn và thức cùng ở một chỗ bị nung nấu nóng bức rất là khổ não. Trong bảy ngày bị nung nấu, tánh cứng của địa giới, tánh ướt của thủy giới, tánh nóng của Hỏa giới, tánh động của phong giới mới hiện tiền. Trong bảy ngày thứ hai, trong bụng mẹ có gió tự nổi lên gọi là Biến xúc do nghiệp đời trước sanh ra, xúc chạm vào thai gọi là Yên bộ đà, dạng như lạc hay tô; trong bảy ngày bị nung nấu nên bốn giới hiện tiền. Trong bảy ngày thứ ba, trong bụng mẹ lại có gió tên là Dao cắt miệng do nghiệp đời trước sanh ra, xúc chạm vào thai gọi là Bế thi, dạng như đũa sắt hay giun; trong bảy ngày này bốn giới hiện tiền. Trong bảy ngày thứ tư, trong bụng mẹ lại có gió tên là nôi khai do nghiệp đời trước sanh ra, thổi vào thai như tên bắn gọi là Kiện nam, dạng như chiếc hài hay Ôn thạch; trong bảy ngày này bốn giới hiện tiền. Trong bảy ngày thứ năm, trong bụng mẹ lại có gió tên là Nhiếp trì, khi xúc chạm vào thai thì có năm tướng hiện ra, đó là hai bắp tay, hai đùi và đầu. Như mùa xuân, trời mưa nước ngọt, rừng cây phát triển cành là rậm rạp; năm tướng này hiện cũng như vậy. Trong bảy ngày thứ sáu, trong bụng mẹ lại có gió tên là Quảng đại, khi xúc chạm vào thai thì có bốn tướng hiện ra, đó là hai khuỷu tay và hai đầu gối. Như mùa xuân trời mưa, cỏ Di phát triển thành cọng; bốn tướng này hiện cũng như vậy. Trong bảy ngày thứ tám, trong bụng mẹ có gió tên là Toán chuyển, khi xúc chạm vào thai thì có bốn tướng hiện ra, đó là hai bàn tay và hai bàn chân; bốn tướng này như bọt tụ hay như rêu nước. Trong bảy ngày thứ tám, trong bụng mẹ lại có gió tên là Phiên chuyển, khi xúc chạm vào thai thì có hai mưới tướng hiện ra, đó là mười ngón tay và mười ngón chân. Như trời mưa mới, rễ cây mọc ra. Trong bảy ngày thứ chín, trong bụng mẹ có gió tên là Phân tán, khi xúc chạm vào thaithì có chín tướng hiện ra, đó là hai mắt, hai tai, hai mũi, miệng và hai chỗ đại tiểu. Trong bảy ngày thứ mười, trong bụng mẹ lại có gió tên là Kiên tiên làm cho thai nhi cứng chắc ; trong bảy ngày này, trong bụng mẹ lại có gió tên là Phổ môn thổi phồng thai tạng lên, như cái pháo được thổi đầy khí. Trong bảy ngày thứ mười một, trong bụng mẹ lại có gió tên là Sơ thông, khi xúc chạm vào thai làm cho thai thông suốt, chín lỗ hiện ra. Khi mẹ đi đứng, nằm ngồi hay làm việc… gió này xoay chuyển theo các lỗ làm cho các lỗ lớn dần lên; nếu thổi lên thì thông lỗ trên, nếu thổi xuống thì thông lỗ dưới. Như người thợ rèn dùng ống bễ quạt thổi khí lên xuống, gió thổi qua rồi tự ẩn mất. Trong bảy ngày thứ mười hai, trong bụng mẹ có gió tên là Khúc khẩu thổi vào hai bên thai làm cho bụng lớn nhỏ, cũng như tơ sen quấn theo thân mà trụ. Trong bảy ngày này lại có gió tên là Xuyên phát làm cho thai phát sanh đúng một trăm ba mươi tiết, lại do sức gió làm thành một trăm lẻ một chỗ cấm. Trong bảy ngày thứ mười ba, trong bụng mẹ do sức gió trước nên thai nhi biết đói khát, khi mẹ ăn uống, những chất bổ dưỡng sẽ theo cuống rốn dẫn vào để nuôi lớn thai nhi. Trong bảy ngày thứ mười bốn, trong bụng mẹ có gió tên là Tuyến khẩu làm cho thai nhi mọc ra một ngàn sợi gân, ở thân trước có hai trăm năm mươi sợi, bên phải có hai trăm năm mươi sợi, bên trái cũng có hai trăm năm mươi sợi. Trong bảy ngày thứ mười lăm, trong bụng mẹ có gió tên là Liên hoa làm cho thai nhi hình thành hai mươi mạch máu để hấp thụ chất bổ dưỡng, thân trước có năm mạch, thân sau có năm mạch, bên phải có năm, bên trái có năm. Các mạch này có nhiều tên và nhiều sắc, hoặc tên là Bạn, hoặc tên là Lực, Thế sắc…; với các sắc như xanh vàng đỏ trắng… hay màu xen tạp. Hai mươi mạch này, mỗi mạch có bốn mươi mạch phụ hợp thành tám mươi mạch để hấp thụ khí; thân trước, thân sau và hai bên mỗi nơi có hai trăm mạch. Tám mươi mạch này lại có trăm đường mạch phụ hợp thành tám vạn; thân trước, sau và hai bên mỗi nơi có hai vạn. Tám vạn mạch này có nhiều lỗ, từ một cho đến bảy lỗ, mỗi lỗ nối tiếp với lỗ chân lông, như ngó sen có nhiều lỗ. Trong bảy ngày thứ mười sáu, trong bụng mẹ lại có gió tên là Cam lộ hành có thể làm phương tiện hình thành chỗ hốc mắt, hai tai, hai mũi, cuống họng, ngực và ức của thai nhi; lại làm cho thức ăn dẫn vào có chỗ chứa giữ và làm cho thông hơi thở ra vào. Như người thợ gốm lấy cục đất nhuyễn đạt trên bàn quay, tùy hình dạng của vật mà nắn làm cho không sai lạc; trong bảy ngày này do sức gió nghiệp sắp xếp các chỗ như mắt, tai… cho đến làm cho thông hơi thở ra vào. Trong bảy ngày thứ mười bảy, trong bụng mẹ lại có gió tên là Mao phất khẩu làm cho chất dinh dưỡng vào trong thai, qua mắt tai mũi miệng… của thai nhi một cách trơn tru và làm cho thông hơi thở ra vào. Ví như người thợ giỏi dùng dầu và tro hay đất mịn để chùi tấm kính bị bụi làm ố làm cho sạch; trong bảy ngày này do sức của gió nghiệp sắp xếp các chỗ… không có trở ngại. Trong bảy ngày thứ mười tám, trong bụng mẹ lại có gió tên là Vô cấu làm cho sáu căn của thai nhi sáng sạch. Như mây che nhật nguyệt, có gió mạnh thổi tan mây làm cho nhật nguyệt sáng soi; trong bảy ngày này do sức gió nghiệp làm cho sáu căn sáng sạch cũng như thế. Trong bảy ngày thứ mười chín, thai nhi trong bụng mẹ hình thành bốn căn là mắt tai mũi lưỡi; khi mới nhập thai đã có ba căn là thân mạng ý. Trong bảy ngày thứ hai mươi, trong bụng mẹ lại có gió tên là Kiên cố nương vào thai làm cho chân trái sanh ra hai mươi đốt xương ngón chân, chân phải cũng sanh ra hai mươi đốt xương, gót chân bốn đốt xương, bắp tay hai đốt xương, đầu gối hai đốt xương, bắp đùi hai đốt xương, bàn tọa ba đốt xương, xương sống mười tám đốt xương, xương sườn hai mươi bốn đốt xương, bàn tay trái hai mươi đốt xương, bàn tay phải hai mươi đốt xương, cổ tay hai đốt xương, cánh tay bốn đốt xương, ngực bày đốt xương, vai bảy đốt xương, cổ sau bốn đốt xương, cằm hai đốt xương; răng có ba mươi hai cái, sọ có bốn đốt xương, Như người thợ đúc tượng, trước dùng gỗ cứng làm tướng trạng, sau đó quấn dây chung quanh rồi đắp đất nắn hình tượng; do sức gió nghiệp sắp xếp các đốt xương cũng như vậy. Trong đây có khoảng hai trăm đốt xương lớn, còn lại đều là xương nhỏ. Trong bảy ngày thứ hai mươi mốt, trong bụng mẹ có gió tên là Sanh khởi làm cho trên thân thai nhi sanh thịt, như người thợ hồ trộn hồ trước rồi mới tô lên vách; do sức gió nghiệp sanh ra thịt cũng như vậy. Trong bảy ngày thứ hai mươi hai, trong bụng mẹ có gió tên là Phù lưu làm cho trong thân thai nhi sanh máu. Trong bảy ngày thứ hai mươi ba, trong bụng mẹ có gió tên là Tịnh trì làm cho trên thân thai nhi sanh da. Trong bảy ngày thứ hai mươi bốn, trong bụng mẹ có gió tên là Tư mạn làm cho da dẻ trên thân thai nhi trơn láng. Trong bảy ngày thứ hai mươi lăm, trong bụng mẹ có gió tên là Trì thành làm cho máu thịt trong thân thai nhi tươi nhuận. Trong bảy ngày thứ hai mươi sáu, trong bụng mẹ có gió tên là Sanh thành làm cho trên thân thai nhi mọc tóc, lông, móng tay, móng chân liên kết với các mạch máu trong thân. Trong bảy ngày thứ hai mươi bảy, trong bụng mẹ có gió tên là Khúc nghiệp làm cho tóc lông, móng tay, móng chân của thai nhi được thành tựu. Này Nan-đà, nếu nghiệp đời trước của thai nhi là keo kiệt biển lận tiền tài, chấp chặt không thí xả; không vâng lời cha mẹ, sư trưởng; thân miệng ý tạo nghiệp bất thiện ngày đêm tăng trưởng thì thọ quả báo nếu sanh trong cõi người thì không được vừa ý như sau: nếu người đời cho dài là đẹp thì họ ngắn, cho ngắn là đẹp thì họ dài; nếu cho thô to là đẹp thì họ nhỏ bé, cho nhỏ bé là đẹp thì họ thô to …; nếu người đời thích mập thì họ ốm gầy, thích ốm gầy thì họ lại mập; thích trắng thì họ đen, thích đen thì họ trắng… Lại do nghiệp ác chiêu cảm ác báo như đui điếc câm ngọng, ngu si, xấu xí, ngôn ngữ nói ra mọi người không thích nghe, tay chân cong vẹo, hình dáng như ngạ quỷ, người thân còn không thích nhìn huống chi người khác. Do ba nghiệp bất thiện này nên nói ra lời gì mọi người không tin và không để ý đến. Ngược lại nếu đời trước thai nhi có tu tập phước nghiệp, thích bố thí thương xót người nghèo, không có tâm tham lam bỏn xẻn tài vật… Thiện nghiệp này ngày đêm tăng trưởng thọ quả báo nếu sanh trong cõi người thì được vừa ý như sau: nếu người đời cho dài là đẹp thì họ được dài, cho ngắn là đẹp thì họ được ngắn… cho đến dung mạo đoan chánh ai cũng thích nhìn và yêu mến, các căn đầy đủ, lời nói rõ ràng, âm thanh hòa nhã… Do ba thiện nghiệp này nên nói ra lời gì mọi người đều tin nhận và để ý đến. Lại nữa nan-đà, nếu thai nhi là nam thì ngồi bên hông phải của mẹ, hai tay ôm mặt hướng vào xuông sống của mẹ; nếu là nữ thì ngồi bên hông trái của mẹ, hai tay ôm mặt hướng vào bụng mẹ; ở dưới Sanh tạng, ở trên Thục tạng, bị sanh vật đè xuống, bị Thục vật đẩy lên như trói năm vọc để trên cọc nhọn, mẹ ăn nhiều hay ít đều khiến thai nhi khổ não. Nếu mẹ ăn chất béo quá hay cứng quá, lạnh quá hay nóng quá… thai nhi đều thống khổ. Nếu mẹ hành dục, hay đi nhanh, ngôi chỗ nguy hiểm hoặc ngồi lâu, nằm lâu… thai nhi đều thống khổ. Thai nhi ở trong bụng mẹ chịu các khổ não như thế, bức bách thân không thể nói hết. Thọ sanh trong loài người còn chịu khổ như thế huống chi là thọ khổ nạn trong ba đường ác thì khó ví dụ được. Vì thế nên Nan-đà, ai là người có trí lại thích ở trong biển khổ sanh tử thọ vô biên ách nạn như thế. Trong bảy ngày thứ hai mươi tám, thai nhi trong bụng mẹ khởi tám tướng điên đảo; đó là tưởng nhà, xe, vườn, lầu gác, rừng cây, giường tòa, sông, ao đều là do vọng tưởng phân biệt chứ không thật có. Trong bảy ngày thứ hai mươi chín, trong bụng mẹ có gió tên là Hoa điều thổi vào thai nhi làm cho thân sắc trở nên tươi sáng; hoặc do nghiệp lực làm cho đen đúa, hoặc xanh hoặc xen lẫn vớí các sắc khác, hoặc làm cho khô xấu không tươi sáng. Như vậy đen hay trắng đều là tùy nghiệp mà hiện. Trong bảy ngày thứ ba mươi, trong bụng mẹ có gió tên là Thiết khẩu thổi vào thai nhi làm cho tóc lông, móng tay móng chân tăng trưởng và có sắc trắng hay đen cũng đều tùy nghiệp mà hiện. Trong bảy ngày thứ ba mươi mốt, thai nhi trong bụng mẹ lớn dần cho đến ngày thứ ba mươi bốn thì thành to lớn. Trong bảy ngày thứ ba mươi lăm, các chi trên thân thai nhi đều đầy đủ. Trong bảy ngày thứ ba mươi sáu, thai nhi không thích ở trong bụng mẹ nữa. Trong bảy ngày thứ ba mươi bảy, thai nhi bỗng khởi ba tưởng không điên đảo ; đó là tưởng bất tịnh, tưởng xú uế và tưởng tối tăm. Trong bảy ngày thứ ba mươi tám, trong bụng mẹ cógió tên là Lam hoa làm cho thai nhi chuyển thân trở xuống, duỗi thẳng hai tay hướng về sản môn. Lại có gió tên là Thú hạ làm cho thai nhi quay đầu xuống dưới, chân hướng lên trên để ra khỏi sản môn. Này Nan-đà, nếu đời trước thai nhi có tạo ác nghiệp như làm cho người sảy thai thì do nhân duyên này, khi sắp sanh ra tay chân ngang ngược không có xuôi chiều nên chết ở trong bụng mẹ. Lúc đó người nữ có trí hoặc thầy thuốc giỏi dùng dầu ấm, nước vỏ cây Du và các chất trơn bôi lên tay rồi dùng ngón tay kẹp con dao nhỏ bén nhọn đưa vào bên trong bụng mẹ để cắt lấy thai nhi ra ngoài; trong bụng mẹ giống như hầm phẩn hôi hám với vô số vi trùng, tinh huyết lầy nhầy với lớp da mỏng bao bọc bên ngoài. Lúc đó người mẹ chịu đau khổ vô cùng và vì thế mà qua đời, nếu còn sống cũng không khác gì chết. Ngược lại nếu thai nhi nhờ vào thiện nghiệp đã làm thì dù có điên đảo cũng không làm tổn hại mẹ, an ổn sanh ra và không chịu đau khổ; nếu là người bình thường thì không có các ách nạn này. Trong bảy ngày thứ ba mươi tám này, người mẹ khi sắp sanh chịu nhiều đau đớn, tưởng chừng sắp chết mới sanh ra thai nhi. Này Nan-đà, thầy hãy quán kỹ để cầu xuất ly. <篇> CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 12 10. Nhiếp tụng - Nhân duyên về Nan-đà (tiếp theo): Phật bảo Nan-đà: Thai nhi vừa sanh ra rất khổ não, dù nam hay nữ đều được quấn tả lại suốt ngày để ở chỗ mát, hoặc trong nôi, hoặc trong lòng mẹ đều cảm thấy khổ não. Ví như trâu bò bị lột da nếu ở gần tường thì bị trùng ở tường rúc cắn, gần cỏ cây thì bị trùng ở cỏ cây rúc cắn… Khi người dùng nước nóng tắm cho bé, bé cũng cảm thấy khổ não; ví như người bịnh hủi da lở lói, máu mũ tuôn ra lại bị đánh bằng gậy rất là đau đớn. Đứa bé mới sanh phải được uống sữa mẹ mới được lớn. Sữa mẹ trong Thánh pháp luật gọi là máu đục, đứa bé mới sanh có vô biên khổ não như vậy, không chút gì vui. Ai là người có trí lại ở trong biển khổ luyến Ái này mà sanh ra và chịu luân chuyển mãi không ngừng nghỉ. Đứa bé sanh ra được bảy ngày thì có tám vạn hộ trùng rúc trong thân để ăn, có một loại hộ trùng tên Ăn tóc rúc nơi chân tóc để ăn; có hai loại hộ trùng tên là Trương tạng và Thô đầu rúc ở trên đầu để ăn; có một loại hộ trùng tên là Nhiễu nhãn rúc ở trong mắt để ăn; có bốn loại hộ trùng tên là Khu trục, Bôn tẩu, Ốc trạch và Viên mãn rúc ở trong não để ăn; có một loại hộ trùng tên là Đạo diệp rúc ở trong tai để ăn; có một loại hộ trùng tên là Tàng khẩu rúc ở trong mũi để ăn; có hai loại hộ trùng tên là Diêu trịch và Biến trịch rúc ở nơi môi để ăn; có một loại hộ trùng tên là Mật diệp rúc ở trong răng để ăn; có một loại hộ trùng tên là Mộc khẩu rúc nơi chân răng để ăn; có một loại hộ trùng tên là Châm khẩu rúc ở nơi lưỡi để ăn; có một loại hộ trùng tên là Lợi khẩu rúc ở dưới cuống lưỡi để ăn; có một loại hộ trùng tên là Thủ viên rúc ở trong răng để ăn; có hai loại hộ trùng tên là Thủ cương và Ban khuất rúc nơi bàn tay để ăn; có hai loại hộ trùng tên là Đoản huyền và Trường huyền rúc nơi cổ tay để ăn; có hai loại hộ trùng tên là Viễn tý và Cận tý rúc nơi cánh tay để ăn; có hai loại hộ trùng tên là Dục thôn và Dó thôn rúc nơi yết hầu để ăn; có hai loại hộ trùng tên là Hữu oán và đại oán rúc nơi ngực để ăn; có hai loại hộ trùng tên là Loa bối và Loa khẩu rúc ở trong thịt để ăn; có hai loại hộ trùng tên là Hữu sắc và Hữu lực rúc ở trong máu để ăn; có hai loại hộ trùng tên là Dũng kiện và Hương khẩu rúc ở trong gân để ăn; có hai loại hộ trùng tên là Bất cao và Hạ khẩu rúc nơi xương sống để ăn; có hai loại hộ trùng đều tên Chỉ sắc rúc ở trong mỡ để ăn. Có loại trùng tên Hoàng sắc rúc ăn màu vàng; có loại hộ trùng tên là Trân châu rúc ở thận để ăn; có loại hộ trùng tên là Đại trân châu rúc nơi eo lưng để ăn; có loại hộ trùng tên là Vị chí rúc nơi bắp chân để ăn; có bốn loại hộ trùng tên là Thủy mạng, Đại thủy mạng, Châm khẩu và Đao khẩu rúc ở trong ruột để ăn; có năm loại hộ trùng tên là Nguyệt mãn, Nguyệt diện, Huy diệu, Huy diện và Biệt trú rúc bên hông phải để ăn; có năm loại hộ trùng tên như trên rúc bên hông phải để ăn; có bốn loại hộ trùng tên là Xuyên tiền, Xuyên hậu, Xuyên kiên và Xuyên trú rúc ở trong xương để ăn; có bốn loại hộ trùng tên là Đại bạch, Tiểu bạch, Trùng vân và Xú khí rúc ở trong mạch để ăn; có bốn loại hộ trùng tên là Sư tử, Bị lực, Cấp tiễn và Liên hoa rúc trong sanh tạng để ăn; có hai loại hộ trùng tên là An chí và Cận chí rúc trong thục tạng để ăn; có bốn loại hộ trùng tên là Diêm khẩu, Uẩn khẩu, Võng khẩu và Tước khẩu rúc nơi đường tiểu để ăn; có bốn loại hộ trùng tên là Ưng tác, Đại tác, Tiểu hình và Tiểu thúc rúc nơi đường đại tiện để ăn; có hai loại hộ trùng tên là Hắc khẩu và Đại khẩu rúc nơi bắp đùi để ăn; có hai loại hộ trùng tên là Lại và Tiểu lại rúc nơi đầu gối để ăn; có một hộ trùng tên Ngu căn rúc nơi bắp chân để ăn; có một hộ trùng tên là Hắc cảnh rúc nơi bàn chân để ăn. Này Nan-đà, thân gọi là Sắc này thường có tám vạn hộ trùng rúc ăn như vậy nên thân thuờng bị nóng bức, mệt mõi, đói khát; trong tâm lại còn khổ não ưu phiền… các bịnh hiện tiền mà không có lương y nào trị lành được. Này Nan-đà, trong biển Hữu sanh tử có nhiều khổ não như vậy tại sao còn ưa thích luân chuyển trong ấy; lại nữa thân mạng còn bị các thần, các bịnh nắm giữ như thiên thần, thiên long bát bộ các quỷ thần… nắm giữ; hoặc bị các ách nạn do nhật nguyệt các sao… làm cho thân khổ não không thể nói hết. Này Nan-đà, ai lại ưa thích vào thai mẹ ở trong sanh tử chịu khổ não như thế, sanh thành như thế, trưởng thành như thế. Uống sữa mẹ vọng tưởng cho là ngon và các thức ăn uống khác để dần trưởng thành; cho dù được an lạc không bịnh, y thực vừa ý và thọ đến trăm tuổi thì cũng đã ngủ gần nửa đời người. Đầu tiên là mới sanh, kế là đồng tử, đến khi trưởng thành lại bị ưu buồn và các bịnh bức bách, vô lượng khổ xúc não thân không thể nói hết ; đến khi không chịu nổi thì lại muốn chết, thân này vui ít khổ nhiều tuy tạm thời duy trì nhưng cuối cùng cũng sẽ hoại diệt. Này Nan-đà, có sanh thì phải chết không có trường tồn, cho dù được thức ăn và thuốc thang để kéo dài mạng sống trong nhiều năm, cuối cùng cũng không thoát khỏi thần chết giết hại và đưa ra bỏ nơi đồng trống. Vì vậy thân này không nên tham đắm, nên chuyên cần tích tụ tư lương cho đời sau, không nên phóng dật, siêng tu phạm hạnh chớ có lười biếng. Thường ưa thích tu lợi hạnh, pháp hạnh, công đức hạnh và thuần thiện hạnh; thường tự quán sát hai nghiệp thiện ác, giữ gìn tâm ý chớ để sau này hối hận. Những gì ưa thích đã có đều phải xa lìa, tùy nghiệp thiện ác dẫn đến thọ sanh đời sau. Này Nan-đà, đời sống trăm năm có mười giai đoạn: Một là mới sanh nằm trong tả lót, Hai là đồng tử thích đùa giỡn với cac trẻ am, Ba là thiếu niên biết cảm thọ dục lạc, Bốn là thiếu tráng với sức lựcsung mãn, Năm là thịnh niên có trí thích đàm luận, Sáu là đã trưởng thành khéo biết suy nghó tính toán, Bảy là suy dần, khéo biết pháp thức, Tám là già yếu suy nhược, Chín là quá già yếu không làm được gì nữa, Mười là trăm tuổi chờ chết. Này Nan-đà, đại khái có mười giai đoạn như vậy, nếu tính bốn tháng làm một mùa thì một trăm năm có ba trăm mùa; mỗi mùa xuân hạ đông đều có một trăm lần. Một năm có mưới hai tháng thì trong một trăm năm tổng cộng là một ngàn hai trăm tháng ; nếu tính nửa tháng thì tổng cộng có hai ngàn bốn trăm nửa tháng. Trong ba thời đều có tám trăm lần nửa tháng, tổng cộng là ba vạn sáu ngàn ngày đêm. Mỗi ngày ăn hai lần, tổng cộng có bảy vạn hai ngàn lần ăn, dù có lúc không ăn vẫn tính chung trong số này. Lý do không ăn gồm có sân hận hoặc ngủ nghỉ hoặc giữ trai giới, vui chơi hay bận việc đều không ăn. Ta đã nói số lượng năm tháng ngày đêm và ăn uống của một đời người trong trăm năm rồi, thầy nên khởi tâm nhàm lìa. Này Nan-đà, từ khi sanh ra cho đến khi trưởng thành, thân có nhiều bịnh hoặc ở đầu, ở mắt, tai, mũi, lưỡi, răng, yết hầu, ngực, bụng, tay chân; hoặc bịnh ghẻ, bịnh hủi, điên cuồng, phù thủng, ho hen, phong vàng, bịnh nhiệt, đàm ấm, sốt rét, đau nhức… Tóm lược có một trăm lẻ một bịnh về phong, một trăm lẻ một bịnh về vàng, một răm lẻ một bịnh về đàm ấm, một tăm lẻ một bịnh tổng hợp, tổng cọng là bốn trăm lẻ bốn bịnh có từ bên trong không một niệm ngừng nghỉ. Lại nữa thể của thân này là vô thường khổ không vô ngã thường gần với pháp hư hoại tử vong, vì vậy không nên chấp đắm. Lại cón có các khổ não từ bên ngoài bức bách thân nhưđói khát, lạnh nóng, mưa tuyết, ruồi muỗi, gió bụi, độc trùng… vô lượng vô biên không thể nói hết. Hữu tình chấp đắm nên ở trong các khổ não này lấy dục khổ làm cội gốc, không những không biết lìa bỏ mà còn tìm cầu; đó là khổ về sanh, già, bịnh, chết, yêu thương mà phải xa lìa, oán ghét mà phải tụ hội, mong cầu mà không được và khổ về năm Thủ uẩn. Bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi cũng đều khổ, nếu thường đi mà không đứng nằm hay ngồi cũng khổ và cảm thấy khó chịu; nếu chỉ đứng không đi nằm hay ngồi… cũng vậy. Đây gọi là bỏ khổ cầu khổ, thảy đều là khổ sanh khổ diệt, các hành nhân duyên nối tiếp phát sanh. Như lai hiểu rõ nên nói pháp về sanh tử của hữu tình, các hành vô thường không phải là cứu cánh chân thật, là pháp biến hoại không nên chấp giữ, nên cầu biết đủ sanh tâm nhàm lìa, siêng cầu giải thoát. Này Nan-đà, hữu tình trong cõi thiện có sanh xứ bất tịnh khổ não như vậy, huống chi là hữu tình trong các cõi ác như ngạ quỷ, bàng sanh, địa ngục thì khổ não càng không thể nói hết. Lại nữa này Nan-đà, có bốn trường hợp nhập thai : một là chánh niệm trong cả ba thời nhập, trụ và xuất thai; hai là chỉ chánh niệm khi nhập và trụ nhưng không chánh niệm khi xuất thai; ba là chỉ chánh niệm khi nhập thai nhưng không chánh niệm khi trụ và xuất thai ; bốn là cả ba thời đều không chánh niệm. Hạng người nào chánh niệm cả ba thời nhập, trụ và xuất thai?: Như một loại hữu tình phàm phu thích trì giới, thường tu thiện pháp, thích làm các thắng sự, làm việc phước, khéo phòng hộ, tư duy chân thật, không phóng dật, có đại trí huệ, lâm chung không hối tiếc thì liền thọ sanh ngay. Đó là các bậc như Dự lưu bảy lần thọ sanh, bậc Gia gia, bậc Nhất lai, Nhất gian. Những vị này nhờ tu thiện hạnh nên khi lâm chung tuy bị khổ bức bách chịu nhiều khổ não nhưng tâm không tán loạn, chánh niệm mà qua đời. Họ lại chánh niệm khi vào thai mẹ, biết rõ các pháp do nghiệp mà sanh, đều từ nhân duyên sanh khởi, thường ở chung với các bịnh. Này Nan-đà, nên biết thân này là hầm chứa bất tịnh, bản chất vô thường, là vật ngu si dối dạt người mê. Thân này nhờ bộ xương làm cơ quan, gâm mạch nối kết nhau thông đến các huyệt, mở thịt xương tủy ràng buộc nhau, lớp da mỏng bao phủ bên trên trên nên không thấy cái xấu xa của chúng. Trong thân bất tịnh này, tóc lông móng răng ở vị trí khác nhau, ta lại chấp cho là ngã ngã sở nên thường bị chúng lôi kéo không được tự tại. Thân này thường chảy mũi dãi, mồ hôi, nước vàng, đàm nóng hôi thối; thận, mật, gan, phổi, ruột già, ruột non, phẩn, nước tiểu rất gớm với các loài trùng sống ở bên trong. Lỗ trên lỗ dưới thường chảy chất dơ; sanh tạng, thục tạng được phủ bằng lớp da mỏng ; khi lên nhà xí thầy nên quán sát chúng. Khi nhai thức ăn, hàm răng cắn thức ăn, nước miếng thấm ướt rồi nuốt vào cổ họng xuống bụng; thân này do bộ xương khô được liên kết với nhau mà vọng tưởng cho là đẹp. Này Nan-đà, thân này bắt đầu từ Yết-la-lam, Yết bộ đà, Bế thi, Kiện nam, Bát la xa khư đều là vật ô uế bất tịnh mà được sinh trưởng; từ khi sanh ra cho đến già chết bị trói buộc trong luân hồi như trong hầm tối đen, trong giếng hôi thối, thường được nuôi dưỡng bằng thức ăn với các vị mạn nhạt đắng cay chua. Lại nữa thai nhi nằm trong bụng mẹ chịu khổ nóng như nằm trong nồi bất tịnh ; khi mẹ đi đứng nằm ngồi, thai nhi như bị năm chỗ trói, như bị lửa châm không thể chịu nổi. Thai nhi tuy ở trong hầm nóng chịu khổ não như vậy, nhưng do lợi căn nên tâm không tán loạn. Lại có một loại hữu tình bạc phước nằm ngang hay ngược trong bụng mẹ, do nghiệp lực nhân duyên đời trước hoặc do mẹ ăn các thức ăn lạnh nóng chua ngọt… không điều hòa, hoặc uống quá nhiều nước, hoặc hành dâm quá nhiều, hoặc nhiều tật bịnh, hoặc nhiều sầu não, hoặc bị té ngã hoặc bị đánh nên thân mẹ nóng sốt thì thai nhi cũng bị nóng sốt theo và khổ não vì nóng sốt. Thai nhi bị khổ nên chuyển động, do thân nằm ngang nên không thể ra ngoài; lúc đó có người nữ hiểu biết dùng dầu thoa vào tay rồi đưa tay vào trong sản môn nhẹ nhàng để thai nhi về vị trí ban đầu. Khi chạm vào tay người thai nhi cũng khổ não, ví như bé gái hay trai bị đứt da lại bị rắc tro lên rất là khổ não. Tuy thọ khổ não này nhưng do lợi căn nên thai nhi chánh niệm không tán loạn. Ở trong bụng mẹ chịu khổ, khi sắp sanh ra cũng khổ, do gió nghiệp nên tay của nó nắm lại, các chi co lại rất đau đớn; khi sắp ra ngoài thân thai nhi bị sưng tái xanh, như ung nhọt bị sưng không thể chạm vào; lại bị đói khát nóng bức làm khổ não. Do nhân duyên của gió nghiệp đẩy thai nhi ra ngoài, lại bị gió ngoài chạm vào nên thai nhi cảm thấy như bị xát tro vào vết thương rất khổ não. Tuy thọ khổ này nhưng do lợi căn bậc thượng nên thai nhi chánh niệm không tán loạn. Tất cả hữu tình trong ba thời nhập trụ và xuất thai đều khổ não như thế, ai là người trí lại ưa thích nhập thai? Hạng người nào chánh niệm khi nhập trụ nhưng không chánh niệm khi xuất thai? Như một loại hữu tình phàm phu thích trì giới, thường tu thiện pháp, thích làm các thắng sự, làm việc phước, khéo phòng hộ, tư duy chân thật, không phóng dật, có đại trí huệ, lâm chung không hối tiếc thì liền thọ sanh ngay. Đó là các bậc như Dự lưu bảy lần thọ sanh, bậc Gia gia, bậc Nhất lai, Nhất gian. Những vị này nhờ tu thiện hạnh nên khi lâm chung tuy bị khổ bức bách chịu nhiều khổ não nhưng tâm không tán loạn, chánh niệm mà qua đời… như trên cho đến câu tuy chịu khổ não này nhưng do lợi căn bậc trung nên tuy nhập và trụ thai chánh niệm, xuất thai lại không chánh niệm. Ai là người trí lại ưa thích nhập thai? Hạng người nào chánh niệm khi nhập thai nhưng không chánh niệm khi trụ và xuất thai? Có loại hữu tình phàm phu thích trì giới… như trên cho đến câu tuy chánh niệm khi nhập thai, nhưng vì là hạng lợi căn bậc hạ nên khi nhập thai thì biết, nhưng khi trụ thai và xuất thai lại không biết. Ai là người trí lại ưa thích nhập thai? Hạng người nào cả ba thời nhập trụ xuất thai đều không chánh niệm? Có loại hữu tình phạm phu ưa hủy tịnh giới, không tu tập pháp lành, thường làm việc ác, tâm không chân thật, thường phóng dật, không có trí huệ, tham lam bỏn xẻn không thể huệ thí cho người, tâm thường mong cầu không có điều thuận, thấy và làm điên đảo nên khi lâm chung hối hận, các nghiệp bất thiện hiện tiền. Khi sắp chết bị thống khổ bức bách nên tâm ý rối loạn, vì khổ não nên không tự nhớ biết ta là ai, từ đâu đến đây và đang đi về đâu. Đó là hạng người không chánh niệm cả trong ba thời nhập trụ xuất thai. Này Nan-đà, những hữu tình này sanh trong cõi người tuy chịu khổ não như vậy nhưng đó là thắng xứ, trong vô lượng trăm ngàn câu chi kiếp khó được làm thân người. Nếu sanh lên trời thường sợ bị khổ yêu thích mà phải xa lìa, nên khi sắp qua đời các vị thiên khác thường cầu cho người này được sanh vào thiện xứ ở thế gian. Thiện xứ ở thế gian chính là cõi trời người, vì thân người khó được, xa lìa các nạn xứ lại càng khó hơn. Nạn xứ chính là ba đường ác: một là địa ngục thường chịu khổ sở khốc liệt không như ý; hai là ngạ quỷ nhiều sân hận, tâm không nhu hòa, dối gạt hai nhau, tay dính đầy máu không có tâm từ, hình dáng xấu xí, ai thấy đều sợ hãi, cho dù gần với người cũng chịu nỗi khổ đói khát; ba là bàng sanh có vô lương vô biên loài đều làm việc vô nghóa, làm hạnh phi pháp, làm hạnh bất thiện không thuần chất, ăn nuốt lẫn nhau, mạnh hiếp yếu. Có loại bàng sanh từ khi sanh ra, lớn lên cho đến khi chết đều sống trong chỗ tối tăm bất tịnh như giòi bọ; hoặc tạm thời thấy ánh sáng như ruồi muỗi, ong bướm … Lại còn có vô lượng vô biên loài luôn sanh trưởng trong tối tăm chịu khổ ngu mê là do đời trước họ là kẻ ngu si, không nghe kinh pháp, buông lung thân khẩu ý, tham d8ám ngủ dục lạc, làm các việc ác. Lại có vô lượng vô biên loài bàng sanh sanh ra và lớn lên trong nước như cá, ba ba … là do đời trước thân khẩu ý làm việc ác … như trên. Lại có vô lượng vô biên loài bàng sanh hễ nghe múi phẩn tiểu liền chạy đến để kiếm ăn như ruồi, bọ hung, kên kên, chó … là do đời trước tạo ác nghiệp nên nạy chịu quả báo này. Lại có vô lượng vô biên loài bàng sanh thường lấy cỏ cây và chất bất tịnh làm thức ăn như voi, ngựa, bò … là do đời trước tạo ác nghiệp nên nay chịu quả báo này. Lại nữa này Nan-đà, biển Hữu sanh tử đau khổ thay, lửa cháy hừng hực nóng bức, không một chúng sanh nào là không bị thiêu đốt, đều là do lửa ở mắt tai mũi lưỡi thân ý hừng thạnh vì tham cầu cảnh trước mắt là sắc thanh hương vị xúc pháp. Sao gọi là lửa hừng thạnh ? : đó là lửa tham sân si, lửa sanh lão bịnh tử, lửa ưu bi khổ não độc hại thường tự thiêu đốt nên không ai thoát khỏi cả. Này Nan-đà, người lười biếng chịu nhiều thống khổ bởi phiền não trói buộc, làm pháp bất thiện nên luân hồi không dứt, mãi mãi sanh tử. Người tinh tấn được an lạc, phát tâm dõng mãnh đoạn trừ phiền não, tu tập thiện pháp không lúc nào xa lìa việc thiện. Vì vậy thầy nên quán sát thân này, không bao lâu nữa da thịt gân xương … sẽ tan rã, thầy nên nhất tâm chớ có biếng nhác, chưa chứng ngộ thì nên cầu chứng ngộ, thầy nên tu học như vậy. Này Nan-đà, ta không tranh luận với thế gian nhưng thế gian cố tranh luận với ta, vì sao, vì người biết pháp không tranh luận với người khác, vì đã lìa ngã ngã sở thì tranh luận với ai ; người không hiểu biết nên khởi vọng chấp. Ta đã chứng chánh giác nên nói như vậy, vì ta đã liễu tri tất cả pháp. Này Nan-đà, lời ta nói có sai khác không ? Nan-đà đáp: “lời Thế tôn nói không có sai khác”, Phật nói: “lành thay Nan-đà, lời Như lai nói chắc chắn không sai vì lời Như lai nói là chân thật ngữ, là thật ngữ, là như ngữ, là lời không sai khác, lời không hư dối. Như lai muốn cho thế gian được an lạc mãi và được lợi ích thù thắng. Ta là bậc biết đạo, hiểu đạo, thuyết đạo, khai đạo, là bậc đại đạo sư, là Như lai, Bạc già phạm, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng só, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn. Người đới không biết không tin nên thường nô lệ các căn, chỉ thấy trong bàn tay chứ không thấy được lợi lớn, việc dễ không tu lại thường làm việc khó. Nan-đà, hãy tạm gát cảnh giới trí huệ này qua một bên, thầy hãy dùng mắt thịt quán sát, nếu biết những gì đã thấy đều là hư vọng thì được giải thoát. Nan-đà, thầy chớ tin theo ta, chớ thuận theo ý muốn của ta, chớ y theo lời ta nói, chớ quán tướng của ta, chớ theo kiến giải đã có của Sa môn, chớ vì cung kính Sa môn mà nói Sa môn Kiều-đáp-ma là đại sư của tôi. Thầy chỉ nên đối với pháp mà ta đã chứng đắc, ở một nình nơi tịch tónh để tư duy quán chiếu, thường tu tập và dụng tâm đối với pháp đã quán chiếu thì được thành tựu quán tưởng và trụ trong chánh niệm. Hãy tự mình làm hòn đảo cho mình, tự mình làm chỗ nương cho mình ; lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm chỗ nương, không có hòn đảo hay chỗ nương nào khác. Này Nan-đà, nếu Bí-sô nào thường tư duy như vậy, tinh cần hệ niệm được chánh giải rồi thì đối với các sân não đã có trong thế gian sẽ được điều phục. Đó là tùy quán nội thân là khổ, nên biết quán ngoại thân và nội ngoại thân cũng như vậy. Kế đến quán pháp Tập, Diệt trong thân, nếu trụ được hai pháp quán thân này thì sẽ được chánh niệm; hoặc chỉ có trí, kiến, niệm, không trụ mà trụ thì đối với thế gian này biết rõ không nên chấp thủ. Kế đến quán nội thọ, ngoại thọ và nội ngoại thọ; nội tâm, ngoại tâm và nội ngoại tâm; nội pháp, ngoại pháp và nội ngoại pháp, tinh cần hệ niệm để được chánh giải. Này Nan-đà, đó là Bí-sô tự mình làm hòn đảo cho mình, tự mình làm chỗ nương cho mình; lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm chỗ nương, không có hòn đảo hay chỗ nương nào khác. Này Nan-đà, có bậc trượng phu tánh chất trực, lìa dối trá, vào sáng sớm đến gặp ta, ta tùy căn cơ dùng thiện pháp chỉ dạy thì vị ấy sẽ đến trình sở đắc vào buổi chiều ; nếu được chỉ dạy vào buổi chiều, vị ấy sẽ đến trình sở đắc vào sáng hôm sau. Này Nan-đà, thiện pháp của ta đưa đến chứng ngộ ngay trong hiện tại, có thể trừ nhiệt não, khéo ứng thời cơ, dễ làm phương tiện, là pháp tự giác, khéo làm chỗ chở che. Nếu tự đến nghe ta thuyết pháp, thuận với tịch tịnh có thể chứng được Bồ-đề. Vì thế nếu thấy pháp có tự lợi, lợi tha và tự tha đều lợi thì thầy nên thường tu học; đối với pháp xuất gia nên cẩn thận hành trì chớ để thời giờ luống qua. Phải chứng được thắng quả vô vi an lạc, thọ người khác cúng dường y thực, ngọa cụ, thuốc thang… thì phải làm cho thí chủ được phước lợi lớn. Thầy nên tu học như vậy. Lại nữa này Nan-đà, chưa có một sắc nào đáng ưa thích mà sau đó không bị biến hoại là không có lý đó; không sanh ưu phiền cũng không có lý đó. Ý thầy nghó sao, sắc là thường hay vô thường?”, đáp là vô thường, Phật lại hỏi: “nếu sắc là vô thường thì đó là khổ hay không khổ?”, đáp là khổ, Phật lại hỏi: “nếu sắc là vô thường, khổ tức là biến hoại thì vị Thánh đệ tử đa văn có chấp sắc là ngã, ngã có các sắc, sắc thuộc ngã và ngã ở trong sắc hay không?”, đáp là không. Phật lại hỏi: “Ý thầy nghó sao, thọ tưởng hành thức là thường hay vô thường?”, đáp là vô thường, Phật lại hỏi: “nếu thọ tưởng hành thức là vô thường thì đó là khổ hay không khổ?”, đáp là khổ, Phật lại hỏi: “nếu thọ tưởng hành thức là vô thường, khổ tức là biến hoại thì vị Thánh đệ tử đa văn có chấp thọ… thức là ngã, ngã có thọ… thức, thọ… thức thuộc ngã và ngã ở trong thọ… thức hay không?”, đáp là không, Phật nói: “vì thế nên biết, các loại sắc quá khứ hay vị lai hay hiện tại hoặc ở trong, ở ngoài, hoặc thô hay tế, hoặc thù thắng hay hạ liệt, hoặc gần hay xa… đều không phải là ngã, ngã sở hữu, sắc không thuộc ngã và ngã không ở trong sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy, thầy nên dùng chánh niệm, chánh huệ mà quán sát kỹ. Nếu quán sát được như vậy thì vị Thánh đệ tử đa văn sẽ nhàm lìa sắc thọ tưởng hành thức; nếu đã nhàm lìa thì không còn đắm nhiễm, không còn đắm nhiễm thì được giải thoát; đã được giải thoát thì tự hiểu rõ sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau ”. Sau khi nghe Phật thuyết pháp này xong, Nan-đà liền được xa lìa trần cấu, chứng pháp nhãn thanh tịnh. Năm trăm Bí-sô đối với các Hữu lậu cũng được tâm giải thoát. Phật nói kệ trùng tuyên lại nghóa trên: “Nếu người tâm không định, Thì trí không thanh tịnh, Không thể đoạn các Lậu, Vậy thầy hãy siêng tu. Người thường tu diệu quán, Biết các Uẩn sanh diệt, Thì thanh tịnh viên mãn. Chư thiên đều vui mừng, Thân hữu cũng hoan hỉ. Qua lại thường mến nhau, Kẻ tham danh, lợi dưỡng, Nan-đà hãy tránh xa. Chớ thân cận tại gia, Đối với người xuất gia, Niệm khởi: biển sanh tử, Cùng tận bờ mé khổ. Ban đầu Yết-la-lam, Thổi thành cái bọc thịt, Bọc thịt sanh Bế thi, Bế thi sanh Kiện nam, Kiện nam chuyển biến dần, Sanh ra đầu, bốn chi, Các xương hợp thành thân, Đều có từ nghiệp nhân, Xương đầu có chín đốt, Liên kết hai xương cằm. Răng có ba mươi hai, Các căn cũng như vậy. Nhó căn và xương cổ, Xương răng và sống mũi, Ngực, ức và yết hầu, Gồm có mười hai xương. Hố mắt có bốn xương, Xương vai cũng hai cặp. Hai tay, các ngón tay, Tổng cộng năm mươi xương. Sau cổ có tám xương, Xương sống ba mươi hai, Giúp xuơng hông bên phải, Nối nhau có mười ba, Hông trái nối liền sanh, Cũng có mười ba xương, Các xương liên kết nhau, Ba liên kết với ba, Hai móc nối với hai. Xương khác không nối nhau, Là hai chân trái phải, Tổng có năm mươi xương, Thành batrăm mười sáu, Để chống giữ trong thân, Đốt xương móc giữ nhau, Hợp thành thân chúng sanh. Bậc thật ngữ nói ra, Bậc chánh giác hiểu biết, Từ chân lên đến đầu, Là uế tạp, không chắc, Mong manh như nhà cỏ, Chỉ nhờ xương chống giữ, Máu thịt tô cùng khắp, Do đây thành thân này. Như người máy bằng gỗ, Như hình tượng huyễn hóa, Nên quán sát thân này, Gân mạch quấn giữ nhau, Da ướt bao bọc lại, Chín chỗ có sang môn, Khắp nơi thường tuôn chảy, Các bất tịnh, phẩn tiểu. Ví như kho, bồ lúa, Đựng đầy lúa, ngũ cốc, Thân này cũng như vậy, Bên trong đầy tạp uế. Cơ quan xương vận động, Mong manh không chắc chắn, Người ngu thường yêu thích, Người trí không đắm nhiễm. Dãi, mồ hôi thường chảy, Máu mũ luôn tràn đầy, Mỡ vàng lẫn nước sữa, Não đầy trong đầu lâu, Ngực, cách mô, đàm ấm, Sanh, thục tạng bên trong, Cao mỡ và bì mô, Ruột, bao tử, ngũ tạng, Các bất tịnh ở chung, Đều lầy nhầy như thế. Thân tội này đáng sợ, Đây chính là oan gia. Người không hiểu tham dục, Ngu si thường bảo hộ. Thân xú uế như thế, Như thành quách hôi thối, Ngày đêm phiền não bức, Dời đổi không tạm ngừng, Thành là thân, xương (là) tường, Tô trát bằng máu thịt, Tham sân si vẽ màu, Tùy chỗ mà trang trí, Thành thân xương đáng nhàm, Máu thịt hợp liền nhau, Thường bị ác tri thức, Khổ trong ngoài nung nấu. Nan-đà, thầy nên biết, Lời ta đã khuyên nhắc, Hãy ghi nhớ ngày đêm, Chớ nghó đến cảnh dục, Nếu muốn xa lìa dục, Thường khởi quán như thế, Siêng cầu quả giải thoát, Ra khỏi biển sanh tử”. Thế tôn thuyết giảng kinh Nhập thai mẹ này xong, Nan-đà và năm trăm Bí-sô đều hoan hỉ tín thọ phụng hành. Lúc đó Nan-đà ra khỏi chỗ hiểm nạn trong sanh tử, được đến Niết-bàn cứu cánh an ổn, chứng quả A-la-hán liền hoan hỉ nói kệ: “ Tâm kính dâng vật tắm, Nước sạch và hương thoa, Nhờ tu các nhân phước, Nên được thắng quả này”. Các Bí-sô nghe kệ này rồi đều khởi nghi nên thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, Bí-sô Nan-đà đời trước đã tạo nghiệp gì, nhờ nghiệp lực này nên nay được thân sắc vàng đủ ba mươi hai tướng tốt trang nghiệm, chỉ thấp hơn Phật bốn ngón tay. Tuy rất luyến Ái cảnh dục nhưng lại được Đại sư thương xót độ thoát ra khỏi biển sanh tử, được đến Niết-bàn cứu cánh an ổn?”, Phật bảo các Bí-sô: “nghiệp mà Nan-đà đã làm đời trước nay được thành thục nên thọ quả báo này…, như bài kệ: “Dù trải qua trăm kiếp, Nghiệp đã tạo không mất, Khi nhân duyên hội họp, Tự thọ lấy quả báo”. Quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, có Phật Tỳ-bà-thi Phật đủ mười hiệu: Như lai, Bạc già phạm, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng só, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện trong thế gian. Phật cùng sáu vạn hai ngàn Bí-sô du hành trong nhân gian, đi đến kinh thành Thân tuệ, trụ trong rừng Thân tuệ. Lúc đó Phật thấy người em khác mẹ tham đắm cảnh dục nên khuyên xuất gia, làm phương tiện khiến vị ấy được ra khỏi biển sanh tử và đến được Niết-bàn cứu cánh an ổn. Vua nước này hiệu là Hữu thân dùng pháp trị nước nên đất nước phồn thịnh, nhân dân no ấm, trong nước không có nạn trộm cắp… vua cũng có người em khác mẹ tham đắm cảnh dục. Lúc đó vua nghe tin Phật và Tăng trụ trong rừng Thân tuệ nên cùng vương tử, đại thần… đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho vua và mọi người được lợi hỉ và được thắng giải. Người em khác mẹ của vua không chịu đi nên con của đại thần và các thân hữu là người đã phủi được bụi trần, đến nói rằng: “bạn biết không, vua và các vương tử đại thần… đến gặp Phật nghe pháp đều được thắng giải. Thân người khó được nay bạn đã được, vì sao vẫn tham đắm cảnh dục không chịu đến gặp Phật?”, vương đệ này nghe rồi cảm thấy xấu hổ nên miễn cưỡng đi với các bạn đến chỗ Phật. Bí-sô em của Phật sau khi hỏi rõ nguyên do liền nói: “ta là em của Phật, khi còn tại gia ta cũng tham đắm cảnh dục, nhờ Phật khuyên xuất gia và làm phương tiện khiến ta được đến Niết-bàn cứu cánh an ổn ; không ngờ nay cũng có kẻ ngu si giống như ta trước kia. Các vị từ bi dẫn dắt vị này đến gặp Phật là tốt”. Khi vương đệ cùng các bạn đến chỗ Phật, Phật quán căn cớ và tánh dục của vương đệ này mà thuyết pháp khiến sanh lòng tin sâu xa. Lúc đó vương đệ này rời khỏi chỗ ngồi, trịch bày vai hữu chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, cúi xin Thế tôn và các Thánh chúng thọ con thỉnh đến nhà con tắm nước nóng trong nhà ấm vào ngày mai”, Phật im lặng nhận lời, vương đệ biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật rồi ra về. Vương đệ sau khi trở về cung liền đến gặp vua cung kính tâu rằng: “Đại vương, thần đã đến gặp Phật nghe pháp và sanh lòng tin sâu xa nên nhàm lìa cảnh dục. Thần đã thỉnh Phật và Tăng ngày mai đến nhà tắm nước nóng trong nhà ấm, Phật đã nhận lời. Phật là bậc mà người trời nên cúng dường, xin Đại vương cho quét dọn đường xá và trang nghiêm thành quách”, vua nghe rồi suy nghó: “em ta tham đắm cảnh dục rất khó can ngăn mà Phật lại điều phục được, thật là hy hữu”, nghó rồi liền nói: “rất tốt, em hãy lo liệu mọi thứ trong nhà ấm, còn ta sẽ cho trang nghiêm thành quách”, vương đệ vui mừng lui trở về cung của mình. Lúc đó vua bảo đại thần: “khanh hãy thông báo cho dân biết sáng mai Phật sẽ vào thành, dân trong thành và những người từ xa đến hãy tùy sức của mình quét dọn đường sá và trang nghiêm thành quách để nghinh đón Đại sư”, đại thân tuân lịnh vua đi thông báo cho dân… như trên. Lúc đó vương đệ lo liệu đầy đủ nước thơm, dầu thơm, sắp đặt chỗ ngồi trong nhà ấm cho Phật và Tăng tắm; khi thấy thân Phật sắc vàng với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm, vương đệ hoan hỉ khởi lòng tin sâu xa nên sau đó liền ở trước Phật phát nguyện: “nguyện nhờ nhân thiện này ở trong đời vị lai, con được thân sắc vàng kim như Phật hiện nay. Như em của Thế tôn tham đám cảnh dục, nhờ Phật cứu thoát ra khỏi sanh tử, đến được Niết-bàn cứu cánh an ổn ; con nguyện đời vị lai được làm em của Phật, lại được thân sắc vàng kim, dù con có tham đắm cảnh dục vẫn được Phật cứu thoát con ra khỏi sông Ái nhiễm, đến được Niết-bàn cứu cánh an ổn”. Này các Bí-sô, vương đệ của vua Thân tuệ thuở xưa chính là Nan- đà ngày nay. Do đời trước thỉnh Phật Tỳ-bà-thi tắm nước thơm trong nhà ấm rồi tịnh tâm phát nguyện, nhờ nhân thiện đó nên nay được làm em ta với thân sắc vàng kim, lại được ta cứu thoát ra khỏi sông Ái nhiễm, đến được Niết-bàn cứu cánh an ổn”. Lúc đó các Bí-sô vẫn còn nghi nên thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, Bí-sô Nan-đà đã từng tạo nghiệp gì mà nay lại có đủ ba mươi hai tướng của bậc đại trượng phu?”, Phật bảo các Bí-sô: “các thầy lắng nghe: Quá khứ, trong một tụ lạc có một trưởng giả giàu có, thọ dụng đầy đủ ; ông có một khu vườn hoatrái sum suê… thích hợp cho người xuất gia nương ở. Vào thời đó không có Phật, chỉ có Phật Bích chi ra đời thường thương xót người nghèo khổ, thích ở nơi thanh tịnh là phước điền của thế gian. Vị này du hành đến tụ lạc này, thấy khu vườn của trưởng giả muốn dừng trụ; người giữ vườn thấy liền nói: “thiện lai Thánh giả, xin hãy dừng trụ ở đây”. Đêm đó, vị Độc giác nhập định Hỏa quang, người giữ vườn nhìn thấy rồi liền suy nghó: “vị Thánh giả này thành tựu thắng hạnh như vậy”, nghó rồi liền đến bạch với trưởng giả: “đại gia nên biết, vị Thánh giả đang ở trong vườn hoa đã thành tựu diệu hạnh thần thông, hào quang soi sáng khắp vườn”, trưởng giả nghe rồi vội đến trong vườn đảnh lễ vị Độc giác bạch rằng: “Thánh giả cần thức ăn, con vì cầu phước, cúi xin Thánh giả trú trong vườn này cho con được cúng dường ẩm thực”, vị Độc giác thấy trưởng giả ân cần nên trụ trong vườn này thọ trưởng giả cúng dường. Sau khi được nhập thắng định và thọ giải thoát lạc, vị Độc giác suy nghó: “thân hôi hám chịu sanh tử luân hồi này của ta, nay việc nên làm ta đã làm xong, ta nên nhập Niết-bàn vô dư”, nghó rồi bay lên hư không nhập định Hỏa quang, hiện các thần biến : trên thân phóng lửa, dưới thân phun nước… rồi xả thân, nhập Niết-bàn vô dư. Lúc đó trưởng giả dùng gỗ thơm hỏa thiêu nhục thân của vị Độc giác, dùng sữa dập tắt lửa, thu lấy xá lợi xây tháp cúng dường, lại dùng ba mươi hai loại nước thơm rưới lên tháp và phát nguyện cầu được các tướng tốt. Này các Bí-sô, trưởng giả thuở xưa chính là Nan-đà ngày nay, do thuở xưa kính tín cúng dường tháp và phát nguyện nên nay được quả báo có ba mươi hai tướng tốt”. Lúc đó các Bí-sô vẫn còn nghi nên thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, Bí-sô Nan-đà đời trước đã tạo nghiệp gì mà nay nếu không bỏ tục xuất gia sẽ kế thừa ngôi vị Lực luân vương?”, Phật bảo các Bí-sô: “các thầy lắng nghe: Quá khứ Hiền kiếp, lúc con người thọ hai vạn tuổi có Phật Ca- diếp ba ra đời đầy đủ mười hiệu trụ trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Sau khi nhân duyên giáo hóa đã mãn, Phật ấy nhập Niết-bàn vô dư như củi hết lửa tắt. Lúc đó có vua tên là Ngật lật chỉ dùng các loại gỗ thơm như chiên đàn, trầm thủy… để hỏa thiêu nhục thân Phật ấy, dùng sữa rưới tắt rồi thu lấy xá lợi đễ trong bình vàng, cho xây bảo tháp rộng một du thiện na, cao nửa du thiện na để cúng dường xá lợi Phật ấy. Vua có ba người con: trưởng, thứ và út; lúc đó sau khi hấy an trí tướng luân rồi, người con thứ của vua dựng lọng cúng dường tháp Phật. Này các Bí-sô, người con thứ của vua thuở xưa chính Nan-đà ngày nay, do trong quá khứ tâm tín kính dựng lọng cúng dường nên trong hai ngàn năm trăm đời thường làm Lực luân vương cai trị một châu. Đời này nếu không xuất gia vẫn được làm Lực luân vương đại tự tại”. Lúc đó các Bí-sô vẫn còn nghi nên thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, Bí-sô Nan-đà đã tạo nghiệp gì mà nay ở trong các đệ tử của Phật là khéo hộ căn môn bậc nhất?”, Phật bảo các Bí-sô: “đây là lực của phát nguyện, các thầy lắng nghe: Trong thời Phật Ca-diếp ba, Nan-đà bỏ tục xuất gia, Thân giáo sư của vị ấy được Phật khen là khéo hộ căn môn bậc nhất. Vị này tuy trọn đời tu phạm hạnh nhưng vẫn không được chứng ngộ, nên khi sắp lâm chung phát nguyện: “nguyện đem thiện căn tu phạm hạnh này, ở đời vị lai lúc con người thọ trăm tuổi, có Phật Thích ca mâu ni ra đời đầy đủ mười hiệu, con sẽ được xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán, sẽ được vị Phật ấy khen là khéo hộ căn môn bậc nhất, giống như Thân giáo sư của con hiện giờ”. Này các Bí-sô, do nguyện lực xưa kia nên nay ở trong giáo pháp của ta, Nan-đà là người khéo hộ căn môn bậc nhất trong các đệ tử. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập nghiệp trắng”. <篇> NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 13 Tổng nhiếp tụng trong Biệt môn thứ ba: Ba y và giá y, Bên sông, làm chùa, muối, Khăn lau mặt, lau thân, Chùa, tòa, dao được chứa. 1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ ba: Ba y đo điều, lá, Chân giường, vật lau bụi, Chỗ kinh hành trải thảm, Phật cho chứa chày đá. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, như Phật đã chế các Bí-sô nên dùng y cắt rọc, lúc đó các Bí-sô cắt rọc vải may y, điều dài điều ngắn không đều nhau, bạch Phật, Phật bảo: “điều dài điều ngăn không nên so le, nên cắt bằng nhau”, các Bí-sô không biết cắt bằng nhau như thế nào, Phật nói: “điều dài, điều ngắn đều có cỡ của nó, nên dùng cây tre để đo cỡ ngắn dài”. Duyên xứ như trên, lúc đó các Bí-sô may y, cắt điều lá y không cân đối nên y may xong không đẹp, bạch Phật, Phật nói: “khi may y nên cắt điều lá cân đối”, các Bí-sô không biết cân đối như thế nào, Phật nói: “nên dùng cây tre để đo cỡ rộng hẹp rồi mới cắt”. Lúc đó có Bí-sô cắt điều lá quá lớn, Phật bảo: “không nên cắt quá lớn, có ba cỡ điều lá là lớn, vừa và nhỏ. Cỡ lớn rộng bốn ngón tay hoặc bằng gang chân con quạ, cỡ nhỏ rộng hai ngón tay hoặc bằng một ngón cái, cỡ vừa ỡ giữa hai cỡ trên”. Lúc đó các Bí-sô cắt may y trên đất bẩn làm y bị dơ, Phật bảo: “nên quét sạch đất, dùng phân bò trát láng nền, chờ khô rồi cắt may trên đó”; các Bí-sô ở chỗ khó tìm phân bò nên Phật bảo: “dùng nước rưới đất, quét cho sạch rồi cắt may trên đó”. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô làm giường chân nhọn nên làm hư nền đất, Phật bảo: “không được làm giường chân nhọn, nên cắt cho bằng”, Bí-sô cắt bằng vẫn làm hư nền đất, Phật bảo: “nên bó trấu lót để dưới chân giường hoặc bó bằng vải cũ”. Duyên xứ như trên, lúc đó có một Bà-la-môn ra ngoài thành du ngoạn, ghé vào trong rừng Thệ đa nghỉ mệt, gặp tới giờ ăn. Ông thấy ở chỗ ăn sắp xếp chỗ ngồi trang nghiêm và thức ăn uống thơm ngon, cho là hi hữu nên sanh tín tâm, liền cỡi tấm y mặc trên người trải lên chỗ ngồi phía trên rồi đi. Sau đó vị tri sự thấy tấm y trải này dơ liền đem trải ở chỗ ngồi phía dưới, Bà-la-môn kia có duyên sự lại ghé vào trong rừng Thệ đa, như lần trước đến chỗ ăn thì không thấy tấm y của mình trải ở chỗ ngồi phía trên nữa, ông bèn đi tìm thì thấy nó được trải ở chỗ ngồi phía dưới, thấy rồi liền suy nghó: “tấm y của ta còn mới lại rất quý giá, vì sao lại dơ như thế này”, vừa lúc đó ông thấy vị tri sự lấy tấm y phủi bụi, liền biết vì sao tấm y lại dơ như thế. Ông nói với vị tri sự: “việc nhỏ này mà thầy cũng không biết hay sao? Thầy nên rưới nước lên đất, quét sạch rồi mới trải chỗ ngồi, do không làm theo thứ lớp như thế nên làm dơ tấm y trải của tôi”, vị tri sự nghe rồi hổ thẹn bỏ đi, các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “thường ở chỗ ăn nên rưới nước quét sạch đất trước rồi mới trải chỗ ngồi, như vậy mới đúng pháp”. Sau đó Tri sự trải nệm ngồi trên chỗ dính bụi đất làm cho nệm ngồi dơ, có lỗi như trên, Phật bảo nên lau sạch sàng tòa rồi mới trải nệm ngồi; Tri sự không biết dùng vật gì lau bụi, Phật bảo nên lấy một tấm y dùng để lau phủi bụi; Tri sự lại dùng tấm y còn tốt dùng để lau phủi bụi, Phật bảo nên dùng y cũ; Tri sự dùng y cũ lau phủi, lâu ngày rách nên vất bỏ, Phật bảo: “không nên vất bỏ, nên xé ra thành tua nhỏ cột trên đầu cái cây làm cây chổi phủi bụi”. Dùng chổi này một thời gian thấy không dùng được nữa liền vất bỏ, Phật nói: “tuy không còn dùng được nữa cũng không nên vất bỏ, nên băm nhỏ trộn với bùn và phân bò dùng để bít lỗ cột hay lỗ vách bị nứt, làm như thế phước lợi của thí chủ sẽ được tăng”. Duyên xứ như trên, lúc đó có một Bí-sô trẻ thường kinh hành một chỗ làm cho đất nơi này hư lở, một trưởng giả vào chùa chiêm bái thấy chỗ kinh hành hư lở liền suy nghó: “mặt đất còn hư lở như thế thì chân của Thánh giả sẽ như thế nào”, nghó rồi liền bảo Bí-sô đó giở chân lên cho xem thử. Trưởng giả nhìn thấy chân của Bí-sô tét nứt liền sanh tâm thương xót, nói với Bí-sô: “tôi có tấm thảm muốn đem đến trải trên chỗ kinh hành này để khi kinh hành, chân thầy không bị thương”, Bí-sô nói Phật chưa cho, trưởng giả nói: “Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nay khai cho Bí-sô siêng năng tinh tấn kinh hành được chứa tấm thảm tùy ý trải dùng không phạm”. Bí-sô nói với trưởng giả là Phật đã khai cho, sau khi nhận tấm thảm đem trải trên chỗ kinh hành, do kinh hành nhiều nên tấm thảm đứt làm hai đoạn, mỗi đoạn nằm một bên. Sau đó trưởng giả đến thấy vậy liền nói với Bí-sô: “vì sao thầy lại bỏ tấm thảm bừa bãi như thế, nếu thấy nó hư rách sao không khâu may lại?”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “trưởng giả nói đúng, nếu thấy hư rách nên khâu may lại hay dùng vải khác vá nối; nếu quá rách nát không thể khấu vá được nữa thì nên băm nhỏ trộn với bùn và phân bò để trát láng chỗ kinh hành, làm như thế thí chủ sẽ được tăng thêm phước”. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô bịnh đến thầy thuốc yêu cầu điều trị, thầy thuốc chỉ cách trị rồi Bí-sô liền đến chỗ Trưởng giả hỏi mượn cái chày đá để giã thuốc, sau đó đem trả lại, trưởng giả nói là cúng cho Thánh giả, Bí-sô nói là Phật chưa cho thọ, trưởng giả nói: “nếu vậy hãy để dưới đất rồi đi”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “từ nay cho cất chứa chày đá và trục, nếu thí chủ cúng được tùy ý thọ dùng”. 2 . Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ ba: Giá y, lồng che đèn, Chớ làm tổn thương trùng, Nóng, làm nhà hóng mát, Ghi nhớ thân Nan-đà. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó các Bí-sô để y phục bừa bãi nên bị trùng cắn lủng, Phật bảo: “không được để y phục bừa bãi, nên làm cái giá để mắc y”, Bí-sô liền đục vách làm giá y khiến vách bị hư, Phật nói: “không nên đục vách, khi mới xây chùa nên chừa cây ló ra rồi gát sào tre lên để mắc y”. Lúc đó Bí-sô gát sào tre để mắc y ở trong phòng, không làm ở trước hiên, Phật nói: “trước hiên cũng làm chớ bỏ phế”. Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô ở A-lan-nhã không tìm được sào tre, Phật nói: “nên dùng dây sắn hay dây gai giăng ngang để mắc y”. Duyên xứ như trên, như Phật đã dạy tối nên tụng kinh, khi các Bí- sô đang tụng kinh thì có rắn bò đến, người nhỏ tuổi nhìn thấy kinh sợ la lên, các Bí-sô phàm phu nghe rồi đều kinh sợ khiến việc tụng kinh bị gián đoạn, bạch Phật, Phật bảo nên đốt đèn để tụng kinh. Vào mùa hạ đốt đèn, trùng bay vào chết rất nhiều, Phật bảo nên làm lồng che đèn; Bí-sô không biết làm, Phật bảo: “nên dùng thanh tre làm lồng, lấy vải mỏng bao che, nếu khó tìm thì dùng miếng vân mẫu che đèn, nếu cũng khó tìm thì làm bình trăm mắt”. Bí-sô không biết làm bình trăm mắt như thế nào, Phật nói: “nên bảo thợ gốm làm một bình gốm để che đèn, chung quanh bình có nhiều lỗ nhỏ”, Bí-sô tìm thợ gốm khó, Phật nói: “nên lấy cái bình sành đập bỏ đáy rồi xoi nhiều lỗ chung quanh, sau đó chụp lên đóa đèn ; nếu lỗ to trùng vẫn bay vào được thì nên dùng giấy hay vải lụa mỏng bao che lại”. Duyên xứ như trên, lúc đó vào mùa nóng bức, các Bí-sô khổ vì nóng nên thân ốm gầy vàng vỏ, Thế tôn tuy biết nhưng vẫn hỏi A-nan nguyên do, A-nan đem việc trên bạch Phật, Phật bảo nên làm nhà hóng mát. Các Bí-sô không biết làm như thế nào, Phật nói: “nên chọn chỗ gần bên ngoài chùa làm nhà ba bên, ở ba bên làm vách phên thưa có cây chống lên để gió lồng vào, không giống chùa vây tường vách bốn phía”, Bí-sô làm vách bên trong, bên ngoài để cột, Phật bảo nên để cột ở giữa; Bí-sô không làm cửa sổ nên bên trong bị nóng, Phật bảo nên làm cửa sổ; làm cửa sổ hoặc quá cáo quá thấp, Phật bảo nên làm ngang bằng với giường. Lúc đó có nhiều chim sẻ bay vào, Phật bảo nên làm chấn song; lại bị mưa tạt vào, Phật bảo nên làm cánh cửa sổ. Lúc đó khi ăn, Bí-sô đóng cửa nên trong phòng bị tối, Phật bảo khi ăn nên mở cửa. Lúc đó vì trời nóng, Phật khai cho các Bí-sô được ở trong phòng chỉ mặc hạ quần và Tăng khước kỳ tùy ý đọc tụng, thuyết pháp, may y… trong bốn oai nghi đều không phạm. Duyên xứ như trên, lúc đó Thế tôn đã cho Nan-đà xuất gia và thọ Cận viên… như đã nói ở trên. Các Bí-sô khách đến trong rừng Thệ đa chưa biết Nan-đà, thấy Nan-đà có thân kim sắc với ba hai tướng tốt liền cho là Như lai nên Bí-sô kỳ lão đứng dậy nghinh đón, khi nhận biết ra, Bí-sô này hổ thẹn, bạch Phật, Phật nói: “nên ghi nhớ y của Nan-đà, nếu có người nào giống như thế cũng nên ghi nhớ: đây là bậc Chánh giác còn đây là người khác”. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ ba: Bờ sông, chế cây tăm, Đuổi La hỗ khỏi chùa, Hợp tránh, không hợp tránh, Hai hạng người được mặc. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó các Bí-sô bên bờ sông Thắng huệ dùng phương tiện thiện xảo sách tấn, siêng năng tu tập, đoạn hết phiền não chứng quả A-la-hán. Sau khi chứng quả, các Bí-sô này trụ trong oai nghi, ra làm như pháp khiến dân chúng chung quanh trú xứ đó đều sanh tín kính. Phật bảo các Bí-sô: “dân chúng chung quanh trú xứ của các Bí-sô bên bờ sông Thắng huệ được đại thiện lợi”, A-nan nghe rồi liền hiểu ý Phật, đó là do tôn giả làm thị giả cho Phật lâu ngày nên chỉ nghe lời nói hoặc nhìn tướng biểu hiện, tôn giả liền hiểu ý Phật: nếu Thế tôn muốn gặp người nào thì nói lời khan ngợi người đó. Tôn giả liền đưa tin báo cho các Bí-sô bên bờ sông Thắng huệ biết là Thế tôn muốn gặp; sau khi cùng nhau bàn luận, các Bí-sô này cùng đi đến thành Thất-la-phiệt. Các Bí-sô cựu trụ nơi đây ra tiếp đón cùng nhau ân cần thăm hỏi nên gây ra ồn ào, Thế tôn tuy biết nhưng vẫn hỏi A-nan nguyên do, A-nan đem việc trên bạch Phật, Phật bảo A- nan: “thầy đến bảo các Bí-sô bên bờ sông Thắng huệ nên đi đến chỗ khác, không nên ở đây”, A-nan vâng lời Phật đến nói, các Bí-sô bên bờ sông Thắng huệ nghe rồi liền thu xếp y bát du hành trong nhân gian. Sau đó Phật lại bảo các Bí-sô: “dân chúng chung quanh trú xứ của các Bí-sô bên bờ sông Thắng huệ được đại thiện lợi”, A-nan nghe rồi lại báo tin cho họ biết, cứ như thế đến rồi lại đi tới ba lần, các Bí-sô này nói với nhau: “vì sao Thế tôn khen ngời muốn gặp chúng ta, nhưng nhiều lần đến đều bị Phật bảo đi nơi khác. Chắc là chúng ta nói chuyện làm ồn ào nên mới như vậy, lần này chúng ta nên giữ im lặng”, nói rồi cùng nhau lặng lẽ mang y bát đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi ngồi một bên, Phật bảo A-nan: “thầy hãy tìm một phòng nào yên tónh, xếp đặt chỗ ngồi cho ta và các Bí-sô bên bờ sông Thắng huệ”, A-nan vâng lời Phật sắp xếp xong liền đến bạch Phật biết thời. Lúc đó Phật đi đến ở ngoài cửa phòng rửa chân rồi vào trong phòng, trải tòa ngồi kiết già ngay thẳng, trụ niệm hiện tiền; các Bí-sô bên bờ sông Thắng huệ cũng theo thứ lớp làm y như Phật đã làm. Lúc đó Phật nhập sơ định, các Bí-sô này cũng nhập sơ định; Phật xuất định thứ nhất rồi nhập định thứ hai, xuất định thứ hai rồi nhập định thứ ba, xuất định thứ ba rồi nhập định thứ tư, xuất định thứ tư rồi nhập định Không xứ, xuất định Không xứ rồi nhập định Thức xứ, xuất định Thức xứ rồi nhập định Vô sở hữu xứ, xuất định Vô sở hữu xứ rồi nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ; các Bí-sô này cũng lần lượt xuất nhập các định theo như Thế tôn. Phật lại xuất định Phi tưởng phi phi tưởng xứ rồi nhập ngược trở lại, như thế cho đến định thứ nhất ; các Bí-sô này cũng lần lượt xuất nhập ngược lại các định theo như Phật. Phật suy nghó: “ta nhập sơ định… cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ ; các Bí-sô này cũng nhập các định như vậy. Ta lại xuất định Phi tưởng phi phi tưởng xứ nhập ngược trở lại cho đến sơ định ; các Bí-sô này cũng xuất nhập ngược trở lại như ta. Nay ta nên hiện tướng trạng khác để nhập sơ định, không thuộc cảnh sở hành của Thanh văn, Độc giác”, nghó rồi liền nhập định như vậy. Lúc đó các Bí-sô này nói với nhau: “Thế tôn đang trụ trong định của mình, chúng ta cũng nên tự trụ trong định của mình”, nói rồi liền tự trụ trong định của mình. Sáng hôm sau Phật xuất định, đại chúng đều tụ họp, Phật trải tòa ngồi giữa đại chúng, lúc đó tôn giả A-nan rời khỏi chỗ ngồi, trịch bày vai hữu đảnh lễ Phật rồi chắp tay cung kính bạch Phật: “Thế tôn thường khen ngợi các Bí-sô bên bờ sông Thắng huệ, ý muốn gặp họ nhưng khi họ đến đây, Thế tôn lại chẳng han hỏi gì đến họ”, Phật nói: “này A-nan, ta đã nói chuyện với họ rồi, đã nương nơi Thánh ngữ, Thánh pháp luật để an ủi họ”, A- nan bạch Phật: “con chưa hiểu như thế nào là dùng Thánh ngữ, Thánh pháp luật để an ủi nhau”, Phật nói: “sau khi đi đến ở ngoài cửa phòng rửa chân rồi, ta vào trong phòng trải tòa ngồi kiết già ngay thẳng, trụ niệm hiện tiền; các Bí-sô bên bờ sông Thắng huệ cũng theo thứ lớp làm y như ta đã làm. Khi ta nhập sơ định… cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ; các Bí-sô này cũng nhập các định như vậy. Ta lại xuất định Phi tưởng phi phi tưởng xứ nhập ngược trở lại cho đến sơ định ; các Bí-sô này cũng xuất nhập ngược trở lại như ta. Lúc đó ta suy nghó: “nay ta nên hiện tướng trạng khác để nhập sơ định, không thuộc cảnh sở hành của Thanh văn, Độc giác”, nghó rồi ta liền nhập định như vậy; các Bí-sô này nói với nhau: “Thế tôn đang trụ trong định của mình, chúng ta cũng nên tự trụ trong định của mình”, nói rồi họ liền tự trụ trong định của mình. Này A-nan, đây là dùng Thánh ngữ, Thánh pháp luật để an ủi nhau; ta đã an ủi họ như vậy”, A-nan bạch Phật: “lành thay dùng Thánh ngữ, Thánh pháp luật để an ủi nhau ; Thế tôn đã dùng Thánh ngữ, Thánh pháp luật để an ủi các Bí-sô bên bờ sông Thắng huệ”. Lời nói này được lan truyền khắp nơi, mọi người đều nói với nhau: “Thế tôn đã dùng Thánh ngữ, Thánh pháp luật để an ủi các Bí-sô bên bờ sông Thắng huệ”; các trưởng giả, Bà-la-môn nghe việc này rồi liền đến lễ bái các Bí-sô bên bờ sông Thắng huệ. Khi họ thuyết giảng pháp yếu cho mọi người nghe, từ trong miệng họ bay ra mùi hôi, mọi người nghe mùi hôi này đều nói với nhau: “mùi hôi này từ đâu bay ra?”, các Bí-sô này nói là từ trong miệng chúng tôi bay ra, mọi người hỏi: “các Thánh giả hằng ngày không có xỉa răng, đánh răng hay sao?”, đáp là không, hỏi tại sao, đáp là Phật chưa cho, mọi người nói: “không xỉa răng, đánh răng há thanh tịnh hay sao ”, các Bí-sô này im lặng, sau đó bạch Phật, Phật nói: “các trưởng giả, Bà-la-môn chê trách như vậy là đúng. Ở chỗ khác ta đã bảo các Bí-sô xỉa răng, đánh răng nhưng các thầy không biết. Xỉa răng, đánh răng có năm lợi : một là trừ bịnh nóng vàng, hai là trừ đàm ấm, ba là miệng không hôi, bốn là dễ ăn uống, năm là mắt sáng sạch”. Sau khi Phật chế nên dùng cây tăm xỉa răng và cây đánh răng, lúc đó có một Bí-sô trẻ đứng ở chỗ hiển lộ, dùng cây tăm ngắn xỉa răng, bỗng thấy Thế tôn đi đến, Bí-sô này hổ thẹn suy nghó: “làm sao có thể ở trước Thế tôn nhổ cây tăm xỉa răng này ra” , nghó rồi liền nuốt cây tăm và bị mắc ở cổ họng. Thường pháp của chư Phật là luôn chánh niệm, lúc đó Phật thấy việc này rồi liền đưa bàn tay trái có vô lương công đức với chữ vạn xoay quanh có thể trừ sợ hãi, ban cho an ổn để giữ lấy đầu của Bí-sô này rồi đưa ngón tay phải vào trong họng của Bí-sô để móc cây tăm ra, kéo theo cả máu. Phật hỏi Bí-sô này: “thầy làm gì vậy?”, Bí-sô này kể lại sự việc, Phật suy nghó: “do đứng xỉa răng ở chỗ hiển lộ nên có lỗi này”, nghó rồi bảo các Bí-sô: “từ nay không được đứng xỉa răng ở chỗ hiển lộ và dùng cây tăm ngắn. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó lại có một Bí-sô ngồi xỉa răng trước Bí-sô kỳ túc, Phật bảo: “không nên. Có ba việc nên làm ở chỗ khuất, đó là đại tiểu tiện và xỉa, đánh răng; cũng không được dùng cây tăm quá ngắn”. Lúc đó Lục chúng Bí- sô dùng cây đánh răng quá dài, các Bí-sô chê trách: “các vị cầm cây để giỡn hay sao?”, đáp: “sao lại gọi là giỡn, các thầy không thấy Bí-sô trước kia dùng cây tăm quá ngăn xỉa răng mà suýt chết, nhờ Phật cứu hộ mới được sống. Lẽ nào các vị mong cầu y bát của chúng tôi nên mong chúng tôi chết sớm để cùng làm yết ma hay sao?”, các Bí-sô nghe rồi im lặng, bạch Phật, Phật nói: “Bí-sô không được dùng cây tăm, cây đánh răng quá dài. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó các Bí- sô không biết nên làm dài ngắn như thế nào, Phật nói: “có ba loại: dải, vừa và ngắn. Loại dài là mười lóng tay, loại ngắn là tám lóng, loại vừa ở giữa hai loại trên”. Lúc đó có Bí-sô già bịnh suy nhược, không thể đi đến chỗ khuất để đánh răng, Phật bảo: “người già được chứa chậu súc miệng”, các Bí-sô lại tùy nghi để chậu súc miệng trong phòng, khi đi đá phải làm đổ nước dơ ra đất, Phật nói: “chậu súc miệng nên làm có hình dạng như dấu chân voi”. Lúc đó các Bí-sô tìm chậu súc miệng khó được, Phật nói: “nên đến bên cạnh ống thoát nước để đánh răng”, có Bí-sô đánh răng ở xa chỗ thoát nước, Phật nói: “nên đánh răng ở gần chỗ thoát nước khoảng một thước vuông”. Sau đó lại có Bí-sô không có nạo lưỡi nên miệng vẫn hôi, Phật nói: “đánh răng rồi nên nạo lưỡi”, Bí-sô lại không biết dùng vật gì nạo lưỡi, Phật bảo nên chứa cây nạo lưỡi. Lục chúng Bí-sô lại dùng vàng bạc… làm cây nạo lưỡi, bị các trưởng giả, Bà-la-môn chê trách, các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “Bí-sô được dùng bốn loại là đồng, sắt, du thạch và đồng đỏ để làm cây nạo lưỡi”, Bí-sô lại dùng cây nạo lưỡi bén nên làm lưỡi bị thương, Phật bảo không nên làm bén ; lại tìm bốn loại trên không được, Phật bảo: “nên xhẻ cây đánh răng ra uốn cong lại để nạo lưỡi”. Khi chẻ cây đánh răng dùng để nạo lưỡi, cây còn dăm nên làm lưỡi bị thương, Phật nói: “nên chẻ cây đánh răng ra, dùng hai mảnh mài lẫn nhau cho hết dăm rối mới dùng nạo lưỡi”. Lúc đó các Bí-sô xỉa răng, đánh răng xong quăng bỏ mà không lên tiếng, cây tăm rơi trên đầu của thiên thần hộ chùa khiến vị này sanh hiềm trách, Phật nói: “không nên im lặng mà quang bỏ, nên lên tiếng; ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Các Bí-sô chỉ lên tiếng khi quang bỏ cây tăm xỉa răng, còn những việc khác như khạc nhổ… lại không lên tiếng, Phật bảo tất cả việc vất bỏ đều phải lên tiếng. Lúc đó có Bí-sô đi đường tìm cây tăm, cây đánh răng khó được nên không dám ăn, Phật nói: “không được bỏ ăn, nếu tìm khó được thì nên súc miệng ba lần”. Duyên xứ như trên, lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất có hai Cầu tịch là Chuẩn đà và La-hỗ-la, tôn giả muốn du hành trong nhân gian nên hỏi hai đệ tử: “nay ta muốn du hành trong nhân gian, hai con muốn đi theo hay ở lại?”, Chuẩn đà muốn đi theo còn La-hỗ-la muốn ở lại, tôn giả Xá-lợi-phất nói với La-hỗ-la: “nếu vậy, ta gởi con lại cho ai?”, đáp: “xin gởi con cho tôn giả Ô-đà-di, con sẽ ở với vị ấy”, tôn giả nói: “La-hỗ-la, vị ấy là người xấu, e sẽ làm việc phi pháp”, đáp: “con sẽ thừa sự vị ấy như cha, vị ấy sẽ không làm việc xấu”, Xá-lợi-phất bèn gởi La-hỗ-la cho Ô-đà-di rồi du hành trong nhân gian. Sau đó không bào lâu, Ô-đà- di bảo La-hỗ-la làm việc như vậy, như vậy; La-hỗ-la không chịu làm theo lời, Ô-đà-di tức giận nói: “việc này không chịu làm thì chịu làm việc gì?”, đáp: “thầy đâu phải là A-giá-lợi-da hay Ô-ba-đà-da của tôi”, Ô-đà-di càng tức giận liền nắm cổ La-hỗ-la lôi ra khỏi chùa, La-hỗ-la đứng khóc ở ngoài cửa. Lúc đó Bí-sô ni Đại thế chủ cùng năm trăm môn nhân đến chỗ Phật, thấy La-hỗ-la đứng ở đó khóc nên hỏi nguyên do, đáp là bị Ô-đà-di kéo lôi ra khỏi chùa, Đại thế chủ suy nghó: “ta không nên bỏ mặc con của Phật đứng ở đây mà bỏ đi”, nghó rồi liền đứng ở đó với La-hỗ-la. Sau đó, vua Thắng quang đi đến muốn gặp Phật, thấy mọi người đứng liền hỏi rõ nguyên do, vua cũng suy nghó: “ta không nên bỏ mặc con của Phật và Phật mẫu đứng ở đây mà bỏ đi”, nghó rồi liền đứng ở đó với mọi người. Sau đó trưởng giả Cấp-cô-độc cũng đi đến kính lễ Phật, thấy vậy liền hỏi rõ nguyên do và cũng suy nghó: “ta không nên bỏ mặc con của Phật, Phật mẫu và vua đứng ở đây mà bỏ đi”, nghó rồi liền đứng ở đó với mọi người. Lúc đó nhiều người tu tập ngoài cửa chùa nên gây ồn ào, Phật tuy biết nhưng vẫn hỏi A-nan nguyên do, A-nan đem việc trên bạch Phật, Phật hỏi: “thật có Bí-sô này đuổi Bí-sô khác ra khỏi chùa hay không?, đáp là thật có, Phật nói: “Bí-sô chỉ được làm chủ trong phòng của mình chứ không phải trong chùa, vì thế không được đuổi Bí-sô khác ra khỏi chùa. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Do Phật chế không được đuổi Bí-sô ra khỏi chùa nên các Bí-sô không dám khiển trách môn nhân đệ tử, khiến họ khinh thường pháp tắc; Phật bảo nên khiển trách. Các Bí-sô không biết khiển trách như thế nào, Phật nói: “có năm cách khiển trách: Một là không nói chuyện, tức là không cùng họ nói chuyện, hỏi đáp. hại. Hai là không dạy bảo, tức là không răn nhắc họ về việc lợi hay Ba là không thọ dụng chung, tức là không thọ sự cúng dường thừa sự của họ, không liên quan tới y thực và pháp. Bốn là ngăn thiện sự của họ, tức là không bảo họ làm các thắng sự như tu phẩm thiện… Năm là không cho y chỉ, tức là dứt y chỉ, không còn quan hệ thầy trò, không cùng ở chung phòng”. Lúc đó, các Bí-sô không xét kỹ đã vội khiển trách, Phật nói: “không nên gặp việc gì cũng khiển trách ngay. Ai có năm pháp mới nên khiển trách, năm pháp là bất tín, lười biếng, ác khẩu, không hổ thẹn, và thân cận kẻ xấu”, các Bí-sô nghe Phật dạy rồi, đối với người có đủ năm pháp trên mới khiển trách, người không đủ năm pháp thì không khiển trách ; Phật nói: “chỉ cần có một trong năm pháp trên liền phải khiển trách”. Lúc đó Bí-sô này khiển trách đệ tử của mình thì các Bí-sô khác lại bao che, Phật nói: “người nào bị Thân giáo sư hay Quỹ phạm sư khiển trách, nếu Bí-sô khác bao che tức là có ý ly gián, đó là phương tiện phá Tăng, phạm Tốt thổ la để”. Phật chế không được bao che nên khi bị khiển trách, các Bí-sô khác đều không dung chứa, nhân đó khó điều phục, không cung kính ; có người bỏ đi đến nước khác, có người hoàn tục. Phật nói: “nên sai một Bí-sô đến khuyên họ cải hối, sanh tâm cung kính”, Bí-sô được sai không thiện xảo nên đến nói với họ rằng: “Thân giáo sư của thầy xin thầy hãy hoan hỉ”, khiến họ càng kiêu mạn ; Phật bảo nên sai Bí-sô thiện xảo. Khi bổn sư thấy đệ tử đến sám hối, không biết chọn lựa để dạy bảo, đều tha thứ hết ; do đây khiến họ tiến triển trong việc tu pháp thiện, lại còn có người hoàn tục. Phật nói: “có năm pháp mới cho sám hối; đó là tín tâm, tinh tấn, cung kính, nói lời thiện và thân cận thiện tri thức. Trong năm pháp này tùy có nhiều ít, đều nên cho sám hối. Nếu các Bí-sô đối với người không nên khiển trách mà lại khiển trách, người đáng khiển trách lại không khiển trách, đều phạm tội Việt pháp. Đối với người không nên tha thứ mà lại tha thứ, người đáng tha thứ lại không tha thứ, cũng đều phạm tội Việt pháp. Ai ở trong năm pháp đen trên, tùy hiện hành một pháp nào, tâm không cung kính thì nên đuổi ra ; nếu biết họ ôm lòng tùy thuận thì nên tha thứ. Ai có đủ năm pháp đen trên nên đuổi đi mà không đuổi đi thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó, khi các Bí-sô đuổi họ ra lại lột hết y phục, để họ lõa hình đi ; Phật nói: “không nên làm như vậy, nếu là Cầu tịch thì nên cho họ đãy lượt nước, bình quân trì và hai y thượng hạ rồi mới đuổi đi. Nếu là Cận viên hay sắp thọ Cận viên thì nên cho họ sáu vật rồi mới đuổi đi. Sáu vật là ba y, tọa cụ, đãy lượt nước, bình quân trì (bình có hai loại: bình nước sạch và bình nước rửa). Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ ba: Làm chùa, làm lưới, rèm, Nói rộng việc quét đất, Cầu pháp, hai đồng tử, Mùa nóng nên làm nhà. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, như Phật đã dạy ngọa cụ dưới gốc cây thì thanh tịnh dễ được, Bí-sô nương nơi pháp này được xuất gia và thọ Cận viên, thành tánh Bí-sô. Nếu được lợi dưỡng thêm như phòng riêng, lầu gác thì đều được thọ. Lúc đó có Bí-sô làm chùa không làm nền móng, bậc thềm cho đến mái hiên; Phật nói: “nên làm nền móng trước, bậc thềm nên cao vừa bằng đầu gối, kế dựng cột trụ, sắp đặt đòn dông, kèo rường… nên dùng gạch vụn trộn với bùn để xây lên cho cứng chắc, dùng muối đá, tro bùn trộn thành hồ để tô ; phía trước nên làm mái hiên với cây ngang làm lan can, đóng đinh dính vào cột trụ để không cho rớt ngã”. Khi các Bí-sô đang ăn, chim sẻ bay đến làm rối loạn, Phật bảo nên làm lưới ngăn. Họ không biết lấy gì làm lưới, Phật nói: “nên dùng năm loại làm lưới, đó là gai, vải thô, cỏ Mang, cỏ Tranh và vỏ cây”, các Bí-sô làm lưới xong, không biết cách lắp đặt, Phật nói: “bốn góc lưới nên để bốn vòng sắt nhỏ, dùng cây chống lên đừng để mưa làm hư”. Sau đó chim vẫn bay vào như trước, Phật bảo nên dùng vật đậy, chừng nào ăn mới giở ra. Lúc đó có Bí-sô đang ăn, con chó đến đứng một bên mong cho thức ăn dư; Bí-sô không cho nên con chó bị chết đói, bạch Phật, Phật nói: “khi ăn nên chừa lại một phần để thí cho súc sanh”. Sau đó có Bí-sô trụ nơi A-lan-nhã chỉ chừa thức ăn thí cho dã can chứ không cho chim quạ, quạ nổi sân dùng tiếng quạ gọi giặc cướp: “Bí-sô trong rừng có nhiều vàng và vật báu”, giặc cướp nghe hiểu rồi liền đến gặp Bí-sô hỏi vàng, đáp là không có nên bị giặc đánh mắng, Bí-sô hỏi vì sao đánh, đáp là vì có vàng mà không chịu đưa ra, Bí-sô đáp: “tôi trụ nơi A-lan-nhã thì làm sao có nhiều vàng, xin chớ đánh oan”, giặc cướp nói nếu không đưa ra sẽ giết, Bí-sô nói: “chắc có kẻ giận tôi nên nói vu như thế, xin hãy nói cho tôi biết là ai”, đáp là quạ nói, Bí-sô nói: “chắc là quạ giận tôi”, giặc cướp hỏi vì sao, Bí-sô kể lại việc trên, giặc cướp nghe rồi liền thả Bí-sô ra. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do thí có tâm hạn cuộc nên có lỗi này, do đây nên biết, khi chừa lại thức ăn nên thí khắp hết cho quần sanh, không hạn cuộc loài nào. Nên rưới trên thức ăn cho hơi ướt, bánh nên bóp nhỏ rải trên đất, để chúng tùy ý ăn, không nên cản ngăn. Ai cản ngăn thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó Bí-sô làm phòng, gặp trời mưa núp dưới mái hiên cũng bị ướt; Phật bảo nên làm tấm ngăn để che, Bí-sô không biết làm như thế nào, Phật bảo nên dùng tấm ván. Bí-sô che khắp hết nên trong phòng bị tối, Phật bảo nên chừa chỗ cho sáng. Lúc đó khó tìm được ván, Phật nói: “tạm dùng chiếu cỏ để ngăn che”, trời mưa bị ướt nên trùng sanh, Phật nói: “chỉ dùng ngăn che trong mùa mưa, thời khác nên bỏ”.  CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 14 Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ ba (tiếp theo): Duyên xứ như trên, trưởng giả Cấp-cô-độc theo thường lệ vào mỗi buổi sáng đến trong rừng Thệ đa kính lễ Thế tôn rồi quét đất trong chùa. Hôm đó trưởng giả bận việc không đến, Phật đi kinh hành thấy đất không sạch nên khởi tâm thế tục nghó: “nếu vua trời Đế thích mang chổi từ núi Hương túy đến đây thì tốt”. Thường pháp của chư Phật là hễ khởi tâm thế tục thì ngay đến loài kiến cũng hiểu được ý Phật, nếu khởi tâm xuất thế thì ngay đến bậc Thanh văn, Độc giác cũng không thể hiểu. Lúc đó vua trời Đế thích biết Phật muốn tự quét đất trong rừng Thệ đa, liền đến núi Hương túy lấy năm trăm cây chổi đẹp, nhẹ mịn mang tới trước Phật. Phật muốn những chúng sanh thích phước, gieo trồng tịnh nghiệp trong ruộng thù thắng nên tự cầm chổi quét đất. Các đại Thanh văn như Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca-diếp, A-nan… thấy vậy đều cùng ra cầm chổi quét vườn chùa. Phật và các đệ tử quét sạch các nơi xong rồi đi vào nhà ăn ngồi, Phật bảo các Bí-sô: “quét đất có năm công đức thù thắng: một là tự tâm thanh tịnh, hai là làm người khác thanh tịnh, ba là chư Thiên hoan hỉ, bốn là vun trồng nghiệp đoan nghiêm, năm là sau khi qua đới được sanh lên cõi trời”. Sau đó trưởng giả Cấp-cô-độc đến chùa, nghe biết việc này rồi liền suy nghó: “Phật và các Thánh chúng tự cầm chổi quét đất trong vườn chùa, làm sao ta dám bước chân lên”, nghó rồi trưởng giả e ngãi không dám bước chân lên. Lúc đó Phật tuy biết nhưng vẫn hỏi các Bí-sô là ai đang đứng, các Bí-sô bạch Phật nguyên do, Phật nói: “hãy bảo trưởng giả tụng kinh pháp rồi bước lên, vì Phật kính trọng pháp, các A-la-hán cũng kính trọng pháp”, trưởng giả nghe rồi liền tụng kinh pháp mới đi đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy, khen ngợi làm cho trưởng giả hoan hỉ; trưởng giả nghe pháp rồi vui mừng ra về. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “thật hy hữu thay Thế tôn cũng tự có tâm kính trọng và khen ngợi pháp”, Phật nói: “ngày nay Như lai đã lìa nhiễm ô, sân si; đã lìa sanh lão tử, ưu bi khổ não, đầy đủ Nhất thiết trí, tự tại trong tất cả cảnh giới mà vẫn kính trọng và khan ngợi pháp thì chưa phải là hy hữu. Các thầy nên biết, thuở quá khứ khi ta còn đầy đủ nhiễm ô, sân si ; chưa lìa sanh lão bịnh tử, ưu bi khổ não, vì nhân duyên cầu pháp mà ta còn tự bỏ thân mạng, đó mới là hy hữu. Các thầy lắng nghe: Thuở xưa trong thành Bà-la-nê-tư có vua tên là Phạm thọ dùng pháp trị nước nên đất nước phồn thịnh, dân chúng giàu vui… Vua vốn tin chánh pháp, bản tánh hiền thiện, làm lợi mình lợi người, thương xót tất cả nên thường hành bố thí, lìa tâm nhiễm chấp, không có xẻn tiếc. Thòi gian sau, phu nhân của vua có thai bỗng muốn cầu nghe diệu pháp nên tâu vua; vua vời tướng sư đến hỏi, tướng sư đáp: “do phu nhân mang Thánh thai nên mới có ý nghó ấy”. Lúc đó vua vì cầu pháp nên ra lịnh đại thần mang rương vàng đi khắp nơi trong nước để cầu pháp nhưng vẫn không toại ý. Đủ ngày tháng, phu nhân sanh một trai, dung mạo khôi ngô với đủ các tướng tốt… cho đến câu mở hội ăn mừng và đặt tên cho bé, đại thần tâu: “vương tử khi chưa sanh đã mong cầu diệu pháp, vậy nên đặt tên là Cầu diệu pháp”, vua giao vương tử cho tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng… cho đến câu Thái tử trưởng thành vẫn thường cầu diệu pháp, nhưng chưa toại ý. Sau khi vua cha băng hà, Thái tử lên nối ngôi liền sai đại thần đi cầu diệu pháp giống như trước, vẫn không được mãn nguyện nên vua rất lo buồn. Vua trời Đế thích thấy việc này rồi liền suy nghó: “sự việc tuy như vậy nhưng vẫn chưa biết tâm vua là thật hay hư, ta nên đến thử”, nghó rồi liền biến thành một Dược xoa hình dáng đáng sợ đứng trước vua nói kệ: “Thường tu tập pháp lành, Không làm các việc ác, Đời này và đời sau, Thức ngủ thường an lạc”. Vua nghe kệ rồi rất hoan hỉ liền nói với Dược xoa: “xin nhân giả hãy nói lại bài kệ trên”, Dược xoa nói: “nếu vua làm theo lời ta, ta sẽ nói lại bài kệ trên”, vua nói: “xin nhân giả cứ nói, tôi sẽ không làm trái ý”, Dược xoa nói: “nếu Đại vương thật tâm thích pháp, xin hãy làm hầm lửa, đốt lửa cháy đỏ rực trong bảy ngày đêm rồi nhảy xuống đó thì ta sẽ nói lại bài kệ trên”, vua nghe rồi vui mừng gấp bội liền đáp là sẽ làm theo như thế. Sau đó vua cho thông báo khắp trong nước: “ta vì cầu diệu pháp nên bảy ngày sau sẽ nhảy vào hầm lửa, những ai có duyên thích việc hy hữu thì hãy đến xem”, cả nước nghe biết việc này, có đến vô lượng chúng sanh cùng đến xem việc hy hữu này. Do vua chí thành trọng pháp nên cảm được vô lượng trăm ngàn chư thiên vân tập trên hư không tấu nhạc, rải hoa thơm cúng dường; tất cả đều vì tôn trọng tâm chí thành của vua nên cùng đến tụ tập. Đủ bảy ngày, Dược xoa bay lên hư không bảo vua: “đã đến kỳ hạn, xin Đại vương hãy nhảy xuống hàm lửa”, lúc đó vua đưa Thái tử lên kế vị rồi từ biệt quần thần đi đến bên hầm lửa, vua nói kệ: “Hầm lửa lớn cháy rực như thế, Đỏ như mặt trời làm người sợ, Nay ta hoan hỉ nhảy vào lửa, Vì cầu pháp, tâm không hối sợ, Ta tuy nhảy xuống hầm lửa cháy, Nhưng sẽ cầu được pháp hy hữu, Nguyện phước này lợi ích chúng sanh, Lửa dữ hóa thành ao sem mát”. Nói kệ xong, vua nhảy xuống hố lửa, khi thân vua vừa rơi xuống, hầm lửa liền biến thành ao sen mát mẻ nên thân vua không bị thương tổn. Vua trời Đế thích thấy việc hy hữu này rồi liền hiện trở lại bổn hình và nói lại bài kệ cho vua nghe: “Thường tu tập pháp lành, Không làm các việc ác, Đời này và đời sau, Thức ngủ thường an lạc”. Nghe kệ xong vua ra khỏi ao, viết bài kệ trên lá bằng vàng rồi cho phổ biến khắp trong nước để mọi người đều biết và tu tập theo. Này các Bí-sô, vua Cầu diệu pháp thuở xưa chính là thân ta ngày nay, thuở xưa vì cầu pháp mà từ bỏ thân mạng huống chi là ngày nay đối với diệu pháp, ta há lại không tôn trọng hay sao. Thế nên các thầy phải tu tập theo, đối với diệu pháp nên tôn trọng, tán thán, nương theo pháp mà trụ để được tự lợi, lợi tha”, các Bí-sô nghe Phật dạy rồi, hoan hỉ phụng hành. Do Phật dạy quét đất có năm điều lợi nên có Bí-sô kỳ lão bỏ việc tụng kinh ngồi thiền để vào rừng quét đất, Phật nói: “ta vì người làm tri sự nên nói như vậy, không phải muốn cho các Bí-sô kỳ lão làm việc ấy. Người nào nương theo thiện pháp luật của ta xuất gia nên làm hai việc, đó là tu tập thiền định và đọc tụng kinh pháp”. Lúc đó các Bí-sô nghe Phật dạy như thế rồi liền không quét đất nữa, khiến cho tri sự một mình không thể quét hết cả rừng Thệ đa, Phật nói: “tùy lúc cần thì nên quét, nên vào các ngày mồng tám, mười lăm hằng tháng nên đánh kiền chùy tập họp chúng tăng để cùng nhau quét dọn”. Khi các Bí- sô cùng nhau quét dọn lại bàn luận việc thế tục, các thiên thân hộ chùa và phi nhân nghe hý luận liền chê trách, Phật nói: “không được hý luận, nên nói pháp ngữ hoặc im lặng như bậc Thánh”. Lúc đó các Bí-sô quét đất xong, trên người dính đầy bụi đất khiến cho người nhìn thấy không tín kính, Phật nói: “quét dọn xong, đổ bỏ rác rến rồi đi tắm rửa; ai không tắm thì nên vốc nước lau sạch bụi bậm, rửa tay chân cho sạch sẽ”. Như Phật đã dạy vào các ngày mồng tám, mười lăm hằng tháng nên xem xét giường tòa, các Bí-sô cũng cùng nhau làm, Phật nói: “không nên, hãy sai đệ tử, môn nhân đi xem vì sợ có rận rệp và dơ bẩn”. Như Phật đã dạy nếu thấy đất đã quét sạch nên tụng kinh pháp rồi bước đi qua, như vậy cho đến đối với điện đài, tháp… cũng nên tụng kinh pháp rồi mới đi qua; ai làm trái thì phạm tội Việt pháp. Lúc đó ở phương Bắc có một quốc vương đưa hai đồng tử tên là Đà-sách-ca và Ba-lạc-ca đến chỗ vua Thắng quang để làm con tin. Đà-sách-ca có tài nấu ăn, Ba-lạc-ca có tài bài trí sàng tòa; cả hai vốn là người biên địa nên tánh ưa thích ăn uống, mỗi khi có việc vào chợ thường hay lấy cơm thịt trong hàng quán để ăn nên bị chủ của hàng quán đánh mắng, liền trở về mách vua, vua nghe rồi liền ra lịnh cho người bán trong chợ hãy tự giữ thức ăn trong hàng quán của mình chứ không được đánh mắng hai đồng tử. Thời gian sau, sau khi bãi triều vua tạm nghỉ ngơi, hai đồng tử ở bên cạnh đấm bóp cho vua, thấy vua im lặng liền cho là vua đã ngủ nên cùng nói chuyện với nhau. Đà-sách- ca hỏi Ba-lạc-ca có đời sau hay không, đáp là không có, Ba-lạc-ca hỏi Đà-sách-ca thế gian có A-la-hán hay không, đáp là không có. Vua nằm nghe hai đồng tử này nói liền suy nghó: “cả hai đều sanh ác kiến, một người là đoạn kiến, một người là tà kiến”, nghó rồi liền bảo đại thần truyền lời của vua khiến cho mọi người trong nước đều biết hai đồng tử của vua là người tà kiến ác kiến. Lúc đó trưởng giả Cấp-cô-độc ở trong đại chúng cất tiếng sư tử rống, nói rõ ràng với mọi người rằng: “ai ở trong nhà tôi, sau khi qua đời đều sẽ sanh thiên”, vua nghe lời này rồi liền suy nghó: “nếu trưởng giả đến đây, ta sẽ giao hai đồng tử này cho ông ấy”. Sau đó trưởng giả đến chỗ vua, sai tiểu đồng mang theo vật lót ngồi, tiểu đồng trải tòa ngồi cho trưởng giả xong liền bỏ ra ngoài chơi giỡn với đồng tử khác; vua thấy rồi liền suy nghó: “đây đúng là lúc ta giao hai đồng tử cho trưởng giả”, nghó rồi vua ngầm bảo người giữ cửa không cho tiểu đồng của trưởng giả trở vào. Người giữ cửa vâng lịnh vua không cho trở vào nên khi trưởng giả muốn về, liếc tìm tiểu đồng không thấy; vua nói: “ta có hai người hầu nay giao cho trưởng giả dẫn về”, trưởng giả biết ý vua nên miễn cưỡng dẫn về. Về đến nhà, trưởng giả bảo người giữ kho cung cấp những vật cần dùng cho hai đồng tử; lại bảo người trong chợ tùy ý hai đồng tử cần gì cứ cung cấp cho, trưởng giả sẽ trả tiền gấp bội. Hai đồng tử nghe biết việc này rồi liền nói với nhau: “trưởng giả đối với chúng ta không khác gì cha mẹ nên mới biểu hiện tình thân Ái như thế”, nói rồi liền cùng đến chỗ trưởng giả bạch rằng: “nếu có việc gì cần làm xin nhân giả cứ giao phó”, trưởng giả nói: “hãy tạm ở như vậy, khi nào có việc sẽ bảo làm”. Sau đó trưởng giả dẫn hai đồng tử này vào trong rừng Thệ đa bảo họ cầm chổi quét đất cho chúng tăng: “ta có việc phải đi, hai ngươi hãy quét sạch trong chùa, đổ bỏ rác rến ở chỗ khuất, xong đâu đó rồi mới được về nhà”, hai người vâng lời quét sạch đất, khi sắp hốt dọn rác rến, Phật dùng thần lực khiến cho rác rến nhiều không thể hốt hết; hai đồng tử vì hiếu kính chủ nên không dám nghỉ, Phật bảo A-nan để dành phần ăn cho hai đồng tử. A-nan vâng lời Phật để dành phần ăn và bảo họ ăn nhưng hai đồng tử suy nghó: “hốt dọn hết rác rến xong, chúng ta sẽ trở về nhà ăn”, nghó như vậy nên không ăn phần ăn của tôn giả A-nan đưa cho. Phật lại dùng thần lực làm cho họ vừa hốt dọn xong phía Đông, khi qua phía Tây hốt dọn thì rác rên ở phía Đông có lại như cũ; hốt dọn phía Tây xong, khi qua phía Đông thì rác rên ở phía tây có trở lại như cũ, cứ như vậy hốt dọn mãi đến chiều cũng chưa xong. Phật bảo A-nan: “thầy bảo hai đồng tử ở lại nghỉ đêm ở chỗ thầy, sau đó thầy đến bảo các Bí-sô rằng: “trước đây ta có dạy việc thiện nên che giấu, việc ác nên phát lồ; nhưng nay muốn làm cho hai đồng tử này từ bỏ ác tà kiến, các Bí-sô nên hiển dương việc thiện của mình, Bí-sô nào đã đắc định nên trụ trong định của mình cho đến đầu đêm””, A-nan vâng lời Phật đền bảo các Bí-sô. Vào đầu đêm, các Bí-sô có người phóng ánh sáng, có người hiện tướng đặc biệt…, hai đồng tử này thấy rồi liền hỏi A-nan: “đó là tướng gì?”, A-nan nói: “đó là thần biến của các A-la-hán”, liền hỏi: “thế gian có A-la- hán hay sao?”, đáp: “chẳng phải chính mắt hai ngươi đã trông thấy hay sao?”, hai đồng tử thấy việc này rồi liền sanh chánh kiến, không còn tà kiến nữa. Vào giữa đêm Phật liền khởi tâm thế tục: “nếu Thích Phạm chư thiên cùng đến đây thì tốt”… như trên cho đến câu Thích Phạm chư thiên biết ý Phật liền hiện đến chỗ Phật, do oai lực của họ nên khắp trong rừng Thệ đa đều rực sáng. Hai đồng tử lại hỏi tôn giả A-nan đó là tướng gì, A-nan nói: “đó là Thích Phạm chư thiên đến gặp Phật nên có ánh sáng này”, lại hỏi: “thật có đời sau hay sao?”, A-nan nói: “chẳng phải chính mắt hai ngươi đã thấy hay sao?”, hai đồng tử thấy việc này rồi liền sanh chánh kiến, cùng nhau đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên, Phật quán biết căn tánh tùy miên của họ nói pháp Tứ đế khiến cho họ được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Sau khi chứng quả, họ chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, xin cho con được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô, tu tập phạm hạnh”, Phật bảo: “thiện lai Đà-sách-ca và Ba-lạc-ca, hãy xuất gia tu phạm hạnh”, Phật vừa nói xong, râu tóc của hai người này đều tự rụng, ca-sa hiện trên thân trở thành Bí-sô, giống như người đã được xuất gia bảy ngày, đầy đủ oai nghi giống như Bí-sô trăm tuổi. Phật nói kệ: “Thế tôn gọi “Thiện lai”, Tóc rụng, đủ y bát, Oai nghi như trăm lạp, Thành tựu theo ý niệm”. Được Phật đích thân dạy bảo, hai Bí-sô này chuyên tâm tu tập đoạn trừ các phiền não, không bao lâu sau chứng A-la-hán, ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát, được như thật tri: sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc nên làm đã làm xong, không còn thọ thân sau. Tâm không chướng ngại như tay nắm hư không, như dao cắt mùi thơm, yêu ghét không khởi, xem vàng và đất như nhau không khác, tất cả danh lợi đều xả bỏ, Thích Phạm chư thiên thảy đều cung kính. Lúc đó vua Thắng quang nghe biết việc này tâm không vui nói rằng: “vì sao Thế tôn lại độ hai kẻ tà kiến ấy xuất gia, đây không phải là việc tốt vì ai cũng biết hai kẻ đó tà kiến”, Thế tôn nghe biết rồi liền suy nghó: “các đệ tử Thanh văn của ta đã đoạn hết nghiệp hoặc, công đức đáng tôn trong như núi Diệu cao. Vì vua chưa biết rõ nên sanh tâm khinh mạn sẽ có lỗi lớn, ta nên hiển dương công đức thù thắng của hai người này cho vua được thấy”. Lúc đó trưởng giả Cấp-cô-độc đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho trưởng giả được lợi hỉ rồi im lặng. Trưởng giả rời khỏi chỗ ngồi chắp tay thỉnh Phật và Tăng vào ngày mai đến nhà thọ thực, Phật im lặng nhận lời, trưởng giả biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Sau đó Phật bảo A-nan: “thầy đến bảo Đà-sách-ca và Ba-lạc-ca ngày mai đến nhà trưởng giả Cấp-cô-độc dọn đưa nước cho Tăng”, A-nan vâng lời Phật đến nói, Đà-sách-ca và Ba-lạc-ca nói: “chúng con xin vâng lời Phật dạy”, nói rồi thầm nghó: “vì sao Phật cố ý sai chúng ta dọn đưa nước cho Tăng, chẳng phải là Thế tôn muốn hiển dương công đức thù thắng của chúng ta hay sao, chúng ta nên làm cho Thế tôn mãn nguyện”. Ngay trong đêm đó, trưởng giả lo sửa soạn đủ các món ăn ngon tinh khiết, sáng sớm trải tòa, để đủ nước dùng rồi sai sứ đến bạch Phật: “đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời”. Trưởng giả cũng sai sứ đến tâu với vua Thắng quang: “hôm nay thần có thỉnh Phật và Tăng đến nhà cúng dường, xin Đại vương nhín chút thì giờ đến cùng tùy hỉ”. Lúc đó Phật đắp y mang bát cùng các Bí-sô đi đến nhà trưởng giả, ngồi vào chỗ ngồi; vua cũng cùng Thái tử và tùy tùng đến nhà trưởng giả để cùng tùy hỉ, đến nơi vua kính lễ Phật rồi ngồi vào chỗ ngồi. Lúc đó cụ thọ Đà-sách-ca đứng trước Thượng tòa, tay cầm bình nước dùng thần lực gia trì làm cho nước tự rót theo thứ lớp từ lớn tới nhỏ cho các vị rửa tay; cụ thọ Ba-lạc-ca đứng trước Hạ tòa, tay cầm bình nước cũng dùng thần lực gia trì làm cho nước tự rót theo thứ lớp từ nhỏ đến lớn cho các vị súc miệng. Vua Thắng quang thấy cảnh này rồi suy nghó: “đây là đại đức Bí-sô nào mà dám hiện thần lực trước Phật như vậy”, nghó rồi lần theo nước rót tới chỗ Hạ tòa liền thấy Ba-lạc-ca đang cầm bình nước, lại lần theo nước rót tới chỗ Thượng tòa liền thấy Đà-sách-ca đang cầm bình nước. Thấy rồi cho là hy hữu nên vua đưa bàn tay phải lên tán thán: “Hy hữu thay Phật đà, Hy hữu thay Đạt ma, lành thay chánh pháp có thể ngay trong hiện tại làm cho Đà-sách-ca và Ba-lạc-ca xả tâm ác tà kiến, được chánh kiến và chứng được công đức thù thắng như thế”. Lúc đó trưởng giả tự tay dâng cúng các món ăn cho Phật và Tăng được no đủ rồi lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi trước Phật nghe thuyết pháp. Phật tùy theo căn cơ thuyết pháp cho trưởng giả và vua Thắng quang được lợi hỉ rồi đứng dậy ra về. Về đến trú xứ, các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, Đà-sách-ca và Ba-lạc-ca đã tạo nghiệp gì mà sanh nơi biên địa, một người đoạn kiến, một người tà kiến; lại tạo nghiệp gì mà đươc xuất gia trong Phật pháp, đoạn tận lậu hoặc và chứng quả A-la-hán?”, Phật bảo các Bí-sô: “nghiệp mà họ đã tạo nay thành thục… nên tự thọ lấy quả báo. Các thầy lắng nghe: Quá khứ Hiền kiếp, lúc con người thọ hai vạn tuổi có Phật Ca-diếp ba ra đời đầy đủ mười hiệu, hai người này xuất gia trong giáo pháp của vị Phật đó. Họ làm bạn và cùng đi đến biên quốc, do không có thầy dạy bảo nên họ tự tu tập thiền định, thật không chứng đắc mà tưởng là đã chứng đắc. Khi lâm chung, họ phỉ báng Thánh pháp, sanh tâm tà kiến nói rằng: “Phật Ca-diếp ba dối gạt thế gian cho là đoạn hết phiền não mới chứng A-la-hán. Đối với các lậu hoặc, ta không thể đoạn hết thì người khác làm sao có thể chứng A-la-hán được”. Này các Bí-sô, hai người thuở xưa không có thầy dạy bảo, tư tu tập thiền định chính là Đà- sách-ca và Ba-lạc-ca ngày nay. Do thuở xưa phỉ báng Thánh pháp, sanh tà kiến nên trong nhiều đời đọa vào ác đạo, nhiều đời sanh nơi biên địa và khởi tà kiến cho đến đời này. Do nhờ thuở xưa có tụng tập và thọ trì pháp như uẩn, xứ, giới, duyên sanh… nên ngày nay được xuất gia trong giáo pháp của ta, đoạn hết lậu hoặc và chứng quả A-la-hán. Tu thiền định mà không có thầy dạy bảo có lỗi như vậy, cho nên các thầy không nên tự tu thiền định mà không có thầy dạy bảo. Nếu ai cố ý tu tập như vậy thì phạm tội Việt pháp”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một trưởng giả cất một thất nhỏ nơi A-lan-nhã cho một Bí-sô ở. Vào mùa xuân khí trời nóng bức nên thân Bí-sô trở nên vàng vỏ ốm gầy, không có sắc lực. Bí-sô mốn đi nơi khác nên đến nói với trưởng giả: “nhân giả tự coi giữ, nay tôi muốn đi nơi khác”, trưởng giả hỏi rõ nguyên do, đáp là do khí trời nóng bức nên không ở trong thất nhỏ được, trưởng giả nói: “nếu vậy tôi sẽ làm hang đất cho Thánh giả ở”, đáp là Phật chưa cho, bạch Phật, Phật nói: “nếu cần hang đất thì được tùy ý ở”, trưởng giả liền làm hang đất cho Bí-sô ở. Đến tháng mùa hạ, khí lạnh ẩm ướt nên Bí-sô sanh bịnh ho đàm, không thể ở trong hang đất được nữa. Bí-sô muốn đi nên đến nói với trưởng giả… như trên cho đến câu trưởng giả nói: “nếu vậy thì tôi làm nhà lớn cho Thánh giả ở”, đáp là Phật chưa cho, bạch Phật, Phật cho làm nhà lớn để ở. Trưởng giả làm nhà lớn, do không làm mái hiên nên cây chống trên cao muốn gãy, Phật bảo nên làm mái hiên, nếu sợ gẫy thì nên làm trụ xiên, đóng đinh giữ lại. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ ba: Muối hột để trong sừng, Đồ đựng thuốc, nệm lót, Ngồi tòa cao tụng kinh, Cho dùng vật kê chân. Duyên khởi tại tinh xá Trúc viên, thành Vương xá, cụ thọ Tất- lân-già-bà ta sau khi xuất gia thường bị bịnh… như trên cho đến câu hỏi: “trước kia Thượng tòa từng dùng thuốc gì?”, đáp là dùng muối hột, lại hỏi sao nay không dùng nữa, đáp là Phật chưa cho, bạch Phật, Phật nói: “từ nay cho các Bí-sô được cất giữ muối Tiên-đà-bà”. Bí-sô để muối bừa bãi nên tiêu hết, Phật nói: “không nên để như thế, nên cất giữ trong ống”; để muối trong ống tre, muối cũng tiêu hết, Phật nói: “dùng ống bằng sừng để đựng muối”. Bí-sô dùng sừng mới để đựng muối nên muối có mùi hôi, Phật nói: “nên dùng nước nóng tẩy sạch, để khô rồi mới đựng muối”; Bí-sô lại không đậy nên bị bụi đất rơi vào, Phật bảo nên đậy nắp, Bí-sô không biết làm nắp như thế nào, Phật bảo dùng sừng để đậy. Duyên xứ như trên, chỉ khác là Bí-sô Tất-lân-già-bà ta cần dùng bát nhỏ đựng thuốc, Phật cho cất chứa. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một trưởng giả lấy vợ chưa bao lâu thì sanh được một trai. Đồng tử này đến khi trưởng thành xuất gia trong pháp luật thiện thuyết, nằm ngủ trên chiếc giường không có nệm lót. Sau đó trưởng giả vào chùa thăm, thấy con mình nằm trên chiếc giường không có nệm lót liền nói: “vì sao các Bí-sô khác nằm giường có nệm, còn thầy lại không có?”, đáp: “các vị khác xuất gia đã lâu, từ trước đến nay đã có; con mới xuất tục nên chưa có”, trưởng giả nói: “nếu vậy, trong nhà ta còn có tấm nệm tốt, thầy hãy dùng trải nằm”, đáp là Phật chưa cho, bạch Phật, Phật cho dùng nệm lót. Sau đó Bí-sô nằm trên nệm không có tấm trải lót nên nệm dơ bẩn, trưởng giả vào thăm nhìn thấy tấm nệm này cho là nệm khác nên hỏi, Bí-sô đáp là nệm cũ, trưởng giả liền hỏi rõ nguyên do rồi nói: “nệm này có giá trị mà thầy làm cho dơ bẩn như vậy, đáng lẽ thầy nên trải tấm lót rồi mới nằm”, bạch Phật, Phật nói: “dù là vật của riêng cũng phải dùng tấm trải lót, nếu không trải lót mà nằm trên nệm như vậy thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ như trên, Phật bảo người tụng kinh nên ngồi tòa cao, người này ngồi trên tòa sư tử cao, do duỗi hai chân thòng xuống nên cảm thấy mệt nhọc, Phật bảo nên làm bệ kê chân. Bí-sô không biết làm như thế nào, Phật nói: “nếu tòa cố định thì nên làm bệ gạch, nếu tòa di chuyển thì nên làm bệ ván gỗ”, làm bệ ván gỗ di chuyển khó khăn nên Phật bảo làm bốn vòng sắt ở bốn góc để kéo đi. Lúc đó có Bí-sô cầu phước và người tục có tín tâm bôi bột thơm vào bốn chân của tòa ngồi, khiến thầy tụng kinh không dám bước lên; Phật bảo dùng cỏ hay lá cây lót ở trên rồi bước lên tòa. Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô ở A-lan-nhã tìm vật làm bệ kê chân khó được, Phật nói nên dùng đá kê chân. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ ba: Khăn lau mặt, y mỏng, Ống nhổ và y lót, Bồn sắt để dưới đất, Ngọc nguyệt quang, giặt y. Duyên khởi tại thành Vương xá, lúc đó Bí-sô Tất-lân-già-bà ta bị bịnh nên đầu mặt dơ bẩn… như trên cho đến câu hỏi: “trước đây Thượng tòa dùng vật gì?”, đáp là dùng khăn lau mặt, lại hỏi sao nay không dùng, đáp là Phật chưa cho, bạch Phật, Phật nói: “có bịnh hay không bịnh đều nên dùng khăn lau mặt”. Duyên xứ như trên, cụ thọ Tất-lân-già-bà ta bị bịnh nóng nên thân vàng vỏ… như trên cho đến câu đáp là dùng y thưa mỏng, lại hỏi sao nay không dùng, đáp là Phật chưa cho, bạch Phật, Phật nói: “khi trời nóng bức cho dùng y thưa mỏng”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, có Bí-sô bị bịnh ho đàm, khạc nhổ hai bên giường rất dơ bẩn. Sáng hôm sau môn nhân vào phòng lễ bái thăm hỏi nên trán bị dính phải đờm dãi này, các Bí-sô thấy liền hỏi nguyên do rồi vào phòng xem thử, thấy người bịnh khạc nhổ bừa bãi như thế liền chê trách rồi bạch Phật, Phật nói: “không phải chỗ khạc nhổ thì không nên khạc nhổ, trong chỗ tối dơ thì không nên khấu đầu lễ bái. Ai muốn lễ kính thì nên nói kính lễ (bạn đệ), nếu có thỉnh bạch cũng nên làm như vậy; người bịnh muốn khạc nhổ nên dùng ống nhổ”. Lúc đó để ống nhổ bị nghiêng đổ nên càng dơ bẩn thêm, Phật bảo nên để trong vật kê giữ; kê giữ trong vòng dây vẫn bị nghiêng đổ, Phật nói: “ống nhổ và chậu súc miệng nên làm có hình như chân voi, đáy lồi vào bên trong thì đặt trên đất an ổn”. Khi nhổ đàm vào ống nhổ có đáy lồi vào bên trong thì đàm dãi chảy xuống đọng lại ở chỗ lõm, Phật bảo dùng vật lót ở bên trong, Bí-sô không biết dùng vật gì lót, Phật bảo nên dùng cỏ hay đất cát. Lúc đó có nhiều ruồi bu đến, Phật bảo nên quạt đuổi đi ; ống nhổ có mùi hôi, Phật bảo nên rửa sạch; rửa rồi không phơi khô nên trùng sanh, Phật bảo nên phơi khô. Lúc đó do Bí-sô khạc nhổ không ngừng nên chờ phơi khô ống nhổ không được, Phật bảo nên dùng hai cái để thay đổi. Lúc đó Bí-sô tụng kinh, kinh hành dưới mái hiên rồi khạc nhổ bừa bãi, Phật bảo: “không nên như thế, ai khạc nhổ ừa bãi thì phạm tội Việt pháp. Nên đặt ống nhổ ở dưới cột trụ của bốn góc chùa, ai muốn khạc nhổ thì đến đó khạc nhổ”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, có Bí-sô tên là Mao huyết, do trong quá khứ đã trải qua năm trăm đời đọa vào địa ngục; khi được sanh vào cõi người thích ưa trang sức và sống hoan lạc, không nhớ đến cảnh khổ ở địa ngục nữa. Thời gian sau xuất gia trong Phật pháp, khi nghe Phật thuyết giảng về cảnh khổ khác nhau giữa các cõi địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh và trời người; Bí-sô này liền nhớ lại cảnh khổ đã thọ ở địa ngục đời trước, lúc đó các lỗ chân lông đều chảy máu làm ướt bẩn y và có mùi hôi; các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu có Bí-sô như vậy thì nên mặc áo lót thân”. Bí-sô này mặc áo lót thân bên ngoài bị chê trách, Phật bảo nên mặc bên trong. Lại có Bí-sô bị ghẻ lở lấy áo lót thân này lau, Phật nói: “không nên, nếu có máu mủ nên dùng lá cây nấu nước nóng để rửa sạch, cũng nên thường giặt sạch áo lót thân và phơi cho khô”. Duyên khởi tại thành Vương xá, cụ thọ Tất-lân-già-bà ta thường bị bịnh… như trên cho đến câu đáp: “trước kia tôi hay ngâm trong bồn sắt có nước thuốc nóng”, lại hỏi sao nay không làm như thế, đáp là Phật chưa cho, bạch Phật, Phật nói: “người bịnh được cất chứa bồn sắt để dùng”.Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, vào mùa hạ trời mưa, các Bí-sô đi nhiễu tháp bị bùn làm dơ chân, Phật nói: “nên lót gạch hoặc dùng gạch vun trộn với bùn nện cho cứng hoặc trải đá sỏi trộn với tro bùn”, chung quanh tháp quá rông nên làm không khắp hết, Phật nói nên làm trong phạm vi một tầm; cũng làm không khắp hết, Phật bảo nên lót ván; khó tìm được ván, Phật bảo nên xếp gạch theo từng bước đi. Lúc đó ở ngoài cửa chùa và trong chùa có nhiều vũng bùn, Phật bảo cũng làm theo cách trên. Duyên xứ như trên, lúc đó có trưởng giả làm thất nhỏ nơi A-lan- nhã cho Bí-sô ở, đến mùa lạnh Bí-sô bị lạnh nên đến nói với trưởng giả là muốn đi nơi khác, trưởng giả hỏi rõ nguyên do rồi nói: “Thánh giả hãy ở lại, tôi sẽ đưa ngọc Nhật quang cho Thánh giả lấy lửa để dùng”, đáp là Phật chưa cho, trưởng giả nói: “Phật từ bi sẽ khai cho dùng”, ba- ïch Phật, Phật nói: “nếu cần ngọc nhật quang thì cho được cất giữ để tùy thời lấy lửa dùng”, trưởng giả liền đưa ngọc cho Bí-sô cất dùng. Sau đó có năm trăm giặc cướp đi đánh cướp ngang qua chỗ Bí-sô xin lửa, Bí-sô nói: “hiện giờ không có lửa”, lại hỏi có cách gì lấy lửa, đáp là có ngọc Nhật quang. Bí-sô đưa ngọc cho giặc lấy lửa nên sau khi đánh cướp trở về, giặc trở lại chỗ Bí-sô đòi lấy ngọc rồi mang đi mất. Bí-sô lại bị lạnh nên đến nói với trưởng giả như trên, trưởng giả hỏi ngọc đâu, đáp là bị giặc cướp lấy đi mất, trưởng giả nói: “đó là vật quý, vì sao lại không cất giữ cẩn mật lại đưa cho giặc lấy mang đi, thật đáng tiếc”, bạch Phật, Phật nói: “ngọc quý như vậy không nên đưa ra cho giặc thấy, giống như ngọc Nhật quang, ngọc Nguyệt quang cũng vậy”. Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô nhờ người thợ giặt giặt y, người này vì nhận giặt nhiều y phục nên không giặt kịp. Chiều tối hôm đó Ô ba-nan-đà cầm y dơ cũ đến nhờ giặt, thợ giặt đáp: “hiện đang giặt nhiều y, y này sáng mai sẽ giặt”, Ô ba-nan-đà nổi giận, thợ giặt nói: “xin đừng giận, hãy để y lại tôi sẽ giặt ngay”, nói rồi liền ngâm y này chung với các y phục khác, màu đỏ của y làm ố màu các y phục khác, thợ giặt thấy rồi ưu sầu. Sáng hôm sau nhiều người đến lấy y phục thấy y phục bị ố màu liền chê trách, các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do nhờ giặt y màu đỏ nên có lỗi này, từ nay Bí-sô không được nhờ người giặt y màu đỏ, ai làm thế thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó Lục chúng Bí-sô đưa y trắng cho thợ giặt giặt, họ vò đập làm rách y, Phật nói: “Bí-sô không nên bảo thợ giặt giặt y của mình”. Lục chúng Bí-sô liền tự cầm y đến chỗ giặt y, lấy khăn quấn đầu rồi ngồi đó giặt y, mọi người thấy liền chê trách. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “Bí-sô không nên đến chỗ giặt y để giặt, ai làm thế thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô vò đập giặt y trên tấm ván lớn làm rách y, Phật nói: “không nên làm như thế, nên ngâm trong bồn nước nóng rồi dùng tay vò giặt từ từ cho sạch”. Lại có Bí-sô đau ở tay không giặt được, Phật bảo nên dùng chân ; lại có người bịnh không thể dùng tay hay chân để giặt y, Phật nói: “nếu nhờ người khác làm thì tự phải trông coi”. <篇> NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 15 Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ ba: Lau thân, cột cổ rồng, Đồ đá sanh nghi hoặc, Nhuộm y có nhiều việc, Tùy ý tô vẽ chùa. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô vừa tắm xong thân còn ướt liền mặc y làm cho y bị ố màu và có mùi hôi, bạch Phật, Phật nói nên dùng khăn lau thân. Lại có Bí-sô không có khăn, Phật nói: “tắm xong nên ngồi một lúc cho ráo rồi dùng y tắm lau khô thân mới được mặc y”. Lúc đó có Bí-sô mang dép da bị dính bùn đất nên chà đập dép làm cho dép bị đứt quai, Phật bảo không nên; lại đem rửa bằng nước làm cho dép bị hư, Phật bảo nên dùng khăn ướt lau. Phật tại nước Chiêm ba bên bờ hồ Yết già, lúc đó có rồng mẹ tín tâm thuần thiện nhưng rồng con thì không, rồng mẹ khuyên con đến chỗ các Bí-sô nghe pháp, rồng con không biến hình đến chỗ các Bí-sô. Có Bí-sô trẻ nhìn thấy hoảng sợ la lên khiến cho các Bí-sô chưa ly dục khác đều hoảng sợ, liền dùng dây cột cổ rồng kéo bỏ ra ngoài. Rồng con trở về, rồng mẹ hỏi: “vừa rồi con đến chỗ Thánh giả nghe pháp phải không?”, rồng con nói: “xin mẹ đừng nói đến những người không từ Ái ấy nữa”, rồng mẹ hỏi: “họ đã làm việc gì phi pháp đối với con?”, rồng con kể lại việc trên, rồng mẹ nói: “họ làm vậy mới gọi họ là Thánh giả, nếu là người khác thì chắc đã giết chết con rồi”, rồng con im lặng. Sau đó rồng con bị các bạn giễu cợt gọi là Cổ lở nên buồn rầu, thân vàng vỏ không có sắc lực; rồng mẹ hỏi rõ nguyên nhân rồi an ủi: “do con không biến đổi hình dạng nên có lỗi này, từ nay khi đến nghe diệu pháp, con nên biến hình để nghe; nếu giữ nguyên thân cũ thì phải ẩn mình để nghe”, rồng mẹ lại suy nghó: “Thánh giả dùng dây cột cổ rồng con gây khó cho người nghe pháp, ta nên đến bạch Phật việc này”. Vào giữa đêm, rồng mẹ đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên, thân quang chiếu sáng khắp hồ Yết già, bạch Phật rằng: “Thế tôn, rồng con thiếu lòng tin nên con khuyên nó đến nghe pháp, Thánh giả thấy nó liền dùng dây cột cổ nó ném ra ngoài khiến cổ của nó bị thương. Nó bị các bạn chế giễu gọi là Cổ lở nên nó buồn rầu, không còn sắc lực. Cúi xin Thế tôn chế ngăn các Thánh giả chớ dùng dây cột cổ rồng con, xin thương xót”, Thế tôn im lặng nhận lời, rồng mẹ đảnh lễ Phật rồi ra về. Sáng hôm sau, Phật ở trong Tăng bảo các Bí-sô: “đêm qua rồng mẹ đến chỗ ta, đảnh lễ rồi ngồi một bên, thân quang chiếu sáng khắp hồ Yết già, bạch rằng: “Thế tôn, rồng con thiếu lòng tin nên con khuyên nó đến nghe pháp, Thánh giả thấy nó liền dùng dây cột cổ nó ném ra ngoài khiến cổ của nó bị thương. Nó bị các bạn chế giễu gọi là Cổ lở nên nó buồn rầu, không còn sắc lực. Cúi xin Thế tôn chế ngăn các Thánh giả chớ dùng dây cột cổ rồng con, xin thương xót”. Này các Bí-sô, vì sao các thầy lại làm việc phi pháp này, nếu long thần kia sanh khinh mạn có thể làm cho chánh pháp đi đến chỗ tiêu vong. Từ nay các Bí-sô không nên dùng dây cột cổ rồng rắn, khi thấy chúng đến nên khảy móng tay bảo chúng đi đến chỗ khuất. Nếu chúng bỏ đi thì tốt, nếu không đi thì dùng cái chỉa hai như chân dê, nhẹ nhàng kẹp đầu của chúng bỏ vào trong ống có khoét lỗ ở bên hông, bịt miện rồi đem bỏ ra ngoài. Nếu không có cái chỉa hai thì dùng loại dây mềm cột cổ nó nhẹ nhàng kéo đi hoặc bỏ vào trong ống, đem thả nơi cây cỏ”. Khi đem bỏ ra chỗ cây cỏ, rắn nổi sân phun lửa, cỏ bị cháy rắn cũng bị chết, Phật bảo không nên bỏ trong bụi cỏ. Các Bí-sô đem bỏ nơi chỗ trống rồi đi, rắn bị các trùng khác ăn thịt, Phật nói: “khi thả ra không nên bỏ đi liền, đợi chúng bò vào hang rồi mới đi”. Duyên khởi tại thành Vương xá, trong thành có một trưởng giả giỏi làm các khí vật bằng đá, tùy thời cất chứa hay bán ra nên được nhiều lợi nhuận. Ông suy nghó: “làm phước nghiệp gì để được phước lợi lớn ngay trong đời này. Ta nên thỉnh Phật và Tăng đến nhà cúng duờng, đựng thức ăn trong các khí vật bằng đá này ắt sẽ được phước lợi lớn”, nghó rồi liền đến thỉnh Phật và Tăng đến nhà cúng dường… cho đến câu khi dâng cúng, trưởng giả đựng thức ăn trong khí vật mới dâng cúng cho Thượng tòa, đựng thức ăn trong khí vật cũ dâng cúng cho Hạ tòa nên các Bí-sô nghi không dám thọ, Phật nói phát xuất từ tâm thanh tịnh nên thọ. Thọ thực xong, Phật thuyết pháp cho trưởng giả nghe rồi ra về. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô cần nhuộm, Phật cho nhuộm, Bí-sô nấu cây nhuộm còn ướt để nhuộm, Phật bảo nên phơi cây cho khô rồi mới nấu nước nhuộm. Các Bí-sô nhuộm xong, phơi y vào giữa trưa nên màu nhuộm không đẹp, Phật bảo không nên phơi giữa trời trưa nắng. Các Bí-sô lại phơi y trong chỗ râm mát làm cho y bị mốc, Phật nói: “không nên phơi ở chỗ nắng quá cũng không râm mát quá, nên tùy thời phơi cho khô”. Lúc đó các Bí-sô để y cùng với cây nhuộm nấu chung nên y bị hư, Phật bảo nên nấu nước nhuộm riêng. Các Bí-sô nhuộm môt lần rồi đổ bỏ cây nhuộm, Phật bảo nên nấu nhuộm ba lần rồi mới bỏ; các Bí-sô nấu nước nhuộm ba lần lại để chung một chỗ, Phật bảo nên để riêng ba chỗ; khi để riêng lại không nhớ nước nhuộm nào trước, sau và giữa, Phật bảo nên ghi rõ thứ lớp. Lúc đó các Bí-sô rưới nước nhuộm lên y để nhuộm, Phật bảo không nên, nên đổ nước nhuộm vào chạâu rồi mới nhúng y vào nhuộm; do dùng nhiều nước nhuộm nên khi phơi bị chảy nước, Phật bảo không nên dùng nhiều nước nhuộm; lại dùng ít nước nhuộm nên màu nhuộm bị loang lổ, Phật bảo không nên nhiều hay ít quá, nên châm chước vừa phải. Lúc đó các Bí-sô phơi y trên đất làm y dính dơ, Phật bảo không nên; lại phơi y trên bò cỏ làm cho nước nhuộm nghiêng về một bên, Phật bảo nên phơi trên dây hay sào. Các Bí-sô lại vắt y trên dây nên bên trong không ăn màu, Phật nói: “nên trải y ra phơi trên dây, dùng kẹp tre kẹp lại cho chắc chắn, nếu sợ hư y thì dùng vật lót ở chỗ kẹp”; lại không thường trở y nên màu nhuộm chỉ một bên, Phật bảo nên trở nhiều lần. Lúc đó có Bí-sô may đại y nhiều lớp, nhuộm rồi phơi trên dây, y dầy nặng nên dây không chịu nổi; Phật bảo nên phơi trên cỏ, trở nhiều lần cho khô. Lại có người dùng nước nhuộm mới để nhuộm y cũ, hoặc đem y mới nhúng vào nước nhuộm cũ; Phật nói: “y mới dùng nước nhuộm mới, y cũ dùng nước nhuộm cũ, không nên làm khác”. Lại có người đem y mới phơi ở chỗ râm mát, y cũ phơi ở ngoài nắng, Phật nói: “y mới phơi ngoài nắng, y cũ phơi trong chỗ râm mát”. Lại có Bí-sô khi nhuộm y dùng nước ba để nhuộm y trước, kế dùng nước hai, cuối cùng mới dùng nước nhất, Phật nói: “dùng nước nhất để nhuộm trước, kế dùng nước hai và sau cùng là dùng nước ba”. Nhuộm y xong không xả lại nước, Phật bào nên xả lại nước; Bí-sô nhuộm y xong đem xả liền trong ngày ấy, Phật bảo nên đợi sáng hôm sau mới xả. Lúc đó khi đang nhuộm y gặp mưa gió, Bí-sô không biết nên phơi y chỗ nào, Phật bảo nên phơi trước hiên. Lại có Bí-sô nhuộm y trước hiên, nước nhuộm làm dơ đất, người tục trông thấy cho là máu chảy, Bí-sô nói: “không phải là máu mà là nước nhuộm y”, họ nghe rồi liền chê trách, Phật nói: “nên dùng phân bò hay đất trát láng chỗ đã nhuộm y”. Duyên xứ như trên, trưởng giả Cấp-cô-độc xây cất tinh xá cúng cho Phật và Tăng xong, thấy tường vách chưa tô vẽ nên suy nghó: “ta nên đến xin Phật cho tô vẽ vách chùa”, nghó rồi liền đến bạch Phật, Phật nói: “tùy ý”, trưởng giả không biết dùng màu sắc gì nên bạch các Bí-sô, các Bí-sô cũng không biết nên đến bạch Phật, Phật nói: “lành thay trưởng giả, nên dùng bốn màu xanh vàng đỏ trắng và tạp sắc để tô vẽ”. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ ba: Vật cần dùng làm chùa, Khoét giường, nghi lễ kính, Chứa riêng y cạo tóc, Vòng hoa treo chỗ ngủ. Duyên xứ như trên, trong thành có một trưởng giả, một Bí-sô khất thực thường đến nhà này khất thực và hướng dẫn trưởng giả thọ trì quy giới. Sau khi nghe thuyết giảng về bảy loại phước nghiệp, trưởng giả liền phát tâm muốn tu một loại phước nghiệp, Bí-sô nói nên làm, lại hỏi nên làm việc gì, đáp là nên xây cất trú xứ cho Tăng, trưởng giả nói: “Thánh giả, con có tài vật có thể xây cất chùa nhưng không có người coi giúp”, Bí-sô nói: “trưởng giả hãy lo đầy đủ vật liệu, tôi sẽ coi giúp cho ông”, trưởng giả nói lành thay rồi đưa tài vật cho Bí-sô, Bí-sô suy nghó: “tài vật này thuộc Tứ phương tăng, làm sao dùng mua vật liệu được, ta nên đến nơi khác xin vật liệu, còn tài vật này nên cất vào kho”. Thời gian sau, trưởng giả suy nghó: “Thánh giả hảo tâm coi giúp việc xây cất chùa, ta nên đến xem chùa xây như thế nào”, nghó rồi liền đến xem thì thấy chưa làm gì cả nên hỏi Bí-sô nguyên do, Bí-sô nói: “ông không đưa vật liệu thì làm sao xây cất”, trưởng giả nói: “tài vật đã đưa, vì sao không mua vật liệu”, Bí-sô nói: “tài vật đó thuộc Tứ phương tăng nên tôi không dám dùng”, trưởng giả nói: “làm chùa cho Tứ phương tăng thì dùng có lỗi gì”, Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “tài vật đó nên dùng để mua vật liệu xây cất chùa”. Sau đó trưởng giả thấy Bí-sô này theo thứ lớp khất thực liền hỏi: “Thánh giả coi việc xấy cất chùa vì sao còn phải đi khất thực, sao không trích dùng tài vật đó cho việc ăn uống, nếu thiếu con sẽ đưa thêm”, Bí-sô nói: “tôi không thể ăn dùng tài vật của Tứ phương tăng”, trưởng giả nói: “theo như con hiểu thì dùng nào có lỗi gì”, Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “người coi việc xây cất chùa được trích dùng tài vật xây cất chùa cho việc ăn uống”. Lúc đó Bí-sô trích dùng cho việc ăn uống nhưng chỉ ăn thức ăn thô dở, Phật bảo không nên ăn thức ăn quá thô dở; Bí-sô liền ăn thức ăn thượng diệu, Phật nói: “cũng không nên ăn thức ăn thượng diệu, nên ngó xem trong chùa khác ăn như thế nào mà ăn giống như họ”. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô đau bụng tiêu chảy, thường đi nên mệt nhọc, bạch Phật, Phật nói: “nên khoét lỗ nơi giường để thuận tiện đi”, Bí-sô khoét lỗ nơi giường tốt, Phật nói: “nên khoét lỗ nơi giường cũ hay giường dây, rọc theo sợi dây đan làm lỗ, sau khi hết tiêu chảy thì vá lại”. Lúc đó Bí-sô bị tiêu chảy thường đi nên phía dưới mông bị lở, Phật nói: “nên dùng vật mềm lót ở dưới bên cạnh lỗ, khi tiêu chảy nên dùng cái bô để ở dưới hứng chất bất tịnh, chớ để văng ra đất; nếu bô bốc mùi hôi nên thay cái khác”; hễ bô bốc mùi hôi bỏ lại thay cái khác nên không có đủ bô thay, Phật nói: “nên dùng hai cái thay đổi, một cái đang dùng, một cái rửa sạch rồi phơi khô; nếu bô rửa sạch vẫn còn bốc mùi thì nên bôi dầu”. Như Phật đã dạy nên săn sóc người bịnh, lúc đó các Bí-sô già trẻ đều đến thăm bịnh, người trẻ đến thì kính lễ bịnh nhân, người già đến thì bịnh nhân phải kính lễ nên bịnh càng nặng thêm, Phật nói: “thân người bịnh bất tịnh không nên kính lễ họ, được kính lễ người bịnh cũng không nên thọ và cũng không nên kính lễ người khác. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Cụ thọ Ưu-ba-ly bạch Phật: “như Phật đã dạy người không thanh tịnh không nên thọ người lễ kính, cũng không kính lễ người khác. Thế tôn, có mấy loại bất tịnh ô uế?”, Phật nói: “có hai: một là cắn nhai bất tịnh, hai là ô uế bất tịnh. Căn nhai bất tịnh tức là khi đang xỉa răng, đánh răng ; khi đang ăn các loại thức ăn và sau khi ăn xong chưa có súc miệng sạch thì đều gọi là bất tịnh. Ô uế bất tịnh là sau khi đại tiểu tiện, khi đang quét dọn chỗ bất tịnh và sau khi cạo tóc xong mà chưa tắm rửa hoặc rửa tay chân sạch sẽ thì đều gọi là bất tịnh. Khi đang bất tịnh như vậy mà thọ người lễ kính hay kính lễ người thì đều phạm Ác tác”. Duyên xứ như trên, cụ thọ Ưu-ba-ly bạch Phật: “như Thế tôn nói Bà-la-môn Diệu hoa nói rằng: “thưa Kiều-đáp-ma, khi con đang đi xe mà nắm giữ cương ngựa lại hoặc giơ roi gọi lớn thì ngay lúc đó Phật biết là con đảnh lễ Phật và thăm hỏi sức khỏe của Phật. Khi con đang đi bộ mà tháo giày ra hoặc đi tránh qua bên đường hoặc giơ tay chào thì ngay lúc đó Phật biết là con đảnh lễ Phật và thăm hỏi sức khỏe của Phật. Khi thấy con đang bàn luận với mọi người mà rời khỏi chỗ ngồi hoặc cởi thượng y hoặc lấy mũ ra khỏi đầu thì ngay lúc đó Phật biết là con đảnh lễ Phật và thăm hỏi sức khỏe của Phật”. Thế tôn, không biết trong Thánh giáo của Phật cũng có pháp kính lễ như vậy không?”, Phật nói: “không nên kính lễ bằng hành động như vậy, hễ miệng nói lễ kính thì chỉ là khẩu nghiệp lễ kính ; nếu khom người lễ kính là thân nghiệp lễ kính đều chưa đầy đủ. Này Ưu-ba-ly, trong pháp luật của ta có hai cách lễ kính: một là năm vóc gieo sát đất, hai là cúi đầu đảnh lễ, hai tay chạm vào bàn chân, miệng nói xin kính lễ; người thọ lễ kính nói là vô bịnh. Nấu ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ như trên, lúc đó các Bí-sô tùy tiện mặc các loại y mà cạo râu tóc, sau đó lại đi thọ thực và lễ bái Đại sư. Người không có tín tâm thấy rồi liền chê trách: “Sa môn Thích tử không thanh tịnh, mặc y đó cạo tóc rồi lại đi thọ thực và lễ bái Đại sư thì làm sao khiến chúng tôi kính trọng được”, các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “không nên mặc một trong ba pháp y để cạo tóc, nên chứa riêng cái y cạo tóc”. Lúc đó có Bí-sô nghèo thiếu khó có được y này, Phật nói: “nên dùng y Tăng khước kỳ che thân để cạo tóc”. Các Bí-sô sau khi cạo tóc không tắm gội sạch sẽ nên bị chê trách, Phật bảo cạo râu tóc xong nên tắm gội sạch sẽ; lại có Bí-sô già bịnh sức yếu không thể đi lấy nước tắm, Phật nói: “nếu có người như vậy thì nên rửa năm chi thân phần là đầu và hai tay, hai chân”. Duyên xứ như trên, lúc đó có các cư só, Bà-la-môn tín tâm đem vòng hoa đẹp đến cúng cho các Bí-sô, Bí-sô không thọ nên các cư só nói: “khi Phật chưa ra đời, chúng tôi xem ngoại đạo là chỗ tu phước; nay Phật ra đời, chúng tôi xem các vị là đại phước điền. Vì sao các vị không thọ vật của chúng tôi cúng, há không phải khiến chúng tôi bỏ tư lương tốt thú hướng cho đời sau hay sao?”. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật bảo nên thọ, các Bí-sô thọ rồi liền vất xuống đất ở trước mặt thí chủ, các cư só nói: “Thánh giả, chúng tôi mua với giá rất mắc, vì sao lại vất bỏ như thế?”, Phật bảo: “không nên thọ rồi lại xem thường đem vất bỏ trước mặt thí chủ, nên đem cúng dường tháp thờ móng tay và tócPhật”. Khi các Bí-sô đem cúng dường ở tháp thờ tóc, móng tay của Phật thì thí chủ nói: “há chúng tôi không biết có tháp để cúng dường hay sao, chúng tôi đã cúng dường cho tháp rồi, còn đây là cúng cho các vị dùng”, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “nên đem treo ở cửa phòng”. Khi đem treo ở cửa phòng, khách viếng thăm cho là điện Phật nên lễ bái, Phật nói: “đừng treo ở ngoài cửa, nên treo trong phòng”; treo ở chỗ hiển lộ cũng bị lỗi như trên, Phật nói: “nên treo ở chỗ khuất có thể ngửi được mùi thơm, có thể làm cho mắt sáng”; Bí-sô không biết chỗ nào là chỗ khuất, Phật nói nên treo ở chỗ nằm. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ ba: Tòa ngồi và giường tốt, Bột thơm, lồng đựng bát, Lọ dầu, đi ( nên ) nói pháp, Đãy y, ba loại dây. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, Phật bảo các Bí-sô: “nếu được tòa ngồi, giường tốt thì Tăng già được thọ, cá nhân không được thọ; được giường ghế dựa, Tăng cũng được thọ, cá nhân không được thọ”. Duyên xứ như trên, lúc đó có các cư só, Bà-la-môn tín tâm đem hương bột đến cúng cho các Bí-sô, Bí-sô không thọ nên các cư só nói: “khi Phật chưa ra đời, chúng tôi xem ngoại đạo là chỗ tu phước; nay Phật ra đời, chúng tôi xem các vị là đại phước điền. Vì sao các vị không thọ vật của chúng tôi cúng, há không phải khiến chúng tôi bỏ tư lương tốt thú hướng cho đời sau hay sao?”. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật bảo nên thọ, các Bí-sô thọ rồi liền vất xuống đất ở trước mặt thí chủ, các cư só nói: “Thánh giả, chúng tôi mua với giá rất mắc, vì sao lại vất bỏ như thế?”, Phật bảo: “không nên thọ rồi lại xem thường đem vất bỏ trước mặt thí chủ, nên đem thoa trên đất ở trước tháp Phật để cúng dường”. Khi các Bí-sô đem hương thơm này thoa trên đất ở trước tháp thờ tóc, móng tay của Phật để cúng dường thì thí chủ nói: “há chúng tôi không biết có tháp để cúng dường hay sao, chúng tôi đã cúng dường cho tháp rồi, còn đây là cúng cho các vị dùng”, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “nên đem thoa ở cửa phòng”. Khi đem thoa ở cửa phòng, khách viếng thăm cho là điện Phật nên lễ bái… như trên cho đến câu thoa trên tường, mũi thường ngửi mùi thơm sẽ làm cho mắt sáng. Lúc đó có trưởng giả thỉnh các Bí-sô đến nhà cúng dường rồi dùng hương bột thượng hạng thoa lên chân của Bí-sô, Bí-sô không thọ, trưởng giả nói: “các Bà-la-môn kính tin, người khác cúng hương bột đều nhận, dùng để thoa trên đầu hay trên thân. Nay tôi tín kính nên thoa hương bột lên chân các thầy, vì sao lại không thọ?”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói cho thọ, Bí-sô thọ rồi vất bỏ… như trên cho đến câu Phật nói không nên vất bỏ trước mặt họ. Duyên xứ như trên, lúc đó các Bí-sô để bát bừa bãi làm bể, Phật bảo: “không nên để bát bừa bãi, nên làm tủ đựng bát”, các Bí-sô đục tường làm tủ, Phật nói: “không nên làm vậy, khi bắt đầu làm chùa nên làm tủ đựng bát trong các phòng”. Lúc đó các Bí-sô ở A-lan-nhã không có chỗ làm tủ đựng bát, Phật nói: “nên dùng dây sắn hay cỏ bện thành cái lồng, trát phân bò hay bùn bên ngoìa rồi đựng bát bên trong” ; lại có bụi đất bay vào, Phật nói: “nên làm nắp đậy, không nên để ngoài đất, nên làm dây treo trên cành cây”. Khi đi khỏi A-lan-nhã, các Bí-sô mang lồng đựng bát theo, người không có tín tâm thấy liền chê cười nói rằng: “thầy đang mang lồng gà hay lồng nhốt khỉ vậy?”, Phật nói: “khi đi không nên mang theo lồng đựng bát, nên để lại chỗ cũ”. Duyên xứ như trên, có Bí-sô du hành trong nhân gian, đến một tụ lạc tìm chỗ nghỉ đêm, chủ nhà cho ở, Bí-sô rửa chân rồi xin dầu thoa nhưng không có vật đựng nên đưa tay để thọ, cô gái trong nhà nói: “Thánh giả biết xin dầu mà lại không đưa vật đựng”, đáp là Phật chưa cho,sau đó bạch Phật, Phật nói nên mang theo vật đựng dầu. Lúc đó Ô ba-nan-đà dẫn theo hai đệ tử đều cầm bình đựng dầu để xin dầu, người mang dầu đến cúng thấy vật đựng quá lớn liền chê trách: “Thánh giả, ai có thể cho đầy bình dầu này”, Ô ba-nan-đà nói: “bà keo kiệt quá, hãy cho theo ý của bà, sẽ có các Bà-la-môn tín tâm khác cho thêm”, người kia im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “không được mang bình quá lớn để xin dầu”. Sau đó các Bí-sô mang lọ quá nhỏ để xin dầu nên không đủ dùng, Phật nói: “không nên mang lọ quá nhỏ, vật đựng dầu có ba loại: loại lớn đựng được hai muỗng dầu, loại nhỏ đựng được một muỗng, loại vừa ở giữa hai loại trên”. Duyên xứ như trên, có hai Bí-sô một già một trẻ đi đường, vừa đi vừa nói lời phi pháp. Có Dược xoa không tín tâm nghe rồi liền suy nghó: “hai Thích tử này đi đường nói lời phi pháp, ta nên hút tinh kí của họ”, nghó rồi liền đi theo sau và suy nghó: “việc trước bỏ qua không truy cứu nữa, nếu họ còn nói phi pháp nữa thì ta sẽ hút tinh khí”. Khi đi theo sau, có một Dược xoa khác tín tâm thấy liền hỏi Dược xoa này muốn làm gì, Dược xoa này kể lại việc trên, Dược xoa kia nói: “họ vừa đi vừa nói chắc là nói pháp, ngươi đừng theo Bí-sô nữa, hãy cùng ta nói chuyện”, Dược xoa này nói: “nhưng tôi không tha cho họ được”, hai Dược xoa đi theo sau, hai Bí-sô đi đến ngã rẽ chia tay, một người đi đến vườn Cấp, một người đi đến vườn Lộc tử mẫu. Lúc đó vị nhỏ đảnh lễ Thượng tòa chúc đi bình an, Thượng tòa nói: “chúc thầy không bịnh, chớ có phóng dật”, Dược xoa này liền hiện tướng muốn hút tinh khí, Dược xoa kia nói: “ngươi không nên hấp tấp, hai Bí-sô đó đã nói diệu pháp, ngươi không hiểu nên sân hận”, Dược xoa này hỏi như thế nào là diệu pháp, Dược xoa kia nói: “ngươi há không nghe vị lớn chúc không bịnh, chớ có phóng dật hay sao; được không bịnh, Phật gọi là đại lợi; không phóng dật là gốc của các điều thiện. Như Phật đã dạy rằng: Nếu người không phóng dật, Được đến nơi bất tử; Nếu ai sống phóng dật, Rốt cuộc về nẽo chết”. Dược xoa này nghe rồi hoan hỉ quay trở về. Dược xoa kia suy nghó: “đây là việc mà ta nên làm, ta nên đến bạch Thế tôn việc này”, nghó rồi liền đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch Phật: “Thế tôn, có các Dược xoa là chúa của phi nhân có tâm tín kính Phật pháp, nhưng cũng có Dược xoa không có tín tâm; đối với Phật pháp, chúng Dược xoa phần nhiều không tín kính. Nếu có Bí-sô khi đi đường luận bàn phi pháp thì sợ Dược xoa không tín tâm nghe được, sẽ làm việc bất lợi. Cúi xin Thế tôn chế ngăn các Bí-sô thường giữ chánh niệm khi đi đường, chớ bàn nói phi pháp”, Phật nghe rồi im lặng nhận lời, Dược xoa biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ rồi ra về. Sau đó Phật ở trong đại chúng bảo các Bí-sô: “Dược xoa vừa đến bạch với ta rằng: có Bí-sô đi đường, vừa đi vừa bàn luận phi pháp, Dược xoa bất tín nghe được sẽ làm việc bất lợi. Từ nay ta chế định hành pháp cho Bí-sô đi đường có hai việc nên làm: một là nói pháp ngữ, hai là im lăng như bậc Thánh; đến chỗ dừng nghỉ nên đọc Thánh kệ: Năm dục lạc thế gian, Hoặc là các thiên lạc, So với lạc Ái tận, Không bằng một phần ngàn. Do Tập hay sanh Khổ, Nhân Khổ lại sanh Tập, Bát Thánh đạo vượt qua, Được đến diệu Niết-bàn. Người đã làm bố thí, Chắc chắn được nghóa lợi. Nếu vì vui nên thí, Sau sẽ được an lạc”. Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô may ba y xong, vắt trên vai đi đường, y bị thấm mồ hôi và bụi đất làm dơ, Phật bảo nên may đãy đựng y mắc trên vai mà đi. Bí-sô không biết may đãy đựng y như thế nào, Phật nói: “chiều dài ba gang, chiều rông một gang rưỡi”, Bí-sô xếp đôi chiều rộng lại may, một đầu làm miệng túi, hình như cái vòi voi, Phật nói: “không nên may như vậy, nên may miệng túi ngay ở giữa”. May đãy y xong không tra nút nên bui đất rơi vào, Phật bảo nên tra nút; khi để y vào trong đãy, Bí-sô để y thường dùng ở bên dưới, y không thường dùng ở bên trên nên khó lấy dùng, Phật nói: “cái thường dùng để ở trên, cái không thường dùng để ở dưới”. Duyên xứ như trên, lúc đó có đám giặc cướp của người, người bị cướp bỏ chạy, giặc đuổi rượt theo vào trong làng, người trong làng bủa ra xua đuổi, giặc bỏ chạy tứ tán. Giặc khát nước tìm thấy giếng nhưng không có dây và gầu, chúa giặc sai người leo lên cây nhìn đằng xa xem có ai đến thì hỏi mượn dùng. Họ thấy Bí-sô sắp đi đến nên nói với nhau: “các Thích tử chắc có mang theo dây và gầu, nếu có thì tốt, nếu không có thì mổ bụng họ lấy máu uống”, khi Bí-sô đi đến giặc liền hỏi có mang theo dây và gầu không, đáp là không có, giặc nghe rồi liền nhốn nháo lên. Lúc đó bậc thượng thủ trong các Bí-sô là bậc A-la-hán liền quán xem vì sao họ lại nhốn nháo lên, liền biết là bọn giặc muốn giết các Bí-sô, quán biết rồi liền hỏi giặc: “vì sao trong lòng các vị rối loạn như vậy?”, giặc nói rõ nguyên do, vị A-la-hán nói: “các vị chớ lo, tôi sẽ lo liệu làm cho các vị có được nước trong uống no đủ”. Nói rồi liền lấy dây lưng của các Bí-sô nối nhau lại rồi cột cái bát làm gầu thả xuống giếng múc nước lên, quán thấy không có trùng liền đưa cho họ uống no đủ. Giặc vui vẻ nói: “nếu không có nước chắc chúng tôi đã giết các thầy rồi, lành thay các thầy nên mang theo dây và gầu”, vị A-la- hán nói: “sẽ làm theo lời ông nói”, bọn giặc đảnh lễ vị A-la-hán rồi ra đi. Các Bí-sô cũng uống nước rồi múc nước đựng đầy bình lượt và bình rửa mới tiếp tục lên đường đến vườn Cấp. Đến nơi cựu Bí-sô chào hỏi thiện lai và hỏi đi đường có an ổn không, khách Bí-sô đem việc trên kể lại, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “từ nay các Bí-sô nên mang theo dây gầu”. Các Bí-sô mang theo dây quá dài, Phật bảo không nên; lại mang theo dây quá ngắn, Phật nói: “cũng không nên, dây có ba loại: loại dài là một trăm năm mươi khuỷu tay, loại ngắn là mười khuỷu tay, loại vừa là ở giữa hai loại trên”; lại có Bí-sô đi đến nơi có nước đầy đủ vẫn mang theo dây gầu dài, Phật nói: “nên xét chỗ đến, tùy nơi mà mang theo dây ngắn hay dài”. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ ba: Nên chứa dao cạo tóc, Vật dụng cắt móng tay… Kê chân giường, gối nằm, Được dùng hương xông đất. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô tóc đã dài nên đến chỗ thợ cạo nhờ cạo tóc, người thợ này suy nghó: “các Thích ca tử này đều là người ở không, chỉ muốn nhờ làm giùm, không trả tiền; nếu ta làm thì họ sẽ tiếp tục đến nhờ vả mãi, công việc của ta sẽ bỏ phế, ta nên hẹn lần lữa”, nghó rồi liền nói với Bí-sô: “hôm nay tôi bận, sau giờ ngọ hãy đến”, Bí-sô theo lời chiều đến, thợ lại hẹn sáng mai, ngày mai đến lại hẹn ngày sau, cứ như thế hẹn lần lữa khiến Bí-sô tới lui mệt nhọc. Một Bí-sô quen biết thấy vậy liền hỏi: “tôi thấy thầy thường lui tới nhà này, họ là môn đồ hay là bà con với thầy?”, đáp: “họ không phải là môn đồ cũng không phải bà con, chỉ là tóc tôi dài muốn nhờ họ cạo giùm, nhưng họ cứ hẹn lần lữa mãi khiến tôi tới lui mệt nhọc”, Bí-sô kia nghe rồi nói: “thầy không nghe nói thợ giỏi thường không nói thật hay sao, tôi biết cạo tóc, nếu Phật khai cho thì tôi sẽ cạo tóc cho thầy”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “nếu Bí-sô nào biết cạo tóc thì nên ở chỗ khuất cạo cho nhau, dù có người thấy cũng không bị cơ hiềm”, được Phật khai cho, Bí-sô này liền đến nói với Bí-sô kia và nhờ cạo tóc giùm, Bí-sô kia nói: “không lẽ tôi dùng ngón tay cạo tóc cho thầy hay sao, cần phải có tư cụ nữa mới cạo được”, liền bạch Phật, Phật nói: “do nhân duyên này, từ nay khai cho Tăng được cất chứa tư cụ như dao cạo, kéo…” Phật tại vườn cây Đa căn, thành Kiếp-tỷ-la, lúc đó Phật cho mỗi gia đình họ Thích được xuất gia một người, các vị mới xuất gia này nằm trên giường thấp không có kê chân nên nằm ngủ không an. Thân họ vốn mềm mại, xuất thân cao quý quen nằm trên giường cao rộng lớn, nay nằm giường thấp nên nhiệt độ trong người giảm, thân không an bèn đến chỗ thấy thuốc xin điều trị. Thầy thuốc nói: “hãy dẫn tôi đến phòng của thầy xem chỗ nằm như thế nào” , đến nơi thấy giường thấp liền nói: “vì đầu giường của thầy thấp nên làm cho nhiệt độ của bốn đại giảm, thầy hãy kê chân giường lên cao một chút”, Bí-sô nói Phật chưa cho, thầy thuốc nói: “Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho”, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “nếu thầy thuốc bảo thì nên kê chân giường lên cao để nằm”. Kê chân giường lên cao rồi vẫn không hết bịnh, thầy thuốc nói nên dùng gối nằm… cho đến câu Phật nói nên dùng gối. Bí-sô không biết may gối nằm như thế nào, Phật nói: “dùng vải dài bốn gang tay, rộng hai gang tay, xếp đôi lại may như cách may đãy y, dồn gòn bên trong rồi may kín miệng”. Duyên khởi tại thành Xá vệ, cụ thọ Tất-lân-già-bà ta bị bịnh… như trên cho đến câu đáp: “trước kia dùng hương xông đất để trị bịnh”, lại hỏi sao nay không dùng, đáp là Phật chưa cho, bạch Phật, Phật nói cho người bịnh được dùng hương xông đất. Tổng nhiếp tụng Biệt môn thứ tư: Thượng tòa, tường, hàng rào, Viền rách và nuôi bịnh, Chiên đồ, heo. Mía, chùa, Bát, theo cách trồng cây. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư: Thượng tòa luân phiên thuyết, Hoặc cùng thuyết đến hết, Nước lượt là phi thời, Chỗ không làm giới hạn. Như Phật đã dạy mỗi nửa tháng nên làm lễ trưởng tịnh, Bí-sô không biết sai ai thuyết giới, Phật nói: “nên cử Thượng tòa, khi thuyết giới Thượng tòa thường nên tụng”. Có một trú xứ, Thượng tòa không tụng được, các Bí-sô không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: “nếu Thượng tòa không tụng được thì vị thứ hai nên tụng”. Lại có trú xứ, vị thứ hai cũng không tụng được, Phật bảo vị thứ ba nên tụng; lại có trú xứ vị thứ ba cũng không tụng được, Phật nói: “các Bí-sô nên luân phiên thuyết giới”. Khi Bí-sô luân phiên, có vị thuết đươc, có vị không thuyết được, không biết làm sao, bạch Phật, Phật nói: “người không thuyết được nên cầu vị thuyết được”; khi đến cầu vị thuyết được thì vị này không chịu thuyết, không biết làm sao, bạch Phật, Phật nói: “phải thỉnh trước người thuyết được giới”. Lại có trú xứ không ai tụng được hết giới, Thượng tòa chỉ tụng được bốn Ba-la-thị-ca, những thiên giới khác thì không tụng được nên các Bí-sô không thuyết giới nữa. Phật nói: “không nên tất cả đều ngưng thuyết giới, tùy tụng được đoạn nào thì tụng đoạn ấy. Nếu Thượng tòa tụng được đến hết bốn Ba-la-thị-ca, vị thứ hai nên tụng tiếp thiên Tăng tàn, vị kế nữa nên tụng tiếp hai Bất định, vị kế nữa nên tụng tiếp thiên Xả đọa, vị kế nữa nên tụng tiếp thiên Ba dật đề, vị kế nữa nên tụng tiếp thiên Đối thuyết, vị kế nữa nên tụng tiếp thiên Chúng học pháp, vị kế nữa nên tụng tiếp Bảy diệt tránh… không được không tụng giới”. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, cụ thọ Ưu-ba-ly hỏi Phật: “như Phật đã dạy về nước dùng đúng thời và phi thời, thế nào gọi là nước dùng đúng thời và phi thời?”, Phật nói: “nước không lượt là Thời, nước được lượt sạch là Phi thời, lấy nước nhỏ giọt cũng gọi là sạch”. Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô thường bị đa dục, ác dục, xẻn tham… trói buộc, khi đến trú xứ khác thường phi lý thọ dụng hoặc tất cả thời, hoặc phân chia phòng, hoặc nhật phần thời hoặc thân hữu thời. Tất cả thời là nói đây là trú xứ mùa xuân hoặc mùa hạ hoặc mùa đông của tôi. Phân chia phòng là nói phòng này của tôi, phòng kia của người khác. Nhật phần thời là nói trú xứ này để ở vào buổi sáng, trú xứ kia để ở vào buổi chiều. Thân hữu thời là chỗ này của Quỹ phạm sư tôi, chỗ đó là của Thân giáo sư tôi, chỗ kia là của đệ tử tôi… Do đây có nhiều người tới lui xúc não các Bí-sô nên các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Bí-sô không nên ở trong trú xứ tự phân chia giới hạn, ai phi lý thọ dụng như vậy thì phạm tội Việt pháp”.  CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ <卷>QUYỂN 16 Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư: Tường, dao cạo tóc Ni, Không mặc y láng đẹp, Được ít cũng chia đều, Pháp tẩy tịnh nên biết. Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, sau khi trưởng giả Cấp-cô- độc cúng tinh xá cho Phật và Tăng thì đạo tục đều lui tới quá đông, trưởng giả suy nghó: “nay vườn chùa biến thành đại lộ, ta nên xây tường cao chung quanh”, nghó rồi liền đem việc này bạch Phật, Phật nói tùy ý làm. Trưởng giả liền cho xây tường cao chung quanh, đến mùa hạ trời mưa nước không có chỗ thoát nên ứ đọng thành vũng. Trưởng giả khi đến lễ Phật thấy việc này rồi suy nghó: “trước đây ta xây tường không làm cống thoát nước nên nước ứ đọng thành vũng. Nếu Phật cho ta làm cống thoát nước thì tốt”, nghó rồi liền bạch Phật, Phật nói tùy ý làm. Lúc đó trâu bò cạ thân mình hay húc sừng vào tường làm cho tường bị hư hoại, trưởng giả thấy rồi suy nghó: “ta tuy làm tường nhưng chưa làm hàng rào gỗ…” cho đến câu Phật nói tùy ý làm. Sau đó có kẻ xấu lấy trộm gỗ mang đi, trưởng giả thấy hàng rào nghiêng ngả nên xin Phật cho làm hào ngoài hàng rào, Phật nói tùy ý làm, trưởng giả liền làm hào quanh hàng rào. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô ni tên là Để lệ tóc quá dài đến chỗ thợ cạo tóc nhờ cạo giùm… giống như trên cho đến câu Phật cho Ni tăng được chứa dao cạo tóc… và cạo tóc cho nhau ở chỗ khuất, giống như trường hợp của Tăng ở trên. Duyên xứ như trên, sau khi Phật độ Nan-đà xuất gia, nàng Tôn-đà-la may pháp y láng đẹp rồi ủi thật thẳng gửi tới cho Nan-đà mặc. Nan-đà mặc y đẹp này rồi mang cái bát thượng hạng đi nhanh trước đại chúng, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “do mặc y láng đẹp nên có lỗi này, từ nay Bí-sô nào mặc y láng đẹp thì phạm tội Việt pháp, vì sao, vì đây là việc phi pháp không nên làm”. Sau đó có Bà-la-môn, cư só tín tâm đem y láng đẹp đến cúng cho các Bí-sô, Bí-sô không thọ nên các cư só nói: “khi Phật chưa ra đời, chúng tôi xem ngoại đạo là chỗ tu phước; nay Phật ra đời, chúng tôi xem các vị là đại phước điền. Vì sao các vị không thọ vật của chúng tôi cúng, há không phải khiến chúng tôi bỏ tư lương tốt thú hướng cho đời sau hay sao?”, bạch Phật, Phật nói: “được thọ nhưng thọ rồi nên làm cho mất vẻ láng đẹp của y mới được tùy ý thọ dụng”. Lúc đó Bí-sô dùng tay chà vuốt cũng không làm mất được vẻ láng đẹp, Phật nói: “nên để nơi đất trống làm cho ướt rồi chà vuốt”; cũng không làm mất vẻ láng đẹp, Phật bảo nên ngâm nước rồi tùy ý thọ dụng. Duyên xứ như trên, lúc đó các Bà-la-môn, cư só trong thành có việc quan trọng nên hội họp trong giảng đường để cùng bàn luận. Có người nói rằng: “Sa môn Thích tử được lợi dưỡng rồi không có chia đều cho nhau, không bằng ngoại đạo”, có một Bà-la-môn vốn không có tâm tịnh tín nói: “nếu vậy sáng mai tôi cùng các vị đến xem thử chúng của Sa môn Kiều-đáp-ma có chia đều cho nhau hay không?”, mọi người nói được. Bà-la-môn này liền đem hai tấm bạch điệp đến trong rừng Thệ đa đưa cho Thượng tòa nói là cúng cho Tứ phương tăng thọ dụng, Thượng tòa nhận rồi nói: “chúc nhân giả khỏa mạnh trường thọ, nhân giả cúng dường vải này chính là trang nghiêm cho tâm, trợ giúp cho tâm, khéo hộ trì định lực thù thắng để đắc quả Bồ-đề vi diệu, được thọ phước thù thắng ở cõi người và cõi trời”, Bà-la-môn nghe rồi giả thái độ cung kính rồi ra về. Lúc đó Phật bảo A-nan: “thầy đến bảo các Bí-sô rằng: Bà-la- môn ấy đến chùa cúng vải là muốn tìm khuyết điểm của Tăng nên các Bí-sô phải đem vải ấy chia đều cho nhau, được một miếng nhỏ thì dùng để vá y hoặc làm dây nút hoặc làm khăn tay mang theo người để dùng”, A-nan vâng lời Phật đến bảo các Bí-sô, các Bí-sô y theo lời Phật dạy phụng hành. Sáng hôm sau, Bà-la-môn này đứng ở cửa thành đón các Bí-sô vào thành khất thực để hỏi thăm: “Thánh giả, xấp vải tôi cúng cho Tăng, các vị thọ dụng như thế nào?”, một Bí-sô nói: “sau khi thọ vải này, Tăng chia đều cho nhau, phần của tôi dùng để vá y”, Bí-sô khác nói: “phần của tôi dùng làm dây nút”, Bí-sô khác nói: “phần của tôi dùng làm khăn tay mang theo người để dùng”. Bà-la-môn nghe rồi liền suy nghó: “những lời họ luận bàn đều là không thật, lại còn khinh mạn hủy báng Sa môn Thích tử. Nay ta mới nghiệm biết các Bí-sô là bậc có đầy đủ đức hạnh, công bằng không thiên tư, ta nên đến đó xuất gia”, Bà-la-môn phát khởi lòng tin rồi liền đi đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, xin cho con được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô, tu tập phạm hạnh”, Phật nói: “lành thay, ông có thể phát tâm thắng thượng này mà cầu xuất gia. Bậc trí biết rõ xuất gia có năm lợi thù thắng (sẽ nói rõ ở dưới) … vì vậy nên cầu xuất gia”, nói rồi Phật bảo thiện lai Bí-sô, Bà-la-môn liền được xuất gia trở thành Bí-sô, siêng tu chánh niệm, dõng mãnh tinh tấn … không bao lâu sau đoạn hết phiền não chứng quả A-la-hán… Thích Phạm chư thiên đều cung kính. Sau đó Phật bảo các Bí-sô: “biết lượng mà thọ thí, chia đều cho nhau được lợi ích như vậy. Thế nên các Bí-sô, từ nay nếu được thức ăn bánh trái dù ít cũng nên chia đều cho nhau, được y vật cũng nên chia đều, một miếng vải nhỏ thì dùng làm tim đèn”. Duyên xứ như trên, lúc đó trong thành có một Bà-la-môn tánh thích sạch sẽ, mong cầu xuất gia, ông suy nghó: “nếu ở đâu có pháp tẩy tịnh hợp với tâm ta thì ta sẽ xuất gia ở chỗ đó”, nghó rồi đi khắp nơi tìm. Ông trải qua những chỗ tu hành của ngoại đạo và Bà-la-môn, thấy có người đi đại tiểu tiện xong không có tẩy tịnh, có người xuống ao nước dùng hàng trăm cục đất để tẩy tịnh nhưng vẫn dơ bẩn và nhiều rắc rối nên ông không vừa ý, không muốn theo họ xuất gia. Ông lại suy nghó: “ta đã đi khắp nơi xem xét nhưng đều không vừa ý, chỉ còn chỗ của Sa môn Thích tử là chưa đến”, nghó rồi liền đi đến trong rừng Thệ đa. Đúng lúc đó ông thấy cụ thọ Xá-lợi-phất đang cầm bình quân trì đựng chừng ba thăng nước đến nhà xí, thấy rồi liền suy nghó: “đây là đệ tử thượng thủ của Sa môn Kiều-đáp-ma, ta nên đến xem thầy ấy tẩy tịnh như thế nào”, nghó rồi liền đi theo sau. Nếu vị A-la-hán không nhập định thì không thể quán biết được tâm ý của người khác, lúc đó Xá-lợi- phất thấy có người đi theo sau liền chánh niệm quán sát Bà-la-môn vì sao lại đi theo sau mình, liền quán biết người muốn tìm hiểu sự sạch sẽ của nình nên mới theo sau. Tôn giả lại quán người này có thiện căn hay không và có nhân duyên với ai, liền quán biết người này đời trước có gieo trồng thiện căn và có nhân duyên với mình. Quán biết rồi tôn giả liền xếp pháp y ở trên đầu gió,chỉ mặc Tăng khước kỳ và hạ quần, kế để bảy cục đất vụn, hình như nửa trái đào xếp thành một hàng ở một bên trên gạch đá, bên này cũng xếp một hàng bảy cục đất và để riêng một cục đất khác. Sau đó cầm mấy cái lá và ba cục đất đi vào nhà xí nhưng không đóng cửa lại, ý muốn cho Bà-la-môn nhìn thấy. Sau khi đại tiểu tiện xong, dùng lá cây chùi sạch rồi dùng tay trái cầm cụ đất tẩy tịnh chỗ đại tiện, kế dùng một cục đất tẩy tịnh chỗ tiểu tiện, sau cùng dùng một cục đất tẩy tịnh tay trái. Tay phải lúc đó cầm bình nước rửa đến chỗ để mấy cục đất, để bình nước trên đùi trái nghiêng xuống cho chảy nước từ từ, trước dùng từng cục đất trong hàng có bảy cục đất để tẩy tịnh tay trái, kế dùng từng viên trong hàng bảy cục đất kia để tẩy tịnh cả hai tay đều sạch rồi dùng một cục đất còn lại để chùi rửa bình rửa. Xong đâu đó rồi ra khỏi nhà xí, mặc pháp y, rửa hai chân vào trong phòng dùng nước sạch súc miệng ba lần mới đi làm việc khác. Bà-la- môn nhìn thấy rồi liền phát khởi lóng tin sâu xa, nghó rằng: “lành thay, pháp thiết yếu như thế, không thể làm hơn được nữa. Ngoại đạo dùng cả trăm cục đất không bằng Thích tử chỉ dùng mười bốn cục đất”, nghó rồi liền đến chỗ tôn giả Xá-lợi-phất đảnh lễ và chắp tay bạch rằng: “Tôn giả, xin cho con được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô, tu tập phạm hạnh, sống không phóng dật”, Xá- lợi-phất nói: “lành thay Bà-la-môn, ông có thể phát tâm thắng thượng này mà cầu xuất gia. Như Phật đã dạy người trí thấy năm điều nên cầu xuất gia trong thiện pháp luật: một là ta được tự lợi, người khác không có; hai là tự biết mình thuộc giai cấp hạ tiện bị người sai khiến, sau khi xuất gia trở lại được họ cung kính tán thán, lễ bái cúng dường ; ba là sẽ chứng được Niết-bàn vô thượng; bốn là sau khi qua đời sẽ được sanh lên cõi trời; năm là thường được chư Phật, chúng Thanh văn và các bậc thắng nhân khen ngợi. Ông nên quán sát những lợi ích này, dùng tâm ân trọng xả tục xuất gia được đại công đức”. Tôn giả nói rồi liền cho Bà-la-môn xuất gia thọ mười học xứ, kế cho thọ Cận viên, như pháp giáo giới. Bí-sô này chuyên tâm tu tập đoạn trừ các phiền não, chứng A-la-hán, được pháp Vô sanh, thoát ly ba cõi, tâm không chướng ngại như tay nắm hư không, như dao cắt mùi thơm, yêu ghét không khởi, xem vàng và đất như nhau không khác, tất cả danh lợi đều xả bỏ, Thích Phạm chư thiên thảy đều cung kính. Sau đó tôn giả Xá-lợi-phất đưa vị đệ tử này đến gặp Phật, đảnh lễ rồi đem việc trên bạch Phật, Phật nói: “thầy khéo dùng phương tiện để dẫn dắt chúng sanh vào trong pháp của ta, nhân việc này ta chế nên làm pháp tẩy tịnh sẽ được vô biên phước lợi”. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “do duyên nghiệp gì mà cụ thọ Xá-lợi-phất dùng việc thanh tịnh để điều phục, nhiếp dẫn Bà-la-môn kia xuất gia và được Viên tịch?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay tôn giả Xá-lợi-phất mới điều phục được người kia khiến cho được an lạc, quá khứ cũng đã từng dùng việc thanh tịnh điều phục khiến cho người ấy bỏ làm giặc cướp, quy y Tam bảo, thọ trì năm giới. Các thầy lắng nghe: Thuở xưa trong một ngôi làng có một Bà-la-môn cưới vợ sanh được một gái, dung mạo đoan nghiêm, tuổi đã lớn nhưng vẫn còn ở nhà. Vào một đêm có năm trăm giặc cướp vào trong làng đánh cướp, bị khát bức bách nên chúa giặc vào nhà Bà-la-môn này xin nước, nói rằng: “có nước hãy mang lại đây”, cô gái nói đợi một chút rồi đốt đèn lên để xem nước, chúa giặc hỏi xem cái gì, đáp là xem nước, lại hỏi có gì để xem; đáp là sợ có tóc hay cỏ, uống vào sanh bịnh. Chúa giặc nói: “ta là giặc cướp muốn hại thôn cô, làm việc phi lý đáng cho uống độc dược, sợ gì cỏ tóc làm cho ta bịnh”, cô gái nghe rồi nói kệ: “Việc mà giặc đã làm, Cướp ngang tài vật người, Dù ông có làm gì, Tôi vẫn hành theo pháp”. Sau khi biết là nước sạch, cô gái đưa cho giặc uống, chúa giặc uống nước rồi sanh tâm hoan hỉ nói với cô gái: “cô hãy làm em gái của ta”, cô gái nói: “tôi không cần kẻ giặc như vậy làm anh em, họ thường cướp đoạt tài vật của người, nếu chủ của tài vật gặp sẽ bắn tên độc, kẻ cướp sẽ khổ đau mà chết, khó nói hết. Tôi nghe anh chết lại đau khổ gấp bội, nếu ông có thể quy y Tam bảo, thọ trì năm giới thì tôi sẽ làm em của ông”, chúa giặc ôn hòa nói: “lời của em gái nói thật hay, ta sẽ làm theo”, cô gái liền nói pháp Tam quy ngũ giới khiến cho họ sanh lòng tin, bọn giặc nghe rồi cùng phụng trì rồi tìm đường trở về. Phật bảo các Bí-sô: “này các Bí-sô, chúa giặc thuở xưa chính là Bà-la-môn ngày nay, cô gái thuở xưa chính là Xá-lợi-phất ngày nay. Thuở xưa vì sạch nên xem nước đã làm cho bọn giặc bỏ việc ác mà quy y; nay lại dùng pháp tẩy tịnh điều phục, cứu người ấy ra khỏi sông Ái lên bờ Niết-bàn, thoát ly biển khổ, chứng quả Vô sanh. Các thầy nên biết, đây là việc thường làm nên phải để ý, tẩy tịnh như vậy có lợi ích lớn, làm cho thân tịnh khiết và được chư thiên cung kính. Từ nay về sau, các Bí-sô, Bí-sô ni, Học giới nữ, Cầu tịch nam, Cầu tịch nữ, Ô-ba-sách- ca, Ô-ba-tư-ca, quy y nơi ta xem ta là thầy đều nên tẩy tịnh như Xá- lợi-phất. Người nào không tẩy tịnh như vậy thì không đuợc nhiễu tháp hành đạo, không được lễ Phật tụng kinh, không được làm lễ người cũng không thọ người khác làm lễ, không đuợc ăn cơm và ngồi trên giường của tăng, cũng không được vào trong chúng vì thân bất tịnh không như pháp, có thể khiến chư thiên thấy không sanh hoan hỉ, các chú pháp đã trì đều không linh nghiệm. Ai làm trái thì phạm tội Ác tác; nếu người cúng trai, chép kinh, tạo tượng mà không tẩy tịnh thì được phước rất ít vì khinh mạn. Sáng sớm không đánh răng thì không được ăn, sau bữa trưa không xỉa răng thì không thành trai mắc tội như trên. Các thầy nên vâng theo lời ta dạy, không được tự khi dối làm pháp bất tịnh, biếng nhác phóng dật, có hạnh hạ phẩm thì sẽ đọa trong ba đường ác”, các Bí-sô nghe Phật dạy bảo rồi đều hoan hỉ phụng hành như pháp. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư: Viền rách nên khâu vá, Minh nguyệt nghe liền nhớ, Y chỉ biết sai biệt, Cho ba người cùng ngồi. Duyên khởi tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó các Bí-sô mặc y cũ không có tâm yêu tiếc nên viền y đều bị rách, Phật nói: “nên dùng chỉ khâu vá lại”, các Bí-sô dùng chỉ khâu đường ngang vẫn bị rách, khâu thêm đường dọc nữa mới chắc, Phật nói: “nên xem y Tăng già chi như da trên thân”. Lại có Bí-sô không có y khác nên thường mặc đại y, dưới nách chảy mồ hôi thấm dơ có mùi hôi, bất tịnh nên y mau rách, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “ngay chỗ dưới nách nên may thêm nẹp vải”. Bí-sô không biết may thêm nẹp vải như thế nào, Phật nói: “dùng một miếng vải rộng một gang rưỡi, dài một cánh tay may thiếp lên, không nên dùng màu trắng, nên dùng hoại sắc”, các Bí-sô dùng sắc ca-sa, Phật nói: “không nên dùng đá đỏ, đất đỏ để nhuộm (tức là màu Càn đà đỏ và đen, sợ làm ố màu của y khác). Bí-sô may chắc, Phật bảo nên may sơ ; Bí-sô may nẹp lên một bên, Phật nói: “nên may nẹp cả hai bên rồi tùy ý đảo ngược mà đắp mặc; nếu có mùi hôi nên thường giặt sạch”. Duyên xứ như trên, có một Bà-la-môn cưới vợ chưa bao lâu sanh được một gái đặt tên là Minh nguyệt, tuổi vừa trưởng thành liền được ni Đại thế chủ độ xuất gia và cho thọ Cận viên. Lúc đó Đại thế chủ cùng năm trăm Bí-sô ni đến chỗ Phật. Đảnh lễ rồi ngồi một bên, Phật thuyết pháp xong liền im lặng. Đại thế chủ rời khỏi chỗ ngồi cung kính chắp tay bạch Phật: “Thế tôn đã thuyết Tỳ nại da cho các Bí-sô, xin hãy từ bi thuyết cho Bí-sô ni”, Phật nói: “không có lý nào Như lai lại đích thân thuyết Tỳ nại da cho Bí-sô ni, nhưng ở trong chúng Bí-sô ni nếu có người nào chỉ nghe một lần mà thọ trì được thì ta sẽ thuyết cho người đó”, lúc đó Minh nguyệt đang ngồi trong chúng liền đứng dậy chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, xin hãy thuyết cho con, con hy vọng vừa nghe Phật nói liền lãnh ngộ”, Phật liền thuyết, Minh nguyệt vừa nghe liền lãnh ngộ không sót. Phật bảo các Bí-sô: “chúng Thanh văn ni trong giáo pháp của ta, người vừa nghe liền lãnh ngộ thì Bí-sô ni Minh nguyệt là bậc nhất”, Phật suy nghó: “không phải nơi nào cũng tìm được người như Minh nguyệt, người tương tợ cũng khó có được. Vì thế các Bí-sô nên thọ trì Tỳ nại da của Bí-sô ni để thuyết cho Bí-sô ni, cũng nên giáo giới và trả lời khi được hỏi”, nghó rồi liền bảo các Bí-sô: “ta suy nghó: không phải nơi nào… như trên cho đến câu trả lời khi được hỏi”. Như Phật đã dạy do nương vào giới, trú vào giới, tu tập theo pháp thì định huệ sẽ như lý tương ưng. Bí-sô ni Minh nguyệt do nương vào giới, trú vào giới tu tập nên định huệ tương ưng phát sanh mạnh mẽ, cô nổ lực tinh tấn… chứng quả A-la-hán… Thích Phạm chư thiên đều cung kính. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Bí-sô ni Minh nguyệt đã tạo nghiệp gì mà được quả dị thục rất thông tuệ, có biện tài lớn, được gọi là bậc nhất về Văn trì; xuất gia trong Phật pháp, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán?”, Phật nói: “nghiệ mà Bí-sô ni Minh nguyệt đã tạo nay được quả dị thục… Các thầy lắng nghe: Quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, vào lúc loài người thọ tám vạn tuổi, có Phật Tỳ-bà-thi ra đời đầy đủ mười hiệu, Phật cùng sáu vạn hai ngàn Bí-sô đi đến thành thân tuệ, trụ trong rừng Thắng huệ. Lúc đó trong thành có một trưởng giả cưới vợ chưa bao lâu sanh được một gái, đến tuổi trưởng thành, vào ngày lễ tùy ý, người cha kính tín đưa con gái đến chùa của Bí-sô ni để cúng dường dao cạo và kim may. Cô gái thấy thiện sự này rồi sanh tâm hoan hỉ nói với cha: “con cũng đồng tình làm việc tùy ý cho các Bí-sô ni”, người cha nói: “lành thay, hãy làm theo ý con”, cô gái liền đem dao cạo, kim may và các tài vật khác dâng cúng chư ni rồi quỳ trước vị Thủ chúng chắp tay phát nguyện: “con nguyện đem thiện căn có được do cung kính cúng dường Ni chúng, ở trong đời vị lai con sẽ được đại trí huệ, đại biện tài, đầy đủ Văn trì”. Này các Bí-sô, cô gái thuở xưa chính là Minh nguyệt ngày nay, thuở xưa do cúng dường dao cạo… cho Ni chúng nên được thiện căn, lại phát nguyện sẽ được đại trí huệ, đại biện tài, đầy đủ Văn trì nên nay được hưởng quả báo này. Lại nữa, vào thời Phật Ca-diếp ba, ở trong giáo pháp của Phật đó xuất gia, tuy trọn đời giữ giới thanh tịnh nhưng vẫn không được chứng quả. Thời đó Thân giáo sư của cô là bậc nhất về Văn trì nên trước khi lâm chung cô phát nguyện: nguyện cho con ở đời vị lai lúc con người thọ trăm tuổi, có Phật Thích ca mâu ni ra đời đầy đủ mười hiệu, con sẽ được xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy và được Phật thọ ký cho con là bậc nhất về Văn trì như Thân giáo sư của con. Do nguyện lực ngày xưa nên nay Minh nguyệt được thọ quả báo này. Các thầy nên biết, hễ tạo nghiệp thuần đen thì hưởng quả báo đen … như trước cho đến câu các thầy nên tu học như vậy”. Duyên xứ như trên, lúc đó có hai Bí-sô một già một trẻ cùng du hành trong nhân gian, đi đến thành Thất-la-phiệt. Vị già đi đến vườn Lộc tử mẫu, vị trẻ đi đến vườn Cấp-cô-độc, dối trước một Bí-sô thỉnh làm thầy y chỉ để ở lại một thời gian rồi bạch thầy rằng: “A-giá-lợi-da, con để y bát ở trong chùa kia, xin cho con đến đó lấy về”, thầy nói nên đi mau về, đáp: “nếu ở đó không có việc gì thì con sẽ về ngay”, nói rồi đảnh lễ thầy để đi đến chùa kia. Tăng trong chùa đó trước kia có quy chế : ai không có thầy y chỉ thì không được ở lại dù chỉ một đêm. Bí-sô này đến một Bí-sô cầu y chỉ để ở lại một đêm, sáng hôm sau muốn đi về nên tới phòng thầy y chỉ gõ cửa bạch rằng: “con xin kính lễ A-giá- lợi-da thân tứ đại có an không?”, đáp là không an, Bí-sô này nghe rồi suy nghó: “thầy đang bịnh mà ta bỏ đi là không nên, vì việc này nên Thế tôn chế định cần phải y chỉ để chăm sóc cho nhau. Ta nên ở lại chăm sóc, khi nào thầy lành bịnh sẽ đi”, nghó rồi liền ở lại chăm sóc cho thầy đến khi lành bịnh mới bạch thầy: “xin thầy coi giữ ngọa cụ, con muốn ra đi”, thầy hỏi có thiếu thốn gì không, đáp: “con không thiếu gì cả, con vốn không định ở đây, chỉ là đến lấy y bát rồi đi. Vì trong tăng có quy chế tạm trú một đêm cũng phải y chỉ, con sợ Tăng chế nên cầu thầy y chỉ. Thấy thầy có bịnh, nếu con bỏ về ngay là không nên, nay thầy lành bịnh, con xin từ giã”, thầy nghe rồi liền khen: “lành thay cụ thọ, môn nhân cọng trụ đối với Thân giáo sư và Quỹ phạm sư nên chăm sóc cho nhau, được như vậy sẽ tăng trưởng thiện pháp như hoa sen lên khỏi mặt nước, đây là việc thiện, con lên đường bình an, thường phải cẩn thận, chớ có buông lung”. Bí-sô đảnh lễ thầy rồi đi, dần dần trở về đến trong vườn Cấp-cô-độc, gặp thầy y chỉ chắp tay kính lễ, thầy nói: “thiện lai cụ thọ, vì sao ở lâu vậy?” , Bí-sô đem việc trên bạch lại, thầy nghe rồi khen : “lành thay cụ thọ, thầy khéo làm được việc này, kính trọng chăm sóc thầy mình tức là làm cho thiện căn ngày đêm tăng trưởng như hoa sen trong nước”. Thầy lại suy nghó: “theo y chỉ trước kia hay là cho y chỉ lại”, nghó rồi bạch Phật, Phật nói: “có việc tạm đi định trở lại thì nên theo y chỉ cũ, thầy không cần cho y chỉ lại”. Duyên xứ như trên, có một Bí-sô chuyên tu tónh lự, một Bí-sô khác đến cầu y chỉ, Bí-sô này suy nghó: “như Phật đã dạy thà làm đồ tễ chứ không nên cho người khác xuất gia và thọ Cận viên mà không dạy bảo. Đối với đệ tử cọng trụ đã như vậ thì đối với môn nhân cũng thế, ta tu thiền định không có duyên dạy bảo, ta nên đến nhờ vị khác dạy cho môn nhân đọc tụng”, nghó rồi liền đến gặp một Bí-sô nói: “cụ thọ, xin hãy dạy cho người này đọc tụng”, đáp: “hãy cùng giao ước rồi tôi sẽ dạy: nếu người này có thiếu thốn gì thì thầy có thể cung cấp thì tôi sẽ làm theo lời thầy”, Bí-sô này nhận lời. Sau khi dạy đọc tụng được một thời gian thì môn nhân này bịnh, thầy y chỉ giữ lời hứa cung cấp cho đến khi lành bịnh. Sau đó thầy y chỉ bịnh, môn nhân này không đến chăm sóc lại, thầy bịnh ba lần, môn nhân này đều không đến chăm sóc. Khi hết bịnh, thầy y chỉ nói với môn nhân này: “thầy hãy đến cầu người khác y chỉ”, môn nhân hỏi: “thầy cho con y chỉ chính là ban ân, con không có khuyết điểm gì vì sao lại đuổi con”, thầy y chỉ nói: “khi thầy bịnh tôi đích thân chăm sóc, tôi bịnh đến lần thứ ba, thầy vẫn không ngó ngàng tới. Thầy có thái độ không kính trọng tôi như vậy, cho nên có ai khác cho thầy y chỉ thì thầy nên đến đó ở”, môn nhân này nghe rồi im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “đối với thầy y chỉ nên cung cấp hầu hạ, xem thầy như cha mẹ không khác. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Lúc đó thầy dạy đọc tụng bịnh, đệ tử thọ pháp không đến chăm sóc; khi thầy hết bịnh lại đến học hỏi kinh, thầy nói: “thầy hãy đi đi, khi ta bịnh thầy chẳng ngó ngàng tới thì ai có thể dạy cho thầy học tập, thầy hãy tìm đến người khác dạy bảo cho”, đệ tử thọ pháp này im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “đối với thầy dạy đọc tụng cũng nên cung cấp chăm sóc”. Thời gian sau cả hai thầy y chỉ và dạy đọc tụng đều bịnh, môn nhân không biết nên cung cấp chăm sóc cho vị nào, bạch Phật, Phật nói: “nếu có khả năng thì nên cung cấp cả hai thầy, nếu không có khả năng thì nên cung cấp cho thầy y chỉ, vì nếu không có thầy đọc tụng thì được tùy ý ở, nhưng nếu không có thầy y chỉ thì không được ở”. Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô độ người kia xuất gia và cho thọ Cận viên rồi bỏ đi du hành trong nhân gian, không cung cấp cho y thực và dạy pháp. Người này phải cầu vị khác y chỉ, thầy y chỉ này cung cấp y thực và như pháp dạy bảo bằng bốn nhiếp sự, đó là bố thí, Ái ngữ, lợi hành và đồng sự. Vì thế nên môn nhân này đối với thầy y chỉ rất yêu kính, không muốn rời xa. Thời gian sau, vị Thân giáo sư du hành xong trở về trong vườn Cấp, các Bí-sô trẻ đều đứng dậy nghinh đón, các Bí-sô lớn đều chào hỏi thiện lai nhưng người đệ tử này lại không đứng dậy. Các Bí-sô thấy vậy liền trách: “vì sao thầy thấy bổn sư mà lại không đứng dậy nghinh đón, như vậy có hợp lý không?”, đáp: “vị ấy độ tôi xuất gia và cho thọ Cận viên nhưng bỏ mặc tôi, không cung cấp y thực và dạy pháp, tại sao tôi phải đứng dậy nghinh đón?”, các Bí-sô nói: “chớ nói lời này, như Phật đã dạy nếu người nào nhờ thầy mà được cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục xuất gia trong Phật pháp, người này dù trọn đời cúng dường tứ sự cho thầy cũng chưa thể báo được ân”, người đệ tử này im lặng. Các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: “khi vừa thấy thầy thì đệ tử và môn nhân đều phải đứng dậy. Nếu gặp lại Thân giáo sư thì liền xả y chỉ”. Duyên xứ như trên, có Bí-sô cho một Bí-sô trẻ y chỉ, nửa tháng sau đến ngày trưởng tịnh, Bí-sô kia đến bạch thầy: “A-giá-lợi-da, con xin kính lễ, con muốn làm lễ trưởng tịnh”, thầy nói: “tôi đâu có phải là thầy của thầy”, đáp: “con đã cầu A-giá-lợi-da làm thầy y chỉ”, thầy nói: “ngạo mạn không biết kính trọng như thầy thì ai lại cho thầy y chỉ, thầy hãy tìm thầy khác mà y chỉ”, người này im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do các Bí-sô hằng ngày không đến kính lễ thầy ba lần nên có lỗi này, từ nay môn nhân đệ tử đều phải đến kính lễ hai thầy mỗi ngày ba lần”. Duyên xứ như trên, có một Bí-sô cho một Bí-sô trẻ y chỉ, nuôi dưỡng thương yêu như con. Thời gian sau người này có việc muốn đi đến trú xứ khác nên bạch thầy: “A-giá-lợi-da, xin thầy coi giữ phòng xá ngọa cụ, con muốn du hành trong nhân gian”, thầy hỏi: “con có thiếu thốn gì không?”, đáp: “con không có thiếu thốn gì cả, chỉ là muốn du hành trong nhân gian, không bao lâu sẽ về”, thầy nói: “đi đến nửa đường nếu con có hối thì nên trở về”, đáp: “con xin vâng lời thầy dạy”. Người này đi đến nửa đường liền sanh hối, suy nghó: “ta cần gì, thầy y chỉ đều cung cấp cho ta đầy đủ, ta bỏ đi như vậy thật là không nên”, nghó rồi liền quay trở lại, thầy thấy liền hỏi: “con bỏ quên vật gì hay sao?”, đáp: “con không có bỏ quên vật gì, chỉ là đi đến nửa đường con suy nghó: ta cần gì, thầy đều cung cấp đầy đủ, vậy còn cầu gì nữa mà ra ngoài du hành, vì thế nên con quay trở lại”, thầy nói tốt rồi suy nghó: “nên theo y chỉ trước hay là cho y chỉ lại”, bạch Phật, Phật nói: “nếu thầy y chỉ có tâm thương mến môn nhân mà môn nhân không có tâm thương mến thì vẫn gọi là không xả y chỉ. Nếu thầy y chỉ không có tâm thương mên mà môn nhân có tâm thương mến, cũng gọi là không xả y chỉ. Nếu cả hai có tâm thương mến nhau cũng gọi là không xả y chỉ, nếu cả hai đều cùng xả thì mới gọi là mất y chỉ”. Duyên xứ như trên, có một Bí-sô làm Thủ chúng, nhiều Bí-sô trẻ đến theo học, một hôm thầy ngã bịnh, những người theo học này đều không đến chăm sóc, bịnh đến lần thứ ba vẫn không đến hỏi han chăm sóc. Khi thầy hết bịnh liền đến học tiếp, thầy nói: “ta bịnh đến ba lần mà các thầy đều không ai đến hỏi han chăm sóc, ngạo mạn như các thầy thì ai lại dạy cho học, hãy đến học với người khác”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “nên chăm sóc thầy dạy đọc tụng”. Sau đó họ vì lo chăm sóc thầy nên bỏ phế việc tu pháp thiện, Phật bảo nên thay phiên nhau. Lúc đó có một Bí-sô già yếu trước đó đã đến cầu y chỉ, Bí-sô khác đến báo: “ngày mai đến phiên thầy chăm sóc”, đáp: “sao cứ đến phiên tôi mãi vậy, các thầy an nhàn còn tôi luôn tới phiên”, Bí-sô khác nói: “đây là việc thiện, như lời Phật đã dạy: ai chăm sóc người bịnh là chăm sóc ta, thầy là trượng phu tốt nên tùy hỉ làm”, Bí-sô già này chăm sóc thầy cho đến khi lành bịnh rồi yêu cầu thầy dạy đọc tụng, thầy nói là chưa đến phiên, lần sau đến cũng nghe thầy nói là chưa đến phiên, Bí-sô già này nói: “khi thầy bịnh, chăm sóc cho thầy thì đến phiên con ; còn dạy cho đọc tụng thì lại chưa đến phiên. Thầy ở lại mạnh khỏe, con xin đi đến nơi khác”, thầy nói: “khoan hãy đi, thầy cần gì ta đều sẽ đáp ứng”, Bí-sô này im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “đối với người thường thừa sự cho mình thì không nên xem đồng như người khác, không nên bỏ họ mà dạy cho người khác”. Lúc đó có hai người học, một người thông minh, một người chậm lụt; khi thầy dạy cho người thông minh thì dùng văn dài, còn dạy cho người chậm lụt thì bỏ bớt, Phật bảo nên dạy lại. Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô đến nhà một môn đồ, họ đem giường ra mời ngồi, cả sáu người cùng ngồi làm cho giường bị hư sập rồi cùng cười lớn. Các Bí-sô khác chê trách: “các thầy làm việc phi pháp như vậy không biết xấu hổ hay sao mà còn cười lớn”, họ nói: “chúng tôi đâu có uống rượu hay ăn hành tỏi”, các Bí-sô nói: “không bao lâu nữa cũng sẽ thấy các thầy làm”, lại hỏi: “chúng tôi làm gì phi pháp?”, các Bí-sô nói: “các thầy không thấy giường bị hư sập hay sao?”, đáp: “há không còn gỗ và thợ mộc chết hết rồi hay sao?”, các Bí-sô im lặng, sau đó bạch Phật, Phật nói: “không được sáu người cùng ngồi một giường”. Lục chúng Bí-sô lại ngồi năm người, bốn người đều có lỗi như trên, Phật nói: “ba người được ngồi trên một giường, nếu gỗ quá cũ thì chỉ nên ngồi hai người, giường nhỏ chỉ được ngồi một người. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp”. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư: Nuôi bịnh trừ tánh tội, Sắp viên không leo cây, Không độ quan xuất gia, Chặt tay, không nên làm. Duyên xứ như trên, cụ thọ Ưu-ba-ly bạch Phật: “như Phật đã dạy gặp người bịnh nên cung cấp, vậy nên dùng vật gì để cung cấp?”, Phật nói: “chỉ trừ tánh tội, các vật thanh tịnh khác đều tùy ý cung cấp”. Duyên xứ như trên, cụ thọ Ô ba-nan-đà có một Cầu tịch sắp thọ Cận viên, Ô ba-nan-đà mời Yết ma sư, Giáo thọ sư và bảy vị khác rồi dẫn Cầu tịch đến và mang theo vật để ngồi. Cầu tịch đến quét dọn sạch sẽ, trải tòa ngồi xong xuôi nhưng Thập sư chưa ai đến. Ô ba-nan-đà nhìn hai bên thấy hoa nở trên cây nên bảo Cầu tịch leo lên hái hoa để dâng cúng Tăng. Cầu tịch leo lên hái hoa chẳng may bị rơi xuống đất gãy tay nên không được thọ Cận viên, các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “các thầy nên biết, như Thái tử thứ nhất cả vua Chuyển luân sắp được làm lễ quán đảnh thọ vương vị, trong thời gian đó nên gìn giữ bội phần. Người sắp thọ Cận viên cũng vậy, phải Ái hộ họ gấp bội, không được sai họ leo lên cây cao, ai sai họ leo cây thì phạm tội Việt pháp”. Duyên xứ như trên, có đại thần Quảng đại là người được vua Thắng quang tin cậy, một hôm vì phạm lỗi nên bị vua khiển trách liền suy nghó: “đối với quốc chủ thật khó phục vụ lâu dài, cần phải tránh xa, ta nay nên cầu xuất gia”, nghó rồi liền đi đến trong rừng Thệ đa. Thường pháp của Lục chúng Bí-sô là có một người đứng trước cổng chùa, lúc đó Ô ba-nan-đà thấy Quảng đại đi đến liền chào hỏi: “thiện lai, sao mà khó gặp nhân giả như trăng đầu tháng vậy?”, đáp: “Thánh giả há không nghe nói: ít gặp thì kính, thường gặp thì khinh hay sao?”, lại hỏi vì việc gì mà đến, đáp: “đối với quốc vương thật khó phục vụ, nay tuy làm vừa ý nhưng cuối cùng cũng bị diệt thân. Tôi muốn xuất gia, xin Thánh giả tế độ cho”, Ô ba-nan-đà nói: “hiền thủ phát được tâm này rất tốt, vì người xuất gia có năm lợi ích… như trên cho đến câu các bậc trí đều khen ngợi”, nói rồi liền dẫn Quảng đại vào chùa cho xuất gia và thọ Cận viên. Sau đó vua Thắng quang không thấy Quảng đại nên hỏi quần thần: “có phải Quảng đại bị bịnh không?”, đáp: “ông ấy không bịnh, chỉ vì bị Đại vương khiển trách nên đã bỏ đi đến rừng Thệ đa xuất gia rồi”, vua hỏi là ai đã làm việc này, đáp là Thánh giả Ô ba-nan-đà, vua nghe rồi nổi giận sai sứ đến nói với Ô ba-nan-đà rằng: “người mà tôi khiển trách vì sao Thánh giả lại độ cho xuất gia, vậy hãy độ luôn tôi với Thái tử và Thắng man, Hành vũ xuất gia rồi Thánh giả tự xưng vương, thống lãnh thành ấp”, Ô ba-nan-đà nghe rồi liền nói với sứ giả: “ông về nói lại với vua là vua hãy dẫn Thái tử cùng Thắng man, Hành vũ đến chùa, tôi sẽ độ cho cùng xuất gia rồi tôi sẽ làm vua, điều này đâu có hại gì. Tôi có đến nhà dụ dỗ Quảng đại xuất gia đâu, tự ông ta đến cầu tôi mới tế độ, tùy thời lợi ích được phước vô biên”, sứ giả về nói lại, vua nghe rồi liền chê trách. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do độ đại thần của vua nên có lỗi này, các thầy nên biết Ô ba- nan-đà là kẻ ngu si, đã độ đại thần của vua làm cho vua giận trách. Từ nay không được độ đại thần xuất gia, nếu thấy họ đến xin nên gạn hỏi: ông có phải là quan viên hay không; nếu không gạn hỏi mà liền cho xuất gia thì phạm tội Việt pháp”. Sau đó có người nước ngoài đến chỗ Bí-sô cầu xuất gia, không có ai biết và vua bản quốc cũng chưa cho, các Bí-sô nghi nên không cho xuất gia, Phật nói: “nếu có người nước ngoài như vậy thì nên cho họ xuất gia”. Duyên xứ như trên, lúc đó cụ thọ A-nan vừa mới cạo râu tóc, sáng sớm đắp y mang bát vào thành khất thực đi đến ngõ nhà của một Bà-la-môn. Bà-la-môn này là đại học só đang ngồi trong nhà giảng Tứ minh luận cho năm trăm đồng tử Bà-la-môn. Người này tánh vốn ngạo mạn tự cao, không biết lễ phép, có tánh ác hay khinh miệt người khác nên khi thấy tôn giả A-nan với cái đầu láng bóng đang đi đến, liền hỏi đệ tử: “ngươi có thể dùng nắm tay đánh vào đầu trọc của Sa môn đó không?”, đáp là được rồi đi ra dùng nắm tay đánh vào đầu A-nan, A-nan nhìn khắp bốn phía, Bà-la-môn lại càng nổi sân bảo đệ tử đánh thêm, A-nan suy nghó: “ta nên làm gì?”, nghó rồi liền bỏ đi. Về đến trong rừng Thệ đa sau khi thọ thực và rửa bát xong, tôn giả bảo các Bí-sô đừng đi đến ngõ nhà đó, hỏi có lỗi gì, đáp: “nhà đó có một Bà-la-môn tánh ác, không biết lễ phép đã sai đệ tử đánh vào đầu tôi”, Bí-sô hỏi: “thầy đã làm lỗi gì?”, đáp: “tôi vốn không có lỗi, khi họ sai người đánh vào đầu tôi, vì tôi nhìn nên họ sai đánh thêm. Trước là không lỗi nhưng sau là có lỗi”. Lúc đó Ô ba-nan-đà nghe rồi liền nói với A-nan: “vừa rồi tôi chỉ nghe loáng thoáng, xin tôn giả hãy nói rõ lại”, tôn giả liền nói rõ lại, Ô ba-nan-đà vừa nghe vừa gật gù rồi suy nghó: “ta đã biết cách trị kẻ tiểu nhân này rồi”, nghó rồi liền bảo thợ cạo cạo đầu mình cho nhẵn bóng, lại thoa thêm dầu cho láng bóng. Sáng hôm sau đắp y mang bát vào thành đến trước cửa nhà của Bà-la-môn dạy học kia, vì bận việc khác nên Bà-la-môn không thấy Bí-sô. Ô ba-nan-đà liền đi qua lại nhiều lần cốt để cho Bà-la-môn nhìn thấy, khi Bà-la-môn nhìn thấy liền bảo đệ tử ra đánh vào đầu Bí-sô. Ô ba-nan-đà nghe lời này rồi liền nói với Bà-la- môn: “ngươi là vật vô tri, cần gì sai người khác mà không tự ra đánh”, Bà-la-môn nghe rồi liền tức giận đi ra dùng nắm tay đánh vào đầu Bí- sô, Ô ba-nan-đà liền nắm lấy cánh tay của Bà-la-môn rồi nói: “này vật ngu si, A-nan bị ngươi đánh, ta phải đưa ngươi đến chỗ vua”, nói rồi liền nắm tay kéo lôi đi. Bà-la-môn cất tiếng kêu, các đệ tử chạy ra nắm cánh tay kia kéo lại, Ô ba-nan-đà có khí lực rất mạnh, lôi Bà-la-môn và cả năm trăm đệ tử này đi đến chỗ vua. Khi giận dữ thì Lục chúng Bí-sô đều có sức mạnh này, khi đến trước cửa cung vua thì trong cung điện chấn động. Vua thấy hiện tượng này liền bảo tả hữu: “hãy ra xem có phải Thánh giả của Lục chúng Bí-sô đến hay không?”, tả hữu chạy ra xem, thấy cảnh tượng này rồi liền trở vào báo với vua là có Thánh giả Ô ba-nan-đà ở ngoài cửa, vua nói cho vào. Ô ba-nan-đà vào gặp vua hỏi rằng: “Đại vương, nếu trước đây Thánh giả A-nan không xuất gia thì ở địa vị nào?”, vua nói sẽ làm Lực luân vương, lại hỏi còn vua làm gì, đáp là tùy tùng, Ô ba-nan-đà nói: “trước đây vua có ra chế lịnh xem các Bí-sô như Thái tử, xem Bí-sô ni như phi hậu, đặc cách việc này không đồng với người khác. Đối với chúng tôi, vua rất yếu mến nhưng Bà-la-môn này lại nghịch lại chế lịnh của vua, đã dùng nắm tay đánh vào đầu Thánh giả A-nan, nay nổi sân lại đánh vào đầu tôi, việc làm này có đúng hay không?”, vua nghe rồi liền nổi giận ra lịnh đại thần chặt tay Bà-la-môn. Đại thần tuân lịnh vua dẫn Bà-la-môn ra chỗ ngã tư đường, thông báo cho mọi người đều biết tội trạng của Bà-la-môn. Lúc đó cha mẹ, thân tộc, bạn bè … của Bà-la-môn đều kéo đến kêu khóc như mưa, nói với pháp quan rằng: “lành thay đại quan, con tôi có tội nên vua ra lịnh chặt tay, đã phạm quốc pháp không phải phạt oan, nhưng Bà- la-môn sống bằng tay phải, xin Ngài ban ân chặt tay trái đừng chặt tay phải”, đại thần nghe rồi liền bảo chặt tay trái. Thời gian sau vết thương ở tay lành lặn, Bà-la-môn che bên tay trái, đưa tay phải dạy học, Ô ba- nan-đà từ xa nhìn thấy Bà-la-môn đưa tay phải lên dạy học liền phẫn nộ gấp bội, đến gặp vua tâu rằng: “Đại vương, tuy làm theo pháp lịnh của vua nhưng lại thành an lạc”, vua tuy biết pháp nước không có việc này nhưng vẫn hỏi là có việc gì, Ô ba-nan-đà nói: “trước đây vua đã ra lịnh chặt tay nhưng tay Bà-la-môn vẫn còn”, vua liền cho gọi đại thần đến hỏi: “vì sao khanh không chặt tay Bà-la-môn ?”, đáp là đã chặt rồi, vua nói: “nếu vậy vì sao Thánh giả Ô ba-nan-đà thấy Bà-la-môn còn đưa tay lên dạy học?”, đại thần nói rõ nguyên do rồi nói: “vì vậy nên thần mới chặt bàn tay trái”, vua nói: “khanh vì cha mẹ của Bà-la-môn nên chặt tay trái, nhưng lịnh của ta đưa ra là chặt bàn tay phải”, đại thần tuân lịnh vua liền đến chặt bàn tay phải của Bà-la-môn. Bà-la-môn không còn hai bàn tay nên thả thòng hai cánh tay, Ô ba-nan-đà tới bên cạnh nói với Bà-la-môn: “vì sao thả thòng hai cánh tay mà không như ngày xưa đến đánh vào đầu ta”, Bà-la-môn nghe rồi buồn bã im lặng. Lúc đó các Bà-la-môn… và tất cả mọi người đều bất nhẫn nói rằng: “Sa môn Thích tử không có từ bi, đã khiến cho người bị hành hình lại còn khổ bức khiến cho bị chặt luôn cả hai tay”. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: “do Bí-sô khiến người bị chặt tay nên có lỗi này. Ô ba-nan-đà là kẻ ngu si, đã làm trái pháp Sa môn, làm việc không nên làm, đã bỏ tục xuất gia trong giáo pháp của ta mà còn tạo nghiệp ác. Từ nay Bí-sô nào khiến người bị chặt tay thì phạm Tốt-thổ-la-để”, lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “vì sao cụ thọ A-nan hộ vệ Bà-la-môn, còn Ô ba-nan-đà lại có ý báo thù ?”, Phật nói: “không phải ngày nay A-nan có tâm ủng hộ còn Ô ba-nan-đà có tâm báo thù, khiến cho người bị chặt tay mà ngày xưa cũng vậy. Các thầy lắng nghe: Quá khứ trong một khu vườn kia có hoa trái sum suê và ao tắm, có một ẩn só sống ở đây, chỉ ăn trái cây uống nước suối, mặc áo vỏ cây thường ngồi kiết già dưới một gốc cây để tư duy nghóa của pháp. Trên cây có một con khỉ hái trái quăng xuống trúng vào đầu vị ẩn só, vị này liền nói kệ: “Ta không nghó đến việc, Làm cho người khổ chết, Do người tự tạo tội, Quả báo sẽ bị giết”. Vị ẩn só này có quen biết người thợ săn, người thợ săn này có việc vào trong rừng tìm gặp ẩn só, đến nơi không thấy ẩn só đâu nên người thợ săn ngồi dưới gốc cây tạm nghỉ. Lúc đó con khỉ trên cây lại quăng trái xuống trúng vào đầu người thợ săn chảy máu, người thợ săn đau đớn ngước lên cây nhìn liền thấy con khỉ đang chuyền cành, trong lòng tức giận liền cầm cung lấy tên độc ra bắn trúng con khỉ, con khỉ rơi xuống đất chết. Này các Bí-sô, vị ẩn só thuở xưa chính là A-nan ngày nay, con khỉ chính là Bà-la-môn, người thợ săn chính là Ô ba-nan-đà. Thuở xưa con khỉ được vị ẩn só hộ trì nhưng lại bị người thợ săn báo thù, ngày nay cũng vậy Bà-la-môn được A-nan hộ trì nhưng lại bị Ô ba-nan-đà báo thù, một người hộ, một người bỏ. Vì vậy nên biết nghiệp duyên đã tạo không mất…” <篇>